Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Đô Thị Quỷ Ký

Đô Thị Quỷ Ký
Tác giả: ThuyMongTrung
Tình trạng: Đang cập nhật




Tác giả: ThuyMongTrung

Thể loại: Đô Thị, Linh Dị, Huyền Huyễn

Giới thiệu:

Bạn đang đọc truyện Đô Thị Quỷ Ký của tác giả ThuyMongTrung. Vong quỷ tồn tại thế nào trong cuộc sống đô thị hiện đại? Phân loại thế nào? Cấp độ nào có thể nói chuyện? Cấp độ nào có thể trực tiếp hại người?

Và rất nhiều những truyền thuyết linh đã thất truyền hoặc còn tồn tại...

Tất cả đều có trong "Đô Thị Quỷ Ký"
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: 1: Tàn Ảnh Quỷ Hiện





Núi Tử Đạm ở thị trấn Hoa Bắc, cùng với ba ngọn núi khác là Lũng Hoắc ở vùng Tây Giang, Lương Thao ở ngoại ô Bỉ Thố, Báo A Mân ở châu thổ Lĩnh Kỳ, hợp thành Tứ Đại Cấm Sơn.

Trong bốn ngọn núi này thì Tử Đạm là núi nhỏ nhất.

Tuy không phải là núi lớn nhưng lại nổi tiếng bởi ẩn chứa nhiều kỳ trân dị thảo, thu hút nhiều người mang giấc mộng đổi đời kéo đến.

Có lời đồn rằng trên núi có loại nhân sâm to lớn, to gần bằng một đứa trẻ sáu tuổi, chân rễ mọc dài ra tới vài thước, toàn thân toát ra màu tím, gọi là Tử Vương Sâm.

Thứ sâm này có lúc hiện ra hình người đi dạo loanh quanh ở chân núi, vô tình bị trông thấy, có kẻ bạo gan đuổi theo, vào tới trong núi thì cây sâm biến mất, người đuổi theo cũng không thấy trở ra.

Ai nhát gan thì chỉ dám đứng nhìn rồi kể lại cho người khác.

Lời kể lan truyền như nước lũ, cuối cùng phóng đại đến mức ai sở hữu được Tử Vương Sâm thì có thể xưng bá thiên hạ, làm vương làm tướng, còn không thì bán đi có thể đổi về được một gia tài ngồi ăn núi lở đến mấy đời cũng không hết.

Khiến cho không biết bao nhiêu người muốn có giấc mơ thiên hạ hoặc của cải vàng son tìm đến.

Chỉ có điều người vào núi thì nhiều, nhưng người ra khỏi núi chỉ đếm được trên đầu ngón tay, hơn nữa nếu có sống sót trở ra thì thứ còn lại cũng chỉ là thân tàn ma dại, tóc tai rũ rượi, máu me vương vãi, thần trí điên loạn.

Từ đó, dân gian đồn đại trong các ngọn núi này có yêu ma quỷ quái, phanh thây xẻ thịt bất cứ ai xâm phạm lãnh thổ của chúng.

Tử Đạm dần trở thành ngọn núi cấm, chứa đầy kỳ bí và huyền hoặc.

Khu vực xung quanh núi Tử Đạm là rừng thưa hoang vắng, nơi có dân cư sinh sống gần nhất là thôn Hoa Cúc, những kẻ tìm báu vật đều đến đây làm nơi dừng chân, vì thế cho thuê phòng trọ và buôn bán những vật dụng phục vụ cho việc đi rừng, leo núi đem lại một phần thu nhập không nhỏ cho dân cư ở đây.

Cuối thôn Hoa Cúc có hai ngôi nhà nằm kế nhau, một căn để trống cho thuê, căn kia là nơi chủ nhân sinh sống.

Chủ nhân của cả hai căn nhà là một cô gái trẻ, khuôn mặt xinh xắn đáng yêu.

Có điều cô gái ít khi mỉm cười nên nét đáng yêu dường như bị khuất sau vẻ lạnh lùng, băng giá.

Cô gái đang ngồi chế tác một hình nhân nhỏ nhắn bằng gỗ vừa ngân nga hát hai câu quen thuộc trong bài “Tìm một chữ để thay thế”:
Em muốn hái hai ngôi sao trên bầu trời kia
Đặt vào đôi mắt anh để anh trông thấy em.


Nhưng những câu hát tiếp theo lại có nội dung khác hẳn, tuy là vẫn giữ được giai điệu ban đầu:
Em muốn nhặt vài nhành cây trôi trên sông
Gắn vào làm chân tay anh để cùng nhau nắm tay đi dạo dưới mưa
Em muốn gom một ít lá cây rừng
Làm áo ấm đắp lên tấm lưng trần lạnh giá
Em muốn may một cái bao tay thật dày
Để cầm chặt vào cán dao, rút nó ra khỏi tim anh…
Khắc xong hình nhân, cô gái xếp nó lên một cái giá nhiều tầng cũng đã chất đầy hình nhân như thế.

Không biết cô gái đã mất bao nhiêu thời gian để khắc xong cả mấy trăm hình nhân như vậy, nhưng phải thừa nhận đây là một kỳ công rất lớn.

Mấy trăm hình nhân này mỗi con một kiểu, mô phỏng lại những hình dạng tiêu biểu và đặc trưng nghề nghiệp của con người, có nam có nữ, có giả có trẻ, có thư sinh đọc sách, có tướng quân ngự đao, có con bệnh nằm liệt giường, có lực sĩ cử tạ trăm cân… nhưng tất cả chúng đều không có mắt.

Hình nhân vừa mới hoàn thành có dáng dấp tựa một kiếm sĩ phong trần, khoác áo chéo lưng, tay vác một thanh cự kiếm to tướng trên vai.

Cô bắc thang leo lên, xếp nó vào hàng thứ năm từ trên đếm xuống.

Cái giá để hình nhân này chia tất cả thành mười tầng.

Tầng trên cùng chỉ có một hình nhân mang dáng dấp của cao tăng đắc đạo, hàng mi dài phủ xuống hai bên mặt, mình khoác cà sa, một tay cầm thiền trượng, tay kia bắt thành Vô Úy thủ ấn.

Tầng thứ hai là một cặp hình nhân với dáng dấp và trang phục nổi bật của hoàng tộc.

Một hình nhân là Vương đội mão Cửu Long, thân khoác hoàng bào thêu hình lưỡng long chầu nhật.

Hình nhân kia là Hậu đội mão Cửu Phụng, thân khoác bào đoàn phượng.

Tầng thứ ba là hình nhân của tầng lớp tri thức như trạng nguyên, tú tài, thầy đồ, thư sinh…
Tầng thứ tư là hình nhân của tầng lớp thương nhân, từ kẻ bán hàng rong ngoài chợ cho đến tài phú dong buồm qua biển lớn.

Tầng thứ năm là hình nhân của tầng lớp võ sĩ, quân tướng, cung thủ, đao khách…
Tầng thứ sáu, bảy, tám là hình nhân các loại nghề trong xã hội.

Tầng thứ chín là hình nhân các loại động vật, từ muông thú trên cạn, chim chóc bay trên trời, cho đến kình ngạc dưới nước.


Tầng thứ mười cuối cùng là hình nhân yêu ma quỷ quái nhe nanh múa vuốt, thè lưỡi trợn mắt.

Xếp hình nhân kiếm khách vào chỗ xong xuôi, cô lấy chổi lông quét bụi hết một lượt từ trên xuống dưới.

Quét tới giữa chừng, cô thấy vài con nhện đang giăng tơ trên giá gỗ, trùm lên luôn cả mấy cái hình nhân ở cuối góc.

Cô trầm ngâm một lúc rồi quyết định cứ để mặc kệ như thế, tuy loài nhện thường gắn liền với các điển tích quỷ quái do hình dạng của nó, nhưng trong cuộc sống hằng ngày thì nhện là loài vật báo điềm lành, nhện tụ một chỗ nghĩa là có điều tốt sắp đến, hơn nữa nhện giăng tơ còn bắt bớt ruồi muỗi trong nhà.

Những màng tơ đã bị nhện bỏ đi thì đúng là nên quét dọn để giữ sinh khí sạch sẽ trong nhà cửa, nhưng đối với màng tơ mà nhện đang dệt hoặc đang ở, nếu phá đi sẽ hủy mất điềm lành.

Cô bỏ qua mấy con nhện, tiếp tục quét xuống phía dưới, lại nghe tiếng hỷ thước kêu mấy tiếng.

Tiếng kêu của loài chim đuôi dài này thường là điềm báo sắp có khách đến.

Cô tự nhủ: “Không lẽ là có khách đến thuê phòng?” Nghĩ vậy nên sau khi quét dọn xong, cô lấy bốn cái đèn dầu, mang qua căn nhà bên kia.

Ở thôn Hoa Cúc này có một nhà trọ lớn tên là Phụng Lai.

Bình thường đó là nơi cho những kẻ phiêu bạt thám hiểm ở trọ, nhưng thỉnh thoảng có những đợt người kéo đến ồ ạt khiến Phụng Lai hết phòng thì những nhà trọ nhỏ lẻ khác mới có cơ hội đón khách.

Hoặc giả có những vị khách không muốn chốn ồn ào ở Phụng Lai thì sẽ kiếm những nhà trọ khác bên ngoài.

Dạo này không phải là dịp cao điểm, nếu có khách đến thuê phòng thì có lẽ là khách thích sự yên tĩnh.

Căn phòng để cho thuê này quả thật là nơi rất yên tĩnh.

Nếu như khách thuê không la hét vào ban đêm.

Giữa hai căn nhà có lối đi lát đá, nối thông hai mảnh vườn lại với nhau.

Cô bước đi chậm trên lối đi phủ đầy rêu xanh, mấy lần suýt trượt ngã.


Bước lên hiên nhà, cô đặt mấy thứ cầm theo xuống bên cạnh, lấy chìa khóa tra vào ổ khóa đã có chút rỉ sét, chật vật một hồi rồi ổ khóa cũng mở “tách” một cái.

Cô có chút ngập ngừng khi đặt tay lên nắm cửa, nhưng rồi cũng vẫn kéo cánh cửa từ từ mở ra, bản lề khô dầu kêu rít lên ken két, một mùi ẩm mốc xộc vào mũi.

Ánh sáng mặt trời từ bên ngoài chiếu vào bên trong là phòng khách với nội thất đơn giản.

Ở giữa phòng là bộ bàn ghế bằng gỗ màu nâu sậm, phủ một lớp bụi mỏng.

Phía trên mặt bàn một khoảng, cách vài gang tay, có một đôi chân trần đung đưa nhè nhẹ.

Một dòng máu đỏ trôi theo hướng bàn chân rũ, nhỏ từng giọt xuống dưới, nhưng không chạm vào mặt bàn mà cứ thế biến mất vào hư không.

Cô tránh nhìn vào đôi chân đó, mặc dù trong lòng tự hỏi vì sao lúc nào nó cũng cứ đung đưa mãi như vậy.

Cô băng ngang qua một bên, mở chốt và đẩy hai cánh cửa sổ mở rộng ra.

Ánh sáng mặt trời ùa vào khiến đôi chân và thân người gắn liền với nó biến mất.

Cô biết đây gọi là Tàn Ảnh Quỷ Hiện, một hiện tượng không phải là quá hiếm gặp.

Ở nơi xảy ra những cái chết oan khuất, đau đớn, tạo ra oán niệm chất chứa không thể tiêu tan, oán niệm này có thể khắc ghi hình ảnh tử vong tại hiện trường, gặp ánh sáng sẽ biến mất, nhưng trong bóng tối chập choạng lại hiện ra.

Thứ tàn ảnh này không gây nguy hiểm vì không có thực thể tà quái, chỉ có điều nó có thể dọa một người đứng tim mà chết.

Sau khi đi một vòng mở hết các cửa sổ, cô dọn dẹp sơ qua cho căn nhà sạch sẽ một chút, chuẩn bị giường chiếu sẵn nhưng vẫn chưa trải ra, mà đợi đến khi chắc chắn có khách tới thì mới dọn ra cho khách thấy.

Cô lại chuẩn bị bốn cái đèn dầu lớn, châm đầy dầu, đặt ở bốn góc bàn.

Với độ sáng của bốn ngọn đèn này thì vào ban đêm, thứ tàn ảnh kia cũng không thể hiện ra, vấn đề chỉ là khách thuê có chịu nghe lời cô để giữ sáng mấy ngọn đèn này hay không mà thôi.

Mãi đến chiều mới có khách đến, lúc này cô đang ngồi trong nhà thì có người lạ bước qua vườn, đặt chân lên mái hiên, đưa tay gõ lên cánh cửa gỗ.

Cô nghe tiếng gõ cửa thì nhìn qua khung cửa sổ bên cạnh, thấy người gõ cửa là một nam nhân trạc ba mươi tuổi, to cao, vạm vỡ.

Trong lòng cảm thấy có chút lo lắng, nhưng nhìn mặt nam nhân sáng sủa, hơn nữa vẫn đang là ban ngày, cô ngập ngừng một chút rồi cũng mở hé cửa.

Nam nhân lên tiếng: “Tôi hỏi thăm biết rằng chủ nhà này cho thuê ngôi nhà bên kia, cô là chủ nhà?”
“Quả nhiên mấy con nhện và con hỷ tước không lừa mình.” Nghĩ vậy rồi cô mở rộng cửa, gật đầu: “Phải, anh thuê cho mấy người?”
“Một mình tôi thôi.”
“Anh muốn thuê trong bao lâu?”

“Khoảng vài tháng.”
Cô nghĩ thầm: “Ở được một tuần đã là may.” Nhưng cũng như những người trước, cô buộc phải ra điều kiện thu tiền thuê trước, chứ không đến lúc khách thuê bỏ chạy thì sẽ chẳng có đồng nào.

“Anh phải trả trước hai tháng, nếu giữa chừng bỏ đi thì không trả lại tiền.”
“Tiền thuê bao nhiêu một tháng?”
Cô nói ra một con số.

Nam nhân lấy từ trong ba lô ra một số tiền lớn, đếm đúng số tiền thuê hai tháng rồi đưa cho cô.

Thấy người này mang theo số tiền lớn, cô lo ngại: “Anh… Anh không làm gì phi pháp chứ?”
Nam nhân phì cười: “Không, không đâu, cô đừng lo.”
Cô nhận tiền rồi dẫn người khách qua căn nhà cho thuê bên cạnh.

Lần này cô đi ra khỏi nhà mình rồi vòng qua căn bên kia, dẫn khách vào bằng cửa trước chứ không dùng lối đi tắt giữa hai nhà.

Căn nhà cho thuê này được xây bằng gạch xanh rất vững chắc, cây cối trong vườn đã lâu không được chăm sóc mọc um tùm, rêu xanh phủ đầy trên lối đi bằng đá.

Cuối góc vườn phía sau mọc một cây đàn hương rất cao, cao bằng tòa nhà ba tầng lầu, tán cây sum suê tỏa thành hình tròn.

Dân gian vẫn cho rằng, các loại cây mang âm khí nặng luôn sẽ có tổng thể các tán cây tạo thành khối cầu tròn nhìn từ mọi góc độ.

Vị khách vừa theo sau vừa hỏi: “Cô tên là gì?”
Cô gái đáp: “Tôi là Ngọc Ngân.”
“Tên đẹp đấy.”
“Còn anh tên gì?”
“Tôi là Lữ Thuần Dương.”
Lúc này căn nhà đã trở nên sạch sẽ tươm tất, không gian sáng sủa.

Ngọc Ngân dẫn vị khách đi một vòng, giới thiệu quanh nhà, chỉ vào phòng ngủ: “Giường chiếu đã chuẩn bị xong rồi, anh chỉ việc trải ra là nằm được.”
“Cảm ơn.”
“Có cần tôi nấu ăn cho luôn không? Giá cả bình dân thôi.”
“Làm phiền cô vậy.”
“Còn một điều này nữa, không được hỏi lý do, nhưng nhất định phải ghi nhớ.”
Lữ Thuần Dương có chút ngạc nhiên: “Là điều gì vậy?”
Ngọc Ngân chỉ vào cái bàn ở phòng khách: “Lúc nào cũng phải giữ cho phòng khách này sáng sủa, ban ngày thì mở cửa sổ, ban đêm thì phải thắp sáng bốn ngọn đèn dầu này, không được để tắt.”
“Để tắt đèn thì có quỷ đến à?”
“Không sợ quỷ đến, chỉ sợ người đi thôi.” Nói xong Ngọc Ngân thắp sáng bốn ngọn đèn rồi quay bước về lại căn nhà bên kia.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: 2: Khẩu Thực Quỷ





Đợi nữ chủ nhân rời khỏi hẳn, Lữ Thuần Dương sắp xếp lại đồ đạc của mình, lấy một ít quần áo từ trong ba lô ra treo vào trong tủ, dựng một vật dài bọc kín bằng vải dày dựa vào góc tường, lôi từ ngăn nhỏ bên hông ba lô ra một cái lư đồng, đoạn đốt một khúc trầm nhỏ, thả vào trong lư.

Đợi cho khúc trầm bén lửa, tỏa ra làn khói trắng xanh ngưng tụ xuống thành một khối đặc quánh trong lòng cái lư bằng đồng, Lữ Thuần Dương lấy ra mấy thứ thảo dược như Ngọc Cẩu, Hoàng Dương, Cương Bồi, ngồi cắt nhỏ mỗi thứ một ít, rồi nghiền nát, trộn lẫn với nhau làm thành một thứ bột màu hồng lam, rắc vào trong lư.

Đợi cho thứ bột này bốc cháy, tạo ra ngọn lửa hồng nhạt tỏa ra xung quanh thì hắn cắt ngón tay mình ra vài giọt máu, nhỏ chung vào, khiến từ cái lư bốc lên một thứ khói đỏ quạch, cay nồng.

Lúc này trời đã chập choạng tối, hắn đem cái lư ra phòng khách đặt lên chính giữa bàn, vặn bốn ngọn đèn dầu xuống nhỏ nhất sao cho ánh sáng leo lét chỉ có thể soi đường đi cho cái phòng khách mập mờ.

Thứ ánh sáng yếu ớt khiến cái xác người treo cổ hiện ra rõ rệt, Lữ Thuần Dương ngước nhìn rồi lấy tay canh chỉnh cái lư sao cho luồng khói bốc lên tỏa vào đúng chính giữa và bao trùm lấy cái hình người treo cổ.

Hắn chậm rãi quan sát kỹ cái Tàn Ảnh Quỷ Hiện này, đây là một nam nhân, trang phục kiểu dân dã, lai một chút kiểu cách miền sơn cước, mặt mũi rậm râu bặm trợn.

Bên trái ngực ở vị trí tim có một con dao cắm sâu ngập đến tận cán, một dòng máu đó chảy ra từ chuôi dao, theo thân người chảy xuống bên dưới, chảy đến đầu mũi ngón chân cái thì nhỏ xuống rồi biến mất.

Khuôn mặt cái xác này không phù, lưỡi không thè ra, mắt lại nhắm.

Hiển nhiên là người này chết không phải do treo cổ, mà là chết vì nhát dao chí mạng vào tim kia, sau đó mới bị treo lên, vì thế không có những hình ảnh đặc trưng của một cái xác chết treo.

Bị dòng khói đỏ bao trùm, hình ảnh xác chết từ từ mờ nhạt dần đi.

Máu của hắn vốn là thuần dương cương huyết, kết hợp với tinh dầu trầm và các loại thảo mộc trừ tà, có khả năng tẩy đi Tàn Ảnh Quỷ Hiện rất tốt.

Thứ hiện tượng này tuy không nguy hiểm nhưng có thể khiến một căn nhà trở nên bị bỏ hoang phế rất phí phạm, đặc biệt đối với chủ nhân là nữ giới, hơn nữa còn xinh xắn như vậy.

Một lúc sau hình ảnh xác chết treo đã hoàn toàn biến mất, hắn dẹp cái lư hương, vặn to bốn ngọn đèn dầu lên theo như lời dặn của chủ nhà, nhưng mục đích chỉ là để căn phòng sáng sủa hơn.

Một lát sau, Ngọc Ngân đã đem đồ ăn tối qua, Lữ Thuần Dương thấy chỉ toàn là rau và đậu hũ nên thắc mắc: “Cô ăn chay à?”
“Anh có vấn đề gì với đồ chay?”
“Không, tôi hỏi vậy thôi, chứ có đồ ăn là tốt rồi.”
Ngọc Ngân thấy phòng khách sáng trưng như lời mình dặn thì an tâm quay về.

Lữ Thuần Dương nếm thử bữa tối, đồ ăn do nữ chủ nhà nấu cũng không tệ, hợp khẩu vị của hắn.

Ăn xong rồi không biết làm gì, hắn ra ngoài đi dạo một lúc, mặt trăng rọi một thứ ánh sáng mềm mại và dịu dàng xuống hạ giới.

Ra khỏi nhà, hắn nhìn trái nhìn phải, thấy phía bên trái dẫn đến một con dốc cao có vẻ hoang vu nên quyết định theo hướng này.

Hắn theo con đường mòn trước nhà đi dần ra khỏi thôn, leo lên con dốc cao, phóng mắt nhìn xuống thung lũng trước mặt.


Ánh đèn lác đác của nhà dân trong thôn cho thấy thôn Hoa Cúc nằm trên sườn dốc đổ xuống một cái thung lũng, căn nhà xa nhất nằm ở rìa thôn cũng không lọt xuống vùng trũng, mà vẫn nằm ở một mức khá cao so với trung tâm của thung lũng bên dưới chỉ độc một màu đen ngòm.

Còn sau lưng hắn, đối diện với cái thung lũng là núi Tử Đạm nổi tiếng.

Ngọn núi này nổi tiếng bởi châu báu cổ vật hay kỳ trân dị thảo gì thì không biết, chỉ biết rằng đã có rất nhiều người vào núi rồi không trở ra nữa.

Sau khi đứng ngắm trời đất một hồi, Lữ Thuần Dương quay bước trở về.

Vào nhà, hắn trải chiếu rồi thả người lên giường, nhắm mắt, cơn gió mát luồn qua cửa sổ đưa hắn chìm ngay vào giấc ngủ.

Không biết đã ngủ được bao lâu, nhưng khi ánh trăng đứng bóng, Lữ Thuần Dương cựa người trở mình, rồi bị đánh thức bởi một thứ âm thanh gì đó.

Hắn mở mắt dóng tai nghe kỹ, thì ra là tiếng hát, là giọng hát của một cô gái.

Câu hát lúc trầm lúc bổng, lúc cao lúc thấp, lúc rõ lúc mờ, nghe có vẻ xa xăm mà cũng như gần bên cạnh.

Ban đầu hắn tưởng là giọng hát của nữ chủ nhân kế bên, nhưng khi thò đầu ra khỏi cửa sổ quan sát thì thấy căn nhà bên cạnh im lìm, không có chút ánh sáng, hơn nữa giọng hát phát ra từ hướng ngược lại, ở phía bên kia, nơi mà lúc tối hắn đã tản bộ đến đỉnh dốc.

Nhìn ra ngoài thấy ánh trăng đang rất sáng, soi rõ mọi thứ như ban ngày, hắn quyết định ngồi dậy, vớ lấy cái vật dài bọc kín bằng vải đang dựng ở góc tường rồi mở cửa bước ra ngoài.

Hắn men theo con đường cũ, đi về phía có tiếng hát.

Ánh trăng soi sáng những giọt sương đọng trên cỏ lấp lánh như ngọc, gió đã lạnh hơn, tuy nhiên với thân thể cường tráng thì cái lạnh ban đêm này không có ảnh hưởng gì đáng kể.

Tiếng hát vẫn du dương, điệu đàng, như có ý mời gọi hắn tìm đến.

Thế nhưng hắn đi mãi mà vẫn chưa thấy ngọn nguồn của âm thanh phát ra từ đâu, thấm thoát đã bước chân tới đỉnh dốc lần nữa.

Tiếng hát có vẻ như vọng lại từ dưới chân dốc bên kia, hắn bực bội nghĩ thầm: “Hát hò gì mà vang vọng xa thế, xuống tới dưới đó mà còn chưa gặp được ai hát nữa thì mình đi về luôn vậy.”
Dường như người hát nghe được suy nghĩ trong đầu hắn, nên xuống tới chân dốc thì giọng hát im bặt, không phát ra nữa.

Đưa mắt nhìn quanh, hắn phát hiện cách đó không xa có bóng người đang ngồi trên thành một cái giếng, người đó ngồi quay lưng về phía hắn nên không nhìn rõ được khuôn mặt.

Hắn chậm rãi bước lại gần, tiếng đá sỏi lạo xạo dưới chân, vậy mà người đó vẫn không quay lại, gió thổi ngang qua người hắn, len lỏi đến người kia, thổi tung tà áo bay lất phất.

Tiến đến gần hơn, hắn dần dần nhận ra đó là một cô gái.


Cô ta mặc cái áo choàng màu trắng phủ đến tận gót chân, mái tóc dài ngang lưng xõa ra đang lưa thưa bay trong gió.

Lữ Thuần Dương đã tới sau lưng mà cô gái vẫn ngồi yên, hắn đành cất giọng hỏi trước: “Cô gái, vừa nãy có phải là giọng hát của cô không?”
Cô gái không đáp, chỉ khẽ quay mặt lại, hắn chỉ có thể thấy được một nửa khuôn mặt.

Khuôn mặt cô gái tuy là nhìn nghiêng nhưng cũng đủ cho hắn nhận ra đó là một khuôn mặt không phải của người thường.

Trên làn da mặt trắng muốt chỉ thấy có mỗi đôi môi đỏ thắm, còn lại không thấy mắt, mũi và lông mày đâu.

Lữ Thuần Dương bình tĩnh hỏi tiếp: “Cô bị người ta hủy dung nhan à?”
Cô gái không đáp, chỉ lẳng lặng gật đầu.

“Cô có nói chuyện được không?”
Cô gái lắc đầu.

Lữ Thuần Dương nghĩ thầm: “Như vậy là mới chỉ đạt cấp độ vong phách hoặc quỷ phách, chưa đạt tới cấp quỷ lệ để có thể phát ra tiếng nói, còn giọng hát khi nãy là do oán niệm chất chứa lúc chết mà tạo thành.” Nghĩ vậy nên hắn dò hỏi: “Khi còn sống cô là một danh ca?”
Cô gái gật đầu.

Hắn nói tiếp: “Cô chưa đạt tới cấp quỷ lệ nên chưa nói được, vậy mà lại có thể cất giọng hát vang vọng rất xa chứng tỏ oán niệm lúc chết của cô rất mạnh.

Oán niệm mạnh như thế mà vẫn chưa tích tụ đủ quỷ lực để lên tới cấp lệ quỷ, nghĩa là cô mới chết cách đây chưa lâu.”
Cô gái lại gật đầu.

Hắn đoán: “Cô cất giọng hát gọi người khác tới là vì có tâm nguyện còn chưa hoàn thành?”
Cô gái không gật cũng không lắc nữa, mà quay mặt cúi đầu nhìn xuống giếng.

Gọi là nhìn, chứ chẳng qua là do khuôn mặt cô gái hướng về phía đáy giếng, chứ trên khuôn mặt chỉ có mỗi đôi môi đỏ thắm hướng về phía đáy giếng thôi.

Lữ Thuần Dương thấy vậy thì tiến lại gần, cũng cúi đầu nhìn xuống giếng xem có gì dưới đó.

Hóa ra đây chỉ là một cái giếng cạn, bên dưới không có nước, cũng không sâu.

Nhưng thứ khiến hắn cảm thấy da đầu có chút tê bì là một đống xương khô đang nằm lẫn lộn ở đáy giếng.

Hắn thở mạnh ra một hơi: “Tất cả họ là do cô giết?”
Hỏi xong thì hắn quay sang nhìn cô gái, nhưng hắn bỗng trợn mắt thất kinh vì lúc này miệng của cô gái đã mở rộng ra như một cái bao tải, đang sắp sửa ụp xuống đầu hắn.


Lữ Thuần Dương vội vàng dùng chân đạp mạnh vào thành giếng, mượn lực phóng vọt ra xa tránh được cú ngoạm của cái miệng lúc này đã mở rộng gần bằng miệng giếng, dư sức nuốt trọng một người trưởng thành.

Rìa trong của cái miệng đầy răng sắc lởm chởm, trắng hếu, nước miếng nhỏ tong tong.

Ngỡ rằng tránh được ra xa thì bớt được nguy hiểm, nào ngờ cái miệng lại có thể vươn dài đuổi theo hắn.

Cảnh tượng lúc này giống như là ống cao su cỡ lớn với một đầu nhỏ gắn lên mặt cô gái ở vị trí cái miệng.

Còn đầu kia của ống thì uốn lượn mềm dẻo, to dần ra, đến cuối cùng to cực đại là đôi môi đỏ thắm, cũng đã phì đại to như vành của bánh xe bò.

Cái miệng há to chuẩn bị làm thêm một cú ngoạm thứ hai.

Hắn cảm thấy trong lòng có chút buồn bực, một cô gái có vẻ ngoài thanh tú với giọng hát êm ái như thế, sao lại hóa thành ra cái thứ tởm lợm nhường này, cho dù làm quỷ thì cũng đâu có ai bắt không được làm quỷ xinh đẹp, chẳng lẽ không còn bộ dáng nào dễ coi hơn để hiện thân hay sao?
Dồn bực bội trong lòng, Lữ Thuần Dương giơ cao vật dài trong tay đập mạnh xuống cái miệng đang lao tới.

“Phịch.”
Tiếng vải dày đập vào da thịt tạo ra một âm thanh trầm đục.

Cái miệng ban đầu là hình tròn, nhưng sau khi hứng trọn một cú đập chính diện từ trên xuống dưới thì hai mép miệng dính lại với nhau, lõm xuống sát tận đất, tạo thành hình chữ U.

Bị trúng đòn đau, cái miệng phát ra tiếng khè khè, phun ra một bãi nhầy nhầy trộn lẫn giữa nước miếng và máu mủ.

Lữ Thuần Dương nhảy tránh qua một bên, nhăn mặt thốt lên: “Ôi gớm quá đi mất.” rồi lại giơ tay cao, giáng xuống thêm hai cái vào hai bên cạnh của chữ U cho nó bẹp xuống tiếp.

Cái miệng bây giờ lại thành ra như con giun lồi lõm nằm trên mặt đất, quằn quại.

Không biết phải gọi cái thứ trước mặt hắn là gì nữa.

Cái ống da thịt đang uốn éo trên mặt đất nửa giống như con giun, nửa giống như một cái vòi voi khổng lồ, nối vào khuôn mặt trống trơn, dính vào thân người ngồi bên miệng giếng.

Đột nhiên, cô gái ưỡn người ra sau, lắc lư mấy cái như muốn nôn.

Bụng chợt phình to lên, rồi cái khối to ấy dần dần di chuyển lên mặt, chạy vào trong cái ống da thịt.

Cô gái gồng người, cúi gập mạnh về phía trước, đẩy mạnh cái khối tròn chạy nhanh tới.

Lữ Thuần Dương tròn mắt: “Cái gì đây? Ăn tối no quá nên đầy bụng ợ hơi à?”
Đôi môi bánh xe bò mở ra, một khối chất lỏng đỏ bầm như máu phun thẳng tới người hắn.

Tuy không biết cái thứ đỏ bầm này lợi hại thế nào nhưng trước mắt chỉ thấy ghê ghê nên hắn vội vàng nhún người nhảy lên, chụp lấy cành cây trên đầu.

Cứ tưởng yên ổn nhưng Lữ Thuần Dương bỗng cảm thấy cành cây yếu đi, cong từ từ xuống.


Hắn tưởng cành cây bị gãy, ngước lên nhìn thì thấy cành cây vẫn rắn chắc nguyên vẹn, hắn ngạc nhiên nhìn về phía thân cây để tìm nguyên nhân.

Thì ra cái khối chất lỏng đỏ bầm ấy sau khi nhắm trượt hắn thì bắn trúng vào thân cây, ăn mòn nó.

Phần thân cây bị bắn trúng bốc khói trắng, kêu lên xèo xèo, bị ăn mòn nhanh chóng và gãy đổ sụp xuống.

Từ trong bụng cô gái lại lần nữa phình to lên và lặp lại hành động như trước, bắn tiếp khối cầu chất lỏng thứ hai về phía Lữ Thuần Dương đang lơ lửng.

Hắn vội buông tay rớt xuống đất để tránh cú phun thứ hai này, để lại trên đầu một đám cành lá bị ăn mòn, bốc khỏi trắng, biến thành tro vụn.

Cô gái lại phun tiếp khối cầu dịch máu thứ ba, thứ tư, thứ năm.

Lữ Thuần Dương cứ phải nhảy bên này nhảy bên kia để tránh, hắn hét to: “Này, ngươi đang chơi bắn bi đấy à?”
Thấy đòn tấn công này không làm gì được con mồi, từ trong cái miệng khổng lồ vươn ra một cái lưỡi đỏ chét, mọc đầy gai nhọn, quất thẳng về phía Lữ Thuần Dương.

Đòn này có sức nặng rõ rệt, mặt đất bị đập lõm xuống nát bấy ra, một mùi thối hoắc xộc vào mũi, hắn lập tức đưa tay bịt mũi rồi phàn nàn: “Ngươi không đánh răng sao?”
Cái lưỡi lại vươn lên cao, uốn éo như rắn, dãi nhớt nhỏ đầy mặt đất.

Toàn bộ sức mạnh và quỷ lực của Khẩu Thực Quỷ đều nằm ở cái lưỡi, hắn biết con quỷ đã tung ra sát chiêu cuối cùng.

Đã tới lúc nên chấm dứt cuộc chiến.

Hắn hạ giọng: “Hy vọng kiếp sau cô sẽ gặp một số phận tốt đẹp hơn, còn kiếp này thì đã không còn đường quay lại.”
Lữ Thuần Dương vừa nói vừa tháo lớp vải bọc của cái vật dài vẫn đang cầm trong tay, rút ra một thanh kiếm đỏ rực như máu, tỏa hồng quang, sát khí từ thanh kiếm tạo trường khí chấn áp mọi thứ xung quanh, cây cỏ ngã rạp.

Một đường quét kiếm vung lên trên, chặt đứt đầu lưỡi đầy gai nhọn.

Cái lưỡi chứa toàn bộ quỷ lực bị chặt đứt, con quỷ chuyên ăn tươi nuốt sống con người rồi phun xương ra ngoài này đột ngột xìu hẳn xuống như một quả bóng xì hơi, thu cái miệng trở về.

Tới lúc kết thúc.

Lữ Thuần Dương điểm mũi chân, tung người lên không, lao tới trước, vung thanh kiếm thành một tia sáng như ánh chớp đỏ vẽ lên nền trời đen, kiếm khí bạo phát, chẻ đôi từ cái lưỡi, đến đôi môi bánh xe bò, đến cả thân người.

Máu thịt văng tung tóe ra hai bên, rớt xuống đất hóa thành những vũng máu đỏ bầm, rồi tất cả dần hóa thành khói đen.

Giữa làn khói bốc lên bảy đốm trắng lập lòe, bị gió thổi bay đi, mờ dần.

Hắn đứng nhìn thất thần phách của con quỷ đang dần biến mất vào không trung, há miệng ngáp một cái rõ to, tự nhủ thầm: “Về ngủ thôi.”
Sau khi Lữ Thuần Dương rời khỏi, một con chó rừng lần theo mùi máu tìm đến, đánh hơi, sục sạo được phần đầu lưỡi của con quỷ bị chém đứt văng đi vào một bụi cỏ.

Nó ngoạm lấy rồi chạy đi.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: 3: Kê Vũ Thuật





Lữ Thuần Dương ngủ một mạch tới khi mặt trời đã lên cao mới dậy, hắn thò đầu ra khỏi cửa sổ nhìn qua nhà của nữ chủ nhân, nhưng chỉ nghe tiếng cuốc đất vọng lại từ phía sau nhà.

Hắn lồm cồm bò dậy, lần mò tới nơi phát ra tiếng động, thì ra Ngọc Ngân đang làm đất trồng rau.

Nhìn cô gái thôn quê xinh xắn bận rộn làm vườn khiến hắn cảm giác có chút thú vị, liền tiến lại gần hỏi thăm: “Cô đang trồng rau?”
Ngọc Ngân không đáp mà hỏi lại: “Đêm qua anh đi đâu à?”
Cái cửa ra vào bị rỉ sét, mỗi lần mở là kêu ken két ầm ĩ, muốn không đánh thức người khác cũng khó, có lẽ vì vậy mà nữ chủ nhân biết tối qua hắn ra ngoài.

Lữ Thuần Dương thấy chẳng có gì phải dấu, mà có muốn dấu cũng không được, nên đáp: “Đêm qua tôi đi về phía đỉnh dốc ngắm cảnh một lúc.”
“Khung cảnh ban đêm ở đó thế nào?”
“Chà, không biết nói thế nào, vừa có chút thi vị lại vừa có chút âm u rợn người, có điều… Cô có biết cái giếng ở bên kia chân dốc không?”
Ngọc Ngân vẫn đang xới đất, cứ quay lưng về phía hắn mà trò chuyện: “Đó gọi là Giếng Xương Trắng, thực chất nó chỉ là một cái giếng cạn.

Khoảng hai năm trở lại đây có dân trong thôn và cả khách vãng lai bị mất tích không rõ lý do, sau đó phát hiện trong giếng có xương người chồng chất, từ đó dân trong thôn tránh xa khu vực đó, chỉ có người lạ ở nơi khác tới không biết mới đến gần cái giếng đó thôi.

Đêm qua anh đến đó mà vẫn còn trở về được thì cũng lạ đấy.”
Lữ Thuần Dương gãi gãi cằm: “Chắc thịt tôi ăn không ngon nên cái giếng chê.”
Ngọc Ngân liếc hắn một cái rồi bảo: “Cái giếng đó vào ban ngày thì không nói, nhưng ban đêm thì nó chưa từng chê ai cả, trừ khi miếng thịt nó muốn ăn mà nuốt không trôi thôi.”
“Cô nghĩ là cái giếng ăn thịt người thật à?”
“Nó không ăn thì lấy đâu ra xương trắng chất đầy dưới giếng?”
“Sao cô không nghĩ tới có ai khác ăn xong rồi nhả xương xuống đó?”
Ngọc Ngân lúc này đã bắt đầu gieo hạt mầm xuống rồi lấp đất lên, nói tiếp: “Cái giếng xương trắng đó có phải tự nó ăn hay không thì tôi không biết, nhưng có một chỗ khác cũng có xương trắng mà biết rõ ai là kẻ nhả xương ra.”
Lữ Thuần Dương hiếu kỳ liền hỏi lại: “Đó là chỗ nào?”
“Muốn biết thì phụ tôi một tay.” Rồi cô quẳng cái cuốc qua cho hắn, chỉ về một phía: “Ra kia xới đất, nhổ hết đám cỏ đó lên.”
Hắn tuy sức dài vai rộng nhưng không quen động tác làm nông, nên đến tận buổi chiều mới hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Ngọc Ngân nhìn qua một lượt mảng đất trống mênh mông do hắn xới ra thì gật đầu: “Được rồi, anh nghỉ đi, lát nữa tôi đem cơm tối qua rồi kể cho anh nghe.”
Trời chập choạng tối, Ngọc Ngân dọn cơm ra cái bàn đá ngoài vườn, kê sát hàng rào giữa hai nhà rồi gọi Lữ Thuần Dương ra ăn chung.

Cô vừa ăn vừa kể: “Cái dốc mà anh đi tối hôm qua gọi là Dốc Người Chết, bởi đa số những ai dám vượt qua bên kia con dốc vào ban đêm thì hầu như đều không trở về.

Dân địa phương ở đây rất cố kỵ khu vực đó nên bình thường chẳng ai dám bén mảng tới, họa hoằn lắm vào ban ngày mới có người dám đi qua bên đó.


Lữ Thuần Dương ngạc nhiên: “Đã biết là nơi đó nguy hiểm như vậy sao còn qua đó làm gì?”
“Bởi vì bên đó, đi thêm một chút vào bìa rừng sẽ có một loại quả có hình dáng giống con gà, gọi là quả Kê Tử.

Thứ quả này có vị ngọt thanh, mùi lại thơm, ăn vào khiến người ta cảm giác khỏe khoắn, sung mãn, ở chợ thị trấn người ta săn lùng thứ quả này rất nhiều, đem ra bao nhiêu bán cũng không đủ.

Hơn nữa dường như chỉ vào ban đêm thì mới có nguy hiểm, nên vào ban ngày cũng có một ít những kẻ liều mạng băng qua dốc, vào rừng hái quả đem ra chợ bán, kiếm tiền cũng không ít.

Nghe nói ông chủ nhà trọ Phụng Lai ngày trước cũng nhờ một lá gan không sợ chết, kiếm tiền nhờ loại quả này mà phát tài rồi mở ra được cái nhà trọ to nhất vùng này.”
“Cũng thú vị đấy, nhưng ngoài cái Giếng Xương Trắng ra thì còn gì khác nguy hiểm nữa?”
“Vấn đề ở chỗ từng có người kể rằng, bắt đầu chập choạng tối, từ đâu xuất hiện một đám người đốt lửa nướng thịt, nhảy múa.

Người kể lại đó đi chung với hai người bạn khác, cả ba mải mê hái quả mà không để ý trời đã sập tối từ lúc nào, đột nhiên đám người kia xuất hiện, cả ba bị kéo vào cùng nhảy múa mà không cách gì thoát ra được.

Giữa chừng, người đó cảm thấy đau bụng nên chạy đi một khoảng xa để xử lý, nhưng không phải đi một lượt mà tới vài ba lượt, sau đó người ấy mệt quá, lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Không ngờ ngủ luôn đến gần sáng nghe tiếng gà gáy mới dậy, tìm đường quay lại chỗ cũ thì không thấy hai người bạn kia đâu, chỉ thấy còn lại hai bộ xương dính chút máu thịt, như kiểu đã bị thứ gì đó ăn tươi nuốt sống.

Từ đó người ấy không dám quay lại bên kia con dốc đó nữa, mà cũng chỉ sống thêm được dăm bữa nửa tháng rồi đau bệnh mà chết.

Thêm nữa, trước đây những ai đi qua đó đều nghe tiếng gà gáy rất nhiều, sau chuyện xảy ra, dân ở đây gọi khu rừng thưa đó là Rừng Gà Gáy.”
“Hồi nãy cô bảo biết rõ ai là kẻ vứt xương ra, không lẽ là…”
“Phải, có lời đồn rằng đám người nhảy múa đó là lũ gà thành tinh hóa thành, dụ dỗ người khác nhảy múa rồi mổ thịt người ta ăn cho đến chết, chỉ còn trơ lại xương.”
Lữ Thuần Dương giả vờ so vai rụt cổ: “Ôi, nghe sợ nhỉ.”
Ngọc Ngân nhướn mắt: “Nếu sợ thì cứ ở nhà là được rồi.”
Nghe nữ chủ nhà xinh đẹp nói vậy thì Lữ Thuần Dương cười hì hì: “Nhưng thôi, cứ thử đi một chuyến kiếm con gà quay ăn vậy, hai bữa nay chỉ ăn rau với cỏ mãi.”
Ngọc Ngân sừng sộ: “Hừ, cho anh ăn cỏ hồi nào, toàn là rau tôi tự trồng và đậu hũ nhà tự làm không thôi đấy nhé.”
Ăn xong bữa cơm, Ngọc Ngân vào nhà, cầm ra một cái hình nhân hình chim bồ câu, đưa cho Lữ Thuần Dương: “Giữ lấy, nếu lúc nguy cấp thì tìm cách cắt tay nhỏ một giọt máu lên nó, nó sẽ bay về đây báo cho tôi biết địa điểm của anh.”
“Rồi cô sẽ chạy đến cứu tôi?”
“Tôi thì làm được gì, chỉ có thể qua sáng mai đi nhặt xương của anh về lo hậu sự cho trọn vẹn.”
Lữ Thuần Dương cười ha hả, cầm lấy con bồ câu cất vào trong áo rồi về nhà xách theo thanh kiếm bọc vải dày, lấy thêm một ít đồ trong ba lô, cứ thế bước thẳng ra khỏi nhà, hướng về phía con dốc mà đi tới.


Đêm nay trăng vẫn sáng như đêm qua, Lữ Thuần Dương leo lên đỉnh dốc rồi lại đi xuống dốc.

Ngang qua cái giếng, hắn đưa mắt nhìn thử, không còn ai ở đó, cũng chẳng có giọng hát nào nữa.

Hắn không dừng lại, tiếp tục tiến nhanh tới trước.

Đến một ngã ba, hắn thấy có cái miếu hoang không rõ là thờ ai, bát hương trơ trọi không có nổi một chân nhang.

Nhớ đến câu “Kính quỷ thần, nhi viễn chi” hắn lấy trong người ra một miếng trầm nhỏ, đốt lên, cắm vào trong bát hương rồi khấn vái:
“Không rõ vị nào ngự ở miếu này, tôi chỉ là kẻ qua đường, hữu duyên mà gặp, dâng nén trầm tỏ thành ý, chút sương khói ấm áp lòng người, thế gian đỡ một phần cô quạnh.”
Đại ý câu nói của tiền nhân nghĩa là dặn dò hậu thế rằng cho dù là người không tin vào quỷ thần, nhưng khi gặp phải những gì không thuộc dương gian, hãy cứ giữ tâm thế thành kính mà đối đãi.

Đừng vì nghĩ rằng bản thân là kẻ vô thần mà tỏ sự khinh bỉ quỷ thần, dễ rước họa vào thân.

Sau này dân gian rút gọn lại thành câu “Kính nhi viễn chi” là có nguồn gốc như vậy.

Từ ngã ba, hắn rẽ trái theo lời Ngọc Ngân hướng dẫn, đi mãi rồi cũng đến khu rừng thưa.

Loanh quanh một lúc hắn thấy có bụi cây lớn, quả trên cành phản chiếu ánh trăng bóng loáng, hắn tò mò hái xuống xem thử.

Loại quả này có hình dáng tựa con gà, có mùi thơm, đoán rằng đây là quả Kê Tử nên cắn thử một miếng, quả nhiên có vị ngọt thanh rất dễ chịu.

Ăn hết một quả, hắn thấy trong người có một nguồn lực dâng trào lạ thường, hèn gì thứ quả này đem ra chợ bán bao nhiêu cũng không đủ.

Hắn nghĩ thầm, đã có quả Kê Tử ở đây thì bọn người nhảy múa chắc cũng không xa.

Nghĩ thế hắn tiếp tục rảo bước tới trước, bỗng nhiên từ đâu đó phía xa, hắn nghe có tiếng trống văng vẳng, có nhịp có điệu: “Tùng – tạch – tùng – tạch – tạch.”
Hắn lần theo về phía phát ra tiếng trống, âm thanh ngày càng rõ, khi tới một khoảng cách đủ gần, hắn ngồi sụp xuống, núp sau một lùm cây quan sát.

Đám đông trước mặt có khoảng hai mươi người, chỉ vài kẻ ngồi dưới đất gõ trống, số còn lại đều quây thành một hình tròn xung quanh đống lửa lớn, một tảng thịt to không rõ là của loài vật nào đang được nướng trên ngọn lửa, mỡ nhỏ xuống xèo xèo, toát ra mùi thơm lừng nức mũi.


Khung cảnh này giống như một cảnh đốt lửa trại nướng thịt thông thường, điều khác thường duy nhất là trang phục của bọn họ.

Ai nấy đều mặc một bộ đồ sặc sỡ, lòe loẹt, mỗi bộ đồ như được tạo nên từ hàng trăm sợi lông gia cầm đủ màu sắc đính lại với nhau.

Các sợi lông phẩy lên phẩy xuống theo mỗi bước nhảy của bọn họ.

Đám người vừa nhảy vừa kêu những âm thanh gì đó mà Lữ Thuần Dương không nghe ra được là thứ tiếng gì, cũng không nghe rõ là họ đang hát hay đang đọc một thứ thần chú hay lời cầu nguyện gì.

Nhưng cho dù là gì thì bọn họ đều đang tập trung một cách rất nghiêm túc.

Ngồi yên quan sát một lúc, Lữ Thuần Dương thấy bọn họ không làm gì khác ngoài việc cứ nhảy vòng quanh đống lửa và kêu những tiếng quái dị thì cũng thấy chán, liền đứng lên lững thững bước ra khỏi lùm cây, tiến về phía đám người.

Đám người dường như không quan tâm đến sự xuất hiện của Lữ Thuần Dương, vẫn tiếp tục nhảy múa.

Hắn tiến đến gần một lão già đang ngồi gõ trống, chậm rãi ngồi xuống bên cạnh.

Lão già vẫn say mê đập tay vào mặt trống thành nhịp điệu đều đặn, không thèm liếc kẻ mới đến lấy một cái.

Ngồi một lúc, Lữ Thuần Dương lại thấy chán liền cắm thanh kiếm bọc vải đứng thẳng trên mặt đất rồi nhập bọn với đám người đang nhảy.

Một cảm giác rất lạ xuất hiện, lúc ở ngoài thì trông có vẻ bình thường, không ngờ vừa nhập vào trong vòng tròn thì Lữ Thuần Dương cảm giác mình đang di chuyển với một tốc độ rất nhanh, gió lướt vù vù qua mặt, tay chân tự động múa theo đúng động tác với đám người còn lại.

Lúc thì dang rộng hai tay đặt lên vai hai người hai bên, lúc thì khép hai tay chỉa thẳng lên trời, lúc lại quỳ rạp trên nền đất nhảy chồm hổm, lúc thì hai tay khép nách, vẫy vẫy cùi chỏ như con gà vỗ cánh.

Lữ Thuần Dương hoàn toàn không thuộc điệu nhảy của họ, nhưng giờ đây mọi cử chỉ, mọi động tác, mọi nhịp điệu đều hoàn toàn ăn khớp cùng nhau.

Miệng hắn cũng há ra kêu thứ tiếng kỳ lạ tương tự, âm sắc trầm bổng hòa cùng âm hưởng của đám người.

Trong đầu hắn còn tự dưng sản sinh ra một thứ đam mê nhảy múa, không muốn dừng lại, chỉ muốn nhảy mãi, nhảy mãi cho đến chết mà thôi.

Người ngoài nhìn vào còn tưởng rằng hắn là một vũ công thực thụ.

Cả người Lữ Thuần Dương cứ thế quay cuồng theo nhịp điệu của tiếng trống, thần trí dần mê man.

Trong chút ý thức còn sót lại, hắn đã kịp hiểu ra nguyên nhân cái chết của những nạn nhân khác.

Kẻ nào lỡ chân lạc bước vào điệu nhảy này sẽ không thể tự dừng lại mà thoát ra được, cuối cùng kiệt sức mà chết, nằm trơ trọi giơ thân mình ra cho lũ gà tinh mặc sức mổ rỉa.


Tuy biết là vậy, nhưng hiện tại bản thân hắn cũng đang trong tình huống tương tự, muốn tự thân thoát ra khỏi trận pháp mê hoặc này là không dễ, còn cứ để dây dưa kéo dài tiếp, e rằng hắn sẽ là bữa tối tiếp theo cho lũ gà này.

Không còn cách nào khác, tranh thủ lúc thần trí vẫn còn sót lại một chút tỉnh táo, hắn cắn đầu chót lưỡi phun ra một ngụm máu, cất tiếng gọi lớn: “Sát Đế!”
Máu của hắn vốn là thuần dương cương huyết, mà trên cơ thể, máu ở đầu chót lưỡi của mỗi người là thứ máu cương dương mạnh mẽ nhất, có thể tạm thời phá vỡ mê hoặc của tà vật, đồng thời trong thoáng chốc có thể phát xung ra nguồn kình lực mạnh mẽ.

Lữ Thuần Dương đã tận dụng khoảnh khắc phát xung kình lực này, cất tiếng gọi thanh kiếm của hắn.

Thanh kiếm đang được cắm thẳng trên mặt đất, gần với lão già ngồi gõ trống, có tên gọi “Sát Đế”, vốn là một trong năm Thượng Cổ Thần Kiếm, ngoài uy lực trừ tà diệt yêu vô cùng mạnh mẽ thì còn đặc tính thông linh với chủ nhân.

Nghe tiếng gọi chứa đầy kình lực mạnh mẽ từ Lữ Thuần Dương, thanh kiếm trở nên rung động tại chỗ, ngày càng mạnh hơn, cuối cùng kiếm rút ra khỏi bao, bay về phía Lữ Thuần Dương.

Bình thường thì hắn có thể giơ tay chụp lấy bảo kiếm của mình, nhưng nay cả hai tay hắn đang bận múa may quay cuồng, máu chót lưỡi chỉ có thể thức tỉnh thần trí trong thoáng chốc chứ không thể cứu hắn thoát hẳn khỏi thế trận mê hoặc, bàn tay hắn lúc này đang thoăn thoắt ngửa ra lật vào một cách mềm mại, hoàn toàn không nằm trong sự khống chế của hắn.

Bởi vậy khi Sát Đế bay tới, chuôi kiếm cứ thế tông thẳng vào trán hắn một cái “Cốp”.

Cú đập khiến hắn choáng váng, nhưng nhờ vậy thức tỉnh tâm trí của hắn phần nào, cả cơ thể tạm thời thoát ra khỏi sự khống chế, tay hắn trở lại trong sự kiểm soát của bản thân.

Hắn giơ tay lên chụp lấy chuôi kiếm, nhủ thầm: “May mà cây kiếm không bay tới bằng cái đầu nhọn của nó.”
Chưa kịp mừng thì hắn thấy cơ thể có dấu hiệu bị hút theo trận pháp nhảy múa trở lại, hắn lẩm bẩm: “Một lần là quá đủ rồi.” Đoạn nhún người nhảy lên cao, xoay chuôi kiếm trong tay nửa vòng cho mũi kiếm hướng về mặt đất, tụ lực đâm mạnh mũi kiếm xuống, xuất ra một chiêu thức trong bộ kiếm pháp của gia tộc: “Thiên Kình Ngự”.

Chiêu “Thiên Kình Ngự” này dùng kiếm ý mạnh mẽ để triệu hồi kiếm ảnh là một thanh kiếm khổng lồ đỏ rực như máu, loang loáng hồng quang, từ trên cao cắm thẳng xuống mặt đất.

Kình lực của chiêu này nện xuống một vùng đất hình tròn rộng xung quanh người Lữ Thuần Dương, đánh bay tất cả mọi thứ trong tầm tác động.

Lũ người nhảy múa lập tức bị hất văng tung tóe, kẻ văng lên cây nằm vắt vẻo, kẻ văng ra xa nằm bẹp dí, tiếng trống cũng ngưng bặt, lá cây bay lả tả như có một trận gió lớn vừa quét qua.

Lữ Thuần Dương ngồi bệt xuống đất, thở dốc.

Nhìn thanh kiếm trong tay, hắn cất giọng mắng mỏ: “Bà nội ngươi, lần sau cẩn thận hơn nha.”
Thanh kiếm rung lắc nhẹ mấy cái rồi thôi.

Hắn nhìn một vòng, quanh hắn là mấy chục con gà, con nào con nấy đều lông cánh sặc sỡ, lũ gà này vừa bắt hắn nhảy múa mệt bở cả hơi tai.

Hắn tiện tay tóm lấy con gà gần nhất, định quẳng vào đống lửa làm món gà nướng thì con gà to nhất, lông dài nhất hóa thành hình người, chính là lão già ngồi gõ trống, đứng khóm lưng, chắp tay thi lễ:
“Đại hiệp, xin tha mạng.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: 4: Lân Tinh Vương





Lữ Thuần Dương liếc mắt nhìn lão già, gằn giọng: “Lũ gà tinh các ngươi nhảy múa, dụ dỗ người ta đến để làm hại, sao lại phải tha chứ?”
Lão già tuy tóc tai bù xù, nhưng vẫn bình tĩnh đáp: “Đại hiệp chắc có chút hiểu lầm, chúng tôi chỉ nhảy múa dưới ánh trăng để tu luyện, gọi là Kê Vũ Thuật, tuy có người vô tình lạc vào, cùng lắm chỉ nhảy múa cùng, đến sáng mệt quá thì nằm lăn ra ngủ, chứ chúng tôi chưa từng làm hại con người.”
“Hừ, dám bắt ta nhảy múa cho các ngươi coi.”
“Đại hiệp, cùng lắm chỉ là vận động gân cốt một chút, dùng vài quả Kê Tử, ngủ một giấc sẽ khỏe lại.”
“Ngụy biện, vậy còn hai bộ xương trắng bị ăn sạch hết cả thịt trước đây thì sao?”
Lão già ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: “Chắc đại hiệp muốn nhắc tới chuyện vài năm trước, hai bộ xương đó là do một con chuột lông xanh thành tinh tác quái, chúng tôi với nó như kiểu nước sông không phạm nước giếng.

Lần đó, khi gần sáng, chúng tôi bỏ đi thì con chuột mò tới, chén sạch cả hai người đang ngủ mê mệt.”
“Bịa chuyện, đâu ra con chuột có thể ăn sạch thịt của hai người cùng một lúc chứ?”
“Vâng, nên lão nghe nói sau đó con chuột bị tức bụng mà chết rồi.”
Lữ Thuần Dương phun ra một ngụm khí: “Lão kể chuyện cười à? Thế còn tảng thịt đang nướng trên lửa kia thì sao?”
“Đó chỉ là thịt chó rừng thôi, không phải thịt người.” Nói xong lão gọi một cô gái sặc sỡ dâng lên mấy quả Kê Tử và một ngụm nước trong vắt đựng trong một chiếc lá to, hướng về phía Lữ Thuần Dương: “Đại hiệp, dùng chút đồ ăn uống cho khỏe lại.”
“Đây là thứ gì?”
“Đây là quả Kê Tử, có tác dụng tráng dương kiện khí.

Từ xa xưa, nơi này đã sản sinh ra loại quả thần kỳ này mà không nơi nào khác có được, người dùng thì bổ dương, quỷ dùng thì bổ âm, tuy nhiên các loại tà vật khác không biết nên không đụng tới, chỉ riêng dòng tộc chúng tôi biết điều này nên dùng nó để tu luyện, có thể sau vài năm là đã hóa được thành người.

Còn nước này là tinh túy của Hoa Tử Ngọc, uống vào có thể trừ mọi bệnh tật, người bệnh thành khỏe, còn người khỏe thì thọ thêm vài năm.”
Lữ Thuần Dương uống thử một ngụm nước đựng trong lá, thấy rất ngon, liền khen: “Cũng ngon đấy, nhưng hoa Tử Ngọc là hoa gì lạ nhỉ, lần đầu ta mới nghe đến tên thứ hoa này.”
Lão già mỉm cười, chỉ tay vào cô gái sặc sỡ: “Không phải tên hoa, là tên của cô gái này, cô gái tên Hoa Tử Ngọc.”
“Ơ, nếu thế thì tinh túy của Hoa Tử Ngọc là…”
“Là nước miếng của cô ta trộn với sương đêm tinh khiết.”
“Nước miếng gà!” Lữ Thuần Dương phun hết ngụm nước thứ hai đang chuẩn bị uống.

Lão già thấy vậy thì vội vàng nói: “Đại hiệp, thứ này rất bổ đấy, đừng phun ra kẻo uổng phí.”
“Bổ cái đầu lão ấy, dám lừa ta uống nước miếng các ngươi hử?”
“Đó là sự thật, Hoa Tử Ngọc là thế hệ đặc biệt, được sinh ra sau bao nhiêu năm dòng tộc chúng tôi dùng Kê Vũ Thuật hấp thu tinh khí mặt trăng, lại bồi bổ bởi quả Kê Tử, uống thứ nước này thì nọc độc rắn rết không thể phạm tới đại hiệp, bao nhiêu lũ gà trống và các loại tà vật khác muốn một ngụm nước này mà không thể được đấy.”
Lữ Thuần Dương trợn mắt: “Ta là gà trống?”

“Nếu đại hiệp đã không thích thì xin dùng thử trứng gà vậy.”
Lữ Thuần Dương ngẫm nghĩ, thấy trứng gà là thứ quen thuộc nên gật đầu: “Vậy cũng được.”
Nghe thế, lão già quay qua Hoa Tử Ngọc: “Dâng lên đại hiệp một quả trứng.”
Hoa Tử Ngọc vâng dạ rồi lấy tay cuốn tà váy lên.

Lữ Thuần Dương chợt nghĩ ra điều gì nên hoảng hốt xua tay: “Này, cô định…”
Tưởng rằng cô gái sặc sỡ định đẻ ra một quả trứng trước mặt mình, nhìn gà đẻ trứng thì không sao, nhưng nay gà đang ở hình người mà đẻ trứng thì…
May sao, Hoa Tử Ngọc chỉ cuốn tà váy lên để quỳ xuống mặt đất, cúi người nôn ra một quả trứng từ trong miệng, đặt vào trong lá, đưa tới trước.

Lão già lại giới thiệu: “Trứng của Hoa Tử Ngọc là thứ thuốc quý trong trời đất, quý hơn nhung hươu mười năm, bổ hơn nhân sâm trăm năm.”
Hắn nhìn quả trứng mà ái ngại, không muốn đụng tay vào nên chỉ cẩn thận đỡ lấy phiến lá, đặt sang bên cạnh, rồi hỏi qua chuyện khác để tránh đi vấn đề về ẩm thực này: “Lão kể cho ta nghe về loài chuột lông xanh đi, nó có lông màu xanh à?”
“Chuyện này phải kể từ loài rắn lân tinh.

Loài Lân Tinh Xà này ban đầu chỉ là rắn núi bình thường, thường hay tìm bắt chuột núi để ăn, khiến cho lượng chuột bị suy giảm nghiêm trọng.

Đến một lúc, xuất hiện loại chuột núi biến dị có lông màu xanh, rắn núi sau khi ăn những con chuột lông xanh này thì sẽ phát sáng trong đêm tối, giúp lũ chuột có thể phát hiện rắn từ xa để dễ dàng trốn thoát mà sống sót.

Từ đó rắn núi phát sáng thì gọi là Lân Tinh Xà, chuột núi trở thành chuột lông xanh, cả hai cân bằng về số lượng, là kết quả tất yếu của chọn lọc tự nhiên vậy.”
Lữ Thuần Dương nghe câu chuyện, thấy có gì đó sai sai: “Sao lão lại biết tới khái niệm biến dị và chọn lọc tự nhiên vậy?”
“Ngày xưa, lúc mới biến thành hình người, lão có trà trộn xuống thành thị để đi học, các thứ vật lý, hóa học thì chịu chết, nhưng những môn tự nhiên khác thì rất thích, đặc biệt lão rất tâm đắc với môn sinh học.”
“Chuột tinh đi học!” Hắn kinh ngạc há hốc cả miệng.

“Phải, được đi học là hạnh phúc của tất cả mọi người, đợt đó ngồi cùng bàn với lão còn có một con rắn nữa, dung mạo xinh xắn, chà… nhưng đã lâu rồi không gặp lại.”
Lữ Thuần Dương nghĩ thầm: “Giờ có gặp lại thì chắc cũng là rắn lão bà!”
Bỗng nhiên lão già chợt biến sắc, nói gấp: “Đại hiệp, lão ngửi thấy mùi của con Lân Tinh Vương đang tiến đến, nó là thứ hiếm hoi biết công dụng của quả Kê Tử nên vẫn thường đến đây ăn, đêm nay chắc nó cũng mò tới đây để ăn Kê Tử, dù sao đó cũng là loài khắc tinh, chúng tôi xin phép thoái lui.”
“Con rắn vương đó là kẻ thế nào?”
“Nó cũng chỉ dùng quả Kê Tử để tu luyện như chúng tôi, không phải là tà vật gì.”
“Đối với loài người, các ngươi nếu đã hóa thành hình người thì đều bị xem là tà vật, chẳng có phân biệt gì.” Nghĩ rồi, Lữ Thuần Dương nãy giờ vẫn đang ngồi bệt dưới đất, bây giờ đứng dậy, gật đầu: “Từ lúc tới đây ta đã thấy trên người các ngươi không có mùi máu, tin rằng các ngươi không phải là tu luyện tà đạo, nhưng sau này cẩn thận chút, đừng để người khác trông thấy, tránh đi chuyện thị phi.”
Lão già chắp tay: “Chúng tôi nhớ rồi.”

Hoa Tử Ngọc đứng kế bên, đưa mắt nhìn quả trứng gà, lão già hiểu ý bèn nói tiếp: “Trứng của Hoa Tử Ngọc để càng lâu sẽ càng quý, cất giữ trên hai mươi năm có thể cải tử hồi sinh cho một người, mong đại hiệp thu nhận.”
Lữ Thuần Dương nghe thế thì gói ghém phiến lá cẩn thận, cất vào trong áo: “Được rồi, cảm tạ ngươi và Tử Ngọc.”
“À…”
Thấy lão già có vẻ ngập ngừng, Lữ Thuần Dương liền hỏi: “Lão còn chuyện gì muốn nói?”
“À, Lân Tinh Vương tuy tu luyện đã được xem là tiểu thành, nhưng vẫn còn mang một vướng mắc của tiền kiếp, đại hiệp thử xem qua, nếu có thể xử lý thì có thể tạo duyên.” Nói xong, lão già lại chắp tay, Hoa Tử Ngọc thì cúi đầu, rồi cùng đám gà còn lại biến mất.

Chỉ còn một mình, Lữ Thuần Dương trở nên ngơ ngẩn, hắn ngồi ngẫm nghĩ, lúc mới tới đây thấy lão già ngồi gõ trống với khuôn mặt không chút biểu cảm, giống như một kẻ thần trí lẩm cẩm, nhưng cuối cùng càng nói chuyện thì lại càng tỏ vẻ thâm sâu, như một dòng sông chỗ trong chỗ đục vậy.

Ơ, mà vướng mắc tiền kiếp chính xác là bị gì nhỉ, sao không nói ra luôn mà lại biến mất rồi.

Dòng suy nghĩ của hắn bị cắt đứt bởi một thứ ánh sáng le lói từ xa, đống lửa trại của lũ gà lúc này cũng đã tắt.

Thấp thoáng sau mấy cành cây lưa thưa có thứ ánh sáng xanh lấp ló.

Mấy cái cây trong rừng mọc so le lung tung nên ánh sáng lóe lên bên này một cái, rồi lóe lên bên kia một cái.

Hắn lắc đầu qua trái, rồi lắc đầu qua phải, nhưng hắn lắc bên nào thì nguồn sáng lại lóe lên bên kia, mãi mà vẫn không nhìn được thứ gì phát ra ánh sáng đó.

Lữ Thuần Dương đành phải lần mò về phía nguồn sáng để xem thứ gì phát ra ánh sáng đó.

Khi tới gần, hắn cảm giác luồng sáng đang di chuyển lên cao khỏi mặt đất.

Lách người qua một đám cây bụi, hắn nhận ra ánh sáng đến từ một gã thanh niên còn trẻ.

Toàn thân nam nhân này phát ra ánh sáng nửa xanh nửa trắng.

Còn lý do vì sao Lữ Thuần Dương thấy nguồn sáng di chuyển lên cao là vì lúc này, gã thanh niên đang trèo lên cây, tìm cách hái một quả Kê Tử ở trên cao.


Đột nhiên nam nhân bị trượt tay, vội túm chặt lấy một cành cây gần đó.

Trông điệu bộ vắt vẻo trên cây của gã, Lữ Thuần Dương không nhịn được, phì cười một tiếng rồi cất giọng hỏi: “Này, ngươi làm gì trên đó thế?”
Nghe tiếng người, gã thanh niên giật mình, tuột tay ngã lộn nhào xuống mặt đất.

Lữ Thuần Dương có chút tái mặt, ngã từ trên cao thế, lỡ gãy tay gãy chân thì phiền phức, hắn vội vàng chạy tới đỡ nam nhân dậy.

Nào ngờ chưa kịp đỡ thì gã thanh niên đã lồm cồm bò dậy, nhìn thấy Lữ Thuần Dương mặt mũi có vẻ lớn tuổi hơn mình nên mở miệng oán trách: “Đại ca, ngươi hù chết ta rồi.”
Lữ Thuần Dương đã bước tới gần, đưa tay đỡ hắn một cái cho có lệ rồi đáp: “Xin lỗi, ta thấy ngươi vắt vẻo trên cao, sợ ngươi ngã nên tính nhắc nhở, ai ngờ vừa lên tiếng thì ngươi đã rớt xuống thật.”
“Đêm khuya thanh vắng, bỗng nhiên có tiếng người hỏi, ai mà không giật mình chứ.”
Lữ Thuần Dương chảy một giọt mồ hôi trên trán, ngắc ngứ: “Ngươi là rắn thành tinh, đã có bản lĩnh tu luyện thành người thế mà lại yếu bóng vía quá vậy?”
Gã thanh niên chớp mắt: “Sao người biết ta là rắn thành tinh, ngươi là lũ gà hay đốt lửa nhảy múa đó à?”
“Ngươi thế nào mà lại nhìn ta là gà vậy, không nhận ra ta là dê núi thành tinh sao?” Lữ Thuần Dương thấy nam nhân này có vẻ ngờ nghệch nên thuận miệng nói chuyện tào lao thử.

Không ngờ, gã thanh niên trông thế mà ngờ nghệch thật: “Ồ, ra là đại ca dê núi, trước nay ngươi ở đâu mà đến mãi bây giờ ta mới gặp mặt lần đầu.”
Lữ Thuần Dương thuận nước đẩy thuyền: “Ta ngao du sơn thủy, đi khắp nơi trong thiên hạ, cũng vừa mới tới đây vài ngày.”
“Đại ca thật có chí lớn, ta thấy ngưỡng mộ những người như ngươi, trước nay ta chỉ ở trong rừng này, chưa từng ra ngoài, có thể kể cho ta nghe chuyện trong thiên hạ được không?”
“Chuyện trong thiên hạ thì nhiều vô kể, không biết ngươi muốn nghe chuyện gì?”
“Có chuyện gì liên quan tới tiền kiếp không?”
Lữ Thuần Dương ngạc nhiên: “Sao ngươi lại quan tâm tới chuyện về tiền kiếp vậy?”
Gã thanh niên xoay lưng lại: “Ngươi nhìn mà xem.”
Lữ Thuần Dương trợn mắt, nhìn thấy phía sau nam nhân này còn mọc ra một cái chân nữa, chính xác là cái chân thứ ba này gắn vào mông của gã.

“Sao ngươi lại có tới ba cái chân vậy?”
“Ta thực sự không biết, từ lúc có thể mang được hình người thì đã bị như vậy rồi?”
Lữ Thuần Dương gợi ý: “Ngươi dù sao cũng là rắn tinh, bị vết thương nhẹ có thể không ảnh hưởng gì, sao không thử rứt bỏ cái chân dư này đi?”
Gã thanh niên xua tay: “Ta đã làm rồi, nhưng rút cuộc nó vẫn mọc lại như cũ.”
“Lần đầu tiên ta mới thấy có rắn ba chân đấy, trước đây chỉ toàn nghe nói đến cóc ba chân thôi.”
“Đại ca, ngươi kể chuyện đi, ta muốn tìm hiểu về tiền kiếp xem nó như thế nào?”
“Ngươi cho rằng vấn đề của ngươi liên quan tới tiền kiếp sao?”
“Là ta nghe mọi người nói như thế, tuy không biết thực hư thế nào, nhưng ngoài lý do đó ra thì ta không nghĩ ra lý do nào khác, nên đành phải tin là vậy.”
Lữ Thuần Dương ngẫm nghĩ: “Trong những nơi ta đã đi qua, có lẽ chuyện Suối Tóc ở thôn Ô Hợp là có liên quan đến tiền kiếp nhất.”

Gã thanh niên sáng mắt: “Vậy ngươi mau kể đi.”
Lữ Thuần Dương nhìn quanh: “Có chỗ nào thuận tiện để kể chuyện không? Chứ không lẽ cứ đứng mãi thế này?”
“Có, ngay gần đây thôi, để ta gọi người tới đưa ngươi đi.” Nói rồi nam nhân chu miệng, huýt sáo lanh lảnh, tức thì từ đâu có hai con rắn khổng lồ, thân to bằng cột nhà trườn tới.

Gã thanh niên trèo lên cổ một con, bảo Lữ Thuần Dương trèo lên con còn lại.

Rồi ra lệnh cho hai con rắn di chuyển.

Lữ Thuần Dương méo miệng: “Thế nào mà dám bảo là gọi người!”
Hai con rắn to lớn này trườn tới đâu thì cây cối ngả rạp tới đó, tốc độ nhanh như gió thổi, gió lướt qua vù vù bên tai.

Phút chốc tới một vách đá cheo leo, hai con rắn bám vào vách đá, trườn quanh vài vòng rồi thả hai người xuống mỏm đá cao nhất.

Mỏm đá bằng phẳng, trống trải, phóng tầm mắt ra xa là nhìn xuống toàn cảnh thung lũng bên dưới, trăng sáng treo cao trên đầu, Lữ Thuần Dương tấm tắc khen: “Ngươi lựa cảnh đẹp đấy, tiếc là không bình rượu ở đây.”
Gã thanh niên cười khẩy: “Đại ca, ngươi xem thường ta quá rồi.” Đoạn ra lệnh cho hai con rắn trườn đi, rất nhanh sau đó, hai con rắn trở lại mang theo hai bầu rượu bằng đá nặng trịch cùng một nắm cỏ tươi rói.

Lữ Thuần Dương nhíu mày: “Đây là…”
Gã thanh niên cười đắc ý: “Là tinh túy của bách hoa chưng cất mà thành, rượu trong thiên hạ dám sánh ngang với hai bầu rượu này e là chỉ đếm được trên đầu ngón tay.”
Lữ Thuần Dương nghe tới hai chữ tinh túy thì nhớ đến thứ nước ngọt lịm, tinh túy của Hoa Tử Ngọc, không muốn lại phải uống mước miếng của rắn nên hắn lắc đầu: “Đừng nói với ta, Bách Hoa là tên của một xà nương nhé.”
Gã thanh niên ngơ ngác: “Tên của ai đâu, bách hoa ý là một trăm thứ hoa đấy, thiên hạ làm gì có thứ rượu nào được chưng cất từ một trăm loại hoa chứ.”
Lữ Thuần Dương thở phào nhẹ nhõm: “May quá, thế còn nhúm cỏ tươi này?”
“Là cho ngươi đấy, đại ca là dê núi, món khoái khẩu tất nhiên là cỏ tươi rồi.”
Lữ Thuần Dương than thầm trong bụng, hai ngày nay bị Ngọc Ngân cho ăn rau với cỏ suốt đã ngán lắm rồi, biết thế thì đã tự xưng là hổ tinh, biết đâu nam nhân kia lại mang tới con lợn rừng nướng cũng nên.

Nhưng đã lỡ, Lữ Thuần Dương đành bỏ nhúm cỏ qua một bên, bưng bầu rượu bằng đá uống thử.

Quả nhiên, mỹ tửu trong thiên hạ e hiếm có loại nào sánh bằng, hắn trầm trồ: “Hảo hạng!”
Gã thanh niên cười khà khà, cũng giơ bầu rượu uống một ngụm to.

Cảnh đẹp, rượu ngon, trăng thanh, gió mát, Lữ Thuần Dương bắt đầu kể câu chuyện về Suối Tóc ở thôn Ô Hợp.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: 5: Suối Tóc





Dưới chân núi Cảnh Dương ở vùng Lưỡng Giang, có một thôn làng nhỏ tên là Ô Hợp.

Cấu trúc của thôn này được thiết kế theo đồ hình của bát quái tiên thiên.

Chín ngôi nhà xây thành hàng ngang liền nhau hình thành một hào dương.

Tám ngôi nhà xây thành hàng ngang liền nhau nhưng có một khoảng trống ở giữa, chia ra hai bên, mỗi bên bốn nhà, hình thành một hào âm.

Ba dãy nhà hào dương được xây song song với nhau hình thành quẻ Càn.

Ba dãy nhà hào âm được xây song song với nhau hình thành quẻ Khôn.

Lấy trung tâm ở giữa thôn là một hồ nước thái cực rộng, quẻ Càn và Khôn đối xứng nhau qua hồ nước này.

Cứ thế, dãy nhà quẻ Đoài đối xứng với dãy nhà quẻ Cấn, Khảm đối với Ly, Tốn đối với Chấn.

Hồ nước thái cực này một nửa là chứa nước, nửa kia là đá trắng.

Nửa phần chứa nước có một khối đá tròn làm mắt dương, nửa phần đá trắng có một giếng nước không có thành giếng làm mắt âm.

Nước ở nửa phần chứa nước và nước ở trong giếng nước mắt âm luôn chuyển động xoay tròn, tuy rằng rất chậm rãi nhưng đứng nhìn một lúc sẽ nhận ra là dòng nước đang chuyển động.

Cái hồ hình tròn này là hồ kín, không rõ có cấu tạo thế nào mà nước bên trong lại có thể chuyển động xoay tròn như vậy, nhưng chưa từng có ai trong thôn dám lặn xuống dưới để tìm hiểu.

Dân chúng ở đây cứ sống từ thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có điển tích hay sử sách gì ghi chép lại nguồn gốc, cũng như ai là người đã xây dựng nên nơi này.

Chỉ có một nguồn gốc vô cùng đơn giản được kể lại rằng, những thế hệ đầu tiên đến đây thì nơi này đã được xây dựng sẵn như vậy.

Lúc đó là thời kỳ loạn lạc, mỗi đợt người vô tình tìm đến nơi này đều có nguồn gốc và xuất xứ vô cùng khác nhau, vì thế họ tự đặt tên cho nơi này là thôn Ô Hợp.

Tuy cái tên vô cùng thô kệch, nhưng dần dần gọi quen miệng nên không thay đổi nữa.

Không hiểu có phải do cấu trúc đồ hình bát quái đặc biệt ở nơi đây hay không mà người nào sống ở đây cũng đều có tinh thần vô cùng thanh thản, vô lo vô nghĩ.

Dù trước đó từng mang những gánh nặng tâm tư thế nào chăng nữa, một khi đã chuyển tới thôn này sinh sống thì cũng như được gột rửa tất cả.

Có điều khi các căn nhà nơi đây đã được sử dụng hết thì không cách nào xây thêm được nữa, từng có người thử dựng lên một túp lều nhỏ, nhưng bị đổ sụp không rõ lý do, ngay cả một khu vực rộng lớn xung quanh thôn cũng không thể xây nhà hay dựng lều lên gì được.

Dường như bản thân vùng đất này có sự điều khiển nội tại của chính bản thân nó, không can thiệp gì vào được.


Nhân khẩu ở đây cũng là điều kỳ lạ, gia đình nào muốn sinh con thì phải đợi có một người già trong thôn qua đời, nếu không có ai qua đời thì tuyệt nhiên không gia đình nào có thể sinh con được.

Nhờ linh khí của đồ hình bát quái nên thôn dân chẳng có ai mắc phải bệnh tật gì, nên nếu có chết thì cũng chỉ là chết già.

Mà đời người sống tới già đâu phải là một sớm một chiều, đâu thể muốn chết là chết được, thế nên có những giai đoạn trong thôn chẳng hề có lấy một đứa trẻ con.

Vào một năm kia, có hai người già nhất trong thôn qua đời, từ đó có hai gia đình sinh ra được con nối dõi, mỗi nhà sinh một đứa.

Nhà họ Lữ sinh ra một đứa con trai.

Nhà họ Ly sinh ra một đứa con gái.

Hai đứa bé sinh ra cùng một ngày, cũng là ngày mà trong thôn xảy ra chuyện kỳ lạ.

Ngày đó, có người đi ngang qua hồ thái cực, trong khóe mắt đọng lại một hình ảnh gì đó.

Ban đầu không biết là việc gì, nhưng sau khi đứng lại quan sát, người đó bất thần nhận ra một chuyện kinh hoàng từ trước đến nay chưa từng xảy ra.

Nước trong hồ hoàn toàn đứng yên, không còn chuyển động nữa.

Dòng nước luôn chuyển động xoay tròn chậm rãi này, từ lâu đã được dân ở đây xem như là nơi sản sinh ra nguồn sống, thế mà nay nó đã không còn chuyển động nữa.

Ngay đêm đó, trời bỗng đổ mưa to, gió thổi như lũ cuốn, sét đánh ầm ĩ.

Giữa những tiếng sấm rền vang, có một tiếng sấm to nhất như muốn vỡ tung cả trời đất, tiếng sấm này mang một tia sét giáng thẳng xuống hồ thái cực, đánh cho cái hồ nứt ra làm đôi.

Đường nứt vỡ của hồ chạy vòng vèo, ngang qua khối đá làm mắt dương và cái giếng làm mắt âm trong hồ, khiến cả hai thứ này đều vỡ toác ra.

Lúc này thôn dân mới phát hiện ra cả hai thứ này đều ẩn giấu kỳ vật trong lòng nó.

Khối đá mắt dương vỡ ra, để lộ bên trong là một thanh kiếm tỏa hồng quang đỏ rực.

Chuôi kiếm được khảm chín viên hồng ngọc, được điêu khắc thành hình thân rồng uốn quanh từ chuôi đến gốc thân kiếm, hai đầu rồng há miệng khạc long châu hướng về mũi kiếm.

Còn trong giếng nước mắt âm sau khi vỡ ra thì chỉ thấy có một mái tóc dài, đen nhánh.

Còn đường nứt gãy chạy ngang qua hồ thái cực trên mặt đất cứ từ từ mở rộng dần, hình thành nên một con suối chạy xuyên cả thôn, từ đầu bên này băng qua tới đầu bên kia.

Khi tới hai đầu rìa của thôn thì chui tọt xuống lòng đất.


Nước trong hồ thái cực sau khi đổ vào làm thành nước của dòng suối cắt ngang này thì bắt đầu chuyển động trở lại, xoay tròn xung quanh thanh kiếm và mái tóc, càng ra xa lại chuyển động càng hỗn loạn, không theo một quy luật gì.

Từ mái tóc dài, bắt đầu trôi ra những sợi tóc dài trong nước, mới đầu chỉ là vài sợi lưa thưa, không ngờ càng ngày càng có nhiều tóc trôi theo dòng nước.

Vấn đề ở chỗ tóc không trôi đi hẳn, mà mắc lại hai bên bờ, khiến cho bờ suối toàn tóc là tóc.

Mọi người quyết định vớt tóc ra khỏi suối để duy trì nguồn nước sinh hoạt.

Nhưng vấn đề là tóc vớt lên thì phải xử lý như thế nào? Tóc người vô cùng dai và chắc, chôn xuống đất bao nhiêu năm cũng không phân hủy được, có người đề nghị đem đốt, thế là mọi người làm theo thử.

Không ngờ vừa đốt đống tóc đầu tiên thì có tiếng kêu thét đau đớn vang lên, sau đó là tiếng khóc rên rỉ ai oán, có máu đỏ chảy ra từ trong đống lửa.

Máu bị lửa đốt, bốc lên mùi tanh khét khó ngửi.

Thấy vậy mọi người vội vàng dùng nước dập tắt lửa, từ đó không dám đốt tóc nữa.

Chỉ dám vớt tóc lên rồi chất thành đồng ở rìa ngoài thôn.

Một thời gian sau, có người dân trong thôn đang ăn cơm thì cảm thấy trong miệng có dị vật, nhè ra thì thấy trên lưỡi mình vướng một sợi tóc.

Cho rằng là chuyện bình thường nên bỏ qua, không ngờ vài ngày sau lại gặp tình huống tương tự, có điều lần này nhè ra cả một nhúm tóc.

Chuyện này không chỉ xảy ra với một người, mà lần lượt hết người này đến người khác.

Không biết tóc từ đâu tới mà mọi người đều nhả ra tóc từ miệng.

Dần dần chuyện khạc ra tóc đã không còn là chuyện lạ, đi tới đâu cũng thấy tóc vương vãi do người dân nhổ ra.

Tóc trên mặt đất, tóc vướng trên cây, tóc bay trong gió.

Đi ra khỏi nhà, nếu không thấy có sợi tóc nào bay vướng vào mặt mình thì mới thấy lạ.

Càng ngày tóc càng nhiều, đến cả gió thổi cũng chứa đầy tóc.

Mà người ở càng gần lại càng không nhìn rõ, người ở càng xa thì dễ nhìn toàn cảnh.


Nếu đứng từ xa mà nhìn thì sẽ thấy cả thôn đang bị bao trùm bởi một bầu không khí đen ngòm, được hình thành bởi vô số tóc vất vưởng trong không khí.

Thấm thoát bốn năm trôi qua, hai đứa bé sinh ra vào cái ngày hình thành dòng suối tóc đều đã lên bốn tuổi.

Lúc này tóc đã được thôn dân vớt lên chất thành từng núi lớn, san sát nhau bao quanh nơi này.

Một ngày nọ, có một lão già chừng sáu mươi tuổi, rẽ tóc mà bước vào nơi ở của dân thôn Ô Hợp, có ai hỏi thì tự xưng là Tiêu Ảnh Tử.

Lão già này cứ thế bước theo con suối, đến trung tâm, nơi có mái tóc lững lờ trong nước và thanh kiếm vẫn đang cắm vào mặt đá trắng, nước chuyển động hỗn loạn xung quanh, lão đứng trâm tư một lúc lâu nhìn ngắm cảnh tượng này.

Lát sau, trưởng thôn nghe nói có người lạ vào thôn thì tiến đến hỏi chuyện.

Lão già Tiêu Ảnh Tử không thèm đáp lời, chỉ trầm giọng hỏi một câu không liên quan: “Dân trong thôn các ông, đã bao lâu rồi, không bước chân ra khỏi mấy cái núi tóc ngoài kia?”
Trưởng thôn ngơ ngác rồi đáp: “Cũng khoảng bốn năm rồi.”
Tiêu Ảnh Tử thở dài: “Bốn năm qua, hai đứa trẻ đã phải sống cô quạnh một thời gian khá dài.”
Trưởng thôn không hiểu: “Ông đang nói chuyện gì vậy?”
Tiêu Ảnh Tử vẫn không chú ý đến trưởng thôn, chỉ tay về phía thanh kiếm: “Thanh kiếm đó tên là Sát Đế, là thượng cổ thần kiếm, được sử dụng bởi Thánh Kiếm Uyển Kha.”
Rồi Tiêu Ảnh Tử chỉ tay về phía mái tóc: “Đó là mái tóc của đại yêu quái Ly Cơ, cách đây ba trăm năm, Uyển Kha và Ly Cơ đã quyết đấu một trận sinh tử ngay tại nơi này.

Cả hai đánh nhau bảy ngày bảy đêm không ngừng nghỉ, cuối cùng Uyển Kha dùng kiếm chặt phăng được mái tóc của Ly Cơ, là cội nguồn sức mạnh của đại yêu quái, nhưng bản thân ông cũng bị Ly Cơ moi tim ra.

Uyển Kha dù sao cũng là người thường, bị móc mất tim thì chết, còn Ly Cơ bị cắt mất mái tóc thì mất đi yêu lực nhưng không chết.

Có điều thần phách của Uyển Kha vẫn trú ngụ trong thanh kiếm của mình để trấn giữ Ly Cơ ở đây.

Về sau, có vị đại sư phong thủy đã bỏ công sức và tâm huyết xây dựng nên thôn này và đặt tên là Thôn Bát Quái.

Vị đại sư muốn dùng linh lực của trận đồ và dương khí của con người, cùng thanh kiếm Sát Đế làm mắt dương phong ấn mái tóc của Ly Cơ ở mắt âm.

Cách đây gần trăm năm, thổ phỉ lan tràn ở chân núi Cảnh Dương khiến Thôn Bát Quái trở nên hoang phế, nhưng sau đó thổ phỉ cũng dần bị dẹp loạn.

Các tiền bối của ông tình cờ đến thôn này, gọi nó là thôn Ô Hợp vì chứa nhiều loại người khác nhau, cùng sống cho đến tận bây giờ.”
Trưởng thôn lắng nghe mà không biết nói gì, vì thôn không có ghi chép gì về gốc gác, đây là lần đầu tiên ông được nghe một người lạ từ bên ngoài đến kể rõ ràng rành mạch như thế.

Tiêu Ảnh Tử ngừng một lúc để lấy hơi rồi nói tiếp: “Các linh vật trong thế gian thường cứ mỗi chu kỳ ba trăm năm sẽ sụt giảm linh khí về hư vô một giai đoạn, rồi sẽ tích tụ lại linh khí của trời đất để đạt lại sức mạnh như ban đầu.

Sát Đế đã tới giai đoạn của chu kỳ ba trăm năm, không còn trấn giữ được mái tóc của Ly Cơ nữa, nên yêu lực của Ly Cơ bắt đầu trỗi dậy tác oai tác quái.

Thần phách của Uyển Kha trong thanh kiếm đành đầu thai vào hậu kiếp để có thể tiếp tục tâm niệm đối phó với Ly Cơ, chính là đứa bé trai duy nhất trong thôn.

Còn Ly Cơ cũng làm hành động tương tự, chính là đứa bé gái duy nhất trong thôn.”
Trưởng thôn lắc đầu: “Ông nói con bé gái ấy là đại yêu quái à? Thường ngày tôi thấy nó vẫn chơi đùa như một đứa trẻ bình thường thôi mà.”
Tiêu Ảnh Tử chớp mắt một cái: “Ông đi gọi chúng tới đây.”
Trưởng thôn chạy đi một lúc thì quay lại dẫn theo một đứa bé trai tầm bốn tuổi, mặt mũi tinh anh sáng sủa, hấp tấp nói: “Không thấy con bé kia đâu.”
Tiêu Ảnh Tử cầm tay đứa bé trai, dẫn nó lội xuống nước, đến bên cạnh thanh kiếm, bảo nó: “Con rút ra đi, nó là kiếm của con.” Rồi phụ một tay, giúp đứa bé rút thanh kiếm lên.


Thật kỳ lạ, thanh kiếm này trước đây, từng có thôn dân liều lĩnh đến gần, muốn lấy nó ra khỏi đá mà không được, thế mà đứa bé trai có thể nhẹ nhàng nhấc nó lên.

Tiêu Ảnh Tử dẫn bé trai ra khỏi mặt nước, nói với trưởng thôn: “Ta phải dẫn nó đi, dạy dỗ nó, dù sao ở kiếp này nó chỉ là một đứa trẻ bình thường, cần phải được dạy dỗ nên người.”
Trưởng thôn xua tay: “Không được, chúng ta đâu biết ông là ai, hơn nữa phải đợi gặp cha mẹ của nó hỏi ý kiến đã.”
Tiêu Ảnh Tử gật đầu: “Được, vậy ông gọi cha mẹ nó và mọi người ra khỏi đầu thôn, tới đó ta sẽ kể tiếp một bí mật khác nữa.” Dứt lời Tiêu Ảnh Tử đã cất bước, nắm tay bé trai dẫn đi.

Trưởng thôn trở nên bối rối, không suy nghĩ được gì, chỉ có thể rảo bước theo sau, vừa đi vừa gọi mọi người trên đường đi theo.

Thấm thoát đã ra đến cổng thôn.

Trưởng thôn lúc này đã dẫn theo rất đông thôn dân, cất tiếng hỏi: “Ông muốn kể bí mật gì thì nói ra đi.”
Tiêu Ảnh Tử không đáp, chậm rãi băng qua khối núi tóc, ra đến bên ngoài thì cúi xuống, thắp lên một ngón nến đỏ trên nền đất, đoạn cắt ngón tay bé trai nhỏ một giọt máu đỏ chạy dọc xuống theo thân nến.

Lúc này cha mẹ của đứa trẻ cũng đã tới, hoảng hồn chạy về phía Tiêu Ảnh Tử, nét mặt giận dữ quát lên: “Ông già, ngươi điên rồi à?”
Nhưng vừa vượt qua khỏi núi tóc, đến gần Tiêu Ảnh Tử, thì hai người bỗng chốc hóa thành những vụn tóc, tan thành tro bụi.

Tiêu Ảnh Tử cất giọng nói lớn: “Tất cả các người từ cách đây bốn năm đã bị đại yêu quái Ly Cơ hấp thu da thịt xương cốt, rồi dùng tóc của ả để điều khiển thần phách, dùng yêu lực của mái tóc duy trì nhục thể con người của các ngươi.

Chỉ có hai đứa trẻ duy nhất trong thôn là chuyển kiếp của Thánh Kiếm Uyển Kha và đại yêu quái Ly Cơ là vẫn tồn tại dưới dạng chân thể thực sự của con người.

Trên mặt đất là Thuần Dương Đăng, chỉ cần các ngươi bước ra khỏi thôn, ngọn đèn này sẽ giúp các ngươi thoát khỏi yêu lực khống chế, đưa thần phách các ngươi về địa phủ để đầu thai qua một kiếp người mới, tất cả cùng tiến tới đây đi.”
Nói rồi, Tiêu Ảnh Tử hất mạnh tay, dùng kình lực cách không, kéo cả dòng người đông đúc về phía Thuần Dương Đăng.

Dòng người tràn tới đâu thì hóa thành tóc vụn tới đó, rồi cũng tan thành tro bụi.

Giữa chừng, dòng người đột nhiên khựng lại như bị một lực đối kháng rất mạnh giữ chặt.

Trong dòng người, thấp thoáng một bé gái chừng bốn tuổi, khuôn mặt không chút biểu cảm, nét mặt lạnh lùng, giơ bàn tay giữ trước mặt.

Chỉ thế thôi đã giữ yên được cả dòng người không động đậy.

Tiêu Ảnh Tử nhìn thấy đứa bé, thì quệt lấy một giọt máu từ vết thương vừa nãy của đứa bé trai, búng về phía bé gái.

Đứa bé gái không thèm tránh né, cứ đứng yên chờ đợi, nào ngờ khi giọt máu búng tới gần thì tăng vọt cả về tốc độ và kình lực, trong khóe mắt bé gái thoáng qua một nét kinh ngạc nhưng không thể tránh kịp, giọt máu bắn trúng ấn đường đứa bé, hất văng nó ra sau.

Mất đi sự khống chế, cả dòng người tiếp tục bị kéo về Thuần Dương Đăng, lần lượt hóa thành tro tóc vụn hết thảy.

Khi đã không còn ai, Tiêu Ảnh Tử nắm tay bé trai quay lưng bỏ đi, một tay kia hất Thuần Dương Đăng bay ngược vào trong thôn.

Ngọn lửa thuần dương gặp yêu lực tràn ngập thì bốc cháy mạnh mẽ, các sợi tóc trong không khí bén lửa nhanh chóng, cháy lan tràn khắp nơi, dần dần thiêu đốt cả một thôn làng rộng lớn.

Thôn Ô Hợp xem như đã không còn tồn tại nữa, chỉ là trong đám lửa cháy rừng rực, đứa bé gái lại hiện ra, nhìn theo lão già và đứa trẻ đang dần rời xa, trên mặt thoáng mỉm cười một cái, rất khẽ.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: 6: Tử Vương Sâm





Gã thanh niên nghe xong câu chuyện của Lữ Thuần Dương kể thì há hốc miệng: “Ly kỳ quá, thôn Ô Hợp đó có ở xa đây không?”
Lữ Thuần Dương gật đầu: “Cũng không gần.”
Gã thanh niên suy đoán: “Vậy là tiền kiếp của Uyển Kha và Ly Cơ đã tái sinh trong hai đứa trẻ đó để tiếp tục lý tưởng của mình, một kẻ tiếp tục làm yêu quái, một kẻ tiếp tục ngăn chặn yêu quái.

Vậy còn ta, tiền kiếp của ta là gì mà lại tái sinh thành người có ba chân nhỉ? Có khi nào ta chỉ là người bình thường, rồi một kẻ nào khác tái sinh thành cái chân trên mông của ta không?”
Lữ Thuần Dương chảy một giọt mồ hôi trên trán, lắc đầu: “Ta không nghĩ có ai lại muốn mọc ra trên mông của người khác đâu.”
Gã thanh niên gật đầu: “Ngươi nói lời này nghe cũng hợp lý, vậy không lẽ tiền kiếp của ta đã là người có ba chân.”
“Chuyện tiền kiếp có khi phức tạp, không dễ xét đoán, thế này đi, ta sẽ hỏi thăm giúp ngươi, nếu có ý gì hay sẽ kể lại cho ngươi nghe.”
Gã thanh niên sáng mắt: “Được, đa tạ ngươi, đại ca dê núi.”
“Mà ngươi tên là gì? Với lại lần sau biết kiếm ngươi ở đâu?”
“Đại ca cứ gọi ta là Thiềm Tử, lần sau ngươi đến khu rừng này thì cứ kiếm con rắn nào đó, bảo nó gọi Thiềm Tử đến, ta lập tức sẽ xuất hiện.”
Lúc này mặt trời đã sửa soạn leo lên đám mây đầu tiên ở chân trời, Lữ Thuần Dương kể hết câu chuyện thì bầu rượu cũng vừa cạn, đêm trăng cũng đã tàn, Thiềm Tử cho một con rắn lớn mang Lữ Thuần Dương trở lại bìa rừng, hắn leo xuống, cảm tạ con rắn: “Cảm ơn ngươi, rắn con.”
Con rắn không hề để ý đến lời của hắn, quay đầu trườn đi thẳng, mất hút vào rừng.

Lữ Thuần Dương về đến nhà, leo lên giường ngủ một mạch, chẳng còn biết trời trăng gì nữa.

Ngủ một giấc đến khi mở mắt ra thấy trời đất vẫn còn âm u, hắn làm lạ, quái, chẳng lẽ mình mới ngủ được có một chốc đã tỉnh rồi sao.

Chợt nghe tiếng động ken két, có người mở cửa bước vào nhà hắn, hắn ngồi dậy, bước ra xem, ra là Ngọc Ngân, cô bưng một mâm đồ ăn qua, hắn ngạc nhiên: “Sao mới sáng tinh mơ cô đã đem đồ ăn qua rồi?”
Ngọc Ngân còn ngạc nhiên hơn hắn: “Anh còn mơ ngủ à? Anh ngủ từ sáng cho đến tận chập choạng bây giờ mới dậy, còn tưởng là sáng sớm tinh mơ nữa!”
À, thì ra là chạng vạng, thời điểm chạng vạng lúc mặt trời đi xuống và gần bình minh lúc mặt trời đi lên có chút gì đó không sai biệt lắm.

Tự nhiên thức dậy vào thời điểm này ở nơi hoang vắng, có thể gây nhầm lẫn.

Lữ Thuần Dương vừa ăn cơm tối, vừa kể cho Ngọc Ngân nghe chuyện tối qua, từ lũ gà nhảy múa cho đến Lân Tinh Vương Thiềm Tử.

Cô nghe đến chuyện cái chân thứ ba mọc ra từ sau mông của gã thì nhíu mày suy nghĩ, rồi đưa ra gợi ý: “Nếu muốn đáp án, có thể thử tìm Tử Vương Sâm hỏi thử?”

“Tử Vương Sâm là ai thế?”
“Là một củ sâm đã sống đâu gần chừng ba ngàn năm, bởi vậy chuyện trong thiên hạ trước sau gì thì ông ta chắc cũng đã từng nghe qua.”
“Làm sao gặp được ông ta?”
“Củ sâm này rất thích ngắm trăng, đêm trăng tròn rất dễ bắt gặp thấy, vừa hay đêm nay là ngày mười sáu.”
“Nhưng cô biết ông ta thường hay ngắm trăng ở đâu không?”
“Dạo trước Tử Vương Sâm hay đi loanh quanh ở chân núi Tử Đạm, nhưng dễ bị người khác trông thấy quá, nên sau này ông ta thường ngắm trăng ở một nơi mà người bình thường khó có thể đến được.”
“Là chỗ nào vậy?”
“Đỉnh Nguyệt Nhai.”
Xong bữa cơm thì trời đã tối hẳn, Ngọc Ngân bảo Lữ Thuần Dương đợi trước cửa, còn cô vào nhà, một lúc sau trở ra, trên tay cầm hình nhân hai con voi.

Cô lấy ra cái bút lông và một lọ nhỏ đựng một thứ chất lỏng màu đen, chấm bút lông vào lọ, rồi cô vẽ mắt lên hai cái hình nhân.

Vẽ xong hai cặp mắt, cô lại vẽ những thứ ký tự loằng ngoằng khó hiểu lên thân hai con voi rồi đặt xuống đất.

Hai cặp mắt lóe sáng, tức thì cả hai biến thành hai con voi to lớn như voi thật.

Chúng dùng vòi cuốn lấy Ngọc Ngân và Lữ Thuần Dương, đưa mỗi người cưỡi lên một con, rồi bước đi.

Lữ Thuần Dương thấy chất lỏng màu đen trong lọ có thể dùng để hóa hình nhân như vậy thì hiếu kỳ: “Đó là… máu người à?”
Ngọc Ngân liếc hắn một cái: “Là mực đen.”
“Còn nếu không dùng mực thì sao?”
“Sức mạnh và đẳng cấp của hình nhân phụ thuộc vào linh lực của cặp mắt và họa ngữ kích hoạt, loại bình thường nhất là dùng mực, cao hơn một chút là dùng chu sa, cao hơn nữa là dùng máu người, Chúng ta chỉ cần di chuyển đơn giản nên dùng mực là được rồi.”
Lữ Thuần Dương nhìn con voi đang di chuyển rất nhanh thì hỏi: “Cô thích cưỡi voi à?”
“Đường lên đỉnh Nguyệt Nhai không có đường mòn, cây cối um tùm, ngồi cao trên lưng voi vậy thì an toàn hơn, vả lại tốc độ hình nhân do tôi điều khiển nên chúng di chuyển nhanh hơn voi thật rất nhiều lần.”
“Cô học được mấy thứ này từ đâu vậy?”
“Cha tôi dạy.”
“Cha cô là đạo sĩ à? Hay là làm nghề gì? Cha cô giờ đang ở đâu? Ông ấy còn sống không?”
Ngọc Ngân gắt lên: “Anh hỏi gì mà lắm thế?”

Lữ Thuần Dương nghe giọng nói của Ngọc Ngân có chút gay gắt, dường như cô không muốn nhắc đến cha mình nên chuyển chủ đề khác: “Cái hình người treo cổ trong phòng khách nhà cô từ đâu mà có thế?”
Ngọc Ngân ngạc nhiên: “Anh nhìn thấy nó rồi à?”
Hắn kể lại cho cô nghe mình đã tẩy đi cái tàn ảnh đó như thế nào, nghe xong cô nói: “Anh làm tôi ngạc nhiên đấy.”
“Có thể cho tôi biết vì sao hắn lại phải chết như thế được không?”
Ngọc Ngân đáp giọng ráo hoảnh: “Kẻ đáng chết thì phải chết.”
Lữ Thuần Dương trở nên cảnh giác: “Không phải là cô giết hắn đấy chứ?”
Ngọc Ngân bỗng trở nên lạnh lùng: “Nếu phải thì sao?”
“Cô là người ăn chay, đáng lý không nên sát sinh mới phải.”
“Tôi đã nói kẻ đáng chết thì phải chết.”
“Vì sao hắn lại đáng chết?”
“Hắn muốn làm bậy với tôi, tôi sống chỉ có một mình, không mạnh tay thì không tồn tại được.”
Lữ Thuần Dương há miệng: “Thế hắn đã làm gì… được chưa?”
Ngọc Ngân quắc mắt nhìn qua, nhưng rồi cô lại dịu xuống: “Hắn tên là Sơn Lại, cũng là một kẻ đến thuê nhà, thời gian đầu thì không có vấn đề gì, nhưng đến một đêm hắn đột nhập vào nhà tôi, ngoài thuật dụng hình nhân thì tôi không biết gì khác, chỉ có thể dùng dao khắc hình nhân đả thương hắn rồi đuổi hắn ra.

Ngày hôm sau hắn đã bỏ lượng lớn thuốc mê xuống giếng nước sau nhà, thuốc mê của hắn không biết có nguồn gốc từ đâu nhưng không mùi không vị, tôi không nhận ra nên sau khi uống nước thì bị trúng thuốc, tôi chỉ kịp quơ lấy cái hình nhân gần nhất là một con quỷ âm sinh hai sừng rồi ngã vật ra.”
Lữ Thuần Dương nãy giờ vẫn há hốc miệng nghe câu chuyện nên nước dãi suýt chảy ra, hắn vội nuốt ực một cái rồi lo lắng hỏi: “Sau đó thế nào nữa?”
Ngọc Ngân kể tiếp: “Sau đó thì hắn xuất hiện, nở nụ cười nham hiểm đứng nhìn tôi, trong cơn nửa mê nửa tỉnh, tôi nghe hắn khoái trá kể lại quá trình bỏ thuốc mê như thế nào, rồi hắn kể lại quá khứ của mình.

Hắn có sở thích trêu hoa ghẹo nguyệt, gần đây nhất hắn đã bắt cóc một cô gái làm ca kỹ đi theo hắn, khi đến vùng này hắn thấy chán ghét cô ấy nên muốn vứt bỏ, không ngờ cô gái phản ứng dữ dội, hắn đành đâm chết cô ấy, dùng dao rạch nát mặt cô ta để không ai nhận ra, rồi vứt xác xuống cái giếng Xương Trắng, lúc đó vẫn chỉ là một cái giếng cạn bình thường.

Hắn đánh hơi thấy tôi ở một mình nên đã tới đây thuê nhà, kiếm cơ hội tiếp cận tôi.

Sau khi kể xong câu chuyện, hắn dùng dao rạch một đường lên cổ tôi, bảo là để trả lại vết thương tôi gây ra cho hắn.

Nhưng nhờ cơn đau từ vết rạch đó khiến tôi tạm thời có chút tỉnh táo, tôi lấy tay chấm máu chảy ra từ vết thương, điểm hai mắt lên hình nhân rồi vẽ họa ngữ kích hoạt.

Hình nhân hóa thành quỷ dữ, xử lý hắn như anh đã thấy rồi đem về căn nhà thuê treo hắn lên.


Hôm sau khi tôi tỉnh lại, đã sai hình nhân đem xác hắn vứt ra cái giếng mà hắn đã giết cô ca kỹ của mình.

Có lẽ ác niệm của hắn đã biến cô ta thành con quỷ khát máu và hắn cũng trở thành bữa ăn đầu tiên của cô ta, chỉ là tôi không có khả năng diệt ma trừ quỷ nên không thể làm gì được.”
Nghe đến đây, Lữ Thuần Dương kể lại chuyện mình đã diệt con quỷ ở cái giếng cạn như thế nào, nghe xong Ngọc Ngân ồ lên một tiếng có vẻ ngạc nhiên rồi im lặng, không nói gì nữa.

Lữ Thuần Dương cũng trở nên im lặng, hắn cảm thấy kẻ đáng chết quả thật đúng là đáng chết, sau một lúc, hắn lên tiếng phá vỡ không khí yên ắng: “Vết thương trên cổ cô bây giờ thế nào rồi?”
Ngọc Ngân vén tóc, để lộ ra cho hắn thấy một vết sẹo nhỏ trên cổ của cô, chạy từ tai xuống, vết thương đã lành từ lâu nên vết sẹo chỉ còn rất mờ nhạt.

Lữ Thuần Dương nhìn vết sẹo rồi gật đầu, nói một câu an ủi: “Cô nói đúng, kẻ đáng chết thì phải chết.” Rồi chuyển chủ đề: “Cô nói Tử Vương Sâm đi dạo trên đỉnh Nguyệt Nhai không có người qua lại, vậy làm sao cô biết được?”
“Tôi dùng hình nhân ưng điểu được điểm mắt và họa ngữ bằng máu của tôi, máu của tôi có thể khiến hình nhân hoạt động ở khoảng cách rất xa, hơn nữa tôi có thể nhìn được thông qua đôi mắt của hình nhân.

Lúc ưng điểu bay cao lên đỉnh Nguyệt Nhai, tôi thấy Tử Vương Sâm đi loanh quanh ở đó, sau đó hằng tháng cứ đến trăng tròn là lại thấy, hy vọng bây giờ củ sâm đó vẫn còn giữ thói quen này.”
Lúc này hai người đã tới dưới chân đỉnh Nguyệt Nhai, Ngọc Ngân lại lấy ra hai con đại bàng, điểm mắt và họa ngữ lên thân, chúng biến thành hai con đại bàng to lớn.

Mỗi người lại leo lên một con, bay lên trên đỉnh.

Đỉnh Nguyệt Nhai rất cao, chạm tới chân mây, lúc Lữ Thuần Dương và Ngọc Ngân đặt chân xuống thì nơi này có mây trắng đang lởn vởn như sương khói, ánh trăng sáng vằng vặc chiếu xuyên qua, cảnh tượng này xem như đã có thể xếp vào chốn tiên cảnh trần gian.

Đứng trên đây nhìn trăng, cảm thấy mặt trăng to hơn rất nhiều khi nhìn từ dưới mặt đất.

Lữ Thuần Dương ngó quanh quất không thấy ai thì hỏi: “Biết tìm Tử Vương Sâm ở đâu đây?”
“Sâm Vương dù sao cũng là một kẻ háo ăn, nên có lẽ phải dùng thức ăn để dụ ông ta tới.”
Lữ Thuần Dương nhăn nhó: ““Ở đâu ra thức ăn để dụ ông ta bây giờ?”
Nhưng Ngọc Ngân lại bình thản đáp: “Tôi có đem theo đây.” Nói đoạn, cô lấy từ trong túi mang theo người ra một cái nồi nhỏ, bảo Lữ Thuần Dương đi kiếm một ít củi khô về, dùng mồi lửa nhóm lên một đống lửa nhỏ, xếp vài thân cây thành một chạc ba vững chắc rồi bắc nồi lên, đổ nước từ trong túi da dê ra, thả vào nồi cà rốt, hành củ, cải thảo cùng đủ loại lá hoa cây cỏ khác.

Lát sau một mùi thơm ngào ngạt tỏa ra từ cái nồi, Lữ Thuần Dương buột miệng: “Thơm quá!”
Bỗng đâu từ sau lưng hắn cũng phát ra hai tiếng: “Thơm quá.” Khiến hắn giật cả mình.

Một lão già từ đâu xuất hiện chạy lại sát cái nồi, ghé mũi vào hít lấy hít để, lão già này nhìn mặt mũi già khọm nhưng da dẻ toàn thân lại căng mọng, tay chân đầy rễ vàng tua tủa tỏa ra ánh sáng tím nhạt, có điều cả cơ thể hình hài của lão chỉ trông như một đứa bé sáu tuổi, Ngọc Ngân nháy mắt ra hiệu, Lữ Thuần Dương hiểu ra đây chính là Sâm Vương mà mình đang cần tìm.

Ngọc Ngân cúi xuống trước lão già, lễ phép nói: “Sâm Vương, đây là thứ súp được nấu toàn bằng những hương liệu thuần khiết nhất, nếu ngài không chê, thì xin mời dùng thử.”

Lão già không chút khách khí, giơ tay bưng lấy cái nồi đang nóng hổi, đưa miệng húp món súp đang sôi sùng sục trong nồi, Lữ Thuần Dương thấy cảnh tượng này thì kinh hãi, nhưng dường như nước nóng chẳng ảnh hưởng gì tới lão già.

Lão lại còn giơ cao cái nồi đổ hết súp vào miệng mình, loáng một cái, nồi súp đã hết sạch, lão già liền thả cái nồi xuống, xoa bụng, ợ lên một tiếng thật to rồi nằm lăn ra đất, nhắm mắt ngáy pho pho, lập tức chìm vào giấc ngủ.

Lữ Thuần Dương tròn mắt: “Cái gì thế này? Sao lão lăn ra ngủ rồi?”
Ngọc Ngân giải thích: “Sâm Vương ăn xong thì ngủ chứ sao, chúng ta đợi ông ấy ngủ dậy rồi hỏi chuyện sau.”
“Tôi nghe dân gian kể rằng mỗi khi tìm thấy nhân sâm thì phải buộc một sợi chỉ đỏ vào thân để nó không chạy mất.”
Ngọc Ngân lắc đầu: “Chúng ta đến đây là để nhờ cậy ông ta, nếu làm vậy tôi e có sự bất kính, nếu mà ông ấy ngủ dậy rồi chạy mất thì xem như chúng ta không có duyên hỏi chuyện, đành đi về thôi vậy.”
Hắn nghe cô phân tích có tình có lý thì gật đầu.

Nhưng đợi một lúc mà thấy Sâm Vương không có động tĩnh gì, chỉ phát ra tiếng ngáy o o đều đặn.

Lữ Thuần Dương thấy chán, không biết làm gì, bèn đi dạo loanh quanh một vòng.

Thấy Lữ Thuần Dương đi xa, chỉ một chốc đã khuất dạng sau mấy lùm cây, Ngọc Ngân đành ngồi xuống cạnh đống lửa để sưởi ấm.

Cô lấy trong người ra một cái hình nhân đang khắc dở, lại lấy ra con dao khắc tiếp tục điêu khắc hình nhân này, ngồi một mình lặng lẽ khắc hình nhân dường như đã thành một thói quen khó bỏ, ngay cả ở nơi xa lạ như thế này cô cũng làm việc này không ngần ngại.

Được một lúc, bên cạnh tiếng lép bép thỉnh thoảng phát ra từ đống lửa, cô chợt nhận ra có tiếng gì đó sột soạt trong lùm cây bên cạnh.

Ngọc Ngân ngừng tay, quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng động, ánh sáng lờ mờ từ đống lửa cùng ánh trăng sáng từ trên cao cũng không soi rõ được có thứ gì đang ẩn nấp trong bụi cây rậm rạp kia.

Cô suy nghĩ, cho dù là thứ gì đang rình mò thì bỏ chạy không phải là thượng sách, cô là con gái, không thể chạy nhanh được, nếu thứ trong bụi cây kia là thú dữ thì có bỏ chạy cũng không thoát.

Củ sâm này đang ngáy như thổi bể thế kia, dù có sét đánh bên tai cũng chưa chắc dậy nổi.

Lữ Thuần Dương thì đã đi đâu mất, có cất tiếng gọi chưa chắc hắn đã nghe, mà nếu có nghe thấy thì lúc chạy trở về đây chắc cũng đã trễ.

Nghĩ đi nghĩ lại, cô nhìn xuống hình nhân trong tay mình, có một cách sử dụng hình nhân mà cô chưa từng thử bao giờ.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: 7: Bí Mật Của Bốn Người





Còn Lữ Thuần Dương sau khi đi loanh quanh một lúc xa, hắn thấy trước mắt là một khoảng không gian như sáng hẳn lên, nổi bật trong đêm tối.

Hắn thầm nghĩ cái thứ ánh sáng nào sao quen thuộc quá, khiến hắn nhớ tới con rắn vương Thiềm Tử, loại rắn Lân Tinh đó cũng có đặc tính phát sáng giống như vậy.

Lần mò một hồi theo luồng sáng, hắn lạc bước đến một nơi như vườn hoa.

Hắn kinh ngạc mở to mắt chiêm ngưỡng, nơi này nở rộ các loại hoa đủ màu sắc, muôn hình vạn trạng.

Ở giữa vườn có một bông hoa màu trắng to nhất, nó chính là nơi mà nguồn sáng phát ra, cả bông hoa cứ óng ánh tỏa sáng, như kiểu được phủ lên một lớp sương đêm ánh bạc.

Hắn ngạc nhiên đưa tay sờ vào đài hoa, không ngờ vừa mới chạm vào thì một tiếng kêu “Ái ôi” vang lên.

Hắn giật nảy mình buông tay, lùi lại, nơi đóa hoa khi nãy bây giờ chợt hiện ra một cô gái đang nằm nghiêng trong đám cây cỏ, cô gái chống hai tay, nhổm người lên nhìn Lữ Thuần Dương, nhíu mày, buông lời trách móc: “Ngươi có biết ngươi vừa sờ vào chỗ nào của ta không hả?”
Lữ Thuần Dương thấy cảnh tượng trước mắt thì quá bất ngờ, dẫn đến bối rối, không biết đáp lời thế nào, cứ ú ớ mãi: “Cô…cô là?”
Cô gái cựa mình, chống tay xuống đất, đẩy cả người ngồi hẳn dậy, chớp mắt vài cái nhìn hắn rồi hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại lên được đỉnh Nguyệt Nhai này?”
Lữ Thuần Dương không biết đối phương là người thế nào, cũng không rõ bản chất có phải là người hay không, chỉ thấy dường như cô ta vừa hiện ra từ đóa hoa màu trắng rất đẹp kia, hắn nghĩ thầm không lẽ là hoa yêu.

Đối với yêu quái tu luyện từ thực vật mà nói, đa số đều là tu luyện theo chính đạo, mà con đường chính đạo là con đường rất dài, phải đi lâu hơn rất nhiều so với tu theo tà đạo.

Vì phải trải qua thời gian rất lâu như thế, nên so với những chính yêu thì một đời người như khoảnh khắc, con người đối với chúng chẳng qua giống như những con thiêu thân, vừa mới sinh ra, trong chớp mắt đã qua đời ngay sau đó.

Chẳng hạn như củ sâm ba ngàn năm tuổi kia, đời người thất thập cổ lai hy, bảy mươi năm của con người chẳng qua chỉ là một giấc ngủ trưa của lão.

Nghĩ vậy, cho nên nếu mà xưng là người thì e sẽ khó mà trò chuyện được, lại nhớ đến lúc nói chuyện với con rắn kia đã tự xưng mình là dê núi rồi, nên lần này hắn giở lại bài cũ: “Tôi là sơn dương, thấy trăng hôm nay rất đẹp nên lên đây ngắm trăng thôi.”
Cô gái lúc này đã đứng hẳn dậy, toàn thân chỉ được che đậy bằng hoa với lá, nhưng nhìn kỹ, đám hoa lá này kết với nhau thành một bộ váy dài lung linh, có họa tiết, có hoa văn, trông cũng thật có khí chất.

Cô gái lắc đầu: “Không đúng, đỉnh Nguyệt Nhai này không có đường lên, vách đá hiểm trở, thẳng đứng, ngươi cho dù là sơn dương thì cũng không thể leo lên tới đây được, ta sống đã hơn ba mươi mấy năm, ngoại trừ Sâm Vương thì chưa từng trông thấy ai lên đây cả.”
Ách, bông hoa này mới chỉ có hơn ba mươi tuổi, ngang ngang tuổi mình, vậy là mình lo nghĩ nhiều quá rồi.


Thấy bông hoa này thuộc loại có đầu óc, biết nghĩ trước nghĩ sau, không ngớ ngẩn như con rắn kia, nhắm không nên nói dối nữa, mà có nói tiếp cũng chẳng thông, thế là hắn đành nói ra sự thật là mình cùng với một cô gái biết thuật dùng hình nhân, cưỡi đại bàng bay lên đây, muốn tìm Sâm Vương hỏi thăm về chuyện cái chân thứ ba của con rắn.

Cô gái che miệng cười khúc khích: “Hi hi, con rắn đó ta cũng biết, ta chưa thấy ai khờ khạo như hắn, cơ mà dù sao hắn trông cũng không tệ, chỉ là cái chân dư đó làm hắn chẳng dám gặp ai.”
Lữ Thuần Dương tình cờ gặp được người biết chuyện thì cảm thấy dễ thở hơn: “Phải, tôi cũng thấy hắn tội nghiệp nên muốn tìm Sâm Vương hỏi xem có cách giúp được cho hắn không?”
“Sâm Vương giờ đang ở đâu?”
“Ông ta đang ngủ phía bên kia.” Rồi hắn kể cho cô gái nghe chuyện củ sâm kia sau khi ăn xong nồi súp thì lăn ra ngủ thế nào.

Cô gái lại cười: “Ăn no ngũ kĩ, bảo sao sống lâu đến thế.” Rồi bảo: “Dẫn ta đến chỗ ông ấy nào?”
Trên đường đi, Lữ Thuần Dương hỏi: “Mà cô tên là gì thế?”
“Ta tên là Tử Dung.”
“Còn cái đóa hoa trắng khi nãy, cũng gọi là hoa Tử Dung luôn à?”
“Không, đó là hoa Chức Nữ, còn Tử Dung là cái tên ta tự đặt cho mình thôi.”
Hắn định hỏi tiếp cái tên Tử Dung nghĩa là gì, vì sao cô lại thích cái tên ấy thì cả hai đã đi tới chỗ Vương Sâm đang ngủ, nhưng Ngọc Ngân thì lại không thấy đâu.

Lữ Thuần Dương nhìn quanh quất để tìm nhưng không thấy, Tử Dung thấy hắn có vẻ khẩn trương liền hỏi: “Ngươi có chuyện gì vậy?”
Hắn vội vàng giải thích cô gái đi cùng hắn không thấy đâu nữa, rồi bắt tay lên miệng gọi lớn tên Ngọc Ngân.

Tử Dung can ngăn: “Không cần lo lắng quá đâu, đỉnh Nguyệt Nhai này tuy hiểm trở nhưng chỉ là không có đường lên, còn đã lên được đây rồi thì không có vấn đề gì, ta ở đây bao nhiêu năm chưa hề trông thấy ở đây có thứ gì nguy hiểm.”
Tuy nghe Tử Dung nói vậy nhưng Lữ Thuần Dương vẫn không bớt lo lắng, Ngọc Ngân chỉ là người thường, hơn nữa lại chỉ là cô gái chân yếu tay mềm.

Tối nay cô đưa hắn tới đây vì mục đích là giúp đỡ cho chuyện của hắn, nếu cô có bất trắc gì, hắn sẽ rất hối hận.

Hắn quay sang hỏi lại Tử Dung: “Cô có chắc ở đây không có tà ma quỷ quái hay động vật ăn thịt to lớn nào chứ?”
Tử Dung lắc đầu, rồi chợt cô nhớ ra điều gì: “À…”
Lữ Thuần Dương có chút thất sắc: “Cô à nghĩa là sao vậy?”
“Ừm, thực ra gần đây chỉ có một con chồn tinh, nhưng ngày thường ta chỉ thấy nó đi loanh quanh ở đây trêu hoa, thưởng nguyệt, không thấy nó tỏ ra hung hãn gì.”
“Khoan đã, cô nói ở đỉnh Nguyệt Nhai này không có ai, vậy nó trêu hoa thưởng nguyệt nghĩa là làm gì? Thức ăn hằng ngày của nó là gì?”
“Trêu hoa thưởng nguyệt nghĩa là ban ngày nó đi một vòng, thấy có bông hoa nào đẹp thì đứng lại ngắm nghía, chun mũi hít ngửi, ban đêm thấy có trăng sáng thì nó đứng dưới trăng múa may, hấp thu tinh khí mặt trăng để tu luyện.


Còn hằng ngày nó ăn gì thì ta không sao biết được.”
Lữ Thuần Dương ngước nhìn trời, đêm nay là mười sáu, trăng tròn to, khả năng con chồn này ra thưởng trăng là chuyện bình thường, nếu nó vô tình bắt gặp Ngọc Ngân ở đây thì...!
“Nó là chồn đực hay cái, nó có hóa ra dạng người hay không?”
“Nó là chồn đực, có khi ta thấy nó hóa ra dạng người, là dạng nam nhân nhưng rất ẻo lả, trông chả đứng đắn gì cả.”
Lữ Thuần Dương nghe thế thì vừa mừng vừa lo, hắn mừng vì nếu con chồn kia là dạng nam nhân ẻo lả thì sẽ không làm hại gì đến Ngọc Ngân ở phương diện nam nữ, nhưng hắn lo vì không biết con chồn có làm trò gì kỳ quặc hay không.

“Cô biết hang ổ của nó ở đâu không?”
“Ta không biết, nhưng thường ta thấy nó đi tới từ phía sau cùng ở đỉnh Nguyệt Nhai này, rồi sau lại đi về hướng đó.”
“Mau dẫn đường.”
Tử Dung đạp lên một đám lá, đám lá chuyển động như một tấm thảm đưa cô di chuyển về phía trước, vừa tính chạy đi theo Tử Dung thì Lữ Thuần Dương như chợt nhớ ra điều gì, vội hô to: “Khoan đã!”
Tử Dung ngừng bước, quay lại nhìn hắn: “Có chuyện gì?”
Lữ Thuần Dương chỉ vào Sâm Vương đang nằm ngủ: “Để ông ta ngủ ở đây một mình có sao không?”
“Ngươi lo ông ta bị sao chứ? Ai làm gì được ông ấy?”
“Không được, đêm dài lắm mộng, Ngọc Ngân đã không rõ tung tích, để mất thêm ông ta nữa thì đúng là đem đổ nước ra sông, phải đem theo ông ta mới được.” Nói rồi hắn vác củ sâm lên vai rồi quay qua Tử Dung: “Đi nào.”
Tử Dung được thảm lá đưa lướt đi như bay trong thật nhẹ nhàng và thoát tục, Lữ Thuần Dương chạy theo phía sau, thấy vậy thì lên tiếng hỏi: “Này, cái kiểu di chuyển của cô, có thể cho tôi đi nhờ được không?”
Tử Dung quay lại đáp: “Ngươi nhảy lên thử xem, ta chưa từng cho ai đi nhờ như vậy.”
Lữ Thuần Dương nhảy lên thảm lá, hai chân hơi lún xuống một chút, phải vác theo Sâm Vương nên hắn có hơi loạng choạng, nhưng rồi lấy lại được thăng bằng, hơi nghiêng người tới trước một chút là có thể đứng vững.

Cảm giác thật lạ, như lướt trên mặt nước vậy.

Gió lướt qua mặt, phút chốc đã đến trước một hang đá, bên trong phát ra ánh lửa, hắn nghe tiếng của Ngọc Ngân phát ra từ bên trong, loáng thoáng gì đó nghe không rõ.

Nhưng mặc kệ, chỉ cần nghe được có tiếng Ngọc Ngân thì không chần chừ gì nữa, hắn vội đặt củ sâm trên vai xuống, nhảy khỏi thảm lá, lao vào bên trong.

Hắn vung kiếm, nhảy bổ qua cửa hang, hô to gọi Ngọc Ngân, không ngờ cảnh tượng trước mắt khiến hắn khựng người lại, đứng chết trân, buông thõng kiếm xuống, miệng hắn méo xệch, khuôn mặt hắn trở nên rất khó coi.

Trước mặt hắn, Ngọc Ngân đang ngồi chỉ bày cho một nam nhân mặt hoa da phấn… cách trang điểm!
* * *

Mọi người ngồi vây quanh chiếc bàn đá phía trước hang, Ngọc Ngân che miệng cười khúc khích khi nghĩ đến cảnh hùng hổ vừa rồi của Lữ Thuần Dương: “Xin lỗi đã làm anh lo lắng.”
Lữ Thuần Dương xua tay: “Chỉ cần cô được an toàn vậy.” Rồi quay sang trút sự bực bội vì bản thân dường như vừa làm trò cười lên gã nam nhân kia: “Còn ngươi, đường đường là nam nhân, sao lại ham mê cái trò trang điểm của phụ nữ thế?”
Nam nhân cất giọng ẻo lả: “Trời sinh ta yêu thích cái đẹp, biết làm sao được.”
Chào hỏi xong, mọi người giới thiệu lẫn nhau, gã chồn tinh kia tên là Ái Hoa!
Xong màn giới thiệu, Lữ Thuần Dương nhìn Sâm Vương vẫn đang ngáy o o mà trong lòng sầu não: “Biết khi nào ông ta mới thức dậy?”
Ái Hoa nghe thế thì cười mím chi: “Việc này đơn giản, ta có thể giúp được.”
“Ngươi có cách gì?”
“Sâm Vương vốn thích mùi thơm của đồ ăn, nên ngược lại những mùi xú uế là thứ đại kỵ, ăn xong một bữa có thể ngủ suốt mấy ngày trời, nhưng gặp uế khí lại tỉnh giấc ngay lập tức.”
“Tìm đâu ra uế khí?”
Ái Hoa cười khúc khích: “Mọi người bịt mũi lại là được.”
Lữ Thuần Dương chợt nhớ ra trước mặt mình là một con chồn, thì hoảng hồn: “Này, không lẽ ngươi định…”
Chưa kịp dứt lời thì Ái Hoa đã nghiêng người, xả ra một luồng khí, một mùi thối bốc lên nồng nặc.

Lữ Thuần Dương, Ngọc Ngân và Tử Dung vừa bịt mũi vừa bỏ chạy tán loạn.

Chỉ tội cho Sâm Vương, do đang ngủ nên chỉ có thể nằm im tại chỗ, hưởng hết mùi thối của Ái Hoa không thiếu chút nào.

Ngọc Ngân lúc này đã chạy ra xa, vừa quạt tay cho bớt mùi, vừa lên tiếng nói với mọi người: “Bí mật này, chúng ta sống để bụng chết mang theo.”
Sâm Vương nằm trên mặt đất, đột nhiên ho sặc sụa, rồi lồm cồm bò dậy, chống hai tay hai chân trên mặt đất thở khò khè như muốn ngộp hơi tới nơi.

Tử Dung thấy thế, vội vàng quơ tay, một đám dây leo kéo đến kết thành một cái quạt phất phơ, nhanh chóng tản đi mùi hôi, trả lại bầu không khí trong lành.

Lữ Thuần Dương vội chạy đến đỡ Sâm Vương dậy, chỉ nghe lão ta thì thào: “Ngộp chết ta rồi.”
Hắn dùng tay quạt mát cho lão ta rồi bảo: “Không có gì đâu, do ông ăn no quá, lại ngủ say nên gặp chút ác mộng thôi, tỉnh lại được là không sao rồi.”
Sâm Vương vẫn còn quờ quạng: “Vừa rồi là ác mộng sao? Ta cảm giác như mình bị con Đế Thính ngồi lên mặt vậy.”
Đế Thính là thần thú thượng cổ, nghe được hết mọi chuyện trong nhân gian, có điều do thể hình to lớn nên mùi nó xả ra không dễ chịu gì.

Lữ Thuần Dương an ủi: “Phải, chỉ là ác mộng thôi, mọi thứ đã qua rồi.”
Sâm Vương sau một hồi lấy lại thần sắc thì nhìn mọi người xung quanh, hỏi liền một hơi: “Sao mọi người ở đây đông quá vậy? Tử Dung, Ái Hoa, hai ngươi cũng ở đây à? Còn hai kẻ này là ai?”
Ngọc Ngân nhanh miệng, kể tóm tắt sự việc lại một lượt, Sâm Vương nghe xong thì gật gù: “Con bé này, súp ngươi nấu ngon lắm, còn thằng nhóc này, niệm tình người đỡ ta dậy, ta sẽ nói cho các ngươi nghe chuyện về con rắn đó.”
Lữ Thuần Dương vui mừng: “Đa tạ Sâm Vương.”
“Các ngươi biết truyền thuyết về con cóc ba chân không?”
Lữ Thuần Dương nhanh nhảu: “Vâng, đó là linh vật Thiềm Thừ, vốn nó có bốn chân nhưng vì ban đầu nó quấy nhiễu thế gian, sau đó bị Lưu Hải chặt đứt một chân để thu phục, từ đó nó chỉ còn ba chân, đồng thời phun ra tiền bạc, tài bảo để trợ giúp nhân gian, phát tán tiền tài.”
“Các ngươi có biết vì sao sau khi bị mất một chân rồi thì nó mới nhả ra tài bảo không?”

Mọi người nghe tới đây thì chịu, không ai trả lời được.

Sâm Vương đợi một lúc mà không thấy ai nói gì bèn nói tiếp: “Nguyên do bốn cái chân của nó lần lượt có tên là Ngãi Hí, Kim Điều, Độc Dã, Bảo Vưu.

Nó quấy nhiễu nhân gian vốn do cái chân Độc Dã tác quái, đồng thời át chế ba cái chân còn lại.

Lưu Hải nhận ra nguồn gốc vấn đề là từ cái chân đó mà ra nên đã chặt đứt Độc Dã đi, từ đó Kim Thiền mới hết quậy phá, đồng thời hai cái chân Bảo Vưu và Kim Điều bắt đầu cất được tiếng nói của mình, giúp Kim Thiền có thể phun châu nhả ngọc.”
Lữ Thuần Dương ngẫm nghĩ rồi suy đoán: “Ý của ông là, con rắn kia không phải là dư một cái chân, mà là ban đầu có tới bốn chân, rồi bị ai đó chặt đứt mất đi một nên mới còn lại ba chân?”
Sâm Vương gật đầu: “Phải, hơn ba trăm năm trước, nó chỉ là một con rồng nước bình thường, đó là thời điểm yêu quái hoành hành khắp nơi, một trong Tam Đại Yêu thời đó là Ly Cơ đánh nhau vài lần với Uyển Kha nhưng thường là Uyển Kha thua trận.

Trong lần đánh cuối cùng, Uyển Kha phải nhờ vào con rồng nước đó, cưỡi rồng bay lên không mới có thể đấu ngang ngửa được với Ly Cơ, tiếc rằng cuối cùng Uyển Kha bị Ly Cơ móc mất tim mà chết, còn con rồng đó bị Ly Cơ vặt mất một cái chân.

Tuy không chết, nhưng nó cứ đau buồn vì cái chết của Uyển Kha mà quanh quẩn nơi thanh kiếm của Uyển Kha cắm xuống, làm bạn với thần phách của Uyển Kha trong thanh kiếm.

Đến khi Uyển Kha đầu thai, nó cũng đầu thai theo.

Dựa vào âm đức đã tạo, nó hoàn toàn có thể đầu thai làm người để gặp lại trở thành tri kỷ của Uyển Kha, nhưng với cái tính khờ khạo, ngốc nghếch, nó hấp ta hấp tấp nhảy nhầm vào cõi luân hồi của súc sinh, thành ra đầu thai làm một con rắn.

Có điều với tiền kiếp là rồng, cùng âm đức đã có, nó được làm vương trong họ rắn.

Khi tu luyện đến độ có thể hóa thành người, cái chân thứ ba của nó lại mọc ra trên người không thể xóa bỏ, cũng như những dấu vết kỳ lạ trên thân thể một con người là dấu ấn của tiền kiếp để thể hiện một ý nghĩa nào đó, cái chân đó cũng vậy, nó chẳng qua chỉ là dấu tích để tìm gặp lại tri kỷ Uyển Kha năm xưa.

Khi nào tìm được, chỉ cần hiện kiếp của Uyển Kha vung kiếm quơ qua là cái chân thứ ba đó tự khắc được xóa bỏ.”
Lữ Thuần Dương nghe tới đây thì thốt lên: “Đơn giản thế thôi ư?”
“Đơn giản? Con rắn đó biết đi đâu tìm hiện kiếp của Uyển Kha mà bảo là đơn giản chứ? Không lẽ…” Sâm Vương quay qua nhìn Lữ Thuần Dương, thấy cái vật dài dài bọc vải trong tay hắn, có chút ngạc nhiên: “Cái thứ trong tay ngươi không lẽ là…”
Lữ Thuần Dương không nói gì, chỉ gật đầu nhẹ một cái.

Sâm Vương vuốt bộ râu là mấy cái rễ cây dài ngoằng của mình cười khà khà: “Hữu duyên thì năng ngộ, đúng là hữu duyên thì năng ngộ mà!”
Đoạn lão ngước nhìn trời: “Mới có nửa đêm canh ba, các ngươi đi tìm con rắn đó đi, chuyện tốt thì không nên chậm trễ, sau này đừng đến tìm ta nữa, ta không thích bị quấy rầy.”
Lữ Thuần Dương chắp tay: “Đa tạ Sâm Vương.”
Lúc mọi người vừa rời đi, Sâm Vương gọi với theo Ngọc Ngân: “Con bé kia, súp ngươi nấu ngon lắm, có thời gian thì thỉnh thoảng tới đâu nấu ít súp như vậy cho ta ăn.”
Ngọc Ngân gật đầu ngoan ngoãn: “Nhất định rồi, Sâm Vương.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: 8: Quan Tài Đứng





Ba người ra đến mép núi, Lữ Thuần Dương và Ngọc Ngân quay lại nhìn, Tử Dung vẫn lẽo đẽo theo sau hai người đến tận nơi này.

Lữ Thuần Dương ngạc nhiên hỏi: “Cô đi đâu vậy?”
Tử Dung rụt rè đáp: “Cho ta tham gia với, ta muốn xem chuyện của con rắn đó sẽ như thế nào nữa.”
Lữ Thuần Dương quay sang nhìn Ngọc Ngân như muốn hỏi ý cô, thấy Ngọc Ngân gật đầu, hắn quay qua nói với Tử Dung: “Vậy cũng được.”
Ngọc Ngân lại lấy ra hai con hình nhân đại bàng, điểm mắt và họa ngữ để chúng biến thành đại bàng to lớn, Lữ Thuần Dương cưỡi một con, Ngọc Ngân và Tử Dung cưỡi chung một con.

Bay xuống chân núi, Ngọc Ngân lại dùng hình nhân hai con voi như lúc đến, hỏi Lữ Thuần Dương đi tới đâu để tìm con rắn ba chân kia, hắn đáp hắn gặp gã Thiềm Tử đó ở khu rừng Gà Gáy, nên cả ba người cưỡi voi nhắm hướng khu rừng đi tới.

Trên đường đi, Ngọc Ngân hỏi Lữ Thuần Dương về chuyện liên quan giữa Thiềm Tử và hiện kiếp của Uyển Kha, hắn phải kể lại ngắn gọn câu chuyện về thôn Ô Hợp cho hai cô gái cùng nghe.

Nghe xong, Tử Dung thắc mắc: “Vậy ngươi chính là hiện kiếp của Uyển Kha?”
Lữ Thuần Dương gật đầu: “Phải, sư phụ Tiêu Ảnh Tử của tôi nói như vậy.”
“Bây giờ ông ấy đang ở đâu?” Ngọc Ngân hỏi.

