Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Trường Ninh Tướng Quân

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
701,071
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Trường Ninh Tướng Quân

Trường Ninh Tướng Quân
Tác giả: Bồng Lai Khách
Tình trạng: Đã hoàn thành




Giới thiệu:

Năm 13 tuổi, ở quân doanh của cha, Hàm Nguyên lần đầu tiên gặp được người con trai có tên tự là Cẩn Mỹ ấy.

Lúc đó, thiếu niên An Lạc vương thay mặt thiên tử ra biên cương khao quân.

Giữa ánh trăng bàng bạc lạnh lẽo, y mỉm cười uống cạn chén rượu; đeo cung ruổi ngựa trắng, làm kinh động buổi sớm mù sương chốn tái ngoại mênh mông cát vàng.

Rất nhiều năm trôi qua, lâu đến nỗi Khương Hàm Nguyên đã quên hôm cuối thu đó. Một ngày nọ, cô được cho hay, y cầu thân với cha cô, muốn cưới cô làm vợ.

Lúc này, y đã là Nhiếp Chính vương trong kinh thành, ngồi ghế phụ tá cao quý, nắm quyền lớn khắp trong triều ngoài nội.

Cô bằng lòng dốc sức vì y, san núi lấp biển, mở mang bờ cõi cho y, dẫu chết cũng không hối hận.

Nhưng, ngoài bản thân cô, trên thế gian này sẽ không còn có kẻ thứ hai biết rằng, buổi sớm cuối thu nơi biên tái ngựa phi như gió, tiếng bật dây cung làm chim nhạn sợ đó, cũng từng là một vệt màu tươi sáng trong toàn bộ giấc mộng hoang vắng thời thiếu nữ của cô.

Sẽ không có.

Cả đời này, sẽ không có nữa.

Cô tự nói với chính mình.

… … …

Lập ý: Cười với cuộc đời, đón khó khăn mà đi.

|Bồng Lai Khách|
 
Chương 1


Trăng tròn khát máu, người sói nhe nanh

.mộc dịch.

Đồng hoang mênh mông cỏ dại úa vàng, bầu trời mờ sương nhạn lẻ chao liệng.

Khương Hàm Nguyên đứng trên một sườn núi, trông ra ngôi làng ở chân núi phía Bắc đằng xa.

Trong làng lửa đã tắt, song nhà dân bị cháy chỉ còn trơ lại tường đổ vách xiêu. Gió lộng từ tận cùng vùng hoang vu phương Bắc rít vù vù, xuyên qua vòm không trên làng, thốc xuống sườn núi, mang theo một tràng tiếng khóc hỗn tạp lúc cao lúc thấp.

Vào tảng sáng hôm nay, nơi này bị người Bắc Địch đánh cướp.

Khuya đêm qua, một đội kỵ binh đột kích gần trăm người đã tránh né khu vực loạn lạc sát biên giới vốn được canh phòng trọng điểm, vượt qua một trạm gác thông thường cách đó mấy chục dặm, bí mật lẻn vào.

Viên toại trưởng* phụ trách trạm canh gác kia kết đôi chung sống với một quả phụ trong làng này, năm nay được mụn con gái. Đêm qua đúng lúc gã tự ý rời trạm về làng, trong trạm còn lại hai người, bởi vùng đó lâu nay bình yên vô sự nên đâm ra lơ là, người ở lại canh giữ cũng thừa dịp làm biếng uống rượu, đến khi phát hiện ra thì đã muộn.

(*) Ngày xưa, ở biên phòng, có giặc đến thì đốt lửa trên đồi báo hiệu gọi là “phong toại”. Toại trưởng là người quản lý một trạm đốt lửa hiệu.

Kỵ binh người Địch được bóng đêm che chở, xông thẳng vào, đến đây lúc tờ mờ sáng.

Đám kỵ binh Bắc Địch này thường chờ dịp hành động, cướp xong, mang đi không được thì đốt.

Chưa đầy nửa canh giờ ngắn ngủi, nhà dân cháy hơn phân nửa, tiền của bị cướp, mười mấy người phụ nữ bị bắt đi, khoảng mười nam đinh chậm chân chạy trốn cũng bỏ mạng dưới vó ngựa. 

Khương Hàm Nguyên đúng lúc đi ngang qua. 

Chuyến này cô ra ngoài, vốn định đi thành Vân Lạc cúng tế người thân, vì muốn đến nơi sớm nên đêm qua ngủ ngoài trời, sáng nay mới canh tư đã lên đường, lúc rạng sáng đi ngang qua nơi này, từ xa xa thấy phía đối diện khói đặc cuồn cuộn bốc thẳng lên trời.

Cột khói tuy khác với khói lửa báo động mà cô hằng quen thuộc, song theo bản năng, cô vẫn dừng ngựa, qua đó xem xét. Thấy thế, cô bèn phái người đi gọi đội của Lý Hòa đóng quân ở vùng này, lệnh cho họ cấp tốc đến tiếp viện, sau đó không dừng lại mà dẫn theo hai mươi bốn kỵ binh tùy tùng, lần theo dấu vết kỵ binh người Địch để lại trên đường chạy về phía Bắc, truy đuổi ráo riết. Đến chiều, người Địch cảm thấy đã đến khu vực an toàn, nên lơi lỏng hẳn.

Bao năm qua, quân biên cảnh Đại Ngụy gặp những vụ cướp bóc lẻ tẻ như thế này, nếu đã để người Địch thuận lợi chạy thoát, thì cân nhắc các nhân tố, thông thường sẽ không tốn nhiều công sức truy kích. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến người Địch táo tợn nhiều lần thừa cơ vượt qua biên giới làm càn.

Hơn nữa, dù người Ngụy có thật sự truy đuổi, thì cũng không thể đuổi kịp nhanh như vậy. Sau một đêm đánh úp, bọn chúng đã đói khát mệt mỏi, bèn nhao nhao xuống ngựa cởi đao, lại tranh thủ lúc nghỉ ngơi để giở trò cầm thú mua vui với những phụ nữ bắt được. Đang lúc càn rỡ, nhóm Khương Hàm Nguyên như thần binh từ trên trời rơi xuống, với khí thế sét đánh không kịp bưng tai, đầu tiên bắn chết tên thủ lĩnh bằng một mũi tên, tiếp đó giục ngựa bày trận, xông xáo chém giết. Người Địch không hề phòng bị, trong tích tắc người ngã ngựa đổ, hốt hoảng ứng chiến, thương vong nặng nề, lại không biết đối phương còn bao nhiêu quân chi viện, nên nhanh chóng bỏ cuộc không chống cự nữa, chạy tán loạn hòng giữ mạng.

Một sĩ quan trung niên để râu quai nón vóc dáng vạm vỡ sải bước trèo lên sườn núi, dừng lại sau lưng cô, bẩm báo: “Toàn bộ tiền của mang về đã phát xong, phụ nữ cũng được các nhà đón về, Lý Hòa theo dõi việc khắc phục hậu quả. Dân làng rất cảm kích, vừa rồi muốn đến dập đầu cảm tạ tướng quân, ti chức từ chối thay tướng quân rồi.”

Người trung niên này tên Phàn Kính, là một phụ tá tâm phúc dưới trướng của Khương Hàm Nguyên.

“Thương tích của đám Thất Lang sao rồi?” Khương Hàm Nguyên quay lại hỏi.

Ban ngày tuy truy kích giành được toàn thắng, chẳng những cứu được những phụ nữ bị cướp về mà còn khiến đội kỵ binh người Địch kiêu ngạo kia tử thương quá nửa, trừ những kẻ chạy thoát, số còn lại đều bị cắt đầu, nhưng đối phương đều là phường hung hãn, lại chiếm lợi thế về quân số, nên nhóm của cô cũng bị thương bảy tám người.

“Không có gì đáng ngại, vừa rồi đều đã xử lý xong. Có điều…”

Phàn Kính ngập ngừng, “Viên toại trưởng kia không chịu nổi, vừa tắt thở. Vợ gã đã bế con đến.”

Viên toại trưởng tự biết tội chết, để đền bù, đã xin cùng lên đường, bị thương nặng nhất.

“Còn nữa, hai tên lính đốt lửa hiệu làm hỏng việc cũng đã trói giải tới, xin tướng quân xử lý. Ngoài ra, Lý Hòa cũng cùng tạ tội.”

Phía dưới, một người đàn bà quỳ bên di thể, ôm mặt khóc ròng. Bé gái kia chưa đầy tuổi, được đặt dưới đất, hồn nhiên chưa biết chuyện gì, lẫm chẫm bò qua bò lại bên cạnh, miệng kêu ê a. 

Đám tùy tùng tụ tập gần đó, một viên tướng trẻ mặt búng ra sữa vừa băng bó vết thương xong tức giận bất bình, lớn tiếng phàn nàn, “… Đại tướng quân quanh năm chỉ biết ra lệnh đề phòng! Đề phòng! Bảo cả đám chúng ta chui rúc trong ải như lũ rùa con! Quá hèn nhát! Không những cả vùng đất rộng lớn ngoài ải như Sóc Châu, Hằng Châu, Yến Châu để bọn giặc phương Bắc chiếm mất, mà đáng hận nhất là chúng còn vượt qua biên giới giết dân ta, cướp đàn bà của ta! Rốt cuộc đến khi nào mới có thể xông ra đánh lớn một trận, đuổi đám người Địch chạy về chỗ chúng nên ở? Ra đánh, có chết cũng đáng!”

Các chiến hữu vốn cũng sục sôi căm phẫn, nhưng nghe hắn nhắc đến đại tướng quân, lại không dám lên tiếng.

Tướng đóng quân ở vùng này là Lý Hòa chạy đến, biết mấy cậu lính trẻ dũng mãnh cấp tiến trước mắt này đều là người của Thanh Mộc doanh dưới trướng Khương Hàm Nguyên. Nhất là anh chàng mặt búng ra sữa này, tên Dương Hổ, tên tự Tu Minh, tên mụ Thất Lang, tinh thông cưỡi ngựa bắn tên, còn giỏi sử dụng kích, có sự gan dạ chém tướng nhổ cờ, từng mấy lần ra vào đột phá vòng vây trong một trận đánh giáp lá cà, chỉ một trận đã chém hơn hai mươi thủ cấp quân địch, toàn quân đều biết tiếng hắn dũng mãnh hiếu chiến không sợ chết, bởi vậy còn có biệt hiệu Thất Lang liều mạng. Hắn xuất thân cũng không thấp, ông nội từng đứng hàng quận công, hiện nay dù gia cảnh sa sút, phải nhờ tòng quân để kiếm công danh, nhưng lạc đà gầy vẫn hơn ngựa béo, Lý Hòa nghĩ mình còn mang tội liên đới do không làm tròn chức trách giám sát, đâu có phần nói chuyện ở đây, bèn lặng thinh.

“Im ngay!” Phàn Kính quát to.

Dương Hổ quay đầu lại, thấy ông râu rậm Phàn Kính theo chủ tướng đi tới, mới hậm hực ngậm miệng.

Lý Hòa sợ hãi quỳ đón, luôn miệng nói do mình tắc trách, xin trị tội.

Người phụ nữ dập đầu với Khương Hàm Nguyên, khóc lóc thảm thiết khẩn cầu: “Là lỗi của tôi! Tất cả đều là lỗi của tôi, không liên quan đến chàng! Chàng đã mấy tháng liền không về, là tôi nhờ người nhắn tin bảo chàng về một chuyến thăm con. Là tôi đã hại chàng, là tôi đã hại chàng…”

Người phụ nữ đau thương không thiết sống nữa, nằm rạp dưới đất gục đầu, tiếng khóc đầy tuyệt vọng và hối hận.

Vầng tà dương lay lắt lặn xuống mảnh đất hoang vu, xung quanh mờ tối dần, gió bỗng nhiên thổi mạnh, cuốn vạt áo bào nhuộm máu đen của Khương Hàm Nguyên tung bay.

Bé gái bị thu hút, tưởng là trò đùa, bèn bò về phía cô vươn tay nắm lấy vạt áo, lúc lắc cánh tay, cười khanh khách vui vẻ.

Người phụ nữ giật mình nhận ra có điều khác thường, ngước mắt nhìn thì thấy khuôn mặt nữ tướng quân còn vương máu khô, cặp mắt chăm chú nhìn bé gái dưới chân, thần sắc u ám như khói mù.

Người phụ nữ sực nhớ, nữ tướng quân trước mắt vốn có danh Nữ La sát, thanh hoàn thủ đao đeo bên hông kia đã giết vô số người, còn có lời đồn rằng, lúc nhỏ cô nhận sói làm mẹ, là cô gái sói, đến nay vào đêm trăng tròn vẫn phải uống máu, nếu không sẽ hóa thành người sói nhe nanh.

Lời đồn ấy, người phụ nữ tin chắc không hề nghi ngờ. Nếu không, một cô gái, sao có thể chiến đấu ác liệt trên sa trường với đàn ông, khiến vô số kẻ địch đổ máu dưới lưỡi đao?

Người phụ nữ nào dám khóc nữa, cuống quít van xin, lồm cồm bò đến định ngăn con lại, thì thấy Khương Hàm Nguyên đã khom lưng xuống.

Trước ánh mắt chằm chằm hoảng sợ của người phụ nữ, cô giơ một tay ra, chậm rãi cầm lấy bàn tay nhỏ đang nắm chéo áo mình. 

Bàn tay cầm tay nhỏ non mềm của bé gái chi chít vết chai do cầm đao, ngón tay thô ráp.

Có lẽ cảm thấy đau, bé gái bỗng khóc òa lên.

Người phụ nữ sợ hãi vô cùng, nhưng không dám giằng con lại, chỉ run rẩy, dập đầu lia lịa xin tha.

Khương Hàm Nguyên khựng lại, buông tay, thả bé gái ra, quay người bước đi.

“Viên toại trưởng đó tuy dốc sức chiến đấu để đền bù, song tội của gã, dù chết trận vẫn không đủ để miễn xá. Hai tên lính xử lý theo quân pháp, chém ngay. Ra công văn, thông báo toàn quân, để răn đe cảnh cáo. Còn tội của Lý Hòa, ta không định đoạt được, bảo hắn tự đi gặp đại tướng quân thỉnh tội!”

Nói xong, cô nhận cương ngựa một thủ hạ đưa tới, nghiêng mặt nhìn Phàn Kính đi theo bên cạnh.

“Chú Phàn, còn phải cảm phiền chú ở lại, giám sát việc khắc phục hậu quả, kiểm tra lại một lượt toàn bộ đường biên giới cả vùng này, phải bảo đảm không có sơ hở.”

“Rõ. Tướng quân cứ yên tâm đi đi.”

“Còn nữa…”

Khương Hàm Nguyên thoáng dừng lại, ngắm bóng lưng người phụ nữ vẫn ôm con quỳ dưới đất khóc đằng xa, “Cho mẹ con cô ấy trợ cấp gấp đôi, trích từ lương bổng của ta.” Cô hạ giọng bảo.

Phàn Kính hơi sửng sốt, quay đầu liếc nhìn, rồi lập tức đáp vâng.

“Người bị thương hôm nay, toàn bộ tự quay về doanh! Những người còn lại theo ta lên đường!”

Cuối cùng cô nói xong, tung mình lên ngựa, một tay cầm cương, quất ngựa định đi.

Dương Hổ cuống lên, nhảy vọt tới, ngăn trước đầu ngựa cô, lắc lư cánh tay vừa băng bó kỹ: “Tướng quân, tôi khỏe mà! Vết thương vặt ngoài da thôi! Tôi muốn theo cô!”

“Về cho ta!”

Khương Hàm Nguyên khẽ quát, giục ngựa vòng qua bên cạnh hắn, phi đi.

Mười mấy người không bị thương cười hì hì huơ tay ra hiệu với Dương Hổ, rồi hét một tiếng, trong phút chốc toàn bộ lên ngựa phi nhanh theo, cuối cùng chỉ còn Dương Hổ và mấy kẻ bị thương đứng tại chỗ, lòng đầy ảo não.

Dương Hổ nhìn bóng lưng nhỏ dần phía trước, càng nghĩ càng tức, không kìm được chửi sa sả tên chiến hữu mới lên ngựa bỏ đi phía trước: 

“Này Khỉ Trương, quân lộn kiếp kia! Hôm nay nếu không nhờ ta cứu ngươi, thay ngươi chịu một nhát đao đó, thì ngươi nằm ngay đơ rồi! Thế mà ngươi ngon lắm, được theo tướng quân lên đường chứ! Ngươi cứ chờ đó cho ta, về rồi coi ta xử ngươi thế nào!”

Cậu chiến hữu bị gọi là Khỉ Trương kia thậm chí không ngoái đầu lại mà còn giục ngựa tăng tốc, chớp mắt đã đi mất dạng.

Mấy chiến hữu cùng bị ở lại bên cạnh không khỏi hả hê trước nỗi đau của người khác, lại không dám cười, nín nhịn hết sức vất vả.

“Được rồi được rồi! Theo lời dặn của tướng quân, đêm nay các ngươi nghỉ ngơi một chút, sáng mai quay về…”

Đối với tên nhóc gai góc mà nữ tướng quân tự tuyển chọn và hình như còn có mấy phần thiên vị này, Phàn Kính cũng thấy hơi đau đầu.

Dĩ nhiên, điều này tuyệt đối không thể để lộ ra. Ông đanh khuôn mặt đầy râu nghiêm túc xưa nay, gằn giọng lặp lại mệnh lệnh của Khương Hàm Nguyên lần nữa.

Dương Hổ đành phải thôi, chán nản liếc về phương hướng lúc tới đây, không ngờ lại thấy một thớt khoái mã chở lính truyền tin đang từ đằng xa chạy nhanh đến.

“Trường Ninh tướng quân có đó không? Đại tướng quân có lệnh gấp, lệnh cho Trường Ninh tướng quân lập tức cấp tốc về doanh…”

Lính truyền tin từ xa trông thấy đám Phàn Kính, bèn đón gió đạp bàn đạp, đứng thẳng trên lưng ngựa, cao giọng hô.

Người truyền tin mang đến tin tức của đại tướng quân Khương Tổ Vọng.

Khương Hàm Nguyên đành bỏ dở hành trình, quay về chỗ phụ thân thường trú, nằm ở đại doanh gần ải Tây Hình, Nhạn Môn.

Mấy ngày sau, cô về tới vào lúc đêm khuya.
 
Chương 2


Là cháu. Hàm Nguyên.

Giờ này, bốn bề đại doanh Tây Hình tối đen không ánh sáng, trừ gác đêm, tướng sĩ đều đi ngủ sớm vào giấc mộng.

Khương Hàm Nguyên xuyên qua từng túp doanh trướng liên miên không dứt, bước đến trước đại trướng của cha.

Ánh đèn lọt qua khe màn, cô không trực tiếp vào, dừng bên ngoài, gọi thủ vệ vào thông báo.

“Mời Tướng quân vào.” Thủ vệ ra đến rất nhanh, giọng cung kính.

Khương Hàm Nguyên vào lều.

Trong lều không còn ai khác, chỉ mỗi cha cô, một bộ thường phục trong quân, ngồi ngay ngắn sau bàn giá đốt nến.

Dù đại tướng quân Định An hầu Khương Tổ Vọng có chiến danh rất cao, lại không giống như võ tướng người ta thường nghĩ, râu hùm hàm én hùng tráng hơn người.

Nét mặt ông chính trực, mày kiếm mắt phượng, lúc còn trẻ, ắt là vị mỹ nam tử chính cống. Song giờ đây, gió sương xâm lấn tóc mai, ngay lúc này dưới ánh đèn chẳng thể gọi là sáng tỏ, vẫn không thể che hết vẻ tiều tụy già nua lộ ra trên khuôn mặt ông.

Trước kia ông từng trúng tên bắn lén, bị thương tới phế phủ, suýt chết, sau đó dẫu bản thân tự áp chế mà qua, nhưng mấy năm nay, theo tuổi tác lớn dần, cộng thêm vùng biên cương nghèo nàn, lúc vết thương cũ tái phát, tra tấn thật không nhẹ, chẳng qua thường ngày ông kiên cường, vô cùng biết nhẫn nại, nên không mấy người biết chuyện thôi.

Thấy con gái bước vào, Khương Tổ Vọng lập tức từ sau bàn đứng lên, đi đến chỗ cô.

“Hủy Hủy con đến rồi à? Đi đường mệt chứ? Nếu mệt nghỉ ngơi trước, mai lại nói không muộn.” Ông gọi nhũ danh con, mày giãn, trên mặt cũng lộ ý cười.

“Đại tướng quân triệu con đến gấp, là chuyện gì?”

Khương Hàm Nguyên lãnh binh ở Thanh Mộc Tắc phía Bắc cách đây hơn vài trăm dặm, thêm mấy mươi dặm nữa chính là vùng đất xung đột trực tiếp với Bắc Địch, ngày thường nếu không phải vì quân tình, chạm mặt Khương Tổ Vọng cũng không nhiều.

Cô hành lễ hạ cấp yết kiến thượng cấp trong quân như thường lệ xong, lập tức đứng thẳng, dùng giọng điệu kính cẩn hỏi.

Khương Tổ Vọng dừng bước, đoạn, chậm rãi ngồi xuống.

Trong lều chợt im ắng. Gió đêm chui vào từ khe màn, ánh nến khẽ lay.

Khương Tổ Vọng lại mở miệng, ý cười trên mặt đã biến mất: “Lý Hòa đã đến chỗ cha xưng tội. Nhưng mà, con không khỏi quá mức chủ quan rồi, không đợi viện binh đến cứ thế mà đuổi theo! Con có bao nhiêu người? Đối phương có bao nhiêu hả? Có chậm chút, đám phụ nữ cũng chẳng thể mất mạng! Dầu con có mấy phần kinh nghiệm nhưng lấy một chọi bốn! Cha còn cho rằng, con không phải đứa lỗ mãng thế!”

Nói xong câu cuối, giọng ông đã đầy nghiêm khắc.

“Vâng ạ, có lẽ các cô các bà sẽ không chết, nhưng đợi bọn Lý Hòa đến mới đuổi tới, e rằng họ đã sống không bằng chết.” Khương Hàm Nguyên bình tĩnh nói.

Không có ràng buộc thông thường nào dưới tay binh lính người Địch, hành vi súc vật có thể đến bực nào, hiển nhiên Khương Tổ Vọng rõ ràng. Ông trách con gái, thực ra cũng từ một chỗ tư tâm, suy nghĩ lo lắng mà ra, bị con bác về một câu, im lặng giây lát, lại mở miệng, vẻ mặt cũng dịu đi, chuyển chủ đề.

“Hàm Nguyên, nếu cha nhớ không lầm, con cũng hai mươi rồi?”

Ánh mắt ông rơi xuống bờ vai đầy bụi đất của con gái, từ từ chuyển qua khuôn mặt giống mẹ của cô, hỏi.

“Đại tướng quân có chuyện gì ạ?” Khương Hàm Nguyên không trả lời, chỉ lặp lại câu hỏi.

Khương Tổ Vọng dừng lại.

Triều đình điều động tôn sứ đi phương Bắc, là Tông Chính khanh Hiền Vương Thúc Uẩn, gặp Khương Tổ Vọng, sau một đỗi hàn huyên, câu đầu tiên mở lời, chính là hỏi thăm con ông, Trường Ninh tướng quân Khương Hàm Nguyên.

“Bảy năm trước, đương kim Nhiếp Chính Vương điện hạ còn là An Nhạc Vương, từng thay Võ Đế đến đây khao quân, lúc ấy con cũng ở đây. Hẳn con còn chút ấn tượng chứ?”

Lông mi Khương Hàm Nguyên hơi động, dùng ánh mắt hơi đề phòng chăm chú nhìn cha, không nói.

“Chuyến này là Hiền Vương Thúc Uẩn tự mình đến. Con biết mục đích chuyến đi này của ông ta chứ?”

Con gái vẫn không đáp.

Ông nghiến răng: “Ông ta nhận nhờ vả của Nhiếp Chính Vương, đến vi phụ cầu hôn, muốn lập con làm phi.”

Không khí thảng như đột nhiên ngưng đọng.

Khương Tổ Vọng nhìn con, cười khổ: “Cha biết, tin này thực quá đột ngột, có lẽ con không hề chuẩn bị. Chớ nói con, chính cha cũng thế. Song…”

Lời ông chợt chuyển, lại từ sau bàn đứng lên, mặt mỉm cười, đi đến chỗ con gái vẻ mặt đã trở nên hơi cứng.

“Song, Nhiếp Chính Vương chính là long phượng giữa người, tài cán đương thời không kẻ thứ hai, luận về tư mạo phong độ, càng là ngàn dặm mới tìm được một, trước kia hẳn con cũng nhìn tận mắt. Huống chi, dù sao con không phải thân nam nhi, cũng không sao, giờ không còn nhỏ, không nên cứ thế ở trong quân doanh phí tuổi xuân, cũng nên tìm một tấm chồng.”.

“Cha!”

Khương Hàm Nguyên bỗng mở miệng.

“Ngài thật cho rằng, Thúc Thận Huy là tấm chồng tốt của con chăng?”

“Ngài thật cho rằng, như con thế này, thích hợp lập gia đình?”

Cô hỏi hai câu.

Khương Tổ Vọng dừng lại, nhìn vào đôi mắt giống mẹ của con gái trong chốc lát, trong lòng bỗng tuôn ra một cảm giác đầy xấu hổ thậm chí là chật vật. Ông thậm chí không dám nhìn con, tránh cái nhìn thẳng mình của cô.

Trong đại trướng trở nên yên lặng.

Một lát sau, vẫn là cô mở miệng, phá vỡ yên lặng, giọng đã trở nên bình thản.

“Thôi, con biết ngài cũng không dễ dàng. Ngài cứ thuận theo là được.”

Cô nói xong, cũng không hề dừng lại, xoay người ra khỏi trướng.

Cô bước nhanh trong đại doanh đêm tối, thẳng ra ngoài, càng đi càng nhanh, càng đi càng nhanh, cuối cùng trực tiếp thẳng ra cổng rào, dừng lại tháo dây buộc ngựa khỏi cọc, xoay người phóng lên.

“Tướng quân, Đại tướng quân nói gì thế? Ấy, cô định đi đâu? Chờ tôi chút!”

Dương Hổ mới nãy chưa chịu đi nghỉ ngơi, ôm cánh tay bị thương, quả thật định chờ ở đây, thấy thế, lập tức thúc ngựa đuổi theo.

Ngựa của cô là thớt ngựa lớn đỏ thẫm, có tên Thiên Long, là thần tuấn Đại Uyển lúc trước ông ngoại tặng cô, nếu mặc sức lao vụt, ngựa bình thường căn bản không thể nào đuổi kịp.

Dương Hổ mới đuổi theo không bao xa, đã thấy đằng trước một người một ngựa, hoàn toàn mất hút trong bóng đêm.

Khương Hàm Nguyên phóng ngựa phi nước đại, một mạch chạy vội tới trước Thiết Kiếm nhai hơn mười dặm ngoài, hết đường, ngừng lại.

Cô thả ngựa, leo lên núi, đứng trên đầu đỉnh núi.

Vùng Tây Hình Nhạn Môn, thể núi đa số là nham thạch đen, lúc trời trong nhìn từ xa giống dãy núi bằng sắt san sát. Sườn núi hiện giờ cô đang đặt chân, cũng thế, vì cao ngất ngưỡng, mới có tên Thiết Kiếm nhai.

Đêm nay, mây đen dày đặc, đỉnh đầu không trăng, cũng không có ánh sao.

Cô đón gió thu đêm lạnh lẽo vùng biên cương, một mình đứng hồi lâu, bỗng đạp rơi giày, ôm theo thế đá, thả người búng lên, nhảy xuống dưới vách núi.

Đây là nơi lúc bé cô thường lui tới, cô từng vô số lần nhảy từ trên đây xuống, phía dưới là miệng đầm con suối, ngay lúc này, mặt nước tối như mực, như cái miệng gã khổng lồ há to ra từ mặt đất.

Người cô cũng như viên đá, chìm vào nước, như chìm thẳng đến đáy đầm trong lòng đất.

Trong tích tắc thế giới như hoàn toàn im ắng, tim như hoàn toàn ngừng đập.

Cô nhắm cặp mắt, cuộn chặt thành một cuộn tròn dưới đáy nước, như thai nhi nấp sâu trong tử cung mẹ, lẳng lặng bất động.

Hồi lâu, Khương Hàm Nguyên chợt mở to mắt, buông lỏng tay chân, mũi chân trần điểm trên cạnh nham, người như chiếc đuôi linh xà, vọt lên thật nhanh từ đáy nước.

“Rào”, cô đột nhiên vọt ra khỏi mặt nước.

Cô tùy ý lau nước trên mặt, mang giày, huýt sáo, gọi Thiên Long, lại phóng ngựa, vội vã đi.

Hừng đông, Dương Hổ dẫn người tìm đến nơi, trên mặt đất chỗ mép nước, thấy mấy chữ vạch lưu lại bằng mũi đao.

“Chớ tìm.”

Hiền Vương Thúc Uẩn còn đây, Khương Tổ Vọng triệu riêng Phàn Kính đến bàn bạc.

Phàn Kính vốn là người bên nhà ngoại Khương Hàm Nguyên, đến từ mười mấy năm trước, xem Khương Hàm Nguyên là tiểu chủ quân, trung thành với cô e là còn muốn hơn với Khương Tổ Vọng, đương nhiên chuyện này không cần giấu ông.

Phàn Kính thế mới biết mục đích chuyến Bắc thượng của Thúc Hiền Vương, chấn động trong lòng, có thể tưởng tượng được.

“Đại tướng quân đã đồng ý?”

Ông vô cùng kinh ngạc, lời mới vừa thốt ra, ngay sau đó hiểu ra, mình lỡ lời.

Đối phương Nhiếp chính triều đình, so với Quân thật không khác mấy, mấy chuyện thế này, đã mở miệng, lại thêm Thúc Uẩn tự mình đến, thân là tướng thần, sao còn có chỗ khước từ?

Huống hồ nghĩ lại, dẫu chuyện đột ngột, song cũng không kỳ lạ cho mấy.

Cao tổ khai quốc bản triều vốn là chư hầu phương bắc, vài thập niên trước, lấy đất Tần Ung là nơi ở, nương vào thế đại loạn chinh phạt lẫn nhau sáng lập nền tảng nước nhà. Sau đó, Thánh Võ Hoàng đế kế vị lại là vị hùng tài đại lược, tại vị hơn hai mươi năm, Nam chinh Bắc chiến, cuối cùng mười mấy năm trước, tiêu diệt chỗ chia cắt cuối cùng, hoàn toàn kết thúc chiến loạn phân liệt cả trăm năm, thống nhất thiên hạ.

Cũng trong lúc đó, nội loạn lâu dài ở Trung Nguyên, cũng là cơ hội cực tốt để người Địch phương bắc xâm lược xuống Nam.

Phương Bắc bấy giờ, lấy hai nước lớn làm chủ, một Ngụy, một Tấn, lấy trung du Hoàng Hà làm ranh giới, Hà Tây thuộc Ngụy, Hà Đông thuộc Tấn. Giữa Ngụy Tấn, vốn dĩ từng có giằng co dây dưa, về sau, Ngụy quốc không ngừng quật khởi, Tấn đế kỳ vọng có thể kết minh với Bắc Địch lân cận phía bắc, giúp mình đối kháng Đại Ngụy, đối mặt với Bắc Địch xâm thực, nhiều lần nhượng bộ, bỏ đất rình sói, cuối cùng không những không thể bảo vệ cơ nghiệp, đổi lại còn khiến đa số vùng Sóc Châu Hằng Châu Yến Châu các cửa ngõ vốn thuộc quyền canh giữ phía Bắc nước Tấn, toàn bộ rơi vào tay Bắc Địch.

Nội loạn bình định, sau khi đại nghiệp hoàn thành, Võ Đế dõi mắt về bắc cảnh, mưu đồ đánh Bắc, đoạt lại các vùng Sóc Hằng Yến những cửa ngõ quan trọng phương bắc, không ngờ trên đường xuất binh bắc phạt, vết thương cũ tái phát, bệnh không dậy nổi, kế hoạch bị bẻ gãy.

Võ Đế mấy năm sau băng hà, Thái tử kế vị, là Minh Đế.

Lúc Minh Đế còn là thái tử, dĩ nhiên giữa mấy anh em biểu hiện bình thường, song từ nhỏ khoan hậu có đức, kế vị được lòng người. Mấy năm ông ngồi trên ngôi, đầu tiên là thiên tai không ngừng, sau lại xuất hiện loạn hoàng tử, Minh Đế lao tâm lao lực quá độ, đất mất phương bắc cũng không còn sức ngó ngàng, năm ngoái, bệnh nặng mà mất, hoàng tử Tiển tuổi mười hai, dâng tự lên ngôi, trở thành quân chủ đời thứ ba của Đại Ngụy, năm thứ hai, cũng chính là năm nay, đổi niên hiệu thành Thiên Hòa, chính là đương kim Thiếu đế.

Thiếu đế lên ngôi còn chưa trưởng thành, không thể tự mình chấp chính, năm ngoái trước khi Minh Đế lâm chung, đã đích thân chỉ Kỳ vương Tam đệ của mình làm Nhiếp Chính thân vương, giao Thiếu đế cho hắn và một vị khác phụ chính.

Phàn Kính tuy ở biên cương nhiều năm, nhưng cũng mơ hồ biết, hiện nay triều đình có phần tế nhị.

Kỳ vương trước kia được phong An Nhạc Vương, nhà mẹ cao quý, lúc Thánh Võ Hoàng đế còn sống, yêu quý người này, thời điểm triền miên giường bệnh còn từng phái hắn thay mặt mình đến bắc cảnh tuần tra bên cạnh việc khao quân. Ngày đó, phong thái vị thiếu niên An Nhạc Vương ấy đã khiến Phàn Kính khắc sâu ấn tượng, dầu đã qua nhiều năm, tình cảnh lúc đó, vẫn rành rành trước mắt. Nhưng, nói là Nhiếp chính, với tư lịch và tuổi tác của ngài, e là chưa hẳn người người tâm phục.

Mấy năm trước, điểm chú trọng của triều đình không ở bắc cảnh, Khương Tổ Vọng  thủ ở biên cương hơn hai mươi năm cũng đã bị người quên lãng, nhưng mấy năm gần đây, vấn đề bắc cảnh ngày càng nổi bật, dĩ nhiên ông được nhiều chú ý. Với danh vọng bây giờ của ông, thời điểm này, Nhiếp Chính Vương chọn con gái ông làm phi, mục đích rõ ràng.

Khương Tổ Vọng im lặng.

Phàn Kính bận rộn xin lỗi: “Đại tướng quân chớ trách, thật sự là —— “

Trong phút chốc ông cũng không biết nên nói gì cho phải.

“Cũng may… Cũng may Nhiếp Chính Vương… tài tuấn, cùng với tướng quân… có thể nói cũng xứng đôi…”

Cuối cùng, ông đành lào thào nói, chính bản thân cũng thấy, lời thật mềm yếu vô lực.

Khương Tổ Vọng khoát tay áo: “Ông nhiều năm bên cạnh con bé, nó còn thân với ông hơn ta. Nó có thể đi đâu?”

Phàn Kính lập tức biện bạch giúp Khương Hàm Nguyên: “Tướng quân từ nhỏ chững chạc già dặn, sẽ không xảy ra chuyện gì, đại tướng quân cứ yên tâm. Cũng có lẽ là trong phút chốc không nghĩ thông suốt, tự đi giải sầu thôi. Lần này cô ấy vốn định đi thành Vân Lạc, hay là lại đi chỗ nào rồi?”

Khương Tổ Vọng cau mày: “Ta không nghĩ Hàm Nguyên đối với chuyện này lại phản ứng lớn thế. Trách ta sơ sót. Ông lập tức dẫn mấy người đi thành Vân Lạc xem sao.”

“Tuân lệnh!”

Phàn Kính vội rời đi. Khương Tổ Vọng ngồi một mình ngây ngẩn thật lâu, bỗng ho khan, mặt lộ vẻ đau đớn, tay vịn chặt bàn án, chậm rãi ngồi xuống, thần sắc khô héo.

Nửa tháng sau, hôm ấy, tháng mười Ất Hợi, không khí sảng khoái cuối thu, ở Hộ Quốc tự Hoàng gia ngoại ô phía Tây kinh thành, một ngày chào đón đặc biệt.

Hôm qua Tướng quân Cấm quân Lưu Hướng kiểm tra chùa xong, đuổi hết những người không có phận sự, sáng sớm hôm nay lại tự mình thống lĩnh năm trăm cấm vệ tới đây, bố trí trước sau và chung quanh chùa. 

Nói về nghiêm ngặt đề phòng, đến cả con ruồi, cũng đừng hòng vượt tường.

Sở dĩ thận trọng như thế, là vì hôm nay chính là sinh thần của Lan Thái hậu Mẫu hậu của đương kim Thiếu đế. Thái hậu đề cao tiết kiệm tránh xa xỉ, lại hết lòng tin thần Phật, là người cung dưỡng Hộ Quốc tự, thế nên Hộ Quốc tự thay mặt bf làm một bộ bích hoạ, tỏ ý chúc thọ.

Hôm nay, Thái hậu đưa Thiếu đế và bạn giá đến, để mở bích hoạ.

Không chỉ thế, đi cùng còn có Nhiếp Chính Vương dẫn đầu chư Vương bá quan. Lúc này, mọi cấp bậc dù đã vào chùa, Lưu Hướng vẫn không dám lười biếng nửa phần.

Các nơi trong ngoài đã sắp xếp ổn thỏa từ sớm, nhưng thừa dịp rảnh tay, Lưu Hướng vẫn tự mình ra mặt, tuần tra một lần trước sau, thấy đúng là không có chỗ sơ suất, mới yên tâm.

Ông đứng ngoài cửa sau chùa vội vàng dặn dò thủ hạ, đang định đi vào nghe trị, chợt thấy phía cuối đường núi đối diện một người đi tới, người kia áo xanh giày đen, đầu đội nón rộng vành, vì đè thấp nón, cộng thêm còn chưa đến gần, nhất thời không rõ mặt, nhưng từ thân hình mà đoán, tuổi hẳn không lớn.

Lưu Hướng lập tức ra hiệu thủ hạ đến đuổi đi. Người kia liền dừng ở bên đường, nói với Cấm quân một câu.

Lưu Hướng thấy thủ hạ quay lại mà người tới vẫn chưa đi, không khỏi tức giận, tự sải bước tới, nghiêm nghị la rầy.

“Tướng quân, người kia bảo là người quen của ngài, xin ngài qua bên ấy, có lời muốn nói.”

Lưu Hướng khẽ giật mình, đánh giá đối phương lần nữa.

Người vừa tới vẫn đứng bên đường, bóng dáng trầm tĩnh.

Ông thật không nghĩ ra là ai, nhíu mày, đến gần. “Rốt cuộc ngươi là ai? Không biết hôm nay cấm đường sao? Đi mau —— “

Người đối diện giơ cánh tay, khẽ nhấc nón vành, lộ dưới vành một khuôn mặt, trẻ tuổi mà sạch sẽ, đôi mắt trong veo.

“Chú Lưu, là cháu. Hàm Nguyên.”

Người tới mỉm cười với ông, nói.
 
Chương 3


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

áng vẻ Nhiếp Chính Vương, không cần nhìn gần

Lưu Hướng khẽ giật mình, tường tận nhìn đối phương một lát, đột nhiên ngạc nhiên mừng rỡ lên tiếng: “Tiểu nữ quân! Sao lại là cô!”

Lưu Hướng trước kia từng là bộ hạ của Khương Tổ Vọng, trú quân một quận phía bắc Nhạn Môn, đồng bào đồng trạch, mãi đến mười mấy năm trước, hai người mới chia đường. Khương Tổ Vọng tiếp tục làm Đô hộ An Bắc, giữ vùng biên giới bình định, Lưu Hướng vì vết thương cũ cởi giáp, sau này về kinh thành làm Tướng quân cấm quân, phụ trách đóng quân cửa cung, Cấm vệ trong ngoài.

Ngày đó Võ Đế nhất thống chiến sự Cửu Châu, thôi thúc sản sinh ra vô số quân nhân công thần, những năm ông đi theo Khương Tổ Vọng phục vụ ở bắc cảnh cũng chưa từng lập đại công gì, có thể thoát ly nhận được một cơ hội như thế, không thể thiếu tiến cử của Khương Tổ Vọng. Mấy năm qua, trong ngoài trở ngại cấm kỵ không qua lại, dầu không có cơ hội gặp lại, nhưng đối với cấp trên cũ của mình, Lưu Hướng vẫn luôn mang lòng biết ơn kính trọng.

Về phần Khương Hàm Nguyên, càng không cần phải nói, xem cô từ nhỏ lớn lên trong quân doanh.

Nhận ra người, vẻ mặt ông lập tức trở nên vô cùng thân mật.

“Sao Tiểu nữ quân đột ngột vào kinh thế này? Đại tướng quân vẫn luôn khỏe chứ?Ôi chao, nhoáng một cái nhiều năm không gặp, Tiểu nữ quân đã lớn thế này! Ta dù thân ở kinh thành, mấy năm nay cũng thường nghe tin chiến thắng của tiểu nữ quân, thật sự là dòng dõi nhà tướng, Vũ Khúc hạ phàm, cả đám bọn ta xấu hổ muốn chết đã ăn không ngồi rồi còn tự xưng là đấng mày râu!”

Ông lại bước lên, định chào Khương Hàm Nguyên, bị cô ngăn lại.

“Không dám nhận. chú Lưu không cần khách khí. Thật không dám giấu, hôm nay cháu tìm đến chú Lưu, là có chuyện muốn nhờ chú Lưu hỗ trợ.” Cô mỉm cười nói.

Lưu Hướng lập tức gật đầu: “Tiểu nữ quân có chuyện gì cứ nói, chỉ cần chú Lưu của cô có thể giúp được, tuyệt không chối từ!”

[Diendantruyen.Com] Trường Ninh Tướng Quân
si vẫn, đầu thú ở nóc mái

Khương Hàm Nguyên ngó về hướng Hộ Quốc tự.

Cây lá mùa thu che nắng sáng, tường cao mái chùa ở chỗ sâu, thoảng nghe kinh Phật theo gió bay tới, dưới ánh mặt trời, một đôi si vẫn* kim bích lưu ly cao cao đứng hai bên nóc đại điện hùng vĩ, lóe ánh lộng lẫy.

“Vậy đa tạ chú Lưu. Cháu muốn vào đó.”

Lưu Hướng sửng sốt.

“Việc này…”

Ông lắp bắp, đột nhiên không nói nên lời.

Khương Hàm Nguyên mỉm cười nói: “Cháu biết chuyện cháu thỉnh cầu là vô lý, thật sự là khó xử ngài. Nhưng ngài hãy yên tâm, cháu sẽ không gây phiền toái cho ngài.”

Nếu đổi lại bất kỳ một ai khác, kể cả thân thiết nhất, đưa ra yêu cầu này, Lưu Hướng cũng sẽ cự tuyệt không chút do dự.

Nhưng giờ đây, đứng trước mặt là con gái của chủ cũ…

“Xin hỏi Tiểu nữ quân, hôm nay vào chùa, vì chuyện gì? Cũng không phải là chú Lưu không muốn hỗ trợ, mà… Tiểu nữ quân cô cũng biết đấy, ta mang chức trách trong người, không thể có chỗ nào không tốt.”

Rốt cuộc, ông mở miệng, cẩn thận thăm dò.

“Cháu muốn xem Nhiếp Chính Vương một chút.”

Giọng điệu cô rất bình thường.

Lưu Hướng khẽ giật mình lần nữa, nghĩ tới một chuyện.

Nhiếp Chính Vương năm nay hai mươi bốn, song đến nay chưa từng phinh nội*, vị trí Vương phi bỏ trống.

(*) mượn chỉ cưới vợ, nói hôn lễ thời xưa.

Mấy tháng trước, ông có nghe một lời đồn không biết thực hư. Nhiếp Chính Vương vào cung, thăm Lão thái phi triều Võ Đế, thái phi đau lòng thấy bên cạnh ngài ấy đến giờ vẫn chưa có người tri tâm biết lạnh biết ấm, giục ngài lập phi, ngài bèn cười thưa, ngưỡng mộ con gái của Khương Tổ Vọng, nếu có thể cưới làm vợ, ắt không hối tiếc.

Vợ Khương Tổ Vọng chết sớm, chỉ có một mụn con gái, chính là Khương Hàm Nguyên từ nhỏ được ông đưa theo bên cạnh.

Thêm nữa, tháng trước, Tông chính khanh Hiền Vương Lão thiên tuế Thúc Uẩn ra kinh đi phương Bắc. Không ai biết mục đích chuyến này của ngài, nhưng lời đồn càng vững chãi, Lão thiên tuế đi cầu thân thay Nhiếp Chính Vương.

Hôm nay Khương Hàm Nguyên có mặt chỗ này. Nhìn một thân trang phục của cô, rõ ràng là lặng lẽ vào kinh.

Xem ra tin đồn là thật.

Lưu Hướng thầm thở phào nhẹ nhõm. 

Thì ra là thế.

Tiểu nữ quân ở sa trường dẫu không thua kém đấng mày râu, nhưng rồi thì thế nào, cuối cùng cũng là con gái nhà người ta, muốn ngó bộ dáng lang quân tương lai tí, cũng là chuyện thường tình của con người.

Sau khi Kỳ vương nhiếp chính, thức khuya dậy sớm, thương lượng bàn bạc không mệt mỏi, sắp xếp chính sự thường đến đêm khuya thậm chí thâu đêm suốt sáng, để thuận tiện, thường ở trong cung, người ngoài muốn vào cung để ngó tướng mạo, e là không thể. Đúng là, hôm nay xem như là cơ hội thuận lợi cực kỳ hiếm có.

Lưu Hướng vừa âm thầm quan sát con gái chủ cũ. Khí định thần nhàn, tư thái tự nhiên. Đoán rằng cô biết nặng nhẹ.

Điểm này, ông tuyệt đối tin tưởng.

Lùi một bước mà nói, cho là không cân nhắc tình xưa với Khương gia, mai này nếu cô ấy thật sự là Vương phi, ắt ở kinh thành, ngẩng đầu không thấy cúi đầu gặp, chỉ mỗi yêu cầu thế này, mình có thể nào không đồng ý đây?

Ông không do dự nữa, thấp giọng: “Cũng được, hôm nay vì tiểu nữ quân ta phá lệ một lần. Vừa nãy bích họa cúng dường điện đã xem xong, Nhiếp Chính Vương với Thái hậu và bệ hạ đã đi La Hán điện, đang nghe Pháp sư giảng kinh. Cô cứ giả trang thành thân binh của ta đi vào, dùng ám ngữ thông hành, qua lại sẽ không có trở ngại. Chỉ là, tiểu nữ quân nhớ kỹ, tuyệt đối đừng kinh động người…”

“Bề ngoài của Nhiếp Chính Vương, không cần xem gần. Tiểu nữ quân chỉ cần xa xa nhìn một cái, đã nắm chắc.” Cuối cùng ông lại gần hơn, dùng giọng điệu thân thiết mang theo ít trêu chọc của trưởng bối, ranh mãnh nói.

“Đa tạ chú Lưu, cháu đã rõ.” Khương Hàm Nguyên không chút xấu hổ, chỉ hơi khom người, cười cảm tạ.

Ngoài đường giảng kinh tùng đen rập rạp, lặng tiếng chim kêu. Một lư hương ba chân cực lớn cao hơn đầu người miệng hướng lên trời ở chính giữa lối đi, khói trắng lượn lờ phun từng sợi không dứt.

Phía trước hướng chính bắc điện, Lan Thái hậu ngồi trên một tấm đôn, đang tập trung lắng nghe tiếng Pháp sư ngồi trên cao. Bà là con gái của Lan Tư đồ, tuổi gần ba mươi, nhìn chỉ chừng hai lăm hai sáu, mặt đẹp tóc mây, đoan chính trang nghiêm. Chung quanh bà khói lành thơm phức, hai danh nữ nghiêng quạt lông trĩ kim bích cho bà. Thiếu đế mười ba tuổi ngồi bên cạnh bà. Hôm nay cùng đi theo có rất nhiều mệnh phụ nội ngoại, trên có Nam Khang đại trưởng công chúa, dựa theo thứ tự chức bậc cao thấp nối đuôi ra đến đại điện phía Tây. Ánh nắng từ cửa điện tản ra mà vào, phản chiếu lên trang sức phụ kiện của Thái hậu và các quý phụ, trâm cài màu thêu cùng tranh nhau phát sáng, tỏa ánh lấp lánh mỹ lệ.

Cánh đông đại điện đối diện, là nhóm bá quan chư Vương hôm nay đồng hành. Chính giữa là Nhiếp Chính Vương dẫn đầu, chỗ ngồi bố trí đặc biệt, ngoài ra, bên cạnh y, cũng đặt một chỗ nữa, trên ấy là một người hông mang đai lưng khoen vàng ngọc cường tráng ngang tàng ngồi.

Người này chính là phụ chính đương triều, Đại tư mã Cao vương Thúc Huy.

Cao vương thật ra tuổi đã ngoài ngũ tuần, nhưng vì xuất thân võ tướng, đến nay không ngừng cỡi ngựa bắn cung nên thể trạng vẫn còn cường tráng, nếu khóe mắt không có mấy nếp nhăn, chỉ nhìn tướng mạo, không khác trung niên. Địa vị ông cũng cực kỳ cao, bản thân là con của Cao Tổ, em trai Võ Đế, từng theo Võ Đế nhiều lần xuất chiến, là mãnh tướng Đại Ngụy tiếng tăm lừng lẫy, từng lập công lao hãn mã, uy vọng xuất sắc, tướng hai đời triều, chẳng những đương kim Thiếu đế đối với ông ta tất cung tất kính, lấy theo dòng hoàng thúc tổ tôn, đến cả Nhiếp Chính Kỳ vương đối với vị hoàng thúc này, cũng phải lễ tiết chu đáo, không dám lạnh nhạt mảy may.

Pháp sư đang ngồi trên kia kể lại bức bích họa Minh Vương vẽ vì sinh thần Thái hậu hôm nay. Giảng đến, Minh Vương là Bồ Tát hóa thân, vì giáo hóa chúng sinh tham lam ngu muội mà hiện ra vẻ phẫn nộ uy mãnh, như cảnh tỉnh chúng sinh chấp mê, lại lấy ánh sáng trí tuệ, loại trừ nghiệp chướng chúng sinh ngu si phiền não, cố xưng Minh Vương.

Pháp sư lưỡi xán hoa sen, song vị hoàng thúc tổ này nào có tâm tư nghe Phật pháp gì, ngồi một lát, liếc khóe mắt sang thanh niên bên cạnh, cháu mình, Nhiếp Chính Kỳ vương Thúc Thận Huy.

Mẫu phi của Kỳ Vương đến từ vùng đất Ngô Việt, ngoại tổ là Ngô Việt vương, từng thiết giáp mười vạn, năm xưa đại tranh loạn thế, nhưng trước sau không xưng đế, chỉ lấy Vương hào giữ nước. Đợi đến chừng Võ Đế càn quét phương nam, dẫn dân đầu Ngụy. Khi đó nguyên hậu đã qua đời, Vương nữ mới lên làm phi, sủng quan hậu cung, rồi sinh ra An Nhạc Vương, Võ Đế liền muốn lập bà làm hậu, lại bị bà từ chối, sau đó Võ Đế không lập ai khác nữa, để bà thực lĩnh coi ngó lục cung. Sau khi Võ Đế băng hà, bà tiện lấy lý do dốc lòng tu Phật về chốn cũ, ẩn cư nhiều năm, không còn ra ngoài.

Thời Vương nữ còn trẻ, có dáng vẻ Tây tử, Kỳ vương cũng thừa hướng nét mẹ, hôm nay y mặc công phục màu đen, mũ cao đai rộng, ngọc trâm đỏ thắm, tư thái buông lỏng, lưng hơi dựa vào ghế ngồi, ánh mắt nhìn thẳng phía trước, đặt trên người Pháp sư trong điện, vẻ chuyên chú, như đang thẩm thấu Phật pháp, không hề cảm giác ánh dò xét từ bên cạnh.

Cao Vương không dám nhìn lâu, sợ bị phát giác, thu ánh mắt, khóe mặt lại vô tình dừng lại đai lưng bên hông y. 

Theo chế độ quan phục bản triều, Đế mang đai chín khoen vàng ngọc, Thân Vương tám khoen, còn lại dựa theo phẩm cấp giảm đi, đẳng cấp rõ ràng, không cho phép quá giới hạn.

Với địa vị hôm nay của Cao Vương, cũng chỉ có thể mang đai vàng ngọc tám khoen. Thế nhưng đứa cháu hậu bối bên cạnh tuổi chưa qua hai mươi mấy, lại ngồi ngôi Nhiếp Chính, đến Minh Đế trước khi lâm chung thân cũng cởi y đai, ban thưởng y quan ngang ông ta. Chẳng qua bản thân Kỳ vương chưa từng thêm thân, ngày thường vẫn vận y quan Thân vương như trước.

Nhưng, càng bởi vì thế, đai lưng ngọc nạm vàng bên hông y phía kia lại ngang hàng với mình, lọt vào mắt Cao vương, trái lại càng thấy chói mắt.

Cao vương lên cơn nóng nảy, tim đập thình thịch, nhưng dầu gì ông cũng là người trải qua trăm trận, sóng gió có lớn cũng là bình thường, nhanh chóng khắc chế nỗi lòng, yên ổn tinh thần, vô thức liếc ra bóng nắng ngoài điện.

Bỗng lúc này, ông thấy một tiểu hầu bên cạnh đứa cháu hình như tên là Trương Bảo đang xuất hiện ở cửa đại điện, khum thấp người, dọc theo vách điện, nhẹ chân nhẹ tay đi cực nhanh đến cạnh y, khom người đến lỗ tai y, thấp giọng nói một câu.

Nhiếp Chính Vương nghe xong, vẻ mặt như thường, nhưng đứng phắt dậy, lặng lẽ ra ngoài, mất bóng ngoài cửa đại điện.

Thính lực năm xưa của Cao Vương không giảm, ngoài mặt không đổi, thực ra đang tập trung hết sức nghe ngóng, song giọng Trương Bảo cực nhỏ, ông ta chả nghe được gì, thấy người ra ngoài, bá quan chung quanh cũng lưu ý đến, xôn xao đưa mắt về hướng Nhiếp Chính Vương vừa mới đi ra.

Cao vương hơi mất tập trung, chờ một lát, Kỳ vương vẫn chưa về, thiệt không kìm nổi, bảo muốn thay y phục, cũng đứng dậy đi ra.

Ông bước ra thềm điện, mang theo hai hầu cận đang đợi mình bên ngoài, xuôi theo hướng hành lang đứa cháu vừa đi thẳng rẽ phải, chậm rãi thăm dò, cuối cùng cũng đi đến điểm đích.

Điểm đến là gian điện phụ, cửa nửa đóng, trong điện tia sáng lờ mờ, tượng Phật bằng vàng ẩn hiện, hương khói chậm rãi tỏa khắp, bốn bề trống trải, không thấy nửa bóng người.

Bóng mặt trời chiếu xéo, một nhánh cây tùng cổ thụ từ bên cạnh tường đầu hồi men theo đầu tường thăm dò vào, nhẹ nhàng lắc lư theo gió. Lá tùng rơi xuống, ngay cả tiếng rì rào kia như cũng có thể nghe rõ ràng.

Cao Vương dừng bước, ngó bốn phía, mù mịt ngắn ngủi qua đi, đột nhiên, một cảm giác chẳng lành mãnh liệt lướt qua trong lòng. Nó bảo ông ta, ắt có tai hoạ trước mắt. Đấy là môn pháp đã đưa nửa đời người của ông mấy lần có thể trở về từ cõi chết, trực giác của ông, giảo hoạt quyện cùng đấu trí đấu dũng giữa cạm bẫy mọi nơi đã tu luyện được tới bí quyết thông với cửa sinh. 

Ông rùng mình cả người, nhanh chóng ra quyết định, lập tức quay về, ra chỉ lệnh huỷ bỏ hành động.

Song đã quá muộn.

Hai người ăn mặc như thân vệ như không chút động tĩnh mọc ra từ lòng đất, như âm hồn xuất hiện ở phía sau ông.

Ánh đao trắng như tơ lướt qua, hai hầu cận của ông ngã xuống.

Yết hầu cả hai bị cắt một lỗ thật sâu, máu phun ra, miệng uổng công mở, như miệng cá rời khỏi nước không ngừng mấp máy, lại không phát ra được bất kỳ âm gì, chỉ có bọt máu càng nhiều, càng không ngừng tuôn ra từ trong miệng chúng.

Cao Vương kinh hãi, song ông phản ứng cũng cực kỳ nhanh, vô thức đưa tay sờ ra sau lưng, định rút đao, tay trống rỗng.

Ông tỉnh ngộ.

Hôm nay theo Thái hậu và Thiếu đế lễ Phật, để thể hiện thành kính, dựa theo lệ cũ, ngoại trừ Cấm quân và thân vệ, chư vương bá quan, đều bỏ binh khí.

Ông vốn cho rằng đây là cơ hội trời cao cho mình nhưng không ngờ, thì ra đây là cạm bẫy trời cao muốn tuyệt đường mình.

Giương mắt, hai người kia được thế đã nhanh như chiếc bóng, nhào tới trước mặt ông, bao vây vào giữa.

Cao vương cảm thấy lạnh cuống họng.

Ngay một khắc này, viên Hoàng thúc tổ Đại tư mã, ngửi được rõ ràng mùi kinh khủng của cái chết, xưa nay chưa từng có.

Ông ta cứng đờ, chậm rãi ngước mắt.

Một bóng người màu đen từ góc khuất của đại điện tĩnh mịch từ từ bước ra, đứng dưới bóng cây tùng cổ thụ trước thềm điện.
 
Chương 4


Ta không phải là lương quân

() người chồng, người vợ tốt, người quân tử.

.minh edit.

Nắng tháng mười tươi sáng, chiếu lên người Cao vương, song ông lại thấy sau người phát lạnh, trán toát mồ hôi lạnh, khí lạnh toát từ tận chân răng.

Ngay tích tắc nhìn thấy bóng người này, mọi thứ đều rõ ràng.

Ông nhìn chằm chằm đứa cháu đứng trước thềm điện, chỉ vào y, nghiến chặt chân răng, ha ha cười lạnh.

“Chim bay tận, cung tốt cất. Tam Lang tiểu nhi, nhớ giờ này năm đó, lão phu còn từng cầm tay dạy ngươi bắn chim! Bây giờ miệng còn hôi sữa, lại mưu tính thế này lên chú ruột ngươi! Ta có ngày hôm nay, há chẳng phải là bị ngươi ép sao!”

Bóng cây loang lổ đổ xuống gương mặt thanh niên đối diện, tranh sáng tranh tối.

Y cũng không tiếp lời, chỉ bình tĩnh nói: “Hoàng thúc, nếu ta đoán không sai, lính gác cổng trong thành Vũ Hầu phủ là tay trong của ngài, giờ đây đã đền tội. Chất nhi kính trọng ngôi vị của ngài, năm xưa cũng từng công cao lao khổ, nếu ngài tự sát, sẽ khỏi nhục nhã. Còn phần sau này, chỉ cần con cháu mang huyết mạch ngài an phận thủ thường, ta ắt sẽ bảo đảm vinh hoa của họ, không giảm mảy may.”

Một thị vệ tiến lên, quỳ gối trước mặt Cao Vương, hai tay nâng lên chuôi chủy thủ còn dính máu mới rồi kề họng ông ta, cung kính nói: “Cao vương, mời.”

Mặt Cao vương xám như tro, “…Ta chính là con trai của Cao Tổ, là Hoàng thúc ruột thịt của ngươi, nắm giữ thiết khoán, có thể miễn mười lần chết —— ”

Vẻ mặt thanh niên vẫn lạnh nhạt, như không nghe thấy.

Cơ mặt Cao vương càng không ngừng co rút, thu ánh mắt dán lên mặt đứa cháu ruột lại, chằm chằm nhìn lưỡi đao giơ trước mặt mình, rốt cuộc, tay run run, khó khăn, từng chút từng chút đưa tới, cầm chủy thủ, giơ lên, từ từ ngang đến trước ngực, nhắm mắt, lúc ra vẻ tuyệt vọng muốn đâm, chợt trợn mắt, đột nhiên xoay cổ tay, phóng chủy thủ, bay về phía người đứng trước thềm.

Với thân thủ ông ta, một chiêu phóng ra này, e là Nhiếp Chính Vương lập tức đổ máu tại chỗ!

Ngay chớp lóe ấy, thị vệ mới quỳ gối trước người phóng dậy, nhanh như vượn tinh, mạnh như hổ báo, trong nháy mắt đánh rơi chủy thủ.

Ngay sau đó, một người khác rút từ tay áo ra một sợi roi thừng, nhanh nhẹn quấn quanh cổ Cao vương, hai người mỗi người cầm một đầu, kéo sang trái phải, nút thòng lọng siết chặt, trong tích tắc đã chắc chắn.

Nhưng Cao vương tầm cỡ nào chứ, phản ứng cực nhanh, nào bó tay chịu trói, ông đưa hai tay thọc vào thòng lọng, ra sức kéo ra. Hiển nhiên ông dũng mãnh khó lường, song thân thủ hai thị vệ không phải ai cũng sánh được, dù bản lãnh cả người tỏa sáng nhưng cổ đã bị thắt, cũng không có chỗ triển.

Thòng lọng trên cổ ông càng thu càng chặt, đôi tay ông cũng bị thắt sâu vào cổ họng mình, cặp mắt lồi ra, mặt đỏ lên, phát ra một tràng ư ư như mãnh thú giãy giụa.

“Trời cho không lấy… Ngược lại là tội lỗi… Trách lòng ta không đủ ác độc, ngày đó hoàng huynh phế vật của ngươi, vốn cũng không có tư cách kế vị…”

Hoàng thúc tổ Cao vương, liều tất cả sức lực giãy giụa, hai chân đạp đất lung tung, bùn lá tung bay, thân thể khổng lồ, như con cá ngát quẫy trên thớt gỗ.

“…Tam Lang tiểu nhi… ngươi bố ráp giết ta… ngươi dám nói một câu… ngươi không chút lòng riêng vượt giới hạn đi…”

Dây thừng càng thu càng chặt, Cao vương liều chút sức lực cuối cùng, hàm hàm hồ hồ, phát ra tiếng sau cùng.

“…Đừng tưởng rằng sau này ngươi có thể kết thúc yên lành… Hôm nay của ta, chính là ngày mai của ngươi…”

Giọng oán độc vô cùng, như nguyền rủa vọng từ vực sâu.

Hai thị vệ cùng nhìn Nhiếp Chính Vương.

Y vẫn lẳng lặng đứng thẳng, hơi cúi mắt, nhìn hoàng thúc ương ngạnh không chịu chết, trong ánh mắt như mang theo mấy phần thương xót. Hai thị vệ phát lực lần nữa, xương cổ Cao Vương hoàn toàn vỡ vụn, viên mãnh tướng Đại Ngụy xưa kia, rốt cuộc ngừng giãy giụa, thân thể biến thành một khối thịt mềm, đầu vô lực ngoẻo qua một bên.

Hai thị vệ tiếp tục, một lát sau, xác định người đã chết hẳn, thu dây thừng, lùi vào góc khuất, lặng yên chờ đợi.

Nhiếp Chính Vương tiếp tục đứng trên thềm.

Gió chợt rì rào, lay động lá tùng vương trên kẽ đỉnh mái ngói, im ắng rơi xuống vai y, rồi đáp xuống chân y.

Y đi đến bên cạnh người Cao Vương đã tắt thở, cúi nhìn khuôn mặt đã vặn vẹo, lát sau, khom người, chậm rãi đưa tay vuốt lên đôi mắt chưa chịu nhắm, đứng lên, đi qua đường bên cạnh.

Y về lại điện giảng kinh, dưới vô số cặp mắt hai bên âm thầm nhìn chòng chọc, đi vào, bình tĩnh ngồi về ghế mình.

Lan Thái hậu mượn quạt lông trĩ che chắn, nhìn ra bóng người không biết vừa đi đâu về ở Đông điện một lát, đến chừng thu mắt, lại liếc sượt qua một bóng lưng áo đỏ ở góc Tây điện, khóe môi giật nhẹ không thể thấy nổi.

Ngoài điện, khi Lưu Hướng bị người dẫn tới hậu điện, nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của phò mã Đô úy Trần Luân kia, mới như tỉnh từ trong mộng, biết đã xảy ra chuyện lớn.

Mấy xác chết xếp hàng nằm dưới đất này, toàn bộ đều là những gương mặt ông không thể quen thuộc hơn, một người trong đó thậm chí còn chính là đội trưởng mà ông phó thác trách nhiệm trông coi tiểu đội, phụ trách việc bảo vệ Nhiếp Chính Vương xuất hành hôm nay.

Nằm mơ ông cũng không nghĩ tới, bản thân luôn luôn tự cho là tổ chức cấm vệ kín như thùng sắt không kẽ hở, lại thủng lỗ chỗ từ sớm.

Ngay lúc ông vừa chấp chưởng Cấm quân Cao Vương đã sắp xếp người, điểm này chưa đáng sợ, đáng sợ là, có thể trốn qua thanh tẩy theo thông lệ khi ông bắt đầu nhậm chức. Mấy người kia, bao năm nay Cao vương vẫn không dùng tới, bản thân ông chẳng hề phát hiện mảy may.

Kế hoạch của Cao vương, là lợi dụng hôm nay lễ Phật kết thúc rời đi, trong giây phút các nơi cảnh giác buông lỏng, ông ta sẽ ném mũ ra hiệu, mấy tử sĩ này sẽ đồng loạt ra tay, đánh giết Nhiếp Chính Vương.

Đây đều là mãnh sĩ cả trăm người có một, lại ở gần Nhiếp Chính Vương. Cung ngựa tuy là môn bắt buộc của đám con cháu Hoàng tộc, song ngài ấy lớn lên theo văn, lại không mang theo binh khí phòng thân, một khi ra tay, hẳn chết là chắc chắn.

Cũng chính tích tắc này, Lưu Hướng hoàn toàn rõ ràng.

Nhiếp Chính Vương đáp trả đã có kế hoạch diệt trừ Cao Vương trước, tạo áp lực đến ông ta, buộc ông tự loạn trận cước, lúc này mới cố ý thả ra tin tức cầu hôn con gái Khương Tổ Vọng.

Lúc Thánh Võ Hoàng đế bản triều còn sống, hiển nhiên uy vang bốn biển, người người cúi đầu. Nhưng đến Minh Đế, uy vọng của Quân chủ giảm mạnh, đổi lại nhân vật như Khương Tổ Vọng, tay nắm trọng binh thường trú biên quan, xung phong đi đầu thương lính như con, bộ hạ trung thành với ông ấy, nơi nơi còn trung thành hơn cả đối với Hoàng đế trong kinh thành. Từ một điểm này mà nói, là tai hoạ ngầm. Có lẽ âu cũng là nguyên nhân vô số lương tướng khó có kết thúc yên lành từ xưa đến nay.

Nhưng trái lại, nếu dùng thật tốt, thì lại như quốc chi trọng khí, định hải thần châm*.

Khương Tổ Vọng bị Nhiếp Chính Vương lung lạc, triệt để trung thành với y, hiển nhiên Nhiếp Chính Vương như hổ thêm cánh.

Phản ứng của Cao vương cũng là cảm giác được uy hiếp, đồng thời, cảm thấy ý vị sau thứ uy hiếp này.

Trước đó, có lẽ ông ta chưa thật sự có dự định khởi sự nhanh chóng. Nhưng không nghi ngờ rằng, ông ta là tay lão luyện am hiểu đấu tranh rất sâu, so với bất kỳ kẻ nào ông rõ nhất, một khi hai bên gặp nhau trong ngõ hẹp, ai có thể cười đến cuối cùng, là người có thể nhanh chóng chớp lấy cơ hội, cho đối thủ một nhát trí mạng. Cho nên ông ta mới dùng đến người đã sắp xếp dưới tay mình từ trước, mạo hiểm hôm nay đánh một nước trước.

Song ông ta không biết, mỗi một bước ông ta đi đều nằm trên con đường đối thủ đã thiết kế riêng cho ông ta, càng chạy càng xa, cuối cùng lọt lưới.

Không chỉ có thế, hôm nay Cao vương đã sụp đổ, Nhiếp Chính Vương lại có thể dùng chuyện này trấn áp đám cầm binh quyền tướng lĩnh bao gồm cả Khương Tổ Vọng.

Nhiếp Chính Vương trẻ tuổi, là một tay cung. Mà Thúc Huy, còn có đám người Khương Tổ Vọng, chẳng qua đều là đám chim y xách cung muốn bắn thôi.

Cử chỉ cầu hôn, chân thật là một mũi tên hai con chim.

Lưu Hướng nhìn chằm chằm từng cái xác dưới chân, tận sâu trong lòng kinh hãi như sóng lớn, không cách nào hình dung.

Ông không dám tưởng tượng, nếu hôm nay Cao vương đạt được, nếu một màn đẫm máu thật sự xuất hiện, tình thế sẽ tiến triển thế nào. Chờ đợi mình, là hoàn cảnh bi thảm cỡ nào.

Tội danh treo trên đầu mình, lại tùy tiện ném ra một tay chủ mưu nào đấy, Đại tư mã Cao Vương thì lắc mình biến hoá, thay thế Kỳ vương nhận lấy ngôi Nhiếp chính.

Xưa kia phục dịch Bắc cảnh, ông đã không chỉ từng một lần kinh hãi trải qua chém giết đẫm máu, nhưng chưa bao giờ như lần này, ông cảm thấy sợ hãi lạnh đến tận xương.

Từ từ, đôi chân ông như nhũn ra, cuối cùng quỳ xuống đất, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng.

Bỗng, một điệu nhạc du dương bay vào tai ông.

Giảng kinh ở tiền điện đã kết thúc, trong tiếng nhạc du dương và tiếng tụng kinh thâm trầm, hai đội thị nữ mặc y phục rực rỡ bưng một bồn đầy cánh hoa vẩy lên không trung. Dưới cánh hoa rộn ràng bay lả tả, Nhiếp Chính Vương che chở Lan Thái hậu và Thiếu đế ra đại điện.

Bầu không khí tốt lành.

Như chẳng ai cảm thấy, trong đội ngũ chư Vương theo sau thiếu đi một người. Cũng có lẽ có người cảm thấy, song căn bản không nghĩ đến, ngay một chốc trước đó, trong một góc khuất ở vùng yên tĩnh này, từng phát sinh một màn kinh tâm động phách đủ ảnh hưởng đến tương lai của đế quốc này.

Cả đám rời sơn môn.

Nhiếp Chính Vương đưa Lan Thái hậu và Thiếu đế lên dư giá*, mệnh phụ nội ngoại và chư vương bá quan cũng xôn xao tự về, hoặc lên xe rồng, hoặc lên ngựa.

(*) kiệu khiêng

Nhiếp Chính Vương lại chưa đồng hành.

Y đứng bên cạnh kính cẩn khom người đưa tiễn dư giá. Dư giá đi rồi, y chậm rãi đứng thẳng người, đứng bên bờ cửa, vẫn dõi mắt theo lọng xe uốn lượn, mãi đến khi dần dần khuất khỏi tầm mắt.

Lưu Hướng sau lưng y, lúc này, bịch một tiếng quỳ xuống, dập đầu liên hồi.

“Điện hạ! Ti chức tội chết! Chết muôn lần không thể tránh tội! Điện hạ —— ”

Lão tướng xưa kia từng giương oai nơi sa trường không ngừng dập đầu, tơ máu rất nhanh rịn trên trán.

Thúc Thận Huy quay lại, một đôi mắt lạnh hờ hững nhìn mặt ông.

“Trung trực có thừa, trí nghĩ chưa đủ.”

Một lát sau, y lạnh lùng thốt.

Lưu Hướng cúi đầu thật sâu, không dám ngóc lên nửa phần: “Ti chức cực kỳ vô năng! Nhiếp Chính Vương giáng tội!”

“Đi quét địa bàn của ông cho sạch. Từ đây ta không hi vọng lại có chuyện thế này phát sinh.”

Lưu Hướng ngây người, rất nhanh hiểu. Mình đây là được miễn xá.

Trong giây lát ông thật không tin nổi, cứ tưởng đang nằm mơ, đợi phản ứng quay lại, cảm động đến rơi nước mắt, không lời nào diễn tả được.

Ngay lúc này, nếu mà vị Nhiếp Chính Vương trẻ tuổi này có moi tim mổ gan ông, ông cũng cam tâm tình nguyện. Ông kích động run cả người, trong lòng nảy ra một suy nghĩ quyết tận trung với ngài. Mắt đỏ au, ông lại dùng sức dập đầu, cắn chặt răng, từng chữ từng chữ nói: “Xin Nhiếp Chính Vương yên tâm. Nếu lại có sơ sẩy, ti chức tự kết thúc mình trước!”

Không ngờ Nhiếp Chính Vương nghe thấy, lại nở nụ cười, một khuôn mặt sương lạnh chuyển thành ôn hòa, chỉ vào ông, “Ông kết thúc là chuyện nhỏ, song làm hại đến ta, tuyệt đối không thể.” Nói xong cất bước bước vào sơn môn, đi vào trong.

“Vâng, vâng, vi thần ghi nhớ…”

Lưu Hướng cảm giác được, Nhiếp Chính Vương nói câu cuối kia với mình, hình như cũng chẳng có ý chỉ trích bao nhiêu, thậm chí, ngài còn cho mình câu bình bát tự, ở mức nào đó, đâu như cũng là một loại khẳng định.

Ông chỉ thấy một bầu nhiệt huyết càng thêm sôi trào. Mặt ông ửng đỏ, quỳ gối về phía bóng người kia, đưa mắt nhìn bóng lưng, một lần nữa cung cung kính kính dập đầu chạm đất, một lát sau, hơi giương mắt, bóng lưng màu đen kia đã hoàn toàn biến mất không còn vết tích.

Ông biết hẳn là Nhiếp Chính Vương đi xử lý hậu sự vừa rồi.

Cao vương đã ấn định hôm nay ở chỗ này sẽ ra tay, phía bọn gác cổng Vũ Hầu phủ bên kia kinh thành chờ sẵn, ắt cũng có người hô ứng, địa vị chắc cũng tuyệt đối không thấp hơn mình. Nhưng mà, Nhiếp Chính Vương đã nắm được Cao vương, vấn đề còn lại chắc hẳn không lớn.

Chỉ là, hết ngày hôm nay, trong kinh thành, đối với vài người mà nói, e là sẽ có biến không chỉ là rung chuyển nghiêng trời lệch đất.

Ông chỉ nghĩ mà sợ vô cùng, lần đầu sinh ra một cảm giác ở kinh đô phú quý cẩm tú tràng nguyên lại không bằng chốn sa trường. Chí ít, trên chiến trường, dù có chết, cũng chết được rõ ràng, chết được oanh liệt.

Một trận gió thổi tới, y phục đẫm mồ hôi lạnh dán sau lưng, lạnh buốt.

Ông lấy lại bình tĩnh, đưa tay chùi mồ hôi lạnh trên trán, đang định đứng lên, đột nhiên, khựng cả người.

Ông nhớ tới một chuyện mới vừa rồi đã quên bẵng mất.

Hàm Nguyên!

Cô đâu rồi!

Vừa xảy ra chuyện lớn vậy, giờ này cô ấy đang ở đâu? Đi rồi, hay là vẫn còn nấp trong kia?

Lưu Hướng tự dưng lo lắng không thôi, nhìn vào bên trong một chốc, trầm ngâm.

Thôi, với khả năng của cô ấy, hẳn tự xử được.

Loan giá Thiếu đế ra ngoài đã một quãng. Trong phút chốc ông cũng chẳng thể đoái hoài cả hai đầu, đành đứng dậy, vội vàng rời đi.
 
Chương 5


on gái Khương gia, là người hợp với vị trí Nhiếp chính vương phi nhất.

Thúc Thận Huy nghe xong tin hồi báo, đưa mắt nhìn cái xác đã được phủ vải khiêng đi từ cửa sau núi, lại bước ra từ thiên điện. Nét mặt y vẫn như thường, bước đi lại nặng nề mấy phần, hai thị vệ không xa không gần lặng lẽ theo sau. Vừa đi tới trước điện giảng kinh La Hán, y thả bước chậm, cuối cùng dừng lại.

Một bóng người áo đỏ đứng bên cạnh lư hương to lớn trước điện, hai cung nữ đang đợi gần đó. Nàng ngóng nhìn phía trước, như đang xuất thần. Chung quanh bóng cây tùng rậm rạp, che khuất bầu trời, bóng hình lộ ra càng thêm gầy gò mỏng manh.

Thúc Thận Huy lại cất bước, đi về phía nàng. Cô gái kia cũng nhìn thấy y, váy lụa khẽ động, quay người chào đón.

“Loan nương, vừa rồi sao không theo Thái hậu cùng về?” Y hỏi.

Ôn Loan là con gái Thái phó Ôn Tiết đã qua đời, quen biết Thúc Thận Huy từ nhỏ, nghe đồn tình cảm rất sâu đậm, vài năm trước, thậm chí người người còn cho rằng Ôn nữ sẽ là Kỳ Vương vương phi. Song về sau chẳng biết tại sao, mãi không thấy động tĩnh, cộng thêm Ôn Tiết cũng đã qua đời, Ôn gia chỉ còn một người anh cả, giữ một chức Thượng Thư Tào lang không lớn không nhỏ, lời suy đoán đó mới dần dần không ai đề cập.

Ôn Loan chỉnh đốn trang phục mỉm cười nói: “Thái hậu lệnh cho ta ở lại, tìm vài quyển kinh văn mang về cung cho bà.”

Nàng xuất thân từ môn đình không phải nói, còn có dung mạo tuyệt sắc, tài năng càng hơn người, Lan Thái hậu rất thích nàng, thường triệu nàng làm thư đồng vào cung hầu hạ.

Thúc Thận Huy khẽ gật: “Tìm đủ rồi?”

“Còn thiếu một quyển, tiểu sư phụ Vô Tình vừa đi Tàng Kinh Các lấy giúp ta, còn chưa về, ta đang ở đây chờ cậu ấy.”

Thúc Thận Huy lại gật đầu, nhướng mắt nhìn nàng.

“Ta nhớ là nàng mấy năm trước yếu người, thời tiết chuyển lạnh hay bị khô phổi ho khan. Mấy năm nay sao rồi?”

“Không có gì đáng ngại. Mấy hôm trước chị dâu có mời thầy, thuận đường cũng chẩn trị cho ta một bận. Uống đôi cữ thuốc, đã tốt hơn nhiều.”

“Đa tạ Nhiếp Chính Vương quan tâm.”

Nàng chỉnh đốn trang phục nói lời cảm tạ.

Thúc Thận Huy miễn lễ cho nàng, lại nói: “Không sao thì tốt. Hẳn là Thái y viện vừa mới luyện xong lê chưng đường, khi về ta bảo Trương Bảo đưa sang cho nàng và chị dâu nàng một ít, bình thường cũng có thể dùng để nhuận phổi. ”

“Ta thay mặt chị đa tạ Nhiếp Chính Vương.” Nàng rũ mắt nói.

Thúc Thận Huy liếc cô, vẻ như hơi do dự, trầm ngâm một lát, đột nhiên nói: “Loan nương, theo ta đi Kinh các.”

Ôn Loan khẽ giật mình, lặng lẽ ngước mắt liếc y, nhẹ giọng đáp vâng.

Thúc Thận Huy dặn hai thị vệ không cần đi theo, xoay người đi đến Kinh các. Ôn Loan yên lặng theo sau. Hai người đến gần Kinh các, tiểu sa di mới vừa rồi đi tìm sách đang ôm quyển kinh trong tay, đang đi giữa đường đến, thấy Thúc Thận Huy, khom người lùi sang bên đường.

Thúc Thận Huy lệnh cho cậu cầm kinh thư đưa cho cung nữ, bản thân dẫn Ôn Loan trực tiếp đi vào.

“Ngồi đi.”

Y khoanh chân ngồi xuống một tấm bồ đoàn, chỉ vào tấm đối diện.

Ôn Loan chậm rãi đi tới, đoan chính ngồi quỳ xuống.

Thúc Thận Huy đưa mắt, chăm chú nhìn cô.

Một vạt nắng thu từ bên cửa nam cạnh cô nghiêng nghiêng chiếu vào, bóng nắng như trôi nổi, chiếu rọi Ôn Loan, trâm hoa bên tóc nàng phát ra sắc xanh nhè nhẹ, càng lộ vẻ mỹ lệ của khuôn mặt.

“Điện hạ có gì muốn nói sao?”

Ôn Loan đợi chốc lát, nhẹ nhàng hỏi.

“Loan nương, ta không phải phu quân tốt, không cần mãi chờ đợi ta.”

Vị Nhiếp Chính Vương trẻ tuổi chăm chú nhìn cô gái trước mặt như hoa. Mặt y mang theo nụ cười mỉm, nói.

Ôn Loan yên lặng nhìn người đàn ông đối diện, y tiếp tục nói, “Chung thân của nàng, vẫn luôn là nỗi niềm khi lão sư còn sống không đặt xuống được. Nếu có người phù hợp, gả đi sớm, chẳng những lão sư được an ủi, mà chính nàng, cũng có chỗ dựa cả đời.”

Y nói xong, ngừng lại.

Lầu kinh rộng rãi mà tĩnh mịch, thời gian như ngừng trôi. Một con chim tước đầu đen bay nhầm đánh uỵch qua cửa sổ phía Nam phá vỡ im lặng, nàng chợt tỉnh táo lại, trên mặt nhanh chóng nở một nụ cười.

“Ta cũng nghe nói, Nhiếp Chính Vương điện hạ muốn cưới con gái Khương đại tướng quân. Hẳn là thật đúng không?”

Tuy nàng cười mà nói câu này, song, khuôn mặt hơi tái như không chút máu, vẫn lộ rõ trong tâm tư nàng cực kỳ rối loạn trong phút chốc.

Ánh mắt Thúc Thận Huy có mấy phần không đành lòng và thương hại, nhưng không do dự, gật đầu, “Ừm, Hiền Vương Lão thiên tuế đã đi cầu thân thay ta, hơn nửa tháng trước đã đến. Nếu không có gì bất ngờ gì, bên phía Khương Tổ Vọng chắc không đến mức từ chối ta.”

Bờ môi Ôn Loan vẫn ngậm ý cười, đứng dậy.

“Thần nữ chúc mừng Nhiếp Chính Vương điện hạ. Danh tiếng Nữ tướng quân thần nữ cũng đã có nghe, cực kỳ kính nể. Mong điện hạ và nữ tướng quân kết mối lương duyên, trăm năm hảo hợp. Thái hậu vẫn luôn chờ thần nữ quay về, thần nữ xin được cáo lui trước.”

Nàng nói xong, hơi cúi đầu, cất bước ra ngoài, vội vàng.

“Gượm đã.”

Bỗng một giọng nói phía sau truyền đến.

Ôn Loan dừng bước trước ngạch cửa, nâng một tay vịn cửa, bóng lưng cũng dừng lại theo, song không quay đầu.

“Con gái Khương gia, là người hợp với vị trí Nhiếp chính vương phi nhất.”

Sau một lát, người kia sau lưng cô tiếp lời.

Cuối cùng Ôn Loan chậm rãi quay lại, không mở miệng.

Y vẫn ngồi yên, ánh nhìn ngưng trên mặt nàng.

“Loan nương, nàng cũng nên biết, sau khi phụ hoàng ra đi, mấy năm hoàng huynh ngồi trên ngôi vị thiếu đi uy danh của phụ hoàng, Đại tư mã cậy vào ngôi vị và công lao xưa kia, ngày càng kiêu căng tùy tiện. Ông ấy lại nắm thực quyền trong tay, mấy bận hoàng huynh từng muốn thu lại binh quyền sắp mất, song bị lực cản mạnh mẽ, không giải quyết được gì. Đương kim bệ hạ kế vị, Đại Tư Mã càng không để ngài vào vào mắt, trên có quan lại kinh thành, dưới có yếu viên địa phương, đều vô số kẻ âm thầm bám vào thế lực ông ấy. Chưa trừ diệt, chớ nói nguyện vọng của phụ hoàng, mà thái bình của triều đình e là cũng khó mà duy trì tiếp tục.”

“Nguyện vọng của Thánh Võ Hoàng đế?” Nàng chần chừ một lúc, rốt cuộc, nhẹ giọng hỏi.

“Đúng vậy.” Y gật đầu.

“Cả đời phụ hoàng có hai tâm nguyện lớn. Một là nhất thống thiên hạ, vạn dân về một mối, hai là đuổi người Địch thu lại đất mất của các châu phương bắc, làm chúng không dám tiếp tục dòm ngó phương Nam. Nào ngờ thiên bất giả niên*, cuối cùng phụ hoàng vẫn chưa thể thực hiện toàn bộ tâm nguyện.”

(*) ý là mạng thọ không dài.

Trong mắt Ôn Loan toát ra vẻ ân cần nồng đậm, xoay người, cuối cùng vẫn quay mặt ngó người đàn ông đối diện.

“Ta hiểu rồi, bây giờ tình cảnh điện hạ rất không dễ dàng. Đại Tư Mã ngài ấy…”

“Đại Tư Mã đã đền tội.” Y thản nhiên nói.

“Điện hạ nói gì? Đại Tư Mã…” Ôn Loan vô cùng kinh hãi, thất thanh, rồi im bặt.

“Ông ấy đã đền tội, ngay một khắc trước ngày hôm nay.”

Ôn Loan trợn cặp mắt, hiển nhiên là chấn kinh vô cùng, không thốt nên lời.

Y cũng trầm tư theo, như đang chìm vào hồi ức nào, lát sau, lại đưa mắt nhìn nàng.

“Loan nương, năm ta mười bảy tuổi, từng đi tuần một vòng ở vùng gần Nhạn Môn. Nhớ hôm về, phụ hoàng không để ý bệnh thể, triệu ta trong đêm, không rõ chi tiết, muốn ta bẩm báo từng việc một, đêm đó nói chuyện cho đến bình minh. Ngài không nói rõ, nhưng ta biết, nếu lúc ấy người ngài không thật sự suy yếu, ngài sẽ tự mình đi một chuyến. Sau này khi lâm chung, ngài còn thở dài không thôi. Ngài đi khi lòng còn mang tiếc nuối.”

“Điện hạ, ngài muốn hoàn thành nguyện vọng, rửa sạch nhục nhã cho Thánh Võ Hoàng đế?” Ôn Loan nhẹ giọng hỏi.

Y gật đầu, lại lắc đầu.

“Không sai, nguyện vọng này của phụ hoàng, ắt ta sẽ dốc hết toàn lực đi làm, song việc này cũng không chỉ là vì hoàn thành nguyện vọng phụ hoàng, mà là vì thu phục môn hộ phương Bắc Đại Ngụy ta, tính kế an ninh trường tồn chân chính cho các vùng phía Bắc, để ngàn vạn con dân thế hệ Đại Ngụy ta được và con cháu đời đời bọn họ ở một phương, tương lai có thể an cư, lạc nghiệp, lại không chịu đựng chiến loạn, ngày đêm lo lắng không biết cửa nát nhà tan khi nào, nằm xuống không có đất chôn!”

Y dừng lại, “Ta biết những năm gần đây trong quân có rất nhiều lời oán giận, do nhiều năm cố thủ không ra. Mấy năm qua, vì sao triều đình không thể đánh? Là vì nội bộ gặp nhiều ngăn cản, thời cơ chưa tới. Cho nên hôm nay cầu biến, đau đớn như nạo xương, chỉ có như thế, loại bỏ độc thối rữa, Đại Ngụy chúng ta mới có thể đi con đường nhân hòa chính thống. Trước đó, chỉ có thể trữ lương, nuôi ngựa, đợi ngày sau xuất kích!”

Ôn Loan trợn to đôi mắt đẹp, kinh ngạc chăm chú nhìn y.

“Ta hiểu rồi, điện hạ muốn tương lai trọng dụng Khương đại tướng quân.” Nàng nhẹ giọng lẩm bẩm.

Y không đáp, lộ vẻ ngầm thừa nhận, nói tiếp, “Loan nương, hai ta quen biết từ nhỏ, người không phải cỏ cây, tâm ý của nàng đối với ta, sao ta có thể vô tri vô giác, huống chi, từ nhỏ ta và hoàng huynh đã theo Thái phó dốc lòng học tập, ơn thầy sâu nặng, nàng lại tài mạo song toàn, lan tâm huệ chất, nếu có thục nữ như nàng làm bạn, cuộc đời còn mong gì hơn?”

“Chỉ là ——” Y dừng lại.

“Sau năm mười bảy tuổi đi Bắc tuần đó, ta đã lập tâm chí. Non sông tươi đẹp của chúng ta, bao la hùng vĩ biết bao, há lại để cho vó ngựa giặc ngoại xâm chà đạp, càng không nói đến chắp tay nhường cho! Song cho dù một hạt cát hoang, cũng là tấc vàng tất tranh! Đại Ngụy đã thuận lệnh trời, đóng đô ở Cửu Châu, thì thu phục đất mất, đánh đuổi quân giặc, chính là sự nghiệp chúng ta nhất định phải hoàn thành!”

“Loan nương, nếu phụ hoàng vẫn khoẻ mạnh, hoàn thành chuyện ngài muốn làm, nếu ta vẫn chỉ là một An Nhạc Vương, chỉ cần thanh hưởng yên vui, chắc chắn ta sẽ lấy nàng làm vợ. Trong kinh con em thế gia ngưỡng mộ nàng vô số, giữa tuấn kiệt không thiếu ấy thế mà đến giờ nàng vẫn chưa lấy ai. Ta biết là ta đã lỡ làng nàng. Trước đây ta không chỉ một lần áy náy với nàng, luôn không có cơ hội mở miệng —— ”

Nước mắt không kiềm được nữa, lăn tròn trên má Ôn Loan.

Nàng dùng sức lắc đầu, “Không không, điện hạ! Ngài không cần phải nói, ta hiểu mà, ta hoàn toàn hiểu! Ngài tuyệt đối đừng tự trách! Càng không phải ngài lỡ làng ta. Không liên quan gì đến ngài. Xưa nay điện hạ luôn dùng lễ tiếp đón, là chính ta, trước giờ không nên giữ ý nghĩ không nên có mãi không thôi, khiến điện hạ thêm phần bối rối. Ta hiểu mà!”

“Ngôi vị Nhiếp Chính Vương phi, đúng là chỉ có vị nữ tướng quân ấy có thể đảm đương.”

Nàng quay đi, chùi nước mắt trên má. “Điện hạ, ta phải cảm tạ ngài, hôm nay tỏ rõ với ta.”

Thúc Thận Huy nhìn nàng, ánh mắt tràn ngập áy náy.

“Loan nương, sau này nếu nàng có chuyện không tự giải quyết được, cứ sai người đến báo.” Y cực kỳ chân thành.

“Đa tạ điện hạ. Ta đi.”

Ôn Loan lại thu lại vạt áo trước thật sâu, cuối cùng nhìn người thanh niên đối diện kia một chút, xoay người đi.

Nàng đi thật.

Thúc Thận Huy cũng không nói thêm nữa.

Y chỉ đứng lên tại chỗ, đưa mắt nhìn bóng áo đỏ kia.

Ngoài cửa sổ phía nam, cây lá đìu hiu, im ắng vắng vẻ.

Người đẹp đã đi xa, không còn thấy bóng dáng. Y vẫn bất động, tiếp tục đứng yên một mình một lát, thật lâu, mới chậm rãi ngồi xuống, nghiêm nghị tập trung, cũng không biết đang suy nghĩ gì, bóng người không nhúc nhích.

Một con nhện trèo qua mạng nhện kết trên một chỗ tối góc lầu tây bắc, nhả tơ kết lưới, bận rộn, bỗng vô ý trượt chân, rơi từ mạng nhện xuống, sợi tơ nhện đong đưa đưa mấy lần trên không trung, cuối cùng kéo đứt, con nhện rớt xuống kệ kinh bên dưới.

“Ra!”

Thúc Thận Huy đột nhiên giương mắt, ánh mắt chợt sắc bén, trầm thấp quát.
 
Chương 6


am hoàng thúc, chẳng phải ngài thảm rồi ư?”

Không có động tĩnh.

Thúc Thận Huy liếc qua con đường thông ra ngoài kinh các, rất nhanh, như nhận ra điều gì, sắc hung ác vừa lộ ra trong mắt biến mất, quét mắt về cửa sổ phía Nam.

“Còn nấp gì nữa? Ra đi!”

Y lại nói.

Lời vừa dứt, có tiếng sột soạt, phía dưới cửa sổ phía nam, một cái đầu chui ra đáp lại, là một thiếu niên cao gầy, đầu đội tiểu quan, ăn mặc như tiểu hầu trong cung, nét mặt nhìn rất tuấn tú, chỉ là chưa hoàn toàn nẩy nở, bên môi vẫn còn lớp lông tơ nhàn nhạt, lộ ra mấy phần ngây thơ chưa biến mất.

“Tam hoàng thúc!”

Cậu xông ra làm mặt quỷ với Thúc Thận Huy, “Mới lẻn vào còn chưa kịp ngồi đã bị ngài biết! Không thú vị!”

“Sao ngài đoán được là ta?” Nét mặt cậu lộ vẻ hơi không cam lòng.

Thúc Thận Huy không trả lời, chỉ lập tức đứng dậy nghênh đón, miệng gọi bệ hạ, hành lễ với thiếu niên.

Thiếu niên vội bước nhanh đến, đưa tay cản y, trong miệng oán trách, “Tam hoàng thúc, ta nói bao nhiêu lần rồi, sau lưng người ta ngài không cần dùng mấy nghi thức xã giao này!”

Thúc Thận Huy dừng lại, mỉm cười, “Giản lễ bất khả lược*, là đạo làm quân thần.”

(*) hành lễ có đơn giản đi nhưng không thể bỏ.

Mấy thân vệ thiếp thân phụ trách Thiếu đế hôm nay xuất hành cũng hiện thân xa xa ngoài cửa góc rẽ cuối đường, quỳ xuống, thần sắc sợ hãi.

Thiếu niên này chính là vị đương kim Thiếu đế Thúc Tiển tuổi vừa mới mười ba, mấy tháng nữa, đến sang năm, sẽ mười bốn tuổi, nhưng vì lớn sớm, hiện giờ dáng vẻ nhìn như mười lăm mười sáu. Chỉ là do cậu ăn mặc thế này, châu quan trên đỉnh mũ rũ xuống và lớp y phục dày trên người, nên chẳng thấy.

Y dò xét y phục của Thiếu đế, cũng chẳng lộ vẻ kinh ngạc nào.

Thiếu đế thấy y quét mắt khắp người mình, không đợi hỏi, lập tức thẳng thắn trước.

“Vừa nãy mãi không thấy ngài về cùng, ta không muốn cứ vậy mà về. Ta bảo người bên cạnh cởi y phục ra, thay trong xe, tìm một cơ hội xuống xe trở về tìm thúc. Tam hoàng thúc, ngài ở lại đây làm gì thế?”

Thúc Thận Huy nhìn cậu, như cười như không.

“Cứ cho là xa giá Thái hậu đi trước không phát hiện, đằng sau nhiều đại thần đi theo vậy, hẳn là đều bị gió làm mê mắt, mặc cho ngài cứ thế nghênh ngang rời đội giữa đường ư?”

Thiếu đế biết không lừa được y. Dẫu sao từ nhỏ ngồi trên ngôi này cậu đã thân cận với Tam hoàng thúc trước mặt, không có gì không thể nói. Xưa nay chuyện còn hoang đường hơn giờ, cũng không phải cậu chưa từng làm.

Cậu dứt khoát thành thật khai báo, kể lại sau khi đến một khúc quẹo chỗ rừng cây nhỏ, đợi xa giá của Thái hậu vượt qua xa, cậu bảo mót quá cần dừng xe, bước xuống chạy vào rừng, ép tiểu hầu đi theo thay y phục với mình, lệnh mấy người kia ôm tiểu hầu quay lại dư giá đi tiếp. Bá quan dừng lại đợi cậu chẳng hề hay biết, thấy xe di chuyển, tất cả đều theo đó tiếp tục lên đường, cứ thế cậu vụng trộm quay lại.

Kể lại đoạn thoát thân quay lại, cậu có phần đắc ý, cười ha ha.

“Ui, buồn cười thật đấy! Nhiều người thế mà tất cả đều chẳng biết chẳng rằng! Còn tưởng ta lên xe thật!”

Thúc Thận Huy nhíu mày, “Bệ hạ, bây giờ ngài không còn giống trước đây…”

Y vừa mở miệng, đã bị Thiếu đế ngắt lời.

“Tam hoàng thúc, ta biết ngài muốn nói gì! Không cần ngài nói, ngày ngày Đinh thái phó nhắc bên tai, tai ta muốn mọc mụn luôn rồi! Phải, ta biết uy nghi thiên tử là thế nào, ta nên làm thế nào, chỉ là cả hơn nửa năm ta chẳng ra ngoài rồi! Ta sắp ngạt chết rồi, không ngạt chết cũng sẽ mệt chết! Hôm nay vất vả lắm mới có cơ hội này, Tam hoàng thúc thương xót ta tí đi, đừng giáo huấn ta nữa!”

Cậu lại thở dài, “Nếu Hoàng huynh Thái tử của ta còn sống thì tốt biết bao, ta cũng sẽ không cần mệt mỏi thế này, giống trước kia, mỗi ngày tiêu dao khoái hoạt…”

Mấy năm trước Hoàng huynh Thái tử của cậu ra ngoài đi săn, lúc cưỡi ngựa xảy ra ngoài ý muốn, bất hạnh bỏ mình. Sau đó điều tra ra đúng là người nhà phía mẹ Nhị hoàng tử tính toán, âm thầm dùng một loại độc dược có thể làm ngựa điên cuồng đặc chế dùng sáp dày bịt kín, trộn vào mớ cỏ khô, cho ngựa ăn. Sau khi lớp sáp hoà tan hoàn toàn, thuốc phát huy tác dụng, ngựa nổi điên phi nước đại, bỏ đám thị vệ đi theo sau lưng, Thái tử không thể nào dừng ngựa, cuối cùng ngã ngựa mà chết.

Sau khi điều tra rõ sự tình, hoàng tử liên lụy tới đều lọt vào vòng trừng phạt, cứ thế, ngôi vị hoàng đế cuối cùng rơi lên đầu Thúc Tiển.

Tuy Thúc Tiển là hoàng tử, nhưng vì tuổi nhỏ, nhà ngoại lại là Lan gia trước kia cũng không phải kẻ quyền thế, tương lai cùng lắm cũng chỉ là một chức Vương rảnh rỗi hưởng thụ thanh bình thôi, nên luôn luôn không làm ai chú ý. Cậu thích tìm Tam hoàng thúc Kỳ vương chơi, cộng thêm thiên tính lớn mật tinh nghịch, xưa kia thường tìm đủ cơ hội xuất cung chuồn êm đi Kỳ vương phủ. Vì là một hoàng tử bình thường, quan hệ giữa Minh Đế và Tam đệ cũng cực kỳ thân thiết, dẫu có nghe thấy cử chỉ đứa con trai này song biết cậu gần gũi với Kỳ vương nên buông xuôi bỏ mặc, không đặc biệt gò ép, cứ thế, đã nuôi ra tính tình không chịu câu thúc của cậu, đến khi sau này vận mệnh cho phép, biến cậu thành hoàng tử kế vị, sinh hoạt thay đổi lớn, bị nghiêm khắc quản giáo việc học hành, có thể nghĩ.

Đã qua mấy năm, song đến nay Thúc Tiển vẫn chưa hoàn toàn quen thuộc, bình thường trước mặt người cũng giữ quy củ, không lộ ra mấy, hôm nay thừa dịp này, không ngờ thói cũ nẩy mầm lại.

Thúc Thận Huy nghe đứa cháu kể khổ, nghĩ từ năm ngài đăng cơ đến nay, đúng thật coi như có cố gắng, mọi việc học ra dáng, đối với việc học của ngài, Đinh Thái phó coi như cũng tán thành, mấy lần mình hỏi ý, đều đáp bệ hạ thông minh, ngày ngày đều có chỗ tiến bộ, chỉ có một thứ không đủ, chính là định tính không đủ, thi thoảng tìm cớ lười nhác, thảng có thể bỏ điểm này thì quá ổn rồi.

Một người thanh liêm thận trọng, thậm chí bộc trực, xưa nay không hùa lời trái lương tâm, đánh giá thế, cho thấy cậu cháu này thật sự là có tiến bộ.

Người như cây mạ, yết miêu trợ trường*, chèn ép quá độ, e cũng là không ổn.

(*) có một người nước Tống gieo mạ. Thấy mạ lớn chậm, ông bèn kéo cây non lên một chút.Về nhà, ông khoe với vợ con: “Hôm nay, tôi đã giúp một tay cho mạ lớn nhanh”. Nghe cha nói thế, đứa con vội chạy ra xem, thì mạ đã chết hết rồi >> nóng vội hỏng việc

Nghĩ đến đây, ngữ khí y dịu lại, “Thần biết ngài vất vả, việc học nặng nề, còn phải học xử lý tấu chương đối phó quốc sự. Không phải ngài sùng bái nhất là Hoàng tổ phụ sao, lúc ngài ấy tại vị, quần hùng thiên hạ cát cứ, chư quốc san sát, chiến loạn không ngừng. Khi đó thần còn nhỏ hơn ngài, cũng chỉ bảy tám tuổi, song cho đến giờ vẫn ghi nhớ, Hoàng tổ phụ của ngài ban ngày lên ngựa tác chiến, ban đêm xử lý tấu chương khẩn cấp khoái mã từ chiến doanh đưa đến, chăm chỉ không nghỉ, độ vất vả, còn gấp nhiều lần hôm nay ngài và thần có thể với tới. Nếu tương lai ngài cũng muốn trở thành thánh quân bậc nhất giống như Hoàng tổ phụ, bao khổ sở hôm nay, đều là quá trình rèn luyện nhất định phải trải qua.”

Y nói một câu, Thiếu đế gật một cái, như gà con mổ thóc. Đợi y dứt lời, vung tay lên, “Ta nhớ rồi!” Nói xong lại gần, kề sát một bên y, quay lại, mắt nhìn ra phía sau lưng vừa tới, thấp giọng, “Tam hoàng thúc, vừa rồi ta đi vào, nhìn thấy đích nữ Ôn gia đến, ta không muốn bị chị ấy bắt gặp, bèn trốn đi, thấy chị ấy cúi đầu vội vàng bước, mắt đỏ ngầu, hình như vừa khóc—— ”

Trên khuôn mặt Thúc Tiển lộ vẻ mập mờ, ngó Hoàng thúc mình chớp chớp mắt.

“Tam hoàng thúc, có phải chị ấy…”

“Đại tư mã đã đền tội.” Thúc Thận Huy ngắt lời, nói.

Thiếu đế sửng sốt, há hốc mồm, lời vừa định nói lập tức bị ném lên chín tầng mây, cậu trợn cặp mắt: “Tam hoàng thúc ngài nói gì? Đại tư mã chết rồi?”

Thúc Thận Huy gật đầu.

Cũng không cần y giải thích, Thúc Tiển nhanh chóng phản ứng kịp, như dội gáo nước lên đầu, bỗng vỗ trán.

“Ta hiểu rồi! Sáng nay bỗng nhiên ngài ra ngoài, ta thấy lão ấy cũng ra theo, sau đó ngài quay về mà lão thì không, cũng không thấy ai khác! Hẳn là thời điểm đó nhỉ, Tam hoàng thúc ngài —— ”

Thúc Thận Huy lại gật đầu, “Quả nhiên thông minh.” Y khen một câu.

Thiếu đế tròn miệng, bình tĩnh đứng yên tại chỗ một lát, đột nhiên, nhảy dựng lên, cả người trực tiếp cuộn lên trên không trung một thế chuồn chuồn bổ nhào, đến mũ trên đầu cũng rớt ra, đến khi hai chân chạm đất, ha ha điên cuồng cười, tiếng cười làm lũ chim đang đậu nghỉ chân trên nhành cây gần đó cả kinh hoảng sợ bay đi.

“Ta hiểu rồi, ta hiểu rồi!” Cậu khoa tay múa chân, không ngừng xoay quanh Hoàng thúc mình, vui sướng như con chuột không cẩn thận lọt vào chĩnh gạo.

“Trước lúc phụ hoàng băng hà chỉ định lão ấy làm phụ chính, chẳng qua là bị ép bởi cục diện, an ủi lão thôi. Giờ rốt cục lão không giữ được bình tĩnh! Còn định ra tay! Lại không ngờ rằng Tam hoàng thúc chính là đang chờ lão hành động, nếu không đúng thật chẳng đụng được lão! Lão già! Đáng chết lâu rồi!”

“Ha ha ha ha —— ”

Thiếu niên lại dậm chân cười to một tràng, “Quá tốt rồi! Lão già đã chết! Cuối cùng lão cũng mơ tưởng cưỡi trên đầu ta! Tam hoàng thúc, thúc còn nhớ tháng trước ta cho người đưa qua phủ thúc hoa quả phương Nam tiến cống không? Tiểu hầu trộm kể cho ta, trước khi hoa quả vào cung đã bị đứa cháu của lão ấy ngăn cản, bảo gần đây lão nhạt miệng, lấy hết một lớp ngon, phần còn lại mới đưa vào cung! Dù gì cũng là chuyện nhỏ, nhìn quen không trách, Tam hoàng thúc bận rộn, ta cũng chẳng kể cho thúc làm gì. Ta nhổ, lão là cái thá gì! Ta cũng không hiếm thức ăn, nhưng nếu thật sự muốn chia phần đầu, cũng nên hiếu kính Tam hoàng thúc, lúc nào đến phiên lão!”

Thiếu đế một bước nắm lấy cánh tay Thúc Thận Huy, dùng sức lắc lắc, ngẩng mặt nhìn y, ánh mắt sáng ngời, đầy ngập kiêu hãnh và sùng bái.

“Tam hoàng thúc, hoàng thúc ruột của ta! Thúc quá lợi hại đi mà! Bất động thanh sắc cứ thế khử người! Ta có nằm mơ cũng không nghĩ tới, thì ra chuyến đi hôm nay còn giấu huyền cơ khác! Thật sự là nửa điểm cũng không nhìn ra luôn. Lúc về, mãi vẫn không thấy lão già kia, trong lòng ta còn mãi nghĩ, rốt cuộc là đã đi đâu chứ!”

Thúc Thận Huy đợi cảm xúc của cậu thoáng lắng lại, mời cậu ngồi xuống, trịnh trọng giải thích, “Bệ hạ, hôm nay chuyện lớn thế này, vốn nên báo ngài biết trước. Song Đại tư mã khôn khéo hơn người, thần sợ bệ hạ nhỡ đến lúc không giữ được bình tĩnh, thần sắc có chỗ biểu lộ, nếu bị ông ta nhìn ra mánh khóe, chớ nói muốn lần sau đụng tới ông ta, mà e trước mắt cũng sẽ sinh đại loạn. Việc tiên đế lâm chung đã phó thác cho thần, không ngờ hôm nay mới thành, trong hai năm qua, khiến bệ hạ nhận hết ủy khuất, là thần vô năng. Tội không báo trước, xin bệ hạ thứ tội.”

Thiếu đế hớn hở mặt mày, xua tay, “Tam hoàng thúc nói gì thế, sao ta lại trách chứ! Tam hoàng thúc ngài suy tính cực kỳ chu đáo! Chỉ cần có thể diệt trừ người, ta sao cũng được!”

Nói đến hai chữ “diệt trừ”, cậu nghiến răng nghiến lợi, ánh mắt không hiền lành.

Thúc Thận Huy cười, lại nghiêm mặt nói: “Người hôm nay dù đã trừ, vây cánh trong kinh cũng đã bị bắt, nhưng trùng có trăm chân, nếu thần tính không sai, vẫn còn ít người lòng dạ khó lường, tất nhiên còn có chỗ phản ứng, động tĩnh sẽ không nhỏ. Có điều, đây cũng là kết quả tất yếu. Ông ta đã đền tội, phần còn lại không gây được đại cuộc lớn, không đáng sợ.”

Thiếu đế gật đầu: “Ta biết, là Thanh Châu Thành vương nhỉ? Có cùng ý tưởng đen tối vỡi lão kia! Binh tới tướng chặn, nước tới đất ngăn! Chỉ cần có Tam hoàng thúc ở đây, trời không sập nổi, ta còn sợ gì!”

Cậu nói xong, chớp mắt, lại vỗ mạnh trán, “Ta lại hiểu rồi!”

“Ngài lại hiểu chuyện gì?” Thúc Thận Huy hỏi.

“Là Tam hoàng thúc cố ý thả ra tin tức cầu hôn con gái Khương Tổ Vọng trước, để kích thích lão già kia, đúng không? Chuyện hôm nay đã thành, Tam hoàng thúc cũng không cần cưới thật! Quá tốt rồi! Thừa dịp còn kịp, mau mau, mau, mau phái người gọi Hoàng bá tổ về! Bằng không nếu chuyện đã định, ván đã đóng thuyền, chẳng phải Tam hoàng thúc thảm rồi ư?”

Cậu vội vội vàng vàng, nhảy xuống khỏi ghế, ra ngoài tính gọi người.

“Bệ hạ!” Một giọng sau lưng truyền đến.

Thiếu đế dừng bước quay lại, thấy y mỉm cười: “Ngài nói đúng một nửa, thật đúng là trong đó có ý bức ép Cao vương. Có điều, việc cầu hôn, cũng coi như là thật.”

Thiếu đế bất đắc dĩ, đành quay ngược về.

“Tam hoàng thúc, ta biết ngài muốn bày lòng tin tưởng biết ơn đến Khương Tổ Vọng, thế nhưng như này, cũng oan uổng chính mình quá! Ta nghe nói con gái Khương Tổ Vọng từ nhỏ xem sói là mẹ, đêm trăng tròn khát máu, nếu không sẽ hóa thành thân sói, nhe nanh!”

Cậu khoa hai tay, trợn mắt, “Cứ cho đó là lời đồn không có thật đi, song con gái Khương Tổ Vọng từ nhỏ lớn lên ở quân doanh phía Bắc, ra trận giết người, cũng là sự thật! Nên nếu cô ấy không phải mồm đầy răng nanh, ắt cũng mặt mũi xấu xí, cử chỉ lỗ mãng —— ”

Thúc Thận Huy lên tiếng cắt lời, “Bệ hạ! Nếu đổi lại là một tay đàn ông, giống như nàng ấy lớn lên trong quân doanh, ra trận giết địch, phải chăng bệ hạ vẫn sẽ lấy mặt mũi xấu xí cử chỉ lỗ mãng mà ra phán đoán suy luận? Bệ hạ không sợ làm nguội lạnh đi một bầu nhiệt huyết của những tướng sĩ vì triều đình anh dũng giết địch kia ư?”

Thúc Tiển nóng mặt, “Ta sai rồi, ta không nên nói vậy, nhưng… nhưng ta thấy…”

Cậu cúi đầu, không lên tiếng.

Giọng điệu Thúc Thận Huy vốn mang mấy phần nghiêm khắc, song thấy dáng vẻ này của cậu, dịu lại, “Tiển nhi, Tam hoàng thúc muốn cho Khương Tổ Vọng biết, triều đình chân chính coi trọng ông ấy, hi vọng ông ấy toàn tâm toàn ý, ra sức vì triều đình.”
 
Chương 7


Thiếu đế không hé lời.

Sao Thúc Thận Huy không nhìn ra rằng trong lòng cậu ta vẫn không phục chứ, bật cười, “Ngài còn không phục? Muốn nói gì, cứ việc nói.”

“Là ngài bảo ta nói nha!” Thúc Tiển nhỏ giọng lầm bầm, “Ta không tin, chả lẽ Đại Ngụy cũng chỉ có mỗi một Khương Tổ Vọng có thể đánh, Tam hoàng thúc, ngài muốn lung lạc ông ấy…”

“Đúng vậy, Đại Ngụy dùng võ lập quốc, người có thể lãnh binh đánh trận vốn là nhiều như sao trời. Ta nhớ lần cuối hoàng tổ phụ Võ Hoàng đế của ngài phong công, chỉ công nhất đẳng thôi đã phong không dưới mười người, song ngắn ngủi chưa đến mười năm, phần lớn công thần xưa kia, mấy năm qua, hoặc sa vào hưởng lạc, võ công buông thả, hoặc là giành công tự ngạo, khó được trọng dụng.”

“Tiển Nhi, trong vòng mấy chục năm nay Bắc Địch sản sinh ra một vị Vương hùng mạnh bá chủ, bắt chước Trung Nguyên lập quốc xưng đế không nói, còn mang thế cướp đoạt các châu phương bắc trước kia, nghe nói là quân lính có đến trăm vạn, cho là có chỗ phóng đại, nhưng sức chiến đấu rất mạnh, xưa nay chưa từng có. Không chỉ thế, mấy vị Vương tử trong nước cũng nào phải bình thường, trong đó có một Vương tử tên Sí Thư, không hề tầm thường, lôi kéo người Hán đầu quân, sau trận chiến Thanh Mộc Nguyên, vùng Yến Sóc do người này trấn giữ, xưng là Nam Vương. Muốn đoạt lại môn hộ Bắc Đại Ngụy chúng ta, tương lai rốt cuộc cũng phải quyết chiến, đó là quốc chiến, mức độ gian nan còn muốn vượt qua những chinh phạt năm xưa của Hoàng tổ phụ ngài. Không phải cứ đưa kẻ mạnh không sợ chết là có thể đánh đâu thắng đó. Mà người lĩnh quân, cần phải có năng lực bày mưu nghĩ kế cử trọng nhược khinh*. Dõi mắt nhìn triều đình hiện nay, viên Đại nguyên soái thích hợp cầm binh mã thiên hạ này nhất, chính là Khương Tổ Vọng.”

(*) nhấc nặng mà nhìn như nhẹ, người siêu việt

Thoạt đầu Thiếu đế đầy không phục, dần dần, tập trung nhìn y, không nháy mắt.

Thúc Thận Huy thoáng trầm ngâm, tiếp tục nói, “Còn nữa, có chuyện xưa nay còn chưa kịp giải thích, đang định gần đây mới báo cho ngài. Trước kia Khương Tổ Vọng lúc mới vào binh nghiệp, là bộ hạ của Cao vương, được ông ta cất nhắc, Cao vương vẫn muốn kéo ông ấy thành người phe mình. Đây cũng là nguyên nhân lần này thần tiến hành cầu hôn khiến ông ta không giữ được bình tĩnh. Mới đây thôi, mấy tháng trước, Thành vương còn âm thầm sai người bí mật đi gặp Khương Tổ Vọng…”

Nơi góc xó xa xa, con nhện bị rơi xuống đang bò khắp biển sách kinh, muốn quay về mạng nhện mà nó vất vả nhả tơ kết thành, nhưng mãi chẳng thấy đích, đứng tại chỗ lo lắng đảo quanh chốc lát, lại lung tung bò lên cánh cửa sổ bên cạnh.

Thiếu đế cả kinh, “Hả? Có chuyện vậy ư? Lẽ nào Khương Tổ Vọng cũng cùng một bọn với chúng?”

Thúc Thận Huy lắc đầu, “Người như Khương Tổ Vọng, làm việc bảo thủ mà cẩn thận, mấy năm nay có lẽ cũng nhìn ra Cao vương ngày càng bành trướng, nên e ngại rước họa vào thân, theo thần được biết, cũng không chủ động lui tới. Hôm sứ giả Thành vương đến gặp ông ấy nói điều gì thì không rõ. Song theo thần phỏng đoán, hẳn là khuyên ông ấy đề phòng công cao chấn chủ, ý định lôi kéo. Khương Tổ Vọng cũng không hồi đáp, có điều, chuyện như thế, ông cũng chưa từng báo cáo lại triều đình. Với kinh nghiệm từng trải của ông ấy, cho đến giờ, không thể nào không nhìn ra ý đồ của Cao vương và Thành vương.”

Thiếu đế giận dữ, “Vậy ông ấy cũng theo đám kia, định leo đầu tường, quan sát mà động?”

Vẻ mặt Thúc Thận Huy nghiêm túc, “Cũng có khả năng ông ấy nhớ tình xưa giấu giếm không báo. Song, không thể không phòng.”

“Như ngài vừa nói, thời điểm này, tất nhiên phải tỏ lòng tin tưởng của triều đình với ông ta. Xưa nay, thông gia chính là đường tắt để hai họ thắt chặt giao hảo, Hoàng gia muốn ban lòng tin nơi thần tử, đại để cũng không vượt ngoài điều đó. Tương lai thế nào khoan hẵng bàn, chí ít hôm nay, thần dựa vào nó để tỏ thái độ đến ông ấy, chỉ cần ông ấy một lòng hướng về triều đình, triều đình và  bệ hạ ngài, ký thác kỳ vọng với ông ấy, tuyệt không ác ý. Để tỏ rõ trịnh trọng, thay thần đi cầu thân còn là Hoàng bá tổ của ngài. Năm xưa thần từng biên tuần, đã ở chỗ Khương Tổ Vọng mấy ngày, mặc dầu thời gian không dài song cũng nhìn ra ông ấy là người biết điều, đoán rằng ông ấy có thể nhận ra ý thần trong hành động lần này, sẽ đưa ra phản ứng. Đó cũng là mong đợi của thần.”

“Thế nhưng lòng người khó dò, nếu nhỡ ông ta cũng giống đám kia còn có hai lòng, ý muốn ngồi đầu tường mà nhìn… ” Thiếu đế dừng lại.

Thúc Thận Huy cười nhạt, “Đây chính là nguyên nhân Cao vương phải chết. Gõ núi chấn hổ, để người vẫn dao động bấy lâu hiểu rõ, kịp thời sửa sai lúc còn chưa muộn.”

“Sao phải cho đám người dao động ấy cơ hội chứ? Sao không thừa cơ giết sạch, chấm dứt hậu hoạn!” Thiếu đế hậm hực.

“Tiển Nhi con nhớ kỹ, trên đời thứ khó nắm bắt nhất, chính là lòng người.”

“Đạo làm người ngang dọc vạn đầu, quy tắc không có cơ sở không có lệ thường, chiêu dụ dùng nhân nghĩa, trói buộc dùng hình phạt, như thế, cả trong một nước, chỉnh tề vạn dân. Câu này con đã từng đọc rồi chứ?” Y nhìn Thiếu đế. 

Thúc Tiển đáp: “Là lời trong Lễ Thư.”

Thúc Thận Huy gật đầu: “Không sai!”

“Một vị quân chủ, dưới trướng ngài ấy, đương nhiên có người thề sống chết trung thành, nhưng vĩnh viễn cũng sẽ tồn tại đám người ngả nghiêng. Dạng người đó không thể giết hết. Cho dù là thời Thánh Võ Hoàng đế xưa kia, con cho rằng không có sao? Chẳng qua khiếp sợ quân uy của Thánh Võ Hoàng đế, không dám để hai ý niệm trong lòng. Thân là quân chủ, hiện giờ việc con phải làm, là hiểu rõ triều chính, từ từ lập uy, rồi sẽ đến một ngày, quân uy con đủ mạnh, chừng đó con có ra roi, ân uy đều dùng, khiến tất cả đều tùy theo con sử dụng, bao gồm cả những kẻ ngày xưa còn dao động.”

“Lúc này ta cầu hôn con gái Khương Tổ Vọng, ngoài việc lấy lòng ông ấy, còn có chút dụng ý. Người người đều biết ông ấy là bộ hạ cũ của Cao vương, kết giao xưa kia không cạn, giờ Cao vương đã đổ, có lẽ không biết bao nhiêu ánh mắt đang âm thầm nhìn ông ta. Thế nhưng chẳng những ông ta không bị liên lụy mà ngược lại còn được triều đình coi trọng. Đây là tỏ thái độ của triều đình đến tất cả, chỉ cần không phải đầu đảng tội ác, về sau trung thành triều đình thì sẽ bỏ qua chuyện cũ. Tiển Nhi con hiểu không?”

Thiếu đế bừng tỉnh hiểu ra, “Ta hiểu rồi! Tam hoàng thúc, ngài giảng sách còn có ý tứ hơn Đinh thái phó nhiều! Ta nghe ông ấy nói xong là muốn đi ngủ rồi!”

“Học thức thành tựu của Đinh thái phó, hơn xa thần, ngài không thể lỗ mãng!”

“Rồi, biết rồi.” Thiếu đế thành thành thật thật trả lời, lại nhìn Thúc Thận Huy, do do dự dự, cuối cùng, như ra một quyết định đầy gian nan, cắn răng, biểu lộ bi tráng nói: “Tam hoàng thúc, nếu nhất định phải cưới con gái Khương gia, vậy cũng không nhất định là ngài phải cưới! Ta cũng có thể! Ta cưới là được!”

Thúc Thận Huy đại khái không ngờ lại nghe miệng cậu thốt ra như vậy, kinh ngạc, đánh giá cậu một chút, “Ngài? Vừa rồi không phải ngài chê bai vị nữ tướng quân kia đủ chỗ sao?”

Thúc Tiển đỏ mặt, “Tam hoàng thúc, ngài đừng cho là ta còn nhỏ, ta biết hết nhé! Nữ lang nhà Ôn gia vừa đi ra kia, rõ ràng là hai người tình đầu ý hợp! Hẳn là chị ấy biết ngài muốn cưới con gái Khương gia mới thương tâm như vậy, ta biết, trong lòng Tam hoàng thúc cũng không chịu nổi…”

Cậu bỗng ưỡn ngực, đầy vẻ hy sinh hào hùng, “Tam hoàng thúc hoàn toàn là vì Đại Ngụy, vì triều đình, mới quyết ý đưa ra lựa chọn! Đã thế, ta là Hoàng đế! Hi sinh là bổn phận của Quân chủ Đại Ngụy ta, không nên để Tam hoàng thúc gánh chịu! Ngài vì ta, lao tâm lao lực đủ rồi!”

Đoạn, “Nếu là vì ta còn nhỏ, không thể lập tức thành hôn thì có thể định ra hôn sự trước, đợi lúc ta thành niên lại cử hành nghi thức hôn lễ, há chẳng phải cũng thế sao?”

Nghe lời từ trong miệng đứa cháu nói ra, ngó biểu lộ quyết tuyệt của cậu, Thúc Thận Huy bỗng thấy hơi buồn cười, nhưng rất nhanh, tự dưng trong lòng dâng lên càng nhiều hơn là cảm động.

Tính cách Thiếu đế bay bổng, ghét bị ràng buộc, thường khiến Thúc Thận Huy lo lắng, cũng không biết đến hôm nào cậu ta mới ổn trọng được, thật sự y hiểu, đế vương đang hưởng thụ quyền lực và vinh quanh vô thượng, đồng thời, hai vai cũng cần gánh chịu trách nhiệm vô thượng như thế. Mà ngay giờ phút này, nghe ra từ chính miệng cậu, dù chưa hết nỗi ngây thơ, song cũng đủ thấy tâm ý của cậu.

Y nhân tiện nói, “Tiển Nhi, con nghe cho kỹ. Thứ nhất, hôn sự này của ta, tuyệt đối không phải là hi sinh, mà là mưu tính của ta. Thứ hai, tuổi tác ta và nàng ấy tương xứng, sau này tự sẽ có cô gái thích hợp với con hơn.”

“Nhưng Tam hoàng thúc à, ngài và nữ lang Ôn gia cũng là giai ngẫu trời đất tạo nên! Ta thật không đành lòng để ngài và cô gái ngài yêu thương cứ thế mà xa rời —— “

“Tiển Nhi!”

Thúc Thận Huy lại gọi tên cậu lần nữa, ngắt lời, đoạn nói: “Ta và nàng ấy chỉ vì lý do từ phía Thái phó, biết nhau từ nhỏ, sâu xa hơn người ngoài mấy phần thôi, ngoài ra cũng chẳng có thâm giao gì. Chuyện hủy thanh danh con gái người ta như thế, sau này ngài đừng nhắc lại!”

Hiển nhiên Thiếu đế chả tin lời giải thích, nhỏ giọng lầm bầm, “…Cũng chẳng phải ta nói, ngoài kia ai cũng đồn vậy, bảo đến giờ chị ấy còn chưa gả là vì đang chờ Tam hoàng thúc…”

Thúc Thận Huy nhíu mày, Thiếu đế có mắt nhìn, lập tức ngậm miệng.

“Tiển Nhi con nhớ kỹ,” vẻ mặt Thúc Thận Huy trịnh trọng, “Khương đại tướng quân là danh tướng Đại Ngụy ta, về phần con gái ông ấy, dầu ta chưa từng gặp mặt, nhưng cô ấy tuyệt đối không thể so sánh với người bình thường. Con đối xử với ta ra sao, sau này cần đối xử với cô ấy thế đó, không cho phép trong lòng con còn nửa phần bất kính.”

“Biết rồi…” Thiếu đế hàm hàm hồ hồ trả lời.

Thúc Thận Huy giương mắt nhìn bóng mặt trời, “Cũng đến lúc rồi, thần phải về thành, ngài cũng phải hồi cung. Đi thôi.”

Khó lắm mới thoát, giờ bảo về, lòng Thúc Tiển đầy không muốn, song cũng hiểu, sự tình hôm nay đặc biệt, sáng nay đã xảy ra chuyện lớn đến thế, giờ đây dù các điểm quan lại quan trọng trong Hoàng thành đã nắm trong lòng bàn tay, nhưng đúng là Tam hoàng thúc phải về rồi.

Đang còn rề rà, một đoàn người bên ngoài vội vã xông tới, dẫn đầu là Lưu Hướng, cấm vệ theo sau.  

Lưu Hướng liếc nhìn Thiếu đế, quả nhiên là đang ở cùng Nhiếp Chính Vương, nhẹ nhõm thở một hơi thật dài, lấy lại bình tĩnh, nhanh bước lên, quỳ xuống thỉnh tội: “Vi thần hộ giá bất lực, xin bệ hạ và Nhiếp Chính Vương thứ tội!”

Thì ra, lúc ông đuổi kịp dư giá, Thiếu đế đã xuống xe đi ngoài, lúc quay về xe, đi một đoạn, ông để ý đám tiểu hầu đi theo hầu ngoài xa giá thiếu một tên, liên tưởng đến vài chiêu nhảy nhót của Thiếu đế xưa giờ, lo nghĩ trong lòng, thế là đi đến cạnh xe, tìm cớ, thăm dò trong xe trả lời, nghe bên trong im ắng rất lâu, lòng ông biết không đúng, kêu dừng ngự giá, mở cửa, quả nhiên không thấy Thiếu đế, trong xe chỉ có viên tiểu hầu đội miện mặt không còn chút máu quỳ thụp run lẩy bẩy.

Bá quan chư Vương đồng hành lần này vỡ tổ, bàn tán ầm ĩ. Lưu Hướng bẩm Lan Thái hậu phía trước, Thái hậu thế mới biết đứa con trốn giữa đường, vừa tức vừa giận, lệnh chém viên tiểu hầu dám can đảm đi quá giới hạn ngay tại chỗ, Lưu Hướng góp lời khuyên can, bảo hôm nay mừng thọ Thái hậu, không nên thấy máu, viên tiểu hầu mới nhặt được một mạng về. Ông sai người hộ tống Thái hậu hồi cung trước, còn mình vội vàng quay lại tìm.

Dẫu Thiếu đế người không sao, nhưng trong một buổi sáng, bản thân liên tiếp thất trách hai lần cực lớn, tâm tình Lưu Hướng lúc này, có thể nghĩ.

May mà dường như Nhiếp Chính Vương cũng không trách cứ, chỉ khi nghe đến Lan Thái hậu muốn nộ sát viên tiểu hầu, ngó qua Thiếu đế.

Thiếu đế cúi đầu.

“Bệ hạ, mời về thành.” Nhiếp Chính Vương cung kính mời.

Lúc này Thúc Tiển không còn dám dây dưa, ấm ức cất bước, bước ra cửa trước tiên. Đợi Nhiếp Chính Vương theo sau, Lưu Hướng cũng vội vàng lồm cồm bò dậy, mang thủ hạ đi theo.

Đoàn người đi xa, tiếng bước chân dần dần biến mất, bên tai lặng yên.

Gió thu từ cửa sổ Nam lướt qua, một mảng lá vàng lơ lơ lửng lửng, lặng lẽ đáp xuống đất.

Trong góc khuất tây bắc lầu các, con nhện cố gắng leo lên, cuối cùng lại từ cánh cửa sổ lần thứ ba rơi xuống kệ để kinh, không biết sao sợi tơ đứt lại phất phơ giữa không trung theo gió, con nhện mải miết muốn leo xong, lại mải miết bắt hụt, cứ thế lặp đi lặp lại, không chết không thôi.

Bỗng, một bàn tay dò tới, dừng cạnh con côn trùng nhỏ, từ từ đợi nó bò lên đầu ngón tay, đưa tay lên, khẽ khàng đặt lên đoạn tơ duyên phận.

Con côn trùng nhỏ được cơ hội, lập tức bám lấy, dọc theo sợi tơ nhanh chóng leo lên, cuối cùng về lại mạng lưới, vào chỗ, không ngơi nghỉ chút nào, lại tiếp tục bận rộn, nhả tơ không ngừng.
 
Chương 8


ôn sự, có thể!

Tây Hình quan Nhạn Môn, tháng mười một, cỏ khô đìu hiu.

Từ khi con gái để lại hai chữ kia biến mất đến giờ, đã qua hơn tháng. Mấy ngày qua đối với Khương Tổ Vọng mà nói, một ngày bằng một năm.

Thành Vân Lạc phía cực tây, đường sá cách nơi đây thật không tính là gần, Phàn Kính còn chưa có tin tức. Mà khiến ông phiền lòng hơn là, vị Hiền Vương kia lấy lý do đêm lạnh ở doanh trướng của ông khó chống cự nổi nên đã chuyển về trong thành ở còn chưa đi, thi thoảng lại cho người đến hỏi tin tức.

Trước đó ông từng viện lý do con gái về cúng tế ngoại tổ đầy năm chưa về để đỡ, lần nào cũng đành trả lời lấy lệ, bảo đường xá xa xôi, tin và người vừa đi vừa về đều cần thời gian. Đến nỗi chỗ Hiền vương ở trong thành, ông tránh không vào, miễn để đối phương biết, tìm tới cửa phiền phức.

Hôm đó, đang lúc tâm tình nặng nề, tiểu giáo đến bẩm, cuối cùng Phàn Kính đã về.

Đáng tiếc, tin Phàn Kính mang về, khiến Khương Tổ Vọng thất vọng.

Nữ tướng quân không có mặt ở Vân Lạc, theo lời người cậu của cô bảo, chưa từng đến đó.

Thất vọng ngắn ngủi qua đi, theo đến, là lo âu nặng trĩu.

Con gái quen ăn nói rất ngắn gọn, từ lúc biết nói cho đến lớn, tuy im lặng ít nói nhưng cực kỳ chững chạc, chưa từng đi mà không báo như vậy bao giờ. Tuy nói trước khi đi, con bé từng để lại chữ, song làm sao Khương Tổ Vọng có thể thật sự yên tâm.

Nghe Phàn Kính hồi báo xong, ông cau mày, bình tĩnh đứng trong lều, thật lâu không nói gì.

Phàn Kính rất tự trách, “Là ti chức vô năng, không thể tìm được tướng quân. Nhưng mà, đại tướng quân chớ quá lo lắng, ti chức lại dẫn người đi nơi khác tìm!” Nói xong gượm đi, lại bị Khương Tổ Vọng gọi lại.

“Thôi. Từ nhỏ con bé đã ẩn nhẫn, có chuyện gì cũng chưa từng kể với ai khác. Dẫu ta là cha nó, song cũng không biết trong lòng nó đến cùng suy nghĩ thế nào. Đã không ở Vân Lạc, vùng phía bắc lớn đến thế, cậu chẳng có mục đích, có thể đi đâu mà tìm?”

“Nhưng mà… “

Khương Tổ Vọng khoát tay áo, “Từ bé con bé đã có chủ kiến, nếu đã để chữ lại nhắc nhở, vậy sẽ không có chuyện gì, cứ theo ý nó mà làm đi. Bất kể nó có chuyện gì, chờ xong việc, tự con bé sẽ quay về.”

Ông nhìn sang Phàn Kính, “Cậu đã đi đường không nghỉ, vất vả rồi, đi nghỉ ngơi đi.”

“Đại tướng quân! Tông Chính khanh Hiền Vương Lão —— thiên —— tuế —— đến —— “

Khương Tổ Vọng còn chưa dứt lời, bên ngoài bỗng truyền đến giọng rống lên kéo dài của Dương Hổ như muốn thông báo. Dĩ nhiên, là đang nhắc nhở ngoài đại trướng đang có một vị khách không mời mà đến.

Phàn Kính nhìn sang, Khương Tổ Vọng lập tức ra hiệu ông tránh mặt trước. Phàn Kính hiểu ý, vội ra khỏi lều.

Khương Tổ Vọng bước nhanh ra ngoài, xa xa, quả nhiên trông thấy Dương Hổ dìu một lão giả đang đi về phía này, lão giả râu quai nón bồng bềnh, dáng vẻ bước đi giống như run run không vững lắm, vội vàng nhanh bước tới đón.

“Ngươi chính là Tiểu Thất lang của An võ quận công Dương gia đó à? Ta nhớ có một lần, ngươi theo cha đến phủ bổn vương dự Trùng dương yến* nhỉ, bổn vương thấy ngươi khoẻ mạnh kháu khỉnh, rất thông minh, muốn ngươi ngâm vài câu thơ văn nghe, ngươi nhỏ nhỏ nhẹ nhẹ, giọng nhỏ đến mức chả nghe được, sao mới mấy năm không gặp, giọng đã to thế này? Nhỏ chút! Nhỏ chút! Ngươi ồn muốn điếc cả tai bổn vương…”

(*) Tiết trùng dương 9/9

Ông lão đang chau mày nói này, chính là Hiền vương Thúc Uẩn.

Dương Hổ nhớ lại chuyện cũ, giận đầy một bụng. Trước đám đông ngâm không ra thơ bị mất mặt, về nhà bị người lớn nghiêm khắc quánh mông một trận.

“Bẩm Lão thiên tuế, trong quân doanh phải nói lớn tiếng vậy đó, con coi như đã nhỏ nhẹ lắm rồi! Nếu không, chờ ra trận, chém giết, người mình gọi nhau còn không nghe được! Lão —— thiên —— tuế —— “

Cậu cố ý cười hì hì bước tới, lại rống lên.

“Ầy dà! Ta thấy thằng bé này, là cố ý gáy điếc tai bổn vương đây mà!”

“Có cho con một trăm lá gan, con cũng không dám ạ! Lão thiên tuế oan uổng con —— “

Ngươi một lời ta một câu, một già một trẻ, như đấu võ mồm.

Khương Tổ Vọng đuổi tới gần, nén phiền não trong lòng, xin lỗi: “Đại doanh cách thành mấy mươi dặm, nếu có chuyện, sao Lão thiên tuế không cho người truyền một câu, tôi vào thành gặp Lão thiên tuế là được, sao dám phiền Lão thiên tuế tự mình đến đây?”

Câu nói này của ông tuyệt đối không phải khách sáo.

Ngôi vị của Thúc Uẩn cực kỳ cao, là con trưởng của Cao tổ, anh trai cùng mẹ của Thánh Võ Hoàng đế. Năm xưa Cao tổ muốn lập ông làm Thái tử, Thúc Uẩn cho rằng cường địch đất nước đầy rẫy, cần một Thái tử trí dũng song toàn, bản thân tài trí bình thường, không chỗ nào bằng em trai cùng mẹ, kiên quyết nhường ngôi vị Thái tử. Sau đó Võ Đế kế vị cũng hậu đãi anh mình, phong tước đồng vạn tuế, Thúc Uẩn lại cực lực không theo, cuối cùng chỉ chịu một tước hiệu Hiền vương. Ông làm người như tước hiệu, tài đức sáng suốt không tranh đấu, tính tình rộng rãi, bá quan đều kính trọng, người người đều gọi Lão thiên tuế, vào triều đại Minh Tông, lúc vào triều được ban thưởng đãi ngộ chỗ ngồi độc tôn. Cả Cao vương Thúc Huy quyền hành như lửa rực, gặp vị anh trưởng Hiền Vương này, cũng không dám vô lễ.

Bao nhiêu đấy thì cũng thôi đi, vấn đề là Thúc Uẩn tuổi đã cao, thấy ông bước đi còn cần người đỡ, đoạn đường gồ ghề, rất mấp mô dằn xóc, nhỡ trên đường trẹo chân, gánh không nổi.

“Đại tướng quân việc trong trướng bận rộn, mấy ngày không thấy cậu vào thành, bổn vương không sao, hôm nay tự ra đến. Lỡ có phiền đến Đại tướng quân, mong chớ trách.” Thúc Uẩn cười híp mắt nói.

“Muôn vàn không dám!” Khương Tổ Vọng bận rộn đỡ Thúc Uyển từ tay Dương Hổ, định dìu người vào đại trướng.

“Không cần không cần, bổn vương càng già càng dẻo dai! Tự ta đi được, không cần Đại tướng quân cậu đỡ!”

Thúc Uẩn ngăn bàn tay Khương Tổ Vọng chìa tới. Khương Tổ Vọng đành phải ở phía sau cẩn thận che chở, vào lều rồi lại cung kính mời ông ngồi vào ghế trên chính giữa.

Thúc Uẩn cự tuyệt, “Ghế chủ quân trong đại trướng, há ta có thể ngồi? Đừng bảo là ta, hôm nay có là đích thân bệ hạ đến, cũng không thể đoạt.”

Khương Tổ Vọng đành bảo người kê một ghế khác cho Lão thiên tuế. Thúc Uẩn ngồi vào, nhìn quanh ngoài trướng, “Khi bổn vương vừa vào viên môn, nghe một tiểu giáo bảo, dưới trướng nữ tướng quân có vị Phàn tướng quân, hôm nay về doanh rồi nhỉ? Lúc ta đi vào, lờ mờ nhìn thấy một vị tướng quân bước ra từ trướng của cậu, râu ria đầy mặt, lưng hùm vai gấu, uy vũ hùng tráng, chớ ai bằng được. Bổn vương muốn nhìn cho rõ, song mắt mờ, nhoáng một cái đã không thấy người, không biết vị tướng quân kia họ gì tên gì, đảm nhiệm chức gì nhỉ?”

Khương Tổ Vọng không ngờ Thúc Uẩn tinh anh giảo hoạt thế, cách rất xa mà vẫn bị ông nhìn thấy, đành đáp, “Đó chính là Phàn tướng quân ạ.”

Mắt Thúc Uẩn rực sáng, “Chả lẽ nữ tướng quân cùng về với y rồi?”

“Phàn tướng quân đúng là người dưới trướng của tiểu nữ, song lần này cậu ấy ra ngoài, là có việc khác cần giải quyết, không liên quan tiểu nữ ạ. Phía tiểu nữ, mấy hôm trước mạt tướng cũng đã báo qua với Lão thiên tuế tình hình, con bé còn chưa về. Đợi khi nó về sẽ lập tức phái người thông báo Lão thiên tuế!”

Mặt Thúc Uẩn lộ vẻ thất vọng, vuốt râu khẽ gật đầu: “Thì ra là thế, ta còn cho là nữ tướng quân về rồi!”

Khương Tổ Vọng xin lỗi, bảo không đúng dịp, để ông đợi lâu.

Thúc Uẩn nói câu không sao, “Danh tiếng của nữ tướng quân, bổn vương ở kinh thành đã được nghe từ lâu, giờ Nhiếp Chính Vương cầu hôn, bổn vương tự mình đến, ngoài việc muốn thay Nhiếp Chính Vương chuyển đạt thành ý, cũng giấu chút lòng riêng, là muốn xem được mặt con gái Đại tướng quân sớm hơn người ta chút, vị nữ tướng quân có một không hai của bản triều! Đáng tiếc như cậu nói, không đúng dịp, không khỏi tiếc nuối. Nhưng mà, mấy hôm nay, ở trong thành bổn vương cũng nghe không ít chuyện về nữ tướng quân anh dũng thiện chiến. Nhớ đến một vùng Thanh Mộc Nguyên kia, mấy năm trước còn bị người Địch chiếm đóng, là nữ tướng quân dẫn binh đoạt lại, xây trấn tự đóng quân, đả thông biên phòng đông tây. Nhắc tới nữ tướng quân, ta thấy người người trong thành kính trọng. Chuyến này, tuy đường có xa song cũng không phải đi không!”

Khương Tổ Vọng nào có tâm tình nghe Thúc Uẩn lải nhải những lời này, một lòng chỉ nghĩ cách mau mau mời vị đại Phật rời đi, ở bên cạnh vâng vâng dạ dạ, thay mặt con gái khiêm tốn một phen, liếc mắt ra ngoài trướng.

“Lão thiên tuế, ngài xem, bên ngoài giờ không còn sớm. Vùng biên cương không thể so với kinh thành, tiết trời này, trời rất nhanh tối, vào đêm càng trở lạnh, không khác nào trời đông giá rét. Doanh trướng lại có gió lùa không ấm áp, Lão thiên tuế thân thể ngài vạn kim, chi bằng để mạt tướng đưa ngài về thành sớm cho kịp, tránh làm Lão thiên tuế lạnh cóng.”

Thúc Uẩn cười ha hả: “Xem ra hôm nay đến không phải lúc, quấy rầy Đại tướng quân. Đại tướng quân đây là ra lệnh đuổi khách chăng?”

Khương Tổ Vọng tự nhiên phủ nhận luôn miệng.

Thúc Uẩn chuyển vẻ nghiêm nghị, “Thôi, hôm nay bổn vương đến đây, là muốn báo cho Đại tướng quân một tiếng, ta vừa nhận được một tin tức khẩn cấp từ trong kinh…”

Ông dừng đoạn, vẻ mặt nghiêm túc, ngữ điệu cũng chuyển thành trầm thấp, “Đại tư mã Cao vương mấy hôm trước lâm bạo bệnh chết, bổn vương phải nhanh quay về.”

Khương Tổ Vọng giật nảy mình.

Cao vương Thúc Huy dù tuổi ngoài năm mươi song vẫn long tinh hổ tráng, nghe đồn người đẹp lụa là hậu viện ông ta không dưới trăm người, hàng đêm sênh ca. Tuyệt đối không ngờ đột nhiên lại bạo bệnh, cứ thế người không còn?

Trong lúc chấn kinh, bỗng ông liên tưởng đến một sự kiện, hãi hùng khiếp vía tức thì, sau lưng chợt túa lớp mồ hôi lạnh.

Khương Tổ Vọng thinh lặng, không lên tiếng.

Thúc Uẩn bên kia tiếp tục nói, “Vốn định chờ gặp nữ tướng quân mới về, xem ra không đợi được, đành đi trước vậy. Chẳng qua ta nghĩ, liên quan đến việc cầu hôn của Nhiếp Chính Vương, có vẻ Đại tướng quân đã đồng ý, mà cũng có vẻ lại chưa cho câu trả lời chắc chắn, cứ thế quay về, bổn vương không biết nên trả lời sao.”

Ông nhìn Khương Tổ Vọng, “Sao hả? Liên quan tới lời mời hôm đó của ta, Đại tướng quân có thể suy nghĩ kỹ chưa? Nhiếp Chính Vương là thành tâm cầu hôn lệnh ái nữ tướng quân, bổn vương thân là trưởng hôn, cũng vui thấy việc thành.”

Ông khẽ vỗ tay, hai người hầu đi theo từ bên ngoài vào đến, một trong đó hai tay dâng một chiếc hộp dài, người kia cẩn thận tỉ mỉ mở nắp hộp.

Trong hộp một cây đoản đao dài chừng hơn thước thân cong hơi gấp như mảnh trăng nằm lẳng lặng, chuôi đao có khoen, vỏ đao phủ sừng tê giác, phía trên có dây tơ đen quấn thành lớp, khảm nạm văn ngọc, cả thanh đoản đao, cổ kính cô đọng, mà không mất đi vẻ hoa lệ.

Hiền Vương xoay sang Khương Tổ Vọng, cười nói: “Đao này, là thợ thủ công bậc thầy bắt chước cách thức thời thượng cổ, tôi trong nước sông Chương trong vắt, dùng sắt tinh chất bách luyện rèn thành, sáng loáng như sao, thổi tóc tóc đứt, vốn là bội đao năm đó Thánh Võ Hoàng đế đeo bên hông, theo ngài nam chinh bắc chiến, sau mới ban cho An Nhạc Vương năm ấy tuổi chưa tròn mười bốn. Thanh đao này đã bầu bạn với Nhiếp Chính Vương nhiều năm, Nhiếp Chính Vương coi như trân bảo, lần này để biểu đạt thành ý, nguyện làm tín vật.”

“Đao kiếm vốn là binh khí chứa nhiều huyết khí, không thích hợp dùng làm thứ xin gả cưới, nhưng nữ tướng quân không phải cô gái bình thường, Nhiếp Chính Vương cho là, dốc hết vật sở hữu, cũng chỉ có thứ này mới xứng với nữ tướng quân. Nếu Đại tướng quân đồng ý, bổn vương liền thay mặt Nhiếp Chính Vương để lại nguyệt đao, quay về hồi đáp.”

Khương Tổ Vọng thật lâu không trả lời nổi, cuối cùng từ từ hướng về thanh đoản đao quỳ xuống: “Ý tốt của Nhiếp Chính Vương, thần vô cùng cảm kích, chỉ là… con ta lớn lên trong quân doanh từ bé, tư chất ngu dốt không nói, cử chỉ hành vi thô lậu, chẳng khác nào đàn ông, vi thần… vi thần thật sự là sợ Hàm Nguyên không gánh nổi vị trí Nhiếp Chính Vương phi…”

Thúc Uẩn nhìn ông, ý cười trên mặt dần dần biến mất, ho một tiếng, “Đại tướng quân đây là chướng mắt Nhiếp Chính Vương?” Trong câu nói, mơ hồ chứa áp lực.

Trán Khương Tổ Vọng đổ mồ hôi lạnh, kiên trì thấp giọng, “Vi thần không dám, vi thần không dám! Lão thiên tuế thứ tội! Chỉ là…”

Chỉ là… tự dưng ông cũng chẳng biết mình nên nói gì, đang lúc lòng loạn như ma, lại nghe giọng Thúc Uẩn đang ngồi dừng đoạn, lại nói, “Thôi, hôn sự con cái, người làm cha làm mẹ, suy nghĩ cũng là phải. Ngày mai bổn vương khởi hành, còn một đêm, nếu Đại tướng quân nghĩ lại, sáng mai cho bổn vương câu trả lời vậy!”

Khương Tổ Vọng tiễn người.

Màn đêm buông xuống, ông một mình ngồi trong trướng, nhìn thanh nguyệt đao vẫn còn để lại chưa mang đi.

Đoản đao lộ ra sắc lạnh lạnh lùng.

Gió bấc cuối thu, không ngừng gào thét trên không vùng hoang vắng biên cương cả một đêm, trời gần sáng, mới dần dần ngừng lại.

Đèn trong đại trướng cũng sáng một đêm.

Khương Tổ Vọng không ngủ. Thúc Uẩn đang chờ ông trả lời, ông biết mình nhất định phải ra quyết định.

Rốt cuộc ông cũng đã ra quyết định sau cùng.

Ông chợt đứng dậy, quơ lấy nguyệt đao, bước ra khỏi đại trướng, ra ngoài.

Sáng sớm đầu mùa đông vùng đất bắc này, bầu trời trên đầu vẫn như bóng đêm sâu thẳm, tiếng tù đánh thức binh sĩ tập thể dục buổi sáng cũng không vang lên.

Khương Tổ Vọng ra khỏi viên môn, đón gió sớm xào xạc, nhận ngựa thân binh dắt tới, đang định lên ngựa vào thành, bỗng thấy xa xa có bóng người cưỡi ngựa đến.

Khương Tổ Vọng dừng lại, quay đầu quan sát.

Dần dần, ngựa kia tới gần, ông nhận ra, đúng là cô con gái Khương Hàm Nguyên một đi không hề có tung tích!

Khương Hàm Nguyên phóng ngựa đến trước viên môn, xoay người xuống ngựa, nhanh chân bước đến trước mặt Khương Tổ Vọng.

Cô ăn mặc cho tiện đi đường, phong trần mệt mỏi, trên mặt vương lờ mờ sắc sương gió đêm thổi ra, hẳn đã một nắng hai sương lặn lội đường xa đi cả đêm để quay về.

Vẻ mặt Khương Tổ Vọng từ mừng rỡ ban đầu chuyển thành tức giận, chằm chằm ngó con, không lập tức lên tiếng.

“Hôn sự, có thể.”

Cô nhìn Khương Tổ Vọng, ngắn gọn nói.
 
Chương 9


Cam tâm tình nguyện.

Khương Tổ Vọng giật mình, ý buồn bực sản sinh ra trước đó bởi con gái không báo mà đi lập tức vứt cả.

Ông dừng lại, quay nhìn về hướng thành trì xa xa còn được bao phủ trong bóng đêm mờ mịt, lệnh cho thân binh đang đợi gần đó tránh đi, rồi nói: “Hàm Nguyên, cha biết con không tình nguyện. Vi phụ đã nghĩ kỹ, định chuẩn bị đi vào thành cho Hiền vương câu trả lời cuối cùng, từ chối cửa hôn sự này. Con không cần suy nghĩ lung tung, yên tâm đi nghỉ ngơi đi, cha đi!”

Nói xong, ông bước đến chỗ con ngựa.

Khương Hàm Nguyên nhìn theo bóng lưng cha, lại mở miệng.

“Cha hiểu lầm rồi. Con vừa nói, hôn sự có thể.”

Khương Tổ Vọng dừng bước, quay lại đánh giá con.

Cột lửa cạnh viên môn cháy cả đêm không tắt, ánh lửa nhảy nhót trong gió rét, hắt lên gương mặt cô. Thần sắc cô vẫn như thường, chỉ đượm thêm vẻ mệt mỏi.

Khương Tổ Vọng ngắm con một lát, nỗi thương xót đầy áy náy, lại trào ra từ đáy lòng người làm cha lần nữa.

Nhiếp Chính Vương cầu hôn, đến cả người như Hiền vương cũng đã mời, tất nhiên là tình thế bắt buộc, có ý đồ.

Khương Tổ Vọng biết rõ, ngay lúc này mà mình từ chối sẽ có ý nghĩa thế nào, nhất là sau khi được biết ở trong kinh đã xảy ra chuyện lớn.

Song, phải nói, lúc mới đầu đột ngột nhận tin cầu hôn, quả thật ông có phần không dám nghịch ý bề trên, đến khi tận mắt nhìn thấy phản ứng kháng cự mãnh liệt của con, thiên tính người làm cha rốt cuộc vẫn đè tất cả, cuối cùng mãnh liệt chiếm thế thượng phong.

Trước đây vì nhu nhược mà ông đã đúc ra sai lầm lớn, nếu lần này vẫn thế, vì kiêng kị uy danh thiên tử mà làm trái lương tâm nhận lệnh, cả một nửa chút khả năng cũng không đi tranh thủ, sau này có chết cũng không mặt mũi nào đi gặp mặt người vợ đã mất.

“Con đi theo ta!” Ông quay người vào bên trong.

Khương Hàm Nguyên đi theo, vào đại trướng.

“Hàm Nguyên, con không cần phải chu toàn cho ta, làm trái lương tâm nhận lời, thiệt thòi là con. Trước đó con hỏi không sai, Nhiếp Chính Vương tuyệt đối không phải tấm chồng tốt, chớ nói vi phụ không thể cứ thế mà gả con đi, mà với tính tình của con, cũng không thể nhận lời. Từ nhỏ con lớn lên ở vùng biên cương, tự do đã quen, chỗ như kinh thành với con là lồng giam, con ở chẳng được, cũng chẳng thích hợp với con.”

Vừa vào đến, Khương Tổ Vọng đã nói.

“Tây Hình quan Nhạn Môn, tương lai là nơi tụ tập của hùng binh trong thiên hạ. Nhiếp Chính Vương cưới con, ý vốn đặt vào ta, nên phần lớn vẫn là phải lấy ân ràng buộc, y cần dùng ta, nên chuyện này, cũng không phải là hoàn toàn không có khoan nhượng. Huống hồ, lúc còn niên thiếu y từng biên tuần đến đây, ta có ở cạnh y vài hôm, mặc dầu tuổi trẻ, song phong du hạ khoáng*, khí độ rộng rãi rõ ràng, là người nghe ý kiến người khác. Liên quan tới chuyện này, tâm ý vi phụ đã quyết, từ chối hôn sự!”

Giọng điệu Khương Tổ Vọng kiên định, không chút do dự hay bất an như trước.

Nói xong, ông nhìn thấy ánh mắt con gái dán lên mặt mình, không nói, không hề phản ứng với lời mình vừa nói.

“Con có nghe cha nói chứ?”

Cô thoảng như chợt tỉnh.

“Con vừa nói rồi, con chấp nhận hôn sự.”

“Hủy Hủy!” Khương Tổ Vọng gọi nhũ danh của con, lên giọng, “Cha đã nói, con hoàn toàn không cần quá băn khoăn! Mọi việc đã có vi phụ chịu trách nhiệm! Hiện giờ triều đình cần dùng ta, Nhiếp Chính Vương sẽ không làm gì ta!”

Cô chậm rãi đưa mắt nhìn cha mình.

“Đa tạ ngài đã suy nghĩ vì con. Nhưng mà, ngài cứ theo ý con trả lời là được. Ngoài ra —— ” cô dừng đoạn, “Không biết ngày cưới là khi nào, nếu kịp, con đi Vân Lạc một chuyến.”

Nói xong, cô thi lễ với cha mình, xoay người đi.

Khương Tổ Vọng tuyệt đối không ngờ, đứa con mất tích nhiều ngày, khi về thái độ thay đổi lớn.

Trực giác làm cha nói, ngay từ đầu, lúc chợt biết tin, con bé cực kỳ mâu thuẫn. Mấy ngày qua, con bé đi đâu, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, lại làm nó thay đổi lớn thế?

Ông nhìn bóng lưng con gái, không kiềm được, lại gọi cô.

“Hủy Hủy! Rốt cuộc con sao vậy? Con thật sự tình nguyện à? Mấy hôm nay, đến cùng con đã đi đâu?”

Khương Hàm Nguyên dừng bước trước màn cửa, đứng một lát.

“Cha, chính ngài vừa rồi cũng đã nói, Quan ải này tương lai sẽ là nơi tụ tập của hùng binh thiên hạ.”

Cô chậm rãi xoay mặt lại, nhìn Khương Tổ Vọng.

“Thúc Thận Huy cần vị Đại tướng quân như ngài, ngài cũng cần người như Thúc Thận Huy ngồi trên ngôi cao, hôn sự này của con, không phải không thể, con nhận lời, cam tâm tình nguyện. Cha không cần tự trách bất kể điều gì, chỉ cần gươm ngựa sẵn sàng, chờ ngày đó đến.”

Cô đi ra.

Khương Tổ Vọng hoàn hồn, đuổi theo ra khỏi đại trướng, chỉ thấy con gái đã đi xa, bước chân cô vững vàng, một bóng hình đơn độc dần dần tan biến trong sắc trời vừa sáng.

Chân trời phía đông đã sáng rõ, khi tia nắng đầu tiên bắn ra từ sương lạnh nơi chân trời bao trùm trên vùng quê, xe ngựa chở Hiền vương và đoàn người ra khỏi thành, đi về phía nam, nhanh chóng rong ruổi về hướng kinh thành.

Đêm khuya, mơ hồ một tiếng đồng hồ nước, từ chỗ sâu trong cung điện lầu cao nối đuôi không dứt, truyền vào tai người.

Giờ Tý hai khắc. Thiếu đế đã về tẩm cung nghỉ ngơi từ sớm. Canh giờ này, trong hoàng cung, cũng chỉ còn nơi đây vẫn đốt đèn sáng trưng.

Ấy là Văn Lâm các, nằm ở bìa tây bắc nhị đạo hoàng cung, cách Tuyên Chính điện dùng để lâm triều không xa, là nơi Nhiếp Chính Vương dùng để quản việc gọi người bàn bạc sau khi triều nghị xong, kiêm làm chốn nghỉ ngơi.

Tiếng đồng hồ nước dừng im ắng hẳn. Lão thái giám Lý Tường Xuân đợi bên ngoài thấy Trương Bảo theo bên cạnh hai mí mắt trên dưới đã bắt đầu đánh nhau, liền nghiêng đầu, liếc nhìn vào trong.

Nhiếp Chính Vương vẫn đang ngồi sau bàn, hơi cúi đầu, tập trung tinh thần duyệt tấu chương.

Quãng thời gian này, trong kinh phát sinh quá nhiều chuyện lớn.

Đầu tiên là ngay đêm hôm thọ thần Lan Thái hậu, Đại Tư Mã Cao vương đương triều đột nhiên bạo bệnh bỏ mình, Nhiếp Chính Vương tự mình chủ trì lễ mai táng, hậu sự của Cao vương, vinh quang bi thương không cần nhiều lời. Ngay trong tang lễ, phân nửa tướng quân sáu quân, lĩnh quân hoàng thành, hộ quân, tả hữu vệ, kỵ binh dũng mãnh, du kỵ cũng quá nửa đổi vị, từ chức. Tiếp sau đó, chưa qua đại tang Cao vương mấy ngày, một đám thành viên có quốc huân thời Thánh Võ Hoàng đế, lục tục rối rít dâng tấu chương xin khất hài*, triều đình chấp thuận tất cả. Để tỏ rõ cảm niệm đến các lão công thần này, ban hậu thưởng mỗi người, là thực ấp từ ngàn hộ đến năm ngàn hộ không ngang nhau. Sau đó, triều đình lại phế đi toàn bộ bộ phận gác cổng Vũ Hầu phủ sau nhiều năm liên tục sử dụng, xây dựng lại hai ti Thiên môn Địa môn, ban lĩnh vũ uy, nâng bậc đẳng doanh, phụ trách bảo vệ trong ngoài kinh kỳ.

(*) nghỉ hưu sớm, từ cũ.

Cùng một cách đổi mới, thời triều tiên đế Minh tông từng đã muốn làm từ lâu, song lực cản trùng trùng, cuối cùng không giải quyết được gì. Đến giờ, Cao vương Thúc Huy chết bất đắc kỳ tử, khiến không ít người sợ vỡ mật. Ngay mấy tháng trước trong triều nghị còn vài đại thần quen nhảy ra nói này nói kia, giờ đây lại trở thành người hết sức ủng hộ cải cách. Từng đạo chính lệnh, thông suốt không trở ngại, đi thẳng từ trên xuống dưới. Không chỉ thế, các tấu chương tố giác đồng đảng nhiều vô cùng của Thành vương cũng như tuyết rơi từ khắp nơi bay tới, chất đầy ngự án.

Về phần Nhiếp Chính Vương, hôm đó y tự mình đến Vương phủ Cao vương tế điện. Người bên trong đường, trên có các vương, dưới có bá quan, đều cúi đầu ba bái, nín hơi thu khí. Y nhìn chằm chằm, ánh mắt quét tới đâu, không ai dám can đảm để mà nhìn nhau.

Dường như từ hôm đó về sau, nhanh chóng truyền ra một câu nói, Nhiếp Chính Vương hùng tâm hung ác, giết người trong vô hình gì đó.

Những lời kia là mấy tiểu hầu trong cung không biết sống chết không biết nghe đâu tự bép xép, tình cờ bị Lý Tường Xuân nghe được. Trong tai lão thái giám, đơn giản chỉ là nói nhảm. Ông cũng là người cũ triều Võ Đế, nói câu khinh thường, là nhìn Nhiếp Chính Vương lớn lên. Từ An Nhạc vương đến Kỳ vương lại đến Nhiếp Chính Vương hiện tại, chủ nhân là ai, ông còn không rõ ư?

Lúc ấy, mấy tiểu hầu bị dọa mặt không còn chút máu, quỳ xuống xin tha. Nếu Nhiếp Chính Vương nghe được, chắc hẳn cũng chỉ cười rồi thôi. Cho nên Lý Tường Xuân cũng không chút khó xử, chỉ gọi người phạt trượng hai mươi lần, cho nhớ lâu.

Dẫu có người thật sự chết trong tay Nhiếp Chính Vương, thì tất cả đều là quỷ đáng chết, còn sống, là thứ chủ nuôi tốn cơm.

Lão thái giám lạnh lùng thầm nghĩ. Ông chỉ đau lòng Nhiếp Chính Vương, vốn nắm toàn bộ triều chính, mà Thiếu đế lại…

Lòng lão thái giám thầm than thở. Ngài ấy một khắc cũng không thể rảnh, gần đây mọi việc còn ùn ùn kéo đến, bận rộn cỡ nào, nghĩ mà xem.

Giữa đông, năm nay mùa đông bắt đầu sớm, đêm lạnh xâm nhập. Dù phòng trong các có đốt lửa than, nhưng ở đây lầu các trống trải, đợi đã lâu, tay chân Lý Tường Xuân vẫn thấy hơi lạnh.

Đêm nay sau khi Nhiếp Chính Vương rời đi từ chỗ Thiếu đế, cứ thế ngồi vào bàn, còn chưa từng đứng dậy.

Mới vừa chợp mắt, Trương Bảo đột nhiên sợ run cả người tỉnh lại chút ít. Theo lão thái giám nhiều năm, thấy mắt ông dõi về lò sưởi trong kia, lập tức hiểu ý, nhanh chóng định vào, thì thấy lão thái giám khoát tay với mình.

Đánh giá lửa trong lò không còn đượm, lão thái giám tự mình nhẹ nhàng đi vào, vén nắp lò, cầm cây thông lò cời lửa, kẹp mấy viên than thêm vào, rồi cẩn thận đóng lại.

Ông thả động tác rất nhẹ, song Thúc Thận Huy vẫn bị kinh động, tiện mở miệng hỏi giờ.

Lý Tường Xuân chờ có thế, “Lầu canh vừa đánh giờ Tý hai khắc, điện hạ chắc đang chuyên tâm vào việc, không nghe thấy.”

“Đã trễ thế à?” Thúc Thận Huy miệng nói, đầu không ngẩng, bút trong tay cũng không ngừng.

“Đúng ạ. Lão nô biết có nhiều việc, cần mau chóng xử lý. Chỉ là, dù lão nô không nhận được mấy con chữ to, cũng được nghe nói, có bột mới gột nên hồ, phải có công cụ sắc bén trước đã. Nhiếp Chính Vương cũng như công cụ sắc bén của Đại Ngụy ta. Nếu ngài mệt hỏng người, thì phân ưu vì bệ hạ sao được? Đêm qua Nhiếp Chính Vương mới ngủ có hai canh giờ. Cứ như vậy, có làm bằng sắt thép cũng chịu không nổi!”.

Thúc Thận Huy rốt cuộc ngừng bút, ngẩng đầu nhìn lão thái giám, “Lắm lời còn hơn cả Trương Bảo.”

Trương Bảo ở gian ngoài bỗng nghe đề cập đến mình, không biết chuyện gì, dựng lỗ tai.

Lão thái giám khom người, “Lão nô lắm miệng! Nếu nói sai, điện hạ chớ cười lão nô.”

Thúc Thận Huy cười hì, ngưng bút, khép lại quyển tấu đã phê xong, khẽ gác bút lên hòn kê bằng ngọc, xoa xoa hai tay, đứng dậy, đi đến trước cửa sổ đẩy cánh cửa.

Âm u lạnh lẽo mấy ngày liền, đêm nay cũng là mây dày che trăng. Gần cửa sổ ngoài kia, cây cối trong vườn trơ trọi, đìu hiu khắp nơi, bên cạnh ao mấy tán sen khô xác lá. Xa xa, bóng đêm phác hoạ hình dáng cung điện nặng nề trùng điệp. Si vẫn vểnh sừng đứng trên đầu mái cong cũng không còn vẻ trang nghiêm uy vũ ban ngày, nhìn lại, bóng ma âm u.

Một cơn gió mang theo ý lạnh nồng đậm xông vào.

Lý Tường Xuân bận rộn lấy áo ngoài, dâng lên, “Điện hạ, coi chừng lạnh.”

Thúc Thận Huy không nhận, ngây người nhìn ngoài cửa sổ chỉ chốc lát, nói một mình, “Hiền vương ra ngoài, cũng đã một quãng rồi nhỉ?”

Như có tâm linh tương thông. Đúng lúc, một tiểu hầu bên ngoài định bước vào, nhẹ giọng báo Trương Bảo, Trương Bảo bận rộn vào truyền lời: “Điện hạ, Lưu tướng quân vừa đưa tin đến, bảo Hiền Vương Lão thiên tuế đã về! Người của Lão thiên tuế đang ngay bên ngoài cửa cung, hỏi phải chăng điện hạ ngủ lại.”

Ánh mắt Thúc Thận Huy khẽ nhúc nhích, bỗng quay đầu, lập tức nhanh chân ra ngoài.
 
Chương 10


hiếp Chính Vương cực kỳ hào phóng

Đêm nay Hiền Vương Thúc Uẩn vừa về tới, chưa kịp nghỉ ngơi đã thẳng đến hoàng cung, trực tiếp cho dừng xe ngoài cửa cung.

Thúc Thận Huy tự mình đón Hiền Vương từ cửa cung vào Văn Lâm các. Lý Tường Xuân dẫn bọn Trương Bảo dâng nước nóng khăn mặt các thứ lên. Thúc Thận Huy phủi tay, ông hiểu ý, đưa người lui ra, nhẹ khép cửa.

Thúc Thận Huy đỡ Thúc Uẩn ngồi vào chỗ, tự tay vắt khăn nóng cho ông, hai tay dâng lên.

“Tuổi của Hoàng bá phụ vốn nên nghỉ ngơi dưỡng thọ, hưởng thụ con cháu phụng dưỡng, giờ vẫn phải không màng đến tuổi cao, bôn ba mệt nhọc, chỉ tại cháu vô năng. Cháu thật muôn phần hổ thẹn, thật lòng vô cùng cảm kích.”

Hiền Vương khoát tay, “Người một nhà không cần nói hai lời, Tam Lang tận tâm tận lực vì triều đình, còn ta chẳng qua cũng chỉ đi ra ngoài một chuyến thôi, nói gì mệt nhọc! Huống hồ, đây cũng là việc tự ta muốn làm, đừng nói thế!” Nói xong nhận khăn lau mặt rồi tay, lại vội vàng uống một ngụm trà Thúc Thận Huy châm một bên, lập tức vào chủ đề chính.

“Sao Cao vương lại bạo bệnh đột ngột bỏ mình?” Mở miệng ông liền hỏi cháu. Đây cũng là nguyên nhân ông không chờ kịp muốn gặp mặt ngay trong đêm.

Vừa hỏi xong, thấy đứa cháu không trả lời, chỉ đi đến trước mặt mình yên lặng làm lễ tạ lỗi, liền hiểu.

Trên đường về, ông nghĩ tới nghĩ lui, trong lòng đã đoán trước, song đúng lúc này, lòng vẫn nhảy đánh bộp, chùng xuống.

“Tự rước tự diệt, tự rước diệt vong…” Ông lẩm bẩm, thần thái ảm đạm.

Thúc Thận Huy vẫn im lặng.

“Ý cậu ta muốn gì?” Một lát sau, Hiền Vương nén tâm tình rối loạn, thấp giọng hỏi.

“Định dùng ngày mừng thọ Thái hậu và dùng hộ quốc để tự tạo loạn, lính gác trong thành Vũ Hầu phủ cùng phối hợp. Bị cháu giết ngược.”

Cao vương không phải em cùng mẹ của Hiền vương, mấy năm nay, quan hệ giữa hai người cũng ngày càng xa cách, nhưng trước kia cũng từng có thời gian huynh hữu đệ cung.

Hiền Vương biết đứa cháu này của mình, nhìn như tao nhã, thật ra là mũi sắc dấu trong vỏ. Cậu ta cũng là đứa duy nhất trong đám hoàng tử của Võ Đế kế thừa phẩm cách thâm trầm mà bá liệt quả quyết. Võ Đế yêu quý người này, ai cũng tưởng rằng là bởi vì người mẹ xinh đẹp và xuất thân tốt, song mỗi một mỹ nhân trong hậu cung của Võ Đế, phi tử có thân phận như con gái của Ngô Việt vương cũng không chỉ một mình bà ấy. Trong lòng Hiền Vương biết rất rõ, cực kỳ rõ, thật ra Võ Đế thích đứa bé này ở điểm giống chính ông này nhất.

Minh Đế, người cháu khác đã qua đời của ông, hiển nhiên cũng biết rõ điểm ấy, khi lâm chung đã giao phó Thiếu đế cho Tam Hoàng đệ của ngài.

Hiền Vương cũng đã âm thầm có chỗ chuẩn bị trước, biết rằng nếu Cao vương không biết thu lại, sớm muộn gì cũng trở thành quỷ tế dưới đao của đứa cháu này, đến hôm nay, ông đã biết hẳn cũng là lúc.

Chỉ là vẫn không ngờ, đứa cháu này bí ẩn bố trí, đến cả mình, cũng không mảy may phát giác.

Hiện giờ xem ra, cậu ta đến Khương Tổ Vọng cầu hôn, chính là bắt đầu cuộc phản sát.

Hiền Vương cũng im lặng.

“Xin Hoàng bá phụ thứ tội cho cháu.” Thúc Thận Huy nói.

Hiền Vương hoàn hồn, khoát tay, đứng dậy, nhìn cháu thở dài thật sâu, đáp lễ.

“Nhiếp Chính Vương không cần tự trách chuyện gì. Cao vương có kết quả hôm nay đều là gieo gió gặt bão. Trái lại ta còn phải thay Đại Ngụy ta tạ ơn Nhiếp Chính Vương, may mà kịp thời trừ hung, tránh được một trận họa loạn.” Hiền Vương nghiêm mặt nói.

Thúc Thận Huy tiến lên, đưa tay dìu ông ngồi xuống lần nữa, “Đa tạ Lão thiên tuế thông cảm.”

Hiền Vương biết cậu ta cũng ngóng trông kết quả chuyến đi này của mình, ổn định lại tâm thần, chuyển chủ đề, “Điện hạ, về chuyến đi này của ta, xem như không nhục sứ mệnh, đã để lại tín vật, Khương Tổ Vọng nhận lời.”

Đáp án này hẳn nằm trong dự liệu của Thúc Thận Huy, y chỉ gật đầu nhẹ, chẳng biểu lộ mảy may cũng chẳng thấy vui mừng.

“Ngài đưa ra lời cầu hôn, phản ứng của Khương Tổ Vọng thế nào ạ?” Y chỉ hỏi.

Thúc Uẩn đương nhiên không giấu giếm. Quan sát Khương Tổ Vọng cũng là một trong những mục đích của chuyến này.

“Ban đầu ta thấy dầu y có hơi miễn cưỡng, cũng không có ý cự tuyệt. Có điều giữa chừng xảy ra một việc ngoài ý muốn.”

Nhiếp Chính Vương nhìn ông.

“Con gái Khương Tổ Vọng, vị Trường Ninh nữ tướng quân kia, hẳn là không muốn, sau khi biết tin, trong đêm không báo mà đi. Khương Tổ Vọng không muốn cho ta biết, cố hết sức giấu ta, dỗ ta vào trong thành ở. Y bảo nữ tướng quân bị tức giận mà đi thành Vân Lạc chỗ nhà ngoại, đuổi ta xong lại âm thầm phái thân tín đi tìm người. Hôm ta nhận được tin trong kinh, định trước đêm khởi hành quay về lại đi thăm dò Khương Tổ Vọng, có thể khẳng định, nữ tướng quân không đi Vân Lạc, hơn nữa còn không có tung tích. Có lẽ bị việc này ảnh hưởng mà thái độ Khương Tổ Vọng thay đổi, định từ chối hôn sự ngay trước mặt ta…”

Hiền Vương ngừng đoạn, “Ta thoáng làm áp lực với y. Đến sáng sớm hôm sau, y lại đến gặp ta. Thay đổi lời, chấp nhận hôn sự. Có điều ta cảm thấy, y đổi ý dường như cũng không phải hoàn toàn là vì nguyên nhân đêm trước ta tạo áp lực.”

“Hôm đó sau khi ngài đi rồi, lại có tin của con gái Khương Tổ Vọng ạ?”

Hiền Vương gật đầu, “Hẳn thế. Nếu Khương Tổ Vọng thật sự kháng lệnh từ chối hôn sự, lẽ nào không phải là loạn mà Nhiếp Chính Vương đang lo nghĩ? Ta sợ có chuyện ngoài ý muốn, hôm đó trước khi về thành đã cho người theo dõi. Trùng hợp, bình minh hôm sau, nữ tướng quân lại một mình từ bên ngoài quay về doanh. Cha con họ gặp mặt, không biết nói gì, hay là cân nhắc thiệt hơn, cuối cùng thuận lợi định hôn.”

Thúc Thận Huy trầm ngâm một lát, “Biết con gái Khương Tổ Vọng đi đâu không ạ?”

Hiền Vương lắc đầu, “Chuyện này, ta cũng không biết.”

Ông ngó Thúc Thận Huy, “Về chuyện này, Nhiếp Chính Vương chớ để trong lòng. Con gái của Khương Tổ Vọng không phải là nữ tử bình thường, binh nghiệp lâu dài, làm việc không khác nào đàn ông, bỗng bàn chuyện kết hôn, khó tránh khỏi phản ứng đôi chút. Có điều, nói ngược lại, dù gì cô ấy cũng là con gái. Sau này chừng gặp cháu rồi, chắc chắn sẽ hồi tâm chuyển ý.”

Câu này cũng không phải làm bác dát vàng lên mặt cháu. Bao nhiêu thiếu nữ Trường An đã bị phong thái của Kỳ vương mà ngả nghiêng.

May mà Nhiếp Chính Vương cực kỳ đứng đắn.

Y mỉm cười, khoát tay áo, “Không sao.”

Hiền Vương chợt nhớ đến một chuyện. Trước đây ông ít nhiều có nghe, dường như cháu mình và con gái Ôn gia tình đầu ý hợp, tạo hóa trêu ngươi làm sao, Võ Đế đi rồi, Minh Đế đầy nể trọng y, đến nay nhiếp chính, y gánh vác trọng trách, mọi việc hiển nhiên lấy đại cục làm trọng, chuyện nhỏ như tư tình nhi nữ cũng đành gác một bên.

Thiếu một đôi bích nhân trên đời, Lão thiên tuế cũng hơi thấy tiếc nuối, thầm than một hơi rồi vứt qua không đề cập nữa, lại nói qua một việc quan trọng khác trong chuyến này.

“Ta dừng ở Nhạn Môn nhiều ngày, âm thầm thăm viếng bốn bề, xác nhận trong quân kỷ cương nghiêm túc, chưa từng nghe nói quan tướng các bộ có chuyện kết bè kết cánh. Khương Tổ Vọng và Cao vương Thành vương, đúng là chưa từng có thâm giao.”

Thúc Thận Huy hô ‘Tốt’ một tiếng, rốt cuộc thả lỏng, cười nói, “Thực không dám giấu giếm, Khương Tổ Vọng nhận lời hôn sự đã trong dự liệu của cháu. Điều duy nhất không yên lòng chính là việc này. Vị trí tương lai của ông ấy liên quan đến vận mệnh đất nước, tuyệt đối không thể có sai lầm. Vậy thì tốt rồi.”

Lần này Hiền vương ra Bắc hai mục đích đã thành, lời đã nói xong, Thúc Thận Huy nghĩ ông tuổi đã cao, đêm cũng đã khuya, nhân tiện nói: “Lão thiên tuế mau về phủ nghỉ ngơi, cháu đưa ngài về.”

Song Hiền Vương chưa đi. “Chờ chút! Ta chờ nhiều ngày vậy, liên quan đến con gái nhà Khương gia cũng thu được ít tin tức.”

Không đợi ông cháu đáp lời, Hiền Vương tự thao thao bất tuyệt nói.

“Khương Tổ Vọng thiện chiến, là nữ nhưng cũng rất có phụ phong (phong thái của cha). Tuy là phận gái, song ta thấy, trong quân doanh, từ trên xuống dưới, không ai coi đấy là lạ. Binh sĩ đề cập đến đều dùng danh hào Trường Ninh tướng quân để gọi với kính trọng từ đáy lòng. Dẫu đến giờ ta chưa thể nhìn thấy mặt, nhưng mấy lời rảnh rỗi trong kinh đồn đại cô bé này là sói cái hóa thân thật hoang đường vô cùng! Có điều, ta đúng là có nghe nói, cô bé cũng có tí nguồn gốc dính dáng đến sói. Nghe nói khi còn nằm trong tã lót, ra ngoài cùng mẹ, trên đường gặp bất hạnh ngoài ý muốn, mẹ mất, còn cô bé gặp cơ duyên xảo hợp, cũng là trời cao rủ lòng, được sói cái cho bú giữ được cái mạng, sau được tìm về. Nhưng cũng chỉ thế thôi. Còn mấy chuyện khác, ắt là vì xưa nay hiếm có nữ tướng quân, vài người vô tri dốt nát chưa từng thấy mặt cô bé vô căn cứ gán ghép, đồn bậy bạ thôi!”

Dù trong lòng thấy đáng tiếc cho cháu mình và con gái Ôn gia, nhưng đã muốn cưới Khương nữ, bất kể dự tính ban đầu của hôn sự này là gì, thân là trưởng hôn, Hiền Vương cũng hi vọng hai bên tương lai cầm sắt* hòa minh, dĩ nhiên muốn giúp Khương nữ làm rõ. (*cặp chim cùng hót ca vang)

“Lão thiên tuế nói cực kỳ phải. Phí tâm.” Thúc Thận Huy cười nói.

“Hơn nữa, Lão thành chủ ông ngoại cô ấy năm ngoái qua đời, lúc ấy điện hạ dùng danh nghĩa bệ hạ, cố ý đưa đến ai sách*, phúng tứ mã thất túc mạch bố quyên**, thêm gia hiệu, tỏ ân đức triều đình, hẳn điện hạ còn ấn tượng. Tình cảm Khương nữ và phía nhà ngoại rất đượm. Ta nghe nói khi ấy cô bé muốn đi Vân Lạc cúng tế Lão thành chủ, nửa đường được vời về, chẳng có chút chuẩn bị gì với hôn sự này. Hẳn là nguyên nhân mà mới đầu cô bé không muốn.”

(*) quyển điếu tưởng niệm. (**) ban ngựa kê lúa mạch vải lụa phúng điếu

“Cháu hiểu.” Y vừa cười nói.

Giải thích đến đây, Hiền vương bỗng nhớ đến một tin tức khác chuyến này ông nghe được.

Nghe nói, trong thành Vân Lạc có một tì khưu trẻ tuổi đi Tây phương rồi về, là chức đệ tử cao tăng, từng gặp rủi ro rồi được nữ tướng quân cứu, mang về trong thành, sau đấy nhà sư kia ở lại nơi đó, cho đến nay chưa hề rời đi.

Này cũng không có gì, vấn đề là, nghe đồn nhà sư ấy bề ngoài anh tuấn, được nữ tướng quân thu làm trai lơ. Mỗi lần nữ tướng quân đi Vân Lạc, đều tìm vị sư trẻ ấy, còn có người từng thấy nữ tướng quân ngủ lại. Nhưng người của thành Vân Lạc chẳng hề xem chuyện này là lạ, cứ như rằng cho dù là thật, cô ấy có nuôi trai lơ, cũng là đương nhiên.

“Lão thiên tuế còn gì khác muốn nói ạ?”

Hiền Vương đang ngây ra, chợt nghe đứa cháu hỏi, tỉnh táo lại, thoáng chần chừ một chốc.

Vốn ông định giấu chuyện này không đề cập đến, tránh vô căn cứ mà đâm thọc. Song lại nghĩ, nếu sau thằng bé biết, trái lại càng thêm không hay. Muộn không bằng sớm, vốn để xem thông gia, vẫn nên rõ ràng, tốt xấu thế nào cứ để thằng bé biết toàn bộ để còn ứng đối, vậy mới ổn thỏa.

“Còn gì à, chỉ là, cũng chỉ là chuyện nhỏ…”

Thúc Thận Huy nhìn ông.

Lão Hiền Vương húng hắng ho, “Ta còn nghe nói, ở Vân Lạc, có vị hòa thượng từ Tây Vực trở về, lúc trước từng được nữ tướng quân cứu, rồi thì hai người sau đó có qua lại. Điện hạ cũng biết, vào trong mắt người đời, khó tránh khỏi nghĩ hướng khác. Song theo ta thấy, mấy tin đồn như này, cũng như bảo nữ tướng quân là sói cái, tin đồn thất thiệt, hầu hết là tin vịt.”

Nhiếp Chính Vương quả nhiên hào phóng cực kì, nghe xong thần sắc chẳng mảy may biến hóa, chỉ bảo biết rồi. “Đa tạ hoàng bá phụ chỉ điểm, chuyến này ngài thực sự vất vả. Cháu tiễn ngài.”

Y đưa Hiền Vương đến cửa cung, vốn định tự mình đưa ông về Vương phủ song Hiền Vương không cho phép, bảo y lập tức đi nghỉ ngơi, không thể vất vả quá mức.

Thúc Thận Huy thưa vâng, dừng ở ngạch cửa, đưa mắt nhìn đám xe ngựa Hiền Vương trở về, xoay người vào trong.

Bóng đêm sâu thẳm, y chắp hai tay sau lưng, một mình chầm chậm bước trong con đường hẻm giữa hai bên thành cung cao ngất song song tĩnh mịch. Lý Tường Xuân dẫn tiểu hầu xách đèn lồng, lặng lẽ theo sau, biết y đang lo nghĩ, không dám tới gần sợ quấy rầy. Cứ thế đi đến cuối đường, chợt thấy y dừng bước.

Lý Tường Xuân bước vội đuổi tới, nghe Nhiếp Chính Vương căn dặn: “Hôm nay trước lúc nghị triều, ông cho gọi Lễ bộ Thượng thư tới Văn Lâm các gặp ta trước.”

Lý Tường Xuân chợt hiểu.

Tin Nhiếp Chính Vương muốn cưới con gái Khương thị xôn xao đồn đãi trước giờ, đến đây, đã định.
 
Chương 11


hóng lên ngựa, kéo cây cung mạnh nhất…

Khương Hàm Nguyên đến Vân Lạc.

Vân Lạc tính ra diện tích không lớn, một tòa thành ấp nho nhỏ dưới núi tuyết, không quá mấy ngàn hộ. Nó vốn yên tĩnh như thế. Ở đây, cho dù người ở nơi đâu, chỉ cần đưa mắt là có thể trông thấy đỉnh ngọn núi xa xa phía Nam thành quanh năm tuyết trắng mênh mang. Lúc trời nắng, mặt hồ dưới núi như một chiếc gương, có thể phản chiếu rõ ràng khuôn mặt con gái Vân Lạc xinh đẹp rực rỡ như hoa.

