Ngôn Tình Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
Tham gia
24/9/25
Bài viết
286,746
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczPiV_t0tvQcvJAleBgem18zWzdR48QEykcowZjvBsDLsiyPI-89T3kt72SgJCvx54yUcxW0YU8f7mVtwBBnjvaHIbJZWX3OvkNcYV5DZX9ayDZlwFlHr9i1IUfPYFoq-ZjGT_VZnch52GB9Fst3MSZo=w215-h322-s-no-gm

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Tác giả: Vân Hương Thanh Nịnh
Thể loại: Ngôn Tình, Huyền Huyễn, Cổ Đại, Sủng
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Cổ đại, HE, Tình cảm, Huyền huyễn, Cung đình hầu tước, Kim bài đề cử 🥇

Văn án:

Năm thứ ba mươi, dưới đêm trăng sáng, non sông gấm vóc, trăng tròn soi tỏ hồ sen.

Công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, nổi tiếng dịu dàng lương thiện, nhưng năm mười sáu tuổi lại bất ngờ đuối nước bí ẩn trong hồ sen của hoàng cung. Hoàng đế vì cái chết của công chúa mà đau lòng tột độ, hạ lệnh điều tra kỹ lưỡng thì phát hiện ra chính phò mã đã đẩy công chúa xuống hồ. Hoàng đế nổi trận lôi đình, tru di cửu tộc nhà phò mã. Phò mã vốn xuất thân từ môn phiệt thế gia bậc nhất, trải qua sự kiện này, các gia tộc lớn tổn thương nguyên khí, mở ra con đường cho các sĩ tử hàn môn nhập vào quan trường, cũng từ đó, những chính sách mới dưới thời Thái Xương mới bắt đầu được thực thi.

Sau khi hoàng đế băng hà, sử sách ghi nhận ngài là Thánh chủ Trung Hưng nhờ chính sách Thái Xương. Khương phi, mẫu thân của Lý Doanh cũng nhờ con gái mà từ một cung nữ được phong thành quý phi, hoàng hậu rồi ngồi lên ngôi vị hoàng đế, được tôn xưng là “Nhị Thánh” cùng với Thái Xương. Mọi vinh quang mà “Nhị Thánh” có được đều bắt nguồn từ cái chết của ái nữ Lý Doanh.

Ba mươi năm sau, trong thời thịnh thế thái bình, hoa nở rực rỡ khắp trời, dân chúng vừa tiếc thương công chúa đoản mệnh, vừa cảm thấy may mắn vì cái vận số ngắn ngủi của nàng. Nhưng hồn phách của nàng công chúa bé nhỏ vẫn luẩn quẩn chốn nhân gian, khoác trên mình bộ váy lụa lục la nàng mặc vào hôm chết đuối, khuôn mặt vẫn dừng lại ở vẻ đẹp dịu dàng, thanh tú của năm mười sáu tuổi. Nàng tìm đến vị Thiếu khanh tàn nhẫn, khét tiếng nhưng bệnh tật triền miên của Sát Sự Thính là Thôi Tuần, nói với y: “Ta muốn nhờ ngài điều tra một vụ án.”

Nàng nói: “Ta muốn nhờ ngài điều tra xem là ai đã giết ta.”

Người ác hơn ma, đã thành ma rồi, hà tất phải thành Phật?

*

Thôi Tuần, Thiếu khanh của Sát Sự Thính, là một kẻ dùng sắc đẹp để tranh quyền, là một gian thần tàn ác chuyên dệt nên những vụ án oan, là một tướng phản quốc tham sống sợ chết, tội ác nhiều không kể xiết, khiến thiên hạ căm ghét, chỉ mong được cắn thịt xé nát xương y. Theo lẽ thường, sau khi thất thế, y sẽ bị trói đưa ra pháp trường, chịu tội lăng trì, bị dân chúng chia nhau máu thịt, xương cốt thành tro.

Nhưng trong lúc bị tra khảo đến nỗi toàn thân thương tích, gục ngã trong ngục tù, y lại thấy nàng mặc váy lụa xanh như lần đầu gặp gỡ.

Y bị tra tấn đến mơ màng, giọng khàn khàn hỏi nàng: “Sao nàng không đi?”

Nàng chỉ nói: “Có chuyện chưa xong.”

“Chuyện gì chưa xong?”

“Vì quân, cải mệnh.”

*

Đọc nhắc nhở: Song hướng cứu rỗi, hư cấu, bối cảnh phỏng theo thời Đường

Tag: Cung đình hầu tước, tình yêu sâu sắc, huyền huyễn, nghịch tập, phương Đông

Nhân vật chính: Lý Doanh, Thôi Tuần

Tóm tắt: tiểu công chúa bạc mệnh x nịnh thần đẹp mã nhưng bệnh trạng yếu ớt

Lập ý: Chính nghĩa sẽ chiến thắng tà ác

– Truyện được viết theo quan điểm của Đạo giáo. Trong đó “ma” (魔) và “quỷ” (鬼) là hai khái niệm có liên quan nhưng không hoàn toàn giống nhau, được hiểu trong bối cảnh tín ngưỡng và triết lý của Đạo giáo như sau:

– “Ma” thường được coi là hiện thân của những thế lực tà ác, hỗn loạn và phá hoại. Chúng có thể không phải là linh hồn của người đã khuất mà là những thực thể siêu nhiên, tà lực hoặc năng lượng tiêu cực xuất hiện để thử thách hoặc làm hại con người. Trong khi “Quỷ” thường là linh hồn của người đã khuất, không được siêu thoát hoặc vì một lý do nào đó mà vẫn lưu lại trong cõi trần. Theo Đạo giáo, các linh hồn này có thể trở thành quỷ do chết oan, không được thờ cúng, hoặc bị ràng buộc bởi những oán hận.

– Lý Doanh là quỷ hồn, tức linh hồn của người đã khuất, nhưng trong quan điểm của người Việt Nam chúng mình thì có thể hiểu là “hồn ma”. Bản dịch sẽ sử dụng cả từ “hồn ma” lẫn “quỷ hồn”. Từ “hồn ma” này để phân biệt với các thế lực ma quái tà ác.​
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 1: Gặp ma


Đêm Giao Thừa.

Tại điện Lân Đức trong Đại Minh cung, yến tiệc đón giao thừa hằng năm vẫn đang được tổ chức. Tiếng nhạc tấu rộn ràng vang lên, hòa cùng tiếng rượu trao chúc tụng nhau không ngớt, những vũ cơ giáo phường mặc Hồ phục, dáng điệu uyển chuyển đang trình diễn điệu Hồ Toàn Vũ. Khi tốc độ xoay của vũ cơ ngày càng nhanh, tiếng tán thưởng của các đại thần trong yến tiệc càng thêm phần sôi động. Một vị quan trẻ tuổi mặc quan bào đỏ thắm chăm chú dõi mắt theo, đợi đến khi điệu Hồ Toàn kết thúc, hắn mới luyến tiếc gắp một miếng bánh sữa vàng [1] nếm thử. Ăn xong một miếng, hắn chợt nhận ra chỗ ngồi bên cạnh đã trống không, liền không khỏi thốt lên rằng: “Ồ? Thôi Thiếu khanh đi đâu rồi?”

<i>[1] 金乳酥 (Kim nhũ tô) là một loại bánh ngọt nổi tiếng trong ẩm thực truyền thống Trung Quốc, đặc biệt là vào thời cổ đại. Tên gọi của nó có thể được dịch là “bánh sữa vàng giòn”. Đây là một món bánh làm từ các nguyên liệu như bột mì, đường, sữa, và thường được chiên giòn hoặc nướng, tạo ra lớp vỏ vàng óng và giòn rụm.</i>

<i>Kim nhũ tô thường có hương vị ngọt ngào, mềm mịn ở bên trong và giòn rụm bên ngoài, rất phổ biến trong các yến tiệc hoàng gia hay trong các dịp lễ hội đặc biệt. Món bánh này tượng trưng cho sự thịnh vượng và may mắn, nên thường được chuẩn bị trong các buổi tiệc trang trọng hoặc vào dịp Tết cổ truyền.</i>

Viên quan tứ phẩm ngồi gần đó khẽ cười chế giễu: “Chẳng lẽ Vương Thị lang còn mong Thôi Tuần có mặt ở đây sao?”

Vương Thị lang đỏ bừng cả mặt, ngước mắt nhìn thiên tử đang ngồi ở chính điện, lắp bắp nói: “Không phải như vậy, chỉ là Thôi Thiếu khanh rời tiệc khi Thánh nhân còn ở đây thì cũng không ổn chút nào.”

“Hừ, bữa tiệc đón giao thừa này, e rằng chỉ có Thôi Tuần mới dám rời khỏi mà không sợ gì.”

Các quan viên gần đó nghe thấy cũng lần lượt lên tiếng chỉ trích vị Thiếu khanh họ Thôi kia: “Thôi Tuần thật là vô lễ, dám không coi quân thượng ra gì!”

“Lư Tư nghiệp, [2] cẩn trọng lời nói! Mấy tháng trước, Trung Lang tướng Chu Bình chỉ vì say rượu nói xấu Thôi Tuần vài câu, liền bị hắn bịa tội rồi giam vào Sát Sự Thính, đến giờ vẫn chưa được thả ra…”

<i>[2] Tư nghiêp: Quốc tử giám (tiếng Trung: 國子監; bính âm: Guózǐjiàn) là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Đứng đầu Quốc tử giám là các chức quan: Tế tửu (đứng đầu trường Quốc học-tương đương với Hiệu trưởng), Tư nghiệp (đứng thứ hai sau Tế tửu).</i>

“Hắn là kẻ tiểu nhân nông cạn, ta sợ gì hắn chứ?”

“Lư Tư nghiệp, ngài xuất thân từ Phạm Dương Lư thị, thanh danh hiển hách, nhưng mấy năm qua, sĩ tộc cao môn đã bị Thôi Tuần hãm hại, chẳng lẽ còn ít hay sao?”

Lư Tư nghiệp im lặng hồi lâu, cuối cùng nghiến răng nói: “Thiên hạ đều kính trọng những gia tộc lớn như Thôi, Lư, Lý, Trịnh, Vương. Trong đó, Bác Lăng Thôi thị là gia tộc đứng đầu, vậy mà lại xuất hiện một kẻ hèn mọn như Thôi Tuần! Không những tham sống sợ chết đầu hàng người Đột Quyết, [3] hắn còn vì cầu sinh mà trở thành khách trong màn của Thái hậu, bày mưu hãm hại trung thần, lật ngược phải trái lẫn lộn đúng sai, thực sự là kẻ tội ác tày trời, không việc ác gì không làm! Đúng là nỗi nhục của Thôi thị!”

<i>[3] Đột Quyết (突厥, Tūjué) là một tộc người du mục hùng mạnh, từng tồn tại ở vùng thảo nguyên phía bắc Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại, đặc biệt từ khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 8. Tộc Đột Quyết thuộc nhóm người Thổ, được coi là tổ tiên của nhiều dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Về vị trí địa lý, lãnh thổ của Đột Quyết bao phủ một vùng rộng lớn, kéo dài từ khu vực phía bắc Trung Quốc (bao gồm cả Mông Cổ hiện nay) đến Trung Á và khu vực nam Siberia. Họ đã thành lập một quốc gia lớn gọi là Đột Quyết Khả Hãn Quốc (突厥汗国), từng là một trong những cường quốc đối địch với các triều đại Trung Quốc như nhà Tùy và nhà Đường.</i>

Lư Tư nghiệp càng nói càng kích động, âm lượng lớn đến mức ngay cả quận vương bên kia cũng phải liếc nhìn. Một quan viên ngồi gần vội giữ hắn lại, nhỏ giọng khuyên: “Lư Tư nghiệp, Thôi Tuần là đầu lĩnh của Sát Sự Thính. Sát Sự Thính là nơi nào chứ? Ngay cả việc khi nào chúng ta đến phường Bình Khang bọn họ cũng biết rõ mồn một, huống hồ là trong buổi tiệc đón giao thừa đông người này. Ngài nên cẩn trọng lời nói thì hơn!”

Một quan viên khác cũng kéo hắn lại: “Đúng vậy, Thôi Tuần là kẻ tàn nhẫn độc ác, có thù tất báo, ai ai trong triều cũng muốn ăn tươi nuốt sống hắn, nhưng tiếc rằng Thái hậu quá mực sủng ái hắn, chúng ta cũng đành chịu thôi.”

Lư Tư nghiệp biết rõ mình không thể lay chuyển vị thế của Thôi Tuần, chỉ đành thở dài một tiếng: “Một kẻ tiểu nhân như thế mà lại lộng hành giữa triều đình Đại Chu, thật không biết đến bao giờ trời mới sáng, trăng mới tỏ!”

Vị Vương Thị lang, người ban đầu khơi mào câu chuyện, bỗng thì thầm: “Sắp rồi.”

Ánh mắt mọi người lập tức dồn về phía hắn. Vương Thị lang vội vàng nói: “Chư vị, Thôi Tuần dùng nhan sắc để được Thái hậu sủng ái. Kẻ dùng sắc để tranh quyền thì sắc suy tình giảm. Dù cho nhan sắc của Thôi Tuần có rực rỡ thế nào, nổi danh là Liên Hoa Lang đi chăng nữa, thì khuôn mặt kia dù đẹp đến đâu, Thái hậu rồi cũng sẽ có ngày chán ngán mà thôi. Đến lúc đó, triều đình tất sẽ thanh bình trở lại.”

Mọi người thầm suy nghĩ, không khỏi gật đầu đồng ý, ai nấy trong lòng đều cầu mong Thái hậu sớm ngày chán ghét Thôi Tuần, để tên gian thần sớm phải chịu báo ứng, trả lại sự bình yên cho triều đình.



Trong khi đó, kẻ đang là tâm điểm của những lời bàn tán – Thôi Tuần – lại đang ngồi một mình bên hồ sen hoang tàn trong cung, nhấm nháp chén rượu. Hồ sen này đã bị bỏ hoang từ lâu, ở bốn góc hồ bám đầy rêu xanh, vài cây sen khô héo trơ trọi đứng giữa hồ, khung cảnh tĩnh lặng đến lạnh lẽo. Dưới ánh trăng sáng, Thôi Tuần ngửa cổ uống cạn một chén rượu thiêu xuân. Trong ánh trăng lạnh lẽo, vị gian thần trong miệng người đời có chiếc cổ thon dài và trắng muốt như hạc. Hắn hạ mi mắt, đôi mày mắt của hắn vô cùng sắc sảo, thậm chí mang vẻ đẹp mơ hồ khó phân biệt giới tính. Đúng như Vương Thị lang đã nói, dung mạo của hắn rực rỡ, không hổ với danh xưng Liên Hoa Lang. Nếu phải tìm khuyết điểm trên gương mặt hắn, thì có lẽ đó là nước da tái nhợt đến đáng sợ, trắng bệch như tuyết, thậm chí còn nhợt nhạt hơn cả màu lông hồ ly trắng trên chiếc áo choàng lông cáo hắn đang khoác trên người.

Sau khi uống cạn chén rượu thiêu xuân, Thôi Tuần không khỏi che tay áo lên miệng, ho khan hai tiếng. Hắn buông tay áo xuống, ánh mắt dõi theo vầng trăng sáng vằng vặc treo trên bầu trời, vẻ mặt thẫn thờ. Đôi mắt hắn hơi xếch, vốn là một cặp phượng mâu câu hồn đoạt phách, nhưng bên trong lại trống rỗng, chẳng hề chứa đựng chút cảm xúc nào. Tiếng nhạc trong yến tiệc đón giao thừa rộn ràng xôn xao, hương trầm và đàn hương từ điện Lân Đức lan tỏa ra đến tận cổng Đan Phượng, trong khi trên đường Chu Tước, đám người nhảy múa đuổi tà vẫn náo nhiệt không thôi. Sự ồn ào nơi yến tiệc đối lập mạnh mẽ với khung cảnh quạnh quẽ đến lạ thường bên hồ sen nơi Thôi Tuần đang ngồi.

Thôi Tuần cầm lấy chiếc bình rượu bằng bạc dưới đất, rót vào chén kim bôi rồi lại uống cạn. Uống liền mấy chén, hắn đã có chút men say. Khi rót rượu thêm lần nữa, bàn tay không vững, khiến chiếc chén vàng lăn xuống hồ sen.

Trong trạng thái ngà say, tầm mắt Thôi Tuần trở nên mờ mịt, hắn vươn tay xuống hồ định vớt chén rượu, nhưng khi chạm vào làn nước, tay hắn không vớt được chén kim bôi mà chạm phải một vật thể trơn láng, lạnh lẽo. Vật đó mềm mại như lụa, không phải là chén mà giống như làn da người. Vật thể ấy chạm vào lòng bàn tay hắn, dần dần nở ra, ôm lấy bàn tay hắn, ngón tay mềm mại đan vào tay hắn, tựa như bàn tay yếu mềm của một nữ nhân đang tình tứ đan xen với tình lang.

Trong lúc đó, hắn còn nghe thấy một tiếng thở dài âm u từ dưới nước vọng lên: “Đợi được ngươi rồi.”

Nếu là người khác, chắc hẳn đã sợ hãi bỏ chạy, nhưng Thôi Tuần chỉ khẽ nhíu mày, thần sắc vẫn bình thản. Đúng lúc đó, một tên nội thị cầm đèn lồng đi tìm, vừa đi vừa gọi: “Thôi Thiếu khanh.” Lúc này, bàn tay dưới nước chầm chậm rời khỏi tay Thôi Tuần. Hắn liền nhướng mày, vươn tay định bắt lấy bàn tay ấy, nhưng lần này chỉ vớt lên được chiếc chén vàng rơi xuống hồ khi nãy.

Tên nội thị thấy Thôi Tuần, vui mừng khôn xiết, vội vã chạy tới: “Thôi Thiếu khanh, nô tài cuối cùng cũng tìm thấy ngài rồi. Thái hậu đã đến dự yến tiệc đón giao thừa, còn hỏi đến ngài nữa.”

Thôi Tuần vẫn thất thần nhìn chằm chằm vào chiếc chén trong tay. Nội thị gọi hai tiếng “Thôi Thiếu khanh,” hắn mới hoàn hồn. Sau đó, hắn ném chiếc chén vàng sang một bên, kéo chặt áo choàng lông cáo trên người. Bộ lông cáo trắng tinh càng làm nổi bật nước da tái nhợt đến gần như trong suốt của hắn. Hắn giơ mu bàn tay lên che miệng, lại ho khẽ hai tiếng rồi buông xuống cánh tay gầy gò, chậm rãi đứng dậy, ánh mắt lạnh lùng: “Đi thôi.”

Chỉ mới bước được vài bước, hắn đột nhiên quay đầu lại nhìn hồ sen hoang tàn. Mặt hồ vẫn phẳng lặng, không gợn chút sóng, như thể mọi chuyện vừa xảy ra đều chỉ là ảo giác. Ánh mắt Thôi Tuần vẫn bình thản, hắn quay người tiếp tục đi theo nội thị đến điện Lân Đức.



Khi đến ngoài điện, Thôi Tuần định bước vào thì tên nội thị liền muốn lấy lòng mà nhắc nhở: “Thôi Thiếu khanh, nếu có ai hỏi ngài vừa rồi đi đâu, đừng nói là đến hồ sen.”

“Ồ? Vì sao?”

Tên nội thị hạ giọng thần bí: “Ngài không biết sao? Hồ sen đó là nơi công chúa Vĩnh An…”

Hắn ngập ngừng nhưng Thôi Tuần đã hiểu được ý tứ trong lời nói. Hồ sen ấy chính là nơi công chúa Vĩnh An bỏ mạng.

Công chúa Vĩnh An, tên thật là Lý Doanh, là ái nữ của Tiên đế và Thái hậu, cũng là đứa con đầu tiên của Thái hậu. Tương truyền, khi công chúa chào đời, da dẻ trắng nõn, dung mạo mỹ lệ như viên minh châu tỏa sáng. Tiên đế và Thái hậu hết mực yêu thương, đã lấy viên “Minh Nguyệt Châu” trong Phật kinh Thất Bảo cho nàng làm nhũ danh, đồng thời ban cho nàng phong hào là Vĩnh An công chúa. Khi công chúa lớn lên, Tiên đế còn ban cho nàng vùng đất giàu có và đông đúc bậc nhất của Đại Chu – quận Quảng Lăng – làm đất phong, đủ để thấy tình thương sâu nặng mà Tiên đế dành cho nàng.

Công chúa đến năm mười sáu tuổi đã xinh đẹp tuyệt trần, tựa như tiên nữ hạ phàm, vẻ đẹp rung động nhân gian. Đáng quý hơn, nàng có tính cách nhân hậu, hiểu chuyện, không hề kiêu ngạo như các công chúa Đại Chu khác. Mỗi lần Tiên đế nổi giận, nàng đều có thể đứng ra khuyên giải, nhờ đó mà nhiều cung nhân và đại thần được miễn khỏi trừng phạt. Các cung nhân và đại thần ai nấy đều cảm kích ân đức của công chúa, ngầm tôn vinh nàng là viên “Minh Nguyệt Châu” sáng nhất của Đại Chu.

Thế nhưng viên Minh Nguyệt Châu lóa mắt ấy lại vĩnh viễn tắt lịm vào năm nàng tròn mười sáu tuổi.

Năm công chúa mười lăm tuổi, Tiên đế đã chọn cho nàng Phụng Nghị lang Trịnh Quân làm phò mã. Trịnh Quân xuất thân từ họ Trịnh đất Huỳnh Dương, là cháu trai của Trịnh Hoàng hậu, người vợ đầu tiên của tiên đế. Thân phận của hắn cao quý, dung mạo anh tuấn, tài hoa xuất chúng, là một bậc trượng phu khó tìm. Tuy nhiên, Tiên đế và Thái hậu không nỡ xa con gái, muốn để nàng ở lại thêm vài năm mới gả đi. Nhưng đến khi công chúa mười sáu tuổi, vào đêm mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi, nàng bất ngờ bị chết đuối trong hồ sen giữa đêm. Tiên đế và Thái hậu đau đớn đến đứt ruột dứt gan, thậm chí Tiên đế còn bỏ ăn bỏ uống suốt nhiều ngày, chìm trong bi thương tột cùng. Quần thần trong triều xôn xao bàn tán, ai nấy đều cho rằng cái chết của công chúa vô cùng kỳ quái. Đã đành là tại sao công chúa lại một mình đến hồ sen vào đêm khuya, nhưng cung tỳ thị nữ hầu cận chẳng lẽ không một ai đi theo? Có những đại thần can đảm còn dâng sớ lên Tiên đế, hy vọng tra rõ nguyên nhân cái chết của công chúa.

Đám đại thần đã thấy được điều bất thường, lẽ nào Tiên đế lại không hay biết? Trong cơn bi thống, Tiên đế đã bí mật lệnh cho Đại Lý Tự điều tra kỹ càng. Không ngờ sau khi điều tra, sự thật được phơi bày: kẻ hại chết công chúa không ai khác chính là phò mã Đô úy Trịnh Quân.

Tin tức này vừa truyền ra, ai nấy đều kinh ngạc. Sau khi thẩm vấn, Trịnh Quân đã thú nhận tội lỗi. Thì ra, họ Trịnh đất Huỳnh Dương là một trong Ngũ tính nổi danh nhất thiên hạ. Khi xưa người ta thường nói, trong thiên hạ, không dòng họ nào quý hơn họ Thôi, họ Lỗ, họ Lý, họ Trịnh, họ Vương. Họ Trịnh của Huỳnh Dương là dòng họ quyền thế bậc nhất trong triều, trong khi Thái hậu lúc còn là Khương Quý phi lại xuất thân hàn vi, cha mẹ chỉ là tiểu thương buôn bán nhỏ. Trịnh Quân khinh thường xuất thân thấp kém của Thái hậu, càng không muốn thành thân với con gái của bà, tức công chúa Vĩnh An. Nhưng thánh chỉ đã ban ra, hắn không thể kháng lệnh, trong lòng chất chứa bất mãn, oán hận công chúa ngày một sâu sắc.

Đêm mùng sáu tháng mười, Trịnh Quân cùng mấy bằng hữu uống rượu. Trong cơn say, bọn họ cười nhạo xuất thân của công chúa, nói rằng Trịnh Quân sắp cưới một “con buôn” làm vợ. Trịnh Quân xấu hổ, phẫn uất, liền sinh lòng sát hại công chúa. Hắn viết thư cho nàng, nói rằng có chuyện quan trọng cần bàn bạc tại hồ sen, mời nàng đến một mình. Có lẽ lúc đó, công chúa đã mang trong lòng sự vui mừng, háo hức đến gặp vị hôn phu của mình. Nàng trang điểm lộng lẫy, khoác lên mình hoa phục nghê thường, nhưng không ngờ rằng đó lại là cuộc hẹn dẫn nàng đến cái chết.

Trịnh Quân đẩy nàng xuống hồ sen. Nhìn thấy công chúa chới với dưới nước, kêu cứu trong vô vọng, hắn hoảng sợ bỏ chạy. Sau khi rượu tan, hắn hối hận khôn cùng, nhưng đại họa đã xảy ra, hồn phách của công chúa đã rời khỏi nhân gian, Minh Nguyệt Châu đã vĩnh viễn tắt lịm.

Sau khi thú nhận, Tiên đế giận dữ tột cùng. Không chỉ ban lệnh xử trảm Trịnh Quân, mà còn trút giận lên cả gia tộc của hắn và Trịnh Hoàng hậu, người đã tiến cử hắn làm phò mã. Đồng thời, Tiên đế còn ra lệnh phế truất Trịnh Hoàng hậu và tru di cửu tộc nhà phò mã. Nhưng họ Trịnh ở Huỳnh Dương vốn quyền thế ngút trời. Chiếu chỉ ban ra, các dòng họ quý tộc trên khắp thiên hạ đồng loạt dâng sớ xin tha tội cho nhà phò mã, nhưng Tiên đế không tha cho bất kỳ ai. Cả thành Trường An chìm trong bể máu, hơn vạn người mất mạng. Họ Trịnh đất Huỳnh Dương từ đó suy tàn, sử gọi là “Huyết án Thái Xương.”

Sau sự kiện huyết án Thái Xương, Tiên đế căm ghét thế gia đại tộc, hàn tộc bắt đầu làm tể làm tướng. Từ đó, triều đình không còn cảnh “thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô sĩ tộc” như trước.



Thôi Tuần hồi tưởng lại vụ án đẫm máu đã thay đổi cục diện Đại Chu cách đây ba mươi năm. Hắn hơi nhíu mày, đưa tay lên nhìn lòng bàn tay mình, dường như vẫn còn cảm nhận được hơi ấm của người dưới hồ sen khi nãy. Dẫu việc này kỳ lạ đến vậy, ánh mắt hắn vẫn điềm tĩnh như mặt hồ không gợn sóng. Hắn mím nhẹ môi, che miệng ho khan hai tiếng rồi kéo chặt áo lông chồn trắng, bước chân nhẹ nhàng tiến vào điện Lân Đức.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 2: Nàng công chúa đã chết ba mươi năm trước


Trong điện Lân Đức, Thái hậu đã an tọa trên ghế cao. Dù đã ngoài sáu mươi, tóc bà vẫn đen như suối, lông mày thanh thoát, hàm răng trắng sáng, nhìn không khác gì một mỹ phụ mới khoảng bốn mươi tuổi. Gần đây, Thái hậu mang bệnh, nói rằng sẽ không tham dự tiệc đón giao thừa, nhưng đến giữa buổi tiệc, bà vẫn gượng dậy tham dự. Quần thần đoán rằng, bà vẫn chưa muốn từ bỏ quyền lực trong tay, dù rằng Thánh nhân đã tự chấp chính được mấy năm thì vẫn bị bà tìm cách thao túng.

Thôi Tuần cũng đến ngồi vào ghế của mình, tư thế ngay ngắn và nghiêm chỉnh. Các đại thần xung quanh thấy hắn đến đều ngừng trò chuyện, ánh mắt không giấu nổi sự khinh bỉ. Thậm chí, có người còn dịch ghế sang bên, thể hiện rõ sự khinh miệt đối với Thôi Tuần.

Thôi Tuần cũng không thèm để ý, thong thả gắp một miếng cá nhỏ, chậm rãi nhai. Ngón tay của hắn thon dài, đẹp đẽ, tư thái vô cùng tao nhã, khiến người khác nhìn vào đều thấy hắn không hổ danh là con trai họ Thôi ở Bác Lăng, một trong những gia tộc danh giá bậc nhất thiên hạ. Nhưng ai mà ngờ được, vị lang quân với dáng vẻ thanh tao, nhã nhặn này lại là một kẻ gian trá, tàn bạo, từng gây ra vô số án oan?

Thái hậu dường như liếc nhìn về phía Thôi Tuần, sau đó thì thầm vài lời với một tên nội thị. Chỉ trong chốc lát, nội thị liền bưng một bát canh thịt dê hoàng kỳ đến, đặt lên bàn trước mặt Thôi Tuần: “Thái hậu nói Thôi Thiếu khanh sợ lạnh, đặc biệt ban cho bát canh thịt dê hoàng kỳ để ấm người.”

Ngay khi nội thị vừa dứt lời, ánh mắt của các đại thần xung quanh lập tức đổ dồn về phía Thôi Tuần, đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc: kẻ thì ghen ghét, người lại đố kỵ, nhưng phần lớn vẫn là khinh thường. Trong thâm tâm, ai nấy đều chắc mẩm rằng Thái hậu quả nhiên đối đãi với Thôi Tuần rất khác biệt. Thôi Tuần năm nay mới hai mươi ba tuổi, còn Thái hậu đã đủ tuổi để làm bà của hắn, vậy mà hắn thật không biết liêm sỉ.

Nhưng quyền lực Thái hậu nắm trong tay quá lớn. Tiên đế đã băng hà cách đây hai mươi năm, đương kim Hoàng thượng khi ấy còn nhỏ tuổi, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, và sau hai mươi năm gắng sức nắm giữ triều đình, bà đã có đầy những cánh tay đắc lực trong triều. Nếu không phải nhờ Thái hậu, sau khi đầu hàng Đột Quyết, Thôi Tuần đã sớm bị xử tử, nào có cơ hội để leo lên chức quan tứ phẩm Thiếu khanh ở Sát Sự Thính như bây giờ. Nghĩ đến đây, những kẻ thanh liêm trong triều cũng chẳng dám bày tỏ thái độ khinh thường Thôi Tuần trước mặt Thái hậu, chỉ biết lặng im cúi đầu.



Dù có một vài khúc nhạc đệm nho nhỏ nhưng tiệc đón giao thừa vẫn diễn ra thâu đêm, vô cùng náo nhiệt. Sau tiệc đón giao thừa là Đại triều hội vào ngày mùng Một. Tại cung Đại Minh, cờ xí rợp trời, trống khèn vang dội, kiệu xe xa giá bày biện ở khắp mọi nơi. Thánh nhân đội cổn miện, vương công quý tộc, văn võ bá quan cùng sứ thần từ các nước chư hầu đều đến chầu, dâng lời chúc tụng. Toàn cảnh là bầu không khí thái bình thịnh trị, tươi đẹp phồn hoa. Triều hội kéo dài đến khi mặt trời đã khuất dạng sau núi.

Thôi Tuần đã thức trắng đêm trong tiệc đón giao thừa, lại trải qua cả ngày dài trong Đại triều hội khiến hắn không khỏi kiệt sức. Hắn ngồi lên xe ngựa về phủ ở phường Tuyên Dương. Phủ này là do Thái hậu ban cho, tuy rộng rãi nhưng chỉ có một lão bộc câm điếc chăm sóc. Thôi Tuần không thích có người hầu hạ, xuống xe rồi lập tức vào phòng và nằm xuống ngủ. Nhưng giấc ngủ của Thôi Tuần luôn chập chờn, dù đang rất mệt mỏi, hắn cũng không thể ngủ sâu, chỉ chợp mắt rồi tỉnh, tỉnh lại chợp mắt liên tục cho đến giờ Dần.

Đến canh tư, Thôi Tuần như bị cơn ác mộng làm giật mình tỉnh dậy. Hắn ngồi dậy, phát hiện cửa sổ không biết đã mở ra từ lúc nào, gió lạnh ùa vào từng cơn. Hắn khoác áo xuống giường, bước đến đóng cửa sổ lại. Nhưng khi tay vừa khép cửa, hắn lại loáng thoáng trông thấy bóng dáng một người mặc váy tay bó như ẩn như hiện giữa màn sương.

Nhưng khi Thôi Tuần nhìn kỹ lại, bóng dáng đó lại biến mất. Hắn nghĩ mình quá mệt nên nhìn nhầm, không nghĩ ngợi thêm, chỉ đóng cửa và quay lại giường. Tuy nhiên, lần này hắn không thể ngủ lại được, hình ảnh trong cơn ác mộng cứ ám ảnh mãi trong đầu. Hắn cứ trằn trọc như vậy cho đến sáng.

Khi ba ngàn tiếng chuông hạ thần cổ vang lên, Thôi Tuần biết ấy đã là canh năm, phố phường Trường An lại rộn ràng trong tiếng gà gáy, chó sủa. Thôi Tuần khoác áo đứng dậy. Hôm nay là ngày mùng Hai tháng Giêng, quan lại được nghỉ bảy ngày, dân chúng Trường An cũng tưng bừng đến nhà nhau chúc Tết. Trước cửa phủ của các quan lớn trong phường Tuyên Dương, người qua kẻ lại nối liền nhau không dứt. Học giả, lại viên trẻ tuổi tay cầm bái thiếp, đứng đợi bên ngoài phủ để mong có cơ hội tiến thân. Giữa khung cảnh tấp nập ấy, phủ của Thôi Tuần lại vô cùng quạnh quẽ. Ngay cả câu đối hay tranh thần môn cũng không được dán lên cửa.

Hai nho sinh nghèo đi ngang qua phủ của Thôi Tuần, thấy cảnh đìu hiu đó thì không khỏi liếc nhìn thêm vài lần. Một người khẽ nói: “Phủ này ở phường Tuyên Dương mà sao chẳng có một ai đến cả?”

Người kia mỉm cười đầy ý nhị: “Huynh không biết à? Đây là phủ của Liên Hoa Lang đấy.”

“Liên Hoa Lang? Là Thôi Tuần sao?”

“Chứ còn ai nữa? Kẻ thanh liêm thì không muốn kết giao với hắn, còn những kẻ tiểu nhân muốn thì lại bị hắn khinh thường, ai đến cũng bị đuổi đi. Lâu dần, chẳng ai bén mảng đến nữa. Phủ đệ của nhà họ Thôi ở ngay gần đây thôi, nhưng hắn đã bị xoá tên khỏi gia phả từ lâu, làm gì có thân thích nào mà đi lại. Trong ngày đầu năm vui vẻ thế này, cả thành Trường An chắc chỉ có mình hắn là cô độc thôi.”

“Tự làm tự chịu mà.”

Hai nho sinh vừa cười khẩy vừa bước đi xa. Phía trước là một thiếu nữ thanh lệ mặc váy tay bó đang đứng cầm ô, chắn ngay trước mặt bọn họ. Nhưng dường như cả hai người họ đều không hề nhìn thấy nàng, cứ thế lướt qua. Thiếu nữ xoay người lại, lặng lẽ nhìn theo bóng lưng của họ, rồi thở dài một tiếng. Hình bóng nàng bất ngờ xuyên qua cánh cổng lớn đóng kín, tiến vào trong phủ.



Lúc này, Thôi Tuần vừa mặc xong áo thường phục màu đỏ sẫm, thắt dây lưng điệp tiệp, nhưng mũ đội đầu vẫn chưa kịp mang. Trong gương đồng, mái tóc đen của hắn buộc gọn bằng phát quan bằng ngọc, y phục màu đỏ như ráng chiều tà. Đôi mắt đào hoa gợn sóng nhưng nước da quá trắng, ánh mắt lại lạnh lẽo như sương tuyết, làm giảm đi vẻ kiều diễm ướt át ẩn trong ánh mắt kia.

Thôi Tuần thắt xong dây lưng, trong lúc lơ đãng ngẩng đầu lên thì bỗng thấy trong gương hiện ra bóng dáng của một thiếu nữ.

Hắn không khỏi quay đầu lại nhìn. Đập vào mắt là một thiếu nữ xinh đẹp. Nàng mặc chiếc áo ngắn màu xanh lục, bên dưới là váy màu đỏ trắng xen kẽ, tóc vấn kiểu song hoàn vọng tiên, trên đầu cài trâm hoa vàng, giữa trán điểm châu hình giọt nước, vai khoác tấm sa lụa mỏng. Thiếu nữ mắt ngọc mày ngài, lan tư huệ chất, thanh tao thoát tục. Rõ ràng là một mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành hiếm gặp, nhưng Thôi Tuần lại nhíu mày.

Hắn nhíu mày, chỉ vì cảm thấy có gì đó kỳ lạ.

Thiếu nữ trước mặt tuy ăn mặc lộng lẫy, nhưng toát lên vẻ quỷ dị. Nàng búi tóc kiểu song hoàn vọng tiên, mặc váy xen kẽ hai màu đỏ trắng, cài trâm hoa bằng chỉ vàng, điền trang hình giọt nước, nhưng kiểu tóc thịnh hành của các tiểu thư quý tộc lúc bấy giờ là kiểu giao tâm kế, mặc viên lĩnh và váy dài đồng màu, đeo bộ diêu và điểm hoa điền trên trán. Phong cách của thiếu nữ này lại giống như thời Thái Xương cách đây ba mươi năm.

Thôi Tuần nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Ngươi là ai? Tại sao lại xông vào phủ của ta?”

Thiếu nữ đối diện với giọng điệu chất vấn không mấy thân thiện của hắn nhưng không hề tức giận, cũng không có vẻ gì sợ hãi, ngược lại còn tỏ vẻ vui mừng: “Ngài có thể thấy ta?”

Thôi Tuần không hài lòng. Mặc dù sức khỏe của hắn không tốt, nhưng chưa đến mức bị mù. Một người sống sờ sờ đứng ngay trước mặt, làm sao hắn lại không thấy?

Hắn thậm chí còn nghĩ rằng thiếu nữ xinh đẹp này có phải đầu óc không được tỉnh táo hay không. Chưa bàn đến việc nàng mặc đồ lỗi thời, lại còn hỏi một câu buồn cười như vậy? Hắn đáp: “Tất nhiên là ta có thể nhìn thấy ngươi.”

Thiếu nữ mỉm cười rạng rỡ: “Vậy thì tốt quá rồi.”

Nàng điềm nhiên, giữa ấn đường lộ ra vẻ cao quý: “Ta là Vĩnh An công chúa, Lý Doanh. Lần này đến đây là muốn nhờ ngài điều tra một vụ án.”

Nàng dừng lại một lúc, rồi nói: “Ta muốn nhờ ngài điều tra xem là ai đã giết ta.”



Đó quả là một cảnh tượng kỳ lạ đến khó tin.

Một công chúa đã chết từ lâu, lại nhã nhặn thỉnh cầu một vị quan khét tiếng tàn bạo điều tra nguyên nhân cái chết của nàng. Dù cho Thôi Tuần đã từng trải qua nhiều sóng gió thì vẫn không khỏi ngẩn ra một lúc. Nhưng rất nhanh, hắn bình tĩnh lại, nhướn mày hỏi: “Cô là hồn ma?”

Lý Doanh gật đầu: “Phải.”

Ban ngày gặp ma, nhưng Thôi Tuần lại không hề tỏ ra sợ hãi như một người phàm. Hắn không sợ ma, cũng chẳng ngại quỷ, nói: “Cô đến nhờ ta tra án?”

Lý Doanh gật đầu: “Phải.”

Thôi Tuần nói: “Án của cô đã có kết luận, chính là do Phò mã Trịnh Quân gây ra.”

Lý Doanh lại lắc đầu: “Không phải Trịnh Quân.”

“Vì sao?”

Lý Doanh nói: “Vì suốt ba mươi năm qua, ta không thể đầu thai chuyển kiếp.”

Lý Doanh mất khi mới mười sáu tuổi. Nếu Trịnh Quân là người giết nàng, khi Trịnh Quân bị Tiên đế xử tử, nàng lẽ ra đã có thể siêu thoát, nhưng nàng lại bị kẹt ở hồ sen suốt ba mươi năm, không thể đầu thai. Điều đó có nghĩa là hung thủ chân chính vẫn chưa bị trừng phạt, oán khí của Lý Doanh chưa thể tiêu tán, khiến nàng không thể vãng sinh.

Nhưng nếu không phải Trịnh Quân giết nàng, thì là ai? Lý Doanh không biết, nàng chỉ có thể tìm đến sự giúp đỡ của Thôi Tuần.

Thôi Tuần lại hỏi: “Tại sao lại tìm ta?”

Lý Doanh đáp: “Vì ngài đã cứu ta ra khỏi hồ sen.”

Từ khi chết đuối ở hồ sen ba mươi năm trước, hồn phách của Lý Doanh luôn bị giam giữ dưới nước, không thể thoát ra. Trong suốt ba mươi năm đó, nàng chỉ có thể nhìn thấy cảnh hoa sen trong hồ từ từ khô héo, nhìn những con cá vàng dưới đáy hồ chết dần, nhìn rêu xanh mọc đầy hồ vào mùa hè rồi lại héo tàn vào mùa đông. Trong bóng tối của đáy hồ, mỗi ngày nàng đều nghe thấy tiếng trống ba nghìn nhịp báo hiệu bình minh vang lên từ cửa Thừa Thiên của cung Thái Cực, nàng biết lại qua thêm một ngày.

Thỉnh thoảng có vài cung nữ mới vào cung, không biết lệnh cấm, sẽ đến chơi đùa bên hồ sen. Các nàng thường ngồi xổm bên hồ, cười khúc khích và vớt những mảng rêu xanh. Lý Doanh ở dưới nước vẫy tay, mong các nàng sẽ nói chuyện với mình, nhưng họ không thể nghe thấy giọng nói của nàng. Những ngón tay trong suốt của nàng xuyên qua thân thể các cung nữ, họ hoàn toàn không cảm nhận được sự tồn tại của nàng.

Cứ như vậy, Lý Doanh đã sống trong sự cô độc vô tận suốt ba mươi năm, cho đến khi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo lông cáo trắng đang uống rượu bên hồ sen. Chén kim bôi của hắn rơi xuống hồ, và hắn thò tay xuống hồ để vớt lên. Nàng đã quá cô đơn, khi nhìn thấy ngón tay thon dài của hắn ta gần trong gang tấc, nàng bèn duỗi tay ra, chạm vào tay hắn.

