Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 150: Ngư Phù Nguy, ngươi sao thế?



Nước bắn tung tóe, Ngư Phù Nguy chìm vào Địa Ngục Huyết Trì. Nước trong hồ đỏ sẫm bỏng rát tựa như lửa thiêu, khiến hắn đau đớn đến tận xương tủy, cơn thống khổ không phải người thường có thể chịu đựng được làm hắn lập tức ngất lịm. Dưới đáy hồ, quỷ thú nhanh chóng lao tới, há cái miệng đầy răng nanh sắc nhọn, định nuốt chửng hắn.

Đã vạn năm nay Địa Ngục Huyết Trì chưa từng thấy bóng dáng người sống, trong khi máu thịt của người sống lại có sức hấp dẫn đặc biệt với quỷ thú. Một con quỷ giống Ba Nhân Tượng cắn vào bắp chân Ngư Phù Nguy, máu tươi trào ra làm lũ quỷ thú trong hồ trở nên cuồng loạn, chỉ chực xé xác hắn ra thành từng mảnh.

Lý Doanh không hề suy nghĩ, chỉ ôm chặt xá lợi Phật đỉnh, dốc sức bò về phía trước rồi lao thẳng xuống huyết trì.

Nàng muốn cứu Ngư Phù Nguy.

Nàng hoàn toàn có thể bỏ mặc hắn, chỉ cần mang theo xá lợi Phật đỉnh rời khỏi Huyết Bồn Khổ Giới, thoát ra Sinh Tử Đạo để trở lại nhân gian. Như vậy, nàng sẽ có thể cứu được lang quân của mình. Phải biết rằng lang quân của nàng lúc này đang lâm vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc, không biết đang phải chịu giày vò ra sao. Nếu chậm trễ, e rằng nàng sẽ vĩnh viễn không còn cơ hội gặp lại chàng.

Thế nhưng, nàng không hề đắn do dù chỉ một khắc, cũng chẳng màng đến tính mạng của bản thân. Dồn hết sức lực, nàng rời khỏi cầu gỗ, lao xuống huyết trì, chỉ để cứu một người đã từng muốn đưa nàng tới Vong Tử Thành.

Đây chính là Lý Doanh.

Khoảnh khắc rơi xuống huyết trì, nàng cũng giống như Ngư Phù Nguy, lập tức bị làn nước sôi bỏng rát nhấn chìm, cơn đau xuyên thấu tận cốt tủy. Nhưng ngay lúc đó, xá lợi Phật đỉnh bừng lên ánh sáng trắng chói lòa, như lưỡi kiếm sắc bén chém vào lũ quỷ thú đang lao vào cắn xé Ngư Phù Nguy. Bị ánh sáng Phật pháp giáng xuống, bầy quỷ thú đau đớn gào rú, quằn quại lùi lại, rồi nhanh chóng quay đầu tháo chạy.

Những ác hồn chịu hình phạt trong huyết trì cũng bị ánh sáng Phật pháp chấn nhiếp. Có kẻ giơ bàn tay xương trắng, mong được xá lợi Phật đỉnh độ hóa, nhưng chỉ vừa chạm tới ánh sáng, chúng đã bị ánh sáng thiêu cháy, thân thể bốc lên làn khói trắng, liền sợ hãi mà rụt tay lại. Không còn ai dám tới gần xá lợi Phật đỉnh, cũng không ai dám chạm vào Lý Doanh và Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy đã hôn mê bất tỉnh. Lý Doanh bị nước hồ nóng bỏng làm thương tích chồng chất, thần trí cũng dần trở nên mơ hồ. Trước khi chìm sâu vào cơn mê, nàng gom góp chút sức lực cuối cùng, nắm lấy cánh tay Ngư Phù Nguy, nhét xá lợi Phật đỉnh vào lòng bàn tay hắn. Ý thức nàng dần mờ đi, đôi mắt chậm rãi khép lại.

Giữa huyết trì đỏ ngầu, ánh sáng Phật pháp từ tay Ngư Phù Nguy lan tỏa ra bốn phía, như những nhánh dây leo mọc vươn lên từ đáy hồ. Cuối cùng, ánh sáng kết thành một đóa Phật đài khổng lồ, nâng Lý Doanh và Ngư Phù Nguy lên khỏi mặt nước, bảo vệ bọn họ không còn chịu sự thiêu đốt của huyết trì.

Trên cầu gỗ, câu hồn sứ giả trợn tròn mắt nhìn cảnh tượng trước mặt. Gã đảo mắt nhìn quanh, chấn động này chắc chắn sẽ kinh động đến quỷ lại. Đợi quỷ lại đến nơi, cả Lý Doanh lẫn Ngư Phù Nguy ắt đều không thể thoát thân.

Gã nghiến răng, đạp chân xuống đất một cái, rồi quay đầu chạy thẳng.

Trong Địa Ngục Huyết Trì, chỉ còn lại đóa Phật đài trắng tinh thuần khiết, lơ lửng giữa không trung, cùng với lũ ác hồn, quỷ thú bao quanh mà không dám đến gần.

Nếu không có gì bất ngờ, quỷ lại trong Huyết Bồn Khổ Giới sẽ lần theo động tĩnh tìm đến, bắt giữ cả Lý Doanh lẫn Ngư Phù Nguy để tra xét. Nhưng đúng vào lúc này, một con đò nhỏ đơn độc từ Nại Hà, theo dòng nước lặng lẽ trôi dạt đến Địa Ngục Huyết Trì.

Người lái đò đội nón trúc, chống nhẹ mái chèo, đưa con đò nhỏ trôi đến bên đóa Phật đài. Lão thu lại cây sào trúc, cúi người xuống, nhẹ nhàng v.uốt ve mái tóc Lý Doanh. Nhìn sắc mặt tái nhợt của nàng giữa cơn hôn mê, lão khẽ thở dài, ánh mắt dời sang Ngư Phù Nguy, một người cũng đang bất tỉnh. Thần sắc lão trở nên phức tạp, khẽ lắc đầu, thấp giọng lẩm bẩm: “Chỉ mong lần này ngươi đừng phụ nàng thêm nữa.”

Lão đứng thẳng dậy, nâng tay lên, một ngọn quỷ hỏa xanh lục bừng cháy trong lòng bàn tay, hóa thành luồng sáng dịu dàng, đẩy đóa Phật đài lững lờ trôi ra khỏi huyết trì.



Trong cung Hàn Lương, Long Hưng Đế ngồi tựa trên chiếc sạp thấp, đầu ngón tay lướt nhẹ qua bộ giáp nữ tướng trước mặt. Là hoàng đế một cõi, nhưng hắn có một người mẹ cường thế, si mê quyền lực đến mức dù hắn đã trưởng thành vẫn không chịu buông tay.

Từ khi còn bé, hắn đã hiểu rõ một điều, ở hoàng thất không có thứ gọi là tình thân. Vì thế, hắn sống trong nỗi sợ bị phế truất suốt từng giây từng phút, kể cả khi mẹ hắn chưa từng biểu lộ ý định đó, thì hắn vẫn luôn phải dè chừng.

Chính vì thế, hắn căm ghét tất cả những phi tần mà mẹ hắn đã chọn cho hắn. Dù những người đó có dung mạo đoan trang, tính tình dịu dàng, tri thư đạt lễ, không có lấy một khuyết điểm nào để bắt bẻ, thì hắn vẫn ghét cay ghét đắng. Đơn giản chỉ vì họ là người do mẹ hắn chọn cho hắn.

Mãi đến khi Huệ phi, một nữ nhân đến từ thảo nguyên xuất hiện. Khác xa với đám phi tần trong cung cấm, nàng ta có vết sẹo bỏng lớn bên má phải, để che giấu nó, nàng đã xăm lên mặt một hoa sen đỏ rực. Tính tình nàng ích kỷ, tàn nhẫn, chẳng biết được mấy chữ. Nàng không giống những nữ nhân khác, chưa từng lấy lòng hắn, càng không hề ngoan ngoãn thuận theo. Nhìn từ góc độ nào đi nữa, nàng cũng chẳng phải một nữ tử thích hợp làm phi tần.

Vậy mà hắn lại yêu nàng.

Hắn sủng ái Huệ phi muôn phần, dù biết rõ trong lòng nàng còn vương vấn một người đàn ông khác, hắn vẫn yêu chiều nàng, thậm chí chẳng màng đến thân phận Hồ nữ, hắn vẫn ban kiếm cho nàng. Hắn cũng cho nàng mặc áo giáp, ngày đêm kề cận. Khi ngủ, chỉ cần có nàng cầm kiếm hộ giá bên cạnh, hắn liền yên giấc vô cùng.

Nhưng nữ nhân từng khiến hắn yên lòng ấy, nay đã không còn nữa.

Hắn mơ hồ nhớ lại ngày trục xuất nàng khỏi cung, rốt cuộc vẫn không kiềm được mà hỏi: “Trẫm đối xử với nàng chưa đủ tốt đúng không? Vì sao cứ nhớ mãi về hắn?”

Nàng thoáng chần chừ, rồi đáp: “Thánh nhân đối xử rất tốt với Ngột Đóa, nhưng thứ gì dễ dàng có được, Ngột Đóa sẽ không trân trọng.”

Nàng chính là người như vậy đấy: cố chấp, tàn nhẫn, hoang đường, không từ thủ đoạn. Tất cả những phẩm tính mà một nữ nhân không nên có, nàng đều có cả. Không sao, hắn cũng thế, những gì một bậc đế vương không nên có, hắn đều có đủ.

Thái hậu từng hoài nghi hỏi hắn, rốt cuộc hắn thích Huệ phi ở điểm nào. Đây chính là đáp án.

Long Hưng Đế v.uốt ve bộ khôi giáp của Huệ phi, hai hàng lệ cuối cùng cũng lặng lẽ lăn xuống trên gương mặt tuấn tú. Vị quân vương vốn được bách tính ca tụng như thần tiên trên trời, lúc này đây, ánh mắt lại chỉ toàn nỗi oán hận khắc cốt ghi tâm. Hắn hỏi nội thị: “Thái hậu vẫn chưa xử trí Thôi Tuần à?”

Nội thị dè dặt đáp: “Chưa ạ.”

“Chuẩn bị bộ liễn, trẫm muốn đến điện Bồng Lai.”

Nội thị thoáng ngập ngừng, khuyên nhủ: “Hiện nay Thánh nhân ở tình thế khó xử, hà tất phải đến điện Bồng Lai? Thôi Tuần gây chuyện động trời, dù Thái hậu có sủng ái hắn thế nào đi nữa, e rằng cũng không thể dung thứ. Thánh nhân chỉ cần an tĩnh chờ tin lành là được rồi ạ.”

Long Hưng Đế cười lạnh: “Ngươi thì biết gì?”

Hắn hỏi nội thị: “Thái hậu có mấy nhi tử?”

“Chỉ… chỉ có mình Thánh nhân.”

“Hậu duệ thì sao?”

“Vẫn… vẫn chưa có.”

Long Hưng Đế gằn từng chữ: “Vậy nên, giữa Thôi Tuần và trẫm, bất kể công hay tư, bà ấy chỉ có thể chọn trẫm.”



Về việc vì sao đến nay Long Hưng Đế vẫn chưa có con, chỉ có hắn là người hiểu rõ nhất.

Trước khi nắm giữ quyền lực tuyệt đối, hắn sẽ không để bản thân có hoàng tử.

Mẫu tử ruột thịt mà còn toan tính đến mức này. Bách quan luôn cho rằng hắn quá mức nhân nghĩa, chẳng giống con trai của một Thái Xương Đế mưu sâu tính kỹ chút nào. Nhưng không ai biết, trong số các huynh đệ của hắn, hắn mới chính là người giống Thái Xương Đế nhất.

Trong điện Bồng Lai, Long Hưng Đế quỳ trước mặt Thái hậu. Chỉ qua một đêm, dường như bà đã già đi rất nhiều. Bà nằm nghiêng trên giường, nhắm mắt chẳng muốn nhìn mặt hắn. Một lúc lâu sau, bà mới chậm rãi hỏi: “Những gì Thôi Tuần cáo buộc con có đúng không?”

Long Hưng Đế đáp một cách dứt khoát: “Không.”

Thái hậu từ tốn mở mắt, nhìn chằm chằm vào hắn. Nhưng trên gương mặt Long Hưng Đế không hề có lấy một tia hổ thẹn. Nửa ngày sau, bà mới thở dài một hơi, giọng nói tràn ngập đau đớn: “Được, con nói không phải, vậy a nương sẽ tin con.”

Bách quan vì hai chữ “trung quân” mà tự dối lòng, còn bà thì sao, chẳng phải cũng vì yêu con mà tự dối lòng đó sao?

Long Hưng Đế không hề lộ vẻ vui mừng, hắn điềm tĩnh nói từng câu từng chữ: “A nương, giờ đây, giữa nhi tử và Thôi Tuần chỉ có một người được sống sót. A nương hãy chọn đi.”

Thế nhưng, Thái hậu lại do dự. Thôi Tuần gióng trống Đăng Văn, tố giác bà cùng Long Hưng Đế, tội này đáng tru di cả vạn lần, vậy mà bà vẫn còn lưỡng lự. Long Hưng Đế cúi đầu, âm thầm siết chặt nắm tay, móng tay đâm sâu vào da thịt, đau thấu tận tim.

Nhưng dù hận đến đâu, ngoài mặt cũng không thể để lộ. Hắn cũng chẳng nói thêm lời nào, yên lặng chờ Thái hậu đưa ra lựa chọn.

Mãi đến khi hương bạch đàn trong lư hương Bác Sơn hình đầu phượng cháy hết, Thái hậu bất chợt lên tiếng. Bà nắm chặt túi hương bằng bạc chạm rỗng hoa điểu bồ đào trong tay, nghiêng người, quay lưng về phía Long Hưng Đế, giọng nói mơ màng như đang mộng du, chẳng rõ đang nói với ai: “A nương… không giữ nổi Thôi Tuần nữa rồi…”

Long Hưng Đế ngước mắt nhìn lên, sau một hồi im lặng, cuối cùng Thái hậu cũng nhắm mắt, thấp giọng nói: “Bồ Tát Bảo… xử trí Thôi Tuần ra sao, tùy con định đoạt.”



Thái hậu không còn che chở cho Thôi Tuần nữa, Long Hưng Đế lập tức hạ lệnh: giao cho Tam Ty gồm Ngự Sử Đài, Đại Lý Tự và Hình Bộ cùng thẩm tra, nhất định phải khiến Thôi Tuần thừa nhận rằng hắn đã vu khống quân phụ, có ý đồ lật đổ Đại Chu.

Lư Hoài bị đuổi về phủ chờ xử lý. Long Hưng Đế cố ý chọn một Ngự sử vừa trung thành vừa bảo thủ làm chủ thẩm. Vị ngự sử này cả đời chỉ biết đến đạo lý: “Chưa có quân thần, đã sẵn đạo quân thần.” Ông ta xin thỉnh thị của Long Hưng Đế, hỏi nếu Thôi Tuần không chịu nhận tội, liệu có thể dụng hình hay không.

Long Hưng Đế khẽ gật đầu. Trong tâm trí hắn hiện lên dung nhan rực rỡ như một đóa sen của Huệ phi. Trong cơn ghen ghét, móng tay lại càng bấu chặt vào lòng bàn tay, hắn cười lạnh: “Thôi Tuần chẳng qua chỉ là thứ yêu nghiệt lấy sắc hầu người, quyến rũ quân chủ, một kẻ như hắn mà cũng xứng dùng đến hình cụ của nam nhân sao? Dùng hình cụ của nữ nhân đi! Truyền đạt nguyên văn lời này của trẫm cho hắn!”

Ngự sử tuân lệnh. Dưới sự thẩm tra của Tam Ty, Thôi Tuần kiên quyết không nhận tội vu cáo. Tam Ty ra lệnh dùng hình, nhưng chỉ dùng hình cụ của nữ nhân để làm nhục hắn. Trước tiên là châm hình, những cây kim sắt xuyên qua kẽ móng tay. Sau đó là trát hình, dùng những thanh trúc kẹp lấy ngón tay, mười ngón liền tâm, đau đớn đến thấu xương. Trong ba ngày, Thôi Tuần đau đến ngất đi tám lần, bị dội nước lạnh tỉnh lại rồi tiếp tục chịu hình. Dưới cực hình tra tấn, mười ngón tay của hắn gãy nát, máu thịt bầy nhầy, thê thảm không nỡ nhìn.

Nhưng dẫu bị làm nhục thế nào, chịu những hình phạt tàn khốc ra sao, Thôi Tuần vẫn không nhận tội. Hắn chỉ lặp đi lặp lại một câu duy nhất: “Quân phụ b.án n.ước, chẳng bằng cầm thú, chẳng bằng súc sinh!”



Lý Doanh tỉnh lại giữa một rừng hoa Mạn Châu Sa.

Nàng cố gắng mở mắt, cơ thể vẫn mềm nhũn, yếu ớt vô lực. Bên cạnh nàng, Ngư Phù Nguy vẫn đang hôn mê bất tỉnh. Lý Doanh lê người đến gần, đưa tay đẩy hắn: “Ngư Phù Nguy? Ngư Phù Nguy?”

Cuối cùng, hắn cũng chậm rãi tỉnh lại. Trong tay hắn vẫn nắm chặt một viên xá lợi Phật đỉnh, vết thương do quỷ thú cắn xé trên thân đã hoàn toàn lành lặn. Theo lý mà nói, hắn lẽ ra phải khỏe lại, thế nhưng trong ánh mắt hắn chỉ có sự mờ mịt đáng sợ.

Hắn nhìn chằm chằm vào Lý Doanh: “Ngươi… vừa gọi ta là gì?”

Lý Doanh tê rần cả da đầu: “Ngư Phù Nguy, ngươi sao thế?”

Ngư Phù Nguy không đáp, tựa như đang chìm trong hồi ức nào đó, vẻ mặt thống khổ giằng xé. Lý Doanh không hiểu, nàng vừa định mở miệng thì chợt thấy một toán quỷ lại áo lục, tay cầm xiềng xích, đang tiến về phía này. Nàng vội vàng rạp mình xuống rừng Mạn Châu Sa, không dám cử động. Nhớ đến chuyện Ngư Phù Nguy muốn đưa nàng đến Vong Tử Thành, nàng nhỏ giọng cầu xin: “Ngư Phù Nguy, quỷ lại của Vong Tử Thành đến bắt ta rồi, nhưng ta không thể đi, ta phải cứu Thôi Tuần… Ta xin ngươi, đừng lên tiếng, ngươi muốn gì ta cũng đáp ứng ngươi…”

Ánh mắt Ngư Phù Nguy khẽ động, hắn nhìn về phía quỷ lại áo lục, lẩm bẩm: “Quỷ lại… của Vong Tử Thành?”

Lý Doanh tim đập thình thịch, nhưng Ngư Phù Nguy lại bỗng im lặng, chỉ nằm im cùng nàng giữa biển hoa đỏ thẫm. Đám quỷ lại dừng bước, nhìn quanh rừng Mạn Châu Sa rợp trời, có lẽ không thấy gì khác nên lại kéo xiềng xích rời đi tìm kiếm nơi khác.

Lý Doanh cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm. Nàng chống người ngồi dậy, vừa định cảm tạ Ngư Phù Nguy thì lại bắt gặp trong mắt hắn lóe lên một tia độc ác chưa từng thấy. Nàng không khỏi run lên: “Ngư Phù Nguy… ngươi… ngươi sao thế?”

Ngư Phù Nguy trừng mắt nhìn nàng đầy oán độc. Giây tiếp theo, hắn đột nhiên nhào đến, bóp chặt cổ nàng, sức lực mạnh đến mức khiến nàng gần như nghẹt thở: “Ta là Ngư Phù Nguy, ta cũng là Trịnh Quân!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 151: Giết nàng, hay cứu nàng?



“Trịnh Quân?”

Chẳng phải Trịnh Quân đã chết rồi sao? Chẳng phải hắn cũng giống nàng, đã chết suốt ba mươi năm nay rồi sao?

Lý Doanh trừng lớn mắt, kinh hoàng nhìn gương mặt chẳng giống Trịnh Quân một chút nào kia. Ngư Phù Nguy… sao có thể là Trịnh Quân được?

Dường như nhìn thấu suy nghĩ trong lòng nàng, ngón tay Ngư Phù Nguy càng bóp chặt hơn: “Ngư Phù Nguy chính là kiếp sau của Trịnh Quân!”

Ngư Phù Nguy là kiếp sau của Trịnh Quân? Ngư Phù Nguy là chuyển thế của Trịnh Quân?

Linh hồn chuyển thế, uống xong bát canh Mạnh Bà thì những chuyện của tiền kiếp đều sẽ quên sạch.

Nếu không rơi xuống Địa Ngục Huyết Trì, không bị nước trong hồ nhấn chìm, Ngư Phù Nguy cũng sẽ không nhớ lại kiếp trước.

Mà một khi đã nhớ ra thì đồng thời cũng nhớ đến cảnh cả gia tộc bị tàn sát.

Hận ý khắc sâu tận xương trỗi dậy, những ngón tay siết trên cổ Lý Doanh càng lúc càng chặt. Nàng bị bóp đến khó thở, ra sức giãy giụa, nâng tay đập mạnh vào cánh tay Ngư Phù Nguy, muốn hắn buông ra. Nhưng cơ thể nàng vốn đã suy nhược, sức lực ấy chẳng thấm vào đâu so với hắn. Ngư Phù Nguy hận chết nàng, hắn muốn b.óp ch.ết nàng. Khuôn mặt hắn vặn vẹo: “Ngươi hại cả nhà họ Trịnh ta! Người như ngươi mà cũng xứng với hai chữ “lương thiện” ư?”

Ngư Phù Nguy trừng mắt nhìn nàng, ánh mắt tràn đầy đau đớn và cuồng nộ: “Ngươi đáng chết! Ngươi thật sự đáng chết!”

Lý Doanh bị bóp đến nghẹt thở, khuôn mặt đỏ bừng, trong mắt dâng lên hơi nước. Một giọt lệ từ khóe mắt nàng lặng lẽ lăn xuống. Nhìn thấy giọt nước mắt ấy, toàn thân Ngư Phù Nguy bỗng run lên, như bị điều gì đó làm chấn động, cả người hắn sững sờ.

Trong lòng hắn tựa như có hai giọng nói đang giằng xé. Hắn không ngừng nhắc nhở mình rằng hắn là Trịnh Quân, mà Trịnh Quân thì nên giết Lý Doanh, nên xé nát linh hồn nàng để báo thù cho cả nhà họ Trịnh. Nhưng… ngoài là Trịnh Quân, hắn còn là Ngư Phù Nguy. Mà Ngư Phù Nguy… thì sẽ không đời nào xuống tay với Lý Doanh.

Những ký ức xưa lần lượt hiện về, có quá khứ của Trịnh Quân, nhưng càng nhiều hơn là những hồi ức thuộc về Ngư Phù Nguy. Hắn nhớ đến từng khoảnh khắc ở bên nàng, nhớ rằng nàng chưa từng xem thường hắn chỉ vì hắn là một thương nhân, trái lại, nàng vẫn đối đãi với hắn bằng lễ nghĩa chu toàn, để rồi từ đó rễ tình đâm sâu, khiến hắn dần đem lòng yêu nàng. Ngư Phù Nguy đã yêu Lý Doanh đến nhường ấy… làm sao hắn có thể làm tổn thương nàng được?

Nội tâm hắn giằng co mãnh liệt, cuối cùng, bàn tay đang siết chặt cổ nàng dần nới lỏng.

Không khí ào vào mũi, vào miệng, Lý Doanh như vừa thoát khỏi Quỷ Môn Quan, ho sặc sụa từng hồi. Ngư Phù Nguy đứng thẳng dậy, nhìn xuống đôi bàn tay mình, lẩm bẩm: “Ta không giết được ngươi… Ta không giết được ngươi…”

Nhưng trên mặt hắn vẫn là vẻ đau đớn đến tột cùng: “Nhưng ngươi đã hại ta, hại cha mẹ ta, hại cả gia tộc ta… ta nhất định phải giết ngươi…”

Hắn cúi người nhặt xá lợi Phật đỉnh rơi dưới đất, rồi siết chặt trong tay, hàm răng nghiến lại. Bỗng, hắn xoay người bước đi, không hề ngoảnh lại, từng bước chìm vào biển hoa Mạn Châu Sa.

Cứ thế, hắn tàn nhẫn bỏ mặc Lý Doanh trên Sinh Tử Đạo.

Không có xá lợi Phật đỉnh, Lý Doanh chỉ có thể mắc kẹt trong Sinh Tử Đạo, không thể ra ngoài, cũng chẳng thể quay lại. Nàng sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong bóng tối hư vô, chẳng còn cơ hội nhìn thấy ánh mặt trời.



Ngư Phù Nguy nắm chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay, loạng choạng bước ra khỏi Sinh Tử Đạo, rời khỏi Địa phủ.

Hắn từ núi Bàn Trủng quay về Trường An.

Trong đại trạch Ngư phủ, tiếng sáo trúc bắt đầu ngân vang.

Ngư Phù Nguy uống đến say mèm, một tay vỗ mạnh lên trống Hạt [1] một tay nâng chén rượu, ánh mắt lướt qua vòng eo mảnh mai của vũ cơ người Hồ. Nàng vận váy lụa đỏ thắm thêu hoa thạch lựu, mái tóc dài buông rũ, điểm xuyết những chiếc chuông vàng li ti. Theo từng nhịp trống dồn dập, Hồ cơ kiễng chân, xoay tròn trên tấm thảm dệt hoa văn liên châu hình bầu dục. Lúc nàng xoay người, chuông vàng vang lên lanh lảnh, tà váy đỏ như mẫu đơn đúng kỳ nở rộ, chói mắt rực rỡ.

Một khúc vừa dứt, váy mẫu đơn dần thu mình lại. Ngư Phù Nguy vỗ trống, cười trong men say: “Tà áo xoay bay tựa trời tuyết, lưỡi kiếm vung lên nổi cuồng phong. Hay! Hay lắm!”

[1] Trống Hạt/Yết cổ (trống phong yêu) (gốc: 羯鼓): trống có dạng đồng hồ cát; phần giữa nhỏ thắt lại, hai đầu là mặt trống tròn, căng và phần được gõ bằng dùi trống làm bằng thanh tre vót mỏng. Nó cũng được du nhập vào Triều Tiên là Janggu và Kakko ở Nhật Bản. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 152: Túi hương này từ đâu mà có?



rên đường trở về Trường An, hai người đều im lặng.

Cuối cùng, Lý Doanh là người lên tiếng trước. Nàng hỏi vì sao trước đây hắn đưa nàng đến Vong Tử thành, nhưng nay lại đồng ý đưa nàng về Trường An. Ngư Phù Nguy không đáp, chỉ nói: “Sau khi chết, Trịnh Quân rơi vào ác đạo, bị giam trong Vong Tử thành.”

Lý Doanh khựng lại, Ngư Phù Nguy tiếp tục: “Hắn đối diện với những người đã chết vì hắn, trong lòng day dứt khôn nguôi. Ngày qua tháng lại, oán khí càng tích tụ. Vì muốn độ hóa Trịnh Quân, Thập điện Diêm Vương bèn để hắn luân hồi, chuyển sinh thành một Ngư Phù Nguy hoàn toàn đối lập.”

Kiếp trước, Trịnh Quân không chút công lao, chỉ nhờ xuất thân mà được hưởng bổng lộc dồi dào, địa vị cao sang. Đây chính là loại người mà Ngư Phù Nguy của kiếp này căm ghét nhất. Thập điện Diêm Vương muốn hắn từ bỏ thân phận thế gia quyền quý, trở thành hạng người dưới đáy xã hội, để những kẻ giống như hắn của kiếp trước khinh rẻ, chà đạp hắn; để lý tưởng tan vỡ, báo quốc vô môn; để trắng kiếp trước hóa thành đen kiếp này, đen kiếp trước hóa thành trắng kiếp này.

Ngư Phù Nguy bỗng lẩm bẩm: “Một giấc mộng dài, mới hiểu đúng sai vốn chẳng thể phân rõ. Đã không thể tranh luận thị phi, chi bằng dùng cái chết hôm qua đổi lấy sự sống hôm nay.”

Hắn nói: “Trước đây, vì yêu mến công chúa, lo lắng cho an nguy của nàng, ta mới đưa nàng đến Vong Tử Thành, ngăn nàng cùng Thôi Tuần chịu chết. Nhưng giờ đây, ta đã nghĩ thông suốt. Cái chết của một người, có kẻ nặng tựa Thái Sơn, có kẻ nhẹ như lông hồng. Tình yêu, sinh mệnh, thù hận của cá nhân, so với thứ nặng tựa Thái Sơn kia, cũng chỉ như lông hồng mà thôi.”

Hắn nhìn Lý Doanh chăm chú, trong mắt có chút đắng chát, chút chân thành, lại pha lẫn vài phần phức tạp chẳng thể gọi tên: “Thôi Tuần đáng để công chúa cứu hắn và công chúa cũng xứng đáng được hắn yêu sâu đậm. Thôi Tuần là nhi lang Đại Chu, công chúa càng là công chúa Đại Chu.”

Tiếng bánh xe lăn vang vọng từng hồi, Lý Doanh cắn chặt môi, đôi mắt ngấn lệ. Nàng không dám hỏi, nhưng cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thôi Tuần… chàng thế nào rồi?”

Ngư Phù Nguy cúi đầu, khẽ thở dài: “Không ổn. Hắn bị giam trong lao ngục, chịu hình phạt tàn khốc, mười ngón tay đã bị gãy nát. Trên đời này, người có thể cứu hắn, chỉ có công chúa mà thôi.”



Trong Đại Lý Tự, Tam Ty ngày đêm thẩm vấn, nơi này đã hóa thành lò luyện ngục của nhân gian. Nhưng bên ngoài Đại Lý Tự, người đang cố gắng không chỉ có mỗi mình Lý Doanh.

Trước cổng Huyền Vũ, Hà Thập Tam cùng đám thiếu niên đứng nhìn chiếc trống Đăng Văn cao quá đầu người. Một thiếu niên nuốt nước bọt, dè dặt hỏi Hà Thập Tam: “Chúng ta phải làm thật hả?”

Hà Thập Tam mặt mày vô cảm: “Ngươi nghĩ xem, tiền thuốc men chữa bệnh cho a nương ngươi từ đâu mà có? Khi a gia ngươi qua đời, là ai đã giúp ngươi mua được quan tài?”

Thiếu niên đó nghe vậy, đôi mắt nóng lên, cúi đầu thật thấp.

Hà Thập Tam nói: “Ta không quan tâm lúc còn là Thiếu khanh Sát Sự Thính, huynh ấy đã làm những gì, dù sao cũng là chuyện tranh quyền đoạt lợi, ta không hiểu nổi. Ta chỉ biết rằng, nếu không có huynh ấy, mấy năm vừa rồi chúng ta ai cũng không sống nổi, càng không thể có được những ngày tháng tốt đẹp như hôm nay. Ngay cả súc sinh còn biết báo ân, chẳng lẽ con người lại không biết?”

Lời nói của cậu khiến đám thiếu niên sục sôi nhiệt huyết: “Được, làm thôi!”

Hà Thập Tam là người đầu tiên sải bước đến trống Đăng Văn, cầm dùi lên gõ mạnh xuống: “Oan quá! Oan quá!”

Hai Kim Ngô Vệ canh giữ trống Đăng Văn nhìn nhau, vội vàng chạy đi bẩm báo Giám Môn Vệ. Chẳng bao lâu, khi dân chúng tụ tập ngày càng đông ngoài cổng Huyền Vũ, vị Tả Giám Môn Vệ nhận được tin cũng đã đến nơi. Hắn trách mắng: “Làm gì đó?”

Hà Thập Tam lớn tiếng đáp: “Oan quá! Ta muốn kêu oan!”

“Ngươi đã cáo lên huyện, châu, hay Đại Lý Tự chưa? Nếu chưa, thì đây là hành vi vượt cấp tố cáo! Nể tình các ngươi còn nhỏ, mau quay về đi!”

“Cái gì mà vượt cấp tố cáo? Ngoài gõ trống Đăng Văn thì có huyện hay châu nào dám nhận đơn tố cáo của ta đâu?”

“Rốt cuộc ngươi muốn tố cáo ai?”

“Tố cáo các ngươi, vu oan cho a huynh của ta!”

“A huynh của ngươi là ai?”

Hà Thập Tam ưỡn ngực ngẩng cao đầu, hô vang cái tên mà trước đây cậu từng khinh thường nhất: “Thôi Tuần! Các ngươi đã vu oan cho huynh ấy!”

Tả Giám Môn Vệ sững sờ, Hà Thập Tam càng cao giọng hơn: “Huynh ấy gõ trống Đăng Văn nhưng tại sao các ngươi không điều tra mà lại giam thẳng vào Đại Lý Tự? Danh nghĩa là Tam Ty hội thẩm, nhưng thực chất chỉ là dùng cực hình để ép cung! Nếu Thánh nhân không câu kết với Đột Quyết, nếu Thái hậu không dung túng con ruột, thì sao lại sợ điều tra? Dựa vào đâu mà các ngươi không xét hỏi bị cáo, lại đi tra tấn nguyên cáo?”

Tả Giám Môn Vệ kinh hãi đến phát run, hắn chỉ tay vào Hà Thập Tam, quát: “Phản rồi! Phản rồi!”

Kim Ngô Vệ lập tức xông lên, dùng vỏ đao quất thẳng vào người Hà Thập Tam. Cậu bị đá ngã xuống đất, nhưng vẫn gào to với bách tính vây quanh: “Chẳng phải trống Đăng Văn được dùng để kêu oan hay sao? Hay là chỉ vì liên quan đến Thái hậu và Thánh nhân nên không thể gõ vào đó? “Vương tử phạm pháp, đồng tội như thứ dân”, ha, chẳng nhẽ chỉ để lừa gạt chúng ta thôi sao?”

Bách tính ngơ ngác nhìn nhau. Những thiếu niên của Thiên Uy quân khác cũng đồng loạt ùa lên, vừa không ngừng kêu oan vừa cầm dùi trống đánh xuống. Một người bị đánh gục, lại có người khác nhặt dùi trống lên tiếp tục gõ xuống. Trước trống Đăng Văn, máu nóng loang lổ, những thiếu niên bất chấp sống chết, người trước ngã xuống, người sau tiếp bước, giống như những huynh trưởng của họ, sáu năm trước trên Lạc Nhạn Lĩnh, dù biết chắc sẽ bỏ mạng, nhưng vẫn giơ cao đao kiếm, thúc ngựa xông thẳng vào vó sắt Đột Quyết.



Trong điện Bồng Lai, Thái hậu ngồi ngay ngắn sau rèm châu, lặng thinh lắng nghe tiếng trống vang lên dồn dập. Tả Giám Môn Vệ run rẩy bẩm báo: “Chỉ là đám nhóc con mười hai, mười ba tuổi, đánh không chạy, dọa không sợ. Thần đã cho bắt giam toàn bộ bọn chúng, nhưng vẫn có những đứa nghe tin kéo đến, tiếp tục gõ trống Đăng Văn. Thần cho rằng, chúng dám vọng nghị quân thượng, không bằng giết một nhóm, để răn đe kẻ khác.”

Thái hậu lạnh nhạt hỏi: “Ngươi bảo ngô giết lũ trẻ mới mười hai, mười ba tuổi?”

“Nhưng chúng phạm thượng tác loạn, đại nghịch bất đạo…”

“Trước hết cứ giam lại đi đã.” Thái hậu mệt mỏi nói: “Đứa nào tới thì giam đứa đó, đến khi nào không còn ai tới nữa thì thôi.”

Tả Giám Môn Vệ vội đáp: “Tuân lệnh.” Sau đó lại nói: “Chúng tự tiện gõ trống Đăng Văn, làm ô danh Thái hậu và Thánh nhân. Thần cho rằng, nên phái Kim Ngô Vệ canh giữ trống Đăng Văn, cấm không cho dân chúng gõ nữa. Đợi khi mọi chuyện lắng xuống rồi hẵng xử lý tiếp.”

Thái hậu không tỏ rõ thái độ, Tả Giám Môn Vệ lĩnh mệnh rời đi. Khi ra ngoài cung, hắn bắt gặp Lư Hoài khoác quan phục đỏ thẫm đang chờ bên ngoài. Đợi Thái hậu triệu kiến, Lư Hoài quỳ xuống hành lễ, sau đó đứng dậy, châm chọc nói: “Từ xưa đến nay, chưa từng có triều đại nào cấm dân chúng gõ trống Đăng Văn. Đại Chu quả nhiên đã tiên phong mở lối.”

Thái hậu ngẩng mắt nhìn hắn, Lư Hoài gầy đi trông thấy. Hắn đã lặn lội đến khu rừng hoang ngoài Trường Xuân Quán, đào thi thể của Vương Huyên lên. Thi thể Vương Huyên đã bắt đầu thối rữa, dẫu vậy, hắn vẫn có thể nhận ra, trước khi chết, vị thư sinh yếu đuối này đã chịu cảnh tra tấn thảm khốc đến nhường nào.

Đôi tay Lư Hoài run rẩy chạm vào thi thể của người bạn thân, rồi ngã quỵ trước thi thể của Vương Huyên, khóc đến ngất lịm nhiều lần.

Sau khi đưa di hài Vương Huyên về nhà họ Vương, vợ con của hắn khóc đến đứt gan đứt ruột. Lư Hoài hết lần này đến lần khác hứa hẹn sẽ chăm lo cho họ, nhưng vẫn không thể xoa dịu nỗi đau mất chồng, mất cha.

Chỉ có mẹ già của Vương Huyên vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Bà nói với Lư Hoài: “Con ta chết vì nghĩa, tiếng thơm muôn đời, một đời tiêu diêu tự tại, sao phải bi ai?”

Lư Hoài không khỏi chấn động, hắn đắn đo giây lát rồi hỏi bà, người từng là tỳ nữ của Vương thị đất Lang Gia: “Giữa nghĩa và trung, nên chọn bên nào?”

Mẹ của Vương Huyên đáp: “Nghĩa là đại nghĩa, trung là ngu trung.”

Nên chọn gì, chẳng cần nói cũng rõ.



Thời gian gần đây, Thái hậu như đã mất hết nhuệ khí. Mái tóc đen nhánh ngày nào giờ đây lấm tấm vài sợi bạc. Đôi mắt từng sắc bén kiên nghị nay cũng nhuốm vẻ mỏi mệt, ánh nhìn thiếu đi sự sắc sảo thường thấy. Mà trước những lời nói lộ vẻ châm biếm của Lư Hoài, bà cũng chỉ giữ im lặng. Cuối cùng, bà mới lên tiếng: “Lư khanh, trước đây ngô lệnh cho khanh quay về phủ chờ xử lý, không cho tham gia Tam Ty hội thẩm, quả thật là đã lạnh nhạt với khanh. Nhưng khanh tự ý thả Thôi Tuần ra, ngô cũng phải cho Thánh nhân và triều thần một lời giải thích. Đợi mọi chuyện qua đi, khanh hãy trở về Đại Lý Tự đi.”

Lư Hoài lắc đầu: “Thần sẽ không trở về Đại Lý Tự nữa.”

Thái hậu có phần sửng sốt. Lư Hoài tiếp lời: “Thúc phụ của thần do chính tay thần bắt giữ. Ông ấy đã uống thuốc độc tự vẫn trong phủ. Trước khi qua đời, ông ấy muốn thần hứa với ông ấy một điều, đó là phải trung quân, phụng chủ, không được để tiểu nhân làm hại Thánh nhân.”

Lư Hoài chậm rãi nói: “Trung quân, phụng chủ: bốn chữ ấy luôn là nguyên tắc làm quan của thúc phụ, cũng là nguyên tắc làm quan của thần. Nhưng trong suốt những ngày qua, thần không ngừng tự hỏi: thân làm bề tôi thì ắt phải trung quân, ắt phải vì chủ. Nhưng nếu quân sai lầm thì sao? Chủ sai lầm thì sao? Khi ấy, có nên tiếp tục trung quân, phụng chủ nữa không? Thần là thần tử của Đại Chu, nhưng thần cũng là một con người. Đã là con người, thì nên trung thành với quân hay trung thành với lẽ phải đây?”

Ánh mắt hắn kiên định, hẳn đã có đáp án. Sau rèm châu, Thái hậu chỉ lặng im. Ngoài điện, tiếng trống Đăng Văn lại rền vang từng hồi. Lư Hoài nghiêng tai lắng nghe, rồi nói: “Thúc phụ nuôi nấng thần trưởng thành. Những gì ông ấy răn dạy, thần vẫn luôn nhất nhất làm theo. Chỉ riêng lần này, e rằng thần phải làm trái ý ông ấy. Thần, với tư cách là một con người, muốn truy cầu đạo lý của riêng mình. Có lẽ trên con đường ấy, thần sẽ đánh mất cả tính mạng, nhưng dù vậy, thần cũng không hối tiếc.”

Những lời ấy khiến sắc mặt Thái hậu thoáng hiện vẻ hoang mang. Trung thần, bá tánh. Vì tình thương dành cho con trai, bà đã đứng về phía đối lập với những người ấy. Còn nhớ hay không, ở thời điểm bắt đầu ấy, bà từng không có nổi một đôi giày để mang. Mỗi khi ngước nhìn cung Đại Minh cao rộng uy nghi, trong lòng bà đã từng lóe lên một ý nghĩ táo bạo:

Giấc mộng của ta, thật sự chỉ là làm thiếp của người quyền thế nhất thiên hạ thôi sao?

Chẳng lẽ ta không thể khiến bách tính Đại Chu ai ai cũng có giày để mang sao?

Dù ta là nữ nhân, chẳng lẽ không thể có mộng tưởng ấy sao?

Những gì nam nhân làm được, ta cũng có thể làm được!

Thần sắc Thái hậu bàng hoàng, Lư Hoài lại nói: “Thần không làm quan nữa, cũng sẽ không quay lại Đại Lý Tự. Hình cụ của Đại Lý Tự, vốn không nên dùng để tra khảo một kẻ có tấm lòng son sắt.”

Ánh mắt hắn xuyên qua bức rèm châu lay động, mang theo chút chờ mong. Hắn mong sao có thể giành được một câu khoan dung từ Thái hậu, mở ra lối thoát cho người đã bị dập nát mười ngón tay ở trong ngục. Nhưng hắn chờ, chờ mãi, cũng chẳng đợi được điều gì. Trong lòng hắn, rốt cuộc đã trở nên nguội lạnh.

Hắn quỳ xuống, dập mạnh đầu một cái, rồi lấy từ trong tay áo ra một chiếc túi gấm ngũ sắc thêu mẫu đơn đã sờn rách: “Thần phải đi rồi. Con đường phía trước mờ mịt, nhưng con đường thần chọn, tất là con đường phải chết. Nhưng trước khi chết, thần vẫn muốn dâng vật này lên Thái hậu.”

Nội thị nhận lấy túi gấm, dâng lên Thái hậu. Ngón tay bà run lên dữ dội ngay khi vừa chạm vào nó. Bà thậm chí không giữ nổi phong thái cao quý của mình, vội vã đứng dậy, vén rèm châu, sải bước nhanh đến trước mặt Lư Hoài: “Túi gấm này, khanh lấy từ đâu ra?”

Lư Hoài đáp: “Đây là vật tùy thân của Thôi Tuần, khi hắn bị giam vào ngục, túi gấm rơi vào tay thần.Vì đã hư tổn, thần định mang đi sửa lại, nhưng tìm khắp Trường An cũng không ai có thể vá lại được. Sau cùng, một cung nữ tóc bạc nhận ra đây là túi gấm của công chúa Vĩnh An từ ba mươi năm trước.”

Phần túi bị rách lộ ra hai nhánh tóc được buộc lại bằng sợi dây đỏ.

Lư Hoài chậm rãi cất giọng: “Còn vì sao Thôi Tuần lại có túi gấm của công chúa Vĩnh An, điều đó thần không rõ. Có lẽ, thái hậu nên tự hỏi Thôi Tuần. Chỉ là, nếu Tam Ty tiếp tục tra tấn, e rằng Thôi Tuần sẽ không thể mở miệng được nữa.”

Thái hậu sững người, bà nhìn chằm chằm vào lọn tóc trong túi, gần như lắp bắp, rồi đanh giọng lệnh cho nội thị: “Truyền lệnh! Bảo Tam Ty dừng hình ngay lập tức! Đi hỏi hắn! Hỏi hắn vì sao lại có chiếc túi này!”



Thế nhưng, nội thị do Thái hậu phái đến lại không thể moi được nửa câu từ Thôi Tuần.

Ngay cả khi Thái hậu đích thân đến, hắn cũng chẳng hề hé môi.

Đây là lần thứ hai trong đời bà đặt chân đến Đại Lý Tự. Lần trước là cách đây ba năm, bà bất chấp mọi áp lực, tự mình xuống tận ngục cứu hắn ra. Còn lần này, bà lại một lần nữa khiến mọi người kinh ngạc, bước vào nơi bẩn thỉu đẫm máu ấy, siết chặt túi gấm trong tay, nhìn Thôi Tuần hỏi: “Túi gấm này, rốt cuộc từ đâu mà có?”

Ba năm trước, khát vọng cầu sinh của Thôi Tuần vô cùng mãnh liệt. Hắn biết Thái hậu là người duy nhất có thể cứu mình, vì vậy dù mình đầy thương tích, hắn vẫn cố sức bò đến dưới chân bà, níu lấy vạt váy, hạ mình cầu xin, hứa sẽ trở thành thanh đao trong tay bà, chỉ mong được bà đưa ra khỏi đại lao. Nhưng lần này, hắn gần như không còn chút khát vọng sống nào nữa, chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những câu hỏi của bà.

Hắn đã hoàn toàn thất vọng về bà.

Thái hậu lặp lại câu hỏi: “Thôi Tuần, túi gấm này từ đâu mà có? Búi tóc bên trong là của ai?”

Hắn vẫn chỉ nhắm mắt, im lặng không đáp. Giọng Thái hậu dần lộ vẻ gấp gáp: “Thôi Tuần, ngô đang hỏi ngươi đấy!”

Cuối cùng Thôi Tuần cũng chậm rãi mở mắt. Khuôn mặt vốn đã tái nhợt vì chịu cực hình liên tục giờ đây lại càng trắng bệch đến đáng sợ. Hắn ho khan hai tiếng, mỗi cơn ho đều khiến vết thương trên người co rúm lại. Hắn cười nhạt: “Thần không muốn nói.”

Thái hậu trừng mắt: “Ngươi…”

“Thái hậu cứ việc dùng hình.” Thôi Tuần cười lạnh, đôi bàn tay vốn thon dài sạch sẽ giờ đây máu thịt be bét, chẳng còn nhận ra hình dáng ban đầu: “Dùng hình cụ dành cho nữ nhân, đúng như Thánh nhân đã truyền dạy.”

Thái hậu mím chặt môi, ánh mắt dừng lại nơi những ngón tay đẫm máu của Thôi Tuần. Kẻ sĩ có thể chết, nhưng không thể chịu nhục. Lòng bà dậy lên nỗi bi ai cùng cực.

Đứa con trai mà bà dốc sức bảo vệ, đúng là chẳng ra gì.

Bà cắn răng, quay người rời khỏi phòng giam. Trước khi đi, bà nắm chặt túi gấm, nghiêm giọng truyền lệnh: “Dù Thánh nhân có đích thân tới đây, cũng không được phép tra tấn hắn thêm nữa!”



Thái hậu rời đi, Thôi Tuần không thể chống đỡ thêm nữa, hắn mơ màng ngã xuống nền đất lạnh lẽo, khắp người đầy thương tích, đau đớn đến tột cùng. Giữa những cơn đau dồn dập, thần trí hắn dần rơi vào mê loạn.

Chỉ là, trong cơn mê man ấy, bóng hình trong trẻo như vầng trăng sáng kia lại càng thêm rõ ràng.

Hẳn nàng… đã ở Vong Tử Thành rồi.

Tốt lắm.

Đợi kẻ hại nàng chết đi, nàng sẽ chuyển kiếp đầu thai.

Không cần ở lại đây, không cần cùng hắn nhìn thấy hết thảy sự nhơ nhuốc nơi trần thế, để rồi làm vấy bẩn linh hồn thuần khiết như lưu ly của nàng.

Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, hắn không hề nhận ra đám ngục tốt đã lặng lẽ ra vào, thu dọn hết thảy những vật trừ tà cùng những lá bùa Minh Hoàng trấn quỷ trong lao ngục của Đại Lý Tự từ khi nào chẳng hay.

Một đôi nhu đề mềm mại, chạm nhẹ lên những ngón tay rướm máu của hắn.

Không rõ ai đang khóc, lại còn khóc rất thương tâm. Một giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, chạm vào đầu ngón tay hắn.

Nước mắt mặn chát, rơi trúng vết thương, khiến hắn đau đến giật mình. Hắn chậm rãi mở mắt, nhưng ánh nhìn đột nhiên cứng đờ: “Minh Nguyệt… Châu?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 153: Bây giờ, ta đã có tư cách hôn nàng chưa?



Lý Doanh và Ngư Phù Nguy vội vã lên đường, nhanh chóng trở lại Trường An. Lòng Lý Doanh nóng như lửa đốt, chỉ muốn đến Đại Lý Tự gặp Thôi Tuần, nhưng vì có quá nhiều người chết nên ngục thất của Đại Lý Tự giăng kín những bùa chú trừ tà, trong khi hồn phách nàng hiện giờ đã suy yếu đến cực điểm, căn bản không thể bước vào. Nàng nói với Ngư Phù Nguy: “Có lẽ người này sẽ giúp được.”

Đó là một người có lòng dạ ngay thẳng, chính trực: Đại Lý Tự Thiếu khanh, Lư Hoài.

Lư Hoài hiện đang bị cách chức ở nhà. Ngư Phù Nguy tìm đến hắn, Lư Hoài nhìn Ngư Phù Nguy, hỏi hắn là ai. Ngư Phù Nguy ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp: “Mỗ là bằng hữu của Thôi Tuần.”

Trước kia, hắn từng khinh miệt Thôi Tuần, không ít lần khuyên Lý Doanh tránh xa người ấy. Thế nhưng bây giờ, chính hắn lại chủ động đưa Lý Doanh trở về Trường An để cứu Thôi Tuần, thậm chí còn tự nhận mình là bạn của Thôi Tuần.

Hắn nói: “Khi Thôi Tuần bị vướng vào vụ án Kim Di, hắn từng nhờ mỗ đến trạm dịch Phi Vân để phá tan âm mưu của Bùi Quan Nhạc, cũng từng gửi gắm mỗ chăm sóc gia quyến của những binh sĩ Thiên Uy quân như Hà Thập Tam. Mỗ từng có cơ hội tận mắt chứng kiến hắn bất chấp hiểm nguy, một thân một mình tiến bước trên con đường rửa sạch oan khuất cho Thiên Uy quân. Con người Thôi Tuần thoạt nhìn gian trá, nhưng kỳ thực lại vô cùng cao ngạo. Có lẽ hắn sẽ không coi mỗ là bằng hữu, nhưng mỗ thì cho rằng, hắn chính là bằng hữu của mỗ.”

Lư Hoài gật đầu: “Ngươi muốn ta làm gì?”

“Nếu được thì liệu Thiếu khanh có thể cho dẹp hết những chướng vật trừ tà trong ngục Đại Lý Tự không?”

Lư Hoài chẳng hề đắn đo, dứt khoát đồng ý, khiến Ngư Phù Nguy cũng phải sửng sốt: “Lư Thiếu khanh không định hỏi lý do sao?”

Hắn vốn còn do dự, nếu Lư Hoài hỏi nguyên do, hắn nên trả lời thế nào đây? Nếu nói là có một hồn ma muốn đến gặp Thôi Tuần, liệu Lư Hoài có cho rằng hắn bị điên rồi tống thẳng ra ngoài không?

Nhưng Lư Hoài không hỏi han gì, chỉ nói: “Sao lại phải hỏi nguyên do? Ngươi là bằng hữu của Thôi Tuần, thế là đủ rồi.”

Có lẽ vì nhớ lại những lần từng chế giễu Thôi Tuần trước đây, trên mặt Lư Hoài lộ ra chút xấu hổ: “Ngươi tự nhận là bằng hữu của Thôi Tuần, nhưng ta thì không dám. Trước nay ta vẫn xem thường hắn, nhưng đến giờ ta mới hiểu, ta không bằng hắn.”

Lời vừa dứt, vẻ xấu hổ trên gương mặt hắn dần tan biến, thay vào đó là quyết tâm thấy chết không sờn: “Nhưng dù không bằng hắn, ta cũng sẽ không vì thế mà chán nản. Người có tâm tính kiên nghị như hắn trên đời này quả thực hiếm có. Những điều hắn làm được, ta không làm được, nhưng thế gian rộng lớn, vẫn có những việc ta có thể làm. Ta, Lư Hoài, tuy không thể làm bạn với Thôi Tuần, nhưng vẫn có thể làm thần tử của Đại Chu.”



Lư Hoài dù đang chịu phạt ở nhà, nhưng từ khi nhậm chức Thiếu khanh Đại Lý Tự, hắn dùng người đúng chỗ, thưởng phạt công minh, hơn hẳn những người tiền nhiệm. Vì vậy, quan lại trong Đại Lý Tự đều tâm phục khẩu phục. Hắn lệnh cho họ dỡ bỏ những vật trừ tà trong đại lao của Đại Lý Tự, không ai hỏi han nửa lời, chỉ lặng lẽ thu dọn hết bùa chú, đào mộc.

Nhờ vậy, Lý Doanh thuận lợi bước vào ngục thất của Đại Lý Tự. Nàng vội vã đi dọc hành lang sáng rực ánh lửa được đốt từ chậu than, nhưng khi đến trước buồng giam của Thôi Tuần, bước chân nàng bỗng chậm dần.

Nàng sợ.

Ngư Phù Nguy đã nói với nàng rằng, mười ngón tay của Thôi Tuần đều bị bẻ gãy. Giây phút nghe thấy điều đó, tim nàng đau như bị dao cắt. Nàng hiểu rõ, kẻ ra tay chính là a đệ cùng chung huyết mạch với nàng.

Nàng từng rất biết ơn a đệ, bởi vì y ra đời, a nương mới dần nguôi ngoai nỗi đau mất con gái. Nàng cũng đã vô số lần tưởng tượng dáng vẻ của a đệ trông thế nào. Có lẽ y sẽ giống a nương nàng hơn, dù sao đi nữa, dân gian vẫn có lời truyền tụng rằng nhìn y thanh nhã như ngọc, khí chất thần tiên, trong khi a gia lại mang nét cương nghị anh vũ. Hoặc cũng có thể, y có vài điểm tương tự với nàng.

Cứ thế, Lý Doanh dần nảy sinh thứ tình cảm máu mủ đối với người em trai nàng chưa từng gặp mặt. Trên đời này, a đệ cũng như a nương, họ đều là ruột thịt của nàng, là người thân cận nhất với nàng. Thế nên, khi Thôi Tuần nghi ngờ a đệ, nàng đã ra mặt biện hộ, nàng nói y sẽ không phản bội giang sơn xã tắc. Nhưng ai ngờ, đứa em trai mà nàng một mực tin tưởng lại làm ra những chuyện còn không bằng súc sinh.

Không chỉ vậy, y còn cố tình sai Tam Ty dùng hình cụ dành cho nữ nhân để làm nhục Thôi Tuần. Y là Hoàng đế, y có thể g.iết ch.ết Thôi Tuần, nhưng không thể đối xử với hắn bằng cách ấy! Y làm thế có xứng làm Hoàng đế không? Thậm chí, ngay cả tư cách làm người y cũng không xứng!

Lý Doanh cắn môi, trong lòng vừa đau thương vừa phẫn nộ, bước chân mỗi lúc một chậm lại. Nàng không dám đi gặp Thôi Tuần. Một phần là sợ nhìn thấy vết thương của hắn, một phần là vì xấu hổ trước tội ác mà em trai ruột cùng một mẹ với nàng đã gây ra.

Nàng chần chừ, nhưng khi đến trước cửa nhà lao của Thôi Tuần, nàng lại vô thức tăng tốc, chạy ào tới, thân mình lách qua khe cửa sắt, bước vào trong phòng giam.

Vừa bước vào, cảnh tượng bên trong khiến mắt nàng tối sầm lại. Chỉ thấy Thôi Tuần co quắp trên nền đất lạnh lẽo, hôn mê bất tỉnh. Bộ quần áo tù nhân đã không còn nhận ra màu sắc nguyên bản, loang lổ đầy máu. Mười đầu ngón tay rách nát, máu thịt lẫn lộn, lờ mờ lộ ra những đốt xương trắng dập gãy.

Trái tim Lý Doanh đau như thể bị dao cứa. Nàng gắng gượng, lê bước đến trước mặt hắn, nhưng cuối cùng cũng chẳng còn sức mà đứng vững, quỳ sụp xuống.

Nước mắt trào dâng như mưa, nàng run rẩy đưa tay chạm vào những ngón tay đẫm máu của Thôi Tuần . Nàng từng thích nhất là nằm trên đùi hắn, kéo tay hắn lại, mân mê từng ngón tay một. Khi ấy, hắn từng hỏi nàng: “Ngón tay thì có gì mà nghịch?”

Nàng cười đáp: “Bởi vì ngón tay chàng rất đẹp.”

Thế nhưng, những ngón tay đẹp đẽ ấy, những ngón tay có thể viết ra những dòng hành thảo tuyệt mỹ, có thể thổi lên những khúc tiêu du dương, có thể gấp những con châu chấu bằng cỏ… giờ đã bị hủy hoại, bị chính a đệ của nàng hủy hoại.

Nàng đau đến không nói nên lời, cổ họng nghẹn lại, nước mắt như chuỗi hạt châu bị đứt dây, từng giọt rơi xuống không ngừng. Một giọt nước mắt vô tình rớt vào vết thương của hắn, khiến hắn đau đến tỉnh lại.

Thôi Tuần mê man, khó nhọc mở mắt: “Minh… Nguyệt Châu?”

Lý Doanh càng khóc dữ dội hơn: “Là ta… là ta đây…”

Nhìn nàng khóc đến mức này, hắn vô thức muốn đưa tay lau đi những giọt nước mắt trên má nàng. Nhưng khi cánh tay vừa nhấc lên, cơn đau thấu xương đã ập tới, mặc cho hắn nghiến răng chịu đựng, mồ hôi chảy ròng trên trán vẫn tố cáo nỗi thống khổ vô cùng.

Lý Doanh nghẹn ngào: “Chàng đừng cử động…”

Thôi Tuần chăm chú nhìn nàng, bỗng thở dài một hơi, giọng khàn khàn: “Minh Nguyệt Châu, vì sao… nàng còn quay về?”

Lý Doanh vừa khóc vừa hỏi: “Tại sao ta không thể trở về? Ta còn muốn hỏi chàng, vì sao lại đưa ta đến Vong Tử Thành?”

Vì sao lại đưa nàng đến Vong Tử Thành?

Bởi vì hắn không muốn có ngày hôm nay.

Hắn không nỡ nhìn thấy nàng rơi lệ.

Hắn không trả lời mà gắng gượng chống người ngồi dậy. Nhưng chỉ vừa cử động, vết thương đã đau nhói, khiến hắn không khỏi chau mày. Lý Doanh thấy vậy liền vội đỡ hắn, giúp hắn dựa vào tường. Thôi Tuần th* d*c, nhắm mắt nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng đi đi, đi đâu cũng được… chỉ cần không ở lại đây…”

Lý Doanh cắn môi, giọng mang theo tiếng nức nở: “Thôi Tuần, đến lúc này rồi mà chàng vẫn muốn đuổi ta đi sao?”

Thương thế của hắn quá nặng, nàng muốn ôm lấy hắn nhưng lại không dám, chỉ có thể vừa đau lòng vừa tủi thân, khóc tức tưởi: “Ta không đi, dù chàng có đuổi thế nào, ta cũng không đi.”

Có lẽ vì nàng khóc quá thương tâm, mắt Thôi Tuần cũng dần ươn ướt. Hắn thì thào: “Minh Nguyệt Châu, sao nàng lại ngốc thế này… Ta đã đánh trống Đăng Văn, tố cáo cả Thánh nhân lẫn Thái hậu, số mệnh đã định ta không thể sống sót, nàng hà tất phải ở lại cùng một kẻ chắc chắn sẽ phải chết như ta?”

Lý Doanh chỉ lắc đầu, nước mắt rơi lã chã: “Ai nói chàng phải chết? Ta về rồi, ta sẽ không để chàng chết.”

Thôi Tuần cười khổ, giọng nói yếu ớt: “Minh Nguyệt Châu, không có vị Hoàng đế nào dung thứ cho thần tử muốn tố giác tội trạng của mình, cũng không có người mẹ nào bỏ qua cho một người ngoài muốn giết con trai bà ấy. Ta vừa là thần tử, vừa là người ngoài, số mệnh đã định không thể thoát chết… Nàng đừng phí công vô ích nữa, hãy đi đi, đến Vong Tử Thành, đầu thai chuyển kiếp, đừng nhớ đến ta nữa…”

Lý Doanh cắn môi, ra sức lắc đầu: “Ta không muốn quên chàng…”

Nàng rơi lệ nói: “Nếu chàng đã biết mình là thần tử, là người ngoài, đã biết bản thân chắc chắn phải chết, vậy vì sao còn đánh trống Đăng Văn? Vì sao còn tố giác a nương và a đệ?”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng chút mơ màng: “Có những việc… luôn phải có người thực hiện.”

Không thể vì biết là chết mà sẽ không làm.

Lý Doanh lặng nhìn gương mặt gầy gò, tái nhợt của hắn, dung mạo như hoa sen ngày nào giờ đầy rẫy những vết thương nhỏ vụn. Kể từ khoảnh khắc Vương Huyên viết lên lòng bàn tay hắn bốn chữ “Đế sát lục châu”, hắn đã hiểu rõ kết cục của bản thân.

Đại Chu lấy hiếu trị quốc, lần này người hắn phải đối đầu không phải là những thần tử như Lư Dụ Dân hay Bùi Quan Nhạc, mà là quân phụ của Đại Chu.

Thần cáo quân, tử cáo phụ, hắn sẽ không được văn thần ủng hộ, cũng chẳng thể nhận được lòng dân. Khi quân phụ trút hết ghen ghét và phẫn nộ lên người hắn, kết cục của hắn sẽ là bị nhét hạch đào vào miệng, bị trói đưa ra pháp trường, chịu tội lăng trì. Hắn sẽ giống như Kim Di, bị dân chúng chia nhau máu thịt, xương cốt cũng không thể giữ.

Nhưng dù đã biết trước con đường phía trước chính là tử lộ, hắn vẫn chưa từng chùn bước.

Lý Doanh nhếch nhẹ khóe môi, nở một nụ cười chua xót. Nàng đưa tay, chậm rãi v.uốt ve đường chân mày của hắn: xương mày cao, đuôi mày hơi nhếch, kiểu xương mày này luôn đi cùng với tính khí bướng bỉnh. Nàng khẽ nói: “Ngư Phù Nguy bảo rằng, đêm chàng đi lấy xá lợi Phật đỉnh, hắn từng đề nghị đưa chúng ta rời khỏi Trường An, sang Tây Vực, nhưng chàng đã từ chối. Chàng nói, chàng còn chuyện chưa làm xong, vậy nên không thể rời khỏi Trường An.”

Nàng nhìn thẳng vào mắt Thôi Tuần, nhẹ giọng nói: “Ta còn chuyện chưa làm xong, nên ta sẽ không đến Vong Tử Thành.”

Nàng nói: “Chuyện chàng chưa làm xong chính là một mình bước lên con đường tất tử. Còn chuyện ta chưa làm xong chính là nghịch thiên cải mệnh, biến con đường tất tử của chàng, hóa thành con đường tất sinh.”

Đôi mắt nàng ngập tràn nước mắt: “Chàng đừng xem thường ta. Chàng dám làm chuyện không ai dám tán đồng, tố cáo quân phụ, thì ta cũng dám làm trái lẽ trời, xoay chuyển càn khôn.”

Hốc mắt Thôi Tuần nóng lên, hắn lẩm bẩm: “Hà tất phải vậy?”

Hà tất phải vì hắn mà đánh đổi sinh mệnh, từ bỏ tình thân?

Hắn có tài đức gì để khiến nàng cố gắng đến mức này?

Đôi mắt Lý Doanh đỏ hoe, nàng cúi đầu nhìn những ngón tay chỉ còn da bọc xương của hắn, lòng nàng đau đến tột cùng. Nàng cắn môi, khẽ nói: “Ta biết lần này, người chàng muốn đưa ra trước công lý chính là a đệ. Chàng biết ta nhất định sẽ chọn chàng, chàng không muốn khiến ta đau lòng. Nhưng Thập Thất lang, lần này ta không chọn chàng vì đó là chàng, không phải ta chọn tình yêu. Thứ ta chọn là đạo lý và đại nghĩa. A đệ đã phản bội công lý, ruồng bỏ đạo nghĩa, nó nào xứng làm a đệ của ta.”

Trước mắt nàng, dường như hiện lên hai trăm hai mươi vong hồn của thôn Ngưu Gia. Khi ấy, nàng từng nói với bọn họ rằng, hy vọng kiếp sau, họ vẫn nguyện làm con dân Đại Chu. Nhưng nàng không biết liệu kiếp sau, những linh hồn ấy có trở thành dân chúng của sáu châu đang nằm dưới vó ngựa Đột Quyết hay không? Liệu họ có thất vọng hay không?

Nén nỗi đau như bị xé toạc trong lòng, nàng nói từng chữ, từng chữ một: “Đại Chu không phải của riêng a đệ, cũng không phải của sĩ tộc, không phải của hàn tộc, mà là của bách tính Đại Chu. Một Hoàng đế đã phản bội bách tính thì không xứng làm quân phụ của Đại Chu.”

Cuối cùng, nàng nói: “Thập Thất lang, chàng đừng khuyên ta rời đi nữa. Người ta muốn cứu, không chỉ có chàng, mà còn là cả Đại Chu.”



Thôi Tuần không khuyên nàng nữa.

Hắn chẳng thể lay động được công chúa Đại Chu.

Lý Doanh quỳ ngồi bên cạnh hắn, ngẩng đầu lên, dùng khăn tay nhẹ nhàng lau sạch vết máu trên mặt hắn. Lau xong, nàng tiếp tục lau vết thương trên cổ hắn. Những vết thương này so với những chỗ khác đã là nhẹ nhất rồi. Mắt nàng đỏ hoe, nhỏ giọng nói: “Bây giờ chàng thế này, ta không dám ôm chàng. Đợi khi chàng lành lại, ta sẽ lại ôm chàng. Đến lúc đó, chàng không được trốn nữa đấy.”

Thôi Tuần lắc đầu, ánh mắt trầm tĩnh nhìn nàng, hắn nói: “Sẽ không trốn nữa.”

Rồi hắn lại nói: “Hôm đó ở chùa Pháp Môn, ta đã lập một lời thề trước xá lợi Phật đỉnh.”

Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn.

Không cần hắn nói rõ lời thề ấy là gì, thì nàng cũng đã hiểu ra rồi.

Hắn nguyện rằng sau khi chết, không vào luân hồi, hồn tiêu phách tán, tan thành tro bụi. Hắn dùng điều đó để đổi lấy sự siêu thoát cho những kẻ đã bại dưới tay hắn trong cuộc tranh đoạt quyền lực, để họ sớm đăng cực lạc, vãng sinh tịnh thổ.

Từ đó, nghiệp đã sạch, tội đã tiêu, thân này chỉ còn lại một bầu nhiệt huyết, một tấm lòng son.

Nước mắt Thôi Tuần trượt dài từ đôi mắt đen nhánh. Nỗi tự ti khi đối diện với nàng bấy lâu nay bỗng hóa thành hư không. Nước mắt chảy qua gương mặt tái nhợt, từng giọt rơi xuống đất như những viên ngọc châu trong suốt. Hắn nhìn nàng, như khóc mà cũng chẳng phải khóc: “Minh Nguyệt Châu, bây giờ, ta có tư cách hôn nàng chưa?”

Lý Doanh cắn môi, nước mắt rơi xuống như mưa. Nàng cười qua làn lệ, gật đầu: “Chàng có, chàng luôn luôn có.”

Thôi Tuần cong nhẹ khóe môi, vị đắng lan tràn chua xót. Hắn lặng lẽ ngắm gương mặt thanh khiết của nàng, rồi gần như thành kính cúi xuống, dùng đôi môi nứt nẻ đầy vết thương của mình chạm nhẹ lên đôi môi mềm mại của nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 154: Đó là Minh Nguyệt Châu, con gái bà



Nụ hôn dịu dàng vô hạn, như thể nâng niu báu vật trân quý nhất thế gian, thận trọng, chậm rãi, rơi xuống bờ môi Lý Doanh. Nàng không nhắm mắt, tròng mắt ngấn lệ mở to không chớp, chăm chú khắc ghi từng đường nét trên khuôn mặt trắng bệch nhưng tuấn mỹ của Thôi Tuần, như thể muốn khắc sâu bóng hình hắn vào tim, dù chỉ một chi tiết nhỏ nhoi cũng không muốn bỏ sót.

Trong buồng giam tối tăm, kẻ mang tiếng xấu khắp Đại Chu – Liên Hoa Lang – dựa vào vách đá lạnh ẩm. Máu tươi nhuốm đỏ những kẽ móng tay, mười đầu ngón tay phủ đầy vết thương do kim thép nung đỏ đâm vào, máu thịt be bét. Dù thân thể hư nhược đầy thương tích nhưng hắn vẫn nâng niu nàng trong vòng tay, thành kính hôn lên vầng thánh nguyệt sáng ngời trong lòng hắn.

Nụ hôn của hắn, không hề nhuốm màu d.ục v.ọng. Đó là nụ hôn thuần túy của một kẻ buông bỏ tất cả mọi khúc mắc trong lòng, một nụ hôn nhẹ nhõm khi cuối cùng, hắn có thể ôm nàng như một người đàn ông bình thường được ôm người mình yêu, không còn khinh rẻ chính mình, cũng không còn sợ làm vấy bẩn nàng nữa.

Hắn rời khỏi môi Lý Doanh, đôi mắt sâu thẳm tựa hồ nước tĩnh lặng, ánh lên lệ quang lấp lánh: “Minh Nguyệt Châu, ta… ta đã xứng đáng với tình yêu của nàng rồi, đúng không?”

Hơi ấm của hắn dường như vẫn còn vương trên môi nàng. Nước mắt Lý Doanh không ngừng tuôn rơi. Nàng nghẹn ngào nói: “Chàng luôn xứng đáng. Trước đây xứng đáng, sau này cũng thế. Đời này kiếp này, mãi mãi về sau, ta sẽ không bao giờ gặp được ai xứng đáng hơn chàng.”

Đôi mắt nhòe lệ, nàng chủ động ngẩng mặt, hôn lên vết thương do roi quất trên mặt Thôi Tuần: “Thập Thất lang, cả thiên hạ này không còn ai tốt hơn chàng nữa đâu. Trong lòng ta, chàng là lang quân tốt nhất thế gian. Trên đời này, không một ai có thể sánh bằng chàng.”

Nàng không dám ôm Thôi Tuần, chỉ có thể dùng đôi môi mềm mại hôn lên từng vết thương trên gương mặt hắn, hôn lên sống mũi, hôn lên cằm. Nàng muốn dùng cách này để nói với hắn rằng nàng thích hắn biết bao, và hắn đáng để nàng yêu thích đến nhường nào.

Cuối cùng, nàng nâng nhẹ bàn tay xương thịt rời rạc của hắn lên, nước mắt lã chã rơi xuống: “Đau không?”

Đôi mắt long lanh của Thôi Tuần phản chiếu bóng hình nàng. Giọng hắn khàn đặc, yếu ớt đến cực điểm, ánh mắt không rời nàng, chỉ khẽ lắc đầu: “Nàng đến rồi… thì không còn đau nữa.”

Lý Doanh cắn môi, nước mắt rơi mỗi lúc một nhiều. Nàng cúi người, hôn lên phần xương trắng lộ ra từ vết thương. Rõ ràng Thôi Tuần đã rụt lại, nhưng không còn né tránh như lần đầu tiên nàng chạm vào hắn, cũng không còn sự tự ti khi tự nói rằng chính mình dơ bẩn. Hắn chỉ nhìn nàng, đôi mắt mờ sương chất chứa sự không đành và cả sự đau xót. Lý Doanh ngẩn lên, nước mắt rưng rưng, chợt mỉm cười nói: “Thập Thất lang, ta rất vui.”

Nàng nói: “Ta rất vui, vì cuối cùng chàng đã hiểu, chàng không hề bẩn, chàng và các huynh đệ Thiên Uy quân của chàng đều là những nam nhi trung trinh nhất của Đại Chu.”

Sau cùng, nàng nói: “Thập Thất lang, đợi ta.”

“Đợi ta cứu được chàng.”



May mắn thay, trên đời này, người muốn cứu Thôi Tuần không chỉ có mỗi mình Lý Doanh.

Những thiếu niên như Hà Thập Tam đều đã bị bắt, song thân quyến còn lại của Thiên Uy quân vẫn đang ở đó. Những người già tóc bạc, những quả phụ thủ tiết bên bài vị của chồng, những đứa trẻ non nớt còn chưa cao bằng bánh xe… Dẫu cuộc sống hiện tại đã bớt phần cơ cực, họ vẫn không từ bỏ ý định cứu Thôi Tuần. Dưới sự dẫn dắt của A Man, họ nối tiếp nhau tiến về cổng Huyền Vũ, quyết tâm gõ vang chiếc trống Đăng Văn giờ đây họ đã bị cấm chạm vào.

Bởi vì họ vẫn còn nhớ, khi họ lâm vào tuyệt vọng, ai là người không ngừng gửi đến thuốc men, tiền bạc, giúp họ thắp lên một tia hy vọng. Bởi họ cũng không quên, khi bị quan phủ và ác bá chèn ép, ai là người nhẫn nhục chịu đựng để đổi lấy quyền thế, âm thầm dang tay giúp đỡ.

Những người con, người chồng, người cha của họ từng bao lần đổ máu ở biên quan, thề chết không lùi bước. Khi đối mặt với kỵ binh Đột Quyết đông gấp bội ở Lạc Nhạn Lĩnh, không một ai quay đầu bỏ chạy. Thiện Uy quân chưa từng sợ chết, thân là gia quyến của họ, những người ở lại cũng sẽ không sợ chết.

Người đem củi sưởi ấm cho thế gian, đâu thể để y chết cóng trong gió tuyết.

Trước cổng Huyền Vũ, máu nóng không ngừng đổ xuống. A Man bị đánh trọng thương, những người già cũng bị đánh trọng thương, quả phụ cũng bị đánh trọng thương, từng người một trong số gia quyến Thiên Uy quân đều bị tống giam, ngay cả trẻ nhỏ cũng không phải ngoại lệ. Dân chúng đứng xem, ban đầu còn bàn tán chỉ trỏ, về sau chỉ còn lại sự trầm lắng, thổn thức.

Quách Húc, con trai duy nhất của Quách Cần Uy cũng từ quê nhà vội vàng chạy đến. Vì Lục Mai, thê tử của hắn đã nói với hắn rằng năm đó khi hắn bị lưu đày đến Thích Tây, chính Thôi Tuần đã phái nàng vượt đường xa đến nơi ấy, túc trực bên cạnh chăm sóc. Sau khi hắn được minh oan, cũng chính Thôi Tuần ra mặt, nói nàng không cần trở về Sát Sự Thính nữa mà hãy cùng Quách Húc hồi hương, sống những tháng ngày yên ổn.

Quách Húc sững sờ. Lúc hoàn hồn, hắn nói hắn muốn đến Trường An, hắn muốn cứu Thôi Tuần.

Khi ấy Lục Mai đang mang thai, nhưng nàng không hề ngăn cản Quách Húc. Mẹ già của Quách Húc cũng không ngăn cản hắn mà cùng con trai lên xe, hướng thẳng đến Trường An.

Dù biết rõ, chuyến đi này có lẽ sẽ khiến đứa trẻ chưa kịp ra đời cũng không còn đường sống, nhưng “tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo” [1]. Họ là người nhà của Quách Cần Uy, họ không thể làm kẻ vong ân bội nghĩa.

[1] tích thủy chi ân, dũng tuyền tương báo: Nhận một giọt nước, trả một dòng suối.

Khi thai nhi trong bụng Lục Mai bị đánh đến sinh non giữa làn gậy gộc, máu tươi từ váy nàng chảy dài ra ngoài cổng Huyền Vũ, nhuộm đỏ cả mặt đất. Bách tính đứng xem ngây ngẩn cả người, dõi theo dòng huyết sắc đỏ tươi ấy, mãi đến khi có người đầu tiên gào lên: “Sao các người dám làm thế!”

“Quách soái tận trung vì nước, ngay cả thủ cấp cũng bị quân Đột Quyết chặt xuống làm nhục, vậy mà cả huyết mạch chưa kịp chào đời của ông ấy các người cũng không buông tha. Các ngươi khác gì quân Đột Quyết?”

“Đại Chu ta, không nên là một Đại Chu thế này!”



Trong phủ Lư Hoài, hắn khép lại quyển sách trong tay, nhìn đám học trò đến từ Quốc Tử Giám, bình tĩnh nói: “Ta không có gì để bàn luận cùng các trò. Các trò đều là những học trò xuất sắc nhất của Quốc Tử Giám, đương kim Thái hậu lại là bậc minh chủ. Nếu các trò thực tâm muốn báo quốc, chớ nên như thúc phụ ta, cứ khư khư bám víu vào quan niệm nam tôn nữ ti. Đây chính là bài học cuối cùng ta để lại cho các trò.”

Đám học trò đưa mắt nhìn nhau. Lư Hoài từng đảm nhiệm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám suốt năm năm, môn sinh trải dài khắp thiên hạ, được sĩ tử Đại Chu tôn kính. Một người trong số họ không nhịn được, lên tiếng hỏi: “Thưa Tư nghiệp, người định không quay về Đại Lý Tự thật sao?”

“Không.” Lư Hoài đáp: “Đại Lý Tự là nơi chấp pháp, xét xử oan sai, chứ không phải công cụ để bức hại những trung thần ngay thẳng. Nó không phải là Đại Lý Tự trong lòng ta.”

“Vậy người có trở về Quốc Tử Giám không?”

“Cũng không.”

“Thế Tư nghiệp định đi đâu?”

“Tới cổng Đan Phượng, tĩnh tọa.”

Cổng Đan Phượng là chính môn của cung Đại Minh. Đám học trò nghe vậy, ai nấy đều biến sắc. Họ đương nhiên hiểu rõ vì sao Lư Hoài muốn đến đó. Lúc này cả Trường An đang xôn xao dậy sóng, ngoài cổng Huyền Vũ, những viên đá xanh nơi bậc thềm đã bị nhuộm đỏ bởi huyết lệ. Một học trò không kìm được, hỏi: “Thưa Tư nghiệp, thời Xuân Thu, Tấn Hiến Công trúng quỷ kế của Ly Cơ, phát binh tấn công con trai mình là Trùng Nhĩ. Khi ấy, Trùng Nhĩ nói: “Quân phụ chi mệnh bất hiệu, hiệu giả, ngô cừu dã.” (Mệnh lệnh của quân phụ không thể chống lại, ai chống lại chính là kẻ thù của ta) Ngay cả khi bị truy sát, Trùng Nhĩ cũng không dám phản kháng, thậm chí còn hạ lệnh rằng ai chống lại thì chính là kẻ địch của y. Từ đó, Trùng Nhĩ bắt đầu mười chín năm lưu lạc, mãi đến khi Tấn Hiến Công băng hà, y mới thoát cảnh lưu vong. Xin hỏi Tư nghiệp, người thấy lời này thế nào?”

Lư Hoài đáp: “Trải qua bao triều đại, lời này vẫn luôn được ca tụng. Đại Chu lấy hiếu trị quốc, lời ấy lại càng được xem là Thánh ngôn. Quân phụ vừa là vua của thiên hạ, vừa là phụ thân của muôn dân. Trái mệnh quân phụ là bất trung bất hiếu, mà bất trung bất hiếu là tội nghiệt lớn nhất.”

Học trò lặng lẽ cúi đầu. Hai chữ “trung” và “hiếu” đã khắc sâu trong lòng họ từ khi mới tập tành học chữ. Bởi vậy, dù họ xót thương cho những dòng máu xanh rơi trước trống Đăng Văn, nhưng vì sự trói buộc của hai chữ ấy, họ vẫn không dám tiến thêm nửa bước.

Thế nhưng Lư Hoài lại nói: “Nhưng ngoài trung hiếu, vẫn còn một chữ lớn hơn trung, trọng hơn hiếu.”

Một học trò liền bất giác hỏi: “Là chữ gì ạ?”

“Chữ chính.” Lư Hoài chậm rãi thốt từng lời: “Chính giả, chính dã. [2] Thế nào là chính? Trung, hiếu, nhân, nghĩa, đây là chính. Thân bất chính, làm sao chính nhân? Không phải chính nhân, làm sao chấp chính? Không thể chấp chính, lấy gì làm quân, lấy gì làm phụ?”

[2] Câu gốc ở đây là: “Chính giả, chính dã”(政者,正也) xuất phát từ tư tưởng Nho gia. Câu này gồm 02 chữ “Chính”. Chữ “Chính” thứ nhất (政) nghĩa là “chính sự”, tức việc cai trị, quản lý đất nước. Chữ “Chính” thứ hai (正) nghĩa là “chính trực, ngay thẳng”, tức sự công chính, đúng đắn về đạo đức và hành vi.

Hắn nói một cách rành rọt, từng lời từng chữ đều vang vọng khí khái. Đám học trò nghe vậy, không khỏi cúi đầu trầm tư, nét mặt dần hiện vẻ hoang mang và nghiền ngẫm. Lư Hoài nói tiếp: “Mệnh quân phụ không thể không nghe. Nhưng ta đến cổng Đan Phượng không phải bất trung, cũng chẳng phải bất hiếu. Ta trung với Đại Chu, hiếu với năm vạn anh linh liệt sĩ.”

Hắn nhớ đến cố hữu Vương Hiên đã khuất, vành mắt không khỏi nóng lên: “Còn cả những vị tôn trưởng đã bỏ mạng trên con đường này nữa.”



Lư Hoài nói được làm được. Hắn c.ởi quan phục, khoác lên mình một bộ y phục trắng tinh, tĩnh tọa trước cổng Đan Phượng. Dòng người qua lại trên quan đạo không khỏi ngoái nhìn, thấy vị cựu Tư nghiệp Quốc Tử Giám, cựu Thiếu khanh Đại Lý Tự, nay vì rửa oan cho kẻ từng là đối thủ chính trị của mình chấp nhận buông bỏ cả tính mạng, lặng lẽ ngồi trước cổng cung.

Ban đầu, hắn chỉ có một thân một mình. Nhưng chẳng bao lâu sau, các học trò của hắn cũng khoác bạch y, lần lượt ngồi xuống bên cạnh. Càng lúc càng có nhiều học trò gia nhập, số người nhanh chóng vượt qua con số hàng trăm, tất cả đồng lòng yêu cầu xét lại vụ án Thiên Uy quân.

Cơn thịnh nộ của Long Hưng Đế lập tức bùng phát, Lư Hoài bị khép tội phạm thượng tác loạn, bị trừng phạt nghiêm khắc ngay trước cổng Đan Phượng, sau đó bị tống giam vào ngục. Các học sĩ khác cũng chịu cảnh bị Kim Ngô Vệ đánh đòn ngay trước cửa cung. Thế nhưng, văn nhân vốn dĩ ngay thẳng, cứng cỏi, huống hồ Lư Hoài là bậc tôn sư của ba nghìn hai trăm học sĩ tại Quốc Tử Giám, địa vị trong lòng họ vô cùng cao quý. Hình phạt tàn khốc không những không khiến họ khiếp sợ mà ngược lại, càng có nhiều người tiếp bước, kiên trì tĩnh tọa trước cổng Đan Phượng. Dù bị đánh đập, họ vẫn không hề nao núng, ngược lại còn lấy đó làm vinh dự.

Một người là Quách Húc, một người là Lư Hoài, đủ để khiến những người dân chất phác nhất Đại Chu bắt đầu nghi ngờ Long Hưng Đế, cũng đủ để khiến những bậc sĩ tử tinh anh nhất Đại Chu dần dao động niềm tin vào thiên tử. Chỉ có Thái hậu, người nắm quyền sinh sát cao nhất trong triều, trước sau vẫn giữ im lặng.



Giữa lúc gia quyến của Thiên Uy quân cùng sĩ tử náo động khắp kinh thành, Ngư Phù Nguy cũng không hề nhàn rỗi. Hắn vung hết gia tài, hối lộ ngục tốt của Đại Lý Tự, thuê y sư đến chữa trị vết thương cho Thôi Tuần. Không dừng lại ở đó, bất chấp hiểm nguy, hắn còn ngầm mua chuộc khất cái, người kể chuyện rong, sáng tác những bài đồng dao lan truyền khắp thành Trường An. Lý Doanh nhìn hắn, nhẹ giọng nói: “Nếu bị phát giác, không thi cử được đã đành, chỉ sợ còn mất cả tính mạng.”

Ngư Phù Nguy căn bản không để tâm đến sống chết: “Mỗ có thể đồng hành cùng trung lương và sĩ tử đã là may mắn ba đời, hà tất phải sợ?”

Lý Doanh không khỏi xúc động: “Ta thay mặt Thập Thất lang, cảm tạ ngài.”

Ngư Phù Nguy khẽ lắc đầu, rồi nói: “Bá phụ của Thôi Tuần, Thôi tướng công, cùng Kinh Triệu Doãn Tiết Vạn Triệt, dạo gần đây đều cáo bệnh không thượng triều.”

Việc Tiết Vạn Triệt không thượng triều nằm trong dự liệu của Lý Doanh, bởi ông vốn là lão thần chính trực, chính khí lẫm liệt. Nhưng chuyện Thôi Tụng Thanh cũng không thượng triều thật khiến nàng phải bất ngờ. Thôi Tụng Thanh là người có thể hy sinh tất cả vì tân chính, sao phải bận tâm đến sinh tử của Thôi Tuần?

Nghĩ lại, con người đâu phải cỏ cây, ai có thể thực sự vô tình? Có lẽ, chính những lời Thôi Tuần nói trên trên triều đường đã khiến Thôi Tụng Thanh thức tỉnh. Hắn xem thường con đường mà Thôi Tụng Thanh theo đuổi, khiến ông ta buộc lòng phải nhìn nhận lại những gì mình đã làm.

Như lời Thôi Tuần từng nói: “Một thứ đạo mà ngay cả oan khuất của tướng sĩ chết vì nước cũng không quan tâm, ngay cả tính mạng của dân lành vô tội cũng không đếm xỉa, thì thứ đạo ấy, có cũng vô dụng!”

Lý Doanh siết chặt xá lợi Phật đỉnh trong tay: “Nhưng chỉ a nương ta không mở miệng, những gì Lư Hoài và những người khác đang làm đều sẽ thành công cốc.”

Ngư Phù Nguy lặng thinh.

Phải, bọn họ đều là những kẻ mang hoài bão, nhưng nhiệt huyết rồi cũng sẽ có ngày cạn kiệt. Hiện tại, Thái hậu chưa thực sự ra tay, nhưng một khi bà hạ quyết tâm, Lư Hoài sẽ chết, Quách Húc sẽ chết, hắn cũng sẽ chết, tất cả bọn họ đều sẽ mất mạng. Trước những thủ cấp bị chém rơi, dù dân chúng có phẫn uất đến đâu cũng chỉ có thể nén giận vào lòng, không dám có nửa lời dị nghị.

Chờ đến ba năm, năm năm sau, ngay cả sự phẫn nộ trong lòng, e rằng cũng chẳng còn mấy ai nhớ đến.

Đó chính là bi kịch của chính đạo trước quyền lực tuyệt đối.

Lý Doanh nói: “Để ta đi, ta muốn gặp a nương.”

“Không được.” Ngư Phù Nguy lập tức lắc đầu: “Lần trước công chúa bị Phật pháp phản phệ, suýt nữa hồn phi phách tán, nay thần hồn đã suy yếu vô cùng. Nếu lại ép buộc hiện thân, cho dù có xá lợi Phật đỉnh trong tay, sau này e rằng cũng chỉ có thể miễn cưỡng giữ được thần hồn không diệt, chẳng thể được như trước kia nữa.”

“Nhưng ngài cũng đâu có biện pháp nào tốt hơn, đúng không?”

Ngư Phù Nguy sững người.

Phải, hắn không còn cách nào tốt hơn.

Ban nãy, hắn đã nghĩ liệu có thể thuyết phục Thái hậu, dùng thuật pháp để khiến bà nhìn thấy Lý Doanh hay không? Chẳng hạn như thuyết phục Thái hậu uống máu chó mực? Nhưng ngay sau đó, hắn liền gạt bỏ ý nghĩ này. Người sống uống máu chó đen để trông thấy hồn ma, đây vốn là tà thuật, trái nghịch thiên đạo, tổn hại căn cơ, nếu không, vì sao từ xưa đến nay, số người dám sử dụng tà thuật này lại ít đến như thế?

Rốt cuộc, thế gian này có mấy ai giống như A Sử Na Ngột Đóa, vì yêu mà điên cuồng, chẳng màng đến tính mạng của bản thân?

Vậy nên, chỉ cần đề xuất cách này, hắn chắc chắn sẽ bị quy tội mưu hại Thái hậu, rồi bị tống vào ngục, chờ ngày xử tử.

Ngư Phù Nguy im lặng không đáp, Lý Doanh chỉ nói: “Để ta đi. Trên đời này, chỉ có ta mới cứu được Thôi Tuần.”



Bên trong cung điện, hương trầm quyện tỏa. Thái hậu nghiêng người, tựa vào trường kỷ, ánh mắt thẫn thờ dán chặt vào túi gấm ngũ sắc trong tay, suy nghĩ miên man.

Sao Thôi Tuần lại có túi gấm của Minh Nguyệt Châu?

Nhưng mặc cho bà hỏi thế nào, hắn cũng không chịu nói.

Thái hậu khép mắt, vẻ mặt thoáng hiện nét mệt mỏi. Tóc mai của bà đã bạc đi nhiều, chỉ trong vòng vài chục ngày ngắn ngủi mà trông như đã già đi cả chục tuổi. Lại có nội thị đến báo, nói rằng Thánh nhân cầu kiến.

Thái hậu ho khẽ hai tiếng, phất tay: “Không gặp.”

Bà biết rõ Bồ Tát Bảo đến vì chuyện gì, chẳng qua là muốn bà đồng ý giết Lư Hoài, giết Quách Húc. Nhưng bà đã từng nhượng bộ, cho phép hắn tự ý xử trí Thôi Tuần rồi. Hắn có thể giết, có thể hành hạ, thậm chí có thể dùng cực hình với Thôi Tuần, nhưng không thể vì một Hồ nữ mà sai Tam Ty dùng hình cụ nữ nhân để sỉ nhục Thôi Tuần! Kẻ sĩ có thể bị giết, nhưng không thể chịu nhục. Hắn làm vậy, có khác gì ả nữ nhân người Hồ độc ác điên cuồng kia không?

Bà không muốn gặp hắn.

Nội thị đáp một tiếng “Tuân lệnh”, rồi lui xuống bẩm báo với Long Hưng Đế. Ngoài điện dần dần trở nên yên ắng. Thái hậu lặng lẽ nhìn chiếc túi gấm trong tay, nước mắt cuối cùng cũng trào ra.

Bà thì thầm: “Minh Nguyệt Châu, nếu con còn ở bên cạnh a nương thì tốt biết bao.”

Bà tự nói với chính mình: “A nương biết, a đệ con đã sai, nhưng a nương không nỡ… A nương đã mất con rồi, không thể mất thêm a đệ con nữa. Con nói cho a nương biết đi, a nương nên làm thế nào đây?”

Bà không mong nhận được hồi đáp, bởi lẽ bà hiểu rằng, con gái của bà đã mất từ ba mươi năm trước, bà không bao giờ gặp được nàng nữa.

Vĩnh viễn không thể gặp lại Minh Nguyệt Châu của bà.

Nhưng bỗng nhiên, một giọng nói vang lên: “A nương, người muốn Minh Nguyệt Châu nói cho người biết nên làm gì thật sao?”

Thái hậu bàng hoàng ngẩng đầu.

Vẫn kiểu vấn tóc song hoàn vọng tiên, váy lụa trắng đỏ xen kẽ, trên vai phủ một tấm sa mỏng, bóng dáng quen thuộc ấy hiện ra trước mắt bà. Đó chính là con gái của bà, Minh Nguyệt Châu!

Nàng vẫn xinh đẹp thanh tao như thuở mười sáu, đoan trang nhã nhặn, thanh lệ tuyệt trần. Thái hậu bật dậy khỏi giường, bà kinh ngạc chớp mắt liên tục, bàn tay run rẩy đưa lên dụi mắt, rồi lại dụi nữa. Đến khi khóe mắt đỏ hoe, bà mới run rẩy mở mắt ra, ánh mắt hướng về thiếu nữ, nhưng thân ảnh kiều diễm ấy không hề biến mất, trái lại còn càng lúc càng rõ ràng.

Bà thậm chí quên cả xỏ hài, cứ thế chân trần vội vàng lao xuống giường, chạy về phía ái nữ. Nhưng vừa bước đi một bước, vì quá vội vã mà loạng choạng ngã mạnh xuống đất. Người cầm quyền chí cao vô thượng của Đại Chu lúc này chẳng khác nào một người mẹ bình thường nhất, cắn răng chịu đau, gắng sức bò dậy, nước mắt lưng tròng nhìn nữ nhi, nức nở nói: “Minh Nguyệt Châu… Minh Nguyệt Châu của ta…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 155: Hồ sen có lạnh lắm, có tối lắm không con?



Cùng lúc đó, Lý Doanh cũng vội vã tiến vào.

Trước điện Bồng Lai có dán tranh thần môn, Lý Doanh là hồn ma, vốn dĩ không thể bước vào, nhưng nhờ có xá lợi Phật đỉnh treo trên cổ, nàng đã miễn cưỡng xông vào được. Dù vậy, chuyến đi này cũng khiến nàng tổn hao nguyên khí. Lý Doanh cố nén vị tanh ngọt trào lên nơi cổ họng, nhanh chóng quỳ xuống bên cạnh Thái hậu, đỡ bà dậy.

Thái hậu chộp lấy tay áo nàng, run giọng hỏi: “Minh Nguyệt Châu… là Minh Nguyệt Châu sao?”

Lý Doanh nghẹn ngào, lệ tuôn như suối: “A nương, là Minh Nguyệt Châu đây ạ.”

Thái hậu vẫn không dám tin. Bà run rẩy đưa tay, chạm vào gương mặt của nàng: “A nương đang mơ sao? Minh Nguyệt Châu của ta, con đã không còn nữa, sao lại quay về kia chứ? A nương… lại mơ thấy con rồi…”

Lý Doanh cắn chặt môi, hai mắt đẫm lệ. Những năm qua, hẳn a nương đã mơ thấy nàng vô số lần, đến mức bây giờ vẫn cho rằng đây chỉ là một giấc mộng.

Thái hậu v.uốt ve gương mặt nàng, làn da thiếu nữ tuy không còn hơi ấm như người sống, trái lại còn lạnh buốt như băng, nhưng xúc cảm trên lòng bàn tay lại chân thực đến mức không thể ngờ vực. Môi bà run run, tầm mắt đã nhòe đi vì lệ. Bà lập tức ôm chầm lấy Lý Doanh: “Nếu đây là một giấc mơ, vậy hãy để a nương mơ mãi không tỉnh… Con gái của a nương… Minh Nguyệt Châu của a nương…”

Lý Doanh tựa vào lòng bà, bên tai là tiếng khóc nghẹn đến tột cùng của Thái hậu. Nước mắt nàng tuôn trào như dòng thác, nàng khẽ thì thầm: “A nương, đây không phải mộng. Minh Nguyệt Châu… đã trở về. Nhưng Minh Nguyệt Châu cũng đã chết rồi.”

Thái hậu sững sờ, vòng tay ôm nàng hơi cứng lại.

Lý Doanh chậm rãi tách khỏi bà, khẽ nói: “A nương, Minh Nguyệt Châu… đã thành một hồn ma.”

Để chứng minh với a nương rằng nàng không phải là ảo ảnh trong mơ mà là một hồn ma thực sự, đầu ngón tay Lý Doanh vươn ra, giữa lòng bàn tay bùng lên một đốm quỷ hỏa màu xanh biếc.

Trong ánh sáng lập lòe, cảnh tượng bên ngoài điện dần hiện rõ: các Thiên Ngưu Vệ đặt tay lên kiếm bảo vệ điện Bồng Lai, những tiểu cung nữ tóc búi quả đào cúi đầu quét dọn sân viện, nội thị thận trọng hồi bẩm với Long Hưng Đế, từng tốp từng tốp gia quyến của Thiên Uy quân, kéo nhau đến trước trống Đăng Văn, gióng trống kêu oan và cả những sĩ tử Quốc Tử Giám bất chấp hiểm nguy, quỳ ngồi lặng lẽ bên ngoài cổng Đan Phượng.

Từng cảnh tượng vừa rồi như lướt qua trước mắt Thái hậu, đến khi ánh lửa từ ngọn quỷ hỏa phụt tắt, điện Bồng Lai lại trở về với vẻ tĩnh mịch thâm sâu.

Thái hậu chết lặng nhìn nàng, Lý Doanh rơi lệ nói: “A nương… hồn phách của Minh Nguyệt Châu đã trở về gặp a nương rồi…”

“Hồn phách của Minh Nguyệt Châu… đã trở về gặp a nương rồi…”

Thái hậu lẩm bẩm, lặp lại câu ấy, bà giơ tay chạm vào cây trâm hoa vàng cài trên tóc nàng.

Đầu trâm sắc nhọn đâm vào đầu ngón tay bà, cơn đau thấu xương rốt cuộc cũng khiến bà tin vào sự thực. Con gái bà đã mất từ ba mươi năm qua đời từ ba mươi năm trước, và giờ hồn phách của nàng… đã trở về thật rồi sao?

“Hồn phách của Minh Nguyệt Châu… đã trở về gặp a nương rồi…”

Nước mắt lăn dài trên gò má Thái hậu. Bỗng nhiên, bà dang tay ôm chặt lấy Lý Doanh, như sợ chỉ cần buông lỏng, nàng sẽ lập tức biến mất. Một Thái hậu đương triều, kẻ đứng trên đỉnh quyền lực ở Đại Chu, người luôn được nhắc đến với sự nhẫn tâm tàn độc, lúc này đang gào khóc thảm thiết: “Minh Nguyệt Châu, ba mươi năm rồi, ba mươi năm rồi… A nương đã mất con ba mươi năm, hồn phách con… cuối cùng cũng trở về thăm a nương rồi…”

Khoảnh khắc này, bà không còn là vị Thái hậu nắm quyền sinh quyền sát trong tay, mà chỉ là một người mẹ vì mất con mà đau đến đứt từng khúc ruột.

Bà ôm chặt Lý Doanh, khóc rống từng hồi. Một lúc lâu sau, như bỗng ý thức được điều gì, bà kêu lên thất thanh: “Không… Minh Nguyệt Châu, con không nên ở đây! Con phải đi đầu thai, phải chuyển thế mới đúng! Vì sao hồn phách con vẫn còn ở lại dương gian?”

Lý Doanh vừa khóc vừa thì thào: “Vì chưa tìm ra kẻ đã giết con… nên con không thể đầu thai…”

“Kẻ giết con ư?” Thái hậu thầm thì, ánh mắt lóe lên tia căm hận: “Kẻ giết con… chính là a gia của con!”

“Không…”

Lý Doanh vừa định phủ nhận, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra, cánh cửa gỗ long não vốn đóng chặt bỗng vang lên hai tiếng gõ nhẹ. Ngoài cửa, nội thị cao giọng bẩm báo: “Bẩm Thái hậu, Ngự sử Âu Dương cầu kiến.”

Giờ này còn đến cầu kiến? Thái hậu không khỏi bực bội, bà mím môi, giọng nghiêm khắc: “Có chuyện gì?”

Nội thị bị dọa đến giật bắn, vội đáp: “Ngự sử Âu Dương nói rằng, Thánh nhân lệnh cho ngài ấy thẩm vấn Thôi Tuần, nhưng Thái hậu đã có chỉ không được phép động hình. Ngài ấy muốn cầu kiến Thái hậu để xin chỉ thị, xem nên thẩm vấn thế nào.”

Giờ phút này Thái hậu nào có tâm tư để gặp ông ta. Bà cả giận quát: “Nên làm thế nào, cứ để ông ta tự quyết, còn đến hỏi ngô làm gì?”

Nội thị không dám nhiều lời, liền dập đầu lĩnh mệnh: “Tuân lệnh”, rồi nhanh chóng lui ra ngoài, đi truyền lời với Ngự sử Âu Dương.

Lúc nói chuyện với nội thị, Thái hậu vẫn nắm chặt lấy tay áo Lý Doanh, chỉ sợ mình vừa buông tay, nàng sẽ biến ngay tức khắc. Biết là chuyện liên quan đến Thôi Tuần, lòng Lý Doanh nóng như lửa đốt, nhưng bất chợt, ánh mắt nàng dừng lại trên vật nằm dưới đất. Đó là túi gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn mà Thái hậu vô tình làm rơi khi vội bước xuống giường. Nhưng, đó chẳng phải là túi hương của nàng sao?

Nàng hoảng hốt bò tới, vươn tay nhặt lên. Túi hương đã rách, trên đó còn vương vết máu khô của Thôi Tuần. Tựa như đang nâng niu bảo vật quý giá nhất, Lý Doanh cầm túi hương trong lòng bàn tay. Nàng mở ra, ngón tay run run chạm vào sợi dây đỏ cùng búi tóc vẫn còn nguyên vẹn bên trong, là tín vật mà Thôi Tuần đã dùng mạng mình để giữ lại.

Nàng quay lại nhìn Thái hậu, cắn môi, nước mắt tuôn rơi: “A nương, xin người cứu Thôi Tuần, con cầu xin người… hãy cứu chàng ấy…”



Thái hậu hoàn toàn sửng sốt: “Thôi Tuần? Con và Thôi Tuần có quan hệ gì?”

Lý Doanh lấy sợi dây đỏ ra khỏi túi hương, nước mắt nhòe mi, đưa đến trước mặt Thái hậu: “A nương, đây là tóc của Minh Nguyệt Châu… và của Thôi Tuần.”

Một nam một nữ, mỗi người cắt một lọn tóc, buộc chung bằng sợi tơ hồng. Dù là ai đi nữa, chỉ cần nhìn qua cũng đủ hiểu mối quan hệ giữa hai người họ là gì.

Vậy ra, hồn phách con gái bà lưu lạc nhân gian, rồi đem lòng yêu một kẻ như Thôi Tuần?

Chuyện này quá đỗi hoang đường, Thái hậu kinh ngạc đến trợn tròn mắt, không sao phản ứng kịp.

Như hiểu rõ sự nghi hoặc trong lòng bà, Lý Doanh gật đầu: “A nương, Thôi Tuần… chính là người con yêu. Lúc này chàng đang lâm nguy, con cầu xin người, xin người hãy cứu chàng ấy…”

Thái hậu ngây ngẩn nhìn Lý Doanh, lời nói của nàng dường như đã khơi dậy một ký ức xa xăm đã bị chôn vùi trong lòng bà suốt bao năm. Bà đờ đẫn hồi lâu, rồi bỗng như đã hiểu ra điều gì, sắc mặt bà dần tái nhợt, thân thể run rẩy, đến cả đầu ngón tay run lên bần bật. Mãi đến khi hương trầm trong lò đã đốt hết, đôi môi trắng bệch của bà mới mấp máy, cất giọng khàn khàn: “Minh Nguyệt Châu, con… rốt cuộc con đã chết thế nào?”

“Con…”

Chưa kịp mở miệng, Lý Doanh đã bị Thái hậu dồn toàn bộ sức lực nắm chặt tay: “Không phải a gia con giết con, có đúng không?”

Lý Doanh ngây người, lắc đầu: “Không phải đâu ạ. A gia muốn giết con, nhưng đến phút cuối, người đã dừng tay…”

“Đúng vậy, không phải ông ấy… không phải ông ấy…” Thái hậu lẩm bẩm, sau cùng bỗng bật cười: “Không phải ông ấy… không phải ông ấy…”

Lý Doanh lo lắng hỏi: “A nương, người sao vậy…”

Thái hậu cười trong khi hốc mắt đã ngập nước, trên gương mặt lộ rõ vẻ đau thương. Bà chợt ngẩn ra như vừa tỉnh mộng: “Thì ra là vậy… thì ra là vậy…”

Lý Doanh không hiểu, nhưng trực giác mách bảo nàng rằng điều này có liên quan đến cái chết của mình. Nàng dè dặt hỏi: “A nương, thì ra là thế nào ạ?”

Thái hậu không trả lời, chỉ âu yếm xoa nhẹ gương mặt nàng, vừa khóc vừa cười: “Minh Nguyệt Châu, suốt ba mươi năm nay, hồn phách con đã ở đâu? Là dưới Địa phủ sao?”

Lý Doanh cúi mắt, cố nén nước mắt: “Không ạ, là… ở hồ sen trong cung.”

“Hồ sen?”

Lý Doanh gật đầu: “Sau khi con chết, hồn phách vẫn luôn bị giam cầm trong hồ sen. Mãi đến khi gặp Thôi Tuần, con mới có thể thoát ra được. Con đã nhờ chàng điều tra chân tướng cái chết của mình, suốt quá trình đó… con đã yêu chàng, không thể rời xa chàng nữa…”

Nàng vốn định nhân cơ hội này thuyết phục Thái hậu cứu Thôi Tuần, nhưng bà dường như không hề nghe thấy những lời phía sau. Ánh mắt bà đau đớn đến tột cùng: “Minh Nguyệt Châu, trong hồ sen, có lạnh lắm, có tối lắm không con?”

Một câu nói đơn giản lại khiến nước mắt Lý Doanh trào ra như suối. Trên đời này, người đau lòng vì con cái nhất vẫn luôn là người mẹ từng mang nặng đẻ đau.

Nàng nức nở không thành tiếng: “Không lạnh… không tối lắm đâu ạ…”

“Sao lại không lạnh chứ? Sao lại không tối chứ?” Thái hậu đau đến bất lực: “Lỗi của a nương, a nương đã không phát hiện ra con, a nương thật có lỗi với con…”

Lý Doanh cắn chặt môi, dùng tay áo cố sức lau đi những giọt nước mắt. Nàng rất muốn nói với Thái hậu rằng người không sai, cũng không có lỗi với nàng, người là người mẹ tốt nhất trên đời này. Nhưng thời gian của nàng đã không còn nhiều nữa, cơn đau thiêu đốt trong lồng ng.ực ngày một dữ dội, nàng không thể duy trì hình hài này quá lâu. Nàng phải tranh thủ thời gian, phải nhanh chóng thuyết phục a nương cứu Thôi Tuần.

Nàng nắm lấy tay Thái hậu: “A nương, người đã khuất thì cũng đã khuất rồi. Ban đầu con không định đến gặp người, bởi gặp gỡ sẽ chỉ khiến lòng người thêm đau đớn. Nhưng con không còn cách nào khác, Thôi Tuần vẫn bị giam trong ngục Đại Lý Tự. A nương, cầu xin người, hãy cứu chàng đi…”

Đáy mắt Thái hậu ánh lên lệ quang. Cuối cùng, bà cũng nghe rõ hai chữ “cứu chàng”: “Minh Nguyệt Châu, con nói… cứu Thôi Tuần?”

“Phải.” Lý Doanh quả quyết gật đầu: “Cứu Thôi Tuần, cứu Thập Thất lang của con.”

Thôi Tuần đứng hàng thứ mười bảy trong tộc, nàng gọi hắn thật mật đến mức khiến Thái hậu đơ cứng cả người. Lý Doanh cắn môi, tha thiết van nài: “A nương, nếu Thập Thất lang có mệnh hệ gì, con… dù đã chết một lần, nhưng e rằng… sẽ phải chết thêm lần nữa…”

Câu nói ấy tựa như sấm nổ giữa trời quang, khiến Thái hậu kinh tâm động phách. Bà hoài nghi nhìn nàng, mãi lâu sau mới khó tin bật thốt: “Minh Nguyệt Châu, con… thật lòng yêu hắn đến vậy sao?”

Lý Doanh gật đầu, giọng nàng nghẹn lại vì những giọt lệ chưa khô, nhưng từng lời thốt ra vẫn kiên định vô cùng: “Rất thích, rất yêu chàng. Con không dám tưởng tượng nếu mất chàng, con sẽ ra sao…”

Nàng kéo chuỗi hạt châu trên cổ ra, để lộ viên xá lợi Phật đỉnh ngời sáng: “A nương, để cứu con, chàng đã phải liều mạng, đoạt về xá lợi Phật đỉnh, chàng đã không còn đường lui nào cho kiếp sau nữa. Bởi vậy, kiếp này, con nhất định phải cứu chàng… A nương, Minh Nguyệt Châu chưa từng cầu xin người điều gì, hôm nay con chỉ cầu xin người lần này, xin người… hãy tha cho chàng đi.”

Thái hậu thẫn thờ nhìn viên xá lợi Phật đỉnh tỏa ánh sáng nhu hòa. Thì ra, vì con gái bà nên dù mạo hiểm, Thôi Tuần cũng phải đoạt bằng được báu vật này. Nhưng tha cho hắn thì dễ, chỉ sợ hắn sẽ không từ bỏ chuyện tra án Thiên Uy Quân…

Thái hậu mím môi, đôi mắt đầy đau khổ rũ xuống: “Minh Nguyệt Châu, nhưng Thôi Tuần… hắn muốn giết a đệ của con!”

“Ta biết chàng muốn giết a đệ.”

“Con biết?” Thái hậu không thể tin nổi: “Con biết, vậy mà vẫn muốn cứu hắn ư? Đó là a đệ của con! Là người cùng một mẹ sinh ra với con đấy!”

“Không! Nó không phải a đệ của con!” Lý Doanh nghiến răng: “Con không có một a đệ nào phản bội tướng sĩ trấn thủ biên cương! Càng không có một a đệ nào bán đứng chính con dân của mình!”

Thái hậu chết lặng.

“Nó không xứng làm a đệ của con.” Lý Doanh cố nén cơn đau nghẹn ứ trong lồng ng.ực: “A nương, không phải vì muốn cứu Thập Thất lang nên nói ra những lời này, càng không phải vì tình cảm riêng tư mà buông bỏ a đệ. Nhưng a nương, rõ ràng người biết đệ ấy đã làm những chuyện gì cơ mà? Một kẻ như thế mà vẫn xứng làm Hoàng đế Đại Chu ta sao? Còn xứng để được thiên hạ kính ngưỡng, để bá tánh tôn xưng hai chữ “Thánh nhân” sao?”

Thái hậu không thể phản bác, chỉ có thể thều thào: “Nhưng con chỉ có một đứa em trai, a nương cũng chỉ có một người con trai, a nương không thể bỏ rơi nó được…”

Thần sắc Thái hậu càng thêm thống khổ. Bà vốn luôn giữ được dung mạo trẻ trung như mỹ phụ mới ngoài bốn mươi, nhưng những ngày qua, sắc mặt dần trở nên tiều tụy, gương mặt đã hằn những nếp nhăn sâu: “Minh Nguyệt Châu, sau khi con rời đi, bảy năm sau a nương mới có a đệ của con. A nương lo sợ tượng Bồ Tát Từ Thị sẽ cướp đi nó như đã cướp con, nên mới đặt cho nó nhũ danh là Bồ Tát Bảo. Khi còn nhỏ, Bồ Tát Bảo cũng ngoan ngoãn, hiểu chuyện như con vậy, giúp a nương vơi đi nỗi đau mất con. Nó cứ thế bầu bạn bên a nương suốt hai mươi ba năm qua. Nó luôn nghĩ a nương không yêu nó, nhưng không phải vậy… Cũng như con là cốt nhục của a nương, nó cũng vậy. Trên đời này, có người mẹ nào lại không yêu thương con mình? Minh Nguyệt Châu, tim của a nương… đã tan nát một lần rồi, a nương không muốn nó bị vỡ thêm lần thứ hai nữa…”

Lý Doanh nước mắt giàn giụa: “A nương, a đệ là cốt nhục của người, người không muốn trái tim mình lại vỡ vụn lần nữa. Nhưng a nương, năm vạn binh sĩ Thiên Uy quân, bách tính sáu châu, họ cũng có a nương! Họ cũng là cốt nhục mà a nương họ dứt ruột sinh ra! A nương của họ đã làm gì sai mà phải chịu nỗi đau xé ruột xé gan khi mất con hả người?”

Thái hậu giật mình, đứng lặng tại chỗ.

Lý Doanh lau nước mắt, lại nói: “A nương ơi, trong Thiên Uy quân, có một thiếu niên tên là Tào Ngũ lang, cậu ấy là bằng hữu thân thiết nhất của Thập Thất lang. Cậu ấy vốn là con một trong nhà, nhưng vì muốn báo đáp Đại Chu nên đã mang theo một tấm lòng son, lên đường nhập ngũ. Tào Ngũ lang đã xông pha chiến trường nơi biên ải, huyết chiến không lùi. Nhưng cậu ấy nào có ngờ, người quân phụ mà cậu ấy thề chết bảo vệ lại tự tay đưa cậu ấy vào tử địa Lạc Nhạn Lĩnh! Vị quân phụ ấy… chỉ vì mục đích riêng của bản thân mà đã dồn cậu ấy vào bước đường cùng! Hài cốt cậu ấy đến nay vẫn còn lưu lại ở Lạc Nhạn Lĩnh, chưa được ai thu nhặt, còn a nương của cậu ấy, vì quá đau lòng nên đã treo cổ tự vẫn. A nương ơi, trong Thiên Uy quân, trong sáu châu thuộc Quan Nội Đạo, có bao nhiêu Tào Ngũ Lang vô tội đã bỏ mạng? Lại có bao nhiêu bà mẹ vì mất con mà đau thắt ruột gan…”

Nàng chậm rãi tiếp: “A nương, trước đây người luôn dạy con rằng, công chúa hưởng sự cung phụng của muôn dân thì cũng phải biết báo đáp muôn dân. Con đã làm được điều đó, nhưng còn a đệ thì sao? Đệ ấy là Hoàng đế, được muôn dân kính ngưỡng, phục tùng, nhưng đệ ấy đã đền đáp lại gì cho họ chưa? Chưa từng! Ngược lại, đệ ấy còn đẩy muôn dân của mình đến dưới vó sắt của Đột Quyết, chịu sự giày xéo! A nương, người nói cho con biết, một a đệ như vậy, dựa vào đâu mà đòi xứng làm a đệ của con?”

Vẻ mặt Thái hậu rối rắm, bà vừa khóc vừa nói: “Minh Nguyệt Châu, con đừng nói nữa!”

“A nương…” Lý Doanh nén nỗi bi thương, nàng tiếp tục: “Người là Thái hậu của Đại Chu, không chỉ là mẫu thân của a đệ, mà còn là mẫu thân của thiên hạ! Các binh sĩ Thiên Uy quân, bách tính sáu châu… bọn họ, đều là con của người! Sao người có thể dung túng một người con này của người đi làm hại những người con khác? A nương, người không thể làm thế được…”

Những lời của nàng khiến Thái hậu như bừng tỉnh, đúng vậy, mọi thứ… không nên diễn ra thế này!

Cơn đau như lửa đốt dội lên lồng ng.ực Lý Doanh. Nàng chỉ cảm thấy đầu óc ngày một choáng váng. Nàng nắm chặt vạt áo, cố gắng điều hòa hơi thở, nhìn Thái hậu nói: “A nương, Minh Nguyệt Châu phải đi rồi, sau này… cũng sẽ không quay về nữa… A nương là Thái hậu của Đại Chu, từ nay về sau, người phải làm mẫu thân của thiên hạ……”

Bóng dáng nàng dần nhạt đi, Thái hậu hoảng loạn lao đến ôm nàng: “Minh Nguyệt Châu, đừng đi! Con đừng rời xa a nương nữa!”

Nhưng thân ảnh đứa con gái yêu dấu đã dần tan biến trong vòng tay bà, để lại lời nhắn nhủ vang vọng khắp không gian:

“A nương… bảo trọng…”

“Kiếp sau… Minh Nguyệt Châu vẫn muốn làm con gái của a nương…”

Vòng tay Thái hậu trống rỗng, cơ thể người ấy đã trở thành hư không. Bà biết, con gái của mình đã vĩnh viễn đi mất.

Nàng sẽ không bao giờ quay về nữa.

Thái hậu Đại Chu phủ phục trên nền đất, khóc rống lên.



Khi tia sáng đầu tiên của buổi sớm mai len qua song cửa, rọi vào tẩm điện, những cung nữ chờ đợi suốt một đêm bên ngoài điện đều thấp thỏm lo âu. Cuối cùng, một người không kìm được, gõ nhẹ lên cánh cửa gỗ trầm hương vẫn đóng chặt. Thế nhưng, bên trong điện vẫn là một khoảng lặng đến rùng mình.

Các cung nữ đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều lấy làm bất an. Chẳng lẽ… Thái hậu đã xảy ra chuyện gì rồi?

Một cung nữ hoảng sợ đẩy cửa xông vào, chỉ thấy Thái hậu ngồi lặng lẽ trên nền gỗ mun, tay siết chặt một túi gấm thêu hoa mẫu đơn ngũ sắc. Đôi mắt bà sưng đỏ, hiển nhiên cả đêm qua bà chưa từng chợp mắt.

Đám cung nữ nhất loạt quỳ sụp xuống: “Thái hậu thứ tội, nô tỳ không cố ý quấy rầy người…”

Nhưng giọng điệu của Thái hậu lại bình thản lạ lùng: “Đứng dậy đi.”

Các cung nữ rón rén đứng lên, một người gan dạ len lén ngước nhìn, suýt nữa kinh hãi kêu lên.

Chỉ sau một đêm, mái tóc đen dài tựa suối chảy của Thái hậu đã hoàn toàn bạc trắng.

Thái hậu Đại Chu, lại có thể… một đêm bạc đầu.

Cả đám cung nữ đều hoảng sợ quỳ rạp xuống, run rẩy như cành liễu trong gió.

Thái hậu siết chặt túi gấm trong tay, chậm rãi đứng dậy. Dù đôi mắt vẫn nhuốm nét đau thương khó tả, nhưng rõ ràng, bà đã hạ quyết tâm nào đó.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 156: A nương, người muốn giết trẫm sao?



Bên trong điện Thần Long, Long Hưng Đế cũng thức trắng cả đêm.

Không rõ vì sao, tối qua hắn cứ thấy đặc biệt bồn chồn, dù có khôi giáp của Huệ phi bầu bạn những vẫn không sao chợp mắt nổi. Khi trời rạng sáng, hắn quyết định hủy buổi triều hôm nay. Dù sao hắn cũng chỉ là một con rối, có lên triều hay không cũng đâu khác gì nhau.

Hoàng hậu nghe tin hắn thấy không khoẻ, vội vàng chạy đến thăm hắn. Nàng là một thê tử hiền thục đoan trang, thực lòng quan tâm đến hắn, còn tự tay hầm một chén canh hậu phác nhân sâm mang tới. Thế nhưng, Long Hưng Đế vừa trông thấy nàng liền cảm thấy khó chịu. Hắn liếc mắt nhìn chén canh, lạnh nhạt nói: “Đây không phải việc một Hoàng hậu nên làm.”

Hoàng hậu thoáng tủi thân, nhưng vẫn nén xuống, dịu giọng khuyên hắn giữ gìn Thánh thể. Dù hắn là một Hoàng đế thất thế bị thao túng hay từng nắm giữ quyền hành trong tay, nàng vẫn luôn đối với hắn chân thành, trước sau như một.

Ánh mắt Thái hậu chưa từng sai. Người sai chính là hắn.

Cả đời này, hắn không thể nào yêu người do Thái hậu lựa chọn.

Hoàng hậu còn đang khuyên nhủ, bỗng cung nhân vào báo Thái hậu ghé qua.

Từ trước đến nay, mỗi lần mẫu tử gặp mặt, Long Hưng Đế vẫn luôn là người đích thân tới điện Bồng Lai. Về phần Thái hậu, chưa khi nào bà chủ động bước chân vào điện Thần Long.

Cả Hoàng đế và Hoàng hậu đều có vẻ sửng sốt, ngay lúc đó, Thái hậu với mái đầu bạc trắng, dưới sự dìu đỡ của cung nhân, chậm rãi tiến vào.

Hoàng hậu kinh ngạc che miệng, nhưng Thái hậu không giải thích với nàng, chỉ khoát tay bảo cung nhân đưa Hoàng hậu lui xuống.

Điện Thần Long rộng lớn, chỉ còn lại hai người: Thái hậu và Long Hưng Đế.

Mây giông ùn ùn kéo đến, gió lộng đầy lầu.



Long Hưng Đế nhạy bén nhận ra có điều không ổn, ánh mắt đảo qua bốn phía, sắc mặt tái nhợt, sau đó mới đỡ lấy Thái hậu: “A nương, tóc người… sao lại thế này?”

Thái hậu hất tay hắn ra, ánh mắt dán chặt vào hắn, như khóc mà cũng như không: “Bồ Tát Bảo, rốt cuộc con có nhúng tay vào chuyện của Thiên Uy quân không?”

Long Hưng Đế khựng lại, nhưng ngay sau đó, hắn quả quyết đáp: “Không!”

“Không thật sao?”

“Không!”

Long Hưng Đế chợt kích động, hắn đi qua đi lại: “A nương, ai đã đặt điều trước mặt người? Thôi Tụng Thanh? Tiết Vạn Triệt? Hừ! Vì muốn cứu Thôi Tuần nên chúng dám bịa đặt bôi nhọ trẫm!”

“Không ai đặt điều cả!” Thái hậu cao giọng: “Là vì chính con cũng không thể giải thích rõ ràng về ký lục sinh hoạt hằng ngày của mình, cũng không thể giải thích rõ về cái chết của Vương Huyên!”

“Còn chưa đủ rõ sao ạ? Trẫm đã nói rồi, trẫm nói câu đó là vì muốn dừng việc cống phẩm từ Thanh Châu! Cái chết của Vương Huyên là do Huệ phi gây ra, chuyện này đâu có liên quan gì đến trẫm?”

Thái hậu nhìn hắn đầy bi thương: “Bồ Tát Bảo, con coi a nương là đồ ngốc sao? Coi những tiến sĩ tam giáp kia là đồ ngốc sao? Coi thiên hạ này đều là đồ ngốc sao?”

“Trẫm chưa từng coi ai là kẻ ngốc, trẫm không làm thì chính là không làm!”

Long Hưng Đế sống chết không nhận. Thái hậu cười khổ hai tiếng, chống tay lên bức bích hoạ vẽ hai màu đỏ trắng, lảo đảo ngồi xuống bên bàn gỗ tử đàn. Một lọn tóc bạc bung khỏi búi tóc cài ngay ngắn, khiến bà càng thêm phần già nua, tiều tụy. Bà chậm rãi nói: “Người không thừa nhận cũng không sao. Cứ để Tam Ty điều tra, tra lại từng câu từng chữ trong Khởi cư chú của người trong khoảng thời gian đó, đồng thời triệu tập hết đám cung nhân hầu hạ người khi ấy tới, thẩm vấn từng người một, kiểu gì cũng tìm được manh mối thôi.”

Sắc mặt Long Hưng Đế lập tức tái mét: “A nương, người nói gì cơ?”

“Người nói mình không làm, vậy sao phải sợ? Trừ phi, người quả thực đã làm!”

Long Hưng Đế cắn răng, bỗng chốc quỳ rạp xuống, bò tới trước mặt Thái hậu, khẩn cầu: “A nương, người không thể làm vậy! Trẫm là Hoàng đế! Người để người ta điều tra Hoàng đế sao? Người không định chừa cho trẫm chút thể diện nào sao?”

“Ngô không chừa lại thể diện cho người, hay chính người không tự chừa lại thể diện cho mình?” Thái hậu nghiêm giọng: “Ngô hỏi người lần cuối, người có tham dự vào án Thiên Uy quân không?”

Bà trừng mắt nhìn Long Hưng Đế, ánh mắt không còn một sự do dự hay mềm lòng. Long Hưng Đế biết bà đã hạ quyết tâm, hắn không dám tiếp tục chối cãi, chỉ quỳ trước mặt Thái hậu, run rẩy không nói nên lời. Cõi lòng Thái hậu lạnh thấu, bà giơ tay, một bạt tai giáng thẳng xuống mặt hắn.

Năm dấu tay đỏ rực hằn trên gương mặt tuấn tú của Long Hưng Đế, Thái hậu đau lòng gào lên: “Sao ngươi dám làm thế? Đó là những tướng sĩ giữ biên cương vì ngươi! Đó là những bách tính kính ngươi, tôn ngươi!”

“A nương…” Long Hưng Đế bật khóc, hắn nắm chặt vạt áo Thái hậu, cầu xin: “Trẫm cũng bị Lư Dụ Dân lừa gạt thôi mà! Ông ta nói, chỉ cần để Thiên Uy quân bại một lần là được, nhưng ông ta không nói hậu quả sẽ nghiêm trọng đến thế này! Trẫm cũng không ngờ sẽ ra nông nỗi này!”

“Có đúng là ngươi bị Lư Dụ Dân lừa gạt?”

Long Hưng Đế gật đầu lia lịa, nước mắt nước mũi tèm lem: “A nương, người biết mà, nhi tử vốn nhát gan, nếu không phải bị ông ta lừa gạt, sao nhi tử dám làm chuyện này chứ? A nương, xin hãy tha cho nhi tử, nhi tử không dám nữa đâu…”

Hắn khóc đến mặt mày lem luốc, trông vô cùng đáng thương. Thái hậu nhìn hắn, chợt nhớ lại khi hắn còn nhỏ, mỗi lần ham chơi bị phạt quỳ cũng khóc lóc thảm thiết như thế. Khi đó, bà cứng rắn nói: “A gia người vẫn còn con trai, vẫn còn cháu trai, nếu người không lo làm Hoàng đế thì vẫn còn rất nhiều người khác muốn làm! Nếu người không chịu tiến bộ, ngô sẽ phế người.”

Phải đến khi Lư Dụ Dân ra mặt cầu xin cho Long Hưng Đế, khi ấy mới chỉ năm tuổi rồi bế hắn ra ngoài, bà mới chịu bỏ qua. Kể từ đó, hắn sợ bà như sợ cọp, không bao giờ dám trái ý bà nữa.

Nước mắt lặng lẽ trượt xuống gò má của Thái hậu, giọng bà khẽ run lên: “Bồ Tát Bảo, sai lầm lần này của con, không phải là một lần ham chơi, một trận giận dỗi trốn không chịu thượng triều, mà là một tội lỗi ngập trời…”

“A nương, con biết con sai rồi! Nhưng con sẽ sửa, con thề, từ nay về sau, con sẽ không làm những chuyện hồ đồ như vậy nữa…”

“Không còn lần sau nữa.” Thái hậu cất giọng ai oán: “A nương là Thái hậu Đại Chu, a nương phải cho năm vạn Thiên Uy quân, cho bách tính sáu châu, một lời giải thích.”

Long Hưng Đế kinh hãi trừng mắt nhìn bà: “A nương, người muốn phế trẫm?”

“Không.” Thái hậu đưa đôi tay run rẩy lên, chạm vào gương mặt hắn như khi còn bé: “Bồ Tát Bảo, từ nhỏ a nương đã dạy con, sai thì phải chịu trách nhiệm. Trên Lạc Nhạn Lĩnh xác chết chất đầy như núi, bách tính sáu châu nhà tan cửa nát. Con… phải chịu trách nhiệm cho sai lầm của mình…”

Long Hưng Đế ngây dại, răng va vào nhau lập cập: “A nương, người… người muốn giết trẫm sao?”

Nước mắt Thái hậu rơi như suối, bà đau đớn đến mức gần như không thể đứng vững: “Bồ Tát Bảo, từ nay a nương sẽ ăn chay trường, sẽ dùng quãng đời còn lại chấn chỉnh giang sơn này, sẽ tạo phúc cho lê dân… chuộc tội thay con.”

Sắc mặt Long Hưng Đế càng lúc càng trắng bệch, hắn bỗng đẩy mạnh bà ra: “A nương, người điên rồi sao? Vì đám con sâu cái kiến thấp hèn kia, mà người muốn giết con ruột của mình?”

Nhưng ngay sau đó, hắn lại nhận thêm một bạt tai đầy tuyệt vọng của Thái hậu: “Bọn họ không phải con sâu cái kiến, không phải cỏ rác, mà là con dân của con! Con là quân phụ của họ!”

Cái tát này khiến Long Hưng Đế lập tức tỉnh táo lại, hắn đột nhiên bò đến dưới chân Thái hậu, khẩn thiết cầu xin: “A nương, trẫm biết lỗi thật rồi mà, người không thể giết trẫm! Trẫm là đứa con duy nhất của người, sao người có thể làm vậy?”

Hắn liên tục cầu xin, nhưng nào phải chỉ riêng hắn đau đớn? Thái hậu buộc mình phải trấn tĩnh, dập tắt nỗi bi thương và sự không đành lòng. Bà nói: “Bồ Tát Bảo, a nương cũng không muốn giết con. Nhưng đêm qua, a nương đã gặp a tỷ của con.”

Long Hưng Đế kinh hãi ngẩng phắt đầu lên, Thái hậu lẩm bẩm: “Mười sáu tuổi, tuổi xuân tươi đẹp biết bao. Nhưng dưới hồ sen, lạnh lẽo biết bao, tối tăm biết bao… Trong khi bên ngoài hồ sen, quốc lực ngày càng cường thịnh, quốc khố ngày càng dồi dào, quân đội ngày càng hùng mạnh… Những điều ấy, đều được lát bằng sinh mệnh của a tỷ con. Nếu không phải a gia con vẫn luôn day dứt vì cái chết của a tỷ, thì đế vị của con, quyền nhiếp chính của a nương, có thể thuận lợi đến thế sao? Bồ Tát Bảo, con có lỗi với a tỷ con. A nương, lại càng có lỗi với a tỷ con. A tỷ con dùng mạng sống để đổi lấy tất cả những điều này. Những gì a tỷ con dùng mạng đổi lấy, không thể là một Thái hậu dung túng con trai mình, lại càng không thể là một Hoàng đế bán rẻ chính con dân của mình.”

Nước mắt Thái hậu tuôn như mưa: “Bồ Tát Bảo, con sai rồi, a nương cũng sai rồi. Vì a tỷ con, a nương không thể để sai lầm này tiếp diễn nữa. Nếu không, a tỷ con sẽ rất thất vọng về a nương…”

Thái hậu nhắc đến Lý Doanh, Long Hưng Đế liền hiểu, lần này hắn đã không còn đường sống. Hắn nghiến răng ken két, bỗng bật cười ha hả: “Cái gì mà gặp a tỷ? Người sống có thể gặp ma sao? Toàn là cái cớ! Đều là cái cớ cả! Nói trắng ra, chẳng qua a nương chỉ muốn mượn cơ hội này để giết trẫm, một mình độc chiếm đại quyền mà thôi! A nương, đừng quên, người còn chưa có cháu trai! Nếu người giết trẫm, người định làm Thái hậu kiểu gì đây?”

Lời hắn nói khiến Thái hậu càng thêm đau lòng, giọng bà trầm xuống: “Bồ Tát Bảo, lẽ nào con cho rằng vì ngôi vị Thái hậu nên a nương mới bao che cho con suốt bao năm qua? Không phải như vậy. Từ sau huyết án Thái Xương, a nương đã bắt đầu tham dự triều chính, đến nay đã ba mươi năm rồi. Con dựa vào đâu để cho rằng ba mươi năm vẫn chưa đủ để a nương củng cố ngôi vị Thái hậu?”

Long Hưng Đế cố chấp không tin: “Nếu không phải vì ngai vị Thái hậu, lẽ nào là vì tình mẫu tử? Hừ, người có tình nghĩa với a tỷ, nhưng có từng dành chút gì cho trẫm không? Trẫm chẳng qua chỉ là công cụ để người thắt chặt quyền lực mà thôi, người chưa từng thực lòng thương yêu trẫm!”

Nói đến đây, hắn đã không còn cố kỵ điều gì nữa, bật cười điên dại: “A nương, dù sao trẫm cũng phải chết rồi, chi bằng nói thẳng cho người biết. Đứa con mà người vẫn tưởng là nhu nhược ngoan ngoãn kia, không chỉ tham dự vào vụ án Thiên Uy quân, mà còn chính là kẻ chủ mưu!”

Hắn cười càng lúc càng cuồng loạn, ánh mắt lóe lên vẻ tàn nhẫn: “Cái gì mà bị Lư Hoài mê hoặc? Là trẫm ép ông ta tham dự! Là trẫm ra lệnh cho ông ta đi tìm Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết! Là trẫm tự tay đẩy năm vạn Thiên Uy quân vào chỗ chết!”



Sáu năm trước, trong điện Thần Long, Lư Dụ Dân thất kinh, vội quỳ rạp xuống đất, không dám tin nhìn người học trò mà mình đã dốc hết tâm huyết dạy dỗ: “Thánh nhân không thể làm vậy! Nếu muốn đoạt quyền từ tay Thái hậu, vẫn còn nhiều cách khác, cớ gì lại hy sinh tướng sĩ Đại Chu?”

“Trẫm không thể đợi được nữa! Trẫm đã mười bảy tuổi rồi! Vậy mà bà ta vẫn chưa chịu buông quyền! Sức khỏe bà ta vẫn rất cường kiện, ít nhất có thể sống thêm tám năm, mười năm nữa, trẫm còn phải chờ tới khi nào?” Long Hưng Đế bực bội đi lòng vòng, giọng lạnh lẽo: “Trẫm không thể đợi thêm dù chỉ một ngày! Quách Cần Uy là tướng lĩnh do Thái hậu đích thân đề bạt, Thiên Uy quân là chiến tích hiển hách nhất của bà ta. Nếu Thiên Uy quân đại bại, sáu châu Quan Nội Đạo thất thủ, thì chẳng khác nào tuyên cáo với thiên hạ rằng Thái hậu không biết cách dùng người. Khi đó, bà ta còn mặt mũi nào để thao túng triều chính? Lấy tư cách gì để hiệu triệu quần thần? Đến lúc đó, dù trẫm có nhịn được, thiên hạ cũng không nhịn được!”

“Nhưng Thiên Uy quân cũng là bách tính của Thánh nhân! Sáu châu Quan Nội Đạo vẫn luôn là lãnh thổ Đại Chu, sao Thánh nhân có thể dâng đất đai, để bách tính rơi vào móng vuốt Đột Quyết? Như vậy… chẳng phải sẽ để lại tiếng xấu muôn đời sao?”

“Người làm đại sự, không thể câu nệ tiểu tiết! Trẫm không nói, thầy không nói thì ai biết? Thế nhân chỉ biết rằng Quách Cần Uy tham công liều lĩnh, khiến Thiên Uy quân thảm bại, sáu châu Quan Nội Đạo bị đánh mất. Đến lúc đó, Quách Cần Uy và Thiên Uy quân sẽ trở thành nỗi nhục của Đại Chu, ai, ai sẽ đứng ra, rửa sạch nỗi nhục này? Hơn nữa, một khi trẫm giành lại quyền lực, trẫm nhất định đoạt lại sáu châu từ tay Đột Quyết, tuyệt đối không để bách tính phải chịu cảnh lầm than mãi mãi.”

Dù Long Hưng Đế khẳng định chắc nịch, nhưng Lư Dụ Dân vẫn mặt xám như tro, liên tục lắc đầu: “Thánh nhân, xin hãy suy xét thấu đáo! Đây tuyệt đối không phải việc đấng nhân quân nên làm?”

“Nhân quân, thế nào là nhân quân? Một kẻ chỉ có lòng nhân từ mà chẳng có chút quyền hành nào, cũng có thể gọi là nhân quân sao? Nhân quân, không chỉ cần nhân, mà còn phải là quân! Thầy xem, ngay cả việc bổ nhiệm thầy làm Tả bộc xạ, trẫm cũng chẳng làm được, nhìn trẫm có còn giống một quân chủ hay không?”

Lư Dụ Dân lệ già tuôn trào: “Thái hậu nắm quyền nhiếp chính, quả thật đáng hận, nhưng Thánh nhân không thể vì hận Thái hậu mà vứt bỏ tướng sĩ, vứt bỏ bách tính…”

“Tướng sĩ? Đó là tướng sĩ trung thành với a nương! Còn bách tính, trẫm chỉ để họ chịu khổ nhất thời, chứ không phải cả đời.”

Lư Dụ Dân lặng người, nhìn người học trò của mình, chợt thấy xa lạ đến câm nín.

Long Hưng Đế càng thêm sốt ruột, giọng nói đanh lại: “Thầy, trẫm không thể đợi nữa. Trẫm đã suy tính địa đồ rất lâu, cân nhắc vô số lần mới nghĩ ra cách này. Tuy có phần máu lạnh, nhưng chắc chắn sẽ giáng một đòn chí mạng. Thầy, hãy tin trẫm.”

Cả người Lư Dụ Dân phát run, không nói không rằng. Long Hưng Đế thở dài: “Thầy là người trẫm tin tưởng nhất, nên trẫm mới bàn bạc với thầy. Nhưng nếu thầy không muốn, vậy thì trẫm sẽ tự mình liên lạc với Đột Quyết.”

“Không!” Lư Dụ Dân hoảng hốt ngẩng đầu lên ngăn cản, thần sắc vô cùng thống khổ. Hồi lâu sau, ông ta mới khó nhọc cất lời: “Thánh nhân không thể tự nhúng tay vào chuyện này. Nếu đã vậy… hãy để thần làm thay. Sau này nếu có bại lộ, toàn bộ tội danh cứ để thần gánh chịu.”

Cuối cùng, ông ta cũng đồng ý. Khóe môi Long Hưng Đế khẽ cong lên, nở một nụ cười vừa ngây thơ vừa tàn nhẫn. Thiếu niên mười bảy tuổi ấy cẩn thận dặn dò: “Thầy, Thứ sử Phong Châu là Bùi Quan Nhạc, ông ta tâm cao khí ngạo, có thể lợi dụng đươc. Còn Trung lang tướng Thẩm Khuyết, biểu huynh của trẫm, hắn vốn luôn bất mãn với a nương, cũng có thể lợi dụng. Thầy hãy tìm bọn họ thuyết phục họ giúp một tay, chắc chắn họ sẽ đồng ý.”

Long Hưng Đế đã tính toán sẵn những quân cờ của mình, đem toàn bộ kế hoạch bày ra trước mặt Lư Dụ Dân. Cõi lòng Lư Dụ Dân càng lúc càng rét lạnh, ông ta dè dặt hỏi: “Nếu Đột Quyết lòng tham không đáy, sau khi chiếm sáu châu Quan Nội Đạo vẫn không chịu lui binh, mà lại liên kết với Bùi Quan Nhạc, xuôi nam đánh thẳng vào Trường An, vậy phải làm sao?”

“Không thể.” Long Hưng Đế dứt khoát phủ nhận: “Đối với Khả hãn Ni Đô, Đại Chu quá lớn, ông ta nuốt không trôi, dù có nuốt được, cũng phải hao tổn gấp trăm lần sức lực để giao chiến với tàn quân của Đại Chu, cuộc mua bán này không đáng. Chi bằng tuân theo minh ước, chỉ chiếm sáu châu thuộc Quan Nội Đạo. Sáu châu ấy có đến cả triệu dân, đủ để ông ta dùng rồi. Còn về Bùi Quan Nhạc, tạm không nhắc đến việc vợ con ông ta đều ở Trường An, chỉ xét riêng bản thân ông ta, tuy dã tâm bừng bừng, thủ đoạn bất chấp, nhưng ông ta không phải hạng ngu dốt. Nếu ông ta quy thuận Đột Quyết, sẽ bị cả thiên hạ đồng lòng tru diệt. Chi bằng giả bộ cố thủ Ninh Sóc, kháng cự Đột Quyết, trở thành anh hùng của Đại Chu, như thế chẳng những hưởng vinh hoa phú quý, quan cao lộc hậu, mà còn có thể lưu danh thiên cổ.”

Long Hưng Đế đã suy tính kế hoạch này không biết bao nhiêu lần, cho nên hắn vô cùng chắc chắn rằng Khả hãn Ni Đô sẽ không xuôi nam, Bùi Quan Nhạc cũng không phản bội. Thế nhưng, hắn vẫn chậm rãi nói tiếp: “Tất nhiên, nếu Bùi Quan Nhạc thực sự phản bội trẫm, khiến Đột Quyết áp sát Trường An, vậy cũng chỉ có thể trách trẫm vận số không may, cược thua ván này. Nhưng vận mệnh, nếu không đánh cược một phen, làm sao biết được kết quả? Trẫm thà làm một con bạc thua sạch, còn hơn là làm một con rối vô năng.”



Long Hưng Đế bày ra mọi toan tính, khiến Thái hậu kinh hoàng đến nỗi ngây người. Mãi sau, bà mới hoàn hồn, đôi môi run rẩy, nước mắt ầng ậc trào ra, từng cái bạt tai liên tục giáng mạnh xuống gương mặt tuấn tú như ngọc của con trai mình: “Ngươi còn là người sao? Ngươi thậm chí còn không bằng súc sinh!”

Máu rịn ra từ khóe miệng Long Hưng Đế, hắn bật cười khoái trá: “Phải, trẫm chính là súc sinh. Về phần vụ án miêu quỷ, Thẩm Khuyết muốn hại a nương, nhưng bộ địch y bị lấy cắp kia là do trẫm đưa cho hắn. Chính trẫm muốn lấy mạng a nương!”

“Ngươi… ngươi…” Thái hậu đau đớn đến nghiến răng nghiến lợi: “Sao ngươi lại thành ra thế này!”

So với sự phẫn nộ của Thái hậu, Long Hưng Đế lại tỏ ra hết sức bình thản. Hắn cười khanh khách: “A nương, trẫm trước nay vẫn thế, chưa từng thay đổi. Trẫm là con của người, trên đường trở thành Thái hậu, người đã giẫm lên bao nhiêu thi cốt? Trẫm là con của a gia. A gia là người thế nào? Giả dại chờ thời, bức tử dưỡng mẫu. Trẫm là cốt nhục của hai người cơ mà, cả hai người, có ai là người lương thiện không? Ồ, có lẽ a tỷ là người lương thiện đấy, nhưng tỷ ấy đã chết rồi, ngay cả cái chết của tỷ ấy cũng bị hai người lợi dụng để thúc đẩy tân chính. Ha, tỷ ấy nào giống con gái của hai người chút nào?”

Thái hậu bi phẫn đến mức toàn thân run rẩy: “Ngươi… đến cả cầm thú ngươi cũng không bằng! Dù ngô và a gia ngươi có mất nhân tính thế nào, thì cũng chưa từng làm chuyện b.án n.ước! Ngươi xứng làm Hoàng đế sao? Ngươi xứng để bách tính tôn xưng một tiếng “Thánh nhân” sao?”

“Sao lại không xứng? A gia biết rõ Trịnh Quân không giết a tỷ, nhưng vẫn khơi mào huyết án Thái Xương, giết hàng vạn người. Chẳng lẽ những người đó không phải bách tính của ông ta? Ông ta vẫn được xưng là Thánh nhân đấy thôi, tại sao trẫm lại không thể?” Long Hưng Đế cười phá lên: “Từ xưa đến nay, thắng làm vua, thua làm giặc. B.án n.ước ấy à? Nếu trẫm thành công, tương lai sử sách sẽ chép rằng trẫm là Thánh chủ Trung Hưng, khôi phục đại cục! Biết đâu được, có khi còn ca tụng trẫm nhẫn nhục chịu đựng, một chiêu đoạt quyền cũng nên!”

Thái hậu giận đến phát run, bà vơ lấy công văn trên bàn ném thẳng vào Long Hưng Đế: “Đến giờ mà ngươi vẫn không chịu hối cải! Ngươi xứng làm Thánh nhân? Ngay cả làm người ngươi cũng không xứng!”

Bị đánh đến rách trán, máu đỏ tuôn ra, chảy xuống đôi mắt, khiến khuôn mặt Long Hưng Đế thoáng chốc tựa như ma quỷ. Hắn cười nhạt: “A nương, vì sao trẫm cấu kết với Đột Quyết, vì sao trẫm giết hại mẫu thân, tất cả đều là nhờ ơn người cả đấy!”

Thái hậu khựng lại, Long Hưng Đế chậm rãi nói: “Từ nhỏ, người đã dạy trẫm phải làm một Thánh nhân. Trẫm không thể có hỉ nộ, không thể có ai lạc, trẫm chỉ là một công cụ để người thực hiện hoài bão của mình. Người và a gia, ai cũng độc ác như ai, vậy mà lại mong trẫm trở thành một bậc minh quân nhân đức? Người tự vấn lòng đi, người có phải Thánh nhân không? Ngay cả người còn không làm được, dựa vào đâu bắt trẫm làm được? Từ nhỏ đến lớn, những gì trẫm nhận được từ người chỉ là quỳ phạt, trách mắng, uy h**p. Rõ ràng người là mẹ ruột của trẫm, vậy mà trẫm chẳng cảm nhận được chút yêu thương nào, dựa vào đâu để trẫm tin rằng người sẽ trao trả quyền hành hay tin rằng người sẽ không phế bỏ trẫm? Để bảo vệ chính mình, trẫm mới phải cấu kết Đột Quyết, mới phải giết hại mẹ ruột. Suy cho cùng, đó chẳng phải đều do người ban tặng sao?”

Thái hậu phẫn uất đến mức bật khóc: “Ngươi nói tất cả là do a nương? Ngươi nói a nương không thương yêu ngươi? Khi ngươi bốn tuổi bệnh nặng, là ai thức trắng đêm chăm sóc ngươi? Khi ngươi mười tuổi bị thích khách của Giang Châu vương ám sát, là ai đẩy ngươi ra, dùng thân che chắn cho ngươi? Là a nương đây, người mà ngươi luôn miệng nói rằng không yêu thương gì ngươi đấy! Vì sao ta bắt ngươi làm Thánh nhân? Là bởi vì ta và cha ngươi sát nghiệt quá nặng, mai sau hậu thế ắt sẽ khen chê lẫn lộn. Ta muốn ngươi làm một minh quân được người đời ca tụng, ngàn năm vạn năm sau, khi nhắc đến chỉ toàn những lời tán dương. Chẳng lẽ là sai sao?”

“Đương nhiên là sai!”

Long Hưng Đế phản bác: “Đó là suy nghĩ của người! Người đã từng hỏi trẫm chưa? Người luôn muốn trẫm trở thành một a tỷ khác, nhưng trẫm không phải a tỷ! Giống như a nương và a gia, trẫm cũng là một kẻ ích kỷ, quyết tuyệt, bạo ngược! Trẫm không thể biến thành a tỷ!”

Thái hậu nghiến răng, trừng mắt nhìn Long Hưng Đế, nhưng trên mặt hắn không hề có chút ăn năn. Đến tận khoảnh khắc này, rốt cuộc bà cũng đã lạnh lòng, gật nhẹ đầu: “Được, không dạy dỗ ngươi đến nơi đến chốn là lỗi của a nương ngươi. Mẹ con ta không còn lời nào để nói thêm nữa, cứ để tất cả kết thúc tại đây đi.”

Long Hưng Đế bật cười khinh bỉ, hắn loạng choạng đứng lên, lấy bộ khôi giáp của Huệ phi ra, rồi ngồi xuống đất, đặt nó lên đầu gối. Giờ phút này, hắn thà để đoạn tình cảm méo mó này bầu bạn với mình, còn hơn mở miệng cầu xin Thái hậu lấy một câu.

Hắn chỉnh lại y quan, bình tĩnh nói: “Rượu độc hay lụa trắng, a nương cứ mang vào đi. Dù sao, trẫm cũng không hối hận.”

Lời sau cuối của hắn chính là: “A nương, người cũng không cần phải ăn chay cả đời để chuộc tội thay trẫm, trẫm không thèm.”

Thái hậu dường như già đi mười tuổi, bà vịn tay lên bức tường vẽ bích họa, chậm rãi đứng dậy, giọng nói như đã hao mòn tận cùng: “Ngươi không cần, nhưng a nương ta vẫn sẽ làm vậy.”

Bà vịn tường, lê từng bước một rời khỏi điện Thần Long. Mãi đến khi ra đến cửa, thân thể mới mềm nhũn, suýt nữa ngã xuống đất, nội thị vội vã đỡ lấy bà. Ánh mắt bà lướt nhanh qua chén rượu vàng trong tay nội thị, chậm rãi nhắm mắt lại, giọng nói đượm vẻ thê lương: “Đưa vào… cho Thánh nhân đi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 157: Chắc không lâu nữa, a nương sẽ đăng cơ



Long Hưng Đế bất ngờ bạo tử, triều đình liệt kê mười tội lớn của hắn, trong đó có bất hiếu, bội nghịch, phế bỏ đế hiệu, giáng làm thứ nhân. Thái hậu hạ tội kỷ chiếu, nhận lỗi vì giáo dưỡng không chu toàn. Trong bản chiếu thư ấy cũng như danh sách mười tội danh, vì cân nhắc đến sự ổn định của Đại Chu nên triều đình không đề cập đến tội trạng b.án n.ước của Long Hưng Đế. Thế nhưng, gia quyến của Thiên Uy quân đều được thả ra, các sĩ tử từng tĩnh tọa cũng được phóng thích, chưa kể còn được ban thưởng. Chỉ riêng Long Hưng Đế, người mà họ phản đối phải chết. Công tội ra sao, sự vụ đã rõ như ban ngày.

Chính sử không ghi chép, nhưng trong dã sử và thơ phú vẫn có những ám chỉ mơ hồ, xem như đã công khai tội nghiệt của Long Hưng Đế trước bàn dân thiên hạ. Ngàn năm vạn năm sau, hắn vẫn sẽ bị người đời phỉ nhổ.

Long Hưng Đế không có con nối dõi, ngôi vị trống không, chư vương dòm ngó rục rịch. Có kẻ thậm chí còn lớn tiếng chỉ trích Thái hậu dạy con không nghiêm, không xứng ngồi ở vị trí đó. May mắn thay, Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh và Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài đều tiên phong đứng về phía Thái hậu. Thái hậu cũng dùng thủ đoạn lôi đình, nhanh chóng phù trợ một ấu tử trong tông thất lên ngôi, sử gọi là Thiếu Đế. Cục diện lập tức ổn định, thiên hạ đã có chủ, chư vương chỉ có thể trơ mắt nhìn cơ hội vụt khỏi tầm tay.

Bách tính phẫn nộ trước hành vi của Long Hưng Đế, nhưng lại cảm thán trước đại nghĩa diệt thân của Thái hậu. Hơn nữa, bà chấp chính đã nhiều năm, thiên hạ dần khởi sắc, dân sinh an ổn, nông phu có thể thông qua khoa cử để ra làm quan. Đổi một vị Hoàng đế khác, chưa biết sẽ ra sao, vì thế dân chúng cũng không có quá nhiều dị nghị, thành Trường An cũng tạm thời khôi phục sự bình yên.

Mọi thứ dường như đã quay trở lại quỹ đạo, bao gồm cả Thôi Tuần, người từng bị giam cầm trong ngục thất Đại Lý Tự.

Cơn lao ngục lần này đã gần như hủy hoại toàn bộ sức khỏe hắn. Sau khi được thả, thân thể hắn gầy rộc, hốc hác tiều tụy, bệnh tật quấn thân, khó bề hồi phục.

Về phần lão bộc câm, tuy đã quy hàng Đột Quyết, nhưng cuối cùng đã biết hối cải, vào điện giãi bày chân tướng cho Thôi Tuần, được xem như trung nghĩa. Sau khi nghị tội, Tam Ty phán lão chịu tội thắt cổ, gia quyến được miễn liên lụy. Đối với lão bộc câm, cái chết có lẽ chính là sự giải thoát.

Sau khi lão mất, Thôi phủ quạnh quẽ, không người chăm nom. Ngư Phù Nguy liền phái hai nô bộc Côn Luân kín miệng đến hầu hạ sinh hoạt cho Thôi Tuần. Thôi Tụng Thanh cũng từng ghé thăm hắn một lần. Ông cố chấp với tân chính suốt bao năm, từng chọn cách làm lơ trước oan khuất của người chết thảm, nay bắt đầu nhìn lại những việc mà bản thân đã làm. Trước đây, ông từng nói với Thái hậu rằng tâm nguyện duy nhất trong đời chính là quốc thái dân an, trời yên biển lặng. Nhưng nếu ngay cả nỗi oan khuất của tướng sĩ và bách tính cũng không thể rửa sạch, vậy Đại Chu định dựa vào đâu để đạt đến cảnh giới thiên hạ thái bình, biển lặng nước trong.

Ông đứng trước giường bệnh Thôi Tuần, trầm mặc hồi lâu, sau cùng mở miệng: “Tên của ngươi đã được thêm vào gia phả Thôi thị rồi.”

Thuở thiếu niên, Thôi Tuần từng rất lấy làm kiêu hãnh về bốn chữ “Bác Lăng Thôi thị”. Nhưng sau khi trải qua bao sóng gió, chàng thanh niên Thôi Tuần của hôm nay đã sớm xem nhẹ điều đó rồi. Hắn chỉ lắc đầu, lạnh nhạt đáp: “Có hay không cũng vậy, ta vẫn là ta.”

Cốt cách của một người không nằm ở xuất thân, mà nằm ở lựa chọn của hắn.

Thôi Tụng Thanh im lặng hồi lâu, rồi nói: “Phụ thân ngươi muốn gặp ngươi.”

Thôi Tuần vẫn chỉ lắc đầu: “Không muốn gặp.”

“Bốn người huynh đệ của ngươi đều đã bị giết. Ông ấy đang rất suy sụp.”

Thôi Tuần đương nhiên biết rõ kẻ đã giết huynh đệ mình. Thôi Tụng Thanh kể rằng phụ thân và kế mẫu hắn mỗi ngày đều lấy nước mắt rửa mặt. Ông dừng lại giây lát, rồi nói tiếp: “Năm xưa mẫu thân ngươi bệnh nặng, phụ thân ngươi từng thề trước mặt bà ấy rằng, dù có tục huyền cũng sẽ đối xử tử tế với ngươi, nếu không ắt gặp báo ứng. Nay xem ra, báo ứng đã đến rồi. Phụ thân ngươi hối hận vô cùng, hy vọng ngươi có thể tha thứ cho ông ấy, quay về nhà cũ sinh sống.”

Thôi Tuần ho khan hai tiếng, gương mặt trắng bệch, không chút huyết sắc. Hắn ngước mắt, nhìn về phía Thôi Tụng Thanh, chậm rãi nở một nụ cười: “Ta sẽ không tha thứ.”

“Vọng Thư…”

“Ta, Thôi Tuần, vốn là kẻ có ân tất báo, có thù tất trả.” Thôi Tuần nói: “Không phải bậc quân tử rộng lượng, quên đi thù xưa.”

Thôi Tụng Thanh khựng lại, nở một nụ cười cay đắng: “Nếu không phải năm xưa ta từng bảo bọc ngươi, e rằng hôm nay ngay cả gặp ta, ngươi cũng không muốn.”

Thôi Tuần nhìn ông, gật đầu.

Khoảnh khắc ấy, Thôi Tụng Thanh cảm thấy vừa hổ thẹn vừa chua xót. Ông trầm mặc hồi lâu, cuối cùng chỉ có thể thở dài: “Chuyện ngày trước, bá phụ sai rồi, bá phụ có lỗi với ngươi.”

Có lẽ ông ta đã nhớ lại những lần khinh miệt và nhục mạ Thôi Tuần khi xưa, cũng như nhớ đến việc làm ngơ trước cảnh khốn cùng của Thịnh Vân Đình và Thiên Uy quân vì phải theo đuổi cải cách tân chính. Ông ta và Lư Du Dân tự cho rằng hành động của mình là vì bách tính, nhưng rốt cuộc, kẻ buông bỏ bách tính trước lại chính là cả hai. Ngược lại, kẻ luôn bị bọn họ khinh miệt, luôn bị coi là gian nịnh như Thôi Tuần, mới chính là người dám người đứng ra, đòi lại công lý cho dân chúng sáu châu.

Giờ đây, trước mặt người cháu trai mà mình luôn lấy làm khinh rẻ, Thôi Tụng Thanh cuối cùng cũng phải thừa nhận lỗi lầm của bản thân. Ông ảo não nói: “Vọng Thư, ngươi là hậu duệ của Bác Lăng Thôi thị, bá phụ không bằng ngươi.”

Hai bác cháu đối diện nhau, không ai nói thêm lời nào. Thôi Tụng Thanh chỉ đành cô quạnh rời đi. Vừa bước qua cửa, chợt nghe Thôi Tuần gọi giật lại. Hắn thản nhiên nói: “Bá phụ, sau này tân chính cùng bách tính, vẫn phải nhờ vào bá phụ dốc lòng lo liệu.”

Tâm tình Thôi Tụng Thanh trở nên ngổn ngang. Ông nhìn Thôi Tuần thật lâu, đoạn chậm rãi gật đầu, xoay người rời đi.



Sau khi Thôi Tụng Thanh đi khỏi, Lý Doanh, người vẫn lặng lẽ ngồi bên song cửa nãy giờ, mới tiến lên, ngồi xuống mép giường của Thôi Tuần.

Lần này, nàng miễn cưỡng hiện thân trước mặt Thái hậu, vết thương để lại còn nặng hơn lần cưỡng ép hiện hình trước mặt Vương Nhiên Tê. Nếu không nhờ xá lợi Phật đỉnh bảo vệ tâm mạch, chỉ e nàng đã hồn phi phách tán.

Dẫu vậy, nguyên khí của nàng vẫn bị tổn hao nghiêm trọng, không còn khả năng đi lại dưới ánh mặt trời. Giờ đây, nàng chỉ có thể xuất hiện vào ban đêm, hoặc ẩn mình trong phòng kín. Lý Doanh nâng nhẹ bàn tay Thôi Tuần lên, ngón tay hắn được quấn chặt trong lớp lụa mỏng, giọng nói dịu dàng: “Ta giúp chàng thay thuốc nhé.”

Thôi Tuần gật nhẹ đầu. Lý Doanh cẩn thận gỡ lớp lụa ra. Đôi tay vốn thon dài tuyệt đẹp năm nào, giờ đây các đốt ngón đều biến dạng, vặn vẹo thành dáng vẻ vô cùng khó coi. Đôi tay này, vĩnh viễn chẳng thể trở lại như trước nữa.

Thôi Tuần nhìn chằm chằm những ngón tay mình, bỗng cười nhạt: “Không còn đẹp nữa rồi.”

“Không, vẫn rất đẹp.” Lý Doanh tỉ mỉ bôi thuốc lên những ngón tay sưng tấy của hắn: “Trong lòng ta, đây vẫn luôn là đôi tay đẹp nhất.”

Bôi thuốc xong, nàng lại cẩn thận dùng lụa sạch băng bó vết thương, lần này băng dày hơn trước, đến nỗi các ngón tay cũng chẳng thể cử động. Thôi Tuần không biết phải làm sao, hắn chợt lên tiếng: “Thế này thì làm sao ta bưng chén thuốc lên được đây?”

“Ta đút cho chàng mà.” Lý Doanh đáp rất tự nhiên, “Từ khi chàng rời khỏi Đại Lý Tự, chẳng phải ta vẫn luôn đút thuốc cho chàng sao?”

Thôi Tuần bật cười, chủ động ôm lấy nàng. Lý Doanh nép sát vào hắn, bàn tay vuốt dọc theo tấm lưng gầy gò: “Lại gầy đi rồi.”

Hắn đã gầy đến mức hai bả vai nhô ra, như một con hạc bệnh sắp tàn lụi. Sắc mặt hắn nhợt nhạt một cách bệnh trạng, dù uống cả chục thang thuốc mỗi ngày, thân thể vẫn chẳng có chuyển biến tốt. Trước kia, Linh Hư Sơn Nhân từng nói, hắn chỉ còn thọ mệnh mười năm, nếu dùng dược hổ lang, tối đa chỉ còn năm năm. Và giờ, sau trận cực hình tàn khốc này, Lý Doanh không dám nghĩ, liệu hắn còn có thể sống được bao lâu nữa.

Nàng ngước lên nhìn hắn, đôi con ngươi đẫm nước, rồi nhẹ nhàng đặt lên môi hắn một nụ hôn. Thôi Tuần đáp lại nụ hôn ấy. Môi hai người chỉ chạm khẽ vào nhau, không vội vã, không gấp gáp, cũng chẳng có sự chiếm đoạt mãnh liệt nào. Ở đó, chỉ tồn tại sự vỗ về và lưu luyến thuần túy nhất, quấn quýt triền miên.

Kết thúc nụ hôn, Thôi Tuần lại đặt một cái hôn lên mắt nàng, rồi nói: “Thái hậu đã trả lại túi hương cho ta.”

Túi hương được Lư Hoài đích thân mang tới, điều này cũng đồng nghĩa với việc, Thái hậu đã chấp nhận hắn.

Ngoài ra, Thái hậu còn sai ngự y đến chẩn trị, ban thưởng vô số dược liệu quý hiếm. Lý Doanh mân mê một lọn tóc đen của hắn quanh ngón tay, rồi nép vào lòng hắn, khẽ nói: “Trước kia, a nương ta không thích chàng. Nhưng bây giờ, có khi bà đã thay đổi suy nghĩ rồi cũng nên.”

“Bà ấy nhờ Lư Hoài chuyển lời, bảo ta phải chăm sóc chủ nhân của chiếc túi hương này thật tốt.”

Lý Doanh bất đắc dĩ, nàng chạm nhẹ vào lớp lụa trắng bọc khắp người hắn: “Nay chàng thế này, thì còn chăm sóc được ai?”

Thôi Tuần ho khẽ hai tiếng, mỉm cười: “Người làm mẹ lúc nào chẳng thiên vị con gái mình.”

Thái hậu xưa nay không tin vào thuật Hoàng Lão, [1] cũng không nuôi đạo sĩ hay phương sĩ trong cung. Nay lại hạ lệnh khắp thiên hạ tìm kiếm cao nhân, có lẽ bà vẫn ôm lòng muốn gặp lại Lý Doanh.

[1] thuật Hoàng Lão theo mình hiểu là tu luyện để trường sinh bất lão, luyện đan dược, tìm kiếm phương pháp kéo dài tuổi thọ. Trong lịch sự, có hai vị hoàng đế là Tần Thủy Hoàng và Hán Vũ Đế, đều đam mê theo đuổi đạo thuật này.

Lý Doanh nhẹ giọng đáp: “Sau này, dù muốn thì ta cũng không thể gặp lại a nương.”

Ngay cả việc ẩn thân giống như lần ở trước Phật tháp trong chùa Pháp Môn, cũng không thể.

Thôi Tuần hỏi: “Vì sao?”

“A nương có long khí.”

Long khí là thứ chỉ đế vương mới có, long khí hộ thể, quỷ hồn không thể tới gần.

Đây cũng chính là lý do khiến lần này nàng bị thương nặng hơn bao giờ hết.

Sắc mặt Lý Doanh tái nhợt đến đáng sợ, nàng yếu ớt tựa vào lồng ng.ực Thôi Tuần, nhỏ nhẹ nói: “Có lẽ chẳng bao lâu nữa, a nương sẽ bức tiểu Hoàng đế nhường ngôi, tự mình đăng cơ.”

Qua biến cố này, có lẽ Thái hậu đã nhận ra rằng, để ngai vị trong tay kẻ khác chung quy vẫn không đáng tin bằng tự mình nắm giữ. Bà không muốn lặp lại bi kịch của Long Hưng Đế, kẻ vì muốn tranh quyền với bà mà không ngần ngại lấy giang sơn và lê dân làm vật hi sinh, để rồi máu chảy thành sông, thây chất đầy đồng, triều đình rối ren, chướng khí mù mịt.

Long Hưng Đế có thể tranh quyền với bà, có thể khiến Lư Dụ Dân cùng bao người khác một mực đi theo, chẳng qua chỉ vì hắn có danh nghĩa “Hoàng đế”. Trong mắt thế nhân, Hoàng đế hiển nhiên phải nắm đại quyền, còn Thái hậu thì phải rút về hậu cung, nếu không sẽ bị xem là “gà mái gáy sáng”, vượt quá bổn phận.

Nếu danh nghĩa “Hoàng đế” là bệ đỡ tốt đến vậy, thì chi bằng tự mình làm Hoàng đế, mượn danh thiên mệnh, dựng nên một thời đại cho riêng mình.

Có điều, từ khi Đại Chu khai quốc đến nay, chưa từng có Nữ đế. Con đường lên ngôi của bà, ắt hẳn trùng trùng hiểm trở.

Thôi Tuần thoáng kinh ngạc, nhưng rất nhanh đã khôi phục lại vẻ bình thản, hắn nói: “A nương nàng sẽ làm được.”

Từ một nữ tử thương hộ nghèo đến mức không có giày để mang, bà đã từng bước lên tới địa vị tối cao, khiến quần thần răm rắp nghe theo. Cũng chính bà, có thể nhẫn tâm gi.ết ch.ết đứa con trai phản quốc. Mưu lược, thủ đoạn, tâm kế, đại nghĩa – bà đều có đủ. Vậy thì tất nhiên, bà cũng có thể từ Thái hậu trở thành Nữ đế đầu tiên trong lịch sử.

Nhưng trước khi có thể xưng đế, bà cần tích lũy công trạng vô tiền khoáng hậu, khiến bá tánh thiên hạ phải ngả mũ dập đầu, khiến đám hủ nho không thể bắt bẻ.

Công trạng vô tiền khoáng hậu đó là gì?

Thi hành tân chính tất nhiên là một công trạng vĩ đại, nhưng có lẽ phải ba mươi năm, năm mươi năm sau mới có thể thấy rõ thành quả. Cách nhanh nhất để khiến công lao ấy in sâu vào lòng dân chính là thu phục bờ cõi, chấn hưng quốc uy Đại Chu, đẩy lùi bọn Hồ Lỗ ra khỏi Âm Sơn, khiến chúng vĩnh viễn chẳng còn sức nam hạ xâm lược, bảo vệ Trung Nguyên trăm năm thái bình.

Cơn ho dữ dội kéo đến, Thôi Tuần hơi nghiêng đầu, sắc mặt ửng lên chút đỏ vì bệnh tật. Hắn thì thào: “Minh Nguyệt Châu, A nương nàng… sắp khởi binh đánh Đột Quyết rồi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 158: Chờ một người mãi chẳng thể chờ được



Đúng như Thôi Tuần dự liệu, quả thực Đại Chu sắp khởi binh, tiến đánh Đột Quyết.

Sáu năm trước, Thiên Uy quân bị diệt toàn quân, sáu châu thuộc Quan Nội Đạo thất thủ. Sau sáu năm rèn binh mài giáo, Đại Chu sớm đã đủ sức đối đầu với Đột Quyết, chỉ là trước đây triều đình nội đấu gay gắt, không ai dám tùy tiện dụng binh. Nay đại quyền nằm cả trong tay Thái hậu, rốt cuộc bà có thể yên tâm điều binh khiển tướng, đoạt lại sáu châu đã mất.

Cũng xem như bù đắp lỗi lầm thay cho con trai mình.

Từ khi nghe tin Đại Chu sắp khởi binh, Thôi Tuần ngày đêm canh cánh trong lòng. Lý Doanh thu hết vào mắt, nhưng chỉ giả như không biết.

Mười lăm tháng mười là sinh thần hai mươi ba tuổi của Thôi Tuần.

Lý Doanh dậy sớm, tự tay nấu cho hắn một bát mì trường thọ, nàng đẩy bát mỳ đựng trong bát sứ men trắng đến trước mặt Thôi Tuần, giọng điệu có chút ngượng ngùng: “Ta chưa làm mì trường thọ bao giờ, chàng nếm thử xem?”

Vết thương của Thôi Tuần đã dần hồi phục, băng vải quấn trên tay cũng được gỡ bỏ, chỉ là các khớp xương đã biến dạng, không còn linh hoạt như trước. Hắn phải thử vài lần mới có thể miễn cưỡng cầm đũa bạc, gắp một sợi mì lên nếm thử.

Lý Doanh chăm chú nhìn hắn, ánh mắt lộ vẻ mong chờ.

Thôi Tuần nói: “Ngon lắm.”

Lý Doanh không tin nổi, tự mình nếm thử một miếng, rồi lại nhíu mày hỏi hắn: “Thế này mà cũng gọi là ngon sao?”

Sợi mì nhạt nhẽo vô vị, như thể đang nhai sáp nến, đâu dính dáng gì đến hai chữ “ngon miệng”.

Thôi Tuần gật đầu, thậm chí còn ăn hết sạch cả một bát mì: “Thật sự rất ngon.”

Hắn vốn không cầu kỳ trong chuyện ăn uống. Khi còn nhỏ, hắn cũng có đôi chút kén chọn, nhưng những năm tháng ở Đột Quyết đã khiến hắn ngộ ra rằng, chỉ cần còn sống đã là may mắn lắm rồi, nào còn hơi sức để bận tâm đến chuyện thức ăn ngon hay dở.

Lý Doanh chống cằm, khẽ nói: “Khi làm mì trường thọ, ta đã thầm ước một điều.”

Thôi Tuần đặt đũa bạc xuống, cười hỏi: “Ước ta sống lâu trăm tuổi, đúng không?”

“Không phải.” Lý Doanh lắc đầu, nghiêm túc đáp: “Ta ước chàng có thể đạt được tâm nguyện của mình.”

Thôi Tuần thoáng sững lại. Lý Doanh mỉm cười: “Ta muốn chơi cờ, chàng chơi cùng ta nhé, được không?”

Thôi Tuần hoàn hồn, gật đầu: “Được.”



Cả ngày hôm ấy, hắn đều bầu bạn với Lý Doanh, cùng nàng đánh cờ, thưởng trà. Mãi đến khi trời vừa chập tối, Lý Doanh mới nói: “Thập Thất lang, hôm nay là ngày mười lăm, ta muốn ra ngoài thả hoa đăng.”

Từ khi Thái hậu gặp lại Lý Doanh, bà mới hay rằng hương hồn con gái mình vẫn còn lưu lạc chốn nhân gian. Vì vậy, bà hạ lệnh cứ đến ngày rằm mỗi tháng, các chùa lớn trong thành Trường An đều phải cử hành pháp hội, cầu phúc siêu độ cho công chúa. Thành thử, dân chúng Trường An cũng quen với việc thả hoa đăng trên Khúc Giang vào đêm rằm để trừ tà tránh họa, tiễn đưa linh hồn của những người đã khuất.

Thôi Tuần gật đầu, khoác lên mình chiếc áo choàng lông hạc màu đen tuyền, cùng Lý Doanh rời khỏi Thôi phủ.

Xa phu là một nô lệ người Côn Luân, hắn đưa hai người đến bên bờ Khúc Giang rồi quay về. Lúc này đã sắp đến giờ giới nghiêm, các tiểu thương bán hoa đăng đều vội vã dọn hàng trước khi trở về nhà. Thôi Tuần cúi đầu chọn một chiếc hoa đăng, cất giọng hỏi: “Nàng thích cái nào?”

Hắn đang hỏi Lý Doanh, nhưng người bán lại tưởng hắn đang hỏi mình, vội chỉ vào một chiếc đèn hình hoa sen, nói: “Loại này được nhiều người mua nhất, cũng là loại đẹp nhất ở đây.”

Quả nhiên, trong muôn vàn những chiếc đèn hoa đăng, chiếc hình hoa sen này là tinh xảo hơn cả. Nó được cắt tỉa từ lớp giấy mỏng như cánh ve, tạo hình thành một đóa sen nở rộ, từng lớp cánh xếp chồng lên nhau, chính giữa đặt một cây nến đỏ. Vừa nhìn thấy chiếc hoa đăng đó, Lý Doanh đã vô thức lắc đầu, nhưng Thôi Tuần lại nói: “Lấy cái này đi.”

Hắn trả bạc, tiểu thương nhận tiền, vội vàng cảm tạ rồi nhanh chóng thu dọn số hoa đăng còn lại, hối hả trở về nhà. Chẳng bao lâu, bờ sông Khúc Giang đã vắng tanh, chỉ còn đội Kim Ngô Vệ giơ cao đuốc, tuần tra theo hàng ngũ. Nhận ra Thôi Tuần, họ không dám thúc giục hắn rời đi mà chỉ chắp tay hành lễ, rảo bước về nơi khác, để mặc hắn đứng yên bên bờ nước Khúc Giang.

Gió đêm nổi lên, Thôi Tuần ho khan mấy tiếng. Lý Doanh vươn tay kéo chặt áo khoác lông hạc màu đen tuyền cho hắn. Chính nàng cũng khoác lên người một tấm áo lông hồ trắng muốt, gương mặt trắng nõn càng thêm phần tái nhợt. Thôi Tuần nhìn nàng, dịu giọng nói: “Nếu thấy lạnh thì nàng cứ về trước đi.”

“Không lạnh.” Lý Doanh nhẹ nhàng đáp: “Hôm nay là sinh thần của chàng, cũng là ngày rằm pháp hội, quả thực hiếm có. Ta cũng không muốn về sớm.”

Thôi Tuần bất đắc dĩ, đành đưa đèn hoa sen cho nàng. Lý Doanh đón lấy, mỉm cười nói: “Ta cứ tưởng chàng sẽ không chọn chiếc đèn này.”

Thôi Tuần liếc nhìn đèn hoa sen: “Trước kia ta rất ghét danh xưng “Liên Hoa Lang”, nhưng giờ đây, ta đã không còn bận tâm nữa.”

Hắn đã gầy yếu hơn nhiều so với lần đầu mới gặp, cả người gầy guộc như thể sẽ biến mất vào bất cứ lúc nào. Một ý nghĩ bất giác len lỏi trong lòng nàng, phải chăng hắn tự biết bản thân chẳng còn sống được bao lâu, nên những điều từng bận lòng trước kia, giờ đều sẵn sàng buông bỏ. Lý Doanh cố kìm nén cảm giác chua xót trong lòng, dùng hỏa chiết thắp sáng ngọn nến trên đèn, rồi bước đến bờ Khúc Giang.

Dưới lòng sông, vô số hoa đăng đã được thả trôi, có những chiếc mang hình thú, có những chiếc tạo hình hoa cỏ, nhưng nhiều nhất vẫn là đèn hoa sen. Ánh nến lập lòe trên mặt nước, lung linh tựa muôn ngàn tinh tú giữa trời đêm, rọi sáng bầu trời đêm tĩnh mịch. Cây cối ven sông phản chiếu xuống dòng nước, bóng lá giao hòa cùng ánh đèn, tạo nên khung cảnh đẹp đến nao lòng. Lý Doanh cúi xuống nhìn, thấy trên những hoa đăng dưới chân nàng đều có viết điều ước: có người cầu nguyện cùng tình lang bạc đầu giai lão, có người mong năm sau có thể đỗ đạt khoa cử, có người hy vọng con cái thuận lợi, bình an.

Thôi Tuần hỏi nàng: “Nàng có muốn viết điều ước lên đèn không?”

Lý Doanh lắc đầu: “Không cần, ta tự nguyện cầu là được.”

Nàng lặng lẽ nhắm mắt lại, âm thầm cầu nguyện, sau đó ngồi xuống, thả đèn hoa sen, dõi theo ánh đèn dập dềnh trôi xa, nương nhờ theo dòng nước lượn lờ.

Nàng đứng dậy, hướng mắt về phía Thôi Tuần, nhoẻn cười hỏi: “Chàng có đoán được điều ước của ta là gì không?”

“Hửm?”

Lý Doanh nhìn hắn, khẽ cười: “Ta mong rằng lần này chàng ra quân, có thể đánh đuổi người Hồ chỉ trong một trận, thu phục giang sơn.”

Thôi Tuần ngẩn người, hồi lâu không đáp. Lý Doanh vờ như không có gì, khẽ nói: “Chẳng phải chàng muốn thỉnh mệnh a nương, xuất chinh Bắc phạt hay sao?”

Thôi Tuần mím môi, hốc mắt hoe đỏ: “Minh Nguyệt Châu…”

“Ta biết chàng vẫn chưa thể buông tay.” Lý Doanh nhẹ giọng: “Chàng cảm thấy sáu châu rơi vào tay địch là do Thiên Uy quân để mất, nên nhất định phải đích thân thu hồi. Chàng muốn khôi phục lại niềm kiêu hãnh của Thiên Uy quân, cũng là tìm lại lòng kiêu hãnh cho riêng mình, có đúng không?”

Thôi Tuần lặng thinh thật lâu, cuối cùng mới khó nhọc thốt lên: “Minh Nguyệt Châu, xin lỗi nàng, ta biết ta rất ích kỷ…”

Còn chưa dứt lời, Lý Doanh đã ngắt lời hắn: “Chàng ích kỷ chỗ nào? Chàng muốn thu phục cố thổ, giải cứu lê dân sáu châu, thay Thiên Uy quân và chính bản thân chàng hoàn thành sứ mệnh cuối cùng. Đây là một việc tốt đến nhường nào, ta mừng còn chẳng kịp, sao chàng lại nói lời xin lỗi?”

Nàng nói vậy, nhưng trong đôi mắt lại ngập tràn lệ quang. Thôi Tuần sắp ra trận nhưng ngay cả bước ra đường giữa ban ngày, nàng cũng chẳng thể làm được. Thần hồn suy kiệt khiến nàng không thể cùng hắn xuất chinh. Nàng chỉ có thể ở lại Trường An, mòn mỏi chờ hắn trở về.

Nỗi áy náy trong lòng Thôi Tuần càng thêm sâu sắc. Kỳ thực, cả hai đều hiểu rõ, chuyến Bắc phạt này chính là con đường chuộc tội của hắn, nhưng cũng là con đường không lối về. Với thân thể bệnh tật hiện tại, hắn không thể trở lại Trường An. Lý Doanh nhất định sẽ phải chờ một người mãi chẳng thể chờ được.

Thôi Tuần cúi đầu, hắn lẩm bẩm: “Không, Minh Nguyệt Châu, ta sẽ dốc hết sức mình để trở về gặp nàng.”

Dù có là thuốc đắng chát cỡ nào, hắn cũng sẽ không ngần ngại. Hắn vẫn còn mong ước, mong ước có thể trở về, để cùng nàng bên nhau dài lâu.

Lý Doanh vừa khóc vừa cười, nhào vào lòng hắn, siết chặt lấy vòng eo gầy guộc. Giọt lệ nóng hổi rơi xuống áo choàng lông hạc màu đen, thấm vào lớp vải dày, tan biến không chút dấu vết. Giọng nàng nghẹn ngào: “Được, ta sẽ đợi chàng trở về.”



Ngày rời khỏi Trường An, Thôi Tuần chẳng mang theo thứ gì, chỉ đem theo túi gấm chứa nút tóc của hai người.

Trước lúc chia xa, Lý Doanh giúp hắn chỉnh lại áo choàng lông hạc màu đen, ngàn lời muốn nói cuối cùng chỉ hóa thành một câu: “Đi đường cẩn thận.”

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng, cúi đầu đặt một nụ hôn lên trán, rồi lại nhẹ nhàng hôn lên môi nàng. Hắn ngước mắt, nói với Lý Doanh: “Minh Nguyệt Châu, đời này có thể gặp được nàng, ta… không còn gì phải hối tiếc.”

Lý Doanh ngước lên nhìn hắn, tròng mắt ngấn lệ: “Có thể gặp được chàng, ta cũng không còn gì hối tiếc.”

Hắn và nàng, quả thực may mắn biết bao. Hắn gặp được nữ tử đã cứu mình khỏi cõi Tu La, nàng thì gặp được một linh hồn kiên cường, bất khuất.

Thôi Tuần nén nỗi đau trong lòng, khẽ nói: “Minh Nguyệt Châu, đừng tiễn ta. Ta sợ nếu nàng đi, ta sẽ không nỡ rời xa nàng.”

Lý Doanh thì thầm: “Chàng lại dỗ ta, dù ta có đi, chàng vẫn sẽ không lùi bước đâu mà, đúng không?”

Bởi vì trong lòng hắn, có những điều còn quan trọng hơn cả tình yêu.

Trong lòng nàng cũng vậy.

Dẫu cho tim gan như bị xé nát, nàng vẫn sẽ không ngăn cản hắn lao vào chiến trường sinh tử ấy, chỉ bởi nàng là công chúa Đại Chu, trên chiến trường đó, còn có hàng triệu bách tính Đại Chu đang mong đợi vương sư đến cứu.

Nàng nói: “Nhưng ta sẽ không tiễn chàng, vì ta sợ nếu đi rồi, ta sẽ không nỡ để chàng rời xa nữa.”

Thôi Tuần nhìn khuôn mặt trắng trong như ngọc của nàng, lòng đau như dao cắt. Hắn sao nỡ rời xa nàng đây? Thế là hắn lại cúi đầu, hôn lên môi nàng, chỉ có thể không ngừng lặp lại lời hứa, mong có thể xoa dịu nỗi đau trong lòng nàng: “Minh Nguyệt Châu, ta sẽ trở về.”

Đôi mắt Lý Doanh rưng rưng: “Chàng đã hứa rồi đấy, không được lừa ta, nếu không, ta sẽ không thèm để ý đến chàng nữa.”

Thôi Tuần gật đầu, cuối cùng cắn răng, xoay người rời khỏi Thôi phủ, không dám quay đầu nhìn lại dù chỉ một lần.



Trong thành có kẻ đau đớn đến đứt đoạn ruột gan, có kẻ lại hoan hô nhảy nhót. Bách tính Trường An đều ôm ấp niềm mong mỏi lớn lao đối với cuộc Bắc chinh lần này. Nỗi nhục suốt sáu năm ròng, rốt cuộc cũng đợi được đến ngày để rửa sạch.

Khi các tướng sĩ khoác giáp Minh Quang, cưỡi bạch mã, rời khỏi Đại Minh cung, dân chúng đứng dọc hai bên quan đạo hò reo vang dội. Các tiểu nương tử bẽn lẽn bẻ nhành mai, tung về phía những thiếu niên anh dũng, khí vũ hiên ngang. Mọi người đều kỳ vọng đoàn quân này sẽ sớm thu phục phần đất đai đã mất.

Giữa hàng quân hùng tráng, khi xe ngựa của Thôi Tuần tiến đến, có kẻ tinh mắt lập tức nhận ra cờ xí phía sau xe: “Thiên… Uy?”

Thiên Uy quân?

Thái hậu đã đặt tên cho đội quân tinh nhuệ này là Thiên Uy quân?

Thiên Uy quân… sắp được tái lập ư?

Dân chúng sững sờ, chỉ biết dõi mắt trông theo đội hình mới của Thiên Uy quân chầm chậm tiến về cổng thành. Sáu năm trước, Thiên Uy quân đã bị diệt toàn quân ở Lạc Nhạn lĩnh, máu nhuộm non sông, khiến sáu châu thuộc Quan Nội Đạo rơi vào tay giặc. Sáu năm sau, Thiên Uy quân phải giành lại sáu châu đã mất từ tay Đột Quyết.

Đây chính là sự cố chấp của Thôi Tuần. Bắt đầu từ Thiên Uy quân, thì cũng phải kết thúc bằng Thiên Uy quân.

Khi đội quân đi đến cửa Thông Hóa, một nhóm thiếu niên do Hà Thập Tam dẫn đầu bất chợt lao ra, chặn trước xe ngựa của Thôi Tuần.

Thôi Tuần vén màn xe, Hà Thập Tam ưỡn ngực ngẩng cao đầu: “Chúng ta cũng muốn gia nhập Thiên Uy quân!”

Thôi Tuần cất giọng trầm ổn: “Ra trận đánh giặc không phải trò đùa. Huynh trưởng các ngươi đã hy sinh vì nước, phần lớn các nhà chỉ còn lại mỗi một người con. Các ngươi vẫn nên trở về đi.”

“Chính vì a huynh đã hy sinh vì nước, nên chúng ta càng không thể làm kẻ hèn nhát.” Hà Thập Tam dõng dạc nói: “Chúng ta phải đánh đuổi Đột Quyết, báo thù cho a huynh!”

Thôi Tuần vẫn lắc đầu: “Chưa đủ mười bốn tuổi, không thể nhập ngũ.”

“Ta đủ tuổi, cậu ta cũng đủ tuổi.” Hà Thập Tam chỉ từng người bên cạnh, lần lượt đếm: “Hôm qua cậu ta vừa tròn mười bốn, chúng ta đều đủ cả rồi!”

Nói xong, cậu dứt khoát túm lấy dây cương xe ngựa, cùng đám thiếu niên quỳ rạp xuống, khẩn thiết cầu xin: “Chúng ta biết đánh giặc không phải trò đùa, cũng biết lần này đi có thể sẽ bỏ mạng nơi sa trường. Nhưng chúng ta không sợ! A huynh chúng ta là hảo hán, chúng ta cũng không phải kẻ hèn nhát!”

Thôi Tuần nhìn chằm chằm bọn họ, trước mắt chợt hiện lên từng khuôn mặt thanh xuân, rực cháy nhiệt huyết. Hắn trầm mặc giây lát, cuối cùng khẽ gật đầu: “Được, theo ta đi.”

Đám thiếu niên vỡ òa vui sướng, lập tức theo sát xe ngựa của Thôi Tuần. Từ giây phút này, bọn họ cũng giống như huynh trưởng của mình, đều là những thành viên của Thiên Uy quân.

Ánh bình minh vừa ló dạng, thái dương từ từ nhô lên.

Bên trong xe ngựa, vị Liên Hoa Lang lặng lẽ ngồi đó, mang theo những tướng sĩ Thiên Uy quân vừa được tái lập, băng qua cửa Thông Hóa từng là nơi chôn cất Thịnh Vân Đình, thẳng tiến về dãy núi Âm Sơn xa xôi.



Thái hậu điều động binh lực toàn quốc, dốc toàn bộ ba mươi vạn đại quân, giao cho Thôi Tuần thống lĩnh. Hắn dẫn quân xuất phát từ Ninh Sóc, một đường tiến thẳng lên phương Bắc.

Ngày hai mươi tháng mười một – thu phục Diêm Châu.

Mùng một tháng mười hai – thu phục Hựu Châu.

Mười bốn tháng mười hai – thu phục Thắng Châu.

Mùng hai tháng giêng – thu phục Hạ Châu.

Hai mươi sáu tháng giêng – thu phục Thanh Châu.

Mười ba tháng hai – thu phục Phong Châu.

Đại quân thế như chẻ tre, từ Phong Châu áp sát vương đình Đột Quyết. Tuyết lớn phủ kín đao cung, Thiền Vu hoảng sợ, bỏ trốn ngay trong đêm.

Sau trận chiến này, Đột Quyết bị quét sạch khỏi dãy Âm Sơn, buộc phải rút lui đến ngàn dặm. Diệp Hộ Đột Quyết tử trận dưới cung nỏ của Thôi Tuần, thi thể bị đám binh mã do Hà Thập Tam dẫn đầu giẫm nát thành bùn. Kẻ sỉ nhục người, ắt phải chịu nhục.

Khả hãn Đột Quyết, Tô Thái, bị sát hại trong lúc rút quân, từ đó Đột Quyết rơi vào nội loạn, không còn đủ sức chống lại Đại Chu.

Trận Bắc chinh kéo dài suốt bốn tháng kết thúc bằng một chiến thắng huy hoàng.

Mùng một tháng ba, Thôi Tuần dẫn quân khải hoàn hồi triều.

Mùng mười tháng ba, hắn bệnh mất trên đường hồi kinh.

Cùng lúc đó, tại Thôi phủ ở Trường An, một chiếc hòm gỗ được đưa tới. Bên trong, là một ngàn con châu chấu bằng cỏ.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 159: Thập Thất lang, ta đến thăm chàng đây



Thôi Tuần được chôn cất tại Lạc Nhạn Lĩnh, đúng như tâm nguyện khi còn sống.

Hắn không phải bậc quân tử hoàn mỹ theo quan niệm thế tục. Mai này sử sách chép lại, hẳn sẽ có nhiều tranh luận. Một mặt, hắn là người có công lao hiển hách, đẩy lùi Đột Quyết, thu phục giang sơn. Sáu năm lẻ bóng khổ sở giành lại thanh danh, cốt cách cứng cỏi sáng ngời. Mặt khác, hắn từng là con chó săn của triều đình, quá khứ chìm nổi trong vòng xoáy quyền mưu. Công hay tội, cứ để hậu thế phán xét.

Tại Trường An, Lý Doanh ôm đầu gối, ngồi trong phòng của Thôi Tuần, tay nắm chặt một con châu chấu đan bằng cỏ.

Bên trong rương gỗ, có đủ một nghìn con châu chấu cỏ.

Khi xưa, hắn từng nói, nếu hắn chọc nàng giận, chỉ cần bện đủ một nghìn con châu chấu, nàng sẽ tha thứ cho hắn. Hắn đã làm nàng giận thật rồi. Rõ ràng hắn đã hứa với nàng, nhất định hắn sẽ trở về. Nhưng cuối cùng, hắn lại thất hứa. Sao nàng không giận cho được?

Nàng ôm gối, nước mắt lặng lẽ chảy ra: “Ta sẽ không tha thứ cho chàng… vĩnh viễn cũng không.”

Nàng giận dữ ném con châu chấu trong tay đi thật xa, nhưng chỉ chớp mắt sau đó, nàng lại vội vàng bò tới nhặt lên, cẩn thận phủi sạch bụi bẩn bám trên nó. Ngón tay Thôi Tuần đã bị thương, những con châu chấu này đâu còn tinh xảo như trước, thậm chí có thể nói là thô vụng. Lý Doanh tưởng tượng ra cảnh hắn ngồi trong quân trướng, tranh thủ thời gian rảnh hiếm hoi, dùng đôi tay không còn linh hoạt, từng chút, từng chút một, vụng về gấp nên một nghìn con châu chấu cỏ này.

Nàng ép chặt con châu chấu xanh biếc vào lòng, rốt cuộc không kìm được, bật khóc nức nở.



Tin Thôi Tuần qua đời truyền đến tai Ngư Phù Nguy, hắn kinh ngạc vô cùng, sau đó lập tức đến Thôi phủ, ở bên Lý Doanh.

Lý Doanh giam mình trong phòng, hắn ngồi bên ngoài. Nàng đau buồn ba ngày, hắn cũng kiên trì đợi suốt ba ngày. Đến đêm ngày thứ ba, cánh cửa chạm trổ hoa văn cuối cùng cũng mở ra.

Mắt nàng sưng đỏ, trên người khoác một bộ y phục trắng tinh, trông hệt như đang để tang Thôi Tuần. Nàng không nói một lời, chỉ ngồi dưới, ánh mắt trống rỗng nhìn về cây hải đường trơ trọi trước sân. Đêm qua, Trường An vừa đón một trận tuyết rơi, trong viện phủ đầy sắc trắng tinh khôi. Lý Doanh thất thần nhớ lại, mùa xuân năm ngoái, cây hải đường kia từng nở rộ. Khi ấy, nàng và Thôi Tuần cũng từng ngồi dưới tán cây này, ngắm nhìn cơn gió nhẹ lướt qua, cuốn theo những cánh hoa phấn trắng rơi lả tả, tựa như tuyết bay. Cảnh sắc ấy vẽ nên một bức tranh “Hải đường thổi tuyết” tuyệt đẹp.

Hôm ấy, hắn đã nói, nàng là vầng minh nguyệt trên cao. Nàng cười hỏi hắn: “Vậy ngài là gì?”

Hắn nói, hắn chỉ là bùn đất dưới chân. Nàng bảo không phải, nàng nói, hắn là Vọng Thư Sứ trên chín tầng trời.

Thế nhưng, Vọng Thư Sứ của nàng đã không còn nữa. Dẫu có tìm khắp chốn bích lạc hay hoàng tuyền, nàng cũng chẳng thể nào tìm lại hắn được nữa.

Nàng ngồi dưới hành lang rất lâu, những ký ức về nàng và Thôi Tuần lần lượt hiện lên trước mắt. Chúng khắc sâu đến mức khiến nàng không thể nào quên được.

Mãi sau, nàng mới lên tiếng với Ngư Phù Nguy vẫn luôn im lặng bầu bạn bên mình: “Ngư Phù Nguy, ta phải đi rồi.”

“Hửm… đi đâu?”

“Lạc Nhạn Lĩnh.”

“Gặp Thôi Tuần sao?”

Lý Doanh gật đầu.

Ngư Phù Nguy chần chừ một lúc rồi đáp: “Thật ra, nàng không cần đến Lạc Nhạn Lĩnh. Mỗ có rất nhiều bằng hữu ở Địa phủ, có thể nhờ họ dò la xem hồn phách của Thôi Tuần đã về đâu.”

Lý Doanh lắc đầu: “Chàng không còn hồn phách nữa rồi.”

Ngư Phù Nguy ngây người.

Nàng chầm chậm mở bàn tay ra, để lộ một viên xá lợi Phật đỉnh trong suốt lấp lánh, tròn trịa như ngọc. Nàng nói: “Cái giá chàng phải trả để lấy được Phật đỉnh chính là chịu sự hồn phi phách tán.”

Ngư Phù Nguy trừng mắt kinh ngạc. Hắn vẫn nhớ rõ cảnh tượng thê thảm ngày Thôi Tuần đoạt xá lợi Phật đỉnh từ chùa Pháp Môn, toàn thân đầm đìa máu, trên trán là một vết thương to bằng miệng bát. Lý Doanh hạ giọng: “Chàng đã quỳ suốt hai trăm linh một bậc đá, dập đầu đủ hai trăm linh một lần mới có thể lên được Phật tháp. Nhưng khi đã lên tháp, chàng lại chẳng thể chạm vào xá lợi Phật đỉnh, thế nên chàng thề nguyện rằng, sau khi chết sẽ hồn phi phách tán, tan thành tro bụi để chuộc lại tội nghiệt cả đời. Chỉ khi ấy, chàng mới có được viên xá lợi này.”

Thì ra xá lợi Phật đỉnh đã đến tay Thôi Tuần bằng cách đó.

Khoảnh khắc ấy, lòng Ngư Phù Nguy ngũ vị tạp trần.

Không biết có phải vì nhớ đến Trịnh Quân của kiếp trước hay không, nhưng khi so sánh hai người, Ngư Phù Nguy chỉ có thể lặng thinh hồi lâu rồi cay đắng nói: “Thôi Tuần… quả thực xứng đáng với tình yêu của công chúa.”

Lý Doanh đưa viên xá lợi Phật đỉnh cho Ngư Phù Nguy: “Cả đời này, chàng đã tự mình trả hết tội nghiệt, chỉ duy nhất chuyện cướp đoạt xá lợi Phật đỉnh và đánh thương trụ trì chùa Pháp Môn, chàng vẫn chưa thể chuộc tội. Ta không muốn chùa Pháp Môn ghi hận chàng sau khi chàng đã khuất, nên phiền Ngư tiên sinh giúp ta hoàn trả viên xá lợi Phật đỉnh này cho chùa Pháp Môn. Ngoài ra, ta muốn lấy danh nghĩa của Thôi Tuần, quyên tặng một vạn lượng vàng để đúc lại tượng Phật, mong đổi lấy sự tha thứ của chùa Pháp Môn. Việc này, lại phải nhờ tiên sinh rồi.”

Ngư Phù Nguy siết chặt viên xá lợi Phật đỉnh, sững sờ không thốt nên lời: “Nhưng nếu trả lại xá lợi Phật đỉnh cho chùa Pháp Môn thì nàng phải làm sao? Giờ nàng không thể rời xa nó mà.”

Hồn phách của nàng đã bị phản phệ hai lần. Nếu không nhờ xá lợi Phật đỉnh duy trì một tia thần hồn, chỉ e nàng đã sớm tan biến.

Lý Doanh lắc đầu: “Sau này, ta cũng không cần đến xá lợi Phật đỉnh nữa.”

Ngư Phù Nguy cuối cùng cũng hiểu ra ý định của nàng. Hốc mắt hắn đỏ lên, vội quay mặt đi.

Người ta vẫn bảo, nam nhi có nước mắt nhưng không dễ để rơi. Mãi đến lúc này, hắn mới thấm thía rằng, chẳng qua là vì chưa đến lúc phải đau lòng tột độ mà thôi.

Những giọt nước mắt lớn như hạt đậu lăn dài trên gò má hắn. Hồi lâu sau, hắn mới nghẹn giọng hỏi: “Công chúa, nàng thực sự muốn làm vậy sao?”

“Ừm.” Lý Doanh khẽ đáp, ánh mắt dõi theo cây hải đường trụi lá trước sân: “Trước đây, ta không muốn một mình cô đơn, thế nên mới ra sức truy tìm chân tướng, muốn đầu thai chuyển thế. Nhưng giờ đây, ta đã không còn một mình nữa rồi.”

Trước mắt nàng, dường như lại hiện lên gương mặt thanh nhã, mỹ miều như đóa hoa sen: “Thập Thất lang kiếp này sống quá khổ sở. Sau này, chàng sẽ không còn phải chịu khổ nữa, bởi vì ta sẽ luôn ở bên chàng.”

Ngư Phù Nguy siết chặt viên xá lợi trong tay, cúi đầu thật lâu, sau đó cắn răng nói: “Được, ta sẽ thay nàng mang xá lợi Phật đỉnh trả lại chùa Pháp Môn.”

“Đa tạ, đêm nay ta sẽ sai chỉ tỳ (nô tỳ bằng giấy) mang mười một nghìn lượng âm đĩnh đến phủ của tiên sinh.”

Ngư Phù Nguy gật đầu, Lý Doanh lại nói: “Ngư tiên sinh, nếu đã quyết định trở thành Ngư Phù Nguy, thì quá khứ nên để lại phía sau. Ngư Phù Nguy mà ta quen biết, chưa từng để tâm đến việc một nữ tử xuất thân từ thương hộ chấp chính. Mong rằng từ nay về sau, tiên sinh có thể đạt được sở nguyện, nhập triều làm quan, phù nguy trợ thế.”

Ngư Phù Nguy cười giữa làn nước mắt, cúi đầu đáp: “Cầu cho công chúa chuyến này thuận buồm xuôi gió.”

Hắn đứng dậy, chắp tay hành lễ với Lý Doanh, sau đó vội vã rời đi. Hắn không thể ở lại đây thêm nữa, bởi vì hắn sợ nếu tiếp tục lưu lại, hắn sẽ ngăn cản nàng đến Lạc Nhạn Lĩnh.

Nhưng vừa bước được hai bước, hắn chợt ngập ngừng, rồi vẫn quay đầu lại gọi: “Công chúa.”

Lý Doanh ngẩng lên.

Ngư Phù Nguy khựng lại giây lát, rồi nói: “Quỷ lại ở Vong Tử Thành, đều mặc áo đỏ.”



Sau khi Ngư Phù Nguy rời đi, Kế Thanh Dương cũng đến. Y nghe tin Thôi Tuần qua đời, vì lo lắng cho nàng nên đã vội vã chạy đến Trường An bất kể ngày đêm. Giống như Ngư Phù Nguy, khi biết nàng muốn đến Lạc Nhạn Lĩnh, thoạt đầu y sửng sốt, nhưng sau đó chỉ còn lại sự thương cảm và trầm mặc. Trước khi rời đi, y cũng để lại một câu nói kỳ lạ.

Y nói rằng, nguyên nhân khiến y từ một con chó dữ của Bách Kỵ Tư trở thành hiệp khách hành hiệp trượng nghĩa, thực ra là vì một câu nói của nàng.

Lý Doanh nghĩ rất lâu cũng không nhớ ra mình từng nói gì. Khi nàng hỏi, Kế Thanh Dương lại không chịu nói, chỉ bảo: “Năm đó sau khi công chúa mất, vì muốn báo thù cho công chúa nên mỗ đã ám sát Tiên đế.”

Lý Doanh ngẩn người, Kế Thanh Dương tiếp tục: “Tiên đế canh phòng nghiêm ngặt, dù cố đến mấy thì mỗ bị bắt. Thế nhưng sau khi thẩm vấn, Tiên đế lại không giết mỗ, trái lại còn thả mỗ đi. Ngược lại, chính người, vì nỗi day dứt trong lòng nên chưa đến mười năm đã băng hà sớm.”

Y không giải thích Tiên đế đã hỏi y điều gì, cũng không nói rõ vì sao người lại mang lòng hổ thẹn đến mức lìa trần từ sớm. Cuối cùng, cũng giống như Ngư Phù Nguy, y chỉ chúc Lý Doanh lên đường bình an.



Lời của Ngư Phù Nguy và Kế Thanh Dương khiến Lý Doanh thoáng nghi hoặc, nhưng lúc này, trong lòng nàng chỉ ngập tràn nỗi đau mất đi Thôi Tuần, chẳng còn tâm trí suy ngẫm những lời ấy. Nàng khoác lên mình bộ y phục trắng tinh, mang theo hòm gỗ đựng châu chấu cỏ, ngồi trên bộ liễn, hướng về Lạc Nhạn Lĩnh.

Những kiệu phu bằng giấy chỉ có thể di chuyển vào ban đêm. Suốt hành trình, nàng cứ ngẩn ngơ nhìn hòm gỗ đựng châu chấu cỏ trong tay. Đường xa dằng dặc, tinh thần nàng ngày càng hư nhược. Đến khi đặt chân tới Lạc Nhạn Lĩnh, nàng quấn chặt áo lông hồ trắng như tuyết, cố gượng đứng dậy, bước xuống bộ liễn.

Đây là lần đầu tiên nàng trông thấy Lạc Nhạn Lĩnh, nơi đã thay đổi số mệnh cả đời của Thôi Tuần. Mùa đông phương Bắc tiêu điều lạnh lẽo, cỏ cây trong núi đều bị một tầng sương tuyết mỏng bao phủ, cành khô thưa thớt lác đác mấy chiếc lá vàng úa còn sót lại. Lý Doanh bước trên nền tuyết lạnh, đi thẳng về phía trước, liền thấy những phần mộ san sát của Thiên Uy quân.

Sau khi Thôi Tuần hạ được Phong Châu, Lạc Nhạn Lĩnh cũng trở về dưới quyền Đại Chu. Hài cốt của Thiên Uy quân lưu lạc suốt sáu năm, cuối cùng cũng có thể nhập thổ an giấc, chỉ là sau ngần ấy năm, tất cả đã hóa thành xương trắng, chẳng còn phân biệt được ai với ai. Hà Thập Tam dẫn người nhặt từng mảnh hài cốt, gom lại chôn chung một chỗ. Hài cốt của Hà Cửu, a huynh của cậu, người đã chết dưới loạn tiễn, cũng được cậu tìm thấy, di táng về Lạc Nhạn Lĩnh.

Trước từng nấm mồ nối tiếp nhau là vô số bia đá khắc tên những người đã khuất. Giữa tiếng quạ kêu văng vẳng, Lý Doanh quỳ xuống với lòng thành kính, lấy thân phận công chúa Đại Chu trịnh trọng dập đầu, cảm tạ năm vạn trung liệt đã không tiếc mạng sống để bảo vệ bờ cõi.

Nàng đứng dậy, bước qua những tấm bia mộ, cuối cùng đến trước một phần mộ mới đắp.

Gò đất vàng mới dựng chưa bao lâu, trước mộ chỉ có một bia đá khắc đơn giản hai chữ “Thôi Tuần”. Kiệu phu bằng giấy khiêng hòm gỗ đựng đựng châu chấu cỏ đến đặt trước phần mộ, sau đó chắp tay hành lễ rồi lui đi. Trước ngôi mộ hiu quạnh, chỉ còn lại một mình Lý Doanh.

Ánh trăng như dòng nước, rắc bạc trên nền tuyết. Trên bầu trời đêm, những bông tuyết lấp lánh lại bắt đầu rơi. Một cánh tuyết lững lờ đáp xuống mi mắt Lý Doanh, tan thành những giọt nước li ti. Nàng nhẹ nhàng quỳ xuống trước bia mộ, hai tay v.uốt ve mặt đá khắc tên Thôi Tuần, tựa như đang chạm vào gương mặt băng lạnh của hắn. Đôi mắt nàng ươn ướt, rồi nàng cúi đầu, đặt một nụ hôn lên cái tên trên bia mộ.

Nàng nói: “Thập Thất lang, ta đến thăm chàng đây.”

Mi mắt nàng phủ một tầng sương óng ánh, giọng nàng nhỏ dần: “Chàng đúng là một tên lừa đảo. Rõ ràng chàng đã nói rằng sẽ tìm mọi cách để trở về Trường An, vậy mà đến giây phút cuối, ta còn chẳng kịp nhìn chàng một lần… Thực lòng ta giận chàng lắm đấy.”

“Nhưng mà, trước đây ta từng hứa với chàng, chỉ cần chàng bện đủ một nghìn con châu chấu cỏ, ta sẽ không giận chàng nữa. Ta không ngờ chàng thực sự làm được. Vậy nên, ta cũng đành thôi không giận chàng nữa vậy.”

Nắp hòm gỗ bật mở, ánh lân quang xanh biếc tỏa ra như ánh lửa ma trơi, phủ lên những con châu chấu cỏ. Một nghìn con châu chấu cỏ như được tiếp thêm sinh khí, vỗ cánh bay lên, rồi từng con từng con bừng cháy thành những đốm lửa đỏ rực, giống như sao băng, cùng muôn vàn bông tuyết xoay tròn rơi xuống mặt đất.

Giữa biển sao băng rực cháy, Lý Doanh khe khẽ ôm lấy bia mộ, áp mặt vào tảng đá xanh lạnh lẽo, giống như tựa vào lòng Thôi Tuần năm nào. Nàng chậm rãi nhắm mắt, thân ảnh giữa ngọn lửa đỏ càng lúc càng nhạt dần, đến cuối cùng hoàn toàn biến mất.

Ở bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu, hàng vạn ngọn đèn trường minh cầu phúc cho Vĩnh An công chúa trong cùng một đêm đồng loạt tắt lịm, từ đó chẳng thể thắp sáng thêm lần nữa.

Bên trong cung Bồng Lai, Thái hậu dường như cảm nhận được điều gì, tay run nhẹ, túi hương bằng vàng chạm rỗng trong lòng bàn tay “phịch” một tiếng, rơi xuống đất.

Mà ba mươi năm trước, tại Phượng Dương Các, công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, khi ấy đang tựa mình trên trường kỷ chợp mắt, bỗng nhiên mở mắt ra.
 
Back
Top Bottom