Lịch Sử Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 440 : Về nước


Chương 440: Về nước

Ở Vienna không lâu, đoàn người Ernst phải về Đông Phi kịp chuyến tiếp, chuyến đi châu Âu này cũng kết thúc viên mãn.

Chuyến đi châu Âu, Ernst thu hoạch khá lớn, tập đoàn Hechingen sáp nhập 240 doanh nghiệp Đức, bao gồm nhiều ngân hàng và doanh nghiệp lớn, đồng thời Đông Phi kế hoạch đưa vào 43 nhà máy lớn các loại, chủ yếu luyện thép, than, đồng, luyện kim màu, đóng tàu.

Đồng thời mua lượng lớn thiết bị, chuẩn bị cho doanh nghiệp và nhà máy hiện có Đông Phi thực hiện cập nhật công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất. Ngoài ra Đông Phi và hai nước Đức-Áo lại xác định đơn hàng thép gần một triệu tấn, đảm bảo xây dựng đường sắt Đông Phi, đơn hàng Đông Phi gần như một mình cứu ngành thép hai nước Đức-Áo.

Thực tế hai nước Đức-Áo, ít nhất Nam Đức và Áo, khủng hoảng kinh tế vốn không nghiêm trọng như kiếp trước, hai nơi đều khu vực công nghiệp phát triển nhất, chủ yếu đối mặt dân số nông nghiệp dư thừa.

Mà giải quyết vấn đề dân số nông nghiệp dư thừa, tự nhiên có Đông Phi hành động, nên vấn đề không tồn tại, tỷ lệ thất nghiệp hai nơi duy trì mức thấp, dù khủng hoảng kinh tế dẫn sản lượng dư thừa, nhưng vì dân chảy đi, nên với người thường không gây nhiều ảnh hưởng, thất nghiệp thì đến Đông Phi! Luôn có lối thoát.

Kế hoạch đường sắt Đông Phi lượng thép dùng hơn tám triệu tấn, như vậy gần hai triệu tấn do châu Âu cung cấp, Đông Phi sau tự sản xuất cộng mua.

Nhân khủng hoảng kinh tế, Ernst định năm sau nâng sản lượng thép hàng năm Đông Phi ít nhất lên sáu mươi triệu tấn, chủ yếu tăng cường khai thác khu công nghiệp hồ Malawi.

Khu công nghiệp hồ Malawi hiện là khu vực sản xuất than sắt lớn duy nhất Đông Phi có khả năng khai thác quy mô lớn, Zimbabwe phải đợi đường sắt hoàn thành, nên ít nhất vài năm.

Cảng Trieste.

"Thiết giáp hạm của chính chúng ta Đông Phi!" Đại công tước Ferdinand hơi tự hào nói với gia đình. Lúc đến còn ngồi thiết giáp hạm buồm, về thay đổi hoàn toàn.

Bên cạnh hải quân Đế quốc Áo-Hung ánh mắt đầy bất lực và ghen tị.

"Ôi, đại quốc thế giới, chúng ta hiện e còn không bằng châu Phi, tương lai hải quân Đông Phi e vượt chúng ta."

"Không phải một thiết giáp hạm? Dù thiết giáp này thật mạnh hơn tàu Lissa, nhưng cũng do Áo chế tạo, là tinh hoa ngành đóng tàu Áo."

"Mong vậy! Nếu nghị viện đế chế không tăng quân phí, tương lai hải quân đế chế chỉ có thể nói tối tăm."

Hải quân Đế quốc Áo-Hung nói vậy, thực tế là cách nói phóng đại, chủ yếu phàn nàn đế chế không coi trọng hải quân, hải quân Đông Phi còn đường dài.

"Được rồi, bố, chúng ta nhanh khởi hành!" Ernst bên cạnh thúc giục.

Với quốc kỳ Đông Phi kéo lên thiết giáp hạm Đại công tước Ferdinand, sự thuộc về của thiết giáp hạm lần đầu đặt trên mặt.

Nhưng Đại công tước Ferdinand còn hơi chưa thỏa mãn: "Nếu thêm vài chiếc hoàn hảo hơn!"

Thiết giáp hạm Đại công tước Ferdinand trong Địa Trung Hải cũng là vật to lớn, nên hạm đội Đông Phi dẫn đầu bởi thiết giáp hạm Đại công tước Ferdinand, trên đường về khá thu hút, khi qua kênh đào Suez, gây chú ý người Anh.

"Chiếc tàu này là chiếc Áo chế tạo năm trước?"

"Xem ra chúng ta đoán sai từ đầu, thiết giáp hạm này không chuẩn bị cho hải quân Đế quốc Áo-Hung, từ đầu đã định bán cho người Đông Phi."

Vì đồn trú bên kênh đào Suez. Quân Anh ở đây khá hiểu Vương quốc Đông Phi, ngoài tàu Anh và tàu Đế quốc Áo-Hung, qua kênh đào Suez nhiều nhất là tàu Đông Phi.

"Thiết giáp hạm này đặt nước khác cũng đỉnh, nhưng cũng vậy." Đế chế Anh vẫn đầy tự tin.

"Nhưng Vương quốc Đông Phi một thuộc địa, mua tàu lớn thế, ngược lại không phù hợp thường lý."

"Haha, tổng tư lệnh hải quân Đông Phi là Đại công tước Ferdinand, từng là hoàng đế Mexico, Vương quốc Đông Phi sau lưng có ngân hàng Hechingen hỗ trợ, nên xem vấn đề không thể đơn thuần xem xét thuộc địa, mà xem tài lực, Ấn Độ cũng mua nổi thiết giáp hạm, chỉ dưới sự bảo vệ của hải quân hoàng gia, họ không cần làm vậy."

"Nói đến Hechingen, thực ta muốn biết, công ty thương mại viễn dương Hechingen mỗi năm kiếm bao nhiêu tiền, họ quanh năm chạy giữa Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải, chở chủ yếu nông sản và khoáng vật, làm trồng trọt châu Phi thật kiếm tiền?"

"Kiếm tiền chắc kiếm tiền, nhưng rủi ro trồng trọt lớn, người thường không đủ tư chơi trò cao cấp, đầu tư trước khá chết người, nếu không lợi nhuận ngắn hạn, tư bản không quan tâm, xét cho cùng kinh doanh kiếm tiền nhanh quá nhiều."

"Haha, ngài nói cổ phiếu? Cổ phiếu ta mua năm ngoái lao dốc, may ta chơi không sâu……"

Trong lúc người Anh nói, hạm đội Đông Phi đã đi qua, hướng biển Đỏ.

Ernst giới thiệu tình hình Đông Phi với Karina, chủ yếu bác tin đồn.

"Karina, Đông Phi thực không hoang vu như tin đồn, ít nhất khu vực chúng ta sống và châu Âu không khác mấy."

"Vậy Đông Phi thật có bộ lạc ăn thịt người?"

"Cái này…… chỉ có thể nói trước đây thật có, nhưng không tồn tại."

Bộ lạc ăn thịt người tồn tại không phải tin đồn, như xã hội bộ lạc nguyên thủy châu Phi, không thể đánh giá bằng tiêu chuẩn đạo đức thời đại.

"Vậy anh từng thấy người ăn thịt người?"

"Đương nhiên không thể, bản thân anh đến Đông Phi không lâu, sao từng thấy người ăn thịt người, đây đều là anh thấy từ tài liệu tổng hợp."

Ernst chưa gặp người ăn thịt người, nhưng binh sĩ Đông Phi mở rộng nội địa gặp, và xảy ra nhiều trận chiến.

"Vậy Đông Phi có sốt rét?"

"Em còn biết sốt rét!"

"Là bà nói với em, bà nói châu Phi khắp nơi dịch bệnh, lúc đó nếu biết hoàng tộc Hechingen định chuyển đến châu Phi, sao cũng không chọn anh làm cháu rể."

"Đây thuần bôi nhọ, môi trường Đông Phi tốt khó tin, không tin em hỏi bố mẹ, họ sống lâu ở Đông Phi, khác không dám nói, Đông Phi tuyệt đối không nguy hiểm như tin đồn châu Âu."

Công chúa Charlotte cười lớn: "Đông Phi thật không nguy hiểm, nhưng, khu vực nội địa khó nói, duyên hải khá tốt."

Ernst: "Không chỉ duyên hải, người nhiều có thể cải thiện môi trường sống, lấy Viễn Đông, Viễn Đông có nơi gọi Lĩnh Nam, cổ đại là nơi lưu đày tội phạm, trước môi trường và châu Phi tương tự, không phù hợp sống, nhưng với khai phá nhiều đời, hiện là một vùng dân cư đông đúc Viễn Đông. Đông Phi chúng ta, qua gần mười năm khai phá, cải tạo, thực tế đạt hiệu quả tương tự."

Đây không phải năng lực Đông Phi mạnh, mà môi trường Đông Phi dễ cải tạo hơn Lĩnh Nam trước, đầu tiên địa hình Đông Phi bằng phẳng, giao thông thuận tiện, thứ hai thảo nguyên dễ khai phá hơn rừng, cuối cùng trình độ sản xuất nhân loại vì cách mạng công nghiệp thay đổi lớn, khả năng cải tạo tự nhiên tăng mạnh, cuối cùng Ernst hướng dẫn anh minh thần vũ, nhiều kinh nghiệm và lý thuyết thành thục tránh Đông Phi đi đường vòng.

(Hết chương)

[1] Lĩnh Nam (trong truyện tác giả đề cập): Chỉ khu vực phía nam Trung Quốc, bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam… từng là nơi cư trú của người Bách Việt cổ.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 441 : Thuyết uy hiếp Đông Phi


Chương 441: Thuyết uy hiếp Đông Phi

Đông Phi với vị trí địa lý đặc thù, từ trước đến nay luôn dễ dàng bị người ta coi nhẹ. Đây chính là thói quen do kinh nghiệm chủ nghĩa tạo thành—trong lối tư duy ấy, chẳng ai thực sự xem châu Phi là trọng yếu. Điển hình chính là nước Mỹ hiện tại.

Mỹ có địa thế ưu việt, điều kiện tự nhiên thuộc hàng đỉnh cấp, song dù thực lực phát triển đã chỉ đứng sau Anh quốc, địa vị trên trường quốc tế vẫn không hề tương xứng. Ảnh hưởng chính trị của Mỹ chủ yếu chỉ giới hạn ở châu Mỹ: như Mexico, cùng đám tiểu quốc vùng Caribe, cơ bản đều xoay quanh Mỹ.

Trong ấn tượng của thiên hạ, châu Mỹ chưa từng sản sinh ra cường quốc có ảnh hưởng toàn cầu. Ví như sự kiện Hắc thuyền: Mỹ ép mở cửa Nhật Bản, thế nhưng Nhật hải quân học Anh, lục quân học Phổ, tuyệt chẳng buồn học Mỹ.

Đại đa số đều nhất trí rằng lục quân Mỹ yếu ớt. Lý thuyết mà nói, với quy mô lãnh thổ và tiềm lực như Mỹ, lục quân phải vượt trội hẳn Anh quốc, thế nhưng do Mexico cùng Canada quá kém cỏi, nên quân đội Mỹ chẳng có cơ hội rèn luyện phát triển.

Đã thế, ngay cả một nước mạnh như Mỹ cũng chưa đủ sức gây áp lực cho châu Âu, thì tiểu quốc Đông Phi lại càng chẳng mấy người để mắt.

Tuy nhiên, việc châu Âu cảm nhận không rõ ràng, không có nghĩa các quốc gia và thuộc địa quanh Đông Phi cũng không cảm nhận được.

Khi chiến hạm Đại Công tước Ferdinand đi ngang hải vực Dar es Salaam, đã bị người Bồ Đào Nha ở đây trông thấy.

Là láng giềng, thuộc địa Mozambique đối với tình hình phát triển của Vương quốc Đông Phi hết sức lưu tâm, còn cử người túc trực tại Dar es Salaam để thu thập tin tức.

“Đó… là chiến hạm của Đông Phi ư?”

Nhìn quốc kỳ Đông Phi tung bay trên boong, người Bồ Đào Nha có phần khó tin thốt lên.

“Nếu thật sự là thiết giáp hạm của Đông Phi, vậy thì phiền phức to rồi! Ngay cả hải quân bản thổ của vương quốc ta cũng khó lòng đối phó nổi loại chiến hạm này.”

Từ sau khi Đông Phi thôn tính miền Bắc Nam Phi, Mozambique liền ý thức rõ: mình đã bị Vương quốc Đông Phi bao trùm hoàn toàn—ba mặt đất liền tiếp giáp Đông Phi, mặt Đông tuy hướng ra đại dương, nhưng hải quân Đông Phi cũng đã bắt đầu tuần tra (thực chất là điều động hạm đội về cảng New Hamburg).

Trước kia, thực lực hải quân Đông Phi ở Ấn Độ Dương dẫu không yếu, nhưng Mozambique vẫn cho rằng chưa đủ đe dọa.

Nhưng nếu giờ có thêm thiết giáp hạm hạng nhất như Đại Công tước Ferdinand, thì tình thế đã hoàn toàn khác hẳn.

“Phải lập tức báo cáo với Tổng đốc! Nếu đó đúng là thiết giáp hạm Đông Phi vừa mua, thì thực lực Đông Phi đã kinh khủng đến mức khó tin rồi.”

Trên bộ vốn đã chẳng đánh lại, nếu còn mất luôn ưu thế trên biển, thì Mozambique e rằng đã trở thành miếng mồi béo ngay trước miệng Đông Phi.

Từ sau khi Brazil độc lập, hai thuộc địa quan trọng nhất của Bồ Đào Nha ở châu Phi là Mozambique và Angola. Trước kia, Mozambique còn đối mặt hai mối uy hiếp tiềm tàng: một là Anh, hai là Đông Phi. Nay thì chỉ còn Đông Phi.

“Những năm qua, người Đức phát triển quá nhanh. Nghe nói thuộc địa Angola cũng đã giáp ranh Đông Phi, vậy thì ngay cả bờ biển Đại Tây Dương cũng chẳng còn an toàn cho chúng ta nữa.”

“Họ lại còn thâu tóm cả Cộng hòa Transvaal cùng Vương quốc Zulu. Thế cục này chẳng khác nào đoạt mồi trong miệng sư tử từ tay người Anh.”

“Hơn nữa, nếu quả thực thiết giáp hạm này thuộc về Đông Phi, thì có nghĩa Đông Phi còn có năng lực mua thêm nhiều chiến hạm từ châu Âu. Nhìn bằng mắt thường cũng thấy lượng giãn nước của nó ít nhất năm nghìn tấn, thậm chí bảy nghìn tấn. Thiết giáp hạm cấp này giá cả cực đắt, Đông Phi đã mua nổi, vậy thì mua vài chiếc nhỏ hơn càng chẳng khó.”

“Không cần nghi ngờ, mấy năm nay Đông Phi đã mua vào không ít pháo hạm phòng thủ duyên hải, đủ thấy họ đang dần kiến lập lực lượng hải quân riêng. Dã tâm của người Đức đâu chỉ dừng lại ở lục địa Phi châu, mà còn nhắm đến cả Tây Ấn Độ Dương.”

“Đông Phi đang phá vỡ thế cân bằng của châu Phi, trong khi các quốc gia châu Âu lại chẳng nhận ra. Nếu không sớm áp chế bước phát triển của Đông Phi, tương lai e rằng lại xuất hiện một nước Mỹ thứ hai. Đến lúc đó, người Đức liệu có dựng lên một phiên bản châu Phi của ‘Học thuyết Monroe’ không?”

Người Bồ Đào Nha đúng là kẻ “đứng nói không đau lưng”. Thành tựu hôm nay của Đông Phi tuyệt chẳng phải ai bố thí ban cho. Huống chi, điểm xuất phát của Đông Phi kém xa Bồ Đào Nha.

Trước Đông Phi, chính Bồ Đào Nha đã mở được tuyến thương lộ xuyên qua Angola đến Mozambique. Nếu Bồ Đào Nha có chút khí phách, đã chẳng để Đông Phi vượt lên sau rồi chiếm cứ nội lục Phi châu.

Nói đến uy hiếp, Đông Phi ngược lại cảm thấy chính Bồ Đào Nha mới là mối đe dọa: Angola một bên, Mozambique một bên, Đông – Tây giáp công, vừa khéo kẹp chặt Đông Phi ở giữa.

Nếu những năm qua, Bồ Đào Nha biết chú trọng phát triển Mozambique và Angola, củng cố sức mạnh thuộc địa, thì cục diện e rằng đã đảo ngược.

Nhưng thực trạng Bồ Đào Nha thế nào, thiên hạ đều biết: vét tiền từ thuộc địa thì chẳng chút nương tay, còn muốn họ viện trợ thuộc địa ư? Đừng mơ! Ngay cả trong nước cũng đã túng thiếu không gượng nổi.

Song trong mắt người Bồ Đào Nha, Đông Phi phát triển chính là mối uy hiếp. Họ không dốc sức cho thuộc địa, đó là chuyện “đương nhiên”. Ai lại coi thuộc địa như bản thổ mà phát triển chứ!

“Dạo gần đây, số tàu thuyền từ châu Âu cập cảng Đông Phi ngày một nhiều, phần lớn chở thép. Điều đó chứng minh Đông Phi đang đại quy mô kiến thiết. Một khi công trình xây dựng chấm dứt, tức là họ đã tiêu hóa xong nội lục châu Phi.”

“Đông Phi gom nhiều thép như vậy để làm gì?”

“Tôi đoán là để làm đường sắt.”

“Đường sắt? Có khả năng không?”

“Chỉ cần tai không điếc thì đều nghe rõ còi tàu hú ở ngoại ô Dar es Salaam. Đó là âm thanh đặc hữu của xe lửa. Tuy Đông Phi đóng kín, nhưng từ đây cũng đủ suy đoán họ đã có đường sắt. Tôi dám khẳng định, đây là quốc gia duy nhất ở phía nam sa mạc Sahara sở hữu đường sắt.”

“Hơn nữa, mấy năm qua, châu Âu phát triển đường sắt nhanh nhất chính là nước Đức. Vai trò quân sự của đường sắt đã được chứng minh trong Chiến tranh Phổ – Áo và Phổ – Pháp. Thế nên Đông Phi coi trọng đường sắt là điều hợp lý. Trọng yếu hơn cả, chỉ có đường sắt mới tiêu hao nổi từng ấy thép.”

“Thế Đông Phi sẽ xây đường sắt thế nào?”

“Cứ xét lãnh thổ Đông Phi mà suy. Người ngoài không rõ, nhưng ta đoán được. Trước kia Đông Phi đã chiếm cả Transvaal lẫn Zulu. Khoảng cách từ Đông Phi đến Nam Phi ít nhất hai ngàn cây số. Anh nghĩ phương tiện nào có thể nối liền chặt chẽ hai nơi ấy?”

“Anh bỏ tiền ra không?”

“Ừm!”

“Đồ ngu! Ngươi tưởng châu Phi là châu Mỹ hay châu Âu chắc? Dùng để kết nối Đông Phi với Nam Phi? Ngươi biết tuyến đường ấy tốn kém đến cỡ nào không? Xây đường sắt dài như thế để cho bọn thổ dân đi à? Bao giờ mới thu hồi vốn? Mấy trăm năm cũng chưa chắc!”

“Ta thấy, Đông Phi nếu xây được đường sắt dọc duyên hải đã là ghê gớm lắm rồi. Còn muốn thông suốt Đông Phi với Nam Phi? Trừ phi Hoàng thất Hohenzollern thật sự muốn làm từ thiện. Vấn đề là, làm từ thiện cũng hiếm quốc gia nào chịu nổi thử thách như thế. Chỉ riêng khoản tiền đã khó giải quyết, trừ phi thuyết phục được gia tộc Rothschild đầu tư. Nhưng họ ngu chắc? Trừ phi Đông Phi có vàng.”

Mà trên thực tế, Đông Phi đúng là có vàng. Song vàng ở đây hoặc không khai thác, hoặc khai thác thì cũng không đưa ra thị trường quốc tế. Giới tài phiệt quốc tế mẫn cảm chẳng khác nào chó săn; nếu thật sự có lượng lớn vàng đổ vào thị trường, ắt nhanh chóng lần ra nguồn gốc.

Thành ra, xuất khẩu Đông Phi vẫn chủ yếu dựa vào nông sản. Muốn châu Âu sang Phi đào vàng, họ vui mừng khôn xiết, tự bỏ tiền cũng lặn lội tới. Nhưng muốn họ sang Phi trồng trọt, thì chẳng ai ngó ngàng. Đây chính là cái gọi là “danh xấu” của châu Phi—bài học kết tinh từ máu và nước mắt của vô số nhà thám hiểm suốt mấy trăm năm qua.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 442 : Ẩn nhẫn dưỡng sức


Chương 442: Ẩn nhẫn dưỡng sức

Đoàn người của Ernst cập bến tại tân cảng Dar es Salaam, sau đó đổi sang tàu hỏa đi về thành phố Trấn Thứ Nhất. Lúc này, tuyến đường sắt Đệ Nhất đã vô cùng bận rộn.

Là một phần của tuyến đường sắt trung ương, tuyến đường sắt Đệ Nhất phụ trách việc vận chuyển liên tục vật tư xây dựng đường sắt mua từ hải ngoại ra tuyến thi công chính.

Thuận tiện theo đó, khu tân cảng Dar es Salaam cũng được phát triển mạnh, một loạt xưởng luyện thép mọc lên tại đây, nhà máy đầu máy xe lửa do Đông Phi tự xây dựng cũng được đặt ở khu tân cảng.

Những ống khói cao vút lần lượt mọc lên ở tân cảng, hàng loạt ngành nghề an trí vô số dân cư đến đây lập nghiệp, khiến cho sự phồn hoa của khu tân cảng suýt sánh kịp khu kinh tế mở của thành phố Dar es Salaam. Vì hai khu vực kề sát nhau, không ít thương thuyền không rõ tình hình thường nhầm tân cảng là cảng cũ Dar es Salaam. Do đó, hải quân Đông Phi cũng phải tăng cường lực lượng, hướng dẫn các thương thuyền vào đúng cảng cũ.

Mặc dù bằng mắt thường có thể thấy rõ tân cảng phát triển hưng thịnh, nhưng những số liệu cụ thể thì tuyệt đối không để người ngoài nắm được. Đây cũng coi như một cách Đông Phi ngăn cản việc lộ lọt thông tin.

Đông Phi đã bước qua giai đoạn phát triển như đi trên băng mỏng, kế tiếp chính là ẩn nhẫn dưỡng sức, âm thầm phát tài – loại tư tưởng này Ernst là người am hiểu nhất.

“Còn hưng thịnh hơn nhiều so với lúc ta rời đi!” Đại công tước Ferdinand cảm khái.

Ernst bên cạnh nói: “Tất cả đều nhờ vào công cuộc xây dựng tuyến đường sắt trung ương. Việc kiến thiết tuyến đường sắt trung ương có ba trọng điểm: một là khu công nghiệp hồ Malawi, một là điểm khởi đầu Dar es Salaam, và một là điểm cuối cảng Tân Hán Bảo. Cảng Tân Hán Bảo còn cần thời gian để kiến thiết, vì vậy chỉ có thể ưu tiên phát triển khu tân cảng Dar es Salaam vốn có điều kiện cơ bản tốt hơn.”

Thép phục vụ cho xây dựng đường sắt chỉ có hai nguồn: một là mua từ nước ngoài, hai là Đông Phi tự sản xuất. Hiện tại, Đông Phi chỉ có hai nơi có thể độc lập sản xuất thép: khu công nghiệp hồ Malawi và vành đai công nghiệp phương Bắc. Vành đai công nghiệp phương Bắc phụ trách công trình tuyến đường sắt phương Bắc, còn tuyến đường sắt trung ương quy mô to lớn thì hoàn toàn dựa vào khu công nghiệp hồ Malawi.

Điều kiện khi Đông Phi xây dựng khu công nghiệp hồ Malawi ban đầu có thể nói là cực kỳ gian khổ, đặc biệt là về phương diện giao thông.

Các thiết bị lớn đều phải dựa vào sức người kéo ngựa thồ, hơn nữa đường sá khu công nghiệp hồ Malawi lại không tốt. Những năm gần đây, sản lượng xi măng Đông Phi mới tăng lên, mới có thể dần cải thiện điều kiện giao thông nơi đây.

Thực ra, khu công nghiệp hồ Malawi vốn là một khu công nghiệp mang tính chiến lược. Khi đó Ernst đã tính đến tình huống một khi vùng duyên hải Đông Phi thất thủ, vương thất Hechingen vẫn có thể rút vào nội lục để chỉ huy phản công.

Cho nên, mặc dù thành phố Mbeya nằm sâu trong nội lục, nhưng sự phát triển lại không hề thua kém Dar es Salaam hay Mombasa ven biển, vốn được nuôi dưỡng như một kinh đô dự bị.

Bất quá, theo sự gia tăng thực lực quốc gia Đông Phi, suy tính này nay đã không còn cần thiết, nhưng địa vị trung tâm công nghiệp nặng của Mbeya đã được xác lập, và sẽ tiếp tục duy trì cho đến khi khu công nghiệp nặng vùng Zimbabwe phát triển lên.

Hiện nay, khó khăn trong phát triển Zimbabwe tương tự với khu công nghiệp hồ Malawi ban đầu, chính là giao thông bất tiện, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Hồ Malawi còn có thể dựa vào thủy vận hạ lưu sông Ruvuma để rút ngắn một phần hành trình, còn Zimbabwe thì hoàn toàn không có điều kiện này, cho nên nếu không có đường sắt, tiềm năng Zimbabwe hoàn toàn không phát huy được.

Lần đầu đặt chân đến Đông Phi, Karina ở một bên nói: “Xem ra Đông Phi phát triển cũng khá đấy chứ, về phương diện thành thị, ngoài dân cư ít hơn, thật ra cũng chẳng khác mấy so với Áo.”

“Thật ra so sánh như vậy là không đúng.” Ernst giải thích: “Lấy Viên làm ví dụ, dân số đã vượt quá năm mươi vạn, có thể sánh ngang trực tiếp với vài tiểu quốc. Chỉ riêng giá trị kinh tế của thành Viên e rằng còn cao hơn cả tổng giá trị kinh tế mà toàn Đông Phi tạo ra. Vì vậy, nếu đem Đông Phi so với Áo, thì chúng ta còn kém rất xa.”

Ernst cố ý tách rời giá trị mà tập đoàn Hechingen tạo ra tại Đông Phi khỏi Đông Phi. Có Hechingen, Đông Phi chẳng khác nào bật “ngoại lực phụ trợ”; còn nếu không có Hechingen, Vương quốc Đông Phi cũng chỉ là một thuộc địa diện tích rộng lớn mà thôi.

“Ngươi thì cứ lén mà vui đi! Một vùng đất tốt như vậy, không bị kẻ khác nhòm ngó, mới để ngươi chiếm được chỗ trống. Nếu khi xưa Áo tránh cạnh tranh với Phổ, chọn phát triển châu Phi thì sẽ thế nào?” Đại công tước Ferdinand chợt hứng trí nói.

“Thì cũng chẳng thế nào cả. Nếu để Áo phát triển châu Phi, ta dám khẳng định, nhiều lắm cũng chỉ đạt đến trình độ như lân quốc Bồ Đào Nha. Phát triển thuộc địa là phải có khí phách, còn muốn xây dựng châu Phi thành mức độ như Đông Phi hiện nay, lại càng cần giai đoạn đầu bỏ vốn không tiếc, chuẩn bị tinh thần vận hành thua lỗ lâu dài. Chỉ có tiền thôi cũng không đủ, còn cần năng lực tổ chức mạnh mẽ – mà đây đều là thứ Áo thiếu.”

“Hơn nữa, Áo không giống ta – một ‘cá thể đơn lẻ’. Hành động nào của Áo cũng sẽ thu hút sự chú ý của các quốc gia châu Âu. Nếu là Áo trực tiếp ra mặt, thì ít nhất Anh, Pháp sẽ không ngồi yên.”

Ernst tự xưng “cá thể đơn lẻ”, kỳ thực có phần khoa trương, nhưng công ty thực dân hay cá nhân đơn độc tiến hành hoạt động thuộc địa hải ngoại, vốn là chuyện thường thấy của thời đại này.

Như các thuộc địa Anh quốc phần nhiều cũng từ đó mà ra – Ấn Độ chính là do Công ty Đông Ấn khai phá, sau đó mới giao cho chính phủ Anh tiếp quản.

Trong lịch sử, các thuộc địa của Đức cũng đa phần như vậy – Đông Phi và Tây Nam Phi đều do công ty tư nhân phát triển, sau đó xin quốc gia bảo hộ, cuối cùng mới sáp nhập vào hệ thống thuộc địa của Đức.

Điểm khác biệt lớn nhất giữa việc Ernst khai phá châu Phi với những thương nhân, công ty hay đoàn thể thuộc địa ấy chính là: hắn thực sự coi Đông Phi là sản nghiệp của nhà mình để khai thác, và đi theo con đường phát triển lâu dài. Về điểm này, hắn lại giống quốc vương Leopold II của Bỉ.

Có điều, mục đích cuối cùng của Leopold II vẫn chỉ là hút tiền từ châu Phi, còn Ernst thì đi theo con đường độc lập lập quốc – đây là sự khác biệt căn bản, chỉ có thể nói mỗi người theo đuổi một chí hướng khác nhau.

Tất nhiên, cũng liên quan đến điểm khởi đầu khác biệt. Với tầm nhìn của Ernst, Thân vương quốc Hechingen chỉ là một thị trấn nhỏ. Dù nước Đức có không sụp đổ như lịch sử, thì cùng lắm hắn cũng chỉ có thể làm thị trưởng ở Đức. Thay vì chen chúc ở Đức, chẳng thà dấn thân vào châu Phi. Chỉ những kẻ từng sống và làm việc ở châu Phi như Ernst mới có thể thấu hiểu điều kiện tự nhiên của nơi này tốt đến nhường nào – điều mà đương thời phần lớn người châu Âu đều không nhìn ra.

Thử hỏi các quý tộc châu Âu khác mà lựa chọn, ắt hẳn bọn họ tình nguyện làm quý tộc ở châu Âu, chứ chẳng mấy ai muốn đến châu Phi làm tù trưởng. Tiểu quý tộc có thể suy nghĩ khác, nhưng tiềm lực kinh tế lại không thể sánh bằng đại quý tộc như Ernst.

“Haizz, dẫu sao thì, phát triển ở Đông Phi cũng còn tốt hơn nhiều so với lúc ta làm hoàng đế ở Mexico. Ngồi trên ngôi vị ấy, bề ngoài thì vẻ vang, nhưng thực chất chỉ là con rối trong tay các thế lực, cho dù có chí hướng cũng chẳng được thấu hiểu, ngược lại còn bị chèn ép tứ phía. Còn Đông Phi thì như một tờ giấy trắng, muốn vẽ thế nào cũng được. Có lẽ đây chính là sự khác biệt giữa khởi nghiệp độc lập và đi làm thuê cho người ta.” Lời “đi làm thuê” mà đại công tước Ferdinand nói, kỳ thực chính là chỉ việc làm công cho Napoléon III cùng các thế lực ở Mexico.

“Ấy là do người Mexico mắt mù lòng tối. Thực ra, nếu họ không thoát khỏi sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ, tương lai nhất định sẽ tự rước họa. Giờ người Mỹ còn giả vờ giả vịt, ấy là vì lực lượng Anh, Pháp còn chưa rút khỏi châu Mỹ. Một khi những thế lực cân bằng ấy rút đi, người Mỹ sẽ lộ ra nanh vuốt, đến lúc đó toàn bộ châu Mỹ chẳng qua cũng chỉ là món đồ chơi trong tay họ. Ngay cả cơ hội đu dây giữa các thế lực cũng chẳng còn.”

Hiện tại, danh tiếng của Mỹ tại châu Mỹ còn cực tốt. Thuyết Monroe nói nghe rất hay: “Châu Mỹ của người châu Mỹ”, khiến các quốc gia Nam – Bắc Mỹ thêm phần hứng khởi, bảo bọn thực dân châu Âu cút đi mau. Nhưng một khi thực sự thành hiện thực, thì bọn họ sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa.

Đương nhiên, Ernst nói vậy cũng là để an ủi đại công tước Ferdinand. Thực ra năng lực của đại công tước cũng không tệ, chỉ là quá ngây thơ, quá mềm yếu. Ông ta thật sự muốn phát triển Mexico, nhưng người Mexico chỉ nghĩ đến tranh quyền đoạt lợi, nên hoàng đế tất phải bị kéo xuống trước tiên.

Suy cho cùng, tư tưởng của chính khách Mexico vẫn chỉ là “ta lên thì cũng làm được”, nhưng hàng trăm năm lịch sử đã chứng minh – bọn họ thật sự không làm được.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 443 : Về nhà


Chương 443: Về nhà

Tại thành phố Trấn Thứ Nhất, đoàn người nhận được sự chào đón nồng nhiệt. Đây là lần thứ hai xuất hiện cảnh tượng này, lần trước là khi Constantine đến Đông Phi. Ernst tuy cũng từng đến Trấn Thứ Nhất, nhưng khi đó vội vã tham gia chiến trường phương Nam.

Lần này thì khác, lễ cưới Thái tử tất nhiên phải được tổ chức long trọng hơn. Vừa đặt chân đến Trấn Thứ Nhất, Ernst và Karina lại cử hành một buổi “tái hôn” theo nghi thức ở nơi đây.

So với Vienna, dĩ nhiên Đông Phi không có nhiều khách quý, chỉ đơn giản là nhận lời chúc mừng từ các thuộc hạ, sau đó cả gia đình cùng quây quần tại cung điện Swat.

“Karina, ta chẳng có gì quý giá hơn, đây là vương miện ta đặc biệt nhờ người chế tác tại châu Âu, xem như lễ vật gặp mặt dành cho con.” Constantine mỉm cười, ra hiệu cho thị vệ dâng vương miện.

Con trai cuối cùng cũng thành thân, bước tiếp theo tất nhiên là mong có cháu nối dõi, kế thừa cơ nghiệp to lớn của vương thất Hohenzollern-Hechingen. Với Constantine, điều này vô cùng trọng yếu. Quý tộc châu Âu coi trọng gia tộc hơn cả bản thân, gia tộc hưng thịnh chính là niềm kiêu hãnh lớn nhất.

Dòng họ Hechingen tuy cùng thuộc Hohenzollern như hoàng thất Phổ và vương thất Sigmaringen, nhưng chỉ khi chi hệ Hechingen quật khởi mới hợp ý Constantine. Mà sự hưng thịnh ấy, trước hết phải bắt đầu từ nhân đinh đông đúc, quyền thế và tài phú song toàn. Hiện tại quyền và tài đã có, chỉ còn thiếu người kế tục.

“Đa tạ bệ hạ!” Karina cung kính đáp.

Đây chính là sự dạy dỗ từ gia tộc Habsburg, cũng như ảnh hưởng của Thái hậu Sophie.

“Đội thử xem nào!” Ernst liền lấy vương miện đặt lên đầu Karina. Dưới ánh sáng bảo thạch, nàng lại càng rạng rỡ xinh đẹp.

Ở châu Âu, phụ nữ hoàng thất khi đã thành hôn có thể đội vương miện. Thực chất, loại trang sức này giống như trâm cài tóc, công dụng chủ yếu là để tô điểm nhan sắc.

Vương miện của Thái tử phi khiến công chúa Charlotte bên cạnh phải nhìn đến ngây dại. Cũng khó trách, Đông Phi chưa bao giờ thiếu bảo thạch quý giá. Ngay cả Kenya, vùng vốn ít tài nguyên, cũng sản xuất nhiều loại đá quý. May mắn là Đông Phi thực hiện kinh tế kế hoạch khép kín, nếu không dân chúng đã bỏ hết việc đồng áng để đi đào “đá”. Tình cảnh đó chính là thực trạng ở nhiều thuộc địa khác: lương thực giá trị không cao, lại dễ dư thừa, trong khi đá quý, vàng bạc lợi nhuận khổng lồ nên được thực dân ra sức khai thác.

Nhưng hậu quả chính là nông nghiệp suy kiệt, dân chúng bần cùng, đến cái ăn cũng không đảm bảo.

Tiền kiếp, Brazil chính là một ví dụ điển hình. Trong ấn tượng của nhiều người, Brazil nghèo khổ, khu ổ chuột nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng thực ra Brazil rất mạnh: công nghiệp và nông nghiệp đều không kém. Diện tích canh tác tới 1,2 tỷ mẫu, khí hậu ưu việt, cây trồng một năm ba vụ, dân số chỉ hơn 200 triệu. Sản lượng lương thực hàng năm hơn 200 triệu tấn, bình quân đầu người một tấn, vượt xa nhiều quốc gia đông dân, sánh ngang với Mỹ. Brazil còn là cường quốc xuất khẩu nông sản: cà phê, đường mía đứng đầu, đậu nành đứng thứ hai toàn cầu. Theo lý, dân Brazil không thiếu ăn.

Thế nhưng hơn một nửa dân số lại không được no đủ. Nguyên nhân đến từ tỉ lệ đô thị hóa phi lý, vượt 85%, trong khi công nghiệp không đủ sức chứa lao động. Hệ quả là phần lớn dân cư trôi dạt vào “ngành công nghiệp xám”, tội phạm và băng đảng hoành hành.

Nói đến công nghiệp, Brazil vẫn lọt top mười toàn cầu, thậm chí có ngành chế tạo máy bay độc lập, đủ sức chiếm lĩnh một phần thị trường quốc tế. Trong mắt Ernst, thế đã là vô cùng lợi hại. Nhưng vấn đề là thành quả kinh tế không hề phân phối cho bình dân, phân hóa giàu nghèo cực kỳ nghiêm trọng.

Bởi vậy Ernst kết luận: quốc gia muốn vững thì “vô nông bất ổn, vô công bất cường, vô thương bất phú”.

Nông nghiệp ổn định mới là nền tảng tồn vong, công nghiệp mới đem lại sức mạnh, còn thương nghiệp mới mang lại phú túc.

Nông nghiệp lo đủ cái ăn mới thúc đẩy công nghiệp phát triển, giảm lệ thuộc ngoại vốn. Đông Phi vốn có thể dựa nông nghiệp để tự phát triển, nhưng tốc độ sẽ rất chậm. Chỉ nhờ “tăng tốc cơ học” từ tài lực Hechingen, Đông Phi mới bứt phá. Xét đến cùng, Hechingen Bank cũng là “ngoại vốn” — dòng sản lượng tràn ra từ Đức. Trò chơi của Ernst chẳng qua là “tay trái vay, tay phải trả”, nhưng vốn xoay một vòng, công nghiệp Đông Phi đã dựng thành khung xương.

Còn thương nghiệp, mục đích chẳng qua là “bỏ tiền người vào túi mình”. Có ba cách: cướp đoạt (chủ nghĩa thực dân), lừa gạt (tài chính), và giao dịch (ngoại thương). Đông Phi cả ba đều có. Hai mươi triệu dân Phi hắc chính là sản vật của “cướp đoạt”. Tài chính tuy không có điều kiện phát triển, nhưng Hechingen Bank thì đang “cắt cỏ” châu Âu, lợi nhuận tăng vọt nhờ khủng hoảng. Còn thương mại xuất khẩu thì khỏi phải nói.

Nghĩ đến đây, Ernst hơi ngẩn người, thầm cảm thấy bản thân quả thật tàn nhẫn. Nhưng rồi tự nhủ: nếu mình không lấy, cũng sẽ bị Do Thái hay các nhà tư bản khác thâu tóm, chẳng thà lấy để phát triển Phi châu còn hơn.

Đang miên man, Constantine không hài lòng:

“Ernst, đừng ngẩn người nữa, hôm nay là đại hỷ, nào phải lúc nghĩ chuyện quốc sự!”

“Vâng, phụ vương nói đúng. Con chỉ là mải ngắm Karina đến ngây người thôi!” Ernst ứng biến.

Karina nghe vậy liền đỏ mặt, nhưng ai cũng hiểu, giữa quý tộc thì tâng bốc nhau là chuyện thường.

“Hừ, tốt nhất là vậy.” Constantine gật gù.

“Đại công tước, lần này chi bằng ngài và phu nhân cũng dọn đến Trấn Thứ Nhất ở. Nói cho cùng, Karina đến Đông Phi, bạn bè thân thích còn ít, rất cần cha mẹ bầu bạn.” Constantine quay sang đề nghị với Ferdinand.

Trước đây vì công vụ hải quân, Ferdinand thường trú ở Bagamoyo. Nhưng nay hải quân Đông Phi đã thành hình, lại có sự trợ lực từ Áo, chẳng cần ông phải tự thân lao lực nữa. Hơn nữa, Constantine nghĩ đến việc Ferdinand khi sang Mexico đã để con gái ở lại Schönbrunn, thì nay để cha mẹ đoàn tụ bên con cũng xem như bù đắp.

“Được thôi, đợi ta thu xếp ổn thỏa việc hải quân, ta và Charlotte sẽ dọn về.” Ferdinand gật đầu.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 444 : Nạn châu chấu và thừa lửa hôi của


Chương 444: Nạn châu chấu và thừa lửa hôi của

Sau khi thành thân, công việc mà Ernst cần xử lý cũng không ít. Tiến độ xây dựng đường sắt và nhà máy nhìn chung không có vấn đề lớn, còn việc cải tạo sông ngòi và kênh rạch thì do Constantine giám sát.

“Điện hạ, đây là bức điện gửi về từ tỉnh Phía Bắc. Theo tin tức từ chính quyền địa phương, nước láng giềng – Vương quốc Hồi giáo Wasangali – đã bùng phát nạn châu chấu.”

Ernst nhận lấy bức điện đọc qua:

“À, chuyện này sao! Ừm… châu chấu sa mạc, lão bằng hữu rồi.”

Nói là “lão bằng hữu” cũng không quá lời, bởi kiếp trước Ernst từng có va chạm với loài châu chấu sa mạc này. Đặc biệt, khi mạng Internet thổi phồng quá mức, khiến loại côn trùng này như thể một “dịch bệnh bất trị”, điều ấy khiến Ernst lúc còn làm việc tại Tanzania cũng phải lắc đầu.

Trong đó, lời đồn thổi lố lăng nhất chính là vào năm 2020: “Châu chấu sa mạc vượt qua Hồng Hải, xâm nhập Ấn Độ, thậm chí có thể tiến vào Viễn Đông.”

Chưa nói đến việc loài châu chấu này có thích nghi được với khí hậu Viễn Đông hay không, chỉ riêng nguồn gốc của nạn châu chấu ấy thực tế phát sinh từ bán đảo Ả Rập. Thế nhưng, truyền thông thiếu lương tâm lại cố tình ghép hình ảnh Kenya và Somalia, khiến thiên hạ ngộ nhận rằng châu chấu từ châu Phi vượt Hồng Hải sang Ấn Độ.

Thực tế, nạn châu chấu năm ấy quả có vượt Hồng Hải, nhưng là từ bán đảo Ả Rập bay sang Somalia và Kenya. Căn nguyên của dịch nạn nằm ở sa mạc Rub’ al Khali, thuộc lãnh thổ Ả Rập Xê Út, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Oman cùng Yemen. Thế nhưng Ả Rập Xê Út và UAE – vốn là cường quốc giàu có Trung Đông – lại không hề phát huy vai trò, trong khi Yemen lúc đó còn nội loạn, không kịp rải thuốc trừ sâu, dẫn đến châu chấu sinh sản vòng hai, cuối cùng hình thành nạn châu chấu trăm năm hiếm thấy. Kẻ chịu hại thực sự lại là châu Phi.

Somalia vốn đã đói kém, gặp thêm nạn châu chấu càng thêm khốn đốn. Ngược lại, Kenya vẫn khá hơn đôi chút, nhưng tác hại cũng không nhỏ, khiến những gia đình vốn đã không dư dả lại càng thêm khổ.

Chỉ nghe tên cũng rõ, “châu chấu sa mạc” chủ yếu hoạt động tại vùng sa mạc và bán sa mạc. Những nơi có thể bị đe dọa là khu vực giao thoa giữa sa mạc và thảo nguyên khô cằn. Một khi bùng phát quy mô lớn, vùng ảnh hưởng sẽ rộng hơn, nhưng “ảnh hưởng” không đồng nghĩa “chịu họa”.

Phạm vi ấy bao gồm toàn bộ Bắc Phi (sa mạc Sahara), vùng duyên hải Hồng Hải, bán đảo Ả Rập, tiểu lục địa Nam Á (tức Tây Bắc Ấn Độ ngày nay), cùng vùng Sừng châu Phi.

Đối với lãnh thổ Đông Phi, khu vực có khả năng bị châu chấu xâm nhập gồm: tỉnh Turkana (cao nguyên Ethiopia), tỉnh Phía Bắc và tỉnh Juba (Somalia), tỉnh Phía Đông và tỉnh Nam Prussia = Phổ Lỗ Sa (Kenya), cùng với Uganda, Nam Sudan, và một phần Tanzania.

Những vùng này đều thuộc dạng giao thoa, tức nửa ẩm ướt nửa khô hạn. Châu chấu sa mạc không thích nghi được khí hậu ẩm ướt phía nam. Nhưng cho dù vậy, diện tích có nguy cơ chịu họa tại Đông Phi vẫn vượt quá một triệu km², nên nhất định phải có biện pháp phòng ngừa.

“Thông báo cho Bộ Nông nghiệp, yêu cầu các trung tâm phòng chống sâu bệnh tại các địa phương phía bắc sẵn sàng ứng phó, tránh dịch lan rộng. Đặc biệt, tỉnh Phía Đông và tỉnh Nam Phổ Lỗ Sa phải phòng thủ nghiêm ngặt, tận dụng ưu thế nhân lực, không để xảy ra tai họa lớn.”

Đối với châu chấu sa mạc, Đông Phi không có cách diệt tận gốc, chí ít là hiện tại không đủ sức, chỉ có thể hạn chế tổn hại.

Ernst vốn có trong tay một bộ phương án hoàn chỉnh, nhưng chưa có đất dụng võ. Nguyên nhân chính là vì dân số Đông Phi tại khu vực Somalia quá ít.

Biện pháp hiệu quả nhất là dùng công nghệ hiện đại – thứ này Đông Phi chưa đủ lực. Tiếp đó là “chiến thuật biển người”, huy động dân chúng bằng nhiều cách thủ công để tiêu diệt châu chấu.

Nhưng dân số Đông Phi tại Somalia chỉ hơn ba mươi vạn, trong khi diện tích sa mạc lên đến cả chục vạn km². Không thể nào bắt người dân tràn vào sa mạc để phá ổ châu chấu, chuyện ấy hoàn toàn phi thực tế.

Biện pháp sinh học cũng không khả thi. Châu chấu sa mạc khác với loài châu chấu thường – chúng sinh sống giữa sa mạc. Nuôi gà, nuôi vịt chống châu chấu ở đó? Hoàn toàn viển vông!

Tương tự, sinh vật khác cũng khó tồn tại trong sa mạc, nên dựa vào biện pháp sinh học để trị châu chấu gần như là vô vọng. Khi nạn châu chấu bùng phát, ngoài công nghệ hiện đại, gần như không còn cách nào hữu hiệu.

Dù vậy, Đông Phi cũng không phải hoàn toàn bó tay. Dân số Somalia ít, nhưng Kenya lại đông, đặc biệt là miền nam. Miền nam Kenya còn là vùng sản xuất bông và cà phê trọng yếu của Đông Phi, cho nên càng phải khẩn trương huy động dân lực để phòng ngừa châu chấu.

Biện pháp gồm giám sát lộ tuyến di cư của châu chấu, tiến hành can thiệp thủ công tại khu vực đẻ trứng: xới đất, đốt lửa, dội nước – đều là phương án hữu hiệu.

Thực ra, một khi châu chấu tiến nhập cao nguyên Đông Phi, khí hậu và địa hình nơi này sẽ tự cản trở chúng. Châu chấu sa mạc phụ thuộc rất nhiều vào hướng gió, đa phần chỉ bay thuận gió. Nhưng phần lớn Đông Phi lại nằm trong vùng gió tín phong đông nam, nên muốn tiến vào cao nguyên thì chúng phải bay ngược gió – chuyện này cực khó.

Chưa hết, cao nguyên Đông Phi càng lên cao thì nhiệt độ càng giảm, trong khi châu chấu sa mạc ưa khí hậu nóng – nhất là trên 40°C mới sinh sôi mạnh. Đó cũng là lý do tại sao chúng không thể tràn vào vùng ôn đới (như châu Âu).

Vậy nên, sau khi bùng phát ở miền bắc Đông Phi, phần lớn đàn châu chấu sẽ theo gió mùa tây nam bay về phía bán đảo Ả Rập và tiểu lục địa Nam Á (Ấn Độ).

Lần này, nạn châu chấu phát khởi tại miền bắc Somalia. Như vậy, Đông Phi chỉ cần tập trung phòng thủ khu vực nông nghiệp trọng yếu của Kenya là được. Còn phần lãnh thổ Somalia thuộc Đông Phi, đành phải phó mặc số trời.

Hệ quả lớn nhất cũng chỉ là giá chuối Somalia xuất khẩu sang châu Âu tăng vọt. Đợi dịch qua, trồng lại cũng không muộn. Dù sao, quanh năm nơi ấy khí hậu tương đối ổn định, lại có sông Shebelle và Juba tưới tiêu, có thể tái sản xuất bất cứ lúc nào.

“Tiếp theo, phải lo điều tiết lương thực, bảo đảm an ninh lương thực tại Somalia. Đồng thời, hãy liên lạc với thương nhân Zanzibar, nếu dịch lan đến Trung Đông, ta phải lập tức chiếm lĩnh thị trường, cung ứng lương thực thay thế.”

Trung Đông mà chịu nạn, đó lại là tin mừng cho Đông Phi. Nếu lần nào nạn châu chấu cũng giúp mở rộng thị trường, Ernst thậm chí còn mong thứ “phúc họa lẫn lộn” này mỗi năm đều ghé thăm.

Dù vùng bắc Đông Phi chịu thiệt hại ít nhiều, nhưng nơi ấy vốn không phải trọng điểm nông nghiệp của vương quốc. Tại Somalia, phần lớn lương thực đều từ cảng Dar es Salaam và Mombasa vận chuyển đến.

Không đầu tư nhiều, tổn thất cũng chẳng lớn. Chuối Somalia có thể quan trọng với dân bản địa, nhưng tại Đông Phi thì hoàn toàn có thể thay thế.

Các khu vực nông nghiệp trọng yếu của Đông Phi có thể chia thành ba vùng chính: cao nguyên Đông Phi chuyên trồng lúa mì, vùng duyên hải chuyên trồng lúa nước, và khu vực hồ lớn – nơi trồng đa dạng.

Kế đến là Zambia, Zimbabwe, tỉnh Turkana, rồi đến đồng cỏ phía bắc, khu vực trồng cao su núi Mitumba, cuối cùng mới tính đến Somalia (tỉnh Phía Bắc và tỉnh Juba).

Như vậy, các vùng trồng lương thực và cây công nghiệp quan trọng hầu như không bị ảnh hưởng bởi châu chấu. Nếu ở các quốc gia tự do kinh tế, e rằng đã sụp đổ vì thảm họa.

Nhưng vương quốc Đông Phi lại không theo mô hình ấy. Một khi có vùng bị thiên tai, nhà nước sẽ đứng ra gánh chịu, nông dân vì thế không phá sản, không phá sản thì xã hội cũng không động loạn.

Còn ở Trung Đông thì khác. Một khi mất mùa nghiêm trọng, thì cả Đế quốc Ottoman và Ai Cập cùng các thuộc địa khác sẽ phải đau đầu.

Ernst thậm chí còn không mấy thiện chí, trong lòng thầm mong nạn châu chấu lần này sẽ tàn phá vùng tây bắc Ấn Độ (nay là Pakistan) – vốn là nơi sản xuất lúa mì chủ yếu. Như vậy, Đông Phi sẽ càng có cơ hội chiếm lĩnh thị trường lương thực.

Dĩ nhiên, đó chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Nạn châu chấu trăm năm một lần đâu dễ gì gặp được.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 445 : Tai họa


Chương 445: Tai họa

Là láng giềng của Đông Phi, Vương quốc Hồi giáo Wasangali nằm ven bờ biển Makoshir thuộc vịnh Aden, so với láng giềng phía đông là Vương quốc Hồi giáo Majerten, thì Wasangali được xem là may mắn hơn.

Để bảo đảm cái gọi là an ninh quốc phòng, năm 1869 Đông Phi đã cắt một phần lãnh thổ phía nam Majerten sáp nhập vào mình, còn Wasangali thì thoát nạn, vì lãnh thổ quá nhỏ. Nếu Đông Phi thật sự muốn ra tay với Wasangali thì chẳng phải là nhượng đất, mà chính là chiến tranh diệt quốc. Hiện tại Đông Phi cũng chưa có nhu cầu cấp bách với vùng vịnh Aden.

Còn Majerten mất đất thì chỉ đành ngậm bồ hòn làm ngọt, oán mà không nói ra được.

Chiếm cứ bờ biển vịnh Aden đối với Đông Phi chỉ khiến họ nổi bật trong khu vực, nhưng thực chất lại không mang về bất kỳ lợi ích nào.

Như Vương quốc Hồi giáo Geledi còn có dải ốc đảo ven sông Shabelle và Juba, có thể khai thác; còn Wasangali và Majerten thì hoàn toàn không có đất đai nào ra hồn.

Hơn nữa, Majerten dù sao cũng là chư hầu trên danh nghĩa của Đế quốc Ottoman, vì vậy giữ lại họ vẫn còn chút tác dụng – là một mắt xích quan trọng để Đông Phi duy trì hệ thống thương mại với Trung Đông.

Biên giới Đông Phi – Wasangali.

Hàng vạn con châu chấu sa mạc đang sinh sôi cực nhanh. Từ tháng 4, vùng sa mạc Somalia hiếm hoi đón một trận mưa, khiến nơi đây phủ xanh tạm thời, nhưng đồng thời cũng biến nó thành ổ sinh sản của loài châu chấu.

Khác với các loài châu chấu khác, mỗi lần bùng phát, châu chấu sa mạc gần như luôn đi kèm với những trận mưa bất thường, trong khi các loài khác thường phát sinh sau hạn hán.

Xét về bản chất thì chúng chẳng khác mấy, chỉ là đặc thù khí hậu sa mạc khiến mưa lại trở thành điều kiện thuận lợi nhất để chúng sinh sôi.

Từ góc độ này mà nói, mức độ gây hại của châu chấu sa mạc với nông nghiệp còn thấp hơn so với các đồng loại khác, bởi vùng chúng sinh hoạt vốn đã ít nông nghiệp. Thế nhưng, khổ sở nhất chính là cư dân sa mạc – đất đai vốn cằn cỗi, canh tác đã kém, nay thêm châu chấu hoành hành thì coi như mất trắng, không còn nguồn thay thế.

Ứng phó nạn châu chấu, cần đến một nhà nước thống nhất có khả năng “chỗ thừa bù chỗ thiếu”, ít nhất đảm bảo được dân vùng thiên tai có thể tiếp tục sinh sống. Rõ ràng một Đế quốc Ottoman đã rệu rã thì chẳng thể làm nổi.

Còn Đông Phi lại khác – “bức tường phía Đông” của họ đủ vững chắc, chịu được chút tổn thất này.

“Châu chấu đã bay đến rồi. Theo mệnh lệnh cấp trên, chúng ta tuyệt đối không thể ngồi yên chờ chết, phải dọc theo ven sông Shabelle và các ốc đảo, kiểm tra trọng điểm vùng có nguy cơ xâm nhập, phá huỷ nơi chúng đẻ trứng, ngăn chúng sinh sản lần hai, đe doạ đến đồng cỏ và nông trường phía nam.”

– Mệnh lệnh từ Trung tâm phòng trị dịch bệnh – côn trùng tỉnh Bắc.

Ngay sau đó, chính quyền tỉnh Bắc tổ chức nhân dân tiêu diệt đàn châu chấu sa mạc đang dừng chân trong lãnh thổ.

“Cả vườn chuối này coi như tiêu rồi, lá bị gặm trụi, thân cũng bị cắn nát bươm.”

“Đừng để ý nữa, phóng hoả đốt đi!”

Châu chấu sa mạc có khả năng di chuyển cực mạnh, một ngày theo gió có thể bay hơn 150 km. Nhưng do gió mùa tây nam thịnh hành ở phía bắc Đông Phi, tốc độ thực tế không đến mức đó.

Khi chúng bay đến lưu vực sông Shabelle thì đã qua vài ngày. Trong khi đó, đàn châu chấu bay ngược lên phía bắc đã vượt qua Hồng Hải, vịnh Aden, tiến vào Yemen, hướng sang Oman và vương triều Qajar (Iran).

Đừng xem thường vài ngày chênh lệch – tuổi thọ châu chấu chỉ vài tháng, bấy nhiêu thời gian đủ để Đông Phi lật tung các bãi sông, đất hoang, phá ổ trứng của chúng.

Do nạn phát sinh tại Wasangali, những đàn châu chấu từ nước láng giềng bay sang thì Đông Phi khó lòng kiểm soát.

Nhưng bản thân phía bắc Đông Phi vốn cũng có châu chấu sa mạc, song ở trạng thái rải rác, vô hại. Một khi chúng nhập đàn với châu chấu từ Wasangali thì sẽ biến thành đại dịch.

Bởi thế, kế hoạch lần này chia làm hai bước: một là tiêu diệt ngay châu chấu bản địa từ khi mới nhen nhóm, hai là giảm tối đa số lượng châu chấu ngoại lai sinh sôi trong lãnh thổ.

Đến tháng 5, nhờ chiến dịch tại lưu vực Shabelle, ít nhất 30% đàn châu chấu bị chặn đứng. Đổi lại, chuối vùng này giảm sản lượng 40% do vừa hại châu chấu vừa do đình trệ sản xuất. Giữa tháng 5, chiến dịch đại thanh trừng tiếp diễn tại lưu vực sông Juba, diệt thêm 40% đàn. Khi châu chấu tiến vào đồng cỏ phía bắc thì đã suy yếu, chỉ còn gây hại nhẹ tại một vài vùng, và cơ bản bị chặn ở rìa cao nguyên Nam Kenya.

Bảo toàn được đồng cỏ phía bắc là cực kỳ quan trọng – đây chính là nguồn cung gia súc lớn nhất Đông Phi. Ngựa và bò nơi này hỗ trợ khắp cả nước trong công trình, nông nghiệp, đồng thời còn là căn cứ xuất khẩu bò sống sang thế giới Ả Rập.

“Qua đợt châu chấu này, chúng ta phải gấp rút mở thêm đồng cỏ mới tại lãnh thổ cựu Cộng hoà Transvaal, để phân tán rủi ro.”

– Ernst phát biểu trong cuộc họp chính phủ.

Nam Phi và đồng cỏ phương bắc đều là chăn thả đại mục trường, khác hẳn ngành sữa châu Âu vốn dựa vào đô thị, gần thị trường.

Trong đời trước, các cường quốc phát triển ngành này chính là Mỹ, Canada, Úc, New Zealand và Nam Phi.

Từ đó có thể thấy, Nam Phi vốn có ưu thế thiên nhiên – thảo nguyên khí hậu tương tự Pampas của Argentina, lại ít bị châu chấu ảnh hưởng, là bãi chăn thả lý tưởng.

Đặc biệt, Nam Phi hơn hẳn đồng cỏ phía bắc ở chỗ thích hợp nuôi cừu. Trong quá khứ, Nam Phi từng là nước xuất khẩu lông cừu lớn thứ tư thế giới.

Ngành dệt len ở Đông Phi hiện vẫn còn khoảng trống, đây là hướng phát triển tốt. Cuối thế kỷ 18, giống cừu Merino được đưa vào Mũi Hảo Vọng, Cape Town trở thành nơi đầu tiên sản xuất vải cao cấp, rồi dần phát triển thành trung tâm công nghiệp len nổi tiếng.

Về sau, Nam Phi nổi danh với loại “lông cừu Nam Phi”, có nhiều chủng loại, độ mịn khác nhau, tuy độ đàn hồi kém hơn len Úc, nhưng lại thích hợp dệt khăn choàng, tất, nhu cầu toàn cầu cao, tạo nền tảng vững chắc cho công nghiệp len Nam Phi.

Việc du nhập cừu Merino vốn không khó, nhiều nước như Đức, Liên Xô, Viễn Đông đều từng đưa giống này về và lai tạo thành chủng địa phương.

Sau khi Đông Phi thanh lý Cộng hoà Transvaal, phần lớn người Boer đã dắt gia súc chạy sang Orange Free State.

Muốn tái lập đồng cỏ tại Nam Phi, Đông Phi phải điều thuyền chở gia súc từ đồng cỏ phía bắc xuống bổ sung, nhanh chóng tạo lại lợi thế quy mô.

Dĩ nhiên Nam Phi không phải không có gia súc, chỉ là trước đó đã bị người Zulu chiếm giữ. Khi Đông Phi tiến vào, toàn bộ đàn bò cừu bị tịch thu, còn người Zulu bị ghi vào diện “lao công”, trở thành công cụ sản xuất, dùng để khai phá cảng New Hamburg.

Chờ đến khi cảng hoàn thành, tuyến đường sắt cùng đàn gia súc từ đồng cỏ phía bắc sẽ đồng loạt nhập vào Nam Phi, một lần nữa hình thành thế mạnh.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 446 : Chuyện thú vị


Chương 446: Chuyện thú vị

Nairobi.

Người dân Nairobi vốn căng mình chờ đợi nạn châu chấu, rốt cuộc lại phát hiện công toi một phen. Chính phủ liền giải tán các đội diệt châu chấu, khôi phục trật tự sản xuất bình thường.

Điều này khiến dân chúng Nairobi hơi hụt hẫng, thầm than: “Châu chấu sao lại không tới nhỉ! Còn tưởng có dịp vận động gân cốt cơ đấy!”

Nếu để Ernst biết được tâm tư thật sự ấy, e rằng hắn sẽ tức đến hộc máu: Các người đúng là không làm chủ gia đình nên chẳng biết củi gạo đắt đỏ thế nào!

“Nghe nói châu chấu sẽ kéo tới chỗ chúng ta? Bao ngày nay chuẩn bị mà chẳng thấy đâu, chẳng lẽ là tin giả?” Stephen cất tiếng, giọng Đức lẫn âm sắc Ý.

“Mấy hôm nay chẳng phải có thêm ít châu chấu sao! Thế nên chắc chắn là có nạn, chỉ là nghe nói đã bị chính phủ chặn lại rồi. Bắc Phủ và tỉnh Juba thiệt hại nặng, khu chăn thả cũng bị tập kích. Hôm trước mấy công nhân giao bông còn kể vùng trồng bông cực bắc cũng tổn thất ít nhiều.”

“Đến châu Phi bao lâu, tôi vẫn tưởng nơi này không có thiên tai, hóa ra cũng chẳng phải chốn đào nguyên gì!”

“Dù sao thì vẫn hơn Ý nhiều, Ý chiến tranh liên miên, đời sống cực khổ. Sang Đông Phi lại thoải mái, làm việc theo quy củ, không phải lo bát cơm manh áo. Huống chi, nạn châu chấu đâu có thể tránh được! Viễn Đông, châu Mỹ, châu Âu, thậm chí Nga đều từng chịu nạn đó.” Chris vừa kéo sợi thành thục vừa nói.

“Chris nói đúng. May nhờ chính phủ kịp thời trấn áp, nếu để lan tràn thì khủng khiếp lắm! Tôi từng nếm trải ở Viễn Đông. Các anh chưa chắc từng chịu khổ đâu, chứ đời sống nơi đây đối với tôi quả thực từng là giấc mơ. Hồi Hoàng Hà đổi dòng, quê tôi chính là vùng thiên tai, năm sau lại gặp nạn châu chấu, cả một vùng đen nghịt…” Odebiu Meng chen vào.

“Thì cũng thế cả thôi, Ý cũng khổ lắm! Chỉ là bọn tôi có nhiều đường ra hơn, có thể chạy sang nước khác, còn các anh thì không chạy nổi.”

“Có đường cũng chưa chắc. Anh họ tôi lúc chiến tranh chạy trốn, kết cục bị bắt vào lính Ý, đưa thẳng ra chiến trường. Từ đó bặt tin, chẳng biết sống chết thế nào.”

“Chắc dữ nhiều lành ít. Vương quốc Ý bị đánh thua tơi bời, nghe nói bị Áo chúng tôi truy kích mãi.”

“Khụ khụ, cái gì mà Áo chúng tôi! Giờ chúng ta đều là công dân Vương quốc Đông Phi. Hơn nữa, Ý thua là tại quan chỉ huy bất tài, đâu thể đổ cho binh lính. Với lại, tổ tiên tôi vốn chẳng phải người Ý, Venice trước kia cũng thuộc Thần Thánh La Mã mà! Bác của cha tôi lại có ông anh họ là người Đức, tính ra tôi cũng có nửa dòng máu Đức đấy!”

“……”

“Nếu thế, tôi cũng coi như người Đức. Bà ngoại của vợ tôi, mẹ của bà ấy vốn là người Đức. Thế thì tôi cũng có gốc Đức!”

“……”

“Thôi thôi, khỏi tranh cãi. Dù muốn hay không, đã ghi vào sổ hộ tịch rồi, trốn cũng không thoát làm người Đức đâu! Đông Phi vốn chỉ vào chứ không ra. May mà ở đây đời sống cũng khá, chỉ hơi buồn tẻ thôi.”

“Haha, Stephen, anh cứ âm thầm mà vui đi! Ở Ý đầy bệnh tật, sang Đông Phi lại bỏ được cả. Sống yên ổn chẳng phải hơn trước nhiều sao?”

“Thôi, không nhắc nữa. Chủ nhật tuần sau, chúng ta hẹn với Xưởng số Hai đá bóng, ai đi xem không?”

“Tôi thì không rảnh. Vợ tôi cấm rồi, cuối tuần này không được đi đâu hết, cả đi câu cá cũng không!”

“Phải lấy vợ phương Đông mới hay, họ khéo léo hiền thục hơn vợ Ý nhiều!”

“Đừng nói nhảm! Nhìn Odebiu kìa, bị vợ quản chặt muốn chết. Tôi thì thích vợ Đông Ấn, nghe đâu có tiền là cưới được bốn người.”

“Ta tè cho hắn tỉnh lại trước đã!”

……

“Công nhân nhà máy thật là hoạt bát!” Giám đốc Clayson của Nhà máy Dệt Nairobi số Một cảm thán, “Xem ra tuần này phải cho họ thêm việc mới được.”

“Hahaha, giám đốc tiên sinh, tôi tin mấy chàng trai ấy sẽ cảm ơn ông cho mà xem!”

Với tư cách là trung tâm công nghiệp nhẹ của nội lục, dân số Nairobi năm nay đã vượt mốc một trăm nghìn. Năm ngoái, thành phố từng vài tháng ngắn ngủi giữ danh hiệu đô thị lớn nhất Đông Phi, nhưng sau đó nhanh chóng bị Mombasa, Mbeya và Dar es Salaam vượt qua.

Ở đời trước, sở dĩ Nairobi thành Đông Phi đệ nhất thành thị, vẫn nhờ lợi thế phát triển sớm, hưởng trọn cơ hội người Anh xây tuyến đường sắt Uganda. Đến sau khi độc lập, hạ tầng Nairobi đã bỏ xa các nước xung quanh, cộng thêm Kenya giữ được cục diện hòa bình lâu dài, thành phố hấp dẫn dân cư cùng sản nghiệp, vượt trội cả ngành công nghiệp chế biến thực phẩm so với Ethiopia thường xuyên biến động.

Điều này cũng dễ hiểu: kẻ giàu kiếm tiền vốn dễ hơn dân thường. Kenya đi trước một bước, so với các quốc gia láng giềng, chẳng khác nào “kẻ giàu”. Công nghiệp Kenya tuy khó sánh quốc tế, nhưng so với quanh vùng thì lợi thế rõ rệt. Kết cục, một loạt quốc gia giàu khoáng sản vẫn phát triển chẳng bằng Kenya.

Sang thế kỷ XXI, dù Tanzania và Ethiopia nhờ một cường quốc trợ giúp có xu hướng đuổi kịp, thì Kenya lại phát hiện mỏ dầu, thế nên vận mệnh vẫn coi như tốt. Ít nhất ở Đông Phi cũng lăn lộn kha khá.

Thế nhưng đời này thì chẳng còn cơ hội ấy. Dẫu Bắc Phương tuyến trong quy hoạch vẫn sẽ đi qua Nairobi, nhưng trần phát triển cũng chỉ dừng ở mức “trọng yếu thành thị”, khó mà thành đệ nhất Đông Phi.

Nhất là khi Đông Phi song song xây dựng tuyến Trung Ương quy mô khổng lồ, điều này khiến hạ tầng Tanzania chẳng kém Kenya, thậm chí lợi thế còn hơn. Đừng nói so với Tanzania, ngay cả Mombasa ven biển nay cũng đã lấn át Nairobi. Trải qua ba lần cải tạo, Mombasa đã manh nha dáng dấp đại cảng quốc tế, dựa vào ngoại thương mà ngày càng hưng thịnh.

Dẫu thượng hạn không cao, nhưng hạ hạn của Nairobi lại được Vương quốc Đông Phi nâng lên. Dù sa sút cũng chẳng thể sa sút quá mức.

Ngành dệt may, đặt ở thế kỷ XXI có thể không còn nhiều lợi nhuận, nhưng trong thế kỷ XIX này, vẫn thuộc nhóm ngành ưu tú bậc nhất, sánh cùng đường sắt, thép, than. Hơn nữa, dệt may vốn là công nghiệp nhẹ.

Thêm vào đó, việc kiến thiết Bắc Phương tuyến, khai phá nông nghiệp và khoáng sản quanh Nairobi, vai trò trung tâm thu gom nông sản Vùng Hồ Lớn… tất cả đều chứng minh tiềm lực tương lai của Nairobi vượt xa đời trước.

Dĩ nhiên, Ernst phát triển Nairobi chỉ là thuận tiện mà thôi, mục tiêu căn bản vẫn là thông liền Vùng Hồ Lớn với Mombasa.

Trong mắt ông, Vùng Hồ Lớn quan trọng chẳng khác nào lưu vực Tứ Xuyên đối với Viễn Đông, là chỗ dựa nông nghiệp, thủy nguyên và khoáng sản trọng yếu – đích thị Đông Phi phiên bản “Thiên Phủ chi quốc”. Mọi mặt đều xuất sắc, chỉ có một nhược điểm: xa cảng biển. Điểm này chỉ có thể giải quyết bằng đường sắt.

Hiện nay tiềm năng Vùng Hồ Lớn chưa khai thác hết, nhưng đã là nông khoáng sản khu vực trọng yếu nhất Đông Phi.

Khu vực kế tiếp có khả năng vượt Vùng Hồ Lớn về nông nghiệp chính là nội địa Zambia và miền nam Congo. Nhưng hiện tại mức độ khai phá vẫn quá thấp.

Tính theo cục diện nông nghiệp hiện nay, Tanzania vẫn vượt trội, song điều kiện thủy nhiệt lại không bằng Vùng Hồ Lớn hay Zambia và miền nam Congo.

Nói cho đúng, so sánh như vậy cũng chưa hẳn chuẩn. Diện tích đất Vùng Hồ Lớn không bằng hai vùng kia, riêng diện tích mặt hồ đã gần bảy vạn km², hơn nữa vùng chồng lấn giữa Vùng Hồ Lớn và Tanzania đã chiếm tới một phần tư diện tích.

Zambia và miền nam Congo tuy không có những hồ khổng lồ như cao nguyên Đông Phi, nhưng nguồn nước vẫn phong phú. Chỉ riêng Zambia đã chiếm 25% tài nguyên nước mặt toàn Nam Phi, và một phần ba nguồn nước ngầm Đông Nam Phi. Sông ngòi dày đặc, xứng danh “Giang Nam thủy hương” của Đông Phi. Nếu lấy sông Zambezi làm giới tuyến, thì gọi “Hà Bắc thủy hương” càng chuẩn.

Vùng Hồ Lớn cũng thế, bốn phương đông tây nam bắc đều có sông chảy vào, chỉ có một lối thoát là thượng nguồn sông Nile Trắng.

Vùng Hồ Lớn, Zambia, nam Congo, Tanzania – bốn khu vực này nằm ở trung tâm Đông Phi, địa thế tương tự vùng đông bắc Viễn Đông, lượng mưa lại giống đông nam Viễn Đông. Thiên thời địa lợi đủ cả để phát triển nông nghiệp, và dân di cư Đông Phi chính là “nhân hòa” bổ khuyết cuối cùng.

(Hết chương)

[1] Thế ngoại đào nguyên: Nơi yên bình, lý tưởng, không bị ảnh hưởng bởi thế giới bên ngoài.

[2] Hoàng Hà đổi dòng: Sự kiện lịch sử khi sông Hoàng Hà thay đổi dòng chảy, gây lũ lụt và thiệt hại lớn.

[3] Giang Nam thủy hương: Vùng sông nước phía nam Trung Quốc, nổi tiếng với cảnh đẹp và sự trù phú.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 447 : Phân chia hành chính năm 1874


Chương 447: Phân chia hành chính năm 1874

Năm 1874, Đông Phi trên thực tế không mấy tích cực trong việc đầu tư vào nông nghiệp. Ngoài việc mở rộng khu vực trồng trọt nội lục thì không có chính sách nào khác được thực thi.

Tính đến tháng Tư năm nay, dân số di dân tại khu vực Zambia đã vượt quá năm trăm nghìn người, phân bố thành các thôn làng và thị trấn khắp vùng. Tính cả vùng cao nguyên phía nam Congo, tổng dân số khoảng tám trăm nghìn.

Trong cùng kỳ, dân số Zimbabwe vừa mới vượt quá mười lăm vạn, tuy số lượng không nhiều nhưng tốc độ tăng trưởng lại nhanh nhất.

Ngoài ba khu vực này, các khu vực khác dân số tăng thêm tổng cộng khoảng ba mươi vạn, gồm có Nam Phi, cao nguyên đông Angola, lưu vực thượng nguồn sông Bạch Nile, cao nguyên Azande, châu thổ sông Okavango… Trong đó, Nam Phi và cao nguyên đông Angola di dân chủ yếu vì nhu cầu củng cố biên giới, còn như châu thổ sông Okavango vốn không có nhu cầu này thì chỉ tăng thêm hơn ba nghìn người.

“Con đường di dân từ cảng Dar es Salaam và cảng Mtwara đến Mbeya đã hình thành hoàn chỉnh. Người di cư tại tỉnh Nam Salzburg được phân luồng qua đường bộ và hồ Malawi. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến dân số lưu vực sông Zambezi và khu vực phía nam lưu vực sông Congo tăng trưởng nhanh chóng.”

“Trong cùng kỳ, trình độ phát triển nông nghiệp ở hai bên bờ bắc nam sông Zambezi có tiến bộ rõ rệt. Ngoài diện tích gieo trồng lúa nước và lúa mì – hai loại lương thực chính – tăng ổn định, thuốc lá đã trở thành cây kinh tế quan trọng, còn cây kiếm ma và các loại khác cũng phát triển khá nổi bật.”

“Dân số nội lục tăng trưởng cũng khiến công tác của chúng ta thêm phần phiền toái, chủ yếu thể hiện ở hiệu suất hành chính: thứ nhất, bờ bắc sông Zambezi, bao gồm cả lưu vực sông Congo, đơn vị hành chính cấp tỉnh quá dày đặc, nhưng dân số lại không đủ, dẫn đến lãng phí nghiêm trọng; thứ hai, khu vực phía nam sông Zambezi, quản lý hành chính tương đối hỗn loạn, khu vực quản lý quân sự quá nhiều, đồng thời các thị trấn lại lấy mình làm trung tâm, rất khó điều phối.”

Nguyên nhân chủ yếu là khu vực Zimbabwe không có đơn vị hành chính cấp tỉnh, vẫn dựa vào quân khu trước đây để quản lý, mà Harare và Bulawayo lại hình thành đơn vị hành chính cấp thị mang màu sắc khu vực riêng.

“Không chỉ vậy, khu vực phía đông quốc gia ta hiện nay cũng đang gặp phải vấn đề này. Trước kia đơn vị hành chính cấp tỉnh quá nhiều, nhưng hiện tại nhiều tỉnh chênh lệch phát triển quá lớn, không đủ khả năng duy trì phát triển độc lập, trình độ công – nông nghiệp đều khá thấp.”

Đã đến lúc bản đồ hành chính của Vương quốc Đông Phi thay đổi. Thực tế, từ sau khi Đông Phi chiếm lĩnh Nam Phi, hệ thống hành chính trước đó đã hoàn toàn lạc hậu.

Điều này thể hiện rõ nhất tại khu vực nội lục, Đông Phi áp dụng hình thức quân khu để thực thi quản lý khái quát đối với ba hướng: tây, tây nam và nam.

Ban đầu thực hiện quản chế quân sự là vì nội lục Đông Phi hầu như không có người, ngoài quân đội thì phần lớn đều là thổ dân. Đối với thổ dân, sử dụng quân đội áp chế là không thể thiếu.

Nhưng hiện tại thì khác. Ở một số khu vực, tỷ lệ dân số đã nghiêng về phía di dân. Lấy Zimbabwe làm ví dụ, theo chính sách điều phối “rút ra – đưa vào” của Đông Phi, di dân đã chiếm gần 19%.

Trong khi đó, một số tỉnh ở phía đông Đông Phi có chức năng trùng lặp, thậm chí không cần thiết tồn tại, như tỉnh Duyên hải và tỉnh Kilimanjaro.

Sau quá trình nghiên cứu và thảo luận của chính phủ, cuối cùng Ernst quyết định, hệ thống hành chính mới của Đông Phi năm 1874 chính thức được ban bố.

Hệ thống mới vẫn giữ nguyên 26 tỉnh như trước, nhưng lần này phạm vi điều chỉnh bao trùm toàn bộ lãnh thổ Đông Phi, nhiều tỉnh được tái hợp nhất, chẳng hạn như 6 tỉnh khu vực Zambia hợp nhất còn 2 tỉnh.

Biến động cụ thể như sau:

Phía bắc: giữ nguyên bốn tỉnh (Bắc Phương, Turkana, Juba, Bắc Đại Hồ).

Tây bắc: tăng thêm ba tỉnh mới – tỉnh Nile (Nam Sudan), tỉnh Tân Bavaria (phía đông cao nguyên Azande), tỉnh Tây Azande (phía tây cao nguyên Azande).

Tây Đại Hồ: không thay đổi.

Khu vực Kenya: giải thể tỉnh Đông Đại Hồ, nhập vào tỉnh Nam Phổ, thủ phủ đặt tại Nairobi.

Khu vực Tanzania: giải thể tỉnh Kilimanjaro và tỉnh Duyên hải, nhập vào các tỉnh Trung ương, Đông Phương và Cao nguyên; thủ phủ Tanga nhập vào tỉnh Trung ương. Tỉnh Nam Đại Hồ và tỉnh Hohenzollern nhập vào tỉnh Cao nguyên. Phần phía nam tỉnh Cao nguyên và nam tỉnh Hohenzollern nhập vào tỉnh Nam Salzburg. Phần phía đông tỉnh Cao nguyên (chủ yếu khu vực thượng nguồn sông ngòi) nhập vào tỉnh Trung ương. Miền nam Tanzania, tỉnh Hải Hồ đổi tên thành tỉnh Tân Württemberg.

Mở rộng diện tích Khu bảo hộ thiên nhiên Serengeti, sáp nhập một phần đất thuộc tỉnh Kilimanjaro cũ và tỉnh Nam Đại Hồ, tương đương khu vực vô dân.

Ở dãy núi Mitumba, giải thể tỉnh Mitumba, nhập vào tỉnh Hessen để tiện quản lý thống nhất vùng trồng cao su và khai thác khoáng sản (đồng, wolfram…).

6 tỉnh tại Zambia và cao nguyên nam Congo (Tây Bộ, Nam Biên Cương, Đông Katanga, Tây Katanga, Tây Cao nguyên, Walunga) được hợp nhất thành hai tỉnh: phía bắc là tỉnh Schwaben, phía nam là tỉnh Hohenzollern.

Lưu ý: tỉnh Hohenzollern cũ ở phía đông hồ Tanganyika bị giải thể, nhưng Ernst tại Zambia lập một tỉnh mới cùng tên. Trường hợp tương tự còn có tỉnh Nam Biên Cương (mới).

Phía tây: lập tỉnh Congo ở lưu vực sông Congo; phía tây tỉnh Congo (cao nguyên Kwango) lập tỉnh Danube; tại cao nguyên Lunda, thượng nguồn sông Zambezi, lập tỉnh Zambezi; vùng trung – thượng du sông Okavango lập tỉnh Letania (lấy tên từ Áo – Hung).

Phía nam: tại bồn địa Kalahari, lấy châu thổ nội địa sông Okavango làm trung tâm, lập tỉnh Lorraine.

Zimbabwe: lập tỉnh Matabele.

Lãnh thổ Bechuanaland thuộc Anh trước kia: lập tỉnh Tân Baden.

Cựu Cộng hòa Transvaal và Vương quốc Swazi: lập tỉnh Hohingen.

Cựu Vương quốc Zulu, một phần Vương quốc Lesotho, vùng giáp ranh Orange Free State: lập tỉnh Nam Biên Cương (mới).

Phía nam Pretoria, vùng đồng cỏ khô hạn, tạm thời xác định là Khu bảo hộ thiên nhiên sông Limpopo, che phủ vùng mỏ vàng.

Đồng thời, hủy bỏ tư cách đơn vị hành chính độc lập của đảo Pemba, đảo Zanzibar và đảo Mafia. Trong đó, Pemba và Mafia nhập vào tỉnh Trung ương; Zanzibar được xác định là thuộc quốc, cũng quy về tỉnh Trung ương.

Nhóm đảo Comoros được nâng cấp thành đơn vị hành chính cấp thị, làm căn cứ hải quân Đông Phi, phục vụ neo đậu và tiếp tế.

Trên thực tế, việc quy hoạch phía tây trong bản đồ hành chính mới vẫn chưa rõ ràng. Điều này không phải vì Đông Phi không coi trọng, mà trái lại, bởi chính phủ hiểu rõ rằng Đông Phi chỉ mới dừng mở rộng, bản đồ cuối cùng chưa định hình, lãnh thổ phía tây có thể thay đổi bất cứ lúc nào.

Ngoài ra, tỉnh Cao nguyên được củng cố thêm, bởi trước kia khu vực này phát triển không mấy lý tưởng, ngoại trừ tỉnh Nam Đại Hồ còn có chút khởi sắc, thì tỉnh Hohenzollern cũ và tỉnh Cao nguyên đều không có tiến triển.

Hai tỉnh Nam Biên Cương và Tân Baden tại Nam Phi chủ yếu nhằm phòng ngừa mối uy hiếp từ thuộc địa Cape. Trong đó, Nam Biên Cương trải dài đông – tây, còn Tân Baden nhằm khống chế hữu hiệu bờ bắc sông Orange. Việc đổi Cộng hòa Transvaal thành tỉnh Hehingen vốn không cần phải giải thích thêm.

Những tỉnh lấy tên liên quan đến vương thất Hehingen cũng xuất hiện tại Zambia và cao nguyên nam Congo: tỉnh (mới) Hohenzollern và tỉnh Schwaben.

Bởi xưa kia Công quốc Hehingen từng là một phần của Công quốc Schwaben. Khu vực Schwaben có ý nghĩa phi phàm với dân tộc Đức, bao gồm Württemberg, Công quốc Hehingen, Công quốc Sigmaringen, cùng vùng Schwaben thuộc Bavaria, tất cả đều thuộc hệ quý tộc Schwaben.

Từ vùng Schwaben đã bước ra gia tộc Habsburg và gia tộc Hohenzollern – những gia tộc có ảnh hưởng và chủ đạo lịch sử của cả dân tộc Đức.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 448 : Dã tâm


Chương 448: Dã tâm

Lần cải cách phân khu hành chính lần này, chức năng chủ yếu là dựa vào tuyến đường sắt trung ương, để bố trí hợp lý công nghiệp cho khu vực nội địa. Vì vậy, Zambia, cao nguyên miền Nam Congo (cao nguyên Katanga), cùng Zimbabwe được chia thành ba tỉnh.

Tỉnh Schwaben chủ yếu phát triển công nghiệp khai thác đồng, ngoài đồng ra còn có mỏ cobalt, thiếc, uranium; còn khu vực mỏ vàng lại phân bố tại tỉnh Hessen. Dân cư ở đây chủ yếu tập trung tại vùng thảo nguyên nhiệt đới phía Nam, còn phía Bắc thì là rừng mưa nhiệt đới.

Tỉnh Schwaben của Đông Phi so với tỉnh Katanga ở Congo đời trước thì diện tích nhỏ hơn, nhưng tài nguyên khoáng sản vẫn chiếm hơn 60% tổng sản lượng Congo.

Đời trước, tài nguyên Katanga như mỏ cobalt và uranium đều bị người Mỹ khống chế. Riêng cobalt của Katanga chiếm đến 70% sản lượng thế giới, uranium (U-238) chiếm khoảng 60%, mỏ thiếc 10%, mỏ đồng vào khoảng 8%. (Các số liệu của các cơ quan không thống nhất, chỉ để tham khảo).

Với tài nguyên trữ lượng như thế, đời trước Katanga xung đột không ngừng; Anh, Mỹ, Bỉ, Nga đều chống lưng cho thế lực địa phương, thậm chí cả Rwanda cũng chen chân vào.

Tỉnh Hohenzollern về tài nguyên cũng không tệ, nằm ở vị trí trung gian, giao thông Nam - Bắc thuận lợi, có thể làm đầu mối trao đổi tài nguyên giữa tỉnh Schwaben ở phía Bắc và tỉnh Matabele ở phía Nam.

Tỉnh Matabele, tức Zimbabwe, nổi tiếng nhất là bức tường đá vĩ đại Zimbabwe, kéo dài Bắc - Nam xuyên qua trung tâm Zimbabwe, gần như song hành cùng tuyến đường sắt trung ương.

Đó cũng là lý do đường sắt trung ương được xây dựng từ Harare tới Bulawayo, mà không đi đường tắt qua thác Victoria như người Anh đời trước, mà đổi sang xây cầu vượt sông ở bờ Đông hồ chứa Kariba.

Ở điểm này, Ernst đã tham khảo kinh nghiệm của đời trước. Như hồ chứa Kariba, đó là một trong những hồ nhân tạo lớn nhất thế giới, phía Bắc thuộc Zambia có nhà máy thủy điện Kariba, mực nước dâng bình thường là 487,79m, mực nước chết 475,5m, dung tích tối đa 185 tỷ m³, dung tích điều tiết dưới mực nước dâng là 60,85 tỷ m³, do Zambia và Zimbabwe cùng chia sẻ. Để tham chiếu, tam hiệp đập lớn nhất Viễn Đông, tổng dung tích hồ chứa chỉ 39,3 tỷ m³.

Với công trình siêu cấp như hồ Kariba, Ernst cũng muốn tái hiện ở Đông Phi, nhưng hiện giờ Đông Phi chưa có đủ năng lực và điều kiện.

Vì vậy, hồ Kariba chỉ tạm ghi lại trong sổ tay nhỏ của Ernst, chờ đến khi điều kiện chín muồi sẽ triển khai xây dựng.

Đời trước, hồ Kariba kéo dài hơn 200 km từ Đông sang Tây, do đó tuyến đường sắt trung ương cũng bị đẩy lệch sang Đông hơn 200 km. Điều này khiến đoạn đường từ Lusaka đến Harare rồi Bulawayo, trên tổng thể, trở thành một tam giác lớn.

Tuy nhiên nhờ có Pretoria, tuyến đường sắt trung ương vẫn còn khá thẳng, đồng thời vẫn kết nối được các thành phố lớn dọc tuyến, hiệu suất sử dụng rất cao.

Đợi đến khi tuyến đường sắt trung ương hoàn thành, Đông Phi sẽ có thể một bước kích hoạt nền kinh tế nội địa, đồng thời khai phá luôn cả cảng New Hamburg ở miền Nam.

Về phần lãnh thổ nguyên Cộng hòa Transvaal, Ernst dự định hoãn khai thác; còn nguyên Vương quốc Zulu (tỉnh Biên giới Nam) thì không cần vội, trong lãnh thổ Zulu chủ yếu là tài nguyên than, lại có lợi thế cảng biển.

Khai thác than đá ở dãy Drakensberg là dự án quan trọng. Than đá ở đây sau khi khai thác có thể trực tiếp vận chuyển bằng đường biển tới Đông Phi, dùng để chống đỡ công nghiệp ven biển phía Đông, như Dar es Salaam, Bagamoyo, Tanga, Mombasa, Mtwara… tất cả đều được hưởng lợi.

Xét cho cùng, nước Anh thừa thãi nhất chính là tài nguyên than, bản thổ lẫn thuộc địa đều có quá nhiều. Có thể nói, than là loại khoáng sản rẻ nhất của người Anh. Nếu ngay cả chút than của tỉnh Biên giới Nam (nguyên Zulu) mà họ cũng tham lam, Ernst rất vui lòng dạy cho bọn họ thế nào là nhân tính.

Hiện tại, cùng với việc khủng hoảng kinh tế tiếp diễn, thời khắc phân chia toàn thế giới cũng đã bước vào giai đoạn đếm ngược. Thực tế thì Ý và Bỉ đã bắt đầu hành động.

Người Ý hiện đang củng cố quyền kiểm soát khu vực Đông Nam của Đế quốc Abyssinia, hơn nữa dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, Vương quốc Ý đặt cược vận mệnh quốc gia vào Abyssinia.

Leopold II của Bỉ cũng thi triển sở trường đời trước của mình, dùng nhiều thủ đoạn lừa gạt các bộ tộc Congo phía Tây sông Ubangi, để rồi nắm trong tay chủ quyền khu vực này.

Hai quốc gia đã xuống sân, còn các cường quốc khác thì vẫn chưa có động tĩnh gì lớn, nguyên nhân chủ yếu là vì họ vẫn chưa cảm nhận được áp lực từ đối thủ cạnh tranh.

Sự tồn tại của Vương quốc Đông Phi, trên mức độ lớn, đã giúp giảm bớt ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế ở khu vực Đức. Cả Đức và Đế quốc Áo-Hung trong khủng hoảng lại có dấu hiệu khả quan; quốc gia chịu tổn thất nặng nề nhất chính là Mỹ, khủng hoảng còn nghiêm trọng hơn cả lịch sử vốn có.

Bởi phần lớn nhà máy Đức vẫn duy trì vận hành cơ bản, thêm vào đó là sự cạnh tranh của tài phiệt Hessen đối với Mỹ (chủ yếu trong ngành điện lực), nên sản phẩm thép, điện của Mỹ rất khó mở đường tại châu Âu. Đồng thời, nông sản Mỹ cũng chịu cạnh tranh còn khốc liệt hơn lịch sử, nhất là lương thực và thuốc lá. Ngược lại, ngay trong bản thổ Mỹ, do thất nghiệp tăng cao, tương lai mờ mịt, tiêu thụ thuốc lá lại bùng nổ.

Tuy nhiên, khủng hoảng Mỹ lần này cũng không nghiêm trọng như tưởng tượng, vì Đông Phi đã hấp thu một phần dân số thất nghiệp của Mỹ.

Cục di dân Đông Phi ở Mỹ đã tuyển mộ hàng loạt công nhân, nông dân gốc Đức thông qua cộng đồng Đức kiều, thậm chí đăng quảng cáo trên báo chí của cộng đồng này. Nhiều công nhân Đức đã theo thuyền buôn nô lệ Đông Phi mà sang định cư.

Còn vì sao trong cộng đồng Đức ở thành phố Mỹ lại có cả nông dân Đức? Đó cũng là do Vương quốc Đông Phi. Dưới khủng hoảng nông nghiệp, các đồn điền miền Nam Mỹ để ứng phó với khủng hoảng đã cắt giảm chi phí, cho nên một lượng lớn người da đen cực rẻ mạt đã thay thế cho nông công da trắng vốn được thuê trước kia.

Những lao động da đen này gần như không cần trả lương, bởi hợp đồng của họ được ký trực tiếp với chính phủ Haiti, là “công nhân phái cử”.

Trên lý thuyết, tiền lương của họ do chính phủ Haiti chi trả, chủ đồn điền Mỹ không có nghĩa vụ phải trả lương, chỉ cần lo ba bữa ăn một ngày là đủ.

Mà chủ đồn điền thì lúa gạo thừa thãi chất đầy kho, chẳng bán đi đâu được, dùng để nuôi “nô lệ” nghe lời này cũng coi như ổn.

Hơn nữa, những “nô lệ” này đều hoàn toàn hợp pháp, chính phủ Liên bang lẫn tòa án cũng không thể bắt lỗi. Một khi họ già yếu hay tàn phế, thì xử lý cũng đơn giản, bởi Mỹ đã giải phóng nô lệ da đen, nên trong xã hội vẫn còn rất nhiều người da đen, không cần thì thả ra xã hội là xong.

Lượng lớn nô lệ kiểu mới tràn vào các đồn điền Nam Bộ, đời sống tầng lớp lao động da trắng tự nhiên càng thêm thảm hại, cũng lan sang ảnh hưởng đến tầng lớp nông công da trắng.

Mà trong dân số gốc Đức khổng lồ của Mỹ, vốn là nguồn lao động chính, nay cũng trở thành đội ngũ thất nghiệp lớn nhất, liền bị Đông Phi hấp thu.

Chỉ riêng ba tháng đầu năm 1874, đã có hơn 200.000 người Mỹ gốc Đức di cư sang Đông Phi, vượt qua cả Đức và Áo, trở thành nguồn nhập cư gốc Đức lớn nhất tại Đông Phi.

Âu - Mỹ đã cạnh tranh khốc liệt như vậy, cho nên thị trường Viễn Đông lại càng được các quốc gia chú ý, vì nơi đó tiêu hóa được một lượng lớn sản phẩm dư thừa do khủng hoảng kinh tế gây ra.

So với Âu - Mỹ còn phần nào kiềm chế, thì Nhật Bản trực tiếp chọn ra tay với đảo Đạm Loan ở ven Viễn Đông. Kết quả, vì cấp trên của đảo này là chính quyền Phúc Kiến can thiệp kịp thời, Nhật Bản lập tức đâm đầu vào tường, thất bại thảm hại.

Đội bảo vệ lãnh sự quán Vương quốc Đông Phi tại khu thông thương Châu Hải cũng nhờ đó thu về một khoản ngoài dự tính, nhưng thương vong cũng không ít. Lính đánh thuê Đức vốn nổi tiếng toàn cầu, nói cách khác, tổ tiên Ernst cũng từng làm nghề lính đánh thuê, chuyện này ở châu Âu vốn chẳng có gì lạ.

Là kẻ tiên phong trong công cuộc khai thác và thuộc địa hóa châu Phi, Ernst tất nhiên không định đứng ngoài trong cơn sóng phân chia thế giới này. Ngoài việc củng cố thành quả đã có ở châu Phi, Đông Phi còn tính mở rộng thêm bước nữa. Đợi đến khi hải quân Đông Phi hình thành quy mô ban đầu, Ernst đã sớm nhắm đến Ấn Độ Dương, và không chỉ có Ấn Độ Dương, Ernst cũng muốn thăm dò cả Thái Bình Dương, xem có thể nhân cơ hội mà chen chân vào hay không.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 449 : Khủng hoảng dân số


Chương 449: Khủng hoảng dân số

Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, Đông Phi đón nhận một làn sóng di dân hiếm có. Ở Đông Phi, “làn sóng di dân” được dùng để chỉ riêng người Đức, chứ không phải các nhóm di dân khác. Bởi nếu Đông Phi thực sự mở cửa chính sách di dân, tốc độ tăng dân số sẽ khủng khiếp đến mức không thể tưởng tượng.

Vì vậy, vào năm 1874, Đông Phi lại một lần nữa đi ngược chiều gió, tiếp tục nâng cao ngưỡng cửa nhập cư, đặc biệt là siết chặt khâu kiểm tra sức khỏe. Đừng xem thường hạng mục này, chỉ riêng kiểm tra sức khỏe cũng đủ loại bỏ một lượng lớn di dân không đáp ứng kỳ vọng trong lòng Ernst.

Thế kỷ 19 thực chất là thời đại vừa đen tối vừa phát triển. Người Viễn Đông ở thế kỷ 21 khi nhìn lại vấn đề ma túy ở phương Tây thì thấy hỗn loạn, nhưng sự hỗn loạn thực sự phải tính ở thế kỷ 19. Khi đó, ma túy không phải vấn đề, mà là một thói quen phổ biến.

Điều này Ernst đã từng cảm nhận trong kiếp trước ở châu Phi. Cuộc sống của người châu Phi khi ấy thật ra chẳng khác mấy so với các khu vực ngoài Âu – Mỹ cận đại.

Trên đường phố châu Phi đầy rẫy kẻ nghiện, hầu như thành phố nào cũng có. Khác với người Mỹ còn “cầu kỳ” nhập hàng từ Mexico hay chế biến bằng công nghệ cao, ở đây từ siro ho, keo dán, đến nhiên liệu hàng không đều có thể trở thành chất gây nghiện.

Thế kỷ 19 thì đơn giản hơn nhiều: thuốc phiện và các loại hóa chất tràn lan, lại thiếu cơ chế giám sát, khiến cho việc mua bán trở nên dễ dàng.

Vì vậy, khi Đông Phi siết chặt kiểm tra sức khỏe, lập tức loại bỏ được khoảng 20% số di dân. Đương nhiên, không chỉ vì ma túy, mà còn nhiều tiêu chí khác.

Thật ra, bất kỳ ai ở vị trí Ernst cũng sẽ e ngại trước làn sóng di dân tăng vọt. Một hai ngày có thể không cảm nhận rõ, nhưng lâu dài sẽ nhận ra chính sách ban đầu vẫn còn sơ hở.

Tốc độ gia tăng dân số của Đông Phi quá nhanh, vượt xa mọi quốc gia khác. Đem so với Mỹ – một nước di dân điển hình – thì càng thấy rõ. Năm 1800, dân số Mỹ chỉ 5 triệu; đến 1850 đã tăng hơn bốn lần, lên hơn 23 triệu.

Nếu Đông Phi đi theo quỹ đạo ấy, thì đến cuối thế kỷ 19, dân số ít nhất cũng phải hơn 40 triệu.

Nhưng Đông Phi lại khác Mỹ. Tỷ lệ sinh đẻ của người Đông Phi rõ ràng cao hơn nhiều, mà chí hướng sinh con của họ ít nhất trong 30 năm tới cũng không thay đổi mấy.

Điều này Ernst chẳng cần nghĩ nhiều. Ngay cả ở nông thôn Viễn Đông thế kỷ 21, nhiều người cao tuổi vẫn giữ quan niệm “đông con nhiều phúc”, cha mẹ của Ernst cũng vậy. Đông Phi vốn là quốc gia nông nghiệp, cho dù trong thời gian ngắn chuyển mình thành quốc gia công nghiệp, thì quán tính tư duy xã hội vẫn kéo dài rất lâu.

Phần lớn quốc gia công nghiệp khi mới bắt đầu đều trải qua một đợt bùng nổ dân số. Nhưng Đông Phi thì không, bởi họ vốn đã trong tình trạng bùng nổ, lại có sẵn một nền công nghiệp sơ khởi.

Cho nên dù năng suất và y tế được cải thiện, tốc độ tăng dân số cũng không thể đột ngột tăng thêm.

Hiện tại, tỷ lệ sinh của Đông Phi đã chạm đến giới hạn. Nguyên nhân còn do cách phân bổ xã hội: tài sản của hoàng thất Hechingen và ngân khố quốc gia là hai hệ thống tách biệt.

Vốn liếng của hoàng thất Hechingen chính là trụ cột xây dựng Đông Phi. Tài chính quốc gia tuy ít, nhưng gánh nặng chi tiêu cũng không nặng nề.

Nói là kinh tế kế hoạch, nhưng thực ra xí nghiệp quốc doanh chỉ có vài nhà máy nhỏ, còn nông nghiệp mới là nguồn thu chủ yếu.

Đừng xem thường thuế nông nghiệp – Đông Phi không chỉ là một nước nông nghiệp, mà là cường quốc nông nghiệp. Thuế nông nghiệp của họ còn cao hơn cả tổng thu ngân sách của nhiều quốc gia.

Vì vậy, so với nhiều nước, thu nhập tài chính của Đông Phi không hề ít, mà khoản chi lớn nhất lại là nuôi dưỡng thế hệ trẻ mới sinh ra.

Bao gồm ăn mặc, chỗ ở, học hành… những chi phí này đã giúp dân số Đông Phi trong mười năm qua tăng trưởng ồ ạt. Vì thế, Ernst dự định đến năm 1875 sẽ chấm dứt chính sách trợ cấp này. Nếu dân còn tiếp tục sinh sản như vậy, quốc gia không thể gánh nổi.

Hơn nữa, dân số Đông Phi hiện nay đã trở thành một “ẩn số”. Ba năm nay chưa từng có số liệu thống kê chính xác. Không phải lười biếng, mà vì tốc độ sinh sản quá nhanh, hôm nay vừa thống kê xong, ngày mai đã bị số trẻ sơ sinh mới lật đổ. Nếu năm nào cũng thống kê, thì nhân viên dân số chắc chắn kiệt sức.

Dĩ nhiên, việc hủy bỏ trợ cấp trẻ sơ sinh không thể làm đột ngột, phải để chính sách kịp lan truyền khắp nơi, tránh cảnh dân chúng không biết mà vẫn “đua nhau sinh nở”.

“Dân số Đông Phi tăng vượt dự tính, cho nên từ năm sau, ngoài giáo dục vẫn miễn phí, các khoản trợ cấp sinh đẻ khác sẽ bị cắt giảm và chấm dứt. Nhiều gia đình đã có bảy tám con, thậm chí hơn mười (đa số là di dân). Nếu tình trạng này phổ biến, hai mươi năm nữa, dân số Đông Phi sẽ thế nào? Trẻ sơ sinh đã trở thành gánh nặng quốc gia, chúng ta cần đưa tốc độ tăng dân số trở lại mức bình thường, giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ.” Ernst tuyên bố tại hội nghị dân số Đông Phi.

Lời hắn vừa dứt, lập tức khơi dậy tranh luận kịch liệt.

“Điện hạ, tuy tỉ lệ sinh cao, nhưng tỉ lệ sống sót e rằng không đến mức ấy.”

“Đúng là vậy, nhưng tỷ lệ sống của trẻ Đông Phi không hề thấp, thậm chí còn hơn nhiều vùng lạc hậu. Một gia đình sinh không đến bảy tám con thì ít nhất cũng bốn năm, mà đây chưa chắc đã là giới hạn. Đông Phi từ thuộc địa thành vương quốc mới chỉ mười năm, nền tảng dân số đã hình thành, thử nghĩ mười năm sau sẽ thế nào?”

“Đó là chưa tính số lượng di dân. Quy mô di dân của chúng ta ngang với Mỹ, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế lần này, chắc chắn lại có hơn một triệu người đổ vào Đông Phi.”

“Cho nên, không chỉ trợ cấp sinh đẻ, di dân cũng cần hạn chế. Đông Phi đất rộng người thưa, nhưng đất đai cũng hữu hạn, không thể mù quáng nhập thêm.”

“Còn một vấn đề khác: ý thức quốc dân. Là quốc gia di dân, ý thức dân tộc ở Đông Phi chưa bền vững. Dòng người ngoại lai liên tiếp tràn vào sẽ bào mòn thành quả trước đây.”

Có người phản đối, cũng có người ủng hộ, song lý lẽ của phe ủng hộ lại thiếu sức thuyết phục.

Dẫu sao Đông Phi không hề tiến hành kế hoạch kiểm soát sinh sản, chỉ là ngừng trợ cấp. Ai muốn sinh thì cứ sinh, miễn là thu nhập đủ lo cho con cái. Nếu vì sinh con mà buộc phải cắt xén, chịu nghèo khổ thì vẫn được, nhưng bỏ rơi trẻ con là tội nặng, buộc phải tính toán kỹ càng.

“Được rồi, việc này quyết định thế. Còn năm tháng nữa, các người phải thông báo đến từng cấp chính quyền, truyền đạt rõ ràng tới từng hộ dân. Từ năm sau, mọi trẻ sơ sinh đều không còn được hưởng trợ cấp. Dĩ nhiên, những thai phụ năm nay vẫn được tính, đây sẽ là ‘cửa sổ cuối cùng’ trong năm tháng tới.”

Tại cuộc họp thường niên năm 1874, chính sách dân số Đông Phi thay đổi. Thực tế cũng chứng minh rằng Đông Phi không cần di dân vẫn có thể tự duy trì và đáp ứng nhu cầu xây dựng quốc gia.

Dân số Đông Phi không còn là điểm yếu quốc gia, mà sự quan tâm bắt đầu chuyển từ số lượng sang chất lượng.

Dù vùng nội lục phía Tây vẫn thưa người, nhưng khu vực phía Đông đã đủ đông để dần lan tỏa. Cộng thêm dòng di dân vẫn tiếp diễn, việc “tiêu hóa” miền Tây chỉ còn là vấn đề thời gian.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 450 : Khủng hoảng dân số (tiếp theo)


Chương 450: Khủng hoảng dân số (tiếp theo)

Làn sóng nhập cư quy mô lớn đầu tiên của Đông Phi (không bao gồm lính đánh thuê) là vào năm 1865, sau đó số lượng người nhập cư tăng vọt, và cùng với sự gia tăng năng lực vận tải của Đông Phi, quy mô ngày càng lớn.

Nói cách khác, những người nhập cư đầu tiên của Đông Phi đã an cư tại Đông Phi được chín năm, và đặc tính của làn sóng nhập cư Đông Phi khiến dân số hiện tại của Đông Phi đã bùng nổ.

Việc này có thể so sánh với khu vực Đức, tỷ lệ sinh tại khu vực Đức hiện nay khá cao, còn Đông Phi thì còn cao hơn, bởi vì Đông Phi gánh chịu vấn đề chi phí sinh đẻ, điều mà khu vực Đức không thể làm được.

Tài nguyên đất đai ở Đức bị giới quý tộc và địa chủ chia cắt, cộng với sự phát triển của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, không còn theo đuổi lực lượng lao động và tỷ lệ sở hữu, mà lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu.

Mặc dù tính chất đất đai ở Đông Phi cũng là sở hữu tư nhân, nhưng Ernst trước đây tập trung vào việc mang lại điều kiện sống tương đối tốt cho công dân Đông Phi, một trong số đó là hy vọng cư dân Đông Phi sinh nhiều con, sinh được bao nhiêu thì sinh, nhà nước gánh chịu phần lớn chi phí sinh đẻ.

Và những công dân Đông Phi không gánh nặng sinh đẻ đương nhiên là sinh được bao nhiêu thì sinh, đặc biệt là trong điều kiện không có khái niệm và biện pháp tránh thai.

Về cơ bản, nếu sức khỏe tốt, thì tỷ lệ sinh sẽ không thấp, cộng với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cực thấp (so với các quốc gia khác), dân số Đông Phi cuối cùng sẽ tăng lên theo cấp số nhân.

Ở trình độ lực lượng sản xuất thấp, phần lớn chi phí này cuối cùng đều do dân số da đen gánh chịu, và dân số da đen Đông Phi là hai mươi triệu, trong đó dân số trong độ tuổi lao động gần mười mấy triệu.

Vì vậy, hiện tại Đông Phi không cảm thấy áp lực quá lớn, nhưng tốc độ giảm dân số da đen của Đông Phi cũng khá nhanh, nếu Đông Phi muốn tiếp tục trò chơi này trong tương lai, thì phần chi phí này chỉ có thể chuyển sang cho những người nhập cư mới.

Nhưng những người nhập cư mới sau này sẽ tiếp tục sinh con, sau đó sẽ hình thành một vòng luẩn quẩn, bản thân Ernst là người đồng tình với học thuyết ưu thế dân số, trước đây từng nói quy mô dân số như Ấn Độ chắc chắn sẽ hình thành một cường quốc.

Nếu để người nhập cư Đông Phi sinh sản không kiểm soát, một gia đình chỉ có hai lao động, nhưng lại có thể nuôi mười mấy miệng ăn, thì có làm trâu làm ngựa cũng không thể được, dĩ nhiên, nói vậy có thể hơi quá lý tưởng, ước tính một cách thận trọng thì bảy tám miệng ăn là có.

Ngoài tỷ lệ sinh, nhập cư cũng là một vấn đề, mức độ nhập cư bình thường hiện nay của Đông Phi là khoảng hai mươi lăm nghìn người mỗi tháng, có hơn bốn trăm tàu thuyền (bao gồm tàu thuê và tàu buôn nô lệ) phục vụ cho việc nhập cư vào Đông Phi.

Một năm sau, số lượng người nhập cư vào Đông Phi sẽ là khoảng hơn ba triệu, nếu tính đến năm 1880 thì sẽ lại thêm hơn mười triệu dân nhập cư mới.

Cần phải nói rõ, mặc dù chính phủ Đông Phi không thống kê dân số trong nước, nhưng số lượng người nhập cư hàng năm vẫn phải được thống kê, số lượng người nhập cư là bao nhiêu thì là bấy nhiêu, không thay đổi do tỷ lệ sinh.

Đây chỉ là dân số nhập cư, trên thực tế hiện nay đi tàu từ Viễn Đông và châu Âu đến Đông Phi chỉ mất hơn mười ngày, thời gian sắp xếp cho những người nhập cư mới này vào Đông Phi cũng nhiều nhất không quá ba tháng, sau khi ổn định, những người nhập cư mới lại tham gia vào đội quân sinh đẻ, ừ, quả thực hơi khó giải quyết.

Đây là tình trạng nhập cư trong điều kiện lý tưởng, trên thực tế hiện thực chính là điều kiện lý tưởng, khủng hoảng kinh tế đã tạo cơ hội cho Đông Phi, ngay cả Hoa Kỳ - một quốc gia thuần nhập cư - cũng có người di cư đến Đông Phi, có thể tưởng tượng các khu vực khác trên thế giới thế nào.

Việc nhập cư của Đông Phi do chính phủ chủ đạo, các cơ quan nhập cư đã được xây dựng tại các nước châu Âu, Đông Á và Nam Mỹ, vì vậy Cục Nhập cư Đông Phi là tổ chức nhập cư có hệ thống và lớn nhất thế giới, đồng thời là thương nhân buôn bán nô lệ lớn thứ hai thế giới.

Trên thực tế, trong thế giới hiện tại, ngoài nam giới Ả Rập và Ấn Độ, người da đen, tất cả các quốc gia khác đều là mục tiêu của Cục Nhập cư Đông Phi, để đáp ứng nhu cầu nhập cư của Đông Phi.

Lấy nước Đức làm ví dụ, khu vực Nam Đức bị Đông Phi hút máu trong nhiều năm, tổng dân số không giảm đáng kể, nhưng cũng không tăng, vì vậy việc Đông Phi thu hút người nhập cư không gây thiệt hại gì cho các quốc gia.

Xét cho cùng, sau cuộc cách mạng công nghiệp, dân số thế giới đã bùng nổ lên hơn 1,27 tỷ người, số lượng người nhập cư vào Đông Phi thậm chí còn không bằng một phần nhỏ.

Dĩ nhiên, Đông Phi có tình hình riêng, vì vậy nhiều trường hợp rất khác so với cách thức thu hút người nhập cư của các quốc gia nhập cư ở châu Mỹ.

Nhập cư trong điều kiện bình thường đều là hành vi tự phát của người dân, và khó khăn của việc nhập cư xuyên lục địa đối với người dân ở thời đại này là khá lớn.

Vé tàu nhập cư vào Mỹ chủ yếu do các công ty và doanh nghiệp thiếu người ứng trước, sau đó khấu trừ vào lương của người nhập cư, những điều này về cơ bản đã được ghi rõ trong hợp đồng, còn Đông Phi trực tiếp miễn phí vé tàu, do đó trong sự lựa chọn giữa hai bên, Đông Phi ở thế có lợi, xét cho cùng Mỹ tính tiền vé tàu rõ ràng như vậy, ngươi còn muốn đến Mỹ làm giàu? Ngươi thực sự nghĩ rằng đầy vàng trên đất!

Thứ hai là phương thức tiếp thị của Đông Phi khác biệt, quảng cáo nhập cư của Đông Phi tập trung vào tính chất minh họa, lấy quần chúng nhân dân làm điểm cơ bản, sau đó trở về quê kéo người. Đông Phi thực sự dám làm như vậy, còn Mỹ chỉ có thể bịa chuyện trên báo, lừa đảo.

Cuối cùng, người nhập cư Đông Phi không giới hạn ở người da trắng, coi trọng cả Viễn Đông và châu Âu, như vậy Đông Phi ở thế thị trường người mua, Viễn Đông ở đây không phải là khái niệm quốc gia mà là Viễn Đông theo đúng nghĩa.

Dĩ nhiên, ngoài những biện pháp bình thường này, Đông Phi cũng sử dụng một số chiêu thức ngoài lề, đó là đưa tin nguyên văn một số tình hình thực tế về nhập cư Mỹ trên báo chí châu Âu.

Hoa Kỳ quả thực có giới hạn phát triển cao hơn, nhưng hầu hết mọi người vẫn có tự biết mình, chẳng hạn như nông dân Đức, họ vẫn tự biết mình bao nhiêu cân, so với ảo tưởng làm giàu ở Mỹ, thì điều kiện của Đông Phi phù hợp hơn với họ.

Điều đặc biệt quan trọng tiếp theo là hệ thống giáo dục của Đông Phi, hệ thống giáo dục đóng vai trò lớn trong việc giảm chi phí sinh đẻ của người dân, cùng với việc triển khai chế độ trung học, những người sinh ra tại Đông Phi có mười năm học tập tại trường, trong đó một điều quan trọng là trường học ở Đông Phi còn cung cấp một bữa trưa.

Tổng hợp lại, vào năm 1880, tổng dân số Đông Phi ít nhất sẽ vượt ba mươi triệu, số liệu cụ thể là bao nhiêu phải đợi đến khi khởi động lại điều tra dân số mới biết, thậm chí có thể vượt bốn mươi triệu.

Khả năng sinh sản của con người trong xã hội nông nghiệp là không thể xem thường, và Đông Phi chính là một quốc gia nông nghiệp mang thuộc tính công nghiệp.

Việc hạn chế nhập cư không bằng nói là sàng lọc người nhập cư, đây vốn là chính sách nhập cư ban đầu của Đông Phi, chủ yếu nhắm vào những bệnh nhân nghiện ma túy, còn những vấn đề nhỏ như suy dinh dưỡng, Đông Phi không quan tâm.

Hơn nữa, lần tăng cường hạn chế nhập cư này chủ yếu nhắm vào người nhập cư Đức từ Mỹ, Mỹ xét cho cùng là sào huyệt của chủ nghĩa tự do, Đông Phi là một quốc gia chuyên chế quân chủ, đương nhiên phải ngăn chặn một số tư tưởng "mục nát" của Mỹ chảy vào Đông Phi. Ngoài Mỹ, toàn bộ châu Mỹ đều như vậy, không có một quốc gia quân chủ nào, điều này làm sao khiến Đông Phi yên tâm.

Và trên tổng thể, đầu tư của Đông Phi cho người nhập cư thực ra đã tăng lên, chẳng hạn như nữ nhập cư, Đông Phi rất hoan nghênh, lần thống kê trước tỷ lệ nữ giới của Đông Phi gần bốn mươi bảy phần trăm, phần lớn trong số những phụ nữ này có thể đến Đông Phi là do đã bỏ tiền ra, ngay cả phụ nữ Ấn Độ và Hồi giáo cũng được hoan nghênh ở Đông Phi, dĩ nhiên trừ người da đen.

Vấn đề dân số siêu sinh không chỉ tồn tại ở Đông Phi, và không khí xã hội thế kỷ 19 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đông Phi mua bán "hàng thứ cấp", ở hầu hết các khu vực đàn ông xét cho cùng phải kế thừa gia nghiệp, phụ nữ địa vị thấp kém, thậm chí trở thành hàng hóa giao dịch.

Và lông cừu ra từ thân cừu, tiền chuộc phụ nữ của Đông Phi đương nhiên do những người đàn ông độc thân của Đông Phi trả bằng công lao động, thời kỳ đầu còn được coi như cơ chế khen thưởng, điều động tính tích cực của người nhập cư.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 451 : Mạng lưới đường sắt Đông Phi


Chương 451: Mạng lưới đường sắt Đông Phi

Thoáng chốc thời gian đã đến năm 1875, chính sách nhân khẩu mới của Đông Phi quả thực đã gây ra một số ý kiến trái chiều từ dân chúng, nhưng nhìn chung vẫn có thể chấp nhận được.

Bởi vì ngay cả khi chính phủ cắt giảm chi tiêu trong lĩnh vực này, chi phí sinh đẻ của Đông Phi vẫn ở mức thấp nhất thế giới, và Đông Phi cũng không thể áp dụng biện pháp cắt giảm một cách cứng nhắc, vì vậy hiện tại trợ cấp sinh đẻ vẫn tồn tại, nhưng chỉ đảm nhận cho ba đứa trẻ, những đứa sau đó buộc phải dựa vào sự tự lực của dân chúng.

Vào năm 1875, đoạn từ thành phố Dar es Salaam đến thành phố Mbeya của tuyến đường sắt trung ương về cơ bản đã hoàn thành, toàn bộ tuyến đường sắt phía bắc đã hoàn thành, dự án cải tạo sông Rhine Nhỏ cũng đạt 80% tiến độ, và kênh đào trung ương đã hoàn thành hoàn toàn.

Dự án cải tạo sông Rhine Nhỏ không hề đơn giản hơn việc xây dựng kênh đào, khối lượng công việc của nó thậm chí còn vượt quá dự án kênh đào. Dự án sông Rhine Nhỏ không chỉ xoay quanh con sông Rhine Nhỏ, mà còn phải xem xét sự biến đổi của các con sông trong toàn lưu vực và hệ thống tưới tiêu nông nghiệp của Đông Phi, đồng thời phải xem xét điều kiện thủy văn, đặc biệt là công tác trong mùa lũ rất khó khăn, thường xuyên bị trì hoãn do mưa lớn và dòng chảy xiết.

Tuy nhiên, sau khi cải tạo, trung và hạ lưu sông Rhine Nhỏ cuối cùng đã có dáng vẻ của những con sông châu Âu, thay đổi hình thái tự nhiên tồn tại hàng ngàn năm.

Cảng Hamburg Mới cũng đã hoàn thành, hiện tại lấy thành phố Hamburg Mới và thành phố Mbeya làm điểm xuất phát, tuyến đường sắt trung ương phía nam được thi công song song từ hai đầu, làm tăng đáng kể tốc độ xây dựng đường sắt trung ương.

"Hiện nay hầu hết các công trình đã hoàn thành, hoặc sắp hoàn thành, chỉ còn tuyến đường sắt trung ương là trở ngại cuối cùng, nhưng với việc hoàn thành đoạn từ Dar es Salaam đến Mbeya, thép từ vùng ven biển có thể được vận chuyển bằng đường sắt đến đầu công trường, việc hoàn thành đường sắt trung ương vào năm sau là không có vấn đề gì, ngoại trừ đoạn phía tây, đoạn phía nam trong năm nay có thể hoàn toàn thông tuyến từ Lusaka đến Bulawayo."

Lần nhập cư này có nhiều công nhân xây dựng đường, do đó làm tăng đáng kể tốc độ xây dựng đường sắt Đông Phi, và với việc năng lực sản xuất thép của khu công nghiệp hồ Malawi tăng lên, các nhà máy phụ trợ khác nhau đi vào hoạt động, chi phí xây dựng đường sắt Đông Phi đã giảm đáng kể.

"Ernst, với việc khối lượng công việc giảm, nhiều nô lệ đang trong thời gian nghỉ ngơi, bây giờ chúng ta nên làm gì? Tiếp tục sửa đường sắt hay thực hiện các dự án khác?" Konstantin hỏi.

"Đường sắt có thể tiếp tục xây dựng, nhưng trước mắt việc xây dựng đường sắt nên tạm dừng một chút, trước tiên hãy dựa vào đường sắt để đẩy mạnh việc di dân vào nội địa."

Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đường sắt Đông Phi là một việc kinh doanh thua lỗ thuần túy, nội địa Đông Phi tuy không đến mức nghìn dặm không có khói người, nhưng cũng thưa thớt đến đáng thương.

Vì vậy, bây giờ nhân dịp đường sắt hoàn thành, vùng đất dọc theo tuyến đường sắt cũng có thể bắt đầu khai thác, bây giờ phải chia một phần dân số phía đông Đông Phi đến nội địa.

Vì vậy, Ernst nói: "Vùng đất của Vương quốc Malawi mà chúng ta chiếm đóng trước đây, bây giờ có thể được khai thác quy mô lớn, thông qua đường sắt trung ương, trước tiên hãy trộn lẫn người nhập cư và một phần cư dân phía đông rồi đưa đến tỉnh Nam Salzburg."

Lãnh thổ của Vương quốc Malawi nằm ở bờ tây của hồ Malawi, vài năm trước đã bị Đông Phi và Mozambique chia cắt, Malawi ở kiếp trước được người Anh gọi là Nyasaland, nổi tiếng với các loại cây trồng như thuốc lá, cà phê, chè, bông, mía, với lượng mưa hàng năm từ 1000 mm đến 1500 mm.

Đồng thời còn có nhiều loại khoáng sản như đất hiếm, cát titan, boxit, cát quặng uranium, kim cương công nghiệp, pyrit, đá vôi, than, graphit cũng như đá quý, vàng và kim cương.

Đông Phi chiếm phần lớn lãnh thổ của Vương quốc Malawi, chủ yếu là vùng Bắc và vùng Trung của nước Cộng hòa Malawi ngày nay (Malawi tổng cộng có ba vùng), vùng Bắc chủ yếu là núi non, vùng Trung là cao nguyên, vùng Nam chủ yếu là cao nguyên và vùng đất thấp.

Khu vực cao nguyên trung tâm chính là trọng điểm phát triển của Đông Phi, để kết nối nó với lưu vực sông Luangwa thành một thể thống nhất.

"Về đường sắt, năm nay chúng ta sẽ quy hoạch thêm một tuyến đường sắt phía nam bắt đầu từ cảng Mtwara, đi thẳng đến khu công nghiệp hồ Malawi, để giải quyết vấn đề giao thông của tỉnh Tân Württemberg."

Giao thông của tỉnh Tân Württemberg có thể được chia thành ba loại: một là vận tải biển, tức cảng Mtwara, hai là đường bộ, là hình thức giao thông chính được tỉnh Tiền Hải Hồ (nay là Tân Württemberg) sử dụng để kết nối các thành phố trong tỉnh, ba là vận tải đường thủy, chủ yếu dựa vào sông Ruvuma.

Giao thông của tỉnh Tân Württemberg rất hoàn thiện, và phần phía tây thuộc một phần của khu công nghiệp hồ Malawi (phần còn lại thuộc tỉnh Nam Salzburg).

Nhưng giao thông của tỉnh Tân Württemberg có một thiếu sót lớn, đó là cảng biển Mtwara và sông Ruvuma không được kết nối với nhau, Mtwara là một cảng vịnh riêng biệt, điều này khiến hàng hóa của tỉnh Tân Württemberg cần thêm một quy trình vận chuyển trên bộ.

"Tuyến đường sắt phía nam không nên trùng khớp với sông Ruvuma, mà nên lệch về phía bắc hơn, để có thể tỏa ra tốt hơn các khu vực nội địa, và để làm được điều này, vị trí của Mtwara hơi xa về phía nam, vì vậy tôi dự định xây dựng một cảng mới ở vịnh cách Mtwara về phía tây bắc hơn 160 km, để làm điểm xuất phát của tuyến đường sắt phía nam."

Vịnh mà Ernst đề cập chính là cảng Kilwa Masoko của Tanzania ngày nay, cũng là một cảng biển quan trọng của Tanzania, hiện tại thậm chí còn không có tên, gì chứ Kilwa Masoko, thà đổi tên thành cảng Soko cho rồi!

"Tạm thời gọi nơi này là Soko, cảng Soko về mặt địa lý thiên về tỉnh Trung ương hơn, nằm chính giữa sông Rufiji và sông Ruvuma, nội địa vừa hay là một vùng trống, nếu khai thác một tuyến đường sắt, điều đó sẽ rất có lợi cho sự phát triển của tỉnh Tân Württemberg."

Trọng tâm kinh tế của tỉnh Tân Württemberg nằm ở phía nam, ban đầu là khu Hạ Duyên Hải, sau đó là tỉnh Hải Hồ, đều phát triển dọc theo tuyến sông Ruvuma, vì vậy tỉnh Tân Württemberg đã kế thừa đặc điểm này.

Điều này khiến khu vực trung tâm giữa tỉnh Trung ương và tỉnh Tân Württemberg cực kỳ trống trải, thậm chí không có một thành phố nào đáng kể, nông nghiệp phát triển khá tốt, nhưng giao thông bất tiện cũng là một vấn đề lớn, việc chế biến và xuất khẩu nông sản đều rất bất tiện.

Nếu tuyến đường sắt phía nam đi qua đây, có thể giải quyết tốt vấn đề này, đồng thời cũng có thể mở thông tuyến giao thông thẳng từ khu công nghiệp hồ Malawi ra đại dương.

Khu công nghiệp hồ Malawi hiện tại được chia thành hai phần, một là bờ bắc, lấy thành phố Mbeya làm trung tâm, một là bờ đông lấy Songea làm trung tâm.

Songea trước đây là thủ phủ của khu Đại Đông Hồ Malawi thuộc địa Đông Phi, hiện nay là trung tâm công nghiệp nặng của tỉnh Tân Württemberg, và điểm cuối của tuyến đường sắt phía nam là thành phố Songea.

Thành phố của Đông Phi thực tế có cùng khái niệm với thành phố cấp địa khu của phương Đông thời hiện đại, khác với thành phố châu Âu, thuộc cơ quan hành chính địa phương, vì vậy phạm vi của thành phố Songea luôn kéo dài đến hồ Malawi, và điểm cuối của đường sắt cũng nằm ở hồ Malawi.

Ernst tiếp tục nói: "Ngoài tuyến đường sắt phía nam, đường sắt trung ương còn có các dự án nhánh đi kèm, từ thành phố Dodoma tách ra một nhánh, đi qua thành phố Mbeya ven bờ Đại Hồ, và cuối cùng thẳng đến Bujumbura của tỉnh Tây Đại Hồ, như vậy Đông Phi của chúng ta sẽ hình thành mạng lưới đường sắt sơ cấp."

Nói là nhánh, nhưng Ernst vẫn dự định xây dựng theo tiêu chuẩn tuyến chính của đường sắt trung ương.

(Biểu đồ minh họa)

Nếu hai tuyến đường sắt này được xây dựng, sẽ lại thêm một nghìn km, tổng chiều dài đường sắt Đông Phi sẽ đạt hơn bảy nghìn km.

Có thể thấy qua bản đồ, đường sắt Đông Phi đã thực hiện sự liên động giữa hồ Malawi, hồ Solen (Tanganyika) và Đại Hồ (Victoria), nhờ vào ba hồ tự nhiên này, giao thông của Đông Phi trực tiếp thông suốt.

Việc xây dựng đường sắt ở Đông Phi quả thực phiền phức hơn so với Đế quốc Áo-Hung, bất kỳ tuyến đường sắt nào cũng dài hơn năm trăm km, nhưng nỗi phiền phức hạnh phúc này, những quốc gia không có lãnh thổ rộng lớn không thể nào tận hưởng được.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 452 : Khoản vay


Chương 452: Khoản vay

Trong khi Đông Phi phát triển rầm rộ, các khu vực khác trên thế giới không yên ổn, có thể nói sự phát triển ổn định của Đông Phi được hưởng lợi từ việc Đế quốc Viễn Đông gánh chịu phần lớn áp lực, ba nước Anh, Nga, Nhật như đã thỏa thuận từ trước, tiến hành xâm lấn Đế quốc Viễn Đông từ ba hướng Tây Nam, Tây Bắc và Tây Thái Bình Dương.

Quy mô của Đông Phi đặt trên thế giới không nhỏ, nhưng châu Âu hiểu biết không sâu về Đông Phi, còn Viễn Đông thì thuộc loại không thể che giấu được.

Lần này Pháp không tham gia, là vì Pháp đang tiêu hóa thành quả của cuộc chiến tranh Pháp-Việt lần thứ hai (1873-1874), ngày 15 tháng 3 năm 1874, Pháp ký kết Hiệp ước Sài Gòn lần thứ hai với Giao Chỉ, quy định: quân Pháp sẽ duy trì trật tự trong khu vực cai trị của triều Nguyễn; Việt Nam công nhận quyền kiểm soát không thể tranh cãi của Pháp đối với Giao Chỉ; cho phép người Pháp sử dụng sông Hồng làm đường giao thương với Tây Nam Đế quốc Viễn Đông.

Châu Phi, là mảnh ghép cuối cùng người châu Âu xâm lược, hiện tại vẫn có thể nằm yên một lúc nữa, rõ ràng toàn bộ khu vực Viễn Đông có sức hút với các cường quốc lớn hơn các khu vực khác thậm chí cả châu Phi (không bao gồm Bắc Phi).

Sự thăm dò của Nhật Bản ở đảo Đản Loan đã bị đánh bại vào năm ngoái, nhưng khủng hoảng Tây Bắc và Tây Nam không phải là điều Ernst can thiệp được, cả hai nơi đều nằm sâu trong nội địa Viễn Đông.

Hướng Tây Nam, hiện tại người Anh vẫn chưa triển khai hành động, nếu không xảy ra bất ngờ, thì khoảng một tháng sau sẽ bùng phát khủng hoảng.

Hướng Tây Bắc thực ra là một vấn đề cũ, đã bùng phát từ năm 1864, nhưng chính phủ Viễn Đông nội bộ nảy sinh tranh luận về phòng thủ biển và phòng thủ biên giới, cuộc tranh luận này kéo dài mười năm, hiệu suất thật cao.

Năm nay, chính phủ Viễn Đông cuối cùng cũng quyết tâm giải quyết vấn đề Tây Bắc, thu hồi vùng đất mất ở Tây Bắc, nhưng đã quyết định rồi, thì không ai muốn bỏ tiền.

Tài chính đế quốc có thể nói là nát nghìn mảnh, quân đội toàn quốc nợ lương hơn ba mươi triệu lạng, và trọng điểm tài chính thuế khóa bị các thế lực địa phương như quân Hồi, Hoài nắm giữ, điều này khiến Tả Quý Cao, người chủ chiến tích cực, bảo vệ tổ quốc, gặp khó khăn.

Tháng 5 năm 1875.

Ngân hàng Hechingen (Khai Phong).

Khai Phong là thủ phủ một tỉnh, trong thời đại này vẫn khá phồn hoa, đồng thời là cực đông của khu kinh tế Hoài Hải, là khu vực trọng điểm kinh doanh nội địa của Ngân hàng Hechingen, cũng là nơi thương nhân Sơn Tây, thương nhân Huy Thương và tập đoàn tài chính Hechingen thương lượng.

Hôm nay hiếm có đại diện hai bang thương nhân đến Khai Phong tìm người phụ trách khu vực Trung Nguyên của Ngân hàng Hechingen là Mayweather để bàn việc, nhưng họ còn dẫn theo một người.

"Ngài Mayweather, vị này là quan chức quan trọng của chính phủ Viễn Đông, đại nhân Tả Quý Cao, hôm nay đến thăm thực ra là có một việc nhờ giúp đỡ!"

Mayweather, người tưởng là đến để làm ăn, cười nói: "Dễ nói, dễ nói, chỉ cần không quá khó khăn, tôi rất sẵn lòng giúp đỡ."

Kiều Trí Dung: "Không giấu gì ngài, lần này chúng tôi đến là để huy động quân phí, chắc ngân hàng quý cũng đã nghe nói."

Mayweather sáng mắt: "Hades, mang trà lại cho mấy vị khách quý này!"

Đâu chỉ nghe nói, thực ra các ngân hàng lớn hoạt động ở Viễn Đông đều biết, nhưng tại sao Tả Quý Cao lại tìm đến Ngân hàng Hechingen, điều này nhờ vào hai đồng minh thương mại của Ngân hàng Hechingen.

Tả Quý Cao quan hệ rất tốt với Hồ Tuyền Nham, và ông lại đảm nhiệm ở Tây Bắc, thì không thể không giao dịch với Kiều Trí Dung, vì vậy dưới sự giới thiệu của hai người, họ cùng nhau đến Khai Phong.

Tả Quý Cao: "Ngài Mayweather, lần này chúng tôi vay tiền là để đối phó với thế lực chia rẽ Tây Bắc, đường xa, thêm môi trường khắc nghiệt, trận chiến này e rằng không dễ đánh..."

Mayweather ngắt lời: "Ngài Tả, ngài cứ nói thẳng là cần vay bao nhiêu đi!"

Thẳng thắn vậy? Tả Quý Cao liền giơ năm ngón tay, xem ngân hàng Hechingen này có thực lực gì, trước đây Tả Quý Cao cũng từng đến Ngân hàng HSBC, xét cho cùng danh tiếng HSBC lớn hơn, kinh doanh ở Viễn Đông lâu hơn.

"Năm triệu lạng bạc?"

"Quý ngân hàng nếu trong thời gian ngắn không lấy ra được nhiều tiền như vậy cũng không sao, chúng tôi còn có thể liên hệ người khác."

"Haha, nói đùa thôi, năm triệu lạng đối với chúng tôi không nhiều, tôi chỉ nghĩ số tiền này đối với các ngài có phải là quá ít không? Phải biết rằng đằng sau thế lực chia rẽ Tây Bắc là người Nga."

"Quý hàng có thể cho vay nhiều tiền hơn không? Trước đây tôi từng hỏi Ngân hàng HSBC, họ nói cần vận hành một phen mới có thể lấy ra số vốn lớn như vậy, đây không phải là số tiền nhỏ."

"Haha, đừng nói năm triệu lạng,就是 hai mươi triệu lạng chúng tôi cũng cho vay được, nhưng hai mươi triệu lạng chưa chắc toàn là bạc."

"Nếu là bảng Anh cũng có thể chấp nhận."

"Không phải, mà là đồng Rhine盾 của Đông Phi, cũng là một loại tiền tệ quốc gia."

Hồ Tuyền Nham bên cạnh giải thích: "Rhine盾 là một loại tiền giấy do Vương quốc Đông Phi phát hành, một lạng bạc bằng năm Rhine盾 mệnh giá."

"Loại tiền tệ này có đáng tin không?"

"Có thể trực tiếp đổi lấy vàng tại Ngân hàng Hechingen."

"!"

Mayweather: "Ngài Tả yên tâm, đồng Rhine盾 của Đông Phi chỉ là lưu thông không nhiều trên thế giới, nhưng quả thực là tiền tệ chính thức do Vương quốc Đông Phi phát hành, được bảo đảm bằng vàng, giá trị tiền tệ rất ổn định."

"Vậy dùng loại tiền tệ này mua vật tư không phải rất phiền phức?"

"Đừng lo, ngài cứ nói thiếu gì? Điều này chúng tôi Ngân hàng Hechingen đều có thể cung cấp, lương thực quân đội, quân phục, hay vũ khí, ngay cả huấn luyện viên quân sự châu Âu chúng tôi cũng có thể mời được."

"Ừm..." Hình như thiếu tất cả.

Bỏ qua những thứ khác, trước tiên xem Ngân hàng Hechingen có thể đưa ra điều kiện gì, Tả Quý Cao gạt bỏ suy nghĩ trong đầu nói: "Giả sử, tôi nói giả sử chính phủ nước tôi vay ngân hàng quý một nghìn vạn lạng, các ngài có thể đưa ra điều kiện gì?"

Mayweather không đón nhận: "Vậy còn xem quý quốc có thể đưa ra giá mã gì?"

Tả Quý Cao thăm dò: "Dự kiến của tôi là không vượt quá năm!"

"Giao dịch thành công!" Mayweather trực tiếp mở miệng.

"..." Mình đưa ra cao quá?

"Đương nhiên..."

Quả nhiên vẫn có điều kiện, Tả Quý Cao đoán người phương Tây sẽ không dễ dàng đồng ý với mình, theo giá thị trường khoản vay quốc tế hiện tại, lãi suất khoảng bốn phần trăm, mình chỉ tăng một chút, e rằng không ai dễ dàng đồng ý.

Chỉ nghe Mayweather tiếp tục nói: "Chúng tôi có thể cho quý quốc vay, nhưng tương ứng việc mua sắm lương thực quân đội nên giao hết cho ngân hàng chúng tôi, mặt vũ khí chúng tôi cũng phải ăn một phần." Giám đốc chi nhánh Khai Phong Ngân hàng Hechingen Mayweather nói.

Tả Quý Cao: "Quý hàng còn kinh doanh lương thực?"

Hồ Tuyền Nham bên cạnh giải thích: "Tả công, Ngân hàng Hechingen nhìn như tiệm vàng, thực ra là tập đoàn tài chính hàng đầu phương Tây, kinh doanh khá nhiều, là ngân hàng lớn nổi tiếng ở khu vực Đức."

Tả Quý Cao: "Nhưng chiến sự lần này ở xa Tây Bắc, các ngài có khả năng đưa lương thực đến tiền tuyến không?"

Mayweather: "Việc này dễ giải quyết, chúng tôi có tuyến đường thương mại trưởng thành, có thể từ Đông Phi thẳng đến Giao Châu, cuối cùng thông qua đường bộ đến Khai Phong, việc còn lại là các ngài tự cân nhắc."

Kiều Trí Dung bên cạnh nói: "Mặt này chúng tôi có thể đảm nhận, từ Hà Nam đến Tây Bắc tuyệt đối đảm bảo không có vấn đề."

Liên minh thương mại không phải nói suông, thực ra không có chiến tranh lần này, thương nhân Sơn Tây vẫn bán lương thực từ khu kinh tế Hoài Hải đến Tây Bắc.

Tả Quý Cao: "Tạm không nói vấn đề lương thực, mặt vũ khí e rằng!"

Mayweather: "Haha, ngài Tả, ngài yên tâm, kinh doanh vũ khí chúng tôi cũng khá thành thạo, bất kể là vũ khí Đức hay Áo, chỉ cần có tiền chúng tôi đều có thể kiếm được, rẻ cũng có, như súng trường Dreyse lạc hậu đó, chúng tôi còn không ít hàng tồn kho, nếu là súng trường tiên tiến hơn cũng được, súng trường Mauser tiên tiến nhất của Phổ, chúng tôi cũng có nguồn hàng."

Trời ạ! Dạo trước Lý Hồng Chương còn mua từ tay người Đức một dây chuyền sản xuất súng trường Dreyse chín thành mới, thoắt cái đã thành súng trường lạc hậu rồi?

Cảm thấy nói vậy chưa đủ, Mayweather thêm dầu vào lửa: "Như mọi người đều biết, trang bị của quý quốc chủ yếu là kiểu Anh, Anh tuy mạnh, nhưng thể hiện nhiều hơn ở mặt hải quân, nói về lục quân thì người Đức chúng tôi mới là số một thế giới, ngay cả lục quân Pháp từng xưng là số một thế giới cũng là kẻ thua trận của người Đức chúng tôi."

Việc Pháp thua Đức e rằng mấy chục năm tới người Đức đều có thể treo trên miệng.

"Những điều này đều dễ giải quyết, nhưng quý ngân hàng còn có điều kiện gì khác?"

"Ngoài những điều này ra, về vật thế chấp chúng tôi muốn thấy thành ý, đây rốt cuộc là một khoản đầu tư rủi ro cao, tình cảm quy tình cảm, kinh doanh quy kinh doanh, không có vật thế chấp không dám cho vay bừa bãi."

"Ngoài những điều này thật sự không có yêu cầu bổ sung nào khác?"

Mayweather lắc đầu: "Không."

Không phải Mayweather không muốn, mà là cấp trên có lệnh, lần này đối với Đế quốc Viễn Đông không được áp dụng lãi suất quá cao, mặc dù có ngân hàng khác ép giá, theo dự kiến tâm lý của Mayweather, lãi suất ít nhất cũng nên ở mức bảy.

Năm cũng tốt, vẫn có lời, lãi suất thị trường bốn đã không ít, người bình thường không gấp đều không vay, Ngân hàng Hechingen trong toàn khu vực Viễn Đông nghiệp vụ gần giống HSBC, vì vậy cho vay nặng lãi cũng kinh doanh, như hai nước Nhật, Triều, vay tiền được, trả không nổi còn có thể lấy dân số và tài nguyên trừ nợ.

Muốn trốn nợ là không thể, đằng sau Ngân hàng Hechingen có ba quốc gia, quốc gia bình thường không có gan này, và Đông Phi cũng có khả năng vũ trang đòi nợ, không đối phó được châu Âu, chẳng lẽ không đối phó được ngươi?

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 453 : Diễn tập quân sự


Chương 453: Diễn tập quân sự

Tháng 6 năm 1875.

Khu vực Mikumi, tỉnh Trung ương, Vương quốc Đông Phi.

Mikumi là khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên và đồng bằng của tỉnh Trung ương, nơi giao thoa của địa hình núi, đồi và đồng bằng, rừng và thảo nguyên nối tiếp nhau.

Mùa mưa vừa kết thúc, đất đai vẫn còn ẩm ướt, làn sương mù mờ ảo bao phủ giữa các khu rừng núi, đường sắt trung ương chạy qua khu vực này, tựa như một con rồng thép dần dần ẩn mình từ đồng bằng ven biển vào cao nguyên Đông Phi.

Hai bên đường sắt có các làng mạc và ruộng đất màu mỡ của Đông Phi, nhưng năm nay dân làng đã được xem một màn kịch hay: Quân đội Vương quốc đã tiến hành một cuộc diễn tập quân sự quy mô lớn tại Mikumi. Từ 5 giờ sáng, tiếng đại bàng ầm ầm và tiếng súng đã phá vỡ sự yên tĩnh của khu vực, trên những cánh đồng ở đồng bằng thậm chí có thể nhìn thấy khói đạn bốc lên từ sườn núi.

Nhờ đường sắt, Sư đoàn Cận vệ Đông Phi nhanh chóng triển khai binh lực đến khu vực Mikumi. Đối thủ của họ là Quân khu Nam từng chiến đấu với người Boer ở phía nam. Hai bên đã triển khai một trận chiến lớn tại khu vực Mikumi.

"Đội chiến đấu số 3 của Quân Lam, địch đã vào rừng, không được hành động liều lĩnh, tiến vào theo hình thức đội nhỏ, giữ khoảng cách chiến đấu, không để bị đánh bại từng người!"

"Hướng 25 độ bên trái, bụi cây có động tĩnh bất thường, có thể có địch ẩn nấp."

"Chuẩn bị lựu đạn!"

Theo sự bùng nổ của một quả lựu đạn khói, Đội chiến đấu số 3 của Quân Lam bị đặt trong làn sương mù.

Trọng tài đi theo Đội chiến đấu số 3 phán định: "Bị vật tấn công của Quân Đỏ trúng, điểm nổ chính giữa trung tâm, phán định thương vong mất 40% nhân sự."

"Thế này không công bằng! Lựu đạn trong thực chiến làm gì có uy lực lớn như vậy? Gian lận!"

"Quy định của Bộ chỉ huy diễn tập lần này, phạm vi sát thương của vật nổ nhỏ được mở rộng thêm 2 mét, không chỉ nhắm vào các anh, mà là nhắm vào tất cả các đơn vị tham gia diễn tập, vì vậy phán định có hiệu lực!"

"Vậy cũng không đúng! Đã là thương vong, không thể toàn bộ tử trận chứ! Bị thương vẫn có thể chiến đấu chứ! Trước đây trong rừng mưa phía tây, lựu đạn của chúng ta gây sát thương cho thổ dân như vậy đó, ngay cả nổ ở cự ly gần, tỷ lệ sống sót của thổ dân vẫn cao, vẫn có khả năng chiến đấu."

"Haha, cuộc diễn tập lần này được thiết lập theo tiêu chuẩn khắc nghiệt nhất, nói các anh thương vong thì coi như tử trận, không xem xét tình trạng bị thương. Hơn nữa trong môi trường khắc nghiệt, bị thương về cơ bản đồng nghĩa với vô phương cứu chữa, địch sẽ không cho các anh cơ hội. Vì vậy mọi quyết định đều phải thận trọng, bất kỳ chi tiết nhỏ nào cũng có thể trở thành chìa khóa quyết định thắng bại của chiến tranh."

Binh sĩ Quân Lam vẫn bất mãn nói: "Vậy chúng tôi đã tử trận, bây giờ nằm ở đây à?"

"Đúng vậy, bây giờ giao thẻ mạng sống cho tôi, các anh đợi đến khi diễn tập kết thúc là được. Những người sống sót còn lại tiếp tục tham gia chiến đấu."

Sau khi trọng tài và những người khác rời đi, binh sĩ Quân Lam hy sinh vẫn bất mãn nói: "Vừa rồi lộ vị trí hoàn toàn là tai nạn, vốn dĩ chúng ta thường ẩn nấp khá tốt, bây giờ thêm một trọng tài quân đội, tay chân bị trói buộc, hoàn toàn không thoải mái."

"Chết tiệt! Vừa rồi lộ diện biết đâu lại là do trọng tài đó gây ra! Có phải là gián điệp của Quân Đỏ không?"

"Không thể! Trọng tài diễn tập lần này là từ quân khu khác, không thể có hiện tượng thiên vị. Lấy chúng ta làm ví dụ, ai trong số các anh phục cái gọi là Sư đoàn Cận vệ? Vì vậy trọng tài diễn tập có thể ngược lại thiên về chúng ta."

"Tạm không bàn vấn đề trọng tài, cuộc diễn tập chiến thuật lần này chúng ta quả thực có nhiều sai sót. Chết tiệt! Nói đến đây là tôi tức! Một bụi cây nhỏ như vậy mà giấu nhiều người thế này, chắc chắn sẽ gặp rắc rối lớn. Tôi là người đầu tiên trốn đến đây, các anh không thể đi chỗ khác ẩn nấp à?"

"Chẳng phải chỉ có chỗ này tốt thôi sao? Vì vậy mọi người đều im lặng chọn điểm này, chỗ khác quá trống trải!"

"Vì vậy nói chúng ta thua không oan, lần sau phải rút lui tách ra..."

Trong khi binh sĩ Quân Lam tổng kết kinh nghiệm, đội trưởng binh sĩ Quân Đỏ cũng rất không hài lòng: "Nhìn các anh giống cái gì vậy! May mắn vừa rồi là tôi phát hiện động tĩnh bất thường của địch, không thì đợi bị đánh lén à? Lần sau vào rừng phải điểm danh, nếu gặp quân đội được huấn luyện bài bản, chịu thiệt chắc chắn là chúng ta!"

...

Quan điểm của binh sĩ về diễn tập không thống nhất, trong Bộ chỉ huy diễn tập đã tranh cãi kịch liệt.

"Leonard, anh không thấy ngại khi khoe khoang chứ? Các anh trang bị thế nào, chúng tôi trang bị thế nào? Theo tôi nói, trong cuộc diễn tập này, so với sư đoàn cận vệ của các anh, quân đội chúng tôi giống như con nuôi của mẹ kế vậy."

"Coriolis, anh đừng vu khống! Sư đoàn Cận vệ tuy trong vũ khí quả thực hơi quá đáng, nhưng giành được ưu thế cũng là kết quả nỗ lực của chúng tôi. Hơn nữa, Sư đoàn Cận vệ của chúng tôi bị hạn chế cũng không ít, các địa hình ưu tú ngay từ đầu đã được phán định cho các anh, các anh còn là bên phòng thủ, vì vậy chênh lệch giữa hai bên không lớn."

"Vẫn không lớn? Pháo 12 pound của các anh quá vô liêm sỉ! Vốn là pháo 6 pound, đều tính thành pháo 12 pound, thậm chí có thể tính thành pháo 24 pound. Pháo 3 pound của chúng tôi vẫn là pháo 3 pound. Còn súng máy, gấp mấy chục lần chúng tôi. Những điểm này tôi không tính, số lượng đạn thiết lập và các tham số cơ bản khác chúng tôi đều thấp hơn các anh. Kiểu chiến tranh này đánh thế nào được!"

"Haha, không có cách nào! Lần này chúng tôi Quân Đỏ mô phỏng là cường quốc lục quân châu Âu. Quân đội Đông Phi và quân đội châu Âu chênh lệch trang bị chính là lớn như vậy. Hơn nữa, trang bị nặng của chúng tôi nhiều thứ không phát huy được hiệu quả, đường sá ở đây tệ như vậy, pháo hạng nặng còn không linh hoạt bằng pháo hạng nhẹ."

Tổng chỉ huy diễn tập Sivert nói: "Được rồi, đừng tranh cãi nữa! Cuộc diễn tập lần này là một lần diễn tập trước, chính là xem khi trình độ của Đông Phi chống lại các cường quốc châu Âu sẽ xuất hiện sơ hở gì. Vì vậy chênh lệch trang bị chính là thảm hại như vậy. Quân đội chúng ta phải yêu cầu bản thân với tiêu chuẩn cao nhất, ngay cả khi rơi vào tuyệt cảnh cũng có thể phát huy thực lực của mình."

"Tham mưu trưởng, điểm này tôi rõ, nhưng tôi thực không thể hiểu nổi, quốc gia châu Âu nào có khả năng đầu tư quy mô quân đội lớn như vậy vào Đông Phi, mà còn trang bị nhiều vũ khí như thế? E rằng người Anh cũng không làm được chứ?"

"Có lẽ điều này rất khó khăn đối với các cường quốc, nhưng thực lực của các cường quốc là không thể nghi ngờ. Đặc biệt là mấy cường quốc hải quân và lục quân châu Âu kia, nếu thực sự dốc toàn lực quốc gia đối phó Đông Phi, thì chúng ta chắc chắn sẽ rất khó chịu."

"Nói rất đúng! Không thể xem thường kẻ địch, đặc biệt là các cường quốc. Không cần nói dốc toàn lực quốc gia, chỉ cần một số cường quốc lấy ra một phần ba thực lực là đủ khiến chúng ta đau đầu. Có thể triệu quân không làm được, nhưng mấy chục vạn quân vẫn có khả năng triển khai đến châu Phi." Ernst bước vào Bộ chỉ huy nói.

"Điện hạ!" Mấy người nghiêm trang chào Ernst.

Ernst vẫy tay nói: "Được rồi, đều ngồi xuống đi! Lần này tôi rảnh rỗi đến khu vực diễn tập để thị sát một chút, các anh tiếp tục công việc. Tình hình diễn tập hiện tại thế nào rồi?"

Sivert nói: "Báo cáo Điện hạ, diễn tập hiện tại vẫn chưa kết thúc, nhưng từ tình thế diễn tập mà xem, Quân Đỏ có ưu thế lớn hơn, Quân Lam ứng phó với tấn công của Quân Đỏ vẫn hơi khó khăn."

"Ừm, sau khi diễn tập kết thúc, Quân Đỏ phải tổng kết nhiều kinh nghiệm. Quân Đỏ đại diện hơn cho trình độ thực tế của quân đội Đông Phi. Sư đoàn Cận vệ rốt cuộc có chút đặc thù. Vì vậy vấn đề Quân Đỏ gặp phải, cũng là vấn đề Đông Phi có thể gặp phải. Chúng ta ở châu Phi, thuộc về bên phòng thủ, vì vậy phải chuẩn bị hoàn toàn."

"Điện hạ! Châu Âu thực sự có khả năng xâm lược châu Phi sao!"

"Tôi có thể cho anh câu trả lời chính xác: nhất định! Hiện tại các nước đều đang nhúng nhỏm. Ở Viễn Đông, nhiều đại quốc tiến hành xâm lược phương Đông. Nam Mỹ cũng xung đột không ngừng. Hơn nữa, ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế lần này sâu rộng, khác với khủng hoảng kinh tế kiểu một nước của Anh trước đây, hầu như tất cả các nước công nghiệp châu Âu đều bị ảnh hưởng. Để chuyển hướng khủng hoảng, họ tất yếu sẽ phát động tranh chấp kịch liệt hơn trước. Lần này không phải một vùng một nước, mà là toàn thế giới."

"Quy mô của Đông Phi chúng ta cũng không thể tránh khỏi?"

"Không thể tránh khỏi! Châu Phi bị để ý chỉ là vấn đề thời gian. Hơn nữa Ý, Bỉ, Pháp đều đã triển khai hành động. Nếu các nước khác cũng nhập cuộc, Đông Phi chúng ta tuyệt đối không thể đứng ngoài. Vì vậy để ngăn chặn số phận của các nước lạc hậu rơi vào đầu chúng ta, chúng ta phải hung hãn hơn, mạnh mẽ hơn kẻ địch. Chỉ có kẻ mạnh mới nhận được sự tôn trọng. Vì vậy mục đích của diễn tập quân sự là để quân đội chúng ta thích ứng với áp lực của kẻ địch tiềm tàng của Đông Phi trong cuộc khủng hoảng lớn này."

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 454 : Hướng về Nam Dương


Chương 454: Hướng về Nam Dương

Mục đích của diễn tập là để phòng ngừa từ xa, đối với Đông Phi mà nói, áp lực quốc phòng thực tế không đến mức lớn như các quốc gia khác, nhưng các quốc gia khác muốn làm khó dễ Đông Phi cũng rất dễ dàng.

Ernst, người đã xuất hiện trong cuộc diễn tập, nhanh chóng trở về bằng tàu hỏa. Việc hắn đến thị sát là để thể hiện sự coi trọng quân đội, bản thân hắn còn có việc quan trọng hơn cần làm.

Tháng 7 năm 1875.

Cảng Bagamoyo.

"Nhiệm vụ của hạm đội chúng ta lần này là xuất phát từ Đông Phi, đi qua eo biển Malacca, qua đảo Kalimantan, và cuối cùng đến Viễn Đông, thực hiện chuyến thăm quốc sự đến các quốc gia Viễn Đông." Đại công tước Ferdinand nói với các sĩ quan hải quân.

Điều này khiến các sĩ quan trẻ người Áo rất phấn khích, xét cho cùng nhiệm vụ lần này khá hiếm có, ngay cả khi trước đây ở Áo cũng chưa chắc có cơ hội như vậy.

Sĩ quan hải quân Đông Phi có nhiều người gốc Áo, điều này cũng dễ hiểu, xét cho cùng cơ cấu hải quân Đông Phi được xây dựng bởi họ và Đại công tước Ferdinand.

Hải quân Đông Phi không còn là lính mới như trước đây, với sự giúp đỡ của hải quân Áo, phát triển cũng khá sôi nổi, đặc biệt là sau khi hai thiết giáp hạm mới nhập ngũ vào tháng trước, số lượng thiết giáp hạm Đông Phi trực tiếp đạt ba chiếc.

Còn lý do tại sao chuyến hải hành xa đầu tiên của hải quân lại chọn khu vực Viễn Đông, đó là để phô trương... à không, là để tuyên dương uy thế quốc gia.

Lần này cho Viễn Đông vay một khoản tiền lớn như vậy, để hỗ trợ Đế quốc Viễn Đông chiến tranh với Nga hoàng, mặc dù lãi suất không thấp, nhưng Ernst cũng sợ Đế quốc Viễn Đông đánh giá người để đưa ra món ăn, chơi trò trốn nợ.

Tỷ lệ xảy ra chuyện như vậy thực tế gần bằng không, Đế quốc Viễn Đông luôn coi trọng thể diện, hơn mười triệu lạng tuy nhiều, nhưng không đến mức không trả được, thực tế trong lịch sử năm sau Đế quốc Viễn Đông đã trả cho Ngân hàng HSBC tám triệu lạng, lãi hơn ba triệu lạng, chỉ một năm đã thu hồi vốn.

Vì vậy, đòi nợ chỉ là cái cớ, mục đích thực sự của hải quân Đông Phi là đi thăm dò đường ở phương Đông.

Ernst thèm muốn phương Đông không phải một hai ngày, dĩ nhiên phương Đông này chủ yếu chỉ Ấn Độ Dương, thêm khu vực Nam Dương, đối với Đông Phi mà nói, phía đông lục địa đều là phương Đông.

Ấn Độ Dương tuy quan trọng, nhưng trung tâm đại dương chỉ có vài hòn đảo lẻ tẻ, còn nằm trong tay Anh-Pháp, hơn nữa khu vực Tây Ấn Độ Dương, cùng với việc thiết giáp hạm hải quân Đông Phi nhập ngũ, cùng sự kiểm soát các đảo, thực tế đã là hậu viên của Đông Phi, vì vậy trong mắt Ernst, thực sự quan trọng vẫn là khu vực Nam Dương.

Chỉ riêng vị trí của eo biển Malacca đã không thể thay thế, dĩ nhiên đây không phải thứ Đông Phi có thể nhòm ngó hiện tại, nhưng các đảo Nam Dương nhiều lắm!

Trong các đảo Nam Dương, quần đảo Đông Ấn (ở đây chỉ Indonesia), đảo Kalimantan (Borneo), quần đảo Philippines, đảo Sumatra đều là những tồn tại không thể xem nhẹ (thực tế các đảo trên đều thuộc quần đảo Đông Ấn), còn một đống đảo nhỏ có vị trí quan trọng.

Trong các đảo này, ảnh hưởng lớn nhất là Hà Lan, sau đó là Anh, rồi đến Tây Ban Nha, cuối cùng là Bồ Đào Nha (Đông Timor), đảo Kalimantan đã là khu vực Ernst để mắt, các quốc gia chính trên đảo Kalimantan có Hà Lan, Vương quốc Sarawak, Lan Phương và bảy nước cộng hòa khác.

Người Hà Lan trên đảo Kalimantan có ba vùng đất, lần lượt ở Tây Bắc và Nam Kalimantan, giữa thuộc địa của người Hà Lan là nước Cộng hòa Lan Phương.

Nước Cộng hòa Lan Phương cũng có thể gọi là Công ty Lan Phương, hoặc Nước Cộng hòa Đại Thống chế Lan Phương, là một quốc gia của người Hoa, thành lập từ năm 1777, chủ yếu do người Hoa di cư xuống phía nam từ bốn triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh thành lập.

Tầng lớp thống trị của nước Cộng hòa Lan Phương thực ra rất kỳ lạ, xưng là nước cộng hòa đầu tiên của châu Á, thực tế do các gia tộc người Hoa địa phương liên hợp thống trị, hình thức tổ chức giống với đoàn thể của Công ty Đông Ấn hơn.

Những điều này với Ernst không quan trọng, đơn thuần là hắn để mắt đến điều kiện địa lý của đảo Kalimantan. Nam Dương là "ngã tư" của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, còn đảo Kalimantan là "ngã tư" của Nam Dương.

Ernst nói với nhạc phụ: "Trong chuyến hải hành này, chúng ta phải lấy nước Cộng hòa Lan Phương làm khu vực trọng điểm, nơi đây rất có thể là thuộc địa đầu tiên của chúng ta ở Đông Ấn Độ Dương trong tương lai, vì vậy lần này hải quân có thể đề xuất điều kiện yêu cầu thích hợp với nước Cộng hòa Lan Phương, đặt nền móng cho bước tiếp theo mở rộng ảnh hưởng kinh tế và chính trị đối với nước Cộng hòa Lan Phương."

Quả sung phải chọn quả mềm mà bóp, nước Cộng hòa Lan Phương chính là quả mềm trong mắt Ernst, và là quả mềm khá quen thuộc.

Có hải quân lần này làm hậu thuẫn, nước Cộng hòa Lan Phương không dám không cho Đông Phi thể diện, xét cho cùng những năm nay nước Cộng hòa Lan Phương ở khu vực Nam Dương cũng không dễ sống, đây cũng là khó khăn mà các nước Nam Dương đối mặt.

Đại công tước Ferdinand hỏi: "Con coi trọng nước Cộng hòa Lan Phương như vậy, có phải vì nó là một quốc gia của người Hoa?"

Đây là nghi vấn trong lòng Đại công tước Ferdinand, nên nhân cơ hội này hỏi ra, xét cho cùng các hành vi của Ernst đều chứng minh ông coi trọng người Hoa chỉ sau người Đức.

"Có yếu tố này, vì tôi nghiên cứu khá sâu về lịch sử người Hoa, khá hiểu người Hoa, nhưng đây không phải yếu tố chính, nguyên nhân căn bản vẫn là nước Cộng hòa Lan Phương là một quốc gia độc lập, điểm này rất quan trọng đối với Đông Phi chúng ta, hiện tại chúng ta không đáng để xung đột với các nước châu Âu khác, mà không xung đột với các nước khác, vẫn muốn có chỗ đứng ở khu vực Đông Ấn, thì chỉ có thể chọn những vùng đất vô chủ hoặc quốc gia độc lập ra tay, nhạc phụ nghĩ xem một thuộc địa có cơ sở khai thác có giá trị, hay một vùng đất vô chủ có giá trị?"

"Đương nhiên là thuộc địa có cơ sở khai thác."

"Đúng vậy, người Hoa trước cách mạng công nghiệp của chúng ta, luôn nắm giữ nền văn minh tiên tiến nhất phương Đông, Seres thời La Mã cổ đại đã là một trong bốn cường quốc thế giới, mà khi La Mã còn chưa tồn tại, người Hoa đã là nền văn minh hùng mạnh nhất thế giới, mạnh hơn Hy Lạp và Ai Cập rất nhiều. Nước Cộng hòa Lan Phương là một quốc gia do người Hoa dẫn dắt, cư dân của nó thực tế cũng là đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến ở khu vực Nam Dương, dĩ nhiên, tôi nói là trước cách mạng công nghiệp."

"Người Hoa quả thực rất có kỷ luật, lại cần cù dũng cảm." Đại công tước Ferdinand lấy thủy binh người Hoa trong hải quân làm đối chiếu nói.

"Đúng vậy, thực tế các khu vực chịu ảnh hưởng văn minh Hoa Hạ ở Đông Á đều tương tự, mà khu vực Nam Dương vừa hay không nằm trong đó, thời gian họ tiếp nhận khai hóa e rằng chính là thời gian thực dân châu Âu thuộc địa, và hiệu suất không cao hơn thổ dân châu Phi là mấy."

Công nghiệp hóa và thống trị thuộc địa giảng hiệu suất, các đảo Nam Dương đất đai cằn cỗi (trừ các đảo được tro núi lửa phủ như Java), văn minh phát triển cũng không lý tưởng, vì vậy muốn kéo thổ dân vào văn minh công nghiệp, đó là độ khó tương đương châu Phi.

Vì vậy, một quốc gia do người Hoa dẫn dắt như nước Cộng hòa Lan Phương ngược lại là một khu vực thuộc địa lý tưởng, thực tế nhìn vào trạng thái phát triển của người Hoa Malaysia đời sau cũng vậy, họ tuyệt đối là đối tượng bị trị ưu tú.

Hơn nữa, nước Cộng hòa Lan Phương hiện tại cũng tính là quốc gia độc lập, Đông Phi trước tiên thông qua thâm nhập kinh tế vài năm, đến lúc đó có thể tự nhiên đưa vào phạm vi thế lực của Đông Phi, không cần xung đột với các thực dân khác, có xung đột cũng không sợ, người có khả năng đe dọa nước Cộng hòa Lan Phương là người Hà Lan, thử hỏi Ernst có sợ người Hà Lan không?

Hơn nữa, Ernst lấy nước Cộng hòa Lan Phương làm khu vực quy hoạch trọng điểm, còn một nguyên nhân nữa, đó là có thể hợp nhất thế lực người Hoa địa phương để chống lại các thực dân đồng nghiệp khác.

Khả năng bức xạ ra nước ngoài của Đông Phi rốt cuộc không mạnh, ở Nam Dương không có lợi thế như Hà Lan và các nước khác, cứ nói như vậy, vùng đất vô chủ ở Nam Dương rất nhiều, nhưng chiếm những vùng đất vô chủ này đối với Đông Phi hiện tại không có giá trị, ngay cả Đông Phi cắm cờ ở một số vùng đất vô chủ, Hà Lan và các nước khác có thể trực tiếp bỏ qua.

Vì vậy, Đông Phi cần một điểm tựa, để can thiệp vào công việc khu vực Nam Dương, và đối tượng tốt nhất của điểm tựa này chính là nước Cộng hòa Lan Phương, mọi người cũng tính là nửa người nhà, hợp tác cũng thuận tiện hơn.

Mặc dù không biết tâm lý nước Cộng hòa Lan Phương có thừa nhận hay không, nhưng dưới sự đe dọa của hải quân Đông Phi, Ernst cho rằng họ sẽ thừa nhận.

Hơn nữa yêu cầu của Vương quốc Đông Phi cũng không quá đáng, chỉ là yêu cầu quyền thông thương và đầu tư, vẫn khá dễ chấp nhận.

Còn sau vài năm nữa, có thể thuận lý thành chương yêu cầu đóng quân, dù sao mối đe dọa của người Hà Lan ở bên cạnh, nước Cộng hòa Lan Phương biết đâu lại chủ động yêu cầu Đông Phi đóng quân, có quân đội đóng thì việc còn lại dễ giải quyết hơn, toàn diện thực hiện giáo dục tiếng Đức và văn minh Đức ở nước Cộng hòa Lan Phương, biến nước Cộng hòa Lan Phương thành điểm tựa chiến lược của Đông Phi ở khu vực Nam Dương.

Việc như vậy trong suy nghĩ của Ernst, tất cả đều là chuyện thuận lý thành chương, xét cho cùng Singapore đời trước đều có thể lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức, vì vậy thực hiện tiếng Đức ở nước Cộng hòa Lan Phương cũng khả thi.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 455 : Chủ nghĩa đế quốc


Chương 455: Chủ nghĩa đế quốc

Ngày 23 tháng 7 năm 1875.

Đoàn tàu viễn dương gồm bảy tàu chiến Đông Phi đã đến Cộng hòa Lan Phương, đổ bộ lên Tam Dương Khẩu. Đại công tước Ferdinand nói: "Trong số các đảo ở Nam Dương, nơi này quả thực phát triển khá tốt!"

Tầm mắt nhìn thấy toàn là ruộng đất màu mỡ, khá giống cảnh quan nông nghiệp vùng ven biển Đông Phi, điều này phá vỡ ấn tượng định kiến vừa hình thành của Đại công tước Ferdinand về khu vực Nam Dương trên đường đi qua eo biển Malacca.

Eo biển Malacca quả thực hẹp, nhưng dọc bờ là bán đảo Mã Lai và đảo Sumatra hai đảo lớn, nên đất liền rất rộng lớn, nhưng hai bên eo biển Malacca phát triển ngoại trừ một số ít thành phố (thực ra trong mắt Ferdinand là nông thôn), về cơ bản đều hoang vắng không người, rừng mưa rậm rạp.

Nhưng Cộng hòa Lan Phương hoàn toàn khác biệt, ban đầu đoàn tàu Đông Phi đến thành phố Bang Hạ ở phía bắc Cộng hòa Lan Phương, nhưng thủ đô Đông Vạn Luật của Cộng hòa Lan Phương ở phía nam, nên đoàn tàu Đông Phi dọc theo bờ biển đi về phía nam.

Trên đường đi, Ferdinand cuối cùng cũng lần đầu tiên chứng kiến tình hình xây dựng của một quốc gia thuần người Hoa cai trị, nông nghiệp và khai thác mỏ của Lan Phương rất phát triển, đặc biệt là xây dựng nông nghiệp có thể tính là trình độ tiên tiến nhất trong các đảo Nam Dương, với sự so sánh như vậy, xem ra điều Ernst nói về thổ dân Nam Dương không đáng dùng quả thực có lý.

Thực tế điều này vốn đã được lịch sử chứng minh, người Hà Lan trong lịch sử nguyên gốc rõ nhất về Cộng hòa Lan Phương, người Hà Lan De Groot chứng kiến lịch sử cuối cùng của công ty người Hoa Tây Borneo: "Thời đại người Hoa trong lịch sử Borneo, thậm chí thời đại thịnh vượng của Borneo, từ đây một đi không trở lại. Ngành khai thác vàng địa phương được thay thế bởi doanh nghiệp hiện đại quy mô lớn của người châu Âu, tuy nhiên sự thịnh vượng trong ngành khai thác mỏ thời đại người Hoa đã không còn; nông nghiệp càng do làn sóng người Hoa nhập cư trở về Viễn Đông mà suy sụp."

Vì vậy, điều Ernst nói Cộng hòa Lan Phương đại diện cho lực lượng sản xuất cao nhất khu vực Nam Dương không phải nói bừa, thực tế người Hà Lan thôn tính Cộng hòa Lan Phương quả thực cũng là một nước cờ tồi.

Cộng hòa Lan Phương tự phát triển dựa vào cái gì? Căn bản vẫn là vấn đề con người, sau khi người Hà Lan đuổi người Hoa, khu vực Cộng hòa Lan Phương từ đó suy sụp. Hiện tại bản thân Cộng hòa Lan Phương đã chịu sự can thiệp của người Hà Lan, cái gọi là Đại Thống chế của nó, cũng là con rối dưới sự thao túng của người Hà Lan.

Sau khi hạm đội Đông Phi đến Tam Dương Khẩu, rõ ràng đã gây ra một phen xáo trộn, vật thể khổng lồ bằng thép đối với người dân địa phương chưa từng thấy thiết giáp hạm khá là chấn động.

"Đó là tàu à?"

"Tàu chiến!"

Thương nhân Hà Lan làm ăn ở khu vực Tam Dương Khẩu lại nhận ra thiết giáp hạm, người có hiểu biết hơn thậm chí nhận ra trên thiết giáp hạm là cờ của Vương quốc Đông Phi.

"Người Đức đột nhiên đến Lan Phương để làm gì? Họ muốn gì?"

Đại công tước Ferdinand không phải đến để giao lưu "thân thiện", dưới sự "chào hỏi thân thiết" của hải quân Đông Phi, thủ lĩnh người Hoa Tam Dương Khẩu vội vã đến bái kiến, không đến cũng không được, quân đội đối phương đã lên bờ rồi.

"Không biết ngài từ đâu đến? Đến Lan Phương chúng tôi có việc gì?"

Mở miệng liền khiến Ferdinand cảm thấy hơi choáng, vì hoàn toàn không hiểu, vốn tưởng đã biết một chút tiếng Hán, bản thân sao cũng có thể trao đổi vài câu với đối phương, hóa ra là bản thân nghĩ quá nhiều!

Về mặt học ngôn ngữ, gia tộc Habsburg dám nói số một, không ai dám nói số hai, đều là bị ép ra, khu vực thống trị của gia tộc Habsburg không biết mấy thứ tiếng, thì không xứng làm người cai trị Đế quốc Áo-Hung, bản thân Franz đã có thể thành thạo ứng dụng tám ngôn ngữ của Đế quốc Áo-Hung.

Về mặt này, Đại công tước Ferdinand không kém cạnh, hơn nữa trải nghiệm của ông còn thú vị hơn bản thân Franz, từng sống ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, nên biết nhiều ngôn ngữ hơn.

Trong hải quân Đông Phi có nhiều người Hoa, mặc dù họ đều biết tiếng Đức, Đại công tước Ferdinand vẫn chuyên môn học tiếng Hán, chỉ tốn ba tháng, Ferdinand đã có thể không dùng tiếng Đức giao tiếp không trở ngại với thủy binh người Hoa, điều này rất có lợi cho ông nắm hải quân, xét cho thành phần cư dân Đông Phi phức tạp, một số dân tộc sẽ dùng ngôn ngữ dân tộc mình trao đổi riêng.

May mắn Đông Phi trước tiên đánh tan họ, tách ra, như vậy ngoại trừ bản thân tiếng Đức, không có bất kỳ ngôn ngữ nào có thể thách thức địa vị chủ đạo của tiếng Đức ở Đông Phi.

Ferdinand học tiếng Hán phương Bắc, chính xác hơn là "Quốc ngữ", nhã ngôn chính thức của Viễn Đông hiện tại, mà Cộng hòa Lan Phương nói lại là tiếng Khách Gia và tiếng Triều Châu, điều này vượt quá phạm vi khả năng của Đại công tước Ferdinand.

May mắn trong thủy binh Đông Phi có nhiều người phương Nam, đều là tuyển mộ từ Châu Hải, tính nước rất tốt, giống như sư đoàn núi tuyển binh từ Quảng Tây là một đạo lý, có phiên dịch hai bên cuối cùng có thể giao tiếp bình thường.

"Chúng tôi là Vương quốc Đông Phi..."

Dưới sự giao tiếp của phiên dịch, thủ lĩnh Tam Dương Khẩu cuối cùng cũng hiểu rõ mục đích của người Đông Phi, nhưng điều này vượt quá quyền hạn của ông ta.

"Kính thưa Đại công tước Ferdinand, việc như vậy không phải một quan chức địa phương nhỏ như tôi có thể làm chủ được, để tôi thông báo cho Đại Tổng chế trước rồi do Đại Tổng chế quyết định."

"Đã ngươi không làm chủ được, vậy cũng không cần nói nữa, chúng ta tự mình đến Đông Vạn Luật đàm phán với quân chủ quý quốc!" Đại công tước Ferdinand nói.

"Ừm..."

Nhưng nhìn đội quân sát khí ngút trời sau lưng Đại công tước Ferdinand, cùng tàu lớn súng mạnh đầy áp lực, thủ lĩnh Tam Dương Khẩu lại nuốt lời vào bụng.

Thủ đô Đông Vạn Luật của Cộng hòa Lan Phương tuy so với Tam Dương Khẩu sâu trong nội địa hơn, thực tế cách biển cũng không xa, nên tốn hai ngày, Đại công tước Ferdinand đã đến thủ đô này của Cộng hòa Lan Phương.

Vào thế kỷ 19, dân số Cộng hòa Lan Phương khoảng quy mô triệu người, chỉ số lượng người Hoa khoảng hơn năm mươi vạn người, đây còn là kết quả sau khi mỏ vàng cạn kiệt, số lượng thợ mỏ giảm một nửa, tuy nhiên phần lớn thợ mỏ người Hoa đã đến Vương quốc Sarawak.

Vì vậy, Cộng hòa Lan Phương không tính thưa thớt dân cư, thậm chí dân số còn đông đúc hơn nhiều khu vực Đông Phi, chỉ riêng Khuntien (thành phố) đã có dân số khoảng hai ba chục vạn người, Đông Vạn Luật là trung tâm chính trị Lan Phương, dân số quy mô hơn vạn người.

Hiện tại Cộng hòa Lan Phương tuy duy trì thân phận quốc gia độc lập, nhưng đơn phương tự xưng là nước phiên thuộc của nhà Thanh, thực tế phải nộp một phần thuế, như phí bảo vệ cho người Hà Lan, Đại Tổng chế Lưu A Sinh của nó cũng là sản phẩm thỏa hiệp đấu tranh giữa người Hoa và người Hà Lan, tính là chính quyền bù nhìn nửa vời.

Cộng hòa Lan Phương thực tế khá hỗn loạn, có người như Lưu A Sinh cấu kết với người Hà Lan, cũng có người kiên trì đấu tranh với người Hà Lan.

Điều này với Đông Phi không quan trọng, mục đích của hải quân Đông Phi lần này, chính là ép gia tộc Lưu mở toang cửa quốc gia Cộng hòa Lan Phương, chỉ cần chính phủ Đông Vạn Luật ký hiệp định, thì tổ chức thương mại Đông Phi lập tức triển khai xâm nhập kinh tế vào Cộng hòa Lan Phương.

Thực tế Đông Phi ở Cộng hòa Lan Phương có tồn tại mậu dịch kinh tế, điểm này không lạ, vì Cộng hòa Lan Phương cũng có người Anh và người Mỹ làm ăn. Tuy nhiên mậu dịch của Đông Phi với Cộng hòa Lan Phương chủ yếu dựa vào thương nhân Zanzibar, lần này thì tự mình lên sân khấu.

Đông Vạn Luật có hai con phố dài giao nhau thành chữ thập dài một phần tư dặm, rất rộng lớn, nhà cửa ven phố đều ngay ngắn đẹp mắt, nhưng người ít như thị trấn Mỹ sau dịch tả, nhà cửa đều trống không, đây là kết quả sau khi khai thác khoáng sản địa phương cạn kiệt.

Vì vậy khi Đại công tước Ferdinand dẫn quân đội vào Đông Vạn Luật, chính phủ Đông Vạn Luật thực tế hoàn toàn không thể ngăn cản.

Toàn bộ dân số của Đông Vạn Luật chỉ hơn một vạn người, mà Ferdinand đã mang theo hơn hai nghìn quân lính đổ bộ, nên chính quyền Đông Vạn Luật hoàn toàn không có chút tự tin để kháng cự.

Dọc đường, thế lực người Hoa cũng không dám chống đối, bởi vì mọi người vẫn chưa rõ những kẻ ngoại lai này đến đây làm gì. Chỉ cần không đe dọa đến lợi ích của mình thì chẳng ai dại gì mà đứng ra làm kẻ tiên phong.

Tất nhiên, người Hà Lan thì lại khác. Những năm qua, người Hà Lan đã tạo dựng “thanh danh” ở trong lãnh thổ Cộng hòa Lan Phương, ai nấy đều biết rằng chúng chính là nhằm vào mình.

Ngược lại, đối với đội quân Đông Phi có thành phần vừa da vàng vừa da trắng này, họ lại khá xa lạ. Binh sĩ Đông Phi hải quân trang bị tinh lương, y phục thống nhất, hiển nhiên là chính quy quân, hoàn toàn khác với dáng vẻ nửa cường đạo của đám lính đánh thuê Hà Lan, vừa nhìn đã biết không phải hạng dễ chọc vào.

Đại công tước Ferdinand thẳng đường tiến vào Đông Vạn Luật, tại đó gặp được vị gọi là Đại tổng chế. Hắn liền trực tiếp đưa ra bản “Tâm nguyện thư” của Đông Phi:

“Lưu A Sinh các hạ, đây là toàn bộ yêu cầu của vương quốc Đông Phi chúng tôi. Nếu quý quốc chấp nhận tình hữu nghị của chúng ta, thì Đông Phi nguyện cùng quý quốc giao hảo.”

Súng đã kề sát tận trán, vị Đại tổng chế bị phe chủ chiến người Hoa địa phương gọi là “Hán gian” này, chẳng buồn xem kỹ càng, run rẩy ký liền vào hiệp định thông thương hữu hảo.

Nguyên nhân chủ yếu là không ký thì cũng chẳng có cách nào, thêm nữa vương quốc Đông Phi cũng không giống Hà Lan, bắt Lan Phương phải tiến cống, vậy nên vẫn còn có thể chấp nhận được.

Vương quốc Đông Phi tạm thời cũng không tham chút tiền của nơi này. Họ nhắm tới việc chiếm giữ lâu dài, cho nên trước hết coi trọng việc thông thương, chiêu mộ vũ trang, di dân, đầu tư, gây dựng lực lượng thân Đông Phi tại chỗ. Mai sau sẽ nuốt gọn cái quốc gia chia năm xẻ bảy này trong một lần.

Chính trị của Cộng hòa Lan Phương vốn dĩ đã kỳ quái như thế. Ngoài công ty Lan Phương, còn có những công ty của người Hoa khác, chỉ là công ty Lan Phương thế lực mạnh nhất, đủ tư cách làm “bá chủ”, có sức phục chúng.

Cái gọi là “đàm phán” lần này, thực chất chính là một màn uy hiếp và khủng bố bằng vũ lực, hoàn toàn khác với cách Đông Phi hành sự ở châu Phi hay châu Âu.

Ở châu Phi, Đông Phi xưa nay chẳng cần dùng đến khủng bố, vẫn luôn thẳng tay, kẻ bản địa nào không nghe lời thì trực tiếp trấn áp, ngay cả quyền đàm phán cũng không có.

Bởi thế, trong lần “Viếng thăm thân thiện” Cộng hòa Lan Phương này, Đông Phi lần đầu tiên phô bày khuôn mặt thật của một kẻ thực dân, được dịp thỏa mãn cơn nghiện “Đế quốc chủ nghĩa”.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 456 : Cắm cờ chiếm đất


Chương 456: Cắm cờ chiếm đất

Sau khi giải quyết xong chính phủ Đông Vạn Luật, lực lượng tiếp theo tiến vào Cộng hòa Lan Phương chính là Tập đoàn Hechingen. Tại đây, bọn họ để lại hơn ba trăm quân vũ trang, còn Đại công Ferdinand thì dẫn theo hạm đội tiếp tục xuôi về phương Đông.

Ba trăm quân này không dừng lại ở Đông Vạn Luật mà tiếp tục hành quân xuống phía nam, tiến vào thành phố Khun Điện của Cộng hòa Lan Phương.

Đông Vạn Luật được xây dựng ở bờ tây nhánh phụ của sông Vạn Luật, một nhánh của sông Khun Giang (sông Kapuas), còn Khun Điện thì nằm ở cửa biển Khun Giang, là một hải cảng tuyệt hảo, đồng thời cũng là thành thị lớn nhất đảo Kalimantan, cư dân chủ yếu là người Hoa.

Khoảng cách đường thẳng giữa Đông Vạn Luật và Khun Điện chỉ tầm hai, ba chục kilômét, song hai thành thị này lại có sự khác biệt rõ rệt. Đông Vạn Luật trở thành thủ đô là nhờ vào mỏ vàng – nơi khởi phát của vương quốc (công ty) Lan Phương.

Khun Điện thì dựa vào ưu thế giao thông thuận lợi mà phát triển thành thành phố kinh tế phồn vinh nhất toàn đảo Kalimantan. Tại nơi này, vũ trang Đông Phi và Thương hội Zanzibar đã thiết lập quan hệ.



“Phía trước chính là đảo Balabac? Xem ra lại là một vùng hoang vu, chẳng khác gì Sumatra! Tìm chỗ neo đậu rồi qua đó.” – Đại công Ferdinand giơ ống nhòm quan sát cảnh vật trên đảo Balabac.

Theo lý mà nói, đảo Balabac thuộc về thuộc địa Philippines của Tây Ban Nha, trấn giữ eo biển Balabac, phía tây là đảo Kalimantan, còn phía đông là quần đảo Philippines.

Song cái gọi là lãnh thổ mặc định ấy, Đông Phi chẳng hề thừa nhận. Quả như Ferdinand nói, đảo Balabac hoàn toàn là nơi hoang vu, không một bóng người.

Đến tận thế kỷ XXI đời trước, dân số toàn đảo Balabac cũng chỉ hơn mười lăm ngàn, sản vật chính là vỏ sò và dừa. Hiện tại, ngoài một số ít bộ tộc thổ dân, quả thực chẳng còn ai.

Đảo này không có giá trị kinh tế, cũng chẳng thể hiện được chút chiến lược nào, bởi cả Kalimantan và quần đảo Philippines đều là những khu vực lạc hậu.

Chỉ đến khi đời sau người Mỹ xây dựng căn cứ quân sự tại đây thì giá trị chiến lược của Balabac mới được bộc lộ, mà thực chất căn cứ ấy là nhằm gây khó dễ cho cường quốc Viễn Đông ở Biển Đông. Đương nhiên, cũng bởi kinh tế Đông Nam Á về sau phát triển, trở thành một phần có vị trí trong bản đồ kinh tế thế giới, ít nhất còn mạnh hơn châu Phi.

Đại công Ferdinand dẫn hạm đội tìm một nơi có thể đổ bộ, chuẩn bị nghỉ lại qua đêm, tiện tay cắm lá cờ Đông Phi trên bãi cát.

“Từ hôm nay, nơi này chính là lãnh thổ Vương quốc Đông Phi!”

Thế là Vương quốc Đông Phi đã có mảnh đất thuộc về mình tại vùng Nam Dương. Thực ra gọi là “thuộc địa” cũng không chuẩn, bởi đảo Balabac chẳng có mấy người, “thuộc dân” còn chẳng có thì nói chi đến “thuộc địa”.

Vài ngày tiếp đó, Ferdinand cho thủy quân dựng một pháo đài quân sự sơ sài tại điểm đổ bộ, để lại hai, ba chục người cùng một phần vật tư, rồi chuẩn bị tiếp tục bắc tiến.

Không để lại vật tư thì cũng chẳng xong, vì Balabac vốn không có nền tảng kinh tế, toàn đảo chỉ là rừng mưa nhiệt đới, chẳng thể để người ở lại chỉ ăn dừa mà sống.

Chiếm đảo Balabac chính là đơn giản như vậy, mà loại đất vô chủ như thế ở Thái Bình Dương nhiều lắm. Đời trước, nước Đức cũng từng cắm cờ ở những đảo hoang như thế mà có được hàng loạt thuộc địa hải ngoại, ví dụ như đảo Nauru trong vùng bảo hộ quần đảo Marshall.

Ernst biết rõ Nauru có tài nguyên phân chim phong phú, nhưng đây mới là chuyến viễn dương đầu tiên của hải quân Đông Phi, mục tiêu cũng chẳng phải nơi ấy. Việc cần thiết nhất là “học bổ túc” kinh nghiệm, nên trước tiên chọn đảo Balabac để luyện tay.

Tham lam thì chỉ chuốc họa, Đông Phi vốn không có năng lực bao chiếm một vùng rộng lớn ở Thái Bình Dương. Như Balabac đây vốn thuộc quần đảo Palawan trong quần đảo Philippines.

Đặt vào đời sau, nó đương nhiên là lãnh thổ Philippines, tức Đông Ấn Tây Ban Nha lúc này. Song chỉ tuyên bố suông chẳng ích gì. Muốn Tây Ban Nha phát hiện ra người Đức trên đảo Balabac e rằng cũng phải đến “năm khỉ tháng mười”, bởi dân cư vùng này vốn ít ỏi. Dẫu có phát hiện, Tây Ban Nha cũng chẳng bận tâm, vì ngoài rừng mưa, đảo Balabac chẳng có gì hết.

Giống như đảo Nauru, vốn do người Anh phát hiện, nhưng mãi đến năm 1888 Đức mới “hốt” về làm thuộc địa. Khi ấy, chẳng ai biết giá trị của phân chim (phốt phát). Không có thứ ấy, Nauru sẽ mãi vô danh.

Balabac lại thậm chí không có cả phân chim, vậy Đông Phi chiếm nơi này để làm gì? Ngoài luyện binh ra, mục đích quan trọng hơn cả là biến nó thành bàn đạp. Phía đông là đảo Mindanao, phía bắc là Palawan, phía tây là Kalimantan, còn tây bắc là Biển Đông – nơi Đế quốc Viễn Đông sở hữu một loạt đảo.

“Vật tư lưu lại đủ để các anh sống trong ba tháng. Đợi chúng ta đến Chu Hải sẽ phát tin về nước. Đạn dược thì tiết kiệm mà dùng, lỡ gặp dã nhân thì còn có thứ phòng thân.”

Dã nhân là thật sự có. Ở rừng mưa Congo của Đông Phi cũng có phân bố, khác với thổ dân thường – dẫu lạc hậu vẫn còn bộ lạc, còn dã nhân thì ngay cả bộ lạc cũng không có.

“Chỗ này nếu các anh muốn thám hiểm vào sâu trong đảo thì tốt nhất đi theo nhóm, nhưng nếu không có tình huống đặc biệt thì chớ nên mạo hiểm. Trong rừng mưa thường có đầm lầy hoặc sinh vật nguy hiểm, tuy chưa biết Balabac thế nào, nhưng cẩn thận vẫn hơn.”

Trước khi lên thuyền, Ferdinand còn dặn dò kỹ lưỡng. Đây thực sự là một nhiệm vụ khó khăn.

Sinh tồn trong rừng mưa chỉ dễ hơn Siberia phương bắc đôi chút. May mắn là đảo Balabac diện tích không lớn, bằng không vấn đề giao thông đã đủ khiến người ta nhức đầu.

Điểm khác biệt giữa rừng mưa và rừng thường chính là lượng nước ứ đọng dày đặc. Đây cũng là nguyên nhân rừng mưa khó khai phá, vì quanh năm mưa dầm, lửa đốt rừng cũng không ăn thua.

Balabac tình hình còn đỡ, diện tích nhỏ, nước mưa thoát ra biển nhanh. Nếu là đảo lớn như New Guinea thì ắt sinh ra những vùng đầm lầy mênh mông.

Thực tế nhìn từ đảo Kalimantan kế bên cũng thấy, dân cư nơi đó vẫn đông, văn minh cũng nhỉnh hơn.



Sau tám ngày hải hành, Đại công Ferdinand cuối cùng dẫn hạm đội tới cảng Chu Hải của Đế quốc Viễn Đông, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy quốc gia văn minh có diện tích lớn nhất thế giới hiện nay.

“Nông nghiệp ở Viễn Đông rất phát đạt, dân số thành thị ngang ngửa châu Âu. Xét về diện tích và dân số, tiềm lực quốc gia này quả thật khủng khiếp.”

Ferdinand lần đầu đặt chân đến Viễn Đông đã có đánh giá khá cao. Song vẫn có một điều khiến ông thấy khó chịu – chính là kiểu tóc kỳ lạ của người dân nơi đây.

“Đại công, ngài không cần quá ngạc nhiên. Lịch sử của Đế quốc Viễn Đông rất lâu đời. Nhưng nhận thức của phương Tây chúng ta lại dừng ở những định kiến về triều Thanh. Kỳ thực, từ cổ họa có thể thấy cách đây hơn hai trăm năm, họ không hề để kiểu tóc này.”

“Ta biết. Trong bộ sưu tập của Ernst có không ít tranh vẽ của Viễn Đông. Nhưng chỉ khi bước chân vào môi trường này mới thực sự cảm nhận được. Trước kia ta chỉ xem qua sách vở, giờ đến tận nơi, mới thấy loại trải nghiệm này không thể diễn đạt thành lời.”

Ferdinand chỉ có thể dùng chữ “quái” để hình dung, song không mang ý khinh miệt. Ở Đông Phi, đàn ông phổ biến để đầu đinh, trông tinh thần phấn chấn, ngoại trừ màu da thì di dân Á Đông ở bản địa chẳng khác mấy người châu Âu. Trái lại, dân Viễn Đông khiến ông cảm thấy suy dinh dưỡng, mặt vàng, thân gầy, tinh thần kém, thậm chí còn thua cả người da đen Đông Phi.

Điều này cũng dễ hiểu. Người da đen trước khi bị Đức quốc chiếm, vốn sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên phong phú, vô ưu vô lo. Đói thì săn bắt, hái quả, còn có ca hát, nhảy múa, xăm mình.

Ăn ngon, ngủ yên, chẳng phải lo nghĩ, tinh thần đương nhiên tốt. Trái lại, khi người Đức đến, tinh thần bọn họ mới dần suy sụp.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 457 : Viên Ngọc của Thái Bình Dương


Chương 457: Viên Ngọc của Thái Bình Dương

Tại khu vực Đông Á, Đại công tước Ferdinand nhận được sự đón tiếp vô cùng nồng nhiệt. Điều này thực ra cũng dễ hiểu — thân phận quan trọng nhất của Ferdinand vẫn là Đại công tước Áo, em ruột của Hoàng đế Franz. Chỉ riêng thân phận ấy, cho dù không có hạm đội Đông Phi đi cùng, cũng đủ khiến các quốc gia Đông Á phải trọng thị.

Hải quân Đông Phi nhân cơ hội này hoàn thành mục tiêu chuyến đi: xuất hiện tại Đông Á, để người ta biết trên thế giới còn có một quốc gia mang tên Đông Phi. Bởi thời đại này, những quốc gia có khả năng đưa thiết giáp hạm tới Đông Á vốn chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Sau khi hoàn tất nhiệm vụ ngoại giao, Hải quân Đông Phi có thể quay về. Nhưng Ferdinand lại cho rằng nên nhân tiện sang Alaska xem thử. Sau khi bổ sung hậu cần tại Đông Á, ông liền dẫn hạm đội tiến về lãnh địa hoàng thất Alaska.

Lãnh địa Hoàng thất Alaska

Đây là vùng đất hải ngoại biệt lập thuộc về hoàng thất Hohenzollern, dân số hơn chín vạn người, trong đó riêng quân đội đã chiếm tới ba vạn — hoàn toàn là vùng đất nằm dưới sự kiểm soát của quân sự. Trạng thái này e rằng còn phải duy trì rất lâu, cho tới khi hải quân Đông Phi thật sự đủ khả năng vượt đại dương thi hành quân lệnh.

Dân cư Alaska chủ yếu tập trung tại miền Nam có khí hậu hải dương ôn đới. Tuy khí hậu tương tự Tây Âu, nhưng thực tế lại khác biệt rõ rệt. Miền Nam Alaska lạnh hơn nhiều, lượng mưa hằng năm vượt quá 1.500 mm. Nguyên nhân là do địa hình chủ yếu là núi non, khiến hơi nước dễ ngưng tụ thành mưa, khác hẳn với những đồng bằng rộng lớn ở Tây Âu.

“Vài năm trước, chính từ nơi này ta mới trung chuyển đến Đông Phi. Nay trở lại chốn cũ, quả thật muôn vàn cảm khái!”

Ferdinand không bao giờ quên ngày hôm ấy: bản thân bị nhét vào bao tải, buộc lên lưng ngựa, xóc nảy đến mức bất tỉnh. Khi mở mắt lần nữa, ông đã nằm trên thuyền đi Alaska. Vì thế, Alaska được coi như bước ngoặt định mệnh của Ferdinand.

Tháng tám tại Alaska, nhiệt độ chỉ hơn mười độ, không khí mát mẻ, ven biển lại đầy sức sống.

Nông nghiệp Alaska chủ yếu trồng khoai tây và lúa mạch, nên gần các điểm định cư có thể thấy những thửa ruộng lớn. Khác với Đông Phi, nơi có thể sử dụng lượng lớn lao động giá rẻ, Alaska chỉ dựa vào chính dân nhập cư khai khẩn, năng suất thấp hơn nhiều, nhưng vẫn đem lại hơi thở sinh khí cho vùng đất thưa dân này.

Tài nguyên thủy sản nơi đây cũng hết sức phong phú, nghề cá phát triển mạnh. Nếu ở Đông Phi, đội tàu đánh cá gần như nằm trong tay tư nhân của Ernst, thì tại Alaska, ngư thuyền lại do chính người nhập cư đóng dựng. Hầu như nhà nào cũng có thuyền nhỏ để sinh sống.

Nhờ vậy, ngành đóng tàu dân dụng ở Alaska nhộn nhịp hơn Đông Phi. Tuy nhiên, kỹ thuật vẫn còn thô sơ, chỉ đủ ra khơi đánh cá, không có năng lực khác.

Vùng duyên hải Alaska phát triển không tệ, nhưng khai phá nội địa lại rất ít. Ngoài việc bản thân không mặn mà khai thác, họ còn phải ngăn cản người ngoài xâm nhập. Từ khi lãnh địa Hoàng thất được thành lập tới nay, đội vệ quân Alaska đã xua đuổi hơn hai mươi đoàn thám hiểm nước ngoài.

Tham vọng xâm chiếm Alaska chủ yếu đến từ dân sự, vì thế đầu tư lớn nhất của hoàng thất Hohenzollern ở đây chính là quân sự. Do đó, binh sĩ chiếm tới một phần ba tổng dân số.

Điều này cũng là bất đắc dĩ: là thế lực yếu nhất khu vực, họ buộc phải dồn toàn bộ “điểm công nghệ” vào quân sự. Áp lực phòng thủ chủ yếu đến từ biển, nên lãnh địa Alaska duy trì một hạm đội nhỏ, gồm các pháo hạm, để xua đuổi tàu cá bất hợp pháp của Canada và Hoa Kỳ, ngăn họ đặt chân lên bờ.

Tuy vậy, họ vẫn giữ chừng mực: chỉ cần không xâm phạm vùng biển cận duyên, việc đánh cá ngoài khơi thì coi như mắt nhắm mắt mở. Dẫu sao, động chạm trực diện với lợi ích nhóm phía sau những tàu cá kia cũng không phải chuyện khôn ngoan.

Mọi bước đi ở Alaska đều phải thận trọng. Nhưng nhìn chung, cũng chưa cần quá lo. Mỹ và Canada vốn không mấy hứng thú với nơi này, ngoài việc phòng thủ của Alaska khá vững, thì còn nhờ quyết sách khôn khéo: trước đây, họ đã để lại một vùng đất phía Nam cho Nga. Nhờ vậy, ai muốn từ đất liền tấn công Alaska đều phải đi qua lãnh địa Nga trước.

Nếu không, chỉ còn cách vượt dãy núi hiểm trở và băng tuyết quanh năm phủ kín nội lục Alaska. Tổ chức quân đội quy mô lớn tiến vào đây chẳng khác nào hành quân mùa đông ở Siberia — nhiệm vụ bất khả thi. Vậy nên, mối đe dọa chủ yếu vẫn nằm ở đường biển.

Khi hạm đội Đông Phi vòng quanh vịnh Alaska một lượt, người ta càng nhận rõ sức mạnh quân sự nơi này không thể xem thường.

Tháng chín, Ferdinand đích thân thị sát tình hình khắp lãnh địa.

“Lãnh địa Hoàng thất Alaska cần hệ thống thông tin liên lạc tiên tiến hơn. Nếu có thể, tốt nhất là nối thẳng tuyến điện báo đến vùng Giao Châu.”

“Địa bàn quá rộng, dù dân cư tập trung ở phía Nam nhưng chín vạn người vẫn quá ít cho một lãnh thổ lớn như vậy. Các điểm định cư cách nhau quá xa, cần có điện báo kết nối để thuận tiện cho quân khu quản lý thống nhất.”

“Kết nối điện báo với Viễn Đông còn giúp Đông Phi khống chế Alaska chặt chẽ hơn, chứ trông vào tàu thư thì quá chậm.”

Đó là đề xuất của Ferdinand sau chuyến thị sát. Nếu điều kiện cho phép, ông thậm chí muốn thiết lập một phân hạm đội tại Alaska.

Đội vệ quân Alaska có hải quân riêng, bởi lãnh địa Hoàng thất không trực thuộc vương quốc Đông Phi, mà trực tiếp thuộc dòng họ Hohenzollern, trên lý thuyết còn ngang hàng với Đông Phi. Việc này chẳng có gì lạ: đến nay, Konstantin vẫn là quân vương của Thân vương quốc Hohenzollern. Nếu muốn, ông ta có thể trở lại Phổ làm thân vương, chỉ là hiện tại chưa cần thiết.

“Đồng thời, cũng nên sáp nhập hải quân Alaska với hải quân Vương quốc, để họ được huấn luyện hệ thống hơn, phối hợp tác chiến hiệu quả, đảm bảo lợi ích toàn cầu của Đông Phi.”

Ferdinand rất chú ý đến lực lượng hải quân nhỏ bé ấy. Dù hiện tại chỉ dựa vào vài pháo hạm, nhưng tương lai chưa biết chừng. Bởi Alaska có nhiều cảng biển ưu việt, lại án ngữ eo biển Bering, giá trị chiến lược trong tương lai ắt sẽ bộc lộ rõ rệt.

Thậm chí, Alaska có khả năng trở thành lãnh địa lớn nhất của Đông Phi tại Đông Thái Bình Dương. Gọi nó là “viên ngọc” của Đông Phi trên Thái Bình Dương, quả thật không hề quá lời.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 458 : Hội nghị công tác


Chương 458: Hội nghị công tác

Từ năm 1876, cây cầu đường sắt bắc qua sông Zambezi của tuyến đường sắt trung ương Đông Phi đã hoàn thành, đoàn tàu có thể trực tiếp vượt cầu tiến vào khu vực Zimbabwe. Để khai phá nội lục, Đông Phi bắt đầu dọc theo tuyến đường sắt trung ương này xây dựng phiên bản hợp tác xã nông nghiệp kiểu Đông Phi.

“Từ năm nay, chúng ta dự kiến sẽ xây dựng hơn một nghìn năm trăm hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới tại khu vực Zimbabwe dọc theo tuyến đường sắt, thúc đẩy sự phát triển nội lục.” – Bộ trưởng Nông nghiệp nói trong hội nghị công tác chính phủ.

Thực chất, hợp tác xã nông nghiệp không phải là mô hình độc hữu của phương Đông. Ở Pháp và Đức, nơi tiểu nông và nông trại gia đình phát triển, loại hình tổ chức này cũng tồn tại, bản chất gần như một loại công đoàn, do nông dân tự nguyện tổ chức.

Kiếp trước, pháp luật Pháp có quy định: “Hợp tác xã nông nghiệp và liên minh hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt khác với doanh nghiệp dân sự và thương nghiệp, có quyền nhân cách độc lập và đầy đủ quyền dân sự.” Hợp tác xã nông nghiệp là loại hình doanh nghiệp vốn khả biến.

Hợp tác xã nông nghiệp Đông Phi lại khác Pháp, bởi nó do chính quyền Đông Phi chủ đạo, mang tính nửa chính trị – kinh tế, hơn nữa ruộng đất chưa được tư hữu hóa, vẫn do vương quốc phân phối sử dụng.

Chức năng chính của hợp tác xã nông nghiệp Đông Phi là chỉ đạo khoa học trong trồng trọt, cung cấp giống tốt, thu mua lương thực, dự trữ, quản lý phân phối gia súc và nô lệ, bảo dưỡng và quản lý công cụ nông nghiệp, đồng thời tổ chức xây dựng các công trình nông nghiệp.

Các hợp tác xã này thuộc cấp cơ sở chính quyền Đông Phi, nhưng sự chỉ đạo cụ thể lại do Tổng Công ty Nông nghiệp Đông Phi đảm nhiệm. Tổng Công ty Nông nghiệp Đông Phi mới là thượng nguồn trong chuỗi ngành nông nghiệp Đông Phi.

Tổng công ty này chỉ đặt tại bản thổ Đông Phi, nhưng lại liên kết với cụm công nghiệp của tập đoàn Hechingen tại Đức – Áo, cung cấp nguyên liệu thô, nông sản cơ bản cho các doanh nghiệp thuộc hệ Hechingen, đồng thời duy trì liên hệ với nhiều nhóm thương nghiệp, nắm vai trò chủ đạo trong xuất khẩu lương thực của Đông Phi.

Nhiệm vụ chủ yếu vẫn là thu mua và bán hàng, bởi vậy Tổng Công ty Nông nghiệp Đông Phi là tổ chức siêu độc quyền kiểu syndicate. Khác biệt ở chỗ nó quá đồ sộ, mục đích nhằm tăng cường sức cạnh tranh của nông sản Đông Phi trên thị trường toàn cầu. Sự cạnh tranh này không còn là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, mà là sự cạnh tranh lấy quốc gia làm đơn vị. Nó trở thành vũ khí hữu hiệu của Đông Phi để đối kháng với Mỹ và Nga về lương thực. Các nhà sản xuất lương thực Mỹ tuy mạnh, nhưng so với Tổng Công ty Nông nghiệp Đông Phi thì chỉ như quân ô hợp.

Đương nhiên, tuy quy mô đồ sộ, nhưng việc xuất khẩu ra ngoài vẫn phải dựa vào các công ty thực phẩm của tập đoàn Hechingen tại châu Âu, các kênh siêu thị, cùng vô số đại lý lớn nhỏ. Do vậy, ngoài Đông Phi hầu như không mấy ai nghe đến danh xưng Tổng Công ty Nông nghiệp Đông Phi.

Như thế, Tổng công ty và Bộ Nông nghiệp có phần xung đột chức quyền. Song với tình hình hiện tại, mô hình này vẫn thích hợp với quốc tình Đông Phi.

Nhân sự Tổng công ty được tuyển chọn chuyên nghiệp hơn, trong khi Bộ Nông nghiệp vì trình độ giáo dục còn thấp, tác dụng thúc đẩy nông nghiệp Đông Phi không thể bằng Tổng công ty.

“Về việc xây dựng các ngôi làng mới, chúng tôi đề nghị mở rộng thêm diện tích trồng thuốc lá. Gần đây, chính phủ Đức đã tuyên bố độc quyền thuốc lá, điều này không tốt cho lợi nhuận, thuế khóa tăng thêm. Vì vậy, để độc chiếm thị trường Đức, chúng ta buộc phải hạ thấp chi phí sản xuất thuốc lá Đông Phi, giữ vững lợi thế tại khu vực Đức.”

Bismarck đã thúc đẩy thông qua một đạo luật mới, nhằm tăng thu ngân sách cho chính phủ Đức. Nhưng điều này lại giáng một đòn mạnh vào tập đoàn Hechingen. Vốn dĩ thuế thuốc lá đã cao, nay sau độc quyền, giấy phép mua bán còn phải trả thêm phí.

Dù bất mãn, họ cũng chỉ có thể nuốt giận, vì quyền kiểm soát thị trường nằm trong tay chính phủ Đức. Mà quyền lực chính phủ Đức khác hẳn với Áo–Hung, tại Áo–Hung tập đoàn Hechingen có thể dùng dư luận ép chính quyền trung ương nhượng bộ, còn ở nước Đức tập quyền, họ hoàn toàn bó tay.

Tuy vậy, với Đông Phi, việc này vẫn chấp nhận được, chủ yếu là có thể bán thuốc lá vào Đức. Thị trường tiêu thụ trong bản thổ tuy không nhỏ, nhưng vẫn không hấp dẫn bằng thị trường Đức. Còn nội địa, vai trò chính của tiêu thụ thuốc lá là thu hồi tiền tệ.

“Mấy năm nay, các nước đều tăng thuế quan, đặc biệt là thuế nhập khẩu thép và nông sản. Ta là nước nhập khẩu thép nên không lo, nhưng thuế nông sản tăng mạnh mới là đòn chí mạng.”

Ernst nói: “Lương thực tiêu thụ phải dựa vào bản thổ. Việc khai phá nội lục cần lượng lớn lương thực để làm nền. Trong lúc tăng dân số nội lục, năm nay cũng phải tăng cường tuyển mộ nô lệ cho nội lục, dùng họ xây dựng đường sá, thủy lợi và hàng loạt công trình. Đồng thời, ta dự định khai thác một số mỏ dọc tuyến đường sắt Zimbabwe, vừa có thể tiêu thụ thêm lương thực.”

Thặng dư lương thực không đáng sợ, thừa thì dùng vào công trình. Công trình xây dựng chẳng bao giờ hết, nội lục còn vô vàn đất đai chưa khai phá, đều cần nhân lực. Khai phá cần lương thực, như vậy phần lương thực dư thừa sẽ được tiêu thụ.

Còn chuyện dùng lương thực thừa để nâng cao mức sống dân chúng Đông Phi ư? Ha ha, mơ tưởng! Nói khó nghe, điều đó chỉ làm giảm động lực phấn đấu. Đông Phi tuy cạnh tranh khốc liệt, nhưng chưa bằng các nước khác. Nếu lại cho thêm phúc lợi, thì dân chúng thật sự sẽ nằm ỳ.

Ví dụ điển hình nhất là Argentina kiếp trước. Dân thì chỉ muốn an tâm hưởng phúc lợi, chính trị gia cũng lấy đó làm chiêu tranh cử, chẳng mấy ai lo làm việc hay xây dựng. Argentina vốn đã không phát triển, phúc lợi ấy lại phải vay nợ để duy trì, không có nền công nghiệp chống lưng. Kết quả là nợ nần bùng nổ, quốc gia lụn bại, u ám.

Dĩ nhiên, đây chỉ là một lối nói cường điệu và phiến diện. Argentina có quá nhiều vấn đề, nói chung chính phủ Argentina đã tạo ra một bầu không khí xã hội bất lợi cho phấn đấu, chính trị gia và dân chúng cùng nhau chơi một trò chơi mơ hồ, duy trì con thuyền rách nát ấy trôi nổi.

Nhưng Argentina cũng có điều kiện “buông xuôi”: nông nghiệp còn ưu việt hơn Mỹ, dân số lại ít. Nếu thật sự không gánh nổi chi phí dân sinh, thì quân chính phủ lên thay, vòng lặp lại tiếp diễn. Đó chính là điển hình của nhiều nước lạc hậu, đặc biệt nổi bật ở Nam Mỹ và châu Phi.

Đông Phi là một quốc gia mới, thực tế phát triển không tồi. Hoàng thất Hechingen không cần đồng lõa với những “trùng bọ” ngu xuẩn ấy. Trong bối cảnh hệ thống quốc tế hỗn loạn hiện nay, Đông Phi hoàn toàn có cơ hội trở thành người chơi trên bàn cờ quốc tế.

Đừng tưởng thời đại này cường quốc nhiều thì cơ hội ít. Chính vì nhiều cường quốc, chia phần không đều, nên cơ hội cho nước khác lại lớn. Nhật Bản chính là ví dụ, đã nắm bắt thời cơ để chen chân, chẳng phải cũng là một dạng đa cực hóa sao?

Điều kiện của Đông Phi tuy chưa phải hàng đầu, nhưng hơn xa Ý, Nhật, và tiềm lực cũng vượt hẳn các cường quốc ngoài Mỹ và Nga.

“Chúng ta phải tận dụng triệt để quặng sắt và than nội lục, tiếp tục nâng cao sản lượng thép Đông Phi. Đến năm 1880, sản lượng phải vượt mức một triệu tấn.”

(Hết chương)

[1] Syndicate (hay liên minh, tập đoàn) là một nhóm cá nhân hoặc tổ chức tự tổ chức để thực hiện một mục tiêu chung, thường là trong các lĩnh vực tài chính, truyền thông hoặc tội phạm. Mục đích chính là tập hợp nguồn lực, chia sẻ rủi ro và lợi ích khi thực hiện các dự án lớn hoặc các hoạt động mà riêng lẻ rất khó thực hiện.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 459 : Xung đột


Chương 459: Xung đột

Từ thời kỳ Đại Hải hành, sự hưng thịnh của thương nghiệp luôn gắn liền với hải cảng. Một cảng tốt có thể thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ, dân cư cũng theo đó tụ tập về ven biển. Nhưng Cách mạng Công nghiệp đã mang đến biến đổi mới — sự nổi lên của giao thông đường sắt. Năng lực vận chuyển trên bộ được nâng cao rõ rệt, khu vực nội địa cũng có cơ hội phát triển.

Thế nhưng, sự phát triển này lại bị hạn chế nhiều hơn hẳn so với vận tải biển. Việc xây dựng đường sắt chịu trói buộc bởi đủ loại nhân tố, dẫn đến mâu thuẫn giữa các địa phương. Khu vực nào có đường sắt đi qua thì kinh tế được thúc đẩy, thậm chí có thể tạo ra những thành phố mới. Nhưng nếu đường sắt không đi ngang, thì cho dù là thành phố lâu đời cũng có thể suy tàn.

“Ở Đông Phi, rất nhiều nơi là trước có đường sắt, sau mới hình thành điểm dân cư. Những ngôi làng và thị trấn mọc lên dọc theo tuyến đường sắt, nếu sau này hệ thống đường sắt không suy yếu, chúng rất có khả năng sẽ luôn hưng thịnh.”

“Không chỉ vậy, việc xây dựng đường sắt đã khiến hiệu suất vận chuyển của Đông Phi tăng gấp ba lần trở lên. Trước kia, chúng ta phải tốn vô số nhân lực và súc vật mới đưa được hàng hóa ra cảng. Nay chỉ cần vận chuyển hàng đến ga tàu gần nhất, phần còn lại có thể nhờ đường sắt đưa thẳng đến hải cảng.”

“Đường sắt Đông Phi ngay từ đầu đã là một cuộc làm ăn lỗ vốn, đầu tư mà không tính đến lợi nhuận. Nhưng nay chúng ta đã thấy kết quả: các khu vực nội địa đang phát triển nhanh chóng, khoảng cách giữa miền Đông và miền Tây Vương quốc được thu hẹp. Điều này có ý nghĩa tích cực đối với nền trị quốc.”



“Từ năm 1875, chúng ta phát hiện chính phủ Đức gia tăng sự chèn ép rõ rệt đối với doanh nghiệp của ta, đặc biệt là những công ty mang tên Hechingen. Rõ ràng trong mắt chính phủ Đức, chúng ta đã trở thành miếng mồi béo bở, còn chính phủ Bismarck thì hoàn toàn phớt lờ lợi ích của chúng ta.”

“Bismarck đại diện cho tập đoàn Junker ở Đức. Những năm qua, sự phát triển thô bạo của Hechingen ở Đức hiển nhiên đã chọc tức các địa chủ Junker.”

“Hơn nữa, ngay hôm qua trong Nghị viện Đức lại có kẻ đề xuất tăng thuế nhập khẩu nông sản, trong đó nông sản của Vương quốc Đông Phi bị nhắm đến nhiều nhất.”

Konstantin và Ernst lặng lẽ lắng nghe báo cáo. Rõ ràng người Đức đã không thể ngồi yên!

Ernst nói:

“Cha thấy chưa? Con từng nói cái họ Hohenzollern không thể mãi là tấm khiên che chở cho chúng ta. Khi ta lựa chọn phát triển ở Đông Phi, thực chất đã cắt đứt với quần thể cũ, trở thành đối thủ cạnh tranh của họ.”

Nhóm mà Ernst nhắc tới chính là giới quý tộc Junker. Phạm vi kinh doanh của Junker tuy không hoàn toàn trùng với tài phiệt Hohenzollern-Hechingen, nhưng cũng chẳng khác mấy. Mà thương trường vốn dĩ là anh nhiều thì tôi ít. Quy mô Hechingen quá lớn, thị phần chiếm hữu quá nhiều, đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích kinh doanh của Junker.

Konstantin nói:

“Năm nay ta vừa trao đổi điện tín với Wilhelm I, ông ấy cam kết sẽ không làm khó Vương quốc Đông Phi.”

Ernst đáp:

“Hoàng thất Phổ và chính phủ Phổ phải phân biệt rõ ràng. Lợi ích của họ không đồng nhất. Hoàng thất Phổ về căn bản vẫn phải phục tùng ý chí quốc gia — đó là nền tảng cho sự tồn tại của họ.”

Konstantin chau mày:

“Vậy giờ nên làm thế nào?”

Ernst điềm nhiên:

“Không còn cách nào tốt, chỉ có thể dần rút vốn khỏi Đức, chuyển dòng tiền sang những nơi khác.”

Tài phiệt Hechingen suy cho cùng không phải Đông Phi. Khi Hechingen bị nhắm vào, Đông Phi cũng khó can thiệp. Nhưng vốn thì không có tổ quốc, giống như tư bản Do Thái, nơi này không dung thì nơi khác sẽ dung.

Konstantin:

“Con định chuyển tiền đi đâu?”

Ernst:

“Đế quốc Áo–Hung, Viễn Đông, và Argentina — ba nơi đó.”

Dù không nhắc, ai cũng biết Đông Phi luôn là huyết mạch rút vốn của tập đoàn Hechingen. Thị trường Áo–Hung thật ra không tệ, chính trị không quá tập quyền, nên trói buộc tư bản ít, chẳng khác gì gia tộc Rothschild phất lên ở Áo. Viễn Đông thì khỏi bàn, thị trường rộng lớn, quan hệ với Đông Phi lại sâu đậm, sau khi hạm đội Đông Phi ghé thăm, thái độ của họ càng nhún nhường. Argentina cũng có triển vọng, ít nhất có thể theo sau Anh–Mỹ mà hưởng chút lợi nhuận.

Konstantin thở dài:

“Ừ, vậy cứ làm vậy đi.”

Ngay sau khi mệnh lệnh từ trụ sở ngân hàng Hechingen phát ra, một phần vốn ở Đức lập tức chảy sang các quốc gia khác. Đồng thời, để đối phó sự “mổ heo” của Đức, Đông Phi cũng quyết định sau khi hợp đồng hết hạn sẽ ngừng mua thép của Đức, chuyển sang tăng cường nhập từ Áo–Hung.

Dòng vốn ồ ạt tháo chạy đã gây nên cơn hoảng loạn nhỏ trong thị trường tài chính. Nhưng lúc này đang trong thời kỳ Đại Khủng hoảng, sự hoảng loạn nhanh chóng lan rộng, cuối cùng dẫn phát thêm một vòng khủng hoảng mới.

Nền kinh tế Đức vốn vừa mới có chút khởi sắc lại lập tức chịu áp lực. Khi hàng loạt vốn rời khỏi thị trường, tỷ lệ thất nghiệp lại tăng cao.

Wilhelm I chất vấn:

“Chuyện gì vậy? Chẳng phải kinh tế vừa mới có dấu hiệu khởi sắc sao?”

Bismarck ung dung thưa:

“Bệ hạ, đừng lo lắng. Đây là khủng hoảng kinh tế, vài biến động là bình thường. Mọi thứ đều trong tầm kiểm soát.”

Lời thì nói vậy, nhưng thực tế Hechingen chủ yếu rút khỏi thị trường đầu tư nông nghiệp ở Đức. Trùng hợp thay, ngay khi họ rút lui liền có kẻ nhảy vào tiếp quản mảng kinh doanh bỏ lại.

Nhưng kinh doanh đó không dễ nuốt. Trước kia Hechingen hợp tác, nhường cho Junker một phần thị phần, giúp họ bán sản phẩm ra thị trường quốc tế. Nay không cần nữa. Nhiều kênh tiêu thụ do Hechingen dựng lên, đặc biệt là hệ thống siêu thị, đều có thể dùng nông sản Đông Phi thay thế.

Nếu Junker không tự có kênh bán hàng, tổn thất sẽ rất lớn. Ernst tuyệt đối sẽ không nương tay. Huống hồ, giới quý tộc Junker vốn chẳng phải một khối thống nhất.

Sau khi quan hệ với tập đoàn Junker Phổ trở nên gay gắt, Hechingen liền thắt chặt hợp tác với quý tộc Nam Đức. Baden, Württemberg và Bavaria đều được hưởng lợi.

Dù sao Đức cũng là liên bang, nhất là các bang ở Nam Đức có quyền tự trị khá lớn, ít nhất là trong kinh tế. “Kéo một phe, đánh một phe”, chỉ có phân hóa đối thủ mới dễ đối phó.

Cạnh tranh giữa Đức và Hechingen chủ yếu tập trung ở thị trường lương thực, các lĩnh vực khác thì không quá gay gắt. Junker thực ra chỉ là danh xưng chung của tầng lớp quý tộc địa chủ.

Ví như trong lĩnh vực công nghiệp, Hechingen và Junker cạnh tranh không nhiều, vì Hechingen tập trung vào công nghiệp nhẹ và ngành công nghiệp mới nổi, trong khi Junker công nghiệp chủ yếu ở lĩnh vực nặng. Hai bên coi như tách biệt.

Nhưng Hechingen lại nghiêng hẳn về nông nghiệp Đông Phi, tất yếu xung đột với địa chủ Junker. Cho dù Hechingen đã nhượng bộ từ lâu, nhưng vẫn chưa đáp ứng nổi kỳ vọng của họ.

Song Hechingen không hề e ngại. Trọng điểm đầu tư tại Đức của họ là kênh phân phối và chế biến thực phẩm, vốn không nhất thiết phải dựa vào Junker. Nói theo lời hậu thế, địa chủ Junker chỉ nằm ở khâu hạ nguồn của chuỗi sản xuất.

Thế nhưng chế biến thực phẩm lại thuộc ngành công nghiệp thực thể, dễ bị quản chế và kiểm soát, rõ ràng không linh hoạt bằng tài chính. Bởi vậy, việc chuyển nhà máy chế biến thực phẩm về Đông Phi càng trở nên cấp bách.

Thực tế Đông Phi đã có hệ thống chế biến thực phẩm sơ cấp, nhưng khâu chế biến trung – cao cấp vẫn đặt chủ yếu ở Đức và Áo. Nay gặp khó ở Đức, Ernst càng thuận tiện đem toàn bộ ngành chế biến thực phẩm dời về bản thổ Đông Phi.

(Hết chương)
 
Back
Top Bottom