Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Trường Ninh Tướng Quân

Chương 100


Quận Yến có tên cổ là Kế, ngược dòng Chiến quốc xưa, từng là đô thành nước Yến. Mấy thập niên trước, Đại Tấn đế khiếp sợ binh Ngụy áp bức, cân nhắc nếu mai này không địch lại sẽ chạy trốn đến nơi này, dựa vào Bắc Địch tiếp tục đối kháng nước Ngụy. Dù kế hoạch tan vỡ, sau này chưa đợi tới nước vong, vùng đất rộng lớn Yến U đã phải cắt nhường đi song xây dựng vùng Bắc Đô vẫn còn đó, chẳng những tường thành gia cố, còn có cây cỏ Đại Hưng, trong thành có bóng dáng hoàng cung Lạc Dương, cung điện mới xây sửa.

Cung thất xưa kia đã trở thành phủ Nam Vương. Không chỉ thế, mấy năm gần đây, vì kế hoạch Bắc Địch dùng đây làm căn cứ xuôi nam của đại quân trong tương lai, nên đã quản chặt nhân khẩu phòng rời đi, chính sách đối xử dân bản xứ cũng từ từ hòa hoãn để giảm bớt đối kháng. Nhất là sau khi Sí Thư lên làm Nam Vương, những năm ấy đã dùng phương pháp “người Tấn trị dân” cực kì thuận tay, hiệu quả cũng rõ ràng. Cho tới hiện giờ, ở đường lớn ngõ nhỏ trong thành, chợ phiên phồn hoa, cư dân nhiều đến bốn năm mươi vạn. Nếu không phải gần đây bầu không khí trở nên khẩn trương, trên đường đầy binh lính người Địch mặc quân phục cầm binh khí trong tay tuần tra khắp nơi, xem ra cũng chẳng khác thành trì Đại Ngụy phía Nam là bao.

Hôm ấy, ở một đầu đường náo nhiệt trong thành, người vây kín, một người kể chuyện cầm thẻ trúc trong tay giọng như thiên lôi đang kể chuyện. Tới gần, khi âm thanh dần lọt vào tai, ra là đang kể về nữ soái Trường Ninh của nước Ngụy đại danh đỉnh đỉnh đang dẫn binh mã sắp đánh tới.

Chỉ nghe y kể: “…Ả ta người cao tám thước, cặp mày dựng đứng, miệng to như hố máu, bộ răng nanh trắng phau! Ngươi nói đi vì sao ả có thể hung ác đến vậy? Là do sói cái hóa thân! Mỗi đêm trăng, ả nuốt chửng trẻ nhỏ, miệng đẫm máu mới đè được sói khí xuống. Không chỉ thế, binh sĩ dưới tay ả như sói như hổ, đại quân đi đến đâu, trắng trợn cướp giết tất, máu chảy thành sông, nơi nào đi qua, không có một ngọn cỏ! Đàn ông cắt đầu, con nít moi tim ăn, đàn bà kéo đi sung làm quân kỹ, chậm chân chạy trốn, không kẻ nào may mắn thoát khỏi!”

Gã kể chuyện nhe răng trợn mắt, ra vẻ dữ tợn, nhiều phụ nữ và kẻ yếu gan bên cạnh nghe được đều xôn xao lộ vẻ hoảng sợ.

Gã kể chuyện lại bẻ ngoặt, “Nhưng mà, cũng không cần sợ! Chúng ta đều là người nước Tấn, trời cao có mắt, Bắc Hoàng đã giúp chúng ta tìm được tiểu Hoàng tử năm xưa! Ngài ấy là thần phật chuyển thế, vốn thuộc về thiên mệnh! Chỉ cần lần này chúng ta đồng tâm hợp lực, có tiền ra tiền, có sức ra sức, đuổi con sói cái đi, sau này chúng ta lại có thể trở lại thành người Tấn, cuộc sống tốt lành ở trong tầm tay!”

Gã kể văng cả nước bọt, trong đám có người xì xầm với bên cạnh: “Sao trước đây thân thích của ta ở Quảng Ninh châu Yến gửi thư đến, nói không giống tên này? Rằng hôm quân Ngụy vào thành, chẳng những không đụng đến cây kim sợi chỉ, mà nữ tướng quân còn miễn xá giúp người của Tả Quang Vương chuyển lương thảo. Người bà con của ta ở trong thành, thấy nữ tướng quân cưỡi ngựa qua trước mặt, căn bản không có vẻ gì là La Sát, một thân khôi giáp, so với đàn ông còn có khí khái hào hùng hơn mấy phần…”

Người bên cạnh không rên tiếng nào, không dám nói tiếp.

Người này cũng chỉ có cảm xúc thì bộc phát thôi, thuận miệng nói xong, lắc đầu thở dài, cất bước định rời đi thì nghe sau lưng truyền đến một tiếng quát: “Bắt lấy gian tế!”

Người này không hề hay biết, tưởng gian tế là người khác, quay đầu thoáng nhìn, phát hiện ở bên cạnh mấy người ăn mặc như hào nô hung hăng vọt tới mình, đánh đá loạn xạ khóa chặt, mới kịp phản ứng, giãy giụa kêu oan. Trong đám người một thanh niên dáng vẻ sĩ quan người Địch đi tới, chỉ vào hắn quát: “Vừa rồi ngươi nói gì thế? Còn muốn chống chế! Bổn tướng nghe rõ ràng ràng! Ngươi không phải gian tế thì còn ai là gian tế!” Nói xong, mặc kệ người kia ra sức kêu oan thế nào, lệnh tôi tớ xách người lôi đi.

Người chung quanh đều nhận ra. Đó là con trai Tân Tể Lý Nhân Ngọc gần đây cực kỳ nổi danh. Hắn đích thân ra phố bắt người, ai dám lên tiếng, rối rít tránh đi.

Thanh niên lộ vẻ tự mãn, nhìn đám người một vòng, cao giọng: “Được Bắc Hoàng coi trọng, cha ta đã đảm nhiệm chức Hữu Tể Đại Tấn! Gần đây thế đạo không yên, cần nghiêm phòng gian tế nước Ngụy, nếu ai phát hiện kẻ khả nghi dám can đảm không báo, chịu tội đồng lõa!” Lại chỉ vào kẻ kể chuyện mặt đầy nịnh nọt kia nói: “Hắn vừa nói rất đúng. Nếu chúng ta đến chỗ này cũng thủ không được, để con đàn bà nước Ngụy kia mang binh đánh tới, các ngươi đều là người đã dập đầu với Bắc Hoàng, từng cống lương, ả sẽ tha cho các ngươi ư? Đến chừng đó chết như thế nào cũng không biết! Cũng may Bắc Hoàng bệ hạ có binh mã lớn mạnh, dưới trướng tài ba vô số, chỉ cần người Ngụy dám đến, sẽ khiến chúng có đi không về! Không chỉ thế, Đại Tấn ta cũng sắp được lập lại, đây là cơ hội tốt cho các ngươi thăng quan phát tài! Cửa Nam trưng binh, giờ qua đó, từng người lập tức được phát tiền! Chờ đánh bại người Ngụy, bệ hạ luận công ban thưởng, muốn gì được đó, còn không nhanh đi!”

Hắn vừa đe dọa vừa dụ lợi, có kẻ bị thuyết phục, rối rít quay đầu chạy đến cửa Nam.

Khương Hàm Nguyên dẫn theo Dương Hổ Trương Tuấn Thôi Lâu, bốn người giả làm người Địch bình thường, ba ngày trước lẻn vào nơi đây. Vì có người có thể nói tiếng Địch lưu loát, đi đường không trở ngại, giờ thấy mấy người rã ra đi hết, bèn nấp vào gần đó.

Khương Hàm Nguyên nhìn chằm chằm con trai Lý Nhân Ngọc trước mặt, theo đuôi.

Sắc trời sắp tối, Lý Nhân Ngọc từ phủ Nam Vương ra, quay về phủ đệ, một mình bồi hồi dạo bước trong thư phòng.

Năm ngoái Sí Thư triệu kiến ông ta và Lục Khang, hỏi chuyện Tiểu Hoàng tử Hoàng Phủ Dung, bảo nếu tìm lại người chắc chắn sẽ đối đãi như khách quý. Ban đầu ông ta không thể tin, nhưng nhanh chóng đoán được ý đồ của Sí Thư. Đại chiến sắp đến, vùng đất Yến U nhiều người Tấn, cũng chỉ là lợi dụng cảm giác thuộc về cố quốc của bọn họ để thu nạp lòng người, để thu hoạch được trợ lực và hòa hoãn vì cuộc chiến mà thôi.

Nhưng mà, lúc ấy ông ta nghĩ, cho dù là bị lợi dụng, nếu huyết mạch Tấn thất có thể thật sự phong Vương lần nữa, thì mai này, hành sự tùy hoàn cảnh, dù sao cũng còn tốt hơn là không nhìn thấy hy vọng.

Đây là chuyện cực kỳ tốt, bao năm qua tới giờ họ vẫn không từ bỏ tìm người, vì sao chứ, không phải là vì mục đích này sao? Sau nhiều năm điều tra nghe ngóng, bọn họ đã xác định, vị tăng nhân trẻ tên gọi Vô Sinh ở chùa Già Lam Lạc Đương từng có thanh danh vang dội xưa kia hẳn chính là Tiểu Vương tử. Nhưng đợi đến chừng họ tra ra được, đã chậm một bước, người đã rời đi, nghe nói đi phương Tây cầu pháp. Cứ thế, cuộc tìm kiếm bị ép dừng lại.

Sau đó đầu năm đó, nghe ý đồ của Sí Thư, bọn họ lại vận dụng tất thảy quan hệ xưa cũ, cuối cùng từ phía chùa Già Lam nhận được một tin, Vô Sinh vào mấy năm trước đã trở về, đáng lý ra ngài sẽ quay về chùa Già Lam song chẳng biết vì sao, mãi không thấy về.

Con đường về từ phía Tây nguy hiểm trùng trùng, người đi mà chưa về, mất tích nhiều năm không chút tin tức, vô cùng có khả năng là ngài đã chết ở bên ngoài.

Tháng trước, ông ta cùng Lục Khang báo kết quả cho Sí Thư. Nghĩ đến tìm kiếm nhiều năm, cuối cùng công dã tràng cầm giỏ trúc mà múc nước, không khỏi bi thương. Không ngờ hôm sau, Sí Thư lại bảo rằng ngài đã tìm được người về giúp họ.

Ông ta và Lục Khang có thể lăn lộn đến hôm nay, dĩ nhiên đều là người thông minh, nào dám hỏi thêm nửa câu, tất thảy đều theo lệnh Sí Thư mà làm.

Cứ thế, Bắc Hoàng Sí Thư dùng nghênh phụng “Cố Tấn hoàng tử” quay về, đích thân đến quận Yến, Nam Vương phủ biến thành Tấn cung. Lục Khang làm Tả Tể, Lý Nhân Ngọc cũng thăng quan, từ một đại phu rảnh rỗi trở thành Tả Tể Tấn cung. Người xưa chạy trốn đi phương Bắc lúc vong quốc xôn xao ngoi lên tìm về đây nương tựa, từng kẻ phong quan. Khắp nơi trong thành dán thiếp bố cáo phục quốc và trưng binh.

Tất thảy đều nhìn ra dáng, trước mặt người khác ông ta cũng rực rỡ vô cùng.

Nhưng giờ phút này, sau lưng người, ông lại nhíu mày nhăn trán, thở dài thở ngắn. Lòng ông vẫn luôn mơ hồ thấy bất an, đứng ngồi không yên.

Ban đầu ông nghĩ Đại Ngụy và Bắc Địch hai cường địch tranh chấp, sẽ đánh đến lưỡng bại câu thương. Nào ngờ biến Tây Quan qua đi, mặc dù quân Ngụy mất đi chủ soái, nhưng sĩ khí chẳng những không suy sụp mà dưới sự thống lĩnh của nữ soái mới, trái lại còn sắc bén không thể đỡ hơn trước.

Cục diện đã không ngừng đảo ngược, quân đội Đại Ngụy đã ép thẳng đến quận Yến.

Cục diện hiện giờ, yên tĩnh lạ thường giống như trước cơn bão tố đột kích, làm ông liên tưởng đến lúc nước Tấn nhiều năm trước bị phá, cảm giác sắp gặp chết chóc ép tới.

Lúc quý tộc Bắc Địch đi săn mãnh thú, thường thường sẽ thả ưng khuyển trước, công kích mãnh thú, chờ ưng khuyển tử thương hầu như không còn, mãnh thú thường thường cũng tiêu hao thể lực, lúc ấy tự mình ra tay, giật lấy cơ hội thành công, thành quả thu được thật lớn.

Trong lòng ông rất rõ, dưới cục diện này, mình và đám người bị “phục quốc” khuấy động đến cuồng nhiệt vô cùng này, cũng chẳng qua chỉ là ưng khuyển dưới tay Sí Thư điều khiển thôi.

Nếu lúc này, Bắc Hoàng Sí Thư có thể đánh bại quân Ngụy đã chạy đến biên cảnh U Yến, tất nhiên tất thảy dễ nói. Song nếu không cách nào ngăn cản, chờ đợi kết quả của mình…

Ông nhớ đến Hoàng Tu đóng quân ở An long Tắc, đó là một người bạn cũ, năm đó cùng nhau đào vong tới đây.

Hoàng Tu chính là người đã chết dưới tay vị nữ tướng Đại Ngụy trong cuộc chiến tám Bộ năm ngoái. Nghe nói, người bị một cây trường mâu cắm lên cửa, tươi sống đóng đinh tại đó.

Ông khác với Lục Khang vốn hạ quyết tâm cùng lắm thì đền nợ nước, dù vô vọng phục quốc, thì ông cũng không muốn chết.

Ông không kìm được rùng mình, bỗng nhớ tới con mình. Ông chỉ có mỗi một mụn con trai, vì thực sự không nắm chắc trong lòng nên gần đây không muốn dính dáng vào chuyện gì. Nhưng thằng con lại không biết chết sống, kiếm lấy một chức võ, cả ngày nằm mơ cũng nghĩ đến sau khi phục quốc làm sao kiến công lập nghiệp. Ông không dám hạn chế hành động ở bên ngoài, chỉ đành âm thầm căn dặn nó ít gây chuyện.

Hôm nay trời sắp tối mà còn chưa thấy nó về, Lý Nhân Ngọc không yên lòng, đang định phái người đi tìm thì nghe người chạy tới thông báo, bảo công tử ở một quán tửu lâu trong thành xung đột với mấy người Địch đang uống rượu, bị bắt lại không thả, đối phương lên tiếng đòi chính ông qua phân xử.

Lý Nhân Ngọc phát kinh hãi, trong lòng lập tức kêu khổ.

Tuy giờ đây ông được phong làm Hữu Tể, song chẳng qua chỉ là chức quan trong cung Tấn, dùng để hù dọa dân chúng ở đó còn được, gặp người Địch, chớ nói là quý tộc, chỉ cần là sĩ quan hơi có chút địa vị trong quân e cũng nể mặt ông ta.

Hỏi mấy câu, biét đối phương trông có vẻ như là sĩ quan cấp thấp trong binh, bèn nắm chắc.

Trên dưới người Địch đều tham tài, thích nhất là vàng bạc. Hẳn đã nhận ra con mình nên mượn cơ hội đòi tiền.

Cục diện bây giờ, thêm một chuyện chi bằng bớt đi một chuyện. Ông vội cầm theo ít vàng, kêu thêm mấy hộ vệ, chạy thẳng đến quán rượu, lên căn phòng đã đặt, một binh sĩ người Địch gầy gò như khỉ đối diện đi tới mắng chửi bằng tiếng Địch, hung thần ác sát, lệnh cho tất cả người ông mang theo ra ngoài.

Lý Nhân Ngọc làm quan ở Địch đình nhiều năm tự nhiên có thể nghe hiểu. Biết đây là đối phương muốn tiện tay bắt chẹt. Bất đắc dĩ đành lệnh thủ hạ nghe theo, một mình mình đi vào.

Ông quan tâm thằng con song nhìn quanh chẳng thấy người, chỉ thấy một người ngồi ở vị trí gần cửa sổ, trong tay bưng chén rượu đang châm uống một mình, trên đầu đội mũ quan mà quân Địch thường mang, nghiêng mặt như đang nhìn ra cảnh đường phố xa xa, vẻ nhàn nhã, suy đoán là đầu lĩnh, liền hỏi: “Con ta đâu? Chỉ cần nó không sao, tất cả đều dễ nói!”

Vừa dứt lời, thấy người kia buông chén rượu trong tay, xoay mặt về phía ông, rồi nhấc tay tháo mũ trên đầu, tiện tay đặt trên bàn.

Lúc này Lý Nhân Ngọc mới thấy rõ hắn mặt, rất trẻ, anh mi tú mục, ánh mắt sáng ngời.

Ông ngây ra.

“Lý Tể, chúc mừng thăng quan.” Đối phương cười với hắn, chào hỏi một tiếng.

Lý Nhân Ngọc không còn nghi ngờ, đối phương là nữ tử!

Ban đầu ông vô cùng kinh ngạc, không hiểu sao lại có một nữ quân ở đây, trố mắt chốc lát, đột nhiên, ông trợn mắt, đăm đăm nhìn đối phương, trong mắt lộ tia không thể tin được, giơ tay chỉ thẳng nói: “Nữ soái nước Ngụy? Tướng quân Trường Ninh?”

Khương Hàm Nguyên lại cười cười, chỉ vào vị trí đối diện đối diện mình, ra hiệu ông ngồi xuống.
 
Chương 101


Lý Nhân Ngọc sợ đến lạnh cả răng cả tóc.

Trong phạm vi trăm dặm quận thành có đầy quân trú đóng phòng vệ, từ sau khi Sí Thư đích thân đến, các con đường tắt thông đến đây đều được canh giữ nghiêm ngặt, người bình thường đã bị cấm ra vào.

Hai quân giao chiến, ai có thể ngờ nữ soái quân Ngụy sẽ mạo hiểm đến đây.

Vừa rồi ông cũng chỉ vì thấy khí chất đối phương không như một cô gái bình thường, cộng thêm cục diện bấy giờ, mới có suy đoán to gan như vậy. Nói ra xong, đến chính ông ta còn nghĩ khả năng không lớn, nào ngờ đúng là thật.

Ông ta chợt biến sắc, vô thức thối lui mấy bước liên tiếp, định quay lại gọi người thì thấy cô im lặng nhìn mình, vẫn ngồi ngay ngắn không nhúc nhích, không hề có ý ngăn cản, mới chợt tỉnh táo lại, sực nhớ đến con trai, giương mắt: “Con ta đâu!”

“Lệnh lang rất ổn. Ta đang muốn cầu cạnh Hữu Tể, sao lại đón tiếp cậu ấy không chu đáo được?”

Lý Nhân Ngọc từng lấy thân phận thần tử vong quốc đầu hàng vào Địch Đình, làm quan cho tới nay, sao không rõ ngụ ý của cô chứ. Lại nghĩ ở đây ngay dưới mắt Sí Thư, cô ta có lực tận trời ắt cũng không dám quá khó xử mình, nên mới định thần, chậm rãi bước đến chỗ cô ra hiệu, ngồi xuống, nhìn vị nữ soái nước Ngụy nhấc bầu rượu, lấy chén, rót rượu mời trấn an mình.

“Xin hỏi tướng quân, hôm nay gọi ta đến là có chuyện gì?” Ông ta nén giọng hỏi. Dù cố hết sức tỏ vẻ tự nhiên, song nghe trong dư âm vẫn có chỗ run rẩy.

Khương Hàm Nguyên đẩy rượu ngon đến trước mặt ông: “Nghe nói cố quốc của ông sắp được lập lại, chuyện Hoàng Phủ Dung là thế nào?”

Lý Nhân Ngọc vừa nghe là chuyện này, hơi thở phào nhẹ nhõm, ngay lập tức, tỉnh bơ như không nói: “Tiểu Hoàng tử trời sinh khác với kẻ phàm, lúc còn bé có cao nhân sờ xương cốt phán rằng là tướng của thánh nhân. Ngày ấy thành Lạc Dương bị phá, ngài cầm quốc tỷ trốn đi, không rõ tung tích. Ngài là chút huyết mạch còn sót lại của Tấn thất, là điềm báo của Tấn thất phục hưng, ước vọng của vạn dân. Lục Khang, có lẽ cô cũng biết, chính là cữu phụ của ngài, bao năm qua vẫn luôn âm thầm tìm kiếm. Cuối cùng trời không phụ người có lòng, ông ấy đã tra ra được ấy chính là vị Vô Sinh của chùa Già Lam mấy năm trước. Đợi lúc ngài đi phương Tây quay về, qua bao gian khổ đến cuối cùng đã tìm được người, đã rước về đây cách đây không lâu…”

Vừa nói ông ta vừa thăm dò, thấy thần sắc vị nữ soái nước Ngụy dần chuyển sang lạnh lẽo, hờ hững nhặt một đôi đũa gỗ kê sí bày trên bàn, đột nhiên hai ngón tay bẻ một phát.

Cùng với tiếng gãy răng rắc, bộ đũa gỗ cứng chắc đã bị bẻ gãy gọn trong ngón tay cô.

Cứ như là cổ mình bị bẻ, Lý Nhân Ngọc ngừng bặt.

“Ta đến đây cũng đã được vài ngày, nghe được cả thành đều là tiếng nguyền rủa ta. Ông nói xem có đúng lúc không chứ, ban ngày ở đầu phố, lại kịp thấy lệnh lang ở bên đường xui khiến dân chúng trút căm thù lên ta. Lệnh lang chẳng những dáng vẻ đường đường, mà đối đáp cũng mở miệng là ra, khả năng ăn nói đúng là thiên phú. Giờ gặp được Hữu Tể, ta mới hiểu, gia học uyên thâm, cha nào con nấy.”

Lý Nhân Ngọc biết cô ta không tin mình, cũng không rõ đã gây rắc rối nơi nào, nhìn chòng chọc vào đôi đũa bị cô bẻ gãy, thầm thấp thỏm không thôi, cười lớn: “Ta đã báo với Tướng quân những gì ta biết, không dám giấu giếm… chuyện đều do Lục Khang làm, ta chẳng qua cũng chỉ theo sau thôi…”

“Xem ra ông sống rất không tệ. Từ sau khi trốn được đến đây, chẳng những được người Địch trọng dụng mà đến giờ lại còn phục quốc trong tầm mắt, ngồi chức quan cao, sau này vinh hoa phú quý dễ như trở bàn tay.”

Lý Nhân Ngọc ngượng ngùng: “Xin Tướng quân đừng giễu…”

“Ta nàm dám giễu Hữu Tể, chỉ là muốn nhắc nhở một chút, kết cục của Hoàng Tu ở An Long Tắc, chắc ông cũng đã biết.”

Khuôn mặt Lý Nhân Ngọc cố nặn ra ý cười rốt cuộc không kiềm được nữa, trầm mặc.

Khương Hàm Nguyên lạnh lùng nhìn ông ta. “Đại Ngụy ta kết thúc loạn chiến, cửu đỉnh quy nhất, nhưng phía Bắc Nhạn Môn, là chén vàng đợi tu sửa, cũng là chủ cũ của ông chắp tay nhường ra. Đây là vùng đất khô cằn, song một tấc cũng không nhượng, huống chi là môn hộ phương Bắc của Đại Ngụy. Đương kim Nhiếp Chính Vương có ý chí mãnh liệt, năng lực trác tuyệt, kế thừa ý chí của tiên chủ, thề bù đắp thiên liệt, vĩnh cố đan thần. Đại quân ta cũng đã tiếp cận tới biên giới, chiến lực thế nào hẳn ông cũng biết. Ít ngày nữa, người Địch chắc chắn sẽ lui về phương Bắc, quay lại vùng đất cũ của chúng! Đại thế này, không thể nghịch chuyển!”

“Lý Nhân Ngọc, ta không ngại nói thẳng, so với Hoàng Tu, chỗ quen biết cũ của ông, thì ông vẫn còn may lắm, chí ít là, hôm nay ta còn cho ông cơ hội.”

Lý Nhân Ngọc vốn đã thầm toát mồ hôi lạnh, chợt thấy giọng cô dịu đi, như có cơ hội xoay chuyển, tim thầm đánh thót, giương mắt, đối diện với ánh mắt cô.

“Ông dù đã mất đại thể, làm việc cho người Địch, nhưng ta được nghe, cũng không phải rằng mấy năm qua ông nối giáo cho giặc phạm phải tội không thể tha. Nếu như lạc đường biết quay về, thì tương lai chẳng những ta sẽ bảo vệ cho ông bình an, mà có lẽ để ông tiếp tục làm quan cũng không phải không thể.”

“Đương nhiên, nếu ông chấp mê bất ngộ, cứ phải đối đầu với Đại Ngụy ta, làm người không nước không nhà, cam tâm tình nguyện trốn đi phương Bắc theo người Địch lần nữa, cả đời không về, cho đến chết chôn thân ở dị vực, ta cũng không miễn cưỡng. Người có chí riêng, ông và con ông, lần này ta sẽ không động một sợi tóc của các người.”

Lý Nhân Ngọc nằm mơ cũng không ngờ, vị nữ soái nước Ngụy lại thốt ra lời ấy. Từng chữ từng câu như trọng chùy, giáng thẳng vào lo lắng âm thầm từ đáy lòng mình.

Năm xưa trốn ra Bắc, ông ta còn tự xưng là di thần, giờ đây hai bên tóc mai đã phơi sương, đã không còn tâm chí ngày đó nữa.

Làm thần của Tấn thất hay của Đại Ngụy, với ông ta mà nói có gì khác đâu? Ông ta đến cả người Địch còn nương náu vào phụng dưỡng cơ mà. Điều mà ông ta lo lắng duy nhất, chính là triều đình nước Ngụy sẽ không bỏ qua loại người như ông. Giờ thì nó cũng không còn.

Thân phận cô gái này đặc biệt quan trọng, chẳng những nắm binh Đại Ngụy trong tay mà còn là Nhiếp Chính Vương Vương phi đương triều của nước Ngụy.

Nếu đến cả lời cô ta mà còn không tính, thì ấy là ý trời, ông phải vong.

Gần như chẳng khó để mà lựa chọn, chẳng qua ông chỉ dao động tí trong lòng, bèn ra quyết định, đứng dậy cúi bái cô gái đối diện: “Ta chẳng qua cũng chỉ là một người tầm thường trong nhà có tang, tạm thời tính mạng được an toàn đến nay, mỗi lần nhớ đến cố thổ khó về, thường nửa đêm khó ngủ. Giờ Khương Tướng quân để ý đến, cho ta cơ hội, Lý mỗ vô cùng cảm kích.”

Ông ta cung cung kính kính dập đầu, sau khi đứng lên, cũng không cần Khương Hàm Nguyên hỏi lại, bèn chủ động đem nội tình câu chuyện hoàng tử Tấn thất kể lại, có lẽ đạo nhân đã chết, không biết Sí Thư moi đâu ra được một nhà sư tuổi tác tương tự để giả mạo. Tuy không có quốc tỷ trong tay, song gã đã nói phải thì còn ai dám nghi ngờ chất vấn. Về phía dân thường lại càng tin là thật. Cứ thế, hòa thượng giả lắc mình biến hoá, vượn đội mũ người, dưới một tay Sí Thư thao túng mà vở kịch loạn phục quốc đã thành quan trọng.

Chỉ cần không phải Vô Sinh thật thì tốt rồi!

Khương Hàm Nguyên thầm thở phào, tiếp đến hỏi tình hình Tả Xương Vương Mục Đáp đang đóng binh ở Loan Đạo.

Lý Nhân Ngọc đã quyết định theo hàng cô, chỉ tiếc mình không bỏ đủ sức mà nhập đội. Nghe hỏi đến Tả Xương Vương tất nhiên biết gì nói nấy, rằng trong Địch đình, dưới Hoàng đế, trái có Hữu Tả Xương Vương, phải có Hữu Tả Quang Vương bốn người này địa vị cao nhất, có quyền thế nhất. Trong đó Tả Quang Vương đã chết trong trận Đại Ngụy tiến đánh Thiên Quan Quảng Ninh, Hữu Quang Vương vì không hợp với Sí Thư đã chết trước đó, bị giết trong cùng ngày cung biến do Sí Thư phát động.

Hiện giờ, bên dưới Sí Thư chỉ còn hai người Tả Hữu Xương Vương là phụ tá đắc lực. Địch đình lấy Tả làm lớn, địa vị Tả Xương vương Mục Đáp có cao hơn Hữu Xương Vương một chút.

“Có điều, hai người này không những không chia nhau chống đỡ, mà Hữu Xương Vương không phục Mục Đáp, nên Sí Thư cũng không thân cận với ông ta như trước.”

“Sao thế? Không phải Tả Xương Vương là thúc phụ của Sí Thư sao? Nghe nói trước đây cũng nhờ vào ông ta mà Sí Thư mới chiếm được hoàng vị.” Khương Hàm Nguyên hỏi.

Lý Nhân Ngọc thấy cô có vẻ hứng thú, lập tức hăng hái: “Tướng quân có chỗ không biết. Thế lực Hữu Xương Vương cũng rất lớn, người ủng hộ đông đảo, Tả Xương Vương luôn có chỗ kiêng kị ông ta. Trước đây, sở dĩ ủng hộ Sí Thư đoạt vị, chưa chắc không phải là vì muốn dựa vào Sí Thư để áp chế Hữu Xương Vương. Hôm Tả Quang Vương chết ở Thiên Quan, thuộc hạ còn sót lại của ông ta xé thành hai mảnh, không ít người chỉ phục mỗi Mục Đáp, âm thầm đi theo. Tướng quân nghĩ xem, làm sao Sí Thư không dấy lên khúc mắc?”

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Không sai, tin tức này rất có giá trị.”

Lý Nhân Ngọc cho là cô tán thưởng, mừng rỡ, cực lực biểu lộ lòng trung: “Chỉ cần có thể dốc sức cho Tướng quân, dù chỉ có tác dụng nhỏ bé, cũng không uổng công Lý mỗ nhẫn nhục nhiều năm ở Địch đình.”

Khương Hàm Nguyên cười cười, lại hỏi: “Nghe nói ba ngày nữa, tên hoàng tử giả sẽ ra ngoại ô cử hành lễ Tế trời?”

Tin này đã truyền khắp thành từ sớm. Nghe cô hỏi, Lý Nhân Ngọc lại thấy xấu hổ, là vì đến chừng đó ông ta là quan tế, xưng phải xong, lại nhắc nhở: “Sí Thư cũng sẽ đi cùng, đến chừng đó trong thành ngoài thành đề phòng gấp bội, nếu Tướng quân vẫn chưa đi thì cần cẩn thận.”

Lý Nhân Ngọc nói xong, cô không lên tiếng nữa, nhìn ra cảnh đường phố ngoài cửa sổ như đang nghĩ ngợi điều gì. Ông ta cũng không dám lên tiếng quấy rầy, lại không dám khinh thường ngồi trở lại, chỉ đứng một bên chờ, không ngờ một lát sau, thấy cô xoay mặt lại nói: “Đến chừng đó ta cũng đi. Ông nghĩ cách, giúp ta có thể tiếp cận chút.”

Lý Nhân Ngọc giật mình, rối rít ngăn cản, “Thân phận Tướng quân quý giá, tuyệt đối không thể đi mạo hiểm!”

“Ông tìm cách là được, còn lại tự ta có tính toán.”

Ngữ điệu cô cũng không mang vẻ hùng hổ dọa người song lại cấm không theo.

Lý Nhân Ngọc đành thưa vâng, hỏi cách thức liên hệ xong lập tức vội vàng rời đi.
 
Chương 102


Ba ngày sau, nghi thức tế lễ đúng hẹn mà đến.

Sáng sớm, dư giá và nghi trượng từ phủ Nam Vương đã đổi tên thành Tấn cung ra ngoài, đi ra ngoại ô phía nam.

Đây là lần đầu tiên kể từ sau khi vị hoàng tử lưu vong trở về đăng cơ phục quốc lộ diện. Tuy là một phái đoàn dựng lên tạm thời, trong đó quá nửa góp cho đủ số là đám quan văn kẻ thì dốt đặc cán mai, quan võ người thì chưa sờ qua đao, nhưng y quan và lễ nghi đều dựa theo lễ chế xưa kia của Tấn thất mà làm. Cựu triều diệt vong cứ thế hoá trang ra sân, nghiễm nhiên sống lại.

Đã nhiều ngày tạo uy thế trước, cho đến ngày tân đế lộ diện, dân chúng bên đường cuối cùng đã tận mắt nhìn thấy vị hoàng tử thần minh chuyển thế có thể tiêu tai trừ họa cho thế nhân của truyền thuyết. Ngài ngồi trong xa giá lọng vàng, người đội mũ miện mặc y phục vô cùng tôn quý, dân chúng không khỏi cảm thấy kính sợ sùng bái, cộng thêm một toán người được bố trí trước nhảy ra, tỏ thái độ cuồng nhiệt hô hào mọi người hô to vạn tuế, có người kích động quỳ ven đường cúi lạy thậm chí còn xen cả nước mắt, lan truyền trong không khí, đám còn lại cũng kìm lòng không đặng hùa theo rối rít cúi lạy.

Đương nhiên, cho dù là thần minh chuyển thế như Tấn đế, cũng tôn phụng Bắc Hoàng làm chủ.

Xa giá của Sí Thư đi trước, đảo mắt qua đám dân quỳ lạy ven đường lộ vẻ thành kính kia, ở nơi đã bị thống trị nhiều năm này, đây là lần đầu gã nhìn thấy cảnh dân chúng thuận theo chứ không phải nhẫn nhục chịu đựng dưới áp bức của quá khứ.

Quả nhiên, vẫn là chỉ có nhân tài nước Tấn hiểu làm cách nào khống chế người Tấn, xem như không có uổng công nuôi đám Lục Khang Lý Nhân Ngọc. Chẳng những chúng có thể có sức lôi kéo, hơn nữa, nhân số vẫn đang không ngừng gia tăng.

Ả đàn bà nước Ngụy kia nhất định đang hy vọng tốc chiến tốc thắng, tất nhiên gã không thể để ả ta toại nguyện. Gã tổn thất nổi. Ngoài lợi dụng núi non trùng điệp làm chướng ngại, bố trí phòng thủ trùng điệp, lại để người Tấn xung phong ra chiến đấu vì vị Hoàng đế giả kia của bọn chúng.

Tất nhiên đám ô hợp này không thể chống lại quân Ngụy, song chỉ cần cả vùng U Châu điều động, chỉ cần kéo dài là có thể cầm chân đối phương. Đánh xa tối kỵ đánh lâu. Đợi Khương Hàm Nguyên mệt mỏi ứng đối, đến chừng đó, mình lại dĩ dật đãi lao, chắc chắn đã được nửa thành công.

(*) đợi đối phương mệt mới tấn công.

Hôm nay chỗ tế trời này cũng là do bọn Lục Khang Lý Nhân Ngọc chọn, nói gì mà “Đồi tròn cúng trời”, “Đồi vuông tế đất”, việc tế trời cần phải chọn vùng như Nam Giao phù hợp các thứ các thứ. Sí Thư không hề hứng thú, bảo họ cứ tự xử lý, yêu cầu duy nhất của gã chính là ngoài mặt phải long trọng, lấy thiên uy đè người, nên theo lệ cũ vốn là trong vòng trăm trượng chung quanh không được có kẻ hỗn tạp, song hôm nay, theo ý Sí Thư, lại cho phép dân trong quận tới gần sân tế xem lễ.

Giờ lành đã đến, nhạc trống cùng vang.

Sí Thư ngồi ở ngôi chủ phía chính Bắc tế đàn. Chung quanh gã, là nghi trượng và đông đảo quan viên tham gia tế lễ, xong xuôi, tới ba trăm nhạc sinh hiến múa. Cả mười mấy trượng ngoài đều lúc nhúc rất nhiều quận dân đứng. Tất nhiên, để cam đoan không có sự cố, tất cả những quận dân được vào trong phạm vi canh phòng đều phải qua tuyển chọn trước, hoặc là trong nhà có người từng làm việc cho phủ Nam Vương phủ, hoặc là thân quyến của quan Tấn hiện giờ, không chỉ thế, còn phải cầm giấy xác nhận, thì mới được đứng trước.

Hôm nay cảnh tượng thật hoành tráng, làm Sí Thư rất hài lòng.

Lục Khang vì tên Tấn đế này là giả mạo, nghi ngờ hoàng tử Vô Sinh đã chết, gần đây đưa đám vô cùng, làm việc không còn tích cực như trước. Đại điển tế trời lần này là do Lý Nhân Ngọc một tay xử lý.

Không thể không nói, tay Lý Nhân Ngọc này, dù không quá bản lĩnh song làm mấy thể loại này cũng rất lành nghề.

Sí Thư thu mắt, nhìn sang tên Tấn đế một tay gã tạo ra.

Tên kia người mặc miện phục, đầu đội mũ miện có rèm trước sau, trong tay cầm trấn khuê, đang ngồi ở vị trí bên dưới gã, thấy gã lia mắt tới, hiểu là muốn mình ra sân, cuống quýt đứng dậy.

(*) ngọc khuê (dụng cụ bằng ngọc dùng trong nghi lễ của vua chúa thời xưa, trên nhọn dưới vuông)

Tên này vốn là một hòa thượng bình thường tu ở ngôi miếu trong núi hoang, mỗi ngày chỉ biết ngồi niệm kinh, tự dưng lắc mình hoá thành Hoàng đế, đến nay vẫn còn như mơ, thứ gọi là tiểu nhân đắc chí chính là thế, ngoại trừ kính sợ Sí Thư thì còn lại đều dần dần nghĩ mình là Hoàng đế thật. Giờ cứ y theo sắp xếp trước đó, hướng về phía Tây, đứng ở hướng Đông Nam tế đàn, chờ quan chủ tế Hữu Tể Lý Nhân Ngọc chủ trì xong nghi thức rườm ra, nện bước khoan thai, đi tới đặt vật tế, bích khuê, lụa dệt vào trước đống củi chờ để tế phẩm, nhóm lửa đốt.

Cột khói lớn như rồng đen từ từ dâng lên trời. Tiếp đó, quan tế tửu tế rượu. Rồi lại hiến múa.

Ba trăm người mặc tế phục xếp hàng chờ ở một vùng rộng lớn bao la, cử động theo hiệu lệnh, bắt đầu nhảy múa theo tiết tấu, vũ nhạc dâng lên.

Vào trường hợp thế này, bầu không khí vốn dĩ nên trang nghiêm thu hút sự chú ý, đạt mục đích mượn thiên uy rung động lòng người. Nhưng vì vội vã phục quốc, đến quan viên cũng phải kéo vào cho đủ số, trong phút chốc nào có thể tìm ra một đội ngũ múa hát lớn trải qua huấn luyện lâu dài chứ. Phần lớn cũng chỉ là người vội học qua mấy ngày đã ra lùa vịt vào lồng, mở đầu còn chỉnh tề, qua hơn phân nửa đã nháo nhào, bên trái đưa tay, bên phải chen chân, phát hiện mình và người bên cạnh không cùng động tác, lại rối rít uốn nắn, có chỗ mờ mịt luống cuống, bèn dứt khoát ngừng lại, nhìn trái nhìn phải. Cảnh tượng bỗng thành buồn cười.

Sí Thư nhìn vào có phần không vui, liếc Lý Nhân Ngọc. Lý Nhân Ngọc chùi mồ hôi trán, rối rít ném ánh mắt qua thủ hạ, người kia vội chạy xuống đám quận dân đứng đầu nhất. Mấy người đã được dặn từ trước, hiểu ý, quỳ cả xuống, hô to vạn tuế. Đám quận dân phía sau không thấy rõ lắm, không hiểu mô tê cũng rối rít quỳ theo, trong tích tắc, tiếng hô vang vọng vùng hoang dã, che niềm xấu hổ cho cả ban vũ nhạc.

Lúc này Sí Thư mới hơi dịu sắc mặt. Quan tế tửu cầm tước bôi đựng rượu lễ bước lên, định tiến hiến Hoàng đế, bày tỏ trời cao ban phúc. Tấn đế giả nhận lấy, nhưng sao dám lấn lướt Sí Thư, bèn cùng quan tế tửu cung kính chuyển sang dâng lên cho Sí Thư.

Sí Thư đứng dậy.

Gã tiếp rượu, giơ lên, môi giả đụng tước bôi ra vẻ uống, lập tức đưa trả —— trong lúc ấy, tiếng hô của ngàn vạn quân dân nơi hoang vắng vẫn chưa ngừng, người người vẫn còn dập đầu xuống đất, bỗng xảy ra một cảnh tượng không ai ngờ tới.

Không trung đột nhiên xuất hiện một đường đen thẳng tắp.

Đó là một mũi ám tiễn, xé không mà đến, nhanh bắn đến giữa người Sí Thư.

Thân vệ từng bên cạnh gã xưa kia, bao gồm cả Nô Kiền, vì chuyến đi Trường An mà gần như đã hao tổn gần hết. Người hiện giờ dù không đắc lực bằng song vẫn là hảo thủ. Sau khi lên ngôi, để đề phòng sự cố, dù đi đến đâu thân vệ gã cũng không rời. Hôm nay cũng không ngoại lệ.

Nhưng mũi ám tiễn đến quá đột ngột.

Không ai nhìn rõ nó phóng ra từ phương nào, do ai bắn, nó như một ngọn u linh, chớp mắt đã vọt tới trước người Sí Thư. Đến khi người bên cạnh gã phát hiện kịp phản ứng, thì đã trễ. Dù cả đám cố quên mình nhào qua định cứu giá xong không thể đuổi kịp tốc độ mũi tên. Mà Sí Thư đang ngồi riêng một chỗ cao cao, chung quanh thấp hơn gã nửa người, không có bất kỳ thứ gì che chắn, gã như một tấm bia ngắm dễ thấy.

Lúc này tay phải gã vẫn còn bưng tước bôi. Ám tiễn chỉ cách gã chưa đến vài thước. Cũng may đương lúc phóng thẳng đến còn cách mấy trượng đã kịp lọt vào tầm mắt gã, trong lúc người ngoài còn chưa phản ứng kịp.

Gã nheo mắt, quăng tước bôi, một tay chụp quan tế tửu đứng gần mình nhất, kéo ra trước mình che chắn. Quan tế tửu còn chưa hiểu chuyện gì thì sau lưng đã trúng tên, hét thảm một tiếng, ngã xuống đất.

Sí Thư khó khăn lắm tránh khỏi ám tiễn, vô thức giương mắt nhìn chỗ ám tiễn phóng tới. Song gần như ngay tích tắc đó, tuyệt đối không ngờ, lại một mũi ám tiễn từ hướng khác bắn đến.

Thì ra là có hai mũi tên gần như được bắn ra cùng lúc từ hai hướng khác nhau. Đợi khi gã phát hiện, không thể nào đủ chụp người đỡ mũi tên giúp, bản thân lại né tránh không kịp, thấy sắp phải bị mũi tên thứ hai bắn trúng, thì gã gặp nguy không loạn, chợt nâng cánh tay trái, lộ cách tay sắt, trực tiếp vung sang ám tiễn.

“Keng”, thiết trảo đánh văng ám tiễn ra.

Dù liên tiếp tránh được hai mũi ám tiễn phóng tới song tất cả chỉ xảy ra trong chớp mắt. Mãi đến khi mũi tên thứ hai bị văng ra, thân vệ xung quanh mới áp sát trước người gã, người chung quanh cũng mới kịp phản ứng.

Tấn đế bị dọa sợ nhất chui xuống bàn, ôm đầu không dám ra, còn những quan viên Tấn cung cũng trợn mắt há mồm, kinh hoảng không thôi, sợ bị vạ lây cũng không đoái hoài tới chuyện khác, giữ tính mạng quan trọng hơn, kẻ thì nằm sấp người thì chạy tới chỗ không người.

Lý Nhân Ngọc tất nhiên là hiểu ra chuyện gì, học Tấn đế cúi rạp xuống đất, không nhúc nhích.

Sí Thư bấy giờ đã được thân vệ xông lên bảo vệ vào giữa, nguy hiểm đã giải, nhưng sau lưng gã vẫn toát một tầng mồ hôi lạnh. Đợi hơi định thần, mặt gã đầy nổi giận, xoay mặt lại, quét mắt nhìn về hướng phát ra mũi ám tiễn thứ hai, chỉ tay lệnh Hữu Xương Vương đang theo cùng gã lập tức đi bắt thích khách.

Nơi đó, trong toán quận dân đang quỳ, rất nhiều người vẫn chưa hiểu đến cùng xảy ra chuyện gì, có kẻ vẫn phủ phục quỳ dưới đất, có kẻ ngồi dậy mờ mịt nhìn bốn phương.

Khương Hàm Nguyên cùng Thôi Lâu cải trang trà trộn vào trong đám đông, mỗi người một đầu. Mũi tên thứ nhất là do Thôi Lâu bắn ra, còn cô là mũi thứ hai sát theo sau.

Đáng tiếc tuy có Lý Nhân Ngọc làm nội ứng song vẫn không thể mang vào loại vũ khí có lực sát thương lớn hơn chút, chỉ giấu được ám tiễn, mà khoảng cách cũng quá xa, vừa bắn ra, tên đến gần Sí Thư đã giảm lực, tốc độ cũng chậm đi, tạo cơ hội cho gã kịp phản ứng, bị gã dùng thiết trảo lắp trên cánh tay cụt cản lại.

Thật đáng tiếc!

Có điều, ban đầu cũng không nghĩ sẽ có thể ám sát thành công. Tạo được một màn mạo hiểm thế này xem như cũng đã đạt mục đích.

Giờ mà ở lại thêm một chớp mắt là thêm một phần nguy hiểm.

Khương Hàm Nguyên gấp rút thu ám tiễn, hô to “Thích khách”. Người xung quanh như bừng tĩnh, lại thấy đại đội binh Địch cầm đao vọt tới ở phía trước, lập tức rối tung rối mù, trong tiếng kêu sợ hãi, chạy tứ phía.

Khương Hàm Nguyên và Thôi Lâu nhìn nhau qua đám người, hẹn cùng rút lui. Cô thừa dịp rối loạn định gấp rút chạy về hướng Tây Nam. Hữu Xương Vương dẫn mấy Đô úy thủ hạ vọt tới gần, ngay tức khắc, trong đám quận dân chạy loạn như ruồi không đầu để ý đến bóng lưng lạ thường bên này, bèn lập tức hét lớn, hô hoán toàn bộ thủ vệ chung quanh đuổi kịp vây đánh.

Không ngờ đúng lúc này, ở hướng gần chuồng ngựa tạm, khói đặc bốc lên cuồn cuộn.

Hôm nay hai ngàn kỵ binh hộ tống Sí Thư xuất hành, sung làm hộ vệ và nghi trượng. Lúc cử hành tế tự, toàn bộ ngựa đều tập trung về nơi đó. Không biết sao lại bén lửa, lửa liếm tới lại là một vùng hoang vu ngoại thành, thế lửa nhanh chóng nối thành một vùng trong gió, ngựa bị chấn kinh, theo con đầu đàn dẫn đầu như hồng thủy xông ra khỏi rào chắn được lắp tạm. Gã trông ngựa nào ngăn nổi, đành trơ mắt nhìn đàn ngựa chạy như điên về phía tế tự, thanh thế kinh người.

Trong tích tắc cảnh tượng càng thêm loạn. Xung quanh khắp tế trận là quận dân và tuấn mã kinh hoảng chạy tứ tán, đuổi bắt bị cản trở. Đợi đến khi khống chế được cục diện, đàn ngựa dần dần khôi phục trật tự, mới phát hiện kẻ khả nghi sớm đã không còn thấy bóng dáng.

Trận tế thiên kết thúc trong kinh hồn. Sí Thư được thân vệ hộ tống, gấp rút quay về Tấn cung.

Qua kiểm tra, hai mũi ám tiễn bắn đến gã đều được nhúng qua độc. Viên quan tế tửu hứng mũi tên đầu tiên tuy không bị thương vào chỗ hiểm song đã sớm chết cứng.

Rất rõ ràng, thích khách chẳng những muốn đẩy gã vào chỗ chết, mà còn rõ sắp xếp hiện trường hôm nay như lòng bàn tay, suy ra, phải có nội ứng.

Gã hạ lệnh phong tỏa tất cả lối ra xung quanh quận thành, lục soát khắp nơi, buộc phải bắt được kẻ thích khách.

Được tin, Lý Nhân Ngọc quỳ dưới đất, đối mặt với cơn giận không tiêu của Sí Thư.

“Sao kẻ thích khách lại trà trộn vào được chứ? Giấy xác nhận ở đâu ra?” Sí Thư bắn ánh mắt đến Lý Nhân Ngọc, vô cùng hung ác, “Mọi chuyện hôm nay đều do ngươi sắp xếp! Phải chăng là ngươi! Tư thông thích khách, thừa cơ hại mạng của ta?”

Lý Nhân Ngọc đập đầu vang bôm bốp, kêu oan: “Hữu Xương Vương vừa rồi mới tra ra, có hai tên tham tiền, bán giấy xác nhận của mình ra ngoài. Vi thần chẳng biết gì cả! Đã bắt hai tên kia đến, nếu bệ hạ không tin, có thể đích thân tra hỏi.”

Thì ra hôm qua có người tìm đến hai kẻ đã có giấy xác nhận, bảo vì kính yêu Bắc hoàng, muốn vào được chỗ tốt hôm nay nhìn thiên nhan tương lai, tình nguyện bỏ tiền xin họ nhường giấy. Hai kẻ kia là vô lại, bình thường hay làm việc cho người Địch, cáo mượn oai hùm, việc ác bất tận, quận dân bình thường gặp là phải tránh mặt đi vòng, gặp chuyện tốt bèn giao luôn giấy ra, mới để thích khách thừa cơ lợi dụng.

“Đợi Hữu Xương Vương đến, ngài sẽ làm chứng cho vi thần!”

Ông ta vừa biện giải cho mình xong, Hữu Xương Vương đã vội vàng bước vào, báo một tin cho Sí Thư.

Người của hắn lần theo tung tích chạy trốn của thích khách, cuối cùng tìm thấy dấu vết ở một góc núi hướng Tây Nam quận thành hơn trăm dặm, trong lúc lục soát đã tình cờ phát hiện một con đường hầm bị cây cỏ dại che giấu. Con đường đào giữa lòng núi, như ruột dê, đại quan và xe nặng không thể đi qua nhưng có thể cho binh một đi qua lại. Qua kiểm chứng, đúng là con đường tắt dùng để đưa tin mà nước Tấn xưa kia âm thầm cho xây dựng, mục đích ban đầu là để đối phó với cường địch phương Bắc, song về sau, bản thân nước Tấn cũng theo hàng, đường đưa tin bị bỏ hoang, chôn vùi hoàn toàn, chẳng những hiếm người biết mà trên bản đồ của nước Tấn cũng không còn tung tích, chỉ còn thấy ở dư đồ chiến trận cực kì chi tiết là còn có thể nhìn thấy đánh dấu.

Thích khách đã men theo con đường cũ này mà đi, không rõ tung tích.

Nghe Hữu Xương Vương hồi báo xong, Lý Nhân Ngọc rốt cuộc thở phào.

Ba ngày trước nữ soái nước Ngụy kia như từ trên trời rơi xuống, ông ta không tài nào nghĩ ra làm cách nào cô có thể vào quận Yến, cũng không dám hỏi. Vừa rồi còn lo rằng nhỡ cô và toán đồng hành không thể chạy thoát thì nguy to. Nào ngờ còn có con đường bí mật này.

Có điều, đến cả mình cũng không biết, sao cô ta lại biết được?

Ông đang thầm nghĩ, thì nghe tiếng gầm cuồng nộ của Sí Thư: “Là ai? Đến cùng là ai? Dám mưu sát ta?”

Nếu hôm nay gã không may mắn, cộng thêm mấy phần bản lĩnh thực sự, giờ phút này e cũng giống tên quan tế tửu, đã sớm mất mạng.

Hữu Xương Vương ngang nhiên nói: “Còn phải nói? Nhất định là Tả Xương Vương! Ngoài mặt thì ra vẻ phục tùng bệ hạ, thực tế đã muốn tự lập từ lâu! Trước kia còn âm thầm lôi kéo người của Tả Quang Vương. Là bệ hạ đại lượng không tính toán với gã, lại càng khiến dã tâm gã thêm lớn. Giờ đây đại binh nước Ngụy tới gần, lỡ bệ hạ có bất trắc, gã chính là kẻ hưởng lợi nhất, đến chừng đó, ai có thể tranh với gã vị trí của bệ hạ hiện giờ chứ?”

Sí Thư không nói gì, sắc mặt đã từ từ trầm xuống.

Lý Nhân Ngọc thầm đưa mắt nhìn Hữu Xương Vương bên cạnh, cũng dè dặt nói: “Chuyện này vốn chẳng đến phiên tiểu thần xen vào. Song tiểu thần vừa mới bị bệ hạ nghi ngờ, không thể không muốn chứng minh mình trong sạch. Tiểu thần cho là, Hữu Xương Vương nói rất đúng.”

Hữu Xương Vương thường ngày xem thường bọn Lý Nhân Ngọc, đến cả vẻ nho nhã cũng chúng khi nói chuyện cũng là tội. Giờ nghe ông ta phụ họa mình, vui mừng: “Sao lại nói thế?”

Lý Nhân Ngọc vội nói: “Chuyện hôm nay, nếu không phải có kẻ nội ứng ngoại hợp, thì thích khách sao có thể thuận lợi trốn thoát? Phóng mắt nhìn khắp, bên cạnh bệ hạ, ngoài Tả Xương Vương thì còn ai có năng lực ấy?”

Hữu Xương Vương lớn tiếng: “Lý Hữu Tể nói rất đúng!”

“Là cò vạc tranh nhau, ngư ông đắc lợi, hiện giờ hoả lực của bệ hạ tập trung vào quận Yến chính diện với quân Ngụy, còn ngài ấy thì canh giữ ở hậu phương. Trận chiến này, tiểu thần biết tất nhiên bệ hạ sẽ thắng, song quân Ngụy cũng nào phải kẻ yếu, chỉ sợ đến cuối cùng, phía bệ hạ khó tránh khỏi có chỗ hao tổn, còn ngài ấy thì không mất một sợi lông. Đến chừng đấy, nếu ngài ấy lại nổi dậy là sẽ chiếm hết thượng phong.”

Hữu Xương Vương giật mình, quay sang Sí Thư oán hận nói: “Thảo nào gã đã chủ động xin bệ hạ phát lệnh đi trấn thủ Loan Đạo! Thì ra là nhằm chủ ý này! Tuyệt đối không thể để gã toại nguyện thưa bệ hạ!”

Ánh mắt Sí Thư càng trở nên âm trầm hơn, một mình chậm rãi bước qua lại chốc lát, xoay sang Hữu Xương Vương, hạ lệnh: “Ngươi nhanh chóng dẫn quân đến Loan Đạo khống chế ông ta, tiếp nhận vị trí ấy, lệnh ông ấy mau đến quận Yến gặp ta!”
 
Chương 103


Tả Xương Vương có thể đứng mà không ngã, dĩ nhiên không thể hoàn toàn không có tâm cơ. Tai mắt hỏa tốc lập tức truyền tin Sí Thư gặp chuyện suýt nữa mất mạng đến tai lão ta.

Dẫu không thể biết sau đó Sí Thư và Hữu Xương Vương nói gì, song lão ta phát lạnh sống lưng tại chỗ, cảm thấy không ổn.

Hữu Xương Vương cùng lão ta tranh thế, sau khi Sí Thư lên ngôi, ngày càng thêm đề phòng lão, sao lão không biết?

Ở trận chiến Tây quan, Khương Tổ Vọng nguyên soái nước Ngụy chết trận, là chiến quả mà Sí Thư nhiều lần dùng để khích lệ tầng lớp quân sĩ. Nhưng dù rằng tô son trát phấn thế nào, trong lòng kẻ sáng suốt vẫn rõ, đây chính là một trận thảm bại.

Vì cuộc chiến ấy, bọn chúng chẳng những tỉ mỉ bày trận, còn đầu tư quân lực cực lớn. Mục tiêu ban đầu là triệt để xáo trộn toàn bộ kế hoạch của quân Ngụy, dời áp lực của chiến trận từ phương Bắc về Ngụy đô. Nếu thuận lợi, thiết kỵ của bọn chúng thậm chí có thể thẳng tiến ép về Trường An.

Ấy sẽ là chiến quả huy hoàng to lớn bực nào.

Song, kết quả sắp thành lại bại.

Cũng qua trận chiến Tây quan, lão bắt đầu ý thức được chỗ đáng sợ của đối thủ. Năng lực và bản năng phản kích chém giết trong tuyệt địa kia đủ để khiến kẻ địch mạnh mẽ nhất trên đời này cũng run rẩy.

Đội quân đã như vậy, huống chi là Thống soái tối cao. Dù Khương Tổ Vọng chết trận, song không hề bại trận. Mà người kế nhiệm hắn ta, đã dùng cách thay đổi chiến cuộc chứng minh sức mạnh và uy lực mạnh mẽ của ả đối với thuộc hạ kế thừa từ Khương Tổ Vọng.

Với thống soái ấy, đội quân ấy, đủ để phá vỡ bất kì kẻ địch nào.

Lão đã mất lòng tin sau cuộc chiến đó.

Lần này chính lão theo lệnh tới đây, cũng là suy sâu tính kỹ chuyện ứng đối. Dĩ nhiên, lão cũng cất giấu mấy phần tư tâm. Song lão cũng có niềm khó xử riêng mình: Địch thủ làm lão không nhìn thấy chiến thắng chắc chắn, còn Sí Thư, thì không phải là một kẻ có thể để lão yên tâm nghe lệnh.

Địa vị của lão đủ cao, lão không có ý dùng chiến gầy dựng uy vọng nữa.

Trận chiến này nếu thắng, mình không đến mức bị nỗi hiềm khích tích công.

Còn nếu thua – dù không ai dám công khai đề cập đến khả năng ấy, song đã là một vị Vương Bắc Đình chém giết tranh đoạt nửa đời người cả một hoàng triều Trung Nguyên, lão rõ ràng hơn ai hết, gặp đối thủ như Tấn thất là do vận may quá tốt thôi. Mà vận may thì nào luôn tốt như vậy. Một khi mất đi U Yến, hiển nhiên Nam Đô khó giữ. Đến chừng đó, lựa chọn duy nhất còn lại của bọn họ chỉ còn là rời mảnh đất màu mỡ này chạy ra phương Bắc, quay lại Vương Đình ngày xưa. Tới chừng đó, màn tranh đoạt tàn khốc nội bộ chắc chắn trình diễn lần nữa.

Nếu bây giờ lão bảo toàn được thực lực, tương lai còn có đường sống

Đừng nói tiến, dù lùi, cũng đủ để trú đóng ở địa bàn vốn thuộc về mình.

Song lão vạn lần chẳng ngờ, giờ đây tự dưng phát sinh chỗ ngoài dự kiến này.

Là kẻ nào muốn lấy mạng Sí Thư?

Nếu không phải là Hữu Xương Vương, thì lão còn nghĩ tới một khả năng khác, là viên nữ soái nước Ngụy.

Thậm chí, nếu chỉ nhìn từ góc độ được lợi khi Sí Thư bỏ mạng mà nói, so với Hữu Xương Vương thì lão thấy người sau còn có khả năng lớn hơn.

Lão không tin Sí Thư không nghĩ ra điểm này.

Nhưng mà, Hữu Xương Vương sẽ bỏ qua cơ hội công kích mình sao?

Quan trọng nhất là, dù lão có tự biện bạch, Sí Thư thật sự tin tưởng mình sao?

Về mặt này, lão không hề có chút lòng tin nào.

Nhằm đề phòng nhỡ có chuyện, cùng ngày, lão phái thân tín âm thầm chạy tới quận Yến thám thính động tĩnh.

Mới sau hai ngày đã nhận được hồi báo khẩn cấp, rằng Hữu Xương Vương đã dẫn theo đội quân đang lặng lẽ chạy đến đây. Nghe nói, là lấy lý do trước khi tiền phương căng thẳng mà thay quân, điều lão đi quận Yến.

Giữa hai vùng đất, hành quân gấp gáp, chỉ năm sáu ngày sẽ đến. Hiện Hữu Xương Vương đã lên đường, nghĩa là, thời gian còn lại cho chừa mình sẽ ít hơn.

Mục Đáp toát mồ hôi lạnh cả người.

Nếu không phải lão cẩn thận đề phòng từ trước mà tra được tin này, đợi Hữu Xương Vương đuổi tới, nhất định mình sẽ dữ nhiều lành ít.

Lão lập tức triệu thân tín bàn bạc đối sách, cả đám không khỏi lửa giận ngút trời. Có kẻ nói chờ Hữu Xương Vương đến thì g.iết ch.ết. Kẻ khác ác hơn, cổ động lão chiếm lấy Loan Đạo, phá con đường giao thông quan trọng giữa Sí Thư và Nam Đô.

Việc đã đến nước này, Mục Đáp biết mình không còn đường lui.

Chiếu lấy suy nghĩ và lời nói của Sí Thư, sau này cho dù hắn không giết mình, thì mình cũng như tự chặt hai tay.

Còn nếu giết Hữu Xương Vương chiếm cứ Loan Đạo, cũng không khó, nhưng sau đó, khắc phục hậu quả thế nào mới là vấn đề.

Mặc dù ban đầu Sí Thư đồng ý cho mình trú đóng ở Loan Đạo, song đồng thời hắn cũng lệnh cho thân tín Hữu Xương Vương trú ở Nam Đô.

Chiêu này, hẳn là vì đề phòng lão, để lão và Hữu Xương Vương hình thành thế gọng kìm

Nếu mình bạo động ở Loan Đạo, tất nhiên hắn ta sẽ thả quân Ngụy trước, cùng Nam Đô hai đầu giáp công. Như thế thì thế cục sẽ không dễ khống chế.

Giờ đây, lão tiến không thể, ở lại?

Càng không thể!

Một Tả Xương Vương vốn hưởng uy vọng Hoàng đình Bắc Định xưa nay, giờ cũng sứt đầu mẻ trán, như cũng bàng hoàng không còn kế sách, sau khi cân nhắc dao động tới lui, cuối cùng, lão cũng đưa ra quyết định sau cùng.

Phía Khương Hàm Nguyên thám thính động tĩnh chặt chẽ đã nhanh chóng nhận được tin tức.

Dưới bóng đêm che chở, Tả Xương Vương Bắc Địch dẫn thân tín và chủ lực trốn đi trong đêm, rút khỏi vùng đất đóng giữ, lùi về phương Bắc. Phỏng đoán rằng lão định cuốn về Nam Đô, lui về Bắc Đình sớm, mưu đồ cho tương lai.

Kết quả này, làm cô cảm thấy khá bất ngờ.

Cô thiết kế ly gián, đã ngờ rằng Tả Xương Vương và Sí Thư sẽ phát sinh xung đột, nhưng cũng chỉ dừng ở đấy. Cô chỉ cần hai phe không còn đồng lòng đã là có thể tạo cơ hội tốt để mình giành được Loan Đạo.

Không ngờ, Tả Xương Vương bỏ đi đầy dứt khoát!

Hiện giờ Loan Đạo chỉ còn không đến ngàn binh thường trú, phần lớn là binh thứ cấp già yếu phụ trách vận chuyển quân nhu, với binh Tấn chiếm đa số.

Trong khi đó, Hữu Xương Vương tiếp quản Loan Đạo còn chưa tới nơi, chỉ đang ở giữa đường.

Thời cơ tốt ngàn năm một thuở thế này, sao lại bỏ qua.

Hai ngày sau, Hữu Xương Vương chẳng hề hay biết gì dẫn đội quân của mình đuổi tới.

Khi đó, đầy đầu hắn còn đang suy nghĩ làm cách nào thừa dịp Tả Xương Vương chưa sẵn sàng mà khống chế lão, nào ngờ, chờ đợi hắn là một tin tức sấm sét giữa trời quang.

Mấy hôm trước Tả Xương Vương đã chạy trốn, nữ soái nước Ngụy dẫn binh mai phục gần đó xuất hiện, gần như không gặp phải bất kỳ kháng cự nào, toàn bộ lính phòng giữ đầu hàng, để cô ta không cần tốn nhiều sức mà chiếm giữ Loan Đạo.

Không chỉ thế, Hữu Xương Vương không chút phòng bị còn bị trúng mai phục ở trước Loan Đạo. Nếu không có thân vệ bên cạnh liều chết chống cự, giết ra một đường máu, đến chính hắn cũng phải táng thân nơi đây. Hắn mang theo tàn binh, hốt hoảng trốn về quận Yến.

Chủ mưu ám sát ngày ấy, ngoài Tả Xương Vương, Sí Thư đã từng nghĩ tới, có thể là đối địch của gã, là bút tích của cô ả nước Ngụy kia.

Nhưng là Loan Đạo quá quan trọng.

Nếu không có Loan Đạo, giữa quận Yến và Nam Đô muốn giao thông qua lại nhất định phải vòng qua vùng núi đồi. Chưa đến một tháng chắc chắn không tới. Hơn nữa, trên đường còn phải đề phòng bị địch tập kích.

Điều gã lo lắng, nhỡ đó là hành vi của Tả Xương Vương thì Loan Đạo sẽ trở thành khúc xương sườn mềm của mình để Tả Xương Vương uy hiếp, cho nên mới phái Hữu Xương Vương đến khống chế.

Giờ thì đã rõ! Là kế ly gián của ả nước Ngụy kia!

Gã đã bị lừa.

Mà khiến gã tức đến muốn hộc máu, đó là khi gã phái người đi bắt tên Lý Nhân Ngọc người Tấn vô cùng có khả năng tư thông với nước Ngụy kia, hắn ta đã dẫn già trẻ cả nhà trốn đến tám Bộ.

Sau cơn cuồng nộ, gã tỉnh táo lại, biết chắc chắn phải thừa lúc cục diện hoàn toàn mất khống chế phải bằng mọi cách đoạt lại Loan Đạo. Nếu không, không những mưu đồ kéo chân chết quân Ngụy thất bại hoàn toàn, mà kẻ bị kéo chết e sẽ là chính mình.

Bảy ngày sau, khi Sí Thư đích thân dẫn binh đánh tới, Khương Hàm Nguyên đã tập trung hỏa lực ở trên đường dẫn tới Loan Đạo, chậm rãi chờ đợi.

Trên cánh cổng thành cao lớn đang đóng, cờ xí đón gió phần phật, tướng sĩ xếp thành hàng bố ráp cung tên mạnh mẽ trên lỗ châu mai, như một sợi dây dài.

Cô đứng ngay trên đầu tường cánh cổng, trên cao nhìn xuống, nắng trưa chiếu rọi lên tấm áo giáp trên người, lóe ra tia sáng lạnh lẽo.
 
Chương 104


Từ không trung nhìn xuống, địa thế nơi này với chân núi trải dài liên miên ra hai bên, lưng núi ở chính giữa cao ngất, tựa như một cánh chim loan đang giương cánh bay lượn, nên mới có tên gọi như thế. Loan Đạo, bắt đầu từ chỗ “đầu chim” kéo dài ra phương Bắc là một con đường thông tự nhiên dài tới mấy chục dặm. Trước đây, nơi Tả Xương Vương từng đóng giữ là một tòa phương bảo ngay vị trí “đầu chim”, tường thành được xây dựa lưng vào núi, có cửa có ngõ, trấn giữ Nam Bắc.

Phía đối diện, binh Địch với số lượng lớn nhanh chóng không ngừng ào tới, song lại bị ngăn cản ở đầu Loan Đạo. Người ngựa càng tụ càng nhiều. Ngựa hí cuồng, binh Địch giận mắng, bụi đất tung bay mờ mắt, tiếng giết rung trời.

Đối lập rõ ràng với cảnh tượng đó, tướng sĩ quân Ngụy sau lỗ châu mai ban đầu tập trung bất động, mãi đến khi quân địch dần dần tiến vào tầm bắn cung, viên quan chỉ lệnh phát lệnh đột ngột, tiễn trận cùng phát, vút vút bắn đến đối diện, vượt qua rào cản tấm chắn của mấy hàng quân Địch trước nhất, không chịu nổi trận mưa tên dày đặc, chúng thử phóng ra mấy lần xông tới, người ngã ngựa đổ, bị ép lui lại, mà tiếng mắng chửi càng sâu.

Một lá Vương kỳ hoa lệ cao tới mấy trượng cực kỳ dễ thấy từ sau cuốn tới. Dưới cờ, Sí Thư xuất hiện giữa đám kỵ binh mặc giáp chen chúc. Mặt gã lộ vẻ giận dữ, nghiêm nghị quát: “Khương Hàm Nguyên, kẻ chủ mưu ám sát ta hôm tế thiên quả nhiên là ngươi! Ả đàn bà quỷ kế đa đoan! Nếu thật sự có bản lãnh, thì ra đây! Đánh! Ta cho ngươi biết, đừng tưởng cứ dựa vào chỗ này là có thể chiến thắng! Mau mau đầu hàng, thì may ra ngươi còn đường sống, nếu không, đến lúc phá trận rồi thì chớ trách ta không cho ngươi cơ hội!”

Khương Hàm Nguyên lạnh lùng nhìn khuôn mặt gã cuồng nộ, lù lù bất động.

Tiếng mắng chửi và giáp kỵ của quân địch theo gã cùng đến, nhanh chóng biến thành tiếng gào thét cuồng nhiệt.

Vô số binh Địch giơ mã đao trong tay, cùng hò hét: “G.iết c.hết người Ngụy! G.iết c.hết người Ngụy!” Tiếng gào như sấm, ập tới trận địa đối diện, chui vào trong tai mỗi người.

Khương Hàm Nguyên quay sang Thôi Lâu đứng bên cạnh, khẽ gật đầu.

Thôi Lâu giương cung, phát một mũi tên về phía đối diện.

Mũi tên xé gió, ôm theo tiếng rít trầm thấp mà bén nhọn, bắn thẳng đến Sí Thư. Mười mấy thân vệ lập tức nâng bia, khép quanh người gã, định lập thành bức tường chắn bảo vệ gã phía sau.

Sí Thư hét lớn tránh ra, người không những không lùi mà ngược lại còn ruổi ngựa ra phía trước, rút mã đao gác trước người, đợi kình tiễn đang phóng đến mình.

Không ngờ mục tiêu của mũi tên cũng không phải là gã.

“Vút”, nó vượt qua tên không trung cách đỉnh đầu gã mấy thước, xuyên thủng cột cắm Vương kỳ phía sau gã.

Cột cờ kẽo kèn kẹt rồi gãy.

Cùng với lá Vương kỳ từ không trung chao đảo rơi xuống, tiếng trống reo hò của Địch doanh dần biến mất, còn quân Ngụy đột nhiên ầm vang tiếng ủng hộ. m thanh ấy từng cơn tiếp từng cơn, cơn sau cao hơn trước, rồi, như sóng lớn miên man trong biển rộng, với thế không thể ngăn chặn, chèn ép hoàn toàn âm thanh từ đối diện.

Ánh mắt Khương Hàm Nguyên vượt qua địch thủ, nhìn đám binh Địch cầm đao như rừng đầy khắp núi đồi, từ tốn nắm chặt trường thương trong tay, cảm thụ sát khí mãnh liệt như đang rung động ầm ầm muốn hóa rồng bay lên trời của nó.

Cô biết, lại có một trận chém giết đến. Máu trong người cô đang chậm rãi sôi trào, trong lồng ngực cô như có đống lửa thiêu đốt.

Cô đã chuẩn bị sẵn sàng. Chờ đợi, chính là thời khắc này.

Nửa tháng sau, Trường An thu được chiến báo liên quan tới trận chiến ở Loan Đạo.

Bắc Hoàng Sí Thư ngự giá thân chinh, dẫn tinh binh mạnh mẽ tấn công mấy ngày, lại không tiến lên được nửa bước.

Cùng lúc đó, Triệu Phác lĩnh quân tiến vào U Châu, Chu Khánh và tướng sĩ tám Bộ chờ đã lâu nhận được chỉ lệnh, vượt qua sông Lộ. Hai tuyến đại quân từ hai hướng Đông Tây đồng thời tiến công quận Yến.

Sau khi Sí Thư rời quận Yến, ở đấy được Khâm Long mãnh tướng đệ nhất Bắc Địch trấn giữ. Binh Địch còn lại dưới tay gã ở quận Yến quận bấy giờ, cộng thêm số lượng mà Tấn đế xuất ra, xem như cục diện tạm thời ngang hàng.

Cuộc đại chiến toàn diện vậy là bộc phát. Đây cũng là thời điểm mấu chốt quyết định kết quả cuối cùng của cuộc chiến.

Từ cái ngày Nhiếp Chính Vương chém chết Cao Chúc trên triều, toàn bộ triều đình đã hoàn toàn yên tĩnh trở lại.

Ngoại trừ trường hợp cần thiết, đa số quãng thời gian còn lại Thiếu đế cực kỳ hiếm khi lộ diện, bình thường càng không nghe bất kỳ tiếng động gì từ ngài. Toàn bộ triều chính là từ một tay Nhiếp Chính Vương một tay điều khiển.

Nghe nói, Thiếu đế là bị Nhiếp Chính Vương giam lỏng.

Hoàng đế còn vậy, huống chi hạ thần.

Chớ nói ai khác, đến Phương Thanh, cũng thấy dần dần không hiểu thấu Nhiếp Chính Vương.

Lúc băng đảng Cao Chúc còn gây sóng gió, chửi bới ngài có ý đồ dùng chiến nuôi công, mưu đồ làm loạn, Phương Thanh chỉ thấy hoang đường. Ông kiên quyết nhận định, Nhiếp Chính Vương không phải là người như vậy.

Nhưng tình trạng giờ đây lại xấu đến bực này: Triều đình như trở thành một cõi của Nhiếp Chính Vương, bản thân ngài ấy hình như cũng hoàn toàn không định che giấu. Trong khi đó, có lẽ Thiếu đế bị hành động chém chết trọng thần của triều đình của ngài ấy hù đến sợ mà tinh thần sa sút, trên người không còn nhuệ khí và sắc sảo của bậc Quân Vương thiếu niên đương có.

Tất thảy ông đều nhìn rõ ràng.

Ông lo lắng không thôi, nên trước hết tự mình tìm đến Hiền Vương thăm dò ý của ngài về chuyện này. Song Hiền Vương chỉ dùng im lặng đáp lại. Sau đó ông cũng không thể không mở miệng trước mặt Nhiếp Chính Vương, uyển chuyển nhắc nhở hậu quả xấu nếu ngài còn tiếp tục.

Với sáng suốt của Nhiếp Chính Vương, không thể nào không nghe ra khuyên nhủ. Nhưng ngài lại cứ tỉnh bơ như không, nghe xong chỉ cười trừ.

Đến tận đây, Phương Thanh không thể không bắt đầu hoài nghi, phải chăng Nhiếp Chính Vương có mưu đồ khác. Đợi chiến sự phương Bắc thắng lợi rồi, việc thay thế ngôi vị Thiếu đế cũng chỉ là một vấn đề sớm hay muộn.

Thế là ông cũng trở nên trầm tư. Trong triều đình không còn nửa câu tạp âm. Đề cập đến chiến sự chỉ bảo tất thắng. Đề cập đến nữ soái, chỉ thổi phồng công lao, không có ngoại lệ.

Tình huống cứ thế kéo dài từ dạo đấy, đến khi được tin nước Tấn thành lập lại, ngoài chuyện phê phán bên ngoài, còn một luồng tai tiếng khác cũng bắt đầu lan truyền nhanh chóng.

Là lời đồn nhảm bịa đặt.

Không biết bắt đầu từ đâu, có tin đồn rằng đương kim nữ soái Đại Ngụy, Nhiếp Chính Vương phi Khương Hàm Nguyên và dư nghiệt Hoàng Phủ Dung của Tấn thất có dan díu không rõ, quan hệ giữa hai người không hề sơ sài, rằng lúc hắn ta còn là Vô Sinh, quay về từ chuyến Tây du, mấy năm biến mất kia vốn dừng chân ở thành Vân Lạc, còn Khương Hàm Nguyên biết rõ thân phận hắn mà giấu giếm không báo, không chỉ thế, còn thu hắn làm trai lơ. Việc này, Vân Lạc ai ai cũng biết.

Nay Vô Sinh hoàn tục, đầu quân vào vào Bắc Địch lập lại cố quốc, mượn danh vọng xưa kia của hắn mê hoặc người Tấn phương Bắc, là kẻ địch của Đại Ngụy. Chưa nói đến mối e ngại rằng nàng ta có vì tư tình mà thông đồng với địch hay chăng, chỉ riêng chuyện này nếu truy cứu tới, nàng ta phải chịu tội không nhẹ.

Dĩ nhiên, trong triều, dưới áp lực nặng nề, không ai dám can đảm hé ra nửa câu, ngoài mặt vẫn tĩnh lặng như trước.

Còn tại dân gian, tin tức lại lan truyền đến rồ.

Người đời không thiếu kẻ thiện lương và chính nghĩa, song cũng không tránh khỏi đám ngu muội, nghe gió thành mưa, luôn bảo sao hay vậy, tin đồn cứ hết lần này đến lần khác cuốn vào, vòng đi vòng lại không biết mệt. Bấy giờ không những ở phong nguyệt nam nữ còn là chuyện phiếm nhân lúc vui vẻ mà say sưa mà còn liên quan đến mấy nhân vật có thân phận bực đó. Trong tích tắc dư luận xôn xao, càng về sau tin đồn càng thêm mắm thêm muối đến khó nghe.

Dĩ nhiên Lan Thái hậu cũng đã sớm nghe thấy, cuối cùng cũng thu được tí an ủi sau một thời gian dài bị u ám tuyệt vọng đè đầu.

Bà ta cũng biết, Cao Chúc vừa chết, Lan Vinh chỉ có thể giữ mình, bức di chỉ trong tay con trai cũng xem như bằng không. Với mức khống chế triều đình trong tay của Thúc Thận Huy hiện giờ, tin đồn có ác liệt thế nào đi nữa, e là trong phút chốc cũng khó thay đổi tình thế.

Nhưng mà, dù thế nào, xem như cũng có thể trút cơn giận.

Không chỉ thế, chuyện tình trăng gió của Khương Hàm Nguyên và dư nghiệt Tấn thất giờ đây thế nhân đều biết. Kệ cho Thúc Thận Huy ngoài mặt có mây trôi nước chảy thế nào, tình thế này chắc chắn cũng ảnh hưởng đến quan hệ giữa hắn ta và Khương Hàm Nguyên.

Chỉ cần hai người đó bất hòa thì với con mình đều là chuyện tốt. Bà ta chỉ ước gì tai tiếng đó không thể càng lớn càng tốt.

Hôm đó Lý Thái phi sau khi ngất xỉu tỉnh lại, bán thân bất toại, thái y chẩn bệnh đã trúng cơn gió dữ, hiện giờ từ từ có chỗ khôi phục song vẫn hành động bất tiện, nói chuyện ú ớ.

Bà ta là nhân chứng duy nhất trong di chỉ của Minh Đế, Lan Thái hậu hy vọng tương lai sẽ có ngày bà có thể ra mặt làm chứng lần nữa nên đích thân chăm sóc tận tâm. Buổi chiều tỉnh giấc, đang định sang cung Đôn Ý thăm viếng thì nghe tiếng cung nhân truyền báo, Hoàng đế tới.

Bà thầm vui mừng, định ra đón thì cậu con đã sải bước vào, cho người lui, mở miệng hỏi luôn: “Tin đồn về tướng quân Trường Ninh và hoàng tử Tấn thất, phải chăng là do mẫu hậu làm?”

Lan Thái hậu đối diện ánh mắt con trai, nghe mùi chất vấn trong lời cậu, sửng sốt, lập tức cuống quýt kêu oan, luôn miệng phủ nhận, “Kẻ kia chuyện gì cũng làm ra được! Khắp cung đều là tai mắt của hắn. Mẫu hậu sợ chọc hắn sinh nghi gây bất lợi cho con, đến cả chỗ của con cũng không dám đến gần một bước, miễn khiến hắn nghĩ là con và cậu con đang âm thầm thông đồng.” Tự rũ sạch xong, lại vội giải thích giúp Lan Vinh: “Cũng tuyệt đối không phải là cậu con đâu! Mẫu hậu dám đem tính mạng ra đảm bảo! Ông ấy một lòng vì con, hiện giờ chịu nhục, chỉ mong tự vệ trước đã, huống chi cho đến giờ ông ấy còn chưa khỏe hẳn trong người!”

Nói xong, thấy con nhìn mình không lên tiếng, một cơn thương cảm từ trong lòng tuôn ra, không kìm được than thở: “Tiển Nhi à, mẫu hậu thật không hiểu… lẽ nào đối với chúng ta, việc này không phải là chuyện tốt hay sao? Đến Cao Chúc hắn còn giết, sau này sẽ đối phó con thế nào, có thể nghĩ! Sao mẫu hậu lại thấy con giống như còn lên tiếng giúp cô con gái họ Khương kia thế? Tiển Nhi đừng quên, cô ta là người bên cạnh kẻ kia…”

Thúc Tiển không đợi Lan Thái hậu nói xong, quay đi.

Cậu bước trên con đường trong cung, chẳng có mục đích, ngơ ngẩn.

Hôm đó kinh biến triều đình qua đi, có lẽ tất cả đều nói mình đã bị thúc ấy dọa sợ.

Có lẽ đúng là vậy. Cứ như một thanh chùy nặng nề từ trời rơi xuống, trong nháy mắt nện tất thảy vỡ nát. Cả người cậu chìm vào trong cơn chán nản uể oải cực lớn.

Cậu cũng nghĩ không ra, lời cuối mà người ấy nói, rằng đến cuối cùng sẽ cho cậu một sự giao phó hài lòng, đến cùng ám chỉ chuyện gì.

Sau hôm đó, cậu chẳng muốn nghĩ đến thứ gì, chẳng muốn làm gì. Càng không muốn nhìn thấy bất kì khuôn mặt kẻ nào, gồm cả người kia. Tâm tình như ngọn sóng bị hóa cứng. Dù sao thì mọi chuyện ngoài dự kiến, kể cả bất lợi của chiến sự phương Bắc thì người kia cũng tự có thể xử trí. Cứ thế, cậu cứ ngây ngây ngẩn ngẩn như chẳng đếm xỉa đến, mãi đến gần đây nghe được tin đồn đại này.

Nó khiến cậu cảm nhận được cơn phẫn nộ cực lớn từ rất lâu.

Nửa điểm cậu cũng không tin câu chuyện đang đồn đãi ngoài kia liên quan đến thím và tay hoàng tử nước Tấn. Không hề nghi ngờ, là bịa đặt.

Đến giờ, cậu vẫn còn nhớ cảnh tượng trong vườn mai phủ Hiền Vương lúc mới quen biết thím ấy không lâu. Khi đó cậu vô tình ngửi thấy hơi thở tỏa ra từ người thím ấy. Ấy là hương vị thế nào nhỉ? Rất khó hình dung. Không phải mùi son phấn, mà giống như hương cỏ xanh ngào ngạt tỏa ra dưới ánh mặt trời. Cậu chưa từng ngửi qua một hương vị đơn giản mà khiến tinh thần sảng khoái đến vậy, nên đã khắc thật sâu vào ký ức, chưa từng quên.

Người như thím, cũng như hương vị cậu khó quên kia, không cho phép bất kì nhơ bẩn nào khinh nhờn. Cậu không thể nào dễ dàng tha thứ, khi mà đương lúc thím ấy giết địch nơi phương Bắc, ở Trường An, kẻ vô tri lại rải lời đồn khắp, hủy đi danh dự của thím.

Thúc Tiển không biết mình đã bước vào Văn Lâm Các thế nào. Đến khi giật mình tỉnh lại, cậu phát hiện đôi chân mình đã dừng ở bên ngoài.

Đây là lần đầu tiên sau ngày triều biến, cậu đến đây.

Một tiểu hầu bên ngoài có lẽ không ngờ đột nhiên cậu xuất hiện, vội rối rít cúi lạy, định chạy vào thông báo, bị cậu cản lại, ngay sau đó tiếp tục cất bước.

Cảnh vật nơi đây cậu không thể quen thuộc hơn nữa. Cửa sổ đón gió, đình mộc u thanh. Nhưng những kẻ hầu mà trước đây cậu từng quen mặt đều không còn thấy. Nghe nói là đi Giang Nam. Cảnh còn người mất, có lẽ là như thế.

Thúc Tiển bước vào, nhìn thấy viên tinh quan trẻ tuổi Lục Thiên Nguyên cũng ở đấy, đang thấp giọng nói chuyện gì đó với y. Y một thân triều phục, ngồi ngay ngắn sau bàn, cẩn thận lắng nghe. Vẻ mặt y nghiêm túc mà chuyên chú, dáng người cao quý mà trầm tĩnh.

Thúc Tiển bỗng thấy mình thật lỗ mãng, nhẽ ra không nên xuất hiện. Lại bi ai nghĩ tiếp, trước mặt người này, dù là mười năm nữa, e rằng mình cũng chỉ xứng đứng dưới bóng ngài, ngẩng đầu ngước nhìn mà thôi.

Thúc Tiển nhịn ý nghĩ quay lại chạy trốn, ngừng bước, thấy y để ý đến mình, bèn ra hiệu Lục Thiên Nguyên tạm dừng, lập tức đứng dậy.

Lục Thiên Nguyên bước lên hành lễ: “Bệ hạ, điện hạ, tiểu thần xin được cáo lui trước.”

Thúc Tiển như không nghe thấy, không nhúc nhích. Cậu khẽ gật.

“Mời bệ hạ ngồi.” Sau khi Lục Thiên Nguyên rời khỏi, y mời Thúc Tiển ngồi vào chỗ.

Thúc Tiển không nhúc nhích, đứng thẳng tắp nói: “Ngoài kia đã lưu truyền nhiều lời đồn đãi vậy, sao thúc lại chẳng nghe chẳng hỏi? Tướng quân không phải người như vậy đâu!”

Đúng vậy, tin đồn lan truyền đã nhiều ngày, đến mình còn biết. Lúc đầu còn nhịn xem y sẽ có phản ứng thế nào. Nhưng lại không thấy y có bất cứ động tĩnh gì.

“Mấy ngày qua, ta suy nghĩ rõ ràng, tương lai thúc muốn gì cũng được cả, hiện giờ ta cũng không có ý nhúng tay vào chuyện của ngài. Nhưng mà triều đình, nhất định phải giữ gìn danh dự của thím ấy.”

“Ngọn nguồn của lời đồn này, hoặc là từ Đại trưởng công chúa, hay chí ít, không tránh khỏi có liên quan đến bà ấy.”

“Vai ác này, nếu như thúc không muốn làm, thì để ta làm. Trừng trị bà ấy một tội danh xong, ta lại phái người của ta, xuống dân gian bắt người dám can đảm tiếp tục tung tin đồn, trừng trị một cảnh cáo trăm, ắt sẽ dừng lại!”

Thúc Thận Huy như hơi bất ngờ, dừng mắt trên mặt cậu, lát sau, từ từ nhoẻn cười.

“Nếu tướng quân Trường Ninh biết được, chắc chắn sẽ cảm tạ bệ hạ đã tin tưởng. Chuyện này, thần cũng đã có cân nhắc, đang định báo cáo với bệ hạ.”
 
Chương 105


Chừng một năm trước, trong một gian thiên lao của Thiên Môn Ti, một tù nhân được bí mật đưa tới.

Đó là một vị sư trẻ tuổi, người khoác áo đay, chân mang giày cỏ. Lúc vừa được đưa đến, dáng vẻ chàng như vừa bệnh nặng mới khỏi, cơ thể cực kỳ suy nhược, nằm ở đây hơn nửa tháng mới từ từ khôi phục tinh thần.

Đây là chỗ bí mật, toàn bộ chỉ nhốt trọng phạm đặc biệt. Những kẻ xưa giờ được đưa vào, hoặc là im ắng chết vào đêm khuya nào đó, cứ thế biến mất, xóa sạch mọi vết tích trên đời, hoặc bị mang đi, từ đấy biệt tăm tích.

Chưa từng có kẻ nào có thể ra ngoài.

Hẳn vị sư này cũng thế. Trong mắt quan coi ngục, chàng chẳng khác nào người đã chết, cũng không ai muốn biết chàng là ai, vì sao bị đưa đến đây. Điểm khác biệt duy nhất, là những kẻ khác sau khi vào tới, thường thường lúc đầu sẽ trở nên nóng nảy, sao đó là tuyệt vọng, cuối cùng biến thành cái xác không hồn.

Còn chàng thì không phải. Từ ngày đầu bước vào đã lộ vẻ bình tĩnh lạ thường.

Sau khi cơ thể khôi phục dần, một ngày nọ, chàng ra thỉnh cầu, hy vọng có thể trả lại quyển kinh lúc trước cho mình, xin được ban bút mực. Quan coi ngục báo cáo lên. Ngay lập tức, thỉnh cầu được cho phép, rất nhiều quan coi ngục nhìn kinh thư viết đầy giun dế không hiểu nổi được đưa vào. Cùng lúc đó, quan coi ngục cũng nhận được một lệnh cấp trên rằng, sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu hàng ngày của vị sư ở đây.

Nhưng, khiến quan coi ngục thấy bất ngờ là, vị sư tù nhân này không hề yêu cầu tí đãi ngộ gì. Từ hôm đó, chàng bắt đầu vùi đầu vào bút mực.

Trong tù tối tăm không ánh mặt trời, thế giới của chàng cũng không chia ngày đêm, mỗi ngày thức giấc lại viết, mệt thì đi ngủ, không thấy sớm chiều, không phân nóng lạnh. Mục đích sống duy nhất của chàng dường như là quyển kinh trên tay. Sau mấy tháng, quyển kinh xếp chồng bên tường từ từ cao dần, theo đó, cơ thể chàng còn muốn suy yếu hơn cả lúc vừa đến. Trong thiên lao âm u lạnh lẽo ẩm ướt, lâu dài không thấy nắng trời, cộng thêm ngày ngày chàng hết ngày đến đêm dịch kinh, lại đổ bệnh lần nữa. Quan coi ngục chỉ sợ trách nhiệm bèn báo cáo lên, mấy ngày sau, người được chuyển ra ngoài.

Ấy là một đêm khuya bình thường.

Chùa Hộ Quốc ở phía Tây thành, trong góc nhà tứ hợp tăng lư đơn sơ vắng vẻ phía sau chùa, tiểu hòa thượng Vô Tình lại thấy phò mã đương triều Đô úy Trần Luân đến lần nữa.

Ba ngày trước, Đô úy từng một mình đến đây, không biết cùng người bên trong nói gì, sau khi Đô úy đi, vô tình nhìn thấy chàng sau khi tĩnh tọa một lát, lại lập tức không ngủ không nghỉ, ngồi vào trước bàn tiếp tục dịch kinh, một khắc cũng không nghỉ.

Vị pháp sư trẻ này là năm ngoái được phò mã Đô úy bí mật đưa đến. Sau đó, chàng trọ lại chốn này, chưa từng ra ngoài nửa bước, mà người bên ngoài cũng không thể vào đến. Toà tăng lư này, thực ra là một phòng giam, không ai biết đến sự tồn tại của tù tăng này. Chỉ mỗi Vô Tình ra vào, phụ trách đưa cơm cho chàng.

Trước đó Vô Tình quét dọn trong kinh các, lúc không có gì làm thường đọc kinh thư. Từ từ quen rồi có khi cũng giúp tù tăng chép ít kinh văn chàng dịch ra. Cậu phát hiện, kinh vị tù tăng có lai lịch bí ẩn này dịch, pháp lý tinh diệu, tu từ uyển chuyển, toàn bộ xưa giờ cậu chưa từng gặp, chưa từng nghe thấy.

Đêm nay, sau ba ngày ba đêm liên tiếp dịch kinh, tù tăng dường như cuối cùng cũng đã làm xong mọi chuyện, sắp xếp lại quyển kinh xong, người cũng đầy mệt mỏi, không lâu sau thiếp đi.

Dưới người chàng là tấm chiếu trải, người quay mặt vào tường, đưa lưng ra cửa, sườn phải ngủ nằm, gối đầu lên cánh tay phải, chân trái xếp trên chân phải.

Vô Tình đương nhiên biết, lúc các sư nghỉ ngơi, ngoài ngồi thì đây là một tư thế ngủ thường dùng. Nghe nói, là để giữ cho trong lành cả trong giấc mơ, là một phương thức tu hành.

Vị tù tăng bình thường không nói, như bị câm bẩm sinh, song lại làm Vô Tình cảm thấy ngưỡng mộ từ trong lòng, cảm giác chàng cũng không phải là người phàm tục. Đêm nay, phò mã Đô úy lại xuất hiện, song không đi một mình mà cùng với một người khác. Dưới ánh đèn lồng nhảy nhót chao liệng, Vô Tình ban đầu không nhìn rõ dáng người, chỉ thấy y choàng một lớp áo choàng, đội mũ trùm che quá nửa khuôn mặt, bước chân không nhanh không chậm, thả xuống đất im ắng, đợi đến gần, Vô Tình mới nhận ra, đúng là Nhiếp Chính Vương điện hạ đương triều mà năm trước mình ngẫu nhiên gặp mặt một lần trong chùa, không khỏi đầy sợ hãi.

Cậu cứ cảm thấy có chuyện không ổn sắp giáng xuống người vị tù tăng kia.

Nhưng mà, ấy không phải là chuyện cậu ta nên quan tâm. Nhất ẩm nhất trác, hẳn đã định sẵn. Người người đều có mệnh định của mình, bao gồm cả vị tù tăng kia.

Cậu không dám nhìn nhiều, mở khóa cổng ra viện lạc, ngay sau đó tránh đi.

Thúc Thận Huy bước vào, tới trước tăng lư, không vào ngay.

Y dừng lại, xuyên qua cánh cửa nửa mở, nhìn vào thế giới phía sau.

Ánh đèn như hạt đậu, soi sáng căn tăng lư ngăn nắp. Dựa vào góc tường khô ráo, quyển kinh xếp đống ngay ngắn. Đối diện cánh cửa, trải một tấm chiếu ngủ, một người đang nằm ngủ, quay lưng ra ngoài.

Người ấy khoác áo gai, nằm thế sư tử tọa, bóng lưng yên tĩnh, có vẻ như ngủ rất say.

Cuối thu hai năm trước, từ miệng Hiền Vương y nghe được cái tên Vô Sinh. Ở Tiền Đường tháng sáu năm ngoái, cũng vì người này, y và Khương Hàm Nguyên chia lìa trong không vui. Lúc ấy y lệnh Lưu Hướng bảo thủ hạ Trình Xung chữa khỏi bệnh đối phương, tránh sau này sinh chuyện ngoài ý muốn, lại cho đưa người về Trường An, cầm tù trong thiên lao.

Sau đó, khi y và nàng ấy tách ra đã lâu, lại nghe hắn ta bị bệnh, tự dưng nhớ lại lời hứa với nàng, cảm thấy phiền muộn, bèn theo lời hứa bí mật chuyển tới đây, đổi hình thức cầm tù.

Nhưng nếu không có gì bất ngờ, cuộc đời của hắn ta, sẽ cứ thế trôi qua.

Đã lâu đến vậy, Thúc Thận Huy từng không chỉ một lần nhớ đến người tên là Vô Sinh này, nhưng đây là lần đầu tiên, cuối cùng y đã tới, đích thân cùng đối phương gặp mặt.

Y lẳng lặng đứng trước cửa nhà lao một lát, nhìn thấy bóng lưng kia hơi nhúc nhích, tỉnh lại, sau đó, từ tốn ngồi dậy, xoay người.

Ánh đèn ảm đạm soi rọi một gương mặt gầy gò, còn mang nét mệt mỏi, song dù người ở tù thất nhưng ánh mắt vẫn sáng rõ.

Vị sư trẻ tuổi trước mặt này, chính là Vô Sinh. Thúc Thận Huy từng hiểu lầm hắn ta là người trong lòng nàng, sau mới biết, hắn ta là tri giao của nàng — nếu không phải vì xuất thân đã có tội trong chú định, thì là loại tri giao mà nàng ấy sẽ vì hắn không tiếc mạng sống.

Thúc Thận Huy trong ánh mắt đối phương nhìn mình, cất bước đi vào, cởi mũ trùm.

“Như thế nào, nghĩ xong chưa?” Y mở miệng đã hỏi.

Vô Sinh thu ánh mắt, cúi đầu, kính cẩn nhấc tay chắp dọc trước ngực, hành lễ xuất gia.

“Ba hôm trước phò mã Đô úy đã thông báo hết tình hình. Tội nghiệt là ở ta. Tiểu tăng vốn là người dư thừa, không nên sống tạm trên đời, huống hồ giờ đây vì ta mà sinh ra rất nhiều sự cố, tội nghiệt trùng trùng. Tiểu tăng càng không muốn vì ta mà liên luỵ đến thanh danh của Tướng quân.”

“Tất thảy, tiểu tăng tùy ý Nhiếp Chính Vương an bài.”

Lúc chàng nói ra câu ấy, trong ánh mắt không chút ý miễn cưỡng nào. Thần sắc chàng ung dung, giọng điệu như thường.

Thúc Thận Huy mặt không lộ vẻ, quan sát chàng thật lâu.

“Tốt lắm. Trước khi đi, ngươi có yêu cầu gì, cứ nói, bổn Vương chắc chắn sẽ thỏa mãn.”

Vô Sinh nhìn quanh một vòng tù thất, cuối cùng dừng mắt trên quyển kinh.

“Đúng là có một chuyện muốn nhờ.”

“Trong bốn năm, từ lúc tiểu tăng Tây du quay về cho đến giờ, đến nay qua bao phen trắc trở, trước sau mất nhiều năm, cuối cùng cũng đã dịch xong toàn bộ kinh thư mang về.”

“Tiểu tăng xuất thân từ chùa Già Lam Lạc Dương, tiên sư Động Pháp dù đã đi, song trong chùa vẫn còn đồng môn, hẳn là họ vẫn luôn chờ tiểu tăng trở lại. Làm phiền Nhiếp Chính Vương, mai sau thay mặt tiểu tăng đưa kinh văn đến Già Lam chùa giao cho bọn họ.”

Thúc Thận Huy gật đầu: “Được.”

Nói xong, không hề ngừng lại, y đội lại mũ trùm, quay ra ngoài.

Vô Sinh chăm chú nhìn theo bóng người cho đến khi biến mất, cuối cùng từ tốn xếp bằng, ngồi xuống.

Ba ngày sau, điện Tuyên Chính, cử hành một buổi triều hội đặc biệt.

Ngày triều biến hôm ấy, chẳng những trấn áp lòng người mà còn thay đổi rất nhiều chuyện, ngay cả quy định triều hội từ thời bổn triều khai quốc đến giờ luôn chấp hành cũng có chỗ sửa đổi, chỉ giữ lại Đại nghị năm ngày một lần. Cho đến Đại nghị mà Thiếu đế cũng không tham gia, Nhiếp Chính Vương bèn trực tiếp hủy bỏ Đại nghị, đại thần đến Văn Lâm các bàn chuyện.

Nơi đây đã lâu không thăng điện. Song hôm nay chẳng những khôi phục, Thiếu đế Nhiếp Chính Vương cùng có mặt, toàn bộ Vương công đại thần đều trình diện, mà đến tất cả các quan ở kinh thần dưới lục phẩm trước đây không có tư cách vào triều cũng phải vào triều.

Gần ngàn người đứng đầy đại điện. Ngay lúc trước khi triều hội bắt đầu, đa số cơ bản không không thể nào biết được triều hội đặc biệt hôm nay là vì chuyện gì. Nhớ đến hôm Nhiếp Chính Vương chính tay đâm Cao Chúc ngoài dự liệu, đều sợ hãi.

May mà có quan viên nhanh tin đã thả ra nội tình, rằng triều hội hôm nay là có liên quan đến hoàng tử Tấn thất Hoàng Phủ Dung hiện giờ đang tạo sóng lớn ở U Châu.

Nghe nói Hoàng Phủ Dung ấy thực tế là kẻ mạo danh Sí Thư cố chấp đẩy ra, còn Hoàng Phủ Dung chân chính, là hòa thượng Vô Sinh của chùa Già Lam trước đây, mấy năm trước sau khi Tây du quay về, không hỏi thế sự, dốc lòng dịch kinh, năm ngoái vào tới Trường An, vào Hộ Quốc tự xưa kia từng mời chàng thuyết pháp. Ở trong chùa chàng tiếp tục dịch kinh, để tránh bị quấy rầy đã không đưa tin ra ngoài. Giờ đây được biết có kẻ mạo danh thay thế, bại hoại thanh danh, quyết ý đứng ra chứng minh trong sạch.

Tin tức này đánh động bao lớn, có thể tưởng tượng được. Sau một trận nín thở đè hơi yên tĩnh chờ đợi qua đi, rốt cuộc, vị sư đã xuất hiện ở trước mặt mọi người.

Chàng mặc một bộ tăng bào sạch sẽ, mắt sáng rực, trong vô số ánh nhìn chăm chú đi vào đại điện, đến chỗ Thiếu đế và Nhiếp Chính Vương hành lễ, tự xưng là Hoàng tử Tấn thất Hoàng Phủ Dung, đó chính là Vô Sinh đến từ chùa Già Lam.

Vẻ mặt Vô Sinh đầy tự nhiên, giải thích xong, mới nói: “Trước kia ta xuất thân từ Tấn thất, hiện giờ xuất gia nhiều năm, không hỏi thế sự, nhưng thủy chung cũng là người nhà Hán, hai chữ đại nghĩa thật không dám quên, sao lại nép mình thờ thủ lĩnh quân địch làm chủ chứ? Kẻ mang danh phục quốc phương Bắc kia chính là kẻ mạo danh không còn nghi ngờ, mong bệ hạ bố cáo thiên hạ, chớ để người dân phương Bắc bị người Địch che mắt.”

“Ngày Lạc Đô xảy ra biến, Tấn đế từng phó thác quốc tỷ cho ta, dặn ta giữ lấy mạng. Bao năm qua, ta quy y pháp môn, vật này không dám tự tiện xử lý, hôm nay tiến hiến bệ hạ. Từ nay về sau, trên đời không còn Tấn, vạn dân về một mối, Đại Ngụy thái bình thịnh thế, tạo phúc cho bá tánh, âu là may mắn của tiểu tăng, tội lỗi tạm cởi bỏ.”

Chàng lấy một chiếc hộp nhỏ bốn góc quấn trong tấm vải, quỳ gối, hai tay giơ cao khỏi đầu. Điện thị dùng mâm nhận lấy, sải bước đưa đến trước mặt Thiếu đế mở ra. Thiếu đế xem xong, lệnh chuyển cho Nhiếp Chính Vương. Y nhìn qua, lệnh bá quan truyền xuống. Trong đó có quan Thái Sử kiến thức, xem xét kỹ xong bèn hô: “Bệ hạ! Nhiếp Chính Vương điện hạ! Đây không còn nghi ngờ, đúng là quốc tỉ của Cố Tấn!”

Quần thần nhao nhao quỳ xuống, sơn hô vạn tuế.
 
Chương 106


Ngày đó, chuyện liên quan tới buổi triều hội được rõ ràng truyền ra.

Vô Sinh hiến tỉ xong, nói lời kinh người, tự xin chết.

Đầu tiên là chàng giải thích vì sao năm ấy mình Tây du.

Lúc Sư phụ Động Pháp của chàng từ Tây Vực đi về Lạc Dương, từng mang theo tám mươi mốt bộ quyển kinh, nửa đường bị hư tổn, đến nơi chỉ còn lại không đến một nửa, điều đó trở thành tiếc nuối suốt đời của Động Pháp. Sau khi ông viên tịch, chàng nhân cơ hội bù đắp lại ý chí cả đời không trọn vẹn của thầy mới lên đường Tây du. Cả một quãng đường chàng nhìn thấy chúng sinh bi thảm, đến khi chính mình cũng trải qua cửu tử nhất sinh trở về, ngang qua gần Vân Lạc, theo một đội buôn bị kỵ binh người Địch bắt được, nhận hết trừng phạt, bản thân bị trọng thương, lúc tính mạng treo trên sợi tóc thì được tướng quân Trường Ninh cứu, mới sống sót.

Trải qua đại kiếp, chàng cảm giác được sâu sắc nỗi khổ nhân gian, trong khi bản thân vẫn chưa ngộ đạo, thế là xem kiếp nạn này coi như là buổi khảo luyện, vì đại ngộ, vì minh tâm, cũng vì sớm ngày hoàn thành di nguyện của tiên sư mà dừng chân ở một hang đá trong núi tu hành dịch kinh. Không ngờ, bản thân nghiệp chướng nặng nề, cho đến nay không những không thể tu thành chính quả mà ngược lại còn biến thành lá bùa để cho người khác làm ác cho đời, gieo hại vô tận.

Động Pháp nhận chàng truyền y bát, năm ấy chàng từng lập tâm nguyện, sau khi Tây du tìm đủ quyển kinh về sẽ truyền bá rộng rãi, giải rõ chân nghĩa.

Hiện giờ chàng đã dịch xong kinh, y bát của Động Pháp không đến mức thất truyền, chàng sắp khai đàn thuyết pháp, xong xuôi sẽ vào lửa tự thiêu, trừ tất thảy tội nghiệt, chứng minh đại đạo.

Tin này đã tạo cơn náo động xưa nay chưa từng có. Không những ở Trường An, tin tức cũng đến Lạc Dương.

Năm đó cái tên Vô Sinh mọi người Lạc Dương đều biết. Vô số tín đồ không ngại đường xa, từ bốn phương tám hướng tiến về Trường An. Dân chúng đến đây mới giật mình, thì ra hoàng tử nước Tấn ở phương Bắc nhộn nhịp vui mừng kia chẳng những là kẻ mạo danh từ đầu đến đuôi, mà Bắc Hoàng Sí Thư càng gian trá ti tiện đến tận cùng. Trên chiến trận đánh không lại nữ tướng quân, bèn phái gian tế rải tin đồn, trắng trợn nói xấu hòng dao động lòng người. Nếu chẳng may vì thế mà nữ tướng quân bị người một nhà công kích, thậm chí lòng quân dao động, thì không phải đã sa vào ý muốn của người Địch rồi sao? Người của Đại Ngụy ta tuyệt đối không thể mắc lừa.

Nếu nói rằng, bấy giờ vẫn còn kẻ bán tín bán nghi về câu chuyện thuyết pháp, thì mấy hôm sau, khi Vô Sinh trai giới xong xuôi, lộ diện ở kinh đàn được bố trí ở vùng đồng nội phía Tây Trường An, khai đàn giảng pháp, mọi ngờ vực vô căn cứ đã toàn bộ biến mất.

Kinh đàn cao tới mấy trượng, như ngọn tháp, hôm ấy, chàng khoác khiết y, xếp bằng ngồi trên đỉnh đàn. Dân chúng thấy diện mạo chàng tuấn mỹ, sắc mặt trang nghiêm, người như tự có ánh thần quang, không thể khinh nhờn, không khỏi tự thấy mình dơ bẩn mấy phần trước, cho đến chừng chàng mở lời, diệu âm không dứt, làm người say mê, đám người xung quanh ban đầu chỉ là vây xem náo nhiệt cũng dần dần nghe đến nhập thần. Sau đó, người hoặc như si như say, hoặc thể hồ quán đỉnh, hoặc được an ủi từ tận sâu, như nỗi khổ nhân gian rốt cuộc đã đạt đến cứu rỗi.

Vô Sinh thuyết pháp bảy ngày bảy đêm, thiện nam tín nữ từ các nơi lục tục chạy đến, chen kín vùng đồng hoang ngoại ô.

Nghe tin đồn rằng, vào ngày cuối cùng, ngài sẽ tự thiêu tiêu nghiệt.

Ngày ấy, cuối cùng đã tới.

Ngày cuối tháng sáu năm Thiên Hòa thứ ba, muôn người Trường An đều đổ xô ra đường. Ngoài đám tín đồ, từ sáng sớm, dân chúng bình thường cũng xôn xao chạy tới vùng ngoại ô phía Tây. Không chỉ thế, triều đình cũng phái quan viên Lễ bộ tham dự.

Đất hoang không có gió, hôm nay thời tiết cực kỳ trong lành. Bóng mặt trời chiếu đến chính Bắc, mặt trời lên đến giữa trời hướng chính Nam.

Đang giữa trưa, Vô Sinh đang đi cùng một đám tăng nhân chùa Già Lam Lạc Dương, xuất hiện ở trước mắt người đời.

Chàng vẫn bộ dáng ấy, áo tăng vải lĩnh, bước đến kinh đàn giữa đất trống, giống như những hôm trước, chàng ngồi trên cao, tiếp tục thuyết pháp.

Song, hôm nay có khác biệt.

Giờ phút này, khi lớp vải phủ ngoài kinh đàn đã được tháo dỡ, đám người mới phát hiện, bên dưới đã chất đầy củi.

Thì ra, bảy ngày đã đến, khi ngài không biết mệt mỏi tuyên giảng nghĩa kinh ở trên, bên dưới chỗ ngài ngồi, củi đã chất lớp lớp.

Người xung quanh đều lộ vẻ xúc động.

Vô Sinh đón gió, đi đến dưới kinh đàn, không chút dừng lại, vẫn như thường lệ cất bước bắt đầu trèo lên đỉnh đàn, cuối cùng, chàng bước đến nơi kết liễu đời này, xếp bằng ngồi xuống.

Chẳng bao lâu, ở dưới người chàng, lửa rực sẽ liếm lên, tiếp theo nuốt chửng chàng.

Chàng hơi cúi đầu, khép mắt.

Bắt đầu từ giây phút ấy, chàng như cô lập tất thảy xung quanh mình. Gió thổi từng cơn nơi đồng hoang, âm thanh tín đồ lục tục ngồi xuống theo chàng, tiếng củi chất ở bên dưới được nhen nhóm, phát ra tiếng tí tách nhỏ xíu, cũng bắt đầu vọng vào tai chàng… mà tất thảy, chẳng liên can đến chàng — dù cho chàng đã bắt đầu cảm nhận được hơi nóng đến từ ngọn lửa dưới người, khói đen cuộn lên vây quanh chàng, có cả tiếng ồn ào càng lúc càng lớn, thảng như còn cả tiếng phụ nữ đang khóc… thảng như nước ngoài biển khơi, ma quỷ từ bốn phương tám hướng ngoài kia tụ về, như muốn nuốt chửng lấy chàng.

Chàng vẫn không hề nhúc nhích.

Thân phận chàng đã được công bố, là dư nghiệt tiền triều, đã lay lất đến bước này, chết, là giải pháp duy nhất.

Với chàng mà nói, càng là một loại giải thoát.

Hôm nay dùng cách này để kết thúc cuộc đời, cũng nào phải ai ép buộc. Là lòng chàng cam nguyện.

Cho đến cuối đời, chàng đều khổ cực tu hành, theo đuổi thứ gọi là cảnh giới thấu triệt. Có thể chết như thế này, là chết có ý nghĩa, giờ phút này chính là viên mãn mà chàng theo đuổi, chàng vui vẻ chịu đựng, thản nhiên nghênh đón.

Chàng không suy nghĩ bất kì điều gì, để biển não hóa thành hư không, chờ đợi viên mãn đến. Một lát sau, trong khói lửa đang dần dâng lên, tiếng ồn ào đầy tai, bỗng dưng chàng như nghe được tiếng tụng kinh từ các vị sư tụng vì chàng vọng đến từ bốn phía kinh đàn, chàng cũng thả lòng theo, yên lặng tụng niệm kinh văn đang tràn vào trong đầu mình.

Bỗng, chàng hơi giật mình, khựng lại.

Chàng phát hiện ngay lúc này mình đang tụng, đúng là bản kinh mà chàng tụng cho cô nghe vào cái đêm trước khi cô ấy gả vào Trường An tìm tới từ biệt chàng!

Không chỉ một lần ấy, mà trước đó nữa, chàng tụng cho cô, cũng là bản này — bởi vì lần đầu chàng tụng cho cô nghe, cô nói, nghe cực kỳ êm tai, rất thích nghe, nên chàng nhớ rõ, về sau cứ mỗi lần cô đến thăm, chàng lại tụng bản kinh văn ấy.

Bởi một câu tán thưởng của cô, nên ở chỗ chàng, không biết bắt đầu từ bao giờ, bản kinh văn bình thường còn hơn những kinh văn bình thường này, cũng đã trở thành bản chàng thích nhất, tụng niệm qua vô số lần, nên đến giờ phút này cứ thế nhảy ra.

Trong đầu Vô Sinh hiện lên cảnh ở hang đá, trong tiếng mình tụng kinh, cô ấy thiếp đi trong yên bình…

Lúc nước mất đào vong, chàng đã biết chuyện, sau đó mai danh ẩn tích, từ Hoàng Phủ Dung biến thành Vô Sinh. Trong rất nhiều năm đó, nhớ đến, có lẽ chỉ có đoạn thời gian được cô cứu ở lại trong động đá của ngọn núi hoang vu kia, mới là những năm tháng mà nội tâm chàng chân chính thu hoạch được yên bình và vui vẻ.

Chàng từng tự nói với chính mình, chờ đến một ngày sau này, khi cô không còn cần mình tụng kinh cho nghe, chàng sẽ rời đi. Song chàng không lừa được chính mình. Trước thanh đăng kinh Phật, sao chàng chưa từng thầm suy nghĩ chứ, hy vọng ngày ấy vĩnh viễn không đến.

Lần này đi, nếu có kiếp sau, chàng sẽ không làm hoàng tử, không làm hòa thượng.

Chàng tưởng nhớ đến ngọn núi ngoại thành Vân Lạc, mặt hồ ấy, vệt ban mai, vạt trời chiều kia. Cho dù cô không biết đến sự tồn tại của chàng, cũng không sao, chàng có thể từ từ đợi nàng đến, lặng lẽ đưa nàng đi, đời đời kiếp kiếp, năm năm tháng tháng, sớm sớm chiều chiều.

Ngay một giây ý nghĩ này thoáng hiện, tâm linh chàng bỗng chấn động, trong nháy mắt, tim đập loạn, mồ hôi túa ròng ròng.

Thế lửa mỗi lúc một lớn, bắt đầu thiêu đốt làn da lộ ra bên ngoài, gió nóng ép áo bào trên người nhảy múa, chàng bắt đầu cảm thấy đau đớn, mà bên tai, tiếng tụng kinh của tăng nhân cùng tiếng khóc của tín đồ cũng càng lớn…

Chàng hoàn toàn tỉnh táo lại!

Chàng là một người xuất gia, ngày đầu tiên vào Không môn, tất cả khổ trì và tu hành, cũng là vì nhảy khỏi luân hồi, thoát ly bể khổ!

Cuối cùng, đến giây phút này, lửa lớn sắp thiêu người, chàng lại không cắt dứt trần thế, mơ ước kiếp sau? Như vậy trước đây, những thứ từng chèo chống cùng chàng đi tới tín ngưỡng, đến cùng là gì?

Trong khoảnh khắc, tựa như sống núi sụp đổ, chàng chỉ cảm thấy biển não ầm ầm rung động, máu huyết sôi trào trong lồng ngực, người lung lay sắp đổ, mấy lần muốn nôn ra máu, hoàn toàn không để ý rằng ngay phía trên đỉnh đầu chàng, mặt trời rực đỏ kia bỗng như bị thứ gì cắn một miếng, đột nhiên thành lu mờ.

Không có bất kỳ báo hiệu nào, mặt trời ẩn nấp mất, trời đất đen tối, gió lớn lồng lộng khắp nơi, trong ngoài Trường An như chìm vào đêm tối, chỉ mỗi kinh đàn đang bén lửa rực sáng, múa may theo gió, sáng loá!

Cùng với nỗi sợ bóng đêm vĩnh hằng như đột nhiên giáng lâm thế giới, tăng nhân ngừng tụng kinh, quan viên thất kinh, ngựa tránh khỏi trói buộc, chạy tán loạn, dân chúng trong vùng đất hoang cũng kịp tỉnh ngộ, bắt đầu lên tiếng năn nỉ, cúi lạy dưới đất, không dám ngẩng đầu.

Duy chỉ có Vô Sinh còn đang đau khổ vùng vẫy trong thế giới của mình là không hề hay biết tất thảy. Trong bóng đêm đột nhiên ập tới, một luồng khói đặc xoắn tới trước mặt chàng, chỉ thấy tối sầm, mất đi ý thức.

Đến khi Vô Sinh chậm rãi tỉnh lại, chàng vẫn từ từ khép mắt, cảm thấy trên người hình như còn đang mơ hồ chịu nỗi đau bị lửa thiêu.

Chàng chậm rãi mở to mắt, tầm mắt ổn định dần. Hình như mình đang nằm trong một chiếc xe ngựa, đang di chuyển.

Trong khoảnh khắc ấy, chàng không biết mình còn sống hay đã chết, đang đi về đâu.

Chàng chậm rãi ngồi dậy. Xe ngựa dừng lại, cửa được mở từ bên ngoài, một người đứng trước mặt.

Là Trình Xung.

Là tay vũ phu ngày đó đưa chàng rời Vân Lạc, bí mật đưa đến Trường An.

Thái độ đối phương cũng không còn thô bạo xưa kia, vẻ rất cung kính, nói, lúc kinh đàn bốc cháy, vừa hay có nhật thực.

Ý trời đã thế, Nhiếp Chính Vương điện hạ liền thuận theo dân ý, không cho phép chết.

“Điện hạ lệnh cho ti chức chuyển cáo, từ nay về sau, ngài được tự do, có thể đi bất kì nơi ngài muốn đi, ở bất kì chỗ ngài muốn ở lại, làm bất kì chuyện gì ngài muốn làm.”

“Điện hạ còn nói, vùng đất Bắc có người tri giao của ngài, cô ấy hẳn là rất muốn gặp mặt ngài. Trước đó, ti chức sẽ đưa ngài đi gặp trước.”

Nói xong, Trình Xung thi lễ với Vô Sinh rồi đóng cửa xe. Chốc lát, xe ngựa tiếp tục lên đường, nhanh chóng chạy theo hướng Bắc.
 
Chương 107


Tháng bảy, sau nửa năm từ khi quân Ngụy quân từ Nhạn Môn Bắc tiến, Khương Hàm Nguyên triệu tập quân, rời Loan Đạo, đi về phương Bắc, hướng về Nam Đô Bắc Địch.

Trong cuộc chiến Loan Đạo trước đây, Sí Thư vì đoạt lại cửa ngõ quan trọng, bất cứ giá nào hết lần này lại lần khác phát động tấn công điên cuồng, song lần nào cũng đều bị đánh bật về. Cùng lúc đó, Khâm Long ở quận Yến cũng chịu sức ép binh địch cực lớn, đỡ trái hở phải. Không chỉ thế, khắp U Châu còn lan truyền, cái danh nghĩa “phục quốc” của vị hoàng tử Tấn thất trước đây không lâu chính là một âm mưu từ đầu đến đuôi. Còn Vô Sinh chân chính hiện giờ đang ở Trường An, hiến quốc tỷ cho Ngụy đế, sau khi biểu lộ thần phục ngài đã cam nguyện tự thiêu, cầu chứng đạo.

Sức mạnh công kích của tin tức này có thể tưởng tượng được, Lục Khang tự vận. Ông ta và Lý Nhân Ngọc nhiều năm qua vẫn luôn được coi là tinh thần trụ cột của người Tấn ở đất Bắc, giờ đây một kẻ đã đầu hàng Đại Ngụy, kẻ kia đã chết, binh mã từng xuất ra đã trực tiếp đầu hàng trước trận đánh, một số lớn dân phu trên đường chạy trốn. Dưới cục diện đó, tiền tuyến còn có thể dựa vào nỗ lực của Địch chống chọi thêm một thời gian, nhưng hậu cần chiến sự của quận Yến đã nhanh chóng đi đến tan vỡ. Khâm Long giết con rối giả mạo Vô Sinh đã hoàn toàn trở nên vô dụng, vì thoát khỏi khốn cảnh đã bắt một lượng lớn người Tấn bình dân chèn vào chỗ khuyết. Gã vốn mang tiếng ác, cử động lần này khiến càng nhiều dân chúng chạy trốn, dưới cái ác tuần hoàn, quận Yến tràn ngập nguy hiểm, thành phá trong một sớm một chiều.

Chuyển biến sau cùng, ở ngày cuối tháng. Biến nhật thực kia đã trở thành cọng rơm cuối cùng áp đảo lạc đà*.

(*) xuất phát từ ngụ ngôn Ả Rập, cọng rơm cuối đè chết con lạc đà, kiểu giọt nước tràn ly. Sự việc đã đến điểm tới hạn, chỉ cần thêm bất kỳ một nhân tố nào cũng sẽ hỏng bét.

Liên quan đến trận thiên biến này, trước đó Khương Hàm Nguyên đã nhận được nhắc nhở từ Thúc Thận Huy. Y bảo, Ti Thiên thai có một viên quan tinh thông thiên văn, đo đạc tính toán được hôm ấy sẽ có biến nhật thực, sai lệch trong một khắc, cố ý thông báo để cô vững tâm lý.

Trên dưới trong quân đã được báo trước dự báo, ngay một khắc xảy ra nhật thực, không ai kinh hoảng, thừa cơ trời đất tối sầm quân Địch quân thất kinh mà đánh bại địch thủ.

Sau khi liên tục gặp thất bại, cuối cùng Sí Thư cũng bình tĩnh lại sau cơn cuồng nộ ban đầu.

Ở thành Đại Hưng Nam Đô Bắc Địch, gã vẫn còn một đội quân trung thành với thân tín của gã, sức chiến không thể khinh thường, nhưng lại không thể điều tới đây tham chiến. Đấy là vùng đất sau cùng phương Bắc của gã ở Trung Nguyên, không thể bỏ trống không phòng.

Hiện giờ bản thân đã không còn hy vọng đoạt lại Loan Đạo, nếu còn dây dưa, chờ đến phía Khâm Long hết chống cự nổi, thành quận Yến phá, thì mình nguy hiểm không thể thủ, nếu chỉ chăm chắm đánh trận, đợi đội quân Ngụy kia tiến ra Bắc cùng Khương Hàm Nguyên nam bắc tụ hợp, hình thành giáp công, từng bước xâm chiếm xong lại đẩy mình dần về chỗ trống, đến chừng đó có muốn đi cũng đi không được.

Gã quả nhiên là kẻ dứt khoát ngoan độc. Sau khi tỉnh táo nhìn rõ thế cục, đã ra một quyết định khiến Khương Hàm Nguyên cũng không khỏi không bội phục.

Như lúc trước gã có thể tự chặt một tay đánh đổi cơ hội sống, lần này, gã quả quyết buông bỏ quận Yến mà gã đã vun vén nhiều năm, chủ động từ bỏ U Châu như gân gà hiện giờ của gã, lệnh cho Khâm Long chấp hành kế sách thanh dã, phóng lửa thiêu trụi thành quận cùng tất cả những gì không mang đi được, giết hết thanh niên trai tráng trong thành, thu thập binh mã quay về phương Bắc, về phần mình cũng lặng lẽ lui binh, vòng qua Loan Đạo, thừa lúc quân Ngụy chưa thể đuổi tới ngăn cản đã từ một con đường khác lui về Nam Đô.

So với bị vây chết tại U Châu, chi bằng lui về giữ Nam Đô, chỉnh đốn cờ trống, đợi quân địch mệt sẽ đánh lại, giành cơ hội phản sát mà thắng.

Khương Hàm Nguyên biết, một trận đại chiến sau cùng, đó là quyết chiến, đã sắp đến.

Đang hành quân ra Bắc được nửa đường, cô ra lệnh đại quân đóng quân chỉnh đốn, đợi hậu quân đến.

Ngày quân Địch rút đi, đã trút lớp da người, lộ ra bộ mặt hung thú và ác quỷ, chẳng những phóng hỏa đốt thành mà còn tới nơi đồ sát cướp bóc, quận Yến như biến thành địa ngục trần gian. May có Triệu Phác và Chu Khánh sớm nhận được tin tức, tấn công mãnh liệt vào đến, quân Địch mới hốt hoảng rút lui. Nhưng dù thế, lửa lớn vẫn lan khắp toàn thành. Hai người họ chỉ huy người dập lửa, sau nhiều ngày, cuối cùng dập tắt hoàn toàn lửa lớn, dân chúng bỏ trốn cũng dần dần quay về. Cuối cùng lão tướng quân Triệu phác ở lại giải quyết hậu quả, còn Chu Khánh dẫn quân tiếp tục tiến về phía Bắc.

Khương Hàm Nguyên muốn đợi Chu Khánh đến, sau khi hai quân tụ hợp sẽ chỉ huy tiến ra Bắc, kiếm chỉ Nam Đô.

Nhớ lại trận chiến, từ khi quân tướng ra khỏi Nhạn Môn, trải qua rất nhiều khó khăn trắc trở, thậm chí cô đã mất cha. Trận quyết chiến kế tiếp là cơ hội phản công cuối cùng của Sí Thư, nhất định gã sẽ dốc toàn lực ứng phó, chắc chắn không hề là một cuộc chiến nhẹ nhàng. Song tướng sĩ dưới trướng, không những không hề e sợ cuộc quyết chiến sắp tới mà ngược lại còn tràn đầy hưng phấn, mong ngóng trận chiến cuối cùng sẽ đến.

Cô cũng thế.

Đợi đến ngày phá được Nam Đô, chính là chiến thắng sau cùng của trận đánh ra Bắc Nhạn Môn trù tính đã lâu này, Đại Ngụy thu phục các môn hộ phương Bắc, mở sâu rộng bờ cõi Bắc cảnh.

Mùi vị này, thanh kiếm sắc tự treo trên đầu Đại Ngụy mấy mươi năm từ khi lên ngôi đến nay sẽ được tháo xuống, uy hiếp gót sắt xuyên phá Nhạn môn xuôi Nam của người Địch phương bắc cũng một đi không trở lại.

Hiện giờ cô còn hưng phấn hơn cả binh sĩ, cố đè lại hưng phấn bên trong để giữ cái đầu tỉnh táo bên ngoài. Đây là tình trạng một thống soái nên có trước cuộc đại chiến.

Nhưng sự thực là, cảm xúc gần đây của cô, cực kỳ sa sút.

Thúc Thận Huy lạnh nhạt, còn có thể lấy lý do nước có đại chiến mà y không rảnh bận tâm vào mà giải thích, cộng thêm chính cô cũng bận rộn quân vụ, mỗi ngày không tác chiến thì là nhổ trại hành quân trên đường, nào rảnh rỗi suy nghĩ nhiều chuyện riêng.

Nhưng theo tin của Vô Sinh truyền đến, cô không thể khống chế không suy nghĩ nhiều.

Sao Vô Sinh lại tự thiêu, cô quá rõ ràng.

Nếu như không Sí Thư thao túng con rối múa vở kịch hài phục quốc, không có lời đồn đãi liên quan đến mình và hắn, thì không cần công báo thân phận hắn ra khắp thiên hạ, cả đời này hắn có khi sẽ vĩnh viễn có thể dùng cái tên Vô Sinh mà bình an đến già. Nhưng, không có nếu như.

Xảy ra chuyện như thế, chỉ cần hắn biết thì nhất định hắn sẽ đứng ra — Thúc Thận Huy cũng không cho hắn không đứng ra. Mà một khi thân phận đã rõ, chết, là kết cục duy nhất của hắn.

Mất đi tự do, im ắng từ từ chết già trong cầm tù, hoặc là, lấy danh nghĩa tu hành chứng đạo, ngẩng đầu chết trước mắt người trong thiên hạ.

Khương Hàm Nguyên không biết với hắn mà nói, cái nào mới là sở cầu của hắn. Có lẽ cái sau hợp với tâm nguyện của hắn hơn. Song, dù có thật là hắn hoàn toàn cam tâm tình nguyện, sao cô có thể yên bình trong lòng được chứ?

Đại quân đã trú đóng bảy tám ngày ở vùng đất hoang này. Mấy ngày nữa, Chu Khánh sẽ dẫn quân đến.

Đêm dần khuya, Khương Hàm Nguyên như thường lệ tuần doanh về, một mình ở đại trướng. Tiếng ồn ào doanh phòng ngoài trướng dần biến mất, tướng sĩ về ngủ. Cô cũng đã tắt đèn, để nguyên quần áo nằm trên giường. Nhưng qua hồi lâu vẫn không buồn ngủ.

Cô lại nhớ đến cảnh lần cuối mình gặp mặt Vô Sinh. Cô đi tìm hắn, bảo mai phải lấy chồng, bảo hắn tụng kinh cho mình nghe.

Lúc ấy, cô đâu biết, lần gặp mặt ấy sẽ là lần cuối cùng.

Hắn đã chết. Là cô hại hắn. Nếu lúc ấy cô không đi tìm, sẽ không có lời đồn đại, có lẽ Thúc Thận Huy cũng sẽ vĩnh viễn không biết sự tồn tại của hắn.

Giờ thì tất thảy đã trễ rồi.

Một cảm giác bi thương tuôn trào trong lòng cô. Cô lại nhớ tới cha, cậu. Những người thân trên đời này của cô, từng bước từng bước rời cô đi. Giờ đây, người bạn duy nhất cũng đi mất. Lửa đỏ thiêu người mà chết.

Cô bị cảm giác bất lực bi thương xâm chiếm, lại kìm không đặng nhớ đến lời oán chú của cậu em thốt ra trước khi bị cô giết, cô là một người chẳng lành. Tự dưng cô lại nghĩ tới một người khác, rằng y cũng đã dần biến thành người xa lạ, như vị khách qua đường sống nơi đất khách quê người, đến, gặp, rồi đi xa, trong tích tắc, cảm giác cô độc vô biên vô tận lại ùn ùn kéo đến cô. Cô lại cảm thấy mình giống như quay lại thời xưa, thời thiếu nữ mà cô không muốn quay lại. Đến cuối cùng, chỉ thấy trong ngực buồn bực đến không thể thở nổi, mắt chua nóng vô cùng.

Cô cố sức nhịn cảm xúc muốn rơi lệ xuống, trong bóng đêm, nhắm mắt càng chặt hơn.

Cuối năm ngoái vì đám tang của cậu mà gặp người kia ở Vân Lạc, đêm đó, cô thút thít trước mặt y, từ sau khi chia xa, cô phát hiện hình như mình đã trở nên mỗi lúc một yếu đuối.

Cô không thích bản thân mình như thế. Không nên, cũng không thể.

Cô là một chiến sĩ. Tướng sĩ dưới trướng cô, không cần một thống soái không thể khống chế cảm xúc.

Cô lại im lặng khép mắt chốc lát, chậm rãi bình phục tâm tình, cuối cùng quyết định đứng dậy ra doanh tuần đêm lần nữa, đến khi mệt dĩ nhiên quay về sẽ có thể chìm vào giấc ngủ.

Vừa ra đại trướng, một thân binh vội bước tới, thấp giọng thông báo một câu.

Trong thoáng chốc Khương Hàm Nguyên kinh ngạc ngẩn cả người, có phần không tin, đợi hồi thần, thậm chí không chờ đưa người vào đã sải bước ra ngoài. Cô càng đi càng nhanh, đến cuối cùng, gần như thành chạy, một hơi thẳng ra cổng đại doanh.

Một bóng người, đang đứng yên bên ngoài cổng doanh.

Người kia nhìn thấy nàng, gỡ mũ trùm của áo khoác xuống, chắp tay trước ngực, thấp giọng nói: “Từ lúc chia tay đến giờ Tướng quân vẫn khỏe chứ?”

Là Vô Sinh!

Ánh trăng chiếu xuống khuôn mặt đang mỉm cười, đúng là Vô Sinh.

Hắn không chết. Chẳng những không chết mà bây giờ lại còn đến đây!

Khương Hàm Nguyên khựng một lát, nhìn chàng, từ từ, đôi ngươi lại nóng lên, cuối cùng, bằng giọng có mấy phần nức nở, cô nói: “Ta rất khỏe. Còn ngài thì thế nào?”

Vô Sinh đáp: “Ta cũng khỏe vô cùng. Lần này đến đây, là đặc biệt bái biệt.”
 
Chương 108


Dưới nến sáng, Khương Hàm Nguyên và Vô Sinh ngồi đối diện nhau, lúc này mới nhìn thấy rõ, chàng gầy vô cùng, như đã trút bỏ hình dáng, không chỉ thế, dung nhan cũng bị tổn thương, một bên gò má còn lưu lại dấu vết bị lửa thiêu đốt qua.

Chàng không còn vẻ đẹp ngày xưa, nhưng trên mặt chàng, vẫn thủy chung mang theo ý cười.

Nếu ví chàng trước đây như một đỉnh núi tuyết cao xa xa, siêu nhiên xuất trần, khiến người bất giác sinh cảm giác ngưỡng vọng trong lòng, thì chàng hiện tại như đã bước xuống chỗ ngồi trên cao. Khương Hàm Nguyên cảm thấy chàng không còn Vô Sinh trước kia nữa. Mà giờ đây chàng như một người sống sờ sờ, chân thực, có máu thịt, hơi thở và nhiệt độ. Lúc nói chuyện với cô, chàng cũng không còn xưng bằng tiểu tăng.

“Tội lỗi của ta, chết muôn lần không đủ để chống đỡ. Nhưng ta vốn có thể lựa chọn cách thức khác, hỏa thiêu, là chính ta sở cầu. Đạo ngã của ta là khám phá nỗi khổ của nhân gian, cam tâm tình nguyện dùng cách chứng đạo này để cầu cho tu hành viên mãn. Nhưng, đến một khắc liệt hỏa thiêu thân, ta mới rốt cuộc hiểu ra, ta chỉ là một kẻ phàm tục mà thôi.”

“Lúc bé ta may mắn trốn thoát, được Động Pháp thu làm môn hạ, từ đấy nhận được che chở. Ta xem như đã thoát khỏi hồng trần, một lòng khổ tu, nhưng nỗi lo sợ từ đầu đến cuối chưa từng rời xa ta, mãi về sau, ta càng rơi vào nghiệp chướng, chấp mê bất ngộ.”

“Một khắc ấy, ta chợt nhận ra, ta chẳng qua là muốn mượn phương thức đó để cầu một giải thoát thôi, một cách tầm thường nhất. Ta nhìn như xuất gia, thật ra là kẻ phàm tục, nom như tu hành, thật ra là né tránh cuộc đời, chết đi như thế, ta sẽ rơi vào A Tỳ, vĩnh viễn bị cướp lấy hết…”

Nói đến đây, chàng bỗng dưng nhắm mắt, ngừng lại.

Khương Hàm Nguyên nhìn chàng, im lặng lắng nghe, không cắt lời. Trong đại trướng đầy im ắng.

Chốc lát, chàng chậm rãi mở mắt: “Ta càng không ngờ rằng, Nhiếp Chính Vương cuối cùng đã thả ta, cho ta tự do.”

Lúc nói đến “tự do”, ngữ điệu có phần lớn hơn.

“Lúc liệt hỏa đốt ma chướng xông vào tim ta, đúng lúc trời có biến, Nhiếp Chính Vương mượn danh thiên ý, miễn chết. Tướng quân, không gạt cô, ngay tích tắc ta mở mắt phát hiện ta còn sống, ta bỗng như đạt được thấu hiểu trước đây cầu mãi mà không được. Ta cảm thấy may mắn, may mắn cả đời này chưa bao giờ có. Ta chính là một kẻ phàm nhân, thế gian vẫn còn nhiều khổ, tâm ma cũng khó trừ, nhưng sinh mà tử, tử mà sinh, trải qua đại kiếp, ta còn có cơ hội tiếp tục tu hành, cầu đến viên mãn chân chính.”

“Trời cao đối đãi ta không tệ.”

Nghe Vô Sinh kể lại, Khương Hàm Nguyên như bị lôi cuốn theo, lòng từ từ cũng dâng tràn cảm giác vui mừng và cảm động. Cô biết lúc này mỗi một câu hắn nói, đều phát ra từ phế phủ. Cô thực sự lấy làm vui cho hắn.

“Vậy thì, sau này ngài định đi về đâu?”

“Ta sẽ xuôi theo con đường ta từng đi qua, ra Tây quan, lại đi Tây Vực.”

Khương Hàm Nguyên khẽ giật mình.

Vô Sinh giải thích: “Lần trước ta quyết ý Tây hành, ban đầu dự tính là vì hoàn thành tâm nguyện của thầy, bổ túc sách kinh, nên vội vàng lên đường, có chỗ tiếc nuối. Nhớ năm đó có những vùng bảo địa mà ta từng bái lạy, nhiều cao tăng tinh thông phật lý. Lần này, ta đi vì chính mình, nếu may mắn có thể nguyên vẹn đến đấy, ta đem Pháp học chờ khi quay về, sẽ kết thúc cuộc đời ở chùa Già Lam, ta sẽ ở đấy tiếp tục phát dương phương pháp của thầy.”

Khương Hàm Nguyên cảm thấy tôn kính: “Chùa Già Lam tương lai chắc chắn sẽ trở thành bảo địa vì ngài. Ta đợi ngài trở về! “

Vô Sinh cười tạ ơn cô, ngay sau đấy đứng dậy: “Đời này có thể kết bạn tướng quân là may mắn của ta. Lần này có thể cùng tướng quân nói chuyện thật lâu, không còn gì tiếc nuối.”

“Ta phải đi, xin bái biệt từ đây.”

Khương Hàm Nguyên tiễn chàng ra trướng, định đưa tiếp một đoạn thì chàng chắp tay: “Tướng quân dừng bước, hết sức bảo trọng.”

Khương Hàm Nguyên không cố đưa tiễn nữa, cô ngừng bước, đứng trước màn cửa, thấy chàng bước mấy bước, tựa như chần chừ một lúc, bỗng dừng lại, chậm rãi xoay người.

Khương Hàm Nguyên biết chàng còn có lời muốn nói, mỉm cười nhìn sang.

Vô Sinh dừng mắt trên mặt cô, yên lặng nhìn một lát, bỗng lên tiếng: “Lúc còn ở Vân Lạc, có lần rảnh rỗi, ta từng xuống thăm hồ nước dưới núi tuyết. Lần này, ta cũng đã gặp được mặt Nhiếp Chính Vương.”

“Tướng quân cô nói không sai, y quả nhiên là dung mạo thần tiên. Tướng quân và y, là một cặp bích nhân trời tạo. Tiểu tăng mặc dù nhỏ bé, nhưng nguyện vọng là phát ra từ trái tim bồ đề Đại Thừa. Tiểu tăng sẽ vì hai người đốt đèn quang minh, cầu đại phúc báo.”

Chàng chắp tay hành lễ với Khương Hàm Nguyên lần nữa rồi xoay người đi, không hề dừng lại.

Thân binh thừa lệnh, tiễn chàng ra doanh. Khương Hàm Nguyên đưa mắt nhìn theo bóng hình chàng rời đi, mờ dần dưới ánh trăng trong, cho đến khi biến mất hoàn toàn.

Cô lặng yên đứng đó dưới ánh trăng một lúc lâu mới từ từ quay vào trướng.

Lời trước khi Vô Sinh đi hơi có vẻ không đầu không đuôi. Cô suy nghĩ một lát, cuối cùng nghĩ ra.

Đúng vậy, đó chính là câu cô từng nói. Ngay đêm trước khi cô gả về Trường An, cô đã miêu tả thiếu niên kia với Vô Sinh.

Cô nói, nếu ngài từng thấy cảnh tượng lúc trời nắng, gió từ núi tuyết thổi gợn sóng lăn tăn hồ Gương. Đó chính là dáng vẻ khi hắn cười rộ.

Thì ra sau này Vô Sinh thật sự đi ngắm hồ nước dưới núi tuyết. Mà, khi hắn gặp được người kia, cũng giống như nàng, cảm nhận giống nhau.

Khương Hàm Nguyên xuất thần chỉ chốc lát, từ từ, một cảm giác chua nóng tuôn ra trong lòng, hốc mắt lại nóng lên. Nhưng lần này hoàn toàn khác với ban nãy. Cô rõ ràng cảm thấy, trong lòng mình, tràn đầy cảm xúc hỗn tạp, kiêu ngạo, vui mừng, lại cảm động, êm dịu vô cùng.

Cuối cùng chàng vẫn đưa bằng hữu của cô đến chào.

Từ nay về sau, Vô Sinh sẽ bước trên con đường hắn muốn đi, sống thành dáng vẻ hắn ước nguyện. Khương Hàm Nguyên biết, tương lai sẽ có một ngày, toà cổ tháp ở Lạc Dương chắc chắn sẽ vì hắn mà trở thành thánh địa của người trong thiên hạ.

Trong đêm yên tĩnh này, cô đưa tiễn bạn bè, lại ở trong đại trướng quân doanh ở vùng đất hoang nhớ đến chàng. Còn chàng thì sao, giờ phút này chàng đang ở đâu, làm gì, suy nghĩ chuyện gì?

Trong tích tắc, tưởng niệm như nước thủy triều cuốn tới cô.

Cô thừa nhận, cô nhớ chàng, phi thường nhớ. Cô cũng muốn biết, đến cùng là vì sao mà từ sau khi tách ra, chàng lại như đổi thành người khác. Rõ ràng trước đó, quãng thời gian ở Vân Lạc kia, chàng còn từng dịu dàng bầu bạn cùng cô cơ mà. Mấy ngày bên nhau trong thung lũng kia, đến giờ nhớ tới, vẫn như một giấc mơ.

Không buồn ngủ. Cô kìm lòng không đặng lại lôi cây đao sính lễ ra.

Thanh đao dù hoa lệ, vỏ đao nạm văn ngọc bảo thạch, nhưng vốn là dao găm Võ Đế dùng thường ngày nên khi chế tạo đã suy tính kỹ về tiện dụng mang theo người. Lần trước sau khi Vương Nhân thừa lệnh y đem nó đến chỗ cô lần nữa, cô vẫn luôn mang bên người thành dao găm hộ thân, cắm sau thắt lưng như chủy thủ, rất gọn gàng, đi đến đâu đều mang bên người.

Mỗi ngày không phải đánh trận thì là hành quân, từ chỗ này bôn ba đến chỗ kia, cả ngày bụi đất tung bay, thân đao cũng nhiễm bụi, bảo thạch mờ mịt không phát sáng.

Cô ngồi dưới đèn ngắm một lát, cực kỳ cẩn thận dùng giẻ lau bóng, đến cả một vết lõm hoa văn nhỏ trên vỏ đao cũng không tha. Hồi lâu, vỏ đao đã sạch, bèn cầm đao lên.

Cô lau lưỡi đao, cuối cùng là chuôi đao. Sau khi lau xong đang định tra vào vỏ thì chợt thấy chỗ nối tiếp giữa chuôi đao và thân đao còn vương một vật lạ mảnh như sợi tóc.

Mặt ngoài chuôi đao cũng bọc một lớp chỉ tơ vàng, là dùng kim tuyến cực nhỏ tết thành.

Nói thật, tại phần chuôi đao mà thiết kế thế này ngoài việc làm tăng vẻ hoa lệ bên ngoài gấp đôi thì không có chỗ dùng. Không chỉ thế, nếu lòng bàn tay người cầm đao dính máu hoặc đổ mồ hôi còn dễ trượt, nắm tốn sức.

Thế nhưng, cân nhắc đến thân phận chủ nhân vốn có của thanh đao này thì không có gì kì lạ. Lúc chế đao tất nhiên trước tiên phải nghĩ đến việc tô đậm thân phận tôn quý.

Là một cọng bờm ngựa kẹt giữa khe hở.

Phóng ngựa mang bội đao, vỏ đao cọ vào da thịt ngựa, bờm ngựa vương lên thôi. Ban đầu cô không để ý, dùng giẻ lau đi, xong kiểm tra lại mới thấy không đúng.

Dưới đám chỉ vàng chỗ nối giữa vỏ và chuôi đao hình như còn có thứ gì khác.

Khe hở cực nhỏ, cộng thêm vị trí ngay chỗ giao nối, nếu không phải đêm nay kiểm tra kỹ thì bình thường không thể nào phát hiện.

Khương Hàm Nguyên giơ chuôi đao lại gần ánh nến, càng thêm xác định, dưới lớp chỉ vàng bọc lấy chuôi đao đúng là có thứ gì khác. Cô suy nghĩ một lát, cuối cùng lấy chủy thủ bắt đầu từ chỗ hở cạy lớp áo bọc bằng chỉ tơ vàng.

Lúc mới bắt đầu, cô còn chưa xác định, sợ làm hư chuôi đao mà động tác cực kỳ nhẹ và chậm. Nhưng theo chỉ tơ vàng không ngừng thuận lợi mở ra, động tác càng lúc càng nhanh, cuối cùng, một chút bóc ra lớp áo bọc, lộ ra chuôi đao ban đầu. Không những thế, một tấm vải lụa được cuốn lại rơi ra, dường như là một bức thư lụa.

Tuyệt đối không ngờ, trong chuôi đao này lại giấu huyền cơ.

Khương Hàm Nguyên mở ra, khi đọc rõ nội dung trong thư, trong phút chốc kinh ngạc ngây người.

Đây đúng là một bức thư hoà ly do Thúc Thận Huy viết, rằng ký kết cuộc hôn nhân này hoàn toàn là từ góc nhìn gắn liền với cuộc quốc chiến, đợi ngày cuộc chiến kết thúc, chính là lúc giải trừ quan hệ, đi con đường chính mình, hai người không thể đi chung.

Chữ trên thư, không còn nghi ngờ, là từ tay y. Rải rác mấy lời, ý tứ lại đầy rõ ràng.

Hay là nói, đây không thể gọi là giấy hoà ly. Ngày lạc khoản của nó, còn trước cả khi Hiền Vương đem thanh đao đến Nhạn Môn cầu thân.

Khương Hàm Nguyên mới đầu không tin sẽ có chuyện này.

Trước khi y phái Hiền Vương đi Nhạn Môn cầu thân, đã giấu bức thư lụa trong thanh đao đính ước!

Mặc dù ngay từ đâu Khương Hàm Nguyên đã biết mục đích y cưới mình, cũng thản nhiên tiếp nhận nó. Song ngay phút này, sau cơn kinh ngạc qua đi, thì phẫn nộ và thất vọng không tránh khỏi quấn lấy cô.

Cô từng trong tình cảnh hoàn toàn không hề hay biết trả cây đao này lại cho y. Là y về sau cố ý phái người đưa đao lại đến tay cô.

Lúc Vương Nhân đưa đao đến, cô nghĩ mãi không thông, mục đích y là gì.

Hiện giờ cô đã rõ.

Y vốn không phải đưa đao. Là đưa bức thư lụa này!

Cô cũng đã rõ, vì sao nửa năm qua, thái độ y đối với bỗng dưng thay đổi cực lớn, lạnh nhạt đến thế.

Cô không trách chuyện y sớm sắp xếp xong xuôi tất thảy.

Cô hận chính là, một mặt y kế hoạch lâu dài, trước khi cầu thân, đã rõ ràng là lợi dụng cô, muốn rũ sạch liên quan với cô, một mặt sau khi cưới về lại ra vẻ có tình, trêu chọc tim cô.

Trên đời sao lại có người vô sỉ như thế.

Khương Hàm Nguyên từ từ bóp thành quyền, khớp xương kêu răng rắc, ước gì không thể lập tức vọt tới trước mặt y, một đao đâm vào tim y, móc nó ra xem đến cùng là màu gì.

Cô hít thở thật sau, bắt mình tỉnh táo lại, nhưng trong ngực lại buồn bực đến trào cả máu, cuối cùng bèn đứng lên, ra cửa doanh, đứng ở bên ngoài.

Đỉnh đầu trăng sáng giữa trời, gió lớn vùng hoang vắng không ngừng thổi như lửa đốt khuôn mặt cô. Cô nhìn áng trăng, chợt nhớ đến đêm ấy, ở ngoại thành Vân Lạc, y đưa cô đang khóc mệt lả cưỡi chung một ngựa, từ hang núi về nội thành.

Cô thật không thể nào tin, người nam tử có thể đối đãi mình như thế, nói cũng đã nói, hôn cũng đã hôn, thế mà toàn bộ đều là hư tình giả ý.

Cô cứ thế hơi ngửa mặt, bình tĩnh nhìn trăng sáng, một ý niệm trong đầu chầm chậm nổi lên.

Cho dù ngay từ đầu y thật sự hạ quyết tâm mai sau muốn thoát khỏi cô, cũng đâu cần phí sức trắc trở lớn thế.

Làm như vậy, hoàn toàn không hợp với lẽ thường.

Đến cùng là vì cái gì, mà trước khi cầu thân, y lại dùng ngay chính thanh đao đính ước mà nhét bức thư lụa này?

Đến cùng là chàng cân nhắc chuyện gì?

Đương khi phẫn nộ và thất vọng bị gió thổi tan, lo nghĩ dâng lên trong lòng.

Cô quay lại trong trướng, cầm tấm lụa lên, xem đi xem lại, đương lúc ý nghĩ rối ren, chợt nghe có tiếng nói ngoài trướng. Dường như là Dương Hổ tới, đang thấp giọng hỏi thăm thân binh, phải chăng cô đã đi nằm.

Khương Hàm Nguyên nén lại tâm sự, thu bức thư bằng lụa, đứng dậy vén màn cửa ra ngoài, hỏi chuyện gì.

“Mới có tin từ phía Trần Thích sứ gửi đến, rằng phần lương thảo quân nhu cần thiết cuối cùng của đại quân đã chuẩn bị xong xuôi, lý ra sớm đã đưa đến, nào ngờ trên đường gặp phải một toán binh Địch muốn cướp, chậm trễ ít lâu. Cũng may hữu kinh vô hiểm, ông ấy đã thoát khỏi binh Địch, hiện giờ theo đường vòng chạy đến, tầm vài ngày đến nơi. Chỉ là trì hoãn hơi lâu sợ Tướng quân lo lắng nên phái người cưỡi ngựa nhanh chóng đưa tin tới, để Tướng quân yên tâm. Tôi thấy đêm dài, cũng không phải chuyện gì lớn, sợ quấy rầy Tướng quân nghỉ ngơi, vốn định sáng mai đến bẩm.”

Khương Hàm Nguyên nói: “Không sao, có việc cứ đến báo là được.”

“Còn nữa, người đó nói, đi cùng lần này còn có một kẻ hầu tên là Trương Bảo, nói là đến từ Trường An, tìm tướng quân.” Dương Hổ lại nói.

Khương Hàm Nguyên khẽ giật mình: “Trương Bảo?”

Dương Hổ gật đầu: “Phải. Trần Thích sứ đích thân đưa cậu ta tới.”

Tim Khương Hàm Nguyên đột nhiên đập nhanh: “Ai phái cậu ta đến?”

Dương Hổ lắc đầu: “Không biết. Hay là Nhiếp Chính Vương điện hạ?”

Khương Hàm Nguyên lập tức lệnh cậu dẫn người đưa tin đến, hỏi vài câu, nghe miêu tả dáng vẻ người tiểu hầu Trường An kia, đúng là Trương Bảo.

Cô cũng không thể chờ đợi, giao phó mọi việc xong, đến chập tối liền dẫn một đội quân ra doanh trong đêm, đích thân đi tiếp bọn Trần Hành.
 
Chương 109


Từ hôm Trương Bảo xuất phát, dọc đường có thể nói là màn trời chiếu đất, chịu nhiều đau khổ. Lúc sắp đến Nhạn Môn, theo lời dặn, đầu tiên tìm Thích sứ Trần Hành ở Tịnh Châu, vùng tiếp giáp. Cũng không phải cậu sợ chết. Mà phía trước là vùng lửa chiến, bất kể chuyện gì cũng có thể xảy ra, Vương phi đâu phải ở yên một chỗ, chắc chắn sẽ di chuyển theo cuộc chiến, nếu kẻ như mình không có người biết đường dẫn đường, nhỡ gặp sự cố mất mạng thì không sao, song làm không xong việc được giao vậy thì đúng là chết muôn lần cũng không hết tội. Lại nghĩ tới cảnh Nhiếp Chính Vương từng chịu phỉ báng và bôi xấu, cậu càng ước gì có thể chắp cánh lập tức gặp được Vương phi, kể hết cho ngài. Ai ngờ trời không toại lòng người. Đầu tiên là không gặp được Trần Hành ngay, chậm trễ một chút, khó khăn lắm mới gặp được người, khi đối phương nghe rõ ý đồ đến bèn dẫn cậu chạy ra phía Bắc theo tuyến đường Vương phi hành quân tác chiến. Vất vả lắm cuối cùng đã tiếp cận, thì đại đội lại chạm mặt một đội quân Địch mấy ngàn nhân mã rút lui khỏi quận Yến quận trong ngõ hẹp, may mà Trần Hành túc trí, thuận lợi đánh văng Địch binh. Sau khi thoát hiểm, biết cậu gấp như lửa đốt, bèn đích thân dẫn cậu rời đại đội đi trước.

Hôm qua, khi đoàn người ngang một chỗ quan trọng được che chắn ở Loan Đạo, đến đêm bèn cắm trại ở ngoài trời, sau khi yên vị, cậu nghĩ, ra ngoài đã lâu, không biết tình hình Trường An hiện giờ thế nào, phải chăng cha đã đến Tiền Đường, tâm phiền ý loạn, càng muốn gặp được Vương phi ngay, trong phút chốc không ngủ được mới bước ra ngoài trướng, nhìn thấy Trần Hành còn một mình ngồi trước đống lửa còn chưa tắt, lật đật đi tới. Lúc lại gần mới phát hiện, ánh mắt ông vượt qua đống lửa, nhìn mảnh đất hoang tối om trước mặt như ôm tâm sự, bóng người đầy tập trung.

Trần Hành này rất có lai lịch, đến Trương Bảo cũng từng nghe rằng từ thời Võ Đế sau khi ông đạt đến vinh hoa tột cùng đột nhiên ra kinh sống cuộc sống vô danh phẳng lặng, ở trước mặt đối phương vốn nào dám khinh thường, giờ nhìn thấy ông như có tâm sự nặng nề, vẻ mặt sầu lo, bèn không dám bước lên quấy rầy, đang định lặng lẽ lùi ra thì đối phương đã cảm thấy, thu mắt, nhìn lại.

Trương Bảo đành tiến tới hỏi phải bao lâu mới đến, nghe còn cách chỗ Vương phi không xa, nhanh thì bốn năm ngày, mới thấy an tâm chút, vô cùng cảm kích ông, bèn cảm tạ: “Đoạn đường này nhờ Thích sứ chăm sóc, còn đích thân đưa nô tỳ đi, xin nhận một cúi đầu!” Nói xong bái tạ thật sâu, không ngờ đối phương đột nhiên đứng dậy, lùi qua một bên né lễ, mỉm cười nói: “Mấy ngày liền đi đường, chắc hẳn tiểu công công cũng mệt mỏi, nghỉ ngơi đi. Sáng sớm ngày mai còn phải lên đường.”

Đoạn đường này đúng là Trương Bảo vô cùng mệt mỏi, cộng thêm lo sợ, giờ mới yên tâm, bèn đi thẳng vào trướng, ngả lưng liền thiếp đi, ai ngờ đến trong mơ cũng phải đi đường, mơ thấy cặp đùi mình không ngừng chạy, mỏi như rót chì, ước gì tê liệt ngã xuống đất luôn, song nhớ đến vật mang theo người, đành tiếp tục tiến lên. Đang cắn răng liều mạng phi nước đại tới trước, thình lình dường như có người đẩy cậu, cậu bừng tỉnh, cặp giò còn đạp lung tung trong không trung, trong miệng reo lên: “Đi ra! Vương phi! Ta muốn gặp Vương phi —” bỗng im bặt.

Lúc mơ mơ màng màng mở mắt, cậu đối mặt một đôi mắt nhìn xuống mình.

Miệng cậu trương tròn, khựng lại, ngẩn người một lát, đột nhiên quay đầu nhìn trái nhìn phải.

Còn ở trong trướng, đang nằm trên tấm trải trên mặt đất.

Cậu hung tợn cắn đầu lưỡi mình một tẹo, đau đến úi da, lần này tỉnh hẳn, trong nháy mắt vui như điên, gào to “Vương phi”, gần như muốn lộn nhào, trượt xuống đến trước mặt cô.

“Vương phi! Thật là ngài ư? Sao ngài lại tới đây? Không phải Thích sứ bảo rằng phải mấy ngày nữa mới đến được chỗ ngài sao — “

Khương Hàm Nguyên xoay người bắt lấy, cản cậu đang dập đầu, nhẹ mỉm cười: “Ta nhận được tin của Thích sứ, bảo rằng cậu cũng tới, ta bèn đến đón.”

“Nơi này còn đang đánh trận. Cậu không ở Trường An đợi, tới tìm ta có chuyện gì?”

Trương Bảo nhìn khuôn mặt mỉm cười của cô, vô số tủi thân ngay tích tắc này xông lên đầu, đột nhiên ôm chặt lấy chân cô, gào khóc tại chỗ, nghe cô hỏi làm sao, có bị thương chỗ nào, mới lắc đầu nức nở nói: “Không phải, nô tỳ không sao cả…”

Mới rồi, ngay lúc nhìn thấy Vương phi, không biết tại sao, toàn bộ tủi thân giùm Nhiếp Chính Vương rốt cuộc không khống chế nổi tất cả bùng lên. Cậu khóc mấy bận, chợt nhớ đến chính sự, vội chùi nước mắt, cởi chiếc túi đến đi ngủ cũng không rời người ra dâng lên, nói: “Đây là vật mà cha của nô tỳ lệnh nô tỳ chuyển cho Vương phi. Cha nói, so với mạng của tất cả mọi người cộng lại, còn quan trọng hơn bội!”

Khương Hàm Nguyên khẽ giật mình, nhận lấy mở ra, bên trong là một chiếc hộp, nom như là dùng vàng tinh rèn đúc mà thành, hẳn vì mục đích nước lửa không xâm nhập mà phía trên trừ một lỗ nhỏ hình chữ thập, còn lại bịt kín hoàn toàn thành một khối. Trong phút chốc không biết mở ra thế nào. Trương Bảo lấy ra một chiếc chìa khoá, bằng phương pháp Lý Tường Xuân dạy cắm vào lỗ khóa, chậm rãi di động qua trái trước, rồi phải, lại di dời trên dưới mấy lần.

Cùng với một tiếng cụp nhỏ, giữa thân hộp hiện ra một cái khe, mở ra.

Thì ra giữa nắp và thân hộp khe hở quá kín, nên trước khi mở khóa bằng mắt thường khó mà phân biệt, tạo ảo giác thành một thể.

Khương Hàm Nguyên mở nắp hộp, nhìn thấy bên trong là một ấn phù lớn chừng bàn tay, ánh màu vàng đen, đúc thành hình chiếc đỉnh, mặt trước khắc “Như trẫm thân lâm”, mặt sau là “Thiên Khải tường thụy”.

Xưa nay cô chưa từng thấy qua chiếc ấn phù này, nhưng đúc thành hình chiếc đỉnh, lại có chữ kia, xuất phát từ nơi nào, không cần nói cũng biết.

Thiên Khải là niên hào của Cao Tổ bản triều.

Nhờ ánh nến, cô ngó ấn phù hơi nặng trong tay, ngay lập tứ nhớ tới một chuyện cũ.

Năm ấy Cao tổ lệnh Võ Đế thay ngài tứ xuất chinh phạt, từng ban cho một lệnh bài nghe nói là dùng hòn đá từ trên trời rơi xuống đúc thành, gọi là Thiên Đỉnh. Tướng chấp lệnh có thể điều tất thảy binh mã thiên hạ để bản thân sử dụng. Còn quan nhận lệnh có quyền phán quyết, thậm chí nắm quyền sinh sát trong tay, tất cả đều như là từ ý bề trên.

Sau khi Võ Đế về trời, nghe nói tấm ấn phù ngang với quốc khí này cũng hạ táng theo, từ đấy không còn trên đời.

Giờ ấn phù trong tay mình, lẽ nào chính là tấm lệnh phù Thiên Đỉnh?

Khương Hàm Nguyên giật mình không thôi, nhìn Trương Bảo.

Trương Bảo nhìn ấn phù trong tay cô, trong mắt là vẻ kính sợ, quỳ thụp xuống đất, cung kính dập đầu, rồi thấp giọng nói: “Cha lệnh cho nô tỳ chuyển cáo Vương phi, vật này năm đó không được Thánh Võ Hoàng đế mang đi, mà để lại chỗ Trang Thái Hoàng Thái phi. Thái Hoàng Thái phi lão nhân gia xuất kinh trước, lệnh cho cha đảm bảo nó, vào lúc quan trọng, chuyển lên Nhiếp Chính Vương điện hạ.”

“Đây là ý của Thánh Võ Hoàng đế.”

Khương Hàm Nguyên đầy kinh ngạc, bình tĩnh nhìn lệnh bài tự dưng tựa như ngàn cân trong tay, đột nhiên hoàn hồn: “Chuyện này không thể xem thường! Cha cậu đã lấy ra, sao lại không giao cho điện hạ?”

Hỏi xong, nhìn thấy hai mắt Trương Bảo đỏ bừng, nhìn mình vẻ muốn nói lại thôi, tim bỗng giật thót, đột nhiên cô hiểu ra tất thảy, nhưng, nhưng lại không thể tin nổi.

Đến cùng đã xảy ra chuyện gì?

“Vương phi, ngài không biết sao? Từ đầu năm sau khi ngài lãnh binh Bắc thượng, trong triều đã xảy ra rất nhiều chuyện!”

Trương Bảo nói xong, sực tỉnh, “Nô tỳ biết rồi! Nhất định là điện hạ không muốn để ngài biết, sợ ngài phân tâm!”

Khương Hàm Nguyên gằn từng chữ từng chữ: “Cậu nói cho ta! Toàn bộ! Một chút cũng không được bỏ sót!”

Trương Bảo vâng lệnh, bắt đầu từ Đại triều hội đầu năm, Cao Chúc xuất hiện trở lại, thái độ của Thiếu đế với trận chiến; tin đồn khắp nơi, Nhiếp Chính Vương bị nói xấu thế nào song vẫn chủ trương cố gắng tác chiến, nửa bước không chùn; rồi biến Tây quan, những người phe phản chiến trong triều mượn cơ hội công kích hai cha con Đại tướng quân đã khuất và cô, còn bày ra cục diện ám sát ngài trên đường, may mà ngài dự đoán trước, cùng ngày giết ngược lại Cao Chúc trong đại điện, trấn áp bá quan.

“Từ sau dạo đó, cuối cùng mới yên tĩnh chút, trong triều không còn ai dám can đảm có ý cản trở chiến sự.”

“Còn nữa! Nô tỳ tuyệt đối không ngờ rằng, lúc tiên đế tại thế, ngoài mặt tin tưởng điện hạ vô cùng, ngồi chung chỗ mặc cùng áo, trước khi lâm chung, còn cởi đai lưng giao phó Thiếu đế cho điện hạ, nào ngờ ngài ấy…”

Trương Bảo đỏ bừng mặt, nghiến răng nghiến lợi, ngừng đoạn, rồi nói ra: “Nào ngờ ngài thầm đề phòng điện hạ từ sâu xa, để lại di chỉ, rằng điện hạ mưu đồ làm loạn, muốn trừ điện hạ. Cũng vì bức di chỉ ấy mà bọn Cao Chúc mới gây sóng gió! Nếu không phải cuối cùng điện hạ trấn áp hết bọn chúng, giờ thật sự không biết tình hình sẽ như thế nào nữa!”

Cậu hiển nhiên cố nhịn lắm mới không mở lời kiêu ngạo, nhưng vẫn không giấu nổi cơn phẫn nộ ghét bỏ trong giọng.

“Bệ hạ đâu! Ngài cũng cùng đám Cao Chúc đấy, đối địch với Nhiếp Chính Vương ư?”

Khương Hàm Nguyên nghe mà hãi hùng, không thể tưởng tượng, Hoàng đế thiếu niên kia đến cùng là đối địch với Thúc Thận Huy đến mức nào, mới khiến Lý Tường Xuân lấy ra đỉnh lệnh này.

Đề cập đến Thiếu đế, vẻ mặt Trương Bảo trở nên chán chường: “Tiên đế thì thôi, có lẽ vì ghen ghét điện hạ trong lòng song mặt ngoài vẫn bất đắc dĩ đi. Song nô tỳ thật không hiểu, điện hạ là ai chứ, lẽ nào bệ hạ không biết sao? Sao điện có thể gây bất lợi cho ngài ấy chứ? Dẫu ngài ấy không công khai gì cả, song lại mặc cho đám Cao Chúc kia trong tối nói xấu và công kích điện hạ! Nếu bệ hạ có thể cùng điện hạ đồng tâm thì sao điện hạ bị dồn đến bước này? Vương phi có chỗ không biết, quãng thời gian ấy, lời phỉ báng thật sự là dậy trời động đất. Miệng lưỡi con người xói chảy cả vàng, nô tỳ thật sự lo lắng cho điện hạ…”

Cậu nói đầy đau lòng, nhớ đến gian nguy lúc đó, không kìm được nước mắt chực trào.

Thì ra trong lúc cô chẳng biết tí gì, ở Trường An sau lưng cô, đúng là mưa gió toàn thành, mây đen áp đỉnh.

Cô rốt cuộc hoàn toàn hiểu ra, vì sao dạo đầu năm, chiến lệnh hẳn phải đến lại chậm chạp không đến Nhạn Môn; vì sao từ sau khi đưa chiến lệnh đến, thái độ của chàng đối với mình bắt đầu chuyển sang lạnh nhạt, và vì sao, sau này chàng còn lệnh Vương Nhân cố ý đưa mình thanh đao sính lễ mà chàng đã chuẩn bị xong từ trước kia — tính thời gian, hẳn là ngay sau khi chàng chém Cao Chúc xong.

Chàng giết Cao Chúc, trong miệng Trương Bảo là gấp gáp không có chuẩn bị, cứ như là một hành động lâm thời để trả thù việc ám sát mình.

Song Khương Hàm Nguyên biết, đấy hẳn là quyết định chàng đã nghĩ sâu tính kỹ. Chàng biết rõ mọi hậu quả việc ấy có thể sẽ đưa đến.

Có lẽ bắt đầu từ dạo ấy, chàng đã suy nghĩ kỹ tất thảy, nên mới cắt đứt sạch sẽ với mình.

Khương Hàm Nguyên cũng rõ, vì sao Lý Tường Xuân không giao đỉnh lệnh đại diện đại cho ý chí của Thánh Võ Hoàng đế cho Thúc Thận Huy, mà là chuyển cho mình.

Lão thái giám theo chàng nhiều năm, hiển nhiên cực kỳ hiểu rõ chàng, biết chàng sẽ lựa chọn gì, mới chuyển vật này tới chỗ mình.

Cô tự dưng giận không kìm được, lông tóc dựng ngược, nắm thật chặt lệnh bài trong tay, quay người sải bước đi.

Dương Hổ đi cùng cô, mới rồi đang canh giữ bên cạnh, thấy vẻ giận dữ trên mặt cô, khẽ giật mình, lập tức vội bước tới, thấp giọng hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Khương Hàm Nguyên không giấu cậu ta, thuật lại chuyện xảy ra ở Trường An nửa năm qua.

Dương Hổ giận tím mặt, không cần nghĩ ngợi, mở miệng nói luôn: “Nhiếp Chính Vương là phu quân của Tướng quân, há có thể ngồi nhìn ngài ấy gặp bất trắc? Tướng quân định như nào? Chỉ cần cô mở miệng, có phản, bọn tôi chắc chắn đi theo!”

Khương Hàm Nguyên hít một hơi thật dài, đè xuống cơn tức giận mãnh liệt trong lồng ngực, quay đầu nhìn bầu trời đêm hướng chính Bắc.

Nơi đó, là Nam Đô Bắc Địch.

Cô nhìn hồi lâu, chậm rãi nói: “Những lời như thế này, sau này không được phép nói nữa. Tướng sĩ chiến đấu vì thứ gì chứ? Là để biên cương được bình yên lâu dài. Vì dân chúng Đại Ngụy ta về sau không còn gặp nỗi khổ chiến loạn.”

Dương Hổ dừng lại: “Vậy Tướng quân về Trường An trước sao?” Ngữ điệu cậu có phần lo lắng.

Khương Hàm Nguyên trầm tư một lát, quay đầu lại nói: “Chiến sự quan trọng. Mọi thứ chờ đánh xong Nam Đô lại nói. “

Dương Hổ còn định mở miệng, cô khoát tay áo, “Cứ thế đi. Sáng mai chúng ta quay về.”

Dương Hổ bất đắc dĩ tuân theo.

Cô đứng yên nguyên tại chỗ thật lâu, đi tìm Trần Hành.

Ông còn chưa ngủ, một mình đứng bên bờ đất hoang trong đêm khuya, như đang bọn người.

Cô bước đến chỗ ông, cuối cùng dừng bước sau lưng ông: “Trần thích sứ, Nhiếp Chính Vương từng nói với cháu, nếu có việc, cứ việc tìm ngài.”

Trần Hành chậm rãi quay lại, cung kính thi lễ với cô: “Đa tạ Nhiếp Chính Vương tín nhiệm.”

“Cháu từng nghe tiên phụ bảo, chờ thu về phương Bắc, Thích sứ sẽ về Trường An, đệ đơn xin từ chức lên triều đình, quy ẩn sơn lâm?”

Trần Hành mỉm cười nói: “Đúng vậy.”

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Giải ngũ về quê, nhàn vân dã hạc, từ đây gửi tình vào sơn thủy, tiêu diêu tự tại, cuộc đời nào còn có gì tiếc nuối? Cháu xin chúc mừng Thích sứ. Trận chiến cuối cùng này, cháu cũng có ý niệm tất thắng. Làm phiền thích sứ, có thể khởi hành đi Trường An được chăng?”

Trần Hành nhìn cô chăm chú: “Nếu Vương phi có chuyện, cứ việc phân phó.”

Khương Hàm Nguyên móc lệnh bài giao ra.

Trần Hành nhận lấy, ban đầu không hiểu, đợi thấy rõ, tất nhiên ông nhận ra là vật gì, giật mình, lập tức quỳ xuống hai tay dâng cao.

“Ngoài vật này, cháu còn có món đồ, đợi cháu cầm tới giao cho Thích sứ, phiền ngài giúp cháu đưa tận tay Nhiếp Chính Vương. Ngoài ra, giúp cháu truyền một câu, nói…”

Cô quay lại, nhìn lên bầu trời đêm đen vô biên vô tận hướng Trường An.

“Hãy nói, bất kể cuối cùng chàng lựa chọn ra sao, tự có nguyên do của chàng. Cùng chàng vợ chồng một quãng đời, cháu tôn trọng suy nghĩ của chàng, cháu cũng sẽ không ngăn cản. Đợi đến chừng đánh xong Nam Đô, cháu sẽ đến vùng đất năm cháu mười ba từng dẫn đường cho một thiếu niên, chờ thiếu niên ấy đến.”

“Cháu hy vọng đến hôm ấy, cháu có thể đợi được chàng tới.”

Cuối cùng, cô chậm rãi nói.
 
Chương 110


Cuối tháng sáu, lúc quân Ngụy tiến lên phía Bắc, hậu phương gặp phải nhiều lần công kích. Đều là đám quân phục kích mà trước kia Sí Thư rút khỏi quận Yến đồng thời an bài, mục đích chủ yếu để cắt đứt đường lương của quân Ngụy, thiêu hủy lương thảo. Nhưng đối thủ vững như Thái Sơn, thong thả đáp trả, đến đầu tháng bảy, đại quân của quân Ngụy tụ hợp xong, tiến gần Nam Đô, cuối cùng ở một vùng đất trống trải ngoài Nam Đô vài trăm dặm đụng mặt quân Địch quân, chiến sự bộc phát.

Đối với trận đánh cuối cùng này, Khương Hàm Nguyên chẳng những chuẩn bị kỹ, mà còn có niềm tin cực lớn. Tả Xương Vương xưa nay luôn có uy vọng, lão lại bỏ đất ban đêm trốn mất, chắp tay nhường ra Loan Đạo, trực tiếp dẫn đến việc Sí Thư không thể không từ bỏ vùng U Châu mà xưa nay gã tỉ mỉ đầu tư, nó đã đả kích đến sĩ khí đủ để dùng từ trí mạng để hình dung. Điểm này, binh sĩ và sĩ quan cấp dưới trong quân Địch rõ ràng hơn cả.

Trước cuộc đại chiến đã phát sinh mấy trận đánh chạm mặt ở quy mô nhỏ, thái độ phách lối trước đây của quân Địch không còn, đối mặt với quân Ngụy, trong ánh mắt của bọn chúng không còn thấy vẻ hung tàn và ngang ngược của thú dữ không kịp chờ đợi muốn nhào về phía con mồi nữa, mà bọn chúng quan sát đồng đội, đợi dịp mà ra — một tướng lĩnh kiệt xuất có thể gầy nên phẩm cách một đội quân, làm đội quân có thể đạt tới giới hạn cao nhất, mà sức chiến đấu và tâm tính của binh sĩ cấp trung và cấp dưới lại quyết định thực lực của đội quân; ở trong cuộc dã chiến vùng đất rộng lớn này, hai bên không chia ưu khuyết về địa thế, không có thành luỹ lưng núi để dựa vào, toàn bộ kế sách dịch chuyển tiến thoái đều không có chỗ dụng võ lớn, trùng sát là Vương đạo, dũng khí không sợ chết là sức lực đạt đến thắng lợi.

Sí Thư hẳn cũng ý thức được điểm ấy. Khương Hàm Nguyên nghe nói, trước cuộc chiến vì cổ vũ sĩ khí, gã đã lôi toàn bộ của cải vơ vét được bao gồm cả vàng bạc châu báu trong hoàng cung Nam Đô trước khi rút khỏi quận Yến ra, dùng xe chứa, đổ đầy mấy trăm chiếc xe quân nhu kéo đến trước mặt binh sĩ, lên tiếng chia thưởng bằng công lao. Ngoài vàng bạc còn có mỹ nhân, ngoài ra, nghe nói gã còn tuyên bố trước chúng, chỉ cần có ai bắt sống nữ soái quân Ngụy, ngoài đất phong vạn hộ, gã còn ban thưởng cả phi tử đẹp nhất của mình.

Cho dù được của cải mỹ nhân k.ích thích, quân Địch đỏ cả mắt cuồng nhiệt lên, song dưới khí thế như núi lửa như cầu vồng sắc bén không thể đỡ của quân Ngụy trước mặt, chỉ tính ý chí chiến đấu đã thấy như là phù dung sớm nở tối tàn.

Trải qua những trận tác chiến lẻ tẻ tiến dần sát vào nhau, mùng mười tháng bảy hôm đó, chủ lực hai bên chạm mặt. Kỵ binh va chạm, bộ binh theo sát phía sau, cuối cùng chém giết cận kề. Từ trên cao nhìn xuống, đầy khắp núi đồi, quân Ngụy trải rộng thiên quân vạn mã, nhìn như không có thứ tự, thực ra ngang dọc đan xen, một chỗ bị trống thì phía sau nhanh chóng bổ khuyết. Ấy cũng là chỗ phát huy uy lực của một đội binh được huấn luyện nghiêm chỉnh trong trận dã chiến quy mô lớn. Quân Ngụy như một con thần thú thời Thượng cổ nằm rạp trên mặt đất với vẻ ngoài to lớn vô cùng, chậm chạp, lại không ngừng di chuyển tới trước, nuốt chửng tất cả vật thể lạ trên đường. Mà quân Địch kia sau một trận kỵ binh đối kháng qua đi, bước vào chiến trận sáp lá cà vật lộn thì chiến tuyến bị kéo ra lỗ hổng, mà không được kịp thời bổ sung như phe đối địch, kẻ đơn độc nào rớt lại đều bị quân Nguỵ xung quanh nhiều hơn mình mấy lần g.iết ch.ết. Một, rồi hai, cho đến khi ngày càng nhiều lỗ hổng, giống như giáp sừng bị từ từ nhổ đi, vết thương chồng chất, thế thắng bại đã lộ manh mối.

Trận đại chiến kéo dài từ sáng sớm đến hoàng hôn. Khâm Long chết, trở thành điểm chuyển biến cao trào của chiến trường. Chu Khánh theo bố trí trước đó, trong lúc đối chiến giả vờ không địch lại mà rút lui, Khâm Long tự phụ là vô địch, giết đến hứng chí đuổi theo không rời, mạnh mẽ thọc tới, đánh đến đâu thắng đến đó, quân Ngụy rối rít né tránh, chờ đến lúc dẫn gã rời xa đại đội, mới theo một lệnh kỳ cao cao phất lên, đám quân Nguỵ vừa né tránh kia xúm lại xông lên, Khâm Long nhìn thấy lão Chu Khánh quay đầu lại phóng ngựa vọt tới mình, lúc này mới giật mình đã rơi vào cạm bẫy. Người bên cạnh ít dần, nhiều lần phá vây bị ép lui về, cuối cùng bị vây trong trận bố ráp chặt chẽ của quân Ngụy. Nhưng dù là vậy, quân Ngụy bình thường cũng không thể đến gần gã, bị gã chớp cơ hội lại giết ra một lỗ hổng, thừa cơ phá vây. Gã phóng ngựa quay đầu, thấy Chu Khánh dẫn người tiếp tục đuổi theo không bỏ, tức giận rống to: “Có bản lĩnh đơn đấu! Thì cùng ta đại chiến một trận!”

Kẻ thù gặp nhau đỏ ngầu cả mắt. Nếu là ngày thường, chắc chắn Chu Khánh sẽ đáp trả. Nhưng lần này trước khi ra trận, chủ soái đã nhiều lần nhấn mạnh không cho phép ông hành động theo cảm tính cậy anh hùng, yêu cầu duy nhất chính là bắt buộc phải nhanh chóng g.iết ch.ết kẻ này trên chiến trường.

Chu Khánh rất hiểu dụng ý mệnh lệnh này. Kẻ này mang tiếng xấu trong lòng dân chúng Yến U, là một tên đồ tể, nhưng ở trong mắt binh sĩ quân Địch lại là một viên hãn tướng dũng mãnh vô địch, chủ tâm cốt trên chiến trường. Giết hắn, quân Địch quân sẽ như rắn mất đầu.

Chu Khánh không nói không rằng, quyết tâm thúc ngựa chỉ lo truy sát. Khâm Long thấy binh Ngụy lại tập hợp, nghiến răng nhìn đúng một chỗ yếu, đang muốn thử trùng sát một lần nữa, bỗng binh Ngụy tự động tách ra, một viên tướng Nguỵ trẻ tuổi mặt nhuốm đầy máu nhuộm đầy hung quang phóng ngựa xông vào đối diện, chính là Dương Hổ, trường kích trong tay vùn vụt mang gió, đập vào đầu. Khâm Long lùi ra, vừa ngăn trường kích thì sau lưng Chu Khánh cũng đã giết tới, trường đao chặt xuống.

Khâm Long có dũng mãnh đi nữa cũng ngăn không được Dương Hổ và Chu Khánh trước sau tấn công, cuống quýt tránh né, té khỏi lưng ngựa. Đương còn đợi té xuống thì thừa cơ chém đùi ngựa đối phương cầu sinh, nào ngờ một chân bị kẹt quấn vào chân đạp ngựa, tình thế cấp bách không tránh khỏi, bị treo ngược trên mặt đất kéo ra mấy chục bước, đến khi giãy giụa rơi xuống, nằm ngửa lên trời thì một chiếc vó ngựa như thiết chưởng từ trên không rơi xuống, nặng nề giẫm lên ngực gã.

Chiến mã khoẻ mạnh, băng băng phóng tới, một vó nặng tựa vạn cân, gã quát to một tiếng, xương sườn đã bị tổn thương trước đó gãy răng rắc, miệng phun máu tươi, đang che ngực giãy giụa hòng đứng lên, thì vô số chiến mã từ đối diện đã vọt tới, vó ngựa đạp bụi mù cuồn cuộn, mấy chuyến vừa đi vừa về dẫm gã đến thất khiếu chảy máu, như đống bùn nhão — viên mãnh tướng thanh danh hiển hách đệ nhất quân Địch, đã chết dưới loạn vó như thế.

Cùng tiếng gió hoang gào thét, binh phụ trách quan sát của quân Ngụy rống to, truyền tin này khắp chốn, cước trận quân Địch càng thêm rối loạn.

Chạng vạng tối hôm sau, lúc trời chiều lặn xuống phía tây, ánh tà dương bao phủ vùng chiến trường máu chảy.

Trận đại chiến kéo dài hai ngày đã kết thúc.

Nam Đô tựa một hòn đảo hoang trong ánh tà dương đỏ như máu mê ly, nơi chân trời phương Bắc dần dần lộ ra dáng hình của nó.

Trận quyết chiến này, tiến hành dễ hơn nhiều so với tiên đoán của Khương Hàm Nguyên. Đến nửa sau, chiến trận càng như tồi khô lạp hủ, ở trong đó, Hữu Xương Vương cũng giúp một tay. Nghe nói sau khi ngưng chiến đêm qua, lão thấy đại thế đã mất, muốn bắt chước Tả Xương Vương, giả bày trận chuẩn bị ngày mai tái chiến mà lẩn trốn trong đêm, định đoạt trước Sí Thư, một bước lui về Vương Đình phương Bắc tìm đất ổn định tự lập, bị Sí Thư nghe ngóng được, hai bên bùng lên nội chiến, Hữu Xương Vương chạy trốn, hôm nay, lòng quân quân Địch tan rã, từ trên xuống dưới không còn tâm trí chiến đấu, đối mặt với đột kích của quân Ngụy vừa đánh vừa lui dần về phương Bắc.

Quân Ngụy đại phá Nam Đô, thành này đổi chủ.

Với Bắc Địch mà nói, bắt đầu từ ngày biến Tây quan chưa thoả mãn, từng bước bị động, trận đại chiến thất bại đã là kết cục định sẵn.

Trái lại, quân Ngụy trên dưới đồng lòng, sát khí tung hoành, khí thế như hồng, sao không thể thắng?

Khương Hàm Nguyên dẫn quân tiếp tục càn quét đất Bắc, quét sạch quân Địch còn sót lại. Cùng lúc đó, chiến báo đại thắng phá Nam Đô, thu U Yến cũng trên đường ngày đêm không ngừng, dùng tốc độ nhanh nhất truyền về. Tin chiến thắng về tới Nhạn Môn, rồi bay tới Trường An.

Mười ngày sau, vào buổi chiều hôm ấy, tiếng trống hoàng cung quanh quẩn trên không thành Trường An, vang vọng khắp phố. Dân chúng nghe tiếng trống xôn xao ra khỏi nhà, nghe tin tức truyền ra, người người sôi trào. Quần thần chạy tới trong cung, tham dự triều hội lâm thời.

