Tâm Linh Nhà Lỗ Ban

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
398711139-256-k410681.jpg

Nhà Lỗ Ban
Tác giả: AnNguyn
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Hoàn thành


Giới thiệu truyện:

Không phải là thầy pháp.

Không phải là phù thủy.

Cũng chẳng phải là người tu hành.

Anh là một người đàn ông bình thường, mang theo quyển sách Lỗ Ban Bí Thuật để lại, chiếc búa gỗ sờn tay, và một khối óc luôn khát khao khám phá cái đẹp - trong từng cột kèo, từng nếp nhà, từng mái hiên nghiêng nắng.

Truyện kể về hành trình của anh - một người thợ trẻ mang dòng máu Lỗ Ban - rong ruổi qua từng miền đất, từng mảnh ruộng vườn, từng khu phố cũ... dựng nhà, dựng đời cho người khác.

Nhưng trong mỗi lần cất nhà, không chỉ có kỹ thuật, mà còn là triết lý, là tâm huyết, là cách anh lắng nghe con người và đất đai để tạo ra không gian đáng sống.

Giữa thời đại bê tông cốt thép, anh vẫn tin vào vẻ đẹp mộc mạc, thở cùng gió trời, chạm cùng tâm hồn.

Có lúc gặp khó, có lúc gặp người, có lúc nhớ lại bóng cha ngồi vạch thước trên mặt gỗ, anh lặng lẽ học cách làm đẹp cho đời bằng chính bàn tay và trái tim mình.

Lỗ Bang Huyền Thuật không phải là câu chuyện huyền bí.

Đó là hành trình của một người đàn ông học cách dựng nên mái nhà - không chỉ bằng gỗ và đinh, mà bằng tình yêu, hiểu biết và khát vọng sống đẹp.​
 
Nhà Lỗ Ban
Giới Thiệu


Không phải là thầy pháp.

Không phải là phù thủy.

Cũng chẳng phải là người tu hành.

Anh là một người đàn ông bình thường, mang theo chiếc thước Lỗ Ban cha để lại, chiếc búa gỗ sờn tay, và một khối óc luôn khát khao khám phá cái đẹp – trong từng cột kèo, từng nếp nhà, từng mái hiên nghiêng nắng.Truyện kể về hành trình của anh – một người thợ trẻ mang dòng máu Lỗ Ban – rong ruổi qua từng miền đất, từng mảnh ruộng vườn, từng khu phố cũ... dựng nhà, dựng đời cho người khác.

Nhưng trong mỗi lần cất nhà, không chỉ có kỹ thuật, mà còn là triết lý, là tâm huyết, là cách anh lắng nghe con người và đất đai để tạo ra không gian đáng sống.Giữa thời đại bê tông cốt thép, anh vẫn tin vào vẻ đẹp mộc mạc, thở cùng gió trời, chạm cùng tâm hồn.

Có lúc gặp khó, có lúc gặp người, có lúc nhớ lại bóng cha ngồi vạch thước trên mặt gỗ, anh lặng lẽ học cách làm đẹp cho đời bằng chính bàn tay và trái tim mình.Lỗ Bang Huyền Thuật không phải là câu chuyện huyền bí.

Đó là hành trình của một người đàn ông học cách dựng nên mái nhà – không chỉ bằng gỗ và đinh, mà bằng tình yêu, hiểu biết và khát vọng sống đẹp.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 2 : Hồi Ức


Cất Nhà Mới – Hồi ức năm lớp BốnNăm đó nhà tôi cất lại cái nhà mới trên nền đất cũ ở quê, cỡ năm 2012, lúc đó tôi học lớp bốn.

Nhà ở quê mà, ruộng vườn thì mênh mông, người trong nhà thì đông, nên chuyện cất nhà không có phải đi kiếm thầy thợ chi xa xôi.

Bên nội toàn thợ mộc với thầy cất nhà lâu năm, từ mấy ông bác cho tới mấy chú lớn ai cũng rành.

Thành ra ba má tôi – lúc đó là người đứng ra lo – cũng không có nhờ ai ngoài họ hàng ruột thịt trong nhà.Nhớ cái đêm dựng cột, lạ lắm nghen.

Gần một giờ sáng, có con cú mèo màu trắng tinh từ hướng rừng bay thẳng tới, nó đậu trên đầu cây cột cái, chỗ cao nhứt giữa nhà, rồi nó kêu từng tiếng rợn người.

Đuổi hoài nó không chịu bay đi.

Tới gần hừng đông, con cú mới xòe cánh bay về rừng.

Mọi người cũng thấy ớn, nhưng không ai nói gì.Qua bữa sau, má tôi kể lại vụ con cú cho chú Út Nghị – em út của ba – nghe.

Chú nghe xong chỉ cười, nói:– Bà đừng lo, chuyện này không có gì.

Hôm nay chị dắt tụi nhỏ kéo lú đi, coi chừng có chuyện hên nghen.Tôi nhớ rõ lắm, chiều đó má với mấy anh em tôi kéo lú bắt tôm từ sớm tới chiều.

Trúng một mẻ đã đời.

Tôm mùa đó đang lên giá, bán một cái được đúng ba chục triệu.

Vừa đủ để cất gian nhà sau, y như lời chú Út nói.Chú Út sau đó kêu anh hai tôi ra chợ mua đồ về cúng.

Chú nói để chú làm cái lễ nhỏ: chiêu dương hóa âm, chiêu an trấn trạch.

Rồi chú chỉ ngồi thắp nhang khấn vái, lấy trầu cau cắm mấy chỗ rồi phủi tay nói:– Rồi, đất này yên rồi đó.Từ đó tới hết đợt cất nhà, trời yên biển lặng.

Tất cả đều suôn sẻ, người trong nhà ai cũng ráng làm, vui vẻ, không có cự nự gì nhau.

Tới nay cái nhà đó vẫn còn, rộng rãi, vững vàng, chưa từng bị nước ngập hay sụt lún gì hết.Ba tôi là con thứ tám trong nhà, người ta gọi là ông Tám.

Ông nội tôi tên Nguyễn Văn Đáng, sống ở Kinh Phán Linh, sống với vợ chồng chú Út.

Nội mất năm tôi mới lên ba tuổi, còn quá nhỏ để biết buồn, biết thương.

Nhưng lạ lắm, tôi thương nội dữ lắm, dù chỉ nhớ được vài khoảnh khắc.Lúc đám tang nội, ai trong nhà cũng khóc – người trong xóm cũng khóc – vì mất đi một người trưởng giả, đức độ.

Còn tôi thì không khóc, tôi không hiểu gì, chỉ lủi ra phía sau cái chuồng heo cũ mà chú Út sửa thành cái kho để đồ làm ruộng.Gần đó có cái đìa, trên đìa có cây tràm lớn, ngã ngang qua đìa như cây cầu.

Tôi với đứa em định chạy lên đó chơi, thì bất chợt nghe tiếng ông nội gọi:– An ơi, vô nhà đi con, mẹ với thiếm út đang tìm tụi con kìa, mẹ nấu bún ngon lắm!Tôi nghe là dắt em chạy vô liền.

Vừa bước vô thấy mẹ đang tìm hai đứa thiệt.

Tôi còn hỏi:– Ủa mẹ, nội đâu rồi?

Nãy nội kêu con vô ăn bún á.Mẹ tôi sững người, mắt đỏ hoe, rồi lật đật chạy ra trước nhà.

Trước sân còn để cái quan tài nội nằm đó, phủ khăn trắng.Mẹ tôi ngồi thụp xuống, khóc như mưa.Từ nhỏ tôi hay đau yếu lắm, ốm nhách ốm nhom, gió thổi muốn bay.

Hè năm lớp bốn lên lớp năm, tôi bệnh nặng dữ lắm.

Đi từ trạm xá tới bệnh viện, tốn biết bao nhiêu tiền mà trị hoài không dứt.Rồi một ngày, ba má tôi chở tôi lên An Minh, đi ngang Vân Khánh, ghé nhà chú thím Út Kiệt.

Nghe nói thiếm Út có căn, hồi mới cưới về bị hành dữ lắm, đi nhiều nơi trị không hết.

Sau được nhà chồng đưa tới một ông thầy bên đạo Cao Đài – thờ Trời.

Từ đó thiếm hết bệnh, ăn chay tu hành, tâm hiền hòa.Chú thím mừng khi thấy ba má tôi tới, kêu vô nhà chính ngồi chơi.

Vừa vô tôi đã để ý cái bàn thờ giữa nhà: có hình con mắt Trời, bên dưới là hình ông lão râu dài tới thắt lưng.Thím đang nói chuyện vui vẻ thì nhìn tôi, cười hiền, rồi nói:– Đốt nhang đi con.Rồi quay sang ba má tôi tiếp chuyện như không có gì.

Tôi cầm cây nhang đốt, khấn theo lời thím, rồi cắm nhang vô bàn thờ.

Thím bước lại xoa đầu tôi rồi nói nhỏ:– Thằng nhỏ này có căn cao lắm nghen.

Dắt nó về dưới đốt nhang cho ông nội nó, ổng nhớ nó đó.

Kêu chú Út nó dạy, rồi sẽ hết bệnh.Bữa đó ăn cơm xong, ba má tôi đưa tôi về thẳng Kinh Phán Linh.

Tới nơi, mấy đứa em tôi chạy ù ra mừng rỡ, miệng la:– Mẹ ơi!

Anh An với bác Tám xuống chơi!Tôi cũng mừng lắm, có xa xôi gì đâu mà lâu rồi mới gặp lại.

Mẹ tôi đứng nhìn tụi tôi một hồi, cười nói:– Rồi rồi, biết tụi bây mừng rồi.

Vô đốt nhang cho nội, rồi chơi tiếp.Tôi dạ một tiếng rồi chạy vô phòng thờ, lấy nhang cắm cho ông nội.

Cắm nhang xong chạy ra chơi liền.

Chiều đó tôi năn nỉ má cho tôi ở lại chơi hết hè, má nói:– Không có đồ sao ở?Thằng Duy – em tôi – nhanh miệng:– Con với anh An mặc đồ chung!Nghe nó nói ai cũng cười, má tôi chịu liền.Tôi ở với chú Út từ đó, mà kỳ lạ lắm nghen, ở chưa đầy hai tháng mà tôi khỏe re, lên được sáu ký, không còn bệnh gì nữa.

Chú Út bắt đầu dạy tôi làm nghề thợ mộc, chỉ cây gỗ, cái cưa, thước đo, học từng chút một.Tới ngày về, chú Út dúi vào tay tôi một cuốn sách, cũ kỹ mà bọc rất kỹ.

Chú nói nhỏ:– Cuốn này ông nội mày kêu tao để lại cho mày đó.

Ổng báo mộng tao hồi tối, kêu đưa tận tay nghen.Tôi ôm cuốn sách vô lòng, thấy trong bụng mình dậy lên một cảm giác lạ lắm – như là được nối lại sợi dây từ ông nội đã khuất.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 3 : BÍ THUẬT LỖ BAN


Từ bữa về lại nhà sau hè đó, tôi vẫn giữ kỹ cuốn sách mà chú Út đưa.

Bìa ngoài đã cũ mềm, giấy vàng ố như mấy cuốn kinh cổ, mà mực viết thì vẫn còn sắc như mới in.

Trên bìa chỉ có đúng bốn chữ nắn nót bằng mực nho: Bí Thuật Lỗ Ban.Hồi đó tôi đâu hiểu gì.

Chỉ biết là mỗi lần mở ra, trong bụng có cái gì đó kỳ kỳ, như hồi hộp, như sợ, mà cũng như thân quen.

Tôi đem cất trong cái hộp gỗ, khóa kỹ, lâu lâu mới lôi ra coi.Những trang đầu dễ hiểu, đọc hoài không chán.

Giảng giải đủ thứ: từ cách dựng nhà, chọn hướng, coi đất, dựng cột, đóng kèo.

Có đoạn nói về thước Lỗ Ban, dạy phải biết đo "cung lành – cung dữ" chớ không phải cứ đo chiều ngang chiều dọc là xong.

Có đoạn dạy cách dùng đục, cách lắp mộng mộng ten, rồi cách đặt bàn thờ ông Thiên, ông Táo, cái nào cao cái nào thấp, đặt sai coi như nghịch trời.Mỗi lần đọc, tôi lại học thêm được một thứ.

Mà lạ nghen, sách dày lắm, dày như là mỗi đời mỗi viết rồi để lại tới đời tôi , đọc hoài không hết.

Có hôm đọc tới nửa đêm, ngủ gục ngay trên bàn, mơ thấy ông nội mặc áo nâu sòng, gật gù nhìn tôi rồi nói:– Học từ từ, đừng vội.

Cái này là đạo, không phải nghề.

Học sai là bị vật chớ không phải được ơn đâu con.Tôi giật mình tỉnh dậy, thấy cây nhang trước bàn thờ của ông nội đã cháy phân nửa, mà tôi thề là hồi tối chưa ai đốt.Rồi cũng tới lúc tôi lần dở mấy trang giữa về sau.

Lúc đầu còn dễ, nhưng càng đọc càng khó hiểu, toàn chữ Nôm, chữ Hán chen nhau, chú thích cũng ít đi, nhiều đoạn ghi bằng bút pháp khác, như thể là do nhiều đời truyền tay mà viết thêm vào.Từ đó trở đi, sách không chỉ nói về dựng nhà nữa.

Nó dạy về cách trấn yểm long mạch, hóa giải sát khí, chuyển phong thủy, rồi cả mấy thứ "bế khẩu độ mạch" – nghĩa là khóa miệng đất để không ai coi ra được âm khí nhà mình.

Có đoạn còn vẽ hẳn hình người, vẽ trận đồ, ghi chú các loại cây trồng để "dụ khí" hoặc "đón thiên cơ".Tôi nhớ có đoạn ghi tay bằng mực đỏ, nắn nót:"Người học Lỗ Ban phải kính thiên, trọng địa, thuận nhân.

Không được dùng tà thuật để lấn thiên đạo.

Dựng mười nhà, nếu yểm một nhà sai, thì hậu quả chẳng khác chi giết một mạng người!"

Tới đó tôi lạnh cả sống lưng.

Tôi hiểu ra vì sao chú Út luôn dặn: "Làm nghề này, đừng lạm dụng.

Xây được mười căn nhà, tốt nhất chỉ nên yểm một.

Dù là yểm an, cũng không được giỡn chơi."

Tôi càng lớn càng hiểu, thuật Lỗ Ban không phải thứ để khoe mẽ, cũng không phải chỉ để làm giàu.

Nó là một phần của đạo làm người – là cách để sống hài hòa giữa trời, đất, người.

Giống như nội tôi sống cả đời không cao sang nhưng ai cũng kính nể.

Mỗi cột nhà ông dựng, mỗi cái ghe ông đóng, đều được cúng đất, xin trời, cầu an cho cả dòng họ.

Sau này tôi vẫn học, vẫn lật cuốn sách ra đọc, có lúc thì hiểu được chút, có lúc thì đành bỏ qua.

Nhưng tôi tin – mỗi trang sách như một sợi chỉ đỏ – nối tôi với ông nội, với đất quê tôi, với cái nhà đã từng dựng bằng bàn tay của bao người thân thương.Căn nhà tôi đang ở bây giờ vẫn còn nguyên.

Đêm nào trời nổi gió, tôi nghe gió ấm lùa qua cây me sau hè , là tôi nhớ tiếng cười của ông nội, nhớ mùi mồ hôi của chú Út, nhớ cả ánh đèn dầu chập chờn khi dựng gian nhà sau.Và tôi tin, người học thuật Lỗ Ban – trước khi trấn nhà, phải biết trấn được lòng mình trước đã.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 4 : Học và Học


Từ dạo đó, cứ mỗi lần không có đi học, hay tới hè là tôi lại xách cái ba lô cũ kỹ, trong đó có cuốn sách Bí Thuật Lỗ Ban, rồi xin cha mẹ cho về nội ở chơi.

Nội mất rồi, nhưng nhà chú Út vẫn còn giữ nền cũ – cái nền mà ông nội từng xây bằng gạch tàu, từng ngồi uống trà coi đàn cháu chơi đùa dưới bóng cau, bóng mít.Tôi về đó không phải chỉ để chơi, mà như để tìm lại cái gì đó thuộc về máu thịt, về gốc rễ.

Mỗi mùa hè, tôi lại lớn thêm chút, nhưng cái cảm giác nằm võng trưa dưới mái tôn nóng ran, nghe tiếng ve rền từng chặp, mở cuốn sách ra đọc từng trang vàng úa... vẫn y như cũ.Có lúc đang đọc tới đoạn nói về "cột trấn mạch" thì nghe tiếng chú Út ngoài sân gọi:– Ê... con Tám Mèo !

Có ăn cơm dừa không?

Dừa này là dừa xiêm trong vườn nội mày trồng đó!Tôi cười hề hề, chạy ra phụ chú gọt vỏ dừa, vừa nghe chú kể chuyện đời xưa: chuyện nội tôi đi cất nhà cho dân làng, chuyện ông biết được người nào nghịch mạch, phải dừng xây ngay, chuyện chú Út đi theo học lóm, rồi thừa kế được một phần cái đạo đó – không phải từ sách, mà từ người sống.Có năm nước lên tới tận mé hè, tôi ngồi trên cầu khỉ đọc sách, đốt nhang khấn nội.

Cũng có năm nắng như đổ lửa, tôi nằm ru bụng, đọc tới đoạn "chiêu dương hóa âm", chợt nghe tiếng mấy con chim bay sà xuống mái nhà, đứng ríu rít trên đòn tay, y như cái đêm con cú trắng đậu trên cây cột ngày dựng nhà năm nào...Năm tôi học xong lớp 12, thi đậu vào trường Kiến trúc trên Sài Gòn, cha mẹ vui lắm.

Bữa đi nhập học, tôi vẫn mang theo cuốn sách Bí Thuật Lỗ Ban trong balô.

Không biết để làm gì, chỉ thấy không mang thì nhớ.

Có cái gì đó mách tôi rằng: dù mình học kiến trúc tây, vẽ nhà cao cửa rộng, xài bê tông cốt thép, nhưng cái hồn của nhà – nghĩa là mái ấm – là tổ tiên, là đất – là lòng... thì sách nào trên đời cũng khó dạy bằng chính cái mình đã sống.Và tôi vẫn giữ cái thói quen từ nhỏ: mỗi khi về quê, tôi lại ghé nhà chú Út, ngồi trước bàn thờ nội, đốt một cây nhang, mở sách ra đọc một đoạn.

Có khi đọc xong lại nói với nội trong lòng:"Con giờ biết vẽ nhà rồi nội ơi, nhưng cái nền con đứng, vẫn là đất của nội để lại..."
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 5 : Học Kiến Trúc, Học Cái Đạo Làm Người


Học Kiến Trúc, Học Cái Đạo Làm NgườiLên tới Sài Gòn, bước vô giảng đường trường Kiến Trúc, tôi tưởng mình sẽ học toàn là mấy thứ tây tây, vẽ vời bóng bẩy.

Ai dè... càng học tôi càng thấy những gì ông nội để lại trong cuốn sách Lỗ Ban đó vẫn còn nguyên giá trị.Thầy cô dạy về kết cấu, về thông thủy, về phong thủy trấn trạch, tôi nghe mà cứ thấy quen quen.

Có những bài giảng trong lớp, tôi đã đọc rồi – y chang như mấy trang đầu trong cuốn "Bí Thuật Lỗ Ban" mà hồi nhỏ hay nằm đọc ở nhà chú Út.

Cái tri thức, cái nghĩa, cái tình mà nội để lại, tôi thấy như nó không bao giờ cạn, học hoài học hoài mà vẫn chưa hết được.Từ đó tôi bắt đầu mày mò đi tìm mấy ông thầy già trong trường – có thầy dạy mỹ thuật, có ông từng dạy Hán Nôm, có ông từng du học ở Đài Loan hay Trung Quốc.

Tôi lân la tới hỏi, xin mấy ổng dạy cho tôi chữ Hán, chữ Nôm, rồi cả chữ Nho.Ban đầu cũng khó, vì tôi là dân học kiến trúc, ai mà ngờ đâu lại muốn học mấy thứ xưa cũ đó.

Nhưng có cái gì đó trong lòng cứ thôi thúc tôi, như nghe tiếng nội gọi về, như thấy cái bóng ổng ngồi bên bếp, gật gù nhìn mình học.

Mấy ông thầy thấy tôi siêng, lại nói chuyện lễ nghĩa, thì cũng thương tình mà chỉ dẫn.Vậy mà... tới lúc tốt nghiệp, tôi ngó lại: không chỉ tốt nghiệp loại giỏi, mà còn có một mớ bằng cấp phụ trội: nào là chứng chỉ đọc hiểu Hán cổ, dịch thuật tiếng Nôm, rồi cả tiếng Hoa hiện đại.

Học ngành Tây, vậy mà tiếng Anh của tôi chỉ dừng ở mức nghe hiểu, còn mấy thứ chữ xưa chữ cũ thì đọc rành như cháo.Tôi không thấy buồn vì điều đó.

Trái lại, tôi thấy mình được sống trọn với di sản của ông nội, học cách dựng nhà, nhưng cũng học cách làm người, học từ gốc rễ, học từ tiếng nói của tổ tiên.

Mỗi lần đọc tới mấy trang giữa cuốn sách – phần trấn yểm, chiêu hồn, lập trận – là tôi lại rùng mình.

Không phải vì sợ, mà vì thấy mình đang bước vô một thế giới linh thiêng, nơi kỹ thuật và đạo lý đi chung, nơi làm sai là bị quả báo, mà làm đúng thì che chở được cả dòng họ.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 6 : Căn Nhà Đầu Tay - Dòng Máu Lỗ Ban Còn Chảy


Hôm nay là ngày tôi đi nhận căn nhà đầu tay mà tôi đứng ra xây.

Nói căn nhà cho gọn vậy chớ thiệt ra là một dãy trọ gần cổng KCN Mỹ Phước 3, Bình Dương – 30 phòng trọ liền kề với hai cái ki-ốt mặt tiền, đặng cho thuê buôn bán.Công trình này, chú Mười tôi giới thiệu.

Ổng là con của nội, hồi xưa cưới cô giáo cấp một rồi ở Bình Dương này lập nghiệp luôn.

Vợ chồng chú sanh được một thằng con trai coi bộ kháo khỉnh, lanh lợi dữ lắm.

Vậy mà bất chợt tới tuổi này tôi cũng đã thành chú út rồi.

Tụi nhỏ cháu con thấy tôi là gọi "Chú Út!

Chú Út!" rân rân.

Nghe mà trong lòng tự nhiên... chộn rộn lạ lắm.

Nó giống y chang cái hồi nhỏ, tôi cũng gọi chú Út tôi như vậy, mỗi lần xin đi ruộng, xin chèo xuồng ra chợ hay dắt tôi theo coi dựng nhà.Quay trở lại chuyện xây dãy trọ này – chủ nhà nghe nói tôi là cháu chú Mười thì cũng quý mến, không làm khó làm dễ gì.

Tôi xuống Bình Dương coi đất, đo đạt bằng chính cái thước Lỗ Ban cũ mà nội để lại, rồi về ngồi vẽ lại bản thiết kế.Vẽ một lèo ba đêm liền, tôi vừa canh cho đúng phong thủy âm dương, vừa vận dụng kiến thức trường lớp – kết hợp cái học từ ông nội với kỹ thuật kiến trúc hiện đại, sao cho không phạm kỵ, không đụng long mạch, mà vẫn đảm bảo thông gió, thoát nước, chống nóng, chống ồn cho công nhân ở trọ.Mỗi nét vẽ, mỗi ô gạch, tôi đều nhớ lại những ngày hè mình ngồi coi nội đục đẽo, coi chú Út vẽ mực tím lên xà ngang, căn cốt lấy hướng dựa vào mặt trời với dòng nước.Tôi không gọi đó là "công trình" – tôi gọi nó là căn nhà đầu tay của mình.

Mà nó cũng giống như cái mốc đánh dấu việc tôi đã trưởng thành, từ thằng nhỏ bắn đạn bên chuồng heo năm nào, tới ông chú út trong mắt mấy đứa cháu nhỏ bây giờ.Tôi nhớ nội ghê lắm.

Ước chi ông còn sống tới nay, chắc ổng sẽ kêu tôi ngồi bên uống trà mà nói:"An à, mày làm được rồi nghen.

Cái nhà dựng cho người ta ở, nó phải có hồn, có vía, chớ không phải chỉ có xi măng gạch đá.

Mày dựng được vậy là mày dựng được cái nhân đức rồi đó."

Tôi đứng trước công trình đang chuẩn bị khởi công, trong lòng bỗng nhẹ tênh.

Không phải nhẹ vì hết lo, mà nhẹ vì thấy mình đi đúng hướng.

Hướng mà nội, chú, cha tôi đã chỉ từ lâu... mà bây giờ tôi là người tiếp bước.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 7+ 8 : Cúng Kiến Đầu Đời - Gạch, Gỗ và Niềm Tin


Dãy trọ đó làm cũng trót lọt, không gặp khó khăn gì nhiều.

Mọi chuyện xuôi chèo mát mái như có ai độ vậy.

Tới lúc gần xong, còn chờ thợ gắn bảng tên rồi dọn rác là coi như bàn giao được rồi, tôi mới nhớ ra chưa làm lễ cúng hút tài – cái lễ nhỏ nhưng không thể thiếu trong nghề dựng nhà.Tôi quay qua nói với chú chủ nhà:"Chú ơi, nay là lúc tốt, con làm cho chú cái lễ cúng hút tài để mai mốt nhà trọ đông khách, tiền bạc vô ra không bế tắc."

Chủ nhà nghe xong thì đứng ngó tôi hồi lâu, mặt thoáng vẻ ngạc nhiên.

Rồi chú cười cười, nói:"Ủa, tao tính kêu chú Mười mày làm giúp cái đó nè, chớ tưởng mày học kiến trúc trong trường ra thì mấy chuyện cúng kiến tâm linh đâu còn tin nữa."

Tôi cười nhẹ, tay chống lên cây cột mới quét lớp sơn cuối:"Vậy là chú chưa coi kỹ bản vẽ con đưa rồi.

Cái dãy này con canh từng cung, đo từng khoảng gió, lựa màu sơn theo ngũ hành.

Gạch lát con coi tuổi, coi hướng.

Cửa sổ con mở vừa đủ lấy dương khí, đèn con bố trí theo trục sinh tài.

Mấy thứ đó trong bản vẽ đều có ghi hết."

"Con học trường lớp – đúng.

Nhưng nhà con mấy đời làm mộc, làm gỗ, dựng nhà, con lớn lên bên cái thước Lỗ Ban, ngủ kế chồng cây gỗ căm xe khét mùi mồ hôi người thợ.

Nội con là ông út Đáng, dân kinh Phán Linh Kiên Giang ai mà không biết.

Dân mình sống trên đất này, làm cái gì cũng phải hạp vía, thuận khí, coi cho ngay đường mới bền được, chú à."

Nghe tới đó chú chủ nhà im ru, chỉ gật đầu mấy cái rồi nói nhỏ:"Thôi... mày làm luôn đi nghen.

Tao tin mày."

Vậy là tôi một tay lo trọn.

Tôi tự đi mua nhang, trái cây, giấy tiền.

Tự tay chẻ tàu cau, tự gói nhang khoanh.

Cái bàn cúng tôi kê đúng hướng Sinh Khí – đầu hướng Bắc, chân đặt nhẹ về Đông Nam, ngay cung Tài Lộc theo mệnh của chủ nhà.Lúc tôi cầm nhang bước ra giữa sân dãy trọ, trời vừa đứng gió, không nắng mà cũng chẳng mưa.

Tôi nhìn dãy nhà, thấy gạch đỏ, mái tôn ánh bạc, hàng cây lưa thưa theo ranh đất mà trong lòng rưng rưng.Tôi thắp nhang, miệng khấn không lớn không nhỏ:"Nay con tên Nguyễn Phước An, hậu duệ dòng Nguyễn ở ở miệt U Minh, xin phép đất trời, xin phép ông bà tổ tiên phù hộ cho căn nhà này dựng lên thì yên, người vô thì mạnh, tiền vô thì sáng, không tật, không nạn, không tranh, không kiện.

Âm phù, dương trợ."

Cây nhang cháy xèo lên như bắt hơi.

Mấy người thợ đứng bên lặng lẽ.

Chủ nhà thì chắp tay sau lưng, im lặng mà gật gù.Tôi biết lúc đó không chỉ là mình dựng xong một dãy trọ, mà còn dựng được niềm tin của một dòng họ, của một nghề cha truyền con nối – thứ mà không trường nào dạy, chỉ có người sống qua từng cây đinh, từng mái nhà, mới hiểu được.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 9: Ngày Giao Nhà - Một Ngày Nắng Nhẹ


Tới hôm bàn giao dãy trọ, trời trong vắt, nắng nhẹ như có ai tráng lớp mật ong trên mái tôn.

Tôi tới sớm, còn mặc nguyên cái áo sơ mi trắng xắn tay, quần jean bạc màu, tay cầm cây thước Lỗ Ban của nội để lại, giờ đã cũ mèm nhưng mỗi lần đo là một lần yên lòng.Thợ thầy cũng tề tựu đông đủ.

Anh nào cũng còn dính bụi vôi, tay đen thui nhưng cười rạng rỡ.

Có anh nói:"Nhà đầu tay mà làm như dân chuyên nghiệp nhe chú út.

Mai mốt có gì, nhớ kêu tụi tui theo nữa nha!"

Tôi chỉ cười, không nói gì.

Chú chủ nhà bận cái áo sơ mi mới, tóc chải láng o, bưng khay trà đá ra mời từng người.

Tới chừng nhìn dãy trọ, chú đứng khoanh tay, thở ra một hơi dài rồi nói:"Vậy là xong rồi...

Mấy mươi phòng.

Trước giờ tao làm nhà thì lo nhất là gió máy, cống thoát, lún đất, chớ kỳ này thì thấy êm ru.

Tụi thợ nói mày biết coi hướng coi cung, mà tao không ngờ kỹ tới vậy."

Chú quay qua tôi, đưa hai tay ra bắt rồi xiết chặt:"Cảm ơn mày nghen, An.

Cái ơn này tao ghi lòng.

Làm nhà ai cũng sợ cái "đầu tiên", mà mày làm đầu tay vậy mà không trật nhịp nào.

Ổn, quá ổn!"

Tôi đáp nhẹ:"Con làm bằng cái tâm.

Tâm của thợ, của cháu ông Đáng.

Mà thợ làm có tâm thì nhà nó mới có hồn, chú à."

Lúc ấy có đứa cháu chú cầm điện thoại, nó kêu:"Chú út!

Đứng vô chụp hình cái coi, bữa nay là ngày đẹp đó!"

Tôi đứng giữa, hai tay khoanh trước bụng.

Thợ đứng hai bên, ai nấy đều cười toe, miệng toàn mấy câu:"Một... hai... ba...!"

"Một hai ba...

Nhà đắt khách!"

"Ê chú út!

Đưa cây thước lên cao chút coi!"

Tôi giơ cây thước Lỗ Ban lên, gió bất ngờ lùa ngang qua sân.

Mấy tờ giấy cúng hôm trước còn sót đâu đó bay phất phới.

Một cánh bướm vàng chao xuống, rồi đáp nhẹ lên vai tôi.

Cả nhóm ồ lên:"Lộc về!

Bướm về là lộc về đó!"

Tôi chỉ cười, nhưng trong lòng có cái gì đó rất khó tả – như thể ông nội đứng đâu đó, nhìn tôi mà gật đầu cười.Chụp hình xong, tôi dặn dò chú chủ nhà mấy câu:"Dãy trọ này chú nhớ để nắng gió thông thoáng, cây kiểng thì trồng gì nhẹ vía, như mai chiếu thủy, lưỡi hổ, hoặc lộc vừng nhỏ.

Cống thì cứ để cho nó trôi, đừng chắn nghen chú.

Cửa phòng đừng để ai dán linh tinh hay treo gương bậy bạ, không tốt cho khí."

Chú gật gù, rồi móc túi lấy bao thư màu đỏ, đưa cho tôi:"Cái này không bao nhiêu, mà là lòng.

Mày giữ làm may mắn đầu tay.

Sau này đi xa, nhớ quay về dựng nhà ở quê hương nữa nha."

Tôi đón bao thư, cúi đầu:"Dạ, con biết rồi.

Nhà con dựng lên bằng gỗ, nhưng giữ nhau bằng nghĩa."

Buổi bàn giao kết thúc trong tiếng cười nói, tiếng cà phê đá, và nắng sớm chan hoà.

Dãy trọ mới toanh nhưng có cái gì đó rất cũ – như hơi thở của ông nội, của mái nhà xưa, của hương nhang cúng tổ... hòa tan vào từng viên gạch.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 10 : Nhớ Căn Nhà Xưa Ở Kinh Phán Linh


Tôi đứng giữa dãy trọ mới tinh mình vừa làm xong, nhìn từng viên gạch, từng cánh cửa mà chợt thấy trong lòng mình ùa về một căn nhà xưa cũ... cái nhà gỗ ba gian màu xanh dương, sơn viền trắng tinh tươm, nằm sát bên mé con kênh cũ mà người ta gọi là Kinh Phán Linh.Căn nhà đó tôi từng ở với nội, lúc nhỏ.

Hồi đó, nội còn mạnh, tuy ít nói nhưng ánh mắt lúc nào cũng ấm áp.

Nhà mình cất hồi chú Út trúng số độc đắc – cái vé số một trăm triệu mà ai trong xóm cũng hay nhắc tới.

Trúng cái vé đó, nội cười muốn rụng răng.

Chú Út liền gom hết tiền, đem về cho nội, nói:"Con hổng muốn ăn xài, con muốn cất một cái nhà cho cả dòng họ mình nương tựa..."

Thế là cái nhà gỗ ba gian được dựng lên.

Trụ bằng gõ đỏ, cửa lá sách, mái tôn xám nhưng có mái ngói bên trên – nhìn lên thì giống như nhà trong phim của người Pháp, mà lại đậm tình quê.Một bên là cánh cửa sắt màu da, chạm hoa văn kiểu xưa, bên kia là cánh cửa gỗ đã mòn theo năm tháng, mỗi lần đóng lại thì kêu kẽo kẹt, như có tiếng của ông bà vọng về.

Kính cửa thì kiểu kính màu: đen đen, vàng vàng, lấp lánh mỗi khi nắng chiều nghiêng xuống.Phía trước là một cái sân đất – sạch trơn, không có một ngọn cỏ.

Nội nói để đất trống cho tụi nhỏ chạy nhảy, cũng để hồn vía trong nhà được nhẹ, không bị vướng bụi trần.Hai bên sân là hai cây mai vàng – loại cây mà nội gọi là "mai hương đất", thân xù xì, hoa vàng thơm nhẹ, mấy chục năm tuổi.

Mỗi mùa Tết, nội đều không chịu chặt cành, chỉ cột dây đỏ vô từng nhánh rồi cúng trời đất.Sau khi cất nhà xong, chú Út cưới vợ, người vợ hiền khô, giọng ngọt như nước dừa xiêm.

Rồi dần dà, chú có hai đứa con, một trai một gái.

Thằng con trai học công nghệ thông tin, con gái thì học ngành y.

Giờ hai đứa đều lớn, cao hơn tôi cái đầu , hồi xưa đứng ngoài thềm đợi nội nấu cơm chiều.Nhà giờ còn đó, nhưng không còn như xưa.

Cái kẽo kẹt của cánh cửa gỗ, tiếng ho khan của nội mỗi chiều, mùi cơm khét lửa rơm, và cả ánh đèn dầu mờ mờ soi bóng chú Út mài dao dưới hiên – tất cả dường như chỉ còn trong ký ức.Nhưng với tôi, cái nhà đó vẫn là mái nhà đẹp nhất.Không phải vì màu sơn, vì cửa kính hay gỗ quý.

Mà vì nơi đó chứa tình nghĩa ba đời, một vé số đổi cả giấc mơ, và một ông nội đã dạy tôi biết cách sống làm người.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 11 : Ba Năm Sau Căn Nhà Đầu Tiên


Xây xong cái nhà đầu tiên ở Bình Dương, nhờ mối ông chủ dãy trọ cũ mà tôi được tiếng lan xa.

Người này giới thiệu người kia, rồi lần hồi cũng nhiều người kêu tôi xây nhà cho họ.

Ai tới tôi cũng tiếp, không nề xa gần, miễn có lòng tin thì tôi cất.

Cất bằng cái tâm, bằng hết những gì mình học được từ cuốn sách của nội, những kiến thức trong trường lớp, và cả những năm tháng nhìn thầy thợ cưa gỗ đóng nhà ngoài xưởng lúc nhỏ.Tôi không khoe khoang, cũng không tranh mối, chỉ ráng làm hoàn hảo nhất cho gia chủ, coi như dựng nên cái phước cho mình.

Rồi tôi làm đủ kiểu nhà: nhà trệt, nhà lầu, nhà phố, nhà vườn...

Có căn là biệt thự, có căn chỉ là mái tôn dựng tạm, nhưng mỗi nhà với tôi đều có linh hồn riêng.Mới đó mà đã ba năm kể từ cái ngày tôi đổ mẻ bê tông đầu tiên.

Giờ tôi cũng gần hai mươi chín tuổi rồi – cái tuổi mà cha mẹ dưới quê hay điện lên hỏi hoài:"Khi nào con mới có bồ?

Chừng nào dẫn về cho má coi mặt?"

Tôi nghe rồi cười nhẹ, ừ à vài câu cho qua rồi tắt máy.

Tính tôi nó lặng, xưa giờ vẫn vậy – lầm lì, chầm chậm.

Tôi nghĩ: duyên thì để nó tới, thuận mái xuôi chèo, không cưỡng.Chắc vì tôi sống với thước gỗ, dây mực, cây đục, cây chàng quá quen, nên thành ra chưa quen hơi đàn bà.

Nhiều khi đứng giữa sân công trình, bụi bay mịt mù, tôi nhìn quanh đủ thứ nhà mình dựng nên cho người ta, mà chợt nhớ ra: mình chưa có mái ấm của chính mình.Có lúc tối về, ngồi bên quạt máy, bật hoài một bài nhạc cũ – chén cơm ăn chưa tới nửa, mà lòng thì trống lắm.Thành phố này đông người nhưng lại lạnh, bạn bè có vợ con hết rồi, chỉ mình tôi còn chạy xe đi xem nhà cho khách, tay xách hồ sơ, miệng nói chuyện kỹ thuật, còn lòng thì... không biết nói với ai.Sáng nay, cũng như mọi ngày.

Tôi mặc cái áo sơ mi cũ, tay cầm thước dây với cây bút, đi xem nhà cho một khách mới.

Họ gọi, tôi lại đi.

Vẫn còn cái máu mê dựng nhà, cái ước mơ thầm kín từ thời nội còn sống:"Làm nhà cho người khác, để một ngày nào đó, con biết cất cái nhà cho chính mình."

Mà biết đâu... hôm nay đi xem nhà cho người ta, lại gặp được người cất chung mái nhà với mình.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 13 : Người Con Gái Theo Chú Đến Cuối Đời


Chiều đó, tôi chạy xe về quê.

Trong lòng cứ canh cánh.

Câu chuyện căn nhà ở ấp Bình Lộc, cái bản vẽ trùng khớp, tiếng nói không hình, và cái tên...

Phạm Ngọc Hà.Về tới nhà, trời đã sẩm tối.

Chú út đang ngồi trước hiên, chẻ nan đan một cái thúng rách.Tôi bước vô, khui lon trà ướp đá, ngồi xuống ghế đối diện chú.– Chú út... con hỏi chú cái này.

Hồi trước chú có quen ai tên là...

Phạm Ngọc Hà không?Chú dừng tay.

Đôi mắt nheo lại sau ánh sáng vàng hắt ra từ bóng đèn hột vịt.Chú thở dài.– Ủa... sao con biết nó?Tôi im lặng.

Gật đầu.Chú đặt con dao nhỏ xuống, lấy khăn lau tay.– Cái con nhỏ Hà đó hả...

Ờ, quen chớ.

Hồi đó nó học kiến trúc... hình như ở Sài Gòn.

Có lần về quê thực tập công trình.

Tao đang trấn trạch cho một căn nhà ở Tân Trụ, Long An.

Nó thấy tao trầm đất, cắm mộc, lấy lỗ ban đo hướng, thế là dính luôn.Đi tới đâu nó cũng lẽo đẽo theo sau.

Hỏi từng chút.

Mà được cái nó học lẹ, chịu khó, cái gì tao chỉ nó nhớ rành.

Có lần tao còn nói giỡn: "Mày không đi học kiến trúc thì tao tưởng mày là cháu ruột tao rồi đó."

Tôi mỉm cười buồn buồn.– Rồi chú có chỉ hết không?– Chỉ thì cũng chỉ, nhưng mấy cái tao không rành như bùa chú chữ Nho, tàu, rồi trấn theo kiểu phương Bắc là tao không biết.

Tao chỉ biết cốt lõi của ông nội mày truyền lại thôi.

Cái gì không hiểu thì nói không biết.

Mà nó giỏi, tự học tùm lum.

Có lần tao thấy nó cầm mấy bản vẽ như của mấy ông thầy Lỗ Ban ở Hội An đưa tao coi.

Đọc được chút đỉnh.

Tao cũng hơi ớn.Tôi nuốt nước miếng.

Hỏi khẽ:– Vậy... nó mất lâu chưa chú?Chú ngẩng đầu lên, mắt thoáng đỏ.– Lâu rồi con ơi.

Từ cái năm...

2009 hay 2010 gì đó.

Nó đi công trình ở Bình Dương, đang kiểm tra giàn giáo thì gặp sự cố.

Mấy thanh sắt rớt xuống.

Chết tại chỗ.

Tội nghiệp... chết trẻ mà còn dang dở nhiều thứ lắm...Chú im lặng một lúc.

Rồi quay sang nhìn tôi:– Sao mày hỏi nó?

Có chuyện gì hả?Tôi chỉ gật đầu.

Trong đầu vẫn còn âm vang tiếng gọi:– "Anh An... em tin anh."

Tôi không dám nói.

Chỉ lặng lẽ rút từ balô ra bản vẽ cũ – đúng là nét phác tay, giấy ngả vàng, nét chì đậm nhạt đều có hồn.

Ở góc giấy, vẫn còn lưu lại vết ố nhạt màu – như từng bị dính mưa, hay... nước mắt.Chú nhìn một hồi.

Gật đầu.– Phải rồi.

Bút tay nó.

Tao nhìn là biết.Chú quay qua tôi, giọng trầm xuống:– Nếu nó còn gửi mày bản vẽ... thì chắc là nó còn điều chưa làm xong.

Nhà cửa, tổ phần, hay cái gì đó...

Coi chừng không phải chỉ xây cho mẹ nó.Tôi im lặng.Trong lòng, như có ai đang cầm tay, nhẹ đặt lên vai – bảo tôi hãy đi tiếp.

Hãy dựng lên căn nhà cuối cùng cho một người đã khuất, một linh hồn chưa yên.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 14 : Ngôi Nhà Cho Âm Dương


Chương: Ngôi Nhà Cho Âm DươngLần này...

Căn nhà tôi xây không chỉ dành cho người dương ở

...mà còn là mái âm cho người khuất trở về nương náu.Tôi biết rõ điều đó ngay từ khoảnh khắc đặt chân tới mảnh đất ấy – mảnh đất đã thấm nước mắt, đã có linh hồn đứng chờ...

Và vì vậy, tôi không thể làm như những lần trước.Trước khi đụng móng, tôi sắm mâm cúng lớn:

Bánh trái, rượu trắng, 3 chung trà, nhang trầm, gạo muối, cùng một dĩa trầu cau.

Tôi thắp nhang, rồi khấn:"Con tên Nguyễn..., người hành nghề mộc kiến Lỗ Ban.

Nay xin phép chư vị Thổ Công, Thổ Địa, Long Mạch nơi này cho con được dựng một căn nhà – căn nhà vừa làm chỗ ở cho người dương, mà cũng là nơi an nghỉ cho người âm."

Tôi xin phép từng nắm đất, từng hàng gạch.

Tự tay hốt cốt mẹ con cô Hà, sau khi đào nhẹ phần mộ đất.

Cốt được tôi rửa sạch, xếp vào tiểu sành.Rồi cũng tự tay tôi đóng hai cái quan tài nhỏ, gỗ mít, không sơn – chỉ đánh dầu chín lớp, khắc dấu Lỗ Ban dưới đáy, rồi mới để tiểu cốt vào trong.Phần hai cái mộ, tôi đổ đá xanh Bình Định, tráng xi cẩn thận.

Một mộ quay về Tây Nam – hướng Phụ Mẫu.

Một mộ hướng Chính Bắc – tượng trưng cho Mộc Sinh Thủy, mong đời đời an yên.Riêng phần căn nhà chính, tôi giao cho chú út.

Tôi biết chú sẽ làm bằng cả trái tim, vì...

...con Hà vẫn còn một đứa em trai nhỏ đang sống với bà ngoại.Chú út ổng kỹ lắm.

Từ cái gác lửng, đến ống thoát nước, rồi bàn thờ Phật – chỗ nào ổng cũng gò từng miếng sắt, canh từng đòn tay.

Ổng nói:– Tao không cất nhà cho người chết.

Tao cất nhà cho thằng nhỏ ở mà không thấy lạnh, để chị nó, má nó, có về thì cũng yên tâm...Tới ngày cúng nhập trạch – trời đổ mưa nhẹ.

Lạ lắm, mưa rơi đều, không ướt nổi mái.

Tôi trải chiếu trước thềm, mâm cúng có thêm tô cháo trắng, quả trứng gà luộc, nải chuối sứ.Tôi đốt 3 nén nhang.

Rồi đọc:– Căn nhà nay đã dựng.

Mộ phần đã yên.

Con thay mặt người trần, xin khấn:

Cho người khuất có nơi nương thân.

Cho người sống có nơi ấm lòng.Gió lướt qua như ai vuốt nhẹ bờ vai.

Có tiếng gỗ kêu nhẹ "cót két"... như tiếng cửa gỗ năm xưa, nơi nhà nội tôi từng ở.

Có lẽ... có người đã về.Tối đó, tôi không mơ.

Không thấy Hà.

Nhưng tôi biết: cô đã đi – và đã được tiễn đi đàng hoàng.

Căn nhà không còn lạnh.

Và mảnh đất đó, từ nay... không còn trống.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 15 :Căn Nhà Để Ở - Và Cái Trái Cho Người Xưa Nghề


Căn Nhà Để Ở – Và Cái Trái Cho Người Xưa NghềTôi về, cất lại cái nhà cho ba mẹ.

Mà nói đúng hơn, là cất lại một chốn đi về – cho cả nhà mình.Ngôi nhà tôi dựng không sang, không cầu kỳ –

...nhưng từng đường nét đều có một lý do để tồn tại.Tôi giữ lại tông xanh da trời xưa cũ,

pha với trắng mịn như nước vôi,

tường xây dày, không tô bóng – để khi chạm tay vào vẫn còn cảm giác mộc.

Mái ngói lợp lẫn mái tôn – tôn để thoáng, ngói để giữ cái ấm.

Cửa trước tôi chọn cửa gỗ xoan cũ, nhờ người quen ở Tân Uyên bào kỹ, sơn lót ba lớp dầu bóng.Nhưng có một thứ tôi không thể không dựng –

đó là cái trái bên hông nhà, nhỏ thôi, ngang ba mét, dài bốn mét, mái thấp.Đó là nơi để ba tôi – người thợ mộc xưa – có chỗ "đụng tay đụng chân" lại.Hồi trước, ba tôi nổi tiếng mát tay, làm đồ gỗ đóng bàn ghế tới tủ thờ gì cũng chắc bền –

mà từ ngày già yếu, lại không còn xưởng, ông chỉ lặng lẽ ngồi trong góc, đôi tay rịn mồ hôi vì nhớ mùi mùn cưa.Vậy nên tôi cất cho ba một cái xưởng nho nhỏ.

Gọi là "trái", chứ trong lòng tôi – đó là đền kỷ niệm sống cho một đời lao động.Tôi kê trong đó cái bàn mộc cũ, cái kẹp giữ gỗ ông nội để lại, vài cây cưa, bào tay, và cả chiếc thước gỗ đã nhạt màu.

Khi bàn giao xong cái nhà, tôi dẫn ba ra, nói:– Cái trái này, con không để ai đụng vô.

Của ba hết.

Ba muốn đóng gì, vẽ gì, chẻ gì cũng được.

Gỗ con để sẵn trong bao, hết con mua nữa.

Mình không buôn bán, làm chơi thôi.

Nhưng miễn là ba vui.Ba tôi đứng lặng.

Ánh mắt ông nhìn cái mái xiên, cái vách gỗ thông ghép, rồi quay qua tôi, chỉ gật đầu.

Mắt hơi đỏ, nhưng không nói gì.Tôi biết...

Đó mới là nhà.

Không phải nhà ở, mà là nơi một người có thể sống lại chính mình.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 16 : Bữa Cơm Trong Nhà Mới - Và Một Câu Nói Làm Tim Tôi Nhói


Bữa Cơm Trong Nhà Mới – Và Một Câu Nói Làm Tim Tôi NhóiLàm xong cái nhà, cả nhà tôi tụ lại ăn một bữa cơm.

Má tôi nấu nồi canh chua cá lóc với mấy trái cà nhà trồng, thêm tô thịt kho trứng thiệt lớn – nói là "đãi cái nhà mới".Cơm vừa dọn ra, ai nấy cũng vui vẻ, rôm rả.

Hôm nay, hai anh của tôi cũng có mặt đầy đủ.Anh Hai – người mở tiệm net ở tận Bình Dương – về phụ từ lúc móng nhà còn chưa đổ.

Anh Ba – mở tiệm sửa điện thoại ngoài chợ cách nhà hai cây số – hôm nào cũng tranh thủ về phụ, dầm nắng, quét vôi, bắt đèn...Mấy người không theo nghề mộc của gia đình,

...mà cái nghiệp gỗ vẫn chảy trong máu.

Hễ ai cầm cây bào cây cưa lên là làm rẹt rẹt – như chưa từng buông tay.

Đóng kệ, đóng bàn, lắp tủ – không cần nói nhiều, cứ ra dáng người nhà mộc là biết làm.Má tôi ngồi ăn, vừa gắp vừa hỏi chuyện lung tung, hỏi anh Hai sao ngoài đó còn ngập nước không, hỏi anh Ba chừng nào tính cưới, rồi quay sang tôi...Bà chợt dừng đũa, nhìn thẳng vào tôi, rồi nói:– Đợi cha con tụi bây đóng xong hết mấy món đồ nội thất trong nhà này... tao dắt mày đi coi mắt.Tôi cứng người.

Chén cơm đang và đưa lên miệng cũng khựng lại.Chẳng ai nói gì, anh Hai anh Ba cười cười nhìn nhau.

Tôi thì nhìn má – một thoáng bất ngờ rồi lặng im.

Ánh đèn trần hắt xuống, tôi thấy mấy nếp chân chim trên mặt má.

Chắc bà cũng nhiều đêm trở mình nhìn ra hàng cau cũ mà thở dài...Tự dưng tim tôi nhói lên một cái, đau không lớn,

...nhưng là kiểu đau của một đứa con trai gần ba mươi,

mãi chạy rong trên đất người, mà quên mất má đã già.Tôi nuốt cơm, rồi cười nhẹ, nói:– Dạ mẹ.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 17 : Buổi Coi Mắt Lạ Lùng Ở Nhà Bên Kia Kênh


Buổi Coi Mắt Lạ Lùng Ở Nhà Bên Kia KênhSáng sớm hôm sau, má tôi đã dậy sớm luộc mấy cái trứng, pha bình trà, rồi kêu tôi:– Bận đồ gọn gàng vô, bữa nay tao dắt mày đi một bữa.Tôi không hỏi, chỉ "ừ" rồi đi thay cái áo sơ mi còn thơm mùi nước xả vải.

Má nói bà biết một bà bạn bên xã kế, có đứa cháu gái hiền, học hành đàng hoàng, làm kiến trúc dưới Cần Thơ, nay về quê dưỡng bệnh – nghe vậy tôi cũng thấy ngờ ngợ, nhưng không nói.Chúng tôi đi qua một con đường nhỏ, rồi qua một cây cầu gỗ bắt ngang con kênh cạn.

Bên kia kênh là một dãy nhà lưa thưa, phần nhiều đã cũ, có căn được sơn mới, nhưng cũng có căn như bị thời gian cắn dở rồi bỏ quên.Má dẫn tôi tới một căn nhà gỗ thấp, có mái ngói rêu phong.

Trước sân trồng hai gốc mai già, giống hệt cái sân nhà cũ của tôi hồi nhỏ.Lạ kỳ là khi tới gần, tim tôi đập mạnh...

Căn nhà đó... sao giống cái nhà của con Hà hồi tôi xây cho nó – cái căn nhà hiện ra như ảo ảnh năm nào.Má kêu tôi vô, rồi chào hỏi bà chủ nhà.

Tôi còn đang ngơ ngác thì người con gái kia bước ra từ phía trong buồng.Tôi chết trân.Cô gái đó mặc áo bà ba trắng, tóc thắt nhẹ, bước chậm nhưng dứt khoát, ánh mắt bình thản như nước sông.Nhưng cái khiến tôi lặng người không phải là nét mặt – mà là cái khí chất đó.Cái cách cô ấy đứng, cái cách cô ấy nhìn tôi, giống hệt ánh nhìn của con Hà hồi tôi lần đầu gặp nó giữa mảnh đất hoang nơi xin cất nhà.Tôi nuốt khan.Má nói gì đó với bà chủ nhà, tôi không để ý.

Tôi chỉ nhìn cô gái kia – và cô ấy mỉm cười rất nhẹ, như thể đã biết tôi từ kiếp nào.– Em tên Hạ, – cô gái nói – má nói anh cũng học Kiến Trúc.Tôi gật đầu, không nói gì.

Tim thì đập thình thịch.Chữ "Hạ"...?

Sao nghe cũng gần giống như "Hà"...Còn cô gái kia, dù tóc dài hơn, mặt tròn hơn... nhưng ánh mắt, giọng nói, cách đứng trước tôi như thể không phải lần đầu.Cái bóng quá khứ chợt trỗi dậy.

Tôi thầm nghĩ: "Không lẽ, con Hà... trở lại?"

Tôi vô trong nhà, ngồi xuống bộ ghế gỗ cũ đã lên nước bóng.

Má tôi thì rót nước, còn bà chủ nhà – tên là Liên – cũng ngồi xuống bên.

Bả hiền lắm, nói chuyện nhỏ nhẹ như sợ mình làm phiền người ta vậy.Bả quay sang má tôi rồi nói:– Không biết sao dạo gần đây trong nhà thấy lạnh hơn mọi khi, mà người trong nhà ai cũng hay bệnh.

Con Hạ đó, đang học trên Cần Thơ, mà bị cảm hoài không dứt, riết rồi phải xin nghỉ về ở.Má tôi gật gù, còn tôi thì để ý từng lời.

Tôi quay sang hỏi bả:– Gì là má của Hạ hả?Bà Liên lắc đầu, cười buồn:– Không, cô chỉ là gì thôi.

Má nó mất lâu rồi.

Cô nuôi nó từ nhỏ tới lớn mà... tội nghiệp con bé, tính tình nó hiền khô.Tôi nghe tới đó tự nhiên trong lòng thấy ngờ ngợ.

Cảm giác y như lần gặp con Hà hồi đó...

Tôi cố giữ giọng tự nhiên, hỏi:– Ủa... gì, chứ hồi xưa nhà này ai ở vậy?Bà Liên không nghĩ ngợi gì, chậm rãi trả lời:– Hồi trước là chị của con Hạ ở.

Nó tên là Hà.

Cũng học kiến trúc như mấy đứa nè.

Nó mất rồi.

Bị tai nạn ở công trình mấy năm trước...Bả ngừng lại một chút, thở ra, ánh mắt xa xăm:– Ngày đó là tai nạn sập giàn giáo... người ta đưa về lo hậu sự bên ngoại nó.

Má nó mất không bao lâu sau... từ đó con Hạ ở với cô luôn tới giờ.Tôi ngồi lặng người.Câu chuyện như từng lớp tro bụi cũ đang được ai đó thổi bay...

để lộ ra những thứ quen thuộc đến rùng mình.

Chị em – Hà và Hạ.

Một người đã mất trong tai nạn – một người đang ốm yếu trở về căn nhà cũ.

Căn nhà – bỗng dưng lạnh lẽo.

Người trong nhà hay bệnh.Tôi chợt nhớ tới miếng vải mùng đỏ kẹp ở cột cái hồi nãy...

Nhớ ánh mắt buồn xa của Hạ.

Và cái lần tôi đi xây căn nhà cuối cùng cho người đã mất.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 18 : Sửa Nhà


Tôi ngồi một hồi rồi nói với má, với gì Liên:– Con biết nhà mình bị gì rồi.

Bữa trước con có đi làm lại nhà với mộ cho hai mẹ con con Hà... lúc đó linh hồn của nó siêu thoát rồi.

Nhưng con đâu biết... bên đây có người đặt yểm trấn vong.

Nhà đổi thế...

âm khí bám lại, nên mới sinh bệnh.Tôi nói chậm, mà tay thì khoa ra kể chuyện: từ cái lần gặp con Hà, cho tới cái căn nhà hiện ra như ảo ảnh, rồi chuyện tôi hốt cốt, đóng hòm, dựng nhà, dựng mộ – một mình giữa sương chiều.

Hai người nghe mà im re, chỉ còn tiếng gió lùa nhẹ ngoài hè.Tôi đứng dậy, nói gọn:– Để chiều nay, con xách đò nghề qua, sửa lại cái trấn cho.Chiều đó, tôi mang theo cái thùng đồ nghề quen thuộc, cột sau lưng, chống cây dầm nhẹ nhẹ bơi qua.

Nắng chiều rọi lấp lánh trên mặt nước, còn tôi thì thấy lòng mình cũng nhẹ theo.Tới nơi, tôi trèo lên cột cái, nơi hồi sáng tôi thấy có miếng vải mùng đỏ nhét vô trong.

Cẩn thận lôi ra, tôi nhìn kỹ – đúng là vải yểm trấn, bị nhét vô ngay khớp gỗ.

Tôi đo cái lỗ đó kỹ lưỡng rồi leo xuống.Dưới ghe, tôi lục ra miếng gỗ mít tôi đem theo – thứ gỗ mà ông tôi hồi xưa hay dùng để làm cửa nhà thờ hay đồ thờ cúng.

Tôi đo đông đếm, lấy búa đục, gọt tỉ mỉ từng chút.Một hồi sau, tôi được một khúc gỗ nhỏ, vừa khít với cái chõ ban nãy.Tôi trèo lên lần nữa, đút khúc gỗ mít vô thay cho miếng vải yểm, rồi lấy keo cây dán lại, chà nhám nhẹ, chét kỹ, giống như chưa từng có gì được giấu ở đó.Xong xuôi, tôi bước ra trước, chắp tay:– Dạ, gì Liên với con Hạ, con xin phép về.

Từ nay nhà mình yên rồi.Hai người tiễn tôi ra tới mé sông, con Hạ im lặng nhìn theo, rồi nhẹ nhàng nói:– Anh An... cảm ơn anh nhiều nghe.Tôi chỉ cười, không đáp.

Trên ghe, tiếng mái chèo rẽ nước nghe như câu hò cũ.

Từ hôm bữa tôi qua sửa cái nhà cho bên đó, ngày nào con Hạ cũng chèo xuồng qua nhà tôi.

Có bữa thì đem qua mấy trái bí, bữa khác thì bó bông súng, bịch trà móc câu nhà gì Liên.

Có lần còn gói bánh ít đem qua, nói giọng ngại ngại:– Má em gói, em phụ nấu...

đem qua cho bác với anh ăn thử.Mẹ tôi thấy vậy, bữa nọ lúc tôi đang chà nhám mấy cái dạt ván với cha ngoài hiên, bả liếc qua rồi nói một câu làm tôi xém phun cưa:– Ê An... mày bữa hỗm bơi ghe qua bển sửa nhà, tiện tay bỏ bùa con Hạ luôn hay sao mà bữa nào nó cũng lụi hụi chèo qua, cho đồ quài vậy?Tôi bật cười, chưa kịp nói gì thì bả nói thêm, lần này giọng bớt đùa, mà ra chiều nghiêm túc thiệt:– Mẹ thấy nó thương mày đó...

Con nhỏ nhìn lanh mà hiền, coi bộ cũng biết trước biết sau.

Vài bữa nữa anh ba mày cưới con Loan, mày nhớ qua bển mời chị Liên với con Hạ qua nghen.

Sẵn tao nói chuyện của tụi bây luôn một thể.Tôi đỏ mặt, cười khà khà, không nói gì, chỉ cúi xuống tiếp tục đẩy giấy nhám lên từng đường gỗ, tay thì chà nhưng lòng thì bỗng thấy nao nao...Cha tôi thì đứng gần đó, không nói gì, chỉ gật đầu.

Ổng là vậy đó – ít nói nhưng để ý hết.Ngoài vườn, tiếng gà gáy trưa nghe như nhịp lặng của thời gian, còn trong lòng tôi – tự nhiên thấy mùa này có cái gì đang đơm nụ.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 19 : Đám cưới anh ba - ngày nắng rực trên xóm quê


Từ sáng sớm, xóm trên xóm dưới rộn ràng, gà chưa kịp gáy thì tụi tôi đã lụi hụi làm cái cổng cưới.

Cổng làm bằng cây tràm, trụ gỗ vững chắc, dây bông giấy đỏ hồng quấn vòng, lồng đèn nhỏ treo đong đưa trong gió.

Tôi, thằng An, tự tay vẽ cái bảng chữ "Vu Quy" bằng cọ mực tàu, nét còn run nhưng lòng thì vững chắc lạ thường.

Cha tôi cưa gỗ, mẹ tôi thì gói bánh ít, anh tư Khánh – con bác Sáu Thắm – khiêng cái thùng bass nặng chịch xuống ghe, chở tới rồi bày dàn âm thanh ra dựng sạp.Dưới bóng mát cây bần già, tụi nhỏ chạy giỡn vòng vòng, còn nhạc dạo đầu ca cổ văng vẳng theo tiếng loa rè rè, nghe cũng mát ruột:"Tình anh như nước lũ miền Tây,

Chảy qua ruộng đồng, lúa trổ bông em biết..."

Tôi cầm micro, hát đại một bài vọng cổ "Duyên quê", hát xong hết 5 câu vọng mà cái mặt nóng ran.

Ai cũng cười, riêng con Hạ thì ngồi dưới góc bàn đỏ tai, mà không dám nhìn lên.

Tới lúc đám rước dâu về, trống kèn nổi lên, tụi nhỏ vỗ tay rầm trời.

Tôi đứng ngoài nhìn anh ba cười toe, chị dâu thì líu ríu trong chiếc áo dài trắng, tự nhiên trong lòng tôi cũng thấy... muốn cưới vợ.Tối đó, tiệc cưới rượu đế nấu nguyên nồi, tôi bị xúi uống mấy ly, mắt mở không nổi, miệng cứ nhẩm hoài hai câu vọng cổ chưa hát xong.Con Hạ ngồi gần đó, mặc cái áo bà ba xanh da trời, tóc kẹp hờ, cười hoài.

Tôi xỉn tới mức đứng dậy, vỗ cái bàn, miệng lắp bắp:– Con Hạ... tao...

à không... em Hạ, làm vợ anh nghen!

Anh biết... cái nhà đó em cho trà... cho bông súng, cho luôn... trái tim em rồi.Cả bàn cưới im phăng phắc, rồi bà con vỗ tay rần rần, thằng Tý gào lên:– Ờ ờ!

Chốt đơn đi Hạ ơi!Con Hạ mặt đỏ như gấc, mà cũng gật đầu thiệt nhẹ.

Tôi nhìn thấy, tim đập như trống hội.Bà má tôi ngồi ở mép sạp, cười mím chi, tay cầm ly rượu, nhìn tôi rồi nhìn con Hạ, khẽ nói:– Rồi... mùa này lúa trổ bông luôn rồi con à.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 20 : Nhập trạch nhà mới


Hôm đó, trời trong veo, nắng rọi nhẹ qua mái ngói mới lợp, màu nâu đất còn thơm mùi gạch nung.

Gió thổi qua hàng dừa trước ngõ, lá reo rì rào như tiếng người xưa dặn dò đâu đó.Tôi dắt Hạ về, bà má tôi ra chào từ mé cửa, cười móm mém, còn cha tôi thì đang đục cây gỗ căm xe bên hông nhà, nghe tiếng tôi gọi, ông ngẩng lên, tay vẫn cầm cái đục.– Dạ thưa cha, con dắt Hạ về nhà mình... nay nhập trạch rồi, má biểu dắt về coi nhà.Cha tôi không nói gì, chỉ ngó Hạ một cái, rồi nhìn tôi, gật đầu nhẹ.

Gương mặt ông lúc nào cũng vậy, lầm lì mà ấm, như cái bàn gỗ ông đóng – chắc chắn và không cần nói nhiều.Hạ cúi đầu chào lễ phép.

Ông cười khẽ:– Ừ... vô nhà chơi con.

Coi thử nhà thằng An nó dựng có ra hồn không.Trong bếp, Hạ lăng xăng phụ má tôi nấu cơm, tay rửa rau, miệng cười khúc khích.

Mùi cá kho bốc lên thơm lựng.

Bên hiên nhà, cha tôi vẫn đẽo gỗ, thỉnh thoảng nhìn vô bếp, không nói gì, nhưng tôi biết...

ông hài lòng.Tôi bước ra sân, nhìn căn nhà mới dựng – hai tầng, tường gạch quét vôi xanh da trời nhạt.

Trên gác, tôi chừa một căn phòng nhỏ để bàn thờ nội, bàn thờ ông cố.

Dưới bếp, Hạ đang đảo nồi canh chua bằng chiếc vá gỗ cha tôi đóng.

Trên sập, cha tôi ngồi lau khô từng cái ghế dài – cũng do tay ông gọt, tay tôi ráp, tay má tôi đánh vec-ni.Tự nhiên tôi thấy mình như một đoạn nhỏ trong bài ca lớn của gia đình.

Trước tôi là cha, sau lưng tôi là người vợ sắp cưới, trên đầu tôi là bàn thờ nội – ba đời đàn ông trong nhà này, không nói nhiều, chỉ làm, chỉ sống và chỉ yêu theo kiểu của mình.Giữa mâm cơm, cha tôi rót một ly rượu trắng, đưa cho tôi:– Nhập trạch, uống một ly.

Coi như từ nay, mày chính thức thành chủ cái nhà này.Tôi nhận ly rượu bằng hai tay, nhìn cha, nhìn má, nhìn Hạ, rồi quay đầu lên phía trên – hướng bàn thờ nội.– Dạ... nhà này là của mình hết.

Nhưng con hứa, đời con giữ cho vững.

Sau này... con cháu mình còn về.Bữa cơm hôm đó không cần nhiều lời, chỉ có tiếng đũa khua lách cách, tiếng ve kêu xa xa và một chút nắng chiều lọt qua song cửa, in bóng ba người lên mặt gạch đỏ mới lát – tôi, cha và...

Hạ.

Hôm đó, trời vừa tối, trăng lưỡi liềm treo bên ngọn me sau nhà, ánh sáng mỏng như khói.

Nhà mới vừa dọn vô hôm qua, má tôi bảo:– Hạ, con lên thắp cho ông nội thằng An cây nhang.

Mình vô nhà mới, phải có người đàn bà làm dâu thắp nhang lần đầu thì hên.Hạ không nói gì, chỉ khẽ gật đầu.

Tôi nhìn theo, thấy dáng nhỏ nhỏ trong chiếc áo bà ba tím cũ, tay cầm hộp quẹt, tay cầm bó nhang mới.Cầu thang gỗ kêu kẽo kẹt dưới bước chân cô.

Trên gác, bàn thờ nội đặt ngay giữa gian giữa, bên trái là cái lư đồng cũ của cha tôi, bên phải là bức ảnh đen trắng của nội – ông mặc áo dài, đội khăn đóng, ánh mắt hiền như nước sông quê.Hạ quỳ xuống, châm lửa, tay run run.

Ba cây nhang bắt lửa, mùi trầm tỏa ra thơm dịu như mùa cũ.

Gió nhẹ thổi, tấm rèm lụa vàng khẽ lay, bóng đèn dầu hắt một ánh sáng lờ mờ vàng ấm.Hạ khấn nhỏ:– Con là Hạ, con dâu tương lai trong nhà...

Hôm nay lần đầu về nhà này, mong ông nội chứng cho...Chưa kịp dứt lời, một luồng gió nhẹ thoảng qua, dù cửa sổ vẫn khép.

Hạ mở mắt, định đứng dậy thì bất giác ngước lên... và thấy rõ ràng bức hình ông nội mỉm cười.Một nụ cười rất nhẹ.Không phải ảnh động.

Không phải ảo giác.

Chỉ là một khoảnh khắc kỳ diệu, như thể linh hồn của ông nội đang gật đầu, chấp nhận.Hạ đứng chết trân mấy giây.

Cô không la, cũng không chạy.

Cô chỉ cúi đầu thật thấp, rồi khấn tiếp bằng giọng run nhẹ:– Con cảm ơn ông...

Nếu ông chịu, con xin hết lòng làm dâu trong nhà...Phía sau, tôi đã lên từ lúc nào, tay cầm cái khăn lau bụi.– Hạ.

Em sao vậy?Cô quay lại, mắt hoe đỏ, giọng khẽ khàng:– Ảnh cười, An ơi...

ổng cười với em...Tôi nhìn lại bức ảnh.

Vẫn là tấm hình cũ, nhưng sao tự nhiên tôi cũng thấy ấm lòng, như có một luồng khí ấm truyền từ bàn thờ xuống lòng đất.Tôi nắm tay Hạ, dẫn xuống bếp.

Cô cứ im lặng một hồi, rồi mới nói:– Anh biết không... từ nhỏ em hay mơ thấy một người đàn ông nhìn em cười...

Nay em biết đó là ai rồi.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 21 :Hạ hòa vào nghề mộc của nhà chồng


Đêm đó, sau khi thắp nhang và nói với tôi chuyện "ông nội cười", Hạ nằm ngủ sớm.

Cô mệt cả ngày, nhưng không hiểu sao trong lòng cứ bâng khuâng, vừa sợ vừa ấm.Khoảng gần sáng, khi trăng lặn và gà chưa gáy, cô mơ một giấc rất rõ.Trong giấc mơ, cô đứng giữa một căn nhà xưa bằng gỗ, nền đất, xung quanh là tiếng cưa xẻ, tiếng đục đẽo vang đều đều như nhịp tim.

Trên bàn là những mảnh gỗ vàng óng, thơm ngát như gỗ mít mới xẻ.Một ông già ngồi trước bàn thợ, quay lưng lại.

Cái lưng còng, tóc bạc trắng.

Nhưng bàn tay... bàn tay rắn chắc, run run cầm cái dùi gõ nhẹ.Rồi ông quay lại.Hạ sững người – đó chính là ông nội của An, khuôn mặt giống hệt tấm ảnh thờ, chỉ khác là ánh mắt sống động, sáng như trời mưa vừa tạnh.– Con là Hạ phải không?– Dạ... con... là con đây.– Cha mẹ mất sớm.

Ông biết.

Ông biết con khổ...

Nhưng con bước vô cửa nhà này, là con thành người nhà rồi.Hạ bật khóc.

Mắt cô ướt như sương sớm.– Con không biết nghề... nhưng con thương ảnh... thương cái nhà này...– Con có tấm lòng là được.

Nghề mộc... nó nằm ở tâm.Ông cười, rồi đưa cho cô một cái đục gỗ nhỏ, cán mòn bóng.– Đây là cây đục tao xài hồi cất cái nhà đầu tiên.

Giữ lấy.

Khi nào trong nhà có chuyện buồn, hay lòng con nghiêng ngả, con lấy cây đục ra...

đục một miếng gỗ nhỏ cho tao.

Tao sẽ biết.Cô ôm lấy cái đục, mà thấy lòng mình ấm như có lửa cháy từ tim lan ra đầu ngón tay.Rồi ông mỉm cười, đi lùi vào trong ánh sáng, mùi gỗ mít thơm thoảng, dần tan.

Từ hôm đó, Hạ bắt đầu học nghề mộc.Không ai bảo, cũng chẳng ai ép.

Cô chỉ xin cha tôi dạy, rồi ngày ngày lau từng món đồ nghề, học cách xếp gỗ, tự tay nấu cơm cho mấy người đàn ông trong nhà khi đang cưa đục dưới gốc xoài.Mẹ tôi nói chơi:– Tụi bây coi chừng à nghen, con Hạ nó coi đồ nghề kỹ hơn coi thằng An đó.Anh hai cười khà khà:– Tui thấy nhỏ này không phải dâu bình thường.

Nó giống người giữ lửa đó má.Rồi một hôm, Hạ lôi cái đục trong mơ ra.

Thật tình cờ – nó nằm trong thùng đồ nghề cũ của nội, đã lâu không ai đụng tới.

Cán đục bằng gỗ trắc, nhỏ, nhưng còn chắc nịch.

Cô ôm lấy nó, như cầm một phần hồn của nhà chồng.Cha tôi nhìn, rồi gật đầu:– Cái đó hồi ba mười bảy tuổi ông nội đưa.

Giờ tới tay con.

Coi như nội chấm con rồi đó.
 
Back
Top Bottom