Hơn hai mươi năm trước, thừa dịp các nước Trung Nguyên chiến loạn, người Địch phía Bắc nếm được ngon ngọt từ các châu Sóc, Hằng, Yến cướp từ trong tay nước Tấn xong, ăn tủy trong xương mới biết liếm nó cũng ngon, lại dòm ngó Tây quan Đại Ngụy, ý đồ chiếm các thành phiên vùng này làm thuộc quyền, coi đó làm bắc cầu để phong tỏa Tây quan nước Ngụy, lúc đó, vùng Vân Lạc vị trí hiểm yếu liền đứng mũi chịu sào.

Ông ngoại Khương Hàm Nguyên lúc ấy một mặt dẫn hai ngàn dũng sĩ cả nước anh dũng chống cự, mặt khác phát tin cầu viện về mẫu quốc Đại Ngụy. Khi đó Võ Đế còn chưa để ý đến các vùng phía bắc nhưng cũng không chịu được khiêu khích đương nhiên công khai như thế, mới phái quân ra Bắc, giúp Vân Lạc đánh lùi quân địch phía Bắc xâm phạm.

Tướng quân Võ Đế phái đi chính là Khương Tổ Vọng. Ông xuất thân từ nhà tướng, có thiên phú quân sự cực cao, năm mười tám tuổi đã nhiều lần lập chiến công trong cuộc chiến chinh phạt của Võ Đế, thanh danh hiển hách. Giống như rất nhiều con cháu cao quý xuất thân từ thế gia khai quốc, ông đang tuổi trẻ nhiệt huyết, vì cơ nghiệp thiên cổ kiếm chỉ Cửu Châu của Võ Đế mà sôi trào không thôi, ước mơ có thể cao hơn một tầng, lưu lại dấu ấn huy hoàng thuộc về mình trong đó, ghi tên sử sách.

Vị tướng quân trẻ tuổi Đại Ngụy này, anh tuấn dũng cảm kiên cường, ý chí hăng hái, hấp dẫn vô số ánh mắt con gái Vân Lạc, ông đã yêu cô gái Vân Lạc xinh đẹp nhất nhà họ Yến, lấy nàng, đưa về kinh thành.

Chuyện xưa luôn luôn mở đầu rất tốt đẹp. Hai vợ chồng trẻ lưỡng tình tương duyệt, tuy gần nhau thì ít xa cách thì nhiều, nhưng cũng nếm trải một quãng thời gian hạnh phúc. Vài năm sau, Yến thị sinh được một cô con gái ngọc tuyết đáng yêu. Bà mong loạn chiến chóng dừng, thế thì chồng bà cuối cũng sẽ không cần xa nhà đi chinh phạt, mới đặt một nhũ danh cho con gái gửi gắm nguyện vọng, Hủy Hủy. Hủy, là Thần thú thời thượng cổ trong truyền thuyết, xuất hiện, thiên hạ bình định giàu có.

Chốn kinh thành phồn hoa hơn xa Vân Lạc, song Yến thị dần dần bắt đầu nhớ vùng quê xa cạnh hồ bên núi tuyết kia. Đến thọ thần của Lão thành chủ, Khương Tổ Vọng vừa lúc về Trường An, xin triều đình nghỉ phép, tự hộ tống bà về thăm nhà. Và thế là, vợ chồng đưa con gái còn trong tã lót lên đường về thăm người thân.

Vốn mọi việc vô cùng thuận lợi, sau một hồi lặn lội đường xa, chỉ còn mấy hôm nữa họ liền có thể về đến Vân Lạc. Hôm ấy, chợt có người đuổi kịp, truyền một tin, trưởng công chúa Nam Khang đương triều mới xuất kinh đi đến đất phong, chẳng biết tại sao, nửa đường đổi tuyến, trùng hợp là cũng đi về hướng này. Ngọc giá bà hiện dừng ở hậu phương Võ thành, lệnh Khương Tổ Vọng đến yết kiến, bảo rằng có chuyện quan trọng.

Bảy ngày trước, hai vợ chồng vừa đi ngang qua nơi gọi Võ thành kia.

Nam Khang là con gái Cao tổ, nghe nói lúc bà ra đời, một con nai từ ngoại ô chạy qua kinh thành, có người biết tướng thuật bảo là điềm lành, quả nhiên, không lâu sau đó có tiểu quốc đến quy thuận. Vì thế Cao tổ sủng ái bà, đặc biệt xây Mi viên (vườn nai) cho bà, còn chú trọng tuyển rể. Sau khi Võ Đế kế vị đã phong bà làm Trưởng công chúa, với nàng em gái này cũng muốn gì được nấy. Trong kinh bấy giờ, Trưởng công chúa Nam Khang quyền thế che trời, còn Mi viên người người đổ xô chen vào.

Đột nhiên Trưởng công chúa xuất hiện nơi này, triệu chồng mình đến gặp mặt, rốt cuộc là vì nguyên nhân gì trong lòng Yến thị hiển nhiên nắm rõ. Lúc còn ở trong kinh, Trưởng công chúa mới góa chồng liên tiếp đến lấy lòng ông ấy.

Lòng Khương Tổ Vọng đầy không muốn, song còn e dè địa vị và uy thế đối phương, rốt cuộc vẫn không dám không nghe.

Ở cách chỗ hai vợ chồng ở lúc đấy không xa có tòa thành nhỏ Xương Nhạc, có qua lại tốt đẹp với mấy đời Vân Lạc, canh phòng giúp nhau. Khương Tổ Vọng đành phải đưa vợ con đến Xương Nhạc, dặn Yến thị yên tâm chờ mình trở về, sau đó vội vàng quay lại chạy đến Võ thành.

Ông nào biết, bắt đầu từ giây phút ông quyết định quay lại, tai hoạ đã giáng xuống đầu, làm thay đổi vận mệnh cả đời ông.

Lão Vương Xương Nhạc đã khuất, Tân vương kế vị bị mật sứ Bắc Địch gửi đến thuyết phục mà dao động tâm trí, mưu đồ phát triển thế lực của mình ở đây sau này, mấy tháng trước đã bắt đầu ngầm qua lại. Thấy cơ hội này, bèn âm mưu bí mật ra tay trong đêm, giao người cho Bắc Địch. May thay, kế hoạch bị một người bạn cũ của Lão thành chủ thành Vân Lạc biết được, báo cho Yến thị, Yến thị bỏ hoa phục, cải trang đem con gái lặng lẽ rời đi, tìm cách ra thành. Nhưng may mắn không lâu, chạy chẳng bao xa đã bị truy binh đuổi theo.

Hộ vệ theo cạnh ngày càng ít dần, cuối cùng, chỉ còn Yến thị ôm con bọc trong tã, lùi đến cuối vách núi, hết chỗ để lùi.

Dưới vách núi, vực sâu lởm chởm.

Tính Yến thị ngoan cường, không muốn rơi vào trong tay người Bắc Địch, càng không muốn biến mình thành công cụ để uy hiếp người thân.

Bà cởi áo dày, gói chặt con gái yêu vào trong từng lớp một, vào khắc cuối cùng của sinh mạng, bà cầu nguyện thánh thần núi tuyết bảo hộ cho con, sau đó, dùng hết sức bình sinh, ném con qua một dải rừng rậm mọc trên vách núi xa xa, rồi thả người nhảy xuống.

Đến chừng Khương Tổ Vọng chạy về, đã là hơn nửa tháng sau. Dưới vách núi tìm được Yến thị, tất nhiên là thịt nát xương tan. Không chỉ thế, di thể cũng bị thú hoang thi nhau cắn xé tha đi, quanh đó chỉ còn sót lại mấy miếng áo trong và xương vụn lẻ tẻ, tình trạng vô cùng thê thảm. Bé gái cũng không thấy tung tích, chỉ thấy trong rừng rậm gần đó vài dấu chân sói linh tinh cùng một miếng tã rớt xa xa. Ai cũng cho rằng cô bé đã bị sói ăn hết, không còn hài cốt. Không ngờ sau mấy tháng, cô được phát hiện, may mắn còn sống sót, xuất hiện trong một hang sói đơn độc cách rừng hoang mấy mươi dặm như một kỳ tích.

Cô được một thợ săn trong lúc đuổi theo dấu vết của sói vô tình phát hiện, nghe nói lúc ấy cả người bẩn thỉu, ngủ cạnh sói cái. Khương Tổ Vọng nghe tiếng chạy tới, nhìn thấy vết bớt mới nhận ra con. Sói cái bị xua đuổi, cô bé được bắt về rồi, sói cái vẫn chậm chạp mãi không chịu rời đi, theo sau xa xa. Khương Tổ Vọng bảo người đừng làm tổn thương, nó theo sau một quãng thật dài, cuối cùng chắc đã biết không thể nào đoạt lại đành tru lên thương tâm rời đi.

Mà ngày ấy, vị Trưởng công chúa mới góa chồng cho gọi Khương Tổ Vọng, “chuyện quan trọng” đó là, nghe nói hôm trước trên đường gặp phải thú hoang, công chúa chấn kinh lâm bệnh, đêm ngủ khó yên, cần viên tướng quân vũ dũng của Đại Ngụy này theo hộ giá.

Khương Tổ Vọng bệnh nặng nôn ra cả máu. Sau khi lành bệnh, Võ Đế để thể hiện đền bù, đã ban hôn cho ông và Trưởng công chúa Nam Khang. Khương Tổ Vọng lấy cớ đã từng thề độc với người vợ đã khuất đời này tuyệt đối không cưới người khác mà từ chối. Võ Đế cũng không miễn cưỡng, làm chủ cho Trưởng công chúa chọn rể tốt khác, việc này xem như qua đi.

Về sau, khi những khao khát ngày xưa của ông đã qua, liên tiếp lập nhiều công lao chói mắt trong chiến sự thống nhất Cửu Châu của Võ Đế, ông tự xin đi đến trấn thủ biên cương phương Bắc, làm bạn với bão cát, thổi một phát đã hai mươi năm, từ đây, chưa từng quay lại kinh thành một bước.

Đây chính là cái kết cuối cùng của chuyện xưa.

Năm ngoái, ông ngoại của Khương Hàm Nguyên người cả đời trông coi giữ vững toà thành nhỏ ở núi tuyết hết lần này đến lần khác, cũng đã đi hết đường đời của mình. Cậu của cô Yến Trọng lên làm thành chủ. Ông là một người tính khí nóng nảy ăn nói lớn tiếng, kế thừa trung thành và vũ dũng đời đời kiếp kiếp của Yến thị. Ông càng xem Khương Hàm Nguyên làm vinh, biết tin cô đến, tự mình ra khỏi thành đi đón trong cùng ngày.

Khi mọi người gần cửa thành trông thấy cô, xôn xao dừng việc đang làm trong tay, phóng đến từ bốn phương tám hướng tranh nhau hành lễ với cô.

Quãng đời ly kỳ lúc bé cô trải qua, với người khác, là hóa thân chẳng lành, biểu tượng kinh khủng, song ở trong mắt người thành Vân Lạc, cô lại là thần nữ được thần linh bảo hộ.

Đúng vậy, nếu không thì, bé gái còn trong tã làm sao có thể sống sót, còn biến thành vị dũng tướng khiến cho kẻ địch nghiến răng thống hận hôm nay?

Ông cậu chứng kiến một màn, cười to sảng khoái, giơ roi chỉ vào những người dân trong thành đang nghênh đón cô cháu, “Hủy Hủy con xem! Người Vân Lạc chúng ta kính trọng dũng sĩ! Bọn họ kính con còn hơn cả ông cậu này! Ai nấy đều mong con ở lại mãi! Đây chính là nhà của con!”

Khương Hàm Nguyên mỉm cười cảm tạ dân trong thành, giữa tiếng hoan hô nhiệt liệt bao quanh, phóng ngựa vào thành.

Vị trí địa lý Thanh Mộc tắc quan trọng, lại bị nước Ngụy đoạt lại, Nam Vương Sí Thư vì bại một lần kia, tự mình trấn giữ U Yến các nơi. Năm ngoái ông ngoại qua đời, Khương Hàm Nguyên đang dẫn quân quần nhau tác chiến với một nhánh quân địch đang mưu đồ đoạt lại Thanh Mộc tắc nên không thể chạy về. Do đó ngày giỗ năm nay vốn định đến sơm, ai ngờ giữa đường gặp trắc trở, mãi đến hôm nay mới thành.

Yến Trọng chuẩn bị đích thân đưa cô đi tế tự.

“Cậu, để con tự đi ạ. Năm ngoái con không về được, năm nay lại lỡ dịp. Con muốn hầu cạnh ông ngoại mấy ngày.”

Yến Trọng biết tình cảm giữa cô và ông ngoại sâu đậm, bèn không miễn cưỡng đi cùng, gật đầu bảo được.

Chỗ Lão thành chủ yên giấc nằm ở sơn cốc ngoài thành. Đấy cũng là đất đời đời kiếp kiếp Yến thị chôn cất cốt, khi trời nắng, từ cửa cốc có thể nhìn thấy núi tuyết và hồ gương đối diện.

Khương Hàm Nguyên một mình ở lại trong một túp lều tranh đơn sơ, nằm dưới đất kia, cùng với ông ngoại, còn có cả người mẹ cô chẳng nhớ nổi dáng vẻ. Song cô biết, mẹ thật sự từng tồn tại, mộ phần nơi này, đã chôn vài miếng áo vụn và mấy khúc xương tàn kia. Bà hẳn là đã có mùi hoa lan trầm tĩnh, làn da ấm áp, giọng nói dịu dàng. Bà là cô gái dưới chân núi tuyết đẹp nhất. Hồ gương kia còn lưu lại khuôn mặt xinh đẹp bà từng soi kia.

Đúng vậy, Khương Hàm Nguyên có thể nhìn thấy tất cả, cũng giống như là cảnh con sói cái từng cho cô bú cô luôn thấy trong mơ.

Một đứa bé gói trong tã lót tầng tầng lớp lớp, mang theo trọn lời chúc phúc của mẹ, xuyên qua một ngọn cây tươi tốt, lúc rơi xuống mắc vào một đám lưới kết lộn xộn, lơ lửng giữa không trung. Nhỏ bé, đơn độc, một ngày một đêm. Vì đói khát cô bé khóc mãi không ngừng. Ký ức cô bé bảo mình, chỉ cần khóc, sẽ có một người tản ra mùi thơm dễ chịu dịu dàng ôm lấy mình, cho miệng mình dán lên bầu ngực mềm mại mà ấm áp của người, sữa tươi ngọt ngào sẽ đút no mình. Song lần này, rốt cuộc người ấy vẫn không đến. Cuối cùng cô tự giãy giụa, dùng tay chân nhỏ bé của mình trèo khỏi khối vải lót, rớt từ ngọn cây té thẳng xuống dưới một lùm cây thật dày. Đây là lần đầu đời cô bé một mình đối mặt thế giới này, tìm người phụ nữ kia khắp nơi. Cô bé khóc đến khàn cả giọng, cuống họng khàn đặc, mãi đến lúc không bò nổi nữa, nằm thoi thóp, một con sói cái đã đến.

Đấy là một con sói cái trẻ, lần đầu làm mẹ, không may, sau khi ra ngoài kiếm ăn về phát hiện không thấy sói con của mình, trong ổ chỉ còn lại một vũng máu. Sói mẹ mất con bi thương mà phẫn nộ, nỗi đau căng cứng sữa càng làm nó nôn nóng bất an, nó tìm kiếm con khắp nơi, đến nơi đây mới phát hiện một đứa bé của loài người đang nằm trên đất. Nó nhào tới, cắm vuốt nhọn thật sâu lên tấm lưng non mềm của đứa bé. Ngay lúc nó cúi đầu định cắn cổ vật nhỏ, đứa bé loài người kia chợt ngửi thấy mùi sữa không ngừng rỉ giọt từ đầu ti dưới bụng sói cái. Là hương vị của mẹ. Cô bé bị đói khát và bản năng sinh tồn mãnh liệt thúc đẩy, quên đi đau đớn trên lưng, há to mồm, vồ vập ngậm lấy, dùng hết sức bú mút, nuốt từng ngụm từng ngụm. Cảm giác dòng sữa tươi được thông bỗng nhanh chóng làm tan dục vọng cắn xé của sói cái, nó chăm chú nhìn đứa bé loài người đang bú sữa mình, ánh hung dữ trong mắt dần tan, lẳng lặng đứng thẳng, nhận đứa con bú sữa mình, chờ cô bé cuối cùng đã ăn no, nhắm mắt chìm vào giấc ngủ, nó liếm chỗ máu trên lưng đứa bé vừa bị mình cầm ra máu, ngậm lấy, kéo bé rời đi…

Giấc mơ chợt chuyển, Khương Hàm Nguyên nhìn thấy một người đàn bà xinh đẹp, bà ôm đứa bé thật chặt trong lòng, hốt hoảng chạy trốn, đầy chật vật, cuối cùng bà chạy đến đường cùng, đứng trên mép vách đá, những người kia đã ép đến gần.

Dừng lại. Đừng tiếp tục mơ nữa, cô không muốn mơ tiếp. Trong giấc mơ Khương Hàm Nguyên tự nói với chính mình, cố giãy giụa cho tỉnh lại. Thế nhưng mỗi một lần thế, giấc mơ đều vẫn thâm trầm hút cô lại, giống như người nàng lọt vào vòng xoáy, không thể tránh thoát.

“Là chị hại chết cô! Là họ nói! Ban đầu cô đã ẩn nấp được rồi, người xấu đi hết rồi, là chị khóc lên! Chị hại chết cô!”

Một đứa bé trai chừng bốn năm tuổi thương tâm gào khóc, dùng giọng chát chúa gào lên với Khương Hàm Nguyên.

Cậu nghĩ mãi không rõ, ông nội với cha, vì sao đều đối với bà chị mãi đến mấy năm sau mới mở miệng nói chuyện này còn tốt hơn mình.

Dừng lại. Đừng mơ nữa!

Trong giấc mơ Khương Hàm Nguyên lại ép mình tỉnh lại lần nữa. Nhưng cảnh trong mơ vẫn không chịu kết thúc.

Khương Hàm Nguyên lại nhìn thấy ngọn Thiết kiếm nhai ở ngoài đại doanh Tây hình quanquen thuộc, cô đứng trên đỉnh, đón gió thả người nhảy xuống, như từng làm như thế rất nhiều lần. Đầm nước dưới vách núi, ở trong mơ, cũng lại biến thành vách đá lởm chởm lần nữa. Một lần nữa, cô nặng nề đập xuống. Máu như luyện đỏ phun tung toé, cô thịt nát xương tan, cả người cho đến chỗ sâu trong linh hồn, không chỗ nào không đau đớn đến tận cùng.

Người phụ nữ xinh đẹp dịu dàng kia, một khắc bà chết đi, là gặp chính cảm giác này.

Bà đau đớn chừng nào chứ.

Máu ngày càng nhiều, đến cuối cùng, đã không còn phân biệt nổi là máu của người phụ nữ kia, máu của đồng bào đã chết trận, hay là máu bắn ra từ cổ kẻ địch bị chặt đầu. Chỉ còn lại mưa máu đầy trời, tưới lên cô từ đầu đến chân, thành một người bằng máu.

Mùi tanh nồng kia, thẩm thấu thật sâu vào từng lỗ chân lông trên da cô, rửa không tan, vĩnh viễn không tan đi.

Cô co rút cả người thành một cuộn tròn, cứng cứ như một khối đá đông lạnh trong băng tuyết.

Không thể khóc. Mình trong mơ lại tự nhắc nhở chính mình lần nữa.

Từ sau khi biết tiếng khóc của mình giết chết người phụ nữ kia, cô phát lời thề, vĩnh viễn sẽ không khóc nữa.

Cưỡi trên ngựa, xắn lên cây cung mạnh nhất, nắm cây đao vững chãi nhất!

Vì thế, mới có thể bảo vệ tất cả những ai cần cô bảo vệ!

Mi mắt nhắm chặt của Khương Hàm Nguyên bỗng khẽ động đậy, chưa mở mắt đã trở tay rút đao bên mình, từ cơn ác mộng lặp đi lặp lại vô số lần từ nhỏ đến lớn này, cô đột nhiên ngồi thẳng dậy.

“Chị! Tỉnh rồi à!”

“Là em.”

Nắng chiều ảm đạm, một thiếu niên gầy yếu đứng ngoài mấy bước, thấy thế, hơi lùi lại.

“Cha phái em đến mời chị về.” Yến Thừa nhìn đôi mắt sát khí đầy tơ máu trước mặt, dè dặt nói.

Là cậu em đến.

Sát khí trong mắt Khương Hàm Nguyên lùi đi, hơi mờ mịt nhìn quanh.

Mặt trời đã lặn về phương Tây. Cô dựa vào tấm bia trên mộ mẹ, cứ thế ngủ thiếp đi.

Cô nhắm mắt, chậm rãi thở dài ra một hơi, thu đao.

“Là tin đến từ chỗ cha chị à?”

Cô hỏi. Giọng khàn khàn rã rời, thoảng như một mảnh lụa bị xé toang.

“Đúng ạ. Phàn tướng quân tới đón chị này.”

“Chú ấy nói, viên sứ đón dâu trong kinh đến, muốn đón chị đi.”
 
Chương 12


a là quân cờ trên bàn cờ của y”

Phàn Kính chờ ở ngoài cốc, thấy Khương Hàm Nguyên đi ra, chào đón, “Viên sứ rước dâu đã đến, Hoàng môn thị lang Hà Thông.”

Chức quan bình thường này lo việc cung nội, là kẻ hầu của Hoàng đế, trong lo cố vấn đối nội, ngoài lo giúp đỡ thường ngày, người giữ chức quan quan hệ gần gũi, thường là trọng thần mà Hoàng đế tín nhiệm hoặc là tôn thất bên ngoại.

“Giờ phải về liền sao?” Khương Hàm Nguyên hỏi.

“Từ Nhạn Môn xuất phát, nếu lấy tốc độ đại đội ngày đi đêm nghỉ, cần hơn tháng mới có thể đến kinh. Huống hồ từ đây đến Nhạn Môn cũng mất vài ngày. Hà thị lang nói, ngày cưới là do Thái sử đo thiên thời xem lịch sao chọn ra ngày lành tháng tốt, nên tốt nhất…” Ông dừng đoạn.

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Cháu hiểu rồi.”

Cô quay đầu, nhìn ra phía tây bắc xa xa.

Phàn Kính nhìn theo tầm mắt cô. Ở đó có hòn núi gió thổi ngàn năm mà hóa đá, trên vách núi hiện đầy hang to to nhỏ nhỏ như tổ ong, trên có Ma nhai*. Đang lúc hoàng hôn, Ma nhai kia lẳng lặng nằm trong ánh tà dương trời chiều, từ xa nhìn lại, sáng cam một mảnh.

(*) kinh văn, chữ, tượng Phật khắc vào vách núi.

“Mọi người về thành trước đi. Sáng mai tập hợp, cùng đi.”

Phàn Kính lại ngó Ma nhai trên núi đá tắm trong ánh tà dương như ngộ ra điều gì, song không nói gì, chỉ dùng ánh mắt phức tạp nhìn nữ tướng quân, thưa vâng, quay lại dẫn người đi.

Một vòng nắng chiều cuối cùng rơi xuống đỉnh núi, sắc trời đột nhiên tối lại, quạ đen ồn ào bay quanh đỉnh núi đá trọc. Nơi chân núi, có con đường bằng đá đơn sơ thông lên trên núi, cuối con đường là một chùa hang không biết người tu hành triều đại nào theo thế núi tạc ra. Lúc này bên ngoài hang đá, một cặp cha con từ trong thành đến đang xoay người, tỏ lòng cảm kích với người đối diện.

Đó là một nhà sư trẻ, khoác áo đay mỏng cộc tay, chân xỏ giày cỏ, vì gầy gò, hốc mắt y hơi lõm, song vì thế mà ánh mắt càng thêm sáng ngời. Trên mặt chàng nở nụ cười, tay chắp trước ngực, trả lễ với hai cha con kia. Người con cảm tạ vô vàn xong, xách thảo dược, dìu cha theo dọc đường mà xuống. Họ phải về thành cho kịp trời tối, chợt thấy Khương Hàm Nguyên đứng một bên, nhận ra, bận rộn đỡ nhau đi tới, hành lễ với cô.

Khương Hàm Nguyên biết hẳn hai cha con này là từ thành Vân Lạc tới đây tìm thầy thuốc, liền gật đầu, ra hiệu không cần đa lễ.

Nhà sư đưa mắt nhìn hai cha con rời đi, xoay người vào hang đá, đang tính đi vào, bỗng, thoáng như cảm giác được gì, chần chừ một lúc, dừng bước nghiêng đầu.

Khương Hàm Nguyên đứng nơi cuối thềm đá như bậc thang trời. Hoàng hôn từ bốn bề bủa lấy cô. Cô nhìn nhà sư mỉm cười, cất bước, theo thềm đá đi tới.

“Vô Sinh, ta lại tới.” Cô nói.

Nhà sư tên Vô Sinh nhìn nàng chăm chú, cũng cười, vỗ tay: “Tiểu tăng chờ tướng quân đã lâu.”

Vị sư này sống một mình trong động Ma nhai từng có một đoạn chuyện xưa bí ẩn không ai biết đến. Chàng vốn xuất thân từ một đời hoàng thất đã tàn, con út của vua, thông minh từ nhỏ, lướt qua có thể thuộc làu làu. Năm chàng sáu tuổi, đất nước bị Đại Ngụy tiêu diệt, chàng may mắn sống sót, kết duyên với tì khưu trở thành đệ tử đích truyền của một vị cao tăng đến từ Thiên Trúc, từ đó cắt đứt hồng trần, đổi tên Vô Sinh, lấy ý từ chân lý vô sinh vô diệt. Nhiều năm về sau, cao tăng viên tịch, khi đó, Vô Sinh tuổi tuy còn trẻ song đã đạt đến thiền học y bát, tinh thông Phạn văn, thành tựu cao thâm, tiếng lành đồn xa, Hộ Quốc tự ở Trường An cũng nghe danh, phái sứ giả mời chàng vào chùa chủ trì giảng kinh, nhưng chàng buông bỏ tất cả, bước lên con đường người nào đi qua đều đầy khổ hạnh, bão cát rèn luyện, du hành về phương tây.

Ba năm trước, rốt cuộc chàng đã lấy được kinh quay về phương đông, đi cùng với một đội khách buôn, không ngờ khi đi ngang qua vùng này lại gặp được một đám kỵ binh nước Địch cướp bóc. Bạn đồng hành bị giết ào ào, người Địch thấy chàng là tì khưu, tạm để lại mạng, song lại tùy ý lăng nhục. Đang phút sống còn, là Khương Hàm Nguyên dẫn theo binh sĩ như thần binh từ trên trời giáng xuống, cứu chàng, dẫn đến đây. Sau khi vết thương tốt lên, chàng dừng bước, nương thân ở động Ma nhai do tiên nhân vô danh nào để lại, vừa tiếp tục tu hành, vừa phiên dịch kinh văn. Vị tì khưu này sống một mình ở động Ma nhai ngoài thành chẳng những tinh thông Phạn văn, còn giỏi dược lý, lâu ngày, dân chúng chung quanh từ từ đồn ra, rồi thường xuyên có người đến tìm chàng xem bệnh. Chàng chưa từng khước từ, về sau còn chừa một góc hang chuyên dùng để trữ các loại thảo dược mà chàng trèo non lội suối hái về bào chế thành. Cứ thế, loáng một cái, không ngờ đã ba năm trôi qua.

Bày biện trong hang so với lần trước Khương Hàm Nguyên đến không mảy may thay đổi. Ngoại trừ đám thảo dược là một chiếc bàn con, một ngọn đèn, bút mực giấy nghiên, một phiến giường đá, một lớp chăn đay mỏng xếp trên giường, một chiếc rương mây cũ kỹ, ngoài hang có một chỗ đơn sơ khác để hốc lửa, nấu ăn nấu nước, bên cạnh trữ mấy miệng túi lương thực.

Đây là toàn bộ, cung ứng cho nhu cầu nguyên thuỷ nhất để một người có thể duy trì sự sống.

Chỗ duy nhất phong phú, chính là một kệ sách chất sách kinh bằng tiếng Phạn, ngay ngay ngắn ngắn, không nhuốm bụi trần. Có thể thấy cách chủ nhân yêu mến hàng ngày.

Khương Hàm Nguyên từng nhờ cậu mình cách một quãng thời gian lại cho người đưa ít tiếp tế đến, lại bị Vô Sinh nhã nhặn từ chối, không để cô phải bận tâm. Chàng ăn uống đơn giản, nếu ngồi nhập định, bảy ngày bảy đêm không ăn không uống. Chàng cười nói, dù mình không lao động thu nhặt, chỉ dựa vào những lương thực mà thỉnh thoảng dân chất phác trong thành bị bệnh đến chỗ chàng đưa tới, cũng đủ để no bụng.

Khương Hàm Nguyên biết tư tưởng ‘không không’* trong trẻo của chàng, thiên long hộ niệm, sở cầu không phải những vật ngoài thân của phàm nhân này, sau đó không nhắc lại.

(*) một trong mười tám tư tưởng Bát Nhã Phật giáo Đại thừa.

Vô Sinh khoanh chân ngồi sau bàn nhỏ trong hang, chong đèn, dịch kinh văn. Khương Hàm Nguyên ngồi dựa vào một bên động Ma Nhai, nhìn ra đỉnh núi tuyết nơi xa còn vương sợi nắng ban ngày. Đến khi đêm tối hoàn toàn buông, đỉnh núi hoàn toàn biến mất, cả người cô cũng bị bóng đêm bao phủ lấy.

“Vô Sinh, ngài biết không, ta phải gả chồng.” Cô bỗng nói.

Bàn tay cầm bút trên giấy cuộn của Vô Sinh hơi khựng lại, một chấm đen từ ngòi bút nhỏ xuống. Chàng ngẩng đầu, thoáng nhìn bóng lưng màu xanh ngồi ở cửa động, chậm rãi, cúi đầu, tiếp tục đặt bút nơi chấm đen. Chấm đen biến mất.

“Thật ư?” Chàng trả lời.

“Đúng thế. Trước kia từng gặp người đó. Năm đó ta mười ba tuổi. Khi đó y còn thiếu niên, ta thấy hình như y thích cười.”

“Vô Sinh, ngài từng thấy cảnh đang lúc trời trong, gió từ núi tuyết thổi mặt hồ Gương, nước hồ lăn tăn gợn sóng rồi chứ. Chính là cảm giác khi thấy y cười.”

Nhà sư lại ngừng bút, suy tư.

“Tiểu tăng chưa từng thấy qua.” Chàng trầm giọng nói.

“Hôm nào ngài rảnh, có thể đi xem thử. Nước hồ đẹp phi thường. Đương nhiên, ắt là y đã sớm quên đã từng gặp ta. Thật ra đừng nói là y, ngay cả ta, nếu không phải giờ đây y đến gặp cha ta cầu thân, ta đã quên từ lâu. Dù gì, chuyện đã bao lâu rồi chứ. Ai mà cả ngày nhớ chuyện râu ria như thế cả ngày, ngài nói đúng không.”

“Tướng quân nói đúng lắm.”

Vô Sinh ở sau lưng cô tiếp tục cúi đầu dịch kinh. Ngọn đèn tù mù chỉ hơi lay động.

“Vô Sinh, ngài có biết vì sao y cưới ta không?” Giọng xa xăm của nàng lại truyền đến.

“Hẳn là y có lý do.” Vô Sinh đáp.

“Phải. Y đặt thiên hạ trên ván cờ, trên đó còn có hoành đồ và đại nghiệp. Ta là quân cờ trên bàn cờ của y. Song ta lại bằng lòng làm một quân chốt trước ngựa của y, cam tâm tình nguyện. Vô Sinh ngài biết vì sao không?”

Nhà sư lại ngừng bút, suy tư.

“Bất kể vì sao, y là một người có phúc.” Cuối cùng chàng nói.

Bóng lưng màu xanh kia thảng như nở nụ cười, vì câu này của Vô Sinh.

“Vô Sinh, lòng ngài có tuệ đăng, bình thường ngài luôn đúng, song lần này, ngài sai rồi. Y vì thế đã bỏ ra cái giá rất lớn, mất tình yêu đời hắn, sao có thể gọi là có phúc.”

“Cầu người được người, cũng là phúc duyên.” Vô Sinh ở sau lưng cô đáp.

Cô lại cười nhẹ nhàng, vì một câu nói này.

“Thật ra ta vốn từng định đối mặt với y một lời, vì ta thật không cam lòng chịu an bài chỗ ta như vậy. Song sau khi gặp y, ta lại đổi ý. Y làm người sao mà vô tình, tâm tính sao mà cứng rắn. Người như y, vì đạt được mục đích, có thể tuyệt ước muốn con người, có thể phá núi, có thể nứt biển. Vô Sinh ngài tin không? Ta bị dạng người này thuyết phục. Ta không thể không thành toàn suy nghĩ của y, bởi vì sở tưởng* của y, cũng là sở tưởng của ta, cho nên, ta đổi ý —— ”

(*) tạm chuyển: mong muốn, suy nghĩ của bản thân

Cô dừng lại, lần thứ ba, tự cười. Mà lần này, là cười tự giễu.

“Được rồi, hôm nay ta nói quá nhiều. Không nói những việc này nữa, ngài cũng sẽ không hiểu. Vô Sinh, thế giới của ngài cách thế tục quá xa. Ngài sinh ra đã khác người bình thường, cao cao tại thượng, rũ mi từ bi. Sứ mệnh của ngài là người truyền bá Phật pháp, phổ độ chúng sinh, là người tương lai trở thành Thích già vĩ đại, nhận quỳ lạy phủ phục của người đời. Ta không nên nói mấy loại này với ngài, quấy rầy thanh tịnh của ngài.”

“Cô có thể. Bất kể cô muốn nói gì, đều có thể.” Sau lưng vọng lại tiếng trả lời.

Khương Hàm Nguyên quay sang, nhìn thấy ở chỗ sau động Ma nhai ánh đèn tù mù hắt ra một chiếc bóng mông lung. Vô Sinh không nhìn cô, vẫn thấp đầu, tiếp tục viết kinh văn của chàng, vừa viết, vừa đối thoại với cô.

Cô nhìn một lát, nhìn quanh hang đá khô lạnh đến tận cùng nơi đây, lắc đầu.

“Đôi khi ta không hiểu lắm, vì đâu ngài không đi, cứ mãi muốn ở lại chốn hoang vu này.”

Chàng ngừng bút, chậm rãi ngẩng đầu, trong ánh đèn tù mù, xa xăm nhìn cô.

“Đây là tu luyện của tiểu tăng.”

Chàng đáp, “Dịch kinh cũng là trách nhiệm trọng đại cả đời của tiểu tăng. Chỉ cần có bút có mực, bất kể người ở nơi đâu, đài sen bảo cảnh, cửu hoang chi dã, với tiểu tăng mà nói, đều giống nhau.”

Chàng nói xong, buông bút.

“Tướng quân, ta có thể tụng kinh cho cô. Cô còn muốn nghe không.”

Trước đây cô từng nói, giọng tụng kinh của chàng vô cùng hay. Dẫu cô nghe không hiểu chàng tụng gì, nhưng không quan trọng, cô thích nghe tiếng chàng tụng kinh.

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Muốn.”

“Như vậy thì tụng bộ kinh trong tay tiểu tăng này đi, giảng hoá sinh thiên đạo. Phật Đà tuyên giảng Đại luận Thập chủng giới, lấy đó, bàn về hàng chư thiên ma ngoại tà, diệt mọi phiền não kiên cố kim cương như là có tình, cắt tất cả chướng ngại.”

Trong mùi hương thảo dược đắng thoang thoảng cùng tiếng tụng kinh trầm tĩnh không nhanh không chậm của Vô Sinh, Khương Hàm Nguyên tựa ở cửa động đá, từ từ, nhắm nghiền đôi mắt.

Chàng tiếp tục tụng, mãi đến khi cô hoàn toàn chìm trong giấc ngủ, mới ngừng, đứng dậy, lấy chiếc chăn đay mỏng trên giường đá, đi đến cạnh cô.

Chàng xoay người, chăm chú ngắm cô ngủ, nhẹ nhàng, đắp chăn đay lên vai cô.

Chàng quay lại, khoanh chân ngồi xuống một bệ đá bên cạnh, nhắm mắt, ngồi xuống.

Một đêm trôi qua, bình minh, đến khi tia nắng mặt trời đầu tiên chiếu lên vách đá dựng đứng ngoài cửa động Ma Nhai, chàng chậm rãi mở mắt.

Cửa động, bóng người màu xanh đêm qua từng nghe chàng tụng kinh đã rời đi, giờ phút này, nơi đó trống trải, không để lại chút tung tích. Tầm chăn đay đắp cho cô sưởi ấm, cũng được xếp lại ngay ngay ngắn ngắn, trả lại trên giường đá.

Cô yên giấc một đêm, hừng sáng canh năm tỉnh lại. Tâm thức Vô Sinh thanh tỉnh, cảm nhận cô yên lặng rời đi, nhưng không lên tiếng, nói lời từ biệt cô.

Không cần từ biệt.

Nếu có một ngày, nàng lại muốn nghe tiếng y tụng kinh, dĩ nhiên nàng sẽ còn trở về.

Còn nếu có một ngày, nàng gặp một thứ khác có thể thay thế tiếng tụng kinh của y, bên bờ âm thanh ấy, nàng có thể ngủ lấy bình yên, dĩ nhiên nàng sẽ không trở về.

Khi đó, y liền có thể rời đi.

Tu luyện của y, cũng đạt được viên mãn.
 
Chương 13


a ắt sẽ về!

Hoàng môn thị lang Hà Thông dẫn theo đội ngũ đón dâu rầm rầm rộ rộ đến quận Nhạn Môn, tin tức Trường Ninh tướng quân được đón vào trong kinh đại hôn với Nhiếp Chính Vương, đã truyền khắp đại doanh Tây Hình truyền ra, ai ai cũng biết. Song đối với quan binh Thanh Mộc Tắc trú đóng ở mấy trăm dặm phía bắc xa xa, tin tức lại lạc hậu vô cùng. Mãi đến sáng sớm hôm đó, sau khi tảo thao* kết thúc, rốt cuộc mới truyền đến. Hơn nữa, nghe nói mấy ngày này, Trường Ninh tướng quân phải khởi hành vào kinh luôn.

(*) tập thể dục buổi sớm

Lần này toàn bộ binh doanh Thanh Mộc tắc vì đó mà vang rền, giống như là nồi nước sôi. Sau buổi tảo thao bình thường người người tranh nhau chen lấn như ong vỡ tổ đầy ắp trước nhà bếp, hôm nay trước cửa lại trong trong vắng vắng có thể giăng lưới bắt chim. Các binh sĩ khắp nơi tụ tập, nghe ngóng tin tức nhau, bàn tán không ngừng.

Từ nhà bếp một người đi tới, tay dài chân dài, phanh rộng ngực, trong tay cậu cầm hai chiếc màn thầu lớn, trong miệng còn cắn một chiếc, vừa đi vừa ăn, nhìn quanh, một binh sĩ trẻ tuổi vóc người gầy gò bắt đầu chạy giống như báo săn, chính là người được Dương Hổ cứu trong hành động đuổi bắc người Địch lần trước tên hiệu Khỉ Trương Tuấn, băng băng lao tới cậu, cao giọng kêu to, “Dương Hổ! Dương Hổ! Mi còn ăn nữa hả! Có chuyện lớn không ổn rồi!”

“Gì gì? Trời sập hả? Có sập, ta cũng không thể để bụng đói được!”

Dương Hổ cắn một miệng lớn màn thầu, “Sáng nay sao thế? Không thấy đói bụng à? Vừa giải tán ta đã lao đến, bình thường mấy bọn mi đều như quỷ chết đói, sao sáng nay không có ai đoạt với ta thế?”

“Không phải không phải!” hai tay Trương Tuấn xua loạn, thần sắc hoảng sợ.

“Mi sao thế? Gặp quỷ à?”

“Tướng quân phải gả!”

“Tướng quân gả chồng? Tướng quân nào mà gả chồng? Đầu ngươi hỏng…”

“Là của chúng ta đó! Bảo là phải gả cho Nhiếp Chính Vương!”

Bịch bịch hai tiếng, màn thầu trong tay Dương Hổ rớt xuống đất, hai con mắt trợn tròn như chuông đồng, chân dán trên mặt đất, không nhúc nhích.

“Bị hù luôn ha? Ta cũng vậy đó! Lúc vừa mới nghe, như sét đánh luôn!”

Vẻ mặt Trương Tuấn cực uể oải.

Cha mẹ đều mất lúc cậu còn niên thiếu, để có miếng cơm ăn mà dấn thân vào quân ngũ. Bởi tai thính mắt tinh, nhạy bén hơn người, sau khi tòng quân được nữ tướng quân chọn trúng, nhận huấn luyện đặc thù truy tung và xem xét dấu vết. Hiện giờ cậu dẫn đầu một tiểu đội trinh sát. Lần trước có thể đuổi kịp kỵ binh người Địch đốt giết sạch kia nhanh như vậy là dựa vào bản lĩnh của cậu. Nói vậy, là ngay cả đơn độc hành động gặp thiên quân vạn mã người Địch trước mặt, cũng không kinh hoảng như tin tức cậu mới tình cờ nghe được. Tựa như bỗng chốc bị rút tim cốt, bảo trời sập, thật không đủ.

Dương Hổ rốt cuộc phản ứng lại, miệng khẽ động, màn thầu lớn ngậm trong miệng cũng rớt, nhanh như chớp lăn một vòng dưới chân cậu.

“Mi dóc thối lắm! Không thể nào! Sao tướng quân có thể gả được!” mặt Dương Hổ tái luôn, hú lên quái dị.

“Là thật đó! Bảo gì mà đại quan đón dâu đã sớm dẫn người tới luôn rồi! Người bên đại doanh Tây Hình biết từ lâu cả rồi! Chỉ có chúng ta là còn mơ mơ màng màng! Xong rồi xong rồi, đầu cũng bị mất rồi, sau này không biết chúng ta sẽ bị đuổi đi đâu mà lăn lộn…”

Trương Tuấn nhắc tới không ngừng.

Dương Hổ ngây người một lát, bỗng đẩy Trương Tuấn đang lo lắng, cất bước liền đi.

“Dương Hổ mi đi đâu vậy?” Trương Tuấn hô theo bóng lưng cậu.

“Tìm tướng quân! Ta muốn hỏi cho rõ ràng!” Dương Hổ hét lớn.

Trương Tuấn sửng ra, co cẳng đuổi theo.

“Chờ chút! Ta cũng đi —— “

Có người dẫn đầu, rất nhanh, quan binh càng tụ càng nhiều, cuối cùng tất cả đều đi theo Dương Hổ mạnh mẽ ra ngoài. Doanh phó đang tạm thời cầm quân trong doanh quãng thời gian này tuổi tác lớn hơn, dĩ nhiên làm việc chững chạc hơn đám mấy tên lỗ mãng này, thấy thế ra ngăn cản, song ngăn thế nào được. Cả đám kia đầy xúc động, xắn tay áo, quyết tâm ra khỏi khuôn viên Thanh Mộc doanh, xa xa nhìn thấy một đội người ngựa từ phía đối diện trên đường đi tới, rất nhanh, đã đến gần.

Vừa hay là, Khương Hàm Nguyên trở về.

Mấy binh sĩ thấy cô về, từ từ yên tĩnh trở lại.

Phàn Kính đi cùng Khương Hàm Nguyên, dừng ngựa, quét mắt qua đám binh sĩ chắn cửa khuôn viên đến chật như nêm, quát: “Làm gì thế? Định đi đánh nhau à?”

Đám người mới vừa máu nóng xông lên đầu, lúc này thấy chủ tướng về, không dám lên tiếng, rối rít rụt đầu, ngó Dương Hổ.

Dương Hổ nhanh chân bước ra.

“Tướng quân! Bọn hắn đều bảo cô sắp phải lấy chồng? Là thật sao?” Cậu lớn tiếng hỏi Khương Hàm Nguyên trên lưng ngựa.

Phàn Kính nổi giận: “Làm càn! Trong mắt Dương Hổ ngươi còn có quân kỷ không? Phạm thượng! Dám can đảm nói vậy với tướng quân!”

“Tôi mặc kệ! Coi như hôm nay có chặt đầu tôi, tôi cũng phải nói!”

Mặt cậu đỏ bừng, lại quay sang Khương Hàm Nguyên.

“Tướng quân! Đồng y đồng bào, cộng sinh cộng tử! Đây là ba năm trước cô đã nói khi lập đội cảm tử tiền bộ! Tôi Dương Hổ là đứa báo danh đầu tiên! Hiện giờ bọn tôi người vẫn còn, cảm tử tiền bộ cũng đổi thành Thanh Mộc doanh hôm nay, tất cả bọn tôi đều lấy thân ở Thanh Mộc doanh làm vinh! Nếu cô muốn bọn tôi tấn công, dù phía trước là núi đao, bọn tôi cũng không thèm chớp mắt! Giờ quay đầu, cô lại muốn đi lấy chồng!”

Nói đến đây, gần như là cậu gào lên.

“Tôi mặc kệ hôm nay người cô gả là ai! Đừng nói Nhiếp Chính Vương, có là Hoàng đế, tôi cũng phải nói! Lời còn văng vẳng bên tai! Tướng quân cô lại bỏ bọn tôi mà đi lấy chồng?”

“Cô phản bội bọn tôi!”

Câu nói cậu vừa buông, vùng cạnh cửa khuôn viên hoàn toàn tĩnh mịch. Đám binh sĩ có kẻ âu sầu trong lòng, có người lộ vẻ kinh hoàng ra mặt.

Trương Tuấn luống cuống, thật chẳng thể nào ngờ, tên Dương Hổ này thiếu thông minh quá, quả nhiên không hổ danh Thất Lang liều mạng, lại dám nói ra vậy, bèn nhanh chóng liếc qua ra ý với Tống Thời Vận viên bách trưởng* ngày thường vẫn giữ quan hệ tốt. Tống Thời Vận hiểu ý, hai người bước lên, một trái một phải nắm lấy cánh tay Dương Hổ, cùng nhấn một cái, đè người rạp xuống đất.

(*) nhánh quân chia làm 10, 100, 1000. Bách trưởng: trưởng đội 100 binh.

“Mi điên rồi hả? Còn không mau xin tha!” Trương Tuấn rỉ tai Dương Hổ.

Dương Hổ đỏ cả mắt, ra sức giãy giụa, tránh thoát kiềm chế của hai người sau lưng.

Lần này Trương Tuấn không khách sáo, hung bạo đạp mông cậu một phát, làm cậu trực tiếp cắm người xuống đất, thuận thế túm tóc cậu, dí mặt cậu vùi trong đất, để cậu không thể lên tiếng nữa. Dương Hổ ăn cả đống cát bụi vàng khô vào miệng, sặc đến ho khan.

“Tôi không phục! Tướng quân cứ thế mà đi lấy chồng, bỏ lại đám bọn tôi, là sao?”

“Đã nói rồi! Đồng y đồng bào, cộng sinh cộng tử!”

Tay Dương Hổ này, một bên ho khan, mặt khác vẫn không chịu khuất phục, giãy giụa xoay mặt lên, khàn giọng kiệt lực trách móc.

Người chung quanh nghe thật rõ ràng, đầy im ắng.

Trước đó Phàn Kính đến, đoán chắc rằng người Thanh Mộc doanh đối với tin này sẽ có phản ứng. Nhưng ông nào ngờ, phản ứng tụi này sẽ lớn vậy. Trong lòng cũng có chỗ xúc động, lại không mảy may biểu lộ ra mặt, nghiêm nghị hạ lệnh, “Trói hắn giam lại, đợi xử theo quân pháp!”

Mấy thân binh cùng về trên đường cùng tiến lên, cùng Trương Tuấn Tống Thời Vận bảy tay tám chân, đang định trói người như đem mổ heo kéo đi, lại nghe Khương Hàm Nguyên mở miệng, “Thả cậu ấy.”

Chủ tướng đã phát lệnh, cả đám lập tức buông tay. Dương Hổ nằm rạp trên mặt đất, thở hồng hộc, nâng khuôn mặt nghẹt bùn cát, nhìn Khương Hàm Nguyên xuống ngựa, đi tới chỗ mình, dừng trước mặt, nghiêng người nhìn sang. Trương Tuấn đứng bên cạnh cậu lại đá mông giục cậu nhận lỗi, cậu cắn răng, ngoẹo cổ, nằm trên đất không chịu mở miệng, giằng co như thế một lát, đám người nín thở, bầu không khí càng thêm khẩn trương, bỗng, Khương Hàm Nguyên gập người, vươn một tay về phía Dương Hổ.

Dương Hổ chần chừ đôi chốc, rồi từ từ giơ tay mình, bị cô nắm chặt kéo một cái, mạnh mẽ lôi người từ dưới đất dậy.

Trong phút chốc Dương Hổ không rõ ràng lắm, chần chừ đứng yên, cuối cùng không kiềm được, “Rõ ràng đã nói…” Cậu lầm bầm, hốc mắt đỏ lên, giọng như có phần nghẹn ngào ấm ức.

“Đúng, đã nói! Đồng y đồng bào, cộng sinh cộng tử! Các cậu chưa, ta cũng chưa.”

Khương Hàm Nguyên bỗng đáp.

Dương Hổ ngây ra.

Cô quay sang nhìn vùng đồi đất hoang lớn ngoài doanh trại.

“Vùng Thanh Mộc Nguyên này, trước đây vốn bị người Địch chiếm, mãi đến ba năm trước cuối cùng chúng ta mới đoạt lại! Trận chiến đó, trong số người chết trận, người lớn nhất, hai mươi sáu tuổi, nhỏ nhất, tuổi chưa qua mười bốn! Ngay tích tắc này bọn họ nằm ngay dưới chân ta, hóa thành xương khô. Hôm nay, kỵ binh người Địch vẫn còn cướp bóc dân ta, quốc thổ vẫn còn chưa đoạt lại, sao ta có gan dám can đảm quên bọn họ!”

Lời vừa dứt, cô đã rút một thanh chủy thủ từ ống giày ra, cả đám còn chưa nhìn rõ đã thấy cô xắn tay áo, ánh lạnh lóe lên, trên cánh tay trái nhỏ nhắn, đột ngột rách một vạch dài mấy tấc. Máu đỏ thắm từ miệng vết thương tuôn chảy.

“Tướng quân!”

Đám người kinh hãi, rối rít nhào đến.

Khương Hàm Nguyên không đổi sắc, chỉ bình tĩnh nâng lên cánh tay chảy máu, chậm rãi đi vòng, được nửa vòng, máu chảy ra từ cánh tay giọt giọt mà rơi xuống mảnh đất dưới chân, nhướng mắt.

“Ta Khương Hàm Nguyên, hôm nay dùng máu ta mà thề, ngày nào chưa đuổi hết kỵ binh người Hồ, ngày đó Thanh Mộc doanh sẽ không giải tán!”

Ánh mắt cô quét từng khuôn mặt đối diện.

“Sau này nếu muốn giải giáp, hẳn cũng cùng nhau cởi xuống, ngựa thả Nam Sơn. Dầu hôm nay ta đi, ta ắt sẽ trở về!”

“Việc các người phải làm là thay ta bảo vệ Thanh Mộc tắc cho tốt, chờ ta về, cùng uống máu địch!”

Giọng cô vang như sắt, vang vọng vào tai mỗi một người, vùng đất gần cửa khuôn viên mới đầu còn yên tĩnh, qua mấy hơi, đột nhiên, tiếng hoan hô vỡ òa như sấm, Dương Hổ nhảy cao ba thước, chùi mắt cực nhanh.

“Làm tôi sợ muốn chết! Tướng quân sao cô không nói sớm! Tôi còn tưởng thật sự cô không cần bọn tôi, muốn đi sinh con với Nhiếp Chính Vương gì kia nữa! Tốt quá! Tốt quá! Tướng quân cô nhất định phải về sớm chút đó!”

Khương Hàm Nguyên mỉm cười, gật đầu.

Dương Hổ thật không kiềm được kích động trong lòng, quay lại nhìn đồng bọn hô: “Trương Tuấn! Tống Thời Vận! Thôi Lâu! Các anh em! Bọn mi đều nghe cả rồi nha, tướng quân nói, chẳng mấy chốc cô ấy sẽ về!”

Trương Tuấn Tống Thời Vận, bách trưởng cung binh Thôi Lâu, trên mặt có vết sẹo thật dài, ngày thường thầm lặng ít nói, lúc này đứng sau đám người nghe Dương Hổ gọi mình, giật giật khóe miệng, xem như đáp lại.

Dương Hổ hô xong, nhớ cảnh mình vừa xúc phạm, không khỏi ngượng ngùng, chợt thấy cổ tay cô rũ xuống còn đang chảy máu, vội gào quân y. Quân y chạy tới băng bó cánh tay cho Khương Hàm Nguyên, cậu đứng ở bên để ý kỹ lưỡng, rướn cổ mong nhìn, than thở.

“Tướng quân… Chỉ cần cô nói một tiếng là cô về, bọn tôi tin liền… Cô đâu cần thế này… Đều tại tôi không phải!”

Tổn thương chút da thịt này đối với Khương Hàm Nguyên mà nói, thật không tính là gì. Quân y cũng xử lý xong rất nhanh. Cô tự sửa sang cổ tay áo, không đáng để ý.

“Tôi… Tôi đây tự đi lĩnh quân côn!”

Dương Hổ đỏ mặt, nói xong định đi ngay.

“Lần sau không được phá lệ. Lần này miễn quân côn, phạt cậu tảo thao mỗi ngày lâu hơn người khác một khắc, mãi đến khi ta về mới thôi!” Cô mở miệng.

Dương Hổ nhẹ nhàng thở ra.

“Không được! Một khắc đồng hồ quá ngắn! Hai khắc!” Cậu gào đầy lấy lòng.

Khương Hàm Nguyên liếc cậu, “Cậu nói đấy.”

“Hai khắc! Quyết không nuốt lời!” Cậu ưỡn ngực đầy vẻ kiên định.

Khương Hàm Nguyên gật đầu: “Vậy thì hai khắc. Không được thừa dịp ta không có ở đây mà lười nhác!”

“Vâng! Cẩn tuân lệnh tướng quân!” Dương Hổ rống to.

Trương Tuấn sáp tới, đụng đụng vai cậu, nháy mắt ra hiệu, “Nói đi, vừa nãy không phải khóc đấy chứ? May mà tướng quân về, không thì chẳng phải mi lăn lộn ra đất khóc lóc om sòm rồi?”

Khuôn mặt búng ra sữa của Dương Hổ phát nóng lên, tất nhiên liều chết không nhận, sờ mông mình vẫn còn in dấu chân mới của tên kia, nhấc chân đạp trả.

“Quân lộn kiếp kia! Nói đi, vừa rồi cố ý đạp ta bao nhiêu cái hả? Ta đếm hết nhé! Lần trước ta không nên cứu mi!”

Đám chiến hữu bị hấp dẫn lực chú ý, rối rít vây quanh ồn ã, thêm dầu vào lửa, chỉ ước gì hai tên đánh nhau, trong phút chốc cực kỳ náo nhiệt.

Trương Tuấn co cẳng chạy, “Còn chưa ăn sáng, nhanh, nhanh đi ăn đi! Còn không đi, bị cướp sạch cả kìa—— “

Lúc này cả đám được nhắc mới thấy bụng réo, lao nhao chạy đi giành ăn, vùng gần cửa khuôn viên quân doanh mới một chốc trước còn chen chúc chật như nêm, vèo vèo, người tản cả.

Phàn Kính âm thầm thở dài một hơi.

Khương Hàm Nguyên chăm chú nhìn bóng các binh sĩ rời đi, lát sau, xoay sang Phàn Kính: “Chú Phàn, lần này con về, là muốn nói với họ một lời chào. Con đi, chỗ này giao trước cho chú.”

Phàn Kính vốn là gia thần của Yến thị Vân Lạc, vì lòng dũng cảm cương nghị trung thành, từ lúc cô biết chạm đao bắn tên, đã được Lão thành chủ phái tới đi cạnh cô, còn sung làm thầy dạy cung ngựa cho cô. Nhiều năm trôi qua, với ông, nữ tướng quân đã là chủ quân của mình, tận đáy lòng ông cũng có tình cảm bảo bọc yêu mến*. Đây là đầu tiên cô một mình đi xa. Tuy bảo ông tin tưởng nữ tướng quân nhất định có thể trở về, song đến cùng là khi nào, thật khó nói. Dầu gì, chỗ cô ấy đi là kinh thành, người gả cho là đương kim Nhiếp Chính Vương. Nói không lo lắng, là không thể.

(*) thỉ độc: thú lớn liếm con non, người lớn yêu mến con trẻ.

Ông nén nỗi lo âu không bỏ được trong lòng, “Tướng quân yên tâm, mạt tướng tất dùng mọi khả năng, không phụ tướng quân nhờ vả!”

Khương Hàm Nguyên mỉm cười gật đầu.

“Tướng quân, còn có một chuyện.”

Khương Hàm Nguyên nhìn sang.

Phàn Kính nhìn sắc mặt cô, cẩn thận nói: “Đại tướng quân nói, Tướng quân Cấm Vệ trong kinh Lưu Hướng, là bộ hạ cũ của ông ấy, bao năm qua dù có quy định trở ngại trong ngoài không qua lại, nhưng giao tình xưa hẳn còn ít nhiều. Đại tướng quân bảo tôi nhắc cô, sau khi vào kinh, nếu có chỗ bất tiện, có thể tìm ông ấy. Đoán rằng ông ấy ít nhiều nể tình cũ mà giúp đỡ.”

Khương Hàm Nguyên không nói, chỉ nhìn Thanh Mộc doanh lần nữa, từng ngọn cây cọng cỏ nơi đây, từng lá cờ lớn cờ nhỏ, cuối cùng thu ánh mắt, lên ngựa mà đi.
 
Chương 14


ếu ngài ấy ăn Nhiếp Chính Vương, nếu thật là vậy thì…

Hai tháng sau, tháng giêng năm Thiên Hòa thứ hai vừa hết. Cái lạnh mùa xuân chưa giảm, tuyết đầy đường Trường An.

Ngày đại sự khiến cho bá tánh kinh thành nói say sưa cuối cùng đã đến.

Hôm nay, đương kim Nhiếp Chính Vương Kỳ Vương, sắp rước con gái An Bắc Đô hộ đại tướng quân Khương Tổ Vọng làm dâu, Trường Ninh tướng quân Khương Hàm Nguyên.

Liên quan đến Khương nữ, ở kinh thành năm xưa chẳng ai biết đến. Vào ba năm trước, ở quận Nhạn Môn thuận theo triều đình một trận chiến đại thắng lấy được Thanh Mộc Nguyên, tên cô mới được người biết đến.

Nghe nói lúc ấy, vì không muốn đánh một trận ấy, chiến tướng dưới trướng Khương Tổ Vọng không đồng ý kiến. Dưới ảnh hưởng đường hướng chiến lược trường kỳ lấy phòng ngự làm chủ của triều đình, hiển nhiên các tướng cũng lấy bảo đảm phòng thủ chiếm đa số, cô ấy lại như con nghé non mới sinh, là một trong số thuộc phe chủ chiến số lượng không nhiều ngày đó, cho rằng đã chuẩn bị đầy đủ, có thể đánh. Cuối cùng cô chờ quân lệnh trạng lập xuống, dẫn một đội quân cảm tử tiền bộ ba trăm người, đêm ra Tây Hình quan, phát động tập kích, thành công xé rách tuyến phòng thủ của người Địch, theo đó đội quân tràn lên, giành đại thắng, đoạt lại tắc điểm trọng yếu, cắt đứt hai bên phòng tuyến nối liền, sau đó thành lập Thanh Mộc tắc, cô lãnh binh thường trú. Chính sau trận đó, tên tuổi cô chấn động lớn trong quân, không ai không biết, hai năm gần đây, hoàng tử nước Địch Nam Vương Sí Thư đã từng mấy lần phái binh định đoạt lại Thanh Mộc tắc, đều không thể toại nguyện.

Thực ra từ xưa đến nay, hiếm có nữ tử tòng quân, người xuất chúng như thế càng là phượng mao lân giác, nên khi chiến báo về đến kinh thành đã gây tiếng vang lớn. Lúc ấy Minh Đế còn tại vị cố ý hạ chỉ, phong hào Trường Ninh, khen thưởng riêng. Sau khi nổi danh, có lẽ vì cô thân gái, lại phách liệt trên chiến trường như thế, thế là thêm mắm dặm muối, tin đồn các thứ liên quan đến đứa con gái của sói chuyển thế đêm trăng hóa thân nghe mà kinh sợ, cũng càng đồn càng thật. Có điều qua một quãng, dần dần cũng đã bị người quên lãng, mãi đến gần đây, vì hôn sự này, cô mới lại trở thành nhân vật được trên dưới kinh thành chú ý nhất, ‘thân cao tám thước’, ‘eo rộng mười vi*’, ‘tiếng như kinh lôi’, ‘hổ đầu thái tuế’, còn thiếu miệng có thể phun lửa, ngày đi tám trăm dặm, phải nói người trên phố nói đến nước bọt tung bay, cứ như chính mình tận mắt thấy, về phần ‘sói cái hóa thân’ ‘trăng tròn khát máu’ kia, không cần nói, đồn đến phụ nữ trẻ em còn biết.

(*) vòng tay: độ dài của vòng khép kín hai ngón tay cái với hai ngón tay trỏ nối giáp nhau

Người người đều hiếu kì vô vàn, cuối cùng cũng chờ đến ngày hôm nay. Nghe nói, nhóm của nữ tướng quân đêm qua đã tới bờ sông Vị Kiều ở cửa Bắc quang môn, ở đó có khu dịch xá, mấy ngày trước đã dẹp người không có phận sự, vẩy nước rửa đường, dựng lều xung quanh cho lễ rước dâu.

Dầu hôm nay đường cấm, Thiên môn ti Địa môn ti và cấm vệ các doanh đều điều động người ngựa, ven đường cứ mấy chục bước một người, song vẫn không ngăn được bước chân người nhiều chuyện. Kẻ rảnh rỗi không ngại đường xa, xôn xao ra khỏi thành chạy đến Vị Kiều, về phần trong thành, trên con đường lớn thông đến phủ Nhiếp Chính Vương và vùng gần Vương phủ sớm đã chật ních nam nữ già trẻ, đợi chờ Nhiếp Chính Vương rước nữ tướng quân, cảnh náo nhiệt còn muốn bằng tiết Nguyên tiêu.

Khương Hàm Nguyên một mình ở dịch xá, một thân mặc áo cưới, đứng trước cửa sổ.

Xa xa ngoài cửa sổ bóng cầu vồng ẩn hiện, đó là Vị Kiều, bắc qua hai bờ nam bắc sông Vị Thủy, là con đường chính từ Trường An thông đến rất nhiều châu quận Vị Tây Vị Bắc. Trăm ngàn năm qua, muốn đi về phía tây, hay bắc, hoặc từ vùng ngoài xa xôi xông tới điện hoàng kim, tử mạch chốn hồng trần chính là nơi này, Trường An khách đến đến đi đi. Người thất ý thì uống rượu ly biệt, kẻ đắc ý thì vó ngựa phóng nhanh, ngày qua ngày diễn ra trên cây cầu cổ xưa trên sông Vị Thủy, quanh đi quẩn lại, như nước sông dưới chân cầu, vĩnh viễn không dứt.

Hoàng hôn dần dày đặc, tuyết đọng trên cành liễu rủ nơi đầu cầu, ngọn đèn lồng thứ nhất đặc biệt treo lên cho hôm nay chợt sáng. Tiếp đến, ngọn thứ hai, ngọn thứ ba… như muốn đan nhau lọt vào trong mắt, theo thứ tự đèn đầy cầu sáng lên, từng ngọn từng ngọn đỏ rực, như từng con mắt khổng lồ màu đỏ, trôi giữa màu tuyết nhàn nhạt trên không sông Vị Thủy, từ từ phiêu giạt.

Nghe tiếng gõ cửa bên tai. Là thị lang Hà Thông tự mình đến mời, bảo địch xa* rước dâu Nhiếp Chính Vương đã đến, đang chờ bên ngoài.

(*) xe dùng lông trĩ trang trí dùng cho hậu phi cổ đại.

Cô đã biết. Một chốc trước, tai đã nghe tiếng nhạc lễ chuông vang trang nghiêm mà hòa nhã.

“Tránh ra tránh ra!”

Xa xa người rảnh rỗi Trường An chen nhau đứng ở chỗ cao ngóng nhìn xôn xao.

Hoàng hôn mờ ảo, sắc đỏ đầy trời. Hai người hầu dẫn đường phía trước cầm quạt lông trĩ vàng, nghiêng giao nhau, che chắn Khương nữ, nhưng một khắc ngắn ngủi khi người bước ra lều lọng đó, thoảng như vẫn có thể nheo mắt nhìn đại khái.

Dáng vẻ dường như cũng giống một cô gái bình thường, chẳng thấy bóng hình kim cang thân cao tám thước eo mười vòng tay trong truyền thuyết. Đám người lại hỗn loạn, thất vọng có, kinh ngạc có, hoài nghi có, tiếng kinh ngạc ôi chao liên tiếp.

Địch xa đón cô đã dừng ngoài cửa. Thân xe rộng, vàng bạc trang trí trước sau, vải đỏ phủ trên nóc xe, thêu đầy hoa văn vân địch bằng chỉ vàng, đến cả trên vành bánh xe cao lớn, cũng sơn bằng mực đỏ, ánh lửa trượng chiếu rọi chung quanh, vàng son lộng lẫy.

Khương Hàm Nguyên leo lên xe hoa. Trong tiếng tán dương, màn xe phủ xuống. Đại đội nghi trượng* trước dẫn sau theo, trước xe một người mặc truy y** vào chỗ, vung roi, một hàng tuấn mã phía trước khoác lên kim lạc ngọc bí*** liền lên vó, xe lăn tăn tiến lên.

(*) vật trang hoàng nơi công đường, cung thất, dinh thự, hay rước theo kiệu, võng khi vua, quan ngự giá; gồm có: tàn, lọng, cờ, quạt, binh khí.

(**) triều phục cổ đại, dùng màu đen trắng.

(***) bộ hàm thiếc dây cương khảm vàng ngọc.

Trời tối hẳn, một vầng trăng tròn sáng như khay bạc treo lên trên bầu trời đêm Trường An.

Địch xa xuyên cổng thành mà vào, tiếng vui cười trộn lẫn gọi nhau, tiếng huyên náo chợt phóng đại như sóng lớn đánh từ bốn phương tám hướng tới, hoàn toàn đánh chìm mọi người. Phố xá Trường An, vốn đã nhà nhà thắp đèn, đêm nay càng thêm huy hoàng rực rỡ, lửa trượng chiếu sáng nửa thành, cướp đi ánh trăng, đỏ thấu tuyết đọng. Ánh sáng kia thấm qua màn gấm phủ ngoài xe, khiến trong xe mơ hồ, con người như trôi giữa cảnh trong mơ hư ảo.

Bánh xe không nhanh không chậm lăn qua khe hở những viên đá lát đường, hơi xóc nảy. Từ khi Khương Hàm Nguyên lên xe đã thấy hơi rã rời, dựa vào nhắm mắt, bỗng, xen lẫn tiếng la liên hồi “Thiên tuế vĩnh an”, hai bên đường phía trước lại hô lên như sấm. Ấy là dân chúng vì phong thái của vị Nhiếp Chính Vương đang cưỡi ngựa giữa đường, tự phát reo hò.

“Mẹ! Nữ tướng quân đâu! Sao con chẳng thấy? Ngài ấy sẽ hóa sói vào đêm trăng tròn ạ? Mẹ xem, đêm nay trăng tròn này! Nếu ngài ăn thịt Nhiếp Chính Vương, vậy phải làm sao đây —— “

Giữa tiếng hô như biển phía trước, cạnh đoàn xe bỗng một tiếng kêu non nớt của trẻ con mơ hồ bay tới. Tiếng trẻ chưa dứt, đã chợt tắt, hẳn đã bị mẹ bên cạnh bụm miệng.

Khương Hàm Nguyên vốn bị xe ngựa tròng trành muốn buồn ngủ, giọng kêu của đứa bé đổi lại đã làm cô tỉnh táo đôi chút. Đột nhiên cô cảm giác, chuyến đi thật dài, khiến cho người ta ngoài trừ mệt mỏi thì cũng chỉ có mỏi mệt này, hình như cuối cùng đã thoáng trở nên có mấy phần thú vị, bởi câu nói con trẻ hồn nhiên không kiêng kỵ này.

Nghe nói Thúc Thận Huy rất được lòng dân. Xem ra đúng là thế. Đêm trăng tròn, đến cả trẻ con ngây thơ trong thành Trường An còn lo lắng giùm y.

Yên tâm.

Khóe môi cô hơi câu một vòng, cũng không rõ là nói cho đứa bé lo lắng kia hay là cho bóng lưng đang đón nàng đến phủ Nhiếp Chính Vương trong lúc này.

Xem như cái người tên Khương Hàm Nguyên kia, thật sự có thể hóa thân đêm trăng, cô ấy cũng sẽ không ăn thịt người đó.

Từ ngày đầu cô biết chuyện, cô đã hiểu, lên chiến trường chốn Tu la này, cô không có bất kỳ ưu thế trời ban nào. Ưu thế duy nhất của mình, chính là nỗ lực nhiều hơn, tâm chí càng kiên nhẫn hơn người khác. Tay mài bong bật máu, thì sao nào, tự sẽ kết vảy khép lại. Lại mài hỏng, lại chảy máu, lại kết vảy. Lặp đi lặp lại, cuối cùng sẽ có một ngày, đến khi cả hai tay phủ kín vết chai dày, sẽ không còn cảm giác được đau đớn.

Năm ấy cô mười ba tuổi, đọc binh thư, tham gia qua chiến đấu, giết qua người, lăn lê bò lết cả ngày cùng một đám quân tốt. Cô luôn im lặng, từ sáng sớm đến tối mịt, đầy mặt đầy cổ là bùn đất, trên người đầy vết bầm máu ứ, còn có mùi bùn đất trộn lẫn mồ hôi vĩnh viễn tắm rửa không sạch, xem ra, so với những tiểu tốt vì nhà nghèo không nơi nương tựa mà không thể không dấn thân sớm vào quân ngũ chẳng có gì khác biệt. Người chung quanh cũng quen thuộc với sự tồn tại của cô —— đứa con gái được sói sớm từ bé của đại tướng quân, đương nhiên trời sinh khác hẳn người thường. Thảng như cô đã trở thành một người siêu việt đặc thù về giới tính. Ngay khi rất nhiều người trong họ còn chưa tới, cô đã ở đó.

Mùa thu, Võ Đế phái Tam hoàng tử An Nhạc Vương bắc tuần vùng biên giới, đến Tây Hình quan quận Nhạn Môn.

Năm ấy An Nhạc Vương vừa tròn mười bảy, chưa đủ hai mươi, vóc dáng thiếu niên, mặt mũi tuấn tú mà trong trẻo, cử chỉ cao quý mà thanh nhã, ai cũng nghĩ y sẽ cao cao tại thượng, Khương Tổ Vọng càng lo lắng hơn cả. Bộ mặt người trong hoàng gia thế nào, ông quá rõ.

Nhưng rất nhanh, theo An Nhạc Vương đến, mọi lo lắng đều tiêu tan, bất kể là trong yến ẩm y vừa tới đã xuống cùng quân sĩ trong doanh nói cười cùng uống tiêu sái hiền hoà, hay là tài năng và phong độ biểu hiện sau đó, đều khiến trên dưới quân doanh lấy đó mà tin phục.

Y dừng lại nơi này nửa tháng, Khương Tổ Vọng vốn tưởng y sẽ chỉ ở loanh quanh Tây Hình quan để tuần sát, tiện bảo thành nội chuẩn bị một chỗ tinh xá, nào ngờ vừa qua ngày đầu, y đã bỏ nghi trượng, xuôi theo bắc cảnh, đi khắp từng tắc điểm trọng yếu, không bỏ sót một chỗ, đến tối, nếu còn trên đường, liền cắm trại ngay đất hoang. Đến khi trở về, y lại ra Tây Hình quan, đến Thanh Mộc Nguyên lúc ấy còn bị người Địch chiếm đóng, leo lên cao quan sát địa hình và bài bố phòng ngự đối diện từ khoảng cách gần.

Hôm đó thời tiết trong xanh, trạm canh Bắc Địch rất nhanh phát hiện người ở chỗ cao bèn dẫn tới cung binh, cùng bắn liên tục, trong phút chốc tên bay đầy trời phóng từ phía đối diện tới, mũi tên dày đặc xé không vun vút, như trận bão, phủ ngay xuống đầu.

Cách quá xa, đám tên cuối cùng chỉ phóng đến dưới sườn núi ở chỗ cao, cắm vào đất, nhưng chiến trận thế cũng đủ khiến người đẫm mồ hôi, trong đó không ít người biến sắc theo chúng, nhưng y lại đầy vẻ tự nhiên, tay chân không hề động mảy may. Quân canh giữ người Địch cuối cùng từ bỏ việc bắn tên, song không cam lòng, bèn học theo Trung Nguyên lớn tiếng chửi rủa, tiếng mắng khó lọt tai theo gió mơ hồ truyền đến.

Lúc ấy đám người đi cùng, có cả Khương Tổ Vọng, biến sắc, lên cơn tức giận sợ An Nhạc Vương bị mạo phạm, định gọi cung binh, lấy khiên bảo vệ, ra trước hơn mười trượng tổ chức đánh trả, như thế, tên nên có thể bắn tới đối diện, không ngờ, lại bị ngăn cản.

“Hôm nay có bắn chết toàn bộ đám tiểu tốt nhảy nhót trước mắt này, phỏng ích lợi gì?”

An Nhạc Vương với vóc người thiếu niên còn mang theo mấy phần gầy gò, nhìn quân Địch đối diện không ngừng chửi rủa trêu cười nhục mạ, bình tĩnh nói thế.

“Đại tướng quân, tên tạm giữ lại, đợi ngày khác, cùng bắn trả, cũng không muộn.”

Thật vậy, tổ chức bắn trả vốn chỉ đánh vì thể diện, chẳng có ý nghĩa thực tế. Khương Tổ Vọng an bài đến mức ấy cũng chỉ vì đối phương nhục mạ quá mức, muốn trước mắt bao người bảo toàn thể diện vị hoàng tử trước mặt này thôi.

Ông nào ngờ, đối phương lại thốt lời như vậy.

Mặc dù chuyến tuần biên lần này đã khiến Khương Tổ Vọng nhìn vị hoàng tử thiếu niên này sinh ra rất nhiều kính ý, nhưng trong giây lát ông vẫn kinh ngạc khi đối phương biểu hiện vẻ ẩn nhẫn tỉnh táo không tương xứng với độ tuổi của y.

An Nhạc Vương nói bình thản như lời thuận miệng, nhưng ngay khắc ấy, Khương Tổ Vọng chợt có cảm giác, thảng như tương lai triều đình có thể có người làm chủ như An Nhạc Vương, vậy thì trong lúc sinh thời đời mình, sau hai mươi năm phòng thủ đằng đẵng mãi không thấy điểm đầu, có lẽ có một ngày, rốt cuộc ông có thể đợi được hy vọng xuất kích.

Hiển nhiên, mọi chuyện chẳng liên quan đến Khương Hàm Nguyên, có điều, cứng rắn mà nói, đúng là không hẳn hoàn toàn không có.

Do An Nhạc Vương đến mà ông ngoại cô cũng sớm từ Vân Lạc chạy tới, dự buổi gặp mặt.

Toàn bộ hành trình đã xong, ông ngoại ra về, cô đi đưa tiễn, đã đi thật xa song còn lưu luyến không rời quay về. Nhớ lúc đó vừa chạng vạng tối, trời chiều như lửa, ở một chỗ hoang vắng cách đại doanh Tây Hình hơn mười dặm trên đường về, đã gặp đoàn An Nhạc Vương.

Y thường phục khoái mã, góc yên treo cung, bên cạnh là người bạn phò mã Đô úy Trần Luân đi cùng, dẫn theo bảy tám tùy tùng, đều là thị vệ.

Cô biết tại sao y lại xuất hiện ở chỗ này.

Việc khác đã xong, ngày cuối trước khi về kinh muốn du hành một mình một phen, bảo Khương Tổ Vọng không cần đồng hành. Lúc này đoàn người hẳn phải trên đường về, không biết vì sao, lại dừng ngựa giữa đường, như đang bàn tính chuyện gì.

Ngày đầu tiên y đến, Khương Hàm Nguyên cách một đại đội lớn từ xa có nhìn thoáng y, nhận ra người, không muốn chạm mặt, chuyển ngựa định đổi tuyến đường rời đi, song bị người đối diện nhìn thấy, một thị vệ gọi với về phía cô, “Ngươi, tới đây!”

Khương Hàm Nguyên đành xuống ngựa, đi tới, thi lễ với người ngồi trên lưng ngựa được vây giữa kia.

“Lính của Tây Hình đại doanh?” Y quan sát cô.

“Vâng.”

“Doanh nào?”

“Bộ tốt.”

“Bao lớn?”

“Mười bốn.” Cô nói dối.

Mấy năm đó tạm thời chưa có chiến sự lớn, triều đình vì kế sách sinh sôi dân số, có điều khoản quan phủ không được chiêu mộ nam đinh chưa đầy mười bốn. Song trong dân gian có rất nhiều nhà nghèo túng, hoặc vì miếng cơm, hoặc vì cầu công danh, vẫn có những nam đinh nhỏ hơn tuổi này dấn thân vào ngũ, nếu trong quân doanh tra ra, bình thường cũng mắt nhắm mắt mở buông tha.

Khi đó cô, đứng thẳng, khó khăn lắm cũng chỉ bằng hông thớt tuấn mã màu trắng y cởi. Cô thấy y liếc qua vóc người mình, hiển nhiên không tin câu trả lời về tuổi của mình, song cũng không tiếp tục truy đến cùng.

“Biết Linh Khâu chứ?” Y hỏi.

Linh Khâu là mộ của Triệu Vũ Linh vương thời Chiến quốc, quân vương đời thứ sáu của nước Triệu, mặc Hồ phục kỵ xạ, xách cương đeo cung, Nam diệt trường kỳ lấy được Trung Sơn là vùng đất của cường lân, đánh tan ý đồ kiềm chế nước Triệu mà cường lân lợi dụng Trung Sơn, Bắc thì đại phá quấy rầy của họ Lâu vùng Lâm Hồ, thiết lập con đường vô tận, anh hùng một thời không hai. Tiếc rằng việc nhà lại không quả quyết, ủ thành họa bên trong, cuối cùng lại lấy thân phận chủ phụ, tuổi tráng niên bị con trai bỏ chết đói trong cung Sa Khâu, sau khi chết cũng không được vào vương lăng, bị chôn một mình ở vùng biên cương xa xa xưa kia ông từng phóng ngựa rong ruổi, để vô số văn nhân mặc khách ngày sau tưởng nhớ, ưu tư hoài cổ, bi khái không thôi.

Khương Hàm Nguyên gật đầu, chỉ hướng đông bắc, “Có một đường tắt, đường hơi khó đi, song cưỡi ngựa một ngày là đến.”

Thiếu niên an Nhạc Vương theo hướng cô chỉ, nhìn ra hướng Linh Khâu xa xa trong nắng.

“Ngươi dẫn đường cho ta đi!” Y quay đầu lại, nói.
 
Chương 15


han nhược triêu hoa*

Hoa nở vào sáng sớm, biệt danh của dâm bụt – nhan như thuấn hoa dùng cho cô gái đẹp nè giờ cho khuôn mặt anh cũng tươi như dâm bụt luôn. ^^

“Cẩn Mỹ, trời sắp tối rồi, hay mai hãy đi.” Trần Luân bên cạnh thấy mặt trời lặn, lên tiếng khuyên can.

Thận Huy, ý kính cẩn khơi gợi cái đẹp, nên tên tự y là Cẩn Mỹ, lấy tên cúng cơm cũng hợp nhỉ?

Khương Hàm Nguyên liền nghĩ đến quyển sách mấy tháng trước vừa học, đang hơi thất thần, nghe giọng thiếu niên lại vang bên tai: “Triệu Ung khắc định họa loạn, dùng sức một người đưa nước Triệu bước lên hàng thất hùng trong loạn thế, về công lao sự nghiệp đáng xưng vị đại vương hùng mạnh nhất, thật là không quá. Nếu mai mới đi, rồi hôm sau mới về, ròng rã hồi kinh bị chậm đi hai ngày, không ổn. Đã muốn đến, lại chỉ một đêm là có thể đến, không đi tế bái một lần, không khỏi tiếc nuối.”

Y quay sang bạn tốt giải thích.

Trần Luân tên tự Tử Tĩnh, là thế tử Chu quốc công, lớn hơn An Nhạc Vương mấy tuổi. Năm ngoái anh ta lấy đường tỷ của An Nhạc Vương, là con gái của Hiền Vương, vì vợ đặc biệt được phong đến vị Vĩnh Thái công chúa, nên anh thành Phò mã Đô úy. Anh ta và An Nhạc Vương ngày thường quan hệ thân thiết, vừa là bạn giá, vừa là bạn già, vẫn luôn gọi tên riêng lẫn nhau, biết tính y, nếu đã nói thế bèn không khuyên can nữa, đồng ý.

Khương Hàm Nguyên không muốn dẫn đường cho họ. Cô cho rằng họ chỉ hỏi đường, có đi cũng phải để mai khởi hành, không liên quan đến mình, nên mới thuận miệng chỉ đường, nào ngờ vị An Nhạc Vương lại nói đi là đi, lên đường trong đêm.

Biết vậy, đã bảo là không biết.

Cô liền buồn bực bất động, định tìm lý do từ chối, tỷ dụ như nói, mình không nhớ rõ đường cụ thể, vừa định há miệng, y lại hiểu lầm, cho là cô lo không thể về doanh đúng hạn mà bị nhận trừng phạt, đưa mắt nhìn cô, “Ngươi không cần sợ, đợi khi về nếu có ai hỏi, bản vương nhất định sẽ giải thích cho.”

Trời chiều ở biên cương, sắc nắng vàng rực còn vương lại chiếu lên gương mặt đẹp của hoàng tử thiếu niên, cả khuôn mặt như phủ một tầng sáng rực rỡ.

Nhìn gương mặt trước mặt, như có ma xui quỷ khiến, cự tuyệt, Khương Hàm Nguyên không thể thốt ra lời.

Cô há miệng, từ từ ngậm lại, cuối cùng yên lặng lên ngựa, dẫn đoàn người đi đến Linh Khâu. Đi một đêm, chỉ tạm nghỉ ngắn ngủi giữa đường, cuối cùng, đến tảng sáng đã đến bên kia đồi.

Vương khí hùng uy nước Triệu cổ sớm đã bị gió cuốn đi theo năm tháng dài đằng đẵng. Lăng Triệu vương xưa, giờ đây chẳng qua cũng chỉ là một gò đất gối lên núi hoang thôi.

Đang vào cuối thu đất Bắc, sắc trời không rõ, trăng vẫn còn nhợt nhạt treo trên đỉnh núi. Người đứng ở đài cao dõi mắt ra xa, chỉ thấy một vùng bỏ hoang mênh mang. Có trận gió thu lướt qua, thổi cỏ hoang bờ lăng rì rào, chồn hoang thỏ chạy, khắp nơi đều hoang vu.

Dầu đi đường một đêm song nhìn An Nhạc Vương không hề mệt mỏi. Y đón gió sớm mang theo cái lạnh mùa thu thật đậm, đứng lặng trước gò đất Hoàng Long kia. Thật lâu sau, Khương Hàm Nguyên nghe thấy tiếng y trầm thấp thở dài: “Tích niên công cái thế, kim ngã thu thảo hoàng. Chước tửu kiêu vương thổ, bất lão duy thanh sơn*.”

(*) Công lao cái thế năm xưa, năm nay cỏ thu ta đã vàng, Rót rượu tưới vương thổ, chỉ có núi xanh không già đi.

Y lấy túi rượu từ yên ngựa, mở bấc, giơ lên cao đối diện với gò đất trước mặt, tưới rượu lên đất vàng.

“Về thôi!”

Rót rượu xong, y nói, quay đầu định đi. Trần Luân liền gọi thị vệ. Khương Hàm Nguyên cũng đi theo. Bỗng lúc này, một bóng nhạn từ phương bắc bay về phương nam xuyên qua một đám mây, xuất hiện trên bầu trời sớm mùa thu trong trẻo trên đỉnh đầu.

Có vẻ như y bị khơi hứng, dừng bước, ngẩng nhìn con nhạn trên không trung không dời mắt, nâng một tay lên.

Thị vệ hiểu ý, biết rằng An Nhạc Vương lệnh mang cung tên của ngài đến, chạy đi, lấy một bộ cung tên treo trên góc yên, lại chạy vội về, dâng đến.

Y cầm lấy, kéo cung cài tên, ngắm mũi tên theo hình bóng trên đỉnh đầu, chậm rãi di động, nhắm chuẩn đợi bắn.

Nhạn trên không trung thoảng như cảm thấy sát khí không rõ, đột nhiên hót một tiếng dài, như bi ai.

Thiếu niên không chớp mắt, ánh mắt sắc bén, ngón cái chụp cần tên hơi buông lỏng, ngay lúc y định bắn, trong đám mây vừa rồi không ngờ có con nhạn khác bay ra.

Sau tiếng nhạn kêu to không dứt, cực lực đuổi theo, rất nhanh, đôi nhạn tụ hợp, vỗ cánh bay gấp.

Khương Hàm Nguyên nhìn qua, thấy y tiếp tục ngắm một lát, nhưng thủy chung không bắn, cuối cùng nới lỏng dây cung, từ từ, buông cung, dường như từ bỏ ý định bắn nhạn.

Cánh tay buông thõng, song dường như y có phần không cam lòng, hơi nhíu mày, bỗng nâng cung cài tên lần nữa, lần này y không do dự, kéo căng cung, “Vút”, vũ tiễn bay ra, xé không, như một luồng sáng trắng vọt lên đỉnh đầu, chớp mắt liền đến cạnh đôi nhạn, lại từ giữa chúng công bằng thẳng thớm bay qua, lên cao mấy trượng, thẳng đến khi hết lực, từ không trung thật xa rơi xuống phía sau, biến mất không thấy gì nữa.

Dù vậy, cặp nhạn cũng bị kinh hãi, trong tiếng kêu to, cánh vỗ lung tung, lông rớt lả tả xuống mấy túm, xoay vài vòng tại chỗ, lúc này mới hơi định hồn sau chấn kinh, vội vội vàng vàng, cùng hốt hoảng bay tiếp lánh về phương nam.

An Nhạc Vương lúc này mới buông cung, đưa mắt nhìn đôi nhạn bay xa, nở nụ cười.

Trần Luân thấy thế, không hiểu.

“Cẩn Mỹ, đây là ý gì?”

An Nhạc Vương ném cung tên về cho thị vệ giúp y lấy cung, “Vốn tưởng chỉ là nhạn lẻ, không ngờ lại là có đôi. Trời bắc giá rét, phía trước nguy hiểm, lại vẫn song song cặp đôi canh gác cho nhau đến tận đây, thực là không dễ. Thôi, thả đi. Có điều, tên đã lên cung, không lý rút về, nên mới bắn ra dọa cho chúng giật mình, cũng không uổng phí một tên.”

Tính tình Trần Luân chững chạc, sau khi nghe xong giải thích, thấy hành động còn mang vài phần thiếu niên của An Nhạc Vương hơi đờ lưỡi, trong phút chốc không biết trả lời sao, đành không thể làm khác hơn nói, “Tiễn pháp Cẩn Mỹ so với lúc trước, lại có tiến bộ.”

An Nhạc Vương cười to một tràng cởi mở.

Có vẻ như y là người hay cười.

“Tử Tĩnh chê cười rồi. Chỉ là, luận võ công, nghĩ rằng nếu ta có thể miễn cưỡng phân cao thấp với anh có lẽ cũng chỉ mỗi một môn cung tiễn.”

Trần Luân cũng cười nói, “Thật không dám gánh rồi! Điện hạ khiêm tốn!”

Trong lúc hai người họ nói cười, thị vệ dắt ngựa tới, y xoay người phóng lên, xắn cương thu hàm, đang định giục ngựa đi thì dường như nhớ ra tên tiểu binh dẫn đường đi theo một đêm kia, quay đầu nhìn lướt qua.

Khương Hàm Nguyên còn đứng tại chỗ ngóng nhìn đôi nhạn bay đi.

Đó là một sáng sớm trong lành mùa thu phương Bắc thường lệ, nhạn nam bay về hướng kia, trời mù sương tảng sáng, mặt trời còn chưa mọc lên khỏi đỉnh núi, nhưng ánh nắng cũng đã nhuộm ráng mây, khiến cho bầu trời xanh đậm cao xa kia cũng được thoa lên lớp lớp màu phấn trong suốt, hệt như một vạt anh đào đẫm sương ngày xuân.

Cô từng vô số lần dậy sớm, thao luyện trong tinh mơ thế này, vùi đầu học tập các loại tác chiến và phương pháp giết người.

Như đây là lần đầu trong đời, cô ngẩng lên nhìn, và rồi, cô thấy được một bầu trời buổi sớm cuối thu nhẹ nhàng trong trẻo vùng biên tái.

“Ê! Lên đường!” Một thị vệ cao giọng thúc cô.

Cô nhìn đến nhập tâm, chợt nghe thúc giục, quay lại.

An Nhạc Vương và mọi người đã ngồi trên lưng ngựa, đang nhìn mình. Cô cất bước gượm đi, lại thấy y bỗng đưa tay ngoắc ngoắc với mình.

Cô đành đi tới chỗ y, đứng cách mấy bước trước ngựa, ngẩng đầu hỏi: “Điện hạ có chuyện gì?”

“Còn có thể lên cùng không?”

Khương Hàm Nguyên: “Có thể.”

“Khương Tổ Vọng luyện binh, quả là không tệ.” Trần Luân ở bên cạnh xen vào một câu.

An Nhạc Vương không tiếp lời, chỉ hơi cúi đầu, ánh mắt lướt qua tóc ướt nhẹp vì sương trên cổ áo vì đi đường cả đêm, tiện tay cởi áo khoác ngoài bằng gấm dày màu khói xanh nhạt trên người, vứt sang cô.

“Hô”, chiếc áo khoác còn mang hơi ấm của nguyên chủ, đột nhiên phủ xuống vai lạnh của cô. Trong hơi thở cô cũng bị một mùi như trầm hương huân, cực kì nhạt nhưng quả thật là có, xộc vào.

Khương Hàm Nguyên quen nghe mùi mồ hôi trộn bùn trên người mình, trong tích tắc lại không quen mùi hương nhè nhẹ sạch sẽ mà trầm tĩnh phủ lấy mình.

Cả người cô đột nhiên cứng đờ, thẳng tắp, vô thức nín thở. Áo khoác ngoài ném tới kia, so với đầu và vóc người cô khi đó cũng thật quá lớn, vừa khoác lên vai cô đã rớt xuống. Sắp rơi xuống tới đất, cô mới giật mình, chợt đưa tay, nắm chặt lấy.

Dáng vẻ này rơi vào mắt y, chắc rất buồn cười.

Y lắc đầu, lại mỉm cười, dưới bầu trời hửng sáng còn mù sương kia, nhan như triêu hoa.

“Nhóc, cưỡi ngựa không tệ, dẫn đường cũng không tệ. Còn nhìn nữa? Về thôi!” Y dùng giọng khen ngợi nói một câu rồi lập tức bỏ lại cô, cưỡi ngựa đi.

Khương Hàm Nguyên rùng mình một lát, bỗng hoàn hồn, lung tung cuốn áo khoác ngoài, cũng vội vàng lên ngựa, đuổi theo.

Hôm đó chạng vạng tối bọn họ mới về tới. Khương Hàm Nguyên không muốn để y biết được thân phận, về tới chỗ gặp nhau hôm qua liền từ sau đuổi kịp trả áo, lập tức chuyển hướng, định rời đoàn.

“Dừng lại!”

Cô chạy chưa được mấy bước, chợt nghe tiếng y sau lưng. Cô quay lại, thấy y cởi một viên ngọc bội bên hông ném qua mình.

“Nhóc, cảm tạ đã dẫn đường! Tuổi ngươi còn nhỏ, chưa đủ để nhập ngũ, thấy ngươi cũng ngây ngốc, nếu ra trận thật e là phải dâng cả mạng! Nếu vì nhà nghèo quá phải tòng quân, cầm cái này hồi hương, tìm viên quan lớn nhất nói là bản vương cho, đổi vài mẫu ruộng chắc đủ, về sau ở nhà phụng dưỡng song thân cho tốt, đợi qua mấy năm, cưới thê thất, còn hơn là ngươi bán mạng trong quân ngũ!”

Thiếu niên kia nói xong, liền xách cương phóng ngựa đi thẳng, Trần Luân theo sát phía sau, đám còn lại phần phật đuổi theo, một đoàn phi nhanh về doanh, dần biến mất trong tầm mắt.

Trong tai bỗng ập tới một tràng reo hò cực lớn, Khương Hàm Nguyên cảm giác xe ngựa giảm tốc độ, cuối cùng, từ từ dừng lại.

Cô biết, điểm kết của chuyến đi dài đăng đẳng này – phủ An Nhạc Vương phủ xưa kia đổi thành Kỳ Vương phủ, giờ lại gọi là phủ Nhiếp Chính Vương phủ, cuối cùng cũng đã đến.

Chốc lát, cánh cửa trước mặt cô này sẽ được người ở bên ngoài mở ra, người đàn ông tên là Thúc Thận Huy, sẽ đưa cô xuống, kết thúc buổi lễ, sau đó, là đêm dài dằng dặc chỉ có hai người mặt đối mặt.

Cô nhắm mắt lần nữa, thầm tính đại khái thời gian quay về.

Cửa chính phủ Nhiếp Chính Vương mở rộng, trước cửa đèn đỏ treo cao, nhìn vào trong, một lối đi thật dài, hai bên đình đốt đầy đèn, như con rồng lửa, chiếu bên trong sáng rõ như ban ngày.

Nhiếp Chính Vương xuống ngựa, đi đến xe hoa, sắp dẫn Vương phi y vừa cưới bước vào cánh cửa này.

Phò mã Đô úy Trần Luân, kiêm tân chưởng Thiên Môn ti kinh thành và bạn giá của Nhiếp Chính Vương nhiều năm, chuyện như đêm nay, tất nhiên là đi cùng đoạn đường này.

Nhưng đoạn đường này, tinh thần anh ta căng thẳng hết mức, không dám lơi lỏng một chút.

Sau khi Tề vương Thúc Huy “chết bất đắc kỳ tử” vào thu năm ngoái, văn kiện tố giác băng đảng tôn thất Thành vương gửi đến triều đình không ngừng, người liên lụy đông đảo, ban đầu cả An Bắc Đô hộ Khương Tổ Vọng cũng ở trong đó, gọi là có bao năm tư giao với Thành vương. Sau này khi tin Nhiếp Chính Vương cưới Khương nữ làm phi đã xác thực, Khương Tổ Vọng mới được bỏ ra khỏi danh sách vạch tội. Sau đó, hai tháng sau, cũng chính là cuối năm ngoái, Thành vương lại bị người tố giác, gom binh mã riêng với chứng cứ vô cùng xác thực, Thành vương biết không có đường lui, trong lúc vội vàng khởi sự ở Thanh Châu, không quá nửa tháng, sự bại, Thành vương tự sát, một dòng con cháu bao gồm cả họ hàng vây cánh đều bị tru sát, còn lại buộc rời ra lĩnh ngoại, suốt đời không được về triều.

Dầu họa loạn đã trừ khử, chưa biết chừng có bỏ sót tàn nghiệt dư đảng mưu tính phản công. Ngày như hôm nay, lộn xộn đông người, sao anh ta dám lười biếng, cả đoạn đường từ Vị Kiều vào thành đến phủ Nhiếp Chính Vương, ngoại trừ điều động cấm quân hai ti và minh vệ thông thường, ven đường còn an bài cả ngàn trạm gác ngầm, nghiêm mật giám sát theo dõi người xem hai bên đường và nhà cửa, kể cả mái nhà, phòng có người ẩn nấp sinh sự.

Rốt cuộc cũng đến giờ, Nhiếp Chính Vương và địch xa nghi trượng của Vương phi Khương thị, một đoàn người tầng tầng lớp lớp, đã đến bên ngoài cửa chính phủ đệ.

Bước vào cánh cửa chính này, nghi lễ đám cưới long trọng cả một tòa thành để mắt đến đêm nay, xem như vượt qua trọn vẹn.

Trần Luân đứng tại chỗ, ánh mắt rời khỏi bóng lưng Nhiếp Chính Vương đi về phía địch xa, quét quanh một lần.

Hôn nghi tán lễ là do các quan viên tới từ Lễ bộ và Hồng lư, cả đoàn mặc quan phục, ai đứng chỗ ấy, đang chờ Nhiếp Chính Vương đón Khương nữ từ xe hoa xuống, đi vào.

Đêm nay, các nhân viên có thể đứng gần ở đây, trên có các quan từ nhị phẩm trong triều trước mắt, dưới có tùy hành và thủ vệ các bộ, toàn bộ đều được âm thầm tra xét để được yết kiến, không có bất cứ vấn đề gì.

Chung quanh cửa chính Vương phủ, lối đi trống trải, không có góc chết.

Cuối cùng Trần Luân hơi thở phào nhẹ nhõm, lúc này, khi ánh mắt quét đến giao lộ đối diện ngoài mấy trượng bỗng khựng lại.

Chỗ đó có đông đảo dân chúng trong thành tụ tập xem địch xa đón dâu đêm nay, toàn bộ đều đã bị ngăn ngoài chướng ngại xếp trước trên đường phía ngoài giao lộ. Nhưng hiện giờ lại thấy một đứa bé thoát ra khỏi đám đông.

Từ chỗ Trần Luân nhìn lại, đứa bé có vóc dáng tầm sáu bảy tuổi, xem thì có vẻ là nghịch ngợm tránh khỏi mắt người lớn, một mình tung tăng về phía bên này.

Không đợi Trần Luân phát lệnh, chỗ gần giao lộ nhất lập tức có hai thủ vệ bước lên định ngăn đứa bé lại.

Không ngờ, đứa bé vấp ngã, người nhào xuống đất. Thủ vệ xoay người định bắt, đứa bé chợt cuộn tròn cả người như một khối cầu trên mặt đất lăn xuyên qua dưới đũng quần một người, rồi tiếp tục lăn tới phía trước, tốc độ nhanh lạ thường.

Đôi ngươi Trần Luân bỗng co rút.

Anh ta đã nhìn rõ. Đây không phải một đứa bé, mà là một người lùn!

Trong tửu quán và nhạc phường rộng khắp Trường An, không thiếu những người dùng cơ thể không trọn vẹn mua cười để đổi lấy sinh kế. Nhưng xuất hiện ở đây đêm nay, ngụy trang thành một đứa trẻ, thân phận gì, đã rõ.

Bảy tám thủ vệ khác quanh giao lộ cũng đã kịp phản ứng, cùng với hai bạn mới vồ hụt, cùng phi thân lên, dũng mãnh lao tới người lùn đang lăn, nhanh chóng vây kín.

Người lùn bị ép dừng lại, song, ngay giây phút đó, rút từ dưới áo ra một cây nỏ.

Tích tắc, một mũi tên phóng ra.

Tầm bắn cây nỏ không xa như cung, nhưng xét về hữu hiệu trong khoảng cách gần, tốc độ và lực đạo lại hơn cung. Mũi tên được bắn từ cây nỏ cơ được đặc chế, thậm chí có thể xuyên từ trước ngực ra sau lưng người, lực đạo cực kỳ kinh khủng.

Trần Luân không để ý gì khác, nhào đến Nhiếp Chính Vương đứng cách mình không xa.

Nhưng, không còn kịp.

Cho dù đã dùng hết toàn lực, anh ta vẫn không đuổi kịp trận bão tên bắn ra. Anh trơ mắt nhìn nó bay lướt qua mắt mình như một tia chớp. Ngay tích tắc xẹt qua đó, cơn gió sắc lạnh mù mịt kéo ra một vệt sắc lam âm u trước mắt anh ta. Là màu của kịch độc. Đám tên độc này, lại ở khoảng cách gần, tiếp tục lướt qua cạnh mấy vị chủ quan Lễ bộ và nghi tào không hề cảm giác chuyện gì, thẳng đến bóng lưng đang đứng trước địch xa, bắn đến rất nhanh.

Tim Trần Luân vì ngập trong tuyệt vọng cực kỳ và cảm giác sợ hãi, như muốn nổ tung trong lồng ngực. Thậm chí anh ta nghe rõ ràng trong tai mình, tiếng áp lực anh ách gột bằng máu.

Trong địch xa, Khương Hàm Nguyên bỗng xoay người tung váy, nhanh như chớp, một chiêu rút cây chủy thủ chưa từng rời người mình, tung người toan phá cửa mà ra, đúng lúc này, từ trên địch xe vốn lặng lẽ như không hề có ai ngồi, chợt có bóng đen vọt ra, năm ngón tay mở lớn, cánh tay lướt qua chỗ vừa ngồi rút ra một cây đao.

Mũi tên bắn trên không trung bị cắt thành hai đoạn, phần sau cán tên xoay tròn, im ắng rơi xuống, phần mũi tên đang bay bị mất phương hướng, nhưng lực vẫn chưa mất, cùng với một tiếng phụt nặng nềcắm thật sâu vào bóng đổ trên đất cạnh xe, chỉ còn một đoạn cán lộ trên mặt đất.

Lửa trượng soi sáng gương mặt người kia, ra là tướng quân cấm quân Lưu Hướng. Đêm nay ông tự thân lái địch xe cho đại hôn Nhiếp Chính Vương.

Mà mọi chuyện phát sinh, từ đầu tới cuối, không quá một hơi thở.

Lúc này, chủ trì nghi lễ trước cổng chính Vương phủ mới vừa kịp phản ứng, chủ quan và đám người trái phải phía sau mới đột nhiên dừng lại, lộ vẻ hoảng sợ trên mặt. Còn dân chúng trên giao lộ bị thủ vệ bao vây che chắn càng không thấy rõ, cho nên, chỉ biết họ huy động nhân lực vây bắt một đứa trẻ nghịch ngợm lỡ lọt vào khu cấm, dấy lên trận bạo động nho nhỏ.

Khương Hàm Nguyên dừng bước sau cửa xe. Rất nhanh, cô lại nghe tiếng chúc tụng ngoài xe trở lại. Có người bước đến mở cửa. Cô nhanh chóng lùi lại, xoay người giấu chủy thủ về, còn chưa kịp ngẩng đầu, cảnh trước mắt chợt bừng sáng, ánh sáng rực rỡ hắt ra từ cửa lớn Vương phủ bỗng tràn vào trong xe.

Trước mặt hai cánh cửa vẽ địch vân mạ vàng, từ hai bên trái phải được hai lễ quan mở ra.

Nhiếp Chính Vương Thúc Thận Huy một thân lễ phục, nghiêm chỉnh đứng trước xe.

Cửa xe mở ra, y đưa mắt, nhìn cô gái trong xe.

Cô buông lỏng tay cầm chủy thủ, ngẩng lên.

Hai người liền, bốn mắt nhìn nhau một chốc.

Ánh đình sáng rực, bao gồm cả bóng dáng người đàn ông đón nàng ở cửa xe này, cũng vọt vào trong đôi ngươi của cô.

Tựa như một chốc trước chưa từng xảy ra chuyện gì, ánh mắt y long lanh trong trẻo, không chớp mắt, chăm chú nhìn cô, duỗi tay về trong xe cô.
 
Chương 16


ong Nhiếp Chính Vương hiểu cho.

Bàn tay tinh khiết như ngọc, khớp xương đều đặn đâu ra đấy, ngày thường hẳn tốt lành như chủ của nó, giờ phút này lòng bàn tay mở lên, ngón tay hơi dài mở ra tự nhiên, dừng trước mặt Khương Hàm Nguyên, kiên nhẫn chờ cô đáp lại.

Khương Hàm Nguyên chậm rãi đứng thẳng người, thu lại ánh mắt từ bàn tay chuyển đến người ngoài xe.

Y vẫn chăm chú nhìn nàng từ đầu, đến khi hai người bốn mắt chạm nhau lần nữa, trên mặt y lộ ra vẻ mỉm cười, gật nhẹ, là chào hỏi.

Khương Hàm Nguyên không cười đáp, song cũng không để y chờ quá lâu.

Trong nhiều ánh mắt chằm chằm ở ngoài xe phóng đến, từ từ, cô đưa tay vừa buông chủy thủ kia của mình sang phía y.

Y liền khép năm ngón tay, nhẹ nhàng cầm bàn tay cô đáp lại, dắt cô xuống địch xa.

Bàn tay của Khương Hàm Nguyên, là bàn tay thô kệch, chai sần từ ngón đến bàn. Lại bị đối phương nắm chặt, lòng bàn tay ngón tay hai người không thể tránh chạm vào nhau, cô mơ hồ cảm giác được rõ ràng làn da ấm áp từ lòng bàn tay nam tử này. Điều đó khiến cô khó chịu.

Chân đạp đất, cô liền bình tĩnh hơi tựa qua, dưới tay áo hai người chỉ ra vẻ cầm tay, tự nhiên cùng tách ra.

Tất cả đều tự nhiên, y cũng thu hồi tay mình, lập tức hơi nghiêng mặt nhìn cô, thấp giọng nhắc nhở bậc thang phía trước, cứ thế, dẫn cô, bước vào cổng chính phủ Nhiếp Chính Kỳ vương.

Việc ngoài ý muốn xảy ra một chốc trước, như một hòn đá rơi xuống mặt hồ rộng lớn, chỉ xôn xao rối loạn nho nhỏ cạnh cửa chính, rất nhanh không còn dấu vết, như chưa từng phát sinh.

Hôn lễ tiến hành theo trình tự đã định, long trọng mà trang nghiêm, cuối cùng, hai người được dẫn vào tân phòng, lễ tán dâng lên rượu lễ hợp cẩn.

Đây là bước quan trọng nhất trong hôn lễ, cũng được coi trọng nhất.

Bình đựng rượu cho lễ hợp cẩn một đôi được khắc bằng bạch ngọc, cao túc tương liên, giữa cặp chén còn có huyền điểu đậu trên lưng thụy thú, mọi vật chúc điềm lành đều có dáng vẻ trang nghiêm, hai chén ôm lấy nhau chặt chẽ không có khe hở, lẳng lặng đặt trên khay trải gấm.

Y đưa hai tay bưng chén bên trái trước, hai tay trong tay áo lễ phục giơ ngang, động tác tiêu chuẩn mà ưu nhã từ từ nâng lên, cuối cùng dừng ngang ngực, ánh mắt lập tức nhìn cô dâu đối diện, đợi cô nâng chén.

Khương Hàm Nguyên đưa mắt nhìn chén rượu còn lại.

Vốn là nam nữ khách ở trời nam đất bắc xa lạ, uống chén rượu này, từ đây liền chung một thể, cùng tôn ti, tương thân ái, bất tương ly*.

(tạm chuyển: cùng địa vị sang hèn, yêu thương nhau, không chia rời)

Cô duỗi hai tay, cũng vững vàng bưng chén ngọc chuẩn bị cho mình, giống như người nâng tay kia, ngước mắt bình tĩnh đối mặt với ánh mắt người đàn ông đối diện, trong tiếng tán dương ca tụng, cùng y hành lễ với nhau, lập tức đưa chén bên môi, một ngụm hết sạch.

Buông chén ngọc hợp cẩn, đến tận đây, hai người kết thành vợ chồng.

Lễ quan rời khỏi, người hầu buông từng tấm màn che, để lại tân nhân ở lại chỗ sâu trong phòng đêm nay, lập tức lặng yên lui ra ngoài, khép kín cửa.

Màn trướng lớp lớp rủ sâu xuống, phía mặt tường đối diện giường bày một cây giá đỡ đèn mạ vàng xoắn tròn, trên đốt đầy nến đỏ, sáng rực, cả phòng thếp vàng tranh nhau chiếu rọi, chiếu lên hai người còn lại trước giường.

Hai người vẫn giữ nguyên dáng vẻ khi lễ tán vừa rời khỏi, cách nhau một cánh tay. Sau lưng, bóng hai người bị ánh nến hắt lên màn đỏ như một bức họa được vẽ sinh động trên tường, không nhúc nhích.

Mới đầu không ai nói gì, im ắng, không chút tiếng động, bỗng, một ngọn nến đỏ phát nổ hoa.

Cùng với tiếng tí tách, ánh nến loáng lung lay.

Bóng nam tử cũng nhúc nhích theo.

Y quay lại, nhìn người bên cạnh. “Hà thị lang đưa nàng khổ cực một đường, thật sự đã nhọc nàng, hôm nay lại nhiều việc, chắc hẳn nàng đã mệt mỏi, hay nghỉ ngơi sớm đi.”

Y mở miệng, phá vỡ im lặng trước, nói với cô, vẻ mặt cực kỳ tự nhiên, giọng nói vô cùng ôn hòa. Nói xong y đứng lên, đi đến trước khung treo áo mũ bên giường, đưa lưng về phía cô, hơi cúi đầu, bắt đầu cởi đai lưng bên hông mình.

Theo động tác của y, trong phòng yên tĩnh vang lên tiếng sột soạt nhẹ nhàng của y phục và mũ đội nhẹ chạm nhau.

“Điện hạ, ta có chuyện muốn nói.”

Thúc Thận Huy tháo đai lưng xong, đưa tay đang định treo lên, chợt nghe giọng nói sau lưng.

Y dừng tay, quay lại, thấy cô đã đứng lên, đôi mắt nhìn mình.

Trên mặt y cũng chẳng có vẻ gì khác thường, chỉ ra hiệu cô chờ một chốc, thắt lại đai lưng vừa cởi, tạm sửa sang lại y phục, cả người chỉnh tề rồi mới xoay người về phía cô, mặt chứa ý cười: “Chuyện gì?”

“Vì sao điện hạ chọn ta làm phi?” Khương Hàm Nguyên hỏi.

Ánh mắt y khẽ nhúc nhích, nhìn cô, không trả lời ngay.

“Nếu điện hạ không tiện, không cần trả lời. Ta có mấy lời, muốn nói rõ với điện hạ, cũng vậy thôi.”

Cô tiếp tục, “Cha, dĩ nhiên, gồm cả ta, xưa nay chưa từng có nửa phần bất trung với triều đình. Từ trước đã thế, hiện giờ, sau này, cũng sẽ như thế. Nay ta hổ thẹn ngồi vị trí Nhiếp Chính Vương phi, thiện ý và kỳ vọng của điện hạ ngài, cha ta và ta đều rõ, khắc trong tâm khảm. Đất nước còn tổn thương thiếu thốn, đến nay chưa được bồi dưỡng. Người nhà họ Khương thân là võ tướng, lại may mắn gặp minh chủ, dù lấy thân báo quốc, cũng sẽ không tiếc.”

“Vì thế, mong Nhiếp Chính Vương hiểu cho.”

Giọng điệu cô bình tĩnh, vẻ mặt thản nhiên.

Nghe cô nói, ý cười đang ngậm trên mặt y biến mất, thần sắc chuyển sang nghiêm túc, mắt nhìn thẳng mặt cô.

Cô cũng nhìn vào mắt y, không hề né tránh, cứ thế, hai người nhìn nhau chốc lát, bờ vai đang khựng lại của y bỗng khẽ động đậy, chậm rãi gật đầu.

“Tốt lắm. Ta sẽ trình lòng trung thành của cha con hai người lên bệ hạ.” Cách y nói chuyện mang theo mấy phần giọng điệu vẫn nói với đại thần thường ngày.

“Mạt tướng thay cha đa tạ Nhiếp Chính Vương.” Khương Hàm Nguyên thi lễ đầy đủ trịnh trọng với y.

Y nhìn cô, khóe môi giật giật, hẳn như cười, định đáp lại, sau đó vẫn đứng tại chỗ, không nói gì, cũng không tiếp tục động tác tháo thắt lưng cởi đồ một chốc trước.

Cô cũng bất động, thi lễ xong, đứng thẳng trước giường, như ban nãy.

Cứ thế hai người đứng đối im đối diện nhau, bỗng hình như có một luồng gió ngầm len lỏi từ gian ngoài vào, xuyên qua màn trướng dày đặc vào trong phòng, trêu nến hỉ nhảy nhót, bóng hai người in trên màn gấm cũng khẽ động theo.

Bầu không khí trong phòng bỗng như tăng thêm mấy phần xấu hổ.

Ánh mắt y lướt qua chăn mền gấm trên giường phía sau cô, hắng giọng, lại mở miệng: “Khương thị, vậy…” Y thoáng ngừng một lát.

“Nghỉ ngơi?”

Y nhìn sâu về phía cô, giọng mang theo mấy phần hỏi ý, song lại không cần cô trả lời, hỏi xong bèn không nói gì thêm, yên lặng xoay người, lại đưa lưng về phía cô bắt đầu cởi áo tháo đai.

Chỉ là lần này, không biết sao, hay là do đai lưng bị kẹt, quá trình không thuận mấy, hồi lâu, đai lưng hoa văn ngọc mai mới cởi khỏi người y.

Y một tay cầm đai treo lên kệ, lại cúi xuống từ từ cởi lớp y phục ngoài cùng, lúc này, nghe một tiếng cẩn thận gõ cửa rất nhỏ ở gian ngoài truyền vào.

“Có chuyện gì?” Y ngừng tay, quay đầu, lên tiếng.

Đến gõ cửa là Lý Tường Xuân.

“Khởi bẩm điện hạ và Vương phi. Bệ hạ đến, người đang ở bên ngoài.” Lão thái giám nói ngoài cửa.

Đến lúc này cả người y như được thả lỏng mắt thường cũng thấy được, nhanh nhẹn sửa lại y phục, kéo đai lưng buộc lại rất nhanh, lập tức xoay sang cô giải thích với giọng mang vài phần áy náy, “Hẳn là bệ hạ nghe nói đêm nay xảy ra chuyện bất ngờ, chờ không đặng mới đích thân đến. Ta ra xem sao.” Vừa dứt lời, thần sắc đã khôi phục lại vẻ trầm tĩnh nhất quán của y, cất bước ra ngoài, đi vài bước, bỗng dừng lại, lại nhìn cô.

“Khương thị, chắc hẳn nàng đã mệt mỏi, không cần chờ ta, tự nghỉ ngơi đi.”

Bóng y biến mất sau mấy lớp vải màn huân đỏ, cùng với tiếng đóng mở cửa rất nhỏ, bước chân dần xa.

Đúng như lời Thúc Thận Huy, thiếu đế Thúc Tiển vì chuyện bất ngờ phát sinh ở cửa chính phủ Nhiếp Chính Vương đêm nay mà đến. Cậu đang ở trong cung, vừa nghe chuyện, tức giận tại chỗ, tính tình nóng vội nên chẳng kịp chờ đến sáng mai, lập tức xuất cung thẳng đến phủ Nhiếp Chính Vương.

Lý Tường Xuân đi theo Thúc Thận Huy ra ngoài, thấp giọng cáo lỗi không ngừng: “… Lão nô vô năng, thật sự khuyên bệ hạ không được. Nếu lão nô mà còn không đến mời điện hạ, bệ hạ muốn tự vào…”

Cặp mắt Thúc Thận Huy nhìn thẳng, không đáp. Rất nhanh, chuyển đến Chiêu Cách đường nơi thiếu đế đang chờ.

Đây là đường viện bình thường y dùng làm nơi tiếp khách, chưa cho phép, người ngoài không thể vào, nên giờ phút này, dù hai cánh cửa giữa hai cột thông vào bên trong đã mở, Lưu Hướng vẫn không dám đi vào, dẫn người chờ ở hành lang gần đó dưới bậc cấp.

Đêm nay ông đã tra hỏi tên thích khách xong.

Gã lùn đúng thật là tử sĩ, sau khi bị bắt định cắn vỡ thuốc độc giấu trong miệng tự sát, nào trốn qua mắt Lưu Hướng được, bóp cằm lấy thuốc độc, sau đó tự mình ta hỏi, áp dụng cực hình, không ngờ gã lùn đúng là thiên lung địa ách*, không thu hoạch được gì. Cùng lúc đó, người Thiên Môn ti ngầm đi tra hỏi kỹ phường đông đúc của Trường An cũng không hiệu quả. Chưa có ai từng gặp gã lùn này trước đó.

Kết quả cũng không có giá trị nhiều, cộng thêm đêm nay lại là đêm động phòng của Nhiếp Chính Vương và Vương phi, bọn Lưu Hướng Trần Luân không dám đến quấy nhiễu, định mai gặp mặt sẽ bẩm báo. Không ngờ Thiếu đế nhận được tin, triệu ông vào cung, vặn hỏi một phen, lửa giận ngút trời, trực tiếp xuất cung suốt đêm đến đây.

Lưu Hướng nào dám ngăn cản Hoàng đế, đành theo sau, lúc này đang đứng bên ngoài đường, xa xa nhìn thấy Nhiếp Chính Vương một thân lễ phục đi tới, vội nhanh bước đón tiếp.

“Điện hạ! Bệ hạ…”

Thúc Thận Huy không chờ ông nói xong, khoát tay áo, lên bậc thềm, vào Chiêu Cách đường.

Thiếu đế Thúc Tiển đang đi tới đi lui trong sảnh, nôn nóng không thôi, bỗng giậm chân, co cẳng toan bước ra.

Tiểu hầu Trương Bảo trong Vương phủ, đang xoay người rụt cổ nấp một xó cạnh cửa, ngó thấy Thiếu đế trong sảnh toan bước ra cửa như định trực tiếp xông vào tân phòng bên kia, vội vàng nhảy ra, quỳ thụp gối trước ngạch cửa: “Bệ hạ! Bệ hạ! Nhiếp Chính Vương và Vương phi đang động phòng!”

Thiếu đế không hề đề phòng tự dưng thấy cái bóng như con khỉ đột xồ ra ngoài cửa, giật mình kêu lên, nhìn kỹ, phát hỏa, nhấc chân toan đạp tới, sắp đạp tới ngực Trương Bảo thì cuối cùng gượng dừng lại, ngừng đoạn, buông xuống.

Xưa giờ thiếu đế thường ra vào Vương phủ, Trương Bảo cũng thường theo sau hầu, dĩ nhiên biết tính ngài, đêm nay vì nương nhờ ánh sáng của Nhiếp Chính Vương, nếu không, một đá này của Thiếu đế, e đã đạp mình lăn tròn xuống bậc như cái bánh trôi, vội vàng dập đầu, “Gia gia nô tỳ đã đi rồi, bệ hạ chờ chút ạ? Cứ vậy mà qua đó, lỡ… lỡ… e là có chỗ không tiện…”

Sang năm thiếu đế mười bốn tuổi, lớn lên trong cung, dĩ nhiên với mấy chuyện nam nữ cũng không phải ngây thơ không biết, nghe tên Trương Bảo ấp a ấp úng như có ý riêng, nhíu mày, giương mắt nhìn về hướng cửa đường, vừa gặp một bóng người đi vào, sáng mắt lên, lập tức vòng qua Trương Bảo, xông ra, gần như nhào tới, một tay bắt lấy ống tay áo người kia.

“Tam hoàng thúc, ngài tới rồi! Ta lo lắng chết được! Chú không sao chứ?”

Thúc Thận Huy bảo mình không sao, bước vào. Đèn trong đường đốt sáng rực, Thúc Tiển thấy y y phục chỉnh tề, ý cười trên mặt, xem ra đúng là bình thường, mới hoàn toàn thở phào.

“Thật là nguy hiểm quá! Tam hoàng thúc không sao thì tốt rồi!”

Yên tâm lại rồi, cậu lại nghĩ đến lời kể lại tình cảnh lúc đó, dù không tận mặt ở đấy song vẫn còn sợ trong lòng, răng muốn đánh lập cập, oán hận nói: “Không cần hỏi! Ngoài dư đảng của Cao vương Thành vương, còn ai muốn đưa Tam hoàng thúc vào chỗ chết chứ? Xem ra giết người lần trước, còn chưa đủ nhiều!”
 
Chương 17


ừng nói bậy bạ

Thiếu đế bỗng quay đầu, mắt lóe tia dữ tợn, đùng đùng bước đến trước mặt Thúc Thận Huy, “Tam hoàng thúc, đám giặc Thanh Châu người chết khỉ tán, dẫu còn dư nghiệt song e là không dám duỗi dài tay dám đến Trường An như thế. Không phải ta thù dai, nhưng hẳn là việc này do con cháu Cao vương làm! Ngoài mặt thành thành thật thật, sau lưng lại ra tay với Tam hoàng thúc! May mà đêm nay Tam hoàng thúc không có gì, nếu nhỡ có điều không hay, chúng liền có thể tụ tập dư đảng, đục nước béo cò, đến chừng ấy thật không biết thế nào nữa!”

“Bọn chúng vì để cúng tế lão già thắt cổ, tự mình muốn chết! Đừng chậm trễ nữa! Bắt hết đi! Tra hỏi kỹ càng, chỉ cần hỏi tới nơi là có thể tra ra chứng cớ…”

Cậu là người tính tình cực đoan, trí nhớ vô cùng dai, xấu ở chỗ có thù tất báo. Đang nổi cơn hăng máu, Lưu Hướng hiện thân dừng ở ngoài đường môn, nhìn quanh vào trong.

Thúc Thận Huy trông thấy, ra hiệu ông bước vào. Lưu Hướng vội vàng đi vào.

“Chuyện gì?”

Lưu Hướng hành lễ với cả hai: “Bệ hạ! Nhiếp Chính Vương điện hạ! Mới vừa nhận được tin, Linh Thọ quận vương đột nhiên phát điên ạ.”

Thiếu đế “Hở” lên, há hốc miệng to đến mức có thể nhét cả quả trứng.

“Cái gì, phát điên?” Cặp mắt cậu trợn to, quái lạ mà bật thốt.

Lưu Hướng gật đầu: “Bẩm bệ hạ, nghe nói là điên rồi ạ.”

Đàn bà chốn hậu viện của Cao vương đông đảo, song nối dòng thì lại đơn bạc, nghe nói vì bị thương xưa kia có tổn hại, và cả chuyện xấu ngầm, nên chỉ có mỗi một mụn con trai thành niên, chính là Linh Thọ quận vương.

Thúc Thận Huy nhìn ông: “Xảy ra chuyện gì?”

Lưu Hướng bèn bẩm mấy tin vừa nhận được. Đêm nay khi phía Linh Thọ quận vương biết tin Nhiếp Chính Vương gặp chuyện, hai mắt đăm đăm, mất hồn mất vía, tự nhốt mình trong phòng, người nhà cảm thấy không đúng, xông vào bèn phát hiện ông ta đã treo cổ lên xà nhà. Tháo được xuống, cứu được người, có điều lúc tỉnh lại, nói năng loạn xạ, thấy đúng là đã điên loạn mất tâm trí.

Thiếu đế kinh ngạc xong, hừ lạnh, “Ta thấy là có tật giật mình, cố ý giả điên giả ngốc, muốn thoát tội ấy?”

Lưu Hướng cúi đầu: “Vi thần không dám khẳng định.”

Tin tức này thật ngoài ý muốn, lúc ông vừa nghe thủ hạ báo cũng thấy không thể tưởng tượng. Nhưng nghĩ lại, dường như cũng có manh mối.

Sau cái chết bất đắc kỳ tử của Cao vương, theo mật thám quan sát cho biết, Linh Thọ quận vương đóng cửa từ chối tiếp khách, đến nay chưa từng bước chân ra khỏi cửa. Nghe nói hoảng sợ không chịu nổi, ngày đêm không yên giấc, hễ nghe ngoài cửa có tiếng giống như khóa sắt vòng khoen thì rụng rời, run rẩy. Tháng trước ngã bệnh, thái y xem bệnh nhiều lần song mãi không thấy khởi sắc. Đêm nay đột nhiên xảy ra chuyện lớn như vậy, nếu y không phải bị Thiếu đế nói trúng, giả ngây giả dại muốn thoát tội, thì chỉ có thể là sợ hãi quá độ, tâm trí mơ hồ thật sự.

“Tam hoàng thúc! Chắc hẳn là ổng giả điên! Còn con trai ông ta nữa! Không phải rất càn rỡ sao, đến cống phẩm đưa vào cung còn cản được! Đêm nay ngài gặp chuyện, nhất định bọn chúng không tránh khỏi có liên quan!”

Thiếu đế quay sang Lưu Hướng: “Đi! Lập tức bắt cha con chúng, để trẫm xem ông ấy vờ điên thế nào!”

Lưu Hướng dạ trong miệng, còn mắt trộm ngó Nhiếp Chính Vương.

Thúc Thận Huy trầm ngâm, “Bệ hạ, không cần phải vội, cho là thật sự có liên quan thì người cũng chạy không thoát. Nếu người đã không ổn, ngại gì không gọi thái y đi xem một lần, xem đến cùng tình huống thế nào rồi bàn cũng không muộn.”

Thiếu đế có vẻ không cam lòng song cũng nghe lời, “Thôi được, vậy cứ nghe Tam hoàng thúc, ta xem ông ta có thể giả bộ đến khi nào!”

Lưu Hướng được lời, đang định ra ngoài xử lý, chợt nghe Nhiếp Chính Vương gọi giật.

“Ông cho người truyền lời đến Lan Vinh, bảo ông ấy dẫn thái y sang, bảo là bệ hạ quan tâm, qua đấy, xem đến cùng là thế nào.”

Lan Vinh là anh trai của Lan Thái hậu, cậu của Thiếu đế, vừa được đề bạt lên giữ chức chưởng Địa môn ti không lâu, cùng với Trần Luân xem như là phụ tá đắc lực của Nhiếp Chính Vương.

Mà luận bối phận của quận vương, là chú của Thiếu đế.

Cho Lan Vinh đi thăm bệnh, không còn ai tốt hơn.

Thiếu đế vui vẻ nói: “Đúng đúng đúng! Đúng là Tam hoàng thúc nghĩ chu đáo, an bài tốt lắm! Cữu cữu kiến thức rộng rãi, chắc chắn sẽ không để ông ta hồ đồ!”

Nhiếp Chính Vương cười nhẹ, ra hiệu Lưu Hướng đi làm việc, đợi Lưu Hướng quay đi mới xoay sang Thiếu đế: “Bệ hạ, không còn sớm, thần đưa người hồi cung. Nếu không về, để Thái hậu biết được, e là bà sẽ lo lắng.”

Đêm nay lúc Thúc Tiển ra ngoài phần vì lòng đầy sốt ruột lo âu, phần vì hận cả nhà Cao vương muốn điên, đơn giản không muốn chậm một khắc, một lòng muốn bắt người, còn giờ đây tâm tình khác biệt rất lớn, đâu chịu cứ thế mà về, “Không sao không sao! Mẫu hậu thường xuyên dạy ta, phải nghe lời Tam hoàng thúc, gần gũi nhiều hơn, đêm nay xảy ra chuyện thế này, ta đến thăm Tam hoàng thúc, bà mà biết, khích lệ còn không kịp, lo lắng gì chứ…”

Miệng thì nói, đầu thì xoay sang nhìn về hướng tân phòng.

“Tam hoàng thúc, Tiễn Nhi cũng đã đến rồi, không chào Hoàng thẩm một tiếng cứ thế mà đi lẽ nào không phải thất lễ sao? Không phải ngài từng nói, đối đãi với ngài thế nào thì sẽ đối đãi với thím thế đó! Ngài để ta chào thím một tiếng, xong xuôi, ta không nói hai lời, lập tức về cung!”

Tuy ngày mai là có thể gặp con gái Khương gia rồi, song đối với nữ tướng quân, cậu thật sự hiếu kì vô cùng, người cũng đã đến, hơn nữa gần trong gang tấc, không lập tức ngó cái, sao mà cam tâm.

Thúc Thận Huy thấy tay cháu không đi, còn ăn nói lý lẽ hùng hồn cũng hơi đau đầu, suy nghĩ một chút bèn gọi Trương Bảo tới dặn dò, Trương Bảo thưa vâng lui ra, co cẳng chạy đến tân phòng.

Trước kia chỗ ngủ Nhiếp Chính Vương không xa nơi này, ở Giản Nguyệt hiên phía sau Chiêu Cách đường, y khá là vừa ý, đã ở nhiều năm. Giờ mới cưới vợ, Trương Bảo cứ nghĩ sẽ lập phòng cưới ở Giản Nguyệt hiên, ai ngờ đổi chỗ, sang một chỗ phía đông Vương phủ gọi là Phồn chỉ viện.

Dĩ nhiên kiến trúc nơi đó cũng đẹp, trước đình sau vườn, về diện tích và mức độ xa xỉ bài trí thậm chí còn vượt Giản Nguyệt hiên, đúng là cũng thích hợp dùng làm tân phòng, song bỏ trống đã nhiều năm, hai nơi cách nhau hơi xa, chẳng những cách hai bức tường viện, còn phải đi qua một vườn hồ. Từ đầu này đến đầu kia nếu không chạy, vòng đi vòng về e là còn lâu hơn một chung trà.

Trương Bảo sợ để Thiếu đế đợi lâu, nhanh chân chạy vội, một hơi chạy đến Phồn Chỉ viện.

Trong tân phòng, sau khi Thúc Thận Huy rời đi, dĩ nhiên Khương Hàm Nguyên cũng chưa nghỉ ngơi, gỡ mũ đội đầu, đứng trước cửa sổ, mở cửa ngắm bên ngoài.

Ngoài cửa sổ là đình viện, chiếm diện tích cực lớn, dầu đêm nay được treo đầy đèn lồng, sắc đỏ chiếu tỏa lên những nhánh cây mùa đông, tuyết trên cành cũng thành những đóa mai đỏ, nhìn từ xa, lung linh tỏa sáng, song có lẽ vì quá rộng lớn, và đến giờ cũng không thấy người, sắc đỏ mơ màng kia chẳng những không thấy vui mà còn thêm mấy phần trống vắng.

Bỗng nhiên, cô quay lại nhìn gian ngoài, đợt một chốc rồi xoay người qua mấy lớp màn dày, mở cửa. Quả nhiên, một người dáng vẻ như tiểu hầu đang đứng trước cửa, giơ một tay định gõ rồi thôi, thở phì phò.

Vừa rồi cô cảm giác được tiếng hơi thở ẩn hiện từ ngoài cửa này, đợi một lát rồi dứt khoát tự qua mở cửa.

Một chốc trước Trương Bảo đã đến nơi, đưa tay lên định gõ cửa, dừng lại, định gõ cửa, lại dừng lại, khoa tay ước chừng xem nên tìm cách nào gõ cửa, để vị Vương phi hiện giờ đang ngồi trong kia đợi Nhiếp Chính Vương quay về động phòng sẽ không thấy mình đường đột đáng ghét.

Đang tính toán, thình lình cửa mở, giương mắt thấy chính nữ tướng quân ra mở cửa, người đứng bên trong nhìn mình, lòng chợt hoảng, vội rút tay về, lui lại khom người.

“Khởi bẩm Vương phi, là điện hạ bảo nô tỳ đến. Bệ hạ muốn gặp mặt Vương phi, điện hạ sai nô tỳ đến hỏi một tiếng xem Vương phi có tiện không. Nếu tiện, ngài sẽ đưa bệ hạ đến đây. Cách đây không xa có chính phòng, phiền Vương phi dời bước đến đó trước.”

Trương Bảo truyền lời xong, cúi đầu cụp mắt, không dám nhìn thẳng, lòng tràn ngập nỗi kính sợ vị nữ tướng quân này.

Cũng chẳng phải bề ngoài nữ tướng quân doạ người hay là khí thế ngút trời làm cậu chàng khiếp đảm. Mà ngược lại, đêm nay lần đầu tiên nhìn thấy, tên tiểu hầu cũng xem như từng thấy qua chuyện lớn chuyện nhỏ các thứ cực kỳ bất ngờ. Trước đây từng nghe nhiều tin đồn liên quan tới nữ tướng quân, khó tránh khỏi có tưởng tượng sẵn trong đầu*, lại không ngờ khi mới nhìn nữ tướng quân cũng chẳng khác một cô gái bình thường là mấy. Không chỉ thế, ngài ấy cũng chẳng mày rậm mắt to như Trương Bảo tưởng. Mắt mũi nữ tướng quân thật đẹp, mi mắt như hai hàng đuôi phượng, khóe mắt một đường đậm quét lên, thẳng như bướm bay.

(*)nguyên gốc: tiên nhập vi chủ: vào trước là chủ.

Nét mặt như này, nếu đặt trên người các cô nương khuê các, phải là mi như thúy vũ thu thuỷ cố phán*, song đặt ở nữ tướng quân lại chẳng khiến người sinh ra liên tưởng đó, vì khi ngài đứng đó, một dáng eo hông, cực kỳ thẳng thớm phá lệ, cộng thêm ngài chẳng khi cười, người tao nhã như kiếm đập tới trước mặt, như tuyết lớn át tùng, lấn át mọi thứ khác.

(thúy vũ: xanh mướt như chim khổng tước, dùng để so màu xanh của lá trà, mượn chỉ trân bảo, so lông mày của mỹ nữ – cố phán: ánh mắt như lưu luyến nhìn quanh)

Không chỉ thế, ánh mắt ngài ấy, không phải hùng hổ dọa người như Trương Bảo vốn nghĩ, mắt sắc như đao, lúc đối mặt bộc lộ sát khí giết người vô hình. Mà ngược lại, bạn đao bầu bạn với nữ tướng quân trên chiến trường làm sao thì không biết, chứ đêm nay cậu thấy, ánh mắt ngài sâu kín, không thấy vui giận, thậm chí có thể nói là hòa nhã.

Trương Bảo đoán, thường ngày ngài ấy hẳn là người trầm mặc ít nói.

Thuật xem tướng của mình có đúng hay không thì sau này lại bàn. Dù sao thì đương nhiên nữ tướng quân vẫn khiến người trước mặt ngài không dám quá buông lỏng, nhưng mà tuyệt đối cũng chẳng đến nổi khiến người sợ hãi.

Nguyên nhân khiến cậu cẩn thận thế này, trừ bản thân nữ tướng quân còn có cả thái độ của Nhiếp Chính Vương đối với ngài.

Cứ xem chuyện đêm nay đi, Nhiếp Chính Vương một khắc trước vừa trải qua vụ ám sát kinh hồn lại điềm nhiên như không tự tay dìu ngài xuống địch xa, giờ thì bệ hạ muốn gặp, Nhiếp Chính Vương cũng định đưa bệ hạ xuyên qua nửa vương phủ, tới gặp mặt ngài.

Nhiếp Chính Vương rất cẩn thận giữ lễ tiết, theo tác phong bình thường của ngài, lẽ nào không phải nên mời Vương phi nữ tướng quân đến Chiêu Cách đường chỗ Thiếu đế mà ra mắt? Đêm nay lại làm thế này, tất nhiên là vì cân nhắc để ngài thuận tiện, dễ thấy rằng trong cảm nhận của điện hạ, vị nữ tướng quân này quan trọng bực nào, địa vị đặc thù cỡ nào.

Trương Bảo truyền lời, giỏng tai đợi trả lời.

Cô trầm ngâm một lát, nói: “Thôi để ta sang bên ấy.”

Phía bên Chiêu Cách đường, Thúc Tiển đứng ngay cửa không ngừng nhìn quanh, “Tam hoàng thúc, sao tân phòng lại không ở Giản Nguyệt hiên ngài vẫn luôn ở thế? Gần chỗ này, mà ngài cũng ở đó lâu rồi, dọn sang bên kia chẳng phải rất không tiện ư?”

“Đã là đón tân phụ, tất nhiên phải dùng nơi tốt nhất. Ở đấy kiến trúc chỉnh tề, không còn gì thích hợp hơn.” Thúc Thận Huy như không muốn bàn chuyện này, hờ hững đáp.

Thúc Tiển cũng chỉ thuận miệng hỏi, ậm ừ, “Đi được chưa ạ?”

Thúc Thận Huy đoán Trương Bảo đã đến thông báo, con gái Khương gia cũng đã chuẩn bị kỹ càng, bèn đứng dậy đưa cháu bước ra, nói, “Tiển nhi, cô ấy từ Nhạn Môn đi cả đoạn đường dài vào kinh thành, rất mệt, chưa được nghỉ đã phải cưới, lễ nghi rườm rà thế nào người cũng biết. Ban nãy người đến, khi Tam hoàng thúc đi ra cô ấy đã ngủ. Người cứ khăng khăng đòi gặp, Tam hoàng thúc đã bảo cô ấy ra chờ ở Phồn Chỉ đường. Không phải là cô ấy bất kính với ngài, mà là —— “

“Biết rồi biết rồi, là thím quá mệt! Không cần đến đây! Chúng ta nhanh đi!” Thúc Tiển quả thực không thể chờ nữa, giục.

Thúc Thận Huy dẫn cháu định ra Chiêu Cách đường, dừng bước.

Khương Hàm Nguyên tự đến đây, xuất hiện dưới thềm ngoài cửa.

Rất nhanh, y kịp phản ứng, cất bước ra đón, thấp giọng giải thích: “Khương thị, bệ hạ gấp rút cứ nhất định phải gặp mặt nàng đêm nay mới đi, phiền nàng nghỉ ngơi. Song nàng đáng lý không cần đến đây, ta đưa ngài qua đó cũng được mà.”

“Điện hạ quá lời. Bệ hạ đã đến, há có thể thất lễ.” Cô ngắn gọn đáp.

“Thần là Khương Hàm Nguyên, không kịp bái kiến bệ hạ, mong bệ hạ thứ tội.” Khương Hàm Nguyên thi lễ trong quân với thiếu niên đối diện.

Cặp mắt Thiếu đế chằm chằm nhìn cô, mặt không giấu vẻ kinh ngạc, nhìn thật không giống vẻ người cao quý bậc trên. Nếu thái phó biết được, e là đau lòng ôm đầu tự trách dạy dỗ bất lực.

Thúc Thận Huy nhẹ ho, nhắc nhở.

Thúc Tiển tỉnh táo lại, vội bảo miễn lễ, xoay mặt sang Thúc Thận Huy nói: “Tam hoàng thúc! Ngài bảo nữ tướng quân… Không! Là Tam hoàng thẩm! Bảo sau này sau lưng người khác, cũng không cần thi lễ quân thần với ta!”

Thúc Thận Huy chỉ nhìn vào mắt Khương Hàm Nguyên, không lên tiếng theo ý Thúc Tiển.

Khương Hàm Nguyên cũng không dừng lại, tiếp tục lễ tiết, lễ xong, đứng thẳng dậy nói: “Đa tạ bệ hạ.”

Thiếu đế không nói, cứ thế đứng một chốc, bỗng vỗ trán, như vừa tỉnh mộng: “Không còn sớm nữa, ta thật sự phải trở về cung! Nếu không mẫu hậu biết sẽ lo lắng.”

Thúc Thận Huy liền tiễn cậu, dĩ nhiên Khương Hàm Nguyên cùng đưa, ra Chiêu Cách đường, xuống bậc thềm, Thiếu đế nói: “Tam hoàng thẩm, người không cần tiễn, tự ta đi.”

Thúc Thận Huy xoay qua Khương Hàm Nguyên: “Nàng dừng bước được rồi, để ta đưa bệ hạ ra ngoài.”

Khương Hàm Nguyên dừng bước nơi bậc thềm. Thúc Thận Huy cùng bọn Lưu Hướng chờ bên ngoài tiếp tục bước.

Thoạt đầu Thiếu đế chẳng hó hé, chỉ vùi đầu bước, đợi qua góc rẽ chỗ hành lang thông đến cổng chính, lén quay lại, nhanh chóng ngó ra sau lưng, giật giật ống tay áo Thúc Thận Huy.

“Tam hoàng thúc, có lộn không! Có phải Khương Tổ Vọng còn có đứa con gái khác? Thím ấy thật sự là Trường Ninh tướng quân sao? Ta nhìn thế nào cũng không giống! Là cổ sao? Có thể ra đánh trận, hàng được một đám binh tướng thủ hạ?”

Trước mắt Thúc Thận Huy lại hiện ra dáng vẻ cô vừa đến, người vẫn mặt hỉ phục nhưng mũ hỉ đã gỡ, trên đỉnh đầu đen nhánh chỉ kết một búi tóc to dầy, ghim một cây trâm đầu phượng đơn giản cố định. Dù là đêm nay, cô cũng không son phấn, song khuôn mặt, vẫn có thể lấn át hỉ phục trên người.

Khó trách Thiếu đế ngạc nhiên đến vậy, hẳn cô Tướng quân này khác biệt hơi lớn với tưởng tượng của ngài.

Thật ra đừng nói ngài ấy, ngay bản thân mình, vừa liếc thấy, không phải có mấy phần ngạc nhiên sao.

“Tam hoàng thúc ngài nói một câu xem nào!”

Thúc Thận Huy vô thức quay lại, nhìn thoáng qua.

Cô vẫn còn đứng dưới bậc thềm Chiêu Cách đường xa xa, ánh đèn trong tuyết bao phủ, bóng dáng trầm tĩnh. Nhìn lại, tựa như đỉnh đầu tan vào bóng đêm mông lung, không rõ ràng.

“… Hoặc là, không phải là Khương Tổ Vọng vì lấy tiếng, đã để con gái mạo hiểm nhận công lao kẻ khác, nên mới có danh Trường Ninh tướng quân?”

Bên tai lại nghe giọng thì thào nghi ngờ của Thiếu đế.

Thúc Thận Huy nhớ đến lúc mình và cô ấy vừa thoáng đối mặt ban đầu, cửa địch xa mở ra, y nhìn thấy đôi mắt kia chợt ngước lên.

Đôi mắt kia rất đẹp, song khiến y khắc sâu ấn tượng, lại là ánh sáng trong đôi mắt ấy.

Là một đôi mắt chỉ vì quen nhìn thấy sinh tử mới có được một đôi mắt sâu không gợn sóng. Còn bàn tay kia, y từng dắt qua cực ngắn ngủi, không lớn, hắn một chưởng liền đủ để đầy nắm, nhưng hắn chỉ, lại rõ ràng chạm đến trong lòng bàn tay sinh từng mảnh đao kén.

“Chớ nói hươu nói vượn.”

Y thu ánh mắt đặt lên người kia lại, quay đầu, ngắt lời bậy bạ không đâu của tay cháu.
 
Chương 18


Thúc Tam lang: lần đầu nhớ lại mà kinh

Khương Hàm Nguyên chờ ở chỗ cũ, lát sau, thấy Thúc Thận Huy quay lại một mình, dừng trước mặt, mỉm cười nói với mình: “Bệ hạ đã hồi cung, đêm nay làm phiền nàng rồi. Về phòng thôi.”

Hai người quay về tân phòng, sóng vai cùng nhau nhưng hơi cách một khoảng, đi qua một khu vườn, một bức tường bao, rồi lại một khu vườn, một bức tường bao, cả đoạn đường từ đầu đến cuối không nói gì, cuối cùng lúc ngang qua chỗ trì viên (sân vườn có hồ nước), y hơi nghiêng mặt qua, lặng lẽ liếc cô, thấy cặp mắt cô nhìn thẳng phía trước, bỗng mở miệng, chỉ vào giới thiệu: “Trì viên này, giờ tuy ngắm không đẹp mấy, song  đợi sắc trời ấm lên, tháng sáu tháng bảy, hoa sen đương mùa, hương thơm ngào ngạt, sẽ mang mấy phần nét đẹp Giang Nam. Nếu nàng thích, còn có thể chèo thuyền du ngoạn đấy…”

Khương Hàm Nguyên quay lại, ngắm ao nước lớn đen thui chẳng thấy rõ gì, ờ một tiếng.

Y như đang định nói tiếp, thấy cô có vẻ chẳng hứng thú lắm, lại ngậm miệng. Cứ thế, hai người tiếp tục yên lặng đi qua trì viên, rồi lại tới một hành lang, quay về tân phòng. Đóng cửa, đi qua gian ngoài, vào bên trong, cuối cùng, đã về nơi bắt đầu.

Có điều, có lẽ đi về một vòng xong, cảm giác xa lạ ban đầu kia hình như đã phai bớt, thần sắc y đã khôi phục tự nhiên, dùng giọng chứa mấy phần áy náy mỉm cười bảo cô: “Đêm nay là tân hôn đôi ta mà lại giày vò thế này, thật không thể ngờ. Làm khó cho nàng rồi. Không còn sớm nữa, nghỉ ngơi thôi.” Rồi lại bước đến chỗ treo mũ áo lần nữa, lần thứ ba đêm nay, cởi thắt lưng.

Lần này lại thuận lợi, tháo thắt lưng rất nhanh, cởi lớp áo ngoài, đến khi chỉ còn lớp quần áo trong, y thoáng xoay sang liếc cô, thấy cô vẫn đứng thẳng tắp, như đang nhìn mình, song nhìn lại, ánh mắt kia dường như cũng chẳng đặt nơi mình mà như đang xuất thần, ngẫm nghĩ, đi đến chỗ cô, đứng trước mặt cô cùng đối mặt, chỉ cách nhau chưa quá một khuỷu tay.

Đây đúng là giây phút hai người gần nhau nhất, kể từ khi gặp mặt đêm nay.

Theo tiếng bước chân y vừa dừng thì trong phòng cũng trở nên im ắng lần nữa, còn nghe được tiếng hơi thở và tiếng tim nến cháy tí tách, mà hai cái bóng ở màn đỏ chỗ sâu kia dường như thêm mấy phần thân mật.

“Khương thị.” Y thử thăm dò, nhẹ giọng gọi cô.

Đôi mi đang rũ xuống giật giật. Cô ngước mắt đáp lại.

“Nếu ban nãy không phải bệ hạ đến, ta có câu muốn cho nàng biết…” Y chăm chú nhìn vào mắt cô, tiếp tục nói.

Cô vẫn không định lên tiếng, chỉ nhìn y.

Có vẻ y đã kịp nhận ra tính cô, không cần mở miệng thì không mở miệng, cũng chẳng đợi cô đáp, tự nói tiếp: “Bất kể bắt nguồn vì đâu, hôm nay đôi ta đã thành vợ chồng, là chuyện cả đời. Sau này ta tất sẽ kính nàng. Nàng muốn gì, chỉ cần ta có thể làm thì ta tất sẽ toại tâm nguyện nàng.”

Y dùng hai lần chữ “tất” (chắc chắn) nói với nàng, ngữ điệu rất trịnh trọng.

Cả phòng sáng rực ánh nến. Y nói xong, chăm chú nhìn cô, trước sau khuôn mặt vẫn ngậm nụ cười mỉm. Thấy cô vẫn lặng thinh đứng thẳng, chần chừ một chốc, tay khẽ động, rồi, từ từ đưa lên, thăm dò, cuối cùng ngón tay đặt lên cây trâm vàng cài trên búi tóc cô.

Y muốn tháo tóc giúp cô.

Theo cây trâm được rút từng tấc từng tấc ra, búi tóc to dày của cô, cũng từ từ lỏng lẻo. Y không ngừng lại, tiếp tục từng chút, từ từ rút trâm giúp cô dâu.

Trên màn đỏ chỗ sâu, bóng hai người trong ánh nến, xem ra, đã dần dần lộ nét kiều diễm, đừng nói chi hình.

Đến khi y sắp rút xong cây trâm vàng, tóc cô cũng sắp xõa xong, bỗng cô chợt phản ứng, lắc đầu, tránh khỏi tay y, người cũng hơi lùi về một bước.

“Điện hạ, lời ngài vừa nói, là thật?” Cô mở miệng, hỏi.

Thúc Thận Huy nhìn cô, chậm rãi thu tay đang bị bỏ rơi đơ giữa không trung, gật đầu.

“Thế thật đúng lúc. Ta có một chuyện.”

“Nàng nói đi.”

“Ta muốn nhanh chóng quay về Nhạn Môn.”

Thái độ trực tiếp của cô, cùng với hành động tránh thoát khỏi tay y làm cơn lúng túng vừa mới giảm đi lại ập lên.

Hình như y cũng không bất ngờ với yêu cầu đưa ra, trên mặt vẫn mỉm cười, hơi suy tư rồi sảng khoái gật đầu, “Sau một năm, sang năm sẽ bàn lại thì thế nào? Nàng biết đấy, việc thành hôn của hai ta, trên dưới triều đình đều nhìn vào.”

“Một tháng!” Khương Hàm Nguyên nói tiếp.

Ý cười biến mất nơi bờ môi y. Chăm chú nhìn cô.

Vẻ mặt cô vẫn tự nhiên.

“Nửa năm đi! Nửa năm sau, lại sắp xếp nhé.” Y chần chừ một lúc, nhường một bước.

“Hai tháng!”

Lần này, dường như y chợt bị cô chọc cười, khẽ lắc đầu, cũng không nói  gì, cứ thế nhìn cô.

Cô cũng nhìn y, ánh mắt không hề nhượng bộ hay do dự: “Điện hạ, cưới cũng đã cưới xong, nếu điện hạ cũng tin tưởng cha con ta, ta thấy việc này cũng không phải là không thể. Thân xác này của ta, ở đâu thì có gì liên quan? Huống chi ta vốn là biên tướng, rời kinh còn cần cố kỵ lời ai?”

Cũng không biết là bị cô thuyết phục, hay là vì sự kiên quyết trong giọng cô, y trầm ngâm, cuối cùng giương mắt nói, “Hiện giờ Mẫu phi của ta đã về quê cũ tĩnh dưỡng. Vầy đi, tạm thời nàng cứ yên tâm ở lại, đợi vài hôm, chuyện trong kinh ta có chỗ rảnh rỗi, ta sẽ đưa nàng cùng đi thăm bà, xong xuôi, dùng lý do quân tình, nàng trực tiếp về Nhạn Môn. Thế nào?”

“Nàng yên tâm, ta sẽ nhanh chóng sắp xếp, chậm nhất trong vòng ba tháng, sớm hơn được thì càng tốt, sẽ không làm chậm trễ nàng quá lâu.” Y bồi thêm một câu.

Kết quả thế này, nói thật là vượt qua mong đợi của Khương Hàm Nguyên. Lúc còn trong địch xa chưa bước vào phòng, cô đã nghĩ mãi đến vấn đề quan trọng nhất đêm nay này.

Cô đã dự kiến ít nhất cũng kẹt ở đây nửa năm, giờ rút ngắn một nửa, tâm tình bỗng trở nên vui vẻ, ngó lại người trước mắt này, hình như cũng trở nên hơi thuận mắt.

Chỉ cần có thể về, lại mau chóng vậy, chuyện khác cũng không còn gì đáng kể để so.

Cô gật đầu: “Đồng ý.”

Lời cô vừa dứt, hai người lại quay về cảnh không lời, mà cũng chẳng thể quay lại cảnh đang rút trâm ban nãy, đứng đối diện một lát, đêm càng thêm khuya không thể tránh, tiếp theo bất kể thế nào đêm tân hôn cũng không vượt qua nổi vấn đề đi ngủ.

Ánh mắt y từ nhánh tóc mai của cô lướt lên cây trâm mình vừa định rút xong, vai khẽ động, đang còn chần chừ thì thấy Khương Hàm Nguyên đột nhiên tự đưa tay rút trâm gài tóc, búi tóc vốn đã lỏng lẻo xõa tung, mái tóc dày lộn xộn rớt xuống vai cô.

Cô cũng chẳng cần nhìn, tiện tay ném một cái, “roẹt”, vật trong tay bay lên mặt bàn cách đó chừng hơn mười bước.

Tiếp đến cô xoay người, vén váy, rút từ trong một vòng băng vải bảo vệ đầu gối bao lấy cặp chân dài của cô một thanh chủy thủ cắm kế bên, cũng dùng cùng một cách, ném lên bàn, giải thích, “Điện hạ yên tâm, tuyệt đối không có ý gây bất lợi cho ngài, chỉ là xưa nay quen rồi, đã vào cung, ta tự hiểu.”

Dứt lời, cô lại trơn tru tháo thắt lưng, bỏ áo ngoài, cuối cùng giống như y, trên người chỉ còn một lớp áo trong mỏng mảnh, đứng đối diện y, chầm chậm giơ cánh tay, lộ ra cánh tay trải đầy vết thương dữ tợn, mở hết đôi tay đầy vết chai thô ráp, phô toàn bộ người mình ra trước tầm mắt y.

Mới đầu y yên lặng nhìn cô rút trâm tháo tóc, rồi thanh chủy thủ cô rút từ trên người, mơ hồ thấy hơi quái lạ thôi, song tiếp sau cô cởi áo tháo đai lưng, lại giang tay phô cả người ra trước y, cử động tuỳ tiện, thần sắc y thoáng có vẻ mất tự nhiên.

“Mặt mũi xấu xí như ta, điện hạ ngài nhìn rõ rồi đó. Ta từ nhỏ lớn lên ở quân doanh vùng biên cương, ngoài cái thân xác là nữ này, thứ khác, đã không khác gì đàn ông. Nếu điện hạ thật sự tình nguyện ngủ chung phòng với ta, ta cũng không ngại.”

Nói xong, cô đợi câu trả lời của y. Y trầm mặc.

Cô gật nhẹ, “Không còn sớm nữa, vậy nghỉ ngơi thôi!”

Cuối cùng cô nói luôn giúp y, xoay người đi đến trước giường, nằm xuống nhắm mắt luôn, chờ lát, không có động tĩnh, mở mắt, vẫn thấy y đứng nguyên tại chỗ, ngó mình, người không nhúc nhích, vẻ như ngơ ngẩn.

Không ngờ rằng dưới lớp ngoài người này lại là tính tình thế kia, dây dưa dài dòng, rề rề rà rà, cô cảm thấy thật ngoài ý muốn.

Như tên này, ở trong Thanh Mộc doanh của cô, làm chân khuân vác còn sợ là không đủ lanh lẹ.

“Nếu điện hạ không có ý này, ta không sao, ta ngủ gian ngoài nhé.”

Y như thế này, Khương Hàm Nguyên cầu còn không được.

Xoay người một phát đã ngồi dậy.

Chỗ gần cửa sổ ở gian ngoài, có kê một chiếc giường mỹ nhân, tuy dài hẹp thấp dùng để làm chỗ nghỉ ngơi ban trưa. Song để một người ngủ cũng dư xài.

“Không không, nàng hiểu lầm rồi! Đã thành vợ chồng, đây là đạo làm người, huống hồ là ta cầu thân với nàng, sao ta không muốn? Nghỉ ngơi thôi!”

Y thoáng như vừa bừng tỉnh mộng, lập tức lên tiếng ngăn cản, nói xong bước đến trước giường, đang định ngồi lên, thấy ánh nến đặt sau lưng sáng rực chiếu lên giường trước mặt, soi da tóc người rõ ràng, dừng lại, lại quay người thả hai mảnh màn treo ở trước giường.

Màn trướng nặng nề rủ xuống khép kín, chốc lát ngăn hết ánh sáng bên ngoài. Khoảng không gian chật hẹp bên trong trở nên mờ tối.

“Khương thị, nàng nhích người qua chút để ta lên…” Y đứng trước giường, thấp giọng nói.

Cũng không phải giường không đủ lớn không đủ hai người cùng nằm, mà là cô đang nằm phía ngoài.

Đây cũng là thói quen sinh hoạt nhiều năm trong quân doanh của cô. Ban đêm gặp còi khẩn cấp gọi ra trướng là chuyện thường ngày, người ngủ phía ngoài, tiện bề xuống giường.

Cô nhìn y chằm chặp, dịch qua một bên. Y chầm chậm tháo giày, lên giường, ngồi xuống, mở tấm mền, đắp cho cô trước, đắp cực kỳ kín mít đến cổ, sau đó nhúc nhích người, rồi từ từ, nằm xuống.

Ban đầu hai người như đều ngủ thiếp đi. Khương Hàm Nguyên nhắm mắt, thật sự muốn cứ thế mà ngủ. Một lát sau, cảm thấy dưới chăn có một bàn tay từ từ duỗi tới mình, bắt đầu lục lọi, tháo dây buộc áo trên của cô. Cô vẫn không nhúc nhích, chờ đợi, lại cảm thấy bàn tay kia dừng ở eo mình một chút, cả buổi trời, mà tháo dây thắt lưng cũng không trót lọt, đến khi cô thật sự không kiên nhẫn được nữa, đẩy tay y ra, tự hai ba phát tháo xong.

Người đàn ông bên cạnh lặng im một lát, phủ lên người cô.

Khương Hàm Nguyên cực kỳ khó chịu, chịu đựng xúc động muốn đạp y một phát té văng, nhắm mắt, tinh thần bắt đầu chu du.

Đầu tiên cô nhớ đến đêm trước hôm xuất phát, lão ma ma trong thành Vân Lạc cứ nhất thiết phải đến dặn dò cô chuyện riêng tư, cô cũng chẳng lắng nghe, toàn bộ chỉ nắm một câu chính, nhịn một chút, là qua, sau này rồi sẽ biết niềm vui sướng của đời sống vợ chồng.

Tiếp đó, chợt nhớ tới năm mười mấy tuổi vô ý nhìn thấy cảnh ngựa phối trong chuồng ngựa gần quân doanh, lúc ấy không khỏi kinh hãi. Tuyệt đối chưa từng nghĩ, ngựa đực phát dục so với bình thường lại chênh lệch đến thế, dữ tợn xấu xí vô cùng. Sau này, cô không còn chút rung động nào. Lúc biên cương không có xung đột và chiến sự, ban đêm, đám đàn ông ban ngày chưa bị luyện binh hao hết tinh lực cùng tụ tập, thô tục gì cũng nói cho được. Lẽ cộng sinh ở trời, vạn vật tương tự. Người và ngựa, bản chất có gì khác biệt. (=]]!!!)

Thôi, không thú vị. Không muốn. Cô lại đổi qua nghĩ đến việc mình quyết tâm ôm làm những ngày tới. Cứ thế, cũng không biết đã bao lâu, hình như cũng hơi lâu, mà hình như chỉ một chốc, phát hiện y cũng không đi bước tiếp theo, nằm trên người cô, thoạt đầu còn động mấy cái, từ từ, cuối cùng như chết, chớ nói thứ vui sướng vợ chồng gì, ‘nhịn một chút, là qua’ gì gì trông mãi mà không đến, không khỏi hồ nghi, mở mắt, đẩy vai y.

“Ngài mau lên!” Cô giục.

Y khẽ động, sống lại, “Ta… Ta có hơi… Thật có lỗi với nàng…”

Nghe giọng y, như là người trong quân doanh ăn chưa no mà luyện, chột dạ, giọng nói cũng càng ngày càng thấp, cuối cùng biến mất, hay là do thực sự khó mở miệng, dừng đoạn, “Chi bằng… Lần sau…”

Giọng nói kia đậm ý xấu hổ, “Thật ra là đêm nay, ta cũng không biết tại sao… Hay là do quá mệt…”

Nói xong, y lại vì mình không được mà giải thích, “Mấy ngày tới, triều đình sẽ cho ta nghỉ phép vì đại hôn, nên dạo rồi việc dồn rất nhiều, còn phải chuẩn bị hôn sự, ta đã mấy đêm liên tiếp chưa được ngủ ngon.”

Khương Hàm Nguyên hiểu rồi.

Vậy cũng tốt hơn là ở trong quân dùng thương lâm trận, còn không nâng nổi thương.

Cô đã rất thẳng thắn chủ động đến bước này, y còn không được.

Cô tin là y tuyệt đối không phải cố ý. Như vậy cuối cùng, đúng là do mình không thể làm y có hứng thú.

Trong đầu cô liền hiện ra cái hôm ở trong chùa Hộ Quốc đã chứng kiến hết cả, nữ lang Ôn gia đẹp đến động lòng, nhận thấy, càng như trút được gánh nặng, thậm chí còn thấy hơi thương hại y.

Người sống trên đời, đều có đau khổ. Người buôn bán nhỏ có bất hạnh của người buôn bán nhỏ, Vương công Hoàng tộc có bất hạnh của Vương công Hoàng tộc.

Hi sinh của người này thật khiến cô thông cảm. Cưới mình đã không tính, còn phải nỗ lực nịnh nọt.

Ánh sáng trước mắt chỉ lờ mờ nhưng cũng đủ để thấy rõ người. Cô thấy y cúi đầu nhìn mình, mặt rất xấu hổ, thần sắc sa sút, trên trán hình như còn rịn một lớp mồ hôi mỏng.

“Không sao, chính ta cũng mệt, ngủ thôi.” Cô đáp, không quên an ủi một câu.

Thấy cô nói vậy, dường như y lại hối hận, chần chừ một lúc, “Nàng đợi một lát được chứ? Hay là ta lại đến —— “

“Điện hạ!” Cuối cùng Khương Hàm Nguyên không nhẫn nại nổi, trực tiếp ngăn cản.

“Điện hạ thật không miễn cưỡng thế! Ta biết điện hạ đối với ta không hề có ý bất kính. Chỉ cần cho ta mau quay về ta đã cảm kích rất nhiều.” cô thành khẩn. Đúng vậy, đây là lời trong lòng cô.

Người đàn ông yên lặng xuống khỏi người cô.

Khương Hàm Nguyên ổn định, sửa sang lại y phục xộc xệch trên người, trở mình quay vào trong.

Đêm nay không ai nói gì nữa. Cô không biết người bên cạnh cùng mình chung gối ngủ thế nào, còn cô, ôm bầu tâm sự lớn cả đoạn đường, ngủ một giấc trọn vẹn hiếm có, rồi bị tiếng động củangười bên cạnh đánh thức.

Cô không kén chỗ ngủ, ở đâu cũng ngủ được, nhưng xưa nay ngủ nông, thảng hôm nào không bị ác mộng thì sẽ ngủ ngon, chợt mở mắt, nhìn thấy người bên cạnh từ từ rời gối, vén mền như định lặng lẽ rời giường, chợt thấy cô đã tỉnh, dừng lại, lập tức nói: “Trước giờ Thìn đến tông miếu là được, còn sớm, nàng ngủ thêm chút. Ta có việc, dậy trước.”

Sắc mặt y thế nào, vì sáng lờ mờ nên Khương Hàm Nguyên cũng không nhìn rõ lắm, nhưng nghe giọng thì khô khốc, còn có mấy phần khàn nghẹn. Chỉ thấy y nói xong xuống giường, đưa lưng về phía cô, mặc y phục rất nhanh, cũng không dừng lại một khắc, xốc màn bước ra.
 
Chương 19


ổn vương có người bạn tốt

Lúc ấy vừa chớm canh năm.

Xưa nay nếu Nhiếp Chính Vương ngủ ở Vương phủ, bình thường giờ này đã thức dậy, sáng nay vợ chồng mới cưới cũng phải dậy sớm đi tông miếu bái lạy, nên lúc này, hai bên hành lang ngoài cửa, Lý Tường Xuân Trương Bảo và Trang thị, một viên nữ quan hầu hạ mẹ của Thúc Thận Huy dẫn theo thị nữ các loại, đều đã chờ sẵn. Thấy Nhiếp Chính Vương ra mở cửa, cả đám vào hầu rửa mặt, nhưng không thấy Vương phi mới cưới ở gian ngoài.

“Đêm qua nàng ấy mệt, còn đang ngủ, ma ma có thể đến trễ chút.”

Thúc Thận Huy bắt gặp ánh mắt Trang thị nhìn vào phòng trong, thoáng chần chờ, bèn nói, lời chưa dứt đã nghe tiếng bước chân sau lưng, quay lại, nào ngờ cô đã bước ra.

Sáng hôm nay, nói thật, y hoàn toàn chưa thoát ra khỏi bất ngờ to lớn đêm qua, vô thức không muốn giáp mặt cô, càng không tính nhìn vào mắt nhau, thấy cô nhìn mình miễn cưỡng nhẹ gật đầu, lập tức xoay mặt, yên lặng tự rửa mặt.

Trang thái phi không ở kinh thành, chuyện trong hoàng cung từ lâu đã không hỏi tới, mối quan tâm duy nhất ở Trường An chính là Nhiếp Chính Vương. Mấy tháng trước, được biết Nhiếp Chính Vương sắp đón nữ tướng quân làm phi, bèn cố ý phái Trang thị ở cạnh mình nhiều năm về, hầu hạ vị nữ tướng quân vương phi tương lai.

Nữ tướng quân không phải cô gái bình thường. Sau buổi mới gặp đêm qua càng có ấn tượng đó, đồng thời cảm thấy cũng không dễ tiếp cận. Cho nên Trang thị có phần quan tâm, cũng không rõ bận sau đêm qua Nhiếp Chính Vương và cô ấy ở cùng nhau thế nào. Mới vừa nghe ngài bảo thế, lại thấy trên vành mắt ngài có quầng xanh nhạt, dường như đêm qua không ngủ đủ, liền đoán sai, cho là ngài ấy và nữ tướng quân như cá gặp nước, người trẻ tuổi không biết tiết chế mà ra, mới thả lỏng trong lòng, ai ngờ quay qua quay lại, Vương phi cũng bước ra.

Trang thị nhìn hai người, nữ tướng quân đầy tự nhiên, Nhiếp Chính Vương thì có phần không thích hợp, đúng là thần sắc đờ đẫn, hình như cả hai còn chẳng nhìn thẳng nhau, xem thế nào cũng không giống là đêm qua như cá gặp nước vừa ngủ chung một chăn, trong lòng không khỏi dậy lên nghi ngờ, song cũng chẳng mảy may biểu lộ ra mặt, dẫn thị nữ hầu nữ tướng quân lặng lẽ rửa mặt.

Bên kia, Thúc Thận Huy thay quần áo xong, Lý Tường Xuân nói, “Lan tướng quân đã đến, đang chờ ở Khánh Vân đường ạ. “

Thúc Thận Huy đang muốn đi gặp Lan Vinh, dợm bước, dừng lại, quay lại nói với Khương Hàm Nguyên, “Ta đi một lúc, nàng không cần chờ ta, cứ dùng bữa sáng trước.” lúc nói, mắt nhìn miệng cô, dứt lời liền ra ngoài. Trương Bảo bưng chung nước nhỏ đuổi theo, “Điện hạ, trời lạnh bụng rỗng, uống ngụm nước ấm người —” y khoát tay áo, chẳng quay đầu, cất bước vội vàng bước ra cửa, xuống bậc, bóng người biến mất trong sắc trời mùa đông lạnh lẽo tối om.

Khương Hàm Nguyên đói bụng đã lâu, đương nhiên sẽ không chờ, tự đi ăn, Trang thị dẫn thị nữ hầu hạ.

Khương Hàm Nguyên không biết ai, thấy người phụ nữ trung niên này dáng người trung bình, da mặt trắng nõn, tóc chải chỉnh chỉnh tề tề, dáng vẻ giàu kinh nghiệm mà thân thiết, lại hết sức kính trọng mình. Nhìn tuổi tác và thái độ người ngoài đối xử với người phụ nữ này hẳn có địa vị, thấy bà tự tay hầu mình ăn, liền nói không dám.

Phụ nhân cười nói, “Tôi theo họ mẫu phi của điện hạ, Vương phi gọi tôi Trang thị là được. Có thể phụng dưỡng Vương phi chính là vinh hạnh của tôi, Vương phi cứ việc sai bảo.”

Lại tiếp, “Xưa kia tôi có học trù thiện mấy ngày, có thể làm một hai thức nhắm, giờ đến đây là để phục vụ Vương phi. Cũng không biết khẩu phị Vương phi thế nào nên tự lung tung làm mấy thứ, Vương phi nếm thử, không thích loại nào, lần sau tôi lại đổi.”

Bàn ăn bày tràn ngập từ trái sang phải đủ để mười người ăn no. Ngoài những món điểm tâm Trường An thường gặp còn có tầm mười món khác, chén nến lung linh, thức ăn tinh tế, chạm hoa trổ răng, cảnh đẹp ý vui, đều là người phụ nữ này tự tay làm. Trong đó bày gần Khương Hàm Nguyên nhất là một đĩa nhìn thì giống thịt, sắp xếp tinh xảo khỏi phải nói, dưới ánh đèn, món thịt ánh lên sắc đỏ bóng loáng khiến người nhỏ dãi. Khương Hàm Nguyên gắp một miếng, vào miệng thật ngọt.

Nhiều năm qua cô và đồng đội trước sau như một ở quân doanh, ăn uống chủ yếu vì mục đích chống lại cái đói và cái lạnh, thức ăn thường cẩu thả, có là thịt thì cũng là thịt khối lớn đun nhừ, đa số là khẩu vị rất mặn, thịt ngọt như này đúng là lần đầu nếm được trong đời. Cứ tưởng sẽ dính ngấy, nhấm nháp nuốt xuống, hương vị trong veo, vỏ ngoài giòn tan, thịt còn non mềm vô cùng như muốn tan vào miệng, nuốt xuống, răng môi dư vị ngọt lại thoảng mang hương hoa quế nhè nhẹ thơm ngát.

Cô có phần vui vẻ.

Đĩa vốn xếp khéo léo, trừ vật tô điểm, ở giữa bày thịt cũng chỉ tầm bảy tám miếng, như thức ăn cho chim, mới hai ba miếng là hết.

Phụ nhân thấy cặp mắt cô tỏa sáng, âm thầm ghi nhớ, đợi ăn xong, hớn hở nói: “Thì ra khẩu vị của Vương phi với điện hạ đúng là giống nhau! Đây là đĩa vịt giòn rim mật ong, vốn là món của vùng quê cũ phương Nam của Thái phi, lúc nhỏ điện hạ đi theo Thái ph, cũng thích nhất ăn món này. Vốn là dùng thịt ức vịt non thái mỏng, lấy mật hoa ướp ngấm, xuân dùng lan, hạ lấy sen, đông lấy mai, nên dư vị đều có hương hoa song không hoàn toàn giống nhau, hiện giờ có hoa quế nên tôi bèn làm vịt giòn rim mật quế. Vương phi cũng thích, thật chẳng gì bằng, lần này nguyên liệu không nhiều, lần sau tôi lại làm cho Vương phi ăn.”

Khương Hàm Nguyên đang đói, nghe xong chợt lại thấy như bị mấy miếng thịt mới ăn hết kia đã lấp đầy bụng, thầm hối hận không nên ăn thứ này, trong phút chốc chẳng còn khẩu vị, qua loa ăn mấy thứ đã no, đứng dậy về phòng.

Nhiếp Chính Vương nào biết đĩa thịt rim mật mình thích ăn cứ thế mà lật đổ khẩu vị tốt của nữ tướng quân, y bên kia trực tiếp đến thẳng Khánh Vân đường dùng để tiếp khách trong Vương phủ, Lan Vinh dẫn thái y đến chờ lệnh, đã chờ ở đấy.

Lan Vinh mặt mũi ngay thẳng thân thể tráng kiện, dáng vẻ đường đường. Trước kia ông chỉ làm một viên quan Tán kỵ thường thị* rảnh rỗi, vì Lan Phi mà phong huyện bá, ấp năm trăm hộ, không tính là không có quyền thế nhưng cũng không lộ, cộng thêm làm người khiêm tốn hiếm khi ra mặt, trong đám công khanh quý tộc ở Trường An luôn không để người khác chú ý. Mấy năm nay, thời thế xoay vần mới dần dần trở nên nổi bật. Một là vì thân phận cậu của Thái tử, hai cũng vì vốn rất có năng lực, có cơ hội thì sẽ từ từ lộ rõ, chưa từng làm việc sai lầm. Đáng quý hơn là, mấy năm qua dù Thiếu đế lên ngôi, ông ta cũng chẳng vì địa vị thay đổi mà sinh ra nửa phần kiêu ngạo tự mãn, nói làm đều thêm cẩn thận hơn trước, nên có phần đáng khen. Mấy tháng trước, quan trường chốn kinh đô chấn động do cái chết bất đắc kỳ tử của Cao vương, ông và phò mã Đô úy Trần Luân chia nhau chấp chưởng hai ti mới của Trường An, chính thức cầm thực quyền trong tay, trở thành phụ tá đắc lực của Nhiếp Chính Vương.

(*) tên 1 chức quan khuyên nhủ, cố vấn hoàng đế,…

Đêm qua nhận lệnh, không cần báo lại trong đêm mà sáng mai cũng được. Hiển nhiên ông hiểu vì là đêm động phòng của Nhiếp Chính Vương và nữ tướng quân nên ban nãy khi đến đây, ông bảo người thông sự của vương phủ không cần kinh động Nhiếp Chính Vương mà mình tự chờ nơi này. Đợi một hồi lâu, chợt thấy ngoài đường có ánh đèn chao động, tiếp đó, một bóng người xuất hiện dưới bậc thềm còn tờ mờ kia.

Nhiếp Chính Vương đang đi đến đây, Lan Vinh vội vàng bước ra ngoài đường đón, cúi người bái: “Nhiếp Chính Vương thứ tội! Vi thần quấy rầy Nhiếp Chính Vương nghỉ ngơi —— “

Trông Thúc Thận Huy tinh thần sáng láng, bước vào trong đường, ngồi vào chỗ xong ra hiệu ông cùng ngồi.

Lan Vinh kiên quyết từ chối không ngồi, Thúc Thận Huy cũng không miễn cưỡng. Lan Vinh đứng thẳng, đầu tiên bẩm báo chuyện sau khi thích khách đến, đêm qua, Địa môn ti chung sức Thiên Môn ti khẩn cấp trắng đêm loại trừ các chỗ quan trọng trong thành, tạm thời chưa có tình huống khả nghi mới. Sau đó, ông quản lý Địa môn ti tiếp tay với người của Trần Luân mở rộng trị an, kiểm tra rõ ràng, sắp xếp đội ngầm kiểm tra toàn diện cửa hàng trừ tai hoạ ngầm.

Thúc Thận Huy gật đầu, lập tức hỏi cặn kẽ tình hình đêm qua ông đi Cao vương phủ. Lan Vinh một năm một mười tường thuật lại.

Lúc ấy, ông đem theo ba Thái y của Thái y viện đến Cao vương phủ thăm bệnh, toàn bộ Vương phủ buồn thảm như mây mù.

“Sau khi vi thần đến, gặp Linh Thọ quận vương hai mắt đăm đăm u tối, miệng bị nhét kín không cho ông ta lên tiếng, thần lệnh người tháo ra, thì ông ta liền nói bậy…” Ông ngừng đoạn, cẩn thận thoáng nhìn qua người đang ngồi. “Nhiếp Chính Vương thứ tội, vi thần không dám nói.”

“Cứ nói thẳng ra là được.”

Lan Vinh thưa vâng, tiếp tục nói, “Thoạt đầu Quận vương nghiến răng nghiến lợi, bảo Nhiếp Chính Vương ngài…”

Ông ngưng lại, đưa mắt nhìn qua Nhiếp Chính Vương đang ngồi, cắn răng, “Ông ta nói Nhiếp Chính Vương ngài giả nhân giả nghĩa, muốn giết thì cứ sảng khoái mà giết, tốt nhất là giết cho sạch sẽ, còn hơn ngày đêm dày vò, sống không bằng chết thế này. Vị thế tôn sợ hãi, ra sức biện bạch, người một nhà quỳ đầy đất khóc xin ông đừng nói nữa, rồi đột nhiên ông ta tự gào khóc, nhào tới quỳ gối dập đầu, đến rách trán máu chảy cũng mặc kệ, bảo việc không liên can tới mình, có người muốn hãm hại mình, xin Nhiếp Chính Vương tha cho ông ta…”

Cảnh lúc đó thật khó coi, Lan Vinh nói xong, nín hơi thu khí không dám lên tiếng, thấy vẻ mặt Nhiếp Chính Vương bình thản, “Thái y nói thế nào?”

Lan Vinh nhẹ thở ra, bận bịu bẩm: “Thái y kiểm tra mấy lần, bảo là đờm ngược vào tim, không giống là giả. Sợ hỏng việc, lúc ấy vi thần mang đến ba người, Thái y lệnh Hồ Minh, còn có Thái y tả hữu thừa. Sáng nay vi thần cũng đưa Thái y lệnh đến đang ở bên ngoài chờ, Nhiếp Chính Vương có thể tự mình xét hỏi.”

Lý Tường Xuân truyền người vào. Hồ Minh bái kiến Nhiếp Chính Vương xong đem kết luận chẩn bệnh đêm qua của mình và cùng hai thừa bẩm một lần, như lời Lan Vinh, Quận vương nổi điên không giống là giả.

Ân sư của Hồ Minh là một vị Hạnh lâm quốc thủ nhiều năm trước vì bệnh mà cáo lão về quê, ông được cặn kẽ chân truyền, y thuật cực kỳ cao siêu, nếu đã dám ra phán đoán chắc chắn như thế đương nhiên sẽ không sai.

Thúc Thận Huy cho Thái y lệnh lui xuống trước, ánh mắt dừng trên mặt của Lan Vinh: “Chuyện hồi hôm, ông thấy thế nào?”

Lan Vinh do dự một chút, cung kính nói: “Nhiếp Chính Vương đã hỏi, vi thần cả gan nghe theo. Với thiển kiến của vi thần, cha con cả nhà Quận vương xưa nay cũng không quá tài cán, chẳng qua cáo mượn oai hùm, giờ đều đã bị sợ vỡ mật, Cao vương bạo bệnh ra đi cũng chưa lâu, dẫu cho dù có mang hận ý với Nhiếp Chính Vương cũng không dám có động tĩnh lạ nhanh như vậy. Còn đám Thành vương, dù vẫn còn cá lọt lưới, vi thần cho rằng, chúng tự bảo vệ mạng trong tối còn không kịp, cũng không ai dám đứng ra coi trời bằng vung thế này.”

“Quận vương không có gan, cũng không giống dư đảng Thành vương, vậy có thể là ai?”

Lan Vinh ngừng đoạn, “Trái lại vi thần cảm thấy, có thể là dư nghiệt loạn Tấn Hoàng Phủ thị gây nên, cũng không phải không có khả năng. Lục hoàng tử Sí Thư của nước Địch xây dựng Nam Vương phủ ở quận Yến U Châu, tự mình canh giữ, bắt chước chế độ Hán ta quản dân vùng đó, còn mời chào người Hán theo hàng. Năm đó mạt đế và con cháu của loạn Tấn đều chết bởi tay loạn quân phản chiến không sai, nhưng lúc đó, trong hoàng tộc còn có một vị Vương thúc rất có danh vọng tung tích không rõ, nghe đồn đã cùng tâm phúc trốn lên phương Bắc. Nếu là thật, U Yến chính là đất xưa của cố quốc, tự sẽ cấu kết với Sí Thư. Hoàng Phủ thị đối với đại Ngụy ta tất nhiên hận thấu xương, ngày đêm chằm chằm muốn phá, dĩ nhiên Nhiếp Chính Vương biến thành cái đinh trong mắt, hoặc là mật thám của chúng thừa dịp chui vào, cũng có thể.”

“Đấy đều là thiển kiến của vi thần, với đại trí của Nhiếp Chính Vương ắt đã biết rõ từ lâu. Mong Nhiếp Chính Vương chỉ bảo.” Cuối cùng ông lại lên giọng cung kính.

Thúc Thận Huy trầm ngâm một lát, nhìn Lan Vinh nhẹ gật đầu: “Lời ông nói rất có lý. Đêm qua vất vả cho ông rồi.” Y ngắm nắng sớm sáng dần bên ngoài, mỉm cười lại nói, “Ông ra ngoài từ sớm, phải chăng đã dùng bữa sáng? Nếu chưa, cùng dùng bữa với ta. “

Lan Vinh nào không có mắt chứ, vội vàng khom người cảm tạ từ chối: “Vi thần đa tạ ý tốt của Nhiếp Chính Vương. Nhiếp Chính Vương đại hôn lại gặp cảnh nguy hiểm quấy nhiễu Nhiếp Chính Vương và Vương phi, vốn là thất trách rất lớn của vi thần, nào dám quấy rầy Nhiếp Chính Vương và Vương phi điện hạ thêm nữa. Vi thần cáo lui.”

Thúc Thận Huy cười hì, gọi thông sử đưa Lan Vinh ra ngoài, đang định về Phồn Chỉ đường, bỗng, chần chừ một lúc, lại dặn, Thái y lệnh tạm thời chờ lại.

Hồ Minh lại được Lý Tường Xuân đưa vào lần nữa, Thúc Thận Huy liếc Lý Tường Xuân, lão thái giám hiểu ý, câu Nhiếp Chính Vương sắp nói chính ông không được nghe, khom người lùi ra, dẫn mấy tiểu hầu lùi ra xa.

Hồ Minh bị triệu kiến một mình, trong lòng hơi thấp thỏm, cũng không biết Nhiếp Chính Vương muốn hỏi mình chuyện gì, sau khi hành lễ, nín thở đè hơi, cũng may Nhiếp Chính Vương ngồi đó mặt đầy ý cười ôn hòa, bảo ông không cần đa lễ, xem ra dường như cũng chẳng phải chuyện quan trọng lắm, mới thoáng thở phào.

“Thái y lệnh cứ ngồi xuống nói chuyện, không cần câu nệ.” Nhiếp Chính Vương cười nói, thái độ thân ái.

Hồ Minh sao dám, cảm tạ không ngồi, chỉ đứng đấy: “Xin hỏi Nhiếp Chính Vương, cần vi thần cống hiến sức lực chuyện gì?”

Hỏi xong, thấy Nhiếp Chính Vương lại im lặng, như thần người ra, hồi lâu không lên tiếng, mặt trầm như nước, chả biết đang suy nghĩ chuyện gì. Ông nào dám giục, đành chờ. Cuối cùng, thấy ngài như nghĩ xong xuôi, nhướng mắt nhìn sang: “Chuyện bản vương muốn hỏi cũng chẳng phải đại sự gì, chỉ là sáng nay bản vương sẵn gặp ông, nhớ đến, mới thuận miệng hỏi một tiếng.”

“Dạ, dạ, mời Nhiếp Chính Vương nói.”

“Cũng không phải là việc của bản vương, mà là bản vương có một người bạn tốt, xưa nay cùng bản vương không có gì giấu nhau, vài hôm trước, cậu ấy tự đến tìm ta bảo, cậu ấy…”

Hồ Minh rõ rồi, hẳn là Nhiếp Chính Vương giúp bạn thân hỏi bệnh, bèn triệt để thả lỏng thở phào, tập trung lắng nghe, nào ngờ ngài nói đến đây, mới mở đầu, đã ngừng.

“Điện hạ, người bạn kia của ngài gặp bệnh nan giải chỗ nào thế ạ? Nếu phải, điện hạ cứ nói, vi thần chắc chắn hết lòng giải đáp.” Thái y lệnh chờ giây lát, hỏi tới.

Nhiếp Chính Vương lại ngừng đoạn, bỗng khoát tay, trên mặt lại hé ý cười: “Thôi, chuyện nhỏ thôi, cậu ta tự hỏi bệnh vẫn tốt hơn. Bản vương không có việc gì nữa, ông đi đi.”

Hồ Minh không hiểu lắm, song thấy Nhiếp Chính Vương đã nói thế, cũng sẽ chẳng hỏi thêm, đáp vâng, khom người lui ra.

Nhiếp Chính Vương đứng một mình ngoài Chiêu Cách đường một chốc, ngẩng lên thấy sắc trời không ngờ sáng hơn ban nãy đã mấy phần, thời gian giục người, không cho phép y ở mãi chỗ này, đành đè xuống tạp niệm trong lòng, vội về Phồn Chỉ viện trước.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom