Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!

Dịch Full Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm

  • Tác giả Tác giả admin
  • Ngày gửi Ngày gửi
Dịch Full Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
Chương 216: Đêm qua mưa gió đột ngột – Họa từ trong nhà


Lưu Chính Kiệt vốn là một viên quan ưu tú xuất thân từ bộ Hình, thấy gần đây trong kinh tụ tập ngày càng nhiều đủ hạng người thì làm việc càng thêm nhanh nhẹn, chân trước vừa tiếp nhận hai mẹ con Mạn Nương, chân sau liền cho người chia làm hai ngả rời khỏi kinh. Ai ngờ tối hôm sau Lưu phu nhân lại ngồi kiệu nhỏ vội vàng đến gặp Minh Lan, vừa thấy nàng liền xưng tội vì đã để Xương nhi bị người ta cướp đi.

Minh Lan giật mình, “Tại sao lại như vậy?”

“Cha sắp nhỏ cũng không ngờ, nói rằng mình đi bắt ngỗng lại bị nhạn mổ vào mắt*!” Trên mặt Lưu phu nhân lộ vẻ hổ thẹn, đậm giọng quê, không nhịn được vày vò góc áo, dí dí mũi giày đỏ thêu hình hồ lô bằng chỉ bạc trên mặt đất.

* ‘quá tự tin nên phạm phải sai lầm không đáng có’.

“Hôm qua cha sắp nhỏ áp tải con ả kia đi, lúc tới cửa thành còn đẹ dọa ả ta một trận, nói rằng nếu ả còn tới dây dưa thì sẽ giải ả tới biên cương làm nô dịch! Người đàn bà kia vâng dạ luôn miệng, hứa không bao giờ quay lại nữa rồi quay lưng chạy biến.” Lưu phu nhân nói khẽ, người hơi nghiêng về phía trước, “Thật ra theo ý tôi thì lúc đó nên xử lý ả luôn cho êm chuyện, chẳng qua…”

“Nói thẳng đi.” Minh Lan khoát tay, trò chồng hờ vợ tạm của Mạn Nương đến nước này cũng xem như kết thúc rồi, cô ta còn cù nhây dây dưa thì chẳng khác nào tự biến mình thành trò cười cả. Bây giờ Cố Đình Diệp và phủ hầu càng lo lắng cho đứa trẻ kia hơn, nói câu không dễ nghe, ngộ nhỡ có kẻ xấu bán Xương nhi tới mấy nơi bẩn thỉu, hoặc lôi kéo thằng bé vào con đường trộm cắp thì mới là đại họa.

Nàng nóng nảy hỏi: “Chỗ Xương nhi rốt cuộc là thế nào.”

Lưu phu nhân cần khăn chấm chấm mồ hôi rịn trên trán, “Bởi vì muốn tìm một vú em chăm sóc cho cho thằng bé trên đường đi, nên nhóm Xương nhi lên đường chậm nửa ngày so với dự kiến. Chẳng ngờ lúc đi ngang núi Phượng Vân ở ngoại ô cách kinh thành mười tám dặm, đoàn người lại bỗng đụng độ một bọn cướp che mặt, bọn cướp chưa nói lời nào đã vung vũ khí xông tới. Hai bên đánh nhau một lúc thì nữ tặc luôn tránh ở phía sau chợt thúc ngựa phi tới bên cạnh xe, quất một roi quật ngã bà hầu rồi xách thằng bé chạy mất. Mấy anh em hộ tống hoảng hốt, nhanh chóng giết phần lớn đám cướp, tra khảo hai tên còn sống mới biết bọn chúng thuộc bang Sơn Tiêu gì đó, được kẻ khác bỏ tiền tới cướp người. Mấy anh em hộ tống lại không mặc đồng phục nha sai, đám tặc cho rằng họ chỉ là gia đinh bình thường trong nhà, cho nên mới dám to gan như vậy.”

Minh Lan sững sờ, nữ tặc kia là ai, trong lòng nàng đã mơ hồ có đáp án.

Nói thật thì từ lần đầu chạm mặt ở phủ Dư, nàng chưa từng xem thường người đàn bà nhìn qua không có gì đáng chú ý kia, thế nhưng xem ra nàng vẫn đánh giá thấp cô ta rồi. Không ngờ vị kỳ nữ chẳng những có thể ca hát có thể diễn kịch này còn biết võ; lần này muốn gặp mặt liền phải phiền. Thôi ma ma cẩn thận thêm, nhất định phải lục soát trói cứng cả người rồi, bằng không ngộ nhỡ Mạn Nương bỗng nhiên phát tác nổi khùng lên, kẻ gặp nạn sẽ chính là mình.

Nàng cắn môi, hỏi: “Lưu đại nhân có hỏi được là ai giật dây không?”

Lưu phu nhân thờ dài thườn thượt, mày nhăn tít càng lộ rõ vẻ già nua khắc khổ, “Lúc tra khảo hai tên còn sống sót có chỉ ra rằng trong mấy xác chết trên đất có cả anh trai của người đàn bà nhờ vả bọn chúng.”

Minh Lan *à* khẽ, “Là anh trai của Mạn Nương?”

Lưu phu nhân vỗ đùi, nói ngay: “Chứ còn gì nữa! Nghe nói mấy năm nay anh trai của ả ta trốn chui trốn nhủi khắp nơi, quen biết không ít phường trộm cắp cướp giật. Hai gã còn sống nói bọn chúng bị gạt, anh trai ả kia nói em gái mình vốn là ngoại thất của nhà giàu nào đó, không ngờ vợ cả nhà kia lại ác độc, không dung được mẹ con bọn ả, muốn xử lý đứa bé… còn than thở rằng nếu biết đối phương là quan sai, bọn chúng nào dám có gan làm vậy chứ!”

Minh Lan nhếch môi mỉa mai: “Nói thế cũng không tính là sai.”

Lưu phu nhân ngượng ngùng cười cười rồi giải thích: “Nữ tặc che mặt nấp ở phía sau chính là Mạn Nương, mấy anh em vốn muốn bắn tên ngăn cản, nhưng Xương ca nhi cũng ở trên ngựa, sợ làm thằng bé bị thương nên chỉ đành trơ mắt nhìn hai mẹ con bọn họ chạy thoát.”

Minh Lan im lặng một thoáng mới nói: “Chuyện này không thể trách các anh em hộ tống, bọn họ làm sao có thể ngờ một người đàn bà yếu ớt lại vô pháp vô thiên như vậy chứ. Chẳng hay các anh em có bị thương vong gì không, nếu bọn họ có mệnh hệ gì thì chúng tôi sẽ rất áy náy.” Vốn chỉ theo lệnh làm một chuyến chuyển phát nhanh, kết quả người ta còn phải kiêm chức bảo vệ, bị đánh bất ngờ tất nhiên là trở tay không kịp.

Lưu phu nhân vội vã khoát tay, “Không có nguy hiểm tới tính mạng, chỉ bị vài vết thương ngoài da mà thôi, đúng ra đám tặc kia không hề có cửa, nhưng chúng dựa vào nhân số đông đảo, cùng lúc xông tới kềm chân mấy anh em nên mới cướp được Xương nhi đi.”

Minh Lan thoáng nhẹ lòng, tỏ ý muốn gửi ít tiền thuốc men cho những hộ vệ kia, ban đầu Lưu phu nhân còn không chịu, nhưng cuối cùng cũng bị thuyết phục  bởi miệng lưỡi khéo léo của Minh Lan, nhận lấy đồ mang về.

Hai người nói thêm vài câu, Lưu phu nhân không nhịn được thở dài, “Không phải tôi kiếm cớ giải bày hộ ông nhà tôi, nhưng chuyện thế này đúng là ai cũng chẳng ngờ được. Cô ả kia nom gày còm đáng thương, mặt lúc nào cũng hoang mang lo sợ, bị các nha sai đụng tới là sợ đến không dám nói tiếng nào, đối phương chỉ hơi to tiếng tí ả ta liền khóc lóc thê thảm, người run lẩy bẩy. Ai ngờ vừa quay đầu liền đi tìm anh trai, vừa cho người theo dõi đường hướng của nhóm còn lại vừa đi lôi kéo đồng đảng, chậc chậc, đúng là lợi hại!”

Lưu phu nhân lớn tuổi hơn chồng nhiều, cho nên đối với anh em thân tín của Lưu Chính Kiệt vừa là chị dâu vừa là mẹ, rất dễ hỏi thăm tường tận chuyện trong phủ. Lúc nghe nói về chuyện của Mạn Nương, cô ta còn thầm trách Minh Lan nhỏ nhen, ngay cả một đứa trẻ cũng dung không được, quan lại quyền quý nào mà không tam thê tứ thiếp, không một đống con vợ lẽ chứ. Nhưng bây giờ xem ra, đúng là không thể giữ hai mẹ con kia lại.

Minh Lan khẽ nhếch môi, “Anh em bọn họ đều xuất thân từ Lê Viên, văn võ toàn tài, không thể trách Lưu đại nhân và các anh em. Không tận mắt chứng kiến thì ai ngờ được chuyện này chứ, chưa kể, người bị người đàn bà kia lừa gạt cũng đâu chỉ một hai người.” Đầu têu đặc biệt oan ức chính là phu quân đại nhân thân ái nhà nàng.

Lưu phu nhân líu lưỡi nói: “Cũng phải nói ả đàn bà kia đúng là nhẫn tân, lúc anh trai ả bị chém ngã, có gọi ‘Em ơi!’ thật to mà ả chẳng hề quay đầu lại, cứ thế chạy như bay đi. Theo lời của ông nhà tôi nói thì ả ta có ý định dùng bọn cướp làm lá chắn cho đỡ phiền phức, e rằng ngay cả anh ruột mình mà ả cũng giấu giếm không nói hết kế hoạch.” Nói rồi cô ta lắc đầu liên tục, ngay cả tính mạng của anh trai ruột mà cũng lợi dụng cho được, đã tới mức mà bốn chữ ‘tàn nhẫn độc ác’ không đủ để miêu tả rồi.

Minh Lan im lặng một lúc lâu mới hỏi: “Mẹ con bọn họ đi đâu, Lưu đại nhân có manh mối gì chưa?”

Lưu phu nhân cười xấu hổ, “Đã ra khỏi hẻm núi Phượng Vân thì sẽ thông cả với bốn phía Đông Tây Nam Bắc, đi đường nào cũng được, thật sự vẫn chưa tra ra mẹ bọn hai ả đi hướng nào, chưa kể… ừm… bây giờ kinh đô… thật sự không đủ nhân thủ…”

Minh Lan kép tay Lưu phu nhân, dịu dàng nói: “Chị không cần giải thích, chỗ khó xử của Lưu đại nhân tôi đều hiểu, tôi chỉ tội cho đứa bé kia còn quá nhỏ tuổi thôi, mới yên ổn được mấy năm thôi, lần này không biết lại trôi dạt đến phương nào.”

Lưu phu nhân sinh được một nam một nữ cho nên cũng có lòng từ mẫu với trẻ con, nghe vậy thì thở dài, vỗ vỗ tay Minh Lan khuyên nhủ: “Em gái à, đây cậy già lên mặt lắm miệng một câu nhé, ả đàn bà ác độc như thế, lăn lộn bên ngoài thì có được quả ngon để ăn sao? Hai vợ chồng em là người phúc hậu thành thật mới chẳng làm được mấy chuyện trời đất không dung kia, bằng không đã kết kiễu ả ta từ lâu rồi mới đúng! Haiz, đứa bé kia cũng là kiếp trước không tu mới gặp phải một người mẹ như thế, ai biết được ngày sau thế nào, chờ đầu thai làm lại kiếp khác thôi!” Vừa nói cô ta vừa cảm thán không thôi.

Kiếp trước không tu ư?

Minh Lan mù mờ nghĩ, thật ra Xương nhi có rất nhiều cơ nhiều thay đổi số phận, đáng tiếc đều luôn chệch một chút.

Với nàng, tất nhiên là hận không thể phủi tay không bao giờ tiếp nhận củ khoai nóng bỏng tay này, có thể tránh liên quan tới chuyện của Xương nhi bèn tránh.

Còn Cố Đình Diệp, bởi vì những gì trải qua lúc trước, chàng luôn cảm thấy có mẹ ruột bên cạnh với trẻ con vẫn tốt hơn giao cho người không quen biết chăm sóc; nhưng càng bận tâm về con trai dòng chính của mình hơn, không muốn Minh Lan bị liên lụy và Đoàn nhi bị uy hiếp.

Về Mạn Nương, cô ta càng là người đàn bà trăm năm khó gặp, hoặc là buông tay thả Xương nhi đi hoặc là ở cùng con trai sống cuộc sống an nhàn, nhưng cô ta lại chết sống bám víu lấy ước niệm viễn vông của mình.

Chẳng biết tại sao, từ khi làm mẹ Minh Lan càng thêm mềm lòng, trước kia đụng phải nhiều vụ bi thảm hơn đều lấy lợi chung làm trọng, nhưng hôm nay lại thấy thương trẻ con phải chịu tội, thành ra không đành lòng.

Tiễn Lưu phu nhân về, Minh Lan liền cho gọi Dung nhi tới, bảo người hầu lui ra rồi kể chi tiết mọi chuyện cho cô bé biết, nói xong thì thở dài, “Hài, bây giờ cũng không ai biết bọn họ đã đi đâu.”

Dung nhi hơi cúi đầu, tay nắm chặt thành quyền, hai mắt sưng đỏ, qua mấy ngày dường như cô bé gày đi, gương mặt vốn tròn trịa nay hơi hõm vào, cằm nhọn ra khiến đường nét thiếu nữ thêm thanh tú. Cô bé nghe Minh Lan kể xong cũng không nói gì, chỉ lẳng lặng ngồi trên ghế tròn trước giường, móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay.

Hai người cùng im lặng một lúc lâu, Minh Lan đang tính bảo cô bé quay về thì Dung nhi nhiên đột nhiên lên tiếng: “Cảm ơn mẫu thân.” Giọng cô bé nghèn nghẹn, Minh Lan hơi sững sờ.

Dung tỷ nhi cầm khăn lau nhẹ chóp mũi, nhỏ giọng nói: “Cám ơn mẫu thân đã quan tâm em Xương, ngỏ lời nhờ Thường ma ma nuôi dưỡng em ấy. Từ khi… từ khi biết được chuyện này, con thật sự vô cùng cảm kích… Con người Thường ma ma chính trực, em ấy còn có thể đi theo anh Năm đọc sách, đúng là phúc khí muôn đời rồi. Ai ngờ mới mấy năm không gặp, em Xương lại trở nên cực kỳ quái đản, ngoại trừ… ngoại trừ mẹ ruột con, ai nói em ấy cũng không nghe…”

Nhớ lại hôm ấy chị em ruột gặp lại mà tựa người dưng, vành mắt cô bé lại ngập nước, lòng chua xót không thôi, “Con có cầu xin mẹ con đồng ý đề nghị này, thuyết phục em ấy đến nhà họ Thường. Bởi vì nếu cưỡng ép đưa em ấy qua đó, thằng bé nhất định sẽ quấy phá không yên, chẳng những mệt cho Thường ma ma mà còn phiền đến anh Năm đang miệt mài ôn tập chuẩn bị thi cử. Ai ngờ… ai ngờ mẹ con chẳng những không chịu, còn mắng con… còn… còn”

Nửa câu sau cô bé nói không nên lời, lúc ấy mẹ ruột muốn cô bé đi cầu xin Minh Lan, cho Xương nhi ở lại phủ hầu.

“… Nhưng… nhưng… phu nhân sẽ không đồng ý đâu…”

Nhớ lúc ấy cô bé đã trả lời như vậy, chung đụng mấy năm qua, cô bé biết Minh Lan nhìn bề ngoài trông hiền hòa dịu dàng như vậy, nhưng tính cách lại cực kỳ kiên quyết, nói một là một nói hai là hai.

“Đồ vô dụng! Không đồng ý thì mày phải khóc lóc cầu xin, đòi chết đòi sống chứ! Bây giờ mày là cô cả của phủ hầu, chẳng lẽ ả dám trơ mắt nhìn mày chết à? Đây mới chính là em trai ruột của mày, mày nhẫn tâm nhìn thằng bé không danh phận lưu lạc bên ngoài sao?”

Nhìn mẹ ruột nói lý nói lẽ, mặt mũi đầy sự tính toán, một chốc lại mềm giọng dỗ dành, chốc chốc lại nghiêm giọng chửi rủa, không hề che giấu ý định riêng, lúc ấy cô bé không nói nên lời được tiếng nào.

Đã không còn là đứa trẻ chẳng hiểu chuyện từ lâu, làm sao cô bé không hiểu những hệ lụy hung tàn ẩn sau chuyện này; cô bé càng không phải là hạng không biết tự lượng sức, chỉ mới thoải mái được một hai liền đắc ý, không biết trời cao đất rộng, vọng tưởng thay đổi ý của mẹ cả.

Dung nhi mạnh mẽ lắc đầu, cố không nghĩ tới tình hình khiến người ta lạnh lòng hôm ấy, cô bé ngẩng đầu lên nhìn Minh Lan, run giọng nói: “Mẫu thân, con thật sự không hiểu nổi mẹ ruột mình, chẳng phải người mẹ nào cũng nghĩ cho con cái sao? Vì sao… vì sao… chẳng lẽ bà ấy nhất định phải phá nát đời em trai mới chịu thôi sao?” Cô bé không nhịn được nữa, rốt cuộc cũng bật khóc, lấy khăn tay ôm mặt khóc nức nở.

Minh Lan thở dài, vỗ nhẹ lên lưng cô bé.

Xem xét từ mặt tối thì Man Nương căn bản không hề thương Xương nhi, con trai chẳng qua chỉ là một quân cờ mà thôi, tất nhiên có thể tận dụng được chỗ nào liền tận dụng; còn nếu xét theo hướng tốt mà nghĩ, Mạn Nương cũng yêu thương con trai mình, chỉ là cách lý giải thế nào mới tốt cho con trai mình của cô ta không được bình thường cho lắm.

Giống như trong mấy vở kịch đầy cẩu huyết, một cô gái nghèo sinh hạ hai đứa con song sinh, một đứa đưa về nhà giàu làm công tử hay công chúa, giữa lại một đứa bên cạnh mình; rốt cuộc… ờ, nên nói đứa nào mới là nhân vật chính đây…

Chuyện này cứ thế kết thúc, hai mẹ con Mạn Nương tựa như hạt bụi bay trong gió, biến mất không còn dấu vết. Minh Lan rầu rĩ hết vài ngày, đến khi Hoa Lan tới chơi động viên mới vui vẻ lại được một ít.

“Con bé ngốc này, mắc gì phải phiền não vì loại chuyện này chứ!” Hoa Lan vẫn xinh đẹp khí khái như trước, cô nàng chỉ chỉ vào trán em gái, cười nói: “Nhân từ như em ấy à, thấy cái này đáng thương, thấy cái kia cũng không đành lòng, trong nhà không loạn hết lên mới lạ. Oan vốn có đầu nợ vốn có chủ, thằng bé kia có cha có mẹ của mình, nào đến lượt em lo lắng chứ hả?!”

Minh Lan cúi đầu vuốt ve cái bụng to tròn của mình, nhỏ giọng nói: “Gần đây em hay lo trước lo sau, luôn sợ mình làm việc xấu thì về sau con cái sẽ gặp báo ứng.” Vốn thuộc phần tử của đảng tích cực, Diêu Y Y đã từng là một công dân khăng khăng theo thuyết pháp Vô Thần, haiz, đúng là chuyện quá xa xôi.

Vốn theo phái lòng thoải mái thì người mới béo khỏe được, Hoa Lan cười phá lên, “Mấy chuyện Thần Phật ấy à, nên tin có mức độ thôi, không thể cái gì cũng nghĩ về hướng đó. Em rể đã không cho em nhúng tay vào thì em cứ phủi tay làm lơ đi. Chẳng lẽ em thật sự muốn đón thằng bé kia vào phủ sao?”

“Tuyệt đối không.” Minh Lan quả quyết phủ định, dáng vẻ hệt như một chú gà mái bảo vệ con, thẳng thắn tự chế giễu chính mình, “Thương cảm thì thương cảm, nhưng làm mẹ phải che chở con mình trước, kẻ nào dám nguy hại đến con em, em sẽ liều mạng đến cùng với kẻ đó!”

Hoa Lan nhéo má em gái, cười hỏi: “Như vậy mới đúng!”

Ngắm nhìn khuôn mặt tươi cười rực rỡ của chị cả, Minh Lan thầm trách bản thân lo sợ không đâu, liền thay đổi chủ đề: “Nghe nói chị dâu thứ ba có thai, hôm kia em có gửi tới một ít khô cá mà chị ấy thích, không biết dạo này chị ấy có khỏe không.”

Từ lúc Vương thị về quê chịu phạt, vì lo Liễu thị mới tiếp nhận chuyện quản gia nên lóng ngóng, Hoa Lan thường về nhà mẹ giúp đỡ, nghe Minh Lan nói liền cười bảo: “Em dâu ba số tốt, lần mang thai này khỏe lắm, ăn ngon ngủ ngon, đi lại làm việc như bình thường.”

Đang nói nửa chừng thì Tiểu Đào bưng một dĩa đậu ve xào tỏi phòng bếp mới làm xong vào, Hoa Lan nhíu mày, che miệng *ọe* một tiếng.

Minh Lan cau mày hỏi: “Chẳng phải đây là món ngày thường chị thích ăn à, tại sao lại…” Vừa nãy một bàn bánh cuốn sữa đậu chiên giòn và táo ngào mật ong Hoa Lan cũng ngửi liền thấy buồn nôn nên nàng đành bảo phòng bếp đổi món khác.

Lại nhìn thân hình hơi đẫy đà của Hoa Lan, trong mắt Minh Lan lộ vẻ trêu đùa, cười nói: “Hay là chị cũng có bầu rồi.”

Hoa Lan đột nhiên khựng lại, cười mắng: “Nói bậy cái gì đó, chị đã chừng này tuổi rồi.” Mấy năm nay không có động tĩnh gì, tuổi lại càng lúc càng lớn, nàng đã không còn mong mỏi từ lâu.

Tuy nói vậy nhưng không phải không có phụ nữ sinh con ở tuổi trung niên, sơ có sơ xuất nên Minh Lan nhanh chóng cho xe ngựa trải ba tấm đệm mềm của Hầu phủ đưa Hoa Lan trở về. Chưa tới nửa ngày sau, phủ Viên phủ cử người tới báo: Mợ hai quả nhiên đã có mang.

Thúy Thiền đến báo tin vỗ tay cười nói: “Ban đầu mợ hai vẫn không tin, đổi đến hai vị đại phu song họ đều nói là hỉ mạch. Cậu Hai vui quá chừng, liền cùng Hoàng Oanh buộc chân diều hâu lại, bây giờ chẳng chịu đi đâu cả, một tấc cũng không rời khỏi người mợ hai.”

Viên Văn Thiệu vừa ý một mảnh đất trống ở ngoại ô, muốn mua để xây chuồng ngựa, vốn đã báo lên cấp trên xin nghỉ phép, bây giờ vợ yêu có thai, đại phu còn nói mang thai lúc tuổi cao nên càng thêm cẩn thận, Viên Văn Thiệu nghe vậy liền quyết định không đi nữa.

“Chính sự quan trọng, chí lớn của tướng công khẩn cấp hơn, không cần bận tâm vì em đâu.” Hoa Lan đương nhiên sẽ nói vậy với chồng mình.

Viên Văn Thiệu vẫn với dáng vẻ của người chồng mẫu mực, khăng khăng không đổi ý, “Tiến kiếm lúc nào chẳng được, quan trọng nhất là một nhà chúng ta hạnh phúc êm ấm. Em bình an sinh con ra còn hơn có được một ngọn núi vàng ấy.”

Hoa Lan thẹn thùng đỏ mặt, đôi mắt long lanh liếc nhìn chồng, Viên Văn Thiệu cũng chan chứa tình ý nhìn vợ, hai vợ chồng trung niên tuổi cộng lại hơn bảy mươi mùi mẫn đến dọa người, thi thoảng lại châu đầu thì thầm với nhau, đến mức khiến Thôi ma ma thay Minh Lan đến tặng quà cũng không nhịn được thấy buồn nôn.

“Thảo nào bà chị nhà bên cứ nói rằng ban đầu phu nhân không quen nhìn cô cả và cậu rể ở bên nhau.” Thôi ma ma sâu sắc cảm thấy mình đã trách lầm Vương thị.

Minh Lan nằm ểnh bụng trên giường cười ha hả, ấm ức mấy ngày qua đều tan biến sạch sẽ.

Vài ngày sau, Đồ Hổ từ ngoại thành dẫn về khoảng bốn mươi gia đinh vạm vỡ, Minh Lan lại bận bù lu bù loa, vừa phải sắp xếp chỗ ở cho bọn họ, vừa phải thương lượng với Đồ lão đại nên chia người chăm sóc phủ thế nào, nên phái người đến trông coi các cổng ra vào thế nào.

Một mặt dàn xếp thỏa đáng chuyện trong phủ, một mặt tiếp tục phái người ra ngoài hỏi thăm tin tức khắp nơi, trong kinh thành quả thật xuất hiện khá nhiều người khả nghi không rõ gốc gác hay tụ năm tụ ba lại với nhau, Lưu Chính Kiệt tức giận nhưng lại không có cớ để điều tra, cậu Thạch em cũng rất tức giận, cậu ta và Tiểu Đào cùng thích bánh bao của một tiệm kia, song ông chủ lại nói rằng tình hình gần đây không được ổn lắm, thế là đóng cửa tạm lánh ở nhà con gái ở nông thôn.

Vợ chồng Đình Địch của chi thứ tư chú tâm chỉnh đốn cửa hàng nên tình hình mua bán dần khởi sắc hơn. Huyên đại thái thái của chi thứ năm vội vàng tìm con dâu cho con trai cả, phản ứng của nhà họ Phục vô cùng tích cực. Thái phu nhân vẫn rất ít ra khỏi nhà, không biết đang mưu đồ chuyện gì. Cậu ba Cố vẫn luôn la cà bên ngoài uống rượu coi kịch như trước. Phương thị cũng vài ba ngày lại tới gõ cửa phủ của Đình Vĩ. Cậu cả nhà họ Lương tiếp tục vờ làm cháu trai, à không, hiếu tử…

Hết vui rồi lại lo, trình độ lý luận và giác ngộ chính trị của một nhân viên ghi chép trong tòa oán chỉ đủ giúp Minh Lan lệnh cho đám gia đinh tăng cường phòng thủ canh chừng cửa nẻo, không thể phân tích được bản chất sự việc qua hiện tượng bên ngoài.

Trời dần ấm hơn, chỉ nửa tháng ngắn ngủi mà bây giờ bụng Minh Lan đã to như bong bóng, nhóm bà tử đều nói là gần tới kỳ sinh rồi. Minh Lan còn chưa quen với thân hình nặng nề của mình thì Nhược Mi đã trở dạ.

Cũng may bà đỡ và nhũ mẫu đều đã được chuẩn bị trước, đệm trải, nước nóng, băng vải và kéo, từng loại đều sẵn sàng đâu vào đó, Minh Lan đích thân đến ngồi chờ trong phòng chính của tiểu viện Công Tôn.

Từ trưa tới tận lúc trăng treo ngang ngọn cây, Nhược Mi la hét không ngừng, khi Minh Lan chợp mắt trên giường trong phòng nghỉ tạm gần đó tỉnh giấc lần thứ hai mới có người tới báo rằng Nhược Mi đã sinh rồi, là một bé trai cực kỳ bụ bẫm khỏe mạnh.

Minh Lan chùi nước miếng ở khóe môi, lên dây cót tinh thần đi thăm hỏi sản phụ. Trong phòng nhũ mẫu ôm một bọc tã lụa thêu hoa văn mẫu đơn bằng chỉ vàng ngồi bên giường, sắc mặt Nhược Mi tuy hơi tái nhưng lại đầy vui sướng, ngắm đứa trẻ nằm trong tã lót không rời mắt.

Minh Lan đi tới nhìn, ừm, đúng là rất bụ bẫm, đặc biệt là cái đầu to đùng khiến sản phụ nào nhìn cũng biến sắc, tương lai thế nào cũng cứng đầu như ông già Công Tôn kia cho mà xem. Nàng ngồi xuống cạnh Nhược Mi, dịu dàng nói: “Thằng bé rất khỏe, rất giống tiên sinh, đời sau của cô xem như có chỗ dựa rồi.”

Do la hét qua độ nên giọng Nhược Mi hơi khàn khàn, cô nàng kéo tay áo Minh Lan, nóng lòng ngước nhìn nàng, “Lúc tiên sinh quay lại, xin phu nhân nói tốt hộ tôi vào câu, rằng tôi phải liều mạng mới sinh được thằng bé ra… có thể… có thể để tôi tự nuôi không…”

Minh Lan im lặng một thoáng rồi thở dài, “Tôi sẽ nói, nhưng đây dù sao cũng là chuyện nhà của tiên sinh, cuối cùng vẫn phải xem tiên sinh và sư mẫu có ý thế nào.” Nàng lại nói thêm: “Lúc cô ngỏ ý muốn làm thiếp cho tiên sinh, tôi đã nói rõ với cô về vấn đề này.” Dứt lời nàng nhẹ nhàng rút tay về, mặc kệ Nhược Mi lệ doanh tròng chực khóc, vịn Tiểu Đào quay đầu ra khỏi phòng.

Từ đó trở đi Minh Lan không hề đến thăm Nhược Mi thêm lần nào nữa, chỉ bảo vợ Liêu Dũng chăm sóc kỹ lưỡng hơn, không thể có gì sơ sót.

Đến lễ tắm ba ngày, Minh Lan bảo các bà hầu trong tiểu viện Công Tôn bày hai bàn tiệc, gọi mấy nha hoàn bà tử ngày thường thân thiết với Nhược Mi đến cùng ăn uống chung vui, khiến Nhược Mi vui vẻ lại được một chút, không còn cả ngày mặt ủ mày chau, than ngắn thở dài làm ảnh hưởng đến sản phụ ở cữ nữa.

Ngay hôm đó, tổng đốc Thiểm Cam cho người cưỡi khoái mã gởi tin cấp báo cho triều đình…

Vì muốn cứu cha mình, con trai của Tả Cốc Lãi vương Yết Nô đã mai phục ở bình nguyên Thanh Thạch tập kích đại quân của Thẩm Từ Hưng. Do vừa đại thắng mấy ngày trước, c quân Thẩm trở nên lơ là, đội hình rồng rắn kéo quá quá dài, phần lớn tướng lĩnh lại tự mãn khinh địch, cho nên đại quân nhanh chóng bị thiết kỵ Yết Nô phân cách thành ba bốn đoạn, để một đội kỵ binh địch xông thẳng vào đại trướng giết chết nhiều tướng soái quan trọng. Tả Cốc Lãi vương được cứu đi, Thẩm Tòng Hưng trọng thương, toàn quân đại loạn, tướng lĩnh tử thương vô số, trước mắt do tướng quân Đoàn Thành Tiềm tạm quản lý quân đội.

Ở một mặt trận khác, lão soái Bạc Thiên Trụ ngã từ trên ngựa xuống đến nay vẫn còn hôn mê bất tỉnh, đường hướng của đại quân hiện do tướng quân thân tín của Bạc thị cùng với Cam lão tướng quân lo liệu.

Trái lại đại quân nhà họ Cố từng khiến mọi người xôn xao trước trận chiến tới nay vẫn không rõ tình hình, sau khi họ tiến vào thảo nguyên, đến cùng là thắng hay thua… chẳng ai biết được…

Minh Lan bấm đầu ngón tay tính toán, theo trình tự của tin tức thì là Thẩm Tòng Hưng mới đại thắng chưa được bao lâu liền bị phục kích trước, cùng lúc đó Bạc lão soái bị trọng thương, sau đó mới đến chuyện phu quân đại nhân thân ái của nàng bặt tăm tin tức.

Hay tin hoàng đế phẫn nộ, vừa kinh hoàng vừa lo lắng, so sánh với hành động lôi thuyết pháp của Mạnh lão gia ra giảng giải khi nhận được tin bại trận của Cố binh ban đầu, bây giờ mới thật sự là sốt ruột. Hoàng hậu và cô Thẩm nhỏ cùng khóc đến chết ngất, Trương thị chậm hơn một tí vì bận tâm tới cảm xúc của quần chúng, nửa ngày sau mới truyền tin ‘ngã bệnh vì lo lắng’.

Bạc lão phu nhân cũng đau lòng không thôi, lo lắng cho sức khỏe nên quyết định lên đường đến thôn trang ở ngoại ô dưỡng bệnh… Nghe tới đó, Minh Lan không nhịn được muốn phun, bà ta làm vợ quân nhân hơn năm chục năm rồi, chẳng phải đã chai lì mấy chuyện này rồi sao, đau lòng cái con khỉ ấy.

Năm đó Bạc lão soái bị cảm nặng, thái y đều nói ông ta không xong rồi, Bạc lão phu nhân vẫn cực kỳ bình tĩnh vỗ vỗ chăn của trượng phu, “Ông cứ đi trước một bước, không cần chờ tôi đâu, tôi sẽ tìm được ông.”

Bạc lão soái tức giận, gào lên ‘Bà già vô lương tâm, lão đây còn lâu mới chết’, phát tác một trận ông lại khỏi bệnh.

Lúc kể cho nàng nghe chuyện xưa này, vẻ mặt của Cố Đình Diệp hết sức say sưa.

Quan võ từng người một dâng tấu xin ra trận, chỉ sợ chậm chân hơn người khác; quan văn cũng dâng tấu như mưa, có xin hoàng đế phạt nặng, cũng có cầu đưa hai vị tướng đang trọng thương Bạc Thẩm hồi kinh rồi từ từ bàn lại; trong các trà lâu tửu quán cũng đầy tiếng nghị luận, không mắng đám người họ Thẩm Trương và Cố vô dụng thì cũng nhỏ giọng chê bai triều đình không biết dùng người, dụng binh cẩu thả… nhất thời kinh đô hết sức ầm ĩ.

Minh Lan vẫn im lặng không nói gì.

Mấy ngày kế tiếp cơ thể nàng càng lúc càng nặng nề mệt mỏi, ngay cả chơi đùa với con trai cũng không có sức, chỉ có thể ngồi xem Nhàn nhi ôn tồn dạy bé mập tập nói, Dung tỷ nhi yên tĩnh ngồi một bên nhìn, trong mắt vừa có vẻ mất mát vừa chan chứa ước ao.

Hôm đó sau khi ngủ dậy, Tiểu Đào đỡ nàng chậm rãi ngồi dậy, Thúy Vi bưng chậu đồng đựng đầy nước nóng vào, vừa nhúng ướt khăn vừa tươi cười nói: “Sáng nay em có đi thăm Nhược Mi, khí sắc tốt hơn nhiều, thằng bé cũng bụ bẫm hơn nhiều, hai vú em mà cũng không đủ sữa cho bú đấy.”

Minh Lan khó khăn chống mép giường đứng lên, khoác thêm một cái áo bông thêu hoa rồi chậm rãi đi tới trước cửa sổ, hé cửa sổ thò tay ra ngoài, một ít mưa bụi rơi trên mu bàn tay nàng, cảm nhận được cái lạnh của gió tháng ba.

“Hôm nay bên ngoài hơi lạnh, phu nhân nên mặc nhiều lớp hơn một tí.” Thúy Vi vắt khăn đưa sang.

Minh Lan lẩm bẩm: “Ta ghét trời mưa.” Nàng đảo mắt, mặt dày nói luôn: “Ta ngủ thêm một lúc đây.” Nói rồi nàng liền quay thân người, lắc lắc hình dáng tròn vo như chim cánh cụt của mình đi về giường.

Thúy Vi vừa bực mình vừa buồn cười, đem khăn nóng đến tận nàng, “Phu nhân lao tâm nên ngủ nhiều cũng tốt, nhưng ít ra cũng nên rửa mặt rửa tay dùng một ít cháo rồi hẵng ngủ tiếp. Người không đói bụng, nhưng phải cho đứa bé trong bụng ăn chứ.”

Minh Lan từ tốn lau tay rồi trả khăn lại, đang định nói hôm nay muốn ăn bánh bao sữa thì Lục Chi chợt từ bên ngoài cuống quýt chạy vào, “Phu nhân, phu nhân, trong cung phái người đến, nói muốn truyền phu nhân tiến cung ạ!”

Khăn trong tay Thúy Vi rơi *bõm* vào trong chậu khiến nước bắn ra ngoài, tạo thành những đốm loang lổ sẫm màu trên tấm thảm nhung đỏ dày như điềm xấu.

Vẫn là Tiểu Đào bình tĩnh nhất, bởi vì nàng không cho rằng chuyện này có gì không ổn, Minh Lan trầm giọng nói: “Thay quần áo cho ta.”

Lục Chi tiến lên một bước, “Phu nhân, vậy bên ngoài…”

Minh Lan ổn định tinh thần, hỏi trước: “Là thánh chỉ hay là khẩu dụ?”

Lục Chi ngớ người, nghiêng đầu ngẫm lại liền đáp ngay: “Là khẩu dụ à, bởi vì chị Liêu không có cho bày hương án.”

Vẻ mông lung lười biếng khi nãy đã biến mất không còn, Minh Lan ra lệnh một cách rành mạch: “Bảo Hách quản sự dẫn các vị thiên sử đến sảnh chính dùng trà trước, nói với họ rằng ta gần đây không được khỏe lắm nên bây giờ mới vừa dậy, đang rửa mặt thay quần áo.”

Lục Chi *dạ* một tiếng, mới chuẩn bị ra ngoài thì bị Minh Lan gọi lại, dặn dò: “Em và bọn Hạ Hà tinh mắt, cùng nhau ra đằng trước nhìn xem người đến tuyên chỉ là nữ quan cung nhân bên người hoàng hậu nương nương hay là mấy người tiểu Hạ công công vậy.”

Vốn nhạy bén, Lục Chi liền cảm giác được chuyện khẩn cấp, sau khi vâng dạ liền vội vàng chạy ra ngoài.

Minh Lan hít sâu một hơi rồi đứng thẳng lưng, giang hai tay cho nha hoàn giúp mình mặc quần áo chải đầu; Tiểu Đào cúi xuống giúp Minh Lan đi giày, Thúy Vi vừa giúp nàng thắt dây lưng vừa run giọng nói: “Phu nhân đã ở thai kỳ cuối rồi, nói không chừng một khắc sau liền trở dạ, sao trong cung lại một mực truyền người vào cung bây giờ chứ? Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì…” Chẳng lẽ sinh con ở trong cung luôn sao?

Trên trán cô nàng lấm tấm mồ hôi, “Chẳng lẽ hầu gia…” Bại trận nên bị xét nhà?

Minh Lan từ tốn lắc đầu, “Trước chớ nghĩ lung tung rồi tự dọa chính mình.”

Tuy không quá đáng tin cậy nhưng hoàng hậu vẫn là người có tâm địa hiền lành, lần trước vì nàng mang thai bé Đoàn béo liền chủ động miễn cho nàng khỏi vào cung tạ ơn đầu năm, nếu không có chuyện gì gấp, hoàng hậu tuyệt đối sẽ không triệu nàng tiến cung vào lúc này.

Nhưng nếu thật sự có chuyện quan trọng, tại sao cô Thẩm nhỏ không hề đánh tiếng gió trước?

Trừ phi là muốn hỏi tội.

Nhưng đây là chuyện quốc gia đại sự, hoàng hậu xen vào làm gì, nếu muốn xét nhà vì bại trận thì hạ một đạo ý chỉ là được, việc gì phải cho nghi trượng cung đình tới tuyên khẩu dụ chứ; huống chi chỗ Lưu Chính Kiệt cũng chẳng có tin tức gì. Nói như vậy, trừ phi là hoàng đế…

Minh Lan mặc y phục phu nhân cáo mệnh xong, Tiểu Đoàn dìu nàng đến trước gương xoay một vòng, Thùy Vi cẩn thận mang châu quan đến, đang định đeo lên cho Minh Lan thì nàng lại nhẹ phất tay ngăn cản, “Thứ này quá nặng, em rút bớt phần chóp ra đi đã.”

Bấy giờ bên ngoài chợt vọng vào tiếng bước chân chạy hối hả, Lục Chi và Hạ Hà hổn hển chạy vào, “Hách quản sự đã sắp xếp ổn thỏa cho các thiên sử rồi, em và Hạ Hà cách bình phong nhìn kỹ càng. Đầu lĩnh chính là một vị công công và một vị nữ quan, nói là phụng ý chỉ của hoàng hậu, nhưng mấy người đi theo sau bọn họ ấy, chúng em chẳng nhận biết ai cả.”

Minh Lan nhíu chặt mày, chuyện này thật sự rất kỳ lạ, nữ quan và thái giám bên cạnh hoàng hậu nàng đều biết mặt gần hết.

Thôi ma ma từ bên ngoài tiến vào, nhỏ giọng thưa: “Kiệu đã được chuẩn bị xong thưa phu nhân, người…”

Thấy mặt bà đầy vẻ lo lắng, Minh Lan lên tiếng trấn an: “Ma ma đừng nóng vội, ta sống đến tuổi này, ma ma đã bao giờ thấy ta chịu thua thiệt chưa?”

Thôi ma ma thoáng yên lòng, cùng nha hoàn đưa Minh Lan chậm rãi ra khỏi Gia Hi cư rồi lên kiệu. Trong màn mưa phùn lành lạnh, một đoàn người đi ra tiền viện, từ tốn vòng tới đại môn của sảnh lớn, Minh Lan xuống kiệu theo đường tắt, vịn Tiểu Đào im lặng tiến vào đại sảnh, qua tấm bình phong đỏ có thể loáng thoáng nhìn thấy Hách quản sự đon đả mời mấy vị thiên sử kia trà nước điểm tâm.

Lục Chi nói, lúc nãy Hách quản sự đã nhét cho bọn họ không ít ngân lượng, như vậy mới tạm ổn định được tình hình.

Minh Lan nhích lại gần tấm bình phong, chăm chú nhìn qua kẽ hở, từ hoạn quan tai to ở một góc rồi đến nữ quan trung niên mình gầy đét, thậm chí cả đám cung nhân đứng phía sau, quả thật không một ai là người quen… chẳng lẽ có kẻ giả truyền thánh chỉ sao?

Đang còn đắn đo không biết thế nào, Thôi ma ma rón rén lại gần nói nhỏ bên tai nàng: “Tôi dẫn mấy bà tử ở phòng may vá nhìn kỹ phục trang trên người bọn họ, thật sự là người trong cung không thể nghi ngờ.”

Minh Lan nhíu mày lần nữa, trầm tư trong một thoáng rồi ra hiệu cho Tiểu Đào lại thì thầm vài câu, sau đó ngẩng đầu lên, nhỏ giọng dặn: “Cứ nói như vậy, Hách quản sự sẽ hiểu ngay.”

Tiểu Đào lập tức chạy ra ngoài, chỉ một lúc sau Cố Toàn bước nhanh vào phòng, đi tới nói nhỏ bên tại Hách Đại Thành: “Phu nhân đang ở đằng sau bình phong. Nhóm cung nhân này là giả, hãy hỏi về bệnh ho của Hàn thượng cung bên cạnh hoàng hậu đã đỡ chưa để thăm dò thử xem.”

Hách Đại Thành vốn khôn khéo, liếc thật nhanh về phía sau rồi cười chắp tay nói: “Trần công công, Hoàng ti thị, mấy năm nay hoàng hậu nương nương phái người đến phủ tuyên chỉ ban thưởng cũng nhiều, nhưng chưa từng gặp hai vị bao giờ. Trong cung nhiều quý nhân, chúng tôi không biết hết cũng là chuyện không tránh khỏi.”

Gã hoạn quan kia biến sắc, song ngay lập tức cười nói: “Trong cung nhiều người hầu kẻ hạ, hôm nay đến người này hôm sau lại tới kẻ khác. Phủ Ninh Viễn hầu các ngươi xưa nay hào phóng, tới tuyên chỉ là công việc béo bở nên ai cũng muốn tới cả.”

Hách Đại Thành liên tục nói không dám rồi hướng về phía vị nữ quan kia tươi cười nói: “Hoàng ti thị, tiểu nhân có một yêu cầu quá đáng, nhân lúc phu nhân chúng tôi còn chưa tới, nhờ ngài chuyện lời với Hàn cung lệnh ở bên cạnh nương nương một tiếng hộ rằng tiểu nhân mới làm xong cao sơn trà loại tốt nhất, chẳng hay khi nào mới có thể đưa vào cung được; hiện giờ trời lúc lạnh lúc ấm, dùng cao này có thể giúp cho bệnh ho khan của cung lệnh đại nhân.”

Nữ quan kia vẫn bất động, chỉ đảo ánh mắt sắc lạnh như tia điện qua, nói: “Bên cạnh nương nương có tổng cộng hai vị cung lệnh, một người họ Lưu, một người họ Ngô, chưa từng có cung lệnh họ Hàn nào! Miễn mấy trò hoa mỹ này đi, mau gọi Cố hầu phu nhân ra đây, làm trễ nãi đại sự, cả phủ Cố còn muốn mạng không?”

Vừa nghe vậy, thần kinh đang căng cứng của Minh Lan liền thả lỏng, chân cũng nhũn ra suýt đứng không vững, nàng vịn Tiểu Đào chậm rãi đi ra khỏi tấm bình phong, sau khi ngồi xuống, lau đi mồ hôi lạnh rồi mới thở phào một hơi.

Bên cạnh hoàng hậu quả thật không có cung lệnh nào họ Hàn, nhưng lại có một Hàn chưởng sự rất được tin dùng, Lưu cung lệnh bây giờ càng ngày càng già, sắp sửa về hưu rồi, hoàng hậu có ý cất nhắc Hàn thị lên thay thế, cho nên từ một năm trước đám tiểu cung nữ và tiểu thái giám đã bắt đầu gọi bà ấy là Hàn cung lệnh.

Đương nhiên loại chuyện này chỉ cấp dưới biết, các chủ nhân bên trên làm gì hay được; một ti hầu ngũ phẩm cỏn con hầu hạ trong cung hoàng hậu như Hoàng thị làm sao lại không biết mà dám bất kính như vậy?

Trừ phi bà ta vốn không phải là người trong cung hoàng hậu! Như vậy thì… Minh Lan hơi nheo mắt lại.

Cố Toàn lại chạy vào phòng truyền lời, Hách Đại Thành vốn đang không biết bồi tội thế nào, sau khi đưa lỗ tai nghe xong, hai mắt liền sáng lên, quay đầu cười ha hả rồi lớn tiếng hỏi: “Hai vị đại nhân, tiểu nhân kiến thức nông cạn. Người ta đều nói từ không thành có là giả truyền thánh chỉ, vị chủ nhân hạ lệnh cho hai vị nói lung tung kia có tính là giả truyền thánh chỉ không nhỉ?”

Hai người nọ lập tức biến sắc, gã hoạn quan kia đập bàn cái *bốp*, quát to bằng giọng the thé: “Ăn gan hùm mật gấu rồi à! Dám vu tội như vậy!”

Nữ quan nọ cũng nói: “Thường nghe nói Cố hầu ở bên ngoài luôn uy phong lẫm liệt, bây giờ xem như mới được lãnh giáo, ngay cả lệnh trong cung cũng dám không coi ra gì. Hôm nay dám kháng chỉ, e rằng ngày mai liền sẽ tạo phản thôi.”

“Hai vị chớ chụp mũ cho người khác như vậy.” Hách Đại Thành cười tủm tỉm, ở bên ngoài ông ta cũng là nhân vật có mặt mũi, làm gì dễ bị hù dọa, “Phủ chúng ta chẳng phải là dạng hộ nhỏ không kiến thức, dựa vào giao tình của phu nhân chúng ta và phu nhân của tướng quân Trịnh Kiêu, bên người hoàng hậu nương nương có vị đại nhân nào, chúng ta tất nhiên biết rõ.”

Hai người kia liếc nhau, gã hoạn quan kia chợt đổi sang khuôn mặt tươi cười, “Nhãn lực của Hách tổng quản tốt thật, chúng tôi đích thực không phải là người trong cung hoàng hậu, chẳng qua đây đúng là lệnh của hoàng hậu nương nương, bởi vì gần đây trong cung bận rộn nhiều chuyện, cho nên nương nương mới giao việc này cho chúng tôi.”

Hách Đại Thành mỉm cười hỏi là người cung nào, hai người nọ lại qua loa đáp mình chỉ là cung nhân chạy vặt tầm thường. Hách Đại Thành lập tức thay đổi sắc mặt, “Hai vị cũng quá coi thường kẻ khác rồi, tiểu nhân có ngu xuẩn như heo cũng tin không nổi những lời này! Quy định trong cung nghiêm hơn hẳn so với trong nhà thần tử, một nhóm người đông như vậy muốn xuất cung thì nhất định phải có lệnh bài cho phép, nói câu bất kính thì hoàng hậu nương nương có rộng lượng đến đâu cũng chưa chắc sẽ tùy tiện đưa lệnh bài trong cung mình cho kẻ khác.”

Thấy Hách Đại Thành không dễ lừa gạt, gã hoạn quan bắt đầu sốt ruột trong bụng. Bấy giờ nữ quan nọ bỗng nhiên nói: “Chúng tôi là người trong cung của Thánh An thái hậu, phân vị của thái hậu còn trên cả hoàng hậu, ngươi có thể yên tâm.”

Hách Đại Thành lạnh lùng đáp trả: “Yên tâm thế nào? Hai vị mỗi lúc nói mỗi khác, hiện giờ hầu gia không có trong nhà, chúng ta càng phải cẩn thận bảo vệ phu nhân hơn, sao có thể tùy tiện giao phu nhân cho kẻ thân phận không rõ ràng chứ?”

“Vậy ngươi muốn thế nào? Kháng chỉ?!” Gã hoạn quan kia sốt ruộc, the thé kêu lên.

“Dù sao cũng phải biết hai vị rốt cuộc có phải là người trong cung hay không?” Hách Đại Thành lo lắng nói.

Nữ quan kia lạnh lùng đưa mắt nhìn rồi chậm rãi móc từ trong tay áo ra một lệnh bài đen nhánh viền tơ vàng đập mạnh lên bàn. Hách đại nhân đến gần xem thử, quả đúng là lệnh bào ra vào hoàng cung; đáng tiếc nữ quan kia nhanh chóng thu lại lệnh bài nên ông không thấy rõ hàng chữ Giáp Ất Bính Đinh Mậu đánh dấu thứ tự khắc ở mép lệnh bài.

Nữ quan kia nói: “Chúng ta thật sự là người trong cung, trong cung đều là chủ nhân, mời Cố hầu phu nhân đi một chuyến cũng không tính là uất ức cho phu nhân.”

Hách Đại Thành sờ sờ râu, đang định mở miệng thì chợt nghe thấy bên ngoài nhao nhao cả lên, một tiểu nha hoàn loạng choạng chạy vào, kêu khóc báo: “Phu nhân đau bụng, còn bị ra máu, bảo ngài mau đi mời đại phu tới!”

Trong đầu như có tiếng chuông đánh, Hách Đại Thành lập tức sợ hãi kêu lên: “Ôi… lần này nguy rồi, lần trước đại phu còn nói cái thai của phu nhân không tốt lắm, quả nhiên xảy ra chuyện rồi!” Dứt lời ông liền quay sang mắng một gã sai vặt bên cạnh: “Đồ ngu kia, còn đứng đực ra đó làm gì, còn không mau đi mời đại phu…!”

Gã sai vặt nọ loạng choạng chạy như bay ra ngoài, Hách Đại Thành quay đầu cười cáo lỗi: “Hai vị thấy rồi đấy, phu nhân chúng ta sắp sinh rồi, nhìn tình hình này… Haiz, xem ra không cách nào tiến cung rồi.”

Sắc mặt của nữ quan và gã hoạn quan kia đều cực kỳ khó coi, bọn họ đang định mở miệng đe dọa thì lại thấy Hách Đại Thành quay đầu nói với nha đầu báo tin: “Nhanh đi bẩm lại với phu nhân rằng đại phu sẽ tới ngay, xin phu nhân ráng cầm cự, chớ sốt ruột vì chuyện tiến cung, chủ nhân trong cung đều là người hiền lành thiện lương, tuyệt đối sẽ không có ý thương hại đến tính mạng của mẹ con phu nhân đâu!”

Tiểu nha đầu kia vẫn còn mang vẻ mặt sợ hãi, lau nước mắt trên mặt rồi chạy biến ra ngoài, một hơi về lại Gia Hi cư. Lúc vào trong phòng, trên mặt cô bé đã chẳng còn chút hoảng hốt nào, còn tinh quái đắc ý nói: “Tiểu Đào tỷ tỷ nói nên bôi chút hành tây vào mắt, em bảo không cần. Vừa nãy em khóc như thật ấy, khiến tất cả đều hoảng hồn.”

“Còn ở đó khoe khoang gì nữa, mau nói đi, thế nào rồi?” Lục Chi kéo cô bé vào phòng trong, gặn hỏi liên hồi.

Thúy Tụ đi tới đứng cạnh Tiểu Đào, ngơ ngác đáp: “Còn thế nào nữa. Nói xong ta liền ra ngoài, Hách tổng quản nói là đại phu sẽ tới ngay thôi.”

Lục Chi nóng ruột tới giậm chận, ai hỏi về đại phu chứ!

Minh Lan bật cười, “Em rống Thúy Tụ làm gì, vốn bảo em ấy đi diễn một màn kịch mà, làm xong thì trở lại đây ngay chứ sao.”

Lục Chi lườm Thúy Tụ một cái rồi bất đắc dĩ thở dài rồi dẫn cô bé ra ngoài ăn hoa quả.

Thôi ma ma liền cùng hai người Thúy Vi giúp Minh Lan nơi lỏng áo cánh, thả búi tóc xuống, tuột giày và vớ ra. Chỉnh sửa mất cả buổi, Minh Lan mới nằm xuống giường, bất giờ mới thấy toàn thân bủn rủn, bắp chân đau nhức.

Thấy Thúy Vi thu dọn trang phục cáo mệnh và trang sức cài đầu, Thôi ma ma quay sang hỏi: “Phu nhân, như vậy… có được không…? Đó dù gì cũng là thái hậu.”

Minh Lan xoa huyệt thái dương, mệt mỏi đáp: “Là thái hậu, nhưng không phải là Thánh An thái hậu mà là Thánh Đức thái hậu.” Một vị là mẹ ruột, còn một vị… ngay cả mẹ kế cũng không được tính.

Thôi ma ma giật mình, “Thánh Đức thái hậu? Chúng ta bình thường đâu thù oán gì với bà ta, sao bà ta lại tới làm khó phu nhân?”

“Đúng, rõ ràng là muốn làm khó ta. Bà già kia muốn tìm người tiêu khiển mà, nếu bắt ta tới rồi để ta đứng hầu hai canh giờ hay quỳ nửa canh giờ, hoàng đế hoàng hậu có tới cứu thì cũng không kịp. Tính mạng quan trọng, an toàn là trên hết, cho dù ý chỉ này là thật thì ta cũng không thể theo lệnh, cùng lắm thì về sau tới ngự tiền kêu oan thôi. Tóm lại trước mắt tuyệt đối không thể ngậm bồ hòn chịu cái thiệt này…”

Minh Lan đang lẩm bẩm thì chợt thấy Tiểu Đào mặt đỏ hồng chạy vào, phía sau còn có Lục Chi nóng nảy đi theo. Cô nàng lắc lắc cánh tay Tiểu Đào, nói liên hồi: “Cô đứng ngoài trông chừng cả buổi, mau nói đi!”

Tiểu Đào giật tay ra khỏi móng vuốt của Lục Chi, trợn mắt nói: “Đau, buông tay, từ từ để ta nói chứ!”

Tiểu Đào thở ra một hơi rồi mới đi tới trước mặt Minh Lan, bẩm báo: “Bây giờ Hách tổng quản đã đuổi mấy người kia đi rồi. Phu nhân không biết đâu, vừa nãy hai người còn ra uy dữ dội, vừa vỗ bàn vừa mắng mỏ liên hồi, còn nói cái gì phủ hầuchúng ta muốn tạo phải nữa, khăng khăng phải gọi phu nhân ra ngoài! Em sợ muốn chết, ai ngờ Hách quản sự không hề dao động, càng nói càng kiên cường, cuối cùng hai người kia không còn cách nào, cũng chẳng thể xông tới đánh lộn với bên mình, đành phải đi.”

Minh Lan nghe xong thì nhếch môi cười, hỏi thêm vài câu hoạn quan và nữ quan kia cáu giận tới cỡ nào, uy hiếp thế nào Tiểu Đào đều nhất nhất thuật lại, cuối cùng Minh Lan khen: “Hách tổng quản đúng là người hiểu biết, lúc này tuyên chỉ quả thực là có ẩn tình.”

Nội quan được lệnh tới nhà thần tử tuyên chỉ thì phải là hạng có thể hếch mũi lên trời, tự cao tự đại, ai dám kháng chỉ bất tuân hay dèm pha nói ra nói vào thì chỉ cười lạnh vào tiếng, lúc trở về phục mệnh với hoàng đế hoàng hậu thì ồn ào tố cáo mấy bận rồi thôi.

Làm gì có ai giống như hai người này, sốt ruột đến cỡ đó, cứ như không mang nàng đi thì không được vậy.

“Bọn họ tức giận lắm, trước khi đi còn hăm dọa bảo chúng ta hãy chờ đó.” Tiểu Đào bổ sung thêm một câu cuối.

Minh Lan khinh thường hừ lạnh, “Ta cũng muốn chờ xem thế nào!”

Chỉ hoàng đế mới nắm giữ chiếu vệ và cấm quân mới có thể bắt trói phạm nhân, xét nhà hỏi tội; cho dù ý chỉ này không có vấn đề, Thánh Đức thái hậu cũng phải bẩm báo trước với hoàng đế, được lệnh bắt người từ hoàng đế mới có thể xuống tay, bởi vì hậu cung căn bản không có quyền điều động quân binh.

Nhưng nếu ý chỉ này là giả, ha ha ha…

Ấy dà, không đúng!

Nụ cười trên mặt cứng lại, trong đầu Minh Lan chợt oang oang lên tiếng còi báo động, nàng ngồi phắt dậy, vỗ mạnh lên gối đầu, hét lớn: “Nguy, nguy rồi! Nhanh lên, Tiểu Đào, Lục Chi, các ngươi mau đi tìm Hách tổng quản, bảo ông ấy phái thân tín đắc lực đi tìm đại nhân Lưu Chính Kiệt kể lại chuyện này, sau đó tới gõ cửa nhà bọn họ bảo bọn họ tuyệt đối đừng tiến cung!”

“Nhà ai ạ?” Tiểu Đào giật nảy mình, Lục Chi cũng sững sờ.

“Nhà Đoàn tướng quân, nhà Thẩm quốc cữu, phủ Anh quốc công, cả họ Bạc, họ Chung, họ Cảnh và họ Phục … Tạm thời là mấy nhà này trước, ta nghĩ ra thêm sẽ báo sau, mau lên, đi ngay bây giờ đi!” Minh Lan liên tục đập giường.

Hai nha hoàn vội vàng vâng dạ rồi đi ra ngoài.

Thôi ma ma nhìn thấy mặt Minh Lan đầy vẻ sợ hãi cũng run giọng hỏi: “Phu nhân, chuyện gì vậy ạ?”

Thần sắc hết sức trầm trọng, Minh Lan chậm rãi nói: “Thôi ma ma, bà còn nhớ loạn Thân Thìn năm đó không, cũng bắt đầu từ chuyện lừa gạt nữ quyến quý gia vào cung đấy.”

Thôi ma ma lập tức trợn tròn mắt, nghẹn ngào kêu lên: “Không thể nào!”

“Chỉ mong là ta suy nghĩ nhiều.”

Minh Lan uể oải tựa vào đầu giường, hai tay ôm chặt bụng, áp lòng bàn tay lên bụng, lẳng lặng cảm giác động tĩnh theo quy luật của thai nhi.

Đứa bé trong bụng bây giờ rất ngoan, chưa từng ngọ nguậy đá đánh lung tung như bé Đoàn mập lúc ấy, khi nào khó chịu cũng chỉ động khẽ hai lần tỏ vẻ kháng nghị mà thôi, tương lai nhất định là một đứa trẻ ngoan hiểu chuyện cho xem.

Chỉ mong lúc nó ra đời thì thiên hạ đã thái bình, không còn hỗn loạn nữa.
 
Chương 217: Đêm qua đột nhiên nổi mưa gió – Biến loạn kinh thành


Bị việc này làm phiền, chẳng những lỡ điểm tâm sáng, ngay cả cơm trưa Minh Lan cũng chẳng muốn ăn, bị Thôi ma ma ép dùng nửa bát cháo gạo tẻ xanh hầm với nước gà, nấm hương, búp măng mà cảm thấy nhạt như nước ốc.

Thiệu thị nghe nói có người trong cung đến, vốn cho rằng Minh Lan tiếp chỉ vào cung, ai ngờ đợi nửa ngày vẫn không thấy động tĩnh gì. Chợt nghe bảo đằng trước ồn ào một hồi, hai vị sứ giả tức giận bỏ đi, tuyên bố phải hỏi tội tịch thu gia sản, chị ta lập tức sợ hãi chết đi sống lại. Từ lần trước bị ép phải ra mặt đuổi Thái phu nhân, chị ta bắt đầu e ngại Minh Lan, chỉ sai nàng hầu thân tín bên người đến thăm dò.

Thúy Vi cố bình tĩnh giải thích mãi “chẳng qua chỉ là hiểu lầm”…, thấy người đến còn úp mở những lời “để tránh quý nhân trong cung tức giận, mời Nhị phu nhân cố chịu tủi thân vào cung một chuyến mới phải”, chị ta bèn đanh mặt lại, bực bội nói: “Nên làm gì, không nên làm gì, phu nhân của chúng tôi tự biết, Đại phu nhân không biết tình hình bên ngoài, cứ yên tâm hưởng an nhàn đi.”

Thấy nàng hầu đó tỏ vẻ gượng ép, sợ sệt đắc tội Minh Lan, lại trông mong không dính họa vào thân, lòng Thúy Vi thầm coi thường, cảm thấy Thiệu thị quả thực là người nhát gan không dám gánh vác trách nhiệm.

Vội vã đuổi người đi rồi, Thúy Vi xoay về, lúc đi qua sân liền nhìn thấy Lục Chi đang ở đầu hành lang ngoài phòng cắn răng trông một chiếc lò đất nung đỏ nhỏ, lửa than tỏa sáng lan tỏa hương thơm ngọt, chị ta bèn cười bảo: “Con bé này nướng gì đấy, mới ăn cơm trưa xong còn gì, không sợ đến bữa bỏ cơm à.”

Lục Chi cầm một cái cặp gắp than màu vàng đồng xinh xắn gạt than lửa, buông giọng cáu bẳn: “Con bé Tiểu Đào chết tiệt chẳng biết chạy đâu rồi! Coi mấy miếng hạt dẻ lông như bảo bối, nói đây là đợt cuối cùng của năm nay, bảo em nhất định phải trông coi, nó không nhìn xem thời tiết thế nào à, mưa bụi bay bay thế này thì nướng ra mùi vị gì ngon chứ!”

Thúy Vi mỉm cười, hỏi: “Phu nhân vẫn nghỉ ngơi à?”

Lục Chi lắc đầu: “Thôi ma ma bảo em trông cửa, không cho mọi người làm ồn, để phu nhân ngủ trưa, nhưng em nghe thấy bên trong vẫn luôn có tiếng nói chuyện.”

Thúy Vị gật đầu, rón rén đi vào trong phòng, vừa nhấc góc rèm lên liền nghe giọng nói dịu dàng trầm ấm của Thôi ma ma: “…Hiện giờ vẫn chưa chắc chắn được gì, phu nhân chớ nghĩ ngợi lung tung kẻo lại ảnh hưởng đến thân thể”. Chị ta đứng tại chỗ một lúc lâu, nghe bên trong không còn tiếng động nữa mới nhấc chân bước vào, quỳ gối hành lễ thưa: “Người do Đại phu nhân phái tới đã về rồi.”

Minh Lan khoác chiếc áo gấm lót lông cừu ấm áp màu trắng nhạt thêu hoa văn đám mây, tóc xõa đầy vai, nghiêng người dựa vào đầu giường, nàng nhìn sắc mặt khó chịu của Thúy Vi khi đề cập đến Thiệu thị bèn hỏi: “Người tới nói nhảm nhí cái gì hả.”

Thúy Vi bực bội nói: “Tôi khuyên can mãi mới đuổi người đi được. Chỉ giận vừa có việc xảy ra, chị ta chẳng thèm hỏi phu nhân có ổn không, chỉ e liên lụy đến mình, còn khuyên phu nhân vào cung nữa! Hừ, dù là một tảng đá thì ủ hai năm cũng phải ấm lên rồi chứ!”

Thường ngày Minh Lan nghe nói như vậy thì sẽ không mấy để ý, nhưng lúc này bụng nàng đầy tâm sự, nghe vậy bèn cau mày: “Bảo vợ Liêu Dũng sai mấy đứa hầu theo dõi bên đó, kẻo lại xảy ra rắc rối.” Đúng là kẻ phiền phức, gió chiều nào theo chiều ấy!

Nàng nói đúng lòng Thúy Vi, chị ta bèn tươi cười đồng ý rồi ra ngoài.

Minh Lan lo lắng, không yên tâm con trai bèn bảo Thôi ma ma đến xem nhóc Đoàn, chính mình thì đắp chăn nằm thẳng, mắt mở thao láo, trong đầu tràn ngập suy nghĩ lung tung không thể ức chế, vừa mong chỉ là bản thân ăn no rửng mỡ nghĩ ngợi quá nhiều, vừa âm thầm cảm thấy bản thân không sai, chỉ hận thông tin thời cổ đại quá lạc hậu, ở hiện đại gửi tin nhắn phát là xong việc, ở đây lại phức tạp như vậy…

Nghĩ mệt mỏi, nàng mơ màng thiếp đi, sau đó mơ một đống giấc mơ vớ vẩn. Đầu tiên là Mạn Nương dẫn Hoàng Kim Thánh đấu sĩ đánh đến nhà, đe dọa nàng giao ra bảy viên ngọc rồng, nàng trợn mắt hỏi “không phải giao Athena ư”, sau đó Hung Nô đánh tới kinh thành, bắt nàng về thảo nguyên biểu diễn Hồ Già Thập Bát Phách, kết quả phát hiện nàng bị mù nhạc bèn lập tức đuổi nàng đi rửa sạch dê ngựa, đang rửa, đột nhiên quân đội từ trên trời giáng xuống giết sạch bộ lạc chỉ vì nàng rửa con ngựa mắt đỏ như máu của tộc Kurata (* manga Hunter X =))) đó, người tẩy rửa với nàng trước khi tắt thở còn túm chặt vai nàng run rẩy: “…Hóa ra… mi… thật sự… sẽ mang đến gió tanh mưa máu ư…”

Ơ, sắp chết đến nơi rồi làm sao còn có sức kéo vai nàng như thế nhỉ?

Minh Lan sợ hãi từ từ tỉnh dậy, trước mặt xuất hiện gương mặt phóng đại của Lục Chi, nó vội vã nói: “…Phu nhân, phu nhân, ngài tỉnh dậy đi, quản sự Hách phái người ra ngoài về rồi, chẳng phải ngài bảo em hễ có ai về bèn lập tức gọi ngài mà…”

Minh Lan bừng tỉnh, định thần lại, vội bảo Lục Chi hầu hạ mình đứng dậy thay quần áo.

Bên ngoài đã tạnh mưa, nền trời ngả màu, màu xanh tro mênh mang dàn trải, xa xa xen kẽ vệt đỏ cam, rọi ánh sáng u buồn vào lá cây trong đình viện, cạnh ao vài cây cúc tàn ngày thu lay động trong gió, cảnh đẹp nên thơ, “hoàng hôn bóng trăng rơi tàn cúc, gió đêm nước thu sóng biếc gợn.”

Minh Lan vịn Thúy Vi bước vững vàng, không khí mát mẻ gần tối khiến tinh thần nàng tỉnh táo hẳn, sảnh bên ngay gần, vài bước liền đến. Quản sự Hách đã khom người đứng chờ dưới hành lang, phía sau là mấy đứa sai vặt mồ hôi đầy đầu. Ngồi xuống, Minh Lan vội hỏi tình hình thế nào.

Hách Đại Thành phái ra ngoài tổng cộng mười mấy đứa sai vặt, bấy giờ lục tục về vài đứa. Minh Lan biết việc này ảnh hưởng nghiêm trọng, nếu sau này vô sự, chính mình có lẽ sẽ bị mang tiếng xúi giục người ta kháng chỉ, nàng bèn không viết thư không đưa tín vật, chỉ bảo gã sai vặt đến nhắn lại “nếu trong cung có ai đến tuyên chỉ thì hãy cẩn thận, phu nhân nhà ta cảm thấy bất thường.”