Bắt đầu từ thời Thánh Võ Hoàng đế, đến Minh Đế, lại đến Nhiếp Chính đương triều, thu về môn hộ phương bắc, đề trình lên triều đình Đại Ngụy. Mưu đồ nhiều năm, mai kia công thành!

Trận chiến kéo dài hơn nửa năm, hôm nay, giấc mơ này cuối cùng có thể thực hiện.

Đương khi điện hầu tuyên đọc tin chiến thắng đến từ phương bắc, Hiền Vương kích động đỏ hốc mắt, xoay mặt sang hướng Bắc mà bái. Quần thần cũng mừng hớn hở, rối rít quỳ lạy, đồng thanh chúc mừng Thiếu đế — hôm nay trong triều hội lâm thời do tin đại thắng đưa đến mà lập, Thiếu đế ngồi triều, song Nhiếp Chính Vương không hề lộ diện.

Nói thật, có thể có đại khánh hôm nay, công lao quyết chí của Nhiếp Chính Vương thật vĩ đại, về điểm này, người người rõ ràng trong lòng. Trận chiến bắc ra Nhạn Môn này mấy năm qua ngài khổ tâm trù tính một tay thúc đẩy không nói, từ đầu năm nay sóng ngầm cuồn cuộn phong vân biến ảo trong triều đình, nếu không có ngài trụ cột vững vàng, cứng như bàn thạch, dốc hết sức làm chủ, chỉ e trận này đã nửa đường đứt gánh, không giải quyết được gì.

Hôm nay vào lúc hân hoan đánh dấu quan trọng như này, ngài lại không xuất hiện. Quần thần mặt ngoài không ai nói ra như chẳng hề lưu ý, nhưng sau khi ca tụng công đức Thiếu đế một hồi, bãi triều xong, ngờ vực vô căn cứ không ngừng dâng trong lòng.

Thúc Tiển từ đại điện về lại ngự thư phòng, đóng cửa một mình ngồi đến trời tối. Cậu không nhúc nhích như nhập định, mãi đến khuya Giả Hưu đến, cậu như vừa tỉnh giấc, chậm rãi nhướng mắt.

“Ngày hôm nay Tam hoàng thúc làm gì?” Cậu hỏi.

“Khởi bẩm bệ hạ, từ đầu giờ chiều Vương phủ đã đóng cửa, không thấy Nhiếp Chính Vương đi ra, ti chức không thể biết được.”

“Đám đại thần thì sao? Sau khi bãi triều, họ bàn tán chuyện gì?”

“Có bàn mấy lời về Nhiếp Chính Vương điện hạ.” Giả Hưu chần chừ một lúc, thấp giọng đáp, giọng điệu mập mờ.

Thúc Tiển cũng không gặng hỏi nữa, cậu dừng mắt trên ánh nến nhảy nhót trên bàn, chăm chú nhìn chốc lát, nói: “Chỗ Trẫm, có ba chuyện, ngươi thay trẫm đi làm.”
 
Chương 111


Màn đêm buông xuống, một thớt ngựa trong đêm xuất kinh, phi nhanh đến Hoàng lăng.

Cùng lúc đó, trong đêm khuya, Nam Khang Đại Trưởng công chúa bị ác mộng đè người, hô to thành tiếng choàng tỉnh, cảm thấy nóng nảy bất an, ngồi một mình trên giường, thật lâu cũng chưa định thần được.

Thật ra, từ hôm Cao Chúc bị chặt đầu, bà cả ngày lo sợ ngờ vực, ăn không ngon, ngủ không yên, ngày ngày từ sớm đến tối trong lòng chỉ ôm niềm hy vọng lớn nhất là trận chiến phương Bắc đang tiến hành kia sẽ kết thúc trong thất bại; nữ tướng có danh hào Trường Ninh kia từ đây thân bại danh liệt; đương nhiên, nếu cuối cùng bỏ mình cùng cha cô ta là không còn gì bằng. Nhưng điều bà ngầm trông ngóng cuối cùng vẫn rơi vào hư không. Hôm nay, đương khi toàn thành Trường An sôi trào vì đại thắng, ngay tích tắc bà ta nghe tin, như cha mẹ chết.

Bà vĩnh viễn không quên được tình cảnh chạm mặt với đối phương trong cung hôm ấy, dù qua đã lâu, cho đến nay vẫn rõ mồn một trước mắt.

Cô gái họ Khương này sẽ không bỏ qua cho mình. Sớm muộn sẽ có một ngày, chắc chắn cô ta sẽ xuống tay với mình.

Về điểm này Đại Trưởng công chúa cực kỳ khẳng định. Lúc cô ta còn ở biên tái xa xôi, chỉ là một nữ tướng lỗ mãng không làm gì được bà. Nhưng, từ cái ngày Thúc Thận Huy cưới cô ta, tất thảy đều trở nên khác biệt.

Cùng rất nhiều người trong triều, bà chưa hề cũng không hề tin rằng Thúc Thận Huy không từng có ý nghĩ thay vào ngôi vị của đứa cháu. Xưa kia y vẫn chưa có hành động gì chẳng qua là thời cơ chưa tới thôi. Có điều ai làm Hoàng đế cũng không liên quan lắm tới bà, dù gì địa vị bà cũng cách biệt, không bị ảnh hưởng — nhưng, đều là chuyện đã qua. Từ lúc con gái họ Khương gia lấy thân phận Nhiếp Chính Vương phi đột nhiên xâm nhập Trường An, mà rõ ràng là, tương lai Thúc Thận Huy chắc chắn còn phải nể trọng cô ta vì mưu đồ hoàng vị, lập trường Đại Trưởng công chúa không thể không đổi. Vì kế sách tương lai của mình, bà bắt đầu tiếp cận Cao Chúc, Lan Vinh, âm thầm qua lại. Ngày Tây Quan biến loạn, Trường An lâm nguy, dư luận ầm ĩ bao vây tấn công Khương gia tứ phía, mà Thúc Thận Huy vẫn còn kiên trì để cho cô gái họ Khương tiếp nhận ngôi soái, bà bèn chuyển đến Mi Viên ngoại ô thành Bắc, khiến người Trường An nghe ngóng làm theo, trật tự rối loạn. Ấy là bà dò ý của Thiếu đế mà nghĩ, lợi dụng cách thức này gây áp lực cho Thúc Thận Huy. Bà tuyệt đối không ngờ rằng, tiếp đó Cao Chúc chết thảm, tình thế triều đình nhanh chóng đảo ngược, tất cả im hơi, Thúc Thận Huy chân chính càn cương độc đoán, bà không thể không rụt lại, từ đây không dám hành động thiếu suy nghĩ, mãi đến cách đây không lâu, lại có tin về tên hòa thượng Vô Sinh đang phục quốc ở U Châu.

Cô gái họ Khương xưa kia từng qua lại với tên hòa thượng Vô Sinh ở Vân Lạc, tin này Đại Trưởng công chúa biết từ rất sớm. Sau chấn kinh khi nghe chuyện hôn sự, bà mới nhớ ra chuyện năm xưa ngoài ý muốn mà bà vốn quên bẵng kia, cảm thấy bất an mới âm thầm phái người đi Nhạn Môn và Vân Lạc nghe ngóng chuyện cô gái họ Khương để thêm phần nắm chắc. Lúc nhận được tin, bà từng nghĩ sẽ truyền ra bêu xấu thanh danh cô ta song sau khi suy tính, đã từ bỏ. Thanh danh cô gái kia vốn đã đủ đáng sợ mà Thúc Thận Huy vẫn còn muốn cưới cô ta, nghĩa là mục đích của y không ở cưới người, mà là những gì đạt được sau khi cưới người. Với tiền đề đó, thả ra tin tức này không những không có chỗ dùng gì lớn mà nhỡ bị Thúc Thận Huy biết do mình gây ra thì ngược lại tự rước lấy phiền phức. Nhưng nếu Vô Sinh không phải là một tên hòa thượng bình thường mà là hoàng tử nước Tấn, còn được Sí Thư nâng đỡ phục quốc, thì ý nghĩa lại hoàn toàn khác. Nên sau đó mới có lời đồn đãi toàn thành.

Nhưng, tất thảy đều được chứng minh là đã phí công.

Ý nghĩa trận đại chiến này thế nào, Đại Trưởng công chúa rất rõ. Giờ cô gái họ Khương đã thắng trận, Thúc Thận Huy cũng đã đạt được thắng lợi xưa nay chưa từng có do một tay y sáng lập, uy vọng đạt đến đỉnh cao. Y cũng không còn che giấu dã tâm, chém giết Cao Chúc, không khác gì công khai quyết liệt với Thiếu đế. Có lẽ chẳng mấy chốc y sẽ ra tay với Thiếu đế thôi. Còn cô gái họ Khương kia muốn đối phó mình, càng dễ như trở bàn tay.

Sợ hãi từ tận đáy lòng lan tràn khắp người. Đại Trưởng công chúa bị nỗi sợ hoàn toàn chi phối, tim đập thình thịch, không ngừng đi tới đi lui như một con kiến bị nhốt trong nồi, mà dưới đáy nồi, củi lửa đã bắt đầu chất.

Bà ta biết mấy năm qua Lan Vinh âm thầm bồi dưỡng không ít thế lực, trừ Trường An, các nơi đều có. Thậm chí bà ta còn ngờ rằng, Lan Vinh tuyệt đối không phải chỉ muốn làm một vị ngoại thích đơn giản thế. Trước đây lúc Cao Chúc dẫn người đối đầu với Thúc Thận Huy, hắn ta cực ít khi công khai lên tiếng, chưa tính những kẻ theo hắn. Cẩn thận đã giúp hắn tránh được thanh toán sau khi Cao Chúc rớt đài.

Hiện giờ chỗ cậy vào lớn nhất của bà chính là thời điểm này Lan Vinh có hành động, bà cũng tin rằng Thiếu đế cũng sẽ không ngồi chờ chết. Bà đoán sẽ chẳng bao lâu, Trường An sẽ có một cơn gió bão giáng xuống.

Bà không thể ở lại chỗ nguy hiểm này. Chi bằng đi đất phong lánh mặt, xem tình huống. Nếu cuối cùng là Thiếu đế hay là Lan Vinh nắm được cục diện thì không còn gì bằng. Còn ngộ nhỡ, nếu Thúc Thận Huy như dự kiến thuận thế lên ngôi…

Bà bèn nghĩ đến một người, Trần Hành.

Ông là trượng phu trên danh nghĩa của bà, cho đến giờ tất cả người bên ngoài cũng còn nhận định thế, song ngoài vẻ ngoài ngay từ đầu đã hữu danh vô thực, sự thực là, trước khi Võ Đế qua đời đã hạ mật chỉ cho bà thu lại lệnh ban hôn năm đó. Còn vì sao năm ấy ngài ban hôn, rồi lại vì sao sau đó thu lại, nguyên nhân bà cũng từ từ ngộ ra từ lâu. Có lẽ chẳng qua chỉ là một sự trừng trị Trần Hành của một đế vương cao ngạo trong cơn nóng giận, vừa lúc bản thân mình lại gây tai họa cần mau chóng thành hôn giữ gìn thể diện của Hoàng gia thế là biến thành công cụ cho Võ Đế dùng.

Chuyện xưa liên can đến Thánh Võ Hoàng đế và thanh danh cực quý của người khác trong cung đình, bà cũng biết chỗ kiêng kị, giả điếc vờ câm xem như không biết. Nhưng sau này, nếu chuyện không thể cứu vãn thì vẫn còn một con đường cuối cùng, đó chính là dùng nó làm chuôi, bảo Trần Hành đổi cho mình một tấm bùa hộ thân ở chỗ Thúc Thận Huy. Đoán rằng giữa hai người này, sẽ không thể hoàn toàn không chỗ cố kỵ gì với chuyện này.

Cuối cùng Đại Trưởng công chúa cũng thấy thoáng định thần lại chút.

Sau khi Cao Chúc chết, một hôm bà hoảng sợ hết nhịn nổi, vội vã bảo đưa con đi xem đất phong, mấy hôm trước cố không gây chú ý, lặng lẽ ra khỏi thành, ở lại Mi Viên ngoại thành này. Giờ chỉ cần xe ngựa chuẩn bị xong, không cần chờ đến hừng đông, là bà có thể rời Trường An trong đêm.

Đại Trưởng công chúa bị ý nghĩ này thúc giục, trong phút chốc vội vã xiêm áo, sải bước ra khỏi phòng ngủ gọi nô bộc, lệnh cho lập tức gói ghém của cải châu báu. Hạ nhân bị xáo trộn nháo nhào, cái này phải xách đi, chỗ kia cũng không thể bỏ, chậm tay chút thì bị quát mắng, trên sàn phòng ngủ rơi vãi rất nhiều tơ lụa váy hoa không mang hết, đầy hỗn độn. Cuối cùng chất đầy mấy rương lớn, chắc xe ngựa cũng chở không hết, Đại Trưởng công chúa mới xem như thôi, gọi hộ vệ, vội vàng chạy ra cổng chính, vừa ra tới cổng, bỗng khựng bước.

Ngoài cổng lửa trượng chao động, Giả Hưu dẫn theo một toán người chẳng biết đến từ lúc nào, đang chắn ngang bên ngoài, chẳng những chặn cửa mà còn ngăn xe ngựa dừng ở ven đường của bà lại.

Đại Trưởng công chúa sửng sốt.

Từ sau khi Lưu Hướng tự nhận tội đi canh gác hoàng lăng, tên này trở thành tâm phúc trước mặt Thiếu đế. Đại Trưởng công chúa rất bất ngờ, sao tự dưng hắn lại đến Mi Viên. Chưa kể, nom điệu bộ kia như là không có điềm lành.

Dù trong mắt bà đám đấy cũng chỉ là gia nô, song hiện giờ đâu còn như xưa. Bà nén nỗi bực bội trong lòng, cau mày hỏi: “Ngươi đây là ý gì?”

“Đêm hôm khuya khoắt, quấy rầy Đại Trưởng công chúa, xin hỏi ngài đây là đang định đi đâu?” Giả Hưu vẫn nở nụ cười trên mặt.

Đại Trưởng công chúa lạnh lùng nói: “Ta có việc muốn ra cửa. Tránh ra!”

Giả Hưu không cho, phất tay ra hiệu người sau lưng, một đội Cấm Vệ quân như sói như hổ bèn đi lên, rút đao ép đến Đại Trưởng công chúa. Bà bị ép lùi vào trong cửa, không nén không được lửa giận, quắc mắt trừng trừng, quát: “Ngươi muốn làm gì? Dám can đảm đối xử ta thế hử?”

Giả Hưu nói: “Bắt đầu từ bây giờ, xin Đại Trưởng công chúa yên tâm ở lại Mi Viên, không được ra ngoài. Người ngoài, bao gồm cả đưa lương thực gánh củi cũng không được phép bước vào nửa bước, ai vi phạm giết không luận tội. Người còn trong viên nếu muốn đi thì toàn bộ đi ra ngay lúc này! Chậm chân cổng khóa, đừng trách ta không cho cơ hội.”

Vừa dứt lời, những người lanh lẹ nhanh chóng hiểu rõ. Đây là muốn nhốt Đại Trưởng công chúa trong Mi Viên cạn kiệt lương thực mà hết đường, từ từ chết đói?

Vị Đại Trưởng công chúa này xưa nay ương ngạnh, đối xử nô tài không đánh thì mắng, ở bên cạnh cũng không mấy ai tử trung chân chính. Hạ nhân trong viện ai cũng sợ hãi, dù không rõ cho lắm, song đã có cơ hội chạy trốn thì nào ai chịu bị nhốt chung một chỗ chết đói? Ngay lập tức, toàn bộ hạ nhân, bao gồm cả hộ vệ, tranh nhau chạy trốn ra ngoài.

Đại Trưởng công chúa thất sắc, cũng định phóng ra ngoài thì bị hai Cấm quân cầm đao cản lại. Bà ta quát: “Tên điêu nô Giả Hưu này! Hẳn ngươi cũng là người của Thúc Thận Huy hử? Cút! Ta muốn đi gặp bệ hạ!”

Ý cười cũng lặn khỏi mặt Giả Hưu, lạnh lùng: “Cũng báo Đại Trưởng công chúa biết, đây chính là lễ khải hoàn mà bệ hạ giành cho tướng quân Trường Ninh.”

Đại Trưởng công chúa như gặp sét đánh tại chỗ, trợn mắt: “Ta không tin! Bệ hạ sao lại làm thế? Ta chính là con gái của Cao Tổ! Thánh Võ Hoàng đế là hoàng huynh của ta! Mi Viên này còn là do chính Cao Tổ xây cho ta! Sao bệ hạ lại dám đối xử với ta như vậy! “

Lúc này người trong viên đã trốn sạch, một Mi Viên to lớn đến thế chỉ còn lại một mình Đại Trưởng công chúa. Giả Hưu từ chối không nghe, dẫn người rời khỏi. “Ầm”, cổng viên khép kín. Đại Trưởng công chúa liều lĩnh xông lên, ra sức muốn mở cổng, song theo sát đấy là tiếng khóa cổng từ bên ngoài, cổng khép chặt, không thể kéo ra.

Đại Trưởng công chúa gào lên một tiếng, quay người chạy như điên ra cổng sau, song cổng đã bị khóa khoài từ lâu. Trong lúc bà la hét, nghe tiếng Giả Hưu vọng đến, sai binh sĩ canh chừng, nếu người bên trong dám vượt tường, thì bắn tên ngăn cản.

Đại Trưởng công chúa tuyệt vọng hoàn toàn, chửi ầm: “Thúc Tiển ngươi là con quỷ đoản mệnh tim đen! Giờ ta đã nhìn ra ngươi, không phải thứ gì tốt! Âm hiểm độc ác, hèn hạ vô sỉ! Ngươi cho rằng làm thế này Thúc Thận Huy sẽ buông tha ngươi, giữ được hoàng vị của ngươi à? Mơ giấc mơ xuân thu đi… “

Trong tiếng nguyền rủa oán độc từ bên trong vọng ra, Giả Hưu quay người rời đi.
 
Chương 112


Đến bình minh, Thúc Tiển nhận được hồi báo, ba chuyện cậu sai bảo, hai chuyện đầu — phái người đón Lưu Hướng từ Hoàng Lăng về, cầm tù Đại Trưởng công chúa — đã làm xong xuôi. Song còn chuyện thứ ba liên quan đến Lan Vinh, lại có điểm ngoài dự kiến.

Hẳn là ông ta đã nhận được tin sớm, bỏ trốn trong đêm, dùng lý do trong người có chuyện khẩn cấp cần giải quyết lệnh mở cổng thành, Môn lại tin là thật, ông ta đã trốn khỏi thành, không rõ tung tích.

Gió từ cửa sổ im hơi lặng tiếng âm thầm tràn vào, dưới ánh nến tàn chập chờn chưa tắt, Thúc Tiển đứng dậy, từ trong hốc tối lấy ra một vật, chậm rãi mở ra trên bàn, cúi nhìn đăm đăm một lát rồi ngẩng lên vẫy tay với cung nữ Đoạn Nhi đứng hầu bên cạnh. Cậu chỉ vào vật trên bàn, nói: “Đây là di chiếu tiên đế để lại cho trẫm. Biết trẫm muốn xử lý nó thế nào không?”

Đoạn Nhi ngây ra, chần chừ đoạn, cuối cùng ỷ vào được đối đãi hơn kẻ khác một bậc, đánh bạo nói: “Tiểu tỳ không biết. Bệ hạ định xử lý thế nào?”

“Trẫm muốn đốt nó.”

“Ngươi đi bẩm báo với Thái hậu đi chứ.”

Cung nữ kịp phản ứng, sắc mặt trắng bệch, run rẩy quỳ xuống dập đầu, miệng cầu xin tha, bảo là lệnh của Thái hậu, trước đây đưa nàng ta quay lại là muốn nàng ta nghe lén động tĩnh bên này, nàng ta không dám không nghe theo.

Thúc Tiển Nhin cung nữ sợ đến run lẩy bẩy cả người trên mặt đất, mắt lộ ra mấy phần bi ai: “Quả nhiên người trong cung đều là kẻ vô tâm vô tình. Ngay cả một kẻ có thể nói chuyện, cũng tìm không thấy.”

Cậu nhìn quanh tòa điện thất hoa lệ.

“Nhưng mà, sao trẫm không phải như thế chứ?”

“Xét về vô tâm, luận về vô tình, trẫm vẫn xếp thứ nhất.”

Cậu như đang nói với cung nữ, lại như đang nói một mình.

Cung nữ nghe không rõ, chỉ lệ tuôn dào dạt không ngừng, mặt như hoa lê ngậm mưa, chỉ lo năn nỉ xin tha. Thần sắc Thúc Tiển chuyển sang lạnh lùng và chán ghét.

“Đều là người đáng thương, thân bất do kỷ. Trẫm không giết ngươi.” Cậu hờ hững nói xong, không hề nhìn đến cung nữ, sai người kéo ra ngoài.

Trong cung Đôn Ý, Lý Thái phi bán thân bất toại ngôn ngữ không tiện, tính tình cũng trở nên nóng nảy, có khi tinh thần thậm chí không tỉnh táo, cả đêm không ngủ, chửi bới r.ên rỉ, dù nghe hàm hàm hồ hồ nhưng cũng phân biệt được, miệng đầy bất kính, trong đêm khuya lọt vào tai như quỷ dữ, người xung quanh đều sợ hãi. Lan Thái hậu sợ lỡ đến tai Thúc Thận Huy gây hoạ, nơm nớp lo sợ, ban đầu còn đích thân trông nom bên cạnh, sau đấy hết có thể kiên nhẫn, lệnh cho Thái y cắt thuốc hạng nặng cho bà ta, trộn vào chỗ thuốc uống thường ngày. Đêm qua cũng vậy, Lý Thái phi đã mê man một đêm, Lan Thái hậu hiện tại vội vã chạy đến, sai người thức tỉnh bà, song thuốc quá nặng, mặc cho kêu gọi cách nào, thần chí của Lý Thái phi vẫn không tỉnh. Lan Thái hậu mới lệnh Thái y dùng kim châm thức tỉnh.

Thái y chạy tới, thấy Thái hậu đang nôn nóng đi qua đi lại trước giường Lý Thái Hoàng Thái phi, mặt trắng bệch, hai mắt đỏ rực, cả người còn như hơi run rẩy nom rất doạ người, không dám không nghe theo, vội vàng lấy kim châm, định huyệt vị mà hạ châm. Dưới k.ích thích, quả nhiên Lý Thái phi tỉnh lại, trong cổ họng phát ra một âm thanh ú ớ mơ hồ, mí mắt lật lên lật xuống mấy lần, nhưng cuối cùng mở không lên. Thử mấy lần đều như thế. Thái hậu không ngừng thúc giục, Thái y tâm hoảng ý loạn, lau mồ hôi giải thích, rằng dược tính đang nặng, xin bà yên tâm chờ dược tính tan đi bớt là có thể tỉnh lại.

“Cút!” Lan Thái hậu đỏ mắt nhào tới, bỗng chụp lấy hai vai Lý Thái phi giật nửa người bà ta ngồi dậy, dốc hết sức bình sinh hung bạo lắc, vừa lắc vừa nghiến răng: “Tỉnh lại! Bà tỉnh lại cho ta!”

Thái phi bị bà lắc xõa tung cả tóc, cổ bị lắc mạnh muốn rớt cả đầu. Một lát sau, cùng với tiếng rên đau đớn trầm thấp, mí mắt cụp xuống từ từ mở, nhìn rõ là Lan Thái hậu, trong mắt lộ vẻ tức giận, cố hết sức nâng cánh tay còn động đậy được, xỉa ngón ta vào bà ta, miệng phát ra âm thanh ú ớ: “Ngươi…”

“Trận đã đánh xong! Bệ hạ đã ban chết cho Lan Vinh! Chắc chắn là do bệ hạ sợ Thúc Thận Huy hãm hại, bất đắc dĩ mới làm vậy! Sao nó có thể giết cậu ruột của nó được chứ? Nhất định là Thúc Thận Huy buộc nó! Nó là vì tự vệ!”Lan Thái hậu một mặt điên cuồng lắc Lý Thái phi, một mặt khàn giọng gào thét, “Bà nói mau! Ngoài Cao Chúc, trước khi tiên đế ra đi, phải chăng đã sắp xếp ai khác nữa, hay là còn cách gì khác! Ta phải nhanh báo cho bệ hạ!”

Cổ họng Lý Thái phi phát ra tiếng khùng khục, vẻ mặt cực kỳ đau đớn.

“Nói! Bà mau nói cho ta!” Lan Thái hậu như phát điên, tiếp tục lắc không ngừng, cứ như làm vậy sẽ có cách cứu mạng.

“Mẫu hậu đang làm gì vậy?” Sau lưng bỗng nghe một giọng nói truyền đến.

Lan Thái hậu dừng lắc, thở hồng hộc quay lại. chẳng biết Thúc Tiển tới đây tự lúc nào, đứng sau lưng bà, kẻ hầu chung quanh đều đã quỳ xuống, không dám ngẩng đầu.

Bà thở hổn hển mấy hơi, hất Lý Thái phi ra, quay lại chạy đến bên Thúc Tiển.

“Tiển Nhi con đến thật đúng lúc, mẹ cũng đang muốn đi tìm con! Con không thể đối xử với cậu con thế! Ông ấy một lòng bảo vệ con mới đắc tội kẻ kia! Hiện giờ phương Bắc thắng trận, con có biết rằng, rất nhiều đại thần trong triều đã sớm âm thầm viết xong chúc biểu, đợi chừng tranh vị giành công ủng hộ đầu tiên hay không! Cao Chúc đã không còn, con mà còn giết Lan Vinh thì sau này thật sự tứ cố vô thân, trên đời không còn kẻ nào có thể trợ lực! Mẫu hậu biết đây không phải là bản tâm của con, con thả Lan Vinh đi, mẫu hậu van xin con…”

Thúc Tiển tựa như chưa từng để lọt vào tai, gỡ bàn tay đang níu ống tay áo mình của Lan Thái hậu, bước thẳng tới trước giường Lý Thái phi, hơi cúi người nhìn bà ta.

“Hôm đó, bà mượn danh tiên đế, giả di chiếu bày ra cho trẫm, là định thế nào?” Mặt cậu không lộ vẻ, chậm rãi nói.

Lý Thái phi trừng to mắt, chằm chằm nhìn Thúc Tiển, thấy cậu nói xong, lấy trong tay áo ra một vật.

Chính là di chỉ của Minh Đế bà giữ nhiều năm kia. Ngay phút này, Thúc Tiển đưa nó đến đám nến trước giường.

Ngay lập tức, một góc lụa bén lửa. Ngọn lửa bén lên, rừng rực một đường nhanh chóng liếm lên cao. Thúc Tiển buông tay, bức di chỉ như món đồ không đáng một đồng bị vứt bỏ, bị lửa liếm quanh, bay xuống đất.

“Tiển Nhi con điên rồi!” Lan Thái hậu lấy lại tinh thần, ré lên the thé, vọt tới nhấc chân ra sức dập lửa, không sợ phỏng tay, chụp món đồ dưới đất, đã thấy nó bị đốt chỉ còn một góc, trước mắt tối sầm, ngã ngồi xuống đất.

Lý Thái phi thì muốn nứt cả mắt, đưa tay muốn chụp đến, song nào được, chỉ chòng chọc nhìn bức di chỉ bị đốt trụi chỉ còn khung sừng, mấp máy bờ môi, đột nhiên, phát ra một tiếng ú ớ oán hận đầy không cam lòng: “Trời cao —” hô xong hai chữ, người té thẳng từ trên giường xuống, đổ xuống đất, bất động.

“Tiển Nhi, Tiển Nhi! Mi đến cùng muốn làm gì —— “

Trong tiếng khóc tuyệt vọng đến tê tâm liệt phế của Lan Thái hậu sau lưng, Thúc Tiển bước ra cung Đôn Ý.

Tin tức liên tiếp đã một lần nữa chấn động triều thần.

Thì ra vào đêm đại hôn của Nhiếp Chính Vương gặp chuyện trước đây, Lan Vinh cũng là một trong đám chủ mưu. Không chỉ thế, hắn cùng Sí Thư trong ngoài cấu kết, đổ thêm dầu vào lửa vào Cao Chúc, cản trở chiến sự; mà làm người không ngờ tới là còn âm thầm che chở cho dư đảng của Cao Vương Thành Vương. Hắn tự biết tội ác bại lộ, đêm qua đã chạy án. Thiếu đế đã hạ lệnh đuổi bắt, cũng triệu hồi Lưu Hướng từ Hoàng lăng về, lệnh cho tiếp chưởng Địa môn ti.

Chưa hết, khiến bá quan khiếp sợ nhất là, di chỉ của Tiên đế hôm Đôn Ý Thái Hoàng Thái phi từng tuyên bố mà không ai quên được kia nghe nói thì ra là giả mạo chỉ dụ của vua. Đêm qua Thiếu đế chính mắt nhìn ngụy chiếu thiêu hủy, mà Đôn Ý Thái phi một tay tạo ra nguỵ chiếu kia e rằng cũng không còn sống lâu trên đời.

Trước đây người người thầm rõ trong lòng, chờ đến chừng chiến sự phương bắc kết thúc, giữa Thiếu đế và Nhiếp Chính Vương e không thể nào tiếp tục duy trì hiện trạng. Tình trạng hiện giờ khó bề phân biệt thật giả, Thiếu đế làm vậy, đến cùng là từ ý của chính ngài, hay tất thảy đều do Nhiếp Chính Vương ép buộc, Thiếu đế có chỗ bất đắc dĩ?

Triều đình Đại Ngụy mai này, đi theo con đường nào?

Đám đại thần còn đắm chìm trong niềm vui mừng đại thắng phương Bắc hôm qua, trong lòng lại bồi thêm nỗi lo lắng âm thầm vô hạn. Người người im lặng, chỉ thầm dõi theo toà Vương phủ đóng kín cửa từ hôm qua kia.

Trời lại tối.

Lúc Hiền Vương từ cửa hông yên lặng vào Vương phủ, Thúc Thận Huy còn đang yên giấc.

Đã hồi lâu y không cảm giác một giấc ngủ ngon. Hôm qua, khi tin đại thắng phương Bắc đưa đến, y không gặp ai, không đi bất kì đâu, chợp mắt ngủ. Một giấc này, ngủ thật dài mà sâu.

Tri sự Vương phủ đến, trong tiếng gõ cửa, y đang mơ thấy một cô gái. Nàng ấy đang tung vó chiến mã, trải ngang thiết sơn. Gió lớn thổi váy nàng múa cuồng, bóng ảnh dần đi xa, biến mất trong trời đầy cát vàng. Đương khi y phiền muộn vô hạn, nàng đột nhiên thu tay trên lưng ngựa, nhoẻn má lúm yêu kiều. Trong mơ y chỉ thấy một cảm giác cuồng loạn, trong tích tắc nhiệt huyết sôi trào, đợi phóng ngựa đuổi sát, cảnh trong mơ bị âm thanh hỗn tạp bên tai mà dừng bặt.

Y choàng mở cặp mắt phiếm hồng, phát hiện mình vẫn còn nằm trong tẩm đường. Ngoài cửa sổ trời lại biến đen, trong hoảng hốt, y có cảm giác mờ mịt như không biết năm nào tháng nào làm sao. Chân thực duy nhất, chính là nhịp tim đập mãnh liệt do giấc mơ kia mang lại.

Y ngồi trong bóng đêm một lát, đợi nhịp tim từ từ khôi phục, thở một hơi dài hơi, châm nến, qua mở cửa.

Tri sự thi lễ với y, báo Hiền Vương tới.

Sau ngày chém chết Cao Chúc, y và Hiền Vương, không hề có bất kỳ qua lại riêng nào.

Thúc Thận Huy lệnh tri sự mời Hiền Vương đến Chiêu Cách đường. Một lát sau, y thay quần áo xong xuôi, xuất hiện trước mặt Hiền Vương với nụ cười mỉm trên mặt, tinh thần sáng láng, nom chẳng có gì khác với thường ngày.

Hiền Vương thì khác. Trên mặt ông cũng ôm nụ cười, nhưng nụ cười ấy lại có vẻ có phần miễn cưỡng. Sau khi ngồi xuống, ông nhìn Thúc Thận Huy, mấy bận định nói lại thôi, càng lộ vẻ tâm sự nặng nề.

“Hoàng bá tổ có việc, cứ nói thẳng.”

Hiền Vương ngập ngừng đoạn, rốt cuộc mở miệng: “Điện hạ, tối nay ta đến, là nhận bệ hạ nhờ cậy.”

“Bệ hạ có việc, bảo ta chuyển đạt.”
 
Chương 113


Thiếu đế đối với Hiền Vương mà nói, ngôi vị Hoàng đế của cậu ta vốn may mắn mà đoạt được, không phải thiên mệnh, dù miễn cưỡng ngồi ngôi nhưng chung quy bản tính gian ngoan, tư chất ngu dốt, lực không thể bằng, không chỉ thế, đức không xứng vị, họa người hại mình.

Thiên hạ bấy giờ lấy bậc năng giả làm gốc, đạo lý này, cho tới bây giờ cậu ta mới hiểu, mất bò mới lo làm chuồng, chỉ mong chớp thời gian không muộn. Cậu ta xem như thiêu huỷ di chỉ, thề với trời, thù tất thảy mọi người cũng sẽ không có việc gì.

Năm đó Hiền Vương thoái vị nhường Thánh Võ Hoàng đế, sáng lập một đoạn giai thoại đường lê sinh huy, châu ngọc phía trước, hẳn cậu ta muốn bắt chước.

Ngữ điệu Hiền Vương vốn nhát gừng, nói đến đây, ông ngừng lại, nhìn sang Thúc Thận Huy.

Ánh nến hắt ra một khuông mặt yên lặng lắng nghe.

Hiền Vương lấy lại bình tĩnh, đứng dậy, đi đến trước mặt y, lấy một bức thư mang đến, khom người hai tay dâng lên.

“Đây là chiếu thư thoái vị, bệ hạ ủy thác ta chuyển lên điện hạ. Bệ hạ nói, Tam hoàng thúc của ngài còn thích hợp làm Hoàng đế thiên hạ này hơn ngài. Về công việc, bao gồm khi nào công bố thiên hạ, tất thảy xin điện hạ định đoạt, ngài ấy đều tuân theo.”

Hiền Vương nâng thư, đợi Thúc Thận Huy tiếp nhận.

Thúc Thận Huy không hề nhúc nhích: “Xin đem vật này trả lại cho bệ hạ, chuyển lời đến bệ hạ, chớ tự coi nhẹ mình. Ta biết năng lực của ngài, trị được thế, tể được dân*.” (cứu giúp)

“Mặt khác, ta cũng có một thứ, Hoàng bá phụ đã tới, phiền ngài trình giúp đến bệ hạ— “

Y đứng dậy, đem một quyển tấu chương đến, “Đây là tấu từ chức mà Đại triều hội Nguyên đán ta từng trình lên, hẳn Hoàng bá phụ còn nhớ lúc ấy bệ hạ chưa chuẩn, thu lại. Cũng vì nhận ân của bệ hạ, cho phép ta nhiếp chính đến nay. Quốc chiến đã thắng, ngôi vị Nhiếp Chính Vương này của ta, đã tới lúc thật sự gỡ bỏ.”

Y lại mang tới một chiếc hộp, đặt xuống mở ra. Hiền Vương nhìn là nhận ra ngay, trong đó đựng đai lưng bằng vàng ngọc chín vòng mà năm xưa Minh Đế trước khi lâm chung tự tay thắt bên hông y. Lúc ấy Hiền Vương ở bên cạnh, chính mắt nhìn thấy toàn bộ quá trình, huynh đệ tình thâm, cảm động bực nào.

“Đai lưng làm tin cho nhiếp chính. Hôm nay ta đã từ chức, vật này, nên trả lại.”

Y từ tốn nói.

Nhưng tâm tình Hiền Vương đã càng thêm ảm đạm.

Trên đời này có một loại người, như mặt trời treo trên trời không, chói mắt bẩm sinh, sáng chói rực rỡ không thể nào che giấu. Nhưng hoa lệ sáng chói này rơi vào mắt người, sẽ trở thành mũi nhọn có thể cắt đến mình.

Người cháu này của ông, chính là như thế.

Y là cháu của Cao Tổ, con của Thánh Võ Hoàng đế, có thiên tư long phượng, biểu lộ như mặt trời, có tài kinh vĩ, năng lực trị thế.

Hôm nay dù tin tức truyền ra rằng đêm qua Thiếu đế chỉ Đôn Ý Thái Hoàng Thái phi giả truyền ngụy chiếu, thiêu huỷ ngay trước mặt bà. Nhưng sự thực thế nào, lòng Hiền Vương biết rõ.

Di chiếu ấy nhất định là thật. Còn trước khi Minh Đế lâm chung, vì sao một mặt thân tặng đai lưng, một mặt để lại di chỉ, Hiền Vương cũng quá rõ — Minh Đế không tin hoàng đệ của mình không có ý đồ dòm ngó hoàng vị.

Đến ngài mà còn vậy, huống chi kẻ khác.

Nhưng mà, từ đầu đến cuối, Hiền Vương thủy chung tin tưởng, đứa cháu này chưa từng có nửa ý niệm chiếm hữu ngôi vị trong điện Tuyên Chính kia. Cho dù là sau khi chém chết Cao Chúc ngay trước mặt Thiếu đế và bá quan, Hiền Vương cũng giữ nguyên nhận định.

Sự kiện hôm đó, ở trong mắt người khác, là Nhiếp Chính Vương trừ bỏ thế lực ủng hộ Thiếu đế, độc tài đại quyền, đối lập triệt để với Thiếu đế.

Nhưng với Hiền Vương, ông như cảm nhận được một loại quyết tuyệt nào đó về số mệnh đi đến chỗ không lối về.

Ông thật sự hy vọng là mình cả nghĩ quá, dự đoán sai lầm.

Hiền Vương đứng khựng một lát, bỗng hoàn hồn, như muốn cứu vãn thứ gì, vội giải thích: “Điện hạ! Bệ hạ làm chuyện gì có lẽ ngài còn chưa biết. Ngài ấy đã hạ lệnh triệu hồi Lưu Hướng, lệnh cậu ấy tiếp chưởng Địa môn ti. Di chiếu tiên đế gì đó, cũng chỉ là do Lý Thái phi giả mạo chỉ dụ vua, bệ hạ đã đốt rụi! Còn Lan Vinh nữa! Bệ hạ đã ban chết, tuy hắn ta may mắn trốn thoát, nhưng mà đền tội là chuyện sớm muộn. Điện hạ, bệ hạ thật sự biết sai rồi, ngài muốn đền bù! Huống chi, điện hạ cũng đã nhận định bệ hạ nên tiếp tục tại vị, thế thì đừng nên tháo gánh nặng sớm như vậy. Hiện giờ dù quốc chiến đã thắng, nhưng triều đình trống rỗng, bệ hạ còn cần điện hạ phụ tá —— “

Hiền Vương đang nói đến đây, nhìn thấy bức chiếu thư thoái vị chính mình mang đến, bỗng đáy lòng rét run, giọng từ từ tiêu mất.

Đêm nay mình đưa tới, nếu thật sự không phải thuật lòng người của đế vương, mà là đến từ thấu hiểu của thiếu niên kia?

Thúc Thận Huy nói: “Bệ hạ lôi lệ phong hành, ta nhìn không sai, tương lai tất thành anh chủ.”

“Điện hạ — “

Thúc Thận Huy mỉm cười nhẹ gật đầu cùng Hiền Vương: “Làm phiền Hoàng bá phụ. Cháu không tiễn.”

Hiền Vương đi rồi, Thúc Thận Huy ngồi lại, lát sau, đi tới chỗ thư phòng cất giữ sa bàn và địa đồ sau tấm màn vải, gỡ dư đồ đã treo trên tường từ rất lâu xuống, cẩn thận xếp ngay ngắn, cất kỹ, rồi phủ một lớp áo chống bụi bọc kín sa bàn, xong xuôi, cuối cùng y nhìn quanh một vòng rồi ra ngoài, quay về tẩm đường, lúc ngang qua Trì Viên trên đường, gió đêm chầm chậm, đưa hương sen thoang thoảng đến.

Y chậm rãi ngừng bước, đứng ở mép nước. Nhớ đến đêm đại hôn với nàng ấy.

Đêm đó cháu trai tìm đến, cô đi từ phòng động phòng ra ngoài, xong chuyện, y đưa cô về, hình như cũng qua con đường tắt này, để làm dịu xấu hổ chung đụng giữa cả hai mà y mở miệng giới thiệu Trì Viên này, bảo khi hoa sen nở, cô có thể đến đây tiêu khiển ngày hè.

Hiện giờ hoa đã nở, nàng đã không còn, đã đi đến vùng trời đất có thể khiến nàng giục ngựa phi nhanh, bẩm sinh thuộc về.

Y đứng đó một lúc lâu, mới tiếp tục quay lại Phồng Chỉ đường, sắp xếp lại mấy trang chữ tập viết mà y đã không xe đi xem lại không biết bao nhiêu lần, mang về lại thư phòng mà ban đầu y phát hiện chúng, thả lại vào vại đựng tranh chữ, trả tất thảy khôi phục lại dáng vẻ ban đầu.

Y bước ra, dừng bước ở đình viện, quay lại, nhìn tẩm đường y từng ở đây cưới nàng lần cuối, quay đi.

Cuối cùng đêm ấy, y gõ cổng phủ công chúa Vĩnh Thái.

Năm ngoái Vĩnh Thái có thai, trước đây không lâu vui đón một bé trai, trong mắt người ngoài, gần đây Trần Luân cũng giao bớt công sự cho thủ hạ, bản thân hiếm khi ra ngoài, hầu như chỉ ở nhà bầu bạn cùng mẹ con công chúa. Vợ chồng chợt thấy đêm y đến, vui vẻ không thôi, chào đón y ở Bảo Hoa tạ tẩm cư nghỉ ngơi ngày hè.

Thúc Thận Huy cười nói: “A tỷ vui đón Lân nhi ta vẫn chưa đến thăm hỏi, đêm nay mạo muội đến nhà, mong không quấy rầy vợ chồng chị.”

Vĩnh Thái công chúa nói: “Cậu nói gì thế? Chị trông cậu đến còn không được! Vừa mới cùng phò mã nói về cậu với Trường nương của ta này. Cậu còn nhớ chứ, năm ngoái chính là ở chỗ này, ta tiễn Vương nữ Tám Bộ, Trường Ninh cũng đến, cậu te te chạy tới đón nàng ấy, đến mà không vào, thành thành thật thật chờ một bên, cả đám bọn ta cười không hết, chưa từng thấy cậu trung thực vậy nha! Thoắt cái, không ngờ đã lâu vậy rồi! Mau vào đây!”

Thúc Thận Huy bước vào, thăm thằng bé trước, nom cực kỳ đáng yêu, vừa ăn no sữa, say sưa ngủ. Y đưa lễ gặp mặt xong, ra ngoài, xoay qua công chúa: “A tỷ à, đêm nay ta mời Tử Tĩnh uống rượu. Rượu ta đã mang cả đến, mong chị thả người.”

Công chúa ngạc nhiên: “Hôm nay là ngày tốt gì vậy, cậu còn chủ động đến mời ổng uống rượu?” Nói xong, bỗng vỗ trán, “Phải rồi nhỉ! Ngày đại hỉ! Trường Ninh đại thắng, sắp khải hoàn, quả là đáng ăn mừng! Các người cứ việc đi đi! Uống một đêm, ta cũng tuyệt đối không nhiều nửa chữ!”

Thúc Thận Huy cười ha hả: “A tỷ nói rất đúng! Là ngày đại hỉ! Nên nâng ly hát vang, không say không nghỉ!”

Công chúa lập tức sai gia nô kê bàn bày rượu bên thủy tạ, xong xuôi, lệnh gia nô rời đi, cười bảo hai người tự nhiên, mình cũng lui ra.

Nàng dừng ở cổng, quay lại thoáng nhìn bóng Thúc Thận Huy, nụ cười vẫn luôn trưng trên mặt cũng biến mất, cau mày, tự tay nhẹ nhàng đóng kín cổng.

Trong thủy tạ, chỉ còn Thúc Thận Huy và Trần Luân ngồi đối diện. Đêm hè, gió mát phất phơ bên mép nước thật khiến người thư thái cả người. Thúc Thận Huy tự tay rót rượu cho Trần Luân, anh ta vội đứng dậy định ngăn cản, lại nghe y cười nói: “Không cần giữ lễ tiết. Anh có còn nhớ năm ngoái đi săn ở hành cung, đêm đó ngủ trại ở ngoài trời, anh và ta đối ẩm tâm tình chứ. Hôm ấy hai ta đã hẹn lại uống. Đêm nay mượn dịp ngày vui phương Bắc đại thắng, ta đến thực hiện.”

Trần Luân khẽ giật mình, không ngờ một lời thuận miệng hôm ấy mà ngài lại nhớ đến đêm nay.

“Lúc trước hai ta có thể tính là ngang hàng, giờ anh đã làm cha, lợi hại hơn ta nhiều, ta kính anh một chén trước!”

Đã lâu không thấy y cao hứng như thế, nghe y nói vậy, Trần Luân cười uống, đáp lễ: “Lần này phương Bắc đại thắng, Vương phi lập được công lao hãn mã, điện hạ cũng công cán to lớn, thần kính điện hạ và Vương phi!”

Thúc Thận Huy nói: “Dẫn tướng sĩ đánh trận là Trường Ninh, giết địch, cũng là Trường Ninh, ta có công gì mà nói. Anh nói nhầm rồi.”

Trần Luân muốn tranh biện, ngó y một cái bèn dừng lại, thuận theo lời y: “Điện hạ nói đúng. Vậy đều là công của Vương phi, chúc mừng điện hạ!”

Thúc Thận Huy lúc này mới mỉm cười uống. Hai người anh tới tôi đi, trong lúc nói cười vô tình đã mang theo ý say. Trần Luân đang tâm sự một bụng, ban nãy không dám mở miệng, đêm nay đích thân y đã đến, rốt cuộc kìm không được hỏi: “Chiến sự đã xong, sau này điện hạ có tính toán gì không?”

Thúc Thận Huy tự rót tự uống, cười nói, “Tất nhiên là nên đi chỗ ta nên đi rồi.”

Trần Luân khựng một lát, rồi ỷ chếnh choáng, nghiến răng thấp giọng: “Điện hạ, chỉ cần điện hạ cần, Trần Luân muôn lần chết không từ! Không dối điện hạ, gần đây tôi đã có chuẩn bị. Không chỉ có tôi, mà trên dưới triều đình, không ít người hiện giờ đều đang đợi điện hạ. Chỉ cần điện hạ một câu, nhất định nhất hô bách ứng! “

Thúc Thận Huy cười cười: “Tử Tĩnh, anh và ta quen biết nhiều năm, nếu ta có ý nghĩ ấy, còn cần đợi đến hôm nay ư? Lời như vậy, sau này không được nhắc nữa.”

“Điện hạ!” Trần Luân còn tính mở miệng, thấy y đặt ly rượu xuống nụ cười biến mất, bèn đứng dậy chậm rãi quỳ xuống, cúi đầu: “Thần có tội, điện hạ thứ tội.”

Thúc Thận Huy lặng thinh một lát, đi đến trước mặt đỡ anh ta dậy: “Tử Tĩnh, trận chiến đã xong, Trần Hành thúc phụ của anh ít lâu nữa sẽ vào triều, từ ngôi vị Thích sứ. Chỗ ta có một phong thư, đợi khi ông ấy tới, anh giúp ta chuyển cho ông ấy.” Y lấy ra bức thư đã viết xong, đưa tới.

Trần Hành là cháu gọi bằng chú họ xa của Trần Luân. Anh từ tốn nhận lấy, thấp giọng đáp: “Điện hạ yên tâm, tôi chắc chắn sẽ chuyển giao.”

Thúc Thận Huy chăm chú nhìn anh, mỉm cười gật đầu: “Thiếu niên kết giao, chân thành cởi mở với nhau, có người bạn như anh, thật quá hân hạnh. Đêm nay con của anh ta đã gặp, rượu còn thiếu, cũng đã uống, ta đã đủ hài lòng, nên đi rồi.”

Y ngừng đoạn, “Bệ hạ đã nhận lời, mọi người sẽ không sao cả, ngài sẽ làm được. Tương lai ngài ấy nhất định là quân chủ đến nơi đến chốn, Đại Ngụy thịnh thế là điều có thể. Sau này anh phải trung thành với ngài, trợ giúp việc lớn quốc gia, cùng hưởng vinh quang.”

“Cáo từ, không cần đưa tiễn.” Y gật đầu mỉm cười, quay người rời đi.

“Điện hạ!”

“Tam đệ!”

Công chúa Vĩnh Thái hết nhịn nổi, ban nãy vẫn còn nép mình vào chỗ tối ngoài cổng, vội chạy ra cùng Trần Luân đuổi theo, lớn tiếng gọi y, thấy y nghe tiếng dừng bước, quay lại mỉm cười ôm quyền xa xa hướng về phía bên này làm lễ bái tạ, ra hiệu hai người dừng bước, lập tức quay người sải bước rời đi, dần mất bóng.

Y đã xong việc không còn lo lắng, chỉ duy nhất còn có lỗi với một người, chính là mẹ y, e rằng sau này không thể tận hiếu dưới gối.

Thư y để lại cho Trần Hành, cầu xin Trần Hành, chiếu cố đến quãng đời còn lại của nàng.

Còn nhớ năm ấy, người hoàng huynh kia trước khi chết phong y làm nhiếp chính, tự y đã nhận lời xong. Không lâu sau y nhận được tin, quãng thời gian ấy mẹ y thường xuyên trắng đêm mất ngủ, thường đi chùa lễ Phật cầu nguyện.

Bà sinh ra trong Vương thất, sau này còn vào cung làm phi, có lẽ lúc ấy bà đã biết, khi mình bước vào con đường này, muốn kết thúc yên lành cần phải có phúc duyên cực lớn — trước đây, y đã chiếm hết phú quý nhân gian, e là đã tiêu hết quà tặng trong định mệnh, sao may mắn có thể có phúc duyên thế được.

Lúc bà còn là Vương nữ, vốn cùng Trần Hành lưỡng tình tương duyệt, thậm chí còn đề cập đến cưới xin. Song chỉ vì phụ hoàng vô ý bắt gặp bà lúc đó, bị rung động bởi vẻ đẹp của bà, vận mệnh của bà đã thay đổi, vào cung làm phi.

Năm ấy, sau khi phụ hoàng qua đời không lâu bà xuất cung quay về quê hương, cũng không phải do chính bà nói ra. Là phụ hoàng y trước khi lâm chung hạ lệnh, lệnh cho bà quay về nơi chốn của bà năm ấy.

Dụng ý của ông, lúc ấy Thúc Thận Huy mười bảy tuổi cũng chưa phải đã hiểu rất rõ. Bởi trước đó y từng bất cẩn khám phá chỗ không vui của phụ hoàng và mẫu thân từ sớm, tưởng tình cảm của phụ hoàng đối với mẫu thân đã lạnh nhạt nên mới biếm bà đuổi ra hoàng cung, không cho phép bà ở lại trong cung ngồi trên ngôi cao cùng Lý Thái phi để trừng trị bà.

Phải sau này, y mới dần dần lĩnh ngộ.

Phụ hoàng tất nhiên cách một người hoàn mỹ rất xa, cả đời duy ngã độc tôn, song trước khi lâm chung đã sắp xếp vậy, dụng ý là gì, không cần nói cũng biết.

Đây không chỉ là tâm nguyện của y, cũng là tâm nguyện của Thánh Võ Hoàng đế phụ hoàng y.

Chỉ mong rằng nàng ấy có thể thông cảm với mình, chớ quá độ bi thương, về sau có người bầu bạn đi khắp thiên hạ, cùng chung quãng đời còn lại.

Trong tẩm đường phủ Công chúa, Trần Luân ôm lấy công chúa Vĩnh Thái đang lặng lẽ rơi lệ.

“Vì sao lại thế chứ? Cậu ấy không thể đi sao?” Nàng nghẹn ngào hỏi chồng mình.

Là chính ngài ấy không muốn đi.

Ngài công cao che chủ. Lúc trước Thiếu đế và ngài không có chỗ nghi ngờ, dĩ nhiên ngài có thể công thành lui thân. Nhưng đã như bây giờ, ngài đã không còn đường lui. Ngài chỉ có hai con đường, hoặc là lên ngôi như theo ý nghĩ của mọi người, hoặc là thành toàn Thiếu đế, người thiếu niên do một tay ngài nâng đỡ đến hôm nay.

Với hiểu biết của Trần Luân về ngài ấy, chỉ cần ngài ấy nhận định thiếu niên kia có thể trở thành một quân chủ Đại Ngụy hợp cách, ngài nhất định sẽ thành toàn.

Còn về phần công chúa nói, đi, là ngài có thể, nếu ngài muốn. Nhưng những người như ngài, cao ngạo như ngài, nếu bảo ngài sống cả đời trong nghi kỵ thì với ngài mà nói, sống không bằng chết.

Ngài ấy càng không muốn bởi vì một mình ngài mà liên luỵ tất cả những người trước giờ từng gặp ngài.

Anh không biết nên mở miệng thế nào để giải thích tất cả cho công chúa.

“Không được! Dù Cẩn Mỹ không muốn, ta cũng phải vào cung! Ta muốn đi gặp bệ hạ! Cái đồ trứng thối không có lương tâm — “

Công chúa Vĩnh Thái đột nhiên rời lồng ngực Trần Luân, lung tung quẹt nước mắt, khoác áo định gọi người.

“Công chúa! Phò mã!”

Đúng lúc này, có tiếng gia nô gọi ngoài tẩm đường. Trần Luân mở cửa, được biết, mới rồi, một người tự xưng là Thích sứ Tịnh Châu Trần Hành đến, nói là có việc gấp cầu kiến.

Anh ta và công chúa liếc mắt nhìn nhau, vội chạy ra ngoài, nhìn thấy một người đàn ông trung niên đầy bụi trần mệt mỏi đứng trong nhà khách, đang nóng lòng bất an đi tới đi lui.

Trần Luân không ngờ, đêm nay Thúc Thận Huy vừa đề cập đến, trùng hợp sao ông ấy lại như từ trên trời rơi xuống.

“Thúc phụ!” Anh ta chào một tiếng, chưa kịp nói gì thêm đã thấy Trần Hành sải bước tới mình.

“Ta vừa vào thành tìm đến phủ Nhiếp Chính Vương, hạ nhân bảo ngài ấy đến chỗ các người.”

“Ngài ấy đâu rồi? Ta nhận Vương phi nhờ vả, có việc gấp tìm ngài ấy!”
 
Chương 114


Trần Luân nhanh chóng được thủ hạ hồi báo, Môn lại cửa Tây bẩm, vào hai khắc trước, Nhiếp Chính Vương đã ra khỏi thành từ đó.

Bên ngoài cửa Tây là một vùng đồng nội rộng lớn, song ngoài mười dặm có một nơi, chùa Hộ Quốc.

Trực giác nói cho anh biết, ngài ấy có thể đi đâu.

Trong hoàng cung, Hiền Vương được lệnh, đem đai lưng, tấu chương và cả chiếu thư thoái vị của Thiếu đế dâng lên toàn bộ.

Trên đường xuất cung, bước chân ông chậm dần, cuối cùng ngừng lại.

Vết rách giữa Thiếu đế và Nhiếp Chính Vương dần sâu, sau khi Cao Chúc chết, triều đình yên tĩnh, chiến sự phương Bắc cũng vững bước thúc đẩy, thắng lợi trong tầm tay. Ông biết đến chừng tin chiến thắng truyền đến, yên tĩnh giữa Thiếu đế và Nhiếp Chính Vương chắc chắn sẽ bị đánh phá, sẽ có một trận đại biến. Ông lo rằng Trần Luân gây tai hoạ, thừa cơ hội Vĩnh Thái sinh con, nghiêm lệnh cậu ta xin nghỉ ở nhà, tránh bị cuốn vào.

Dự cảm của ông quả nhiên thành hiện thực.

Đêm nay Thiếu đế gọi mình đi truyền lời, ông muôn vàn không muốn, nhưng, thiếu niên kia là Hoàng đế, có thể từ chối chăng.

Trước mắt ông hiện ra dáng vẻ một lát trước của Thiếu đế khi nhận được hồi báo. Cậu ta nhìn vật trình lên, cụp mắt, không nói không rằng, đến mình cũng không nhìn ra nửa phần cảm xúc trong lòng cậu ta ngay lúc đó. Nếu trước đây ông từng cảm thấy song không chắc, thì vào thời khắc ấy, ông đã xác định. Lại nhớ tới trong vòng một đêm nhốt Đại Trưởng công chúa, bức giết Lan Vinh, còn xử lý bức di chiếu kia. Đủ loại hành động, hiển nhiên không phải tiến hành lâm thời mà thiếu niên Hoàng đế đã chuẩn bị trước, chỉ nín nhịt không phát mà thôi.

Đâu đấy cũng giờ này năm ngoái, cậu ta còn từng lỗ mãng tự ý xuất cung, ngắn ngủi chưa tới một năm, thay đổi lớn đến thế, làm Hiền Vương có chỗ không rét mà run.

Hoàng vị thật sự có thể đem một người, biến thành một thanh đao có hình người.

Ông cả đời bo bo giữ mình, không nói nửa câu không nên nói, không làm một chuyện không nên làm, có được danh hào Hiền Vương và địa vị được tôn sùng.

Hiền Vương đứng một lát, chậm rãi quay lại.



Thúc Tiển đứng trong thần điện Thái miếu.

Đối diện cậu, là thần vị của Cao tổ, Võ Đế và Minh Đế.

Nơi đã từng khiến cậu cảm thấy âm trầm bức người, là chỗ đáng sợ nhất trong hoàng cung, giờ cậu một thân một mình, đứng thật lâu trong căn đại điện trống trải.

Cậu sớm biết, trong hoàng cung đáng sợ nhất, không phải quỷ thần.

Nhớ lần đầu tiên cậu nhìn thấy di chiếu của Minh Đế, cậu sợ hãi vì phụ hoàng mình tâm cơ. Nhưng giờ đây, sao mình không giống thế chứ.

Là bắt đầu tự bao giờ, đối với ngôi vị, cậu không muốn thua?

Là năm ngoái cậu ra ngoài, nhìn thấy đủ thứ, trận tế lễ kia, vạn người trong quân hô to Hoàng đế bệ hạ, cậu vì đó mà nhiệt huyết sôi trào, sau khi cảm nhận được trách nhiệm, d.ục vọng mãnh liệt muốn đứng trên vạn người cũng thức tỉnh?

Không, có lẽ vì hoàng cung mà cậu phí hết tâm tư chạy ra ngoài nhưng lại mơ thấy mình bị chặn ngoài cửa cung không về được mà bừng tỉnh, trong tiềm thức của cậu trước đó, đã sớm nhận định, đấy là vị trí thuộc về cậu. Xem như lúc ấy cậu đã từng không muốn ngồi, nhưng vị trí này, cũng không thể bị ai thay thế.

Cho tới nay, cậu một bên kháng cự trách nhiệm và áp lực trên người mình từ vị trí này, một bên lại hưởng thụ khoái cảm và thoả mãn mà chí cao vô thượng mang đến.

Cậu và phụ hoàng, bẩm sinh chính là người như thế, nội tâm ích kỷ cực kì, cũng máu lạnh cực kì.

Đã từng không chỉ một lần cậu nghĩ tới, Tam hoàng thúc dốc lòng dạy bảo mình vậy, sao có thể có mưu đồ khác. Nhưng một giọng nói khác lạnh lùng nói cho cậu biết, ngôi vị này tốt vậy, sao trên đời thực sự sẽ có người không động tâm, nếu năm đó, Hiền Vương có năng lực tranh chấp cùng Võ Đế, ông ấy sẽ cam tâm nhường ra ư?

Cậu cứ thế, dao động và do dự mãi đến hôm nay.

Đại quân đánh hạ Nam Đô, giữa cậu và hắn Tam hoàng thúc, cũng nên có kết quả.

Cho đến hôm nay, cậu sớm biết mình thua hoàn toàn, không thể đối kháng ngang hàng với Tam hoàng thúc của cậu.

Cậu cũng biết, giữa triều đình nom như đang yên bình này, có không ít người âm thầm đang chờ Tam hoàng thúc có hành động, sau đó ủng hộ ngài ấy lên ngôi.

Nghe nói có mấy người, đã viết xong chúc biểu.

Cắt cử Hiền Vương làm việc, là canh bạc sau cùng.

Giờ cậu đã thắng, vốn nên thấy may mắn vô cùng, nhưng cậu lại bị nỗi chán chường và mờ mịt trong lòng lại trào ra bao phủ lấy.

Thì ra trên đời này thật sự có người không giống cậu, và phụ hoàng.

Cậu đem giải đai lưng treo bên cạnh trên thần vị của Minh Đế, không nhìn thêm, đi qua bên cạnh, đứng trước thần vị Thánh Võ Hoàng đế.

Cậu hơi ngửa đầu, nhìn thần vị trang nghiêm tĩnh lặng này, một lát sau, lẩm bẩm: “Hoàng tổ phụ, thật sự là con sai rồi sao?”

Sau lưng có tiếng bước chân. Thúc Tiển chậm rãi quay lại, nhìn thấy Hiền Vương, từ trong bóng tối bên ngoài thần điện bước vào điện, cất bước vào trong.

Thúc Tiển thấy ông tới gần, cung kính hành lễ với thần vị của Cao Tổ và Võ Đế xong, xoay qua mình, mở miệng: “Bệ hạ, ngài sai rồi!”

“Năm ấy khi phụ hoàng của ngài còn là Thái tử, hiểu thánh ý, rất sợ bị phế, gắng sức giao hảo cùng Tam hoàng thúc ngài. Năm Tam hoàng thúc ngài mười lăm tuổi, có lần mượn say, bảo cơ thể do cắt thịt tổn thương, ốm yếu nhiều năm, sợ không đảm đương nổi chức vị Thái tử, định giao lại cho Tam hoàng thúc ngài, ngài ấy phát lời thề độc với trời, hết sức phò tá.”

“Nếu bệ hạ cảm thấy chuyện đã quá xưa cũ, thì ngay năm ngoái, bệ hạ tự xuất cung, gây đại loạn trong triều đình, lúc ấy Tam hoàng thúc ngài còn đang Nam tuần, nghe tin chạy về, ngài ấy làm gì nhỉ? Đêm gặp đại thần, trách cứ đám người đang vặn hỏi ở ngay điện Tuyên Chính, giúp ngài đè xuống cục diện, sau đó tìm kiếm khắp nơi. Ở bờ sông Vị phát hiện một xác chết trôi, tuổi tác và dáng người cùng cỡ với bệ hạ. Lúc ấy người người xúc động, đều nhận định chính là bệ hạ. Là Nhiếp Chính Vương đến, phân biệt xong bác bỏ tin. Sau đó cũng là vì ngài ấy nghi ngờ bệ hạ có lẽ đã đi Nhạn Môn, mới giao chuyện triều chính cho ta, trong đêm rời Trường An, cuối cùng mới tìm được bệ hạ trở về.”

“Bệ hạ! Ta đoán vị kia của cung Đôn Ý chắc hẳn đã bảo bệ hạ từ trước, Nhiếp Chính Vương sở dĩ ẩn nhẫn bất động là sợ tổn hại thanh danh. Ba người thành hổ, e rằng sau này bệ hạ cũng sẽ nghĩ thế. Tam hoàng thúc ngài là Nhiếp Chính Vương, phàm nếu y có nửa điểm muốn gây bất lợi cho ngài thì, lúc ấy cơ hội trời cho ấy, sao y không thuận theo lao? Chỉ cần nhận xác chết trôi là bệ hạ, thì y đã có thể danh chính ngôn thuận lên ngôi, cần chi phí công lớn, mượn trận chiến phương Bắc tích công đoạt vị chứ?”

Hiền Vương nói đến đây, quỳ xuống dập đầu với Thúc Tiển: “Bệ hạ! Ngài ấy từng ký thác kỳ vọng vào ngài, không muốn tranh chấp với ngài, càng không muốn vì nghi kỵ của bệ hạ với y mà gây họa đến người khác. Lão thần thẹn chức vị cao, vốn là người vô năng, có điều thực sự không thể ngồi nhìn bệ hạ có ý nghĩ sai lầm, mắc phải sai lầm lớn!”

“Nếu ngài ấy như vậy mà còn không có kết cục yên lành, kẻ sĩ trung thành trong thiên hạ há không thất vọng đau khổ sao? Tướng sĩ vì Đại Ngụy ta dục huyết phấn chiến thu về môn hộ Nhạn Môn, bọn hắn an tâm thế nào đây?”.

Thúc Tiển bình tĩnh nhìn Hiền Vương, ngẩn người, đột nhiên, cậu nhớ tới hôm ấy, sau khi Tam hoàng thúc giết Cao Chúc ở đại điện, từng nói với mình.

Thúc ấy nói mình phạm vào tội chết không tha, xin cho mình ít thời gian, chờ tướng quân Trường Ninh đánh giặc xong, thu về U Yến, thúc hoàn thành nguyện vọng của Thánh Võ Hoàng đế xong, đến chừng đó, chắc chắn sẽ cho mình một giao phó hài lòng.

Thúc Tiển rùng mình, tỉnh táo lại.

Cậu bỗng xoay người, bỏ mặc Hiền Vương, hô người tới, gấp gáp chạy đi.



Thúc Thận Huy vào nửa đêm, đi đến Hộ Quốc tự, vào cổng sau núi.

Trong núi u ám yên tĩnh, chùa chiền được màn đêm bao phủ, bên tai yên lặng như tờ.

Rừng tháp nơi đây, vì chính giữa có xá lợi của cao tăng, gom góp không ít bia đá thư pháp của mọi người nhiều triều đại, thời niên thiếu, lúc còn si mê thư pháp y thường đi vẽ. Cùng di cốt yên giấc bên cạnh, có khi một lần đến mấy ngày, là một chỗ thanh tịnh cực kỳ tốt. Có điều sau này công việc ngày càng bận rộn, rốt cuộc chưa hề đặt chân.

Lúc xưa cô tập viết chữ, y đã từng nghĩ đến, đợi chừng rảnh rỗi sẽ đưa cô cùng đến đây, dạy cô phỏng đoán chỗ tinh diệu của bia sách người đi trước. Nơi đây tuy là vùng đất mai cốt, nhưng với tính tình của cô, hẳn cũng sẽ thích.

Hiện giờ y quay lại, là tình cảnh thế này. Nhưng, nếu ngủ ở nơi đây, cũng xem như là hợp tâm cảnh thời thiếu niên.

Hôm đó giảo sát Cao Vương ở La Hán điện, lời nguyền rủa của Cao Vương như còn rõ ràng bên tai. Ngang qua gần Tàng Kinh Lâu, bước chậm lại, ngừng bước.

Nơi đây, cũng từng là lần đầu tiên y gặp cô, dù lúc ấy chỉ là cô nhìn thấy y, còn y không hề hay biết.

Y đứng lặng bên ngoài Tàng Kinh Lâu chốc lát. Sư chùa theo sau cũng dừng lại.

“Điện hạ muốn đi vào ạ?”

Y thấy vị sư Vô Tình nghe hỏi vội vàng chạy đến, mở cửa. Y chần chừ một lúc, cuối cùng cũng bước vào, giơ ánh nến, dọc theo kệ kinh từ từ bước vào, tưởng tượng ngày đó nàng ấy có thể ẩn thân ở nơi nào mà mình không hề hay biết. Cuối cùng y đi tới chỗ tối góc các Tây Bắc, thấy một xó hẻo lánh, mạng nhện giăng, giữa lưới nhện, một con nhện to lớn ngồi xổm.

Sư tiếc sâu kiến, chưa từng quét dọn mạng nhện trong xó này, lưới này cũng không biết dệt ở đây bao lâu, tầng tầng lớp lớp, cực lớn.

Một trận gió đêm từ góc tối trong Các tràn vào, thổi mạng nhện không ngừng rung động, con côn trùng như tỉnh lại, bắt đầu chạy trên đó.

Thúc Thận Huy đứng trong xó xỉnh, mượn ánh nến không rõ ngắm con nhện bận rộn, nhả tơ dệt lưới như không biết mệt mỏi, dần dần bừng tỉnh, nghe một tràng bước chân dồn dập bên ngoài truyền đến.

“Điện hạ có đó không?” Y nghe một giọng quen thuộc ở ngoài lâu vọng vào.

Cùng một tiếng “két” đẩy cửa, Trần Luân gấp gáp chạy vào, nhìn thấy Thúc Thận Huy cầm nến trong tay đứng trong góc, nhẹ thở phào, chạy vội lên.

“Điện hạ, thúc phụ tôi vừa đến! Vương phi có vật, nhờ ông ấy chuyển giao cho điện hạ!”

Thúc Thận Huy có phần ngơ ngẩn, giương mắt.

Trần Hành cởi chiếc túi tùy thân mang theo, lấy ra một chiếc hộp, hai tay dâng lên.

Thúc Thận Huy hoàn hồn hoàn toàn.

Y không cần mở ra, vừa thấy đã biết bên trong là vật gì. Y hơi kinh ngạc, nhận lấy, thì thấy Trần Hành lại lấy ra một chiếc túi nhỏ khác, dâng lên nói: “Điện hạ, mặt khác Vương phi còn lệnh cho thần truyền giúp ngài ấy một câu.”

Ông đem lời Khương Hàm Nguyên hôm ấy thuật lại một lần.

“…. chờ đến chừng đánh xong Nam Đô, ngài ấy sẽ đi đến điểm đích mà năm ngài ấy mười ba tuổi từng dẫn đường cho một thiếu niên, chờ thiếu niên ấy đến.”

Trong thoáng chốc Thúc Thận Huy kinh ngạc ngẩn cả người, dường như không thể tin vào tai mình, tim y nhảy thình thịch, lát sau tỉnh táo lại, dừng mắt ở chiếc túi nhỏ trong tay Trần Hành.

Nó cực nhỏ, không to hơn bàn tay, dùng vải thô đay dùng để may đồ mùa đông trong quân chịu mài mòn, bám bụi bẩn, nhìn rất cũ kỹ, hẳn đã nhiều năm rồi.

Y bỗng một phát chụp lấy, nhanh chóng mở dây buộc miệng túi, một vật từ bên trong rơi ra, rớt vào lòng bàn tay y.

Ấy là một viên ngọc bội, chất ngọc mát dịu, chạm trổ tinh xảo, xem long văn điêu khắc thì là đồ trang sức mà nam tử hoàng thất Vương tộc mới có tư cách dùng, hình như từng quen thuộc…

Trần Luân thấy y nhìn chằm chằm viên ngọc trong tay, bất động, mới liếc một cái, sửng sốt, chần chừ một lúc rồi bật thốt: “Điện hạ, đây không phải là ngọc bội lúc xưa ngài ở Nhạn Môn ban cho tiểu tốt dẫn đường sao? Thần cũng có một viên, nhớ là nguyên tiêu trong cung ban tặng, sao lại ở chỗ Vương phi?”

Đột nhiên anh nghĩ đến câu Trần Hành vừa nói, chấn kinh vô vàn: “Hẳn Vương phi chính là tiểu tốt năm xưa dẫn đường?”

Hốc mắt Thúc Thận Huy hơi phát nóng, từ từ siết chặt ngọc bội trong tay, lấy lại bình tĩnh, giọng khàn khàn: “Các người ra ngoài cả đi.”
 
Chương 115


Nàng chính là tiểu tốt qua đường năm kia từng dẫn đường cho y.

Đương khi Thúc Thận Huy nghe câu nói của nàng từ miệng Trần Hành, y sực tỉnh. Song y không thể tin được chuyện ấy sẽ xảy ra trên người mình, mãi đến khi y nhìn thấy ngọc bội.

Viên ngọc bội là của y, vừa liếc đã nhận ra được. Dây kết màu vàng tím, trên thêu hai chữ An Nhạc, chỉ mình y sở hữu. Chẳng qua với y mà nói, nó cũng không phải vật trân quý đặc biệt gì, năm đó lúc bắc tuần mang theo trong người, hôm đó chợt nảy ý, lấy ra, ném cho một tiểu binh Nhạn Môn ngẫu nhiên gặp được, tạ ơn dẫn đường.

Sao có thể chứ? Tiểu tốt sau ngày đó y chưa từng nhớ tới, lại chính là nàng ấy.

Y có đức hạnh gì, vật tiện tay ném ra lại khiến nàng cất giấu nhiều năm, mãi đến hôm nay.

Y sao lại may mắn thế, thì ra “hắn” mà nàng say trong mộng từng làm y ghen ghét thật lâu, gã thiếu niên nàng gặp lúc mười ba tuổi mà năm ngoái ở cổ đạo Vân Lạc nàng kể lúc chia tay, lại chính là bản thân y!

Lầu kinh tịch mịch, xung quanh tối đen, chỉ còn một ánh nến lẳng lặng cháy, soi sáng ra một góc lờ mờ, nhện vẫn dệt lưới bên cạnh, y nắm chặt ngọc bội trong lòng bàn tay, trong đốm sáng góc Các Tây Bắc ngồi phịch xuống đất, dựa đầu vào tường, từ từ khép cặp mắt đã đỏ.

Từ rất sớm, năm y mười bảy, bọn họ đã từng gặp nhau.

Người trong lòng nàng ấy, không phải ai khác, chính là y.

Ý niệm này như ngọn sóng, không ngừng từng cơn tuôn ra từ trong lòng y, gột rửa trong ngực y, trong não y, nổi lên dáng vẻ tiểu tốt năm xưa, là dáng vẻ nàng ấy năm mười ba tuổi.

Đen gầy, im lặng, chỉ cao tới lưng ngựa của y, song lại có một đôi mắt trong trẻo, mang theo vài phần thanh tú.

Giờ khi y đem người trong trí nhớ liên hệ tới cô, y không thể tưởng tượng, sau khi cô trưởng thành, đầu ngẩng cao, khí chất thay đổi cực lớn, trong tích tắc y vẫn không sao liên hệ đến tiểu tốt năm xưa, song ngày ấy, sao y lại nhận lầm cô là một thiếu niên?

Còn nhớ lúc ấy, y gọi cô đang ở phía đối diện chạm mặt phải, cô đang đi dọc theo con đường nhỏ đến trước ngựa y, hơi ngẩng lên nhìn y.

Đối mặt với một đôi mắt thanh tú không thể che giấu hết, y lại không nhận ra, người mình gọi tới, là một cô bé.

Y thật sự mù quá mù!

Khoé môi Thúc Thận Huy bất giác lại nhoẻn lên mấy phần, khóe mắt lại càng thêm đỏ.

Y nhớ đến chuyến đi cung Tiên Tuyền, buổi tối cắm trại trong chuyến đi săn, y và Trần Luân nói chuyện, đề cập đến chuyến đi Linh Khâu năm đó, có cả tiểu binh dẫn đường. Lúc ấy cô đang ở phía đối diện, chỉ cách y đống lửa thôi.

Người xưa gần ngay trước mắt, y không mảy may hay biết, thậm chí còn than thở năm tháng làm cho già đi — giờ chỉ nghĩ tới y đã thấy xấu hổ, lúc ấy nàng nghe được, không biết nghĩ thế nào trong lòng. Nhớ đêm đó, y rất có hứng, tâm tình cũng — có lẽ là tâm tình y đang tốt, cũng vì có cô bên cạnh, bởi khi ấy, trong vô thức y đã bị cô hấp dẫn, nom như rằng đang cùng Trần Luân uống rượu nói cười, thật ra là âm thầm để ý cô, khi y và cô chạm mắt, cô luôn nhanh chóng dời mắt đi, sao y không muốn lấy cơ chứ, mà thật ra lúc ấy, y đã là người trong lòng của cô — ngay từ khi cô mười ba tuổi gặp y, từ đó về sau đều chưa từng quên.

Con nhện bầu bạn cùng y, im lặng bận bịu trên đỉnh đầu. Cảm giác ban đầu như thủy triều tấn công qua đi, một cảm giác im ắng hạnh phúc kì dịu, cũng như ánh nến tĩnh mịch nơi xa vắng này, bao phủ lấy cả người y.

Y cứ nhắm mắt thế, ngồi dựa trong xó đầy mạng nhện, không biết bao lâu, cho đến khi ngoài lâu có tiếng động mới truyền đến, dường như Thiếu đế Thúc Tiển cũng đến.

Y không nhúc nhích, khóe môi hơi cong, chậm rãi thả xuống.

Nàng ấy đưa viên ngọc bội ngày xưa, và lời hẹn — không phải cho y, mà là gửi đến thiếu niên kia, thức tỉnh lại ký ức phủ bụi đã lâu của y.

Y mới chợt nhớ, thì ra mình đã từng có quãng đời khí phách tung bay như thế.

Song y ngày hôm nay, đã không phải thiếu niên ngày xưa, càng không thể tìm về trái tim lúc trước. Lòng y đầy mệt mỏi, già cỗi mùa thu, một khuôn mặt chính y cũng chán ghét.

Núi vẫn đẹp như xưa. Thiếu niên hôm qua, hôm nay đã già.

Thúc Thận Huy y, còn có cơ hội làm lại mình mười bảy tuổi ngày xưa, ngựa đạp máu kẻ thù, ngang dọc Thiên Sơn, làm lại thiếu niên có thể làm nàng ấy gặp một lần sẽ chưa từng quên ư?

Ngoài Kinh Lâu, Trần Luân nhìn thấy Thiếu đế gấp gáp chạy vào, vẻ mặt hoảng hốt hỏi thăm Nhiếp Chính Vương, nhất thời kinh ngạc, không biết tự dưng ngài ấy lại tới đây ý định ra sao, bèn nói ngay người đang ở trong Kinh lâu. Anh ta thấy Thiếu đế thở phào một hơi, sải bước phóng di, đẩy cửa, định tiếp tục vào trong, đến chừng nhìn thấy bóng đen ngồi ở góc Các mới dừng lại, cuối cùng, chậm rãi lui ra, đóng cửa.

Cậu đứng yên ngoài cửa thật lâu, cúi đầu, chậm rãi bước đi.

Trời dần sáng. Tiếng chuông sớm réo rắt du dương từ xa truyền đến, dư âm quanh quẩn, chim ngụ trong núi như bị thức tỉnh trong một chớp mắt, tranh nhau líu lo, hình dáng Kinh Lâu giữa sương mù trong ánh ban mai dần trở nên rõ ràng.

Bên trong vẫn không có động tĩnh, không thấy Kỳ Vương xuất hiện.

Trần Luân đứng ngoài gác một đêm, dần dần lo lắng, Trần Hành cũng sốt ruột, thấy trời đã sáng, rốt cuộc kìm không được, định gõ cửa, lúc này, cùng một tiếng kẽo kẹt của trụ cửa, cửa mở, Thúc Thận Huy xuất hiện sau cánh cửa.

Mặt y nom hơi tái nhợt, đáy mắt cũng hiện một lớp tơ máu nhàn nhạt, song ánh mắt lại cực kỳ sáng tỏ, Trần Luân đã lâu không gặp được ánh mắt y từng có như thế.

Anh thở phào nhẹ nhõm.

Thúc Thận Huy khẽ gật đầu với anh ta, chuyển sang Trần Hành, cũng gật đầu cảm tạ rồi cất bước ra ngoài. Y ngang qua Kinh Lâu, đến trước La Hán đường, nhìn thấy dưới nhánh bách già, có bóng hình một thiếu niên.

Nom như cậu ta đã dừng ở nơi này hồi lâu. đang cúi đầu bồi hồi, bỗng ngẩng lên, bắt gặp mình từ Kinh lâu bước ra. Cậu cất bước, chạy sang bên này, lúc gần tới, chậm bước lại, cuối cùng dừng ven đường.

“Tam hoàng thúc…” Thiếu niên lí nhí gọi y, mặt đầy vẻ xấu hổ, há miệng, như có rất nhiều lời muốn nói, song đối đầu với ánh mắt y lại không dám, cúi đầu, ngừng lại.

Thúc Thận Huy đứng một lát, bước ngang qua trước mặt thiếu niên tiếp tục bước đi, đến khi sắp ra ngoài, thiếu niên kia đuổi theo.

“Tam hoàng thúc! Ta sai rồi — ” Cậu đuổi theo mấy bước, cao giọng hô to về phía bóng lưng kia, thả hai gối quỳ xuống đất.

Thúc Thận Huy chậm rãi dừng bước, đứng yên chốc lát, quay lại nhìn thiếu niên đang quỳ gối xa xa sau lưng.

“Quản tốt triều đình. Biên cương Đại Ngụy, ta đi giữ.”

Y cất bước, càng chạy càng nhanh, cuối cùng bóng người biến mất trong sương sớm.

Tờ mờ sáng hôm ấy y rời Trường An thẳng lên phương Bắc, lúc y ra đi, Trường An đang chính hạ, đến gần Nhạn Môn, sương khói trời nồng, thu lặng lẽ chớm.

Hôm nay, y đã tới Nhạn Môn.

Chiến sự phương Bắc đã xong, một phần đội quân đã lùi về, đám tướng sĩ tiền tuyến đầu tiên đã về đến Nhạn Môn. Phàn Kính cũng thừa lệnh Khương Hàm Nguyên, quay về từ Tây Quan, tạm thời tiếp nhận quản việc quân chính.

Những ngày gần đây, tòa biên thành cư dân tổng cộng chưa đến một vạn này náo nhiệt như ngày lễ, bầu không khí vui vẻ tốt lành.

Đúng vậy, đã bao nhiêu năm rồi, nơi đây vẫn luôn là tuyến đầu giằng co giữa Hoàng đình Trung Nguyên và cường địch phương Bắc. Loạn chiến đối với những người dân ở đây mà nói đã thành một phần của cuộc sống. Gia viên bị lửa chiến thiêu hủy lần lượt được xây dựng, như không nhìn thấy được điểm tận cùng của sinh ly tử biệt. Người có thể đi đều đã đi, đi không được, chỉ có thể chịu đựng.

Từ rày về sau, nơi đây không còn là vùng biên cương, không còn chiến loạn, không cần lo bị cướp bóc. Họ có thể yên lòng dựng chuồng heo cùng lều dê, đến chỗ xa hơn khai khẩn thêm ruộng đồng, cưới vợ sinh con dưỡng cái, trải qua ngày tháng bình an, sao không mừng như điên được? Quân sĩ đang đi trên đường, cũng bị dân chúng giữ chặt, có người đưa lên nhà mình ăn uống đóng giày mới, có kẻ nghe ngóng ngày nào tướng quân Trường Ninh sẽ trở về.

Thúc Thận Huy đội nón lá, người mặc thường phục, đi giữa người qua đường, không chút thu hút, không ai để ý đến y.

Y muốn đi tìm Phàn Kính, hỏi vị trí cụ thể hiện giờ của Khương Hàm Nguyên, lúc sắp đến chỗ trú đóng của Nhạn Môn, ngang qua đầu phố, nghe binh sĩ đang kể với người chung quanh về tướng ninh Trường Ninh túc trí đa mưu, xung phong đi đầu trên chiến trường thế nào, kìm lòng không đặng, dừng bước.

Tài ăn nói của tay binh sĩ rất tốt, kể sinh động như thật, làm người thấy như lâm vào cảnh thật, như nhìn thấy thiên quân vạn mã loạn chiến, làn tên mũi giáo không dứt, tướng quân Trường Ninh cưỡi ngựa đi đầu, dũng cảm tiến tới. Người chung quanh nghe đến cả kinh, khi thì mướt mồ hôi cho nữ tướng quân, khi thì nhiệt huyết sôi trào, nghe tới đoạn cuối cùng công phá trận địa, đoạt được Nam đô, bèn cao giọng reo hò lớn tiếng như sấm vỗ khen hay.

Thúc Thận Huy mỉm cười dưới nón lá, cảm thấy vinh yên thật lớn.

Dù trong lòng y từ đầu đến giờ hơi có phần sợ hãi, thậm chí rằng, càng đến gần nàng ấy y càng cảm thấy e ngại không dám gặp. Biết mình bây giờ không phải chỗ nàng yêu, càng không xứng với nàng ấy. Nhưng mà mảnh đất dưới chân đã cách nàng ấy không xa, khát vọng muốn lại gần nàng đột nhiên càng thêm vội vàng.

Dù chỉ là có thể nhìn nàng từ xa xa, y cũng đủ hài lòng.

Lệnh sở ngay phía trước mặt.

Y cất bước, đang định đi tiếp, thì một thớt khoái mã từ sau vụt đến, trên ngựa hẳn là từ tiền tuyến đường xa chạy tới, chở ống tin, cao giọng quát người qua đường nhường đường, phi nhanh đến trước cổng lệnh sở, ngựa chưa kịp dừng hẳn thì người đã phóng xuống, vội vàng chạy vào trong.

Thúc Thận Huy ngẩng lên, nhìn tên lệnh binh vừa chạy vào sau cổng, ý cười dần biến mất.

Y có một dự cảm, có lẽ đã xảy ra chuyện ngoài dự kiến.

Y không do dự, lập tức cất bước vội đi theo.
 
Chương 116


Lệnh binh đưa tới một tin đột phát.

Sí Thư không cam lòng thất bại, trên đường lùi về phương Bắc, bắt được liên lạc với Tả Xương Vương đã quay lại lãnh địa từ trước, lấy kế hoạch vực dậy mai sau cùng trị làm điều kiện điều tạm binh mã, thừa lúc quân Ngụy không sẵn sàng, giết ngược trở về*.

(*) sát hồi mã thương: quay đầu lại bất ngờ đâm ngọn thương vào kẻ địch

Mục tiêu của gã không phải đoạt lại Nam Đô, cũng không phải U Yến. Vị Hoàng đế Bắc Địch này dù từng nổi cơn tam bành vì thua trận, song cuồng nộ qua đi, đầu gã cũng không hề hoàn toàn bị ngọn lửa tức giận làm cho mê man. Hiện giờ binh lực quân Ngụy mạnh hơn, cộng thêm vừa thắng trận đại chiến, nhuệ khí đang không thể đỡ, còn mình binh bại như núi đổ, dù có điều tạm binh mã thì trong ngắn hạn muốn tranh đoạt lại vùng đất U Yến không khác gì kẻ si nói mộng, mà nếu như U Yến không nằm trong tay thì dẫu có đoạt lại Nam Đô thì cũng không phải vùng đất vững chắc lâu dài, không có bất kỳ ý nghĩa thực tế nào.

Ở phía Bắc Nam Đô cách mấy trăm dặm có một đầm nước lớn vắt ngang từ Đông sang Tây, vào mấy thập niên trước khi Bắc Địch chưa xuôi Nam đóng đô, mấy trăm năm qua, nơi đây luôn được coi là chỗ Giới hà (sông giáp ranh) giữa người Địch và hoàng triều Trung Nguyên, song phương luôn đứt quãng tranh đoạt quanh vùng ranh giới, từ rất lâu Hoàng triều Trung Nguyên đã xây dựng cứ điểm dọc theo hai bên bờ Giới Hà, về sau dần dần hình thành rất nhiều quân trấn, trong đó hai quân trấn Chấn Minh, Tây Nhu có quy mô lớn nhất, vị trí cũng mấu chốt nhất.

Mục tiêu của Sí Thư là muốn giữ vững Giới hà, việc này còn liên quan đến tôn nghiêm sau cùng của gã — U Yến Nam Đô vốn không thuộc cả về người Địch, mất thì mất rồi, nhưng vùng đất phía Bắc Giới hà lại là chỗ tổ tiên người Địch yên nghỉ, nếu ngay cả một tấc vuông cuối cùng này cũng không giữ được thì dù gã có quay trở lại Bắc Đình, cũng e là không còn cách nào phục chúng. Mà tình cảnh hiện giờ của Tả Xương Vương so với gã cũng chả tốt là bao. Nói trước đây là vì một ý nghĩ sai lầm của lão trực tiếp dẫn đến tổn thất U Yến là chưa đủ. Người Địch trọng kẻ vũ dũng, xem thường hèn yếu, mấy mươi năm qua, dù rằng quý tộc và quân đội Nam Đô vì hưởng lạc mà có chỗ buông thả, song tục lệ vẫn thế. Sau khi trốn về lãnh địa, lão liền bị đám quý tộc còn lại âm thầm chế nhạo, danh dự tổn hao rất nhiều, giờ nhận tin từ Sí Thư, sau khi cân nhắc, để cứu lấy danh dự, cũng là vì suy tính đến tương lai, bèn đồng ý cho mượn binh.

Cứ thế, sau khi vượt qua Giới hà chạy tiếp vài trăm dặm, Sí Thư một lần nữa tổ chức binh mã, quay lại tập kích, giết ngược.

Tin gửi đến quân Nhạn Môn đến từ Nam Đô.

Sau khi đánh hạ Nam Đô, Khương Hàm Nguyên càn quét biên cảnh, đánh thẳng đến gần vùng Giới hà, biết giặc cùng đường chớ đuổi mới dừng truy kích. Thời gian va chạm với Sí Thư không ít, đối với tính cách kẻ địch cũng có chỗ hiểu biết, biết gã phàm là có nửa điểm khả năng cũng sẽ không dễ nhận thua, bèn cẩn thận đề phòng, cô đích thân ở lại Giới hà tiếp tục phòng thủ, quan sát động tĩnh, lúc nhận được tin khẩn cấp thám tử đưa đến, cô đang dẫn một đội binh mã trú tại Tây Nhu Tắc phía Bắc Giới hà, phái người phát ra cấp báo, lệnh lập tức điều quân đến giúp, rồi lệnh Chu Khánh đề phòng ở Chấn Minh Tắc, một cứ điểm quan trọng khác ở phía Nam Giới hà, đồng thời gửi thư về Nhạn Môn, lệnh cho Phàn Kính chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh mọi lúc, phòng vạn nhất.

Phàn Kính mới từ Tây Quan trở về không lâu, ngày ngày bề bộn nhiều việc quân, hôm nay cũng không ngoại lệ, nhận được tin chiến sự lại lên ở Lệnh sở, đang hạ lệnh triệu đủ sĩ quan cấp cao truyền đạt lệnh cấp trên, thì binh sĩ giữ cửa vào thông báo rằng có người tìm ông, bước ra, nhìn thấy một người mặc thường phục đội nón lá đứng bên ngoài, dáng vẻ nom quen quen, đợi đến gần nhận ra, kinh ngạc không thôi: “Điện hạ?”

Ông vội sải bước ra đón.

Cùng ngày, Thúc Thận Huy cầm lộ bài thông hành Nhạn Môn phát ra tiếp tục tiến ra phương Bắc.

Lúc xảy ra trận chiến tám Bộ, Khương Hàm Nguyên dẫn đội khinh kỵ chạy đường vòng quanh co, còn phải ngày nằm đêm đi, cần tầm mười ngày mới đến được U Châu. Hiện giờ vùng đất U Yến đã hoàn toàn thuộc về Đại Ngụy, từ Nhạn Môn đến Nam Đô có thể đi thẳng, ngựa y không dừng vó đi cả ngày lẫn đêm, chưa tới ba bốn ngày đã tới quận Yến, không hề ngừng nghỉ, đổi ngựa đi tiếp đến Nam Đô, nhanh chóng đến Chấn Minh Tắc nằm ở hạ lưu bờ Nam.

Y muốn tiếp tục đi Tây Nhu Tắc.

Hôm y đến nơi, dọc theo đoạn Giới hà này, chiến sự đã đánh. Chấn Minh Tắc là cứ điểm quan trọng vùng hạ du, cuộc chiến tranh đoạt càng thêm khí thế hừng hực.

Mấy hôm trước, một đội kỵ binh người Địch tầm mấy vạn khí thế hung hăng giết tới, lội qua đoạn ranh giới sông nước sâu đến bụng ngựa, tấn công mãnh liệt vào Chấn Minh Tắc.

Đội kỵ binh người Địch này có chủ lực đến từ dưới trướng Tả Xương Vương. Khác với đội quân bị đánh bại nhiều lần mà có chỗ e sợ trước đây, bọn hắn chưa từng nghênh chiến đã lui hết về phương Bắc, vẫn cảm thấy không phục, hiện giờ có cơ hội, từng tên đỏ mắt, ước gì không thể một hơi giết về quận Yến rửa sạch nhục nhã, để tiện bề trước mặt khoe quân công. Chu Khánh biết Địch kỵ xâm phạm khó đối phó, không dám xem thường, trước đó đã chia ra dựng công sự ở ba mặt Bắc Tây Đông của Chấn Minh Tắc, đồng thời bố trí binh lực ứng chiến. Ông phán đoán binh Địch sẽ theo trọng điểm tiến công hướng Bắc, đích thân đóng giữ, để thủ hạ là tướng tài đắc lực chia ra đề phòng hai mặt. Bố trí ấy vốn không có chỗ sơ suất, mấy ngày liên tiếp, thủ giữ Chấn Minh Tắc kín kẽ không một khe hở, quân Địch đến đám nào, ăn đám ấy.

Nào ngờ ba hôm trước, thời tiết chợt thay đổi, mưa như trút nước, nước sông chảy xiết, mực nước tăng vọt tràn bờ, phá hủy công sự bờ Tây Chấn Minh tắc. Đến khi Chu Khánh nhận được tin biết không ổn thì đã trễ, toàn bộ chủ lực còn thừa lại của quân Địch dồn về phía bờ Tây Tắc, phát động tấn công mạnh mẽ, Chu Khánh lãnh binh đến tiếp ứng. Bình thường nửa ngày đã đến, song hiện giờ đường đầy bùn lầy, đất lồi lõm tích đầy nước mưa, vó ngựa và hai chân binh sĩ lún sâu trong bùn, bước tiến gặp trở ngại cực lớn, chí ít một ngày mới đến.

Quân trú đóng Tây Tắc ứng đối bỗng gặp một đội quân Địch gấp bội phe mình, viên phó tướng biết trách nhiệm trọng đại — nếu quân Địch đánh ra lỗ hổng từ chỗ mình mà xâm nhập, từ phía sau bọc đánh, thì toàn bộ quân trấn Chấn Minh đều lâm vào nguy hiểm — trên người hắn dù bị thương nhiều chỗ cũng không dám nhượng bộ nửa bước, dẫn binh sĩ anh dũng thủ Tắc. Đương lúc chém giết, ngựa bị tên lạc bắn ngã, không kịp xoay xở, ngã ngựa, lại họa vô đơn chí, một chân bị vó ngựa đạp trúng gãy ngay tại chỗ, trong chốc lát không thể đứng dậy, một quân lính và sĩ quan người Địch đang vây công hắn bắt lấy cơ hội, một trước một sau, hung tợn đánh tới. Hắn té ngửa ra đất, chịu đựng cơn đau kịch liệt, chém ngã tên binh Địch trước người, cùng lúc đó, một thanh đao khác cũng đã từ sau rơi xuống đầu, hắn hết lực tránh. Bên cạnh, binh lính của hắn cũng đang bận chém giết phần mình, tình thế gian nan, chủ tướng rơi vào hiểm cảnh cũng không cách nào thoát thân cứu giúp.

Lúc hắn sắp bỏ mạng dưới đao, một thớt chiến mã như chớp như ảnh, từ góc nghiêng bên cạnh xông tới, người lập tức một kiếm gọt đến, kiếm khí lướt gió, bàn tay bao gồm cả cổ tay cầm đao của người trên đỉnh đầu bị chặt đứt, rớt xuống đất.

Cùng với tiếng kêu thảm thiết của viên sĩ quan người Địch và mưa máu xối xả đầu đầy, viên phó tướng trở về từ cõi chết, mờ mịt ngẩng đầu, một khuôn mặt thanh niên anh tuấn cúi người, chụp lấy mình. Hắn được kéo lên lưng ngựa, người kia lại giết ra trận địa, buông hắn ra.

Viên phó tướng không nhận ra người tới, nhưng đã cứu mình chắc chắn là bạn không phải địch, hoàn hồn ngẩng nhìn trận chiến mình phụ trách phía trước, lo rằng mình không ở đấy lòng quân bất ổn, không màng tới cái chân bị gãy, vùng vẫy định đứng dậy quay lại, lại bị người này cản trở, nghe y nói một câu, không khỏi sáng mắt, vui đến phát cuồng, thu hết hơi, hướng phía trước la lớn: “Các tướng sĩ nghe đây! Hắn là do Chu Tướng quân phái tới đưa tin! Tướng quân đang nhanh chóng lãnh binh đến! Giết cả cho ta, đứng vững —” hô xong, người thả lỏng, không gượng được nữa, hôn mê bất tỉnh.

Tướng sĩ lấy ít địch nhiều, lọt vào vòng vây điên cuồng vốn đang dần hết chống đỡ nổi, đột nhiên nghe tin, lại thấy thanh niên mới cứu chủ tướng đã phóng ngựa giết ngược trên trận địa, đón đầu quân Địch, được cổ vũ, tinh thần cực kỳ hưng phấn, cắn răng đỏ mắt ra sức chém giết theo.

Đương khi Chu Khánh lãnh binh rốt cuộc đuổi tới, cục diện đã đảo ngược, đường lui của binh Địch bị cơn hồng thủy cắt đứt, vô số kẻ nhảy xuống đầm, chết đuối. Chiến sự kết thúc, ông nghe có người tự xưng là do mình phái tới, chẳng những cứu được viên phó tướng thủ hạ đắc lực của ông, về sau còn bắn chết chủ tướng quân Địch, ổn định cục diện, đang chờ mình, mà hình như trong ngàn quân chẳng ai nhận ra, bèn không khỏi hiếu kì cho người dẫn đi gặp. Đến nơi, thấy người kia cả người nhuốm máu, đứng bên bờ ranh sông hồng thủy đang tràn, ngắm mây đen trên kia bày ra trận hồng thủy mà nhíu mày, vẻ mặt nom như đang thầm lo lắng.

“Ngươi là ai? Công lao lần này không nhỏ! Xưng tên đi, bổn tướng quân thay ngươi đến thỉnh công trước mặt tướng quân Trường Ninh— ” Chu Khánh cười ha hả, sải bước tới người kia, chợt khựng lại, trợn to mắt.

“Điện hạ!”

“Mạt tướng không biết là Nhiếp Chính Vương điện hạ đến! Điện hạ thứ tội!” Ông cuống quýt đổi giọng, bước lên thi lễ chào hỏi.

Thúc Thận Huy xoay người, bước tới lệnh cho Chu Khánh đứng dậy: “Nay ta đã không còn là Nhiếp Chính Vương, không cần đa lễ.”

Binh sĩ xung quanh vừa mới thấy y khí độ không tầm thường, vẫn đang tò mò dò xét, nhìn thấy cảnh này đều kinh ngạc ngớ người.

Nhiếp Chính Vương chính là phu quân của tướng quân Trường Ninh, trong quân không ai không biết, đợi tỉnh táo lại vội vàng quỳ cả theo.

Thúc Thận Huy lệnh mọi người đứng dậy cả.

Chu Khánh mừng rỡ không thôi: “Sao điện hạ lại đến đây?”

Thúc Thận Huy hỏi thăm Khương Hàm Nguyên, Chu Khánh vội nói: “Mấy hôm trước Tướng quân vẫn ở Tây Nhu Tắc, Sí Thư dẫn binh đánh lén, nhưng vấn đề không lớn, viện quân phát ra hẳn giờ này đã kịp đuổi tới, xin điện hạ yên tâm —”.

Đột nhiên, ông ngừng bặt, đưa mắt nhìn mực nước đầm bên cạnh đang dâng cao mấy ngày nay, biến sắc.

Tây Nhu Tắc ở vùng thượng du bờ bên kia, cách Chấn Minh Tắc mấy trăm dặm, bình thường phát binh qua, bốn năm ngày là đến, nhưng lần này gặp lũ thượng du, hai bên bờ gần như không có chỗ đặt chân, con đường đội quân vừa xuất phát nhiều ngày trước bị chặn, rốt cuộc chỉ đuổi tới chỗ vốn là bến đò; phát hiện cầu nổi đã bị lũ đánh gãy, bị ngăn lại ở bờ Nam, không cách nào qua sông.

Đương khi Thúc Thận Huy đuổi tới bến đò, nhìn nước sông vẩn đục mang theo cây cối và xác động vật từ thượng du lao xuống, tuôn chảy không dứt, sắc mặt cực kỳ khó coi.

Phụ trách dẫn đầu cánh viện quân chạy tới Tây Nhu Tắc là Trương Mật.

Mấy ngày qua, vì để qua sông, ông đã thử mọi cách có thể nghĩ ra, song đều phí công. Ông nhìn Thúc Thận Huy đứng nghiêm bất động bên bờ, quỳ xuống thỉnh tội: “Mạt tướng vô năng! Mạt tướng đã nhiều lần thử lệnh cho tướng sĩ nối đuôi nhau xuống nước, nhưng căn bản chân đứng không vững, lòng sông cực sâu, nước lại xiết, nếu không phải đoán trước buộc thừng trên người, người cũng muốn bị cuốn đi —”.

Thúc Thận Huy nhìn bờ bên kia, đứng yên, bóng lưng không nhúc nhích.

Chân trời nơi xa xa âm u, quân trấn Tây Nhu Tắc ở cách bờ Bắc mấy chục dặm, từ đây không thể nhìn thấy, nhưng ở đó tổng cộng chỉ có không đến hai ngàn binh mã, mà Sí Thư lại là có chuẩn bị mà đến, tập kích quân trấn, tình huống bên ấy hiện giờ thế nào là có thể nghĩ, bị kẹt là tất nhiên, thậm chí, khả năng xấu nhất…

Trương Mật không dám tưởng tượng, nghiến răng, bỗng đứng bật dậy, quay đầu lớn tiếng gọi binh cảm tử, đang định lệnh người kết thành bức tường lần nữa xuống nước, chợt thấy Thúc Thận Huy sai người nhấc một khúc gỗ tròn vốn định dùng để dựng cầu nổi, lệnh đẩy xuống nước. Ban đầu Trương Mật không rõ cho lắm, mà không dám hỏi nhiều, chỉ bảo binh sĩ làm theo. Lúc thả khúc gỗ xuống nước, ngay lập tức đã bị dòng lũ ập tới lăn lộn không ngừng, sóng cuộn trào mãnh liệt, chìm nổi, xoay chuyển mòng mòng.

“Điện hạ?” Ông vẫn chưa hiểu ra dụng ý. Muốn dựa vào khúc gỗ nổi để qua sông vốn là chuyện không thể nào. Vừa hỏi, Thúc Thận Huy đã thả người nhảy xuống nước, bám vào khúc gỗ nổi, ngay lập tức, người theo khúc gỗ bị đánh ngược trở lại trên mặt nước, trôi vào lòng sông.

“Điện hạ!”

Trương Mật và bọn Chu Khanh vừa tới cuối cùng đã hiểu ý đồ của y.

Mặt sông sóng lớn mãnh liệt, nhưng ở đáy nước, hẳn dòng nước sẽ tương đối nhẹ nhàng. Y đang muốn dựa vào sức mình, lặn xuống nước qua sông.

Thật là một hành động nguy hiểm biết chừng nào, nước sông vẩn đục như bùn, dưới nước không thể thấy gì, chưa nói còn có mạch nước ngầm và xoáy nước, chỉ không cẩn thận một tí e sẽ có bất trắc.

Đám người nhìn thấy y vừa xuống nước, lập tức theo khúc gỗ bị sóng ập tới đánh chìm, trong tích tắc không nổi lên, không khỏi hoảng sợ, cao giọng la to, một lát sau, nổi lại lên mặt nước, đã ngoài mấy trượng.

“Điện hạ! Điện hạ!”

Trương Mật Chu Khánh dọc theo bờ sông đuổi theo một đoạn, chỉ thấy khúc gỗ trong mặt nước rộng lớn chìm nổi bao nhiêu bận, y cũng chìm nổi từng ấy bận theo.

Lần cuối cùng, khúc gỗ nổi lên lần nữa nhưng không thấy y.

“Điện hạ —— “

Trương Mật Chu Khánh sợ đến hồn phi phách tán, quỳ gối xuống đất, trợn to mắt nhìn đầm nước đục phía trước, nhưng chỉ thấy mênh mông, nào còn có thể tìm được bóng dáng của y?



Sau khi Khương Hàm Nguyên phái người đưa tin, bèn đụng phải đại đội binh mã của Sí Thư tập kích đến. Cô dẫn theo hai ngàn binh sĩ lui về trấn ở một tòa Tắc lũy hoang phế từ lâu, chia lớp phòng thủ cổng vào.

Theo cô tính toán, chỉ cần phòng thủ bốn năm ngày, đội quân sẽ có thể đến. Nhưng nào ngờ mãi không thấy. Cô đoán mưa to mấy ngày liên tiếp gây lũ, cản lối giao thông. Hiện tại, cô và tướng sĩ thủ hạ đã bị nhốt ở đây bảy ngày bảy đêm, cũng đã huyết chiến bảy ngày bảy đêm. Mới chạng vạng tối nay, sau nửa ngày gian nan huyết chiến, cuối cùng đã một lần nữa đánh lui tiến công bên ngoài, mấy lối vào đều chất đầy xác binh Địch bị giết.

Không khí trong Tắc lũy đầy mùi hôi thối của xác rữa hòa cùng máu tanh, nghe đủ muốn nôn mửa. Nhưng với Khương Hàm Nguyên và tướng sĩ đã chiến đấu nhiều ngày thì sớm đã không còn cảm giác. Vấn đề lớn nhất họ sắp gặp phải, không phari là trận huyết chiến tiếp đến, mà nước bẩn có thể uống được sắp không còn, lương khô có thể no bụng, cũng tiêu hao hầu hết. Bị nhốt thêm đôi ngày nữa, không cần bên ngoài đánh vào, nơi này đã hoàn toàn mất đi sức chiến đấu.

Ngoài Tắc lũy, mùi thịt thơm binh Địch nướng thoảng bay vào. Các binh sĩ không một ai nói chuyện, có người im lặng lung tung xử lý vết thương trên người, có kẻ ngồi dựa một góc tường khuất nhắm mắt gà gật, còn có người thấp giọng nhai miếng lương khô cuối cùng mình còn sót lại, lầm bầm nguyền rủa kẻ địch bên ngoài.

Khương Hàm Nguyên bỗng đứng lên, hỏi binh lính chung quanh: “Vì sao mọi người lại đầu quân?”

Các binh sĩ ngẩn ra nhìn cô, mới đầu nhìn lẫn nhau, chẳng ai mở miệng. Khương Hàm Nguyên chỉ Trương Tuấn ngồi một mình trên đất gần đó: “Cậu nói trước đi.”

Trương Tuấn ngập ngừng, “Người nhà tôi chết sạch, để có bữa cơm ăn mới dấn thân vào quân ngũ.”

Khương Hàm Nguyên gật đầu, hỏi một sĩ binh cạnh cậu: “Còn cậu?”

Binh sĩ kia cười hắc hắc: “Tôi muốn dành ít tiền, mai này về nhà có thể cưới cô vợ trẻ mập.”

Xung quanh đều cười nhạo ra tiếng, binh sĩ sờ đầu không phục: “Bọn mi cười cái gì? Ai trong bọn mi dám nói không nghĩ tới đi?”

Tiếng cười càng lớn, bầu không khí đang ngột ngạt cũng trở nên thư thái hơn. Ngay sau đó, binh sĩ bắt đầu cướp lời nói. Người thì muốn kiến công lập nghiệp, kẻ muốn rạng rỡ tổ tông, dễ bề khoe trước mặt hàng xóm. Lao nhao, gì cũng nói.

Khương Hàm Nguyên gật đầu cười nói: “Cho dù mục đích đầu quân của các ngươi là gì, mỗi người các ngươi đều là hảo nhi lang, chiến sự sắp kết thúc, các ngươi sắp có thể về nhà, cưới vợ sinh con dưỡng cái, xây nhà làm ruộng, triển vọng biết chừng nào nhỉ!”

Giọng cô vừa buông, các binh sĩ đều ngẩn người mê mẩn. Nhưng ngay sau đó, nhớ đến hiện trạng, bầu không khí lại chùng xuống, không ai lên tiếng.

Khương Hàm Nguyên đổi chủ đề: “Đêm nay, có một cơ hội có thể phá vây, dù khó song còn tốt hơn là bị vây chết ở chỗ này. Giờ các ngươi tranh thủ ăn chút gì, nghỉ ngơi đi, dưỡng tốt tinh thần, đến chừng đó nghe lệnh, chuẩn bị phá vây!”

Nỗi sợ của đám binh sĩ là vô vọng, cuối cùng chết khốn ở đây. Chỉ cần có hy vọng phá vây, khổ sở chẳng ai e ngại. Huống hồ, trước mặt họ là viên nữ tướng cực kỳ tín nhiệm. Ngài đã nói vậy thì nhất định sẽ có cơ hội.

Trong ánh lửa ảm đạm, từng một gương mặt, trong thoáng chốc hưng phấn lên, quét đi mệt mỏi và chán chường trước đó.

Khương Hàm Nguyên nhìn quanh một vòng, cuối cùng ra hiệu Dương Hổ Thôi Lâu theo mình đến một góc tối không người.

“Vừa rồi Tướng quân có ý gì? Cơ hội phá vây ở đâu?” Dương Hổ không chờ kịp hỏi.

Khương Hàm Nguyên nói: “Ngày mai sẽ hết lương thực, hết nước uống, tên cũng sắp hết rồi, e rằng trong phút chốc viện quân không thể đến kịp. Sí Thư hận ta tận xương, đêm nay hai cậu tổ chức binh sĩ, dùng tiễn trận mở đường cho ta, ta sẽ đoạt ngựa trùng sát ra ngoài, chắc chắn Sí Thư sẽ phái trọng binh đuổi theo ta, đến chừng đó hai cậu dẫn quân thừa cơ phá vây. Lúc trước có thăm dò địa hình, ở hướng Tây Bắc có một vùng đầm cỏ lau, các cậu dẫn người đến đó. Mấy hôm nay mưa đã ngớt, chỉ cần kiên trì thêm dăm ba ngày, đợi nước lũ hơi ổn định, viện quân chắc chắn sẽ đến.”

Sắc mặt cô bình tĩnh, nhả lời không nhanh không chậm, vẻ đã nghĩ sâu tính kỹ.

Lời còn chưa dứt, Dương Hổ Thôi Lâu đã giãy nãy: “Tuyệt đối không thể!”

Ý cô sao cả hai không rõ chứ? Sao đồng ý được?

Khương Hàm Nguyên nhìn Dương Hổ Thôi Lâu: “Nếu biện pháp này của ta là không được, vậy thì các cậu có biện pháp tốt hơn chăng?”

Hai người lặng thinh.

Tình hình nơi này thế nào bọn hắn quá rõ. Biết rằng nếu dùng cách của nữ tướng quân, có lẽ còn có thể dẫn người giết mở một đường máu, bằng không thì…

“Kéo dài nữa, toàn bộ sẽ chết.” Cô lạnh lùng nói.

“Vận may không thể lúc nào cũng ở bên ta được. Lúc này chính là lúc trời muốn tuyệt đường ta, ta không thể nhận mệnh được! Tâm nguyện các binh sĩ các cậu cũng nghe cả rồi đấy. Họ tin tưởng vào cha ta, tin tưởng ta, tình nguyện đi theo cha con họ Khương huyết chiến đến cùng, hiện giờ sắp có thể thực hiện tâm nguyện, về lại quê hương sinh sống, rõ ràng còn có cơ hội có thể giết ra ngoài, dựa vào đâu lại bắt họ chết chung cùng ta ở chỗ này chứ?”

“Tôi theo tướng quân!” Dương Hổ không chút do dự nói.

Khương Hàm Nguyên thản nhiên nói: “Một mình Thôi Lâu e là không thể dẫn đội phá vây, cậu và cậu ấy phải phối hợp lẫn nhau, dẫn đội riêng mình! Đây là mệnh lệnh! Ta không cần người đi cùng, thêm một người là thêm một phần vướng víu.”

“Tướng quân!” Ánh nước lóe ra trong mắt Dương Hổ, run giọng gọi. Khương Hàm Nguyên thảng như chẳng nghe thấy, xoay sang Thôi Lâu đang im lặng.

Cậu chậm rãi, quỳ xuống trước cô, dập đầu liên tục, trầm giọng nói: “Mạt tướng nhất định dốc hết toàn lực, không phụ tướng quân nhờ vả!”

Cô lại nhìn sang Dương Hổ, Dương Hổ nắm chặt quyền, cắn răng, rồi cũng từ từ quỳ xuống.

Khương Hàm Nguyên ra hiệu hai người đứng dậy, vạch ra trên mặt đất tuyến đường mình muốn trùng sát ra, và tuyến đường hai người họ sẽ phá vây. Xong xuôi, lệnh cho cả hai tiến hành sắp xếp cùng đám binh sĩ.

Dương Hổ Thôi Lâu đi vào giữa đám binh, bàn giao lại kế hoạch của cô, chỉ không nói tới việc cô đơn thương độc mã trùng sát ra, các binh sĩ tưởng đã có sắp xếp khác, chẳng ai sinh nghi.

Đám binh này phần lớn đến từ Thanh Mộc Doanh, nuôi dưỡng chiến thuật cực cao, kỷ luật nghiêm minh, ngay lập tức hiểu rõ hành động tiếp theo, ghi nhận xong vội xôn xao chuẩn bị, ai cũng kích động.

Khương Hàm Nguyên ngồi dưới đất nhắm mắt dưỡng thần, lát sau, mở mắt.

Dương Hổ quay lại, yên lặng dừng trước mặt cô.

“Tất thảy đều theo lời dặn của Tướng quân, sắp xếp xong.” Cậu thấp giọng.

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Cậu cũng đi nghỉ ngơi đi, chuẩn bị ác chiến.”

Dương Hổ cúi đầu, chậm rãi quay đi.

“Chờ một chút.”

Khương Hàm Nguyên chợt gọi giật, im lặng một lát, rồi rút ra một thanh đoản đao vẫn kè kè bên hông đưa tới, mỉm cười: “Phiền cậu, sau này nếu có thể gặp được Nhiếp Chính Vương, thay ta trả thanh đao này lại cho chàng. Nói rằng— “

Cô dừng lại.

Lời muốn nói, như rất nhiều rất nhiều, vào giây phút này toàn bộ dâng lên trong lòng. Nhưng nghĩ lại, không biết nên nói câu nào.

— nếu như còn có kiếp sau, tiểu tốt kia, tình nguyện dẫn đường cho chàng lần nữa.

Trong lòng cô tự dưng nhảy ra câu này, hơi ngây ra.

Lúc này, một vọng binh đột nhiên kinh hô: “Tướng quân! Bên ngoài có một người đến!”

“Là Nhiếp Chính Vương! Lần trước ở thành Phong Diệp tám Bộ tôi từng gặp ngài! Chính là Nhiếp Chính Vương!”

“Không sai! Chính là ngài ấy!”

“Hình như ngài ấy bị thương! Trán đang chảy máu!”

“Sao hình như chỉ có một mình ngài ấy!”

Binh có thể được tuyển làm vọng binh có ánh mắt vô cùng tốt. Cùng với tiếng hắn liên tục hô, còn có tiếng hỗn loạn bên ngoài, có vẻ như binh Địch đang gấp rút kết đội, ngựa hí vang, không khí khẩn trương.

Tim Khương Hàm Nguyên bỗng giật thót, tỉnh táo hẳn, nhảy bổ lên vội chạy qua chỗ binh sĩ, thò người ra miệng ngắm nhỏ bốn phương của Tắc lũy, nhìn ra ngoài.

Bên ngoài, lửa đuốc vây quanh Tắc luỹ giữa quân trận sáng tỏ, cô nhìn thấy trên đỉnh đồi cách chưa đến một bước tên, một thớt chiến mã đang dừng ở đó, trên lưng ngựa, một người ngồi cao cao, một tay giơ đuốc lửa, tay kia nắm lấy cương ngựa. Gió đêm cực lớn, thổi lửa bó đuốc như ù ù rung động, tia sáng nhảy nhót, phản chiếu tóc trên đầu chàng ướt sũng, khuôn mặt có phần tái nhợt.

Quả nhiên là Thúc Thận Huy!

Vọng binh nói không sai, một bên thái dương chàng đọng vết máu, có vẻ như là đơn thương độc mã, thậm chí ngựa của chàng, nhìn từ bí yên* để phán đoán, tựa như cũng là chiến mã của người Địch.

(*) bộ hàm thiếc, dây cương và yên ngựa

Sao chàng lại tới đây? Chàng xông tới, cách quân Địch gần đến thế, là muốn làm gì?

Cô sợ ngây cả người, tim đập thình thịch, còn chưa hồi thần hẳn đã nghe y cất tiếng cười to.

“Sí Thư! Còn nhớ bổn Vương chứ? Đại Ngụy Nhiếp Chính Thúc Thận Huy! Trường An từ biệt, hôm nay lại gặp! Hôm ấy ngươi rơi vào trong tay bổn Vương, bị chó cắn xé, sống không được, chết cũng không xong, bày trò hề, cuối cùng như thằn lằn tự chặt một tay mới may mắn chạy thoát. Nghe nói sau này cánh tay cụt của ngươi khảm nối thiết trảo, dùng làm binh khí, không biết dùng có tiện không? Nếu không tiện, bổn vương có thể chế tạo giúp ngươi, xem như đền tội! “

Y ở trên cao nói, tập trung mười phần khí, ai nấy đều nghe rõ rành rành, tiếng cười theo gió đêm truyền khắp bốn phía, tràn ngập ý khinh miệt. Đương lúc tiếng cười chưa dứt, thấy y tiện tay ném bó đuốc trong tay về phía đối diện, bỗng cầm cung tên treo bên yên ngựa, kéo căng dây cung, bắn tới một mũi.

Vũ tiễn như mang theo sức lực ngàn quân, bay vút đến Sí Thư. Mấy thân vệ bên cạnh nhào tới, một phát đẩy Sí Thư ngã nhào xuống đất, một sĩ quan phía sau gã không tránh kịp, chưa kịp phản ứng thì mũi tên đã đâm vào yết hầu, xuyên thủng mà ra. Hắn bị bắn ngã ra đất, che cổ họng ré lên ú ớ đau đớn.

“Đại Ngụy Nhiếp Chính Vương!”

Binh Địch nhao nhao kinh hô. Sí Thư vì tránh tên, không khỏi chật vật, thấy người chung quanh xôn xao quay lại nhìn mình, ánh mắt xói vào cánh tay trái của gã, càng thêm mặt đỏ tía tai.

Một chuyện như chuyện hôm ấy đương nhiên gã không để kẻ nào biết được, nào ngờ lại bị giễu cợt trước đám đông, nổi cơn khùng, hận ngó đăm đăm bóng người trên dốc núi đối diện, lại quay sang toà Tắc luỹ sắp công phá sau lưng, đang do dự không quyết, một binh sĩ vừa nãy lặng lẽ đến gần điều tra chạy vội về, vừa chạy, vừa rống lớn: “Hắn chỉ có một mình! Hắn chỉ một mình! Phía sau không có binh mã ——” lời còn chưa dứt, Thúc Thận Huy lại phát một tên, binh Địch ngã nhào xuống đất.

Trong quân Địch dấy lên cơn xôn xao.

Với thân phận của đối phương đơn thương độc mã đến khiêu chiến, trong phút chốc bọn chúng sao dám hành động thiếu suy nghĩ, chỉ e có trá. Giờ đã xác định không ngờ Nhiếp Chính Vương Đại Ngụy này lại thật sự đến một mình, lập tức bạo dạn hơn.

Nếu bắt sống được Đại Ngụy Nhiếp Chính Vương — đừng nói bắt sống, cho dù là g.iết ch.ết, đừng nói đến công lao, danh vọng to lớn từ đây, có thể nghĩ.

Trong mắt người người, bắn ra tia hưng phấn đầy tham lam.

Mối hận ngày ấy bị chó cắn xé, nỗi nhục tên bắn xuyên ngực, đẩy đến nỗi đau mất tay, từng việc một hiển hiện trong lòng, cặp mắt Sí Thư đỏ ngầu, không do dự nữa, cho người tiếp tục vây quanh, tự mình lên ngựa dẫn theo một toán quân nhanh chóng đuổi đến dốc núi đối diện.

Thúc Thận Huy dừng ngựa ở đỉnh dốc, lù lù bất động, đón gió đêm từ trên cao nhìn xuống, từ đầu đến cuối lặng lẽ nhìn phía trước, mãi đến khi Sí Thư dẫn người đuổi tới dưới dốc núi, loạn tiễn cùng phát lên đỉnh dốc, mới hơi xoay mặt, ngắm nhìn toà Tắc lũy được bóng đêm bao phủ, lập tức giục ngựa, trầm thấp quát to một tiếng “giá”, quay đầu, phóng ngựa xuống dốc.

Bóng người trên đỉnh dốc núi đột nhiên mất dạng.

Khương Hàm Nguyên đứng ở miệng ngắm nhìn ra bốn bề nho nhỏ kia, siết hai tay thật chặt, tim muốn nhảy vọt khỏi cổ họng, yết hầu nấc nghẹn.

Khoảng cách này, chàng sẽ không thể nào thấy mình. Song cô biết, cái thoáng quay đầu nhìn sau cùng, chính là nhìn mình —— chàng đang nhìn cô.

Cô cũng biết chàng muốn làm chuyện gì.

Cứ như thần giao cách cảm.

Chàng làm chuyện mà cô vốn muốn làm.

Suy nghĩ chực nhảy vào trong đầu khiến cô tỉnh táo lại. Chàng đã tạo cho cô cơ hội, cô không thể bỏ qua!

Cô buộc phải nhanh chóng dẫn binh trùng sát ra ngoài, sau đó, đi tiếp ứng chàng.

Cô nhanh chóng ép hơi nóng trong mắt xuống, bỗng quay lại, cao giọng quát toán binh sĩ: “Toàn bộ chuẩn bị! Theo kế hoạch mới, giết ra!
 
Chương 117


Thúc Thận Huy phóng ngựa phi nhanh về hướng Bắc ngược với hướng Tắc lũy, mỗi lúc một xa.

Ngày hôm nay, y chìm nổi xoay chuyển theo khúc gỗ trong dòng nước lũ, ban đầu người hoàn toàn không thể tự điều khiển, mấy lần bị va đập vào khúc gỗ suýt tuột tay, mãi đến khi trôi ra vài dặm mới bắt được cơ hội, trong dòng chảy nhẹ nhàng hơn trôi theo dòng nước đục, dạt vào bờ, sau đó lại đuổi mấy chục dặm đường, cuối cùng cũng đuổi đến đây.

Ngựa này là y đoạt được từ một tên lính Địch đang tuần tra gần Tắc lũy, sức chạy vốn chỉ bình thường, nhưng dưới khống chế của y, mới đầu, Sí Thư và đại đội nhân mã dẫn theo mãi vẫn không cách nào tiếp cận. Sau một hơi dùng tốc độ cao nhất phi nước đại ra mấy chục dặm, ngựa dần dần mất sức, không thể giữ nguyên tốc độ.

Khoảng cách ngày càng gần, tiếng rít hưng phấn binh Địch binh cũng càng rõ.

Sí Thư hô quát binh sĩ vượt qua, bắn tên, ép y chuyển qua hướng Tây. Dần dần, mặt đất càng mềm và ẩm ướt, vó ngựa càng lúc càng lún sâu vào bùn, tiến lên chậm chạp.

Vùng này vốn là vùng đầm cỏ lau. Sí Thư quen thuộc địa hình, định bủa vây y bắt sống. Y bỏ ngựa, lần theo một dải địa thế cao kéo dài có chỗ đặt chân vững chắc tiếp tục bôn ba một đoạn, cuối cùng, ngừng lại.

Phía trước đã hết đường. Dưới sườn núi là một mảnh đen ngòm, vài ngọn cây thấp lè tè thưa thớt, qua khỏi, là lau sậy mênh mông vô bờ, cỏ lau tươi tốt, cao hơn đỉnh đầu người, dưới ánh trăng, mặt nước hiển lộ một lớp màu mực sâu khiếp người.

Đại đội binh Địch nhanh chóng đuổi tới, Sí Thư cưỡi ngựa vọt tới, chỉ huy binh sĩ vây quanh y.

Ánh đuốc rực lên, lộ ra những khuôn mặt đằng đằng sát khí. Sí Thư ngồi trên lưng ngựa chằm chằm nhìn bóng người cuối ánh lửa phía trước, gằn từng chữ từng chữ: “Bắt hắn lại!”

Thúc Thận Huy đoạt một thanh đao từ trong tay tên lính Địch trước nhất, trở tay chém xuống. Tên lính Địch bị chém đi nửa đầu, máu đen tuôn khắp, trong nháy mắt bao trùm khuôn mặt đầy tham lam hung tàn dưới trán rồi ngã xuống dưới chân y.

Y không ngừng lặp lại, một đao lại một đao.

Trong máu bắn tung tóe cùng tiếng hô quát không dứt, tiếng gào thảm thiết, từng tên tiếp từng tên lính Địch ngã xuống. Nhưng, giết không xuể. Một tên ngã xuống thì lại càng nhiều tên tiếp tục nhào tới, kẻ trước ngã xuống, kẻ sau tiến lên, chen lấy nhau.

Y từng là người cao quý nhất Đại Ngụy, thanh danh hiển hách, ngồi trên mây cao bễ nghễ nhìn xuống Trường An dưới chân. Y chính là vàng bạc vạn lượng mà binh Địch tha thiết ước mơ, đứng đầu vạn hộ. Máu đen tanh nóng từ thân thể đồng đội phun ra chẳng những không thể dọa lui chúng, ngược lại càng thêm kích thích mắt mũi của chúng, cả đám như đám sói đói cùng bủa vây tấn công con vua sư tử ở chính giữa, ai cũng muốn dùng nanh vuốt của mình xé rách khối máu thịt tươi mới tiếp theo kia.

“Ta đánh trúng lưng hắn này!”

“Là ta! Làm chân hắn bị thương!”

Cùng với tiếng đau đớn của đồng đội ngã xuống phát ra không ngừng, từ từ, tiếng vui mừng tranh công hỗn tạp nối tiếp nhau, thi thoảng vang lên.

Sí Thư nhìn cảnh cuối ánh lửa, ngó kẻ kia vấy máu trên người mỗi lúc một nhiều, một lớp che phủ một lớp, là máu người mà y giết, cũng chính là máu từ vết thương cơ thể y không ngừng tuôn chảy. Thân hình y mỗi lúc một cứng nhắc, cánh tay vung đao cũng chậm chạp dần — thế là vẻ cau có méo mó vì cơn hận trên khuôn mặt gã từ từ buông lỏng, thậm chí còn hiện nét vui vẻ.

“Giữ lại mạng hắn!”

Gã hạ lệnh, tiếp đó, lấy một bầu rượu từ trong túi trên lưng ngựa mở nắp, vừa uống rượu, vừa thưởng thức đối thủ của mình đang vô vọng chó cùng rứt giậu —, chỉ phí công tranh đấu.

Nuối tiếc duy nhất hiện giờ của gã chính là không thể để ả Khương Hàm Nguyên kia cũng nhìn thấy cảnh này, thấy gã đàn ông của ả, kẻ quyền lực nhất nước Ngụy, lại vật lộn cầu sinh thế nào dưới tay mình.

Nhưng không sao, chờ hừng đông quay về, sẽ chóng thôi. Gã biết, toà Tắc lũy kia sắp bị mình công phá.

Một sống đao lại lần nữa đánh mạnh lên trên lưng kẻ kia. Y lảo đảo hơi nhào tới trước, búng một ngụm máu.

“Dừng tay! Lùi cả đi!” Sí Thư quát to.

Binh Địch chậm rãi lui lại.

Gió hoang gào thét, ánh lửa bị gió giật múa quay cuồng. Ngổn ngang trên đất tầm chục thi thể, cộng thêm bảy tám kẻ bị thương đang giãy giụa. Máu, tốc tốc theo kẽ ngón tay Thúc Thận Huy không ngừng nhỏ xuống, y vẫn siết thật chặt thanh đao đã cong, chống mũi đao xuống đất đỡ lấy người mình, không chịu ngã xuống. Không chỉ thế, từ từ, thậm chí y còn đứng thẳng dậy, đứng ở cuối ánh lửa, hai tia nhìn như nhiễm máu, bắn thẳng đến Sí Thư đối diện.

Sí Thư híp mắt, ngửa cổ uống xong ngụm rượu cuối cùng trong túi rồi ném đi, lập tức cầm lấy cung tên, nhắm chuẩn, bắn tới bóng dáng kia.

Cùng một tiếng “phụt” ngột ngạt, tia sáng lạnh lẽo lóe ra sắc bén đâm vào ngực phải người kia — đúng như hắn từng làm với gã, vết sẹo trên ngực Sí Thư vẫn còn lưu.

Thúc Thận Huy không gượng được nữa.

Núi non chao đảo, y ngã xuống giữa vũng máu, mắt nửa mở nửa khép, máu từ khóe miệng trào ra.

Sí Thư nhảy xuống lưng ngựa, rút đao bên hông đi tới trước mặt người nằm trên mặt đất.

“Biết tiếp theo ta sẽ làm gì không?”

“Bốp”, gã đá một cước bay đao đi, dừng mắt lên cánh tay trống trải nhuộm đầy máu, mỉm cười: “Ta sẽ tự tay chặt cánh tay này của ngươi, đưa đến Trường An, để Hoàng đế, bá quan và cả bá tánh các ngươi đều nhìn thấy, nói cho ta nghe, một cánh tay của ngươi, rốt cuộc đáng giá bao nhiêu!”

Sí Thư chằm chằm nhìn người bị thương nặng đang thoi thóp, mắt lấp lánh tia hưng phấn và lãnh khốc, nâng đao, ngay tích tắc ấy, Thúc Thận Huy trong vũng máu mở ra một đôi huyết nhãn, tia sáng mãnh liệt bắn ra từ đáy mắt, một cước quét tới, đá mạnh vào đùi Sí Thư.

Sí Thư không hề đề phòng, té ngay xuống đất —- song gã đã phản ứng cực nhanh, dưới cơn chấn kinh ban đầu, phòng đao bị đoạt, nhanh chóng ném đi, ngay sau đó vung tay, định dùng thiết trảo phản kích, Thúc Thận Huy không chút do dự, bàn tay nhuốm máu rút một mũi tên còn dính máu thịt bầy nhầy trước ngực mình ra, cắm vào phía cuống họng của Sí Thư.

Sí Thư kinh hãi, thu ngang thiết trảo cản lại bảo vệ cổ họng, không ngờ Thúc Thận Huy thuận thế chuyển cánh tay.

“Phụt”, đầu mũi tên vừa hung ác vừa chuẩn, đâm thẳng vào tai gã.

Một chiêu thành công, không chừa cho đối phương bất kỳ chỗ trống để tránh thoát, Thúc Thận Huy dốc hết sức, cánh tay tiếp tục đẩy tới, mũi tên trong tích tắc xuyên qua đầu Sí Thư, từ tai trái đâm qua tai phải trực tiếp ra ngoài.

Sí Thư chỉ thấy trước mắt tối sầm, sao vàng bay loạn, trong cơn đau đớn mãnh liệt, người co rút không thể mở mắt. Trong cơn cuồng loạn, gã gào một tiếng thật dài tê tâm liệt phế, vô thức quơ thiết trảo loạn xạ.

Bả vai và sau lưng Thúc Thận Huy bị chém be bét, xương trắng như thấp thoáng hiện song chẳng mảy may buông tay.

Đáy mắt y như đang rỉ máu, hàm răng nghiến chặt, trước khi đám binh Địch xung quanh kịp phản ứng nhào tới, y dùng một tay đè thiết trảo của Sí Thư đánh thẳng vào chính diện mình, sau đó ôm chặt lấy gã, lăn xuống sườn núi.

Binh Địch đuổi tới đầu dốc núi, nhìn thấy cảnh hai người cuộn tròn lăn mỗi lúc một nhanh như con quay, rớt xuống đáy dốc, ngã vào đám cỏ lau, theo quán tính lại tiếp tục lăn tới, bị đám cỏ sát bờ cản ngược, người lăn qua rồi chậm rãi lăn về.

Cách mấy trượng kia là một màu đen ngòm chẳng thể nhìn thấy gì. Sau đám cỏ có tiếng vật lộn giãy giụa. Nhưng ngay sau đó, âm thanh ấy cũng ngừng lại, chỉ còn một giọng nói khàn khàn mơ mơ hồ hồ: “Người đâu — kéo ta ra — “

Là giọng của Sí Thư, vỡ vụn, đầy đau đớn vô tận và sợ hãi.

Binh Địch từ trên sườn núi nhao nhao phóng xuống, nhưng chưa đến gần đầm lầy, chân vừa chạm bùn thử đi tới mấy bước đã bị lún, trong khoảnh khắc đã đến đầu gối.

Binh Địch biết đầm cỏ lau rất đáng sợ, cuống quít co cẳng lùi lại, đua nhau lên bờ.

“Người đâu — người đâu— “

Sau bụi cỏ, cách mấy trượng, lại nghe văng vẳng tiếng kêu cứu lặp đi lặp lại của Sí Thư.

Một quý tộc người Địch đi cùng để thử độ sâu, bèn sai người dẫn ngựa tới xua xuống, con ngựa mới đi ra khỏi bờ chưa đến một trượng đã bị lún sâu vào vũng bùn, trong giãy giụa bị chìm rất nhanh. Thớt ngựa cao to trước mặt toàn bộ bao người chìm vào vũng bùn, biến mất tăm.

Địch binh nhìn mà khiếp hãi, trong lúc ấy, sau đám lau sậy, lại có tiếng rên đau đớn tuyệt vọng của Sí Thư: “Người ——” lời còn chưa dứt, âm thanh đột nhiên bị nghẽn, như có thứ gì tràn mạnh vào trong miệng chặn lại, rồi biến mất.

“Bệ hạ! Bệ hạ!”

Binh Địch đứng bên bờ, kêu to vọng ra phía trước.

Một trận gió đêm thổi qua, tiếng cỏ lau huyên náo, gió qua, bốn phía tĩnh mịch, không còn nghe thấy gì.

Binh Địch nhìn nhau, ai nấy biết rõ trong lòng, chắc chắn Hoàng đế hiện giờ đã cùng Nhiếp Chính Vương nước Nguỵ chìm vào đầm lau sậy, không thoát khỏi mà chết.

Thật ra đừng nói rơi vào đầm lau, dù không có, ngài đã bị đối phương dùng tên đâm mạnh vào lỗ tai vậy nhất định cũng không có khả năng sống sót. Đáng tiếc duy nhất là, tay Nhiếp Chính Vương nước Nguỵ kia cũng bị chôn thây trong vũng bùn cùng, làm uổng một cơ hội thật tốt có thể dương danh lập công.

Sí Thư đã chết, bọn hắn và đám quân Tả Xương Vương hiện còn vây quanh Tắc lũy xưa nay bất hòa. Không quay lại, lỡ Tắc lũy bị họ phá, vậy thì thất bại cả hai đầu.

Tướng đầu mục gọi thủ hạ lại bàn một lát, nhanh chóng ra quyết định lập tức quay về.

Binh Địch bên bờ rời đi, tạp âm biến mất.

Thúc Thận Huy bị kẹt lún trong đám lau sậy, nước bùn chưa đến hông y, y túm lấy một bụi lau lớn bên cạnh, cố hết sức ngửa người ra sau mới không nhanh chóng bị chìm xuống hẳn. Nhưng bụi lau cũng không chịu nổi sức kéo của y. Y có thể cảm giác được mình đang tiếp tục từ từ lún xuống.

Dưới chân, có một vòng xoáy tối thui không đáy, mở miệng lớn chờ nuốt chửng y.

Ngay một chốc trước, bằng cặp mắt nhuộm đầy máu y lạnh lùng nhìn Sí Thư bên cạnh, giãy giụa rất dữ dội, nên càng chìm nhanh. Ngay tích tắc mũi miệng của gã bị nước bùn chặn lấy, mắt cũng sắp chìm xuống vũng bùn, trên khuôn mặt méo mó vì đau đớn mãnh liệt kia, Thúc Thận Huy thấy được vẻ tuyệt vọng và không cam lòng vô cùng, ở khắc cuối cùng, thần chí vì quá đau mà trở nên cuồng loạn cũng tỉnh táo lại, ra sức giơ hai cánh tay lên cao, qua khỏi đỉnh đầu, nên khi cả người gã biến mất, hai cánh tay vẫn còn duy trì tư thế chỉ lên trời — thảng như chỉ cần làm thế, sau một khắc, trời cao sẽ có thể xuống cứu rỗi.

Nhưng trời cao không cứu. Dưới ánh trăng ảm đạm lờ mờ, Thúc Thận Huy dời mắt khỏi đôi tay còn không ngừng nắm chặt lộ ra vô cùng quỷ dị kia.

Y bị thương cực nặng, đau đớn khắp người, đau đến gần như chết lặng. Máu vẫn chảy khiến y cảm thấy vô cùng mệt mỏi, giờ đã muốn mê man, ngủ một giấc, rốt cuộc không cần tỉnh lại.

Song y không chịu cứ thế mà thiếp đi. Y dùng răng cắn đầu lưỡi, dùng cảm giác đau đớn rõ ràng buộc mình tỉnh táo, cố hết sức gắng gượng. Nước bùn bao trùm lấy, như cản lại tốc độ mất máu của y một chút. Từ từ, cố hết sức ngẩng nhìn bầu trời đêm trên đỉnh đầu.

Nhất định nàng ấy có thể dẫn tướng sĩ của nàng trùng sát ra ngoài, an toàn thoát hiểm.

Rất nhanh sau đó, một tay thu lại vùng đất Bắc. Mà y, có lẽ sẽ không còn cơ hội có thể gặp lại.

Y lại dừng mắt ở bàn tay sắt vẫn còn quật cường chỉ lên trời đang từ từ chìm xuống kia, lòng thầm nghĩ.
 
Chương 118


Sau khi Sí Thư dẫn đám người rời đi. Không khí khẩn trương vì chuyện xảy ra bất ngờ ban nãy từ từ hóa giải.

Tắc lũy này đã bị bao vây đã lâu, dù tướng sĩ nước Ngụy bên trong thà chế không hàng, vẫn luôn thủ vững mấy thông đạo chật hẹp có lợi cho bọn chúng, mỗi lần tổ chức tấn công đều bị ngoan cường chống cự, không những bắt không xong, ngược lại còn tổn thất binh sĩ, nhưng có thể dự tính được, tiếp tế trong kia nhất định tiêu hao gần như không còn.

Theo kế hoạch ban đầu của Sí Thư, trước khi viện binh quân Nguỵ đến phải phá lũy, cần triển khai công kích mãnh liệt, nhưng được trời trợ giúp, viện binh đằng sau bị lũ cản, nhìn nước lũ trong khoảnh khắc sẽ không lui nổi. Nói cách khác, người trong ấy sẽ không chống chọi được là bao. Không cần tổ chức cường công, chỉ cần vây tiếp một hai ngày, chờ chúng đói khát khó nhịn, sức chiến đấu giảm mạnh thì mới mở cuộc tất công sau cùng, chắc chắn lập không ít công to.

Một tên Đô úy Sí Thư để lại nhận lệnh trấn thủ. Ngoài Tắc lũy, binh Địch có đám ngổn ngang nằm lăn ra đất ngủ, có nhóm tụ tập một chỗ xì xầm về tay Nhiếp Chính Vương nước Ngụy vừa mới đơn thương độc mã xuất hiện kia. Một tiểu đội binh Địch phụ trách theo dõi sát động tĩnh của Tắc lũy thì đang đốt đống lửa ở hướng đầu gió nướng thịt ngựa, nhờ gió đưa mùi thịt nướng vào Tắc lũy k.ích thích quân Ngụy. Một tên sĩ quan chuếnh choáng gặm mấy khối thịt ngựa, ném xuống chân, tiểu xối lên rồi sai người quăng vào Tắc lũy, lớn gọi hàng bằng tiếng Địch do đám trong đấy đều hiểu: “Người ở bên trong nghe! Mau mau đầu hàng! Chỉ cần ra, muốn ăn bao nhiêu, có bấy nhiêu!”

Cử động này hấp dẫn càng nhiều binh Địch gần đó, nhao nhao bắt chước.

Gió đêm mang ồn ào và cười cợt của binh Địch vào Tắc lũy, lọt rõ vào trong tai.

Khương Hàm Nguyên dẫn theo binh sĩ, đang lẳng lặng mai phục ở lối ra phía sau.

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Lạch cạch, một khối thịt ngựa được ném từ bên ngoài. lăn vài vòng trên mặt đất, rơi dưới chân.

Hành vi làm nhục của đám binh Địch bên ngoài kia, binh sĩ thấy rõ ràng, ai nấy lộ vẻ giận dữ, siết chặt đao thương.

Khương Hàm Nguyên xuyên qua miệng nhìn, quét mắt qua tình hình lỏng lẻo bên ngoài, chậm rãi nhấc tay, trầm thấp thét ra lệnh: “Giết ra ngoài!”

Bọn họ đều là người Thanh Mộc Doanh, người sớm nhất theo Khương Hàm Nguyên đến bây giờ cũng đã già, còn có quân sĩ sau này mới gia nhập, song dù được coi là nguyên lão trung kiên cũng vẫn đầy hăng máu, tất thảy, từ ngày đầu tiên vào doanh đã ôm một tín niệm: người Thanh Mộc Doanh, có chết, cũng phải chết ở chỗ chiến đấu cùng kẻ địch.

Không ai tình nguyện nhận vận mệnh bị vây giết, trở thành tù binh mặc người chém giết. Năm đó, vì cướp lại Thanh Mộc Nguyên mà thành danh. Về sau, trong trận chiến tám Bộ bảo vệ vinh quang độc nhất vô nhị ấy.

Giết ra ngoài! Hoặc là dùng sinh mệnh bảo vệ vinh dự, ở sa trường chảy đến giọt máu cuối cùng, hoặc là giết ra khỏi trùng vây, đổi lấy cơ hội sống, giống như lúc trước họ từng lần lượt sáng tạo kỳ tích tương tự. Chỉ cần có thể qua được cam go này, về sau, họ sẽ thật sự yên ổn sống qua ngày như nữ tướng quân nói, còn sống, có vợ con vầy quanh, sau lưng, có con cháu hương hỏa cung phụng.

Là cuộc sống tốt đẹp dường nào.

Các binh sĩ như hổ rời núi, mãnh liệt như sóng dữ, đi theo Khương Hàm Nguyên phía trước và đồng đội bên người, trùng sát ra ngoài.

Binh Địch phía ngoài tụ tập càng thêm nhiều, thấy bên trong mãi không có động tĩnh, càng thêm càn rỡ, bắt đầu tranh tài cùng đồng bọn, xem ai ném xa nhất, chuẩn xác nhất, đang đắc y trêu đùa, từ lối ra đối diện bỗng một đội binh Ngụy đen ngòm dũng mãnh tiến ra, cung tiễn phóng tới theo, trong không chút phòng bị, mười mấy tên đứng trước nhất bị trúng tên tại chỗ, kẻ thì ôm mặt bị bắn trúng, người ôm bụng ôm ngực, tru lên. Đám lính Địch đằng sau lúc này mới phản ứng, kinh hãi, có kẻ đến quần cũng không kịp mặc, quay đầu chạy về hướng doanh trại, vừa chạy vừa rống to: “Quân Ngụy ra ngoài — “

Tên Đô úy vừa nghe âm thanh hỗn tạp từ phía bên này vọng đến, biết đám binh sĩ đang khiêu khích làm nhục lành nghề, mới lo đi nghỉ ngơi, chưa đến một lát, lại nghe tiếng ồn ào gào to, mỗi lúc một lớn, ban đầu còn lơ là, cứ tưởng rằng đám binh sĩ say rượu đấu đá nhau, âu cũng là chuyện thường không trách, mới lệnh cho thủ hạ qua xem, lát sau, nghe tiếng không thích hợp, mới dấy lên nghi ngờ, đích thân chạy vội ra ngoài, thấy người đối diện báo tin mới biết, quân Ngụy đã đột ngột giết ra từ cổng Tây Bắc Tắc lũy, bèn kinh hãi hạ lệnh phản công. Đám binh Địch một lát trước còn nhởn nhởn nhơ nhơ kia thoạt đầu cũng bị choáng váng, nhận mệnh lệnh xong mới hoàn toàn hồi thần, cuống quít xách vũ khí, vây quanh.

Khương Hàm Nguyên mới đầu gặp Dương Hổ giao phó kế hoạch tác chiến, là tập trung binh lực vốn có, sau khi vừa lao ra, nhất thiết phải dùng tốc độ nhanh nhất xếp hình chiến đội hình mũi khoani. Người dũng mãnh nhất đứng ở vị trí trước nhất của hình tam giác, hai cánh hiệp lực cùng phía trước trùng sát, đồng thời chuẩn bị lên vị trí bất kì lúc nào.

Đây là một phương pháp chiến đấu trong cuộc chiến phá vây có thể phát huy sức chiến đấu đến cực hạn, cũng giảm bớt thương vong đến thấp nhất. Khó khăn, là làm sao đứng vững trước kẻ địch đông mấy lần mình, từ đầu tới cuối duy trì trận hình, cho đến khi phá vây ra.

Đây chẳng những là khảo nghiệm sắp xếp những chiến sĩ vũ lực và dũng khí “đao nhọn” trước tiên nhất, cần họ không ngừng tiến lên, để phía sau mở đường phá vây trong trùng vây, mà còn cần toàn bộ đội viên luôn giữ vững vị trí của mình, can đảm đi chắn lỗ hổng, cam đoan từ đầu đến cuối duy trì được trận hình.

Trong kế hoạch ban đầu của Khương Hàm Nguyên, dùng chính mình hấp dẫn đi Sí Thư và một phần đội quân, giao việc phá vây cho bọn Dương Hổ. Hiện giờ Thúc Thận Huy thay cô làm chuyện cô muốn làm, cô đảm đương đỉnh nhọn, Dương Hổ và Thôi Cửu ở hai cánh hai bên, mở rộng kéo dài lũy tiến ra vùng biên, thừa dịp bất ngờ, chiến đội hình mũi khoan do mấy ngàn người tạo thành như một thanh chủy thủ sắc bén, xé rách doanh Địch. Cô theo sát bên quân sĩ, khí phách trảm chém tiến lên, chém giết đám binh Địch chạm mặt, máu thịt tung bay, trong tai tràn ngập tiếng gào thét trong hỗn chiến và tiếng đau đớn thảm liệt liên tiếp, giết tới cuối cùng, thậm chí đám binh Địch giáp mặt không dám nhìn thẳng, rối rít lui tránh. Cô dẫn theo tướng sĩ giết ra đường máu, xông vào ngựa doanh chiếm ngựa, lập tức lên ngựa, xông ra vòng vây.

Sau lưng, ánh đuốc điểm điểm, binh Địch cũng nhao nhao lên ngựa, đuổi theo không bỏ.

Dương Hổ rống to với Khương Hàm Nguyên: “Tướng quân, ở đây giao lại cho tôi và Thôi Cửu! Bọn tôi có thể thoát thân! Cô nhanh đi tiếp ứng Nhiếp Chính Vương! Không cần để ý đến bọn tôi!”

Khương Hàm Nguyên quay đầu nhìn vùng đồng hoang mênh mông dưới bầu trời phương Bắc, bỗng quay đầu ngựa, dẫn theo một đội binh dưới bóng đêm yểm hộ, mau chóng đuổi theo.

Cô một hơi đuổi đến ngoài mấy chục dặm, lần theo dấu vó ngựa đội quân vừa đi qua còn lưu lại, chuyển sang hướng Tây Bắc, tiếp tục tiến lên. Dần dần, mặt đất đổi thành bùn, ngựa đi khó khăn, có vẻ như đã đến vùng đầm lau, xuôi theo những chỗ đất cứng có thể đặt chân mà đi tiếp, nhưng chỉ sau một lát, toàn bộ mặt đất bị bụi cỏ che lấp, không tìm thấy tung tích gì từ dấu chân ngựa đi qua.

Trực giác bảo cô, hẳn Thúc Thận Huy đang ở một nơi nào đó của vùng đầm lầy này. Cô đỏ mắt, lo lắng nhìn ra xa, chỉ thấy âm u một mảng, như đặt mình vào một thế giới tĩnh mịch.

Có điều, vùng này rộng lớn vậy, trời đất mênh mông, chẳng có mục đích, giờ này khắc này, đến cùng chàng ở phương nào?

Chàng chỉ có một mình, còn Sí Thư lại mang theo một đại đội…

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Lòng bàn tay cô không ngừng túa ra mồ hôi lạnh, hòa cùng máu đen, dính nhớp, muốn nắm thành đấm còn muốn không được.

Cô lấy lại bình tĩnh, đang định lệnh cho người đi cùng chia ra bốn hướng tiếp tục lục soát, chợt nghe binh sĩ sau lưng nói: “Tướng quân mau xem! Có người đến!”

Cô quay lại, nhìn thấy xa xa một mảnh đuốc sáng, một đại đội đang đi đến.

Hẳn đó là đội quân của Sí Thư dẫn theo, nom như vừa từ hướng đó trở về!

Tim cô đập thình thích, lập tức hạ lệnh cho toàn bộ thủ hạ ẩn nấp ngay tại chỗ. Đám người làm theo, cấp tốc xua ngựa, người tản ra bốn phía, mượn bóng đêm, nấp kín trong chỗ lờ mờ xung quanh.

Khương Hàm Nguyên nằm cạnh một đám cỏ, nhìn đại đội từ xa đến, từ phía trước mặt cô cưỡi ngựa mà qua.

Chính là đám binh Địch bay nãy theo theo Sí Thư rời đi. Nhưng toàn bộ đã đi qua, không thấy Sí Thư, cũng không có thấy Thúc Thận Huy.

Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Thúc Thận Huy đang ở đâu?

Đương lúc Khương Hàm Nguyên kinh ngạc ngờ vực, không ngờ một con ngựa mới bị đuổi đi lại tự ở đằng xa quay lại, đang chạy về hướng này, gây động tĩnh khiếnngười Địch chú ý. Khương Hàm Nguyên nhìn thấy một tên quý tộc nom như thủ lĩnh dừng lại, ngồi trên lưng ngựa, quay đầu cảnh giác quét mắt chung quanh.

Gió đêm thổi qua, tiếng cỏ dại sột soạt. Thủ lĩnh lộ ra vẻ nghi ngờ ra mặt, chần chừ một lúc bèn phái người đi xem chừng.

Không kịp nghĩ nhiều nữa. Đối phương đông đảo còn mình chỉ có một tiểu đội, nếu đợi phát hiện mới ra tay e là đã quá muộn.

Dưới tình huống như vậy chỉ có thể bắt vua.

Cô lập tức quay đầu, ra hiệu cho hai cánh thủ hạ trái phải nấp sau lưng mình, lệnh đánh yểm trợ cho mình. Mọi người đều là thân tín theo cô nhiều năm, toàn bộ hiểu ý âm thầm chuẩn bị. Đội binh Địch kia giơ đuốc tới thăm dò, soi hai bên bụi cỏ đang đến gần, đợi chỉ còn tầm mười bước, thủ hạ của cô nhanh chóng giương cung, tên rời cung bắn ngã mấy người, lập tức đứng dậy, chuyển hướng, vừa tiếp tục bắn tên, vừa chạy tản ra các hướng khác nhau.

Tên thủ lĩnh người Địch lấy làm kinh hãi, biết gần đó có mai phục, nhưng trời tối cỏ cao, trong phút chốc không biết đối phương có bao nhiêu người. Thoạt đầu hơi luống cuống, được người hộ vệ trái phải, cúi người nép trên lưng ngựa tránh loạn tiễn. Một lát sau, hiểu ra đối phương có lẽ chỉ tầm mươi người, không khỏi thẹn quá hoá giận, lập tức hạ lệnh cho binh sĩ truy sát.

Hắn không ngờ, Khương Hàm Nguyên đã thừa dịp nhiễu loạn, lặng lẽ đi vòng, đến bên cạnh mình.

“Ai đó— “

Một hộ vệ bên cạnh thủ lĩnh đột nhiên nhìn thấy một bóng đen từ sau bụi cỏ búng người vọt lên, vô thức hô một tiếng, còn chưa dứt lời, Khương Hàm Nguyên đã thả người nhào tới.

Trong tay cô nắm thật chặt nguyệt đao. Là thanh đao mà Thánh Võ Hoàng đế đã từng ngự dụng, nói nó chém sắt như chém bùn có lẽ quá khoa trương, nhưng thổi tóc tóc đứt, gọt xương trảm chi, thì dư dùng.

Cô nâng tay vung xuống, liên tiếp đánh rách ngực hai binh Địch chặn phí trước, ngay sau đó người cúi rạp dưới đất, lăn rất nhanh, trong một hơi đã cắt đứt mấy chân của binh Địch, đả thương bảy tám người, trong tiếng kêu thảm liên tục đã búng người tới trước tên thủ lĩnh.

Tất cả gần như hoàn thành trong một chớp mắt. Đến giờ thủ lĩnh mới thấy rõ người tới, nhận ra là Khương Hàm Nguyên, không khỏi kinh hãi, biểu lộ như thấy quỷ: “Là ngươi! Sao ngươi lại ở đây!” Bèn cuống quít rút đao, Khương Hàm Nguyên nào cho hắn cơ hội, không chút do dự, chợt đâm xuống, đùi tên Thủ lĩnh ngay lập tức bị đâm ra một lỗ máu. Khương Hàm Nguyên lại kéo tay một cái, hắn bị cô kéo té từ lưng ngựa xuống, đoản đao gác ngang cổ.

“Bảo người của ngươi lùi ra!”

Đùi tên thủ lĩnh ăn một đao, xương đùi đã gãy đứt, đau đến chết đi sống lại, vẫn không muốn mất mặt trước thủ hạ, ngã ngồi trên đất, nghiêm mặt trắng bệnh, chặn máu chảy ra từ cái chân bị thương, cắn răng không rên một tiếng.

Khương Hàm Nguyên đưa mắt nhìn đám binh Địch vô số đang xúm lại định xông lên, không chút do dự, lại gio tay chém xuống đùi bên kia, liên tiếp đâm xuống mấy đao.

“Aaaa — ” dưới cực hình, tên thủ lĩnh đau đớn kêu to thảm thiết.

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Khương Hàm Nguyên không hề chớp mắt, lạnh lùng nói: “Như ngươi thấy đó, ta đã ra được đây, viện quân cũng chẳng mấy chốc sẽ đuổi tới. Ta biết thân phận ngươi không thấp, nhưng mà, nếu ngươi thật sự không muốn sống thì ta sẽ thành toàn, cùng lắm thì, cùng chết ở đây vậy.”

Tên thủ lĩnh thực tế không thể chịu nổi cơn đau, rõ ràng trong lòng, vị nữ tướng nước Ngụy trước mắt này tuyệt đối không phải kẻ sợ chết.

Ả đã phá vây chạy ra, Sí Thư thì chôn thân nơi đầm lầy, nếu thật sự bản thân mình chết dưới tay ả, thì cho dù sau đó, ả có bị người phe mình giết cũng còn ý nghĩa gì?

Nghĩ tới nghĩ lui rất nhanh, tên thủ lĩnh ra quyết định, cắn răng nói: “Ngươi thả ta ra, ta sẽ dẫn người rời đi, sẽ không quay lại nữa!” Nói xong lớn tiếng hạ lệnh đám binh Địch xung quanh toàn bộ lùi xuống.

Sí Thư vừa chết, tên này lợi dụng địa vị cao nhất của mình. Đám người nhận lệnh, chậm rãi tản ra.

“Nhiếp Chính Vương Đại Ngụy ta đâu? Sí Thư đâu?” Khương Hàm Nguyên lấy lại bình tĩnh, lập tức hỏi dồn.

“Chết rồi! Bọn hắn chết cả rồi!”

Khương Hàm Nguyên kinh ngạc đến ngây người, hoàn hồn lại thì giọng đã lạc đi, nghiêm nghị quát: “Ngươi nói cái gì?” Tay cô bỗng siết chặt, lưỡi đao cắt đứt cổ thủ lĩnh, máu nhỏ tốc tốc.

“Là thật đó! Chồng ngươi, chính hắn đã cùng Sí Thư đồng quy vu tận.”

Hắn đem chuyện xảy ra kể từng việc một.

Khương Hàm Nguyên như bị giáng một đòn mạnh, suýt không thở nổi, người hơi chao đảo, đến khi hồi thần, bèn bật dậy, ra lệnh cho thủ hạ giám sát chặt chẽ tên thủ lĩnh này, phi nước đại tới chỗ xảy ra chuyện.

Cô nhìn thấy trên mặt đất mấy chục tên binh Địch ngã xuống, kẻ thì đã chết thấu, kẻ thì phí công vùng vẫy trong vũng máu. Vết máu đầy đất, có cả khúc ruột chảy ra… không khó tưởng tượng, một chốc trước, ở ngay đây, từng có cảnh vật lộn thê thảm cỡ nào.

Cô vọt tới bên bờ đầm, lớn tiếng gọi tên y. Giọng cô vọng vang, kinh động đến một đám chim rừng đang nghỉ ngơi ở xa xa cánh đầm. Đám chim vỗ cánh, bay thục mạng.

“Thúc Thận Huy! Thúc Thận Huy —— “

Khương Hàm Nguyên không ngừng la to, cất bước tới trước, một chân mới bước vào đầm cỏ lau, người đã chìm xuống.

“Nguy hiểm!”

Cô bị mấy bộ hạ đi cùng ở phía sau níu lại, kéo ra.

Đêm đen dài đằng đẵng, cũng sớm qua. Sắc trời dần trắng nhợt. Cô tiếp tục gọi, nhưng đáp lại chỉ là tiếng sột soạt gió thổi qua bụi cỏ lau. Giọng cô cũng dẫn khàn đặc, cuối cùng, đến đứng cũng không vững, chầm chậm ngã oặt xuống đất.

Đêm qua ngay giây phút cô ra quyết sách phá vây, cô đã đặt chính bản thân mình vào chỗ chết, không còn dự định sống, dù vẫn cực kỳ lưu luyến cõi đời này.

Đúng vậy, cô, một người đã từng nhỏ yếu, một lòng chỉ muốn trở nên lớn mạnh, ra trận giết địch, không sợ sống chết. Nhưng, khi đao thương trên tay nhuốm máu ngày càng nhiều, đích thân trải qua sinh ly tử biệt cũng càng nhiều, tấm lòng cô trái lại lại từ từ mềm mại đi

Sinh ra làm người, nếu có thể còn sống tốt, đi làm chuyện mình muốn làm, là may mắn bực nào chứ.

Cô còn rất nhiều chuyện muốn làm mà chưa làm được: Cô còn muốn hoàn thành tâm nguyện chưa thành của cha, an ủi linh hồn ông, trong một quãng thời gian dài trong tương lai, vùng đất phía Bắc có thể thái bình; cô còn muốn đưa cha về bên cạnh mẹ, để trên trời họ có thể gặp nhau, từ nay sớm sớm chiều chiều không rời; cô còn muốn đích thân đưa tiễn những tướng sĩ từng cùng cô sóng vai chiến đấu giờ đã chán ghét chém giết, nhìn họ giải ngũ về quê, phóng ngựa Nam Sơn, sống cuộc sống mình muốn; còn có…

Cô muốn sống, ở trước mặt, chính miệng một lần nữa nói cho chàng biết, cô chính là cậu lính nhỏ năm đó, còn chàng, chính là người thiếu niên mà mình thích kia.

Giờ phút này, tướng sĩ của cô phá vây ra ngoài, tìm cơ hội sống. Cô cũng vẫn còn sống.

Nhưng, cái giá phải trả, là chàng phải thay cô ư?

Trước mắt thảng như hiện ra khuôn mặt thiếu niên anh tuấn thoải mái cười như sương sớm rất nhiều năm trước kia, cô không kìm nổi nữa, nước mắt lã chã, lăn xuống hai gò má nhuộm đầy máu đen của cô.

Sau một bụi lau cách chừng hơn mấy trượng phía trước, lại có tiếng sột soạt.

Là gió đáp lại lời cô ư?

Cô chảy nước mắt, ngẩng lên nhìn bụi lau rậm rạp khẽ lay theo gió, trong lòng, dù có thế nào cũng không muốn tin, chàng từng đã hoạt bát sống, đã thật sự chìm xuống dưới đáy đầm bùn đen thẳm này, không thể nào thở, vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời.

“Thúc Thận Huy!”

Cô nghẹn ngào, một lần nữa lớn tiếng gọi tên y.

“Chàng nghe thấy không? Chàng ở đâu! Chàng trả lời một tiếng cho em!”

Ngay một khắc này, dường như cô nghe thấy có động tĩnh phía trước. Một âm thanh mơ hồ, cực nhỏ, xen trong tiếng cành lá cỏ lau ma sát nhau gần như không thể phân biệt, nhưng vừa lọt vào tai cô đã lập tức nhận ra.

Có người gọi tên cô.

Hủy Hủy.

Là giọng của chàng!

Cả người cô run rẩy theo, trợn to cặp mắt, nhảy bổ dậy chạy tới, không ngừng cao giọng gọi tên y.

“Thúc Thận Huy, chàng chờ ở đó! Chàng kiên trì thêm một lát! Em đến ngay đây!”
 
Chương 119


Cánh tay sắt trước mặt, từng tấc từng tấc chìm xuống, cuối cùng hoàn toàn biến mất, bị nuốt dưới đầm cỏ lau.

Chủ nhân của nó cũng xem như là kẻ kiêu hùng hung ác, từng trên vạn người, nhưng cuối cùng, cũng chỉ như thế, chôn thân giữa trời đất.

Người sắp chết, sao mà nhỏ bé, tựa như một con sâu kiến vô nghĩa.

Còn mình, cũng không phải sẽ như thế ư?

Thúc Thận Huy muốn gượng hết nổi.

Mất máu làm y không còn chút sức lực gì. Y bắt đầu cảm thấy đầm lầy bằng một tốc độ chậm rãi khó phát hiện dâng lên. Hay là nói, thật ra là y đang không ngừng chìm xuống. Cuối cùng cái chết có thể nuốt hết tất thảy rốt cuộc vẫn dồn đến trước ngực y, lúc này, hơi thở y cũng bắt đầu khó khăn. Dù y tự cắn lưỡi, muốn dùng cảm giác đau đớn giữ cho mình tỉnh táo nhưng ngón tay luôn nắm chặt lấy mớ cỏ lau vẫn cứ dần trở nên chết lặng, mãi đến khi mất đi khống chế, bắt đầu có dấu hiệu tuột khỏi.

Giờ phút này thật ra y chẳng thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy rã rời. Bàn chân như có một sức lực khổng lồ đang không ngừng lôi kéo y như muốn hút xuống dưới. Y không cách nào cản lại, định cứ thế khuất phục, khép mắt thiếp đi. Ngay lúc da mắt y từ từ chùng xuống, trong tai lờ mờ như nghe một tiếng gọi.

Là có người đang gọi tên mình à. Giọng còn rất quen thuộc.

Mới đầu y cứ nghĩ là mình đã nghe lầm trước khi chết.

Nghe nói người trước khi chết, thường sẽ nghĩ đến người khó quên nhất kiếp này, nghe được âm thanh muốn nghe nhất.

Y từ từ lại khép mắt. Nhưng, âm thanh gọi bên tai vẫn thủy chung không ngừng.

“Thúc Thận Huy ——”

Đương khi âm thanh đầy bi thương và tuyệt vọng ấy lại lần nữa theo gió rót vào trong tai, y như bị châm một cái, rùng mình, bỗng nhiên hoàn toàn tỉnh táo lại.

Thật là nàng ấy.

Nàng đã thoát hiểm!

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Thúc Thận Huy mở choàng mắt, người cũng tỉnh táo lại, y há miệng, từ trong cổ họng phát ra một âm thanh đáp lại.

Y đang gọi tên cô. Nhưng vừa ra miệng, mới phát hiện giọng chính mình đã trở nên khàn đục vô lực, như đã được gió hoang đánh tan thành từng mảnh, tan vào tiếng sột soạt của bụi cỏ lau, yếu đến không thể nghe thấy..

“Hủy Hủy —— “

Y dốc hết sức, đáp lại cô. Ngay sau đó, cuối cùng cũng nghe được cô đáp lại.

Cô bảo y chịu đựng.

Y cố hết sức gượng tỉnh, khó khăn nắm chặt lại bàn tay vừa buông lỏng, cuối cùng bắt lấy bụi cỏ lau kia cố làm chậm thế lún.

Trên bờ, Khương Hàm Nguyên sau cơn vui mừng cuồng dại, ngay lập tức vã mồ hôi lạnh ròng ròng.

Nhìn khoảng cách, từ đây đến vị trí chàng cũng không phải rất xa, song trước mặt cơ bản không có chỗ nào có thể đặt chân, mà cô thì chẳng thể chắp cánh vượt qua.

Bộ hạ của cô thử tìm đường xung quanh, song cũng như cô, hoàn toàn không thể đặt chân. Mà ở gần đấy, trong thoáng chốc cũng chẳng tìm thấy thứ gì có thể chèo chống cô đến được gần y.

Bị cỏ che khuất, cô không thấy được chàng, song chang đã bị thương rất nặng là điều không còn nghi ngờ. Chậm trễ nữa, chỉ e chàng sẽ thật sự không chịu nổi.

Khương Hàm Nguyên một mặt tiếp tục lớn tiếng gọi tên y tránh y chìm vào mê mang, một mặt nôn nóng muôn phần, ước gì có thể đích thân thả người nhảy xuống đầm lầy.

“Chúng ta đi chặt cỏ lau với cây khô, kết bè rồi lên!”

Một bộ hạ có kinh nghiệm trong quá khứ hô lớn, nói xong lập tức dẫn người hành động.

Đến răng Khương Hàm Nguyên còn muốn phát run. Cô nhìn chằm chặp chỗ phát ra tiếng y. Chỉ cách mấy trượng mà xa như khe trời.

Cô không biết, y còn có thể chờ họ cứu không.

Đột nhiên, “Chờ chút!”

Cô lớn tiếng gọi người, lệnh chuyển đám xác lính Địch đến, bản thân mình cũng chạy như bay. Bộ hạ của cô ban đầu còn ngẩn ra, ngay lập tức hiểu ý, nhanh chóng chuyển xác đến, khiêng lên ném hết vào đầm cỏ lau phía trước. Như dựng một khúc cầu nổi, cô nhảy lên, song dưới chân cũng hơi chùng xuống. Cứ thế, cô gấp rút giẫm lên chạy đến vùng cỏ lau che khuất bầu trời trước mặt, dùng đoản đao chặt ra, trước mắt bừng sáng.

Cô đã thấy chàng! Chàng đã sắp chìm hẳn.

Cô cởi chiến giáp trên người đệm trước người y, giúp nâng đỡ, bản thân nằm xuống, vươn tay bắt lấy đôi tay đã cứng đờ lạnh băng của y.

“Thúc Thận Huy, chàng kiên trì thêm tí nữa! Chúng ta có thể đi lên ngay đây!” Cô hô vào tai y. Y lại bị cô thức tỉnh, chậm rãi nhướng mắt, ánh mắt lờ đờ đã tỉnh táo hơn, cuối cùng dừng trên mặt cô, không hề chớp mắt, chăm chú nhìn cô thật lâu, bỗng, gật nhẹ đầu, nhếch miệng cười một tiếng, lần này, dùng ngữ điệu yếu ớt, nhưng rõ ràng, gọi tên cô:

“Hủy Hủy.”

Khương Hàm Nguyên không nhịn nữa, nước mắt lại trào.

Vẫn nhớ năm ngoái tạm biệt, chia tay với chàng ở ngã rẽ cổ đạo ngoài Vân Lạc, cô đi Nhạn Môn, chàng về Trường An. Lúc ấy, nào có thể nghĩ được, đến khi gặp lại nhau, sẽ là cảnh tượng thế này chứ.

“Là em đây.” Cô nghẹn ngào, đáp.

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Cầu bằng người dần không thể chịu được áp lực, từ từ bắt đầu chìm xuống. Cô vẫn luôn nắm chặt tay y không hề buông lỏng. Ngay lúc sắp lún cả xuống, bộ hạ của cô ra tới. Họ đã chặt những nhánh cây gần đó, dùng cỏ lau kết thừng, cột thành từng bó, sắp mấy bó đủ để có thể chèo chống bốn năm người xây thành đài, đẩy tới đầm lầy cùng hiệp lực cuối cùng từng tất kéo y ra khỏi vũng bùn.

Thúc Thận Huy cảm thấy như mình đang mơ một giấc cực kỳ dài, lại cực kỳ tĩnh mịch, cực kỳ yên ả. Như một đêm thơm ngọt vậy. Thấy như chưa hề từng ngủ một giấc yên tĩnh và an tâm như thế, đến khi y ung dung tỉnh lại, ý thức còn bay bổng trong mộng, có phần không nỡ tỉnh.

Nhưng ngay lập tức, y nhớ ra tất thảy.

Y mở choàng mắt, vừa nhúc nhích, đã bị cơn đau trên người truyền đến chiếm lấy. Y không khỏi cuộn tròn người, một lát sau, thấy bớt đau, quay sang, khựng mắt.

Y đang ở trên giường, nàng ấy đang nằm ngay bên cạnh.

Đầu giường điểm một ngọn đèn dầu, ánh đèn mờ ảo rọi vào một bên mặt cô. Cô khép mắt, mi rũ, khuôn mặt mệt lả, cứ vậy thiếp đi.

Y yên lặng nhìn cô một lát, gập cánh tay đỡ người mình, từ từ ngồi dậy. Dường như cô cảm giác được, mi mắt động mấy lần, mở mắt, ngồi dậy, mặt lập tức lộ vẻ mừng rỡ.

“Ngươi đã tỉnh?”

Cô rõ ràng đang cười, thế mà mắt lại bắt đầu ửng đỏ. Y nhìn rõ mồn một..

Y bị thương quá nặng, mất máu quá nhiều, hôn mê mấy ngày, mấy ngày ấy cô ngày đêm cực nhọc, không hề nghỉ ngơi, một tấc cũng không rời, canh giữ bên cạnh săn sóc y. Thuốc đã sắc xong, cô bưng đến giúp y uống. Thuốc rất đắng, mấy ngụm mới uống xong. Cô lại hỏi y đói bụng chưa, còn định ra ngoài, bị y nắm chặt tay, chặn lại bước chân bận rộn.

“Ta khỏe hơn nhiều rồi, cũng không muốn ăn gì. Hẳn nàng đã rất mệt. Nàng cũng nằm nghỉ đi.” Y nhẹ nhàng.

Khương Hàm Nguyên cùng y nhìn nhau chốc lát, cùng nằm xuống, gối chung đầu.

“Đây là đâu?” Y nhìn quanh một chút bốn phía. Một gian phòng đá cổ xưa mà kiên cố.

“Quân trấn Tây Nhu Tắc.”

Hôm ấy sau khi cứu y lên, y đã hôn mê hoàn toàn. Cô đưa y đến quân trấn gần nhất này, tạm thời dừng chân để trị thương cho y.

Chiến sự cũng đã kết thúc.

Sau đêm đó, Chu Khánh Trương Mật quyết ý bắt buộc mạo hiểm.

Đối diện với lâm nguy không phải ai khác, mà là nữ tướng quân, chưa kể, đến Nhiếp Chính Vương còn không màng nguy hiểm cố vượt sông, sống chết chưa biết, sao họ có thể tiếp tục án binh bất động được?

Cũng theo cách Nhiếp Chính Vương dẫn dắt, phái ra cảm tử binh giỏi lội dưới nước cột chặt thừng bên hông, lựa đoạn sông có dòng nước tương đối nhẹ nhàng thử dùng cách tương tự cố gắng qua sông, khi có người thành công lên bờ được, bèn cầm dây cột cố định ở bờ bên kia, đợi hình thành nhiều đoạn mới trải ván gỗ, từ đó qua sông, cuối cùng tụ hợp cùng bọn Dương Hổ. Quân Địch còn chưa kịp hồi thần từ trận phá vây, thấy viện quân đuổi tới không còn lòng nào đánh nữa, chạy thục mạng.

“Đã không sao rồi. Lũ cũng đã rút. Chàng yên tâm nghỉ ngơi, giờ quan trọng nhất là chữa khỏi vết thương trước.”

Y yên lặng nhắm mắt một chốc, bỗng như nghĩ tới điều gì, đưa tay sờ hông, sờ không thấy.

Khương Hàm Nguyên lấy ra ngọc bội từ trên người mình.

“Chàng đang tìm nó à?”

Lúc giúp y thay đồ, cô phát hiện y đang đeo viên ngọc bội bên người.

Y đang tìm nó. Hôm đó từ khi nhận lại, y đã đeo luôn, chưa từng rời khỏi người. Đó là thứ trước đây thật lâu y đã tặng cô. Khi mà, y vẫn là thiếu niên, cô trong mắt y là một tiểu binh.

Thúc Thận Huy nhận lấy, nhìn hồi lâu, chậm rãi nói: “Hủy Hủy, ta không xứng để nàng đối xử tốt với ta đến thế.”

Khương Hàm Nguyên lắc đầu.

“Không, chàng rất tốt, tốt vô cùng. Trước đây thành hôn cũng là chính em lựa chọn. Chỉ bất mãn mỗi một chỗ duy nhất, chàng biết là gì không?”

“Sau khi chúng ta tách ra, chàng có chuyện mà vẫn luôn không nói cho em, không những vậy, chàng còn giấu cả em.”

“Em biết là chàng không muốn liên luỵ em. Nhưng bắt đầu từ cái ngày đầu tiên mà chàng vì triều đình này, vì trận chiến thu phục phương Bắc, phái Hiền vương đi Nhạn Môn cầu thân em, em đã bị chàng liên lụy rồi. Nói chàng bội tình bạc nghĩa cũng không đến mức, nhưng chàng đã nợ em, chuyện này không bỏ qua được. Sao chàng có thể rũ sạch sẽ mọi liên can đến em cơ chứ?”

Y lặng thinh thật lâu, thấp giọng: “Ta biết.”

“Nửa đời trước của ta, tự hỏi không thẹn với Đại Ngụy, không thẹn với triều đình, không thẹn với Tông miếu. Có lỗi với, là hai người. Một là nàng, còn một, là Mẫu phi ta. Với nàng, là ta không xứng, với Mẫu phi, ta là đại bất hiếu.” Giọng y trầm thấp mà đè nén.

“Lúc trước thế nào, em không tính toán với chàng. Song từ bây giờ, chàng nhớ đó, ngoài trừ thiên hạ của chàng, triều đình của chàng, hoàng đế của chàng, thì chàng vẫn luôn là chồng của Khương Hàm Nguyên này. Sau này mà chàng còn dám làm ra việc như vậy, bất kể lý do gì, em sẽ tuyệt đối không tha thứ cho chàng lần nữa.”

Cô từng chữ từng chữ, nói.

Thúc Thận Huy vẫn mãi ngắm nhìn nàng, nghe tới đoạn này, y thấp giọng cười, nhưng cười, mà khóe mắt đỏ lên.

Y im lặng thu cánh tay, kéo người cô ôm chặt lấy.

Đọc Full Tại Truyenfull.vn

Nơi đây điều kiện đơn sơ, thuốc thiếu, vài ngày sau, chờ thương thế y ổn định hơn, Khương Hàm Nguyên quyết định cùng y về Nhạn Môn, ở đó, y có thể được sự chăm sóc tốt hơn.

Trước khi đi, Khương Hàm Nguyên lệnh đem gã quý tộc thủ lĩnh từng bị mình đâm bị thương chân đến.

Tên Thủ hai chân chưa lành, được khiêng nằm trên đất, tưởng rằng sắp đem mình khai đao, lúc mặt như màu đất, bỗng nhiên nghe cô sai người: “Thả hắn về đi.”

Thủ lĩnh kinh ngạc ngẩn ra người, ngẩng đầu, thấy viên nữ tướng đã chuyển mắt, bắn ánh mắt như kiếm tới mình.

“Ngươi trở về, báo với Tả Xương vương, người Ngụy ta không hiếu chiến, nhưng cũng tuyệt đối không sợ chiến. Từ rày về sau, nếu các ngươi dám can đảm Nam phạm lần nữa, hùng binh Đại Ngụy ta, chắc chắn sẽ đạp phá Bắc Đô, đến chừng đó, đừng trách ta không báo trước!”

Thủ lĩnh không dám nhìn thẳng, rối rít thư vâng.

Khương Hàm Nguyên bầu bạn cùng Thúc Thận Huy về tới Nhạn Môn.

Họ đã bàn bạc xong xong, chờ khi vết thương khỏi hẳn, còn rất nhiều việc sau cuộc chiến cần hoàn tất xong xuôi, y sẽ theo cô đầu tiên đi Vân Lạc an táng phụ thân cô trước, sau đó, cô sẽ cùng y đi Giang Nam một chuyến, gặp mẹ y.

Bắt đầu từ đầu năm, sau hơn nửa năm, cho đến hôm nay, rốt cuộc đã thu phục U Yến, đại phá Nam Đô, tù binh đông đảo, đẩy cô lập người Địch về phía Bắc Giới hà. Trận chiến sự này thu được viên mãn cực lớn. Danh sách người có công thỉnh cầu phong danh, đã gửi đến triều đình xong xuôi. Lão tướng quân Triệu Phác, Tiêu Lễ Tiên Tám Bộ, tiếp đó cũng lần lượt đi Nhạn Môn, chờ tin tức đến từ triều đình.

Vào ngày bọn họ đến, toàn bộ Nhạn Môn sôi trào. Phàn Kính dẫn người ra ngoài ba mươi dặm nghênh đón. Ngoài tướng sĩ, còn có dân chúng nơi đó, đón đầy đường phố ngõ hẻm.

Khương Hàm Nguyên cùng y ở lại, tiếp tục dưỡng thương. Mấy ngày nữa, Tiêu Lâm Hoa và Trương Bảo cũng đến.

Hôm Trương Bảo gặp Khương Hàm Nguyên xong, cô cân nhắc còn đang tác chiến, vì lý do an toàn đã đưa cậu đến tám Bộ. Hiện giờ Tiêu Lâm Hoa theo huynh trưởng Tiêu Lễ Tiên đi Nhạn Môn, tất nhiên Trương Bảo cũng theo tới.

Cậu đã định về từ sớm, ngày nhớ đêm mong, rốt cục về tới bên cạnh hai người Khương Hàm Nguyên và Thúc Thận Huy, tâm tình kích động không lời tả xiết, tất nhiên chuyên tâm phụng dưỡng chủ cũ. Tiêu Lâm Hoa dần dần cũng không sợ Thúc Thận Huy, nàng và Trương Bảo lại rất quen thuộc, lần nào cô đến cũng rất náo nhiệt.

Chiều hôm ấy, Thúc Thận Huy bỗng nổi hứng, bảo muốn giãn gân cốt, ra ngoài đi dạo một chút.

Đấy là một chiều cuối thu, cô và y cùng ra khỏi thành, hai người cùng cưỡi ngựa. Cô đã căn dặn y không thể cưỡi ngựa quá nhanh, tránh động tới vết thương trên người. Ban đầu y còn nghe lời, chạy chầm chậm quanh vùng đất hoang gần đại doanh Tây Hình, dần dà, y bắt đầu tăng tốc. Ngựa y cưỡi là thớt tuấn mã xịn nhất, vừa buông, đã chạy cực nhanh bỏ lại Khương Hàm Nguyên sau lưng, cuối cùng y phóng ngựa lên một trạm gác cao, mới ngừng lại.

Khương Hàm Nguyên đuổi kịp, có vẻ không vui: “Vết thương chàng còn chưa tốt, còn vậy nữa, lần sau không cho ra ngoài!”

Y nghiêng mặt qua, chỉ mỉm cười ngắm cô, tự dưng nói: “Trên tóc nàng có gì kìa.”

Khương Hàm Nguyên khẽ giật mình, thấy y ngồi trên lưng ngựa, đưa tay lên tóc mình, nhặt mảnh lá rơi nhỏ màu vàng kim, mở ra, rằng mình không gạt cô. Ngay sau đó, cô còn chưa kịp phản ứng, bên hông đã bị siết chặt, cánh tay y đã rơi xuống, vòng qua eo cô kéo một kéo lên lưng ngựa của y, ngồi trước người y.

“Đừng nhúc nhích.”

Tiếng y thì thầm dịu dàng bên tai, cô khựng lại, cảm thấy y đang dựa vào mình, hai tay ôm eo, sau đó, mặt y áp tới, hôn phớt qua phần gáy giấu sau cổ áo cô, thấp giọng oán trách bên tai: “Này cũng không được, kia cũng không được, ta thực sự khỏe rồi. Nếu nàng không tin, tối nay về, cứ việc thử chút xem…”

Khương Hàm Nguyên cảm giác y có chỗ ám chỉ, tim nảy một cái, tai nóng rực, sau một khắc, lại nghe y phá lên cười, tiếng cười rộ vui vẻ, như đang trêu ghẹo mình, không khỏi ngầm bực, nhấc khuỷu tay thoi nhẹ vào bụng y.

Y nhẹ ui da rên lên, té thẳng từ trên ngựa xuống, chỉ còn mỗi mình Khương Hàm Nguyên còn ngồi trên lưng ngựa.

Cô cũng đâu dùng sức, chỗ thúc khuỷu tay cũng vô hại. Cô biêt y đang đùa mình, liếc qua, ngồi im thin thít: “Chàng mà không đứng dậy, ta đi nha!” Nói xong tự lo giục ngựa, thả xuống dốc.

Cô đi một đoạn, mãi chả thấy động tĩnh sau lưng, bất đắc dĩ quay lại, thì thấy y đã ngồi dậy, trên đống đá hoang, nom như đang nhìn về phương xa.

Gió thu lồng lộng áo bào y. Phương xa cuối ánh mắt, là Trường An ở đó. Mà bóng y như hòa vào sắc thu, có vẻ hơi đìu hiu.

Cô không tự chủ được ngừng ngựa, nhìn bóng lưng y, đang do dự có nên tiến tới không thì có vẻ y phát hiện, quay lại, thấy cô quay về bèn lập tức tươi cười, đứng dậy đón cô.

“Hủy Hủy thật nhẫn tâm, còn thật sự bỏ rơi ta đi. Ta đau thật đấy, phải ngồi xuống nghỉ ngơi một hồi, đang định đi tìm nàng.”

Đến gần, y sờ lên bụng, cười giải thích.

Khương Hàm Nguyên nhìn nét mặt y tươi cười, đang định mở miệng thì nghe tiếng gọi sau lưng: “Điện hạ! Vương phi! “

Hai người cùng quay đầu, là Trương Bảo tới, cậu xuống lưng ngựa, như một làn khói chạy tới, thở phì phò, hô: “Khâm sai từ Trường An đến! Là Lưu Hướng Lưu Tướng quân!”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom