[BOT] Convert
Quản Trị Viên
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 460 : Friedrich
Chương 460 : Friedrich
Chương 460: Friedrich
Hỏi rằng trong việc Tập đoàn tài chính Hechingen gia tăng đầu tư cho Đế quốc Áo–Hung, ai là kẻ tức giận nhất? Câu trả lời chính là các tài đoàn Do Thái, đặc biệt là gia tộc Rothschild.
Ở Đế quốc Áo–Hung có một câu nói: “Áo có một Hoàng đế Ferdinand và một Quốc vương Solomon.” Năm 1848, “Solomon” ở đây ám chỉ gia tộc Rothschild, bởi khi ấy họ đã hoàn toàn khống chế nền kinh tế và tài chính của đế quốc này.
Chính phủ Áo cực kỳ lệ thuộc vào tư bản Do Thái, nhưng tất cả đã thay đổi cùng với sự trỗi dậy của Tập đoàn tài chính Hechingen. Hai bên tại khu vực Đức quốc đã bùng nổ cuộc tranh đoạt dữ dội trong ngành tài chính. Cùng với ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, quyền chủ đạo hiện nay đã rơi vào tay Tập đoàn tài chính Hechingen.
Khủng hoảng kinh tế vốn không thể kiểm soát, cho nên cho dù là gia tộc Rothschild dày dạn kinh nghiệm cũng không tránh khỏi tổn thất. Thông thường, dựa vào tiềm lực hùng hậu, bọn họ có thể nhân lúc thị trường chạm đáy để gom mua rồi cuối cùng vẫn sinh lợi. Nhưng lần này họ lại gặp phải đối thủ là Tập đoàn tài chính Hechingen – vốn liếng dư dả không kém.
Tập đoàn tài chính Hechingen nhờ số vốn khổng lồ tích lũy được trước khủng hoảng, trong cơn biến động đã thừa cơ thâu tóm hàng loạt doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp mới nổi. Dù sao Ernst cũng rõ ràng khủng hoảng kinh tế năm 1873 kéo dài quá lâu, tiền đồ ngành công nghiệp truyền thống không hề sáng sủa.
Đồng thời, việc xây dựng tuyến đường sắt Đông Phi giúp ích to lớn cho chính phủ Áo trong việc duy trì ổn định, so ra lại đẹp mặt hơn nhiều so với cảnh tượng tham lam vô độ của tư bản Do Thái trong khủng hoảng.
Thêm vào sự thiên vị của các quý tộc như hoàng tộc Habsburg, Tập đoàn tài chính Hechingen đã thành công đẩy lùi các tài đoàn Do Thái, trở thành tập đoàn tư bản lớn nhất Đế quốc Áo–Hung.
Dù vậy, tại Anh, Mỹ, Pháp… thế lực Do Thái vẫn chiếm ưu thế. Hechingen chỉ nổi bật tại vùng đất Đức. Nhưng nội bộ Do Thái lại phân chia nhiều phe phái, vì thế cũng chẳng làm gì được Hechingen.
Thực tế, tư bản Do Thái không hề cường đại như trong tưởng tượng. Các quốc gia châu Âu phần nhiều coi Do Thái như “cái máy rút tiền”, cho dù vốn liếng có mạnh đến đâu, cũng không thể chống lại họng súng trong tay giới quý tộc Âu châu.
Nếu Do Thái thật sự muốn nắm quyền chủ đạo thế giới, trừ phi Hoa Kỳ hoàn toàn trở thành bá chủ toàn cầu. Nếu không, họ chẳng có cơ hội nào.
Về đánh giá người Do Thái, văn hào Âu châu từ lâu đã nhìn thấu bản chất: Shakespeare trong “Người lái buôn thành Venice” với nhân vật Shylock, Balzac trong “Eugénie Grandet” với lão Grandet.
Shakespeare và Balzac, bất kể lập trường thế nào, đều là bậc thầy văn học có thể nhìn thấu nhân tính qua hiện tượng xã hội, nên sự khắc họa thương nhân Do Thái kia cực kỳ sát thực.
Tất nhiên, điều đó chỉ nhắm vào những kẻ thương nhân Do Thái vô lương tâm. Nhưng đại đa số Do Thái đều là thương nhân, ngoài tầng lớp đó ra, Ernst lại có cái nhìn khá tích cực, nhất là đối với các nhà tư tưởng và khoa học gia. Thực tế chứng minh trí tuệ của Do Thái dùng trong các lĩnh vực khác thì rực rỡ, nhưng đặt trong thương nghiệp và chính trị thì biến thành tà môn.
Điều này chỉ cho thấy họ thích hợp hơn với khoa học và nghiên cứu lý thuyết. Dù sao, trình độ giáo dục của Do Thái hiện tại chắc chắn là cao nhất thế giới.
Ernst cho rằng, nếu người da đen cũng được hưởng một nền giáo dục đầy đủ, ắt hẳn cũng sản sinh không ít “thiên tài” chiếu sáng lịch sử nhân loại. Chỉ tiếc họ chẳng có cơ hội. Trí lực của con người tất nhiên có chênh lệch, nhưng sự chênh lệch đó là trên toàn nhân loại, không nên phân chia theo dân tộc hay chủng tộc.
Nếu cứ dựa vào dân tộc để đánh giá, thì Do Thái cũng chỉ là “dân tộc hạ đẳng” trong miệng Adolf, chẳng hơn gì người da đen.
Tại những quốc gia mang tính truyền thống, Do Thái vốn khó mà trở thành khí hậu. Nhưng nước Mỹ lại là quốc gia ít truyền thống nhất. Nếu không có hai lần Thế chiến, quyền lực quý tộc Âu châu không suy yếu, thì e rằng xã hội phản Do Thái ở châu Âu cũng chẳng mấy đổi thay.
Trong con mắt Ernst, kinh tế tuy là nền tảng chính trị, nhưng chính trị hiển nhiên cao hơn kinh tế. Việc này hắn quen thuộc nhất: ở kiếp trước, kẻ giàu có tuy quyền thế, nhưng trước mặt “quý tộc” thì chẳng có ưu thế gì.
Chỉ tại các quốc gia dân chủ kiểu Mỹ là khác – ở đó thượng tầng do một nhóm thương nhân thao túng, chính trị gia bị kiềm chế chặt chẽ. Một tổng thống mạnh mẽ như Roosevelt chỉ xuất hiện một lần, còn kiểu Lincoln, Kennedy mới là thường trạng.
Năm 1877.
Tháng Ba, cung điện Svet rực rỡ muôn hoa.
Cung điện Svet kết hợp đặc điểm của Hohenzollernburg và Schönbrunn, vừa uy nghiêm tráng lệ, vừa sáng sủa thoáng đãng.
Trong cung, cả gia đình đang vây quanh một sinh mệnh mới – đứa con trai đầu lòng của Ernst đã chào đời.
“Cục cưng, nhìn mẹ nào!” Ernst bế tiểu hoàng tử, ngây ngốc cười với Karina. Đôi mắt đứa trẻ còn chưa mở ra, Ernst cúi xuống hôn lên trán nàng: “Vất vả cho em rồi, người yêu!”
Karina yếu ớt nằm trên giường, nhưng khóe môi khẽ mỉm cười: “Con yêu của chúng ta.”
Ernst nắm chặt tay vợ, trêu đùa: “Nó sinh ra đã định sẵn là đại tù trưởng tương lai của Đông Phi.”
Bên cạnh, Konstantin và Ferdinand sớm đã không bằng lòng:
“Tù trưởng Đông Phi cái gì chứ? Để gia gia này ôm cháu trước đã!”
Cuối cùng Konstantin là người đầu tiên bế lấy cháu trai, thuận tiện trách móc:
“Cháu ta là người thừa kế của gia tộc Hohenzollern (Hechingen), là niềm kiêu hãnh của dân tộc Đức, sao có thể so sánh với những tù trưởng man rợ ở Phi châu? Danh hiệu ‘Vương quốc Đông Phi’ nghe khó lọt tai, phải đổi đi mới được!”
Yêu cháu hết mực, Konstantin tuyệt đối không chịu để cháu trai mang danh “thủ lĩnh Phi châu”. Bản thân ông chịu ủy khuất làm quốc vương Đông Phi thì chẳng sao, nhưng cháu trai thì không thể.
Ernst thuận theo:
“Đổi, nhưng chờ thêm hai năm. Ta cho rằng năm 1880 là lúc thích hợp nhất để đổi quốc hiệu.”
Đại công Ferdinand hỏi:
“Vì sao lại là 1880?”
“Bởi theo dự tính của ta, năm 1880, Vương quốc Đông Phi sẽ chính thức khai quốc!”
“Khai quốc ư?”
Ernst gật đầu:
“Thực ra hiện tại Đông Phi vẫn áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, chỉ là ta chưa từng công khai nói ra. Chúng ta gần như không có giao thiệp với bên ngoài, nhất là nhân dân thường dân hầu như tách biệt. Nguyên nhân vì trước kia, Đông Phi còn là một thuộc địa yếu ớt, cần thời gian phát triển, không thể lọt vào tầm mắt các cường quốc. Nhưng giờ đây, khi Âu châu ngày càng chú trọng Phi châu, và thực lực Đông Phi không ngừng lớn mạnh, thì đã chẳng còn điều kiện nào để tiếp tục ẩn giấu.”
Đại công Ferdinand cười:
“Đúng là cách nghĩ thú vị!”
Lối làm ấy của Ernst quả thực khác hẳn tư duy chủ lưu của quý tộc Âu châu, giải thích vì sao chính sách Đông Phi thường có vẻ quái lạ.
“Được rồi, lúc này bàn chính trị làm gì? Mau đặt tên cho tiểu bảo bối đi!” Konstantin không vui cắt ngang.
Thế là cả nhà lại bắt đầu tranh luận chuyện đặt tên, mà việc chọn tên quả thật chẳng đơn giản.
“Gọi là Friedrich đi!” Cuối cùng Konstantin dứt khoát quyết định.
“Friedrich?”
“Đúng vậy! Tổ tiên ta – Friedrich III, từng thêm chữ Hohenzollern vào gia tộc Zollern, khiến gia tộc Hohenzollern đời sau hưng thịnh khắp Âu châu. Ta cũng mong tiểu Friedrich này mai sau sẽ đưa gia tộc ta bước lên một tầm cao mới!”
Năm 1185, bá tước Zollern khi ấy là Friedrich III cưới con gái của bá tước Nürnberg – Konrad II. Đến năm 1192, Konrad II mất, không có con trai, Friedrich III bèn thừa kế bá quốc Nürnberg. Sau khi đồng thời cai quản hai bá quốc Zollern và Nürnberg, thế lực của ông tăng vọt, gia tộc Zollern liền thêm chữ “Hohenzollern”, nghĩa là “Cao quý”.
Cái tên Friedrich, Ernst cũng đồng ý, bởi ấn tượng của hắn, người mang tên này thường rất có năng lực. Còn chuyện trùng tên quá nhiều thì cũng chẳng cách nào khác, ở Âu châu, tên gọi có tỷ lệ “trùng lặp” vượt quá 100%.
Trong tiếng Đức, Friedrich tức Frederick, nghĩa là “người thống trị trong hòa bình”. Ngày xưa, kẻ nào mang tên ấy thường đều là quý tộc, giàu sang.
Để chúc mừng hoàng tử ra đời, Đông Phi cho nghỉ lễ bảy ngày. Mọi thành phố đều tổ chức ăn mừng, cầu phúc cho tiểu hoàng tử. Ngay từ khi vừa chào đời, tiểu Friedrich đã nhận được tình yêu thương của toàn dân.
Để kỷ niệm sự kiện này, Ernst còn đặt mua một chiến hạm bọc sắt hạng nhất từ Đế quốc Áo–Hung, lấy tên Friedrich để đặt cho con tàu.
(Hết chương)