Mấy gã sai vặt quỳ xuống hành lễ, Minh Lan bảo bọn họ đứng dậy trả lời.

Đứa về sớm nhất là đến nhà họ Chung và họ Đoàn báo tin, không phải hai nhà này ngay gần mà là khi nó đến thì Đoạn phu nhân và Chung phu nhân đã mang mẹ chồng và con cái vào cung, nó vừa hỏi chủ nhà đã đi bèn phi như bay về.

Minh Lan giật mình, ngay cả hai nhà này cũng liên quan đến, chẳng lẽ chính mình đoán trúng?

Tiếp theo là nhà họ Cảnh, do nhà họ khá xa, gã sai vặt cưỡi ngựa đến vừa kịp lúc, thở hồng hộc truyền đạt lại lời bà chủ nhà mình xong, nghi thức tuyên chỉ liền đến. Cảnh phu nhân dù không biết chữ nhưng tâm tư nhanh nhạy, lời Minh Lan nói bà ta không dám tin hoàn toàn, nhưng cũng không dám không tin. Vì sợ kháng chỉ liên lụy đến chồng bèn cắn răng đưa con cái ra ngoài từ cửa sau, nói với sứ giả là “đi thăm họ hàng”, sau đó đi theo vào cung.

Minh Lan lắc đầu thở dài, cũng không thể chỉ trích.

Cuối cùng, gã sai vặt nói thêm: “Cảnh phu nhân còn bảo mong phu nhân niệm tình giao hảo lâu ngày làm chứng cho bà ấy, nếu bà ấy chẳng may gặp chuyện, bảo Cảnh đại nhân hãy lấy cô Hai nhà cụ Ba phòng thứ tư nhà mẹ đẻ của bà ấy làm vợ kế, không được tìm con hồ ly tinh nào khác.”

Minh Lan:…

So sánh ra thì tin tức hai nhà Trương Thẩm tốt hơn nhiều.

Hồi “loạn Thân Thìn”, Trương phu nhân đã từng là một trong số con tin xui xẻo bị giam trong cung, một lần bị rắn cắn, hiện giờ cục diện thay đổi, bà ấy sao có thể không cảnh giác chứ. Vừa nghe ý chỉ liền nảy sinh nghi ngờ. Bà ấy cũng không chất vấn tại sao, chỉ ỷ vào thân phận cao quý mà nói cho hai sứ giả đó không ứng phó nổi.

Nhà mẹ đẻ, nhà chồng của bà ấy đều là danh môn vọng tộc đứng hàng đầu, từ nhỏ vào cung nhiều như đi thăm họ hàng, quen thuộc tỏ tường quy củ trong hoàng thành hơn Minh Lan rất nhiều, chưa được vài câu bọn họ liền hiện ra sơ hở. Trương phu nhân nắm quyền phủ Anh quốc công mấy chục năm, nói một không hai, nổi giận lôi đình, trói gô hai kẻ tới tuyên chỉ và những người liên quan lại.

Lúc gã sai vặt chạy tới, Trương phu nhân còn đang định đưa “kẻ cắp giả truyền ý chỉ” cho nha môn, bảo gã sai vặt chuyển lòng biết ơn đến Minh Lan, còn nhân tiện tặng kèm bốn tên cung thủ tháo vát.

“Trương phu nhân chỉ nói ‘đề phòng bất trắc’, không nói gì thêm.” Gã sai vặt nghi hoặc, bụng nhủ chả lẽ phải đánh nhau.

Minh Lan hoảng hốt, chắc là Trương phu nhân cũng đoán ra gì đó, nhưng không có bằng chứng nên không thể khẳng định. Nàng tiếp tục hỏi: “Còn nhà họ Thẩm thì sao?”

Gã sai vặt khác tiến lên thưa: “Trương phu nhân đã đưa tin cho phủ Quốc cữu, vốn Quốc cữu phu nhân định mang con cái về nhà mẹ đẻ tránh, nhưng nghe ma ma bên cạnh quốc cữu phu nhân nói dì Trâu và cậu Cả cô Cả không chịu đi, khiến Thẩm phu nhân cũng phải ở lại. Lúc nô tài về, Thẩm phu nhân mượn cớ ốm bệnh đuổi đám tuyên chỉ đi rồi, đang đóng cửa giới nghiêm toàn phủ.”

Minh Lan gật đầu, quay lại hỏi: “Hách tổng quản, mới chỉ có mấy nhà này có tin tức sao?”

Hách Đại Thành tỏ ra khó xử, chắp tay nói: “Vâng phu nhân, mới có mấy nhà này.” Dừng lại giây lát lại nói: “Tôi vốn định sai thêm người đi hỏi thăm, nhưng trưa hôm nay chỗ cửa Trùng Dương có kẻ chém nhau, hiện thời Lưu đại nhân đã hạ lệnh giới nghiêm toàn thành.”

Minh Lan lộp bộp trong lòng, Hách Đại Thành thấy vậy bèn nói vội vàng: “Phu nhân chớ lo, tôi tự quyết định sai người đến xem phủ thông gia. Tam phu nhân nói trong phủ hết thảy vẫn ổn, còn nói nếu tiện sẽ bảo ông thông gia trở về từ nha môn thì đến xem phu nhân, nhưng.. lúc này chỉ e ông thông gia cũng không thể đến. Vốn còn định đến phủ Trung Cần bá báo cho cô Cả, nhưng ra cửa lại gặp phải giới nghiêm nên không đi được.”

Quan văn không có việc gì, nhà võ tướng lại…? Tại sao tình hình khác hẳn lần trước nhỉ.

Minh Lan nhăn chặt mày vẫn không nghĩ ra nổi, đành phải dặn đi dặn lại tổng quản Hách phải đề phòng cửa nẻo gấp bội, tuyệt đối không được chủ quan lơi lỏng. Hách Đại Thành biết tình hình bất ổn, canh phòng trọng đại bèn liên tục đồng ý, lập tức lui xuống làm việc.

Đang định về Gia Hi cư, chợt nghe thấy bên ngoài vang tiêng ồn ào, tiếng mấy đứa hầu kêu sợ hãi, chưa đợi Minh Lan lên tiếng, một cô bé tròn quay khờ khạo vừa lăn vừa bò vào, lao thẳng đến trước mặt Minh Lan.

Minh Lan bật cười: “Cô ngốc, cả chiều chạy đi đâu thế, làm Lục Chi phải trông bếp lò cho em tận nửa ngày, cẩn thận tí con bé lại véo em.”

Tiểu Đào ngẩng đầu, bối rối: “Phu nhân, không xong rồi! Cậu Hai Thạch vừa mới về, anh ấy nói… nói…”

“Hắn nói cái gì?” Minh Lan nghiêm trọng hỏi.

Tiểu Đào vội vàng: “Lưu, Lưu, Lưu đại nhân, hắn, hắn… bị đâm…”

“Cái gì…?!” Minh Lan giật nảy mình.

“Nhưng mà không trúng.” Tiểu Đào nuốt nước miếng, bổ sung.

Minh Lan gần như hét lên: “Nói hết ra!”

Tí nữa thì dọa chết nàng! “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Nghe nói từ đâu!”

Tiểu Đào mau chóng hít sâu một hơi, bắt đầu: “Trưa nay anh Thạch rủ em đi ăn bồ câu sữa, em nói đáng tiếc không có quả dâu chua ngọt ăn kèm, anh ấy bảo biết cửa hàng bán hoa quả nam bắc cực ngon, em nói hình như bên ngoài đang cấm đi lại, anh ấy bèn bảo không sao, năm đó Giang Hoài dấy binh qua anh ấy còn khiêng cháu gái chạy ra đường…”

Nhìn cô ngốc nghẹn đỏ bừng mặt, Minh Lan nhắm mắt lại, than thở: “Nói từ từ, thở trước đã.”

Tiểu Đào há mồm thở dốc, tiếp tục thở hổn hển nói: “Thế là anh Thạch bèn đổi quần áo giống gã sai vặt ra khỏi cửa, em đợi hồi lâu anh ấy mới về. Anh ấy bảo lúc đến mới thấy cửa hàng đó đã đóng cửa rồi, có điều anh ấy nhớ gần đó còn có cửa hàng bán mứt khá ngon, cơ mà ông chủ hay cân thiếu hai lạng…”

“Đừng nhắc đến hoa quả của hai đứa!” Minh Lan cảm thấy huyết áp đang dâng cao: “Nói chuyện quan trọng ấy!”

Tiểu Đào rất ấm ức, kể chuyện vốn phải rõ ràng đầu đuôi chứ: “…Anh Thạch mới ra khỏi cửa ngõ bèn nghe thấy trên đường có người kêu ‘có thích khách’! Anh ấy bèn chạy ra đường, ai ngờ đụng phải anh Trần – thị vệ của Lưu đại nhân. Anh Trần nói trưa nay có kẻ gây rối trước cửa Trùng Dương, Lưu đại nhân không tìm ra Trịnh đại tướng quân, đang muốn đến Ngũ thành binh mã để chỉ trích, nào ngờ lúc cưỡi ngựa qua góc rẽ, trên nóc nhà và bốn phía đột nhiên xông ra một đống kẻ bịt mặt ám sát. Lưu đại nhân bị thương, may mà vẫn giữ được mạng.”

Minh Lan thở ra một hơi, nghiêm nghị mắng đồ ngốc! Bên ngoài loạn như vậy mà em cũng dám sai cậu Thạch ra ngoài, nếu lỡ làm sao biết ăn nói thế nào với anh trai chị dâu nó! Người đâu? Còn không mau lăn vào đây, thằng nhãi, tôi phải cho nó một trận!”

Tiểu Đào lắp bắp: “Anh ấy, anh ấy, anh ấy… bị thương một chút, cậu Hai Đồ đang xem vết thương.”

Minh Lan hét lên: “Sao bảo không đụng phải ám sát cơ mà!”

Tiểu Đào chột dạ cúi đầu: “Ông chủ cửa hàng đó thấy anh Thạch mặc đồ cũ kỹ bèn lấy hàng cũ ra giả vờ là hàng mới, anh Thạch nếm thấy lạ bèn đòi giả lại tiền đổi lại hàng, ai ngờ ông chủ đột nhiên nổi giận, sai mấy đứa hầu bàn cầm gậy gộc ra dọa nạt, anh Thạch tức điên bèn đánh nhau với họ…”

Minh Lan xẹp cơn giận, thở than: “Hay, hay lắm, rốt cuộc có mua được hoa quả về không?”

Tiểu Đào ngẩng đầu: “Anh Thạch hạ gục bọn họ, ông chủ phải cho không vài cân mứt hoa quả thượng đẳng!” Nhìn thấy mấy đứa hầu đằng sau Minh Lan đều đang cười trộm bèn ngượng ngùng nói: “Lát nữa chia cho các chị em nếm thử.”

Minh Lan ngẩng mặt thở dài, kinh thành đang hỗn loạn khắp nơi, phản tặc hoành hành, bao nhiêu người quyền quý run sợ trong lòng, hai đứa dở hơi này lại còn có hơi sức đánh nhau với người ta vì vấn đề chất lượng đồ ăn vặt? Đúng là thần kinh thô!

Thấy Thúy Vi nghẹn cười đến sức nội thương, mấy đứa hầu thì đều mím môi nín nhịn, Minh Lan yếu ớt vẫy tay: “Thôi, em đỡ ta về nhà thay quần áo rồi đến xem cậu Thạch. Nếu để vợ chồng anh Thạch biết việc này, không biết có còn cần em làm em dâu nữa không…”

Cô ngốc cũng biết đỏ mặt, ngại ngùng xoay người đỡ Minh Lan dậy cùng Thúy Vi, chậm rãi ra khỏi sảnh. Trên đường đi Thúy Vi liên tục trêu Tiểu Đào, Minh Lan nghe mà buồn cười, dịu bớt nỗi buồn trong lòng.

Bỗng dưng một đứa hầu sợ hãi kêu: “Nhìn kìa, đằng kia đi lấy nước!”

Mọi người vội quay lại, theo hướng cánh tay đứa hầu, chỉ thấy xa xa khói đen bốc lên cao, ánh lửa lan xa.

Không trung vừa vào đêm như tấm vải dính phải màu than tro nhạt, mực đen lấm tấm, ánh mặt trời phía Tây le lói vầng sáng, ngọn lửa đằng xa chói mắt chấn động lòng người.

“Phu, phu nhân, hướng đó chẳng phải là…?” Thúy Vi ngạc nhiên nghi ngờ.

Minh Lan lẳng lặng gật đầu: “Ánh lửa cao như thế hẳn là nơi nào cực cao bốc cháy… chắc là hoàng cung.”

Cuối cùng cũng bắt đầu.

Xung quanh im lặng như tờ, mấy đứa hầu liếc nhau, trong mắt toàn là sợ hãi.

Minh Lan im lặng dõi về phương xa, nửa bên này chìm vào chiều tối u ám, nửa bên này bị ánh lửa ngút trời chiếu sáng lấp lánh mà khó hiểu. Tuy nhiên, nàng chưa từng rõ ràng đến vậy.

Hồi trưa lúc Thôi ma ma khuyên nàng nghỉ ngơi từng bảo “phu nhân cả nghĩ quá, lần trước ‘loạn Thân Thìn’ những người bị tuyên vào cung đều là quý nhân nhường nào, chúng ta lại chẳng phải hoàng thân quốc thích, bắt ngài đi để làm gì?”

Khi đó nàng không hiểu, bây giờ còn gì mà không rõ.

Sự đời thay đổi, lúc đó Tam vương gia làm loạn, tiên đế hẵng còn khỏe mạnh, binh quyền đều nằm trong tay ngôi cao, Tam vương gia thiếu danh phận chính thống và sự thừa nhận của thế gia vọng tộc, bởi vậy mới lừa vô số con ông cháu cha và phụ nữ tôn quý vào cung làm con tin, cưỡng bức nội các và đại học sĩ viết chiếu thư. Còn bây giờ… Ôi, Duệ vương, Duệ vương!

Minh Lan từng nhìn thấy cậu bé chừng mười tuổi ở đằng xa, trắng trẻo khôi ngô, thông minh hiếu học, tao nhã lễ phép, rất có thanh danh trong số kẻ sĩ, so với đương kim cứng rắn sắt đá thì càng được thế gia quyền quý khen ngợi hơn, ngay cả Thánh An thái hậu và hoàng hậu cũng rất thích, quả nhiên là lôi đứa bé này ra lợi dụng đây mà!

Duệ vương là người thừa kế của Tứ vương gia do tiên đế công khai tuyên chỉ, Tứ vương gia lại là thái tử mà tiên đế từng lập, thứ tự đứng đằng trước đương kim thiên tử hiện tại. Hoàng đế kế vị mấy năm, quyền lực chưa ổn định, giả như bất hạnh “đột nhiên chết trong cung”, các vị hoàng tử đồng loạt “gặp nạn” hoặc mất tích đương nhiên càng hay, bằng không… chỉ có thể xem sống lưng ai cứng hơn ai.

Cục diện trong kinh không rõ, đa số quân đội lại đang chinh chiến ở phía Tây.

Bỏ qua một bên nhóm Trương Cố không rõ sống chết, Bạc lão soái trọng thương nằm trên giường, Phục tướng quân chưa chắc đấu lại nổi lão cáo già Cam lão tướng quân, huống hồ nhà mẹ đẻ của Thánh Đức thái hậu chiếm cứ Tây Bắc nhiều năm, rắc rối khó gỡ, thế lực không thể coi thường. Còn nhóm của Thẩm Tòng Hưng thì thực tế nhóm của Đoạn Thành Tiềm mới là người khống chế quân đội.

Nếu cung biến thành công, Duệ vương ngồi lên ngai vàng trước rồi mới xưng đế, lại lấy con cái gia quyến ép buộc những vị tướng lĩnh này thì chẳng sợ lúc đại quân về kinh cần vương, gạo sống đã nấu thành cơm, không chấp nhận cũng không được.

Quả nhiên tính toán hay!

“Phu nhân, phu nhân!”

Tổng quản Hách xưa nay luôn bình tĩnh hoảng hốt chạy tới, quỳ xuống nền đá xanh: “Bên ngoài loạn hết cả lên rồi, Ngũ thành binh mã đang gây rối, chẳng những không nghe lời Lưu đại nhân lại còn tự tiện đóng chặt cổng thành, không cho bất kỳ ai ra vào, cùng chém giết với cấm quân của Lưu đại nhân!”

Ông ta lau mồ hôi lạnh, cẩn thận nhìn Minh Lan: “…Còn, còn nữa… Nghe nói Trịnh đại tướng quân cũng phản, gã sai vặt về báo rằng, nó nhìn thấy có quân sắp tấn công vào hoàng cung rồi…”

Nhóm hầu gái sợ hãi kêu rên, thút thít nỉ non.

Minh Lan bình thản nói: “Chả trách dám gây rối, hoá ra là có chuẩn bị từ trước.”

Hách Đại Thành vội vàng bảo: “Phu nhân, hay là trốn đi, chúng tôi che chở phu nhân rời phủ.”

Minh Lan cười lạnh: “Trốn! Trốn đi đâu?”

Nàng nhẹ nhàng vuốt sợi tóc mai bị gió đêm thổi tung, cất giọng bình tĩnh: “Dù có rời phủ thì hiện giờ cổng thành đóng chặt, chúng ta biết trốn đi đâu? Là phúc không phải họa, là hoạ không tránh được, hoàng thượng anh minh, ắt có thể một lần liền bình định phản loạn.

Bên ngoài loạn như một nồi cháo, ra ngoài chưa chắc đã an toàn, chỉ hi vọng Cố Đình Diệp có mắt chọn ông chủ hơn là chọn phụ nữ, bằng không, tổ chim đã lật nào còn có trứng!

Minh Lan phớt lờ vẻ mặt mọi người, nhấc chân đi tiếp về Gia Hi cư. Thôi ma ma đã dọn cơm lên, ôm nhóc Đoàn ngồi chờ. Chiếc bát hoa hình bát giác xinh xắn đựng canh trứng gà thịt vụn với tôm bóc vỏ, một đĩa bánh quế củ cải tím xứng với vịt ướp muối và hoa quế, một đĩa thăn bò ướp tương và hành rán, một đĩa sốt nấm hương bày trên rau cải xanh mướt.

Minh Lan bình tĩnh giơ đũa gắp đồ ăn, vừa ăn còn vừa đùa với con trai. Nhóc Đoàn đã lâu không được chơi với mẹ, cười khanh khách không ngừng, đạp chân tí thì lăn xuống dưới bàn, vú nuôi khó khăn lắm mới cho nó uống xong bát trứng sữa. Thôi ma ma vừa chia thức ăn vừa lén đánh giá Minh Lan, mấy bận định mở miệng hỏi lại không dám.

Ăn uống no say, Minh Lan súc miệng rửa tay, nói: “Theo dõi chặt chẽ sân của Đại phu nhân, không cho Nhàn nhi và Dung nhi được đi lung tung, ngồi yên trong phòng cho tôi, đưa Nhược Mi và đứa bé cũng chuyển tới sân của Đại phu nhân đi.”

Cách mẹ con mình xa chút, có lẽ bọn họ sẽ an toàn.

“Còn Đoàn nhi…”

Minh Lan kề sát Thôi ma ma, nhỏ giọng bên tai, Thôi ma ma giật mình tỉnh táo: “Phu nhân yên tâm, tôi biết rồi.”

Bố trí xong xuôi, đến lúc lên đèn, Minh Lan ngồi ngay ngắn trên bàn sách trong phòng khách, mở rộng cổng, lẳng lặng đọc sách. Lật tới “Bản chép chốn Đào nguyên”, nhìn đến “hương thơm cỏ xanh tươi đẹp, hoa rụng rực rỡ”, chợt thấy vợ Liêu Dũng cuống cuồng lao vào, sắc mặt tái mét, bất chấp thi lễ, quỳ phịch xuống hoảng hốt thưa: “Bên ngoài… bên ngoài có quan binh bao vây phủ hầu chúng ta…”

Minh Lan chậm rãi đặt quyển sách xuống: “Họ nói cái gì?”

Vợ Liêu Dũng vội nuốt nước bọt: “Nói, nói phu nhân kháng chỉ bất kính, phải bắt lấy phu nhân trị tội! Cậu Cả Đồ đang ngăn cản, không chịu mở cửa.”

“Tôi cũng đoán vậy.” Minh Lan mỉm cười: “Ra đằng trước thôi.”

Bên ngoài đã chuẩn bị kiệu mềm, Minh Lan hơi đung đưa theo bước chân người khiêng kiệu, kinh thành đầu xuân bất ngờ rét lạnh, dường như chỉ giây lát lại về tới mùa đông lạnh giá, gió Bắc len lỏi giữa các chạc cây, như con rắn độc thè lưỡi nhè nhẹ ẩn nấp trong bóng tối.

Minh Lan ngẩng đầu nhìn trời, đêm đen như mực, trăng lặn sao thưa, tối tăm vô biên vô hạn bao lấy bầu trời, xung quanh toàn đứa ở bà hầu, lại yên tĩnh đến độ nghe tiếng kim rơi, yên tĩnh và tối tăm đều đáng sợ như nhau, nàng thầm nghĩ.

Nhưng trong lòng ta sáng ngời như ánh trăng đêm rằm.

Như mỗi một lần khởi đầu một sinh mệnh, như mỗi một mầm cây xúc động nảy lên, tưởng có mà không, tưởng sinh mà diệt.

Tới tiền sảnh ngoại viện, trong viện chật ních hộ vệ khỏe mạnh, người người cầm đuốc thắp sáng đêm đen như ban ngày, cổng sơn son cao gần ba người bị vỗ đùng đùng, tiếng người ầm ĩ quát tháo vẳng từ bên ngoài.

“Cố Thịnh thị mau mau chịu trói!”

“Nghịch tặc Cố thị còn không mau mở cửa!”

“Chúng ta phụng mệnh tới bắt nghịch tặc, ai mở cửa sẽ được vô tội, thăng quan tiến chức!”…

Cậu Cả Đồ đứng chặn đằng trước, chỉ chừa một lối đi thẳng tắp, Minh Lan vịn tay Tiểu Đào đến, cửa hông mở hé một cánh cửa sổ to bằng bàn tay, Minh Lan lại gần ngó ra ngoài, một nhóm người tụ tập trước cửa, chỉ có vài kẻ mặc quan phục Ngũ thành binh mã, mấy chục người đằng sau lại mỗi người ăn mặc một kiểu, tướng mạo hung dữ như phường trộm cướp, liên tục chửi mắng.

Minh Lan xoay người rời khỏi cổng, đứng lên bậc thềm cao của chính sảnh, cao giọng: “Mời các vị nghe tôi nói một câu!”

Trong ngoài cửa vẫn ồn ào như cũ, Đồ Long rống lên: “Bên ngoài nghe đây, phu nhân nhà ta đến rồi, chúng bay im lặng nghe cho ta!”

Tiếng gầm của người có vẽ quả nhiên không thể coi thường, Minh Lan ù cả tai, bên ngoài quả nhiên lắng xuống.

Chợt nghe một giọng nam kiêu ngạo khoe khang vang lên: “Cố Hầu phu nhân nghe đây, trước đó mi không chịu phụng mệnh vào cung, chọc giận hoàng thượng và thái hậu, ta bèn đến đây bắt! Mau mau chịu trói, ta sẽ tha cho cả nhà mi!”

Minh Lan nhướn lông mày lá liễu, nhanh nhẹn kêu lên: “Mơ tưởng, ta đây còn lâu mới đi!” Giọng nữ lanh lảnh vang lên rõ rệt trong đêm đen. Hộ vệ trong viện không khỏi lên tiếng cười nhạo.

Tên đàn ông đó thét lên: “Tặc phụ, sao dám như thế?!”

“Chẳng có lý do gì quan trọng, chỉ vì trông mi đầu trâu mặt ngựa, lấm lét thậm thụt, vừa nhìn thấy chính là hạng chuyên bị kẻ khác đè lên!” Minh Lan tận lực nhỏ giọng.

Xung quanh vang tiếng ồn ào cười to, ngay cả ngoài cửa cũng vọng tới tiếng cười.

Tên cầm đầu nổi giận rít gào, chửi bới bậy bạ, vừa đè xuống tiếng cười đùa lại thấy Minh Lan xen ngang: “Ta đây biết rõ chúng bay là hạng người gì! Nửa người nửa ngợm, tạo phản làm loạn cũng dám chường mặt ra hả!”

Bốn chữ “tạo phản làm loạn” rất có lực chấn động, bên ngoài lại chìm vào yên tĩnh.

Minh Lan cao giọng, lạnh lùng: “Loạn thần tặc tử thì ai cũng có thể giết chết, lý lẽ này ai cũng đều hiểu, song có kẻ mắt mù, ôm lòng may mắn định lấy cổ dán vào lưỡi đao, định thử vận may đây mà! Nhớ ‘loạn Thân Thìn’ năm đó, nghịch vương được bao nhiêu quyền quý quan to tương trợ, ha ha, kết quả thì sao? Ngắn ngủi bảy ngày tiên đế liền bình định phản loạn, chúng bay không tự xem bản thân được mấy cân mấy lượng, so với nghịch vương năm đó thế nào, liệu có chống cự nổi bảy canh giờ hay không hả!”

Nàng cười khẩy, tiếp tục cao giọng: “Nói nhảm ít thôi, có bản lĩnh thì tấn công đi, đừng ở đó lừa gạt bậy bạ. Ta khuyên hảo hán bên ngoài một câu, thừa dịp còn chưa bị phát hiện, chuồn nhanh mới là thượng sách, có rất nhiều con đường để phát tài, đừng nhảy vào vũng nước đục này, tạo phản làm loạn không phải đánh cướp một nhà giàu có, rơi đầu là xong việc, hãy lo lắng kỹ càng cho vợ con già trẻ trong nhà đi!”

Phía ngoài đột nhiên tĩnh lặng như không hề có người, qua hồi lâu, giọng nam kiêu ngạo lại kêu to: “Đừng bị mụ ta mê hoặc, trong phủ hầu tràn ngập vàng bạc châu báu, phát tại ngay tại đêm nay!”

Đồ Long cũng hét lên một tiếng: “Hầu gia có danh sách tên tuổi chúng ta trong tay, nếu bảo vệ phu nhân thất bại, sau này ắt bị nghiêm trị! Phu nhân đã đồng ý, một cánh tay một trăm lượng bạc, một cái chân một trăm năm mươi lượng bạc, nếu mất mạng cả nhà già trẻ sẽ được phủ hầu chăm sóc! Các anh em, sống qua lần này, mọi người đều được trọng thưởng, sau này sẽ được ăn ngon mặc đẹp!”

Cùng với hai tiếng hét này, đêm chém giết chính thức bắt đầu.

Tấm bình phong sơn son mười sáu khung ở chính sảnh mở toang, Lục Chi dời chiếc ghế thái sư đến giữa phòng, Minh Lan ngồi ngay ngắn lên trên, nhìn đằng trước đấu đá mãnh liệt, coi như theo dõi hỗ trợ một tay.

Theo quy chế, trong kinh thành ngoại trừ hoàng cung, tường cổng phủ hầu chỉ kém hơn phủ vương một chút, dày nặng hơn xa cửa nhà gia đình bình thường, cao gần hai, ba người cộng lại, cổng trước cổng sau dày gần nửa thước, không có búa tạ không thể phá vỡ. Bên ngoài điên cuồng đấm cửa lại chẳng hề bị lay động một chút, lấy đao thương vừa chặt vừa đâm cũng vô dụng.

Đám cướp hiển nhiên không ngờ Minh Lan kiên cường như thế, cứ tưởng hạng đàn bà hù doạ tí là sợ, bấy giờ trong tay không có công cụ phá cửa, đành phải vừa dặn đi bổ ít cây cối to khoẻ đến phá cửa, vừa thúc giục nhau bò tường nhảy vào.

Nào ngờ Đồ Long đã chuẩn bị rất nhiều gậy gỗ sắc nhọn dài hơn hai mét, trong nhà hai người làm thành một nhóm giơ sẵn, vừa thấy đầu tường có người liền hung hăng chọc, tiếng kêu thảm thiết liên tục vang lên, tức khắc có mấy kẻ cắp bị chọc thủng cằm hoặc ngực, ào ào rơi xuống. Cũng có kẻ dũng mãnh vung đao bò vào, nào ngờ gậy gỗ được đổ qua dầu, đao bình thường không thể chặt đứt. Có kẻ thân thủ linh hoạt né tránh được gậy gỗ thì lại bị hai tên cung thủ lành nghề bắn rụng.

Bên ngoài dừng chốc lát rồi cũng học đòi bắn tên vào trong, che chở đồng bọn leo vào, tên lao vùn vụt, giây lát, mấy người cầm gậy gỗ bị trúng tên, Minh Lan mau sai người nhấc mấy người bị thương vào trong phòng.

Chúng hộ vệ quay lại thấy bà chủ bụng to vẫn bình tĩnh thản nhiên ngồi đằng sau thì chẳng dám lười biếng chút nào, còn cùng nghĩ “ngay cả phụ nữ yếu ớt đều gan dạ như vậy, huống hồ là đàn ông như chúng ta”?!

Đồ Long vung quỷ đầu đao, sai người bò lên chiếc thang đặt sẵn đầu tường, cầm bọc nhỏ gói vôi, né qua mưa tên, nhanh chóng tung ra ngoài, vôi bay lả tả, bên ngoài kêu cha gọi mẹ, tiếng sợ hãi vang lẫn tiếng mắng chửi.

“Mau nhắm mắt lại, bên trong rải vôi!”

“Mẹ kiếp, dám dùng thủ đoạn bỉ ổi như thế!”…

Cậu Cả Đồ không nhịn nổi lẩm bẩm: “Nếu để anh em trên giang hồ biết, lão Đồ ta thật không còn mặt mũi gặp người… Nhìn gì, nhóc con, mau rải tiếp đi!”

Nửa canh giờ sau đó, trong ngoài dần dần yên tĩnh lại, chợt nghe tiếng bước chân thình thịch, tựa như lại tới thêm một đám cướp, Đồ Long nghiêng tai lắng nghe, biến sắc, vội kêu: “Anh em cẩn thận, bọn chúng lại đến.”

Quả nhiên chỉ chốc lát sau, đám cướp bịt mắt bằng tấm lụa mỏng, gào thét hô hào leo tường lẫnn, lần này số lượng tấn công đông đảo, trên tường đông nghịt, bắn tên đâm gậy nhất thời không kịp.

Bấy giờ trong viện chảo dầu được đun đã bốc lên khói xanh ghê người, Đồ Long kêu to, sai người đưa từng thùng dầu sủi lên thang rồi vẩy ra, bên ngoài tức thì ré lên tiếng kêu la inh ỏi kèm mùi thịt người cháy khó ngửi, giữa đêm khuya càng có vẻ kinh dị.

Lục Chi tái mặt, răng đánh cầm cập, nhìn chằm chằm vào từng bãi máu, Tiểu Đào kiên cường hơn nhiều, rảnh rỗi còn giúp di chuyển người bị thương rên rỉ.

Hiện thời đúng độ vào xuân, các hộ vệ tưới dầu mặc áo bông đeo bao tay hiển nhiên không sợ, nhưng đám cướp bên ngoài lại đều mặc xuân y mỏng manh, chớ nói bị tưới lên đầu coi như mất nửa cái mạng, dù hơi dính vào một chút cũng giậm chân đau nhức.

Hắt dầu có tác dụng cực cao, đám cướp tổn hại nặng nề, phía ngoài nhất thời ổn định.

Ngón tay vịn chặt tay ghế, khớp xương trắng bệch: “Bọn chúng sẽ không dễ dàng từ bỏ.”

“Phu nhân yên tâm, chỗ cửa sau có anh em canh phòng, dầu sôi nhiều lắm, cọc nhọn càng đủ!”

Minh Lan cứng nhắc gật đầu, một tay lau mồ hôi lạnh trên trán, một tay xoa bụng, cảm thấy giần giật, có lẽ em bé cũng cảm nhận được nàng sợ hãi, Minh Lan thương con, nén nước mắt nhẹ nhàng vỗ về.

Yên ổn chưa đến một canh giờ, gia đinh đầy người vết máu chạy tới từ đằng xa, cao giọng: “Cậu Cả Đồ, đám cướp ra cửa sau rồi. Cậu Hai Đồ đang gọi mấy người tới giúp mộ tay!”

Đồ Long quay lại nhìn Minh Lan, tỏ vẻ thăm dò, Minh Lan cởi mờ cười nói: “Đàn bà con gái không hiểu việc công thủ, vũ khí nhân thủ trong phủ, hết thảy do cậu Đồ quyết định!”

Đồ Long thầm nghĩ thế mới phải, cung kính ôm quyền, tức khắc chọn mội đội gia đinh chạy ra đằng sau hỗ trợ, chính mình và những người còn lại tiếp tục đề phòng cửa trước. Đám cướp tấn công cửa sau phải vòng qua cả một con phố, còn trong phủ Hầu đường chạy thẳng, vì thế, chỉ cần ngăn cản thích hợp thì có thể quay vòng nhân thủ.

Thực ra phía cửa sau đã thay đổi phòng thủ, do phía ngõ nhỏ hẹp, chỉ có thể song song bước bốn, năm người, khó mà lấy cọc gỗ đâm cửa, đám cướp không thể tản ra, chen chúc lúc nhúc tại chỗ, dù vẩy dầu hay rải vôi càng hữu hiệu.

Ước chừng hai, ba khắc sau, ngoài đầu tường lại vang tiếng hô quát leo lên, đám cướp đằng trước quả nhiên không đi hết, định “điệu hổ ly sơn, đợi phía sau đánh nhau thì có lẽ đằng trước sẽ lơi lỏng.

Nào ngờ Đồ Long đã đề phòng từ lâu, sai mấy gã sai vặt một mực canh giữ góc tường, hễ thấy đầu tên nào ló ra là đâm gậy qua ngay, đối phương còn chưa kịp kêu đau đã ngã xuống.

Nhìn cảnh này, Minh Lan không nhịn nổi khen ngợi: “Cậu Đồ quả nhiên danh bất hư truyền! Thảo nào hầu gia lúc nào cũng ngợi khen.”

Đồ Long ngoảnh lại cười tươi rói, cất giọng sang sảng: “Chỉ là vài mánh khoé bỉ ổi đáng chê cười thôi. Phu nhân chưa thấy dáng vẻ oai hùng của hầu gia trước địch, đó mới là đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi!”

Minh Lan đang định khen thêm vài câu, mặt bên chợt dấy ánh lửa ngút trời, mọi người trong sân đồng loạt quay sang nhìn, phòng cũ phía Đông phủ hầu biến thành biển lửa, tiếng hét thảm vẳng tới từ xa. Khác với mọi người hoảng sợ, Minh Lan và Đồ Long hết sức bình tĩnh.

Đồ Long nhìn thế lửa phía Đông, cắn răng nói: “Đám nhãi ranh, quả nhiên định vào từ đằng đó! Ôi, đáng tiếc chỗ nhà cũ, tồn tại bao nhiêu năm rồi!”

Minh Lan thản nhiên nói: “Không cần tiếc. Đồ quý trọng đã chuyển đi hết, từ đường lại ở góc trên, thế lửa không lan tới được, không sao đâu. Dù sao tính mạng quan trọng hơn, phòng ốc còn có thể xây lại.”

Lúc này đã là đầu giờ Dần, Cát ma ma dẫn theo đám bà hầu già đến đưa đồ ăn khuya, Minh Lan nhanh chóng ăn nửa bát cháo, vừa đặt bát xuống, chợt thấy chỗ rừng núi phía Tây chợt sáng lên ánh lửa.

Minh Lan khựng lại, Lục Chi nhìn về phía đó, buông giọng tiếc nuối: “Ai da, đáng tiếc đám hạc non hươu non, cả một lồng thỏ nhỏ mà hai vị tiểu thư mới nuôi nữa.”

Trong chốc lát, đằng đông đằng tây đều lần lượt tới báo, nói đám cướp đã bị đẩy lùi, đằng đông hình như chết cháy năm, sáu người, đằng tây do vướng núi rừng nên không nhìn rõ, ước chừng khoảng bốn, năm kẻ.

Minh Lan nhẹ nhàng vuốt ngực, thầm kêu may mắn.

Lấy Trừng viên làm trung tâm phủ Ninh Viễn hầu, nhìn ra tứ phía là phòng ốc to rộng, trước sau hai cổng phân chia phòng ốc nhà cũ và một khu rừng nhỏ. Vì phòng có thể vào từ hai phía, Minh Lan cắn răng sai người đổ dầu, mùa xuân rừng núi rậm rạp, nhà cũ toàn gỗ, có thể cháy cả đêm. Cách Trừng viên một đoạn là khu đất rộng rãi, kéo dài ngòi nổ, hễ thấy có người xông vào bèn châm lửa.

Trông nhà cũ, rừng núi đều chìm trong biển lửa, nếu bảo không tiếc là giả, song Minh Lan chỉ mong có thể thật sự ngăn trở đám cướp.

Bấy giờ, Đồ Long nặng chân đi tới, nói nhỏ với Minh Lan: “Phu nhân, việc này không ổn.”

Hắn là người từng trải, biết mỗi hồi biến loạn thường xuất hiện kẻ trộm nhân cháy nhà mà hôi của, vì vậy sự bố trí của hắn có thể đối phó với đám trộm cắp thông thường. Nhưng không ngờ đánh nhau cả nửa đêm, anh em đỡ trái hở phải mà vẫn chỉ có thể gian nan ngăn cản.

“Hiện giờ đám cướp đã chết phải hơn ba mươi kẻ mà vẫn điên cuồng như thế… Có vẻ sau lưng bọn chúng có người xúi giục.” Đối chọi lâu như vậy, hắn phát hiện đối phương chỉ có hơn trăm người, qua hai lần đấu đá không ít kẻ a dua chạy mất, ước chừng quân số chủ lực chỉ khoảng năm, sáu mươi người, giờ đã chết hơn nửa thế mà vẫn không chịu từ bỏ, thật sự quái lạ.

Minh Lan càng nghĩ sâu hơn.

Lần biến loạn này, tấn công phủ hầu không ngoài hai phe, một là bọn trộm cướp nhân cháy nhà mà hôi của, cũng là trọng điểm đề phòng của cậu Cả Đồ, hai là đám phản tặc.

Loại trước muốn tiền, trong kinh nhiều gia đình giàu nứt đố đổ vách, cướp nhà nào mà chả là cướp, cần gì cứ phải khăng khăng một mực gặm khối xương cứng họ Cố này?

Loại sau thì muốn bắt Minh Lan làm con tin, nhưng nếu như họ Cố bị ép chết hết thì còn biết lấy gì mà ép buộc, đến lúc đó Cố Đình Diệp không liều chết báo thù mới là lạ. Nhưng đám cướp này hung ác đến cùng cực, rõ ràng muốn lấy mạng người trong nhà.

“Cậu xem…:”

Minh Lan tỏ ra nghiêm trọng, đang dợm lên tiếng, chợt nghe có tiếng kêu khóc quen thuộc, Thúy Tụ tóc tai bù xù chạy đến, khóc kêu: “Phu nhân, không xong rồi! Bên trong có kẻ cướp!”

Minh Lan như bị sét đánh, thất thanh kêu lên: “Tại sao lại thế?!”

Thúy Tụ khóc lóc: “Bọn chúng đến từ chỗ Trừng viên, chúng điên cuồng lao vào từ đường nhỏ! Cậu Thạch đang dẫn người chống cự, phu nhân mau phái người tiếp ứng!”

Minh Lan loạng choạng chực ngã, cố gắng bình tĩnh lại.

Đồ Long nghiêm giọng nói: “Phu nhân đừng vội, để tôi dẫn người tới!” Tức thì kéo một kẻ cao to vạm vỡ đến: “Cậu trông chừng ở đây cho tôi!” Kẻ đó đồng ý, Đồ Long lập tức dắt một đội hộ vệ lao vào trong.

Lục Chi cắn chặt môi, Tiểu Đào căng người đỡ Minh Lan, nhỏ giọng: “Phu nhân đừng sợ, hiếm người biết Đoàn nhi và Thôi ma ma ở đâu lắm! Trong phủ bao nhiêu phòng ốc, tìm từng gian một mất bao nhiêu thời gian chứ.”

Minh Lan thoáng định thần lại, nhưng mẹ con đồng lòng, lòng nàng như lửa đốt, kiểu gì cũng phải đến xem. Lục Chi đành gọi kiệu mềm, do trời tối đường u ám, người nâng kiệu không dám bước nhanh, Minh Lan sốt ruột đến suýt thì bật khóc, cuối cùng cũng đến nơi.

Nội viện hỗn loạn, đứa ở bà hầu hoặc khóc hoặc kêu cứu mạng, hoặc tìm chỗ trốn tránh. Minh Lan không dám ngồi kiệu, vịn tay Lục Chi vào trong. Tiểu Đào tinh mắt kéo một bóng người chạy qua lại: “Anh Thạch!”

Người đó chính là cậu Hai Thạch ngốc nghếch, cả người đầy vết máu, thấy nhómgngười Minh Lan thì vui vẻ nói: “Phu nhân, tôi đang định đi tìm ngài! Bảy, tám kẻ cướp như ruồi mất đầu xông loạn khắp nơi, có hai kẻ định mò vào viện của Đại phu nhân liền bị hộ vệ canh giữ bên ngoài chém chết, hiện giờ cậu Đồ đang bắt lấy những kẻ còn lại!”

Minh Lan thở phào nhẹ nhõm: “Mọi người không có việc gì là tốt rồi…”

“Phu nhân…” Cậu Hai Thạch vội vàng nói: “Lúc tôi và cậu Đồ đến sân của Đại phu nhân, thấy trong phòng chỉ có dì Thu, mẹ con Nhược Mi và các vị ma ma.”

“Ơ! Sao lại thế.” Minh Lan ngơ ngác.

“Cậu Đồ cũng đã hỏi.” Cậu Thạch khó xử nói: “Một vị ma ma lén nói với chúng tôi rằng Đại phu nhân phát giác Thôi ma ma đưa Đoàn nhi trốn ở chỗ khác bèn tưởng chỗ ấy còn an toàn hơn liền ép hỏi cô Bích Ti xem ở đâu, sau đó dẫn hai tiểu thư qua đó…”

Minh Lan cắn răng, ngàn tính vạn tính thua tại điểm này! Hay cho Bích Ti! Hay cho Thiệu thị!

“Cậu Đồ bảo tôi hỏi phu nhân rốt cuộc Đoàn nhi đang ở đâu, đừng để bọn cướp mèo mù vớ cá rán, ai da…” Cậu Thạch chợt thấy lỡ mồm bèn mau chóng im miệng.

Minh Lan hoảng hốt đáp: “Ở trong chái phòng nào đó ở Khấu Hương uyển! Nhanh, nhanh đi tìm cậu Đồ!” Nói rồi liên tục giậm chân, cái gọi là chỗ náu thân bí mật phải càng ít người biết càng tốt, bây giờ thì sao?!

Đưa mắt nhìn cậu Thạch bỏ đi, Minh Lan cũng vội vã đi về hướng đó. Tiểu Đào nhớ kỹ Thôi ma ma dặn dò, cắp chặt cánh tay Minh Lan, phía sau có bà hầu liên tục khuyên nhủ không để Minh Lan bước quá vội.

Một nhóm người đi một lúc mới nhìn thấy điểm điến, Minh Lan cảm thấy lâu như hai tiếng, trên đường vớ được một đứa hầu đang chạy loạn bèn hỏi: “Khấu Hương uyển vẫn ổn chứ?”

Đứa hầu này mới chạy ra từ chỗ đó, đột nhiên nhìn thấy bà chủ liền lắp bắp: “Vẫn ổn, a… không phải, Lỗ ma ma bảo cô Dung đến chỗ Đại phu nhân, bảo chúng tôi không cần trông giữ ở đó nữa…”.

Minh Lan hơi vững lòng, đang định bảo nó trốn vào sân của Thiệu thị, chợt nghe nó nói: “Cơ mà… ban nãy tôi nhìn thấy dì Nhiệm dẫn hai, ba bóng người đen sì về phía Khấu Hương uyển… Quái lạ thật, chỗ đó làm gì có người.”

“Dì Nhiệm?!” Lục Chi rống lên, bóp chặt cổ tay con bé: “Là người bên cạnh Đại phu nhân…?” Dì Nhiệm vốn là đứa hầu sát người Thiệu thị, sau bị Thiệu thị điều sang hầu hạ Cố Đình Dục, trước khi Cố Đình Dục qua đời được nâng lên làm vợ bé.

Con bé ăn đau vội vã gật đầu.

Minh Lan hoảng sợ không nói nên lời, cứng đờ phun ra một câu: “Nhanh lên!” Mọi người không dám kéo dài nữa, vội đi đến.

Vừa bước vào Khấu Hương uyển đã ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc, gỡ đèn lồng xuống nhìn, trên đất vương vãi vệt máu, cửa vắt ngang thi thể hai bà hầu, chính là hai bà to khoẻ bảo vệ Thôi ma ma.

Minh Lan cảm thấy trời sụp đến nơi, suýt thì ngất xỉu, may mà nhóm Đồ Long lại đây, khom người nói: “Phu nhân, giết được hai kẻ, còn bắt được nội tặc.”

Thị vệ đằng sau hắn vứt bộp hai thi thể mặc áo đen xuống đất, lại đẩy ra một người phụ nữ quần áo xộc xệch, chính là Nhiệm thị hay đi theo Thiệu thị. Minh Lan giận điên lên, tức khắc cho chị ta hai cái bạt tai, đang định hỏi Đồ Long có thấy con trai ở đâu không, chợt nghe phía Tây vang tiếng đàn bà con gái gào thét, kế đến là tiếng quát tháo của cậu Thạch: “Tặc tử, mi dám…”

Nhóm Đồ Long cầm đuốc lập tức lao tới, dãy chái phòng đen thui sáng lên một gian, Minh Lan vội vã vịn tay Tiểu Đào đến. Trên bàn ánh nến cháy hừng hực, Thiệu thị ôm Nhàn nhi co ro trong góc, Thôi ma ma bị đánh bất tỉnh, gục đầu lên giường, cậu Thạch che cánh tay chảy máu xối xả ra khỏi phòng: “Phu nhân, trong này…”

Minh Lan hất tay khỏi Tiểu Đào, xông thẳng vào trong, kéo rèm xuống liền thấy thi thể một kẻ áo đen, Đồ Long và hai thị về cầm đao đứng trước cửa, mỉm cười nhìn vào bên tron.

Minh Lan nhìn theo ánh mắt họ, Dung nhi tựa hờ bên mép giường, ôm nhóc mập đang khóc nức nở trong lòng. Trên mặt con bé chưa khô nước mắt, tay phải nắm chặt một cái trâm vàng, tay trái máu tươi đầm đìa, sâu thấy xương, sắc mặt nó nhợt nhạt, đôi mắt lại hừng hực thiêu đốt như lửa, một vòng quanh miệng là dấu máu, quai hàm hẵng còn run rẩy.

Đồ Long nhoẻn cười, thấy tình hình này hắn bèn đoán được đại khái, lại thấy nơi đây không còn việc gì, bận lòng tình hình bên ngoài, bèn để lại hai thị vệ và cậu Thạch, chính mình thì ra ngoài bắt kẻ cầm đầu.

Minh Lan đỡ bụng từ tốn đi tới, ôm nhẹ Dung nhi, dịu dàng nói: “Con ngoan, làm sao vậy? Kể lại cho ta nghe.”

Dung nhi ngơ ngác ngẩng đầu, mấp máy môi, không nói nên lời.

Nhàn nhi ở ngoài nghe thấy bèn giãy khỏi Thiệu thị vọt vào trong phòng, kể lại lưu loát, lúc lâu sau cậu Thạch ôm cánh tay băng bó tiến vào bổ sung câu được câu chăng.

Cùng với hai người họ kể lể rõ ràng, ánh mắt mẹ cả nhìn mình càng ngày càng dịu dàng tán thưởng, trong lòng nó vẫn tràn ngập ngỡ ngàng.

Quang cảnh vừa nãy thật giống như trong mơ.

Đàn bà con gái trốn trong căn phòng tối đen, kẻ cướp giơ đuốc đá văng một cánh cửa gian phòng, nghe tiếng chửi bới thô bạo tàn nhẫn, ai nấy đều sợ hãi run rẩy, nhác thấy kẻ cướp sắp đến phòng này, ngay cả Thôi ma ma cũng bó tay hết cách.

Lúc đó, chính mình không biết sinh lòng can đảm từ đâu, đột nhiên ôm lấy nhóc Đoàn đi vào trong, nhét em trai vào gầm giường, chuyển ghế chặn cửa, rút trâm vàng xuống nắm trong tay, đứng lên trên.

Kẻ cướp đá văng cửa, bác Cả rít lên sắc nhọn, tựa như con gà mái già bị siết cổ, Nhàn nhi bật khóc thút thít, “cộp” một tiếng, Thôi ma ma im bặt.

Nghe tiếng bước chân vọng vào trong phòng, nó siết trâm gần như hằn vào trong lòng bàn tay, cắn chặt răng không lên tiếng, kẻ đó vừa bước vào phòng, nó bèn nhảy chồm lên.

Kẻ đó bất ngờ không kịp đề phòng ngã xuống đất, nó vịn chặt lưng hắn đâm loạn, lúc thì trúng vai, cổ, lúc thì trúng lưng, kẻ đó kêu đau, bỏ đao lại, rút ra con dao găm trong ống giày, nó chẳng nghĩ được gì, lúc con dao đâm tới, lưỡi sắc cắt vào tay mềm, tức thì đau thấu ruột gan.

Nó không ngờ bản thân lại kiên cường như thế, không rên một tiếng, chỉ giận dữ khôn nguôi, lòng dậy can trường, cắn vào mặt mũi hắn, kẻ đó đau đớn ngược tay túm lấy tóc nó, tính bướng nổi lên, dù da đầu và lòng bàn tay đau rách da nứt thịt, nó vẫn nghiến răng không chịu buông, tay nắm trâm cứ đâm lia lịa.

Cuối cùng kẻ cướp nhổ mất một dúm tóc và một mảnh da đầu, nó cắn đứt nửa bên tai hắn, ngay khi kẻ đó hất được nó ra khỏi lưng, nhác thấy bản thân sắp bị đao đâm chết, cậu Thạch chạy tới.

Nhóc Đoàn bò ra khỏi gầm giường, xiêu vẹo nhìn quanh khắp nơi, sau đó mở choàng tay, nước mắt lưng tròng lao vào lòng chị, Dung nhi không kìm nén được bổ nhào tới ôm chặt cơ thể tròn trùng trục của em trai, hai chị em gào khóc inh ỏi.



Minh Lan khóc thổn thức, vuốt nhẹ vết thương lẫn lộn máu thịt của Dung nhi, cảm kích đến nỗi chỉ hận không thể nằm rạp xuống đất dập đầu mấy lần, nàng nghẹn ngào nói: “Con ngoan, nhóc Đoàn có chị gái như con là cực kỳ may mắn!”

Dung nhi được mẹ cả ôm vào lòng, mừng mừng tủi tủi, chua xót khó tả liền bật khóc, nhóc mập không hiểu, lại chưa nói được tròn câu, đành túm quần áo chị gái, khóc tu tu lặp đi lặp lại “chị ơi”.

Thiệu thị luống cuống đứng trước cửa, muốn vào lại không dám. Minh Lan nhìn thấy, cố ý mặc kệ chị ta, lau nước mắt cho Dung nhi, cười nói: “Dung nhi, nói thật với ta đi, con sợ không?” Nàng chỉ thi thể dưới đất.

Dung nhi liếc nhìn, chăm chú suy nghĩ, ngại ngùng: “…Nói thật, không sợ lắm…” Chỉ là tức điên người.

Minh Lan chặc lưỡi lắc đầu, vỗ tay khen ngợi: “Quả nhiên là con gái cha con! Dũng cảm gan dạ bẩm sinh, gan to hơn trời!”

Bấy giờ trời hơi mờ sáng, đám cướp bên trong đã bị quét sạch, Minh Lan dắt hai đứa con về Gia Hi cư, Thúy Vi lấy kim sang dược của Cố Đình Diệp ra, Minh Lan tự tay rửa vết thương cho Dung nhi, dán thuốc băng bó.

Tiểu Đào thuận tay lấy non nửa hộp, chuồn nhẹ mang đến cho cậu Thạch.

Dù sao cũng là trẻ con, cả đêm không ngủ, sợ hãi, bị thương, khóc lóc, Dung nhi kiệt sức ngã xuống giường của Minh Lan chìm vào giấc ngủ, bên cạnh nó là nhóc mập đang say sưa như chú lợn con.

Minh Lan đứng cạnh giường, cầm đuốc yên lặng ngắm, nở nụ cười, hai chị em có tướng ngủ dạng tay dạng chân giống nhau như đúc.

Nói mới nhớ, Như Lan cũng thích ngủ dạng tay chân, không biết mấy năm nay anh rể Văn ngủ thế nào, liệu có từng bị bắp đùi của bà xã đè tỉnh cả giấc không. Nghĩ rồi nàng chợt hi vọng tương lai cô bé này cũng có thể giống Như Lan, tìm được tấm chồng tốt.

Tiếng huyên náo dần ngừng lại, Minh Lan biết đã vượt qua cửa ải lần này.

Chốc lát sau, anh em cậu Đồ sai người đến báo đám cướp vốn định dốc sức lần cuối, chợt thấy Lưu đại nhân phái binh ứng cứu bèn bỏ chạy tan tác.

Minh Lan mệt mỏi xoa ấn đường: “Mọi người đều vất vả rồi. Việc khác tạm buông, hãy đi mời mấy vị thầy thuốc đến, cả phủ cần được chữa bệnh, trị thương. Sau đó kiểm kê vật dụng bị hủy hoại, luận công ban thưởng, cứ làm dần từng việc thôi.” Thôi ma ma dù đã tỉnh nhưng chỗ sưng trên đầu không biết có nghiêm trọng không, còn cả bàn tay của Dung nhi nữa, cần phải điều trị tử tế.

Hách Đại Thành không kìm được bèn hỏi: “Phu nhân, ngài không muốn biết tình hình bên ngoài ư?”

Minh Lan đặt tay xuống, tươi cười bảo: “Dù Lưu đại nhân để ý tới phủ chúng ta, nhưng tất nhiên là trung thành nhất với hoàng thượng, nếu trong cung không thái bình, ông ấy còn có thể thừa người tới cứu chúng ta ư?”

Hách Đại Thành cười khổ liên tục, khâm phục nói: “Tôi thật không thể so sánh với kiến thức của phu nhân.”

“Thôi, bất kể thiên hạ có loạn hay không, bây giờ tôi chỉ muốn trông con cái ngủ một giấc thôi!” Minh Lan đấm nhẹ cổ, đau nhức không thôi: “Quản sự Hách cũng đừng cố, dọn dẹp qua rồi nghỉ đi.”

Hách Đại Thành đang ra ngoài, chợt dừng chân xoay người lại: “Phu nhân, đêm qua…” Ông ta chần chừ: “Trong số đám cướp, có khá nhiều thấy… cực giống cậu Ba…”

Bàn tay đấm vai của Minh Lan khựng lại, nàng ngạc nhiên nhìn lại.

Cố Đình Bính ư?!
 
Chương 218: Chung kết (Thượng)


Dù nghi vấn đầy bụng thì cũng không đỡ được mệt nhọc uể oải, Minh Lan nhào vào ổ chăn mềm mại, đặt lưng xuống liền ngủ, lần này ngủ một mạch không mơ mộng gì. Nhóc Đoàn nằm trong lòng mẹ thút tha thút thít, chốc lát sau cũng thiếp đi, trên khuôn mặt vẫn còn vệt nước mắt, trong lúc ngủ say ngón tay nhỏ bé vô thức túm tay áo mẹ.

Hai mẹ con ngủ quên trời quên đất, tỉnh dậy đã là buổi trưa, chính là giờ lành khai trương cổng chợ.

Nhóc Đoàn ngoan ngoãn hơn rất nhiều, tỉnh dậy không khóc không gào, Thúy Vi đút một miếng nó ăn một miếng, song quấn chặt lấy Minh Lan, ai đòi ôm nó đều tỏ ra đề phòng, tay túm chặt quần áo mẹ. Cả phủ đầy việc chờ Minh Lan, nàng đành phải dỗ nhóc mập: “Chúng ta đi thăm chị nhé, tay chị đang đau lắm, con giúp chị thổi được không?”

Nhóc mập mở đôi mắt to sáng, chần chừ giây lát mới ngoan ngoãn gật đầu, được Thúy Vi ôm tới chái phòng nơi Dung nhi đang nghỉ ngơi. Ngay lập tức, các vị quản sự vội vã tiến lên, lặng lẽ chờ ở hành lang theo trình tự, thay phiên hồi bẩm công việc.

Một đêm hỗn loạn, nửa đêm lửa cháy, tổn thất đương nhiên lớn.

Chỗ nhà cũ thiệt hại bảy, tám phần, may mà nhà thờ vẫn bình yên vô sự, tổ tiên họ Cố ban đầu xây nhà thờ ở nơi hẻo lánh râm mát, Minh Lan đã thấy rất chuẩn. Đáng tiếc bên kia thì không có vận may thế này, cả mảnh núi rừng đều bị hủy hoại. Thật tiếc hồng mai vừa hé nụ, đào rừng mới kết quả xanh biếc và cả mấy cây hoa đẹp đẽ tốn bao nhiêu bạc mới mua được, tất cả đều hoá thành vụn gỗ.

Lúc tìm tòi trong rừng còn phát hiện mấy thi thể cháy khét lẹt, Minh Lan đau lòng những con hươu non lộc non bị chết cháy vô tội, tức giận sai người lấy chiếu rách bọc lại, cộng thêm mấy thi thể kẻ cướp ngoài cửa, đồng loạt đưa đến phủ Thuận Thiên.

Ngoại trừ hai chỗ này, những chỗ còn lại trong Trừng viên ít bị hư tổn, đấy là chưa nói đến Cát ma ma trong lúc hoang mang đốt cháy nửa cái bếp.

Phòng ốc núi rừng bị hư tổn nặng đến đâu thì dù sao vẫn là vật chết, rồi sẽ có thể xây dựng lại, thật sự đáng tiếc vẫn ở phía sau.

Tra xét tỉ mỉ, đêm này gia đinh hộ vệ phủ Hầu tổng cộng thương vong ba mươi hai người, trong đó mười bốn người bị thương nhẹ, trọng thương chín người, còn lại… đã tới thế giới cực lạc rồi. Minh Lan than thở khôn nguôi, dặn dò Hách Đại Thành an táng trọng thể người đã mất và trợ cấp nhiều cho vợ con và thân nhân của người bị thương.

Minh Lan nói một việc, Hạ Hà liền đặt bút ghi vào trong vở, Lục Chi ở bên cạnh đánh bàn tính, sắc mặt còn khó coi hơn cả Minh Lan, mới tính qua, riêng tiền trợ cấp đã tốn hai vạn lượng bạc!

Đợi nhóm quản sự hồi bẩm xong xuôi nối đuôi ra ngoài, da mặt Lục Chi đã xanh như vỏ dưa hấu, Minh Lan đành phải an ủi con bé nhân tiện an ủi chính mình: “…Em nghĩ mà xem, đêm qua nếu không có người liều chết ngăn cản, chúng đã thành quỷ từ lâu rồi! Bây giờ trời quang mây tạnh, uống nước phải nhớ nguồn, càng không thể làm kẻ dưới thất vọng.”

Lục Chi miễn cưỡng gật đầu.

Dù nói như thế, nhưng tính thêm kinh phí xây lại phòng ốc hàng ngày, số bạc Minh Lan tiết kiệm được mấy năm nay gần như tiêu hết một nửa, hừ hừ, thật cmn giống anh Bá Hổ từng nói, của đi thay người!

Minh Lan che ngực hồi lâu mới dịu bớt nỗi xót của, chưa kịp thở ra một hơi, thoáng thấy bóng tà, bên ngoài chợt có người báo, phủ Anh quốc công có người tới chuyển lời.

“Đêm qua họ Trương không bị kẻ cướp tấn công?” Minh Lan nghe thấy vậy liền ngạc nhiên.

Nàng dâu đến chuyển lời đứng bên cạnh cửa, thưa rõ ràng: “Đúng vậy. Hôm qua nhà họ Trương thái bình cả đêm, chính Trương phu nhân cũng không ngờ đến phủ các vị ra nông nỗi này, sáng nay vừa nghe nói liền sai người tới hỏi thăm.”

Minh Lan lại hỏi: “Còn phủ quốc cữu thì sao?”

Nàng dâu nói: “Người đến nhắn lại, bây giờ bên ngoài vẫn đang giới nghiêm, tin tức không chính xác, tình hình chi tiết… không rõ lắm.”

Minh Lan trầm mặc rất lâu, nghi vấn tồn tại trong lòng nàng cả đêm càng ngày càng hiện rõ đáp án.

Sau, nàng gọi các vị quản sự ngoại viện tới hỏi, tiếp tục xử lý công việc, Đồ Long mệt mỏi đến bẩm trong phủ đã dọn dẹp sạch sẽ, cửa trước cửa sau đều không lởn vởn bóng dáng kẻ nào nữa, Hách Đại Thành và vợ Liêu Dũng phân công kẻ ở người hầu thu dọn sửa sang lại phòng, sân… Bận bịu hơn một canh giờ, vừa rảnh rỗi, Minh Lan bèn nghĩ tới Dung nhi, nàng mau chóng đứng dậy, bảo người đỡ lại chái phòng thăm con bé.

Dợm bước ra cửa, bỗng thấy Tiểu Đào hớn hở chạy vào, miệng mỉm cười ngọt như mật, vẻ mặt hạnh phúc mồn một. Minh Lan dừng chân ngắm nghía, dài giọng: “Về rồi hả? Vết thương của cậu Thạch đỡ hơn chưa.”

Tiểu Đào ngốc nghếch trả lời: “Vết thương? A… Anh Thạch bị thương một ít ngoài da thôi, cậu Cả Đồ bảo không nghiêm trọng.”

Minh Lan buông giọng chế giễu: “Vậy sao giờ em mới về?” Bà chủ ngủ dậy xử lý xong hết công việc rồi mà hầu gái hạng nhất sát người vẫn không thấy tăm hơi đâu.

Tiểu Đào xấu hổ: “Anh Thạch bảo… anh ấy bảo, đêm qua thật sợ hãi, máu văng khắp nơi, đằng trước đằng sau cửa đều có người chết, anh ấy nhớ lại mà tim đập thình thịch, sợ tới nỗi không ngủ được!”

Lục Chi đang tính sổ sách ở trong phòng nghe thấy mà nổi cả da gà, tí nữa thì gục đầu vào nghiên mực, Hạ Hà đang dìu Minh Lan loạng choạng suýt ngã, cắn môi nhẫn nại, sau cùng không nhịn nổi bèn bật hỏi: “Nói thế mà em cũng tin?”

Tiểu Đào ngơ ngác: “Anh Thạch lừa em làm gì?”

Hạ Hà thẳng thắn buột miệng: “Cầm đao giết người còn không sợ, làm sao lại sợ gặp ác mộng chứ! Hắn đang lừa em đấy, hắn thích em nên mới muốn ở bên nhiều hơn!”

Tiểu Đào tức khắc đỏ mặt, cánh tay rắn chắc tròn lẳn “nhẹ nhàng đẩy” con bé một cái, hờn dỗi nói: “Ai da, cái gì mà thích hay không… Chị, chị thật là đáng ghét!” Nói rồi lại e thẹn bảo Minh Lan: “Phu nhân, em qua giúp Lục Chi.” Sau đó xoay cơ thể tròn trùng trục vào trong phòng.

Hạ Hà bị đẩy lảo đảo suýt nữa thì bập trán lên khung cửa, Minh Lan tốt bụng đỡ nó một cái, cất giọng thương hại: “Đừng đấu võ mồm với nó, cũng đừng lôi thằng nhóc Thạch ra trêu đùa, chỉ có em chịu thiệt thôi.”

Hai vợ chồng nó, một đứa ngốc nghếch không sợ ai, một đứa da mặt dày như tường thành, hoàn toàn là ông trời se duyên. Minh Lan nghĩ, chi bằng gửi thư cho vợ chồng họ Thạch, đợi đứa bé trong bụng sinh ra liền có thể chuẩn bị hôn sự cho chúng.

Nghĩ đến sau này Tiểu Đào gả xa tới tận Giang Hoài, Minh Lan không khỏi chua xót trong lòng, nàng im lặng cúi đầu bước đi, vài bước liền đến chái phòng, nghe bên trong vẳng tiếng cười nói con trẻ.

Sải bước vào cửa trái, đi vào buồng trong, Dung nhi đang tựa đầu giường, phía trong là cái chân mập để lên người chị gái của nhóc Đoàn, phía ngoài ngồi bên mép giường là Nhàn nhi. Dưới cửa sổ lần lượt ngồi Thiệu thị và Thu Nương, Thôi ma ma ngồi một mình bên bàn tròn như ý, nhẹ nhàng thổi bát thuốc đen đặc, trên trán có vết máu bầm, được dán hai cái thuốc dán hình hoa mai lên trên.

Thấy Minh Lan tiến vào, ai nấy sắc mặt khác nhau. Thu Nương mỉm cười đứng dậy thi lễ, nào ngờ Thiệu thị còn nhanh hơn chị ta, bật dậy nhanh như thỏ, vẻ mặt thấp thỏm, bộ dạng âu lo, cứ như hồi ông chồng chị ta mất. Minh Lan gật nhẹ đầu với Thu Nương, không thèm ngó ngàng đến Thiệu thị, đi thẳng đến giường.

Dung nhi vốn đang âu sầu ủ rũ nhìn về bát thuốc trong tay Thôi ma ma, thấy Minh Lan liền vui vẻ bảo: “Mẫu thân, người đến rồi…” Nói rồi định đứng dậy. Minh Lan vội tiến lên đè lại nó, dịu dàng nói: “Đừng dậy, mau nằm xuống.” Lại hỏi chỗ bị thương có đau hay không, có khó chịu ở đâu không, Dung nhi cắc đầu: “Bôi thuốc xong thì không đau nữa.”

Minh Lan thương xót, bụng nhủ đợi thuốc hết hiệu lực tất nhiên càng đau hơn. Nàng gạt hàng tóc mai dày dặn của cô bé ra, sau trán tầm hai, ba tấc là chỗ thuốc mỡ màu xanh sẫm gắt mũi, ẩn hiện vết máu khô doạ người, nàng than thở: “May mà con nhiều tóc, nếu ít tóc làm sao che được chỗ bị thương. Ôi, bị thương thế này, ít cũng phải nửa năm không được mang trâm vòng châu ngọc, nặng quá lại đau da đầu.”

Dung nhi sờ lên đầu, nói thoải mái: “Em Nhàn bảo dù sao con búi kiểu rủ xuống cũng không đẹp, sau này chải ngôi giữa là được, chẳng phải mẫu thân mới cho con một hộp hoa lụa mà, không sao đâu.” Khuôn mặt con bé vốn nghiêng về vẻ mạnh mẽ khí khái, mỗi lần búi kiểu tóc dịu dàng yêu kiều đấy đều thấy kỳ quặc.

Nhắc đến Nhàn nhi, con bé không thanh thoát tinh nghịch như trước, từ lúc Minh Lan vào, nó vẫn một mực cúi đầu, nghe thấy lời này bèn hơi ngẩng lên, dè dặt nhìn Minh Lan.

Minh Lan đưa tay vuốt nhẹ gương mặt nói, cất giọng dịu dàng: “Hai đứa thân như chị em ruột, có cháu khuyên nhủ cái Dung, ta cũng yên tâm.”

Nhàn nhi rưng rưng nước mắt, khuôn mặt non nớt toát vẻ xấu hổ xen lẫn trưởng thành sớm, nó nhẹ nhàng gật đầu. Thiệu thị ngồi bên cạnh há mồm dợm nói, song đối diện với ánh mắt lạnh nhạt của Minh Lan thì không nói nên lời, chị ta vốn định nói lời xin lỗi, nhưng trước mặt mọi người lại không dám mở miệng.

Minh Lan quay sang cầm cái tay nhỏ bé đầy băng gạc của Dung nhi. Nàng đã nhìn con dao găm của kẻ cướp, cực kỳ sắc bén, may mà tính con bé cứng cỏi, lúc đó tức quá nên nắm chặt lưỡi dao, bằng không nếu hơi buông lỏng, chỉ e dao trượt thì tay nó chia thành hai nửa.

Tuy vậy vết thương vẫn sâu tận xương, da thịt nứt nẻ, Minh Lan nhìn vô cùng sợ hãi, thầy thuốc bảo, sau này dù miệng vết thương lành lại, chỉ e bàn tay cũng không được linh hoạt như trước kia.

“Đợi mấy hôm nữa bỏ giới nghiêm, ta sẽ gửi thư cho tiên sinh hai con, ôi, may mà thương ở tay trái, viết chữ làm gì cũng không sao, có điều thêu thùa… làm sao được…” Bức vải đặt trên khung thêu vuông vức, cần phải một tay cầm kim ở trên, một tay lùa kim ở dưới, hai tay phối hợp: “Làm sao mà học thêu của Hồng đại nương nữa đây…”

Dung nhi vui sướng buột miệng: “Thật ư? Con không cần học với Hồng đại nương nữa? Úi…” Chưa dứt lời liền thấy một ngón tay véo vào người, Nhàn nhi đang ra sức nháy mắt ra hiệu với nó, Dung nhi chợt vỡ lẽ, tức khắc cúi đầu, buông giọng yếu ớt: “Phụ lòng đại nương hết mực dạy bảo, con gái rất bất an.”

Minh Lan vốn đang u sầu đầy cõi lòng, thấy vậy cũng không khỏi bật cười.

Nét mặt biến đổi gượng gạo, giọng nói cứng nhắc, phối hợp chẳng ăn khớp tí nào, kém xa so với màn biểu diễn mây trôi nước chảy của mình năm đó. Nhớ năm đó lúc chị em trong nhà ganh đua, kể cả Như Lan cũng hơn hẳn hai cô bé này, càng đừng nhắc tới Mặc Lan diễn xuất ở mức thượng hạng và chính bản thân mình. Quả nhiên có cạnh tranh mới có tiến bộ ư?

Hai cô bé thấy Minh Lan nở nụ cười bèn đồng loạt cúi đầu, chán nản thẹn thùng, Minh Lan cười vỗ nhẹ lên khuôn mặt chúng: “Ừm, thế này tốt hơn nhiều, ra dáng lắm, về sau nhớ diễn lại cho tiên sinh của các con xem.”

Thốt ra lời này, cả phòng đều cười, Thôi ma ma ngừng khuấy thìa cho thuốc đỡ nóng, lắc đầu mỉm cười, Nhàn nhi hào hứng tựa vai vào Dung nhi, hai chị em che miệng nhỏ giọng vui đùa, Thu Nương tiến lên hai bước, hòa cùng: “Phu nhân tinh ý quá, mấy việc như đọc sách xem sổ không gây khó dễ cho cô Cả nhà ta, nhưng việc kim chỉ thì phiền phức lắm!”

Minh Lan mỉm cười: “Học may vá vốn để tu dưỡng tính khí, thể hiện phụ đức, tiểu thư những nhà như chúng ta cũng không cần phải luyện quá thành thạo, bằng không các bà chuyên thêu thùa hết việc để làm.” Lời này tỏ vẻ lão luyện thành thục, trong lòng nàng rất tự đắc, suy nghĩ giây lát bèn nói thêm: “Không cần thuê cái gì to lớn, nhưng việc kim chỉ tầm thường vẫn phải biết.” Dứt lời quay sang bảo Thu Nương: “Chị vất vả chút, dạy dỗ hai tiểu thư thật kỹ càng.”

Dung nhi vội vàng gật đầu như trống bỏi, Nhàn chi che miệng cười trộm, Thu Nương vội bày tỏ thái độ: “Phu nhân yên tâm, đây vốn là bổn phận của tôi.” Kỳ thực lời này không ổn, bổn phận của vợ bé vốn là hầu hạ ông chủ và bà Cả, tuy nhiên cho đến giờ, chị ta tự giác bản thân càng ngày càng giống bà mẹ già.

Minh Lan mỉm cười, hỏi vết thương trên đầu Thôi ma ma thế nào, Thôi ma ma liên tục đáp “không sao”.

Thu Nương rất thông minh, trông Minh Lan vẫn nhăn mày bèn tự bổ sung: “Thầy thuốc đã kê đơn thuốc cho Thôi ma ma, còn bảo hiện giờ không sao, để sau này trở lại khám lần nữa.”

Minh Lan gật đầu, thực ra với nàng thì tốt nhất vẫn nên đi chụp X quang mới bảo đảm, nhưng thời này làm gì có thứ ấy, đành phải dặn dò Thôi ma ma nghỉ ngơi thật nhiều.

Thấy được tán thưởng, Thu Nương càng ra sức: “Trưa nay tôi đã nhìn qua dì Nhược Mi, cô ấy đang cho con bú, hai mẹ con đều rất khỏe mạnh.”

Minh Lan thoải mái nói: “Tốt quá, bằng không tôi chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Công Tôn tiên sinh.”

Đêm qua đại loạn một trận, cơ hồ ai cũng bị ảnh hưởng, không phải bị sợ hãi thì chính là bị thương da thịt, nào ngờ bình yên vô sự nhất là lại Thu Nương và Nhược Mi vốn ngày thường không đáng tin tưởng cho lắm.

Từ lúc hai người họ chuyển vào chái phòng trong viện của Thiệu thị, kỳ thực ai nấy đều sợ hết hồn.

Hai bà hầu chăm sóc cho Nhược Mi nghe lời bà chủ dặn dò, lại biết nàng vợ bé mảnh mai quý giá này mẫn cảm hay lo, sợ xảy ra chuyện, hai bà dứt khoát nấu một bát trà an thần thật đặc, thần không biết quỷ không hay trộn vào trong chén thuốc.

Nhược Mi ngủ thẳng tới bình minh, hoàn toàn không biết ban đêm ánh đao bóng kiếm cỡ nào, đến khi tỉnh lại đã là trời quang mây tạnh, tinh thần sảng khoái, con trai cũng ngủ say sưa trong lòng vú nuôi, sáng sớm, hai mẹ con liền phấn chấn trở về viện của mình.

Minh Lan cực kỳ tán thưởng hai bà hầu lanh lợi, kể cả vú nuôi, ba người mỗi người được thưởng mười lượng bạc.

Còn Thu Nương thì lo sợ cả đêm, ngay lúc không thấy Dung nhi đâu, chị ta vốn muốn đi tìm nhưng lại bị bà hầu dọa sợ nên ở lại.

“Dì đã quên phu nhân dặn dò rồi à? Phu nhân dặn đi dặn lại, bất kể xảy ra chuyện gì đều không được rời phòng, tiểu thư không biết đi đâu, tự nhiên sẽ có đứa ở bà hầu đi tìm, dì không cần đi, đến lúc đó ai cũng biến mất lại thành ra hỏng bét!”

Do gần đây bị Minh Lanh lạnh nhạt bắt phải theo quy củ, Thu Nương sợ hãi cái uy của bà chủ, đành phải ngoan ngoãn đợi trong phòng, không dám đi lại lung tung, chỉ dỏng tai lắng nghe động tĩnh bên ngoài, trước nửa đêm vô sự, sau nửa đêm ồn ào.

Tiếng đao kiếm va chạm ngay ở ngoài sân, trong đêm khuya hỗn loạn tiếng đáp lời tiếng kêu gào thảm thiết, chị ta nghe mà sợ đến mềm người, suýt thì nhảy cửa sổ chạy mất, ai biết chưa đợi chị ta hạ quyết tâm mở cửa sổ ra, kẻ cắp đã bị hộ vệ canh giữ ngoài cửa dọn dẹp sạch sẽ.

Kế đến, các hộ vệ, bà tử tiến vào báo bình an, chị ta và đám hầu gái thở phào nhẹ nhõm, thấy sắc trời mờ sáng bèn cảm thấy cả người lẫn tinh thần đều mệt mỏi bèn thay nhau đi tìm phòng nghỉ ngơi. Từ đầu đến cuối, Thu Nương chỉ hoảng sợ về mặt tư tưởng, còn đâu hết sức an toàn, coi như là nghe phải chuyện ma.

“…Ai cũng kêu đêm qua nguy hiểm, nhưng chúng tôi còn chẳng biết kẻ cướp tròn méo thế nào.” Nói đến đây, Thu Nương không hẳn chỉ vì nịnh nọt bà chủ, trong lòng chị ta thật sự cảm kích Minh Lan bảo vệ chu toàn: “Dì Nhược Mi cũng nhờ tôi khấu đầu tạ ơn giùm với phu nhân, bảo nhờ có phu nhân tính toán thỏa đáng mà mẹ con họ mới có thể bình an, chẳng bị thương đến một sợi tóc.”

Lúc nói lời này, chị ta không hề có ý châm chọc, song Thiệu thị chột dạ dâng lòng xấu hổ, trên mặt thoắt xanh thoắt trắng, cuối cùng không nén nổi bèn nói: “…Em dâu… Chị, chị… chị hồ đồ… suýt nữa làm hại nhóc Đoàn…” Nói rồi viền mắt đỏ ửng, lấy khăn lau mắt: “Nếu thằng bé có mệnh hệ gì, chị đúng là không còn mặt mũi nào gặp em…”

Không mặt mũi thấy tôi?

Minh Lan thầm giễu cợt, nói nhẹ thật, nếu chị ta thật sự hại chết con trai, chính mình kiểu gì cũng phải lột da chị ta ra!

“Chị dâu có sai gì đâu? Lòng người khó dò, chị dâu không tin nổi em, muốn tự tìm chỗ ẩn thân cũng phải thôi.” Nàng nói vừa bén nhọn vừa châm chọc, Nhàn nghi nghe vậy liền khó xử cúi đầu.

Thiệu thị cuống lên, liên tục nhận lỗi. Minh Lan mặc kệ chị ta một lát, để xem chị ta định biện hộ thế nào, ai ngờ Thiệu thị nói năng lộn xộn, bụng dạ cũng không sâu sắc, quanh đi quẩn lại chỉ có vài lời như “tôi hồ đồ, tôi không tốt”, câu chữ không hay, nước mắt cũng không đủ đáng thương. Ngay cả Nhàn nhi nghe mà cũng âm thầm chán nản, thoái thác thế này thì người ta thông cảm thế nào được.

Thiệu thị nghẹn ngào một lúc, vốn đinh ninh em dâu xưa nay tốt tính, cho dù trong lòng vẫn giận nhưng trước mặt mọi người cũng sẽ nể nang chị ta, nào ngờ đợi mãi vẫn không thấy Minh Lan mở miệng nói lời khoan thứ, chỉ buông lời lạnh nhạt, sau đó quay sang trêu đùa nhóc Đoàn, chị ta khó xử đứng nguyên tại chỗ.

Minh Lan lại một lần nữa cảm thán, họ Thịnh mới là có nhân tài.

Nếu hôm nay đổi thành dì Lâm, gặp phải tình cảnh tự thỉnh tội thế này, bảo đảm có thể từ việc hối tiếc thân thế mà khóc lóc kể lể đến tận chuyện trời đất mênh mông mà chẳng biết dựa vào ai, bởi vậy mới làm ra việc hồ đồ như thế, nói đến nỗi khán giả phải đau lòng rơi lệ, thương nàng bạc mệnh phải làm vợ lẽ, cuối cùng quên tiệt lỗi sai.

Trong lòng nghĩ vậy, Minh Lan cũng không dài dòng nữa, dặn dò Dung nhi vài câu, sau đó quay sang bảo Thiệu thị: “Có chuyện này, vốn định vài hôm nữa mới nói với chị. Nhưng tôi thấy chị vẫn khỏe lắm, chi bằng hôm nay giải quyết luôn.”

Thiệu thị giật nảy, gượng cười bảo: “Sao… là chuyện gì?”

“Còn việc gì nữa? Là dì Nhiệm.” Minh Lan từ tốn xoay người đứng dậy: “Dẫn kẻ cắp vào trong nhà, bao nhiêu đôi mắt nhìn thấy, phải xử lý chứ.”

Nói xong lời này, nàng vịn tay Hạ Hà dẫn đầu ra khỏi phòng, Thiệu thị bạc mặc, loạng choạng chực ngã, định không đi theo, Hạ Trúc đứng ở bên cạnh nhanh nhẹn tiến lên nâng cánh tay chị ta, nửa đỡ nửa kéo ra khỏi phòng.

Một nhóm người chuyển ra khỏi mái hiên, từ cửa trái ra khỏi Gia Hi cư, dọc theo con đường nhỏ trải đá cuội hướng về phía Bắc. Minh Lan đỡ bụng, đi chầm chậm, Thiệu thị không dám giục, đành nhẫn nhịn nhắm mắt theo đuôi.

Thực ra cũng chỉ mới đi vài bước, Thiệu thị lại bừng tỉnh cảm thấy lâu dài, trán toát mồ hôi. Nhóm người đi tới chái phòng phía Tây của dãy nhà sau, bên trong không trang trí, chỉ có một cái bàn tròn như ý, ba, bốn cái ghế bao quanh, bên cửa sổ đặt một chậu hoa cực lớn, cỏ khô bùn nứt, hiển nhiên lâu lắm không có người chăm sóc.

Hạ Hà nhỏ giọng: “Đang bận nên chỉ kịp quét dọn sơ qua, mong phu nhân chớ trách.”

Minh Lan ngắm nghía, thấy cửa sổ sáng sủa, mặt đất không lấm bụi bèn buông giọng hài lòng: “Có ít thời gian không cần phí sức nhiều, như vậy tốt lắm rồi.” Nàng vừa vịn bàn ngồi xuống vừa nói: “Đừng dông dài nữa, mau gọi người dẫn lên đi.”

Hạ Hà đồng ý ra ngoài, Hạ Trúc thấy thế bèn vứt Thiệu thị lên ghế, vội vã vòng qua bàn, chuyển sang hầu hạ Minh Lan.

Chỉ giây lát sau Hạ Hà trở lại, đằng sau có ba nhóm người đi theo, dẫn đầu là Đồ Hổ, tiếp đó là hai thị vệ kẹp một người phụ nữ tay chân bị trói chặt, cuối cùng hai bà hầu kéo một đứa hầu gái bị trói gô tiến vào. Thị vệ ném người phụ nữ xuống, sau đó khoanh tay đề phòng đứng sang bên cạnh, hai bà hầu cũng học theo ném đứa hầu gái xuống trước mặt Minh Lan.

Thiệu thị cúi đầu nhìn, người phụ nữ đó có thân hình đẫy đà, đôi mắt đẹp tím bầm thành đường chỉ, bộ dạng chật vật, tóc tai rối tung, quần áo bẩn thỉu, không phải dì Nhiệm lại là ai?

Còn người khác tất nhiên là Bích Ti.

Thiệu thị vỗ ngực ngạc nhiên, chợt nghe Minh Lan mỉm cười bảo: “Cậu Hai Đồ vất vả từ đêm qua đến giờ, vốn nên nghỉ ngơi dưỡng sức, việc này giao cho người khác là được, cần gì đích thân đến?”

Đồ Hổ cười nói: “Bên ngoài đã thu dọn gọn gàng, mau xử lý bọn này mọi người mới yên tâm nghỉ ngơi được.” Nói rồi khom lưng rút tấm vải trong miệng người phụ nữ: “Phu nhân, ngài hỏi đi!”

Bích Ti cũng bị bịt miệng, chỉ có thể phát ra tiếng “hừ hừ” nhỏ bé, ngửa cổ nhìn Minh Lan, ánh mắt toát vẻ khẩn cầu.

Minh Lan không nhìn nó, ngoảnh lại nhìn Thiệu thị, cười nói: “Tôi biết hỏi gì đây! Đây là người tri kỷ của chị dâu, hay là chị dâu hỏi đi.”

Thiệu thị xấu hổ, không dám ngẩng đầu đối diện với ba kẻ vạm vỡ, đành nhìn dì Nhiệm, cất giọng yếu đuối: “…Tôi, tôi… tại sao cô lại phải dẫn kẻ cắp vào nhà…” Bất kể ở nhà mẹ đẻ hay nhà chồng, chị ta chưa hề quản lý việc nhà bao giờ, cất tiếng hỏi vừa không có uy, vừa không có lực.

Dì Nhiệm vừa thấy Thiệu thị liền khóc lóc sướt mướt, kêu gào: “Phu nhân, oan cho tôi quá… Tôi nào dám… Là do kẻ cướp ép buộc… Lấy đao đè lên cổ tôi…”

Còn chưa dứt lời, Minh Lan liền bật cười: “Dì Nhiệm này, muốn lừa gạt cũng phải nhìn xem đây là chỗ nào. Cô nhìn xem, bây giờ cô lừa dối phu nhân nhà cô là sẽ thoát được hả?”

Dì Nhiệm nghe vậy liền liếc nhìn Đồ Hổ và hai thị vệ, co rúm người lại.

Vì Thiệu thị ở góa nên đứa hầu nàng dâu bên người chị ta cũng thường ăn vận theo kiểu chững chạc u tối, thường ngày không tô son trát phấn, không đeo trâm mang vòng, trước kia Minh Lan ít để ý, giờ nhìn kỹ mới thấy tuy một mắt xanh đen, gò má sưng cao vẫn không giấu được dung mạo bất phàm của dì Nhiệm. “Bị ép buộc nên phải dẫn kẻ cướp đến Khấu Hương uyển hay là thông đồng với ngoại tặc, cô tưởng người ngoài đều mù cả hay sao?”

Dì Nhiệm biết Minh Lan khác với Thiệu thị, là nhân vật lợi hại, nhưng dù sao vẫn ôm lòng may mắn, mạnh miệng: “Tối lửa tắt đèn, có lẽ nhìn nhầm…” Lại giãy giụa cơ thể bị trói chặt, liên tục dập đầu với Thiệu thị: “Phu nhân, chúng ta làm bạn nhiều năm như vậy, ngài phải giúp tôi!”

Thiệu thị dợm lên tiếng, ánh mắt chạm phải gương mặt băng giá của Minh Lan liền rụt lại.

“Được lắm, không thấy quan tài không đổ lệ!” Minh Lan hừ lạnh: “Được, để tôi nói rõ ràng.”

Nàng chỉ vào Thiệu thị: “Phu nhân nhà cô ngày thường luôn sống thanh tịnh, ít để tâm tới chuyện bên ngoài, làm sao chị ấy biết được tôi giấu Đoàn nhi ở đâu! Cung ma ma nhà các cô nói rồi, là cô báo cho chị dâu biết, lại ra sức xúi giục chị ấy tra đến tột cùng.”

Thiệu thị mặt đỏ như máu, đầu gần như dán vào ngực, dì Nhiệm cứng họng, Minh Lan cười lạnh lẽo: “Tôi tự phụ làm việc cũng coi như bí ẩn, nào ngờ bị cô thám thính được, hừ, cô đừng có bảo vô ý nghe thấy! Rõ là ngày thường cô mưu tính sâu lắm!” Việc này không thể chỉ bằng vài câu tán gẫu thông thường là dò la ra được, nhất định phải lúc nào cũng lưu ý động tĩnh ở Gia Hi cư.

Dì Nhiệm run rẩy, vẫn còn chống chế: “…Tôi, tôi là vì phu nhân và tiểu thư nên mới lưu ý…”

Minh Lan mặc kệ cô ta ngụy biện, tiếp tục nói: “Chị dâu nghe lời cô xong, cô bèn thừa dịp ngoại viện đang rối loạn, gọi Bích Ti tới hỏi. Chị dâu không giỏi ăn nói, chỉ ngồi yên một chỗ, còn cô thì ở bên cạnh khéo léo hỏi han, lấy lợi ra dụ, cuối cùng hỏi được chi tiết.

Bích Ti bị bó thành cục ra sức giãy giụa kêu lên, hai mắt như phun lửa, oán hận trợn trừng dì Nhiệm. Dì Nhiệm không phải kẻ chuyên làm việc gian ác, không dám nhìn ánh mắt Bích Ti.

“Tốt! Cho dù cô chống chế rằng cô vì chủ nhân mới lưu ý tình hình trong viện của tôi, đã hỏi thăm ra tung tích Đoàn nhi, cô vốn nên ẩn nấp cùng với nhóm chị dâu, bảo vệ sát người mới đúng chứ! Kết quả cô chạy đi đâu?”

Minh Lan tỏ vẻ mỉa mai, liên tục chất vấn, dì Nhiệm đều không đáp được.

“Cô lấy cớ cần đi nhà xí chạy ra ngoài, gặp bà hầu Diêm ở phòng ấm, cô bảo đến lấy ít đồ ăn khuya cho chị dâu, bà Diêm nói lúc đó trong phủ vẫn chưa bốc cháy. Tiếp đến Sùng ma ma trông cửa trong nhìn thấy cô chạy về phía Tây, lúc đó nhà cũ phía Đông đã nổi lửa ngút trời, cuối cùng là ông Phúc trông cánh rừng nhìn thấy cô, lúc đó rừng núi phía Tây vừa mới cháy.”

Minh Lan từ từ cao giọng, ngữ điệu càng ngày càng đanh thép: “Cô là người phụ nữ trong nhà, lúc đại loạn chạy tới cánh rừng ngoại viện làm gì, rõ ràng là đến chi viện kẻ cắp! Mà đêm qua hễ có ai gặp cô đều bảo không thấy có ai đè dao vào cổ cô, cô còn dám ngụy biện hả?!”

Dì Nhiệm bị ép tới nỗi chân tay luống cuống, Đồ Hổ đứng bên lộ vẻ tàn nhẫn, cất giọng lạnh giá: “Phu nhân cần gì phải nhiều lời với tiện nhân này, cứ giao cho tôi, tôi dỡ từng cái xương một của nó ra, để xem nó có nói hay không!”

Minh Lan xua tay, nàng là nhân viên thời đại pháp chế, dù sao cũng phải tiên lễ hậu binh.

Dì Nhiệm sợ hãi vô ngần, rúm ró liều chết cách Đồ Hổ xa một chút, hét lên the thé: “Nhị phu nhân tha mạng! Tôi nói, tôi không dám chống chế nữa!”

Minh Lan lạnh lùng: “Cô biết tôi muốn hỏi cái gì chứ.”

Dì Nhiệm cắn môi, chịu đựng tay chân tê liệt, run giọng: “…Là bên Thái phu nhân… bên kia sai người tới tìm tôi.”

Minh Lan khép mắt lại, lẩm bẩm: “Tôi cũng đoán là bà ta.”

“…Không, không phải mỗi tôi, ngoại viện cũng có người của Thái phu nhân, hẹn sẵn đến lúc sẽ mở cửa thả người vào, nào ngờ hai vị họ Đồ điều được rất nhiều người dũng mãnh từ thôn trang tới, lại đích thân theo dõi chặt chẽ cổng trước cổng sau, không có cơ hội ra tay.” Dì Nhiệm kể lể đứt quãng.

Đồ Hổ nghe mà giận tím mắt, quát: “Là thằng ranh ăn cây táo rào cây sung nào!”

Dì Nhiệm sợ hết hồn, vội nói: “Là… là kẻ gác cổng Hàn Tam…”

Đồ Hổ sửng sốt: “Hàn Tam…? Nhưng thằng đó đã bị bắn tên chết đêm qua rồi.” Tức khắc hắn nhấc người dì Nhiệm lên, quát: “Chẳng lẽ vì để thoát thân mà mi tự tiện vu oan?”

Dì Nhiệm gào lên như heo bị chọc tiết: “Chính là Hàn Tam! Chính là hắn! Vốn tôi chỉ là người dò la tin tức, nào ngờ đêm hôm qua Hàn Tam lén truyền tin cho tôi, bảo việc có thay đổi, hai cổng không thể mở, không có người vào được, bảo tôi hỏi thăm chỗ ẩn thân của Đoàn nhi rồi tới cánh rừng phía Tây tiếp ứng!”

Đồ Hổ buông tay, xui xẻo mắng to: “Không ngờ lại để hạt cát dưới mí mắt!” Nói rồi liên tục tạ tội với Minh Lan.

Minh Lan chẳng biết nên khóc hay cười, người đã chết rồi, nhiệm vụ cũng chưa hoàn thành, đâu có gì xui xẻo. Đồ Hổ vẫn tức giận, nói thẳng tra xét mà chính xác thì sẽ thu lại bạc trợ cấp cho gia quyến Hàn Tam.

Thiệu thị im lặng lắng nghe, bấy giờ không thể nhẫn nại, cất giọng khàn khàn: “…Tôi, chúng ta lớn lên bên nhau từ nhỏ, lại cùng hầu một chồng, trước kia tôi cũng không đối xử tệ với cô, tại sao cô lại…”

Dì Nhiệm vốn đang co quắp khóc lóc trên mặt đất, nghe vậy chợt như núi lửa bùng nổ, cô ta bật dậy, hằn học nhìn Thiệu thị, gầm lên: “Mày còn dám nói không đối xử tệ với tao! Đều do mày hại! Đều do mày! Mày là đồ đàn bà ngu dốt giả nhân giả nghĩa!”

Bộ ngực đầy đặn của cô ta nhấp nhô phập phồng, thở phì phò: “…Chị em của hồi môn đều lần lượt lấy chồng, tao nhỏ tuổi nhất, vốn nghĩ đến tuổi cũng được ban hôn sự vẻ vang, nào ngờ… nào ngờ, mày lại đem tao cho cái kẻ bệnh lao ấy…! Hắn còn sống được mấy ngày chứ, mày ở góa một mình không đủ còn phải kéo theo tao à!”

Thiệu thị bị cô ta chửi choáng váng, hồi lâu mới phản ứng lại, the thé biện giải: “Cô, cô làm sao dám nói ông cả là… là bệnh lao…?! Từ khi sinh Nhàn nhi tôi nhiều năm không mang thai được nữa, thấy cô có dáng vẻ dễ sinh con trai mới cố ý cất nhắc cô, tương lai nếu sinh được cậu chủ chẳng phải cô cũng được vẻ vang còn gì!”

“Hừ, cất nhắc cái rắm!” Dì Nhiệm tựa như biến thành người khác, tóc tai xổ tung, điên cuồng kêu lên: “Thân thể hắn ta thế nào mày không rõ à?! Mấy năm gần cuối hắn còn không quan hệ được, sinh con trai cái rắm! Tao đã bảo không muốn, cái đồ ngu nhà mày lại còn bảo tao xấu hổ, e thẹn, còn vui vẻ đến khoe với Thái phu nhân, giả vờ hiền lành, kết quả Thái phu nhân trực tiếp bày rượu cho tao…”

Nghĩ tới chuyện cũ, cô ta không cầm nổi nước mắt: “Đến tình cảnh đó, tao không chịu cũng không xong.”

Thiệu thị hồn xiêu phách lạc, lẩm bẩm: “Hóa ra cô thật sự không muốn…” Trong lòng chị ta, Cố Đình Dục là người đàn ông hạng nhất tốt nhất thiên hạ, lại là ông chủ phủ hầu, thêm nữa ngày thường chị ta toàn thấy hầu gái muốn bám lấy đàn ông làm vợ bé, tại sao lại…?

Minh Lan thản nhiên theo dõi, về lý mà nói, việc xấu của hầu gia tiền nhiệm nhà họ Cố không nên được thảo luận, có điều nghĩ hai vợ chồng nhà này, một kẻ còn sống thì bắt nạt chồng nàng, một kẻ thì đêm qua suýt nữa hại con trai nàng, Minh Lan liền không ngăn chặn, miệng nhướn châm chọc, lẳng lặng lắng nghe.

“Tao hầu hạ tên bệnh lao đó chưa được năm lần, lúc hắn còn sống, mày bắt tao sống như quả phụ, lúc hắn chết rồi mày cũng không chịu thả tao ra! Còn bảo cái gì mà sống nương tựa lẫn nhau! Tao mới bao nhiêu tuổi, mày lại nhẫn tâm như thế ư!”

Thiệu thị nghe mà tay chân lạnh buốt, hốt hỏng: “Tôi, tôi thật tình muốn để cô được dưỡng già trong phủ, tôi…”

“Dưỡng cái đầu mày! Dưỡng cái gì mà dưỡng, tao vẫn còn trẻ, còn nửa đời nữa cơ mà!” Dì Nhiệm chửi bới ầm ĩ: “Chính mày làm quả phụ tẻ nhạt, muốn tìm bạn giải buồn thì có!”

Thiệu thị bị chửi quay cuồng trời đất, muốn giải thích không được, sắc mặt đỏ bừng, Minh Lan xem mà hả cơn giận, cho đến khi thấy Thiệu thị tức run rẩy rơi nước mắt mới chậm rãi nói: “Hay cho kẻ miệng lưỡi giảo hoạt, chị dâu quả nhiên mai một cô nhỉ. Có điều tôi có một câu hỏi, cô và chị dâu làm bạn nhiều năm, đương nhiên cũng biết tính tình chị ấy dịu dàng, dễ nói chuyện, nếu cô thật muốn lấy chồng thì nói thẳng là được. Cho dù khiến chị ấy không vui cũng chưa chắc đã phạt cô, kiểu gì cũng thả ra ngoài. Chỉ sợ cô không phải chỉ vì muốn lấy chồng, đúng không?”

Nhìn sắc mặc dì Nhiệm thay đổi, Minh Lan bèn biết mình đoán trúng.

Vợ bé mất ông chủ muốn tái giá vốn không phải việc khó, nhưng gả cho người tử tế lại không dễ, người tốt đứng đắn làm gì để mắt tới loại tàn hoa bại liễu như cô ta, hoặc phải có nhiều của cải, hoặc phải có người cất nhắc mới được.

Dì Nhiệm vốn muốn gả cho quản sự có thể diện trong phủ hầu, nhưng anh em họ Cố trở mặt, Minh Lan làm sao để vợ bé từng hầu hạ Cố Đình Dục làm vợ quản sự đắc lực? Còn Thiệu thị từ lúc ở goá luôn tích cóp của hồi môn cho Nhàn nhi, càng ngày càng coi trọng bạc, bản thân muốn tái giá đã khiến Thiệu thị bất mãn, nhiều nhất là giả lại giấy bán thân cho đi, làm sao chịu cho nhiều tiền của.

Nghĩ đi nghĩ lại, còn chẳng bằng nương nhờ Thái phu nhân, ít ra cũng hứa hẹn hơn.

“Tôi…” Cô ta định giải thích tiếp nhưng lại bị Minh Lan ngăn lại.

“Cho dù cô có khổ tâm hay bất đắc dĩ…” Minh Lan từ tốn nói: “Nhưng tôi chưa bao giờ đối xử tệ hại với cô, hai chị em cái Dung cũng chưa từng, ông An bị đâm chết rìa rừng chưa từng, mấy đứa hầu bà hầu chết thảm trước cửa Khấu Hương uyển càng chưa từng! Vì cô từng đau khổ mà có thể thông đồng với ngoại tặc, làm hại tính mạng người khác ư!”

Minh Lan vỗ mạnh xuống bàn, mặt như sương lạnh, giương đôi mắt lạnh lẽo, dì Nhiệm không biết nói sao, chán nản cúi đầu. Minh Lan ngoảnh lại bảo: “Tôi đã hỏi xong, mời cậu Hai Đồ đưa cô ta đi.”

Đồ Hổ chỉ chờ những lời này, hắn nhặt tấm vải lên nhét vào miệng dì Nhiệm, hai thị vệ lại áp giải dì Nhiệm, hắn dẫn đầu nhanh chóng ra ngoài, chỉ còn lại tiếng kêu không ra tiếng của dì Nhiệm vẳng lại.

Thiệu thị cứng đờ tại chỗ hồi lâu, hai tay siết chặt khăn, vẻ mặt tựa như khó xử, tựa như tức giận, lại tựa như đau lòng, mãi mới bật thốt: “…Cô, cô ta bị đưa đi đâu…?”

Minh Lan chỉ ra cửa, ra hiệu cho Hạ Trúc đi đóng cửa, đồng thời trả lời: “Đưa đến chỗ đại nhân Lưu Chính Kiệt.” Nói rồi nhoẻn cười: “Chúng là người lương thiện, dù là nội tặc cũng không nên giết hại tùy tiện, giao cho quan phủ đi.”

Thiệu thì dù tối dạ cũng nghe ra ý tứ trong lời Minh Lan, chị ta ngập ngừng khẽ khàng hỏi: “Lộ Nương… sẽ bị xử lý thế nào…” Lộ Nương là tên của dì Nhiệm.

“Vậy phải xem Lưu đại nhân thẩm vấn thế nào? Nếu đêm qua tập kích chỉ là phường trộm cắp tầm thường thì dì Nhiệm chẳng qua chỉ mang tội tiếp tay cho kẻ xấu, nếu đêm qua đám người đó là đồng bọn của phản tặc thì cô ta…” Minh Lan dửng dưng nói.

Làm phản tặc, kết quả thông thường không ngoài treo cổ chặt đầu…, nếu là cấp bậc thủ lĩnh, có lẽ còn có thể hưởng thụ hình phạt có hàm lượng kỹ thuật cao như “lăng trì”.

Thiệu thị trăm mối ngổn ngang, lúc thương xót lúc sợ hãi, chợt nằm sấp xuống bàn nấc lên, Minh Lan chẳng hề thương hương tiếc ngọc, cất giọng lạnh lùng: “Chị dâu đừng vội khóc, xử lý dứt điểm chuyện này đã, thế nào?” Thiệu thị lúc này mới ngạc nhiên phát hiện trên đất còn có Bích Ti, bên cạnh còn có hai bà hầu, ngượng ngùng lau nước mắt ngồi ngay ngắn.

Bà hầu được Minh Lan ra huệu bèn rút tấm vải trong miệng Bích Ti ra, Bích Ti vừa nghe dì Nhiệm khai liền biết bản thân gây đại họa, nó sợ tới mức bật khóc, vừa nói được liền vội vàng cầu khẩn: “Phu nhân, nô tì biết sai rồi! Nô tì đáng chết, mời phu nhân bỏ qua cho nô tì lần này!” Dứt lời vừa liên tục dập đầu vừa liên tục xin tha.

Hạ Hà thấy gương mặt xinh xắn của nó toàn vết bùn và vết máu thì thầm thấy đáng thương, chẳng ngờ nghe Minh Lan chỉ chính mình ra lệnh: “Lấy ra đi.” Con bé vội vã lấy lại tinh thần, mau chóng lấy một cái bọc nhỏ ra khỏi tay áo, đặt lên bàn.

Đó là một đôi vòng tay được bọc trong khăn lụa, chất vòng bằng vàng ròng, đánh thành hình lá sen tròn xoe, trên nạm vài hạt ngọc trai lấp lánh chói mắt, chốt mở còn nạm một hòn ngọc mắt mèo to như hạt đậu.

Vừa thấy vật ấy, sắc mặt Thiệu thị tức khắc biến đổi, chị ta chột dạ nhìn Minh Lan, chỉ thấy Minh Lan nhàn nhã nghịch vòng tay: “Đôi vòng tay này vốn là quà sính lễ mà họ Cố đưa cho chị, quả nhiên là vật quý hiếm.”

Thiệu thị không dám trả lời, chỉ gật bừa.

“Chính vì đôi vòng tay này mà mi dám bán đứng ta và Đoàn nhi?” Minh Lan buông giọng nhẹ nhàng.

Bích Ti run rẩy, khóc lóp: “Không, không phải… Nô tì thấy thường ngày phu nhân rất tin tưởng đại phu nhân nên mới tưởng có nói cũng không sao…”

“Thôi ma ma từng dặn mi như thế nào? Đừng nói là Đại phu nhân, ngay cả con trời cũng không được hé lộ nửa chữ.” Minh Lan lạnh nhạt: “Những lời này mi đều mặc kệ phải không?”

Bích Ti không phản bác được, đành liên tục khấu đầu cầu xin tha thứ, lại nhìn sang Hạ Hà và Hạ Trúc, mong mỏi bọn họ cầu xin giúp mình.

Hạ Trúc mềm lòng, dợm mở miệng liền bị Hạ Hà kéo tay áo ngăn lại.

Không phải Hạ Hà vững tâm hơn, mà là con bé hiểu rõ tính tình chủ nhân, hễ là việc Minh Lan đã quyết định thì hiếm người có thể thay đổi, huống hồ, nó liếc nhìn xung quanh, chầm chậm cúi đầu.

Tình huống thế này, Minh Lan dắt nó và Hạ Trúc tới hầu hạ là có ý gì?

Tiểu Đào sắp lấy chồng xa, Lục Chi cũng sắp đến tuổi phải thả ra ngoài, một hai năm tới, hầu gái lớn tuổi trong Gia Hi cư đều sẽ thay đổi. Thúy Tụ và Xuân Nha dù được phu nhân yêu thích nhưng tuổi vẫn còn quá nhỏ, như vậy còn lại chính là… Hạ Hà là đứa sáng dạ, âm thầm hạ quyết tâm, bây giờ cần người hầu hạ biết bổn phận, ít tự coi là thông minh đấy.

Minh Lan nhìn Bích Ti liên tục dập đầu, trong lòng cũng thương xót: “Mi từ bé vốn không có chí hướng cao xa gì, lại không thông minh khéo léo, cũng chẳng đủ trung thành cần mẫn, chỉ cần cho mi ăn ngon mặc đẹp là mi đã biết đủ.” Nếu đặt ở hiện đại thì nó là đứa cực kỳ biết điều, tuyệt đối không nảy sinh dã tâm thăng tiến.

“Mi ở bên cạnh ta nào giống làm hầu gái, cả ngày ham ăn biếng làm, chọn nhẹ sợ nặng, may mà mấy đứa Đan Quất khoan dung không so bì với mi. Dù ta không thích mi, nhưng dù sao cũng ở với nhau mười năm, con người đâu phải cỏ cây.”

Người ta bảo nếu thích hồi tưởng thì đã đến tuổi về già, Minh Lan chợt tỉnh giấc mộng Dương Châu, chuyện cũ hiển hiện trước mắt, lần lượt bị phản bội tổn thương, lần bị rời xa chia cách, quay đầu nhìn lại mới kinh ngạc phát hiện bản thân đã già rồi.

“Dù sao thì mi chưa bao giờ gây ra phiền phức gì.” Bích Ti tính tình lười nhác, vừa không giống Nhược Mi thờ ơ lạnh nhạt, vừa không giống Yến Thảo ranh mãnh lắm suy tính, muốn trèo cành cao. “Ta vốn tưởng, đợi Tiểu Đào Lục Chi đi rồi, ta sẽ tìm một người biết thương mi, lấy chồng với của cải sung túc, để mi sống đời an nhàn, cũng coi như vẹn toàn duyên phận chủ tớ.”

Bích Ti tràn ngập bối rối, không biết Minh Lan nói vậy có ý gì, chợt nghe thấy tiếng leng keng, trước mắt ánh lên màu vàng, hoá ra Minh Lan cầm vòng tay và cả khăn lụa ném xuống trước mặt nó, đồng thời lên tiếng.

“Ta không phạt mi, cũng không đánh chửi mi. Có điều, duyên phận chúng ta coi như hết.” Minh Lan than vãn: “Ta nhớ trong nhà mi còn có anh trai chị dâu và mẹ già, ta thả mi về nhà vậy. Vòng tay này cho mi, mấy năm nay mi tích cóp được của cải cũng cho mang theo hết, bất luận là mua đất hay mua cửa hàng… Dù sao thì mi tự thu xếp đi.”

Nói xong câu này, Minh Lan liền vẫy tay với hai bà hầu.

Bích Ti choáng váng, chỉ nghe thấy bốn chữ “thả mi về nhà”.

Không được! Nó không thể về nhà! Từ lúc ông nội và cha lần lượt qua đời, trong nhà càng ngày càng xuống dốc mới phải đưa nó bán cho nhà họ Thịnh, mẹ già mềm yếu, anh trai vô dụng, chị dâu lại hà khắc. Huống chi trong nhà kham khổ, phải làm việc nặng nhọc, chắt chiu từng đồng từng cắc, đâu có tể so sánh với ở bên cạnh Minh Lan ăn ngon mặc đẹp, mười ngón tay không dính nước, nhàn nhã qua ngày.

Nó lập tức mnốn gào khóc xin tha, nào ngờ bà hầu ra tay nhanh như chớp, trong miệng nhanh chóng bị bịt lại bằng tấm vải, chẳng nói được gì.

Nó liều mạng vùng vẫy, gào thét khản đặc, không ngừng nháy mắt ra hiệu xin tha với Minh Lan, chỉ hận tay hai bà hầu kẹp chặt như sắt, khiến nó không thể động đậy, nó đành trơ mắt nhìn bản thân bị lôi ra xa.

Ra khỏi cửa, một bà hầu còn nhỏ giọng châm chọc: “Tao bảo này, mày yên đi cho tao nhờ! Mày còn tưởng bản thân là chủ nhân quý giá phỏng.” Bà khác thì cười chê: “Phu nhân thật quá nhân từ, loại con ở suýt thì làm hại tính mạng cậu chủ thế này, theo tôi á, phải bán đi thật xa mới hả giận!”

Lời nói lạnh nhạt thi thoảng vẳng vào trong phòng, Hạ Hà cay mắt, hai năm nay nó ở chung phòng với Bích Ti, sớm chiều chung sống, dù không thân như chị em thì thấy kết cục này cũng khó chịu trong lòng. Nó nghĩ, đợi sau này nó có thể ra vào phủ dễ dàng, nó sẽ thường xuyên đến thăm Bích Ti, giúp đỡ một tay.

Sự đời nào ai đoán được, vài năm sau nó lấy chồng là một vị quản sự nhỏ tiền đồ hứa hẹn, nó theo chồng tới phía Nam giúp nhà họ Cố quản lý điền trang, vừa đi là mấy năm, lúc gặp lại Bích Ti đã là mười năm sau. Lúc đó nó không dám tin người phụ nữ thô lỗ hẹp hòi, mặt đỏ mồm to này lại từng là cô bé eo nhỏ như liễu, thích màu xanh, ưa việc nhàn nhã.

Xử lý Bích Ti xong, Minh Lan cũng sa sút tâm tình, một lát sau nàng mới lên tiếng: “Hạ Hà, em đi thu dọn hành lý cho nó, từng đường kim mũi chỉ đều cho nó mang theo, đừng để người khác giành mất. Hạ Trúc, em ra ngoài đi, để tôi và đại phu nhân nói chuyện riêng.”

Hai cô bé nhỏ giọng đáp ứng, một đi thẳng ra ngoài, một rón rén đóng cửa lại.

Bấy giờ trong nhà chỉ còn lại hai người họ, Thiệu thị căng thẳng, đứng ngồi không yên như chim sợ cành cong, nhác thấy Minh Lan nhìn chăm chú vào mình càng hoảng hốt: “Em dâu, em đừng dọa chị, lần này chị sai rồi! Chị không tốt… Chị…”

Nghe dì Nhiệm khai hết, dù lời lẽ nhận sai vẫn y hệt nhưng độ chân thành thì lại tăng cao, từng chữ đều phát ra từ tận đáy lòng.

“Chị dâu rốt cuộc sai ở đâu?” Minh Lan ép hỏi: “Là không nên nghe dì Nhiệm xúi bẩy, vẫn là không nên nghe theo lời tôi?”

Thiệu thị cứng họng, tức khắc nghẹn đỏ mặt.

“Để tôi bắt mạch cho chị dâu nhé.” Minh Lan áp sát từng bước: “Chị dâu có hai cái sai, một là không chịu tin tôi, hai là quá dễ dàng tin người ngoài! Suy cho cùng, chị dâu vốn chẳng tin tôi bao giờ, dì Nhiệm nói tôi lấy chị ra làm bia đỡ, làm ngụy trang cho Đoàn nhi chị liền tin!”

Thiệu thị nào dám lên tiếng, chỉ liên tục xua tay: “Không, không, không… sao lại thế…”

“Tôi nói thẳng nhé!” Minh Lan vỗ hai tay, chống bàn đứng dậy: “Kinh thành đại loạn, dám đến quấy rối phủ hầu chỉ có hai loại người, không phải vì tiền thì chính là mưu đồ xấu xa. Tôi cố ý sai người thắp đèn đuốc sáng choang cho Gia Hi cư chính là để dẫn dụ bọn chúng đến, hừ, cả phủ này còn có nhiều tiền tài hơn chỗ tôi ở sao? Đám cướp đó vào được phòng tôi xong, chỉ sợ đều không thể ra được nữa!”

Thiệu thị há miệng, lắp bắp: “Chị, chị đã bảo, làm sao sân của em lại sáng như vậy…!”

“Nếu là đến vì mạng người… Hừ, hai anh em hầu gia bất hoà, ồn ào đâu chỉ một lần, nửa kinh thành ai chẳng biết! Bất kể trong cung tới bắt bớ hay là bà mẹ chồng kiêm mẹ kế của chúng ta đều sẽ chỉ nhằm vào mẹ con tôi, liên quan gì đến mẹ con chị! Được thôi, nếu chẳng may đến chỗ chị… nhưng sân của chị bao quanh bởi hồ nước cơ mà! Hai phía đều sát gần mặt nước, chẳng lẽ kẻ cướp còn có thể mang bè theo người đến tập kích?! Chỉ có duy nhất một lối vào, dễ thủ khó công, tôi sắp xếp bao nhiêu hộ vệ, cậu Cả Đồ còn bảo, trừ khi kẻ cướp vọt vào gấp ba, còn không tuyệt đối không thể!”

Minh Lan chống hai tay lên bàn, khí thế ép người, sợ tới nỗi Thiệu thị mấy bận muốn chui xuống bàn.

“Tôi nói thật với chị, trong lòng tôi đề phòng nhất kỳ thực chính là đằng thái phu nhân! Phản tặc lại không phải người của bà ta, số lượng tới quấy rối có hạn, tôi sợ minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng! Trong phủ này còn có bao người cũ chứ, lòng người khó lường, lúc hỗn loạn, đứa ở bà hầu ra ra vào vào, một cây trâm một gói thuốc, một cục đá một cái gai, Đoàn nhi bé như thế, làm sao mà phòng bị được! Nhưng trước khi chuyện xảy ra, việc như thế làm sao tôi có thể nói ra được!”

Thiệu thị khóc không ra nước mắt, gần như muốn quỳ xuống trước mặt Minh Lan, chị ta mềm người, cầu khẩn: “Em dâu, chị nhất thời hồ đồ, có mắt không tròng, không biết phân biệt, nếu, nếu thật… Chị đền mạng cho Đoàn nhi…”

“Tôi sẽ không bắt chị dâu đền mạng.” Minh Lan lạnh lùng thốt: “Xưa nay tôi vẫn thích Nhàn nhi, dù hầu gia không vui thì tôi cũng sẽ thu xếp tốt cho nó. Nhưng Đoàn nhi nếu thật sự bị chị hại chết, chị nghĩ tôi sẽ làm thế nào?”

Thiệu thị rùng mình, xua loạn hai tay: “Không, không… không liên quan tới Nhàn nhi…” Chị ta đột nhiên cảm kích Dung nhi vạn phần, nếu không phải con bé thà chết cứu em thì cho dù mẹ con họ sống sót, chỉ e ngày sau cũng chịu khổ.

“Thật nguy hiểm, suýt nữa thì…” Minh Lan vẫn còn sợ: “Nếu không phải cái Dung cương liệt quả cảm, Đoàn nhi đã mất mạng rồi. Lúc này tình hình thế nào thật khó mà tưởng tượng nổi.”

Thiệu thị không dám suy nghĩ tiếp, chưa kể tới Minh Lan, chỉ riêng lửa giận của Cố Đình Diệp đã có thể đốt mẹ con chị ta thành tro rồi, chị ta càng nghĩ càng sợ, trong nhất thời lòng bàn tay, sau lưng đều đổ mồ hôi lạnh.

Minh Lan thản nhiên nhìn chị ta mới nói: “Hôm nay tôi nói thế này, không phải vì chị mà là vì Nhàn nhi.”

Thiệu thị đờ người như khúc gỗ, ngẩng đầu không rõ.

“Lúc chị lén đến Khấu Hương uyển ẩn nấp, vốn chỉ nghĩ dắt theo một mình Nhàn nhi đúng không?” Minh Lan than thở: “Nhàn nhi là đứa bé ngoan, ngay lúc nguy cấp mà vẫn còn nhớ Dung nhi, gọi nó đi theo.”

Thiệu thị tức khắc nước mắt tràn mi, ngẩng đầu khóc lóc: “Con gái ngoan của mẹ! Mẹ suýt nữa hại con, con lại cứu lấy mẹ!”

Nhàn nhi gọi Dung nhi, Dung nhi lại cứu được Đoàn nhi, gián tiếp cứu chính nó và mẹ nó, quả nhiên ý trời, thiện có thiện báo! Trong lòng nàng chợt dâng niềm thành kính vạn phần với thần linh đất trời, với nhân quả tuần hoàn.

Minh Lan đẩy cửa ra, gần đi khỏi liền nghiêm túc nói: “Chị dâu yên tâm, chỉ cần sau này chị dâu không hồ đồ nữa, tôi sẽ coi hai đứa nó như con gái ruột.” Dừng lại giây lát: “Tôi nói lời giữ lời.”

Nói xong, nàng không quay đầu lại, vịn tay Hạ Trúc rời đi.

Đêm đó, ăn cơm xong, Lục Chi tới báo Cung ma ma chuyển tin, Thiệu thị đã đem đầu đuôi sự việc kể lại cho Nhàn nhi, hai mẹ con ôm nhau khóc lóc một hồi, dù Thiệu thị vẫn mãi tự trách nhưng dần yên tâm.

Sáng sớm hôm sau, Nhàn nhi mang đôi mắt sưng đỏ đến thỉnh an Minh Lan, bất an ngại ngùng, Minh Lan thương hại sờ đầu, bảo nó đến chơi với Dung nhi và nhóc Đoàn.

Có điều đối với Thiệu thị thì nàng không tốt được như vậy. Dù vẫn giữ lễ nghĩa như cũ, nhưng sắc mặt lạnh nhạt, không nói dư thừa một câu, làm Thiệu thị lại sợ tới mức nghe lời răm rắp.

Minh Lan từng tưởng, nếu trước đó Thiệu thị sợ mình như sợ Thái phu nhân, cho dù dì Nhiệm có ra sức xúi bẩy đến mấy thì có lẽ chị ta cũng không dám chạy tới chỗ nhóc Đoàn ẩn nấp. Thu Nương chính là ví dụ tốt nhất.

Tiểu nhân sợ uy không sợ đức, chiêu bài cảm hoá không phải đều dùng được với tất cả mọi người.

Đối với hiện thực bất đắc dĩ, Minh Lan thổn thức khôn nguôi.
 
Chương 219: Kết thúc (1)


Dùng cơm trưa xong, Minh Lan ngồi trên kiệu mềm tuần tra phủ hầu một vòng.

Mùa xuân vốn là lúc vạn vật sum suê nảy nở, trong đình viện, khóm hoa vốn rực rỡ như gấm vóc chỉ qua một đêm bỗng thưa thớt, đa phần bị những bước chân chạy thục mạng chà đạp thành bùn giữa đêm đen. Nền đá xanh bóng trơn nhẵn dù được tẩy rửa nhiều lần, nhưng vẫn loáng thoáng thấy vài vệt máu đỏ sậm. Khấu Hương uyển nổi bần bật, trong ngoài phòng chết vài người, mấy đứa hầu gái nhát gan không dám bước vào, Minh Lan không đành lòng ép buộc, bụng nghĩ có khi chuyển Dung nhi sang ở chỗ khác, nơi này vốn dĩ hơi hẻo lánh.

Nơi thảm thiết nhất vẫn ở chỗ khác.

Cổng sơn son dày nửa thước chậm rãi mở ra, tiếng kim loại rền rĩ ghê người, từ trên bậc thềm đá xanh trông xuống dưới, ngoài cửa loang lổ vết máu, dầu dính vào da người đóng thành khối cháy đen, dù xác chết và tàn chi đã được dọn dẹp sạch sẽ, nhưng vẫn còn những vệt tím sậm tanh hôi ghê rợn.

Trên đất la liệt thân cây to bằng miệng chén, chẳng biết đám cướp bổ từ nhà nào ra, những chiếc đinh to trên cửa đồng rụng hơn nửa, ngổn ngang khắp nơi, quản sự Lưu gác cổng còn lẩm bẩm “may mà năm đó không mạ vàng hết, nấu chảy ra vẫn còn dùng được”…

Minh Lan muốn cười mà chẳng cười nổi.

Trở lại Gia Hi cư, buồn bã tựa trên tấm đệm mềm, xuất thần ngắm chân trời dần dần ngả vàng.

Trước giờ cơm tối, cậu cả Đồ trở về từ bên goài, đứng trên hành lang, cách tấm rèm quỳ xuống trước mặt Minh Lan, mặt mũi sa sầm, tựa như bị “đội nón xanh” vậy, lúng túng thốt: “…Thằng Hàn Tam đó quả nhiên bẩn thỉu! Tôi quản thúc không nghiêm, xin phu nhân cứ trách phạt.”

Hắn dẫn mấy gã hộ vệ đến nhà họ Hàn tìm kiếm, bất ngờ tìm thấy hai tờ khế đất mới sang tên đổi chủ cộng thêm hai trăm lượng vàng, làm hắn tức giận đến mức muốn chặt người ra thành thịt vụn.

Minh Lan ngạc nhiên: “Cậu Hổ động thủ rồi ư?” Hàn Tam tuy vào phủ làm nô bộc, nhưng gia quyến vẫn là lương dân.

“Vẫn chưa!” Cậu cả Đồ chán nản: “Tôi mới cho người theo dõi thôi, hiện tại không tiện ra tay, để sau này tính sổ vậy.”

Minh Lan mệt mỏi đồng tình: “Đúng vậy. Muốn đánh muốn giết, đợi hầu gia về rồi quyết định.”

Người sống theo kiểu lười biếng, tôn trọng hoà bình như nàng lại suốt ngày phải xử lý mấy chuyện như vậy, thật là quá đáng ghét. Nàng lại trấn an cậu cả Đồ đôi câu, dù sao kẻ kia nằm vùng không thành công, không cần quá để ý, sau này đề phòng hơn là được.

Đến ngày thứ ba, dù lệnh giới nghiêm vẫn còn, nhưng bầu không khí đã lơi lỏng hơn, nhiều nhà sốt ruột lén sai người đến trao đổi tin tức. Trước hết là thư từ đến từ phủ Anh quốc công, hỏi han trong nhà có bình an không, còn dặn nếu Minh Lan cần người hay đồ, bất kể là thị vệ, đại phu hay thuốc thị trương, cứ nói một tiếng là được. Trương phu nhân còn vui vẻ kể lại, đêm đó phủ Anh quốc công đề phòng trắng đêm đều là vô dụng.

Minh Lan thầm cảm động, chả trách mấy chục năm qua Trương phu nhân luôn là nhân vật nổi bật trong vòng xã giao chốn kinh kỳ, nhìn cách bà làm việc quả đầy khí phách. Chốc lát sau đó, con gái vị có khí phách này cũng gửi tin, một tờ giấy ghi chép rất ít, giọng điệu lại đầy bực tức, cáu kỉnh.

Đêm đó phủ Quốc cữu chẳng hề yên ổn, lại chỉ đơn thuần là cướp tiền của – “Chị cô sống gần hai mươi năm, tự phụ hư danh họ Trương, vốn có uy danh, nào có kẻ dám vuốt râu hùm, thực chẳng ngờ lại gặp trộm cướp!”

Trương thị được mở mắt một phen, chưa từng nghĩ sẽ có ngày bị mấy tên trộm béo viếng thăm tận cửa! Bực bội hồi lâu mới sực nhớ ra, nhà này họ Thẩm không phải Trương. Lại nói, cho dù hiện tại cha chị ta mang tiếng binh bại, nhưng trong vòng ba dặm quanh phủ Anh quốc công vẫn không có kẻ dám hành nghề móc túi.

Trong thư viết, không có ma quỷ trong nhà sẽ không rước lấy ngoại tặc, vạch lá tìm sâu mới thấy hoá ra họ Trâu ở bên ngoài khoe khoang khoác lác mới dính vào phiền phức.

“Họ Trâu làm gì vậy?” Minh Lan hỏi.

Gã sai vặt đen mặt đáp: “…Đám xấu xa họ Trâu dám rêu rao Quốc cữu gia bị thương nặng trên chiến trường, nếu có làm sao thế tử sẽ là người thừa kế tước vị ngay, sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì, đến lúc đó chẳng phải việc gì cũng phải xin mấy ông cậu chỉ bảo! Chồng chết theo con, để xem họ Trương còn dám lên mặt? Ôi, thẩm vấn xong, phu nhân nhà tôi cũng giận điên người…”

Nói năng nhảm nhí trong quán rượu, tình cờ đám du côn trộm cướp lưu tâm, chuốc rượu thăm dò thực hư nhà họ Thẩm, tức khắc thừa dịp kinh thành biến loạn, giả vờ là người nhà họ Trâu lừa mở cửa sau phủ Thẩm, lần mò nhảy vào chém giết cướp giật.

May mà Trương thị đề phòng, nghe tin liền vội vã dẫn hộ vệ chạy tới giết trộm, trộm cỏ tầm thường làm sao địch nổi hộ vệ dũng mãnh phủ Anh quốc công luyện ra, chưa đâu vào đâu đã kẻ thì bị giết, đứa thì bị bắt.

Trương thị nén một bụng lửa giận, ta đây chuẩn bị sẵn sàng vì âm mưu chính trị ghê gớm cơ mà!

Tức khắc chị ta bèn lấy cung mềm đích thân bắn bị thương mấy tên, trong đó có hai kẻ hung hăng bị bắt, thấy cả phòng toàn phụ nữ trẻ nhỏ vẫn còn ngạo nghễ hù doạ chửi bậy. Trương thị giận dữ, chẳng nói chẳng rằng, lấy kiếm chặt đứt đôi tai bọn chúng, vứt xuống đất cho chó ngao ăn, lúc đó cả phòng lặng phắc như tờ, phủ Thẩm không ai dám lên tiếng.

Gã sai vặt kể lại đầy tự hào, Minh Lan bụng thốt “wow wow”.

Từ đó, phủ Thẩm hễ thấy Trương thị đều lánh đường vòng. Hàng chục năm sau đó Trương thị cũng được nể trọng, vợ bé không dám tranh luận, con riêng không dám xen mồm, chưa biết chừng nhờ hoạ được phúc, chuyện này tạm chưa nhắc tới.

Ngoài ra, nữ quyến họ Đoàn, họ Chung và họ Cảnh đều chưa ra cung, nguyên do không biết được. Gã sai vặt trở về từ nhà họ Bạc và họ Phục đều báo trên đường gặp cướp, trốn vào nhà dân, cho đến hết giới nghiêm mới vội vã trở về báo tin, cũng bảo hai nhà này hết thảy không sao. Đặc biệt là họ Bạc, nữ quyến trong nhà và Bạc lão phu nhân đã tới nông thôn ở trước đó.

Thư của phủ Thịnh là dày nhất, Trường Phong chấp bút, viết mười mấy trang, Minh Lan cố kiên nhẫn đọc hết, không nén nổi khen ngợi “anh Ba uy vũ”. Thực ra sự tình rất đơn giản, hôm đó cha Thịnh đi làm như thường lệ, ăn xong một bát cơm, nửa con gà nướng xong chuyển sang kiểm tra việc học của Trường Phong, vừa giảng đến “lần này thi Hương nếu còn không trúng thì sẽ…”, lời tàn nhẫn còn chưa nói xong, bên ngoài bắt đầu đại loạn.

Kinh thành giới nghiêm, cha Thịnh bất đắc dĩ chờ đợi hai ngày, đến giờ vẫn chưa được đi làm lại, đa số quan văn đều như thế, chỉ có thể nói, so với lần trước nghịch vương gây loạn, lần này khu vực nguy hiểm đã thay đổi.

Một bức thư nhà đơn giản, việc lớn không có, việc nhỏ cũng không nốt, toàn là từ ngữ hoa lệ, gieo vần bằng trắc, chỉ mỗi việc cảm thán thời cuộc bất ổn đã dùng tới ba điển cố, ngay cả bác gái nấu cơm không thể lên phố mua thức ăn tươi cũng ngâm một câu vè “trên trời loạn, Táo Quân than”.

Nhóc Đoàn đảo mắt tròn xoe lia lịa, dỗ thế nào cũng không chịu ngủ, kết quả Minh Lan đọc thư cho con trai nghe, mới được hơn nửa nhóc mập đã gục đầu thiếp đi.

“Nhóc con không theo nghiệp khoa cử được rồi, sau này theo cha con rèn luyện lấy ngực đập vỡ tảng đá nhé.” Minh Lan nhận mệnh xoa nắn bắp đùi mũm mĩm của thằng nhóc, cái bụng nhỏ phập phồng say giấc nồng.

Tin tức đằng nhà họ Trịnh khoan thai tới, đến lúc lên đèn mới nhận được, nhưng còn nghiêm trọng hơn cả việc phủ Quốc cữu gặp trộm.

Gã sai vặt nghẹn ngào: “…Lão thái gia nhà chúng tôi vừa qua đời hôm trước, sáng hôm nay, lão phu nhân cũng… cũng đi theo.”

Trong vòng ba ngày, hai cụ liên tục ốm bệnh qua đời?!

Minh Lan hoảng hốt khó hiểu: “Tại sao lại thế. Đang yên đang lành, tại sao nói không có là không có luôn…?” Nàng vốn định hỏi kỹ càng, nhưng Trịnh đại phu nhân quản lý nô bộc nghiêm khắc, gã sai vặt chỉ lắc đầu, cạy không ra một chữ.

“…Mấy năm nay, lão thái gia và lão phu nhân đều đổ bệnh… Đại phu nhân sai tôi chuyển lời, hiện giờ Đại phu nhân và Nhị phu nhân đều bận rộn, đợi rảnh hơn sẽ giải thích cho Hầu phu nhân nghe.”

Minh Lan trông gã sai vặt mệt mỏi mồ hồi đầy đầu, thở hồng hộc, lại vẫn nói năng thoả đáng, giữ vững quy củ thì thầm bội phục bản lĩnh của Trịnh Đại phu nhân, sai Lục Chi thưởng tiền cho hắn rồi đưa ra ngoài.

Thôi ma ma đưa mắt nhìn bóng người biến mất sau cánh cửa mới lên tiếng: “Phu nhân, sao lại thế này, mấy hôm trước chúng ta tặng rượu ủ đông sang nhà họ, Trịnh lão thái gia và Trịnh lão phu nhân vẫn còn tử tế mà. Tục ngữ có câu ‘đòn gánh dài cong cong gánh’*, việc này, việc này…” Bà thốt “việc này” mấy lần liên tiếp mà chẳng nói nên lời.

* Phỏng theo lời bài hát của Hàn Lỗi “Bài Ca Đòn Gánh”, nói về người có công khai quốc, gánh trên vai trách nhiệm nước non, quyết chiến đến hơi thở cuối cùng.

Minh Lan hiểu ý bà, càng là người già nằm trên giường bệnh nhiều năm, càng sẽ không đột nhiên qua đời, từ nguy kịch đến tắt thở ít nhất phải hai, ba ngày, hai cụ mấy hôm trước vẫn yên ổn, lại bỗng dưng qua đời, thật sự kỳ quái.

Ngẫm ngợi hồi lâu cũng không đoán được lý do, Minh Lan chỉ hận trí tưởng tượng của mình thật hạn hẹp, ôm gối hoang mang cả đêm, nào biết sáng sớm hôm sau có người tới nhà giải đáp nghi hoặc cho nàng.

Lưu phu nhân mặc bộ đồ màu vàng đất, trên đầu đeo băng trán bằng nhung đỏ sậm, chính giữa khảm hạt châu to, mặt dặm đầy phấn, tóc mai cắm bông hồng nhỏ, y hệt nhân vật Già Lưu nhà giàu mới nổi.

*Già Lưu là một nhân vật trong Hồng Lâu Mộng.

Lúc đó Minh Lan đang dùng cơm sáng, tiện thể mời xã giao một câu, nào ngờ Lưu phu nhân đồng ý ngay, cầm đũa ăn luôn.

Chị ta tựa như rất vui, vừa ăn vừa khen: “Đồ ăn nhà em cầu kỳ thế, chậc chậc, canh gạo nếp thơm quá… trong đó có gì thế, ôi chao, em gái mỹ mạo, món hoa quả chiên này cũng đẹp quá…”

Minh Lan hết nói nổi với cách so sánh này, gượng cười: “Nào có, bí truyền đấy thôi.” Trong những gia đình xa hoa, tay nghề đầu bếp nữ đều là truyền từ đời này qua đời nọ, nhà nào chả có mấy món ngon chuyên để chiêu đãi khách: “Nếu chị thích, hôm khác em sai người tặng mấy phần sang.”

“Đừng đừng.” Lưu phu nhân vội vã xua tay, nhoẻn miệng cười: “Thật ra cả nhà chị đều không quen đồ ăn kinh thành, năm trước đặc biệt mời đầu bếp vùng Thục Trung đến. Chị hay buột miệng, em đừng bận tâm… Từ nhỏ, các cụ đã bảo, đến nhà người ta làm khách phải khen nhiều vào.” Dứt lời lại lải nhải một hồi.

Minh Lan dợm lên tiếng, đành nín nhịn.

Lưu phu nhân cũng không phải chỉ biết dông dài, cơm nước xong, lau miệng rửa tay, Minh Lan chưa kịp cất lời hỏi, chị ta đã bộc bạch: “Đêm hôm qua cha tụi nhỏ về, ai ui, cả người đều dính máu… Chao ôi, không kể chuyện này kẻo em lại sợ… Cha tụi nhỏ dặn đi dặn lại, bảo chị phải giải thích rõ ràng, giúp em giải sầu, kẻo lại ảnh hưởng sức khoẻ… ừm, việc này, nói thế nào nhỉ? Chị bảo này, em muốn biết chuyện gì trước nhất nào.”

Đương nhiên là Cố Đình Vĩ đã toi mạng chưa, phủ Hầu an toàn chưa, lão yêu quái Thái phu nhân xong đời chưa, a a a, đáng tiếc không được! Đây là cổ đại, nàng là cáo mệnh phu nhân nhất phẩm được triều đình khâm phong nha!

Minh Lan nghẹn gọng, gượng cười: “Tự nhiên là hiện nay hoàng thượng hoàng hậu có khoẻ không? Chúng ta là bề tôi, hiển nhiên phải quan tâm việc này nhất.”

Lưu phu nhân dường như hết sức cảm động: “Em quả nhiên trung quân ái quốc.”

Cảm động xong xuôi, vì biểu thị bản thân giác ngộ chính trị không thua kém, chị ta bắt đầu mở máy khen ngợi.

“…Bọn kia dối trên gạt dưới, thường ngày lén lút làm việc, âm thầm cấu kết, còn tưởng bản thân cao minh lắm, nào biết đương kim hoàng thượng của chúng ta là từ xưa đến nay… gì mà… minh quân hiếm thấy, tinh tú hạ phàm, đã sớm biết tỏng đầu đuôi. Chẳng qua niệm tình tiên đế, giữ chút tình cảm với Thánh Đức thái hậu và mẹ con Duệ Vương đấy thôi, đâu ngờ…”

Minh Lan cố chịu đựng, xen ngang: “Hoá ra thật liên lụy tới Thánh Đức thái hậu và Duệ Vương ư?”

“Còn không à? Em tưởng ai lại dám ăn gan hùm mật gấu, giả truyền thánh chỉ lừa gia quyến đại thần vào cung được nữa.” Lưu phu nhân xoa viền mắt khô ráo, tựa bà chủ nông thôn kêu gào thảm thiết: “Chao ôi, hoàng thượng của chúng ta là vị thiên tử phúc hậu biết bao, Thánh Đức thái hậu vừa không phải mẹ ruột, vừa không phải hoàng hậu được tấn phong, chỉ vì một câu của tiên đế nên hoàng thượng của chúng ta mới sớm chiều thăm hỏi, ngoan ngoãn nghe lời, nhị thập tứ hiếu, chăm nom tỉ mỉ…”

Minh Lan vô cùng cảm thấy ba câu thành ngữ sau bất hợp lý, nhưng thấy người ta đang bùng nổ cảm xúc, không nên nhắc nhở.

“…Đã hầu hạ chu đáo như thế lại còn không biết đủ, một mực mưu đồ ngôi vị thánh thượng của hoàng đế! Còn Dung phi nữa, thật đúng là đám lòng lang dạ sói… May mà Trịnh Đại tướng quân lòng son dạ sắt, bằng không hoàng thượng của chúng ta chẳng phải đã bị hãm hại rồi sao…”

Kế tiếp, Lưu phu nhân thao thao bất tuyệt hơn nửa canh giờ, trong đó một nửa là ca tụng công đức, Tiểu Đào đổi hai ấm trà, Lục Chi thêm điểm tâm ba lần mới khó khăn hiểu được đại khái vụ biến loạn lần này.

Kỳ thực theo phán đoán của Minh Lan, đám người Thánh Đức thái hậu dĩ nhiên lòng dạ khó lường, nhưng hoàng đế đại nhân nhiệt tình chân thành, trung hiếu song toàn, kính trời yêu dân trong mắt mọi người cũng không hẳn thuần khiết như cừu non.

Mấy năm nay, cùng với phe hoàng đế thế lực dần lớn mạnh (Trương, Thẩm, Cố, Trịnh, Đoạn, Lưu…), hoàng đế hành xử càng mạnh mẽ, dốc hết sức lực làm yếu đi phe phái của Thánh Đức thái hậu. Trong nhóm trọng thần quan văn, hoặc là Diêu các lão dẫn đầu trung thành với phái hoàng đế, hoặc là Trâu các lão đã về hưu theo trường phái giả ngu ba phải.

Các vị lão thần mà năm đó kề cận giường bệnh tiên đế, liều mạng cổ động hoàng đế phải hiếu thuận với Thánh Đức thái hậu, trong mấy năm nay, hoặc biến mất, hoặc “xin về hưu”.

Còn những vị dưới tam, tứ phẩm… Duệ Vương vẫn còn nhỏ, rốt cuộc địa vị cũng không hẳn chính thống, các vị các thần cũng chẳng muốn nhảy vào vũng nước đục này.

Mắt trông ngai vàng của đương kim hoàng đế càng ngày càng củng cố, các vị hoàng tử dưới gối cũng càng ngày càng trưởng thành, phe phái Thánh Đức thái hậu sốt ruột như bị mèo cào trong lòng, hoàng đế mỗi lần thấy Duệ Vương thông minh sáng láng cũng khó chịu như bị cái gì nghẹn lại trong cổ họng.

Phe phái Thánh Đức thái hậu muốn ra tay nhưng chưa tìm được cơ hội tốt, không dám sơ sẩy. Hoàng đế biết tỏng bọn họ muốn gây rối nhưng không thể chủ động xuất kích, sợ mang tiếng xấu không phụng dưỡng mẫu phi, không chăm nom con cháu.

Hai phái bế tắc hồi lâu, giống như ở xã hội văn minh, hai nước đều muốn chém giết nhau, nhưng chẳng ai muốn bêu danh khởi động chiến tranh, cho nên đành phải liên tục đâm chọc, cầu thần bái phật hi vọng đối phương mau mau khai đao.

Đến năm ngoái, hoàng đế cảm thấy có ưu thế áp đảo, bèn không nhịn nổi nữa.

Thế là, hắn tạo nên một cái bẫy trúng N con chim.

Còn nhớ mấy năm trước, Yết Nô thừa dịp tân đế kế vị, trắng trợn xuôi Nam cướp bóc, cuối cùng dù bị đánh lui nhưng vẫn chiếm vài toà thành trấn Tây Bắc. Hoàng đế sẵn sàng binh mã mấy năm, cuối cùng cho đại quân đánh dẹp, cho hả cơn giận – đây là con chim thứ nhất.

Đại quân Tây tiến, kinh thành vắng vẻ, là “cơ hội tốt” mưu phản tuyệt diệu, kẻ gây rối rục rịch làm loạn, có thể dụ rắn khỏi hang – đây là con chim thứ hai.

Thánh Đức thái hậu xuất thân vọng tộc Tây Bắc, hàng chục năm thế lực rắc rối khó gỡ, quan hệ thông gia rậm rạp, động một chút là nắm giữ quân chính Tây Bắc (tích cực truyền bá tin tức đại quân Trương Cố binh bại, chính là bọn họ). Hoàng đế âm thầm dặn dò Bạc lão tướng quân, đánh địch chỉ là thứ yếu, san bằng địa phương mới là chủ yếu. Nếu Thánh Đức thái hậu phản kháng là tốt nhất, nếu đối phương vẫn nín nhịn thì nhân cơ hội diệt trừ hoạ lớn Tây Bắc luôn một thể – đây là con chim thứ ba.

Nghe nói, còn có mấy con chim nhỏ khác, nhưng Lưu phu nhân không kể rõ, Minh Lan cũng không đoán được.

“Hoàng thượng dùng chiêu hiểm quá, đại quân đi hết, nếu lỡ vạn nhất… chuyện này, chuyện này biết làm sao…” Chịu được áp lực thì dĩ nhiên giành được nhiều hơn, nhưng lỡ Bồ Tát không phù hộ thì có khi lose rớt cả đũng quần.

“Hoàng thượng của chúng ta là ai chứ? Đó là chân long thiên tử hạ phàm…” Lưu phu nhân lại nhiệt tình ca ngợi thêm một lần hoàng đế anh minh thần võ, mới kể ra chân tướng – hoàng đế đã hạ mật chỉ cho Trịnh Đại tướng quân từ trước, cùng Lưu Chính Kiệt nội ứng ngoại hợp, nắm giữ đại cục.

Binh quyền kinh thành chia làm ba phần, một là cấm quân của Lưu Chính Kiệt, hai là Trịnh Đại tướng quân và một vị võ tướng khác nắm giữ một phần, ba là Ngũ thành binh mã ti. Muốn tạo phản, ít nhất phải xúi giục được một trong ba phần này.

Trong ba đường nhân mã, trừ Trịnh Đại tướng quân, còn lại các chỉ huy sứ đều là võ tướng hàn vi được hoàng đế đích thân đề bạt. Lúc thân tín con em thế gia của Duệ Vương đến thuyết phục, Trịnh Đại tướng quân giả vờođồng ý, dự bị bọn chúng ra tay thì một lưới bắt hết cả người lẫn tang vật.

Phải nói rằng, nhiệm vụ của Trịnh Đại tướng quân hoàn thành xuất sắc – thông thường hễ người chín chắn lão luyện giả bộ thì càng có sức thuyết phục, chuyện đến tận đây vẫn hết sức thuận lợi.

Có điều chẳng thể ngờ tới, không chỉ hoàng đế biết sắp đặt gián điệp vào doanh trại địch, đối phương cũng biết, còn sắp đặt hai đằng.

Sáng hôm biến loạn, hoàng đế hạ triều như thường lệ, bất chợt ngất xỉu, bất tỉnh nhân sự, Thánh An thái hậu và hoàng hậu hoang mang lo sợ, chỉ biết khóc lóc nỉ non, trong cung rối loạn, Thánh Đức thái hậu thừa cơ bắt chẹt.

“Là Dung Phi ra tay?!” Minh Lan nghe mà mắt trợn như chuông đồng: “Hoàng thượng yêu chiều chị ta lắm mà!” Vợ chồng đế hậu tình cảm vốn khá tốt, nhưng vì chị ta mà hoàng hậu không biết đã làm loạn mấy bận.

Lưu phu nhân oán giận: “Chính là đứa chuyên dụ dỗ này!” Trên đời này vợ bé đều không phải người tốt.

“Cha tụi nhỏ nói, Thánh Đức thái hậu lừa Dung phi, bảo rằng ngoại trừ Đại hoàng tử và Nhị hoàng tử, con trai của Dung phi là lớn tuổi nhất. Đợi hoàng đế băng hà… hừ hừ, không phải tôi rủa hoàng đế băng hà đâu nhé, là cha tụi nhỏ nói, khụ khụ, cũng không phải cha tụi nhỏ nói đâu, là Thánh Đức thái hậu nói – đổ tội danh mưu hại hoàng đế lên đầu mẹ con hoàng hậu, Tam hoàng tử liền trèo lên ngai vàng!”

“Nói thế mà Dung phi cũng tin?!” Minh Lan cảm thấy khó lòng tin nổi, trước kia vào cung yết kiến, nàng còn cảm thấy IQ của chị ta cao lắm mà: “Thánh Đức thái hậu có cháu trai, tại sao phải lập con trai Dung phi lên làm hoàng đế chứ!”

Lưu phu nhân cao giọng châm chọc: “Cái loại lấy sắc… lấy sắc, ơ, hầu hạ đàn đông thì có đầu óc gì, Thánh Đức thái hậu vừa dỗ vừa lừa, kể lể dù sao Duệ Vương cũng không phải cháu trai ruột, lễ tiết thấy vài lần, tình cảm nhạt nhoà… Hơn nữa, Dung phi bất hoà với hoàng hậu, đợi Đại hoàng tử lên ngôi, mẹ con họ lại tốt đẹp được?”

Minh Lan im lặng. Hoàng hậu mặc dù khoan dung, lai không hẳn thích đóng vai hiền lành, Dung phi tính cách cao ngạo, xuất thân lại cao, mấy năm nay luôn được yêu chiều, cộng thêm Tam hoàng tử triển vọng, huênh hoang chèn ép hai người anh trai. Phi tần thường xuyên tranh chấp, bất hoà, có lúc còn cần thái hậu phải hoà giải.

Sợ hãi và lòng tham là đơn giản nhất, cũng là mồi câu hữu hiệu nhất.

“Vậy hiện nay thì sao? Long thể chắc an khang rồi chứ.” Minh Lan biết hoàng đế lúc này hiển nhiên không sao, nhưng vẫn không nén nổi lo sợ.

Lưu phu nhân chắp tay, liên tục bái lạy lên trời: “Ôi chao, Phật tổ… May mà hoàng thượng của chúng ta hồng phúc tề thiên, do hôm trước thức đêm phê tấu chương, sáng hôm đó không thoải mái, chỉ ăn hai miếng sữa đặc… đúng là ông trời có mắt…”

Chị ta còn đã mắng thầm 18 đời tổ tông, kể cả tình nhân của tổ tông vài lần, nếu hoàng đế ngã xuống, có lẽ võ tướng như Cố, Đoạn còn có đường sống, chứ chồng chị ta hành nghề mật thám nội vệ thì tám chín phần mười dữ nhiều lành ít.

Minh Lan cũng im lặng bái lạy vài cái, hoàng đế nếu gặp chuyện, Cố Đình Diệp dù có bắt sống mấy vị họ hàng của Thiền Vu Yết Nô thì chỉ e cũng hoạ phúc khó liệu.

Không chỉ nội cung, phe phái Thánh Đức thái hậu cũng vô cùng ra sức, còn xúi giục phó Tổng chỉ huy Ngũ thành binh mã ti Đằng An Quốc.

Minh Lan chớp mắt, một người đàn ông gần năm mươi tuổi ánh mắt âm hiểm chợt hiện lên, nàng nghi hoặc hỏi: “Em nhớ vị Đằng chỉ huy sứ này… chẳng phải cũng đi theo từ đất phong đến ư…”

Lưu phu nhân hừ ra tiếng, buông giọng khinh thường: “Chính hắn! Lại nói, hắn còn quen biết hoàng thượng sớm hơn hẳn mọi người, song bất tài, lại thích cậy già lên mặt. Năm đó thánh thượng mở tiệc mừng thọ ba mươi tuổi, từng cười khen hắn và mấy người quốc cữu gia là “ngũ hổ”, hắn lại dám nói ngài say rượu! Sau khi vào kinh, còn oán trách thánh thượng không chịu trọng dụng! Hoàng thượng của chúng ta phúc hậu đấy, bằng không có mà mặc kệ hắn!”

Minh Lan thầm nhủ thảo nào.

Thẩm, Cố, Đoạn đương tuổi trẻ trung, lại không ngừng kiến công lập nghiệp, Đằng An Quốc trong lòng vốn oán hận, cảm thấy càng ngày càng không có cơ hội lộ mặt nên mới sinh ra suy nghĩ “liều một phen”.

Hai bên thông đồng, Đằng An Quốc mượn chức quyền, thả rất nhiều phản tặc ăn diện theo lối giang hồ vào thành. Lưu Chính Kiệt đã phát hiện sơ hở từ sớm, tiến đến chất vấn Tổng chỉ huy sứ Ngũ thành binh mã ti là Đậu Lão Tây.

Đúng lúc Đậu Lão Tây tra xét được nội tình thì lại bị ám sát trên đường về nhà. Để tránh Lưu Chính Kiệt phát giác, nghịch đảng không thể không bắt đầu, không làm thì thôi, đã làm thì làm triệt để, bèn định diệt trừ luôn Lưu Chính Kiệt.

Cứ như thế, trong có Dung phi, ngoài có Đằng An Quốc, Trịnh Đại tướng quân vừa “phản bội” há hốc cả mồm.

Ơ hơ, đã định nội ứng ngoại hợp để bắt gọn một mẻ cơ mà.

Cũng may trước đó hoàng đế mưu tính chu đáo, cộng thêm Trịnh Tuấn nhạy bén giỏi giang, hành xử quả cảm, trong giây phút quan trọng nhất quay giáo phản kích, bắt sống Thánh Đức thái hậu và mẹ con Duệ Vương, lại hợp binh cùng Lưu Chính Kiệt, đánh tan chủ mưu nghịch tặc.

“Ông trời phù hộ, hiện tại thái bình rồi! Sáng nay cha tụi nhỏ đã giải trừ lệnh giới nghiêm.” Lưu phu nhân không quên khoe khoang thành tích giùm ông chồng, còn bảo: “Em cứ yên tâm, chồng chị bảo rồi, đêm qua thư khẩn cấp đưa về, đại quân của Anh quốc công hoàn toàn không có việc gì, còn phá tan hang ổ thủ lĩnh! Bây giờ đang vội vàng về kinh bình loạn. Chồng chị bảo… cái này gọi là… cái gì mà địch…”

“Dụ địch.” Minh Lan bình tĩnh thốt, không hiểu sao, nàng dường như đã dự đoán được từ trước.

Lưu phu nhân vỗ đùi đen đét: “Đúng! Chính là dụ địch.”

Thoạt đầu để giả vờ như thật, lúc đại quân Trương Cố truyền về tin thất bại, hoàng đế dù biết đây là kế dụ địch đã định sẵn, nhưng chỉ có thể nhịn, mặt mày sa sầm, ra vẻ “mặt rồng giận dữ”.

Biểu diễn khá ổn, văn võ toàn triều đều bị lừa. Cũng chính vì thế mà Thánh Đức thái hậu mới yên tâm động thủ.

Lưu phu nhân thấy Minh Lan bình thản thì hơi lo lắng. Chị ta nhớ lúc trước nhìn thấy Minh Lan, nàng vẫn xinh đẹp dịu dàng như hoa tươi, vô lo vô nghĩ như đứa bé. Nhưng giờ thì sao? Người phụ nữ có thai trước mặt sắp chuyển dạ, mặt mày thiếu máu, thân hình gầy gò, hàng mày vương nét mệt mỏi khó tả.

“Em à, em đừng trách chồng em, chuyện này ngay cả chồng chị cũng không biết, hoàng thượng giấu quá kín. Chồng chị bảo, vì đám quan thối nát Tây Bắc vội vã truyền bá tin bại trận, bằng không, theo lệ thường, cách xa như thế làm sao khiến dư luận xôn xao được, có lẽ em chưa nghe đến tin giả, tin mừng đại thắng đã đến rồi.”

Minh Lan nhẹ nhàng thả lỏng nắm tay trong tay áo, lòng bàn tay ướt lạnh, nàng thản nhiên cười nói: “Trách gì đâu. Dù sao cũng không thể bắt họ thông báo chi tiết quân quốc đại sự cho chúng ta… Chị à, hay là chị kể cho em việc đêm đó phủ Hầu bị tấn công đi.”

“Úi chà, xem đầu óc chị này!” Lưu phu nhân nhoẻn cười vỗ trán, nhỏ giọng: “Em à, em đoán khá chuẩn. Đêm đó đến hại phủ Hầu chính là cậu Ba nhà em đấy!”

Minh Lan trợn mắt, tức khắc thả lỏng, ra vẻ lo lắng: “Chị nói thật sao? Cậu Ba dù gì cũng là ruột thịt họ Cố, chỉ có mấy đứa nô bộc nhìn thấy, sao dám chụp mũ!”

Lưu phu nhân cũng hiểu, cất giọng cam đoan: “Chồng chị làm việc em còn lo à. Hôm đó trời còn chưa sáng đã sai người chạy tới, đuổi theo đám trộm cướp, đánh nhau loạn một trận, có kẻ chạy ra khỏi thành, có kẻ bị bắt lại…”

“Cậu Ba bị bắt tại trận?!” Minh Lan che ngực sợ hãi thốt.

Lưu phu nhân khó xử: “Không phải.”

Minh Lan hơi thất vọng, lại còn ra chiều an ủi: “Vậy Lưu đại nhân chắc hẳn điều tra rõ ràng.”

Lưu phu nhân nhả ra, vội bảo: “Chồng chị thẩm vấn mấy bận, bọn chúng đều khai tất. Chúng bảo chúng vốn là sơn tặc ngoài thành, hai tháng trước nhận việc làm ăn này. Đi liên hệ là một ông già, còn đêm đó dẫn bọn chúng tới đây lại là một người trẻ tuổi, nghe đầu sỏ của chúng gọi là ‘cậu Ba’. Có kẻ còn nhớ tả lại hình dáng tướng mạo, người trẻ tuổi chẳng phải chính là cậu Ba còn gì? Chồng chị lập tức dẫn người đến toà nhà Thái phu nhân vây bắt, cậu Ba nhà em quả nhiên không ở nhà, còn lôi được quản sự Lỗ ra khỏi hầm nhận tội, ha ha, chính lão là kẻ liên hệ!”

Minh Lan trầm ngâm giây lát: “Vậy cậu Ba nhà em chỉ vào nhà cướp của, không mắc tội mưu phản đúng không?”

“Chuyện này thì chưa chắc.” Lưu phu nhân mỉm cười đầy hàm ý: “Chồng chị bảo, trộm cướp thông thường làm sao có thể canh giờ chuẩn như thế, đúng lúc hoàng cung vừa gặp chuyện thì cậu Ba nhà em liền đến ép buộc giết hại chị dâu cháu trai.”

Minh Lan lẳng lặng nhìn Lưu phu nhân, lòng như gương sáng, nhỏ nhẹ: “Cảm ơn chị, em hiểu, Hầu gia và Lưu đại nhân thân như anh em, quả nhiên không nhờ cậy sai người.”

Lưu phu nhân thầm nhủ tốt lắm, coi như không uổng công lộ tin tức, mỉm cười nâng chén trà lên uống.

Thực ra, Lưu Chính Kiệt đoán rằng, Cố Đình Vĩ giao du rộng rãi, có lẽ biết một ít việc mưu phản, nhưng không hề nhập bọn, chắc định hỏi thăm rõ thực hư mới ra tay. Nào ngờ hôm đó nảy sinh biến cố, phe cánh Thánh Đức thái hậu bất ngờ mưu phản, Cố Đình Vĩ không kịp bố trí chu toàn nên mới đích thân động thủ, đón sơn tặc vào thành, dẫn đường đến tập kích phủ Hầu.

Nghiêm khắc mà nói, Cố Đình Vĩ chỉ mới giết người phóng hoả, hãm hại chị dâu cháu trai, không mắc tội mưu phản, tội danh không ảnh hưởng đến cha mẹ con cháu, nhưng mà, phân biệt rõ ra để làm gì, Lưu Chính Kiệt là thủ lĩnh đặc vụ, lại không phải thanh thiên lão gia.

Lại nói, với chức trách của Lưu Chính Kiệt, trước đó chưa từng phát hiện ra nhà mẹ đẻ Dung phi có dị thường, cũng chưa dò tìm được Đằng An Quốc mưu đồ làm phản, tuy sau này dẹp loạn có công, nhưng rốt cuộc vẫn hơi tắc trách, làm sao có công lao to lớn sắp tới như Cố Đình Diệp.

Nghĩ đến đây, Lưu phu nhân càng ân cần niềm nở với Minh Lan, hễ hỏi là đáp.

“Cậu Ba… Hiện giờ ra khỏi thành…?” Minh Lan chần chừ hỏi.

Lưu phu nhân gật đầu: “Còn có nhiều nghịch tặc chạy theo cậu ta lắm, chồng chị bảo, trốn không xa đâu. Huống hồ, bây giờ nhà cậu ấy đã bị trông chừng, ôi, đáng thương vợ con già trẻ…” Làm phụ nữ, phú quý, tính mạng đều không thuộc về bản thân.

Minh Lan thầm cười nhạo, lão yêu quái đó đáng thương cái nỗi gì, việc này chỉ e bà ta mới là chủ mưu, thủ phạm, Cố Đình Vĩ chỉ là kẻ chạy chân, nhưng còn Chu thị… Chị ta khao khát tương lai như vậy…

Hai người ngồi đối diện, vì những lý do khác nhau mà đều thổn thức.

Hồi lâu sau, Minh Lan sực nhớ ra còn một việc không rõ: “…A, phải rồi, hôm qua nhà họ Trịnh đến báo, lão thái gia và lão phu nhân nhà họ đều qua đời, việc này… chị có biết nguyên do không…?”

Nàng hỏi nhưng không cũng không mong đối phương biết mà trả lời, nào ngờ Lưu phu nhân thở dài một tiếng, cười khổ: “Việc này quả thật tai bay vạ gió. Hôm biến loạn, bên ngoài đồn Trịnh Đại tướng quân mưu phản, nói có sách mách có chứng, trong nhà muốn giấu cũng chẳng xong, Trịnh lão thái gia xưa nay vốn trung trực, tức giận tới nỗi nghẹn đờm, lập tức qua đời! Lão phu nhân đau khổ hai ngày, mấy độ khóc lóc ngất xỉu, nào ngờ sáng sớm hôm qua, Trịnh Đại tướng quân chạy về nhà giảng giải lý do, lão phu nhân mừng rỡ như điên, chưa ổn định tinh thần, đã… đi theo rồi…”

Minh Lan há miệng, kinh ngạc khó lòng kiềm chế.

Cha là tức chết, mẹ là vui chết, lúc buồn lúc vui, người già làm sao chịu nổi. Lần này Trịnh Đại tướng quân đau mất song thân, tuy nhiên lại hoàn toàn biến thành tâm phúc của hoàng đế, hoàn hảo thăng cấp làm tâm phúc hạng đầu.

Hay, hay lắm, hay cho đường làm quan đổ máu! Cược bằng mạng sống!

Lưu phu nhân tới chơi, như nắng hạn gặp mưa rào, vừa giải đáp nghi hoặc, vừa làm nàng yên tâm.

Có vẻ dạo này suy nghĩ quá mức, Minh Lan luôn mệt mỏi khó chịu, lòng bàn chân phù nề như cái bánh bao, mặt sưng như bị đánh, cổ gồ lên gân xanh, giống bị ai bóp lấy cổ họng.

Vuốt xương xẩu trên người nàng, Thôi ma ma thở ngắn than dài, bao năm nuôi nấng vất vả, qua một đêm lại trở về trước thời giải phóng.

Minh Lan áy náy vỗ bụng, nhớ hồi mang thai nhóc Đoàn, cho dù không đi lại được thì mặt mày vẫn hồng hào, tinh thần vẫn phấn chấn, lần này lại thành ra như vậy… Tay dán lên bụng, cảm nhận máy thai vững chắc, chậm rãi, đầy quy luật, tựa như ông cụ tám mươi tuổi đang tản bộ. Nàng bật cười: “Thằng nhóc này tương lai chắc hẳn chậm chạp lắm đây.”

Thôi ma ma không trả lời, nhìn bụng Minh Lan, vạch ngón tay tính ngày.

Minh Lan đã tới kỳ sinh nở, nhưng các bà hầu lão luyện đều bảo bụng vẫn đang phồng to nghĩa là thai nhi chưa xuống đến xương chậu. Mời Trương thái y tới khám, ông ta nói khoảng bảy, tám ngày nữa, nhiều nhất là mười ngày, hoặc chưa biết chừng lại mười một, mười hai ngày – suýt thì làm Thôi ma ma đánh đuổi ra ngoài – cho dù ông ta nói cũng không sai.

(Lâm thái y: Loại sinh vật mang tên thầy thuốc, từ lúc sinh ra mỗi lỗ chân lông đã thấm đẫm y thuật và mồm mép.)

Kỳ sinh nở hơi muộn là hiện tượng bình thường, Minh Lan không sốt ruột, yên tâm dưỡng thai, răm rắp nghe lệnh của Thôi ma ma, cố gắng khôi phục trạng thái ăn rồi lại ngủ.

Sau khi bên ngoài cởi bỏ lệnh giới nghiêm, thân thích lần lượt tới thăm, nhân tiện chiêm ngưỡng cánh cổng và thềm đá vẫn loang lổ vết máu đỏ sậm, người tới đầu tiên lại là cha Thịnh!

Minh Lan ngạc nhiên, Thịnh Hoành cũng giật nảy cả người, từ khi con gái bé nhỏ vào Thọ An đường đều trắng trẻo mập mạp biết bao năm, đột nhiên nhìn thấy dáng người gầy yếu khô vàng, ông ta không nén nổi thốt: “Lúc đó cha đã bảo mà, gả cho võ quan không ổn bằng gả cho văn nhân, nhưng mẹ con lại mừng rỡ đến nỗi quên hết tất thảy, lập tức đáp ứng!”

Minh Lan ngơ ngác: “Cha nói khi nào cơ?” Sao nàng chưa từng nghe nói nhỉ.

Thịnh Hoành dường như nhận ra lỡ mồm, húng hắng ho, ậm ờ đáp: “…Lúc đó… đến vì Như Lan… khụ khụ, mai mối…”

Minh Lan sực hiểu – là lúc ban đầu Cố Đình Diệp đến nhà họ Thịnh lừa… à không, cầu hôn.

Nghĩ rồi lại liếc trộm Thịnh Hoành, thầm nhủ cha cứ giả vờ, lúc đó có khi trong lòng cha cũng mừng như bắt được vàng, chẳng qua đạo hạnh cao thâm, kín đáo hơn Vương thị thôi.

Thời gian như bóng câu qua thềm, thoáng chốc nhóc Đoàn đã đến tuổi có thể đi mua nước tương, cha Thịnh tóc mai lấm tấm hoa râm. Minh Lan chợt không còn oán giận nữa, nhoẻn cười lộ ra hai hàng răng trắng như tuyết, vẫy khăn lụa đưa cha Thịnh rời đi.

Được rồi, người cha “cực phẩm” này dù không mấy tin cậy, từng vì gia đình mới mà quên mẹ cả, vì tình nhân quên vợ cả, sau đó lại vì tiền đồ mà quên “tình yêu”… nhưng dù sao đã dùng mười mấy năm rồi, cũng tàm tạm.

Buổi sáng đưa chân cha, buổi chiều con gái liền đến.

Anh rể Viên đích thân hộ tống, Hoa Lan bụng vẫn chưa nhô hẳn thướt tha vào nhà, vừa thấy Minh Lan liền rơm rớm nước mắt, đỡ khung cửa bật thốt xót xa: “Con bé đáng ghét kia, sao lại thành ra thế này, nếu bà nội mà thấy còn không đau lòng à!”

Minh Lan chao đảo, suýt nữa ngã xuống giường. Kiểu diễn xuất nỉ non hờn dỗi này dù là thời thiếu nữ chị cả cũng chưa từng thể hiện, nhất thời nàng không kịp thích ứng.

Từ lúc mang thai đứa bé này, Hoa Lan bỗng trở nên đa sầu đa cảm, thấy hoa tàn là nghẹn ngào, thấy chim non rời tổ liền rưng rưng, gió thổi lá rụng cũng thương tâm, thế mà anh rể Viên hiện tại lại cũng hùa theo, hai vợ chồng vui vẻ với trò buồn nôn này.

“Anh rể cả không bận việc à?” Minh Lan nghi hoặc.

Hoa Lan nhoẻn cười: “Chị muốn đến thăm em, anh ấy không yên tâm nên xin phép nghỉ nửa ngày.”

“Ngay lúc này ư! Trong kinh thành đang cần người, chị… chị…” Minh Lan đau đầu: “Hai anh chị thật hăng hái!”

Lần biến loạn này, người người xui xẻo, chỉ riêng anh rể Viên lại đổi vận.

Chức quan của anh ấy tại Ngũ thành binh mã ti không thấp, lại không chịu bị mua chuộc, Đằng An Quốc đang nghĩ có nên diệt trừ hay không, ai ngờ anh rể Viên lo lắng công việc buôn ngựa, bèn xin nghỉ ra ngoài, Đằng An Quốc vui mừng khôn xiết tức khắc cho phép.

Về nhà, nghe tin Hoa Lan có thai, anh rể Viên mừng rỡ phát ngốc, nằng nặc không chịu rời xa vợ, bèn trốn ở trong nhà với vợ, cuối cùng đúng lúc gặp phải biến loạn kinh thành, liền dẫn một đám anh em xông ra ngoài chém giết, tự dưng lại lập công lớn.

Đồng dạng đổi vận còn có ông chồng Mặc Lan, là người đang giữ tang cha, hoàn toàn không bị biến loạn ảnh hưởng, còn dẫn hộ vệ trong nhà sang hàng xóm đánh lùi đám trộm cắp nhân lúc cháy nhà hôi của. Hàng xóm của phủ Vĩnh Xương Hầu, không phú cũng quý, Lương Hàm bỗng nhiên được khen ngợi liên tục.

“Sau lần ngày, Ngũ thành binh mã ti sẽ phải chỉnh đốn lại hẳn hoi. Anh rể em nói, chồng cái Tư chắc hẳn có cơ hội ra mặt.” Hoa Lan từ tốn bóc lá bánh ú: “Ôi, nếu Mặc Lan biết điều, sống tử tế, sau này cũng không đến nỗi đâu.”

Tán gẫu xong, lại dặn dò Minh Lan dưỡng thai cẩn thận, bộc lộ xong tình thương của chị cả, Hoa Lan hả lòng hả dạ đi về.

Hai hôm sau, Huyên Đại phu nhân, Địch Nhị phu nhân, thậm chí Khang Duẫn Nhi cũng tới thăm, trước sau đều không có ai đề cập tới Thái phu nhân. Nữ quyến ba nhà Đoạn, Chung, Cảnh đồng loạt tới, mỗi người đều mang theo bao to bao nhỏ nhân sâm, tràn trề cảm kích, thi nhau khen Minh Lan dù gặp biến loạn mà vẫn không quên bọn họ, quả là nhân hậu.

Trong đó Cảnh phu nhân đặc biệt kích động, kéo tay Minh Lan liên tục kêu: “Em thật đáng tin, lần sau chị nhất định nghe theo lời em, bằng không sẽ không phải nếm mùi đau khổ như thế!”

Chung phu nhân giả vờ ho nhẹ, chọc vào cánh tay chị ta: “Làm gì còn lần sau, từ giờ thiên hạ thái bình rồi.”

Cảnh phu nhân biết lỡ lời, nhưng vẫn không chịu thua: “Chị nghĩ nhiều quá, tôi nói việc khác đấy chứ, những chuyện như sửa sang nhà cửa, đối nhân xử thế, sau này tôi sẽ một mực nghe lời em gái.”

Thấy hai người họ như vậy, Đoạn phu nhân lắc đầu cười: “Hai chị thật là, nếm mùi đau khổ như thế cũng coi như cùng nhau trải qua hoạn nạn, lại còn liên tục tranh cãi, đợi tương lai làm bà nội, cụ nội, tôi xem hai chị còn ầm ĩ với nhau nữa hay không!”

Minh Lan thấy thú vị, bốn người đồng loạt cười to, còn mấy hôm nay rốt cuộc nếm cái gì đau khổ trong cung, ba người họ lại nhất trí không chịu nói.

Đến hôm thứ chín sau khi biến loạn, Lưu Chính Kiệt cuối cùng quét sạch kinh thành, thanh trừng sạch sẽ, hoặc giết chết, hoặc bắt bớ, đa số bị đuổi ra khỏi thành, bị Trịnh Tuấn mai phục ngoài cổng xua sang mặt đông.

Phản quân tưởng, dù sao cảnh vệ kinh thành không thể rời thành quá lâu, dù bị coi là trộm cướp tản ra thì vẫn còn hơn một nghìn người, bèn tập hợp dưới chân núi phía Đông cách thành ba mươi dặm, nghỉ ngơi lấy lại sức. Nào ngờ một đội quân dũng mãnh lao ra, ngăn chặn đường thoát, thoáng chốc mũi tên lửa bay đầu trời, một vùng biển máu.

Trời tối sầm, Minh Lan ngồi trước bàn cơm, chậm rãi uống canh gà.

Cách nửa toà thành, tại nương rẫy vùng ngoại ô, dường như cũng nghe thấy được tiếng chém giết vang trời, làn khói đặc cuồn cuộn, ánh lửa vàng rực rỡ, trời càng tối, ánh lửa càng sáng, tựa như thần tiên trong truyền thuyết, người đeo chiến giáp, giẫm khói lửa tiếng sấm, hạ phàm giết yêu hàng ma.

Tiếng mõ canh báo giờ Tị vang lên, do ban ngày ngủ quá nhiều, bây giờ Minh Lan lại không buồn ngủ. Nàng phe phẩy quạt lá cọ, ngồi trên hành lang ngẩng đầu nhìn bầy trời đầy sao. Lá cây thoảng hương xưa nhè nhẹ lan vào mũi, đom đóm lấm tấm run rẩy dưới mái hiên, thiêu thân nhẹ nhàng vỗ cánh trên chụp đèn thủy tinh, phát ra âm thanh như tiếng lật sách.

Cơn buồn ngủ dần dâng lên, đang định đứng lên vào nhà, Minh Lan bỗng nghe thấy trong vườn vang tiếng xôn xao, tựa như hoan hô vui mừng, chưa kịp phản ứng lại, nàng liền nhìn thấy một bóng hình cao to u tối đứng giữa sân.

Râu bước nhanh tới, ôm siết lấy nàng, hơi thở đẫm máu xen mùi bụi đất tạt vào mặt, vai và cánh tay bị siết phát đau, mới làm nàng tỉnh táo lại. Nàng ngơ ngác sờ mặt hắn: “A, chàng về rồi.” Cổ họng nghẹn lại, thiên ngôn vạn ngữ, bấy giờ chẳng thốt nên lời.

Râu ôm nàng hồi lâu, nâng mặt nàng lên: “Em định nói gì?”

Minh Lan ngẩn ngơ: “Thắng trận rồi? Không bị phạt chứ.”

Râu nhếch miệng: “Thắng cả rồi. Tôi một người một ngựa vội vã ngày đêm trở về, Trương lão quốc công ở phía sau áp trận, có tù binh, thủ cấp, còn bắt được đầu hổ trướng vàng của Thiền Vu Yết Nô nữa!”

Minh Lan vừa muốn cười vừa muốn khóc, đứng ngây tại chỗ, giống như học sinh tiểu học bị giáo viên đột nhiên điểm danh, rất ngốc nghếch.

Râu ôm nàng ngồi xuống hành lang, vuốt ve làn tóc khô ráp của nàng, cất tiếng thương xót: “…Em xấu quá.”

Minh Lan tức khắc định thần lại, đấm mạnh vào vai hắn, hung hăng nói: “Chàng còn không trông hệt như ác quỷ!”

Hơn nửa năm màn trời chiếu đất, chinh phạt giết chóc vô tận, mấy ngày ra roi thúc ngựa chạy như điên, lại chém giết một trận, Râu cũng gầy gò hốc hác, xương gò má lồi lên, đáy mắt lõm xuống, cùng với da mặt đen như mực, vẻ mặt hung thần ác sát, khá giống ác quỷ, kết hợp với Minh Lan võ vàng bên cạnh, trông lại hợp.

Vợ chồng ngồi đối diện, bao lời muốn nói, nhưng nhất thời không biết nên nói gì.

Râu soi vợ, ánh mắt lia lên mặt, lên người, đến cái bụng to: “…Tôi chỉ sợ…” Sợ nàng bất trắc, sợ nàng bị ốm, sợ nàng lo lắng… “Chuyện bại trận, đáng lẽ tôi nên nói trước với em, để em đỡ lo nghĩ.”

Nói không lo là giả, nhưng biết làm thế nào? “Chàng không nói mới đúng.” Dừng lại giây lát, nàng tiếp: “Chàng nghe nói chuyện của Trịnh Đại tướng quân chưa? Trịnh lão thái gia và Trịnh lão phu nhân, trong vòng ba ngày lần lượt qua đời.”

Râu than thở: “Đáng tiếc. Anh Trịnh vô cùng hiếu thảo… Cũng vì chữ hiếu nên mới lãnh binh ra thành phục kích.”

Minh Lan trầm ngâm giây lát, đoạn tiếp: “Quân không nghiêm, mất nước, thần không nghiêm, bỏ mạng. Lý lẽ này, em hiểu.”

Nhắc đến chữ hiếu, cha con nhà họ Trịnh là cốt nhục chí thân, cha hiền con hiếu vài chục năm. Nhắc tới chữ trung, Trịnh lão tướng quân chính trực ngay thẳng, càng khỏi cần kể đến Trịnh lão phu nhân cả đời không tranh chấp với ai. Tuy thế, không thể nói vẫn cứ là không thể nói.

Đây là quy tắc xương máu.

Làm người thân, có thể làm, chẳng qua là tin tưởng và kiên cường.

“Huống hồ, Bạc lão phu nhân từng nói, làm gia quyến của võ tướng, nếu người đàn ông thật sự chết trận, cũng không nên tìm tới cái chết, nuôi dưỡng con cái trưởng thành mới là phải.” Minh Lan cất giọng nặng nề.

Râu tức khắc gật đầu: “Đúng vậy. Có điều…” Hắn không nén nổi âu lo: “Cũng đừng chuyện gì cũng học theo Bạc lão phu nhân.”

“Tại sao?” Nàng vô cùng cảm thấy Bạc lão phu nhân đúng là người phụ nữ kỳ tài, mỗi lần gặp hoạ đều có thể thần kỳ né tránh.

“Bạc lão soái niên thiếu không nhà, không nơi nương tựa, cơ duyên xảo hợp gặp được dòng dõi thư hương, nhận ân lớn, khi ông ấy xin cưới con gái nhà đó, người ta mới không thể từ chối. Nhưng người con gái đó không vui, ngày ngày chờ ở goá tái giá, ông ấy nói, chính vì thế nên mới phải cố mà sống lâu hơn vợ!”

Minh Lan bật cười: “Bậy nào, em nghe nói Bạc lão soái cũng là con em danh môn, chẳng qua gia cảnh sa sút đấy thôi.”

Râu ra vẻ “con người thành công kiểu gì chẳng có suy đoán bối cảnh trưởng thành tuyệt vời: “Đồn đoán vớ vẩn! Quê nhà Bạc lão soái chẳng biết ở kênh rạch trong khe núi nào, từ nhỏ còn chẳng có tên gọi chính thức. Lúc được làm tiểu tốt iới bắt lấy một gã mù chuyên đoán mệnh đổi tên cho.”

“Vậy, Bạc lão soái vốn gọi là gì?”

Râu: “Nghe ông ấy nói, hình như có chữ “Cẩu”, chỉ không biết là Nhị Cẩu vẫn là Cẩu Thặng, hay là Cẩu Đản…”

Minh Lan cười cong người, Râu để nàng dựa vào lòng mình, một tay nắm chặt tay nàng, một tay nhẹ nhàng vuốt tóc, sân nhỏ vắng lặng chợt trở nên tươi đẹp lên.

Yên tĩnh một lát, chái phòng vang tiếng trẻ con khóc, vợ chồng định thần lại, Minh Lan vuốt đầu hổ vàng trên vai Râu, cười bảo: “Nhóc Đoàn biết cha về đấy, chàng đi thay quần áo rồi đến xem con đi.”

“Quần áo khỏi cần thay, võ tướng lĩnh quân không có lệnh không được vào kinh, tôi vụng trộm vào thành trước, ôm con trai một cái rồi chạy về vậy…”

Câu nói kế tiếp Minh Lan không nghe rõ, cảm thấy tai ù ù, hồi lâu nàng chợt hét lên: “Chàng một mình vào thành hả! Chàng, chàng, chàng… Chàng bị điên hả! Nhớ vợ con thì sai người nhắn tin, cần gì phải đến! Chàng có biết không có lệnh mà vào kinh là tội gì không hả! Chàng tưởng đám ngôn quan là để trưng bày phỏng! Cha vợ của chàng không còn lăn lộn ở Ngự Sử đài nữa đâu, không ai che chở chàng đâu! Chàng ngu quá đi mất! Chàng còn giương mắt lên hả, nhìn cái gì mà nhìn…”

Râu cười ha hả, bấy giờ Thôi ma ma ôm nhóc Đoàn ra, Râu ôm lấy nhóc mập, hôn mạnh vài cái, sau đó trả cho Thôi ma ma, xoay người sải bước rời đi, trước khi đi còn sờ soạng khuôn mặt vợ.

Minh Lan giận dữ, ném mạnh cái quạt qua, giậm chân mắng: “Đồ điên! Về nhà viết sớ tạ lỗi cho em, mong hoàng thượng thông cảm! Bà đây không thích đi đưa cơm tù đâu!”

Đáp lại nàng là chuỗi tiếng cười vang dội, vẳng tới từ ngoài viện, âm thanh thanh thoát sinh động, dường như buổi đêm yên tĩnh u tối này chớp mắt đã thấy xuân về hoa nở.

Minh Lan tức mãi, chợt thấy bản thân tay thì chống nạnh, bụng thì to vượt mặt vẫn còn chửi mắng, chẳng phải giống hệt cái “ấm trà” còn gì, nhóc mập đang ngái ngủ ngơ ngác ngó mẹ, dường như đang ngạc nhiên, Minh Lan không nén nổi liền che miệng cười khẽ.



Râu đêm qua từng ghé qua nhà, chưa đến bình minh đã truyền khắp phủ Hầu, đứa ở bà hầu, tạp dịch, kể cả quản sự dường như đột nhiên có người tin cậy, ai nấy tinh thần phấn chấn, sớm sủa thức dậy quét dọn sân, tỉa tót hoa cỏ, cả phủ là khung cảnh chăm chỉ hừng hực.

Minh Lan trái lại lười nhác, cơ thể nặng nề, mệt mỏi.

Đến buổi trưa, Võ Anh các Đại học sĩ ra ngoài thành ban chiếu chỉ, năm trăm khinh kỵ binh mới được vào thành.

Bởi vì Râu không cạo râu, cho dù cưỡi ngựa đi tuốt đằng trước, các cô gái đều không để ý tới hắn, chỉ liên tục vứt hà bao, hoa tươi lên người mấy chàng tiểu tướng quân tuấn tú.

Ngay cả lão Cảnh cũng được mấy cái, đang vui mừng, chợt thoáng thấy quản sự nhà mình xen lẫn trong đám người mắt sáng lấp lánh, liền sợ mồ hôi tuôn đầy đầu, vừa xuống ngựa trước cửa cung liền vội vã vứt hết hà bao, trái cây cho phó tướng bên cạnh.

Trên kim điện, theo lệ thường khen thưởng khích lệ, quy củ rườm rà, tiếp đến là thảo luận chính sự… Đến khi Râu về nhà, trời đã tối hẳn.

Vừa kéo cương xuống ngựa, chợt thấy quản sự Lưu nghển cổ chờ trước cửa, vui vẻ chạy tới: “Hầu gia, ngài mau vào đi! Phu nhân sắp sinh rồi!”

Râu căng thẳng, kéo dây cương lại lên ngựa, ghìm ngựa tung móng trước, đá văng cổng chính, giữa lúc mọi người trợn tròn mắt, phi nhanh vào nhà, dừng trước Gia Hi cư, ném dây cương, vọt vào trong.

Quanh chủ viện toàn người là người, ai cũng nghển cổ chờ tin, bên trong thì bị Thuý Vi đuổi hết kẻ không liên quan, chỉ có mấy đứa ở bà hầu tới lui bưng nước nóng, vải trắng, gọn gàng ngăn nắp.

Râu dợm nhấc chân vào nhà, lại bị một đám người ngăn lại trước sân, kêu la cái này quy củ cái kia kiêng kị, hắn là người giữ vững quy củ thủ lễ, bèn không xông vào nữa. Song trong lòng nôn nóng khó chịu, bận bịu xoay quanh, lại không biết làm gì, đang bụng đầy lửa giận, thoáng thấy một thiếu niên lén lút bên rừng cây, hắn liền siết nắm tay, quát: “Nhóc con, ở đây làm gì! Hử… cầm cái gì trong tay thế kia?”

Cậu Thạch ôm một chiếc ghế dài trong ngực, che che giấu giấu, sửng sốt: “Ha ha… ha ha, cái này… a, tôi sợ Hầu gia mệt, bưng ghế lại đây ạ!” Thực ra là không phải, nhưng hắn hết sức hài lòng vì sự nhanh trí của mình.

Nào ngờ nô bộc đứng hầu bên cạnh cười rộ lên: “Cậu Thạch, đừng doạ người khác chứ, cậu bê ghế cho chị Tiểu Đào chứ gì!”

Thạch Thương xấu hổ, may mà bẩm sinh da đen, không nổi bật lên, vốn căng thẳng chờ bị trách mắng, nào ngờ Râu đánh giá hắn từ trên xuống dưới, chợt vỗ vai hắn, mỉm cười: “Biết thương vợ là tốt, ừm, tương lai có triển vọng!”

Chưa chờ hắn sung sướng, Râu bỗng bổ sung: “Bắt đầu từ giờ, trong vòng một canh giờ mà phu nhân sinh, năm nay cho cậu kết hôn, hai canh giờ thì sang năm nhé, ba canh giờ vậy năm sau. Nhóc con, cứ thế mà tính!”

Cậu Thạch há hốc mồm, nhớ năm đó chị dâu sinh cháu gái, lăn lộn tận một ngày một đêm, bây giờ mới được hai canh giờ, thế này, thế này… hu hu, có mà bảy, tám năm sau hắn mới cưới được vợ à!

Thấy thiếu niên hốt hoảng lo lắng, da mặt bợt bạt, Râu hài lòng vén tay lên, ờ, trong lòng thoải mái hơn rồi.

Trong phòng thỉnh thoảng vẳng tiếng rên rỉ đau đớn, Râu chắp tay sau lưng, đi từng vòng từng vòng trong sân, làm cậu Thạch hoa mắt chóng mặt, trời đất quay cuồng, được khoảng hai, ba trăm vòng, bên trong cuối cùng vang tiếng hoan hô, tiếp theo là tiếng trẻ con khóc nỉ non. Thôi ma ma xoa tay đi ra, cười hớn hở: “Sinh rồi! Phu nhân sinh rồi! Lại là cậu chủ!”

Cậu Thạch ôm chặt ghế dài, suýt thì mừng quá bật khóc. Thôi ma ma quái lạ nhìn hắn, thầm nhủ thằng nhóc nào sao lại còn kích động hơn cả người trong nhà thế này.

Trẻ con hồng nhạt mềm mại, bị ông bố y hệt trộm cướp ôm vào trong lòng mà chẳng sợ, bình thản liếc Râu vài lần, nghiêng đầu thiếp đi. Do hiện tại đúng lúc người một nhà đoàn tụ, bèn đặt tên mụ là “A Viên”, hai anh em vừa khéo làm thành một đôi.

Râu sung sướng vô ngần, chốc khen ngón tay con trai nhỏ dài, hẳn sẽ theo nghiệp khoa cử, chốc lại bảo con trai giống mẹ, tương lai hiển nhiên phong tư trác tuyệt, có khi lại trở thành mỹ nam tử nổi danh nhất kinh thành! Ha ha, ha ha…

Minh Lan mệt mỏi mồ hôi đầy đầu, đang nằm nghỉ ngơi, nghe vậy bèn tức giận lườm cho một cái, ra sức ném gối sang, mặt dày, hiện giờ danh hiệu mỹ nam tử đệ nhất kinh thành vẫn do người đàn ông họ Tề đã kết hôn nắm giữ.

Râu dễ dàng tóm được gối, cười hô hố ngồi lên đầu giường, hôn vợ, lại hôn con trai, trong lòng tràn trề thoả mãn, chợt than: “Bây giờ hoàng thượng mà cho tôi nghỉ hưu, tôi liền đồng ý.”

Mấy hôm sau, Râu bận tới nỗi không thấy được vợ con lúc còn thức.

Đại quân viễn chinh vẫn đang ở bên ngoài, còn chưa kể tới dọn dẹp biến loạn, trong bóng tối còn biết bao kẻ phản tặc, bao khâm phạm đang lẩn trốn, xử lý Thánh Đức thái hậu và mẹ con Duệ Vương thế nào… Thảo luận đuổi bắt dư đảng phản tắc, truy bắt, tịch biên gia sản, tam ti hội thẩm, định tội, bố trí phòng thủ kinh thành…, một đống việc lộn xộn, Râu ngày ngày gà gáy đã ra cửa, mèo kêu mới về nhà, ngay cả thời gian cạo râu cũng chẳng có.

Cứ thế ba, bốn ngày, đến hôm thứ năm, cuối cùng lương tâm hoàng đế trỗi dậy, thả Trịnh Đại tướng quân về nhà chịu tang, các vị trọng thần khác cũng được nghỉ nửa ngày, còn là thay phiên nhau nghỉ.

Nhà họ Trịnh bố trí xong linh đường, đáng thương hai người con trai đều không thể thủ linh cho cha mẹ, may mà cháu chắt không ít, tốt xấu chống đỡ được. Thực ra, cho dù không có con cái thủ linh, chỉ nhìn ngày ngày người tới viếng tấp nập không ngừng, ồn ào còn hơn cả chợ, lại thêm thánh chỉ hậu táng, liền biết nhà họ Trịnh đã đắc thế.

Huyên Đại phu nhân trở về từ đó, kể lại tình hình sinh động cho Minh Lan nghe, trò chuyện làm sản phụ đỡ buồn, sau cùng, mới chần chừ đề cập một chuyện – hôm đó sau cuộc chiến ở chân núi, kiểm kê đầu người luận công ban thưởng, từ trong đống người chết lôi ra thi thể của Cố Đình Vĩ, nghe nói bị bắn chết từ vòng tên loạn lạc thứ nhất, đưa thi thể về nhà, Thái phu nhân ngất xỉu tại chỗ, sau khi tỉnh lại, hơn nửa người không thể động đậy.

Minh Lan chẳng muốn nói nhiều, chỉ lạnh nhạt: “Trịnh tiểu tướng quân tài cao, hắn chỉ đạo bắn tên tất nhiên là không ai địch nổi.” Đối với kẻ đốt lửa cầm gậy muốn giết mẹ con nàng, mặc kệ hắn sống chết đi.

Huyên Đại phu nhân cười trừ, không nói gì nữa. Chị ta thấy, nữ quyến quyền quý tới thăm mẹ con Minh Lan chưa chắc đã kém so với tới nhà họ Trịnh viếng, có thể thấy Cố Đình Diệp hiện giờ đang được hoàng thượng tin cậy, còn Cố Đình Vĩ dám mời sơn tặc tới phủ Hầu giết người phóng hoả, đâu chỉ gan to hơn trời, quả thực điên rồi, hoạ có điên mới nói đỡ giùm nhà hắn!

Hôm sau, cuối cùng đến phiên Râu được nghỉ, buổi trưa bèn dùng cơm với Minh Lan trên giường, trên kháng đặt một đĩa rau cải xào, một đĩa thịt ngỗng ướp mật ong, một bát cá hấp, một bát canh gà hạt sen với nấm Khẩu Bắc.

Râu ăn như rồng cuốn, tám phần no mới buông đũa, thở dài nhè nhẹ: “Kể ra thì sau khi trở về, đây là bữa cơm đầu tiên ăn với em.” Giọng điệu rất đa cảm, đầy cảm khái.

Minh Lan nhìn mặt hắn: “Bao giờ chàng mới cạo râu hả.”

“Mấy hôm nay em đều ăn cơm một mình à?” Tiếp tục thương cảm.

“Râu chàng có dính canh không, cần khăn không hả.”

Râu không vui, trợn mắt: “Em không thể nói chuyện tử tế hả.”

“Được, được, được, em nói em nói… em nói gì bây giờ nhỉ.” Minh Lan cắn đũa nghĩ ngợi hồi lâu: “Bụng em thì to, vừa không thể du ngoạn đạp thanh, vừa không được uống rượu xem diễn, ngay cả bái Phật cũng sợ trong miếu nhiều người đụng phải… Mỗi ngày đều ăn cơm, ngủ, xem sổ sách, nhìn con, ngày qua ngày, có gì mà kể… Chàng xa nhà tận nửa năm, kiến thức hành quân đánh trận chắc phải đặc sắc hơn chuyện lông gà vỏ tỏi trong nhà chứ? Hay là chàng nói em nghe còn hơn.”

Không hiểu sao, lời này như thanh đao cắt đứt hứng khởi trò chuyện của Râu, Râu yên lặng rất lâu, mới bình thản lên tiếng: “Có chuyện đã định kể với em từ sớm, nhưng không có thời gian… Mẹ con Man Nương…”

Hắn ngừng giây lát, Minh Lan cảnh giác: “Tìm đến chỗ đóng quân của tôi.”

Minh Lan gian nan nuốt hạt cơm: “Thế, sau đó thế nào?” Tên này thiệt đáng ghét, nói năng nửa vời, vô cùng thiếu tố chất kể chuyện cơ bản.

Râu đang định mở miệng, bên ngoài Cố Toàn chợt cất giọng cung kính: “Bẩm Hầu gia, Cảnh đại nhân tới rồi, đang đợi ở chỗ gác cổng. Ngài ra luôn, hay là để Cảnh đại nhân đợi một chút?”

Hoàng đế không phải tự dưng cho nghỉ, trong đó một hành trình quan trọng là tới nhà họ Trịnh viếng, cho nên hai người Cố, Cảnh được nghỉ cùng ngày mới hẹn nhau cùng đi. Râu thoáng trầm ngâm, nhìn về phía Minh Lan: “Không nên để lão Cảnh đợi, nhà hắn cũng có nhiều việc, chúng ta đi sớm về sớm. Buổi tối gọi cái Dung tới, ba người cùng nhau ăn cơm.”

“A, được thôi…” Minh Lan cúi đầu, bất mãn bĩu môi, đang tò mò mà không được giải đáp miễn bàn khó chịu thế nào.

Râu xoay người xuống giường, thu xếp quần áo, quay lại thấy điệu bộ chán nản của Minh Lan bèn buồn cười sờ tai nàng: “Cũng không phải việc lớn gì, không liên quan quá nhiều tới cuộc sống của chúng ta, nếu em không chịu nổi tò mò, để tôi gọi thằng nhóc Tạ Ngang tới kể cho.”

Minh Lan hơi do dự, tức khắc gật đầu thật mạnh. Trời biết bao giờ hắn mới về, chẳng lẽ nàng phải chịu đựng tò mò cả ngày? Hắn đã dám để người ngoài kể lại, nàng cũng dám nghe!

Râu ra khỏi cửa, Hạ Trúc và Tiểu Đào cùng nhau dọn bàn ăn xuống, thay đổi bàn nhỏ, Hạ Hà cầm đệm dựa phơi nắng ấm nhét vào sau lưng Minh Lan, tức khắc thắt lưng thoải mái dào dạt, lại sai hai bà hầu chuyển bình phong bát tiên quá hải bằng sa mỏng đặt giữa phòng.

Đám hầu gái thu thập xong xuôi, Lục Chi dẫn thị vệ sát người Cố Đình Diệp, tiểu đội trưởng Tạ Ngang vào nhà.

Tạ Ngang đi theo Cố Đình Diệp nhiều năm, thấy nhiều trận chiến sống còn, bây giờ lại đỏ mặt, vặn tay, giống nàng dâu mới vào cửa, cách bình phong hành lễ với Minh Lan, Lục Chi chuyển ghế đến cho hắn ngồi, chàng trai vóc người cao to lại chỉ dám ngồi ghé một bên, tư thế đó khỏi phải nói nho nhã thế nào.

“Cảm ơn cậu Tạ, đừng gò bó, cậu và Hầu gia ở bên nhau bao năm, có khác gì họ hàng thân thích đâu chứ.” Minh Lan cố gắng mềm giọng, nhằm giúp hắn thoải mái.

“Không, không dám… Tôi… Họ hàng ư, làm sao dám?” Tạ Ngang chẳng dám ngẩng đầu, rõ ràng cách bình phong chẳng thấy được gì, nhưng hắn vẫn một mực nhìn xuống chân, không dám cử động.

Minh Lan tiếp tục: “Hầu gia đã nói với tôi rồi, hai năm nữa giúp cậu tìm một vị trí tốt, tương lai cũng tiện thành gia lập nghiệp.”

“Không, không, không cần… Mẹ tôi nói, bảo tôi ở cạnh Hầu gia thêm mấy năm… Bây giờ tốt lắm, tốt lắm.” Tạ Ngang hơi nghiêng mặt nói lời từ chối, trong lòng thì ai oán Hầu gia bắt hắn làm việc này, bà chủ và vợ bé trước kia ở bên ngoài, đề tài khó xử biết bao.

Minh Lan lại dịu dàng đôi câu, thấy Tạ Ngang trước sau vẫn xấu hổ ngại ngùng, đành nản lòng hỏi: “Hầu gia bận rộn quá, bảo cậu kể chuyện cho tôi, cậu cứ nói đi.”

Tạ Ngang giương ánh mắt ngỡ ngàng: “Nói? A! Ơ… Chuyện đó…” Hắn rối loạn: “Việc này… bắt đầu từ đâu…”

Đằng sau bình phong vang giọng nói bình tĩnh: “Từ lúc cậu nhìn thấy mẹ con Man Nương đi. Hầu gia bảo, cậu là người phát hiện mẹ con họ mà.”

Tạ Ngang ngẩng đầu, thở dài: “Cũng không phải phát hiện, thực ra thì…” Hắn dừng lại, tựa hồ đang nghĩ nên dùng từ thế nào.

“Đó là lúc vừa thu hồi được thành Tây Liêu không lâu. Trước đó chúng tôi rúc trong đầm lầy, mai phục hơn nửa tháng, cuối cùng trước khi hết sạch lương thảo dụ được đại quân Thiền Vu ra ngoài, huyết chiến một trận, chúng tôi giành thắng lợi, nhưng cũng chết khá nhiều người, bèn đến thành Tây Liêu nghỉ ngơi. Hôm đó, Bạc tiểu tướng quân bên Thần tiễn doanh tới tìm tôi, nói ông ấy tới phía bắc thành phát lương thảo cho dân tị nạn, liền gặp phải một người phụ nữ dắt theo trẻ con bị bệnh nặng, tự xưng là gia quyến của Hầu gia chúng tôi, nói có sách mách có chứng…”

Tạ Ngang nuốt nước bọt, muốn trộm coi sắc mặt bà chủ, kết quả chỉ nhìn thấy Lữ Động Tân đang tự cho là phong lưu vuốt râu, Hà Tiên Cô nhìn người bằng ánh mắt lả lơi, đành tiếp cục: “Tôi giật nảy người, vội tới xem, nào ngờ lại là chị Man Nương… ơ, trước kia ở Giang Hoài tôi từng quen biết chị ta…”

Khi đó, Man Nương tự coi bản thân là Cố phu nhân, cố tình kết giao với nhóm vợ chồng Xa Tam Nương, còn cực kỳ chủ động hỏi han ân cần với các anh em, quan tâm săn sóc, hắn cũng ồn ào gọi chị ta là “chị dâu” cùng với những người khác. Nghĩ lại chuyện cũ, Tạ Ngang càng bất an hơn, lại lần nữa nhìn trộm sắc mặt bà chủ.

Có điều, Lữ Động Tân vẫn đang vuốt râu, Hà Tiên Cô vẫn đang lả lơi.

“Tôi không dám tự quyết định, bèn vội về báo lại cho Hầu gia. Hầu gia tới xem, chẳng nói gì, chỉ đưa mẹ con họ mang về, đáng thương cậu Xương đã bệnh nặng hôn mê bất tỉnh.” Hắn thở dài, hồi xưa hắn còn từng bế cậu bé đó lên trên vai: “Quân doanh là nơi quan trọng, người ngoài không thể tuỳ tiện vào, Hầu gia liền đưa người tới một gian nhà nhỏ, tìm thầy thuốc khám cho cậu Xương.”

Thực ra không đơn giản như vậy, hắn đã lược bỏ vài việc không thoải mái rồi đấy.

Đến gian nhà nhỏ, Cố Đình Diệp đen mặt, há hồm liền hỏi: “Cô tới làm gì?!”

Man Nương lệ nóng doanh tròng: “Nhị Lang, em đến sống chết cùng chàng! Cho dù chết, chúng ta cũng phải chết cùng một chỗ!”, đại loại là mấy lời buồn nôn tương tự. Chị ta không hề biết việc đại thắng hôm trước, chỉ nghe tin đồn, còn tưởng rằng đại quân Trương Cố đang co đầu rụt cổ trong thành Liêu Tây.

May mà Bạc tiểu tướng quân đã cho người lui hết, trong viện chỉ có Tạ Ngang và mấy gã thân tín, về doanh, các anh em tán gẫu thế này.

Một kẻ nói: “Sống chết có nhau? Diễn kịch hả? Buồn nôn quá!” Chàng trai, cậu đoán quá chuẩn.

Kẻ khác tiếp: “Chết cái gì mà chết! Anh em ta trải qua nguy hiểm, mắt thấy trở về là vinh hoa phú quý, vậy mà cái đồ sao quả tạ này còn nói điên khùng! Nếu không phải… xem ông có bóp chết cô ta không! Đàn bà ấy mà, đàn ông ra ngoài đánh trận, phải yên ổn ở nhà hầu hạ người già trẻ nhỏ, chạy đến làm loạn cái gì?!”

Có người biết chuyện bảo: “Tôi nghe nói phó soái của chúng ta trước kia từng lăn lộn giang hồ, thiếu niên mà, phong lưu đấy, có lẽ dính vào hạng đạn bà bỏ không xong!”

Lại một kẻ xen miệng: “Nhìn người phụ nữ đó, mặt thì xấu, dáng cũng không, còn già như mẹ tôi vậy, phó soái của chúng ta tướng mạo đường hoàng, điểm nào lọt mắt xanh thế nhỉ!”

“Chẳng lẽ là bản lĩnh trên giường?! Người cũ mới dập được lửa nha!”

Tiết mục thô bỉ ngắn lên sân khấu, ai nấy cười vang.

Trong quân, phụ nữ chỉ giặt quần áo hoặc làm kỹ nữ phục vụ, lại không thể thường xuyên gặp gỡ, một đám đàn ông hễ rảnh đành nói lăng nhăng giải sầu, hơn nữa, phụ nữ đàng hoàng làm gì có ai hành động, lời nói ngả ngớn như Man Nương. Các anh em dù không có ác ý, nhưng khẩu khí tự nhiên nhuốm màu khinh miệt, coi thường. Tạ Ngang nghe mà khó chịu, thầm khó xử giùm Cố Đình Diệp.

Hắn lắc lắc đầu, vội tiếp tục: “…Nào ngờ, cậu Xương bệnh nặng khó chữa. Bất luận là thầy thuốc theo quân hay là thầy thuốc nổi danh trong thành đến xem liền phán không thể cứu chữa nữa. Công Tôn tiên sinh bảo, nếu ở thành lớn phồn hoa còn đỡ, nhưng Tây Liêu là nơi thâm sơn cùng cốc, lại bị lưu dân tàn phá mấy lần, thiếu y thiếu thuốc, ngay cả ăn còn không đủ… ôi…”

Bên bình phong nhẹ nhàng “a” lên, tiếng gốm sứ va chạm lanh lảnh, bên trong nói: “Chẳng lẽ, cậu Xương… đã chết rồi…?”

Tạ Ngang thấp đầu đáp: “Đúng vậy. Đã đốt tro cốt, để Công Tôn tiên sinh đi sau mang về, sau này mai táng.”

“Còn Man Nương thì sao?” Minh Lan vội vàng hỏi.

Xương nhi là mối dây liên hệ duy nhất giữa hai người Man, Cố, bây giờ thằng bé chết rồi, Man Nương có thể từ bỏ ý đồ chăng?

Tạ Ngâng ngẩng đầu yên lặng giây lát, mở lời gian nan: “Từ khi Man Nương được đưa về, Hầu gia liền tách hai mẹ con ra… cho đến chết, đều không để chị ta được gặp lại cậu Xương một lần…”

Hồi nhỏ hay nghịch ngợm, nhưng nói tóm lại, cuộc đời bằng phẳng quang minh. Mấy hôm đó có thể nói là ác mộng với hắn, chỉ mong sau này không cần nhớ lại, thế mà bây giờ còn phải kể lại cho bà chủ nghe.

Man Nương thoạt đầu vẫn quấn lấy Hầu gia, nhưng Hầu gia căn bản phớt lờ, chỉ sai người nhốt chị ta trong phòng, cho ăn cho mặc. Chẳng mấy hôm, kinh thành tới một phong thư do Lưu Chính Kiệt viết, Hầu gia xem xong bèn bảo người mở khoá. Man Nương vừa ra liền vội vã kể lể thâm tình và khổ sở, Hầu gia chẳng nói chẳng rằng, im lặng nghe, Man Nương lải nhải hồi lâu, miệng khô lưỡi khô, nước mắt giàn giụa, cuối cùng im miệng.

Hầu gia bấy giờ mới mở miệng, bình tĩnh: “Nói xong rồi? Vậy đến lượt tôi. Trước đây tôi đã bảo cô, nếu cô còn dám vào kinh, còn dám làm phiền Minh Lan, đời này tôi sẽ không để cô được gặp lại Xương nhi. Tôi nói cô bỏ ngoài tai hả?”

Thở dài, đang định kể tiếp, chợt nghe thấy tiếng bước chân vững chắc quen thuộc, hắn vội đứng dậy chắp tay: “Hầu gia đã về.”

Râu cười cất bước tiến vào, vẫy tay chuyển qua bình phong: “Đặt cái đồ đáng ghét này làm gì?” Sau đó ngồi cạnh Minh Lan, gác cằm lên vai nàng, thân mật bảo: “Buổi chiều ngủ chưa? Hay là từ lúc tôi đi vẫn nói đến tận giờ.”

Minh Lan mỉm cười: “Cậu Tạ khéo miệng lắm, em nghe mà mê mẩn.”

“A, thế ư?” Râu ra chiều lơ đãng.

Tạ Ngang ngẩng cái trán lấm tấm mồ hôi lạnh, dường như trở lại thời niên thiếu, chuẩn bị ăn đòn.

Nào ngờ, Râu hướng về phía hắn tươi cười: “Được rồi, cậu về nghỉ đi, mai chúng ta còn bận.”

Tạ Ngang như được đại xá, chạy như bay ra ngoài.

Thời tiết dần nóng, Râu ra ngoài một chuyến mồ hôi đầy người, đến phòng tắm vội vã xối hai gáo nước ấm tẩy sạch, đổi bộ quần áo màu trắng sạch sẽ ra ngoài.

Hắn ôm Minh Lan ngồi xuống: “Cái tật sợ vợ của lão Cảnh càng ngày càng nghiêm trọng. Rời khỏi nhà họ Trịnh, tôi mời đến nhà uống trà, hắn nằng nặc từ chối, như có ma đuổi sau lưng, liều mạng phi ngựa về nhà.”

Minh Lan xoa làn tóc ướt sũng của hắn: “Hai chị nhà họ Trịnh vẫn khoẻ chứ? Chắc là mệt chết ấy nhỉ.”

Râu nhéo nàng một cái, trừng mắt: “Việc đàn bà tôi nào biết?!” Lại than: “Nhưng anh Trịnh thì… ôi, gầy hẳn, nghe bảo còn nôn ra máu.”

Nói tới đây, vợ chồng đều thổn thức chuyện li kỳ nhà họ.

Râu ngó nghiêng: “Hai đứa nhóc đâu?”

“Nhóc Đoàn không chịu ngủ, muốn chơi với chị, Thôi ma ma ôm đi rồi. A Viên thì đói, vú em ôm đi rồi.”

Râu cau mày: “Con đói sao em không cho bú?” Hắn còn nhớ lần trước, hai tháng đầu là Minh Lan cho bú.

Minh Lan vặn khăn, ảo não: “Lần này, em không đủ sữa cho A Viên.”

Râu vuốt ve làn tóc khô vàng của nàng, áy náy: “Đều do tôi, làm em không tĩnh dưỡng được.”

Minh Lan than thở: “Phải! Nhà ai mà chả có họ hàng phiền phức, nhưng chả có nhà nào có cậu Ba lợi hại như nhà ta. So với mẹ cái Dung cũng chẳng kém cạnh.” Ông chồng tạm được, đáng tiếc có hai tử địch lợi hại quá.

Râu lạnh mặt, song giọng thì dịu dàng: “Vừa nãy hai người nói tới đâu rồi?”

Minh Lan do dự mới bảo: “Nói đến chỗ cậu Xương qua đời, Man Nương phát điên.” Sau đó nhìn mặt hắn.

Râu chẳng hề khó chịu hay khó xử, bình thản ngồi đối diện nàng, cầm bình rót trà, uống một chén mới lên tiếng: “Kỳ thực đến tình cảnh đó cũng chẳng còn gì để nói. Có điều…”

Hắn cắn môi: “Tôi nói cho dứt khoát.”

Minh Lan thẳng người, tỏ ra rửa tai lắng nghe.

“Lần này ở ngoài lâu, có thời gian bình tĩnh phân tích sự việc. Trương lão quốc công toàn chê cười tôi, nói hồi xưa tôi nghĩ quá ít, hiện giờ lại nghĩ quá nhiều. Nhưng tôi không thể không nghĩ. Trước kia tôi làm gì cũng sai, nói gì cũng chẳng ai tin, sẵn sàng tin tôi, chịu nghe tôi nói cũng chỉ có Man Nương… Ai ngờ, tất cả đều là giả vờ.” Râu tự giễu, đặt chén trà xuống.

“Man Nương là con hát giỏi, đáng tiếc không được lên sân khấu, nếu không ắt hẳn nổi danh.” Râu dường như đang nhắc tới người lạ, mà không phải người phụ nữ nhùng nhằng với hắn tận mười năm.

“Hồi mới quen, tôi cảm thấy cô ta là một hồ nước trong vắt có thể nhìn tận đáy, tâm tư đơn giản, tính tình dịu dàng. Đến khi biết được mưu đồ sâu xa của cô ta, gì mà thân thế đáng thương, gì mà anh trai bỏ đi, thậm chí nhà họ Dư… Khi đó tôi mới biết cô ta là một vũng nước đục, giăng đầy mạng nhện, đục ngầu. Cho đến sau khi Dư Hồng qua đời, tôi mới kinh ngạc phát hiện, cô ta thực ra là thuốc độc nguy hiểm!”

Minh Lan tự nhủ: nếu không có bà đây xen ngang, bất luận là nước sạch, nước đục hay thuốc độc, anh chẳng phải cũng nếm hết rồi còn gì.

“Thực ra, khi biết bộ mặt thật, tôi cũng không trách cô ta. Bất kể là lừa tôi mấy năm, phá rối hôn sự với nhà họ Dư, dẫn Yên Hồng làm loạn… tôi cảm thấy, chỉ mình cô ta thật lòng với tôi. Nói thật, lúc đó dù tức vì bị lừa, nhưng trong lòng tôi vẫn hơi vui vẻ. Rốt cuộc, cô ta không phải vì phủ Hầu, mà là thật sự yêu quý tôi, muốn làm vợ chồng danh chính ngôn thuận với tôi thôi.”

Minh Lan định nhếch miệng giễu, chợt nín nhịn, người ta chưa chắc thích anh đâu, chẳng qua là thích một người đàn ông thực hiện được ước mơ cho mình đấy thôi, có thể là bất cứ con em quý tộc có bản lĩnh có trách nhiệm thôi.

Ai ngờ Râu nói tiếp vế sau: “Sau đó tôi mới biết. Cô ta thâm tình không phải vì tôi, mà vì chấp niệm, vì hoang tưởng.”

Minh Lan trầm mặc.

“Lúc ấy dù không trách cô ta, nhưng có một việc tôi hiểu rõ. Man Nương có thể lừa được tôi mấy năm mà không để lộ dấu vết thì thật quá lợi hại. Lúc đó tôi liền biết, cô ta không cam lòng hạ mình. Trừ khi tôi lấy cô ta làm vợ, bằng không nếu làm lẽ, ắt hẳn sẽ không tha cho vợ cả… Nhưng mà, tôi chưa bao giờ muốn lấy cô ta làm vợ.”

Hồi nhỏ cha già tán thưởng mình, kỳ vọng mình có thể lấy một người vợ tốt. Nhưng rốt cuộc thế nào mới là người vợ tốt? Cha già không nói rõ, động một chút là giáo huấn thành ngữ bốn chữ, gì mà gia thế trong sạch, phẩm hạnh đoan chính, ôn thiện hiền lương, hào phóng đúng mực, nếu nhà mẹ đẻ khá có địa vị thì càng tốt.

Cậu bé không hiểu thâm ý trong đó, chỉ ngơ ngác ghi tạc đáy lòng.

Râu chăm chú nhìn Minh Lan, khẽ mỉm cười: “Em từng nhận xét tôi rằng, ‘trông thì phóng đãng ngang ngược, nhưng trong khung nặng nhất quy củ.’ Lúc đó tôi tức lắm, chỉ muốn ném em xuống sông. Song trở về lại trằn trọc suy nghĩ, cảm thấy cũng đúng.”

Minh Lan bất giác rụt cổ, cười ngây ngô.

“Vẻ mặt sợ hãi yếu đuối dù khiến người ta yêu mến, nhưng có chính thất nhà cao cửa rộng nào có điệu bộ như thế đâu, xuất thân thấp hèn không phải lỗi sai, nhưng thiếu giáo dục đầy đủ, không biết đối nhân xử thế hào phóng đúng mực. Man Nương biết thêu thùa, biết hát biết nhảy, còn hơi biđầu tư học vấn, kinh tế, nhưng kiến thức nông cạn, mỗi lần kể khổ xong, tôi và cô ta hết lời để nói.”

Dù khi coi Man Nương là một hồ nước trong, cũng không cho rằng cô ta có thể làm vợ mình.

Giống “thần không nghiêm, toi mạng”, Man Nương chẳng những không nói được, cho dù cố nói ra cũng chẳng hiểu thâm ý. Mà hắn giảng lại chuyện triều đình và đối nhân xử thế cho Minh Lan nghe, nàng chẳng những hiểu, còn giảng giải đạo lý rõ ràng.

…Hắn chỉ thông cảm thân thế, kính nể khí phách của cô ta, thích sự mềm mại an ủi, muốn chăm sóc, để cô ta không lo cơm áo gạo tiền, chỉ vậy mà thôi. Kết quả tất cả những thứ đó đều là giả vờ.

“Em không giống.” Râu nhìn Minh Lan, ánh mắt dịu dàng đầm ấm: “Chúng ta luôn nói mãi không hết lời.”

Minh Lan nhìn thẳng mắt hắn, nhoẻn cười: “…Đúng, chúng ta luôn có vô vàn chuyện để nói.” Chị Bảo rất tốt, chẳng xấu mặt nào, nhưng Bảo Ngọc thích em Lâm, căn bản vì hợp mùi nhau, nói hoài không hết.

“Nói đi nói lại, chẳng qua là Cố Nhị công tử phủ Hầu coi thường xuất thân con hát của Man Nương mà thôi. Man Nương có lẽ biết rõ, nhưng vẫn nhiều lần khuyến khích tôi bỏ nhà tự lập.” Râu tự giễu.

“Những ngày vừa xa nhà, tôi vừa buồn rầu, vừa ủ rũ, lúc tuyệt vọng còn nghĩ, đã biến thành dân giang hồ thấp kém rồi, cần gì phải coi thường người khác, dứt khoát sống với Man Nương, dù sao cũng có con với nhau. Nhưng mà… đâu ngờ…” Hắn nhẹ nhàng xoa thái dương, trên mu bàn tay nổi gân xanh.

“Đâu ngờ, Yên Hồng lại chết.” Minh Lan bình tĩnh tiếp lời.

Râu đặt tay xuống, ánh mắt kiên định: “…Phải. Yên Hồng đã chết. Cũng đoạn tuyệt suy nghĩ của tôi với Man Nương.”

“Tôi không phải người Yên Hồng muốn gả, Yên Hồng cũng không phải người tôi muốn lấy. Ngắn ngủi mấy tháng, hành vi của cô ấy vốn không phải của người vợ tốt, tôi cũng chẳng phải ông chồng tử tế. Nhưng bỏ nhà ra đi, tôi vẫn cảm thấy có lỗi với cô ấy.”

Hắn đưa tay kéo thảm mỏng giúp Minh Lan: “Tôi từng nghĩ, nếu cô ấy không muốn tiếp tục với tôi, tôi và cô ấy chia tay trong hoà bình, để cô ấy thuận lợi tái giá. Tất cả sai lầm bêu danh để tôi gánh, dù sao danh tiếng của tôi cũng đủ xấu xa. Nhưng mà sau đó, tôi chẳng còn muốn trả thù cho cô ta nữa.”

“Cho dù tôi ra ngoài ba năm, năm năm, vì không chịu nổi cô đơn, cô ấy hồng hạnh vượt tường, tôi cũng có thể thông cảm. Nhưng mới hơn ba tháng, cô ấy đã dan díu với kẻ khác, còn mang thai. Cô ấy lừa tôi cũng thật quá đáng…”

Hắn nhướng mày, nở nụ cười lạnh: “Đội nón xanh cho tôi, lại còn là hạng người như Cố Đình Bỉnh. Nếu không phải Tần thị cố tình làm to chuyện, Yên Hồng vốn định mua chuộc thầy thuốc, để tôi nuôi đứa con hoang.”

Thái phu nhân đương nhiên không muốn Yên Hồng sinh con, dù là con hoang cũng không được. Mắt thấy cậu Cả sắp qua đời mà không có con trai, cậu Hai lại ngang nhiên bỏ nhà ra đi, nếu cậu Hai mà có con trai, như vậy lại thêm một phần biến số.

Râu tựa hồ vẫn thấy nhục, không nhịn được lại bồi thêm: “Nói câu không phải, dân giang hồ nếu biết anh em mình bị bắt nạt thế này, một đao chém chết gian phu, sợ là những người xung quanh đều vỗ tay khen ngợi.”

Minh Lan mấp máy môi, rất muốn phát biểu ý kiến về nam nữ ngoại tình thời cổ đại, nhưng nhớ tới tập tục lịch sử lâu đời như nhốt lồng heo chìm sông bèn ngậm miệng.

“Dù sao cũng là vợ chồng bái thiên địa, không có tình thì còn có nghĩa. Đến mức này, tôi với Yên Hồng là vô tình cũng chẳng còn nghĩa. Cô ấy chết cũng được, sống cũng được, tôi chẳng quan tâm.” Râu than thở: “Nhưng không nên là… không nên là Man Nương…”

Vụ việc này, Man Nương biểu lộ sự âm độc, tà ác, kín kẽ, cộng với thủ đoạn nham hiểm đều vượt xa tưởng tượng của hắn với phụ nữ thông thường. Chính hắn chẳng qua say rượu, hơi thể hiện ý khoan dung, Man Nương liền nhất định phải đoạt mạng Yên Hồng.

Những việc lúc trước, hắn còn có thể chấp nhận là Man Nương điên cuồng vì yêu mà làm ra, thì lần này đã khiến trái tim hắn nguội lạnh.

Hồi nhỏ, cha già từng cầm “Danh Thần Lục” và “Thần Võ Chí”, kể lại hành vi từng đời văn thần võ tướng cho hắn nghe: “Văn có văn đạo, võ có võ đức, nếu tâm trí không kiên định, làm người không thẳng thắn thì không thể kháng cự được ác quỷ đất trời. Những lời ân cần dạy bảo vẫn còn văng vẳng bên tai, loại phụ nữ rắp tâm xấu xa này, hắn quyết không cần.

“Nhưng dù vậy, tôi chưa từng muốn cô ta chết, hoặc cuối cùng rơi vào cảnh thê thảm. Cô ta dù sao cũng trải qua những tháng ngày đó với tôi, tôi không muốn gặp lại cô ta, lại cũng mong mẹ con cô ta có thể sống yên ổn, no ấm cả đời. Nói thế này, chắc hẳn lão quốc công lại chê cười tôi rồi… Minh Lan, còn em thì sao?” Ánh mắt hắn toát vẻ nôn nóng.

Minh Lan bình thản nhìn hắn: “Em biết, em hiểu rõ.”

Trái ngược với phỏng đoán của bao người, hắn thực ra là người nặng tình nặng nghĩa. Vì thiếu, cho nên mới hiểu được quý trọng, cho dù là sự tốt đẹp giả vờ, cũng từng an ủi hắn trải qua thời niên thiếu gian nan vất vả.

“Tôi chỉ không hiểu Man Nương ở một điểm, bất luận tôi quyết liệt thế nào, bất luận tôi làm khó cô ta đến đâu, một lần lại một lần từ chối, cô ta dường như vẫn sống ở thế giới riêng của mình, cố chấp với suy nghĩ của mình, luôn tưởng rằng tôi vẫn còn yêu thương cô ta.”

Râu hơi hoang mang: “Chẳng lẽ tôi phải đánh gãy tay chân cô ta, cắt mấy ngón tay cô ta thì cô ta mới chịu tin?”

Đưa mẹ con Man Nương đến Miên Châu là cơ hội duy nhất của hắn dành cho cô ta, kỳ thực hắn đã tìm mấy gia đình phù hợp, nhưng Man Nương lại cứ dây dưa, bèn để cô ta mang Xương nhi theo, nuôi dưỡng chỗ khác, thuở nhở hắn nếm trải khổ sở vì không có mẹ ở bên, nghĩ Man Nương dù ngàn sai vạn sai thì vẫn thương con.

Ai biết trước lúc xuất chinh, vợ chồng Thạch Khanh kể lại chuyện cũ cho hắn, hắn bèn quyết tâm, sau khi trở về liền đưa Xương nhi rời khỏi Man Nương, nào ngờ vẫn chậm một bước.

“Man Nương như cái động không đáy, vĩnh viễn không thể chạm đến. Biết cô ta sẽ lừa người, ai biết cô ta còn dám giết người, biết cô ta dám giết người, ai biết ngay cả thân nhân cô ta cũng không màng. Anh trai duy nhất lợi dụng xong liền vứt bỏ, vì đạt được mục đích, lại không từ bất cứ việc xấu nào, chuyện thâm độc thế nào cũng dám làm.”

Gạt bỏ từng tầng da, bên dưới lại tanh hôi và ghê tởm đến vậy. Hắn vô cùng lo sợ nghi hoặc, không thể tin nổi đây lại là Man Nương mà hắn từng thích.

Hắn nhớ lúc nhìn thấy Man Nương ở thành Liêu Tây, cô ta đang cầm một cây gậy gỗ, đánh trái đánh phải vào nạn dân, vừa tàn nhẫn vừa chuẩn xác, không ai dám lại gần mẹ con họ. Hắn quen biết cô ta bao năm, cứ tưởng thân thể cô ta ốm yếu, chỉ biết phô trương, nào ngờ giờ mới biết võ công không tồi.

Hắn liền toát mồ hôi lạnh, nhớ năm đó Man Nương va chạm bà vợ đang mang thai của mình, lúc đó hắn còn tưởng đó là cử chỉ tức giận của người phụ nữ tuyệt vọng muốn đồng quy vu tận, bây giờ nghĩ lại, cho dù lúc đó Man Nương ôm Xương nhi, cũng có thể làm tổn thương Minh Lan, đồng thời bảo toàn chính mình. Lòng hắn, chợt lạnh cứng.

“Gặp phải cô ta, là tôi xui xẻo, gặp phải tôi, cô ta càng xui xẻo.”

Thời gian thay đổi, hắn có thể bình tĩnh như vậy, có thể giải thích câu chuyện của hắn và Man Nương.

Minh Lan ưỡn lưng cứng còng, đầu óc như tê liệt, chẳng biết nói gì, cũng chẳng biết làm gì, ngẩng đầu nhìn gương mặt ảm đạm của Râu, nàng lại thấy đáng thương giùm hắn.

“Năm đó tôi xử lý mẹ con Man Nương đến Miên Châu, em trách tôi…” Hắn gian nan cất tiếng: “Trách đúng lắm.”

Minh Lan toan mở lời, Râu vươn tay ngăn lại: “Em nghe tôi nói trước đã.” Minh Lan đành im lặng, kiên nhẫn nghe.

“Tôi không định giải thích gì cả. Em bảo tôi không thật lòng với em, lời này không sai. Nhưng tôi cũng không phải người trời sinh vô tình, tôi từng thật lòng với người khác, nhưng kết quả lại lừa gạt, bị sỉ nhục, bị oan uổng, không chỗ giãi bày, không biết tin ai… chỉ có thể nhảy ra ngoài, bỏ xuống cái danh con thứ phủ Hầu, ngọc bội, tên, tất thảy tất thảy, đào tim ra, cúi đầu xuống, học lại, làm lại từ đầu.”

Giọng nói đàn ông trầm thấp khàn khàn, như hai tảng đá thô cọ xát vào nhau.

“Cuối cùng, tôi học được. Gặp chuyện phải suy tính cẩn thận trước, phân tích lợi hại, tốt xấu, thoả đáng… Học được chống lại mưu mô, cũng học cách mưu mô kẻ khác.” Hắn cười chua chát: “Giết chết Cố Đình Diệp khi xưa, mới có thể sống sót.”

Minh Lan rơm rớm nước mắt, trái tim chua xót đau đớn, một quý công tử phủ Hầu, sợ là một bát mì mấy đồng tiền cũng chẳng biết, phải kiếm sống bằng hai bàn tay trắng như thế thật không dễ dàng, nàng biết, nàng biết chứ.

“Lúc đó, thời cuộc cũng chẳng tốt. Bao nhiêu người nhìn chằm chằm chúng tôi, chờ chúng tôi phạm sai lầm, lão Cảnh bị tố cáo, anh Thẩm bị tố cáo, ngay cả cậu Đoàn trung hậu như vậy cũng bị soi ra lỗi. Tôi không thân thiết với hoàng thượng được như họ, cho nên, tôi càng không thể mắc sai lầm.”

Hắn vươn tay trùm lên tay nàng, đau khổ thốt: “Biết mẹ con em bình an, chuyện đầu tiên tôi nghĩ đến, không phải lo em bị sợ hãi, muốn trút giận cho em, mà là làm thế nào chặn lại chuyện Man Nương. Sau đó em trách tôi, giận tôi, đều đúng! Tôi là người như thế, mà sau này còn dám trách em không đối xử thật lòng, đúng là đồ khốn!”

Hắn niết chặt nắm tay, khớp xương trắng bệch kêu răng rắc.

“Đến khi bà nội gặp chuyện, em quỳ trước giường bệnh, khóc đau đớn, đào tim đào phổi như vậy. Vì đòi lại công bằng cho bà, em hoàn toàn vứt bỏ hết thảy, sống chết phú quý, muôn lần chết cũng không từ! Lúc đó tôi mới tỉnh mộng, tôi trải qua bao con đường, học bao cách tiến lùi, lại quên mất thứ quan trọng nhất… quên mất đối xử thật lòng với người khác thế nào…”

Hắn thốt ra khàn khàn, tựa như xé rách quyển sách năm xưa, tiếng nói chấm dứt, một hàng nước mắt lăn dài. Chân trời mới nhú, ánh sáng loé ra. Vận mệnh đối với hắn, trước giờ đều không bằng phẳng, vượt qua mấp mô, mạo hiểm bôn ba, quay đầu nhìn lại mới phát hiện đánh rơi dĩ vãng quý giá.

Minh Lan nghẹn ngào lênt iếng, lật tay phủ lên nắm tay hắn: “Không phải. Là em lòng dạ hẹp hòi, chàng làm lụng vất vả, em có thể sống sung sướng như thế này, đều không phải vì em thông minh, không phải vì em giỏi xã giao, càng không phải vì em khéo léo, quản gia chu đáo. Chẳng qua là vì chàng vẻ vang trên triều, mọi người mới nịnh nọt em, tán tụng em…”

Nước mắt rơi xuống trên tay giao nắm, nóng cháy.

“Chàng che chở em mọi bề, không để em chịu chút tủi thân nào, trong kinh thành có ai không hâm mộ chứ! Là em không thoả mãn, là em…” Minh Lan cắn răng thật sâu, nước mắt như mưa: “Là em sợ! Sợ chàng sẽ có ngày không thích em nữa, vậy em biết làm thế nào? Cho nên em luôn tính toán chi li, không chịu thiệt chút nào! Chỉ sợ có ngày đáng sợ như thế, em sẽ đau lòng đến chết!”

Nàng cuối cùng đau đớn bật khóc, tâm sự bí ẩn kìm nén rất lâu, đột nhiên thổ lộ ra, hết thảy nguyên nhân lại mềm yếu, ích kỷ, xấu hổ đến thế.

“Thực ra em hiểu tấm lòng chàng, chàng tốt với em, không phải chỉ vì muốn em quản lý nhà cửa, sinh con đẻ cái. Chàng thật lòng yêu em, tôn trọng em, dỗ em vui, muốn em vô lo vô nghĩ… nhưng em cứ giả vờ không hiểu! Bởi vì em sợ, em sợ…”

Râu vụng về lấy tay áo lau nước mắt cho nàng: “Em… em đừng khóc, ở cữ không được khóc…” Nói rồi chính hắn lại rơi nước mắt.

Minh Lan càng khóc to hơn.

Bọn họ ôm siết lấy nhau, đầu kề đầu, người dán người, nước mắt khó hiểu tuôn rơi, thấm ướt vạt áo và tay áo, như hai đứa bị ấm ức, an ủi lẫn nhau, sẻ chia hơi ấm.

Bọn họ đều bị hiện thực mài nhẵn ngây thơ và nhiệt tình từ sớm, học được các kiểu giả vờ trong cuộc sống, nhìn người, nhìn việc đều tràn ngập đề phòng, dè dặt, không chịu dễ dàng tin tưởng.

Cho đến trèo đèo lội suối, nghi ngờ, đau lòng, do dự, vòng một vòng lớn, mới phát giác, vốn dĩ ước muốn gần trong gang tấc.

Đây là Man Nương lần cuối cùng xuất hiện trong cuộc trò chuyện của họ, trong cuộc sống của họ.
 
Chương 220: Kết thúc 2


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
 
Chương 221: Ngoại truyện 1: Ngọc Châu


Ta tên Thẩm Ngọc Châu, trên ta là chị gái tên Trân Châu, phía dưới có hai em gái, lần lượt gọi Bảo Châu và Kim Châu. Chị gái và ta đều một mẹ sinh ra, hai em gái thì không phải.

Ta rất thông cảm cho em gái, vì có cái tên hàm ý vui mừng như thế mà từ nhỏ đến lớn đồ ăn cái mặc đều liên quan đến heo. Ví dụ, vòng tay bằng vàng hình đầu lợn nhỏ, trên giày nhung thêu hình chú heo mập mạp bằng chỉ vàng.

Em gái rất sầu.

Ta cảm thấy không thể đổ hết lỗi cho cha được, ông vốn không biết đặt tên, tên của chúng ta đều do mẹ đặt. Chị gái là con Cả nên được cái tên hay, ta đầu thai muộn một chút bèn chỉ có thể châu tròn ngọc sáng. Đương nhiên cũng không thể trách mẹ kế, bà căn bản không nghĩ sẽ sinh ra nhiều đứa trẻ như vậy. Trên thực tế, bốn đứa em trai khác mẹ của ta đều bị bà đặt tên càng thê thảm hơn, lần lượt là Đại Mao, Tiểu Mao, A Mao, Mao Mao. Tên của con chó nhỏ mà quản sự Chu nuôi còn hay hơn thế này.

Có câu tên xấu dễ nuôi sống, câu này thật chính xác, bốn em trai “lông” đều khoẻ mạnh hoạt bát, đặc biệt là Đại Mao, hắn vừa tròn mười tuổi, trong vòng mười bốn chiêu đã có thể hạ gục anh Cả. Cha ta rất vui vẻ, bảo đây là “hổ phụ sinh hổ tử”, nhưng dì của chúng ta rất không vui, ép anh em chúng ta lại tới khóc trước linh vị mẹ ta.

Vì sao nói “lại”? Bởi vì dẫn chúng ta cùng làm thế này, cha ta nghe thấy thì tốt nhất, không nghe thấy thì khóc đến khi ông nghe thấy, dù có giả vờ không nghe thấy thì cũng phải khóc đến mức ông ấy không giả vờ nổi nữa.

Ta rất phiền chán.

Từ thuở nhỏ dì đã lải nhải với chúng ta, cần phải hết sức đề phòng vợ kế của cha, mẹ kế đều có bụng dạ xấu, em gái sẽ cướp đi sự yêu chiều của cha, em trai sẽ cướp đi tước vị của anh Cả, còn hay kể lại việc giật gân của phủ Ninh Viễn hầu ra để khuyến khích chúng ta không thể coi thường mẹ kế và các em trai, em gái.

Không chỉ mỗi thế, dì còn hay bảo chúng ta phải làm nũng với cha, nhân cơ hội đòi này đòi kia, nào là cửa hàng điền trang, lễ vật được ban tặng, càng nhiều càng tốt. Anh trai ta sầm mặt lại, chẳng biết làm sao, chị gái ta từ bé chính là tiểu thư khuê các, chỉ có người khác nâng như nâng trứng, chỉ có ta là thẳng thắn nói rằng, ta sẽ không.

Dì đành phải tự mình làm mẫu.

Thực ra dì nào có cách gì hay, chẳng qua là liên tục khóc lóc kể lể người mẹ đã qua đời của ta hiền lành thế nào, xả thân vì người khác thế nào, công khai hoặc ngấm ngầm nhắc nhở cha ta phải khắc ghi trong lòng, tuyệt đối không được quên. Ta rất ghét như vậy, cảm thấy mẹ ở dưới đất cũng không được yên ổn, chết rồi còn bị người ta lợi dụng.

Chị gái hết sức bất mãn vì ta tỏ ra không hợp tác, cho rằng ta là đứa không lương tâm, không biết phân biệt địch ta, thường cất giọng rưng rưng: “Chẳng lẽ em quên người mẹ đã qua đời sao?”

Lời chỉ trích này làm ta rất chột dạ, cũng rất tủi thân. Lúc mẹ qua đời, ta còn chưa nói được thành lời, vốn dĩ chưa nhớ việc, đối với mẹ, ta chỉ mơ hồ nhớ được cảm giác ấm áp dịu dàng. Ai nấy đều bảo mẹ ta rất tốt, là người hiểu biết nhất thiên hạ, điều này ta tuyệt đối tin tưởng.

Mẹ đương nhiên là người tốt, nhưng mẹ tốt thì liên quan gì đến dì, đến cậu mợ và các bà các cô nhà họ Trâu? Tiểu Hoa và Tiểu Hoàng là hai con mèo con cùng một mẹ, một đứa rất ngoan, thích nằm trong lòng ta phơi nắng, một đứa lại rất bướng bỉnh, cắn loạn khắp vườn, hay gây rắc rối.

Đến giờ cha vẫn luôn tin tưởng mẹ, yêu ai yêu cả đường đi là đúng, chẳng lẽ còn phải yêu cả nhà của họ ư.

Dù sao ta không tin người nhà họ Trâu, bao gồm cả dì.

Dì không thích vẻ bướng bỉnh của ta, mở miệng ngậm miệng chỉ có “cậu Cả cô Cả”, ta cũng không thích bị dì nhắc tới.

Dì luôn bảo anh em chúng ta là cốt nhục của dì, có chúng ta, nàng chẳng cần gì nữa. Thế quanh năm suốt tháng dì tìm thầy thuốc, cầu đạo sĩ, mời ni cô, bỏ ra một đống bạc để làm gì. Vì sinh con mà uống thuốc đắng như thế, hơ cháy ngải cứu, đốt bản thân chỗ đen chỗ vàng, giống hệt con chó ghẻ của Tiểu Chu An làm gì?

Ta hỏi vú nuôi tại sao, vú nuôi mỉm cười từ ái, vuốt đầu ta: “Ngọc nhi thật thông minh, hiểu biết hơn anh trai và chị gái con nhiều lắm.”

Lại còn thế này nữa. Dì còn định gả ta cho con trai của cậu?!

Suốt ngày nói nhà cậu tốt thế này tốt thế nọ, mợ thích tôi thế này thế nọ, hỏi tôi “đồng ý hay không”, còn bảo cha rằng “Ngọc nhi hợp với Thuận nhi lắm, suốt ngày chơi với nhau, không nỡ rời xa, đúng là ‘trời sinh một đôi"”, ta vừa nói được hai câu “chúng ta ngày nào cũng đánh nhau, ta rất ghét hắn”, dì đã tươi cười ngăn chặn ta, không cho ta nói nữa, còn bảo “trẻ con mà, càng quậy càng thân”, tức chết ta mất!

Vú nuôi từng bảo, lấy chồng chính là ở cùng người khác cả đời, ai thèm ở cả đời với tên béo ị đó?

Anh họ là đứa con mà cậu về già mới có, vừa hống hách, vừa xấu xí, lại không thích đọc sách, còn hay bắt nạt người khác, chỉ có mỗi mợ coi hắn như tâm can bảo bối, ngay cả đứa hầu của ta hắn cũng dám đánh mắng, quả là ăn gan hùm mật báo! Hễ nhớ tới cái mặt giống đầu lợn của hắn là ta đã muốn nôn!

Chị gái còn kẻ cả khuyên ta, mở mồm ra là bảo ta phải ghi khắc ân tình của người mẹ đã khuất, ta bèn phản bác: “Chị quý họ tới vậy, sao không tự đi mà gả cho anh ta?”

Chị ấy dường như con ngỗng già bị bóp cổ, tức khắc câm miệng.

Hừ, của người phúc ta ai mà chẳng biết? Ta không tin nếu mẹ còn sống sẽ bắt ta gả cho cái hạng xấu xí tồi tệ đó! Dì biết mềm nắn rắn buông lắm, thấy chị gái một lòng muốn gả vào nhà cao cửa rộng liền coi thường ta nhỏ tuổi, dễ lừa gạt.

Trong số anh em chúng ta, người tin cậy dì nhất chính là anh Cả.

Các cậu còn nảy ý định để anh Cả lấy chị họ nhà họ Trâu về làm phu nhân.

Anh trai hoàn toàn bằng lòng, nhưng lại khiến cha tức điên người, nổi trận lôi đình, đuổi thẳng cổ chị dâu đang ở lại phủ về nhà, sau đó bắt buộc anh ấy không được gật đầu, trước khi anh ấy thành hôn con gái họ Trâu không được bước vào phủ, lại đánh anh trai mấy chục gậy, vả miệng dì mấy chục cái, chép kinh Phật ba trăm lần.

Dì khóc ngất lên ngất xuống, chỉ vào cha ta nói: “Hầu gia xem thường con gái họ Trâu thế ư, chẳng lẽ chị gái em không phải họ Trâu?”

Cha ta tức cười, lần đầu tiên tỏ ra cây ngay không sợ chết đứng: “Câu này là chị gái cô từng nói khi còn sống nhé. Cô ấy nói các anh trai của mình không nên thân, các chị dâu cũng không giống có thể dạy dỗ được đứa trẻ tốt, nâng đỡ chút cũng được, tuyệt đối không thể để con cái dính vào hôn nhân!”

Sau lần này, dì nhụt chí độ nửa năm, họ Trâu cuối cùng cũng yên ổn, không còn mưu tính hôn sự của anh em chúng ta.

Vú nuôi ôm ta, rơi lệ: “Mẹ con mạng khổ, vất vả từ bé, cả đời chưa được hưởng mấy hôm an lành. Lúc làm con gái thì lão thái gia yếu đuối, không có chủ kiến, lão thái thái lại mất sớm, anh trai chị dâu muốn lấy mẹ con để trèo lên cành cao, may mà mẹ con gả cho cha con. Sau khi kết hôn mẹ con lại lo liệu trong ngoài, thậm chí còn phải lo cho cả vương phủ?! Chị gái ta cũng từng khuyên mẹ con phải bảo trọng thân thể. Nhưng mẹ con mười mấy năm đều quen tự mình gánh vác mọi chuyện, bản tính đã thế làm sao thay đổi được!”

Ta nghe mà không hiểu lắm nhưng cũng dậy nỗi đau lòng, rơi nước mắt.

Chẳng bao lâu, chị họ kiêm công chúa giá lâm, trong nhà càng ồn ào hơn.

Anh Cả ta không biết nghe ai xúi giục, yêu cầu vợ phải coi dì như “mẹ chồng đứng đắn”, chị dâu công chúa tức điên, suýt thì dỡ cả mái nhà ra, anh Cả sợ tới nỗi lăn ra đất. Có điều làm ầm ĩ cũng vô dụng, dì đâu chịu buông tay với anh Cả, thường thường nhúng tay vào việc trong phòng anh ấy, hôm nay đưa đứa hầu đến, ngày mai mời chị họ Trâu đến ở, cùng ôn chuyện cũ.

Chị dâu công chúa giận dữ bèn vào cung cáo trạng, cô hoàng hậu của ta cũng giận lây, sai ma ma đến đánh cho dì một trận, anh họ Nhị hoàng tử còn đưa ra ý kiến hư hỏng, thu xếp cho chị họ Trâu một mối hôn sự chả ra gì, nghe nói ông chồng tương lai chẳng những dưa vẹo táo nứt, gia thế cũng chẳng đâu vào đâu.

Chị dâu công chúa mỉm cười biểu thị với dì, sau này nếu dám giới thiệu cho ông xã chị ấy tình nhân, chị ấy bèn mời mẫu hậu thu xếp hôn sự cho thiếu nữ nhà họ Trâu (chị em họ Trâu nhiều lắm), xem mà làm đi.

Chị dâu công chúa ghê gớm, dì cũng không phải dạng vừa, minh thương không được thì chơi ám tiễn, âm thầm ngáng chân, sau này anh Cả hoặc lạnh nhạt công chúa, hoặc cãi nhau với công chúa. Trong một tháng thì có tới nửa tháng chị dâu phải cô đơn khó chịu một mình, nửa tháng cãi cọ ỏm tỏi với anh trai, thỉnh thoảng anh họ Nhị hoàng tử còn tới trợ giúp.

Một nửa phủ Thẩm rơi vào náo động, cha ta không chịu nổi bèn dời hẳn vào Nam viên ở với mẹ kế, hai người vừa vặn gắng sức sinh em bé.

Vì hôn sự của anh Cả không êm thấm, đến khi chị gái chuẩn bị làm mai, cha quấn chặt lấy mẹ kế để thương lượng.

Cô hoàng hậu vẫn rất thương chị gái, hai lựa chọn trên tay đều là thượng hạng, một là thế tử Vệ vương, cao quý ôn hoà, tài mạo hơn người, một là Bạc Tiểu tướng quân vừa lập công ở biên quan đã về triều, anh hùng thiếu niên, anh tuấn bất phàm.

Mẹ kế nói năng hào sảng, khen ngợi nhà họ Bạc: “Cuộc sống phải nhìn chi tiết. Nhà họ Bạc nhân khẩu đơn giản, lại giàu có, thanh danh tốt, ắt hẳn đỡ lo. Vệ thế tử dù tốt, nhưng dù sao cũng là thân vương tôn thất, thứ phi được khắc vào ngọc điệp phải có bốn vị, hoa thơm cỏ ngọt còn thiếu được sao? Huống chi là hoàng gia, nếu chịu tủi thân thì biết làm thế nào?”

Lần này ngay cả cha cũng thấy có lý, đáng tiếc chị gái và dì hoàn toàn không đồng ý, dì còn nói với chị gái mẹ kế không muốn chị gái gả cho nhà cao cửa rộng đấy. Chị gái hoàn toàn tin tưởng.

Sau đó, chị gái quả nhiên có một đống “chị em tốt”, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Sau đó nữa, vị Bạc Tiểu tướng quân vớ bở được cháu gái đằng ngoại của thím nhà họ Cố.

Mẹ kế còn từng đưa ta đón ăn tiệc cưới của họ, ta không nhìn thấy cô dâu mới, song nghe rất nhiều bà nhiều cô tán dóc, nói Viên nhị thái thái nổi tiếng biết sinh dưỡng, lại xinh đẹp hiền lành, con gái Cả của bà ấy nhất định cũng tốt.

Sau này, vợ chồng Bạc Tiểu tướng quân quả nhiên hoà thuận, cũng quả nhiên có rất nhiều con cái.

Anh chị em lần lượt lập gia đình, mẹ kế thấy ta vẫn đùa nghịch lấm đầy bùn đất với Đại Mao hàng ngày, không ra thể thống gì bèn không chịu nổi, đưa ta đến lớp học dành cho con gái nhà họ Trịnh, mời tiên sinh quản giáo, tu dưỡng tính tình.

Dì lại trở nên sốt sắng, không dám nói với cha ta, sợ lại bị đánh bèn ậm ờ với ta cả nửa ngày, ta mất kiên nhẫn thốt: “Tiết Đại gia chẳng phải là tiên sinh tốt còn gì?” Dì: “…Đúng vậy.”

“Nhà họ Trịnh sẽ ức hiếp ta ư?” Có dì nhỏ ở bên, làm sao có thể.

Dì: “Chưa chắc.”

“Vậy tại sao dì không muốn con đi?”

“Phu nhân cố ý tỏ ý tốt với con! Muốn lung lạc con!”

Ta trợn mắt: “Thì sao chứ.”

Dì đúng là cả nghĩ quá, rõ ràng không kém mẹ kế mấy tuổi mà cứ như già hơn mười tuổi.

Anh trai chị dâu thành hôn được mấy năm mà quan hệ vẫn một mực lạnh lẽo như băng, không có con nối dõi, thoáng trông mấy nhóc Mao càng ngày càng lớn, cha lại càng lo lắng. Năm ấy lão Vệ vương qua đời, chị gái và thế tử phải về đất phong, trước khi đi, cha cố ý gọi ba anh em chúng ta tới ăn một bữa cơm.

Sau mấy lượt rượu, người cha xưa nay luôn kiên cường cương nghị chợt bật khóc, người cha trước giờ luôn chân thành với anh trai đột nhiên khóc.

Anh Cả tức khắc hoảng hốt.

Cha bảo anh Cả: “…Coi như cha cầu xin con, hãy để dì Trâu đi đi. Con và công chúa không thể tiếp tục như thế… Công chúa không phải con dâu tầm thường, bây giờ nó giận hờn đầy bụng, chính mình không có con trai trưởng cũng không chịu nhận con thứ. Đến lúc đó, tước vị sẽ…”

Ta và chị gái đều hiểu, chị gái cũng khóc nức nở, khuyên nhủ: “Anh trai nghe lời cha đi, dì… dì vốn không phải người tốt… lòng dạ chẳng tốt đẹp đâu.”

Cha chỉ là người đàn ông bình thường, không trung trinh cũng chẳng bạc tình.

Cha đương nhiên yêu thương mẹ chúng ta sâu sắc, nhưng nước chảy đá mòn, vợ kế con nhỏ ngày ngày bên người. Hắn chỉ có thể thừa dịp tâm trí còn kiên định mà làm những việc cần làm, cho những thứ cần cho, hoàn thành tâm nguyện nhiều năm trước tự đặt ra với bản thân mình.

Cha khóc rưng rức, lảo đảo ra chiều muốn đứng dậy: “…Chẳng lẽ con bắt ta phải quỳ xuống ư! Cầu con, đừng để sau khi cha chết không còn mặt mũi nào gặp lại mẹ con…”

Anh Cả cuối cùng không chịu được, khóc lóc đáp ứng.

Hôm sau, chị gái rời khỏi kinh thành, theo chồng đến đất phong, cuộc đời này chị ấy không còn trở lại kinh thành nữa, sau này tốt hay xấu chỉ có thể dựa vào bản lĩnh của chính mình.

Cùng ngày, một nhóm đứa ở bà hầu đưa dì bị trói chặt chuyển ra khỏi phủ Thẩm, đưa thẳng vào nhà thờ tổ, canh giữ nghiêm ngặt.

Cô hoàng hậu biết được bèn cố ý gọi chị dâu công chúa vào cung hàn huyên một hồi, công chúa đỏ mắt trở về, anh trai đỏ mắt tiến đến, hai người từ từ mềm mỏng xuống. Mấy tháng sau, chị dâu công chúa có thai.

Cha cuối cùng thở phào nhẹ nhõm. Mẹ kế vẫn thản nhiên như trước, dường như vở kịch vui buồn này chẳng hề liên quan tới bà ấy.

Kỳ thực ta cảm thấy mẹ kế cũng không dễ dàng, xuất thân cao như thế mà tuổi trẻ lại phải làm vợ kế, con riêng lại là anh Cả không đáng tin như vậy, ngay cả thể diện ngoài mặt cũng không làm nổi, nếu là người yếu đuối hơn thì có lẽ sầu chết mất. Nhưng mà bà ấy vẫn có thể chỉ huy thị vệ giết tặc trong đêm tối, cầm kiếm sát khí đằng đằng, vừa uy phong vừa sôi nổi, so với dì và anh trai chị gái chỉ biết run cầm cập của ta giỏi hơn nhiều.

Mẹ kế thực ra không mấy am hiểu việc quản gia, cũng hoàn toàn không thích, bà ấy hướng tới cuộc sống bình thản nhàn nhã, tình thơ ý hoạ, có điều con cái suốt ngày vui cười đầy nhà, mỗi ngày từ sáng đến tối đều ồn ào náo nhiệt.

Mỗi lần bà kiểm tra xong việc học của ta, tay nâng một chén trà, vừa mới đặt mông xuống ghế, định vung bút vẽ vài nét tranh sơn thủy, hoặc làm vài câu thơ thì sẽ…

Đại Mao cầm bảo kiếm của cha đùa nghịch, cha không dám mạnh mẽ giành lại, chỉ hô to “Quế Phân, em mau đến đây”, Tiểu Mao thì đang bôi mực nước toe toét lên người Kim Châu thành con mèo hoa, Kim Châu ngồi trên giường gào khóc, A Mao và Mao Mao quấn lấy nhau cấu xé, Bảo Châu thì bỏ quách việc tô chữ, bò lên đầu ta theo dõi tình hình chiến đấu lân cận, gào lên “mẹ, mẹ nghe mẹ nghe kìa, các anh lại đang đánh nhau”, ta thì cáu kỉnh hét lên “ranh con chết tiệt xuống mau, không được kéo tóc chị, chị viết sai bây giờ”!

Trán mẹ kế hằn gân xanh, siết chặt cán bút phát ra tiếng kẽo kẹt, kết quả cuối cùng thường là bà ấy vận đan điền, bực tức gầm lên như sư tử Hà Đông, chấn động nóc nhà: “Cút hết ra ngoài cho ta!”

Hiện thực thật sự chênh lệch quá lớn với lý tưởng, mỗi lần Cố hầu phu nhân nhìn thấy tình hình này đều nhoẻn cười nhận xét.

Rất nhiều người đều bảo mẹ kế không thân thiết với ta, nói thực lòng, ta thấy bà ấy còn chẳng thân với hai con gái ruột lắm, thường ngày cũng hay giáo huấn. Tính tình mỗi người mỗi khác, trên đời có người như thím họ Cố, bẩm sinh đã có mắt cười, khoé miệng tươi tắn, hay cầm tay chị Dung dạy viết chữ thì cũng có người kiêu ngạo khí khái như mẹ kế, vĩnh viễn không thể tỏ ra mềm mại.

Ít nhất những việc bà ấy làm cho ta đều có ích.

Lúc đi học, ta kết giao được các vị chị em tri kỷ trọng tình, học được nhiều lý lẽ đối nhân xử thế, biết tính sổ sách, biết may vá quần áo đơn giản, gặp gỡ bề trên nhà khác cũng có thể ra vẻ đoan trang dịu dàng, cười không lộ răng.

Sau khi định ra hôn sự, mẹ kế lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất trong đời tìm ta tâm sự, nàng nhìn ta, vẻ mặt phức tạp: “Con là đứa ngoan, lòng rộng rãi khoát đạt, không để bụng, đây là may mắn lớn nhất.”

Biết ta sắp lấy chồng, Đại Mao tức thì khóc như cha chết.

Nghe nói lúc mẹ kế sinh Đại Mao rất gian nan, vốn dĩ rất thương nó, nhưng mấy đứa Mao mấy đứa Châu liên tục sinh ra thì liền ít để ý được tới nó. Từ bé đến lớn ta thân nhất với Đại Mao, cùng nhau đùa nghịch, cùng nhau bị phạt, ngay cả mấy lần thay răng sữa của nó cũng cùng nhau ném.

Đại Mao đau lòng gào khóc mấy hôm, giương ánh mắt hung hăng trợn trừng anh rể, còn coi người ta như trộm, tuyên bố nếu hắn đối xử tệ với ta thì nó sẽ cho hắn đẹp mặt!

Tình cảm giữa ta với chồng rất tốt, trước mặt mọi người ta cho hắn thể diện, hiền lành ngoan ngoãn, tuyệt đối nghe theo, sau lưng mọi người thì ngược lại, hắn hay nằm sấp trên giường làm ngựa cho ta cưỡi.

Nhiều năm sau, chúng ta ở riêng, hỏi qua ý kiến bề trên, ta đến nhà thờ tổ đưa dì ra, tóc hoa râm, mặt đầy nếp nhăn, dì đã già nua lắm rồi.

“Sau này ngài ở với chúng ta nhé. Chúng ta cùng đón giao thừa, ăn tết, trong nhà nhiều trẻ con, ngài giúp đỡ để ý cho con, con sẽ bảo chúng nó hiếu thảo với ngài.”

Không dám nói sẽ cho dì sống vinh hoa phú quý, nhưng ít ra có thể vui vẻ, có con cháu ân cần hỏi han, hầu hạ thuốc thang trước giường.

Dì run giọng: “Con, con… Vì sao…”

Trước đây, dì không thích nhất là ta, ta cũng không thích dì cho lắm, bây giờ lại là ta phụng dưỡng dì.

“Không vì sao cả.” Ta nói: “Ngài là em gái của mẹ con, lại nuôi dưỡng dạy dỗ con mấy năm.”

Dì gào khóc, nước mắt như mưa.

Nàng hoang đường nửa đời, cuối cùng lại có kết cục như vậy.
 
Chương 222: Ngoại truyện 2: Tú xảo


Đình viện nhã nhặn xinh xắn, vài cây chuối tây di chuyển từ phía Nam tới đung đưa theo gió, cảnh xuân tươi đẹp lộ ra nửa cánh cửa sổ buông rèm, một người con gái ăn vận đã có chồng ngồi bên cửa sổ, cúi đầu chăm chú xe chỉ luồn kim. Một đứa hầu gái búi tóc hai bên bê khay trà lại gần, nhỏ nhẹ: “Mợ Tư nghỉ ngơi một chút đi, trưa rồi, để con xoa cổ cho ngài.”

Thiếu phụ ngẩng đầu, cười nói: “Được.” Đặt xuống khung thêu, cầm trà thổi nhẹ.

Đứa hầu gái xoa bóp vai cổ thiếu phụ, lầu bầu: “…Hõm vai cứng như gỗ thế này này, ngài không yêu quý bản thân gì cả, cậu Tư nhìn thấy lại thương, kiểu gì cũng hằn học với bọn con.”

Thiếu phụ mỉm cười ngại ngùng, không hề trả lời.

Nàng yêu thích việc may vá từ bé, giỏi thêu thùa, từ khi vào cửa, thường hay làm ít trang sức quần áo cho chị dâu và cháu gái, còn cả cụ bà và mẹ chồng ở xa nữa, rất hay được khen ngợi.

Chồng mấy lần kêu nàng làm ít đi, nàng chỉ e thẹn cười, có lần nàng chợt hỏi: “Chàng có biết khuê danh của em không?” Chồng vốn tuấn tú, hiền lành lương thiện, song tự dưng đùa dai: “Tôi biết, gọi là chuột con.” Nàng giả vờ giận dỗi, chồng bị đánh yêu bật cười ha hả mới nói: “Được rồi được rồi, tiểu sinh không dám nữa… Ừm, tôi nghe mẹ vợ gọi em là Nhị Nha.”

Nàng ngượng ngùng: “Đó là tên ở nhà, còn khuê danh chính thức của em là Tú Xảo.” Nàng duỗi đầu ngón tay từ tốn vẽ ra hai chữ trong không trung, hơi tỏ ra kiêu ngạo.

“Chị dâu Cả và chị dâu Ba giỏi giang, có học vấn, có kiến thức, em thúc ngựa cũng chẳng đuổi kịp, may mà còn có phương diện này thể hiện bản lĩnh…” Nàng nhỏ giọng: “Trời lạnh hơn, dì Hương đi đứng bất tiện, em làm cái băng bảo vệ đùi cho dì ấy.”

Trong mắt chồng tràn ngập thương yêu, lại gần khẽ khàng bên tai nàng: “Luận đọc sách, luận xã giao tôi có mà thúc ngựa cũng chẳng đuổi kịp hai anh trai, chúng ta hợp cạ đấy, cả đời không xa rời nhau nhé.”

Lòng Tú Xảo lan tỏa ngọt ngào, hạnh phúc như muốn bay lên. Chồng vừa dịu dàng săn sóc, lòng dạ lại nhân hậu, trong phòng không có kẻ khác, hai vợ chồng nhỏ từ khi thành thân đến giờ đều ngọt ngào như mật, chia sẻ mọi việc, chưa bao giờ to tiếng với nhau.

Ai nấy đều khen nàng may mắn, mấy năm nay, họ hàng nhà họ Thẩm có không ít người phát tài giống nhà nàng, nhiều chị em gả vào nhà cao cửa rộng, nhưng ít có người sống thuận lợi được như nàng.

Gia tộc họ Thịnh là dòng dõi thư hương, đàn ông nhà đều có công danh, các cô đi lấy chồng cũng vẻ vang, quan hệ thông gia không hề thiếu nhà hiển hách quyền quý, thật đúng là phú quý song toàn.

Cha chồng xử xự nhã nhặn, làm người đường hoàng (đối với Tú Xảo là thế), dù ít khi gặp con dâu nhưng thường xuyên dạy dỗ mấy con trai phải tề gia chu toàn thì mọi sự mới trôi chảy, tuyệt đối không được gây ra chuyện sủng thiếp diệt thê tai hoạ gia đình.

Chỉ vì vấn đề này, anh Ba tài hoa nổi tiếng kinh thành đã từng bị cha chồng trách mắng và đánh phạt không chỉ một lần, nhiều lần đều là chị dâu Ba đến cứu.

Tú Xảo tận mắt trông thấy hai lần. Một lần anh Ba lỡ kết giao với bạn xấu, bị dẫn vào lầu xanh, còn làm quen với một vị “kỳ nữ tử” bán nghệ không bán thân, làm cha chồng sợ tới xanh cả mặt, cấm cửa anh Ba không cho ra ngoài hai tháng, phạt đánh hai mươi gậy, sao chép gia huấn nhà họ Thịnh năm trăm lần, trong đó có một điều là con em họ Thịnh tuyệt đối không dính dáng đến phụ nữ lầu xanh.

Kỳ thực, Tú Xảo cảm thấy cha chồng hơi quá đáng, kẻ đọc sách hay thích học đòi văn vẻ mà, ngay cả anh Hai ruột kiêm tên mọt sách nhà nàng đều từng dạo lầu xanh, vui vẻ thôi mà, có cậu ấm nào sẽ coi như chuyện nghiêm túc chứ, cha chồng cần gì tức điên lên như thế, anh Bà dù sao cũng là người làm cha, chẳng nể mặt chút nào.

Nào ngờ cha chồng thở dài: “Con không biết, chúng ta trước kia có một ông chú, cụ để lại cho gia tài bạc triệu, còn cả con gái ruột, nhà cửa đang yên đang lành thế mà bị huỷ hoại trong tay phụ nữ lầu xanh đấy. Phận dưới như các con chưa từng thấy, nhưng cha thì chính mắt theo dõi.”

Lần khác thì là vì trước khi tham dự kỳ thi mùa xuân độ hai tháng, một đứa ở chuyên hầu hạ ở thư phòng anh Ba đột nhiên có thai, lúc đó cha chồng đang ra sức chỉ dạy thúc giục con trai thi cử, nghe tin liền tức khắc nổi trận lôi đình, phạt bằng sạch tất cả những đứa hầu trong thư phòng anh Ba, còn đuổi đứa ở đến thôn trang, buông lời tàn nhẫn “nếu lần này không thi đỗ thì bỏ cả mẹ lẫn con.”

Sau đó, anh Ba quả nhiên thi đỗ, còn đứng hàng đầu Nhị giáp.

Thực ra anh Ba hết sức thông minh, tài hoa trác tuyệt, làm người cũng nhiệt tình, từ lúc hai nhà Thịnh Thẩm kết thân đã sôi nổi lôi anh Hai mọt sách của nàng tới khắp nơi thấy việc đời, tham gia các loại hội hè, tiến cử đại nho ẩn sĩ cho, anh Hai Thẩm vô cùng vui sướng, liên tục bảo cha Thẩm mẹ Thẩm rằng hôn sự này quá là tốt.

Thứ Anh Ba họ Thịnh thiếu chẳng qua là nghị lực tự thân, thường hay chủ quan lơ là, cần người cương nghị quả quyết kéo về đúng đường, ví dụ cha chồng, ví dụ… chị dâu Ba.

Thực ra dù anh Ba có lưu luyến hoa cỏ thì vẫn cực kỳ kính yêu chị dâu Ba… ừm, gần như là kính sợ ấy chứ. Có điều, chị dâu Ba xử sự công chính, thủ đoạn lợi hại, cũng xứng đáng với niềm kính trọng này.

Ban dầu, Tú Xảo thấy chị dâu Ba nghiêm nghị, nói năng thận trọng, không hoà nhã dễ gần như chị dâu Cả thì khá là căng thẳng, nhưng lâu ngày nàng mới phát hiện chị dâu Ba kỳ thực rất tốt, sẵn sàng kiên nhẫn dạy nàng xử lý công việc, xã giao tiếp khách.

Nàng vui mừng khấp khởi kể lại cho chồng, ai ngờ chồng bật cười: “Anh Ba như thế, chị dâu Ba mà không nghiêm mặt, siết chặt quy củ thì trong phòng đã trở nên lộn xộn rồi, còn chị dâu Cả… em gặp anh Cả rồi còn gì, người như anh ấy, nếu chị dâu Cả không niềm nở cười nói thì làm sao mà sống được.”

Nhắc tới anh Cả, Tú Xảo liền le lưỡi, biểu lộ khó mà chịu nổi.

Con Cả nhà họ Thịnh ra ngoài nhậm chức, cho đến giờ, Tú Xảo mới chỉ chính thức gặp anh Cả một lần, lại cảm thấy còn khẩn trương hơn cả gặp gỡ cha chồng, mà không phải chỉ mình nàng cảm thấy vậy. Trước mặt cha chồng anh Ba thỉnh thoảng còn dám cười đùa vài câu, hai cha con đôi khi bàn luận thơ văn, nhưng trước mặt anh Cả, anh Ba liền ngoan ngoãn khoanh tay đứng im, không dám liếc ngang liếc dọc.

Năm đó con trai trưởng của anh Ba biết nói, nũng nịu đáng yêu hết sức, anh ba thấy cha chồng thích bèn nảy ra ý định dẫn mẹ ruột từ thôn trang về: “…Nếu thật sự không thể thì để dì gặp thằng bé cũng được, tốt xấu gì nó cũng là cháu trai ruột của bà ấy…”

Nghe nói lúc đó anh Ba vừa nói vừa khóc.

Cha chồng cũng hơi mềm lòng, đáng tiếc anh Ba thật xui xẻo, đúng lúc anh Cả có việc gấp về kinh báo cáo công việc, biết được việc này liền liếc xéo qua, anh Ba bèn câm miệng.

“Dẫn về làm gì? Trở về lại gây hoạ cho người khác.”

Anh Cả trước mặt mọi người thì không nói thêm gì, nhưng sau lưng thì gọi cả em út lại, ba anh em đóng cửa thì thầm: “Cậu xem trong đám chị em gái, ngoại trừ cái Tư, có đứa nào không phải vợ chồng mỹ mãn, con cái quanh gối. Chính vì dì Lâm nên nhân duyên của cái Tư mới như thế! Thân là thiếp hầu, chẳng những không có một chút kính sợ nào với thái thái và lão thái thái, còn mặc kệ cả quyết định của lão gia, tự ý làm bậy, ỷ vào cái gì, còn chẳng phải vì có con trai là cậu!”

Việc cô Tư nhà họ Thịnh, Tú Xảo cũng từng nghe qua. Năm đó cậu Lương ngay trước mặt mọi người ôm cô Tư, kết thành hôn sự, không thiếu bị người chê trách, dù hai nhà Lương Thịnh công bố đó chỉ là việc bất ngờ nhưng nhiều người đều lén lút bàn tán, nói họ Thịnh trị gia không nghiêm, để mặc con thứ vợ bé ngang nhiên tính kế công tử phủ Hầu.

Cuối cùng sau này kết thành thông gia, một chiếc khăn voan che phủ quá khứ, bàn tán mới dần dịu xuống.

“Cậu cũng là người làm cha, nếu tương lai có đứa vợ bé ỷ vào sự yêu chiều của cậu, con thứ lại triển vọng, làm xằng làm bậy một lần thì đã sao, dù sao chỉ cần mấy năm là được tha thứ, cậu nghĩ gia môn họ Thịnh có thể chống đỡ nổi mấy lần.”

Anh Cả nói chuyện với ngữ điệu phẳng lặng nhưng lời lẽ như kim đâm, khắp nơi thấy máu, anh Ba lúc ấy mồ hôi chảy ròng ròng, sau đó gần như bật khóc.

Bấy giờ, anh Cả chợt dịu giọng, đích thân dìu anh Ba ngồi xuống cạnh mình, ôn hoà khuyên nhủ: “Chúng ta là đàn ông, thuở thiếu thời dựa vào xuất thân, đến khi trưởng thành phải dựa vào bản lĩnh. Cậu bây giờ không phải con trai dưới gối cha mẹ mà là người có vợ có con, tương lai phải đơn độc chống đỡ một gia đình, nếu không kiên định, chỉ biết xuôi theo tình cảm thì khác gì đàn bà con gái!”

“Nếu cậu hận anh, tương lai phụ thân trăm tuổi, anh em chúng ta không qua lại là được. Dù chúng ta không phải cùng một mẹ sinh ra nhưng dẫu gì vẫn cùng chung huyết thống, chẳng lẽ tôi không mong hai cậu tốt? Không mong các cậu có thể làm vẻ vang gia tộc, nhưng ít ra cũng có thể thẳng thắn làm người. Nam tử hán đại trượng phu, đối diện thị phi, tình cảm phải đặt ra đằng sau, không phải tôi bắt cậu vô tình vô nghĩa, mà tình cảm cũng phải sử dụng hợp tình hợp lý!”

Nghe chồng bảo, đến cuối cùng, anh Ba ôm chân anh Cả khóc nức nở, liên tục kêu gào bản thân không phải, thề với trời sẽ không hồ đồ nữa, nhất định sẽ lấy gia tộc làm trọng, em út vô tội cũng bị răn dạy theo mà cất lời thề thốt.

Chồng về nhà cứ ngây ngẩn, hồi lâu mới phục hồi tinh thần lại, ôm cô vợ nhỏ thương mến khóc hu hu, Tú Xảo biết đây là lần cuối cùng anh Ba cố gắng đưa dì Lâm trở lại.

Nghe nói sau đó lão phu nhân cũng gửi một bức thư cho cha chồng, nói chẳng “chỉ cần ta còn sống, đừng hòng đưa dì Lâm về”, đến lúc này ngay cả cha chồng cũng không hề nhắc lại nữa.

“Bà nội tại sao phải làm thế? Dù sao anh Cả đã thuyết phục anh Ba rồi mà.” Làm vậy chẳng phải nhận lấy cháu trai ghét bỏ.

Chồng than thở: “Bà nội chính là người như vậy, dù không ưa nói chuyện nhưng trong lòng rất nhân từ. Bà sợ cha con anh em hiềm khích liền kéo hết về bản thân.”

Tú Xảo mới gặp bà nội vài lần, tính cách nàng vốn ngại ngùng, lại không biết dẫn dắt chuyện trò, dù ở ngay trước mặt bà nội cũng không biết nói gì, cảm thấy bà hơi lạnh lùng, không dễ thân cận, nhưng hàng ngày lúc rảnh rỗi, chồng luôn bảo bà nội là người chân thật tốt bụng nhất nhà.

Nghĩ một vòng, Tú Xảo phát hiện bản thân quên béng mất Vương thị, làm vợ, có khi hầu hạ mẹ chồng còn quan trọng hơn cả hầu hạ chồng, nhưng nàng hoàn toàn không phải lo vấn đề này, bởi vì mẹ chồng của nàng đã ở nhà thờ tổ dưới quê nhiều năm.

Làm gì? Cầu phúc thay lão phu nhân.

Thật kỳ quặc. Dù ngây thơ như Tú Xảo cũng biết việc này không đơn giản, nhưng nàng nhát gan, việc không nên hỏi nàng tuyệt đối không nhiều lời.

Mẹ chồng trên danh nghĩa không ở, trong nhà lại có mẹ chồng thứ hai cần hầu hạ, đó là dì Hương.

Trước khi xuất giá, mẹ Thẩm từng lo lắng con gái nên sống chung với mẹ chồng thứ hai này như nào, nhẹ không được, nặng không xong, nào ngờ sự lo lắng này đều vô ích.

Dì Hương rất biết điều, luôn xưng hô Tú Xảo là “mợ Tư”, thái độ cung kính khách khí, không khác với dâu Ba Liễu thị là mấy, không bao giờ xen lời vào việc trong phòng con trai một câu. Sau này Tú Xảo còn biết được, không lâu trước khi bọn họ thành thân, chính dì Hương nói với cha chồng thu xếp để hai đứa hầu ngủ của chồng ra ngoài.

Dì Hương không mấy xinh đẹp, kém xa dì Phương hầu hạ bên người cha chồng, nhưng cũng có vẻ thanh tú bình thản riêng, lúc cười lên giống hệt chồng, chỉ có điều đáy mắt đầy vẻ vất vả, hốc hác. Nhìn bà nhiều tuổi rồi còn thường thường đứng trước cửa phòng cha chồng kéo rèm, đưa nước bưng trà, Tú Xảo bỗng dưng lại khó chịu.

Người giỏi thêu thì thường ánh mắt tinh nhạy, Tú Xảo chú ý quan sát thân hình dì hương rất lâu, sau đó lén lút làm một bộ áo trong, chất bông mềm mại, đường may mịn màng, giống như làm cho mẹ đẻ mình, mang lòng cảm ơn, từng đường kim mũi chỉ đều đặc biệt tỉ mỉ. Sau đó sai hầu gái vụng trộm đưa sang.

Dì Hương nhận quần áo nhưng không nói gì, chỉ nhìn Tú Xảo với ánh mắt càng ngày càng dịu dàng, xen ít vẻ cảm kích chua xót. Thêu Xảo vui sướng, về sau thường làm ít đồ linh tinh, mũ ấm mùa đông, áo cộc tay mùa hè, dép mềm, lồng ủ tay xinh xắn… Dì Hương cũng lén sai người nhắn lại, bảo Tú Xảo đừng làm nữa.

Tú Xảo ngoan ngoãn nghe lời, bẵng đi một đợt, nàng lại làm tiếp. Không lâu sau đó chồng biết chuyện. Đêm hôm đó, chàng ôm nàng ngồi yên một lúc, kề cái đầu nặng lên hõm vai nàng, nàng có thể cảm thấy trên vai thấm ướt.

Vào cửa được hơn nửa năm, dì Hương đột nhiên bị bệnh.

Chẳng qua chỉ là cảm lạnh nhưng lại mãi mà không khỏi, ông thầy thuốc già nổi danh kinh thành nói “vất vả âu lo quá mức, lâu dần liền kiệt sức”, khó khăn lắm mới lành bệnh, lại gầy rộc hẳn một vòng, quần áo rộng thùng thình.

Tú Xảo sực nhớ tới năm đó, Trâu phu nhân nhà Thẩm quốc cữu cũng là như thế. Thầy thuốc bảo bà ấy vất vả lâu ngày, mệt nhọc phí sức, trong người trống rỗng, ngay cả bệnh vặt cũng không chịu được.

Dì Hương khổ sở từ bé, không cha không mẹ bị bán đến đây, trong phủ không chỗ dựa dẫm, bà Cả tính tình bất thường, bà ấy phải xử sự cẩn thận, càng chưa kể tới dì Lâm được yêu chiều, bà ấy càng thấp thỏm suốt ngày, không dám nổi bật, dè dặt sống mười mấy năm, khó khăn lắm con trai mới lập gia đình, có công danh, bà ấy vẫn còn phải tiếp tục chịu đựng.

Tú Xảo xót xa vô ngần, có lần tới thăm bệnh, thừa dịp không có ai trong phòng, nàng nhẹ nhàng lại gần, nói nhỏ bên tai dì Hương: “Dì nhất định phải giữ gìn sức khoẻ, sống lâu trăm tuổi, bao giờ chúng con ở riêng còn cần dì chỉ bảo, dạy dỗ em bé nữa.”

Dì Hương rơm rớm nước mắt, vỗ nhẹ tay nàng, khẽ khàng: “Con ngoan lắm, cậu Tư có thể lấy được con thật may mắn.”

Nếu đổi thành quý nữ xuất thân danh môn vọng tộc như chị dâu Cả chị dâu Ba, biết đâu còn không hạ thân phận được, nhưng Tú Xảo hoàn toàn khác, nàng là con gái tri kỷ của mẹ Thẩm, chưa học quy củ cao cấp gì, lại quen làm nũng với cha mẹ, bây giờ đổi người cũng thấy quen thuộc.

Nàng thường nhân lúc không có người hay đến thầm thì bên tai dì Hương.

“Dì ơi, chồng con giống hệt trẻ con, hôm qua đọc sách đến nửa đêm không ngâm chân đã lên giường rồi…”

“Dì ơi, con bảo chàng ban đêm nhất định phải ăn khuya, nhưng chàng hễ đọc sách là quên tiệt, chàng không nghe lời con, ngài nhớ phải khuyên chàng nhé…”

“…Dì ơi, sắp đến sinh nhật chàng rồi, chàng thích ăn gì, chúng ta cùng nhau làm cho chàng ăn, được không?”

Áng chừng là có điều nhớ nhung, tinh thần dì Hương chậm rãi tốt lên, sau lưng người khác hai người càng ngày càng thân thiết, trước mặt mọi người thì vẫn không dám biểu lộ quá nhiều, mẹ chồng con dâu tựa như chơi trốn tìm, có bí mật nho nhỏ, ấm áp.

Người khác có lẽ không biết, nhưng Tú Xảo luôn cảm thấy chị dâu Ba thông minh nhanh nhẹn đã phát hiện từ lâu, chẳng qua không bao giờ vạch trần. Sau này, hai chị em thân thiết hơn, chị dâu Ba còn thở dài: “Thực ra dì Hương… em và cậu Tư như vậy đã là tốt lắm rồi.”

Tú Xảo hiểu ý chị ấy.

Dù anh Ba giỏi hơn chồng nàng mọi mặt, nhưng có một khía cạnh lại hoàn toàn không bằng. Mai sau ở riêng, nếu anh Ba thật sự tiếp nhận dì Lâm không yên phận đó ra ở cùng, chị dâu Ba liền phiền phức. Hai phòng bọn họ vừa khéo trái ngược, Tú Xảo mong ngóng nhanh chóng được ở riêng, đưa dì Hương ra ngoài hưởng an nhàn, còn chị dâu Ba lại ngóng trông ở riêng thật muộn, tốt nhất có thể chờ đến lúc dì Lâm qua đời.

Cơ mà không hiểu dì Lâm ấy là kiểu người thế nào mà khiến người khéo léo giỏi giang như chị dâu Ba phiền muộn tới vậy.

Đến tận hơn một năm sau Tú Xảo mới có cơ hội nhìn thấy dì Lâm vang danh, nhân vật năm đó vô cùng lợi hại vẻ vang, ngay cả phu nhân chính thất cũng phải nhượng bộ!

Đó là một buổi sáng sớm ngày hè, chị dâu Ba theo thường lệ tới thôn trang thăm dì Lâm, Tú Xảo cũng về quê thăm nom vú nuôi đang bệnh nặng, đôi bên vừa vặn tiện đường, hai chị em dâu bèn kết bạn đồng hành.

Tú Xảo biết từ lúc bà nội và mẹ chồng rời phủ, dì Lâm hay gây phiền toái cho chị dâu Ba, hay nhờ người đến chuyển lời, thoắt ốm thoắt đau, thoắt lại doạ chết, chị dâu Ba không muốn anh Ba đến gặp dì Lâm bèn tự mình đi.

Loại việc thế này ắt hẳn chị dâu Ba không muốn người khác thấy, Tú Xảo rất thông minh, hạ quyết tâm trước khi đến nơi mỗi người một ngả, miễn cho chị ấy khó xử. Nào ngờ hôm đó trời nắng sớm, nàng vốn không quen khí hậu oi bức ngột ngạt ở kinh thành, kiệu lại xóc nảy, còn chưa được nửa đường nàng đã bị cảm nắng ngất đi, tức thì bất tỉnh nhân sự.

Đến khi nàng khoan thai tỉnh lại, phát hiện bản thân đang nằm trong một gian phòng, dưới thân là cái chiếu đơn sơ, đằng sau rèm trúc xanh loáng tháng có tiếng nói chuyện, Tú Xảo kiệt sức, nhất thời không lên tiếng nổi, chỉ biết âm thanh đằng kia bức rèm giống như tiếng tranh chấp.

“…Tôi khuyên dì ở yên đi, tướng công sẽ không đến đây đâu. Lão gia đã dặn dò, nếu tướng công dám đến thấy ngài sẽ bị đánh hai mươi gậy, nếu còn dám tái phạm thì ba mươi gậy, cứ thế mà nhân lên. Dì và tướng công là mẹ con ruột với nhau, đừng để tướng công phải chịu nỗi đau da thịt.” Ngữ khí nhẹ nhàng, là giọng nói của chị dâu Ba.

“Thối lắm! Tao sinh hắn nuôi hắn, hai mươi gậy đã là gì, dù phải chết thay tao thì cũng là hiếu thảo!” Một giọng nói khàn khàn suồng sã vang lên.

Chẳng lẽ đây chính là dì Lâm? Sao lại thế nhỉ. Tú Xảo lơ mơ nghĩ.

“Dì vẫn không hiểu à. Nếu là người mẹ danh chính ngôn thuận, đương nhiên hiếu thuận đặt lên hàng đầu, nhưng với ngài thì, trước chị “nương” còn có chữ “di” đấy. Nói khó nghe thì dù có một ngày tướng công có thể giúp mẹ già được phong cáo mệnh thì đầu tiên cũng là mẹ cả, nếu còn được ân điển thì mới đến phiên ngài. Nếu ngài không chịu được thì kiếp sau đầu thai nhất định đừng làm vợ bé cho người ta, dù có khổ sở đến đâu thì tốt xấu gì vẫn nên cưới hỏi đàng hoàng, như vậy sinh được con trai tiền đồ, ngài muốn đánh thì đánh muốn gặp thì gặp. Cũng đỡ phải ở đây mà tự hờn dỗi không đâu, phải không?”

Chị dâu Ba nói năng ghê gớm thật, ngày thường đoan trang thận trọng, chẳng ngờ ghê gớm lên lại kinh như vậy.

Tú Xảo mơ màng suy nghĩ, mấy câu sau chẳng nghe rõ, chỉ biết giọng nói khó nghe đó không ngừng mắng mỏ dọa nạt, chị dâu Ba thì cứ ung dung châm chọc lại, chiếm thế thượng phong.

“…Được, được, mày ỷ vào có chỗ dựa, dám vô lễ với tao, mày chờ xem! Đợi tương lai con tao ra ở riêng, đưa tao ra ngoài chăm sóc, để xem tao trừng trị mày thế nào?!”

Chị dâu Ba bật cười lanh lảnh, tỏ vẻ tự giễu, cất giọng lạnh nhạt: “Thật đến lúc đó, chỉ e ngài cũng không được như ý.”

“Tiện nhân có cha sinh không mẹ dưỡng, mày nói cái gì?!”

Chị dâu Ba đanh giọng lại, từ tốn lên tiếng: “Dì Lâm, cho đến giờ dì vẫn không hiểu tại sao năm đó bị trục xuất khỏi phủ hả? Tướng công và cha chồng vốn là cùng một loại người, bọn họ coi trọng nhất không phải vợ hiền cũng không phải sủng thiếp mà là chính bản thân bọn họ. Cha chồng một lòng muốn làm rạng rỡ gia tộc, ngài cản đường ông ấy, đương nhiên phải tránh sang một bên, còn tướng công hả, hắn thích sống ngâm gió ngợi trăng, vô ưu vô lự.

Nói tới đây, chị dâu Ba càng châm chọc.

“Ở riêng cũng phải mười mấy năm sau, khi đó tướng công chắc đã có danh vọng, có địa vị. Hắn sẽ vì bà mẹ danh không chính ngôn không thuận mà gây khó dễ cho người vợ cưới hỏi đàng hoàng như tôi? Làm mích lòng gia tộc họ Liễu chúng tôi? Anh trai chú bác tôi chết hết rồi chắc?! Còn các con tôi nữa, đến lúc đó chúng đã lớn, đọc sách có công danh, lấy chồng tử tế, tôi là mẹ cả của chúng, bà là cái gì chứ?! Bà nghĩ xem, tướng công sẽ vì bà mà đắc tội tất thảy sao, mất thể diện với những bạn thơ, bạn cùng trường, đồng liêu sao?!…”

Tiếp đó hai người họ lại tranh cãi gì Tú Xảo liền không nhớ rõ, nàng mơ màng cảm thấy giọng nói khó nghe đó càng lúc càng nhụt chí, sau cùng nàng hoa mắt, lại mê man.

Lúc tỉnh lại, chị dâu Ba vẫn tỏ ra đoan trang cao quý như trước, mỉm cười ngồi bên giường bảo nàng: “Em chẳng được tích sự gì cả, hôm nay đừng chạy đi đâu nữa, về phủ đi.”

Tú Xảo đương nhiên liên tục gật đầu, không hề hé răng nửa lời về chuyện mới nghe thấy.

Lúc được đỡ ra khỏi phòng, nàng bắt gặp một bà lão thô lỗ đứng bên cửa, thân hình mập mạp, trên gương mặt dữ tợn mơ hồ thấy được nét đẹp khi xưa, hơi giống anh Ba và cô Tư, hai bà hầu cưỡng ép đưa bà ta về phòng, ngoài miệng kêu “dì Lâm”.

Hoá ra đây chính là dì Lâm? Tú Xảo thầm thất vọng.

Nàng nghe nói, hồi dì Lâm mới làm sai bị phạt tới thôn trang vẫn còn không yên phận, không ngừng đòi chết, tìm cách chạy ra ngoài. Khi đó Vương thị nắm quyền, muốn trừng trị kẻ thù ngày xưa quá ư dễ dàng, lấy cớ đề phòng dì Lâm đòi chết bèn nhốt vào một gian phòng đất chỉ có một cánh cửa sổ trên cao nho nhỏ, mỗi ngày chỉ cho ba bát mỡ lợn.

Dì Lâm đương nhiên không hề muốn chết, đành phải ăn, lại không được đi lại, càng ăn càng thèm, nửa năm sau liền biến thành bà béo.

Tú Xảo chợt rùng mình.

Thật âm hiểm, thật tàn nhẫn! Hủy hoại vẻ đẹp và dáng người mảnh dẻ mà người phụ nữ coi trọng nhất.

Nghe nói đây là ý kiến mà chị gái của mẹ chồng mình là Khang thị đưa ra, sau đó cũng chẳng hay bà dì này đi đâu, họ Khang cũng ít khi qua lại. Tú Xảo thở phào nhẹ nhõm, nàng sợ hãi người có thể nghĩ ra được chủ ý thế này.

Việc hôm đó nàng không tiết lộ với bất kỳ ai, chỉ có một lần về nhà mẹ đẻ từng kể lại cho mẹ Thẩm.

Mẹ Thẩm thở dài: “Chị dâu Ba của con thật không dễ dàng. Kẻ họ Lâm đó, con cũng không cần thương xót, loại người như thế đáng chịu báo ứng.” Lại tiếp: “Con cũng đừng để tâm đến những việc này, quan trọng nhất vẫn là mau mau có thai đi!”

Ánh mắt Tú Xảo nhanh chóng thất vọng.

Gia cảnh giàu có, dòng dõi thanh quý, ra vào đều nở mặt nở mày. Mẹ chồng không ở, bà nội không ở, anh Cả chị dâu Cả cũng không ở. Cha chồng ôn hoà, anh Ba nhã nhặn, chị dâu Ba càng thân thiện. Nàng không cần lập quy củ, không cần hầu hạ mẹ chồng, không cần tranh cãi với chị em dâu, càng không phải đau lòng vì chồng trăng hoa.

Cuộc sống thoải mái nhàn nhã như thế, duy nhất không được hoàn mỹ chính là thành thân đã gần hai năm nàng vẫn chưa có thai.

Chồng và dì Hương đối xử tốt với mình đến vậy, thật có lỗi với bọn họ, Tú Xảo hàm lệ chủ động đề ra tìm đứa hầu béo khoẻ sinh con cho chồng, còn chưa nói hết câu đã bị dì Hương phản đối.

“Cô ngốc, có đầy phụ nữ kết hôn ba, bốn năm mới có thai kia kìa, hai đứa mới bao nhiêu tuổi, thêm nữa, trong nhà đầy con cháu, không cần hai đứa phải lo việc nối dõi tông đường. Con vội gì chứ!”

Tú Xảo cảm động nhưng vẫn bất an, càng ngày càng gầy rộc. Chồng lo lắng bèn quyết tâm đi cầu bà nội hỗ trợ, tìm Hạ lão phu nhân ở Bạch Thạch Đàm đến khám thử xem. Hồng nhạn đưa thư, lão phu nhân đồng ý, còn bảo Hạ lão phu nhân nửa năm nữa sẽ vào kinh, đến lúc đó bà sẽ cố gắng mời bà ấy giúp đỡ.

“Thật, thật sao?!” Tú Xảo nén nước mắt, lòng ngập tràn khao khát.

Để nàng yên tâm, chồng vỗ ngực liên tục tán dương y thuật của lão phu nhân một hồi lâu.

“Em không biết đấy thôi, năm đó chị Cả cũng năm, sáu năm không mang thai, Hạ lão phu nhân xem qua liền một lần được con trai, ba năm ôm hai đứa, bấy giờ chị ấy đều sắp bốn mươi tuổi rồi mà vẫn có thai được đấy! Mấy năm nay chúng ta tốn bao tiền mừng tuổi cho mấy đứa con chị ấy, em không nhớ à! Cho nên đợi lần này mời được Hạ lão phu nhân, chúng ta cũng phải ra sức sinh, tốt xấu lấy tiền vốn trở về, nếu không thì chẳng hoá bị thiệt à!”

Tú Xảo chất phác bèn nín khóc mỉm cười, chẳng nghi ngờ gì.

Mẹ Thẩm biết việc này liền cảm động đến rơm rớm nước mắt, liên tục bảo cha Thẩm: “Ông già, ông thấy tôi nói đúng chưa? Thế này mới gọi là dòng dõi thư hưởng, có quy củ, có tình người, những kẻ hở một tí là ba vợ bảy nàng hầu mới là giả vờ nhã nhặn, ngụy quân tử!”

Nói cười một lát lại không nhịn được kể lại chuyện con gái nhà họ Chung.

Lúc trước mẹ Thẩm định chọn con gái họ Chung làm dâu Cả, nào ngờ Chung phu nhân lại coi trọng con trai Chu đại nhân nhậm chức Tổng đốc Lưỡng Quảng, hiện đang ở kinh thành đọc sách. Dòng dõi thì tốt, nhưng nhà họ Chu là tứ thế cùng đường, ba phòng ở chung một nhà, trong nhà anh em chú bác chị em, chị em họ một đống, Tú Xảo nghe mấy lần đều không thể nhớ nổi ai vào với ai.

Chị gái họ Chung vốn thân với nàng, sau khi lấy chồng không ít lần về nhà mẹ đẻ khóc lóc kể lể sống ở nhà chồng thật mệt mỏi, mỗi ngày từ sớm đến muộn đều vất vả không được nghỉ ngơi một chút, ăn không ngon, ngủ không yên, gần như sắp kiệt quệ đến nơi rồi.

Tú Xảo cảm thấy không thể trách họ Chu được, nhà họ như vậy, vốn dĩ phải chọn dâu như chị dâu Cả và chị dâu Ba, được huấn luyện kỹ càng từ bé, biết xử sự thoả đáng, xã giao với cả đống họ hàng thoải mái, tuyệt không rụt rè, như nhà nàng và nhà họ Chung, nửa đường mới phất, làm sao mà so sánh được.

Nhớ năm đó cả nhà đoàn tụ ăn tết, lại đúng dịp lão phu nhân đại thọ, trong nhà mở tiệc ba ngày, mời gánh hát, mời xiếc ảo thuật, mời tăng nhân niệm kinh cầu phúc, trước sau phải có tới năm, sáu mươi nhà đến mừng thọ.

Mỗi nhà có lai lịch thế nào, nữ quyến bối phận thế nào, nên xưng hô thế nào, chỗ ngồi xếp thế nào, mấy nhà ngày thường bất hoà, không nên ngồi chung, mấy nhà là quan hệ thông gia, ruột thịt, họ hàng nên ngồi gần nhau, còn cả việc các vị lão phu nhân không ngửi được mùi nào, các vị phu nhân không ăn được cái gì, xe ngựa đằng trước dừng ở đâu, cho ngựa ăn cỏ ở đâu, chào hỏi gã sai vặt kẻ đánh xe, bà hầu bên trong nên đón khách thế nào, thu xếp hầu gái, đồ vật sát người ra sao…

Chị dâu thần kỳ của nàng, tóc mai không loạn, mồ hôi không thấm, trước sau tươi cười đúng mực dễ mến, thoải mái sắp xếp trong ngoài chu toàn hoàn mỹ, một bên căn dặn mười mấy bà hầu đứng ngoài cửa, một bên còn đến bàn các lão phu nhân chia thức ăn, cười nói trêu đùa, bao nhiêu vị cáo mệnh phu nhân đều khen ngợi.

Khi đó, Tú Xảo cứ ngây ra nhìn.

Còn chị dâu Ba thì, năm đó làm tiệc trung thu còn đang mang thai, nàng lại mới vào cửa, chẳng hiểu cái gì, chị dâu Ba lắc đầu than nhẹ, mang cái bụng to nhẹ nhàng thu xếp thoả đáng, nàng chỉ cần cầm đũa ngồi vào chỗ ăn là xong.

Chưa kể tới chủ nhân, ngay cả kẻ dưới cũng khác biệt một trời một vực, những nàng hầu ma ma đầy kinh nghiệm bên cạnh chị dâu Cả và chị dâu Ba, mỗi người đều là nhân thủ lấy một chọi mười, đều là nô bộc truyền được huấn luyện kỹ càng truyền thừa bao đời.

Nhà nàng không thiếu bạc, nhưng làm sao có nổi những người như thế! Bên cạnh nàng chỉ có hai đứa hầu ngốc mới mua được hai năm, được cái trung hậu thành ttật, có bà vú nuôi duy nhất dùng được thì dạo này lại về nhà dưỡng bệnh.

Được rồi, không so sánh nữa, người so với người thật tức chết.

Huống hồ Tú Xảo vốn không có lòng tranh cường háo thắng, như vậy, ngược lại chung sống hoà hợp với hai chị dâu.

Sống với tâm tình này, Tú Xảo tiếp tục trải qua những ngày đơn thuần vui vẻ, lúc thì thêu, làm túi thơm, làm quần áo, ăn ngon ngủ kỹ, bảo dưỡng cơ thể, bẻ tay tính từng ngày Hạ lão phu nhân vào kinh.

Có vẻ lòng không có lo âu, đợt này nàng béo hẳn lên, chồng thấy vậy càng vui sướng. Nàng càng ngày càng đẫy đã, thích ăn thích ngủ, hôm đó tự dưng ăn liên tục mười mấy quả hạnh.

Đúng lúc đó dì Hương đến tặng đồ, Tú Xảo nhiệt tình nhét nửa bát hạnh vào lòng bà ấy, “Dì ăn đi, hạnh ngon lắm.”

Dì Hương ngại từ chối liền cười ăn một quả, tức khắc bị chua rơi nước mắt, kêu lên: “Chua như thế làm sao mà ăn nổi!”

Tú Xảo ngốc nghếch: “Chua ư, con có thấy đâu.” Ăn ngon lắm mà.

Đôi mắt dì Hương chậm rãi ánh vẻ sung sướng, vuốt trán nàng, cười bảo: “Cô ngốc!” Nói rồi quay sang hỏi đứa hầu: “Cái đứa ngốc này, chủ nhân nhà mi bao lâu không có kinh nguyệt rồi?”

Đứa hầu ngơ ra: “Cái này á, a, ma ma đã dạy tôi, tôi có nhớ, dường như cũng lâu rồi, dì đợi chút, tôi về nhà xem sổ ghi chép.”
 
Chương 223: Ngoại truyện 3: Thúy thiền


“…Niệm tình chúng ta ở bên nhau từ nhỏ, cô giúp tôi nói với phu nhân, tôi và cậu Cả đều nhớ ân tình của cô.” Một người phụ nữ trung niên đứng trên hành lang, lôi kéo một người quản sự ăn vận gọn gàng, thủ thỉ liên miên.

Quản sự nói nhỏ: “Tôi biết rồi, dạo này Nhị phu nhân bận, chứ không dù cô không nhắc, ngài cũng sẽ nhớ. Cô cả nghĩ quá, mấy năm nay, đọc sách đi học, Nhị phu nhân có bao giờ từng bỏ quên cậu Cả đâu.”

Người phụ nữ trung niên dù phục sức không tầm thường, cả người đều mặc tơ lụa nhưng vẻ mặt hết sức rúm ró, nghe vậy ngượng ngùng đồng ý.

Hai người tách ra, quản sự xoay người bước ra sân, một cô hầu khác đuổi kịp, lầu bầu: “Chị Thúy Thiền tốt bụng quá, việc này mà nhắc tới không khéo, Nhị phu nhân nghi ngờ chị có ý đồ khác thì sao?”

Thúy Thiền than thở: “Thôi mà, dù sao cũng lớn lên bên nhau, bây giờ cô ấy cũng không dễ dàng.”

“Hừ, chị ta khó khăn gì chứ, lúc trước đừng hy vọng hão huyền thì bây giờ có khi còn vẻ vang hơn cả chúng ta ấy chứ?”

Thúy Thiền lắc đầu: “Việc này chúng ta không nên thảo luận, cô cũng đi làm việc đi.” Cô hầu cười nói: “Được, vậy việc tôi nhờ chị…” Thúy Thiền cười đáp: “Không quên đâu.” Cô hầu liên tục cảm ơn, hào hứng bỏ đi.

Dõi nhìn cô ta rời khỏi, Thúy Thiền mới tiếp tục bước đến hướng nhà chính, trên đường bắt gặp đứa ở bà hầu, họ đều vội vã ngừng việc, gật đầu khom lưng chào hỏi nàng.

Thúy Thiền vừa bước vào nhà đã nghe thấy trong phòng có tiếng người, nghĩ một lát liền biết là bà chủ nhà mình đang nói chuyện với Ngô Nhị phu nhân dòng chính nhà họ Thịnh, nàng tức khắc dừng bước, nín thở đứng yên tại chỗ.

“…Chị họ giúp em đi mà, mấy đứa con em vừa rứt ruột đẻ ra liền bị mang đi.” Ngô Nhị phu nhân khóc thút thít.

“Em đừng nỉ non nữa, mấy năm nay chị khuyên em thế nào, em nghe toàn để ngoài tai, toàn tưởng chị chỉ đang hù doạ em. Giờ thì hay rồi, chọc cho bác gái nổi trận lôi đình. Chuyện này nói nghiêm trọng thì là việc riêng của mẹ chồng con dâu nhà em, đóng cửa lại tự giải quyết, chị chỉ là phận gái đã đi lấy chồng, dù là anh em của chị cũng không nên xen vào, nói đơn giản thì làm bà nội muốn đích thân dạy dỗ các cháu, sai ở chỗ nào?!”

Ngô Nhị phu nhân không phải kẻ ngốc, lý lẽ thì đều hiểu nhưng vẫn đau lòng khóc lóc: “Em biết tại sao mẹ chồng giận dữ, nhưng, nhưng em còn biết làm thế nào, dù sao đấy cũng là mẹ ruột của em, chị họ…”

“Phải, em họ hiếu thảo, biết quan tâm đến mẹ ruột của mình, mẹ ruột của chị hiện giờ còn đang lẻ loi trong nhà thờ tổ dưới quê một mình đây.” Nhị phu nhân chợt lạnh lùng xen ngang.

Ngô Nhị phu nhân lỡ lời, vội bảo: “Chị họ chớ trách, em vụng miệng quá, em ngốc quá! Xưa nay dì luôn thương em, mẹ em lại khiến dì chịu khổ, em, em thật không biết nên nhận lỗi thế nào.” Nói rồi lại bật khóc: “Mẹ em tội lỗi trầm trọng, em đương nhiên biết, nhưng lần đó em đến Thận Giới ti thăm, thấy bà ấy vất vả không còn ra hình người, bà ấy cứ khóc với em, em là con gái, làm sao trơ mắt nổi…”

“Đã bảo em đừng đi, em cứ cố tình đấy chứ.”

Ngô nhị phu nhân khổ sở: “Từ khi bà ngoại qua đời, cậu mợ bèn mặc kệ mẹ em luôn, anh trai em thì bị chị dâu giữ rịt ở nhà, trừ em, còn có ai…?”

“Hoá ra cậu Ngô thăng chức lại thuận tiện cho em đến Thận Giới ti thăm mẹ hả!” Nhị phu nhân chê cười, đoạn tiếp: “Nhắc đến mợ, nghe nói dạo này cậu em họ Vương lại có thêm con trai? Ánh mắt mợ tinh thật, chọn hai cô gái quả nhiên vượng phu ích tử.”

Ngô Nhị phu nhân giật mình, ngẩng đầu thấy ánh mắt thâm ý của chị họ liền bối rối: “Chị, chị họ…”

“Em cũng vừa phải thôi, hai bác Cả đối xử với em tử tế, dù trong lòng tức giận nhưng chưa hề trút giận vào em, nhìn Nguyên Nhi, bố mẹ chồng nó vẫn là cậu mợ ruột thịt của chúng ta đấy! Em đúng là được voi đòi tiên, lúc thì đi thăm mẹ, lúc thì quấn lấy bà nội xin tha thứ, bà nội khó lắm mới về kinh một chuyến, dịp Tết lại bị em quỳ trước cửa Thọ An đường vừa khóc vừa cầu, thật đen đủi!”

“Hiện giờ lão phu nhân mạnh khoẻ, còn mở lời bảo dì về nữa. Mọi người đều vinh hoa phú quý, toàn gia mỹ mãn. Huống hồ, huống hồ đó là mẹ ruột của em…” Ngô Nhị phu nhân còn dợm nói tiếp, tức khắc lại bị xen ngang.

“Chị biết đó là mẹ em, ai chả biết đó là mẹ ruột em!” Nhị phu nhân cất giọng châm chọc: “Việc năm xưa chị không muốn lằng nhằng, bà nội không sao, đó là vì bà được ông trời rủ lòng thương xót, còn bác Khang rắp tâm ác độc thì chính là việc như đinh đóng cột. Hai phòng họ Thịnh chúng tôi thân thiết bao năm, còn gắn bó hơn cả anh em ruột thịt, phần tình nghĩa này phải lưu truyền đến đời sau. Bác trai bác gái tuyệt đối không vì em mà để hai phòng sinh hiềm khích! Em tỉnh ra đi, bất luận em có bao nhiêu cái cớ, chỉ có thể chọn một bên thôi, đừng tưởng ai cũng thông cảm, nhân nhượng em! Em là người thông minh, nên biết phải làm thế nào!”

Nói xong một tràng dài, Nhị phu nhân tựa hồ chán ghét, mở miệng tiễn khách, Ngô Nhị phu nhân đành kìm nén nước mắt, nghẹn ngào ra ngoài, Thúy Thiền nhanh chóng lùi lại vài bước, đứng trước cửa, vừa nhấc rèm vừa uốn gối thi lễ.

Tiễn Ngô Nhị phu nhân xong, Thúy Thiền mới từ tốn đi vào trong phòng, bà chủ đang ngồi trên giường, sắc mặt khó chịu, vừa nhìn thấy nàng liền kêu: “Sao giờ này mới về?! Làm tôi đợi mãi.”

Thúy Thiền biết tính nết bà chủ, cười bảo: “Ái chà, Nhị phu nhân của tôi ơi, chủ nhân đang nói chuyện, tôi lại dám xông vào bẩm việc à, đáng thương tôi mệt nhọc chạy một chuyến còn phải chờ dài cổ ở bên ngoài.”

Nhị phu nhân bị nàng ta chọc cười, nét mặt dịu xuống.

Thúy Thiền quan sát, đoạn nói: “Theo tôi thấy, Nhị phu nhân vẫn còn khoan dung nhân từ lắm, Ngô Nhị phu nhân mới suốt ngày đến nhà ta khóc lóc kể lể, nếu đổi thành người khác, có mà đóng cửa từ chối tiếp khách, hoặc mắng thẳng vào mặt rồi ấy chứ.”

Nhị phu nhân tính tình cởi mở, giận nhanh nguôi giận cũng nhanh, nghe vậy bèn than vãn: “Tôi cũng thương Duẫn Nhi, mấy năm nay nó giúp đỡ người già yếu, phát cháo phát gạo, làm nhiều việc thiện. Ôi… Ổ quạ đen sinh ra phượng hoàng trắng, biết làm sao…”

Thúy Thiền cất giọng dè dặt: “Lần này… Ngô Nhị phu nhân lại làm sao…?”

Nhị phu nhân bực dọc: “Dâu nhà họ Khang bị nó phiền nhiễu liền xúi giục “muốn thả người khỏi Thận Giới ti nhất định phải được Cố Hầu giúp đỡ, hay là cô đến xin Cố hầu phu nhân đi”, em họ còn tưởng thật, cắt ngón tay, viết huyết thư định đưa đến đất Thục. May mà bà hầu quản sự mà bác gái để lại kinh thành thông minh ngăn lại, tin tức truyền về Hựu Dương lại khiến bác gái sợ vỡ mật. Nếu tin này mà đưa đến nơi thật, em Sáu còn thôi, chứ em rể lại tưởng đây là ý kiến của cậu Ngô thì hỏng!”

Thúy Thiền giật mình: “Ngô Nhị phu nhân táo tợn quá.”

“Hừ!” Nhị phu nhân tỏ ra hết nói nổi: “Lúc đầu tôi đã khuyên nó phải nghĩ thoáng ra, đừng lấy bản thân và quan hệ hai phòng ra mà cược, bất kỳ ai trong phòng thứ nhất đều sẽ không quan tâm tới nó. Bốn năm trước bác gái Cả giữ nó ở quê nhà một năm, sau khi trở về tôi khuyên bảo mãi, đừng có suốt ngày nỉ non nữa, bác gái đã đem lòng giận rồi. Năm ngoái nó tới cửa Thọ An đường quỳ lung tung, bác gái tức đổ bệnh, hai tháng sau liền chọn một đứa vợ bé xuất thân nhà lành vào cửa. Ôi, dạy mãi không sửa, tôi chẳng muốn nói lời thừa nữa.”

Thúy Thiền thấy bà chủ tức giận đến khô cả miệng liền lẳng lặng đổ chén trà dâng lên.

“Thực ra việc này tôi biết trước rồi.” Nhị phu nhân nhấp trà, thở đều đặn, cất giọng từ tốn: “Bác gái vốn có ý giữ hẳn nó ở lại quê, không cho về, sau nâng đứa vợ bé đó lên làm bình thê, giúp cậu Ngô lo liệu việc nhà. May mà cậu Ngô niệm tình, khuyên can mãi, khuyên bác gái “việc này chẳng ra thể thống gì” mới bảo vệ được nó.”

Thúy Thiền ngồi lên giường, nhẹ nhàng đấm chân cho bà chủ, dịu dàng thưa: “Nhị phu nhân đừng tức giận, theo tôi thấy bác Cả đưa con cái Ngô Nhị phu nhân về cũng chưa hẳn chỉ vì trừng phạt. Chưa kể tới ân tình mà lão phu nhân nhà ta dành cho phòng thứ nhất, suy cho cùng, nhà họ chỉ là gia đình thương nhân, có mỗi Ngô Nhị gia ra làm quan, lại vẫn là quan võ. Nhưng chúng ta thì văn, võ có bao nhiêu? Thế hệ này hai phòng chúng ta vẫn thân như một nhà, nhưng nếu để Ngô Nhị phu nhân tiếp tục làm thế, tiếp tục mang con đến Thận Giới ti gặp bà ngoại họ Khang đang chịu khổ, gần mực thì đen, chưa biết chừng sau này các cô cậu chủ lớn lên còn âm thầm oán hận đấy!”

Nhị phu nhân vỗ chân nói: “Em nói đúng lòng tôi rồi! Tôi cũng đang lo như thế, may mà bác trai bác gái đều tỏ tường, thừa dịp mấy đứa còn nhỏ, mau mang về tự mình dạy dỗ mới phải. Có điều qua lần này, cậu Ngô đã đồng ý với bác gái, nếu còn có lần sau thì sẽ đưa vợ về quê nhà, nâng bình thê.”

Nhị phu nhân thở dài, tiếp: “Bác Khang ác độc như thế, thật sự không thể thả ra, nghe nói ở trong đó mỗi ngày vẫn mắng mỏ cả nhà chúng ta đấy. Ôi, kể ra thì hôn sự của Duẫn Nhi vẫn do bà nội làm mai đấy, không biết bác Khang có còn nhớ ân tình của bà nội không.”

Nói hồi lâu, Nhị phu nhân thấy Thúy Thiền mãi không lên tiếng liền bật cười: “Em làm sao thế, sao bỗng dưng im lặng.”

Thúy Thiền nhẫn nhịn, vẫn đành nói ra: “Nghe phu nhân nói tới lương tâm, tôi không biết có nên chuyển lời giùm một người hay không.”

Nhị phu nhân suy nghĩ giây lát, mặt dần trĩu nặng: “Duẫn Nhi mềm lòng, em cũng mềm lòng. Cô ta lại nhờ em xin tôi cái gì?”

Thuý Thiền cười khổ: “Dì Tống bảo, cậu Cả dần lớn, có vẻ không giỏi đọc sách, lại thích múa đao múa kiếm, nhà chúng ta không có ai, mời phu nhân liệu có thể mời sư phụ tới dạy võ không.”

Nhị phu nhân hừ lạnh: “To gan lắm, cái gì cũng dám nói.”

Thúy Thiền đứng im một bên, không nói không rằng.

Tuy hiện giờ nàng là người đắc dụng nhất trước mặt Nhị phu nhân, nhưng xưa kia, dì Tống mới là hầu gái cùng lớn lên từ nhỏ với phu nhân. Phu nhân nhà khác có lẽ thích đem đứa hầu thân thiết làm vợ bé cho chồng, nhưng Nhị phu nhân theo dõi sự ngang ngược của dì Lâm từ tấm bé, trong lòng không hề tin tưởng thê thiếp hoà thuận, dù lúc đó phu nhân sốt ruột việc con cái cũng chưa từng nghĩ tới mấy người hầu bọn họ.

Nào ngờ dì Tống thấy phu nhân sinh cô Cả bị thương cơ thể, nảy sinh ý đồ khác, nếu phu nhân đã không có con trai trưởng, như vậy con thứ là con Cả sẽ cao quý nhất, bèn chủ động đưa ra “giải mối lo giùm bà chủ”… Sau lần nọ, dù phu nhân không nói gì, hết thảy vẫn như thường, nhưng Thúy Thiền biết, bà chủ đau lòng.

Nhị phu nhân thoạt đầu dự tính tìm đứa hầu gái hạng hai, hạng ba có giấy bán thân của cha mẹ, anh em đều nằm trong tay mình, dù sao cũng là sinh con trai đầu lòng cho Nhị gia, không thể thân cận quá mức, nếu thuận lợi thì mọi người cùng vui, nếu bất ổn, dựa vào con trai đòi trở mặt thì cũng không đến mức tổn thương tình cảm từ nhỏ đến lớn.

Thúy Thiền hay nghĩ, ngay cả nàng đều phát hiện được tâm tư phu nhân, chẳng lẽ dì Tống lại không biết? Thế mà còn khăng khăng “người ngoài làm sao yên tâm được, nào bằng tôi và phu nhân tri kỷ, tôi sinh con trai khác gì đi ra từ bụng phu nhân chứ”.

Lúc cậu Cả vừa sinh ra, Nhị phu nhân dĩ nhiên thở phào nhẹ nhõm, dì Tống cũng hân hoan đắc ý, nào ngờ người tính không bằng trời tính, sau này Nhị phu nhân điều dưỡng thân thể tốt lên, liên tiếp sinh con trai dòng chính, vợ chồng còn càng ngày càng ân ái.

Cứ như vậy, con Cả là con vợ bé tồn tại liền thành khó xử, dì Tống cũng càng ngày càng lo sợ bất an.

Hồi lâu sau, Nhị phu nhân mới buồn bã lên tiếng: “Em nói thật cho tôi nghe đi, mấy năm gần đây tôi có từng đối xử tệ bạc với mẹ con họ?”

Thúy Thiền nhỏ nhẹ: “Trời đất chứng giám, dì Tống làm tổn thương phu nhân trước, phu nhân đâu có phụ lòng cô ta. Đều là đứa hầu được nâng lên làm vợ bé, nhìn xem chi phí ăn mặc của dì Hương và cậu Sáu… Bọn họ nên biết đủ.”

Đôi mắt Nhị phu nhân lấp lánh ánh lệ, song nhanh chóng biến mất, kéo tay nàng, nghẹn ngào: “May mà trước khi lấy chồng bà nội đưa em cho tôi, thời gian nan nhất có em ngày ngày khuyến khích an ủi tôi mới chịu đựng được.”

Thúy Thiền cất giọng chân thành tự đáy lòng: “Lão phu nhân từng nói phu nhân là người lương thiện nhiệt tình, theo phu nhân chắc chắn không sai.”

Chủ tớ hàn huyên cười đùa một lát, Thúy Thiền sực nhớ ra một chuyện: “Đúng rồi, phu nhân còn chưa hỏi tôi làm việc thế nào.”

Nhị phu nhân xoa trán cắn môi, cười mắng: “Đều tại em, tại em quấy nhiễu nên tôi mới quên béng đi mất. Nói mau, nói mau, sáng sớm hôm nay chẳng phải bảo em đưa nhân sâm sang đó còn gì, em Tư thế nào rồi, sinh chưa.”

Thúy Thiền mỉm cười: “Giày vò cả buổi sáng, cô Tư lại sinh con gái.”

Nhị phu nhân kinh ngạc: “Lại là con gái! Đều bốn đứa rồi!”

Thuý Thiền cũng thầm than tiếc, bốn đứa đều thế, thế này hỏi trời trời cũng không biết.

May mà cô Tư được chân truyền ít bản lĩnh của mẹ ruột, cho dù mẹ chồng không thích vẫn được lòng chồng, chỉ mong bản lĩnh của dì Lâm đáng tin, để cô Tư có thể tiếp tục quấn lấy chồng sinh em bé.

Nhị phu nhân than thở một lát, cất giọng vô lực: “Sao lại thế nhỉ. Em Sáu liên tục sinh con trai, em Tư liên tục sinh con gái.”

Thúy Thiền nhỏ giọng: “Nghe nói dì Tư bị sảy cái thai trước lại là con trai.”

Nhị phu nhân nhếch miệng, tiếc nuối: “Lại nữa, hai năm trước nó lại sảy thêm một đứa, vẫn là bé trai đã thành hình.” Năng lực sinh nở của Mặc Lan kỳ thực rất mạnh, bi kịch ở chỗ, sảy thai đều là con trai, sinh ra đều là con gái.

“Bao năm trôi qua, giờ đây tôi chẳng còn giận hờn nó nữa, chỉ mong em Tư biết điều, đừng tranh chấp với mấy đứa vợ bé nữa, cẩn thận chăm lo thân thể, sinh ra con trai mới được.” Nhị phu nhân thở dài thườn thượt.

Thúy Thiền mỉm cười, mấy năm gần đây Nhị phu nhân càng ngày càng hiền hoà, ân oán trước kia với dì Lâm cũng phai nhạt theo gió, một lòng hướng thiện, tích phúc đức cho các con.

“Cô Năm tốt nhất, trai gái đều đủ cả, làm cô Sáu ao ước lắm.”

“Con bé ấy cũng không bớt lo, em Sáu hâm mộ nó, nó còn hâm mộ ngược lại ấy chứ.”

Nhị phu nhân hơi gắt giọng: “Em rể Sáu yêu thương em Sáu lắm, nâng trên tay sợ rớt, ngậm trong miệng sợ tan, không chịu tách rời một giây một khắc, em rể Năm thì thỉnh thoảng lại châm biếm. Lần trước quan trên của em rể Năm tặng đứa hầu, cái Năm làm ầm lên một trận, bây giờ chẳng biết ra sao rồi.”

Thuý Thiền nghe cũng cười: “Cô Năm cũng không phải người hẹp hòi, chẳng qua cậu rể Năm muốn lấy vợ bé cũng phải để cô ấy đồng ý mới được, hai người trước đó chẳng phải tốt đẹp còn gì, vừa ngoan ngoãn vừa biết điều.”

“Nó đang so bì với cái Sáu đấy!” Nhị phu nhân kêu lên: “Sao có thể so sánh với em rể Sáu được, nửa đời trước hắn nếm bao nhiêu đau khổ như thế, tính tình bướng bỉnh lắm, ghét nhất bị người ngoài nhúng tay vào việc trong nhà.”

Nhớ năm đó Thục vương tặng hai mỹ nhân, em rể Sáu ngay lập tức đưa cho kẻ dưới chưa lấy được vợ, sau đó được tặng thêm bốn vũ cơ, em rể Sáu bèn cho ăn cho mặc tử tế, hễ trong nhà có yến ẩm liền gọi ra ca múa trợ hứng, nửa quan to quý nhân đất Thục đều từng thấy, thẳng thắn khen ngợi Thục vương phủ biết đào tạo người tài, sắc nghệ vẹn toàn.

Nhớ tới kẻ lúc xưa ở phủ Ninh Viễn hầu tên Phượng Tiên, Nhị phu nhân âm thầm buồn cười.

Sau đó Thục vương giận dữ, định ra đòn ngáng chân, kết quả bị Cố Đình Diệp giành trước dâng tấu chương tố cáo. Cậu Ba Trường Phong từng sinh động như thật giải thích qua ý chính của bản tấu chương này.

Thưa hoàng đế, thần đưa hết phụ nữ mà Thục vương nhét cho thần cho người khác, chọc giận Thục vương, thần biết sai rồi, hoàng gia ban tặng, cho dù là một cái bô cũng đâu thể tuỳ tiện đưa đi! Cho nên lần thứ hai Thục vương lại tặng phụ nữ, thần bèn giữ lại, còn thường xuyên sử dụng, khách khứa dự tiệc đều khen ngợi hết lời, nhưng Thục vương lại không vui, tỏ vẻ thần không hiểu chính xác cách sử dụng những người phụ nữ này. Hoàng thượng ơi, hiện tại Thục vương muốn quản lý đến đàn bà con gái trong nhà thần, sau này có phải còn định xen vào việc thần điều khiển quân đội hay không?

Hoàng thượng ơi, thần không muốn lấy vợ bé, thần trước kia chịu đủ gia đình không yên, cửa nát nhà tan, việc này ngài biết mà, thần không muốn lấy vợ bé Thục vương phi ép thần phải lấy, thần làm thế thì Thục vương được lợi gì chứ! Thần tận tâm lao lực giúp hoàng thượng, còn chẳng có thời gian bảo ban việc học cho con trai, cứ như vậy có khi lại phải đưa con trai vào kinh tiếp, giống anh Cả anh Hai nó bầu bạn với hoàng tử, có lão sư hoàng gia theo dõi, thần cũng yên tâm, hoàng thượng ngài xem… hay là tiếp nhận thêm một đứa nhé?

[Hoàng đế ngự phê cho Cố Đình Diệp: Thư đồng của hoàng tử đã đủ, riêng nhà chú đã chiếm hai đứa, rất nhiều lão đồng chí bất mãn tới tấp kia kìa, nhóc con còn lại thôi khỏi cần. PS: Thằng Cả nhà chú không tồi đâu, như ông cụ non, xử sự thoả đáng, rất được Đại hoàng tử của trẫm coi trọng, thằng Hai thì kiệm lời quá, làm các lão sư rất mệt mỏi, đợi vài tháng nữa anh vợ chú Thịnh Trường Bách về triều nhậm chức thì trả về cho cậu ta, bồi dưỡng tử tế.]

Hoàng đế đợi chính là cớ này, tức khắc hạ chỉ nghiêm khắc trách móc Thục vương, ngay cả hoàng tử đều không thể tùy tiện qua lại với quan viên, mi là phiên vương, năm lần bảy lượt kết giao với đại quan biên giới là có ý gì?

Ý ngoài lời chính là, trẫm đây chính là phiên vương lên ngôi, hơn nữa vừa lên ngôi đã giải quyết hai phiên vương khác, mi định bắt chước phỏng?!

Mấy năm sau, hoàng đế giảm hai phần ba đội binh mã bảo vệ của Thục vương, giành lấy quyền quản lý tiền đồng và quyền khai thác quặng, còn thuận tiện ngự ban cho Thục vương phủ mấy vị “phụ tá”.

Mỗi lần nhớ tới thư nhà của em Sáu gửi đến từ phương xa, Nhị phu nhân liền muốn cười, trong lòng ấm áp.

Thuý Thiền lặng lẽ quan sát, thấy Nhị phu nhân mỉm cười, tựa như nghĩ đến việc thú vị, hoàn toàn quên chuyện khó chịu ban nãy, nàng thầm thở phào nhẹ nhõm, mỗi khi nhắc tới cô Sáu luôn có thể khiến bà chủ vui vẻ hơn.

Thấy vậy, Thuý Thiền lại cố gắng cười bảo: “Ban nãy mới trở lại phủ, tôi thấy lão Cát Đầu lại đang dỡ hàng chỗ cửa nách, nói Nhị gia nhà ta từ biên thùy gửi đồ về, trong đó có da cáo, màu sắc rực rỡ, tôi nhìn mà hoa cả mắt, đẹp lắm. Lão Cát Đầu nói là Nhị gia nhà ta đích thân săn, tự tay lột da, tìm sư phụ tốt nhất chế tạo, dự bị Tết năm nay làm khăn trùm đầu mới cho phu nhân.”

Nhị phu nhân trong lòng ngọt như mật, má hây đỏ: “Đều là vợ chồng già còn bày trò, người khác thấy lại cười cho. Năm nay đã thu xếp chuẩn bị xong hôn sự cho Trang nhi, người phải mau về mới được, việc khác nào quan trọng.”

Thuý Thiền thấy bà chủ nhoẻn cười liền yên tâm.

Nhị phu nhân vạch tay tính ngày: “Kể ra thì năm nay cũng lắm việc. Bên phủ Bạc chưa kể tới, Thực nhi đến lúc nên tìm tiên sinh đứng đắn rồi, không thể cứ học với mấy đứa nhỏ trong nhà mãi, sau tôi phải đến hỏi vợ Trường Bách xem, cậu Ba cũng phải vỡ lòng, dì Tống định mời sư phụ dạy võ, vậy mở rộng sân tập võ lớn hơn nữa, có lẽ tương lai trong số bọn trẻ lại có đứa thích học võ…”

Nghĩ ngợi hồi lâu, Nhị phu nhân sực nhớ ra một việc bèn căn dặn Thúy Thiền: “Phải rồi, đừng quên đưa một phần đồ cho sang bên phu nhân và chị dâu, cứ đưa trước mặt, khách sáo chút là được. Tiếp đó đưa một phần chi dì Trương, kín đáo vào, chọn đồ phải thật sự tốt. Ơ? Sao hôm nay phu nhân không có động tĩnh gì thế nhỉ.”

Tuy từ khi lão Hầu gia đoạt lại quyền quản gia của bà vợ, lại bảo con dâu không cần ngày ngày phải đến vấn an, cơ hội đối mặt của mẹ chồng con dâu giảm mạnh, nhưng trước kia biên thuỳ gửi đồ về, mẹ chồng thính như chó săn, giả vờ giả vịt sai người tới hỏi thăm một phen, sốt ruột muốn lao tới xem xét, chỉ e con dâu độc chiếm.

Trên thực tế, mẹ chồng luôn khóc gào giậm chân, muốn con trai phải trực tiếp dâng đồ tốt cho mình, để bà ta phân chia cho con dâu các phòng, nhưng bị lão Hầu gia chỉ vào cái mũi mắng to một trận mới từ bỏ ý định này.

Thúy Thiền mỉm cười, kề sát tai Nhị phu nhân: “Đêm qua lão phu nhân lại tranh cãi với dì Trương, lỡ cào trúng mặt lão gia, bị lão gia lật tay giáng cho một bạt tai, lão phu nhân hiện giờ đang bực bội nằm trên giường đấy.”

Nhị phu nhân chẳng hề có thiện cảm với bà mẹ chồng này, nghe vậy bèn khẽ khàng hỏi: “Lần này lại nằm mấy ngày?”

Thúy Thiền do dự: “Hay là để tôi đi hỏi thăm xem cái tát đó có nặng hay không?” Phải đợi dấu vết biến mất đã.

Nhị phu nhân búng nhẹ vào trán nàng, bật cười khúc khích: “Phòng ma ma cứ bảo em nghịch ngợm, quả không sai.”
 
Chương 224: Ngoại truyện 4: Linh nhi


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm
[Diendantruyen.Com] Thật Ư? Thật Ư? Phải Là Hồng Phai Xanh Thắm


Hà Hoa nhìn gương mặt dịu dàng thiện cảm của Linh Nhi bèn cảm động, tiếp nhận mau mắn ra ngoài.

Vừa đi vừa nghĩ, mọi người đều bảo MỢbA là người khó hầu hạ nhất trong phủ, quả nhiên là đúng. Tính nết kiểu cách lại thích giả vờ giả vịt, không biết thông cảm cho người khác, mấy hầu gái ban đầu đi theo đến nhà chồng bây giờ chẳng biết ở phương nào, chỉ còn lại đúng Linh Nhi còn đắc dụng, làm trâu làm ngựa cho chủ nhân, tươi cười hoà nhã với mọi người, nói lời hay, nén giận, mợBa thì vẫn tuỳ tiện sai bảo như cũ. Chị Linh Nhi sắp ba mươi tuổi đến nơi mà mấy năm nay mợ Ba dường như chưa từng để ý xem xét việc hôn nhân cho chị ấy, cứ để ngày tháng trôi qua lãng phí.

Nghe nói nhiều năm trước, cậu con trai làm chưởng quầy bên ngoài của quản sự Hàn thấy Linh Nhi tốt bèn định cầu xin lấy vợ làm vợ, nào ngờ bị mợ Ba từ chối thẳng thừng, không biết có thật hay không nhỉ…

Nghĩ tới đây, Hà Hoa âm thầm thở dài, may mà mình có cha có mẹ, các anh trai cũng phấn đấu, chờ qua mấy năm rồi xin ân điển là sẽ được thả ra ngoài lấy chồng.

Trong phòng, Đình Xán càng ngày càng tức giận, ngồi phịch xuống giường, ngẩn ngơ giây lát, chợt rơi lệ: “Nếu mẹ vẫn còn, nhìn ta thế này, ngay cả đứa hầu cũng phải dỗ dành không biết sẽ đau lòng thế nào nữa.”

Linh Nhi rót chén trà, không kịp tự lau mồ hôi, dâng trà khuyên nhủ: “Phu nhân chớ giận, hổ xuống đồng bằng bị chó khinh, hết cách. Dù sao Tam gia vẫn còn chút tình ý với ngài, đồ ăn thức uống, tiền tiêu hàng tháng đều chưa từng cắt xén, chúng ta phải nhìn vào mặt tốt chứ.”

Đình Xán được dỗ dành hồi lâu mới miễn cưỡng lên tinh thần, hỏi: “…Đừng lải nhải việc vớ vẩn nữa, thế nào? Ra ngoài gặp được chị Hướng không?”

Linh Nhi lau trán, nhỏ nhẹ: “Thấy rồi ạ. Chị dâu Hướng nói, ngôn quan họ Hứa dù phẩm chất không cao nhưng khá có thanh danh trong số kẻ sĩ, nói chuyện có trọng lượng, khi xưa từng được Thái phu nhân nhà ta giúp đỡ, dù sao cũng phải trả ơn. Hắn sẵn sàng dâng tấu chương giúp chúng ta, có điều…”

“Có điều cái gì?” Đình Xán vội hỏi.

Linh Nhi tỏ ra khó xử: “Phu nhân nghĩ xem, đã muốn nhờ vả thì phải chuẩn bị tiền bạc. Tấu chương không thể một lần là dâng lên ngay được, có khi phải quanh co vài vòng mới được…”

Đình Xán hiểu rõ, vỗ bàn trên giường, hừ nhẹ: “Không quan trọng! Được rồi, chỉ cần có thể báo thù cho mẹ, bao nhiêu bạc cũng được!”

Linh Nhi cảm thấy lạnh giá: “…Phu nhân, việc này… Ngài suy tính cẩn thận hơn đi. Nếu công chúa mà biết, chúng ta, chúng ta biết làm sao?”

“Làm sao chứ?” Đình Xán chẳng thèm quan tâm: “Bà ta sẽ giết ta chắc?!”

Nhìn chủ nhân nhà mình vĩnh viễn vẫn tỏ ra tuỳ tiện mặc kệ hậu quả, Linh Nhi thật sự rất muốn nhắc nhở rằng, mấy năm nay phần lớn đồ cưới đều bị nhà họ Tần kiếm chác, chỉ còn lại chút bạc để lo lót tiêu dùng, nhưng chủ nhân không bao giờ để ý đến việc thường tình này, luôn cảm thấy bản thân có gia tài vô khối. Hành vi này khác gì lấy trứng chọi đá, Linh Nhi không nén nổi u ám mặt mày.

Đình Xán thấy sắc mặt nàng bèn cười bảo: “Không phải sợ, triều đại lấy hiếu trị thiên hạ, mẹ ta dù sai đến đâu thì vẫn là mẹ kế của Cố Đình Diệp, hắn dám coi thường luân lý, đầu độc mẹ kế, ta sẽ làm hắn không chịu nổi!”

Linh Nhi bật thốt: “Phu nhân, tốt xấu nghe tôi khuyên một câu, chúng ta không thể bất chấp tất cả chỉ vì báo thù. Việc gấp gáp trước mắt là ngài phải mau chóng sinh hạ con trai trưởng cho Tam gia, việc khác tạm gác lại đã!”

Vừa nghe lời này, Đình Xán liền tức giận mắng: “Đừng nhắc đến kẻ vô lương tâm đó! Nhìn xem hồi xưa cha ta đối xử với bác gái thế nào, gần mười năm mới sinh được anh Cả đấy nhé! Nếu trong lòng hắn thật sự có ta thì dù có con trai hay không cũng nên đối xử như một mới đúng! Mới được vài năm, hắn đã vội vã muốn có con, bất chấp ta sống chết nghênh đón con ranh đó vào nhà. Ta giờ mới nhận ra, kẻ vô lương tâm, còn chả xứng xách giày cho cha ta!”

Mỗi lần nói đến việc này, chủ nhân kiểu gì cũng phải lôi Cố lão Hầu gia ra so sánh, Linh Nhi hết nói nổi. Tam gia nhà họ Hàn vốn kết hôn muộn, sao có thể không mong ngóng con trai chứ. Hơn nữa chủ nhân không biết cách làm con dâu, suốt ngày ồn ào gây loạn, Khánh Xương công chúa lại đâu phải kiểu mẹ chồng tầm thường sẽ để ý đến cảm nhận của con dâu? Bà ấy đâu phải Thái phu nhân năm đó, bó tay hết cách với bà Tần lớn.

“Còn nữa.” Đình Xán nỉ non: “Giờ mẹ ta và anh trai ta đều không còn, bên đó chỉ chờ ta chết, hai năm trước thánh thượng còn bảo con cháu họ Tần không nên thân bèn lấy lại tước vị, tịch thu gia sản, ta còn biết dựa vào đâu. Chi bằng nhân dịp này cố gắng chấn chỉnh uy phong, để cả phủ này không ai dám xem thường ta nữa! Khỏi cần khuyên nhủ thêm, hay là cô cũng tham sống sợ chết hả!”

Thấy chủ nhân cố chấp như thế, lại tỏ ra nghi ngờ, Linh Nhi định biện bạch vài câu, song chợt nghe Hà Hoa cao giọng: “Tam gia, a, ngài đến rồi!” Âm thanh lan vào phòng, chủ tớ đồng loạt kinh hãi, Linh Nhi mau chóng đứng sang một bên.

Hàn Thành mở cửa vào, tiến tới buồng trong, thấy vợ thản nhiên ngồi trên giường bèn cả giận: “Đang yên đang lành, mấy hôm nay cô lại làm sao không đến vấn an mẹ hả? Em Tư mới vào cửa, đang là lúc phải lập quy củ, cô làm chị dâu mà chẳng ra dáng, làm tôi tự dưng bị anh Cả anh Hai răn dạy!”

Đình Xán thấy ông chồng mấy ngày không gặp, vừa đến liền khởi binh vấn tội thì không nén nổi rơi lệ ào ạt, xót xa: “Tam lang thật tàn nhẫn, trời nóng như thế, biết thân thể em xưa nay yếu đuối, còn ép em đội nắng đến đó làm gì! Chàng muốn em chết sao!”

Người phụ nữ ba mươi tuổi tỏ ra uỷ mị như thế thật sự hơi chướng mắt. Hàn Thành nổi trận lôi đình, quát tháo: “Có phải mình cô biết nóng đâu, chị dâu Hai còn đang mang thai vẫn đến bầu bạn với mẹ kia kìa. Hơn nữa, trong phòng có rất nhiều chậu băng, làm sao mà nóng được! Trăm thiện lấy hiếu làm đầu, thời xưa có nằm băng chờ cá chép, chôn con vì mẹ, cô cũng đọc đủ thứ sách vở, tại sao không hiểu lý lẽ này chứ?!”

Đình Xán ghét nhất là đạo lý, bật dậy từ trên giường, gào khóc lớn tiếng: “Thì ra trên đời này chỉ có chàng là người con có hiếu, nhưng anh không chỉ có mẹ, anh còn có vợ nữa! Cha em còn giỏi giang hơn chàng mà còn biết thương xót bác gái, vì vợ cái gì cũng chịu. Trăm năm mới tu được cùng chung chăn gối, em mới là người mà chàng nên tiếc thương nhất. Chỉ biết một mực ngu hiếu, không biết thương vợ đau khổ, thế mới là đàn ông à!”

Hàn Thành xoa huyệt thái dương, hắn thật sự không hiểu, yêu cầu vợ phải vấn an mẹ chồng, hiếu thuận với mẹ chồng vốn là cái lý đúng đắn khắp thiên hạ, không ai dám phản bác, nhưng riêng với cô vợ mình thì cứ như ông nói gà bà nói vịt.

Trước kia hắn thật sự đem lòng yêu thương Đình Xán.

Hắn e sợ người phụ nữ ghê gớm uy nghiêm như Khánh Xương công chúa, lại không thích kiểu con gái nhỏ nhẹ nhạt nhẽo, năm đó ở buổi thi hội Trâm Cúc đọc được bài thơ mà cô Bảy phủ Cố làm, hắn bèn hết sức rung động, lại nghe nói giai nhân xinh đẹp như tiên bèn vội vã xin mẹ đi cầu hôn. Đáng tiếc, sau khi thành thân hai vợ chồng chỉ hoà thuận được ngắn ngủi vài tháng, còn sau đó tất cả ngọt ngào đều bị những cuộc tranh cãi liên tùng tục thay thế. Vợ cứ như một đứa trẻ chưa lớn, không ngừng đòi người khác phải dỗ, phải chiều, hễ không như ý là khóc lóc nỉ non.

Hàn Thành vô cùng hâm mộ ân sư, sư mẫu vừa giỏi thơ văn ca hát, vừa biết lo liệu quản gia, lại có hai, ba nàng hầu xinh đẹp biết điều, cuộc sống phong nhã hứng thú, làm sao đến hắn lại biến thành thế này?!

Đình Xán vẫn khóc, càng khóc càng tức: “Sách ghi chớ nên lấy vợ bé, chàng mà xứng là người đọc sách à, trong phòng ba vợ bảy nàng hầu, bỏ bê vợ cả cưới hỏi đàng hoàng, liên tục sinh con với mấy đứa hạ tiện đó, nếu cha em còn sống chắc chắn đánh chết con rể mất nết như chàng…”

Hàn Thành cố bình tĩnh lại, ngồi xuống giường nói: “Xán Nương, em nghe cho kỹ đây, mấy năm nay mẹ luôn bất mãn với em, Nghiêm thị là mẹ chủ động đưa vào, em không nhìn mặt Phật cũng phải xem mặt tăng chứ, cứ thế này mãi…” Hắn nhớ tới lời nói mấy hôm trước của Khánh Xương công chúa, trong lòng chợt hoảng hốt.

“Nếu cứ thế này thì làm sao?” Đình Xán gạt tay Hàn Thành ra, cười lạnh: “Đường đường là phủ công chúa lại dám bỏ vợ hả? Dù thế nào tôi cũng là tiểu thư con vợ cả phủ Ninh Viễn hầu! Các người chịu mất thể diện, họ Cố chưa chắc đã chịu đâu! Anh mà xứng là đàn ông à, suốt ngày nhắc đến mẹ, không bảo vệ nổi vợ mình, hừ, năm đó bác gái tôi bảy năm không thoải mái, cha tôi liền…”

“Đủ rồi!” Hàn Thành không thể chịu nổi nữa, mấy năm nay vì chữ hiếu, hắn không hề nhắc tới Cố lão Hầu gia, hôm nay trời oi bức ngột ngạt, hắn cuối cùng không nén nổi cất giọng chế giễu: “Cha cô gặp phải con gái họ Tần mới là xui xẻo tám đời! Suýt nữa không có con trai nối dõi, sau cùng còn suýt thì cửa nát nhà tan, nhà cũ mấy chục năm bị anh Ba của cô thiêu bằng sạch! Tôi dù không giỏi giang bằng cũng chẳng dám học bố vợ!”

“Anh, anh dám chê cha tôi!” Đình Xán sửng cồ, nhặt nghiên mực trên bàn con trên giường ném tới.

“Lách cách”, nghiên mực rơi xuống đất, mực bắn tung toé, may mà Hàn Thành lanh lẹ tránh được, nếu không ắt đầu nở hoa. Nhìn cô vợ tóc mai rũ rượi, lông mày dựng ngược lên, mặt mũi ngập tràn vẻ điêu ngoa dữ tợn, chẳng còn tươi đẹp động lòng người như năm đó, Hàn Thành giận dữ: “Cô, cô thật vô lý!” Sau đó phất tay áo đá cửa bỏ đi.

Đình Xán càng tức giận, đập phá tất cả những thứ ở trong tầm mắt rồi nhoài người lên bàn, khóc nức nở. Linh Nhi im lặng dặn Hà Hoa đi lấy nước, cẩn thận thu dọn phòng ốc.

Qua hồi lâu sau, Đình Xán chậm rãi ngừng khóc, ngẩng đầu lên, nghiến răng nghiến lợi: “Ta phải báo thù, nhất định phải báo thù! Bọn họ thấy ta không cha không mẹ không nơi nương tựa liền bắt nạt ta! Ta không dễ chịu cũng phải để bọn họ không dễ chịu!”

Chủ tớ nhỏ giọng thương lượng, Linh Nhi khẩn cầu: “Phu nhân, mất nhiều bạc lắm, chúng ta không lấy ra đủ, ngài suy nghĩ kỹ hơn đi.”

Đình Xán suy nghĩ giây lát, quyết tuyệt: “Tối nay em gọi chị Hướng tới gặp tôi, tôi phải dặn dò tận mặt.”

Linh Nhi bất đắc dĩ, đành phải đồng ý.

Đêm hôm đó, Linh Nhi mua chuộc được bà hầu gác cổng, năn nỉ cho người vào, bà hầu thấy là chị Hướng hay tới thăm mợ Ba cũng không nghi ngờ, thu bạc liền cho qua.

Chị Hướng thực ra mới hơn bốn mươi tuổi nhưng tóc đã hoa râm.

Đình Xán thấy bộ dạng già nua hốc hác của chị ta, lần đầu tiên biết quan tâm, thường ngày hễ gặp là khóc lóc, bây giờ không khóc nổi, đành che tay áo giả vờ: “Chị dâu Hướng, mấy năm nay chị chịu khổ quá.”

Chị dâu Hướng quỳ xuống đất khóc kêu: “Có cô chủ thương yêu, cuộc sống vẫn còn dễ chịu, chỉ là lúc nào cũng nghĩ tới ân huệ của Thái phu nhân, nghĩ tới người chồng và mẹ chồng mất sớm, tôi, tôi, đúng là…”

Đình Xán cực kỳ hài lòng, mỉm cười: “Mẹ tôi thường tin tưởng Hướng ma ma nhất, quả nhiên người nhà chị đều tốt. Bây giờ tôi chỉ có thể dựa vào chị và anh em nhà họ Hướng, còn trong phủ này đều bắt nạt tôi…”

Nói rồi lại không nhịn nổi bật khóc.

Chị dâu Hướng lăn lê trên đất gào khóc: “Tiểu thư đừng làm tôi hổ thẹn! Ân tình của Thái phu nhân, mẹ con chúng tôi dù chết một vạn lần cũng không báo đáp nổi. Tiểu thư là kim tôn ngọc quý, Thái phu nhân nâng như châu ngọc mà nuôi lớn, họ Hàn thật quá đáng, không biết đối xử tử tế, khiến tiểu thư chịu ấm ức, đúng là đáng chết ngàn vạn lần!”

Đình Xán càng thoải mái trong lòng, Linh Nhi thấy chủ nhân vẫn không gọi người đứng lên bèn nhỏ nhẹ: “Chị dâu Hướng đứng lên trước đã, nền đá xanh này quỳ lâu ảnh hưởng sức khoẻ đấy.”

Chưa đợi Đình Xán lên tiếng, chị Hướng đã hào hứng xua tay: “Không sao không sao! Được gặp tiểu thư, bà già tôi trong lòng còn ngọt hơn mật, quỳ trước mặt tiểu thư còn thoải mái hơn nằm bên ngoài! Tiểu thư nhà ta là ai chứ, tiểu thư vừa mới sinh ra, Thái phu nhân từng mời người xem vận số, họ nói tiểu thư là tiên nữ trước mặt Vương mẫu nương nương, hạ phàm tới trả ơn, ngay cả lão Hầu gia cũng tin sái cổ, dù hơi vất vả cũng có thể khổ tận cam lai.”

Đình Xán dường như trở lại lúc chưa lấy chồng, trên có người cha cưng chiều, dưới có người mẹ toàn năng, xung quanh toàn kẻ hầu nịnh bợ, cô ta không khỏi lâng lâng vui sướng, kiêu ngạo vẫy tay, cười cao ngạo: “Vẫn nên đứng dậy đi. Linh Nhi, lấy ghế.”

Linh Nhi nhanh nhẹn đặt ghế con xuống, chị Hướng ngồi ghé vào, Đình Xán mới hỏi: “Chị Hướng, chuyện đó… chị có nắm chắc không…?”

Chị dâu Hướng vội trả lời: “Vốn dĩ tôi không dám chắc. Nhưng gần đây bên Thục Trung thường đưa tới tin tức, nghe bảo Cố Hầu đang bất lợi mà? Hứa đại nhân nói, chi bằng thừa dịp tình hình này mà chớp thời cơ.”

Đình Xán không hiểu chính sự, chỉ loáng thoáng nghe nói Thục vương hết sức bất mãn với Cố Đình Diệp, bèn cười bảo: “Nếu đúng như thế thì quá tốt rồi! Hừ, Cố Đình Diệp bức tử mẹ kế, đầu độc cháu ta, thiên lý không tha, chỉ hận nhà họ Hàn sợ phiền phức, không chịu nhúng tay vào, đến khi tấu chương được dâng lên, để ta xem hắn sẽ bị người trong thiên hạ thoá mạ thế nào!”

Linh Nhi nghe mà thầm nản lòng, nàng thật sự không hiểu, người tinh ranh tài cán như Thái phu nhân tại sao sẽ nuôi dưỡng được cô con gái ngây thơ không hiểu thế sự như thế này. Hắn là đại quan biên giới đang được hoàng đế trọng dụng, làm sao lại bị những tội danh giả dối hư ảo mà “chịu người trong thiên hạ thoá mạ” chứ, “người thiên hạ” lại rảnh rỗi thế chắc.

Đình Xán móc trong tay áo ra một bức thư, đưa cho chị Hướng: “Đây là thư ta tự tay viết, giao cho Hứa đại nhân, hãy nói nếu thành công ta sẽ cảm tạ thật nhiều.”

Chị Hướng vâng dạ tiếp nhận bằng hai tay, lại nghe thêm nhiều lời dặn dò, vội vã rời phủ.

Đêm đó, Đình Xán ngủ cực kỳ ngon, mơ thấy nỗi oan của mẹ và anh trai được rửa sạch, hoàng đế nhốt Cố Đình Diệp vào đại lao, đày đến biên giới làm khổ sai, trọn đời không được về kinh, lại phạt ả họ Thịnh vào phường hát, mỗi ngày phải quyến rũ nịnh bợ nàn ông. Chính mình lại trở thành cô Bảy cao quý như trước kia, mẹ chồng và chồng đều một mực nghe lời, không dám làm mích lòng, đương nhiên, con ranh họ Nghiêm đừng tưởng được yên ổn, bị bán đến kỹ viện hạ lưu nhất, mấy đứa con nó sinh ra bị bán ra ngoài làm nô bộc cho người ta…

Đang say mộng đẹp, đột nhiên nghe thấy một tiếng ầm vang, Đình Xán tức khắc choàng tỉnh, bỗng thấy một đám người xông vào nhà, cô ta sợ tới nỗi co vào góc giường, dăm ba bà hầu cường tráng đồng loạt tiến lên tóm lấy, hoặc trói tay, hoặc trói chân, hoặc bịt miệng.

Đình Xán ra sức ngẩng đầu, giãy dụa chân, chợt thấy một bóng dáng quen thuộc đứng trước cửa, chính là Phan ma ma được công chúa trọng dụng nhất.

Phan ma ma thốt lạnh lùng: “Mợ Ba bị điên, mau đưa đến phòng vắng sau viện rồi mời thầy thuốc tới điều trị tử tế.”

Đình Xán liều mạng ngước lên, cố gắng nhổ tấm vải trong miệng ra, đang muốn quát to, chợt thấy lá thư trong tay Phan ma ma, rõ ràng chính là lá thư mà mấy canh giờ trước tự tay đưa cho chị Hướng? Đình Xán kinh ngạc.

Phan ma ma cất giọng lạnh lẽo: “Mợ Ba yên tâm dưỡng bệnh, đừng cầm bút viết văn nữa.”

Đình Xán tức khắc rõ ràng, ngẩn ra giây lát, la lối om sòm: “Chúng bay dám làm gì chị Hướng hả? Linh Nhi, Linh Nhi đâu?! Chúng bay làm sao dám? Cha ta là Ninh Viễn hầu gia, ta là con vợ cả nhà họ Cố!… Chúng bay là đồ hạ tiện, tại sao dám vô lễ với ta như thế! Linh Nhi, Linh Nhi mau tới đây!…”

Các bà hầu mặc kệ, ba chân bốn cẳng trói chặt lại, vùng vẫy một lúc, Đình Xán vô cùng hoảng sợ, bắt đầu khóc lóc nói lung tung: “…Tướng công, ta không biết, ta không biết gì cả, lá thư đó… Chàng hãy hỏi Linh Nhi… Nhất định là nó tự ý quyết định, đúng, là nó muốn trút giận giùm ta, nó cũng biết viết chữ…”

Ngay sau đó, cô Bảy họ Cố bị bịt miệng lại, chẳng thốt nên lời.



Cửa sổ trong nhà chính đóng chặt, ba người nhà họ Hàn hoặc đứng hoặc ngồi, Khánh Xương công chúa cầm mấy lá thư mỏng manh trong tay, bên trên chính là chữ viết của người vợ mà Hàn Thành quen thuộc.

“Sao nào? Tôi đã nói từ lâu rồi, đồ tai hoạ này không thể giữ lại được, con trai ông còn đòi thương hương tiếc ngọc, lần này hai cha con ông còn gì để nói không.” Khánh Xương công chúa khoan thai phe phẩy mấy lá thư: “May mà con dâu tôi vốn ngu si, nếu hơi thông minh một chút, mua chuộc được ngôn quan, làm to mọi chuyện, sau này chúng ta có cần qua lại với Cố Hầu nữa hay không?”

Hàn Thành tuôn mồ hôi đầm đìa, không nói nên lời.

Hàn phò mã gần sáu mươi tuổi nhưng vẫn khoẻ mạnh minh mẫn, giáng cho con trai một bạt tai, phẫn nộ quát: “Nghịch tử! Mẹ mày nhắc mấy lần mày vẫn không nghe, giờ suýt thì ủ ra tai hoạ! Cố Đình Diệp và Vương Thiện Chi là phụng mệnh vào Thục, một kẻ giành lại binh quyền, một kẻ giành lại chính quyền thuế ruộng, tất cả đều là ý tứ của hoàng thượng, người như vậy chúng ta dám đắc tội sao?!”

Khánh Xương công chúa cất giọng buồn bã: “Có những việc, người ngoài không hay nhưng chúng ta lại không hiểu sao? Lần phủ Ninh Viễn hầu bị cháy to đó, hoàng thượng cố ý trút giận cho Cố Hầu, còn định trừng phạt cả mẹ vợ con. May mà thái y tới báo rằng mẹ vợ con sắp không qua khỏi, Cố Hầu mới xin hoàng đế để cho mẹ vợ con được ra đi thanh thản… Sao nào, đến lượt vợ con thì lại thành Cố Hầu bức tử mẹ kế, ha ha, thật là hoang đường!”

Dứt lời, bà mỉm cười tự giễu: “Quái lạ thật, tại sao khi trước tôi không nhận ra đó là một đứa ngu ngốc chứ?”

Hàn phò mã nhìn chằm chằm vào lá thư, bực dọc: “Còn về hai đứa con của Cố Đình Vĩ hả, vụ án đó chẳng phải đã có kết luận rồi còn gì, Dư các lão đích thân đưa Phương thị bị bỏ trói đến nha môn, Phương thị cũng đã nhận tội, bảo rằng tất cả đều vì trả thù Tần thị hãm hại, còn suýt thì lôi ra việc phu nhân đầu tiên của Cố Hầu giấu chồng ngoại tình, khiến các vị đại nhân Đại Lý tự sợ bắn mình, mau mau kết án. Việc này làm sao qua miệng vợ mày lại liên quan đến…”

Hàn Thành chầm chậm lau mồ hôi lạnh trên trán, sắc mặt dần bình tĩnh, nói nhỏ: “Con trai biết lỗi. Người vợ như vậy, con trai không cần, sau này nên làm thế nào, xin được cha mẹ chỉ dạy.”

“Đây là việc nhà, con không cần nhúng tay vào.”

Công chúa vươn đôi tay thon dài được chăm sóc tỉ mỉ, nhặt lên lá thư liếm vào ánh nến rồi ném xuống đất, ngọn lửa nhanh chóng lan ra mấy tờ giấy mỏng manh, đốt thành tro bụi.

“Bên Cố Hầu dặn, chỉ cần không phải bỏ vợ, không làm ảnh hưởng xấu tới thanh danh con gái họ Cố, việc còn lại hắn không quan tâm. Ta với cha con cũng không phải người nhẫn tâm, dù sao là kiệu tám người khiêng vào cửa, sau này vợ con hãy ở yên trong phòng vắng sau viện, đừng ra khỏi cửa.”

Hàn Thành nhớ đến căn phòng lạnh lẽo ẩm ướt như ổ quỷ, có mấy bà hầu bị câm tính tình quái đản trông giữ liền hơi thương xót. Bấy giờ ngày hè chói chang, hắn lại cảm thấy lạnh run như cuối mùa thu, chóp mũi thoang thoảng hương cúc thơm ngát, dường như trở về ngày mùa thu năm ấy, hoa cúc nở rộ khắp núi đồi, ở thi hội lần đầu đọc được câu thơ của Đình Xán, say đắm mê mải.

Công chúa nhẹ nhàng lay con trai, dịu dàng bảo: “Con ta thật đáng thương, nhân duyên không thuận, ảnh hưởng chính sự, qua lần này, con đừng nhớ tới nó nữa, quan tâm tới sự nghiệp đi.”

Cúc thơm đột nhiên biến mất, Hàn Thành định thần lại, tỉnh táo: “Con nghe lời mẹ.”

Có lẽ, đó chỉ là ảo giác, có lẽ, hắn lấy nhầm vợ.



Nhà chính sân đằng Đông phủ Hàn, Nghiêm thị dịu dàng vỗ về con thơ đang say giấc nồng, nhẹ nhàng chỉnh lại góc chăn mới xoay người ra khỏi phòng trong, chợt thấy góc nhà đứng một bóng người lặng lẽ.

“Cô vất vả rồi.” Nghiêm thị cầm lấy túi bạc trên bàn đưa tới.

Bóng người nọ lùi ra sau một bước, nhỏ giọng: “Nô tì không dám, chỉ xin ngài rủ lòng từ bi, thả tôi ra phủ.”

Nghiêm thị nhoẻn cười, đặt túi bạc xuống. Cô ta có dáng người nhỏ nhắn xinh xắn, giọng nói ngọt ngào, cho dù đang nói tới chuyện chẳng hề vui vẻ.

“Cô đoán đúng lắm. Mấy bà hầu đi theo về kể, chủ nhân của cô trước khi bị bịt mồm còn la lối đổ tội cho cô đấy.”

Gió đêm phe phẩy, ánh đèn loang loáng, ánh sáng chợt hắt lên gương mặt người đó, mặt mày trắng trẻo thanh tú, hoá ra chính là Linh Nhi!

Linh Nhi im lặng.

Nghiêm thị tựa như thích dông dài, nhìn nóc nhà, buồn bã nói: “Năm ấy Song Nhi bên cạnh phu nhân đẩy tôi một cái, hại tôi sảy mất đứa con trai đã thành hình, tôi đau đớn vô ngần, nhưng dù sao không có bằng chứng, nhưng phu nhân nhà cô mà chịu nói đỡ cho Song Nhi vài câu thì ước chừng nó cũng không mất mạng… Song mợợBa không hề nói một câu, ôi, dù gì cũng là một mạng người, vậy mà cứ để mặc công chúa đánh gậy tới chết… Còn cả Mẫn Nhi, Lương Nhi… đều không còn.”

Linh Nhi vẫn im bặt.

Nghiêm thị chợt quay lại nhìn nàng, mỉm cười: “Bây giờ cô lên tiếng được rồi đấy, chuyện này, rốt cuộc là Song Nhi giúp đỡ phu nhân nhà cô thấy việc bất bình chẳng tha, tự quyết định, hay là nghe theo lời của phu nhân nhà cô?”

Linh Nhi đanh mặt, buông giọng lạnh lùng: “Ngài chẳng phải biết rồi còn hỏi? Tôi lại bội phục ngài lắm, nếm bao đau khổ như thế mà vẫn chịu đựng được.”

Nghiêm thị gượng cười, giọng nói vẫn ngọt như nước: “Hết cách, tôi không có số phận tốt như phu nhân nhà cô, đành phải cố gắng chịu đựng. Ôi, Tam gia vẫn vương tình với phu nhân, chỉ cần phu nhân yên tĩnh một chút thì e rằng tôi cũng bó tay.”

Nhớ tới khổ sở trước kia, cô ta không khỏi xót xa, ngẩn ra hồi lâu, chợt ngước lên nhìn Linh Nhi: “Ta hỏi cô một câu cuối cùng, cô làm như thế không cảm thấy có lỗi với chủ nhân, bất an trong lòng ư?”

Linh Nhi ngẩng phắt đầu lên, ánh mắt sáng ngời như ngọn lửa, gằn giọng: “Tôi làm kẻ hầu bên cạnh phu nhân từ năm bảy tuổi, hiện giờ hai mươi bảy tuổi, trọn hai mươi năm chưa từng làm một việc có lỗi với chủ nhân, cũng chưa tính ủ mưu tính kế. Chị Song nhi trước khi tắt thở đã bảo tôi rằng, trong số chị em chỉ còn mỗi mình tôi, nên báo đáp ân tình của chủ nhân đều đã báo đáp đủ rồi, sau này phải tự nghĩ lấy thân.”

Nghiêm thị ngẩn người.

Giọng nói của Linh Nhi không hề có chút cảm xúc: “Mấy hôm nay, tôi khuyên phu nhân dừng cương trước bờ vực vô số lần, từng câu từng chữ đều phát ra từ đáy lòng, nếu có nửa lời giả dối, nguyện bị sét đánh, chết không toàn thây!:”

Thở hắt ra một hơi, tựa như thả hết buồn bực trong lòng, Linh Nhi nhìn đối phương: “…Thôi, đừng kể tới chuyện này nữa, ngài nói thẳng đi, có thả tôi hay không.”

Nghiêm thị bình tĩnh nhìn Linh Nhi: “Cô sẽ không vừa ra ngoài đã cắn ngược lại tôi đấy chứ.”

Linh Nhi buông giọng cay đắng: “Kẻ phản bội chủ nhân còn có người tin sao.”



Trời rạng sáng, ngay gần cửa sau phủ công chúa đỗ một chiếc xe ngựa mái tro, chàng thanh niên ngồi đầu xe ngựa sốt ruột dáo dáo ngó nghiêng, qua hồi lâu mới vui sướng kêu lên: “Đến rồi đến rồi, mẹ, nàng đến rồi!”

Một người phụ nữ tóc hoa râm tức khắc xuất hiện, chính là chị Hướng, chị ta nhìn kỹ: “A, đúng là nàng!”

Linh Nhi mặc quần áo đeo trâm cài đơn sơ, cầm một bọc nhỏ ra khỏi cửa sau phủ công chúa, khẩn trương bước tới xe ngựa, chị Hướng rơi nước mắt: “Bé ngoan, con cuối cùng cũng đến rồi, mẹ con ta đợi cả đêm, chỉ e.. chỉ e vạn nhất…”

“Tốt rồi, đừng dông dài nữa, lên xe mau, chúng ta đi.” Người thanh niên hân hoan vui mừng, vội vàng xuống xe, ân cần đỡ Linh Nhi lên xe, sau đó vung roi nhanh chóng xua xe bỏ đi.

Trong thùng xe, chị Hướng vỗ lên mu bàn tay Linh Nhi, rơm rớm nước mắt: “Chỉ sợ bọn họ không thả con ra, may mà ông trời có mắt… Con chịu khổ nhiều như vậy…”

“Con cũng sợ.” Linh Nhi nằm trong lòng chị dâu, nhỏ nhẹ: “Con nói dì Nghiêm, nếu con chết trong phủ công chúa thì sau đó trong kinh thành sẽ nổi lên tin đồn khắp nơi, nói rằng Nghiêm thị hãm hại phu nhân, làm đủ việc ác. Con chỉ là đứa hầu nhỏ nhoi, khó làm tổn hại quá nhiều đến phủ công chúa, nhưng làm hỏng danh tiếng của một bà vợ bé thì vẫn thừa sức.”

Chị Hướng vỗ tay cười nói: “Đúng vậy. Phu nhân sa sút, cha con họ Nghiêm lại đều có công danh, chị ta lại không muốn phù chính sao? Đây là lúc không thể mắc sai lầm.”

Hồi lâu sau, chị ta than thở: “Con nói xem, cô Bảy còn sống được bao lâu?”

Linh Nhi thê lương: “Với tính cách của cô ấy, có lẽ sẽ không lâu lắm.” Cuộc sống gian nan thống khổ như thế tuyệt đối không phải một đoá hoa trong nhà kính như Cố Đình Xán có thể chịu được.

Chị Hướng thấy Linh Nhi buồn bã bèn an ủi: “Con đừng để trong lòng. Ta hiểu tính tình cô Bảy, dù chúng ta không giúp đỡ thì chính cô ấy cũng sẽ nghĩ cách thực hiện, đến lúc đó chẳng qua lại không dưng khiến con bị chết oan mà thôi.”

“Con không hối hận.” Linh Nhi lắc đầu, hờ hững: “Còn ở bên phu nhân thì chỉ có một kết cục. Con, còn vẫn còn nhớ đến cô Đình Yên.”

Nhắc tới cô Cả phủ Cố sau khi lấy chồng không qua lại với nhà mẹ đẻ nữa, chị Hướng lập tức vỗ chân: “Không sai! Nhà họ Tần đều chẳng phải người tốt! Ta nghe người già kể, khi xưa mẹ ruột cô Đình Yên cũng nhất mực trung thành với chủ nhân nhà mình, vốn đã tìm được tấm chồng vừa ý, ai ngờ ma ốm đó hấp hối vẫn còn hại người! Để làm ghê tởm cho phu nhân Bạch thị, cũng để cậu Đình Dục có người chăm sóc, đã, đã…”

Chị Hướng nhớ tới dì Khâu mất sớm liền càng dũng cảm: “Họ Tần qua cầu rút ván, thoạt đầu lời ngon tiếng ngọt, nào ngờ Thái phu nhân vừa vào cửa liền ngứa mắt mẹ con cô Đình Yên. Ôi, đáng thương cho cô ấy, bị Thái phu nhân dỗ lão Hầu gia gả xa tít mù khơi, chẳng biết đời này có thể trở lại kinh thành được hay không!”

Linh Nhi gật đầu, nhẹ nhàng nói: “Chúng ta là kẻ hầu, trong mắt chủ nhân khác gì đồ vật, hữu dụng thì giữ lại, vô dụng thì bỏ đi.” Nói tới đây, nàng sực nhớ tới một việc, lấy tay xoa nhẹ đầu gối chị Hướng: “Con nhớ ngài bị thấp khớp lâu năm, đêm qua lại quỳ một lúc lâu, bây giờ còn đau không? Con xoa cho ngài nhé.”

Tay nàng vừa chạm đến đầu gối, chị Hướng liền bật thốt xuýt xoa, căm tức mắng: “Hai mẹ con họ đều cùng một hạng, không bao giờ coi người hầu như con người! Nhà chúng ta bán mạng cho họ cả đời, chồng ta bị liên lụy cứ thế bị đánh chết, đến khi mẹ chồng ta tắt thở Thái phu nhân vẫn còn không chịu trả lại công bằng cho nhà ta, tiếp tục để chúng ta hầu hạ khổ cực! Hừ!”

“Tốt rồi, quá khứ đã qua, chúng ta mau rời khỏi kinh thành, tìm nơi vắng vẻ ở lại.” Linh Nhi nói: “Có bạc, chúng ta không phải lo lắng nữa.”

Chị Hướng cười bảo: “Đúng vậy.” Bỗng lo lắng hỏi: “Khánh Xương công chúa sẽ bỏ qua chúng ta ư? Đừng có tự dưng đổi ý đấy nhé.”

Linh Nhi mỉm cười: “Việc lần này, nếu không có công chúa ngầm đồng ý, ngài cho rằng dì Nghiêm có thể thành công sao.”

Chị Hướng giật mình: “Chẳng lẽ công chúa muốn trừng trị cô Bảy?”

“Nếu phu nhân biết điều, công chúa chưa chắc đã ra tay.” Linh Nhi lạnh lùng thốt: “Nhưng phu nhân liên tục xúi giục Tam gia ngỗ nghịch mẹ ruột, công chúa đã chẳng thèm đoái hoài nàng dâu này rồi. Có điều Thái phu nhân mất, vì không muốn người ngoài nói phủ công chúa gió thổi chiều nào theo chiều ấy, mang tiếng sợ hãi quyền thế nhà họ Cố nên mới chưa muốn động thủ, mới lại kéo dài từng ấy năm.”

“Con ngoan, con thật thông minh!” Chị Hướng mừng rỡ, ôm Linh Nhi nói: “Sau này cả nhà ta sống yên ổn với nhau nhé.”

Linh Nhi giỏi nhất lựa lời, tỏ ra cảm kích: “Con còn lớn hơn cậu Thanh hai tuổi, may mà ngài không ghét bỏ, sau này con nhất định một lòng phụng dưỡng… phụng dưỡng…” Nàng đỏ mặt, ngại ngùng mãi.

Chị Hướng cười tủm tỉm: “Con gọi ta là gì.”

Nếu như trước kia còn ở phủ Cố ăn ngon mặc đẹp, chị ta nhất định không thích Linh Nhi làm con dâu, nhưng mấy năm nay nhà cửa sa sút, làm ăn bị lừa, lao động bị chèn ép, trải qua khoảng thời gian cơm áo gạo tiền, chị ta mới phát hiện trong nhà nhất định phải có một nàng dâu giỏi giang bản lĩnh.

Ví như Linh Nhi, vừa thông minh vừa tháo vát, lại một lòng thích con trai mình, không nơi nương tựa, trừ nhà mình ra nó còn biết dựa vào đâu, mà tuổi nó lại cao, chỉ sợ đàn ông không cần nó ấy chứ, bởi thế sẽ càng cung kính bản thân mình gấp bội.

Linh Nhi lẳng lặng theo dõi sắc mặt hài lòng của chị Hướng, trong lòng thầm hiểu, trên mặt vẫn tỏ ra xấu hổ như thiếu nữ, dịu dàng nói: “Sau này con nhất định một lòng phụng dưỡng mẹ.”

Cuộc sống là do con người tạo ra, một người chồng có sức khoẻ, biết nghe lời, một bà mẹ chồng không quá khó tính, nàng không tin bản thân sẽ sống không tốt.
 
Chương 225: Ngoại truyện 5: Tuyết tháng hai


Đã là tháng hai đầu xuân, một cơn gió xuân lạnh lẽo khó hiểu ập tới, luồng hơi lạnh giá như một cái lồng thủy tinh bao phủ trên kinh thành, rõ ràng đang buổi ban ngày mà cơn rét lan toả từ lòng bàn chân lên trên. Hạ phu nhân đứng trước cửa nhìn về phía chân trời, dậm chân vùng khỏi cơn giá lạnh, dặn dò bà hầu mau đốt địa long: “Đốt thêm hai lồng than trong phòng các cô chủ cậu chủ, bảo mấy đứa hầu theo dõi sát sao vào kẻo lại cảm lạnh.” Suy nghĩ giây lát lại dặn thêm: “Bên kia cũng thế, đừng để cảm lạnh rồi lại gây chuyện.”

Bà hầu cười đồng ý, khen ngợi bà chủ vài câu nhân đức xã giao rồi lui xuống, bấy giờ một nàng hầu trang điểm đẹp đẽ hào hứng chạy tới hành lang, cười nói vọng vào trong phòng: “Thưa phu nhân, ông An phòng nuôi ngựa mới về, bảo rằng lão gia sắp tới cổng thành, chỉ chờ dỡ mấy xe thuốc vào trong cửa hàng là về nhà.”

Hạ phu nhân vui mừng: “Lần này đi xa nhưng lại về nhanh, đi nào, bảo các cô chủ cậu chủ lão gia sắp về rồi, mau chóng lấy chữ viết và tranh vẽ mang ra, để lão gia được vui vẻ.”

Nàng dâu lanh lợi đáp ứng.

Ông chủ gia đình đi xa trở về, Hạ phu nhân đương nhiên bận bịu, chuẩn bị mấy thùng nước nóng to, rải thảo dược giúp giải toả mệt mỏi, chuẩn bị áo lót sạch sẽ và áo choàng ngoài, hâm nóng giường đệm, nghĩ có khi tầm này hắn vẫn chưa dùng cơm trưa, bèn sai nhà bếp chuẩn bị mấy món ăn mà hắn thích, bọn nhỏ tới tấp đến, bèn bảo vào trong phòng chờ trước…

Bận bịu hồi lâu, gần tối, một bà hầu mồ hôi mồ kê nhễ nhại lao vào, vừa tức giận vừa khinh thường nói: “Phu nhân, lão gia về rồi, nhưng kẻ gây chuyện kia lại làm loạn kìa! Sai đứa hầu chặn đường, vừa thấy lão gia liền vừa khóc vừa gào đòi phải sang nhìn một cái, nói gì mà dì Tào sắp ốm chết đến nơi rồi!”

Trò này bên kia chẳng phải lần đầu diễn, Hạ phu nhân vốn mặc kệ, dù sao chồng cũng không thích bên kia, nhưng bây giờ thấy hai đứa con đều đang mong ngóng cha về, nàng không nhịn nổi cơn tức.

Nhà mẹ đẻ Hạ phu nhân theo nghiệp binh đao, nàng theo phụ huynh mưa dầm thấm đất từ nhỏ, tính khí dữ dằn mạnh mẽ, tức khắc đứng lên, xoay người lao ra khỏi cửa, lúc bước ra còn vung tấm rèm gấm kẹp bông dày kêu vang dội.

Nhà họ Trạch nhỏ xinh, tổng cộng ba sân, chẳng qua có vài bước đường Hạ phu nhân liền tới chái phòng trong viện nhỏ phía Tây, chẳng đợi hầu già lên tiếng thông báo, nàng đã sải bước tiến vào, vừa vén rèm lên liền thấy một người phụ nữ ngồi tựa đầu giường ăn vận hớ hênh, ngực lộ một nửa, bầu ngực mịn màng, áo yếm đỏ tươi.

Dì Tào trông thật đáng thương, tóc mai rối loạn, một tay vỗ ngực, một tay kéo chặt người đàn ông bên giường, buông giọng xót xa: “Anh họ, anh họ, anh thật tàn nhẫn, mấy ngày nay chẳng đến thăm em…”

Người đàn ông phong trần mệt mỏi, giọng nói đầy uể oải: “Tôi ra ngoài mua hàng, đến thăm cô kiểu gì.”

Dì Tào rưng rưng nước mắt nhìn chăm chú vào hắn, giọng nói càng nhu mì: “Vậy lần trước thì sao, nếu không phải em mặt dày, chỉ e anh họ chẳng thèm ngó ngàng gì tới em! Dù em chết rồi chỉ e cũng chẳng ai hay!”

Người đàn ông đặt tay bắt mạch, thờ ơ: “Cô không sao, máu hơi ứ đọng, uống thuốc là khỏi.” Chết hay không chết, mấy năm nay hắn nghe nhiều, chai rồi.

Dì Tào thầm hận, nếu là đàn ông tầm thường còn thôi, có điều hắn lại là thầy thuốc cao minh, muốn giả ốm cũn không xong, thoáng thấy hắn định đứng dậy, chị ta vội kéo lấy tay áo hắn, nỉ non: “Anh họ thương em với chứ!”

Tiếp đến chị ta dựa nửa người lên người hắn, ẽo ợt kêu: “…Từ khi dì qua đời năm trước, anh họ chẳng thích gặp em, em biết em có lỗi, mấy năm nay em làm ảnh hưởng đến anh, không uống thuốc thì chính là dùng đồ bổ, có lẽ anh đã ghét em từ lâu rồi. Nhưng mà em lại chẳng muốn buông xuôi, chỉ mong được bên anh họ thật dài thật lâu, chị gái lại chẳng cho em bước vào chỗ chị ấy nửa bước…”

Hạ phu nhân chẳng nghe nổi nữa, hất mạnh rèm lên, xông vào, lôi dì Tào ra khỏi người đàn ông, đẩy mạnh xuống đất, mắng: “Tiện nhân! Cô còn cần thể diện không hả? Cởi quần áo, lộ bộ ngực, mẹ chồng qua đời mới được mấy tháng hả?! Tướng công còn đang giữ hiếu đấy, cô bỉ ổi đến mức dụ dỗ đàn ông thế hả! Đang có nạn đói nghiêm trọng đấy, tôi ra ngoài tìm mấy thằng đàn ông khoẻ mạnh đến diệt hoả cho cô nhé! Cần gì làm cho tướng công mang tiếng bất hiếu!”

Dì Tào xưa giờ e sợ bà chủ ưa động tay chân này, đặc biệt sau khi dì qua đời chị ta đã từng nếm trải một trận đòn do đích thân bà chủ ra tay, mặt chị ta đỏ bừng lên, bò trên mặt đất khóc tu tu: “…Phu nhân ăn nói… sao khó nghe thế! Tôi… Tôi không sống nổi nữa…”

Hạ phu nhân chả thèm thương hương tiếc ngọc, nhổ một ngụm nước bọt lên người chị ta, khinh thường: “Cô chết sớm càng tốt! Chỉ sợ chẳng chịu chết, đội lốt đầu trâu mặt ngựa tìm cớ hại người thì có! Mẹ chồng đối xử khoan dung với cô, thế mà cái loại không biết xấu hổ như cô thừa dịp mẹ chồng ốm nặng gây ra chuyện gì hả?! Cô còn dám khóc hả! Cô hạ dược cho tướng công, sai đứa hạ tiện bò lên giường, định lôi đứa ất ơ vào nhà gây hoạ! Mẹ chồng vốn còn sống được nửa năm nữa, bị cô tức chết luôn rồi!”

Dì Tào che mặt lệ tuôn như mưa: “Phu nhân chán ghét tôi, đánh tôi mắng tôi đều được, nhưng đừng có oan uổng tôi! Tôi cũng biết suy nghĩ cho nhà họ Hạ, anh họ đến giờ mới chỉ có một trai một gái, chi bằng lấy nhiều vợ lẽ, sinh con đẻ cái mới phải! Tôi không làm được, đành phải tìm đứa béo khoẻ đến, nào ngờ con bé đó lòng dạ khó lường, tôi đâu có biết…”

Hạ phu nhân giận dữ, đá mạnh vào người Tào thị, chửi: “Hừ, cô lừa ai hả! May mà bà nội đề phòng, chứ không cô mà thành công thì tôi giết chết cô cũng không có ai dám ra mặt! Đồ bẩn thỉu, giẫm lên đất của tôi tôi cũng thấy bẩn!”

Tào thị bị bà chủ cấu véo đau đớn, muốn lao đến chân người đàn ông, nhưng lại bị Hạ phu nhân đá thêm một cú, chị ta lăn ra đất gào khóc: “Anh họ, anh cứ giương mắt nhìn em bị đánh chửi thế sao?”

Người đàn ông đứng trước cửa, sắc mặt mờ mịt, dường như hai người phụ nữ đang đánh nhau ngay trước mắt hoàn toàn không liên quan đến hắn: “Nàng là bà chủ, cô là phận hầu, nàng muốn dạy bảo cô, cô phải chịu… Tôi mệt rồi, đi về trước.”

Nói rồi liền xoay người ra khỏi phòng.

Hạ phu nhân đắc ý, cao giọng gọi đám đứa ở bà hầu vào, Tào thị thấy không ai giúp được mình liền hoảng hốt, quỳ xuống bên chân bà chủ định cầu xin đôi câu, chợt thấy hai bà hầu lôi một đứa hầu gái bị vả miệng tới nỗi hai má sưng tấy nhỏ máu tiến vào, chị ta liền thất thanh kêu lên: “Biên Tiên, tại sao em lại bị đánh đến nông nỗi này?!”

Đây là hầu gái tâm phúc còn sót lại duy nhất hiện giờ của Tào thị, đồng thời là kẻ vừa mới đến chặn đường người đàn ông.

Hạ phu nhân đá văng Tào thị ra, đi tới chỗ cửa sổ ngồi xuống, nhìn quanh bà hầu trong phòng, cất giọng chậm rãi: “Năm trước tôi đã nói rồi, trong mắt tôi không chứa nổi hạt cát, đừng tưởng chiếm hời…” Nàng chỉ Biên Tiên mềm nhũn dưới đất, lạnh giọng: “…Chỉ vì một ít bạc vụn mà dám đối chọi với ta hả! Người đâu, nếu con bé này tốt với dì Tào nến thế thì đưa giấy bán thân của nó sang nhà họ Tào đi!”

Biên Tiên tức khắc run rẩy, nó ở bên dì Tào khá lâu, làm sao không biết tình hình nhà họ Tào, nghèo túng đến nỗi ngay cả đốt củi nấu cơm con dâu họ Tào đều phải tự làm, ăn không đủ no mặc không đủ ấm, cha con nhà họ lại còn dâm đãng độc ác, bản thân là một cô gái trong sạch, sang đó chẳng phải dê vào miệng cọp?! Chỉ sợ một bị bọn họ chơi chán liền bán cho kỹ viện!

Con bé cực kỳ hoảng sợ, dợm cầu xin, phát hiện quá run không nói thành lời, liền bị hai bà hầu kéo ra ngoài.

Bà hầu xung quanh yên lặng, không dám gây tiếng động.

“Xách lên cho tôi!” Hạ phu nhân hét lên, hai nàng hầu giữ chặt cánh tay Tào thị lôi lên phía trước.

Hạ phu nhân xắn tay áo, giương bàn tay dày dặn lên tát tới tấp, Tào thị ăn mười mấy cái tát, sứt môi rách mặt, liên tục xin tha.

“…Lúc trước tôi còn tưởng cô là người tốt, tiểu thư khuê các gặp khổ sở, chịu khổ ở thâm sơn cùng cốc, tôi còn định đối xử tử tế, cho cô ăn ngon mặc đẹp…” Hạ phu nhân ra tay sung sướng, từ tốn bỏ tay áo xuống, cất giọng châm chích như kim đâm: “Nào ngờ cô tham lam, không biết xấu hổ! Con bé hạ tiện đó bảy, tám ngày trước đó mới bò giường, tại sao lại chẩn ra có thai hai tháng?”

Hạ phu nhân cố tình làm nhục nhà họ Tào trước mặt mọi người, cất giọng thẳng thừng: “Hừ, cô đừng giả vờ ngớ ngẩn, tướng công với tôi đã điều tra ra, con bé đó ngày ngày đến nhà họ Tào đưa tin đưa đồ, câu kết làm bậy với anh em nhà cô từ lâu rồi, đứa bé trong bụng bất kể là ai thì đều là của họ Tào. Ha ha, nhà họ Tào của cô giỏi lắm, còn định vơ vét gia sản họ Hạ hả! Tôi nói cho cô, mơ nhé! Bà nội đã phát hiện ra rồi, chẳng qua đợi cô tự tìm đường chết mà thôi!”

Hạ lão phu nhân từ khi thấy con dâu chuẩn bị dầu cạn đèn tắt liền biết nhà họ Tào không chờ nổi, định gây rối, bèn bảo cháu dâu cứ chờ mà xem, người mất là hết, nhân tiện phòng bị con dâu trước khi lâm chung đề ra yêu cầu bất hợp lý.

Kết quả trước khi con dâu qua đời chỉ còn đủ sức cầu xin giúp đứa cháu ngoại, còn lại chẳng nói được gì, nhớ lại bà nội khôn khéo thông suốt, Hạ phu nhân vừa cảm kích vừa kính nể.

Kế sách bị vạch trần, Tào thị yên ổn được một thời gian, không dám thấy người, nào ngờ mới được vài tháng lại chứng nào tật nấy, Hạ phu nhân nghẹn đã lấy liền lấy cớ trừng trị chị ta!

“Cô ngoan ngoãn cho tôi, trước khi mất mẹ chồng từng dặn dò phải chăm sóc cô tử tế! Tôi và tướng công đều nhớ, sẽ không để cô đói khổ, nhưng nếu cô còn dám gây rối, ngoài thành nhiều am ni cô lợi lắm, chủ trì cũng lợi hại, tôi có rất nhiều cách chỉnh cô!”

Đe doạ mắng mỏ xong, Hạ phu nhân thoải mái hơn nhiều. Ném Tào thị khóc sướt mướt lên giường, một lần nữa cử thêm hai đứa hầu gái “đắc dụng”, vài bà hầu “hiểu quy củ” cho chị ta.

Hả lòng hả dạ trở lại phòng mình liền thấy chồng đã tắm rửa xong, đang ngồi trên giường đùa giỡn với các con, con trai nghịch ngợm, giơ tờ giấy viết chữ đòi phụ thân khen ngợi, còn rúc rích bò lên vai cha cười đùa ầm ĩ, con gái dịu ngoan ngồi bên cạnh vừa hỏi vừa đáp sách thuốc “Hoàng đế nội kinh” với cha, người cha vừa ôm đứa con trai vặn vẹo trong lòng, vừa nhìn về con gái bằng ánh mắt tự hào.

Hạ phu nhân hân hoan vui sướng.

“Được rồi, hai con khỉ này còn không mau xuống!” Hạ phu nhân bật cười: “Cha các con còn chưa ăn cơm đâu!”

Nàng mới lại gần giường, con trai út đã tiện đà leo lên người, nũng nịu: “Mẹ, con với chị ăn cơm với cha nhé, con sẽ gắp thức ăn rót rượu cho cha.”

“Hừ, có con ở đây, cha con mà yên ổn ăn cơm được?… Thôi nào, Thục nhi, dẫn con khỉ nhỏ về đi!”

Thục nhi xoay người che miệng cười khẽ, sau đó nắm tay em trai, nửa kéo nửa lôi ra ngoài.

Vợ chồng mỉm cười nhìn hai đứa con ra cửa, Hạ phu nhân vội gọi bà hầu dâng đồ ăn lên bàn trên giường, tự mình rót rượu vàng cho chồng.

“Lần này tướng công làm việc thuận lợi chứ?” Hạ phu nhân đã ăn lót dạ, không ăn nữa, chỉ ngồi đối diện cùng chồng: “Hoàng đại phu của cửa hàng Bảo An đã đến hai lần, bảo là có phương thuốc muốn thảo luận với chàng. Phủ Nghiêm quốc công đến nói lần trước ăn thuốc viên mà tướng công cho rất tốt, lão phu nhân và lão thái gia thích lắm, muốn xin thêm, nếu tướng công rảnh thì sau này mời tướng công thường qua phủ bắt mạch. À, còn cả Lâm thái y ở ngõ Song Hoa, ông ấy quyết tâm cáo lão, bảo tướng công suy nghĩ kỹ càng, thật sự không cần ông ấy tiến cử vào Thái y viện ư? Dù trong Thái y viện nhiều phiền phức nhưng lại có khá nhiều phương thuốc và sách thuốc cổ đã thất truyền, nếu tướng công không muốn vào thì cũng phải mở cửa hàng đi chứ…”

Hạ phu nhân quản gia rành mạch, bất luận là việc trong nhà hay xã giao đều giỏi giang.

Hạ đại phu nhấp nhẹ chén rượu, cất giọng cảm tạ tự đáy lòng: “Dạo này vất vả cho nàng, trong ngoài đều phải lo liệu, nàng cũng phải bảo trọng thân thể, lần này tôi mang về nhà ít táo đỏ và tổ yến, nàng giữ lại mà ăn, đừng đưa người khác.”

Hạ phu nhân bật cười: “Vợ chồng với nhau cần gì phải cảm ơn, tôi khoẻ lắm.”

Hạ đại phu mỉm cười, không nói thêm, cúi đầu ăn cơm.

Hạ đại phu hiện giờ mới hơn ba mươi, mặt mày tuấn tú, thường ngày sống đạm bạc, năm tháng ít để lại dấu vết trên mặt hắn, chỉ có đôi mắt thì lại già nua, luôn toát vẻ uể oải thẫn thờ.

Hạ phu nhân nhìn chồng một lát, chợt nhớ tới nhiều năm về trước. Nàng và chồng thành hôn đều ở độ tuổi không nhỏ.

Cha của Hạ phu nhân vốn là võ quan đóng tại kinh thành cấp bậc thấp, đến tuổi cập kê chọn cho nàng một hôn sự phù hợp, đối phương vừa là hàng xóm lâu năm vừa là đồng liêu, quả thực thích hợp làm thông gia.

Chuyện kế tiếp xảy ra, chẳng biết nên nhận định là tốt hay xấu.

Từ khi Nhân Tông hoàng đế về già, các vương gia phiên vương liên tục mưu nghịch, đương kim thiên tử lên ngôi, sau đó là bình loạn, vài năm sau lại có phản nghịch, sau đó lại bình loạn, trong ngoài kinh thành trở nên hỗn loạn.

Cha anh Hạ phu nhân liên tiếp đạt được công huân ở những lần biến loạn này, làm việc đúng đắn, cũng đứng đúng hàng, trong vòng mấy năm nhanh chóng thăng chức, nàng từ một cô con gái võ quan nho nhỏ không mấy nổi bật trở thành thiên kim tiểu thư của Phó Chỉ huy sứ cửa Nam có máu mặt trực thuộc Ngũ thành binh mã, các anh trai cũng có tiến đồ hứa hẹn, nhưng mà, vị hôn phu của nàng lại bỏ mạng trong chiến loạn.

Cứ thế kéo dài, nàng liền kéo đến hơn hai mươi tuổi, đến tận khi họ Hạ tới cầu hôn.

Nhân phẩm của chồng khá tốt, còn trẻ tuổi đã sở hữu y thuật giỏi, họ Hạ cũng được coi là danh môn. Dù sớm nghe phong thanh bên cạnh Hạ đại phu có cô em họ làm quý thiếp (nhà họ Tào làm ầm vài lần), nhưng Hạ phu nhân đã qua cái tuổi kén cá chọn canh, thế là cha mẹ nàng bèn đồng ý.

Sau khi lấy chồng cuộc sống cũng dễ chịu, dì Tào không khó ứng phó, đặc biệt quan trọng là, Hạ lão phu nhân đứng đầu gia đình vẫn còn quắc thước, nói năng to rõ, định ra một quy củ bằng sắt, hoặc con dâu Hạ Tam phu nhân hoặc Tào thị, phải có một người đi cùng bà ấy về quê Bạch Thạch Đàm.

Không có mẹ chồng làm chỗ dựa, Hạ phu nhân dũng mãnh thừa sức chỉnh đốn Tào thị, mà không có Tào thị ở bên, mẹ chồng Hạ Tam phu nhân có thở ngắn than dài cũng vô dụng. Chỉ có điều hàng năm về Bạch Thạch Đàm ăn tết, Tào thị và mẹ chồng đều ở cùng một chỗ thì hơi đáng ghét, may mà chồng cũng sáng suốt, thường đối xử có lệ với mẹ ruột, cũng chẳng thương hại cô em họ Tào thị là mấy so với nghe đồn, chẳng qua nể mặt mẹ mà thường đến phòng Tào thị ngồi một lát.

Lâu ngày, Hạ phu nhân còn cảm thấy sâu trong lòng chồng có vẻ chán ghét nhà họ Tào, để chia rẽ vợ chồng họ, Tào thị còn tiết lộ, ban đầu chồng từng có một hôn sự cực kỳ tốt, v.v…

Tào thị sai rồi, Hạ phu nhân hoàn toàn chẳng bận tâm, bản thân nàng đã từng có hôn phu, hơn nữa biết việc này càng có lợi, nàng càng xác định trong lòng chồng quả thực cực kỳ chán chường Tào thị, thế là ra tay trừng trị Tào thị càng ngày càng không nể nang gì.

Nên mắng thì mắng nên đánh thì đánh, nàng lớn lên nơi phố phường từ nhỏ, trong nhà chỉ có hai bà hầu chuyên làm việc nặng thô lỗ, có lúc còn phải theo mẹ ra phố mua đồ, nàng há mồm có thể thốt trơn tru những lời khó nghe, Tào thị không phải đối thủ.

Huống hồ chỉ cần nàng chiếm lý lẽ, dù trừng trị phận hầu thế nào, Hạ lão phu nhân hoàn toàn tán thành, mẹ chồng cũng chỉ có thể lau nước mắt, chẳng dám nói gì.

Hạ phu nhân bấy giờ mới hiểu tại sao Hạ lão phu nhân lại chọn mình làm cháu dâu, đối mặt với em họ kiêm quý thiếp mặt dày, với nhà họ Tào dai như kẹo kéo hàng ngày tới kiếm chác, với bà mẹ chồng không được việc không đáng tin, nếu lấy tiểu thư hoặc nết na hoặc hiền dịu hoặc nhát gan vào nhà, chỉ e trong nhà chẳng những càng ầm ĩ, vợ chồng cũng bị chia rẽ.

Cũng chỉ có nhà mình, dòng dõi tàm tạm, nhà vợ có thể làm chỗ dựa cho con rể, bản thân mình tính cách lại mạnh mẽ, chỉnh đốn phận hầu, tảng lờ mẹ chồng, xoay người còn có thể tỏ ra ân ái hoà hợp với chồng.

Đến năm trước, bà mẹ chồng luôn được coi là sắp chết lại mãi không chết cuối cùng cũng qua đời.

Nhờ có hành tây, nàng khóc lóc sướt mướt ra vẻ dâu thảo, khóc đến nỗi ai cũng chạnh lòng, kỳ thực, quỷ mới đau lòng, nếu không vì người mẹ hồ đồ, với nhân phẩm và tài cán của Hạ đại phu thì đã lấy được danh môn quý nữ, chấn hưng gia đình nhỏ từ lâu rồi, làm gì đến lượt bản thân mình?

Còn chồng đối với quả phụ qua đời dường như cũng chẳng đau lòng mấy.

Hạ phu nhân thấu hiểu, bao năm hao mòn, tình thương đã cạn kiệt. Còn Tào thị… sau này nằm trong lòng bàn tay nàng, nếu ngoan ngoãn thì nàng còn để yên, nếu dám ồn ào, ha ha…

Nghĩ tới đây, tâm tình Hạ phu nhân rất tốt, vừa giúp chồng gắp thức ăn, vừa thi thoảng kể lại những việc dạo này nghe thấy ở kinh thành.

“…Tháng sau vào xuân, kinh thành lại có vài việc vui đấy. Trong đó quan trọng nhất tất nhiên là cô Cả phủ Ninh Viễn hầu lấy chồng…” Nàng còn chưa dứt lời, Hạ đại phu chợt xen ngang: “Cô Cả họ Cố hai năm trước mới xuất giá mà, làm sao lại có một cô Cả nữa?”

Hạ phu nhân thầm kinh ngạc, chồng vốn từ tốn, nói hơi khó nghe thì chính là chậm chạp, thế mà cũng biết xen ngang cơ đấy.

Nàng cười bảo: “Chàng không biết đấy thôi, hai năm trước lấy chồng là con gái ruột của Cố hầu, còn người hiện nay lấy chồng là con gái của anh trai đã qua đời của Cố hầu, kể ra thì cũng là cô Cả phủ Hầu mà. Vị Cố Đại tiểu thư này được hứa hôn cho thế tử phủ Vĩnh Xương hầu, đúng là môn đăng hộ đối, phú quý song toàn!”

Hạ đại phu khựng lại, gật đầu.

Hạ phu nhân tiếp tục cười kể lể: “Chúng ta vẫn đang cung cấp y dược cho nhà họ Lương đúng không, lần này phải biếu xén thật nhiều mới được. Ôi chao, Lương lão phu nhân thật giỏi, đích thân đến cầu được hôn sự này với vị Đại phu nhân ở goá đấy. Lương hầu gia là người thành thực, kém xã giao, phòng thứ nhất họ Lương mấy năm nay càng ngày càng náo nhiệt. Lương hầu phu nhân nhã nhặn lắm, mấy lần còn kể với tôi khổ sở phát khóc, ha ha, như thế rất tốt, bám víu được nhà họ Cố…”

Nàng vui vẻ kể lể, chưa từng phát hiện Hạ đại phu ngồi đối diện hơi buồn bực, chỉ nghe hắn bảo: “Nếu họ Lương có mưu đồ đó, chẳng lẽ họ Cố cũng bị lôi xuống nước?”

Hạ phu nhân sửng sốt, đoạn tươi tắn bảo: “Tướng công nói gì thế? Nếu không phải là hôn sự tốt, Cố hầu còn lâu mới chịu. Lương thế tử tốt lắm, không thành thực như cha mẹ đâu, thật sự rất triển vọng. Có điều…”

Nàng dừng lại giây lát, nhỏ giọng: “Theo tôi thấy, hôn sự của Cố Đại tiểu thư hai năm trước mới gọi là tốt.”

Hạ đại phu ngẩng đầu lên, chần chừ: “Một là thế tử phủ Hầu có tước vị cha truyền con nối, một là tân khoa tiến sĩ, tuy nói cũng phú quý, nhưng dù sao vẫn mém hơn.” Nói rồi lại ngập ngừng: “Có điều Cố Đại tiểu thư không phải con dòng chính, cũng không chịu thiệt.”

Hạ phu nhân cười bảo: “Tướng công không hiểu rồi. Họ Lương dù có tước vị, nhưng vài năm nay trong nhà trống rỗng, lại đông dân cư, năm, sáu phòng chị em dâu ở với nhau, anh em lại bất hoà, đích thứ tranh đấu, ngày ngày bất ổn, Lương hầu phu nhân chống chọi sắp bạc hết cả đầu. Nhìn xem, con gái họ Cố vào cửa liền bận bịu. Nhà họ Thường lại bất đồng, Thường phu nhân mất sớm, trong nhà chỉ có bà nội và chị gái đã lấy chồng, Cố Đại tiểu thư vừa gả đến liền là bà chủ gia đình. Mấy năm nay Thường đại nhân lại quan vận hanh thông, nữ quyến xã giao, nào ai dám coi thường cô Cả phủ Hầu?!… Chậc chậc, nghe bảo Cố hầu phu nhân rất thương đứa con gái này, thoạt đầu tôi còn không tin, bây giờ quả nhiên thấy đúng, hiếm có, thật hiếm có.”

Hạ đại phu yên lặng chốc lát, cầm đũa lên, chậm rãi gảy đồ ăn.

“Cố hầu canh giữ biên cương, Cố Đại phu nhân là quả phụ, hôn sự này phải làm thế nào?… Hai năm trước, Cố hầu phu nhân vội vàng trở về từ phía Nam, đích thân xử lý hôn sự mà.”

Thấy ông chồng xưa nay kiệm lời có hứng thú với việc này, Hạ phu nhân cũng hào hứng kể ra bằng sạch.

“Lần này Cố hầu phu nhân không đến, anh em Cố thế tử thay cha đưa gả chị họ. Chậc chậc, chàng không thấy chứ, Cố thế tử còn thôi, tuổi nhỏ nhưng đầy vẻ khí khái, còn cậu Hai Cố, đúng là đẹp như Phan An, giống hệt tranh vẽ. Hôm đó cậu ấy không ngồi xe, ruổi ngựa qua cửa Đắc Thắng, các chị các cô điên cuồng vứt túi thơm khăn tay và đồ bên người lên cậu ấy! Nghe bảo Cố hầu phu nhân năm đó là mỹ nhân hạng nhất, cậu Hai giống mẹ mới tuấn tú như thế. Chẳng biết cô gái nhà nào may mắn được xứng đôi với cậu ấy nhỉ, có khi nằm bên gối nửa đêm lại tỉnh giấc bật cười ấy chứ. Nghe nói Thẩm quốc cữu và cha vợ Anh quốc công rất ưng hai anh em họ Cố, còn định chọn mỗi cậu một bên làm con rể…”



Dùng xong cơm tối, uống xong trà, Hạ phu nhân ngồi trên giường thuê thùa, Hạ đại phu đứng yên dưới cửa sổ, hồi lâu, hắn đột nhiên nói: “Tuyết rơi.” Sau đó mở cửa ra ngoài.

Trong đình viện có cây mai già, đoá hoa đầu cành run lẩy bẩy, bông tuyết bay lả tả giữa không trung, Hạ đại phụ đứng dưới bóng cây đưa lưng về phía cửa, ngước nhìn cánh hoa mai đọng tuyết.

Hạ phu nhân đẩy khung thêu sang một bên, chậm rãi đến bên cửa thưởng tuyết, ánh trăng bàng bạc, cánh hoa nhỏ bé ánh xạ màu bạc giữa trời tuyết, mông lung như tấm voan mỏng.

Nàng ngơ ngác đứng một lát, hoảng hốt nhớ lại năm ấy, cũng là đêm trăng sáng tỏ tuyết bay khắp trời, người thiếu niên tuấn tú hoạt bát nằm sấp trên tường, si mê ngắm mình, nàng cũng đứng dưới gốc cây mai già trong nhà, ngẩng đầu nhìn hắn.

Lông mày chàng thiếu niên đậm màu chếch cao, ánh mắt rừng rực, đôi mắt đen lay láy chỉ có bóng hình của mình, bông tuyết lạnh băng rơi lên mặt nàng, nàng cũng chẳng hay, lòng nàng đã bị ánh mắt nóng cháy của hắn làm tan chảy, cảm thấy tan thành nước.

Hai trẻ vô tư, thanh mai trúc mã, kết thúc được cha mẹ hai nhà hứa hẹn cho nhau, cuộc sống thật hạnh phúc…

“…Sáng sớm tôi sẽ xuất phát với cha và các anh, đợi tôi về, chúng ta thành hôn nhé, mai này, chúng ta… chúng ta… vĩnh viễn ở bên nhau, cho dù rụng hết răng, bạc hết tóc cũng ở bên nhau!”

“Em gái, tôi, tôi… trong lòng tôi chỉ có em… Xưa giờ đều chỉ có em.”

“Em yên tâm, tôi nhất định bình an trở về, vì em tôi cũng phải bình an trở về.”

Lời nói hãy còn văng vẳng bên tai, người thương trong mộng đã thành thi thể lạnh buốt, không còn ánh mắt nóng rực, không còn tiếng cười cởi mở, cánh tay nóng bỏng lực lưỡng…

Nước mắt tràn mi, Hạ phu nhan vội vã cúi đầu lau.

Nàng mất rất nhiều năm mới có thể thoát khỏi đau buồn, không biết đã từ chối bao nhiêu hôn sự mà cha mẹ tìm cho, bỏ lỡ tuổi xuân đẹp nhất, bỏ lỡ hôn sự tốt đẹp, nhưng nàng không bao giờ hối hận.

Chợt có một ngày, nàng nhìn các cháu chơi đùa trong viện, chợt phát hiện bản thân vẫn muốn có gia đình, vẫn muốn có hạnh phúc con cái sum vầy, cũng để cho cha mẹ và anh trai chị dâu khỏi phiền phức, thế là nàng đồng ý lấy chồng.

Chồng là người tốt, dù không hề yêu nàng, nàng biết rõ, nhưng chàng đối xử với mình và con cái đều dịu dàng săn sóc, vợ chồng quý nhau như khách, kính trọng lẫn nhau, cuộc sống giàu có bình thản bận bịu, nàng đã rất thoả mãn.

Một người phụ nữ, đời này từng được hưởng mối tình chân thành như thế, nàng đã mãn nguyện, đã cảm thấy không uổng sống trên đời này.

Hạ phu nhân định thần lại, nhìn người chồng đứng dưới gốc cây, trong lòng chợt dâng nỗi áy náy và tò mò.

Người đàn ông bình thản đạm bạc này, có phải trong lòng cũng từng có một người, một bóng hình làm hắn ghi khắc cả đời hay chăng.
 
Chương 226: Ngoại truyện 6: Khoá đàn hương


Nhà ta là họ Thịnh vùng Hựu Dương Kim Lăng nức tiếng, kỵ nội trúng Thám hoa nhưng đáng tiếc mất sớm, cụ nội Thịnh Hoành đến lúc cáo lão đã là quan viên nhị phẩm, ba người con trai đều là tiến sĩ hai bảng, vào triều làm quan, trong số đó có ông nội ta Thịnh Trường Bách, càng là nguyên lão hai triều được ghi tên vào Danh Thần các, bốn lần nhập các, ba lần bái tướng, để lại dấu chân trong sáu Bộ và mười ba tỉnh, môn sinh trải lần thiên hạ.

Mà ta, chỉ là một cô con gái vợ bénho nhỏ trong gia đình thanh quý này, lại còn do một người con trai không được coi trọng sinh ra.

Ông nội trị gia cực nghiêm, bốn người con trai đều yêu cầu phải tu thân, tề gia rồi mới tới trị quốc bình thiên hạ, nếu có ai hành xử lông bông liền xử trí bằng gia pháp, ba người con trai đầu đều như ý, độc cho ta là ngoại lệ.

Hồi cha ta còn bé, ông nội tới biên thùy làm đại quan Tây Bắc, bà nội theo thường lệ đi theo, đành phải để lại con trai út sức khoẻ kém cho cụ nội là phu nhân Vương thị nuôi nấng, người già thường chiều cháu, đến khi ông bà nội về kinh, cha ta liền biến thành kiêu căng lười nhác.

Ông nội mấy bận định quản giáo, cụ nội lần nào cũng khóc đòi sống đòi chết, ông nội bận rộn việc triều chính, không thể ngày ngày đối phó với mẹ già và con thơ, thành ra cha ta cứ sống nửa vời như vậy đến khi lấy vợ sinh con.

Cái gì gọi là nửa vời? Nói cha ta giỏi giang đi, trong nhà họ Thịnh ai cũng có công danh lại chỉ thi đỗ Lẫm sinh, nói cha ta hư hỏng đi, lại cũng không dám thật sự giao du với những kẻ ăn chơi trác táng, gây ra những việc như kỹ nữ, ngoại thất như trong kịch.

Đến khi ta biết đi, biết nhảy còn thường xuyên nhìn thấy cụ nội ôm siết người cha đã trưởng thành của ta vào lòng, gào khóc với ông nội đang cầm gậy: “…Ai bảo A Hoan nhà ta không tốt hả, nhà bình thường có một vị tiến sỹ đã là khó, tổ tông nhà họ Thịnh lại rủ lòng thương, đứa nào cũng giỏi đọc sách, khiến A Hoan tự dưng lại thua kém, yêu chiều nhiều đứa hầu thì đã làm sao! Ta biết con ngứa mắt ta, thấy ta thương A Hoan nhiều hơn chút bèn muốn giày vò nó, chao ôi, chi bằng ta đâm đầu chết cho xong…”

Đối với hai bà cháu ôm nhau khóc lóc, ông nội toàn năng của ta đành từ bỏ, bà nội khó xử quay sang an ủi con dâu vài câu, thế là xong chuyện.

Mẹ cả và cha không có tình cảm với nhau, sinh được một trai một gái xong, hai vợ chồng cơ bản nước giếng không phạm nước sông, thú tiêu khiển lớn nhất của mẹ cả chính là châm chọc cha ta, lúc thì làm thơ, lúc thì vẽ tranh, thường xuyên lôi cha ta ra làm ví dụ phản diện để răn đe anh trai phải đọc sách tử tế, tu thân dưỡng tính.

Cha không dám chọc vào mẹ cả, đành phải kính nhi viễn chi, trừ vài ngày làm theo gia quy, còn đâu bình thường toàn chui rúc ở chỗ các bà vợ bé, dì ta mỗi tháng được hưởng sái ba, bốn ngày.

Với can đảm và trí tuệ của cha ta, đương nhiên không dám làm quen với kỳ nữ “thân là hạ tiện mà lòng cao ngút trời”, lại không ai chọn con gái nhà lành cho ông ấy, vậy nên vợ bé của ông ấy toàn bộ là hầu gái trong phủ.

Trong số đội quân của cha ta, dì ta cũng thuộc dạng nửa vời, vừa không được yêu chiều như dì Lý, vừa không đến mức bị lạnh nhạt như dì Triệu chưa già sắc đã suy. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của bà là dì Khâu ở đối diện.

Hai bà lần lượt bị bán vào phủ Thịnh, lần lượt được cử đến hầu hạ thiếu gia, dì Khâu được “lâm hạnh” trước hai tuần, dì của ta lại được chính thức nâng lên làm “dì” sớm hơn ba ngày, ngay cả sinh con gái cũng cách nhau độ nửa tháng, thật có thể coi là không chết không dừng, kỳ phùng địch thủ.

Đứa ở hầu gái hai bên thậm chí nuôi mèo cũng không cho qua lại với nhau, khiến cho em Bảy mà dì Khâu sinh ra cũng thường nhìn ta bằng ánh mắt coi thường. Hiện giờ mục tiêu cạnh tranh lớn nhất của họ chính là xem ai sinh ra con trai trước.

Tội gì phải thế.

Ta không phải nói hai bà tội gì phải thế, sinh con trai là nguyện vọng theo đuổi lớn nhất trong đời người phụ nữ, đương nhiên cần cố gắng, ta muốn nói tới em Bảy tội gì phải thế.

Chị Cả kiêm chị họ đã lấy chồng, lúc đó bác Cả là quan lục phẩm, cộng thêm ông nội uy nghiêm, chị ấy được gả cho một vị Cử tử nhà giàu. Cứ thế mà tính, cha ta chỉ là một Lẫm sinh, không được ông nội coi trọng, tương lai của ta và em Bảy chắc không phải làm vợ Tú tài thì cũng là làm vợ kế nhà quan, không khéo còn có thể là bà chủ nhà thương nhân cũng nên.

Nửa cân tám lạng, để xem em Bảy thích học vấn địa vị hay là thích tiền bạc hơn thôi, dù sao ta chẳng xét nét. Với dòng dõi và nếp nhà như chúng ta, không đến mức phải lấy con gái ra để bám vào quyền quý, cũng sẽ không có việc mẹ cả giày vò con thứ mà cố ý gả cho kẻ tệ hại, nhưng điều kiện hữu hạn, cha ta cơ bản là chẳng có công danh, hôn nhân không kém quá là được, có gì mà phải tranh.

Nhưng em Bảy lại suy nghĩ vớ vẩn, từ dung mạo trang điểm tới học vấn giáo dục cứ phải so kè với ta, giành được thắng lợi mới chịu.

Dì thất vọng, suốt ngày đuổi theo nhắc nhở ta, ta bị lải nhải thấy phiền bèn dạy dỗ ngược lại bà: làm con thứ thích nổi bật làm gì, so bì tị nạnh với con gái dòng chính để chuốc lấy phiền toái à, cũng giống như các dì ấy, nếu tỏ ra còn hiền lành, còn tài giỏi, còn đa tài thanh danh lan xa hơn phu nhân chính thất, lại còn tình thâm ý trọng chết đi sống lại với lão gia thì phỏng chừng cách cái chết cũng chẳng xa.

Dì không nói lại được ta, đành đấm ngực giậm châm mắng ta không có chí tiến thủ. “Tóm lại con bị làm sao, cứ một mực cố chấp thế hả.”

Ta tỏ ra quá khen quá khen, chẳng qua ta giỏi quan sát đấy thôi.

Lứa ông nội từng xuất hiện hai vị bà cô xuất thân con thứ vô cùng nổi tiếng, một vị trong đó chẳng những gả cho nhà hiển hách vẻ vang, còn giữ được lòng chồng, lão Cố hầu giậm chân một cái là triều đình rung chuyển một lòng một dạ với bà cả đời, nghe nói từ hôm bà cô vào cửa, ông ấy còn không chịu cưỡi ngựa là ngựa cái. Năm đó bà cô ốm bệnh liệt giường, chừng như không qua khỏi, nghe nói lão Cố hầu dày dạn sa trường vài chục năm khóc lóc thảm thiết như cha chết, đương nhiên, cha ông ấy đã chết từ lâu.

Đều là người sáu, bảy mươi tuổi mà còn thế.

Chuyên sủng như thế vốn không khỏi làm cho quyền quý kinh thành chê trách, nhưng bà cô làm người rất tốt, nội quyến từ phủ Anh quốc công, phủ Uy Bắc hầu đến nhà họ Bạc, họ Phục, họ Đoàn… Rất nhiều gia tộc nhà cao cửa rộng đều qua lại thân thiết với bà, người sống theo nhóm, có chị có cô nào ngứa mồm dám lắm miệng chứ, huống hồ sự thật chứng minh, bà cô của ta vừa vượng phu vừa vượng tử, bốn người con trai đều giỏi giang bản lĩnh, tỷ lệ thành tài còn cao hơn cả ông nội ta.

Chú Tư nhỏ nhất phủ Cố vừa không theo văn cũng không theo võ, còn không chịu thành hôn, dạo khắp núi sông nam bắc, năm ba mươi sáu tuổi hoàn thành “Giang Sơn Toàn Dư Chí”, hiến tặng thánh thượng, chấn động thiên hạ. Đưa phong thổ tình đời của hai kinh mười ba tỉnh, đưa non sông tươi đẹp vào sách, nét chữ thanh nhã sinh động, cảnh tượng hiện lên trước mắt đầy sống động, nhất thời văn chương cao quý khó ai bì kịp. Tranh vẽ bản đồ gập ghềnh như mộng ảo, chừng mực chính xác, đứng trước bức vẽ cao bốn, năm người, non sông gấm vóc dường như tạt vào mặt, người ngắm tranh dường như quên cả thở. Bức tranh phong thổ được treo trên vách trong nội đường cung Càn Thanh, bức tranh quân sự thì được cất kỹ trong kho bộ Binh.

Do bị chú Ba yêu thích lái thuyền ra biển Đông giành trước, chú Tư đành phải hành tẩu về phía Tây, dọc theo con đường cổ mà Hán sử Trương Khiên từng đặt chân, cát vàng quan ải, hoàng hôn hoang mạc bao la bát ngát, xương cốt chôn vùi trên nên cát cằn cỗi, lại có thể mọc lên những đoá hoa rung động lòng người, kiêu hãnh quật cường ngẩng cao, ngàn năm không thay đổi. Xưa nay ta vốn vô tâm mà đọc tới đoạn này cũng không kìm nén nổi tuôn lệ như mưa.

Tin tức gần đây của chú Tư là, có vẻ chú ấy lấy tuổi tứ tuần mê hoặc cô con gái duy nhất của vị quốc vương nào đó ở Tây Vực, dự định ở lại bản địa làm trâu già gặm cỏ non, làm phò mã nhân tiện kế thừa vương vị.

Được chú Ba, chú Tư truyền cảm hứng, thiếu niên chí lớn trong thiên hạ noi gương, tới tấp vượt biển Đông, du hành về phía Tây, hăng hái lang bạt.

Đối với các cô bé nhà họ Thịnh, vị bà cô này là thần tượng, là tấm gương, là mục tiêu hướng tới, bất kể con thứ hay con dòng chính đều chỉ hận không tiếp bước truyền thuyết của bà. Đáng tiếc, đến giờ vẫn không có.

Cái gọi là người thiện chiến thì không có chiến công huy hoàng, bà cô của ta có kiếp sống khuê các vừa tầm thường vừa khiêm tốn, không có tài danh, hiền dành, nhân anh… không hề đặc biệt xuất sắc ở mặt nào, chỉ nghe nói cực kỳ hiếu thảo, tình sâu nghĩa nặng với bà nội, mấy lần tranh cướp phụng dưỡng với ông của ta, nhưng toàn bị ông nội đẩy lùi, tiếc nuối giận dữ. Đến khi chính bà lên làm bà nội hãy còn ấp ủ tà tâm, may mà ông nội gừng càng già càng cay, trái cản phải đỡ, thành công giữ lại kỵ nội sống quãng đời còn lại trong nhà.

Theo như nghe đồn, bà cô của ta thuở thiếu thời dường như chẳng ai biết đến, thế này biết học hỏi thế nào đây.

Thiếu nữ làm gì có cơ hội lộ diện, chỉ có thể gắng sức trên mặt học vấn, chị họ Năm được yêu chiều nhất nhà mất cả năm làm bài thơ “vịnh mai” sáu mươi câu để chúc thọ ông nội, nào ngờ bị nửa câu ngắn gọn “con gái khuê các chỉ nên học tập để tu thân dưỡng tính” của ông nội làm rơm rớm nước mắt.

Kỳ thực thơ văn giỏi nhất phải kể đến chị họ Tư, năm đó ở buổi tiệc thưởng cúc của Phúc Dương trưởng công chúa làm bài thơ ngũ ngôn hay tuyệt, bao người khen ngợi, nhưng sau khi trở về bị bà nội mắng cho một trận, bị phạt chép ba tháng kinh Phật và nữ giới.

“Công chúa rõ ràng muốn con gái mình nổi bật, cố ý mời Tam hoàng tử mọt sách đến nghe, để anh họ em họ nảy sinh tình ý với nhau, ai bảo nó xen vào chứ.” Chị họ Ba vốn bất hoà với chị họ Tư đắc ý nói.

Ông nội ghét nhất cháu gái ngâm thơ vẽ tranh, bà nội không thích nhất cháu gái ra ngoài rêu rao ầm ĩ, nguyên nhân là bởi một vị bà cô khác cũng nổi tiếng của nhà ta. Năm đó do bà cô bất mãn với hôn sự mà cụ nội chọn lựa bèn ra cửa tự tìm lang quân, giữa ban ngày ban mặt hành xử thiếu ý tứ, cuối cùng tuy giành được hôn sự nhưng hiện giờ vẫn bị người ta lôi ra bàn tán.

Sau cùng bà ấy cũng suy tàn, sinh một hơi năm đoá kim hoa, từng đoá đều gả thấp. Sở dĩ ta biết rõ như thế là bởi năm đó bà cô lấy chồng họ Lương tìm con rể khắp thiên hạ không được, liền muốn đưa con gái gả về nhà mẹ đẻ, ồn ào ảnh hưởng tới cha ta và bác Ba, ba bác nhà ông cậu Tư, tóm lại cả nhà đều biết, song vẫn bị từ chối khéo.

May mà anh trai chị dâu ruột thịt của bà cô gắng gượng chấp nhận một cô, còn là con thứ, có điều nghe nói vợ chồng tình cảm lắm, hiện giờ đi theo bác ở quê học làm ăn.

Con gái họ Thịnh muôn màu muôn vẻ, náo nhiệt phi phàm, chẳng cần ta thêm phần. Ta ăn rồi lại ngủ, ít học nữ công, ít khi đọc sách, biết Lý Thạch và Lý Thái Bạch là cùng một người, Lý Quảng và Lý Quảng Lợi là hai người khác khác nhau là được.

Đến năm chín tuổi, em Bảy đối diện càng ngày càng mảnh dẻ cao ráo, còn bé đã hết sức xinh xắn, eo ra eo chân ra chân, còn ta càng lớn càng tròn, xương nhỏ, cả người nung núc thịt, béo trùng trục như chú lợn con.

Dì khóc không ra nước mắt, cho rằng ta phụ lòng vẻ xinh đẹp của bà, cam chịu đắm mình trong trụy lạc, dì chỉ biết được mấy thành ngữ, vốn là học lỏm được khi tán tỉnh hầu hạ cha ta, toàn dùng lên người ta cả.

Ta kiên nhẫn tiếp tục phản bác: làm con gái mười mấy tuổi đã lấy chồng, rồi hầu hạ bố mẹ chồng, lấy lòng cô em, cậu em chồng, giúp chồng dạy con, xử lý vợ bé, người khác ăn cơm cô nhìn, người khác ngồi cô đứng, trong lòng dù mệt ngoài mặt vẫn phải cười… Cứ thế chịu đựng vài chục năm, đến khi lên làm mẹ chồng, cuối cùng có thể bắt nạt con gái nhà người khác, trút giận, cơ mà nếu mẹ chồng trên đầu vẫn còn sống thì chưa xong hẳn, vẫn phải chịu đựng tiếp.

Làm con gái cả đời này thoải mái nhất chính là quãng thời gian ở khuê phòng, ta tuy là con thứ, nhưng may có bà nội nghiêm khắc, bác Cả quản gia nghiêm túc, kẻ hầu không dám nhìn người đưa thức ăn, dù là con vợ bé cũng không phải tranh chấp vì đồ ăn cái mặc, nếu đã thế, vì sao ta không thể sung sướng hưởng thụ những ngày hiếm có thế này.

Như em Bảy, rõ ràng thích ăn bánh bơ muốn chết, lại cắn răng chịu đựng không dám ăn, mặc cho nước miếng đau lòng chảy ngược về bụng, trơ mắt nhìn ta nhâm nhi từng miếng, đôi mắt toé lửa, mặt xanh lè, lỗ mũi phập phồng giống con ếch đói khát.

Vẫn là câu nói đó, tội gì phải thế, sau này lấy chồng, không khéo muốn ăn cũng chẳng được.

Dì hết cách với ta, mắng ta là ngụy biện, ta cứ chuyện ta ta làm. Dì thấy ta không nghe lời bèn trút hết nhiệt tình vào sự nghiệp nịnh nọt cha ta sinh con trai.

Năm ta mười tuổi, bạn tốt của ông nội là Tề quốc công cuối cùng kết thúc làm quan bên ngoài mười mấy năm, phụng chỉ về kinh vào lục Bộ, nhập các, ông ấy và ông nội là bạn từ thuở nhỏ, cùng trường, cùng năm, cộng thêm là đồng liêu, thân như anh em.

Rằm tháng Giêng năm ấy, vì con cháu họ Tề chưa trở về kịp, lão công gia liền đến nhà ta ăn tết, ông nội bèn kêu con cháu trong nhà đến dập đầu chào hỏi.

Ta theo lệ thường ăn vận chiếc áo đỏ thắm thể hiện vui mừng, cả người tròn như cái bánh chưng, ngực đeo khoá vàng mà chị em nào cũng có, trên đầu búi hai búi tóc tròn tròn mập mạp, quấn quanh bằng chuỗi ngọc san hô đỏ đơn giản. Dì vốn cũng định búi tóc đeo trâm cho ta, nhưng gương mặt tròn phúng phính nhìn kiểu gì cũng không hợp, đành phải từ bỏ.

Nhìn em Bảy mặc chiếc áo vàng chiết eo thêu cành hoa hồng xinh xắn, tóc mai buông chiếc trâm nho nhỏ, tươi đẹp như con chim sơn ca, dì lại nhìn sang ta, ảo não suýt bật khóc.

Chen chúc trong nhóm anh chị em thi lễ xong với Tề quốc công, ông nội và lão công gia đang hỏi han học vấn của các anh họ, ta bắt đầu mệt mỏi, chậm rãi, thong thả lui vào một góc.

“Nhóc con mập mạp mặc bộ đồ đỏ thắm đâu, lại đây cho ta nhìn một cái.”

Giọng nói già nua trong trẻo, nhưng cơn gió mát thổi tan oi bức trong nhà, ánh mắt mọi người đồng loạt đổ dồn lên ta. Ta rùng mình, tức khắc tỉnh táo, bị ai đó xô đẩy lên trên.

Ta sợ hãi ngẩng đầu, liếc ông nội trước, sắc mặt ông nội rất phức tạp, cau mày nhìn bạn tốt bên cạnh, lộ vẻ suy tư. Tề lão quốc công rất hiền từ, vỗ móng vuốt mập mạp của ta, từ tốn hỏi ta bao nhiêu tuổi, đọc sách gì, thích ăn gì, đến khi biết ta đứng hàng thứ sáu càng vô cùng vui vẻ, liên tục kêu: “Tốt tốt, lục lục đại thuận, tốt!”

Tốt cái gì mà tốt, trong nhà lắm cháu gái, làm gì được đặt tên chính thức, chẳng qua gọi theo thứ tự như “Ngũ Nương, Thất Nương” mà thôi, chị họ Hai ham chơi thấy ta hiền hoà, ít khi tức giận liền hay trêu ta là “Tiểu Lục Tử.”

Ta là điển hình chỉ mạnh mẽ trong nhà, trừ lúc chỉ bảo dì ra, đối với người ngoài ta hầu như ít khi nói chuyện, lão quốc công hỏi một câu ta đáp một câu, vừa ngốc vừa ngơ, song lão quốc công rất kiên nhẫn với ta, cười tủm tỉm nghe ta lắp ba lắp bắp, chị họ Năm ở bên cạnh sắp trợn lòi cả tròng mắt, rõ ràng chị ta mới là cô gái lanh lợi nhất khéo miệng nhất khiến người khác thích nhất nhà cơ mà!

Trước khi lão quốc công ra về còn móc ra một miếng ngọc Dương chi to bằng lòng bàn tay cho ta, miếng ngọc sáng lấp lánh, bóng loáng trơn nhẵn, dù ta không biết xem hàng, nhưng nghe thấy tiếng bác gái Ba hít một hơi liền biết tương đối đáng giá.

Sau hôm đó, chị Ba chanh chua phàn nàn ta là “đứa ngốc quấy rối”. “béo ngốc như thế, quả thật làm xấu hổ nhà họ Thịnh”, ngay cả chị Tư tạm coi là ôn hoà cũng phớt lờ ta, còn chị Năm thì cố ý thân thiết với em Bảy, thường nói bóng nói gió. Ta rất khó chịu, ta rõ ràng không làm chuyện xấu, chính xác thì, ta có làm gì đâu mà bỗng dưng bị bắt nạt.

Dì rất vui vẻ, liên tục khen Tề lão quốc công tuệ nhãn thức châu, nửa hôm trước bà còn cảm thấy ta giống “heo”, bây giờ lại thành “ngọc” rồi, quyền thế và của cải thật tốt nha, cái gì cũng thay đổi theo.

Dì hỏi ta lão quốc công trông thế nào, ta không trả lời được, khi đó ta chỉ biết lo sợ, sợ không tuân theo đúng lễ số bị trách mắng, sau này hồi tưởng lại, Tề lão quốc công xấp xỉ tuổi tác với ông nội, cũng mặt trắng râu dài, dưới vẻ gầy gò là phong thái uy nghiêm.

Nhưng cũng không phải hoàn toàn giống nhau, xưa nay ông nội luôn nói năng thận trọng, ánh mắt nghiêm nghị cương quyết, nhưng lão quốc công lại phóng khoáng hơn, luôn tươi cười, lúc cười đôi mắt hơi toả sáng, giống như gió mát lả lướt trên mặt sông, hây hây phả lên mặt vừa mát mẻ vừa thoải mái.

Ta chưa bao giờ biết, một ông lão cũng có thể đẹp đến thế.

Chú Hai họ Cố cũng rất điển trai, nhưng tính tình lại y hệt ông nội, hoặc không nói, hoặc hễ mở miệng không phải lời hay, thật phí của trời, tuổi càng lớn hành xử càng đanh thép, bao nhiêu đại quan tam, tứ phẩm nhìn thấy đều mềm nhũn đầu gối, càng chẳng ai dám chú ý tới tướng mạo của cậu ấy.

Sau này có lần ta ngẫu nhiên nghe thấy chị Hai về thăm nhà kể rằng, Tề lão quốc công là mỹ nam hạng nhất kinh thành năm ấy, đến nay vẫn chưa có ai sánh bằng, ngữ khí vô cùng thất vọng, tựa hồ tiếc nuối bản thân sinh sau đẻ muộn tận vài chục năm, không thể tận mắt chiêm ngưỡng phong độ của mỹ nam tuyệt thế.

Chị em trong phòng rúc rích cười khĩ, làm anh rể Hai rất không vui, nhanh chóng xuyên qua bình phong, xách bà xã về nhà.

Về sau đều ở kinh thành làm quan, Tề lão quốc công thường sẽ đến trong phủ tìm ông nội đánh cờ bình thơ, mỗi lần đều phải gặp ta, mỗi lần gặp lại phải tặng quà gặp mặt, nào là bút lông sừng tê giác Lĩnh Nam màu hồng, ngọc trai Hải Nam to như ngón tay cái, nghiên mực vân đá do Phạm Đại Thành chế tạo ra, châu ngọc vùng tuyết biên thuỳ… ngay cả cha ta cũng hiếm thấy có đồ tốt như vậy.

Dì cười híp mắt, mẹ con dì Khâu đối diện thì ghen tị xanh mắt, dì Lý được chiều chuộng nhất thì nheo mắt lại.

“Nghe bảo họ Tề trù phú khó tả, quả nhiên là thật.” Cha nhận xét: “Lão quốc công không có con gái, cũng không có cháu gái, chắc là coi cái Sáu như cháu gái rồi.”

Cây cao vượt rừng thì dễ đổ, người nổi bật thì bị bắt nạt.

Đang chơi nhảy dây, đột nhiên ta sảy chân ngã nhào, chị Ba đến đỡ ta còn tiện thể véo mạnh vào tay ta một cái, nếu ta kêu đau, chị ấy sẽ ra vẻ kinh ngạc “úi chà ngã đau thế à”.

Đang yên lành đi trên đường, tự dưng “sơ ý” ngã vào trong ao, may mà ao không sâu, cnẳng qua váy ướt một nửa, cộng thêm cảm lạnh ốm đau sáu, bảy ngày, em Bảy dựa vào cửa, cười hớn hở.

Đang ngồi trong đình hóng mát, chợt thấy một chiếc ná quen mắt lòi ra từ bụi cỏ, nửa hòn bi bằng đất đánh vào người đau nhói, em trai Chín và chị Năm vốn là chị em ruột, luôn luôn thân thiết.

Chị họ vốn ngồi cạnh ta trên lớp, có mấy lần ta nhìn thấy chị Năm nháy mắt với chị ấy, chị Tư cắn môi, nhìn chị Năm, lại nhìn ta, tay cầm nghiên mực giơ lên lại hạ xuống, thở dài khe khẽ, cúi đầu nghĩ vế thơ.

Bác Hai say mê học vấn, chức quan không cao được như bác Ba, ta rất cảm kích chị Tư.

Ta lén lút đưa nghiên mực vân đá đó đưa sang, nào ngờ ngày hôm sau bọc nhỏ nguyên vẹn bị trả về, kèm thêm một bình thuốc cao trị sưng tấy nhỏ.

Rất lâu về sau, chị Tư được gả cho Tam hoàng tử làm thứ phi, mấy năm sau nữa, chính phi của Tam hoàng tử ốm yếu qua đời, bèn đưa chị Tư vốn có nhiều con cái phù chính.

Tốt thật.

Xoa tan máu bầm, ta cất hết từng báu vật mà lão quốc công tặng cho vào rương, khoá kỹ, nghiêm túc bảo dì: “Tương lai nếu ta lấy chồng không tốt, không chăm sóc được cho dì, dì cầm mấy thứ này mà đổi bạc dưỡng lão.”

Mắt dì đỏ hoe, ôm ta khóc hồi lâu.

Ai cũng đều không thích nén giận, nhưng nên nhẫn thì phải nhẫn, làm to chuyện lên thì sao chứ, chị Năm là con vợ cả, có rất nhiều anh em ruột thịt, bác Ba lại được ông nội coi trọng, chị em tranh chấp là chuyện nói nhỏ thì cũng nhỏ mà bảo to thì cũng to, thôi đừng tự làm mất mặt.

Chỉ có một lần, nước ao trong chứng giám người, ta nhìn thấy trên mặt mình bị ná đánh hằn vết xanh to, ta che mặt trống trong hòn giả sơn, ngồi khóc tu tu, từng giọt nước mắt to chìm xuống bùn đất, thấm ướt một mảng nhỏ, Tiểu Cửu cố tình mà, ná của nó vừa chuẩn vừa ác.

Làm thế nào, làm thế nào bây giờ, lần này không thể giấu được, không thể để dì nhìn thấy, dì sẽ tìm cha kể khổ, nhưng cha làm sao dám tranh cãi với bác Ba chứ, nửa năm nay cụ nội ốm bệnh mơ hồ, không có người làm chỗ dựa cho ta và dì, cho dù chị Năm và em Chín bị phạt thì ta và dì cũng chẳng tốt đẹp gì.

Ta chịu đựng đau đớn ra sức xoa mặt, những mong xoa cho tan máu bầm, đôi mắt chua xót lại không chịu nghe lời, trong lòng vô cùng tủi thân, cứ sướt mướt mãi… Cuối cùng ta nảy ra ý ngốc, cố ý ngã xuống núi đá, rách cả trán, thế mới lừa gạt dì được.

“Cái con bé nhiễu sự này, cọ rách mặt mai sau làm sao lấy chồng!” Dì hét lên đầy mạnh mẽ.

May mà ác có ác báo, chưa được mấy ngày, ông nội thấy Tiểu Cửu ngày ngày lêu lổng, quyết tâm đưa hắn đến thư viện Tùng Sơn nhờ bạn tốt dạy dỗ giùm, bác gái Ba nhìn con út yêu thương nhất đi xa liền khóc sưng mắt, lại chẳng dám nhiều lời một câu.

Chị Năm đại khái quá đau lòng, em trai vừa ra cửa liền ốm nặng, không thể lên lớp, bà nội thương chị ấy bèn đưa chị ấy đến trong phòng mình chăm sóc, hơn nửa năm sau chị Năm mới lành bệnh đi ra.

Sau đó chị Năm không còn bắt nạt ta nữa, dù em Bảy ra sức lấy lòng xúi giục thế nào đều lạnh lùng hờ hững.

Chẳng bao lâu sau, cụ bà qua đời, ông nội có đại tang, càng qua lại thân mật với Tề lão quốc công. Chín tháng sau ta tròn mười ba tuổi, cha ta làm cháu trai kết thúc hiếu kỳ, phủ Tề chợt tới cầu hôn, lão quốc công muốn cầu ta làm vợ cho cháu trai ông ấy.
 
Chương 227: Ngoại truyện 6: Khoá đàn hương (2)


ng nội bình tĩnh đồng ý.

Chẳng qua những người khác trong phủ lại không bình tĩnh được thế.

Chuyện này tựa như sấm sét nổ trên đất bằng, làm tất cả mọi người ngạc nhiên ngã ngửa ra, trừ ông bà nội, ai nấy đều nhìn ta bằng ánh mắt kinh dị.

So gia thế, dù lão quốc công không có thế mạnh trên triều đình như ông nội, nhưng cũng không kém là mấy, hơn nữa người ta dù sao có tước vị truyền đời, tổng hợp lại xem thì còn ưu tú hơn.

So gia tài, người mẹ Bình Ninh quận chúa của lão quốc công cơ hồ để lại một nửa tiền tài của Tương Dương hầu cho con trai, người cha của lão quốc công theo nghiệp buôn muối mười mấy năm, lão quốc công lại ra ngoài làm quan mười mấy năm, đấy là còn chưa kể tới của cải tích luỹ mấy đời của phủ quốc công.

Họ Thịnh dĩ nhiên cũng được coi là trú phù, nhưng đương nhiên thua kém. Con trai họ Thịnh tràn đầy, còn lão quốc công tổng cộng chỉ có hai con trai, ba cháu trai, dù phân chia thế nào thì đều giàu có.

So nhân phẩm, chú rể tròn mười sáu, là Tú tài, cha ruột là con trai thứ của lão quốc công, hiện giờ là quan to giữ chức tam phẩm, còn cha ta…

Khỏi cần so sánh nữa, công tử phủ quốc công cao quý như thế, chỉ có chị Năm, con gái dòng chính nhà bác Ba, hoặc chị Tư, con gái dòng chính của bác Hai mới miễn cưỡng xứng đôi, kể cả chị Ba là con thứ của bác Cả cũng còn xứng hơn ta.

Trong cơn hoảng hốt ngỡ ngàng của mọi người trong phủ, bà nội và bác gái Cả tiến hành chuẩn bị lễ đính hôn đâu vào đấy.

Tiếp đến, cuộc sống của ta trở nên hết sức kỳ lạ.

Các chị họ trong bụng nghĩ thế nào ta không biết, nhưng ngoài mặt vẫn phải khách khí nhã nhặn như cũ, các bác gái thì trước sau đều kinh ngạc, vô cùng khó hiểu, ông bà nội vẻ mặt bí hiểm, chẳng ai dám đi hỏi, mọi người vui sướng hân hoan, đồng loạt tới chúc mừng mẹ cả của ta (may mà em Tám đã đính hôn, không thì ta thật không dám nhìn sắc mặt mẹ cả).

Đây là cách làm của người thông minh, còn kẻ ngốc thì đặc sắc hơn nhiều. Em Bảy gườm ta bằng ánh mắt ăn sống nuốt tươi, nếu ánh mắt có thể biến thành kiếm sắc thì e rằng người ta đã bị thủng lỗ chỗ.

Trước lễ đính hôn chính thức của ta một tháng, cuộc chiến lâu năm giữa dì của ta và dì Khâu cuối cùng phân định thắng bại. Vì việc đính hôn của ta mà dì hoàn toàn ngớ ngẩn, xao nhãng việc tận tâm tận sức nịnh nọt cha ta, thế là dì Khâu dẫn đầu sinh ra con trai trước.

Cha ta được cây già nở hoa, ôm em trai thích thú vô ngần, dì Khâu thừa dịp cha ta vui sướng, đưa ra đề nghị viển vông, để con út tương lai có chỗ cậy nhờ, kiểu gì cũng phải tìm cho chị ruột nó một hôn sự tốt, như vậy đi, nếu Tề lão quốc công đã không ghét bỏ thân phận của cái Sáu, vậy cũng sẽ không ghét bỏ cái Bảy, hay là đến xin ông nội tặng lại hôn sự này cho cái Bảy vậy.

Không thể không nói, dì Khâu và dì của ta quả nhiên ngang sức ngang tài, thảo nào lằng nhằng với nhau tận mười mấy năm.

Người cha vui quên trời đất của ta còn thật sự ngớ ngẩn đến nói chuyện với ông nội, cuối cùng vui quá hoá buồn.

Không có cụ nội ngăn cản, ông nội rất hả giận lấy gia pháp đánh cho cha ta một trận nhừ tử, cha ta không thể xuống giường tận nửa tháng, ngay cả lễ đính hôn của ta đều do bác Cả đỡ ông lộ diện, coi như đủ lễ.

“Anh cho rằng Tề lão công gia coi trọng anh, còn bằng lòng lấy con gái anh làm cháu dâu hả?! Sao không soi gương xem bộ dạng mình thế nào đi, tôi xấu hổ giùm anh đấy!”

Đây là lời ông nội mắng trong khi ra sức đánh cha ta, kỳ thực cũng là nói cho sáu bác trai bác gái nghe.

Hôn sự này vô cùng kỳ quái, ba bác gái đều thông minh, tất nhiên sẽ không tùy tiện hành xử, chỉ có người cha xui xẻo của ta và dì Khâu càng xui xẻo mới ngốc như thế.

Cụ nội qua đời, ông nội có đại tang ở nhà, rảnh rỗi nhàm chán, vốn ủ mưu xử lý cha ta, vậy mà cha ta lại chẳng hay biết gì, lại còn tự dâng lên cửa, đúng là tự muốn ăn đòn.

Vốn dĩ ông nội dự định tôi luyện cha bằng cách cử đến nơi thâm sơn cùng cốc làm thư lại, sửa tính nhà giàu, không mong cha ta hiểu biết tình đời, ít nhất không thể làm gia đình xuống dốc. Nhưng sau chuyện này, ông nội phát hiện cha ta ngu xuẩn vượt quá dự tính, thế là đãi ngộ tăng tiến, cha ta vừa lành vết thương liền bị đưa tới một thành nhỏ nơi hoang mạc Tây Bắc làm giáo dụ biên thuỳ.

Cha ta liền mềm oặt người ra, la hét inh ỏi, bị áp giải lên xe, trước khi đi, tâm tình mẹ cả của ta tốt lắm, bèn triệu tập một đống phụ nữ của cha ta, thăm dò “lão gia ra ngoài nhiều năm không thể không có người hầu hạ, có ai muốn tự nguyện đi theo không?”

Lời vừa thốt ra, các bà vợ bé im phăng phắc, sau đó đồng loạt lùi ra sau một bước, chỉ có dì Lý thường ngày được cha ta yêu chiều nhất không biết bị ai đẩy lên trước, xoay người không kịp, nổi bật trước mọi người.

Mẹ cả vỗ tay cười: “Tốt tốt tốt, tôi biết lão gia thương cô là đúng mà, người đâu, thu xếp hành lý cho dì Lý nhanh lên! Đưa thằng Mười vào phòng tôi, cẩn thận chút kẻo làm nó sợ.”

Dì Lý chán nản quỳ xuống đất, mặt mày sợ hãi.

Cha đi được vài ngày, dì Khâu liền im hơi lặng tiếng biến mất, ông nội hận nhất là phận hầu nhúng tay vào hôn sự của cô cậu chủ.

Có người nói bà ấy bị bán đi, có người nói bà ấy bị trầm sông, em Mười Hai cũng được mẹ cả nuôi dưỡng. Đến giờ phút này, ba người con trai một chính hai thứ của cha đều nằm trong lòng bàn tay mẹ cả.

Dì run rẩy hồi lâu, thốt lên: “Phu nhân quả nhiên ghê gớm.”

“Dì còn muốn sinh con trai không?” Ta hỏi.

Dì than thở: “Thôi được rồi, lùi một bước biển rộng trời cao.”

Mẹ cả cũng không phải người xấu, đến năm em Bảy gần hai mươi tuổi, mẹ cả quả nhiên chuẩn bị ba lựa chọn thành hôn cho em ấy, một là tú tài gia cảnh bần hàn, một là vợ kế nhà quan xuất thân gia tộc lớn, một là thương nhân kinh doanh vải vóc giàu có vùng Giang Nam.

Nghe nói, cuối cùng em Bảy tung xúc xắc quyết định thương nhân Giang Nam.

Năm thứ hai sau khi ta cập kê, dáng người hoàn toàn mảnh mai, thịt mỡ biến mất, biến thành thiếu nữ xinh đẹp đáng yêu, dì thở phào nhẹ nhõm. Vài tháng sau, ông nội trở lại làm quan, hai nhà Tề Thịnh lặng lẽ làm hôn sự.

Đẩy khăn voan đỏ thắm ra, ta nhìn thấy chồng mình, là chàng thiếu niên tuấn tú nghiêm túc, uống xong rượu hợp cẩn, chàng ngồi yên trên giường không nhúc nhích, ta nghĩ, có thể chàng ghét ta không xứng với chàng.

Nhìn giọt nến long phượng nhỏ xuống như giọt lệ, ta tủi thân muốn khóc. Hôn sự này đâu phải ta cầu xin, ta đã chuẩn bị làm phú bà hoặc vợ tú tài mà, chàng không thích ta, cần gì ngoan ngoãn thành hôn.

Ta nhỏ nhẹ: “…Chàng, chàng có phải không thích ta…”

Chồng cứng nhắc xoay cổ, bất giác gật đầu, ta tức khắc tuôn lệ như mưa, chàng luống cuống hoảng hốt, vội vã lắc đầu rồi lại gật đầu: “Không, không, không, ta thích em, không phải không thích…”

Ta nín khóc bật cười.

Kế đến chồng kể cho ta nghe, trước khi thành hôn lão quốc công từng đe doạ cháu trai, nhất định phải đối xử tốt với ta, nếu không sẽ cho chàng một trận. Chồng ngồi trên giường căng thẳng, trầm tư suy nghĩ xem nên làm thế nào mới có thể khiến lão quốc công hài lòng.

Đêm đó, chàng hết sức cố gắng “đối xử tốt” với ta.

Chồng là người chững chạc đoan chính, không biết thế nào mới là niềm vui chốn khuê phòng, lại càng không biết dỗ dành con gái vui vẻ, ta thì lại thích trêu đùa chàng, hai người hợp lại tăng thêm sức mạnh, lâu ngày, chàng càng ngày càng thích nghiêm nghị trước mặt người ngoài, sau lưng vui đùa ầm ĩ với ta.

Cha chồng có lẽ không mấy hài lòng hôn sự này, nhưng vẫn đối xử theo lễ với ta, bà nội không còn, phiền phức duy nhất là mẹ chồng ta, bà không thích ta, nhưng chỉ có một con trai một con dâu, trừ ta ra bà cũng chẳng còn đứa nào mà thích, hơn nữa trừ việc lập quy củ, chẳng còn cách nào gây khó dễ cho ta.

Vào phủ Tề ta mới biết lão quốc công lập ra một quy củ kỳ quái, mẹ chồng không được nhúng tay vào việc của con dâu, biểu hiện cụ thể là không được nhét người vào phòng con trai, lấy vợ bé hay không là việc của vợ chồng nhỏ.

Năm đó Tề Đại phu nhân từng định ra oai phủ đầu cho dâu Cả mới vào cửa, kết quả bị lão quốc công trách mắng ngay trước mặt mọi người trong phủ, mẹ chồng ta xuất thân còn không bằng chị dâu Cả, càng không dám lỗ mãng.

Nhờ gia quy thần kỳ này, ta thuận lợi sinh hạ con trưởng, con thứ, con gái Cả và con trai thứ ba.

Mắt thấy con cháu cuốn gối, trong ngày càng ngày càng ồn ào, mẹ chồng dù không thích ta thì cũng chỉ còn cách dần dần mềm mỏng, trái ôm một đứa, phải ôm một đứa, trong lòng ngồi một đứa, trên cổ treo một đứa, cũng chẳng còn lạnh nhạt với ta được nữa.

Đặc biệt trong tình huống phòng thứ nhất neo người, mình ta sinh con đã đủ vượt qua chị dâu Cả và em dâu Ba cộng lại, mẹ chồng đứng trước chị dâu Đại Tề phu nhân càng ngày càng vẻ vang, mặt mày rạng rỡ.

Năm đó, mẹ chồng cảm lạnh, bệnh mãi không khỏi, ta ngủ bên giường bà, ngày ngày phụng dưỡng thuốc thang, tắm cho bà, thay y phục, bón cơm, chải tóc, thậm chí hầu hạ đi vệ sinh, cứ như thế, tròn hai tháng, mẹ chồng lành bệnh, ta lại gầy rộc một vòng, may mà từ nhỏ luôn khoẻ mạnh nên không bị bệnh.

Dù cho lòng người là đá rắn, ủ lâu ngày cũng phải ấm, mẹ chồng rốt cuộc từ bỏ gương mặt lạnh lùng, kéo tay ta nói: “Con là đứa bé ngoan, trước kia… là ta làm con ấm ức, ta luôn cảm thấy, cảm thấy con không xứng với con ta…”

Bà ấy rớm nước mắt kêu: “Bây giờ xem ra là ta lỗ mãng, lão công gia thật có mắt nhìn, chọn được cháu dâu như con cực kỳ đúng.”

Bỏ lòng phòng bị, mẹ chồng liền đối xử thật lòng với ta, coi ta như con gái ruột, chồng thấy thế còn vờ ghen tuông vài lần.

Nghe nói hai người con dâu đều do lão quốc công đích thân chọn lựa, cũng phải, lão công gia tinh nhạy như thế, làm sao lại chọn phụ nữ lòng dạ độc ác được?

“Cuộc đời cha chồng quả thật gập ghềnh.” Mẹ chồng thở dài, tâm sự với ta.

Có câu mỹ nam thì khắc vợ, câu này chuẩn trăm phần trăm đối với lão công gia.

Lão công gia tổng cộng lấy ba người vợ, vị đầu là Gia Thành huyện chủ, tân hôn không lâu chết vì “loạn Thân Thìn”, nghe nói cách chết rất hổ thẹn. Vị thứ hai là con gái Cả dòng chính nhà họ Thân ở Tấn Nam, trong nhà liên tục có quan to, từng sinh một đôi long phượng thai, đáng tiếc năm đó đi theo lão công gia đến Mân Nam nhậm chức, chẳng may gặp phải bệnh dịch, ba mẹ con đều mất mạng. Vị thứ ba là con gái của cháu đích tôn nhà Khánh Ninh Đại trưởng công cháu, hai vợ chồng vừa kết hôn thì kế thừa tước vị phủ quốc công, phu nhân sinh được hai cậu con trai thì qua đời, tuổi đời chưa được ba mươi.

Năm tiếp theo, vợ chồng Bình Ninh quận chúa cũng qua đời, lão công gia không tái giá nữa, chỉ để lại hai vợ bé chăm lo cuộc sống hàng ngày, tự mình nuôi dưỡng hai con trai nên người.

“Bác Cả và lão gia đều kính trọng cha chồng lắm, cũng rất hiếu thảo, không bao giờ dám trái ý, cha chồng thật sự cũng vất vả, vừa phải lo bên trong vừa phải lo bên ngoài, vừa làm cha vừa làm mẹ.” Mẹ chồng than vãn.

“Thực ra hồi ta còn ở nhà mẹ đẻ nghe người ta kể, năm đó cha chồng đến Mân Nam nhậm chức, tất cả mọi người đều khuyên phu nhân Thân thị chớ đi theo, nơi đó khí hậu nóng nực, ẩm ướt, người phương Bắc không hợp thuỷ thổ, hai đứa con cũng còn nhỏ… Ôi, nào ngờ vị Thân phu nhân này nằng nặc đòi theo, không chịu tách khỏi cha chồng một khắc, cuối cùng gây ra thảm hoạ, người nhà họ Thân cũng chẳng thể oán trách…”

“A, chắc là bà ấy và ông nội tình sâu nghĩa nặng.” Ta không hứng thú với bát quái cho lắm, nhưng mẹ chồng rõ ràng đang hào hứng, ta đành tỏ ra nhiệt tình hàn huyên.

Mẹ chồng thần bí lắc đầu: “Ta thấy không phải.”

Trong lòng ta rất cảm kích lão công gia, chính vì ông hiền từ tử tế mà ta mới có cuộc sống hạnh phúc như ngày hôm nay, ta quyết tâm phải hiếu thảo với ông, nhưng lại không biết phải biểu hiện thế nào.

Cuộc sống hàng ngày của lão công gia cực kỳ đơn giản, thường thích buông câu bên hồ nước, hễ ngồi là mất cả nửa ngày, câu được cá hay không cũng chẳng quan tâm, rảnh rỗi không có việc gì thì không phải đọc sách thì chính là nghe bé con của ta lanh lảnh đọc sách.

Ông bảo chắt gái đọc phần Tiểu Nhã trong “Kinh Thi”, đọc “Đào Hoa Nguyên Ký”, đọc du ký mà cậu Tư nhà ta viết, cô bé nho nhỏ ngồi xếp bằng trên giường ngúng nguẩy cái đầu, giọng trẻ con non nớt lanh lảnh vang vọng trong thư phòng ngập nắng.

Lão nhân gia ngồi tựa cửa sổ, quay đầu chống tay vọng lại, mỉm cười, thần thái hiền từ hòa nhã, trong mắt vương vẻ u sầu cực nhạt, giống như tầng lụa mỏng giữa sương mù, vừa xa lại vừa gần.

Dường như ông luôn luôn đeo vẻ mặt này, dịu dàng ôn hòa, như gió xuân lướt qua mặt, kể cả ông nội ta đều có mấy đối thủ, nhưng lão công gia tựa như ai đều khen ngợi.

Chỉ có một lần, ta từng thấy ông biến sắc.

Năm đó, cậu Ba trông giống lão công gia nhất đến tuổi thành hôn, song có rắc rối.

Bác gái Cả chọn một cô gái nhà họ Hàn làm dâu, cậu Ba không ưng, cậu ấy thích cô gái nhà họ Cừu, đáng tiếc gia thế họ Cừu tầm thường, khó mà trợ lực cho cậu ấy.

Chuyện đến tai lão công gia. “Để nó tự quyết định.” Lão công gia chỉ lên tiếng nhẹ nhàng.

Mấy ngày đó, bác gái Cả liên tục khóc lóc kể lể, khẩn cầu cậu Ba, bác ấy nói thế nào ta cũng đoán được.

Bác Cả sức khoẻ kém, anh Cả cũng yếu, đến nay lại chưa có con, phòng thứ nhất chỉ trông cậy vào một mình cậu Ba.

Còn phòng thứ hai chúng ta, cha con chẳng những trẻ trung khoẻ mạnh, còn có số làm quan, công danh trôi chảy, dưới gối con cháu sum suê, tương lai nếu lỡ như… trước kia lão công gia cũng là con trai phòng thứ hai đấy.

Sau cùng, cậu Ba bị thuyết phục, chán nản đến trước mặt lão công gia, chính miệng nói “con mong được lấy cô gái nhà họ Hàn”.

Lão công gia bình thản mỉm cười: “Được, ông nội nhờ người cầu hôn giúp con.”

Mọi người nuối đuôi rời khỏi, ta đi sau cùng, vốn định ôm bé con đang ngủ say ở cách vách ra ngoài, trước khi ra cửa, ta chợt nghe thấy một tiếng cười bất đắc dĩ cực kỳ khẽ khàng, tiếng thở dài cực kỳ nhẹ nhàng: “Lại là vậy… lại là như vậy…”

Ta vội vàng ngoái lại, chỉ thấy lão công gia nắm chặt tay thành nắm đấm đứng bên cửa sổ, dõi mắt ra khung cảnh ngoài cửa sổ, gương mặt bình tĩnh xưa nay chợt toát vẻ đau buồn, dường như đánh mất sự tốt đẹp không thể lấy lại được.

Qua rất nhiều năm, đến khi con trưởng của ta có thể đính hôn, bốn bà cô, hai ông cậu, bà nội lục tục qua đời, ông nội cuối cùng cũng nhắm mắt xuôi tay.

Trụ cột chống đỡ nhà họ Thịnh sụp đổ, lão công gia đứng rất lâu trong linh đường, nét mặt tịch mịch trống vắng, song không hẳn đau buồn, dường như không phải đang thương tiếc cho người bạn tốt, mà là thời thanh xuân trai tráng của chính mình.

Vì ông nội công huân lớn lao, thánh thượng chỉ thị cho hai vị hoàng tử đỡ quan tài đưa ma, quả là cực kỳ vinh dự.

Tang lễ long trọng làm kiệt quệ sức khoẻ của cả nhà, ta về nhà thăm hỏi mẹ cả ốm đau, đôi ta theo thường lệ chẳng có mấy lời hàn huyên.

Đúng lúc ta định cáo từ, mẹ cả đột nhiên lên tiếng: “Con biết không? Thực ra tết Nguyên Tiêu năm đó, Tề lão công gia vừa nhìn thấy con liền muốn xin con làm cháu dâu, nhưng lão thái gia không chịu, nói nếu đứa bé không tốt lại làm ảnh hưởng tới nhà bạn thân. Mấy năm sau đó, lão thái gia vẫn luôn âm thầm theo dõi con, thấy con bản tính trung hậu mới đồng ý hôn sự.”

Ta kinh ngạc.

Trên đường về nhà, ta luôn chăm chú suy nghĩ đến vấn đề này.

Tại sao lão công gia lại thích ta như thế? Ta lúc thì hơi hơi hiểu, lúc lại chẳng hiểu nổi, vô cùng nhức đầu. Được rồi, đừng nghĩ nữa, nghĩ nhiều quá lại ăn không ngon.

Bạn tốt qua đời, lão công gia cũng dần dần già đi, đến cuối năm đó, thái y nói thẳng: “Cần chuẩn bị hậu sự.”

Bác Cả và cha chồng đều hết sức khó chịu, nghẹn ngào bật khóc, bất kể anh em họ từng lục đục thế nào thì vẫn luôn vô cùng kính yêu người cha già.

“Ta đã bảo anh Cả, đợi cha… đi…” Cha chồng khó nhọc tiếp lời: “Chúng ta ở riêng. Con trai nên ra ngoài học hỏi kinh nghiệm, ta sẽ tìm cho nó làm quan một nơi nào đó, bảo con dâu đi theo. Chúng ta ở kinh thành nuôi nấng các cháu.”

Mẹ chồng đã già, hoà nhã dịu dàng, nghe vậy chẳng hề bất mãn, cười nhẹ: “Như thế rất tốt. Để tôi bảo chị dâu, sau này chúng ta ở gần nhau chút, dễ dàng giúp đỡ lẫn nhau.”

Ta hiểu rõ. Cha chồng và mẹ chồng hoàn toàn từ bỏ, từ bỏ tước vị phủ quốc công, đổi lấy cả nhà yên vui, anh em hoà thuận.

Chồng thong thả dắt ta về phòng, dịu dàng: “Mấy năm nay vất vả cho em. Trong nhà nhiều quy tắc, lại lắm việc phiền hà. Đợi ra ngoài, chúng ta có thể ra ngoài đạp thanh, du hồ chơi thuyền…”

Chàng dán môi lên tai ta, phả hơi thở nóng hầm hập: “Còn thêm một con khỉ nhỏ nữa.”

Ta xấu hổ đỏ mặt, khẽ cười, mắng: “Vô lại.”

Trước giường bệnh lão công gia, bác Cả và cha chồng cùng nhau thông báo quyết định cho cha già.

Lão công gia hiểu hết, gật đầu mỉm cười yếu ớt: “…Tốt… Anh em các con tự hiểu ra như thế… rất tốt…”

Cánh tay già nua chầm chậm buông xuống, cánh tay từng thanh tú thon dài, giờ đây mềm mại già yếu.

Trừ sản nghiệp tổ tiên, ruộng công huân, ruộng tế, gia sản còn lại chia thành hai, các vị dì già cũng đều được phụng dưỡng, cả quá trình không ai dị nghị.

Tang sự xong xuôi, dì Đinh cầm một cái hộp nhỏ giao cho ta, mỉm cười bi thương:”Đây là lão công gia dặn dò tôi đưa cho Nhị phu nhân, không phải đồ quý giá gì, giữ lại làm kỷ niệm.”

Bà ấy ngừng lại, không nén nổi nói thêm một câu, giọng rưng rưng: “Lão công gia vốn từng tặng người, đáng tiếc bị trả về.” Nói rồi bà ấy tự biết nhiều lời, bèn vội vã cáo lui.

Đây là một chiếc hộp gỗ nhỏ, khoá đồng nhỏ nhắn cũ kỹ, chiếc hộp xinh xắn khảm ngọc trai, từng đường vân đều làm từ gỗ tử đàn thơm, cho dù cách trở hơn sáu mươi năm vẫn sáng ngời như trước, vương vấn hương thơm.

Ta chầm chậm mở, bên trong là một đôi búp bê sứ.

Thứ này ta rất quen thuộc, là búp bê sứ A Phúc Vô Tích, hồi bé ta còn có mấy bộ, nhưng không được xinh đẹp như thế này, quần áo điệu bộ đều được làm riêng.

Một bé trai, một bé gái, mặc quần áo đỏ thắm vui mừng, béo tròn đôn hậu hiền lành, đáng tiếc vì đã lâu, màu sắc tươi tắn lúc trước phai nhạt đi nhiều, dường như hay được vuốt ve trong lòng bàn tay, nét mặt và vóc dáng sứt mẻ đi nhiều. Ngắm nghía, ta lật hai con búp bê lên, phát hiện dưới đáy ghi chữ, bé gái là “Tiểu Lục”, bé trai là “Tiểu Nhị”.

Nét mực nhạt nhoà, chắc là viết từ vài chục năm trước, mơ hồ nhận ra nét chữ thanh tú đẹp đẽ.

Ta chợt nghẹn lòng, tự nhủ, người từng được tặng bộ búp bê này, liệu từng thấy bốn chữ này hay không?

Ta đặt bộ búp bê vào hộp, lẳng lặng đi tới thư phòng, ôm lấy chồng từ sau lưng, quẹt má lên gáy chàng. Chồng đặt hồ sơ trong tay xuống, ngoái lại ôm ta vào lòng, mỉm cười: “Sao thế, lại định nghịch ngợm cái gì.”

Ta ngơ ngẩn ngắm chàng rất lâu, bỗng dưng lên tiếng: “Này, Tề Tiểu Nhị.”

Chồng ngẩn ra, bật cười: “Em lại đến quấy rối.”

Đây là biệt danh mà hồi mới cưới vợ chồng họ trêu đùa nhau, chồng cũng nghịch ngợm búng vào mũi vợ: “Này, Thịnh Tiểu Lục.”

Ta bỗng đau buồn, nước mắt tràn bờ mi, ta ôm chặt lấy chồng, nhẹ nhàng đáp “ừ”.

Tề Tiểu Nhị và Thịnh Tiểu Lục, cả đời này vĩnh viễn ở bên nhau.

Kết thúc

Câu chuyện này bắt đầu với một cô Sáu họ Thịnh, kết thúc cũng ở một cô Sáu họ Thịnh, cuối cùng các nàng đều rất hạnh phúc.

Tất cả rối loạn tình cảm đều bắt đầu với một chàng thiếu niên họ Tề vén rèm bước vào buổi chiều hôm ấy, cũng kết thúc tại thời điểm chàng thiếu niên qua đời, cuối cùng hắn có hạnh phúc hay không, chẳng ai biết được.

Chúng ta hoài niệm bắt đầu với một gia tộc trên đà hưng thịnh, cũng kết thúc khi gia tộc này cực kỳ hưng thịnh, chuẩn bị suy thoái.

Hoa nở hoa tàn, vòng đi vòng lại.

Quốc gia của chúng ta, máu thịt của chúng ta, văn minh của chúng ta đều là như thế.

Tôi muốn miêu tả một thời kỳ thịnh thế phồn hoa, có quân chủ anh minh, có tướng quân quả cảm, có người xảo quyệt, có người giỏi mưu lược, có máu tươi, có thảm thiết, càng có tương lai huy hoàng.

Tôi muốn miêu tả một gia tộc đang leo dốc, có phụ huynh suy nghĩ cặn kẽ, có đàn ông quang minh lỗi lạc, có phụ nữ rắn rỏi xinh tươi, có nước mắt, có tổn thương, càng có đoàn tụ khổ tận cam lai.

Trong bộ truyện “Hồng Phai Xanh Thắm, tất cả những nhân vật chủ chốt từng xuất hiện, bất kể họ từng khóc, từng cười, từng vui vẻ, từng đau buồn, bất kể họ mạnh mẽ, hèn mọn, lương thiện, độc ác, thành công hay thất bại, câu chuyện về bọn họ đã kết thúc rồi.

Sau này, tôi sẽ không viết về bọn họ nữa.

Cảm ơn mọi người, vô cùng cảm ơn.

Đây là một giai đoạn khó quên, rất vui vì được làm quen với mọi người, viết đến đây, tôi thật sự muốn khóc.

Bốn giờ sáng.
 
Chương 228: Ngoại truyện 7: Thẹn nắng tay che lụa, buồn xuân ngại điểm trang*


*Hai câu đầu trong bài thơ “Tặng lân nữ” của nữ thi nhân Ngư Huyền Cơ nổi tiếng đời Đường.

Xa Tam Nương hồi nhỏ theo cha mẹ sinh sống lang bạt khắp nơi, từng có kẻ mù hành nghề bói toán sau khi được nàng cho ăn nửa cái bánh bao chay bèn quyết tâm bói tặng nàng: Xa Tam Nương, cô vất vả cả đời, cho dù tương lai phú quý nhưng vẫn phải vất vả.

Xa Tam Nương khinh thường.

Lừa ai vậy, mọi người đều lăn lộn trên chốn giang hồ, nàng mãi võ mua vui, hắn khua môi múa mép, đều lừa gạt nhau mà kiếm sống, ai mà chả biết tỏng ai, ma mới tin lời nhảm nhí của hắn, có ai giàu sang rồi lại còn phải vất vả chứ.

Rất lâu sau, nàng hồi tưởng lại việc này, không nhịn nổi nghiến răng, thật sự bị hắn đoán trúng rồi.

Hồi nhỏ nàng sống bần hàn, còn nhỏ tuổi đã biết nấu cơm giặt giũ, chăm sóc mẹ ốm, có lúc còn đi theo cha lớn giọng mời chào quần chúng, luyện được tính cách năng nổ tháo vát. Rất nhiều người thích nàng giỏi giang bản lĩnh, đề nghị kết thân.

Năm mười chín tuổi, cha già qua đời, hành nghề thấp kém, đâu chú ý nhiều được lễ số, dù giữ đạo hiếu, nàng vẫn mang theo mẹ già gả cho một kẻ chạy chân mờ nhạt trong Tào bang, tên Thạch Khanh. Nàng hay gọi chồng là Đại Thạch Đầu (Tảng đá lớn).

Bên cạnh Đại Thạch Đầu còn có một Tiểu Thạch Đầu (Tảng đá nhỏ) nước mũi lem nhem.

Hai anh em mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa lẫn nhau, nhưng Đại Thạch Đầu dù sao cũng là đàn ông, mải kiếm tiền nuôi gia đình liền không để ý chăm sóc được trẻ con, cậu nhóc nho nhỏ vừa gầy guộc vừa vàng vọt, quần áo rộng thùng thình, chân đi giầy to đùng, trên tay nứt nẻ, còn cười ngây ngô gọi nàng là chị gái. Xa Tam Nương thương xót, sau này coi như con trai mình mà hết lòng nuôi dưỡng.

Chồng hành xử chững chạc thạo đời, việc lớn vững vàng, việc nhỏ được nàng trợ giúp một tay, thường hay dặn dò. Anh em trong bang có việc, chồng tìm người thương lượng, nàng đứng mũi chịu sào, các anh em xông xáo bên ngoài mà vợ ở nhà có nguy cấp, nàng là chị dâu tự nhiên không thể từ chối. Hai vợ chồng nắm tay nhau cùng gắng sức, chuyện gì nàng cũng bận tâm, chuyện gì nàng cũng phải suy đi tính lại, chỉ e Đại Thạch Đầu đi sai bước nhầm, việc trong việc ngoài, quanh năm suốt tháng nàng lại còn bận bịu hơn cả chồng.

Nhiều người hay cười, bảo nàng dù gọi Đại Thạch Đầu là chủ nhà, nhưng nàng có thể làm chủ nửa cái nhà của hắn.

Liều chết liều sống, cuối cùng xây dựng được một phần sản nghiệp, lại đến vấn đề hôn sự của em trai.

Tiểu Thạch Đầu đi theo anh trai chị dâu mưa dầm thấm đất, không thích thiếu nữ dịu dàng nuôi trong nhà, cũng không thích thiếu nữ chưa từng ra đến trong các gia đình nhỏ. Xa Tam Nương bực dọc bèn tìm một cô tính cách mạnh bạo như chính mình, Tiểu Thạch Đầu nhìn thấy bèn gượng gạo “có cảm giác giống như mẹ, chỉ e không dám vào động phòng”. Nó làm Xa Tam Nương tức giận tới nỗi vỗ tay đồm độp!

Thấy Tiểu Thạch Đầu ngày càng lớn, vợ chồng mình lại chỉ có hai đứa con gái, tương lai thừa kế hương khói gia đình còn phải dựa vào cậu em trai này, nhưng chẳng biết em dâu giờ đang ở đâu, Xa Tam Nương sốt ruột tới nỗi miệng nổi nhiệt.

Cuối cùng ông trời có mắt, năm đó Tiểu Thạch Đầu thẽ thọt bảo rằng, nó coi trọng một cô gái, Xa Tam Nương mừng rỡ quá đỗi, hỏi chi tiết ra mới biết là hầu gái sát sườn của Cố phu nhân.

Chồng liền do dự, dù nhà mình hiện giờ tốt xấu coi như có máu mặt, muốn tiền có tiền, muốn thế lực có thế lực, dù cho em trai lấy một cô tiểu thư dòn dõi thư hương cũng không phải việc khó, nhưng lấy người hầu…?!

Xa Tam Nương lại khôn khéo hơn chồng nhiều. Nàng vốn là một cô bé theo nghề mãi võ, xuất đầu lộ diện từ tấm bé, chồng xuất thân thế nào, nói dễ nghe thì là “anh hùng hào kiệt”, nói khó nghe thì chẳng qua vào nghề từ côn đồ hành nghề bến sông, nếu thật lấy một cô em dâu dòng dõi cao, chưa nói đến việc bản tính bất đồng, liệu có hòa thuận được hay không, tương lai nếu hai phòng có tranh chấp, em dâu ỷ vào xuất thân mà không chịu phục thì biết giải quyết thế nào.

Chi bằng lấy một cô hầu, một là, chị em dâu xuất thân ngang nhau, nàng làm chị dâu cũng yên tâm, hai là có thể dính dáng quan hệ với phủ Cố hầu, nhất cử nhiều tiện lợi, há chẳng phải tuyệt diệu. Thạch Khanh vốn nghe lời vợ, lại thương yêu em trai, hai điều hợp lại bèn bị thuyết phục, đồng ý lần tới lên kinh sẽ mang theo vợ và em trai, đến lúc đó tìm cơ hội cầu hôn với phủ Cố.



Một năm rưỡi sau đó, nhà họ Thạch làm hôn sự thật to, sau khi thành hôn hai đứa vô cùng hòa hợp, đối xử với anh trai chị dâu cũng cực kỳ hiếu thảo, khiến Xa Tam Nương sung sướng dạt dào. Còn em dâu xử sự… nên nói thế nào nhỉ?

Hồi nó mới vào cửa, Xa Tam Nương còn lo lắng tuy nó là cô hầu, nhưng vốn ở bên bà chủ gia đình giàu có, từng quản sự, từng quản người, nếu muốn tranh giành quyền quản gia thì làm thế nào? Không phải nàng không muốn buông tay, mà là người mới vừa tới, nàng không yên tâm.

Sự thật chứng minh, nàng chẳng những lo bò trắng răng, hơn nữa còn tưởng lầm.

Em dâu là đứa chân thành đôn hậu, gần như chẳng lo nghĩ gì.

Bảo nó đi mua nước tương, nó tuyệt đối sẽ không bòn rút hai đồng mua đường ăn, bảo nó trông hai đứa cháu không cho nghịch ngợm, nó bèn trợn mắt nhìn, chị dâu không gọi, nó tuyệt đối không nhúc nhích, bảo nó phát tiền thưởng cho kẻ hầu, nó phát không sai một chút.

Nàng xem sổ sách, em dâu mài mực trải giấy, nàng gọi nàng hầu quản sự đến hỏi việc, nó bèn rót trà quạt mát, nàng rảnh rỗi, tìm các cô vợ của anh em trong bang hàn huyên, nó cười ha ha cắn hạt dưa bên cạnh. Lúc nào cũng vui vẻ, vừa ngoan ngoãn, vừa nghe lời, việc lớn việc nhỏ đều phải nhờ mình quyết định, không biết tính toán nhỏ nhặt một cái gì.

Có lần anh em họ Thạch không ở nhà, nàng muốn ra ngoài, bảo nó quản lý việc nhà nửa tháng, em dâu lập tức nước mắt lưng tròng, tóm tay áo nàng khóc thút thít như con mèo hoa nhỏ: “Chị dâu không ở, em biết làm thế nào? Chị dâu mang em theo với, em nhất định nghe lời, đừng để một mình em ở lại, đừng để em quyết định… em ngốc lắm, sợ bị người ta bán đi mất.”

Nàng nổi giận, mắng: “Sao em ngốc thế?!”

Em dâu ngơ ngác: “Lúc ra phủ, phu nhân dạy em sau này cứ nghe lời chị dâu là được.”

Nàng chưa từ bỏ ý định: “Phải tự mình quyết định! Em đã lập gia đình rồi!”

Em dâu cười ngây ngô: “Có chị dâu rồi, em tự quyết định làm gì.”

Nàng cả giận: “Tương lai ở riêng thì sao? Em tìm ai mà quyết định.”

“Chị dâu không cần em nữa?!” Em dâu cực kỳ hoảng sợ, nước mắt tuôn rơi.

Nàng bị nước mắt con bé làm cho sợ hãi, đành phải ra sức dỗ dành, thề chính mình tuyệt đối không có ý đó, khuyên nhủ mãi mới nguôi. Sáu đó, nàng thở dài một hơi, sâu sắc cảm thấy bản thân sinh thêm một đứa con gái, nhưng con gái dù sao vẫn phải lấy chồng, còn em dâu lại hiển nhiên hạ quyết tâm dính nhau cả đời.

Trừ việc thích nhờ mình quyết định hộ, em dâu thật tốt lắm, biết may quần áo, nấu nướng, hầm canh, hai đứa con gái đều thích bà thím ngây ngô, học quy củ, học nữ công với nó, ba đứa líu ríu bên nhau, rất giống chị em ruột.

Em dâu vào cửa năm thứ hai liền sinh hạ một cậu nhóc bụ bẫm, kế tiếp là một chuỗi bé trai bé gái, nhà họ Thạch xưa nay neo người tức khắc đông đúc lên. Nàng sợ hai vợ chồng nhỏ không biết nuôi dưỡng trẻ con liền thường đến giúp đỡ, nào ngờ em dâu dai như kẹo kéo, thả tay giao con cho nàng chăm sóc, chỉ ở một bên giúp đỡ, chẳng hề bận tâm.

“Mai sau chúng nó thân với ta, phớt lờ bà mẹ đẻ như em!” Nàng hung hăng hù dọa.

Em dâu tức khắc ngả vào vai nàng, nũng nịu: “Em cũng thân với chị dâu, chúng ta đều thân với chị dâu, chị dâu tốt nhất.”

Nàng đành phải ngẩng mặt thở dài.



Sau khi hai con gái đi lấy chồng, nàng quyết tâm nói chuyện tử tế với em dâu.

“Em không thể cứ dựa dẫm vào chị được, cũng phải tự quyết định đi chứ.” Nàng tận tình khuyên bảo: “Chị rồi sẽ già đi, nếu ngày nào đó chị và anh trai không còn, khi đó em dựa vào ai?”

Em dâu vẫn ngây thơ ngốc nghếch như cũ, gương mặt hồng hào tròn trĩnh không hề có nếp nhăn lo lắng nào, bật cười ha ha: “Khi đó? Khi đó à, lúc mấy cô vợ thằng Cả thằng Hai vào cửa hả? Để cho chúng nó quản.”

Nàng nghẹn họng: “Nếu chúng bắt nạt em thì sao?”

Em dâu lơ đễnh xua tay: “Không sao, em nghĩ kỹ rồi. Mai này các con thành gia lập nghiệp hết, em liền về bên cạnh phu nhân hầu hạ, sống cuộc sống về già với phu nhân. Có phu nhân ở, không sợ có kẻ dám bắt nạt em.”

Nàng trợn mắt to như chuông đồng: “Em, em, em nói cái gì cơ…?”

Em dâu say sưa: “Em kính nể Phòng ma ma lắm, từ khi còn bé tí đã nghĩ nếu có thể được như bà ấy, hầu hạ phu nhân đến già thì thật là tốt.”

“Chờ, chờ, chờ một chút.” Xa Tam Nương vốn lên sắc bén cả đời há hốc mồm: “Chị nhớ vị Phòng ma ma đó là trung niên mất chồng, sau đó mới về hầu hạ bà cụ họ Thịnh mà.”

Em dâu chớp mắt, nghiêng đầu: “Có lẽ, có lẽ… lúc đó em cũng là quả phụ, chưa biết chừng…”

Chưa đợi Xa Tam Nương mở miệng, phía sau vang tiếng gầm rú: “Em nguyền rủa tôi chết sớm hả!” Cậu Thạch nổi giận đùng đùng đứng trước cửa. Hai đứa nó tức thì bắt đầu mỗi tháng một ngày đấu khẩu ầm ĩ.

Xa Tam Nương vô lực nhìn lên nóc nhà, thôi được rồi, nàng lại phải khuyên can rồi.

Nhiều năm về trước, nàng biết bản thân không thể sinh nở nữa, vốn tưởng rằng sau khi con gái lấy chồng, nàng và chồng không khỏi về già cô đơn, ôi, nhìn đi, cô đơn cái con mẹ nó chứ!
 
Chương 229: Lời cuối sách


ời cuối sách

“Hồng Phai Xanh Thắm” bắt đầu từ 29/11/2010, kết thúc ngày 3/12/2012, kéo dài 2 năm 2 ngày, trải qua nhiều cay đắng ngọt bùi, có vui sướng cũng có chán nản, có lúc bị khen ngợi ngút trời, làm tôi cứ ngỡ bản thân tài hoa cái thế, PK Rowling thừa sức, cũng có lúc bị phỉ nhổ đến mức lôi cả nhân phẩm người thân ra mà chửi.

Cảm giác khi viết bộ này thật khó mà nói hết trong một lời.

Vẫn nhớ cuộc chiến nam chính, độc giả tranh cãi ỏm tỏi, vì thế tôi không dám hé lộ rõ ai là nam chính, vì đã chuẩn bị tâm lý trước cho nên khi Cố Đình Diệp chính thức lên sàn, tôi cảm thấy chửi mắng và kêu rên có vẻ cũng không đến mức ghê gớm, cảm ơn mọi người chấp nhận, cảm ơn những bạn đứng nhầm đội vẫn ủng hộ truyện đến thế.

(Còn có độc giả giận dữ trách cứ tác giả vô lương, úp mở, nhử, thủ đoạn vụng về buồn nôn, v.v…, em gái ơi, úp mở và nhử độc giả là khuôn mẫu chung trong tiểu thuyết mà.)

Hai nhân vật tốt thí là Hạ Hoàng Văn và Tề Hành đều có bất đắc dĩ riêng biệt.

Bi kịch của Hạ Hoằng Văn nằm ở chỗ hắn có một bà mẹ làm quả phụ từ trẻ, tính cách lại còn mềm yếu không mấy trợ giúp, là một người con trai trưởng thành sớm, tình cảm hắn dành cho mẹ không chỉ là hiếu thảo mà còn có một chút áy náy và bồi thưởng, vì vậy khi hắn biết mẹ dung túng cho nhà họ Tào là không đúng, biết hành vi của mẹ sẽ làm tổn thương tới hắn và nhà họ Hạ, hắn vẫn giữ thái độ thoả hiệp.

Thực ra, dù hắn có lấy Minh Lan hay không cũng không nên làm cho nhà họ Tào nhúng tay vào cuộc sống tươi đẹp của hắn. Phạm nguyên tắc sai lầm, vậy cuộc đời sau đó của hắn tất nhiên phải trả giá.

Trái ngược với Hạ Hoằng Văn có một bà mẹ kéo chân sau sai lầm về suy nghĩ, bi kịch của Tề Hành lại nằm ở chỗ hắn có một bà mẹ suy nghĩ tuyệt đối chính xác. Bình Ninh quận chúa nhận thức rõ chỗ thiếu hụt của con trai và tiến hành bổ cứu đúng đắn, đánh giá khách quan thì, kế hoạch bà ấy tạo ra cho tương lai con trai có thể nói là chính xác đến mức hoàn mỹ.

Tề Hành có ba vợ, dù cô đâu là Gia Thành huyện chủ phải nhận cặp lồng cơm hết vai rất sớm, nhưng vì chính trị xảy ra biến đổi, bằng không thì sẽ là trợ lực rất lớn. Cô vợ Thân thị thứ hai thành công làm bậc thang lót đường giúp cha con Tề Hành tại triều chính, khiến nhà họ Tề từ một gia tộc quyền quý lâu năm nhanh chóng biến hình thành trung thần có khả năng của hoàng đế mới. Cô vợ thứ ba cùng với Khánh Ninh Đại trưởng công chúa cực có thế lực giúp Tề Hành mở rộng quan hệ trong hoàng tộc, vì thế đánh bị phòng thứ nhất của phủ Tề đồng dạng cũng rất có máu mặt, thành công kế thừa tước vị.

Sự bất đắc dĩ của Tề Hành nằm ở chỗ, e rằng chính hắn cũng không thể phủ nhận tính toán chính xác của mẹ mình.

Là một con em nhà công hầu tiếp nhận giáo dục chính thống, một cậu con trai được cha mẹ ân cần dạy bảo từ tấm bé, làm rạng rỡ gia tộc, biểu dương hiển hách gần như là nguyên tắc bản năng của Tề Hành.

So sánh hai bên, bi kịch của Tề Hành càng làm mọi người đau buồn.

Hạ Hoằng Văn sai lầm ở tính cách, nếu hắn có thể cương nghị quả quyết bằng một nửa Thịnh Trường Bách, mạnh tay với mẹ và em họ, như vậy dù hắn không thể cưới Minh Lan thì cũng có thể có một cuộc sống tương lai hoà thuận, chứ không phải bị nhà họ Tào và bà mẹ quả phụ ngày ngày giày vò, đánh mất nhiệt tình và niềm vui đối với cuộc sống.

Bi kịch của hắn có thể tránh được.

Nhưng bi kịch của Tề Hành là vĩnh hằng, là lựa chọn lưỡng nan của một chàng trai khi đối mặt với tiền đồ và tình yêu. Chọn tình yêu thì nhiều năm sau khó mà nói không nảy sinh hối hận, không khéo giai ngẫu lại biến thành oán lữ, chọn tiền đồ thì cả đời sẽ thất vọng, tiếc nuối day dứt.

Vấn đề này gần như không có lời giải đáp. Lục thiếu và Tĩnh Uyển ngược tôi, giày vò tôi chết đi sống lại rơi lệ thành sông, suy cho cùng chính là vì câu hỏi này.

Minh Lan từ chối lựa chọn kiểu này, từ chối bắt Hạ Hoằng Văn phải lựa chọn giữa nàng và mẹ, em họ hắn, cũng từ chối bắt Tề Hành phải lựa chọn giữa nàng và tiền đồ của hắn, không thể nói tuyệt đối rằng từ chối như thế là đúng hay sai, chỉ có thể nói mỗi người một ý.

Tề Hành day dứt đau buồn cả đời, một nửa dĩ nhiên là hoài niệm cô gái khiến mình động lòng duy nhất trong cõi đời này, một nửa là hoài niệm tình cảm tốt đẹp của mình thời thời thanh xuân, cảm giác đơn thuần đó vĩnh viễn không thể bù đắp được.

Người không thể thập toàn, trăng có tròn có khuyết, thế thôi.

Rất nhiều độc giả phê phán nam chính, lý lẽ vô vàn, kỳ thực phân tích tỉ mỉ ra thì cuộc đời của Cố Đình Diệp và Minh Lan khá có tính thống nhất.

Minh Lan sống hai đời, thái độ đối với con người và sự việc có sự bi quan và tang thương nhất định, cho nên nàng mới từ chối ảo tưởng của Tề Hành, lựa chọn con đường suôn sẻ hơn là Hạ Hoằng Văn. Còn Cố Đình Diệp, thực ra hắn cũng coi như sống hai đời.

Cuộc đời hắn có thể chia rõ thành hai giai đoạn, trước khi rời phủ Hầu và sau khi rời phủ Hầu.

Trước khi rời phủ Hầu hắn là công tử kim tôn ngọc quý, ra vào kẻ hô người ủng hộ, cơm áo không cần lo, nhưng kỳ thực trong lòng tràn ngập hận thù, ân oán giữa hắn và nhà họ Cố rắc rối khó gỡ, muốn giải trừ cũng khó.

Sau khi rời phủ ầu, dù hắn từ ăn ngon mặc đẹp rơi xuống cảnh phải vất vả sinh tồn, nhưng có thể đặt hết gánh nặng tinh thần và khúc mắc trong lòng xuống, sống một cuộc sống hoàn toàn mới, kết bạn, ra sức phấn đấu, bắt đầu lại từ đầu.

Trong quá trình này, hắn cuối cùng trở nên chín chắn, biết nhìn nhận cha già bằng thái độ thấu hiểu hơn, đối diện với quá khứ, dù hắn chưa chắc đã thông cảm, nhưng dần dần hiểu ra.

Phủ Ninh Viễn hầu không có hắn, có lẽ sẽ bị tịch thu gia sản, đoạt tước khi triều chính thay đổi. Còn hắn không có phủ Ninh Viễn hầu nẫn có thể tự lập, quyết định vận mệnh cuộc đời chính mình.

Quá trình này là tích cực chính diện, làm cho hắn trở nên giỏi giang mạnh mẽ, nhạy bén quan sát, tính toán chuẩn xác, cuối cùng làm hắn có thể càng tự chủ quyết định hôn nhân hơn Tề Hành, lại giải quyết trở ngại gọn gàng dứt khoát hơn Hạ Hoằng Văn, không lắm do dự chần chừ như thế. Nhưng, cũng có khuyết điểm.

Thử nghĩ một người đàn ông nếm trải đau khổ chua xót, thành công tắm lửa sống lại làm sao có thể ngây thơ tới mức dốc ruột gan cho người khác xem, yêu như thằng nhãi chưa mọc lông thời thanh xụân chứ.

Trải qua cực khổ và phản bội, sau đó chậm rãi vùng vẫy bò lên, loại đàn ông này về bản chất khó có thể lại yêu thương và tin tưởng ai đó một cách vô điều kiện, đây cũng chính là điểm mà vô số độc giả phê phán nam chính.

Cho nên ngay từ đầu tôi đã nói rồi, tôi không muốn viết nam chính điển hình tà mị kiểu “sắc bén lạnh lùng với tất cả mọi người, riêng với nữ chính là tình sâu ý nặng”, đối với nam chính có cuộc đời từng trải, yêu nhau cần tới thời gian và quá trình, cần sự cảm động và giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn, loại tình yêu cuồng nhiệt không thuộc về hắn.

Cảm ơn độc giả thấu hiểu với tôi, cũng cảm ơn những độc giả không thể thấu hiểu tôi.

Cuối cùng nói tới Man Nương, nhân vật này cũng được mọi người nhiệt liệt thảo luận, có tán thành, cũng có chê trách.

Tôi nói thẳng nhé, linh cảm xây dựng nhân vật này đến từ hai nhân vật trong văn học, một là Trình Điệp Y trong “Kịch như nhân sinh”, một là Tập Nhân “uổng cho tự hiền lành nhũn nhặn, không mây như quế như lan”.

Tôi xem “Bá Vương Biệt Cơ” từ khi còn rất nhỏ nhưng liền bị Trương Quốc Vinh trong vai Trình Điệp Y gây chấn động, thật quái lạ, tôi đọc “Jan Eyre” còn chẳng hiểu tình yêu trong đó, thế mà lại hiểu được “vai diễn” của Trình Điệp Y.

Khi một người trút hết tình cảm, nhiệt huyết, tài hoa, thời gian, thậm chí cả tư tưởng vào một việc, kết quả tất nhiên là dẫn đến cuồng nhiệt điên cuồng, dời non lấp biểm, không chết không về.

Trình Điệp Y thực ra không yêu Đoạn Tiểu Lâu, mà là yêu Tây Sở Bá Vương “khí thế vượt sơn hà” trong vở diễn.

Man Nương yêu cũng chẳng phải Cố Đình Diệp, mà là giấc mộng từ thuở nhỏ, một khi nàng trút hét lý tưởng nhiệt huyết của cuộc đời, bất cứ công tử nào có thể thoả mãn nguyện vọng tôn quý đều có thể trở thành nam chính của cô ta.

Kịch như đời, đời như kịch.

Khác biệt ở chỗ, Trình Điệp Y chỉ tổn thương chính mình, còn Man Nương chẳng những tổn thương bản thân, còn làm tổn thương người khác, kể cả người vô tội, thậm chí chính thân nhân của cô ta.

Nói tiếp đến Tập Nhân.

Cụ Tào tả người theo lối vẽ tranh thủy mặc, sử dụng đủ loại kỹ xảo miêu tả tinh tế từng lời nói hành động của họ, nhưng không phán xét hay giải thích rõ ràng. Đơn giản hơn là “kẻ này làm chuyện gì, nói câu gì, ta viết hết rồi đấy, kẻ này tốt hay xấu, khán giả tự đi mà cảm nhận”.

Kết quả chính là, trong mắt một ngàn độc giả thì sẽ có một ngàn Vương Hi Phượng, Giả Bảo Ngọc, em Lâm, Tiết Bảo Thoa…

Tập Nhân đương nhiên là cô gái tốt, đối xử với mọi người dịu dàng hiền lành, tận tâm tận sức với chủ nhân, làm việc chu đáo thoả đáng. Nhưng mà, nàng có được tính là một đứa hầu tốt thật sự hay không? Ở mặt này có một vấn đề “thống nhất về mặt lợi ích”.

Tử Quyên gần như được công nhận là đứa hầu tốt nhất trong Hầu Lâu Mộng, đối xử chân thành với em Lâm, vừa có thể khuyên nhủ, vừa tình như chị em, nhưng bản chất lợi ích của cô ta và em Lâm cơ bản thống nhất, cho nên nó tốt là đương nhiên.

Nhưng khi lợi ích chủ tớ không thống nhất thì sao? Tập Nhân gặp phải vấn đề bi thảm nàyy.

Trước không bàn tới trong sự kiện Tinh Văn, Tập Nhân bị đuổi thật sự có đáng hay không, vấn đề này mỗi người một ý, nhưng còn vấn đề Tiết-Lâm thì thế nào? Bảo Ngọc thích em Lâm, Tập Nhân hiểu rõ, thế nhưng cô ta không hề do dự mà nói cho Tiết Bảo Thoa nghe.

Tập Nhân đương nhiên sẽ ngụy biện kiểu “cô Lâm không phải vợ hiền, cô Bảo mới thật sự có ích cho cậu Hai Bảo”…, nhưng chân tướng sự thật chính là, cô ta muốn làm vợ bé, vậy nên bà vợ cả phải là người dễ chung sống.

So với em Lâm hay hờn dỗi, chị Bảo hết lòng kết giao với Tập Nhân, so với em Lâm u sầu khó đối phó, chị Bảo nhã nhặn rộng lượng, đó chính là lý do quyết định thái độ của Tập Nhân, sau đó thái độ chuyển hoá thành hành động vô ý hoặc hữu ý, thậm chí còn biểu hiện trước mặt Vương phu nhân.

Không thể nói Tập Nhân sai, chỉ có điều đây gọi là “lòng chân thành” của cô ta đối với Bảo Ngọc ư? Tình yêu của Bảo Ngọc, tấm lòng của Bảo Ngọc, đối với Tập Nhân mà nói tuyệt đối không quan trọng bằng chính cô ta.

Man Nương cũng như thế.

Cô ta luôn mồm yêu Cố Đình Diệp, yêu đến độ đòi sống đòi chết, nhưng với sự thông minh của cô ta, chẳng lẽ không phát hiện ra Cố Đình Diệp thật sự mong muốn được cha già công nhận, dựa theo kỳ vọng của cha già mà sống một cuộc sống được mọi người công nhận, có người vợ môn đăng hộ đối dịu dàng hiểu biết, có con cái hợp pháp?

Man Nương đương nhiên biết, nhưng việc này không phù hợp với lợi ích của cô ta. Lợi ích của cô ta là nhất, nguyện vọng và nỗi khổ của Cố Đình Diệp là gì chứ?

Đương nhiên, Man Nương cũng sẽ tự ngụy biện giống Tập Nhân rằng, “Nhị Lang ở nhà đó chỉ có ấm ức, tôi đang vì chàng, chỉ có rời khỏi phủ Cố sống bên nhau mới là con đường tốt nhất của Nhị Lang, ở bên tôi, tương lai chàng nhất định sung sướng.”

Đáng tiếc, Man Nương quên hỏi Cố Đình Diệp có yêu cô ta không, có sẵn sàng “sống bên nhau” không.

Lưu Ly phu nhân và Cao đại học sỹ có tình yêu chân thành với nhau, thật sự là mối tình vượt lên cái nhìn của thế tục, oanh liệt, chết đi sống lại, bọn họ cũng từng thoả hiệp với hiện thực, nhưng bởi vì có tình yêu mãnh liệt không thể dừng lại làm thúc đẩy, bất kể thời gian và không gian đều không thể ngăn cản, bọn họ cuối cùng mới có thể bỏ qua tất thảy mà ở bên nhau.

Man Nương nỗ lực cả đời, chịu trả giá vô số, sắp xếp một vở kịch đầy kiêu hãnh, cân nhắc suy xét từng chi tiết, chuẩn bị từng đoạn từng cảnh kỹ càng. Đáng tiếc, nam chính từ chối biểu diễn.

Truyện này bộ khung còn thiếu sót khá nhiều, miêu tả nhân vật cũng có nhiều chỗ tôi chưa hài lòng lắm, bởi vì viết quá dài nên nhiều chi tiết sai sót, hy vọng sau này sẽ cải thiện ở một bộ mới (chưa chắc đâu nhé).

Thật sự, thật sự hết sức cảm ơn độc giả đã đi cùng với tôi, thông cảm cho sự tự do và vô lý của tôi, nghĩ kỹ thì, nếu như tôi là độc giả cũng sẽ tức giận bản thân rất nhiều, hy vọng tôi và mọi người sau này đều có thể gặp được tác giả đáng tin cậy hơn nhiều.

Được rồi, có thể về tổ bàn tán với chiến hữu rồi, tôi nghĩ tôi vắng bóng đối thủ sẽ thấy rất cô đơn.

Cuối cùng, chúc cuộc sống của mọi người đều được như ý, gia đình hạnh phúc.

Quan Tâm Tất Loạn.

Cuối tháng 2/2013.

Hẹn gặp lại.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top