Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 240 : Hechingen nhập cuộc


Chương 240: Hechingen nhập cuộc

Việc vay mượn tất nhiên chẳng thể đơn giản mà thành, nếu muốn lợi ích trong cuộc chiến Phổ–Pháp được tận dụng đến cực độ, ắt còn phải kèm theo những yêu sách về phương diện chính trị.

Vả lại, với tư cách là một chư hầu thuộc khối Nam Đức, Hechingen cũng có nghĩa vụ tham dự. Tuy nay Hechingen đã thuộc lãnh thổ Phổ, song danh hiệu vương thất Hechingen vẫn có thể đem ra vận dụng.

“Thúc phụ Wilhelm, Hechingen là một bộ phận của Đức quốc, cũng có nghĩa vụ nhập vào hàng ngũ kháng chiến của Phổ chống lại nước Pháp.”

“Hử?” Wilhelm đệ nhất thoáng chưa hiểu thấu, bụng dạ ngờ vực: tiền của công ty đã đem cho vay rồi, vương thất Hechingen còn muốn góp sức chi nữa?

“Dẫu Hechingen hiện là lãnh thổ bất khả phân của Phổ, song Đông Phi vương quốc của chúng ta vốn cũng thuộc hàng chư hầu Đức quốc, há lại chẳng góp một phần tâm lực?”

“Ồ? Chẳng lẽ Đông Phi vương quốc định xuất binh chinh chiến?” Wilhelm đệ nhất nghe vậy tưởng như trò cười lớn nhất thiên hạ. Từ ngày Đông Phi vương quốc khai quốc, người đời tuy mặc nhiên công nhận là quốc gia của dân tộc Đức, song xét địa thế Đông Phi, ai cũng chỉ coi là chuyện đùa, há có ai thực sự xem Phi Châu là Âu Châu?

“Không. Là Hechingen – với tư cách một bang quốc của Đức – sẽ xuất binh.”

“Ernst, thứ lỗi ta nói thẳng, Hechingen nay chỉ còn hư danh chư hầu Đức, đã có chúng ta, nước Phổ, thay mặt gánh vác…”

Bỗng Wilhelm đệ nhất khựng lời, chợt nhớ: Hechingen tuy đã là một phần của Phổ, nhưng quả thực bên trong còn một số nhân lực có quân sự tố chất không tồi, mà Phổ lại không có quyền trực tiếp trưng dụng.

Phổ từ lâu thi hành nghĩa vụ binh dịch, song chỉ có thể cưỡng ngạch với công dân bản quốc. Hechingen quân hiệu sở đào tạo ban đầu là do Ernst đưa về nhóm “du học sinh Viễn Đông” – vốn chẳng phải công dân Phổ. Về sau Đông Phi vương quốc thành lập, đám du học sinh kia tự nhiên trở thành công dân Đông Phi.

Kỳ thực, Phổ đã để tâm đến Hechingen quân sự học viện từ sớm. Đối với Phổ, việc chiêu binh trọng yếu vô cùng, song học viện ấy chỉ là một cơ sở phi chính quy, chẳng khác “trường gà rừng” dựng trên lãnh thổ Phổ.

Thoạt đầu, triều đình Phổ chẳng mấy để ý đến việc Thân vương Konstantin lập trường này – xét Hechingen chỉ là một xứ nhỏ bé, nhân khẩu chẳng đáng kể, làm sao khuấy nổi sóng gió?

Nào ngờ, “trường gà rừng” ấy lại không hề chiêu sinh trong Phổ, mà toàn đưa về một lô du học sinh từ xứ Viễn Đông.

Chuyện đó lúc đầu cũng chẳng quan trọng, bởi trong mắt Phổ, Viễn Đông chẳng hơn gì ấn tượng mà công sứ Phổ tại Trực Lệ từng thấy – chẳng khác gì Nam phương Ottoman.

Nhưng đến khi chiến tranh Phổ–Áo bùng nổ, triều đình Phổ đổi cách nhìn. Các báo cáo từ nha môn chiêu binh tại Hechingen trình lên: đám học viên này kỷ luật nghiêm, phục tùng tốt, diễn tập thì quân sự tố chất chẳng kém quân chính quy Phổ.

Thực chất, ý là muốn đem bọn họ – đông hơn hẳn dân bản xứ – ra làm vật hy sinh. Nhưng vương thất Hechingen khi ấy bác bỏ: đây là “du học sinh”, không phải công dân Phổ. Vả lại Đông Phi lúc đó thiếu nhân lực, học viện toàn lớp cấp tốc, phải đưa người sang Đông Phi, thế nên việc ấy rốt cuộc bỏ dở.

Sau nữa, Wilhelm đệ nhất bắt đầu chú ý đến Học viện quân sự Hechingen, là bởi chuyện liên quan đến Học viện Quân sự Berlin.

Thân vương Konstantin nhờ thế lực chen được hai học viên xuất sắc nhất của Hechingen vào đó tu học. Khi ấy, Ernst coi trọng ba người, nay Tổng tham mưu trưởng lục quân Đông Phi – Sivert – chính là một trong số ấy. Ernst cần một người tài kiệt xuất sang Đông Phi chế ngự phe lính đánh thuê và phe tài phiệt.

Hai người còn lại – đều là bậc thiên tài hiếm có – được Ernst đưa vào Berlin tiếp tục dùi mài.

Là kẻ “đi cửa sau”, thuở ban đầu ở Berlin, cuộc sống của họ hẳn chẳng dễ dàng. Nhưng chỉ ít lâu, học viện phải kinh ngạc trước năng lực của họ.

Tại học phủ quân sự tối cao của Vương quốc Phổ, họ lần nào cũng xếp hạng thượng đẳng. Vì xuất thân từ Hechingen quân sự học viện, họ được đồng môn và giảng sư tặng biệt danh “Hechingen song hùng”.

Song hùng không chỉ học giỏi mà lại gốc gác Viễn Đông, xuất thân từ “trường gà rừng” Hechingen, lại mang tiếng “đi cửa sau” – tự nhiên thành đề tài xôn xao, đến tai cả Wilhelm đệ nhất.

Ông từng tiếp kiến hai người tại học viện Berlin, quả là anh hùng hào kiệt. Nhờ danh tiếng song hùng, Hechingen quân sự học viện cũng dần có chút thanh danh tại Phổ, khiến một bộ phận người đổi cái nhìn về dân Viễn Đông: thì ra không phải tố chất quốc dân thấp, mà là chính phủ dại dột, kìm hãm nhân tài. Ngược lại, cũng gián tiếp khoe rằng nền giáo dục Phổ cường thịnh.

Wilhelm đệ nhất, vốn đã có cảm tình, bèn hỏi:

“Cớ sao không lấy danh Đông Phi vương quốc tham chiến, mà lại dùng danh Hechingen?”

Ernst đáp:

“Đông Phi tuy là quốc gia Đức, song lại ở vùng hải ngoại. Hechingen vốn là bang quốc Nam Đức, nếu chiến sự Phổ–Pháp bùng nổ, ắt lan tới Nam Đức, nên lấy danh Hechingen xuất chiến mới phải.”

Kỳ thực, đây là cách Ernst tách Đông Phi ra khỏi cuộc chiến. Đông Phi không thể trực diện kết oán với Pháp, song vẫn muốn hưởng lợi – vậy thì dùng “tiểu acc” Hechingen để lĩnh phần, rồi chuyển lại cho Đông Phi.

Đường vòng này cực kỳ trọng yếu: nếu Đông Phi trực tiếp tuyên chiến, Pháp sau này tất sẽ chèn ép họ tại Phi châu; nhưng Hechingen là lãnh thổ của Phổ, mọi món lợi đoạt được, người Pháp cũng tính vào sổ với Phổ.

“Các ngươi có yêu sách gì?” Wilhelm hỏi.

“Thúc phụ, chẳng phải chuyện khó. Thúc cũng biết địa thế Đông Phi, chúng ta chỉ muốn một tiểu đảo trong hải vực Đông Phi mà Pháp đang chiếm.”

“Một tiểu đảo?”

“Phải. Đảo này thuộc quần đảo Comoros, nay là thuộc địa Pháp, tên gọi Mayotte. Với Đông Phi, vị trí ấy vô cùng hệ trọng, song với Pháp lại chẳng mấy giá trị, bởi họ còn các đảo khác ở Tây Ấn Độ Dương. Nếu quốc gia ta thắng, chúng ta mong qua đàm phán giành được Mayotte.”

Quả thật yêu sách chẳng cao, một hòn đảo nhỏ nhoi, Wilhelm đệ nhất nghĩ vậy. Hơn nữa, đổi một đảo lấy sự góp sức của Hechingen quân sự học viện, há chẳng lợi? Trong tình thế đối thủ là “Lục quân đệ nhất Âu châu” – nước Pháp – thì quân càng nhiều càng tốt.

“Được. Nếu Hechingen tham chiến, sau chiến thắng, quyền sở hữu đảo ấy sẽ giao cho vương thất Hechingen.”

“Còn nữa, tuy Hechingen xuất chiến, song quyền chỉ huy quân đội này, ta muốn giao cho đường huynh Leopold.” Ernst nói.

“Chuyện nhỏ.” Wilhelm đáp.

Với Ernst, ấy lại là việc lớn. Hechingen quân sự học viện là “Hoàng Phố” của y, không thể thật sự đem làm bia đỡ đạn cho Phổ.

Trận Phổ–Pháp này cũng là cơ hội để thử sức học viện, rèn luyện học viên – bởi chỉ có chiến trường mới đúc nên tướng tài; trường quân sự không thể đào tạo ra nhà quân sự thực thụ.

Tương lai Đông Phi sẽ đối diện kẻ địch không chỉ là thổ dân, cho nên, việc cho học viên nếm mùi binh lửa là tối cần thiết. Chính họ sẽ là rường cột dựng nên quân đội Đông Phi.

Leopold, một trong những nguyên nhân châm ngòi chiến tranh Phổ–Pháp, bởi vụ tranh ngôi vua Tây Ban Nha bị Pháp can thiệp, vẫn đang giữ trọng chức trong quân đội Phổ. Tương lai, e rằng y chỉ có thể kế thừa sự nghiệp gia tộc.

Thân vương Karl – nguyên Tổng tư lệnh lục quân Phổ – quyền thế lớn lao, nên Leopold thăng tiến nhanh. Em trai y là Carol I sang tận Romania, vì vậy địa vị Leopold trong quân Phổ tối thiểu cũng lọt vào hàng thập đại.

Giao học viên Hechingen vào tay Leopold, Ernst mới yên lòng – vì toàn là “người nhà” cả.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 241 : Tại sao lại là đảo Mayotte?


Chương 241: Tại sao lại là đảo Mayotte?

Đảo Mayotte nằm ở eo biển Mozambique, cùng với Grande Comore, Anjouan và Mohéli hợp thành quần đảo Comoros. Diện tích toàn đảo vỏn vẹn 374 km², nền kinh tế lấy nông nghiệp làm trọng, sản xuất chủ yếu các thứ hương liệu như vanilla. Ở đời sau, hòn đảo này là một vùng hải ngoại thuộc Pháp, đặt dưới quyền một tỉnh duy nhất, tức tỉnh Mayotte.

Vào năm 1870, lãnh thổ hải ngoại của Pháp chia thành sáu khu vực trọng yếu. Thứ nhất là Bắc Phi (thuộc địa Algérie thuộc Pháp) – tầm quan trọng vốn khỏi cần bàn cãi: gần kề mẫu quốc, lại là vùng đất mà Paris quyết chí bản thổ hoá trước tiên.

Thứ nhì là Tây Phi (thuộc địa từ Seychelles tới Gambia, Guinée v.v.; Côte d’Ivoire – tức Bờ Biển Ngà, Ghana; Gabon, Guinée Équatoriale – về sau hợp thành Congo thuộc Pháp). Xét cả về số lượng lẫn giá trị, đây là nhóm thuộc địa mang lợi ích kinh tế cao nhất cho Pháp. Huống hồ, hai xứ Côte d’Ivoire và Guinée Équatoriale cùng toạ lạc bên vịnh Guinée, nơi hải quân mẫu quốc dễ bề ứng cứu.

Thứ ba là Madagascar, hợp cùng Comoros (trong đó có Mayotte) và đảo Réunion thành thế chân vạc chiến lược của Pháp tại Ấn Độ Dương.

Đông Nam Á (Campuchia, Nam Việt Nam): Khu vực Viễn Đông.

Thứ năm là Guyane Française tại Nam Mỹ.

Cuối cùng là vùng Djibouti để khống chế kênh đào Suez. Bởi lẽ, eo biển Mandeb giữ vai trò yết hầu: mất Mandeb thì Suez chỉ còn là đường nước chết. Vì vậy, cả Anh lẫn Pháp đều duy trì lực lượng quanh vùng.

Sáu khu vực ấy, cộng với mẫu quốc, đủ để Pháp vươn tầm ảnh hưởng khắp năm châu; do vậy, một vùng cũng không thể dễ bề lay chuyển.

Trong sáu khu vực ấy, riêng Phi châu đã chiếm bốn, đủ tỏ người Pháp coi trọng lục địa này dường nào. Theo bản đồ thế giới do châu Âu vẽ, Phi châu mới là trung tâm địa lý của thế giới, điểm giao cắt vĩ độ và kinh độ không độ nằm ngay tại vịnh Guinée.

Bởi vậy, Ernst chỉ có thể tìm mưu từ những hòn đảo nằm dưới quyền kiểm soát của Pháp. Quá xa thì bất tiện; duy chỉ Mayotte là gần nhất với Đông Phi, lại án ngữ giữa eo biển Mozambique, giữ địa thế hiểm yếu đối với toàn vùng.

Nông nghiệp trên đảo lại khá thuận, nuôi sống được vài vạn nhân khẩu là chuyện dễ dàng; nếu tính cả quần đảo Comoros thì sức chứa còn lên đến hơn mười vạn (thực tế ở đời sau, dân số Comoros vượt quá tám trăm nghìn). Ba đảo kia phần nhiều vô chủ (dẫu thực tế có hai vương quốc bản địa, trong đó Grande Comore nói tiếng Swahili như cư dân Đông Phi), song riêng Mayotte đã nằm trong tay Pháp, thành ra nổi bật hẳn lên, khiến Ernst đặc biệt lưu tâm.

Cư dân Mayotte vốn là người Malagasy, xuất xứ từ miền Nam Madagascar, nơi các bộ lạc đồng tộc cư trú. Miền Bắc Madagascar thì chịu sự phân chia giữa thuộc địa Pháp và vương quốc Imerina.

Bảo rằng Ernst không mặn mà với Madagascar ắt là hoang đường; song thuộc địa Pháp tại đây khó lòng lay chuyển, mà bốn chiến hạm Đông Phi chẳng thể chịu nổi cuộc tiêu hao lâu dài.

Vương quốc Imerina lại chẳng phải thứ Đông Phi dễ xơi: lãnh thổ rộng, dân đông, chẳng giống hạng bộ lạc lạc hậu, vô súng ống, thiếu đoàn kết. Tiêu chuẩn của Ernst khi phân loại nền văn minh bản địa rất giản lược: nguyên thủy, nô lệ, bán phong kiến – bán nô lệ, và phong kiến.

Kinh nghiệm bành trướng tại Phi châu của Đông Phi cũng minh chứng điều ấy: dễ đánh nhất là bộ lạc nguyên thủy, kế đến là vương quốc nô lệ, rồi đến bán phong kiến, và khó nhất là phong kiến tập quyền. Cấp độ càng cao, trung ương càng chặt, tổ chức càng vững. Cho đến nay, đối thủ khó nhằn nhất của Đông Phi là nhóm vương quốc bán phong kiến – bán nô lệ quanh hồ lớn, cùng với Sultanate of Geledi; còn Sultanate of Zanzibar thì chỉ là trường hợp đặc biệt, bởi Felix đã thao túng thượng tầng của họ. Nếu khi ấy Đông Phi chọn tiêu diệt toàn bộ tầng lớp cầm quyền Zanzibar, hẳn chiến sự chưa dừng lại; huống hồ khi ấy Đông Phi chưa có lấy một con tàu, nên việc vượt biển tấn công đảo Zanzibar vốn bất khả.

Vương quốc Imerina thực là khúc xương cứng, ngang hàng với đế quốc Abyssinia trong giới bản địa Phi châu. Người Madagascar, giống như người Abyssinia, chẳng phải thuần chủng Phi châu: một bên thấm đượm ảnh hưởng Trung Đông, một bên phần nhiều là sắc dân nâu từ phương Đông. Cả hai đều nằm tại điểm giao thoa của văn minh, nên khá khai hóa.

Ngay từ năm 1817, Anh quốc đã ký hiệp với vương triều Madagascar, thừa nhận Radama I làm quốc vương, hứa cung cấp vũ khí, cố vấn, và cùng nhau cấm nạn buôn nô lệ; Hội Truyền giáo London cũng được phép vào truyền đạo. Radama I là bậc minh quân, bãi bỏ nô lệ, tiến hành cải cách hiện đại. Những người kế vị ông – Ranavalona II và Ranavalona III – lại xung đột với Pháp, và cuối cùng bị Paris lật đổ. Sau thất bại trong kháng chiến năm 1896, Imerina diệt vong, trở thành thuộc địa Pháp.

Dù vậy, đất ấy vẫn liên tục nổi dậy, nên nếu không có dân số dồi dào thì việc chinh phục Madagascar là điều không tưởng.

Chỉ cần so thời gian tồn tại là rõ: Bỉ, một tiểu quốc, nuốt trọn Congo chỉ trong vài năm; còn Imerina thì giao chiến với Pháp gần trăm năm mới chịu khuất phục.

So với Imerina, Ernst lại để mắt hơn đến các bộ lạc miền Nam Madagascar.

Hiện nay, trọng tâm Đông Phi đặt ở lục địa, nên chưa thể tiến sang Madagascar; nhưng hiện tại chưa được không có nghĩa tương lai cũng vậy. Mà từ Đông Phi tới Nam Madagascar vốn xa, quần đảo Comoros lại tiện làm trạm trung chuyển.

Để chiếm được Comoros, trở ngại lớn nhất chính là Mayotte – hòn đảo do Pháp quản. Tuy giữ vị trí trọng yếu, song trong mắt Paris, Mayotte chẳng mấy giá trị, bởi đã có Madagascar và Réunion. Thuộc địa Madagascar mới là điểm Pháp quan tâm nhất, dính liền đến chiến lược toàn cầu (đe dọa mũi Hảo Vọng và tuyến hải hành Ấn Độ Dương).

Trong số các thuộc địa có thể thu được sau chiến tranh Pháp–Phổ, chỉ Mayotte là khả thi. Những thuộc địa khác của Pháp thì vừa mạnh, vừa xa, lại tự trị cao, chẳng mấy khi nghe lệnh chính phủ trung ương; nói đúng ra, họ với Paris chỉ là quan hệ hợp tác.

Thế nên, những xứ rộng lớn, dân đông thì đừng mong. Dẫu Pháp có thuận, Đông Phi cũng phải đánh thêm một trận nữa.

Mayotte thì khác: dân thưa, đất hẹp, giá trị kinh tế chẳng cao, có nhượng cho Hechingen cũng chẳng xót.

Còn về cạnh tranh, Đông Phi vốn không đáng ngại; mối lo của Pháp tại đây chính là Anh quốc. Thí dụ, quần đảo Seychelles là do Anh đoạt từ tay Pháp. Hải quân Anh cũng mạnh hơn hẳn Pháp – một nguyên nhân trọng yếu khác.

(Hết chương)

[1] Merina: Vương quốc chiếm 2/3 Madagascar trước khi bị Pháp xâm lược.

[2] Thuộc địa khu vực Đông Nam Á của Pháp khoảng năm 1870 có Campuchia, Nam Việt Nam. Phải sau Hiệp ước Giáp Thân (1884), Pháp mới chính thức “bảo hộ” toàn bộ Việt Nam.

[3] Bab-el-Mandeb: Eo biển rộng 32km nối Biển Đỏ và Vịnh Aden, cửa ngõ vào kênh Suez.

[4] Radama I (1793–1828): Vua cải cách, mở cửa Madagascar với phương Tây.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 242 : Trang phục mẫu năm 70


Chương 242: Trang phục mẫu năm 70

Ngày 17 tháng Sáu, năm 1870 (nửa tháng trước).

"Ầm ầm, ầm ầm..."

Trong gian phòng lò hơi ngột ngạt, công nhân mình trần, từng người một xúc than bỏ vào miệng lò. Nhiệt độ tăng dần, bánh xe truyền động kéo theo trục khuỷu khổng lồ bắt đầu vận chuyển, phát ra thứ âm thanh chát chúa đến gai tai.

Kim đồng hồ áp suất nhảy vọt rồi dừng lại trong khoảng an toàn. Máy hơi nước liên tục truyền dẫn công suất ra khắp toàn bộ xưởng.

Thông qua hệ thống băng chuyền và trục truyền động, hàng loạt máy móc được vận hành bởi hơn 1.500 động cơ hơi nước.

Đây là Xưởng Dệt Giao Châu, một trong hai xưởng dệt thuộc Công ty Hàng Tiêu dùng Hechingen. Khác với Xưởng Dệt Berlin, nơi đây toàn bộ trang bị đều là máy dệt nhập khẩu từ Anh quốc.

Xưởng Dệt Berlin, tức Xưởng Dệt Hechingen, vốn là cơ sở dệt được cải tạo lại sau khi thu mua tại Berlin, cho nên sử dụng toàn bộ thiết bị chế tạo tại Phổ, quy mô chẳng lớn, chỉ độ hơn trăm máy. Trước khi Xưởng Dệt Giao Châu hoàn thành, nơi ấy vẫn là nhà sản xuất quân phục “kiểu Phổ” lớn nhất tại Đông Phi.

Thời thuộc địa, quân phục Phổ không chỉ dành cho lính mà còn là trang phục dân sự. Trừ dân nhập cư châu Âu, hầu hết cư dân đều mặc đồng phục kiểu quân đội Phổ.

Nay Vương quốc Đông Phi đã thành lập, lẽ nào vẫn cứ mặc quân phục Phổ như xưa? Chẳng hóa ra biến xứ này thành “Vương quốc quân đội Phổ” ư?

Lại thêm gần đây, Ernst chuẩn bị cho cuộc chiến Phổ – Pháp, bắt tay sản xuất quân phục chế thức Phổ, dự trữ một số lượng để cung ứng cho quân đội Phổ; thành thử, Xưởng Dệt Berlin bỏ hẳn nghiệp vụ ở Đông Phi, bán thẳng thành phẩm ngay tại Đức.

Tại viễn Đông, Xưởng Dệt Giao Châu thay thế vận hành. Xưởng này vốn hợp nhất từ ba xưởng nhỏ, tiện bề quản lý, nâng cao hiệu suất sản xuất, đồng thời phối hợp xây dựng cơ sở hạ tầng đi kèm — thí dụ như Đội Cứu hỏa tư nhân của xưởng, khu cư xá cho thân nhân công nhân, con đường nối từ xưởng ra bến cảng, nhà máy phát điện (chủ yếu cung cấp ánh sáng), xưởng tu sửa cơ khí, v.v.

Sở dĩ dùng máy dệt của Anh, nguyên nhân giản đơn: giá thành và hiệu quả đều vượt trội. Anh quốc là đệ nhất cường quốc dệt may thế giới, kỹ thuật tích lũy hơn hẳn Phổ, máy móc lại ít hỏng hóc. Ở châu Âu, chuyện trục trặc còn dễ xử, thợ sửa và phụ tùng thay thế đều sẵn. Nhưng tại viễn Đông, một lần máy hỏng mà không dự trữ phụ tùng, ắt phải nằm chờ đến khi hàng từ Âu châu cập bến. Vì thế, kỹ thuật viên đều là những người được thuê với thù lao hậu hĩnh.

Xưởng Dệt Giao Châu có hơn bảy nghìn công nhân, sản lượng mỗi năm bảy trăm nghìn tấm vải; ngoài việc cung ứng Đông Phi, phần dư đem bán khắp Đông Á.

Ưu điểm dựng xưởng tại đây đã rõ: ngoài điều kiện cảng thuận tiện, nguồn lao động phong phú là chủ yếu; tiền công lại thấp, nguyên liệu chẳng thiếu, hơn nữa gần các thị trường như Viễn Đông, Triều Tiên, Nhật Bản.



Bên cạnh Xưởng Dệt Giao Châu là Xưởng May Giao Châu. Thực ra hai xưởng này liền nhau, cùng dùng cơ sở hạ tầng của khu xưởng.

“Đây là thứ áo quần chi vậy? Trông lạ lùng quá!”

“Ấy là y phục người Tây Dương mặc đó.”

“Ta từng thấy rồi — người ta gọi là suit, thường chỉ bậc quan lớn Tây Dương mới khoác. Ngươi xem, trong xưởng ta đây, chỉ có giám đốc cùng kỹ sư là mặc.”

“Nhưng vật này bên cạnh thì ta chưa thấy bao giờ. Có phần giống quân phục của đám vệ sĩ nhà xưởng, mà coi chừng mực lại đẹp hơn; ngươi coi, trên mũ còn có thứ… ấy là con gì?” Người nọ định nói là chó, song xem ra chẳng giống.

“Ta thấy hao hao tượng sư tử đá trước cửa nhà đại gia.”

“Không thể nào! Chẳng giống chút nào. Vật này đầu đội gì đó, lại đứng thẳng, hai chân trước giơ ra; còn sư tử đá mà ta từng thấy thì oai vệ, song đều ở thế ngồi, sắc màu cũng rực rỡ hơn.”

“Thây kệ nó! Dẫu sao cũng chẳng phải áo quần cho ta mặc.”

Trước mắt, thành phẩm kia chính là quân phục Kiểu Năm 70 (1870) do Đông Phi tự thiết kế, đậm phong vị Âu châu. Con vật trên mũ mà họ bàn tán kỳ thực là huy chương mũ — đầu sư tử trong quốc huy Vương thất Hechingen, trên đầu tất nhiên có vương miện. Loại sư tử này quá đỗi phổ biến ở Âu châu, nhiều gia tộc quý tộc và vương quốc đều dùng, ngang hàng với hình song đầu ưng.

Quân phục Kiểu 70 có hai loại: kiểu thảo nguyên và kiểu sa mạc, chỉ khác ở màu sắc. Kiểu thảo nguyên là xanh lam nhạt, kiểu sa mạc là vàng nâu.

Mũ là bộ phận thay đổi nhiều nhất. Quân mũ của các quốc gia Đức và Âu châu hoặc là hình ống, hoặc là mũ vành rộng. Mũ Đông Phi thì kết hợp cả hai: không đội chóp cao như mũ vành rộng, mà gần giống mũ trụ tròn của Áo – Hung, song không ngay ngắn như thế, mà hơi buông lỏng, từ trên xuống dưới, nhìn chính diện thành hình thang.

Giữa mũ là huy hiệu hình khiên, đồng dạng với quốc kỳ, phối màu đen – đỏ – vàng, chế từ đồng thau.

Ngoài việc tiết kiệm vải, mũ này chú trọng che nắng, tránh ánh sáng làm loá mắt.

Áo quân phục không khác Âu châu là mấy: có năm túi, ngoài bốn túi lớn bên ngoài còn một túi trong. Thắt lưng đi kèm, chế tại thành phố Tanga ở Đông Phi, chất liệu vải bạt; lần này còn thêm nhiều lỗ nhỏ dự trữ để treo khí cụ sau này.

Quần quân phục giữ nguyên kiểu Âu châu, không cần sửa đổi.

Quân phục Đông Phi thoạt nhìn chẳng khác mấy so với quân phục Phổ trước kia. Điều ấy không phải bắt chước, mà bởi toàn cõi Đức, kể cả Áo – Hung, Bayern, hay Hechingen thời độc lập, đều chung một kiểu thức.

Xưởng May Giao Châu, ngoài sản xuất vest và quân phục, còn làm đồng phục lao động và y phục nữ giới; hiện Đông Phi đang cố gắng thay đổi cảnh tượng “quân phục Phổ tràn ngập” như trước.

Tất nhiên, sản xuất quy mô lớn thì mẫu mã ít ỏi; cả Đông Phi chỉ có bốn kiểu để dân thường lựa chọn, mua tại cửa hàng chuyên doanh bằng phiếu của Ngân hàng Hechingen.

Lần này Đông Phi mở rộng quân số thêm mười vạn, cho nên chế tạo một lượng lớn quân phục, toàn bộ là Kiểu 70. Trong vài năm tới, Đông Phi sẽ dùng Kiểu 70 thay thế dần quân phục Phổ trong các đơn vị đã trang bị trước.



Tại Hechingen.

“Leopold, đường huynh, những người này mấy tháng tới sẽ giao cho huynh; mong huynh trông nom chu đáo.” Ernst nói với Leopold, người vừa trở lại để chỉnh đốn Học viện Quân sự Hechingen.

“Cứ yên tâm. Ta sẽ không giao cho họ những nhiệm vụ khắc nghiệt. Để họ làm hậu cần thì sao?” Leopold nói trắng ra.

“Không cần vậy. Ta chọn giao những học viên này cho huynh là để họ không chịu sự đối xử bất công. Huynh cũng biết, có nhiều người trong số họ đến từ viễn Đông; nếu rơi vào tay vị tướng khác, e rằng họ sẽ chỉ bị đem làm bia đỡ đạn. Đây đều là tinh binh đã trải qua huấn luyện quân sự chính quy lâu ngày. Tương lai, phần lớn sẽ theo ta về Đông Phi. Ta cũng muốn nhân cơ hội chiến tranh này mà tôi luyện họ. Huynh cứ xem họ như quân lính dưới quyền mình, miễn đừng phân biệt với các đơn vị khác.” Ernst đáp.

“Thì ra ý ngươi là vậy. Nhưng yêu cầu thế này, ta không thể tùy tiện hứa. Trước hết, ta phải xem trình độ quân sự của họ ra sao, để khi ra trận còn biết mà phân công.” Leopold nói thẳng.

“Không thành vấn đề. Họ tuy chưa từng xông pha chiến trường, nhưng huấn luyện và diễn tập chưa từng bỏ sót, tiếng Đức cũng khá, đủ giao tiếp bình thường, lại biết chữ, thông thạo mọi điều lệnh và chế độ của quân đội Phổ.” Ernst tự tin đáp.

“Lời nói suông khó tin. Cho họ tập hợp, ta muốn xem tận mắt.”

Chẳng mấy chốc, toàn bộ sinh viên năm ba Học viện Quân sự Hechingen, tổng cộng 2.247 người, được khẩn cấp tập hợp trên sân. Họ chỉnh tề thành hàng ngũ.

“Tốc độ phản ứng, tốc độ tập hợp đều tốt! Thậm chí vượt quá quân đội bình thường của vương quốc, sánh ngang một số đơn vị tinh nhuệ. Chỉ là chưa biết năng lực thực tế thế nào.” Leopold nhận xét.

“Việc này dễ. Ở phía tây Hechingen có một bãi diễn tập; hôm nay ta có thể tổ chức một buổi diễn tập để huynh tham khảo.”

“Thế thì hay. Nhưng ngươi cũng to gan thật, đến cả bãi diễn tập cũng sẵn sàng!”



Chiều hôm ấy, diễn tập kết thúc.

Leopold hài lòng nói: “Rất khá! Bọn họ có tổ chức, biết vận dụng hỏa khí, thể lực lại vượt trội. Chỉ xét qua diễn tập, hoàn toàn không vấn đề. Ta có cảm giác, chỉ cần rèn giũa qua khói lửa chiến trường, họ ắt sánh ngang tinh nhuệ Phổ.”

“Vậy thì huynh hãy dùng thép tốt vào chỗ sắc, dẫn dắt họ lập công. Đây là tâm huyết ta dày công bồi dưỡng suốt nhiều năm.”

“Cứ yên tâm. Ban đầu ta ngỡ Ernst ngươi cất công giao họ cho ta là muốn đi cửa sau, mong ta nâng đỡ. Nay xem ra là ta đã hiểu lầm.”

“Cũng chẳng hẳn là hiểu lầm. Vốn dĩ cũng coi là đi cửa sau; bằng không, làm gì có chuyện một đơn vị mới thành lập lại được vị tướng tương lai của Phổ dẫn dắt, ha ha!” Ernst bông đùa.

“Rồi sẽ có ngày ấy.” Leopold đáp. Cha đã đạt tới ngôi Tổng Tư lệnh, bản thân y đâu thể kém cỏi.

(Hết chương)

[1] Leopold: Hoàng tử xứ Hohenzollern Sigmaringen, sau này trở thành Thống chế Phổ.

[2] Phiếu thưởng Hechingen: Hình thức thanh toán nội bộ trong hệ thống thuộc địa, tiền thân của tiền tệ Đông Phi sau này.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 243 : Biến bại thành "thắng"


Chương 243: Biến bại thành "thắng"

Vương quốc Đông Phi, Trấn thứ Nhất, cung Svert.

"Việc tái tổ chức quân đội mới tiến triển thế nào rồi?" Quốc vương Konstantine hỏi các quan chức Đông Phi.

"Tâu bệ hạ, hiện đã hoàn thành 80%. Chúng thần đã chia tách và tổ chức lại các đơn vị cũ, dựa trên chiến công đề bạt một số sĩ quan xuất sắc trong chiến dịch trước lên làm chỉ huy mới."

"Ừm. Sau khi hoàn tất, nộp hồ sơ lên văn phòng trẫm." Konstantine ra lệnh.

"Còn một việc nữa: Bọn Bồ Đào Nha dạo này làm gì? Chúng đã đánh chiếm được bờ nam hồ Malawi chưa?"

“Việc ấy thần chưa từng nghe qua. Quân ta đóng tại biên giới tỉnh Süd-Salzburg vẫn chưa chạm trán bất cứ đơn vị nào của Bồ Đào Nha. Thám binh chưa thâm nhập sâu xuống nam bộ Malawi, song trong vòng hơn hai trăm dặm phía nam tỉnh Süd-Salzburg, chưa từng thấy bóng một tên Bồ Đào Nha nào.” Merkel báo cáo.

"Chẳng lẽ chúng chưa xuất quân?" Von der Leyen nghi ngờ.

"Không thể nào. Đã mấy tháng rồi. Trong khi ta chiếm cả vùng Tây Nam lớn như thế cũng không mất nhiều thời gian." Merkel nói.

"Tôi nhớ là người Bồ đã xuất phát. Hai tháng trước, điệp viên ở Maputo báo họ tổ chức một đội quân tiến vào nội địa, nhưng số lượng ít, chỉ vài trăm người. Lúc đó không ai chú ý, nhưng xét về thời gian thì có lẽ đó chính là lực lượng chinh phục Vương quốc Malawi của thuộc địa Mozambique." Felix nói.

"Vài trăm người đánh một vương quốc bản địa thì đủ, nhưng chiếm đóng hiệu quả thì khó. Trừ khi bọn bản địa ngu ngốc, tự nguyện làm nô lệ cho Bồ Đào Nha." Sivert châm biếm.

"Có thể đội quân Bồ gặp thiên tai mà toàn quân bị diệt. Vài trăm người chỉ cần một trận lũ quét là xong. Mozambique mưa nhiều, sông ngòi hay lụt lội." Von der Leyen phân tích.

“Thôi, đừng bàn đến bọn Bồ Đào Nha nữa. Chiếm được hay không, cũng chẳng can hệ gì đến ta. Trước tháng Bảy, phải hoàn tất tái tổ chức quân đội. Đến khi ấy, chúng ta sẽ có thể tràn sâu vào nội địa, mở rộng cuồng nhiệt.” – Konstantin định đoạt chủ trương.

...

Phía nam Vương quốc Malawi, khu Chipoka.

Một tiểu đội Bồ Đào Nha đang nghỉ ngơi. Đột nhiên, từ rừng rậm bên cạnh bay ra một bóng đen.

"Cẩn thận, Ross!" Đội trưởng Antonio lao tới đẩy người lính tên Ross xuống đất.

Cùng lúc, vật thể lộ rõ là một mũi tên xé gió bay qua đầu Antonio và Ross, cắm xuống đất xa xa.

"Chết tiệt! Bắn!" Antonio hét lên.

Những người lính Bồ Đào Nha giật mình nổ súng bừa bãi vào khu rừng. Lá cây rơi lả tả.

Lại một ngày vô vọng như mấy hôm trước.

"Khốn khiếp! Lại để chúng chạy thoát! Nếu bắt được, ta sẽ lột da chúng!" Antonio tức giận.

Đúng lúc Antonio càu nhàu và lính Bồ nạp đạn, từ nơi vừa bắn, một "con khỉ cỏ" màu xanh bật dậy, phóng vào sâu trong rừng.

"Không tốt! Bị lừa rồi!"

Antonio nhận ra kẻ đào tẩu. Dù ngụy trang bằng lá cây, làn da đen nhẻm khi chạy trốn đã tố cáo hắn.

"Đội trưởng! Đuổi theo không?" Một lính hỏi khẽ.

"Đuổi? Đuổi cái gì! Một tên đã làm cả đám mày rối tung lên rồi! Rừng sâu hiểm địa, biết đâu chúng đặt bẫy? Nếu không tinh mắt, Ross giờ đã gặp Chúa rồi! Nghe đây, lũ lính mới: Từ giờ tuân lệnh ta, không muốn chết thì đừng tự ý hành động!" Antonio quát tháo.

Antonio thầm ngao ngán. Đội quân tạm bợ này thật khó dạy, thiếu cảnh giác ngay trên chiến trường, lại kỷ luật kém.

Nhưng cũng không trách được. Họ vốn là thủy thủ, ít hoạt động ở thảo nguyên và rừng nhiệt đới châu Phi. Đất liền chưa chắc an toàn hơn biển cả với cướp biển.

...

Hậu phương.

"Đồ phế vật! Một lũ man di cũng không trị nổi, các ngươi ăn hại vừa thôi! Muốn để bọn man rợ Phổ nhạo báng Đại Bồ Đào Nha sao?"

Tổng tư lệnh Viễn chinh Malawi của thuộc địa Mozambique, Burlaide, gào thét.

Không giận sao được – lần này, thuộc địa Mozambique đã huy động hơn năm trăm quân chính quy, cộng thêm hơn ba nghìn lính phụ trợ bản địa Mozambique, nhằm tấn công nam bộ Vương quốc Malawi.

Sau ba tháng, chỉ tiến được đến Chipoka. Tệ hơn, đạn dược sắp cạn, trong khi mục tiêu còn xa vời.

"Thưa Tổng tư lệnh, không phải quân sĩ không cố gắng. Người bản địa quanh hồ Malawi quá xảo quyệt. Chúng bỏ chạy từ xa, khi ta đi qua lại chui từ rừng rậm ra quấy rối. Quân số ít ỏi của ta không đủ đối phó. Thêm nữa, khí hậu ẩm ướt quanh hồ khiến quân sĩ suy kiệt dù chỉ hành quân bình thường."

"Đại úy Charvis, ta không muốn nghe lý do! Cùng là người châu Âu, Mozambique của ta đến sớm hơn bọn Phổ man rợ, tại sao chúng không gặp vấn đề gì?"

"Thưa ngài, dù man rợ nhưng Phổ vốn giỏi tác chiến trên bộ, còn ta là quốc gia hải quân truyền thống. Nói khó nghe thì ở nội địa, ta không có lợi thế bằng họ."

Charvis đưa ra lý do hoàn hảo: Phổ mạnh trên đất liền nên thuận lợi ở châu Phi, còn Bồ Đào Nha giỏi hải chiến nên chỉ phát huy được ở đảo và ven biển.

Burlaide định mắng thêm, nhưng nghĩ lại thấy có lý.

"Hơn nữa, lực lượng Mozambique này chỉ là tạm bợ. Thuộc địa đã lâu không chiến tranh nên không phát huy được sức mạnh." Charvis đẩy nhanh ý tưởng.

"Dù có lý, nhưng giờ không hoàn thành nhiệm vụ thì sao? Đạn dược cũng sắp hết. Tiếp tục chiến đấu, thương vong lớn, chính quyền thuộc địa sẽ trị tội ngươi."

Burlaide tuy là Tổng tư lệnh danh nghĩa, nhưng thực chất chỉ đến để lấy thành tích. Nhờ có quan hệ, mọi sai lầm sẽ do Charvis gánh.

Charvis toát mồ hôi lạnh. Đột nhiên, anh ta chợt nghĩ ra điều gì đó:

"Tổng tư lệnh còn nhớ trận mưa lớn mấy hôm trước chứ?"

“Nhớ chứ! Khi ấy cái lò pha cà phê của ta bị ướt, chẳng nhóm nổi lửa, khiến ta một ngày chẳng được ngụm cà phê nóng!”

Đồ công tử bột! – Charvis rủa thầm, song ngoài mặt vẫn ôn hòa:

"Tổng tư lệnh, mưa lớn dễ gây lũ lụt và lở đất. Vùng hồ Malawi địa hình gập ghềnh. Ta có thể... chỉnh sửa lại báo cáo chiến sự."

"Chỉnh kiểu gì? Đánh thảm hại thế này rồi!" Burlaide tò mò.

"Thưa ngài, ta sẽ báo rằng: Dưới sự lãnh đạo anh dũng của ngài, quân ta tiến như vũ bão. Nhưng 'mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên', ngay khi sắp chiếm xong nam Malawi thì chủ lực gặp lũ quét..."

"Ý hay! Nhưng làm sao không bị phát hiện?"

"Với người nhà thì dễ, số còn lại không nhiều, thống nhất khẩu quyết là được. Còn lính bản xứ, trừ số chạy trốn và chết, còn hơn 1.000 tên. Ta có thể giết luôn chúng. Khi chính quyền hỏi, cứ nói chúng gặp lũ rồi đào ngũ. Còn binh sĩ Bồ dũng cảm dưới sự dẫn dắt của ngài vẫn kiên cường..."

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 244 : Ông cậu Tổng đốc của tôi


Chương 244: Ông cậu Tổng đốc của tôi

"Tốt, ý tưởng này hay đấy! Quân đội gặp lũ quét chứ không phải thất bại do chiến thuật. Vốn dĩ chúng ta sắp thành công rồi, chỉ tiếc 'mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên'." Burlaide tán thưởng.

"Thưa Tổng tư lệnh, chúng ta có nên thực hiện kế hoạch này không?" Charvis hỏi.

Burlaide vẫy tay: "Làm ngay đi! Hôm nay phải xử lý hết lũ bản xứ đó. Còn lính của ta thì bảo họ im họng, đừng có khôn vặt."

"Rõ!" Charvis nhận lệnh rồi biến mất tức thì, bắt tay vào thực hiện kế hoạch.

Cùng ngày hôm đó, quân bản xứ bị giải tán. Charvis ra lệnh cho lính Bồ Đào Nha xua đuổi họ vào sâu lãnh thổ Vương quốc Malawi. Những ai không chịu đi sẽ nhận viên đạn vào đầu.

"Các ngươi phải nhớ kỹ: Hễ ai hỏi thì bảo gặp lũ quét. Chỉ có như vậy chúng ta mới an toàn trở về. Nếu ai dám tiết lộ sự thật, đừng trách ta tàn nhẫn!"

...

"Báo cáo ngài Tổng đốc, Tổng tư lệnh Viễn chinh Karavi của Vương quốc Bồ Đào Nha - Burlaide xin được báo cáo."

"Tốt, tinh thần rất hăng hái." Tổng đốc Mozambique nhận xét.

"Ngài Burlaide, sao chỉ có ít người trở về thế? 3.000 lính bản xứ lúc xuất quân đâu rồi? Và nếu các người đã rút quân, chẳng phải Vương quốc Malawi vẫn chưa bị đánh bại sao?" Một viên quan trẻ bên cạnh Tổng đốc chất vấn.

Những người khác lạnh lùng quan sát. Đám thanh niên bây giờ thật liều lĩnh! Nhưng cũng tốt, cho chúng một bài học. Không thấy mọi người đều im lặng sao? Hắn lại dám cắt ngang!

"Ngài là ai? Tôi không quen biết!" Burlaide ngạc nhiên.

"Đây là Thiếu tá Chakoff mới được Vương quốc cử đến, xuất thân từ vùng Nigran của Bồ Đào Nha." Tổng đốc vội giải thích.

Thì ra là thằng "nhà quê" từ vùng sâu vùng xa của Bồ Đào Nha! Burlaide quyết định bỏ qua gã này, để dành dịp khác dạy dỗ.

"Bộ hạ của tôi tiến vào Vương quốc Malawi đầu tháng Ba, vừa vào sâu đã đụng độ vài bộ lạc. Dưới sự chỉ huy của tôi, binh sĩ Bồ Đào Nha một địch mười, đánh bại quân địch trong trận đầu thắng lợi. Chỉ sau bảy ngày, chúng tôi đã đẩy lui chiến tuyến hơn trăm km tới khu Chipoka. Sau đó, quân ta như chẻ tre... Ngay khi thắng lợi trong tầm tay thì xảy ra sự cố." Nói tới đây, Burlaide rút khăn tay từ túi áo, giả vờ tự trách: "Đều do tôi phán đoán sai lầm mà hại chết binh sĩ! Để sớm chiếm toàn bộ Malawi, tôi dẫn quân bắc tiến không ngừng nghỉ, không ngờ gặp lũ quét. Lính bản xứ nhân cơ hội làm phản, cộng thêm lũ lụt khiến quân ta tổn thất nặng nề."

"Hóa ra là vậy! Burlaide, ngươi không cần tự trách. Đây hoàn toàn là tai nạn bất ngờ, ai gặp phải cũng đành bó tay. Hơn nữa các ngươi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với danh hiệu chiến binh dũng cảm của Bồ Đào Nha. Vì vậy dù chưa chiếm được Malawi, ta vẫn phải khen thưởng."

"Đa tạ cậu... à không, đa tạ ngài Tổng đốc! Ta thay mặt binh sĩ cảm ơn sự khoan dung của ngài." Burlaide suýt lỡ miệng, hơi ngượng ngùng. Đây là chốn công đường, không phải nơi để lộ chuyện gia đình.

Tổng đốc Mozambique nghe rõ sự sơ ý của Burlaide, trong lòng giận dữ: "Thằng cháu đúng là giống hệt cái đồ ngốc đa tình như chị nó, ngu không thể cứu chữa!"

Thực ra, Tổng đốc hiểu rõ năng lực thật của Burlaide. Nhưng nghĩ rằng người bản xứ Malawi bị Đông Phi và Mozambique giáp công từ hai phía, thế lực suy yếu nhiều nên mới cho cháu trai kiếm chút công lao. Không ngờ nhiệm vụ đơn giản thế mà thằng ngốc này cũng làm hỏng. May mà nó còn đủ khôn để bịa cớ thoát tội.

Đúng lúc hai cậu cháu đang bàn cách biến thất bại thành thắng lợi, viên Thiếu tá Chakoff không biết điều lại mở miệng:

"Thưa ngài Tổng đốc, theo tôi không nên khen thưởng mà phải trừng phạt họ. Việc không chiếm được Malawi đã là thất bại hoàn toàn. Còn chuyện lũ quét chỉ chứng tỏ ngài Burlaide nôn nóng lập công - bất kỳ sĩ quan nào có trình độ đều phải nắm rõ yếu tố thời tiết."

"Có ai mời ngươi phát biểu đâu!" Burlaide tức giận. Cậu cháu hắn vừa định ra kết luận thì gã này lại phá đám. Hắn đã định cho Chakoff một bài học.

Nhưng Tổng đốc đã lên tiếng trước: "Thôi đủ rồi! Có gì mà phải nghi ngờ? Ngươi hoàn toàn lo xa quá đấy. Có lẽ ngươi mới đến nên không hiểu khí hậu nội địa châu Phi khắc nghiệt thế nào. Có thời gian hãy ra ngoại ô Maputo mà xem - sông ngòi ngập tràn, mùa mưa là lụt lội. Burlaide xuất quân vào cuối mùa mưa nhưng tiến lên phía bắc nên gặp lũ. Đó hoàn toàn là tai nạn, chỉ là sai sót về kinh nghiệm. Vả lại dù chưa chiếm được Malawi, chúng ta cũng đã giáng đòn mạnh vào thế lực bản xứ. Vì vậy ta tuyên bố nhiệm vụ này hoàn thành khá tốt, xứng đáng 8/10 điểm. Ai đồng ý? Ai phản đối?"

"Ngài Tổng đốc nói đúng. Chakoff, ngươi còn trẻ, chưa hiểu tình hình thực tế Mozambique, chớ vội nghi ngờ quyết định của ngài."

"Phải, ta ở Mozambique mười năm, hiểu rõ thời tiết nơi đây – sự cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Việc Tướng Burlaide dẫn một nhúm quân vào chiến đấu tại Malawi đã là rất giỏi. Ta dám nói, mười người ngồi đây thì tám chín chẳng làm nổi. Có đúng không?"

"Đúng thế! Xét trận này, Burlaide quả là danh tướng số một Mozambique. Chúng ta ủng hộ quyết định của Tổng đốc."

Chẳng mấy chốc, Burlaide được tâng bốc thành vị tướng "mưu lược tài ba", là bức tường thép bảo vệ Mozambique.

"Tốt, Burlaide lần này làm khá lắm, khen thưởng là đương nhiên. Còn một số người đừng tùy tiện nghi ngờ 'lương tướng trung thần' của Vương quốc. Nếu Burlaide không có năng lực vượt trội, ta đã phá lệ đề bạt hắn làm Tổng chỉ huy chiến dịch Malawi sao?"

Cái "năng lực vượt trội" đó chính là có một người mẹ tốt, mà mẹ hắn lại có một người em trai tốt, và người em trai đó tình cờ lại là Tổng đốc Mozambique của Vương quốc Bồ Đào Nha.

Đến nước này, Thiếu tá Chakoff đã hiểu ra toàn bộ thuộc địa Mozambique này chỉ là một lũ gian thần ô hợp. Hắn cảm thấy vô cùng buồn nôn.

"Thưa ngài Tổng đốc, gần đây tôi cảm thấy sức khỏe không tốt, có lẽ không phù hợp với công việc ở thuộc địa. Tôi xin phép rời đi."

"Ồ, Thiếu tá Chakoff, ta đã nhận ra từ lâu rồi. Ngay ngày đầu đến Mozambique, sắc mặt cậu đã không được tốt, chắc là không hợp thủy thổ. Thôi được, cậu viết đơn từ chức đi, ta sẽ cấp giấy chứng nhận. Mozambique vốn không phải nơi tốt lành gì, không thể so với mẫu quốc. Cậu hợp làm việc ở Bồ Đào Nha hơn."

"Vậy... đa tạ ngài Tổng đốc." Chakuf nói. Dù tự nguyện rút lui, nhưng hắn đã ghi nhớ những khuôn mặt này. Nếu sau này phất lên, hắn sẽ tính sổ.

Mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa. Ai cũng đạt được thứ mình muốn. Còn Vương quốc Malawi thì sao? Đương nhiên là giả vờ như không thấy. Dù sao đây cũng là chiến dịch tự phát của Mozambique, tổn thất không liên quan đến Vương quốc. Cứ phớt lờ cho xong chuyện.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 245 : Phát súng mở màn cuộc chiến tranh Đức năm 1870


Chương 245: Phát súng mở màn cuộc chiến tranh Đức năm 1870

Theo sử liệu hậu thế chép lại, vào tháng Bảy năm 1870, lần lượt ba cường quốc Đức đã khởi binh, lôi kéo hầu như toàn bộ các tiểu quốc Đức tham chiến. Hậu nhân vì thế gọi chung ba cuộc chiến ấy là Cuộc Chiến tranh Đức năm 1870.

Quy mô lớn nhất (xét theo quân số và vũ khí), cường độ cao nhất và ảnh hưởng sâu rộng nhất thuộc về Chiến tranh Pháp-Phổ.

Thứ hai là Chiến tranh Áo-Ý lần thứ hai.

Cuối cùng là Cuộc chinh phục lần thứ ba của Vương quốc Đông Phi.

Ngày 10 tháng 7 năm 1870

Trên cây cầu dây văng bắc ngang sông Lualaba và Zambezi, binh lính Đông Phi sau khi được mở rộng biên chế lần lượt tiến quân theo ba hướng.

Vương quốc Đông Phi - vốn chưa kịp tiêu hóa xong Zambia - sắp sử dụng toàn bộ tiềm lực cuối cùng để định hình lãnh thổ cơ bản.

Bờ tây sông Lualaba

Msiri cùng các con trai và quân đội của mình đã chờ sẵn từ lâu.

"Ngài Merkel! Đất nước của ngài thật đáng sợ!" Msiri thốt lên đầy kinh hãi trước ba vạn quân Đông Phi trang bị tinh nhuệ, được huấn luyện bài bản.

"Đương nhiên rồi, thưa ngài Msiri. Bất kỳ bộ lạc nào cũng chỉ như trứng chọi đá trước Vương quốc Đông Phi. Ngài là người thông minh, biết chọn hợp tác với chúng tôi. Bạn bè của Đông Phi sẽ không bị đối xử tệ."

Msiri đã được Đông Phi tuyên truyền thành "Phi gian" (kẻ phản bội châu Phi) trung thành. Đông Phi cũng hứa sẽ không "giết lừa sau khi xay xong".

Trước chiến tranh, Đông Phi đưa ra hai lựa chọn cho Msiri: sau khi Đông Phi bình định cao nguyên Trung-Nam Phi, ông ta có thể sang Zanzibar sống an nhàn hoặc thông qua Trung Phi đến Tây Phi phát triển. Msiri chọn phương án hai.

Nhìn biển người quân Đông Phi, Msiri thầm mừng vì quyết định của mình. Nếu chọn sai phe, giờ đây ông ta đã thành mục tiêu bị tiêu diệt. Với vài trăm khẩu súng, Msiri không dám mơ đối đầu quân đội Đông Phi.

"Ngài Merkel yên tâm, lần này Vương quốc Yeke sẽ hỗ trợ tối đa. Ít nhất ở Vương quốc Luba - kẻ thù cũ của tôi - người của tôi sẽ dẫn đường cho quý quốc."

"Tốt lắm!" Merkel gật đầu.

...

"Đoàng!"

Cuộc chinh phục lần thứ ba của Đông Phi (lần đầu là chiến dịch tiêu diệt "Bát quốc" vùng Hồ Lớn, lần hai là chiến tranh Zambia và Sultanate of Geledi) chính thức bắt đầu.

Khu vực Kasongo, nằm giữa sông Lualaba (thượng nguồn Congo) và sông Sankuru (nhánh phía nam Congo), chứng kiến cuộc chạm trán giữa quân Đông Phi tiến về bắc và quân đội Vương quốc Luba.

...

Cung Svert, Trấn thứ Nhất

Felix đứng trước mô hình sa bàn, báo cáo:

“Cuộc chinh phạt này, quân Đông Phi chia làm bốn đạo: Bắc lộ quân, Tây lộ quân, Nam lộ quân và Tây Nam quân. Mục tiêu lần lượt là: Cao nguyên Azande cùng nam bộ Sudan; Cao nguyên Lunda và Cao nguyên Kwango; Cao nguyên Matabele; và miền bắc bồn địa Kalahari.

Một khi hoàn tất, phía bắc Đông Phi sẽ giáp ranh Ai Cập, phía tây giáp thuộc địa Angola của Bồ Đào Nha cùng Vương quốc Congo, phía nam giáp thế lực Boer, đồng thời tạo thế bao vây thuộc địa Mozambique của Bồ Đào Nha.

Nói cách khác, sau đợt mở rộng này, láng giềng của Đông Phi sẽ không còn là bộ lạc bản địa mà là các quốc gia: Anh, Pháp, Ai Cập, Đế quốc Abyssinia, Ottoman (ven Biển Đỏ), Bồ Đào Nha, người Boer, các bộ lạc Somalia...

Bởi vậy, trong tương lai gần, Đông Phi sẽ khó lòng có thêm hành động lớn tương tự.”

Đây là kế hoạch táo bạo, nhắm vào vùng đất rộng tương đương Ấn Độ. Nếu thành công, lãnh thổ Đông Phi sẽ đạt hơn 7 triệu km².

Đây cũng là giới hạn của Đông Phi. Như mọi khi, cao nguyên là nền tảng của vương quốc. Các khu vực nhiệt đới chỉ có cao nguyên và núi là phù hợp cho con người sinh sống.

Với năng lực hạn chế, Đông Phi ưu tiên chiếm những vùng "đất lành":

Rừng mưa và sa mạc không nằm trong kế hoạch.

Phía tây và nam lưu vực Kalahari gần như không người, nhưng khí hậu sa mạc cùng tuyến tiếp tế dài khiến việc kiểm soát bất khả thi.

Còn rừng mưa Congo thì hành quân quy mô lớn là chuyện bất khả, trừ phi chấp nhận thương vong khủng khiếp. Ngay cả thổ dân sống nơi ấy cũng không dám khoe rằng họ có thể băng ngang rừng.

Thực ra, men theo sông vẫn có thể chiếm một số cứ điểm ven bờ, song điều đó chẳng đem lại quyền kiểm soát hiệu quả. Rừng mưa Congo dân cư thưa thớt, toàn bộ lạc nhỏ lẻ, không hề có giá trị thuộc địa. Đất đai đáng giá đều tập trung ở những cao nguyên nằm trong mục tiêu chiến dịch này.

Felix nhấn mạnh:

"Quân đội hành quân dọc cao nguyên sẽ ít gặp vấn đề sức khỏe. Khó khăn nhất là lưu vực Kalahari do thiếu nước ngọt. Sông Okavango tạo thành châu thổ nội địa khổng lồ, nhưng cũng là nơi tập trung động vật. Hà mã thải phân xuống sông và vùng đất ngập nước, khiến nguồn nước sạch khan hiếm. Do đó, quân số Tây Nam quân chỉ khoảng hơn 1.000 người."

"Hậu cần là thách thức lớn. Cao nguyên còn có thể cướp lương thực tại chỗ, nhưng Kalahari không có nông nghiệp. Vận chuyển lương thực từ phía đông tốn kém đến mức không thể duy trì đại quân."

"Các cao nguyên về cơ bản liền nhau, chỉ bị ngăn cách bởi sông ngòi. Muốn kiểm soát lâu dài, phải xây dựng đường sá và cầu cống."

(Hết chương)

[1] "Phi gian": Cách gọi mỉa mai những thủ lĩnh châu Phi hợp tác với thực dân.

[2] Kasongo: Thủ đô cũ của Vương quốc Luba, nay thuộc CHDC Congo.

[3] Châu thổ Okavango: Hệ thống sông ngòi độc đáo ở Botswana, không đổ ra biển mà thấm vào sa mạc Kalahari.

[4] "Giết lừa sau khi xay xong": Thành ngữ ám chỉ việc phản bội đồng minh sau khi lợi dụng xong. (như "Qua cầu rút ván")
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 246 : Lữ đoàn Hechingen


Chương 246: Lữ đoàn Hechingen

Ngày 15 tháng 7, không lâu sau khi cuộc Chiến tranh Chinh phục lần thứ Ba bùng nổ, Pháp đã bắt đầu huy động quân đội. Ngày hôm sau, nghị viện Pháp bỏ phiếu thông qua quyết định chính thức tuyên chiến với Phổ.

Ngay sau đó, dưới ảnh hưởng của làn sóng dân tộc chủ nghĩa đang dâng cao, bốn tiểu quốc Nam Đức – Bavaria, Baden, Württemberg và Hessen – rốt cuộc cũng hoàn toàn ngả theo Phổ.

Lúc này, Phổ có ba quân đoàn chủ lực. Ở phía Nam, quân đoàn thứ ba do Thái tử Friedrich Wilhelm (tức Friedrich III) thống lĩnh. Thành phần gồm có:

Quân đoàn số 5 – do tướng Kirchbach chỉ huy

Quân đoàn số 6 – do tướng Tumpling chỉ huy

Quân đoàn số 11 – do tướng Bose chỉ huy

Quân đoàn số 1 xứ Bavaria – do tướng von der Tann-Rathsamhausen chỉ huy

Quân đoàn số 2 xứ Bavaria – do tướng Hartmann chỉ huy

Sư đoàn Württemberg

Sư đoàn Baden

Sư đoàn Kỵ binh 2 & 4

Lữ đoàn Hechingen

Do tính chất đặc thù của Thân vương quốc Hechingen, đơn vị này được tách riêng thành một đơn vị tác chiến độc lập, về lý thuyết ngang cấp với quân đoàn Phổ.

Trong cuộc chiến này, Lữ đoàn Hechingen hoàn toàn do hoàng gia Hechingen thành lập. Ngoài nhân lực, vũ khí trang bị cũng tự cung tự cấp từ nhà máy quân khí Hechingen tại Đức, hoàn toàn đồng nhất với quân đội Phổ, giúp dễ dàng phối hợp hậu cần hơn so với các lực lượng Nam Đức khác mới gia nhập.

Chỉ huy trưởng của Lữ đoàn là Leopold, trực thuộc quyền chỉ đạo trực tiếp của Thái tử Friedrich Wilhelm.

Tổng quân số mà Thân vương quốc Hechingen xuất chinh là 4.372 người. Ngoài các học viên năm ba của Học viện Quân sự Hechingen, còn có lẫn cả học viên năm hai, năm nhất, cùng một số tân binh nghĩa vụ được chiêu mộ từ Hechingen và Sigmaringen.

Tiếng chuông đồng “boong, boong, boong…” vang lên.

Trên thao trường Học viện Quân sự Hechingen, Lữ đoàn Hechingen – vừa được thành lập gấp rút – đã tập hợp chỉnh tề.

Lữ đoàn Hechingen gồm hai trung đoàn bộ binh, dưới sự chỉ huy của Leopold, nhanh chóng tập hợp xong xuôi, sau đó hành quân qua Stuttgart, tiến về phía tây dọc theo con đường chính. Nhờ lợi thế địa lý, chỉ sau ba ngày, họ đã đến khu vực biên giới. Trong khi quân đội Đại công quốc Baden chiến đấu trên lãnh thổ quê nhà, các bang khác cùng quân đội Phổ vẫn chưa kịp có mặt.

Quân đoàn thứ ba, cấu thành chủ yếu từ các tiểu quốc Nam Đức, phối hợp với quân Phổ, tổng cộng 12 sư đoàn, khoảng 130.000 người (lịch sử thực tế chừng 125.000), bố trí ở khu vực Pfalz, gần Baden và Karlsruhe, phía Nam nước Đức.

Hechingen vốn giáp ranh ngay với Đại Công quốc Baden, mà Lữ đoàn Hechingen lại là đơn vị nhỏ nhất trong toàn quân đoàn, nên điều động rất linh hoạt.

Hai ngày sau, quân Württemberg mới tiến vào lãnh thổ Baden, đồng thời quân chủ lực Phổ do Thái tử dẫn đầu cũng từ phương Bắc áp xuống.

Với tư cách Tổng chỉ huy Quân đoàn thứ ba, Friedrich Wilhelm trước tiên tiến hành duyệt binh các đạo quân tiểu quốc – ngoại trừ quân Bavaria vẫn chưa đến kịp.

Với quân Phổ, Thái tử hoàn toàn an tâm. Song quân Baden và Württemberg vốn đã lâu không can qua binh hỏa, tinh thần mỏi mòn, khó lòng tin tưởng. Còn quân Bavaria, dẫu sao trước đó cũng từng cùng Phổ giao chiến, thực lực hẳn không đến nỗi kém.

Khi nhìn các đội ngũ rầm rập của quân các tiểu quốc, đôi mày Thái tử nhíu chặt. Ông hết sức bất mãn – so với quân Phổ, trình độ quả thực kém xa. Trang bị hỗn loạn, một số đơn vị còn pha tạp cả vũ khí của Phổ, Pháp, Áo. Tổ chức yếu kém đến vậy, khi lâm chiến làm sao sánh nổi quân Phổ dày dạn sa trường? Huống chi đối diện bọn họ, chính là đại quân Pháp – lực lượng lục quân số một thế giới.

Đúng lúc Thái tử thất vọng, ở góc doanh địa, Lữ đoàn Hechingen lọt vào tầm mắt hắn.

Ấn tượng thứ nhất: trẻ trung.

Ấn tượng thứ hai: tinh gọn.

Ấn tượng thứ ba: chỉnh tề.

“Leopold, đây là Lữ đoàn Hechingen?” – Friedrich Wilhelm bước đến gần hỏi.

“Vâng, thưa Điện hạ. Họ đều là học viên sĩ quan do vương thất Hechingen chiêu mộ và tổ chức.”

“Ồ? Chẳng phải Ernst vốn chẳng hứng thú gì với binh nghiệp sao? Nếu y muốn lập quân, sao không trực tiếp nhập ngũ – Phổ hoàn toàn có thể cấp chức vị cho hắn.”

Leopold cười: “Haha, Ernst nói mình không ưa quân sự, thực ra chỉ là cái cớ. Y thừa tự hiểu bản thân thích hợp buôn bán hơn. Đám học viên này, nói đúng hơn, là lực lượng y chuẩn bị cho thuộc địa của mình. Điện hạ muốn lôi hắn vào quân đội – e bất khả thi.”

“Than ôi! Thân vương Konstantin vốn là danh tướng một đời, sao đến Ernst lại chẳng nối chí cha mình?” – Thái tử khẽ thở dài.

“Lựa chọn mỗi người mỗi khác, Điện hạ. Huống hồ Konstantin khi về già mới sinh Ernst, lại chỉ có mỗi một mống độc đinh, nên chẳng muốn con trai bén mảng chiến trường cũng là điều dễ hiểu.”

Thái tử ngẫm một lát rồi gật gù:

“Dẫu sao, cái gọi là Học viện Quân sự Hechingen của Ernst lập nên xem ra cũng không tệ. Chính hắn làm hiệu trưởng, mà có thể quản lý nên được đội ngũ chỉnh tề thế này – so với quân các tiểu quốc khác, quả là thuận mắt hơn nhiều. Chỉ tiếc quân số quá ít.”

Leopold lại cười:

“Các tiểu quốc Nam Đức vốn có hệ thống quân sự riêng. Nếu chẳng phải vì Pháp tuyên chiến, thì họ vẫn cứ biệt lập như trước. Còn Thân vương quốc Hechingen vốn dĩ thuộc hàng chư hầu Phổ, nên Lữ đoàn Hechingen tự nhiên cũng rập khuôn theo mẫu Phổ. Các giáo quan đều là cựu binh Phổ giải ngũ. Có điều Điện hạ e chưa rõ – Ernst tuy là hiệu trưởng, thực ra lại chẳng mấy khi can dự giảng dạy hay huấn luyện. Từ ngày buôn bán khấm khá, hắn thường xuyên đi xa. Nhiều lần ta đến Hechingen bái kiến, chẳng thấy mặt hắn đâu cả.”

Thái tử mỉm cười chua chát:

“Ernst khôn khéo lắm, chỉ là việc ôm đồm quá nhiều. Ngoài thương nghiệp, còn gây dựng cả thuộc địa hải ngoại. Thời gian lưu lại Hechingen ít ỏi. Nhưng kỳ thực, việc lập thuộc địa xem ra chẳng mấy khó khăn – ngay cả một thương nhân như hắn mà cũng thuận buồm xuôi gió. Vậy thì một nước Đức thống nhất, lẽ nào không nên dấn thân tích cực hơn?”

Leopold đáp:

“Thuộc địa tất nhiên hấp dẫn. Song người Anh đâu dễ đối phó. Còn địa bàn Ernst chiếm lấy – tuy chẳng phải vùng đất cằn cỗi, nhưng cũng chưa hẳn là chỗ màu mỡ. Bằng chứng là bọn Bồ Đào Nha đã hiện diện mấy trăm năm mà chưa từng thò tay tới Đông Phi ấy.”

“Thôi, tạm gác chuyện đó. Giờ trước mắt, quan trọng nhất vẫn là đánh bại người Pháp. Nếu không, Phổ và toàn nước Đức chẳng có tương lai. Nhưng với tình trạng quân Nam Đức thế này – quân Baden, Württemberg còn kém cả Hechingen, còn quân Bavaria e cũng chẳng khá hơn – trận này với Pháp hẳn sẽ khó khăn lắm.” – Thái tử trầm ngâm.

Leopold ôn tồn:

“Chưa thể kết luận sớm thế, Điện hạ. Quân tinh nhuệ Bavaria chắc vẫn còn chút bản lĩnh. Hình thức quân đội chỉ là bề ngoài, còn chiến trường mới là nơi định đoạt thực lực.”

"Vậy theo ngươi, Lữ đoàn Hechingen trông có vẻ huấn luyện tốt này liệu có lập được chiến công không?"

Leopold đáp không chút do dự:

“Chắc chắn. Dù họ chỉ là học viên, chưa từng trải qua khói lửa, lúc đầu khó tránh bỡ ngỡ. Nhưng chỉ cần vượt qua được trận đầu, ta tin họ nhất định sẽ thành tinh binh.”

Bấy giờ, đối diện Quân đoàn thứ ba Phổ là Quân đoàn thứ nhất của Pháp. Đôi bên giằng co dọc biên giới từ Saarbrücken tới Strasbourg.

(Bản đồ)

Tại nước Pháp, việc tuyên chiến đã thổi bùng ngọn lửa ái quốc. Dân chúng ào ạt ra đường, tiễn chân đoàn quân xuất phát, hô vang:

“Tiến về Berlin! Nghiền nát bọn Phổ!”

Khắp nơi là cảnh tượng tương tự. Ngay cả nơi xó xỉnh, trên sân ga quê mùa, người ta vẫn nâng chén rượu, trao tận tay binh sĩ trên những chuyến tàu quân sự, mong họ sẽ dạy cho bọn “đầu vuông Đức quốc” một bài học nhớ đời.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 247 : Heinrich


Chương 247: Heinrich

Trên thao trường duyệt binh, quang cảnh hiện sự khác biệt rõ ràng: so với quân đội Baden và Württemberg còn đôi phần rời rạc, thì hàng ngũ Phổ lại toát ra một uy nghiêm đáng sợ. Không chỉ vì kỷ luật sắt, mà còn bởi một khí thế sát phạt khiến người ta chấn động tâm can, tự nhiên toả ra từ trong đội ngũ Phổ quân.

Nếu kéo ký ức về mấy chục năm trước, diện mạo quân đội Phổ khi ấy thực ra cũng chẳng hơn gì quân của hai bang quốc kia. Nhưng biết hổ thẹn mà tiến lên, đó chính là phẩm tính mà bao đời vương giả Phổ quốc vẫn giữ. Những cuộc cải cách quân sự liên tục đã quét sạch bọn quý tộc ăn bám ra khỏi đội ngũ.

Lại thêm sự tôi luyện trong chiến tranh, Phổ quân ngày nay đã đạt tới trình độ chiến thuật cao. Dĩ nhiên, không thể phủ nhận rằng trong cuộc Chiến tranh Pháp–Phổ, quân số của Phổ gần gấp đôi nước Pháp. Nhưng chẳng phải quân đội thời Napoléon từng có năng lực động viên và tổ chức vượt xa chư quốc Âu châu đó sao? Bởi vậy, thắng bại mới là điều cốt yếu, chứ không chỉ là con số. Và hậu thế chỉ nhớ đến kẻ chiến thắng.



Trong doanh trại Sư đoàn Baden.

“Blair, quân Phổ trông thật nghiêm cẩn. Kỷ luật ấy, mới là tác phong của quân nhân chân chính!”

“Hừ, chỉ là hiếu chiến mà thôi!” – Trung đoàn trưởng Blair đáp – “Nhưng, xét tình thế hiểm nguy ở xứ Đức, quả thật cần một cường quốc lục quân như Phổ làm chủ lực chống lại người Pháp. Còn Baden cùng các bang Nam Đức thì thân phận nhỏ bé quá.”

“Chúng ta cũng có sở trường riêng. Dẫu quân số kém hơn Phổ, song trên chiến trường, trí tuệ mới quyết định thắng bại. Quân Baden quy mô nhỏ, nhưng linh hoạt vô song. Nếu phát huy cơ động đến cực hạn, ắt gây thương tổn lớn cho quân Pháp.”

Blair cười: “Nói đến quy mô, kia kìa, đơn vị lấy danh hiệu Thân vương quốc Hechingen lại còn nhỏ bé hơn nữa.”

“Ngươi biết gốc gác bọn họ sao?”

“Chỉ tình cờ nghe được thôi. Phụ thân ta có giao thương với tài đoàn Hechingen. Dăm năm nay, đất ruộng đổi sang trồng nho cả, lợi tức gấp bội.”

“À, Tập đoàn Hechingen thì ta có nghe. Bọn họ đầu tư ở Baden và Württemberg chẳng ít. Nhưng cái gọi là Lữ đoàn Hechingen sao lại dây dưa với thương nghiệp? Ta tưởng đó chỉ là một địa danh cũ của Phổ mà thôi?”

Blair lắc đầu: “Bang quốc trong Phổ đâu có ít. Mà dưới Liên bang Bắc Đức cũng lắm lãnh địa vượt trội Hechingen. Thế nhưng, ngươi thấy bao nhiêu đơn vị dám lấy địa danh nhỏ nhoi làm phiên hiệu?”

“Quả thật lạ lùng. Ta nhớ dăm năm trước, Hechingen và Sigmaringen đều nhập vào Phổ, quân đội của họ bị giải tán cả. Sao giờ lại mọc ra một Lữ đoàn Hechingen? Há chẳng phải vì nhà Hohenzollern?”

“Quê gốc Hohenzollern tuy ở Hechingen, nhưng sự việc không đơn giản vậy. Phụ thân ta vì thương nghiệp mà tra xét kỹ càng. Suốt mấy năm qua, cả dòng họ Hohenzollern đều có xu thế hưng khởi. Vương thất Phổ thì không cần nói. Mấy năm trước, con trai thứ hai của Thân vương Karl thuộc chi nhánh Sigmaringen trở thành Đại công Romania. Nếu không bị Pháp ngăn cản, con trai cả Leopold giờ đã là Vua Tây Ban Nha.

Còn nhánh Hechingen lại đi đường khác: từ chính trị, quân sự chuyển sang thương mại. Tập đoàn Hechingen chính là sản nghiệp của vương thất nơi đó.”

“Thế thì Lữ đoàn Hechingen rốt cuộc có quan hệ gì?”

“Ngươi chẳng đọc báo hai tháng trước ư?”

“Báo ư? Ta ít để tâm.”

“Hồi ấy, bên châu Phi thành lập một quốc gia Đức – Vương quốc Đông Phi. Chắc ngươi có nghe?”

“À, thoáng nhớ lại rồi. Song ta chẳng mấy bận lòng đến một xứ thổ dân dã man, dẫu do người Đức dựng nên.”

“Ấy là ngươi khinh suất. Để khiến cả đế quốc Áo–Hung cùng nhiều cường quốc khác công nhận, đâu phải một vương quốc hời hợt làm được. Quốc vương Đông Phi chính là Thân vương Konstantin của Hechingen thuộc Phổ. Người đứng đầu Tập đoàn Hechingen là con trai duy nhất của ngài - Hoàng tử Ernst, chàng rể tương lai của Đại công Ferdinand nhà Habsburg."

“Ra vậy! Hoá ra Hechingen những năm qua phồn vinh chẳng kém. Nhưng sao lại bỏ châu Âu , dấn thân nơi man di châu Phi? Thật khó hiểu.”

“Có lẽ bởi ganh tỵ với Sigmaringen láng giềng. Người ta chỉ phỏng đoán thế thôi. Xét cho cùng, ngai vàng Âu châu đâu dễ tranh. Thế mà Sigmaringen liên tiếp gặp vận may, há chẳng khiến người khác ghen ghét?”

“Đủ rồi. Thế thì Lữ đoàn Hechingen vốn là gì?”

“Là quân riêng của vương thất Hechingen! Ngươi có thể coi như lực lượng của Vương quốc Đông Phi lập tại đất Đức, lấy cớ đào tạo nhân tài quân sự. Binh quyền bản thổ Hechingen đã bị Phổ thu hết, nhưng nhờ thế lực Tập đoàn tài chính, họ dựng lên cái gọi là Học viện Quân sự Hechingen. Thực chất, đó là chiêu bài để tái kiến quân đội riêng.”

“Thảo nào! Vậy tức là Lữ đoàn Hechingen chẳng tính là lực lượng quân sự của đất Đức, mà chính là binh lực thuộc Đông Phi hoặc tài đoàn Hechingen. Nhưng nay vì phải đối phó Pháp, nên họ được hưởng đặc quyền như quân Baden chúng ta?”

“Chính xác là thế.”



Khi ấy, Thái tử Friedrich Wilhelm đi tới, gọi lớn:

“Leopold, xem ai đến kìa?”

Leopold ngoảnh lại, kinh ngạc:

“Ernst? Ngươi ra tiền tuyến ư? Quả là điều ta chẳng ngờ!”

“Đương nhiên! Ta là viện trưởng học viện. Học trò nay sắp ra trận, sao ta không thân chinh mà khích lệ? Lại nữa, lần này ta mang đến một nhân tài phò trợ ngươi.”

Ernst vốn không thích trực tiếp quản sự, song trước mặt học trò, y vẫn thường hiện thân, triệu tập toàn viện mà diễn thuyết, để họ nhớ rõ chủ quân là ai. Nay khi lớp này sắp bước vào một cuộc chiến khắc ghi sử sách, Ernst đích thân đến để gây dựng sĩ khí (kỳ thực, y biết quân Pháp hãy còn lo chuẩn bị, chiến sự chưa thể bùng nổ ngay).

Thái tử khẽ nhíu mày: “Nhân tài ư? Mong rằng chẳng phải thêm phiền toái cho ta!”

“Yên tâm. Người này là học sinh ưu tú của Học viện Quân sự Berlin, được chính giảng quan nơi ấy chứng nhận. Ta tốn không ít lời lẽ mới xin được. Heinrich, đây chính là thượng quan của ngươi – Điện hạ Leopold xứ Hohenzollern-Sigmaringen.”

Heinrich nghiêm nghị hành lễ:

“Thỉnh an Điện hạ Leopold!”

Heinrich – một trong hai học viên duy nhất của Học viện Quân sự Hechingen được tiến cử sang tu học tại Học viện Quân sự Berlin. Thành tích thường đứng trong ba mươi hạng đầu, tuy chưa phải xuất chúng nhất, nhưng cũng không tầm thường.

Hiện nay, học viên Hechingen có thành tích tốt nhất ở Berlin là Adenauer - ổn định trong top 10, từng đạt hạng 3 toàn viện. Khả năng học tập và tư duy cực mạnh, thậm chí công bố nhiều luận văn quân sự chất lượng cao, được Moltke chú ý, đã được Bộ Tổng tham mưu Phổ để mắt.

Ernst đưa Heinrich về lần này, kỳ thực là vì tương lai của chàng. Adenauer sớm có đường rộng mở, còn Heinrich thì kém thế. Cho chàng trực tiếp ra quân, dưới quyền Leopold, không chỉ là kinh nghiệm quý giá, mà còn khởi điểm cực cao – khởi đầu sự nghiệp với chức phó tướng của một vương tử Hohenzollern, ngay trong đại chiến Pháp–Phổ.

Huống chi, Heinrich vốn chẳng phải người Đức chính gốc. Nếu muốn sau này đứng vững trong hàng ngũ quân đội Đức, ắt phải có chiến công rạng rỡ làm chứng.

Kỳ thực, ngay từ đầu, Ernst đã tính toán: đưa Heinrich và Adenauer vào Học viện Berlin, để họ sau này chen chân vào hàng ngũ tướng lĩnh Phổ. Với tính chất đặc thù của người di dân Đông Phi, khó thoát khỏi ảnh hưởng Đức và Áo–Hung, thì việc tạo dựng chỗ đứng trong châu Âu là điều bắt buộc.

Lữ đoàn Hechingen cũng vì thế mà ra đời – để thiên hạ Đức thấy rằng, ngay cả những kẻ da vàng mang dòng máu Đức phương Đông cũng có thể dũng cảm, thông tuệ, thiện chiến. Một bước mở đường cho việc dung hợp chủng tộc Đông Phi.

Kết quả nơi đất Đức còn chưa rõ, song ai ngờ lại tác động sang tận nước Pháp: nhằm đàn áp thuộc địa da đen ở Phi châu, sau này, người Pháp cũng noi gương mà tổ chức những đơn vị “quân cộng tác” gồm lính Đông Dương.

(Hết chương)

[1] Moltke: Chỉ Helmuth von Moltke - Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ, kiến trúc sư của các chiến thắng quân sự Phổ trong thế kỷ 19.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 248 : Sức nóng


Chương 248: Sức nóng

Nước Pháp.

Jaime Medina, đương kim gia chủ của gia tộc Medina, vừa kế thừa tước vị sau khi Bá tước già Jacob Medina không may qua đời vào tháng Ba năm nay.

Gia tộc Medina là đồng minh của hoàng gia Hechingen tại Pháp, nhưng nhiều năm trước, lão bá tước Jacob Medina đã bị Napoleon III ghẻ lạnh do phản đối cải cách của ông ta.

Là một cựu thần theo chân Napoleon Đại đế, Jacob Medina vô cùng bất mãn với một số chính sách của Napoleon III, đặc biệt là cách đối xử với các phe phái khác ngoài phe Bonaparte.

Bị hoàng đế lạnh nhạt, lại vốn đã bị phe Orléans, Bourbon và Cộng hòa thù ghét, số phận của gia tộc Medina có thể tưởng tượng được.

Trước khi Ernst trỗi dậy, gia tộc Medina đã suy yếu nghiêm trọng trên mọi phương diện sau khi rời xa chính trường.

Sau này, khi Ernst đến Pháp, hắn đã tập hợp lại những người bạn cũ của gia tộc này. Bằng viện trợ kinh tế - thông qua các đại lý của Tập đoàn Hechingen tại Pháp - họ dần khá giả hơn về mặt tài chính.

Nhưng cái giá phải trả là khoảng cách với trung tâm chính trị Paris ngày càng xa, bởi trụ sở của Tập đoàn Hechingen tại Pháp nằm ở thành phố cảng phía Nam - Marseille.

Dưới sự hỗ trợ của Ernst, nhóm đồng minh Pháp của Hechingen, đại diện là gia tộc Medina, đã hình thành một thế lực đáng kể tại miền Nam nước Pháp.

Cái chết của lão bá tước khiến Napoleon III nhớ đến vị lão thần cứng đầu này. Dù không ưa ông ta, nhưng xét cho cùng ông là bề tôi trung thành với gia tộc Napoleon, nên vào tháng Sáu, Napoleon đã triệu tập người kế nhiệm của gia tộc Medina - Jaime Medina - đến Paris.

"Thưa Hoàng đế, dù gia tộc Medina đã lâu không được coi trọng tại Pháp, nhưng thần vẫn phải nói: Chiến tranh tuyệt đối không có cơ hội thắng lợi, trừ khi Pháp chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến toàn diện. Bất kỳ hành động thiếu suy nghĩ nào cũng có thể hủy hoại thanh danh của gia tộc Napoleon tại Pháp."

Đó là câu đầu tiên Jaime Medina thốt lên khi gặp Napoleon III.

"Hả? Bá tước Medina, gần đây trẫm không có ý định phát động chiến tranh."

"Thần chỉ đang dự đoán thôi. Giữa Pháp và Phổ rốt cuộc phải có một kẻ chiến thắng. Chúng ta cần vùng đất bên bờ sông Rhine và một nước Đức chia rẽ, trong khi Phổ muốn thống nhất toàn bộ nước Đức. Đây là mâu thuẫn không thể điều hòa."

"Nói hay lắm. Nhưng ý ngươi nói 'chuẩn bị cho cuộc chiến toàn diện' là thế nào?"

"Phổ không phải tiểu quốc, mà là cường quốc quân sự châu Âu. Lực lượng và hệ thống quân đội hiện tại của Pháp không thể nhanh chóng đánh bại Phổ. Một khi chiến tranh bị kéo dài, toàn bộ nước Đức sẽ bị Phổ nắm chặt thành một nắm đấm. Vì vậy, chiến tranh với Phổ khác hoàn toàn với các chiến trường Crimea hay Ý trước đây. Để đối phó Liên bang Bắc Đức, trước tiên Pháp phải cải cách hệ thống lục quân theo kiểu Phổ, dễ dàng tổ chức các đại binh đoàn tác chiến hơn..."

Lời Medina chưa dứt đã bị Napoleon III ngắt lời: "Những năm gần đây Phổ đúng là có chút thành tích, nhưng đó là nhờ sự giúp đỡ của Pháp. Không có sự nhắm mắt làm ngơ của trẫm, đừng nói đến Áo, ngay cả Đan Mạch họ cũng khó lòng đối phó. Lần trước chúng ta bị tên tiểu nhân Bismarck lừa gạt, hắn hứa hẹn đất đai cho Pháp nhưng chẳng thực hiện. Gần đây Bismarck lại xúi giục Leopold tranh ngôi vua Tây Ban Nha. Nếu không ngăn chặn kịp thời, có lẽ Pháp đã phải đối mặt với nguy cơ hai mặt trận."

"Thưa Hoàng đế! Những điều này thần đều biết. Nhưng vấn đề hiện tại là quân đội Phổ đã hoàn thành cải cách quân sự sâu rộng, trải qua tôi luyện chiến tranh, hệ thống quân sự ngày càng hoàn thiện. Trong khi đó, Pháp lại có phần không chịu tiến bộ!"

"Đủ rồi! Bá tước Medina, quân đội Đế chế không cần ngươi ở đây bình phẩm. Nếu lão bá tước biết ngươi trở nên như vậy, sợ hãi một nước Phổ nhỏ bé đến thế, có lẽ sẽ giận đến sống lại từ trong mồ." Nguyên soái MacMahon vừa từ Algiers trở về, giận dữ quát Medina.

Đồng thời, các tướng lĩnh Pháp khác cũng bắt đầu công kích Medina. Thấy tình hình triều đình trở nên hỗn loạn, Napoleon III vội vàng chấm dứt.

“Đủ rồi, đừng cãi nữa. Medina, ngươi hãy quay về Marseille đi! Một tháng nữa, kết quả sẽ rõ ràng. Quân đội Đế quốc sẽ dùng sức mạnh chứng minh tất cả.”

Một câu nói, gia tộc Medina lại một lần nữa bị đày ải. Bá tước Medina dường như đã lường trước điều này. Ông quay người định rời đi, nhưng trước khi đi còn ngoảnh lại nói:

“Bệ hạ, ngài sẽ hối hận!”

Ra khỏi cung điện Compiègne, một đám phóng viên báo chí ùa đến. Họ đến từ các tòa soạn và nhà xuất bản khắp nước Pháp, như có dàn xếp sẵn, vây quanh Medina.

Phóng viên tạp chí Le Charivari hỏi Bá tước Medina: "Thưa ngài, nghe nói ngài phản đối chiến tranh, có đúng không?"

"Đương nhiên, nước Pháp chưa chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh."

Một ngày sau, Le Charivari đăng một bức tranh biếm họa mang tên "Đầu hàng không chiến, lão bá tước rơi lệ". Medina quỳ gối trên bản đồ nước Đức, hướng về phía nước Pháp gào thét hai chữ "Hòa bình", trong khi Bismarck bị bôi nhọ đang giật dây pháo đằng sau, một quả đạn đã bay về phía Pháp. Góc trên bức tranh, lão bá tước Jacob Medina đang ở thiên đường nguyền rủa "kẻ phản bội".

Phóng viên của hãng thông tấn Havas tiếp tục hỏi: "Vậy theo ngài, giữa Pháp và Phổ, ai mạnh hơn?"

"Đương nhiên là Pháp, nhưng về mặt quân sự thì khó đánh giá."

Hôm sau, tiêu đề trang nhất của Havas là: "Bá tước Medina cho rằng Pháp hoàn toàn không phải đối thủ của Phổ."

...

Đêm đó, Medina vội vã lên chuyến tàu đêm "chạy trốn" khỏi Paris. Nếu không chạy, ngày mai có lẽ dân Paris phẫn nộ sẽ ăn tươi nuốt sống ông ta.

Vừa trải qua sự kiện bức điện Ems (hay "Bức điện mật của Bismarck") khiến nước Pháp bị sỉ nhục, người dân đang cực kỳ phẫn nộ với Phổ. Chiến tranh với Phổ đã trở thành nguyện vọng của dân chúng. Lúc này nói ngược lại, chắc chắn sẽ bị tập thể công kích.

Những phóng viên kia không phải tự nhiên mà có - tất cả đều do Medina trả tiền thuê. Vậy tại sao phải làm thế? Đương nhiên là vì... truyền thông.

Medina hiểu rất rõ: Từ khi lão bá tước rút lui, gia tộc Medina đã hoàn toàn bị gạt ra rìa tại Pháp. Dù giờ có trở lại, cũng không thể giành được lòng tin. Đế chế Pháp không còn chỗ cho Medina.

Dù cố tình gây ra một đống rắc rối ở Paris, nhưng khi về đến Marseille, Medina lập tức dùng các phương tiện truyền thông của Hechingen để rửa sạch hình ảnh của mình.

Không thể để cái mác "phe đầu hàng" đóng lên trán mình. Bản thân ông cũng là người chủ chiến, nhưng không phải chủ chiến mù quáng, mà là "chủ chiến lý trí, nhìn thấy tệ nạn của chính phủ Pháp".

Ba ngày sau, truyền thông Marseille bắt đầu phát lực. Medina dùng báo chí địa phương để đối đáp với báo chí Paris.

"Truyền thông Paris xuyên tạc sự thật. Họ bóp méo lời nói của tôi, không giống như những nhà báo thành phố Marseille với tinh thần trung thực, khách quan."

Một câu vừa chê vừa khen khiến giới truyền thông Marseille vô cùng hài lòng. Họ lợi dụng "sự kiện Medina" để chỉ trích đồng nghiệp Paris là những kẻ quý tộc sống trong "thành phố lớn", luôn nhìn xuống mọi nơi khác ngoài thủ đô, kể cả Marseille - thành phố cách mạng vĩ đại.

Bị Medina chơi khăm, truyền thông Paris cũng không chịu thua, liên tục bắn phá Medina và đồng nghiệp Marseille.

Sự việc ngày càng lớn, chính phủ Pháp phải kịp thời can thiệp, chấm dứt trò hề này. Nhưng danh tiếng gia tộc Medina đã hoàn toàn được đánh bóng. Giờ đây, Medina là chủ chiến, chủ hòa hay đầu hàng đều không quan trọng nữa.

(Hết chương)

[1] Le Charivari: Tạp chí châm biếm nổi tiếng của Pháp thế kỷ 19, chuyên đăng tranh biếm họa chính trị.

[2] Havas: Hãng thông tấn lâu đời nhất thế giới của Pháp, tiền thân của AFP ngày nay.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 249 : Kẻ thù ở Paris


Chương 249: Kẻ thù ở Paris

Dòng nước sông Rhine vẫn lặng lẽ trôi, quân Phổ cùng liên quân Đức đã dựng nên phòng tuyến kiên cố ở bờ Đông sông.

Phía Pháp đến nay vẫn chưa có động tĩnh lớn. Quân Pháp chưa vào vị trí, quân Phổ dĩ nhiên không vội; lực lượng hậu phương cùng khí tài liên tiếp qua đường sắt và kênh đào tiến ra tiền tuyến.

Tại tổng hành dinh tiền phương, Moltke thân hành trình bày kế hoạch tác chiến trước Wilhelm I cùng chư tướng:

“Đây là vùng Alsace và Lorraine, Metz và Strasbourg bị dãy Vosges ngăn cách. Đường sắt Strasbourg, theo dữ liệu từ Bộ Tham mưu, không đủ sức đảm đương toàn bộ sự điều động của quân Pháp. Vì thế Metz ở phía Tây Bắc sẽ phải chia sẻ áp lực này, đồng nghĩa quân Pháp tất sẽ bị phân làm hai cánh. Nếu ta chủ động công kích, cũng sẽ bị núi Vosges chia cắt, khiến chủ lực phải phân tán, rõ ràng là bất lợi. Bởi vậy, thần chủ trương nghiêm chỉnh chờ đợi địch quân tấn công bên bờ sông Rhine, mượn địa lợi mà phòng ngự càng dễ bề thực hiện.”

Wilhelm I hỏi:

“Tình hình tập kết binh mã ra sao?”

Moltke đáp:

“Hiện nay đại quân Phổ đã tập kết hoàn tất, hậu phương cũng đang khẩn cấp bổ sung quân dịch nghĩa vụ. Song, binh mã các quốc gia liên minh còn cần thêm thời gian. Ở phương Nam, quân đoàn thứ ba, tức chủ lực Bayern, vẫn chưa kịp ra tiền tuyến.”

Hệ thống thông tin liên lạc của quân Phổ vô cùng thông suốt, nhờ vào mạng lưới điện báo do Werner von Siemens, “Cha đẻ ngành điện Đức”, đã kiến tạo cho Phổ hệ thống điện báo tối tân nhất đương thời, khiến Bộ Tổng tham mưu có thể nắm rõ vị trí từng quân đoàn, từng sư đoàn, thậm chí từng trung đoàn, chính xác đến từng giờ. Sau kinh nghiệm ở chiến tranh Phổ – Áo, Phổ đã thúc đẩy việc trải rộng điện báo khắp lãnh thổ Đức, nhờ Liên minh Thuế quan, vùng Nam Đức cũng được phủ sóng.

“Không rõ vì nguyên cớ gì, Áo lại rút chủ lực khỏi biên cảnh phương Bắc. Vậy nên lần này đối phó với Pháp, chúng ta từ phương Đông có thể động viên lực lượng nhiều hơn. Chỉ chờ quân Pháp tự mình chui đầu vào lưới!”

Từ mùa đông 1868 – 1869, Moltke đã khởi thảo kế hoạch đối Pháp, bởi vậy với ông, ngày này là sự chờ đợi quá lâu.

Thực tế, ngay sau khi Liên bang Bắc Đức thành lập, Moltke đã chủ trương tiên phát chế nhân, mở chiến với Pháp. Nguyên nhân: nước Pháp đang đổi trang bị sang súng nạp hậu Chassepot, tính năng vượt xa Dreyse của Phổ. Nếu để Pháp hoàn tất đổi súng, sức chiến đấu sẽ tăng thêm một bậc.

Song khi ấy Bismarck cực lực phản đối:

“Nếu chúng ta chủ động tuyên chiến với Pháp, thiên hạ tất coi là kẻ xâm lược, là con buôn chiến tranh. Chẳng những người Pháp đồng tâm kháng địch, mà các nước khác cũng không hậu thuẫn. Ngay cả nội bộ Liên bang Bắc Đức cũng chẳng ai ủng hộ.”

Việc ấy bèn bị trì hoãn. Đến năm 1870, chỉ một bức điện của Bismarck đã sỉ nhục toàn nước Pháp. Dân Pháp phẫn nộ, Napoleon III nông nổi tức khắc tuyên chiến với Phổ.

Khi Pháp tuyên chiến, Moltke đang nghỉ phép. Ông lập tức hủy bỏ nghỉ ngơi, tổ chức động viên toàn quân, trong vòng 18 ngày vận chuyển và trang bị 300.000 quân tới biên cảnh.

Wilhelm I chậm rãi nói:

“Áo vẫn phải đề phòng. Trẫm không tin họ chịu cam lòng với thất bại lần trước. Nhưng hiện tại chưa nghe chính phủ Áo tỏ thái độ, thật khó đoán mưu đồ.”

Có kẻ tâu:

“Cũng có thể họ e sợ dư luận Đức. Người Áo biết rằng họ chẳng làm được gì. Dù ủng hộ hay không ủng hộ Pháp, cũng chẳng thể ngăn Phổ hành động ở Nam Đức. Họ chỉ còn cách duy nhất: không ra tay, để mặc Pháp đánh bại ta, như thế mới ngăn được việc ta thống nhất Đức quốc.”

Đạo lý quá rõ: nếu Áo can dự, mà Pháp thắng, Áo thành kẻ phản Đức; còn nếu can thiệp mà thất bại, Phổ sẽ có thể liên thủ với Ý từ Nam, với Nga từ Đông, cùng lúc giáp công.

Ở Paris, bầu trời u ám phản chiếu tâm trạng Napoleon III. Sau khi tuyên chiến với Phổ, ông mới nhận ra chính mình bị thuộc hạ lừa gạt.

Quân đội Pháp tập kết chậm chạp, kém xa Phổ. Hệ thống nghĩa vụ quân dịch của Phổ khiến việc huy động nhanh chóng; còn Pháp thiên về quân chuyên nghiệp. Xét năng lực từng cá nhân binh sĩ, lẽ thường chuyên binh tất mạnh hơn lính nghĩa vụ. Năng lực tác chiến của quân nhân Pháp vốn không cần bàn cãi, song điều nguy hại là nhiều năm chinh chiến thuộc địa khiến binh lực phân tán.

Từ thời Napoleon III, Pháp vẫn giữ sách “trung lập đặc thù” tại châu Âu, tránh bị liên minh chư quốc bao vây như thời Đại Napoleon.

Không thể tung hoành ở lục địa, Pháp bèn trông sang hải ngoại, chạy đua cùng Anh quốc. Napoleon III lại sẵn lòng hợp tác với người Anh: tham gia Chiến tranh Crimea vốn chẳng liên hệ gì đến lợi ích Pháp; viễn chinh Viễn Đông; liên quân Anh–Pháp tại Trung Hoa…

Ngoài ra, Pháp cũng trực tiếp can thiệp: Mexico (chống Juárez, dựng Maximilian), Đông Dương, Bắc Phi… Dưới sự thao túng của Napoleon III, Vương quốc Ý được khai sinh, Áo bị đánh bại nặng nề; Phổ cũng được thả tay thách thức Áo. Trước đó, Pháp cùng Anh trong Crimea cũng đã đánh gục Nga hoàng.

Hai cường địch của Pháp thời chiến tranh chống Napoleon I – Nga và Áo – đều bị suy yếu. Đó vốn là thắng lợi vĩ đại. Tuy rằng nước Ý mới chặn đứng đường bành trướng truyền thống của Pháp, nhưng không đáng kể.

Song, vì lao vào thuộc địa, sức mạnh Pháp bị phân tán. Muốn điều quân từ hải ngoại về bản thổ cần thời gian, mà cỗ máy chiến tranh đã khởi động, thời gian thì không còn.

Điều đáng giận hơn cả là khâu hậu cần.

Napoleon III giận dữ quát:

“Lũ vô dụng! Quân sĩ ngoài mặt trận chờ đã lâu, mà lương thảo vẫn chưa được vận lên? Há để chiến binh của Đế quốc phải bụng rỗng mà giao tranh với người Phổ hay sao!”

Có kẻ run rẩy tâu:

“Bệ hạ bớt giận. Nguyên nhân là bởi tuyên chiến quá đột ngột, hệ thống chưa kịp vận hành toàn diện. Mười vạn đại quân bất ngờ hội tụ nơi tiền tuyến, nhu cầu lương thảo cực lớn. Hậu cần đã gấp rút phối hợp với ngành đường sắt, cố tranh thêm chuyến tàu đưa vật tư ra tiền tuyến.”

Napoleon III càng giận dữ:

“Vậy là các ngươi bấy lâu không hề có kế hoạch cho chiến tranh với Đức? Đợi đến lúc binh lửa bùng nổ mới bắt đầu xoay sở?”

Hoàng đế phát nộ, quần thần câm lặng. Nhìn lũ tham quan phì nộn trước mặt, Napoleon hận không thể tống hết bọn họ ra chiến hào làm bia đỡ đạn.

Gắng gượng trấn tĩnh, ông lạnh lùng:

“Bất luận bằng cách nào, trong mười ngày phải bảo đảm lương thảo tiếp tế tới tiền tuyến. Nếu không, toàn bộ hậu cần bãi chức, đưa hết ra tiền tuyến, lấy chính lương thảo của mình mà đánh với quân Đức!”

Mắng hậu cần xong, Napoleon quay sang mắng tình báo:

“Còn các ngươi, hỏi quân đội ở đâu thì chỉ biết đáp ‘không rõ’, ‘có lẽ’, ‘đại khái’? Đó là năng lực của tình báo sao?”

Có kẻ đáp run run:

“Tâu Bệ hạ, nguyên do là quân đội hải ngoại phân tán quá rộng, đường xa, tin tức chỉ có thể truyền qua hạm thuyền. Một chuyến đi đã hao phí nhiều ngày. Bắc Phi hay Roma còn tạm được, các địa phương khác không có nửa tháng e chẳng thể liên lạc.”

Napoleon III gầm lên:

“Thế thì chí ít cũng phải biết rõ tình hình quân địch chứ! Đến giờ vẫn chưa rõ quy mô và tổ chức của quân Phổ?”

Kẻ nọ phân bua:

“Phổ là quốc gia không thể suy đoán theo lẽ thường. Thiên hạ đều biết Phổ là ‘toàn dân gươm súng’, họ tung ra bao nhiêu binh sĩ cũng chẳng lạ. Lại thêm chư quốc Đức, công việc này đối với tình báo chúng thần quả thực quá sức, nhân thủ cũng không đủ.”

Tình báo đùn đẩy hết thảy trách nhiệm. Chính phủ toàn một lũ như thế. Napoleon III tức đến nghiến răng, song lại chẳng làm gì được. Ông thấu hiểu rõ: kẻ địch ở Paris, chứ chẳng phải Berlin. Các vương thất còn lại cùng phe Cộng hòa đều đang trông ngóng ông xảy chuyện.

(Hết chương)

[1] Chassepot: Súng trường nạp đạn sau của Pháp (1866), tốc độ bắn 8-15 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 1.200m, vượt trội súng Dreyse của Phổ (600m).

[2] Bức điện Ems: Bismarck đã biên tập lại điện văn của vua Wilhelm I, khiến nội dung trở nên khiêu khích, châm ngòi chiến tranh Pháp-Phổ 1870.
 
Back
Top Bottom