Nhưng lần này, ngón tay của nàng không xuyên qua tay hắn mà mười ngón tay đã đan cài vào nhau. Lý Doanh vừa kinh ngạc vừa vui mừng, người đàn ông dường như cũng cảm nhận được sự hiện diện của nàng. Có lẽ nhờ được nguyên khí của người sống sưởi ấm, Lý Doanh chợt cảm thấy cơ thể đã bị giam cầm trong môi trường ẩm lạnh lâu ngày bỗng ấm lại. Nàng từ từ ngẩng đầu lên, và trong khoảnh khắc đó, nước hồ sen dường như trở nên trong suốt. Dưới làn nước, nàng nhìn thấy một gương mặt đẹp đẽ như đóa sen.

Ngay sau đó, một tiểu nội thị vội vã đến gọi người đàn ông rời đi. Lý Doanh nghĩ đây chỉ là giấc mơ. Nàng nhắm mắt lại, và khi mở mắt ra, nàng đã rời khỏi hồ sen, nơi đã giam giữ nàng suốt ba mươi năm, và đang đứng bên bờ hồ.

Hồn phách của nàng cuối cùng cũng thoát khỏi hồ sen, giờ đây nàng có thể tự do đi lại trong cung Đại Minh.

Nhưng cung Đại Minh giờ đã không còn là nhà của nàng nữa. Nàng đã chết được ba mươi năm rồi. Qua những lời nói của các cung nữ và thái giám trốn ra chơi ở hồ sen, nàng biết rằng a gia đã băng hà, a nương nàng đã lên làm Thái hậu, còn sinh thêm một a đệ. Bây giờ a đệ đăng cơ, hiệu là Long Hưng.

Ngoại trừ mẫu hậu vẫn còn nhớ đến nàng, thắp đèn trường minh trong bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu thì khắp thế gian này chẳng còn mấy ai nhắc đến nàng nữa. Thậm chí nếu có ai nhắc đến nàng thì cũng chỉ nói rằng nàng là vị công chúa đã gây ra “Huyết án Thái Xương”, khiến cả Trường An chìm trong biển máu.

Nhưng, nàng đâu muốn “Huyết án Thái Xương” xảy ra, nàng cũng đâu muốn lấy đi sinh mạng của hàng vạn người trong thành Trường An. Chẳng lẽ nàng không muốn được ở bên cạnh phụ hoàng và mẫu hậu, phụng dưỡng dưới gối, tiếp tục trải qua những năm tháng trôi chảy vô ưu?

Nàng cảm thấy uất ức, chua xót. Nàng muốn gặp a nương, nhưng không thể. A nương ở cung Bồng Lai, trước cửa cung dán thần môn. Nàng là hồn ma, không thể vào được.

Nàng lang thang vô định trong cung, không một cung tỳ hay nội thị nào có thể nhìn thấy nàng. Cơ thể nàng có thể xuyên qua núi giả, xuyên qua cây cối, xuyên qua tường cung, nhưng không một ai liếc mắt nhìn nàng. Cuối cùng, nàng tuyệt vọng nhận ra rằng dù đã ra khỏi hồ sen, số phận nàng vẫn chẳng khác khi bị giam cầm trong làn nước lạnh lẽo.

Đi mệt rồi, nàng lại trở về bên bờ hồ sen. Nàng quá cô độc, a nương thắp đèn trường minh khắp nơi trong cả nước, mong nàng có thể siêu thoát, đầu thai chuyển kiếp để hai mẹ con có thể đoàn tụ nhau. Nàng cũng mong sớm được đầu thai để gặp lại a nương, nhưng nàng không thể.

Một lần nọ, có một quỷ sai đi ngang qua hồ sen, nàng van xin hắn đưa nàng đi. Nhưng hắn nói rằng nàng là người chết oan, chưa tìm ra hung thủ, nên không thể đầu thai.

Vậy nên không phải Trịnh Quân giết nàng.

Muốn được đầu thai, Lý Doanh phải tìm ra kẻ đã giết mình.

Ngồi bên hồ sen, nàng cố nhớ lại những gì đã xảy ra trước khi chết, nhưng chỉ có thể nhớ bức thư Trịnh Quân viết cho nàng, còn những chi tiết khác thì nàng hoàn toàn không thể nhớ nổi.

Lý Doanh liền nghĩ tới người duy nhất có thể nhìn thấy nàng, Thôi Tuần.

Thôi Tuần là Thiếu khanh của Sát Sự Thính, cơ quan do mẹ nàng lập ra với chức năng tương tự Đại Lý Tự, chuyên chưởng hình ngục. Nàng tin rằng Thôi Tuần có thể giúp nàng điều tra nỗi oan khuất này.



Lý Doanh nhìn Thôi Tuần với ánh mắt đầy hy vọng: “Thôi Thiếu khanh, ngài là người duy nhất có thể thấy ta. Liệu ngài có thể giúp ta không?”

Ánh mắt Thôi Tuần như một giếng nước tĩnh lặng, hắn nhàn nhạt đáp: “Tại sao ta phải giúp cô? Giúp một công chúa đã chết ba mươi năm?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 3: Phạt quỳ


Câu trả lời này năm ngoài dự đoán của Lý Doanh. Nàng khẽ ngẩn người. Suốt mười sáu năm sống trong nhung lụa, được yêu chiều hết mực, chưa một thần tử nào dám đối đáp với nàng như thế. Nghĩ ngợi một lúc, nàng nói với giọng run run: “Ta biết yêu cầu này có hơi đường đột, nhưng ta không muốn cô hồn dã quỷ, ta muốn đầu thai, và để làm được điều đó, ta cần tìm ra kẻ đã giết mình. Ngài có thể giúp ta không?”

Nhưng sự chân thành của nàng chỉ đổi lại một câu nói từ Thôi Tuần: “Việc đó liên quan gì đến ta?”

Lý Doanh có chút bối rối và khó xử, nàng xoắn tay áo, giọng điệu ngập ngừng: “Nếu ngài giúp ta, nhất định ta sẽ báo đáp.”

Thôi Tuần cười nhạt: “Cô có gì để báo đáp ta?”

“Ta…” Lý Doanh nghẹn lời. Nàng chỉ là một hồn ma cô độc, thực sự không có gì để có thể báo đáp hắn.

Nàng cúi đầu, cắn môi, không biết phải làm sao để thuyết phục hắn. Thấy vậy, Thôi Tuần cũng không muốn phí lời thêm, bày ra động tác tiễn khách: “Cô đi đi, ta không có hứng giúp một hồn ma.”

Lý Doanh không muốn rời đi. Thôi Tuần là người duy nhất có thể nhìn thấy nàng, và còn là Thiếu khanh tứ phẩm của Sát Sự Thính. Ngoài hắn ra, nàng không biết tìm ai khác. Cảm giác vô vọng khiến nàng chỉ biết thở dài, nói khẽ: “Nhưng ngoài ngài ra, ta không biết phải tìm ai nữa…”

Thôi Tuần bật cười như nghe một điều gì đó rất hài hước: “Trước khi đến, chẳng lẽ cô không hỏi rõ về con người ta sao?”

Lý Doanh lặng đi. Nàng đương nhiên biết Thôi Tuần là ai. Hắn được gọi là Liên Hoa Lang, diện mạo thanh thoát tựa hoa sen, nhờ vẻ ngoài mà trở thành khách trong màn của mẫu thân nàng. Người đời nói rằng hắn phẩm cách ti tiện, hèn mòn thù dai, là một tên tiểu nhân chính hiệu.

Nhưng dù hắn có xấu xa đến đâu thì nàng còn có thể cầu cứu ai được nữa? Nàng sợ cô độc, nàng không muốn bị nhốt trong hồ sen, càng không muốn chìm sâu vào bóng tối vĩnh hằng nữa.

Dường như Thôi Tuần cũng không muốn tốn thời gian thêm, hắn nói: “Ta phải đến Sát Sự Thính để thẩm vấn một vụ án. Nếu muốn theo thì cứ đi, nhưng ta dám chắc cô sẽ nhanh chóng đổi ý thôi.”



Lý Doanh không hiểu hết ý nghĩa trong lời nói của Thôi Tuần, nhưng vẫn nhắm mắt, lẽo đẽo theo gót chân hắn đến Sát Sự Thính nằm ở phường Nghĩa Ninh. Nàng bám sát phía sau Thôi Tuần, và dĩ nhiên, ngoại trừ hắn ra, không ai có thể nhìn thấy nàng.

Vừa bước vào ngục, Lý Doanh đã ngay lập tức bị những tiếng kêu la thảm thiết từ vang lên từ bốn phía làm cho sợ hãi, bước chân không khỏi khựng lại. Trong ngục đốt vô số chậu than, trên đó đặt đủ loại hình cụ đã được nung nóng. Không khí nóng bức như giữa trời tháng tư, các cai ngục đều để trần, chỉ có Thôi Tuần bước vào lại cảm thấy lạnh, thậm chí còn phải kéo chặt chiếc áo choàng lông dày màu đen tuyền trên người, sắc mặt hắn trắng bệch như quỷ dữ bò lên từ địa ngục. Nhìn thấy hắn, nhóm cai ngục đều cúi đầu, cung kính hành lễ: “Bái kiến Thiếu khanh.”

Thôi Tuần không đáp lại, khoác huyền bào tiếp tục tiến sâu vào bên trong ngục thất, Lý Doanh giật mình tỉnh lại, vội vàng bịt tai, chạy nhanh theo hắn.

Lý Doanh vừa tiến vào thì liền bị mùi máu nồng nặc làm buồn nôn. Trước mặt nàng là một người máu me be bét, treo trên giá hình. Nàng sợ hãi lùi lại mấy bước, chợt nhận ra người đó đã bị tra tấn đến mức không còn rõ hình người nữa, toàn thân thương tích, hơi thở thoi thóp, xương sườn cũng lòi cả ra. Chân hắn dường như cũng đã bị kẹp gãy, bị buộc treo lên thành một tư thế méo mó. Từ nhỏ Lý Doanh đã lớn lên ở cung cấm, luôn được cưng chiều nên đã bao giờ phải chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp thế này đâu. Nàng hoảng sợ đến mức ngã ngồi xuống đất, hai tay che mắt, không dám nhìn thêm.

Thôi Tuấn dường như đã đoán trước được phản ứng của nàng. Hắn không bận tâm, chỉ từ từ vươn cánh tay khẳng khiu ra khỏi lớp áo choàng dày màu huyền sắc, ngón tay thon dài với những khớp xương rõ ràng điềm đạm gõ vào những dụng cụ tra tấn đang xếp trên lò than, như thể đang cân nhắc xem liệu cái nào sẽ có hiệu quả nhất. Cai ngục xung quanh đều im lặng, không dám thở mạnh. Một lúc sau, hắn chọn ra một thanh sắt nung đỏ, nhìn làn khói trắng bốc lên, mặt mày vô cảm bước đến gần tên tù nhân, chậm rãi hỏi: “Ta sẽ hỏi ngươi lần nữa, có phải Hán Dương vương đang mưu phản không?”

Tên tù nhân đã bị tra tấn đến hấp hối, máu chảy xuống che khuất tầm mắt hắn. Khoang miệng hắn đã bị nhổ hết răng, máu tươi đầm đìa, nhưng vẫn cố gắng nói: “Thôi Tuần… ta là con cháu Vương thị ở Thái Nguyên, giữ chức Trưởng sử phủ Hán Dương vương. Ngươi không có chiếu chỉ mà bắt ta đến đây, ý đồ dùng cực hình để bức cung… không sợ sau này lộ ra… sẽ bị Thánh nhân trừng phạt sao?”

Thôi Tuần chỉ thờ ơ đáp: “Ta hỏi lần cuối, có phải Hán Dương vương đang mưu phản không?”

Vương Trường sử bật cười lớn: “Hán Dương vương không mưu phản. Chính ngươi, vu hãm triều thần, khổ hình bức cung, ngươi sẽ không được chết tử tế!”

Thôi Tuần mất dần kiên nhẫn, cây sắt nung đỏ trong tay hắn lập tức ấn mạnh lên lồng ng.ực của Vương Trường sử, da thịt nơi bị tra tấn lộ ra cả xương trắng. Một tiếng thét thất thanh, đau đớn đến mức không giống tiếng người bật ra từ miệng Vương Trường sử trước khi hắn ngất lịm đi.

Lý Doanh ngồi sụp xuống đất, hai tay bịt chặt tai, cả người run rẩy. Thôi Tuần thản nhiên vứt cây sắt sang một bên như vứt đi thứ giẻ rách, ra lệnh cho cai ngục: “Lấy nước muối, dội cho hắn tỉnh lại.”

Ra lệnh xong, Thôi Tuần vô tình quay đầu nhìn về phía Lý Doanh, nhưng Lý Doanh vốn ngồi đó giờ đã biến mất, hẳn là đã bị dọa đến mức phải bỏ chạy.

Việc này nằm trong định liệu của Thôi Tuần.

Bị dội nước muối, Vương Trường sử đau đớn đến bừng tỉnh, hắn ho sặc sụa, máu từ miệng và mũi hắn phun ra, bắn lên cả người Thôi Tuần. Cai ngục vội vàng đưa khăn, Thôi Tuần ghét bỏ lau đi những vết máu trên tay, nghe cai ngục lắp bắp lo sợ: “Thôi Thiếu khanh, phạm nhân sắp không chịu nổi nữa rồi…”

Vương Trường Sử bị tra tấn đến mức chỉ còn lại một chút hơi tàn, Thôi Tuần vẫn chăm chú lau tay, không hề ngẩng đầu: “Chết thì chết. Chẳng phải hắn vẫn còn con trai sao?”

Vừa nghe thấy những lời này, đôi mắt mờ đục của Vương Trường Sử trợn to, cố nén cơn đau mà yếu ớt nguyền rủa: “Thôi Tuần, ngươi nhất định chết không được tử tế…”

Thôi Tuần khẽ cười, giọng nói lạnh nhạt: “Ta chết thế nào, đâu phiền Vương Trường sử lo lắng.”

Hắn từ từ bước đến gần, chăm chú nhìn vào gương mặt bầm dập đầy máu của Vương Trường sử, rồi cúi đầu nói nhỏ bên tai, chỉ đủ để hai người nghe thấy: “Vương Lương, sáu năm trước, ngươi đã từng phục vụ dưới trướng của Bùi Quan Nhạc có đúng không? Vụ việc ở Lạc Nhạn Lĩnh, hẳn là ngươi biết rõ, chỉ cần ngươi kể lại chi tiết mọi chuyện, ta sẽ không động đến con trai ngươi.”

Vừa nghe đến mấy chữ “Lạc Nhạn Lĩnh”, đồng tử của Vương Trưởng sử đột ngột giãn rộng, cơ thể run rẩy dữ dội, lúng búng nói: “Lạc Nhạn Lĩnh… Lạc Nhạn Lĩnh… Hóa ra ngươi đến đây vì chuyện đó…”

Lời nói của hắn lộn xộn, không rõ ràng. Thôi Tuần cau mày, tiến sát hơn để nghe rõ tiếng thì thào của Vương Trưởng Sử nhưng hắn chỉ lẩm bẩm được vài câu “Lạc Nhạn Lĩnh”, rồi đầu ngã xuống, không còn hơi thở.

Cai ngục vội vàng chạy đến, nâng đầu Vương Trường sử lên, kiểm tra nhịp thở, hoảng hốt báo cáo: “Thôi Thiếu khanh, hắn… hắn sợ đến chết rồi.”

Hắn thật sự bị dọa đến chết? Dưới lớp áo đỏ thẫm, nắm tay Thôi Tuần dần siết chặt. Hắn lạnh lùng liếc nhìn thi thể không kịp nhắm mắt của Vương Trường sử, nói: “Ném đi, cho chó ăn.”



Kể từ ngày hôm đó, hẳn là Lý Doanh đã bị những thủ đoạn tàn bạo và màn tra tấn ép cung của Thôi Tuần dọa cho khiếp sợ, không dám lảng vảng gần hắn nữa. Cũng vài ngày sau, Thái hậu đã triệu Thôi Tuần vào cung yết kiến.

Trong điện Bồng Lai, làn khói thơm đang tỏa ra từ lư hương Bác Sơn hình đầu phượng, quyện vào không gian. Sau tấm rèm ngọc, Thái hậu nằm nghiêng trên giường, tay chống đầu, mắt nhắm hờ. Thái hậu mắc chứng đau đầu từ lâu, cơn đau có lẽ lại phát tác, nên mới dùng đến hương liệu để xoa dịu.

Thôi Tuần quỳ trên sàn gỗ lim, dáng người ngay thẳng nhưng trên trán đã lấm tấm mồ hôi. Thái hậu dường như cố ý làm khó, không hiệu để hắn đứng lên mà phải rất lâu sau mới chịu lên tiếng: “Thôi Tuần, lá gan của ngươi ngày càng lớn.”

Thôi Tuần cúi đầu: “Thần biết tội.”

Thái hậu cười nhạt: “Biết tội? Ngươi lợi dụng lúc Vương Lương về Trường An thăm gia đình, sai người của Sát Sự Thính bắt hắn về, dùng cực hình tra khảo đến chết, rồi lại bỏ xác ngoài đồng hoang. Ngươi có biết thân thể mà người nhà họ Vương tìm thấy chỉ còn là một thi thể không toàn vẹn? Giờ đây, họ đang la lối đòi cáo ngự trạng, muốn Thánh thượng phải làm rõ phải trái.”

Thôi Tuần vẫn im lặng, chỉ nói: “Thần có tội.”

“Ngươi đương nhiên có tội!” Giọng nói của Thái hậu ẩn chứa sự phẫn nộ: “Vương Lương tuy chỉ là Trường sử của Hán Dương vương, nhưng dù sao cũng là con cháu Vương thị ở Thái Nguyên. Sao ngươi dám?”

Thôi Tuần cúi mắt, đáp: “Hán Dương vương ôm lòng bất mãn với Thái hậu, ý đồ liên hợp với hoàng thân quốc thích, phạm thượng tác loạn. Thần cũng chỉ vì lo nghĩ cho Thái hậu, nên mới bắt Vương Lương, định ép hắn khai ra chứng cứ phạm tội của Hán Dương vương, không ngờ hắn không chịu nổi, chỉ qua vài đòn đã chết.”

Nghe đến đây, Thái hậu chỉ cười lạnh: “Thôi Tuần, Thôi Vọng Thư, ngươi thật sự nghĩ ngô đã già cả lú lẫn rồi sao? Vương Lương sáu năm trước làm chức vụ gì, ngươi tưởng ngô không biết chắc?”

Thôi Tuần mím môi, ánh mắt vẫn tĩnh lặng như mặt gương. Hắn dập đầu chạm đất, giọng điệu máy móc: “Thần có tội.”

Thái hậu lại cười lạnh: “Ngươi cũng không cần phải nhận tội. Từ khi ngươi nhậm chức Thiếu khanh của Sát Sự Thính đến nay, những việc như thế này đâu phải là lần đầu. Giờ đây Thánh thượng đã tự mình chấp chính, thế lực các thế gia ngày càng lớn mạnh. Ngô phải cho người và Vương thị ở Thái Nguyên một lời giải thích. Ngươi ra quỳ bên ngoài điện Tử Thần đi, quỳ đến khi bãi triều rồi mới được đứng dậy.”

Hình phạt này tuy không đau đớn gì, nhưng mang ý nghĩa vô cùng nhục nhã. Điện Tử Thần là nơi thiết triều, việc bắt Thôi Tuần quỳ ở đó chẳng khác nào để tất cả quan viên nhìn thấy cảnh hắn bị hạ nhục. Dù vậy, Thôi Tuần vẫn không biện minh, cũng không xin tha, chỉ trầm mặc cúi đầu nhận mệnh: “Thần tuân chỉ.”

Hắn định đứng dậy, Thái hậu vẫn nhắm mắt, tay đỡ trán, bất chợt buông một câu đầy ẩn ý: “Thôi Tuần, có những chuyện đã thành dĩ vãng, nên quên đi thì hãy quên. Nếu không, ngươi không chỉ hại người khác, mà còn làm hại chính mình.”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng dao động, nhưng chỉ trong chốc lát, hắn đã lấy lại vẻ đạm nhiên phẳng lặng như giếng cổ. Hắn cúi đầu: “Thần cảm tạ Thái hậu chỉ giáo.”

Nói xong, hắn lê đôi chân đã quỳ đến tê cứng, bước từng bước tập tễnh rời khỏi đại điện.

Phía sau lưng Thôi Tuần, Thái hậu nằm nghiêng trên giường từ từ mở mắt, qua tấm rèm châu thoáng lay động, ánh mắt dõi theo bóng dáng gầy guộc của hắn. Một lúc lâu sau, bà mới thở dài, chậm rãi nhắm mắt lại.



Khi triều sớm bắt đầu, cả thành Trường An đã chìm trong lớp tuyết dày. Tuyết như lông ngỗng rơi mãi suốt đêm. Bên ngoài điện Tử Thần, tuyết tích lại thành từng đống. Theo quy định của Đại Chu, các quan viên từ ngũ phẩm trở lên đều phải đến dự buổi triều sớm hằng ngày. Khi nhóm quan viên bước vào điện Tử Thần, họ bất ngờ phát hiện ra có một người đang quỳ gối bên ngoài điện.

Người ấy cúi đầu, ánh mắt trầm lắng. Bộ quan bào màu đỏ thẫm của hắn đã bị tuyết thấm ướt, ôm sát vào cơ thể, khiến bóng dáng thêm phần gầy yếu. Hàng lông mi dài, đen nhánh như lông quạ bị phủ kín bởi những hạt tuyết nhỏ. Tuyết cũng rơi xuống trán, tan thành giọt nước lạnh lẽo rồi hòa cùng mồ hôi trên trán, lăn dọc sống mũi mà chảy xuống. Vài lọn tóc ẩm ướt rơi ra khỏi mũ quan, bám chặt vào khuôn mặt trắng như bạch ngọc. Đôi tay thõng xuống ngoài ống tay áo đã đỏ bầm lên vì lạnh, gương mặt vốn không chút huyết sắc lại càng tái nhợt đến cực điểm. Có vẻ như hắn đã quỳ ở đó rất lâu, thân thể bắt đầu run lẩy bẩy, sống lưng vẫn giữ thẳng tắp. Giữa nền tuyết trắng mênh mông, hắn một mình quỳ ở đó, dáng vẻ càng thêm cô tịch.

Chúng quan sửng sốt, rồi xì xầm to nhỏ với nhau: “Đó chẳng phải là Thôi Tuần sao? Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?”

“Có tin đồn hắn đã tra tấn Vương Lương đến chết nên bị Thái hậu phạt quỳ ở ngoài điện Tử Thần, phải quỳ đến khi tan triều.”

Lư Tư nghiệp, kẻ từng bày tỏ sự khinh miệt với Thôi Tuần trong yến tiệc đón năm mới, tức giận nói: “Nếu là người khác, việc phạt quỳ trước mặt bá quan còn có thể xem là một hình phạt, những kẻ biết nhục nhã có lẽ sẽ quỳ xong rồi tự kết liễu vì xấu hổ. Nhưng Thôi Tuần thì sao, có mặt mũi đâu mà còn biết xấu hổ? Phạt quỳ đối với hắn có là gì?”

“Cũng đúng. Hắn đã đánh chết Trường sử của vương phủ, nhưng không bị cách chức, chỉ phải quỳ mà thôi. Thái hậu thật sự quá khoan dung với hắn!”

“Than ôi, tội nghiệp cho Vương Trường sử, nghe nói lúc tìm thấy thi thể, thì đã bị chó hoang gặm gần hết rồi.”

Lư Tư nghiệp nghiến chặt nắm đấm: “Thiên lý rõ ràng! Sẽ có ngày Thôi Tuần thất thế. Đến lúc đó, chúng ta nhất định phải chém hắn thành ngàn mảnh để an ủi những vong hồn oan khuất!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 4: Ba mươi năm qua, Thái hậu chưa hề quên cô


Trong phòng ngủ của Thôi phủ, Thôi Tuần cuộn mình trong chăn gấm, tựa lưng vào sập gỗ. Trong phòng đặt một lò than chạm khắc tinh xảo, đốt loại thụy than [1] có nguồn gốc từ Tây Lương quốc, khiến không gian ấm áp như giữa xuân. Nhưng dù vậy, Thôi Tuần vẫn run rẩy vì lạnh. Hắn liên tục ho khan, khuôn mặt vốn dĩ tái nhợt nay vì cơn sốt mà ửng hồng, đuôi mày khóe mắt càng thêm phầm diễm sắc. Từ sau buổi phạt quỳ bên ngoài điện Tử Thần, Thôi Tuần vẫn sốt cao không ngừng. Thái hậu không hề đoái hoài gì đến hắn, trong khi Sát Sự Thính cũng không cho phép hắn vào làm việc. Tin đồn về việc hắn mất đi sự sủng ái đã lan ra khắp thành Trường An, những phe cánh đối địch đều cho rằng đây là thời cơ tuyệt vời để lật đổ hắn. Tấu biểu tố cáo tội trạng của Thôi Tuần như mưa tuyết đổ xuống cung Đại Minh, mỗi tờ mỗi tờ đều vạch ra từng sai phạm của Thôi Tuần. Nếu ngày mai Đại Lý Tự đến bắt hắn về quy án, hắn cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên.

<i>[1] Thụy than” (瑞炭) là loại than quý, thường được sử dụng trong các hoàng cung và giới quý tộc thời xưa ở Trung Quốc. Than này có chất lượng cao, cháy lâu và tỏa nhiệt tốt, đặc biệt không tạo nhiều khói hay bụi, khiến nó được ưa chuộng vào mùa đông để sưởi ấm. Cái tên “thụy” (瑞) trong “thụy than” còn mang nghĩa “may mắn” hoặc “tốt lành”, thể hiện sự quý giá của loại than này, thường được dùng trong các nghi lễ hoặc dành cho tầng lớp quyền quý.</i>

Có lẽ Thái hậu đã vô cùng tức giận khi hắn tự ý bắt giữ Vương Lương. Nhưng dù có quay ngược thời gian, hắn vẫn sẽ làm vậy.

Một cơn ho kịch liệt nữa ập đến, ngực hắn đau nhói. Hắn không thích có người hầu hạ, vì vậy dù đang bệnh nặng, phòng hắn vẫn không một bóng người, nhìn rất cô đơn lạnh lẽo. Thôi Tuần sốt đến mơ màng, rồi bỗng nhiên, hắn chợt nhìn thấy Lý Doanh.

Ban đầu, hắn tưởng mình hoa mắt nên cũng không để ý. Cho đến khi tiếng thở dài nhẹ nhàng của Lý Doanh vang lên trong phòng: “Có vẻ ngài bệnh rất nặng.”

Lúc này, Thôi Tuần mới ý thức được rằng Lý Doanh lại đến phủ hắn một lần nữa. Hắn ho khan hai tiếng, giọng lạnh lùng: “Cô lại đến đây làm gì?”

Lý Doanh hơi ngượng ngùng cúi đầu: “Ta vẫn muốn nhờ ngài giúp ta tìm ra sự thật.”

Nàng bỗng thì thầm: “Trong số các triều thần, chỉ có ngài là có thể nhìn thấy ta, ta không biết phải tìm ai khác…”

Thôi Tuần sốt ruột, ho lên: “Ta đã nói rồi, ta không có hứng thú giúp một công chúa đã chết ba mươi năm.”

“Nếu ta có thể báo đáp ngài thì sao?” Lý Doanh hỏi.

Thôi Tuần cười lạnh: “Một hồn ma như cô thì thì định báo đáp ta thế nào được?”

Lý Doanh cắn môi, như thể đã quyết tâm. Nàng nói: “Ta biết ngài đã làm phật ý a nương, nhưng ta có cách giúp ngài làm bà nguôi giận.”

Thôi Tuần không tin: “Cô thì có cách gì?”

Lý Doanh đáp: “Nếu ta thực sự có cách, ngài phải hứa với ta, giúp ta điều tra vụ án.”

Thôi Tuần suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Được, ta hứa.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Trong Phật tháp của Tây Minh Tự có thờ một túi hương. Túi hương đó do chính tay ta điều chế, có thể làm dịu cơn đau đầu của a nương. Ta đã sai thị nữ dâng nó lên Tây Minh Tự để cúng đường, để lại tên của thị nữ, không cho ai khác biết. Ban đầu, ta định đợi khai quang rồi sẽ tặng nó cho a nương vào ngày sinh thần của bà để bà vui vẻ, nhưng không ngờ…”

Dù Lý Doanh không nói hết nhưng Thôi Tuần cũng đoán ra phần còn lại. Lý Doanh chết đuối một cách bí ẩn, các thị nữ của nàng đều bị trách phạt, do vậy chẳng còn ai nhớ đến chiếc túi hương đó nữa. Sau “Huyết án Thái Xương”, cả Trường An chìm trong sợ hãi, trụ trì Tây Minh Tự cũng thay đổi nhiều lần, càng không ai chú ý đến túi hương mà một thị nữ dâng lên, vì vậy nó vẫn nằm yên trong Phật tháp.

Lý Doanh ngập ngừng một lúc rồi tiếp tục: “Ngày đó, ta nhờ thị nữ mang số tiền lớn đến chùa để cúng dường, hẳn là đủ để túi hương ấy được lưu giữ suốt ba mươi năm. Ngài hãy đến tìm trụ trì, xin lấy túi hương của một người tên là Lan Hương. Nếu ngài tặng túi hương này cho a nương, bà sẽ tha thứ cho ngài.”

Nói xong, Lý Doanh mím môi: “Đây là cách của ta. Ngài đã hứa với ta thì không được nuốt lời”

Thôi Tuần trầm mặc hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Nếu Thái hậu thực sự nguôi giận, ta tất nhiên sẽ không thất hứa.”

Lý Doanh lập tức lộ vẻ mừng rỡ, nhưng trong lòng vừa vui sướng lại vừa bất an. Nàng đã chết được ba mươi năm, làm sao có thể chắc chắn rằng a nương vẫn còn nhớ đến nàng? Liệu a nương có thể tha thứ cho Thôi Tuần, dù hắn đã phạm phải sai lầm cực lớn chỉ vì chiếc túi hương này không? Lý Doanh không biết.

Nếu ngay cả a nương cũng quên nàng, thì nàng sẽ chân chính trở thành cô hồn dã quỷ bị lãng quên giữa thế gian.



Dù không quá tin tưởng vào cách làm của Lý Doanh, nhưng Thôi Tuần vẫn đến Tây Minh Tự. Quả nhiên, hắn lấy được chiếc túi thơm do Lan Hương để lại từ tay trụ trì. Hắn nhờ nội thị đem túi hương dâng lên cung Bồng Lai, còn bản thân thì kéo lê thân thể bệnh tật đứng chờ bên ngoài cửa. Hắn đứng đó một lúc, rồi nội thị đến thông truyền, báo rằng Thái hậu mời hắn đi vào.

Vẫn như lần trước, Thôi Tuần phủ phục quỳ trên sàn gỗ đen lạnh lẽo ở trong điện. Nhưng lần này Thái hậu giấu mình sau bức rèm châu nhanh chóng cho phép hắn đứng dậy. Nội thị mang đến cho Thôi Tuần một chiếc áo lông chồn trắng tinh, được gấp gọn gàng, mở ra rồi khoác lên người hắn: “Thái hậu nói rằng thể trạng Thôi Thiếu khanh yếu ớt, sợ lạnh, nên đặc biệt ban cho Thiếu khanh áo lông chồn được Cao Câu Ly tiến cống.”

Thôi Tuần ho nhẹ hai tiếng, cung kính nói: “Tạ ơn Thái hậu.”

Hắn im lặng đứng đó, khoác trên người chiếc áo lông chồn trắng. Một lúc lâu sau, Thái hậu mới lên tiếng, giọng nói có chút khàn khàn: “Vọng Thư, thụy than của Tây Lương quốc vẫn đủ dùng chứ?”

“Hồi Thái hậu, vẫn đủ dùng.”

“Vậy thì tốt.”

Lại là một khoảng lặng trôi qua. Một lát sau, Thái hậu v.uốt ve chiếc túi hương tinh xảo chạm rỗng họa tiết hoa điểu bồ đào, hỏi điều mà bà đã giữ trong lòng từ lâu: “Vọng Thư, túi hương này ngươi lấy từ đâu?”

Thôi Tuần thành thật đáp: “Thần lấy từ Tây Minh Tự. Trụ trì nói rằng do một nữ nhân tên Lan Hương để lại.”

“Lan Hương… đó là thị nữ của Minh Nguyệt Châu…” Thái hậu thì thầm: “Đây quả nhiên là túi hương mà Minh Nguyệt Châu tự tay làm…”

Mở chiếc túi hương bằng vàng chạm rỗng ra, bên trong đều là những hạt hương liệu nhỏ. Thái hậu nhẹ nhàng nói: “Những hạt hương này được chế từ tám vị dược liệu là bạch chỉ, khương hoàng, thảo bản, kinh giới, tế tân, khương hoạt, thương truật, bạch phục linh, bổ sung thêm tám loại hương liệu là trầm thủy, bạch đàn, linh lăng, tước đầu, tử đằng, tô hợp, kỳ nam, hoắc hương điều chế mà thành, có tác dụng giảm chứng đau đầu. Đây hẳn là món quà sinh thần mà Minh Nguyệt Châu chuẩn bị tặng cho ngô…”

Thái hậu càng nói, thanh âm càng trở nên nhẹ bẫng, Thôi Tuần chỉ cúi đầu lặng lẽ nghe, thật lâu sau, Thái hậu đột nhiên hỏi: “Vọng Thư, ngươi tìm thấy túi hương này thế nào?”

Thôi Tuần khẽ đáp: “Thần làm Thái hậu phật ý, đương nhiên phải dốc hết tâm trí, nghĩ cách lấy lòng Thái hậu.”

Thái hậu nghe xong, bật cười thành tiếng: “Ngươi thật là thẳng thắn.”

Bà tỉ mỉ v.uốt ve túi hương vàng hình vàng chạm rỗng, như thể đang nâng niu món bảo vật quý giá vô cùng: “Nhưng ngươi làm vậy rất khéo, ngô rất hài lòng.”

Bà đưa túi hương lên chóp mũi, ngửi nhẹ mùi hương thoang thoảng, dường như ký ức xưa cũ ùa về, trong ký ức ấy, có bà và đứa con gái nhỏ phấn điêu ngọc trác. Thái hậu im lặng thật lâu, Thôi Tuần cũng trầm mặc cúi đầu. Bất chợt Thái hậu lên tiếng: “Vọng Thư, có phải ngô chưa bao giờ kể cho ngươi về Minh Nguyệt Châu không?”

Thôi Tuần cúi đầu cung kính đáp: “Thái hậu chưa từng nói qua.”

Thái hậu nhìn về nơi xa, dường như đang ngóng trông bóng hình bé nhỏ mà bà không bao giờ có thể gặp lại: “Minh Nguyệt Châu là đứa bé rất hiểu chuyện. Khi ngô sinh a đệ của nàng, đau đớn suốt ba ngày ba đêm, suýt chút nữa khó sinh mà mất mạng. Nhưng lúc sinh nàng, chỉ đau một canh giờ là thuận lợi, mẹ tròn con vuông. Chắc hẳn, Minh Nguyệt Châu không nỡ để ngô chịu khổ… Minh Nguyệt Châu do ngô tự tay nuôi nấng, từ nhỏ đã ngoan ngoãn hiểu chuyện, rất ít khi khóc đêm. Cứ thế, nàng lớn dần đến năm mười sáu tuổi. Suốt mười sáu năm ấy, nàng chưa từng làm ngô phải bận tâm, trái lại luôn lo lắng cho bệnh đau đầu của ngô. Vì vậy, nàng miệt mài tìm đọc sách thuốc, học cách điều chế hương liệu chỉ để giúp ngô giảm bớt cơn đau đầu. Nàng là đứa con hiếu thuận, thông minh và nhân hậu… Ngô từng nói với Tiên đế, Minh Nguyệt Châu là bảo vật vô giá mà Quan Âm Bồ Tát ban tặng cho ngô. Nhưng vì sao Bồ Tát đã ban tặng bảo vật vô giá cho ngô, lại còn nỡ lòng đòi lại…”

Nói đến đây, giọng Thái hậu đã nghẹn ngào. Bà không thể nói tiếp, bên ngoài rèm châu, Thôi Tuần vẫn lặng lẽ lắng nghe, vẻ mặt không chút thay đổi.

Thái hậu im lặng một lúc, rồi nói: “Vọng Thư, ngô không muốn hỏi thêm ngươi đã tìm ra chiếc túi hương này bằng cách nào. Ta chỉ muốn ngươi biết rằng, Minh Nguyệt Châu, nàng là đứa con ngô yêu thương nhất. Ba mươi năm trước như vậy, ba mươi năm sau vẫn cứ mãi như thế.”

Thôi Tuần nhẹ giọng đáp: “Thần đã hiểu.”

Thái hậu mỉm cười, bà ngước mắt nhìn ra ngoài bức rèm châu, Thôi Tuần khoác áo choàng lông trắng, dáng người cao gầy thanh tú như ngọc. Thái hậu nhìn hắn, thần sắc bỗng chốc hoảng hốt, từ từ nói: “Vọng Thư, nếu ngươi vẫn chưa khỏi bệnh, thì hãy để ngự y trong cung xem qua. Công việc ở Sát Sự Thính còn phải dựa vào ngươi.”

Chỉ một câu nói, Thôi Tuần liền biết đã vượt qua cửa ải này. Hắn quỳ xuống dập đầu: “Tạ ơn Thái hậu.”



Cánh cửa của điện Bồng Lai kẽo kẹt mở ra, Thôi Tuần khoác áo choàng lông chồn trắng thong dong bước ra khỏi điện. Một số cung nhân tinh mắt vừa nhìn đã nhận ra chiếc áo choàng lông trắng này chính là báu vật mà Cao Câu Ly dâng lên trong đại triều hội mấy ngày trước. Phải biết rằng áo choàng lông chồn đen dễ tìm, nhưng áo choàng lông chồn trắng thì hiếm thấy, huống hồ chiếc áo này thuần khiết, không lẫn chút tạp sắc nào, đúng là bảo vật hiếm có. Đại Chu lấy chữ hiếu trị quốc, Thánh nhân không dám giữ riêng chiếc áo này, dâng lên Thái hậu. Không ngờ Thái hậu mới quay người, đã ban nó cho Thôi Tuần.

Chiếc áo choàng lông trắng vừa xuất hiện, ai ấy đều biết Thôi Tuần đã lấy lại được ân sủng của Thái hậu.

Lư Tư nghiệp và những người khác ngẫm mãi không hiểu, Thôi Tuần đã làm cách nào để có thể đảo ngược tình thế chỉ trong vài ngày ngắn ngủi? Dò hỏi một hồi mới biết, Thôi Tuần đã tìm được túi hương mà công chúa Vĩnh An dâng lên cúng đường ở chùa Tây Minh vào ba mươi năm trước, Thái hậu vừa cầm túi hương đã khóc nức nở vì thương nhớ công chúa Vĩnh An. Sau khi bình tĩnh lại, bà triệu kiến Thôi Tuần, khôi phục chức vị cho hắn.

Lư Tư nghiệp và những người khác đành ngậm ngùi tiếc nuối, không ngờ công chúa Vĩnh An đã mất ba mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lòng Thái hậu. Chỉ một chiếc túi hương cũng có thể giúp Thôi Tuần khôi phục chức quan, rõ ràng Vương Lương chết cũng uổng mạng.

Mọi người bất bình, trong khi Thôi Tuần thì bình thản về phủ tĩnh dưỡng. Y thuật của ngự y trong cung quả nhiên cao minh, sau vài thang thuốc, cơn ho của hắn đã thuyên giảm, cơn sốt cũng hạ. Chỉ là trận ốm này khiến thân thể hắn lại càng thêm phần tiều tụy, yếu ớt.

Dù bị bệnh, Thôi Tuần vẫn không cho ai ở bên hầu hạ. Trong căn phòng vắng vẻ, hắn khoác chăn gấm, đốt thụy than, dựa lưng vào ghế ho khẽ, như thể đang chờ đợi ai đó.

Chẳng bao lâu thì người ấy đến.

Khuôn mặt Lý Doanh đã không còn vẻ lo âu như ngày trước, thay vào đó dáng vẻ trấn định. Nàng gõ nhẹ cửa phòng Thôi Tuần rồi bước vào, chầm chậm đi đến trước mặt hắn.

Thôi Tuần vẫn không buồn ngước mắt lên, Lý Doanh nói: “Thôi Thiếu khanh, nay ngài đã giành lại được sự tín nhiệm của a nương ta, cũng là lúc ngài nên thực hiện lời hứa.”

Thôi Tuần đáp: “Ta sẽ không nuốt lời.”

Hắn kéo khăn gấm lên che miệng ho khan rồi nói tiếp: “Nếu muốn làm rõ vụ án của cô, bước đầu tiên là phải xem xét hồ sơ vụ án.”

Nhưng hồ sơ vụ án lại đang nằm ở Đại Lý Tự.

Thôi Tuần là người đứng đầu Sát Sự Thính, mà Đại Lý Tự và Sát Sự Thính lại luôn đối nghịch nhau. Không đời nào Đại Lý Tự lại cho phép Thôi Tuần xem xét hồ sơ. Thôi Tuần cũng không thể nhờ Thái hậu giúp đỡ, vì chuyện giúp Lý Doanh tra án không thể để Thái hậu biết.

Hơn nữa, Lý Doanh cũng không thể vào Đại Lý Tự. Đại Lý Tự chưởng quản hình ngục, trong ngục có nhiều người chết, để phòng ác quỷ tác oai tác quái, mọi góc trong Đại Lý Tự đều có bùa trừ tà. Lý Doanh là một cô hồn, không thể vào đó được.

Lý Doanh hỏi Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, có cách nào khác không?”

Thôi Tuần đáp: “Có.”

“Cách gì?”

“Có tiền thì quỷ cũng phải đẩy cối xay.” [2] Thôi Tuần chậm rãi nói: “Dù ta và Đại Lý Tự không hòa hợp, nhưng nếu có đủ vàng bạc, ta vẫn có thể mua chuộc đám tiểu lại ở đó, nhờ chúng lấy cắp hồ sơ.”

<i>[2] Đây là một câu thành ngữ Trung Quốc, mang ý nghĩa rằng tiền bạc có sức mạnh lớn đến mức có thể làm được những điều khó khăn hoặc thậm chí là không thể. Câu này thường được dùng để chỉ việc có thể mua chuộc hoặc giải quyết mọi vấn đề bằng tiền bạc.</i>

“Vàng bạc…” Lý Doanh nhìn Thôi Tuần, Thôi Tuần liền dời mắt, thản nhiên nói: “Ta không có.”

Lý Doanh nghẹn lời: “Ta đâu định xin ngài.”

Nàng nói: “Ta chỉ muốn nói rằng, ta có rất nhiều vàng bạc, là a nương đốt cho ta. Vậy những vàng bạc này có thể đổi thành vàng bạc của dương gian không?”

Thôi Tuần dáng vẻ tiểu nhân nhưng lại không biết xấu hổ. Hắn suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta biết một người, có lẽ người đó có thể giúp cô.”

Mắt Lý Doanh sáng lên, nghe Thôi Tuần nói xong tên tuổi và nơi ở của người kia, đã cúi người cảm tạ: “Đa tạ Thôi Thiếu khanh chỉ điểm, ta lập tức đi tìm hắn.”

Nói xong, Lý Doanh định xoay người rời đi, Thôi Tuần ngẩng lên, nhìn bóng lưng mảnh mai của nàng, đột nhiên cất tiến gọi: “Công chúa xin dừng bước.”

Lý Doanh dừng chân, nàng quay lại, nghi hoặc nhìn Thôi Tuần. Thôi Tuần trầm ngâm một lát, nói: “Công chúa, Thái hậu vẫn rất nhớ thương cô. Ba mươi năm nay, bà ấy chưa từng quên cô.”

Lý Doanh ngẩn người, nàng từ từ quay đầu lại, Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nhìn theo bóng lưng nàng. Hắn không nhìn thấy được vẻ mặt của nàng, chỉ nghe thấy nàng dường như hít hít mũi, sau đó bước chân nhanh hơn, nhanh chóng khuất khỏi tầm mắt.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 5: Cái chết của nàng, thật sự là chuyện tốt cho thiên hạ sao?


Thành Trường An, canh ba đêm vắng.

Đại Chu thực hiện nghiêm ngặt lệnh cấm đi lại vào ban đêm, tiếng trống mộ cổ vang lên là lúc lệnh giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực, ai vi phạm đều sẽ bị phạt đánh hai mươi roi. Vì vậy, khắp các phố phường đều yên tĩnh đến mức không một tiếng động, trên con phố rộng thênh thang, ngoài đội tuần tra Kim Ngô Vệ thì không có một bóng người nào khác.

Đêm nay sương mù dày đặc, quá mười bước liền không thấy được người. Kim Ngô Vệ mặc áo giáp, cầm đuốc tuần tra theo hàng lối chỉnh tề. Trong làn sương mù, sáu đại hán từ từ xuất hiện, mặt trắng bệch như giấy, thân nhẹ như chim én, khiêng một chiếc kiệu kiểu cung đình. Bốn phía xung quanh kiệu phủ một lớp sa mỏng thêu hoa văn bảo tướng, đỉnh kiệu được gắn chuỗi lưu ly và ngọc châu lấp lánh, giá trị xa xỉ. Sáu người bước nhanh, thoắt cái đã đến trước mặt nhóm Kim Ngô Vệ.

Điều kỳ lạ là Kim Ngô Vệ hoàn toàn không hề chú ý đến chiếc kiệu kỳ bí này, để nó cứ thế lướt qua mà không hề cản trở. Kiệu tiếp tục tiến về phía trước, đến trước một tòa đại trạch uy nghiêm ở phường Đàn Hiền, thuộc khu phố Tây.

Đại trạch xa hoa tráng lệ, đứng từ ngoài cổng đã có thể ngửi thấy hương trầm nồng đậm. Gia chủ hẳn là đã hòa lẫn bột trầm hương vào đất khi xây tường, nên giờ mới có mùi hương thấm đẫm thế này. Trầm hương giá trị đắt đỏ, mà Trường An tấc đất tấc vàng, chỉ riêng diện tích tòa trạch viện này cũng đã tốn ít nhất cả ngàn quan tiền, trong khi bổng lộc của mỗi một đại thần nhất phẩm Đại Chu mỗi năm chỉ có một trăm quan, đủ thấy gia tài của vị chủ nhân đồ sộ đến mức nào. Tuy nhiên, dù được xây dựng lộng lẫy, nhưng trạch viện lại nằm ở phường Đàn Hiền, thuộc phố Tây mà Trường An này tây phú đông quý. Cổng chính chỉ là một chiếc cửa nhỏ đục vào tường thông thường, không phải loại cổng Quảng Lượng [1] mà quan lại quyền quý thường dùng, cho thấy gia chủ chỉ là một thương nhân có địa vị không cao

<i>[1] cổng Quảng Lượng (广亮大门) là một loại cổng lớn, phổ biến trong kiến trúc cổ Trung Quốc, đặc biệt trong các phủ đệ, tư dinh của tầng lớp quý tộc và quan lại quyền quý. Cổng này thường được xây dựng rộng rãi, trang trí cầu kỳ, mang tính biểu tượng cho địa vị và quyền lực của chủ nhân ngôi nhà. Chú thích hình ảnh đặt ở cuối chương. </i>

Trong trạch viện, tiếng đàn sáo văng vẳng. Sáu đại hán khiêng kiệu đi thẳng qua cánh cổng lớn khép chặt, tiến vào hậu viện. Ở đó, mấy nàng vũ công người Hồ da trắng nõn nà, dung mạo xinh đẹp, vận áo lụa mỏng, lộ nửa phần ngực đang mỉm cười quyến rũ, nhảy múa điệu Hồ toàn. Bên cạnh các nàng là một thanh niên khôi ngô tuấn tú ngồi xếp bằng dưới đất, đầu lắc lư, tay gõ trống lớn làm nhạc đệm cho điệu múa.

Khi điệu múa bước và khúc cao trào, một Hồ cơ có vòng eo uyển chuyển xoay chân bước đến cạnh chàng thanh niên, bàn tay ngọc ngà vươn ra, ánh mắt lả lơi, dường như mời chàng cùng múa. Chàng thanh niên bật cười ha hả, tay nắm lấy bàn tay mềm mại của Hồ cơ, hòa mình vào nhóm vũ cơ, cùng các nàng vui vẻ nhảy múa.

Khung cảnh nhất thời trở nên náo nhiệt, phóng túng. Chàng thanh niên đang khoác tay Hồ cơ nhảy điệu Hồ toàn thì như nhìn thấy gì đó, đột nhiên ngừng nhảy. Hồ cơ thấy khó hiểu, liền hỏi: “Sao lang chủ lại dừng lại?”

Chàng thanh niên nhìn về phía trước, đáp: “Có khách đến rồi.”

Nhóm Hồ cơ nhìn trái ngó phải, đưa mắt nhìn quanh nhưng chẳng thấy bóng dáng ai, một người trong số các nàng bĩu môi bất mãn: “Chẳng lẽ lang chủ không muốn nhảy cùng bọn thiếp nên mới bịa chuyện để lừa gạt?”

Chàng thanh niên cười mờ ám, tiện tay véo nhẹ vào bờ m.ô.ng tròn trịa của nàng: “Phải làm ăn mới có tiền nuôi các nàng chứ. Ngoan, lui xuống đi.”

Dù không vừa lòng nhưng nhóm Hồ cơ không dám cãi lời, đành lưu luyến rời đi, trước khi đi còn quay đầu nhìn lại sân viện.

Rõ ràng là… chẳng có ai cả!

Thế nhưng, chàng thanh niên lại nhìn vào viên trân châu lớn lắc lư trên đỉnh kiệu, tặc lưỡi: “Xem ra lần này là một mối lớn.”

Chàng liếc nhìn chiếc kiệu bị che kín bởi lớp sa mỏng, lại nhìn thoáng qua sáu đại hán mặt trắng như giấy đang đứng đó, cất lời: “Đã nhờ ta giúp, sao còn phải che che giấu giấu?”

Sáu đại hán nhẹ nhàng đặt kiệu xuống đất, thắt lưng họ dường như thẳng đơ, không thể cúi xuống, thân hình mỏng như tờ giấy, cung kính chắp tay với người trong kiệu rồi chân không chạm đất, lướt đi như một cơn gió.

Chàng thanh niên cười khẩy: “Ra là người giấy.”

Chàng tò mò quan sát chiếc kiệu. Bất chợt một cơn gió thổi qua, làm phải nheo mắt lại, giơ tay áo che. Đợi gió lặng xuống, lại hạ tay, nhìn lớp sa mỏng thêu hoa văn bảo tướng bị gió thổi tung, nhẹ nhàng phấp phới, để lộ một thiếu nữ đoan trang đang ngồi ngay ngắn bên trong.

Thiếu nữ búi tóc kiểu song hoàn vọng kế, mày ngài răng trắng, dung mạo thanh tú nhã nhặn, toát lên vẻ trầm tĩnh như đóa hoa quý thêu trên lớp sa mỏng. Chàng thanh niên ngây người trong giây lát, rồi mới lẩm bẩm: “Giữa chốn trần gian mà đẹp đến vậy, đúng là món hời lớn… một món hời lớn.”



Lời chàng tuy có phần khinh bạc, nhưng Lý Doanh lại không nổi giận. Nàng từ tốn bước xuống kiệu, tay cầm một hộp gấm, nhẹ nhàng tiến đến trước mặt chàng thanh niên, khách khí mở lời: “Xin hỏi tôn giả có phải là Ngư Phù Nguy tiên sinh?”

“Tiên sinh?” Chàng thanh niên dường như lần đầu nghe thấy cách xưng hô này, bèn bật cười khinh khỉnh: “Mỗ chỉ là một thương nhân, hạng người không ra gì nhất ở Đại Chu, không xứng với hai chữ tiên sinh.”

Lý Doanh chân thành đáp: “Tiên sinh tuy là thương nhân, nhưng có thể đi lại giữa nhân gian và âm giới, giúp người giải nạn, giúp quỷ giải hồn, tự mình gầy dựng cơ nghiệp lớn thế này, còn tạo nơi nương náu cho nhiều vũ công người Hồ không chốn dung thân. Tiên sinh xứng với hai chữ ấy.”

“Đừng tâng bốc mỗ nữa.” Ngư Phù Nguy cười mỉa, quan sát Lý Doanh từ đầu đến chân: “Xem cách ăn mặc của tiểu tương tử, hẳn không phải quỷ nghèo, nói đi, cô là ai?”

Lý Doanh mỉm cười nhã nhặn: “Ta là Vĩnh An công chúa, Lý Doanh.”

Vừa dứt lời, Ngư Phù Nguy đã kinh ngạc đến mức há hốc mồm, miệng lẩm bẩm: “Vĩnh An công chúa? Là vị công chúa ba mươi năm trước chết đuối trong hồ, khiến Trường An chìm trong biển máu đó sao?”

Lời này có phần vô lễ, ánh mắt Lý Doanh thoáng qua nét bối rối, nhưng nàng vẫn không tức giận, chỉ đáp: “Phải.”

“Nghe nói Thái hậu đã thắp đèn trường minh tại bốn vạn ngôi chùa trên khắp Đại Chu, cớ sao công chúa vẫn chưa được siêu thoát?”

Lý Doanh khẽ cười, trả lời: “Tiên sinh chỉ là người làm ăn thôi, hà tất phải hỏi thăm kỹ thế.”

Lúc này Ngư Phù Nguy mới nhận ra sự thất lễ của mình, hắn vỗ đầu, cười làm lành: “Là mỗ nhiều lời, công chúa đừng để bụng.”

Lý Doanh nói: “Ta đến đây là muốn nhờ tiên sinh đổi số tiền mà mẫu thân đốt cho ta thành tiền tài ở dương gian. Không biết tiên sinh có thể nhận việc này không?”

“Mỗ chuyên làm chuyện buôn bán âm dương.” Ngư Phù Nguy đáp: “Đương nhiên là nhận.”



Ba mươi năm qua, Thái hậu đã đốt cho Lý Doanh vô số tiền bạc. Lý Doanh mở hộp gấm ra, bên trong là mười thỏi vàng sáng bóng được xếp ngay ngắn. Ngư Phù Nguy cầm lấy hộp, ước lượng trọng lượng của từng thỏi vàng, mỗi thỏi nặng chừng một cân, ánh vàng sáng loáng, chất lượng tuyệt hảo, trên thỏi còn khắc chữ “Thái Xương năm thứ hai mươi”, cực kỳ tinh xảo. Ngư Phù Nguy nói: “Dù công chúa thân phận cao quý, nhưng buôn bán thì vẫn phải theo quy tắc của mỗ. Mỗ đổi mười thỏi vàng âm phủ, sẽ thu một phần mười phí. Nói cách khác, thứ trả lại cho công chúa sẽ là chín thỏi vàng dương gian. Nếu công chúa đồng ý, giao dịch này coi như thành.”

Lý Doanh khẽ gật đầu: “Cứ theo quy củ của tiên sinh mà làm.”

Ngư Phù Nguy cầm lấy hộp gấm, nói: “Nhưng dạo này việc buôn bán của mỗ khá tốt, số vàng dương gian trong kho nhà mỗ đã hết, mỗ phải đi thu xếp thêm. Không biết công chúa có thể chờ thêm mấy ngày không?”

Lý Doanh trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Ta quả thật có việc gấp, nhưng ở thành Trường An, người có thể giao dịch âm dương cũng chỉ có tiên sinh. Ta không còn cách nào khác. Chỉ là không biết phải chờ trong bao lâu?”

Ngư Phù Nguy bấm ngón tay tính toán: “Trước công chúa, còn có ba mươi quỷ hồn ở âm ti xếp hàng đợi đổi dương ngân.”

Con số này khiến Lý Doanh ngạc nhiên, nàng cười khổ: “Không ngờ Tết nhất đến nơi rồi mà tiên sinh vẫn làm ăn phát đạt quá.”

“Vì là Tết nên làm ăn mới dễ.” Ngư Phù Nguy nhẹ nhàng giải thích: “Lễ hội nhiều, pháp hội cũng nhiều, các nghi thức cúng tế diễn ra liên tục. Những hồn ma không thể đầu thai dưới âm ty muốn mượn sức mạnh của chư tăng để siêu thoát, thì phải dùng tiền bạc để hối lộ quỷ sai, nhờ quỷ sai dẫn dường đến pháp hội. Quỷ sai nhận tiền ở âm phủ nhưng tiêu không hết, nên phải nhờ đến mỗ đổi thành dương ngân, gửi về cho con cháu bọn họ.”

Lý Doanh tròn mắt ngạc nhiên: “Quỷ sai làm vậy, Diêm Vương không quản sao?”

“Thế thời là vậy, âm phủ không sạch nhưng chẳng lẽ dương gian lại minh bạch, công chính?” Ngư Phù Nguy tự giễu: “Nếu quả thật là thế, công chúa đã chẳng tìm đến mỗ để đổi dương ngân.”

Lý Doanh lúc này mới nhớ ra mục đích ban đầu của mình, nàng đến gặp Ngư Phù Nguy là để đổi vàng bạc âm phủ thành dương ngân, hối lộ tiểu lại ở Đại Lý Tự. Nghĩ theo cách này, dương gian quả thật cũng chẳng sạch sẽ hơn âm phủ là bao. Lý Doanh cười khổ: “Tiên sinh nói đúng. Vĩnh An sống trong thâm cung, hiểu biết về thế sự còn nông cạn, khiến tiên sinh chê cười rồi.”

Lý Doanh cư xử nhã nhặn như vậy khiến Ngư Phù Nguy cũng có chút áy náy. Hắn vội nói: “Thật xin lỗi công chúa, mỗ lại thất lễ rồi.”

Suy nghĩ một chút, hắn nói thêm: “Công chúa độ lượng khiến mỗ thật sự cảm thấy hổ thẹn. Thế này đi, mỗ sẽ ưu tiên cấp dương ngân cho công chúa trước để chuộc lỗi. Sáng mai, công chúa sẽ nhận được chín thỏi vàng dương ngân.”

Lý Doanh vui mừng: “Vậy thì đa tạ tiên sinh.”

“Nhưng mỗ nên giao số vàng đó đến đâu?”

Lý Doanh đáp: “Hãy giao đến phủ đệ của Thôi Thiếu khanh ở phường Tuyên Dương.”

Lần này đến lượt Ngư Phù Nguy ngạc nhiên, trợn tròn mắt: “Phường Tuyên Dương, Thôi Thiếu khanh? Chẳng lẽ là vị Thứ sử của Sát Sự Thính, Thôi Tuần?”

Lý Doanh nhẹ gật đầu: “Chính là y.”

Ngư Phù Nguy ngập ngừng một lúc, dường như có điều khó nói, cuối cùng hắn cũng cất lời: “Công chúa, thiên tư xuất chúng, sao lại dính líu đến một kẻ… lắm tai tiếng như thế kia chứ?”

Lý Doanh chỉ nói: “Hắn có thể giúp ta.”

“Giúp cô?”

“Phải, hắn là người duy nhất có thể nhìn thấy ta.”

Ngư Phù Nguy thoáng sững sờ: “Mỗ cũng có thể nhìn thấy công chúa mà.”

Lý Doanh lắc đầu: “Nhưng tiên sinh không thể giúp ta.”

Ngư Phù Nguy ngớ người, nhưng nhanh chóng hiểu ra. Trong ánh mắt hắn thoáng hiện một tia thất vọng, tự giễu: “Dù mỗ có thể nhìn thấy công chúa, nhưng chỉ là một thương nhân tầm thường. Còn Thôi Tuần dù mang tiếng xấu xa, nhưng hắn là Thứ sử tứ phẩm. Vì vậy, mỗ không giúp được công chúa, còn hắn thì có thể.”

Lý Doanh không nói gì, nhưng chính sự im lặng ấy lại khẳng định lời của Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy cười khổ, hắn lắc đầu, lẩm bẩm: “Chỉ là một thương nhân, đến khoa cử cũng không được tham dự, nói gì đến làm quan. Thật là nực cười, thật là nực cười…”

Hắn nói đến cuối, bỗng cười phá lên, giọng đầy phẫn uất. Lý Doanh lúc này mới nhận ra, người trước mặt tuy thoạt nhìn có vẻ cợt nhả nông cạn, nhưng ngay từ khi gặp nàng, hắn đã nói năng đâu ra đấy, đối đáp trôi chảy, xuất khẩu thành thơ. Hắn cũng tỏ ra am hiểu cả âm ti lẫn dương gian, thêm vào đó cái tên “Ngư Phù Nguy” mà hắn đặt cũng chẳng phải ngẫu nhiên, Phù Nguy nghĩa là cứu nguy, giúp đỡ trong cơn khốn khó. Có lẽ, chí hướng của hắn không chỉ dừng lại ở việc làm một thương nhân.

Nhưng dù chí hướng có cao xa đến đâu, thân phận của hắn, từ khi sinh ra đã bị định đoạt. Đại Chu kế thừa chế độ Cửu phẩm trung chính [2] của triều trước, chọn và bổ nhiệm quan lại dựa trên xuất thân gia thế. Thượng phẩm không có hàn môn, hạ phẩm không có sĩ tộc. Con cháu gia tộc mãi mãi là gia tộc, còn con cái hàn môn chỉ mãi làm hàn môn. Như Ngư Phù Nguy, con nhà thương nhân, thì cả đời cũng chỉ có thể làm thương nhân.[2]

<i>[2] Cửu phẩm trung chính (九品中正制) là một hệ thống phân loại và tuyển chọn quan lại trong lịch sử Trung Quốc, đặc biệt nổi bật trong triều đại Đường và Tống. Hệ thống này được sử dụng để phân chia và đánh giá nhân tài dựa trên gia thế, phẩm hạnh và năng lực.</i>

<i>* Cấu trúc của hệ thống Cửu phẩm trung chính:</i>

<i>– Cửu phẩm: Có chín cấp bậc quan lại, từ cấp cao nhất (nhất phẩm) đến cấp thấp nhất (cửu phẩm). Mỗi cấp bậc đều có những trách nhiệm và quyền hạn khác nhau trong quản lý chính quyền.</i>

<i>– Trung chính: Hệ thống này có nhiệm vụ đánh giá và phân loại nhân tài. Những người có phẩm hạnh và năng lực tốt sẽ được ghi nhận và có cơ hội được bổ nhiệm vào các vị trí cao hơn trong bộ máy nhà nước.</i>

<i>* Đặc điểm:</i>

<i>– Gia thế: Địa vị gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc thăng tiến. Thông thường, con cháu các gia đình danh giá có nhiều lợi thế hơn trong việc trở thành quan lại.</i>

<i>– Quyền lực: Hệ thống này giúp củng cố quyền lực của các gia tộc danh tiếng, khiến cho những người xuất thân từ gia đình nghèo khó rất khó có cơ hội vươn lên trong xã hội.</i>

<i>– Khoa cử: Đến thời kỳ sau, hệ thống Cửu phẩm trung chính dần được thay thế bằng chế độ khoa cử, cho phép mọi người, bất kể xuất thân, có cơ hội tham gia thi cử để trở thành quan lại, nhưng vẫn có những hạn chế nhất định đối với con cái thương nhân và hàn tộc.</i>

Chế độ này đã khiến địa vị của sĩ tộc môn phiệt còn vượt trội hơn cả hoàng quyền. Người đương thời nếu cưới được nữ tử của ngũ đại thế gia, còn vinh quang hơn cả làm phò mã. Các đời hoàng đế Đại Chu đều có ý cải cách, đến đời tiên đế, cuối cùng đã lập ra chế độ khoa cử. Không phân biệt sĩ tộc hay hàn tộc, ai cũng có thể tham gia khoa cử. Nhờ đó, hàn tộc mới có cơ hội thay đổi vận mệnh. Tuy nhiên, dưới áp lực của sĩ tộc, khoa cử vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ như các bài thi không che tên, tạo điều kiện cho gian lận, và con cái nhà thương nhân vẫn không được tham gia khoa cử. Nhưng so với trước đây, vận mệnh của hàn tộc đã có nhiều thay đổi.

Ngư Phù Nguy dần dần bình tĩnh lại, hắn nói: “Dù mỗ không thể tham gia khoa cử, nhưng khoảng cách giữa sĩ tộc và dân thường giờ đây cũng không còn là trời vực nữa. Nói đi cũng phải nói lại, đây là nhờ công lao của công chúa.”

Lý Doanh hơi ngạc nhiên: “Công của ta?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Tiên đế thúc đẩy khoa cử, chọn ra người tài, khiến sĩ tộc phản đối kịch liệt. Nhưng sau thảm án Thái Xương, sĩ tộc bị đại thương nguyên khí, nhờ vậy mà khoa cử mới được thuận lợi triển khai. Thế nên, chính công chúa đã thay đổi vận mệnh của hàn tộc khắp thiên hạ, cũng thay đổi cả vận mệnh của cả triều Đại Chu.”

Nghe những lời này, Lý Doanh không hề cảm thấy vui mừng trước những lời ca tụng của Ngư Phù Nguy, ngược lại trong đầu nàng như vang lên một tiếng nổ lớn. Hóa ra, cái chết của nàng đã thực sự thay đổi số phận của hàn tộc, thay đổi của cả triều Đại Chu?

Vậy thì, cái chết của nàng, đối với thiên hạ và Đại Chu, hóa ra lại là điều tốt đẹp?

*
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 6: Chiều muộn tuyết sắp rơi, có thể cùng uống chén rượu không?


Ngày mùng chín tháng Giêng.

Sáng sớm, Thôi Tuần đang dưỡng bệnh ở nhà thì nhận được một hộp gấm từ tay tiểu lại của Sát Sự Thính. Tiểu lại bẩm báo: “Đây là do người của Quỷ thương Ngư Phù Nguy mang tới.”

Thôi Tuần mở hộp ra, thấy bên trong là chín thỏi vàng được xếp ngay ngắn.

Hắn nhướng mày, không ngờ nàng công chúa yểu điệu, mảnh mai ấy lại thật sự có thể đổi được dương ngân về.

Hắn cầm lấy một thỏi vàng, ước lượng trong tay rồi đưa cho tiểu lại: “Ngươi mang thỏi vàng này đến cho Tào Khôn ở Đại Lý Tự, nói với hắn rằng ta cần hồ sơ vụ án của công chúa Vĩnh An thời Thái Xương ba mươi năm trước.”

Tiểu lại có phần ngạc nhiên nhưng không dám hỏi thêm, chỉ cung kính nhận mệnh rồi lui ra.

Sau khi tiểu lại rời đi, Thôi Tuần gọi lão bộc câm đến, chỉ vào hộp gấm chứa tám thỏi vàng còn lại, sau đó đóng hộp lại, dặn dò: “Cứ làm theo cách cũ.”



Lão bộc gật đầu, ôm hộp gấm rời đi. Thôi Tuần ngồi quỳ trước án thư, nhẹ nhàng ho khẽ. Trên án thư bày một cuộn thẻ tre, bên trên là chi chít tên người. Hắn cầm bút lông sói chấm vào chu sa, rồi vạch một dấu gạch chéo lên hai chữ “Vương Lương.”

Gấp thẻ tre lại, hắn trầm tư một lúc lâu, lúc này, tiểu lại cũng đã quay về, còn mang theo hồ sơ vụ án của Lý Doanh.

Tiểu lại hào hứng kể: “Gã Tào Khôn kia vừa nhìn thấy vàng hai mắt liền sáng rỡ, lập tức đồng ý lấy hồ sơ của công chúa Vĩnh An cho ngài. Thiếu khanh nói hắn tham tiền quả không sai.”

Thôi Tuần nhận lấy hồ sơ, mở ra xem kỹ. Tiểu lại cũng mang đến một bình rượu nho, cung kính đặt lên án thư: “Hồi bẩm Thiếu khanh, thứ này được Lư Tư nghiệp biếu tặng. Hôm nay hắn được điều sang Đại Lý Tự nên đặc biệt gửi rượu nho mỹ tửu sang để tỏ lòng kính trọng với ngài. Hạ quan đoán chắc là hắn có ý muốn kết giao.”

Thôi Tuần không buồn liếc nhìn bình rượu, chỉ hờ hững đáp: “Để đó.”

Sau khi tiểu lại rời đi, Thôi Tuần tiếp tục nghiên cứu hồ sơ của Lý Doanh. Bất tri bất giác, mặt trời khuất dạng sau dãy núi, sáu trăm tiếng trống mộ cổ từ cổng thành Trường An vọng lại, phố xá ồn ào cũng từ từ lắng xuống. Hắn khép quyển hồ sơ, khẽ ho hai tiếng, lòng bỗng dấy lên chút nghi hoặc.

Chẳng phải vị công chúa kia vẫn luôn sốt ruột muốn biết ai là kẻ sát hại mình sao? Nàng đã dốc hết tâm sức để đổi dương ngân thì vì sao cả một ngày nay vẫn chưa thấy xuất hiện?

Hắn không khỏi nhìn ra ngoài cửa sổ, bỗng cánh cửa kẽo kẹt mở ra, nhưng người bước vào không phải Lý Doanh mà là lão bộc câm.

Lão bộc câm cẩn thận đặt chén sứ thanh diêu đầy thuốc đang bốc khói nghi ngút lên án thư, sau đó ra hiệu bằng tay. Thôi Tuần liền hỏi: “Chuyện ta giao ông đã làm xong chưa?”

Lão bộc câm gật đầu, rồi lại tiếp tục quơ tay ra dấu. Thôi Tuần im lặng một hồi rồi mới hỏi: “Ông nói, mẹ của Tào Ngũ lang qua đời rồi sao?”

Lão bộc câm lại gật đầu, từ những cử chỉ của lão, có thể lờ mờ nhận ra ý tứ “chịu nhục không nổi”, “thắt cổ tự vẫn”. Thôi Tuần lặng yên rất lâu, cuối cùng chỉ nói một câu: “Ta biết rồi.”

Sau khi lão bộc rời đi, Thôi Tuần ngồi lặng hồi lâu, cửa sổ chưa đóng chặt, cơn gió lạnh buốt len qua khe cửa, thấm vào xương tủy. Hắn cảm thấy cổ họng có vị tanh ngọt, sau đó một cơn ho dữ dội lại ập đến. Chén thuốc màu men ngọc bích đặt trên án thư đã nguội đi, mùi cay nồng của quế chi và ma hoàng quyện vào nhau, đồng loạt xông vào mũi khiến hắn không khỏi khó chịu. Thôi Tuần định bưng chén thuốc lên để uống nhưng mùi vị chát đắng khiến dạ dày hắn trở nên nôn nao, cuối cùng hắn không uống nữa mà tiện tay ném chén thuốc sang một bên, thay vào đó là cầm lấy bình rượu nho mà Lư Tư nghiệp gửi tặng.

Hắn lảo đảo bước đến cửa, đẩy cửa ra.

Bên ngoài trời đã đổ tuyết, những bông tuyết nhẹ nhàng như liễu rơi, một màu trắng xóa phủ kín khắp sân viện. Đèn lồng lục giác treo ở góc hành lang bên ngoài sương phòng đã được thắp lên, ánh sáng nhu hòa hắt lên lớp tuyết bàng bạc, phản chiếu thành một tầng sáng êm dịu. Giữa bầu trời là vầng trăng tròn treo lơ lửng, tô điểm cho đêm tuyết lạnh lẽo bằng một vẻ đẹp thuần khiết và thanh tịnh.

Thôi Tuần khoác lên người áo choàng lông trắng, ngồi dựa vào cột hành lang, ngắm nhìn những bông tuyết bay lả tả. Khoảnh khắc đó, tiếng cười sang sảng của một thiếu niên bỗng hiện về trong đầu hắn.

“Thập Thất Lang, tuyết lớn thế này, để mai chúng ta đấu lại đi!”

“Huynh sợ rồi?”

“Nực cười, ai nói ta sợ? Đấu thì đấu!”

Giữa những bông tuyết trắng, thiếu niên hiên ngang như tùng, bóng kiếm uyển chuyển như rắn lượn, xung quanh là tiếng tán thưởng vang lên không ngừng: “Thập Thất lang! Tào Ngũ! Đường kiếm đẹp lắm! Đẹp lắm!”

Tuyết càng lúc càng rơi nhiều hơn, màu trắng của tuyết và màu bạc của kiếm dần hòa vào nhau. Nhìn những bông tuyết bay, lồng ng.ực Thôi Tuần đột nhiên nghẹn lại, hắn cảm thấy khó thở, cơn ho dữ dội lại ập đến, gương mặt tái nhợt ửng lên một chút sắc đỏ. Bàn tay gầy gò với những đốt xương lộ rõ cố với lấy bình rượu có đầu phượng hoa sen, nhưng dường như lại không đủ sức lực, loay hoay mãi mới cầm nổi bình rượu. Hắn run rẩy nâng bình lên, không rót vào chén kim bôi nữa mà dốc ngược uống trực tiếp từ miệng bình. Uống được vài ngụm thì lại ho sặc sụa.

Ho xong vài tiếng hắn lại muốn uống tiếp, nhưng khi tay vừa nắm lấy bình rượu, hắn nhìn thấy họa tiết hoa sen trên bình.

Thôi Tuần khựng lại. Hắn mím chặt môi, không chuốc rượu nữa mà vứt bình ra xa như vừa chạm phải thứ rắn rết ghê tởm. Chiếc áo choàng lông chồn trắng khoác trên người bị thấm chút rượu nho, bộ lông tinh khiết không tì vết giờ đã loang lổ vết đỏ. Thôi Tuần liền cởi phăng áo choàng, ném mạnh sang một bên.

Giữa nền tuyết trắng tinh khôi, Thôi Tuần trong bộ thường phục đỏ thẫm ngồi dựa vào cột hành lang, ho sặc sụa. Hắn nhìn tuyết rơi dày đặc, ánh mắt xa xăm, như thể muốn xuyên qua những bông tuyết mà nhìn về vùng sa mạc xa thẳm.

Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, dưới ánh trăng chợt xuất hiện một thiếu nữ cầm ô giấy dầu. Nàng khoác lên người áo choàng hồ ly trắng, bước chân nhẹ nhàng và điềm tĩnh, dẫm trên tuyết lại gần.



Lý Doanh chầm chậm đến bên cạnh Thôi Tuần. Nàng thu ô, giũ nhẹ những bông tuyết đọng rồi nhìn qua bình rượu đầu phượng hoa sen cùng chiếc áo khoác lông cáo bị vứt sang một bên giờ đã lấm bẩn. Nàng lẳng lặng ngồi xuống cạnh Thôi Tuần, dịu dàng mở lời: “Ta cũng có rượu đây, ngài có dám uống không?”

Thôi Tuần dừng ho, bình thản đáp: “Có gì mà không dám?”

Rượu của Lý Doanh là rượu tế lễ. Nàng ngồi xếp bằng bên cạnh Thôi Tuần, rót ra một chén rượu Lục Nghị [1] mới ủ còn thơm nồng, đưa cho Thôi Tuần. Hắn đón lấy và uống cạn chỉ trong một hơi. Lý Doanh cũng cầm lấy chén kim bôi, uống một ngụm nhưng chén rượu vừa qua cổ đã làm nàng ho mấy tiếng vì sặc. Thôi Tuần thấy thế liền nhướng mày, nhếch môi cười nhạt:

“Thì ra công chúa không biết uống rượu.”

<i>[1] rượu Lục Nghị: chỉ loại rượu mới được nấu, chưa lên men hoàn toàn, trên bề mặt còn xuất hiện những bọt li ti màu xanh, trông giống như đàn kiến nhỏ.</i>

<i> </i>Lý Doanh thẳng thắn thừa nhận: “Quả thực ta không giỏi uống rượu.”

Thôi Tuần nhấc chén lên, ngửa cổ uống cạn chén rượu thứ hai. Hắn đặt chén xuống rồi hờ hững nói với Lý Doanh: “Không biết uống, sao lại phải uống?”

Lý Doanh liếc nhìn Thôi Tuần, thấy hắn lại cúi đầu ho nhẹ sau khi uống rượu. Nàng đáp lời, không chút e dè: “Ngài mang bệnh trong người, không chịu uống thuốc lại đi uống rượu, có gì khác với ta sao?”

Nghe nàng nói, khóe môi Thôi Tuần hiếm hoi lắm mới hé nở nụ cười. Lý Doanh rót thêm một chén rượu, lần này không uống một hơi mà chỉ chậm rãi nhấp nhẹ từng ngụm. Nàng uống từ từ còn Thôi Tuần thì uống rất nhanh. Hai người không nói gì thêm, chỉ cầm chén kim bôi ngồi xếp bằng dưới mái hiên, lặng lẽ nhìn ánh trăng và màn mưa tuyết mờ mịt như bông liễu. Bình rượu chẳng mấy mà đã cạn đến đáy, lúc này Lý Doanh mới nhấp ngụm rượu cuối cùng, đột nhiên nói: “Đêm qua ta đã gặp Ngư Phù Nguy.”

Thôi Tuần cũng đã mở miệng: “Người này ngông cuồng phóng túng, chán ghét thế gian, đặc biệt căm hận các thế gia vọng tộc. Chắc hắn đã chẳng nói gì tốt đẹp.”

Lý Doanh đáp: “Đúng vậy, hắn nói rất khó nghe. Nhưng hắn nói với ta rằng cái chết của ta đã thay đổi vận mệnh của hàn môn trên khắp thiên hạ, cũng thay đổi vận mệnh của cả triều Đại Chu.”

Nàng hít sâu một hơi, quay sang nhìn Thôi Tuần: “Có thật thế không?”

Hóa ra suốt cả ngày nay, nàng không xuất hiện là vì câu nói ấy khiến lòng nàng đau đớn.

Nhưng trong mắt Thôi Tuần vẫn là vẻ lãnh đạm như nước. Hắn đáp: “Đúng.”

Lý Doanh mím môi, cười khổ: “Xem ra cái chết của ta là điềm lành cho đất nước và dân chúng.”

Nàng bỗng thấy lạnh, bèn kéo chặt áo choàng hồ ly trên người, miệng lẩm bẩm: “Cả đời ta chưa từng làm điều gì sai trái, đến cả cái chết cũng trở thành phúc đức cho muôn dân. Đấy là may mắn của ta sao?”

Thôi Tuần không hề an ủi nàng, chỉ nói: “Đại Lý Tự đã gửi tới hồ sơ của cô tới đây. Nếu không muốn xem thì không cần phải xem.”

Lý Doanh cầm chặt chén vàng trong tay, dù nàng nắm giữ bao lâu thì chén vàng vẫn lạnh buốt như băng, không thể ấm lên như bàn tay con người. Lý Doanh cười chua chát, lắc đầu: “Ta muốn xem.”

Nàng nhẹ giọng nói: “Ta nghĩ cả ngày nay và cuối cùng cũng đã thông suốt. Dù ba mươi năm qua thiên hạ có lẽ đều vui mừng vì cái chết của ta, vui mừng vì cái chết ấy đã mang cho Đại Chu một cơ hội đổi mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta đã làm sai điều gì. Ta không đáng phải chết. Ta muốn tìm ra sự thật, ta muốn tự mình đòi lại công bằng.”

Khi nàng nói đến đây, lời lẽ đã trở nên kiên định hơn bao giờ hết. Thôi Tuần không khỏi quay sang nhìn nàng, một lát sau hắn mới dời đi ánh mắt, nhàn nhạt nói: “Nếu đã vậy, thì hãy xem qua hồ sơ.”



Rượu đã cạn, nhưng cục diện vẫn chưa được phá giải.

Thôi Tuần và Lý Doanh bước vào trong phòng. Thôi Tuần đi trước, thường phục đỏ thẫm đã bị tuyết làm ướt, dán sát vào thân thể, khiến dáng người hắn càng trở nên gầy gò, phần hông đeo thắt lưng điệp tiệp càng thêm mảnh mai như thân trúc. Lý Doanh đột ngột dừng bước, quay lại đóng cửa gỗ rồi đóng cả cửa sổ để chặn gió lạnh và những bông tuyết bay lạc vào.

Thôi Tuần đã để sẵn sách thẻ ở trên án thư. Hắn ho khan hai tiếng, sau đó đưa cho Lý Doanh và nói: “Đây là hồ sơ của cô.”

Lý Doanh không đón lấy ngay, mà liếc nhìn bát thuốc màu men ngọc bích đặt trên bàn. Thuốc đã nguội lạnh. Nàng cúi xuống cầm bát thuốc lên, lòng bàn tay nàng phát ra ánh sáng yếu ớt khiến chén thuốc dần dần ấm lên.

Lý Doanh khẽ cười, tự giễu: “Hóa ra làm quỷ hồn cũng không phải là không có lợi ích gì.”

Nàng đưa chén thuốc cho Thôi Tuần: “Ngài bệnh nặng lắm rồi, vẫn nên uống thuốc trước đã.”

Thôi Tuần liếc nhìn chén thuốc, mím môi, không nói một lời. Lý Doanh ngẩn ra, rồi như sực nhớ điều gì, nàng lấy một viên đường từ trong túi hương bằng gấm thêu mẫu đơn ngũ sắc treo ở thắt lưng, bỏ vào chén thuốc. “A gia cũng sợ uống thuốc, người sợ đắng nên ta thường bỏ chút đường vào thuốc cho người. Sau khi bỏ đường, thuốc sẽ không còn đắng nữa. Ngài cũng thử xem sao?”

Thôi Tuần vẫn chưa có ý định nhận chén thuốc. Lý Doanh thở dài: “Ta biết trong lòng ngài có lẽ mang nhiều gánh nặng, nhưng dù thế nào đi nữa, chỉ khi còn sống, mọi chuyện mới có thể xảy ra. Ngài không biết ta đã ghen tị biết bao vì ngài vẫn đang được sống…”

Lời nàng rất nhẹ, ánh mắt chân thành. Chiếc áo choàng hồ ly trắng như tuyết càng khiến nàng thêm phần thanh tao. Nàng không chắc liệu Thôi Tuần có chịu nghe lời nàng hay không, nhưng nàng chỉ nghĩ rằng hắn đang giúp nàng điều tra vụ án, nàng không thể thấy hắn tự hành hạ bản thân mà không làm gì. Đang suy nghĩ xem nên tiếp tục khuyên nhủ như thế nào, Lý Doanh bất ngờ thấy Thôi Tuần đón lấy bát thuốc từ tay nàng, uống cạn chỉ trong một hơi.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 7: Thà cưới con gái ngũ họ, chứ không vào làm rể hoàng gia


Trong căn phòng ấm áp như xuân đốt thụy than hồng đượm rực cháy, từng trang hồ sơ vụ án Thái Xương năm thứ hai mươi dần được mở ra, một vụ án kinh thiên động địa từng khiến thành Trường An máu chảy thành sông bắt đầu lộ rõ toàn cảnh.

Thái Xương năm thứ hai mươi, ngày mùng sáu tháng mười, công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, trượt chân ngã xuống hồ sen mà chết. Do hồ sen trong cung nằm ở nơi hẻo lánh, hơn nữa công chúa không cho phép người hầu theo cùng, nên phải đến một canh giờ sau, cung nhân mới phát hiện thi thể Lý Doanh trong lúc tìm kiếm công chúa khắp nơi.

Thái Xương Đế và Quý phi Khương thị nghe tin, vội vàng chạy đến, trước thi thể của công chúa, cả hai khóc đến nỗi nước mắt như mưa, ruột gan đứt đoạn. Lúc ấy, họ không còn là đế phi đứng trên vạn người của Đại Chu nữa mà chỉ là đôi phụ mẫu bình thường vừa mất đi đứa con gái yêu quý nhất.

Hoàng hậu Trịnh thị cũng tới nơi, bà là thê tử kết tóc của Thái Xương Đế, xuất thân từ gia tộc Trịnh thị ở Huỳnh Dương, thân phận cao quý. Khi nhìn thấy thi thể Lý Doanh trắng bệch, lạnh lẽo nằm bất động trên mặt đất, Trịnh Hoàng hậu gần như ngã quỵ: “Vĩnh An! Sao lại thế này!”

Hoàng hậu muốn chạm vào Lý Doanh nhưng lại bị Quý phi Khương thị đang đau lòng đến tột cùng đẩy ra. Quý phi Khương thị xuất thân từ cung nữ, phụ thân bà chỉ là một thương nhân, nhờ vào sắc đẹp mà được Thái Xương Đế sủng ái và nạp làm phi tần. Khương Quý phi có tính cách cẩn trọng, ôn hòa và chưa bao giờ dám vượt quyền Hoàng hậu. Nhưng lúc này đã khác.

Cung nhân bàng hoàng nhìn Quý phi xô mạnh Hoàng hậu ra khỏi thi thể công chúa, sau đó bà gào khóc dữ dội: “Ngươi đừng giả nhân giả nghĩa nữa! Chính ngươi! Chính ngươi đã hại chết Minh Nguyệt Châu của ta! Là ngươi! Là ngươi!”

Hoàng hậu sững sờ, sau đó giận dữ quát: “Quý phi, ngươi đang nói bậy bạ gì đó!”

“Ta không nói bậy! Chính ngươi đã gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu của ta!”

Khương Quý phi đau đớn tột độ, bà bò đến trước chân Thái Xương Đế, nắm lấy vạt áo người, khóc lóc thê lương: “Tam lang, chính là Hoàng hậu đã giết Minh Nguyệt Châu! Bà ấy chưa bao giờ thích Minh Nguyệt Châu, chắc chắn là do bà ấy! Chàng phải báo thù cho Minh Nguyệt Châu, nhất định phải báo thù cho con chúng ta!”

Hoàng hậu hoảng sợ, vội vàng thanh minh: “Không phải đâu, Tam lang, không phải ta giết Minh Nguyệt Châu! Ta không làm chuyện đó!”

Khương Quý phi căm phẫn nhìn chằm chằm Hoàng hậu, bà gạt bỏ vẻ dịu dàng ngày thường, nghiến răng bật khóc: “Ngươi đừng giảo biện nữa! Ngươi ganh ghét ta được Tam lang sủng ái, ngươi ghen tỵ vì Minh Nguyệt Châu khiến tình cảm giữa hai ta càng thêm bền chặt. Từ khi Minh Nguyệt Châu chào đời, ngươi đã bao lần bày mưu tính kế hãm hại mẹ con ta. Vì lo cho con, ta đã nhẫn nhịn, nhưng không ngờ, ngươi lại tàn độc đến mức gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu! Ngươi thật quá mất nhân tính!”

Hoàng hậu cố gắng biện giải: “Không, ta không giết Minh Nguyệt Châu. Nếu ta muốn hại con bé thì sao lại tác hợp hôn sự giữa cháu trai ta và con bé? Ta thật sự không làm!”

Khương Quý phi nghẹn ngào: “Ngươi chỉ lợi dụng hôn sự của Minh Nguyệt Châu để mong được Tam lang sủng ái trở lại thôi, nhưng Tam lang vẫn không đoái hoài đến ngươi, vì vậy ngươi mới tức giận và gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu!”

Hoàng hậu cũng quỳ sụp xuống, bò đến trước mặt Thái Xương Đế, nắm lấy áo hắn, tha thiết cầu xin: “Tam lang, ta thừa nhận ta có ý muốn nhờ hôn sự này để được chàng sủng ái, nhưng ta thực sự không giết Minh Nguyệt Châu, ta không làm!”

Khương Quý phi khóc đến khản giọng: “Ngươi không thể sinh con thì thôi, tại sao lại phải cướp mất Minh Nguyệt Châu của ta? Tại sao? Tại sao?”

Bà không muốn đôi co với Hoàng hậu nữa, chỉ lặng lẽ ôm lấy thi thể lạnh giá của Lý Doanh vào lòng, hôn lên gương mặt lạnh lẽo của con gái như cái ngày nàng vừa chào đời, rồi nghẹn ngào lẩm bẩm: “Minh Nguyệt Châu, a nương ở đây, không ai có thể làm hại con nữa. Con quay về đi, quay về với a nương, a nương không thể thiếu con, không thể… không thể…”

Đêm hôm ấy, Khương Quý phi ôm chặt thi thể Lý Doanh khóc đến khản tiếng, ai khuyên gì cũng không buông.

Trong lòng Thái Xương Đế và Khương Quý phi, người luôn chiều chuộng con gái là Thái Xương Đế, bất kể Lý Doanh đòi gì ông đều hết lòng đáp ứng. Ngược lại, Khương Quý phi có phần nghiêm khắc hơn, bà luôn dạy con phải sống khiêm nhường, đối xử nhân hậu với người khác, chính vì thế mới nuôi dạy được Lý Doanh tính cách hiền lành, thiện lương. Nhưng không ai ngờ, một Khương Quý phi vốn cẩn trọng lại có thể vì mất con mà trở nên cuồng loạn, bất chấp hậu cung quy tắc mà sẵn sàng đối đầu với Hoàng hậu, chỉ để đòi lại công bằng cho con gái.



Sau đó, Thái Xương Đế đau lòng đến mức mấy ngày liền không ăn không uống. Khương Quý phi thì khăng khăng rằng cái chết của Lý Doanh không phải tai nạn, mà do Hoàng hậu Trịnh thị gây ra. Hoàng hậu thì ra sức kêu oan. Hậu cung loạn thành một mớ. Dưới áp lực của Khương Quý phi, Thái Xương Đế bí mật lệnh cho Đại Lý Tự điều tra kỹ lưỡng nguyên nhân cái chết của Lý Doanh. Lúc bấy giờ, Đại Lý Tự khanh Từ Nhiễm đã điều tra suốt mười mấy ngày, phát hiện Lý Doanh vì nhận được thư của vị hôn phu Trịnh Quân nên mới một mình ra hồ sen hẹn gặp. Bên cạnh hồ sen, ngoài những nội thị nhảy xuống vớt thi thể công chúa, không còn dấu chân nào khác, nên suy đoán rằng công chúa đã trượt chân rơi xuống nước và không may bị chết đuối.

Vì thế, cái chết của công chúa chỉ là một tai nạn, không hề liên quan đến Trịnh Hoàng hậu hay bất kỳ ai khác.

Thái Xương Đế và Khương Quý phi không tin vào kết luận của Từ Nhiễm, bởi Từ Nhiễm là thân thích nhà họ Trịnh, nên Thái Xương Đế cho rằng Từ Nhiễm đã bao che cho Hoàng hậu. Ông bèn giao vụ án cho Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh đích thân tra án. Thượng thư Hữu bộc xạ là chức quan nhất phẩm của triều Đại Chu, tương đương với tể tướng, đủ để thấy Thái Xương Đế coi trọng vụ án này ra sao.

Thôi Tụng Thanh xuất thân từ gia tộc Thôi thị ở Bác Lăng, nổi tiếng chính trực, liêm khiết. Sau khi tiếp quản vụ án Lý Doanh, ông đích thân điều tra hiện trường hồ sen và phát hiện rằng suốt tháng mười trời không có lấy một giọt mưa nào, đất bên hồ khô cứng, không thể có chuyện công chúa vô tình trượt chân ngã xuống hồ. Từ đó, Thôi Tụng Thanh kết luận rằng Lý Doanh không phải vô tình rơi xuống nước, mà bị người khác đẩy xuống hồ, dẫn đến chết đuối.

Lý Doanh vốn là người ôn hòa, lan tư huệ chất, đến cung nữ trong cung cũng quý mến nàng nên không có khả năng nàng bị ai đó thù oán mà sát hại. Do đó, người khả nghi nhất chính là Hoàng hậu Trịnh thị, người vốn có mâu thuẫn với Khương Quý phi.

Thôi Tụng Thanh nhanh chóng bắt giữ các tỳ nữ thân cận của Trịnh Hoàng hậu để thẩm vấn. Tuy nhiên, tất cả đều kêu oan, khẳng định rằng Hoàng hậu không hề liên quan đến cái chết của công chúa Vĩnh An. Sau khi thẩm vấn kỹ lưỡng, một cung nữ không chịu nổi cực hình cuối cùng đã hé lộ một vài bí mật…

Hoá ra, Trịnh Hoàng hậu vì muốn lấy lại sự sủng ái nên đã hết sức tiến cử Trịnh Quân làm phò mã trước Thái Xương Đế. Thế nhưng, thật ra huynh trưởng và tẩu tẩu của bà, tức là cha mẹ của Trịnh Quân lại hoàn toàn không muốn Lý Doanh làm con dâu. Nguyên do là bởi Lý Doanh là con gái của Khương Quý phi. Khương Quý phi xuất thân từ thương nhân, trong khi nhà họ Trịnh thuộc vào ngũ tính thất vọng, là một trâm anh thế tộc truyền đời. Cha mẹ Trịnh Quân khinh miệt Lý Doanh, dù ngoài miệng không dám kháng chỉ nhưng trong thâm tâm, họ vô cùng xem thường nàng.

Còn Trịnh Quân, hắn cũng không muốn cưới Lý Doanh. Một phần vì xuất thân thấp kém phía gia tộc bên ngoại công chúa, phần khác vì Trịnh Quân đã sớm có mối tình thanh mai trúc mã với biểu muội họ Vương, tình cảm thâm sâu từ nhỏ. Vậy nên, hôn sự này thực chất là do Hoàng hậu Trịnh thị giấu giếm anh trai và chị dâu, tự mình đứng ra sắp đặt. Đến khi mọi chuyện xong xuôi, huynh tẩu của bà còn vào cung trách cứ, và đây cũng là điều khiến một cung nữ vô tình nghe được.

Khi Thái Xương Đế hay tin thì vừa đau lòng vừa tức giận. Lý Doanh là viên ngọc sáng quý giá trong tay ông, lại còn là công chúa Đại Chu, vậy mà chỉ vì xuất thân của mẹ nàng mà lại bị khinh bỉ đến như vậy. Trong cơn giận dữ, Thái Xương Đế lập tức hạ lệnh giam Trịnh Hoàng hậu vào lãnh cung, đồng thời ban mật chỉ cho Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh, cho dù phải đào ba thước đất cũng phải tìm ra chân tướng cái chết của Lý Doanh.



Lý Doanh đọc đến đây không khỏi bần thần suy nghĩ. Nàng cười khổ: “Ta không ngờ cha mẹ của Trịnh Quân lại ghét bỏ ta đến vậy.”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Người đời thường nói thà cưới con gái ngũ tính [1] còn hơn làm rể hoàng gia. Công chúa hoàng gia cũng không cao quý bằng nữ nhi ngũ tính. Họ đương nhiên không muốn có một nàng dâu xuất thân từ phường buôn.”

<i>[1] Từ thời Ngụy Tấn, 5 họ “Trịnh, Thôi, Lý, Lư, Vương” luôn là danh gia vọng tộc. “Ngũ tính thất vọng” bao gồm: Lũng Tây Lý thị, Bác Lăng Thôi thị, Thanh Hà Thôi thị, Phạm Dương Lư thị, Triệu Quận Lý thị, Huỳnh Dương Trịnh thị và Thái Nguyên Vương thị. 7 gia tộc thuộc có 5 họ lớn. Lũng Tây Lý thị và Triệu Quận Lý thị đều là 2 nhánh lớn của họ Lý; Bác Lăng Thôi thị và Thanh Hà Thôi thị là 2 nhánh của họ Thôi.</i>

Lý Doanh buồn bã nói: “Ta càng không ngờ, hóa ra Trịnh Quân còn có một biểu muội thanh mai trúc mã.”

Nàng hồi tưởng lại những lần gặp gỡ ít ỏi với Trịnh Quân, lúc nào hắn cũng tỏ ra là một quân tử ôn hòa như ngọc, nói năng chừng mực, cư xử khéo léo. Dù không có tình cảm sâu đậm với Trịnh Quân nhưng nàng luôn nghĩ rằng đây là người mà phụ mẫu đã chọn cho mình, chắc chắn là một lang quân tốt nhất trong thiên hạ. Vì vậy, nàng luôn vui mừng chờ đến ngày được gả cho Trịnh Quân.

Ai ngờ cả nhà Trịnh Quân đều khinh ghét nàng, còn Trịnh Quân lại coi nàng như người đã phá hoại tình duyên của hắn.

Lý Doanh vô cùng mờ mịt. Như nàng đã nói, nàng cả đời chưa từng làm điều gì xấu, chỉ vì mẫu thân xuất thân từ thương nhân mà bị cả nhà họ Trịnh khinh bỉ đến vậy. Chẳng lẽ sinh ra trong gia đình danh gia vọng tộc thì bẩm sinh đã cao quý? Còn sinh ra trong gia đình thương nhân thì trời sinh đã thấp hèn? Tại sao ngay cả khi mẫu thân đã trở thành Quý phi Đại Chu, con gái của bà, một công chúa Đại Chu cành vàng lá ngọc tôn quý hơn vạn người nhưng vẫn phải chịu sự ghét bỏ của những thần tử kia?

Rốt cuộc là lý lẽ gì đây?

Thôi Tuần nhìn nàng: “Còn muốn xem tiếp bản án này không?”

Lý Doanh hồi thần, nàng mím môi rồi kiên quyết gật đầu: “Xem.”

Dù sự thật có đau lòng đến đâu, nàng cũng muốn truy tìm đến cùng.



Trong quá trình thẩm vấn của Thôi Tụng Thanh, một tỳ nữ không chịu nổi cực hình đã khai rằng Hoàng hậu Trịnh thị đã từng triệu Trịnh Quân vào cung trò chuyện. Từ lúc hắn vào cung, thần sắc luôn rối loạn, như có tâm sự nặng nề.

Thôi Tụng Thanh liền chuyển sự nghi ngờ về phía Trịnh Quân.

Trịnh Quân bị bắt vào Đại Lý Tự, hắn là con cháu thế gia, từ nhỏ đã được nuông chiều, không chịu nổi khổ hình, vừa nhìn thấy hình cụ còn chưa cần dùng tới, hắn đã khai sạch. Hắn nói hắn hận Lý Doanh, bởi vì mẫu tộc của nàng xuất thân thương nhân, khiến hắn bị bạn bè cười nhạo. Hơn nữa, hắn và biểu muội nhà họ Vương từ nhỏ đã là thanh mai trúc mã, hai nhà đã chuẩn bị nói chuyện hôn sự, nhưng Thái Xương Đế lại đột ngột ban hôn, buộc hắn và biểu muội phải chia lìa. Vì vậy, hắn càng hận Lý Doanh hơn. Trước ngày cưới, hắn không thể chịu đựng việc phải cưới một nữ nhân có xuất thân thấp hèn như nàng, nên đã nảy sinh ác ý, viết thư hẹn nàng đến bên hồ sen. Khi nhìn thấy Lý Doanh trong trang phục lộng lẫy, tràn đầy kỳ vọng đứng đợi bên hồ, trong một khoảnh khắc, hắn đã có chút mềm lòng, nhưng sự mềm lòng đó nhanh chóng bị nỗi nhục nhã do bạn bè chế giễu và sự hận thù vì phải chia tay với biểu muội lấn át. Hắn đã lợi dụng lúc nàng không để ý, đẩy nàng xuống hồ.

Lý Doanh chỉ kêu cứu vài tiếng, rồi nhanh chóng chìm sâu vào nước. Trịnh Quân hoảng loạn, vội vàng bỏ trốn khỏi hồ sen.

Hắn vẫn còn một chút hy vọng rằng mọi người sẽ chỉ nghĩ Lý Doanh chết do tai nạn. Nhưng không ngờ, Thôi Tụng Thanh lại điều tra nhanh đến vậy.

Những chuyện tiếp theo thì ai ai cũng đã biết. Trịnh Hoàng hậu bị phế truất, vì vẫn chưa nguôi hận nên một năm sau bà bị Khương Quý phi sai người gi.ết ch.ết. Trịnh Quân bị tru di cửu tộc, khiến Trường An chìm trong biển máu.



Bản án này xem ra thật hoàn hảo, Trịnh Quân có động cơ, có thời gian và chính hắn cũng đã nhận tội. Vậy nên nếu không phải vì Lý Doanh đến nay vẫn chưa thể siêu thoát, có lẽ nàng cũng sẽ tin rằng hung thủ chính là Trịnh Quân.

Đọc xong chữ cuối cùng, Lý Doanh chậm rãi đóng quyển hồ sơ lại, nàng hỏi Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, ngài có phát hiện ra điều gì bất thường không?”

Thôi Tuần hỏi ngược lại nàng: “Công chúa cảm thấy Trịnh Quân là người thế nào?”

Lý Doanh cố gắng hồi tưởng về Trịnh Quân: “Học rộng biết nhiều, là một người quân tử lễ độ.”

“Vậy công chúa nghĩ Tiên đế là người thế nào?”

Lý Doanh ngẩn ra, nàng nói: “A gia là một người cha rất tốt.”

“Tiên đế có thụy hiệu là “Minh”, ngoài việc là một người cha tốt ông ấy còn là một vị đế vương sáng suốt.” Thôi Tuần nói: “Tiên đế đăng cơ khi còn trẻ, trong suốt thời gian trị vì, ông ấy đã thực hiện nhiều cải cách, trọng dụng hiền thần. Một minh quân như vậy chắc hẳn sẽ không nhìn nhầm mà chọn một phò mã không có phẩm hạnh.”

“Ý của Thôi Thiếu khanh là…?”

“Phò mã được tiên đế đích thân lựa chọn không thể chỉ vì vài lời chế giễu mà tâm thần bất định đến mức giết người, huống hồ người hắn giết là công chúa Đại Chu, nữ nhi được Tiên đế yêu thương nhất. Dù thân phận của hắn có cao quý đến đâu, hắn cũng phải suy nghĩ về hậu quả của việc này.”

Lời phân tích của hắn thật rõ ràng, nhưng Lý Doanh đột nhiên nhận ra điều gì: “Vậy từ đầu, Thôi Thiếu khanh không tin rằng Trịnh Quân là hung thủ, đúng không?”

Nàng cười khổ: “Vậy tại sao ngay từ khi ta tìm đến, ngài lại khẳng định rằng vụ án của ta đã có kết luận, hung thủ chính là Trịnh Quân?”

Thôi Tuần bình tĩnh đáp: “Ta chưa từng tin, chỉ là không muốn giúp cô thôi.”

Lời hắn thẳng thắn, Lý Doanh chỉ biết cười khổ, nàng đang có việc nhờ hắn, nên không thể trách cứ, chỉ đành hỏi: “Vậy Thôi Thiếu khanh nghĩ hung thủ là ai?”

Thôi Tuần không trả lời, chỉ dùng ngón tay dài gõ nhịp từng cái lên bàn, trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Ta nghĩ rằng trong tập hồ sơ này, có một người vô cùng quan trọng, đã bị bỏ qua từ ba mươi năm trước.”

“Ai?”

“Biểu muội của Trịnh Quân, nữ tử họ Vương.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 8: Đây là thời đại thịnh vượng mà mẹ ta đã tạo ra


Con gái họ Vương tên là Vương Nhiên Tê, xuất thân từ danh gia Vương thị Thái Nguyên, một trong ngũ đại thế gia triều Đại Chu.

Từ nhỏ, Vương Nhiên Tê đã nổi tiếng nhờ nhan sắc tuyệt mỹ, trí tuệ hơn người, cầm kỳ thư họa đều tinh thông. Mẫu thân nàng ta và mẫu thân của Trịnh Quân là chị em ruột, nên hai người thường xưng hô với nhau là biểu huynh muội. Sau khi chín tộc của Trịnh Quân bị tru di, Vương Nhiên Tê may mắn thoát nạn nhờ mẹ nàng đã gả vào họ Vương, tuy vậy, cảnh tượng sĩ tộc Trường An máu chảy thành sông vẫn khiến Vương Nhiên Tê sợ đến mất mật. Vì thế, nàng ta hạ mình, gả vội cho Bùi Quán Nhạc, khi ấy mới chỉ là một đội chính thất phẩm của Huân Dực vệ. Bùi Quán Nhạc xuất thân hàn môn, nhờ cưới được con gái Vương gia mà bước chân vào hàng môn phiệt, từ đó quan vận hanh thông, đến nay hắn đã là Binh bộ Thượng thư chánh tam phẩm, Vương Nhiên Tê cũng nở mày nở mặt, được sắc phong là Kim Thành quận phu nhân.

Với một thân phận tôn quý như vậy, Thôi Tuần đương nhiên không thể đối đãi với nàng ta như đối với Vương Lương, tùy tiện dụng hình để ép cung.

Lý Doanh nói: “Nếu nàng ta thật sự có liên quan đến vụ án của ta, có lẽ ta sẽ thử đến Bùi phủ một chuyến.”

Thôi Tuần mỉm cười: “Cô không vào được đâu.”

“Vì sao?”

“Bùi phủ canh phòng nghiêm ngặt, lại nuôi nhiều đạo sĩ và hòa thượng, khắp nơi trong phủ đều dán thần môn và bùa trấn trạch. Chỉ e cô còn chưa vào đến nơi thì đã bị bùa ngũ lôi chém hồn tan tác ra rồi.”

Lý Doanh hơi chán nản, sau đó nghĩ đến điều gì, lại hỏi “Không làm việc trái lương tâm thì không sợ quỷ gõ cửa. Bùi phủ nuôi đạo sĩ, dán bùa trấn trạch, chẳng lẽ Vương Nhiên Tê đã làm gì trái với lương tâm sao?”

Thôi Tuần không đáp, chỉ khẽ nói: “Năm ngày nữa là đến hội đèn lồng Thượng Nguyên, [1] đến lúc đó khắp Trường An từ quan lại đến dân thường đều sẽ ra ngoài thưởng ngoạn hội đèn. Chắc hẳn Vương Nhiên Tê cũng sẽ không bỏ lỡ cuộc vui này.”

[1] Tết Thượng Nguyên, Tết Nguyên tiêu hay Rằm Tháng Giêng là ngày lễ hội truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc. Lễ hội trăng rằm từ giữa đêm 14 (đêm trước trăng rằm) trọn ngày 15 (ngày rằm) cho đến nửa đêm 15 (đêm trăng rằm) của tháng giêng Âm lịch. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 9: Nếu không ai yêu quý thì cũng nên tự thương lấy mình


Thôi Tuần gắng sức bơi về phía tỳ bà cơ gần như đã ngất lịm trong dòng nước, kéo nàng lên bờ. May thay, nàng chỉ ngụp lặn trong chốc lát, sau khi ho ra vài ngụm nước, nàng đã từ từ hồi tỉnh.

Lúc này, nhóm bạn của tỳ bà cơ cũng vội vàng chạy đến, tất cả đều là nhạc cơ của giáo phường, gương mặt hiện rõ vẻ hoảng loạn. Thế nhưng, khi trông thấy Thôi Tuần trong bộ thường phục màu đỏ thẫm, họ nhận ra hắn là một quan viên tứ phẩm của triều đình, liền e dè đưa mắt nhìn nhau, không dám lại gần.

Thôi Tuần vô tình làm rơi khăn vấn, vài sợi tóc đen như mực xõa ra trên cần cổ trắng đến mức có thể thấy rõ cả mạch máu. Hắn đeo mặt nạ đầu thú hung ác, nhưng từ thân hình cao gầy như hạc lộ ra dưới lớp áo ướt sũng cùng đôi mắt hoa đào hơi xếch lấp ló sau chiếc mặt nạ, thì vẫn có thể thấy được phong thái tuyệt thế của chủ nhân.

Thấy tỳ bà cơ đã tỉnh lại, Thôi Tuần liền xoay người muốn rời đi, song lại bị nàng bất ngờ nắm lấy cổ tay.

Ánh mắt nàng phảng phất chút bối rối cùng vẻ không thể tin nổi, chậm rãi đưa tay, run rẩy muốn tháo bỏ mặt nạ của Thôi Tuần.

Mặt nạ rơi xuống, để lộ dung nhan rực rỡ tựa hoa đào.

Tỳ bà cơ thoáng chốc giống như bị sét đánh, toàn thân run lên bần bật. Nàng dồn chút sức tàn cuối cùng, đẩy Thôi Tuần đến lảo đảo, cổ họng nghẹn ngào bật ra mấy chữ: “Cút! Ta không cần ngươi cứu!”

Người bạn bên cạnh nôn nóng chạy tới, “A Man, chính vị lang quân này đã cứu cô!”

“Ta không cần hắn cứu!” Nàng nói: “Ta ghét hắn!”

Nói xong, nàng không muốn nhìn Thôi Tuần thêm lần nào nữa, chỉ dựa vào sự trợ giúp của người khác mà đứng dậy, tập tễnh rời đi. Các nhạc cơ khác chỉ còn biết thở dài, cúi đầu xin lỗi Thôi Tuần: “Thật xin lỗi, lang quân, bình thường A Man không như vậy…”

Thôi Tuần chỉ nói: “Không sao… Hãy chăm sóc nàng thật tốt…”

Các nhạc cơ lại thi lễ rồi đuổi theo tỳ bà cơ. Thôi Tuần nhặt chiếc áo choàng đen dưới đất lên, loạng choạng bỏ đi dưới ánh mắt khó hiểu của mọi người.

Lý Doanh đứng từ xa đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Nàng ngỡ ngàng không hiểu tại sao tỳ bà cơ lại buông lời cay nghiệt khi vừa được Thôi Tuần cứu thoát? Cho dù thanh danh của Thôi Tuần có xấu đến đâu, nhưng hắn đã cứu mạng nàng, chẳng nhẽ kể cả như thế thì hắn vẫn không xứng để được nhận một lời cảm tạ hay sao?

Hơn nữa, tại sao sau khi tỳ bà cơ chửi mắng, Thôi Tuần lại nói không sao. Người như hắn mà lại sẵn sàng nhảy xuống dòng Khúc Giang để cứu một nhạc cơ… Phải chăng họ đã quen biết nhau từ trước?

Trong lòng nàng tràn ngập nghi vấn, không khỏi nhìn về phía Thôi Tuần đang lảo đảo rời đi. Bộ thường phục đỏ thẫm đã ướt sũng, ôm sát vào thân thể càng khiến hắn thanh mảnh như cành trúc. Lý Doanh mím môi, cất bước đuổi theo, muốn hỏi cho ra lẽ, vừa cất tiếng gọi: “Thôi Thiếu khanh” thì Thôi Tuần đã chỉ về một chiếc thuyền du ngoạn ở giữa hồ.

Trên thuyền, một đôi vợ chồng trung niên đang đứng cạnh nhau. Nam nhân mặc thường phục màu tím, mặt vuông chữ điền, mày rậm, thân hình cao lớn, đôi mắt sáng rực có thần. Nữ nhân thì mày liễu mắt hạnh, phong tư tuyệt sắc. Thôi Tuần bình tĩnh nói: “Đó chính là vợ chồng Bùi Quan Nhạc, họ rất sợ ma quỷ. Cô nên nhân cơ hội này, tạo ra chút động tĩnh, họ càng sợ thì càng dễ khai ra những điều cô muốn biết.”

Lý Doanh dừng bước, không khỏi nhìn về phía phụ nhân xinh đẹp trên thuyền, người đó chính là biểu muội của Trịnh Quân, nữ nhi Vương thị ở Thái Nguyên đúng không?

Trịnh Quân vì nàng ta mà hận đến mức muốn giết cả vị hôn thê của mình?

Tâm trí Lý Doanh rối bời, nhưng tiếng ho khan kịch liệt của Thôi Tuần đã kéo nàng về với thực tại.

Thôi Tuần ho rất dữ dội. Hắn vừa nhảy xuống dòng Khúc Giang lạnh buốt để cứu người, và giờ cái lạnh ấy như đang ngấm dần vào xương tủy. Hắn cảm thấy toàn thân như bị đông cứng, vì ho quá sức mà sắc mặt trắng bệch bị nhiễm thêm một tầng mây đỏ. Lý Doanh thấy thân thể hắn run lẩy bẩy, bước đi không vững thì không khỏi lo lắng hỏi: “Thôi Thiếu khanh, ngài không sao chứ?”

Nhưng Thôi Tuần không đáp. Hắn vẫn kiên nhẫn bước từng bước một, tiến về phía trước. Lý Doanh nhìn theo hắn, rồi lại ngoái lại nhìn về phía du thuyền, nơi Vương Nhiên Tê đang vui vẻ trò chuyện. Nàng dậm chân, vẻ mặt đầy mâu thuẫn, nhưng cuối cùng vẫn quyết định đuổi theo Thôi Tuần.



Càng đi, cảnh vật trước mắt Thôi Tuần càng tối sầm lại, thân thể cũng càng thêm nặng nề, nhưng dù là vậy, Thôi Tuần vẫn cố gắng lê từng bước chân, mãi cho đến khi trước mắt là một rừng mai vắng lặng. Dân chúng Trường An đều đi xem hội đèn, trong rừng mai không một bóng người. Thôi Tuần dựa vào một gốc mai vàng, cảm thấy trời đất quay cuồng. Hắn không thể trụ nổi nữa, cơ thể đổ gục xuống đất.

Lý Doanh vẫn luôn theo sát phía sau Thôi Tuần, thấy hắn ngã xuống thì liền hốt hoảng chạy đến. Nàng quỳ xuống bên cạnh, lo lắng lay nhẹ Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, Thôi Thiếu khanh, ngài không sao đấy chứ?”

Nhưng Thôi Tuần vẫn nhắm chặt mắt, hàng mi đen dài như cánh quạ rũ xuống, vài sợi tóc đen ướt dính trên khuôn mặt tái nhợt, sắc môi không còn một giọt máu, và dù Lý Doanh có gọi thế nào, hắn cũng không tỉnh lại.

Lý Doanh cắn môi, không thể diễn tả cảm xúc trong lòng. Người này mặc dù mang tiếng xấu, thế nhưng lại rất tự trọng, ngay cả việc ngất xỉu cũng phải chọn nơi không có người mà ngã chứ không để bản thân ngã quỵ ở một nơi đông người như bên bờ Khúc Giang.

Nàng lại nhìn về phía hồ Khúc Giang đèn đuốc huy hoàng, Vương Nhiên Tê vẫn đang ở trên du thuyền, nếu bỏ lỡ cơ hội này, không biết phải chờ cho đến bao giờ thì mới gặp được nàng ta một lần nữa.

Lý Doanh lại nhìn về phía Thôi Tuần dưới gốc hoa mai, một đóa hoa mai đỏ từ cây rơi xuống, đáp nhẹ lên phiến môi nhợt nhạt của Thôi Tuần. Hoa mai đỏ thắm, nếu từng lớp cánh hoa xếp chồng lên nhau giống như ráng chiều rực rỡ thì bản thân hắn lại hệt như khối hàn ngọc trong suốt. Lý Doanh nhẹ vươn tay, nhặt cánh mai đỏ khỏi môi Thôi Tuần. Khi đầu ngón tay chạm vào đôi môi lạnh giá của hắn, nàng lập tức rụt tay lại, nhưng chỉ một thoáng sau đó, nàng lại nâng tay lên, ngắm nhìn đầu ngón tay mình, thở dài một hơi.

Khoảnh khắc ấy, trong rừng mai bỗng hiện ra một ánh lửa xanh lục ma quái. Chỉ trong chốc lát, có sáu kiệu phu làm bằng giấy khiêng theo một cỗ kiệu lộng lẫy, đỉnh kiệu được trang trí bởi hoa văn bảo tướng, phủ màn lụa trắng xung quanh, chân không chạm đất lướt như bay vào trong rừng mai, rồi lại nhanh chóng nâng kiệu ra khỏi rừng, để lại đóa hoa mai đỏ rực như mây trên nền đất tĩnh mịch ở trong rừng.



Kiệu phu bằng giấy khiêng kiệu rất vững nhưng trong kiệu vẫn hơi rung lắc. Thôi Tuần đang hôn mê nằm trên lớp da hổ trắng mềm mại. Bốn góc trong kiệu đều được đặt lò hương khắc hoa văn chim phượng, hương liệu được đốt trong lò khiến không gian ấm áp như giữa xuân, ấy vậy nhưng Thôi Tuần vẫn cảm thấy toàn thân lạnh thấu. Hắn run rẩy, bất giác ho khan, mày nhíu lại, hình như rất khó chịu. Lý Doanh quỳ xuống trước mặt hắn, cúi người gạt những sợi tóc dính trên mặt hắn sang một bên. Nàng liếc nhìn bộ y phục ướt sũng màu đỏ thẫm của hắn, không khỏi lo lắng. Nếu không thay ra, e rằng hắn sẽ sốt cao thêm một trận nữa.

Nhưng ngoài nàng ra, những người hầu bằng giấy mà mẫu thân đốt cho nàng đều không thể chạm vào người sống. Lý Doanh cắn răng, rốt cộc vẫn run rẩy đưa tay, tháo bỏ dây thắt lưng trên eo của Thôi Tuần.

Sau khi tháo xong thắt lưng, nàng lại run rẩy cởi chiếc áo ngoài màu đỏ thẫm của hắn. Cởi xong áo ngoài, Lý Doanh hít sâu một hơi, tiếp tục c.ởi áo l.ót màu trắng mặc bên trong của Thôi Tuần.

Nhưng ngay khi Lý Doanh chạm tới lớp áo trong cùng của Thôi Tuần, nàng lập tức đứng sững lại.

Thôi Tuần c.ởi tr.ần, trên người đầy rẫy những vết thương chằng chịt. Có vết roi, vết dao, vết bỏng và cả những vết mà nàng không biết là do dụng cụ nào gây ra. Những vết thương như những con rết khổng lồ, bò khắp cơ thể mảnh mai như ngọc, ngọc trắng như bị nhuốm bẩn, khiến người ta không nỡ nhìn thêm nữa.

Lý Doanh hoảng sợ quay đầu đi, nhưng trước mắt nàng vẫn là những vết thương ghê rợn đó, thậm chí cổ họng nàng còn hơi lờm lợm. Suy cho cùng, nàng chỉ là một tiểu công chúa quý giá của Đại Minh cung, đã bao giờ phải chứng kiến cảnh máu me tàn nhẫn của nhân gian theo cách này đâu. Nàng đột nhiên nhớ đến vết thương sâu hoắm như cái lỗ ở xương đòn Thôi Tuần, có lẽ đó là do những dây xích bằng gai xỏ qua xương bả vai, treo lên trong một khoảng thời gian dài, nên mới tạo thành vết thương sâu đến vậy.

Càng nghĩ càng cảm thấy da đầu tê dại, sợ đến mức buồn nôn.

Đằng sau bỗng vang lên một tiếng ho nhẹ, Lý Doanh quay đầu lại, thấy Thôi Tuần không biết đã tỉnh dậy từ khi nào. Hắn chật vật ngồi dậy, tựa vào trụ kiệu, rồi ôm lấy bộ y phục ướt sũng của mình, che đi những vết thương trên người.

Lý Doanh cuống quýt giải thích: “Ta chỉ… chỉ muốn thay cho ngài bộ y phục khô ráo.”

Thôi Tuần không nói gì, hắn cúi đầu, cố gắng buộc lại vạt áo, nhưng bàn tay hắn như bị rút cạn sinh lực, mất một lúc lâu mới buộc được một nút áo đơn giản. Lý Doanh xấu hổ và áy náy vô cùng, nàng lắp bắp hỏi: “Những vết thương trên người ngài…”

Thôi Tuần ngẩng đầu, ánh mắt rét lạnh, hắn đáp: “Đây không phải việc của cô?”

Lý Doanh giống như bị dội cho một gáo nước lạnh, nàng cúi đầu, ngập ngừng nói: “Đúng, không phải việc của ta, ta chỉ hỏi…”

Thôi Tuần không thèm để ý đến nàng, tiếp tục cúi đầu cài áo. Lý Doanh xoa xoa đầu, cuối cùng vẫn quyết định đưa cho hắn bộ y phục màu nguyệt bạch đã được hơ ấm trên lò hương: “Ngài… vẫn nên thay bộ y phục khô ráo này đi.”

Thôi Tuần không đáp. Lý Doanh vẫn không từ bỏ: “Ta không có ý gì, ta cũng sẽ không hỏi gì thêm, nhưng nếu ngài cứ mặc bộ y phục ướt sũng này, e rằng sẽ sinh bệnh nặng thêm, thân thể ngài vốn đã không khỏe… Nếu không ai yêu quý ngài, thì chí ít, ngài cũng nên tự thương lấy mình…”

Nàng nói xong thì đặt bộ y phục sạch sẽ bên cạnh Thôi Tuần. Sau đó, nàng phất nhẹ tay, giữa nàng và hắn là một tấm màn lụa trắng thêu hoa bảo tướng tinh xảo vừa buông xuống. Lý Doanh xoay người, đưa lưng về phía hắn, nhẹ giọng nói: “Ngài yên tâm, ta sẽ không nhìn. Đợi ngài thay xong rồi hãy gọi ta.”

Nàng quay lưng về phía Thôi Tuần, dáng ngồi đoan chính ngay thẳng, lớp sa trắng nhẹ nhàng lay động, thoảng qua sau vành tai nàng. Nàng không chắc liệu Thôi Tuần có thay bộ y phục sạch mà nàng đã chuẩn bị hay không, dù sao hắn cũng là người có tính cách khó lường, chưa kể nàng mới vừa chọc giận hắn… Nàng cứ chờ như vậy, lặng thinh không nói, chỉ hít thở mùi hương thanh khiết thoát ra từ lò hương, nhắm mắt bịt tai, không nhìn, cũng không nghe.

Có vẻ như đã trôi qua rất lâu, cỗ kiệu đột nhiên dừng lại, Lý Doanh mở to mắt, hạ tay che tai xuống, hỏi kiệu phu: “Đến Thôi phủ rồi sao?”

Kiệu phu không trả lời mà là Thôi Tuần ho khan đáp: “Đúng vậy.”

Lý Doanh không khỏi quay đầu lại, chợt thấy một bàn tay thon dài trắng nhợt, vén nhẹ tấm sa lụa ở giữa, một gương mặt kiều diễm nhưng lại thanh tao, không hề có chút d.â.m đ.ã.ng, hiện ra sau lớp sa.

Lý Doanh ngây người, Thôi Tuần đã mặc xong bộ y phục mà nàng đưa cho hắn. Đó là bộ y phục theo kiểu văn nhân thịnh hành từ ba mươi năm trước, tay rộng, áo dài, có phần rộng rãi hơn so với trang phục nam nhân ngày nay. Thôi Tuần vốn đã gầy gò, sau khi buộc đai và đội lại quan ngọc, tóc đen như mực rũ xuống, toát lên phong thái thần tiên, ngọc thụ chi lan.

Lý Doanh ngắm nhìn hắn, buột miệng thốt ra: “Ngài mặc như vậy, thật sự rất đẹp…”

Nói xong, nàng cảm thấy hơi hối hận vì đã lỡ lời, nhưng Thôi Tuần chỉ giữ nguyên thần sắc điềm tĩnh, hắn hỏi: “Sao không đi tìm Vương Nhiên Tê?”

Lý Doanh ngẩn người, nói: “Ta đi tìm bà ấy, còn ngài thì sao?”

Ánh mắt Thôi Tuần chợt xẹt qua một tia khác lạ, nhưng hắn không nói gì thêm, chỉ bước xuống kiệu, đi vào Thôi phủ. Chỉ có điều, gần vào đến bên trong, hắn đột nhiên quay đầu lại, nói hai chữ: “Đa tạ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 10: Thắp đèn kính Phật


Sau khi tiễn đưa Thôi Tuần về phủ, Lý Doanh quay lại nhìn hội hoa đăng Thượng Nguyên đang dần khép lại. Vương Nhiên Tê đã quay về nhà, từ đó không còn xuất hiện nữa, cũng không biết đến khi nào mới có dịp gặp lại nàng ta. Tuy rằng ảo não, nhưng Lý Doanh không hối hận. Nếu phải làm lại, nàng vẫn sẽ không bỏ mặc Thôi Tuần một mình đơn độc giữa rừng mai, chỉ vì muốn tìm hiểu chân tướng.

Hôm sau là rằm tháng Giêng, ngày toàn thành Trường An thắp đèn kính Phật. Thái hậu hạ lệnh cho tất cả các ngôi chùa trên cả nước thắp đèn trường minh để cầu nguyện cho Lý Doanh. Hàng chục vạn tăng lữ tụng kinh vãng sanh vì công chúa. Lý Doanh chưa được luân hồi, nhưng nhờ hưởng hương khói và phật chú tụng trì, nàng có thể xuất hiện giữa ban ngày mà không cần che ô. Thế nhưng, giữa đám đông nhộn nhịp, không ai nhìn thấy nàng. Dù đứng giữa nơi phồn hoa náo nhiệt, nàng vẫn lẻ loi đến lạ thường.

Trước cổng chùa Tây Minh, Lý Doanh ngẩng đầu nhìn tấm biển gỗ khắc ba chữ “Tây Minh tự.” Ba chữ này do a gia nàng đề bút, nhưng không ai biết rằng đó thực chất là nét bút của nàng năm lên tám tuổi.

Ngày ấy, a gia bệnh nặng, không còn đủ sức để cầm bút. Thế nhưng người không muốn để lộ bệnh tình cho ai biết. Đúng lúc đó, chùa Tây Minh vừa mới trùng tu xong, tấu chương thỉnh cầu người đề tên cũng đã được gửi đến. Từ nhỏ Lý Doanh đã giỏi bắt chước nét chữ của a gia, ngay cả các trọng thần cũng không nhận ra sự khác biệt. Vì thế a gia đã bảo nàng viết thay, vờ như chính tay người đã viết.

Nàng nhớ rõ lúc ấy nàng đã hỏi a gia: “A gia bệnh rồi, sao không muốn cho người khác biết?”

A gia chỉ nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, thở dài: “Ngoài kia kẻ xấu nhiều lắm, nhưng a gia còn rất nhiều việc chưa làm xong. A gia không thể ngã xuống được, càng không thể bọn họ biết a gia sắp sửa ngã xuống.”

Khi ấy, nàng còn nhỏ nên chỗ hiểu chỗ không. Nàng lại hỏi: “Không phải a gia là hoàng đế sao? Sao lại sợ kẻ xấu? Giết hết bọn họ không được sao?”

A gia chỉ cười nhạt: “Mấy trăm năm qua, bảy tám triều đại đổi thay nhưng kẻ xấu thì vẫn mãi là kẻ xấu. Hoàng đế cuối cùng của tiền triều muốn giết hết kẻ xấu, nhưng chính ông ấy lại bị bọn chúng xuống tay trước.”

Nàng vẫn không hiểu, a gia chỉ mỉm cười: “Minh Nguyệt Châu, bây giờ con không hiểu, nhưng khi lớn rồi, con sẽ hiểu.”

Sau đó a gia nghĩ lại, rồi lắc đầu: “Thôi, Minh Nguyệt Châu của ta vĩnh viễn không hiểu thì vẫn tốt hơn.”

Bệnh tình của a gia kéo dài đến ba tháng. Suốt ba tháng ấy, a nương không rời giường bệnh, cẩn thận chăm sóc a gia. Có lúc, a gia bệnh nặng đến mức không tỉnh táo, a nương phải xem tấu chương, đọc từng chữ một, rồi nàng sẽ bắt chước bút tích của a gia, viết theo từng chữ một. Thế mà giấu được trong ba tháng. A gia khỏi bệnh, còn a nương thì vì kiệt sức mà ngã bệnh.

Nàng lo lắng đến phát khóc. Trong lúc ấy, các phi tần trong cung liền nhân cơ hội a nương nàng bệnh, tìm cách tranh sủng. A gia không hề đến cung của bất kỳ ai trong số họ, người nắm tay a nương đang nằm trên giường bệnh, dịu dàng nói: “Linh Diệp, nàng khác với họ. Nàng mau khỏe lại đi, ta còn rất nhiều chuyện muốn bàn với nàng.”

Khi đó, nàng cứ tưởng rằng những chuyện mà a gia muốn bàn chính là chuyện Hoàng hậu và các phi tần ức h**p a nương. Nhưng giờ nghĩ lại, nàng mới hiểu mình đã quá nông cạn. A gia lúc bệnh đã giao cho a nương xử lý tấu chương. Chuyện mà người muốn thương lượng với bà, hẳn đều là quốc gia đại sự.

Từ khi sinh được nàng, a nương không còn sinh thêm được ai nữa. Hậu cung tranh giành sủng ái, a nương ít khi tham gia. Theo năm tháng tuổi xuân dần qua, dưới gối bà lại không có hoàng tử, nhiều người đoán rằng a nương sẽ thất sủng. Ngay cả Hoàng hậu Trịnh thị cũng nghĩ thế. Nhưng a nương ngày càng được sủng ái, thậm chí còn được phong làm Quý phi, một ân sủng chưa từng có tiền lệ.

Không ai hiểu vì sao a gia lại ưu ái a nương nàng đến vậy. Trịnh Hoàng hậu cũng không hiểu. Nhưng nếu họ được thấy thịnh thế của Đại Chu ngày hôm nay, có lẽ họ sẽ đều nhận ra.

Cả đời a gia nàng đều luôn nỗ lực hết mình, đưa hoàng tộc Lý thị thoát khỏi sự thao túng của các môn phiệt thế gia. A nương nàng chính là đồng minh đắc lực nhất của người. Giữa họ không chỉ đơn thuần là tình cảm nam nữ, vì thế những phi tần chỉ biết tranh sủng như Hoàng hậu Trịnh thị thì làm sao có thể so bì được?

Đáng tiếc, nàng chỉ nhận ra điều này sau khi đã qua đời ba mươi năm.

Lý Doanh ngước nhìn tấm biển gỗ khắc tên chùa Tây Minh. Nàng nhớ a nương, nhớ cả a gia nàng.



Cuối cùng, nàng bước vào chùa Tây Minh. Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa này là nơi thờ phụng bài vị ghi quốc vận Đại Chu, phía sau là bài vị các đời đế vương của triều đại này.

Lý Doanh vừa bước vào đã nhận ra bài vị của a gia nàng ngay, miếu hiệu là chữ “Anh”. Tương truyền, sau khi người băng hà, Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh vốn định đặt miếu hiệu là “Thánh” nhưng lại bị các sĩ tộc môn phiệt phản đối. A gia vì nàng mà diệt trừ môn phiệt, gây nên “Huyết án Thái Xương”, trong lúc tại vị, số người chết oan không ít. Vậy nên dù a gia có chính tích trác việt, khởi xướng khoa cử, thúc đẩy cải cách, lựa chọn nhân tài mà không câu nệ xuất thân, đặt nền móng cho thời thịnh trị của Đại Chu nhưng vẫn phải chịu sự phản đối của sĩ tộc, miếu hiệu từ Thánh Tông hạ xuống Anh Tông. Tuy nhiên, riêng với thụy hiệu là “Minh” thì sĩ tộc lại không thể phản bác, bởi ngay cả sĩ tộc cũng phải thừa nhận rằng, a gia của nàng đích thực là một minh quân.

Lý Doanh bước tới, định qua bậc cửa để đến gần bài vị a gia, nhưng còn chưa kịp đặt chân thì ánh kim quang tỏa ra từ tượng Phật trang nghiêm đã đẩy nàng lùi lại mấy bước. Nàng cười cay đắng, thân phận cô hồn như nàng, ngay cả việc đến gần bài vị a gia để lễ bái cũng trở thành một điều xa xỉ.

Trên bài vị, ghi rằng a gia băng hà vào ngày mùng bốn tháng sáu, năm Thái Xương thứ ba mươi. Tính đến nay ngót nghét đã được hai mươi năm.

Lý Doanh ngước nhìn bài vị của a gia. Hóa ra đã hai mươi năm trôi qua. A gia và nàng không giống nhau. Linh hồn của người không còn vướng lại nơi trần thế mà hẳn đã luân hồi chuyển kiếp từ lâu rồi. Hoặc có lẽ, nhờ công đức ghi vào sử sách mà rất có thể, người đã phi thăng thành tiên.

Nàng không thể vào Đại Hùng Bảo Điện, đành quỳ xuống trước bậc cửa, thành tâm bái ba lạy.

“A gia, người là vị hoàng đế tốt nhất, cũng là a gia tuyệt vời nhất.”

“Minh Nguyệt Châu nhớ người.”



Lý Doanh lễ bái xong, lòng trĩu nặng bước đi, chuẩn bị rời khỏi. Chuyện cũ không thể truy cầu, nàng vẫn phải tìm kiếm chân tướng cho bản thân.

Chỉ vừa đi được vài bước, nàng đã bắt gặp tỳ bà cơ mà Thôi Tuần cứu tối qua.

Trong tay tỳ bà cơ là một tay nải nhỏ, nàng đang nói chuyện với trụ trì chùa Tây Minh. Sau khi hành lễ với trụ trì, nàng mở tay nải ra, bên trong là năm trăm văn tiền được xâu thành chuỗi.

Tỳ bà cơ cẩn thận dâng năm trăm văn tiền lên, tha thiết nói với trụ trì: “Đại sư, đây là số tiền mà ta tích góp được, tuy không nhiều nhưng chắc cũng đủ để thắp một ngọn đèn trường minh cho a huynh ta rồi.”

Trụ trì lắc đầu: “Nữ thí chủ, lần trước khi người đến, lão nạp đã nói rõ. Tây Minh Tự không thể thắp đèn trường minh cho huynh trưởng của người, không phải vì vấn đề tiền bạc, mà là không thể.”

“Tại sao lại không thể?” Tỳ bà cơ sốt sắng: “Mọi người đều có thể thắp đèn, cớ sao a huynh của ta lại không thể? Chẳng phải vì ta không có đủ tiền hương sao? Giờ ta đã gom đủ rồi, xin đại sư thương tình, hãy thắp một ngọn đèn trường minh cho a huynh ta, cầu cho huynh ấy sớm ngày chuyển thế.”

Trụ trì chắp tay: “A di đà Phật, nữ thí chủ, huynh trưởng của người mang tội nghiệt trên thân, chùa Tây Minh không thể thắp đèn cho người ấy.”

“Tội nghiệt gì? Chẳng lẽ vì thua trận mà trở thành tội nhân sao? Chẳng nhẽ các người chưa từng thua một trận nào trong đời ? Khi a huynh của ta thắng trận, cũng chẳng thấy triều đình ca ngợi huynh ấy là công thần.”

Trụ trì chắp tay thở dài, niệm một câu “A di đà Phật”, lại nói: “Nữ thí chủ, lão nạp là người cửa Phật, không can dự vào chuyện thế gian. Nhưng Thiên Uy quân của huynh trưởng người thất thủ, làm mất thành, khiến Thánh nhân hạ lệnh tịch thu gia sản, không cho thu nhặt thi thể, cũng chẳng được chôn cất đường hoàng. Lão nạp cũng không thể làm gì khác, xin thí chủ đừng làm khó nữa.”

Tỳ bà cơ ôm số tiền chắt chiu được, mắt đỏ hoe, trông rất đáng thương. Nàng quỳ sụp xuống, giọng nghẹn ngào: “Đại sư, chuyện đó đã qua sáu năm rồi, có lẽ Thánh nhân cũng đã quên mất… Ta chỉ… chỉ muốn thắp một ngọn đèn cho huynh trưởng, để soi sáng lối về nơi hoàng tuyền mà thôi…”

Trụ trì bất đắc dĩ niệm thêm một câu “A di đà Phật”: “Nữ thí chủ, nếu người còn tiếp tục làm khó, lão nạp chỉ có thể cho người mời thí chủ ra ngoài.”

Tỳ bà cơ nghẹn ngào, vẫn cố nài nỉ, nhưng trụ trì đã lắc đầu. Ngay khi trụ trì định sai người mời nàng ra khỏi chùa, bỗng một giọng nói lạnh lùng vang lên: “Trụ trì, xin khoan đã.”

Một người mặc thường phục màu đỏ thắm, dung mạo rực rỡ như hoa sen, chính là Thôi Tuần, đang bước lại từ xa. Hắn chắp tay hành lễ, nói với trụ trì: “Trụ trì, nàng ấy là cố nhân của mỗ, xin cứ để mỗ xử lý việc này.”

Trụ trì nhận ra Thôi Tuần, khẽ gật đầu: “Nếu vậy, xin nhờ Thôi Thiếu khanh.”



Sau khi trụ trì rời đi, Thôi Tuần liếc nhìn Lý Doanh đầy vẻ tò mò nhưng không nói gì. Sau đó, hắn quay lại đỡ tỳ bà cơ vẫn đang quỳ dưới đất. Nhưng tỳ bà cơ phẫn nộ hất tay hắn ra, vùng vẫy đứng lên: “Ngươi đừng chạm vào ta!”

Nàng lạnh lùng nói: “Ta ngại ngươi bẩn!”

Nàng ôm chặt bọc vải chứa năm trăm đồng tiền, trừng mắt nhìn hắn: “Thôi Tuần, vì sao họ đều đã chết, mà ngươi lại được sống?”

Thôi Tuần chỉ im lặng nhìn nàng, ánh mắt xanh biếc như biển cả không dậy sóng. Tỳ bà cơ trút hết nỗi oán hận lên người hắn, đau đớn thốt lên: “Trận Lạc Nhạn Lĩnh, Thiên Uy quân năm vạn người, tất cả đều đã tử trận, trong đó có cả a huynh ta! Thánh nhân nói rằng họ làm mất thành, là tội nhân của Đại Chu. Nhưng họ có tội gì chứ? Họ quyết tử chiến với Đột Quyết, thề không đầu hàng, nhưng đều chết sạch cả rồi. Họ đáng được xem là những anh hùng, nhưng tại sao lại bị định tội, tịch thu gia sản, không được thu thập thi thể, không được mai táng đàng hoàng? Vì sao chứ? Còn ngươi, chỉ có ngươi, kẻ duy nhất sống sót lại là kẻ đầu hàng Đột Quyết để cầu sinh, rồi còn được thăng quan tiến chức, hưởng vinh hoa phú quý! Ông trời ơi, đây là cái thế đạo gì chứ? Trời cao ơi, người thật sự không có mắt sao?”

Trước những lời buộc tội của tỳ bà cơ, Thôi Tuần chỉ lặng lẽ đứng im mà không đáp. Tỳ bà cơ cười gằn: “Thôi Tuần, anh trai ta đã chết, Tào Ngũ cũng đã chết, bọn họ đều chết hết rồi! Vì sao ngươi vẫn còn sống? À, ta quên mất, ngươi có gương mặt đẹp, được xưng là Liên Hoa Lang, công chúa Đột Quyết thích ngươi nên không giết ngươi, Thái hậu thích ngươi nên cũng không giết ngươi. Ngươi thật giỏi, chỉ bằng một khuôn mặt mà chinh phục được cả hai người phụ nữ quyền lực nhất thiên hạ. Chỉ có ta, một nhạc kỹ vô danh không quyền thế lại khinh thường ngươi, chê ngươi bẩn thỉu!”

Nàng ôm chặt tay nải trong lòng, từng bước lui lại: “Chùa Tây Minh không chịu thắp đèn trường minh cho a huynh ta, nhưng rồi sẽ có ngôi chùa khác chịu thắp. A huynh ta sẽ sớm được siêu sinh, còn ngươi, đừng xuất hiện trước mặt ta nữa, đừng làm bẩn mắt ta, và cũng đừng làm vấy bẩn con đường luân hồi của a huynh ta.”

Tỳ bà cơ thất thểu bỏ chạy, để lại Thôi Tuần đứng nhìn theo bóng lưng nàng. Một lúc lâu sau, hắn xoay người lại, nói với Lý Doanh, người nãy giờ không dám lên tiếng: “Nhìn đủ chưa?”

Lý Doanh cuống quýt xua tay: “Ta không cố ý nhìn. Ta chỉ muốn đến gặp a gia, không ngờ lại gặp chuyện này…”

Nàng định nói rằng mình không ngờ sẽ gặp cảnh tỳ bà cơ mắng nhiếc Thôi Tuần, nhưng chợt cảm thấy lời này không ổn. Khi nàng còn đang túng quẫn, bỗng nghe Thôi Tuần thở dài: “Thôi bỏ đi, dù sao mỗi lần ta rơi vào cảnh khốn đốn thì cô cũng đều có mặt ở đó, ta đã quen rồi.”

Lý Doanh hơi ngẩn người, nàng ngượng ngùng gãi đầu. Mặc dù trên mặt Thôi Tuần không có biểu hiện gì khác thường, nhưng nàng cảm thấy, bị người quen cũ chỉ trích thế này, hẳn trong lòng hắn cũng không dễ chịu gì. Nàng bèn nói: “Những lời đó, ngài đừng để trong lòng.”

Thôi Tuần cười nhạt: “Chắc cô lại muốn nói, những điều đó chưa hẳn đã là sự thật?”

Lý Doanh nhớ tới những vết thương khắp người Thôi Tuần đêm qua, bèn lẩm bẩm: “Vốn dĩ chưa chắc đã là thật mà.”

Nghe vậy, Thôi Tuần khẽ cười, nụ cười làm sáng cả gương mặt vốn đã tuấn tú của hắn, giống như hoa sen nở rộ. Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn, rồi bất chợt cười khúc khích: “Thôi Thiếu khanh, ta sẽ nói cho ngài một bí mật.”

Nàng đắc ý chỉ tay ra bên ngoài, nói: “Tấm bảng gỗ trước Tây Minh tự là do ta viết.”

“Cô viết sao?”

“Ừm, lúc ta tám tuổi.”

Thôi Tuần suy nghĩ một chút, rồi nhanh chóng hiểu ra. Lý Doanh tám tuổi, tức là năm Thái Xương thứ mười hai, trong năm đó, Thái Xương Đế đã không thượng triều trong suốt ba tháng. Dân chúng bàn tán xôn xao, đồn rằng Thái Xương Đế mắc bệnh nặng. Đích mẫu của người là Tiết Thái hậu, liền muốn lôi kéo Tiết thị ở Hà Đông để phế ngôi, lập người khác lên thay. Nhưng thánh chỉ của Thái Xương Đế vẫn được ban ra đều đặn từ điện Thần Long, nơi người dưỡng bệnh, điều này khiến họ Tiết ở Hà Đông sợ người giả bệnh, không dám nghe theo. Sau này khi Thái Xương Đế lâm triều trở lại, Tiết thị Hà Đông đều cho rằng người thực sự giả bệnh, tự nhủ may mà không nghe theo lời Thái hậu, nếu không chẳng phải cả tộc đã đi đời rồi sao?

Ai mà ngờ, Thái Xương Đế thực sự có bệnh.

Lý Doanh nói: “Mọi người đều nghĩ rằng tấm bảng đó do a gia viết, nhưng thực ra là do ta viết. Ngài xem, điều ai cũng tin là đúng nhưng chưa chắc đã đúng đâu. Thôi Thiếu khanh, ngài có thấy vậy không?”

Thôi Tuần nhìn vào gương mặt tươi sáng của nàng, cõi lòng như có làn gió lướt nhẹ qua dây đàn. Hắn không trả lời là đúng hay sai, một lúc lâu sau mới gật nhẹ đầu: “Ừ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 11: Liên Hoa Nô


Tại hậu viện của chùa Tây Minh, Thôi Tuần và Lý Doanh cùng nhau sánh bước, thong thả dạo bộ.

Vườn mai ở hậu viện chùa Tây Minh nổi tiếng là một tuyệt cảnh của Trường An, khắp vườn ngập tràn sắc đỏ của hoa mai, nở rộ như ánh bình minh rực rỡ. Tuyết rơi từ những ngày trước vẫn chưa tan hết, bao phủ khắp nơi, nổi bật sắc hoa sáng ngời, đồng thời tạo nên cảnh sắc thơ mộng như thi như họa. Thôi Tuần khoác áo choàng đen, dung mạo như ngọc, Lý Doanh mặc áo hồ ly trắng, yêu kiều thanh tú. Thôi Tuần đi giày da đen, in từng dấu chân trên nền tuyết, nhưng Lý Doanh do là một hồn ma nên dù bước trên tuyết cũng chẳng để lại bất kỳ dấu vết nào. Nàng có chút ngậm ngùi, bước chân cũng theo đó bỗng khựng lại.

Thôi Tuần nhận ra, hắn khẽ nói: “Cô đi sau ta đi.”

Lý Doanh lập tức hiểu ý hắn, nàng gật đầu rồi đi theo sau lưng Thôi Tuần, từng bước đặt chân vào dấu chân trên tuyết của hắn, như thể nàng cũng để lại dấu chân ở trên thế gian.

Là một nam tử, dấu chân của Thôi Tuần lớn hơn nàng rất nhiều. Lý Doanh cúi đầu, tay áo giấu chiếc lò sưởi nhỏ, cứ thế mà theo bước hắn. Ánh mặt trời vàng rực như thớ lụa, phủ lên người Thôi Tuần, chiếu dài bóng hắn trên nền tuyết. Lý Doanh cúi đầu, vừa vặn trông thấy bóng dáng cao lớn của hắn bao phủ lên người nàng, cảm giác cô tịch trong lòng lặng lẽ tan biến, thay vào đó là một chút an yên.

Một cánh mai đỏ từ từ rơi xuống từ nhành cây, đáp lên vai Thôi Tuần rồi lại từ đó rơi xuống. Lý Doanh không kìm được mà dừng bước, vươn tay ngọc ra đón lấy cánh mai. Hoa mai nhẹ nhàng đáp vào lòng bàn tay nàng, nàng nhìn cánh hoa, bất giác nhớ lại cánh mai tối qua rơi trên môi Thôi Tuần, và cảm giác ngón tay nàng chạm vào đôi môi lạnh băng của hắn khi đó.

Tim nàng bỗng đập lỡ một nhịp. Thôi Tuần thấy nàng dừng lại, quay đầu hỏi: “Công chúa đang làm gì đó?”

Lý Doanh giật mình, tựa như kẻ làm chuyện xấu bị bắt quả tang, nàng lập tức giấu cánh hoa vào tay áo đang cầm chiếc lò sưởi, rồi lắc đầu: “Không… không có gì.”

Thôi Tuần mỉm cười, dưới nền tuyết trắng ngày đông, nụ cười ấy càng làm lu mờ cảnh sắc xung quanh. Lý Doanh miên man suy nghĩ, chợt nhớ lại những bài thơ hồi nhỏ nàng từng đọc, khi gặp phải câu “Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thúy. Lang diễm độc tuyệt, thế vô kì nhị”, [1] nàng từng nghĩ, thế gian làm gì có nam tử nào phong thái đến nhường này. Nhưng gặp Thôi Tuần rồi, nàng mới hiểu thì ra có người như vậy. Chả trách người ta gọi hắn là “Liên Hoa Lang”, diện mạo này chẳng phải càng vượt xa đóa hoa sen hay sao

<i>[1] Bản dịch của Fanpage Họa Ảnh Các: Đá kết như ngọc quý, thân tùng như ngọc xanh. Vẻ tươi riêng một cõi, thiên hạ chẳng người tranh.</i>

Nàng vừa nghĩ, tim lại đập nhanh hơn một nhịp. Cúi đầu giấu chiếc lò sưởi trong tay áo, nàng vội vàng đổi chủ đề: “Phải rồi, đêm qua Thôi Thiếu khanh nhiễm lạnh, không biết hiện giờ đã đỡ hơn chưa?”

Thôi Tuần đáp: “Đa tạ công chúa đã tặng y phục, ta không sao.”

Thôi Tuần vốn không phải là người thích nói nhiều, sau câu đó, hắn lại trở về vẻ im bặt. Lý Doanh bối rối, nhỏ giọng hỏi: “Ồ, vậy tại sao hôm nay Thiếu khanh lại đến chùa Tây Minh?”

Thôi Tuần trầm ngâm một lúc, chậm rãi nói: “Hôm nay là ngày giỗ của mẫu thân ta.”

Lý Doanh không ngờ đến câu trả lời này, càng không ngờ rằng Thôi Tuần lại sẵn lòng nói với nàng. Nàng ngạc nhiên, rồi lúng túng nói: “Xin lỗi, ta không biết…”

Thôi Tuần khẽ nói: “Không sao.”

Hắn tiếp: “Mẫu thân qua đời khi ta mới ba tuổi. Thật ra, thậm chí ta còn không nhớ rõ bà trông như thế nào, nhưng mỗi năm vào dịp này, ta vẫn đến đây thắp một ngọn đèn trường minh cho bà.”

Theo phong tục Đại Chu, người đã khuất sẽ được thân nhân đến chùa thắp đèn trường minh, xua tan bóng tối và chiếu sáng con đường ở thế giới bên kia, giúp người đó sớm đầu thai chuyển thế. Nếu không có đèn trường minh, hồn phách sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong bóng tối, không thể vãng sinh.

Khi Thôi Tuần nói về việc thắp đèn cho mẫu thân, giọng điệu hắn vẫn bình thản, không lộ rõ cảm xúc vui buồn. Lý Doanh vội vàng an ủi: “Chẳc khi là nhờ vào phúc đức dày dặn, mà mẫu thân ngài đầu thai chuyển thế từ lâu rồi cũng nên.”

“Đầu thai chuyển thế?” Thôi Tuần khẽ cười: “Có lúc, ta lại hy vọng người chưa đầu thai.”

Lý Doanh sửng sốt. Nàng chợt nhớ đến lời đồn Thôi Tuần thân duyên đạm bạc, cha hắn đã sớm gạch tên hắn ra khỏi gia phả, nên vào đêm Giao thừa hay tiết Nguyên Tiêu, hắn đều chỉ có một mình, không có người thân để được đoàn viên. Người mẹ quá cố hẳn là ký ức cuối cùng của hắn về một người thân. Nếu bà ấy cũng chuyển sinh, điều đó có nghĩa là hắn cũng mất đi cả chút ký ức cuối cùng ấy.

Lý Doanh bỗng thấy lời an ủi của mình thật ngốc nghếch. Trong lúc nàng đang bối rối, Thôi Tuần lại nói: “Nhưng, có lẽ bà đầu thai sớm cũng tốt.”

Lý Doanh không hiểu, Thôi Tuần cũng không giải thích thêm. Hắn ngừng một chút, rồi bất ngờ hỏi: “Công chúa đã từng nghe ở âm phủ có một nơi gọi là Vong Tử Thành chưa?”

Lý Doanh ngạc nhiên, vội đáp: “Vong Tử Thành? Ta có nghe qua.”

Nàng bắt đầu kể: “Nghe nói đó là nơi dành cho những oan hồn. Những người không phải chết già mà chết oan ức hoặc bị người khác giết hại, đều không thể đầu thai. Hồn phách của họ bị đưa vào Vong Tử Thành do Cố Thành Vương cai quản, để tránh họ hóa thành lệ quỷ gây hại cho nhân gian. Những oan hồn ấy không thể nhận đồ cúng từ người trần, cũng không được cao tăng siêu độ. Chỉ khi tận mắt chứng kiến kẻ hại họ chịu báo ứng, họ mới có thể nguôi ngoai oán hận, rời khỏi Vong Tử Thành để đầu thai, nếu không, hồn phách sẽ mãi bị giam cầm, không thể siêu thoát.”

Thôi Tuần nghe xong, hồi lâu mới khẽ thở dài: “Thì ra là vậy.”

Lý Doanh cảm thấy hẳn là có nguyên do nên Thôi Tuần mới tìm hiểu về Vong Tử Thành. Nàng vừa định hỏi thì hắn lại lên tiếng: “Vậy tại sao hồn phách của công chúa không vào Vong Tử Thành?”

Lý Doanh chưa từng nghĩ đến vấn đề này, nghe vậy liền ngẩn người. Chưa kịp trả lời, Thôi Tuần đã tiếp tục: “Chắc là vì Thái hậu đã thắp đèn trường minh cho công chúa khắp bốn vạn ngôi chùa trên cả nước, dâng lễ trước Phật, nên công chúa mới không bị giam giữ ở Vong Tử Thành.”

Đèn trường minh càng nhiều, niệm lực của hồn phách càng mạnh. Lý Doanh nghĩ một lúc rồi đáp: “Có lẽ là vậy.”

Thôi Tuần gật đầu, sau đó không nói gì thêm, chỉ đứng ngắm nhìn những cành mai trong vườn, như đang suy tư điều gì đó. Lý Doanh thấy hắn đăm chiêu cũng không dám quấy rầy, chỉ lặng lẽ nắm lấy đóa mai, ẩn trong tay áo. Đóa hoa mai được đặt lên lò sưởi xông hương, mùi thơm nhàn nhạt của mai hòa quyện với hương trầm, lan ra khiến lòng người mê đắm.

Bất chợt, những tiếng lõm bõm vang tên, đó tiếng bước chân người giẫm vào trong tuyết. Ánh mắt của Thôi Tuần đột ngột cứng lại.

Lý Doanh nghi hoặc nhìn theo ánh mắt của hắn, chỉ thấy dưới gốc cây mai phía trước có một nữ tử vận váy thạch lựu đỏ, tay cầm một cành mai đã gãy, vẻ mặt cao ngạo, đang nhìn chằm chằm vào Thôi Tuần.

Nữ tử có làn da trắng nõn và vóc dáng cao hơn hẳn những nữ tử bình thường, con ngươi đen láy, sống mũi rất cao, ngũ quan sắc sảo, thoạt nhìn không giống người Trung Nguyên mà có vẻ như là người Đột Quyết.

Nhưng điều làm Lý Doanh kinh ngạc nhất không phải vì nàng ta là người Đột Quyết, mà là bên má phải của nàng có một hình xăm hoa sen sống động như thật, không những không làm mất đi vẻ đẹp mà ngược lại, còn khiến khuôn mặt nàng thêm phần diễm lệ, cuốn hút đến khó tin.

Nữ tử cầm cành mai, từng bước tiến về phía Thôi Tuần. Sắc mặt Thôi Tuần lập tức thay đổi, khuôn mặt vốn đã tái nhợt của hắn càng trở nên trắng bệch. Lý Doanh nghe thấy rõ hắn nghiến chặt răng, ánh mắt lạnh lùng, nhưng cuối cùng vẫn chắp tay hành lễ: “Tham kiến Huệ phi.”

Thì ra, nữ tử này chính là Huệ phi của đương kim hoàng đế, em trai ruột Lý Doanh.

Khi còn mắc kẹt dưới hồ sen, Lý Doanh từng nghe các cung nữ bàn tán về một vị công chúa Đột Quyết xinh đẹp tuyệt trần, được đưa đến hòa thân với Đại Chu, hoàng đế rất sủng ái nàng, vừa vào cung đã phong làm Huệ phi. Nàng ấy tên là A Sử Na Gia, chẳng lẽ chính là nữ tử trước mặt?

A Sử Na Gia cầm nhánh mai trong tay, tiến thêm vài bước đến trước mặt Thôi Tuần. Thôi Tuần vẫn cúi đầu, chắp tay hành lễ, nhưng A Sử Na Gia lại dùng cành mai nâng nhẹ cằm hắn lên. Đóa mai đỏ rực như mây, tương phản với khuôn mặt trắng bệch của Thôi Tuần, khiến hắn càng tuấn mỹ như tranh vẽ. A Sử Na Gia mỉm cười, nói bằng thứ ngôn ngữ Đại Chu không mấy lưu loát, pha chút khẩu âm của người Đột Quyết: “Mai của Trung Nguyên dù đẹp đến đâu, cũng không thể sánh với ngươi.”

Ánh mắt Thôi Tuần càng thêm lạnh lẽo, môi hắn mím chặt, nhíu mày rồi vung tay đẩy cành mai đang chạm vào cằm hắn ra. A Sử Na Gia cười khẩy: “Vẫn cái tính khí ấy.”

Nàng thản nhiên nói: “Ta biết ngươi không muốn nhìn thấy ta, nhưng ta vẫn cố tình đợi ngươi ở đây. Nghe nói hôm nay là ngày giỗ của mẫu thân ngươi, nên ta đặc biệt xuất cung, đến đây đợi ngươi.”

Thôi Tuần lạnh nhạt đáp: “Huệ phi xin giữ lễ.”

“Giữ lễ?” A Sử Na Gia cười nhạt: “Người như ngươi mà cũng xứng nói với ta câu đó sao?”

Nàng nhìn Thôi Tuần từ đầu đến chân, cười xùy: “Ngày đó ở Đột Quyết, ngươi nhất quyết không chịu khuất phục ta, ta còn tưởng ngươi rất có cốt khí. Không ngờ về Đại Chu chưa được bao lâu, ngươi lại thành khách trong màn của Thái hậu. Tuổi của bà ta cũng đủ để làm tổ mẫu ngươi, xem ra cốt khí của ngươi cũng chẳng còn lại nhiều. Nếu đã vậy, ngươi cần gì phải chịu hai năm hành hạ kia?”

Lời nói của nàng khiến Lý Doanh phút chốc hiểu ra. Nàng nhớ đến lời kể của tỳ bà cơ về việc công chúa Đột Quyết thích Thôi Tuần. Không lẽ chính là nữ tử này? Và hai năm hành hạ đó, lẽ nào chính nàng ta là người gây ra những vết thương trên cơ thể Thôi Tuần?

Thôi Tuần cau mày, hắn hiếm khi bộc lộ cảm xúc một cách rõ ràng, nhưng đối diện với A Sử Na Gia, hắn không muốn giấu giếm sự ghê tởm kia. Hắn lùi lại hai bước, lạnh lùng nói: “Nếu Huệ phi không còn chuyện gì khác, thần xin cáo lui.”

“Cứ đi đi.” A Sử Na Gia cười gằn: “Dù sao thì bà già đó cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Đến lúc bà ta chết rồi, ta muốn xem ngươi sẽ chạy đi đâu.”

Mắt Thôi Tuần lóe lên vẻ phẫn nộ, hắn mím môi không nói. A Sử Na Gia cười đầy ác ý: “Đến lúc đó, ngươi sẽ thuộc về ta, Liên Hoa Nô.”

Ba chữ “Liên Hoa Nô” vừa thốt ra, sắc mặt Thôi Tuần càng tái nhợt hơn, như thể đã khiến hắn nhớ lại một quá khứ vô cùng nhục nhã. Lý Doanh càng chắc chắn rằng những vết thương trên người hắn quả thật có liên quan đến A Sử Na Gia.

Thấy sắc mặt Thôi Tuần trắng bệch, A Sử Na Gia càng cười khoái trá, như thể nàng ta rất thích thú khi nhìn hắn chịu cảnh giày vò. Nàng ta bước tới gần hơn, v.uốt ve hình xăm hoa sen trên mặt, nói: “Nói mới nhớ, hình xăm hoa sen này cũng là nhờ ngươi ban tặng. Ngươi nói xem, đợi khi chỗ dựa của ngươi chết đi, ta nên trừng phạt ngươi thế nào đây? Dùng thép gai đâm xuyên qua xương ngươi rồi treo lên, hay lột hết y phục ngươi, nhốt vào chuồng chó, để người qua kẻ lại đều được thưởng thức tư thái của Liên Hoa Nô nhà ngươi?”

Thôi Tuần nghiến chặt răng, tay hắn siết chặt thành nắm đấm, đôi mắt rực lửa nhìn trừng trừng về phía A Sử Na Gia. Thấy thế, A Sử Na Gia nhướng mày: “Sao? Ngươi muốn giết ta à? Hừ, bây giờ ta là Huệ phi của Đại Chu, ngươi dám động đến một sợi tóc của ta, thì chẳng cần phải đợi bà lão kia chết đi, nhà lao của Đại Lý Tự sẽ là thứ đợi ngươi trước.”

Thôi Tuần nghiến răng ken két, tay nắm chặt đến mức các đốt ngón tay trắng bệch, móng tay đâm vào lòng bàn tay đau nhói. Hắn nghiến răng chịu đựng sự nhục nhã, quay người bỏ đi.

Nhưng đúng lúc đó, Thôi Tuần bỗng nhìn thấy Lý Doanh ngồi xổm xuống, cẩn thận nhặt lên một cành mai dưới đất.

A Sử Na Gia bỗng cảm thấy cánh tay mình bị ai đó đẩy nhẹ, nàng quay đầu lại nhưng chẳng thấy ai. Ngay sau đó, phía sau gáy nàng lại bị ai đó đánh mạnh, A Sử Na Gia hoảng sợ, nhìn quanh nhưng vẫn không thấy gì.

Lý Doanh cầm cành mai, gõ lên cánh tay và vai của A Sử Na Gia, miệng lẩm bẩm: “Đi mau đi, còn không đi sao?”

A Sử Na Gia rốt cuộc cũng biến sắc, hoảng hốt la lên: “Trong vườn mai… có ma! Có ma!”

Nàng ta vội vã chạy trốn, không dám ngoái đầu lại. Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Cuối cùng cũng đi rồi.”

Nàng ném cành mai xuống, quay người nhìn về phía Thôi Tuần, định an ủi hắn vài câu nhưng lại không biết phải mở lời thế nào.

Sắc mặt Thôi Tuần vẫn còn trắng bệch hơn cả tuyết, trong ánh mắt hắn lộ rõ sự mơ hồ, bối rối. Hắn liếc nhìn Lý Doanh một cái, không nói lời cảm ơn, chỉ quay người, kéo chặt chiếc áo choàng hạc, cúi đầu lặng lẽ rời đi.

Lý Doanh nhìn theo bóng lưng đơn độc của hắn, nàng cắn môi, rồi thở dài: “Thôi vậy.”

Từ khi thấy Thôi Tuần cố gắng không ngất xỉu trước mặt mọi người vào tối qua, nàng đã biết rằng Thôi Tuần không phải là kẻ vô liêm sỉ như thiên hạ đồn đại, mà trái lại, lòng tự tôn của hắn rất cao. Vì vậy, hôm nay bị nàng nhìn thấy quá khứ nhục nhã nhất, hẳn là hắn cảm thấy vô cùng ê chề.

Lý Doanh lấy ra đóa hoa mai đã rơi từ trên vai Thôi Tuần, cẩn thận cầm trên tay và ngửi nhẹ. Hương mai thơm ngát, lần đầu tiên nàng cảm thấy tò mò, vị gian thần bị mọi người đàm tiếu vì đầu hàng Đột Quyết này, rốt cuộc đã trải qua những gì?

Trong lúc vừa mải mê ngửi đóa mai đó vừa đoán già đoán non, đột nhiên nàng nghe thấy một loạt tiếng bước chân lộn xộn: “Không phải Huệ phi đi vào rừng mai sao? Nhưng giờ lại không thấy nàng đâu?”

Một vài phụ nhân ăn vận hoa lệ vội vã bước đến, trong số đó có cả người mà Lý Doanh đã tìm kiếm bấy lâu: Vương Nhiên Tê.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 12: Ta không giết người


Hóa ra những quý phu nhân này đều theo hầu A Sử Na Gia đến chùa Tây Minh lễ Phật. Vì nàng ta đến Mai Viên tìm Thôi Tuần, cố ý đuổi tất cả bọn họ đi, sau đó mãi vẫn chưa thấy trở lại. Ai nấy đều vô cùng sốt ruột. Thánh nhân vô cùng sủng ái vị công chúa Đột Quyết này, nếu chẳng may nàng ta gặp phải chuyện gì bất trắc, chỉ e tiền đồ của phu quân bọn họ cũng sẽ tiêu tan theo.

Vương Nhiên Tê tinh nhanh tháo vát, liền lệnh cho các mệnh phụ khác: “Mai Viên này không rộng lắm, chúng ta chia nhau ra tìm, chắc chắn sẽ tìm thấy Huệ phi.”

Mọi người gật đầu, dẫn theo tỳ nữ tản nhau ra tìm A Sử Na Gia. Vương Nhiên Tê cũng mang theo một tỳ nữ, vội vã tìm kiếm. Chợt tỳ nữ như nghe thấy âm thanh gì đó, liền ngoái đầu lại nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì khác lạ cả. Bà ta vừa quay trở lại thì thấy Vương Nhiên Tê cũng đã biến mất từ khi nào

Vương Nhiên Tê cũng nghe thấy tiếng động ấy, nhưng nó lại được phát ra từ một hướng khác. Tưởng rằng đó là A Sử Na Gia, bà ta liền nhanh chân bước về phía âm thanh. Nhưng khi tiến sâu vào rừng mai, xung quanh chỉ có bạch mai, hồng mai, lục mai nở rộ, trải dài thành một biển hoa, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng A Sử Na Gia.

Mồ hôi thấm đẫm lưng áo của Vương Nhiên Tê. Bà ta vốn là đích nữ của Vương thị ở Thái Nguyên, một danh gia vọng tộc bậc nhất thiên hạ, từ nhỏ đã kiêu ngạo tự phụ, luôn cạnh tranh hơn thua với người khác. Dù chịu liên lụy từ huyết án Thái Xương, phải gả cho một tiểu lại hàn môn, nhưng sau khi thành hôn, bà ta không ngừng nỗ lực vun vén, đến nay phu quân cũng đã là đại quan tam phẩm, còn bản thân cũng được phong làm Kim Thành quận phu nhân. Xét ra cuộc đời đã đủ viên mãn, nhưng vẫn còn một nỗi lo canh cánh trong lòng. Đó chính là con trai duy nhất nhiều lần thi cử không đỗ, suốt ngày chỉ lo chè chén với đám ca kỹ, làm bà ta mất hết thể diện trong giới mệnh phụ Trường An. Phu quân của bà ta, Bùi Quan Nhạc, cũng chẳng ưa thích gì đứa con này, không muốn giúp nó mưu cầu chức quan. Vương Nhiên Tê rơi vào đường cùng, đành nghĩ đến việc cầu cạnh Huệ phi, để nàng ta nói vài lời tốt đẹp trước mặt Thánh nhân, giúp con trai có một vị trí trong Thiên Ngưu Vệ. Chức này thân cận Thánh nhân, về sau dễ bề thăng tiến.

Vì thế, ngay từ sáng sớm ngày Thượng Nguyên, Vương Nhiên Tê đã hộ tống Huệ phi đi lễ Phật. Ai mà ngờ, Huệ phi mất tích.

Đột nhiên, bà ta nghe thấy một tiếng động phát ra từ sau gốc mai. Vương Nhiên Tê mừng rỡ, nghĩ rằng Huệ phi đang ở sau cây mai ấy. Bà ta vội vã chạy vòng qua, nhưng không thấy Huệ phi đâu, chỉ thấy trên mặt đất đặt một ngọn đèn trường minh.

Vương Nhiên Tê nghi hoặc nhặt ngọn đèn lên, rồi đọc dòng chữ khắc trên đế đèn: “Vĩnh An công chúa – Lý Doanh.”

Đây là đèn trường minh của công chúa Vĩnh An.

Vương Nhiên Tê như chạm phải rắn rết, sợ hãi ném ngọn đèn sang một bên, ngã quỵ xuống đất. Mồ hôi lạnh túa ra trên trán, miệng hoảng loạn gọi tên tỳ nữ: “Xuân Đào, Xuân Đào!”

Tỳ nữ vội vàng chạy đến đỡ bà ta dậy: “Phu nhân sao vậy?”

“Ai đã đặt ngọn đèn trường minh này ở đây?” Vương Nhiên Tê chỉ vào ngọn đèn, lớn tiếng hỏi.

Tỳ nữ nhìn xuống đất, khó hiểu đáp: “Phu nhân, dưới đất không có gì cả.”

Vương Nhiên Tê ngơ ngẩn, nhìn ngọn đèn trường minh dưới đất: “Ngươi nói, không có gì sao?”

Tỳ nữ gật đầu: “Không có gì cả.”

Môi Vương Nhiên Tê bắt đầu run rẩy: “Có ma! Có ma!”

Bà ta sợ hãi bám chặt lấy cánh tay của tỳ nữ mà trước giờ vốn luôn coi thường: “Mau về phủ! Về phủ!”

“Phu nhân, chúng ta không tìm Huệ phi nữa sao?”

“Không tìm nữa! Không tìm nữa! Mau về phủ!”

Vương Nhiên Tê được tỳ nữ vừa đỡ vừa kéo đi, lủi khỏi Mai Viên như chạy trốn.

Từ sau gốc mai, Lý Doanh chậm rãi bước ra.

Trong lòng bàn tay nàng, ánh sáng mờ ảo lóe lên, ngọn đèn trường minh trên mặt đất cũng từ từ biến mất.

Phản ứng của Vương Nhiên Tê khiến Lý Doanh càng khẳng định cái chết của nàng có liên quan đến bà ta, nếu không, Vương Nhiên Tê đã chẳng hoảng sợ đến thế.

Nhìn bóng lưng bà ta rời đi, Lý Doanh thầm nghĩ, nàng không thể lộ diện trước mặt người đời. Lúc này, lẽ ra nàng nên tìm Thôi Tuần, để hắn tra hỏi Vương Nhiên Tê, nhưng tình trạng của Thôi Tuần lúc này khiến nàng có phần không nỡ.

Lý Doanh mím môi, rồi vẫn nhanh chóng bám theo Vương Nhiên Tê.



Vương Nhiên Tê vội vã rời khỏi chùa Tây Minh, lên xe ngựa mà lòng vẫn chưa hết run sợ. Bà ta nắm chặt chuỗi tràng hạt tử đàn trong tay, sắc mặt tái nhợt, nhắm mắt lại, miệng không ngừng niệm sáu chữ của chú Đại Minh: “Án ma ni bát mê hồng.” [1] Đột nhiên bà ta lại nghe tiếng động, mở mắt ra, phát hiện trên xe ngựa có thêm một ngọn đèn trường minh.

<i>[1] “Án ma ni bát mê hồng” là một câu chân ngôn cổ xưa và quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng. Đây là câu Hán-Việt, có nguồn gốc từ tiếng Trung Hoa: 唵嘛呢叭咪吽. Câu này vẫn chưa phải là gốc, chỉ là câu phiên từ tiếng Phạn. Lục tự đại minh chân ngôn (Chân ngôn rực sáng sáu chữ), tượng trưng cho lòng từ bi vô lượng, muốn đạt được Niết bàn, đoạn triệt luân hồi (saṃsāra), tức dập tắt đi cái tam độc gọi là “tham ái” (sa. tṛṣṇā), “sân” (sa. dveśa) và “si” (sa. moha, hoặc vô minh, sa. avidyā)… </i>

Vừa nhìn, bà ta đã nhận ra ngay đó chính là ngọn đèn trường minh đã được dâng cúng cho Lý Doanh khi nãy.

Vương Nhiên Tê hét lên kinh hãi, ném chuỗi tràng hạt về phía ngọn đèn, muốn dùng sức mạnh của nó để xua đuổi tà ma. Nhưng chuỗi tràng hạt xuyên qua ngọn đèn, rơi xuống sàn xe.

Bà ta chết lặng trong giây lát, rồi hét lớn: “Xuân Đào, Xuân Đào!”

Nhưng lần này, Xuân Đào ở ngay bên ngoài xe lại không nghe thấy gì, phu xe cũng không phản ứng, chỉ tiếp tục thúc xe ngựa đi.

Vương Nhiên Tê tuyệt vọng gào lên: “Dừng xe! Dừng xe!”

Nhưng phu xe vẫn nhịp nhàng thúc xe, không hề dừng lại. Và rồi, bà ta bỗng nghe thấy thanh âm trong trẻo của một thiếu nữ: “Vô ích thôi, bọn họ không nghe thấy đâu.”

Trong xe ngựa, một ngọn lửa ma trơi xanh biếc bùng lên. Trước mắt Vương Nhiên Tê dần hiện ra hình dáng của một thiếu nữ khoác áo choàng hồ ly trắng, búi tóc song hoàn vọng tiên kiều diễm. Thiếu nữ ấy môi đỏ như son, răng trắng như ngọc, đôi mày thanh tú như tranh. Vương Nhiên Tê run rẩy đến nỗi hàm răng va lập cập vào nhau: “Ma! Có ma!”

Lý Doanh lặng lẽ nhìn bà ta: “Vì sao ngươi lại sợ ta đến thế?”

Vương Nhiên Tê chỉ biết co rúm trong góc xe ngựa, giọng khản đặc hét lên: “Ma! Có ma!”

“Xem ra ngươi biết ta là ai.” Lý Doanh nói: “Vậy ta nên gọi ngươi là Kim Thành quận phu nhân, hay nên gọi ngươi một tiếng là biểu muội của Trịnh Quân”

“Trịnh Quân…” Cái tên đã lâu không nghe đến làm Vương Nhiên Tê bừng tỉnh: “Phải rồi, chính Trịnh Quân đã giết ngươi! Đừng tìm ta! Đừng tìm ta!”

“Thật sự là Trịnh Quân sao? Chuyện đó không hề liên quan gì đến ngươi ư?”

“Không! Không!” Vương Nhiên Tê không dám nhìn Lý Doanh, tóc tai rối bù, tay chân quơ loạn, hoàn toàn mất đi phong phạm của một quý nữ danh giá: “Ta không giết ngươi!”

“Nếu ngươi không giết ta, sao ngươi lại không dám nhìn ta?”

Vương Nhiên Tê không trả lời, chỉ biết gào lên tuyệt vọng: “Ta không giết! Ta không giết!”

Ngọn lửa ma trơi màu xanh lục trong xe ngựa tối dần đi, cổ họng Lý Doanh trào lên vị tanh ngọt. Sức mạnh từ niệm lực nàng hoàn toàn nhờ vào ngọn đèn trường minh mà a nương nàng đã dâng cúng trước Phật. Pháp lực này giúp nàng có thể ở lại cõi dương, có thể đi lại vào ban ngày, cũng có thể biến ra vài trò ảo thuật nhỏ như ngọn đèn trường minh. Nhưng điều đó không có nghĩa là nàng có thể lợi dụng sức mạnh này để cưỡng ép hiện hình, tạo ra ảo cảnh, dọa dẫm người phàm, làm hại nhân gian.

Nếu nàng còn cố gắng cưỡng ép niệm lực, giam giữ Vương Nhiên Tê, chỉ e sẽ bị Phật pháp phản phệ.

Lý Doanh chỉ cảm thấy ngũ tạng như đang thiêu đốt, nàng nhíu chặt mày, trước mắt tối sầm lại từng đợt, nhưng nếu không ép hỏi Vương Nhiên Tê ngay bây giờ thì sẽ không kịp nữa.

Nàng trừng mắt nhìn Vương Nhiên Tê: “Nếu ngươi một mực nói rằng ngươi không giết ta, vậy ngươi dám thề không? Ngươi dám thề rằng nếu ngươi có bất kỳ liên quan nào đến chuyện này, ngươi sẽ mãi mãi rơi vào địa ngục A Tỳ, [2] vĩnh viễn không thể luân hồi không?”

<i>[2] </i><i>A Tỳ địa ngục (tiếng Phạn: Avīci), còn được gọi là “vô gián địa ngục,” là tầng địa ngục thấp nhất và khắc nghiệt nhất trong Phật giáo, dành cho những linh hồn chịu hình phạt nặng nề nhất. Được gọi là “vô gián” vì ở đây, sự khổ đau là không ngừng nghỉ, không có gián đoạn, linh hồn phải chịu đựng đau khổ liên tục mà không được giải thoát, ngay cả trong giấc ngủ. Đây là một nơi đầy u tối, nơi chúng sinh phải chịu cảnh tra tấn và đau khổ vĩnh viễn vì những tội lỗi nghiêm trọng nhất.</i>

Vương Nhiên Tê không dám thề, bà ta bỗng nhiên quỳ xuống, liên tục đập đầu: “Công chúa, xin người tha cho ta, ba mươi năm trước, ta chỉ là nhất thời mê muội… nên mới… nên mới…”

“Mới làm gì?”

Vương Nhiên Tê bỗng nhiên không nói nữa, bà ta chỉ biết điên cuồng đập đầu: “Tha cho ta đi, tha cho ta đi, ta sẽ dâng đèn trường minh trước Phật cho công chúa, ta sẽ ngày đêm cầu nguyện cho công chúa, xin công chúa hãy tha cho ta…”

Cổ họng Lý Doanh càng lúc càng tanh ngọt, ngọn lửa ma trơi trong xe ngựa cuối cùng cũng tắt ngấm hoàn toàn, Vương Nhiên Tê nhận ra không còn động tĩnh gì nữa. Bà ta sợ hãi ngẩng đầu lên, phát hiện ra trong xe đã trống không, không còn bóng người.



Ngày lễ Thượng Nguyên, trời quang mây tạnh, nắng vàng rực rỡ, nhưng đến chiều tối lại bắt đầu có tuyết rơi dày đặc. Trước phủ của Thôi Tuần, một viên tiểu lại của Sát Sự Thính vội vã đi đến.

Khi lão bộc câm đang quét tuyết, viên tiểu lại hỏi: “Xin hỏi lão trượng, Thiếu khanh đang ở đâu?”

Lão bộc câm chỉ vào cánh cửa đang đóng chặt, viên tiểu lại hiểu ý: “Có thể truyền báo một tiếng không? Mỗ có việc quan trọng muốn cầu kiến Thiếu khanh.”

Lão bộc câm lắc đầu, viên tiểu lại không còn cách nào khác, đành bước nhanh tới, gõ nhẹ vào cánh cửa đóng chặt, nhưng bên trong vẫn yên ắng không một tiếng động. Tiểu lại không dám xông vào, đành cao giọng nói: “Thiếu khanh, mỗ là Lưu Cửu, ngày trước Thiếu khanh có dặn mỗ trông chừng động tĩnh trong phủ Bùi gia. Hôm nay Bùi phủ đã xảy ra chuyện lạ.”

Trong phòng vẫn yên lặng như tờ, không rõ Thôi Tuần có nghe thấy hay không. Tiểu lại cố gom dũng khí, tiếp tục nói: “Sáng nay Kim Thành quận phu nhân đến chùa Tây Minh lễ Phật, nhưng trên đường về lại gặp phải ma. Ban ngày gặp ma khiến Kim Thành quận phu nhân sợ đến điên loạn, nói năng lảm nhảm, hiện giờ đã nằm liệt giường.”

Viên tiểu lại nói xong, ngừng một lát, lắng tai nghe, nhưng vẫn không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Hắn đành thất vọng chắp tay thi lễ, sau đó cáo lui.

Sau khi tiểu lại rời đi, lão bộc câm lại tiếp tục quét tuyết trong sân. Trong căn phòng tối om, chiếc đèn gốm trắng của lò Cảnh Diêu [3] bỗng được thắp lên.

<i>[3] Cảnh Diêu là một lò gốm nổi tiếng của Trung Quốc, chuyên sản xuất đồ gốm trắng, có từ thời Đường, tạo cảm giác tinh xảo và tao nhã.</i>

Dưới ngọn lửa đỏ thẫm nhảy nhót trên bấc đèn, hiện ra một gương mặt trắng bệch như ngọc.

Thôi Tuần không mặc quan phục đỏ thẫm của quan viên tứ phẩm theo quy định, mà chỉ mặc một chiếc áo lụa trắng tinh. Áo trắng như tuyết, tóc đen như mực, như thần như tiên.

Nhưng dưới vẻ ngoài thần tiên ấy, qua cổ áo trắng, lờ mờ thấy những vết sẹo chằng chịt trên da thịt.

Thôi Tuần từ từ nhắm mắt lại, cơ thể bắt đầu run lẩy bẩy. Hết lần này đến lần khác, những cuộc tra tấn không hồi kết, những lần bị sỉ nhục đến cực độ trong dãy núi Âm Sơn đã nghiền nát hết thảy lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của một đệ tử * dòng họ Thôi ở Bác Lăng.

<i>* Chữ “đệ tử” này nghĩa là “con cháu”, người trong họ.</i>

Khi dầu đèn sắp cạn, Thôi Tuần cuối cùng mở mắt, đứng dậy, mở cánh cửa gỗ. Ngoài kia gió tuyết mờ mịt, khắp nơi đã là một màu trắng xóa. Lão bộc câm đang quét tuyết ngẩng lên, ngây ngẩn nhìn Thôi Tuần trong bộ áo lụa trắng.

Thôi Tuần rốt cuộc cũng mở miệng, giọng bình thản: “Không cần quét nữa.”

“Tuyết rơi rồi, thế thì càng sạch.”



Kinh thành Trường An đã đến giờ giới nghiêm, các binh lính của Kim Ngô Vệ xếp thành hàng, cầm đuốc đi tuần tra khắp các con phố. Có người lẩm bẩm: “Thời tiết quái đản, ban ngày còn nắng rực mà đêm đến lại có tuyết rơi dày thế này.”

Lại có người nói: “Tuyết lớn thế này, chắc chẳng có gã điên nào vi phạm lệnh giới nghiêm để ra ngoài ngắm tuyết đâu nhỉ.”

Lời vừa dứt, bỗng thấy giữa cơn bão tuyết, một thanh niên mặc áo lụa trắng, tóc đen buông xõa được cố định bằng một cây trâm gỗ mun, xách đèn lồng đỏ bằng nan trúc, chậm rãi bước tới.

Người thanh niên cầm đèn từng bước lại gần, mái tóc đen và bộ áo trắng đều phủ đầy tuyết. Một bông tuyết xoay tròn trong gió, rơi xuống hàng mi dày như lông quạ, kết lại thành lớp băng mỏng. Ai nấy đều nhìn nhau, thầm nghĩ, chẳng lẽ đây là hồn ma của một danh sĩ thời Ngụy Tấn nào đó, vì đêm tuyết ở Trường An quá đẹp nên đã không kìm lòng được, hiện về ở dương gian? Nhưng cũng có một lính Kim Ngô Vệ không tin vào ma quỷ, lớn tiếng quát: “Người nào! Đứng lại!”

Người thanh niên vẫn không dừng bước, vẫn cầm đèn lồng đi tiếp. Kim Ngô Vệ tức giận, định tiến lên hỏi, nhưng bỗng bị đồng đội kéo lại. Đồng đội chỉ vào tấm ngư đại [4] tử kim treo trên thắt lưng người thanh niên kia, rồi lắc đầu.

[4] Ngư đại (魚袋) có tiền thân là “ngư phù” (魚符). Giống như các loại “phù” khác (hổ phù, quy phù,…), ngư phù vốn là một dạng tín vật làm bằng kim loại hình con cá, gồm hai mảnh giống nhau, mặt trong của phù thường có chữ “Đồng” (同). Do ngư phù thường được đựng trong một chiếc túi (đại-袋), hoặc được gắn lên bề mặt túi, nên từ đây xuất hiện khái niệm “ngư đại” (魚袋). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 13: Ta và cô chỉ đang lợi dụng lẫn nhau


Mãi đến mười ngày sau, Lý Doanh mới từ từ tỉnh lại.

Khi nàng mở mắt, điều đầu tiên đập vào mắt là trần nhà đơn sơ bằng ván gỗ. Chậu đồng chất đầy thụy than đặt ở góc phòng, hương an thần được đốt bằng lư hương bạch hạc thoát ra, dìu dịu lan tỏa. Nàng ho nhẹ hai tiếng, cố gắng gượng dậy, chăn gấm đang đắp trượt ra khỏi người. Đúng lúc ấy, một giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng vang lên: “Tỉnh rồi sao?”

Lý Doanh theo âm thanh nhìn lại, chỉ thấy Thôi Tuần ngồi thẳng trước án kỷ, tay cầm bút đầu chim sẻ, không ngẩng đầu lên, chăm chú viết lên tờ giấy gai trắng của quyển tấu chương.

Thì ra nàng đang ở trong thư phòng của Thôi Tuần.

Nàng ôm chặt chăn, ngơ ngác hỏi: “Là ngài cứu ta sao?”

Thôi Tuần “ừm” một tiếng, Lý Doanh cảm thấy không thể tin nổi, nàng không khỏi hỏi tiếp: “Ngài… sao ngài lại cứu ta?”

Ngòi bút của Thôi Tuần chững lại, nhàn nhạt đáp: “Cứ xem như trả ơn tặng áo.”

Lý Doanh ngẩn người một chút, khi nàng tặng áo, thật ra cũng không kỳ vọng gì vào việc Thôi Tuần sẽ nhớ đến. Nàng lặng lẽ gật đầu, trong lòng suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng vẫn rụt rè hỏi: “Ngày đó ở chùa Tây Minh, vị công chúa người Đột Quyết kia…”

Nàng chưa kịp nói hết câu, đã thấy bút trong tay Thôi Tuần khẽ run lên. Hắn hạ ánh mắt, tiếp tục viết chữ tiểu khải trên giấy, cất giọng trầm trầm: “Đó không phải là chuyện cô nên quan tâm.”

“Không phải ta muốn dò la gì cả.” Lý Doanh có chút sốt ruột, cổ họng lại khô khốc, nàng cúi đầu ho khan vài tiếng, rồi nói: “Ta chỉ muốn nói rằng, nàng ta không phải người tốt. Ngài không cần vì một người như thế mà tự làm khổ mình.”

Thôi Tuần đang viết bốn chữ “Nhật Nguyệt Kinh Thiên”, khi nghe thấy câu nói này, hắn hơi ngẩng đầu. Ánh mắt hướng về phía Lý Doanh đang tựa vào sạp thấp bằng gỗ hoa nam, [1] ôm lấy chăn gấm, cổ tay trắng ngần như sương, dáng vẻ dịu dàng như nguyệt. Hắn lại cúi đầu, hoàn thành nét cuối cùng của chữ “nguyệt”, rồi lạnh nhạt nói

<i>[1] gỗ hoa nam: đây là loại gỗ có hương thơm nhẹ, thường được sử dụng trong việc chế tạo đồ nội thất cao cấp, đặc biệt là những món đồ như giường, ghế, hay bàn trong cung đình, nhà cửa xưa.</i>

“Thiếu chút nữa là hồn phi phách tán, mà còn rảnh rỗi lo cho người khác.”

Lý Doanh cười gượng: “Khi đó tình hình khẩn cấp, ta vội quá nên đã làm liên lụy đến Thiếu khanh.”

“Về sau đừng hành xử l* m*ng như vậy nữa.” Thôi Tuần nói: “Nếu không, thế gian này sẽ không còn quả tần bà thứ hai để cứu cô đâu.”

“Tần bà? Đó là thứ gì?”

“Một loại quả mọc bên bờ Nại Hà ở âm ty, có thể cứu chữa hồn phách.” Thôi Tuần dừng lại một chút: “Là Ngư Phù Nguy tìm về.”

Lý Doanh không giấu nổi sự kinh ngạc. Nàng nói lời xin lỗi: “Ngư Phù Nguy là thương nhân, chắc hẳn Thôi Thiếu khanh đã tiêu tốn không ít bạc. Ta sẽ trả lại cho ngài.”

“Không cần đâu, Ngư Phù Nguy không lấy dù chỉ một xu.”

Lý Doanh cảm thấy khó tin, Ngư Phù Nguy là người tinh ranh tính toán, làm ăn không bao giờ chịu thiệt, sao lại đưa cho nàng một thứ chỉ nghe đã thấy quý giá nhưng lại không lấy dù chỉ một đồng tiền? Nàng chợt nghĩ đến lời Ngư Phù Nguy từng nói, cái chết của nàng đã thay đổi vận mệnh của cả hàn tộc, có lẽ, hắn đang đại diện cho hàn tộc và cảm tạ nàng chăng?

Trong lòng ngũ vị tạp trần, Lý Doanh cũng không biết nên vui hay nên buồn. Bỗng Thôi Tuần ngước mắt, chợt hỏi: “Sao lại tự mình đi tìm Vương Nhiên Tê? Sao không gọi ta đi cùng?”

Lý Doanh sững sờ, nàng cúi cần cổ mượt mà như ngọc, nhẹ giọng nói: “Hôm ấy tâm trạng ngài không tốt, ta không muốn quấy rầy ngài.”

Lần này đến lượt Thôi Tuần ngây ra. Hắn cúi đầu trầm ngâm, tiếp tục viết từng chữ trên giấy, một lúc lâu sau hắn nói: “Cô còn chưa khỏi hẳn, nằm xuống nghỉ đi.”

Lý Doanh gật đầu, nàng nghe lời nằm nghiêng trên sạp gỗ hoa nam, quay mặt về phía Thôi Tuần, yên tĩnh nghỉ ngơi. Thôi Tuần cũng không nói thêm gì, trong thư phòng chỉ còn tiếng đầu bút mỏ chim kéo sàn sạt trên giấy. Lý Doanh vì thương thế chưa khỏi, dần dần thấy buồn ngủ, mí mắt nặng trĩu, hết khép lại mở, hình dáng thanh tao tựa liễu xuân của Thôi Tuần cứ chập chờn hiện lên trong tầm mắt của nàng.

Hắn cúi đầu viết chữ, lông mày đen nhánh như mực, lông mi dài như cánh quạ, đôi mắt đào hoa mê hoặc tâm trí. Giữa vẻ đẹp khiến người khác vừa trầm trồ vừa đố kỵ ấy là khí chất cứng cỏi, kiên nghị khó lòng lay chuyển.

Mắt Lý Doanh dần dần nhắm lại, rồi lại từ từ mở ra, mỗi lần như thế, hình bóng tựa như ánh nắng ban mai của Thôi Tuần lại đập vào mi mắt. Cho đến khi Thôi Tuần khẽ ngẩng đầu, ánh mắt nhìn về phía nàng, Lý Doanh mới như kẻ làm sai bị bắt quả tang, vội vàng xoay người sang một bên. Một lúc sau, tiếng thở đều đặn vang lên từ sạp thấp, Thôi Tuần chỉ liếc nhìn, rồi cúi đầu tiếp tục viết tấu chương bằng nét chữ tiểu khải gọn gàng tỉ mỉ.



Tuyết đông đã tan, thời tiết ấm hơn nhưng vẫn còn se lạnh. Lý Doanh dưỡng bệnh được vài ngày, cuối cùng cũng có thể xuống giường đi lại. Nhưng do thuật pháp phản phệ đã thương tổn nàng tận gốc, nàng vẫn không thể ra khỏi phòng, cũng không thể hiện hình vào ban ngày.

Những ngày này, Thôi Tuần vẫn không về phủ. Hắn có vẻ rất bận rộn, lo liệu công việc ở Sát Sự Thính, nghỉ lại ở công đường. Dẫu vậy, ngày nào lão bộc câm cũng sẽ đến thư phòng, thêm thụy than và thắp hương an thần.

Lão bộc câm không biết nói, quý phủ rộng lớn dường như thêm phần quạnh quẽ. Lý Doanh đứng dậy khỏi sạp thấp, bám vào tường, miễn cưỡng đi vài vòng trong thư phòng, nhưng khi đến gần giá sách gỗ đen, nàng vô tình làm rơi một cuốn sách ở trên đó.

Lý Doanh hoảng hốt, lập tức ngồi xuống nhặt sách, nhưng cuốn sách đã rơi xuống đất, mở ra. Nàng tò mò nhìn thấy trên đó có rất nhiều dòng chữ nhỏ:

“Tống Ngũ Lang, người Tống thôn, Hòa Dương, Trường An, nhà còn một mẹ…”

Hóa ra trong cuốn sách này, toàn bộ đều là tên người và địa chỉ, trong đó dòng chữ của Tống Ngũ lang được tô đỏ và vạch một đường thẳng, nhưng nét vạch đó ngoằn ngoèo, đủ để thấy lúc vạch nét bút đó, người viết đã cực kỳ tức giận, đến cầm bút mà cũng không vững.

Lý Doanh chợt nhớ ra, ngày đó ở chùa Tây Minh, tỳ bà cơ đã nói: “Tống Ngũ đã chết”, lẽ nào người mà nàng ấy nhắc tới chính là Tống Ngũ lang được ghi trên sách này sao?

Lý Doanh lại nhìn xuống: “Thịnh Vân Đình, người phường Đại An, Trường An, trong nhà còn một muội muội, tên là A Man…”

A Man? Tỳ bà cơ đó, hình như chính là A Man…

Lý Doanh đang suy nghĩ, bỗng nghe thấy tiếng giày da đen giẫm trên nền, tiếp theo là tiếng cửa bị mở ra, Thôi Tuần trong chiếc áo choàng đen bước vào, mọi chuyện xảy ra quá nhanh, khiến nàng không kịp thu lại cuốn sách.

Thôi Tuần thấy sách nằm trên đất, ánh mắt ám trầm, nhanh chóng bước tới, nhặt lên rồi đặt lại trên giá sách gỗ mun.

Lý Doanh hoảng loạn, ấp úng nói: “Ta không phải cố ý xem trộm, ta chỉ vô tình làm rơi cuốn sách này…”

Nàng cúi đầu, khuôn mặt đỏ bừng, hai tay nắm chặt vạt váy có hai màu xen lẫn, dáng vẻ lộ rõ sự ngượng ngùng bất an. Thôi Tuần đặt sách xong, không quay lại, chỉ hời hợt nói: “Thôi, không sao.”

Lý Doanh sửng sốt: “Hả?”

“Ta nói thôi, không sao.” Thôi Tuần quay đầu lại, giọng nói lạnh lẽo như băng ngọc.

Lý Doanh nghe ra sự không vui trong giọng hắn, nàng càng thêm xấu hổ, bèn cúi đầu, siết chặt vạt áo. Thấy nàng có vẻ lúng túng và tự trách, Thôi Tuần mím môi, đột nhiên hỏi: “Người còn chưa khỏi hẳn, sao lại xuống đất đi lại?”

Lý Doanh ngẩn ra, vội đáp: “Ta… ta cảm thấy ngột ngạt quá, muốn xuống đi vài bước cho đỡ buồn. Nhưng vì không thể ra ngoài, chỉ có thể đi loanh quanh trong thư phòng. Vậy nên mới vô ý…”

Nàng lắp bắp giải thích, hết lần này đến lần khác nói rằng mình không cố ý làm rơi đồ, trong khi Thôi Tuần đã nhấc chiếc ô giấy dầu đặt trên giá, thản nhiên nói: “Vậy ra ngoài đi dạo một chút.”



Ngoài trời, cành cây đã nhuốm sắc xanh lơ, khí xuân bừng tỉnh, mọi thứ thật tươi mới. Lý Doanh cuộn người trong áo choàng hồ ly trắng, dáng người gầy gò yếu đuối. Bên cạnh nàng là Thôi Tuần khoác áo choàng đen, tay cầm ô giấy dầu, dáng vẻ lạnh lùng cao ngạo.

Đi được vài bước, Lý Doanh cảm thấy chân đứng không vững, đầu váng mắt hoa. Nàng đành vịn vào cây liễu bên cạnh, hơi thở dồn dập. Thôi Tuần liếc nhìn nàng, Lý Doanh cười khổ: “Xin lỗi, người ta yếu quá, phụ ý tốt của ngài rồi.”

Thôi Tuần trầm mặc một lát, sau đó chìa tay ra, giọng điềm tĩnh: “Nếu công chúa không phiền, có thể vịn vào ta mà đi.”

Lý Doanh kinh ngạc, ngước mắt nhìn gương mặt đẹp như châu ngọc của Thôi Tuần, rồi lại cúi đầu, chậm rãi đưa tay ra, vịn vào khuỷu tay hắn. Nàng dồn chút sức nặng của mình vào cánh tay hắn, từng bước đi về phía trước.

Dưới chiếc ô giấy dầu, một nam một nữ dìu nhau mà đi. Lý Doanh đi được vài bước lại phải dừng mấy bước, thở d.ốc.

Thôi Tuần khẽ nói: “Cô còn phải dưỡng thương thêm vài ngày nữa.”

“Nhưng bên Vương Nhiên Tê…”

“Bà ta cũng bệnh rồi.” Thôi Tuần cầm ô giấy dầu, dưới chiếc áo choàng rộng rãi, thân hình mặc quan phục đỏ thẫm cũng gầy guộc: “So ra bệnh còn nặng hơn cô.”

Lý Doanh cảm thấy không cam lòng: “Nếu bà ta chết, làm sao tra được chân tướng?”

“Cô cứ yên tâm, trước khi bà ta chết, ta sẽ bắt được bà ta về Sát Sự Thính.”

Lý Doanh vẫn không yên tâm: “Vương Nhiên Tê là thê tử của đại quan tam phẩm, còn được hoàng đế sắc phong làm Kim Thành Quận phu nhân. Ngài chắc chắn có thể đưa nàng ta đến Sát Sự Thính sao?”

Thôi Tuần thờ ơ nói: “Trước đây bà ta có thể là phu nhân của đại quan tam phẩm, cũng có thể là Kim Thành Quận phu nhân được hoàng đế phong tặng. Nhưng sau khi công chúa dùng cả mạng sống để tra hỏi manh mối, bà ta chỉ còn là nghi phạm giết hại ái nữ của Thái hậu mà thôi.”

“Nhưng phu quân nàng ta, Bùi Quan Nhạc, Thượng thư Bộ Binh, liệu có đứng yên mà nhìn không?”

Đáy mắt Thôi Tuần thoáng hiện lên một tia sắc lạnh khó nhận ra: “Hy vọng hắn đừng chỉ đứng nhìn.”

Lý Doanh không hiểu nhưng nàng hiểu Thôi Tuần đã hứa là sẽ bắt được Vương Nhiên Tê. Nàng chân thành cúi đầu nói: “Vậy thì đa tạ ngài, Thôi Thiếu khanh.”

Trước sự thành tâm của nàng, Thôi Tuần chỉ giữ sự im lặng, mãi một lúc lâu sau, hắn mới lạnh nhạt nói: “Ta và cô chỉ là lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Sau khi việc thành sẽ đường ai nấy đi. Vì thế, không cần cảm tạ lần nữa.”

Lời hắn thốt ra nghe thật tuyệt tình. Lý Doanh sững sờ, nàng không kìm được mà liếc nhìn Thôi Tuần, chỉ thấy dưới chiếc mũ đen, ánh mắt hắn lạnh lùng như băng, xa cách vô cùng, trong lòng không hiểu sao lại có cảm thấy hụt hẫng, đành cúi đầu, đáp nhỏ một chữ: “Vâng.”

Thôi Tuần cũng không nói thêm gì nữa. Hai người lẳng lặng đi một vòng trong sân. Cuối cùng, Thôi Tuần lên tiếng: “Ngoài kia gió lớn, vẫn nên về thôi.”

Lý Doanh nhẹ gật đầu, vịn vào cánh tay của Thôi Tuần, gió xuân se lạnh, thân thể Thôi Tuần lạnh lắm, thậm chí còn lạnh hơn cái rét của mùa xuân và cả thân xác đã héo tàn của nàng. Về đến thư phòng, Thôi Tuần đỡ nàng lên sạp rồi tự mình ngồi vào bàn, tiếp tục xử lý công vụ. Thỉnh thoảng, hắn lại ngẩng đầu nhìn Lý Doanh, phát hiện lần này nàng không nằm nghiêng như những ngày trước để nhìn hắn mà mà quay lưng lại, ngắm nhìn tường trắng ngọc, cột đỏ son. Thời gian chậm rãi trôi qua, vẫn không nghe thấy tiếng thở đều đều của nàng khi say giấc.

Thôi Tuần mím môi nhìn bóng lưng nàng, đáy mắt hiện một tia lạ lẫm, nhưng chỉ trong chốc lát, những dao động đó liền biến mất, trở về với vẻ bằng phẳng, không dậy sống của một mặt giếng cổ. Hắn cúi đầu, tiếp tục cầm bút, từng nét chữ thanh thoát nối tiếp nhau rơi xuống tấu chương, cẩn trọng và không chút sơ sót.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 14: Một kẻ gian ác như thế, tốt nhất công chúa vẫn nên tránh xa


Mấy ngày sau, Thôi Tuần vẫn không có ở phủ, Lý Doanh một mình dưỡng thương trong thư phòng. Ngay cả ban đêm, nàng cũng quen thắp một ngọn đèn nhỏ, ánh sáng chập chờn giúp nàng vơi đi nỗi bất an, nếu không, nàng sẽ có cảm giác như mình vẫn còn mắc kẹt dưới hồ sen, tối tăm không chút ánh sáng.

Cái giá sách làm từ gỗ mun của Thôi Tuần, nàng không dám chạm vào nữa. Khi di chuyển dựa vào tường, nàng cẩn thận tránh xa nó. Lão bộc câm vẫn đều đặn đến quét tước hằng ngày. Nhưng khác với trước đây, mỗi lần vào, ông đều mang theo vài cành hoa, cắm trong chiếc bình sứ xanh của lò gốm Cảnh Diêu đặt trên bàn trước cửa sổ. Đôi khi là hoa nghênh xuân, đôi khi là đỗ quyên, đôi khi là hải đường. Những bông hoa rực rỡ tô điểm căn phòng, khiến tâm trạng u uất của Lý Doanh cũng nhẹ nhàng hơn phần nào.

Mỗi lần dọn dẹp xong, lão bộc câm lại mở cửa sổ gỗ. Qua khung cửa sổ, Lý Doanh thấy những cành liễu bên ngoài đang đâm chồi nảy lộc, cành lá mơn mởn đung đưa theo gió. Vài con én đập cánh hạ xuống, đậu trên cành, làm cong nhánh liễu rồi lại bay đi. Cảnh xuân như tranh vẽ, đẹp không sao kể xiết. Lý Doanh chống cằm ngồi trước thư án, không kìm được mà nói với lão bộc câm đang quỳ bên cạnh, cắm những cành hoa xuân: “Thật đẹp, có phải không?”

Lão bộc câm tựa như không nghe thấy, vẫn lặng lẽ tiếp tục việc cắm hoa. Lý Doanh thở dài, nàng lại quên mất, ông không thể nhìn thấy nàng, cũng không thể nghe nàng nói chuyện. Chỉ có Thôi Tuần mới nhìn thấy nàng, nghe được giọng nàng. Khi Thôi Tuần không có ở đây, nàng chẳng khác gì khi bị nhốt trong hồ sen.

Nàng quay đầu lại, tiếp tục chống cằm ngắm cảnh đào thắm liễu xanh ngoài cửa sổ. Lần này, từ khung cửa, nàng thấy một thanh niên mặc áo dài màu đen đi vào.

Đại Chu quy định, thương nhân đồ tể phải mặc trang phục màu đen. Lý Doanh ngay lập tức nhận ra, đó là Quỷ thương Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy ngó nghiêng khắp nơi, rồi nhìn thấy Lý Doanh đang ngồi bên khung cửa. Hắn mỉm cười, cúi chào lão bộc câm: “Lão trượng, xin hỏi Thôi Thiếu khanh có ở trong phủ không?”

Lão bộc câm đứng thẳng lên, lắc đầu.

Ngư Phù Nguy nói: “Mỗ là thương nhân Ngư Phù Nguy. Mười mấy ngày trước Thôi Thiếu khanh từng làm ăn với mỗ. Không biết mỗ có thể đợi ngài ấy trong thư phòng không?”

Lão bộc câm không làm khó Ngư Phù Nguy, chỉ bình tĩnh gật đầu. Sau khi cắm xong cành hoa nghênh xuân, ông bước ra khỏi thư phòng. Ngư Phù Nguy gãi đầu, nói với Lý Doanh: “Mỗ ngồi đây, không làm phiền công chúa chứ?”

Lý Doanh khẽ cười: “Không đâu. Nếu tiên sinh chịu trò chuyện với ta, ta còn vui mừng nữa là.”

Ngư Phù Nguy liền cẩn trọng, quỳ ngồi bên cạnh Lý Doanh. Hắn vừa nhìn đã thấy cành nghênh xuân tươi tắn trong chiếc bình sứ xanh ở trên án. Ngư Phù Nguy đưa tay chạm vào cánh hoa vàng nhạt: “Không ngờ Thôi Thiếu khanh lại có sở thích tao nhã thế này.”

Lý Doanh buột miệng: “Ngài ấy không nên thích hoa sao?”

Ngư Phù Nguy bĩu môi: “Không giống lắm.”

Lúc này, Lý Doanh mới nhớ lại, trước đây khi gặp Thôi Tuần, trong thư phòng của hắn chưa từng cắm hoa. Các đời đế vương Đại Chu đều yêu thích hoa đạo, phụ hoàng nàng lại càng yêu thích, từ đó thúc đẩy phong tục trong dân gian, các đại thần danh sĩ đến bách tính thường dân đều thích cắm hoa trong nhà. Vào mùa đông, họ sẽ cắm mai. Nhưng trong phòng của Thôi Tuần, ngay cả một cành mai cũng không có.

Lý Doanh nói: “Trước đây Thôi Thiếu khanh quả thật không yêu hoa đạo.”

Ngư Phù Nguy gảy nhẹ những cành nghênh xuân xanh mướt, cười nói: “Công chúa nói thế làm mỗ nghĩ rằng, những cành nghênh xuân này được đặt đó là vì công chúa.”

Tim Lý Doanh bất chợt nhảy lên một nhịp, nàng phản ứng rất mạnh: “Sao có thể?”

Ngư Phù Nguy nhìn vẻ mặt nghiêm túc phản bác của nàng, bỗng bật cười: “Không thể.”

Mặt Lý Doanh vẫn hơi tái nhợt. Ngư Phù Nguy chuyển sang chủ đề khác: “Phải rồi, vết thương của công chúa đã ổn hơn chưa?”

“Trừ việc vẫn không thể nhìn ánh sáng mặt trời, cũng sắp khỏi rồi.” Lý Doanh nói: “Nhắc mới nhớ, còn phải cảm ơn tiên sinh vì quả tần bà nữa.”

“Chỉ là một quả tần bà thôi, với mỗ, không đáng là gì.”

“Sao tiên sinh biết người bị thương là ta?”

“Thôi Thiếu khanh tìm mỗ để lấy thuốc chữa thương cho quỷ hồn. Hồn ma đó, còn có thể là ai khác? Đoán một cái là ra thôi.”

“Thì ra vậy.” Lý Doanh gật đầu, chân thành nói: “Đại ân của tiên sinh, ta không biết lấy gì báo đáp. Sau này, nếu tiên sinh cần Lý Doanh giúp đỡ, thì cứ việc mở lời.”

Nàng nói những lời này với ánh mắt chân thật, thẳng thắn. Nàng dù là hồn ma nhưng vẫn là công chúa cao quý của đế quốc. Ngư Phù Nguy xuất thân bần hàn, chỉ là một thương nhân, vốn bị quan lại quý tộc coi thường. Chưa bao giờ hắn được ai đối xử với sự tôn trọng như thế nên trong lòng không tránh khỏi xúc động, dáng ngồi ngả ngớn cũng được điều chỉnh để trở nên đoan chính hơn. Hắn ngồi thẳng lưng, cúi đầu nói: “Công chúa quá lời rồi.”

Hắn ngừng một lát, rồi bỗng nói: “Có phải công chúa có nhũ danh là Minh Nguyệt Châu không?”

Lý Doanh ngẩn ra, rồi “ừ” một tiếng. Ngư Phù Nguy nhìn cảnh xuân rạng rỡ bên ngoài thư phòng, trong sân cây mộc lan cũng đã nở, tinh khiết trong trẻo, như ngọc như trăng. Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, quả là một cái tên hay.”

Lý Doanh mím môi. Minh Nguyệt Châu là nhũ danh của nàng, nàng không quen nghe một nam tử khác gọi mình như vậy. Ngư Phù Nguy cũng nhận ra điều đó, hắn gõ đầu: “Xin lỗi, mỗ lại đường đột rồi.”

Nói xong, hắn lấy từ túi gấm thêu ra một viên ngọc. Vừa lấy ra, viên ngọc đã tỏa sáng lung linh, rực rỡ. Lý Doanh không kìm được hỏi: “Đây là gì?”

“Xá lợi Phật.”

Lý Doanh hít sâu một hơi: “Xá lợi Phật?”

Xá lợi, tương truyền là hóa thân của Phật cốt. Thái Tổ hoàng đế từng thỉnh một viên Phật cốt từ nước Ma Kiệt Đà, nghe nói ngày đó cờ phướn rực rỡ, hương hoa trống nhạc vang lừng, vạn dân chào đón, cảnh tượng chưa từng có. Từ đó xá lợi Phật được thờ phụng tại chùa Pháp Môn ở Trường An. Không ngờ, hôm nay lại xuất hiện trong tay Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy nói: “Đây không phải xá lợi Phật của chùa Pháp Môn, mà là mỗ mua từ nước Tỳ Xá Ly. Hồn phách công chúa bị tổn thương, đeo xá lợi Phật này bên mình sẽ hồi phục như cũ.”

Lý Doanh theo bản năng từ chối: “Thứ này quý giá quá, ta không thể nhận.”

Ngư Phù Nguy dường như đã đoán trước nàng sẽ từ chối, hắn nói: “Nếu công chúa cảm thấy quá quý, vậy hãy dùng vật ngang giá mà đổi. Lễ vật Thái hậu đốt cho công chúa nhiều không đếm xuể, số tiền này, hẳn công chúa bỏ ra được.”

Lý Doanh không ngờ Ngư Phù Nguy lại đáp như vậy, nàng hơi sững sờ, nhưng nghĩ kỹ, trao đổi tương đương, nếu nàng từ chối nữa, e rằng sẽ khách sáo quá chừng, vì thế nàng thản nhiên gật đầu: “Tiên sinh nói đúng, ta có thể trả được, vậy xá lợi Phật này, ta xin nhận.”

Nàng đưa tay nhận lấy Phật xá lợi, khi chạm vào, một luồng ấm áp lan tỏa khắp tứ chi, xoa dịu từng ngóc ngách trong cơ thể. Nàng cảm nhận được hồn phách tổn thương đang dần hồi phục, niệm lực mất đi cũng đang trở lại. Lý Doanh vui mừng nói: “Đa tạ tiên sinh, phần báo đáp ta sẽ nhờ chỉ tỳ <i>(nô tỳ bằng giấy)</i> đưa đến phủ tiên sinh.”

Ngư Phù Nguy thấy nụ cười tươi tắn của nàng, dung nhan như ngọc, lòng không khỏi xao động. Hắn muốn nói rằng, xá lợi Phật này tặng cho nàng cũng không sao, nhưng sợ nàng không nhận, nên đành nhẫn tâm đáp: “Công chúa quá lời, mỗ và công chúa chỉ là đôi bên cùng trao đổi mà thôi.”

Một câu “đôi bên cùng trao đổi” khiến Lý Doanh nhớ đến lời Thôi Tuần từng nói: “Cô và ta chỉ là lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Sau khi việc thành sẽ đường ai nấy đi.”

Nét vui mừng trong mắt nàng dần tan biến, thay vào đó là vẻ u sầu ảo não. Ngư Phù Nguy thấy sắc mặt nàng đột nhiên thay đổi, bèn hỏi: “Công chúa có tâm sự?”

Lý Doanh không trả lời, chỉ mơ hồ lắc đầu. Nhưng lần này, Ngư Phù Nguy quyết truy đến cùng: “Liệu có phải vì Thôi Tuần?”

Bị chạm đến nỗi lòng, Lý Doanh sững lại, nàng không biết phải đáp thế nào, một lúc lâu sau mới thốt lên: “Đôi khi ta không hiểu, vì sao lại như thế.”

Chẳng rõ nàng đang nói về bản thân hay là Thôi Tuần.

Ngư Phù Nguy không hiểu, nhưng hắn cũng không định hiểu, bèn nghiêm túc nói: “Mỗ không biết vì sao công chúa lưu lại phủ Thôi Tuần, cũng không biết công chúa cần hắn giúp việc gì. Nhưng mỗ có một lời khuyên, không thể không nói.”

Hắn nói từng chữ một: “Công chúa nên tránh xa Thôi Tuần.”

Nghe xong, Lý Doanh chỉ đáp: “Ta biết tiên sinh muốn nói gì, tiên sinh muốn nói Thôi Tuần có tiếng xấu phải không? Nhưng có lẽ, tiên sinh đã lo lắng quá rồi.”

Ngư Phù Nguy không ngờ Lý Doanh lại trả lời như vậy, hắn hơi bối rối, rồi lại tiếp tục khuyên nhủ: “Công chúa chỉ biết hắn mang tiếng xấu, nhưng không biết cụ thể hắn đã làm gì, phải không? Thôi Tuần, từ nhỏ đã ngỗ nghịch, âm trầm. Phụ thân hắn, Thôi công, từng nói hắn bướng bỉnh, ngạo mạn, tâm tính thất thường. Hắn khinh thường khoa cử, mười bốn tuổi gia nhập quân Thiên Uy, muốn dựa vào quân công để thăng tiến. Ba năm sau, tại trận Lạc Nhạn Lĩnh, toàn bộ quân Thiên Uy bị tiêu diệt, chủ soái Quách Cần Uy bị treo đầu trước mười tám bộ lạc của Đột Quyết. Chỉ có Thôi Tuần sống sót. Có lời đồn rằng hắn đã đầu hàng Đột Quyết, còn làm khách trên giường của công chúa A Sử Na Ngột Đoá. Thánh nhân nổi giận, Thôi công cũng lấy làm nhục, liền xóa tên hắn khỏi gia phả. Hai năm sau, Thôi Tuần đột nhiên trở về từ Đột Quyết. Thân là phản tặc Đại Chu, đương nhiên bị nhốt vào Đại Lý tự chờ chém, nhưng chẳng rõ vì sao Thái hậu lại cứu hắn. Hắn lại giở trò cũ, làm khách trong màn của Thái hậu, từ đó thăng quan tiến chức, trở thành Thiếu khanh Sát Sự Thính tứ phẩm. Những năm qua, Thôi Tuần thay Thái hậu trừ khử đối thủ, hãm hại trung thần, gây ra hàng trăm vụ án oan, số người bị giết oan không dưới một vạn. Cả thành Trường An ai ai cũng muốn uống xẻ thịt nuốt máu tươi của hắn. Một kẻ gian ác như thế, tốt nhất công chúa vẫn nên tránh xa.”

Lý Doanh im lặng lắng nghe, rồi chỉ hỏi một câu: “Những điều ngài nói, đều là sự thật sao?”

Ngư Phù Nguy sững người: “Đương nhiên là thật.”

Lý Doanh lắc đầu: “Không phải thật.”

Ngư Phù Nguy cuống lên, định nói thêm thì chợt nghe một giọng nói rét lạnh vang lên: “Ngư Phù Nguy, ngươi đến phủ ta rồi nói xấu ta, không thấy lố bịch lắm sao?”

Ngư Phù Nguy và Lý Doanh đồng loạt quay đầu, thấy Thôi Tuần đứng dựa bên cửa gỗ chạm nổi, dáng như trúc thẳng, khí chất ngời ngời, lạnh lùng nhìn chằm chằm vào Ngư Phù Nguy. Ngư Phù Nguy không chút sợ hãi, bật cười, đứng dậy chắp tay nói: “Xin Thôi Thiếu khanh rộng lượng. Mỗ vẫn chưa muốn thử hình cụ của Sát Sự Thính.”

Thôi Tuần hơi mím môi, thu lại ánh mắt giận giữ: “Hôm nay ngươi đến gặp ta, có việc gì?”

“Mỗ không phải đến gặp Thôi Thiếu khanh.” Ngư Phù Nguy liếc nhìn Lý Doanh, cười nói: “Mỗ đến gặp công chúa Vĩnh An.”

Lý Doanh ngẩn ra, Ngư Phù Nguy nói tiếp: “Xá lợi Phật công chúa đã nhận, mỗ xin cáo lui trước.”

Dứt lời, hắn cúi người chào Lý Doanh, rồi nhàn nhã rời đi.

Lý Doanh có chút ngượng ngùng, nàng nắm chặt xá lợi Phật trong tay, nói với Thôi Tuần: “Thật xin lỗi, ta không ngờ hắn lại nói những lời đó…”

“Cô không cần xin lỗi ta.” Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Dù sao những lời đó cũng chẳng làm tổn thương ta chút nào.”

Nói xong, hắn quay người định rời đi. Lý Doanh hoảng hốt, vội gọi: “Thôi Thiếu khanh, xin dừng bước.”

Thôi Tuần quay lại, Lý Doanh nhìn vào gương mặt lạnh lùng như băng tuyết của hắn, lấy hết can đảm, giọng nói dịu dàng nhưng kiên quyết: “Thôi Thiếu khanh, thật ra, ngài chưa từng đầu hàng Đột Quyết, đúng không?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 15: Là thế nhân hiểu lầm ngài rồi


Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nhìn nàng, ánh mắt không chút dao động. Lý Doanh cũng chẳng hiểu dũng khí từ đâu tới, nàng nói nhanh: “Nếu ngài đã từng đầu hàng Đột Quyết, Huệ phi tuyệt đối sẽ không đối xử với ngài như thế. Còn nữa… nếu thực sự như vậy, những vết thương cũ trên người ngài sẽ không thể nặng nề như thế. Vậy nên, tất cả đều là hiểu lầm, đúng không? Ngài chưa từng đầu hàng Đột Quyết, phải không?”

Thôi Tuần cuối cùng cũng mở lời, nhưng không phải trả lời câu hỏi của nàng, mà lạnh nhạt nói: “Phải hay không, liên quan gì đến cô?”

“Ta biết điều đó không liên quan gì đến ta.” Lý Doanh luống cuống, nàng đứng dậy, vội vàng tiến đến trước mặt Thôi Tuần. Hắn cao hơn nàng không ít, nàng phải ngẩng đầu để nhìn hắn. Hôm nay, nàng mặc một bộ váy lưu tiên màu trắng, dải lụa hồng nhạt khoác hờ qua cánh tay. Khi gió nhẹ thổi qua, vạt áo phất phơ, lụa bay phiêu dật, gương mặt ngẩng lên thanh tao tựa ngọc: “Ta chỉ muốn nói, nếu ngài thực sự không đầu hàng Đột Quyết, ngài có thể nói với ta. Đừng giữ mọi chuyện trong lòng, như vậy sẽ rất khổ sở.”

Lời nàng chân thành, nhưng Thôi Tuần nghe xong vẫn không có lấy một tia động lòng: “Ta khuyên cô đừng tự cho mình là thông minh, nếu không, nhất định sẽ hối hận.”

Nói xong, hắn xoay người, quay lưng rời khỏi nàng. Lý Doanh đứng ngây ngẩn nhìn bóng lưng cô độc của hắn, rất lâu sau, nàng mới thở dài một hơi.



Mùa xuân vừa đến, sương khói dịu êm, cỏ non xanh biếc, chim yến lượn quanh. Lý Doanh nắm chặt xá lợi Phật trong tay, chỉ cảm thấy gió xuân dịu dàng, toàn thân như ấm lại. Quả nhiên, xá lợi này thật kỳ diệu, chỉ ba ngày sau khi có nó, thương tích của nàng đã hồi phục phân nửa. Giờ đây, nàng có thể tự do đi lại vào ban ngày.

Nàng đứng dưới gốc hải đường, khẽ nheo mắt ngước nhìn ánh dương ấm áp, tay đưa lên che nắng, nhìn những chú oanh non ríu rít tìm cành ấm, chim yến tất bật, ngậm bùn xây tổ. Nàng thích ngắm nhìn những cảnh tượng sinh động như thế này, bởi chúng khiến nàng cảm thấy nàng chưa chết mà vẫn đang tồn tại, rạng ngời như những cánh chim xuân.

Trên nhánh cây có một tổ chim yến, một con chim non loạng choạng bay ra khỏi tổ, nhưng dường như đôi cánh của nó vẫn chưa đủ cứng cáp. Một cơn gió thổi qua, chim non bị gió đẩy, rơi xuống ngay dưới chân Lý Doanh. Lý Doanh ngồi xuống, nhìn thấy chim non ra sức vỗ cánh, nhưng dù cố thế nào cũng chẳng thể bay về tổ. Động lòng trắc ẩn, nàng chìa hai tay ra, muốn giúp nó quay lại tổ. Nhưng đôi tay nàng lại xuyên qua cơ thể con chim non, lúc ấy nàng mới sực nhớ ra là mình không thể chạm vào sinh vật sống.

Khi nàng đang lo lắng, chợt thấy trước mắt xuất hiện một thân quan phục màu đỏ tía thêu hoa văn chỉ vàng, nàng ngẩng đầu, vui mừng reo lên: “Thôi Thiếu khanh, ngài đến thật đúng lúc.”

Chưa kịp để Thôi Tuần phản ứng, nàng hồ hởi nói: “Ngài có thể giúp ta, đưa con chim non này trở về tổ không?”

Thôi Tuần liếc nhìn con chim non vẫn đang kiên cường vỗ cánh, hờ hững hỏi: “Tại sao phải đưa nó về?”

“Nếu không, nó sẽ chết.”

Thôi Tuần vẫn điềm nhiên: “Thì đã sao?”

Lý Doanh không ngờ hắn lại trả lời như vậy, ngây người một lúc. Chợt nhớ lại lần đầu gặp hắn, nàng đã cầu xin hắn giúp mình tìm ra chân tướng. Khi ấy, hắn cũng từ chối thẳng thừng, mãi đến khi nàng đưa túi hương từ chùa Tây Minh ra đổi, hắn mới đồng ý giúp nàng.

Lý Doanh thở dài một hơi, nếu muốn Thôi Tuần cứu con chim non này, có lẽ nàng cũng phải lấy vật ngang giá ra để đổi. Nghĩ ngợi mãi, cuối cùng nàng thử nói: “Thôi Thiếu khanh, tục ngữ có câu: “cứu một mạng người còn hơn xây bảy tầng tháp”. Con chim nhỏ này cũng là một sinh mạng. Cứu nó, âm ty sẽ tích lũy công đức cho ngài, mang lại phúc lành về cho ngài và những người mà ngài quan tâm.”

Nàng nói xong, không ngờ Thôi Tuần không làm ngơ như trước, mà cúi người xuống, nắm lấy đôi cánh đang vùng vẫy của chim non, nhấc nó lên.

Lý Doanh thấy vậy, biết là mình đã thuyết phục được hắn. Nàng đang vui mừng, nhưng lại thấy Thôi Tuần ngẩng đầu nhìn nhánh cây không cao lắm, bình thản nói: “Ta không leo lên được.”

Lý Doanh hoàn toàn bất ngờ, không nói nên lời. Nàng ngẩng đầu nhìn nhánh cây, nó chỉ cách mặt đất không quá một trượng, nàng cũng có thể leo lên, vậy mà Thôi Tuần lại không thể…

Thôi Tuần nói: “Để lão câm làm đi.”

Nói xong, hắn gọi lão bộc câm tới, giao chim non cho ông. Lão bộc nhanh nhẹn leo lên nhánh cây, chẳng mấy chốc đã đặt chim non trở lại tổ.

Thấy chim non an toàn trở về tổ, lúc này Lý Doanh mới thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt cũng vô thức hướng về đôi chân của Thôi Tuần. Đôi chân của hắn bị che dưới lớp quan bào đỏ tía, không thể nhìn ra điều gì. Chỉ có phần eo thắt đai lưng điệp tiệp bằng vàng là lộ rõ, vòng eo hẹp và gầy đến mức lạ thường. Quan viên Đại Chu, đến hàm tứ phẩm đều mặc phục mặc quan phục màu đỏ tía, dây lưng vàng mười một khoa. [1] Nhưng với Thôi Tuần, mười một khoa ấy dường như quá rộng, sau khi thắt gọn vào, phần dây thừa phải luồn vào đai lưng, thả hờ xuống. Eo hắn đã gầy gò như vậy, thì chân cẳng, chắc cũng chẳng khá khẩm hơn là bao.

<i>[1] khoa là vật trang trí gắn trên đai lưng điệp tiệp. Chú thích hình ảnh đặt ở cuối chương.</i>

Lý Doanh không khỏi suy nghĩ, liệu điều này có liên quan gì đến hai năm bị tra tấn mà A Sử Na Gia đã nhắc đến hay không? Rốt cuộc phải chịu đựng tra tấn khốc liệt đến thế nào mới khiến cho một người chưa quá hai mươi như Thôi Tuần, đôi chân lại yếu đuối đến mức không thể leo lên được nhánh cây cách mặt đất chỉ hơn một trượng?

Còn đang mải miết suy nghĩ, Lý Doanh chẳng hề hay biết lão bộc câm kia đã rời đi từ lúc nào. Thôi Tuần nhíu mày, thấy nàng lơ đãng thất thần, liền bất ngờ hỏi: “Cô đã có thể đi lại vào ban ngày rồi, đúng không?”

Lý Doanh lập tức bừng tỉnh, vội gật đầu: “Phải.”

“Vậy đi cùng ta đến ngoại thành.” Thôi Tuần dừng một lát: “Liên quan đến Vương Nhiên Tê.”



Thôi Tuần đưa Lý Doanh đến một ngọn núi hoang ở ngoại thành. Núi hoang này cực kỳ heo hút, cỏ cây khô cằn mọc lộn xộn dọc theo triền núi chênh vênh, bốn bề chẳng thấy bóng dáng chim muông, hoang tàn vắng vẻ. Lý Doanh ngó quanh, nghi hoặc hỏi: “Thôi Thiếu khanh đưa ta đến đây làm gì?”

“Đưa cô đi xem một thứ.”

Thôi Tuần giẫm lên lớp lá khô, dùng giày ô da màu đen gạt hết sang một bên. Dưới lớp lá khô, Lý Doanh lờ mờ thấy thấy phần xương cánh tay trắng.

Lý Doanh giật mình thốt lên: “Đây… đây là?”

“Đây là cung nữ Vương Đoàn Nhi của cục Thượng Y ba mươi năm trước.”

“Vương Đoàn Nhi?” Lý Doanh loáng thoáng có chút ấn tượng, cung nữ này cần mẫn dịu ngoan, từng mang y phục đến cho nàng vài lần: “Vậy đây chính là thi thể của Vương Đoàn Nhi sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Nàng ta đã chết ba mươi năm rồi.”

“Vì sao nàng ta lại chết?”

Thôi Tuần đáp gọn: “Bị người sát hại.” Hắn nói tiếp: “Ta đã cho người điều tra lại danh sách cung nữ của cục Thượng Y ba mươi năm trước, quả nhiên phát hiện điều đáng ngờ. Cung nữ tên Vương Đoàn Nhi này từng là gia nô của nhà họ Vương. Sau khi nhà họ Vương phóng thích một số nô bộc, cha mẹ của Vương Đoàn Nhi cũng nằm trong số ấy, còn nàng ta thì được chọn vào cục Thượng Y. Cả nhà nàng ta đều mang ơn nhà họ Vương. Sau khi Trịnh Quân bị bắt vào Đại Lý Tự, Vương Đoàn Nhi cũng biến mất. Nếu ta không đoán sai, nàng ta đã bị Vương Nhiên Tê giết để diệt khẩu.”

Mặt đất trong khu rừng hoang phủ đầy lá khô, dày đến mức chẳng để lại dấu chân. Điều này chứng tỏ nơi này hiếm người lui tới, quả thực là một chỗ lý tưởng để phi tang xác chết. Lý Doanh không khỏi thắc mắc: “Sao ngài lại tìm thấy được thi thể này?”

“Mật thám của Sát Sự Thính tỏa đi khắp Trường An, đừng nói đến một cung nữ, dù chỉ là một con chó chết, cũng có thể đào ba thước đất mà tìm.”

Lý Doanh trợn tròn mắt kinh ngạc. Nàng biết rằng mặc dù Sát Sự Thính và Đại Lý Tự cùng chưởng quản hình sự, nhưng chức trách lại có điểm khác nhau. Sát Sự Thính phụ trách giám sát quan lại và vương công, sở hữu rất nhiều mật thám, có thể tự mình xử lý các vụ án mà không cần thông qua Đại Lý Tự. Tuy vậy, nàng không ngờ rằng Sát Sự Thính đáng sợ đến mức chỉ trong vòng mười mấy ngày, đã có thể đào ra một bộ hài cốt bị vứt bỏ nơi hoang vu từ tận ba mươi năm trước.

Nếu Sát Sự Thính có thể tìm ra hài cốt từ ba mươi năm trước, thì những chuyện khuất tất của các đại thần và quan viên chắc chắn không thể giấu giếm được. Cũng không khó hiểu khi danh tiếng của Sát Sự Thính giờ đây đã lấn át Đại Lý Tự, khiến mọi quan viên và dân chúng trong Trường An đều vừa hận vừa sợ Thôi Tuần.

Lý Doanh vốn chẳng hứng thú với chính sự, nhưng dù nàng không quan tâm, cũng hiểu rõ rằng những kẻ đứng đầu mật thám như Thôi Tuần, trải qua nhiều triều đại, đều khó có kết cục tốt đẹp. Huống hồ hắn vừa ngạo mạn lại vừa phô trương, kẻ thù mà hắn đã kết phải nhiều không đếm xuể. Nếu vậy, kết cục của hắn e rằng sẽ đặc biệt thê thảm.

Lý Doanh nghĩ đến đây, không kìm được mà liếc nhìn Thôi Tuần thêm một lần. Thôi Tuần không nhận ra những suy nghĩ trong lòng nàng. Giữa núi rừng lạnh lẽo, hắn khoác một chiếc áo choàng hồ ly màu trắng tinh, lớp lông hồ ly trắng ánh bạc càng làm tôn lên gương mặt trắng bệch như tuyết, đường nét tuấn tú như ngọc. Lý Doanh bỗng nhớ đến câu nói của hắn ba ngày trước: “Liên quan gì đến cô?” Nàng bỗng thấy lòng mình rơi vào khoảng trống, chán nản đến mức không muốn nghĩ thêm điều gì khác. Nàng chỉ hỏi: “Thôi Thiếu khanh, nếu đã tìm được thi thể Vương Đoàn Nhi, liệu có thể tìm Vương Nhiên Tê để hỏi rõ sự thật không?”

Thôi Tuần trầm ngâm: “Vương Nhiên Tê tính tình xảo quyệt, dù có dùng hình cũng chưa chắc có thể khiến bà ta khai ra sự thật.”

“Vậy thì phải làm sao?”

“Ta có một cách.” Thôi Tuần đáp. “Công chúa có nhớ được dung mạo của Vương Đoàn Nhi không?”

Lý Doanh ngẫm nghĩ: “Còn nhớ mang máng.”

“Vậy thì dễ rồi. Phiền công chúa vẽ lại dung mạo nàng ta. Phần còn lại thì cứ giao cho ta xử lý.”



Vương Nhiên Tê đã ốm liệt giường mấy ngày, mỗi ngày mê mê tỉnh tỉnh, liên tục gặp ác mộng. Mỗi lần nhắm mắt lại, bà ta đều thấy cảnh tượng Lý Doanh chìm dần xuống nước, chết đuối dưới hồ sen.

Bà ta thét lên tỉnh dậy. Thị tỳ bên cạnh vội vàng tiến lên, vuốt lưng giúp bà ta thuận khí: “Phu nhân lại gặp ác mộng sao?”

Vương Nhiên Tê nghẹn lời không nói được, thở hổn hển hỏi: “Thượng thư đâu?”

“Dạ Thượng thư đi triều kiến, được Thánh nhân lưu lại nghị sự, giờ vẫn chưa về.”

“Trương Nhi đâu?”

Thị tỳ ấp úng: “Tiểu lang quân… Tiểu lang quân đến phường Bình Khang rồi ạ.”

Vương Nhiên Tê nghiến răng: “Mẹ nó bệnh đến thế này, nó còn có thời gian đến Bình Khang tìm kỹ nữ!”

Bà ta tức giận đến ho khan không ngừng, sau đó là cảm giác ngập tràn cay đắng. Suốt đời tranh đấu không ngừng, đến cuối cùng lại là chồng không yêu, con không hiếu. Bà không biết bao nhiêu nỗ lực của mình rốt cuộc đổi lại được cái gì.

Nếu không vì lòng đố kỵ và ghen ghét của ba mươi năm trước, lẽ ra bà ta đã có thể gả cho một công tử thế gia môn đăng hộ đối, cùng người cầm sắt hòa minh, tâm ý tương thông. Con cái sinh ra cũng sẽ là những người lễ nghĩa khiêm cung, chứ không phải như bây giờ, bề ngoài vinh hoa nhưng ấm lạnh chỉ mình bà biết rõ.

Chung quy một bước sai, bước bước sai.

Trong mơ màng, trước mắt Vương Nhiên Tê hiện lên hình ảnh của một thanh niên ôn nhuận như ngọc.

Bà ta hé môi, muốn gọi “biểu huynh”, nhưng chần chừ vẫn không dám thốt ra.

Vương Nhiên Tê cười khổ một tiếng, nói với thị tỳ: “Các ngươi lui ra, ta muốn nghỉ ngơi.”

Người hầu rời đi. Vương Nhiên Tê nằm trên giường gỗ lê hoa vàng, nhìn lên màn lụa rủ xuống, trong lòng tự nhủ: đã làm thì đừng hoài niệm xuân thu. Đó chẳng phải tính cách của bà ta.

Chờ đến khi bà ta khỏi bệnh, bà ta sẽ tiếp tục vào cung hầu Huệ phi, kiếm một chức quan nhỏ cho Trương Nhi.

Nghĩ đến Huệ phi, bà ta lại cảm thấy nhục nhã. Nữ nhân kiêu ngạo người Đột Quyết, trên mặt còn có dấu hoa sen ấy dựa vào cái gì mà lại Thánh nhân sủng ái, còn bà ta, một đích nữ của họ Vương ở Thái Nguyên thì phải xu nịnh nàng ta cứ như một con chó!

Hừ, sớm muộn gì ả cũng có kết cục giống như chị ả, A Sử Na Ngột Đóa – vị công chúa mà Thôi Tuần từng hầu hạ ở Đột Quyết, chết cũng chẳng được toàn thây!

Nhưng nghĩa lại, Thôi Tuần từng hầu hạ A Sử Na Ngột Đóa ở Đột Quyết, chẳng lẽ lại không hầu hạ em gái ả là A Sử Na Gia? Vậy thì, liệu A Sử Na Gia có giữ được tấm thân hoàn bích?

Vương Nhiên Tê cay độc nghĩ, rồi lại mê man thiếp đi. Trong giấc mơ, bà ta nhìn thấy Lý Doanh.

Lý Doanh mặc chiếc váy hai màu đỏ trắng đan xen, giống như hôm ngồi trong xe ngựa, yên lặng nhìn bà ta: “Tại sao ngươi giết ta?”

Lý Doanh từng bước tiến đến gần, bóp chặt cổ bà ta: “Ngươi đã giết ta, ta cũng sẽ giết ngươi để đòi mạng!”

“A!” Vương Nhiên Tê thét lên rồi choàng tỉnh, mồ hôi lạnh túa ra đầy trán. Bà ta nắm chặt lấy tay thị tỳ vừa chạy đến: “Mau! Mau theo ta đến chùa Tây Minh lễ Phật! Ta muốn thần Phật giúp ta trừ ma! Trừ ma!”

Bà ta lảm nhảm, nghiến răng: “Còn nữa, gọi hết các đạo sĩ, hòa thượng trong phủ đến. Cả những chuỗi tràng hạt đã khai quang cũng mang theo. Nếu con quỷ ấy còn dám đến, ta nhất định sẽ khiến nó hồn phi phách tán, vĩnh viễn đọa đày!”

*
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 16: Sát Sự Thính phá án, không cần bằng chứng


Vương Nhiên Tê dẫn theo một đoàn người, rầm rộ tiến về Tây Minh Tự lễ Phật. Trong xe ngựa, bà ta cầm chuỗi Phật châu làm từ gỗ tử đàn, miệng lẩm nhẩm sáu chữ của chú Đại Minh. Trên vách xe dán đầy bùa trừ tà màu vàng, các đạo sĩ và hòa thượng cầm pháp khí bao quanh xe chặt như nêm, không để lọt kẽ hở. Vương Nhiên Tê vừa tụng “Án ma ni bát mê hồng,” chỉ mong mau chóng đến chùa Tây Minh, rồi nhờ phương trượng triệu tập toàn bộ cao tăng làm pháp sự, giúp bà ta trừ tai giải nạn.

Đang niệm kinh, xe đi đến một đoạn đường nhỏ thì bất ngờ dừng lại. Vương Nhiên Tê cảnh giác mở mắt, hỏi: “Xuân Đào, sao lại dừng xe?”

Bên ngoài, giọng Xuân Đào run rẩy: “Phu nhân… có người… có người chặn đường…”

Vương Nhiên Tê nổi giận. Ở thành Trường An này, ai ăn gan hùm mật gấu mà dám chặn một người đường đường là Kim Thành quận phu nhân như bà ta? Bà ta vén rèm xe, nhưng vừa thấy thân ảnh mặc quan bào đỏ sẫm ngồi trên ngựa với dung mạo rạng rỡ, bà ta liền sững người.

Thôi Tuần dẫn theo một nhóm vũ hầu của Sát Sự Thính, thần sắc lãnh đạm, chậm rãi nói: “Có một vụ án, mong Kim Thành quận phu nhân đi theo ta một chuyến.”

Vương Nhiên Tê kinh ngạc, rồi giận dữ quát: “Thôi Tuần, ngươi có biết ta là Kim Thành quận phu nhân được Thánh nhân sắc phong hay không? Ngươi là thứ gì mà dám bắt ta?”

“Ta đích thực chẳng là thứ gì cả,” Thôi Tuần lạnh lùng đáp, “Nhưng theo ý chỉ của Thái hậu, bất kể vương công quý tộc hay bách tính thường dân, Sát Sự Thính đều có quyền bắt giữ, thẩm vấn. Nếu quận phu nhân có ý kiến, cứ việc vào cung tìm Thái hậu khiếu nại.”

Nhắc đến Thái hậu, Vương Nhiên Tê cứng họng. Bà ta gắng cãi: “Ta đã phạm tội gì mà ngươi phải bắt ta?”

Thôi Tuần tỏ vẻ mất kiên nhẫn: “Bà phạm tội gì, đến Sát Sự Thính rồi sẽ rõ.”

Vương Nhiên Tê nghiến răng, nhớ lại cái chết thảm của Vương Lương, bà con trong họ Vương ở Thái Nguyên với bà ta. Đã vào Sát Sự Thính, một là nhận tội dưới sự ép cung, hai là có đi không có về. Bà ta kiên quyết nói: “Phu quân ta hiện đang cùng Thánh nhân bàn việc trong cung, ngươi muốn bắt ta ít nhất cũng phải báo với phu quân ta một tiếng. Nếu không, ta tuyệt đối không theo!”

Thôi Tuần chẳng muốn phí lời, liền phất tay ra hiệu. Đám vũ hầu như hổ đói thấy mồi, đồng loạt xông lên, tóm lấy Vương Nhiên tê. Bà ta kinh hãi, những đạo sĩ và hòa thượng theo hộ tống lập tức bỏ chạy tán loạn, chỉ còn đám gia phó liều mạng chống cự. Nhưng sức của gia phó làm sao bì được với đội vũ hầu được huấn luyện bài bản? Chỉ một lát sau, đám gia phó đã bị đánh cho tơi tả. Vương Nhiên Tê cũng bị lôi từ xe ngựa xuống, tóc tai rũ rượi, bị nhét vào xe tù.

Vương Nhiên Tê giãy giụa, kêu gào thảm thiết: “Mau về phủ báo cho Thượng thư! Mau lên!”

Miệng bà ta bị bịt kín, trói chặt, rồi quẳng vào xe tù. Trên lưng ngựa cao ngất, Thôi Tuần liếc nhìn đám gia phó nhà họ Bùi mặt mũi bầm dập, nhàn nhạt nói: “Về báo lại với Bùi Thượng thư nhà các ngươi. Người là do Thôi Tuần ta bắt. Nếu ông ta có bản lĩnh, cứ đến Sát Sự Thính đòi người.”

Hắn cầm cương, quay đầu ngựa, hộ tống xe tù phủ vải đen rời đi. Khi bánh xe tù lăn tròn về phía trước, Thôi Tuần bỗng ghìm cương, ngoảnh đầu nhìn về phía những gia phó nhà họ Bùi còn đang run bần bật: “À, tiện thể nói với Thượng thư của các ngươi, ta đã tìm thấy thi thể của Vương Đoàn Nhi rồi.”



Trong ngục thất của Sát Sự Thính, cả bầu không khí cũng thấm đẫm mùi máu tanh, tiếng rên la đau đớn của các phạm nhân không ngừng vang lên. Vương Nhiên Tê bị dẫn vào phòng thẩm tra. Đám vũ hầu đối xử với bà ta chẳng chút nương nhẹ, thậm chí còn ném thẳng bà ta xuống nền đất. Cú ngã đau đớn khiến Vương Nhiên Tê choáng váng, đầu ong ong như muốn vỡ tung. Tay bà ta chạm phải thứ gì đó, định thần nhìn kỹ thì thấy ra là một chiếc kẹp tay nhuốm đầy máu, những vết máu loang lổ bám trên đó không biết là do nữ nhân xấu số nào để lại.

Vương Nhiên Tê kinh hoàng bò dậy, gắng gượng dùng khí thế để áp chế sợ hãi: “Các ngươi… các ngươi định làm gì? Ta là thê tử của Binh bộ Thượng thư chính tam phẩm, là Kim Thành quận phu nhân do Thánh nhân thân phong, các ngươi chớ có làm bậy!”

Mấy vũ hầu không để ý đến bà ta, chỉ cúi người cung kính chắp tay với người đang đứng bên ngoài phòng giám ngục: “Thiếu khanh.”

Thôi Tuần trong bộ quan phục màu đỏ sẫm từ tốn bước vào, Vương Nhiên Tê vừa thấy hắn, liền hận không thể xé xác hắn ngay: “Thôi Tuần, ngươi bắt ta vào Sát Sự Thính rốt cuộc là có ý đồ gì?”

“Có một vụ án, cần quận phu nhân hỗ trợ.”

“Vụ án gì? Lại là vụ vu hãm Hán Dương vương sao?” Vương Nhiên Tê tức giận gào lên, “Ngươi đã dùng cực hình ép cung đến chết Vương Lương, giờ lại muốn làm vậy với ta à?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Chuyện này thật không liên quan đến Hán Dương vương.”

“Vậy liên quan đến ai?” Vương Nhiên Tê cười lạnh: “Mời Thôi Thiếu khanh nói rõ, ngươi muốn ta vu cáo vị triều thần nào mưu phản?”

“Không phải án mưu phản, mà là…” Thôi Tuần mím môi, trong mắt thoáng hiện một tia giễu cợt: “Án mạng.”

Vương Nhiên Tê đờ đẫn, bộ trang phục vốn trang nhã giờ đã bẩn thỉu, rách nát. Bà ta trừng mắt nhìn Thôi Tuần: “Án mạng gì? Ta không hiểu ngươi đang nói gì cả!”

“Quận phu nhân quên rồi sao, vụ án của công chúa Vĩnh An?”

Nghe đến đây, Vương Nhiên Tê cố tỏ vẻ bình tĩnh nhưng sắc mặt đã tái nhợt. Bà ta lắp bắp hỏi lại: “Vĩnh… Vĩnh An công chúa? Chẳng phải công chúa đã hoăng thệ cách đây ba mươi năm rồi sao, chuyện này liên quan gì đến ta?”

Thôi Tuần điềm tĩnh hỏi: “Quận phu nhân, cái chết của công chúa thật sự không liên quan gì đến bà sao?”

“Tất nhiên là không liên quan!” Vương Nhiên Tê quả quyết phủ nhận: “Cả thiên hạ đều biết, công chúa là do Trịnh Quân giết. Chẳng lẽ Thôi Thiếu khanh định nói rằng công chúa là do ta giết sao? Thật nực cười!”

Thôi Tuần nhắc nhở: “Bà và Trịnh Quân là thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm, lại là biểu huynh muội.”

Vương Nhiên Tê sững người, không ngờ Thôi Tuần lại điều tra mối quan hệ giữa bà ta và Trịnh Quân. Trán bà ta toát đầy mồ hôi lạnh: “Thì sao? Ta với hắn cũng chưa từng bàn đến chuyện hôn nhân, hắn giết người, chẳng lẽ ta phải chôn theo?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Quận phu nhân thật vô tình, Trịnh Quân đúng là đáng thương.”

Mồ hôi bà ta tuôn như tắm, tâm trí bấn loạn, rồi chợt hiểu ra: “Ta biết rồi, ngươi bắt ta đến Sát Sự Thính, định vu oan cho ta giết công chúa Vĩnh An, mượn chuyện này kéo chân phu quân ta. Thôi Tuần, ngươi thật độc ác! Làm những chuyện tán tận lương tâm như thế, ngươi sớm muộn gì cũng sẽ gặp báo ứng!”

“Báo ứng?” Hai chữ này khiến Thôi Tuần không khỏi bật cười. Hắn nhếch môi, giọng điệu mỉa mai: “Nếu thật có báo ứng, e rằng người nhận đầu tiên phải là quận phu nhân.”

Bị đẩy đến đường cùng, Vương Nhiên Tê gào lên: “Thôi Tuần! Bắt trộm phải có tang vật! Ngươi nói ta giết công chúa Vĩnh An, thì đưa bằng chứng ra đây! Bằng không đừng hòng ép ta nhận tội!”

Thôi Tuần nhướn mắt, thản nhiên nói: “Sát Sự Thính làm việc, không cần chứng cứ.”

Vương Nhiên Tê sững sờ, biết rõ Thôi Tuần muốn dùng cực hình để ép cung. Bà ta giận dữ chửi mắng: “Thôi Tuần! Ngươi hòng đắc ý! Ta nói cho ngươi biết, ta không giết công chúa Vĩnh An, dù ngươi có đánh chết ta, ta cũng không nhận tội!”

Càng nói, bà càng trở nên điên cuồng, liên tục mắng nhiếc: “Thôi Tuần, ngươi là tên hạ tiện, phường trai lơ, kẻ hàng tướng bỉ ổi, ngươi đừng tưởng có thể dựa vào sự sủng ái của Thái hậu mà đảo lộn phải trái. Ta nói cho ngươi biết, một khi ngươi thất sủng, ta nhất định sẽ dùng đao cắt thịt ngươi từng mảnh, để ngươi chết ngàn lần cũng không đền hết tội!”

Bà ta càng rủa càng độc, nhưng Thôi Tuần vẫn điềm nhiên như không. Hắn lạnh lùng bảo tên vũ hầu bên cạnh: “Miệng của quận phu nhân cứng quá, dùng hình để bà ta mở miệng.”

Đám võ hầu như lang sói tiến về phía Vương Nhiên Tê. Bà ta sợ hãi co rúm vào góc tường, nhưng vẫn lớn tiếng hét: “Thôi Tuần! Ngươi dám động đến ta, phu quân ta nhất định sẽ giết ngươi!”

Thôi Tuần dùng vẻ mặt vô cảm nhìn bà ta giãy dụa. Khi vừa đặt kẹp ngón tay lên tay Vương Nhiên Tê, một tên vũ hầu vội vã chạy đến, ghé vào tai Thôi Tuần thì thầm điều gì đó. Hắn nhíu mày, rồi quát lớn: “Dừng tay.”

Nói xong, hắn cùng đám vũ hầu rời đi, bỏ lại Vương Nhiên Tê bị ném trở về ngục thất trong trạng thái bệ rạc.



Tâm thần bà ta chưa kịp yên ổn, xung quanh đã là nhà lao lạnh lẽo thấu xương. Ánh sáng nhợt nhạt le lói, mùi ẩm ướt hòa quyện với mùi hôi của xác thối. Từ nhỏ Vương Nhiên Tê đã quen sống trong nhung lụa, chưa bao giờ chịu khổ nhục như vậy. Bà ta quỳ xuống nôn thốc nôn tháo, đến khi trời đất đảo điên mới mệt mỏi dựa lưng vào tường.

Bùi Quan Nhạc sẽ đến cứu bà ta, đúng không? Dù hai người chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa, nhưng ông ta vẫn cần thân phận đích nữ Vương thị của bà ta. Huống hồ vợ mình bị Sát Sự Thính bắt đi là nỗi nhục lớn đến nhường nào, nhất định ông ta sẽ không mặc kệ.

Miễn là chịu được tra khảo thì bà ta sẽ còn đường sống.

Vương Nhiên Tê cắn chặt răng. Những hình cụ dành cho nữ phạm ở Sát Sự Thính không chỉ có kẹp ngón tay, mà còn có “Phượng hoàng xòe cánh,” “Ngọc nữ leo thang,” và “Tiên nhân hiến quả” [1] – mỗi loại đều là cực hình khắc nghiệt. Bà ta không dám chắc mình có thể chịu đựng nổi, nhưng lại hiểu rõ, một khi thú nhận, tất cả sẽ chấm hết. Vì thế, bà nhất định không được khai.

<i>[1]</i>

<i>– Phượng hoàng xòe cánh: hình phạt buộc tay ra hai bên như cánh phượng hoàng xòe rộng, sau đó kéo căng để gây đau đớn hoặc làm trật khớp. </i>

<i>– Ngọc nữ leo thang: bắt nạn nhân trèo hoặc bị kéo căng trên một v.ật c.ứng (như thang hoặc giá đỡ) để tra tấn cơ thể, làm tổn thương các cơ hoặc xương, gây đau đớn dữ dội.</i>

<i>– Tiên nhân hiến quả: hình phạt có liên quan đến các vật dụng tròn, giống như “quả,” được đặt vào hoặc ép lên các phần nhạy cảm của cơ thể, gây đau đớn hoặc sỉ nhục. </i>

Khi đang miên man suy nghĩ, bên tai lại vang lên tiếng roi da quất vào da thịt cùng tiếng kêu la thảm thiết của tù nhân. Mùi máu tanh lẫn trong không khí và mùi nôn mửa từ ngục thất xung quanh khiến bà ta càng thêm hoảng loạn. Bà ta ôm đầu, vừa sợ hãi, vừa kinh hoàng, rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Không rõ đã ngủ bao lâu, bỗng bà ta nghe thấy một giọng gọi khẽ: “Tiểu nương tử.”

Tiểu nương tử? Bà ta đã xuất giá ba mươi năm, ai lại gọi bà ta như vậy?

Vương Nhiên Tê mơ màng mở mắt, đập vào mắt là một gương mặt bê bết máu.

Bà ta hét thất thanh, co người run lẩy bẩy: “Ngươi! Ngươi là ai?”

“Tiểu nương tử không nhận ra ta sao?” Người đó vén mái tóc xác xơ, để lộ một khuôn mặt thuần hậu, chất phác. “Ta là Vương Đoàn Nhi.”

“Vương… Vương Đoàn Nhi…” Vương Nhiên Tê run rẩy đến cắn lập cập: “Ngươi… không phải đã chết rồi sao?”

“Đúng vậy, ta đã chết rồi.” Vương Đoàn Nhi nở nụ cười ghê rợn: “Chính tiểu nương tử đã đâm ta, từng nhát, từng nhát, đâm chết ta.”

Vương Nhiên Tê sợ đến mức mặt mũi tái mét: “Ngươi… ngươi là quỷ?”

Vương Đoàn Nhi gật đầu, đôi mắt rỉ máu: “Ta là quỷ.”

Vương Nhiên Tê run run: “Ngươi… ngươi đến để làm gì?”

“Tất nhiên là tìm tiểu nương tử để báo thù.”

“Báo thù… báo thù…” Vương Nhiên Tê bò lồm cồm trên đất, cuối cùng lại chui vào góc tường, không màng đến vũng nôn bẩn thỉu trước đó. Bà ta ôm đầu, hét lên trong bàng hoàng: “Có ai không! Có quỷ! Có quỷ!”

Nhưng bên ngoài, đám ngục tốt vẫn chuyện trò rôm rả, không một ai để ý đến bà ta, như thể họ chẳng hề nhìn thấy Vương Đoàn Nhi.

Cảnh tượng này giống hệt ngày hôm đó khi Lý Doanh xuất hiện trong xe ngựa. Bà ta tuyệt vọng gào thét, nhưng những người xung quanh chẳng ai nghe thấy hay nhìn thấy, khiến bà ta phải một mình đối mặt với hồn ma đáng sợ ấy.

Nước mắt và nước mũi tuôn trào, Vương Nhiên Tê nức nở: “Đoàn Nhi, là ta có lỗi với ngươi! Ta sẽ thắp đèn trường minh, ta sẽ siêu độ cho ngươi, tha cho ta… tha cho ta…”

“Tiểu nương tử, ta chưa từng nghĩ đến chuyện sẽ tố giác người. Sao người lại giết ta?” Vương Đoàn Nhi oán hận, giọng đầy căm phẫn: “Người còn vứt xác ta nơi hoang vu, lạnh lẽo vô cùng. Lũ yêu quỷ đã kéo đến cắn xé thi thể ta, người nhìn xem!”

Vương Đoàn Nhi vén tay áo, để lộ hai cánh tay đầy những vết thương lớn như miệng bát, những vết sẹo nham nhở lộ ra phần thịt đỏ thẫm và phần xương trắng toát. Ở nơi đó, lũ giòi bọ đang bò lổm ngổm. Vương Nhiên Tê hét lên một tiếng chói tai, cúi người thổ ra từng cơn.

Đợi đến khi không còn gì để nôn, chỉ còn dịch vàng trào ra khỏi miệng. Lúc này, Vương Đoàn Nhi mới bình thản nói: “Tiểu nương tử, giết người thì đền mạng. Hãy trả lại mạng cho ta.”

Nói rồi, nàng ta đưa tay ra, định bóp lấy cổ Vương Nhiên Tê. Khoảng cách quá gần, đến mức Vương Nhiên Tê có thể thấy rõ những lỗ thủng đẫm máu trên mặt Vương Đoàn Nhi, khiến bà ta bị dọa đến phát điên. Bà ta lăn lộn bò về phía cửa ngục, điên cuồng đập tay lên thanh chắn gỗ: “Người đâu! Cứu mạng! Cứu mạng!”

Thế nhưng, chẳng ai đáp lại. Vương Nhiên Tê cảm nhận được những ngón tay lạnh như băng của Vương Đoàn Nhi đang siết lấy cổ mình. Bà ta sợ đến mức hồn bay phách lạc, cho đến khi nhìn thấy tà áo đỏ thẫm của người kia lại lần nữa xuất hiện.

Như kẻ chết đuối vớ được cọc, bà ta vội đưa tay qua thanh chắn, hét lên: “Thôi Tuần! Không, Thôi Thiếu khanh! Cứu ta! Cứu ta ra ngoài! Ta sẽ khai hết, cứu ta! Cứu ta!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 17: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 1)


Khi Thôi Tuần trở về Thôi phủ, trời đã sang canh ba. Hắn bước thẳng vào thư phòng, từ cửa sổ lụa xanh có thể lờ mờ thấy ánh đèn bên trong. Thôi Tuần gõ cửa vài lần, nhưng không ai ra mở. Hắn cau mày, đèn còn sáng chứng tỏ Lý Doanh chưa nghỉ, vậy sao nàng lại chậm trễ không ra? Hay đã có chuyện gì xảy ra rồi? Suy nghĩ vừa thoáng qua, ánh mắt hắn lạnh đi, chuẩn bị đẩy cửa thì đúng lúc đó, cánh cửa bật mở, kêu lên tiếng “két”.

Lý Doanh khoác trên mình tấm áo choàng lông hồ ly, mái tóc chưa chải, mượt mà như lụa rũ xuống ngang vai. Chiếc áo choàng đỏ rực như lửa càng làm nổi bật làn da trắng mịn của nàng, khiến vẻ đẹp ấy vừa yêu kiều vừa thanh tú. Mỗi lần Thôi Tuần gặp Lý Doanh, nàng luôn chỉnh chu, đoan trang, tư thái toát lên vẻ cao quý của một nàng công chúa triều Đại Chu. Nhưng hôm nay, nàng lại khoác áo ngoài và buông tóc lòa xòa như vậy. Thấy hắn nhìn mình chăm chú, nàng thoáng ngượng ngùng:

“Xin lỗi, ta vừa mới nằm nghỉ, nên xiêm y chưa chỉnh tề, thật khiến Thôi Thiếu khanh phải chê cười…”

Lúc này, Thôi Tuần mới nhận ra, hắn vội dời ánh mắt khỏi nàng và nhìn về phía đèn bạch sứ đang cháy trong phòng:

“Ta thấy cô còn để đèn, tưởng rằng cô chưa nghỉ.”

“Ta quen rồi, đêm nào cũng để đèn.”

“Tại sao?”

Lý Doanh cúi đầu, cười khổ: “Có lẽ vì hồ sen quá tối, từ ngày rời khỏi đó, ta sợ bóng tối hơn hẳn.”

Giọng nàng mỗi lúc một nhỏ dần, như không muốn để hắn thấy nỗi đau trong ánh mắt mình, đầu nàng cúi thấp hẳn xuống. Thôi Tuần nhìn thấy bờ vai mảnh mai lộ ra dưới lớp tóc mềm, bàn tay dưới lớp quan phục của hắn khẽ siết lại nhưng rồi cũng nhanh chóng buông ra. Hắn nói: “Ta có chuyện muốn nói với cô.”

Lý Doanh ngước lên: “Chuyện gì?”

Thôi Tuần nhìn sâu vào đôi mắt nàng, những lời đã chuẩn bị sẵn lại không thốt ra được. Thấy thế, Lý Doanh mỉm cười, nói: “Bên ngoài gió lạnh, Thôi Thiếu khanh vào trong uống chén trà rồi hãy nói.”



Thôi Tuần ngồi ngay ngắn trước án thư, Lý Doanh ngồi đối diện hắn. Nàng cẩn thận lấy bánh trà Tử Duẩn ra hơ qua ngọn lửa cho dậy hương, rồi tỉ mỉ nghiền thành bột trong chén trà hoa văn tròn mạ vàng, sau đó, nàng dùng rây lọc trà thật kỹ trước khi cho vào ấm bạc đặt trên lò nhỏ. Nàng chậm rãi khuấy than để làm lửa bùng lên, ánh than đỏ hồng phản chiếu lên gương mặt thanh khiết của nàng, tựa một bức tranh tĩnh lặng, yên bình mà đẹp đẽ.

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng pha trà, trong lòng bất chợt tràn ngập một cảm giác yên bình mà bao lâu nay hắn không thể có được. Nước trong ấm trà đã sôi, mùi thơm dịu nhẹ lan tỏa. Lý Doanh vừa định rót trà ra chén bạc thì phát hiện cửa sổ gỗ chưa đóng kín. Nàng đứng dậy, nhẹ nhàng đi đến đóng cửa, rồi quay lại bên án thư. Khi nàng quay lại, Thôi Tuần đã tự mình rót trà. Hắn nhấp một ngụm và nói: “Trà ngon.”

Lý Doanh thẹn thùng, mỉm cười: “Thôi Thiếu khanh quá khen rồi.”

Thôi Tuần liếc nhìn bàn trà, thấy một khối long não đặt trên đó: “Long não là dược liệu quý, công chúa định làm túi thơm cho Thái hậu sao?”

Lý Doanh hơi sững lại, nàng cất khối long não vào lòng bàn tay, không trả lời trực tiếp mà chỉ đáp khẽ: “Ừm.” Thôi Tuần đặt chén trà xuống, ánh mắt rơi vào trầm tư: “Công chúa quả huệ chất lan tư, trà đạo, hương đạo đều tinh thông, chẳng trách Tiên đế và Thái hậu lại yêu mến công chúa đến vậy.”

Lý Doanh cười nhẹ, nét mặt lộ vẻ hoài niệm: “Làm con cái, không có gì nhiều để báo đáp phụ mẫu, chỉ biết pha trà, đốt hương, làm những việc nhỏ nhoi này thôi.”

Lời nói của nàng thấm đẫm tình cảm sâu nặng dành cho Tiên đế và Thái hậu. Thôi Tuần bỗng nhớ đến câu nói của Thái hậu ngày đó: “Minh Nguyệt Châu, nàng là người con gái mà ngô yêu thương nhất. Ba mươi năm trước là như vậy, và ba mươi năm sau, lại càng là như vậy.”

Hắn cúi đầu, một lần nữa cầm chén trà lên, nhấp một ngụm vị trà Tử Duẩn thanh mát, nước trà màu ngọc bích, để lại hậu vị lâu dài. Hắn đặt chén xuống và cuối cùng nói: “Hôm nay, ta đã bắt được Vương Nhiên Tê.”

Lý Doanh ngẩn người: “Ngài đã bắt Vương Nhiên Tê?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, bàn tay giấu trong tay áo vô thức siết chặt lại. Hắn mím môi, thản nhiên nói: “Ta đã giam bà ta vào Sát Sự Thính, rồi tìm một đào kép có dung mạo giống Vương Đoàn Nhi để giả làm oan hồn của nàng. Vương Nhiên Tê vốn luôn sợ ác quỷ đòi mạng, quả nhiên bà ta đã mắc bẫy, sợ đến mức phải khai nhận.”

Ánh mắt hắn dán vào Lý Doanh, chậm rãi nói từng chữ: “Bà ta đã thú nhận, chính bà ta là kẻ đã giết cô.”

Lý Doanh nghe được câu trả lời mà nàng đã truy tìm bấy lâu, đầu tiên là sững sờ, sau đó lẩm bẩm: “Quả nhiên là bà ta…”

“Có muốn hỏi lý do không?”

Lý Doanh cắn chặt môi, suốt ba mươi năm nàng đã chờ đợi khoảnh khắc này, cuối cùng kẻ thủ ác cũng phải đền tội. Nhưng có lẽ vì thời gian quá dài, suốt ba thập kỷ đằng đẵng, mà giờ đây trong nàng lại dâng lên cảm giác mơ hồ, như tất cả đều không thực. Nhận thấy nàng im lặng quá lâu, Thôi Tuần nói: “Nếu không muốn, cô không cần phải đi.”

“Không, ta muốn đi.” Lý Doanh ngẩng đầu, kiên quyết nói: “Ta không đáng chết. Ta phải biết, vì sao bà ta muốn gi.ết ch.ết ta.”



Đây là lần thứ hai Lý Doanh bước chân vào ngục thất của Sát Sự Thính. Lần đầu tiên, Thôi Tuần dẫn nàng đến để dọa nàng, cố tình cho nàng xem cảnh hắn tra tấn Vương Lương bằng cực hình. Lần thứ hai, vẫn là Thôi Tuần dẫn nàng đi, nhưng lần này là để đối diện với hung thủ đã sát hại nàng.

Đi theo sau Thôi Tuần, qua ô cửa sắt nhỏ, nàng trông thấy Vương Nhiên Tê co ro trong góc phòng giam. Máu me phủ đầy gương mặt bà ta, những vết rạch sâu hằn trên da thịt tạo thành những đường nét dữ tợn đáng sợ. Lý Doanh không khỏi liếc nhìn Thôi Tuần, hắn liền đáp: “Không liên quan đến ta, là do bà ta tự làm.”

Trong ngục phòng, Vương Nhiên Tê giơ đôi tay gầy gò, móng tay dài nhuộm đỏ màu hoa phượng tiên, quờ quạng giữa không trung, giọng bà ta khản đặc đầy sợ hãi: “Ma! Ma! Đừng tới đây! Đừng tới đây!”

“Không còn ma nào dọa bà ta nữa.” Thôi Tuần nói, “Bà ta đã tự dọa mình đến phát điên rồi.”

Lý Doanh nhìn bộ dạng thảm hại của Vương Nhiên Tê, lòng không rõ là thương hại hay căm ghét: “Không làm việc trái lương tâm thì không sợ ma quấy phá. Bà ta sợ ma quỷ hung ác, nhưng chính bà ta còn ác gấp vạn lần chúng ta.”

Vương Nhiên Tê lại cào cấu không khí, rồi chuyển sang cào rách da thịt trên mặt và cổ mình, gào thét điên cuồng: “Ma! Ma! Mau cút đi! Cút đi!”

Khuôn mặt bị cào rách nát, máu thịt lộ ra, thảm không nỡ nhìn. Thôi Tuần quay sang Lý Doanh, hỏi: “Cô muốn hỏi bà ta điều gì?”

Lý Doanh trầm mặc một lúc. Có quá nhiều điều nàng muốn hỏi, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Là hỏi vì sao bà ta giết nàng? Hay hỏi bà ta đã giết nàng thế nào? Hoặc tại sao Trịnh Quân lại nhận tội thay bà ta? Những câu hỏi đó cứ xoay vần trong tâm trí, không biết nên gỡ ra từ chỗ nào.

Thôi Tuần dường như đoán được tâm trạng rối bời của nàng, bèn nói: “Để ta hỏi.”

Hắn gõ nhẹ lên ô cửa sắt của phòng ngục. Tiếng động khiến Vương Nhiên Tê giật mình hoảng sợ, quay phắt về phía cửa sắt. Khuôn mặt như hoa sen của Thôi Tuần hiện ra phía sau song cửa, lãnh đạm mà uy nghiêm.

Rõ ràng trước mắt là một Diêm La đến đòi mạng, nhưng Vương Nhiên Tê lại như nhìn thấy cọng rơm cứu mạng, bò tới sát cửa, dồn sức đập mạnh vào tường: “Thôi Thiếu khanh, cứu ta, cứu ta!”

Thôi Tuần nhếch môi cười nhạt: “Muốn ta cứu bà, vậy ta hỏi gì, bà phải trả lời cái đó.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 18: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 2)


“Vì sao bà lại muốn giết công chúa Vĩnh An?”

Giữa lời thú tội nửa tỉnh nửa mê của Vương Nhiên Tê, cuối cùng Lý Doanh cũng vén được bức màn sự thật về vụ án đẫm máu ba mươi năm trước.

Vương Nhiên Tê xuất thân từ Vương thị Thái Nguyên, một trong ngũ tính thất vọng của Đại Chu. Từ nhỏ, bà ta đã kiêu ngạo, hiếu thắng, sớm thề rằng nhất định sẽ gả cho một vị hôn phu tốt nhất thiên hạ. Người ấy phải có dung mạo tuấn tú, tài hoa hơn người, tính tình ôn hòa, xuất thân cao quý, gia tài đồ sộ, tiền đồ vô lượng, và quan trọng nhất, là phải một lòng một dạ với bà ta, cả đời chỉ cưới bà ta làm thê tử, không để bà ta phải tranh giành với những tiện thiếp thấp kém.

Nghe qua thì ai cũng cho rằng đó là mộng tưởng viển vông, nhưng Vương Nhiên Tê là ai? Bà ta chính là đích nữ của Vương thị Thái Nguyên, và bà ta đã thật sự tìm được người chồng lý tưởng ấy.

Người đó chính là biểu huynh của bà ta, Trịnh Quân, xuất thân từ Trịnh thị ở Huỳnh Dương.

Mẫu thân của Trịnh Quân là dì ruột của bà ta, còn hắn thì phong độ nho nhã, ôn nhu như ngọc, hội đủ mọi điều kiện Vương Nhiên Tê mong muốn. Bà ta xác định rằng Trịnh Quân chính là phu quân lý tưởng của mình, liền tìm đủ mọi cách để tiếp cận hắn. Một nữ tử vì người mình trong mộng mà dùng chút mưu kế nhỏ nhoi cũng chẳng có gì đáng trách. Tình cảm giữa Trịnh Quân và Vương Nhiên Tê ngày càng sâu đậm, hai người thề non hẹn biển, tư định chung thân.

Nếu câu chuyện dừng lại ở đây, thì thế gian đã có thêm một đôi tài tử giai nhân môn đăng hộ đối, phu quân ôn tồn lễ độ, thê tử xinh đẹp thông minh. Dưới sự che chở của gia tộc, cuộc đời họ hẳn sẽ thuận buồm xuôi gió. Nhưng đáng tiếc, thế sự vẫn luôn khó lường.

Cô mẫu của Trịnh Quân, chính là đương triều Hoàng hậu Trịnh thị. Vì muốn lấy lòng hoàng đế, bà ta đã không tiếc lời, tán dương Trịnh Quân trước mặt hoàng đế, ý đồ tiến cử hắn làm phò mã cho công chúa Vĩnh An. Sau vài lần triệu kiến, hoàng đế thấy Trịnh Quân có phẩm chất tốt đẹp liền hạ chiếu chỉ, phong hắn làm phò mã.

Khi nhận được thánh chỉ, Trịnh Quân như bị sét đánh ngang tai, hắn không ngờ rằng những lần hoàng đế triệu kiến đều là để chọn phò mã cho công chúa Vĩnh An. Thật nực cười khi lúc đó hắn còn tưởng hoàng đế triệu hắn để phong chức, nên mới ra sức thể hiện, nào ngờ lại thành tự mua dây buộc mình.

Nhưng thánh chỉ đã ban xuống, liệu hắn có dám kháng chỉ?

Vương Nhiên Tê không thể chấp nhận, bà ta khóc lóc, làm loạn: “Huynh nói huynh không biết Thánh nhân triệu kiến là để chọn phò mã, ai mà tin kia chứ?”

Trịnh Quân thề thốt: “Ta thực sự không biết. Hoàng hậu cũng chưa từng nói với ta. Nếu ta biết trước, ta đã giấu bớt tài năng, đâu để bị chọn như vậy.”

Vương Nhiên Tê cười lạnh: “Huynh làm điều khuất tất, tất nhiên sẽ nói như thế! Huynh đúng là kẻ bội tình bạc nghĩa. Là ta có mắt không tròng, nhìn nhầm huynh rồi!”

Trịnh Quân cuống quýt: “Nếu ta thực sự bội bạc, trời tru đất diệt, nhà tan cửa nát!”

Nghe lời thề độc như vậy, Vương Nhiên Tê mới dần ngừng khóc. Bà ta tựa vào lòng Trịnh Quân, lòng đầy hoang mang về tương lai và chất chứa hận ý đối với Lý Doanh.

Nếu… nếu trên đời này không có công chúa Vĩnh An, thì tốt biết bao.



Nghe đến đây, Lý Doanh không khỏi bàng hoàng. Nàng nhớ lại ngày hôm đó, a gia bảo nàng ẩn mình sau bức rèm châu, quan sát một thiếu niên khí độ phi phàm, xuất khẩu thành thơ, nói năng lưu loát. Nàng biết rằng đây là người mà a gia muốn chọn làm phò mã cho nàng.

Sau khi thiếu niên rời đi, a gia vén rèm lên, mỉm cười hỏi: “Minh Nguyệt Châu, Trịnh Quân này, có thể làm phò mã của con không?”

Hai má nàng ửng đỏ, cúi đầu, khẽ đáp: “Người a gia chọn, ắt hẳn là lang quân tốt nhất trên đời rồi.”

Nàng luôn tin tưởng a gia và a nương. Huống hồ, Trịnh Quân kia từ dung mạo, gia thế và tài năng đều không chê vào đâu được, nàng đâu có gì để mà không hài lòng?

A nương lại có chút lo lắng, bởi bà và Hoàng hậu Trịnh thị vốn không hòa hợp. Bà lo rằng Trịnh Quân sẽ đối xử không tốt với nàng. Nhưng a gia đã ra mặt giải thích: “Linh Diệp, những năm qua ta đề xướng tân chính, đã đắc tội hết thảy thế gia. Cuộc chiến giữa hoàng quyền và thế gia sớm muộn cũng phải phân thắng bại. Nếu ta thắng, có ta bảo hộ, Trịnh gia sẽ không dám đối xử tệ với Minh Nguyệt Châu. Nếu ta bại, thì Minh Nguyệt Châu làm chính thê của Trịnh Quân. Hắn là một người có nhân phẩm chính trực, thế gia đại tộc như Trịnh thị lại trọng nhất là thể diện, nên nửa đời sau của con bé cũng sẽ được bình yên, không đến mức chịu liên lụy vì ta.”

Cha mẹ thương con, lo nghĩ sâu xa. A gia đã chọn lựa kỹ lưỡng mới định Trịnh Quân làm phò mã.

Nhưng dù tính toán thế nào, a gia cũng không biết rằng Trịnh Quân đã sớm có người trong lòng, thậm chí đã cùng Vương Nhiên Tê ngầm định chung thân.



Trong ngục thất, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Thôi Tuần lạnh lùng hỏi: “Cho dù Trịnh Quân đã trở thành phò mã, nguồn cơn cũng là do tư tâm của Trịnh hoàng hậu mà ra, đâu liên quan gì đến công chúa? Nếu bà và Trịnh Quân không thành đôi thì có thể tìm người khác gả đi, cớ gì phải giết công chúa?”

“Ta vốn không có ý giết nàng ta!” Vương Nhiên Tê vừa khóc vừa cười, đáp: “Ta là nữ nhi của Vương thị ở Thái Nguyên, cho dù không thể có một lang quân xuất sắc như Trịnh Quân, ta cũng không lo không lấy được chồng. Ta không đấu lại công chúa, chỉ đành cam chịu số phận!”

“Vậy vì sao bà lại giết nàng?” Thôi Tuần lạnh lùng hỏi.

“Ta vốn đã muốn buông bỏ, nhưng mà… nhưng mà…” Vương Nhiên Tê quỳ sụp xuống nền gạch xám lạnh lẽo. Nền gạch vốn xanh biếc, giờ bị máu thấm đẫm, chẳng còn nhận ra màu nguyên bản, chỉ để lại những vết đen nhức mắt. Ánh mắt bà ta đăm đăm nhìn qua khung cửa sắt nhỏ hẹp, nhìn về phía bóng dáng thanh nhã như hoa sen của Thôi Tuần, nhưng trong mắt bà ta đó lại là một thân ảnh tú lệ khác. Vương Nhiên Tê cười phá lên, rồi lảo đảo đứng lên, chỉ tay vào bóng hình mờ ảo, bắt đầu gào lên: “Nhưng, nhưng mà ai bảo Trịnh Quân lại yêu nàng ta!”

Một câu nói như sấm rền vang trời, cả Lý Doanh và Thôi Tuần đều sững sờ. Thôi Tuần không dám tin: “Bà nói, Trịnh Quân… yêu công chúa Vĩnh An?”

Vương Nhiên Tê bật cười khanh khách: “Công chúa Vĩnh An, yểu điệu thướt tha, thông minh tài giỏi, sáng rực như ánh trăng, lại còn lương thiện, tính tình hòa nhã. Phải rồi, ai mà không thích nàng ta chứ? Tiên đế yêu thích nàng, Thái hậu yêu thích nàng, quan lại yêu thích nàng, cung nữ yêu thích nàng, và thậm chí… Trịnh Quân cũng yêu thích nàng!”

Lời nói của bà ta ngập tràn oán hận: “Trịnh Quân nói sẽ không bao giờ phụ ta, hắn thề rằng không phải kẻ bội tình bạc nghĩa. Nhưng chỉ mới gặp công chúa có vài lần thôi, mà hắn đã đem lòng yêu nàng? Vậy còn ta, người đã cùng hắn thề non hẹn biển nhiều năm, hóa ra chỉ là một trò đùa? Ta phải dùng biết bao thủ đoạn mới có được tình yêu của hắn, vậy mà tình yêu đó lại dễ dàng bị chuyển dời sang công chúa Vĩnh An! Thế thì ta là gì? Chẳng lẽ ta, Vương Nhiên Tê, lại thua kém nàng, Lý Doanh sao?”

Vương Nhiên Tê không cam lòng, thực sự không cam lòng. Bà ta tận mắt chứng kiến sự thay đổi trong thái độ của Trịnh Quân. Khi nói về Lý Doanh, từ chỗ trách móc, ánh mắt hắn dần trở nên dịu dàng đầy yêu thương. Hắn nói: “Việc chọn phò mã không liên quan gì đến công chúa.”

Hắn còn nói: “Thật ra công chúa là người lương thiện nhất. Chúng ta không nên oán hận nàng.”



Vương Nhiên Tê không thể chấp nhận điều đó. Bà ta có thể chấp nhận việc Trịnh Quân trở thành phò mã vì không thể kháng chỉ, nhưng không thể chấp nhận việc người đàn ông đã hứa hẹn với bà ta bao năm lại dễ dàng yêu một người khác. Tại sao chứ? Một nữ tử có xuất thân thấp hèn từ gia đình thương nhân, rốt cuộc là dựa vào điều gì?

Trịnh Quân không chịu thừa nhận. Hắn không thừa nhận mình đã yêu công chúa Vĩnh An. Phải rồi, những kẻ bạc tình trên đời này đều như vậy, dù trong lòng đã thay đổi nhưng vẫn khăng khăng phủ nhận. Bà ta khóc lóc không ngừng, lấy cái chết ra uy h**p. Trịnh Quân lần này không thề thốt, chỉ liên tục lặp lại: “Ta không yêu công chúa, người ta yêu là muội.”

Bà ta không tin, cầm lấy con dao mà Trịnh Quân đã tặng để phòng thân, định tự vẫn. Trịnh Quân vội cướp lấy dao, lòng bàn tay bị rạch một vết sâu: “Biểu muội, phải làm thế nào thì muội mới tin ta?”

Bà ta cười lạnh: “Muốn ta tin huynh? Được thôi, vậy huynh hãy giết Lý Doanh đi. Nếu huynh giết nàng, ta sẽ tin huynh!”



Ai mà ngờ được, cái chết của Minh Nguyệt Châu, viên ngọc sáng chói nhất Đại Chu, lại bắt nguồn từ lòng đố kỵ của một nữ nhân?

Thôi Tuần cau mày, đôi mắt lạnh băng: “Chỉ vì Trịnh Quân thay lòng đổi dạ, mà bà muốn giết công chúa sao?”

Vương Nhiên Tê bật cười thê lương, giọng bà ta đầy căm phẫn: “Ngươi chưa từng yêu ai, làm sao ngươi hiểu được cảm giác bị phản bội?”

Lý Doanh không thể tin nổi rằng cái chết của mình lại bắt nguồn từ một cuộc tranh giành tình cảm mà nàng hoàn toàn không hay biết. Nàng ngây người nhìn Vương Nhiên Tê, người phụ nữ ấy đã gần năm mươi, trải qua ba mươi năm, vì được bảo dưỡng thỏa đáng vẫn giữ được nét quý phái của một tiểu thư thế gia. Thế nhưng, nét quý phái ấy giờ đây đã đã bị bóp méo, thay thế bằng lòng hận thù xấu xa. Vương Nhiên Tê, nữ nhi của họ Vương ở Thái Nguyên, đã bị lòng đố kỵ nuốt chửng đến mức chính bản thân bà ta cũng chẳng nhận ra mình nữa. Lý Doanh bất giác rùng mình, nàng khẽ lẩm bẩm: “Không, ngươi không giận vì bị Trịnh Quân phản bội. Ngươi giận vì không thể vượt qua ta.”

Nhưng dù là lý do nào đi nữa, nàng có tội tình gì?

Nhưng Vương Nhiên Tê không nghe thấy lời nàng, bà ta chỉ tiếp tục nói trong điên loạn: “Điểm yếu lớn nhất của Trịnh Quân chính là mềm lòng. Ta khóc, náo loạn, thậm chí dọa chết, hắn liền hoảng sợ, cảm thấy có lỗi với ta, rồi đồng ý. Ha, nghĩ lại cũng phải, khi đó cả hai chúng ta còn quá trẻ, hắn mười bảy, ta mười lăm, đều chẳng biết trời cao đất dày là gì. Ai mà ngờ rằng được nộ khí của thiên tử lại có thể khiến xác phơi trăm dặm, máu chảy thành sông?”

Thôi Tuần lạnh lùng nói: “Đại Chu có luật, sát hại hoàng tộc chẳng khác nào mưu phản, tru di cửu tộc. Bà ngu muội, chẳng lẽ Trịnh Quân cũng ngu muội như vậy?”

“Ta đã nói rồi, hắn mềm lòng.” Vương Nhiên Tê cất giọng trầm thấp, như thể trước mắt bà ta lại hiện lên khuôn mặt ôn hòa như ngọc của Trịnh Quân: “Hắn bị ta ép đến mức không còn cách nào khác. Ta bảo hắn rằng chúng ta sẽ hành động hoàn hảo, không để lại sơ hở nào. Cho dù có bị phát hiện, cùng lắm thì ta sẽ chết cùng hắn, còn họ hàng nhà hắn, nhất định không sao. Chẳng lẽ hắn chưa từng nghe chuyện Thánh nhân tu sửa Tông Tộc Chí sao?”

Việc tu sửa Tông Tộc Chí vốn là chỉ dụ của Thái Xương Đế, giao cho Thượng thư Bộ Lại và Thị lang Bộ Lễ biên soạn gia phả tông tộc. Tuy nhiên, không ngờ rằng quần thần lại xếp “Ngũ tính Thất vọng” lên trên hoàng tộc họ Lý, trong đó họ Thôi ở Bác Lăng đứng đầu tiên. Thái Xương Đế giận dữ, hạ lệnh sửa lại, nhưng các đại thần kiên quyết phản đối, nói rằng nếu xếp hoàng tộc họ Lý trước họ Thôi, sẽ gây chấn động thiên hạ, khiến sĩ nhân coi việc được ghi vào Tông Tộc Chí là sỉ nhục. Cuối cùng, sự việc rơi vào bế tắc, Bác Lăng Thôi thị vững vàng ngồi ở vị trí cao nhất trong các đại tộc, dẫn đầu sĩ tộc. Từ đó, “Ngũ tính Thất vọng” ngày càng kiêu ngạo, thế nhân truyền tai nhau rằng: “Thà cưới con gái ngũ họ, chứ không vào làm rể hoàng gia.”

Vương Nhiên Tê tin tưởng rằng, dù Trịnh Quân có giết Lý Doanh, việc này cũng sẽ không ảnh hưởng đến gia tộc Trịnh thị ở Huỳnh Dương.

Nhưng đáng tiếc, bà ta đã sai.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 19: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 3)


Vương Nhiên Tê nhiều lần khóc lóc, nhiều lần thuyết phục. Bà ta nói, chỉ cần Lý Doanh chết, họ có thể tái hợp bên nhau. Dưới sức ép không ngừng của bà ta, cuối cùng Trịnh Quân cũng đồng ý. Vương Nhiên Tê tìm được một nội ứng trong cung, chính là cung nữ Vương Đoàn Nhi ở cục Thượng Y, người trước kia từng là gia nô ở Vương phủ. Ban đầu, Vương Đoàn Nhi sống chết không chịu, nhưng Vương Nhiên Tê dùng ân tình để uy h**p, khiến Vương Đoàn Nhi vì sợ hãi mà phải gật đầu.

Kế hoạch của bọn họ là để Trịnh Quân viết thư hẹn Lý Doanh ra gặp ở hồ sen vào ban đêm. Lý Doanh vốn thẹn thùng, sẽ không nói việc hẹn hò với phò mã cho bất kỳ cung nữ nào, và tất nhiên sẽ không dẫn theo ai. Khi nàng đến hồ sen, Vương Đoàn Nhi sẽ bám theo rồi đẩy nàng xuống hồ, tạo ra cảnh tượng Lý Doanh trượt chân ngã xuống hồ mà chết.

Kế hoạch này đầy rẫy những sơ hở, vì xét cho cùng, Vương Nhiên Tê và Trịnh Quân chỉ là con cháu thế gia được nuông chiều, nào phải bậc kỳ tài về mưu lược. Khi ngày thành thân của Trịnh Quân và Lý Doanh đến gần, dù có nhiều lỗ hổng đến đâu thì kế hoạch ấy cũng buộc phải tiến hành.

Thật không ngờ, kế hoạch đầy bất cẩn ấy lại thành công.

Lý Doanh lẩm bẩm: “Nếu Vương Đoàn Nhi là người đẩy ta xuống, thì tại sao Trịnh Quân lại không khai ra bà ta?”

Thôi Tuần ngừng một chút, đem nghi vấn của nàng hỏi Vương Nhiên Tê: “Vì sao cuối cùng Trịnh Quân lại nhận hết tội lỗi về mình?”

Vương Nhiên Tê nước mắt như mưa: “Vì sao hắn lại nhận hết tội lỗi về mình ư? Đúng vậy, ta cũng muốn hỏi hắn vì sao lại làm thế? Ta từng cố tự an ủi mình, rằng hắn vì tình mà che giấu mọi tội lỗi thay ta, nhưng… ta biết, không phải vậy!”

Bà ta điên cuồng, nghiêng đầu nhìn Thôi Tuần, giọng cười như khóc: “Hắn gánh hết tội lỗi là vì hắn muốn chết. Vì sao hắn muốn chết? Vì hắn muốn chết cùng Lý Doanh!”



Đêm mùng sáu tháng mười, trời thu.

Đêm đó vốn dĩ là một đêm bình thường. Vương Nhiên Tê và Trịnh Quân đang ngồi ở tửu quán chờ tin tức, nhưng Trịnh Quân cứ không yên lòng, bồn chồn đứng ngồi không yên. Vương Nhiên Tê rót rượu cho hắn, nhưng hắn cũng chẳng uống.

Hắn đi qua đi lại đầy lo lắng, cuối cùng không chịu nổi nữa, hắn lao ra ngoài, nhảy lên lưng ngựa. Vương Nhiên Tê đuổi theo, nắm lấy dây cương: “Biểu huynh, huynh định làm gì?”

“Ta phải đi cứu nàng!”

Vương Nhiên Tê như bị sét đánh ngang tai: “Huynh nói gì? Huynh muốn đi cứu nàng ta?”

“Chúng ta sai rồi.” Mắt Trịnh Quân đỏ hoe: “Nàng không đáng phải chết!”

Vương Nhiên Tê không thể tin nổi: “Huynh dám cứu nàng ta? Ta liều mạng cùng huynh làm chuyện này, đến phút cuối huynh nói muốn cứu nàng ta là sao?”

“Biểu muội, ta có lỗi với muội! Nhưng mọi chuyện không liên quan đến nàng ấy. Hãy để ta một mình gánh chịu tất cả!”

Dứt lời, Trịnh Quân vung roi giục ngựa, bóng ngựa lao đi như tia chớp hướng về cung Đại Minh. Vương Nhiên Tê bị hất ngã xuống đất, toàn thân đau nhói, mặt bà ta tái nhợt như tro tàn: “Hắn điên rồi, hắn thật sự điên rồi…”

Hắn đi cứu người mà chính hắn định giết.



Trường An đã đến giờ giới nghiêm, nhưng Trịnh Quân có tử kim ngư đại do Thái Xương Đế ban tặng, nên có thể tùy ý xuất nhập cửa cung. Hắn phóng ngựa suốt đêm, chỉ để cứu vị hôn thê mà lẽ ra hắn phải giết. Nhưng đáng tiếc, khi hắn đến hồ sen thì đã quá muộn. Trước mắt hắn chỉ còn lại thi thể Lý Doanh nổi trên mặt nước.

Hắn như bị ngũ lôi đánh trúng, quỳ sụp xuống đất, che mặt khóc rống. Hắn muốn kéo thi thể Lý Doanh lên bờ, nhưng khi nghe thấy tiếng người, hắn hoảng loạn bỏ chạy.

Hắn sợ hãi, sợ phải đối diện với Thái Xương Đế, sợ phải đối diện với Khương Quý phi, và càng sợ khi phải đối diện với Lý Doanh.

Hắn hoảng hốt chạy trốn, đến khi bị Thôi Tụng Thanh bắt vào Đại Lý Tự, hắn không biện bạch, nhận hết tội danh, chỉ một lòng cầu chết.



Vương Nhiên Tê nức nở: “Trịnh Quân, tên phụ tình bạc nghĩa ấy, hắn nghĩ rằng không khai ra ta thì ta sẽ cảm kích hắn sao? Hừ, chính hắn đã thề, nếu phụ tình thì sẽ nhà tan cửa nát, chết không toàn thây. Nay lời thề ứng nghiệm, chẳng lẽ ta ngu ngốc đến mức tự thú để chết theo hắn sao? Không, ta sẽ không làm vậy. Ta muốn cưới một phu quân như ý, để hắn dưới cửu tuyền nhìn kỹ xem kẻ phản bội ta phải chịu kết cục ra sao!”

“Trịnh Quân đã chết, trên đời này chỉ còn một người biết ta phạm tội, đó là Vương Đoàn Nhi. Chính nàng ta đã đẩy Lý Doanh xuống, nhưng vì sợ hãi, nàng ta sống trong cảnh nơm nớp lo âu. Ta hẹn gặp nàng ta, dùng chính con dao Trịnh Quân tặng để đâm thủng nàng ta từng nhát, từng nhát một. Khi chết, mắt nàng ta vẫn mở trừng trừng, chắc chưa bao giờ nàng ta ngờ rằng, chủ tử mà nàng ta tôn thờ sẽ là kẻ giết nàng ta để diệt khẩu.”

Thôi Tuần trầm giọng hỏi: “Bà giết Vương Đoàn Nhi, rồi vứt xác ra vùng núi hoang sao?”

“Không phải ta. Ta là một nữ nhân yếu đuối, làm gì có bản lĩnh đó? Chính là Bùi Quan Nhạc, khi ấy là đội trưởng chánh thất phẩm của Huân Dực Vệ. Khi Vương Đoàn Nhi ra khỏi cung, hắn nghi ngờ có điểm bất thường nên lặng lẽ bám theo, sau đó bắt gặp ta giết người, dùng chuyện này uy h**p ta phải gả cho hắn, nếu không hắn sẽ tố cáo ta. Ta đâu dám để hắn làm thế? Một khi bị vạch trần, việc giết Lý Doanh tất nhiên bại lộ. Ta đành phải đồng ý làm thê tử của kẻ hèn mọn, đổi lại, hắn giúp ta xử lý thi thể Vương Đoàn Nhi, vứt xác ngoài núi hoang. Lúc đó, triều đình và hậu cung đều náo loạn vì cái chết của công chúa, máu chảy thành sông, chẳng ai để ý đến sự biến mất của một cung nữ ở cục Thượng Y. Và ta đã bình an sống thêm ba mươi năm như thế.”

Ba mươi năm qua, không chỉ bình an, bà ta còn hết lòng giúp đỡ phu quân tiến thân, bày mưu tính kế, sống an nhàn sung túc. Nhưng liệu trong những giấc mơ lúc nửa đêm, có khi nào bà ta nhìn thấy biểu huynh Trịnh Quân, kẻ đã bị bà ta xúi giục, cuối cùng thân vong đầu lìa hay không?

Thôi Tuần lại hỏi: “Bùi Quan Nhạc có biết bà đã giết công chúa Vĩnh An không?”

Vương Nhiên Tê bật cười khinh miệt: “Có lẽ hắn biết, có lẽ không, ai mà biết được. Dù sao thì hắn cũng chưa bao giờ hỏi. Thứ hắn cần chỉ là danh phận con rể của Vương thị Thái Nguyên mà thôi.”

Lý Doanh bỗng cảm thấy lạnh, nàng kéo chặt chiếc áo khoác lông hồ ly, thì thầm: “Ta không muốn nghe nữa, chúng ta đi thôi.”

Thôi Tuần gật đầu, xoay người muốn cùng nàng rời đi, nhưng Vương Nhiên Tê hoảng loạn, lao đến bên tường, vỗ vào song sắt, cầu xin: “Thôi Thiếu khanh, ngươi không thể đi! Ngươi đi rồi, công chúa Vĩnh An và Vương Đoàn Nhi sẽ đến tìm ta nữa mất!”

Thôi Tuần quay lại, cười khẩy: “Giết người không sợ, mà lại sợ quỷ?”

Vương Nhiên Tê á khẩu không đáp, bà ta chỉ biết liên tục khẩn cầu: “Ta đã khai nhận toàn bộ theo yêu cầu của ngươi rồi, hãy cứu ta! Cứu ta với!”

Thôi Tuần liếc nhìn bà ta, ném vào ô cửa sắt một vật nhỏ. Vương Nhiên Tê vội nhặt lên như báu vật, nâng niu trong tay và liên tục niệm: “Án ma ni bát mê hồng,” Lý Doanh nhìn kỹ, hóa ra đó là một chuỗi Phật châu bằng gỗ tử đàn.

Kẻ ác như vậy, thế mà lại cầm chuỗi hạt được khai quang, niệm thần chú cầu xin Phật tổ phù hộ. Trong lòng Lý Doanh không biết nên cảm thấy thế nào, nàng cười chua chát, kéo chặt áo khoác, không ngoảnh lại mà rời đi.



Khi về đến Thôi phủ, oan trái đã sáng tỏ, nhưng trà đã nguội lạnh.

Lý Doanh dường như vẫn chưa hồi phục khỏi cú sốc khi biết sự thật. Nàng ngồi thần người trước án thư, không nói một lời. Thôi Tuần cũng không bắt chuyện trước, chỉ cẩn thận chuẩn bị lại mọi thứ: từ nấu trà, nghiền trà, sàng lọc, cho nguyên liệu, thả trà, nấu nước, rót trà. Những ngón tay hắn thon dài, khi nhập vào trà đạo liền toát ra vẻ tao nhã ung dung, tư thái thoát tục, khiến người ta quên mất rằng hắn là một viên quan khét tiếng mà người đời ai cũng thóa mạ. Trước mắt họ lúc này còn là hình ảnh vị công tử họ Thôi ở Bác Lăng, sĩ tộc đứng đầu thiên hạ.

Thôi Tuần đưa chén trà đã rót sẵn cho Lý Doanh: “Uống trà đi.”

Lý Doanh nào có lòng dạ mà thưởng trà, nàng mơ màng nhận lấy, không nhấp từng ngụm mà uống cạn một hơi. Thôi Tuần liếc nhìn nàng, nói: “Đại thù của công chúa đã báo, sao lại chẳng thấy cô vui?”

Lý Doanh đặt chén trà bằng bạc xuống, gượng cười: “Ba mươi năm qua, ta đã nhiều lần tưởng tượng đến khoảnh khắc tìm ra hung thủ. Lúc đó, ta sẽ vui hay thấy hả hê? Nhưng khi thật sự tìm được, ta mới nhận ra mình không hề vui, cũng chẳng hả hê, ngược lại còn thấy lòng nặng trĩu.”

Nàng lẩm bẩm: “Ta cũng không biết vì sao lại thế, Thôi Thiếu khanh, ngài có hiểu được không?”

Nhưng hỏi xong, nàng lại lắc đầu tự đáp: “Không, nhất định ngài sẽ không hiểu.”

Bị vị hôn phu cùng tình nhân của hắn hợp mưu hãm hại nhưng phải đến ba mươi năm sau sự thật mới sáng tỏ. Nhưng sự thật có sáng tỏ thì có ích gì? Nàng vẫn chết, mãi mãi rời xa phụ mẫu, không còn cơ hội gặp lại họ nữa.

Cảm giác vừa mâu thuẫn vừa đau khổ sau khi trả thù, Thôi Tuần chưa từng trải qua, làm sao nàng có thể mong hắn hiểu được?

Lý Doanh thì thầm, không nhận ra Thôi Tuần đã siết chặt chén trà trong tay. Hắn cúi đầu, nhấp một ngụm, khẽ nói: “Phải, ta không hiểu.”

Lý Doanh im lặng, Thôi Tuần cúi đầu, lắc nhẹ chén trà, nhìn dòng nước xanh biếc gợn sóng: “Trà nguội rồi có thể đun lại, nhưng người đã chết thì không thể sống lại.”

Lý Doanh hơi mím môi, nhìn chén trà màu ngọc bích trong tay Thôi Tuần, lòng chợt trống trải. Nàng cảm thấy lời hắn nói như đang nhắm vào nàng, lại như không phải. Trong tâm trí nàng, lời thú nhận của Vương Nhiên Tê nơi lao ngục và gương mặt của Trịnh Quân ba mươi năm trước dần chồng lên hình ảnh Vương Nhiên Tê của ba mươi năm sau. Tình yêu, hận thù, tham lam, sân hận, cứ như một giấc mộng dài.

Giờ đây, giấc mộng ấy đã đến hồi tỉnh giấc, nàng cũng nên tìm cho mình một con đường mới ở kiếp sau.

Lý Doanh ngẩng đầu hỏi Thôi Tuần: “Vương Nhiên Tê sẽ ra sao? Trượng phu của bà ta sẽ cứu bà ta chứ?”

“Ông ta không dám.” Thôi Tuần đáp: “Ông ta là kẻ thông minh, sẽ không vì Vương Nhiên Tê mà chôn vùi tiền đồ rực rỡ của riêng mình.”

Lý Doanh thở phào: “Vậy Vương Nhiên Tê sẽ bị trừng phạt chứ?”

“Ta sẽ tấu việc này lên Thái hậu và Thánh nhân. Thái hậu yêu thương công chúa như mạng, dưới cơn thịnh nộ của bà, nhất định sẽ xử tử Vương Nhiên Tê.”

Lý Doanh gật đầu: “Bà ta chết rồi, ta mới có thể đi đầu thai.”

Là một người chết oan, chỉ cần những kẻ hãm hại nàng chịu báo ứng, thì oán khí mới tiêu tan, nàng mới có thể chuyển kiếp, không còn phải cô độc lẻ loi phiêu bạt trên thế gian này nữa.

Nàng ngước nhìn Thôi Tuần, giọng khẽ khàng: “Ta phải đi rồi, Thôi Thiếu khanh, đa tạ ngài.”

Nàng dõi mắt nhìn hắn, ánh mắt trong suốt như lưu ly. Trong đôi đồng tử ấy, hắn thấy bóng mình phản chiếu mờ mịt, gương mặt trắng bệch, đôi mày tàn ác, nét mặt âm u, tựa như ác quỷ bò lên từ địa ngục.

Thôi Tuần cúi đầu, không còn nhìn nàng nữa, chỉ lặng lẽ nâng chén trà trong tay, nhấp một ngụm nhỏ, rồi khẽ nói: “Người còn ác hơn quỷ, mong rằng từ nay về sau, công chúa sẽ không còn gặp phải kẻ ác nào nữa.”

Lý Doanh nhẹ gật đầu: “Ừm, cả đời này ta chưa từng làm việc gì sai trái. Ta nghĩ kiếp sau mình sẽ không xui xẻo đến như vậy.”

Thôi Tuần cúi xuống, dùng chiếc kẹp bằng đồng thuần thục gắp từng mẩu than chưa cháy hết trong bếp trà. Hắn chậm rãi nói: “Kiếp sau, đừng gặp một người nhu nhược như Trịnh Quân, cũng đừng gặp một kẻ độc ác như Vương Nhiên Tê, lại càng không nên gặp kẻ ngu trung như Vương Đoàn Nhi.”

Hắn gắp khúc than cuối cùng, khẽ nói: “Và đừng bao giờ gặp một kẻ như ta nữa.”
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom