Cập nhật mới

Dịch Giang Hồ Dạ Vũ Thập Niên Đăng

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 120-2


Nước dòng Tố Xuyên

【 Một ổ bảo hẻo lánh giấu trong dãy Hản Hãi.

“Cháu trưởng à, đám Lữ Trưởng lão phản thật sao!” Một hán tử trung niên thở hồng hộc thúc ngựa chạy đến, phía sau là một chuỗi bộ hạ thật dài phi nhanh.

Thượng Quan Hạo Nam đang điểm nhân số, nghe vậy nói: “Giáo chủ dự đoán tuyệt đối không sai, quả nhiên lão rùa đen Lữ Phùng Xuân kia không phải chuyện chơi, đang trắng trợn lên mặt ở cung Cực Lạc kia! Bát Lý thúc, chúng ta lần này phản công, lột mai lão rùa đen kia!”

Hán tử trung niên lớn tiếng xưng vâng.

Một văn sĩ trung niên bên cạnh chậm rãi lo âu nói: “Du Quan Nguyệt đâu? Bình thường vẫn thấy gã theo đuôi Giáo chủ, một tấc không rời, sao giờ không thấy?!”

Thượng Quan Hạo Nam bực bội nói: “Giáo chủ thất thủ rơi vào trong tay đám trứng thối Bắc Thần kia, Du Quan Nguyệt đang bận cứu người! Giáo chủ đã giao cho ta để ý tổng đàn, ta với cậu ta mỗi người quản chức của mình và những việc liên quan. Chú Thu Đồng mau đi triệu tập người ngựa đi!”

Bộ hạ sau lưng Ngô Thu Đồng vẫn không hề nhúc nhích, lại khuyên: “Hạo Nam à, ta đã trông cháu lớn lên, hôm nay mạn phép nói một câu, chỉ bằng đám người chúng ta, chưa hẳn có thể phản sát Lữ Phùng Xuân đâu.”

Thượng Quan Hạo Nam giận dữ: “Lúc trước chúng ta đã bàn xong chuyện đầu quân Mộ Giáo chủ, giờ chú Thu Đồng nói thế là sao?!”

Ngô Thu Đồng: “Cũng không thể nói vậy, chúng ta vốn là hai phe bộ hạ cũ của Khai Dương Dao Quang, mà lúc còn sống hai vị Trưởng lão trung thành với Nhiếp Giáo chủ. Mộ Thanh Yến chưa hẳn thật sự có thể tin tưởng chúng ta đâu?”

Tần Bát Lý gầm thét: “Lúc đó hai vị Trưởng lão Khai Dương Dao Quang thấy Mộ thị chống chọi không nổi, mới quyết ý đầu quân theo Nhiếp Hằng Thành, sau đó trung thành không đổi, thì có lỗi gì?! Rồi lúc phản công Nhiếp Đề, chúng ta cũng phát lời thề đầu quân cho Mộ Giáo chủ, tất nhiên cũng sẽ trung thành không hai lời! Giờ Ngô Thu Đồng cậu lại muốn thế nào?!”

Ngô Thu Đồng cười lạnh: “Nhưng Mộ Giáo chủ mà chúng ta đầu quân vào lại rơi vào trong tay sáu phái Bắc Thần, ắt hẳn chống đỡ không nổi.”

Thượng Quan Hạo Nam tỉnh táo: “Chú Ngô, vậy chú muốn gì cứ nói.” 】

“Nếu bọn Thượng Quan Hạo Nam chịu nhận lệnh phản sát Lữ Phùng Xuân, thì là trung thành với huynh; trái lại, thì vốn dĩ ngầm có lòng phản, là cỏ đầu tường, bỏ đi cũng không đáng tiếc.” Thái Chiêu nói, “Là thế nhỉ.”

“Người hiểu ta, là Chiêu Chiêu.” Mộ Thanh Yến chậm rãi đứng dậy.

Trên người hắn mặc là bộ trường bào vải thô Thái Chiêu tiện tay mua đầu đường, nhưng lông mi sắc sảo, mắt sáng nhạy cảm, thân hình cao lớn vừa đứng lên, sơn động giống như nhỏ đi không ít, một mùi áp bức tự nhiên sinh ra.

Thái Chiêu: “Huynh định giấu tôi bao lâu?”

Biểu cảm Mộ Thanh Yến lạnh nhạt: “Những chuyện bẩn thỉu ô uế như này Chiêu Chiêu không biết thì tốt hơn.” —ngụ ý, hắn vốn không có ý định để Thái Chiêu biết.

Ánh nắng xuyên qua khe hở núi đá tới, chuyển hướng mấy lớp, hơi dợn sóng.

Thái Chiêu gật đầu, “Được rồi, vậy huynh nghỉ ngơi cho khoẻ, tôi về.” Nói xong, cô quay người.

“Nàng đã muốn từ bỏ ta, vậy cần gì trước đó phải cứu ta!” Tiếng nam tử sau lưng dồn dập quát lớn.

Thái Chiêu chậm rãi quay lại: “Cạm bẫy của các người đã thiết kế xong, cũng mua xong nội tặc, chỉ chờ đến khi huynh ‘mất tích’, Du Quan Nguyệt sẽ giả hốt hoảng gây với Bắc Thần Lục phái, thuận thế ra tay với gia quyến các phái. Ai ngờ huynh lại xảy ra chuyện thật, làm giả hoá thật, rối loạn toàn bộ kế hoạch. Lữ Phùng Xuân cố nhiên bị dụ đã tự phản loạn, đám Du Quan Nguyệt cũng rối loạn bước chân.”

“Hiện bọn hắn đang ra tay với gia quyến các phái là đang lúc có tin huynh bị bắt. Tin tức truyền đi từ chỗ này sang chỗ nọ ít nhất cũng phải hơn nửa tháng. Chờ bọn hắn bắt con tin lại vội chạy đến cứu huynh thì không kịp. Ba hôm trước, truy binh các phái dần giảm bớt, tôi đoán là rốt cuộc bọn Du Quan Nguyệt đã đuổi tới dòng Tố Xuyên.”

【 Tuấn mã lao vùn vụt trên con đường thẳng tắp, cát vàng cuồn cuộn.

Các phái Bắc Thần đang hướng thẳng đến bờ Đông dòng Tố Xuyên, chợt nghe đối diện có mấy toán người ngựa chạy tới, cũng hối hả ghìm cương dừng ngựa trước mặt, vó ngựa giơ cao, cát vàng tản đi, đi đầu trong mấy người cưỡi ngựa là một thanh niên đẹp trai mặt tươi cười.

Thanh niên khuôn mặt tươi cười không nói hai lời, giơ tay ném qua một cái túi. Một đệ tử xa xa dùng vỏ kiếm đẩy mở túi, bên trong là ngọc bội trường kiếm các thứ, kiểm tra rõ không thấy cạm bẫy, đệ tử dâng túi đến chư vị Chưởng môn trước mặt.

“Đây đây đây…” Dương Hạc Ảnh la hoảng đầu tiên, lão nhận ra trong bao vải có chiếc vòng tay khoá vàng của đứa con cưng, còn cây trâm phượng vàng của ái thiếp.

Chu Trí Nhàn cầm hai vòng tai bằng ngọc kiểu dàng khác nhau trong tay, biến sắc: “Mẹ ta? Còn có Đại bá mẫu?”

Tống Thời Tuấn lập tức ý thức tình hình không ổn, khi ông nhìn vào trong túi, choáng váng một lúc — hai thanh trường kiếm kia không phải bội kiếm bên mình hai đứa con trai, còn của ai?

“Tống Môn chủ, Dương Môn chủ, Chu nữ hiệp, và Lý đạo trưởng nữa, tiểu khả xin dâng chút lễ mọn này. Đương ngày hè chói chang, mồ hôi như tắm, chư vị đại hiệp cần chi phải mệt nhọc, hay về nghỉ ngơi đã.” Thanh niên mặt tươi cười đầy khách khí, “Nếu chư vị Chưởng môn đại hiệp vẫn không tin, vài bữa ta lại mang giúp ít thứ khác đến cho mọi người, ngón tay, ngón chân, lỗ mũi lỗ tai, đều được.”

Dương Hạc Ảnh đang định chửi đổng, bị Tống Thời Tuấn kéo lại: “Ta có ba con trai, mất hai thì còn một. Cậu thì có mấy thằng con chứ?” Lại hạ giọng, “Mấy năm trước người cậu đã bị tổn thương, cuối cùng không sinh được thêm nhỉ.”

Dương Hạc Ảnh xấu hổ không chịu nói.

Tống Thời Tuấn quay lại: “Trí Nhàn muội tử, cô nói thế nào.”

Chu Trí Nhàn luống cuống chân tay: “Gia mẫu, mẹ tôi, bà ấy, thân thể yếu ớt, không chịu không được dằn xóc… việc này việc này…” Cha bà chết sớm, cùng người mẹ nhỏ yếu nương tựa nhau lớn lên, tình mẹ con nặng hơn tính mệnh.

“Được rồi được rồi, ta biết rồi.” Tống Thời Tuấn bực bội ra sức khoát tay, “Chúng ta rút về đi, rồi cùng về Thái Sơ Quán bàn bạc kỹ hơn tránh động tới chúng, không đuổi nữa!” 】

“Không sai, nếu không có nàng cứu giúp, ngay cả Du Quan Nguyệt có đuổi tới, ta cũng đã bị phế đi.” Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Không còn cách, tội danh Thích Vân Kha chỉ trích quả thực quá ti tiện, chuyện quan hệ đến danh dự của gia phụ, lúc ấy ta thật sự rối loạn tấc lòng, nhất thời nóng vội mới trúng kế…”

Thái Chiêu ngẫm nghĩ, cảm thấy nói rõ vẫn tốt hơn, thế là quay đầu bước lại; thấy băng vải bung ra lộ ra ngoài ngực áo Mộ Thanh Yến, cô không kìm được đến gần buộc lại.

Mộ Thanh Yến cúi đầu, nhìn búi tóc mềm mại đỉnh đầu cô gái, trong thoáng chốc lòng chìm nổi như được như mất.

“Lệnh tôn bị Tôn phu nhân độc hại, quả thực huynh đã nhịn ba năm mới phản công Nhiếp Đề…” Thái Chiêu lấy đầu băng vải quấn quanh cái vòng, “Không, huynh không phải là vì danh dự lệnh tôn bị hao tổn mới hấp tấp trúng kế.”

Cô ngẩng lên, “Huynh là vì tìm tôi, muốn mau mau phân trần rõ ràng với tôi, nói tôi biết rằng cha huynh không phải người ti tiện như thế, nên mới thất thủ bị bắt.”

Ánh mắt cô gái trong trẻo yên tĩnh, như mặt nước lặng chưa từng bị khuấy động, Mộ Thanh Yến mở hai tay ôm lấy cô, cánh tay dùng sức, cơ bắp thon dài hơi gồng lên sôi sục. Hắn dán môi lên cần cổ mảnh khảnh của cô gái, cuối cùng vùi sâu vào chiếc cổ nhỏ nhắn mềm mại ấy.

“Ta biết nàng không nỡ bỏ ta, ta cũng không nỡ bỏ nàng, chúng ta không thể chia xa.” Hắn lầm bầm, “Đã nói sau này sống dựa vào nhau, rõ ràng nàng đã gật đầu đồng ý…”

Thái Chiêu đau đớng khôn xiết, vẫn cố gượng đẩy hắn ra mấy tấc, “Tôi chỉ muốn hỏi huynh hai chuyện. Thứ nhất, Hồ Phượng Ca đến cùng có hai lòng với huynh không? Nói thật được không.”

Con ngươi Mộ Thanh Yến tối sầm lại, vẻ dịu dàng trên mặt từ từ lạnh đi, “Không, bà ấy xem Lộ Thành Nam như cha như anh, bởi vậy hận Nhiếp Hằng Thành tận xương, lại xem thường con người Nhiếp Đề, trung thành với ta, cũng không hai lòng.”

Trong đôi mắt trong của cô gái hiện dấu chấm hỏi.

“Nhưng bà ấy quá lụy tình với Vu Huệ Nhân.” Mộ Thanh Yến nghe thấy giọng mình hơi phát run, “Ta từng mấy lần nói bóng nói gió, nhưng bà tin tưởng không hề nghi ngờ hắn. Lữ Phùng Xuân có cả mười bảy mười tám tai mắt, ta không thể để Hồ Phượng Ca làm hỏng đại kế, thế là không nhắc tới một chữ.”

Nói xong, hắn chờ nghe Thái Chiêu chỉ trích, nhưng cô chỉ gật gù, lại hỏi, “Thứ hai, nếu Thượng Quan Hạo Nam cố chết bình định, anh ta, rồi những bộ hạ trung thành với huynh giống như anh ta, một mình phấn chiến, cuối cùng là sẽ chết bao nhiêu người?”

Mộ Thanh Yến buông hai tay ôm quanh cô gái, thần sắc cao ngạo tàn khốc: “Nhưng chỉ có một con đường sinh tử như thế, mới có thể phân loại sạch sẽ trắng đen, lọc bọn trung gian, ta mới sống yên ở cung Cực Lạc.”

“Chú cháu Nhiếp thị kinh doanh trong Giáo bốn năm mươi năm, quan hệ con người rắc rối khó gỡ. Tẩy sạch việc trong giáo dễ, thanh trừng lòng người khó, có trời mới biết hôm nào lòi ra nghịch tặc nhớ thương ân tình Nhiếp thị đến ám toán ta. Bên cạnh giường há để cho có cảnh lén lút, nhưng ta cũng không thể vô duyên vô cớ trắng trợn tàn sát Giáo chúng đã thần phục…”

Hắn cắn răng, má hơi gồ lên, “Hồ Phượng Ca từ mình mắt mù, thích tên ngụy quân tử; Thượng Quan Hạo Nam không qua được liên can lần này thì cũng là vì bản lĩnh chính hắn kém cỏi, ta có lỗi gì!”

Thái Chiêu im lặng nhìn hắn: “Cho nên, cái chết của bọn họ cũng là trong tính toán của huynh?”

Ánh mắt Mộ Thanh Yến âm trầm: “Người thành đại sự không câu nệ tiểu tiết. Chiêu Chiêu, ta hy vọng nàng hiểu, ngai vua là đúc thành từ xương trắng, quyền hành là máu tươi xây đúc thành, thiên hạ nào có thái bình từ hoa tươi cẩm tú.”

“Cô tôi nói có.” Thái Chiêu nhẹ nghiêng đầu, như nhớ lại, “Chỉ kém một bước bà đã thành công.”

“Cuối cùng vẫn không thành, tổ tiên thân chôn đất vàng, chí khí tận trời đều thành mây khói, mà thế đạo này, vẫn không chút khác biệt.” Sắc mặt Mộ Thanh Yến đầy lạnh lùng, “Chiêu Chiêu, nàng đã tận mắt nhìn thấy cô cô ngày ngày lụi tàn, hẳn đã hiểu cách làm của ta.”

Thái Chiêu lòng đầy thê lương: “Đúng, tôi từng bao nhiêu lần cảm thấy cô cô không đáng, thế nhưng không đáng thì không đáng, tôi cũng không cảm thấy cô cô làm sai. Lúc ấy ở dưới hầm cung Cực Lạc, nếu không phải nhờ Hồ Phượng Ca phản chiến một chiêu, chúng ta đã chết ở trong cạm bẫy Hàn Nhất Túc từ lâu. Mộ Thanh Yến, không phải là huynh không có cách tách Hồ Phượng Ca ra, huynh chỉ là không muốn có nửa phần rủi ro đánh cỏ động rắn thôi.”

“Thế nhưng, vì một người đã cứu mạng huynh mà có rủi ro, là đáng. Cô cô tôi cũng đã thích một người xấu, nhưng đó không phải lỗi của bà, Hồ Phượng Ca cũng thế. Còn có Thượng Quan Hạo Nam, còn có những bộ hạ trung với lời thề kia… Huynh không nên coi thường mạng người, quá ngang ngược tàn nhẫn thế.”

Mộ Thanh Yến xúc động phẫn nộ cười lạnh: “Coi thường mạng người? Ngang ngược tàn nhẫn? Ta vốn là người như thế đó, trước khi biết nàng, ta đã là con người như vậy từ rất lâu, lẽ nào giờ nàng mới biết?! Hừ hừ, xem ra cứ để đám Thích Vân Kha phế ta đi vẫn tốt, miễn mai này trở thành tai hoạ — cứu ta làm gì!”

Thái Chiêu đến gần hắn, kéo ống tay áo hắn, lại bị hắn dùng sức hất ra.

“Ta biết nàng tính toán, chẳng qua là vì ta từng giúp nàng cứu nàng, bây giờ nàng cứu ta, một lần trả một lần, về sau không ai nợ ai. Hừ hừ, lần này Thái nữ hiệp tính sổ không tệ nhỉ!”

Trên mặt Mộ Thanh Yến xanh xám đến doạ người, nhưng trong mắt lại nhiễm từng sợi tơ máu, ương ngạnh mà tuyệt vọng, “Phế thì phế, dù gì từ nhỏ số mạng ta đã nát bươm rồi, không cần nàng thương hại!”

Thái Chiêu lại níu ống tay áo hắn, lần này quật cường níu chặt không cho hất ra.

Mộ Thanh Yến thô bạo hung ác quát lớn: “Rốt cuộc nàng muốn làm gì?! Muốn đi thì đi, ta sẽ không nhún nhường cầu xin nàng đâu! Ta…” Vừa quay đầu, đã thấy cô gái nước mắt đầy mặt, hắn không khỏi ngẩn ra.

Thái Chiêu nghẹn ngào khó tả, “Chàng đừng cố mạnh mẽ, sợ tối lại sợ lửa, dù tu vi có đầy thâm hậu cũng mỗi ngày lo được lo mất, nghi thần nghi quỷ. Nếu thành phế nhân, chàng sẽ sống thế nào… Chàng sống thế nào chứ!”

Mộ Thanh Yến đầy đau xót — trên đời này chỉ duy nhất có cha không ghét bỏ mình, cũng đã ra đi, còn ai sẽ để ý mình sống thế nào chứ.

Thái Chiêu ngẩng nhìn hắn, “Em tin, dù không có Thất Trùng Thất Hoa Hoàn, đám Du Quan Nguyệt cũng sẽ không phản bội chàng; không cần thăm dò bằng sinh tử, chàng cũng có thể tìm ra bộ hạ trung thành.”

Hai mắt cô đẫm lệ rưng rưng, khàn cả giọng, “Em biết từ nhỏ chàng đã chịu nhiều đau khổ, lần này cứu chàng ra, chỉ mong chàng cũng sẽ có thể ít nhiều tin tưởng những điều này.”

Tim Mộ Thanh Yến như bị rót một dòng nước mềm mại, kéo cô gái vào lòng, dùng hết sức lực ôm chặt lấy tợ như đây là thứ duy nhất hắn có được. Hắn trầm thấp thủ thỉ, “Nàng đừng đi. Chờ qua lần này, ta sẽ cho bọn Du Quan Nguyệt thuốc giải, cũng sẽ học cách tin tưởng người khác, được không, được không…”

Ngực Thái Chiêu như bị bỏng đau đớn từng đợt, đau đến gần như khó thốt ra tiếng. Cô cười gật đầu, nước mắt rì rào rơi, “Em tin, em tin. Nhưng mà, em muốn về nhà.”

Mộ Thanh Yến cực hận trong lòng, hắn dùng sức đẩy cô gái ra, cười đến điên cuồng độc ác, “Nói dễ nghe nhiều đến thế, cuối cùng nàng vẫn ruồng bỏ ta! Được, nàng đi đi, nếu giờ khắc này nàng đi, từ rày về sau ta nhất định sẽ quên nàng! Có gặp lại cũng sẽ mỗi người một ngả, ta nói được làm được!”

Thái Chiêu nén nước mắt, “Xin lỗi… Em muốn về nhà, em nhớ nhà.” Nói xong, cô chậm rãi quay người.

“Thái Chiêu! Nàng đừng hối hận!” Mộ Thanh Yến gọi theo bóng lưng cô trong ánh lệ, trong lòng như có lửa rực đao bén tứ bề, phẫn hận và đau đớn điên cuồng lan tràn khắp người, “Ta sẽ không tha thứ lần nữa nếu nàng rời ta, nàng đừng hối hận!”

Thái Chiêu không quay lại, kiên định từng bước một bước ra sơn động.

Mộ Thanh Yến cảm thấy lồ ng ngực mình như trống rỗng cả, đứng trơ như phỗng, trơ mắt nhìn cô gái rời đi không hề quay đầu lại, để lại một sơn động lạnh lẽo cô tịch, yên tĩnh đến trời đất hư vô.

*

Thái Chiêu thất thểu xuống núi, ngồi lên chiếc xe ngựa cũ nát. Cô kéo tay áo lung tung chùi nước mắt, sau đó lái xe ngựa về Thái Sơ Quán. Trên đường đi, cô tự nhủ tới lui ‘Không được khóc, không được khóc, về nhà sẽ ổn thôi, về nhà sẽ ổn thôi’.

Đi cả ngày lẫn đêm, khiến bản thân mệt mỏi đến cạn kiệt sức lực, mới miễn cưỡng xua đi bóng hình người kia ra khỏi trái tim khối óc của mình.

Đi đến tiểu trấn thứ ba, nửa bán nửa cho chiếc xe ngựa xong, cô mua một thớt ngựa tốt tiếp tục đi đường, mưa gió tạt đánh cũng không dừng bước. Rốt cuộc, đến ngày thứ bảy về tới Thái Sơ Quán.

Lúc này Thái Sơ Quán chật ních đệ tử sáu phái và những khách giang hồ có quan hệ thân thích với sáu phái, mọi người đang rối bời thảo luận cứu gia quyến các phái về từ trong tay Ma giáo — thật ra đã có người âm thầm liên hệ phân đà Ma giáo, nhưng khổ thân là, ra tay bắt người không phải là Lữ Phùng Xuân đương nắm Ma giáo bấy giờ, mà là bộ hạ Mộ thị không biết ở đâu.

Thích Vân Kha Chu Trí Trăn bị thương cả thể xác đến tinh thần, từ đầu đến cuối đen mặt đen không nói lời nào.

Dương Hạc Ảnh gấp rút giận chân khắp, gào rú mau cứu người, nhưng làm sao cứu thì chả ai biết.

Thái Bình Thù Ninh Tiểu Phong trốn trong phòng thở dài thở ngắn, nhớ lại lúc xưa ma nữ nhảy ra từ Lạc Anh Cốc thì tiền bối nhà mình ứng đối thế nào.

Tống Thời Tuấn đành phẫn nộ lại lại lại gào thét thanh minh một lần nữa: Lão tử đã bảo không nên bắt Mộ Thanh Yến rồi, sao các người không chịu nghe lão tử!

Giữa lúc rối loạn như thế, Thái Chiêu xuất hiện đâu chỉ là một đạo sấm truyền.

Ánh mắt sắc nhọn như nhánh gai từ bốn phương tám hướng đâm tới, hoặc xem thường, hoặc kinh ngạc, hoặc kiêng dè, hoặc mỉa mai… bóng dáng mảnh khảnh nhỏ nhắn kiên định xuyên qua đám người, làm như không thấy.

Thích Lăng Ba từ bên trong xông ra, tát Thái Chiêu một bạt tai cực mạnh.

Lực tay rất lớn, mặt Thái Chiêu bị đánh ngoẹo một bên, gương mặt trắng trẻo nhanh chóng sưng đỏ một mảng.

Cặp mắt Thích Lăng Ba sưng đỏ, chỉ vào Thái Chiêu chửi: “Đồ tiểu tiện nhân không biết liêm sỉ, sao ngươi dám… sao ngươi dám đả thương cha ta! Cha ta xem ngươi như đứa con gái ruột thịt, yêu thương còn nhiều hơn thương ta! Ngươi lại không biết xấu hổ đi cấu kết với yêu nghiệt Ma giáo, vì cứu tình lang mà đến cả cha ta cũng dám ra tay, ta ta, ta không giết ngươi không được!”

Nói xong, cô ta rút trường kiếm cái xoẹt, nhào đầu định chém tới Thái Chiêu.

“Đủ rồi!” Tống Úc Chi rút kiếm nhảy vọt đến, keng một kiếm đẩy mũi kiếm Thích Lăng Ba ra, “Xử lý muội ấy thế nào sẽ do các vị chưởng môn lên tiếng, không tới phiên cô ra tay!”

Thích Lăng Ba đỏ cả mắt: “Huynh lại che chở nó nữa ư! Hừ hừ, đáng tiếc quá, nó chẳng mảy may đặt huynh vào mắt, tim nó chỉ có tên yêu nghiệt Ma giáo kia! Được được lắm, ta tạm để lại tính mạng của nó, để các vị trưởng bối xử lý, nhưng ta phải báo thù cho cha — cánh tay nào của nó đả thương cha ta, ta chém cánh tay đó…”

“Cô nổi điên làm gì?! Ngay trước mặt quần hùng thiên hạ, đừng làm mất thể diện của Thanh Khuyết Tông!” Tống Úc Chi cả giận nói.

Đới Phong Trì rút kiếm ra khỏi vỏ, lớn tiếng: “Con tiểu tiện nhân này còn không lo mất mặt, chúng ta lo cái gì!”

Ba sư huynh muội đang cãi nhau, Thái Chiêu chợt ngẩng: “Lăng Ba sư tỷ, nhìn này.”

Thích Lăng Ba sững sờ.

Thái Chiêu nhặt một hòn sỏi dưới đất, phát lực b ắn ra từ đầu ngón tay, hòn đá nhỏ vẽ nhanh một đường cong trên không trung, vòng qua Đới Phong Trì đang đứng trước người Thích Lăng Ba, keng một tiếng nện trên trường kiếm Thích Lăng Ba.

Mũi kiếm ong ong vang động, cổ tay Thích Lăng Ba run lên, như không cầm nổi trường kiếm.

“Ngươi muốn làm gì?! Ngươi cho rằng… A!” Cô ta nói to.

Chỉ nghe âm vang keng keng, cây trường kiếm Thích Lăng Ba bắt đầu từ mũi kiếm, vỡ vụn thành từng mảnh cho đến chuôi kiếm.

Trong ánh mắt kinh ngạc của mọi người, trong tay Thích Lăng Ba nhanh chóng chỉ còn một chuôi kiếm trụi lủi, nghe đâu đây có tiếng phụt cười khẽ, cô ta vừa thẹn vừa giận.

Thái Chiêu chỉ ghé mắt nhìn cô, uy nghi nghiêm nghị, không ai dám quát lớn nữa.

— Dầu lúc ấy Thích Lăng Ba không vận công chống cự, nhưng thanh trường kiếm này là Doãn Thanh Liên cố ý chế tạo cho con gái cưng, cũng là vũ khí sắc bén nổi tiếng thiên hạ, chỉ một viên sỏi nhỏ đã có thể làm một thanh bảo kiếm qua muôn ngàn thử thách vỡ thành rác rưởi, tu vi Thái Chiêu có thể nghĩ.

Rất nhiều ánh mắt thô bỉ các loại bốn bề lập tức thu lại.

“Lăng Ba sư tỷ.” Thái Chiêu ôm gương mặt sưng đỏ nửa bên, sắc mặt lạnh nhạt, “Chịu một tát của chị là ta đã nể mặt, chị đừng xem khách sáo ấy thành vận phúc. Còn dám ăn nói lỗ mãng thì thanh trường kiếm này chính là kết cục cánh tay của chị đấy.”

Thích Lăng Ba tự biết mình không làm được gì, căm giận vứt chuôi kiếm, dậm chân rời đi.

Đới Phong Trì khinh bỉ: “Quả nhiên lăn lôn cùng Giáo chủ Ma giáo mấy hôm, người đầy tà khí, còn mở miệng uy hiếp sư tỷ nhà mình, hừ, thật là ma tính nặng rồi!”

Tống Úc Chi nổi cơn bực bội không tên trong lòng, cảm thấy vừa rồi mình đã hành động không kịp, để chính Thái Chiêu phải ra tay mới quát lui Thích Lăng Ba — vì sao luôn thiếu một bước! Vì sao mình không thể giống tên yêu nghiệt Ma giáo kia, không chút do dự chẳng thèm đếm xỉa đến an nguy quanh mình, chỉ vì muốn mau gặp người trong lòng!

Y lập tức nghiêng kiếm vung lên, phóng thẳng tới trường kiếm trong tay Đới Phong Trì. Một tiếng keng sắt tinh va chạm chói tai, hai kiếm tấn công, trường kiếm Đới Phong Trì bị chặt gãy.

Tống Úc Chi lạnh lùng nói: “Nếu Nhị sư huynh muốn lên tiếng nữa thì sư huynh đệ ta tỉ thí chút xem.”

“Cậu cũng uy hiếp ta?” Đới Phong Trì giận dữ.

“Không dám, chỉ là tự dưng muốn so tài với sư huynh.”

Đới Phong Trì đành giận đờ ra.

Tống Úc Chi che chở Thái Chiêu tiếp tục đi tới, xuyên qua từng tầng từng lớp đệ tử Lục phái phục sức khác nhau, xuyên qua lưỡi đao từ ánh mắt ác ý và xem thường dệt thành, Thái Chiêu rốt cuộc đã đi tới trước mặt Chưởng môn các phái ngồi ngay ngắn trong điện.

Cô ngay ngắn thẳng thớm quỳ xuống, cởi Diễm Dương đao bên hông xuống trước tiên, xếp bên chân Thích Vân Kha: “Diễm Dương đao của cô cô là dùng để trừ ma vệ đạo, con không xứng dùng nó.”

Sau đó cởi xuống xích bạc ở cổ tay trái, đặt trước mặt Ninh Tiểu Phong đã chực khóc, “Ông ngoại tự mình chế tạo Hộ Tâm liên cho con, con đã dùng nó cứu người của Ma giáo, con cũng không xứng dùng nó.”

Cuối cùng hủy đi cây trâm hoa đào chính Hạ Thái Bình Thù tự tay khắc cho cô, tóc dài Thái Chiêu xoã tung, cung cung kính kính dập đầu lạy Chưởng môn năm phái ba cái, trong trẻo nói, “Đệ tử Thái Chiêu, khi sư diệt tổ, cấu kết Ma giáo, gây thương tích đồng môn, bất kính tôn trưởng, thực tội không thể tha. Hôm nay thành tâm thỉnh tội, cho dù trách phạt cỡ nào, cam nguyện tiếp nhận.”

Lời vừa dứt, mọi người chung quanh đều xôn xao.

Bọn họ nhìn thấy Thái Chiêu đường hoàng trở về, không phải cho rằng cô định đau khổ xin tha thì rằng ỷ có chỗ dựa khác mà đến ra điều kiện, ai ngờ lại mặc cho xử phạt.

Đừng nói đến vô số tội bị phạt, chỉ một chuyện khi sư diệt tổ đã đủ mất đi nửa cái mạng.

“Chiêu Chiêu, ngẩng đầu lên.” Thích Vân Kha bỗng lên tiếng, “Lần này con trở về, là suy nghĩ rõ ràng rồi chứ?”

Thái Chiêu ngẩng lên nhìn, khuôn mặt từ ái phúc hậu kia thảng như vừa già đi mấy tuổi chỉ trong mấy ngày, lập tức áy náy khôn xiết. Cô nức nở: “Dạ, Chiêu Chiêu đã suy nghĩ rõ ràng. Con không bỏ được người nhà và sư môn.”

Khuôn mặt tái nhợt của Thích Vân Kha gật đầu.

“Chiêu Chiêu, Chiêu Chiêu!” Chu Trí Nhàn lòng nóng như lửa đốt, “Mẹ ta, có cả Đại bá mẫu, bà ấy, các bà ấy…”

Thái Chiêu mỉm cười: “Hẳn họ sẽ về thật nhanh thôi, hẳn hiện giờ là trên đường.” Sau khi bắt được gia quyến các phái, Du Quan Nguyệt hẳn đã ra roi thúc ngựa chạy đến gây áp lực với Thái Sơ Quán.

“Con chắc chứ?” Chu Trí Nhàn run giọng hỏi.

Thái Chiêu nhìn Dương Hạc Ảnh cũng đầy nóng ruột và Tống Thời Tuấn ra vẻ thoải mái bên cạnh, mỉm cười nói: “Trí Nhàn cô cô, bọn họ nhất định mau chóng trở lại.”

Chu Trí Nhàn thở phào, “Được, ta tin con.”

“Được rồi, giờ bàn đến tội đi.” Vẻ mặt Lý Văn Huấn đầy lạnh lùng uy nghiêm, giọng như cương đao đâm phá doạ người.

Chung quanh ban đầu đầy im lặng, sau đó bị ồn ào bao phủ.

Nếu bàn thật, khi sư diệt tổ cấu kết Ma giáo đều là tội lỗi thuộc về sát sinh, nên bị thanh lý môn hộ.

Nhưng xét thấy trong quá trình Thái Chiêu nghĩ cách cứu người cũng không gây ra nhân mạng, lùi về một bước, cũng nên bị phế tu vi cả người.

Với đề nghị này, Dương Hạc Ảnh lớn tiếng đồng ý, thứ nhất, lão ghi hận Thái Chiêu đã hại lão làm trò cười cho thiên hạ, thứ hai muốn sớm bắn rơi một ngôi sao sáng cao minh sau này.

Vợ chồng Thái Bình Xuân Ninh Tiểu Phong tự nhiên không chịu, chơi xấu thẳng thừng muốn đưa con gái đi, xem tên nào dám cản.

Tống Thời Tuấn đặc biệt độ lượng, tỏ vẻ có ai không phạm sai lầm thời trẻ trâu chứ, dù gì cũng không xảy ra án mạng, chi bằng chuyện lớn hoá nhỏ chuyện nhỏ thành không.

Nghe thấy Lý Văn Huấn phản đối kịch liệt, gia có gia pháp, phái có phái quy, nếu lần này thả nhẹ tay cho Thái Chiêu, mai sau đệ tử khác cũng kết giao Ma giáo tổn thương sư trưởng đồng môn, phải chăng cũng có thể nhẹ nhàng buông tha?

Trong cơn ồn ào, Chu Trí Trăn nhẹ đi tới bên cạnh Thái Chiêu, cúi người thấp giọng nói: “Chiêu Chiêu, cô cô con… thích người kia thật ư?”

Thái Chiêu nghiêng qua nhìn, chưa tới nửa tháng mà Chu Trí Trăn đã chợt tóc mai điểm bạc. Cô khổ sở trong lòng: “Thích ạ, nhưng sau này cũng không thích nữa — cô cô vẫn luôn là người cầm được thì cũng buông được.”

Chu Trí Trăn tự nhủ: “Đúng thế, thích sai người, thì nên nhanh chóng buông tay, tính tình Bình Thù là thế đấy.” Ông lắc đầu, lảo đảo rời đi.

Qua một ngày một đêm tranh chấp thảo luận, kết luận cuối cùng phạt bảy roi Cửu m Thấu Cốt Mãng, sau đó bắt lên ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn đối mặt bức tường hối lỗi. Mới đầu vợ chồng Thái thị vẫn không chịu, nhưng Thái Chiêu đã đồng ý —

Điện Chính Nguyên Thái Sơ Quán bị sập một nửa, chưởng môn năm phái bị cô lần lượt đả thương mấy lần, cứu đi Giáo chủ Ma giáo, nếu tội ác bực này mà bỏ qua nhẹ nhàng dưới mấy ngàn cặp mắt trong trong ngoài ngoài nhìn vào, thì sau này Bắc Thần Lục phái sao còn nghĩa chính từ nghiêm trước mặt giang hồ đồng đạo chứ.

Giống như chỉ ngắn ngủi hơn nửa tháng, tiểu cô nương vui vẻ thảnh thơi chợt trưởng thành.

Ninh Tiểu Phong thê thảm rơi lệ.

Thích Vân Kha cũng tán thành: “Cứ để Chiêu Chiêu chịu phạt lần này, sau đó nếu có ai nhắc tới chuyện này để chế nhạo khi nhục con bé thì cho Chiêu Chiêu tát tai đánh lại. Có công thì thưởng, có tội nhận phạt, phạt cũng phạt xong thì sau này Chiêu Chiêu không nợ ai cả.”

“Sư phụ…” Thái Chiêu cảm kích trong lòng — cô biết chắc chắn là Thích Vân Kha đã nghe chuyện Thích Lăng Ba khó xử mình.

Lúc đầu Dương Hạc Ảnh cảm thấy hình phạt quá nhẹ, định âm thầm liên hệ mấy đại hiệp có tên tuổi ép xử nặng Thái Chiêu. Ai ngờ Thích Vân Kha hét lớn: “Không có Thái Bình Thù, trên dưới nhà họ Dương mấy người bị Nhiếp Hằng Thành luyện thành thi khôi nô từ lâu rồi. Dương Môn chủ, ta khuyên ông tìm chỗ khoan dung mà độ lượng, vợ con ông hiện giờ còn chưa về đâu.”

Dương Hạc Ảnh đành hậm hực xem như thôi.

Lúc Thích Vân Kha nhún nhường, Tống Thời Tuấn chỉ tiếc rèn sắt không thành thép, giờ khi Thích Vân Kha đầy khí thế thì Tống Thời Tuấn lại hơi ghen ghét, tỏ vẻ uy phong Thích Tông chủ lớn ghê.

Chạng vạng hôm sau, sắc trời ảm đạm, gió âm u từng cơn, chính là thời điểm hành hình.

Hình đỡ của Thái Sơ Quán cao lớn uy nghiêm, dáng vẻ rất dữ tợn.

Thái Chiêu mặc áo trắng, quỳ hai gối, hai cánh tay ôm hình đỡ to lớn, xiềng xích trói hai cổ tay.

Trên pháp trường cát vàng trải bằng chật ních đầu người đen nghịt, trừ đệ tử Lục phái, còn có rất nhiều khách giang hồ.

Từ xưa đến nay, hứng thú của nhân loại không thay đổi nhiều lắm.

Dưới ánh mắt đốc thúc của Lý Văn Huấn, Phàn Hưng Gia run rẩy bưng một hộp ngọc bằng băng tới, trong chiếc hộp toả hơi lạnh bốn phía là băng châm dùng để phong huyệt, từng chiếc yếu ớt mỏng manh, sáng lấp lánh — Thái Chiêu chợt nhớ tới bộ kim châm thô to dữ tợn lúc muốn phế tu vi Mộ Thanh Yến, quả nhiên thiên đạo luân hồi, cô cười khổ trong lòng

Phàn Hưng Gia mang đôi bao tay dệt bằng sợi băng tằm, bắt đầu phong huyệt cho Thái Chiêu, một châm Ngọc Chẩm, hai châm Thiên Trụ, ba châm Phong Môn… Cao thủ có tu vi đến trình độ nhất định thì vết thương da thịt bình thường cơ bản không đau đớn lắm.

Do đó trước khi hành hình, buộc phải phong bế chín thành công lực của người chịu hình, chỉ giữ lại một thành công lực bảo vệ tim mạch. Có thể không đánh chết tươi người, lại còn để người chịu hình không thể vận công tránh đau, chịu đủ trận phạt. Sau khi băng châm vào người, chưa đến nửa canh giờ sẽ tan, đến chừng đó hành hình xong xuôi, nếu người chịu hình còn ý thức sẽ có thể vận công tự trị liệu.

Đến huyệt Bách Hội cuối cùng, Phàn Hưng Gia nghiến răng, khẽ nghiêng người sang che khuất tầm mắt Lý Văn Huấn, lắc một cái băng châm biến mất trên tay. Thái Chiêu phát hiện lạ thường, khẽ kinh ngạc nghiêng đầu nhìn, thấy gương mặt Phàn Hưng Gia vừa đỏ vừa túa mồ hôi, vừa xấu hổ vừa chột dạ, Thái Chiêu chưa kịp chớp mắt đã chạy như một làn khói.

Lý Văn Huấn nhíu mày lẩm bẩm: “Mới đâm mấy cây băng châm đã mệt thế này, Hưng Gia phải tu luyện nhiều thêm.” Sau đó, ông cũng ra đi lấy Mãng tiên.

Thái Chiêu dựa vào hình kệ, nhắm hai mắt — cả người toát lên một cảm giác bất lực đã lâu.

Lúc còn bé thèm ăn quả đầu cành, phải hì hà hì hục bò lên một cây đại thụ thật cao, nhoài hết cả tấm thân mũm mĩm ra, nô bộc phía dưới hoảng sợ hô to gọi nhỏ, sau này cô bé chỉ cần điểm mấy hòn sỏi là có thể xuyên qua cành lá dày đặc bắn rơi quả.

Lúc còn bé bị giam trong phòng phạt viết chữ, chốt cửa to nặng và ổ khoá bằng đồng bự chảng giống như lạch trời khó vượt qua, sau này cô chỉ cần dùng chỉ lực là bẻ gãy khoá đồng thành bột mịn.

Từ sau khi tu vi đột phá năm cô mười một tuổi đã không còn cảm giác vụng về bất lực nữa, cảm giác đó thật sự kỳ diệu.

Lần này là Phàn Hưng Gia trộm giữ lại cho cô thêm một thành công lực, nếu là Mộ Thanh Yến thật sự bị phế sạch đan nguyên kinh mạch, tu vi cả người bị hủy hết, hắn sẽ thế nào chứ? Hắn sẽ sợ hãi bao nhiêu chứ.

Bốp, Lý Văn Huấn vung Cửu m Thấu Cốt Mãng tiên thật dài, hình cụ chế tạo bằng huyền thiết âm u loé ánh sáng khiến lòng người phát lạnh, toàn Mãng tiên như hình một con mãng xà khổng lồ đen ngòm, chẳng những nặng nề bén nhọn, mà trên mình roi còn có vảy ngược trải rộng, mỗi một roi đánh xuống đều có thể câu xé ra da thịt dính đầy máu đỏ, kẻ nhát gan vây xem đã thành mấy khối run rẩy.

“Bắt đầu hành hình!” Lý Văn Huấn lớn tiếng, “Roi thứ nhất!”

Con rắn khổng lồ đen sì vẽ ra trên không trung một hình cung độc ác vặn vẹo, ầm ầm rơi xuống tấm lưng mảnh dẻ của cô gái.

“Á!” Thái Chiêu thét một tiếng ngắn ngủi.

Lưng như vết bọng máu bị bỏng lửa than cháy ra, đau nhức và nóng bỏng kịch liệt khiến cơ thịt toàn thân không ngừng run rẩy.

Sau khi đầu lưỡi nếm được mùi máu tươi, cô nghe thấy tiếng Ninh Tiểu Phong thét lên, còn giọng Thái Bình Xuân kích động tranh luận, nghe đâu như yêu cầu chia bảy roi hành hình ra.

Sao mà được chứ? Từ xưa đến nay, hình phạt Cửu m Thấu Cốt Mãng tiên chưa hề được tách ra chấp hành.

Roi tiếp theo rơi xuống cô không thể để vậy nữa, cô nghĩ, nếu không cha mẹ sẽ lo lắng hơn.

“Roi thứ hai.” Lý Văn Huấn vững vàng hô.

— “Roẹt!”

Thái Chiêu sợ cắn đầu lưỡi nữa, dùng sức cắn ống cánh tay áo, vùi lấy cơn đau đớn điên cuồng trong lớp lớp vải áo, mồ hôi thấm đẫm ướt trán, rót vào mắt làm đau rát.

Lần này khống chế rất tốt, không phát ra âm thanh.

“Roi thứ ba.”

Thái Chiêu nghẹn ngào một tiếng, như xé toang tay áo.

Hình như cô nghe thấy tiếng khóc bi thương của mẹ — chất giọng này không nên là tiếng khóc chứ, chất giọng vui vẻ như vậy hẳn chỉ dùng để trêu chọc cha, giải trí cùng dân trên trấn, đùa ác với con cái thôi. Cô cô bảo vệ mẹ mười mấy năm, chưa từng để mẹ khóc như thế, cha, người mau dỗ dành bà đi.

Cô cô nói, mẹ là cô bé thiện lương đáng yêu nhất trên đờ, con đây chỉ có thể xếp thứ hai đấy.

Lấy gia thế xuất thân của mẹ, vốn dĩ có thể tiêu dao vui vẻ cả đời, nhưng ở cái tuổi hồn nhiên ngây thơ ấy, bà vì bảo vệ cô cô mà thực sự chôn chân ở Lạc Anh Cốc không bước ra khỏi nhà cả mười mấy năm.

Cha à, con biết người cũng phải bỏ qua rất nhiều, người làm như con không nhìn thấy người lén đọc bộ Tây Vực du ký mà thúc tổ phụ để lại à?

Chờ con xuất sư, con sẽ về trông coi Lạc Anh Cốc và Tiểu Hàm, để cha đưa nương ra ngoài du sơn ngoạn thủy, được không?

Còn con ư, con cũng không ra ngoài nữa, cả một đời sống ở Lạc Anh Cốc thôi.

“Roi thứ tư.”

Thái Chiêu co quắp một trận, phần lưng như lửa thiêu một mảnh, không phát hiện được một roi ấy quất vào đâu nữa. Cô cảm thấy mình rất giống que thịt xiên gác trên lửa, củi cháy bỏng, gai ngược bằng huyền thiết sắc nhọn cào rách máu thịt, róc ra từng lớp da thịt.

Nhớ năm đó cô tám tuổi, lần đầu học vung xích bạc, mu bàn tay cũng bị vạch một vết máu đỏ sẫm.

Cô cô còn chưa nói gì, Thích Vân Kha đã ôi chao luôn miệng vọt lên, ôm Tiểu Thái Chiêu đau lòng khôn xiết, còn trách Thái Bình Thù quá nhẫn tâm, “Con nít mới mấy tuổi chứ, nó còn nhỏ mà!”

Thái Bình Thù im lặng: “Lúc tôi với ông kết bái, sao không nhìn ra ông dông dài thế.”

Cô cô nói, giữa bà và sư phụ thật sự là xấu hổ gì cũng đã thấy —

Thích Vân Kha bị gấu vồ thủng quần một lỗ lớn bằng bàn tay, lộ nửa bờ mông chạy thoát thân cả khu rừng; Thái Bình Thù nữ giả nam trang bị Hoa nương hung hãn ép đến không còn chỗ trốn, đành cạo đầu tỏ vẻ muốn xuất gia, ai ngờ vừa cạo đến hình dạng chó gặm, Hoa nương lại di tình biệt luyến.

Thiếu niên Thích Vân Kha, cho là thời gian vui vẻ cười đùa là vô cùng vô tận.

Đáng tiếc người đã trung niên, hai người họ một trở thành Tông chủ Thanh Khuyết Tông bị việc vặt quấn người, một lại thành con bệnh lâu năm nằm trên giường, xương cốt rệu rã, năm tháng tùy ý vui cười giang hồ xa xôi như là chuyện kiếp trước.

Thế là Thích Vân Kha bèn công kênh Tiểu Thái Chiêu lên vai, trong tiếng cười trong trẻo của tiểu cô nương lắc lư đầy đường, sau đó đem từng mẩu chuyện lý thú nhìn thấy nghe được bên ngoài kể cho Thái Bình Thù ở mãi trong nhà nghe, cả nhà vui cười.

Đáng tiếc, bé con đặt trên bờ vai xưa kia, đã đánh lén khiến cho Thích Vân Kha bị thương nặng.

“Roi thứ năm!”

Thái Chiêu cắn mạnh môi, bờ môi vỡ toác, vị rỉ sắt tanh ngập đầy răng môi; cô nghe được tiếng xương cốt mình dịch chuyển, là roi tổn thương đến xương ư? Thảng như là cá sống bị dần dần rút vảy, cô cảm thấy da thịt phần lưng cứ đâu như không phải là của mình, chỉ có lớp cơ dưới da kiên trì bền bỉ đau đớn uốn éo.

Cô còn nghe thấy tiếng Lý Văn Huấn, hình như không vững vàng như trước đó.

Sao hôm nay bác Chu không tới nhỉ?

Cô cô nói, Chu Trí Trăn lúc trẻ thật sự tuấn nhã thanh tao, khó tô khó vẽ, không biết là người trong mộng của biết bao thiếu nữ.

Thái Chiêu không kìm được tò mò, đã vậy, sao trước đây cô cô cứ mãi trù trừ không chịu thi hành hôn lễ chứ?

Thái Bình Thù yếu ớt thở dài, không trả lời, ánh mắt buồn bực sâu thẳm.

Sao con người cứ phải thích sai người chứ?

Nếu cô cô có thể thích bác Chu, có phải sau này sẽ không xảy ra tiếc nuối nào không?

So với trở thành phế nhân, Mẫn Lão thái bà cũng không phải rất khó đối phó mà.

Mộ Chính Dương kia, nom như thế nào?

Có phải giống như hắn, sóng mũi thật cao, khuôn mặt đẹp trai, lúc vui khóe miệng mỉm cười, ánh mắt dịu dàng, lúc tức giận cười lạnh liên tục, há miệng có thể chọc tức người giơ chân.

“… Roi thứ sáu!”

Đau đến tận cùng, đến âm thanh cũng không phát ra được, chỉ có đôi môi khô nứt tê tê thở phì phò. Vì sao vậy, rõ ràng đau đến đầu ngón tay đều tê dại, vẫn có thể cảm giác được nỗi đau buồn chua xót trong lòng.

Sao sáng bốn bề trước mắt, như đom đóm bay loạn trong đêm hè hóng mát lúc bé.

Tiểu Thái Chiêu giơ bàn tay nhỏ xíu bị rách da ra trước mắt cô cô, hu hu thút thít, “Con thích Tiểu Hoàng thế mà tại sao nó lại cắn con, hu hu, sau này con sẽ không thích chó con mèo con nữa đâu, hu hu…”

Giọng cô cô dịu dàng, “Chiêu Chiêu à, thích không phải là sai. Nếu phát hiện đã thích sai, nghĩ cách sửa lại là được.”

“Thế gian này rất tốt đẹp, vĩnh viễn đừng vì sợ, mà không thích nữa.”

Nước mắt tuôn ra, Thái Chiêu nghẹn ngào đến khóc không ra tiếng.

Thế là nàng nghĩ, thực sự đau quá, nghĩ vài chuyện vui vẻ đi —

Ngẫm lại những tháng năm ngày xuân còn dài, Lạc Anh Cốc biển hoa đầy trời; ngẫm lại lúc ráng chiều mới lên, từ đầu trấn đến cuối trấn đều thơm nức mùi thức ăn; ngẫm lại lúc trời đông tuyết mệt mỏi rơi, cả nhà cười lớn ném tuyết…

Hắn không biết đánh gậy trượt tuyết.

Thời tiết rét đậm ở dãy Hãn Hải cũng tuyết lớn đến gối, nhưng mà hắn chưa từng chơi trượt tuyết.

Cha Mộ yên tĩnh, bác Thành tuổi đã già, Liên Thập Tam học võ bên ngoài, hắn không có ai đồng lứa, tuổi thơ hắn không mấy vui vẻ.

Trên đỉnh núi tuyết, cô bướng bỉnh nhét một hòn tuyết vào trong gáy hắn, hắn ngơ ngác cũng không biết vo banh tuyết phản kích ngay lập tức.

Trên đỉnh núi tuyết trắng mênh mang sáng lấp lánh, hắn cười rộ vui vẻ, còn chói mắt hơn mặt trời rực.

Hắn không phải người xấu, nàng cũng không có thích lầm người.

Nhưng mà, bọn hắn chỉ có thể đến đây thôi.

Sau đó lại là một cơn đau nhức mãnh liệt.

Ánh mắt cô mơ hồ, không nhìn thấy cũng không nghe thấy.

Mất đi ý thức trước, cô mơ màng nghĩ, hy vọng sau này hắn sẽ để lại một ngọn đèn nhỏ trong phòng mỗi đêm.

Không cần ráng chống chọi nỗi sợ hãi chìm vào giấc ngủ, như thế, càng dễ thấy ác mộng…

*

“Giáo chủ, chúng ta đi nhanh lên đi.” Du Quan Nguyệt dịch dung chăm chút đỡ một người đàn ông cao lớn bên cạnh, “Nếu để họ phát hiện, nguy hiểm lắm.”

Cơ thể cao lớn của nam tử biến mất dưới lớp áo choàng rộng rãi, hành động như có phần lảo đảo.

Trong đoàn người vây xem hình phạt phía ngoài, nơi nơi đều là khách giang hồ ăn mặc như thế này, hành động hai người cũng không gây sự chú ý của kẻ khác, huống chi xung quanh còn có rất nhiều bộ hạ lẫn vào đám người.

Mộ Thanh Yến xuyên qua lớp áo choàng rũ xuống, nhìn chòng chọc cô gái được tháo xuống hình đỡ.

Nàng đã ngất đi.

Sắc mặt Tống Úc Chi tái xanh xông lên trước nhất, ôm lấy cô, gào thét với Thích Lăng Ba cười nói một bên…

“Giáo chủ, chúng ta đi thật đi!” Du Quan Nguyệt lo lắng nhìn quanh, lo không thể, “Giáo chủ, thuộc hạ biết ngài lo lắng cho Chiêu Chiêu cô nương, nhưng bây giờ không phải lúc! Ở dãy Hãn Hải còn có một mớ chuyện cần ngài chủ trì đại cục đấy!”

Mộ Thanh Yến rốt cục nhúc nhích, Du Quan Nguyệt vội vịn hắn gấp rút nhưng chút động tĩnh ra ngoài Thái Sơ Quán, Liễu Giang Phong thì chào hỏi bộ hạ quanh mình lặng lẽ rời khỏi.

Xe ngựa dằn xóc nửa ngày, mọi người đi đến bên bờ Tố Xuyên, nơi đó có một đám đông chờ tiếp ứng họ và một chiếc thuyền cao thoáng.

Mộ Thanh Yến xuống xe ngựa, quay lại bảo Du Quan Nguyệt: “Dùng bồ câu đưa thư đến Đường Thanh Vương Điền Phong, bảo bọn hắn lên trang viên chân núi phía Tây dãy Hãn Hải gom người, trợ giúp Thượng Quan Hạo Nam — trong trường hợp cậu ấy đang phản sát Lữ Phùng Xuân.”

Du Quan Nguyệt ngẩn ra, vội đáp lời.

“Còn nữa, truyền thư Thập Tam, bảo cậu ấy vào địa đạo Mộ Danh xem có thể giúp cho Hồ Phượng Ca được toàn thây không.”

Du Quan Nguyệt vốn hơi lưỡng lự, thấy Chủ Quân nhà mình lạnh nhạt nhìn đăm đăm, vội vã chắp tay thưa vâng.

“Ta muốn một mình yên tĩnh, các ngươi chớ theo cùng.”

Mộ Thanh Yến rút trường kiếm bên hông Du Quan Nguyệt, nhẹ vung, chém chiếc bè tre mới nhận thành hai khúc, sau đó đạp vào nửa bên không cột dây ngồi xếp bằng xuống, xuôi theo dòng chậm rãi chảy đi.

Không biết trôi xuôi dòng bao lâu, thấp thoáng nhìn thấy bọn Du Quan Nguyệt cưỡi ngựa tại bên bờ cẩn thận theo cùng.

Hắn giang rộng người, nằm lềnh bềnh trên non nửa bè tre, tay, chân, áo bào, tóc dài, đều hoà vào dòng nước.

Sắc trời dần tối, bé trăng sáng trong trẻo bò lên đầu cành.

Dòng nước rất dịu dàng, nhắm mắt lại, tợ như bàn tay cha đặt trên trán mình lúc nhỏ đau ốm.

Phụ thân là người còn thanh tịnh hiền hoà hơn cả dòng Tố Xuyên này.

Nhưng, kiếp này, suy nghĩ, đọc được, mong muốn, không một chuyện nào có thể thành.

Bốn năm trước, Mộ Thanh Yến thầm phát lời thề bên thi thể cha, tuyệt đối không dẫm vào vết xe đổ của cha.

Hắn phải nắm chắc đại quyền, tùy tâm làm việc, một mình một thiên hạ, không ai dám khi nhục —

Thiếu niên lúc ấy mười lăm tuổi, xem đó là nguyện vọng duy nhất của hắn.

Mãi đến khi gặp nàng ở ngọn Vạn Thủy Thiên Sơn, hắn mới biết, thì ra hắn vẫn muốn một người, một người có thể toàn tâm toàn ý yêu mình giống như cha.

Một người vĩnh viễn sẽ không gạt bỏ hắn, một người chỉ thuộc về mình hắn, một người yêu hắn đến mức tình nguyện từ bỏ tâm nguyện của chính mình.

Nước sông mát lạnh, chậm rãi thấm qua thân thể người phiêu lưu xuôi dòng.

Sau đó, hắn muốn quên nàng, quyết tuyệt như bóng lưng nàng rời đi vậy. Không cần phải gấp, từ từ sẽ đến, quên đi từng chút, rồi sẽ có thể quên đi toàn bộ.

Nước Tố Xuyên nhẹ nhàng chậm rãi hiền hòa, từng lớp từng lớp vỗ đến, như ngón tay nhẹ nhàng vuốt v e trán.

Hắn nhớ tới cha mình, nhưng mà trong quãng thời gian ẩn núp trong xe ngựa chạy trốn, cũng có một đôi tay nho nhỏ lặp đi lặp lại đặt trên trán mình lúc sốt cao, hương vị ấy thật dịu dàng mà khắc cốt…

Hắn đưa bàn tay thon dài đè lên mí mắt, giọt nước im ắng thuận theo gương mặt hắn từ từ lăn xuống.

| Hết quyển 5 | Sông rộng hiền hòa |

phù, cuối cùng cũng xong 1 chương vừa dài vừa nhiều sự kiện lẫn cảm xúc với độ dài khủng để kết quyển 5. Trước đó bà Quan hứa quyển 5 là quyển giải quyết tuyến tình cảm nam nữ chính mà đọc xong thì cảm thấy bâng khuâng cho cặp đôi quá.

Làm chương này trong lúc nằm viện truyền kháng sinh và giảm đau nên chắc chắn sẽ có sạn. Cầu nhặt giúp. Cứ tưởng mượn việc gõ truyện để quên đi cơn đau mà bốc trúng 1 chương thương cho 2 đứa nhỏ quá khóc gần chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 121: Quyển 6 | Đầm Máu lặng thinh


Quyển 6 | Đầm Máu lặng thinh

Tất thảy kết thúc.

Cuối thu, cái rét mùa đông ép tới gần, căn phòng giam dùng đá huyền vũ lớn xếp thành đầy âm u hàn khí, lạnh lẽo chật hẹp.

Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt sóng vai bước xuống thềm đá thật dài, theo sau là một hàng Giáo chúng dài dằng dặc, giày da cả bọn giẫm lên phiến đá to cứng lạnh lẽo, vang vang rất có vần luật.

“Đây là đợt cuối cùng rồi nhỉ.” Du Quan Nguyệt phe phẩy chiếc quạt lông chả có chút chỗ dùng, vẻ đầy văn nhã.

Thượng Quan Hạo Nam sờ băng vải trên đầu: “Bát Lý thúc nói đó là sào huyệt đám cuối cùng, tất cả trong danh sách đều đã bị bắt.”

Du Quan Nguyệt đổi tay phất quạt, thở dài “Bát Lý thúc cực khổ rồi, giờ phải dưỡng thương cho thật tốt.”

Thượng Quan Hạo Nam vô tình ấn trúng chỗ đau trên đầu, cười toe toét: “Hơn một năm qua có mấy ai mà không cực, ai không bị thương mấy chỗ đâu, mẹ tổ tông mười tám đời đám chó lộn giống đó, ăn no căng bụng rồi làm loạn! Cuối cùng giờ cũng dọn dẹp sạch sẽ, rệp gián ghẻ lở, đâu ra đó, cho ông ấy nở mày nở mặt!”

Hắn liếc nhìn, “Tôi đã bảo cậu đừng phất cây quạt kia nữa mà, cánh tay trái cậu đã trúng Phân Cân Thác Cốt Thủ của Ngô Thu Đồng rồi, cánh tay phải chịu hai mũi độc tiêu, không đau à!”

Du Quan Nguyệt không chịu thua, khoát tay cầm quạt lông ra sau lưng.

Hai tấm cửa sắt dày hơn thước từ từ mở, tiếng rên rỉ mơ hồ từng đợt chưa từng dứt tràn khắp hành lang truyền tới.

Du Quan Nguyệt chĩa vào một đôi vòng mắt đen đậm, hỏi Liễu Giang Phong đứng sau cửa, “Còn sống cả chứ?”

Liễu Giang Phong cũng máu me đầy đầu đầy mặt, toét miệng nói: “Trừ mấy tên lâu la nhỏ, đầu lĩnh chủ yếu tổng cộng năm mươi tám tên, tự vận tám tên, đám còn dư toàn bộ xuyên xương tỳ bà treo lên cả.”

“Đừng xuyên chết đấy.”

“Yên tâm đi, tay nghề các huynh đệ vẫn giỏi.”

Giẫm lên mặt đá huyền vũ to nặng, từng mảng từng mảng địa lao đỏ sẫm tanh nồng mùi máu, ngang qua nhiều hình giá bằng gai sắt nhọn phủ khắp chốn, rất nhiều Đà chủ, Đường chủ từng vũ dũng ngang ngược cũng bị treo lên như khối thịt muối.

Tỳ bà câu bằng sắt có độ cong dữ tợn xuyên qua xương thịt đầm đìa, máu tươi nhỏ đến cạn kiệt, hầu như không có miếng da thịt nào còn nguyên vẹn, cơ thể hấp hối vừa nhìn thấy người trong chớp mắt lập tức chửi đổng —

Một tên trong đó nói: “Thằng chó họ Mộ! Có bản lĩnh minh đao minh thương liều mạng với ông đây!”

Thượng Quan Hạo Nam lập tức giễu cợt: “Lý Đường chủ thôi bỏ đi, đến cả ta còn có thể phá Hổ Trảo công của ông trong vòng năm mươi chiêu, đừng nghĩ tới Giáo chủ của chúng ta nhé.”

Một tên khác cũng phun búng máu la hét điên cuồng: “Chỉ hận Nhiếp Giáo chủ quá nhân nghĩa, năm đó sao không lôi cha con bọn chúng nhổ cỏ tận gốc thì đâu có họa hôm nay!”

Du Quan Nguyệt cười ra tiếng: “Nếu Nhiếp Hằng Thành thật sự bản lĩnh đó, sao không tự nhóm bếp, đường đường chính chính khai sáng một phương chứ. Xấu xa mưu đoạt cơ nghiệp hai trăm năm Mộ thị của người ta, hừ, con nuôi cắn trả, là cái thứ hạ tiện gì!”

Câu nói khắc nghiệt lạ thường, làm mấy kẻ tử trung với Nhiếp thị tức xỉu.

Toán người tiếp tục đi vào, không khí ướt lạnh càng nồng nặc, mùi máu tanh phai nhạt đi.

Trên hình giá cuối địa lao treo hai người, cả người vết máu loang lổ, da thịt rách cả, nhưng cả hai đều cắn răng chịu đựng không rên rỉ, bên cạnh hình giá là một căn phòng giam nhỏ sạch sẽ, trong đó là mẹ con Lý Như Tâm.

“Lữ Trưởng lão, Vu tiền bối, đã lâu không gặp, vẫn khỏe cả chứ.” Du Quan Nguyệt cười híp mắt lại phe phẩy quạt.

Lữ Phùng Xuân lộ rõ vẻ già nua, tóc hoa râm rối bù, hoàn toàn không còn vẻ tiên phong đạo cốt trước đó. Lão oán hận nói: “Hơn một năm qua tháo chạy khỏi dãy Hãn Hải, các ngươi cạn tàu ráo máng ép bọn ta không còn chỗ tránh! Ta mấy lần nhờ người gửi lời muốn nghị hòa với Mộ Thanh Yến mà các ngươi chẳng thèm màng tới, chỉ muốn bức tử bọn ta!”

Thượng Quan Hạo Nam lớn tiếng: “Lữ Trưởng lão nói thật vô nghĩa, ông cũng là người từng trải qua sóng gió lớn mấy mươi năm, đã biết bổn giáo tối kỵ phản đồ, từ lúc ông giương cờ làm phản đã quyết tâm dùng tính mạng ra đánh cược rồi chứ.”

Lữ Phùng Xuân hừ đáp: “Trưởng bối Dao Quang và Khai Dương nhà ngươi vốn là tâm phúc của Nhiếp Hằng Thành, thế nhưng hôm nay ngươi một lòng nhận Mộ thị là chủ, thật là thứ vong ân phụ nghĩa!”

Thượng Quan Hạo Nam không chút gánh nặng trong lòng: “Ơ, một đứa con nuôi ngầm chiếm đoạt cơ nghiệp cha nuôi như Nhiếp Hằng Thành cũng chưa cho là mình vong ân phụ nghĩa, chừng nào ta mới đến được ngưỡng ấy chứ.”

Hắn xoay người nhìn quanh tất cả người trong địa lao, “Một năm trước, vốn dĩ Giáo chủ có thể một lưới bắt hết đám nghịch tặc này, nhưng là vì chúng ta, những người có thể quay lại, vì cứu những bộ chúng từng là tâm phúc của Nhiếp Hằng Thành như chúng ta, ngài tình nguyện bứt dây động rừng, nên mới để sổng lão chó già đầu sỏ họ Lữ này! Lần này mất thêm một năm mới diệt đám nghịch tặc từng tên một!”

“Huynh đệ hậu duệ hai phe Dao Quang Khai Dương đường đường đều là hán tử vang danh, có trải qua ắt hiểu, có ân ắt báo, có câu chim khôn chọn cành lành mà đậu, chúng ta thành tâm ra sức cho Mộ Giáo chủ có đúng hay là không!”

Tính tình Thượng Quan Hạo Nam rộng rãi phóng khoáng, vốn rất có uy vọng, vừa dứt lời bọn thủ vệ trong địa lao rối rít đáp lại.

“Hạo Nam Ca người chân thật nói lời thẳng thắn, Mộ Giáo chủ săn sóc bộ hạ, vừa có mưu lược vừa có nhân nghĩa, chúng ta không đi theo ngài chả lẽ lại đi theo lão rùa đen họ Lữ mười năm không thò đầu ư!”

“Hạo Nam Ca, bọn ta nghe huynh, hôm nay tất cả chúng ta đều một lòng thành tâm ra sức vì Mộ Giáo chủ!”

“Thượng Quan Đàn chủ nói đúng, huống chi Ly Giáo vốn dĩ là nhà của Lão Mộ mà!”

Lữ Phùng Xuân gần như muốn nghiến gãy một hàm răng vàng khè, “Rốt cuộc các ngươi muốn thế nào?!”

Du Quan Nguyệt nhìn dáng vẻ nhất hô bách ứng của Thượng Quan Hạo Nam mà khá chua chát trong lòng, lập tức tằng hắng, cất cao giọng: “Giáo chủ chẳng qua là hy vọng tất cả đều rõ, thế lực Nhiếp thị đã tan thành mây khói, không còn một mảnh vụn. Từ rày về sau, người trong thần giáo sẽ không ai nhớ đến Nhiếp Hằng Thành…”

Lời luận tru tâm vang vọng trong địa lao cao rộng âm u, mấy chục tù nhân không màng tới tỳ bà câu xuyên qua máu thịt, tức giận chửi ầm. Giọng the thé nhất trong đó là của Lý Như Tâm.

Bà đẩy đứa con trai yếu ớt ra, hai tay cầm rào sắt, tức giận va đập mãnh liệt: “Ngươi không được nói vậy! Dù thân xác nghĩa phụ không còn, nhưng khuôn mặt nụ cười ông ấy vẫn vĩnh viễn ở trong chúng ta. Từng câu ông nói, từng việc ông làm, chúng ta sẽ vĩnh viễn nhớ đến — anh linh của ông ấy, huyết mạch của ông ấy, luôn còn ở trên cõi đời này!”

Đám tử trung Nhiếp thị ồn ào phụ họa.

Du Quan Nguyệt ồ lên, “Huyết mạch… suýt thì ta đã quên nhỉ.” Y nhìn Thượng Quan Hạo Nam, “Cậu hay là ta đây? Chuyện xấu xa như này không tiện mở miệng nhỉ.” Y còn chưa cưới mà, phải dè đặt chút.

Thượng Quan Hạo Nam không kìm được nói: “Chết nhiều huynh đệ vậy, cậu còn ỏng ỏng ẹo ẹo à, tránh ra, để ta!” Hắn sải bước tới, cao giọng nói: “Vu Huệ Nhân, ngươi biết tội chưa!”

Vu Huệ Nhân chậm rãi ngẩng lên, “Ta, ta…”

Thượng Quan Hạo Nam không đợi trả lời, chống nạnh lớn tiếng nói: “Vu Huệ Nhân, ngươi và Lý Như Tâm bắt đầu có tư tình từ lúc nào?”

Vu Huệ Nhân không ngờ đối phương sẽ hỏi tới, hắn như bị phỏng, kinh hãi thốt liên tục: “Không, không không, ta không có…”

Lý Như Tâm cao ngạo như một bức điêu khắc bằng ngọc, lạnh lùng nói: “Ta với ông ấy không có tư tình, ngươi chớ có vấy bẩn trong sạch của ta.”

Du Quan Nguyệt đúng lúc lên tiếng: “Vu tiền bối thú nhận đi, lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống đối đãi ông bình thường, lão ấy chết mười mấy năm cũng không thấy ông làm lễ truy điệu nhớ nhung gì lão, ngoài Lý Như Tâm thì ông còn lý do gì muốn phất cờ tạo phản chứ.”

Thượng Quan Hạo Nam co cùi chỏ thúc y một cái, dùng ánh mắt bày tỏ bất mãn với Du Quan Nguyệt vì bị cướp lời kịch, “Không chỉ thế! Nhiếp Tư n cũng là do ông và Lý Như Tâm sinh ra!”

Lời vừa ra miệng giống một tảng đá lớn rơi vào hồ nước tràn, trong địa lao cao rộng thoáng chốc vang lên từng hồi kinh ngạc.

Thượng Quan Hạo Nam vội tiếp tục, “Lúc trẻ Nhiếp Đề từng mắc phải căn bệnh quai bị rất nặng, rất nhiều lão nhân còn nhớ rõ! Khi ấy Nhiếp Đề sốt cao mấy ngày không hạ, Nhiếp Hằng Thành tức giận giết mấy đại phu, sau khi khỏi bệnh thật ra Nhiếp Đề không thể có con nữa. Nhưng hai đại phu còn sống sót vì sợ mất mạng mà không dám thổ lộ ẩn tình trong đó.”

Xung quanh tiếng ồn ào mãnh liệt bùng nổ, tiếng mắng chửi tiếng nghi ngờ bên tai không dứt.

Ngoại trừ bộ chúng của Lữ Phùng Xuân, phần lớn Giáo chúng còn lại tình nguyện tạo phản đều nhớ đến ân tình Nhiếp Hằng Thành không quên, muốn mai này đưa Nhiếp Tư n thành Thiếu chủ, phụ tá huyết mạch duy nhất mà Nhiếp Hằng Thành để lại trên đời.

Nhưng nếu Nhiếp Tư n là Lý Như Tâm trộm sinh, vậy thì lần đánh bạc tính mệnh này của họ vốn là gì? Kẻ cẩn thận chút vẫn còn đang nửa tin nửa ngờ, kẻ dữ dằn chút đã tức tối mắng chửi gian phu dâm phụ, chỉ mỗi Lữ Phùng Xuân sớm đoán được mấy phần là không nói gì.

Mặt Lý Như Tâm trắng như tờ giấy, run rẩy cả người: “Ngươi hắt nước bẩn, ngươi muốn diệt tuyệt cốt nhục của nghĩa phụ!”

Thượng Quan Hạo Nam nghĩ tới một đại nam nhi tốt như mình bị tên chó Nhiếp Đề ‘quấy rầy’ nhiều năm, giờ lột nón xanh kẻ ấy phấn chấn nhất, lập tức vung tay, “Ta Thượng Quan Hạo Nam đỉnh thiên lập địa, nói một là một, tuyệt không dối lừa, ta cho các người xem chứng cớ… Cô mau lên đây!”

Theo hướng ngón tay hắn, lúc này mọi người mới phát hiện ở cuối đoàn bọn họ có một thiếu nữ hơi quen mặt đang đứng cúi đầu, chính là Thù Thúy Lan.

Ánh mắt rắn độc của Lữ Phùng Xuân bắn tới, Thù Thúy Lan co rúm người, nhưng vẫn cứng cổ sai người mở rào sắt, kéo Nhiếp Tư n từ trong lòng Lý Như Tâm ra. Trong tiếng gào thê thảm của trẻ con, cô ta luống cuống xé vạt áo Nhiếp Tư n, khung xương quai xanh ở phía bên trái tự dưng gồ cao choãi ra ngoài.

Thượng Quan Hạo Nam liếc mắt: “Ồ, thì ra là đây.” Hắn cũng xé vạt áo Vu Huệ Nhân, lộ ra mảnh bên trái xương quai xanh cũng gồ cao choài ra ngoài, ngay cả góc độ cũng hoàn toàn giống.

Du Quan Nguyệt cao giọng nói: “Đặc điểm dị thường như thế này trong một vạn cũng khó tìm ra hai người, sao lại trùng hợp vậy, Vu Huệ Nhân và con trai Lý Như Tâm đều có?!”

Lý Như Tâm kêu thảm một tiếng, nổi điên đập rào sắt, thét lên không ngừng ‘Các ngươi nói bậy, Tư n họ Nhiếp, nó là cốt nhục của nghĩa phụ, nghĩa phụ chết thảm, ta phải kéo dài huyết mạch cho ông’ vân vân. Mặt Vu Huệ Nhân thì đầy xấu hổ cúi đầu không nói.

Thấy dáng vẻ hai người, mọi người càng tin thêm mấy phần.

Mặt mũi Thượng Quan Hạo Nam đầy sáng láng, nói tiếp: “Hai đại phu kia còn sống mà, nếu ai không tin, có thể đi hỏi thăm xem!”

Thù Thúy Lan nhỏ giọng chen miệng, “Còn rất nhiều nam sủng của Nhiếp Đề, ắt bọn chúng cũng có phát hiện.”

Thượng Quan Hạo Nam tỏ vẻ tán thưởng, “Nói rất hay, ít lâu nữa bổn tôn phải thưởng cho cô thật hậu, ruộng tốt nhà sang tùy cô chọn!”

Lữ Phùng Xuân oán hận nói: “Ta khinh, đồ tiểu tiện nhân!”

Thù Thúy Lan cười lạnh đáp trả: “Bất kể là ngươi hay Nhiếp Đề, đều không xem bộ hạ như con người. Ta một lòng một ý bán mạng cho các ngươi, các ngươi thấy ta vô dụng, tiện tay ném ta đi đãi khách! Ta không tự tìm đường ra thì chả lẽ ngồi chờ bị ngàn người cỡi vạn người bước sao! Không ngại nói cho các ngươi biết, ta không chỉ tiết lộ đặc điểm lạ thường trên người Nhiếp Tư n, mà Hồ Trưởng lão cũng không chết!”

Vu Huệ Nhân ngây ra: “Phượng Ca, Phượng Ca nàng ấy…”

Thượng Quan Hạo Nam cười to: “Đây cũng là niềm vui bất ngờ, buồng tim Hồ Trưởng lão bẩm sinh không giống người bình thường, chếch về bên phải. Lúc ấy các ngươi không có thời gian xử lý nhiều thi thể thế nên đã ném chúng và Hồ Trưởng lão chung vào một bãi tha ma. Thù cô nương thừa lúc trời tối lần mò vào tới, phát hiện Hồ Trưởng lão chưa tắt thở, liên tiếp mấy đêm chạy đi rót thuốc, cho đến khi Liên Thập Tam lẻn vào cứu người.

Vẻ mặt Vu Huệ Nhân phức tạp, như vui như thẹn, vừa lo vừa buồn. Hắn lẩm bẩm, “Tốt quá, tốt quá…”

Lữ Phùng Xuân giận dữ: “Tiếc rằng lúc ấy ta mềm lòng, không kiểm tra cái xác!”

Du Quan Nguyệt khá khinh thường trong lòng, lòng thì muốn mượn những thứ người này để phất cờ vì Nhiếp Hằng Thành nhưng ngay cả một nửa khí độ của Nhiếp Hằng Thành cũng không học được.

Năm ấy thủ hạ Nhiếp Hằng Thành cũng có sắc gian, mỹ nhân cao cấp chút như Tôn Nhược Thủy, thấp chút thì đi mê hoặc các thủ lĩnh lớn nhỏ, nhưng chỉ cần người ta hoàn thành nhiệm vụ, Lộ Thành Nam sẽ sắp xếp đường lui thật kỹ lưỡng. Muốn ẩn cư miền quê thì ban cho nô bộc ruộng tốt, muốn an hưởng phồn hoa thì tặng cửa hàng nhà đẹp, đổi một thân phận hoàn toàn mới để sống thật tốt.

Nếu nhiệm vụ bất thành, lĩnh phạt trực tiếp xử tử là được, tuyệt đối không để sắc gian đã được huấn luyện đi đãi khách. Nếu lòng các cô đã chôn oán giận, còn có sẵn mấy phần thủ đoạn, không phải chờ xảy ra chuyện sao.

“Nên nói cũng nói xong, Giáo chủ còn đang chờ.” Du Quan Nguyệt cuối cùng lên tiếng.

Ra hiệu lệnh, mấy gã đại hán vạm vỡ đồng loạt tiến lên, dùng xích sắt khóa ba người Vu Huệ Nhân Lữ Phùng Xuân và Lý Như Tâm, hò hét đưa đi.

*

Cung Cực Lạc, điện thứ năm, tên là Quan Diệu.

Mái điện cao vút thoáng đãng, màn trướng lụa mỏng lớp lớp, một mùi hương xông như có như không, trong trẻo lạnh lùng, như hoa nở U Minh. Cùng với tiếng bước chân xen tiếng xích sắt leng keng ngoài điện, Du Quan Nguyệt đã áp giải ba người tới.

Một giọng nam tử trẻ tuổi từ sau tấm màn tung bay truyền tới, “Cho chúng ngồi đi.”

Thượng Quan Hạo Nam đành đích thân khiêng ba chiếc ghế dựa lớn bằng gỗ sơn mài tới, xếp ngang thành một hàng.

Lữ Phùng Xuân bị thương nặng, hơi thở đứt đoạn, dọc theo đường áp giải rất khó khăn, vất vả lắm ngồi xuống lấy hơi, ngước lên nhìn thẳng thấy Nghiêm Hủ, lão đồng liêu ngồi sau bàn sách ở đại điện, cầm bút trong tay, ánh mắt hung ác.

“Nghiêm lão đệ!” Lữ Phùng Xuân nước mắt già ngang dọc tại chỗ, thể hiện hết bản sắc Lê Viên*, “Lão đệ à, ta ta, ta thật là hối hận…” Lão có ý xin Nghiêm Hủ can thiệp, dù được hay không, ngựa chết thành ngựa sống trước đã.

(*) tuồng Lê Viên là một vở hí khúc nổi tiếng Phúc Kiến

Nghiêm Hủ oán hận nói: “Ngậm cái miệng đầu b.uồi của ngươi lại, đồ phản tặc đáng chết dưới ngàn đao!” Ông thoáng liếc sang đại điện, rồi im lặng.

Vu Huệ Nhân thầm thấy khác thường, từ nhỏ hắn thường thấy Ngọc Hành Trưởng lão Nghiêm Hủ rượu say trợn mắt với đồng lứa, chỉ chỉ trỏ trỏ với Tứ Đại đệ tử, chỉ khi ở trước mặt Nhiếp Hằng Thành mới hơi cẩn thận dè dặt thôi, không ngờ…

Màn sa nhẹ vén, Mộ Thanh Yến chậm rãi từ phía sau đi ra.

Hắn mặc một bộ trực chuyết màu nhạt hơi xưa cũ, tóc chít khăn dài trâm ngọc, nét mặt ôn nhã đẹp đẽ, như một học sinh hiền lành dốc lòng vừa cày ruộng vừa học bài vậy, nhìn như thế có ai ngờ hắn mới vừa tắm máu từ trên xuống dưới Ly Giáo một lần.

“Ta cũng không buông tha cho kẻ vòng vèo.” Hắn đi tới bên cạnh lò lửa bằng đồng màu tím, cầm cây kẹp than tùy tiện cời lửa, “Tội lớn nhất trong bổn giáo là phản giáo, e là không giữ được tính mạng các ngươi.”

Vu Huệ Nhân run người, “Chuyện này đều do ta và Lữ Trưởng lão gây nên, không liên can gì đến đàn bà trẻ con.”

Lý Như Tâm mồ hôi lạnh rồi nước mắt đầy đầu đầy mặt, tóc tai y phục xốc xếch như mụ điên. Ả lớn giọng: “Ai cần cầu xin tha, mẹ con ta sống là người nhà họ Nhiếp chết là quỷ nhà họ Nhiếp, họ Mộ muốn lấy mạng chúng ta thì cứ việc!”

Mộ Thanh Yến thảng như không nghe thấy, đưa mắt tiếp tục nhìn ngọn lửa, “Ta cũng không muốn làm khó đàn bà con trẻ, chỉ cần các ngươi trả lời ta một vấn đề, ta tuyệt đối không động một ngón lên mẹ con Lý Như Tâm mà còn cho ngươi và Lữ Trưởng lão một cái chết nhanh chóng.”

Vu Huệ Nhân không yên lòng hỏi dồn, “Ngài không ra tay, nhưng thủ hạ thì sao?”

Mộ Thanh Yến lộ ý châm biếm nơi khóe miệng, “Chỉ cần ngươi trả lời thật hay, trên dưới Ly Giáo sẽ không ai động tới hai mẹ con chúng.”

Hắn nhìn Lữ Phùng Xuân, “Lữ Trưởng lão là người kỳ cựu trong giáo, tội phản giáo nên xử chết thế nào, tất nhiên rất rõ ràng.”

Ly Giáo được gọi là Ma Giáo cũng không hoàn toàn là bôi bẩn, bắt đầu từ Giáo chủ đời đầu Mộ Tu Quyết, trải qua nhiều đời Chưởng quyền đều không thiếu hạng người tà khí, phát động tàn ác, móc mắt lột da khoan đầu nghiền cốt các loại hình phạt tàn khốc không hề kiêng kỵ, mà đứng đầu là tội phản giáo không cho mi thống thống khoái khoái tắt thở, không gào thảm thiết bảy ngày bảy đêm thì không đủ cấp độ tội danh phản giáo!

Hai gò má Lữ Phùng Xuân run rẩy, răng va cạch cạch; nghĩ đến hình phạt vô cùng khốc liệt kia lão không khỏi sinh lòng sợ hãi. Lão nghiến răng: ” Được, cậu hỏi đi.”

Mộ Thanh Yến thả kẹp lửa bằng đồng, nhìn ba người trước mắt chằm chằm: “Kẻ phía sau dẫn đường cho các ngươi là ai?”

Vừa hỏi, mặt Lý Như Tâm đầy mờ mịt, Vu Huệ Nhân nháy mắt, da mặt Lữ Phùng Xuân giật giật một hồi.

Trong lòng Mộ Thanh Yến có tính toán.

Hắn đi tới bên cạnh Vu Huệ Nhân: “Một đêm nào đó nhiều năm trước, Lý Như Tâm bỏ thuốc trong rượu, mượn nói chuyện cũ chuốc say ngươi, mấy ngày sau, ngươi bất chấp Nhiếp Đề đã dùng mọi cách giữ lại, mượn cớ tranh cãi với gã rời khỏi dãy Hãn Hãi. Sau đó, ngoài cái lần Nhiếp Tư n ra đời ngươi quay về một chuyến, nhiều năm ngươi vẫn luôn ẩn cư trong núi không màng thế sự. Bảo ngươi có lòng tranh quyền thế trái lại không giống.”

Lý Như Tâm nghe đỏ cả hai mắt, muốn giãy thoát xích sắt trên người, há miệng định mắng to.

Du Quan Nguyệt thấy vậy bước lên một bước, một chỉ phong bế huyệt câm của ả, ngay cả Thượng Quan Hạo Nam cũng không kìm được mà bội phục mắt nhìn của y.

“Ngươi tình nguyện giúp Lữ Trưởng lão phản loạn là vì mẹ con Lý Như Tâm.” Ánh mắt Mộ Thanh Yến như tia sét lạnh lia xuống mặt Vu Huệ Nhân, “Có người dùng lợi dụng điểm yếu là thân thế Nhiếp Tư n uy hiếp ngươi, người đó là ai?”

Mặt Vu Huệ Nhân vừa tím rồi xanh, tựa như bị lột trần trụi giữa ban ngày.

“Không, không sai.” Hắn thở dồn dập, “Hơn một năm trước, ta nghe cậu muốn đoạt lại thần giáo, thế công ác liệt, ta sợ mẹ con Như Tâm gặp nạn mới ngày đêm kiên trì chạy về. Ai ngờ cậu khoan hồng độ lượng, không hại mẹ con Như Tâm. Ta vốn định thừa lúc cậu không đề phòng mà lén dẫn bọn họ vào trong núi ẩn cư, nào ngờ một đêm nọ, có một gã hắc y nhân lẻn vào trong phòng ta…”

“Hắc y nhân?” Mộ Thanh Yến hỏi dồn.

“Đúng thế, hắc y nhân.” Vu Huệ Nhân vội nói, “Người đó võ công rất cao, lúc ấy trong mấy hơi ta và hắn đánh nhau hơn mười chiêu, còn không rờ tới cả chéo áo của hắn. Ta đang định gọi người thì tự dưng hắn ném cho ta một món đồ — là trâm châu của Như Tâm! Hắn nói, nếu ta tiếp tục không thành thực thì hắn sẽ đến căn nhà nhỏ sau núi giết mẹ con họ. Ta thầm biết võ công hắn cao cường khó đề phòng, bèn nhịn lại nghe hắn nói chuyện. Ai ngờ hắn lại nói, nói rằng…”

【 “Ngươi không cần làm gì cả, chỉ cần ở lại cung Cực Lạc là được — thỉnh thoảng thay mấy chỗ thủ vệ bằng người của Lữ Phùng Xuân nằm vùng.” Giọng cố ý khàn trong đêm yên tĩnh đầy uy nghiêm, “Dựa vào tình nghĩa Hồ Phượng Ca với ngươi, việc này không khó khăn nhỉ. Đến chừng Lữ Phùng Xuân khởi sự, ngươi đột nhiên ra tay trợ giúp là được.”】

“Ngươi chỉ gặp mặt gã một lần đó thôi à?” Mộ Thanh Yến cau mày.

Vu Huệ Nhân túa mồ hôi lạnh nhễ nhại, “Đúng vậy, chỉ một lần. Nhưng chẳng những hắc y nhân ấy nói toạc chuyện giữa ta và Như Tâm mà còn kể cho Lữ Trưởng lão. Sau đó, mỗi lần ta có ý không đành lòng không muốn trợ giúp, Lữ Trưởng lão sẽ dùng nó làm điểm yếu uy hiếp ta!”

“Ngươi đừng nghĩ đẩy hết tội danh lên đầu ta!”

Lữ Phùng Xuân thấy không ổn vội rống to, “Lúc chúng ta phất cờ hiệu khởi sự cũng đâu phải họ Lữ, là họ Nhiếp mà! Trong đầu ả đàn bà thối Lý Như Tâm kia đều là Nhiếp Hằng Thành, lúc ta trông chừng mẹ con ả, ả lải nhải không ngừng như đồ điên xúi giục ta, bảo ta giương cờ hiệu con trai ả, triệu tập những Giáo chúng ôm lòng cũ đang núp trong tối. Nếu không, ta có ăn tim gấu gan báo, đương êm đẹp tự dưng lại phát động phản loạn?! Giáo chủ, đấy đều là sự thật!”

Vu Huệ Nhân khinh bỉ đầy mặt, “Đã đến lúc này còn đẩy trách nhiệm tội lỗi sang đàn bà, họ Lữ ngươi có biết suy nghĩ không? Lúc nghĩa phụ còn sống từng nói, ngươi là đồ chuột hai đầu, có lòng gian nhưng không có gan tặc, vừa không thể dùng, vừa phải để mấy phần tâm tư đề phòng. Nếu không phải sợ mất thể diện, ngài ấy đã làm thịt ông lâu rồi! Thanh danh một đời của Lệnh Hồ Hữu Hộ pháp mà lại có đứa cháu xương mềm như ông, ông trời thật không có mắt!”

Nghe thấy, Du Quan Nguyệt khá âm dương quái khí liếc sang Thượng Quan Hạo Nam, Thượng Quan Hạo Nam giận dữ trừng ngược.

— Lữ Phùng Xuân năm đó, chính là Thượng Quan Hạo Nam hôm nay.

Hữu Hộ pháp Lệnh Hồ Sính và Tả Hộ pháp Phan Đề lúc đó vừa là người cùng thế hệ, vừa là bạn thân đồng sinh cộng tử. Cả hai đều là tâm phúc đắc lực của ông cố Mộ Thanh Yến Mộ Lăng Tiêu, chẳng những dũng mãnh giỏi giang, mà còn trung thành thẳng thắn. Năm ấy ông nội Mộ Sâm của Mộ Thanh Yến quả quyết thoái hôn, trong cơn thịnh nộ Tả Hộ pháp đã dẫn cháu ngoại đi ra hải ngoại. Cuộc hôn nhân này vốn dĩ do Lệnh Hồ Sính cố sức kết hợp, thấy vậy ông cũng mất hết ý chí, không lâu sau trôi giạt du ngoạn thật xa.

Nhưng lần ra đi này hai người đã để lại một đám bộ chúng tháo vát, một nửa trong số đó bất mãn với hành vi cha con Mộ thị hủy ước đã bị Nhiếp Hằng Thành chiêu mộ, còn một nửa thì hậu nhân duy nhất của hai vị Hộ pháp Lữ Phùng Xuân được hời. Cũng bởi vì vậy, Lữ Phùng Xuân rõ ràng tài đức đều không có cửa song vẫn leo lên vị trí Trưởng lão.

Lữ Phùng Xuân bị Vu Huệ Nhân tổn thương xanh đỏ đan xen đầy mặt, quát lại: “Ngươi còn mặt mũi nói Nhiếp Hằng Thành ư? Nếu Nhiếp Hằng Thành biết ngươi đội nón xanh cho cháu ông ấy, không sống lại bóp ch3t ngươi sao, nuôi ngươi không bằng nuôi con chó!”

Nghe hai người chửi mắng nhau, Mộ Thanh Yến hơi nhíu mi tâm.

“Hai ngươi im lặng đi! Giáo chủ còn hỏi đấy!” Thượng Quan Hạo Nam giành trước hét lớn một tiếng, tỏ vẻ mình cũng rất có mắt nhìn, đổi lấy một tia xem thường của Du Quan Nguyệt.

“Cho nên, ngươi cũng không biết bộ mặt thật của tên hắc y nhân?” Mộ Thanh Yến dời mắt sang Lữ Phùng Xuân, “Lữ Trưởng lão thì sao? Hẳn ngươi lui tới với gã không ít nhỉ.”

“Thật thật thật ra thì ta cũng chỉ gặp người nọ một lần.” Lữ Phùng Xuân lại bắt đầu vã mồ hôi, “Thật đó, Giáo chủ, đã đến mức này sao ta dám láo chứ! Người đó nói, tình nguyện giúp ta thành đại sự. Tất nhiên là ta không chịu tin, hắn liền nói, nói…”

【 “Không cần Lữ Trưởng lão mạo hiểm.” Chất giọng khàn không nghe ra nguyên bản từ góc phòng xa xa truyền tới, “Lữ Trưởng lão cứ im lặng chờ đợi là được, tự có cơ duyên đưa tới cửa. Chỉ mong đến chừng đó, Lữ Trưởng lão chớ sợ đầu sợ đuôi đã tốt.”

Lữ Phùng Xuân có động tâm cũng mạnh miệng một hồi trước đã, “Người xấu ở đâu ra, dám khích bác Thần giáo ta…”

Còn chưa dứt lời, bóng đen kia đã âm u thảm thiết cười, “Nếu Lữ Trưởng lão cố ý muốn làm một con chó già trung thành thì ta cũng có thể giúp ngươi một tay. Mười mấy năm qua ngươi thừa dịp Nhiếp Đề không tỉnh táo, đã xây dựng mười mấy cứ điểm trong dãy Hãn Hãi, mỗi một chỗ đều có giấu binh giới áo giáp và lương thảo — đây chính là đại kỵ của Ly Giáo các ngươi nhỉ. Chờ thằng bé họ Mộ biết, xem Lữ Trưởng lão còn trung hay bất trung đây.”】

“Mấy cứ điểm đó trong một năm qua đã bị Giáo chủ công phá từng chỗ một.” Lữ Phùng Xuân nhớ tới mà đau lòng, “Sau đó, ta và gã đó chỉ hẹn ám ký giao tiếp bằng thư mật… Ôi, thật ra thì đều là có chuyện hắn tới báo ta biết, lúc nào có ai nên nằm vùng, lúc nào nên chuẩn bị ra tay.”

Lão càng nghĩ càng uất, không kìm được nước mắt ngang dọc, “Thật ra thì ta cũng đã ở tuổi này, nào còn hùng tâm tráng chí chứ! Giáo chủ, là do tên đó nắm ta đằng chuôi, ta ta ta không dám không nghe theo…”

“Nói vậy, ngươi hoàn toàn không có manh mối về thân phận hắc y nhân đó?” Mộ Thanh Yến hờ hững cắt đứt lão khóc kể của lão rùa đen.

Lữ Phùng Xuân ngẫm nghĩ một lát, chợt sực tỉnh, “Giáo chủ, tuy ta không biết gã đó là ai, nhưng chắc chắn không tránh khỏi liên quan đến đám nhãi Bắc Thần kia! Không gạt Giáo chủ, mỗi lần tên hắc y nhân phái người truyền tin cho ta, ta có âm thầm sai cao thủ theo sau. Dù cái gã đưa tin đã dịch dung kia rẽ đông ngoặt tây thế nào, cuối cùng vẫn luôn mất tích trong phạm vi vùng đất của Bắc Thần Lục phái!”

Du Quan Nguyệt thầm nghĩ chuyện còn cần ngươi nói sao, Giáo chủ đã biết gã ấy thuộc Bắc Thần Lục phái từ lâu rồi.

“Là môn phái nào?” Mộ Thanh Yến hỏi, hắn thấy mắt Lữ Phùng Xuân lóe lên, bổ sung một câu, “Nếu ngươi bịa chuyện lấy lệ, ta luôn có cách kiểm chứng đấy. Đến chừng đó già trẻ cả nhà Lữ thị, ngươi cho là có thể giữ lại mấy người.”

Nghiêm Hủ rét run trong lòng, đầu bút suýt nữa đã nhỏ cả quầng mực trên bức lụa trắng tuyết.

Lữ Phùng Xuân cố kỵ người nhà, mặt đầy khổ sở nói, “Giáo chủ minh giám, tiểu lão nhi không dám nói láo. Tên đưa tin kia lúc thì biến mất ở Giang Nam, lúc thì ở gần trấn Thanh Khuyết đã không thấy, có lúc đi về hướng Quảng Thiên Môn… thật khó nói.”

Mộ Thanh Yến kiên nhẫn hỏi tiếp, từ thân hình võ công cho đến cử chỉ chi tiết của hắc y nhân, nhưng Vu Huệ Nhân Lữ Phùng Xuân đều chỉ gặp gã đó một lần, đều trong lúc cuống cuồng lo sợ không yên, quan sát tỉ mỉ hơn cũng là không thể.

Sau mấy phen hỏi đáp, Mộ Thanh Yến không thể không buông tha. Hắn tựa như không bất ngờ với chuyện này, sau khi trầm ngâm chốc lát, hắn ngoắc ngón tay mấy cái về phía án thư, “Hồ Trưởng lão, mời đi ra thôi.”

Một bên mành vén lên, là Thù Thúy Lan thận trọng đỡ một người phụ nữ cao gầy tái nhợt yếu ớt, chính là đại nạn bất ngờ không chết Hồ Phượng Ca.

Vu Huệ Nhân thất thanh: “Phượng Ca, nàng, nàng còn sống thật ư?! Tốt quá, ta vẫn cho là… Ôi, đều là ta có lỗi với nàng. Lúc ta bị buộc phải ra tay với nàng, chỉ hy vọng nàng không sao…”

Lời ‘bày tỏ’ vừa mừng vừa sợ vừa áy náy khiến Thượng Quan Hạo Nam lẫn Du Quan Nguyệt hiếm khi đồng thời muốn ói.

“Thật ra thì ta phải đoán ra, ngươi thích cô ta.” Dù đã qua một năm nghỉ ngơi, Hồ Phượng Ca vẫn gầy ốm dọa người, hai má hõm xuống, xương gò má nhô cao, càng làm nổi bật một đôi mắt phượng cao ngạo thật lớn.

“Ngươi thầm thích Lý Như Tâm nhưng không thể nào nói rõ, đây không phải là ngươi sai.” Bà nhẹ nhàng nói, “Nhưng ngươi gạt ta, bảo chúng ta lưỡng tình tương duyệt thì thật quá ghê tởm.”

Bà tự nói xong, cơ bản không thèm nghe Vu Huệ Nhân vừa sợ vừa hấp tấp giải bày. Bà đã nghĩ, Lý Như Tâm vừa không biết võ công lại không thông dược học, sao có thể moi ra thuốc mê gì. Với tu vi và kinh nghiệm của Vu Huệ Nhân, nếu thật sự không muốn, có lên giường cũng sẽ không ra được Nhiếp Tư n.

Bà nhẹ nhàng đè ngực mình, ở đó có một vết đao thẳng thừng hung hãn, do chính tay người bà ái mộ từ nhỏ đâm vào. Trong thoáng chốc, bà nghe thấy lời dạy của người trưởng bối vừa là anh vừa là cha kia —

“Tiểu Phượng, giỏi cho ban ngày không luyện công lại chạy đi thăm Vu Huệ Nhân? Phong hàn nho nhỏ thôi, không cần lo… Rồi rồi rồi, ta biết Vu Huệ Nhân tốt với muội, nhưng đó là vì tính cậu ta ôn hòa hiền hậu, cậu ta đều rất quan tâm chu đáo với mọi người.”

“Hầy, Tiểu Phượng, từ nhỏ muội bơ vơ, tính tình lại quật cường, ta chỉ sợ vì muội thấy người ta đối đãi muội tốt một chút đã dốc lòng hết với người ta. Chả lẽ, muội không cảm thấy ánh mắt Vu Huệ Nhân lúc nhìn Lý Đại tiểu thư sao… Rồi rồi, ta không nói nữa.”

“Hai phân đà ở phía Đông Tân Hải gần đây không giống như nghe nói, ta phái muội đi theo Hứa Đường chủ chỉnh đốn giáo quy. Ê ê ê, sao lại là mượn cớ đẩy muội ra ngoài chứ? Hầy… đáng tiếc từ sau khi đại công tử bị thương không biết đã đi đâu, nếu có ngài ấy, nhất định sẽ bảo vệ muội bình an. Được rồi, ta đảm bảo muội nhất định sẽ thật tốt; chờ muội tròn mười lăm tuổi sẽ tự tay đánh một cây trâm cho muội.”

“Nhưng Tiểu Phượng này muội phải nhận lời ta một chuyện. Buồng tim muội khác với người thường, hơi lệch về bên phải. Chuyện này nhất thiết không thể truyền ra ngoài, chí thân cũng không thể cho biết. Muội mặt ác tim mềm, ta vẫn luôn lo mai này muội sẽ chịu nhiều đau khổ, nói không chừng, lúc nào đó dị dạng này có thể cứu muội một mạng.”

Một lời thành sấm.

Hôm nay đã không còn mấy người nhớ đến Lộ Thành Nam ngày xưa kinh tài tuyệt diễm không chỗ nào không thông.

Không lâu sau một năm bà được cứu thì nghe Mộ Thanh Yến báo chỗ chôn xương Lộ Thành Nam. Vì thế bà gượng vết thương đầy yếu ớt chạy tới núi Vũ An, quật quan quách Lộ Thành Nam ở vùng mộ sau núi Thường gia ổ Bảo, định an táng một nơi khác.

Trong lúc sửa sang lại di cốt, bà phát hiện trong ống tay áo của hắn bất ngờ cất giấu một cây trâm phượng nho nhỏ bằng vàng.

Đông đi xuân tới, người đã mất sớm, chỉ có một lời cam kết xa xưa xuyên qua năm tháng bụi trần rất dài, vẫn rực rỡ như ánh vàng, tinh xảo như mới.

Nhìn Vu Huệ Nhân kinh ngạc không thôi, Hồ Phượng Ca chợt thấy đầy chán chường, bà lười so đo với tên tầm thường dối trá hèn nhát này— bà là cô nương do Lộ Thành Nam dạy dỗ ra, dám yêu dám hận, quả quyết dứt khoát. Quân đã vô tâm ta sẽ dứt bỏ, nếu quân khi ta hại ta, chắc chắn ta trả lại trăm lần!

“Giáo chủ, Vu Huệ Nhân thật sự để tôi xử lý sao?” Hồ Phượng Ca chậm rãi quay đầu.

Ánh mắt Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Hồ Trưởng lão tự nhiên.”

Hồ Phượng Ca cúi đầu chắp tay tạ ơn, “Trong điện không tiện thấy máu, lôi người ra ngoài đi.”

Du Quan Nguyệt lập tức đóng góp hai bộ hạ, lôi Vu Huệ Nhân không thể nhúc nhích cả người cả ghế dọn ra ngoài điện, Hồ Phượng Ca tiếp tục do Thù Thúy Lan đỡ ra điện.

Thù Thúy Lan như nghĩ tới điều gì, mặt trắng như tờ giấy, chân bước loạng choạng, lúc ngang qua ngạch cửa thật cao suýt vấp phải.

Thượng Quan Hạo Nam đang đứng dựa tường thấy vậy, đầy ý thơ cảm khái nói, “Giai nhân như thế, ta thấy còn thương.”

Du Quan Nguyệt liếc xéo: “Sao hả, muốn Oanh Oanh Yến Yến Hồng Hồng nhà cậu thêm một Thúy Thúy nữa, bốn người dễ lập bàn cờ đánh cuộc hử?”

Thượng Quan Hạo Nam sờ râu kiểu người Hồ trên cằm: “Không hẳn là không thể nha.”

“Hừ! Đồ cái thứ đàn ông lạm tình!” Du Quan Nguyệt giận phất tay áo.

Hai người mới nói bốn câu, nghe thấy bên ngoài vọng tới hai tiếng kêu thảm thiết ngắn ngủi.

Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam trố mắt nhìn nhau, tiếng ấy rõ ràng là của Vu Huệ Nhân, nhưng với tu vi và tính nết Vu Huệ Nhân, có bị chút khốc hình cũng không đến nỗi kêu lên thảm thiết, huống chi nó quá nhanh.

Ngay sau đó, thị vệ ngoài điện chạy gấp tới báo tin, “Bẩm báo Giáo chủ, Hồ Trưởng lão chặt đứt hai tay hai chân phản tặc Vu Huệ Nhân, sau đó ném ra bãi tha ma sau núi đút chó hoang!”

Du Quan Nguyệt khẽ hớp một hớp khí lạnh, Thượng Quan Hạo Nam toét miệng xuýt xoa, Nghiêm Hủ cả người cứng đờ, hầu như không xuống bút nổi.

Chỉ có Mộ Thanh Yến khẽ cười: “Tốt, tốt lắm, rốt cuộc Hồ Trưởng lão đã tỉnh.”

Du Quan Nguyệt vội phụ họa: “Đúng đúng, con cọp không phát uy khi nó là mèo bệnh. Không cay độc chút người ta còn tưởng tiếng tăm hiển hách của Hồ Trưởng lão chúng ta là thổi phồng nữa.”

Trong mắt Lữ Phùng Xuân toát cơn sợ hãi cực sâu đậm, lời cầu xin tha mắc kẹt ở cổ họng không thốt ra được.

Mộ Thanh Yến ngắn ngủi liếc lão, “Đưa Lữ Trưởng lão lên đường, lanh lẹ chút.”

Lữ Phùng Xuân thầm biết mạng mình đã không thể cứu, không kìm được cầu khẩn: “Giáo chủ, người thân của ta…”

“Ngươi yên tâm.” Mộ Thanh Yến chắp tay sau lưng đứng, giọng ôn hòa, “Phàm kẻ nào không chủ động gây chuyện, tất cả người nhà họ Lữ bị bắt sống ta cũng sẽ không động đến một tên.”

Chiếc đèn treo to lớn bằng đồng thau thả xuống hơi đung đưa, hắt lên gò má trắng trẻo tuấn tú của hắn nửa sáng nửa tối, không thấy rõ nét mặt.

Nghiêm Hủ viết tiếp, thực hiện trách nhiệm Chấp Bút Sứ giả.

Lữ Phùng Xuân cho là hôm nay già trẻ nhà mình đều thành tù nhân của Mộ Thanh Yến, nhưng chỉ đúng phân nửa.

Trước khi tấn công vào cứ điểm có người nhà Lữ thị ẩn núp Mộ Thanh Yến đã cố sức yêu cầu bộ chúng riu riu lửa hầm từ từ, chẳng những không vội tấn công, thậm chí còn không chịu nhận đối phương sảng khoái đầu hàng, mà mỗi ngày đứng ở ngoài trận chửi rủa chế giễu. Như vậy thứ nhất, phàm là người nhà họ Lữ có phân nửa tính hay cáu giận sẽ không nhịn được, nhào ra liều mạng — trong đó bao gồm ba con trai bốn con rể cùng bảy tám cháu ngoại của Lữ Phùng Xuân.

Đợi ngày tiến vào cứ điểm, người nhà họ Lữ bị bắt đã không còn lại mấy, đa phần là phụ nữ trẻ con già yếu. Đối với những người này, Mộ Thanh Yến lại là hết sức nhân từ dễ gần, chẳng những tìm cho bọn họ chòm xóm tốt để định cư, tương lai còn phân cho họ ruộng đất nông cụ, để sau này họ làm người thật tốt, thiện tai thiện tai.

Biện pháp này rất tàn nhẫn lại hữu hiệu.

Nghiêm Hủ không bình luận một chữ, dẫu sao thì phản loạn của hai người Lữ Vu đã làm chết rất nhiều Giáo chúng kiên trung.

Một tiếng sấm vang đánh xuống, bên ngoài chợt đổ cơn mưa to.

Thượng Quan Hạo Nam tự mình áp giải Lữ Phùng Xuân ra ngoài, lập tức chạy tới chỗ hành hình Tế Tiên Nhai, Nghiêm Hủ biết tất nhiên ở đó đã có rất nhiều Giáo chúng tụ tập chờ xem hành hình.

Du Quan Nguyệt nhìn ánh mắt Mộ Thanh Yến, bước lên giải huyệt câm Lý Như Tâm.

Tất thảy phát sinh vừa rồi Lý Như Tâm đều nhìn thấy nghe cả, ả hơi phát run, cố tự trấn định, “Thắng làm vua thua làm giặc, ngươi muốn xử trí mẹ con ta thế nào, ta không lời nào có thể nói! Nhưng ngươi là Giáo chủ, một lời ngàn vàng, lời đích thân mình nói đừng quên!” Nói xong câu cuối cùng, cho dù là ai cũng nhìn ra ả đã ngoài mạnh trong yếu.

Mộ Thanh Yến nhẹ than, “Thật ra thì ở trong lòng ta, vẫn thầm kính nể Nhiếp Hằng Thành.”

Nghiêm Hủ hơi ngẩn ra, sao chuyển qua đề tài này rồi?

Du Quan Nguyệt Lý Như Tâm cũng sửng sốt.

“So với tổ phụ tự do phóng khoáng làm bậy, phụ thân thanh bạch vô vi kia, thật ra thì Nhiếp Hằng Thành càng xứng được ngồi vị trí Giáo chủ.” Giọng Mộ Thanh Yến vang lên giữa đêm hôm khuya khoắt càng toát âm khàn khàn.

“Suy nghĩ kỹ một chút, dù sao thì từ thuở nhỏ ta lập chí dùng hết võ nghệ, mưu trí, tâm lực cả người, dốc toàn lực ứng phó để đối kháng, cho tới giờ không phải là Nhiếp Đề, mà là Nhiếp Hằng Thành — đệ tử còn sót lại của lão, uy danh lão để lại, còn có bộ chúng nhớ nhung không quên lão.”

Hắn bước ra từ ánh đèn, trên gò má trắng trẻo trẻ tuổi cuối cùng đầy tang thương, “Tuy ta hận Nhiếp thị tận xương, nhưng cũng không để Nghiêm Trưởng lão gạch bỏ Nhiếp Hằng Thành khỏi danh sách Giáo chủ các đời. Nhiếp Hằng Thành, vẫn là Giáo chủ đời thứ mười một của Giáo ta không thể tranh cãi.”

Lý Như Tâm đầy đau khổ, đau đến không muốn sống, khóc lóc nói: “Nghĩa phụ, nghĩa phụ… Sao người lại ra đi sớm vậy? Người bỏ lại chúng con, bảo chúng con phải làm sao? Làm sao chứ?”

Nhiếp Hằng Thành là một ngọn tháp lớn hùng hồn chọc trời, đổ lớp bóng mờ thật dài, phủ lấy mọi người bên cạnh. Khi lão còn sống, tất cả đều nghe theo lời lão sai bảo làm việc. Mọi người thần phục lão, tin tưởng lão, bị lão uy hiếp.

Đến chừng lão vừa chết, giống như ngọn tháp lớn ầm ầm sụp đổ, vạch thấu trời quang chiếu trúng mọi người chơ vơ, như dạt tới cuối chân trời.

Vốn dĩ nếu Lộ Thành Nam không chết, dẫn đầu gánh trách nhiệm, sẽ còn có ngày khôi phục sinh khí, nhưng mà…

“Lật lại điểm này thật ra để ta giải bày tiếp sau. Dẫu sao thì, phải coi cái ngữ như Nhiếp Đề là đối thủ, còn liều mạng ngươi chết ta sống, thật có hơi mất mặt.” Mộ Thanh Yến nhẹ cười khổ, “Thế nên ta đi tính toán con người Nhiếp Hằng Thành…”

“Ngươi nói, ngươi nói đi!” Lý Như Tâm bình tĩnh nhìn bóng người phía trên chằm chằm, thần khí trong mắt vừa thèm muốn vừa sấn tới, phải biết đã mười mấy năm ả đã không được nghe người nói về Nhiếp Hằng Thành cho thật đường hoàng.

Mộ Thanh Yến nói: “Nhiếp Hằng Thành hùng tài đại lược gì đó, cũng không cần nói. Nhưng lại để cho ta phát hiện một chuyện… Lý phu nhân, bà có biết, Nhiếp Hằng Thành này, cả đời chỉ trúng ý người mình đích thân chọn lựa.”

“Thật ra thì lúc lão còn trẻ, vì cả nể ân tình và cũng vì cần lôi kéo nhân mạch, đã từng thi thoảng nhận mấy người đệ tử, nhưng lão chưa từng để ở trong lòng, cũng không bao nhiêu người biết. Chờ phe cánh dần hình thành, lão mới cẩn thận chọn Triệu Trần Hàn Lộ bốn đệ tử, từ đó tỉ mỉ bồi dưỡng nhân tài, thương yêu có thừa.”

Lý Như Tâm ngơ người, “Ý ngươi là sao?”

Mộ Thanh Yến lại tự nói với mình, “Bốn đệ tử Nhiếp Hằng Thành chọn, Triệu Thiên Phách là nhiệt huyết mãnh liệt của chính lão, Trần Thự là ác độc xảo trá của chính lão, Hàn Nhất Túc là kiêu ngạo dũng cảm của chính lão, còn có Lộ Thành Nam, là tài năng trác tuyệt nhân ái trung hậu của chính lão.” — thậm chí có thể nói, Lộ Thành Nam là Nhiếp Hằng Thành trong tưởng tượng của chính mình, nên lão coi trọng thương yêu nhất là Lộ Thành Nam.

“Ngươi rốt cuộc muốn nói cái gì?!” Lý Như Tâm gắng sức gào to, ả nghe ra chỗ khác thường.

“Nhiếp Đề, Vu Huệ Nhân, còn có ngươi, đều không phải là Nhiếp Hằng Thành đích thân chọn, mà là trách nhiệm mà lão ‘không thể không nhận’.” Giọng hờ hững của Mộ Thanh Yến càng thêm tàn nhẫn, “Nhiếp Đề là con trai anh chị dâu đã khuất của lão, Vu Huệ Nhân là đứa con của tâm phúc chết thay lão, còn ngươi chính là trẻ mồ côi của anh nuôi lão — Nhiếp Hằng Thành ‘dù thế nào cũng phải’ trông nom các ngươi, nhưng, đó cũng không phải điều lão muốn.”

“Ngươi đừng hòng khích bác tình cảm giữa ta và nghĩa phụ!” Lý Như Tâm gào đến khàn đặc.

“Ngươi rất rõ chúng đều là lời thật.” Mộ Thanh Yến gằn từng chữ, “Cứ so thái độ đối đãi ba người các ngươi và tứ đại đệ tử của Nhiếp Hằng Thành thì biết. Nhìn thì mặc dù Nhiếp Hằng Thành thương ngươi, không có gì không đáp ứng ngươi nhưng lão chưa bao giờ khuyên ngươi đối nhân xử thế thế nào, càng không dạy ngươi bất kỳ thứ nào trong võ học y độc tinh tượng trận pháp mưu kế… Ngược lại mặc cho ngươi không để ai vào mắt, cao ngạo cậy thế, không chút sở trường, tương lai không kham nổi lo âu!”

Lý Như Tâm run rẩy cả người, miệng thì kêu to ‘Ngươi nói bậy ngươi nói bậy’, trong mắt đã đầy sợ hãi.

“Ngươi thật sự cho rằng Nhiếp Hằng Thành không biết chuyện bí mật đằng sau lần Nhiếp Đề bị quai bị à? Một người sáng suốt như lão sao lại bị hai gã đại phu lừa gạt chứ.” Mộ Thanh Yến nói tiếp, “Lại nói nhân phẩm tu vi của bản thân Nhiếp Đề đều xếp hạng bét, lấy Nhiếp Đề, ngươi thậm chí không được làm mẹ. Bao nhiêu thanh niên tài giỏi đẹp trai trong giáo không được, chưa kể những ứng viên rể xịn tài mạo song toàn như Hàn Nhất Túc Lộ Thành Nam, nhưng lão vẫn khăng khăng để ngươi lấy Nhiếp Đề —”

“Chỉ vì năm đó cha ngươi từng có nguyện vọng, hy vọng hậu nhân hai nhà có thể kết thành uyên minh. Đáng tiếc, sau khi cô nương Nhiếp Hằng Thành yêu mến qua đời, lão không còn ý kết hôn, dĩ nhiên không thể làm gì khác hơn là để ngươi lấy Nhiếp Đề. Đến nỗi lấy chồng xong ngươi có sống tốt hay không, lão cũng chẳng để tâm.”

Người Lý Như Tâm run rẩy mãnh liệt, khóc lóc đầy nước mắt nước mũi, lặp đi lặp lại mấy câu kịch: “Ta không tin, nghĩa phụ yêu thương ta thương tiếc ta, không nỡ để ta chịu một chút khổ! Người đã nói phải bảo vệ ta cả đời, người đã nói!”

Ả đàn bà kêu khóc thê thảm tuyệt vọng, Nghiêm Hủ gần như không thể hạ bút.

Mộ Thanh Yến chậm rãi lại gần Lý Như Tâm, nói rõ ràng: “Dù thế nào, Nhiếp Hằng Thành cũng đã chết, chết trên đỉnh Đồ Sơn mười mấy năm trước, chết dưới Diễm Dương Đao của Thái Bình Thù. Lão chết rất sạch sẽ, thua cũng đầy minh bạch, các ngươi tử thủ quỷ ảnh cô hồn của lão cũng chỉ là một trận vô ích.”

“Thân thế Nhiếp Tư n, ngươi gạt được tất cả mọi người, thậm chí là chính ngươi, nhưng ngươi gạt được Nhiếp Hằng Thành dưới đất sao? Nhiếp Hằng Thành ở dưới minh phủ, thấy đứa con của hai người lão không muốn gặp, cứ thế lấy dòng họ của lão, mạo hiểm huyết mạch của lão, ngươi nói lão nên nghĩ thế nào?”

Nói xong, hắn vẫy tay hạ lệnh, Du Quan Nguyệt im lặng bước lên dẫn Lý Như Tâm đi.

Lúc này Lý Như Tâm đã như người gỗ như cột đá, ngơ ngơ ngây ngẩn, không nói không rằng, tựa như bị rút cạn kiệt tinh lực, chỉ còn lại một cái xác trống rỗng.

Mộ Thanh Yến không thèm màng tới ngồi xuống bàn sách, không biết viết gì đó trên lụa trắng.

Chừng một giờ sau, Thượng Quan Hạo Nam và Du Quan Nguyệt đồng thời quay lại bẩm báo.

Người trước bẩm Lữ Phùng Xuân và cả năm mươi tám tên nghịch tặc chủ chốt đã nhận hình xử tử, Vu Huệ Nhân phía sau núi cũng đã tắt thở.

Người sau thì xưng, trong phòng giam địa lao, ngay trước mặt mọi người, Lý Như Tâm bóp ch3t con trai Nhiếp Tư n trước, ngay sau đó đập đầu lên vách đá tự tử.

“Nghiêm Trưởng lão, đoạn này có thể kết bút.” Mộ Thanh Yến cúi đầu viết tiếp.

Nghiêm Hủ thấp giọng thưa vâng, run đầu bút đặt xuống mấy hàng chữ cuối cùng, cất quyển trục vào túi gấm, hai tay dâng lên Mộ Thanh Yến. Lúc quay đi, ông nhìn thấy giữa tấm lụa trắng trên bàn viết ba chữ ‘Mộ Chính Dương’, chung quanh là những đường cong ngoằn ngoèo chỉ những con người và những sự việc không giống nhau.

Sắp rời tiền điện, Mộ Thanh Yến chợt lên tiếng: “Nghiêm Trưởng lão, ta nhớ trong sử sách có ghi, vì giữ bí mật của thần giáo, mấy đời Chấp Bút Sứ giả ban đầu lúc lĩnh chức sẽ tự hủy hoại họng lưỡi tỏ quyết tâm. Có lẽ mãi đến đời thứ tư kế vị, Giáo chủ Mộ Hoa Ninh lòng không nỡ, mới bỏ đi quy củ này.”

Nghiêm Hủ rùng mình cả người, lập tức khom người quỳ xuống, cắn răng nói: “Lão hủ sẽ cắt cái lưỡi nhiều chuyện này…”

“Vậy thì không nhất định.” Mộ Thanh Yến nói, “Chẳng qua là, phản loạn đã trừ, sau này giáo vụ các thứ cũng nên quay về chính quy, Nghiêm Trưởng lão cũng nên suy nghĩ thêm cho ra dáng Chấp Bút Sứ giả đời trước mới được.”

Nghiêm Hủ người đầy mồ hôi từ căn điện âm u đi ra.

Ông biết Mộ Thanh Yến là bất mãn mình quơ tay múa chân xen vào việc người khác, với giáo quy của Ly Giáo, chức trách của Chấp Bút Sứ giả còn trên Thất Tinh Trưởng lão. Mà luật sắt của Chấp Bút Sứ giả chính là ‘chỉ có tai mắt tay, không có miệng lưỡi’.

Đi mấy bước, ông khựng lại.

Ông thầm nghĩ không đúng nha, từ sau khi Mộ Thanh Yến phản chính, ông luôn đầy miệng khen vị Tân Giáo chủ trẻ tuổi uy nghiêm này, Mộ Thanh Yến ra quyết sách gì ông cũng khen hay hay hay, chưa bao giờ không vâng lời chuyện nào mà.

Khoan, ông nhớ ra rồi, có một chuyện, chỉ mỗi một chuyện đó, ông đã không ít lời không tán thành.

Nghiêm Hủ bất đắc dĩ thở dài, tiếp tục đi tới.

Ông nhìn thấy Liên Thập Tam phong trần mệt mỏi đi qua bên cạnh, chạy thẳng đến điện Quan Diệu, nom như là đã hoàn thành nhiệm vụ về báo tin, cũng không biết Giáo chủ phái cậu ta ra nghe tin tức gì nữa.

Mưa rào đã ngừng, ánh ban mai đã hửng ở đằng đông, ánh nắng vàng dần dần trải cầu vồng lên lớp ngói lưu ly tòa cung Cực Lạc hùng vĩ khổng lồ, thoáng chốc đã sáng chói.

Lão đầu tử không có mùi rượu đầy người hít một luồng không khí mát mẻ, như trẻ đi mười tuổi.

Ông nghĩ, Giáo chủ lợi hại chút thì cứ lợi hại chút đi, có gì mai này ông cai rượu bớt nói là được.

Mà bắt đầu từ buổi sáng tinh khôi này, loạn Nhiếp thị Ly Giáo kéo dài gần một giáp, hoàn toàn kết thúc.tự dưng rươm rướm khi đọc mấy đoạn như Tiểu Phượng và Lộ Thành Nam…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 122-1


Góc bí ẩn

Sáng sớm, núi Cửu Lãi.

Phàn Hưng Gia theo đám người phía trước lên núi, hắn siết lớp áo lông cừu trên cổ, thấy cuối thu này thật lạnh quá.

Một tràng nói đùa khanh khách của con gái theo gió núi bay vào tai, hắn ngẩng lên nhìn phía trước, từ xa xa nhìn thấy Phù Dung Phỉ Thúy bưng mớ đồ mới chọn mua dưới chân núi đi trước mặt bọn họ.

Từ lúc Thái Chiêu được thả ra, cuối cùng hai cô bé này đã có tiếng cười trở lại.

Cuối hè hơn một năm trước, sau khi Thái Chiêu cả người đầm đìa máu được khiêng xuống hình giá, chưởng môn năm phái mới nhớ tới chuyện phải bàn thời hạn úp mặt vào tường suy nghĩ. Dương Hạc Ảnh không sợ mau miệng, há miệng là mười năm, kết quả Tống Thời Tuấn nhảy dựng lên phản đối đầu tiên, suýt nữa đã ụp một bãi xác trà lên đầu Dương Hạc Ảnh, giống như nhà ông sắp đoạn tử tuyệt tôn vậy.

Vì thế thời hạn thi án bị bẻ đôi thành năm năm, sau khi vợ chồng Thái Bình Xuân ầm ĩ lại giảm xuống ba năm, nhưng cuối cùng Thái Chiêu mới đóng cửa hơn một năm, nửa tháng trước đã được Thích Vân Kha thả ra — lý do là phải tham gia hôn lễ giữa Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì đích hôn lễ.

Không sai, Thích Lăng Ba và Đới Phong Trì rốt cuộc phải thành thân, sau cái lần thứ tám bắt được hai đứa nửa đêm ở cạnh hòn non bộ ngắm trăng sao trò chuyện về ‘lý tưởng của đời người’, người phụ trách tuần đêm Lý Văn Huấn rốt cuộc không thể nhịn được nữa, yêu cầu vợ chồng Tông chủ cho một lời giải thích.

Thích Vân Kha còn đang do dự, Doãn Tố Liên đã lên tiếng ‘Để hai đứa nhỏ thành thân đi’.

Nhớ tới sư mẫu Tố Liên phu nhân, Phàn Hưng Gia không khỏi khẽ thở dài, trước miệng mũi lập tức hiện một lớp sương mù trắng nhợt.

Sau cái chết của Khâu Nhân Kiệt, Doãn Tố Liên như đổi thành người khác, suốt ngày tụng kinh tu đạo, cung Song Liên Hoa Trì đã từng hoa lệ thoáng đãng giờ đóng kín cửa, xung quanh chỉ một màu trắng mộc mạc, mái ngói cung quanh năm suốt tháng đầy hương khói quanh quẩn.

Khiến Phàn Hưng Gia kinh ngạc đó là Thích Lăng Ba lại đồng ý tắp lự, mừng rỡ nắm tay Đới Phong Trì liên tục.

Cơn bà tám của Phàn Hưng Gia trỗi dậy, không kìm được chạy đi trộm hỏi, “Lăng Ba sư muội từ bỏ ý định với Tam sư huynh thật rồi hả?”

Thích Lăng Ba dừng việc sửa sang lại châu báu hộp trang sức lại, hỏi ngược, “Ngũ sư huynh, anh còn nhớ Thái Sơ Quán hơn một năm trước chứ?”

Phàn Hưng Gia chưa rõ mấy.

“Ta đã thấy kia công phu tên ma đầu mặt nhọt kia rồi, lúc chúng ta vạch trần hắn không phải Thường Ninh ở trong cung Mộ Vi, ngay trước mặt Lý sư bá, u Dương sư bá, Trần sư bá, còn có nanh vuốt của tên giả mạo họ Khâu kia, hắn còn có thể ung dung chạy đi. Ta nghĩ, tu vi hắn chắc chắn rất cao.”

Phàn Hưng Gia thầm nghĩ, đâu chỉ là ‘rất cao’.

“Hắn là vì muốn gặp con tiểu tiện… vì gặp Thất sư muội mới thất thủ bị bắt.”

Thích Lăng Ba sâu xa nói, “Ta hy vọng người chồng tương lai, dù bản lĩnh lớn hay không, có thể cho ta làm Tông chủ phu nhân hay không, nhất định phải biết nóng biết lạnh, quan tâm đau lòng ta. Mẹ cũng nghĩ xong cho ta rồi, sau khi lập gia ta cùng Nhị sư huynh quay về quê của dòng họ Doãn thị định cư, ở đó chúng ta vẫn có thể nở mày nở mặt, cũng không tệ.”

Nhìn dáng vẻ Thích Đại tiểu thư như bỗng dưng trưởng thành, Phàn Hưng Gia hơi rầu rĩ không tên.

Vì định về quê định cư, Tố Liên phu nhân để con gái và con rể tương lai trước khi cưới về quê quán trước một chuyến, tế bái tổ tiên các đời, đồng thời tu bổ nhà tổ. Tằng Đại Lâu không yên lòng, đưa Phàn Hưng Gia và đệ tử Tông môn một hơi đưa đoàn xe hai người Thích Thái ba ngày, nếu không phải mấy ngày nữa Thích Vân Kha cũng phải ra cửa, cần Tằng Đại Lâu về thu xếp, nói không chừng hắn đưa thẳng người đến đích luôn.

Tiếng xích sắt quen thuộc mà vần điệu vang lên trên đỉnh Phong Vân, lúc Tằng Đại Lâu bước lên xích sắt có hơi lảo đảo. Nhìn bóng lưng khá ủ rủ của hắn, lần thứ ba Phàn Hưng Gia muốn than thở. Hắn biết Đại sư huynh thương yêu Thích Lăng Ba, đã nghĩ đợi Thích Lăng Ba lên làm Tông chủ phu nhân, hắn sẽ thay em ấy thu xếp chuyện vặt cho Tông môn, nào ngờ hôm nay phải đẩy xuống hàng thứ.

Có điều Phàn Hưng Gia vẫn cảm thấy gần đây Tằng Đại Lâu im lặng hơi quá, đôi lúc xử lý việc vặt cũng thường tần ngần hồi lâu, không biết đang suy nghĩ gì.

Sư huynh đệ hai người đi tới hậu điện cung Mộ Vi, biết vợ chồng Thái cốc chủ mới vừa đến, hiện đang ở trong phòng nói chuyện, Thái Chiêu Tống Úc Chi cũng ở đấy.

Tằng Đại Lâu bẩm Thích Vân Kha hành trình toán người Thích Lăng Ba xong bèn ra ngoài chuẩn bị việc ra ngoài cho sư phụ, Phàn Hưng Gia đầy hứng thú nép qua một góc nhà chờ xem kịch vui.

Ninh Tiểu Phong liên tục oán trách Thích Vân Kha, “Lạc Anh Cốc mười mấy năm đã không màng tới thế sự chắc ông cũng biết, Quảng Thiên Môn và Tứ Kỳ Môn ầm ĩ thì có liên can gì bọn ta, sao cứ phải là anh Tiểu Xuân đi hòa giải…”

“Nếu như chỉ ầm ĩ bình thường ta cần gì tìm tới hai người, nom như Quảng Thiên Môn và Tứ Kỳ Môn muốn sắp ác đấu.” Thích Vân Kha đầu một đầy kiện tụng, “Hôm nay đám trẻ mồ côi của Hoàng Sa Bang đã tố cáo Quảng Thiên Môn dùng người sống luyện thi khôi nô đó, còn giết sạch Hoàng Sa Bang để bịt miệng nữa!”

“Lần này Dương Hạc Ảnh bị sao thế? Từ bao giờ hắn ta thích ra vẻ chính nghĩa vậy.” Ninh Tiểu Phong bĩu môi.

Thái Bình Xuân ôn hòa nói: “E là vì Hoàng Sa Bang và Sa Hổ Bang nhà mẹ Dương phu nhân có chút dây mơ rồi.”

Thích Vân Kha khen: “Đúng đúng, Lão Bang chủ quá cố của Hoàng Sa Bang chính là cha vợ của Bang chủ Sa Hổ Bang. Hôm nay Dương Hạc Ảnh luôn mồm đòi một lời giải thích! Đáng thương thay, cả một thôn không một bóng người, dù là ai làm, chúng ta cũng không thể mặc kệ không màng tới.”

Tống Úc Chi đứng dậy chắp tay: “Sư phụ, Thái cốc chủ, cha con tuyệt đối không thể nào làm ra việc ác nhường này.”

“Biết rồi biết rồi, con ngồi xuống.” Thích Vân Kha khoát tay, “Biết nhau mấy mươi năm, bọn ta biết rõ con người của cha con mà.”

Ninh Tiểu Phong bĩu môi: “Tống Thời Tuấn kia có mấy khúc ruột chứ, cùng một hoa nương nhảy điệu tiên nhân mà còn có thể dính lấy ba lần, sao nghĩ ra chuyện lén lút xấu xa bực này.”

Ngay trước mặt tiểu bối nói vậy rất không thích hợp nhưng Thích Vân Kha Thái Bình Xuân đều không dám trách Ninh Tiểu Phong, đành cúi đầu cười khổ.

“Thủ đoạn tàn ác như vậy không biết kẻ nào gây nên.” Vẻ mặt Tống Úc Chi nặng nề.

Trong phòng mấy người nhìn nhau, trong lòng đều có chung một ý, nhưng không nói ra miệng.

Cuối cùng vẫn là Thái Chiêu rất quan tâm nói ra, “Phải chăng là Ma Giáo gây nên?”

— trong phòng dường như chợt yên lặng.

Biến cố sóng gió kinh hoàng cuối hè năm ngoái đã qua hơn một năm, Chu Trí Trăn cắm đầu quay về Bội Quỳnh Sơn trang không chịu ra ngoài, Thích Vân Kha nhiều hơn mấy sợi tóc bạc, Doãn Tố Liên hoàn toàn mê mệt tu đạo, uy nghiêm Lý Văn Huấn sư bá càng tăng, Lôi sư bá ngày càng dài dòng, Tống Úc Chi khỏi bệnh nhìn lạnh lùng đẹp trai.

Mặt trời lên mặt trăng lặn, lá héo hoa nở, không gì không đổi, bao gồm cả Thái Chiêu.

Vóc người thiếu nữ dài ra rất nhiều, xương quai xanh thon thon, lõm như chén nhỏ, eo yêu kiều một nắm, giam trong sơn động hơn một năm không thấy ánh mặt trời, càng nuôi ra da thịt trơn láng như ngọc, gò má mỏng manh như giấy tuyết bật ra màu đỏ hồng nhàn nhạt.

Phàn Hưng Gia hãy còn nhớ tới lần đầu gặp gỡ, tiểu cô nương xinh đẹp thì xinh đẹp, nhưng toát ra một vẻ ngây thơ hồn nhiên bướng bỉnh, cười ròn rã, mũm mĩm, hài hước vui vẻ. Cô hôm nay, như một viên ngọc đẹp cuối cùng đã mài sáng tuyệt thế, vừa mong manh vừa bền bỉ, mâu thuẫn thấu lớp lớp, thật không nhìn rõ.

Thích Vân Kha ho nhẹ một tiếng, phá vỡ lúng túng trong phòng: “Hẳn không phải, đây là chuyện mấy tháng trước, mà hơn một năm qua Ma Giáo đánh nhau lu mờ trời đất, nào chú ý việc này.”

“Vậy ạ, thế thì tốt quá.” Thái Chiêu nói.

Ninh Tiểu Phong sầm mặt: “Tốt cái gì mà tốt?!”

Thái Chiêu mỉm cười: “Như vậy thì, con không cần phải lo cha mẹ sư phụ sẽ lo lắng rằng có phải con còn lo lắng cho Mộ Thanh Yến không, đúng là tốt quá.”

Nghe đến cái tên cấm kỵ đó lần nữa, trong phòng lại yên tĩnh.

“Được rồi, chuyện này mi chớ xía vào.” Ninh Tiểu Phong tức giận, ngay sau đó lại lo âu, “Không phải ta không để ý đến tính mạng bá tánh vô tội, nhưng chuyện trong giang hồ, chỉ cần dây vào là không thoát thân được.”

Thích Vân Kha an ủi: “Cô yên tâm, các người đi Quảng Thiên Môn ổn định cục diện trước là được. Chờ ta mời Pháp Không Đại sư và Chu huynh đến, tự có giải thích, các người ở bên cạnh xem là được.”

Thấy Ninh Tiểu Phong đầy vẻ không tình nguyện, Tống Úc Chi nhíu mày: “Sao không phải là sư phụ đi Quảng Thiên Môn ổn định cục diện trước, để Thái Cốc chủ và Ninh phu nhân sang mời Pháp Không Đại sư và Chu trang chủ? Chẳng phải tất cả đều vui.” Rõ ràng Trường Xuân Tự và Bội Quỳnh Sơn trang đều quan hệ thâm sâu với Lạc Anh Cốc, để vợ chồng Thái Bình Xuân đi mời cũng không gì thất lễ.

Đây cũng là nghi vấn của Phàn Hưng Gia, hắn gật đầu: “Đúng ạ.”

Thái Chiêu tinh tế tỉ mỉ giải thích: “Vì sư phụ là người đứng đầu sáu Tông mà, nhỡ Dương Môn chủ thật sự đưa ra tội chứng xác thực gì đó, sư phụ phải làm sao? Lẽ nào làm một thiết diện vô tư, đem Tống Môn chủ lệnh tôn khai đao sao? Cha mẹ tôi cũng không cần làm căng, Lạc Anh Cốc ở vị trí cóc ké trong sáu phái, xem như Dương Hạc Ảnh có nhân chứng vật chứng đều đủ, cha mẹ tôi cũng không quyền làm trọng tài, vừa đủ để đưa đông đẩy tây kéo dài thời gian, chờ Pháp Không Đại sư và bác Chu sang tới thì có đường hòa giải rồi.”

“Cái, cái gì?” Tống Úc Chi nóng nảy, “‘Tội chứng xác thực’ gì! Chiêu Chiêu muội nói cha ta…”

“Tam sư huynh đừng sốt ruột.” Thái Chiêu hòa nhã trấn an, “Giang hồ quỷ quyệt, biến hóa vạn đường, dạo này ‘tội chứng xác thực’ cũng chưa hẳn là thật mà, chỉ là thoạt nhìn như thật thôi. Chẳng qua tôi phỏng đoán, với tính tình Dương Môn chủ, nếu không cầm ‘chứng cứ’ cũng sẽ không phất cờ gióng trống đòi Quảng Thiên Môn một lời giải thích đâu.”

Lời ám chỉ đầy sáng ngời, đến cả Phàn Hưng Gia cũng đã hiểu, Thích Vân Kha Ninh Tiểu Phong chỉ đành vờ như không hiểu.

Tống Úc Chi quay lại: “Thật thế ạ?”

Thái Bình Xuân hòa nhã nói, “Tóm lại, ta với mẹ Chiêu Chiêu đi trước kéo dài thời gian, có thêm mấy người sẽ có thể cứu vãn.”

Thái Chiêu thở dài: “Đáng tiếc gần đây bác Chu không thích ra ngoài, nếu không sư phụ cũng không cần chạy đi hai nơi.”

Ninh Tiểu Phong trợn mắt: “Còn không phải vì mi sao! Ở Thái Sơ Quán mi đả thương anh ấy, còn ăn nói bậy bạ tổn thương tận đáy lòng anh ấy. Hơn một năm qua anh ấy mất hết ý chí, mượn cớ dưỡng thương, không thèm màng tới chuyện gì trên giang hồ nữa!”

Thái Chiêu lập tức rất thành khẩn bày tỏ rằng mình có thể đi Bội Quỳnh Sơn trang quay mặt vào tường suy nghĩ một năm, nghe nói Chu Ngọc Kỳ và Mẫn Tâm Nhu sắp cưới, vừa lúc cô có thể uống ly rượu mừng.

Ninh Tiểu Phong tức suýt méo cả mũi: “Mi im chút cho mẹ đi!”

Tống Úc Chi vội lên tiếng nói giúp, “Xin Ninh phu nhân bớt giận, Chiêu Chiêu sư muội đã biết lỗi rồi, muội ấy đã chịu Lý sư bá phạt nặng, ở Tư Qua Giản cũng hơn một năm rồi, chuyện đã qua không cần nhắc lại ạ.”

Thái Bình Xuân hài lòng nói: “Vẫn là Úc Chi hiểu chuyện, hầy, đóng cửa suy nghĩ kham khổ thế nào chứ, may mà có cháu lúc nào cũng chiếu cố nên Chiêu Chiêu mới không vàng mặt ốm o, không còn hình người.”

Ninh Tiểu Phong cũng miễn cưỡng nói: “Ừ, ta nghe nói cậu gọi cả đầu bếp Quảng Thiên Môn gọi tới, mỗi ngày đưa đồ ăn thức uống đàng hoàng qua Tư Qua giản. Ta thay Chiêu Chiêu nói một tiếng cám ơn cậu.”

Thật ra thì vợ chồng Thái thị vốn chê thẳng Tống Thời Tuấn năm đó hoa hoa lớn nhỏ, dĩ nhiên cũng không thấy ba đứa bé nhà họ Tống thuận mắt mấy, nhưng mà so với để con gái gặp một đối tượng đầy vướng mắt, Tống Úc Chi đúng thật là lựa chọn cực tốt.

“Lúc còn bé sư phụ và bác Chu thương mi biết là bao chứ, thế mà mi lại làm họ bị thương nặng, mi có từng nghĩ trong lòng không?” Ninh Tiểu Phong tận tình khuyên bảo, “Chuyện lúc trước đã xong, Chiêu Chiêu phải tự thu xếp cho ổn thỏa, sau này chớ chọc ra họa nữa.”

“Mẹ, họa con chọc kia có cái tên kinh học* đứng đắn mà, là ‘Đào hoa chướng’.” Thái Chiêu khoan thai nói, “Mẹ cứ nghĩ mặt tốt xem, Đào hoa chương con chọc không phải là A Miêu A Cẩu, mà Mộ Thanh Yến người ta cũng là một nhân vật lẫy lừng đó.”

“Nên cha mẹ và sư phụ có thể yên tâm mọi thứ rồi, sai lầm này con sẽ tuyệt đối không tái phạm, dù con có muốn chọc Đào hoa chướng nữa thì đi đâu tìm một Giáo chủ Ma Giáo nữa, đúng không.”

Trong nhà lại rơi vào im lặng. Đọc ở homeintree để ủng hộ chính chủ

“… Hay hôm nay chúng ta lên đường đi Quảng Thiên Môn luôn.” Thái Bình Xuân quay lại nhìn vợ.

Thích Vân Kha hơi ngây ra: “Hả? Hai người vừa mới đến thôi, không chờ vài hôm rồi hãy đi.”

Ninh Tiểu Phong thở dài: “Nhân tiện chưa mở hành lý thì lên đường luôn, khỏi bị con nhóc chết tiệt này tức chết.”

Bà không kìm được lên tiếng oán hận, “Tôi nói này, rốt cuộc hình phạt đối mặt vào tường suy ngẫm của Thanh Khuyết Tông mấy người làm sao vậy, hơn một năm con bé chết tiệt này chẳng những không tiến bộ, còn học âm dương quái khí nữa?!”

Thích Vân Kha lúng túng cười ngây ngô mấy tiếng, “Chờ hôn sự Lăng Ba xong, sẽ cho Chiêu Chiêu hầu hai cô cậu đi sang Ninh phu nhân ở một hồi nhé, đến chừng đó hai người dạy dỗ thật tốt, dạy thật tốt nhé.”

Phàn Hưng Gia nghiêng đầu nhìn phản ứng của Tống Úc Chi. Chỉ thấy Tam sư huynh nhà mình chuyên tâm dồn chí hướng nhìn ra ngoài cửa sổ, giả vờ chẳng nghe gì cả.

Sau khi vợ chồng Thái thị rời đi năm sáu ngày, Thích Vân Kha giao phó xong xuôi, cũng lên đường.

Trước khi đi, Thích Vân Kha dặn dò Thái Chiêu tỉ mỉ, “Chiêu Chiêu à, con chớ oán trách cha mẹ con, họ là bị dọa sợ con và cô con rơi vào cùng một kết cục. Ta biết con không vui vì chúng ta kết hợp con với Úc Chi, hầy, mọi chuyện không được hành động theo cảm tính, tính Úc Chi đoan chính, nay lại chịu học cách quan tâm người, mai này con sẽ thấy điểm tốt của nó.”

Thái Chiêu vẫn im ắng nghe, cuối cùng mới hỏi: “Sư phụ, thật ra thì ngài cũng có chút trách cứ bác Chu phải không?”

Thích Vân Kha sờ râu không lên tiếng.

Thái Chiêu lại nói: “Bác Chu bị thương, lại bị con tức chết, hơn một năm qua vẫn luôn nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Sư phụ đầy phúc hậu nhân nghĩa nhưng mãi vẫn không chịu đi thăm bác ấy, cho tới bây giờ có chuyện mới chịu đi Bội Quỳnh Sơn trang…”

Thích Vân Kha thở dài, nhìn ráng chiều trên đỉnh núi xa xa suy nghĩ xuất thần: “Mấy năm qua, ta luôn nghĩ, nếu từ đầu Chu Trí Trăn có thể có trách nhiệm chút, đối xử cô cô con tốt hơn chút, phải chăn cô cô con cũng sẽ không quen cẩu tặc Mộ Chính Dương kia. Một cô gái tốt như cô con, phải phối với một vị thiếu hiệp xuất thân danh môn, tương lai tươi sáng* mới được.”

(*) 风光月霁: gió trong trăng sáng, người ngay thẳng, rõ ràng

Qua hồi lâu ông mới tỉnh táo, lắc đầu lia lịa, “Là ta hẹp hòi rồi, không nói câu công bằng với Chu đại ca, không công bằng…”

Đưa mắt nhìn Thích Vân Kha* biến mất ở cuối con dốc đỉnh Phong Vân, Tằng Đại Lâu để chúng đệ tử tản đi.

(*) chỗ này tg để TVK và vợ chồng Thái thị nhưng không khớp ở trên nên tui cắt. Đọc ở homeintree để ủng hộ chính chủ bạn nhé.

Tống Úc Chi thu nụ cười, kéo tay áo Thái Chiêu quay sang một bên chép miệng ra hiệu, Thái Chiêu giả vờ không hiểu, Tống Úc Chi dứt khoát kéo cánh tay cô thật mạnh đi ra, không để ý tới tiếng cười ồn ào của chúng đệ tử sau lưng.

“Muội bị gì vậy?” Hai người đi tới một góc khuất, “Cả năm qua lúc nào muội cũng luôn buồn bực không vui, cho đến hai tháng trước cả ngày cũng chẳng nói nổi vài câu, sao mấy hôm nay tự dưng thích nói thích cười thế?!”

“Tống thiếu hiệp huynh nói chút lý lẽ được không, trước đó là tôi quay đầu vào tường suy ngẫm mà, quay đầu vào tường suy ngẫm vốn dĩ không nên nói!” Thái Chiêu sửa sang lại ống tay áo, “Chỉ có huynh ỷ thấy sư phụ mắt nhắm mắt mở, ba ngày hai bận chạy vào Tư Qua Giản ‘khuyên giải’ tôi. Ai mượn huynh khuyên giải chứ, chừng nào tôi không nghĩ ra còn phải để huynh khuyên giải!”

Tống Úc Chi sầm mặt: “Vậy mà toàn bộ những gì ta đưa sang muội cũng nhận!” — không phải bảo trong lòng cô gái có ý mới nhận đồ của con trai không, thoại bản đều là cái thứ gạt người!

“Tôi chỉ không muốn nói chuyện thôi, cũng đâu phải không ăn không uống thành thần tiên chứ. Có ủ rũ cũng không ai có thể để tim gan tì phổi mình ấm ức chứ.”

Tống Úc Chi nhìn cô gái đăm đăm một khắc, chậm rãi nói: “Hay là muội cho rằng Mộ Thanh Yến là trong sạch, trong Lục phái đúng là có một kẻ gian ẩn núp, là kẻ giết Vương Quán chủ.”

Thái Chiêu nhướng mắt, hai tròng mắt đen trắng rõ ràng, “Tôi chưa từng nghi ngờ. Sao hả, huynh muốn đi tố cáo à?”

Tống Úc Chi trong thoáng chốc không đỡ kịp.

“Tôi biết, Tam sư huynh vẫn luôn nửa tin nửa ngờ chuyện này.” Thái Chiêu nói, “Thật ra thì tôi cũng có một chuyện muốn nhờ Tam sư huynh giúp một tay, hai ta tâm sự cái đã, nói cho rõ ràng — Tam sư huynh biết Lữ Phùng Xuân chứ.”

“Biết.” Tống Úc Chi nói, “Lão ấy là một trong Thất Tinh Trưởng lão của Ma Giáo, nhưng so với mấy Trưởng lão hai mươi năm trước chiến đấu ta chết ngươi sống với Bắc Thần chúng ta thì kém xa. Mấy hôm trước tự dưng muội xin vào Tàng Thư Các là vì tra lai lịch lão ấy nhỉ.” — Từng quyển từng cuốn của Tàng Thư Các cung Mộ Vi đều là đích thân y sắp xếp lại, cô gái lật xem thứ gì y đều biết.

Thái Chiêu thở dài: “Không phải mấy hôm trước, thật ra thì tôi đã muốn vào Tàng Thư Các sớm hơn rồi, nhưng vẫn luôn bị giam ở Tư Qua Giản, mới thả ra đây mà.”

Cô nói, “Lão Lữ Phùng Xuân này nhìn trước ngó sau, sợ đầu sợ đuôi, luôn tính toán xấu xa đầy bụng. Làm trung thần thì lão không có đức hạnh, làm gian nịnh thì lão lại không can đảm. Lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống lão chỉ có thể co đầu rút cổ một xó, sau đó Nhiếp Đề nắm quyền, lão sợ đệ tử và thế lực Nhiếp Hằng Thành còn để lại vẫn không dám hành động thiếu suy nghĩ. Người như vậy, Tam sư huynh cảm thấy vì sao lão chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi quyết tâm làm phản chứ?”

Lá tùng vàng từ từ rụng dần nhẹ rơi, Thái Chiêu ngồi xuống, nhặt chiếc lá khô nho nhỏ đặt trong lòng bàn tay, “Mấy trưởng bối nói ‘kẻ sau màn’ là do Mộ Thanh Yến bịa đặt, nhưng trùng hợp là Lữ Phùng Xuân tạo phản nên tôi mới chắc chắn trong Lục phái thật sự có gian tặc.”

“Muội nói rõ ràng xem.” Vẻ mặt Tống Úc Chi đầy nghiêm túc.

Thái Chiêu nói: “Đầu tiên, Lữ Phùng Xuân binh bại bỏ mình, nên chuyện tạo phản này chắc chắn không phải là lão và Mộ Thanh Yến phối hợp diễn trò chứ?”

Tống Úc Chi không nhịn được cười: “Nhà họ Lữ lão ấy chết tan tác, nào đùa ra như vậy được.”

Thái Chiêu nói tiếp: “Nếu là phản thật, thế thì nguyên do nào khiến một lão rùa đen lâu năm tự dưng hạ quyết tâm chứ?”

Cô duỗi bàn tay, để phiến lá khô theo gió thổi đi, “Tất nhiên là có chuyện gì đó khiến lão rùa đen kia chắc chắn rằng mình nhất định có thể thành công, lão mới dám động thủ.”

Tống Úc Chi sực nghĩ ra, bật thốt: “Có người thông báo cho lão Mộ Thanh Yến đã bị bắt!”

“Không sai.” Thái Chiêu nói, “Muốn cho Lữ Phùng Xuân tin Mộ Thanh Yến thật sự rơi vào bẫy mà không phải giả bị bắt thì người báo tin phải là người lão rùa đen hết sức tin tưởng, thậm chí là để tâm phúc của lão tận mắt nhìn thấy dáng vẻ Mộ Thanh Yến bị bắt giam trong lao thì lão mới dám yên tâm ra tay.”

Tống Úc Chi đi tới đi lui tại chỗ, tâm loạn như ma.

Hơn một năm trước sau khi Mộ Thanh Yến bị bắt nhốt tình trạng thế nào y rõ ràng nhất, canh phòng ba lớp trong ba lớp ngoài trùng trùng, như một cái lồng sắt cực kín kẽ. Nếu không phải y bảo vệ một khắc không rời, Lý Nguyên Mẫn đã sớm cho người hành hạ Mộ Thanh Yến đến chết. Nếu cuối cùng không có Thái Chiêu không chút dấu hiệu lạ chợt xuất kỳ chiêu, Mộ Thanh Yến bị phế là chắc chắn.

Tống Úc Chi dừng bước, ngẩng đầu trầm giọng nói, “Sao muội không nói chuyện này cho sư phụ và lệnh tôn lệnh đường?”

Thái Chiêu cười rộ, “Chuyện đến tôi cũng có thể nghĩ ra được thì họ có thể không nghĩ tới ư. Có điều không có bằng cớ cụ thể, dựa hết vào suy luận, bọn họ tình nguyện tin tưởng Ma Giáo vẫn có mánh khoé lén lút gì thôi. Bao gồm cả huynh, thật ra thì nghe xong, vẫn không thể tin tưởng hoàn toàn nhỉ. Không sao, không tin thì không tin, chỉ cần huynh tình nguyện giúp tôi bận rộn là được.”

Tống Úc Chi ngạc nhiên nói: “Muội nhận định chắc chắn trong Lục phái có kẻ gian, nhưng không nghi ngờ ta, còn phó thác cùng thuyền với ta?”

Thái Chiêu cười khổ: “Tôi không nghi ngờ huynh, thậm chí cũng không nghi ngờ Tống Môn chủ, là vì tôi từng dò kinh mạch huynh, vết ngươi trên người do U Minh Hàn Khí dẫn tới đúng là không hết, không có Tử Ngọc Kim Quỳ tới chữa không được.”

“Nhưng Tử Ngọc Kim Quỳ đã biến mất trên nhân gian nhiều năm, lần cuối cùng thấy nó là lúc tôi còn bé. Nếu sau đó cô tôi phá hủy nó, hoặc là ném vào đại dương mênh mông không tìm được thì sao? Như vậy cảnh giới tu vi của Tam sư huynh đến đây chấm dứt. Nguy hiểm lớn vậy, huynh và cha huynh cũng sẽ không mạo hiểm.”

Tống Úc Chi trong lòng cười khổ, thầm nghĩ nàng tin tưởng Mộ Thanh Yến không chùn bước, còn niềm tin với ta thì cần những thứ phán đoán này.

Y ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Lúc đầu họ cố dùng U Minh Hàn Khí tổn thương ta, cũng là muốn mượn tay ta tìm Tử Ngọc Kim Quỳ chăng?” — nếu không vô duyên vô cớ, sao phải tìm một món bảo vật được cho là ‘Gân gà’ của Ma Giáo chủ.

Trong mắt Thái Chiêu tán thưởng: “Tam sư huynh cũng nghĩ đến. Không sai, tôi đoán người sau màn khổ sở tìm Tử Ngọc Kim Quỳ nhiều năm không có kết quả, không thể không khiến nhiều người hơn giúp gã tìm.”

Tống Úc Chi cau mày: “Trước đây không phải người trong Ma Giáo bảo Tử Ngọc Kim Quỳ là thứ gân gà, không quá hữu dụng sao. Sao kẻ sau màn cứ nhất quyết phải tìm nó?”

“Vì luyện Tử Vi Tâm Kinh ấy.” Thái Chiêu cười nói, nhìn thấy con ngươi Tống Úc Chi co rút một cái như ý nguyện.

Thái Chiêu nói tiếp, “Hơn trăm năm qua, Tử Vi Tâm Kinh bị Giáo chủ Ma Giáo các đời xem là cấm kỵ, cứng rắn cảnh cáo con cháu đời sau không được tu luyện. Nhưng không biết sao về già Nhiếp Hằng Thành có được bí quyết, sau khi tu luyện môn công pháp này đã giết chóc tứ phương. Đến ngày nay thông qua lời trăn trối của Lộ Thành Nam lúc lâm chung, bọn tôi biết được để luyện thành Tử Vi Tâm Kinh buộc phải có Tử Ngọc Kim Quỳ trợ giúp. Tôi đoán đây chính là mục đích của kẻ sau màn — hắn cũng muốn luyện Tử Vi Tâm Kinh!”

“Tam sư huynh, đây chính là chỗ tôi nhờ huynh giúp một tay. Tôi hy vọng huynh cho tôi xem quá những ghi chép của Doãn Lão tông chủ có liên quan đến Tử Vi Tâm Kinh một chút, vậy tôi mới lục ra được nhiều manh mối hơn.”

Ánh mắt Tống Úc Chi nặng nề: “…Sao muội cho rằng ông ngoại ta có liên quan tới tin tức của Tử Vi Tâm Kinh.”

Thái Chiêu nói: “Có hai nguyên nhân. Thứ nhất, Doãn Lão Tông chủ vốn dĩ tâm cơ trác tuyệt đa mưu túc trí nổi tiếng giang hồ, từ lúc ông ấy mới sơ bộ phát hiện Nhiếp Hằng Thành đang tu luyện dị công trở đi, trước sau mấy năm không ngừng tra xét ngoài sáng ngầm hỏi trong tối, không tiếc chôn tiễn đi một lượng đông đảo đệ tử Tông môn ưu tú, tôi không tin ông ấy không chút thu hoạch.”

Tống Úc Chi lạnh lùng nói: “Chiêu Chiêu quá khen, có lẽ ông ngoại đã không chút thu hoạch thật đấy.”

Thái Chiêu nói: “Thứ hai, ban đầu lúc cô tôi một mình lên Đồ Sơn, không ai biết kết quả sẽ thế nào. Xem như là người đứng đầu sáu tông, Doãn Lão Tông chủ phải làm ổn thỏa hơn đó là bố trí thêm người giúp, thiết kế thêm cơ quan cạm bẫy, cần trợ giúp cô tôi đánh chết Nhiếp Hằng Thành tại chỗ. Nhưng cứ thế mãi chẳng có, thậm chí còn ngăn sư phụ đi trước trợ giúp một tay, hình như ông ta đã chắc chắn, chỉ cần cô của tôi dốc toàn sức lực ứng phó lấy mạng ra đánh cược, nhất định có thể đánh chết Nhiếp Hằng Thành.”

“Bất kể có bao nhiêu người lên án Doãn Lão Tông chủ có tư tâm, nhưng không thể chối bỏ, rốt cuộc ông ấy hào kiệt một đời nắm chắc Bắc Thần trong tay mười mấy năm. Một khi cô tôi bị thua thảm, võ lâm chính đạo sẽ không còn ai có thể ngăn trở Nhiếp Hằng Thành, hậu quả thiết nghĩ không thể tưởng tượng nổi. Đại cuộc trước mặt, Doãn Lão Tông chủ không phải không biết nặng nhẹ.”

“Cô cô tôi từng nói, thứ công phu tà môn ấy Nhiếp Hằng Thành cuối cùng vẫn chưa luyện thành, nếu không cô cô sẽ bị thua mất mạng — có thể đây là kết luận sau khi bà đem tính mạng ra cược mới cho ra kết luận. Vậy sao Doãn Lão Tông chủ lại biết trước? Tôi đoán, ông ta đã tra ra được chút gì.”

“Bí mật cực lớn này, Doãn Lão Tông chủ chỉ có thể báo cho người trưởng nữ mình tin tưởng, chính là mẹ quá cố của Tam sư huynh, Thanh Liên phu nhân.”

“Tam sư huynh, kính nhờ.”

Tống Úc Chi thật lâu không nói, gió Tây tùy ý vù vù thổi cuốn lá rụng trên đất, như những con bướm khô bay lượn.

Hồi lâu, y mới nói: “…Ta biết Tử Vi Tâm Kinh, nhưng không biết đó chính là tà công mà Nhiếp Hằng Thành tu luyện, nếu không đã sớm báo cho sư phụ.”

“Bây giờ ta mới biết rằng năm ấy ông ngoại cũng biết bí mật Nhiếp Hằng Thành luyện tập tà công, nhưng không ai nói ra, mặc cho Thái nữ hiệp một mình đi liều mạng. Chiêu Chiêu, ta có lỗi.”

“Muội đi theo ta, ta sẽ kể hết cho muội.”

*

Đêm khuya, trại Phục Ngưu.

Tiếng trống gióng trước cửa trại, đánh nhau say sưa, bó đuốc chậu than đầy đất còn có vài đống cỏ tranh đang cháy, soi sáng đỉnh núi đen nghịt thành một thứ ánh sáng huyên náo quỷ dị.

Rầm, cách cửa trại bằng gỗ khổng lồ bị xô nứt ra một khe lớn, sau hai lần va chạm, cổng chính ầm vang vỡ vụn, mười mấy tên cao thủ giáp đen áo đen như quỷ mị giết vào, đám cướp ra sức chống cự, dù số lượng đông đảo nhưng thực lực chênh xa, thua trận là chuyện sớm muộn.

Nhị Đương gia giết đến mặt đầy máu, xét thấy tình hình không ổn vội vọt tới cạnh một đại hán vạm vỡ hô: “Đại ca, đám này thủ đoạn quá tàn ác, chúng ta không ngăn nổi, anh chạy mau!”

Đại hán vạm vỡ vừa vung cây đại đao chín lỗ, vừa quát: “Ta chạy còn các cậu thì sao? Đã nói đồng sinh cộng tử!”

“Hầy dà đại ca, anh cứ chạy mau đi!”

Trong thời gian nói hai ba câu, tiếng ai ôi bốn phía không ngừng, chân cụt tay đứt bay loạn, người trại Phục Ngưu càng đến càng ít, đám còn lại có thể động đậy dần dần bị áo đen giáp đen dồn lại một góc nhỏ.

Nhị Đương gia đằng hắng hô to: “Xin hỏi các vị hảo hán gia đây lai lịch thế nào, Phục Ngưu Trại chúng ta tự hỏi giữ khuôn phép, chưa từng dám vượt qua lãnh địa núi Phục Ngưu, không biết đã đắc tội các vị hảo hán gia này ở đâu!”

Phục Ngưu Trại là một trong rất nhiều sơn trại trong thiên hạ, xây dựa lưng vào núi, dọc dòng Hoàn Hà, chỉ là ăn cướp cản đường bình thường, ‘mua bán’ không lớn không nhỏ, đủ để có thể duy trì chi tiêu của sơn trại, không tàn bạo đến mức gian dâm cướp giật cả người lẫn vật không chừa, cũng không từ bi đến mức người ta nâng đao phản kháng cũng kiên quyết không tổn thương mạng người. Nhìn từ góc độ nào, Phục Ngưu Trại cũng chỉ là một tầm ngắm không đáng chú ý, không hiểu sao bị rước phải đám sát tinh này.

Đám áo đen giáp đen vây quanh phía trước tách ra như dòng nước, một nam tử đẹp trai cao gầy không nhanh không chậm đi tới, người mặc bộ trường bào chít hông chụp cổ tay màu đen, nom tầm chỉ trên dưới hai mươi, nhưng đám bộ hạ thân thủ hung hãn xung quanh đều cung cung kính kính, không có nửa phần tiếng vang.

Thanh niên cao giọng mở miệng: “Ta với quý trại không oán không thù, chỉ muốn tìm Đại Đương gia quý trại hỏi mấy câu, nhưng mấy lần ta đưa tin, gã ta đều bất cần lờ đi, thậm chí còn âm thầm sai người đưa vợ con đi. Bất đắc dĩ, ta mới không còn cách nào khác phải ra hạ sách này.”

Chúng phỉ Phục Ngưu Trại mới đầu ngây ra, ngay sau đó cùng nhìn về Lão Đại phía sau lưng.

“Tiết Hữu Phúc, ngươi nói gì đi?” Thanh niên nói.

Nhị Đương gia nghe xong vội nói: “Vị cao nhân này có phải nhầm gì không, Lão Đại chúng ta họ Tiết, nhưng tên anh ấy là Tiết Chính Sơn, không phải Tiết Hữu Phúc, anh ấy… Á…!”

Chỉ thấy một thư sinh bảnh bao bên cạnh thanh niên huyền y đạp dưới chân một cái, đá một viên sỏi nhỏ tới huyệt vị chính giữa trán Nhị Đương gia, Nhị Đương gia lập tức ngã xuống đất cái rầm, ngất đi.

Chúng phỉ chấn kinh, Tam Đương gia xưa nay tàn nhẫn cả giận nói: “Lão Đại, anh em chúng ta vì anh mà chiến đấu đến mức này, cũng coi như xứng với anh, anh cũng nên nói một câu chứ!”

Ai ngờ Đại Đương gia vẫn kiên định nói: “Ta là Tiết Chính Sơn, không biết Tiết Hữu Phúc gì đó, các người nhầm rồi.”

Thanh niên huyền y không nói gì thêm, nghiêng đầu liếc mắt sang bên một cái, thư sinh thanh tú bên cạnh lập tức sai người dẫn đến một bà già quần áo thô thiển tầm thường. Bà già mặt đầy nếp nhăn sầu khổ, ánh mắt đục ngầu, trên đầu lại gắm rất nhiều hoa cỏ sặc sỡ.

Bà vừa thấy Tiết Chính Sơn liền hét rầm lên, “Chính là nó, chính là nó! Nó chính là Tiết Hữu Phúc cẩu tạp chủng thôn Thoái Thạch! Nó đã hại cả nhà của ta, hóa ra tro ta cũng nhận ra!”

Đại Đương gia nhìn bà già cười lạnh, ánh mắt oán độc: “Đây không phải Tam Cô nhà trưởng thôn ư, đáng lý ta phải làm thịt ngươi lâu rồi, nhưng mà nhìn đám cô tẩu bọn ngươi tiếp khách bao năm, mới không ra tay đấy!”

Bà già chỉ ước gì có thể nhào tới xé da thịt gã, lại bị Du Quan Nguyệt sai người dẫn xuống trước một bước, miệng chửi ‘Đồ chó’ đầy thê lương không dứt bên tai.

Mộ Thanh Yến bước lên một bước: “Tiết Đại Đương gia, muốn nhân chứng khác nữa hử.”

Tiết Hữu Phúc ngước mặt đầy máu: “Không sai, ta chính là Tiết Hữu Phúc thôn Toái Thạch, cái tên Tiết Chính Sơn này là anh ấy đặt cho ta. Ta vừa thấy mặt cậu đã biết cậu là ai, cậu và anh ấy, nhìn giống nhau như đúc.”

Mộ Thanh Yến thản nhiên nói, “Sao phải lộn xộn đến mức này chứ, chẳng qua ta chỉ muốn hỏi đôi câu thôi.”

Tiết Hữu Phúc cười lạnh: “Cậu muốn giết cứ giết, dù có hỏi bất kỳ câu nào, ta cũng chỉ hai chữ ‘không biết’. Ta đã nhận lời anh ấy, vĩnh viễn không tiết lộ chuyện quá khứ của anh ấy. Có bản lĩnh thì rút gân lột da ta, ông đây nhăn mày một cái, chữ Tiết viết ngược là xong!”

Mộ Thanh Yến nói: “Rút gân lột da tốn sức quá, ta chỉ hỏi thôi. Lần thứ nhất ta hỏi ngươi ‘có đáp hay không’, nếu ngươi không chịu, ta giết Nhị Đương gia kết bái chi giao này của ngươi.”

Nhị Đương gia vẫn hôn mê, nằm trên đất không nhúc nhích.

Tiết Hữu Phúc mạnh miệng: “Chúng ta hành nghề liếm máu trên lưỡi đao, sống chết là chuyện thường tình, đến chừng đó ta chết theo anh em!”

Mộ Thanh Yến nói tiếp: “Lần thứ hai ta hỏi, nếu ngươi còn không chịu đáp, ta làm thịt mấy mươi huynh đệ từ trên xuống dưới Phục Ngưu Trại này của ngươi.”

Đám cướp co rúm lại bên nhau, Tam Đương gia la lên: “Lão Đại hợp tác chút đi, cũng chỉ trả lời mấy câu thôi mà, anh em ta đã theo anh vào sinh ra tử mười mấy năm đó!” — gã nắm chặt cương đao, thầm nghĩ lát nữa sẽ dùng cách nào bắt Lão Đại, dâng tặng đám sát tinh này.

Tiết Hữu Phúc cười lạnh, không đáp lời.

Mộ Thanh Yến nói: “Lần thứ ba ta hỏi ngươi còn không đáp, ta sẽ đưa mười mấy miệng già trẻ nhà ngươi xuống trước tìm đường cho ngươi…”

Lời còn chưa dứt, Du Quan Nguyệt đã sai người ép một đám đàn bà trẻ con bộ dáng vật vã đi tới, đương nhiên đó là gia quyến mà Tiết Hữu Phúc sớm đưa ra ngoài. Dưới ánh đao nhọn sáng loáng, mấy đứa bé nhỏ líu ríu khóc thút thít.

Gương mặt thịt Tiết Hữu Phúc run run không dừng, sau một lúc nhẫn nhịn, khó nhọc nói: “Cùng lắm thì cả nhà chúng ta cùng lên đường, xem như cả nhà đoàn viên.”

“Hay lắm! Thật kiên cường.” Mộ Thanh Yến khen, “Mời lão phu nhân lên.”

Một bà lão ngơ ngơ ngẩn ngẩn được đỡ lên, tuy tóc đã hoa râm nhưng lờ mờ có thể thấy nét tú lệ lúc trẻ giữa hàng mày.

Mộ Thanh Yến nói: “Thật ra ngươi rất hiếu thuận, biết trại Phục Ngưu đã bị để mắt, bèn cố ý dùng thê thiếp con nhỏ ngụy trang, công khai tiễn đưa họ từ sớm, song lại âm thầm phái tâm phúc khác hộ tống mẹ già sang nơi khác.”

Tiết Hữu Phúc vừa thấy bà lão, mắt đỏ kè, lạc giọng gọi: “Mẹ!”

Mộ Thanh Yến nói: “Tiết Đại Đương gia, trước tiên để ta nói ba chuyện. Thứ nhất, người mà ngươi giữ lời hứa kia đã chết, ngươi nói hay không cũng sẽ không tổn hại đến họ. Thứ hai, ông ta chết không rõ ràng, đến nay còn chưa biết di cốt ở phương nào, nếu ngươi chịu trả lời câu hỏi của ta cho đường hoàng, có lẽ có thể giúp ông ấy sớm ngày yên bình về đất mẹ. Thứ ba, mẹ ngươi chịu khổ vì ngươi nhiều thế, ngươi nhẫn tâm để bà ấy chết oan chết uổng ư.”

Tiết Hữu Phúc hết kìm nổi, liều mạng định thoát khỏi vòng vây đi đỡ bà lão, nhưng vẫn bị người giáp đen hùng hổ ngăn lại.

Gã rối rắm lăn lộn trong lòng, sau một lúc lâu chán nản cúi đầu, khàn giọng nói: “Cậu đừng làm khó mẹ ta, ta sẽ nói tất cả cho cậu.”

Mộ Thanh Yến gật gù, một đám áo đen giáp đen theo thứ tự lần lượt tản ra vây quanh.

Tam Đương gia nhẹ thở phảo, cười ha hả: “Ôi chao đúng đó, đại danh thần giáo như sấm bên tai, đến cả cái trại tồi tàn hẻo lánh này của chúng ta cũng nghe nói ít nhiều, thật chẳng ngờ là hai nhà sớm có mối quan hệ sâu xa… Á…!”

Không chờ gã nói xong, tay trái Mộ Thanh Yến đã giơ lên lắc cổ tay cách không khí chặt xuống, tiếng cười Tam Đương gia dừng bặt.

Ngắn ngủi sau nửa tiếng kêu thảm, nửa bên đầu của gã đã không còn, nửa bên xác kia còn ngẩn ra quỳ rớt xuống đất, từ từ tê liệt thành bùn nhão chảy xuống, óc phọt ra và máu tươi bốc lên mùi tanh nồng nóng hổi.

Trăng lạnh, đêm lạnh, máu và thi thể đầy đất, còn có một nửa cái xác tàn mất nửa đầu.

Ngoại trừ đám giáp đen vốn dĩ đã im ắng, đám cướp trong tích tắc cũng câm như hến, chỉ có mấy đứa bé bị hù hu hu thút thít, bị mấy phụ nữ bên cạnh cuống quýt bịt miệng.

Tiết Hữu Phúc cắn răng nói: “Cậu không cần ra oai phủ đầu với ta, ta biết thần giáo mấy người thủ đoạn lợi hại. Đã nhận lời, tự ta sẽ thành thành thật thật trả lời, không giả vờ nửa chữ!”

Mộ Thanh Yến cúi đầu vặn vặn cổ tay mình, “Tiết Đại Đương gia là người hiểu chuyện.”

Chúng phỉ bị đám giáp đen theo thứ tự áp giải đi, Du Quan Nguyệt cũng đưa bà lão khờ khạo ngơ ngẩn và đám đàn bà trẻ nít còn lại về phòng sưởi ấm, dọn dẹp ra một gian phòng u tĩnh để Mộ Thanh Yến tra hỏi.

Tiết Hữu Phúc được phong bế mấy đại huyệt trên người, đ è xuống ngồi vào một chiếc ghế gỗ thấp, nhìn lên Mộ Thanh Yến bình tĩnh nhàn nhã ngồi ở ghế trên, “Cậu… Mộ Giáo chủ, đã tới thôn Toái Thạch?”

“Đã tới, hoang vu một vùng, trong bụi cỏ còn có mấy bộ xương trắng.” Mộ Thanh Yến nói, “Hẳn là ngươi và Mộ Chính Dương ra tay.”

Nghe đến cái tên này, Tiết Hữu Phúc buồn vô cớ, “Thoắt cái đã mấy mươi năm, ta sớm đoán Chính Dương ca xảy ra chuyện, không thì chẳng lâu vậy rồi mà anh ấy chưa tới gặp ta.”

Ánh đèn lờ mờ, mấy hạt bụi dưới bóng sáng vàng nhạt hắt lên gương mặt thanh niên tuấn tú, vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, gã chợt thấy hoảng hốt, như người xưa sống lại.

“Mộ Giáo chủ muốn hỏi gì?”

“Còn chưa nghĩ ra, Tiết Đại Đương gia không ngại thì kể lại từ đầu, tạm thời ôn chuyện đi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 122-2


*

Thôn Toái Thạch là một nơi rất vắng vẻ hoang vu, đất đai cằn cỗi, nguồn nước thưa thớt, cả thôn tổng cộng chỉ mười mấy hộ, dựa vào vài mẫu đất cằn và một vùng núi hoang đầy dã thú sống qua ngày.

Trong thôn có hai đứa trẻ vô cùng không được ưa thích, lớn gọi Sao Tai Họa, nhỏ hơn một tuổi là tên Chó Lộn Giống* kia.

(*) Cẩu Tạp Chủng, đây cũng là tên của nam chính trong bộ Hiệp Khách Hành (Kim Dung)

Sao Tai Họa cũng không phải là trẻ con bổn thôn, mà bị tên ăn mày năm nào đấy đi ngang qua vứt lại, vợ chồng Quách Tam Vượng cuối thôn nhiều năm không có con, dứt khoát nhặt về nuôi. Ai ngờ năm sau vợ chồng Quách Tam Vượng tự sinh được đứa con, từ đó không đánh thì mắng Sao Tai Họa, cực kỳ hà khắc. Trẻ ranh trong thôn cũng thích khi dễ nó, thường vừa chọi đá, vừa chế ca dao giễu cợt nó.

Nhưng tính nết Sao Tai Họa quật cường kiệt ngạo, không chịu thua nửa câu, có bị đánh đến máu me đầu đầy cũng không khóc một tiếng.

Sao Tai Họa ngay từ đầu đã là Sao Tai Họa, nhưng Chó Lộn Giống cũng không phải là chó lộn giống từ đầu.

Mới đầu, nó tên là Phúc Bảo.

Phúc Bảo có người cha là thợ săn có khả năng nhất trong thôn, với bản lĩnh đó, trong nhà từng sống khá sung túc. Mẹ Phúc Bảo là một phụ nữ yếu đuối hiền lành xinh đẹp, thường tiếp tế cho già yếu nghèo khổ trong thôn.

Mùa đông khắc nghiệt, nước đóng thành băng, bà nhìn thấy Sao Tai Họa mới ba bốn tuổi bị vợ chồng Quách thị xô đẩy ra ngoài múc nước, đau lòng ôm đứa bé che chở vào lòng, nấu canh nấu cháo cho nó, về sau cũng thường xuyên săn sóc.

Tuổi thơ sung túc hạnh phúc của Phúc Bảo kết thúc vào cái năm tám tuổi, cha bị té chết trên đường lên núi đi săn, gia cảnh rớt xuống ngàn trượng.

Lúc đầu, Tiết nương tử mẹ Phúc Bảo còn có thể dựa vào việc may vá giặt giũ cho người trong thôn miễn cưỡng sống qua ngày, nào ngờ cha con thôn trưởng không bằng cầm thú lấy cớ gọi mẹ Phúc Bảo tới nhà thêu giày, thừa cơ khinh nhục bà, sau đó còn đắc ý dào dạt rêu rao khắp thôn, bảo rằng mẹ Phúc Bảo vì tiền câu dẫn chúng.

Từ đó, mẹ Phúc Bảo trở thành một mụ đàn bà dâm đãng ai ai cũng có thể làm nhục, Phúc Bảo cũng thành tên Chó Lộn Giống, trẻ ranh trong thôn thích cướp ăn hiếp nó. Mỗi lúc như thế, Sao Tai Họa chạy ra ngăn lại.

Một Sao Tai Họa chín tuổi, trong thôn đã không còn đứa bé nào dám khi dễ nó. Dù nó gầy như gậy trúc, nhưng vóc cao, sức tay lớn, ném đá vừa chuẩn vừa hung ác, đánh đấm chưa từng thua trận, ánh mắt nó y như sói đói, ngay cả đàn ông trưởng thành bắt gặp còn phải kinh hãi, vợ chồng Quách thị cũng không dám khắt khe, khe khắt nó quá mức.

Có Sao Tai Họa bảo vệ, cuộc sống Chó Lộn Giống thoáng khá hơn chút.

Nhưng mà phụ nữ trong thôn đã không còn muốn đưa việc cho Tiết Nương tử mẹ nó, đàn ông trong thôn thì rào rào muốn thử, sơn thôn bế tắc, cũng không còn cách mưu sinh khác, người đàn bà nhu nhược ấy đã mấy lần nghĩ đến cái chết nhưng vì con nhỏ mà phải nhẫn nhịn, từ đó trở thành gái điếm* trong thôn.

(*) 半开门, mở nửa cửa, từ cũ chỉ gái điếm

Đám trẻ ranh đánh không lại Sao Tai Họa, bèn chua ngoa ác độc nói móc Chó Lộn Giống.

“Chó Lộn Giống, hôm qua là ai làm cha ngươi thế?”

“Vừa rồi tao thấy ba người Tiền đại thúc vào nhà nó đấy, ôi, một tí kiếm chác được ba phần, đêm nay Chó Lộn Giống có thể ăn thịt rồi!”

“Cha tao nói mẹ nó da thịt nhão nhoét rồi, như cái bao bố rách bươm, không đáng giá!”

“Mẹ nó là đồ rách bươm mà, ha ha a ha ha…”

Hai đứa bé bóp đến lòng bàn tay bật máu, khóc thành biển nước mắt, thế đạo thảm khốc tàn nhẫn này cũng chẳng thay đổi nửa phần.

Cũng may thời gian là phương thuốc tốt nhất, hai cậu bé dần lớn lên.

Lúc Sao Tai Họa đến tuổi mười hai tuổi, thân người cao ngất, làn da trắng trẻo, xương cốt thon dài, khuôn mặt xinh đẹp không tưởng, có mù cũng nhìn ra rằng hắn hoàn toàn khác biệt với đám thôn dân tay chân thô kệch kia.

Sao Tai Họa cũng muốn biết lai lịch mình, hắn dồn ép hỏi vợ chồng Quách thị nhiều lần, lúc đấy vợ chồng Quách thị đã không dám ăn hiếp hắn, đành nói thật, là một vị phu nhân xinh đẹp quần áo bất phàm bỏ hắn lại nơi này.

Vợ chồng Quách thị kể người phụ nữ ấy đẹp như tiên trên trời, nhưng lạnh lùng như băng oán khí đầy bụng. Nàng ta tìm được chốn sơn thôn hoang vu bậc nhất này, thăm dò được vợ chồng Quách thị mãi không thể có con, mới đưa đứa con hai tuổi tới, còn nói cha của đứa bé là một người vô hạnh bạc bẽo cực kỳ trong thiên hạ.

Sau đó phu nhân xinh đẹp chưa từng xuất hiện nữa, vợ chồng Quách thị đoán rằng nàng ta hẳn là một tiểu thư nhà đại gia nào đó, bị đàn ông lừa lấy tấm thân, mới tìm chốn thâm sơn cùng cốc ném đứa con riêng đi như ném một túi đồ.

Chờ mong và ảo tưởng không làm ra cơm ăn, Tiết nương tử vì bị tra tấn đến ngây ngây ngốc ngốc, Sao Tai Họa và Chó Lộn Giống tuổi còn nhỏ đã mò mẫm lên trấn trên làm lao công. Do tướng mạo quá nổi trội, Sao Tai Họa phải nhẫn nhịn với mấy ác bá có đam mê cổ quái trên trấn.

Liều sống liều chết làm hai ba năm, vất vả lắm mới để dành được chút tiền, đang lúc bọn hắn định đón Tiết nương tử lên trấn trên ở thì, một hôm, ở dòng suối nhỏ cạnh chân núi bọn hắn cứu được một vị khách giang hồ đang thoi thóp.

Lúc đầu Chó Lộn Giống không muốn xen vào việc người khác, tâm địa thiếu niên đã hóa lạnh lẽo, năm đó mẹ hắn đã giúp nhiều người thế mà chưa từng có một ai thương hại cô nhi quả mẫu họ.

Nhưng Sao Tai Họa lại nói phối sức trên người vị khách giang hồ kia rất lộng lẫy, dĩ nhiên xuất thân bất phàm, nếu cứu sống có thể bọn hắn sẽ nhận chút phần thưởng, nói không chừng còn có mối cơ duyên khác, nếu chết thì cứ lột sạch tiền của trên người hắn ta.

Xưa nay Chó Lộn Giống chỉ luôn nghe lời mỗi Sao Tai Họa, dĩ nhiên đồng ý.

Hai thiếu niên tốn hết sức chín trâu hai hổ làm vị khách giang hồ kia tỉnh lại, ai ngờ vị khách giang hồ chỉ nói hai câu đã chết thẳng cẳng.

“Đại, Đại công tử? Sao người lại ở đây?!” Vị khách giang hồ sốt cao chưa tỉnh táo hoàn toàn, “Đại công tử ngài là thân ngàn vàng, mau, mau về đi, đừng để đám cún con Bắc Thần bắt được, nếu không chấn động cả Thần giáo đấy!”

— chính là hai câu này, đã thay đổi cả một đời hai thiếu niên.

Bắc Thần Lục phái danh chấn vòm trời, đứng đầu thiên hạ võ lâm chính đạo, hai thiếu niên trong lúc làm việc trên trấn từng nghe qua câu chuyện của họ. Đó là một thế giới y hương tấn ảnh* thần diệu, ngự kiếm bay lên trời, ân cừu khoái ý, một trời một vực với nơi hẻo lánh nghèo khổ bọn hắn.

(*) ví với hình ảnh đẹp đẽ của phụ nữ.

Sao Tai Họa nhạy bén lạ thường, từ hai câu ngắn ngủi này hắn suy đoán ra mấy tin tức.

Đầu tiên, có một vị ‘Đại công tử’ giống mình như đúc;

Tiếp theo, địa vị của vị ‘Đại công tử’ ấy vô cùng tôn quý, một khi xảy ra chuyện, ‘Thần giáo’ sẽ chấn động;

Cộng thêm, ‘Đại công tử’ là thế lực đối nghịch với Bắc Thần Lục phái.

Sao Tai Họa kìm lòng tham tiền của quý giá, không đụng đến một xu trên người khách giang hồ, mà thả cái xác theo hạ du, thuận theo dòng sông Hộ Thành chảy tới tiểu trấn bên cạnh, thi thể bị nghĩa trang thu lấy.

Ngay sau đó, trên trấn xuất hiện một đám người áo xám đeo mặt nạ khí thế kinh người, bọn chúng vào nghĩa trang mang thi thể kia đi, còn thưởng trên dưới nghĩa trang một đống bạc lớn.

Sao Tai Họa lập tức đến hỏi tạp vụ nghĩa trang mình quen biết, biết đám kia trong lúc chọn mua lương khô quần áo từng nhắc tới, sẽ về U Minh hoàng đạo — đó chính là nơi ở của Ma giáo.

Trong lòng Sao Tai Họa chực nảy cơn kích động, định đi dãy Hãn Hải xem sao.

Chó Lộn Giống cảm thấy, chỉ với hai câu nói của một người sắp chết mà quyết định đi tổng đàn Ma Giáo yêu ma khắp nơi trong truyền thuyết kia quả là quá hung hiểm, thế là đau khổ thuyết phục Sao Tai Họa không nên vọng động.

Sao Tai Họa giờ mới thổ lộ, thật ra hắn còn có chút ký ức về chuyện hồi hai ba tuổi ấy.

Hắn mơ mơ hồ hồ nhớ có một đứa bé lớn lên cùng mình, khi ăn cơm bọn họ có người đút, khóc có người dỗ, trên giày đầu hổ có khảm hạt châu thật to, có lục lạc lóe ánh bạc từ đỉnh đầu thả xuống, có chuông gió bằng ngọc đẹp treo dưới mái hiên leng ka leng keng. Nằm trên chiếc giường mềm đùa giỡn, lỡ bất cẩn lăn té xuống sẽ có một đám người tranh nhau tới ôm họ…

“Dù thế nào, ta cũng phải mau chóng đến xem thử! Chết cũng được, tay không một chuyến cũng được, ta nhất định phải đi thử! Ta không thể chết héo cả đời này ở nơi thâm sơn cùng cốc!” Ngữ điệu thiếu niên cao gầy quần áo rách mướp đầy kiên định, bùn đất đen bẩn cũng không che giấu được vẻ đẹp kinh người của hắn.

Chó Lộn Giống chỉ có thể đồng ý.

“Phúc Bảo, chờ ta về, sẽ cho cậu và mẹ nuôi một căn nhà lớn, mặc lụa Lăng La, ngày ngày gà vịt thịt cá!”

Đây là câu nói sau cùng trước khi Sao Tai Họa đi.

Lần này đi, là ba năm.

*

Ánh đèn tối dần, Mộ Thanh Yến đứng dậy đổi một ngọn đèn dầu thô.

“Lúc ra đi Chính Dương ca vẫn chưa tới mười lăm, đường đến dãy Hãn Hải xa xôi, trên người anh ấy cũng chẳng có bao nhiêu tiền, không biết sống thế nào.” Tiết Hữu Phúc thở dài, “Sau này ta hỏi Chính Dương ca, anh ấy chẳng nói gì. Anh ấy không còn giống lúc nhỏ, không gì không kể cho ta nữa rồi — Chính Dương ca ở chỗ các người sống tốt chứ?”

Mộ Thanh Yến không trả lời, ngược lại hỏi: “Ba năm sau khi ông ta quay về, giết tất cả người trong thôn à?”

Tiết Hữu Phúc lại thở dài, “…Thật ra sau khi Chính Dương ca đi nửa năm, bỗng có một đám người xuất hiện trong thôn, đón vợ chồng Quách thị và mấy nhà xóm giềng gần bên đi, mấy tháng sau mới quay về. Sau này ta mới biết, người đón đi là của Nhiếp Hằng Thành.”

*

Chuyện này ban đầu Tiết Hữu Phúc cũng không để ý, lúc ấy vì để mẹ sống dư dả chút, gã bận rộn làm công khắp nơi để kiếm tiền. Thật lâu sau gã mới nghe phong thanh, bảo mấy hộ trước đây bị đón đi đều phát tài lớn. Nhưng cho dù đám hàng xóm hỏi thế nào, họ cũng không dám hé ra nửa chữ.

Lại qua hơn hai năm, một hôm nọ Tiết Hữu Phúc làm công trên trấn xong, đau lưng về nhà nấu nước nấu cháo, hầu hạ mẹ già ăn cơm đi ngủ, rồi chuẩn bị lương khô cho ngày hôm sau để mẹ già ăn đỡ đói khi mình không có ở nhà. đọc ở homeintree.com để ủng hộ chủ nhà nhe.

Thiếu niên mười bảy tuổi kế thừa thể trạng người thợ săn cha hắn, cao lớn vạm vỡ, sức lớn vô cùng. Ban đầu gã cũng định làm nghề cũ của cha, buôn bán hàng da xương thú nhanh kiếm tiền. Nhưng Tiết nương tử đã hóa ngây dại chỉ cần vừa nghe đến chữ như ‘lên núi đi săn’ sẽ điên điên khùng khùng khóc rống, Tiết Hữu Phúc đành thôi.

Đêm khuya trăng treo ngọn cây, từ cửa sổ hắn nhìn thấy trên không trung hướng cuối thôn xa xa có ánh sáng đỏ rực và khói đen — căn nhà tranh họ Tiết trùng hợp ở hơi nghiêng về phía giữa thôn Toái Thạch, không thì năm ấy Tiết nương tử cũng sẽ không gặp được cậu bé Mộ Chính Dương từ cuối thôn tới múc nước.

Tiết Hữu Phúc lập tức xoay người xuống giường chạy đến cuối thôn, đập vào mắt là một biển máu đáng giật mình, hơi nóng nhà cháy phả ra, nam nữ chủ nhân mấy hộ cạnh nhà họ Quách toàn bộ nằm trong vũng máu, thi thể không phải lưỡi bị cắt thì cằm bị gọt, tay chân cụt thừa lại rải rác, để lại con nít mếu máo đầy đất.

Tiết Hữu Phúc thầm giật mình, thẳng đến nhà họ Quách.

Chỉ thấy vợ chồng Quách Tam Vượng đều bị chặt đứt tứ chi, đóng đinh sống lên một khúc tường, đứa con một bảo bối Quách Đại Bảo ngã dưới đất, đầu một nơi thân một nẻo.

Tiết Hữu Phúc biết rõ vợ chồng Quách thị yêu thương đứa con trai này cỡ nào, ăn mặc đều trội hơn thiếu gia nhà ông chủ giàu có trong thành.

Nhớ một ngày lạnh lẽo nọ năm gã sáu tuổi, Tiết nương tử nhiều luộc hai quả trứng gà nóng, bảo con trai lén đưa qua cho Mộ Chính Dương ăn. Lúc cậu bé Tiết Hữu Phúc đi đến cửa nhà họ Quách, nhìn thấy Mộ Chính Dương mặc một bộ áo mỏng rách rưới, rét run trong gió, đói đến gần như đứng không vững, vợ chồng Quách thị chế nhạo giội cho hắn một bát canh thiu. Mà cùng lúc đó, Quách Đại Bảo mặc ấm bảnh bao, đang ngồi trên giường gặm đùi gà kho.

Đứng sau phòng là một nam tử trẻ tuổi thân hình cao lớn đứng thẳng, cầm trong tay một thanh trường kiếm máu tươi chảy xuống. Hắn xoay người lại, Tiết Hữu Phúc nhìn thấy mặt hắn, ngạc nhiên nhào tới: “Đại ca!”

Đến gần, gã mới phát hiện một bên cần cổ thon dài của Mộ Chính Dương bị đóng một ấn ký hình hoa diên vĩ dữ tợn đỏ tươi, gã run rẩy sờ lên, “Chúng, bọn chúng lấy bàn ủi bỏng anh sao? Bọn chúng tra tấn anh sao?!”

Xa cách ba năm, thiếu niên tiều tụy nghèo khổ ngày xưa đã thành một thanh niên đẹp trai áo quần áo danh giá.

“Phúc Bảo, ta đã về.” Mộ Chính Dương mỉm cười, lắc lắc cổ tay giũ máu khỏi mũi kiếm, thu kiếm vào vỏ, “Chúng ta có oán báo oán, có thù báo thù.”

Tiết Hữu Phúc thế mới biết tình cảnh bấy giờ của Mộ Chính Dương, dù đã ngàn cay vạn đắng mò tới dãy Hãn Hãi, lại bị người ta xem là tên giả mạo, hiện may mắn giữ lại cái mạng nhưng không lấy được chính danh.

Khung giường trong phòng lật ra, lộ ra hai lỗ hang bằng gạch chôn giấu vàng bạc.

Mộ Chính Dương chỉ vào cửa hang thứ nhất, bên trong có mười nén bạc trắng tròn trĩnh xếp ngay ngắn, “Đây là tiền thưởng nhiều năm trước hai bọn chúng bán ta.”

Hắn lại chỉ vào cửa hang thứ hai chất đống vàng bạc châu ngọc, “Đây là châu báu mười mấy năm trước mẹ ta để lại cho chúng.”

Tiết Hữu Phúc nhìn trợn mắt hốc mồm, không tính số bạc, mà đống châu báu kia chỉ cần lấy ra một hai món cũng đủ để nuôi sống mười đứa nhỏ nhà quê rồi, mà vợ chồng Quách thị lại ngược đãi Mộ Chính Dương như vậy.

Mộ Chính Dương rút một thanh đoản đao sáng ngời từ bên hông, trịnh trọng ném vào trong tay Tiết Hữu Phúc, “Phúc Bảo, thế đạo này đen như mực, cậu vốn dĩ chẳng phân biệt nổi mình đang ở nhân gian hay là địa phủ. Không có thần phật ông trời cho chúng ta công đạo, chúng ta chỉ có thể tự tìm công đạo cho mình. Những kẻ từng khi dễ mẹ nuôi, dù là nam hay nữ, một kẻ chúng ta cũng không buông tha.”

Tiết Hữu Phúc ngước lên, nhìn cặp mắt đẹp tàn khốc đầy màu máu kia, oán hận nhiều năm chôn sâu tận đáy lòng trào lên, thế là gã một mực cầm đoản đao…

*

“… Sau đó hai người đã giết sạch cả thôn.” Mộ Thanh Yến nhẹ khều tim đèn.

Tiết Hữu Phúc lắc đầu: “Chỉ giết những kẻ từng sỉ nhục mẹ ta thôi, và đám súc vật vong ân phụ nghĩa. Sau đó chúng ta thả một mồi lửa, đốt sạch cả thôn, Chính Dương ca rải mấy bao tải rắn trùng sâu kiến ra đồng ruộng. Thôn Toái Thạch không còn người có thể ở lại, ai không chết chỉ đành chạy trốn.”

Mộ Thanh Yến cực kỳ kiên nhẫn, “Sau đó thì sao? Mộ Chính Dương có tính toán gì.”

Tiết Hữu Phúc lắc đầu, “Chính Dương ca nói tai mắt Nhiếp Hằng Thành đông đảo, anh ấy và ta không thể gặp mặt thường xuyên tránh hại đến mẹ con chúng ta. Anh ấy cho ta rất nhiều bạc, đổi lại tên cho ta, còn tìm một sư phụ tính tình nhân hậu bảo ta bái làm thầy, học lấy căn cơ. Căn cốt ta không tốt, không bắt chước được võ nghệ học thượng thừa, chỉ có thể luyện chút công phu bên ngoài. Chính Dương dựa theo tư chất của ta, lựa chút tâm pháp nội công thích hợp ghi vào quyển sách, chỉ điểm ta tu luyện.”

Mộ Thanh Yến hỏi: “Cho nên, Mộ Chính Dương rất căm hận Nhiếp Hằng Thành? Tuyệt đối không thể ra sức cho lão ấy?”

Tiết Hữu Phúc bật cười: “Ra sức cho Nhiếp Hằng Thành? Sao có thể, Chính Dương ca nằm mơ cũng muốn ăn tươi Nhiếp Hằng Thành, sau đó đoạt lại cơ nghiệp Mộ thị.” Sắc mặt gã ảm đạm, “Đáng tiếc chẳng những Nhiếp Hằng Thành có đám săn, tu vi bản thân cũng bậc nhất thiên hạ. Nhìn thế nào, thế lực của đám Nhiếp cũng như tấm sắt, kim châm không vào nước chảy không lọt.”

Mộ Thanh Yến cau mày đi một vòng trong phòng, như đang vỡ ra chuyện gì.

Sau khi đứng lại hắn nói: “Tiết Đương gia, mời kểtiếp.”

Tiết Hữu Phúc nói: “Mấy năm sau đó, mãi đến lúc Chính Dương ca mất tích, chúng ta tổng cộng gặp mặt bốn lần trong bóng tối.”

“Lần thứ nhất, là ba năm sau khi võ nghệ ta tạm thành, lôi kéo mười mấy người xây dựng cái trại nhỏ ở núi Phục Ngưu này. Đêm khuya Chính Dương ca xách rượu đến chúc mừng ta, chúng ta lên mái nhà nâng ly một trận. Đêm đó Chính Dương ca rất vui vẻ, bảo rốt cuộc anh ấy đã tìm được cách có thể đánh bại Nhiếp Hằng Thành. Nếu kế sách thành công, chẳng những Nhiếp Hằng Thành mà toàn bộ thế lực họ Nhiếp sẽ sụp đổ, mà anh ấy cũng có thể đoạt lại Thần giáo, nhất thống thiên hạ, ghi tên sử sách.”

Mộ Thanh Yến nhíu đỉnh mày, “Ông ấy không nói là cách gì à?”

“Không nói.” Tiết Hữu Phúc lắc đầu, “Chính Dương ca nói, dù gian nan chừng nào, anh ấy cũng sẽ triển khai kế sách thuận lợi xuống.”

Gã nói tiếp, “Lần thứ hai gặp mặt là hai năm sau, một đêm nọ, bỗng dưng Chính Dương ca bưng một chiếc hộp thủy tinh đến, trong ấy là gốc Tuyết Linh chi mơn mởn tươi non.”

“Tuyết Linh chi?” Tim Mộ Thanh Yến khẽ động, “Vật quý giá này chỉ sinh trưởng trên đỉnh núi tuyết ít người lui tới, cần rời khỏi Tuyết Vực, chưa đến mười ngày liền sẽ tàn lụi khô héo.”

Tiết Hữu Phúc nói: “Đúng, Chính Dương ca nói Tuyết Linh chi đó vạn vàng khó đổi, trước đó trùng hợp thay anh ấy có việc lên núi tuyết, thuận tay hái về bồi bổ cơ thể yếu kém của mẹ ta.”

Khóe miệng Mộ Thanh Yến nở nụ cười mỉm — hay lắm, chuyện đã kết nối.

“Ngoài đưa Tuyết Linh chi, ông ấy còn nói gì.”

Tiết Hữu Phúc nói: “Lần ấy trở về Chính Dương ca vui vẻ nhất, lôi ta uống mười mấy vò rượu, cười bảo… bảo anh ấy đã gặp được một cô nương có thể đồng sinh cộng tử, chẳng những có xuất thân tốt, nhân phẩm tốt, mà tính tình hòa khí, thích nói thích cười. Mai này Nhiếp Hằng Thành gặp Diêm Vương gia, anh ấy sẽ đưa cô nương ấy đến gặp mẹ ta.”

“Ta lo cô nương kia sẽ xem thường mẹ ta. Chính Dương ca lại nói tuyệt đối không đâu, đó là một cô nương cực kỳ tốt đẹp trên đời, tâm địa sạch sẽ như bầu trời xanh. A đúng rồi, cô nương đó tên cái gì ‘Tiểu Thục’. Ừm, dù nghe nói con gái Ma… Thần giáo đều rất hung dữ tàn nhẫn phách lối, nhưng nghe cái tên này đúng là một hiền lành thục nữ rồi.” — trực giác gã cho rằng người yêu Mộ Chính Dương hẳn là cũng xuất thân Ly Giáo.

Trên mặt Mộ Thanh Yến nổi lên vẻ cổ quái, “Mộ Chính Dương thật lòng thích cô nương ấy?”

“Đương nhiên.”

“Không phải hư tình giả ý?”

“Chính Dương ca ước gì có thể móc tim gan ra cho nàng ấy kia!”

Mộ Thanh Yến lại hỏi một lần nữa: “Mộ Chính Dương chưa từng lợi dụng cô nương ấy?”

Lần này Tiết Hữu Phúc lưỡng lự, “Chuyện này… lần thứ ba ta gặp Chính Dương ca, là hơn một năm sau. Lần đó Chính Dương ca có phần thất hồn lạc phách, anh ấy nói… anh ấy nói…”

Gã chần chừ ngó Mộ Thanh Yến, Mộ Thanh Yến lạnh lùng nói: “Tiết Đại Đương gia, người đã qua đời, có gì không ngại cứ nói hết ra, hai ta mới không mất hòa khí.”

Tiết Hữu Phúc cắn răng: “Chính Dương ca nói anh ấy lỡ tay làm huynh trưởng song sinh của mình bị thương, cũng chính là cha của Mộ Giáo chủ ngài, Đại công tử Mộ Chính Minh!”

Mộ Thanh Yến bỗng quay đầu, ánh mắt như sét đánh.

Tiết Hữu Phúc kiên trì nói tiếp: “Mặc dù bình thường Chính Dương ca hay phàn nàn về Mộ Đại công tử, bảo anh ta quá hiền, không chút chí khí tiến thủ, nhưng ta biết Chính Dương ca vẫn đầy kính yêu người huynh trưởng này. Anh ấy thường nói, mai này đợi sang bằng Nhiếp thị, anh ấy sẽ để Mộ Đại công tử muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, tự do tự tại, không còn chịu gông cùm xiềng xích.”

Hơi thở muốn nuốt chửng người trên người Mộ Thanh Yến lúc này mới dịu lại lại, “Tại sao ông ấy muốn đánh cha ta bị thương?”

Trên mặt Tiết Hữu Phúc toát vẻ hoang mang, “Chính Dương ca uống say nói chuyện mơ hồ không rõ, ta nghe không hiểu lắm. Hình như là anh ấy muốn làm một chuyện nhưng lệnh tôn không chịu, thế là hai anh em đã dây dưa, anh ấy lỡ tay mới làm lệnh tôn bị thương. Chính Dương ca còn nói, may mà ‘Tiểu Thục’ không biết tính toán của anh ấy, nếu biết mình bị lợi dụng, không biết có tha thứ cho anh ấy không.”

“Lần đó gặp nhau cũng chỉ nói những chuyện này à?” Mộ Thanh Yến nói.

“Lần đó trở về Chính Dương ca đang khó chịu trong lòng, đến tìm ta kể khổ. Sau khi tỉnh rượu anh ấy đi ngay, không còn gì khác.”

Mộ Thanh Yến nghiêm túc ngồi xuống, “Còn lần thứ tư gặp mặt, cũng là lần cuối cùng, nói đi.”

Vẻ mặt Tiết Hữu Phúc thương cảm: “Lại qua chừng nửa năm, vừa dịp mừng thọ mẹ ta, nửa đêm Chính Dương ca đến tặng quà — cuối cùng trên mặt anh ấy đã thấy ý cười. Anh ấy hào hứng bảo, rốt cuộc Tiểu Thục cô nương đã nhận lời cầu thân của anh ấy, anh ấy đã định chọn một ngày lành cầu hôn. Anh ấy còn nói, thời gian Nhiếp Hằng Thành không còn bao năm, nguyện vọng của anh ấy đã sắp thành.”

“Ai ngờ, đó lại là lần cuối cùng ta gặp anh ấy. Cho tới giờ đã gần hai mươi năm, chưa từng nghe tin tức gì từ anh ấy. Ta sớm âm thầm suy đoán, e rằng anh ấy đã… đã…”

Đại hán vạm vỡ chợt rơi lệ, nghẹn ngào khó nói nên lời, “Cả đời Chính Dương ca đau khổ, có người mẹ không rõ như Âu Dương phu nhân, vợ chồng Quách thị súc sinh lòng lang dạ sói, lại gặp Nhiếp Hằng Thành con rùa già xảo trá trên thế gian, vất vả lắm sắp tới ngày sống tốt lành, anh ấy lại… anh ấy lại…”

“Không có gì không thể qua được.” Mộ Thanh Yến thản nhiên nói, “Hai tay Mộ Chính Dương đầy máu tanh, đáng giết không đánh giết, ông ta đều đã giết không ít. Thiên hạ võ lâm bị ông ta quấy đến long trời lở đất, núi thây biển máu, bao nhiêu hào kiệt tài hoa kinh diễm võ công cái thế chết cũng không biết nên tìm ai tính sổ. Mộ Chính Dương có xuống địa phủ gặp Diêm Vương cũng không tính là thua thiệt.”

Ánh đèn đã tắt, sắc trời dần sáng, Mộ Thanh Yến sải bước ra khỏi phòng, Du Quan Nguyệt đuổi sát theo sau.

Sau khi hai người đi mấy chục bước, Du Quan Nguyệt mới nói: “Giáo chủ, họ Tiết chưa chắc đã nói hết mọi thứ.”

“Ta biết, không gấp.” Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Chuyện thế này không thể dồn hỏi, để ông ta từ từ suy nghĩ.”

“Nhưng mà, ta đã biết không ít.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 123


Giác ngộ

Tàng Thư Các Thanh Khuyết Tông cũng không phải vùng cấm địa gì, bình thường mà nói, chỉ cần Tông chủ hoặc đệ tử giữa chìa cho phép là có thể vào, Tống Úc Chi chính là đệ tử giữ chìa thế hệ này.

Phóng tầm mắt nhìn tới, giá sách tầng tầng lớp lớp cao chọc xà nhà trưng bày các loại điển tịch võ công tâm pháp Thanh Khuyết Tông, còn có những kỷ yếu tổ tiên cùng chuyện xưa võ lâm hơn hai trăm năm, cộng thêm những chuyện góc tối linh tinh rải rác, nếu không có người quen thuộc chỉ điểm, người tự dưng bước vào không thể tìm ra giữa mớ sách vở phong phú lộn xộn tìm ra thứ cần.

Thái Chiêu từng nghe Mộ Thanh Yến kể, thật ra Cửu Châu Bảo quyển Các của Ly Giáo cũng một chiêu giống vậy, nhất là so với sáu phái Bắc Thần họ còn không từ thủ đoạn, tích lũy hơn hai trăm năm võ học âm quỹ và bí mật hắc ám càng vô số kể.

Về sau, Giáo chủ đương nhiệm thường chỉ biết đến bản ghi chép hai đời trước, nhưng Cửu Châu Bảo quyển Các luôn là vùng cấm địa người rảnh rỗi miễn vào, nếu muốn biết chuyện xa xưa hơn, Giáo chủ đại nhân buộc phải tự mình xắn tay áo, lật mấy cục sách sử dày như cục gạch, đâm chùy cột tóc lên xà nhà chiến đấu anh dũng với mớ sổ sách chồng chất như núi.

Mờ mịt thanh u lượn lờ trên lư hương, Thái Chiêu ngồi sau bàn kiên nhẫn lật những tờ giấy dầu ố vàng mỏng như cánh ve.

Tống Úc Chi trèo lên thang dỡ mấy quyển trục bám đầy bụi bẩn không biết thứ mấy từ kệ trên cao xuống, mở ra lấy mấy tờ giấy mỏng ném tới trước mặt Thái Chiêu, “Đây là mấy tờ cuối cùng, bản ghi chép riêng tư của ông ngoại đều ở đây, ghi chép còn lại đều được quang minh chính đại ghi vào trong sách tịch Tông môn.”

Thái Chiêu không kìm được tán thưởng, “Thảo nào có câu cây nấp trong rừng, trốn giữa phố thị rộng lớn, cho dù có người biết Doãn Lão Tông chủ có để lại bản ghi chép bí mật, có cào rách da đầu cũng không tìm được.”

Tống Úc Chi cho rằng cô bé đang châm chọc ông ngoại mình, đành giải thích: “… trước khi lâm chung mẹ ta từng nói, những tin tức này liên can trọng đại, ông ngoại sợ người ta biết sẽ xảy đến ồn ào sai lầm nào đó.”

Thái Chiêu nhặt một tấm giấy mỏng trong đó quơ quơ, cười nói: “Chuyện này mà tiết lộ ra, Tứ Kỳ Môn sẽ ồn ào nhiễu loạn thật.”

— Lão già Tiền chưởng môn Tứ Kỳ Môn Dương Nghi mà mộ phần đã mọc cây đại thụ, lúc trẻ tư thông với mớ ái thiếp của cha, sao lại bảo là ‘mớ’ nhỉ, vì cha ông ta tổng cộng có tám ái thiếp, ông ta tư thông hết bảy. Sở thích hai cha con rất một lòng nhỉ.

Tống Úc Chi cụp mắt liếc qua, hiểu ra cô gái đang nhắc tới chuyện nào, khuôn mặt tuấn tú lập tức đỏ bừng.

Cần phải tán thưởng, Doãn Lão tiền bối là một người học vấn rất nghiêm túc khảo chứng.

Tỷ như chuyện Dương Nghi tư thông với thiếp của cha này, lúc ấy Doãn Đại cũng chỉ là một đệ tử, không thể phái người đi tới dưới giường Dương công tử nghe lén, ông là dựa vào suy đoán từ dấu vết các loại cho ra kết luận, người hầu thiếp thứ tám vì không đủ chứng cứ nên Doãn Đại rất nghiêm cẩn không tính bà vào, chỉ viết một câu ‘không rõ dấu vết’.

“Ông ngoại huynh hành văn hay thật đấy.” Thái Chiêu liên tiếp đọc mấy bí mật quá khứ, phát hiện Doãn lão đầu viết sinh động như thật lời lẽ êm tai, vừa kinh dị lại có huyền nghi, không thiếu truyền kỳ diễm tình, Tiểu Thái nữ hiệp trong phút chốc lạc về trong mơ ở Lạc Anh Cốc, cảm giác bừng tỉnh thấy mình cuộn người trong chăn ăn quà vặt xem thoại bản.

“Tử Vi Tâm Kinh được ghi lại ở đây sao?” Cuối cùng cô vẫn nhớ chuyện chính, tìm dưới cùi chỏ một tờ giấy dầu mỏng còn để trắng nhiều.

Vẻ mặt Tống Úc Chi phức tạp: “Ừm.”

Khác với mấy bí mật khác nói nhăng cuội khác, Tử Vi Tâm Kinh chỉ được ghi chép trên mỗi một tờ giấy.

Doãn Đại đúng là không nói rõ đây là tà công Nhiếp Hằng Thành luyện ở tuổi già, chỉ nói ‘Người Ma giáo xưa kể lại một môn công phu tên gọi Tử Vi Tâm Kinh, uy lực to lớn, tà môn vô cùng’.

Căn cứ vào điều tra ngoài sáng trong tối của lão, thậm chí không tiếc đưa hết nhóm tử sĩ này đến nhóm tử sĩ khác mà mình khổ tâm nuôi dưỡng vào Ma giáo làm mật thám, còn cố đọc hết ghi chép của tiền bối sáu phái để lại, sau khi tổ hợp tin tức đạt được một số kết luận —

Tử Vi Tâm Kinh là công pháp thần diệu do Giáo chủ đời thứ nhất của Ma giáo Mộ Tu Quyết lưu truyền, chẳng những chính ông ta biết, mà trưởng tử cũng biết. Sau khi ông ta chết không lâu, trưởng tử người yếu cũng bất ngờ chết sớm, lúc này Mộ Lan Việt tuổi đời mới qua nhược quán* lên kế vị.

(*) tuổi hai mươi, tuổi trưởng thành của đàn ông.

Nhưng Mộ Lan Việt không thể tu luyện Tử Vi Tâm Kinh.

Ly Giáo tuyên bố ra bên ngoài rằng những người con còn lại của Mộ Tu Quyết đều lánh đời ẩn cư, nhưng thật ra chỉ có một nửa là thật.

Bọn họ đúng là không thích phân tranh giang hồ, cố ý rời dãy Hãn Hải từ lâu, nhưng đã là người tập võ cũng không ngừng tu luyện, nhưng đại đa số bọn họ trong lúc tu luyện Tử Vi Tâm Kinh đều tẩu hỏa nhập ma, không chết cũng tàn phế.

Nhìn thấy cái kết thảm liệt của đám thủ túc, Mộ Lan Việt đành phải tuyên bố với con cháu đời sau rằng Tử Vi Tâm Kinh không thể tu luyện, nhưng vì không nỡ bỏ di vật của tiên phụ, hắn cũng không tiêu hủy đi bí tịch Tâm Kinh.

Ai ngờ truyền đến Giáo chủ đời thứ sáu Mộ Tung, dưới gối có một con trai thiên chất siêu quần, vốn là người được chọn để kế nhiệm Giáo chủ không có kẻ thứ hai, hầu như ông ta đã luyện thành Tử Vi Tâm Kinh, nhưng ngay sau đó qua đời rất thần bí, nguyên nhân cái chết không rõ.

Sau đó Mộ Tung bệnh nặng một trận, khi khỏi bệnh tự tay thiêu hủy một khu vườn sau núi trong cung Cực Lạc, sau đó bắt đầu đắm chìm trong tu đạo luyện đan, cho đến khi chết bất đắc kỳ tử trong đan phòng. Về sau nữa chính là mấy đứa con trai con rể tranh vị, Mộ Ức Nông dưới sự trợ giúp của nghĩa huynh đã giành phần thắng.

Ghi chép Tử Vi Tâm Kinh dừng tại đây, đến cuối Doãn Đại kèm một hàng chữ nhỏ: “Đã lần lượt kiểm tra qua nhiều giấy tờ, không nghe thấy hành vi tàn sát trắng trợn khi ấy.”

Thái Chiêu chấn động trong lòng, ngẩng lên: “Nói cách khác, người con trai của Mộ Tung không giống Nhiếp Hằng Thành hấp thụ rất nhiều tinh nguyên nội lực của các cao thủ mà vẫn có thể luyện thành Tử Vi Tâm Kinh?!”

“Đúng.” Tống Úc Chi nói, “Nếu lời Lộ Thành Nam không sai, vậy thì hẳn là Nhiếp Hằng Thành đã luyện sai.”

Thái Chiêu lẩm bẩm nói: “Người đó sao mà làm được, muốn gạt một nhân kiệt đương thời như Nhiếp Hằng Thành cũng không dễ…” Cô sực nhớ đến một chuyện, “Thì ra Doãn Lão Tông chủ đã sớm biết rủi ro gây ra khi Nhiếp Hằng Thành luyện công.”

“Không chỉ thế.” Tống Úc Chi đưa tới một tờ giấy mỏng nữa, “Ông ngoại còn suy tính ra tuổi thọ của Nhiếp Hằng Thành nhiều nhất chỉ còn năm ba năm.”

Sau khi Lộ Thành Nam bị thương trốn đi, Nhiếp Hằng Thành càng thêm nóng nảy cuồng loạn, ngược sát vô độ, nhưng dù điên, thi thoảng dính phải bệnh vặt như phong hàn đau đầu cũng phải xem bệnh. Để giữ kín tình trạng cơ thể, đương nhiên Nhiếp Hằng Thành không để đại phu sống sót. Nhưng lão không biết, trong số đại phu chết oan này đang có hai tử sĩ của Doãn Đại.

Hai tử sĩ này một trước một sau bắt mạch xong cho Nhiếp Hằng Thành, trước khi chết đã truyền tin tức quan trọng qua ám tuyến trong giáo ra ngoài, Doãn Đại từ đó suy đoán: Thần trí Nhiếp Hằng Thành đã hỏng, kinh mạch rối loạn, không còn sống bao lâu nữa.

“Sau khi ông ngoại phát hiện Nhiếp Hằng Thành tu luyện công pháp quỷ dị, đã hao tốn mấy năm chôn một ám tuyến bí mật vào nội bộ Ma giáo, đây gần như đã tốn hết tất cả tử sĩ tâm phúc đắc lực nhất của ông.” Tống Úc Chi nói nhỏ, “Nếu không thế, ông ấy cũng đã không chết thảm trong cạm bẫy tập sát của Triệu Thiên Phách và Hàn Nhất Túc.”

Thái Chiêu hiểu ra: “Do đó không phải ông ngoại huynh chắc chắn là cô tôi có thể đánh chết Nhiếp Hằng Thành, mà xem ra nếu cô cô không giết được Nhiếp Hằng Thành, lão ta cũng không sống nổi mấy năm, cho nên ông ta mới không bố trí thêm người giúp cô tôi…”

Tống Úc Chi xấu hổ không biết phải làm thế nào: “Xin lỗi, thật sự xin lỗi.”

Cảm xúc Thái Chiêu chập trùng, cơn oán giận dâng cao, đứng dậy đi mấy bước, cuối cùng cô khẽ rùng mình ngồi xuống: “Tam sư huynh đừng suy nghĩ nhiều, nếu cô cô tôi biết chuyện, bà cũng sẽ lên Đồ Sơn tru sát Nhiếp Hằng Thành. Nhiếp lão tặc nổi điên một năm, võ lâm đã máu chảy thành sông, điên thêm năm ba năm thì không biết thiên hạ lại có bao nhiêu người vô tội phải chết nữa.”

Tống Úc Chi càng thêm xấu hổ, nhưng y cũng không giải thích, chỉ yên lặng nghe.

Nhớ đến Thái Bình Thù vàng như nến tiều tụy triền miên bên giường bệnh, Thái Chiêu nghiêng đầu chùi nước mắt bên khóe mắt, cô đè tim mình, cố hít thở cho thông, sau mấy hơi mới nói: “Tam sư huynh, tôi muốn xem hồ sơ dấu vết Ma giáo mấy năm đó.”

“Có, có.” Tống Úc Chi nói lia lịa, “Mấy chuyện này không được ghi trong bản chép tay riêng tư mà được ghi rõ trong ghi chép của Tông môn.”

Y dừng đoạn, “Ta vẫn muốn công bố mấy ghi chú này, chỉ lo danh dự của ông ngoại bị tổn hại, nên muốn chờ sau này ta lên làm… sẽ bổ sung ghi chép ấy vào sách sử Tông môn sau.”

Mấy ngày sau, Thái Chiêu vẫn cẩn thận đọc ghi chép mấy năm, Tống Úc Chi thì càng lúc càng sốt ruột, vì bồ câu đưa thư y gửi đi Quảng Thiên Môn hỏi thăm cha đến nay chưa có hồi âm.

“Tam sư huynh đừng đi tới đi lui mãi thế, làm tôi váng cả đầu. Với thực lực của Quảng Thiên Môn, trừ phi Dương Hạc Ảnh nắm đủ nhân chứng vật chứng, không thì ai có thể làm khó dễ lệnh tôn chứ.” Thái Chiêu cúi đầu đọc hồ sơ, câu được câu không trấn an.

Lúc này, Phàn Hưng Gia bỗng hối hả vọt vào, thở hổn hển nói: “Tam sư huynh không xong rồi! Đệ tử Quảng Thiên Môn gần đây đến báo, nói Dương Môn chủ Tứ Kỳ Môn tìm được chứng cớ nhà của anh dùng người sống luyện chế thi khôi nô! Chẳng những họ đào ra mấy cái xác thôn dân chết bởi kiếm chiêu Quảng Thiên Môn mà còn bắt được mười thi khôi nô!”

Thái Chiêu sửng sốt, “Đúng là nhân chứng vật chứng cũng lấy được hả.” — mình đúng là miệng quạ đen.

Sắc mặt Tống Úc Chi lập tức trắng bệch.

“Lý sư bá đã dùng bồ câu đưa tin cho sư phụ, ông ấy bảo tôi đến báo anh biết.” Phàn Hưng Gia dùng tay áo lau mồ hôi trên trán.

Tống Úc Chi ổn định tinh thần, “Ta đi chào từ biệt Lý sư bá, ta muốn về nhà một chuyến. Hưng Gia cậu đi cùng ta đi, nói không chừng sẽ có bị thương rất nhiều trong hỗn loạn, đến chừng đó phải cần đến cậu.”

Phàn Hưng Gia giật nảy, miệng nói cũng tốt, thật ra trong lòng không tình nguyện lắm.

Lòng Thái Chiêu chợt động, ngón tay điểm ở một chỗ nào đó trong mớ hồ sơ, điềm nhiên như không đứng lên nói: “Tôi cũng đi, thêm một người thêm một trợ giúp.”

Tống Úc Chi lưỡng lự.

Thái Chiêu cười hòa ái dễ gần: “Tam sư huynh, không phải tôi tự biên tự diễn chứ, miệng tôi lanh lẹ, tu vi cũng tạm, dù là cãi nhau hay là đánh nhau, cũng là trợ giúp hiếm có đấy.”

Tống Úc Chi không khỏi rục rịch.

Thái Chiêu lại thêm một mồi lửa, “Tam sư huynh nghĩ xem. Nhị sư huynh theo Lăng Ba sư tỷ về nhà, Tứ sư huynh theo sư phụ ra ngoài, Đại sư huynh ngày ngày rất bận rộn, bây giờ huynh với Ngũ sư huynh cũng muốn đi. Trong nội môn này chỉ còn mình tôi, huynh yên tâm để tôi lại một mình à?”

Tống Úc Chi nhắm cặp mắt, “Được, muội cũng đi cùng, nhưng không được trao đổi với người trong Ma giáo, tránh làm sư phụ tức chết.”

Thái Chiêu cười tủm tỉm: “Tam sư huynh yên tâm, ngoại trừ Giáo chủ bọn hắn, tôi từng trao đổi với người trong Ma giáo thứ hai bao giờ.”

Tống Úc Chi cảm thấy mình bị làm tức chết trước đã.

Phàn Hưng Gia cũng không yên tâm lắm: “Chiêu Chiêu sư muội, cô thật sự chia tay họ Mộ à.”

“Dĩ nhiên.” Thái Chiêu cam đoan đầy miệng, “Bọn tôi chia tay hòa hòa thuận thuận, không chút oán hận. Sau này núi cao sông dài, lắng nghe theo mệnh trời.”

Tống Úc Chi khẽ thầm thả lỏng, trước khi quay ra cửa lại trở ngược lại, móc trong ngực ra một thứ đặt vào trong tay Thái Chiêu.

Y cười nói: “Lúc muội đi cứu… tên kia, ta dọc theo mấy thôn trấn hai người bỏ trốn mò mẫm một vòng, tìm được cái này. Ta nghĩ đồ của muội không nên lưu lạc bên ngoài, mới chuộc về cho muội.”

Trong bàn tay trắng nõn là một sợi xích vàng mảnh dẻ tinh xảo, gom thành một khối nhỏ. Thái Chiêu miễn cưỡng cười, nắm chặt lòng bàn tay: “Đa tạ Tam sư huynh, vài bữa nếu tôi không có bạc thì có thể lại cầm một lần nữa.”

Tống Úc Chi cười: “Có ta ở đây, sao lại để muội phải cầm đồ chứ.”

Thái Chiêu tiện tay ném xích vàng vào túi bên hông, bình tĩnh nói: “Nói cũng phải, việc ngốc nghếch như thế sao tôi lại làm một lần nữa chứ.”

*

Mộ Thanh Yến nấn ná lại trại Phục Ngưu mấy ngày, chẳng những sai người sửa cửa trại đã bị đập phá, còn phái Quỷ Y Lâm Thuật chữa khỏi bệnh cũ năm xưa của Tiết lão phu nhân. Tiết Hữu Phúc vô vàn cảm động, Mộ Thanh Yến than nhẹ: “Tiết lão phu nhân lương thiện hiền hoà, vốn nên được người tôn kính. Nếu tiên tổ mẫu u Dương phu nhân có ba phần của lệnh đường, rất nhiều chuyện sẽ không giống vậy…”

Lúc nghe thấy bốn chữ ‘ u Dương phu nhân’, trái tim Tiết Hữu Phúc treo ngược.

Con ngươi trong trẻo của Mộ Thanh Yến chăm chú, “Ta biết, ông cũng biết, quan tài của gia tổ mẫu trống rỗng.”

Tiết Hữu Phúc lập tức đổ mồ hôi: “Đúng vậy, là bởi vì…”

“Mộ Chính Dương đã lấy di cốt bà đi đâu rồi.” Giọng Mộ Thanh Yến bình thản như thường, lại như sấm rền san bằng mọi thứ, đánh chết Tiết Hữu Phúc cũng không dám ngẩng lên, “Chính Dương ca, anh ấy, anh ấy…”

Mộ Thanh Yến bình tĩnh hỏi: “Hay đã bị Mộ Chính Dương nghiền xương thành tro, ném xuống mương bẩn rồi?”

Mặc dù không trúng, nhưng không xa mấy — tra cứu cẩn thận, bi kịch cả đời Mộ Chính Dương chính là do sự hẹp hòi và điên cuồng của mẹ ruột u Dương Tuyết mà ra, theo Mộ Thanh Yến thấy, sự trả thù này không tính là quá phận.

Tiết Hữu Phúc lo lắng giải thích: “Không thể trách Chính Dương ca, anh áy vô duyên vô cớ chịu nhiều khổ sở vậy đều bởi vì u Dương phu nhân làm chuyện không giống con người! Dù rằng vợ chồng cãi nhau đến mức nào, vô liêm sỉ mới dùng đứa nhỏ vô tội ra trút giận, bất kể nam hay nữ, ông đây gặp tên nào làm thịt tên đó!”

Ngữ điệu Mộ Thanh Yến càng thêm ôn hòa: “Tiết Đại đương gia không cần vội, ta hiểu — trên đời này cũng không phải tất cả bậc phụ mẫu đều xứng làm cha làm mẹ. Cùng là một người mẹ, Tiết Lão phu nhân vì con trẻ khổ sở gì cũng chịu nếm trải, nhưng tiên tổ mẫu lại tự dưng trẻ con giận chó đánh mèo, cuối cùng ủ thành đại họa… Ôi…Tiết Đại đương gia à, ông phải thật hiếu thuận với lão phu nhân, bà đã chịu nhiều khổ cực thế, phải trường thọ an khang.”

Câu nói suýt làm Tiết Hữu Phúc rơi hết cả nước mắt.

Mộ Thanh Yến kiên nhẫn nói: “Bây giờ Nhiếp Hằng Thành chết rồi, ông cũng chẳng cần trốn đông trốn tây, chôn trong cái xó nghèo này làm nghề cướp trại. Nếu ông có ý, ta sẽ tìm cho ông một chỗ an cư xuân về hoa nở, có thể phụng dưỡng lão phu nhân, còn dễ nuôi dạy con trẻ.”

Tiết Hữu Phúc cảm động không thốt ra lời.

Nhìn khuôn mặt tuấn tú giống người anh em thân thiết như đúc, gã tự nhiên nảy ý gần gũi dễ hiểu, nghĩ thầm người ta làm Giáo chủ, không hung ác chút lợi hại chút, còn trẻ thế làm sao mà chèn ép được một đám yêu ma quỷ quái cơ chứ.

Hôm sau trời vừa sáng, Mộ Thanh Yến sắp đưa người rời đi. Tiết Đại đương gia trằn trọc trên giường cả một đêm đội một đôi mắt đen ngòm đưa tiễn, mấy lần định nói lại thôi, cuối cùng đương lúc Mộ Thanh Yến sắp ra cửa trại không kìm được nói: “Xin Mộ Giáo chủ mượn một bước nói chuyện.”

Mộ Thanh Yến vui vẻ đồng ý.

“Giáo chủ còn nhớ ta có kể với ngài, lần thứ hai gặp mặt Chính Dương ca chứ?” giọng Tiết Hữu Phúc hơi run run.

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Tất nhiên là nhớ, ông bảo ông ấy rất vui, còn đưa tới một gốc Tuyết Linh chi bồi bổ thân thể cho lão phu nhân.”

“Ta với Chính Dương ca quen biết lâu như vậy, chưa từng thấy anh ấy vui vẻ đến thế. Cả đời anh ấy, không có mấy chuyện làm anh ấy hào hứng.” Tiết Hữu Phúc buồn bã nói, “Đêm đó, chúng ta uống một mạch mười mấy vò rượu, lúc say mơ màng, Chính Dương ca có nhắc đến một chỗ…”

Mộ Chính Dương là người cực kỳ cẩn thận, không thì cũng không thể ẩn núp ngay dưới mắt Nhiếp Hằng Thành lâu như vậy.

Dầu hắn nói với Tiết Hữu Phúc rất nhiều thứ, nhưng chưa từng nhắc tới tên người hay tên địa danh liên quan cụ thể đến sự việc. Cho đến bây giờ Tiết Hữu Phúc cũng không biết ‘Tiểu Thục’ cô nương kia họ gì tên gì là ai, thậm chí ngay cả Mộ Chính Dương mất tích cũng không biết đi đâu tìm người.

Chỉ có đêm đó — kế hoạch sơ bộ thành công, người trong lòng lưỡng tình tương duyệt, hầu như tất thảy đều đi theo chiều hướng tốt, Mộ Chính Dương tin tưởng mình sắp thoát khỏi vận rủi, cao hứng cực kỳ.

“Chính Dương ca vẫn cứ mãi dông dài bảo ta chăm sóc mẹ thật tốt, mai này sẽ có ngày tốt lành. Sau đó ta có nói, ‘Gần đây xương cốt thân thể mẹ đã khỏe rồi, ngược lại là anh đấy, đừng có cố mạo hiểm đi cái chỗ rách nát tuyết lớn gì đó nữa’.”

“Chính Dương ca hàm hàm hồ hồ đáp ‘Không được không được, còn phải đi một chuyến ‘đầm Tuyết Chiểu’ gì đấy…”

Mộ Thanh Yến sáng rực mắt: “Đầm Tuyết Chiểu?!”

“Đúng vậy a, lúc ấy ta còn nghĩ, núi tuyết cũng có đầm lầy ư?” Tiết Hữu Phúc gãi gãi đầu, “Sau khi Chính Dương ca tỉnh rượu nhớ lại việc này, nghiêm khắc căn dặn ta không được nói ra, ta đã cắn nát ngón tay nhận lời. Mộ Giáo chủ, chuyện này quan trọng lắm à?”

Mộ Thanh Yến mỉm cười nói: “Có quan trọng đi nữa, cũng đã là chuyện mười mấy năm trước.”



Chờ Tiết Hữu Phúc đi xa, Du Quan Nguyệt sang thấy Mộ Thanh Yến đang lẳng lặng đứng bên vách núi sừng sững. Y vừa định lên hồi bẩm, lại nghe Mộ Thanh Yến nói: “Anh chuẩn bị một chút, chúng ta gọn nhẹ lên đường, đi đầm Huyết Chiểu một chuyến.”

Du Quan Nguyệt trong thoáng chốc không kịp phản ứng: “Đầm gì cơ?”

“Máu của đổ máu, Đầm Huyết Chiểu.”

Du Quan Nguyệt nhớ tới cái tên này, y nhíu mày: “Là chỗ đó à.”

Trong mắt Mộ Thanh Yến lấp lánh: “Không sai, chính là phía sau núi Bắc Quảng Thiên Môn, mảng đầm lầy lớn nhốt giữa chốn rừng rậm Đầm Huyết Chiểu.”

(*)沼 Chiểu: ao, đầm. Ở đây bả dùng Huyết Chiểu trạch và sau này là Huyết Chiểu cũng là Huyết Chiểu nhưng mình để tên Hán Việt, thi thoảng chuyển sang Đầm Máu; cũng giống như đỉnh núi Tuyết, thi thoảng mình cũng để Tuyết Lĩnh Đại Tuyết Sơn vì nhắc tới như danh từ riêng. Hồi nào mình rà lại chỉnh lại luôn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 124-1


ong phùng*

(*) Hai lần gặp gỡ.

Sự tình khẩn cấp, đầu tiên bọn ba người Thái Chiêu trượt theo dốc núi Cửu Lãi cao thẳng đứng ra hơn một trăm dặm, sau đó đổi qua tuấn mã, ngày đi ba bốn trăm dặm. Mỗi lần bủn rủn gân cốt trên lưng ngựa, Thái Chiêu hết sức nhớ nhung đến hai con đại bàng khổng lồ lông vàng nom thì dữ tợn thực ra cực kỳ thuần hóa hiền lành kia.

Sau khi gấp rút đi hai ngày rưỡi, ba người đến cổng thành rộng lớn trước Quảng Thiên Môn, lúc cải trang vào thành chỉ thấy bầu không khí rất căng thẳng, không chỉ là đệ tử Quảng Thiên Môn và đệ tử Tứ Kỳ Môn giương cung bạt kiếm, mà chính các nhánh đệ tử trong Quảng Thiên Môn cũng đề phòng lẫn nhau, còn có nhiều khách giang hồ y phục khác nhau ẩn hiện mọi nơi.

“Bao năm qua nếu không phải Quảng Thiên Môn chúng ta giương oai giúp các ngươi, Tứ Kỳ Môn đã bị Cầu Nguyên Phong Thái Sơ Quán ép đến không ngóc đầu lên được! Hừ, giờ Thái Sơ Quán không ngừng công kích, các ngươi cảm thấy mình ngon rồi đúng không. Cầm mấy cái quan tài bị phá là dám lên Quảng Thiên Môn đòi lời giải thích, ăn tim gấu gan báo rồi nhỉ, ha ha ha!” Một đệ tử trẻ tuổi mặc trường bào màu son thêu mặt trời vàng chóe cao giọng cười mắng.

Trong góc xó Tống Úc Chi nghe xong không khỏi nhíu mày.

Hán tử trung niên mặc huyền mã hoàng y lớn tiếng nói: “Các ngươi chớ khoác lác, ta biết Quảng Thiên Môn người đông thế mạnh, nhưng trên đời này mọi thứ đều không vượt ngoài một chữ lý! Cả nhà mười mấy người của Lão Bang chủ Hoàng Sa Bang chết không rõ ràng, món nợ này tuyệt đối không thể mập mờ cho qua! Giờ nhân chứng vật chứng đều đủ, anh hùng thiên hạ cũng chưa chắc cùng một phe với họ Tống đâu!”

Một đệ tử Quảng Thiên Môn khác mặc áo đỏ chót mặt trời vàng quái gở nói: “Họ Lý kia ăn nói cẩn thận chút, đừng mở mồm là ‘Họ Tống’. Tuy cùng một họ, người ta là đội thủ hạ của dòng chính Đại công tử Mậu Chi, hô nô gọi tỳ, đeo vàng đeo bạc, đầy khí phái đó. Chúng ta là đi theo Tam thúc tổ và Đường phòng thái gia ăn cơm rau dưa, ngày xưa lúc mấy người rạng rỡ bọn ta cũng chẳng được thơm lây, hôm nay mấy người chọc tới phiền phức, bớt liên lụy bọn ta đi.”

Phàn Hưng Gia nghi ngờ nhìn Tống Úc Chi, đáng tiếc trên mặt Tống Úc Chi đã dịch dung, không nhìn ra sắc mặt.

Thái Chiêu như bà cụ non rót cho mình chén trà, quơ nón lá thì thầm: “Quả nhiên chuyện nào cũng có lợi tất có khó, con cháu đông đúc cũng có phiền phức của con cháu đông đúc.”

Phàn Hưng Gia buồn cười: “Vậy nhà họ Thái mấy người thì sao chứ.”

Thái Chiêu cười hì hì nói: “Thái gì mà Thái chứ, Lạc Anh Cốc cũng đã đổi họ bốn lần. Hôm trước Tiểu Hàm viết thơ bảo nó lại đổi ý rồi, cơ quan toán học chẳng hề dễ chơi, gõ mõ làm hòa thượng thú vị hơn, nói không chừng mai này Lạc Anh Cốc còn phải dựa vào tôi kén rể đây, có khi cũng là lúc đổi họ tiếp một lần nữa.”

“Chiêu Chiêu sư muội.” Tống Úc Chi xụ mặt, “Kén rể thì không cần sửa họ, sửa họ thì không gọi là kén rể, nói chuyện cẩn thận nghiêm túc chút.”

Thái Chiêu:… Xem ra anh không vội như thế nhỉ.

Ra khỏi quán ăn, Thái Chiêu đề nghị không nên vào Quảng Thiên Môn mà tìm một khách đi3m vắng vẻ đặt chân trước đã, đợi trời tối mới lẻn vào.

Phàn Hưng Gia lập tức tỏ vẻ đồng ý, Tống Úc Chi ngẫm nghĩ, thở dài: “Hiện giờ xem ra tình thế khó đoán, khác xa so với chúng ta nghĩ. Sư muội nói rất đúng, không nên lộ diện đã, xem kỹ hẵng nói.”

Ba người lần mò ra ngoài thành, tìm được một gian trà tứ ở ngoài đồng nội.

Mặc dù là ngụy trang thành trà tứ, nhưng ở đây vốn là nơi quan khách lỡ giờ không thể vào thành tạm thời dừng chân dùng, do đó cũng đã gộp cho lầm canh giờ không có thể đi vào thành khách thương tạm thời đặt chân dùng, bởi vậy cũng có tính gộp cả ba trong một ốc xá, quán cơm, phòng nghỉ, hiên nhà hành lang, đầy đủ mọi thứ.

Lúc bọn Thái Chiêu vào tới, trà tứ trống rỗng, chỉ có một đôi vợ chồng già và đứa con trai nhỏ đang làm việc.

“Uầy, trong thành ồn ào thế nào có khách thương vào thành nữa đâu. Khách đi3m trong thành đầy khách, khách giang hồ chen đầy, con trai cả với con dâu cũng bị mấy chú bác mượn qua hỗ trợ rồi. Hiện giờ ở trong tiệm chỉ có ba vị khách định đi phía Tây thu sản vật núi rừng thôi.” Ông lão chủ tiệm mặt mày ủ dột, “Chỉ mong Chưởng môn chúng ta mau chấm dứt cái cảnh rối ren đen tối này thì tiểu điếm mới khôi phục được quang cảnh ngày xưa.”

Thái Chiêu rửa sơ mặt mũi trong phòng nghỉ xong một mình xuống lầu, ngước lên bị một trận tuyết mịn ngoài cửa sổ hấp dẫn, bất giác rẽ vào vườn sau, bưng băng ghế trúc ngồi vào dưới hiên hai bên được thả màn trúc che.

Trà tứ vắng vẻ, cho là ông lão chủ tiệm và khách buôn dọc đường chưa từng thấy mặt Thái Đại tiểu thơ hơn một năm trước gây ra cảnh long trời lở đất cho sáu phái Bắc Thần, cô không đội mũ rèm, để lộ một mặt xinh đẹp như hoa đào, tùy ý gió lạnh lướt qua hiên nhà lất phất.

Lạc Anh Cốc bốn mùa như xuân, trận tuyết rơi đầu tiên Thái Chiêu nhìn thấy là trên núi Cửu Lãi, nhưng khi ấy phân loạn không ngừng, không phải lo lắng sợ hãi thì vươn cổ đấu với người, chưa từng thưởng thức cảnh trí tuyết rơi trong gió cho thật đã đời. Hiện giờ chỉ mới vào đông, bông tuyết mảnh êm êm như bụi phấn bay lả tả, không quá lạnh, mà ngược lại có cảm giác rất sinh động đáng yêu.

Màn đêm bao phủ, ánh đèn bên cạnh Thái Chiêu như đậu, sắc ấm mờ nhạt chan hoà cùng sắc tuyết lạnh trong, bóng mấy nhánh cây hoặc béo hoặc gầy giao thoa, loang lổ lốm đốm như ánh kịch đèn chiếu.

Cô bẩm sinh sung sướng yêu đời, nhìn gì cũng có thể nhìn ra điểm thú vị, lúc bé ngắm con kiến khuân đồ còn vui đến nửa ngày, lúc này ngắm nghía, cũng không khỏi cười khẽ.

Chợt nghe tiếng bước chân cực nhẹ sau màn trúc, Thái Chiêu cảnh giác quay đầu.

Màn trúc xốc lên, người phía sau rèm hình như cũng hết sức kinh ngạc, hắn cũng bị hoa tuyết li ti như hoa cây dương tung bay trong gió đêm hấp dẫn tới, không ngờ sẽ gặp được Thái Chiêu ở nơi này.

Dưới ánh đèn tù mù, trong đêm đen sắc tuyết điểm lấm tấm bạc, khuôn mặt tuấn tú của hắn gây một loại cảm giác mơ hồ kỳ dị, Thái Chiêu như lạc vào trong mơ, rõ ràng hắn đang đứng ngay trước chân cô, lại tựa như cách rất xa, thoảng như cách nguyên một vùng hoang mạc và tuyết vực.

Hắn mặc một bộ trường bào màu lam hơi cũ, vóc dáng có vẻ như cao lớn hơn, sắc mặt hiền hòa mà hoảng hốt, chỉ có đôi mắt vẫn là thâm trầm khó dò.

Chia cách hơn một năm, gặp lại cũng không biết nên nói gì, hai người nhìn nhau thật lâu không nói.

Mộ Thanh Yến nhấc cánh tay dài vén màn trúc, “…Vừa rồi nàng đang cười gì thế?”

Thái Chiêu ngẩn ra: “Nhớ tới kịch đèn chiếu xem lúc nhỏ.”

“Ừm, vở kịch tên gì thế.”

“Quên rồi.” Thái Chiêu nhìn tuyết bay trong bầu trời đêm, “Lúc nhỏ ngồi dưới đài, vở kịch khi đó diễn vui buồn hợp tan, lại khó dứt bỏ, tôi luôn vui vẻ vỗ tay khen hay. Cô cô hay trêu, bảo tôi xem kịch chỉ mong náo nhiệt, vốn không hiểu ý bên trong vở kịch.” — cô cô, còn người thì bắt đầu hiểu từ lúc nào chứ? Nếu mãi mãi không hiểu thì tốt rồi.

Màn trúc cuốn cao cao, Mộ Thanh Yến thắt gút sợi dây thừng.

Vừa rồi lúc hắn vén màn trúc, đã nhìn thấy Thái Chiêu như một cô bé con trong học đường ngồi thẳng thẳng thớm thớm, hai tay nhỏ ngoan ngoãn đặt trên chân, có điều má phấn hơi méo mó kéo khóe miệng khẽ lộ một nụ cười trộm.

Cách lớp sương dưới ánh đèn tù mù ngẩn ngẩn ngơ ngơ, hắn như thoáng thấy dáng vẻ bé Thái Chiêu trắng trẻo nhỏ xíu ngồi dưới sân khấu xem kịch vui đến quên cả trời đất, đó nhất định là cô bé đáng yêu nhất trên đời.

“… Vết thương roi trên lưng lành chưa?” Hắn thấp giọng hỏi.

Câu hỏi mang lại một quãng đau đớn dài hơn tháng, nhớ đến lại như thiêu như đốt lăn lộn khó ngủ khiến Thái Chiêu run rẩy một trận, nhưng đến cuối cùng, cô cũng chỉ đáp một câu, “Đều ổn rồi.”

Mộ Thanh Yến siết chặt lòng bàn tay, rồi mở ra.

Hắn nhìn bàn tay thon dài đường vân rõ ràng của mình, giờ đây hắn đã có được quyền thế lật tay thành mây trở tay thành mưa, nhưng vẫn có những chuyện bất lực, ví dụ như làm cha sống lại, ví dụ như, không để cho nàng bị thương tổn.

“Ta không ngờ bọn họ sẽ dùng hình với nàng…”

Thái Chiêu nhẹ nhàng lắc đầu: “Là chính tôi đã làm sai chuyện, nên bị phạt.”

Mộ Thanh Yến ừ một tiếng, nhìn màn đêm chăm chú: “Thì ra, nàng đã xem ta như một chuyện sai lầm.”

Thái Chiêu dường như đã nghĩ thoáng, lựa lời khuyên nhủ: “Thật ra giữa hai ta cũng không phải không tính là một chuyện sai lầm, nếu không có ràng buộc này, hai ta đều có thể sống thuận lợi hơn chút.”

Mộ Thanh Yến lạnh lùng: “Là chính nàng cảm thấy thuận lợi thôi, đừng có thay ta ‘cảm thấy’!”

Thái Chiêu nỗ lực duy trì cấp bậc lễ nghĩa: “Giờ Mộ Giáo chủ đã nắm đại quyền trong tay, thiên hạ một mình, tính toán chuyện cũ năm xưa làm gì.”

“Nếu thật sự ta có quyền thế vô biên, một mình một thiên hạ, đã không trơ mắt nhìn nàng ở trước mặt rời ta đi mà không thể ra sức!” Đôi ngươi thanh niên u tối, phảng phất nhóm lên ngọn lửa lạnh lẽo.

“Mộ Đại Giáo chủ là đến chỉ để tranh cãi với tôi sao?!” Thái Chiêu thầm oán hận, thuận tay móc một vật vàng óng Tú Chiếc túi đeo bên hông, vắt lên lan can dưới màn trúc, “Mấy khi gặp được nhau, thứ này trả lại cho huynh.”

Mộ Thanh Yến khẽ giật mình, quấn sợi xích vàng nhỏ dài vào lòng bàn tay, “Không phải nàng đã đi cầm nó rồi sao.”

“Là đã đem cầm, sau đó Tam sư huynh chuộc về.”

Tống Úc Chi bất ngờ xuất hiện trong cuộc đối thoại giữa bọn họ, như hòn đá ném xuống hồ, ngay lập tức phá vỡ xúc động phẫn nộ và hoảng hốt ngắn ngủi vừa rồi, Mộ Thanh Yến cùng Thái Chiêu đồng thời nhận ra một việc lý ra bọn hắn nên hỏi —

“Huynh ở đây làm gì?”

“Sao nàng lại đến đây?”

Hai câu nói không phân trước sau cùng thốt, hai người đều ngẩn ra.

Vẻ mặt Mộ Thanh Yến sắc mặt hờ hững, “Tứ Kỳ Môn với Quảng Thiên Môn ầm ĩ, Giáo chủ Ma giáo như ta không tránh khỏi muốn xem náo nhiệt đấy. Nhưng không biết Tiểu Thái nữ hiệp tới đây có chuyện gì?”

Thái Chiêu hắng giọng, “Huynh cũng nói đó, Tứ Kỳ Môn với Quảng Thiên Môn tranh cãi. Tam sư huynh sốt ruột phụ huynh ở nhà, tôi với Phàn sư huynh đi xem cùng.”

Mộ Thanh Yến cười lạnh, “Không phải xưa nay nàng phiền chán ân oán gút mắc trong giang hồ cơ mà, thế mà giờ tình nguyện đến làm việc xấu cùng Tống Úc Chi, thật là đồng môn tình thâm quá nhỉ.”

Thái Chiêu cũng không giải thích, nổi khùng nói: “Mộ Giáo chủ nói không sai, người trưởng thành phải nghĩ thêm về tương lai đại sự, tránh mai sau đi sai bước nhầm. Tam sư huynh phẩm tính lỗi lạc, sáng sủa rạng rỡ, cha tôi, mẹ tôi, sư phụ tôi, còn có hai nhà hoàn mở miệng chưa từng nói câu gì hay ho của tôi đều bảo y tốt, thiên hạ còn ai thích hợp hơn hửm!”

“Đại sự trong đời? Được được, nói hay lắm!” Mộ Thanh Yến không ngừng cười lạnh, “Lúc Du Quan Nguyệt phái Tinh Nhi tới hầu hạ ta, ta thấy cô nương đó ôn hòa hiền lành, rất hợp ý ta, không biết vậy có coi là đại sự trong đời không nhỉ.”

Thái Chiêu cười cứng cả mặt: “Vậy thì kính cẩn chúc Mộ Đại Giáo chủ tiền đồ như gấm, vợ chồng hoà thuận!”

Mộ Thanh Yến lạnh nhạt chắp tay: “Nói hay lắm nói hay lắm, hai ta cùng nỗ lực nhé.” Nói xong, hắn bốp một chưởng vỗ lên cây trụ lan can bằng gỗ thô, mảnh gỗ vụn văng khắp nơi, lan can vỡ nát. Hắn cũng chả thèm ngoảnh đầu phẩy tay áo bỏ đi, tay áo tung bay mãnh liệt.

Thái Chiêu cũng tức gần chết, cổ tay run run cất băng ghế gỗ, lúc rời đi phát hiện hắn treo sợi xích vàng lên bảng gỗ, cô tức giận chụp xích vàng, đi nhanh như phía sau có quỷ quái đuổi theo.

Mộ Thanh Yến vượt qua hậu viện, thấy Du Quan Nguyệt và Thượng Quan Hạo Nam đang khom người đứng bên ngoài chờ, phía sau họ năm mươi bước trái phải còn có mấy chục cái bóng hảo thủ chao lượn.

Mộ Thanh Yến đang định đi tiếp, cảm thấy hình như có gì không đúng, vừa quay lại thì thấy Du Quan Nguyệt nước mắt giàn giụa, vẻ đầy đau khổ, rất giống quả phụ cản đường kêu oan. Anh ta gặp mình quét mắt tới, nghẹn ngào quỳ phịch xuống khóc, “Giáo chủ, ta ta, Tinh Nhi… Tinh Nhi nàng…”

Rốt cuộc Mộ Thanh Yến đã biết không đúng chỗ nào, lập tức cắt lời: “Anh ngậm miệng đã — chờ khi nào Tinh nhi lấy chồng, ta đền cho cô ta một phần quà cưới thật hậu — nghe mà không hiểu, đồ cái thứ không có tiền đồ!”

Dõi theo bóng lưng ngài đi xa, Du Quan Nguyệt lau chùi nước mắt từ dưới đất bò dậy, Thượng Quan Hạo Nam có lòng tốt bước lên nâng một tay, miệng nói: “Cậu khóc cái gì chứ, nếu Tinh Nhi có thể theo Giáo chủ thì đó là chuyện vui vô ngần. Còn cậu nữa, rõ ràng là thích Tinh Nhi, mà cứ cố gượng chống chế không chịu nói, coi chừng mai này hối hận đó!”

“Cậu thì biết cái gì, nếu có người đàn ông tốt thực tình với Tinh Nhi, ta vui mừng còn không kịp!” Du Quan Nguyệt vẫn nức nở, “Thế nhưng Giáo chủ… Giáo chủ… Tinh nhi đứng trong một đám nha hoàn, không chừng Giáo chủ cũng không nhịn được với nàng!”

“Cũng đúng nha.” Thượng Quan Hạo Nam gật gù, bỗng nghĩ đến một chuyện, “Ê, gượm đã, cậu chưa hề phái Tinh Nhi đi hầu Giáo chủ mà!”

Du Quan Nguyệt ngẩn ra, “Đúng thế! Ta sợ Giáo chủ hù Tinh Nhi, nên vốn dĩ không có gọi Tinh Nhi vào cung Cực Lạc cung mà! y da sao ta lại quên nhỉ… Xem ra Giáo chủ chỉ lấy Tinh Nhi đi chọc giận, thật là sợ bóng sợ gió một trận…” Nói xong nín khóc bật cười.

Thượng Quan Hạo Nam lắc đầu lia lịa: “Ôi chao, xem cái nết hay dỗi của cậu kìa, trong vòng hai mươi năm không biết Giáo chủ có thể gửi ra phần quà cưới kia không nữa.”

*

Thái Chiêu tức giận quay về phòng, đã thấy Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia đã chuẩn bị sẵn sàng, Tống Úc Chi hỏi cô đi đâu mà sao trên lầu dưới lầu cũng không thấy, Thái Chiêu cười lớn, “Tôi ra phía sau vườn thưởng ngoạn cảnh tuyết.”

Phàn Hưng Gia rụt cổ: “Trời đang rất lạnh, hay chờ mai hãy đi?”

“Không, đêm nay xuất phát!” Thái Chiêu đập một chưởng lên bàn, khí thế phi phàm.

Phía bên kia, Du Quan Nguyệt lau mặt sạch sẽ, cùng Thượng Quan Hạo Nam vào nhà tìm Mộ Thanh Yến nhận lệnh, thấp giọng hỏi thăm: “Giáo chủ, người bên ngoài đều bố trí xong chặt chẽ, dù phát sinh chuyện gì chúng ta đều có tiếp ứng. Không biết Giáo chủ dự định lúc nào thì lên đường?”

Mộ Thanh Yến chém đinh chặt sắt nói: “Đêm nay đi luôn!”

Đêm đó, hai toán người hướng về hai hướng khác nhau rời trà tứ, biến mất trong bóng đêm tuyết mịn tung bay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 124-2


Bức tường thành cao tới hơn năm mươi trượng đối với người bình thường là khe trời, nhưng với Tống Úc Chi Thái Chiêu mà nói chỉ là khác nhau ở mấy lần dừng chân trên vách đá, hai người họ níu tay áo Phàn Hưng Gia điểm đủ mấy lần, nhảy lên thật cao vượt qua tường thành, vừa hạ chân đáp xuống một góc xó u tối không ai chú ý thì đã nghe sau lưng ồn ào loạn xạ tiếng người ngựa gọi nhau ầm ĩ, cứ như một số người ngựa lớn đang tới gần.

Ngay lúc ba người kinh ngạc bất định, chỉ nghe phía thành lâu một trận rầm rầm xích sắt chuyển động, cửa thành đáng lý đang trấn thủ chặt chẽ lại mở ra vào nửa đếm! Gió đêm mãnh liệt nhanh chóng xé toác cửa thành từ từ mở, lập tức năm sáu mươi người trang phục cưỡi tuấn mã thượng cấp tiến quân thần tốc, mà mười mấy thủ vệ cầm đuốc trong tay vẫn sắc mặt tự nhiên, không hề có ý ngăn cản.

Mượn ánh đèn u ám, Thái Chiêu nhìn thấy y phục mấy người cưỡi ngựa, thấp giọng kinh ngạc hô: “Huyền mã hoàng y, là người Tứ Kỳ Môn!”

Phàn Hưng Gia trợn lớn mắt: “Có nhầm không, này là căn cứ của Quảng Thiên Môn, sao môn phái khác có thể đao kiếm sáng loáng chạy vào một đám người chớ?!”

Tuy bảo Bắc Thần Lục phái là các phái anh em, nhưng đều có thế lực địa bàn riêng, ngay Lạc Anh Cốc ít người thế yếu, lại thân với Chu Trí Trăn Thích Vân Kha như người trong nhà cũng chưa từng cho phép người Bội Quỳnh Sơn trang và Thanh Khuyết Tông vào chiếm giữ qua, huống chi Quảng Thiên Môn?

Hai người Thái Phàn cùng quay sang nhìn Tống Úc Chi, sắc mặt Tống Úc Chi cực kỳ khó coi, hồi lâu mới nói: “… đây là phía cửa Tây, là đệ tử Tam Thúc tổ trông coi.”

“Bọn ta là tốp thứ mấy?” Một người cưỡi ngựa hoàng y ghìm ngựa ngừng chân, người ngựa trong đêm khuya rét lạnh cùng phà ra hơi trắng xoá.

Thủ vệ lĩnh đội khoan thai đến gần: “Các người là tốp cuối cùng, ba tốp trước đều đã đến cả.”

Kỵ sĩ nhếch miệng cười, hai chân thúc vào bụng ngựa, hí vang chạy đi.

Trong góc ba người Thái Chiêu nhìn nhau, Tống Úc Chi nghiến răng: “Sắp xảy ra chuyện rồi, chúng ta nhanh lên lầu chính trên núi!”

Quảng Thiên Môn xây dựa lưng vào núi, từng cụm nhà lớn thuận theo thế núi hướng dần lên. Dù Tống Úc Chi rời nhà bái sư từ nhỏ nhưng vẫn còn nhớ rõ địa hình vị trí. Ba người tránh mấy đệ tử đi tuần của Quảng Thiên Môn, cố áp sát lầu chính, trên đường đi ngoại trừ Phàn Hưng Gia hứng gió lạnh đầy bụng cũng chẳng có nguy hiểm gì ngoài dự đoán.

Càng gần đến lầu chính, ven đường đập vào mi mắt đều là đệ tử các phái thần thái đầy vội vàng hoặc vẻ mặc lo sợ nghi hoặc, bầu không khí tràn ngập mùi bất an. Ba người đi tới thì phát hiện phần lớn đám người đều đi về một hướng, Phàn Hưng Gia không hiểu: “Đêm hôm khuya khoắt không ngủ mà đi đâu thế.”

Tống Úc Chi trầm ngâm suy nghĩ, nói: “Đó là hướng Quảng Thiên Thánh Đường, là nơi tế điện tiên tổ Tống thị và thờ phụng Tam Thanh Thượng thần.”

Thái Chiêu trề môi, ám chỉ: “Cũng có thể để xử lý con cháu bất hiếu mà dùng đến từ đường.”

Ánh mắt Tống Úc Chi sa sầm.

Lúc này đương là cuối thu đầu đông, đêm khuya rét lạnh, phần lớn đệ tử các phái đều khoác lớp áo choàn thật dày, Thái Chiêu ra tay như chớp, không chút khách khí đánh choán ba đệ tử cấp thấp Quảng Thiên Môn, giật áo choàng của chúng phủ cho ba người, sau đó theo luồng người đi vào Quảng Thiên Thánh Đường.

Chung quanh quãng đất trống lớn trước Thánh Đường đốt chậu than lớn, còn có mấy chục bó đuốc, chiếu giữa sân sáng như mặt trời ban trưa, trước Thánh Đường bị đám người dày đặc vây quanh làm mấy bóng người quen thuộc đang ngồi.

Ngồi vị trí đầu ở chính giữa tất nhiên là Quảng Thiên Môn chủ Tống Thời Tuấn, chỉ thấy ông cau mày, mặt buồn rười rượi, hoàn toàn không còn vẻ phách lối khoa trường thường ngày. Hai bên trái phải dưới tay ông là ba người ngồi, phía dưới bên trái là Dương Hạc Ảnh và vợ chồng Thái Bình Xuân, phía dưới bên phải thì là ba lão giả Thái Chiêu không quen biết.

Tống Úc Chi thấp giọng giải thích: “Là Tam Thúc tổ, Nhị Đường Bá tổ, và Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ. Bọn họ là ba vị trưởng bối có bối phận cao nhất và đồng thời có tử đệ dưới trướng nhiều nhất của nhà họ Tống.”

Nhân số Lạc Anh Cốc ít ỏi, Thái Chiêu chưa từng tiếp xúc kiểu xưng hô thân thích phức tạp quanh co vậy, nghe đầy bối rối, “Nhà họ Tống mấy người đông thật ha…” Mười mấy đời cộng lại Lạc Anh Cốc còn chưa thịnh vượng bằng.

Trái lại Phàn Hưng Gia rất nồng nhiệt giải thích, “Là vầy, Tam Thúc tổ này là anh em ruột với ông nội Tam sư huynh, còn Nhị Đường bá tổ là anh em chú bác với ông nội Tam sư huynh, còn Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ kia có lẽ là anh em cách phòng với ông cố Tam sư huynh rồi.”

Thái Chiêu tò mò: “Cho nên đêm hôm khuya khoắt mấy trưởng bối này là muốn làm gì?”

Tống Úc Chi chưa kịp đáp, Tống Thời Tuấn cha y đã mở miệng với Dương Hạc Ảnh trước.

“… Rốt cuộc mấy người đã xong chưa, hơn nửa đêm còn gọi mọi người dậy, xem như buộc phải định tội Quảng Thiên Môn chúng ta thì cũng phải chờ Thanh Khuyết Tông và Bội Quỳnh sơn trang đến chứ!”

Một lão giả thần thái cao ngạo lạnh lùng nói: “Đừng có mở miệng ngậm miệng là Quảng Thiên Môn chúng ta, đứa con trai cưng của cậu gây ra tai họa, còn muốn liên luỵ mấy trăm người trong tộc Tống thị, thực là không có đạo lý. Ta thẹn là trưởng bối nhà họ Tống, hôm nay mời mọi người cùng nói rõ một lần.”

Tống Mậu Chi bên cạnh đã hết nhịn nổi, lập tức hô lớn: “Lão thất phu Tống Quân Hào kia, Quảng Thiên Môn vẫn luôn là môn quy lớn hơn gia quy, trời đất bao la chưởng môn là lớn nhất, ông dám nghịch trời ở trước mặt cha ta mạo xưng trưởng bối…”

“Mậu Chi ngậm miệng!” Tống Thời Tuấn nén giận, “Tam Thúc tổ, dầu Mậu Chi thường ngày lỗ mãng, nhưng đến nay không có chứng cớ xác thực là do nó gây ra, bây giờ ngài vội vàng định tội nó, không khỏi khiến võ lâm đồng đạo chê cười!”

Thái Chiêu nhìn quanh trái phải, thấy ở hiện trường rất nhiều người ăn mặc khác nhau trong giới võ lâm, trong số đó rất nhiều người bao gồm cả Vân Triện đạo trưởng đã từng tham gia tế điển Bắc Thần Lão tổ kỳ trước.

Bang chủ Sa Hổ Bang Sa Tổ Quang từ sau lưng Dương Hạc Ảnh ra tới, gằn giọng: “Còn muốn chứng cớ gì nữa, ở trong lãnh địa Quảng Thiên Môn bắt được thi khôi nô, còn có những vết kiếm trên xác các thôn dân — quãng thời gian ấy ngay lúc Mậu Chi Đại công tử các người dẫn một lượng lớn bang chúng liên tục đi đến chỗ đó, không phải hắn còn là ai được!”

Theo hướng ngón tay hắn, lúc này bọn Thái Chiêu mới nhìn thấy một chiếc lồng sắt khổng lồ đang đặt trên quảng trường, bên trong nhốt mấy cái xác không hồn quần áo tả tơi máu me thối rữa, không ngừng va chạm lồng sắt, cảnh tượng rất đáng sợ, ngay cả đám người đang chen chúc cũng phải tránh thật xa lồng sắt. Còn bày bảy tám cái xác trùm vải trắng đặt một bên trên mặt đất, chưa bốc mùi xú uế của xác chết.

Tống Mậu Chi mắng to: “Cái rắm nhà ông, ta đi nơi đó thì làm sao, chỉ là thấy ở núi Thất Mộc cây cỏ tươi tốt, hẳn sẽ có con mồi phong phú, đi chơi săn bắn mấy lần, ai biết đó là địa bàn Hoàng Sa Bang Lục Sa Bang gì chứ!”

Sa Tổ Quang chạy vội vào chính giữa, chắp tay lia lịa về bốn phương tám hướng, đấm ngực khóc lớn nói: “Mời các vị trưởng bối và anh hùng hào kiệt phân xử xem, bao năm qua Lão nhạc phụ của ta đã thờ ơ việc giang hồ, chỉ mang gia quyến và một đám anh em cũ ở mỏm núi này bình yên sống qua ngày, ai ngờ tên Tống Mậu Chi thấy núi kia bí ẩn, muốn đoạt lấy luyện chế thi khôi nô, để Lão nhạc phụ ta phát hiện, hắn đã không làm thì thôi, làm thì làm cho trót, giết sạch sẽ già trẻ Hoàng Sa Bang!”

“Tuy thế lực Hoàng Sa Bang nhỏ bé, nhưng Lão nhạc phụ ta mấy mươi năm nay trên giang hồ chưa từng ức hiếp nhỏ yếu, chỉ cần còn một hơi là luôn hết sức giúp đỡ kẻ nguy nan, xin các vị tiền bối hào kiệt làm chủ cho Lão nhạc phụ của ta!”

Tống Mậu Chi từ nhỏ đến lớn đều luôn là con cưng như trời chiếu sáng vạn trượng, hiện bị mô tả như kẻ hạ lưu làm chuyện ác bất tận, hắn tức đến suýt hành hung Sa Tổ Quang, Bàng Hùng Tín vừa liên tục dỗ dành khuyên lơn vừa liều mạng kéo hắn lại.

Thái Chiêu không nhịn được gáy: “Họ Sa vừa biết hát vừa biết gõ nhịp, sao không đi hát kịch đi.”

Phàn Hưng Gia thấp giọng: “Xong rồi, hắn quá yếu thế, không ai đứng về phía hắn cả.”

Quả nhiên, Vân Triện đạo trưởng ra trước, “Sa Bang chủ không cần tự coi nhẹ mình, mặc dù Hoàng Sa Bang thế lực không lớn, nhưng Hoàng Lão anh hùng làm việc nhất quán phóng khoáng lỗi lạc, ngay lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống, ông ấy cũng chưa từng khom lưng, chuyện này ai ai đều biết! Nếu thật sự là ông ấy bị giết người diệt khẩu, dù thế nào võ lâm đồng đạo chúng ta cũng phải giải nỗi oan khuất cho ông ấy!”

Sa Tổ Quang gạt lệ cảm tạ, ánh mắt lộ vẻ đắc ý.

Thái Bình Xuân chợt mở miệng: “Vân Triện đạo trưởng nói rất đúng, thiên lý rõ ràng, báo ứng xác đáng, là oan khuất luôn có thể giải, là âm mưu cũng luôn có thể vạch trần.”

Dương Hạc Ảnh thâm trầm nói: “Ý Thái Cốc chủ đây là?”

Thái Bình Xuân không thèm để ý tới lão, chỉ nói với đám Vân Triện đạo trưởng: “Chuyện của võ lâm, quỷ quyệt vần vũ. Mấy thi khôi nô kia đại khái cũng có thể là do người bên ngoài cố tình thả vào lãnh địa Quảng Thiên Môn, kiếm chiêu trên xác cũng có thể là vu oan. Nói câu khó nghe, sáu phái đồng khí liên chi, rất nhiều chiêu số đều quá quen thuộc lẫn nhau, muốn để lại vài vết kiếm Quảng Thiên Môn trên người thôn dân cũng không phải là việc khó. Bình Xuân khinh thường, ta cũng có thể tìm được mấy cái xác chết dưới chiêu của Tứ Kỳ Môn vậy.”

Sắc mặt Tống Thời Tuấn từ từ dãn ra: “Tiểu Xuân huynh đệ nói câu công bằng.”

Đệ tử Quảng Thiên Môn sau lưng ông nhao nhao lớn tiếng hưởng ứng.

Dương Hạc Ảnh hừ lạnh: “Thái Cốc chủ có hàm ý rồi, lẽ nào là đang chỉ trích trong năm phái còn lại của chúng ta có người vu oan cho Quảng Thiên Môn? Thảo nào mà nuôi ra đứa con gái như Thái Chiêu, lợi hại quá…”

“Họ Dương coi chừng gió lớn lưỡi đau!” Ninh Tiểu Phong quát lớn ngắt lời, “Con gái ta đã làm sai, nhận tội, chịu phạt, chuyện bỏ qua rồi! Nếu lão thích lôi chuyện cũ vậy, hay chúng ta nói về chuyện năm ấy lão bị Triệu Thiên Phách bắt sống, ông già lão kêu trời trách đất tới tìm chị Bình Thù của ta cứu mạng đi?”

“Cô?!” Dương Hạc Ảnh đỏ mặt, “Đại trượng phu không đấu võ mồm với đàn bà!”

Tam Thúc tổ hừ nói: “Chuyện nào ra chuyện đó, con bé họ Thái đi thả Giáo chủ Ma giáo, thật là là quá không ổn…”

Bàn về tranh cãi cho tới giờ Ninh Tiểu Phong chưa từng thua ai, bà nghiêng đầu, “Còn Tống Tam Thúc ngài, lúc trước hai người con ngài bị trúng Ngũ Độc chưởng của Trần Thự, kêu trời trời không hay, sắp thành kẻ tàn phế, rốt cuộc chị Bình Thù của ta liều chết tìm được phương thuốc giải! Lúc ấy ông nói thế nào, ‘Mai này chỉ cần Lạc Anh Cốc nói một tiếng, lão phu không dám không theo’. Cho đến giờ Lạc Anh Cốc còn chưa mở miệng hỏi gì, hôm nay cũng xin Tống Tam thúc mở miệng lưu tình đi nha!”

Mặt già Tam Thúc tổ đỏ bừng, đành ngậm miệng quý.

Dương Hạc Ảnh đưa mắt, Sa Tổ Quang ra sức nặn nước mắt, ngoác miệng sắp kêu khóc.

Ninh Tiểu Phong cướp lời: “Sa Tổ Quang ông khóc cứ như cha mẹ đã chết lại chết lần nữa vậy! Năm đó sau khi Hoàng Sa Bang tổn thương nguyên khí nặng nề ông không dằn nổi nạp thiếp, chị Bình Thù thấy không ưa, mới chặt hai con gà chết Huyết Chiểu ném lên tiệc cưới của ông, quên rồi sao?! Mấy năm qua ông trái một bên phải một chỗ đòi lập phòng phụ, vợ chính thức thì chẳng bài bố khá hơn bao nhiêu, chắc ông cũng chẳng kính trọng Lão nhạc phụ mấy đâu. Ở đây đều là lão giang hồ lăn qua dầu mười mấy hai mươi lần, bớt giả hành giả tỏi đi!”

Thương giáp đánh xuống, ngoài Thái Bình Xuân thầm nín cười, trong thoáng chốc không ai dám hó hé, sợ Ninh Đại tiểu thư quay sang mắng tới.

Tuy năm đó bà còn nhỏ tuổi, nhưng vì luôn theo Thái Bình Thù, rất nhiều chuyện quá khứ xấu hổ của người trong võ lâm bà đều biết bảy tám phần, có thể nói mười bước giết một người, một câu một con chó được.

Võ lâm nhân sĩ xung quanh không ít kẻ thầm gật đầu, thật ra thanh danh Sa Hổ Bang trên giang hồ lúc đầu cũng không quá tốt, chỉ vì trước mắt Hoàng Sa Bang chết thảm, rất nhiều người cũng không có tính gốc rạ này.

“Mấy bữa nay sớm cũng ồn ào, muộn cũng rào rào, như lưu manh phố chợ vậy.” Ninh Tiểu Phong ra vẻ buồn ngủ, “Hôm nay ta thấy hay là cứ về phòng nghỉ ngơi đi, có chuyện gì chờ Thích Tông chủ Chu trang chủ đến lại nói.”

Thái Bình Xuân tức thời đứng dậy, làm bộ định đỡ vợ về phòng.

“Gượm đã!” Nhị Đường Bá tổ nãy giờ vẫn im lặng bỗng đứng dậy, “Nếu không phải có nhân chứng mới, ta cũng không dám hơn nửa đêm quấy nhiễu mọi người. Người đâu, đưa hắn lên.”

Ánh mắt cả đám nhìn theo, thấy mấy đệ tử nâng một chiếc cáng, bên cạnh cáng là một thiếu niên tráng kiện đốt giấy để tang đi theo.

Sa Tổ Quang vừa thấy thiếu niên đã tiến lên ôi chu choa luôn mồm gọi, “Điền nhi sao con lại tới đây! Sao không ở nhà hầu cùng mẹ?!”

Cậu thiếu niên tên Sa Điền ngẩng khuôn mặt trùm mũ trắng, má rộng trán hẹp, ngũ quan bình thường, ánh mắt đờ đẫn lạnh lẽo.

Cậu ta đâu ra đấy trả lời: “Cả nhà ông ngoại chết thảm, mẹ khóc ngất mấy lần không dậy nổi. Cha, con muốn tận mắt nhìn kẻ thù của ông ngoại và mấy cậu gặp báo ứng!”

Lần này khổ chủ chính quy đã tới, đến Ninh Tiểu Phong cũng thu lại vẻ trêu tức, người chờ xung quanh đều yên tĩnh trở lại.

Hai đệ tử Tứ Kỳ Môn tiến lên, đỡ người trên cáng ngồi dậy, xuyên qua lớp băng loang lổ máu và vết kiếm bổ đôi đầu, đám người nhận ra nét mặt thanh tú của hắn.

“Tú Chi!” Tống Thời Tuấn nghẹn ngào, “Mấy ngày nay con đi đâu vậy, chúng ta tìm mãi không thấy con!”

Mặt Tống Tú Chi như giấy vàng, hơi thở phập phù, hắn bình tĩnh nhìn ra sau lưng cha, khàn giọng: “Mậu Chi, là cậu phái người đi giết ta à?”

Vừa nói, mọi người đều chấn kinh.

Dương Hạc Ảnh dương dương đắc ý: “Mấy hôm trước, đệ tử Tứ Kỳ Môn ‘trùng hợp’ cứu được Tống Đại công tử bị mấy người bịt mặt bao vây tấn công. Nói thế nào nhỉ, đến cùng ta cũng là nửa trưởng bối của cậu ấy, không thể thấy chết không cứu.”

Tống Mậu Chi nổi giận hô to: “Cái rắm, ông nói hươu nói vượn! Tống Tú Chi anh bị mỡ heo ngập não váng đầu sao, sao tôi phải giết anh!”

Tam Thúc tổ cực chấn động, “Còn phải nói à? Ai mà không biết cậu và Tú Chi từ nhỏ như hình với bóng, nhất định là Tú Chi đã nhận ra cậu làm việc ác, nên cậu muốn giết người diệt khẩu!”

“Rắm thối rắm thối!” Tống Mậu Chi chửi đổng, “Mấy người thông đồng vu cáo hãm hại ta! Cha, cha xem bọn họ…”

Tống Thời Tuấn trầm mặt: “Tú Chi, con nghĩ thông suốt rồi nói, chớ nhất thời hồ đồ, trúng kế chia rẽ của người khác.”

Tống Tú Chi rơi lệ nóng, dùng sức giật vạt áo, giật băng vải mình, khàn giọng khóc ròng nói: “Cha, cha nhìn đi, đây là con vu oan cho Mậu Chi tự gây ra ư!”

Dưới ánh lửa hừng hực, đám người nhìn rõ từ cổ xuống ngực Tống Tú Chi phơi ra ba vết thương cực kỳ dữ tợn, đều sâu đủ thấy xương, trong đó một vết kéo dài đến phần bụng.

Dương Hạc Ảnh thừa cơ nói: “Còn bị nội thương nữa, tìm đại người bắt mạch cho Tú Chi, thì biết cậu ấy bị thương nặng cỡ nào!”

Tống Tú Chi nước mắt giàn giụa, “Cha, con biết cha luôn yêu thương tin tưởng Mậu Chi, nhưng con cũng là con của người, sao người có thể nhẫn tâm như vậy!”

Tống Thời Tuấn mềm lòng, vốn định bước lên lại bị Dương Hạc Ảnh Sa Tổ Quang ngăn lại, ông nhẹ nhàng nói: “Tú Chi, con bị thương nặng thế, cha cũng đau lòng. Nhưng tội danh giết hại người vô tội luyện chế thi khôi nô lớn vậy, Mậu Chi thật không gánh nổi. Con suy nghĩ thật kỹ, có lẽ là có người cố ý giả mạo Mậu Chi đến chặn giết con không!”

Mắt Tống Tú Chi đầy thất vọng, “Cha, từ nhỏ cha đã dạy bảo chúng con phải khí phách lỗi lạc. Cha yên tâm, con chỉ nói tất thảy những gì mình chứng kiến, còn lại không thêm bớt một lời.”

“Tú Chi con…!” Tống Thời Tuấn nóng nảy muốn lên trước kéo thằng con trai.

“Làm gì làm gì.” Dương Hạc Ảnh cười dùng bả vai hất Tống Thời Tuấn ra, “Vừa rồi Thái Bình Xuân cũng đã nói, là oan khuất cuối cùng có thể giải, nếu anh một lòng tin tưởng đứa con bảo bối, để Tú Chi nói đôi câu thì sao nào?”

“Đúng đó đúng đó, đại trượng phu làm việc quang minh lỗi lạc, sợ gì chứ…” chí ít nửa đám đệ tử Quảng Thiên Môn Tứ Kỳ Môn và Sa Hổ Bang cùng ồn ào.

Tam Thúc tổ quay sang chắp tay nói với võ lâm quần hào: “Tiếp theo là chuyện trong môn của ba nhà Tống Dương Sa chúng ta, bất kể đúng hay sai, Quảng Thiên Môn đều sẽ cho thiên hạ một công đạo. Chư vị anh hùng, hay…”

Bọn Vân Triện hiểu ý ông, nghĩ thầm đứa con trai này của Tống Thời Tuấn muốn vạch trần một đứa khác, chuyện xấu anh em bất hòa trong nhà Quảng Thiên Môn tất nhiên không muốn bị quá nhiều người nhìn thấy. Họ thoáng chần chừ một lúc rồi nhao nhao cáo lui.

Tam Thúc tổ dời mắt sang bên kia, ai ngờ Thái Bình Xuân bất động như núi, Ninh Tiểu Phong còn mạnh mẽ trừng ngược ông ta. Bọn Tam Thúc tổ không biết làm sao hơn, đành sờ râu xem như không nhìn thấy.

Thấy cục diện ngày càng nguy hiểm, Phàn Hưng Gia không ngừng chùi mồ hôi lạnh, Tống Úc Chi lo lắng đầy mặt, Thái Chiêu đã bắt đầu nhìn quanh trái phải tính kiếm đường rút lui.

Dương Hạc Ảnh hài lòng nhìn bốn phía, “Được rồi, Tú Chi, cậu cứ nói đi.”

Tống Tú Chi gắng gượng đứng dậy, được người vịn ngồi xuống, thở một hơi nói: “Luyện chế thi khôi nô vốn là hành vi gian tà của Ma giáo, xưa nay chúng ta chỉ nghe chứ chưa từng nhìn thấy. Nửa năm trước, vì Ma giáo nội chiến, Giáo chủ tân nhiệm Mộ Thanh Yến nghiêm khắc diệt loạn, có mấy dư đảng lẻ tẻ của Nhiếp thị chạy trốn tới xung quanh Quảng Thiên Môn.”

“Lúc ấy vừa dịp cha không ở nhà, Mậu Chi và ta bắt chúng lại tra hỏi, có mấy người trong đó vì mạng sống còn nói chúng từng luyện chế thi khôi nô cho Nhiếp Đề, bấy giờ có thể hiến môn tà thuật này cho chúng ta.”

Ninh Tiểu Phong nhẹ a một tiếng, nghi ngờ bất định nhìn chồng, sắc mặt Thái Bình Xuân đầy nghiêm trọng.

Phàn Hưng Gia ngơ ngốc nhìn Tống Úc Chi, vẻ mặt Tống Úc Chi lo sợ không yên, chỉ có Thái Chiêu tựa như nghĩ tới điều gì, hơi xuất thần.

Tống Tú Chi nói tiếp: “Lúc ấy ta đã nói việc này tà ác, tuyệt đối không thể, mau nhanh chóng giao mấy tên dư đảng Nhiếp thị cho các vị trưởng bối Thánh Đường cùng xử lý, nhưng mà Mậu Chi mãi không chịu. Kéo dài mấy ngày, Mậu Chi bỗng đến báo rằng tù thất bị cháy, thiêu mấy tên dư đảng Nhiếp thị kia chết cả rồi, thế là ta chỉ nhìn thấy mấy cái xác cháy đen không cách nào phân biệt — Mậu Chi, ta nói có chữ nào giả không?”

Tầm mắt mọi người dồn về, Tống Mậu Chi bị nhìn đến xấu hổ đầy tức giận, vẫn cứng cổ nói: “Không sai! Anh nói không sai, ta nói cũng không sai. Tù thất đúng là bị cháy, người cũng đúng là đã bị thiêu chết!”

Dương Hạc Ảnh cười lạnh: “Nói dễ nghe thật, ai biết kia mấy cái xác kia là từ đâu tới? Có phải mấy tên dư đảng Nhiếp thị kia dụ ngươi giấu đi không!”

“Cái lão rùa lộn kiếp thất phu họ Dương kia!” Tống Mậu Chi gầm thét.

Tam Thúc tổ giận dữ: “Tống Thời Tuấn, dạy dỗ con của cậu kìa!”

Mặt Tống Thời Tuấn lộ vẻ giận dữ, Bàng Hùng Tín ra sức trấn an Tống Mậu Chi.

Dương Hạc Ảnh cười rạng rỡ: “Tú Chi, cậu nói tiếp.”

Gân cổ Tống Tú Chi nổi lên, cực yếu ớt, đã hiện vẻ kiệt sức, vẫn cố hết sức nói: “Hai tháng sau, ta phát hiện Mậu Chi có hành tung bí ẩn, thường chỉ mang theo hai ba hộ vệ tâm phúc, bẵng mười ngày nửa tháng không thấy bóng dáng. Ta chặn cậu ấy hỏi, cậu ta bảo tìm được một đỉnh núi cỏ cây tươi tốt, đi săn chơi giải sầu. Thế nhưng cho dù ta hỏi cỡ nào, Mậu Chi từ đầu đến cuối không chịu nói chỗ đỉnh núi ấy ở đâu, cũng không cho phép ta đi theo — Mậu Chi, ta có hay không vu oan cho cậu một chữ nào không?!”

Tống Mậu Chi giận tím mặt, gầm lên: “Không phải là từ sau cái lần năm ngoái anh không ngừng khuyên ta đừng ra ngoài săn chơi nữa sao, nếu không sẽ đi mách mấy vị trưởng bối, đương nhiên ta không thể nói địa điểm cho anh, cũng không thể bảo anh đi theo rồi!”

Phản biện thật chẳng chút sức thuyết phục, sắc mặt Tống Thời Tuấn mỗi lúc một khó coi.

Tống Tú Chi cố dùng cánh tay chống mình đứng: “Mậu Chi, sau đó, thời gian cậu rời Quảng Thiên Môn ngày càng dài, còn không ngừng vào chủ kho lĩnh bạc, lương thảo, binh giới giáp trụ, thậm chí là dược vật quý hiếm. Ta liên tục hỏi nguyên do, nhưng cậu không chịu đáp.”

Tống Mậu Chi tức giận nói: “Sau cái lần năm ngoái anh với ta bị gian tặc Ma giáo cướp đi, trong Quảng Thiên Môn có bao nhiêu người nấp trong bóng tối chê cười ta chứ! Ta muốn bắt đầu từ số không, tự mình thuần dưỡng một nhóm người trung thành của ta, vậy thì có lỗi gì!”

Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ bỗng nhiên mỉm cười, “Thời Tuấn à, chưa bàn về vụ án thi khôi nô, cách làm của Mậu Chi là phạm môn quy rồi.”

Lòng Tống Thời Tuấn nóng như dầu sôi, gượng cười nói: “Chuyện này, chuyện này, Mậu Chi còn nhỏ, không hiểu chuyện, sau này từ từ dạy, từ từ dạy…”

Tam thúc tổ cao giọng cười lạnh: “Hai mươi mấy tuổi, còn nhỏ nữa đâu, chưởng môn à cháu thật sự là thương con đến sốt ruột rồi!”

Dương Hạc Ảnh cắt lời, “Mấy người khoan tranh đã, Tú Chi, mau nói chuyện cuối cùng nào!”

Tống Tú Chi nói: “Nửa tháng trước, Mậu Chi vốn là nói muốn ra cửa đi săn nửa tháng bỗng Huyết Chiểu trở về. Ta thấy ba hộ vệ tâm phúc của cậu ấy không trở về cùng, mới hỏi thế nào. Mậu Chi nói, có một đám người bịt mặt phục kích ở đỉnh núi vào ban đêm, giết sạch người của cậu ấy, vất vả lắm cậu ấy mới thoát ra. Về sau ta mới biết, một đám già trẻ Hoàng Sa Bang cũng là đêm đó bị tàn sát gần như sạch.”

Sa Tổ Quang âm hiểm cười hắc hắc, “Thân thủ Đại công tử Mậu Chi giỏi ghê, nhiều người chết thế mà chỉ một mình cậu còn sống trở về.”

“Cười cái gì mà cười, cười mẹ ông vụng trộm với trai tìm cha mới cho ông sao?!” Tống Mậu Chi lớn tiếng mắng lại, “Lời ta nói đều là sự thật! Ta vất vả lắm mới gom được mấy chục tay hảo thủ, kết quả trong vòng một đêm bị người giết sạch! Còn Hoàng Sa Bang Hồng Sa Bang gì đó, ta chưa hề gặp qua!”

Tống Tú Chi như dùng hết hơi, chán nản dựa thành ghế, “Những việc ta nhắc tới, đều là ta tận mắt nhìn thấy chính tai nghe thấy. Mậu Chi, nếu cậu cảm thấy chữ nào của ta là giả, mời cha xử theo gia pháp là được.”

“Được rồi được rồi, Tú Chi cậu nghỉ ngơi đi.” Mặt Dương Hạc Ảnh cười đầy từ ái, xoay người lại nghiêm túc đầy chính nghĩa nói, “Cũng là bởi vì Tú Chi biết được mới bị người chặn giết, suýt khó giữ được tính mạng. Tống Chưởng môn, anh không thể nhân nhượng dung túng nghịch tử.”

Tống Thời Tuấn trong thoáng chốc luống cuống, thân hình cứng đờ.

Ninh Tiểu Phong ngờ vực trong lòng, khẽ nói: “Sao có thể như vậy, có phải nhầm chỗ nào rồi không?”

Thái Bình Xuân nhìn vợ lắc đầu, ra hiệu khoan hẵng lên tiếng.

Tam Thúc tổ đứng bên trong, ngay ngay ngắn ngắn hành lễ với Tống Thời Tuấn: “Tống Mậu Chi lập môn hộ khác, lạm sát kẻ vô tội, luyện chế thi khôi nô, bại hoại môn quy Quảng Thiên Môn ta, trời đất không thể dung, xin Chưởng môn cho tiến hành xử lý!”

Bốn phía vang lên tiếng hô quát chỉnh tề: “Xin Chưởng môn cho tiến hành xử lý!”

Tống Úc Chi trong góc lẩm bẩm: “Chả lẽ là thật, chả lẽ là thật?”

Phàn Hưng Gia cũng không chút manh mối, ai ngờ Thái Chiêu khẳng định, “Giả.”

Tống Úc Chi lập tức từ chuyển từ kinh hoàng thành vui mừng, Thái Chiêu lại bù thêm một câu, “Huynh trưởng của huynh bị người tính kế.”

“Sao muội biết!” Tống Úc Chi thở không ra hơi.

Thái Chiêu hạ giọng: “Nhiếp Đề đúng là biết luyện chế thi khôi nô, nhưng người của hắn đã bị người ta tận diệt lúc Mộ Thanh Yến cho công phá Cực Lạc cung. Nhất là cái đám người luyện chế thi khôi nô kia đã gây họa cho người dân núi Hãn Hãi biết bao năm, việc đầu tiên Mộ Thanh Yến đã bắt bọn chúng lập uy tế cờ, lần đó giết cơ man là người, không thả một tên.”

“Cuộc khởi binh phản loạn Mộ Thanh Yến hè năm ngoái, một nửa là người Lữ Phùng Xuân, nửa kia là đám luôn trung thành với Nhiếp Hằng Thành. Họ đều cảm thấy Nhiếp Đề bôi nhọ uy danh Nhiếp Hằng Thành, căn bản không muốn để gã dùng tới, nhiều năm qua ôm lòng trung thành với Nhiếp Hằng Thành ẩn cư trong im lặng, mãi tới khi thấy Lữ Phùng Xuân dùng cái danh phò tá Nhiếp Tư n, cộng thêm cơ hội tốt ngàn năm một thuở Mộ Thanh Yến đã bị bắt, bọn chúng mới bằng lòng buông tay đánh cược một lần.”

“Tam sư huynh đã đọc nhiều tài liệu ở Tàng Thư Các vậy, phải biết rằng dù Nhiếp Hằng Thành tàn nhẫn nhưng con người cao ngạo, vốn dĩ rất chướng mắt thủ đoạn dùng xác thối bực này. Thi khôi nô ấy à, Khai Dương Trưởng lão luyện qua, Dao Quang Trưởng lão luyện qua, Thiên Cơ Thiên Toàn cũng luyện qua, chỉ có Nhiếp Hằng Thành là có vứt bại tướng dưới tay vào bãi tha ma cũng lười đi luyện thi khôi nô!”

Tống Úc Chi sáng rực mắt, “Cho nên, đám Giáo chúng Ma giáo tử trung với lão ta cũng sẽ không đi luyện thi khôi nô!”

“Đúng vậy.” Thái Chiêu quả quyết nói, “Nửa năm trước, vì Mộ Thanh Yến bình định phản loạn mà cái đám ‘Giáo chúng Ma giáo’ chạy ra kia không thể nào là người của Nhiếp Đề, vì thủ hạ luyện thi khôi nô của Nhiếp Đề đã chết sạch từ lâu; nhưng nếu là người của Nhiếp Hằng Thành thì sao lại luyện chế thi khôi nô cơ chứ.”

Phàn Hưng Gia xen vào: “Nói không chừng ấy là người Lữ Phùng Xuân? Lữ Phùng Xuân dù sao cũng là một trong Thất Tinh Trưởng lão, nói không chừng cũng sẽ luyện thi khôi nô?”

Thái Chiêu nói: “Ngũ sư huynh thật ngốc, anh có biết vì sao Lữ Phùng Xuân bị gọi là lão rùa đen không? Là vì từ đầu đến cuối lúc chú cháu Nhiếp thị cầm quyền lão ta đều rụt cổ không dám ló đầu! Nếu bảo có người trong Ma giáo không hề có chút gút mắc nào với sáu phái Bắc Thần ta có lẽ phải tính đến lão. Mấy tên trốn ra được kia nếu muốn sống, sao không nói mình là con cháu Lữ thị mà cứ phải thừa nhận mình là dư đảng Nhiếp thị? Nhà họ Nhiếp với sáu phái Bắc Thần chúng ta không phải nợ máu từng đống sao!”

Phàn Hưng Gia bừng tỉnh hiểu ra: “Ra là vậy!”

Thái Chiêu lộ hàm răng trắng nhỏ: “Cái đám ‘Giáo chúng Ma giáo’ kia, tự xưng mình là dư đảng Nhiếp thị, còn nói mình là người luyện thi khôi nô cho Nhiếp Đề, kẻ trước sẽ không luyện thi khôi nô, kẻ sau thì bị Mộ Thanh Yến làm thịt hết từ sớm — hừm, đúng là hăng quá hoá dở, biến khéo thành vụng.”

Một khi Tống Úc Chi được nhắc nhở lập tức khôi phục thần trí: “Không chỉ thế, căn cứ vào tham báo của chúng ta, lần này trong cuộc phản loạn Ma giáo, có lẽ con cháu Lữ thị đã bỏ trốn mất dạng, mà phần lớn người của Nhiếp Hằng Thành lại ôm quyết tâm quyết tử, thà chiến đấu đến chết chứ không chịu chạy trốn. Sao trùng hợp như vậy, ở đâu có mấy tên dư đảng Nhiếp thị chạy đến địa bàn Quảng Thiên Môn!”

Nói xong y định xông ra trước biện bạch cho huynh trưởng, lại bị Thái Chiêu túm chặt lấy.

“Tam sư huynh bị váng đầu à!” Cô gái đầy vẻ cảnh giác, “Xem như không có suy luận của chúng ta vừa rồi thì dựa vào Tú Chi công tử cũng chưa chắc có thể định tội danh cho anh trai huynh. Chỉ cần cha huynh kiên trì yêu cầu đợi sư phụ và đám bác Chu đến rồi mới phán đoán thì họ có thể làm gì? Cho nên, vì sao mà ba vị trưởng bối và Dương Hạc Ảnh dám vùng lên đêm nay — đây mới điều thực sự hung hiểm!”

Tống Úc Chi trợn mắt dài, cảnh chứng kiến ở cửa thành trước đó dậy lên trong lòng, mồ hôi lạnh lập tức chảy ròng ròng: “Chúng, bọn chúng đã thông đồng, chúng đã đều đã bố trí xong! Ta phải đi cảnh báo!”

“Đã không còn kịp!” Thái Chiêu khẽ gọi, “Hiện giờ tốt nhất chúng ta…”

Chưa dứt lời, đã nghe một tiếng rít cao hùng hậu của Tống Thời Tuấn, “Các ngươi đừng khinh người quá đáng!”

Trong lúc ba người Thái Chiêu nói chuyện, trên sân mấy người đã cãi vã kịch liệt mấy vòng, Tống Thời Tuấn thấy ôn tồn nói chuyện hoàn toàn vô dụng, mới nổi cơn giận, không chịu thua.

Dương Hạc Ảnh cười the thé: “Nhân chứng vật chứng đều đủ, mong Tống Chưởng môn chớ chấp mê bất ngộ, che chở nghịch tử nữa!”

“Tên bất nam bất nữ* kia câm miệng cho ta! Chờ đó ông đây sẽ tính sổ với ngươi!” Tống Thời Tuấn hét lớn, quay lại trầm giọng nói, “Tam Thúc phụ, chú với tôi là thân thuộc cùng dòng máu, hẳn chú thật sự muốn làm ra chuyện cá chết lưới rách ư?!”

(*) 二椅子: trong 1 giải thích mình tìm được thì cái từ chửi này ý chỉ thái giám (bị cắt), dị tật ở cơ quan sinh dục.

Dương Hạc Ảnh bị chửi trúng chỗ yếu, mắt lóe lên tia ác độc, cố nín nhịn xuống.

Tam Thúc tổ khoan thai vuốt vuốt râu dài, “Thời Tuấn cháu ta, cháu phải biết, sau khi ông nội cháu qua đời, kế vị chưởng môn nguyên là đại ca ruột thịt cùng mẹ của ta. Đáng tiếc ngay lúc còn chưa có con đã bị thương trí mạng trong một lần quyết đấu với Ma giáo. Lúc đầu đại ca đã có ý để ta kế nhiệm chưởng môn, nhưng cha cháu thừa cơ thuyết phục trưởng bối trong tộc, chưa chờ đại ca tắt thở đã cướp đi chức chưởng môn.”

Tống Thời Tuấn cười lạnh: “Lúc đại bá phụ qua đời, Tam Thúc phụ chỉ mới mười sáu tuổi, sao có năng lực đỡ mái dựng nhà! Cha tôi lớn hơn chú, lại có thế lực danh vọng, kế vị chưởng môn là chuyện rõ ràng mười mươi!”

“Được được được.” Tam Thúc tổ ung dung nói, “Lúc đó ta không có năng lực kế nhiệm chưởng môn, bây giờ Tống Mậu Chi con trai cậu không tài không đức, cũng không xứng chức chưởng môn. Ta khuyên cậu, nhường ngôi vị ra đi.”

Tống Thời Tuấn cười lạnh liên tục, “Hay lắm hay lắm, tôi hiểu rồi.”

Ông lại nói, “Nhị Đường bá phụ, xưa nay ngài ôn hòa nhân hậu, sao bây giờ cũng tới ép tôi?”

Nhị Đường bá tổ chậm rãi đứng dậy, “Ta là không có tiền đồ, năm xưa liều chết chém giết với Ma giáo vì Quảng Thiên Môn, tất cả năm đứa con trai đều chết trận, vất vả lắm lúc tuổi già mới có một mụn con, ta không muốn nó trở nên nổi bật, chỉ cần bình yên trăm tuổi là được, nên mới đặt cho nó cái tên Thời Thái. Ta vẫn luôn dạy nó, dù nó ở tầng trưởng bối, nhưng vẫn phải nhường nhịn hơn với Mậu Chi. Mai này Mậu Chi làm chưởng môn, thế nào cũng sẽ không bạc đãi nó.”

Tống Thời Tuấn bất an: “Thời Thái huynh đệ, Thời Thái huynh đệ cậu ấy…”

Hốc mắt ông lão ánh nước, “Ba năm trước, Mậu Chi lên núi đi săn, bảo Thời Thái dẫn người canh giữ ở dưới núi. Ai ngờ đêm đó mưa to gió lớn, sấm sét vang dội, Thời Thái sợ bị Mậu Chi sau này khiển trách, mãi không dám tự tiện rời đi. Sau đó bùn đất trên núi lăn xuống, đã chôn sống nó bên trong! Thái nhi nó, đến chết nó cũng không biết Mậu Chi đã rời đi bằng một con đường khác…”

Chất giọng già nua đau đớn tang thương, đa phần đám người trên sân đều nảy lòng trắc ẩn.

Tống Mậu Chi vừa tức vừa gấp: “Chuyện này sao lại trách ta! Ta chỉ là thuận miệng nói, cũng đâu biết lúc ấy con của Thái thúc phụ tử thủ ở đó đâu! Nhìn thấy sắc trời không tốt, là kẻ có đầu óc đều biết phải đi nhanh lên, ai biết anh ta ngốc vậy…”

Bốp!

Tống Thời Tuấn trở tay tát mạnh một cái tát, trực tiếp cắt lời ngu xuẩn của thằng con, “Ngươi im miệng cho ta!”

Nhị Đường bá tổ cười còn khó nghe hơn cả khóc, “Ta không phải là người cha tốt, cho tới giờ chưa hề để Thái Nhi tùy ý vui vẻ sống qua một ngày, chỉ không ngừng chỉ bảo nó phải khiêm tốn, phải ấm áp, phải nhẫn nại. Ngay cả khi nó chết, ta cũng không dám tức giận quá lâu, bởi vì ta còn muốn săn sóc con cháu dưới môn, không thể đắc tội chưởng môn đương nhiệm lẫn tương lai, Thái nhi đáng thương của ta…”

Vừa buông lời, đệ tử Quảng Thiên Môn sau lưng ông ta từng tên căm phẫn đầy bụng, cao giọng la lên — “Nhất định lấy lại công đạo cho sư phụ (sư tổ)!”

Tống Thời Tuấn lắc đầu, chắp tay nói: “Là ta có lỗi với Thời Thái huynh đệ. Nhị Đường bá phụ, ý của ngài ta đã hiểu.”

Ông quay đầu nói “Tằng bá tổ phụ, còn ngài thì sao. Cha con tôi đắc tội ngài chỗ nào?”

Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ cười ha ha, “Vậy thì không có. Chỉ có điều Mậu Chi tuổi trẻ khí thịnh, không vừa mắt với đám già khú khắm bọn ta, ruồng bỏ mọi nơi, lúc nào cũng ghé mắt. Ta nghĩ, chờ khi Mậu Chi lên làm chưởng môn, cuộc sống mai này của bọn ta sẽ đầy khổ sở ~~ ”

Tống Thời Tuấn nghiến quai hàm, gật gù: “Ta đã hiểu.”

Cuối cùng ông nhìn về phía cách đó không xa, lên tiếng, “Tú Chi, con thấy đó. Bọn họ cho con tới làm nhân chứng, là muốn ép chết cha và anh em của con đó.”

Tống Tú Chi cười đau thương dị thường, “Cha, đến lúc này, ngài vẫn luôn một ý che chở Mậu Chi. Mấy năm nay Mậu Chi làm đủ chuyện, từ chuyện chú Thời Thái chết oan, đến chia rẽ lòng người nhà Tống thị, ngài vẫn còn cho là nó còn có thể nhậm chức chưởng môn sao?”

Tống Mậu Chi bụm mặt giận dữ hét: “Ta không làm ai làm, anh làm sao?!”

Tống Tú Chi thấp giọng nói, “Nếu cha với Mậu Chi nghi ngờ con, con thà lập tức tự sát.”

Tống Mậu Chi cứng đờ, ánh mắt Tống Thời Tuấnt phức tạp, chỉ mỗi Dương Hạc Ảnh hô to gọi nhỏ, “Không được tự sát, Tiểu Lan con ta vẫn chờ lấy cháu đấy, con rể tốt, ha ha!”

Tam Thúc tổ cười nói: “Dương môn chủ yên tâm, vài bữa ta nhất định sẽ để hai đứa trẻ một lễ cưới nở mày nở mặt, ha ha ha…”

Nhìn hai lão già hèn mọn thô bỉ cười ha ha với nhau, Ninh Tiểu Phong buồn nôn muốn chết, quay sang rỉ tai: “Thật không ngờ Doãn Thanh Liên là có tim gan linh lợi*, lại sinh ra đứa con ngu xuẩn như Tống Mậu Chi!”

(*) thất khiếu linh lung tâm: trái tim có 7 lỗ. Chỉ những người cực kỳ thông minh, thấu suốt. 

Thái Bình Xuân lại thì thầm: “Chờ một lát cảnh tượng vừa loạn, mình phải một mực đi theo tôi, không được rời nửa bước.”

Ninh Tiểu Phong ngây người: “Sao thế.”

Thái Bình Xuân không lộ vẻ đưa mắt lướt qua toàn cảnh, thấp giọng nói: “Người ta đến có chuẩn bị, lần này Tống Thời Tuấn đã gặp phiền toái lớn, may công phu anh ta không tệ, lại có không ít hộ vệ tâm phúc, chắc hẳn không khó thoát thân.”

Nói đến nước này, Tống Thời Tuấn cũng không khách sáo, “Ba vị trưởng bối, nếu ta nhất quyết không nghe lệnh thì các người muốn làm thế nào? Muốn con cháu Tống thị tự giết lẫn nhau ư?”

Tam Thúc tổ nói: “Vậy cũng không thể.” Ông ta đưa mắt, Dương Hạc Ảnh cười ra hiệu với tâm phúc phía sau lưng.

Tâm phúc lập tức thổi lên còi, trong chốc lát, chỉ nghe bốn phía hò hét ầm ầm, một đám đệ tử huyền mã hoàng y Tứ Kỳ Môn như thủy triều dâng lên, lập tức địch đông ta ít khác xa.

Tam Thúc tổ cao giọng: “Thái Cốc chủ, Thái phu nhân, hôm nay Quảng Thiên Môn ta muốn thanh lý môn hộ, các người muốn như nào?”

Thái Bình Xuân không đổi sắc mặt: “Xưa nay Lạc Anh Cốc ẩn cư lánh đời, không thích để ý tới phân tranh giang hồ.”

Quảng Thiên Môn Tam lão nghe câu tỏ thái độ, đều hài lòng.

Dương Hạc Ảnh đã đủ lực: “Thời Tuấn huynh đệ, anh thông minh hay buông tay chịu trói đi!”

Tống Thời Tuấn khinh bỉ nói: “Chỉ với đám lính tôm tướng cua này, đệ tử Quảng Thiên Môn bọn ta còn không để vào mắt! Chúng đệ tử, nghe hiệu lệnh của ta, bày trận!”

Ai ngờ Tam lão nhà họ Tống đồng thời gọi tâm phúc phát hiệu lệnh, tử đệ Quảng Thiên Môn đứng sau Tống Thời Tuấn lập tức bớt đi hơn phân nửa.

“Các ngươi!” Mắt Tống Thời Tuấn đầy tơ máu, trong lòng đại hận.

Bàng Hùng Tín hô to: “Đám vô lại phản trắc* các ngươi, xứng đáng ân tình thường ngày của chưởng môn sao?” ông lại nói, “Chưởng môn đại ca đừng lo, chúng ta còn có hơn mười vị Thánh Đường hộ pháp, mỗi người đều một địch trăm!”

(*) 王八羔子; so sánh người vợ không chung thủy, trộm chồng nuôi kẻ vô lại.

Thánh Đường hộ pháp phía sau nghe vậy, nhao nhao rút kiếm phát thệ — “Chúng ta đều nghe hiệu lệnh của Chưởng môn!”

Tống Thời Tuấn chưa kịp dịu chút sắc mặt, Tam Thúc tổ đã vung tay lên, đệ tử tâm phúc của lão áp giải mấy chục già trẻ đàn bà trẻ con lên đến, rối rít hô, ‘Cha ơi con sợ’, ‘Phu quân cứu mạng’ …

Quảng Thiên Môn có quy mô khổng lồ, phòng ốc trùng trùng, người trong tộc họ Tống và các gia quyến tử đệ họ khac đều lộn xộn ở cùng, vốn dĩ cũng có ý chế ước trung thành, nhưng là vậy, chỉ cần có người có lòng trong nội bộ là có thể chính xác bắt gia quyến của Thánh Đường hộ pháp vào trong tay.

Thái Chiêu không nhịn được khen: “Chiêu này hay quá. Người nhà họ Tống không thể giết người nhà họ Tống, nhưng có thể cầm chân con em không cho động thủ, sau đó để người Tứ Kỳ Môn đến giết.”

“Giờ này rồi cô còn đùa!” Phàn Hưng Gia căng thẳng giọng phát run, “Cô xem sắc mặt Tam sư huynh đi, chúng ta còn không đi ra ư?”

“Không ra, lá bài tẩy của bọn họ còn chưa lấy ra hết mà.” Thái Chiêu thản nhiên nói.

Quả nhiên, trong một tràng tiếng khóc than của đàn bà trẻ con, Thánh Đường hộ pháp và đệ tử phía sau Tống Thời Tuấn giảm hơn phân nửa, mà chính họ lại bị bao vây trùng trùng trong đám con em Tứ Kỳ Môn Sa Hổ Bang và Quảng Thiên Môn Tam lão.

“Các ngươi thật sự muốn đuổi tận giết tuyệt?!” Tống Thời Tuấn khàn cả giọng.

Dương Hạc Ảnh thở dài: “Thật ra cũng không phải, chúng ta chỉ là muốn…”

Thiếu niên Sa Điền đang im lặng bỗng hô lớn: “Ta muốn báo thù cho ông ngoại, Tống Mậu Chi nạp mạng đi!” Vừa nói, vừa rút thanh chủy thủ trong ngực phóng tới Tống Mậu Chi.

Ở đây đều là người võ học, nhìn bộ pháp thiếu niên đã biết trình độ cậu thấp, chỉ có Thái Bình Xuân hơi nhíu mày.

Tống Mậu Chi cười ha hả, phi thân lên, hai chân đá liên tiếp, cú trước đá rớt chủy thủ trong tay thiếu niên, cước sau đá cậu ta ngã lăn ra đất, sau đó một tay tóm gáy cậu ta, bắt làm con tin: “Các ngươi người nào dám đi lên, ta làm thịt tên nhóc này trước!”

Tống Thời Tuấn đoán an nguy con trai không còn đáng lo, bước lên mấy bước, đang định cò kè trả giá với đám Dương Sa, bỗng Thái Bình Xuân cao giọng ‘Tống Mậu Chi coi chừng’!

Đám người rối rít quay đầu, chỉ thấy thiếu niên Sa Điền bị tóm gáy ép quỳ dưới đất chợt bật lại, xòe năm ngón tay trái, trở tay chụp vào bụng Tống Mậu Chi, tư thế tàn nhẫn vô cùng.

Bụng Tống Mậu Chi đau đớn mãnh liệt, huơ chưởng chụp đến Sa Điền, ai ngờ Sa Điền vượt lên một bước, xoay người ôm lấy Tống Mậu Chi. Tống Mậu Chi trở tay ngược lại chụp Sa Điền trong ngực mình, rắc rắc mấy tiếng, xương cốt trên người Sa Điền đứt gãy không ngừng nhưng cậu ta vẫn một mực ôm lấy Tống Mậu Chi không chịu buông tay.

Tống Mậu Chi đề khí vận công, ra sức giãy giụa, trong kinh hãi phát hiện công lực tên thiếu niên này chẳng thấp hơn mình là bao, hai cánh tay như gọng kềm sắt hàn cứng lên người mình. Cùng lúc đó, tay phải Sa Điền lên trảo, vận đủ mười thành công lực móc vào sau lưng Tống Mậu Chi. Tống Mậu Chi kêu thảm một tiếng, cả người nhuốm máu.

Biến cố trong chốc lát này khiến tất cả chấn kinh đứng sững, một chớp mắt sau, Tống Úc Chi không quan tâm gì nữa phi thân đi, Tống Thời Tuấn Bàng Hùng Tín cũng đồng thời đuổi tới, một xuất chưởng, một ra kiếm, dốc tất cả sức lực đánh tới thiếu niên Sa Điền.

Sa Điền kêu lên một tiếng đau đớn, bị đánh bay ra ngoài như bao gạo rách, nhưng Tống Mậu Chi cũng rũ rượi tê liệt ngã xuống, sau lưng hắn toác một hố máu lớn, xương sườn đứt gãy, vết thương dường như rách thấu ngực.

Tống Mậu Chi mở to đôi mắt vô thần, thở hào hển mấy hơn, trong tiếng kêu bi thống của Tống Thời Tuấn Bàng Hùng Tín tắt thở, mà Tống Úc Chi vốn cách khá xa lúc này mới đuổi tới, sà vào bên cạnh thi thể Tống Mậu Chi khóc rống.

“Điền nhi, Điền nhi của ta!” Sa Tổ Quang cũng ôm xác con trai khóc lớn, ngay sau đó rống to, “Người đâu, giết bọn chúng, báo thù cho con ta!”

— hỗn chiến bắt đầu.

Tống Úc Chi không kịp nói gì với cha, lập tức rút kiếm vung tới người Tứ Kỳ Môn và Sa Hổ Bang.

Kiếm pháp y siêu quần, tu vi thâm hậu, bay vút nhào lộn trong màn đêm, thân hình như một vệt sáng trắng mạnh mẽ duyên dáng, mũi kiếm vung tới đâu tất cả ngã xuống như cỏ rác.

Hiển nhiên hai lão Dương Sa không ngờ Tống Úc Chi cũng tới, thấy phía bên kia Tống Thời Tuấn dẫn đệ tử tâm phúc điên cuồng chém giết muốn báo thù cho con, bên này Tống Úc Chi không ai có thể địch nổi, Dương Hạc Ảnh hô lớn: “Ba người các ông đừng đứng xem kịch nữa, nếu để cha con Tống Thời Tuấn lật ngược thế cờ, ta còn có thể tránh về Tứ Kỳ Môn, các ông thì sao?!”

Sa Tổ Quang cũng hô to: “Muốn làm đại sự phải nhẫn tâm, đừng hòng nghĩ đôi tay sạch sẽ là có thể thành chuyện!”

Tống thị Tam lão trầm mặt, dẫn người tiến lên chém giết.

Cục diện lúc ban đầu là một mình Tống Thời Tuấn chém giết cùng Dương Hạc Ảnh Sa Tổ Quang, Bàng Hùng Tín Tống Úc Chi dẫn đệ tử đánh giết đệ tử Tứ Kỳ Môn và Sa Hổ Bang, nhưng khi Tống thị Tam lão công lực thâm hậu gia nhập, tình thế lập tức đảo ngược.

Sau một lát, đệ tử bên phía Tống Thời Tuấn ngã xuống ngày càng nhiều, Tống Úc Chi một mình đối chiến Tống gia Tam lão, Bàng Hùng Tín dẫn người chém giết đệ tử đồng môn.

Thấy cha con nhà họ Tống khó chống chọi, Ninh Tiểu Phong run giọng: “Tiểu Xuân ca, mình không đi giúp bọn họ à.”

Thái Bình Xuân bình tĩnh nói: “Trước tiên ta phải che chở cho mình.” — trong lòng ông, Tống Mậu Chi ương ngạnh ngu xuẩn, không coi mạng người ra gì, là tự làm Tú Chiu, Tống Thời Tuấn thương con như hại con, là tội cha không dạy con, đều không phải hoàn toàn là người vô tội.

Trong sân máu thịt văng tung tóe, Phàn Hưng Gia nhìn hoảng phát run, thì thào: “Chiêu Chiêu, cô còn không đi hỗ trợ ư?”

Thái Chiêu lắc đầu, “Không vội. Anh nhìn kỹ đi, thật ra thủ hạ Tống gia Tam lão đều nể tình, đa phần là đả thương hoặc điểm huyệt, ắt còn muốn bắt sống mấy người Tống chưởng môn, do đó hẳn Tam sư huynh không lo đến tính mạng.”

Đúng lúc này, một mũi phi tiêu lạnh lùng không tiếng động bắn tới Tống Úc Chi, thủ pháp cực xảo trá, Tống Úc Chi đang bận tay ứng phó Tam lão, bị trúng ngay tầm, sau cơn đau kịch liệt sau là một cảm giác tê liệt kỳ dị.

Thấy Tống Úc Chi bị thương, Nhị Đường bá tổ và Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ sinh lòng trắc ẩn, cùng song song nhanh chân nhảy ra sau.

Chỉ còn mỗi Tam Thúc tổ nghĩ thầm mình nếu muốn đoạt chức chưởng môn thì cũng là truyền cho con trai mình, thằng cháu văn võ song toàn thiên phú hơn người Tống Úc Chi này là mối họa lớn, tổn thương cũng đã có, dứt khoát không làm thì thôi, đã làm thì làm cho trót.

Tống Thời Tuấn thoáng nghiêng mắt sang, lập tức đoán được suy nghĩ trong lòng Tam Thúc tổ, ông đã mất một đứa con trai, quyết không thể mất đi đứa nữa, lập tức dùng mười thành công lực, điên cuồng hất ra hai người Dương Sa, nhanh chóng đánh tới Tam Thúc tổ.

Tam Thúc tổ thấy Tống Thời Tuấn như hổ điên đánh tới, hai mắt rực đỏ, chưởng phong hung ác, lòng lão run lên, lập tức chưởng lại đối địch.

Bốn chưởng mãnh liệt tấn công, khí kình chảy ngang quanh người, Tống Thời Tuấn đương tuổi tráng niên, tu vi lại cao hơn hơn một bậc, Tam Thúc tổ bị đánh hộc phun máu tươi, bay ra xa rớt xuống đất.

Nhưng lúc này Dương Hạc Ảnh Sa Tổ Quang cũng chạy tới, bọn hắn đồng thời đánh tới sau lưng Tống Thời Tuấn, Thái Bình Xuân quát lạnh ‘Hèn hạ’, chưởng lực đánh bay chung trà trên bàn bên.

Tu vi Sa Tổ Quang kém hơn nhiều, bị chung trà đánh trúng lưng lập tức mất chân khí, từ giữa không trung ngã mạnh xuống; Dương Hạc Ảnh mạnh hơn nhiều, tuy lão liều mạng bị chung trà nện trúng, vẫn ra sức đánh tới chỗ đại huyệt phía sau Tống Thời Tuấn. Chỉ nghe phụt phụt, Dương Hạc Ảnh Tống Thời Tuấn đồng thời phun ra một ngụm máu, Bàng Hùng Tín và đệ tử Tứ Kỳ Môn cùng lên đỡ lấy hai người về.

Nhị Đường bá tổ và Tằng bá tổ phụ thấy bản thân Tam Thúc tổ bị trọng thương, lại bay vọt về, Tống Úc Chi cố nén cơn đau nơi vai, vận khí đẩy song chưởng đỡ đơn chưởng cùng tấn công của hai người.

Quyết đấu nội lực không thể né tránh, hai người tất nhiên có thủ hạ lưu tình, nhưng phát hiện cánh tay tê rần, khí huyết cuồn cuộn trong ngực, thầm nói ‘Thằng nhỏ này lợi hại thật’.

Tống Úc Chi ngược lại cứng cỏi đẩy mấy bước, nhịn không phun máu.

Dương Hạc Ảnh che ngực hô to, “Vương Lão Tứ, cậu còn chờ cái gì, nhanh phun nhanh phun!”

Theo lệnh lão, một đội đệ tử Tứ Kỳ Môn giơ một ống dài hình dạng cổ quái đi lên, người bên ngoài chưa phản ứng, Thái Chiêu đã chùng sắc mắt, “Quả nhiên còn có chiêu ác độc đằng sau!”

Cơ quan ống gỗ vừa rút, một luồng hơi nước ngập ngụa mùi hôi thối tanh tưởi phun ra, như mưa rơi vẩy tới bọn Tống Thời Tuấn.

Trong màn đêm tĩnh mịch, trăng sáng tròn tròn, một bóng thiếu nữ linh xảo lờ mờ xẹt qua giữa trời, trong tay cô chụp một vốc bạc vụn lớn cỡ lá trà, như sao đầy trời đêm bắn xuống, keng keng keng không ngừng vang bên tai, mớ ống gỗ dài tranh nhau phát nổ.

Ninh Tiểu Phong vui vẻ kêu to: “Chiêu Chiêu, Chiêu Chiêu con đến rồi, mau lại chỗ mẹ!”

Thái Chiêu lên tiếng đáp lại, trước khi dịch đội tràn tới, tranh thủ chụp Tống Úc Chi bị thương lùi tới chỗ Ninh Tiểu Phong.

Con ngươi Thái Bình Xuân co rút, quát to: “Đây là Thực Cốt Thiên Vũ của Lộ Thành Nam, sao Dương Hạc Ảnh ngươi có thể có thứ này!”

Dương Hạc Ảnh cười lớn: “Năm đó sau khi Nhiếp Hằng Thành chết, lúc vây quét mấy phân đà lớn của Ma giáo thu được, ta vẫn giấu đến hôm nay!”

Dịch độc tanh hôi từ trong ống gỗ vỡ nát chảy ra, đệ tử Tứ Kỳ Môn cầm ống trong kêu thảm một tràng, chỗ da thịt chạm đến dịch độc lập tức nát rữa, lộ xương trắng hếu. Đệ tử Tứ Kỳ Môn điên cuồng gào thảm chạy tới đồng môn cầu cứu, càng lây dính dịch độc cho càng nhiều người. Cộng thêm hơi độc vừa mới phun ra còn bay giữa không trung, nhiễm vào da thịt lập tức gây nát rữa.

Thái Chiêu dùng sức đá văng một đệ tử Tứ Kỳ Môn bị độc ăn mòn lột hết quai hàm, phát hiện toàn bộ người phía trước đều đã bị ăn mòn thành máu me bấy nhầy, cô đành kéo Tống Úc Chi lánh qua chỗ Phàn Hưng Gia.

Trong mấy hơi ngắn ngủi, Thánh Đường trước đại điện xưa nay trang nghiêm im ắng đã thành một mảng Tu La tràng, tiếng kêu rên thảm thiết không ngừng, máu thịt không ngừng bị ăn mòn bởi dịch độc tanh hôi.

Sa Tổ Quang té trong góc xó lặng lẽ chống người dậy, móc từ trong túi bên hông lấy ra một chiếc ống đồng nhỏ, nhân lúc không ai để ý dùng sức bật cơ quan, bắn tới Tống Thời Tuấn. Bàng Hùng Tín hét lớn một tiếng, ra sức nhào lên người Tống Thời Tuấn, dùng thân thể của mình ngăn hoàn toàn dịch độc đầy trời phun tới.

Tống Thời Tuấn vất vả lắm mới xoay người ra, nhìn thấy sau lưng Bàng Hùng Tín đã bị ăn mòn bầy nhầy, ông muốn rách cả mí mắt, “Lão Lục, Lão Lục, cậu thế nào rồi! Cậu cố chống chọi, ta tìm người chữa trị cho cậu!”

Toàn bộ tấm lưng Bàng Hùng Tín như lửa đốt, ông nhếch miệng cười khổ: “Đại ca, tôi không thể theo hầu anh nữa rồi, từ rày về sau, anh cẩn thận hơn nhé!” Nói xong, ông đẩy Tống Thời Tuấn ra, thả thân hình to lớn đánh tới Sa Tổ Quang.

Sa Tổ Quang bị hù lùi liên tiếp ra sau, đáng tiếc vừa rồi vì lão giả vờ như bị thương không nhẹ, vẫn nằm rạp trên đất, giờ không kịp đứng dậy đã bị Bàng Hùng Tín nhào tới ngay, nhanh chóng dính phải dịch độc từ sau lưng Bàng Hùng Tín chảy ra.

Nửa người Bàng Hùng Tín đã hư thối, vẫn túm chặt hai đùi Sa Tổ Quang, cười to nói, “Đồ rùa con, có thể chết chung với ông đây, là phúc phần tu tám đời đó!”

Tống Úc Chi xa xa nhìn thấy cảnh tượng này, im lặng rơi nước mắt “Lục thúc, Lục thúc…”

Trung dũng hào khí như thế, đến Thái Bình Xuân cũng động lòng, Ninh Tiểu Phong nức nở, “Tiểu Xuân ca, Tiểu Xuân ca!”

Thái Bình Xuân hiểu ý vợ, ngay từ đầu đã định dẫn bà tự mình rời đi, bây giờ không thể không thay đổi kế hoạch, ông nhìn mấy Thánh Đường Hộ pháp còn sống sót phe Tống Thời Tuấn nói, “Dựa theo ta hành động, chạy theo ta.”

Sau đó, ông đánh nát bàn ghế bên cạnh, nhặt hai tấm ván gỗ kích thước vừa phải cột vào lòng bàn chân, sau đó cõng Ninh Tiểu Phong lên, dùng thắt lưng cột lại. Tiếp đó tay trái bắt lấy Tống Thời Tuấn, tay phải bổ vào không khí, chém đứt một đoạn cột cờ cao cao, dùng cột cờ dài đẩy đám ‘người nát rữa’ dính độc qua hai bên phải trái, nếu gặp kẻ ác ý nhào tới liền vận nội lực đánh ngã người hoặc dùng cột cờ đâm chết.

Mấy Thánh Đường hộ pháp thấy thế, lập tức bắt chước y chang, thừa dịp hiện trường hỗn loạn tưng bừng ra sức trùng sát ra ngoài.

Thấy sắp có thể phá vây xuống núi, Thái Bình Xuân cách đám người rên la và máu me giăng kín hô to một tiếng gọi con gái “Chiêu Chiêu!”

— bọn họ không thể chậm trễ nữa, một khi chờ Dương Hạc Ảnh cùng Tống gia Tam lão lấy lại tinh thần, sẽ khó đào thoát.

Thái Chiêu hiểu ý, cao giọng đáp: “Cha yên tâm!”

Đối phó Thực Cốt Thiên Vũ, e là ở đây không có ai kinh nghiệm hơn cô, lúc đầu cô còn lo cho an nguy cha mẹ, bây giờ hai nhóm người phá vây như cơn gió chính hợp ý cô.

Cô đạp bay mái hiên hai bên ngoài Thánh Đường, không ngoài dự đoán, Quảng Thiên Môn giàu có tận trời dùng thảm lông cực dày để lót sàn. Vù vù vài tiếng, lưu loát kéo ba tấm trùm cho ba người mình từ đầu đến chân, sau đó mỗi người một tay ném Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia lên nóc nhà, rồi dùng xích bạc trên cổ tay trái đẩy họ lên không trung.

Trên mặt đất người thấy thế, nhao nhao dùng y phục bọc lấy có dính nọc độc thi khối hướng ba người bọn họ ném đi, đáng tiếc hai ba tấc dày quý báu lông dài thảm toàn không đang sợ.

Động tác Thái Chiêu cực nhanh, thở mấy hơi đã xách theo hai vị sư huynh vô dụng biến mất trong trời đêm, chỉ để lại một tiếng cười sảng khoái của cô gái — “Lão phế vật Dương Hạc Ảnh kia, năm ngoái bị ta đánh rụng răng đầy đất, năm nay vẫn không tiến bộ thế, ha ha ha…”

Đám Dương Hạc Ảnh trơ mắt nhìn cha con nhà họ Thái từ hai hướng một nam một bắc phá vây rời đi, khó nén lửa giận.

Thái Chiêu tay trái kéo Phàn Hưng Gia, tay phải vịn Tống Úc Chi, đội sương mù buổi sớm phi nước đại một đường, lúc phóng qua cửa thành cao lớn suýt một hơi không có nhấc lên.

Đến khi nắng ấm buổi sớm tưới trên mặt Phàn Hưng Gia, hắn dậy lên nghi ngờ: “Chiêu Chiêu, cô lôi chúng ta đi đâu thế! Sao thẳng hướng bắc mãi, ta nhớ phía Bắc Quảng Thiên Môn là một khu rừng rậm mà.”

Thái Chiêu dừng bước, lau mồ hôi: “Không sai, chính là phương bắc. Chúng ta đi đầm Huyết Chiểu.”

Phàn Hưng Gia lập tức hoảng sợ ra mặt.

Thái Chiêu quay lại cười cười, “Chờ đến bìa rừng, tôi tìm một chỗ để anh và Tam sư huynh ở lại, tự tôi đi vào.”

Đáng tiếc lời còn văng vẳng bên tai, vó ngựa ù ù truy binh sau lưng đã chạy đến.

Bọn hắn chẳng những đuổi theo không ngừng, còn không ngừng bắn tên, đáng hận là nhìn xung quanh Quảng Thiên Môn là một vùng bằng phẳng nhìn không sót gì, ngay cả một chỗ trốn cũng không có. Thái Chiêu lôi theo một con gà yếu ớt với một con bệnh trọng thương, thình lình trúng một tên ở vai, may Phàn Hưng Gia kịp thời nhặt được gốc tên lạc đã phán đoán tên này không có độc.

Ba người lảo đảo chạy trốn theo hướng bắc, từ lúc mặt trời mọc chạy vội tới mặt trời lặn, bóng đêm lại lần nữa bao phủ, phía trước là một khu rừng rậm lớn âm u rợn tóc gáy. Thái Chiêu nóng ruột, muốn rút Diễm Dương đao chém đám truy binh từ người lẫn ngựa thành bàn ghép ngũ hoa, song lại lo đối phương nhiều người, lỡ thừa dịp mình cùng chúng triền đấu làm bị thương hai người Tống Phàn thì làm sao.

Ngay lúc khó xử, trong rừng rậm phía trước bỗng vọt ra ba bóng người nhanh nhẹn, trong đêm sương mù mênh mông vùng hoang vắng, cả hai bên không thấy rõ hình dáng đối phương, chỉ nghe một người dẫn đầu quát lớn, “Các ngươi là ai, đuổi theo chúng ta đến tận đây!”

— chất giọng này Thái Chiêu nghe hơi quen quen, trong nhã nhặn mang một ít bại hoại, trong thanh cao mang một ít trịch thượng.

Người thứ hai cũng mở miệng, “Cậu bớt nói nhảm đi, chúng ta hành tung bí ẩn không thể tiết lộ, mau chụp chết hết đám này!”

— hay lắm, giọng tên này Thái Chiêu cũng quen quen.

Nói xong hai người nhào tới đám truy binh, sở dĩ không phản ứng ba người Thái Chiêu có lẽ vì cho rằng ba người bọn họ là ba tên yếu ớt còn bị thương, cộng thêm còn có một cô gái nhỏ, hẳn không mấy uy hiếp, hai người bèn đồng lòng chạy ra xử đám người đuổi theo binh cường mã tráng trước.

Lúc này, bóng người thứ ba thon dài chậm rãi đạp trên ánh trăng mỏng như màn sa tới.

Thái Chiêu quay lại, bốn mắt nhìn nhau, một lần nữa đồng thời mở miệng —

“Huynh ở đây làm gì?”

“Sao nàng lại đến đây?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 125


Di dân Huyết Chiểu

Trải qua một ngày trời, cùng là giữa chốn đồng không mông quạnh ngoài thành Quảng Thiên, cùng là dưới màn đêm sâu thẳm, hai người cùng hỏi câu y chang, không thể không nói nghiệt duyên quá sâu.

Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt cười lớn thả người lên, trong chốc lát giết liền mấy người cưỡi ngựa, lập tức máu tươi nhuốm hoang vu.

Kỵ sĩ dẫn đầu Tứ Kỳ Môn ghìm ngựa hô to: “Người đến là ai, xưng tên ra.”

Du Quan Nguyệt cười nói: “Tại hạ sáng mắt sáng lòng ngàn đầu ngàn tay thích ăn thịt hạc nhất Trương Tiêu Dao Trương Tam gia là vậy!” Rồi chỉ Thượng Quan Hạo Nam, “Cậu ta, Vương Tiểu Nhị.”

Thượng Quan Hạo Nam lườm anh ta một cái, trên tay không ngừng giết tới truy binh Tứ Kỳ Môn. Chỉ thấy hắn cầm trong tay một đôi đen Thiết Hổ trảo đen sì, ngang kéo nghiêng móc, giây lát lại giết ba, bốn người.

Kỵ sĩ dẫn đầu thấy tình thế không ổn, vội tổ chức đám hơn hai mươi người còn lại thành trận hình, tạo thành thế giằng co với Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt. Gã la lớn: “Hôm nay là chuyện nội bộ của Bắc Thần Lục phái chúng ta, không liên quan đến người khác phái bên ngoài!”

Gã chỉ vào ba người Thái Chiêu nói, “Ba tên này ở Quảng Thiên Môn làm nhiều việc ác, giết người vô số, Tứ Kỳ Môn chúng ta hợp sức cùng đuổi bắt, xin ba vị hảo hán chớ nhúng tay.”

Du Quan Nguyệt à một tiếng, “Ngươi cho là ta mù sao, hậu sinh đang hôn mê kia rõ ràng là Tam công tử Quảng Thiên Môn Tống Úc Chi, còn ‘hợp sức cùng đuổi bắt’, giỡn quỷ hả!”

Kỵ sĩ dẫn đầu cắn răng, “Đám yêu nhân Ma giáo các ngươi, giữ thể diện cho mà không cần, được, hãy đợi đấy…” Lời còn chưa dứt, chỉ nghe phía sau lại có một tràng vó ngựa phi, hiển nhiên đang có một đám đông đuổi tới.

Kỵ sĩ dẫn đầu lộ vẻ mừng rỡ, “Chúng ta chỉ là đội đầu tiên, sau lưng còn có hai ba toán chạy đến, đến chừng đó xem các ngươi chết thế nào!”

Thượng Quan Hạo Nam không kìm được nói: “Muốn đánh thì đánh, cầm gì nói nhảm nhiều thế! Đội truy binh phía sau có bao nhiêu người ngươi nói thì ta tin à!”

Sự thật là có ba đám truy binh đuổi đến Du Quan Nguyệt cũng không sợ, với thân thủ của Mộ Thanh Yến và hai người bọn y, dù thế nào cũng có thể toàn thân trở ra, dù gì mục tiêu của họ là vào Huyết Chiểu, nơi đó hiểm ác khó dò, tốt nhất là không nên tiêu hao thể lực quá mức trước khi đi vào.

Hắn thử nhìn Mộ Thanh Yến phía sau, “Công tử, ngài xem…”

Ai ngờ Mộ Thanh Yến vốn chẳng màng tới, mà đang từng bước một đi đến bên cạnh Thái Chiêu, “Nàng vốn chẳng phải đi theo Tống Úc Chi đến phân tranh giảng hòa, nàng là đến Huyết Chiểu.”

Thái Chiêu ôm bờ vai bị thương, “Huynh cũng không phải đến xem trò hay Bắc Thần nội chiến, huynh cũng là đến Huyết Chiểu!”

Mộ Thanh Yến hơi nhíu mày: “Sao nàng lại biết đến chỗ Huyết Chiểu này?”

Thái Chiêu cắn môi dưới: “…Dĩ nhiên là nhìn bản đồ rồi.”

Mộ Thanh Yến biết rõ cô gái hiểu mình hỏi là chuyện gì, lập tức một tay chuyển hướng đột ngột chụp lấy Phàn Hưng Gia đang nằm bẹp ra đất thở. Phàn Hưng Gia chỉ thấy hoa mắt, thậm chí Thái Chiêu bên cạnh còn chưa kịp phản ứng, cả người hắn tê dại bị giữ ở huyệt Sùng Cốt sau gáy, sau đó là trời đất quay cuồng, người bay lên trời.

“Hạo Nam tiếp lấy.” Mộ Thanh Yến bình bình mở miệng, ném người ra phía sau, lại cúi xuống nói, “Nếu Tiểu Thái nữ hiệp không nghe lời, anh cứ ném họ Phàn cho Tứ Kỳ Môn.”

“Được!” Thượng Quan Hạo Nam mở cánh tay dài, vừa vặn tiếp đón Phàn Hưng Gia bị ném bay tới, thuận tay kẹp dưới bả sườn.

Phàn Hưng Gia bị hù hồn phi phách tán, la luôn mồm: “Đừng đừng đừng, hảo hán tha mạng! Sư muội cứu mạng a a a a a…”

Thái Chiêu lo lắng định xông tới, Mộ Thanh Yến nghiêng cánh tay vào trong ngăn cản, cô quýnh quáng rút Diễm Dương đao bên hông, ai ngờ lưỡi đao còn chưa sáng, chợt thấy ngón trỏ ngón cái tay phải Mộ Thanh Yến khẽ chụp, bắn ra một viên sỏi nhỏ, đánh trúng cổ tay mình.

Cổ tay Thái Chiêu lập tức bị tê dại, suýt nữa không cầm nổi chuôi đao. May mà cô phản ứng cực nhanh, tay trái lập tức phóng roi bạc, quật qua như một vệt sáng. Mộ Thanh Yến cũng không cản, thuận vào tia sáng bạc mảnh dẻ chộp lấy xích bạc, sau đó một chiêu diều hâu xoay trên không trung, chính là Thanh Vân Túng trong ‘Đảo huyền thùy vân’. Hai chân còn chưa chạm đất, tay trái hắn đã giữ bờ vai bị thương của Thái Chiêu, tay phải thuận thế đoạt cổ tay cô, Diễm Dương đao bị đánh bay ra ngoài, vừa lúc rơi xuống bên chân Du Quan Nguyệt.

“Quan Nguyệt, cất thanh đao.” Mộ Thanh Yến nói.

Du Quan Nguyệt lập tức vọt tới nhặt Diễm Dương đao.

Thái Chiêu kêu đau một tiếng, quỳ một gối xuống đất.

Lòng bàn tay trái Mộ Thanh Yến ẩn chứa một luồng nội lực hùng hậu vô song, như ẩn như lộ, phụt ra hút vào không ngừng, thực là đã đạt tới diệu giới chí cao trong nội gia võ học.

Thái Chiêu vốn đã biết tu vi mình có thể thua kém Mộ Thanh Yến một bậc, song không ngờ mới chia tay một năm, nội lực tên này đã tinh tiến đến bực ấy, cô mấy lần muốn giãy thoát đều không thể, mà càng nhận ra trong nội lực của hắn còn có ý cay độc thuần thục, ngoái lại nói: “Là, là cha của huynh… Ông ấy, trước khi lâm chung ông ấy…”

Gò má Mộ Thanh Yến như tuyết, dưới ánh trăng nhạt như phát ra ánh sáng lạnh lẽo. Hắn lẳng lặng trả lời: “Không sai.”

Thái Chiêu thầm nghĩ quả là thế.

Mộ Chính Minh cũng không phải già yếu mà chết, cũng không phải bị thương nặng hết sức mà chết, mà là trúng độc khó cứu. Mộ Thanh Yến là đứa con trai ruột mà ông tự tay nuôi dạy, nội khí hai cha con hoàn toàn đồng nhất, thế là trước khi lâm chung ông đã truyền nội lực cả đời cho con.

Chỉ có điều trước đây chính tu vi tự thân của Mộ Thanh Yến chưa trưởng thành, không thể hòa tan toàn bộ công lực cha truyền cho mình để dùng, mà bây giờ…

Thái Chiêu cũng không cảm thấy Mộ Thanh Yến dựa cả vào sự giúp sức của cha mới có thần công hôm nay, ngược lại thầm hoảng hốt — năm ngoái sau buổi tế điển Bắc Thần Lão Tổ, Thái Bình Xuân từng bí mật nói với cô, người tiếp nhận nội lực bên ngoài cũng không phải đơn giản như là đắp chồng đếm số như vậy.

“… Thương Khung Tử đem công lực hơn ba mươi năm truyền cho Cầu Nguyên Phong, Cầu Nguyên Phong lại tu luyện từ nhỏ không ngừng, theo lý thuyết nội lực Cầu Nguyên Phong phải hơn hẳn người cùng thế hệ trên dưới ba mươi năm mới đúng. Thế nhưng theo con, công lực trên người ông ta có nhiều hơn Vương Nguyên Kính ba mươi năm không?”

Lúc đó Thái Chiêu lắc đầu cực mạnh, cho là đừng nói ba mươi năm, nom Cầu Nguyên Phong chỉ cao hơn Vương Nguyên Kính một bậc, cũng không biết bao nhiêu công lực của Thương Khung Tử đã biến đi đâu.

Thái Bình Xuân nói thẳng đáp án: “Muốn thu nạp hết nội lực của người khác cho mình dùng, bản thân cũng phải có công lực đại khái tương đương.”

Ông còn lấy ví dụ cho con — ví dụ như muốn tan một khối băng lớn trong mùa đông rét đậm thì phải dùng một lượng nước nóng cùng khối lượng mới được, sau đó nước đá mới hòa vào nhau thành một khối. Nếu nội công cả hai tu luyện khác biệt, như nước dầu không hòa tan, thì có dùng dầu sôi hóa khối băng thành nước vẫn không thể nào dung hợp.

Mộ Chính Minh qua đời lúc hơn bốn mươi tuổi, mà hiện giờ Mộ Thanh Yến cũng chỉ chừng hai mươi.

Thái Chiêu không kìm được nghĩ viễn vông, có lẽ Mộ Chính Minh giống mình, không nóng lòng tu luyện… chắc là vậy.

Phía bên kia Du Quan Nguyệt đã vui sướng lấy bao mềm gói kỹ Diễm Dương đao, trước khi cho vào túi sau lưng còn sờ thêm mấy cái — là Diễm Dương đao đó, là Diễm Dương đao làm vô số tiền bối trong giáo nghe đến đã biến sắc đó! Nếu có thể mang về dãy Hãn Hãi thì tốt quá, chắc chắn sẽ cho Tinh nhi sờ thử một cái.

Thái Chiêu thấy cảnh này, mắt đỏ ngầu, vừa giận mình không có tài cán, không giữ được binh khí của cô cô, vừa tức Mộ Thanh Yến quá ư thiếu đạo đức, cố ý thừa dịp sức mình không tốt mà làm mất mặt mình.

Mộ Thanh Yến nói: “Cô cô nàng ra đi quá sớm, cha mẹ nàng đã giao cây Diễm Dương đao cho nàng quá sớm, khiến nàng quen cậy vào thần binh. Binh khí, vĩnh viễn chỉ có thể là phụ trợ. Được rồi, giờ trả lời ta đi, sao nàng biết đến đầm Huyết Chiểu?”

Thái Chiêu hơi lưỡng lự, Mộ Thanh Yến cao giọng: “Hạo Nam, ném người.”

“Không cần không cần không cần đừng ném ta nói tôi nói!” Thái Chiêu nghe Phàn Hưng Gia kêu thảm, quay lại ôm cánh tay Mộ Thanh Yến, “Tôi nói là được — tôi kiểm tra bản ghi chép bí mật của Doãn Đại, trước khi lão ta lần đầu phát hiện công lực Nhiếp Hằng Thành chực tăng mạnh chừng ba bốn tháng, Trần Thự từng dẫn một toán người lớn từng tới nơi đây…”

“Khi đó Trần Thự đã bị cô cô tôi phế Ngũ Độc Chưởng, đã lâu không ra U Minh Hoàng Đạo, nhưng lần ấy lại chạy một chuyến ra bên ngoài Quảng Thiên Môn xa ngàn dặm, nếu không phải có việc cần làm, Nhiếp Hằng Thành sao để lão ta ra ngoài mạo hiểm chứ.”

Mộ Thanh Yến gật gù: “Không sai, trong Tứ đại đệ tử của Nhiếp Hằng Thành chỉ có mỗi Trần Thự biết bí mật của Tử Vi Tâm Kinh, nếu có liên quan đến việc này, đúng là phải qua tay Trần Thự mới được.”

Lúc này, tiếng vó ngựa truy binh phía sau rào rào càng gần, chừng chưa tới hai ba dặm, Thái Chiêu không khỏi âm thầm lo lắng.

Mộ Thanh Yến liếc cô gái, “Hạo Nam, Quan Nguyệt, hai người làm thịt bọn chúng, gọn gàng chút.” Nói xong, hắn một mình đi vào trong rừng rậm.

Thượng Quan Hạo Nam vứt Phàn Hưng Gia xuống, ánh mắt lộ vẻ hưng phấn.

Chính Du Quan Nguyệt thích tỏ ra nhã nhặn cũng lộ vẻ sung sướng, hai tay áo khẽ rung, trong hai tay nắm Quỷ Thủ Loan Câu lập lòe sắc lạnh, thét dài cười lớn giết vào đám Tứ Kỳ Môn.

Phàn Hưng Gia lộn nhào chạy về bên cạnh Thái Chiêu, “Cô cô cô không phải đã bảo hòa hòa bình bình chia tay hắn ta, không chút oán hận ư!”

“… Tôi, cảm thấy là hòa hòa bình bình mà.” Thái Chiêu hoang mang.

Phàn Hưng Gia tức hổn hển: “Nom dáng vẻ hắn ta như muốn ăn tươi cô, đây là không chút nào oán hận à?!”

Thái Chiêu không nói nên lời, chỉ đành thở thật dài.

Tiếng kêu thảm thiết vọng đến từng hồi, dưới vây quét của Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt, đệ tử Tứ Kỳ Môn tranh nhau phơi thây, tuấn mã vô chủ giãy cương phóng đi.

Nhìn mặt Thái Chiêu tỏ vẻ không đành lòng, Phàn Hưng Gia vội nói: “Hầy đừng có nhìn, làm vậy là đúng. Họ đã thấy chúng ta ở chung với đám người Ma giáo, nếu thả họ sống sót ra ngoài, không chừng sẽ nói chúng ta thế nào.”

Thái Chiêu không còn cách nào khác lại thở dài.

Phàn Hưng Gia cố gắng dìu Tống Úc Chi hôn mê lên, miệng líu lo không ngừng: “Giờ thì biết lợi hại của võ nghệ cao cường rồi đấy, sớm biết có hôm nay, hồi đó cô nên tiết kiệm thời giờ dạo chợ hoa mà luyện công cho đường hoàng đi!”

“Không phải.” Thái Chiêu vô vàn hối hận, “Là tôi phải tiết kiệm thời giờ đi dạo chợ hoa chợ bán thức ăn chợ đèn vu lan chợ đêm còn có hội chùa chiền Văn Thù Phổ Hiền Quan m Địa Tạng Bồ Tát để chăm chỉ luyện công!”

Phàn Hưng Gia: …

Thái Chiêu chợt thấy tay trái bị siết chặt, như bị thứ gì khẽ kéo đi. Cô cúi nhìn, xích bạc trên cổ tay bị kéo thành một đường thẳng, nối với trong tay thanh niên đang đứng ở bìa rừng xa xa.

Mộ Thanh Yến lạnh lùng nói: “Còn không đi theo.”

*

Cánh rừng u ám này ở mạn Bắc Quảng Thiên Môn, nhìn từ không trung tựa như đám thảm lông bằng sợi đay mỏng mảnh dệt thành, rậm rạm chằng chịt, mênh mông vô bờ; trong ghi chép võ lâm tự có đến giờ, hiếm có người có thể đi qua cánh rừng rậm này. Giống như Đỉnh Chọc Trời cao vút tận mây ở phía sau Thanh Khuyết Tông, dãy Hãn Hãi mênh mông vô bờ phía sau Ma giáo, mảng rừng rậm này cũng là một lá chắn thiên nhiên phương Bắc Quảng Thiên Môn, phòng rơi vào cục diện hai mặt đối địch.

Vào khu rừng rậm, ánh trăng sáng đột nhiên yếu đi, trên đỉnh đầu như phủ một lớp màn dày, khuôn mặt người bên cạnh cũng thành lờ mờ. Thái Chiêu tập trung nhìn, phát hiện toàn bộ thân cây quanh mình đều mảnh khảnh rất dài, giữa đám cây chen chúc chặt chẽ dị thường, nhánh cây lá cây trên đỉnh đan quấn nhau, chẳng phải không giống một tấm đỉnh màn ư.

Thái Chiêu muốn đốt ngọn đèn, song lại bị Mộ Thanh Yến dùng xích bạc kéo sát, hễ chậm một bước tên quỷ nhẫn tâm kia lại dùng sức kéo lấy, cô đành phải chân nam đá chân chiêu theo sau. Bên cạnh cô một trái một phải là Thượng Quan Hạo Nam cõng Tống Úc Chi và Du Quan Nguyệt kéo lấy Phàn Hưng Gia, một nhóm sáu người im lặng phóng vào chỗ sâu trong rừng.

Đông rẽ tây quẹo, không biết đi được bao lâu, Mộ Thanh Yến chợt dừng, Thái Chiêu suýt đập mũi vào lưng hắn. Mộ Thanh Yến xoay người lại, nhấc cánh tay chỉ phía trên bên cạnh, bảo Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt: “Mấy người lại chỗ đó, để Phàn Hưng Gia chữa thương cho Tống Úc Chi.”

Hai người tuân lệnh, kéo hai người Tống Phàn nhảy lên thật cao, Thái Chiêu ngửa đầu nhìn theo thân hình họ bay lên không, mới phát hiện trên đám chạc cây chồng chéo lớp lớp có một căn lều vải bằng lụa mỏng màu xanh, còn một chiếc lều khác hơi nhỏ hơn chút ở trên chạc cây cách bảy tám trượng.

Thái Chiêu chợt thấy cánh tay trái bị kéo chặt, cúi nhìn, trong tù mù chỉ thấy bốn ngón tay xương xương thon dài bạch ngọc chụp dưới ống tay áo mình, lập tức cả người nhẹ bẫng, bị Mộ Thanh Yến dẫn theo nhảy lên chỗ lều vải nhỏ hơn kia.

Lên chạc cây, tán lá dày đặt bị giá đỡ lều vải chống dạt ra, ánh trăng rả rích xuyên thấu qua tấm lụa mỏng xanh, bên trong sáng sủa hơn nhiều. Thái Chiêu mượn ánh trăng nhìn thấy dưới đáy lều phủ lên vài gốc thân cây được đẽo gọt vuông vức, phủ lớp thảm nhung mềm mại lên trên, trong góc bày một túi đồ ngay ngắn.

Sau khi Mộ Thanh Yến vào lều, bèn đưa tay đè vai Thái Chiêu xuống, ngón tay lật lớp áo của cô, Thái Chiêu đỏ mặt, chùng vai nâng tay dùng sức thoi một cùi chỏ ra sau, Mộ Thanh Yến hơi nhích bả vai, vận nội lực ra lòng bàn tay chụp cánh tay cô gái bẻ ra sau, tránh cô phản kích, dứt khoát cúi người ép tới.

Thái Chiêu bị chúi nhủi té nhào lên tấm thảm nhung, phía sau bị toàn bộ thân người của thanh niên bao phủ, như con thú con bị đặt lên một tòa núi lớn, suýt nữa thở cũng không ra hơi. Cô ra sức uốn người không có kết quả, chỉ thấy thân thể người đàn ông đè trên mình cao lớn cường tráng, lồ ng ngực cứng rắn, cánh tay mạnh mẽ, như lồng giam khóa mình vào bên trong.

Mộ Thanh Yến chợt nói: “Tốt nhất nàng đừng động đậy nữa!”

Thái Chiêu không hiểu nghiêng đầu, suýt nữa gò má chạm phải môi hắn, mũi chạm mũi, trong tích tắc có thể nghe thấy hơi thở của nhau. Thanh niên nhẹ th ở dốc, hơi thở hơi nặng nề gấp rút, gò má trắng nõn lờ mờ ửng hồng, con ngươi vốn tỉnh táo hơi mở lớn, toát lên vẻ k1ch thích cổ quái.

Đến cùng thì Thái Chiêu đã xem qua rất nhiều thoại bản không kiêng thịt thà, dù rất nhiều chi tiết chỗ hiểu chỗ không, nhưng không cản được lúng túng và căng thẳng giây phút này của cô, gương mặt đỏ từ mang tai lến đến cổ. Cô nhận ra cơ thể cứng rắn phía sau, nóng bỏng như phát sốt, cô sợ đến chực khóc, nhanh trí lớn tiếng nói: “Tôi biết huynh muốn băng bó vết thương trên vai tôi, để tôi tự, huynh huynh thả tôi ra trước đã có được không…” Nói xong ba chữ cuối cùng, gần như là van nài.

Mộ Thanh Yến chăm chú nhìn gáy và đầu vai chỗ y phục hơi hở của cô gái, làn da mềm mềm mơn mởn đáng yêu ửng đỏ một mảnh, như viên tuyết trắng dính một lớp phấn hoa đào, cơ thể mỏng manh hơi run lên vì sợ, như con mèo con bị kinh hãi, trong đôi mắt to long lanh lệ đầy van nài và đáng thương. Lồ ng ngực Mộ Thanh Yến cực kỳ khô nóng, vừa muốn tùy ý nhào nặn nát con mèo giảo hoạt vờ yếu đuối này, vừa muốn ôm vào trong lòng thân yêu mật ái.

Hắn nhìn cô gái chòng chọc hồi lâu, các loại cảm xúc hiện lên trong mắt, Thái Chiêu nhìn vừa kinh vừa sợ, cuối cùng thanh niên nhắm mắt lại ổn định tâm trạng, mở mắt đồng thời lỏng tay, “Tự cởi áo ra đi!”

Thái Chiêu như được đại xá, lộn nhào rúc vào một góc màn lụa.

Mộ Thanh Yến quay đi lấy bình thuốc băng vải trong túi đồ, lúc xoay người lại, thấy tấm lưng cô gái run rẩy quay về phía mình cởi vạt áo, cuộn tròn người lộ ra vết thương tên đâm xuyên vai.

Hắn hơi mỉm cười ngậm vẻ châm chọc, “Hôm nay ta mới biết Tiểu Thái nữ hiệp co được dãn được thế đấy.”

“…Thật ra thì, tôi cũng là hôm nay mới biết.”

Sau một trận lau chùi bôi thuốc đau nhói, băng bó vết thương kỹ lưỡng, Thái Chiêu thận trọng kéo lại vạt áo, buộc từng thắt gút xong mới dám quay người. Ánh sáng trong trẻo nhu hòa như suối bạc trong màn lụa, thanh niên cao gầy mặt như quan ngọc, lạnh trong như nước, nét mặt toát vẻ hờ hững, Thái Chiêu sực nhớ tới tình cảnh ban nãy —

Sau khi Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt giết sạch tất cả truy binh Tứ Kỳ Môn, giữa đồng trống thây ngang phơi đầy, máu nhuộm cả đất. Mộ Thanh Yến ném một chiếc bình sứ, “Hóa xác hết đi, tránh bị nhìn ra lai lịch vết thương.”

Một bình Thực Cốt Thiên Vũ đổ xuống, mấy mươi cái xác nhanh chóng hóa thành một vũng nước thi đầy hôi thối nồng nặc, Phàn Hưng Gia Thái Chiêu nhìn muốn nôn, ngay cả Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt cũng bất giác quay lưng đi, chỉ có Mộ Thanh Yến vẫn hờ hững, hoàn toàn rỉnh rụi lẳng lặng nhìn. Mãi đến khi tiếng vó ngựa truy binh gần tới trước mặt, hắn mới hạ lệnh đi vào rừng rậm.

“Nếu ta thật sự muốn khinh bạc nàng, ” Mộ Thanh Yến nhìn cô gái bắt đầu cột lại dây áo dây ống tay, mỗi thắt gút đều buộc thật chặt, “… nàng có cản cũng không nổi.”

Mặt phấn Thái Chiêu đỏ rực, “Không, tôi không có ý đó, đương nhiên huynh sẽ không làm loạn.”

Mặt Mộ Thanh Yến lộ vẻ chế giễu: “Người Ma giáo có thể có bao nhiêu đức hạnh chứ, Tiểu Thái nữ hiệp nghĩ thoáng thật.”

Thái Chiêu cảnh giác ngước lên: “Ý huynh là sao.”

“Không có ý gì, chỉ là thi thoảng nghĩ tới tác dụng của khóa xích vàng trong phòng ngủ chốn địa cung của Giáo chủ Mộ Đông Liệt thôi.”

Mộ Thanh Yến ưu nhã khinh thường ngồi xếp bằng xuống, như một bức tượng ngọc đẹp đẽ, Thái Chiêu căng thẳng đến lắp bắp, “Huynh huynh, huynh hãy nghĩ đến lệnh tôn, phẩm tính cao khiết đó…”

Mộ Thanh Yến nói: “Ta còn có một người mẹ bỉ ổi ti tiện không từ thủ đoạn, chắc nàng cũng biết.”

Thái Chiêu giận tái mặt, bắt đầu khí ngưng đan điền, định liều mạng nếu tên điên này thật sự làm loạn.

Thấy cô gái sợ hoảng hồn, Mộ Thanh Yến chợt đổi chủ đề, “Trước đó ta tra mọi quá khứ của Mộ Chính Dương, đào ra được một người bạn thân lưu lạc chốn thôn dã từ lúc nhỏ, người bạn thân đó có kể sau khi Mộ Chính Dương và cô của nàng từ đỉnh núi tuyết về, định đến đầm Huyết Chiểu này, thế nên ta đến. Giờ nàng nói đi, nàng điều tra được gì.”

Thái Chiêu giật khóe miệng, nghĩ thầm lời giải thích của huynh thật là đơn giản đến không thể đơn giản hơn, nhưng tên điên này dời lực chú ý cũng tốt, thế là cô nhanh chóng thuật lại chuyện bắt gặp chỗ bí ẩn trong bản ghi chép của Doãn Đại một lần, cuối cùng thở dài: “Cũng không biết Mộ Chính Dương đã dẫn dụ Nhiếp Hằng Thành luyện Tử Vi Tâm Kinh thế nào, bản lĩnh lớn thật đấy.”

Mộ Thanh Yến lại rất kinh ngạc, hỏi vặn lại: “Rất nhiều anh em Giáo chủ Mộ Lan Việt không phải trón vào sơn dã, mà là tu luyện Tử Vi Tâm Kinh hoặc chết hoặc tàn phế?”

“Đúng đúng.” Thái Chiêu nói, “Đây là Doãn Đại thu thập mấy ghi chép lẻ tẻ từ trước đó của Bắc Thần Lục phái rồi cho ra kết luận.”

“Trưởng tử của Giáo chủ Mộ Tung cũng đã luyện thành Tử Vi Tâm Kinh, nhưng lại bệnh chết trước cả cha?” Mộ Thanh Yến thì thào ngờ vực, “Nhưng ta đọc trong sử sách Ly giáo, rõ ràng viết ba anh em Mộ Ức Nông toàn bộ chết bởi tranh giành đoạt vị.”

Thái Chiêu nói: “Ngay từ đầu tôi cũng không hiểu, về sau nghĩ rằng không phải có câu ‘Việc xấu trong nhà không vạch áo cho người xem lưng’ sao — giống như nhà tôi, trong ghi chép tổ phổ về mấy vị ‘Ma nữ’ đời trước làm việc khác người kia, đến giờ cũng chưa từng tả tỉ mỉ mà chỉ nói nhăng nói cuội, chẳng phải tôi cũng không biết Cố Thanh Không đã quy ẩn trên đỉnh núi tuyết sao. Nhưng tuy nhà mình không ghi chép thì nhà đối thủ khác sẽ có chỗ ghi chép thôi.”

Mộ Thanh Yến vẫn lo nghĩ, “Thủ túc Mộ Lan Việt bị thương tàn phế vì Tử Vi Tâm Kinh cũng hiểu được đi, giấu đi đoạn ghi chép này nói không chừng là vì sợ giảm oai phong của Giáo ta, nhưng sao lại bẻ cong cái chết trưởng tử Mộ Tung? Nếu ông ta đã luyện thành Tử Vi Tâm Kinh, thì có gì là việc xấu trong nhà chứ, trừ phi…”

Tựa như hắn nghĩ tới điều gì, điềm nhiên như không ngước lên: “Còn nữa, trước ngày cô cô nàng liều chết tru sát Nhiếp Hằng Thành, Doãn Đại đã biết Nhiếp Hằng Thành sống không lâu? Lão ta đã cố ý để cô cô nàng đi liều mạng.”

Thái Chiêu thõng bờ vai nhỏ, uể oải nói: “Đúng đó.”

“Lão cáo già!” Mộ Thanh Yến mắng một câu, sau đó liếc nhìn phía trước, chế giễu, “Vậy mà nàng còn hối hả ngược xuôi đi theo cháu ngoại lão ấy?”

Thái Chiêu hết cách: “Nếu không phải Quảng Thiên Môn xảy ra chuyện thì tôi cũng đâu có cơ hội ra khỏi núi Cửu Lãi chứ. Hic, không biết bây giờ cha mẹ tôi thế nào nữa, họ đã đưa Tống Môn chủ đi đâu.”

Mộ Thanh Yến hừ lạnh, “Yên tâm, nếu đúng như những gì vừa nghe thấy, sau lưng các nàng còn có mấy toán truy binh, hẳn Dương Hạc Ảnh đã dành hơn nửa lực lượng Tứ Kỳ Môn để đuổi bắt các nàng, đổi lại lệnh tôn lệnh đường sẽ an toàn thôi.”

Hắn lại nói: “Ta cứ tưởng Dương Hạc Ảnh chỉ bắt được Tống Mậu Chi làm đằng chuôi, muốn đòi ít chỗ tốt ở Quảng Thiên Môn, bây giờ xem ra có huyền cơ lớn. Nàng kể xem rốt cuộc đêm qua đã xảy ra chuyện gì?”

Thái Chiêu vội lược lại những gì nhìn thấy đêm qua, lại hỏi, “Hoàng Sa Bang thật sự là do Tống Mậu Chi giết ư? Còn mấy người thôn trang, đến cùng là bị ai luyện thành thi khôi nô.”

Mộ Thanh Yến hỏi lại: “Trên tay Dương Hạc Ảnh có Thực Cốt Thiên Vũ?”

Thái Chiêu ngẩn ra, “Đúng đó, lão ta bảo là năm đó sau khi Nhiếp Hằng Thành chết, Bắc Thần Lục phái thừa dịp Giáo huynh đại loạn, đánh lén mấy phân đà tịch thu được.” Cô thấy vẻ mặt thanh niên đóng băng, “… lẽ nào không phải thế?”

Mộ Thanh Yến chậm rãi nói: “Thực Cốt Thiên Vũ chính là Lộ Thành Nam vô tình chế thành, ông ta biết uy lực thứ này rất lớn, bị thương tàn phế vô kể, do đó chưa hề nói phương thuốc Thực Cốt Thiên Vũ cho bất kỳ kẻ nào, cũng chưa từng phát xuống cho phân đà, sợ Giáo chúng dùng để lạm sát kẻ vô tội. Nghiêm Hủ nói, vì nó, Lộ Thành Nam và các sư huynh Triệu Thiên Phách tranh chấp rất nhiều lần. Lúc ông ấy bị thương nặng trốn thoát, trong cung Cực Lạc còn có trên trăm hũ Thực Cốt Thiên Vũ đã chế xong, nhưng khi ta tấn công vào bị Nhiếp Đề Hàn Nhất Túc dùng hết hơn phân nửa. Thực Cốt Thiên Vũ hiện giờ, đã ít lại càng thêm hiếm.”

Thái Chiêu kinh ngạc: “Vậy Dương Hạc Ảnh đã lấy Thực Cốt Thiên Vũ ở đâu? A…chả lẽ, là tên đứng sau màn?” — phải chăng khi Nhiếp Đề cấu kết với tên kia đã đưa mấy hũ Thực Cốt Thiên Vũ, sau đó tên kia lại đưa cho Dương Hạc Ảnh?

Mộ Thanh Yến chậm rãi gật đầu, “Hẳn thế.”

“Vậy, có cần bắt Dương Hạc Ảnh đến tra hỏi trước không?” Thái Chiêu hỏi.

Ai ngờ Mộ Thanh Yến lại nói: “Không, cứ đi đầm Huyết Chiểu trước.”

Thái Chiêu không hiểu.

Mộ Thanh Yến nói: “Nàng cảm thấy một người già sợ nhất là gì?”

Thái Chiêu nghĩ thầm sao lôi tới tận đây, nhưng vẫn trả lời: “Bệnh? Già? Vừa bệnh vừa già?”

“Đúng.” Mộ Thanh Yến nói, “Nàng có biết Tử Vi Tâm Kinh là môn công phu thế nào không?”

“Sao tôi biết được.”

“Theo giải thích lưu truyền đến giờ, lúc luyện Tử Vi Tâm Kinh đến đỉnh cao cảnh giới, chẳng những có thể vô địch khắp thiên hạ, còn có thể kéo dài tuổi thọ, cải lão hoàn đồng.”

Thái Chiêu cả kinh: “Nhiếp Hằng Thành muốn trường sinh bất lão?”

“Ngược lại không hẳn.” Mộ Thanh Yến nói, “Nhưng một kẻ hùng tâm bừng bừng tự cho mình là người cực cao như Nhiếp Hằng Thành, đến lúc tuổi già không vợ không con, thường sẽ đối với thành tựu cả đời mình lo được lo mất.”

Thái Chiêu thì thầm: “Suýt đã diệt tận nhà họ Mộ các huynh, tôi thấy thành tựu rất không nhỏ.”

Mộ Thanh Yến không thèm để ý tới cô gái phỉ báng, “Lão ta sẽ muốn, trừ chuyện mưu đoạt quyền hành Mộ thị, Bắc Thần Lục phái vẫn cứ êm đẹp, thiên hạ vẫn phân hai, cứ như lão cũng chẳng làm ra được thành tựu kinh thiên động địa gì.”

Thái Chiêu sực nghĩ: “Trong lòng huynh cũng nghĩ thế à?”

Mộ Thanh Yến nhìn cô một cái thật sâu, không trả lời, “Lúc này, nếu lão biết được có cách tu luyện Tử Vi Tâm Kinh thì rất khó không động lòng. Vừa rồi nàng hỏi ‘Mộ Chính Dương đến cùng đã dụ Nhiếp Hằng Thành luyện Tử Vi Tâm Kinh bằng cách nào’ — ta đoán là lý do này.”

Thái Chiêu nghiêng đầu ngẫm nghĩ: “Có lý, nói tiếp về Tử Vi Tâm Kinh đi.”

Mộ Thanh Yến: “Nói sơ lược thì, Tử Vi Tâm Kinh tổng cộng có ba tầng lớn, mỗi lần phá một cửa ải, nội lực có thể gia tăng mãnh liệt gấp bội. Nhưng đây cũng là chỗ tà môn nhất của nó, ba tầng lớn này nhất định phải một mạch luyện thành, một cửa đã phá lập tức phải tấn công đến cửa ải tiếp theo, không thể gián đoạn tạm nghỉ, nếu không lập tức bị phản phệ.”

“Ý là, huynh đừng cho rằng luyện xong hai tầng đầu là đủ tạm hài lòng, mà buộc phải tiếp tục tu luyện cho đến khi đại công cáo thành. Không giống tâm pháp công phu khác, đương tu luyện gặp chỗ trở ngại có thể tạm dừng tĩnh dưỡng, Tử Vi Tâm Kinh chỉ có hai kết quả, hoặc là thông quan một mạch luyện thành, hoặc là chết bất đắc kỳ tử ở nửa đường, không có lối ra thứ ba.”

“Lúc chúng ta gặp Đoạn Cửu Tu trên núi Tuyết biết được, tu luyện tầng thứ nhất Tử Vi Tâm Kinh chỉ cần tiên dịch của Tuyết Lân Long Thú làm chất dẫn. Từ di ngôn Lộ Thành Nam biết được, Nhiếp Hằng Thành đã tu luyện Tử Vi Tâm Kinh đến cửa ải cuối cùng, lúc đó cái lão ta cần chính là Tử Ngọc Kim Quỳ. Như vậy tầng thứ hai của Tử Vi Tâm Kinh thì sao, cần vật quý hiếm nào làm chất dẫn?”

Thái Chiêu nghe ra nhíu mày, “Ý huynh là, mấu chốt để luyện thành thứ hai ở đầm Huyết Chiểu này?”

Mộ Thanh Yến khẽ gật: “Nhiếp Hằng Thành đa mưu túc trí, nếu không thể bảo đảm ba cửa ải đều có thể tu tập thì sao chịu tuỳ tiện dây vào? Tiên dịch Tuyết Lân Long Thú trước đó rơi vào tay Mộ Chính Dương* không biết tìm cớ gì dâng đến trước mặt Nhiếp Hằng Thành, còn Tử Ngọc Kim Quỳ vốn là bảo vật của Thần Giáo, chỉ có đầm Huyết Chiểu này…

(*) bà Quan nhầm Mộ Thanh Yến trong nguyên văn.

“Bất kể trong đầm Huyết Chiểu có thứ gì, Ban đầu Nhiếp Hằng Thành chưa khẳng định, nếu không phải sẽ không phái Trần Thự đến đây.” Thái Chiêu tiếp lời.

Mộ Thanh Yến gật đầu, lại nói “Bây giờ người sau màn cũng muốn luyện Tử Vi Tâm Kinh, tiên dịch Tuyết Lân Long Thú vạn năm không thay đổi, còn có thể cố lấy ra từ trong gia tộc cũ của Kim Bảo Huy ra, hai món kia thì lại không thể được. Lữ Phùng Xuân lẫn Vu Huệ Nhân đều không thể nói thân phận của kẻ sau màn, có lẽ Dương Hạc Ảnh cũng không hơn là bao, chi bằng điều tra thêm đầm Huyết Chiểu này, ngoài chúng ta thì còn ai vào tìm bảo bối chứ.”

Thái tiểu Chiêu dùng sức gục đầu.

“Đêm nay chúng ta nghỉ ngơi dưỡng sức, sáng sớm ngày mai xuất phát vào sâu trong rừng — nàng muốn điều tra ra kẻ sau màn này chứ?”

Thái Tiểu Chiêu tiếp tục dùng sức gục đầu.

“Giờ nàng nằm xuống, nghỉ ngơi thật tốt đi. Đói bụng không? Có thể dùng ít lương khô trước này. Hiện giờ không có canh gà, không có mì hoành thánh  nhắm mắt lại ngủ thôi!”

(ỏ, sâu sốp Mộ Én ơi)

*

Ở lều lụa lớn phía bên kia.

Du Quan Nguyệt không biết móc một tập thơ từ đâu ra, làm bộ lầm rầm ngâm.

Thượng Quan Hạo Nam nằm nghiêng trên chăn, một tay chống đỡ đầu, một tay dùng cọng cỏ xanh chọ con thỏ rừng trong lồng trước mặt.

Phàn Hưng Gia vừa châm ngân châm cho Tống Úc Chi đang hôn mê, vừa không ngừng nhìn qua chỗ lều vải nhỏ đối diện vẫn luôn đóng kín, lo lắng nói, “Mấy người nói xem, sư muội ta không sao chứ.”

Du Quan Nguyệt hừ nhẹ, không bình luận.

“Tính nết Giáo chủ mấy người không tốt mấy, từ cái hồi hắn ở núi Cửu Lãi đã không tốt rồi.” Phàn Hưng Gia rất ưu sầu, “Chiêu Chiêu sư muội nói, con bé và Giáo chủ mấy người đã là sớm tụ sớm tan rồi, hy vọng Mộ Giáo chủ đừng quá làm khó em ấy, một năm qua con bé cũng sống không dễ dàng, nói chi là năm đó còn nhận roi phạt…”

Thượng Quan Hạo Nam bỗng lên tiếng: “Người anh em, cậu từng ăn mặn chưa?”

Phàn Hưng Gia ngẩn ra: “Ăn mặn gì cơ.”

Thượng Quan Hạo Nam ngồi dậy, đẩy con thỏ đang nhảy nhót tưng bừng trong lồng ra chút, cười khẩy: “Tức là nói, cậu ngủ với vợ cậu chưa.”

Mặt Phàn Hưng Gia đỏ rực, “Ta… Ta chưa lấy vợ.”

“Có ăn mặn hay không thật ra đâu có liên quan gì tới lấy vợ hay chưa, người anh em vẫn là non quá,” Thượng Quan Hạo Nam cười rộ.

Du Quan Nguyệt nhíu mày: “Nói nhăng gì đấy, đừng há mồm là hạ tam lộ* thế.”

(*) có nhiều nghĩa, ở đây là ba phần bụng, háng, chân, trong võ học tấn công đối thủ vào mấy điểm này là những chiêu thức tương đối hung ác

“Rồi rồi rồi, sợ cái ngữ giả hình giả dáng nhà cậu quá.” Thượng Quan Hạo Nam phất tay đuổi ruồi, quay lại hiền lành vỗ vai Phàn Hưng Gia, “Nghe ông anh đây dạy nhé, ân oán gút mắc của nam nữ trên đời này, hơn chín phần là đầu giường đánh nhau cuối giường hòa.”

Ánh mắt Phàn Hưng Gia hốt hoảng, kiên quyết phủ nhận: “…Hai người họ không phải vợ chồng, đây cũng đâu có giường!”

“Quả là tên đồng nam, chả hiểu gì sất.” Thượng Quan Hạo Nam chậc chậc lên tiếng.

Phàn Hưng Gia không kìm được nói: “Xin Thượng Quan tiền bối đừng võ đoán quá mức.”

Thượng Quan Hạo Nam dương dương đắc ý: “Nhà ta có ba cô vợ hiền dịu quan tâm, ta còn không biết sao?”

“Lão ấy còn định cưới người thứ tư đấy.” Du Quan Nguyệt lẩm bẩm.

Phàn Hưng Gia im ru luôn, hắn nằm nửa tỉnh nửa ngủ trong sợ hãi và buồn lo một đêm, sáng sớm hôm sau xuống cây, rửa mặt sơ xong, thình lình nhìn thấy vị tiểu sư muội thân yêu của hắn khoác một đôi mắt thâm quầng, ngáp một cái, vẻ đầy rã rời. Phàn Hưng Gia rên lên: “Sư muội, cô cô không sao chứ…”

Thái Chiêu ngạc nhiên nói: “Ngũ sư huynh anh cũng gặp ác mộng hả.”

Chắc là mệt mỏi quá độ, cộng thêm tên ma đầu nào đó ngủ cùng chăn đệm mình chỉ cách có một cánh tay, Thái Chiêu chưa yên gối cả một đêm qua.

Trong lúc ngủ mớ khuôn mặt Mộ Thanh Yến thoắt ẩn thoắt hiện trước mắt cô, chốc thì hung tợn nói ‘Nàng nhẫn tâm với ta thế mà còn muốn ta nấu mì hoành thánh cho ăn, nằm mơ’, chốc thì cười lạnh ‘Giờ thì nàng đã biết hậu quả xấu nhất đao lưỡng đoạn với ta rồi chứ, cả đời này này nàng đều mơ muốn ăn mì hoành thánh ta nấu đi’… rồi cái gì với cái gì nữa.

“Tam sư huynh khá hơn chưa?” Thái Chiêu hỏi.

Phàn Hưng Gia nhìn trái nhìn phải, thấy Mộ Thanh Yến không có, hai Đại đầu lĩnh Ma giáo kia đương đi rửa mặt, bèn đánh bạo nói: “Sư muội tự mình lên xem đi.”

Thái Chiêu cũng có ý đó, thế là xách Phàn Hưng Gia nhảy lên lều vải lớn.

Tống Úc Chi nằm im thẳng cẳng trong chăn, trên khuôn mặt tái nhợt hơi có sắc xanh xao.

Phàn Hưng Gia móc một gói khăn trong ngực đưa cho Thái Chiêu, “Đây là ám khí trong người Tam sư huynh, huynh ấy thừa lúc mình còn tỉnh táo rút ra cất vào trong túi tay áo. Dược tính trên ám khí vẫn còn, đêm qua ta dùng ngân châm thải độc cho Tam sư huynh, còn dùng Vạn Lưu Thanh Độc tán, chắc hai ba canh giờ có thể tỉnh lại.”

Thái Chiêu mở ám khí quấn trong khăn săm soi, phát hiện chỉ là miếng phi tiêu lá liễu bình thường, nhỏ mảnh, hơi kì lạ ở chỗ ngoài mặt tiêu thô ráp dị thường, thậm chí là cố ý khắc rất nhiều khe rãnh uốn lượn.

“Là vì để thuốc dính nhiều hơn trên ám khí ư.” Cô phỏng đoán.

“Đúng đúng đúng.” Phàn Hưng Gia cực kỳ đồng ý, “Cô xem chỗ này đi.” Hắn cố hết sức nhấc vai Tống Úc Chi dậy, kéo băng lộ vết thương cho Thái Chiêu xem, “Cô có cảm thấy vết thương của Tam sư huynh rất kỳ lạ không?”

Thái Chiêu tiến tới nhìn hồi lâu, “Ồ, vết thương này cạn quá nhỉ, chỉ rách chút da thôi, này là thế nào, đêm qua lúc Tam sư huynh bị dính ám khí anh có nhìn thấy không?”

“Không. Ta đang nhìn Tống Chưởng môn lấy một địch ba. Còn sư muội?” Tống Úc Chi so chiêu với người ta, Phàn Hưng Gia từ nhỏ đến lớn không thấy một trăm cũng đã nhìn chín mươi chín trận, còn đại lão võ lâm cỡ Tống Thời Tuấn liều mạng tranh đấu mới hiếm gặp.

Thái Chiêu nói: “Tôi cũng không, tôi đang nhìn chỗ trốn thoát, mới quanh lại đã thấy Tam sư huynh bủn rủn ngã xuống, không biết miệng vết thương huynh ấy chỉ cạn vầy đâu.”

Phàn Hưng Gia: “Ta hỏi sư muội này, người bắn ám khí là sâu tốt hay là cạn tốt hơn.”

“Nói nhảm, tất nhiên sâu vẫn hơn, càng vào tận xương thịt càng tốt.”

“Thế sao người này không bắn sâu chút, là không thích sao?”

“Đương nhiên là sức lực người này kém, tu vi không đủ, cộng thêm Tam sư huynh né tránh cũng nhanh.” Thái Chiêu không cần nghĩ ngợi.

Phàn Hưng Gia hỏi tới: “Đã tu vi không đủ thì làm sao có thể bắn trúng Tam sư huynh? Là ai đấy trên sân đêm qua phát ra ám khí, hay là trình độ nghe gió phân biệt vị trí của Tam sư huynh chưa luyện đến?”

Thái Chiêu ngẫm nghĩ, “Tôi hiểu ý Ngũ sư huynh — ý anh là, người này rất quen thuộc võ công của Tam sư huynh, hắn ở một bên âm thầm quan sát, đánh giá đến chừng ấy chiêu tiếp theo của Tam sư huynh sẽ dùng thân pháp nào, rồi thừa cơ bắn ra ám khí.”

Cô càng thêm nghi ngờ, “Nhưng đêm qua ở Quảng Thiên Môn hẳn chỉ có ba người chúng ta là người Thanh Khuyết Tông thôi.”

“Ta cũng không biết, dù sao không phải cô cũng không phải ta — lúc Tam sư huynh trúng tiêu thì hai ta còn núp cùng chỗ mà.” Phàn Hưng Gia nhún vai, “Mà tiêu độc này cũng rất có vấn đề. Không phải kịch độc vừa gặp máu đã phong hầu, mà là một loại độc cổ quái có thể khiến toàn thân tê liệt lập tức, tóm lại ta chưa gặp qua.”

“Vết thương cạn vậy, xem như có kịch độc Tam sư huynh cũng có thể kịp thời phong bế đan điền, sau này từ từ giải độc điều dưỡng là được, toàn thân tê liệt tại chỗ mới chết.”

Hai người đang bàn bạc, Thái Chiêu chợt thấy dưới cây có động tĩnh, vội đạp Phàn Hưng Gia một cước xuống cây, sau đó tự đuổi theo. Phàn Hưng Gia suýt ngã cắm mặt vào bùn đất, vừa đứng dậy thì thấy hai người Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam cười đểu đứng một bên.

“Là Phàn thiếu hiệp đưa Chiêu Chiêu cô nương đi thăm Tống Tam công tử à.”

“Người ta là sư huynh muội ruột thịt mà, luôn không yên tâm.” Giọng âm dương quái khí.

“Sư huynh muội còn có chia ruột thịt với ngoại đạo nữa hả.”

“Nói chuyện cưới gả chính là sư huynh muội ruột thịt, không nói cưới gả thì là sư huynh muội ngoại đạo.”

“Nói hươu nói vượn!”

Đương nói, Mộ Thanh Yến không biết từ đâu đi tới, bước chân mạnh mẽ, tay áo tung bay, phía sau vác một túi đồ lớn.

Hắn bảo bốn người: “Chỗ như Huyết Chiểu này đi đông không làm gì, hôm nay để ta với Chiêu Chiêu đi vào, mấy người đợi ở đây. Quan Nguyệt, chờ lát nữa truyền tin cho đệ tử bên ngoài, bảo Nghiêm Hủ đem tất cả những hồ sơ mật thư liên quan tới Giáo chủ đời thứ sáu Mộ Tung và các con đưa tới cho ta. Hạo Nam, hôm nay nếu đến lúc mặt trời lặn mà ta còn chưa về, anh hãy cho đệ tử Liệt Hỏa doanh đến đốt khu rừng.”

“Hở?” Thái Chiêu sực tỉnh, “Huynh muốn phóng lửa đốt rừng?”

Mộ Thanh Yến quơ tay phải, kín đáo đưa túi giấy dầu giấu trong tay cho Thái Chiêu, nghe mùi thơm thức ăn, Phàn Hưng Gia thấy đó là bánh naan kẹp thịt nóng hổi thơm nức. Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam ở bên cạnh cung kính dâng Diễm Dương đao và lồng thỏ rừng kia lên. Mộ Thanh Yến nhận lấy, kéo theo Thái Chiêu xoay người rời đi.

Du Quan Nguyệt dõi theo bóng lưng hai người đi xa, lẩm bẩm: “Vậy là, sáng sớm hôm nay Giáo chủ đi mua thức ăn?” Vì sợ lộ tung tích, cả ngày hôm qua họ không nổi lửa trong rừng.

Thượng Quan Hạo Nam lắc đầu, “Xong rồi, xem ra đêm qua không sóng cũng không gió.”

Tai Du Quan Nguyệt khẽ nhúc nhích, sát lại gần một khoảng nhỏ đến không thể nhận ra, “Sao cậu biết?”

Thượng Quan Hạo Nam nghĩ thầm cũng không thể bàn tán chuyện giường chiếu sau lưng Giáo chủ đại nhân, bị áp lên tử hình đài Tế Tiên đó. Thế là hắn cười tà xấu xa, “Ta không biết, nhưng chắc chắn Tinh nhi biết, cậu đi hỏi nàng ấy đi.”

— đàn ông ấy mà, nếu âm dương hòa hợp, mặt mũi tươi tắn hồng hào giãn ra mới đúng, sao lại ra ngoài mua bánh naan kẹp thịt, giống như cái đám Bắc Thần Lục phái lông mi u ám, tràn đầy băng vụn thế kia.

Du Quan Nguyệt: “Phì, không nói thì thôi.”

*

Phong cảnh chung quanh càng thêm quỷ dị.

Rừng cây lúc trước tuy là quá rậm rạp, nhưng dù sao trông vẫn giống thảm thực vật bình thường, nhưng đi sâu vào rừng hơn một canh giờ, Thái Chiêu phát hiện đất dưới chân càng lúc càng mềm ẩm, thân cây xung quanh cũng càng uốn éo nhỏ yếu, càng về sau càng thoái hóa thành dây leo quanh co khúc khuỷu, mấy cây thậm chí mười mấy cây quấn thành một gốc, giữa mấy gốc cây là dây leo quấn đất cản đường.

Càng kinh hãi là, đất ở đây màu đỏ, dây leo cũng màu đỏ, càng sâu vào rừng, màu đỏ càng thêm đậm đặc.

Để tránh không tìm ra đường về, trước khi vào Huyết Chiểu Mộ Thanh Yến lấy một cuộn dây tơ vàng rất dài từ tí đồ ra, thắt một đầu ở chỗ cành cây bình thường còn nhìn thấy bằng mắt thường, đầu kia hắn cột trên cánh tay từ từ thả ra.

“Hôm qua mấy huynh đi ra bằng cách này à?” Thái Chiêu nghiêm túc nhìn sợi dây mảnh.

Mộ Thanh Yến nói: “Hôm qua dây thừng chuẩn bị còn chưa đủ dài, hôm nay chắc cũng đủ. Chờ dùng hết dây thừng nếu hai ta còn chưa ra khỏi đầm thì theo đường cũ quay về.”

Thái Chiêu im lặng, thầm nghĩ với cái nết không sợ trời không sợ đất của Mộ Thanh Yến mà lại cẩn thận dùng dây thừng tự cứu, có thể thấy hôm qua ba người họ gặp nguy hiểm cỡ nào.

Lại đi tiếp một lúc, Thái Chiêu cảm thấy dưới chân mất sức, chỉ cần bước chân hơi dài hoặc nhấc chân hơi chậm, bèn giống như lún xuống vũng bùn.

“Thì ra đây là đầm Huyết Chiểu.” Thái Chiêu nhìn đế giày mình dính đầy bùn nhão đỏ sền sệt, nhìn quanh, mỗi một đám dây leo đều đỏ thẫm hình dáng càng thêm quỷ dị, méo mó uốn lượn, còn có dây leo vây quanh nở rộ hoa nhỏ rất thơm giống như hoa lan, nhưng hoa lá đều có màu đỏ quỷ dị.

“Dây leo này lại giọng khách át giọng chủ nhỉ.” Cô lại gần xem kỹ, “Đa phần dây leo trên thiên hạ đều là cây sống phụ thuộc, nhưng dây leo ở đây lại ăn rỗng thân cây vốn có, cướp cho chính mình.”

Cô đang định sờ vào thì bị Mộ Thanh Yến cản lại, còn đưa qua một bộ bao tay bằng da.

“Đừng đụng vào bất kỳ thứ gì ở đây.” Hắn nói, “Nàng nhìn xem.” Nói xong, hắn lấy con thỏ hoang từ trong lồng, ném qua đám lưới mây đan dầy đặc.

Một cảnh quỷ dị đáng kinh ngạc xuất hiện, dây leo vốn dĩ đang quấn chặt lấy nhau uốn éo như sống lại, quấn lấy con thỏ rừng đang nhảy nhót tưng bừng vào trong. Con thỏ đang khỏe mạnh nhanh nhẹn, dùng sức bốn chân đạp giãy, cánh tay người trưởng thành bình thường còn chưa chắc khống chế xong, ai ngờ Thái Chiêu chưa kịp chớp mắt thì con thỏ rừng đã bất động.

Thái Chiêu lấy làm kỳ lạ, sát lại gần nhìn, thấy trên thân dây leo tiết một dịch nhờn trơn nhuyễn trong suốt, thông qua gai dây nhỏ bé đâm vào da thịt con thỏ rừng. Lúc này, từ các mắt leo tiết ra một dịch mủ màu máu đỏ thẫm, bắt đầu từ từ ăn mòn thỏ rừng — con thỏ rừng vẫn còn sống, phía dưới cơ thể đã lộ ra xương đùi trắng hếu mà tròng mắt nó vẫn đang chuyển động.

Thái Chiêu từng thấy con mãng xà khổng lồ trên đỉnh núi Tuyết, biết có một loại sinh vật trên thế gian nuốt sống con mồi vào bụng, xoắn nát gân cốt, sau đó dùng dịch chua trong bụng từ từ ăn mòn con mồi sạch sẽ.

Bây giờ cảnh tượng không khác mấy, không chút che chắn hiện mồn một hiện ra trước mắt Thái Chiêu trước mắt — cô thật buồn nôn.

Mộ Thanh Yến liếc cô, chợt bắn một viên sỏi từ ngón tay, bốp đánh nát đầu thỏ rừng.

Thái Chiêu nghiêm nghị nghiêng khuôn mặt tái xanh cố tự trấn định: “Nghe nói có vùng đất phía Nam có loại cây cỏ có thể nuốt chửng vật sống, chẳng ngờ ở đây cũng có.”

“Đi tiếp về phía trước đi.” Mộ Thanh Yến ngắn gọn nói.

Thái Chiêu nhấc chiếc giày ngập trong đầy đất sét, lúc ngang qua gốc dây leo kia chợt có một chuyệt lướt qua trong lòng, hơi chậm bước.

Mộ Thanh Yến hỏi sao vậy, Thái Chiêu lẩm bẩm: “…hình như tôi vừa hiểu ra một chuyện.”

Mộ Thanh Yến hỏi là chuyện gì, Thái Chiêu nghiêm trang: “Liên quan tới một số ghép cây hoa đào ở khu đầm lầy.”

Khuôn mặt đẹp trai của Mộ Thanh Yến không vui, hừ lạnh: “Nói xạo trước mặt!” Phẩy tay áo bỏ đi.

Thái Chiêu chột dạ đỏ mặt, đuổi sát theo sau.

Cảnh vật càng thêm ẩm ướt, chung quanh sương mù mịt mờ, cảnh trước sau mười bước còn không thấy rõ, hiện giờ là lúc ban ngày, nếu là ban đêm, thực không dám tưởng tượng.

Mộ Thanh Yến thấy cô gái nhẹ thở hổn hển, xách Diễm Dương đao roẹt roẹt chặt ngã ba bốn gốc dây leo. Rễ cây dây leo bị chặt giãy gụa kịch liệt như có sinh mệnh đau đớn co rút, mắt u trên dây leo mở lớn co lại, sợi dây trên khớp nối thậm chí còn phát ra âm thanh như tiếng mài răng san sát, Thái Chiêu nhìn thấy mà giật mình.

Mộ Thanh Yến tỉnh bơ đá đám dây leo vào một chỗ, trên đầm lầy lộn xộn trải một tấm trải da từ túi đồ, kéo cô gái ngồi xuống nghỉ ngơi.

“Thổ nhưỡng trên mặt đất mỗi lúc một ẩm ướt, hẳn là chúng ta đã đi thẳng tới phía trước.” Thái Chiêu uống chút nước, thầm tự động viên, “… chỉ có điều, sao tôi thấy chỗ này khá quen nhỉ?”

Mộ Thanh Yến nghi hoặc: “Hay ở đây bố trí trận pháp của Lạc Anh Cốc?”

“Nếu là trận pháp Lạc Anh Cốc tôi phải biết chứ.”

“Thì là trận pháp Thanh Khuyết Tông.”

Thái Chiêu không kìm được tự biện hộ: “Dù rằng tôi ở Tông môn ba ngày bắt cá hết hai, nhưng cũng không phải đến trận pháp môn phái mình cũng không nhận ra chứ.”

Mộ Thanh Yến cười khẽ, “Đừng nghĩ nữa,dù là có trận pháp cũng sẽ không bố trí ở bên ngoài như này. Đi thêm một đoạn nữa nàng mới biết cái gì gọi là đầm Huyết Chiểu chân chính — hôm qua bọn ta đã đi đến đó.” Hắn chỉ đằng trước.

Thái Chiêu cười nói: “Làm khó cho mấy huynh còn mò được đường về.”

“Bọn ta không mò được đường về, hôm qua quanh đi quẩn lại mãi đến khi mặt trời lặn, bọn ta hoàn toàn lạc đường.” Mộ Thanh Yến ngẩng nhìn, “Cuối cùng đành phải nhảy lên dây leo, từ bên trên chạy thẳng về.”

Thái Chiêu ôi chao, “Sao tôi không nghĩ tới, vậy bây giờ chúng ta cũng có thể từ bên trên tiến thẳng vào chính giữa Huyết Chiểu nhỉ.”

Mộ Thanh Yến liếc cô, “Tự nàng lên xem đi.”

Hai người bay vọt lên không, vịn đầu dây leo nhìn, Thái Chiêu lập tức thất vọng.

Chưa nói cây dây leo vô cùng cao lớn, khắp nơi đều có dịch nhờn có thể mang độc, mà đáng hận là chỗ cao nhất cuối dây leo còn có một sợi nhụy mảnh như lông tơ dài hơn thân người. Sợi nhụy mảnh mềm dai đu đưa như bồ công anh, cho dù khinh công có tốt cũng không đứng lên nổi, lại che cản tầm mắt.

“Độc tính sợi nhụy này không kém đâu.” Mộ Thanh Yến kéo Thái Chiêu nhảy xuống ngọn dây leo, xắn ống tay áo mình cho nàng nhìn, trên cánh tay rắn chắc trắng trẻo là mấy vết máu như bị ăn mòn ra.

“Hôm qua lúc ba người bọn ta chạy ra ngoài, kéo áo y phục trùm kín mặt kín đầu, liều mạng dính phải sợi nhụy, không quan tâm phóng thẳng tới chỗ đất trống phía nam. Ta có Thanh Vân Tung che chở còn đỡ, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam đều bị thương không nhẹ — đêm qua lúc gặp được các nàng là bọn ta vừa chữa thương thay đồ xong.”

Thái Chiêu giật mình: “Thảo nào hôm nay huynh không để hai người họ đi theo.” Cô tinh nghịch cười lộ hai chiếc răng mèo, “Ông chủ Mộ rất thương cảm tiểu nhị thủ hạ nhe.”

Mộ Thanh Yến đơ mặt: “Bọn họ đi cũng vô dụng, thêm vướng víu thôi.”

Nghỉ ngơi một lát, hai người lại lên đường, nhưng sương mù phía trước bắt đầu ngấm sắc đỏ.

Mộ Thanh Yến: “Bắt đầu ở phía trước là chướng khí, ngửi lâu dễ choáng váng tê liệt, tốt nhất ngậm một viên thuốc Ích Độc trong miệng.” Hắn cúi xuống, “Thanh Tâm Đan Lạc Anh Cốc các nàng nổi tiếng thiên hạ, Tiểu Thái nữ hiệp đưa ra hai viên đi.”

Thái Chiêu đầy xấu hổ: “Tôi, tôi không mang.”

“Hửm?” Mộ Thanh Yến nhếch miệng trêu: “Hoàn toàn không chuẩn bị mà dám vào Huyết Chiểu? Tiểu Thái nữ hiệp thật là kẻ tài cao gan lớn.”

Thái Chiêu lắp bắp, “Lúc ra ngoài đúng là không mang theo, nhưng tôi biết phối. Ban đầu tưởng rằng chuyện ở Quảng Thiên Môn nhanh chóng kết thúc, đến chừng đó từ từ rồi tôi chuẩn bị mọi thứ cần thiết, ai biết sẽ xui vậy, chưa nói được đôi câu với cha mẹ tôi thì đã bị đuổi giết một mạch tới gần tận Huyết Chiểu rồi!”

Trong mắt Mộ Thanh Yến ẩn chứa ý cười, ngoài miệng lại nói, “Ta nói từ đầu rồi, đi theo Tống Úc Chi có thể có thứ gì tốt chứ.”

Thái Chiêu nghĩ thầm ủa tôi đi theo huynh gặp bao nhiêu chuyện tốt đâu, vết roi trên lưng còn chưa mờ kia, đang thầm phỉ báng thì bờ môi đã bị nhét một viên thuốc thơm nức mũi. Cô liếm liếm thuốc ở đầu lưỡi, “Ngọt thế, như kẹo vậy.”

“Ngọt cũng đừng nuốt xuống.” Mộ Thanh Yến thu ngón tay, quay người đi thẳng tới trước.

Thái Chiêu nhìn bóng lưng thon dài của Mộ Thanh Yến trước mặt, trong miệng đầy ngọt ngào, là vị đào từ nhỏ cô vẫn thích. Cô không nhịn được cười cong mắt, lập tức lại thấy buồn vô cớ.

Hai người tiếp tục đi tới, Mộ Thanh Yến lấy cuộn tơ vàng thứ thư, nối hai sợi dây vào nhau xong, hắn nói: “Đây là cuộn cuối cùng, đến lúc đó vẫn chưa ra khỏi thì ta chúng quay về.”

Thái Chiêu nghiêm túc gật đầu.

Ngay lúc này, xung quanh họ đều là màn chướng sương đỏ dày đặc đầy quỷ dị, đất dưới chân gần như bùn nhão chuyển động, như ẩn chứa một lực hút xuống dưới mạnh mẽ, như có vực sâu không đáy nấp dưới mặt đất, muốn nuốt chửng mọi vật sống lạc vào đầm lầy.

Hai con thỏ rừng Mộ Thanh Yến lần lượt thả ra nhảy nhót không chạy ra bao xa đã chìm thẳng vào trong đầm lầy, may mà hai người Mộ Thái khinh công trác tuyệt, điểm mũi chân lên vũng bùn nhảy ra tức thì.

Sắc trời dần tối, kéo theo tia sáng trong Huyết Chiểu càng thêm lờ mờ, lúc Mộ Thanh Yến chặt đứt dây leo lần thứ năm, Thái Chiêu lấy một viên dạ minh châu treo ở cổ tay phải mình chiếu sáng, nhìn thấy dây leo vừa chặt đứt rớt xuống đất đã bắt đầu từ từ lún xuống, bọn họ đành đạp trên đám dây leo trước khi chìm xuống hoàn toàn tạm dừng chân nghỉ ngơi.

“Tôi thấy ở đây quen lắm, nhưng nhớ không ra.” Thái Chiêu khổ sở suy nghĩ.

Mộ Thanh Yến nhìn cuộn dây trên cánh tay mình chỉ còn hai ba vòng, “Nàng đừng nghĩ nữa, nghỉ vài hơi chúng ta quay về vậy.”

Thái Chiêu ngước khuôn mặt nhỏ: “Mộ Thanh Yến, hay chúng ta lạc vào mê trận Huyết Chiểu rồi.”

Mộ Thanh Yến: “Nàng có biết bốn cuộn dây của ta kéo dài thẳng ra là boa nhiêu không? Nếu chúng ta cứ thẳng thớm tiến tới thì lúc này ra khỏi Huyết Chiểu từ lâu rồi.”

Thái Chiêu im lặng, “…vậy đúng là chúng ta đã bị dẫn đi vòng vòng, nhưng tôi hoàn toàn không phát hiện.”

Mộ Thanh Yến thản nhiên nói: “Cứ đợi người Liệt Hỏa doanh đến đốt khu rừng đi, mặc cho nó có thần công quỷ phủ gì giữa trời đất, chờ một mồi lửa đốt sạch ta xem còn có thể là trò gì.”

Thái Chiêu mỉm cười: “Nếu đốt rụi cả mấu chốt tu luyện thành thứ hai Tử Vi Tâm Kinh luôn thì làm sao?”

“Đốt thì đốt, dù sao ta cũng không có ý định luyện thứ đồ bỏ đó.”

Thái Chiêu trước cười sau thán, đa số Lạc Anh Cốc vẫn luôn nảy ý gần gũi với cây cối thiên nhiên, cô nhẹ nhàng nói: “Dù Huyết Chiểu quỷ dị thật, nhưng tiếc cho lớp rừng bên ngoài kia, có thể mọc một mảng rậm rạp như thế thật không dễ, cuối cùng cũng một mồi lửa, tôi vốn cho rằng nếu chú của huynh đã tìm ra bí mật trong đó thì chúng ta cũng có thể…”

“Nàng thật tiếc mảnh rừng vòng ngoài sao, hay là tiếc cho sau này mạn Bắc Quảng Thiên Môn bị mất tấm bình phong che chắn?”

Không thể không nói mạch suy nghĩ của Mộ Thanh Yến cực khác thường, Thái Chiêu đang muốn đáp trả, chợt sực nghĩ: “Tôi mới vừa nói gì thế nhỉ?”

Mộ Thanh Yến nhếch khóe miệng: “Nàng nói, ‘Vốn cho rằng chúng ta cũng có thể tìm tới’.”

“Không không, không phải câu này, một câu trước đó.”

Mộ Thanh Yến thấy sắc mặt cô gái nghiêm trọng, cũng nghiêm túc lại: “Nàng nói, đến chú của ta còn có thể tìm tới bí mật bên trong…”

Thái Chiêu khẽ run rẩy, dưới ánh sáng nhạt của viên dạ minh châu, con ngươi cô hơi mở lớn: “Hai mươi năm trước, không phải chú của huynh vào Huyết Chiểu một mình đâu nhỉ.”

“Ừm, tám chín phần là đi cùng cô nàng, thế thì sao.”

“Cho nên, tìm tới bí mật Huyết Chiểu không phải là chú của huynh, mà là cô tôi.” Thái Chiêu xoay lại, ngắm nhìn bốn phía lần nữa, “Tôi biết rồi, tôi biết sao mà nhìn nơi này thấy quen rồi…”

Mộ Thanh Yến đang định hỏi, đã thấy sắc mặt Thái Chiêu hoảng sợ quát to: “Nguy rồi! Chúng ta mau theo đường cũ quay lại, ở đây là cạm bẫy, chúng ta đã sập bẫy! Đi mau đi mau!”

Sắc mặt Mộ Thanh Yến căng cứng, lập tức túm chặt cô gái theo hướng dây tơ vàng quay về, ai ngờ hai người vừa điểm mũi chân lên đường về thì như thể có cơ quan nào đó được kích hoạt, vũng bùn màu máu gần như lắng đọng chợt phát động tĩnh mãnh liệt, cành dây leo sau lưng vốn đang từ từ lún xuống trong nháy mắt bị nuốt chửng, như biển máu tanh nồng dậy sóng.

Thái Chiêu đạp một chân vào vũng bùn, hét rầm: “Trong vũng bùn có gì đó đang cắn chân tôi!”

Mộ Thanh Yến vội chém đứt một dây mây, kéo cô gái lên, “Chúng ta leo lên cây!” Lúc bay lên không, vừa lúc nhìn thấy trên giày cô gái có con trùng bằng thịt màu máu không có mắt cực kỳ xấu xí đáng sợ.

Thái Chiêu buồn nôn chỉ ước ném luôn chiếc giày, Mộ Thanh Yến gấp rút một đao giữa trời, chém đứt con trùng thịt.

Hai người điểm chân mấy lần lên dây mây leo, vừa bay vọt đến giữa không trung, dây leo nhỏ xuống dịch nhờn tanh hôi từ bốn phương tám hướng phóng tới, Mộ Thanh Yến liền nhanh chóng giao Diễm Dương đao cho cô gái, bản thân rút Phất Doanh sau lưng ra. Thái Chiêu biết Phất Doanh là ý lấy nhu thắng cương, không dùng sắc bén cứng rắn làm sở trường, thế là cô mau chóng xuất đao, liều mạng chém đám dây mây.

Hai vệt sáng vàng bạc chém tứ tung trong lưới mây mờ tối, như một ánh rạng đông gấp gáp muốn thoát khỏi mười tám tầng địa ngục.

Thái Chiêu vừa dựa vào ngọn cây, chưa kịp thở nghỉ ngơi thì đã thấy bảy tám con bọ cạp màu sắc sặc sỡ im ắng bò theo cành cây qua đến, mũi kim đuôi độc đỏ tươi đằng đuôi sắp chọc tới cánh tay mình, cô vội vung đao, đám bọ cạp lập tức đứt đôi, nhưng chất dịch xanh xanh vàng vàng tung tóe ra từ xác chúng, trong nháy mắt đốt xuyên tay áo Thái Chiêu, thấm vào làn da cô.

Thái Chiêu kêu đau một tiếng.

“Nàng sao rồi!” Mộ Thanh Yến kéo cô qua, nhìn thấy trên cánh tay trắng tuyết bị đốt thành một bọng máu đen dài.

Qua bờ vai Mộ Thanh Yến Thái Chiêu nhìn thấy tầm mười con nhện hoa giáp hình dáng dữ tợn thả tơ nhện chậm rãi xuống, vội vung đao đồng thời hô to, “Đừng để ý đến tôi, chúng ta phải nhanh ra ngoài!”

Mộ Thanh Yến ôm Thái Chiêu nhảy xuống cây mây, “Chặt mấy dây mây làm bè! Tìm điểm mắt!”

Thái Chiêu hiểu ý, thế là hai người vừa tránh né các loại trùng độc nây độc, vừa liều mạng chém vào dây leo to khỏe.

Một luồn sáng đỏ kim loé lên, Thái Chiêu nhắm chuẩn chặt xuống một bụi được mấy gốc dây mây leo quấn thành, dây mây tản ra như bánh quai chèo, lộ một vật to lớn bên trong, Thái Chiêu cứ tưởng đó là thân cây, tập trung nhìn lại là một khuôn mặt người trương lên ướt át, cơ mặt cứng đờ, hai con mắt trống rỗng như đang lom lom nhìn mình. Một sợi dây leo màu máu chui và huyệt Thái Dương của y rồi đâu ra từ đỉnh đầu, như hút óc của y.

— là một xác người bị Huyết Chiểu ‘ăn’ vào.

“A a a…!” Thái Chiêu nhịn không được hét rầm.

Mộ Thanh Yến quay lại một kiếm bổ sợi dây còn lại, làm cái xác rơi thẳng xuống vũng bùn.

“Coi chừng phía sau!” Thái Chiêu nhìn ra sau lưng hắn hoảng sợ kêu to, đồng thời cắn răng vung đao qua.

Một gốc dây leo sau lưng Mộ Thanh Yến lặng lẽ mở ra, lộ một cái xác trắng bệch phát xanh bị bao bên trong — gã đang há hốc miệng, hai lỗ thối rữa trên mặt biến thành hai hốc máu đen, con ngươi không biết đã rớt đâu, chỉ còn lại một dây leo chui vào hốc mắt, ra từ phần miệng.

Mấy sợi dây mây bung ra đu đưa từ nhiều góc tới, Thái Chiêu cố nén cơn sợ hãi và buồn nôn, mau chóng xoắn đứt đám dây mây sống này. Đây không phải gốc cây mây ‘thông minh’ duy nhất, mà tất cả dây mây bốn bề đều rầm rầm động đậy, nhao nhao mở ra các hình cánh tay đang ôm, đánh rớt xác người hoặc thú bị ăn mòn ở mức độ khác nhau, sau đó vặn vẹo tấn công đến hai người.

Hai người vừa ngăn cản, vừa ra sức chạy lại hướng ban đầu.

“Cuối cùng là chuyện gì thế!” Sắc kiếm như thủy ngân chớp động hồi lâu, Mộ Thanh Yến lanh lẹ cắt đứt mấy sợi dây mây quấn đuổi bắt vào cổ tay.

“Đây là trận pháp của Lạc Anh Cốc…”

“Nàng vừa bảo không phải!”

“Ừ, không phải… ý tôi là — phải, nhưng trước đây thì mới phải!” Thái Chiêu không dám dừng chân trên vũng bùn, đành giẫm lên xác và sợi mây rơi xuống, cả người dính phải dịch nhờn sợi mây và bùn nhão màu máu.

“Đây là trận pháp ngày xưa của Lạc Anh Cốc! Tôi chưa từng thấy thật, chỉ đọc trên sách!”

Hai người phi nhanh cả đường, sợi tơ vàng chẳng biết đứt tự lúc nào, Mộ Thanh Yến không ngừng chặt chém, không biết hai người chạy bao lâu, dần dần cảm thấy lớp bùn dưới chân bắt đầu hóa ‘cứng’. Thái Chiêu đạp một cước ổn định, nhìn sương mù xung quanh cũng tạm đổi thành mờ nhạt mới đưa tay níu Mộ Thanh Yến, “Chắc là đã sắp đến!”

Mộ Thanh Yến dừng bước, quả nhiên thấy không còn dây mây đuổi theo phía sau, thậm chí bên cạnh còn lộ ra một tảng đá lớn. Hắn thở phào nhẹ nhõm, vừa cúi xuống kéo cánh tay Thái Chiêu xem vết thương, vừa nói, “Nàng nói rõ ràng ta nghe xem nào!”

Thái Chiêu thuận theo hắn cùng ngồi lên tảng đá lớn, thở hồng hộc: “Hai trăm năm qua Lạc Anh Cốc bọn tôi chưa bao giờ từng hưng thịnh, nhặt quả hồng mềm mà bóp, Ma giáo các người cũng đâu phải ăn chay chứ. Vậy thì bọn tôi dựa vào đâu để tự vệ, đương nhiên là dựa vào trận pháp rồi! Để người đột kích có đến mà không có về, không dám đến lỗ mãng nữa. Nhưng trận pháp dù tốt cũng không thể cứ thế mà dùng, sớm muộn bị oan gia đối đầu phá giải… Ôi huynh nhẹ tay tí!”

Mộ Thanh Yến cầm chiếc dao bạc nhỏ rạch bọng máu đỏ bầm trên cánh tay cô gái, đang gảy máu đen của cô ra, liếc xéo: “Còn có sức gào, tức là vết thương không nặng nhỉ.”

“Tôi vừa nói đến đâu nhỉ, à đúng, là không thể cứ dùng một loại trận pháp…” Thái Chiêu nói, ” do đó cứ cách mỗi hai đời hoặc mấy mươi năm Lạc Anh Cốc bọn tôi sẽ gia giảm chỗ mấu chốt trong trận pháp chút, để mê hoặc kẻ địch. Nhưng hai ba mươi năm gần đây, trận pháp Lạc Anh Cốc mới thay đổi tương đối lợi hại.”

Mộ Thanh Yến ngước khuôn mặt tuấn tú, “Vì sao thế?”

Thái Chiêu bỉ bôi: “Còn không phải do người con nuôi mà ông cố của huynh giỏi vun trồng kia sao, Nhiếp Lão Đại hùng tâm bừng bừng tích cực tiến thủ, mỗi ngày đều nghĩ cách làm sao tiêu diệt Lục phái nhất thống thiên hạ.”

Mộ Thanh Yến làm bộ muốn cắn tay mịn của cô gái, Thái Chiêu kinh hô, hết sức đứng đắn trang nghiêm: “Huynh tôn trọng chút đi, chúng ta đã nói sau nay mỗi người một chân trời, huynh mà còn dám khinh bạc tôi tôi sẽ… A!”

Mộ Thanh Yến vỗ cái bốp vào mu bàn tay cô, sau đó ngậm chỗ bọng máu bỏng đến đỏ thẫm, chậm rãi hút.

Thái Chiêu cảm thấy cánh tay tê dại, mặt đỏ rần, “Mộ Giáo chủ thật là hiệp can nghĩa đảm…”

Mộ Thanh Yến nhổ ngụm máu mủ, rồi cho cô gái lẫn mình uống một viên thuốc giải độc xong, mới nói: “Ta sẽ không nói ra đâu, nàng cũng có thể làm như không xảy ra chuyện gì.”

“Tôi nói tiếp đây.” Thái Chiêu sờ khuôn mặt nóng rực đỏ bừng của mình, “Lần đầu trận pháp thay đổi là hơn hai mươi năm trước, Tiên Thúc Tổ phụ Thái Trường Phong đại hiệp thấy anh trai và chị dâu đều qua đời, cháu trai cháu gái đã được Chu Lão trang chủ đón đi, Lạc Anh Cốc trống không, chẳng ai coi chừng, thế là ông mới pha trộn toàn bộ những thứ lộn xộn học được trên giang hồ thêm thắt vào trong trận pháp tổ truyền. Uy lực lớn hay không tôi không biết, nhưng thay đổi quá lớn, mấy năm sau cô và cha tôi về suýt thì không vào đến cổng luôn.”

“Lần trận pháp thay đổi thứ hai là vào mười mấy năm trước, sau khi cô tôi tru sát Nhiếp Hằng Thành kinh mạch phế sạch, mẹ tôi biết con em Nhiếp thị chắc chắn sẽ trả thù, bèn kết hợp những tinh hoa cả đời ông ngoại nghiên cứu với trận pháp của Lạc Anh Cốc…”

“Nàng nói nãy giờ.” Mộ Thanh Yến nói, “ý là, trận pháp Lạc Anh Cốc hiện nay đã là một trời một vực so với trận pháp Lạc Anh Cốc trước khi Tiên Thúc Tổ phụ nàng thay đổi rồi?”

“Đúng!” Thái Chiêu đáp gọn, “Cho nên tôi mới nói chưa từng thấy thật sự, mà chỉ đọc được trong một quyển sách cũ, vì trận pháp hiện giờ của Lạc Anh Cốc so với trước đây hoàn toàn là hai thứ.”

Mộ Thanh Yến đứng dậy ngắm nhìn bốn phía, “Trận pháp này là cách đây bao lâu?”

Thái Chiêu ngẫm nghĩ, “Quyển sách cũ đó là một giáp trước, nói trận pháp, trước sau chắc là trên dưới hai mươi năm thay đổi.”

Mộ Thanh Yến nói: “Cô nàng năm mười một mười hai tuổi mới mồ côi cha mẹ, nên bà đã tận mắt nhìn thấy trận pháp trước khi có thay đổi, bởi vậy sớm phát hiện chỗ nguy hiểm của Huyết Chiểu, càng thuận thuận lợi lợi dẫn Mộ Chính Dương tìm được bí mật tu luyện thành thứ hai.”

Thái Chiêu trầm tư một lát, “Tôi cảm thấy cô cô cũng không biết bí mật trong Huyết Chiểu và tiên dịch của Tuyết Lân Long Thú đều là dùng để tu luyện Tử Vi Tâm Kinh. Đến cả Nhiếp Hằng Thành Mộ Chính Dương còn lừa được, huống hồ là cô tôi.”

“Đúng thế, Mộ Chính Dương này, thật là kiêu hùng một thời tâm kế quỷ quyệt.”

“… Đừng chậm trễ nữa, chúng ta dò đường tiếp đi, nếu không đợi đến mặt trời lặn bộ hạ huynh sắp phóng hỏa đốt rừng mất.” Thái Chiêu vỗ vỗ y phục đứng dậy.

“Được.” Mộ Thanh Yến đỡ cô gái bước chân hơi không vững dậy, hai người kiên định đi tiếp.

*

“Mặt trời xuống núi rồi nhỉ?”

“Chưa.”

“Xem ra sắc trời tối lắm rồi.”

“Đó là vì mây dày quá che mất nắng, trời còn ở giữa không trung kia kìa.”

“Người anh em, cậu nói sao?”

“… Ta đi xem thử Tam sư huynh có khát nước không.”

“Ta muốn ăn vịt quay.”

“Mặt trời còn chưa xuống núi mà.”

“Trận pháp này dù đã cũ xưa nhưng mức độ tàn ác lại có tác dụng.” Thái Chiêu giơ dạ minh châu, xuyên thẳng qua rừng mây chằng chịt trong làn sương loãng yên tĩnh, “Nó dùng sương mù, thổ nhưỡng, dòng nước, cây cối các thứ để kẻ xâm nhập cảm thấy mình luôn xông tới trước, cũng không đi nhầm hướng. Thực tế là, kẻ xâm nhập đã bị từng bước dụ vào lối rẽ, nơi đó có cạm bẫy hung hiểm đang chờ chúng.”

Mộ Thanh Yến đi theo sau đề phòng, “Nên là, trong sương mù dần dần dày trước đó, lúc nào chúng ta cũng có thể trúng kế.”

“Đúng.”

Thái Chiêu kéo tay áo Mộ Thanh Yến, cẩn thận xem xét đường đi, miệng lẩm bẩm ‘Cấn ba, Đoái bốn, Khảm bớt hai’ vân vân, hai người đi chừng nửa canh giờ, trước mắt trong sáng rộng mở. Phóng tầm mắt nhìn tới, là một thôn xóm lớn nhà cửa chễm chệ.

Ngẩng nhìn lên trên, chỉ thấy vô số cây mây đan dệt phía trên từ từ thành một mảnh mái vòm mênh mông.

Thái Chiêu xa xa khẽ đếm, thôn xóm bị bao chính giữa rừng mây leo này khoảng năm sáu mươi ngôi nhà liên tiếp, mỗi căn giống như Trúc Vọng lâu phía nam dựng hai ba tầng. Thái Chiêu tính toán, đại khái ở đây có thể chứa ba, bốn trăm người.

Cả thôn rất yên tĩnh, tĩnh mịch như chỉ có hai người Mộ Thanh Yến và Thái Chiêu. Thế nhưng một thôn ba bốn trăm người dù thế nào cũng không thể yên ắng vậy, yên đến gần như quỷ dị.

“Huynh có thấy nhà cửa ở đây đặc biệt…” Thái Chiêu cân nhắc từ ngữ, “Đặc biệt tụ trân* không.”

(*) vật quý cất trong tay áo

Mộ Thanh Yến mỉm cười, “Hai chữ này Chiêu Chiêu dùng rất hay.”

Phòng xá xung quanh chẳng những thấp bé, mà bàn giường kê bên trong đều nhỏ hơn bình thường một cấp.

Thái Chiêu nói: “Tôi nghe nói người mấy đời sống ở đầm lầy nhiều năm thường sẽ có thân hình khá thấp bé.”

Hai người dọc theo ánh sáng ảm đạm dạo bước trên đường nhỏ trong thôn xá, phát hiện nhà cửa bốn phía rách nát, có vẻ hồi lâu không có người ở, lúc khẽ có gió thổi qua, trần nhà bằng gỗ mây rì rào rung động. Đầm Huyết Chiểu vừa rồi kia sao mà hung hiểm đáng sợ, còn nơi đây lại vừa yên tĩnh vừa tiêu điều, tia sáng trắng bạc chui qua mái vòm đan bằng sợi mây, tựa như đang bước vào cảnh tượng trong mơ dưới ánh trăng.

Nhưng tính giờ thì, rõ ràng còn chưa tối.

“Căn nhà kia xem ra tương đối chỉnh tề.” Mộ Thanh Yến cao lớn, phóng tầm mắt lướt qua dãy nhà liên tiếp thấp bé, thoáng thấy phía trước có tòa nhà trồng hoa đằng mộc nhỏ trên lầu gỗ.

Hai người vội bước qua, kết quả bên trong vẫn trống trơn, nhưng bếp nóng, củi hơi có lửa ấm, trên giường và chỗ ngồi cũng rất sạch sẽ.

Thái Chiêu cực mừng rỡ: “Nơi này có người ở, nhưng người đã đi đâu?”

Mộ Thanh Yến nhíu mày: “Phải chăng vì thấy chúng ta tới nên bọn họ đã trốn đi? Chúng ta đi nơi khác tìm xem…”

— “Các cậu tới rồi.”

Một giọng bà lão chậm chạp già nua vang lên sau lưng mà hai người không hề phát hiện, Thái Chiêu bị kinh ngạc chảy mồ hôi lạnh ướt sũng cả người, Mộ Thanh Yến rút kiếm như gió, mũi kiếm Phất Doanh dừng gần như nửa tấc trước cổ họng bà lão.

Thân hình bà lão thấp bé, thấp hơn Thái Chiêu nửa đầu. Bà mặc áo vải gai thô, đầu cắm trâm mây, đeo sọt đầy rau dại và túi nấm, trên mặt tay chân đều có gân xanh nhạt, tướng mạo tuổi tác vô cùng mơ hồ.

Theo sau bà còn có bảy tám ông bà lão ăn mặc như bà, chân trần nhỏ của họ đạp lên đất mềm, đúng là lặng lẽ không một tiếng động.

Tuy bị kiếm bén chĩa vào cổ họng, song bà lão lại tuyệt đối không bối rối, bà ngắm nghía gương mặt Mộ Thanh Yến, toác ra nụ cười thiếu răng, rồi ngắm nghía Thái Chiêu từ trên xuống dưới, cuối cùng dừng mắt ở một đôi mắt tỏa sáng lấp lánh, tỏ vẻ mừng rỡ.

“Cô cậu họ Thái, hay là họ Dương?” Bà lão hỏi, “A ta quên, bên ngoài phần lớn các người là theo họ cha, vậy nhất định cô cậu họ Dương rồi.”

Một ông lão thấp bé sau lưng bà xen vào, “Chị quên à, Lạc Anh Cốc bọn họ cũng có theo họ mẹ.”

Thái Chiêu đẩy kiếm Mộ Thanh Yến ra, kích động hỏi: “Bà, bà từng gặp khuôn mặt giống như hắn, nhưng bên cổ người đó có dấu ấn màu máu hình hoa diên vĩ, đúng không?”

Bà lão gật đầu: “Còn có đôi mắt giống như cô, ta cũng đã gặp.”

Thái Chiêu mừng thầm.

Mộ Thanh Yến vẫn trầm mặt: “Sao ta biết lời bà nói là sự thật chứ.”

Bà lão chỉ hai bên cột cửa, “Đây là câu đối Tiểu Thù cô nương khắc cho ta.”

Thái Chiêu vội quay đi xem, vế trước là ‘Trăng tròn người không biết’, vế sau là ‘Trời trời lặn quỷ không hay’, câu đối ngang bên trên là ‘Vô thiên vô địa, ta từ tiêu dao’, bút tích do binh khí sắc bén khắc vào biển gỗ đầy gọn ghẽ, ý tiêu sái như bật ra khỏi mặt gỗ.

“Là bút tích của bà ấy à?” Mộ Thanh Yến thì thầm hỏi.

Thái Chiêu gật đầu lia lịa, “Đúng vậy, tôi nhìn từ nhỏ đến lớn, không lầm được.”

Mộ Thanh Yến không kìm được ngẩng đầu hỏi: “Xin hỏi Lão bà bà, các người biết chúng ta sẽ tới sao?”

“Không biết.” Bà lão mỉm cười, “Có người đến thì đến, không đến thì không đến. Có thể chạm tới nơi đây chính là khách của bọn ta, đụng phải nơi khác, thì là phân bón cho đầm dây mây.”

Câu nói mang cảm giác đầy chậm rãi hiền hoà, lại hàm ý khiến Thái Chiêu không kìm được rùng mình một cái.

“Người có dấu ấn hoa diên vĩ cạnh cổ kia xưng hắn họ Dương à?” Mộ Thanh Yến thu Phất Doanh.

Bà lão nói phải, Mộ Thanh Yến còn đang định hỏi tiếp thì Thái Chiêu vội cắt lời hắn, “Huynh khoan hẵng nói, tôi có chuyện gấp!”

Cô chìa một nụ cười đáng yêu, xin xỏ: “Lão bà bà ơi, bà có thể phái người ra bìa khu rừng phía Nam báo tin giúp không, nếu trước khi mặt trời lặn chúng cháu chưa quay về, có người sẽ phóng hỏa đốt rừng á!”

Bà lão ngẩn ra, sau đó bà và toàn bộ người đứng phía sau đều cười ha ha ha ha.

“Anh em cô đúng là cùng một loại với cha mẹ của cô cậu!” Bà lão cười ngả nghiêng, “Lúc ấy Dương công tử cũng chôn rất nhiều thuốc nổ ở bìa rừng, còn để ngòi nổ thật dài nữa. Tiểu Thù cô nương tìm tới chúng ta, việc đầu tiên đó chính là bảo chúng ta nhanh đi huỷ ngòi nổ, ha ha ha ha… Được rồi được rồi, em trai, em dẫn hai người đi sang bên đấy đi…”

Thái Chiêu còn định chỉ đường, bị bà lão ngăn cản, “Yên tâm đi, mỗi góc xó khu rừng và vùng đầm lầy này, chúng ta rõ ràng như ngón tay ngón chân mình vậy.”

Bà lão lại nói, “Ta biết cô cậu có rất nhiều lời muốn hỏi, vào nhà uống chút nước cam thảo đi đã.”

“Dạ dạ…”

“Chuyện này không gấp.” Lần này đến phiên Mộ Thanh Yến đẩy Thái Chiêu ra, “Có chuyện phải nói rõ trước.”

“Ta với nàng ấy không phải anh em.”

*

“Mặt trời xuống núi rồi nhỉ?”

“Chưa.”

“Sắc trời hình như tối hơn rồi.”

“Mặt trời chếch về hướng Tây, ánh nắng không đủ sáng thôi, nhưng mặt trời vẫn chưa lặn.”

“Người anh em cậu nói sao?”

“… Ta đi xem thử Tam sư huynh muốn đi vệ sinh không.”

“Ta muốn ăn heo nướng.”

“Mặt trời còn chưa xuống núi kìa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 126


Dạ lan màu máuChừng một trăm năm trước, Ly Giáo và Bắc Thần Lục phái lại dấy lên phân tranh, chẳng biết tại sao, lần này bọn họ đấu rất lợi hại, hai bên chém giết tròn năm sáu năm…

(Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà không cần kể lại chuyện xưa thế đâu, cứ vào thẳng hai mươi năm trước là được.

Thái Chiêu: Hầy dà huynh đừng ngắt lời, tôi muốn nghe. A Khương bà bà, sao lúc ấy lại dấy lên phân tranh ạ?

Mộ Thanh Yến: Nàng không biết tính thời gian à? Trăm năm trước, tất nhiên là lúc Giáo chủ Mộ Tung chết bất đắc kỳ tử, đám con trai con rể tranh vị. Nói không chừng bọn họ đã đổ nghi ngờ cái chết của Giáo chủ Mộ Tung lên đầu Bắc Thần đấy.

Thái Chiêu: Huynh quên đi, sao tôi không đoán ra chứ. Bởi vì giáo quy có hạn, bọn hắn không thể công khai tự nhiên chém giết nhau, bèn dùng Bắc Thần Lục phái lập uy, tranh đoạt ngôi vị Giáo chủ, đúng không? Hừ hừ hừ.

A Khương bà bà: Không ấy để ta đi múc miếng nước, cô cậu từ từ mà trò chuyện.

Thái Chiêu: A Khương bà bà bà cứ nói đi nói đi ạ.)

Thôn chúng ta bao đời nay đều thông thạo nuôi tằm dệt vải, vốn không liên quan gì đến phân tranh trên giang hồ, chỉ có điều hàng năm người Ly Giáo sẽ đến thu tơ tằm, tiền bạc hàng hóa bai bên chúng ta đã thoả thuận xong thôi. Nhưng trận đó hai bên giết đỏ cả mắt, mấy tiểu môn phái thuộc hạ Bắc Thần Lục phái bèn bắt chúng ta xả giận, khi nhục nô dịch chúng ta, chúng ta bị ép buộc sống không nổi, đành phải trốn vào khu rừng rậm này…

(Mộ Thanh Yến: Hừ hừ hừ.

Thái Chiêu: Huynh hừ hừ là ý gì.

Mộ Thanh Yến: Thì là ý hừ hừ thôi.

A Khương bà bà: Hay cứ để ta đi múc miếng nước đã.

Mộ Thanh Yến: A Khương bà bà bà đừng để ý nàng ấy ngắt lời, mời nói tiếp đi ạ.)

Những kẻ truy sát theo sát không buông như chó dữ, bọn ta trốn mãi trốn mãi, cuối cùng trốn vào chỗ đầm lầy trong rừng sâu này. Nơi đây rất hiểm ác, nhưng dù sao còn tốt hơn là ra ngoài bị kẻ ác kẻ mạnh bắt nạt. Ban đầu các vị tổ tiên chỉ muốn ở đây lánh nạn, đợi tránh xong đầu gió sẽ quay về, ai ngờ mọi người nhanh chóng phát hiện không ra được.

Ôi, thì ra trong đầm Huyết Chiểu này có một loại dây leo sinh sống tiết ra một chất lỏng cổ quái gây nghiện, dây mây leo tới đâu, rau dại, nấm khuẩn, thậm chí nước suối và không khí, đều bị hại. Tổ tiên bọn ta mới ở đây hai ba năm, đã phát hiện không thể thích ứng với bên ngoài được nữa — bọn ta buộc phải uống nước ở nơi này, hít thở không khí nơi này, dùng rau quả trồng ở nơi này, nếu không thì cả người bị dày vò như sâu kiến cắn xé vậy.

Các vị tổ tiên vốn định đưa trẻ mới sinh ra ngoài, ai ngờ bọn chúng đã bị hại từ trong bụng mẹ, vừa ra khỏi đầm lầy là khó có thể sống sót. Nhưng ở đây nào phải chốn có thể ở lâu, không khí ẩm, chướng khí, còn có sâu kiến rắn rết tiết mủ độc, bọn trẻ lưng gù gầy yếu, người lớn sống không thọ, mọi người người không giống người, quỷ không giống quỷ. Nhưng còn cách nào đâu, bọn ta đành đau khổ sống nhiều đời ở đây, cầu xin có một ngày thần linh cứu bọn ta ra.

Mãi đến hơn năm mươi năm trước, đại ân nhân thôn bọn ta rốt cuộc đã đến. Năm ấy, ta tám tuổi.

Các trưởng bối quan tâm bà gọi bà tiên cô, bà thì nói mình chỉ là người phàm, họ Thái, tên Thái An Bình, đến từ Lạc Anh Cốc.

(Thái Chiêu: A!

Mộ Thanh Yến nhếch khóe miệng: … Ồ, xâu chuỗi lại rồi, hay lắm.)

Đại ân nhân vốn đến rừng rậm hái thuốc, lúc ấy bà vẫn chưa tới hai mươi, người vừa gầy vừa nhỏ, rất ốm yếu. Bà nói mình sinh ra thiếu tháng, thuốc thang châm cứu không công hiệu, thế là thăm thú hết những vùng đất hiếm thấy vắng vẻ khắp thế gian xem có cách trị cho chính mình không.

Bà chạy sâu vào rừng rậm, gặp phải bọn ta ngoài dự kiến, ngay sau khi biết cảnh ngộ của bọn ta thì đi luôn. Bọn ta vốn dĩ chỉ xem như đó cũng là một người sợ bị nghiện cuống cuồng trốn khỏi đây. Ai ngờ hai năm sau, đại ân nhân quay về.

Lần này, bà mang đến một loại hoa lan kỳ lạ chỉ nở vào đêm. Bà trồng gốc lan này vào trong Huyết Chiểu, đợi nó tẻ nhánh mới, sẽ dùng mấy loại hoa cỏ kỳ lạ ghép tại chỗ, dưỡng thành một giống lan lạ cánh hoa nhị tâm mà hoa lẫn cành lá đều một màu máu.

(Thái Chiêu: Chính là hoa lan màu máu chúng ta nhìn thấy ở đầm lầy ngoài kia à? Nhưng cháu thấy chúng cũng nở hoa vào ban ngày mà.

A Khương bà bà: Đó là gốc cây con đã qua lai giống, cây cái do đại ân nhân mang tới chỉ nở hoa trong đêm.

Lần này Mộ Thanh Yến không chen lời, như đang ngẫm nghĩ gì.)

Đại ân nhân bảo bọn ta đem hạt giống loại lan màu đỏ này trồng ở khắp đầm lầy, nhất là chỗ cây dây mây leo. Bà nói, mặc dù như thế sẽ khiến dây mây leo sinh ra kịch độc, nhưng lại có thể làm nó không còn tiết chất lỏng gây nghiện nữa. Người trưởng thành trong thôn có lẽ không thể phục hồi như cũ, nhưng trẻ con mới sinh ra có thể không khác người bình thường.

Đại ân nhân ở lại đầm lầy năm năm, bà ấy dạy bọn ta cách phòng tránh cỏ độc mây độc, làm sao trồng hoa màu trong khí hậu trong lành. Bà còn đưa mấy đứa bé mới sinh ra ngoài, mời lão bộc thiếp thân tìm một chỗ có dân cư nuôi dưỡng. Quả nhiên, mấy đứa bé kia đều sống tốt ở bên ngoài.

Sau đó nữa, thân thể đại ân nhân mỗi lúc một yếu. Bà muốn về nhà, muốn gặp song thân tuổi đã cao.

Thế nhưng, bà không về được.

Dây mây leo trong đầm lầy trước đó dù gây nghiện nhưng không phải kịch độc, người thi thoảng ghé vào hái thuốc hoặc bị lạc vào đầm lầy chí ít có thể toàn thân trở ra. Nhưng sau khi đại ân nhân cải biến, người lạc vào Huyết Chiểu quay về đều trúng kịch độc, chết rất thảm thiết.

Người nhà bạn hữu bọn hắn bèn tìm tới Quảng Thiên Môn khóc lóc kể lể, Quảng Thiên Môn họ đã điều động một số lớn đệ tử đến Huyết Chiểu điều tra nghe ngóng, thế là càng nhiều người bị độc chết, càng thêm lớn chuyện.

Đại ân nhân biết mình không về được, bà không muốn tiếp tục liên lụy Lạc Anh Cốc, bèn dạy chúng ta bày ra trận pháp, giam ở Huyết Chiểu, tung đủ loại phong thanh hiểm ác kinh khủng ra bên ngoài để người ngoài không vào tiếp, Bắc Thần Lục phái cũng không truy cứu nữa.

Không lâu, đại ân nhân mang bệnh qua đời.

Cha mẹ mấy người bọn ta đã mất sớm, đều là đại ân nhân nuôi dạy ta lớn lên. Ta khóc chết đi sống lại bên giường bệnh bà, chỉ nguyện mong sao bà chưa từng tới nơi này, cũng sẽ không chịu tiếng xấu và nỗi oan ức lớn đến thế, đại ân nhân lại nói bà tuyệt đối không hối hận.

Từ lúc mới sinh bà đã bị cho rằng sống không quá ba tuổi, sau ba tuổi lại bị khẳng định không sống tới trưởng thành, lớn lên rồi hằng năm đều phải nghe thần y các loại bóng gió bảo song thân bà lo chuẩn bị hậu sự sớm vân vân.

Bà vĩnh viễn vật lộn với những chén thuốc đắng chát, vật lộn trong ánh mắt lo lắng thương hại của mọi người, để sống lâu chút bà đi tìm kỳ dược ở khắp nơi trên thế gian, nhưng sống lâu hơn chút để làm gì? Chỉ là để cho cha mẹ lo lắng càng thêm lâu thôi.

Bà nói, bà chưa từng nghĩ tới trong cuộc đời yếu ớt cằn cỗi của mình, lại có thể cứu chữa nhiều người như vậy, bà cảm thấy rất giá trị

Từ đó đến giờ, đã năm mươi năm trôi qua.

Mấy trăm đứa bé lớn lên rời khỏi đầm lầy, ở bên ngoài thành gia lập nghiệp, trồng trọt mua bán. Giờ đây, ngày ngày họ đều có thể phơi dưới nắng, cường tráng cao lớn như đại thụ.

Còn chúng ta, chính là di dân sau cùng của Huyết Chiểu.

*

Không khí im lặng, chuyện cũ buồn bã, ba người trong phòng thật lâu không nói gì.

Mộ Thanh Yến mở miệng nhắc nhở: “… Giờ có thể nói chuyện hai mươi năm trước chưa ạ.”

Thái Chiêu liếc xéo hắn một cái, bực hắn phá hỏng bầu không khí.

A Khương bà bà cười ha hả: “Được được — vậy cô cậu thật sự không phải anh em à? Bọn ta cứ nghĩ rằng Tiểu Thù cô nương sẽ thành thân với Dương công tử. Nhưng mà, không phải cũng tốt.”

Thái Chiêu quẫn bách, cô phát hiện mấy bà cô già trên đời này đều chung một nết, thấy nam nữ trẻ tuổi là ưng lôi chuyện nhân duyên ra, thế là vội nói: “Bà bà kể chuyện của cô cô cháu đi.”

A Khương bà bà nói: “Chừng hai mươi năm trước, một đôi nam nữ trẻ tuổi chợt xông vào thôn chúng ta, bọn ta giật cả mình, cứ tưởng trận pháp bên ngoài mất linh nữa. Hai người họ là đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bảo là bạn của Dương công tử bị bệnh, cần cây Dạ Lan mẹ làm thuốc. Tất nhiên là bọn ta đồng ý, nên họ đã lấy mấy nhánh con xong thì đi.”

“Thế thôi ạ?” Thái Chiêu nói.

“Thế thôi, Tiểu Thù cô nương là hậu nhân của đại ân nhân chúng ta, bảo chúng ta dùng mạng trả ơn còn chịu, huống chi chỉ là mấy nhánh Dạ Lan.”

Thái Chiêu không còn gì để nói, Mộ Thanh Yến nói, “A Khương bà bà, chúng cháu có thể xem cây Dạ Lan mẹ kia không ạ?”

A Khương bà bà vui vẻ đồng ý, đứng dậy đi trước dẫn đường.

Cây Dạ Lan cái trồng ở vườn sau toà nhà này, được bảo vệ giữa một vòng đá trắng. Trải qua hơn năm mươi năm rừng sâu tẩm bổ, thân rễ của nó càng thêm tráng kiện cao lớn, nhánh tươi khoẻ xanh biếc, từng nụ hoa trắng noãn yêu kiều nhú ra.

A Khương bà bà thở dài: “Chờ nửa đêm, mấy nụ hoa này có thể nở sạch, thật dễ nhìn. Cô cậu cứ nhìn thêm mấy lần đi, ngày mai nó sẽ bị thiêu huỷ rồi.”

Hai người Mộ Thái kinh ngạc, Thái Chiêu vội hỏi vì sao.

“Là Tiểu Thù cô nương đã dặn.” A Khương bà bà nói, “Sau hơn một năm cô ấy và Dương công tử rời đi thì bỗng nhiên cô quay lại. Cô ấy hỏi ta, có phải Dương công tử cũng đã quay lại lần nữa không. Ta nói phải, không lâu trước khi cô đến, Dương công tử lại lấy đi mấy nhánh Dạ Lan, ta còn hỏi phải chăng bệnh bạn cậu ấy còn chưa hết.”

“Sau đó Tiểu Thù cô nương bèn khóc. Cô khóc rất đau lòng, chúng ta khuyên thế nào cũng vô dụng. Trước khi đi Tiểu Thù cô nương trịnh trọng phó thác chúng ta, nếu về sau có người đến nghe ngóng cây Dạ Lan mẹ, bất kể là ai, cho dù là người Lạc Anh Cốc, cũng phải lập tức thiêu huỷ cây Dạ Lan.”

Thái Chiêu nghi hoặc: “Sao Dương công tử hải đến lần thứ hai, lần thứ nhất không thể lấy thêm mấy nhánh ư?”

A Khương bà bà nói: “Chiêu Chiêu cô nương không biết, Dạ Lan này dễ hư vô cùng, sau khi tẻ nhánh khỏi đất chỉ bảo tồn được nửa năm, dù cô có nuôi trong hộp thủy tinh hay là dùng chậu đất, sau nửa năm tất nhiên khô như củi, dược tính hoàn toàn biến mất.”

“Nếu nhổ cả rễ cầm ra bên ngoài nuôi thì sao?”

“Trừ phi là người cực kỳ thông thạo dưỡng giống như đại ân nhân… dù là chính đại ân nhân, năm đó mang tới mười mấy gốc Dạ Lan, cũng chỉ còn mỗi một gốc khoẻ nhất này.”

Hai người Mộ Thái liếc nhau, tự hiểu trong lòng — lần thứ nhất Mộ Chính Dương lấy nhánh Dạ Lan mẹ, là âm thầm đưa cho Trần Thự, muốn dẫn dụ Nhiếp Hằng Thành tu luyện Tử Vi Tâm Kinh. Lần thứ hai tới lấy nhánh Dạ Lan mẹ, e là vì chính mình.

Đến khi Thái Bình Thù biết được, đoán được gốc rễ hậu quả, mới khóc.

Mộ Thanh Yến trầm ngâm một lát: “Cô của Chiêu Chiêu nói rất đúng, đốt đi là hơn, vĩnh viễn trừ hậu hoạn.” Hắn lại nói, “Sao đến giờ còn chưa đốt?”

A Khương bà bà nói: “Đợi Dạ Lan nở hoa mới đốt cháy sẽ thải ra khí độc, chỉ có thể đốt vào ban ngày. Ôi, thật sự thì lần thứ hai Tiểu Thù cô nương đến đã muốn đốt đi, song bọn ta không nỡ, dù sao đây cũng là di vật cuối cùng của đại ân nhân.”

Thái Chiêu ngơ ngẩn cả người, cô cảm thấy bọn họ chịu hung hiểm vô vàn tiến vào Huyết Chiểu, hình như biết không ít, nhưng hình như lại không biết gì cả, “Còn gì khác nữa không ạ? Cô cô cháu và Dương công tử đã nói gì?”

Ánh mắt A Khương bà bà tinh nghịch, “Cô bé thật muốn nghe à? Lời tình tứ mấy cô cậu nói cùng nhau, cô cậu thật muốn nghe sao?”

“Không phải mấy câu đó.” Mặt Thái Chiêu ửng đỏ, “Ý cháu là, có gì khác không, lời không bình thường ấy?”

A Khương bà bà nghĩ mãi cũng không nhớ ra được, cho đến khi ông lão A Lâm mời bọn họ đi dùng bữa tối nhắc nhở một câu, “Chị quên chuyện Tiểu Thù cô nương cãi nhau với Dương công tử bên cạnh bờ suối rồi sao.”

“A, ta suýt thì quên mất.” A Khương bà bà a lên, “Tiểu Thù cô nương và Dương công tử vẫn luôn thắm thiết nồng nhiệt, đêm hôm ấy hai người họ vừa tới xem Dạ Lan nở hoa một lát, lúc tản bộ bên bờ suối bỗng nhiên lại có tranh chấp.”

Mộ Thanh Yến nghiêm túc: “Sao họ lại cãi nhau?”

A Khương bà bà nói: “Lúc ấy ta với em trai đang xách nước chỗ đối diện, nghe loáng thoáng vài chữ. Hình như là Dương công tử định đi giết một người, bị Tiểu Thù cô nương phát hiện, mới hỏi cậu ấy, sau đó hai người cứ nói gì ‘Nắn vuốt’.”

“Nắn vuốt?” Thái Chiêu hơi suy nghĩ, “Nhiếp Đề?!”

(*) gần như đồng âm: niē zhē và niè zhé

Mộ Thanh Yến hỏi dồn: “Sau đó thì sao?”

A Khương bà bà nói: “Dương công tử giải thích mấy cao, Tiểu Thù cô nương cao giọng nói ‘Hắn chưa làm việc ác thì không nên vô cớ trừ khử’. Sau đó hình như Dương công tử nhận sai, hai người về nghỉ tạm.”

Thái Chiêu không hiểu nhìn Mộ Thanh Yến: “Ông ta muốn giết Nhiếp Đề? Vì sao thế nhỉ.”

Mộ Thanh Yến cụp mi dài, thản nhiên nói: “Ông ta rất hận Nhiếp Hằng Thành, có lẽ là muốn giết đứa cháu kém cỏi của lão ta.”

Thái Chiêu lắc đầu: “Thảo nào cô tôi không đồng ý, cả đời bà ấy chưa giết qua người vô tội.”

Mộ Thanh Yến hất đuôi mắt dài hẹp: “Nghiêm Hủ nói, lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống, Nhiếp Đề đúng là giả vờ biết điều, luôn khách sáo với nô tỳ bên người. Thế nhưng, nếu cô cô nàng năm ấy không cản Mộ Chính Dương giết Nhiếp Đề, nói không chừng Tôn Nhược Thủy không có ai để thông dâm, nói không chừng gia phụ giờ vẫn còn sống.”

Thái Chiêu kinh ngạc, lại không thể thốt lên lời phản bác.

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Ta nói thế không công bằng rồi, Tôn Nhược Thủy tham mê quyền thế phú quý, gia phụ mất tích, sống chết không biết, nếu không có Nhiếp Đề bà ta cũng tìm chỗ dựa dan díu khác thôi, huống chi người âm thầm khiến bà ta độc sát gia phụ lại là một người khác.”

Tuy là nói vậy, Thái Chiêu vẫn hoang mang, không khống chế suy nghĩ đến một khả năng khác.

*

Bữa tối là rau quả cuộn, cá nướng, gà vườn xông muối, còn có một bát canh rau nấm dại.

Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam mấy ngày chưa dùng qua thức ăn nóng, húp một hớp canh nóng thấy ngon dị thường, suýt nuốt cả lưỡi.

Tống Úc Chi tâm sự nặng nề, ăn qua loa vài miếng liền về phòng nghỉ ngơi, Thái Chiêu ho nhẹ một tiếng, “Tôi cũng no rồi, mọi người từ từ dùng…” Nói xong định đi theo hướng Tống Úc Chi rời đi.

Rắc một tiếng gỗ nứt vang trời.

Tay trái Mộ Thanh Yến đặt trên bàn không hề động đậy, nhưng bàn gỗ dày dưới năm ngón tay ngọc nứt ra một khe thật dài, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam vội bốn tay nâng tấm bàn gãy, phòng chén bát rơi xuống.

Phàn Hưng Gia rùng mình, tự dưng thấy hơi lạnh cả người tràn vào trong phòng.

Thái Chiêu chầm chậm ngồi xuống, “Thật ra tôi ăn còn chưa no, để Tam sư huynh nghỉ ngơi trước đi.”

Mộ Thanh Yến móc một tấm khăn lụa trắng cẩn thận lau ngón tay thon dài, “Tiểu Thái nữ hiệp không cần cố kỵ người bên ngoài, có chuyện muốn nói với Tống Tam công tử thì cứ nói đi.”

“Không có không có, không có gì hết.” Thái Chiêu cười bồi.

Mộ Thanh Yến nhìn cô gái chằm chằm hồi lâu, đôi ngươi đen đặc sâu tối như biển, nhìn đến Thái Chiêu mất tự nhiên cả người.

Ba người khác ở bàn ăn cũng chẳng dám thở mạnh một tiếng, hai tên nâng mặt bàn, tên còn lại bưng bát cơm, cắm đầu thật thấp, ước gì có thể chui xuống kẽ đất biến mất cho rồi.

Sau một lúc lâu, Mộ Thanh Yến cười lạnh, phẩy tay áo bỏ đi, còn xa xa để lại một câu, “Cản cũng cản không được, Tiểu Thái nữ hiệp xin cứ tự nhiên.”

Sát tinh rời đi, trong phòng cuối cùng cũng khôi phục bình tĩnh. Thái Chiêu cười ngây ngô mấy tiếng, cuối cùng vẫn không dám ngay trước mặt Mộ Thanh Yến đi tìm Tống Úc Chi, đành ảo nảo trở về phòng mình.

Phàn Hưng Gia thở phào một hơi: “Sao Giáo chủ các người càng lúc càng âm trầm, làm ta sợ muốn chết.” Hèn gì sư muội luôn nói Mộ Thanh Yến là tên điên, quá chuẩn xác.

Du Quan Nguyệt liếc xéo hắn: “Cậu thì biết cái gì, Giáo chủ đây là thần võ ngút trời, cao thâm khó lường.”

Phàn Hưng Gia nhịn không được: “Thực ra sư muội ta cũng rất thông minh, nhưng mà khác với kiểu thông minh của Giáo chủ nhân tinh* mấy người. Sư phụ ta nói sư muội là tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi*. Gặp cùng một chuyện, Giáo chủ mấy người có thể đoán tiên cơ, còn sư muội ta là nghĩ rõ ràng đằng sau đó. Sư phụ ta nói, ngươi có thể giấu cô bé trong thoáng chốc chứ không thể gạt cô bé cả đời.”

(*) nhân tinh: 人精; người có mắt nhìn, có thể tính kế, khôn khéo. (*) đại trí giả ngu: người tài giỏi nhưng khiêm tốn, bề ngoài có vẻ đần độn.

Hắn không nói ra miệng là — Mộ Thanh Yến thông minh tràn đầy công kích và h@m muốn khống chế, làm sao thiết kế, làm sao bố cục, một cú đánh phá dứt điểm, đụng tới loại người này không bị bán còn giúp tính tiền đã là thắp nhang cầu nguyện. Mà Thái Chiêu thông minh là kiểu phòng ngự, vạn sự chưa đổ tới trên người mình thì hoàn toàn chẳng sợ, trái lại sẽ trở nên mẫn cảm nhạy bén lạ thường.

“Chúng ta nói gì cũng vô dụng, ta thấy họ lại phải vướng víu nhau rồi.” Thượng Quan Hạo Nam tóm gọn.

Phàn Hưng Gia giật mình: “Sao biết? Vãn bối cho là chuyện giữa hai đứa đã xong rồi.”

Thượng Quan Hạo Nam đắc ý: “Cậu đừng ngốc vậy, nhìn hai người họ thế kia giống như ‘đã xong’ không.” Hắn nhíu mày, “Ta nói này Quan Nguyệt, chúng ta phải đi tìm mấy cây đinh sắt, không thể nâng mặt bàn đến già được.”

Du Quan Nguyệt tức giận nói: “Cậu không thấy đồ dùng trong căn nhà này đều là Ngươi không gặp nơi này ốc xá dụng cụ đều là kết cấu ghép mộng rồi dùng dây mây buộc sao, nào có đinh sắt chứ.”

“Vậy sao giờ?”

“Ừm, trong bao đồ của ta có cây Cửu Khúc Thấu Cốt đinh, bẻ thẳng làm đinh sắt thôi.”

“Cũng được, nhưng mà chùy sắt đâu.”

“Chỗ này đến đinh còn không có lấy đâu ra chùy? Cậu dùng Đại Lực Kim Cương Chỉ ấn mặt bàn là được rồi.”

“Vậy cũng được nhỉ. Ê ê ê, gượm đã, Thấu Cốt đinh kia của cậu đã bôi độc chưa?”

“Ế, chuyện này, bôi rồi bôi rồi. Nhưng ta có mang theo thuốc giải, hay cậu uống thuốc giải trước, nhỡ cọ rách da sao. Độc tính đó cũng hơi lợi hại á.”

“Lợi hại chừng nào?”

“Cũng tạm cũng tạm, kiến huyết phong hầu* thôi.”

“…”

Hai tên chân chó cậu một lời tớ một câu, Phàn Hưng Gia nhìn bát cơm thở thật dài, một nỗi lo buồn dâng lên trong lòng.

(*)见血封喉: vô máu là ná thở. Haha tui cười mệt 2 anh tấu hài này quá.

*

Đêm dài như nước, giữa khe hở mái vòm do vô số cây mây leo đan nhau tạo thành, ánh trăng sao điểm điểm rót xuống, tô điểm cho vùng đất giữa rừng âm u ẩm ướt này như cảnh mộng mê huyễn.

Thái Chiêu buồn bực một bụng, lăn lộn khó ngủ, bèn dứt khoát đứng dậy ra ngoài đi dạo chút, đi hai vòng, lại gặp được Tống Úc Chi trong vườn rau sau nhà không một bóng người đang nhìn lên trời thở dài.

“Tam sư huynh!” Mắt Thái Chiêu sáng rực, hết nhìn đông tới nhìn tây một vòng rồi te te chạy tới, “Tốt quá Tam sư huynh, tôi có chuyện gấp muốn nói với anh!”

Tống Úc Chi đứng thẳng như tượng ngọc, khẽ nhíu mày rậm, “Sao cô phải nhỏ giọng nói vậy, còn quan sát láo liên, ở đây xa khu ốc xá, không cần lo sẽ quấy nhiễu thôn dân nghỉ ngơi đâu.” Giống như tên cướp vặt vậy, y thầm nghĩ.

Thái Chiêu quẫn bách, nghĩ thầm tôi đây không phải muốn tránh tên điên kia sao.

“Rốt cuộc cũng là chỗ của người ta, nhẹ nhàng chút cũng không sai.” Thái Chiêu móc một gói khăn trong ngực, mở ra chìa tới trước mặt Tống Úc Chi, “Tam sư huynh anh nhìn xem.”

— Trong túi khăn bọc lấy một khúc mây leo vặn vẹo ngắn ngủn, còn được phủ bởi một lớp dịch nhờn màu máu nhạt.

Thấy Tống Úc Chi không hiểu, Thái Chiêu liền nói: “Đây là đoạn dây mây ngày hôm nay tôi cắt ở chỗ sau trong Huyết Chiểu, tôi đã thử qua thỏ và gà vịt rồi, một vết thương da thịt nhẹ dính phải dịch đoạn mây leo này sẽ tê liệt ngã oặt ra, không chút giãy giụa, y chang tình trạng của anh hôm qua vậy.”

Con ngươi Tống Úc Chi chợt trợn lớn, chấn kinh không thể tin.

“Ắt là Ngũ sư huynh đã bảo anh chuyện ám tiêu kia rồi.” Thái Chiêu nói, “Tôi vừa thấy cây mây leo này lập tức biết ngay.”

Cô hít sâu một hơi, “Người ra tay với anh về võ công chỉ ở mức trung bình, nhưng hắn biết rõ tu vi thân pháp của anh, có thể đoán được một giây sau anh dùng chiêu thức gì. Tôi nhớ là dù Tam sư huynh học nghệ của Thanh Khuyết Tông nhưng cũng không quên công phu Quảng Thiên Môn, lúc ấy huynh đương dùng tuyệt kỹ nhà họ Tống à.”

Sắc mặt Tống Úc Chi nặng nề, thật đã bị cô gái nói trúng — lúc bị dính ám tiêu đêm qua, y đang di chuyển giữa ‘Bát Vân Thập Lục thức’ của nhà họ Tống.

Thái Chiêu nói tiếp: “Đồng thời, tên đó còn quen thuộc khu rừng này, biết loại dây mây leo ở sâu trong đầm tiết ra chất lỏng có thể khiến người tê dại lập tức.” — Huyết Chiểu trong rừng ngay ở mạn Bắc Quảng Thiên Môn.

Tống Úc Chi cô đơn đứng dưới ánh trăng, thân hình cứng như khối băng, cái người hại y kia đã vô cùng sống động.

Y khó khăn mở miệng, “Đại ca, sao anh ấy muốn hại ta? Vậy là, Nhị ca cũng là hắn vu cáo hãm hại ư?”

“Tôi không biết, tôi không rõ chuyện trong nhà các huynh.”

Thái Chiêu kiên quyết không dây vào chuyện xưa trạch đấu của nhà họ Tống, mẹ Ninh Tiểu Phong mỗi lần kể đến chỗ hại tam thê tứ thiếp của đại gia tộc, đến phần cuối luôn không thể thiếu một câu ‘Xem đi, nhà họ Tống rối bời bời vậy, chắc chắn sẽ có nhiễu loạn lớn thôi’.

Hai sư huynh muội đang đứng bên ngoài một hồi, chẳng nói gì nhau, sau đó họ xuyên qua một khu vườn lớn yên lặng quay về ốc xá, ai ngờ lúc vào tới sân nhà, thì đụng phải Mộ Thanh Yến từ nóc nhà cao ba tầng chậm rãi đi xuống — trên tầng ba là một sân bằng phẳng rất to dùng để trải phơi rau nấm, bên cạnh đó có đặt một cây thang đủ một người leo lên xuống.

Thấy Mộ Thanh Yến phóng tia mắt như sao băng tới, Thái Chiêu vội giải thích: “Không không không, tôi không phải cố ý đi tìm Tam sư huynh, là tôi ngủ không được, mới ra ngoài đi dạo rồi tình cờ gặp anh ấy!”

“Ồ.” Mộ Thanh Yến lạnh nhạt, “Đêm hôm khuya khoắt, sao Tam công tử dạo chơi bên ngoài thế?”

Tống Úc Chi lạnh lùng: “Ta đang ngắm cảnh. Không biết Mộ Giáo chủ thì sao?”

Mộ Thanh Yến nói: “Đúng dịp, ta cũng đang ngắm cảnh.”

Thái Chiêu lo lắng bất an, không dám xen vào.

“Quảng Thiên Môn xảy ra biến cố đột ngột, nghi ngờ trùng trùng.” Mộ Thanh Yến chợt nói, “Nếu là ta, sẽ điều tra thêm về Dương Hạc Ảnh.”

Tống Úc Chi nheo mắt: “Ý Mộ Giáo chủ là.”

Mộ Thanh Yến nói: “Mấy người biết họ phu nhân nguyên phối Dương Hạc Ảnh là gì không?”

Thái Chiêu vét cái bụng khô, “Dương phu nhân… hình như họ Trác?” Cô cố gắng nhớ lại, “Trác thị phu nhân hình như là cốt nhật duy nhất của Trác Đại Đương Gia hào khách Quan Trung, ai cũng nói toàn bộ gia sản nhà họ Trác đều thành đồ cưới của bà ấy.”

Kết hôn không đăng đối thế này, mục đích Tứ Kỳ Môn quá rõ, nhắc đến cũng chẳng vinh dự gì. Nhưng theo Ninh Tiểu Phong thấy, đây là thượng bất chính hạ tắc loạn, Tông chủ Tông đứng đầu Doãn Đại muốn thả vuốt đến địa bàn Bội Quỳnh Sơn trang, rồi đoạt thẳng đứa con trai độc nhất của nhà họ Quách giàu nhất Giang Nam làm đồ đệ, cũng nào có cao minh hơn là bao.

Thái Chiêu cắt một tiếng: “Mẹ tôi từng kể, tuy Trác phu nhân kia mười dặm hồng trang, vẫn chẳng cản được Lão lộn kiếp Dương Hạc Ảnh trái ôm phải ấp, có mới nới cũ. Nhưng, chuyện này thì liên can gì đến biến cố Quảng Thiên Môn chứ?”

Mộ Thanh Yến nói: “Trác Đại Đương gia thật ra là ông ngoại của Trác thị phu nhân, Trác phu nhân mang họ mẹ.”

Lòng Tống Úc Chi chợt chuyển: “Thế cha bà ấy họ gì?”

“Họ Hoàng.” Mộ Thanh Yến ấm áp mỉm cười, “Không sai, cha Trác phu nhân chính là Hoàng Lão bang chủ Hoàng Sa Bang. Mẹ Trác phu nhân khó sinh mà chết, Trác Đại đương gia không còn ai dưới gối, nén bi thương đến đòi con rể đứa cháu ngoại về nuôi dưỡng.”

Thái Chiêu Tống Úc Chi liếc nhau, đều rất ngạc nhiên.

“Hoàng Lão bang chủ nhân hậu, ông thương nỗi khổ Trác Đại Đương gia mất con, cũng yêu thương người trưởng nữ không lớn lên bên cạnh mình, mười năm sau mới tục huyện phu nhân mới sinh con dưỡng cái. Sa Tổ Quang vốn là đệ tử Hoàng Sa Bang, Hoàng Lão anh hùng thấy hắn lanh lẹ tài giỏi, mới gả thứ nữ gả cho. Chuyện về sau, hai người đã biết.”

Vì không chịu khuất phục Nhiếp Hằng Thành, Hoàng Sa Bang trong mấy lần kịch chiến tổn binh hao tướng nguyên khí đại thương. Sa Tổ Quang thừa dịp thế lực của cha vợ suy kiệt, bèn hiến đứa em gái xinh đẹp cho Dương Hạc Ảnh làm thiếp, nhờ đó tự lập môn hộ, quăng Hoàng thị phu nhân nguyên phối sang một bên, tự phong lưu sung sướng.

Tống Úc Chi không kìm được: “Chuyện bí mật năm xưa như thế sao cậu rõ ràng vậy?” Trong ghi chép của Doãn Đại cũng không đề cập, có thể là ông ta thấy hai nhà Trác Hoàng sớm đã suy tàn, không ai kế tục, vô danh tiểu tốt thế thì không đáng ghi chép.

Mộ Thanh Yến liếc mắt: “Oan gia đối đầu hai trăm năm, sao Ma giáo có thể không điều tra ngọn nguồn nội tình chưởng môn Lục phái chứ.”

Tống Úc Chi bị câu âm dương quái khí chọt suýt lủng phổi.

Thái Chiêu hỏi: “Hoàng Lão bang chủ biết chuyện con gái mình chịu tủi nhục không?”

“Biết thì còn thế nào? Huống chi Hoàng phu nhân đã bệnh qua đời từ rất sớm.”

“Bệnh qua đời?” Thái Chiêu cứ thấy không đúng ở đâu, nhưng trong phút chốc không nghĩ ra.

Mộ Thanh Yến nói, “Về sau Hoàng Lão bang chủ nản lòng thoái chí, dẫn một nhà mấy lão huynh đệ già trẻ bệnh yếu ẩn cư ở núi Thất Mộc, không tiếp tục qua lại với người trong giang hồ, chỉ có một người ngoại lệ…”

Thái Chiêu biết luôn, “Là Trác phu nhân. Hoàng Lão bang chủ lo cho trưởng nữ Trác phu nhân ở Tứ Kỳ Môn, định âm thầm có thư lui tới với bà ấy, bị Dương Hạc Ảnh phát hiện.”

Tống Úc Chi vẫn không hiểu: “Vậy cũng đâu phải giết hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng chứ.”

Mộ Thanh Yến nói, “Mấy tháng trước thám tử trong Giáo phát hiện trên núi Thất Mộc có tung tích thi khôi nô, sau đó lại nghe tin hai người Dương Sa khí thế hùng hổ lên Quảng Thiên Môn. Mới đầu ta tưởng là Tống Mậu Chi tự mình luyện chế thi khôi nô, bị Dương Hạc Ảnh bắt đằng chuôi mới đến Tống Đại chưởng môn kiếm chác ít nhiều. Nhưng Tống Mậu Chi đã chết, đủ thấy sự tình cũng không phải như suy nghĩ trước đó của ta.”

Hai người Tống Thái mới đầu không hiểu hàm nghĩa trong câu, vòng vo ba vòng mới hiểu liên quan trong đó —

Phải dùng chuyện ác của Tống Mậu Chi uy hiếp Tống Thời Tuấn, đương nhiên chính Tống Mậu Chi phải còn sống, chết thì sao bắt chẹt nữa, nhưng Sa Tổ Quang lại phái tử sĩ sát hại Tống Mậu Chi, chứng tỏ ý đồ Dương Hạc Ảnh cũng không phải chỉ đơn giản là kiếm chác chút.

Lòng Tống Úc Chi loạn như ma: “Rốt cuộc họ Dương muốn làm gì!”

“Huynh cứ xâu chuỗi lại mà ngẫm.” Mộ Thanh Yến nói, “Trên núi Thất Mộc đúng là có người luyện thi khôi nô, nếu không phải Tống Mậu Chi làm, thì là ai?”

Cặp mắt Thái Chiêu tỏa sáng: “Thật ra chúng ta đã đoán ngược, không phải Mậu Chi công tử luyện thi khôi nô bị người phát hiện, mà là Dương Hạc Ảnh luyện thi khôi nô bị Tống Tú Chi phát hiện, sau đó hai bên hợp lại tính toán, dứt khoát đánh cược một lần lớn — trùng hợp là, Tống Tú Chi cũng là con rể tương lai của Dương Hạc Ảnh.”

“Dương Hạc Ảnh mất hết tính người, đáng thiên đao vạn quả!” Hơi thở Tống Úc Chi dồn dập, “Sao Đại ca lại có thể cấu kết với hạng người này? Đến cùng thì chúng muốn gì!”

Mộ Thanh Yến khoan thai nói: “Còn có thể là gì chứ, xem tình hình trước mắt, huynh trưởng Tống Mậu Chi của huynh chết rồi, Tam Thúc tổ ‘trọng thương khó lành’, ắt là sống không lâu, cha huynh Tống Thời Tuấn thì thương thế cũng không nhẹ, như vậy chức chưởng môn Quảng Thiên Môn sẽ rơi vào trong tay ai?”

Tống Úc Chi lảo đảo vịn khung cửa, vừa sợ vừa giận: “Sao lại thế, sao lại thế, sao lại thế, Đại ca… Đại ca không phải hạng người này! Từ nhỏ anh ấy không tranh không đoạt, ôn hoà hiền hậu bình thản, sao anh ấy lại làm ra chuyện như thế chứ!”

“Tam sư huynh đừng kích động, là đen là trắng luôn có thể điều tra rõ ràng.” Lúc này Thái Chiêu lại rất bình tĩnh.

Cô thấy Tống Úc Chi bị đả kích lớn định đỡ y về phòng. Mộ Thanh Yến đầy chân thành cướp trước mặt cô, rất giống như ân cần tha thiết nhẹ nhàng đỡ lấy vị công tử thế gia đồng môn.

Hắn ủi Thái Chiêu qua một bên, nâng khuỷu tay Tống Úc Chi đi vào trong, miệng còn ‘nhẹ nhàng’ khuyên giải, “Tống huynh chớ sợ, chớ bi thương, chẳng qua cũng chỉ là thủ túc tương tàn huynh đệ bất hòa, à, còn có cha già không rõ sống chết, cũng không phải là bất thường quá mức đâu. Tống Tú Chi giết em hại cha, Tống huynh cứ một đao chặt đầu gã xuống là được, đừng quên phải moi tim đào gan, máu tươi ngâm rượu bái tế…”

Thái Chiêu chống eo đứng phía sau trợn mắt, không còn cách nào khác đành về phòng đi ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 127


Tâm địa ác độc

Hôm sau trời vừa sáng, hoa Dạ Lan đã tàn, chỉ còn lại một bụi cành lá xanh biếc.

Dưới ánh nhìn mọi người, A Khương bà bà ch ảy nước mắt cho người nhổ tận gốc cây Dạ Lan, sau đó giội dầu cây trẩu châm một mồi lửa đốt sạch. Thái Chiêu như trút được gánh nặng, nghĩ thầm ít nhất sẽ không ai còn có thể tu luyện Tử Vi Tâm Kinh tà môn kia nữa.

Tống Úc Chi vội tìm Tống Tú Chi hỏi cho ra nhẽ, Thái Chiêu vội muốn biết an nguy của cha mẹ, Mộ Thanh Yến muốn thỉnh giáo Đại chưởng môn Dương Hạc Ảnh một vấn đề nhỏ liên quan đến hậu cần, cho nên họ đã tới cáo từ đám A Khương bà bà.

Lúc chuẩn bị lên đường, Mộ Thanh Yến bảo ba người Thái Chiêu đi trước, ba người mình theo sau. Đợi bọn Thái Chiêu đi khá xa, hắn móc tất cả vàng lá trong ngực, còn lệnh Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt moi hết vàng thỏi ngân phiếu trên người gom lại một chỗ rồi trịnh trọng đặt vào trong lòng A Khương bà bà, thái độ không có nửa phần khinh thường.

A Khương bà bà ôm một túi vàng bạc lớn, khuôn mặt già nua phủ kín rêu ẩm lộ một nụ cười mỉm kì lạ: “… Cậu đã nhìn ra.”

Mộ Thanh Yến nói: “Đêm qua bà bà lấy chăn đệm mới là từ lụa thô, cũng không phải có thể sản xuất trong khu Huyết Chiểu. Ta bèn nghĩ, khu Huyết Chiểu này chỉ là người bên ngoài không vào được, chứ cũng không phải người bên trong không ra được, bèn nghĩ thi thoảng mấy bà bà cũng sẽ đi ra Huyết Chiểu, đoàn tụ dăm ba hôn cùng con cháu.”

A Khương bà bà cúi nhìn của cải trong lòng, nhẹ nhàng nói: “Nơi đây cằn cỗi nguy hiểm, lúc sắp nhỏ ra ngoài, bọn ta chẳng thể chuẩn bị được cho chúng thứ gì. Bọn nó tay trắng ra ngoài an gia lập nghiệp, rất khó khăn.”

Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt nhìn nhau, giờ mới nghĩ mấy người này cũng không phải là giang hồ kiêu khách, chỉ là dân lao động bình thường.

Mộ Thanh Yến nói: “Bà đừng trách Chiêu Chiêu, từ nhỏ nàng ấy đã áo cơm không lo, nào để ý đến những thứ này. Huống hồ…” Hắn cười cười, “Huống hồ xem như nàng có để ý thì e là trên người cũng không móc ra nổi mấy lượng bạc.”

Thái Chiêu không câu nệ tiểu tiết, Tống Úc Chi xuất thân giàu có, bản thân Phàn Hưng Gia cũng là người thôn quê giàu có ở Giang Nam, ba người thật ra chẳng hiểu mấy tiểu tiết và để ý chuyện vặt. Lúc rời Thanh Khuyết Tông, họ cứ nghĩ chuyến này đi đến Quảng Thiên Môn có tiền có thế, đến nơi cơm ngon rượu say còn không đủ, cơ bản chẳng cầm bao lộ phí đi đường.

A Khương bà bà mỉm cười lắc đầu: “Lúc trước Tiểu Thù cô nương cũng không phải tự nhận ra, là con gái lão không hiểu chuyện lén lút ngó xiêm y trâm vòng cô ấy, cô ấy mãi mới nghĩ đến.”

Mộ Thanh Yến nói: “Không dối gạt bà bà, mớ vàng bạc này trong Giáo ta thật sự chẳng là gì, ta nói một câu chỉ là lễ mọn thực không phải khách sáo, xin bà bà nhận lấy.”

A Khương bà bà không chối từ nữa, cúi đầu hành lễ, “Đa tạ.”

Bà đi mấy bước, quay đầu lại, ngắm gương mặt đẹp trai như khuôn ngọc của Mộ Thanh Yến, thoáng trùng với một gương mặt khác trong trí nhớ, lập tức nói, “Cậu và Dương công tử, thật ra không hề giống nhau.”

Bà hơi xuất thần, “Tiểu Thù cô nương từ nhỏ không lo ăn mặc, đúng là không thấy bọn ta khó khăn. Nhưng ta biết Dương công tử đã nhìn ra từ lâu, chỉ là căn bản cậu ta không thèm để ý.”

“Cậu với cậu ấy, là không giống.”

*

Rời thôn Đầm Lầy Máu, Thượng Quan Hạo Nam không kìm được nói: “Thì ra họ không có tiền, không nói sớm, vài bữa ta chuyển hơn mười rương vàng bạc tới, bảo đảm cho họ ở bên ngoài thịt cá tơ lụa…”

Du Quan Nguyệt oán hận nói: “Cậu im mồm đi, cần cậu nghĩ hẵng, chắc chắn Giáo chủ có chủ trương khác.”

Mộ Thanh Yến vẫn đang suy ngẫm về câu nói sau cùng của A Khương bà bà kia, nghe vậy cười nhạt: “E là họ muốn rời đi, sau này khu Huyết Chiểu ấy cũng không còn người ở.”

Thượng Quan Hạo Nam cả kinh: “Không phải bảo là họ không thể rời khu Huyết Chiểu này sao?”

“Thái An Bình cải tạo khu đầm lầy Máu này từ lúc họ còn bé, dù ta không tinh thông về kiến thức dược thảo, nhưng trải qua hơn năm mươi năm thanh lọc, độc tính có mạnh cũng đã trừ khử gần hết.”

Mộ Thanh Yến chắp tay đi phía trước, “Nếu ta đoán không lầm, mấy người họ đều là bọn trẻ do Thái An Bình nuôi dưỡng. Sở dĩ không đi có lẽ là không bỏ được nơi chôn xương của Thái An Bình, cộng thêm gốc Dạ Lan do Thái An Bình cấy ghép kia.”

Du Quan Nguyệt hiểu: “Thì ra là thế, giờ gốc Dạ Lan đã hủy, họ không còn mối lo nữa. Ầy, nếu biết họ muốn ra ngoài đoàn tụ cùng con cháu đã hỏi thăm họ đi đâu rồi, mai này cũng tiện chăm sóc ít nhiều.”

Mộ Thanh Yến cười rộ: “Thôi chớ hỏi, dây vào ân oán giang hồ có gì tốt đâu.”

Khu đầm lầy Máu từ từ rời xa sau lưng, gió nhẹ quét qua rừng rậm, lá cây lao xao hưởng ứng.

Thanh niên cao lớn tuấn tú vẻ đầy thoải mái, từng sợi từng lọn tóc dài phất phơ, đầy ý vui sướng nhẹ nhàng khoan khoái.

“Ta thấy hình như Giáo chủ khá là vui vẻ.” Du Quan Nguyệt rỉ tai nói nhỏ.

Thượng Quan Hạo Nam ngờ vực: “Rời được cái chỗ ngột ngạt nguy hiểm đầy rắn trùng chuột kiến quỷ quái kia ta cũng vui mà!”

“Ngốc khắm!”

Ba người nhanh chóng đuổi kịp bọn Thái Chiêu.

Tống Úc Chi biết rõ mưu tính Mộ Thanh Yến, không ngại hạ mình học hỏi: “Ta muốn tìm Đại ca tra hỏi, Mộ Giáo chủ tính thế nào?”

Mộ Thanh Yến nói: “Thực Cốt Thiên Vũ là đồ của bổn Giáo, không thể tùy tiện để người ta cầm đi dùng linh tinh, ta phải thỉnh giáo Dương chưởng môn một chút chuyện.”

Thái Chiêu thầm nghĩ, thật ra thì cô vốn chẳng cần thiết cùng hai người bọn hắn quay lại Quảng Thiên Môn, thứ nhất cô và Tống Tú Chi không có ân oán, thứ hai Thực Cốt Thiên Vũ cũng không phải của Lạc Anh Cốc, hiện giờ cô chỉ muốn biết tình hình cha mẹ mình thôi.

“Sư muội tính thế nào?” Tống Úc Chi hỏi, tám tia mắt còn lại cũng sáng ngời phóng tới.

“… Trước tiên tìm một chỗ tắm rửa thay y phục đã.” Thái Chiêu thở dài, “Sau đó chính thức ăn bữa cơm no, chính thức nghỉ một giấc, trời tối hẵng lên Quảng Thiên Môn.” — trong đêm tối đen chạy trốn cũng dễ chút.

Phàn Hưng Gia mừng rỡ: “Nghe hay quá!”

Thấy mọi người đưa mắt nhìn, hắn vội bổ sung, “Không biết mấy người có nhận ra không, sau người chúng ta hiện giờ như bị chôn trong mớ thịt cá nhão thối ba ngày ba đêm rồi.”

Dù Tống Úc Chi lòng nóng như lửa đốt, cũng phải đồng ý: “Sư muội nói có lý, chúng ta mấy ngày vừa đi đường vừa ác đấu, đã mỏi mệt khôn xiết, huống hồ ta với sư muội còn có vết thương, cần tĩnh dưỡng một chút hãy đi bàn chuyện.”

Mộ Thanh Yến không thể không thể gật đầu.

Một chuyện không phiền hai chủ, thế là sáu người lại chạy về quán trà tứ ngoại thành Quảng Thiên quạnh quẽ không người kia.

Tuyết mịn vẫn dào dạt, bếp trà vẫn bốc lên hơi nước trắng bừng bừng, ông chủ già vẫn ngồi ngoài cửa ca cẩm làm ăn không được, sáu người dứt khoát bao cả gian trà tứ, bảo ông chủ đi đóng cửa.

Lần này người trả tiền là Thái Chiêu, cô rút ra một chiếc vòng tay vàng sợi râu tôm tính tiền, quái lạ ngó Mộ Thanh Yến, “Huynh không mang tiền à? Không phải lần nào ra ngoài huynh cũng chất một mớ vàng lá ở trên người sao. Bây giờ Ma giáo nghèo dữ thần hen?”

Du Quan Nguyệt lẩm bẩm hai mắt nhìn trời, ước gì lập tức đi điều hai xe vàng đến lóa mù mắt Tiểu Thái nữ hiệp, cổ họng Thượng Quan Hạo Nam nhấp nhô, kiên cường mà bi tráng cố nén xuống không thốt một chữ.

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Dáng vẻ Tiểu Thái nữ hiệp trả tiền nhìn rất vui, mai này Tiểu Thái nữ hiệp nhớ nhất định phải giành trả tiền nhiều hơn đấy.”

Thái Tiểu Chiêu không kìm được, mày xinh giãn ra, lúm đồng tiền cười như hoa: “Huynh nằm mơ đi, rất vui cái đầu huynh, xài tiền của người khác thì có thể không ‘rất vui’ à! Nếu tình cảnh hiện giờ của Ma giáo không tốt, tôi chỉ Mộ Giáo chủ một con đường phát tài, chỉ cần Mộ Giáo chủ giả thành thư sinh nghèo ra ngoài đường bày tranh chữ, với tư sắc dáng vẻ của huynh…”

Tống Úc Chi tằng hắng mạnh một cái, Thái Chiêu lập tức dừng lại, nghiêm sắc mặt, sừng sộ quay về phòng tắm rửa.

Mộ Thanh Yến vẫn tỉnh rụi, ánh mắt hóa lạnh: “Mù cũng nhìn ra được, nàng đi theo ta vui vẻ hơn.”

Tống Úc Chi lạnh lùng nói: “Phần vui vẻ này có thể chống chọi một đời không gặp lại được cha mẹ, không thể về Lạc Anh Cốc không? Sau này Mộ Giáo chủ không cần giúp ta tìm Tử Ngọc Kim Quỳ nữa, lần này chỉ điểm xong, ân oán hai ta đã thanh toán xong.”

Trong mắt Mộ Thanh Yến đầy ý lạnh uy nghiêm, đến mức Phàn Hưng Gia ở bên cạnh phát rùng mình, ánh mắt Tống Úc Chi không hề né tránh, cuối cùng Mộ Thanh Yến cười lạnh một tiếng, quay người rời đi.

Du Quan Nguyệt thầm mắng cái thằng ranh con đáng chém ngàn đao Tống Úc Chi, lúc Giáo chủ rời Huyết Chiểu vừa có mấy phần linh hoạt nhân gian, giờ thâm trầm lại rồi.

*

Tuyết trắng nhợt nhạt tung bay trong đêm tối, sáu người Mộ Thái chờ đêm tối mò lên Quảng Thiên Môn, che giấu hành tung một đường. Nhưng ốc xá Quảng Thiên Môn hơn ngàn căn, xếp tầng tầng lớp lớp vô số, cho dù là Tống Úc Chi quen thuộc địa hình cũng không biết người Tứ Kỳ Môn sẽ ở chỗ nào.

Đêm tối tựa như một tấm màn sân khấu to lớn ẩn thân, che phủ tất thảy mọi thứ.

“Hay ban ngày chúng ta lại đến?” Phàn Hưng Gia đề nghị, “Ban ngày họ cũng phải ăn cơm, lui tới sẽ hỏi ra được người Tứ Kỳ Môn. Giờ này đến chó mèo cũng ngủ cả rồi, chúng ta đâu thể nào mò từng căn phòng.”

“Ngũ sư huynh trước tiên bình ổn hơi thở đã, hóa ra lần trước ôm người chạy thoát thân mệt gần chết không phải là anh. Giữa ban ngày ban mặt ép hỏi Chưởng môn Tứ Kỳ Môn, nhỡ kinh động xung quanh thì đến chừng đó lại chạy hùng hục một trận nữa.” Thái Chiêu không đồng ý.

Bờ môi Phàn Hưng Gia mấp máy mấy lần, nghĩ thầm với ‘giao tình’ của cô với Mộ Thanh Yến, nếu phải chạy thoát thân thì chắc chắn ba người kia sẽ không đứng ngoài quan sát, đáng tiếc không thể thốt ra miệng.

Trước mắt đã tối thui, sáu người ở ven đường thi thoảng chụp mấy tên đệ tử tuần tra ban đêm đệ tử Quảng Thiên Môn gặng hỏi, dù vẫn không biết chỗ ngủ của Dương Hạc Ảnh song lại biết được một chuyện lớn khác — hôm nay Thích Vân Kha đã đưa Chu Trí Trăn và Pháp Không Đại sư vừa đến, lúc chạng vạng tối một vị sư bá họ Lý Thanh Khuyết Tông cũng đến, họ đã thương lượng với các vị chú bác chưởng sự nhà họ Tống hồi lâu.

Thái Chiêu ôm trái tim nhỏ bé có vẻ mừng rỡ: “Vô lượng thọ Phật, Lão tổ phù hộ, may mà trời tối chúng ta mới đến, chứ lên vào ban ngày là vừa lúc lọt vào tay sư phụ rồi, Lý sư bá cũng tới nữa!” Trên lưng lại mơ hồ đau.

Phàn Hưng Gia cũng nói: “Nếu các sư phụ đã tới, chúng ta không cần lén lút nữa, cứ đem ngọn ngành câu chuyện báo cho sư phụ, để các trưởng bối xử lý là được.”

Thái Chiêu tất nhiên là đồng ý.

Mộ Thanh Yến tỏ vẻ mấy người tự nhiên, hắn vẫn muốn đi tìm Dương Hạc Ảnh, hai người Phàn Thái cực mừng rỡ, ai ngờ Tống Úc Chi lại kiên trì muốn cùng đi với hắn, “Chúng ta cũng không có chứng cứ rõ ràng, chỉ dựa vào lời lẽ suy đoán, sao có thể khiến Dương Hạc Ảnh cúi đầu nhận tội trước mặt sư phụ được. Nếu chỉ có mấy người Mộ Giáo chủ, có thể dưới uy hiếp lão ta sẽ thổ lộ sự thật.”

Nghe rất có lý, Phàn Hưng Gia sờ mũi im lặng.

Mộ Thanh Yến cười ám chỉ, “Đúng đó, ‘không có chứng cứ rõ ràng, chỉ dựa vào lời lẽ suy đoán’, đúng là khó tin vào người ngoài.”

Tống Úc Chi nhớ tới cảnh mình với Thái Chiêu nhiều lần tranh luận ‘Mộ Thanh Yến chỉ dựa vào lời lẽ suy đoán, mà chắc rằng nội bộ Bắc Thần có người cấu kết với Ma giáo thật quá võ đoán’, chẳng ngờ hôm nay chuyện y vậy rơi xuống đầu mình, không khỏi sắc mặc đầy ủ ê.

“Được rồi được rồi, mau mau tìm lão rùa Dương ở đâu thôi.” Thái Chiêu thầm mắng Mộ Thanh Yến không âm dương quái khí một khắc thì khó chịu cả người hay sao í, “Tam sư huynh, theo ý anh, Dương Hạc Ảnh sẽ nghỉ ngơi ở đâu?”

Tống Úc Chi đoán, nếu lần này tính toán Dương Hạc Ảnh thu được toàn thắng, tất nhiên sẽ ở gần khu nhà chính trung tâm tầng cao nhất Quảng Thiên Môn, lấy đó làm rạng rỡ, Mộ Thanh Yến cười nhạo, lập tức phê bình tình cảm cha vợ con rể giữa Dương Hạc Ảnh Tống Tú Chi ngay, “Ngay cả cha ruột và anh em mình còn có thể ra tay không chút niệm tình, họ Dương tin được hắn ta sao? Khu nhà chính Quảng Thiên Môn nằm giữa vòng vây trùng trùng, một khi hai bên có xung đột, Tứ Kỳ Môn sẽ rơi vào thế bắt ba ba trong hũ.”

Theo cách nhìn của Mộ Thanh Yến, đám người Tứ Kỳ Môn phải ở cách khu kiến trúc chính Quảng Thiên Môn một khoảng, hơn nữa phải gần đường xuống núi, có bếp có nguồn nước độc lập, như thế mới có thể bảo đảm ăn uống an toàn và thoát thân thuận lợi. Tống Úc Chi cảm thấy như bị bao vây trong nhà mình, đành nén khó chịu trong lòng, suy nghĩ theo hướng đó một lát, rốt cuộc nghĩ đến một địa điểm.

Năm người đi theo Tống Úc Chi non nửa ngọn núi, nhìn phía bóng núi có một khu viện lạc cân đối đan xen, đình đài lầu các trải khắp, thật đúng vẻ Giang Nam phong tình. Phàn Hưng Gia hiếm khi bắt gặp cảnh trí quê nhà, chậc chậc tán thưởng, “Phẩm vị trưởng bối nhà sư huynh phong nhã thật.”

Thái Chiêu nghĩ thầm phong nhã quỷ gì, tám phần nơi này là chỗ vị Chưởng môn nào đó của Quảng Thiên Môn dùng để kim ốc tàng kiều, mà người đẹp Giang Nam đó chắc chắn không hợp với phu nhân nguyên phối, nếu không thì đâu cần tách biệt nhà bếp và nguồn nước chứ.

Lúc này nghe giọng điệu Mộ Thanh Yến cay nghiệt bên cạnh: “Ở đây chỉ là nơi ở ái thiếp của chưởng môn nào đó nhà họ Tống thôi, phu nhân nguyên phối lại là con hổ phấn, ắt năm ấy tranh đấu rất ngoạn mục, không biết cuối cùng ai thắng nhỉ.”

Thái Chiêu phụt cười, sau đó vội nhịn xuống.

Tống Úc Chi đen mặt không nói không rằng, tiếp tục dẫn năm người đi tới tìm kiếm.

Vào tới viện lạc quả nhiên nhìn thấy trong đêm tối lờ mờ có đệ tử Tứ Kỳ Môn tuần thú các nơi, Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia đều thầm nghĩ mưu tính họ Mộ thật lợi hại, đáng xưng thần cơ diệu toán.

Trong tiếng gió tuyết gào thét che giấu, sáu người lại gần tòa nhà chính khu viện lạc, chỉ thấy một căn phòng thắp đèn sáng nhất, văng vẳng tiếng quát tháo, bọn họ bèn lặng lẽ chuồn qua, thuận tiện đánh ngã hết thủ vệ quanh khu nhà.

Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt vốn vừa lên là bẻ gãy cổ người ta, gọn gàng, nước chảy mây trôi, bị Thái Tiểu Chiêu phẫn nộ quăng hai nắm đấm lớn bằng hòn đá trên trán xong, bọn hắn chỉ đành đổi thành điểm huyệt choáng của họ.

Dọn dẹp bên ngoài một chút xong, sáu người tiến vào giữa tấm bình phong tối tăm, Thượng Quan Hạo Nam dùng chưởng gió chặt thanh cài cửa sổ, ngay sau đó Du Quan Nguyệt dùng một khúc cây nhỏ chống lên, đám người nhìn qua khe hở, thấy Dương Hạc Ảnh đang mắng chửi một thiếu nữ gầy gò vàng như nến.

“Con nhóc chết tiệt này, dám không theo lệnh cha, là ai dạy ngươi thành thế hả! Ngươi làm mẹ thế nào vậy, dạy dỗ con nghiệt chướng cỡ này?!” Giọng điệu Dương Hạc Ảnh ác độc chỉ vào một người đàn bà trung niên đang co quắp bên cạnh thiếu nữ.

“Không không, sao ta lại để Tiểu Lan không vâng lời ngài chứ. Tướng công chớ tức giận, để ta từ từ dạy dỗ nó!” Trác phu nhân co rúm, hình như rất sợ Dương Hạc Ảnh.

Dương Tiểu Lan ngẩng cổ, mặt đầy nước mắt: “Cha bảo con lấy Tống Tú Chi, con không dám không nghe theo, nhưng lại muốn con gái làm chuyện lén lút khác, thứ cho con không thể nghe lệnh!”

‘Bốp’ một cái tát vang dội, Dương Hạc Ảnh ra tay không hề nể tình, khóe miệng Dương Tiểu Lan lập tức rách chảy máu.

Dương Hạc Ảnh giận mắng: “Con nhỏ ti tiện này cánh cứng cáp rồi phỏng!”

Sa phu nhân ngồi trên ghế dựa một bên yêu kiều cười một tiếng: “Ui chao, này là tưởng sắp có thể làm được Chưởng môn phu nhân Quảng Thiên Môn nên không thèm nhìn cha ruột đây.”

Sa Tổ Quang khoan thai nói: “Người ta là con gái gả đi như tát nước ra ngoài, còn Đại tiểu thư đây, nước còn chưa tát ra ngoài đã không một lòng cùng cha ruột rồi.”

(*) mình nhớ chương trước Bàng Hùng Tín ôm Sa Tổ Quang chết chùm rồi mà, dính a xít Thực Cốt Thiên Vũ sao giờ sống nhăn thế.

“Cha đánh chết nó đi, cha đánh chết nó đi!” Dương Thiên Tứ cười ha hả vỗ tay.

Trác phu nhân khóc ôm con: “Lan nhi, con nghe lời cha đi, ông ấy là cha con, ông ấy không hại con đâu!”

Dương Tiểu Lan rõ ràng sợ vô cùng, song vẫn run giọng cãi lại: “Tống Tú Chi là tốt hay xấu đều là con rể cha chọn. Nếu cha không thích, con không lấy là được. Nếu muốn con thừa dịp không sẵn sàng hạ độc Tống Tú Chi, con tuyệt đối không làm chuyện hạ lưu bực này!”

Dương Hạc Ảnh giậm chân liên tục, “Đã nói bao nhiêu lần, không phải hạ độc, không phải hạ độc, chỉ là quản chế thêm! Mấy ngày nay Tống Tú Chi ngoài sáng cung kính với ta, thật ra lại làm theo ý mình, quả không phải đứa đơn giản. Nhưng chỉ cần hắn trúng Khiên Hồn tán độc môn của bổn phái, ta có thuốc giải trong tay, mai này không sợ hắn không nghe lời!”

Phàn Hưng Gia khẽ giật thót, hắn từng nghe Lôi Tú chỉ, Khiên Hồn tán lợi hại thì lợi hại, nhưng bỏ thuốc rất phiền phức, phải cho uống liên tục mấy ngày không gián đoạn, rất dễ bị phát hiện, phải là người cực gần gũi ra tay.

Dương Tiểu Lan đầy bi thương: “Nếu cha đã biết Tống Tú Chi không phải kẻ đơn giản, sao còn để con đến hạ độc, nhỡ bại chuyện, con còn giữ được mạng sao!”

Mặt Dương Hạc Ảnh có phần mất tự nhiên: “Có ta ở đây, thách hắn cũng không dám đối với ngươi như vậy.”

Sa phu nhân nũng nịu nói: “Ôi, ta nói Đại tiểu thư này, đừng bảo là cô có cha cô làm chỗ dựa, xem như có bị sa bẫy, chịu chút ấm ức ăn chút đau khổ vì cha mình, có sá gì.”

Mấy người ngoài cửa đều thầm lắc đầu, Dương Hạc Ảnh ép con gái hạ độc hôn phu tương lai, dù chuyện thành hay không, thanh danh cả đời Dương Tiểu Lan đều mất sạch, có câu hổ dữ không ăn thịt con, song nhân gian lại không hẳn vậy.

Trong phòng Dương Hạc Ảnh còn đang uy hiếp con gái, Trác phu nhân nhu nhược khóc sướt mướt bên cạnh, còn có anh em họ Sa thi thoảng châm ngòi thổi gió, Dương Tiểu Lan từ đầu đến cuối cắn răng không chịu đồng ý.

Mộ Thanh Yến hết kiên nhẫn, roạt một tiếng phá cửa sổ nhảy vào, Thượng Quan Hạo Nam Du Quan Nguyệt lập tức đuổi theo, ba người nhảy bổ vào như một cơn gió mạnh, đám người trong phòng bật thốt ‘Là ai’, ‘Ai dám lỗ mãng’.

Dương Hạc Ảnh thấy một bóng đen xẹt tới phía mình, chưa kịp nhìn kỹ người đến là ai, đã giơ tay bấm kiếm quyết, chính là chiêu thứ ba Thái m Trùng Nhật trong tuyệt kỹ Cửu Diệu thần kiếm của Tứ Kỳ Môn. Ai ngờ đối phương ra tay như quỷ mị, chưa kịp phát công đã thấy vai trái, cánh tay phải, trước ngực, bốp bốp bốp trúng liền ba chưởng. Chỗ trúng chiêu gân cốt như muốn ngừng, huyệt mạch bị một luồng kình lực hùng hậu mà tàn nhẫn xộc vào, lập tức tê dại khắp người. Nhất là chưởng thứ ba, vừa vặn đập lão ngã xuống chiếc ghế lớn bên cạnh, lão đang giãy giụa định đứng lên thì thấy cổ mình cực đau đớn, ngửa mặt xụi lơ, thì ra chỗ hiểm trên cổ đã bị đối phương vững vàng chỉ trúng.

“Em rể!”

“Đừng làm tổn thương cha ta!”

Sa Tổ Quang và Dương Tiểu Lan thấy Dương Hạc Ảnh lâm vào hiểm cảnh, tự mình phóng lên.

Du Quan Nguyệt cười ha hả ba quyền hai đá đánh bay Sa Tổ Quang dính vách, còn rảnh rỗi cười nhắc nhở Sa phu nhân hồn phi phách tán ở bên cạnh đừng để Dương Thiên Tứ khóc rống, nếu không tiễn hết cả mẹ lẫn con xuống hoàng tuyền.

Thượng Quan Hạo Nam và Dương Tiểu Lan trong khoảnh khắc qua ba bốn chiêu, cuối cùng hai người rầm một chưởng đối kích, Dương Tiểu Lan như một cây sậy bị khuấy động tung bay rơi xuống đất, Thượng Quan Hạo Nam thì lịch kịch lùi lại hai bước.

Thái Chiêu ngoài cửa thầm kinh hãi, cô biết Thượng Quan Hạo Nam ít nhiều, tuy là bên ngoài thô kệch lỗ mãng, song công phu nội ngoại cả người rất mạnh mẽ hung mãnh, trong thế hệ tướng tài trẻ tuổi Ma giáo được xưng số một, không ngờ một cô dâu nhỏ bị khinh bỉ nom yếu yếu ớt ớt như Dương Tiểu Lan kia lại có tu vi không tầm thường.

Dương Hạc Ảnh nén cơn đau mãnh liệt ở cổ họng, giương mắt nhìn, phát hiện người trước mắt đúng là Mộ Thanh Yến, nội lực lòng bàn tay chụp trên cổ mình thoắt thả thoắt hút, ý uy hiếp chắc chắn.

“Ngươi, ngươi tới đây làm gì? Năm ngoái chuyện bài bẫy bắt ngươi cũng không phải ta chủ mưu, ngươi ngươi ngươi không được làm ẩu!” Lão nghĩ nhất định là Mộ Thanh Yến trả mối nhục năm ngoái bị bắt. Lão định kêu cứu mà lại sợ họ Mộ bắn nội lực một phát, kinh mạch mình đứt từng khúc, không chết cũng phải tàn.

Mộ Thanh Yến như đoán được suy nghĩ trong lòng lão, cười khẽ: “Dương chưởng môn yên tâm, năm ngoái thất thủ bị bắt là do ta tài nghệ không bằng người, không gì để nói. Lần này tuyệt đối không phải vì trả thù, chỉ là muốn thỉnh giáo Dương chưởng môn một chuyện nhỏ. Chỉ cần ngươi trả lời chắc chắn, ta tuyệt đối không tổn thương ngươi.”

Dương Tiểu Lan vốn đang vận sức chờ tấn công định ra tay cứu cha, nghe vậy khựng lại.

Chịu thua Ma giáo vốn là tối kỵ của con em Bắc Thần, nhưng Dương Hạc Ảnh thấy trong phòng đều là người trong nhà, thầm nghĩ mất mặt cũng không lọt ra ngoài, bèn mềm giọng: “Ngươi muốn hỏi gì?”

Mộ Thanh Yến nói: “Ngươi lấy được Thực Cốt Thiên Vũ từ đâu?”

Dương Hạc Ảnh giật mình, “Là… Là năm đó sau cái chết của Nhiếp Hằng Thành, ta phái người công hãm một phân đà Giáo ngươi lấy được… Á á á!” Mộ Thanh Yến siết chặt năm ngón, cổ lão đau một hồi, suýt không thở nổi.

“Thứ uy lực vô song như Thực Cốt Thiên Vũ, sao lại chia đến phân đà các nơi sử dụng chứ, sao hiếm có người trên giang hồ biết đến? Nói thật đi, lúc Nhiếp Hằng Thành còn sống, Thực Cốt Thiên Vũ chưa hề bị đưa ra khỏi U Minh Hoàng Đạo.” Mộ Thanh Yến chậm rãi nói, “Dương Chưởng môn nghĩ rõ rồi hẵng trả lời, miễn tổn thương hòa khí hai ta.”

Dương Hạc Ảnh cứng họng, con ngươi xoay mòng mòng: “Thật ra, thật ra Thực Cốt Thiên Vũ này là…”

Mộ Thanh Yến không đợi lão bịa chuyện, quay lại nói: “Quan Nguyệt, nếu Dương Chưởng môn không chịu trung thực trả lời, cậu cứ giết phu nhân yêu dấu của lão ấy trước; nếu thêm một câu gian dối, cứ vặn đầu đứa con bảo bối của lão.”

“Tuân lệnh!” Du Quan Nguyệt cười gằn tiến tới một bước.

Sa phu nhân ôm con trai run lẩy bẩy, khóc đến hoa lê ngậm nước mưa: “Chưởng môn, phu quân, chàng nói đi, ở đây cũng không có người ngoài. Thiên Tứ là cốt nhục duy nhất của chàng, nó không thể có chuyện gì…”

Ngoài cửa sổ Phàn Hưng Gia nghi hoặc: “Cốt nhục duy nhất? Chả lẽ Dương cô nương không phải con gái lão sao.”

Thái Chiêu thản nhiên nói: “Nói không sai, trong lòng một vài người, chỉ có con trai mới là cốt nhục. Nhưng mà theo mẹ tôi (đi theo Thái Bình Thù) vào Nam ra Bắc thấy, thường thường càng gặp cha mẹ kiểu đấy, đứa con trai càng là thứ rác rưởi bỏ đi.”

Dương Hạc Ảnh nhìn quanh một vòng, ở trong phòng ngoại trừ ba người Mộ Thanh Yến thì đều là người trong nhà, lão lập tức nghiến răng: “Được, ta nói. Thực Cốt Thiên Vũ đúng là không phải thu được từ phân đà của các ngươi, nhưng ta cũng không biết lai lịch của nó. Mấy tháng trước trong một đêm nọ, có một gã áo đen xong vào phòng ta, bảo rằng hắn có đại thù với Ma giáo, muốn đem vài hũ Thực Cốt Thiên Vũ tình cờ đoạt được tặng cho ta, sau khi báo một địa danh xong người đó độn thân chạy đi.”

“Ta nửa tin nửa ngờ, vừa sợ đó là một cái bẫy vừa mong là thật — nhiều năm trước ta đã nghe thấy uy danh Thực Cốt Thiên Vũ, tuy thứ này rất hiếm khi xuất hiện trên giang hồ, nhưng nghe nói uy lực đầy sóng gió kinh hoàng, phàm là người lĩnh giáo qua đều chết không toàn thây, chỉ có ai nhanh chóng quyết định bỏ đi một phần chân tay mới có thể chạy thoát. Giờ cơ hội bày trước mặt ta, ta nhịn thế nào được.”

“Mấy ngày sau, ta phái người đi tới chỗ gã áo đen kia nhắc tới, quả nhiên đào ra năm hũ Thực Cốt Thiên Vũ. Ta thử qua mấy lần trong môn, đúng là món độc đệ nhất thiên hạ!”

Nói đến đây, cặp mắt Dương Hạc Ảnh tỏa ra sắc tham lam đắc ý, như con bạc nắm được phần bài tốt trong tay.

Mộ Thanh Yến nhíu mày: “Tên áo đen kia là ai ngươi cũng đã biết?”

Dương Hạc Ảnh nói: “Ha ha, ông đây cũng muốn biết chứ! Nhưng gã áo đen kia chỉ xuất hiện một lần, tới vô ảnh đi vô tung, đêm đó trong lúc hấp tấp, lòng ta đầy đề phòng còn không kịp, không thấy rõ thân pháp lai lịch của gã.”

Thái Chiêu thầm than, quả đã bị Mộ Thanh Yến đoán trúng, lại là hỏi không ra.

Trong phòng Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam ngờ rằng Dương Hạc Ảnh trả lời không thật hết, bèn ồn ào bắt Dương Hạc Ảnh phát lời thề, nếu lời ấy là giả sẽ đoạn tử tuyệt tôn vân vân, Dương Hạc Ảnh giận run cả người, gào to sĩ khả sát bất khả nhục*.

(*) kẻ sĩ có thể chết nhưng không thể chịu nhục.

Trác phu nhân khóc xin Mộ Thanh Yến: “Lão gia nhà ta đã trả lời xong rồi, các người bỏ qua cho ông ấy đi…”

Đương lúc Tống Úc Chi hết kiên nhẫn định xông vào hỏi chuyện nhà mình thì chợt nghe Mộ Thanh Yến lên tiếngi: “Được rồi, tạm thời bỏ qua Thực Cốt Thiên Vũ không đề cập tới — Dương chưởng môn học luyện chế thi khôi nô từ đâu thế?”

Ba người ngoài cửa lập tức nín khe ngừng thở.

Sắc mặt Dương Hạc Ảnh đại biến, mắt lộ sắc hung hãn: “Họ Mộ ngươi nói bậy gì đó! Chuyện xấu Tống Mậu Chi làm đừng nghĩ vu oan lên người ta!”

Mộ Thanh Yến cười nói: “Tống Mậu Chi có luyện chế thi khôi nô không, ta còn không rõ sao. Người quang minh chính đại không nói chuyện mờ ám, Dương Chưởng môn vẫn nên nói thật đi.”

Du Quan Nguyệt hết sức phối hợp bước tới mẹ con Dương Thiên Tứ một bước, lập tức vỡ ra một trận tiếng trẻ em phụ nữ hoảng sợ hò hét, ‘Lão gia/cha cứu thiếp/con’ không ngừng bên tai.

Dương Hạc Ảnh thầm nghĩ, chuyện khác nhận cũng không sao, tội danh luyện chế thi khôi nô tuyệt đối không thể nhận, “Luyện chế thi khôi nô là kịch hay sở trường của Ma giáo các ngươi, sao ta biết được, ngươi muốn hỏi thì đi hỏi Tống Mậu Chi đấy!”

Mộ Thanh Yến hất mi dài: “Ngươi biết không? Vở kịch ngươi bắt tay với Tống Tú Chi diễn đã tính sai một chuyện, người dưới tay Nhiếp Cát biết luyện chế thi khôi nô đã bị ta giết sạch từ lâu, còn bản thân Nhiếp Hằng Thành lại ghét bỏ thi khôi nô. Do đó, Tống Mậu Chi tuyệt đối không thể hỏi từ miệng bộ hạ Nhiếp thị cách nào luyện chế thi khôi nô.”

Dương Hạc Ảnh run trong bụng, vẫn mạnh miệng nói: “Ngươi đang nói cái gì, ta hoàn toàn không biết.”

Mộ Thanh Yến chậm rãi bước mấy bước trong phòng, “Nếu ta đoán không sai, hẳn là lúc Lữ Phùng Xuân bị ta ép đến cùng đường, đã chỉ thị bọn thủ hạ tìm nơi ẩn nấp luyện chế một lượng lớn thi khôi nô để đấu lại vây quét của ta. Ai ngờ trùng hợp bị ngươi bắt gặp, ngươi đã mang hết toàn bộ vạc thuốc lẫn người về Tứ Kỳ Môn. Dương chưởng môn, ta nói không sai chứ?”

Dương Hạc Ảnh chột dạ càng thêm kinh hãi, thẹn quá hóa giận mắng to: “Ma giáo vu oan hãm hại Bắc Thần Lục phái cũng đâu phải chuyện mới mẻ, họ Lữ họ Nhiếp gì chứ, ta hoàn toàn không biết!”

“… Cha, là chuyện nửa năm đó à?” Bỗng có tiếng thiếu nữ rụt rè vang lên.

Sắc mặt Dương Tiểu Lan tái nhợt: “Một đêm nọ nửa năm trước, bỗng nhiên cha đưa về mấy kẻ bị thương xa lạ, còn cho dọn một chỗ viện tử vắng vẻ sau núi giam giữ bọn chúng. Hai tháng tiếp đó, làng xóm xung quan liên tục có dân làng mất tích, nghe đồn là hồ yêu ăn người, khiến lòng người bàng hoàng. Các hương thân cùng đường mạt lộ, mới xin cha tra ra chân tướng, cha trong miệng nhận lời, hôm sau đã châm một mồi lửa cho tòa viện tử sau núi, thiêu sạch người bên trong.”

Phàn Hưng Gia ngoài cửa không rõ lắm, “Không phải nói phát hiện thi khôi nô ở núi Thất Mộc sao, sao mà Tứ Kỳ Môn cũng có?”

Thái Chiêu nhẹ giọng trả lời: “Họ Dương bắt được người Lữ Phùng Xuân xong, nhốt ở Tứ Kỳ Môn trước, đem dân làng vùng kế cận thử một lần. Sau thấy tình hình không ổn, mới dọn chỗ luyện chế thi khôi nô qua núi Thất Mộc.”

Phàn Hưng Gia bừng tỉnh, Tống Úc Chi siết chặt bàn tay, con ngươi lấp lóe mãnh liệt.

Dương Hạc Ảnh bị con gái vạch trần, mới xách chiếc ghế nặng nề bên cạnh đập ầm ầm tới, chửi ầm: “Nghiệt súc nói bậy bạ gì đó! Xem ông đây làm thịt ngươi!”

Trác phu nhân cũng lôi kéo con: “Lan nhi chớ nói bậy, như thế sẽ làm người khác hiểu lầm cha con đấy…”

“Mẹ, mẹ vẫn chưa hiểu ạ!” Dương Tiểu Lan đỡ lấy vai mẹ, hai mắt rưng rưng, “Nếu như thi khôi nô thật sự do cha luyện, vậy ông ngoại và cậu mợ, còn có mấy em họ, là ai giết!”

Trác phu nhân lảo đảo muốn ngã, cười lớn định thuyết phục con gái: “Con bé này suy nghĩ lung tung gì thế, sao cha con lại làm loại chuyện đó? Tuyệt đối không có đâu! Con đừng nghe người ngoài nhân nói bậy, hiểu lầm cha con!”

“Con tiểu tiện nhân này!” Dương Hạc Ảnh giận dữ, xông lên định bắt con gái lại.

Mộ Thanh Yến lắc mình ngăn trước người lão cười nói: “Dương chưởng môn yên tâm chớ vội.”

Dương Hạc Ảnh nổi giận gầm lên, loạng choạng rút bội kiếm, một bộ Cửu Diệu thần kiếm Thái Dương Thiện Thủ, Thái m Vu Thiên, Sóc Vọng Thực Nhật thi triển liên miên bất tuyệt, giống như gió táp mưa rào không thể xuyên thủng.

Mộ Thanh Yến dùng Thanh Vân Túng nhẹ nhàng linh hoạt tránh né chiêu số, nhìn đúng sơ hở bên trong, đá một cước trúng đầu gối Dương Hạc Ảnh, chộp lấy trường kiếm Dương Hạc Ảnh, lách cách bẻ gãy trường kiếm, kéo ra phía trước, lưỡi kiếm gãy kề ngay động mạch cổ Dương Hạc Ảnh.

Trác phu nhân và Sa phu nhân đồng thời kinh hô, xin Mộ Thanh Yến xuống tay nể tình.

Dương Hạc Ảnh quỳ một gối xuống đất, cảm giác lưỡi kiếm sắc bén như hơi cứa trên cổ, sợ đến mặt không còn chút máu.

“Dương Chưởng môn, thủ đoạn giáo ta ngươi đã rõ, nếu ta đã hỏi trước mặt, chuyện nên biết bọn ta đều biết, Dương Chưởng môn cần gì phải chống chế chứ?” Mộ Thanh Yến chậm rãi nói.

Dương Hạc Ảnh căng quai hàm, giọng căm hận nói: “… Nếu các ngươi đã điều tra rõ ràng, cần gì đến hỏi ta!” Ngụ ý đã nhận.

Trác phu nhân suýt té xỉu, Dương Tiểu Lan khóc ra nước mắt lên án: “Cha, thật sự ngài đã giết cả nhà ông ngoại sao?! Sao ngài có thể làm loại chuyện vô lương vô hạnh này…”

Nghe đến đó, Tống Úc Chi không thể nhẫn nhịn nữa, đùng một tiếng nhảy cửa sổ vào, Thái Chiêu hết cách, đành phải kéo lấy Phàn Hưng Gia cũng hết cách nhảy vào trong phòng. Thấy ba người xuất hiện, mấy người Tứ Kỳ Môn đều giật mình, nhất là Dương Hạc Ảnh, nhớ tới trò cười và lời ngầm thừa nhận của mình đã bị chúng thấy hết, trong lòng nảy ý giết người.

Mộ Thanh Yến cười cười, thu thanh kiếm gãy kề cổ Dương Hạc Ảnh, lui ra sau một bước, khoanh tay đứng.

“Lão thất phu mặt dày vô sỉ mất trí Dương Hạc Ảnh nhà ngươi!” Tống Úc Chi bước lên một bước, trầm giọng nói, “Nhà họ Tống chúng ta với ngươi không oán không thù, tự dưng ngươi mưu hại huynh trưởng của ta, cuối cùng hại chết anh ấy, thù này không đội trời chung!”

Dương Hạc Ảnh cười gằn: “Ông già ngươi ỷ Quảng Thiên Môn giàu mạnh thế lớn, chưa từng xem Tứ Kỳ Môn ra gì, ba phen mấy bận làm nhục ta. Ta nén giận nửa đời người, rốt cuộc cũng có cơ hội nhìn mấy đứa con lão phân tranh, cửa nát nhà tan, ha ha ha ha…”

Tống Úc Chi lòng đầy nặng nề: “Trong toàn bộ câu chuyện, Tống Tú Chi tham dự nhiều ít?”

“Cậu nói đi?” Mắt Dương Hạc Ảnh lóe ánh ác độc đắc ý, “Người đại ca kia của cậu quả là chân nhân bất lộ tướng, đến ta cũng còn nhìn sai…”

Tống Úc Chi đang muốn hỏi lại, bỗng một âm thanh quen thuộc từ ngoài cửa sổ yếu ớt vọng vào — “Tam đệ muốn biết rõ tình hình, hỏi ta là được, cần gì khó xử chú Dương chứ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 128


Loạn Quảng Thiên Môn

Tiếng tới người tới, đám người quay nhìn ra cửa, chỉ thấy Tống Úc Chi mặc bộ đồ tang vải đay thô trắng, bồng bềnh đi vào.

Tống Úc Chi thấy cách ăn mặc của hắn, giật mình giọng run run: “Ngươi ngươi, cha… cha…”

Tống Tú Chi cười nói: “Tam đệ yên tâm, theo tham báo các nơi báo lại, cha đã được Thái Cốc chủ đưa về Lạc Anh Cốc. Ninh phu nhân có mỹ danh là kỳ hoàng*, chắc sẽ chữa thương thỏa đáng cho cha thôi. Ta ăn mặc thế này… ầy, là vì Tam Thúc tổ. Tam thúc tổ bị thương nặng không khỏi, đã qua đời ngày hôm qua.”

(*) thuộc về trung thảo dược

Mộ Thanh Yến khẽ cười xùy.

Thái Chiêu trợn mắt trừng một cái, được ghê, lại bị hắn đoán trúng.

Cô nói: “Thì ra là Tổ bối thúc phụ, nhìn ông đốt giấy để tang, còn tưởng cha ruột chết chứ. Quả nhiên có chỗ tốt, cách hai đời có cái gì, sao mà hiếu thuận sao mà bái lạy.”

Tống Tú Chi biến sắc, ngay sau đó cười nói: “Xem như là cháu cùng nhà, mặc tang y cũng không ngại.”

Thái Chiêu đang muốn mỉa mai tiếp, chợt thấy một cơn gió mạnh lướt qua từ ngoài phòng, sau đó ba mặt cửa sổ căn phòng cạch cạch cạch mở rộng, gió rét xen lẫn hơi sương đêm tiến quân thần tốc, mười mấy bóng người đột nhiên nhảy vào phòng, dẫn đầu là Thích Vân Kha, Chu Trí Trăn, còn có Pháp Không Đại sư râu bạc trắng xóa, phía sau còn có chư lão Quảng Thiên Môn.

Bên ngoài một vòng còn có thủ hạ Quảng Thiên Môn, giương cung lắp tên nhắm thẳng ba người Mộ Thanh Yến.

Lý Văn Huấn Đinh Trác không có mặt.

Mí mắt Thái Chiêu nhảy loạn, trước tiên phóng tới bên cạnh Thích Vân Kha, cười ngọt ngào: “Sư phụ bác Chu cả Đại sư nữa mọi người đến cả rồi, đến thì tốt quá. Cái kia, con và Tam sư huynh Ngũ sư huynh chỉ là tình cờ gặp mấy vị Ma giáo kia ha ha…”

Thích Vân Kha vừa nhìn thấy gương mặt Mộ Thanh Yến đã nổi giận, sợ tiểu đồ đệ lại cấu kết với tên đại ma đầu. Ông trầm giọng: “Mấy đứa đã tới, sao không tìm chúng ta, mà khuya khoắt đến đây!”

Tống Úc Chi nói: “Là con muốn đến nghe Mộ Giáo chủ ép hỏi Dương Hạc Ảnh, không liên quan sư muội, sư phụ ngài mắng con thôi.”

Quảng Thiên Môn đại biến, trong một đêm Tống Úc Chi gần như cửa nát nhà tan, Thích Vân Kha cũng không tiện quở trách đồ đệ cưng lúc này, đành tiếp tục xụ mặt hừ lạnh.

Thái Chiêu vội nói: “Đúng đó đúng đó, không nghe không biết, nghe xong giật mình, thì ra sát hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng ở núi Thất Mộc và luyện chế thi khôi nô không phải là Tống Mậu Chi, mà là Dương Hạc Ảnh! Vừa rồi lão ta thừa nhận cả, mọi người đều nghe thấy!”

“Cái rắm, cái thứ tiểu tiện nhân nhà ngươi cấu kết Ma giáo nói hươu nói vượn!” Dương Hạc Ảnh vội lật lọng, “Vừa rồi tên đại ma đầu kia dùng gia quyến uy hiếp ta, ta chỉ là hư dữ ủy xà*!”

(*) chỉ giở hư chiêu với người, hư tình giả ý, xã giao có lệ.

Thái Chiêu mắng lại: “Ông lật lọng tráo trở, ông mới cái rắm á!” Cô quay lại nói, “Là thật, sư phụ, không phải giở hư chiêu lấy lệ, là Dương Hạc Ảnh thấy trong phòng không có người ngoài mới thừa nhận!”

Tống Úc Chi cũng nói: “Sư muội nói không sai, những gì Dương Hạc Ảnh đã làm người thần đều phẫn nộ, con với Phàn sư đệ đều nghe thấy! Còn có Tống Tú Chi, âm mưu mưu hại huynh trưởng bức hại phụ thân này, hắn cũng có phần!”

Tống Tú Chi cau mày nói: “Trước đuổi bên ngoài, sau yên bên trong, chư vị trưởng bối, đừng để Ma giáo xem Bắc Thần chúng ta làm trò cười.”

Nhị Đường bá tổ Tống gia nói: “Tú Chi nói đúng, chả lẽ ngay trước mặt Ma giáo chúng ta trước tự giết lẫn nhau ư.”

Lời vừa ra, người hưởng ứng rất đông.

Thấy phía Bắc Thần người đông thế mạnh, Sa Tổ Quang rốt cục ‘tỉnh’ lại, lớn giọng nói: “Con nhóc tì họ Thái cấu kết với tên Đại ma đầu làm bậy thật không rõ ràng, nhất định là nó trong ứng ngoại hợp với Ma giáo dụ em rể ta nhận tội danh!”

Sa phu nhân cũng nói: “Đúng đó! Con tiểu tiện nhân này lúc trước vì cứu tên Đại ma đầu mà không màng đên cả cha mẹ sư phụ mình, còn tổn thương mấy vị thân trưởng, nói không chừng bọn chúng đã sớm thông đồng bất chính, tiểu tiện nhân không biết xấu hổ còn ở đây ra vẻ giả mù sa mưa đi!”

Nhắc tới chuyện nam nữ, đệ tử Tứ Kỳ Môn Quảng Thiên Môn chung quanh nhao nhao cười rộ, quét ánh nhìn không đứng đắn qua người Thái Chiêu, từ ngữ không sạch sẽ cho lắm.

Thái Chiêu đỏ mặt, tức gần chết, nói cho cùng tuổi cô vẫn còn nhỏ, không làm được chuyện hoàn toàn thản nhiên đối mặt với lời đàm tiếu.

Mộ Thanh Yến lúc đầu cười thảnh thơi đứng một bên nhìn đám người Bắc Thần ầm ĩ, đến lúc này sắc mắt u tối, phất tay áo dài xông thẳng đến anh em Sa thị. Trong chớp lóe, Dương Hạc Ảnh cách gần nhất, ây da một tiếng nhà tới, bị Mộ Thanh Yến hư không một chưởng vỗ cái bốp ngay ngực, khó chịu phun một ngụm máu.

Sa phu nhân bị gió tay áo xách lên, lúc bay lên không như bị đao kiếm cắt trên người, đập mạnh vào tường rơi xuống đất, cả người đứt từng khúc, miệng còn phun một cục máu, ả mở bàn tay nhìn, là ba bốn cái răng. Ả đang định khóc lớn, chợt thấy mặt đau đớn mãnh liệt, duỗi tay mò mẫm, lập tức thê lương hét rầm — “Mặt của ta mặt của ta a a a…”

Gò má ả đã bị xé sống một mảng da, trên mặt chỉ còn máu thịt be bét.

Sa phu nhân kêu thảm chưa xong, Sa Tổ Quang cũng rống như trâu điên.

Mặt gã cắm xuống đất, bị Mộ Thanh Yến giẫm một cước giữa lưng, không thể động đậy. Lúc này đám Thích Vân Kha đang bị thu tầm mắt vào Sa phu nhân đang bị quẳng lên tường, Mộ Thanh Yến trôi chảy chụp cánh tay phải Sa Tổ Quang, dùng sức kéo ra một cái, cả da lẫn xương kéo rớt luôn cánh tay phải!

“A a a a a a…” Sa Tổ Quang điên cuồng kêu to trong đau đớn.

Đám Thích Vân Kha đang định nhào tới, Du Quan Nguyệt đã giơ Dương Thiên Tứ lên thật cao, Thượng Quan Hạo Nam cao giọng: “Có gan các người cứ lên, xem ông đây có quăng chết cái ngữ lộn kiếp con này không!”

Thủ đoạn hung tàn bá đạo thế, ai mà dám không tin, đám người đành dừng bước.

Mộ Thanh Yến tùy ý ném cánh tay Sa Tổ Quang đi, vạch một vệt máu tanh trên bức tường trắng, “Lời hai anh em này vừa nói, ta không muốn nghe thấy. Chẳng những bây giờ không muốn nghe thấy, sau này cũng không muốn nghe thấy. Tên nào không tin, cứ việc thử một lần.”

Giọng điệu sắc mặt hắn đều hờ hững, cộng thêm tướng mạo tuấn tú như ngọc đẹp không tì vết, vốn khiến người vừa gặp lập tức có cảm tình, nhưng giờ đây máu me đầy đất, tiếng kêu thảm còn ở bên tai, đám người nhìn Mộ Thanh Yến chẳng khá hơn yêu ma quỷ quái ăn tim gan người là bao, ai dám liều mạng can đảm đi ‘thử một lần’ chứ, chỉ thoáng chốc trong phòng yên ắng đến tiếng kim rơi cũng có thể nghe được.

Sắc mặt Thích Vân Kha Chu Trí Trăn hết sức khó coi, họ cũng không muốn Thái Chiêu bị người ta đem ra xì xào chòng ghẹo, nhưng ngay lập tức ra tay ngăn lại những lời lẽ ô uế cho Thái Chiêu lại là tên Đại ma đầu này

Tiếng kêu thảm của anh em họ Sa yếu ớt dần, hẳn là chấn kinh quá độ cộng thêm mất máu quá nhiều, dẫn đến dần mất sức, nhưng cái tên Đại ma đầu đang ưỡn thân đứng đó, chẳng ai dám lên cứu hai anh em nọ.

Lúc này Pháp Không Đại sư thở dài một tiếng, bước lên trước nói: “A Di Đà Phật, Phật gia cũng có nói đến miệng lưỡi tạo nghiệp, hai vị thí chủ Sa thị ăn nói không thích đáng, Mộ Giáo chủ đã trừng phạt xong, xin phép để chúng ta trị thương cầm máu cho hai người họ.”

Mộ Thanh Yến ngẫm nghĩ, lắc đầu ra sau, Thượng Quan Hạo Nam hiểu ý, đá một cước đưa anh em Sa thị bay cao, Dương Hạc Ảnh lập tức xông lên bắt được ái thiếp, một đệ tử Tứ Kỳ Môn khác đón lấy Sa Tổ Quang.

Pháp Không Đại sư lại tụng một tiếng Phật hiệu: “Nếu Mộ Giáo chủ đã đạt được như ý nguyện, hay là rời đi trước, để Bắc Thần Lục phái tự xử lý chuyện nội bộ, ngài thấy thế nào?”

Mộ Thanh Yến đưa mắt nhìn vị sư già bằng ánh nhìn lạnh lùng sâu thẳm.

Pháp Không Đại sư ngó sang Thái Chiêu, thở dài: “Quý giáo và Bắc Thần Lục phái tranh chấp hai trăm năm, ân oán gút mắc đã khó tính toán. Cho dù hôm nay Mộ Giáo chủ nói gì, làm gì, cũng là vô nghĩa. Mộ Giáo chủ, nên đi thì đi đi thôi.”

Dương Hạc Ảnh nhìn mặt ái thiếp máu thịt be bét, cả giận nói: “Hôm nay Chưởng môn ba phái Bắc Thần đều ở đây, lại để tên ma đầu kia tuỳ tiện rời đi, ắt không phải khiến người trong thiên hạ chế nhạo ư?!”

Du Quan Nguyệt lập tức nâng Dương Thiên Tứ cao hơn, “Dương Chưởng môn, trước khi nói chuyện hãy xem trong tay ta là thứ gì.”

“Mau thả con trai ta!” Dương Hạc Ảnh giận dữ hét.

“Ôi ta sợ thật đấy.”

Tống Tú Chi cao giọng: “Người đâu, dẫn cung cài tên, cùng bắt tên ma đầu kia lại!”

Mộ Thanh Yến tiến lên một bước, thản nhiên nói: “Được, ai tới trước.”

Ánh mắt hắn lạnh như băng quét qua đối phương, đám người như thấy lạnh thấu xương, trố mắt nhìn nhau, chần chừ không dám lên trước, tay Giáo chủ Ma giáo đẹp trai trẻ tuổi này uy thế ngút trời, thủ đoạn hung hãn bạo tàn, không ai dám đáp lời.

Thích Vân Kha Chu Trí Trăn liếc nhau, Chu Trí Trăn nhỏ giọng: “Trước mắt xử lý chuyện Quảng Thiên Môn đã, để ma đầu kia đi.” Hai người họ đều biết, nếu thật sự muốn dùng cứng đối cứng bắt Mộ Thanh Yến, tất nhiên sẽ bị thương đến đông đảo người vô tội.

Thích Vân Kha gật đầu, lập tức lên tiếng: “Pháp Không Đại sư nói đúng lắm, Bắc Thần có chuyện nội bộ phải xử lý, mong Mộ Giáo chủ tạo điều kiện thuận lợi.”

Mộ Thanh Yến cụp mi dài, trên đất kéo ra một chiếc bóng mảnh khảnh xinh đẹp thật dài. Cô gái cúi đầu, im lặng. Giữa hai người chỉ cách có mấy chục bước, lại như cách vạn sông nghìn núi.

“Vậy, núi cao sông dài, xin từ biệt.” Mộ Thanh Yến ngẩng đầu, không nhìn lại bất kỳ kẻ nào, một cơn gió mạnh thổi lên, dưới chân hắn như đạp mây cỡi gió lao vụt rời đi.

Du Quan Nguyệt ném đứa nhỏ vào chỗ trống, cùng Thượng Quan Hạo Nam cười dài một tràng vọt lên bay vút đi.

Ba vệt bóng người nhanh chóng biến mất trong gió tuyết chậm rãi giữa màn đêm.

Thích Vân Kha hít một hơi dài, trầm giọng nói: “Dương Hạc Ảnh, bây giờ không có kẻ ngoài, cái chết của cả nhà Hoàng Lão anh hùng ông nói thế nào?”

“Nói cái gì mà nói, vừa rồi ta đã nói chỉ là hư hư thực thực nói dối gạt tên ma đầu kia!” Dương Hạc Ảnh khí thế hùng hổ.

Trác phu nhân rưng rưng nước mắt bên cạnh giải thích: “Thích Chưởng môn ngài phải tin lão gia nhà ta, dáng vẻ hung ác bá đạo tên ma đầu kia mọi người đều thấy đấy, lão gia vì gia quyến không thể qua loa mấy câu. Lan nhi con nói đi, có phải vậy không?”

Dương Tiểu Lan mất hết hồn vía, đứng trơ như khúc gỗ ngây ngẩn không thốt ra lời.

Chu Trí Trăn ngập ngừng: “Có lẽ thật sự Dương chưởng môn bị uy hiếp mới bất đắc dĩ thôi.”

Tống Úc Chi không thể nhịn được nữa, lớn tiếng: “Dương Chưởng môn đây là vu hết tội danh lên huynh trưởng ta sao?!”

Dương Hạc Ảnh hừ lạnh: “Cái này nên đi hỏi Tống Tú Chi, cậu ta đã nói rõ, luyện chế thi khôi nô và giết người diệt khẩu đều chính là Tống Mậu Chi!”

Tống Tú Chi nói: “Nhưng ta chưa từng nói đó là việc làm của Mậu Chi.”

Dương Hạc Ảnh giật mình: “Ngươi, ngươi rõ ràng đã nói…”

Tống Tú Chi cười khẩy: “Hai tên tặc tử Ma giáo Mậu Chi bắt được kia đúng là đã tự xưng là bộ hạ của Nhiếp Cát, còn nói muốn giúp Mậu Chi luyện chế thi khôi nô. Còn hai người đó là thật hay giả, hay là người bên ngoài phái tới, ta không biết.”

“Mậu Chi nói cậu ấy đã tìm được một chỗ núi rừng kín đáo cây cối xanh tốt, đồng thời lần đó lãnh rất nhiều thuế ruộng, nói muốn vun trồng thân tín của mình ở bên ngoài. Còn chỗ núi rừng đó rốt cuộc có phải núi Thất Mộc không, ta không biết.”

“Đêm ấy, Mậu Chi cả người đầy vết máu quay về, nói người mình vất vả lôi kéo giúp đỡ đều bị một đám hắc y nhân không rõ lai lịch gi ết chết — nhỡ lời cậu ấy nói là sự thật thì sao.”

Đám người nghe trợn mắt hốc mồm.

Trên khuôn mặt thanh tú của Tống Tú Chi nở một nụ cười mỉm kỳ lạ, “Ta chỉ nói ta nhìn thấy nghe thấy, chứ không dám suy đoán lung tung chuyện khác — từ đó mà đoán Mậu Chi chính là hung thủ, là chú Dương đây, không liên quan gì đến ta.”

Dương Hạc Ảnh nhảy cao ba trượng, cả giận nói: “Hay cho Tống Tú Chi, ngươi phủi sạch sẽ lắm, nếu không phải ngươi muốn làm Chưởng môn, ta cần gì hao tổn tâm huyết thế?!”

Tống Tú Chi thản nhiên nói: “Ta là con cháu chi chính của nhà họ Tống, chỉ cần có thể hiếu thuận chư vị trưởng bối, phát dương quang đại bổn môn, vốn đã có tư cách trở thành Chưởng môn, cần gì chú Dương ‘hao tổn tâm huyết’?”

Lần này đến Dương Hạc Ảnh cũng phản bác không nổi, ‘Ngươi ngươi’ nửa ngày trời, tức giận trương tím cả mặt.

Đám người có mặt đều nghĩ, còn không phải Dương Hạc Ảnh ông muốn con rể mình kế vị, mới trên nhảy dưới tránh vậy, chứ nếu không ông nào có lòng tốt đó.

Chu Trí Trăn trầm tư nói: “Nói vậy, hung thủ sát hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng rốt cuộc có phải Mậu Chi không, cũng không thể kết luận.”

“Nhưng huynh trưởng con đã chết, cha cũng bị trọng thương!” Tống Úc Chi đầy bi phẫn.

Tống Tú Chi than nhẹ: “Ta cũng không ngờ Sa công tử sẽ cùng Mậu Chi đồng quy về tận, hầy, có lẽ hắn nghĩ cả nhà Hoàng lão anh hùng ông ngoại hắn chết thảm, mẹ tưởng nhớ quá độ qua đời, mới xúc động phẫn nộ muốn lấy mạng đền mạng đây.”

Dương Tiểu Lan trừng mắt, lẩm bẩm: “Sa công tử gì chứ, Hoàng thị phu nhân dì của ta vốn không có con trai, hơn nữa mười năm trước dì của ta đã qua đời, dùng mạng đền mạng gì chứ, xúc động phẫn nộ gì chứ…”

Thái Chiêu kinh ngạc kêu lên, thảo nào đêm qua Mộ Thanh Yến nói Hoàng phu nhân đã bệnh chết nhiều năm trước cô cứ mơ hồ cảm thấy không đúng, lại chẳng nghĩ ra ngọn ngành. Cô lớn tiếng nói: “Đúng đúng đúng, đêm hôm ấy, tên Sa Điền ấy luôn mồm mẹ hắn vì người nhà chết thảm, vừa mới bệnh chết — vậy toàn bộ đều là giả?!”

Đệ tử Quảng Thiên Môn bốn phía lập tức xôn xao, người nghe thấy Sa Điền bi phẫn lên án đêm hôm ấy không phải ít, giờ nhao nhao nghi ngờ nhìn sang đệ tử Tứ Kỳ Môn bên cạnh.

Phàn Hưng Gia nghi ngờ nói: “Vậy Sa Điền đó rốt cuộc là ai?”

“Sa Điền là tử sĩ được người ta nuôi dưỡng.” Tống Úc Chi nhắm mắt, tình hình đêm hôm trước hiện ra trước mắt — trong tích tắc sinh tử, Tống Mậu Chi vận toàn bộ công lực, song chưởng như đao, cắm sâu vào trong bụng Sa Điền như muốn móc nát tỳ phổi tim gan hắn, nhưng tên thiếu niên tráng kiện đã nén đau đớn mãnh liệt dính cứng lấy Tống Mậu Chi.

“Ta phải nghĩ ra sớm hơn chứ!” Tống Úc Chi oán hận thở dài, “Người đó võ nghệ không cao, bộ pháp vụng về, song lực tay lại vô cùng lớn, còn có thể chịu đựng đau đớn vô cùng — nếu không phải trải qua huấn luyện đặc thù thì sao có thể, ta phải nghĩ ra sớm hơn chứ!”

Y trợn trừng đôi mắt đẹp, oán hận nhìn Dương Hạc Ảnh: “Ông đã phái tử sĩ tới giết anh trai ta!”

Dương Hạc Ảnh giờ đâm lao phải theo lao, đành nhắm mắt nói: “Tống Mậu Chi sát hại cả nhà Hoàng Lão anh hùng, ta muốn báo thù cho nhà họ Hoàng thì sao hả?!”

Thích Vân Kha không vui nói: “Tống Mậu Chi có phải hung thủ không còn chưa kết luận, sao ông có thể tùy ý sát hại đệ tử các phái huynh đệ chứ?!”

Tống Úc Chi đau buồn trong lòng, “Lão ta muốn che giấu mình mới là tên đầu sỏ, mới đổ hết lên đầu huynh trưởng con!”

Giờ phút này y vô cùng hận Dương Hạc Ảnh, không hề nghi ngờ lời Mộ Thanh Yến đêm qua, lớn tiếng, “Sau khi Hoàng Lão anh hùng thoái ẩn đã không còn lui tới với người trong giang hồ, vốn không ai biết tăm tích ông ấy, sao anh trai ta biết được chứ?! Chỉ có ông, Dương lão thất phu, chỉ có ông có thể biết, bởi vì…”

“Bởi vì ông ngoại nhớ thương mẹ con ta, lo bọn ta sống không tốt, thường xuyên gửi đồ đến…” Dương Tiểu Lan hồn bay phách lạc, nước mắt giàn giụa, “Nên cha mới biết núi Thất Mộc!”

“Nghiệt súc ngươi còn dám nói bậy!”

Dương Hạc Ảnh rút kiếm định chém con gái, Dương Tiểu Lan nhanh nhẹn lách mình né.

Trác phu nhân nhào lên trước ôm lấy cánh tay cầm kiếm của Dương Hạc Ảnh, luôn miệng xin chồng đừng nổi giận, Dương Hạc Ảnh giận dữ dùng sức hất ra, Trác phu nhân đụng đầu vào tường, đầu đầy máu tươi.

“Mẹ!” Dương Tiểu Lan kêu thảm chạy lên ôm lấy mẹ.

Dương Hạc Ảnh còn muốn chém tiếp, người bên ngoài nhìn không nổi, Chu Trí Trăn ‘gượm đã’, Thích Vân Kha từ từ đẩy ra song chưởng, gió lộng trong tay áo,khí kình hùng hậu hòa hợp đánh rơi bảo kiếm trong tay Dương Hạc Ảnh.

“Các ông muốn làm gì!” Dương Hạc Ảnh giận dữ, “Xem như ta biết nhà họ Hoàng ẩn cư ở núi Thất Mộc đi, thì tại sao ta cứ phải luyện chế thi khôi nô ở núi Thất Mộc cơ chứ?”

Thích Vân Kha cả giận: “Dương Hạc Ảnh ngươi còn giả hành giả tỏi gì nữa! Tình cảnh luyện chế thi khôi nô năm ấy chúng ta đều đã thấy, chẳng những gây động tĩnh lớn mà còn cần nguồn nước, củi, và người sống liên tu bất tuyệt. Nếu không thì ngươi nghĩ năm ấy mấy người Vũ Nguyên Anh làm thế nà phát hiện trên núi Đỉnh Lô có luyện thi khôi nô?” — cho nên Vũ Nguyên Anh mới dẫn quần hùng lên núi trừ hại, chỉ là không ngờ ấy lại là Dao Quang Trưởng lão.

Chu Trí Trăn cũng nói: “Huống hồ người dùng để luyện chế thi khôi nô có tu vi là tốt nhất, luyện từ dân lành không có căn cơ thì uy lực cũng không lớn. Núi Thất Mộc là một nơi tuyệt hảo — không ai biết tới, có nước có rừng, còn có một đám người trong võ lâm thoái ẩn. Dù tay chân họ có tàn phế song tu vi vẫn còn, dưới núi lại có dân làng có thể cung ứng, một khi bị tiết lộ phong thanh, chỉ cần giết sạch cả làng liền được!”

Dương Hạc Ảnh cười lạnh: “Được được được, đêm nay các ngươi đã quyết ý đổ vấy tội lớn này lên ta, giờ Thích Đại Tông chủ muốn giết già trẻ cả nhà ta chăng?! Dù gì cũng không có chứng cứ, chỉ là nói suông, ta nhất quyết định không thể nhận tội!”

Thích Vân Kha mặt đầy sương lạnh: “Gia có gia pháp, môn có môn quy, nếu Bắc Thần Lục phái có kẻ phạm vào đại tội điên cuồng bực này, ta nhất quyết không tha thứ! Dương Hạc Ảnh đêm nay ngươi có thể đi, ta sẽ đích thân lên núi Thất Mộc điều tra Lưới trời tuy thưa, chiến trận lớn như luyện chế thi khôi nô lớn ta nghĩ ngươi cũng chẳng dọn dẹp hết mọi vết tích đâu. Đến chừng đó, ta triệu tập quần hùng thiên hạ lại tranh luận cùng ngươi!”

Dương Hạc Ảnh hắc hắc cười lạnh, “Được, chúng ta đi!” Lão ôm đứa con trai độc nhất Dương Thiên Tứ đang gào khóc, lệnh đệ tử dưới môn đưa anh em Sa thị bị thương, một đám người nói đi là đi.

Dương Tiểu Lan nhìn theo bóng lưng Dương Hạc Ảnh rời đi, lẻ loi ôm Trác phu nhân hôn mê.

Tống Tú Chi nhẹ than, lấy một đôi vòng như ý phỉ thúy xanh bóng từ trong ngực ra, nâng bằng hai tay: “Dương cô nương thứ lỗi, lệnh tôn mưu hại sát hại Nhị đệ Mậu Chi nhà ta, đại thù trước mặt, e rằng hai ta không thể kết duyên. Phần văn lễ đã định này…”

Dương Tiểu Lan quay lại, ánh mắt vô hồn như không nhìn thấy Tống Tú Chi.

Tống Tú Chi còn muốn nói tiếp, chợt thấy một trận kình phong đánh tới, đôi vòng phỉ thuý trên tay đã không còn thấy, thêm vào đó là một viên ngọc bạch đeo hông, chính là tín vật đính hôn lúc trước Tống Thời Tuấn gửi cho Dương Hạc Ảnh.

Dương Tiểu Lan im lặng, cúi đầu cõng Trác phu nhân đi một hướng khác với hướng Dương Hạc Ảnh rời đi, trước khi đi hình như khẽ giậm chân. Người đi bóng ảnh mịt mờ, gió đêm phớt qua, thổi bay một lớp xanh lục ánh dưới đất. Đám người khó hiểu nhìn lại, mới phát hiện thì ra Dương Tiểu Lan vừa giẫm chiếc vòng phỉ thúy thành bột mịn. Thái Chiêu thầm kêu một tiếng sảng khoái, cực kỳ cảm thấy Dương Tiểu Lan rất đáng.

“Hầy, hành vi Dương chưởng môn không nghiêm cẩn, trái lại Dương cô nương thật là một cô gái cứng cỏi.” Tống Tú Chi khẽ thở dài.

Nhìn dáng vẻ dối trá đầy tiếc hận mà Thái Chiêu sùng máu, Tống Úc Chi bước lên một bước, cả giận: “Dương Hạc Ảnh không tốt, vậy còn ngươi? Là ngươi làm chứng xác nhận Nhị ca* trước mặt mọi người, mới để Dương Hạc Ảnh có cơ hội hại chết anh ấy!”

(*) nguyên văn còn nhầm là đại ca: Tú Chi là đại ca con của hầu gái còn MC UC thì con vợ cả, mà TC hãm hại MC nên từ đoạn sau mình ko để gọi anh/huynh. Mà vì Mậu Chi bản tính ngang tàng mình cũng ko để hắn ta xưng hô kính trọng với TC.

Tống Tú Chi đầy bi thương: “Lúc ấy ta bị trọng thương, tưởng rằng Mậu Chi phái người ra tay, trong lòng vừa đau đớn vừa tức giận, mới nói ra sự thực cho mọi người. Sớm biết thế này, ta thà rằng giấu hết thảy, không lộ một chữ.”

Nói rất hay, luôn miệng nói hắn không nên nói thật ra, thật ra vẫn ám chỉ Tống Mậu Chi làm việc không đúng.

Không ít đệ tử Quảng Thiên Môn xung quanh la ầm rằng Tống Tú Chi chỉ là nói sự thật, trừ nhanh mồm một chút thì có sai chỗ nào, Tống Úc Chi trong phút chốc không phản bác được.

Thái Chiêu đứng cạnh Tống Úc Chi, cao giọng: “Trong một ngày dòng chính của Tống gia tử thương vô số — Chưởng môn đương nhiệm, Chưởng môn kế nhiệm chết thảm, thủ toạ Thánh Đường Bàng Lục thúc đã chết, Chưởng môn vốn tiếp quản kế vị chưởng môn Tam Thúc tổ cũng bị thương nặng không trị khỏi, nhà họ Dương Tứ Kỳ Môn đã giẫm một chân vào vũng bùn, Tú Chi công tử chả lẽ muốn nói mình sạch sẽ, hoàn toàn vô tội ư?”

Tống Tú Chi nhíu mày, “Ta chỉ nói những gì mình nhìn thấy nghe thấy, không thêm bớt một chuyện, cũng không nghĩ đã làm người hiểu lầm Nhị đệ Mậu Chi, nhưng ta tuyệt đối không có ý hãm hại Nhị đệ.”

Thái Chiêu cười lạnh: “Ông nói không có là không có à, đã vậy, ngày mai ta đi tìm một hai trăm người viết tiểu thuyết, đem chuyện xảy ra ở Quảng Thiên Môn mấy hôm nay kể khắp trời nam biển bắc, để anh hùng thiên hạ và tiểu dân phố chợ đều biết đến Tống Tú Chi công tử trong sạch không nhiễm trần thế của chúng ta!”

Tống Tú Chi cuối cùng cũng đổi sắc mặt, quay nhìn Thích Vân Kha: “Thích Tông chủ, rõ ràng là Dương chưởng môn có ý đồ xấu mưu hại Nhị đệ, bây giờ Thái cô nương hùng hổ dọa người thế này, lẽ nào muốn chụp ta tội danh âm mưu hãm hại giết đệ bức cha lên đầu cháu? Phải chăng Thích Tông chủ định lấy danh nghĩa đứng đầu sáu tông đến trị tội cháu!”

Thái Chiêu ngăn trước mặt hắn, “Ông không cần kể lể uất ức lấy lui làm tiến kiểu đấy! Dương Hạc Ảnh vô duyên vô cớ hãm hại Tống Mậu Chi làm gì, lão ta họ Dương có thể làm Chưởng môn Quảng Thiên Môn sao? Còn không phải là vì chàng rể quý này sao! Thôi, cũng không nói sang chuyện khác…”

Cô chợt lên giọng, “Tóm lại Tống Tú Chi muốn làm Chưởng môn Quảng Thiên Môn, ta tuyệt đối không đồng ý!”

Tống Tú Chi ở sau lưng nổi đoá, bước lên mắng: “Ngươi lớn bao nhiêu mà đến phiên ngươi đồng ý!”

Thái Chiêu chống nạnh mắng lại: “Ta cũng không tính là lớn mấy, nhưng ta vẫn không đồng ý!”

— nếu không phải đang giương cung bạt kiếm trước mắt, Phàn Hưng Gia núp đằng sau suýt bật cười.

“Chiêu Chiêu, không được ăn nói bừa bãi.” Chu Trí Trăn nín cười khẽ quát, “Mọi chuyện luận việc không luận tâm, có câu tình ngay lý gian, chư vị trưởng bối Quảng Thiên Môn không phải không biết.”

Cho dù Tống Tú Chi biện bạch thế nào, đến cùng thì cũng vì hắn làm chứng mới dẫn đến Tống Mậu Chi bỏ mình và Tống Thời Tuấn trọng thương, nếu để hắn kế nhiệm chưởng môn, khó nói.

Câu nói có kim trong bông, quả nhiên đánh ngay giữa chỗ yếu, đám người vây quanh Tống Tú Chi đều nổi giận.

Ngũ phòng Tằng bá tổ phụ bước lên một bước, “Thích Tông chủ minh giám, tuy Lục phái đồng khí liên chi nhưng hai trăm năm qua đều tự giải quyết riêng phần mình. Trừ phi là hành vi phát cuồng thiên lý bất dung, bằng không thị phi ân oán của bổn phái tự có bổn phái xử lý, các phái anh em không nên tự dưng nhúng tay, tránh ủ thành Lục phái bất hòa, để Ma giáo có thể thừa cơ hội — chuyện xưa rõ ràng, ngài đều biết đến.”

Lời vừa dứt, sắc mặt Thích Vân Kha vẫn như thường, “… Ta tất nhiên biết.”

Hai năm gần đây Bắc Thần Lục phái luôn gặp xui rủi, đầu tiên là liên tiếp hai vị chưởng môn Thái Sơ Quán bị vạch trần là tiểu nhân bỉ ổi hơn nữa đã chết thảm, sắp sửa lại xảy ra một cuộc phân tranh lớn xét xử Tứ Kỳ Môn, bây giờ Quảng Thiên Môn tuyệt đối không thể chia rẽ.

Pháp Không Đại sư nhìn thấy toàn bộ hỗn loạn, không kìm được bước lên nói: “Lão nạp đi quá giới hạn, thay các vị thí chủ bàn tính một phen, bây giờ có hai chuyện cần phải làm rõ — chuyện thứ nhất, theo Lạc Anh Cốc dùng bồ câu đưa tin, Tống chưởng môn trọng thương hôn mê, đến nay chưa tỉnh…”

“Không sai.” Người con trưởng Tam Thúc tổ đã mất lớn tiếng nói, “Tình hình này, dù tính mạng chưởng môn không lo song chỉ e không thể tiếp tục thống lĩnh Quảng Thiên Môn.”

Pháp Không Đại sư nói tiếp: “Như vậy, cần phải tạm thời chọn ra một người thay mặt chưởng môn, đây cũng là chuyện thứ hai. Hiện giờ Tống chưởng môn còn lại hai người con trai, Tú Chi thí chủ và Úc Chi thí chủ…”

Người con thứ Tam Thúc tổ đã mất chen lời: “Bàn về lớn nhỏ hay về hiên, cũng nên để Tú Chi làm Chưởng môn đời này. Còn Úc Chi, mười mấy năm qua đều ở Thanh Khuyết Tông, hoàn toàn không rành chuyện lớn chuyện nhỏ của Quảng Thiên Môn, không thích hợp, không thích hợp!”

Thái Chiêu không thể nhịn nữa: “Cháu thấy Tống Tú Chi cũng không thích hợp, thích hợp nhất vẫn là hai ngài. Có câu đại nạn không chết chắc chắn có phúc sau này, lúc trước hai ngài không bị Ngũ Độc chưởng của Trần Thự phế đi, có thể thấy sẽ có phúc phận đằng sau.”

Hai người con Tam thúc tổ đỏ mặt, dù có không trúng Ngũ Độc chưởng thì tư chất tu vi của bọn hắn cũng không tính là đặc biệt xuất chúng.

Chu Trí Trăn mỉm cười, lắc đầu kéo Thái Tiểu Chiêu sang một bên. Ông đưa mắt sang bên cạnh, thản nhiên nói, “Úc Chi, chính cậu nên quyết định.”

Tống Úc Chi chỉnh lại quần áo, đứng trước mặt mọi người cao giọng nói: “Chuyện đã đến nước này, cứ chiếu theo quy củ cũ Quảng Thiên Môn mà làm. Ta nguyện phân tài cao thấp với Đại ca, quyết đứng ra xin được chọn làm kế nhiệm chưởng môn.”

Thái Chiêu ở phía sau nhỏ giọng gọi hàng: “Này, Tam sư huynh, nội thương ngoại thương anh còn chưa tốt đấy.”

Phàn Hưng Gia tiến tới, “Không sao không sao, tu vi Tống Tú Chi cũng không cao.”

Tống Úc Chi không quay lại, sắc mặt bướng bỉnh: “Tránh cho nhà họ Tống cốt nhục tương tàn và Quảng Thiên Môn phân loạn, hãy để ta và Đại ca đánh một trận, kết thúc hết thảy đi.”

Thích Vân Kha thở dài: “Úc Chi, con thật sự nghĩ xong rồi?”

Tống Úc Chi gật đầu.

Tống Tú Chi cũng đồng ý, còn gọi người dâng lên một đôi bảo kiếm, “Úc Chi, đây là cặp Thanh Hồng Bạch Hồng của đệ, đêm đó thất lạc trước cửa Thánh Đường.”

Tống Úc Chi nhận song kiếm, “Đa tạ.” Theo thường lệ cất Thanh Hồng trên lưng, chỉ dùng Bạch Hồng nghênh chiến.

“Mời.” Tống Tú Chi mở trường kiếm, chỉ mũi kiếm lên trời.

Hai anh em bắt đầu trận đấu, trong phút chốc ánh kiếm tung hoành.

Chu Trí Trăn lùi ra sau hai bước, lẳng lặng quan sát —

Tống Úc Chi không hổ là thiên chi kiêu tử ai nấy đều tán thưởng, cho dù rơi vào tình huống bất lợi đều chiêu thức tinh xảo, thân pháp tuấn dật, nhìn thế nào cũng đều hơn xa Chu Ngọc kỳ.

Trước kia thường có người xầm xì rằng Chu Trí Trăn định ra hôn sự cho con trai, là hy vọng Thái Chiêu phò tá con kế vị chưởng môn, đến mẹ lẫn vợ ông cũng cho là như vậy. Chỉ có Chu Trí Trăn rõ, mình thật không có ý đó.

Chiêu Chiêu ngây thơ tản mạn, Ngọc Kỳ không ôm chí lớn, ngay cả hai đứa có thành thân Chu Trí Trăn cũng không có ý định để họ thống lĩnh Bội Quỳnh Sơn trang, chỉ là nghĩ từ bé con mình ôn hoà hiền hậu quan tâm, biết đau lòng người, nhất định có thể hiền lành thương yêu che chở Chiêu Chiêu cả đời.

Đáng tiếc lòng con trai đã có chỗ thuộc về, Chu Trí Trăn cũng không phải là người cha khăng khăng cố ghép uyên, hôn sự Chu Thái đành xem như thôi.

Tống Úc Chi nghiêng trường kiếm, xé rách vạt áo Tống Tú Chi, suýt nữa có thể đâm trúng, đáng tiếc bị Tống Tú Chi kịp thời tránh thoát.

Thái Chiêu a một tiếng, trợn tròn mắt to, Thích Vân Kha ở bên cười kéo cô bé, miệng cứ mãi lải nhải ‘Chiêu Chiêu đứng xa một chút, đừng để kiếm khí quét đến’.

Chu Trí Trăn thu tầm mắt.

— ông và Thích Vân Kha đều muốn điều tốt nhất cho Chiêu Chiêu, nhưng họ lại bất đồng ý kiến.

Bản thân Chiêu Chiêu không hề có chí hướng cao xa, Thích Vân Kha lại muốn để con bé lấy một thiếu hiệp xuất chúng nhất thiên hạ, hưởng nhân gian phú quý, được vạn chúng kính ngưỡng. Nhưng Chu Trí Trăn thì không cảm thấy võ lâm chí tôn có gì tốt, chỉ cần hai vợ chồng ý hợp tâm đầu, cuộc đời này năm tháng dài đăng đẳng, nương tựa nhau trong lúc hoạn nạn chưa chắc là chuyện không may mắn.

Đôi lúc ông không khỏi suy tư, nếu Mộ Thanh Yến không phải Giáo chủ Ma giáo thì tốt rồi, lúc Chiêu Chiêu nhìn thằng bé, ánh mắt sóng sánh chói sáng, hứng thú đến động lòng… Tựa như, ánh mắt Thái Bình Thù ở tuổi mười ba nhìn lấy mình ở ven hồ Bội Quỳnh Sơn trang vậy.

Hai thanh trường kiếm tấn công trên không trung phát ra âm vang mãnh liệt, Tống Úc Chi chưa lành vết thương cũ, sức lực hơi thở không tốt, Tống Tú Chi rốt cuộc đã chờ đến cơ hội phản công, thoáng chốc thế kiếm sắc bén tàn nhẫn, ánh kiếm như lưới.

Chu Trí Trăn nhíu mày.

Ông biết Thích Vân Kha vẫn muốn tác hợp Chiêu Chiêu với Tống Úc Chi, nhưng theo ông thấy, trước đây Tống Úc Chi quá thuận buồm xuôi gió, tâm cao khí ngạo, trước mắt không một hạt bụi, còn không biết đối mặt nghịch cảnh và suy sụp tinh thần bằng con mình. Ít ra Chu Ngọc Kỳ còn tự mình hiểu ra, đã không làm được Chưởng môn, thì sớm nghĩ tới chuyện mai này đọc sách thưởng họa, chăm chút chuyện mua bán và ruộng đất, đóng cửa lại sống qua ngày.

Nếu Tống Úc Chi tỉnh táo thông minh, thì phải biết đêm nay tuyệt đối không thích hợp quyết đấu với Tống Tú Chi.

Tam Thúc tổ nhà họ Tống và Tống Thời Tuấn lưỡng bại câu thương, một bị thương nặng không trị nổi, một thì hôn mê bất tỉnh, hiềm khích giữa hai nhánh đã sâu.

Còn Tống Mậu Chi, tuy nói là tử sĩ nhà họ Sa ra tay, nhưng căn nguyên lại là do miệng lưỡi mọi người Tống gia nhất trí chỉ trích chèn ép, mới tạo cơ hội cho người thừa dịp. Nếu Tống Thời Tuấn phục hồi như cũ, hoặc là Tống Úc Chi kế vị, tất nhiên đám bô lão Tống gia nhúng tay vào cái chết của Tống Mậu Chi và đám đệ tử cùng xem sẽ tương lai bị thanh toán, xem như đêm nay Tống Úc Chi thắng cũng sẽ bị kịch liệt phản đối.

Thượng sách chính là tạm thời nhượng bộ, sau đó từ từ mưu toan.

Huống hồ, với diễn xuất thận trọng từng bước giọt nước không lọt của Tống Tú Chi, đêm nay dám ngang nhiên ứng chiến chắc chắn đã có chuẩn bị toàn diện.

“Quao…!” Trên sân tiếng kêu như sấm, khí thế bừng bừng.

Tống Tú Chi chĩa mũi kiếm chỉ vào Tống Úc Chi ngã nhào trên đất đồng thời máu chảy ồ ạt nơi vai.

Thái Chiêu đập mạnh Phàn Hưng Gia một phát: “Không phải anh nói tu vi Tống Tú Chi cũng thường sao? Rõ ràng là ngang ngửa Đinh sư huynh!”

Phàn Hưng Gia ôm bả vai: “Ta chỉ là phỏng đoán, phỏng đoán thôi à!”

“Thầy bói coi quẻ không được cũng sẽ bị đạp đổ quầy đó!”

Hai người vừa lườm nhau vừa chạy vội vào trong hiện trường, một trái một phải đỡ Tống Úc Chi.

Phàn Hưng Gia vẫn không hiểu: “Nếu công phu hắn tốt vậy thì cần gì bắn ám tiêu cạn thế!”

“A, tôi hiểu ra rồi.” Thái Chiêu bừng tỉnh, “Hắn không hề không muốn mạng Tam sư huynh, hắn chỉ muốn ở trước mắt bao người đánh bại Tam sư huynh!”

— cho dù là đêm đó Tống Úc Chi bị trúng ám tiêu, hay là hôm nay tự mình tới cửa khiêu chiến, ngoại thương, nội thương, gia biến, cộng thêm mấy ngày mỏi mệt, lại thêm Tống Tú Chi cố ý yếu thế, đều tránh không được kết quả cuối cùng này.

Thái Chiêu bội phục vị Tú Chi công tử chưa từng hiển sơn lộ thủy này, trong số những người cô biết trong cuộc đời, chỉ có Mộ Thanh Yến mới có thể tranh cao thấp với hắn ta ở phương diện tâm cơ sâu nặng.

“Tam đệ, đa tạ.” Tống Tú Chi tỏ khí độ thanh tao lịch sự thu kiếm vào vỏ.

Tống Úc Chi đầy ảm đạm: “Là ta tài nghệ không bằng người.” Hắn quay lại, “Sư phụ, chúng ta đi thôi.”

“Đừng nản chí ủ rũ.” Thích Vân Kha vỗ vỗ vai y, “Hôm nay thua trận, sẽ trở thành bậc thềm cho ngày mai con tinh tiến.”

Trấn an đệ tử yêu xong, ông chắp tay bảo đám người Quảng Thiên Môn, “Hôm nay từ biệt, mai này chủ trì võ lâm chính đạo, mong chư quân tự giải quyết cho tốt.”

Tống Tú Chi dĩ nhiên dạ dạ xưng phải, còn xin bọn Thích Vân Kha chờ trời sáng hãy xuống núi, sau khi bị từ chối nhã nhặn không dài dòng nữa.

Trên đường xuống núi, Tống Úc Chi chợt nói: “Chiêu Chiêu, ta muốn mau mau phục hồi như cũ, trừ khử hết U Minh hàn khí.” Vừa nói, ánh mắt y như lấp lòe tóe lửa, như tia lửa vàng rèn bảo kiếm.

Thái Chiêu, “… Chúng ta đi thẳng về Lạc Anh Cốc, tìm Tử Ngọc Kim Quỳ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 129


Dã tâm là thế nào

Từ Quảng Thiên Môn ra, toán người Thích Vân Kha không muốn ở trong thành thêm giây lát nào nữa, ven đường kêu bọn Lý Văn Huấn trong khách đi3m, cả đám đi thẳng vội ra khỏi thành, hạ lều da trâu ngoài thành tạm nghỉ ngơi.

Thái Chiêu lúc này mới phát hiện Lý Văn Huấn không phải đi một mình, còn dẫn theo mấy chục đệ tử Tông môn thân thủ bao gồm Trang Thuật, còn có mấy võ tăng Trường Xuân Tự, ai nấy võ trang đầy đủ nom đầy cảnh giác, rõ ràng là để phòng khi cần giúp đỡ, nhận lệnh phòng vệ ở lớp bên ngoài.

Giờ này ở ngoại ô trời đã sáng bửng, nhưng mấy ngày liên tục Quảng Thiên Môn phong thanh hạc lệ*, ở vùng đồng nội ngoại thành cũng không có người đi lại.

(*) sợ bóng sợ gió. thời Tiên Tần, quân Phù Kiên ở phương Bắc bị quân Tấn đánh bại, trên đường tháo chạy nghe tiếng hạc kêu, lại ngỡ là quân Tấn truy đuổi

Đám người ngồi vào chỗ mình trong lều, đầu tiên Thích Vân Kha hỏi thăm chuyện ba người Thái Chiêu đã trải qua mấy hôm nay, Thái Chiêu không dám quá giấu giếm, ngoại trừ những chi tiết liên quan đến Tử Vi Tâm Kinh, còn lại đều kể thật thà ngọn ngành.

Nghe đến đoạn trận pháp Huyết Chiểu, ngón tay Chu Trí Trăn hơi phát run, đầu óc mông lung: “… Năm đó, bỗng nhiên nàng hứng thú đến tìm ta, bảo những tổ tiên gọi là ‘Ma nữ’ Lạc Anh Cốc biết đâu có ẩn tình khác — thì ra là thế.”

Thiếu nữ còn nói, chuyện người xưa lưu truyền chưa hẳn đều là thật, có thể thấy chính tà trên thế gian cũng chưa chắc đều phân rõ trắng đen, nhưng Chu Thiếu Trang chủ trẻ tuổi cũng không để lọt tai, chỉ theo thói quen cười dịu dàng một tiếng, đổi lại chỉ căn dặn thiếu nữ bớt gây chuyện vân vân.

Rất nhiều người, rất nhiều chuyện, đến lúc nghĩ rõ ràng, buồn vô cớ cũng đã vô dụng, thậm chí còn khiến ông mơ hồ sinh hận.

Cùng nghe kể, Thích Vân Kha hừ lạnh: “Hừ, tên yêu nghiệt họ Mộ chẳng phải tốt lành gì, nhất định bọn hắn đã biết Huyết Chiểu có gốc gác gì Lạc Anh Cốc, mới đặc biệt đặc biệt đưa người nhà họ Thái vào! Bình Thù quá trung thực nên mới bị lừa vòng vòng!”

Hai chưởng môn một đau buồn một phẫn hận, chỉ còn Lý Văn Huấn xem như vẫn còn tỉnh táo, hỏi một câu mấu chốt: “Tại sao hai mươi năm trước Mộ Chính Dương muốn lấy cây Dạ Lan mẹ? Sau này vì sao Thái nữ hiệp lại căn dặn di dân Huyết Chiểu hủy nó đi?”

Thái Chiêu tỏ vẻ chuyện này còn chưa biết, ánh mắt yên tĩnh, không mảy may sơ hở.

Tống Úc Chi liếc nhìn cô, im lặng.

Phàn Hưng Gia thì không biết gì thật: “Chúng con cũng không biết vì sao người Ma giáo cứ nhất định phải chạy vào Huyết Chiểu, lúc ấy người Tứ Kỳ Môn còn đuỏi theo ngoài khu rừng, chúng con cũng không dám ra ngoài.”

Thích Vân Kha hậm hực tiếp tục công kích người ta: “Chắc chắn gã họ Mộ có tính toán ác độc khác, chỉ là không chịu cho mấy đứa biết thôi!”

Thái Chiêu đầy chân thành nói: “Sư phụ ngài nói đúng lắm, người trong Ma giáo giảo hoạt nhất, một câu cũng không thể tin bọn họ. Đúng rồi, ngài và bác Chu, còn có Lý sư bá, sao lại thẳng tiến Quảng Thiên Môn thế ạ?”

Tống Úc Chi không kìm được lại nghiêng mắt nhìn cô.

Thích Vân Kha nói: “Ầy, thật ra ban đầu ta và bác Chu của con đã mời Pháp Không Đại sư ra mặt, vào cái đêm Quảng Thiên Môn náo loạn một cục, cả ba người chúng ta đã cách nơi này không xa. Ôi, chỉ chậm có hai ngày.”

Thái Chiêu nhíu đôi mi thanh tú: “Họ Dương và Tống Tú Chi có mưu đồ từ trước, nội ứng ngoại tặc, tính toán khắp nơi, sư phụ các người có sớm hai ngày hay trễ hai ngày, bọn hắn đều sẽ phát động biến loạn.”

“Nói không sai.” Lý Văn Huấn rất đồng ý.

Ông ta chỉ rời Thanh Khuyết Tông sau ba người Tống Thái Phàn hai ngày, “Ngay hôm sau khi mấy đứa Úc Chi lên đường, ta thu được thư báo khẩn cấp, rằng Tứ Kỳ Môn bỗng dốc toàn bộ lực lượng, binh giới đầy túi, đêm khuya đi đường thẳng tiến Quảng Thiên Môn.”

Các phái Bắc Thần đều có giới luật, trừ phi rơi vào tình huống cực kỳ hiểm ác cùng chung tay chống lại kẻ địch, nếu không dẫn một số lượng lớn người đi vào địa bàn phái khác chiếm giữ là cực kì không ổn. Lý Văn Huấn nghĩ bọn Thích Vân Kha đang sắp tới Quảng Thiên Môn, lo lắng sinh hoạ bất ngờ, thế là lập tức dẫn người chạy đến.

Phàn Hưng Gia mở to mắt nhìn: “Đúng đúng, mấy người đuổi giết bọn con đều từ đường xa phóng tới!”

Lý Văn Huấn nói: “Ta vốn định dùng bồ câu truyền thư, nhưng trước đó ta đã biết Chưởng môn và Chu trang chủ đã rời Bội Quỳnh Sơn trang, tính toán thời gian thì họ không đang trên đường đến Trường Xuân Tự thì là vừa mới ra khỏi Trường Xuân Tự. Ta chỉ sợ nửa đường hoang vắng, lỡ tiết lộ tin tức bồ câu đưa thư, lại nghĩ lỡ rầm rầm đánh nhau mà chưởng môn không ai giúp đỡ, nên dứt khoát dẫn bọn Trang Thuật ra ngoài.”

Thái Chiêu ban đầu ngồi nghe gật đầu lia lịa, nghe tới câu cuối cùng của Lý Văn Huấn, chợt thấy có gì đó xẹt qua trong lòng.

Pháp Không Đại sư nói: “Lão nạp cũng không biết nguyên do bên trong Huyết Chiểu, nhưng Thái nữ hiệp đã dặn dò thì nhất định có lý của cô ấy, huỷ cái cây Dạ Lan mẹ kia cũng tốt. Điều quan trọng hiện giờ vẫn là nên xử lý phân tranh trước mắt thế nào. Việc này lão nạp không tiện chuyên quyền, xin Thích Tông chủ và Chu trang chủ ra chủ trương mới phải.”

Chu Trí Trăn nhíu mày, “Chuyện nhà Hoàng Lão anh hùng cùng rất nhiều thôn dân vô cớ bị giết hại ầm ĩ lộn xộn thiên hạ đều biết cả rồi. Bắc Thần lấy hiệp nghĩa lập danh, xử lý là nhất định phải xử lý, nhưng mà…”

Thích Vân Kha có chỗ do dự, tiếp lời: “Nhưng việc này khó xử ở chỗ, nếu truy cứu tới cùng thì Bắc Thần dễ tổn thương nguyên khí, mà Ma giáo hiện giờ…”

Pháp Không Đại sư than nhẹ: “Lão nạp hiểu lo lắng của hai vị chưởng môn, nghe nói từ khi Ma giáo quét sạch loạn Nhiếp Lữ, giáo quy nghiêm minh, pháp giới sáng sủa, có thể thấy họ đang trên đà hưng thịnh trở lại, lần này…”

Ba người đều nói lấp lửng, lời như mây mù bao phủ, chỉ lộ một nửa.

Vẫn là Lý Văn Huấn nói toạc: “Vậy trước tiên xử lý Tứ Kỳ Môn, ngữ hai mặt như Dương Hạc Ảnh này, Ma giáo có đột kích cũng chưa chắc chịu ra bao nhiêu sức lực! Nội loạn Quảng Thiên Môn cứ thong thả đã, chờ Tống chưởng môn tỉnh lại nghe xem ông ta nói thế nào.”

Mọi người dời mắt sang nhìn Tống Úc Chi, Tống Úc Chi như bị dầu sôi đảo trong lòng, vừa xấu hổ vừa phẫn hận, lập tức khiêm tốn nói: “Là đệ tử học nghệ không tinh, không thể chủ trì công đạo cho cha anh, xin các vị trưởng bối lấy đại cục làm trọng. Nội loạn Quảng Thiên Môn sẽ tự do con cháu Tống gia kết thúc.”

Lý Văn Huấn lạnh lùng nói: “Cậu hiểu thì tốt rồi.”

Thích Vân Kha đau lòng âu yếm vỗ vai đệ tử: “Đừng nản chí mất tinh thần, từ nhỏ đến lớn sư phụ bị ăn mắng là ‘phế vật’ mười mấy năm, một khi đả thông cửa ải mạch Thiên Hỏa Long lại đột nhiên vọt mạnh chỉ trong chốc lát. Người trẻ tuổi gặp chút cản trở không phải là xấu.”

Quảng Thiên Môn khác Tứ Kỳ Môn, chẳng những binh cường mã tráng, thế lực khổng lồ, mà hiện giờ đa số thế lực trong môn phái đều bằng lòng ủng hộ Tống Tú Chi, cộng thêm Tống Tú Chi trốn tội không còn sót tí gì, dưới tình hình ấy Thanh Khuyết Tông và Bội Quỳnh Sơn trang muốn mạnh mẽ can thiệp chuyện trong nhà Tống thị là phạm vào đại huý Bắc Thần cấm tiệt nội chiến.

Đơn giản mà nói, muốn Quảng Thiên Môn nội loạn, chỉ có thể dựa vào chính họ Tống.

Sau khi bàn xong đại sự, đám người rời đi mỗi các hướng như dự định.

Vì đã quyết định trừng trị Dương Hạc Ảnh, Thích Vân Kha Chu Trí Trăn đi núi Thất Mộc điều tra nghe ngóng chứng cứ, phải khiến cho trên dưới Tứ Kỳ Môn và thiên hạ quần hào tâm phục khẩu phục, Pháp Không Đại sư tỏ vẻ tình nguyện đi cùng, Lý Văn Huấn thì dẫn chúng đệ tử đi đến Bội Quỳnh Sơn trang gần núi Thất Mộc chuẩn bị chỗ sơ trước.

Tống Úc Chi nóng lòng muốn gặp cha, Thái Chiêu lo lắng cho song thân, dĩ nhiên muốn đi Lạc Anh Cốc (thật ra hai người họ còn muốn tìm Tử Ngọc Kim Quỳ).

Thích Vân Kha còn tri kỷ tặng thêm một Phàn Hưng Gia, “Để chẩn trị Tống Chưởng môn thật tốt, nếu có chỗ không hiểu hãy dùng bồ câu đưa tin cho Lôi Sư bá con. Ôi, Tống đại ca mau bình phục đi thôi.”

Phàn Hưng Gia tựa như bị nhét thuốc đắng, xong xuôi vốn muốn tìm Đinh Trác kể khổ, thì Trang Thuật bảo hắn người ở quê Đinh Trác đến báo tin, bảo nhà họ Đinh có người già lâm chung, muốn gặp đứa cháu Đinh Trác này một lần cuối, do đó ngay lúc này Đinh Trác không phải hầu trước giường bệnh thì cũng vội về chịu tang.

Thái Chiêu cười ha ha, đưa Phàn Hưng Gia thân mềm thịt báu về lều nhỏ nghỉ ngơi, quay người đi chưa đến mấy bước thì thấy Pháp Không Đại sư một mình đứng dưới một gốc cây khô già. Thái Chiêu nhìn khí sắc lão hòa thượng không tốt lắm, mơ hồ toát một vẻ yếu đi rõ, cô bước lên ân cần thăm hỏi.

Pháp Không Đại sư cười lắc đầu, “Tiểu thí chủ đoán xem năm nay lão nạp đã bao nhiêu tuổi?”

Thái Chiêu từ sáu mươi ba đoán tới bảy mươi tám, lão hòa thượng chỉ lắc đầu.

“Tiểu thí chủ đem số tuổi song thân và cô mẫu cộng lại, không kém là bao.” Lão hòa thượng cẩn thận ngắm nghía Thái Chiêu, “Năm ấy lần đầu lão nạp gặp lệnh cô mẫu Thái nữ hiệp, cô ấy cũng mới lớn cỡ tiểu thí chủ.”

Thái Chiêu cúi đầu, giọng trầm buồn: “Nếu cô cô có thể sống lâu hơn chút thì tốt rồi.”

Pháp Không Đại sư lắc đầu, “Lão nạp cũng sống đủ lâu, sư huynh sư đệ đều đã viên tịch, chúng đệ tử đều khuyên lão nạp ở trong chùa tĩnh dưỡng… Tĩnh dưỡng gì chứ, là lặng lẽ chờ viên tịch sao? Đều là người xuất gia, tứ đại giai không, chết trên bồ đoàn trong chùa hay chết trong rừng núi hoang vắng, khác biệt rất lớn đó.”

Thái Chiêu cười nhẹ nhàng, cô nhớ cậu mình Giác Tính Thiền sư từng kể, lúc trẻ Pháp Không Đại sư cũng là một hòa thượng lôi thôi bay nhảy không câu nệ tiểu tiết.

“Nhiều anh hùng hào kiệt, dù kinh tài tuyệt diễm, hay khí thôn sơn hà, đều từng người héo tàn thoái ẩn, kẻ vô dụng bực này như lão nạp vẫn còn sống tạm thế gian.” Pháp Không Đại sư thở dài, “Bây giờ chuyện mà lão nạp cực kì hối hận, không gì vượt qua là năm đó không phát hiện được rằng Thái nữ hiệp có ý định một mình tru sát Nhiếp Hằng Thành.”

Thái Chiêu không hó hé.

“Lão nạp nói thẳng một câu, lúc ấy lão nạp hèn nhát, nanh vuốt Nhiếp Hằng Thành rộng khắp thiên hạ, hoành hành không sợ ai, lão nạp chỉ muốn một mực che chở cho một đám đồ tử đồ tôn ở Thường Xuâ Tự, co đầu rút cổ trong chùa, mà quên gánh vác chém giết yêu ma che chở thiên hạ.”

Thái Chiêu nhẹ giễu: “Đứng đầu sáu tông người đông thế mạnh Doãn Lão Tông chủ còn quên gánh vác, chỉ làm rùa đen rút đầu, huống chi một Trường Xuân Tự thế nhỏ lực mỏng.”

Pháp Không Đại sư than thở hồi lâu, chợt nói: “Kỳ thật năm đó ngủ ngoài hoang dã trên đường lão nạp từng vô tình gặp được thí chủ Mộ Chính Dương kia.”

Thái Chiêu khẽ giật mình.

Pháp Không Đại sư nói: “Lúc bấy giờ, Thái nữ hiệp không biết đánh đấm ở đâu một trận, bị thương không nhẹ, thần thái cũng rất tốt. Một người trẻ tuổi vóc dáng cao lớn đứng cạnh cô ấy, bên cổ còn có một lạc ấn màu đỏ như máu. Thí chủ ấy tự xưng họ Dương, máu me đầy mặt cũng không chịu lau đi, lão nạp biết cậu ta là không muốn lộ khuôn mặt thật gặp người, bèn gửi thuốc trị thương của Trường Xuân Tự xong, bèn rời đi.”

Lão hòa thượng xoay đầu lại, mỉm cười nhìn cô bé chăm chú, “Tuy nói vị Mộ thí chủ ấy không phải người tốt, nhưng theo lão nạp thấy, tình ý cậu ấy đối với lệnh cô mẫu chưa hẳn tất cả đều là giả.”

Thái Chiêu đầy cảnh giác: “Chỉ vội gặp mặt một lần, đến mặt người ta còn không nhìn rõ, đại sư đã biết nhiều vậy sao?”

Pháp Không Đại sư thở dài: “Tuy chỉ vội vàng gặp mặt, nhưng ý che chở yêu thương của vị Mộ thí chủ ấy đối với lệnh cô mẫu có mù lòa cũng nhìn ra.” — đã qua nhiều năm, giờ ông vẫn còn nhớ rõ cặp mắt kia hung ác như dã thú, lạnh băng đầy đề phòng, lại đẹp rực rỡ kinh người; chỉ có lúc nhìn về Thái Bình Thù mới có tí hơi ấm.

“Là người xuất gia, đại sư cũng hiểu nhiều quá.” Thái Chiêu không kìm được xiên xỏ.

Pháp Không Đại sư chắp hai tay: “Đâu còn cách nào, nam nam nữ nữ thế gian này, phàm là tự thấy chịu tổn thương vì tình là muốn xuất gia. Năm đó lệnh đường cũng thế, cuối cùng cửa Phật không vào thành, mà còn gây cho Huyền Không Am gà bay chó chạy. Chúng ta làm trụ trì, tự nhiên phải hiểu hơn chút, không thì quyến lữ người ta đến quắc mắt trừng trừng đánh tới, xui xẻo vẫn là chỗ cửa Phật thanh tĩnh của chúng ta thôi.”

Thái Chiêu thổi phù một tiếng: “Đại sư nhất định phải trường thọ nha, trên đời này hòa thượng thú vị không nhiều lắm.”

Pháp Không Đại sư mỉm cười, “Nói nãy giờ rất nhiều rồi, lão nạp muốn nói… Tiểu Thái thí chủ, lần này cô về Lạc Anh Cốc, nhìn quanh thật kỹ một chút đi, cố gắng sẽ có cảm ngộ khác biệt.”

Thái Chiêu không hiểu: “Ý đại sư là.”

Pháp Không Đại sư nhẹ than: “Quyến luyến cố thổ, vẫn là thứ đời người không bỏ xuống được, có khi khó mà xa rời. Thái nữ hiệp đã qua đời bốn năm năm, Tiểu Thái thí chủ, tương lai cô còn rất dài, chớ bị tâm ma vây khốn lòng mình.”

Thái Chiêu bật cười: “Đại sư suy nghĩ nhiều rồi, người quen biết đều biết con thích nhất là an niên tuế nguyệt, rượu phải là rượu ngon, ăn phải là mỹ thực, kịch nam phải hát thật đặc sắc, sống phải sống dễ chịu, tâm ma con đâu ra.”

Pháp Không Đại sư không nhiều lời giải thích, chỉ lắc đầu, “Thúc Tổ phụ của Thái thí chủ, Thái Trường Phong đại hiệp quá cố, từng in dấu chân rộng khắp thiên hạ. Ông ấy thường ưa nói câu, chân trời ở đâu không có tri kỷ, trong lòng thấy bình yên thì ở đó chính là cố hương — hôm nay lão nạp tặng câu này cho tiểu thí chủ vậy.”

Mãi đến chừng Phàn Hưng Gia tìm đến Thái Chiêu ăn cơm trưa, cô vẫn còn kinh ngạc một mình đứng đó.

Sau khi đám người dùng xong bữa trưa, Thích Vân Kha dặn dò ba đệ tử Tống Phàn Thái vài câu rồi leo lên yên ngựa, chia nhau rời đi, vó ngựa vù vù đạp bay bụi đất từng đợt trên đường nhỏ hoang vắng.

Trên đỉnh núi cao cao cách đó không xa, tấm trường bào chàng trai trẻ cao gầy tuỳ ý bay múa trong cuồng phong, như bóng yêu ma to lớn đong đưa, hắn lẳng lặng đứng, đưa mắt nhìn hai tuyến người dưới núi chia hai hướng khác nhau rời đi.

Du Quan Nguyệt nhìn xa xa một lát, khẽ nói: “Giáo chủ, xem phương hướng họ rời đi, đúng là Chiêu Chiêu cô nương định về Lạc Anh Cốc.”

Ánh mắt Mộ Thanh Yến tĩnh mịch, không lộ vui giận.

Thượng Quan Hạo Nam từ phía sau vội vã chạy đến, ôm quyền nói: “Giáo chủ, Nghiêm Trưởng lão đến, chẳng những lão mang đến rất nhiều hồ sơ, còn nói phát hiện chuyện gấp, ngài xem bây giờ phải chăng là…”

“Không vội.” Ánh mắt Mộ Thanh Yến yên tĩnh, giọng lạnh nhạt xa cách, “Có lẽ ta đã đoán được Nghiêm Trưởng lão phát hiện cái gì, giờ chúng ta đi gặp Tống Đại công tử trước đã.”

“Bây giờ?” Du Quan Nguyệt sững sờ, “Giữa ban ngày ban mặt?”

Thượng Quan Hạo Nam ngạc nhiên nói: “Giữa ban ngày ban mặt thì thế nào?”

Du Quan Nguyệt lúng túng: “Không phải đêm qua Chiêu Chiêu cô nương nói, giữa ban ngày ban mặt lên Quảng Thiên Môn không dễ chạy thoát sao.”

Khoé miệng Mộ Thanh Yến mang ý cười, “… Không có tiền đồ.”

Quảng Thiên Môn, Thánh Đường.

Mái vòm đen đặc hình tròn rộng lớn, mặt đất lát ngọc đen vuông vức, ngụ ý trời tròn đất vuông.

Ánh nến lấm tấm trên tế đài cao cao, tựa như người đang lạc vào dải ngân hà dài dằng dặc, ngửa đầu nhìn lại là bài vị tầng tầng lớp lớp, phu thê Chưởng môn Quảng Thiên Môn suốt hai trăm năm, còn có trưởng bối giang hồ được hưởng danh dự các đời.

Tống Tú Chi tham lam nhìn tất thảy —

Lúc Doãn Thanh Liên còn sống, hắn không được cho phép bước vào nơi đây; sau khi Doãn Thanh Liên chết rồi, hắn cũng chỉ có thể đứng ở điện phụ vào lúc tế tự, còn Tống Mậu Chi và Tống Úc Chi thì có thể chia nhau đứng hai bên cha Tống Thời Tuấn, đường hoàng đứng chính giữa nơi được chú ý nhất.

“Ha ha ha ha…” Hắn nhìn bài vị Doãn Thanh Liên chòng chọc, một trận cười nhẹ gần như điên cuồng phát ra từ cổ họng, “Tống Mậu Chi thịnh vượng vang danh, Tống Úc Chi mênh mang xanh thắm*, bao nhiêu là kỳ vọng to lớn, tên đẹp êm tai biết bao, không phải đều thành bại tướng dưới tay ta sao, ha ha ha ha ha…”

(*) Anh thanh mậu thực: chỉ tên đẹp và sự nghiệp thịnh vượng; Úc úc thương thương: xum xuê tươi tốt. Tên trích từ thành ngữ 4 chữ.

“Ấy cũng không sai.” Một giọng đàn ông cười trong trẻo bỗng vang lên.

Trong điện u tĩnh đột ngột xuất hiện kẻ thứ hai, Tống Tú Chi lập tức cảnh giác, nghiêm nghị quát lớn: “Ai? Đi ra cho ta!” Hắn đồng thời đưa tay phải dùng sức kéo một chỗ cơ qua ở góc bàn, lập tức có tiếng còi đồng sắc bén vàng lên ngoài điện.

Mười mấy hộ pháp trấn thủ ngoài điện Thánh Đường phá cửa vào trong giây lát, hoặc giương cung lắp tên, hoặc cầm trường đao sáng như tuyết trong tay.

Sắc mặt Mộ Thanh Yến đầy tự nhiên đứng trong điện, “Tống Đại công tử làm gì hưng sư động chúng vậy, chẳng qua ta chỉ muốn hỏi huynh mấy câu, xin Tống Đại công tử mời chư vị hộ pháp lui ra.”

Tống Tú Chi lạnh lùng nói, “Xưa nay chính tà bất lưỡng lập, Quảng Thiên Môn và Ma giáo không có gì đáng nói!”

“Chính tà bất lưỡng lập?!” Mộ Thanh Yến bật cười, “Ta chưa từng vu oan hãm hại thủ túc, gây ra mạng người, càng chưa từng cấu kết ngoại tặc, mưu hại cha ruột. Giữa hai ta, đến cùng thì trên tay ai dính máu cốt nhục nhà mình chứ. Ngươi có nói câu dễ nghe đi chăng nữa, có tội vẫn trốn tránh sạch sẽ, chẳng qua cũng chỉ là bịt tai đi trộm chuông thôi, còn tưởng người trong thiên hạ không biết ngươi là hạng gì ư!”

Mộ Thanh Yến vốn dĩ miệng mồm sắc bén cay nghiệp, giờ càng không hề kiêng dè, nghĩ sao thấy vậy, chữ chữ tận xương, đao đao thấy máu. Các hộ pháp Thánh Đường vây bốn phía nghe xong, không khỏi xôn xao ghé mắt, trao đổi ánh mắt với đồng lứa bên cạnh.

“Ngươi —!” Xương gò má Tống Tú Chi căng cứng, ánh mắt ác độc, “Yêu nghiệt Ma giáo xảo ngôn thiện biện, hôm nay ta tru sát ngươi, trừ một mối hại lớn cho thiên hạ!”

Theo hắn đưa tay ra hiệu, Thánh Đường hộ pháp bốn phía la lớn, cùng nhau tấn công tới.

Mộ Thanh Yến cười ha hả, liên tục đánh ra song chưởng, tay áo tụ khí như mưa cuồng, như một luồng lực vô hình tuôn đến chúng hộ pháp, rắc rắc rắc rắc vang lên trong điện không ngừng bên tai, chúng hộ pháp khó khăn mới đứng vững trong luồng gió, ngạc nhiên phát hiện binh giới trong tay bị cụt một đoạn, như bị đao cắt đứt — trường kiếm không còn mũi kiếm, cương đao mất mũi đao, cung tên không thấy đầu tên…

Mộ Thanh Yến quay lại phất tay áo, bắt một phát vào hư không, một chiếc đèn thủy tinh đốt cạnh Tống Tú Chi phát nổ, dầu nhuốm tia lửa bỏng rát trên mặt trên áo hắn, — Tống Tú Chi như một pho tượng đất, không dám đến một cử động nhỏ, lòng hoảng hốt.

Mộ Thanh Yến rũ tay áo rộng, thu khí kình, hít thở an nhàn yên ắng, trong chốc lát lại như khôi phục lại thành một vị công tử giới quyền quý nhặt hoa ngắm trăng.

Hắn thản nhiên nói: “Ta mời chư vị hộ pháp lui ra, hoàn toàn là vì tốt cho Tống đại công tử, nếu công tử không muốn, ta cũng có thể ở ngay trước mặt bọn họ hỏi — xin hỏi Tống công tử, người báo cho huynh biết chuyện núi Thất Mộc phải chăng là hắc y nhân che mặt…”

Chưa hỏi xong, Tống Tú Chi đã vội nói: “Chúng hộ pháp lui ra, đóng chặt cửa điện, tất cả rời khỏi Thánh Đường hai mươi bước!”

Mười mấy hộ pháp Thánh Đường đầy vẻ do dự, cuối cùng vẫn nghe theo lời, rời ra ngoài điện.

Quảng Thiên Thánh Đường khổng lồ tĩnh mịch chỉ còn hai người Mộ Tống.

Ánh mắt Tống Tú Chi âm u khó lường, hận thù thấp giọng hỏi: “Ngươi đã biết chuyện gì?!”

Mộ Thanh Yến khoát tay sau lưng, khoan thai dạo bước trong cung, “Mấy tháng trước, ngươi bỗng nhiên biết được Dương Hạc Ảnh luyện chế thi khôi nô trong núi Thất Mộc, thế là tự mình ra ngoài một chuyến. Trên núi, ngươi bắt gặp Dương Hạc Ảnh đang bận rộn, hai người cùng chung chí hướng, đưa ra độc kế ngay tại chỗ.”

“Sau khi trở lại Quảng Thiên Môn, ngươi phái người giả vờ vô tình nhắc tới có một chỗ như núi Thất Mộc ở trước mặt Tống Mậu Chi, Tống Mậu Chi càng ngứa ngáy khó nhịn trong lòng, ngươi càng không ngừng ngăn cản, rốt cuộc Tống Mậu Chi không kìm được bỏ người Quảng Thiên Môn sang một bên, một mình ra ngoài chiêu binh mãi mã. Chờ Tống Mậu Chi giày vò một trận, Dương Hạc Ảnh bèn ra lệnh cho tử sĩ dưới trướng giết sạch đám người Tống Mậu Chi mới mời chào trong vòng một đêm, rồi dùng chiêu thức của Quảng Thiên Môn gi ết chết đám Hoàng Sa Bang bị nhốt đã lâu, đại công cáo thành.”

“Đợi qua mấy ngày, Dương Hạc Ảnh ‘phát hiện’ cả nhà Hoàng Lão anh hùng chết thảm, sau đó la hét chạy lên Quảng Thiên Môn đòi giải thích. Sau đó, ngươi giả vờ bị đâm, đầy bi phẫn xác nhận nhiều hành động đủ loại của Tống Mậu Chi cố gắng trước đó… Hẳn cũng đâu đó nhỉ.”

Mộ Thanh Yến vừa nói vừa chú ý Tống Tú Chi, thấy sắc mặt hắn biến xanh biến đỏ, ánh mắt kinh ngạc lo sợ, hắn biết mình đoán nếu không trúng cũng không xa mấy.

Tống Tú Chi cố trấn định: “… Sao ngươi biết rõ vậy? Là, là Dương Hạc Ảnh khai ra?”

Mộ Thanh Yến thản nhiên nói: “Một đứa con thứ không quyền không thế không được đãi ngộ như ngươi, có thể vạch ra một mê cục lớn vậy, ta vẫn luôn nghi ngờ từ đầu — không phải ngươi không có lòng tính toán, mà là ngươi không đủ tai mắt lực lượng.”

“Ngươi mỉa mai đủ chưa?” Tống Tú Chi lạnh lùng nói, “Chưởng môn Quảng Thiên Môn các đời vốn nạp thê thiếp rộng rãi, sinh nhiều con cái, từ đó chọn ra người đặc biệt ưu việt lập thành chưởng môn kế nhiệm, cũng không chia đích thứ, thế thì vì sao ta không thể tranh đoạt chức chưởng môn này?!”

“Đương nhiên có thể, thậm chí ta còn rất bội phục ngươi.” Mộ Thanh Yến cười khẽ, “Chỉ có điều nếu thật phải dựa theo quy củ Quảng Thiên Môn, ưu việt nhất trong đám con cháu nhà họ Tống thế hệ này hẳn là Tống Úc Chi, cũng không phải là ngươi. Dù hắn bị thương chưa lành, song ngươi vẫn không phải là đối thủ của hắn.”

Tống Tú Chi đỏ mặt: “Võ nghệ cao thấp cũng đâu phải là chuẩn tắc duy nhất để cân nhắc Chưởng môn, Tống Úc Chi từ nhỏ kim tôn ngọc quý, trước mắt không nhiễm bụi. Người như nó, sao có thể thống lĩnh Quảng Thiên Môn cho tốt chứ!”

“Thật chí khí, không tầm thường!” Mộ Thanh Yến không chút nhiệt tình vỗ tay hai lần xem như cổ vũ, “Giờ chúng ta nói chính sự đi — núi Thất Mộc cách Quảng Thiên Môn trăm dặm, ngươi không vô duyên vô cớ biết chuyện xảy ra trong núi. Cho nên, đúng là có người đặc biệt chạy tới báo việc Dương Hạc Ảnh làm cho ngươi.”

“Chuyện ta muốn hỏi chính là đây, người đến báo tin mật, là ai?”

Con ngươi Tống Tú Chi co rút, cảnh tượng đêm đó rõ mồn một trước mắt — hắc y nhân tu vi cao thâm khó lường kia, chậm rãi mà trịnh trọng nói ra những gì Dương Hạc Ảnh đã làm tổn hại ngàn dặm ngút trời ở núi Thất Mộc.

“Không dối gạt Mộ Giáo chủ, Tú Chi thật không biết thân phận của người kia.”

Mộ Thanh Yến lạnh lùng nhìn hắn chằm chằm, như mãnh thú nhìn chòng chọc vào cổ con mồi, không nói không rằng.

Im lặng càng có một sức uy hiếp.

Tống Tú Chi biết tu vi tên đại ma đầu hơn xa mình, cũng không cố kỵ yếu tố thể diện gì, chỉ cần tên này khẽ động tâm niệm là lập tức có thể lấy tính mạng mình.

Hắn bắt đầu đổ mồ hôi lạnh: “Đến mức này rồi, ta cũng không cần giấu mặt giúp gã kia, ta chắc chắn không biết thân phận của hắn. Chỉ biết võ nghệ hắn rất cao, thân pháp quỷ dị, bao lấy cả người cực kỳ chặt chẽ, ta chẳng thể nhìn ra lai lịch võ công của hắn.”

Đối với kết quả không biết lần thứ mấy giống nhau, thật ra Mộ Thanh Yến đã có chuẩn bị, tuy nhiên vẫn không khỏi lại thất vọng một lần nữa.

Hắn hỏi: “Hãm hại Tống Mậu Chi, cướp đoạt chức chưởng môn, chủ ý này là tự ngươi nghĩ ra, hay là tên che mặt mật kia?”

Ánh mắt Tống Mậu Chi loé sắc sáng, nói thẳng: “Là chính ta.”

Mộ Thanh Yến tựa như có phần quái lạ, “Ngươi vừa nghe đến chuyện Thất Mộc thì nhanh chóng nghĩ ra kế hoạch kín đáo trọn vẹn như thế sao?”

— Ánh mắt hắn dường như đang nói: Nếu là thật, ngươi đặc biệt mẹ nó thật đúng là một thiên tài nghĩ ra âm mưu quỷ kế!

Tống Mậu Chi nghe ra ngụ ý, vừa xấu hổ vừa giận, “Phải thì thế nào?! Chỉ cần để tâm, năm này tháng nọ bí mật quan sát, rất nhiều chuyện sẽ không khó phát hiện.”

“Tống Mậu Chi đối với người trên độc đoán chuyên quyền, đối với người dưới ngang ngược càn rỡ, phụ thân lại đầy thiên vị, ba vị tộc lão đã hết sức bất mãn từ lâu, chất chứa tận đáy lòng không muốn trông thấy Tống Mậu Chi kế vị chưởng môn! Dương Hạc Ảnh âm độc ghen ghét, lòng dạ hẹp hòi, cha tự xưng là hào hiệp, chưa từng kiêng dè lời nói cử chỉ cho chu toàn, đắc tội nặng nề với tiểu nhân từ lâu.”

“Nom Quảng Thiên Môn như sắc màu rực rỡ, thực ra ẩn giấu nguy cơ, đáng tiếc cha và Mậu Chi mắt rỗng bụng lớn, không hề phát hiện hay đề phòng! Úc Chi thì kẹt tại Thanh Khuyết Tông không về được, nếu ta không đứng ra làm kẻ ác, thì lẽ nào đợi đến tộc nhân Tống thị triệt để trở mặt, ủ thành nội loạn ư?”

Câu này đã vướng mắc trong lòng Tống Tú Chi đã lâu, mà không thể thổ lộ nửa chữ với ai, làm một Tú Chi công tử ‘khiêm tốn ôn hòa hiền hậu đạm bạc’ nhất trong Quảng Thiên Môn, sao hắn lại có thể không những không nhắc nhở phụ thân huynh đệ mà còn mưu đồ từ sớm chứ?

Giờ đây đối mặt với Ma giáo đối thủ một mất một còn, trái lại hắn có thể phun ra rất nhanh.

Mộ Thanh Yến có phần hiểu: “Nói vậy, với tính nết của Tống Mậu Chi, cho dù ba vị tộc lão có thể chịu đựng thì con em trai tráng bên dưới cũng chưa chắc chịu nhẫn nhịn.”

Hắn lại nói, “Nói vậy, ngươi cấu kết Dương Hạc Ảnh, hãm hại Tống Mậu Chi, xâu chuỗi tộc lão, mưu đoạt chức chưởng môn, tất cả đều là vì nghĩ cho đại cục của Quảng Thiên Môn, hoàn toàn không có chút tư tâm?”

Tống Tú Chi nghẹn lời, một nỗi oán độc xấu hổ dâng lên từ đáy lòng.

Hắn cố nén cơn giận, ôn tồn nói: “Đại danh Mộ Giáo chủ như sấm bên tai, ta đây ở Quảng Thiên Môn cũng đã nghe thấy. Tuy Bắc Thần và quý giáo tranh chấp hai trăm năm, nhưng dù sao thì cũng là giang sơn Mộ gia dựa vào chính mình đoạt lấy, bị chú cháu Nhiếp thị đoạt quyền mấy chục năm quả khiến người cảm thán. Biết Mộ Giáo chủ đoạt lại gia nghiệp, báo thù rửa hận cho cha ông, ai mà không khen một câu thống khoái!”

“Dù rằng ta không dám nói không có chút tư tâm, nhưng nếu không phải Tống Mậu Chi vô năng, phụ thân bất công, còn người mẹ đáng thương của ta nữa…” Tống Tú Chi nói tới đây rơi lệ, “Bà vốn là một hầu gái nhỏ trong Quảng Thiên Môn thế mà kiểu gì Doãn Thanh Liên cũng không tha cho bà! Mẹ vừa sinh ta được vài năm, Doãn Thanh Liên đã nói bà bị bệnh, chuyển ra trang viên ở ngoại ô, không lâu sau bảo bệnh qua đời, sau ta mới biết, mới biết…”

“Doãn Thanh Liên hạ độc bà ấy? Chậm rãi hành hạ cho đến chết?” Mộ Thanh Yến có nhã ý bổ sung.

“Không sai!” Tống Tú Chi giận không kìm được, “Mẹ ta hiền lành yếu đuối, không hề có chủ trương, chủ gia bảo bà đi hầu công tử chả lẽ và dám không theo? Bà làm sai cái gì chứ! Nếu không phải mẹ để lại di ngôn trong gối, ta vẫn còn bị mơ mơ màng màng!”

Mộ Thanh Yến nghe đến đó, bỗng cười to, “Ha ha ha ha, đám gọi là danh môn chính phái các ngươi, làm chuyện gì cũng phải tìm cớ lý lẽ chính trực cho mình! Cái gì mà lấy đại cục làm trọng, cái gì mà vì nợ máu của mẫu thân… Chả lẽ Tống Mậu Chi nhân đức đủ mặt, Quảng Thiên Môn không ai phản đối, mẹ ngươi tự nhiên ốm chết, thì ngươi sẽ có thể ngoan ngoãn phò tá Tống Mậu Chi sao?”

Hắn dừng giễu cợt, tia mắt như đao đầy sương lạnh, “Đừng giả vờ này nọ nữa! Lý do duy nhất mà của âm mưu quỷ kế liên hồi của ngươi, là tự ngươi muốn làm chưởng môn, tự ngươi muốn quyền thế!”

Từ lúc trưởng thành đến giờ, lần đầu Tống Tú Chi bị quát đỏ bừng cả mặt, không cãi nổi.

“Còn nữa, ta chưa từng xem thường Nhiếp Hằng Thành.” Mộ Thanh Yến gằn từng chữ: “Mà ngược lại, ông ta có thể mưu quyền đoạt vị, khiến hơn nửa Giáo chúng tâm phục khẩu phục, đó là uy vọng ông ta núi đao biển máu chém giết mà có, ta vô cùng kính nể!” Vừa nói, hắn vừa ra cửa.

Tống Tú Chi bước lên một bước, do dự nói: “Ngươi hỏi xong rồi? Không còn gì à?”

Mộ Thanh Yến giơ tay áo trái, hư không phất về cửa lớn, quay lại nói: “Chuyện ta muốn biết đã biết, hỏi chuyện khác ngươi cũng không biết được.”

Hắn dừng đoạn, mỉm cười nói: “Đại công tử Tú Chi, ta xin tặng hai câu — vì lý do gì làm chút thủ đoạn này thì không sao, quan trọng là ngươi phải giữ vững quyền thế hiện giờ trong tay, cha ruột trở về cũng không thể cho! Chỉ cần ngươi giữ được, giữ thật kỹ, thật lâu dài, nhiều năm sau ngươi chính là người chi chính chính thống của Quảng Thiên Môn, đến chừng đó ngươi muốn ném bài vị Doãn Thanh Liên vào thùng nước rửa chén cũng không ai lên tiếng!”

Cảm xúc Tống Tú Chi dậy sóng, như bị khơi gợi dã tâm sâu nhất tận đáy lòng. Hắn không kìm được hỏi: “Mộ Giáo chủ, đại quyền trong tay, đúng là tươi đẹp thế sao?” — dù có hại chết cha ruột và anh em, đều đáng giá sao?

Lúc thốt lời, cửa chính Quảng Thiên Thánh Đường đã khẽ mở, loáng thoáng có thể thấy được Thánh Đường hộ pháp cách hai mươi bước đứng thành ba hàng phòng vệ.

Qua khe cửa dần mở, ánh nắng sáng sủa dần chiếu vào căn điện mờ tối, ánh lên phù điêu tinh xảo bằng ngọc đen bóng, thanh niên cao cao đứng khuất bóng, nửa người hòa lẫn trong ánh sáng nửa người chìm trong bóng đêm.

“Đâu chỉ tươi đẹp, mà thật sự là tuyệt không tả xiết.”

Hắn nâng đôi ngươi đen thẳm, nhìn ra nắng trời hơi ngẩn ra, “Chỉ cần có được quyền thế vô biên, ngươi muốn thứ gì được đó, vĩnh viễn sẽ không mất đi nữa, sẽ không bất lực nữa.”

Hết quyển 6 | Đầm Máu lặng thinhbà Quan: cuối cùng có thể viết đến cuối quyển, mệt chết được!

minh: hồi bà đi học, văn được mấy điểm mà chữ lắm thế, tui eddixx chết luôn rồi không còn biết mệt là gì nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 130: Quyển 7 | Sống núi vĩnh hằng


Tử Ngọc Kim Quỳ và tài liệu biến mất

“Giáo chủ, ngài lại xem này.”

Nghiêm Hủ đứng trong đại sảnh đen bóng to rộng, mở tung bốn quyển trục đặt song song, bày ra trên mặt đất.

“Đây là những quyển ghi chép lại những chuyện vụn vặt dòng dõi thê thiếp Giáo chủ các đời, bình thường rất ít ai xem.” Tiểu lão đầu thẹn thùng, “Ti chức lười biếng, cũng chưa từng xem qua.”

Mộ Thanh Yến nói: “Bổn tọa giống ông, chỉ đọc quyển tổng kết lịch sử Thần giáo, không rỗi đi rình chuyện nhà với chuyện phong hoa tuyết nguyệt Giáo chủ các đời.”

Nghiêm Hủ lau mồ hôi, “Kỳ quặc ngay ở chỗ này. Quyển tổng kết lịch sử Thần giáo đúng là chỉ ghi chép chuyện đoạt quyền mà các con trai con rể trải qua sau thời Giáo chủ Mộ Tung. Nhưng trong mấy quyển này lại nói Giáo chủ Mộ Tung còn có một vị trưởng tử mất sớm.”

Bốn quyển hồ sơ bằng lụa lăng hơi ố màu vàng thuỷ mặc như bốn dải trắng bắt mắt, trải ngang dọc trên mặt sàn bằng huyền thiết. Mộ Thanh Yến lẳng lặng đứng ở một bên, cúi đầu xem xét.

“Giáo chủ ngài xem này, ba quyển này, trải toàn bộ ra cõ độ dài xấp xỉ nhau.” Nghiêm Hủ chỉ vào ba dải lụa trắng đầu, “Chỉ có một quyển này, ngắn tròn hơn trượng.” Ông chỉ vào dải thứ tư.

“Quyển này là quyển ghi chép một đoạn quá khứ trước khi Giáo chủ Mộ Tung qua đời, có người xé đi một phần nội dung trong đó.” Khuôn mặt già nua của Nghiêm Hủ hưng phấn đỏ lên.

“Người này làm rất khéo.” Lão già nhẹ nâng đoạn giữa cuốn lụa lên, giơ cho Mộ Thanh Yến xem, “Hắn cố ý hơ lửa chỗ này và nối vào mảnh lụa mới, như cố tình không muốn để cho ai biết chuyện về con trưởng của Mộ Tung.”

“Càng không muốn để ai biết, Nhiếp Hằng Thành càng muốn biết.” Mộ Thanh Yến nói.

“Giáo chủ nói đúng lắm.”

Nghiêm Hủ thả cuốn lụa dài, bưng chồng sách dày trên đất đến, “Chấp Bút Sứ giả nhận lệnh ghi chép sử giáo vì để đảm bảo hồ sơ Thần giáo không có sai sót, thường sẽ chép từng chuyện vào một bản chép tay bên người trước, đợi khi rảnh rỗi mới nghiêm túc chép vào hồ sơ.”

Ông nói: “Vị Sứ giả ghi chép đoạn quá khứ này họ Khúc, tên Khúc Linh Lung.”

Mộ Thanh Yến hơi kinh ngạc: “Là nữ?”

“Đúng vậy, là một nữ Trưởng lão tu vi cao thâm.” Nghiêm Hủ nói, “Hiện nay con cháu Khúc Trưởng lão đã mờ nhạt dần khỏi những chức vị quan trọng của thần giáo, đang giữ một chân giữ kho ở một chân núi yên ắng. Toàn bộ bản chép tay của Khúc Trưởng lão bọn họ đều được lưu trữ trong một căn mật thất, lúc ta đến hỏi thăm, bọn họ nói hai mươi năm trước Nhiếp Hằng Thành cũng từng đòi họ bản chép tay này, đã cầm đi một bản trong đó.”

Nghiêm Hủ mở tầm mười quyển sách bình thường ra, chừa một chỗ ở giữa, “Mấy bản ghi chép này đều ghi lại chuyện trước mặt sau lưng của Giáo chủ Mộ Tung, quyển Nhiếp Hằng Thành lấy đi— chính là quyển liên quan tới người con trưởng!”

Mặt lão già đầy mê muội, “Rối cuộc trưởng tử của Giáo chủ Mộ Tung đã gặp chuyện gì, sao lại phải che đậy cuộc đời của ông ta chứ?”

Mộ Thanh Yến không trả lời, hỏi lại: “Đây là toàn bộ phát hiện của ông à?”

“Không không, không!” Nghiêm Hủ vội nói, “Ti chức còn một phát hiện lớn nữa!” Ông đẩy hết mớ sách trước mặt, “Chúng đều là giả!”

“Giả?” Mộ Thanh Yến rốt cuộc giật mình, “Là chuyện thế nào!”

Mắt già Nghiêm Hủ tỏa sáng: “Người làm giả nó thật sự rất tốn công sức, chẳng những có thể bắt chước nét bút lấy giả làm thật, mà nghị lực bền bỉ cũng là hiếm thấy trong cuộc đời ti chức! Vì để lấy niềm tin của Nhiếp Hằng Thành, đã chép hết mấy bản chép tay này giả cả một bộ!”

Mộ Thanh Yến nhíu mày: “Nếu hắn có thể bắt chước nét bút người khác, thì viết chỗ quan trọng thôi là được, cần gì phải chép chúng lại hết một lần chứ.”

“Giáo chủ có chỗ không biết.” Nghiêm Hủ nói, “Nét bút có thể bắt chước, nhưng giấy mực trăm năm trước đều là vật cũ. Mấy quyển này gần như viết cùng một thời, hẳn phải cũ như nhau, nếu chỉ làm giả mỗi một bản không phải dễ nhìn ra sơ hở sao. Dứt khoát dùng giấy cũ, dùng bút tích bắt chước chép lại tất cả một lần!”

“Thảo nào Nhiếp Hằng Thành không sinh nghi — từ một thiếu niên quê mùa chẳng biết mấy chữ, sau mấy năm ngắn ngủi đã có thể bắt chước bút tích người khác, bản lĩnh thật sự!” Mộ Thanh Yến tự lẩm bẩm.

“Sao Nghiêm Trưởng lão lại phát hiện sơ hở trong đó?” Hắn quay lại hỏi.

Nghiêm Hủ giấu niềm tự hào đầy bụng, mặt hồng hào như cây già gặp xuân: “Ti chức cẩn thận lật xem cuộc đời Khúc Trưởng lão, phát hiện khi bà còn sống khá thích thư pháp, dáng vẻ lại xinh đẹp, rất nhiều người ngưỡng mộ dưới váy.” Nhắc lại chuyện phong nguyệt nam nữ, lão lưu manh vạn năm không kìm được cười hắc hắc hắc ngây ngô.

Mộ Thanh Yến tức giận liếc xéo: “Nhặt điểm quan trọng mà nói!”

“Vâng vâng vâng.” Nghiêm Hủ cố gắng ngừng cười ngây ngô, “Người ngưỡng mộ có nhiều nữa cũng vô ích, Khúc Trưởng lão lạnh như băng, sắc mặt trơ trơ trước tất cả đám đàn ông…”

Mộ Thanh Yến nghĩ thầm, đã trơ mặt với tất cả bọn đàn ông, thì đứa con của bà ấy là ở đâu chui ra — hắn vốn không phải người hay tò mò, nhưng ở chung lâu ngày với cô bé nào đó, cũng nhiễm phải thói hư này.

Hắn khẽ mỉm cười, không hỏi gì.

Nghiêm Hủ nói: “Lúc ấy trong giáo có một vị Đàn chủ, ái mộ Khúc Trưởng lão như si như cuồng, song thần nữ vô tình, ông ta thừa lúc Khúc Trưởng lão ra ngoài, chui vào phòng bà, rập lại hầu hết bản chép tay của bà!”

Mộ Thanh Yến bật cười: “Trên đời còn kỹ thuật đó sao? Bổn tọa tưởng chỉ có chữ khắc trên bia mới rập được chứ.”

“Có, đương nhiên là có.” Nghiêm Hủ nói, “Có một loại nước thuốc hiếm có, bôi lên mặt giấy da dê, dùng lực ép lên trang giấy nguyên gốc. Khi mở ra, tấm da dê sẽ có thể in lại toàn bộ nét mực chữ nguyên văn một lần.”

“Thế chả lẽ văn tự ban đầu không phai đi một lớp mực sao?” Mộ Thanh Yến hỏi.

“Đúng thế, nên Khúc Trưởng lão vừa về đến đã phát hiện, giận không kìm được muốn bắt người hỏi tội!” Nghiêm Hủ lại cười ngây ngô, “Ai ngờ chưa kịp lộ ra thì vị Đàn chủ kia đã chết ở bên ngoài, chuyện cứ thế không giải quyết được gì, ha ha, ha ha.”

Đôi ngươi màu mực của Mộ Thanh Yến lóe lên, “Nghiêm Trưởng lão tìm được những bản giấy da dê ấy à?”

“Tìm được!” Nghiêm Hủ hứng thú bừng bừng lôi ra một xấp giấy mỏng ố vàng trong rương ra, “Vị Đàn chủ ấy có một bộ hạ trung thành, thương tiếc Đàn chủ nhà mình chẳng qua là Tương Vương có ý, bèn dối Khúc Trưởng lão rằng không tìm được mấy tấm da dê ấy, thật ra là để vào quan tài của Đàn chủ, xem như chôn cùng.”

(*) Tương Vương hữu ý thần nữ vô tâm, trích Thần Nữ phú, tương tư đơn phương.

Mộ Thanh Yến nhắm lại mắt dài: “Thế là ông cho đào mộ phần người ta?”

“Tận trung với Giáo chủ nào có thể gọi là trộm mộ chứ?” Nghiêm Hủ cây ngay không sợ chết đứng, lập tức cười lấy lòng, “Sau đó ta đã cho chôn cất Đàn chủ kia lại rồi, không thiếu một khúc xương.”

Mộ Thanh Yến nhìn mớ giấy dày chằm chằm, do dự nói: “Chuyện Đàn chủ kia rập lại bản chép tay của Khúc Trưởng lão ấy, sao Nhiếp Hằng Thành lại không biết?”

“Bởi vốn dĩ chuyện này không cho người ngoài biết!” Nghiêm Hủ lớn tiếng, “Cũng đâu phải chuyện gì hay ho, huống hồ người cũng đã chết, Khúc Trưởng lão vốn không để lộ ra.”

“Vậy sao ông lại biết?”

“Giáo chủ đoán xem người bộ hạ trung thành với Đàn chủ kia họ gì?” Nghiêm Hủ che miệng cười trộm.

Mộ Thanh Yến nhắm mắt: “Không phải là họ Nghiêm chứ.”

“Giáo chủ thần cơ diệu toán, người bộ hạ trung thành kia chính là tổ phụ của ti chức!” Nghiêm Hủ nhăn nhở khuôn mặt già cười thành một đóa cúc, “Từ nhỏ ti chức đã nghe tổ phụ nhắc lại chuyện xưa, bảo con cháu lấy đó mà làm gương — hèn chi tên của Đàn chủ kia thật quen thuộc, thật là trời xanh có mắt mà!”

“Lần này đúng là ông trời giúp đỡ rồi.” Mộ Thanh Yến cười khẽ.

“Mời Giáo chủ tìm đọc!” Lão già vẻ đầy trung thành hai tay dâng tấm da dê, “Xấp này đều có ghi lại mọi quá khứ liên quan tới trưởng tử của Mộ Tung. Ti chức đọc không hiểu mấy, hình như là người con trưởng đó đã luyện một môn công phu kỳ quái, làm Mộ Tung giận dữ, suýt nữa cha con bất hoà.”

“Dù ti chức không biết người làm giả đã viết cho Nhiếp Hằng Thành cái gì, nhưng trên bản rập này nhất định là thật!”

*

Sắc trời vừa sáng, Thái Chiêu đã tự tỉnh giấc.

Đệm chăn phơi no nắng, tản ra mùi lười biếng dễ ngửi, mềm như mây; đưa tay lần mò trong gối, sờ đến một chiếc hộp hình bí đỏ quen thuộc. Không cần mở ra, Thái Chiêu đã biết bên trong có gì, là quả khô chua ngọt khiến người nhìn tới là ứa nước bọt, là thịt khô mềm dày ngọt, là bánh đậu tây mềm nhũn vào đến miệng là tan chảy…

“Ê, tiếng chít chít chóp chép này là tiếng gì nhỉ, lẽ nào là chuột con đang ăn trộm đồ. Mau đi xách bẫy chuột đến, xem ta có kẹp được ngón chân nó không nào!”

“Đừng đừng… Là con đang ăn vặt, cô cô đừng kẹp ngón chân con!”

Thái Chiêu vùi đầu vào gối, giọng người phụ nữ dịu dàng như trêu chọc phảng phất như vẫn quanh quẩn bên tai.

Mở mắt ra, một phòng im ắng.

Lúc nhỏ, bé Thái Chiêu ngủ không đủ giấc, còn không phải là do cô cô cứ luồn bàn tay mang hơi lạnh vào chăn, túm lấy tai cô, như nuôi một con mèo con lười mũm mĩm, giục cô đi luyện công. Lúc đó, ổ chăn thơm thơm mềm mềm là chỗ cô hài lòng thoải mái nhất. Giờ đây, tựa như có phần không giống nữa.

Hơn một năm nay, cô ngủ ở rất nhiều nơi.

Chăn đệm Tông môn sạch sẽ ngăn nắp lại lạnh như băng, nhìn là biết không phơi đủ nắng, mà là trực tiếp dùng gió núi có thể thổi bay người thổi khô; khung giường khách đi3m nhỏ chốn thôn quê vừa khẽ đụng vào là lung lay kẽo kẹt, chăn mền hoặc toả ra mùi ẩm ướt, hoặc hun sấy khô bằng củi than; chiếc giường lớn hoa lệ khảm nguyên tấm xà cừ Bắc Hải trong cung Cực Lạc, từ đầu giường đến cuối giường nạm vàng khảm ngọc khắp chốn, cũng không ngại cấn người muốn thốn — khẩu vị của người trong ma giáo quả rất chênh lệch.

Cũng không biết phải chăng do mình cao lớn hơn, mà cảm giác giường trong nhà đã hơi chật chội, còn không bằng nằm tự tại trên tảng đá xanh to cứng lạnh lẽo trong sơn động đối mặt vào tường hối lỗi kia.

Thái Chiêu khoác áo, ngồi vào bàn rót cho mình chén nước lạnh, chiếc lò xông hương hình con cóc bằng sứ trắng hơi cũ lạnh dần, vẫn còn phun mùi cam ngọt êm ái trong trẻo. Bánh hương là do Ninh Tiểu Phong dùng vỏ quýt long não trầm hương và lê giòn chưng chế thành, trước lúc Thái Bình Thù qua đời chịu đủ tra tấn của cơn đau, chỉ có huân hương loại này mới giúp bà yên bình chìm vào giấc ngủ.

Uống một hơi cạn sạch nước, Thái Chiêu vô thức lật tàn hương trong bình sứ nhỏ xem đi xem lại, suy ngẫm đầy cõi lòng —

Ba ngày trước cô cùng Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia đã đến Lạc Anh Cốc.

Nhìn thấy song thân mạnh khỏe không việc gì, Thái Chiêu rất hân hoan, lại biết thật ra Tống Thời Tuấn đã tỉnh dậy hai lần, song thương thế quá nặng, lại mê man tiếp.

Thấy Tống Úc Chi bi ai cực kỳ, Thái Chiêu không kìm được an ủi: “Tam sư huynh đừng quá khó khăn, Tam Thúc tổ nhà anh cũng là nhân vật bậc nhất trên giang hồ, huống chi ông ấy còn hơn lệnh tôn mấy chục năm công lực. Hai người dốc toàn lực đáp trả, tất nhiên sẽ bị tổn thương. Tam thúc tổ nhà anh giờ cũng đã qua thất*, còn lệnh tôn gì thì gì cũng có thể cứu về.”

(*) tuần ma chay sau khi chết.

Nói bừa lý không bừa, Tống Úc Chi cuối cùng tỉnh lại, ngày ngày toàn tâm toàn ý hầu cha chải đầu lau người, giúp Phàn Hưng Gia ra ra vào vào chuẩn bị thuốc châm cứu.

Đợi trời tối người yên, Thái Chiêu và vợ chồng Thái Ninh vào trong mật thất, đem tất cả những gì trải qua một năm nay từ đầu chí cuối nói cho song thân.

Từ lúc Thái Bình Xuân bỗng mất tích trong trấn Thanh Khuyết, phát hiện Thiên Tuyết Thâm cô nhi Thiên Diện Môn, chạy đi vùng cực bắc Đại Tuyết sơn tìm tiên dịch Tuyết Lân Long Thú, kết quả trên đường gặp được bọn Chu Trí Khâm Đoạn Cửu Tu và đám Tuyết Nữ — đây là lần đầu tiên cô và Mộ Thanh Yến biết những chuyện râu ria liên quan tới Tử Vi Tâm Kinh, cũng là lần đầu biết đến chuyện Thái Bình Thù và Mộ Chính Dương.

Ninh Tiểu Phong đầy sợ hãi: “Chu Trí Khâm đã chết ở Đại Tuyết Sơn rồi ư! Các chị Trí Nhàn đều cho là anh ta còn ở bên ngoài tìm hài cốt con trai nữa chứ!”

“Thì ra cái chết của Trần Thự hai mươi năm trước còn có cơ mật bực này!” Thái Bình Xuân cũng biến sắc, “Chu Trí Khâm này, hừ, từ đầu ta đã nhìn ra trên mặt hắn chỉ là gió thoảng mây trôi nhưng thực ra rất không phục Chu Trí Trăn đại ca! Không ngờ vì tu luyện tà công, hắn lại cấu kết cùng yêu nhân Ma giáo!”

Thái Chiêu trầm tư một lát: “Con gái đã nhận lời Tuyết Nữ và Thiên Tuyết Thâm, vĩnh viễn không đề cập chuyện của bọn họ, nên mới một mực không nói.”

“… Con làm đúng đó.” Ninh Tiểu Phong thở dài, “Ôi, hai đứa chúng nó cũng là kẻ đang thương giữa trần thế, cứ để chúng yên lặng ẩn cư ở vùng tuyết vực thế ngoại đi. Năm đó không phải chị Bình Thù cũng không nhắc đến một chữ sao, ta cũng không biết chị ấy từng đi đỉnh núi tuyết.”

Sau đó Thái Chiêu bắt đầu kể lại chuyến đi dãy Hãn Hải cùng Tống Úc Chi, giúp Mộ Thanh Yến san bằng nội loạn Ma giáo — Nhiếp Đề, Hàn Nhất Túc, Vu Huệ Nhân, Lý Như Tâm, Thực Cốt Thiên Vũ, mê cảnh địa cung hùng vĩ, giai thoại của Mộ Đông Liệt và La Thi Vân…

Quan trọng nhất là, trước khi Nhiếp Đề và Tôn Nhược Thuỷ bị diệt khẩu đã để lộ ra chuyện, có kẻ thần bí sau màn bao năm qua vẫn luôn cấu kết với Ma Giáo, cái chết của Mộ Chính Minh và huyết án Thường gia ổ Bảo đều là mưu đồ âm thầm của kẻ sau màn kia.

Nghe xong đoạn này, phản ứng Ninh Tiểu Phong rất bình thường, đầu tiên là thở thật dài, nói: “Hầy, thật không ngờ yêu nghiệt Ma giáo cũng có trải qua những chuyện không dễ dàng, ân oán kéo dài mấy đời người này…”

Sau đó trừng mắt hạnh thật to, “Chiêu Chiêu mi họ Thái chứ không phải họ La, không được phép nghe vài ba giai thoại xưa là suy nghĩ lung tung! Theo yêu nghiệt Ma giáo thì có kết cục gì tốt chứ, có nhà nhưng không về được, có người thân không thể gặp, chỉ có thể tránh đi chân trời góc biển, như cô hồn dã quỷ vậy, mi nhớ lấy cho mẹ!”

Thái Chiêu cũng không luôn miệng thưa vâng như thường lệ để dỗ mẹ, im lặng một lát sau nhẹ nhàng nói: “Thúc Tổ phụ Thái Trường Phong có để lại một bản ghi chép bảo rằng, chân trời góc bể cũng có phần rực rỡ khác.”

Ninh Tiểu Phong suýt thì giận lòi mắt, vừa ngoái đầu: “Anh Tiểu Xuân xem con bé chết tiệt này này…” thì mới phát hiện phản ứng chồng mình rất không bình thường.

Thái Bình Xuân cau mày bàng hoàng hồi lâu, nghe vậy mới ngẩng đầu: “Nhiếp Đề có con trai à, không phải gã ta không thể có con sao?”

Hai mẹ con đều giật mình, tuy là nguyên cớ giật mình khác nhau, nhưng cả hai đều vội hỏi làm thế nào Thái Bình Xuân biết được.

“Năm đó không phải Triệu Thiên Phách sai người đoạt bảo kiếm gia truyền của Mâu Kiến đại ca sao, còn đánh các chú bác nhà họ Mâu đến gần chết. Mâu đại ca giận không nhịn nổi, bèn kéo A tỷ đi bắt Nhiếp Đề lấy nó để uy hiếp Nhiếp Hằng Thành.” Thái Bình Xuân nói.

Ninh Tiểu Phong nghi hoặc: “Sao em không biết?”

“Bởi đó là điều kiện của Triệu Thiên Phách.” Thái Bình Xuân nói, “Hắn phái người báo cho chị ấy, hy vọng hai bên ngầm giao dịch, một tay giao người, một tay giao kích. Đến chừng ấy hắn có thể nói là mình vô ý, bảo kích nhà họ Mâu bị các anh chị ấy đoạt lại. Nếu chuyện bị hé lộ, với tính tình tàn nhẫn của Nhiếp Hằng Thành thì thà không cần đứa cháu không ra hồn kia cũng không chịu cúi đầu nhịn nhục.”

“Họ Triệu phúc hậu thật đó, tình nguyện để mình bị sư phụ trách phạt.” Thái Chiêu nói.

Thái Bình Xuân nói: “Đệ tử lão ma đầu ấy đều rất hiếu thuận, tuy Triệu Thiên Phách chướng mắt Nhiếp Đề, nhưng nghĩ tới cảnh cả đời Nhiếp Hằng Thành không vợ không con mới không đành lòng nhìn dòng máu họ Nhiếp bị tổn hại.”

“Sau đó thì sao, việc đó thì có liên quan gì đến chuyện Nhiếp Đề có thể có con hay không?” Ninh Tiểu Phong hỏi tiếp.

“Lúc chị với Mâu đại ca ra ngoài tìm Triệu Thiên Phách thương lượng, ta nhận lệnh trông coi Nhiếp Đề.” Thái Bình Xuân nói, “Lúc ấy Nhiếp Đề bị chút vết thương nhẹ, ta mới cho Lão Hoàng hỗ trợ băng bó chữa trị. Ai ngờ sau đó Lão Hoàng lén bảo ta, ‘Lúc nhỏ tên nhóc họ Nhiếp này từng mắc bệnh quai bị, để lại hậu quả, e là không thể có hậu’.”

Ninh Tiểu Phong lấy làm kỳ quặc: “Không phải Lão Hoàng chỉ bán rượu sao? A, thì ra mọi người nhốt Nhiếp Đề trong hầm rượu của Lão Hoàng.”

“Lão Hoàng cũng không phải sinh ra chỉ bán rượu, tổ tiên nhà ông ấy hành nghề y, nhất là mẹ Lão Hoàng, chuyên trị mấy bệnh vặt trẻ con.” Thái Bình Xuân nói, “Với cái tính của Lão Hoàng, chuyện không nắm chắc sẽ không dễ dàng mở miệng.”

Ninh Tiểu Phong hơi mù mờ, “Vậy đứa con Nhiếp Đề kia ở đâu ra nhỉ?”

Thái Bình Xuân dấp ngón tay vào nước trà nguệch ngoạc mấy nét, chợt cười nói: “E là do Vu Huệ Nhân và Lý Như Tâm tư thông sinh ra, hai người xem…”

— trên mặt bàn viết ba chữ ‘Vu Huệ Nhân’ 于惠因 một hàng ngang, phía dưới lại viết ngang ba chữ ‘Lý Như Tâm’ 李如心, Thái Bình Xuân hợp hai chữ ‘Vu’ và ‘Tâm’ trên dưới lại, vừa lúc là chữ ‘ n’ 恩, n của Nhiếp Tư n.

Thái Chiêu tâm phục khẩu phục: “Cha, người đúng là liệu sự như thần, đúng là thế ạ.”

Lúc nghỉ ngơi trong căn lều nhỏ khu rừng rậm, cô đã từng hỏi kết cục của đám Lữ Phùng Xuân, Mộ Thanh Yến hờ hững nói — Nhiếp Đề đúng là không thể có con, Nhiếp Tư n chính xác là con của Lý Như Tâm với Vu Huệ Nhân.

Cô lại nghĩ, thảo nào bác Chu luôn bảo cha là ông cụ non, miệng vụng tâm tuệ. Rất nhiều chuyện trong lòng Thái Bình Xuân đều rõ mồn một, chẳng qua là nhìn quá thấu nên không nói ra miệng.

“Cha.” Thái Chiêu chợt khẽ động, “Chuyện Nhiếp Đề này còn có ai biết không ạ?”

“Cuộc giao dịch tổng cộng chưa đến ba ngày đã chấm dứt, người biết chuyện chỉ có bốn người chúng ta.” Thái Bình Xuân nói, “Chị ấy không thích nhất là lột trần điểm yểu người ta. Ta không kể với ai, không lâu sau Lão Hoàng vì vết thương cũ tái phát đã chết, nhưng còn Mâu đại ca…”

Ông hơi chần chừ, “Chuyện ngầm xấu xa ba đường dưới như này*, ắt Mâu đại ca cũng chẳng rêu rao khắp chốn, nhưng có lẽ có thể nhắc tới đôi câu với người thân cận.”

Thái Chiêu ngừng thở: “Bác Mâu thân với ai nhất ạ?”

Một ý niệm mơ hồ nảy ra trong đầu cô, trước đó Mộ Thanh Yến nói người sau màn từng lấy chuyện Lữ Phùng Xuân lén thu gom binh giới lương thảo bên ngoài để uy hiếp, buộc lão phản loạn, như vậy gã ấy đã lấy chuyện gì áp chế Vu Huệ Nhân đây?

Theo Thái Chiêu thấy, với một người như Vu Huệ Nhân không có dã tâm bừng bừng nói làm liền làm, tất nhiên là đã cầm đằng chuôi khiến hắn ta thân bại danh liệt vạn kiếp bất phục thì hắn mới có thể lấy dũng khí đâm Hồ Phượng Ca một đao.

Mộ Thanh Yến cũng vô tình phát hiện ra bí mật này trong cuộc điều tra hạ bệ đám phản tặc toàn diện. Mười mấy năm nay Lý Như Tâm Vu Huệ Nhân rất ít khi gặp nhau, người bình thường cũng không vô duyên vô cớ suy nghĩ theo hướng đó.

“Không nhiều, nhưng cũng không ít. Có điều…” Thái Bình Xuân như đoán được suy nghĩ trong lòng con gái, “Sư phụ con và cậu em nhỏ chết yểu của Mâu đại ca sinh cùng tháng, do đó Mâu đại ca chiếu cố nhất là sư phụ của con.”

Trong lòng Thái Chiêu đầy lo sợ ngờ vực, sắc mặt trắng bệch. Cô thấy vẻ mặt cha như thường, không kìm được nói: “Cha không hề lo lắng rằng kẻ sau màn làm nhiều chuyện ác ấy có thể là người vô cùng gần gũi với chúng ta sao ạ?”

Thái Bình Xuân thản nhiên nói: “Lạc Anh Cốc yên yên ổn ổn đã hai trăm năm, là dựa vào chỉ lo cho chính mình, ít tham gia tranh chấp trên giang hồ. Nếu không có sự lạnh lùng thờ ơ của đời đời các thế hệ, cũng không sống tới bây giờ.”

Thái Chiêu đầy mờ mịt, Ninh Tiểu Phong vỗ vỗ bàn tay con gái, ra hiệu cô kể tiếp.

Sau khi Mộ Thanh Yến đoạt giáo quyền, Thái Chiêu về Thanh Khuyết Tông sống nề nếp một quãng thời gian rất dài, mãi đến hôm đi Thường gia ổ Bảo tế điện, yên ổn lại một lần nữa bị phá vỡ. Cô và Mộ Thanh Yến phát hiện ra mộ huyệt dưới lòng đất của Lộ Thành Nam, từ vật chôn cùng đã đoán ra chỗ quy ẩn của anh em nhà họ Thạch, trải qua một trận bị tập kích đánh giết đêm mưa, cuối cùng bị dòng họ Thạch thị đã ẩn cư lượm đi.

Thạch Thiết Sơn chuyển đạt lại lời trăn trối của Lộ Thành Nam cho hai người, và nguyên nhân khiến Nhiếp Hằng Thành lúc tuổi già điên cuồng giết chóc ngang ngược — đây là lần thứ hai bọn họ biết đến bí mật liên quan đến Tử Vi Tâm Kinh.

Sau đó trong lời tự thuật của Quách Tử Quy về chuyện quá khứ, Mộ Thanh Yến đoán được Vương Nguyên Kính đã thấy chết không cứu Vũ Nguyên Anh, từ đó suy ra Vương Nguyên Kính đã bị uy hiếp bởi kẻ sau màn, đã thiết kế thăm dò ra vị trí của Thường thị ổ Bảo.

Thế là hai người quyết định đêm đó thăm dò Thái Sơ Quán, ép hỏi Vương Nguyên Kính. Ai ngờ thất bại trong gang tấc, Vương Nguyên Kính vừa định thổ lộ thân phận kẻ sau màn đã bị đâm bỏ mình.

Chuyện về sau, tất cả đã biết.

Nhắc đến Quách Tử Quy, Ninh Tiểu Phong không khỏi đau lòng một hồi.

Thái Bình Xuân nhìn con gái chằm chằm, chợt hỏi một chuyện không liên quan, “Thì ra là Mộ Thanh Yến đã rủ con cùng đi điều tra huyết án nhà họ Thường từ trước — chuyện Chu Ngọc kỳ không chút báo trước khóc lóc đòi giải trừ hôn ước, Mộ Thanh Yến có động tay chân không đó?”

Thái Chiêu cực xấu hổ: ” y da cha, nói chuyện chính đi, ngài đừng nói nhăng nói cuội mà!”

Ninh Tiểu Phong nín khóc mỉm cười, “Hai cha con các người, thực sự là… Này!”

Bà lại nói, “Vừa rồi hai người đã nghi ngờ có thể Thích Vân Kha từ chỗ Mâu đại ca biết được chuyện Nhiếp Đề vô sinh, nhưng cái lần Doãn Đại triệu tập mọi người đánh vào U Minh Hoàng Đạo, Thích Vân Kha đâu có đi, vậy thì sẽ không nhìn thấy Vương Nguyên Kính lạc vào ngục Bát Trảo để uy hiếp hắn ta. Hơn nữa, đêm Vương Nguyên Kính bị giết, Thích Vân Kha vẫn luôn dông dài thảo luận chuyện hôn sự của Chiêu Chiêu với chúng ta, còn nói quá trời thứ tốt cho Tống Úc Chi, chưa từng rời đi một bước, còn có…”

Bà hơi lưỡng lự, “Mẹ vừa sực nhớ ra. Mẹ của Mâu đại ca, bà ấy, bà ấy họ Chu, thuộc nhánh phụ của Bội Quỳnh Sơn trang. Xét tỉ mỉ thì, Mâu đại ca và Chu Trí Trăn cũng là anh em họ, có thể nào…?”

Ninh Tiểu Phong muốn nói lại thôi, hai cha con bên cạnh đều hiểu ý bà — Chu Trí Trăn cũng có khả năng biết chuyện Nhiếp Đề vô sinh, huống hồ đêm Vương Nguyên Kính bị giết, ông nghỉ ngơi một mình trong phòng, không có bằng chứng.

“Ôi, sao lại dây vào người bác Chu chứ.” Thái Chiêu lẩm bẩm, “Ban đầu con còn nghi ngờ trưởng bối nhà Tam sư huynh kia. Cho dù là Tông chủởng môn cha anh ấy hay là Tam thúc tổ nhà đó, đều có tu vi cao thế lực lớn, nom cũng rất dáng vẻ có dã tâm. Giờ thì hay rồi, một chết một bị thương, khẳng định không phải là bọn họ…”

Con đường phía trước sương mù dày đặc, Thái Chiêu đành kể tiếp.

Lần này, cô kể hết chuyện bản chép tay riêng tư bí mật của Doãn Đại, từ đó suy tính ra bí mật cuối cùng của Tử Vi Tâm Kinh — tức là ba nan đề để vượt ải ba thành, vợ chồng Thái thị vợ chồng thế mới biết được nguyên nhân đến cùng con mình nhất định phải tìm đến Đầm Máu.

Nghe Doãn Đại ngồi nhìn Thái Bình Thù một mình lên đ ỉnh Đồ Sơn tru sát Nhiếp Hằng Thành, Ninh Tiểu Phong giận đỏ ngầu hai mắt, đập tay lên bàn: “Doãn Đại lão nhi lừa đời lấy tiếng, cậy thế lộng quyền, ép chị Bình Thù của ta chỉ có thể dùng mệnh đối mệnh với Nhiếp lão tặc, khiến cho nửa đời tàn tật! Bảo với Thích Vân Kha, hết hy vọng đi, chỉ dựa vào việc trên người Tống Úc Chi có một nửa dòng máu họ Doãn cũng đừng nghĩ làm con rể ta!”

“Được rồi được rồi, tội lỗi không đổ lên cha mẹ vợ con.” Thái Bình Xuân trấn an vợ ngồi xuống, “Nếu không nhờ Úc Chi nó vô tư lôi bản ghi chép của Doãn Đại ra thì chúng ta cũng không biết những việc này.”

Ông quay lại, “Chiêu Chiêu, giờ con tính thế nào. Tìm Tử Ngọc Kim Quỳ ư?”

Thái Chiêu gật đầu, lấy từ trong túi đeo hông một tờ giấy phác thảo phỏng lại Tử Ngọc Kim Quỳ đưa ra, “Trước nay con vẫn luôn không dám tìm nó, cứ cảm thấy một món đồ cô cô đã cố ý giấu đi thì cứ để nó lẩn trong thế gian vậy. Giờ Dạ Lan trong Đầm Máu đã thiêu hủy cả, cho dù có Tử Ngọc Kim Quỳ cũng không luyện được Tử Vi Tâm Kinh. Để loại người như Tống Tú Chi đoạt chức chưởng môn Quảng Thiên Môn tuyệt đối không phải phúc của người đời. Nên là giúp Tam sư huynh khôi phục công lực, nhanh chóng cướp lại chức chưởng môn mới phải.”

Ninh Tiểu Phong lật bản vẽ nhìn tới nhìn lui, “Đây là Tử Ngọc Kim Quỳ? Sao giống một cục đá đen sì thế.”

Thái Chiêu vội giải thích: “Nghe nói ban đầu ở lớp ngoài vốn có một lớp cánh hoa quỳ bằng vàng lấp lánh, là người Ma giáo không giữ cẩn thận, sau một trận lửa lớn, vàng bị nung chảy hết mới trở thành như thế.”

Thái Bình Xuân cũng nhìn bản vẽ mấy lần, cuối cùng đánh nhịp: “Được, mấy hôm nay chúng ta lục tung trên trấn trong cốc một lần, xem có thể tìm ra Tử Ngọc Kim Quỳ này không.”

*

Nước nguội trong ấm trà đã uống xong, tàn hương trong lò sứ trắng nhỏ cũng bị đốt không còn tia lửa, Phù Dung ở bên ngoài cười hì hì gõ cửa, “Tiểu tiểu thư nên rời giường rồi, mặt trời đã chiếu cái rắm nắng…”

“Tiểu tiểu thư đã lớn, cô đừng nói mấy lời khó nghe thế nữa.” Phỉ Thúy hờ hững cắt lời, sau đó đập cửa phòng rầm rầm động trời, “Hôm qua là cô bảo bọn tơi đến kêu cửa, nếu không rời giường tôi giội nước lạnh á!”

Thái Chiêu ngửa mặt lên trời thở dài, xụ mặt mở cửa: “Chờ mọi chuyện kết thúc, ta nhất định phải dẫn hai chị làm quen với một chị tên là Tinh nhi cô nương Ma giáo — xem người ta xem, đó mới là dáng vẻ làm tỳ nữ, hiền lành nhỏ nhẹ, dịu dàng quan tâm. Nào giống hai chị, hung thần ác sát, kiêu căng phách lối. Có đi chăn heo, heo cũng bị hai chị tức chết á!”

Hai tỳ nữ từ trong lòng đến ngoài mặt đều không chút gợn sóng, cùng vỗ tay bốp bốp bốp.

“Tiểu tiểu thư nói rất hay, đa tạ tiểu tiểu thư khích lệ. Đợi lấy chồng rồi tôi sẽ mổ heo, mai này lễ tết sẽ dâng hai cục dồi béo cho tiểu tiểu thư nếm thử.”

“Giáo chủ Ma Giáo cũng đâu có thấy một con heo thì mắt sáng xanh rờn đâu, chứng tỏ tôi với Phù Dung nuôi cô tốt hơn heo nhiều. Chỉ là hại hai bà già bọn tôi cứ phải bôn ba lẩn tránh — lần này vừa thấy tình hình không đúng, bèn lập tức trong đêm trốn về Lạc Anh Cốc.”

“… Rồi rồi, đi chải đầu mặc đồ thôi.” Từ nhỏ đến lớn, Thái Chiêu không nói thắng nổi hai bà cô này.

*

Hôm nay sắc trời u ám, mưa phùn lất phất, Thái Chiêu cầm cây dù giấy đi lang thang trong trấn chẳng có mục đích, bước vào một tiệm mì hoành thánh quen thuộc, ngồi xuống gọi chén hoành thánh.

Cầm thìa ăn hai muỗng, cô nhíu mày: “Bà chủ, nước dùng mì lần này không đúng rồi, có phải canh xương đổi nước rồi không! Cháu còn chưa tính toán thịt trong nhân bánh là thịt chân giò trước hay thịt chân sau, nhưng phần hành xắt này, cháu nói bao nhiêu lần rồi, nhất định phải là mới xắt, chứ đừng xắt qua cho để vào, bà xem nó chẳng còn đẹp…”

Bà chủ quẳng mạnh cái thìa lớn, chửi ầm: “Tiểu Chiêu này từ lúc chưa dứt sữa đã biết húp mì ở cửa tiệm nhà ta rồi, lần nào cũng là ‘Ngon ngon ngon, mì hoành thánh ở đây số một thiên hạ’! Bây giờ lớn rồi, lại chê bai chúng ta! Đại lang bán bánh hấp với Nhị nương bán bánh bao tổ đã đến khóc kể với ta rồi, nói hôm trước cô chê bánh hấp không đủ mềm, hôm qua ghét vị nhân bánh bao không thuần.”

“Mọi người thử phân xử cho ta nhé, cô bé này ăn từ nhỏ cho đến lớn giờ lại chê ỏng chê eo, có phải là kiểu ‘Chỉ thấy người mới cười không nghe người cũ khóc’ trong kịch hát không! Ta biết mà, Tiểu Chiêu đây ra ngoài rồi, thấy qua chuyện đời, không nhìn nổi thị trấn nhỏ thâm sơn cùng cốc chúng ta vào mắt nữa, ui chu choa, cuộc sống này khốn khó quá mà…”

Giọng bà chủ vang to, đủ có thể vang vọng cả con đường nhỏ, Thái Chiêu đành chạy trối chết.

Chịu mắng một chập, bụng trống rỗng, cô lại lần nữa chẳng có mục đích lang thang trong mưa phùn.

Đường đá xanh bóng phẳng phiu, mỗi căn nhà cửa tiệm, mỗi một chỗ rẽ, nhắm mắt lại cô đều có thể mò đến, nơi này là quê hương vừa quen thuộc vừa xa lạ của cô, thoảng như tất thảy đều như xưa, lại thoảng như tất thảy không còn giống thế nữa.

Hay là, thay đổi thật ra là chính mình?

*

Trong căn nhà lớn sâu trong núi, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam núp một góc xa xa ngoài cửa xì xầm bàn tán.

“Giáo chủ đã xem hồ sơ ba ngày rồi, còn chưa xong? Không phải Nghiêm Trưởng lão bảo chỉ có một chồng sao.”

“Đúng là Nghiêm Trưởng lão chỉ trình lên một chồng, nhưng sau Giáo chủ lại bảo chúng ta cầm hồ sơ khác đến so, không biết định xem tới lúc nào.”

“Ôi chao, trời mưa rồi.”

“Chỉ là mưa phùn, lất phất đầy ý thơ nhỉ.”

“Ý thơ cái gì mà ý thơ, Tinh nhi ghét nhất tiết trời này, phơi gì cũng không xong.”

“Mau nhìn đi mau nhìn đi, Giáo chủ mở cửa sổ! Giáo chủ đang đứng đực ra đấy nhìn cái gì kìa, nhìn mưa sao? Chả lẽ Giáo chủ thích trời mưa?”

“Không đâu.”

“Sao cậu biết là không! Cậu là con giun trong bụng Giáo chủ à?”

“Không cần biết Giáo chủ có thích hay không, nhưng Chiêu Chiêu cô nương không thích, vì trời mưa sẽ làm phiền nàng ta dạo phố. Cho nên Giáo chủ cũng sẽ không thích.”

“… Đúng nhỉ, cậu nói có lý.”

Thái Chiêu rầu rĩ không vui quay về thung lũng, bắt gặp Phàn Hưng Gia đang báo cáo tình trạng căn bệnh của Tống Thời Tuấn cho vợ chồng Thái Bình Xuân, lải nhải dông dài nói hết mọi dược liệu cần thiết xong, cuối cùng hắn nhẹ giọng tỏ ý: Qua chẩn trị toàn diện của hắn, Tông chủởng môn cứu thì có thể cứu, nhưng kinh mạch đan nguyên tổn thương quá độ, chỉ e tuổi thọ có giảm.

Sau khi Phàn Hưng Gia rời đi, Ninh Tiểu Phong lẩm bẩm một mình: “Câu này sao ta nghe quen tai thế chứ.”

“Lúc đại phu chẩn bệnh cho chị cũng nói vậy.” Thái Bình Xuân nhanh nhẹn tiếp lời.

Nhớ đến Thái Bình Thù, Ninh Tiểu Phong lập tức đau xót, bà bước tới trước giường Tống Thời Tuấn đang còn hôn mê, râu ria lởm chởm, tiều tụy vàng như nến, thở dài: “Cái ông này cả đời xuôi gió xuôi nước, phách lối ta đây, không ngờ về già lại gặp phải chuyện bực này. Hầy, đều là người thân cốt nhục, tên Tống Tú Chi cũng quá hung ác, bình thường im ắng, vừa trỗi dậy đã ra chiêu chết người!”

Thái Bình Xuân không bình luận, ngược lại hỏi con gái: “Con có phát hiện manh mối gì của Tử Ngọc Kim Quỳ à?”

Thái Chiêu xoè ra ba ngón tay: “Ba ngày nay con muốn lật hết từng căn nhà trong thị trấn rồi, chẳng có gì cả ạ.”

Ninh Tiểu Phong nói: “Ba ngày nay cha mi cũng lật tới lật lui hết cả Cốc, cũng chẳng có cái gì, hay là Tử Ngọc Kim Quỳ đã bị cô mi đưa ra khỏi Lạc Anh Cốc từ trước nhỉ?”

“Mẹ thấy Tử Ngọc Kim Quỳ là thứ gì tốt sao? Thứ dễ gây tai hoạ như thế, chỉ cần chính cô cô còn sống, chắc chắn sẽ không đẩy tai họa sang người khác. Con thấy hẳn là trước khi lâm chung bà đã giấu kín nó đi, hoặc là, giao phó cho người khác? Ôi, thế mà con lăn ra bệnh nặng ba ngày, chẳng biết gì cả.”

“Không chỉ con cho là thế, mà có lẽ kẻ giật dây cũng cho rằng chị ấy đã giao gửi Tử Ngọc Kim Quỳ ra ngoài.” Thái Bình Xuân rót chén trà nóng cho vợ, “Trong ba ngày qua ta cẩn thận ngẫm lại hơn một năm qua, rốt cuộc nghĩ thông một số chuyện.”

Ông ngẩng lên, “Lúc trước tới tham dự lễ tang của A tỷ có những ai, môn phái nào.”

Ninh Tiểu Phong giơ ngón tay: “Chúng ta không muốn lộ ra, do đó không có rất nhiều người đến — năm phái Bắc Thần đều tới, Thường đại ca, chúng cao tăng Trường Xuân Tự, còn có Thanh Trúc Bang, còn mẹ em vậy mà lại thất điên bát đảo tới thắp một nén nhang.”

Thái Bình Xuân nói: “Kẻ sau màn hiểu A tỷ rất rõ, biết chị ấy vì không muốn liên luỵ chúng ta, nhất định sẽ không tiếp tục giữ Tử Ngọc Kim Quỳ lại Lạc Anh Cốc khi mình đã qua đời, mà là giao phó cho một người đủ tin tưởng lại không ai đoán ra được. Mà người này, năm đó có mặt trong số những người dự lễ tang của chị ấy.”

Thái Chiêu thầm chấn động: “Sẽ là ai đây?”

“Ta hỏi hai mẹ con này, nếu hai người là A tỷ, sẽ giao phó Tử Ngọc Kim Quỳ cho ai?” Thái Bình Xuân hỏi vợ con mình.

“Em á.” Ninh Tiểu Phong ngây ra, “Ừm, em sẽ giao cho…” Bà đảo mắt một vòng, “Chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất, em sẽ trộm vùi vào mộ tổ lão già Dương Hạc Ảnh chết tiệt kia, dù là ai cũng không nghĩ ra!”

Thái Chiêu bật cười, “Ha ha ha ha, mẹ à người buồn cười quá!”

“Buồn cười gì, ta nói không đúng chỗ nào!”

“Sở dĩ cô cô không nỡ hủy đi Tử Ngọc Kim Quỳ, chính là sợ mai này nhỡ có người muốn dùng. Nếu vùi vào một tổ nhà họ Dương, một cục đá đen sì hồ hồ lẫn vào trong đám đất đá, có quỷ cũng không tìm ra, khác gì huỷ đi chứ!”

“Vậy mi nói xem nào!” Ninh Tiểu Phong cả giận nói.

Thái Chiêu suy nghĩ: “Bình thường mà nói, giao cho sư phụ hoặc bác Chu là tốt nhất, bọn họ có tu vi cao, trong tay lại có thế lực, bảo vệ được Tử Ngọc Kim Quỳ.”

Thái Bình Xuân: “Nếu cô con sinh lòng nghi ngờ họ thì sao?”

Thái Chiêu giật mình.

Thái Bình Xuân gằn từng chữ: “Vị Mộ Giáo chủ kia có câu nói không sai, kẻ giật dây phí mọi trắc trở giết cả nhà họ Thường, hẳn là vì Thường đại ca đã phát hiện chuyện gì — dù Thường đại ca không có chứng cứ, nhưng nếu như anh ấy đem lo nghĩ của mình kể cho cô con thì sao?”

Ninh Tiểu Phong cả kinh: “Không thể giao Thích Vân Kha, không thể giao Chu Trí Trăn, Tống Thời Tuấn, Cầu Nguyên Phong, Dương Hạc Ảnh, cọng rơm nào cọng rơm nấy đều không đáng tin cậy như nhau, thì chính là…” Bà gần như bật thốt.

“Cho nên Thường đại ca đã chết.” Thái Bình Xuân nhẹ nhàng ngắt lời vợ, “Vào đêm cả nhà họ Thường bị giết sạch, tất nhiên là bọn chúng lục soát cả Thường gia ổ bảo không có kết quả.”

“Vậy còn có thể là ai nhỉ?” Ninh Tiểu Phong rối ren đầy đầu, chợt mắt sáng rực, “Đúng rồi, Pháp Không đại sư!”

“Cho nên sau buổi tế điển Bắc Thần Lão Tổ, Nhiếp Đề vô duyên vô cớ phái người chặn giết chúng ta trên đường về.” Thái Bình Xuân nói, “Trong đó, chỉ có Trường Xuân Tự là bị tập kích ngay trước cửa nhà, cửa chùa bị đánh vào, nhiều chỗ trong chùa bị đốt.”

Con ngươi Thái Chiêu siết chặt: “Cho nên mấy cuộc chặn giết kia đều là chiêu che mắt, chỉ có Trường Xuân Tự mới là mục tiêu của bọn chúng?”

“Đúng, Chiêu Chiêu thật thông minh.” Thái Bình Xuân nói, “Nếu ta đoán không lầm, kẻ sau màn đã thừa cơ lục soát cả Trường Xuân Tự, vẫn không thu hoạch được gì.”

“Lặp đi lặp lại nhiều lần không thành, cuối cùng hắn đành phải thiết kế để Tam sư huynh trúng U Minh Hàn khí, để chúng ta tìm Tử Ngọc Kim Quỳ thay hắn.” Thái Chiêu kinh hãi không thôi, “Cha à người thật thông minh.”

“… Nói nãy giờ.” Ninh Tiểu Phong chìa bàn tay, “Xin hỏi hai người thông minh đây, rốt cuộc cục đá đen ấy đang ở đâu.”

Hai cha con đều im lặng.

Qua hồi lâu, Thái Chiêu thở dài: “Để con tìm xung quanh lần nữa vậy.”

Nhìn bóng con gái nhỏ nhắn bước ra cửa, Thái Bình Xuân chợt nói: “Nếu Mộ Thanh Yến từ đầu đến cuối chưa phạm tội ác gì lớn, hiện Chiêu Chiêu quả thích nó thật, thì tuỳ chúng thôi… bỏ trốn cũng không phải không được.”

Ninh Tiểu Phong suýt bị nước trà sặc chết: “Ông nói cái gì! Chiêu Chiêu bảo bối của tôi, sau này thành hôn phải là đại yến mười dặm hồng trang mời khách á! Còn lén lút bỏ trốn, ông váng đầu à!”

Thái Bình Xuân thở dài: “Mình không thấy quái lạ sao? Hơn một năm trước Tống Úc Chi đã trúng phải U Minh Hàn khí, thế sao cho tới bây giờ Chiêu Chiêu mới về Lạc Anh cốc tìm kiếm.”

Bờ môi Ninh Tiểu Phong giật giật.

Thái Bình Xuân nói tiếp: “Con bé biết A tỷ giấu đi Tử Ngọc Kim Quỳ chắc chắn có thâm ý, dù Tống Úc Chi có sốt ruột hầu như không cách nào khỏi hẳn, Chiêu Chiêu cũng không thật sự giúp nó tìm Tử Ngọc Kim Quỳ. Mãi cho đến toàn bộ Dạ Lan ở Huyết Chiểu, không còn nỗi lo về sau, Chiêu Chiêu mới thật động tâm tư tìm bảo.”

Ông cười, “Về điểm này Chiêu Chiêu lại giống người Lạc Anh Cốc, lạnh nhạt lộ từ trong xương.”

“Mình cũng thế, hai cha con các người chỉ quan tâm người trong nhà.” Ninh Tiểu Phong nhỏ giọng, “Ôi, chỉ có chị Bình Thù, cả trái tim đều nóng hổi.”

“Tim nóng cũng chỉ sớm chết thôi, tim Thường đại ca không nóng đó sao. Haizz, tim lạnh mới có thể sống lâu.” Thái Bình Xuân vỗ về vai vợ, “Nhưng Chiêu Chiêu đối xử với Mộ Thanh Yến lại không giống.”

“Mộ Thanh Yến và con bé cùng lên đ ỉnh núi Tuyết, lấy được tiên dịch Tuyết Lân Long thú. Chúng lại cùng đi Đầu Máu, Mộ Thanh Yến cũng có thể thừa dịp Chiêu Chiêu không chuẩn bị, trộm giấu mấy cành Dạ Lan đi. Nếu có Tử Ngọc Kim Quỳ là đủ để tu luyện tà công — nhưng mà đối với hắn, Chiêu Chiêu chưa từng sinh lòng nghi ngờ một chốc.”

“Có một số việc, không phải chúng ta không thèm nghĩ, là có thể xem như không có.”

Ninh Tiểu Phong lại buồn lo trăm mối, “… Sao lại dây dắt đến họ Mộ nữa thế.”

*

Thái Chiêu lặn lội trong thung lũng ẩm ướt hồi lâu, cuối cùng âm thầm vào chỗ ở Thái Bình Thù.

Lúc bà còn sống, mỗi dịp xuân về hoa khoe sắc thắm hoặc cuối thu lá rụng, đều đưa bé Thái Chiêu từ trên trấn về ở trong Cốc.

Thái Chiêu cởi chiếc áo khoác ẩm ướt ra, cuộn một vòng lăn lên giường Thái Bình Thù.

Dù cố nhân đã qua đời gần năm năm, Ninh Tiểu Phong vẫn giữ gìn căn phòng này rất tốt, đệm chăn mềm mại khô ráo, bàn ghế sạch sẽ sáng loáng, ngay cả son phấn trong hộp cũng đều tươi mới, như đang chờ Thái Bình Thù du ngoạn giang hồ xong sẽ quay về.

Sợ là cả đời này mẹ cũng không quen được rằng cô cô đã qua đời —

Thái Chiêu mơ mơ màng màng nghĩ, mệt mỏi nửa tháng cùng lúc ập tới, từng cảnh tượng trước đây thoáng qua trong đầu như đèn kéo quân, cuối cùng khựng lại ở câu nói kia của Lý Văn Huấn.

“Ta e là nửa đường hoang dã, tin tức bồ câu đưa thư bị lộ…”

Sao cô cứ mãi để ý tới câu này chứ? Câu này có chỗ nào không đúng chứ.

“Nửa đường hoang dã, tin tức bồ câu đưa thư bị lộ…”

Bồ câu đưa thư có thể thả giữa đường, chỉ cần nghiêm chỉnh huấn luyện, là có thể tìm được phương hướng chính xác và địa điểm.

Nhưng cho dù là Trường Xuân Tự am hiểu giỏi huấn luyện bồ câu đưa tin, cũng rất khó chính xác để bồ câu đưa thư dừng trong tay người đang đi đường, trừ phi là loài chim giỏi săn mồi trên biển giỏi tìm kiếm trên chuyến đi.

“E là nửa đường, bồ câu đưa tin… tin…”

Thái Chiêu sực tỉnh bật dậy, mồ hôi lạnh trên trán chảy ròng ròng, lòng như nổi trống ầm ầm.

Cô vội khoác thêm áo ngoài, đội mưa chạy về chỗ lồng bô câu, làm vợ chồng Thái Thị đang đứng dưới cửa xem múa ở đối diện giật mình, vội bung dù đuổi theo con gái.

Thái Chiêu xông thẳng vào lồng bồ câu, loay hoay tìm kiếm.

“Chiêu Chiêu con sao thế?” Ninh Tiểu Phong hơi thở không ổn định đuổi tới cửa, “Y phục cũng không mặc cho đường hoàng, một đứa con gái lớn rồi sao có thể…”

“Mình khoan vội nói.” Thái Bình Xuân trấn an vợ, ngẩng lên hỏi con, “Chiêu Chiêu, con nói đi.”

“Cha, mẹ.” Thái Chiêu xoay lại, khắp người dính đầy lông bồ câu trắng trắng xám xám, “Có thể con đã biết Tử Ngọc Kim Quỳ ở đâu.”

*

Trong thính đường lờ mờ đen bóng, ánh đèn như đậu.

Mộ Thanh Yến đẩy đống hồ sơ xộc xệch trước mặt ra, đứng dậy xoay người, dùng sức đẩy phiến cửa gỗ tấm thật dày, một cơn gió núi xen lẫn mưa phùn cuồng dã ập vào căn phòng to lớn, thổi tung hồ sơ trên bàn bay tứ tán, bay múa đầy trời.

Chàng trai trẻ xinh đẹp cao ráo đứng trước cửa sổ, mặc cho mưa gió rét lạnh quét cả người: “Thì ra là thế, ha ha ha, thì ra là thế…”

Lúc này bỗng có tiếng Du Quan Nguyệt vội vã vang lên ngoài phòng — “Giáo chủ, thuộc hạ có cấp báo!”

“Vào nói.”

Du Quan Nguyệt cẩn thận đẩy cửa phòng, đứng cạnh cửa khom người bẩm báo: “Mười mấy người dịch dung cải trang từ Lạc Anh Cốc ra ngoài, lên thuyền đi đường thủy, chia theo nhiều hướng khác nhau mà đi.”

“Chiêu Chiêu đi đường nào?”

“Hướng tây bắc… hình như là hướng về U Minh Hoàng Đạo của chúng ta.”

“Không phải U Minh Hoàng Đạo.” Mộ Thanh Yến quay lại, sắc mặt lạnh lẽo: “Là Huyền Không Am.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 131


Loạn Huyền Không Am

Nhìn từ bên ngoài Khe Ẩn Tú cũng chỉ là một khu rừng núi ngổn ngang, không chút thanh tao, nhưng chỉ cần vòng qua mấy đống đá lớn trơ trọi lộn xộn, đập vào mắt chính là cảnh sắc sơn thanh thủy tú, dòng suối lấp lánh, cỏ cây uyển chuyển.

Huyền Không Am ở một chỗ sâu trong khe núi, vì ngay bên dưới là một bức màn suối chậm chạp chảy rất thanh tịnh, từ xa nhìn lại, ngôi am nhỏ tĩnh mịch tường trắng ngói đen như treo giữa không trung, mới có tên là Huyền Không Am.

Mảnh đất này thuộc phần giáp ranh giữa Bắc Thần Lục phái và phạm vi thế lực Ly Giáo, nghiêm chỉnh mà nói, còn gần dãy Hãn Hải hơn. Huyền Không Am vốn là thế lực yếu ớt, vị trí lại khó xử, do đó trong những cuộc tranh giành giữa Bắc Thần Lục phái và Ly Giáo ít khi tham dự, nhiều lắm là chỉ lộ diện trong các cuộc hội nghị khánh điển của Bắc Thần Lục phái.

Làm như thế, thật ra trên giang hồ cũng không mấy người chỉ trích, chỉ vì ý đồ ban đầu của Minh Huệ Thần Ni cao nhân một đời sáng lập Huyền Không Am chính là cứu giúp các cô gái bơ vơ trong khả năng của mình, nếu không phải Bắc Thần Lục phái và Ly Giáo đánh nhau bốn bề nở hoa khắp nơi, các bà vốn chẳng muốn dính dáng vào làm gì.

Hơn trăm năm, Huyền Không Am trải qua khó khăn trắc trở, đã từng bị Bắc Thần Lục phái ép cùng chung sức chống lại Ma giáo, cũng có kẻ gian giảo hoạt cấp thấp trong Ly Giáo có ý đồ nhúng chàm, may mà đều là hữu kinh vô hiểm, âu cũng là vì hai bên đầu lĩnh cũng phải giữ lấy thể diện.

Tông chủ Thanh Khuyết Tông từng ép Huyền Không Am cùng chống lại Ma giáo đã bị hai đạo chính tà cười nhạo tròn mười năm — đám Bắc Thần Lục phái này đầy rẫy đấng mày râu mà không đủ dùng, cứ phải nhớ thương một đám ni cô yếu ớt, mất hết mặt mũi Bắc Thần Lão Tổ.

Mà Ly Giáo cũng thường làm như không thấy cái am ni cô nhỏ xíu gần trong gang tấc này, Nhiếp Hằng Thành từng mắng xối máu chó lên đầu Nhị đệ tử Trần Thự từng bắt đệ tử Huyền Không Am luyện Ngũ Độc Chưởng — một nửa đệ tử trong môn phái đều là đàn bà con gái yếu đuối không hề có tu vi, một cước đạp bằng cũng chẳng hề sáng sủa gì.

Cứ thế, đầu lĩnh hai bên đều phải giữ thể diện, không động chạm Huyền Không Am; còn đám giang hồ hạ lưu cướp vặt thì đám Sư thái trụ trì có thể tự đối phó, do đó Huyền Không Am may mắn còn sống sót đến nay.

“Ngoài ra còn có một lý do không muốn cho ai biết.” Thái Bình Xuân đạp xuống yên ngựa, cầm dây cương dắt bộ lên núi.

Thái Chiêu, Tống Úc Chi, Phàn Hưng Gia, ba người song song theo sau sát lưng ông.

“Thật ra Huyền Không Am từng có mười mấy ‘nghiệt đồ’.” Thái Bình Xuân ngoảnh lại cười nói, “Mấy cô gái thiên phú xuất chúng tính tình không nghe theo, chịu không nổi thanh quy giới luật của Huyền Không Am, ngày qua ngày ăn chay niệm Phật, thế là…”

“Thế là ra cửa quẹo phải là U Minh Hoàng Đạo?” Thái Chiêu ngả đầu tiếp lời.

Thái Bình Xuân ha hả cười đứa con gái tinh nghịch.

Tống Úc Chi giật mình: “Tất cả các bà ấy đều đã theo Ma giáo?”

Phàn Hưng Gia chùi mồ hôi đầy đầu, thở hổn hển nói: “… Cảnh ăn chay niệm Phật vĩnh viễn không dừng ai bù đắp được cơ chứ! Nhưng mà thả mình vào Ma giáo vẫn là không nên.”

“Cũng không hoàn toàn là theo Ma giáo cả.” Thái Bình Xuân vừa đi vừa nói: “Có vài người đi sai bước nhầm, lọt vào vũng bùn, sau khi hết nơi có thể đi lại quay về Huyền Không Am.”

Phàn Hưng Gia lầm bầm: “Phản bội sư môn xong cùng đường mạt lộ, rồi hối hận cầu xin thương xót cho quay về như này, coi sư môn là nơi nào! Nếu rơi vào tay Lý sư bá, chắc chắn sống không qua ba bữa cơm!”

Thái Chiêu gật gù: “Tuy Ngũ sư huynh nói câu này hơi khó nghe, nhưng có lý. Nếu ai cũng muốn đến thì đến muốn đi thì đi, không có quy củ, thì môn phái phát dương quang đại thế nào chứ.”

Thái Bình Xuân nhíu mày, nhìn ba đứa trẻ phía sau: “Tụi cháu đều nghĩ thế à?”

Tống Úc Chi nhẹ chau mày kiếm: “Có lẽ, Huyền Không Am vốn không có ý định phát dương quang đại, các bà ấy khác với môn phái bình thường trên giang hồ, chỉ là muốn dùng hết khả năng che chở những phụ nữ yếu ớt. Trên đời này, không phải tất cả mọi người đều là thiên chi kiêu tử, cũng không phải tất cả đều có thể có vận may và thiên phú phi phàm…”

Thái Bình Xuân vỗ vai Tống Úc Chi: “Sư phụ con nói rất đúng, người trẻ tuổi chịu vài khổ sở gặp mấy trắc trở không phải chuyện xấu. Nhìn người thật sâu, mới có thể đi càng xa.”

Hai người Phàn Thái lập tức thẹn thùng.

— tha thứ, không phải mềm yếu, cũng không phải là không có quy củ, mà chỉ là lựa chọn khác.

“Nhưng có điều,” Thái Bình Xuân vá miếng vá hợp cảnh, “Những nữ đệ tử này nếm trải nhiều nhức đầu bên ngoài rồi quay về thường thường lòng hướng Phật càng kiên cường, có thể nhanh chóng phá tan mê chướng, cuối cùng tu hành đắc đạo, che chở cho càng nhiều phụ nữ đáng thương.”

Tống Úc Chi thở một hơi dài nhẹ nhõm, “Thiện ác có báo, thiên lý rõ ràng, nên thế.”

Thái Bình Xuân nói tiếp: “Trong số những bà không hối hận quay về, nghe nói có năm sáu người ra ngoài mở cửa hàng thúc đẩy gia nghiệp. Những gì các bà các cô học được trong Huyền Không Am đủ để ứng phó du côn vô lại. Thế là cuộc sống náo nhiệt, sinh con dưỡng cái, lễ tết còn gửi cho Huyền Không Am chút món giả gà giả vịt giả cá, nhưng dầu mỡ quá thơm, Sư thái trụ trì còn nghi là dùng mỡ heo…”

Thái Chiêu Phàn Hưng Gia nghe hớn cả mặt, vui vẻ trở lại.

“Còn hai ba người, ngược lại thật sự đạt được thành tựu trong Ma Giáo, nghe nói có một vị làm nữ Trưởng lão, hai vị làm nữ Đàn chủ, còn có người lấy nhân vật lợi hại trong Ma giáo, tóm lại, tóm lại…”

Thái Chiêu nối tiếp: “Tóm lại tất cả đều có tương lai tốt đẹp.”

Thái Bình Xuân lắc đầu mỉm cười, Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia cười ha ha.

Tiếng cười tạm ngừng, Thái Bình Xuân chậm rãi nói: “Bất kể là quyến luyến hồng trần hay yên ổn thanh tu, hẳn là đều từ lựa chọn của bản tâm, chứ không phải trở ngại lý do gì khác.”

“Thời trẻ ta từng trách A tỷ, vì sao cứ phải can thiệp vào, vì sao không tuân theo tổ huấn, trông coi Lạc Anh Cốc đóng cửa sống qua ngày, giang hồ bùn đất ô uế này có gì đáng quan tâm.”

“Trải qua nhiều năm, ta mới từ từ nghĩ thông suốt — cuộc đời con người rất ngắn ngủi, nếu không thể sống theo tâm ý của mình thì còn có ý nghĩa gì.” Ông nhìn con gái đầy ẩn ý.

Thái Chiêu ngơ ngác ngẩn ra, tựa như đã hiểu ý cha.

*

Dù rằng trên đường Thái Bình Xuân đã miêu tả Huyền Không Am hiền hoà cỡ nào, nghênh đón đoàn người vẫn là gương mặt lạnh băng vạn năm không đổi của Tĩnh Viễn Sư thái. Theo thường lệ bà quở trách Thái Bình Xuân Ninh Tiểu Phong một trận trước, tiếp đó trách hành vi khác người đủ thể loại của Thái Chiêu hơn một năm nay, cuối cùng lại mắng vợ chồng Thái thị dạy con không nghiêm.

Thật ra mà nói, trụ trì Huyền Không Am và Cốc chủ Lạc Anh Cốc ngang vai vế, nhưng vì liên quan đến Ninh Tiểu Phong, cha con họ Thái đều thành vãn bối trong nhà của Tĩnh Viễn Sư thái, đành phải thành thành thật thật lắng nghe.

Khó khăn lắm chờ được bà đổi giọng, Thái Bình Xuân mau chóng nói rõ ý đồ đến đây, lúc này Tĩnh Viễn Sư thái mới biến sắc, cho đệ tử bên cạnh lui ra.

“… Tử Ngọc Kim Quỳ gì chứ, ta chưa từng nghe nói.” Tĩnh Viễn Sư thái lạnh lùng nói, “Sao các người lại mò đến Huyền Không Am?”

Tống Úc Chi sốt ruột, lập tức gấp gáp, “Chắc hẳn Sư thái cũng nghe nói tin Quảng Thiên Môn có biến loạn, cũng không phải là vãn bối tham luyến chức chưởng môn, mà nếu Quảng Thiên Môn bị kẻ nguỵ quân tử giết em bức cha Tống Tú Chi kia chiếm cứ thì thật không phải phúc của thiên hạ.”

Thái Chiêu bè theo: “Đúng đúng đúng, hơn nữa con thấy giữa Tống Tú Chi và Ma giáo cũng có phần không rõ ràng, hắn còn cầm Thực Cốt Thiên Vũ của Lộ Thành Nhân nữa, đêm hôm ấy biết bao là người bị hóa thành một vũng máu tươi, ôi chao quá là thảm!”

Tĩnh Viễn Sư thái liếc xéo cô gái: “Cháu bớt đục nước béo cò đi, dùng Thực Cốt Thiên Vũ là Dương Hạc Ảnh, không phải Tống Tú Chi.”

“Thì ra Sư thái cũng có nghe nói ạ!” Thái Chiêu vui vẻ nói, “Cả câu chuyện đều là do Tống Tú Chi Dương Hạc Ảnh cấu kết mà ra, ngài dám chắc Tống Tú Chi hoàn toàn không không biết rõ tình hình không?”

Tĩnh Viễn Sư thái im lặng.

Tống Úc Chi nói: “Hiện giờ gia phụ bị thương nặng khó lành, trốn ở Lạc Anh Cốc tĩnh dưỡng, vãn bối thì lại trúng U Minh Hàn Khí của Ma giáo, đan nguyên bị xiềng xích bó buộc, không thể giết lùi Tống Tú Chi. Nếu Sư thái thật sự biết tung tích Tử Ngọc Kim Quỳ, xin mở lòng từ bi, vui lòng chỉ giáo.”

Thấy Tĩnh Viễn Sư thái từ đầu đến cuối trầm ngâm không nói, Thái Bình Xuân trịnh trọng thưa: “Sư thái, lúc A tỷ giao Tử Ngọc Kim Quỳ cho ngài, hẳn có để lại lời nhắn gửi ạ.”

Người trong nghề há miệng là biết có hay không. Tĩnh Viễn Sư thái lườm Thái Bình Xuân, “Tất cả đi theo ta.”

Bà dẫn bốn người rẽ trái rẽ phải, biến mất sau một mật thất trong khu núi đá chập trùng.

Căn mật thất hiện hình lục giác, toàn bộ dùng đá nhám trắng xây thành, ở giữa là một bệ đá vuông vuông vắn vắn, trên ấy đặt một tấm bồ đoàn, còn có kinh thư quyển trục, một bình sứ đựng nước — nơi này hiển nhiên là chỗ thường ngày Tĩnh Viễn Sư thái ngồi tu luyện.

“Vậy Tử Ngọc Kim Quỳ ở trong tay Sư thái thật ạ?” Thái Chiêu nhìn qua nhìn lại, “Vừa nãy ngài còn nói chưa từng nghe tới Tử Ngọc Kim Quỳ — Sư thái, người xuất gia không lừa dối nha!”

Tĩnh Viễn Sư thái vỗ một góc bệ đá, dưới bệ đá mới từ từ dời ra một hộc đá, bà lấy một vật trong đó đặt vào trong tay, quay lại nói: “Bần ni cũng không lừa dối, vì Thái Bình Thù chưa hề nói vật này tên là Tử Ngọc Kim Quỳ.”

“Cô cô không nói gì, ngài đã tình nguyện bảo đảm cho người, xem ra ngài không giống như bên ngoài đồn là không ưa nhìn cô cô cháu.” Thái Chiêu cười ha hả bước lên đón lấy, đặt trong lòng bàn tay xem xét, quả nhiên là một cục đá lạnh lẽo màu tím đen.

Cô đưa tảng đá cho Tống Úc Chi xem, Tống Úc Chi nắm thật chặt trong tay, kích động nhẹ run.

Tĩnh Viễn Sư thái nhìn Thái Bình Xuân, “Cậu biết vật này rất quan trọng chứ?”

Thái Bình Xuân nói: “Biết ạ, vật này dính líu tới một môn tà công quỷ thần khó lường, năm đó Nhiếp Hằng…”

“Không cần nói nữa, Huyền Không Am chỉ là một môn phái nhỏ bé yếu ớt hẻo lánh, bần ni không muốn biết những chuyện ngầm trong giang hồ thế này.” Tĩnh Viễn Sư thái cắt lời, “Năm đó lúc Thái Bình Thù giao nó giao cho ta, từng nói nó cực kỳ quan trọng, nhắc nhở ta một khi phát hiện nó có nguy hiểm bị lưu lạc ra ngoài, thì lập tức hủy đi.”

Bà chỉ ra phía trước, trong góc mật thất đặt một bộ cối đá bằng kim cương nham và chày đá, tựa như là chuẩn bị phá vỡ mài nhỏ thứ cứng rắn nào đó bất kì lúc nào.

Thái Bình Xuân ngạc nhiên nói: “Vậy tại sao sư thái lại dễ dàng giao cho vãn bối?”

Tĩnh Viễn Sư thái: “Vì cuối thư Thái Bình Thù có viết, chỉ có một tình huống ta có thể giao vật này ra — chính là lúc vợ chồng cậu, hoặc là Chiêu Chiêu Tiểu Hàm tận tay tới cửa.”

Thái Bình Xuân thở dài: “Không ngờ A tỷ đến lúc lâm chung, chỉ còn có thể tin tưởng người trong nhà.” Đối với Thái Bình Thù cả đời quang minh nhiệt huyết mà nói, là khôi hài lớn cỡ nào.

“Chớ thiếp vàng lên mặt mình đi, cả đời cô ấy tin tưởng nhiều người, ta nhớ cho đến chết cô ấy cũng không thay đổi bao nhiêu.” Giọng Tĩnh Viễn Sư thái lạnh buốt, còn mang theo một tia tiếc hận không dễ phát hiện.

“Thái Bình Thù nói, thứ mà cô ấy tốn hết sức giấu đi, bốn người nhà cậu đều biết không nên tìm. Nhưng nếu đến một lúc không thể không tìm, hoặc là các cậu bị uy hiếp, hoặc có người không thể không cứu — nên cô ấy mới giữ nó lại vì các cậu.”

Mặt Tống Úc Chi xúc động, “Thái nữ hiệp lo lắng rất phải, cũng là vãn bối vô ý, mới khiến nó tái hiện nhân gian.”

Thái Chiêu đầy cảm khái: “Thứ này cứ làm con bồn chồn mãi, đợi Tam sư huynh khu trừ U Minh Hàn khí xong, chúng ta lập tức phá huỷ nó, đập vỡ nát!”

Thái Bình Xuân cũng tán thành.

“Các người biết thì tốt!” Đến giờ Tĩnh Viễn Sư thái mới dịu sắc mặt, “Đừng lề mề nữa, ở trong mật thất này chữa thương đi. Vật này chẳng lành, dùng xong mau mau tiêu hủy.”

Thái Bình Xuân Tống Úc Chi một trước một sau ngồi vào bệ đá, Phàn Hưng Gia trải rộng túi châm tùy thân, hàng trăm cây Bách Luyện ngân châm dài ngắn không đều hơi lóe sắc lạnh.

Tống Úc Chi ngồi xuống ngưng khí, Thái Bình Xuân đẩy ngang song chưởng, ấn vào hai Huyệt lớn trên lưng Tống Úc Chi bắt đầu vận khí.

Tĩnh Viễn Sư thái và Thái Chiêu yên ắng đứng một bên.

Cho đến khi huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Tống Úc Chi bắt đầu toát ra khói trắng, Phàn Hưng Gia nhanh nhẹn đâm từng cây châm bạc vào người y.

Tĩnh Viễn Sư thái bỗng quay đầu, “Là cháu đoán được Tử Ngọc Kim Quỳ trong tay ta à, sao đoán được.”

Thái Chiêu ân cần nhìn cha, thì thầm: “Mới đầu, cháu cũng giống mọi người, cho rằng trước khi lâm chung cô cô đã giao phó Tử Ngọc Kim Quỳ ra ngoài, như vậy tất nhiên người được ủy thác sẽ tạt qua Lạc Anh Cốc trước sau tang lễ của cô cô.”

“Sau đó cháu mới nghĩ, một thứ nhỏ như Tử Ngọc Kim Quỳ vốn dĩ không cần tự tay giao phó, một con bồ câu đưa tin là có thể đưa đi. Nhưng vấn đề là, phàm là người có giao tình với cô cô hầu như đều có mặt ở buổi hậu sự, còn người không hòa thuận với cô cô, Lạc Anh Cốc vốn sẽ chẳng liên hệ, cũng không thể thả bồ câu đưa tin.”

“Chỉ có một người giống như người ngoài là Tĩnh Viễn Sư thái.” Tiểu cô nương quay sang, nét mặt tươi cười rạng rỡ, xinh đẹp như hoa đào, “Người trong thiên hạ đều biết, năm đó cô của cháu đã mạnh mẽ đắc tội ngài, làm Khe Ẩn Tú rối tinh rối mù. Mà ngài vẫn luôn không ưa cô của cháu, vốn không tham gia hậu sự của bà. Tuy thế, Lạc Anh Cốc vẫn có bồ câu đưa thư nối thẳng đến Huyền Không Am.”

Tĩnh Viễn Sư thái hơi lộ nụ cười, “Tiểu Phong nói không sai, cháu chỉ có một cái bụng quỷ lanh lợi.” Bà nhìn sang ba người trên bệ đá, “Nếu Thái Bình Thù có một nửa quanh co như cháu, có lẽ sẽ không phải chết sớm như vậy.”

Thái Chiêu thỏ thẻ: “Sư thái, sao ngài lại chịu nhận cô cô phó thác ạ. Mấy năm qua cháu đều cứ nghĩ là ngài ghét cô cô, sau lưng trộm mắng ngài không ít đâu.”

Tĩnh Viễn Sư thái cũng không tức giận, “Thật ra mọi người đều sai rồi, ta không ghét Thái Bình Thù, cũng không phải không ưa nhìn cô ấy. Mà là… cô ấy quá chói mắt, giống một vầng dương quá chói chan, ta sợ cô ấy sẽ thiêu người bị thương.”

Thái Chiêu yên lặng nghe, cô nghĩ đến Mộ Thanh Yến.

“Có người nói với cháu, Nhiếp Hằng Thành tựa như một ngọn núi nguy nga cao ngất, mọi người trong Ma giáo đều sống trong bóng của lão. Đến chừng lão chết, bóng tối rút đi, tất cả đệ tử của hắn, người nhà, bộ hạ tử trung đều không biết phải làm thế nào. Lúc ấy cháu liền nghĩ, Nhiếp Hằng Thành là núi, còn cô cô chính là hùng ưng bay lượn nơi chân trời. Núi có cao, cũng không cao qua hùng ưng — dạ, sau đó quả nhiên Nhiếp Hằng Thành chết dưới tay cô cô.”

Tĩnh Viễn Sư thái cười một nụ hiếm thấy, “Lần đầu tiên ta nhìn thấy Thái Bình Thù, là trong sân thi đấu của đệ tử Bắc Thần Lục phái hai năm một lần. Cô ấy nhỏ hơn cháu bây giờ, cha cháu còn nhỏ hơn. Mọi người đều nói hai chị em này đáng thương, phải sống nương nhờ vào Bội Quỳnh Sơn trang. Ai ngờ cô cô cháu vừa ra trận, lập tức kỹ kinh tứ tọa*, vang danh thiên hạ.”

(*) ám chỉ tài nghệ ai đó rất cao siêu, khiến người xem chấn động không thôi

Ánh mắt lão ni y phục mộc mạc ảm đạm đầy xa xăm, như đang nhớ lại ngày tỉ võ đầy nắng rực rỡ hai mươi năm trước, thiếu nữ tuổi nhỏ mảnh mai một mình đứng trên đài võ cao cao, trong một thoáng không một đệ tử nào dám lên khiêu chiến.

“Lúc ấy ta tiếp nhận chức Chưởng môn Huyền Không Am không lâu, thấy cô cô cháu khoe khoang vậy, bất an vô hình. Nhưng sư tỷ sư muội ta đều thích cô cô cháu, các đệ tử của ta cũng thích. Sau này quay về Huyền Không Am, các bà mở miệng ngậm miệng đều là cô cô cháu. Tu hành vắng vẻ trong núi, từng chuyện đại sự cô cô cháu làm trên giang hồ chính là những truyền kỳ mà nữ đệ tử trong am thích nghe nhất.”

Thái Chiêu ngạc nhiên: “Thì ra Sư thái còn có sư tỷ sư muội? Ưm, hiện giờ các bà ấy…”

Tĩnh Viễn Sư thái quay lại: “Có phải cháu thấy Huyền Không Am đầy quạnh quẽ, trên đường đi đến đây, chỉ thấy tầm hai ba chục người, quá nửa là lão ni cô không biết võ công không?”

Thái Chiêu hơi xấu hổ, “Cháu nghe nói mấy đệ tử hiện tại của ngài không lớn hơn cháu bao nhiêu.”

“Đúng, vì chúng là sau cái chết của Nhiếp Hằng Thành ta mới thu lại.” Tĩnh Viễn Sư thái thở dài, “Nhưng trước đây không thế, tuy Huyền Không Am nhỏ yếu, gì thì gì cũng có hơn mười cao thủ chống đỡ tình cảnh.”

“Phong vân giang hồ xưa nay không ngừng, không biết thế nào, tự dưng Nhiếp Hằng Thành phát cuồng, trắng trợn tàn sát anh hùng thiên hạ. Ta cẩn thận co cụm đệ tử vào trong môn, ràng buộc mấy đứa nó đừng đi ra ngoài gây chú ý, vốn tưởng có thể tránh thoát một kiếp, ai ngờ…”

Ánh nước lấp lóe trong mắt Tĩnh Viễn Sư thái, “Lần đó trong nhà gửi thư, nói gia từ sắp không xong, ngoại tổ mẫu cháu mới gọi ta về nhà đưa tiễn mẹ già. Trước khi đi, ta muôn vàn căn dặn sư tỷ sư muội, tuyệt đối không thể đi ra Khe Ẩn Tú, vạn sự lấy bình an làm trọng.”

“Ai ngờ khi trở về, ta lại thấy Huyền Không Am máu chảy thành sông, tay chân cụt gãy đầy đất. Mấy đại đệ tử của ta vì để đám đệ tử nhỏ tuổi nhỏ có cơ hội chạy đi, tất cả đều chết thảm trong vũng máu. Mấy đệ tử may mắn còn sống sót nói, sức chiến đấu của sư tỷ sư muội ta không địch lại, bị tặc nhân Ma giáo bắt đi. Ta bó tay không còn cách nào, Doãn Lão Tông chủ lại quen giả chết, đành phải xin cô cô cháu giúp đỡ.”

“Trận đó cô cô cháu cũng chẳng trôi chảy là mấy, huynh đệ tốt bên cạnh bị Ma giáo hại chết hơn phân nửa, hình như chính cô ấy cũng bệnh nặng một trận, tái nhợt tiều tụy. Nhưng khi ta kể cảnh ngộ Huyền Không Am gặp phải, cô ấy không nói hai lời đã nhận lời.”

“Cô cô cháu bảo chúng ta đợi ở bên ngoài U Minh Hoàng Đạo, một mình cô ấy xông vào Ma Quật. Khuya hôm đó cô mới ra, còn kéo một bao tải to phía sau. Ta mở ra xem, lập tức khóc rống — bên trong đúng là những thi thể khô quắt của sư tỷ sư muội ta, đan nguyên nội lực huyết khí các nàng đều bị hút sạch, đáng thương thay cả đời các nàng không tranh quyền thế, từ bi thiện nhân, lại gặp phải kết cục như thế!”

“Ta mắng chửi Nhiếp Hằng Thành không bằng heo chó, nhưng không thể không sợ hãi trong lòng. Ta hỏi cô của cháu, phải chăng Nhiếp Hằng Thành đang tu luyện Linh Điệt Đại pháp, phải chăng là hắn đã nghĩ ra cách phá giải hậu hoạn của môn tà công này? Phải biết rằng, tai họa ngầm của Linh Điệt Đại pháp vừa là chỗ hại, cũng là chỗ lợi ích rất lớn.”

“Nếu không có cây đao ấy lơ lửng trên đầu, người người đều có thể hấp thụ đan nguyên nội lực kẻ khác dùng cho mình. Bất kể chính đạo tà phái, ai có thể vỗ ngực khẳng định mình tuyệt đối sẽ không sinh ra tham niệm bực ấy! Một khi Nhiếp Hằng Thành khám phá huyền bí trong đó, trên giang hồ lập tức gió tanh mưa máu, giết chóc không ngớt.”

“Cô của cháu không trả lời ta, sắc mặt cực kỳ khó coi, chỉ nói, ‘Đừng lo, cứ giao việc này cho cháu’. Nửa tháng sau, ta nghe nói cô ấy một mình lên đ ỉnh Đồ Sơn, tru sát đại ma đầu Nhiếp Hằng Thành.”

“Tầm mười năm sau, cô ấy nuôi dưỡng cháu ở Lạc Anh Cốc, ta chỉnh đốn môn phái ở Huyền Không Am, bọn ta không từng gặp nhau. Chỉ trong thư nhà Tiểu Phong gửi tới, thi thoảng cô ấy nói theo đôi câu, đa phần là chuyện lý thú liên quan tới cháu.”

“Hơn bốn năm trước bỗng nhiên cô ấy gửi thư, nói mình sắp tới lúc rời đi, bảo ta không cần tới dự tang sự mình, đính kèm cục đá đen kia vào trong thư phó thác cho ta.”

Trong bất tri bất giác, Thái Chiêu nghe nước mắt mình giàn dụa.

“Ta đã từng không thích cô của cháu huênh hoang, bây giờ lại không nghĩ như vậy.” Tĩnh Viễn Sư thái khẽ thở dài, “Hoàng Lão bang chủ Hoàng Sa Bang cùng sư tỷ quá cố của ta là anh em họ, trước khi ông quy ẩn ta có đi tiễn biệt.”

“Hoàng Lão anh hùng nói, Nhiếp Hằng Thành đã chết, thiên hạ thái bình, ông ấy vốn không tiếc nuối, chỉ hận năm đó kiến thức nông cạn, không dạy con gái bản lĩnh tự mình sống tốt, hại hai đứa nó hiện giờ chỉ có thể tủi thân sống qua ngày. Đáng tiếc, Trác phu nhân trưởng nữ ông ấy căn cốt tư chất vốn là thượng thừa, lại trở thành kẻ mềm yếu nhát gan như thế.”

“Thì ra là thế, thảo nào.” Thái Chiêu nhớ lại, “Trác phu nhân có một con gái tên Dương Tiểu Lan, nhỏ hơn cháu một hai tuổi, có lẽ lão già chết tiệt Dương Hạc Ảnh kia cũng không dạy dỗ cô ấy cho tốt. Nhưng cháu từng thấy thân thủ cô ấy, rất cao minh. Chiêu thức Tứ Kỳ Môn bình thường, cô ấy vẫn thi triển ra thế lôi đình!”

Tĩnh Viễn Sư thái mỉm cười: “Xem ra là tư chất Trác phu nhân đã truyền cho con gái. Hầy, tìm con rể tốt rồi phó thác chung thân — người đời đều nghĩ như thế. Nhưng vì sự tồn tại của cô cô cháu, rất nhiều người mới rõ, con gái cũng có thể đỉnh thiên lập địa.”

“Dạ!” Thái Chiêu nín khóc mỉm cười, “Cô của cháu cũng luôn nói, cả một đời bà sống rất đáng!”

“Hự…” Phàn Hưng Gia đầu đầy mồ hôi lùi lại liên tục, cho đến khi áp sát tường.

Hai mắt Tống Úc Chi nhắm nghiền, hai tay trên dưới hư không đối nhau, viênTử Ngọc Kim Quỳ đen bóng lăn lộn qua lại giữa hai tay, một luồng khí trắng nồng đậm bao phủ khuôn mặt quan ngọc của y, đỉnh đầu, mi tâm, theo hai bên huyệt Thái dương xuống thẳng cổ ngực bụng, mấy chục chỗ đại huyệt đều đã đâm ngân châm.

Thái Bình Xuân đầy tập trung, trán tuôn mồ hôi nóng, không ngừng đẩy đưa nội lực vào cơ thể Tống Úc Chi.

“Sư thái, sư muội, ta xong rồi, đến lượt các người.” Phàn Hưng Gia mệt thở không ngừng.

Tĩnh Viễn Sư thái gật đầu, Thái Chiêu lập tức chạy tới, hai người đứng hai bên Tống Úc Chi, vận khí giơ chưởng, cố ép lấy luồng hàn khí u hồn khó bắt giữ kia trong đan điền y.

Trụ thêm một chốc, luồng khí trắng dày đặt quanh mặt Tống Úc Chi dần dần tiêu tán, Thái Chiêu thu công trước nhất, ngay sau đó là Tĩnh Viễn Sư thái, cuối cùng là Thái Bình Xuân chậm rãi thu chưởng thổ khí, cộng thêm Tống Úc Chi không nhúc nhích, bốn người đồng thời tự vận khí điều hòa cho chính mình.

Phàn Hưng Gia thấy sắc mặt Tống Úc Chi đã hồng hào, mi tâm tỏa sáng, cẩn thận tiến tới bắt mạch cho y. Không lâu sau, hắn vui mừng nhướng mày: “Kinh mạch đã có lực, đan nguyên trong trẻo, Tam sư huynh, lần này rốt cuộc huynh ổn thật rồi!”

Tống Úc Chi cảm thấy một luồng khí nóng có lực chảy xuôi trong kinh mạch, như đã khỏi cơn bệnh nặng sau tĩnh dưỡng quá lâu, cơ bắp toàn thân đầy sức lực thật thoải mái. Y mở mắt, cười khẽ: “Khí tức còn hơi loạn, để ta điều chỉnh một chút.”

Phàn Hưng Gia vừa nhổ ngân châm cho y, vừa cười nói: “Không chỉ huynh, Thái Cốc chủ, Tĩnh Viễn Sư thái, cả sư muội nữa, đều hao tổn rất nhiều chân khí, đều cần điều dưỡng. Mọi người từ từ ngồi xuống điều tức, ta đi nấu mấy chén canh cố bản bồi nguyên!”

Để đẩy trừ hàn khí trong đan điền Tống Úc Chi phải hao phí không ít nội lực, trong đó Thái Bình Xuân hao tổn nhiều nhất, trước mắt chỉ còn hai ba thành công lực, Tĩnh Viễn Sư thái Thái Chiêu thì tổn thất năm sáu phần.

Loại tổn hao này khác với kiểu nội thương dẫn đến vô lực của Tống Thời Tuấn, giống như là đánh đấm với kình địch một trận, dù thắng nhưng đã mệt mỏi hết sức, cần điều tức một lúc mới có thể khôi phục

Tĩnh Viễn Sư thái gật đầu: “Nhà thuốc và vườn dược liệu đều ở sau núi, ở đó rất vắng vẻ, Phàn thiếu hiệp cứ tự nhiên.”

Phàn Hưng Gia vui mừng ra mật thất.

Sau một lát, Tống Úc Chi hồi phục trước tiên, nhảy xuống bệ đá.

Y nhìn ba người còn lại vẫn còn ngồi điều tức, lại nhìn Tử Ngọc Kim Quỳ trong tay, “… Hay, cháu hủy thứ này đi trước ạ.”

Lời còn chưa dứt, chỉ thấy Thái Chiêu nhắm mắt dùng sức gật đầu, rất giống một con chim gõ kiến bằng gỗ đầy thú vị, Tĩnh Viễn Sư thái và Thái Bình Xuân như cũng phát hiện, đều nhắm mắt mỉm cười.

Tống Úc Chi thầm buồn cười, cầm Tử Ngọc Kim Quỳ lại chỗ cối chày kim cương nham trong góc.

Y vừa định thả vào cối đá, thì chợt nghe sau lưng nổ vang, cửa đá mật thất bị người dùng lực đập một cái rầm, một đám người áo đen như một đám lớn sâu bọ mồm sắc nhọn tràn vào!

Bốn người trong phòng còn chưa kịp hồi thần, một tên áo đen đứng đầu vọt vào như sấm sét, bịch một chưởng đánh vào sau lưng Thái Bình Xuân. Thái Bình Xuân kêu lên một tiếng đau đớn, trở tay một chưởng đập người áo đen va vào vách đá.

“Cha!” Thái Chiêu bất chấp chính mình điều tức chưa xong, nhào thẳng đến cha.

Thái Bình Xuân khó khăn khoát tay với con gái, há miệng phụt ra một ngụm máu tươi, hai mắt nhắm nghiền ngã người sang một bên.

“Sư thái sư muội coi chừng!” Tống Úc Chi trở tay tìm tòi, Thanh Hồng Bạch Hồng nơi tay, song kiếm bay lên hư không thổi đến đám hắc y nhân như cánh diều cùng kịch chiến.

“Sư phụ! Sư phụ cứu mạng!” — lại có bảy tám gã áo đen ập vào, dùng đao uy hiếp hơn mười nữ ni trẻ tuổi vào đến mật thất, trên người trên mặt đám nữ ni đều có vết thương.

“Hay cho tặc tử!” Tĩnh Viễn giận hét lên, bốp bốp hai chưởng, đánh nát đầu hai tên áo đen.

Đám áo đen bảy người một tổ, chia Bác Thành tổ, mỗi tên cầm lưỡi đao và móc câu dây thừng cấu tạo khác nhau, dùng một trận hình cổ quái lại quen thuộc vây lấy ba ngườiThái Chiêu Tĩnh Viễn Sư thái và Tống Úc Chi.

Ở bờ Tố Xuyên Thái Chiêu đã lĩnh giáo qua trận pháp này, hôm đó cô và Mộ Thanh Yến hai người trong tình trạng không chút tổn thương mà vẫn ứng phó đỡ trái hở phải, huống chi là trong tình trạng tệ hại trước mắt — Tĩnh Viễn Sư thái và mình mới khôi phục công lực một nửa, Tĩnh Viễn Sư thái còn phải bảo vệ tiểu đệ tử bị xô đẩy chạy đến, còn cô thì đang đỡ cha bị trọng thương.

Đám áo đen có vẻ như biết trong đám địch trước mắt Tống Úc Chi có công lực cao nhất, thế là bảy tám tên vây công đều có võ công cao cường nhất, chiêu số quỷ mị tàn nhẫn. Vừa hết bảy tám chiêu, một tên áo đen bỗng đổi Quỷ Đầu Đao, bổ tới một nữ ni nhỏ tuổi sau lưng.

Tống Úc Chi giật mình, vội đổi chiêu đi cứu, lúc này sáu tên áo đen khác đồng loạt huơ kiếm sang, bốn trường kiếm ép Tống Úc Chi không rảnh tay, hai thanh còn lại trực tiếp đâm đ ến Tống Úc Chi. Tống Úc Chi đá tên áo đen đứng đầu một cước bay ra, nhanh chóng xoay người né, hai kiếm rơi vào khoảng không, chỉ đâm xuyên vạt áo trước ngực Tống Úc Chi.

Hai tên áo đen thu kiếm, trường kiếm thuận thế vẩy ra ngoài một cái, trùng hợp cắt đứt vạt áo Tống Úc Chi, Tử Ngọc Kim Quỳ giấu trong ngực hắn rơi ra lăn xuống đất nhanh như chớp.

Tống Úc Chi thầm kêu ‘Nguy rồi’, đám áo đen cùng mừng rỡ, đầy tiếng la “Thì ra là ở đây, mau ra tay” vân vân…! Hai bên đang tranh đoạt, một móc câu dây thừng im ắng phóng tới, như sấm sét cuốn đi Tử Ngọc Kim Quỳ.

“Thành công rồi, chúng ta đi trước!” Tên áo đen dẫn đầu nắm Tử Ngọc Kim Quỳ trong tay, chép miệng với phía trước, “Giết sạch bọn chúng, đốt hết nhà, ta gọi người đến giúp!”

Một nửa đám hắc y nhân phần phật rời đi, trận hình lập tức không có gì đáng kể, Thái Chiêu lợi dụng chớp thời cơ phóng tới đám áo đen, giết sạch đám uy hiếp nữ ni, sau đó giao cha lại cho Tĩnh Viễn Sư thái, “Sư thái, ngài trông chừng cha và các sư muội!”

Tĩnh Viễn Sư thái hiểu ý cô, một tay đỡ Thái Bình Xuân hôn mê, một tay dựng chưởng trước ngực, bảo hộ một đám nữ ni nhỏ vết thương chồng chất sau lưng.

Thái Chiêu Tống Úc Chi lưng tựa lưng phấn chiến, song kiếm Thanh Hồng Bạch Hồng và bảo đao Diễm Dương cực kỳ nhanh chóng chặt chém giữa đám áo đen, sắc kiếm lạnh lẽo và ánh đao hừng hực vô cùng bay múa trên không trung căn mật thất, nửa đường có mấy tên áo đen định đi bắt nữ ni uy hiếp, đều bị Tĩnh Viễn Sư thái một chưởng vỗ chết.

Sau một lát, hơn mười tên áo đen còn ở lại đều bị giết sạch, trước khi chết, tên cuối cùng mặt đầy máu cười điên cuồng, “Các ngươi trốn không thoát đâu! Huynh đệ lục soát bên ngoài chạy đến ngay đây thôi!”

Tống Úc Chi một kiếm đâm chết gã, lo lắng: “Làm sao đây? Chúng ta có thể trốn, nhưng trên núi còn rất nhiều…”

Tĩnh Viễn Sư thái hỏi đệ tử mấy người còn lại đâu, mấy nữ ni khóc không ra tiếng: “Các sư tỷ khác đều đã chết, chỉ còn mấy sư tỷ bản xử thừa lúc đêm tối trốn xuống dưới núi, các chị ấy quen địa hình, có lẽ đã trốn vào sơn động nào đó!”

Tĩnh Viễn Sư thái gật gật đầu, quay lại ấn mấy cái trên vách, rắc rắc, vách đá tách ra một lối ngầm hẹp. Tĩnh Viễn Sư thái nói: “Mật đạo này nối thẳng xuống chân núi, bần ni bỏ ra mười mấy năm từ từ đào ra!”

Thái Chiêu biết, hẳn là sau cái năm Nhiếp Hằng Thành huyết tẩy Huyền Không Am, Tĩnh Viễn Sư thái rút kinh nghiệm xương máu, quyết ý để lại một chuẩn bị phía sau.

Cô cẩn thận chùi vết máu nơi khóe miệng cha, trịnh trọng phó thác: “Sư thái, ở phía Tây dưới chân núi đi dọc theo bờ sông, có một chiếc thuyền treo cờ hình giò lợn giấu ở một nhánh sông chỗ đổ ra biển, là phân đà mà Bang chủ Thanh Trúc Bang và tâm phúc tự thân lo liệu, bọn họ đang chờ bọn cháu trở về. Mọi người xuống núi tìm bọn họ, theo đường thủy về đến Lạc Anh Cốc, trên đường không được chậm trễ.”

Tĩnh Viễn Sư thái nhíu mày: “Vậy còn mấy đứa?”

Thái Chiêu dùng khuôn mặt tươi cười che giấu nội lực không tốt của mình: “Đi hết rồi thì mật đạo này sẽ lập tức bị phát hiện, con với sư huynh ra ngoài đánh lạc hướng bọn áo đen. Tam sư huynh, anh đồng ý đi.”

Tĩnh Viễn Sư thái xúc động phản đối: “Không được, đây không phải mấy đứa chịu chết sao!”

Tống Úc Chi liếc Thái Chiêu: “Tốt nhất Chiêu Chiêu cũng đi theo Sư thái đi, một mình ta là đủ.”

“Hầy dà dẹp anh đi.” Thái Chiêu phỉ báng, “Nếu chỉ có một mình anh, mới là chịu chết thật đó.”

“Sư thái.” Tống Úc Chi hẩy giọt máu cuối cùng trên kiếm bén, vẻ thành khẩn, “Với bản lĩnh của cháu và sư muội sẽ trốn thoát được thôi. Cháu thề với Sư thái, nếu thật sự tới lúc ngàn cân treo sợi tóc, dù có mất mạng cháu cũng sẽ che chở sư muội đi trước!”

Tĩnh Viễn Sư thái còn do dự.

“Sư thái chớ trì hoãn.” Thái Chiêu đè tay lão ni, cười nhẹ nhõm, “Với cả, bọn cháu còn phải đi tìm Phàn sư huynh. Hầy, vị trí Huyền Không Am dễ công khó thủ, còn gần Ma giáo nữa, thật không tốt, dứt khoát thừa dịp này, Sư thái chuyển sang chỗ khác khai trương lại thôi!”

Tĩnh Viễn Sư thái biết cô gái cố ý nói đùa, bà nhìn đám đệ tử thấp thỏm lo âu sau lưng, cắn răng đỡ Thái Bình Xuân, trước khi đi dặn dò: “Mấy đứa phải cẩn thận!”

Đi ra mấy bước, bỗng nhiên bà quay lại.

“Năm đó,” bà có phần xúc động, “Cô của cháu cũng từng khuyên, tìm một chỗ an toàn hơn cho Huyền Không Am — bị ta dạt đi.”

Thái Chiêu cười ra nước mắt: “Sư thái yên tâm, cháu và hai sư huynh sẽ bình an!”

*

Chờ cho vị nữ ni sau cùng biến mất sau cửa mật đạo, Thái Chiêu đóng cửa đá, cùng Tống Úc Chi xuất chưởng, đánh bên trong mật thất đầy ngổn ngang, sau đó chất đá vụn che cửa đá bên ngoài, nom như là vết tích sau trận kịch chiến.

Bên ngoài ánh lửa dần nổi, tiếng mắng chửi các loại dần tới gần, hai người Tống Thái mượn đêm tối chạy ra sau núi vắng vẻ, ven đường đầy bừa bộn, cuối cùng ở một khu trồng lá thuốc trơ trọi họ tìm được Phàn Hưng Gia núp trong lồng trúc.

“Bên ngoài thế nào? Có người giết lên núi phải không!” Hắn run lẩy bẩy, “Ta muốn đi tìm các người, nhưng ta không dám ra ngoài! Thái cốc chủ đâu, Tĩnh Viễn Sư thái đâu!”

“Không kịp giải thích, đi nhanh lên!” Tống Úc Chi kéo Phàn Hưng Gia.

Ba người vừa quay đầu, đám áo đen đã lục soát Huyền Không Am không có kết quả vừa vặn giết tới sau núi, hai bên đối mặt.

“Hay lắm, bắt ba đứa bọn nó lại, chủ nhân có thưởng lớn!” Tên áo đen đứng đầu cười gằn.

Hai bên đồng thời hô một tiếng giết, hăng hái chém giết.

Lần này địch ta cách xa, Thái Chiêu giết bảy tám người liên tiếp, thở hồng hộc chống đao quỳ xuống, Tống Úc Chi đành che chắn trước mặt cô với Phàn Hưng Gia, không ngừng vung kiếm, ba người liên tiếp lùi ra sau.

“Rốt cuộc bọn chúng muốn gì! Là cố ý tới giết chúng ta sao!” Phàn Hưng Gia bị hù chực khóc.

“Đồ ngốc, chúng là đến đoạt Tử Ngọc Kim Quỳ!” Thái Chiêu nổi giận gầm lên, lập tức dấy lên nghi ngờ, “Tam sư huynh, Dạ Lan ở Huyết Chiểu đã bị hủy, bọn chúng còn muốn Tử Ngọc Kim Quỳ làm gì?”

Phàn Hưng Gia như ngớ ra: “Dạ Lan Huyết Chiểu? Nó thì liên quan gì đến Tử Ngọc Kim Quỳ?”

Tống Úc Chi vù vù hai kiếm ép lui người áo đen, Thái Chiêu ngay sau đó đánh ra.

Tống Úc Chi quay lại nói: “Ma giáo có một môn tà công, phải có Dạ Lan Huyết Chiểu và Tử Ngọc Kim Quỳ mới có thể luyện thành — không Dạ Lan Huyết Chiểu, chỉ có Tử Ngọc Kim Quỳ cũng vô dụng!”

“Tam sư huynh đừng dài dòng nữa, tranh thủ tìm đường chạy đi!” Thái Chiêu ra sức chém giết, nội lực đã bị hao tổn càng không đề lên không nổi.

Phàn Hưng Gia nghe xong, đứng đực im lặng tại chỗ, không nhúc nhích.

“Chả lẽ đã có người lấy đi vài nhánh trước khi Dạ Lan bị hủy?” Tống Úc Chi hươ kiếm bên cạnh nghi hoặc, “Là ai chứ?”

Thái Chiêu nghiêm sắc mặt, sừng sộ: “Tam sư huynh đừng khách sáo nữa, cứ nói thẳng ba chữ Mộ Thanh Yến là được!”

Tống Úc Chi ho nhẹ một tiếng, “Ta chỉ là suy đoán, A Khương bà bà cũng đã nói, mười mấy năm qua đi vào Đầm Máu chỉ có sau người chúng ta, ngoài chúng ta ra thì cũng chỉ có…”

“Là ta.” Phàn Hưng Gia ngơ ngẩn, “Là nửa đêm ta chuồn đi, lấy đi một nhánh Dạ Lan.”

Thái Chiêu như dựng tóc gáy cả người, the thé nói: “… Ngũ sư huynh anh nói gì vậy?”

Tống Úc Chi cũng định nghiêm chỉnh hỏi, nhưng hắc y nhân liên tiếp nhào tới, hắn đành sấn tới trước ngăn cản.

“Ta ta, ta không biết! Ta không biết Dạ Lan dùng để luyện tà công!” Mặt Phàn Hưng Gia đầy sợ hãi, như một đứa bé bị dọa sợ.

“Ta cũng thấy làm thế không tốt, sao lại lén ăn trộm đồ người ta chứ, lại còn phải giấu các người nữa!” Phàn Hưng Gia giải thích không mạch lạc, cuống quýt rơi lệ, “Khuya hôm đó lúc ta cầm Dạ Lan về phòng, thấy cô với Tam sư huynh từ ngoài sân đi tới, lúc ấy ta đã muốn kể cho hai người biết, thế nhưng, thế nhưng…”

Thái Chiêu mãi mới quay lại giận dữ, chụp một phát mạnh vào vai Phàn Hưng Gia: “Khoan hẵng nói đã, Ngũ sư huynh nói tôi nghe, là ai sai anh làm vậy, là ai!”

“Là… Sư muội cẩn thận!”

Phàn Hưng Gia đang định trả lời, bỗng lom lom nhìn ra phía sau lưng Thái Chiêu, mắt lộ vẻ sợ hãi — trong chớp giật, hắn một tay đẩy Thái Chiêu ra, phịch, bị gã áo đen phía sau đánh tới một chưởng trúng ngực, mấy chiếc xương sườn bẻ gãy răng rắc, đồng thời phụt máu tươi ngất đi!

“Ngũ sư huynh!”

“Ngũ sư đệ!”

Thái Chiêu hét thảm nhào qua, Tống Úc Chi giết tiếp mấy người, lùi lại đỡ lấy Phàn Hưng Gia.

Hắc y nhân kép thành nửa vòng tròn bao vây ba người vào giữa, từ từ ép tới, chính là một trận sống chết.

“Tam sư huynh.” Thái Chiêu bỗng thì thầm, “Trên người tôi còn hai viên Bạo Vũ Lôi Đình cuối cùng.”

Tống Úc Chi vui mừng quá đỗi, quay phắt lại.

“Anh với tôi mỗi người cầm một viên, đồng thời ném ra bên ngoài, sau đó thừa dịp loạn chia ra chạy trốn.” Sắc mặt cô gái tái nhợt, lấm tấm máu, nhìn muốn giật mình, “Tam sư huynh đã phục hồi nội lực tốt hơn tôi, anh đưa Ngũ sư huynh theo đi.”

Tống Úc Chi gật đầu, một tay ôm Phàn Hưng Gia gá lên vai mình, đồng thời nhận Bạo Vũ Lôi Đình Thái Chiêu đưa tới sau lưng.

“Đến chừng đó chúng ta gặp nhau thế nào?” Y hỏi.

Thái Chiêu chưa kịp trả lời, hắc y nhân đã cùng nhau tấn công, ba người thuận thế tách ra.

Vượt qua đám hắc y nhân trùng trùng, Thái Chiêu cao giọng hô: “Giông tố trời không mưa — Tam sư huynh còn nhớ chứ?”

Lần đầu tiên sau trận đại biến trong nhà, Tống Úc Chi vui sướng cười lên: “Đương nhiên nhớ!”

“Được, tôi đếm nhé. Một, hai, ba, ném!”

Theo Thái Chiêu thét ra lệnh, Tống Úc Chi dùng sức quăng Bạo Vũ Lôi Đình —

Ầm ầm!

Một tiếng nổ kinh thiên động địa, trong nháy mắt xung quanh cát bay đá chạy, đất ruộng tứ tung, máu me lăn lộn.

Trong tiếng gào théo thê thảm bọn hắc y nhân, Tống Úc Chi nhanh chóng cõng Phàn Hưng Gia chạy xuống núi, chạy một mạch tới chân núi, vọt ra xa mấy dặm, đến khi sắc trời dần sáng mới dám dừng lại thở một hơi.

Ngồi nghỉ một chút, bỗng nhiên y phát hiện chỗ không đúng —

Vừa rồi, sao chỉ có một tiếng nổ lớn?

Chả lẽ hai người ném quá mức cùng lúc, do đó chỉ nghe được tiếng nổ một lần?

Không đúng, Tống Úc Chi lập tức phủ định trong lòng.

Lúc ở điện Chính Nguyên Thái Sơ Quán, y đích thân chứng kiến uy lực nổ liên hoàn của Bạo Vũ Lôi Đình, người không phải là không có chút chuẩn bị.

Tống Úc Chi ngưng thần suy nghĩ tỉ mỉ, không ngừng nhớ lại chuyện vừa xảy ra, càng nghĩ càng kinh hãi.

Rõ ràng chỉ có một viên Bạo Vũ Lôi Đình nổ, còn viên kia, sao Chiêu Chiêu không ném?

Một tia nắng lạnh lẽo chiếu lên người, máu cả người y như đóng băng. Tống Úc Chi cảm nhận được một nỗi sợ hãi khó tả.

— Chiêu Chiêu nói dối, không phải nàng ấy không ném, mà trên người nàng ấy hỉ có một viên Bạo Vũ Lôi Đình.

Mà nàng ấy, để lại cho mình.

Khi viên Bạo Vũ Lôi Đình của mình đã nổ vang, đám áo đen còn lại tất nhiên sẽ điên cuồng dốc hết sức tấn công vào Thái Chiêu.

Nàng ấy sẽ thế nào?

Tống Úc Chi đang định quay lại, lúc này, Phàn Hưng Gia trong hôn mê rên rỉ đau đớn.

Y cắn răng, đành giấu Phàn Hưng Gia vào một sơn động gần đó trước.

Lúc này sắc trời sáng rõ, Tống Úc Chi không ăn không uống chạy về Huyền Không Am.

Khe Ẩn Tú yên tĩnh như trước, không có hắc y nhân, cũng không có xác bọn chúng, cũng không có Thái Chiêu, chỉ còn tường đổ nát trơ trọi, và mấy cái xác nữ ni Huyền Không Am.

Tống Úc Chi vọt tới sau núi, đi đến chỗ đêm qua họ tách ra, lần theo vết máu đầy đất và vết Diễm Dương đao chém lên núi đá, từng bước một đuổi tới vách đá. Màn nước trong suốt nổi tiếng bên dưới Huyền Không Am quẹo một góc cua ở nơi này, góc chuyển mãnh liệt ép thành thác nước, mọi tung tích đến đây chấm dứt.

Tống Úc Chi đứng bên thác nước suy nghĩ xuất thần.

Cơn gió nhẹ thổi trong rừng, chim chóc nhẹ nhàng hát ca.

Thế nhưng, tiểu sư muội của y đã đi đâu.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom