Tâm Linh Nhà Lỗ Ban

Nhà Lỗ Ban
Chương 22 : Từ Cái Căn Gỗ Sang Căn Chung Cư


Tôi đưa Hạ lên Cần Thơ trong một sáng đầu mùa mưa, trời vừa dứt cơn dông đêm, không khí ẩm như còn vương mùi đất quê.Hạ quay lại nhìn tôi lúc lên xe:– Tự nhiên em thấy...

đi xa vậy, lòng cũng kỳ kỳ á.Tôi bật cười:– Em có đi đâu đâu, em chỉ đi học.

Còn anh... thì đi theo em.Chung cư tụi tôi thuê là loại nhỏ, hai phòng, nằm phía bờ kè Xuân Khánh.

Tầng thấp, nhìn ra là rặng bần và con rạch nhỏ.

Không đẹp đẽ gì, nhưng nắng lên là căn phòng sáng rực, gió hiu hiu như ở quê, có cảm giác như mình trồng được một nhành U Minh giữa phố.Ban đầu, Hạ không dám nhận lời ở chung.

Cô cười, lúng túng:– Thôi...

ở vậy... kỳ lắm á.Tôi không ép.

Nhưng lúc đi ra chợ Tân An mua đồ trang trí, thấy cô ôm mấy cái chậu cây nhỏ, rồi lật qua lật lại tấm màn ren, miệng lẩm bẩm "cái này đẹp nè", tôi biết... cô đã nhận lời từ trong lòng.Đêm dọn vào, hai đứa ăn cơm hộp trên sàn nhà, vừa ăn vừa cười rôm rả.

Ngoài ban công, ánh đèn đường đổ vàng, phản lên ly nước như có ánh trăng.Ban ngày tôi đi công trình.

Vẫn là nghề làm nhà, nhưng giờ tôi đã nhận lãnh trọn gói – từ thiết kế, chọn gỗ, đến dựng móng.

Công việc cực, nhưng được chú Mười thương, dắt mối từ quê lên.

Học từ bàn tay ông nội, giờ tôi đem nghề truyền lại bằng đôi bàn tay mình.Tối về, Hạ đã tắm gội xong, mặc áo thun cũ của tôi, ngồi học bài trên bàn gỗ mà tôi tự đóng.

Có bữa cô ngủ quên trên bàn, tóc xõa ra như đám lục bình trôi ngang quê nội.Tôi ngồi vẽ bản vẽ, rồi quay sang nhìn cô.Tim tôi nghĩ một điều đơn giản mà ấm như lửa bếp:– Vậy là mình có nhà rồi.Có hôm trời mát, tôi rủ Hạ xuống bến Ninh Kiều ăn chè.

Hạ bây giờ khác xưa, bắt đầu quen với phố xá, nhưng vẫn giữ nguyên cái giọng miền Tây ngọt như nước dừa xiêm.Cô kéo tôi vào một tiệm sách, rồi đứng chọn cả tiếng đồng hồ.– Sao em coi sách mà nghiêm trọng dữ vậy?– Tại em muốn chọn một cuốn để anh đọc khi mệt.

Còn em học xong cũng muốn viết về nghề của nhà mình.Tôi nghe mà cười, không phải vì buồn cười, mà vì cảm động.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 23 : nhẹ nhàng như mùa thu Hà Nội


Cách sống của chúng tôi nhẹ nhàng như mùa thu Hà Nội, dù đang sống giữa lòng Cần Thơ, nơi trời nắng gắt hơn và mưa cũng bất chợt hơn nhiều.Những ngày rảnh dài, khi công trình vừa bàn giao, Hạ được nghỉ lễ, tôi lại lên kế hoạch dẫn nàng đi chơi.

An Giang, Tây Ninh, Trà Vinh hay Bến Tre – miễn là có Hạ, chỗ nào tôi cũng sẽ đi.

Không phải vì phong cảnh hay ẩm thực, mà vì có người bên cạnh, mọi nơi đều trở thành kỷ niệm.Có lần đứng trước núi Sam lúc bình minh, tôi ôm Hạ từ phía sau, thì thầm:– Lúc nào mình có tiền, anh sẽ làm một căn nhà trên triền núi.

Phía trước có hồ, phía sau có gió.

Mình trồng mai, rồi dựng cái bàn mộc...

Mỗi sớm ngồi đó uống trà, chắc nội cũng thích.Hạ không trả lời, chỉ nắm tay tôi siết nhẹ.

Bàn tay gầy mà ấm lạ thường.Tôi không giàu nhanh, nhưng làm nghề có tâm.

Vì tin vào nghề mộc, vào lời dạy của ông nội, vì không xem nhà là thứ để "bán lời" mà là chốn gửi linh hồn của một đời người, nên mỗi căn nhà tôi cất, tôi đều chọn gỗ kỹ, chọn hướng đất theo phong thủy, dán bùa trấn môn, trấn long mạch, xin phép thổ thần, rồi mới dựng móng.Có người khách từng nói với tôi:– Nhà chú cất, tui ngủ cái thấy khác liền.

Không biết chú có làm gì, chớ từ hồi dọn vô, vợ chồng tui hòa thuận lại, con cái học hành đàng hoàng.Tôi chỉ cười.

Không phải ai cũng hiểu bí pháp Lỗ Ban tôi mang theo trong lòng.

Đó là cái đạo, không chỉ là nghề.Nhờ đó, tôi dần có tiếng trong giới xây dựng miền Tây.

Nhận được lời mời từ nhiều nơi – từ chủ thầu lớn ở Long Xuyên, đến cả những người Việt ở Mỹ về nước tìm đất cất biệt thự.Vậy mà, dù bao người gọi, tôi vẫn ở Cần Thơ – nơi có Hạ, nơi có ban công nhỏ trồng rau và treo áo mộc đầy mùi gỗ.Tôi đang thi công một căn biệt thự kiểu Pháp ở Bình Thủy.

Người đặt làm là chú Sáu Hưng – chủ một chuỗi nhà hàng có tiếng ở Cần Thơ.

Căn nhà chú đặt tôi làm lớn lắm, 3 tầng, kiểu cổ, mái lợp đá phiến, sàn lót gỗ căm xe, phía sau còn có hồ cá Koi và vườn bonsai.Lúc đầu mọi chuyện rất suôn sẻ.

Thi công thuận lợi, vật liệu tới đúng ngày, thợ cũng có tay nghề.

Nhưng rồi, chuyện lạ bắt đầu xảy ra...Đầu tiên là mấy cây cột tự nhiên đổ dù trời nắng chang chang.

Rồi có người thợ rớt giàn giáo, chân gãy mà miệng lắp bắp:– Con thấy có bóng ai đứng ngay nóc nhà... mặc đồ trắng, tóc dài...Tôi nghe mà lạnh sống lưng.

Nhưng tôi chưa vội kết luận.

Tôi tới nhìn kỹ bản vẽ, đứng lại ngay trung tâm ngôi nhà, nhắm mắt niệm một bài chú Lỗ Ban để dò khí đất, thì thấy toàn thân lạnh buốt.

Không phải lạnh vì gió, mà là lạnh từ xương sống, như thể có ai đang đứng sau mình thở từng hơi.Tối hôm đó, tôi ngồi lại với chú Sáu.

Tôi hỏi:– Chú ơi, chỗ đất này hồi trước có xảy ra chuyện gì không?Chú Sáu ngập ngừng.

Rồi gãi đầu nói:– Ờ... cũng có... hồi trước chỗ này là nhà trọ cũ, có một cô sinh viên chết treo cổ ở tầng hai.

Tui không tin mấy vụ đó nên mới mua rẻ rồi phá đi xây lại...Tôi nghe xong mà bàn tay siết chặt cái ly trà, lòng nổi sóng.

Đất có âm khí, nhà làm lên không coi ngày, không giải sát, không cúng tạ, lại xây ngay nơi có người chết oan, thì chuyện xảy ra là điều chắc chắn.Tối hôm đó, tôi không ngủ.

Tôi lấy cuốn sổ bí thuật Lỗ Ban mà nội để lại, lật tới bài trấn trạch "Cô Oan Phục Nghiệp".

Đây là một trong những bài trấn nặng nhất trong nghề – không chỉ để trấn yểm mà còn độ vong, giúp hồn người uổng tử tìm được đường siêu thoát.Sáng hôm sau, tôi mặc áo lam, xách hòm nghề sang, không nói một lời với ai, một mình leo lên tầng hai, ngay chỗ người ta nói cô sinh viên chết.Tôi vẽ lại địa bàn, xác định đúng hướng sát, rồi dùng gỗ mít khắc một cái phù lỗ ban, bên dưới có huyệt chôn gạo muối, rễ trầm và máu gà trống.

Tôi lạy ba lạy, rồi niệm chú:"Nam mô Phật tổ, Lỗ Tổ truyền chân,

Quỷ oan siêu thoát, trạch địa an thân..."

Khi cắm miếng phù vào chính huyệt sát, gió bỗng nổi lên ào ào, dù nắng chang chang.

Lá cây quét xoèn xoẹt bên mái, mùi nhang trầm bỗng đậm lên, và tôi nghe có tiếng phụ nữ thở dài rất khẽ sau lưng mình...Từ hôm đó, không còn tai nạn nào xảy ra nữa.

Thợ làm lại hăng hái, công trình tiếp tục như chưa có gì.

Tôi âm thầm gửi tiền lên chùa cúng cầu siêu cho hương linh cô sinh viên, xin làm một lễ "phục hồn trả nghiệp".Khi biệt thự hoàn thành, chú Sáu Hưng đứng nhìn mà vỗ vai tôi, nói:– Chú không chỉ là thầy cất nhà, chú là ông thầy trấn đất.

Tui mang ơn chú.Tôi chỉ cười.

Không phải ai cũng hiểu, nhưng tôi biết từ đó giới thầu xây dựng ở miền Tây bắt đầu gọi tôi là "thầy An", không phải vì tôi lớn tuổi, mà vì tôi dám gánh nghiệp, giữ đạo Lỗ Ban giữa cái nghề đang dần mất thiêng.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 24 : TỪ MỘT CÂY CẦU ĐỔI MỆNH


Tin tôi trấn yểm nhà chú Sáu Hưng lan ra khắp mấy tỉnh miền Tây.

Người thì nói tôi biết thần thông, người thì nói tôi nuôi vong giữ đất.

Thực ra tôi chỉ biết giữ đạo tổ Lỗ Ban, làm nghề cho trọn chữ "Tâm".Một hôm, đang trưa nắng ở Cần Thơ, tôi nhận cuộc gọi từ anh Hai Gia – con trai bác Ba Tận, là Chủ tịch huyện An Biên.

Giọng anh nghiêm mà chân tình:– An à, Ông Nội ngày xưa từng dạy anh rằng, nhà nào có người giữ được đạo nghề thì không sợ vận suy.

Anh tin Mày , và giờ anh muốn nhờ em một chuyện lớn...Anh nói rõ: huyện đang xin vốn Trung ương xây một cây cầu lớn bắc qua sông Cái Bé, nối liền An Biên – Vĩnh Thuận – Gò Quao.

Đây không chỉ là một công trình giao thông, mà còn là con đường chính trị để anh khẳng định vị thế trong giai đoạn đổi mới và phát triển vùng cực Nam.Nhưng có điều...– Dân xứ mình ai cũng biết, sông Cái Bé không phải sông thường.

Cầu cũ ngày xưa làm hoài không được, móng bị lún, người thi công bị tai nạn liên tục.

Anh nghi có vấn đề về long mạch.

Chuyện này chỉ em giúp được.Tôi trầm ngâm một lúc.

Cầu là chuyện lớn.

Liên quan đến dòng chảy, khí vận, mạch đất, âm dương tụ tán.

Không khéo là trấn long sai, khiến cả vùng bị yểm ngược, dân sinh khốn đốn.Nhưng tôi nghĩ đến lời nội từng nói:–

Sau này, có khi cháu phải không chỉ cất nhà mà còn dựng nghiệp lớn cho người khác.

Phải biết xem trời đất, hiểu lòng người.Tôi nhận lời.Tôi về An Biên, mang theo thước Lỗ Ban, la bàn Phong Cốt, và cuốn "Bí Pháp Khảo Long Thủy Đạo" mà nội để lại.

Tôi nhờ anh Hai gọi mấy bậc lão nông, cùng với một ông thầy Địa ở Hòn Đất tới khảo sát.Chúng tôi ngồi xuồng, chèo dọc sông Cái Bé.

Tới một đoạn cong khúc giữa hai xã, tôi đứng dậy nhắm mắt, đặt tay xuống mé nước.

Lòng bàn tay tê rần, gió nổi lên lành lạnh.Tôi lẩm nhẩm:– Đây là khúc long sa tụ thủy, khí âm bốc lên, như có hồn oan bám dưới lòng sông...Tôi sai người thả một bó nhang trôi sông, nhang cháy được nửa đoạn thì chìm xuống, hương còn thơm như mới đốt.

Đó là dấu hiệu đất chưa sạch, thủy chưa an.Tôi ngồi lại, vẽ lên mặt sông một vòng tròn bằng vôi bột, rải muối, gạo rang, và niệm "Chú Khai Long Tịnh Thủy" – một bài cổ chú của Lỗ Ban dùng để mở khóa long mạch bị yểm.Sau đó tôi cắm một cây tre già xuống giữa dòng, tre có buộc mảnh lụa vàng viết tên người chết trên đoạn sông này (tôi tra sổ tử từ 1950 đến nay, cả người lính, người dân, kẻ trốn nợ, người điên nhảy cầu...).Tôi nói nhỏ:– Hôm nay, tôi mượn lòng sông dựng cầu.

Ai còn oán, xin theo nhang mà về chùa, tôi thay mặt trần gian cúng trả nợ xưa...

Đêm hôm đó, tôi làm một lễ trấn long mở vận tại bờ sông.

Gồm:

– Cốt tre khắc phù Lỗ Ban

– Bùa ngũ hành an vị dưới mỗi trụ cầu

– Thạch anh tím, đồng lá, cát chùa, nước giếng cổ – tất cả chôn đúng vị trí của 9 trụ chính dưới sông.Tôi niệm "Địa Pháp An Trụ Kiều", kết hợp bài Tụ Long Phù do nội tôi truyền lại – chỉ dùng trong các công trình lớn.Khi bùa cuối cùng được đặt xuống sông, trời đang đầy mây bỗng quang đãng, cá quẫy mạnh bên bờ như có gì vừa được khai thông...

Công trình chính thức khởi công một tháng sau.

Không còn sự cố nào như xưa.

Thợ làm thuận lợi, địa chất ổn định.

Một năm sau, cây cầu mang tên "Cái Bé " được thông xe.

Dân hai bên bờ mở hội ăn mừng suốt ba ngày ba đêm.Anh Hai Gia trở thành gương mặt tiêu biểu của tỉnh, được đề cử lên Phó Chủ tịch tỉnh Kiên Giang, còn tôi... người ta bắt đầu gọi là thầy An – người giữ long mạch Cửu Long.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 25 : Mùa gió chướng


An Biên, mùa gió chướng thổi lộng – ngày 25 tháng Giêng âm lịchTrời trong xanh lạ thường.

Ánh nắng như thắp sáng mặt nước sông Cái Bé.

Trên đầu cầu, cờ đỏ sao vàng bay rợp, xen lẫn cờ phướn ngũ sắc do chính tôi vẽ, tượng trưng cho ngũ hành điều hòa, địa khí khai thông.Bà con từ Gò Quao, U Minh Thượng, Vĩnh Thuận...

đổ về đông nghẹt.

Có cả dàn trống trận của chùa Từ Vân, đội múa lân Bảy Lập từ Thới Bình, các thầy tụng Phật giáo Nam Tông và ban tổ chức lễ nghi nhà nước đều có mặt.Tiếng loa vang lên trang trọng:– Hôm nay, huyện An Biên long trọng tổ chức lễ khánh thành Cầu Cái Bé, cây cầu lớn bắc qua sông Cái Bé, nối liền các tuyến giao thông quan trọng phía Tây Nam Bộ...Khi tiếng phát biểu vừa dứt, tôi bước lên theo lời mời của anh Hai Gia.

Tôi mặc áo dài nâu đất, khăn đóng, cầm theo thước Lỗ Ban cổ và một bó nhang.Anh Hai giới thiệu:– Đây là thầy An – người con của đất này, cháu nội cụ Nguyễn Văn Đáng, bậc Lỗ Ban chân truyền.

Chính chú ấy đã giúp khảo long trấn thủy, giữ cho công trình này bình an.Tôi chỉ cúi đầu, thắp nhang, rồi quỳ xuống giữa lòng cầu – nơi tôi từng trấn cốt tre, rải phù chú.

Tôi lạy bốn lạy: trời – đất – tổ tiên – nhân dân.

Gió nổi lên, hương nhang cháy đều, không tàn không cong, như dấu hiệu đất trời ứng nhận.Lúc đó, từ dưới cầu, Hạ bước lên, mặc áo dài màu trắng sữa, tóc cài bông điên điển, đôi mắt dịu dàng nhìn tôi.

Nàng đứng bên tôi, tay chạm tay rất khẽ.Tôi hỏi nhỏ:– Em không ngại nắng à?Hạ cười:– Có anh ở đây... thì nắng cũng thành mây chiều thôi.Rồi nàng nhìn về phía xa – nơi cây cầu trải dài như một dải lụa bạc vắt ngang con sông.

Giọng nàng thì thầm – nhưng nghe như tiếng gió vọng về từ nội tôi:– Nhà mình giờ đâu còn là một căn nhà nữa... mà là cả vùng đất này.Tôi nhìn Hạ.

Tim tôi khẽ run lên.

Không phải vì gió, mà vì tôi biết: mình đang sống trong một khoảnh khắc vượt khỏi thời gian.

Khi người ta không chỉ dựng một căn nhà để trú ngụ, mà dựng được lòng tin, tình yêu, và cả một khúc sử mới cho quê hương.Phía sau lưng tôi, tiếng cồng chiêng, tiếng trống, tiếng lân, tiếng hát dân ca hòa vào nhau như một khúc trường ca mùa gió chướng.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 26 : Người Cất Nhà Bằng Gỗ và Chữ


Ba năm tôi đi cất nhà ở Bình Dương, ai cũng tưởng tôi chỉ lo đục đẽo, trét hồ, dựng cột.

Nhưng ít ai biết, đó cũng là ba năm tôi học cách dựng nên chính đời mình.

Ban ngày tôi làm thợ, tối về lại học – từ kiến trúc cổ phương Đông, ngôn ngữ học Hán Nôm, đến cả những tài liệu quốc tế về phong thủy và kiến tạo không gian sống.

Không phải để lấy danh, mà là để hiểu sâu hơn về nghề nghiệp tổ tiên để lại – thuật Lỗ Ban.Ở bên tôi những năm đó là Hạ – cô gái miền Tây dịu dàng nhưng gan lì.

Mỗi cuối tuần tôi về thăm, cô đều soạn sẵn một bàn cơm, một ấm trà, vài cuốn sách mà tôi cần đọc.

Có lần cô cười nói:– Học cho giỏi rồi mai mốt ra Hà Nội, làm giáo sư đi dự hội nghị lớn nghe?Tôi chỉ cười, tưởng lời nói chơi...Vậy mà đến khi tôi hoàn tất song song hai bằng học, bảo vệ thành công một đề tài đặc biệt về kiến trúc cảm ứng tâm linh trong dân gian Nam Bộ, tôi được một trường đại học ở miền Tây đề cử ra Hà Nội, dự Hội thảo Kiến trúc truyền thống và Canh tân đổi mới – với tư cách là giáo sư vinh dự chuyên ngành Kiến trúc học và Ngôn ngữ học ứng dụng.Buổi hội thảo tổ chức trang trọng tại Viện Hàn lâm Kiến trúc Quốc gia.

Người ta giới thiệu tôi là "một trong những chuyên gia trẻ hiếm hoi kết nối được giữa thực hành dân gian và học thuật hiện đại".

Nhưng tôi chỉ mặc chiếc áo sơ mi trắng giản dị, bước lên sân khấu trong tiếng vỗ tay nhẹ nhàng.Lúc tôi nói về căn nhà đầu tiên tôi dựng bằng tay và bằng niềm tin, về một miếng vải đỏ giấu trong cây cột cái, về cô gái đã thắp nhang bàn thờ nội tôi rồi thấy ông gật đầu mỉm cười, cả hội trường bỗng im lặng.Ở hàng ghế khách mời, Hạ ngồi đó, áo dài màu lam nhạt, tay cầm quyển kỷ yếu in tên tôi, mắt long lanh như ngày xưa dưới hàng cau quê nội.Sau phần trình bày, tôi bước xuống, đứng cạnh Hạ.

Tôi hỏi nhỏ:– Nhớ lời em nói không?

Em bảo anh làm giáo sư để dẫn em đi Hà Nội...Cô cười:– Giờ không phải mình đi Hà Nội nữa đâu...

Mình đang mở ra cả một con đường mới cho những đứa trẻ học nghề, để sau này tụi nó biết dựng nhà không chỉ bằng gạch ngói, mà bằng cả linh hồn của tổ tiên.sau buổi thaỏ luận, tôi được mời vào phòng khánh tiết phía sau hội trường – nơi các giáo sư đầu ngành, các kiến trúc sư quốc tế, và nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đang tụ họp.Họ đứng thành từng nhóm, nói chuyện bằng nhiều thứ tiếng, tay cầm ly rượu vang sóng sánh.

Trong cái không khí sang trọng mà hơi xa lạ ấy, tôi bước vào với chiếc áo sơ mi đã hơi nhăn sau buổi trình bày, trên tay vẫn là cuốn bản thảo viết tay về các mô thức mái nhà miền Tây.Một người đàn ông tóc bạc, dáng cao gầy, tiến lại gần.

Trên thẻ tên là dòng chữ:

GS.TS.

Nguyễn Tấn Kiệt – Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Ông chìa tay ra:– Cậu là An?

Thầy nghe nói nhiều rồi.

Lúc cậu nói về chiếc cột cái có miếng vải đỏ... thầy nghĩ tới "hồn nhà" mà xưa ông nội thầy từng nhắc.Tôi gật đầu, đáp:– Dạ, thầy nội con cũng thường nói, cây cột cái là xương sống của căn nhà, mà nếu ai cất nhà không dựng cột bằng lễ thì sau này như người không có sống lưng.Một tiếng cười vang lên nhẹ phía sau.

Là một người phụ nữ khoảng hơn năm mươi, tóc cắt ngắn, ăn mặc rất Tây nhưng đeo trên cổ mặt dây chuyền hình bàn tay Lỗ Ban bằng gỗ mun.

Bà là GS.

Isabelle Martel, nhà dân tộc học người Pháp, giảng dạy tại Đại học Sorbonne.

Bà nói tiếng Việt khá chuẩn:– Anh An, tôi có đọc bản dịch bài nghiên cứu của anh rồi.

Những điều anh làm ở Bình Dương giống với những nghi lễ xây cất của người Khmer vùng Kampot, tôi từng khảo sát năm 1998.Tôi mở to mắt:– Dạ, vùng đó có "bài cúng giằng hồn cột" rất giống bên mình, con từng đọc qua.Bà cười, chỉ vào tôi:– Anh là một trường hợp rất đặc biệt.

Thực hành – Học thuật – và cả Tâm linh.

Tôi mong có dịp mời anh qua Pháp nói chuyện với sinh viên tôi.Một vị khác chen vào, là GS.

Lưu Tường Văn – người từng viết bộ "Mộc Việt – Tinh hoa kiến trúc cổ".

Ông đưa cho tôi tấm danh thiếp và nói thẳng:– An, năm nay Viện Hàn lâm Kiến trúc có chương trình về phục dựng nhà cổ Nam Bộ ở Đồng Tháp và Cần Giờ.

Tôi muốn cậu tham gia với tư cách cố vấn thực địa.

Không ai hiểu lòng gỗ bằng người từng sống giữa gỗ.Tôi hơi lúng túng, quay sang Hạ đang đứng sau, nàng cười khẽ gật đầu.Tôi nói:– Dạ, con chỉ là người thợ cất nhà, nhưng nếu giúp được gì cho bản sắc của người mình, thì con xin làm.Căn phòng yên lặng vài giây, rồi những tiếng cười, cái gật đầu, cái bắt tay đầy kính trọng vang lên.Hôm đó, tôi rời khỏi hội trường với một tâm thế rất khác.

Không chỉ là người biết dựng nhà, mà còn là người dựng nên cầu nối giữa dân gian và học thuật.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 27 : Lá thư gởi về cõi thiêng


Đêm Hà Nội chớm lạnh.

Trong căn phòng khách sạn nhỏ nhìn ra hồ Tây, tôi ngồi bên bàn viết, thắp một nén nhang trầm rồi lấy ra tờ giấy dó, dòng mực cứ tuôn ra như nước vỡ bờ.

Tôi viết, như nói bằng tiếng lòng, gửi về cho một người đã khuất từ lâu – ông nội tôi, người đã gieo vào đời tôi hạt giống đầu tiên của cái nghề "cất nhà" từ thuở tôi còn lon ton chạy sau ông đi trồng cây, đóng đinh.Nội à,Bữa nay con đang ở Hà Nội, dự hội thảo về kiến trúc truyền thống.

Mấy ông giáo sư đầu bạc nghe con nói chuyện về cây cột cái với miếng vải đỏ mà gật gù như gặp lại chuyện cổ tích.

Có người muốn mời con đi Pháp, có người kêu con làm cố vấn cho mấy dự án phục dựng nhà cổ...Ở Bình Dương, con cũng mới cất xong một ngôi nhà cho một gia đình bị mất người – mà nội biết không, họ giấu chuyện đó, nên con bị quấy.

Nhờ nhớ lời nội, nhớ những bài chú Lỗ Ban, nhớ cách nội lấy tro gạo rải đường mà hóa giải... con làm xong được.Hạ... là người con gái mà con thương.

Hồi đó nội mất rồi mới gặp cô ấy.

Lạ lắm, có bữa Hạ thắp nhang bàn thờ nội, con thấy cây nhang run run rồi tàn cong xuống thành chữ "tâm".

Con tin là nội biết rồi.Con với Hạ ở chung hai năm, rồi con theo học hết mấy lớp mà nội ngày xưa hay nói: "Học chữ để giữ nghề".

Giờ con là giáo sư.

Nghe hơi mắc cỡ, nhưng thiệt tình là con học vì muốn hiểu sâu hơn để kể cho người khác nghe về nghề, về nhà, về quê mình.Nội ơi, nếu ở đâu đó nội đọc được lá thư này, thì con chỉ xin một điều: nội gật đầu một cái cho con biết, con đi đúng đường.Tôi gấp thư lại, mang xuống sân.

Trên vỉa hè lát đá xám, tôi thắp lửa đốt lá thư.

Gió đêm thổi nhẹ, tờ giấy mỏng tan vào ánh sáng cam như tro sao.

Tôi ngẩng đầu nhìn lên trời – không thấy gì, chỉ có một cảm giác ấm lặng, như một bàn tay già nua đặt lên vai tôi, rồi rút lại.Hạ đang chờ tôi ở cổng khách sạn.

Nàng khoác chiếc áo len màu kem, tay cầm ly trà nóng.– Em tưởng anh ngủ rồi?Tôi lắc đầu, chìa tay ra:– Viết thư cho nội.

Giờ đi dạo với em, trả nợ cái hẹn từ lúc chiều.Chúng tôi cùng đi bộ ra bờ hồ.

Hà Nội về khuya như một bà lão đang ru giấc ngủ, đèn vàng rơi xuống mặt nước thành những nhánh lửa lặng lẽ.

Gió thoảng mùi lá sấu, mùi bánh nướng từ hàng gánh nào đó khuất sau lưng.Hạ dựa đầu vào vai tôi:– Anh biết không...

Ngày xưa em luôn nghĩ anh thuộc về bụi gỗ và cánh đồng.

Nhưng giờ thấy anh giữa thủ đô, em mới hiểu: anh là người có thể cất nhà ở bất kỳ đâu, miễn là nơi đó có tình người và có em.Tôi mỉm cười:– Nhà mình giờ đâu còn là một căn nhà nữa...

– ...mà là cả vùng đất. – Hạ nói tiếp, rồi cười, đôi mắt ánh lên như đèn hồ.Tôi siết chặt tay nàng, bước thêm vài bước rồi dừng lại.– Em biết không, hôm nay khi đốt lá thư, anh nghĩ: nếu có kiếp sau, anh vẫn muốn làm cháu nội của nội... và vẫn muốn gặp em, bên dòng sông nào đó, dưới một mái nhà bằng gỗ.
 
Nhà Lỗ Ban
Chương 28 : Hôn lễ bên dòng Kênh


Trời tháng Chạp, miền Tây mát mẻ lạ thường.

Gió từ kênh Phán Linh thổi về mang theo mùi lúa vừa gặt, xen lẫn tiếng chim chào mào ríu rít trên nóc nhà.

Căn nhà của cha tôi – nơi tôi từng sinh ra, lớn lên, từng nghe tiếng đục cột cái, tiếng lưỡi cưa xoèn xoẹt – giờ đã được sửa lại.

Ngói mới, nhưng nền cũ vẫn còn nguyên.

Và hôm nay, nó sẽ đón dâu.Không xe sang, không nhà hàng tiệc cưới.

Mọi thứ được dựng bằng tay.

Tôi cùng anh em trong xóm dựng cổng cưới bằng tre, quấn lá dừa, treo câu liễn đỏ do bác Sáu Thắm viết.

Âm ly thùng bass cũ được anh Tư Khánh chỉnh lại, phát ra tiếng vọng cổ mượt như rót vào tim.

Bên trong, má tôi và mấy dì đang nấu bánh tét, luộc gà, mùi hành phi bay khắp sân.Hạ mặc áo dài trắng, tóc vấn đơn sơ, tay cầm nhành bông lúa đã nhuộm nắng.

Nàng đi từ đầu xóm, không kiệu, không rước, chỉ là...

đi bộ giữa hai hàng họ hàng lối xóm, tay chắp nhẹ như lễ Phật, miệng cười thật hiền.

Lũ nhỏ rải hoa giấy, còn mấy ông già thì vỗ tay cười:– Ờ, con nhỏ này coi vậy mà đẹp dữ đa.

Đẹp... như cái nết nó vậy đó!Tôi ra đón nàng trước sân, cúi đầu chào rồi dắt tay vào.

Bàn thờ ông nội được đặt chính giữa nhà, nến đỏ cháy rực, tàn hương cong như vầng trăng non.

Tôi rót rượu, Hạ dâng trà.

Khi cả hai cùng quỳ xuống lạy, tôi thấy... như có ánh sáng nhẹ run lên nơi khung thờ.

Có thể chỉ là ảo giác – nhưng tôi tin, ông nội đang ở đó.– Nội ơi, hôm nay con cưới vợ.

Con rước nàng về nhà, nơi mà nội từng cất từng cây cột, từng miếng ván.

Con hứa, tụi con sẽ sống có tâm, làm nghề cho đúng, thương nhau tới trọn đời.Cha tôi nghẹn ngào, lấy khăn chấm nước mắt, rồi lật sấp bao lì xì đỏ, nhét vào tay Hạ:– Từ nay con là con dâu dòng này.

Đừng gọi bác nữa, kêu ba đi cho thân.Mọi người vỗ tay.

Hạ lí nhí:– Dạ... ba.Bữa tiệc diễn ra ngoài sân, giữa bóng cây bần và tiếng vạc kêu xa xa.

Không sân khấu, chỉ là mấy cây cột gỗ dựng mái lá, giăng đèn dây, kê bàn ghế nhựa.

Bà con đến đông nghẹt, ai cũng đem theo một món – người cho nải chuối, người biếu xôi, người dắt theo đàn ca tài tử.

Tôi và Hạ ngồi ở giữa, tay nắm tay, không rời nhau một bước.Khi giọng đờn kìm lên tiếng, anh Tư Khánh gảy bản Duyên Kiếp, rồi Hạ đứng dậy... hát một câu vọng cổ đã tập rất lâu:"Dù cho năm tháng đổi thay

Em vẫn theo anh đi khắp miền sông nước..."

Giọng nàng ngọt đến rơi nước mắt.

Mấy bà ngồi dưới xuýt xoa:– Trời đất ơi, nhỏ này không chỉ làm dâu giỏi mà còn ca hay nữa nghen!Tôi cầm tay nàng, nói nhỏ:– Nhà mình... từ nay đủ ba đời.

Em thấy không?Nàng nhìn quanh – thấy cha tôi đang cười, thấy bàn thờ nội lặng lẽ ấm áp, thấy con nít chạy rộn, thấy ánh trăng rớt xuống mái lá...– Ừ...

Nhà mình bây giờ đâu chỉ là một căn nhà.

...Mà là cả vùng đất.
 
Back
Top Bottom