“Tôi cũng không biết, từ năm mười tám tuổi, sư phụ đã để tôi một mình rồi.”
“Thật tội nghiệp cho ngươi, còn trẻ mà đã phải lang thang đầu đường xó chợ một mình rồi.” Tử Dung mở giọng tội nghiệp hắn.

Lữ Thuần Dương cười khổ, câu nói của Tử Dung nghe không đúng lắm, nhưng hắn cũng lười giải thích.

“Vậy anh làm gì để kiếm sống?” Ngọc Ngân lại hỏi.

Lữ Thuần Dương nhún vai: “Không hiểu từ đâu nhưng sư phụ tôi có rất nhiều tiền, tuy sống một mình nhưng việc kiếm tiền tôi chưa bao giờ phải nghĩ tới.”
“Không ngờ, nhìn ngươi vậy mà lại con cháu thế gia quá nhỉ!” Tử Dung thốt lên.

Thấm thoát, cả ba đã đến bìa rừng thưa, Ngọc Ngân hỏi: “Làm sao để tìm được Thiềm Tử bây giờ?”
Lữ Thuần Dương chưa kịp mở miệng trả lời thì bỗng nghe có tiếng trống và phèng la vọng đến, có lẽ khoảng cách còn rất xa nên âm thanh rất nhỏ, nhưng trong đêm khuya vắng lại nghe rất rõ ràng.

Hắn quay sang hỏi hai cô gái: “Hai cô có nghe thấy tiếng gì không?”
Ngọc Ngân ngước nhìn trời, gật đầu: “Bây giờ cũng khoảng cuối canh ba, sao lại có tiếng trống nhỉ, không lẽ là lũ gà tinh nhảy múa sao?”
Lữ Thuần Dương ngờ vực: “Không phải, tiếng trống này khác xa tiếng trống của lũ gà, tiếng trống của lũ gà nghe tiết tấu sôi động khiến người ta muốn nhảy múa, còn tiếng trống này nghe rên rỉ, sầu não, cứ như có ai đang than khóc vậy.”

Cảm giác tiếng trống có chút kỳ quái, ba người leo xuống khỏi hai con voi, Ngọc Ngân thu hình nhân lại, rồi cả ba mò mẫm từng bước lần về phía phát ra tiếng trống.

Tử Dung nắm chặt lấy tay của Ngọc Ngân, có chút run rẩy, Ngọc Ngân hỏi khẽ: “Sao tay cô run run vậy, cô thấy lạnh à?”
Tử Dung thì thầm: “Không phải, tôi thấy… sợ.”
Lữ Thuần Dương nghe thế thì trợn mắt, mặc dù trong đêm tối không ai nhìn rõ khuôn mặt của hắn: “Cô là hoa yêu, mà cũng thấy sợ sao?”
Tử Dung thấp giọng đáp lại, có chút hờn dỗi: “Sao lại không, ta cũng là con gái, cảm thấy sợ ma có gì không đúng?”
Trên trán Lữ Thuần Dương chảy một giọt mồ hôi, lời nói ra tắc tị, vô phương suy nghĩ.

Dò dẫm trong rừng, ba người luồn lách qua các thân cây và bụi rậm một lúc, cuối cùng cũng ra đến chỗ rừng thưa thớt, có ánh lửa leo lét hiện ra, tiếng trống đã đến rất gần, xen lẫn giữa những tiếng trống trầm đục là tiếng thanh la điểm những âm sắc vang vọng thê lương.

Họ trông thấy một đoàn người đang di chuyển theo hàng dọc, tất cả đều mặc đồ trắng, có một người đi đầu, hai tay cầm hai ngọn đuốc soi sáng cho tất cả.

Theo sau là hai người cầm hai lá phướn trắng, đuôi phướn lất phơ lất phất theo từng bước đi của người cầm.

Kế đến là một kẻ gõ trống, một kẻ đánh la, tiếng trống vang lên một tràng ngắn thì được điểm vào một tiếng la.

Nối đuôi hai người ồn ào nhất trong đoàn này là hai kẻ cầm một rổ tiền vàng mã, vừa đi vừa rải tiền tứ tung.

Cuối cùng là bốn nam nhân lực lưỡng khiêng một cái quan tài, là loại truyền thống, tục vẫn thường gọi là kim quan, nguyên do là loại này có hình dáng hai bên hông cong tròn, cùng nắp thượng uốn võng xuống như một thỏi vàng.

Người nằm trong quan tài lúc sống dù có khổ cực đến đâu thì lúc chết cũng được ở trong một ngôi nhà tiền bạc.

Nghề đóng quan tài cũng lắm công phu, chỉ riêng mỗi loại gỗ dùng để đóng thôi cũng có tới cả trăm loại, nhưng chung quy có thể gom lại chia thành bốn giai tầng khác nhau.

Cấp thấp nhất chỉ là loại gỗ rẻ mạt, chôn xuống đất nếu là nơi ẩm ướt chỉ sau vài tháng đã mục ruỗng, còn nếu là nơi khô ráo thì chỉ hơn năm là đã xuống cấp, từ đó dễ dàng cho một số loại chui rúc dưới đất như rắn và cá đục thủng quan tài, chui vào bên trong ăn thịt xác chết.

Thứ thịt thối rữa này nuôi bọn chúng đến béo ngậy, căng tròn.

Không ít trường hợp đào bới những huyệt mộ ra, thấy một đàn cá béo núc ních tung tăng bơi lội hoặc thấy một vài con rắn đất mập ù nằm cuộn tròn đợi sẵn, thấy người là ngóc đầu dậy, như kiểu muốn hỏi: lại đưa thêm đồ ăn tới à?
Mà cũng vì loại quan tài này nhanh hỏng đến vậy, từ đó mới sinh ra tục lệ cải táng sau ba năm.

Trong ba năm chờ cải táng đó, gia đình người mất lo chạy chọt vun vén các kiểu để tích đủ tiền bạc, sắm được một cỗ quan tài tươm tất hơn, chờ đến khi đủ kỳ hạn ba năm lại đào lên để chuyển người mất qua nhà mới.


Nhưng thế gian có câu: “Mưa ba năm chưa tạnh, nắng ba năm chưa râm.” Khoảng thời gian ba năm có khi quá ngắn ngủi chưa đủ để cải vận, có những gia đình dành dụm mãi cũng không thể dôi dư ra tiền bạc để mua quan tài mới, thế nên khi đến hạn cải táng, thôi thì nhặt xương cốt cho vào hũ sành để vừa an tâm trong lòng, vừa trọn vẹn tình nghĩa.

Có điều, nếu chẳng may lúc cải táng mà da thịt người chết chưa tan hết thì lại sinh ra cái nghề róc da lóc thịt.

Chẳng biết người sống cảm thấy thế nào, chứ nếu người chết có thể nói, có thể họ sẽ nói rằng: sao không để yên mọi thứ cho họ có thể an giấc ngàn thu, quan tài dù xấu thế nào thì cũng đã ở yên được ba năm quen thuộc, nay đang ngủ ngon, lại bỗng dưng bị dựng đầu dậy, bóc da bóc thịt.

Loại quan tài kế tiếp chính là loại phổ thông nhất, dùng cho đại trà đa số, loại này gỗ chắc chắn hơn, trong vòng ba năm gần như không thể bị hư hại, đảm bảo cho kẻ nằm bên trong không bị làm phiền.

Được xếp giai tầng cao hơn loại quan tài chắc chắn kia một bậc, chính là những loại gỗ có mùi thơm.

Lượng tinh dầu càng nhiều thì càng thơm, mùi thơm này không những ướp cho người chết nằm bên trong trở nên thơm tho sạch sẽ mà còn để người sống bên ngoài thưởng thức.

Hàng quan tài cực phẩm cuối cùng là thứ được làm từ loại gỗ cũng có mùi thơm nhưng chất lượng cao hơn, thứ mùi thơm này vừa tỏa ra xa, vừa giữ được hương vô cùng lâu.

Quan tài lại vô cùng chắn chắn một cách đặc biệt, đặt trên mặt đất thì nặng, thả xuống nước thì nổi.

Người nằm bên trong ba năm, dung nhan vẫn được bảo quản gần như lúc còn sống.

Tương truyền lúc Tần Thủy Hoàng mất, ông được an táng trong một cái quan tài làm từ gỗ Ngọc Kỳ Am, mùi thơm của loại gỗ này vô cùng đặc biệt, lan xa hơn một dặm, ngào ngạt khắp trong hoàng cung, giữ mùi trong vòng ngàn năm không hề phai nhạt, người sống ngửi thấy cũng cảm thấy trong lòng vô cùng sảng khoái, đầu óc minh mẫn, cảm giác được sống thọ thêm vài năm.

Không rõ thứ gỗ này được tìm thấy ở đâu, nhưng từ đó về sau không có cái quan tài tương tự thứ hai được làm ra.

Tiếc là hậu nhân không tìm thấy chính xác cái quan tài đã an táng Tần Thủy Hoàng này để kiểm chứng về mùi thơm và độ bảo quản xác của nó.

Cái quan tài mà đoàn người đang khiêng có lẽ là loại rẻ mạt nhất vì bốn người đang khiêng không tỏ vẻ nặng nề lắm, chứ nếu là loại quan tài chắc chắn, chỉ bốn người khiêng thì không thể ung dung như thế được.

“Lạ thật!” Lữ Thuần Dương thì thầm với vẻ nghi hoặc.

“Ngươi thấy có chuyện gì lạ?” Tử Dung hỏi.


“Đoàn người đưa tang mà không hề có nét đau buồn, cũng chẳng than khóc, người nằm trong quan tài kia dường như chẳng có chút gì liên quan với đám người này cả vậy.” Ngọc Ngân đáp thay.

“Không phải, ý tôi thấy lạ là sao lại đưa tang vào lúc khuya khoắt như thế này? Có chuyện gì ám muội chăng?” Lữ Thuần Dương đính chính cái câu “lạ thật” của hắn.

Cả ba âm thầm bám theo một đoạn, đoàn người tới mảnh đất trống gần một gốc cây to thì dừng lại.

Bốn người khiêng quan chậm rãi hạ quan tài xuống mặt đất, những kẻ cầm cờ và trống la cũng bỏ những thứ trong tay xuống, thắp lên hai ngọn đuốc nữa, khung cảnh bây giờ đã trông rõ ràng hơn.

Vài kẻ trong bọn bắt đầu lấy cuốc đào đất.

“Gì thế, khiêng quan tới nơi mới bắt đầu đào đất ư, không hợp lẽ thường chút nào.” Lữ Thuần Dương nói khẽ.

Đám người nhanh chóng đào được một hố sâu, rồi nhảy xuống dưới tiếp tục đào đất, từng sọt đất đều đặn được đưa lên trên, hết sọt này đến sọt khác, đất chất bên trên đã chất thành đống lớn mà có vẻ như đám người vẫn chưa dừng lại.

Thỉnh thoảng lại đổi người, người ở trên nhảy xuống đào tiếp, thay cho người ở dưới lên trên chuyển qua việc đổ đất ra ngoài.

“Có vẻ bọn họ đào một cái huyệt sâu hơn bình thường.” Ngọc Ngân nhận xét.

Đến gần cuối canh tư thì đám người đào huyệt dừng tay, có vẻ cái huyệt đã được như ý, bọn họ nhanh chóng leo hết lên trên, đan các đoạn dây thừng tròng vào xung quanh cỗ áo quan, thắt nút chắc chắn, rồi dựng một cái chạc ba trên cao, bắt đầu thả quan tài xuống dưới cái huyệt vừa đào.

“Cái gì thế?” Lữ Thuần Dương không tin vào thứ mình đang nhìn thấy, cả Ngọc Ngân cũng biểu lộ vẻ ngạc nhiên thấy rõ.

Đám người đang thả cái quan tài xuống theo chiều dọc, họ đang chôn đứng một cỗ quan tài!
Quan tài được thả chạm xuống nền đất dưới huyệt, đám người nhanh chóng tháo dây, phủ đất lên trên.

Nhưng bọn họ chỉ phủ đất lấp đầy khoảng trống dưới huyệt cho bằng với mặt đất xung quanh rồi dừng lại, chứ không đắp cao lên như một nấm mồ bình thường.

Cuối cùng một người trong bọn thắp ba cây nhang, cắm chụm vào nhau lên nền đất rồi nhanh chóng bỏ đi.

Nhìn thoáng qua thì tưởng chừng như bọn họ thắp nhang để cúng bái cái gốc cây to, chứ không thể nghĩ rằng lại có một nấm mồ bên dưới.

“Bọn chúng giấu giếm thứ gì trong quan tài vậy nhỉ?” Lữ Thuần Dương thấy bọn người đã đi xa thì cất tiếng rõ hơn.

“Nhìn ba cây nhang kia, thì chín phần là có người chết bên trong, chứ nếu là đồ vật gì đó thì không cần phải thắp nhang làm gì.” Ngọc Ngân khẳng định.

Tử Dung này giờ vẫn im lặng, bất chợt lên tiếng: “Trong quan tài đúng là có người, nhưng người này dường như vẫn còn đang sống.”

“Người bị chôn sống? Làm sao cô biết?” Lữ Thuần Dương kinh ngạc quay sang hỏi Tử Dung.

“Bọn họ chôn người gần cái gốc cây kia, lúc đào huyệt đã phạt đứt bộ rễ dưới đất của nó rồi thả quan tài xuống, những nhành rễ bị đứt chạm đến lớp vỏ bên ngoài, tôi có thể thông tâm với cây cối xung quanh, cảm nhận được có hơi thở của người sống thoát ra từ bên trong, nhưng hơi thở này đã trở nên rất yếu, lúc có lúc không, chẳng mấy chốc nữa sẽ tắt lịm thôi.”
“Đám người này nhìn mặt mũi chẳng có vẻ gì là lương thiện, làm chuyện lại mờ ám, đằng sau chắc có điều khuất tất, phải cứu kẻ nằm bên trong ra trước đã.” Lữ Thuần Dương nói xong, thấy đám người đã đi xa khuất dạng, vội vã chạy đến chỗ gốc cây, hất ba cây nhang qua chỗ khác rồi dùng hai tay vội vã bới đất ra.

Tử Dung chạy đến, nói vội: “Hơi thở ngừng rồi.”
“Hai người lùi lại đi.” Lữ Thuần Dương quát lớn rồi mở bọc vải lấy kiếm ra, hắn rút kiếm ra khỏi vỏ, Sát Đế xuất hiện tỏa hồng quang đỏ rực trong đêm tối, Tử Dung kêu ối lên một tiếng vì bị sát khí từ thanh kiếm tỏa ra bức người, phải lùi lại một khoảng rất xa.

Ngọc Ngân tuy không phải chịu áp bức như Tử Dung nhưng cô cũng lùi theo Tử Dung để đỡ lấy bông hoa xinh đẹp này.

“Cứu người là quan trọng, ngươi chịu ủy khuất chút.” Lữ Thuần Dương nói với cây kiếm trong tay mình.

Có lẽ đây là lần đầu tiên, một thượng cổ thần kiếm được dùng để đào đất.

Hắn quay mũi kiếm trên không, nửa phần thân kiếm quay tròn như bông vụ, sắc đỏ loang loáng.

Không khí xung quanh bị hút vào thân kiếm, gió rít lên vù vù, cả một vùng không gian bị nhiễu loạn, lá cây xung quanh bay tung tóe, những gì có thể bay được gần đó đều bị hút vào mũi kiếm.

Lữ Thuần Dương thấy đã tích đủ kình lực, liền đâm mạnh mũi kiếm xuống đất.

Mặt đất lập tức bị xới tung lên như có một bàn tay khổng lồ cắm mấy ngón tay xuống đất rồi hất mạnh lên vậy.

Số đất mới đắp xuống chưa được nén chặt, lại bị cơn cuồng phong khoét sâu xuống, đất đá, cát bụi bay rào rào bốn phía, cái huyệt vừa được lấp đất gần như lại bị bới ra hoàn toàn, lộ ra cỗ quan tài trơ trọi.

Hắn ngay lập tức cắm ngập mũi kiếm vào đầu trên của quan tài, không lo chạm phải người nằm bên trong, vì quan tài được chôn đứng, người bên trong hiển nhiên là sẽ ở phía đầu dưới của cỗ quan.

Bằng một sức mạnh đáng kinh ngạc, hắn cứ thế một cánh tay, một thân kiếm, nâng bổng cả cái quan tài lên khỏi huyệt, đặt xuống mặt đất bên cạnh.

Lại nhanh chóng đâm kiếm vào khe hở giữa thân quan và nắp thượng, nạy bật nắp thượng lên, để lộ ra một thân người nằm bên trong.

Cả quá trình kinh thiên động địa này được Lữ Thuần Dương thực hiện chỉ trong vài cái chớp mắt, tính từ khi Tử Dung thốt lên mấy chữ “hơi thở ngừng rồi”.

Ngọc Ngân và Tử Dung sau khi định thần, vội vàng chạy đến bên quan tài, thò đầu vào trong xem, bên trong là một nam nhân còn trẻ, trạc tuổi của ba người, có điều người này sắc mặt trắng bợt, môi tím tái, dường như đã ngừng thở.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: 9: Ngũ Đại Tam





“Hắn chết rồi sao?” Tử Dung lên tiếng trước.

Lữ Thuần Dương sờ vào tay nam nhân này thấy vẫn còn hơi ấm thì khẩn trương: “Người hắn còn hơi ấm, có lẽ chỉ vừa mới ngừng thở tức thì.”
“Muốn cứu người vừa mới ngừng thở thì phải hà hơi thổi ngạt, anh thổi hơi cho hắn đi.” Ngọc Ngân gợi ý.

“Tôi…” Lữ Thuần Dương cúi xuống nhìn gã nam nhân, tuy mặt mũi tên này cũng dễ coi, cứu người cũng là việc quan trọng, nhưng hắn không biết gã này là ai, có mắc bệnh gì lây lan qua đường miệng không, hơn nữa nếu thực sự làm việc chạm môi với một gã nam nhân khác trước mặt hai cô gái xinh đẹp, đời này hắn tuyệt đối không ngóc đầu lên nổi nữa, trong lòng vô cùng bĩ cực.

“Ngươi còn chờ gì nữa?” Tử Dung giục giã, không hề biết tới nỗi khổ tâm trong lòng hắn.

Đang lúc rối như tơ vò, hắn chợt nhớ tới quả trứng của Hoa Tử Ngọc, lão già kia đã nói quả trứng này là thứ thuốc quý trong trời đất, quý hơn nhung hươu mười năm, bổ hơn nhân sâm trăm năm, rồi cái gì mà còn cất giữ trên hai mươi năm có thể cải tử hồi sinh cho một người.

Bây giờ tuy chỉ mới cách chưa tới hai ngày nhưng chắc ít nhiều cũng có tác dụng.

Nghĩ thế, hắn vội vàng lấy quả trứng ra, đập vào thành cỗ quan, cạy miệng gã nam nhân, đổ hết cả lòng đỏ lòng trắng vào.

Chợt nhớ tới mỗi khi muốn ép người khác mở miệng, người ta thường bịt mũi lại, nên hắn vội vàng đưa tay bóp mũi gã nam nhân kia, với hy vọng cho gã này nuốt xuống.

“Hắn đã ngưng thở rồi, anh đâu cần phải bóp mũi cho hắn mở miệng nữa.” Ngọc Ngân nhắc nhở.

Phải, hắn đúng là ngớ ngẩn, trong lúc vội vàng thì đầu óc lại chạy đi đâu mất, quả thật để hại một người thì rất dễ, nhưng để cứu một người lại khó hơn rất nhiều.

Hắn vừa nghĩ lan man, vừa không biết làm thế nào cho gã này nuốt xuống.

“Tôi nghe nói, để cứu người, ngoài việc thổi hơi ra, còn có thể đấm mạnh vài cái vào vùng ngực trước tim, anh thử xem có phải không.” Ngọc Ngân lại lên tiếng, dường như cô rất có kinh nghiệm về việc này.

“Cho dù không phải thì cũng đâu mất mát gì thêm nữa.” Lữ Thuần Dương lẩm bẩm rồi làm theo lời Ngọc Ngân nói, vung tay đấm mạnh vào vùng ngực trước tim gã nam nhân.

Không ngờ, cách này lại thực sự có hiệu quả, gã nam nhân đột ngột thở hắt ra một cái, miệng thoát ra tiếng rên rĩ, người run lên nhè nhẹ.

“Nuốt thứ trong miệng ngươi xuống, nó sẽ cứu mạng ngươi.” Lữ Thuần Dương chậm rãi, nói to từng tiếng cho kẻ đối diện nghe rõ.

Kẻ kia hẳn là nghe được tiếng của hắn nên cố gắng nuốt thứ trong miệng xuống.

Lữ Thuần Dương thấy cổ của nam nhân gồ lên, lòng trứng hiển nhiên là đang di chuyển qua đây rồi nhanh chóng trôi xuống bụng.

Rất nhanh sau đó, cả cơ thể nam nhân trở nên có sinh khí, da mặt hồng hào trở lại, môi đã bớt tái hơn, lồng ngực nhấp nhô lên xuống đều đặn.


Lát sau nam nhân từ từ mở mắt, ánh nhìn lờ mờ dần trở nên tinh anh, nam nhân cất tiếng: “Ba vị đã cứu tôi sao?”
“Chúng tôi đã cố gắng hết sức…” Lữ Thuần Dương dừng lại một chút cho thêm phần trọng lượng rồi nói tiếp: “…mới cứu được anh đấy.

Sao anh lại bị đám người kia chôn xuống đất vậy?”
Nam nhân thở dài một hơi: “Chuyện dài dòng lắm!”
“Vậy kể vắn tắt thôi.” Lữ Thuần Dương nói.

“Tôi tên là Ngũ Đại Tam, làm nghề xem tướng cho người khác, ngày hôm nay…” Ngũ Đại Tam chậm rãi, bắt đầu kể câu chuyện của mình:
Hôm nay là một ngày mưa dầm dề, từ sáng mặt trời chưa kịp ló dạng thì mưa đã đổ xuống, cứ tưởng đâu đến trưa là ngớt, không ngờ mưa luôn đến tận chiều.

Đại Tam chuẩn bị dọn hàng để về thì thấy một nam nhân lấy hai tay che mưa chạy vội qua, tuy mưa lúc này đã nhỏ hạt, nhưng hai bàn tay thì làm sao che nổi trời, cả người hắn đều ướt, tuy không đến nỗi sũng nước nhưng cả người vẫn gọi là ướt đẫm.

Nam nhân đã chạy quá cái bàn nhỏ được bày ra để tiếp khách của Đại Tam một đoạn thì đột ngột khựng lại như vừa nhớ ra điều gì đó, việc dừng lại này có lẽ không nằm trong dự tính, đường phố lại đang trơn trượt khiến hắn suýt nữa thì trợt ngã.

Sau khi loạng choạng, hắn lấy lại thăng bằng, quay người lại tiến đến chỗ Đại Tam đang đứng, cất tiếng hỏi: “Ông là người xem tướng à?”
Đại Tam gật đầu, hắn lại hỏi tiếp một câu nữa: “Ông có biết con ruồi có ý nghĩa tượng trưng cho điều gì không?”
Nghe hắn hỏi vậy, Đại Tam nghĩ không lẽ người đối diện là kẻ chơi bài bạc, lại nằm mơ thấy ruồi nên muốn hỏi để tìm cơ hội đổi vận, nhưng người làm nghề liên quan đến huyền học như Đại Tam đều biết một nguyên tắc, không trả lời thẳng vào vấn đề quá sớm khi chưa rõ hoàn cảnh, thế nên Đại Tam hỏi lại hắn: “Con ruồi trông như thế nào?”
Hắn ngẫm nghĩ một thoáng rồi đáp: “Màu đen, có cánh…”
Có khi tên này dầm mưa lâu quá nên não của hắn bị mốc không ít, đợi thêm chút nữa, chắc hắn miêu tả thêm con ruồi có ba đôi chân nữa, Đại Tam vội ngắt lời hắn: “Nghĩa là con ruồi trông như loại bình thường hay bay ngoài đường?”
“Phải, còn có hay bay trong nhà nữa.” Hắn bổ sung thêm.

Không muốn tiếp tục tranh luận địa điểm ưa thích hoạt động của ruồi, Đại Tam hỏi câu khác: “Số lượng ruồi có nhiều không?”
Hắn lắc đầu: “Không, chỉ khoảng một hai con gì đó.”
“Cậu trông thấy con ruồi trong hoàn cảnh như thế nào?”
“Mấy bữa nay, tôi đang ngồi làm việc thì con ruồi bay tới, nó bay qua bay lại một lúc lâu mà không chịu đi, tôi phải xua mãi nó mới chịu bay ra chỗ khác, rồi hôm sau lại có thêm con khác bay tới, nó vẫn bay qua bay lại chỗ tôi ngồi…”
“Thế thì bất thường ở chỗ nào? Một hai con ruồi bay lung tung là việc bình thường mà.”
“Nhưng vào ban đêm, lúc tôi ngủ, cũng có ruồi bay tới chỗ tôi nằm.”
“Có phải cậu mấy bữa nay không tắm phải không?”
“Không phải, tôi vẫn tắm hằng ngày mà.”
“Thôi được rồi, vấn đề của cậu là có ruồi bay trong nhà cậu, nên hôm nay cậu chạy ngang đây, tình cờ trông thấy tôi nên dừng lại hỏi xem, ruồi bay trong nhà thì có ý nghĩa gì phải không?”
Nam nhân kia gật đầu, khẳng định: “Đúng là như vậy.”
“Ngoài ra không còn chuyện gì khác?”
“Phải, không còn chuyện gì khác, à mà thực ra…” Nam nhân ngập ngừng, có vẻ nhớ ra thêm điều gì.

“Thực ra…?”
“Thực ra là còn một chuyện nữa, bà tôi tự nhiên hỏi rằng dạo này trong nhà có phải có thêm người nào khác không, mà ngoài tôi với bà ra thì làm gì còn ai khác nữa chứ.”

Đại Tam suýt nữa thì buông lời mắng nhiếc nam nhân, may mà kịp nuốt lại vào bụng, trời hỡi, điều bất thường như thế mà hắn chỉ là vô tình nghĩ ra, xem không bằng việc mấy con ruồi bay qua bay lại nữa.

Lúc này mưa đã tạnh, Đại Tam nén giận, bảo nam nhân ngồi xuống kể đầu đuôi sự việc.

Nam nhân kể rằng hắn tên là Tiểu Phúc, hắn và bà nội sống chung với nhau, bà hắn do bị bệnh lâu năm khiến đôi mắt nay đã không còn nhìn được nữa, còn hắn làm nghề đan lồng đèn tại nhà, vừa để kiếm tiền, vừa tiện chăm sóc cho bà.

Nhà hắn có cấu trúc đơn giản, chỉ là hai căn phòng nhỏ riêng biệt, một căn cho bà ở, một căn cho hắn ở, cũng đồng thời là nơi làm việc.

Hằng ngày hắn ngồi đan khung lồng đèn, đan xong thì lấy giấy dán lên, rồi trang điểm tô vẽ một ít để ra được lồng đèn thành phẩm.

Xong được một số kha khá thì mang đi giao cho cửa tiệm.

Cách đây vài ngày, lúc hắn nấu xong cơm tối, dọn cơm ra cho cả hai bà cháu cùng ăn thì bà hắn hỏi trong nhà có phải có thêm ai khác không.

Hắn đáp rằng trong nhà ngoài hai bà cháu ra thì không có ai khác, rồi cả hai ăn cơm, nói qua chuyện khác, không nói chuyện đó nữa.

Qua bữa sau, cũng lúc đang ăn cơm tối, bà hắn lại hỏi có chắc là không có ai khác trong nhà không.

Hắn ngạc nhiên, chuyện tối qua hắn vốn không để ý, đã quên khuấy đi rồi, không ngờ hôm nay bà nội nhắc lại.

Hắn hỏi vì sao bà lại nói như vậy, bà đáp hằng ngày bà lần mò đi lại trong nhà, cảm giác cứ như có ai đó đi bên cạnh, chiều qua bà vấp chân ở ngưỡng cửa khi bước ra sân, có người đỡ lấy cánh tay bà, mà lúc ấy thì Tiểu Phúc đang đi giao lồng đèn cho người ta, đâu có ở nhà, hơn nữa bà lên tiếng thì không có ai đáp lại, nên lúc ăn cơm tối qua, bà hỏi hắn về chuyện đó.

Đến tối qua, lúc bà nằm ngủ, lơ mơ cảm giác như có người nằm bên cạnh, nhưng mở mắt ra, quay qua nhìn thì không thấy ai.

Qua tới chiều nay, lúc ngồi một mình ở bàn, bà giả vờ thử đẩy một cái tách trà ra khỏi mép bàn cho nó rơi xuống, nhưng mãi mà không nghe thấy tiếng rơi vỡ, một lúc sau lần mò trên bàn thì thấy cái tách đã lại nằm ngay ngắn sát mép bàn, vì thế đến bữa cơm tối nay, bà phải hỏi lại đứa cháu của mình lần nữa.

Tiểu Phúc nghe bà kể mà run rẩy sợ hãi, đưa mắt liếc nhìn một vòng quanh nhà, sau lưng nổi gai ốc, cảm giác như có người đứng sau lưng thổi hơi vào gáy hắn.

Bà hắn đôi mắt không nhìn được, hiện tại nếu có nhìn thấy thứ gì không sạch sẽ thì chỉ có mỗi mình hắn là nhìn thấy được, điều này càng khiến hắn thấy sợ hãi thêm.

Nghe xong câu chuyện của Tiểu Phúc kể, Ngũ Đại Tam chăm chú nhìn hắn một lát, bỗng nhiên như nhận ra điều gì đó, Đại Tam buông một tiếng thở dài, bảo hắn dẫn mình về nhà hắn xem sao, tuy Ngũ Đại Tam không phải là đạo sĩ, nhưng nếu có thể giúp được gì thì sẽ làm hết mình.

Hai người cất bước, một trước một sau, lầm lũi đi về nhà Tiểu Phúc.

Đến nơi, Ngũ Đại Tam đưa tay đẩy cánh cửa gỗ, bước vào trong sân, khuôn viên căn nhà không rộng, chỉ là một cái sân lát đá, ở một góc có vài cây bụi, dường như cũng không được chăm sóc, ở một góc khác chất đầy những loại dây lạt, sợi trúc, giấy dó, hiển nhiên là những thứ cần cho công việc đan lồng đèn.


Bên hông là một căn phòng cửa khép hờ, tối om, chắc là nơi làm việc của Tiểu Phúc.

Trong căn phòng nhỏ đối diện cổng, có một bà lão đang lúi húi, tìm cách thắp sáng ngọn đèn dầu, nghe tiếng người, bà cất tiếng hỏi: “Ai đó? Là Tiểu Phúc hả con?”
Ngũ Đại Tam bước tới, bịa đại ra một lý do: “Cụ à, cháu là Đại Tam, nghe nói ở đây có làm lồng đèn nên muốn mua một cái, cụ ở đây chỉ có một mình ạ?”
Bà lão xua tay: “Còn có cháu nội của lão nữa, nó là người làm lồng đèn, nhưng giờ nó đi giao lồng đèn cho người ta, chắc cũng sắp về rồi.”
Rồi bà lão chỉ tay về một phía: “Phòng chứa lồng đèn ở bên cạnh, cậu qua đó xem rồi lựa đi.”
Đại Tam đành giả vờ đi qua căn phòng làm việc của Tiểu Phúc bên hông, trời cũng đã tối, trong phòng không có đèn đuốc gì, tối om.

Hắn đưa tay đẩy nhẹ cánh cửa, bỗng giật mình hẫng người một cái, phía sau cửa tự dưng xuất hiện một bóng người, nhưng chớp mắt một cái, bóng người liền biến mất.

Đợi một lúc cho mắt quen với bóng tối, hắn nhìn rõ hơn, căn phòng này chứa đầy đồ đạc linh tinh và mấy cái lồng đèn đang làm dở, tuy lộn xộn nhưng không có góc khuất nào để nấp.

Bóng người vừa nãy chắc hẳn không thể nấp vào chỗ nào mà không gây ra xáo trộn, như vậy khả năng câu chuyện mà Tiểu Phúc kể là có phần chính xác, mà như thế lại càng hay, hắn có lý do rõ ràng để nói chuyện.

Đại Tam quay trở lại gặp bà lão, giả vờ hốt hoảng: “Cụ ơi, cụ bảo nhà chỉ có mình cụ thôi, cụ có chắc không ạ?’
Bà lão cũng tỏ ra ngạc nhiên: “Lão chắc chứ, nhà chỉ có mình lão và đứa cháu trai, đâu còn…” Đang nói giữa chừng thì bà lão khựng lại, nét mặt tỏ ra chút hoảng hốt.

Đại Tam biết đây là thời cơ thích hợp để hỏi chuyện nên chủ động tiếp lời: “Sao vừa nãy, cháu vào bên cạnh để xem lồng đèn, lại thấy có bóng người trong đó, lạ cái là bóng người đó hiện ra một chốc rồi biến mất ngay, cháu cứ tưởng mình hoa mắt.”
Bà lão há hốc miệng: “Cậu thực sự trông thấy có bóng người ư?” Rồi bà thảng thốt, kể lại câu chuyện trong hai ngày qua cho Đại Tam nghe, nội dung cũng tương tự như Tiểu Phúc đã kể.

Đại Tam suy nghĩ một chốc rồi hỏi: “Cụ ạ, người bình thường sẽ không nằm trên giường với cụ khi đang ngủ đâu, trước đây cụ có con cháu nào hay ngủ chung với cụ không?”
Nghe tới đây, cụ già gật đầu: “Có, trước đây lão có đứa cháu gái hay ngủ chung với lão, nó với Tiểu Phúc là chị em họ, nhưng nó đi làm ở xa, đã mấy năm nay không về nhà, hôm nay trước khi Tiểu Phúc đi giao lồng đèn, nó bàn với lão tới dịch trạm Phụng Lai gửi bức thư cho chị nó xem thế nào, có lẽ do đó mà về trễ.”
Quán trọ Phụng Lai sau một vài năm ăn nên làm ra, phát triển quy mô lớn mạnh, mở ra thêm cả dịch trạm để vận chuyển hành khách, hàng hóa, thư từ, trở thành trung tâm liên lạc của cả thị trấn Hoa Bắc.

Đại Tam nhìn trời đã tối hẳn, hỏi: “Cụ đã ăn cơm tối chưa?”
Bà cụ lắc đầu: “Hằng ngày đều là do Tiểu Phúc lo việc cơm nước, mắt lão không nhìn rõ, không làm được mấy việc.”
Đại Tam nhanh chóng vào bếp, dọn mấy món ra bàn cho bà lão rồi nói: “Cụ ạ, trời đã tối rồi, cụ chỉ có một mình, hay để cháu chạy qua dịch trạm Phụng Lai hỏi thăm xem sao, còn cụ ở nhà cứ dùng cơm trước, chút nữa Tiểu Phúc về sẽ ăn sau cũng được.”
Bà lão mừng rỡ: “Vậy thì nhờ cậu!”
Đại Tam bước ra khỏi cổng, nhìn quanh không còn thấy Tiểu Phúc đâu nữa.

Vừa rồi, lúc còn ở trên phố, hắn quan sát Tiểu Phúc chợt nhận ra đấy không phải là người sống, vì một lẽ đơn giản, hắn dường như lờ mờ nhìn xuyên qua được người của Tiểu Phúc.

Đại Tam sau khi rời nhà của Tiểu Phúc thì nhắm thẳng hướng dịch trạm Phụng Lai mà chạy tới, nhưng nửa đường đã phải dừng lại thở hồng hộc.

Đại Tam vốn không phải là người thiên về thể lực.

Hắn kiếm sống chỉ bằng ba ngón nghề, giống như cái tên của hắn, là xem tướng, xem phong thủy và một ít y thuật về châm cứu.

Khả năng của hắn giỏi thì không giỏi, nhưng tệ thì cũng không tệ, đủ cho hắn kiếm sống qua ngày.

Tuy rằng phải lăn lộn trong chốn giang hồ, lấy miệng lưỡi làm kiếm tấn công, lấy bộ mặt làm khiên phòng ngự, nhưng bụng dạ của hắn chung quy là tốt, không bị cát bụi giang hồ làm mờ đục con người.


Vì thế, mặc dù là chuyện của người dưng nước lã, cũng khiến hắn vất vả chạy một đường.

Nhưng lực bất tòng tâm, vất vả đến nửa đường đã chạy không nổi nữa, đang cắm mặt xuống đất thở dốc thì may sao có chiếc xe ngựa đi qua.

Trong lòng mừng rỡ như đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh, hắn gọi người đánh xe dừng lại, nào ngờ khi nghe nơi mà hắn muốn đến thì người đánh xe đã lắc đầu rối rít: “Nơi đó giờ không đến được nữa.”
Đại Tam vừa cố lấy hơi, vừa hỏi cho rõ: “Vì sao lại không đến được nữa?”
Người đánh xe lè lưỡi: “Chuyện lớn như vậy mà người không biết sao, cách đây mấy ngày, toàn bộ người ở quán trọ và dịch trạm Phụng Lai đột nhiên biến mất hết chỉ trong một đêm, đến con gà con chó cũng không còn, giờ ở đó như cái nhà hoang vậy, không ai dám đặt chân đến đó nữa.”
Nói xong, người đánh xe tính thúc ngựa chạy tiếp, nhưng Đại Tam biết bây giờ hắn không còn sức để lết bộ nữa, nên vội vàng năn nỉ, bảo sẽ trả thêm tiền, hơn nữa chỉ cần chạy tới gần đó thả hắn xuống là được.

Phân vân một lúc, người đánh xe mới đồng ý chở hắn đi.

Gần đến nơi, người đánh xe thả hắn xuống, chỉ về phía trước bảo: “Phía trước là Phụng Lai đó, đi bộ thêm một chút nữa là tới rồi.” Đoạn quay xe chạy mất.

Đại Tam đi một chốc đã tới quán trọ Phụng Lai, quả nhiên xung quanh hoang vắng, không một bóng người, bên trong không có lấy một ngọn đèn, cũng không có nổi một tiếng động, mọi thứ im lìm như một cái nhà hoang.

Hắn không tưởng tượng nổi, chỉ vài ngày trước, đây còn là nơi nhộn nhịp người qua kẻ lại.

Đại Tam bước đến gần, bốn cánh cửa tiền môn cái mở cái đóng, cái chỉ khép hờ như muốn tăng thêm phần rùng rợn.

Hắn lần từng bước đến gần, bước chân rất khẽ, không muốn làm kinh động bất cứ thứ gì bên trong.

Tới nơi, hắn chậm rãi thò đầu qua khe cửa, đưa mắt nhìn vào bên trong.

Bên trong tối đen như mực, có một thứ mùi kỳ lạ xộc vào mũi hắn, nữa giống mùi ẩm mốc, nửa giống mùi thối rữa.

Hắn thấy gai gai trong lòng, nghĩ thầm bản thân mình không phải là đạo sĩ, cũng không phải là võ sĩ, nơi quỷ dị như thế này, mười phần thì chắc có chưa tới nổi một phần là đường sống, tốt nhất là rút lui cho nhanh.

Nghĩ thế, hắn dợm cất bước thì nghe một tiếng nói âm u, lanh lảnh từ trong vọng ra: “Đã tới đây rồi sao còn không vào?”
Đang hoang mang vì bất chợt nghe tiếng nói âm lãnh phát ra, thì Đại Tam đã cảm thấy một cảm giác nhẹ bẫng, cả người hắn từ từ bốc lên cao.

Nhưng cái cách mà hắn bay lên không phải là đột ngột ào một cái, mà là chậm rãi lơ lửng, bồng bềnh.

Chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì hắn nghe một tiếng động.

“Phịch”
Tiếng động vang lên sau lưng Đại Tam, hắn quay đầu lại nhìn, thấy một hắn khác đang ngả ngửa ra trên nền đất.

Hắn kinh ngạc nhìn hai cánh tay lờ mờ, đầu óc như có một tia sét giáng xuống, thì ra hồn phách của hắn đang bị hút ra khỏi cơ thể.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: 10: Tam Hồn Thất Phách





Dần dần, hồn phách của Đại Tam kéo dài ra, chỉ còn dính với thân xác đang nằm dưới đất ở đôi bàn chân.

Hắn vùng vẫy, khoa chân múa tay, cố gắng bơi trở lại với thân xác nhưng vô ích.

Đúng vào lúc hồn phách sắp rời thân hoàn toàn thì trên bụng hắn có ánh sáng vàng kim phát ra, đó là cây kim trong bộ kim dùng để châm cứu mà hắn vẫn mang theo người.

Về khả năng y thuật thì Đại Tam chỉ biết mỗi châm cứu, mà cái năng lực châm cứu do gia tộc truyền đời này nói rằng tệ thì rất tệ, nhưng nếu nói lợi hại thì cũng rất lợi hại.

Bởi gia tộc hắn chỉ có duy nhất một phép châm cứu gọi là “Cửu Địa Hoàng Tuyền”.

Phép châm này đối với cảm mạo, đau nhức thông thường này nọ thì vô dụng nhưng để cải tử hồi sinh, bổ hồn thu phách lại vô cùng lợi hại.

Người mới chết cũng có thể cứu sống, về phương diện này, trong thiên hạ nếu xưng thứ hai thì không có phép châm nào dám xưng thứ nhất.

Bộ châm của hắn có mười chiếc kim, trong đó có một cây làm bằng vàng, lúc nào cũng lấp lánh tỏa ánh vàng.

Hai chiếc làm bằng bạc, lúc nào cũng tỏa sáng trắng.

Ba chiếc làm bằng đồng đen, lúc nào cũng tỏa ánh u ám.

Bốn chiếc làm bằng thép, vốn không tỏa sáng gì, chỉ toát ra cảm giác lạnh lẽo.

Lúc này cây kim bằng vàng đang phát ra ánh sáng rực rỡ chói mắt, thứ ánh sáng này kéo hồn phách Đại Tam trở lại, nhập lại vào thân xác của hắn.

Nhưng trở lại chưa bao lâu, hồn phách của hắn lại bị kéo ra nữa.

Đại Tam biết mình chỉ có một cơ hội này, vội vàng lấy ra mấy cây kim, nằm sấp người lại, nhanh chóng tự châm vào Bách Hội, Mệnh Môn, Đề Khuyết, để phong bế toàn bộ hồn phách.

Vừa châm xong, thì hồn phách được kéo về lại thân thể, ổn định nằm yên.

Có điều điều này cũng khiến bản thân hắn vô phương nhúc nhích, chỉ có thể nằm im trên mặt đất.


Vốn dĩ phép châm mà hắn vừa sử dụng có tên gọi là “Cố Phách”, dùng để bổ trợ sau khi cải tử hồi sinh cho một ai đó.

Người mới chết sống dậy, thất phách sẽ trở nên vô cùng yếu ớt, dùng “Cố Phách” sẽ phong ấn toàn bộ tam hồn và thất phách của người đó trong cơ thể, đồng thời người đó sẽ giống như một pho tượng, toàn bộ hoạt động cơ thể đều bị giảm xuống tối thiểu, ngay cả hơi thở cũng gần trở nên ngưng đọng, nhìn qua tưởng như đã chết.

Nhưng chỉ cần qua một ngày một đêm, rút kim ra sẽ trở lại khỏe mạnh như thường.

Sương lạnh bắt đầu rơi, Đại Tam nằm úp trên mặt đất, im lìm như một xác chết.

Bỗng có một đám người xuất hiện, tay vài người cầm đuốc sáng rực.

Đám người không dám lại gần, chỉ dám đứng từ xa quăng móc dính vào quần áo Đại Tam kéo ra xa.

Thì ra người đánh xe sau khi bỏ đi, không hiểu sao trong lòng có chút hiếu kỳ, liền quay trở lại, thấy Đại Tam nằm trên mặt đất, tưởng rằng hắn đã trở thành nạn nhân của nơi quỷ quái chết chóc này, nhưng lại không đành lòng bỏ đi, nên đi gọi mấy người ở gần đó đến.

Đám người không dám lại gần cái quán trọ đã trở nên hoang lạnh này nên chỉ dám tung móc kéo Đại Tam ra.

Sau khi xem xét, cho rằng Đại Tam đã chết, liền quyết định đem chôn hắn.

Nhưng Đại Tam là người lạ, đám người này chỉ có thể góp nhau mỗi người một ít, làm qua quýt, mua cái quan tài loại rẻ nhất, lại thuê nhà đòn đem đi chôn vội trong đêm.

Có người cho ý kiến rằng, Đại Tam chết ở nơi quỷ dị này, không nên chôn theo cách thông thường, mà phải chôn đứng để tránh cho xác chết phát sinh biến cố.

Đã thiếu nền tảng mà lại thêm nhiệt tình, sẽ thành là tai họa, bởi lẽ chôn đứng là một trong những cách địa táng dưỡng thi, chôn theo kiểu này là một trong những điều kiện cần thiết cho xác chết phát sinh dị biến.

Tuy vậy mọi người vẫn làm theo, có điều cũng chẳng ảnh hưởng gì vì Đại Tam vốn không phải đã chết.

Nhưng nếu nằm trong quan tài được chôn dưới đất thì sớm muộn gì hắn cũng sẽ chết thật.

Trong lúc cái quan tài bị thả xuống huyệt, một chiếc kim bị rơi ra, nhờ thế Đại Tam đã hồi tỉnh lại một phần, nhưng không thể thoát ra được, dần dần ngạt thở.

May mà trước khi hắn trút hơi thở cuối cùng thì Lữ Thuần Dương đã khai quan, đem hắn trở lại cuộc sống này.


Nghe xong câu chuyện dài dòng, Lữ Thuần Dương thắc mắc: “Vậy là trên người anh còn hai cây kim à?”
“Phải” Đại Tam đáp rồi khẽ nghiêng người rút một cây sau lưng ra, rồi rút tiếp một cây trên đỉnh đầu.

Cây kim trên đỉnh đầu vẫn còn tỏa ánh sáng vàng kim mờ nhạt.

Hôm sau, Lữ Thuần Dương và Ngũ Đại Tam ngủ một giấc rất dài, tới tận khi chiều tà sắp tắt nắng mới thức dậy.

Cả hai bước thấp bước cao ra vườn, thấy Ngọc Ngân và Tử Dung đang dọn bữa tối ra cái bàn đá, còn có cả một nam nhân đang phụ hai cô gái chuẩn bị bữa ăn nữa.

Nghe tiếng chân, nam nhân quay lại, nhìn thấy Lữ Thuần Dương thì kêu lên mừng rỡ: “Đại ca dê núi!”
Thì ra Tử Dung đã tìm được Thiềm Tử rồi dẫn gã về đây, chờ Lữ Thuần Dương ngủ dậy để giúp bỏ đi cái chân dư.

Rất nhanh chóng, Lữ Thuần Dương lôi cây kiếm Sát Đế ra, bặm môi lia một đường, hy vọng củ sâm ba ngàn năm không lừa hắn, mà dù có không phải, đối với Thiềm Tử cũng không kể là một tổn thương gì to lớn.

Cũng may, diễn biến đúng như lời Sâm Vương, cái chân biến mất hẳn.

Thiềm Tử chờ một lúc để chắc chắn rằng cái chân trên mông này không mọc ra nữa, mới mừng rỡ kêu lên: “Đa tạ đại ca, nếu sau này ta có con gái, ngươi có con trai, nhất định sẽ gả con gái ta cho con trai của ngươi.”
Lữ Thuần Dương ngạc nhiên: “Sao ngươi biết là ta có con trai, còn ngươi có con gái?”
Thiềm Tử nhún vai: “Ta bảo chỉ là nếu thôi mà.”
Nhưng chợt Đại Tam cười khà khà xen vào: “Hắn nói đúng đó, tôi xem tướng khuôn mặt anh, chắc chắn anh sẽ có con trai thôi.”
Ngọc Ngân giục: “Thôi, mọi người ngồi xuống dùng cơm nào.”
Sau khi giới thiệu với nhau, mọi người vừa ăn vừa trò chuyện, Tử Dung hỏi Đại Tam: “Sao ngươi lại nhất quyết muốn đem cả cái quan tài về theo vậy?”
Đêm qua, Đại Tam kể xong câu chuyện thì trời cũng gần sáng, mọi người muốn đưa Đại Tam về nhà nghỉ ngơi, Đại Tam tỏ ý muốn đem theo cái quan tài mà hắn đang nằm.

Ngọc Ngân lại dùng hai con voi hình nhân đưa tất cả về, cứ để cả Đại Tam nằm trong quan tài trên lưng voi, hắn lúc tới thế nào, giờ đi lại cũng thế ấy.

Đến nhà, Tử Dung ở chung với Ngọc Ngân bên nhà của cô, còn Đại Tam ở chung với Lữ Thuần Dương bên căn nhà thuê của hắn.

Cái quan tài đặt giữa phòng khách, Đại Tam cứ thế nằm bên trong mà ngủ đến tận chiều.


Nghe Tử Dung hỏi, Đại Tam cười mà đáp: “À, là do ở quê tôi có truyền thống xem quan tài là vật may mắn.”
Cả bọn suýt chút nữa ngã lăn ra đất, Thiềm Tử hóc đồ ăn ho sặc sụa, còn Lữ Thuần Dương vừa vuốt ngực cho trôi miếng cơm đang nuốt giữa chừng vừa hỏi: “Đời thuở nào, quan tài mà là vật may mắn?”
Thiềm Tử ho xong thì cũng thốt lên đầy kinh ngạc: “Người ta chết mới phải chôn trong quan tài, nó thì may mắn chỗ nào cho được?”
Đại Tam xua tay giải thích: “Mọi người thử nghĩ xem, ai rồi cũng phải chết, mà lúc chết thì lo nhất là điều gì? Có phải là lo nhất có đủ tiền mua quan tài không, lo nhất có được một mảnh đất để an táng hay không? Nếu như đã có chuẩn bị từ trước, tích trữ sẵn một khoản tiền để mua quan tài bất cứ khi nào, chuẩn bị sẵn được một miếng đất táng có thể dùng bất cứ khi nào, có phải sẽ cảm thấy rất an tâm không? Kiểu như cảm giác rằng nếu chẳng may có nhắm mắt ra đi bất cứ lúc nào thì đều sẵn sàng mồ yên mả đẹp, không làm bận tâm gì cho con cháu.

Từ đó cái quan tài trở thành biểu tượng giúp con người ta an tâm, bớt đi một điều lo lắng lớn trong đời.”
Ngọc Ngân gật gật đầu: “Nghe cũng có lý.”
Đại Tam hớn hở: “Chưa kể chữ quan có nghĩa thăng quan tiến chức, chữ tài có nghĩa phát tài phát lộc, cái quan tài đại diện cho sự thăng quan phát tài, ai mà lại không muốn thăng quan phát tài chớ? Tôi còn có ý định kinh doanh về mặt hàng này nữa cơ, có thể chế tác được rất nhiều thứ, to lớn như một tấm bình phong hình quan tài đặt trước cửa, vừa vừa như một mô hình quan tài đặt trên bàn làm việc, quầy tiếp khách, trưng bày trong nhà ở cung tài vận, nhỏ xíu như đồ treo chìa khóa, ngọc bội đeo bên người…”
Mọi người không muốn làm mất hứng của Đại Tam nên chỉ gục gặc đầu, riêng Tử Dung vẫn chau mày: “Ta không nuốt trôi được tư tưởng này của ngươi.”
Đại Tam vẫn cười: “Thực chất may mắn hay không là do người ta tự tưởng tượng ra thôi, âm vần nghe may mắn thì nghĩ là may mắn, âm vần xui xẻo thì nghĩ là xui xẻo, bởi vậy thứ quyết định chính là cái miệng, họa từ miệng mà ra, phúc cũng là từ miệng mà ra.”
Lữ Thuần Dương kéo mọi người về lại sự việc chính: “Này Đại Tam, anh nghĩ vấn đề ở quán trọ Phụng Lai là gì vậy? Là thứ gì bên trong đã tấn công anh vậy?”
Đại Tam nhăn trán, nghĩ ngợi: “Tôi cũng không biết, như tôi đã kể có thứ gì đó kéo hồn phách của tôi ra khỏi cơ thể, anh có biết thứ gì lại hút được hồn phách một người đang sống sờ sờ ra đó mà không cần đụng trực tiếp vào hay không?”
Lữ Thuần Dương lắc đầu, rồi nhìn qua Ngọc Ngân, thấy cô đang nhìn cả hai với một ánh mắt rất lạ, bèn hỏi: “Cô nhìn gì vậy?”
“Nghe cách nói chuyện, dường như hai anh chưa phân biệt rõ thế nào là hồn, thế nào là phách thì phải.”
Đại Tam nhún vai: “Không phải đều là một thứ sao?”
Ngọc Ngân không đáp, lấy ra một cái kim nhỏ, chích vào ngón tay nhỏ ra một giọt máu rồi dùng nó vẽ họa ngữ lên mi tâm của Lữ Thuần Dương và Đại Tam, bảo: “Cả hai nhắm mắt lại một chút rồi mở ra.” Rồi cô cũng tự vẽ họa ngữ lên mi tâm của chính mình và chớp mắt.

“Được rồi, mở mắt ra đi.”
Khi Thuần Dương và Đại Tam mở mắt, cả hai thấy khung cảnh trước mặt có khác biệt, Ngọc Ngân giải thích: “Hai anh nhìn xem, trên hai vai và đỉnh đầu của mỗi người ở đây đều có một ngọn lửa phải không?”
Đại Tam và Lữ Thuần Dương gật đầu, Ngọc Ngân nói tiếp: “Ba ngọn lửa đó gọi là tam hồn.

Lửa tam hồn có vai trò là dương khí để duy trì sự sống, nó cũng là linh khí để bảo vệ của mỗi người, ngăn cản các loại tà vật nhập thân.

Người khỏe mạnh, tâm địa lương thiện trong sáng thì ba ngọn lửa tam hồn rất mạnh, đối với các bậc đại sư tu hành, thiền sư, đạo sĩ thì ba ngọn lửa này lại còn có thêm một lớp pháp lực bảo vệ nữa, nên tà vật tuyệt đối không thể xâm phạm.

Người có sức khỏe càng yếu thì lửa tam hồn cũng leo lét, người sắp chết thì lửa tam hồn cũng chỉ còn đóm tàn.

Gió có thể thổi tắt lửa, nhưng lửa tam hồn có đặc điểm không bị ảnh hưởng bởi gió bình thường, mà chỉ có thể bị thổi tắt bởi chính gió từ hơi thở của bản thân.

Tà vật muốn nhập thân một người bình thường thì phải làm suy yếu hoặc làm tắt lửa tam hồn trước, cách đơn giản nhất là khiến người ta giật mình hoặc là hù dọa cho sợ hãi.

Bởi vậy trong một hoàn cảnh nào đó, như trong đêm tối âm u, nghe tiếng ai đó gọi sau lưng, nếu giật mình mà quay đầu lại nhìn qua vai thì ngọn lửa tam hồn trên vai đó sẽ bị suy yếu hoặc tắt mất do hơi thở của chính mình, tà vật dễ dàng nhập thân.

Đi đêm nghe ai gọi thì đừng có quay đầu lại hoặc muốn quay đầu lại thì phải nín thở.”
“Thiềm Tử…?” Một tiếng gọi lạnh lẽo, thê lương cất lên sau lưng Thiềm Tử.

Thiềm Tử không nhịn được, quay đầu lại nhìn, Tử Dung hai tay giơ ra mười ngón tay, mặt giả vờ làm quỷ hồn, miệng thốt ra tiếng gừ gừ.


Ai cũng biết là Tử Dung giả vờ hù dọa, nghĩ rằng trò trẻ con thế thì dọa được ai, không ngờ Thiềm Tử hét to “Ối!” một tiếng, nhảy dựng, ngã bệt xuống đất.

Tử Dung lấy tay che miệng cười khúc khích vì dọa được người ta, ba người còn lại thì trên trán chảy một giọt mồ hôi, không ngờ tên Thiềm Tử này có lá gan nhỏ như vậy.

Đại Tam nhìn Tử Dung và Thiềm Tử, chợt nhận ra điều gì: “Sao lửa tam hồn của hai người họ không phải màu đỏ như chúng ta mà có màu xanh lục vậy?
Ngọc Ngân đằng hắng một tiếng.

Đại Tam không rõ lý do, nhưng đoán chắc mình đã lỡ lời nên ngồi im, không hỏi gì nữa.

Ngọc Ngân nói tiếp: “Bên cạnh lửa tam hồn, hai người nhìn xem, có phải ở hai tay, hai chân, đầu, ngực, bụng của mỗi chúng ta đều có đốm sáng không?”
Lữ Thuần Dương và Đại Tam lại gật đầu.

“Bảy đốm sáng đó chính là tinh phách, là thứ tồn tại vĩnh viễn, luân hồi chuyển kiếp từ kiếp này qua kiếp khác.

Khi một người chết đi, lửa tam hồn sẽ tắt hết nhưng thất tinh phách sẽ thoát ra, đi vào vòng luân hồi theo rất nhiều cách khác nhau tùy vào nhân quả và nghiệp duyên của mỗi người.

Còn nếu không luân hồi thì có thể ở lại nhân gian làm quỷ nếu có tâm niệm sâu nặng, bản chất của quỷ hồn chính là thất tinh phách này.”
“Quỷ hồn không có lửa tam hồn, nhưng sao vẫn có chữ hồn trong tên gọi nhỉ?” Đại Tam thắc mắc.

“Đó là do thói quen dùng từ của chúng ta thôi, chứ lửa tam hồn là phần dương khí, muốn thành quỷ thì phải tắt hết dương khí trước đã.”
“Ồ!” Đại Tam gục gặc đầu.

“Hơn nữa, khác với thất phách là thứ thoát ra khỏi cơ thể khi chết, lửa tam hồn lại chỉ có thể gắn chặt với thân xác, không có khái niệm tam hồn thoát ly thân thể, cái mà chúng ta hay gọi là linh hồn thoát xác cũng chỉ là thói quen thôi, chứ không phải là bản chất.

Vì vậy lúc anh ở quán trọ Phụng Lai, thứ bị hút ra khỏi cơ thể chính là thất phách bị hút ra, thế nên, theo lời anh kể, việc anh dùng thủ pháp châm Cố Phách mới có hiệu quả đến vậy.”
Đại Tam há hốc miệng, trước nay hắn chỉ biết ngọn chứ không biết gốc, hôm nay may mắn gặp được cơ duyên khai thông tuệ căn cho hắn.

“Vậy là thứ gì ở bên trong đã hút thất phách của tôi?”
“Cái đó thì tôi không biết, nhưng nhân gian có bốn hình thái tà vật là quỷ-yêu-thi-linh, mỗi hình thái sẽ có đặc trưng tính cách khác nhau.”
“Khác như thế nào?” Đại Tam rất hiếu kỳ.

“Tuy không phải tất cả đều như vậy, nhưng đại khái thì quỷ vật sẽ có phong thái ghê rợn, dọa người, yêu quái thì có phong thái tà mị, mê hoặc…”
Nói tới đây, Ngọc Ngân khẽ liếc nhìn Tử Dung và Thiềm Tử một cái, thấy hai người họ không có phản ứng gì mới nói tiếp: “Cương thi thì có phong thái man rợ, tàn sát, còn tà linh thì có phong thái bí ẩn, kiêu kỳ.”
“Kiêu kỳ?” Lữ Thuần Dương lẩm bẩm, “Ý của cô là…?”
“Phải” Ngọc Ngân gật đầu, “Cái câu từ bên trong thốt ra “Đã tới đây rồi sao còn không vào”, tôi cảm giác, thứ đằng sau cánh cửa quán trọ Phụng Lai kia, có phong thái kiêu kỳ như kiểu của một tà linh vậy.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: 11: Chân Tướng Tà Linh





Nghe Ngọc Ngân nhắc đến tà linh, Đại Tam nhận ra mình chưa hiểu rõ thế nào là tà linh, bèn hỏi: “Tà linh, bản chất của nó là gì vậy? Có phải như kiểu quỷ hồn không?”
Ngọc Ngân lắc đầu: “Quỷ hồn bình thường là do người chết mà hóa thành, còn tà linh thì không giống như vậy, đa số nó có nguồn gốc từ một thứ đồ vật.”
“Đồ vật?” Đại Tam tỏ vẻ chưa hiểu.

“Phải, là một loại đồ vật nào đó được người ta chế tác thành, có chi tiết tinh xảo, diện mạo toát ra khí chất, người khác nhìn qua sẽ có cảm giác đồ vật đó rất có hồn, đặc biệt là những thứ mang dáng dấp con người.”
“Nếu vậy thì trên đời này, tà linh sẽ tràn ngập nhân gian, vì những đồ vật tinh xảo là không thiếu.”
Ngọc Ngân gật đầu: “Đó chỉ mới là điều kiện đầu tiên, điều kiện thứ hai là đồ vật đó phải được hấp thu linh khí của trời đất, chứ nếu từ khi được tạo ra, đồ vật đó chỉ được đem giấu trong một cái tủ chật hẹp khóa kín thì nó mãi chỉ là một món đồ.”
“Còn điều kiện thứ ba là gì?” Đại Tam hỏi ngay.

“Là tâm niệm của người chế tác.

Người làm ra món đồ nhất định phải là một người có bản lĩnh, nếu không sẽ không thể làm ra những thứ có hồn được, và người có bản lĩnh đó phải có một tâm niệm nặng nề, có thể là tốt, có thể là xấu.

Nhưng thường tâm niệm đen tối của một người có bản lĩnh sẽ giúp đồ vật trở thành tà linh dễ dàng hơn.”
Đại Tam kết luận: “Như vậy là cần ba yếu tố: một món đồ được chế tác chi tiết, được hấp thu linh khí của đất trời, tâm niệm của người làm ra nặng nề và đen tối, thì có thể hình thành được tà linh.”
Ngọc Ngân lại gật đầu, lấy trong người ra hình nhân của một cô gái, hỏi Đại Tam: “Chẳng hạn như cái hình nhân trong tay tôi này, rất giống người thật, nhưng vì sao lại không thể hình thành nên tà linh?”
“Vì tâm niệm của cô trong sáng.” Đại Tam đáp ngay.

Ngọc Ngân liếc hắn một cái: “Anh mới gặp tôi được một ngày, làm sao biết tâm niệm của tôi đen tối hay trong sáng, ngay cả người bình thường, có thể đảm bảo cả đời mình không bao giờ có tâm niệm nặng nề hay sao?”
“Vậy thì lý do là gì?” Lữ Thuần Dương bây giờ cũng nêu thắc mắc.

“Vì tôi chưa điểm mắt cho nó, thiếu đi đôi mắt, mấy cái hình nhân của tôi không thể trở thành tà linh được.”
“Vậy làm sao một tà linh có thể bị tiêu diệt?” Lữ Thuần Dương quay lại vấn đề chính.

“Ngoại trừ một số hiếm hoi tà linh có bản lĩnh thông thiên, có thể thoát ly khỏi món đồ đã tạo ra mình, còn lại đa số thì chỉ cần hủy đi đồ vật đó là được.”
“Vậy thì đơn giản quá.” Đại Tam xoa tay, vui vẻ nói.

“Đơn giản?” Ngọc Ngân nghiêm mặt, “Cái thứ ở quán trọ Phụng Lai có thể làm tất cả mọi người biến mất không chút dấu vết, hơn nữa có thể hút tinh phách của anh mà không cần xuất đầu lộ diện, e rằng bản lĩnh để thoát ly tạo vật của nó chỉ còn cách có một bước chân.”
“Vậy thì chúng ta phải tiêu diệt nó ngay lập tức, không được chậm trễ.” Đại Tam đột ngột đứng lên, giọng nói đầy kích động.


“Kiếm của tôi có thể tiêu diệt được nó, tôi chưa từng thấy tà vật nào có thể sống sót dưới lưỡi kiếm này.” Lữ Thuần Dương cũng đứng lên, ý chí dâng cao.

Ngọc Ngân nhìn hai gã nam nhân hùng hổ trước mặt, lắc đầu: “Kiếm của anh có thể có bản lĩnh, nhưng tà linh cũng không phải đồ ngốc, nó mà thấy được sức mạnh của Sát Đế thì đã trốn đi từ tám đời, nếu nó đã đạt được khả năng thoát ly tạo vật thì chúng ta vĩnh viễn không tìm lại được nó, chưa kể đến việc chúng ta mà tới gần là bị hút mất tinh phách, chưa kịp làm gì thì đã lăn ra chết rồi.”
“Vậy phải làm sao?” Đại Tam lo lắng hỏi.

Ngọc Ngân trầm ngâm một lúc: “Phải có kế hoạch.”
* * *
Trên nền trời đen, ánh trăng mờ tỏa, một cánh chim xuất hiện, là một con đại bàng to lớn, liệng đảo vài vòng rồi nhẹ nhàng đáp xuống trên nóc quán trọ Phụng Lai.

Ngọc Ngân từ trên lưng chim nhanh chóng nhảy xuống, ngồi thụp người, nghiêng tai lắng nghe động tĩnh bên dưới lớp mái.

Sau một lúc, thấy bên dưới hoàn toàn im ắng, Ngọc Ngân rút ra con dao nhỏ, đâm bể góc một viên ngói rồi chầm chậm cạy viên ngói, tháo nó ra khỏi mái.

Lớp mái ngói vốn được lợp đan xen, gối đầu, nên rất vững chắc, nhưng khi một viên đã bị bể thì những viên khác hoàn toàn trở nên lỏng lẽo, Ngọc Ngân lần lượt tháo thêm vài viên ngói nữa, cho đến khi lộ ra một khoảng trống đủ cho một thân người xuyên qua.

Cô lấy ra lọ mực, vẽ họa ngữ lên mi tâm của chính mình để khai mở tâm nhãn cho bản thân.

Ngọc Ngân thò đầu xuống lỗ hổng, nhìn ngó một lượt, bên dưới tối om, chỉ nhờ ánh trăng thấy lờ mờ một số bàn ghế nằm im lìm, không thấy bất kỳ người nào hoặc vật gì bất thường.

Không rõ cái thứ có thể hút tinh phách và phát ra giọng nói kia có đang núp ở góc nào không, nhưng hiện tại ngay cả tâm nhãn cũng chẳng thấy được gì.

Ngọc Ngân lấy từ trong túi đeo trong người ra một nắm dạ minh châu và mấy cái đài hoa Lồng Đèn.

Dạ minh châu thực chất chỉ là loại đá phát sáng, ban ngày hấp thu ánh mặt trời, ban đêm phát ra ánh sáng lục, tùy vào chủng loại mà độ hấp thu và tỏa sáng của đá khác nhau, viên nào hấp thu được ánh mặt trời nhiều và phát sáng trong đêm tối càng lâu thì càng quý.

Còn hoa Lồng Đèn là một loại hoa dại, mọc hoang ở ven chân núi Tử Đạm, đài hoa của nó phình to ra thành hình cầu trong suốt cỡ nắm tay, có thể bay lơ lửng.

Cô bỏ vào mỗi đài hoa một viên dạ minh châu nhỏ rồi thả xuống chừng năm sáu cái, cả đám rơi xuống, bay lơ lửng một lúc, tỏa ra một thứ ánh sáng màu xanh lục nhạt.


Tuy ánh xanh tỏa ra từ dạ minh châu không phải là sáng lắm, nhưng trong đêm tối thì một nắm dạ minh châu gộp lại cũng tạo được một quầng sáng rộng và khá rõ.

Ngọc Ngân quan sát thêm một lúc, vẫn không thấy có động tĩnh gì, cô lại lấy ra một dải lụa, một đầu buộc vào cổ con hình nhân đại bàng, đầu kia thả xuống dưới, rồi cô túm lấy dải lụa, thả người xuống qua lỗ hổng, nhẹ nhàng đặt chân xuống nền gạch bên dưới không một tiếng động.

Nơi cô đang đứng là đại sảnh, xung quanh có khoảng chục bộ bàn ghế cho khách ngồi ăn uống, mọi thứ có vẻ ngăn nắp, dường như biến cố xảy ra ở đây không hề làm mọi người hoảng loạn chút nào, mọi người có vẻ đã biến mất một cách rất bình yên.

Ngọc Ngân lấy ra một cái lư hương đặt lên bàn bên cạnh, đốt thứ bột mà Lữ Thuần Dương lúc trước đã dùng nó để tẩy đi cái Tàn Ảnh Quỷ Hiện ở căn nhà cho thuê.

Một làn khói màu hồng bốc lên, cô dùng tay làm quạt, xua cho khói bay tỏa ra khắp không gian xung quanh.

Pháp lực của tâm nhãn sẽ tùy vào người kích hoạt mà mạnh yếu khác nhau, loại tâm nhãn mà cô tạo ra có lẽ là thứ tâm nhãn yếu nhất, vì họa ngữ sử dụng để tạo ra nó vốn là chỉ để dùng trong thuật hình nhân, thua xa pháp lực của tâm nhãn trong giới đạo sĩ và Phật giáo.

Bởi thế nên cô phải kết hợp với biện pháp của Lữ Thuần Dương để có thể phát hiện ra tà vật.

Nhưng cho dù là dùng tâm nhãn để nhìn hay là khói từ trong cái lư hương đã lan tỏa khắp đại sảnh mà vẫn chẳng phát hiện ra được gì.

Ngọc Ngân lắc đầu một cái, có chút thất vọng, muốn tiến ra phía sau quán trọ để thăm dò, nhưng vừa mới dời được một bước chân thì bỗng có tiếng nói cất lên: “Kẻ tầm thường như ngươi cũng đòi phát hiện ra ta sao?”
Tiếng nói phát ra từ trên không, Ngọc Ngân vội ngẩng đầu lên nhìn, phát hiện một bức họa chân dung đang áp sát vào trần nhà, mặt giấy có vẽ hình quay nhìn xuống dưới, chân dung trong tranh là một cô gái vô cùng xinh đẹp.

Đột nhiên cô gái trong tranh nở một nụ cười tà mị, nhìn thấy bức tranh mỉm cười có thể khiến một người đứng tim, nhưng Ngọc Ngân thì không, cô vội vã quay ngoắt người, bỏ chạy ra phía cửa muốn tẩu thoát.

Nhưng cô gái trong tranh cười vang thành tiếng, trong phút chốc, tinh phách từ trong cơ thể Ngọc Ngân bị hút ra khỏi cơ thể, bay lên cao, rồi nhập vào trong bức tranh và biến mất.

Cả cơ thể Ngọc Ngân đổ ập xuống đất, bất động.

Bức tranh sau khi hút được tinh phách của Ngọc Ngân thì lại nở nụ cười đắc ý, tối qua bắt hụt một kẻ, sau đó hắn được mọi người cứu thoát làm bức tranh rất phật ý, không ngờ hôm nay lại thêm một kẻ tò mò dâng miếng ăn tới tận miệng.

Nhưng nụ cười chưa kịp tắt thì bức tranh cảm thấy có gì đó không ổn, thứ tinh phách mà nó vừa hút có thứ mùi vị y như máu, hơn nữa bên cạnh vị máu còn có một vị gì đó khác nữa.


Đang phân vân thì cửa chính quán trọ bật mở, một đôi nam nữ đứng trên một thảm cỏ dày lướt vào, chính là Tử Dung và Thiềm Tử.

Thảm cỏ chở hai người tới đâu thì những cành dây leo vươn ra tới đấy, từ ngoài các cửa sổ cũng có dây leo luồn vào.

Các dây leo xoắn xuýt khắp nơi, vươn ra khắp các ngóc ngách, trong phúc chốc cả đại sảnh đã bị phủ đầy hoa lá.

Tử Dung ngước nhìn lên, gằn giọng: “Ngươi tác oai tác quái quá nhỉ!”
Đoạn Tử Dung vung tay, một cành dây leo vươn dài ra quất về phía bức tranh, đánh nó văng ra khỏi trần nhà.

Bức tranh rớt xuống đất, rồi tự dựng dậy, đứng thẳng trên mặt đất, buông giọng ngạc nhiên: “Các ngươi cho ta ăn thứ gì?”
Vừa nói xong thì bức tranh vặn vẹo, nét vẽ trong tranh thể hiện bộ mặt cô gái trở nên rất đau đớn.

Trên bề mặt bức tranh dần dần hiện ra những đốm đen, loang lỗ, rồi những đốm đen đó phát lửa bốc cháy.

Bức tranh kêu lên một tiếng thảm thiết rồi bay hướng về phía sau quán trọ muốn chạy trốn, nhưng một tia chớp đỏ lóe lên, hào quang đỏ rực tỏa ra bốn phía, Lữ Thuần Dương cùng Đại Tam xuất hiện từ phía sau quán trọ.

Sát Đế đã xuất khỏi vỏ, vẽ ra một đường chéo, chém đứt đôi bức tranh.

Một tiếng thét thảm thiết vang lên, từ trong tranh xuất ra hình bóng một cô gái, bay ngược trở lại về đại sảnh, rớt xuống đất, nằm bẹp thê thảm.

Lúc này Ngọc Ngân xuất hiện ở ngưỡng cửa chính bước vào, cúi xuống nhặt cái hình nhân đang nằm sấp trên mặt đất.

Thì ra người lúc đầu xuất hiện đu dây từ trên mái nhà xuống chỉ là hình nhân, đây là lần đầu tiên cô sử dụng thử thuật hình nhân thế mạng.

Mục đích của hình nhân này là tìm ra chân tướng của thứ tà vật bên trong quán trọ, nên Ngọc Ngân đã dùng máu của mình để điểm mắt và vẽ họa ngữ kích hoạt, kết quả tạo ra được một hình nhân giống cô như tạc, hành động không khác gì người thật, hơn nữa những gì mà hình nhân nhìn thấy thì cô cũng nhìn thấy.

Không chỉ vậy, lúc điểm mắt và vẽ họa ngữ, Ngọc Ngân còn dùng máu của Lữ Thuần Dương nhỏ lên Sát Đế, cho máu chảy dọc theo thanh kiếm rồi mới hòa cùng với máu của cô để sử dụng, bởi vậy sau khi hình nhân được kích hoạt thì cái thứ gọi là tinh phách của nó có chứa cả máu thuần dương cương khí của Lữ Thuần Dương và linh lực của thần kiếm.

Tà linh trong bức tranh hấp thu tinh phách của Ngọc Ngân giả, nghĩa là hấp thu luôn cả hai thứ khắc tinh cực mạnh đối với tà vật, cuối cùng dẫn đến kết quả không đánh mà tự diệt.

Ngoài ra, còn chia lực lượng tiền công hậu kích, phía trước thì Tử Dung dùng linh lực phong ấn toàn bộ đại sảnh để tà linh không có đường thoát nào khác ngoài cửa hậu.

Đến khi tà linh phải chạy thoát ra phía sau thì ở đó Sát Đế đã đợi sẵn để tung đòn kết liễu.


Cả năm người cùng tiến về phía trung tâm đại sảnh, quây tà linh vào giữa.

Tà linh khi mà đã mất tạo vật thì chỉ như ngọn đèn trước gió, bức tranh đã bị hủy thì cô gái này cũng chỉ còn leo lét một hơi thở.

Đại Tam lớn tiếng hỏi: “Ngươi từ đâu đến? Vì sao lại hại bao nhiêu người như vậy?”
Cô gái vẫn cúi mặt, giọng nói toát ra cảm giác vô vị: “Muốn giết thì giết, hỏi nhiều làm gì?”
Thái độ bất cần của tà linh khiến mọi người trở nên lúng túng, nhất thời không biết nói gì.

Lữ Thuần Dương hướng mũi kiếm Sát Đế về phía trước, chậm rãi bước đến gần tà linh.

Trong lòng Ngọc Ngân gợn lên một chút nghi hoặc, cô mở miệng ngăn Lữ Thuần Dương lại: “Đợi đã.”
Mọi người đều cùng nhìn về phía Ngọc Ngân, không rõ cô có ý gì.

Cô chau mày: “Có điều gì đó không đúng.”
Đại Tam nhanh nhảu: “Là điều gì không đúng?”
Ngọc Ngân chậm rãi phân tích: “Thứ nhất, Đại Tam đã kể là ngửi thấy mùi ẩm mốc và thối rữa, nhưng trên người cô gái này lại khá sạch sẽ, không có mùi gì lạ.

Thứ hai, cái quán trọ này và dịch trạm phía sau đều rất đông đúc, nếu tà linh này tối thiểu chỉ mới hút tinh phách của mọi người ở đây thôi thì cũng đã phải rất mạnh rồi mới đúng, chứ đâu thể yếu như một tờ giấy thế này được.

Ngọc Ngân vừa dứt lời thì cô gái ngửa mặt cười lớn: “Ha ha, đùa một chút thôi mà các ngươi đã tưởng là thật rồi, không thử nhìn xuống dưới chân mình xem.”
Mọi người không hẹn mà cùng nhau nhìn xuống, thấy dưới chân của mỗi người đều đang đạp lên một thứ gì đó dính dính màu đen, nhấc chân lên thì cái thứ màu đen đó kéo dài ra dính theo, dẻo như kẹo đường.

Lúc này từ trên đầu cô gái từ từ tan ra, hóa thành chất lỏng màu đen tương tự như thứ đang dính trên nền đất, bắt đầu chảy xuống.

Cái đầu tan ra hết thì đến cái cổ, rồi đến thân mình, cuối cùng tất cả đã nhanh chóng tan thành cái thứ chất lỏng màu đen lan đến chân mọi người, cô gái ban đầu đã hoàn toàn biến mất.

Tiếp đó từ trên các vách tường, cũng bắt đầu thấm ra thứ chất lỏng màu đen này, chảy ào ào xuống đất, đổ về phía năm người đang đứng giữa phòng.

Ngọc Ngân là người đầu tiên nhận ra thứ chất lỏng này, vì cô dùng nó thường xuyên, cô nói to với mọi người: “Là mực.”
“Mực?” Lữ Thuần Dương kinh ngạc, nhìn xung quanh, rồi chợt nhận ra điều gì, hắn cũng hét to lên: “Này, mọi người nhìn xem, trên mặt đất và các bức tường xung quanh, có phải nhìn giống như một bức tranh không?”
Những người còn lại như bừng tỉnh, cũng đưa mắt nhìn bốn phía, nhìn rõ cái thứ chất lỏng màu đen trên nền nhà tạo hình một dòng nước, cả đám đang đứng chính giữa dòng nước này, trên các vách tường là hình ảnh các tảng đá đủ loại, như kiểu những hòn đá thường thấy trên bờ một dòng suối, cảnh phía xa dường như còn có núi non nữa.

Đại Tam kêu lên: “Thì ra cả cái đại sảnh này là một bức tranh lớn, chúng ta mắc bẫy rồi.”

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: 12: Họa Sư Trong Tranh





Đại Tam vừa dứt lời thì mực đen đã tràn ngập trên mặt đất, dâng cao đến mắt cá chân, Tử Dung kêu lên: “Không nhấc chân lên được.”
Mọi người đều cố gắng nhấc chân khỏi lớp mực đen nhưng không thể, chân bọn họ bị dính chặt trong mực, cho dù là nhấc lên hay dời bàn chân qua chỗ khác cũng không được.

Mực càng ngày càng dâng cao, phút chốc đã ngang đầu gối của tất cả.

Lữ Thuần Dương thấy không ổn, cứ kiểu này, mực dâng cao hơn nữa có thể nhấn chìm, khiến mọi người đều chết ngạt, hắn thầm nghĩ thứ mực này được tạo ra bởi tà linh, vậy thì Sát Đế có thể đối phó được.

Nghĩ vậy, Lữ Thuần Dương liền dùng Sát Đế đâm mạnh xuống lớp mực trước mặt.

Không ngờ Sát Đế đang tỏa hồng quang là thế, nhưng khi đâm vào mực thì hồng quang tắt lịm.

“Hả!” Lữ Thuần Dương không thể tin vào mắt mình, liền rút Sát Đế lên xem, nhưng càng không thể ngờ đến ngay cả Sát Đế cũng bị dính chặt vào mực, dù hắn có cố gắng dùng sức đến thế nào cũng không rút thanh kiếm lên được.

Phía bên kia, Tử Dung cũng đang vận yêu lực để điều khiển hoa lá của mình, nhưng các dây leo giờ này đã bị mực phủ chặt, dính bệt lại với nhau, không nhúc nhích một chút nào.

Khi tất cả vẫn còn hoang mang thì mực đã dâng cao tới bụng của mọi người, và vẫn tiếp tục dâng lên, không có dấu hiệu gì là ngừng lại.

Ngọc Ngân bắt đầu lo lắng: “Không lẽ, chúng ta cứ thế này ư?”
Lữ Thuần Dương hiểu ý cô muốn nói “cứ thế này” nghĩa là gì.

Trong đầu hắn tự dưng lại nhớ đến lời nói của sư phụ Tiêu Ảnh Tử: “Thuần Dương, đạo cao một thước, ma cao một trượng.

Đối phó với tà vật, chỉ cần một bước chủ quan, là một bước sa chân xuống hoàng tuyền.”
Hắn trước nay vốn chỉ ỷ lại vào sức mạnh của Sát Đế, gặp quỷ thì chém, gặp thi thì diệt.

Nhưng mấy thứ tà vật mà hắn gặp từ trước tới nay tuy cường bạo hoặc hung dữ thì đều là dùng cương đối cương, hiện ra chân thân đánh nhau với hắn.

Với sức mạnh và khả năng kiếm thuật, cùng thần kiếm bên mình, giao chiến trực diện chưa bao giờ làm hắn cảm thấy khó khăn.

Thậm chí, đã từng có lúc hắn cảm thấy đối phó với tà vật thật là đơn giản.

Nhưng đến tận hôm nay, khi gặp được một tà vật có tâm địa biến hóa một chút, sắp đặt một cái bẫy đơn giản, cộng thêm tà lực cũng không phải là tệ, đã khiến bản thân hắn rơi vào hiểm cảnh.

Không những vậy, đến khi lớp mực kia phủ kín đầu người thì chuyện gì sẽ xảy đến, hắn không dám nghĩ tới.


Nhưng tình hình hiện tại, bản thân thì bị dính chặt, Sát Đế cũng bị vô hiệu hóa, Ngọc Ngân và Đại Tam chỉ là người bình thường, hy vọng chỉ còn dựa vào Tử Dung và Thiềm Tử, nhưng ngay cả yêu lực của Tử Dung cũng trở nên vô dụng, chỉ còn mỗi Thiềm Tử!
Lữ Thuần Dương đưa mắt nhìn về phía Thiềm Tử, dù sao kiếp trước con rắn này cũng là thủy long, vào sinh ra tử với hắn, kiếp này chắc cũng còn lưu lại một chút gì chứ.

Quả nhiên Thiềm Tử dường như nhận ra điều gì từ cái nhìn của Lữ Thuần Dương, đôi mày nhíu lại, thần sắc trở nên căng thẳng, rồi mở miệng buông ra một chữ: “Hả?”
Không phụ lòng cõi luân hồi súc sinh đã chào đón hắn.

Nếu hắn thông minh hơn, có khi cánh cổng luân hồi của cõi súc sinh sẽ cảm thấy ray rứt vì đã để một con rồng nhảy nhầm vào.

Lữ Thuần Dương quát lớn: “Ngươi hiện ra chân thân mau.”
Nghe tiếng quát, Thiềm Tử vội lắc người, hóa thành một con rắn to lớn, khí thế bừng bừng, hình ảnh này có thể đem đến một cái nhìn của mọi người khác hẳn về hắn.

So với hình dáng con người có vẻ khờ khạo thì hình dáng hiện tại của Thiềm Tử trông uy nghi, lẫm liệt, đôi mắt sáng ngời, vảy da lấp lánh, cơ thịt cuồn cuộn.

Hắn uốn mình một cái đã có thể cử động, thoát ra khỏi lớp mực dai dính.

Lữ Thuần Dương thấy một màn này, trong lòng có chút thán phục, nghĩ bụng mình có chút trách lầm rồi, liền mở miệng: “Khá lắm!”
Thiềm Tử trong lòng hân hoan, quẫy mạnh đuôi, đập xuống lớp mực một cái rất mạnh để thị uy, làm mực văng tung tóe.

Vốn dĩ mọi người bị chìm trong mực tới khoảng ngang ngực, còn từ ngực trở lên thì không hề hấn gì.

Nhưng nhờ cú đập đuôi này mà mực văng tóe lên cao rồi rớt xuống, phủ kín mặt mũi tất cả.

“Họa từ miệng mà ra!” Lữ Thuần Dương cảm thấy thấm thía với lời răn này của tiền nhân hơn bao giờ hết.

Thiềm Tử trườn đi trong mực, đến bên cạnh từng người, cong võng xuống một đoạn thân thể, dùng sức mạnh và yêu lực, nâng từng người lên cao, đặt lên lưng mình.

Người cuối cùng là Lữ Thuần Dương leo lên được lưng của con rắn thì nhìn lại thanh kiếm trong tay mình, Sát Đế bị một lớp mực đen ngòm bao phủ, trông như một khúc gỗ.

Bể mực bên dưới đột nhiên dâng trào lên những con sóng, mực từ các vách tường cũng dựng đứng lên tạo thành một màn thác nước phủ kín xung quanh.

Dường như tà linh muốn nhấn chìm tất cả trong bể mực này.

Ngọc Ngân chỉ ra hướng sau lưng mình khi nãy: “Cửa ra phía kia.”

Thiềm Tử gầm lên một tiếng như dã thú, hồi tưởng lại tiền kiếp thủy long của mình, rồi cõng mọi người lao về hướng ngón tay của Ngọc Ngân, đâm thẳng vào vách thác mực đang cuộn trào, chỉ cần vượt qua được vách mực này sẽ đâm vỡ cửa lớn của quán trọ rồi thoát ra ngoài.

Thiềm Tử cảm thấy một chút tự hào vì cuối cùng mình cũng cứu thoát được mọi người, trong khoảnh khắc trước khi chạm vào lớp vách, hắn muốn thể hiện chút ấn tượng, liền hô lớn: “Mọi người nhìn cái nơi quỷ quái này lần cuối đi.”
Quả thật, mọi người chỉ có thể nhìn thấy nơi này lần cuối, vì khi Thiềm Tử đâm xuyên qua vách mực, đã có thể thoát ra khỏi bể mực, rồi lao thẳng vào một không gian xa lạ.

Phía sau vách mực không phải là bên ngoài quán trọ, mà là một thảo nguyên rộng rãi, nơi Thiềm Tử xuất hiện là ở lưng chừng không trung, cách mặt đất một đoạn, hắn không có điểm tựa nên rớt chúi nhũi cắm mặt xuống thảm cỏ, hất văng mọi người trên lưng xuống, khiến mỗi người chạm đất một tư thế, đều kêu lên vài tiếng “Ái ối” vì đau.

Sau một thoáng cho cơn chấn động qua đi, Tử Dung lồm cồm bò dậy, bước tới ký đầu Thiềm Tử một cái cốp: “Ngươi đi đứng kiểu gì vậy?”
Đại Tam ngẩng lên, kinh ngạc: “Đây là đâu? Sao lắm người thế?”
Cả bọn đang nằm trên một thảm cỏ trải dài như vô cùng vô tận, rải rác có những cây bụi, những hòn đá đủ kích cỡ, hình dạng, bên cạnh họ còn có một dòng suối chảy róc rách.

Không khí mờ mờ như đọng hơi sương, càng xa thì hơi sương càng dày đặc không nhìn rõ được, chỉ có thể nhìn rõ ở khoảng cách gần.

Nhưng dù là xa hay gần thì trong màn sương mờ mờ này đang có rất nhiều người đi lại.

Đại Tam mừng rỡ: “Có người là tốt rồi.” Rồi chạy tới một nam nhân gần nhất, vỗ vai người đó, gọi to: “Này, người anh em, hỏi thăm một chút được không?”
Nhưng người đó vẫn lầm lũi bước tới, không đoái hoài gì đến Đại Tam.

Hắn bực bội chạy vòng lên phía trước, muốn chặn người này lại để nói chuyện cho rõ ràng.

Không ngờ khi vòng lên phía trước, Đại Tam nhìn thấy người này có một đôi mắt chỉ toàn lòng trắng, không có tròng mắt, đây không phải là đôi mắt của người bình thường.

Đại Tam trở nên hoảng sợ, cánh tay vừa đưa ra đã lại rụt về.

Những người còn lại cũng vừa nhận ra điều tương tự, những kẻ ở đây đều chỉ có một đôi mắt mang màu trắng đục.

Lữ Thuần Dương nhận xét: “Tất cả những kẻ này đều đang di chuyển một cách vô định.”
Đại Tam chun mũi, hít hít mấy cái, rồi quay lại nói với mọi người: “Ở đây có cái mùi ẩm mốc và thối rữa như tôi ngửi thấy lúc trước ấy.”
Tử Dung bước loanh quanh vài bước, rồi như đạp lên vật gì đó, cô ngạc nhiên nhấc chân ra, cúi xuống nhìn rõ hơn.

Khi nhận ra cái thứ mình vừa đạp lên, cô hét “Á” lên thật to, nhảy dựng cả người ra phía sau, rơi vào vòng tay của một người.


Ra là Thiềm Tử, hắn đã biến trở lại thành người, vừa hay đi sau lưng Tử Dung và đưa tay bế lấy khi cô vừa nhảy lùi vừa hét.

Nghe tiếng hét, mọi người vội chạy tụ lại, chỉ thấy Thiềm Tử đang bế Tử Dung, còn cô thì cắm đầu vào trong ngực áo của Thiềm Tử, đưa tay chỉ trỏ chéo xuống dưới đất.

Nhìn theo hướng tay của Tử Dung, mọi người nhìn thấy một bàn tay bị đứt rời, đã thối rữa, có vài con giòi bò tới bò lui như đang rất thưởng thức thứ đồ ăn mỹ vị.

“Thì ra đây là nguồn gốc của thứ mùi thối rữa mà tôi ngửi thấy.”
Ngọc Ngân ngẫm nghĩ rồi bình tĩnh phân tích: “Sau khi lao qua vách mực thì chúng ta rơi vào nơi này, ở đây có rất nhiều người, nhưng chỉ là những cái xác vô hồn có thể cử động, còn có một thứ gì đó ăn thịt những cái xác biết cử động này, không lẽ…”
Lữ Thuần Dương bổ sung thêm một phỏng đoán: “Tà linh trong bức tranh có đặc tính hút tinh phách của người khác, và tất cả mọi người ở quán trọ và dịch trạm Phụng Lai đều biến mất không dấu vết, có khả năng là…”
Ngọc Ngân gật đầu: “Bức tranh hút tinh phách người khác để tăng linh lực cho nó, còn thân xác của những người bị hút tinh phách thì bị nhốt ở đây để cho một thứ gì đó ăn thịt, nơi này mười phần thì hết chín phần là một thế giới trong tranh, do linh lực của tà linh tạo ra.”
“Vậy làm sao để thoát ra khỏi đây được?” Đại Tam lo lắng.

Ngọc Ngân im lặng không đáp, cô chưa nghĩ ra được biện pháp.

“Này mọi người, tranh gì thì cũng là giấy, cứ cho một mồi lửa không phải là đốt hết được sao?” Tử Dung đang ở trên tay của Thiềm Tử cho ý kiến.

“Phải đó, cô thật giỏi.” Thiềm Tử gật lấy gật để khen Tử Dung.

“Ở đây thì lấy đâu ra lửa chứ!” Đại Tam cảm thán.

“Lửa từ đây chứ đâu.” Lữ Thuần Dương giơ Sát Đế lên, bước lại gần một tảng đá, chém xẹt qua một cái, đúng là có tia lửa bắn ra.

Tội nghiệp cho một thượng cổ thần kiếm, trong tay kẻ phàm phu hết đi đào đất lại đi chặt đá.

Ngọc Ngân lắc đầu: “Anh dừng lại đi, thứ nhất là cho dù có tạo ra được lửa thì chúng ta cũng không biết nên đốt cái gì, thứ hai là linh lực của tà linh này mạnh như vậy, thứ lửa thông thường không thể làm gì được nó đâu, đó là chưa nói lửa này được tạo ra từ tảng đá là một vật trong tranh của nó nữa.”
Hiện tại vô phương suy nghĩ, mọi người đi lòng vòng một lúc để quan sát nơi này, họ đi giữa những cái xác vô hồn di chuyển một cách vô định, xung quanh là hơi sương mờ ảo, Tử Dung vẫn ở trên tay của Thiềm Tử, nhất quyết không đặt chân xuống vì sợ sẽ dẫm tiếp vào thứ da thịt của xác chết nữa.

Đại Tam vừa đi vừa cảm thán: “Nơi này mà bán vé cho người ta vào đây trải nghiệm thì thu được không biết bao nhiêu là tiền!”
Lữ Thuần Dương đáp lời cho đỡ yên ắng: “Cũng hay đấy, mọi người chỉ nghĩ rằng là mua vé trải nghiệm một cái nhà ma được dựng lên giả tạo, ai ngờ họ đích thực là bước vào nhà ma thật.”
Ngọc Ngân đột nhiên chỉ tay về một phía: “Đằng kia dường như có một căn nhà.”
Đến gần hơn, Lữ Thuần Dương lại phát hiện thêm: “Có người ngồi.”
Người phía trước đang ngồi quay lưng lại, Đại Tam chạy lại gần hơn quan sát, miệng nói: “Không ngờ trong cái nơi chỉ toàn những xác chết đi tới đi lui lại có một cái xác biết ngồi.”
Bỗng dưng, cái xác quay lại, mỉm cười với Đại Tam, đáp lời hắn: “Không có cái xác nào biết ngồi đâu, trừ khi có ai đó xếp cho nó ngồi mà thôi.”
“Là người sống.” Đại Tam mừng rỡ.

Người kia đứng dậy, quay hẳn người lại: “Mấy vị, chắc hẳn là có bản lĩnh nhỉ?”
Lữ Thuần Dương hỏi lại: “Ngươi nói vậy là có ý gì?”
“Mọi người ngồi xuống trước đã, rồi tôi sẽ giải thích.”
Người kia ân cần mời mọi người cùng ngồi xuống, rồi chậm rãi nói: “Tôi là họa sư, cách đây mấy năm đã lỡ tay vẽ ra một giai nhân, rồi đem lòng yêu thương chính giai nhân trong tranh ấy.


Đi đâu, làm gì, tôi với nàng đều ở bên nhau.

Tôi đặt bức tranh lên ghế ngồi, cùng ăn chung một bữa, buổi tối lại đặt lên giường, cùng nhau chung chăn chung gối, đến nơi hữu cảnh phong tình, lại cùng nàng thưởng ngoạn nhân gian.

Có khi tôi không phân biệt được đâu là người thật, đâu là tranh vẽ nữa.

Không ngờ, ngày nọ, tôi đưa nàng đến một ngọn núi nọ, vô tình gặp một con quỷ đến từ âm phủ, nó theo kẽ nứt giữa âm phủ và dương gian nằm ở chân núi mà chui ra ngoài.

Nó xé xác tôi ngay lập tức, còn định ăn luôn cả tinh phách của tôi, nàng chỉ có thể giúp tôi bằng cách hút tinh phách của tôi vào trong tranh, muốn bảo vệ tôi ở trong này.

Không ngờ con quỷ đến từ âm phủ có quỷ lực lớn hơn quỷ ở nhân gian nhiều, nó có thể chui ngay vào trong tranh, muốn truy cùng diệt tận.

Nàng đã cầu xin nó tha cho tôi, sau một lúc nó đồng ý giữ mạng cho tôi ở trong này, với điều kiện nàng phải hút tinh phách và thể xác của người khác vào đây cho nó, nếu không nó sẽ giết cả tôi lẫn nàng.

Từ đó nàng đành phải làm theo lời nó, hút tinh phách người ta vào cho nó tăng quỷ lực, rồi lại hút luôn cả thể xác vào cho con quỷ ăn tươi nuốt sống.

Có điều nàng cũng biết điều này thật quá mức nhẫn tâm, có vài lần nàng gặp được những đạo sĩ có chút pháp lực, nàng sẽ thử thách họ một chút, nếu họ vượt qua được thử thách thì sẽ đưa vào trong tranh này còn giữ nguyên tinh phách cho họ, mong muốn nhờ tay họ tiêu diệt con quỷ.

Nhưng kết quả đều là, những đạo sĩ đó vẫn trở thành thức ăn cho con quỷ.

Vì vậy, hôm nay tôi trông thấy mọi người vẫn còn sống mà bước vào trong này, tôi biết mấy vị là những người có bản lĩnh.”
Lữ Thuần Dương thắc mắc: “Thế con quỷ đó bây giờ ở đâu?”
Họa sư đáp: “Đến bữa ăn nó mới xuất hiện để ăn thịt những cái xác được trữ sẵn ở đây, nó muốn giữ những cái xác đi lại để giữ được độ tươi ngon, nó không thích ăn những cái xác chỉ nằm bẹp một chỗ.

Dòng suối đó là nơi nó xuất hiện, cũng sắp đến bữa ăn của nó rồi, nó sẽ xuất hiện từ nơi đó.” Rồi họa sư đưa tay chỉ về phía dòng suối.

Mọi người cùng đứng lên nhìn về phía dòng suối, họa sư nói tiếp: “Con quỷ này không những thích ăn những cái xác còn đi lại, mà còn thích ăn một thứ khác hơn nữa.”
“Nó thích ăn cái gì khác hơn nữa?” Lữ Thuần Dương vẫn chăm chú nhìn về phía dòng suối mà hỏi lại.

“Nó thích ăn nhất là người còn sống.”
Nghe trong âm điệu câu trả lời này của họa sư có một chút gì đó tà mị, Lữ Thuần Dương định quay người lại, nhưng đã không kịp.

Từ trong miệng họa sư thè lưỡi dài ra, không chỉ một cái lưỡi mà rất nhiều lưỡi, mỗi cái lưỡi quấn lấy cổ một người, rồi kéo giật lên cao.

Thân hình gã họa sư bắt đầu biến đổi, da thịt nứt nẻ, để lộ ra những khối thịt thối rữa cuồn cuộn bên dưới, khối thịt này phồng lên khắp nơi trên cơ thể, thay thế thân hình con người ban đầu, con quỷ đã hiện ra chân thân to lớn như một căn nhà.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: 13: Bí Mật





Cái miệng con quỷ ngoác to, nhớt dãi chảy tràn, phà ra một thứ mùi hôi thối.

Cái đống lưỡi lúc nhúc như một bầy lươn quấn chặt lấy cả năm người, muốn tọng tất cả vào miệng nó để nghiền nát, nhai nuốt cùng lúc.

Con quỷ cười to: “Ha ha, cái đám ngu ngốc các ngươi cũng như những kẻ đã từng vào đây mà thôi.”
Tử Dung và Thiềm Tử không hẹn mà đều cùng phóng ra yêu lực, nhưng tất cả chỉ như một hơi tàn của người sắp chết, cái lưỡi con quỷ thít cổ bọn họ đã phong bế toàn bộ yêu lực, cả hai vùng vẫy như hai con cá nằm trong lưới.

Bên này Đại Tam và Ngọc Ngân cũng chịu chung số phận, tay chân bị đám lưỡi trói chặt, cả hai mặt đều trắng bệch, đã sắp tắt thở, chỉ biết giương mắt nhìn khung cảnh ở cái thế giới trong tranh này lần cuối.

Bầu trời mờ đục, hơi sương mờ ảo, thảm cỏ bên dưới, những cái xác lay lắt xa xa là thứ cuối cùng đọng lại trong mắt cả hai.

Họ còn thấy một hình ảnh mờ nhạt, có người vung tay ném đi một thứ gì dài dài.

Là Lữ Thuần Dương, hắn cũng chỉ hồi quang phản chiếu, tích tụ sức mạnh, ném ra Sát Đế, nhằm vào giữa trán con quỷ mà phóng tới.

Sát Đế cắm phập vào đầu con quỷ, nhưng đã quá muộn, cả năm người bị đám lưỡi cuốn vào bên trong miệng, cái miệng rộng ngoác với những cái răng lởm chởm cắn phập lại.

Một tiếng nổ phát ra, gió bạt tứ phía, cả một vùng không gian tối sầm lại, biến thành màu đen, một thứ gì đó dài dài uốn lượn, phát sáng, đang thít chặt lấy cổ con quỷ y như cái cách đám lưỡi của nó quấn lấy cổ người ta.

Thứ phát sáng đó túm cổ con quỷ to bằng căn nhà treo lơ lửng giữa không trung như xách cổ một con gà chết.

“Ngươi bảo ai ngu ngốc?” Một giọng nói nhẹ nhàng phát ra.


Con quỷ bị thít cổ, run rẩy, muốn thốt ra một từ gì đó nhưng không thể, nó chỉ có thể phát ra những âm thanh tắt nghẹn.

Thứ phát sáng này tách ra một dải sáng khác, quấn lấy chuôi kiếm Sát Đế kéo nó ra khỏi trán con quỷ.

“Đồ rỉ sét này đúng là đã chẳng còn mấy linh lực, hoàn toàn vô dụng, chỉ một con quỷ nhãi này cũng không làm gì được.”
Dải sáng vuốt lên thân kiếm, búng nhẹ một cái, lập tức lớp mực đen bao bọc thân kiếm tan ra thành tro bụi, thân kiếm lại tỏa ra hồng quang.

Dải sáng cầm lấy chuôi kiếm cắm phập vào đầu con quỷ lần nữa.

Bỗng dải sáng quất nhanh một cái, tách ra một dải khác phóng vút tới một góc trong không gian tối tăm này lôi ra một đôi nam nữ.

Dải sáng không thít cổ bọn họ, mà chỉ quấn lấy thân người nhấc lên lơ lửng.

“Ngươi bảo ai là kẻ tầm thường?”
Cô gái đẹp như tranh vẽ này ý thức được dải sáng nói chuyện với mình nhưng cổ họng tắc tị, không thốt ra nên lời, chỉ dám lắc đầu nhè nhẹ.

Dải sáng đung đưa một lúc, rồi giọng nói lại cất lên:
“Ta tha cho hai người một con đường sống, nhưng biến đi cho khuất mắt, đừng bao giờ xuất hiện ở nhân gian nữa.”
Cô gái gật mạnh đầu.

“Còn nữa, trả lại thân xác và tinh phách của một nam nhân mà ngươi đã bắt gần đây nhất.”
Cô gái gật đầu tiếp.


“Trước khi rời đi, đốt sạch chỗ này.”
Cô gái lại gật đầu.

Dải sáng trở về đến bên con quỷ, quấn lấy cả cơ thể nó như người ta gói bánh rồi siết chặt một cái, thân xác nó phun ra tung tóe như kiểu người ta nắm một túm cát trong lòng bàn tay rồi siết mạnh cho cát chảy qua kẽ các ngón tay.

Không gian u tối biến mất, trả lại khung cảnh thảo nguyên trong tranh như lúc ban đầu.

Năm người đám Lữ Thuần Dương rơi xuống đất, lẫn trong đống máu thịt bầy nhầy của con quỷ, cả cơ thể con quỷ đã tan nát, chỉ còn lại mỗi cái đầu to lớn như cái giếng của nó vẫn còn nằm trên mặt đất với Sát Đế cắm ngập vào trán đến tận chuôi.

Mọi người chưa hiểu chuyện gì đã xảy ra thì lửa đã bốc lên ngùn ngụt khắp nơi, một sức mạnh nhấc cả đám bọn họ lên không trung rồi ném vút đi.

Năm người lại một lần nữa rớt xuống, nhưng lần này là rớt xuống mặt đất phía trước quán trọ, cả quán trọ Phụng Lai bốc cháy rừng rực.

Một tiếng keng vang lên, Sát Đế rớt xuống đất bên cạnh.

Một tiếng bịch vang lên tiếp, thân xác một nam nhân trẻ tuổi cũng rớt xuống gần đó, Đại Tam nhận ra hắn: “Tiểu Phúc!”
Lữ Thuần Dương đỡ Ngọc Ngân dậy, kéo cô tránh xa đám lửa, Thiềm Tử cũng làm hành động tương tự với Tử Dung, còn Đại Tam thì túm lấy thân người của Tiểu Phúc và chụp lấy Sát Đế, cùng kéo ra xa.

Đại Tam mặt mày lấm lem, hai tay cầm Sát Đế đưa lại cho Lữ Thuần Dương, giọng nói cảm kích: “Đa tạ, anh đã cứu tôi hai mạng, sau này nếu có con gái, tôi cũng sẽ gả nó cho con trai của anh.”
* * *
Trời đã sáng, mọi người đã trở về nhà, ngồi quanh cái bàn đá trong vườn nhà Ngọc Ngân.


Đại Tam mở lời trước: “Không ngờ bước vào nơi tử địa lại có thể toàn mạng mà bước ra, còn cứu thêm được cả Tiểu Phúc, bà nội hắn vậy là có người chăm sóc rồi.

Nhưng lúc trước làm sao hắn lại có thể đến tìm tôi ở giữa đường như vậy được nhỉ?”
Ngọc Ngân suy nghĩ rồi nói: “Có thể là thần thức của hắn.”
“Thần thức?” Đại Tam kinh ngạc với khái niệm rất lạ này.

Ngọc Ngân gật đầu: “Thần thức là một dạng sức mạnh tinh thần rất hiếm gặp, một người trong hiểm cảnh hoặc gặp lúc sinh tử, nếu còn một tâm niệm nặng nề thì vô tình có thể xuất ra thần thức đi thực hiện tâm niệm đó.

Giống như trường hợp có người gặp được người thân trong một tình huống rất bất thường, sau đó mới nhận được tin người thân đó đã mất đúng vào thời điểm gặp gỡ đó.

Tiểu Phúc cũng vậy, lúc bị hút tinh phách, hắn vì lo lắng cho bà nội đã xuất ra thần thức đi tìm người giúp đỡ bà nội mù lòa của mình và hắn gặp được anh đang ngồi bên đường lúc đó.”
“May mà cuối cùng tà linh đã buông tha cho hắn, có điều hắn chẳng nhớ gì cả.” Đại Tam xuýt xoa.

“Vậy là tốt cho hắn, hắn có thể sống tiếp mà không vướng bận gì.” Lữ Thuần Dương tham gia câu chuyện.

“Vậy còn người chị họ của hắn? Cũng là thần thức?” Đại Tam thắc mắc tiếp.

Ngọc Ngân lắc đầu: “Thần thức chỉ có thể hiện diện trong một thời gian ngắn và hầu như không tác động được vào đồ vật, nhưng người chị họ của hắn lại có thể đỡ lấy bà nội và đỡ lấy chén trà do bà lão cố tình đánh rơi, đó là quỷ phách.

Chị họ hắn đã chết, hóa thành quỷ phách, vì nhớ nhà đã quay về với gia đình của mình, còn việc vì sao chết thì chịu, chúng ta không quản được xa như vậy.”
“Vậy là từ nay Tiểu Phúc và bà nội sẽ ở chung với quỷ trong nhà ư?” Đại Tam có chút lo lắng.

“Thì sao chứ? Họ cũng là một gia đình mà.

Quỷ phách đó mang tâm niệm tốt lành, chẳng có lý do gì để chia lìa họ cả.”
Cả Đại Tam và Lữ Thuần Dương đều gục gặc đầu đồng ý.


Đến lượt Thiềm Tử mở miệng: “Dù sao lần này cũng nhờ đại ca dê núi cứu chúng ta một mạng.”
Lữ Thuần Dương mỉm cười nhưng trong lòng có chút nghi vấn, tuy tất cả đều thấy Sát Đế cắm ngập vào trán con quỷ, nhưng cái kết quả khiến thân xác con quỷ tan nát, rồi lửa cháy đốt tan thế giới trong tranh và cả quán trọ Phụng Lai thì có chút gì đó không hợp lý.

Rõ ràng trong khoảng khắc cả đám ngất ngưỡng trên con đường xuống hoàng tuyền đã có một chuyện gì đó xảy ra.

Tà linh cũng không dưng mà trả lại Tiểu Phúc nguyên vẹn rồi biến mất không dấu vết.

Có nhiều nghi vấn trong lòng mà không cách nào giải đáp được.

Đến lượt Tử Dung hỏi: “Bây giờ mọi người tính thế nào?”
“Tôi về nhà thôi.” Thiềm Tử nói nhẹ nhàng.

“Tôi thì trở về quê, trải qua chuyện vừa rồi, tôi nhận ra trong lòng mình có một nung nấu chưa thực hiện được.” Đại Tam nói.

“Là nung nấu gì thế?” Lữ Thuần Dương hỏi.

“Có một việc kinh doanh của riêng bản thân mình.

Còn anh, kế hoạch thế nào?” Đại Tam hỏi ngược lại.

Lữ Thuần Dương trầm lặng một chút, rồi lắc đầu: “Không hiểu sao tôi chợt nhận ra mình có nhiều thiếu sót trong suy nghĩ quá, tôi muốn dừng chân, suy nghĩ thêm về bản thân mình.” Rồi hắn quay sang Ngọc Ngân, hỏi cô: “Tôi ở đây tiếp được không?”
Ngọc Ngân trở lại phong thái của một bà chủ cho thuê nhà: “Anh đã trả trước hai tháng tiền nhà mà, muốn ở tới khi nào thì ở.”
Thấm thoát, không phải hai tháng trôi qua, mà đã hơn hai mươi năm trôi qua.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: 14: Rắn Tinh Đến Cửa





Đã gần hai mươi lăm năm trôi qua.

Thị trấn Hoa Bắc đã trở thành một thành phố phồn hoa náo nhiệt.

Nơi quán trọ Phụng Lai ngày trước, bây giờ mọc lên một tòa nhà chung cư, được chủ đầu tư đặt tên là Kinh Liệt.

Kinh Liệt là khu chung cư cao cấp trong một thành phố sầm suất.

Mỗi thành phố sầm uất đều có những đặc khu trung tâm riêng biệt.

Có nơi là trung tâm mua sắm, có nơi là trung tâm ẩm thực, còn có nơi là trung tâm nghỉ dưỡng.

Chung cư Kinh Liệt tọa lạc ở một trung tâm chuyên về nghỉ dưỡng.

Nhà cửa ở khu vực này dù là biệt thự có vườn, hoặc là nhà biệt lập, hoặc là nhà liên kế, hoặc là chung cư, đều được quy hoạch đi kèm với một không gian rộng rãi phủ kín cây xanh.

Chất lượng sống được nâng lên rất cao.

Vì thế nhà cửa ở khu vực nghỉ dưỡng này cũng được thiết kế ở trình độ phong thủy rất tốt.

Nào là Long Bàn Thủy Cục, Vượng Phong Hóa Cát, Bích Nạp Đồ, Đắc Địa Tụ Long Châu … không thiếu thứ gì.

Chỉ riêng mỗi chung cư Kinh Liệt là được thiết kế ngược lại.

Chung cư này có bốn tòa tháp, chia ra tọa ở bốn góc.

Mỗi tòa tháp tự bản thân đã có tiết diện hình chữ nhật.

Phân chia ra bốn góc không đồng đều như hình vuông mà có chiều dài ngắn khác nhau, thành ra nhìn từ trên cao xuống lại tổ hợp thành một hình chữ nhật lớn.

Phần chính giữa trước mặt của hai tòa tháp số một và số hai lại xây dựng một cấu trúc giả sơn rất lớn.

Có cây cảnh, có hoa thơm, có dòng suối chảy trên ngọn núi nhân tạo này.

Nhưng nếu nhìn từ trên cao, thì ngọn giả sơn này không khác gì tấm bia mộ đặt ở trước mặt cái quan tài lớn hình chữ nhật được tạo ra bởi bốn tòa tháp.

Tất cả hợp thành một cách cục cực xấu trong phong thủy là Quan Tài Địa Táng Thi.

Thiết kế phong thủy xấu như vậy nhưng chi phí mỗi căn hộ ở đây lại vô cùng đắt đỏ, vậy mà người mua vẫn xếp hàng nườm nượp.

Chỉ trong ba ngày đầu tiên mở bán, toàn bộ các căn hộ đã được đặt mua kín chỗ.

Mỗi tòa tháp ở đây có hơn ba mươi tầng, mỗi tầng có tám căn hộ.

Số lượng cư dân khoảng vài ngàn người.


Căn hộ chung cư là một phát minh của ngành kiến trúc với mục tiêu tối đa hóa cơ sở hạ tầng.

Nó tận dụng tối ưu một khoảng đất nhỏ nhất cho một số lượng người nhiều nhất.

Nhìn theo một cách nào đó, mỗi tòa chung cư giống như một tổ ong vậy.

Mỗi khi có biến động, chúng ta rất ngạc nhiên với số lượng ong tràn ra khỏi tổ.

Sau đó, cũng rất ngạc nhiên khi thấy cả đàn ong đông đúc đó biến mất hết vào trong cái tổ nhỏ nhoi.

Ong là loài động vật khá đặc biệt.

Con người chẳng muốn dây dưa gì trong mối quan hệ mâu thuẫn với chúng.

Vì nọc của chúng rất đau, và dễ dàng gây chết người.

Ngược lại, mật ong là một trong những thứ thực phẩm tối thượng, được xếp lên hàng đầu danh sách những thứ tuyệt vời nhất của thiên nhiên.

Nhưng tuyệt vời là chỉ đối với con người.

Còn lũ ong có cảm thấy tuyệt vời khi bị loài người lấy mật hay không thì mãi mãi là bí ẩn không thể giải đáp được!
Do thiết kế cho số lượng dân cư đông đúc, chu vi đường nội bộ bao quanh chung cư Kinh Liệt này cũng tương ứng rất rộng và dài.

Rìa ngoài của con đường trồng cỏ mượt và mấy loại cây cảnh của phong thủy dương trạch như Lộc Vừng, Giáng Hương, Kèn Hồng.

Xen lẫn giữa chúng lại là những cây cảnh của phong thủy âm trạch như Sứ Đại, Xương Rồng, Thiết Mộc Lan.

Ở giữa hai tòa tháp số ba và số bốn còn trồng cả một cây hoa Mộc Miên khổng lồ.

Nếu nói rằng cây hoa Mộc Miên là nhà cho ma quỷ trú ngụ thì nghe có vẻ xa lạ, nhưng khi biết rằng Mộc Miên chỉ là tên gọi khác của cây Hoa Gạo thì sẽ thấy khu vực giữa hai tòa tháp số ba và số bốn đáng sợ thế nào.

Còn rìa trong của mấy con đường, tức là chân của mấy tòa tháp thì lại để trống.

Tường của bốn chân tháp được dùng nhiều chất liệu kính.

Bên trong của những bức tường kính này, tức là lòng của bốn chân tháp, chỉ là những khoảng không trống rỗng.

Ban đầu, bốn chân tháp được thiết kế nối liền với nhau để trở thành một trung tâm mua sắm, nhưng nó vẫn mãi để không mà chẳng có ai dọn đến để buôn bán gì.

Cư dân chỉ sống từ tầng năm trở lên trên.

Còn từ tầng năm trở xuống chỉ có những tầng không gian cô đơn và vắng lặng.

Lữ Hàn là người sống trong chung cư Kinh Liệt này.

Hắn là người có tứ thời sử trùng hợp.


Giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh đều cầm tinh chung một con giáp và đều có thuộc tính âm.

Thêm cả cái tên cũng mang ý nghĩa lạnh lẽo, khiến cho cả người mang âm phong dày đặc.

Từ nhỏ, cha hắn đã nói cho hắn rõ về đặc tính thể trạng của mình, cũng khuyên rằng để khắc phục nhược điểm này thì việc luyện tập thể lực đóng vai trò quan trọng nhất.

Từ khi bốn tuổi, là lúc biết nói rõ ràng, Lữ Hàn đã bắt đầu kể với cha về những thứ kỳ lạ mà mình có thể nhìn thấy.

Chẳng hạn như hắn kể về một bà lão ngồi úp mặt vào trong góc thang máy mà dường như chẳng ai thấy bà cả, có điều khi hắn bước ra khỏi thang máy, bà lão ngoảnh mặt nhìn theo.

Điều này khiến một đứa trẻ bốn tuổi vô cùng sợ hãi.

Cha hắn thấy con mình gặp quá nhiều rắc rối với năng lực kỳ lạ này, liền tìm gặp và diện kiến một vị đại sư, xin ông ấy dùng Thiền lực khắc thần chú Lăng Nghiêm lên một chiếc nhẫn, đeo vào tay cho Lữ Hàn, điều chỉnh độ rộng mỗi năm theo thời gian hắn lớn lên.

Vị đại sư cũng nói rằng, năng lực đặc biệt của Lữ Hàn có tên gọi là Thấu Thị.

Đồng thời cha cũng bắt đầu cho hắn luyện tập võ thuật truyền thừa của gia tộc từ năm bốn tuổi.

Công phu truyền thừa trong gia tộc họ Lữ chỉ nổi trội với hai bộ môn là Ám khí và Kiếm thuật.

Lữ Hàn tỏ ra thích thú và rất say mê luyện tập chúng, có điều hắn dần dần nhận ra dường như cha của hắn chỉ giỏi về kiếm thuật, còn thuật sử dụng ám khí thì ông chỉ dạy cho hắn về lý thuyết, hắn buộc phải tự mình tìm ra cách thực hành.

Đến nay, hai công phu này đã được Lữ Hàn chuyên tâm rèn giũa trong suốt hai mươi năm trời.

Tuy đã đạt chút ít thành tựu về võ thuật nhưng Lữ Hàn vẫn rất chú trọng tập luyện thể lực bằng cách chạy bộ mỗi ngày.

Sau khi chuyển về ở trong chung cư Kinh Liệt theo lời khuyên của cha, hắn vẫn giữ thói quen chạy bộ này.

Đêm nay cũng thế, sau khi chạy được ba vòng trên con đường bao quanh chung cư thì Lữ Hàn lững thững đi bộ chậm lại.

Hắn vừa thở vừa ngửa mặt nhìn trời, ước ao ông trời thả xuống một giai nhân nào đó để sánh đôi cùng mình trên con đường đời hiu quạnh.

Chứ lần nào trên con đường này, hắn thường chạy ngang qua những cặp đôi nam thanh nữ tú, cảm thấy lòng mình cô đơn vô hạn.

Nhưng có lẽ, lần này, lòng thành của hắn đã làm cảm động trời cao.

Đang thả hồn trống rỗng theo từng bước chân thì Lữ Hàn nghe tiếng một người con gái khe khẽ vang lên từ bóng tối: “Anh ơi?”
Lữ Hàn ngừng bước, đưa mắt theo hướng tiếng gọi phát ra.

Ở ngay dưới gốc cây Mộc Miên giữa hai tòa tháp số ba và số bốn, một người con gái đang đứng lấp ló nửa tối nửa sáng, ánh đèn chỉ chiếu sáng mờ ảo tới nửa dưới khuôn mặt.

Cô gái mặc trang phục công sở: váy đen ôm ngắn ngang đùi, áo sơ mi trắng ngắn tay, hai tay cô gái ôm sát người, tóc dài xõa quá vai, hai đôi mắt lóe sáng.

Lữ Hàn sững người trong chốc lát nhìn chằm chằm vào cô gái, hắn mở năng lực Thấu Thị để quan sát.


Sau khi nhìn rõ chân tướng của người đang đứng trước mặt, hắn hỏi lại cô gái: “Có chuyện gì không?”
“Có thể cho tôi trú tạm một đêm không? Tôi lạnh quá!” Cô gái đáp.

Giữa tiết trời tháng năm oi bức mà cô gái lại than lạnh thì thật lạ.

Nhưng sau khi ngẫm nghĩ một lát thì Lữ Hàn cũng gật đầu.

Hắn dẫn cô gái vào sảnh tiếp tân của tòa tháp mình đang ở.

Cũng may mà bảo vệ trông coi thang máy đã đi đâu mất, đỡ phải giải thích lôi thôi.

Ánh đèn trong hành lang chiếu sáng rõ cô gái.

Cô gái có một khuôn mặt thanh tú, không phải quá đẹp nhưng cũng khá xinh xắn, làn da trắng, mái tóc búi lại với một cây trâm thanh thoát đâm xuyên qua.

Dáng đi biểu lộ phong thái gọn gàng và dứt khoát.

Căn hộ của Lữ Hàn vốn có thể dành cho vài người ở, nhưng hiện hắn sống độc thân nên rất rộng rãi.

Nhà có một phòng khách lớn, một phần của phòng khách được ngăn ra để làm nhà bếp, một phòng ngủ chính, một phòng ngủ phụ, hai nhà tắm tương ứng với hai phòng ngủ.

Đưa cô gái lên nhà, Lữ Hàn chỉ cho cô gái nhà tắm phụ, lấy cho cô một cái khăn bông to và một cái áo choàng tắm.

Loại áo choàng này dùng để mặc sau khi tắm xong rất tiện và thoải mái.

Cô gái thản nhiên đỡ lấy những thứ mà hắn trao cho và bước vào nhà tắm, đóng cửa lại.

Không rõ bên trong nhà tắm diễn ra những gì.

Còn bên ngoài, Lữ Hàn đang đứng trầm ngâm một lúc, liếc nhìn chai Chivas 21 năm để trên giá sách, phân vân không biết nên mở lời như thế nào.

Nhưng cũng chẳng thể đứng hoài như vậy.

Lữ Hàn bước đến tủ lạnh lấy ra một túi nilon đựng thịt bò, để dưới vòi nước chảy nhằm rã đông nhanh chóng.

Xong hắn bước tới giá sách, với tay lấy một tờ giấy A4 và cây bút chì đang để lẫn lộn với một tá các loại bút khác nhau trong ống bút.

Ngồi xuống cái bàn cạnh giá sách, Lữ Hàn bắt đầu hí hoáy vẽ thứ gì đó.

Đêm khuya thanh vắng, có giai nhân bên cạnh, nếu không ký họa giai nhân đó thì thực cũng chẳng nghĩ ra nên ký họa thứ gì khác nữa.

Loài người biết vẽ từ rất sớm.

Trên vách các hang động của người nguyên thủy đã phát hiện thấy những hình vẽ nguệch ngoạc về con người và các loại động vật.

Các hình vẽ sơ khai ấy tuy đơn giản nhưng đôi khi lại đánh đố các nhà khảo cổ.

Những bức vẽ trên một số hang động ở Châu Phi diễn tả cảnh một người và một con bò to lớn đứng trên hai chân sau, còn hai chân trước đang chạm vào hai tay của người đối diện như kiểu chúng ta đang chơi đùa với cún con thời hiện đại ấy.

Hoặc hình vẽ những loài vật nhưng không có hình dạng bình thường mà theo kiểu hình tam giác, hình tứ giác ở các vị trí khuôn mặt và cơ thể.

Không rõ do trình độ hội họa ở thời sơ khai còn quá non nớt, hay đó chính là những vị tổ sư khai sáng ra môn hội họa trừu tượng của mấy ngàn năm về sau nữa.


Những bức vẽ theo môn phái trừu tượng của mấy ngàn năm về sau cũng nguệch ngoạc dùng hình ảnh các thể loại hình học để diễn tả nội dung bức vẽ, đánh đố người xem hiện đại như người nguyên thủy đã đánh đố nhà khảo cổ vậy.

Bức vẽ của Lữ Hàn cũng nguệch ngoạc như thế, tài năng hội họa của hắn xếp vào mấy thứ di tích khảo cổ cũng chẳng oan uổng.

Một lát sau, cô gái tắm xong, bước ra khỏi nhà tắm, nhẹ nhàng đến sau lưng hắn không một tiếng động.

Trên mặt cô gái đã rửa sạch lớp son phấn, mái tóc dài xõa ra, trông… không đẹp bằng lúc trước khi tắm.

Lữ Hàn đang chăm chú họa hình bằng bút chì trên nền giấy trắng thì một cơn gió lạnh thổi tới.

Cơn gió khiến hắn khẽ rùng mình.

Đột ngột tiếng cô gái vang lên sau lưng: “ Anh đang làm gì thế?”
“Tôi đang vẽ hình của cô.” Lữ Hàn đáp mà không quay đầu lại.

“Anh biết tôi như thế nào không mà vẽ?” Cô gái nhẹ nhàng cười hỏi.

“Sao cô nghĩ là tôi không biết?”
“Đưa tôi xem nào.” Cô gái vừa đáp vừa giơ tay ra chờ đợi đón lấy bức họa.

Lữ Hàn dừng bút.

Hắn đưa tờ giấy ra sau cho cô gái mà không quay người lại.

Thật kỳ lạ khi trên tờ giấy không vẽ một cô gái.

Trên đó, tuy xấu xí, nhưng cũng nhận ra được hình một con rắn đang khoanh tròn trên nền đất, đầu giương cao, cái lưỡi chẻ đôi đang thè ra ngoài.

Lưỡi của tất cả các loài rắn đều chẻ đôi như thế, lưỡi rắn vừa là cơ quan xúc giác, vừa là cơ quan khứu giác, vừa là thứ dùng để dọa người chết khiếp.

Không khí như bị bóp nghẹt trong khoảnh khắc, hơi thở của cả hai như dừng lại, chỉ còn nghe tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực.

Bị vạch trần ra chân tướng, khuôn mặt của cô gái bỗng trở nên kỳ dị, nó bắt đầu biến đổi từng đường nét nhỏ ở má, ở trán, ở miệng theo hướng… càng ngày càng xấu.

Có lẽ cảm nhận được không khí nguy hiểm, cũng không muốn để hình tượng giai nhân xuống dốc quá nhanh, hắn giơ tay ra hiệu dừng lại rồi nói:
“Tôi biết cô đang bị thương nặng.

Tuy không biết nguyên nhân là gì hoặc là do ai đả thương cô, nhưng ở đây không có sẵn thịt người cho cô bồi bổ lại nguyên khí đâu.

Để tôi xào cho cô ít thịt bò, uống thêm chút rượu nếp, sẽ giúp cô hồi phục phần nào.

Rượu nếp là loại rượu lành tính và tốt nhất để bồi bổ nguyên khí đấy.”
Nói rồi Lữ Hàn vội vã bước đến ngăn bếp để xào nhúm thịt bò đã được rã đông vừa rồi.

Đồng thời mở các ngăn tủ phía trên kệ bếp để tìm chai rượu nếp.

Phải, hắn nghĩ thầm, rượu nếp là rất tốt để hồi phục nguyên khí, chứ Chivas 21 năm tuy cũng không phải quá xa xỉ gì nhưng cũng thấy hơi tiếc.

Khi chảo thịt bò đã vừa chín tới, mùi thơm bốc ngào ngạt, thêm một chút bơ thi vị làm cho món ăn trên bếp quyến rũ hơn bao giờ hết.

Có điều, cô gái chưa kịp thưởng thức món bò xào thơm ngon đó thì một tiếng thét chói tai từ ngoài hành lang vọng đến.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: 15: Chuột To Gặm Người





Nghe tiếng thét từ ngoài hành lang, Lữ Hàn đang nấu giữa chừng thì nhanh chóng tắt bếp và lao ra cửa, hướng về phía tiếng thét.

Xử lý như vậy là rất đúng.

Sai lầm của nhiều người khi đang nấu ăn hoặc khi đang ủi quần áo mà gặp chuyện bất ngờ thì đều bỏ mặc bếp đang nóng và bàn ủi đang cháy phỏng mà bỏ đi.

Tiếng kêu dường như phát ra từ một căn hộ khác gần đó, sau tiếng thét to ban đầu, vẫn còn một vài tiếng kêu sợ hãi nhỏ hơn tiếp tục phát ra, Lữ Hàn rẽ vào một khúc ngoặt, cứ lần theo tiếng kêu mà chạy đến.

Hắn chạy đến gần cửa căn hộ phát ra tiếng kêu và dần dần mở góc nhìn rộng vào trong căn hộ.

Nếu một thứ gì đó đáng sợ đột ngột xuất hiện trước mắt thì sẽ chỉ gây ra sợ hãi.

Nhưng nếu từ từ đi tới để mở rộng góc nhìn dần dần vào sau một góc khuất thì sẽ không chỉ gây ra sợ hãi mà còn mang đến cảm giác kích thích và hồi hộp nữa, vì không biết thứ gì sẽ hiện ra một cách từ từ phía sau góc khuất đó.

Theo tầm mắt hiện ra, đầu tiên Lữ Hàn thấy một cái đuôi dài và trơn bóng, rồi thấy đến thân hình đầy lông xám xịt của một con vật to bằng con chó đang quay đầu vào trong nhà, hướng đuôi ra ngoài.

Con vật dường như đang cúi đầu nhấm nháp thứ gì đó trên nền đất.

Bên cạnh là một người phụ nữ đang ngồi bệt trên sàn nhà, lưng dựa vào chân bàn, hai tay co rúm sát thân người, hai mắt nhắm tịt, mặt nhăn nhó rên rỉ đầy đau đớn.

Lữ Hàn tiến tới thêm vài bước, nhìn rõ được chuyện gì đang xảy ra.

Thì ra con vật to lớn này là một con chuột, và thứ mà con chuột to lớn này đang cúi đầu gặm nhấm chính là một bên chân trái của người phụ nữ đó.

Từ đầu gối trở xuống chỉ còn thấy máu thịt be bét lẫn trong ống quần vải đã rách bươm, máu ướt đẫm cả cẳng chân và chảy tràn ra đất, nhưng chảy ra bao nhiêu thì con chuột lại thè lưỡi liếm sạch bấy nhiêu, có chỗ còn lộ ra cả xương trắng.

Người phụ nữ vì quá đau đớn và hoảng sợ cùng cực mà cơ thể mềm nhũn, hoàn toàn vô lực, chỉ biết ngồi trơ ra rên rỉ, không thể có bất cứ hành động phản kháng hay chạy trốn nào.

Vì chạy vội qua đây nên trên tay Lữ Hàn lúc này chỉ đang cầm theo một củ hành tây nhỏ dùng để xào thịt bò.

Hắn dùng củ hành ném thẳng vào đầu con chuột một cái “bốp” rồi gọi lớn: “Lại đây nào.”
Củ hành tây tuy mềm mại, nhưng được sử dụng bởi một người đã luyện ám khí hai mươi năm thì có kình lực cực mạnh không khác gì một viên đạn cao su.


Tiếc rằng con chuột này có bộ lông rậm rạp, da thịt dày cộm, tuy uy lực của củ hành tây có lớn đến đâu thì cũng chỉ như lấy trứng chọi đá, bị ném trúng, con chuột nhìn ra sau một cái rồi lười để ý đến hắn, quay đầu lại tiếp tục bữa ăn.

Cứ chậm thêm một giây thì cẳng chân người phụ nữ lại bị gặm thêm một miếng, Lữ Hàn vội vàng sờ vào túi, tính lấy ra mấy lá bài hay đem theo bên mình để phòng thân, nhưng hắn sững sờ nhớ ra, hắn mới chạy bộ về, trên người chỉ mặc bộ quần áo ngắn thể thao thì lấy đâu ra thứ gì trong túi chứ.

Hắn vội vàng nhìn quanh, thấy ngay bên cạnh là cái giá thấp để giày dép ngay cạnh cửa, hắn vội chụp lấy một đôi sandal, canh đầu con chuột mà ném tới.

Lần này thì có trọng lượng hơn hẳn, đôi sandal được ném đi bằng thuật ám khí có kình lực hơn hẳn củ hành tây, cái đầu con chuột trúng hai chiếc dép liên tục, vẹo hẳn qua một bên.

Nó quay đầu lại gầm gừ, máu nóng trong người bắt đầu sôi lên, ánh mắt hằn học nhìn về Lữ Hàn, nhưng miếng ngon trước miệng có vẻ hấp dẫn hơn nên sau một lúc do dự, nó lại cúi đầu tiếp tục gặm nhấm.

Giờ thì Lữ Hàn không còn do dự gì nữa, ôm hết một đống giày dép ở cái giá lên, tất cả những gì ném được đều nhặt lên hết, ném xối xả về phía con chuột.

Một con mưa giày dép lao tới, dép lê, sandal, giày cao gót, giày thể thao… con chuột hứng trọn tất cả.

Bị trúng đòn đau liên tục, con chuột quay hẳn người lại, gườm gườm nhìn Lữ Hàn.

Đôi mắt nó bắt đầu đỏ sọc lên, miệng gầm gừ dữ tợn, răng nhe ra nhỏ máu thịt tong tong xuống đất.

Lúc này trong tay đã không còn chiếc giày hay dép nào nữa, nhìn quanh thấy trên tường có treo một chùm chìa khóa, hắn liền nhanh tay chộp lấy, nhắm ngay giữa đầu con chuột mà ném tới.

Chìa khóa là kim loại sắc nhọn, sát thương cũng hơn hẳn mấy đôi dép, một chiếc chìa to nhất, cứng nhất găm ngay vào trán con chuột.

Giờ thì con chuột nổi điên thực sự, nó kêu rít lên mấy tiếng chói tai rồi nhảy lên bổ nhào tới, hai cái răng cửa trắng ởn nhọn hoắt nhắm ngay cổ Lữ Hắn mà cắn.

Lữ Hàn nhanh chóng nhảy ra ngoài, lộn một vòng trên nền đất tránh khỏi cú táp của con chuột.

Vừa đứng dậy đã thấy con chuột nhảy chồm tới lần nữa ngay sát bên cạnh, hắn liền co cẳng, dùng tốc độ nhanh nhất chạy đi.

Các căn hộ của mỗi tầng được thiết kế xoay lưng vào nhau, hành lang chung chạy dọc theo rìa ngoài thành một hình vuông khép kín.

Lữ Hàn cứ chạy thẳng rồi lại rẽ theo hành lang, hắn chạy tới đâu con chuột đuổi theo tới đó.


Cứ thế đuổi nhau chạy mấy vòng.

Cũng có người hé cửa ra xem, nhưng thấy tiếng động huỳnh huỵnh, bóng người chạy vụt qua, theo sau là một con vật to lớn, kêu rít lên từng hồi ghê rợn thì sập ngay cửa lại.

Chợt có người mở cửa ra đi đổ rác, lại thấy cảnh tượng như vậy thì hoảng sợ, cứ tưởng trộm cướp ở đâu đột nhập, ném thẳng túi rác trong tay vào mặt Lữ Hàn rồi quay nhanh vào nhà, sập cửa lại.

Còn Lữ Hàn đang trên đà chạy, thấy cái túi bay tới trước mặt thì chụp lấy rồi chạy tiếp, chạy được mấy bước muốn vứt cái túi đi lại thấy bên trong nặng nặng, nảy ra ý nghĩ dùng thứ bên trong làm vũ khí.

Mở miệng túi ra, bên trong là một đống thức ăn thừa, túi giấy, bọc nilon các loại, thứ mà hắn cảm giác nặng nặng khi nãy là một đống xương heo to bự, hắn không ngần ngại móc ra, vừa chạy vừa ngoái lại ném vào con chuột.

Chạy đủ một vòng thì ném hết đống xương, hắn cầm cả cái túi ném luôn ra sau, rác văng tung tóe, làm con chuột chậm lại được một chút.

Công phu một đời luyện ám khí của hắn, vũ khí đầu tiên áp dụng vào thực chiến lại là hành tây, giày dép và rác.

Sau khi hoảng hốt chạy mấy vòng thì giờ đây Lữ Hàn đã thấy bình tĩnh trở lại, cảm giác như đang chơi trò đuổi bắt của trẻ con hơn, khi chạy ngang qua căn hộ của mình, hắn liếc vào trong thì thấy cô gái vẫn đang bình tĩnh ngồi ăn bò xào, hắn hét lên: “Cô vẫn còn ngồi ăn được à?”
“Không ăn thì làm sao có sức mà đi được.” Cô gái lẩm bẩm, mặc cho Lữ Hàn lúc này đã chạy đi, không còn nghe được lời cô nói.

Lát sau, Lữ Hàn chạy tới vòng nữa, hắn vừa chạy vừa hỏi to: “Cô xử lý con chuột này được không? Cô là khắc tinh của nó mà.”
Cô gái vẫn điềm đạm ăn cho xong.

Một lúc nữa, Lữ Hắn lại chạy tới, gọi to: “Này?”
Lúc này cô gái đã ăn xong, bê cái đĩa tới bỏ vào trong bồn rửa, rót một ít rượu nếp ra ly, uống một ngụm nhỏ.

Không tệ, thứ rượu truyền thống này ngọt ngọt dễ uống, cô uống thêm một ngụm thứ hai, nhưng ngụm này giữ lại trong miệng mà không nuốt xuống, rồi nhả ra một ít độc hòa chung vào ngụm rượu trong miệng mình.

Cô đặt cái ly xuống, bước ra cửa, một người một chuột trước sau đang chạy tới.

Không nhớ là cặp đôi hoàn hảo, đôi bạn cùng tiến này đã chạy được mấy vòng rồi nhưng trông Lữ Hàn đã bắt đầu thở hồng hộc, mồ hôi rịn ra đầy mặt.

Cô gái đợi cho Lữ Hàn chạy qua mặt mình rồi phun ngụm rượu ra thẳng vào con chuột đang chạy đằng sau hắn.


Con chuột đang dữ tợn truy đuổi kẻ thù, nó cũng mệt đến mức sùi ra cả bọt mép mà vẫn không chịu dừng lại, trong mắt nó chỉ có kẻ đang chạy đằng trước, những thứ khác đều không thèm liếc qua.

Đột nhiên nó cảm thấy da đầu mát rượi, một cảm giác bỏng rát ụp xuống rồi lan ra khắp thân mình, thiêu đốt da thịt.

Con chuột chạy chậm lại, lảo đảo rồi bỗng co giật dữ tợn, giãy giụa như điên tại chỗ.

Nọc độc của rắn bắt đầu hủy hoại cơ thể nó, từng mảng da bốc cháy, bộ lông bị thiêu đốt tỏa khói trắng, rụng xuống hết cụm này đến cụm khác.

Nó rít lên những tiếng kêu ghê rợn, đau đớn, co rúm người lại, phóng về phía lối vào cầu thang thoát hiểm.

Cửa vào cầu thang thoát hiểm được thiết kế chốt khóa với một thanh ngang to bản, chỉ cần đẩy thẳng vào thanh ngang đó là cửa sẽ bật mở, vốn rất dễ dàng cho mọi người trong cơn hoảng loạn mở cửa chạy vào, nay cũng rất dễ cho con chuột nhảy chồm lên đẩy cánh cửa bật mở để chạy thoát.

Cô gái khoan thai sải từng bước dài theo hướng con chuột, bên trong lối thoát hiểm có cấu trúc khác hẳn với cầu thang thông thường.

Xung quanh chỉ toàn là vách tường bê tông chắc chắn, bậc cầu thang cũng bằng bê tông liền khối, đặc điểm này giúp cho lối thoát hiểm sẽ tồn tại lâu nhất trong cơn hỏa hoạn, là con đường sống cho mọi người bên trong tòa nhà.

Con chuột chạy xuống rất nhanh, cô gái cũng lướt đôi chân nhanh thoăn thoắt sau nó, Lữ Hàn cũng chạy theo sau lưng cô gái, vội vã hỏi: “Cô phun cái gì vào người nó vậy?”
“Rượu nếp.”
“Rượu nếp lợi hại vậy á?” Lữ Hàn kinh ngạc kêu lên.

Hắn tất nhiên không biết ngụm rượu đó đã hòa với nọc độc của xà yêu mang linh lực cực mạnh.

Chạy xuống hết mấy tầng lầu, Lữ Hàn trông thấy cánh cửa dưới mặt đất này đã bị ai đó chèn một cái bình cứu hỏa vào giữ cho cửa luôn mở, thì ra nhờ đó con chuột mới có thể mò theo đường cầu thang này leo tuốt lên trên kia.

Ra khỏi lối thoát hiểm, một ngọn đồi thấp hiện ra trong tầm mắt, cửa thoát hiểm này nằm ở một vị trí khá khuất, lại dựa lưng vào quả đồi nên trước nay Lữ Hàn chưa từng đặt chân tới đây.

Con chuột chật vật leo lên quả đồi, trông nó thật thảm hại, như một trái banh tennis cũ nát, chỗ này một nhúm lông, chỗ kia một nhúm thịt.

Cô gái hỏi Lữ Hàn: “Phía sau quả đồi này là gì vậy?”
“Không có gì cả, chỉ là đất hoang, cây dại.” Nhưng hắn nhớ ra: “Hình như có thêm một cái miếu thì phải, nhưng thờ ai trong đó thì tôi không rõ.”
Ra đến vùng đồng hoang cỏ dại này là cõi trời của loài gặm nhấm, con chuột phút chốc luồn lách vào mấy cái bụi cây rồi mất hút, không thấy tăm hơi đâu nữa.

Hai người dừng lại, cô gái chun mũi hít hít mấy cái, bước về một phía: “Hướng này.”
“Cô đánh hơi được mùi của nó à, mũi của cô thật lợi hại, thính như…?” Lữ Hàn kinh ngạc thốt ra hơn nửa câu, rồi kịp ngậm miệng, nuốt ngược mấy chữ cuối về lại trong họng.

Cô gái dường như không để tâm, nhẹ nhàng giải thích: “Mùi của nó nồng đậm như vậy, người bình thường có khứu giác nhạy bén một chút cũng có thể ngửi được rồi.”

Lữ Hàn thấy đây là thời điểm thích hợp để làm quen nên nói: “Tôi là Lữ Hàn, còn cô tên là gì vậy?”
“Tôi là Nguyệt Nhi.”
“Cô từ đâu đến đây? Nhà cô ở đâu?”
“Tôi từ một khách sạn gần đây tới.”
“Khách sạn?” Lữ Hàn liếc nhìn Nguyệt Nhi một cái, trông cũng xinh xắn thế này, không lẽ cô ta…
“Tôi gặp chút vấn đề với người đi cùng.”
“Vấn đề với người đi cùng? À… Người đi cùng cô là nam hay nữ vậy?” Lữ Hàn như nghĩ ra điều gì, ngập ngừng hỏi.

Nguyệt Nhi hạ giọng nhỏ nhẹ, có một chút bối rối khó hiểu: “Là nam.”
Hắn mới xem xong một bộ phim tên là “Hoa Hồng Trắng”, nhân vật nữ chính làm nghề nhạy cảm, lấy khách sạn làm nhà, lấy khách hàng làm bạn, không ít lần nữ chính gặp phải những khách hàng thô bạo hoặc muốn quỵt tiền thì sẽ gây gổ hoặc đánh đập cô.

Những gì Nguyệt Nhi vừa kể, thêm tình trạng ủ rủ của cô khi gặp hắn dưới gốc cây Mộc Miên khi nãy, mười phần thì hết tám, chín phần là giống như nữ chính trong bộ phim “Hoa Hồng Trắng” rồi.

Cô xinh đẹp như thế, ở trong khách sạn cùng nam giới, lại gặp vấn đề trục trặc bỏ chạy tới đây, hẳn là cãi nhau về chuyện thanh toán giá cả rồi.

Hắn tự nhủ, cũng nên đối xử với cô ta tử tế một chút, dù là rắn nhưng sống giữa xã hội này ai cũng phải vất vả kiếm tiền mà, làm cái nghề đó cũng không dễ dàng gì.

Hắn cố gắng an ủi cô một chút: “Cô đừng buồn, xã hội vốn tệ bạc như vậy đó, thỏa thuận giá cả không xong thì đi kiếm người khác, cũng không nên đả thương cô như vậy.”
Trong đầu Nguyệt Nhi như có một tia sét xẹt qua giữa trời đêm, cô dừng lại, quay qua nhìn hắn: “Chắc là anh hiểu lầm rồi, người đó là sếp của tôi, tôi là trợ lý của ông ta, vì xảy ra một vấn đề nên tôi phải rời đi, còn vấn đề đó là gì thì giờ tôi không muốn nhắc tới lắm, anh hiểu chưa?”
“Hiểu, đã hiểu.” Lữ Hàn gật đầu rối rít, hóa ra hắn lậm phim quá rồi.

Nguyệt Nhi quay người đi tiếp, hỏi lại hắn với giọng điềm tĩnh, không có vẻ gì là giận dỗi với hiểu lầm của hắn vừa rồi: “Còn anh, sao lại biết chân thân của tôi vậy?”
Lữ Hàn muốn lập công chuộc tội, nhanh nhảu kể với cô về khả năng Thấu Thị có từ nhỏ của mình.

Nguyệt Nhi nghe xong chỉ gật đầu, kéo câu chuyện trở về hiện tại, chỉ tay ra phía trước: “Nó chạy tới đó thì mất dạng.”
Cả hai rảo bước, một cái miếu xuất hiện trước mặt, Lữ Hàn nhanh nhảu: “Đây là cái miếu mà tôi đã nói.”
Cái miếu này đã lâu chắc cũng chẳng có ai ghé đến, lớp vôi đã bong tróc cả, tường gạch sứt sẹo, cỏ dại mọc kín xung quanh, Lữ Hàn ngước lên nhìn hàng chữ viết trên cao nhưng không đọc ra được là chữ gì vì quá mờ nhạt, nét còn nét mất.

“Chúng ta vào trong xem thử.” Nguyệt Nhi đề nghị.

“Thế này có tiện không?” Lữ Hàn e ngại nhìn cái áo choàng tắm trên người cô và bộ đồ thể thao trên người mình.

Nguyệt Nhi cười nhẹ: “Không sao đâu, thực ra thế này cũng đã là kín đáo so với nhiều người lắm rồi.”
Lữ Hàn xua tay: “Không phải, ý tôi là… Nơi này nhìn thế nào thì cũng không phải nơi tốt lành, tôi e có nguy hiểm bên trong, mà chúng ta lại không có chuẩn bị gì.”
“Đừng lo, có chuyện gì thì tôi sẽ hiện ra chân thân vậy.”
“Vậy cũng được.” Lữ Hàn gật đầu, bước theo, trong lòng có chút tò mò, cô hiện ra chân thân sẽ trông như thế nào nhỉ?

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: 16: Chân Thân





Cả hai bước qua cửa miếu, giữa sân miếu đặt một cái lư hương to tướng cũ kĩ, nền gạch nứt nẻ, bong tróc, phồng rộp lỗ chỗ, chẳng còn mấy viên lành lặn, cỏ dại mọc cao ở những đường nứt lớn, đội hẳn gạch lên.

Ở sát tường bên hông hai bên sân đều có những thứ gì đó hình tròn nằm sát đất, trông như kiểu những cái mâm hình tròn to xếp sát nhau.

Do bản năng của mình, khung cảnh hoang tàn có vẻ không khiến Nguyệt Nhi e ngại mà dường như còn làm cô cảm thấy thoải mái hơn, cô nhẹ nhàng băng ngang qua sân, tới bậc tam cấp dẫn lên gian chính của miếu.

Bậc tam cấp chỉ là loại nhỏ, mỗi bậc không rộng, bước ba bước là đã đặt chân vào gian miếu.

Một cái miếu hoang trông như thế nào thì cái miếu này cũng trông như thế ấy, bụi bặm, mạng nhện, không khí ẩm mốc.

Trên bệ cao có một bức tượng đã hư hỏng nặng, không còn nhận ra hình thù gì nữa, lờ mờ trên cổ bức tượng quấn một cái áo choàng chỉ còn phủ ra sau quá vai, màu sắc và hình dạng thực trông giống như miếng ghẻ rách hơn.

Nguyệt Nhi cất tiếng hỏi: “Anh có biết lịch sử nơi này là miếu thờ ai không?”
Lữ Hàn lắc đầu: “Tôi không rõ, nhưng chắc cũng là thờ một vị thần nào đó.”
Nguyệt Nhi ngắm nghía bức tượng một lúc, nói: “Sao tôi thấy cái tượng này hình thù kỳ quái kiểu gì ấy, nhìn không giống hình người lắm.”
Bỗng có một vật gì đen đen từ dưới đất nhảy lên bệ thờ trước mặt làm cả hai giật mình, nhìn kỹ thì ra là một con chuột đen thui, ngoe nguẩy cái đuôi dài, nó chìa cái mỏ nhọn hoắt ra, giương ánh mắt soi mói về hai kẻ lạ mặt.

Bên cạnh họ lại xuất hiện con chuột thứ hai nhảy lên một cái khung gỗ cũ kỹ, đến con chuột thứ ba, thứ tư… Lữ Hàn kinh ngạc, vô tình quay người lại nhìn ra ngoài, hắn há hốc miệng, tim muốn ngừng đập.

Trên mặt đất ngoài sân không biết từ khi nào lúc nhúc toàn chuột là chuột, bọn này từ đâu kéo tới không một tiếng động, nhưng giờ đã bắt đầu kêu chí chóe, đuôi vẫy tứ tung.

Một vài con chuột thì còn chấp nhận được, nhưng cả một sân đầy ắp chuột như thế này thì đủ khiến cho người ta kinh tâm lạc phách.

Đáng sợ hơn nữa, lũ chuột đang có xu hướng dồn về phía hai người bên trong gian miếu, mắt con nào con nấy đều lộ ra tia máu.

“Lũ chuột này đang săn mồi.” Nguyệt Nhi cảnh báo Lữ Hàn, cô ngửi thấy mùi khát máu.

Bầy chuột như một tấm thảm nhung đen xù xì, nhấp nhô, lúc nha lúc nhúc, từng cá thể xáo trộn hỗn loạn nhưng tập thể vẫn rất trật tự, đồng lòng dồn về phía hai người.

Lữ Hàn từng nghe nói tới ở những nơi thiếu thốn thức ăn, khi chuột bị đói, chúng có thể tấn công các loại động vật lớn hơn như gia cầm hoặc gia súc, thậm chí có thể tấn công cả con người mà cắn xé và ăn thịt cho qua cơn đói.

Lũ chuột này số lượng quá đông, trong khi hắn và Nguyệt Nhi thì tay không tấc sắt, lại bị dồn vào thế chân tường.

Hắn nhìn quanh, muốn tìm thứ gì đó có thể dùng làm vũ khí, song quanh hắn chỉ có bụi bặm, mạng nhện, chỉ có mấy cái khung gỗ khả dĩ có thể dùng được.


Lữ Hàn vội lao đến chụp lấy một thanh gỗ kéo ra, không ngờ thanh gỗ này vẫn đang được đóng chắc vào khung, giật ra một cái là cả mớ những thứ lỉnh kỉnh muốn đổ sập xuống.

Hắn phải dùng chân đạp vào cái mớ loằng ngoằng dính theo.

Được rồi, cũng may, cuối cùng đã giật ra được một thanh gỗ, hắn nhảy trở về bên cạnh Nguyệt Nhi, vừa kịp lúc đánh bay một con chuột nhảy vọt tới.

Nhưng quân tiên phong bị đánh bay không làm đại quân nao núng, những con khác nối đuôi nhảy lên tới tấp, tình huống này ít ra thì Lữ Hàn cũng có đất dụng võ, hai mươi năm luyện kiếm thuật đã giúp hắn có thể dùng một thanh gỗ mục đối phó với chuột.

Có điều đập trúng một phát thì thanh gỗ gãy đi một đoạn, hắn quơ qua quơ lại một chốc đánh văng được khoảng chục con thì bảo kiếm trong tay hắn đã cụt lủn còn một mẩu.

Biển chuột bắt đầu nổi sóng, một con sóng chuột bốc lên cao, chuẩn bị ụp xuống đầu Lữ Hàn, hắn kêu thầm một tiếng “Nguy!” rồi chụp lấy tay của Nguyệt Nhi muốn kéo cô chạy về phía góc của gian miếu.

Không ngờ tay hắn chụp vào chỗ trống không, hẫng đi một cái.

Hắn vội vàng nhìn qua, kế bên hắn không phải là Nguyệt Nhi mà là một con rắn lớn màu ngọc bích, tỏa ra ánh sáng xanh biếc, lớp vảy vùng cổ có màu hồng phấn, đôi mắt sáng như sao.

Con rắn há miệng phun ra một luồng nước trong vắt, bắn thẳng về phía cơn sóng chuột.

Uy lực của luồng nước này không những xé tan cơn sóng, mà ngay cả những con ở ngoài rìa cũng bị cuốn trôi, hất văng ngược lại ra ngoài sân.

Thậm chí, những con này không kịp rớt xuống đất thì đã bị thiêu rụi toàn thân, nhanh chóng hóa thành khói trắng, chỉ còn lại một nhúm lông rơi xuống.

Con rắn trườn tới trước một nhịp, tiếp tục phun nọc vào đám chuột đang nhao nhao dưới đất.

Phun vào giữa một cái, lại phun ra bên cạnh một cái, phun tới đâu là đàn chuột bị xới tung lên tới đấy, y như dùng vòi rồng giải tán đám đông.

Cơ thể cả đám cứ như tan ra trong không khí, khói trắng bay mịt mù, lông chuột rụng rơi lả tả.

Phút chốc cả đàn chuột đông đúc đã bị dẹp sạch, chỉ vài con ở xa bỏ chạy sớm thì còn giữ được mạng.

Lữ Hàn quay sang nhìn Nguyệt Nhi, cô trong hình dạng chân thân này trông thật oai nghi lẫm liệt, một mình đánh tan lũ chuột hung tợn chẳng khác nào Triệu Vân một mình đột phá quân Tào trong trận Trường Bản để cứu ấu chúa là hắn.

Trước ánh mắt ngưỡng mộ của hắn, Nguyệt Nhi lại quay lưng trườn đi về một góc phòng.

Hắn ngơ ngác gọi với theo: “Ơ, cô đi đâu thế?”
Không nghe Nguyệt Nhi có phản ứng gì, hắn vội bước theo, chỉ thấy cô trườn khuất dạng vào sau một cây cột.


Chưa kịp hiểu thế nào thì lại thấy một bàn tay nhỏ nhắn xuất hiện vịn vào thân cột, tiếp đó cái đầu của Nguyệt Nhi ló ra, vẻ bối rối: “Anh… lấy giùm tôi cái áo!”
Lữ Hàn chợt hiểu, Nguyệt Nhi khi hiện ra chân thân thì trút bỏ hết quần áo, bây giờ cô hiện ra lại thành người thì sẽ không mặc gì cả.

Hắn nhìn lại chỗ cô đứng khi nãy, quả nhiên cái áo choàng bông vẫn đang nằm trên đất, hắn vội chạy tới nhặt lên, rồi lại chạy tới cái cột đưa cho cô.

Cô đưa tay đón lấy, lí nhí nói cảm ơn rồi quay đi.

Chưa tàn đốm lửa, Nguyệt Nhi lại ló đầu ra nhìn Lữ Hàn với một ánh mắt kỳ lạ, hắn không hiểu cô có chuyện gì, chỉ biết hỏi một tiếng: “Sao?”
Nguyệt Nhi bối rối thốt ra hai chữ: “Còn thiếu!”
“Còn thiếu?” Lữ Hàn thấy mơ hồ, áo đã đưa rồi, còn thiếu cái gì nữa.

Hắn chậm rãi bước trở lại chỗ đã nhặt cái áo, ở đó có một thứ gì đó, dưới ánh sáng yếu ớt trong gian miếu, hắn chỉ nhận ra đó là một thứ màu trắng nho nhỏ.

Hắn cúi xuống, đưa tay chạm vào thử, là chất liệu vải mềm, đây là…
Nội y? Phía dưới?
Phải, cuộc tấn công của bầy chuột đã làm hắn trở nên lú lẫn, hẳn nhiên bên trong cái áo choàng tắm kia phải còn cả nội y nữa.

Nhưng bây giờ… nhặt lên kiểu gì…
Hắn lấy ngón trỏ và ngón cái nhón lấy lưng quần, xách lên, lại trở về chỗ cây cột đưa cho Nguyệt Nhi.

Một lúc sau cô bước ra, kéo tay hắn ra phía sau cột, chỉ về phía bức tượng, nói: “Nãy giờ đứng ở đây, tôi thấy có mấy con chuột chạy ra phía sau bức tượng rồi biến mất, anh leo lên đó xem thử xem có gì ở đó không?”
Lữ Hàn nhanh chóng leo lên bệ thờ, vòng ra phía sau bức tượng, nhưng chỗ này không có chút ánh sáng nào, hắn quay lại nói với cô: “Tối quá, tôi không thấy gì cả.”
Nguyệt Nhi nghe thế thì cũng leo lên bệ thờ, tới chỗ Lữ Hàn, nhả từ trong miệng ra một viên ngọc tỏa ra ánh sáng xanh biếc khiến cả không gian tỏa sáng rực rỡ, Lữ Hàn thốt lên: “Đây là…?”
“Là nội đan của tôi.”
Thì ra màu sắc khi Nguyệt Nhi hiện ra chân thân là từ viên ngọc này mà ra.

Có ánh sáng từ nội đan, hai người nhìn rõ phía sau bức tượng có một lỗ thủng rộng to như miệng giếng trên nền bệ thờ, viền lỗ thủng được đắp đá thành một khung viền, rõ ràng là do người ta cố ý tạo nên chứ không phải là lỗ thủng tự nhiên.

Nguyệt Nhi giơ nội đan xuống dưới lỗ hổng, có những bậc thang bằng đá dẫn xuống dưới.

“Chúng ta có xuống dưới không?” Lữ Hàn có chút e dè, nhất là sau cuộc tập kích của bọn chuột vừa rồi.

Nguyệt Nhi gật đầu một cái rất quả quyết: “Xuống, con chuột to lớn khi nãy chạy thoát xuống đây, mùi của nó vẫn còn lưu lại bên dưới.”

Lữ Hàn muốn ra mặt nam nhi một chút nên chủ động đặt chân vào bậc thang trên cùng: “Để tôi xuống trước cho.”
Hắn nhanh nhảu leo xuống vài bậc rồi đưa tay ra đỡ lấy tay Nguyệt Nhi: “Cô xuống đi, để tôi đỡ cô.”
Nguyệt Nhi cũng đặt chân vào bậc thang đầu tiên, nắm lấy tay hắn.

Tình huống đơn giản không có gì đáng nói, ngoài việc cái áo choàng tắm mà cô đang mang là loại quấn hai mảnh hai bên lên phía trước người rồi thắt dây lưng lại, bên dưới chỉ ngắn đến ngang đùi, nên phần chân áo sẽ không kín liền như chân váy, các bậc thang lại hơi dốc đứng chứ không xuôi dần, khi Nguyệt Nhi đưa chân bước xuống một bậc là người bên dưới sẽ lại nhìn thấy thứ không nên thấy.

Cầu thang không dài lắm, khoảng hơn mười bậc là đã xuống tới nền hang phía dưới, Nguyệt Nhi đặt chân xuống nền đất, quay sang nhìn Lữ Hàn thì ngạc nhiên kêu lên: “Ối! Mũi anh chảy máu kìa!”
Lữ Hắn đưa tay lên quệt ngang mũi rồi nhìn bàn tay, quả thật tay hắn dính máu, hắn vội dùng ống tay áo lau đi, tìm một lý do nào đó: “Không sao, chắc không khí dưới đây không được tốt.”
Hai người nhờ ánh sáng từ nội đan nhìn thấy họ đang đứng trong một đường hầm dài, độc đạo, chỉ có thể đi tới phía trước.

Đi một đoạn, tầm mắt cả hai đột nhiên được mở rộng, lối đi này dẫn tới một hang động hình vòm, vừa cao vừa rộng, như kiểu lấy một quả bóng tròn chôn xuống đất vậy.

Vách tường nơi đây cũng không phải thẳng đứng mà là tầng tầng lớp lớp những bậc trải dài từ nền đất lên rất cao, bậc trên lại thụt vào so với bậc dưới như kiểu ruộng bậc thang, nhưng mỗi bậc chỉ rất bé, chỉ đặt vừa một bàn chân người.

Nhưng mấy cái bậc này không khiến cả hai chú ý bằng việc vách lưng của mỗi bậc đều có các lỗ hổng nhỏ bằng bàn tay, các lỗ hổng xếp liền kề nhau theo lối đi từng bậc, cứ thế hình thành tầng tầng lớp lớp các lỗ hổng từ sát đất cho đến tận trên cao, ước chừng lên đến nửa chừng chiều cao của vách động mới chấm dứt.

“Đây là?” Lữ Hàn nghĩ đến một thứ nhưng không thốt được ra khỏi miệng.

“Là hang chuột.” Nguyệt Nhi nói thay hắn.

“Lũ chuột lúc nãy không lẽ là đang trên đường trở về ổ của chúng?” Lữ Hàn hỏi cô.

“Có lẽ thế, nhưng số lượng lũ chuột đó chỉ là một phần rất nhỏ so với số lượng hang này.” Nguyệt Nhi nói rồi nghiêng tai lắng nghe, một lúc sau cô nói tiếp: “Trong mấy cái hang này không có động tĩnh gì, hình như không còn chuột ở đây nữa, đám chuột hồi nãy đã là tất cả rồi.”
“Vậy thì không hợp lý, có đời nào số nhà ở lại gấp cả trăm lần số người ở đâu chứ.”
Nguyệt Nhi đi một vòng men theo vách động hình tròn, không còn lối ra nào khác, cô quan sát kỹ một loạt mấy cái hang chuột trên vách này, thấy tất cả đều có dấu vết cào xước, cô chỉ cho Lữ Hàn xem rồi nói: “Những cái hang này đều đã từng có chuột ở, vậy vấn đề là, bọn chúng đã biến đi đâu hết rồi?”
Đột ngột Nguyệt Nhi lại nghiêng tai nghe ngóng: “Anh có nghe thấy tiếng gì không?”
Hắn nghe cô hỏi thì đứng yên, định thần lắng nghe, quả nhiên nghe thấy tiếng gì đó sột soạt, là tiếng kim khí, lắng nghe thêm một lúc, hắn nhận ra: “Nghe giống như tiếng của dây xích sắt.”
Tiếng động phát từ đâu không rõ, âm thanh trong hang động hình vòm cộng hưởng và phản dội nhiều lần nên rất khó xác định phương hướng.

Hai người đi lòng vòng để tìm kiếm, một lúc sau không hẹn mà cả hai đều tụ lại ở vị trí trung tâm của động, nơi đây có một bụi cỏ cao, Lữ Hàn lấy tay vén cỏ qua một bên làm lộ ra một lỗ hổng trên nền đất.

“Lại thêm một cái động bên dưới nữa, tiếng động phát ra từ dưới đó.” Lữ Hàn nói lớn.

Nguyệt Nhi cũng vạch cỏ bước vào, bụi cỏ này mọc thành hình tròn, vây lấy xung quanh lỗ hổng nên lúc đầu không thể phát hiện ra.

Cô giơ nội đan xuống dưới xem xét, từ dưới phát ra một thứ mùi khó ngửi, kèm theo một luồng yêu khí bốc lên.

“Ở dưới có tà vật, hơn nữa thứ này không phải dễ nhằn.” Nguyệt Nhi hơi chau mày, nói với Lữ Hàn.

“Vậy cô tính thế nào?”
Nguyệt Nhi không đáp, cô suy nghĩ, rồi nghĩ ra một cách: “Tôi sẽ gọi thêm một số rắn ở khu vực xung quanh đây tới, có chúng hộ tống, chúng ta sẽ xuống dưới xem thế nào.”
“Vậy cũng được.” Lữ Hàn gật đầu, từ đầu đến giờ, hắn vẫn luôn ủng hộ những quyết định của cô mà không hiểu vì sao.


Nguyệt Nhi nhắm mắt, định thần một lúc rồi mở mắt ra: “Xong rồi, chúng ta chờ một chút.”
“Cô gọi chúng rồi à? Sao tôi không nghe gì thế?” Lữ Hàn ngạc nhiên.

Nguyệt Nhi không muốn giải thích bây giờ, cô hơi hạ giọng: “Có thể để lúc khác nói được không? Kể ra cũng hơi dài dòng.”
Lữ Hàn dường như nhận ra một điều gì đó, hắn cảm thấy tính cách của Nguyệt Nhi rất dịu dàng, muốn từ chối hắn mà cô phải hạ giọng như kiểu không muốn làm phật lòng hắn, nhưng quan hệ giữa cô và hắn có là gì đâu mà phải giữ ý như thế nhỉ.

Thấy Lữ Hàn chỉ trơ mắt nhìn mình, Nguyệt Nhi không biết những gì diễn ra trong đầu hắn, chỉ vội phân trần: “Không phải là tôi không muốn nói…
“À, được, được, được mà…” Hắn gật gật đầu, cũng vội vàng ngắt lời cô.

“Trong khi chờ đợi, anh tìm xung quanh đây xem có thứ gì làm vũ khí vừa tay anh không?” Nguyệt Nhi đề nghị.

Lữ Hàn đứng dậy, đi một vòng rộng lớn, lại trở về bên cô, nói quả quyết: “Không có thứ gì làm vũ khí được cả.”
Nguyệt Nhi hơi chun mũi, rồi rút cây trâm cài tóc trên đầu mình xuống đưa cho hắn: “Anh giữ đi, cây trâm này làm từ băng ngọc ở trên đỉnh Nguyệt Nhai rất cao, hấp thu tinh khí của mặt trăng nên cũng có linh lực, lúc nguy cấp có thể sử dụng.”
Lữ Hàn vừa đưa tay đón lấy vừa hỏi: “Đỉnh Nguyệt Nhai? Nó có liên quan gì đến cái tên của cô không vậy?”
Nguyệt Nhi gật đầu: “Có, đó là nơi mẹ tôi ở, bà lấy tên đỉnh núi đó để đặt cho tôi.” Cô vừa đáp vừa đưa tay bứt một cọng cỏ làm dây, buộc mái tóc đang xõa ra sau lưng.

Mái tóc dài được buộc xong gọn gàng thì từ bên cạnh, một cái đầu rắn bất chợt nhô ra khỏi bụi cỏ làm Lữ Hàn giật nảy mình, nhảy tránh đi.

Con rắn này trên đầu còn mọc hai cái sừng hai bên nữa, trông bộ dạng thật sự dọa người.

“Đây là rắn lục sừng, nó đến hỗ trợ chúng ta đấy.” Nguyệt Nhi trấn an hắn.

Hắn mới định thần lại thì thêm một cái đầu rắn nữa nhô ra bên cạnh khiến hắn kêu “Ối” một tiếng nhảy tới sát bên Nguyệt Nhi, hắn cảm thấy ở bên cạnh cô là an toàn nhất trong thời điểm này.

“Đó là rắn khô mộc, anh nhìn mấy cái hoa văn tam giác trên da của nó thì sẽ dễ nhận ra.” Nguyệt Nhi vẫn chịu khó giới thiệu với hắn.

Hắn luôn cảm thấy rắn rất là đáng sợ, chỉ nhìn cái cách chúng nó di chuyển thôi đã thấy ghê rợn rồi, đang nghĩ tới đây thì hắn cảm thấy vạt cỏ sau lưng bị đè bẹp xuống, thêm một con nữa mới tới, đặt một vòng thân quanh người hắn, nhưng con này to lớn hơn hai con kia rất nhiều.

“Ồ, có cả một con trăn đá luôn này, không ngờ gần đây lại có con trăn to thế!”
Trong khi Nguyệt Nhi vui vẻ thì mặt Lữ Hàn nghệch ra, con trăn mắc dịch quấn quanh người hắn thành hai vòng rồi ngóc đầu lên nhìn vào mặt hắn.

Hắn cảm giác mình sắp ngất xỉu tới nơi rồi thì Nguyệt Nhi vỗ vỗ vào đầu con trăn: “Tránh ra nào, đừng có dọa người khác như vậy.”
Bị cô vỗ mấy cái, con trăn mới uốn ngược thân mình, thả Lữ Hàn ra, người hắn mồ hôi túa ra ướt đẫm từ khi nào.

“Được rồi, tụi mày xuống đó thăm dò đi.” Cô chỉ tay xuống dưới lỗ hổng, vừa giơ ra viên nội đan để soi đường.

Con lục sừng, con khô mộc và con trăn đá nối đuôi nhau bò xuống dưới.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: 17: Chuột Tinh Tam Sắc





Cái động thứ hai này không có bậc đá để đặt chân rõ ràng như cái động đầu tiên mà chỉ là những mấu đá lồi lõm, cũng may là vách đá hơi xuôi xuống dưới nên cẩn thận vào chỗ đặt chân là có thể từ từ leo xuống dưới được.

Địa hình này bắt buộc Lữ Hàn phải làm chủ lực đóng vai người vận chuyển, dìu dắt Nguyệt Nhi leo xuống, tuy nhiên giờ hắn chẳng còn tâm trí nào mà thưởng thức cảnh xuân trong mộng.

Khi hai người leo xuống tới nơi thì thấy cả ba con tiên phong đang cuộn người dựng đầu hết cả lên, cùng nhìn về phía màn đêm tối om ngoài tầm với của ánh sáng từ viên nội đan.

Tiếng xích sắt lúc này đã im bặt, thay vào đó là tiếng gầm gừ rất khẽ vọng từ xa tới.

“Mấy đứa nó cũng thấy sợ thứ phía trước kia.” Nguyệt Nhi phiên dịch cảm giác của lũ trườn bò cho Lữ Hàn, cách nói của cô như đang nói về mấy đứa trẻ con trong nhà vậy.

Cô không muốn ép tụi nó vào nơi nguy hiểm nên bước vượt lên trước, tay giơ cao viên ngọc soi đường.

Mấy con rắn cũng có nghĩa khí, thấy cô đi trước thì hăng hái bò theo sau, Lữ Hàn không phản ứng kịp nên bị bỏ rơi lại sau cùng, miễn cưỡng xem như đóng vai đoạn hậu.

Càng đi tới trước càng nghe mùi tanh xộc lên, nơi này lại ở sâu dưới đất, không khí bế tắc, mùi tanh càng ngày càng đậm khiến Lữ Hàn hoa mắt chóng mặt, hắn phải đưa tay bịt mũi để đi tới, phía trước hắn Nguyệt Nhi cũng làm hành động tương tự.

Hang động này cũng có cấu trúc độc đạo, chỉ việc đi thẳng tới trước.

Tới cuối đường, cả bọn thấy một hồ nước nhỏ, to khoảng gấp đôi một cái giếng bình thường, bên trong chứa đầy một thứ đỏ sậm, đặc quánh, mùi hôi tanh bốc ra từ cái hồ này.

Ở đầu kia của hồ có một sợi dây xích từ trên bờ chạy xuống chìm vào mặt nước bên dưới.

Đầu kia của sợi xích bị cố định chặt vào một thanh kiếm cắm xuống một tảng đá.

“Là phong ấn.” Nguyệt Nhi lên tiếng.

“Hả?” Lữ Hàn có chút mơ hồ.

Nguyệt Nhi chỉ thanh kiếm đang cắm ở đầu kia của sợi xích: “Tà vật ở dưới cái hồ này bị trói vào sợi xích, nhưng không chắc sẽ giữ được lâu dài vì theo thời gian tà vật có thể cải thiện được sức mạnh mà giật xích thoát ra, vì thế có thanh kiếm kia trấn giữ sẽ gia tăng thêm linh lực cho sợi xích, là một dạng của phong ấn.”
Lữ Hàn gật đầu: “Hiểu rồi, nhờ có phong ấn này mà tà vật kia không thể thoát ra.”
Nguyệt Nhi lắc đầu: “Không hẳn, chỉ là kéo dài thời gian lâu hơn thôi, chứ nếu tà vật còn sống và tìm cách gia tăng sức mạnh, đến một lúc có thể phá vỡ phong ấn thoát ra.”
Lữ Hàn chép miệng: “Vậy chẳng khác nào dập lửa xong còn ném lại tàn thuốc, sao không giết quách nó luôn cho xong chuyện.”
“Điều này chỉ có thể hỏi người đã làm ra phong ấn mới biết được, có nhiều lý do lắm, nhưng thường sẽ có ba lý do: một là tà vật quá mạnh không thể giết được, chỉ tạm thời phong ấn nó lại, hai là muốn cho tà vật một cơ hội cải tà quy chánh, ba là giữa người phong ấn và tà vật có một quan hệ đặc biệt nào đó.” Nguyệt Nhi kiên nhẫn giải thích.

“Vậy đã có cái phong ấn này rồi thì cũng không lo lắm.” Lữ Hàn vừa nói vừa tính bước lại gần.

Nguyệt Nhi vội chụp tay hắn giữ lại: “Cẩn thận, phong ấn có rất nhiều loại, nhìn phong ấn này tôi e là chỉ có khả năng cố định chứ không triệt tiêu sức mạnh của tà vật, hơn nữa dựa vào mùi tanh từ cái hồ này tỏa ra thì có vẻ nó là huyết trì.”
“Huyết trì? Là gì vậy?” Lữ Hàn vẫn duy trì chương trình mười vạn câu hỏi vì sao.

“Là hồ máu dùng cho một mục đích nào đó, tà vật này đang ngâm mình bên dưới huyết trì, e rằng là dùng để tăng sức mạnh.” Nguyệt Nhi vẫn đóng vai cô giáo tốt.


Cô nhìn quanh rồi bảo Lữ Hàn: “Anh lấy mấy cục đá đằng kia ném xuống đó xem là thứ gì đang núp ở bên dưới, nhớ giữ khoảng cách.”
Thực ra cô dặn cũng hơi thừa vì bọn họ lúc này vẫn đang đứng cách hồ máu một khoảng cách không gần, hắn vội vàng chạy đi nhặt lấy vài viên đá nhỏ rồi chạy về bên cạnh cô, Nguyệt Nhi ngạc nhiên: “Anh nhặt đá nhỏ quá vậy? Tôi thấy có mấy viên lớn hơn mà.”
Lữ Hàn khoát tay, mở chế độ quảng cáo: “Cô yên tâm, tôi từ nhỏ đã luyện tập ám khí, viên đá này cô thấy nó nhỏ vậy, chứ vào tay tôi là đạn thần công đấy, tôi sẽ khiến cái thứ dưới kia nhảy lên tru tréo cho cô xem.”
Nói rồi, hắn đưa tay tới trước, kẹp viên đá nhỏ vào giữa ngón trỏ và ngón áp út, còn ngón giữa thì co lại tì vào ngón cái để tụ lực, rồi hắn tập trung định lực, bắn viên đá đi vào ngay giữa hồ máu.

Viên đá vừa xuyên qua mặt nước thì một tiếng “Keng” vang lên, vọng đi khắp nơi trong động, viên đá bật lên, văng tới phía bên kia của hồ máu.

“Ha ha, không khí ẩm ướt, viên đá mọc rêu trơn quá nên có chút trục trặc.” Lữ Hàn xoa xoa gáy, thanh minh với Nguyệt Nhi.

Thực ra cũng không phải do hắn, chẳng qua viên đá trúng ngay sợi xích nằm ngay bên dưới mặt nước nên bị bật lên.

“Được rồi, lần này sẽ né cái dây xích ra.” Lữ Hàn tự tin, tung ra viên đá thứ hai nhắm tới chỗ tránh vị trí vừa rồi một đoạn nhỏ.

“Cạch.” Một tiếng động hơi trầm vang lên, viên đá lại bật lên phía bên kia hồ.

Lữ Hàn chưng hửng, vò đầu bứt tai: “Cái quái gì thế nhỉ!”
“Anh thử lại lần nữa, tránh xa ra một chút xem sao.” Nguyệt Nhi gợi ý.

Hắn nghe lời cô, bắn viên đá thứ ba ra hẳn một chỗ khác với hai vị trí khi nãy, ba vị trí hợp lại tương tự như một hình tam giác đều.

Vẫn lại là một tiếng “Cạch” khô khốc vang tới.

“Ngay bên dưới mặt nước là nền đá, viên đầu tiên của anh đúng là trúng sợi xích, nhưng hai viên sau là trúng vào nền đá nên mới tạo ra hai thứ âm thanh khác nhau như vậy.” Nguyệt Nhi nêu ra phán đoán.

Lữ Hàn cũng cảm thấy ý này của cô là hợp lý nhất, chứ không có lý gì bắn vào chỗ nào cũng va phải chướng ngại cả.

“Mà không đúng!” Lữ Hàn nghĩ tới điều gì, “Nếu ngay dưới mặt hồ máu đó là nền đá thì sợi xích đâu có trói thứ tà vật gì.”
“Hoặc là…” Nguyệt Nhi nuốt nước miếng, nói chậm từng chữ: “Tà vật bị trói nhưng đã thoát ra khỏi sợi xích rồi.”
“Nếu tà vật đã thoát ra, vậy thì ai đã di chuyển sợi xích để phát ra âm thanh mà chúng ta nghe thấy lúc nãy nhỉ?”
“Có khi nào, tiếng động đó là để…” Nguyệt Nhi quay sang nhìn Lữ Hàn, nói nốt mấy chữ còn lại, “Dụ chúng ta xuống đây.”
Con trăn đá đột ngột giật nảy lên, miệng kêu rít những âm thanh trầm thấp.

Lữ Hàn và Nguyệt Nhi quay người lại, phía sau, một con chuột cao gần gấp ba chiều cao người bình thường đang dùng miệng cắn ngang thân con trăn đá, con trăn phản ứng cầu sinh dữ dội, dùng thân vô cùng chắc khỏe siết chặt lấy đầu và cổ con chuột.

Trăn đá là một trong những loài trăn hung dữ và có tính tấn công hung hăng nhất trong số các loài trăn, con trăn này là trăn trưởng thành, lực siết vô cùng lớn, dễ dàng quấn chết một con bò hoặc người trưởng thành.

Nhưng không ngờ, con chuột nghiến răng một cái, con trăn đã bị cắn đứt đôi người, rồi nó dùng hai chân trước tháo rời phần thân trăn đang quấn quanh đầu và cổ nó ra, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, vừa nhai vừa quất đuôi phe phẩy rồi nuốt ực con trăn to lớn xuống bụng.

“Chuột tinh tam sắc!” Nguyệt Nhi kêu lên khe khẽ.


“Tam sắc?” Lữ Hàn chú ý nhìn kỹ, con chuột này tất nhiên có bộ lông đen tính là màu thứ nhất, bốn chân của nó lại có lông màu trắng tính là màu thứ hai, còn màu thứ ba là…
“Lông đen, chân trắng, mắt đỏ, đuôi hồng, tim vàng.

Đó là thứ tự tiến hóa của chuột tinh.” Nguyệt Nhi lên tiếng.

Lữ Hàn như chợt nghĩ ra điều gì: “Tôi nhớ mấy con chuột hamster người ta bán cũng là lông trắng mắt đỏ thì phải.”
“Tùy vào màu lông khởi khuồn, nếu ban đầu chuột có lông trắng thì khi thành tinh, nó sẽ có thứ tự là lông trắng, chân vàng, mắt xanh, đuôi đỏ, tim đen.” Cô đúng là cô giáo tốt.

Con chuột đợi hai cô trò hoàn thành xong bài giảng cũng là lúc nó ăn xong con trăn đá.

Con lục sừng và khô mộc nãy giờ cứ ngóc cao đầu đứng im như tượng, con chuột với dáng vẻ to lớn cùng khí thế dọa người dường như đã hóa đá cả hai con rắn này.

Nó nhanh như cắt dùng hai chân trước chụp cổ hai con rắn rồi quẳng luôn vào miệng, nuốt trọng xuống.

Vô thức cả Lữ Hàn và Nguyệt Nhi đều lùi lại một bước, ba đồng minh kia đã bị diệt, giờ chỉ còn lại hai người họ, sau lưng là ngõ cụt, lối thoát duy nhất lại bị chặn mất.

“Lữ Hàn, anh đi lấy cây kiếm kia, cùng tôi đối phó với nó.”
Câu nói của cô vừa dứt là con chuột cũng gầm lên rồi lao tới, Lữ Hàn nhanh chân quay người chạy vòng qua hồ máu lao tới bên thanh kiếm, kiếm thuật cũng là sở trường của hắn, có thanh kiếm này ít nhiều hai bên cũng sẽ kẻ tám lạng, người nửa cân.

Hắn chụp vào chuôi kiếm, một cảm giác cũng rất vừa vặn, hắn vận sức rút mạnh kiếm lên.

Cây kiếm không nhúc nhích.

Bên này, đợi cho Lữ Hàn quay lưng chạy đi lấy kiếm thì Nguyệt Nhi nuốt viên nội đan vào miệng, trút bỏ áo choàng, hiện thân thành một con rắn to lớn cũng tỏa màu xanh biếc, đủ duy trì nguồn sáng như cũ trong hang động.

Con chuột khóe miệng đang nhỏ máu, nhe hai cái răng cửa nhọn hoắt lao tới, cô dùng đuôi quất mạnh từ sau tới, trúng vào một bên đầu con chuột.

Lúc này thân thể Nguyệt Nhi đã cao to gấp ba lần người thường, ngang ngửa kích cỡ con chuột, cú quật đuôi này có sức mạnh kinh hồn bạt vía, hất văng con chuột vào một bên vách động “Rầm” một tiếng, cả hang động rung lắc, đá vụn rơi rụng lả tả.

Con chuột không ngờ đối thủ trước mặt lại mạnh như thế, vừa loạng choạng đứng dậy thì một tia nước trắng phun thẳng tới, Nguyệt Nhi nhắm ngay mặt con chuột mà phun ra một tia nọc cực độc.

Bản năng sinh tồn giúp con chuột cảm nhận nguy hiểm, nó vội giơ chân trước lên che chắn, nọc độc trúng vào chân trước đốt cháy da thịt xèo xèo, bốc khói trắng nghi ngút.

Nó đau đớn, nhảy chồm tới Nguyệt Nhi, vuốt sắc tung ra hung hãn, Nguyệt Nhi quẫy mạnh, lắc người qua một bên né tránh.

Bên kia, Lữ Hàn đã nhảy lên tảng đá, ngồi xổm xuống, hai tay nắm chặt chuôi kiếm, hai chân đạp mạnh, gắng sức rút thanh kiếm ra.

Hắn vừa cắn răng cắn môi rút kiếm, vừa ngó bên Nguyệt Nhi, thấy cô và con chuột đang quần thảo dữ dội.


Con chuột dùng vuốt sắc, răng nhọn và thân hình to lớn cứ lao tới muốn cắn chết đối phương, Nguyệt Nhi không cắn trả mà chỉ dùng thân hình linh hoạt để luồn lách né tránh, dùng những cú đập đuôi để đánh văng con chuột ra, thỉnh thoảng lại phun nọc công kích trả đòn.

Trước những cú phun nọc ghê gớm, con chuột hoặc là cúi mặt tránh được, hoặc là dùng chân chặn lại, nọc độc tuy có cường tính ăn mòn cực mạnh, nhưng đối với con chuột to lớn, cũng chỉ có thể làm tróc từng mảng nhỏ da và lông của nó.

Đột nhiên, con chuột như nổi điên, kêu rít lên, đôi mắt đỏ ngầu vằn lên đầy tia máu, thoắt một cái đã chồm sát tới gần Nguyệt Nhi, tung vuốt chém rách được cơ thể cô.

Nguyệt Nhi trúng đòn này bị văng đập vào vách động, trên thân túa máu ra xối xả từ ba vết cắt vừa dài vừa sâu do móng vuốt con chuột gây ra.

Thấy cảnh này, trong lòng Lữ Hàn giật thót lo lắng, vì hoảng hốt, hắn vô tình để ngón tay cắt trúng lưỡi kiếm khiến máu chảy ra.

Thanh kiếm tiếp xúc máu của hắn, đồng ý tiếp nhận, tỏa hào quang ánh kim, dễ dàng theo tay hắn rút ra khỏi đá.

Phía bên kia, thấy Nguyệt Nhi trúng đòn, bị chấn động trong thoáng chốc, con chuột lại kêu rít lên, say máu lao tới.

Nguyệt Nhi đang bị choáng váng, chỉ có thể yếu ớt phun ra một tia nọc vào đối thủ đang lao tới.

Không ngờ con chuột chơi lớn, cứ mặc cho tia nọc phun trúng mặt, cứ thế lao tới, trực tiếp tát một cú trời giáng vào đầu Nguyệt Nhi, cô gục xuống, bất tỉnh.

Thấy đã hạ được đối thủ, con chuột cúi xuống, muốn ngoạm lấy cổ của Nguyệt Nhi, một phát cắn đứt đôi.

Nhưng khi nó vừa ghé sát miệng xuống, một tia chớp màu vàng sáng lên, ánh chớp quét qua, Lữ Hàn đã lao tới tung kiếm chém một đường ngang cổ con chuột, máu từ cổ nó phun ra thành dòng, lảo đảo giật lùi mấy bước.

Rèn sắt khi còn nóng, Lữ Hàn lợi dụng sự chênh lệch về kích thước, liên tiếp luồn lách, đâm rồi chém, chém rồi lại đâm, lúc này trong lòng hắn đã không còn sợ hãi mà chỉ ngập tràn ý chí chiến đấu, xuất phát từ sự lo lắng cho Nguyệt Nhi, chỉ nhất tâm muốn cứu được cô.

Kết cục đang dần hiện ra rõ, con chuột càng ngày càng rơi vào thế hạ phong, hai chân sau của nó yếu hẳn, từ từ khuỵu xuống.

Lữ Hàn giơ kiếm, nhắm ngay vào hốc máu chỉ toàn màu đỏ của con chuột, muốn một kiếm đoạt mạng.

Đột nhiên, hắn cảm giác không khí bên cạnh lay động, một bóng đen vụt qua khiến hắn phải ngửa người, lộn vòng ra sau né tránh.

Bật người dậy, Lữ Hàn nhìn lại, thì ra là con chuột tấn công người phụ nữ ở trong tòa nhà, rất dễ nhận ra, vì trên người nó, bộ lông không còn nguyên vẹn mà loang lỗ vì ngụm rượu nếp của Nguyệt Nhi.

Pha tấn công bất ngờ này đã cứu con chuột tinh một mạng, không ngờ con chuột to lớn không tỏ lòng cảm kích, mà dùng chân trước chộp lấy con chuột vừa cứu nó, ném luôn vào miệng nhai nhồm nhoàm.

Lúc nào rồi mà còn ăn được? Lữ Hàn cảm thấy kỳ lạ về thói quen ăn uống của con chuột trước mặt, từ nhỏ hắn đã được dạy rằng, thời gian vận động và thời gian ăn uống nên cách xa nhau.

Có điều, bây giờ mà ăn gì thì cũng vậy thôi, cũng chỉ có một kết cục, hắn phải thay trời hành đạo, tiêu diệt con vật khát máu này.

Con chuột dường như cũng hiểu ý hắn, khom người xuống, nằm rạp bốn chân trên mặt đất, cúi đầu như chấp nhận bản án của mình.

Lữ Hàn gật đầu, vậy cũng được, ít nhất đến phút cuối cũng biết ăn năn, hối cãi.

Phật gia đã nói quay đầu là bờ, hy vọng kiếp sau bến bờ sẽ chờ đón ngươi.

Nhưng bỗng nhiên con chuột vểnh đuôi lên, phất qua phất lại, cái đuôi của nó vốn màu đen, nhưng nay lại tỏa ra màu hồng.


Lữ Hàn nhớ tới câu nói của Nguyệt Nhi khi nãy: Lông đen, chân trắng, mắt đỏ, đuôi hồng, tim vàng.

Con chuột vừa nâng cấp từ tam sắc lên tứ sắc!
Tuy không hiểu về cấp bậc giai đoạn tiến hóa của chuột tinh, nhưng hắn cũng lờ mờ đoán ra, từ tam sắc lên tứ sắc sẽ là một bước nhảy vọt lớn về sức mạnh.

Sao lại đúng vào lúc này thế? Hắn than trời trong lòng.

Nhưng vẫn chưa dừng lại, trên đầu con chuột từ từ nhú ra hai cái khối gì đó, rồi dần dần nhô cao hẳn lên.

Nó đang mọc sừng!
Mẹ ơi, chuột mọc sừng, mồ hôi bắt đầu toát ra ướt đẫm người hắn.

Con chuột nhìn hắn, mỉm cười!
Chuột biết cười? Kkhông lẽ số hắn đã tận, mạng của hắn phải bỏ lại trong cái hang hôi hắm và tối tăm này chăng? Rồi xác của hắn sẽ bị ăn tươi nuốt sống trong miệng con vật đang cười kia.

Hắn chết rồi, Nguyệt Nhi cũng khó lòng sống sót.

Công phu luyện kiếm hai mươi năm của hắn chưa dùng tới đã phải đành lòng vứt bỏ, còn cả công phu ám khí nữa.

Hắn tự dưng lại nhớ tới một cuốn sách cũ mèm, bìa đã không còn, lớp bìa lót bên trong có đề mấy chữ mờ nhạt “Ám Khí Yếu Lĩnh”, trang đầu tiên cuốn sách có ghi:
“Ám khí trọng ở thời điểm.

Vừa áp trận đã dùng chỉ là để thị uy thanh thế, còn muốn tất sát đoạt mạng phải dùng lúc đối phương không thể ngờ đến.

Thời điểm đối phương càng không nghĩ tới, hoàng tuyền đã cận kề bên chân.”
Con chuột hoàn thành nâng cấp, cái đuôi mạnh mẽ đầy uy lực tỏa rực sắc hồng, cặp sừng nhọn hoắt ngạo nghễ, nó lừ lừ bước tới dồn Lữ Hàn vào vách động.

Nó tới một bước, hắn phải lùi một bước, chẳng mấy chốc lưng đã tựa vào đá lạnh.

Hắn thở ra từng hơi mạnh, dù gì thì phải ngọc đá cùng tan, hắn giơ kiếm đâm thẳng tới trước, một chân con chuột hất tới đánh văng kiếm của hắn.

Chân kia của nó giơ ra, móng vuốt lừng lững, ngạo nghễ, tát ngang một cú bạt mạng nhằm vào Lữ Hàn, trúng đòn này hắn sẽ thịt nát xương tan.

Nhưng ý chí cầu sinh khiến hắn vô thức nhảy vọt lên tránh được, tầm mắt hắn ngang với mắt con chuột, thật là miếng ngon dâng đến tận miệng, con chuột há to miệng ngoạm lấy đầu hắn.

“Ám khí trọng ở thời điểm.”
Chính là lúc này, hắn vung tay bắn thẳng cây trâm của Nguyệt Nhi vào miệng con chuột.

Cây trâm làm từ băng ngọc trên đỉnh Nguyệt Nhai, hấp thu linh lực của mặt trăng, được bắn đi bằng thuật dùng ám khí, xoay tròn lao thẳng vào miệng con chuột.

Cây trâm liên tục xoáy tròn, khoan thủng vòm miệng con chuột, đục lên sọ não, khoan tung tóe bên trong hộp sọ, đánh nhuyễn bộ não con chuột như người ta đánh trứng, rồi khoan thủng nắp hộp sọ bên trên, lao ra ngoài, cắm thẳng vào vách bên kia của hang động.

Lữ Hàn mượn chút dư lực còn sót lại, đạp chân vào vách động, mượn đà đạp tiếp lên đầu con chuột, nhảy ra sau lưng nó, tránh đi cái thân hình to lớn của con chuột đổ sập xuống vào đúng vị trí hắn đứng khi nãy.



 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: 18: Cái Chết Kỳ Lạ





Hạ xong con chuột, Lữ Hàn vội vã chạy tới chỗ Nguyệt Nhi, nâng đầu cô dậy, lay gọi.

Một lúc sau Nguyệt Nhi tỉnh lại, mở đôi mắt to tròn bằng cái bát nhìn hắn, hắn mừng rỡ khoe với cô: “May quá, cô tỉnh lại rồi, con chuột chết rồi, tôi đã dùng cây trâm của cô hạ được nó rồi.”
Nguyệt Nhi nhìn con chuột một lúc rồi cô dùng đuôi chỉ về phía ngược lại.

Hắn nhìn theo hướng cô chỉ, thì ra cô chỉ cái áo choàng tắm đang nằm trên mặt đất, hẳn hiểu ra, Nguyệt Nhi muốn biến lại thành người.

Hắn vội vàng chạy tới lấy áo đưa lại cho cô, lần này đã cẩn thận kiểm tra kỹ để không sót thứ gì.

Nguyệt Nhi ngậm lấy cái áo rồi trườn tới khuất sau lưng xác con chuột.

Lát sau, Nguyệt Nhi đã bước ra với hình người như cũ, dáng đi có vẻ lảo đảo, Lữ Hàn vội chạy tới đỡ lấy cô, thuật lại vắn tắt chuyện xảy ra vừa rồi.

Sau khoảng mười lăm phút, cô và hắn đã leo ra khỏi bệ thờ ban đầu, bước ra khỏi ngôi miếu, bước chân vào thảm cỏ lạnh bên ngoài.

Nguyệt Nhi muốn khuỵu người xuống, hắn vội giữ chặt lấy, hỏi giọng lo lắng: “Cô sao vậy?”
Nguyệt Nhi thều thào: “Tôi đã dùng cạn yêu lực, anh cõng tôi về nhà đi.”
Hắn vội ngồi xuống, quay lưng lại, Nguyệt Nhi đổ ập người lên lưng hắn.

Hắn đợi cho cổ ổn định tư thế mới đứng lên, bước chậm từng bước hướng về phía tòa nhà.

Mặt cô đặt lên vai hắn, cô nhắm nghiền mắt, ngửi được mùi máu tỏa ra từ vết thương trên vai hắn, hắn cũng bị thương không ít khi giao chiến với con chuột.

Mùi máu của hắn rất quen thuộc, đúng là mùi của giọt máu cất trong mặt dây chuyền hình giọt nước mà cô đang đeo trên cổ.

Quả nhiên có duyên thì biển rộng cũng hóa sông gần, cô vì gặp nạn mà chạy đến tòa nhà, vừa hay lại ngửi được mùi quen thuộc của Lữ Hàn đi tới, bây giờ ngửi được trực tiếp mùi máu của hắn, chính thức xác nhận là đúng người.

Một trong hai chị em cô dựa theo lời hẹn ước của cha mà sẽ lấy hắn, trải qua chuyện đêm nay, nếu em gái của cô không chịu thì cô lấy hắn cũng được, có vẻ hắn không đến nỗi tệ.

Nhưng cũng phải để cho em gái gặp hắn đã, trước đây hai chị em cô đã thỏa thuận, cả hai sẽ đều gặp hắn, ai ưng thì chủ động tiến tới.

Ngược lại nếu hắn không chọn ai trong hai chị em cô thì sẽ báo với cha xóa bỏ hôn ước.

Trong lòng hai chị em vốn có chút ấm ức, kiểu như bị hạ thấp bản thân, tùy thuộc vào việc hắn có chọn ai trong hai chị em hay không.


Nhưng nay ấm ức này có thể tạm thời được xóa bỏ, trong lòng cô bắt đầu có chút cảm giác với hắn.

Cứ thế, hắn cõng cô về tới tòa nhà, chọn lối cầu thang thoát hiểm khi nãy cho kín đáo, leo thang bộ ngược lên trên.

Về nhà, hắn đỡ Nguyệt Nhi vào nhà tắm để cô tắm lại lần nữa, hắn cũng tranh thủ về phòng mình tắm rửa cho bản thân.

Đợi cô tắm xong, hắn lấy thuốc sát trùng và bông băng xử lý ba vết cào chạy dài ngang lưng cô, hắn lo lắng: “Có cần tới bệnh viện xử lý vết thương không?”
Nguyệt Nhi lắc đầu: “Không cần, vết thương của tôi sẽ lành rất nhanh, qua tới ngày mai nó sẽ liền miệng thôi, tạm băng lại vậy là được rồi.”
Hắn đỡ cô về phòng ngủ nhỏ, sắp xếp chăn gối cẩn thận rồi mới về phòng mình.

Nằm lên giường trằn trọc một lúc rồi hắn cũng ngủ được.

Dù trải qua một đềm đầy biến cố nhưng sáng hôm sau, hắn vẫn phải dậy đi làm, trước khi đi hắn hé cửa phòng của Nguyệt Nhi xem, thấy cô vẫn đang ngủ, nhìn hơi thở đều đặn của cô, hắn yên tâm bước ra khỏi nhà.

Một lúc sau Lữ Hàn đã đến công ty.

Công ty của hắn nằm trong một tòa cao ốc chuyên dùng cho thuê văn phòng,
Tòa cao ốc này xây tường chủ yếu bằng vách kính, ánh sáng tự nhiên chiếu tỏa khắp mọi ngóc ngách của văn phòng.

Hắn thích tầm nhìn ra ngoài rất thoáng đãng ở đây, hắn vào nhà bếp pha một tách cà phê bằng máy pha cà phê tự động, rồi bưng tách cà phê bốc khói, thơm lừng ra bàn làm việc, cảm giác như đang ngồi ở một quán cà phê sân thượng sang trọng vậy.

Công ty của hắn là một công ty bảo hiểm, hắn làm ở bộ phận nghiệp vụ đặc biệt, chuyên tiếp nhận và xử lý những trường hợp bất thường liên quan tới khách hàng.

Vị trí công việc của hắn không được nhiều người biết tới.

Bình thường, bất cứ một công ty bảo hiểm nào cũng phải có bộ phận nghiệp vụ để giải quyết về yếu tố chuyên môn của bảo hiểm, nghĩa là thẩm định về tình trạng sức khỏe của khách hàng lúc khách hàng bắt đầu mua một hợp đồng bảo hiểm và khi có đơn yêu cầu giải quyết quyền lợi lúc xảy ra sự cố.

Nhưng CEO của các công ty bảo hiểm lớn trên thế giới nhận ra, càng ngày càng có nhiều vụ việc rất bất thường liên quan tới yêu cầu giải quyết quyền lợi.

Những vụ án cố ý tự gây tổn thương để đòi tiền bảo hiểm chỉ là một phần nhỏ, còn phần lớn là những tình huống không thể giải thích được bằng các lý giải thông thường, và bộ phận nghiệp vụ đặc biệt được thành lập để xử lý những tình huống đó.

Đây là điểm khác biệt so với những công ty bảo hiểm cách đây vài thập kỷ.

Có thể hiểu nôm na rằng bộ phận nghiệp vụ đặc biệt của hắn tương đương với bộ phận điều tra các vụ án siêu nhiên của ngành cảnh sát.


Đang giải quyết qua loa những việc hằng ngày thì hắn nhận được một email được gửi tới từ bộ phận nghiệp vụ thông thường, nội dung của email thông báo cho hắn tiếp nhận một trường hợp tử vong vô cùng kỳ lạ.

Trường hợp này tuy khách hàng chưa gửi đơn đề nghị giải quyết quyền lợi bảo hiểm, nhưng do liên kết giữa công ty bảo hiểm với bệnh viện và cảnh sát nên phía công ty đã được thông báo về trường hợp này ngay lập tức, trước cả khi khách hàng gửi đơn đề nghị đến công ty.

Lữ Hàn bấm vào email tải về máy tất cả các tài liệu rồi xem xét.

Theo giấy tờ từ phía bệnh viện tiếp nhận cấp cứu thì người khách hàng này tử vong với nguyên nhân là “Không rõ nguyên nhân”, còn thời điểm tử vong là “Trước khi nhập viện”.

Còn theo giấy tờ từ phía Pháp Y phân tích nguyên nhân tử vong là do tất cả các mạch vành đều co thắt tối đa.

Lữ Hàn lên mạng tìm kiếm thông tin về mạch vành, mất vài tiếng đồng hồ tìm hiểu, hắn có thể tóm gọn lại một vài thông tin như sau:
“Mạch vành là mạch máu chỉ chuyên cấp máu nuôi cho cơ tim.

Bản thân quả tim là cơ quan làm nhiệm vụ bơm máu đi nuôi toàn cơ thể, nhưng chính quả tim cũng cần phải có máu nuôi cho riêng bản thân nó.

Vì vậy, ngay từ điểm xuất phát của gốc động mạch chủ từ trong quả tim đi ra, có ba nhánh mạch máu tách riêng ra từ động mạch chủ, chạy đi cấp máu nuôi cho riêng quả tim.

Do vị trí và đường đi bao phủ ở phía bên ngoài của quả tim nên được đặt tên là mạch vành.

“Như kiểu đường vành đai vậy.” Hắn nghĩ thầm.

Từ ba nhánh mạch vành ban đầu, chúng tiếp tục phân chia nhỏ hơn như hình cành cây để nuôi dưỡng cho toàn bộ cơ tim.

Thường những bệnh nhân lớn tuổi, kèm những yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, bị bệnh tiểu đường, bệnh tăng huyết áp, sẽ dễ có những mảng xơ vữa đóng trên vách các nhánh mạch vành, khiến cho lòng mạch vành bị hẹp lại, gây nên những cơn đau tim mà từ chuyên môn gọi là Cơn đau thắt ngực.

Khi những mảng xơ vữa này bị tróc ra, chúng bị cuốn trôi theo dòng máu như những mảng lục bình trôi dạt trên sông.

Khi trôi đến những nhánh mạch máu với đường kính nhỏ hơn, các mảng xơ vữa bị tắc lại ở đó, gây tắc nghẽn toàn bộ dòng máu nuôi đi tiếp.

Vùng cơ tim đột ngột bị ngắt nguồn máu nuôi dưỡng như vậy sẽ bắt đầu hoại tử, gây ra cơn đau ngực kinh hoàng cho bệnh nhân, gọi là Nhồi máu cơ tim.


Nó sẽ mau chóng khiến bệnh nhân tử vong nếu không được đưa vào bệnh viện để xử lý mảng xơ vữa tắc nghẽn đó, tái thông máu nuôi dưỡng kịp thời cho khối cơ tim bị hoại tử.

Cũng có trường hợp cơn đau ngực không phải do mảng xơ vữa tắc nghẽn mà do một số nhánh mạch vành nào đó tự nhiên co thắt, nó được gọi là Cơn đau ngực Prinzmetal.

Nhưng cơn đau ngực kiểu này chỉ xảy ra với một số nhánh mạch vành nào đó thôi.”
Còn trường hợp tử vong kỳ lạ này thì Pháp Y đã kết luận là do co thắt toàn bộ tất cả các nhánh mạch vành không hồi phục, khiến toàn bộ cơ tim ngừng hoạt động đột ngột do bị ngắt nguồn máu nuôi dưỡng.

Trong khi tất cả lòng mạch vành của khách hàng trẻ tuổi này hoàn toàn không có mảng xơ vữa.

Bản báo cáo pháp y còn ghi chú thêm, nguyên nhân khiến tất cả các nhánh mạch vành đều co thắt như vậy là “không thể xác định được”.

Trên một góc nhỏ của báo cáo, còn có một số chữ viết tay của Bác sỹ pháp y khi lưu ý về trường hợp tử vong của khách hàng này.

Dòng chữ đó có năm từ:
“Cực kỳ vô cùng hiếm”
Chính vì trường hợp tử vong bất thường này mà bộ phận nghiệp vụ đặc biệt của hắn phải tiếp nhận xử lý.

Sau khi nghiên cứu kỹ tất cả các tài liệu có trong tay và trên mạng thì cũng đã gần hết giờ làm việc, hắn gọi điện thoại cho người nhà của khách hàng lưu trong phần thông tin hợp đồng nhưng không có ai nghe máy.

Hắn ghi lại địa chỉ nhà của khách hàng, dự tính sẽ ghé qua xem sao.

Rồi hắn gọi điện thoại cho Nguyệt Nhi, cũng may tối qua hắn đã kịp lưu lại số của cô.

May mắn là Nguyệt Nhi có nghe máy, hắn hẹn cô đợi hắn về tới nhà thì đưa cô đi ăn tối, cô đồng ý.

Sáu giờ chiều, Lữ Hàn và Nguyệt Nhi đã ngồi trong một quán ăn nổi tiếng về ẩm thực, chất lượng món ăn ngon và giá cả vừa phải.

Hắn biết tối qua cô đã mất rất nhiều yêu lực nên hôm nay muốn tẩm bổ cho cô một chút, hắn hào phóng gọi mấy món như vịt quay Bắc Kinh, đậu phụ Tứ Xuyên, thịt heo xào chua ngọt, thêm một chai rượu vang nữa.

“Thế nào, mấy món đó có vừa ý cô không?” Lữ Hàn hỏi.

Nguyệt Nhi gật đầu: “Vậy là tốt rồi, tôi ăn uống cũng đạm bạc lắm.”
Lữ Hàn cảm giác trong lòng mình như nở hoa, một cô gái xinh xắn, dịu dàng, không quá khó tính, có nghề nghiệp ổn định, lại có sức mạnh có thể tự bảo vệ bản thân, hắn đi đâu trên đời để tìm gặp một người như thế nữa cơ chứ!
“Anh thấy trong người khỏe chưa?” Nguyệt Nhi mỉm cười hỏi hắn.

“Tôi thì đâu có gì, lo là lo cho cô ấy chứ, tối qua, cô là người vất vả nhất.” Hắn xua tay, khen ngợi cô thật lòng.

Nguyệt Nhi có chút đỏ mặt: “Phải, từ trước tới giờ, tối qua là lần đầu tiên tôi dùng cạn kiệt yêu lực của mình như vậy, còn bị đập một cú chí mạng nữa chứ.” Rồi cô đưa tay xoa xoa một bên thái dương.

Lữ Hàn cũng vô thức đưa tay tới, chạm vào bàn tay cô đang đặt bên thái dương đó, lo lắng: “Bây giờ cô thấy thế nào, có đau đầu không, có cần đi bệnh viện kiểm tra không?”

Nguyệt Nhi lắc đầu: “Không cần đâu, dù sao tôi hồi phục cũng nhanh lắm, nghỉ ngơi vài bữa là khỏe thôi.”
Lữ Hàn chợt nhớ ra: “Phải rồi, còn mấy vết thương trên lưng cô nữa?”
Nguyệt Nhi lại đỏ mặt, nhớ lại cảnh tối qua hắn ngồi đối diện với tấm lưng trần của cô để xử lý vết thương: “Chiều nay mấy vết thương đã khép miệng rồi, đối với vết thương hở thì tôi hồi phục rất nhanh.”
Lữ Hàn chép miệng: “Không ngờ con chuột đó lại mạnh như vậy, mà tối qua lúc đánh nhau với nó, sao cô không cắn cho nó một phát, không phải những cú cắn là vũ khí mạnh nhất của cô sao?”
Nguyệt Nhi hơi ngập ngừng: “Tôi… ngại bẩn, anh xem cái con chuột đó, tôi mà ngậm những thứ như nó vào miệng, chắc sẽ bỏ ăn ba ngày ba đêm mất.”
Ha, hóa ra cô là người rất sạch sẽ! Hắn nghĩ thầm rồi tiếp tục câu chuyện: “Phút cuối con chuột còn nâng cấp màu sắc nữa chứ, nhưng sao tự dưng nó lại nâng cấp được nhỉ?”
Nguyệt Nhi ngẫm nghĩ rồi đáp: “Theo như những gì anh kể thì có lẽ là nhờ nó ăn được con chuột kia nên mới nâng cấp được.”
“Con chuột đó thì đâu có gì đặc biệt?”
“Có đấy, nó có một điều rất đặc biệt.”
“Là điều gì?”
“Nó đã ăn thịt người.”
“Ăn thịt người?”
“Phải, tôi suy đoán lại cả quá trình sẽ như thế này: ban đầu con chuột bị phong ấn bởi sợi xích dưới đó không cách nào thoát ra được, rồi không hiểu bằng cách nào nó gọi lũ chuột đến cho nó ăn thịt, đồng thời trữ được cái hồ máu cạn đó làm huyết trì.”
“Nó ăn thịt cả đồng loại ư?” Lữ Hàn kinh ngạc.

“Phải, ăn thịt đồng loại cũng là một cách để tu luyện tà đạo mà.” Nhìn ánh mắt Lữ Hàn có chút ngơ ngẩn, Nguyệt Nhi hỏi hắn: “Anh sao vậy?”
“Nghe cô nói tôi mới nhớ, dường như tôi đã từng đọc được đâu đó tài liệu ghi chép về những giáo phái bí ẩn, tu luyện bằng cách bắt người khác ăn thịt.

Thì ra giờ mới hiểu phương pháp tu luyện đó chính là ăn thịt đồng loại.”
Nguyệt Nhi gật đầu, cô nói tiếp: “Nhờ vậy, theo thời gian, nó mới nâng cấp lên được tới tam sắc và thoát khỏi phong ấn, nhưng có thể do cơ thể quá to lớn hoặc vì nguyên nhân nào khác không rõ mà nó vẫn ở dưới đó.

Khi đánh hơi thấy chúng ta, nó cố ý tạo ra tiếng động để dụ chúng ta xuống dưới đó rồi chặn mất đường thoát.

Đến lúc cuối, khi bị anh dồn đến đường cùng, nó ăn được con chuột đã ăn thịt người nên nâng cấp lên được tứ sắc, may mà cuối cùng anh vẫn hạ được nó.”
“Thực ra, đó cũng là lần đầu tiên tôi trải nghiệm qua một hiểm cảnh như vậy đấy, đối với tôi mà nói cũng là một lần nâng cấp, tôi cảm giác mình có một chút gì đó khác hơn, trước đây chỉ toàn dùng ám khí ném vào mấy cái bia tập luyện, đây là lần đầu dùng ám khí tiêu diệt một thứ tà vật nguy hiểm, cảm giác này thực sự rất khác.”
Nguyệt Nhi mỉm cười: “Vậy thì chúc mừng anh, xem ra anh và con chuột cũng là có duyên, nó vì anh và anh cũng vì nó mà cùng nhau nâng cấp được cho bản thân, tuy là đi hai con đường khác nhau, nhưng xem ra cũng là duyên phận.”
Lữ Hàn xúc động không biết nói gì, may mà nhà hàng bưng đồ ăn ra giải cứu cho hắn, hắn bảo cô: “Chúng ta cùng ăn tối đi.”
“Được, chúng ta cùng ăn.”
Đến giữa bữa, khi đã lưng chừng bụng, Nguyệt Nhi hỏi: “À, mà anh làm công việc gì vậy?”
Thế là hắn kể sơ qua cho cô nghe công việc của mình, đồng thời kể cho cô nghe trường hợp hắn vừa tiếp nhận hôm nay, cũng rủ cô chút nữa cùng hắn đi ngang qua nhà khách hàng kia kiểm tra xem thế nào, cô đồng ý.

Kể xong chuyện cũng là vừa xong bữa ăn, hắn chở cô đi tìm nhà khách hàng theo địa chỉ đã ghi lại, đến nơi, hắn dừng xe trước cổng, thấp thoáng thấy trong nhà có bóng người, hắn mừng rỡ nói với cô: “Trong nhà có người, cô vào quán uống nước đợi tôi nhé.”
Rồi hắn rà xe đi tiếp chầm chậm, ngó quanh, may thay cheo chéo phía đối diện có một quán trà.

Đây là quán trà kiểu thanh toán trước tại quầy nên hắn chọn món cho cô và thanh toán luôn.

Hắn kiếm một cái bàn gần cửa sổ, đợi cô ngồi xuống ngay ngắn, hắn mới bước ra khỏi quán, đi bộ một đoạn tới nhà khách hàng.

Nguyệt Nhi ngồi trong quán, nhìn qua cửa sổ bằng kính ra ngoài, vô tình cô nhìn về phía ngôi nhà mà Lữ Hàn đang đi tới, bỗng nhiên cô phát hiện ra một điều, những ngôi nhà xung quanh đều sáng đèn, chỉ riêng ngôi nhà đó là không có, vậy sao lúc nãy lại thấy có bóng người trong nhà nhỉ?

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: 19: Góa Phụ Và Anh Thợ Điện





Lữ Hàn bước tới trước cửa căn nhà, nhìn thấy có chuông ở bên phải khung cửa nên đưa tay bấm chuông.

Ánh sáng từ đèn đường rất sáng, soi rọi khoảng sân rộng trong nhà và cả một phần nhà phía trước, hắn lại đứng ở khoảng cách gần, không có tầm nhìn bao quát mấy ngôi nhà xung quanh nên không chú ý đến việc bên trong nhà không có đèn.

Tiếng chuông cửa không phải là tiếng đơn lẻ mà là một hồi nhạc khá dài, hắn bấm một lần, nghe thấy tiếng nhạc từ trong nhà vọng ra.

Âm thanh nhẹ nhàng, dễ nghe, không đến nỗi chói tai làm người nghe giật mình, nhưng đợi một lúc mà vẫn không thấy có ai bước ra.

Lạ nhỉ, hắn lẩm bẩm, lúc này rõ ràng là thấy có người phía sau khung cửa kia mà.

Đợi thêm một lúc, hắn lại bấm chuông lần nữa.

Tiếng nhạc lần thứ hai vang lên.

Lần này hắn nghiêng tai lắng nghe, tiếng chuông là âm đơn sắc, trầm bổng du dương, nghe hết hồi chuông cũng không thấy có động tĩnh gì.

Thôi vậy, chắc lúc nãy nhìn lầm, hoặc là người trong nhà vào phòng vệ sinh rồi, để khi khác quay lại cũng được, hắn đưa tay bấm chuông thêm một lần nữa cho đủ ba lần rồi định quay người đi.

Hắn có thói quen trong sinh hoạt hay gắn với các mốc thường gặp của những con số, chẳng hạn âm thanh ti vi ở nhà, hắn thường điều chỉnh ở mức 35 hoặc 40 cho chẵn, hoặc là 39, con số đại diện cho tiểu thần tài cũng được.

Chệch những mốc này đi một hoặc hai số cũng chẳng ảnh hưởng gì, nhưng nếu để được đúng vào điểm mốc, hắn sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Không ngờ, tiếng chuông cửa lần thứ ba vừa vang lên, hắn cũng vừa quay đầu ra ngoài thì bản lề kêu rít lên một tiếng nhỏ, tiếng động đột ngột kéo sự chú ý của hắn quay trở lại, cánh cửa gỗ cũng tự mở vào trong một khoảng vừa đủ thân người.

Quái, sao cửa lại tự mở thế này, hắn có chút ngạc nhiên, nhìn ngó khung cửa một lúc xem coi có gắn hệ thống tự động điều khiển gì không, nhưng ngó nghiêng khung cửa chưa được bao lâu thì hắn phát hiện, qua khoảng sân, bóng người lúc nãy đã xuất hiện trở lại đứng sau khung cửa.

Hắn thở ra một hơi, may quá, thế là không phải mất công đi một chuyến này, hắn vội đẩy cửa, bước vào, vừa băng qua sân, vừa giơ một tay lên chào và nói lớn: “Xin hỏi có phải là nhà của anh Thiệu Ba không?”
Người trong nhà là một cô gái còn trẻ, cô ấy lấy tay đẩy trượt cửa kính qua một bên, khẽ gật đầu nhẹ nhưng không nói gì.

Lữ Hàn thấy thái độ có vẻ lạnh nhạt nhưng nghĩ rằng gia đình đang có tang sự, cũng nên rộng lượng bỏ qua, thế là hắn dùng thái độ trang trọng, gật đầu đáp lại rồi tự giới thiệu mình là người của công ty bảo hiểm, tuy biết gia đình đang đau buồn nhưng hy vọng cô có thể hợp tác hoàn thành một vài thủ tục, hỗ trợ phía công ty hoàn thành việc chi trả hợp đồng sớm nhất có thể.


Câu nói và nội dung truyền tải được hắn thể hiện rất bài bản, là do hắn có tham gia nghe lỏm được một vài buổi đào tạo ở công ty, nên nhớ được hai điều mà giáo viên hướng dẫn đứng nói trên bục giảng: một là phải dùng từ chi trả chứ không được dùng từ bồi thường, không hiếm các nhân viên tư vấn mắc phải lỗi dùng từ này, vốn công ty bảo hiểm không gây ra tội lỗi gì cả để phải đi bồi thường, mà chỉ là chi trả theo các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm, hai là phải gợi mở ra những lợi ích mà khách hàng sẽ nhận được nếu làm điều gì đó.

Cả hai điều này đều được hắn thực hiện triệt để.

Cô gái nghe xong thì đẩy cánh cửa trượt đến hết khung rồi quay người bước vào nhà, Lữ Hàn bước vào theo.

Nhưng vừa bước qua khung cửa, ra khỏi tầm chiếu sáng của ánh đèn đường là hắn đã không nhìn rõ lối đi trong nhà trước mặt, đồng thời lại cảm giác như vừa bước chân vào một không gian khác, một bầu không khí giá lạnh của mùa đông phả vào mặt hắn.

Lữ Hàn đứng khựng lại, cất tiếng gọi: “Này, cô gì ơi.”
Không có tiếng đáp lại.

Hắn thấy trong lòng có chút gai gai, cái nhà gì quái dị thế này.

Nhưng may sao, từ một góc xa có ánh lửa xuất hiện, cô gái từ trong một hành lang khác bước trở lại, trên tay cầm một cái đế, trên có cắm một cây nến hồng cháy sáng.

Cô gái bước tới bộ sofa đặt nến xuống bàn rồi ngồi xuống cái ghế dài, Lữ Hàn có ánh sáng soi đường, cũng bước tới bộ sofa rồi ngồi xuống đối diện, là ghế đơn có tay vịn.

Hắn ngửi thấy mùi thơm tỏa ra từ cây nến, rồi định thần chớp mắt một cái, mở Thấu Thị quan sát cô gái trước mặt, bởi trong lòng hắn tự dưng lại dấy lên một nỗi e ngại, không biết cô gái này có phải là người không.

Nhờ năng lực Thấu Thị này mà hắn mới được nhận vào làm công việc hiện tại.

Ngày phỏng vấn, đích thân trưởng phòng nhân sự của công ty phải ngồi ghế phỏng vấn đối diện hắn, giống như cô gái lúc này.

Trưởng phòng nhân sự lấy ra ba vật đặt lên bàn: vật thứ nhất là mô hình cô gái bằng nhựa dẻo, cao gần bằng gang tay, vật thứ hai là chiếc mặt nạ bằng gỗ, có hình thù kỳ quái như của mấy thổ dân da đỏ, vật thứ ba là một cái bình bằng gốm dùng để đựng tro cốt của người chết sau khi hỏa táng.

Rồi hỏi hắn, trong ba vật đó, vật nào có vong bám vào?
Hắn chớp mắt hơi lâu hơn bình thường một chút, mở Thấu Thị quan sát.

Các vong phách là cấp bậc thấp nhất trong hệ thống phân cấp của quỷ giới, chúng như cát bụi đầy đường, trôi nổi khắp nơi, khi tình cờ gặp được người có nhân duyên hoặc vật phù hợp thì có thể bám vào, người thường không thể thấy được, còn dưới sự quan sát của Thấu Thị, tùy vào năng lực mạnh yếu khác nhau sẽ thấy được những vong phách này dưới những hình ảnh khác nhau.


Lữ Hàn có thể tùy ý lựa chọn mức độ mạnh yếu của Thấu Thị để sử dụng, nếu khoảng cách càng gần, dùng năng lực càng mạnh, hắn sẽ quan sát được rất rõ ràng, thậm chí ở những mức độ khó tưởng tượng, có điều, nếu dùng quá mạnh, hắn sẽ rất mau xuống sức.

Buổi phỏng vấn chỉ là bài kiểm tra sơ đẳng, nên hắn chỉ mở Thấu Thị ở mức độ sơ năng nhất.

Với mức độ này, vong phách nếu có thì sẽ hiện ra dưới hình ảnh tương tự như tivi bị nhiễu sóng.

Hắn thấy có hình ảnh nhiễu sóng bám vào bình đựng tro cốt nên chỉ tay vào đó.

Trưởng phòng nhân sự nói rằng kết quả chính xác, đó là bình đựng tro cốt của người nhà, rồi nói tiếp theo là cấp độ thử thách khó hơn và đưa ra ba con búp bê Kumanthong, hỏi rằng trong ba con quỷ linh nhi này, con này mạnh nhất và con nào yếu nhất?
Hắn dùng Thấu Thị quan sát, thấy rằng chẳng có vong phách nào cả, nên lắc đầu và nói rằng cả ba con đều không có quỷ, chỉ là búp bê bình thường.

Trưởng phòng nhân sự đứng dậy bắt tay hắn, chào đón hắn gia nhập công ty.

Hiện giờ, ở trong ngôi nhà rờn rợn của Thiệu Ba, hắn nghi ngờ cô gái này nên mở Thấu Thị để quan sát, nếu cô ta là người thì hắn sẽ không thấy có gì lạ.

Kết quả là… hắn đã nghĩ quá nhiều rồi, cô gái này quả thật là người.

Lữ Hàn thở phào một hơi nhẹ nhõm, hỏi thông tin về cô gái, cô gái nói: “Tôi tên là Dạ Vũ, là vợ của Thiệu Ba, cả nhà đã đưa thi thể của Thiệu Ba về quê an táng, còn tôi sức khỏe không được tốt, tinh thần cũng chưa ổn định sau cái chết của chồng nên sẽ về sau.”
Lữ Hàn nói vài lời an ủi theo đúng lễ nghi, rồi lấy ra một số giấy tờ để bắt đầu công việc, nhưng dưới ánh nến thì không thể đủ ánh sáng để đọc chữ trên giấy tờ, lúc này hắn mới nhớ ra căn nhà này từ đầu không hề bật đèn, liền hỏi: “Cô à, sao cô không bật đèn mà lại dùng nến vậy?”
Dạ Vũ đáp: “Bóng đèn trong nhà cháy rồi, cầu chì trong nhà cũng đứt rồi.”
Lữ Hàn ngạc nhiên: “Cầu chì? Sao cô biết cầu chì trong nhà bị đứt?”
“Bóng đèn sáng lên hết mức rồi tắt phụt, liền sau đó toàn bộ điện trong nhà cũng tắt, không phải là đứt cầu chì thì là gì?”
Hắn nghe cũng thấy có lý, liền muốn tỏ ra hữu dụng: “Chỉ cho tôi chỗ cầu chì, tôi xem thử thế nào.”
Dạ Vũ đứng dậy, cầm theo ngọn nến, dẫn hắn đi qua một hành lang, tới một cột nhà nối giữa hai đoạn hành lang thì cô chỉ tay vào đó.

Lữ Hàn nhìn theo tay cô chỉ, hóa ra đây là loại cầu chì kiểu cũ, khi dòng điện quá tải sẽ làm đứt sợi dây chì, muốn nối lại thì phải tháo nắp hộp ra nối thủ công, chứ không phải là loại cầu chì có cần gạt sập xuống như bây giờ.

Hắn hỏi Dạ Vũ hộp dụng cụ gia dụng ở đâu, cô chỉ vào một góc khuất dưới chân hắn.

Hộp dụng cụ là loại hộp to bằng nhựa, khóa bằng chốt lẫy đơn giản.


Hắn mở nắp hộp, bên trong là một đống thứ linh tinh như một cái hộp dụng cụ thông thường, hắn hất mấy thứ trên bề mặt qua lại để tìm cuộn dây chì và một cái tuốc-nơ-vít loại bốn chấu.

May thay, sau một lúc thì đều tìm được hai thứ đó.

Hắn hồ hởi đứng dậy trở lại bên cái cột, cẩn thận đẩy cần gạt cầu chì xuống để đảm bảo ngắt điện, chân hắn vẫn đang mang giày khô ráo, như vậy là yên tâm rồi.

Hắn nhanh chóng dùng tuốc-nơ-vít vặn con ốc, mở nắp hộp cầu chì ra, bên trong quả nhiên là dây chì đã bị đứt.

Hắn lại dùng tuốc-nơ-vít tháo chốt giữ hai đầu dây chì để tháo cọng chì đứt ra, cắt ra một đoạn chì mới từ cuộn chì, lắp vào thay thế.

Xong xuôi, hắn vặn chặt hai chốt giữ hai đầu, lắp lại nắp hộp.

Vốn hộp cầu chì này có hai phần, phần nắp hộp mà hắn vừa tháo ra lắp vào là nửa dưới, còn nửa trên là cố định, không tháo lắp được.

Nhưng hiện tại, phần nửa trên này bị nứt lớp vỏ nhựa, hở ra, để lộ phần dây điện bên trong.

Hắn không muốn duy trì tình trạng này vì e rằng có thể gây nguy hiểm cho chủ nhà, bèn một tay ấn lớp vỏ nhựa này về vị trí cũ, tay kia chỉ vào cuộn băng keo điện để trên cùng của hộp dụng cụ, nói với Dạ Vũ lúc này đang cầm nến đứng sau lưng, soi sáng cho hắn: “Cô lấy giùm tôi cuộn băng keo đen để ở trên cùng kia.”
Cô lấy cuộn băng keo đưa cho hắn, hắn đón lấy, vừa xé ra một đoạn băng keo thì trông thấy Dạ Vũ từ đoạn hành lang bên trái từ xa đi tới, trên tay cầm một ngọn nến.

Một cảm giác lạnh toát chạy dọc theo sống lưng hắn lên tận đỉnh đầu, tóc gáy dựng ngược, da gà nổi lên toàn thân, hắn quay ngoắt cả người lại sang bên tay phải để nhìn ra sau lưng, từ nhỏ hắn đã được dạy rằng nếu quay người thì phải luôn quay toàn thân, không được chỉ quay riêng mỗi đầu.

Lúc này hắn trông thấy cây nến ban đầu đã được đặt lên bệ cửa sổ từ lúc nào, còn bên cạnh hắn hoàn toàn không có ai!
Hắn quay qua nhìn Dạ Vũ đã bước tới gần, lắp bắp: “Cô? Lúc nãy không phải cô đứng sau lưng tôi sao?”
Dạ Vũ gật đầu: “Phải, nhưng tôi thấy hơi tối, nên để cây nến đó lên bậc cửa sổ, rồi đi lấy thêm một cây nữa cho sáng.”
“Còn… Còn cuộn băng keo?”
Dạ Vũ nghiêng đầu, ra chiều khó hiểu: “Cuộn băng keo nào?”
Lữ Hàn hít ngược một hơi lạnh, không hỏi nữa, hắn biết đã có việc quỷ dị vừa xảy ra nên chỉ im lặng quấn cho xong miếng băng keo.

Hắn gạt cầu dao lên, bảo Dạ Vũ: “Cô bật đèn lên xem coi được chưa?”
Cô lắc đầu: “Bóng đèn đã cháy hết rồi.”
Hắn nhớ ra lúc nãy lục lọi hộp dụng cụ có thấy một cái hộp đựng bóng đèn thì phải, liền cúi xuống kiểm tra lại, quả nhiên trong cái hộp có đựng bóng đèn, hy vọng là hàng mới.

Hắn lại phải gạt cầu dao xuống lần nữa, đi ra phòng khách, trên trần phòng khách là ngọn đèn bóng tròn dạng chuôi vặn.

Hắn khệ nệ khiêng hai cái ghế xếp chồng lên nhau cho đủ chiều cao rồi leo lên tháo bóng đèn cũ ra, gắn cái bóng tìm được trong hộp dụng cụ vào, hy vọng cái đèn này còn dùng được.


May mắn sau khi hắn gạt trả lại cầu dao và bật công tắc thì cái đèn bóng tròn sáng lên, nhưng độ sáng không như hắn tưởng tượng, có thể cái bóng này là bóng cũ, có điều là nó vẫn còn dùng được nên đã được ai đó cất vào hộp dụng cụ, phòng những khi cần đến như lúc này.

Dạ Vũ thấy đèn đã bật sáng liền cầm ngọn nến trên tay đi vào trong để cất đi, Lữ Hàn cũng trở lại chỗ cây cột có cầu chì khi nãy để lấy ngọn nến đang đặt trên bệ cửa sổ.

Tới nơi, hắn nhấc ngọn nến lên định quay lại phòng khách thì chợt nghe thấy một tiếng động gì đó, hắn lắng tai nghe kỹ.

Là tiếng xả nước.

Tiếng xả nước rất gần, dường như ở ngay cuối hành lang bên kia.

Hắn cầm theo ngọn nến đi tới hướng về phía tiếng nước chảy, cuối hành lang này dường như là một nhà tắm, tiếng nước phát ra từ bên trong.

Hắn giơ tay ấn thử công tắc trên tường kế bên cửa, nhưng không thấy phản ứng gì, quả nhiên đèn trong nhà đều đã cháy hết đúng như lời Dạ Vũ nói.

Hắn chậm rãi đẩy khẽ cánh cửa, một tiếng rít nhỏ vang lên, mở rộng dần cho ánh sáng từ ngọn nến soi vào trong.

Bên trong quả nhiên là một phòng tắm, có vòi hoa sen, có bồn tắm nhỏ, có bồn rửa tay.

Vòi nước của bồn rửa tay đang chảy mạnh, tiếng xả nước là từ đây mà ra, hắn tiến đến đẩy cần gạt của vòi nước để khóa dòng nước chảy, không ngờ cả cái vòi nước quay tuột đi theo lực đẩy của hắn.

Do con ốc khóa ở dưới bị lỏng đây mà, hắn đã từng gặp trường hợp này ở nhà mình rồi.

Vòi nước ở bồn rửa tay đều có một con ốc vặn nằm ở mặt dưới của bồn rửa để cố định cái vòi ở yên một chỗ, nhưng qua thời gian dài, khi tay gạt của vòi nước bị đẩy qua đẩy lại nhiều lần thì con ốc này sẽ lỏng ra.

Hắn đặt cây nến xuống nền gạch, dùng hai tay khóa vòi nước chảy rồi ngồi xổm xuống, ngước mặt lên nhìn phía dưới của bồn rửa, đưa tay vặn lại con ốc khóa để cố định cái vòi.

Hay thật! Hắn thầm nghĩ, một buổi tối vừa làm thợ điện, lại vừa làm thợ sửa ống nước nữa.

Vặn con ốc xong xuôi, hắn nhặt ngọn nến đặt lên khay ở bồn rửa mặt, mở vòi nước.

Lần này thì cái vòi nằm yên không nhúc nhích, công sức đứng lên ngồi xuống của hắn xem ra cũng đại công cáo thành rồi.



 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom