Ngôn Tình Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 20: Ta muốn được nhìn thấy… a nương của ta lần nữa


Thôi Tuần hành động rất nhanh, từ lúc báo cáo lên đến khi Vương Nhiên Tê bị xử quyết chỉ mất ba ngày.

Thôi Tuần từng hỏi Lý Doanh liệu nàng có cần tận mắt chứng kiến Vương Nhiên Tê bị xử tử hay không. Lý Doanh suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu: “Ta hy vọng khi chuyển sinh, lòng mình sẽ thanh thản, không còn mang theo oán hận.”

Vụ án của nàng đã được điều tra rõ ràng, không cần phải để bản thân mãi mắc kẹt trong đêm ở hồ sen đó nữa.

Thôi Tuần gật đầu: “Dù sao Vương Nhiên Tê cũng là phu nhân của một quan viên tam phẩm, lại được Thánh nhân ngự phong là Kim Thành quận phu nhân, hơn nữa không có bằng chứng chứng minh phu quân bà ta, Bùi Quan Nhạc, biết chuyện này. Vì vậy, để giữ thể diện cho Bùi Quan Nhạc, Thái hậu và Thánh nhân sẽ không công khai xử tử Vương Nhiên Tê, mà sẽ bí mật xử tử bà ta tại Sát Sự Thính.”

“Người bà ta giết là ta, ta không cần bà ta phải bị xử tử công khai, chỉ cần bà ta chuộc tội trước ta là đủ.” Lý Doanh ngồi trên nền đất, chân lơ lửng, buông thõng xuống dưới hành lang. Nàng muốn, với thân phận Lý Doanh, cảm nhận hơi ấm của dương gian lần cuối. Ánh chiều tà phủ lên người nàng, thân thể vốn là một quỷ hồn lúc này dường như tỏa ra một vầng sáng vàng ấm áp: “Ta không mong dân chúng vì thương hại ta mà thổi bùng ngọn lửa hận thù đối với Vương Nhiên Tê. Lòng người rất nhỏ, chỉ nên chứa đựng tình yêu đối với thế gian và người thân. Còn hận thù thì tốt nhất nên càng ít càng tốt.”

Hoàng hôn buông xuống, ánh sáng hồng nhạt vẽ nên một tấm thảm rực rỡ, bầu trời xanh biếc bị nhuộm thành một dải lụa đỏ cam bởi mây trời. Núi non trập trùng ở phía xa, bóng hoàng hôn chiếu qua những cành liễu xanh mơn mởn, phủ vàng khắp nơi, vạn vật như chìm trong sắc màu ấm dịu dàng.

Hoàng hôn đẹp vô tận, chỉ tiếc đã sắp tàn.

Thôi Tuần ngắm nhìn cảnh sắc như tranh vẽ, bỗng nói: “Công chúa nói đúng, cô không đáng phải chết.”

Lý Doanh mỉm cười: “Thôi Thiếu khanh, ngài không cần vì những lời ta vừa nói mà cho rằng ta cao thượng. Thực ra, dù là công chúa Đại Chu, ta cũng chẳng có chí hướng gì to tát. Ta không có tài năng giúp phụ hoàng khởi binh như công chúa Khánh Dương, cũng chẳng có dũng khí vào triều nghị chính như công chúa Bình Nguyên. Cả đời ta chỉ mong a gia và a nương có thể ở bên ta lâu dài, gia đình ta được bình an trôi chảy mà thôi.”

Thôi Tuần đứng bên cạnh Lý Doanh, gió nhẹ nhàng thổi qua, tựa như lông vũ lướt nhẹ trên mặt: “Công chúa như hiện tại đã là rất tốt rồi.”

Hai người, một ngồi một đứng, cùng ngắm nhìn mặt trời lặn, vầng dương đỏ rực dần khuất sau chân trời. Ánh chiều rực đỏ như máu, chim muông kêu gọi về tổ. Thôi Tuần bỗng hỏi: “Công chúa còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành không?”

“Tâm nguyện?” Lý Doanh lẩm bẩm, cúi đầu nói: “Thật sự là có một tâm nguyện chưa hoàn thành.”

“Là tâm nguyện gì?”

“Ta muốn được nhìn thấy… a nương của ta lần nữa.”



Thôi Tuần nhớ lại ngày ấy khi Lý Doanh bất chấp nguy cơ tan biến hồn phách, hiện hình để truy hỏi Vương Nhiên Tê. Hắn cầm đèn đi tìm Lý Doanh bị thương, cuối cùng tìm thấy nàng trước cổng cung Đại Minh.

Lúc đó, nàng nằm ngã trên mặt đất, mặt tái nhợt, hơi thở thoi thóp, nhưng tay lại vươn dài về phía cổng cung, như thể muốn chạm vào bóng hình mà nàng không bao giờ có thể chạm tới được.

Đó chính là mẹ ruột của nàng, người nàng yêu thương nhất, a nương của nàng.

Thôi Tuần im lặng một lúc, rồi hỏi: “Công chúa… rất nhớ Thái hậu sao?”

“Ừm.” Lý Doanh gật đầu: “Ba mươi năm rồi, a gia không còn nữa, a nương cũng đã già. Ta không thể gặp lại a gia, hoặc có lẽ khi gặp lại, người đã chuyển sinh rồi. Khi đó, người không còn là a gia của ta nữa, và ta cũng không còn là Minh Nguyệt Châu của người nữa. Vì vậy, ta muốn trước khi a nương vẫn còn là a nương của ta, được nhìn thấy người lần cuối.”

Nàng cúi đầu, đôi chân mang giày nặng gõ nhẹ vào bức tường đá dưới hành lang: “Sau khi gặp a nương, ta sẽ không còn gì vướng bận nữa.”

Thôi Tuần nói: “Thái hậu ẩn cư trong cung, quanh năm ở tại điện Bồng Lai, mà bốn phía điện đều dán thần môn, công chúa không thể vào được.”

Lý Doanh thở dài: “Ta biết là ta không vào được. Trước khi chuyển sinh, có lẽ ta sẽ không thể gặp a nương lần nữa.”

Thôi Tuần đáp: “Không phải là không gặp được.” Hắn dừng lại một chút rồi nói: “Chỉ cần Thái hậu rời khỏi điện Bồng Lai, công chúa sẽ gặp được người.”

Lý Doanh thoáng bối rối, nhưng giờ đây sức khỏe của a nương nàng ngày càng đi xuống, ngay cả hai sự kiện lớn như Đại triều hội đầu năm và hội đèn Thượng Nguyên bà cũng không xuất cung. Còn điều gì có thể khiến a nương rời điện Bồng Lai? Nàng hỏi: “A nương sẽ rời khỏi điện Bồng Lai?”

Thôi Tuần không trả lời, chỉ nói: “Tâm nguyện của công chúa, ta sẽ giúp cô hoàn thành.”



Thôi Tuần có vẻ rất chắc chắn, nhưng Lý Doanh lại vô cùng lo lắng. Nàng dõi theo bóng Thôi Tuần bước vào cung Đại Minh, còn bản thân thì đứng đợi bên ngoài. Nàng thực sự không biết Thôi Tuần sẽ dùng cách gì để thuyết phục a nương của nàng. Nàng suy nghĩ đến nát óc cũng không tìm ra lý do nào có thể khiến a nương đồng ý rời khỏi điện Bồng Lai với thân thể yếu nhược như vậy.

Dù không nghĩ ra, nàng vẫn đợi ngoài cổng cung. Nàng tin tưởng Thôi Tuần một cách vô lý. Hắn nói sẽ giúp nàng hoàn thành tâm nguyện, thì chắc chắn sẽ làm được.

Vài canh giờ sau, bóng dáng Thôi Tuần cuối cùng cũng xuất hiện từ cổng Đại Minh cung. Lý Doanh vui mừng chạy tới, nhưng lời vừa ra đến miệng lại không dám hỏi.

Nàng chưa kịp hỏi, Thôi Tuần đã chủ động nói: “Ngày mai Thái hậu sẽ đến chùa Pháp Môn.”

“A nương đến chùa Pháp Môn làm gì?”

Thôi Tuần nhắc nhở: “Chắc hẳn công chúa từng đến chùa Pháp Môn?”

Lý Doanh nghĩ một lúc rồi đáp: “Ta đến đó khi mới năm tuổi.”

Năm ấy, a gia dẫn hoàng hậu và các phi tần đến chùa Pháp Môn lễ Phật. A gia và Trịnh hoàng hậu tiến vào Phật tháp, dâng hiến xá lợi Phật. Mái tóc, da thịt đều do cha mẹ ban cho, việc dâng hiến thể xác tựa như việc hoàng đế và hoàng hậu nguyện dâng mình lên Phật. A nương nàng không phải chính thất của a gia, người không có tư cách vào tháp, chỉ có thể dắt nàng đợi bên ngoài tháp.

A gia và Trịnh hoàng hậu vào Phật tháp rất lâu, khiến Lý Doanh bắt đầu lo lắng. Trẻ con thường ham chơi, nên a nương đã dắt nàng ra trồng một cây bồ đề bên cạnh Phật tháp.

Khi đó, cây bồ đề chỉ là một mầm non nhỏ bé, còn thấp hơn nàng. Thôi Tuần nói: “Ta đã nói với Thái hậu rằng, cây bồ đề do công chúa Vĩnh An trồng năm xưa giờ đã cao vươn tán rộng, chẳng lẽ Thái hậu không muốn đến xem sao?”

Hắn chậm rãi tiếp lời: “Thái hậu nghe vậy, nghẹn ngào không nói nên lời. Sau đó, người đã quyết định sáng sớm ngày mai sẽ lên đường, đến chùa Pháp Môn.”

Lý Doanh cũng lặng lẽ đỏ hoe khóe mắt, nàng thầm thì: “A nương…”

Thì ra, a nương chưa từng quên nàng.

Nàng cúi đầu, nhanh chóng lau đi giọt nước mắt: “Đây là lần cuối cùng.”

“Hmm?”

“Ta hy vọng đây là lần cuối cùng a nương nhớ đến ta.” Nàng nói khẽ: “Sau này, ta mong người sẽ quên ta đi. Ta không muốn người đắm chìm trong quá khứ.”

Thôi Tuần lại đáp: “Ta nghĩ rằng, Thái hậu sẽ không bao giờ quên công chúa đâu.”

Lý Doanh nhìn hắn, mong rằng hắn sẽ giải thích thêm, nhưng Thôi Tuần lại không nói gì nữa, chỉ bảo: “Về đi thôi, ngày mai công chúa còn phải gặp Thái hậu mà.”

Lý Doanh gật đầu, lặng lẽ đi cùng Thôi Tuần, bóng dáng hai người dần khuất khỏi cung Đại Minh.



Sáng sớm hôm sau, một chiếc bộ liễn nhẹ nhàng rời khỏi cổng Đan Phượng.

Thái hậu không muốn chuyến đi này quá mức long trọng, vì vậy chỉ dẫn theo một số tùy tùng. Thôi Tuần cưỡi ngựa đi bên cạnh bộ liễn, cả đoàn tinh gọn nhưng trang trọng tiến về chùa Pháp Môn. Hôm nay trời trong xanh, nắng ấm gió nhẹ, phương trượng cùng các tăng nhân của chùa đã đứng đón chào từ ngoài cổng. Thái hậu vừa xuống kiệu đã đi thẳng đến Phật tháp.

Đúng như Thôi Tuần đã nói, cây bồ đề do Lý Doanh trồng năm nào giờ đã cao lớn, tán che rợp cả một vùng.

Thái hậu v.uốt ve thân cây thô ráp rắn chắc, vỏ cây già nua hiện rõ những dấu vết thời gian: “Cây này đã được trồng bốn mươi mốt năm rồi.”

Thôi Tuần đứng bên cạnh, nói: “Thái hậu quả thật có trí nhớ tốt, đã bốn mươi mốt năm rồi.”

“Không phải trí nhớ của ngô tốt, mà là một người mẹ luôn nhớ mãi từng điều nhỏ nhặt về con mình.”

Bà ngước nhìn tán lá xanh um của cây bồ đề, giờ đây đã cao bảy tám trượng. Khi Lý Doanh trồng cây, nó còn thấp hơn đầu gối nàng: “Lúc trồng cây, không ai ngờ Minh Nguyệt Châu sẽ rời xa ngô sớm như vậy.”

Nghe đến đó, Thôi Tuần không khỏi nhìn về phía Lý Doanh, nàng đã đến rồi, nàng đứng phía sau hàng Kim Ngô Vệ. Hàng chục lính cấm vệ lực lưỡng bảo vệ Thái hậu ở giữa, vô tình chắn nàng bên ngoài. Thân hình cao lớn của họ khiến Lý Doanh không thể nhìn rõ mặt mẹ mình.

Qua khe hở giữa vai những binh lính, Thôi Tuần dường như có thể thấy nỗi buồn sâu thẳm trong ánh mắt Lý Doanh. Hắn lặng lẽ thu hồi ánh nhìn, quay lại nói với Thái hậu: “Chắc chắn công chúa Vĩnh An cũng mong được ở bên Thái hậu mãi mãi.”

Thái hậu lẩm bẩm: “Phải, Minh Nguyệt Châu luôn quấn quýt bên ngô. Khi còn nhỏ, nó từng nói không muốn lấy chồng, chỉ muốn sống cùng ngô và a gia của nó, cả nhà sống mãi bên nhau.”

Bà vừa nói, mắt đã dần dần ngấn lệ: “Minh Nguyệt Châu ngoan ngoãn, hiểu chuyện như vậy. Tại sao chuyện đó lại xảy ra với nó? Tại sao, lại là Minh Nguyệt Châu của ngô?”

Thôi Tuần lặng im, mãi sau mới nói: “Thái hậu xin bớt đau buồn.”

“Ngô đã nghe đủ ba chữ “bớt đau buồn”’ rồi.” Thái hậu cười khổ: “Các ngươi chưa từng có được Minh Nguyệt Châu, nên đương nhiên không thể hiểu được nàng tuyệt vời đến nhường nào. Vì vậy, ngươi sẽ không bao giờ hiểu được nỗi đau mất nàng của ngô.”

Thôi Tuần mím môi, cúi đầu nói: “Xin Thái hậu bớt đau buồn.”

Thái hậu dường như đã thấm mệt: “Vọng Thư, ngươi lui xuống đi, ngô muốn một mình một lúc.”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, hắn liếc nhìn Lý Doanh trước khi quay đi, rồi ra hiệu cho Kim Ngô Vệ lùi lại vài trượng, để lại một khoảng trống cho nàng.



Lối vừa mở ra, Lý Doanh đã như bay lao đến bên Thái hậu. Có lẽ vì vẫn chưa khỏi bệnh hoàn toàn, bà mệt mỏi ngồi bệt dưới gốc cây, dùng tay đo từ rễ cây lên đến thân cây. Khi đo đến độ cao của mười bàn tay, bà mới cười nhẹ: “Đúng rồi, lúc Minh Nguyệt Châu trồng cây, nó chỉ cao thế này thôi.”

Lý Doanh đã rưng rưng nước mắt, dù biết Thái hậu không thể nghe thấy mình, nàng vẫn cố bước thật nhẹ nhàng. Nàng quỳ xuống trước mặt Thái hậu, nước mắt lưng tròng.

Nàng ngước nhìn Thái hậu, cổ họng nghẹn lại. Nàng muốn nói rất nhiều điều, muốn nói rằng nàng rất nhớ a nương, rằng suốt ba mươi năm qua, từng giây từng phút nàng đều nhớ người. Nhưng cuối cùng, nàng chỉ nhìn mái tóc bạc của Thái hậu, khóe mắt lấp lánh lệ nhưng miệng lại khẽ mỉm cười: “A nương, người có tóc bạc rồi này.”

Thái hậu không nhìn thấy nàng, cũng chẳng nghe thấy nàng. Bà vẫn tiếp tục đo đạc thân cây, lẩm bẩm: “Khi trồng cây, nó chỉ cao đến thế này, còn chưa đến đầu gối Minh Nguyệt Châu.”

Lý Doanh lúc này đã không thể kiềm chế nổi, nàng khóc nức nở. Nàng muốn nắm lấy tay a nương, như lúc còn bé, nhưng bàn tay nàng xuyên qua tay của Thái hậu, chẳng thể chạm đến người.

Lý Doanh khựng lại, và lúc này, nàng nhận ra rõ ràng hơn bao giờ hết rằng nàng đã chết rồi, nàng chỉ là một hồn ma, và nàng không bao giờ có thể bên cạnh a nương nữa.

Nỗi đau xé lòng khiến nàng tuyệt vọng gào lên: “A nương… A nương…”

“Minh Nguyệt Châu nhớ người lắm…”

“A nương…”

Thái hậu nhẹ nhàng v.uốt ve thân cây, như thể đang chạm vào đôi tay non nớt của Lý Doanh khi nàng mới năm tuổi. Có lẽ do mối liên kết mẫu tử, bà bỗng nói: “Minh Nguyệt Châu, con có nhớ a nương không?”

“A nương cũng rất nhớ con.”

“Con là đứa trẻ hiểu chuyện và hiếu thảo. A nương thường đau đầu, con đã học dược lý, làm túi hương cho a nương đỡ đau. A nương và hoàng hậu không hòa hợp, con đã học trà đạo, pha trà để a nương vui lòng. Nhưng sao một đứa trẻ ngoan ngoãn như con lại nhẫn tâm rời bỏ a nương?”

“Minh Nguyệt Châu, trái tim a nương như bị xé nát. Con khiến a nương như đứt từng khúc ruột khúc gan.”

“Minh Nguyệt Châu, con gái của a nương, Minh Nguyệt Châu…”

Thái hậu của Đại Chu, tại chùa Pháp Môn, ôm lấy thân cây bồ đề mà bật khóc nức nở, tưởng nhớ đứa con gái yêu dấu đã sớm rời xa. Hồn ma của nàng, quỳ trước mặt bà, cũng đang khóc trong sự tuyệt vọng.

Từ xa, Thôi Tuần nhìn về phía hai mẹ con. Một người mẹ thương nhớ con, một đứa con mong nhớ mẹ, nhưng âm dương cách biệt, không bao giờ có thể gặp lại. Lúc này, họ không còn là Thái hậu và công chúa cao quý của Đại Chu nữa, mà chỉ là một người mẹ mất con và một đứa con nhớ mẹ. Trong đôi mắt Thôi Tuần thoáng hiện lên một chút xúc động khó nhận ra, nhưng cảm xúc đó chỉ kéo dài trong chốc lát. Hắn nhắm mắt lại, rồi khi mở mắt ra, ánh mắt đã trở lại vẻ lạnh lùng và thản nhiên như thường ngày.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 21: Ngài cứu một con sâu


Hoàng hôn dần buông, dù lòng đầy lưu luyến, nhưng người và quỷ có đạo của riêng mình, Lý Doanh đã chết, chẳng thể quay về được nữa.

Bộ liễn của Thái hậu cuối cùng cũng quay về cung Đại Minh. Thôi Tuần viện cớ còn việc cần xử lý, không cùng Thái hậu trở về mà ở lại bên Lý Doanh.

Khi bộ liễn Thái hậu rời đi, Lý Doanh quỳ xuống, dập đầu thật mạnh về phía cung Đại Minh. Ơn dưỡng dục của mẫu thân, không chỉ chưa báo đáp mà nàng còn khiến bà phải đau khổ suốt ba mươi năm trời. Nghĩ đến đó, lòng nàng tràn ngập hổ thẹn.

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn dáng người mảnh mai trước gốc cây bồ đề, đang cúi đầu hướng về phía cung Đại Minh lạy tạ. Hắn trầm mặc một lúc, rồi cúi xuống đỡ lấy Lý Doanh: “Thái hậu đã đi rồi, mau đứng dậy đi.”

Lý Doanh lảo đảo đứng dậy trong vòng tay của hắn, đôi mắt nàng sưng đỏ, thân thể mệt mỏi đến mức gần như không còn sức lực vì đã khóc quá nhiều. Thấy vậy, Thôi Tuần dìu nàng ngồi nghỉ dưới gốc cây bồ đề, còn hắn cũng ngồi xuống bên cạnh nàng.

Hai người im lặng hồi lâu, cho đến khi bầu trời thẫm màu mực, trăng bạc treo cao, sao trời rải khắp không gian, Lý Doanh mới cất lời: “Thôi Thiếu khanh, đa tạ ngài.”

Thôi Tuần đáp: “Cô không cần luôn miệng cảm tạ ta, cô cũng đã giúp ta rất nhiều.”

Lý Doanh gật đầu, rồi nói thêm: “Thôi Thiếu khanh, ta phải đi rồi.”

Thôi Tuần không tỏ vẻ ngạc nhiên: “Khi nào lên đường?”

“Đêm nay thôi.” Lý Doanh đáp. “Núi Bàn Trủng là lối vào U Đô. Đêm nay ta sẽ khởi hành đến đó.”

Thôi Tuần ngồi xếp bằng dưới gốc cây bồ đề, ánh trăng rải xuống như một tấm lụa trắng trải dài giữa trời đêm, chiếu sáng cả mặt đất. Hắn lặng lẽ nhìn ánh trăng xuyên qua tán lá rậm rạp, rơi xuống tựa như những mảnh ngọc vụn vỡ. Lâu lắm sau, hắn mới cất lời: “Chúc mừng công chúa.”

Lý Doanh ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm tĩnh mịch, dõi theo dải ngân hà rực rỡ. Nàng khẽ nói: “Dù ở nhân gian này, ta còn nhiều điều không nỡ rời bỏ, nhưng ta biết rằng nơi này đã không còn thuộc về ta nữa. Cuộc đời của Lý Doanh đã kết thúc, giờ là lúc từ bỏ kiếp này để bước sang kiếp sau.”

Môi Thôi Tuần mấp máy, như thể hắn muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng chỉ thốt lên: “Công chúa lên đường bình an.”

Lý Doanh gật đầu: “Giờ đây, thù đã báo, hận đã tan, nguyện cũng đã hoàn thành. Kiếp này không còn vướng bận gì nữa. Đường xuống hoàng tuyền, ta sẽ đi rất thanh thản.”

Dứt lời, nàng dừng lại đôi chút, lấy từ túi gấm thêu mẫu đơn ngũ sắc bên hông ra một quả cầu hương bằng bạc mạ vàng. Cấu tạo của quả cầu này gồm hai nửa hình cầu ghép lại, ở giữa có bản lề để đóng mở dễ dàng. Khi mở ra, bên trong là một khay nhỏ đựng hương liệu; khi đóng lại, chỉ cần nhẹ lắc, hương thơm thanh nhã sẽ lan tỏa, ngửi vào sẽ cảm thấy khoan khoái.

Lý Doanh đưa quả cầu hương cho Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, đây là vật ta tặng để cảm tạ ngài. Ngài ngủ không yên giấc, hãy giữ quả cầu hương này bên mình. Nó sẽ giúp ngài tĩnh tâm, an thần, ban đêm cũng có thể nghỉ ngơi thật tốt.”

Nghe vậy, Thôi Tuần không nhận lấy, chỉ hơi sững sờ, như thể có một bí mật của mình vừa bị khám phá: “Sao cô biết ta khó ngủ về đêm?”

Lý Doanh mỉm cười: “Thôi Thiếu khanh còn nhớ lần đầu chúng ta gặp nhau là khi nào không?”

“Dĩ nhiên ta nhớ, là ngày mùng hai tháng Giêng.”

Lý Doanh lắc đầu: “Không phải, là đêm mùng một.”

Thôi Tuần thoáng ngẩn người, Lý Doanh tiếp lời: “Đêm mùng một tháng Giêng, sau khi dự Đại triều hội, Thôi Thiếu khanh mệt mỏi vô cùng. Khi ngài đi ngủ, nhiều lần bị ác mộng làm bừng tỉnh. Lần cuối cùng, ngài thức dậy, đứng dậy đóng khung cửa sổ gỗ.”

Dưới lời nhắc nhở của Lý Doanh, Thôi Tuần mới nhớ lại đêm đó, khi đóng cửa sổ, hắn mơ hồ nhìn thấy bóng dáng một người mặc váy tay bó màu nhạt. Nhưng khi hắn định thần nhìn kỹ, bóng hình đó lại biến mất. Hắn từng nghĩ mình quá mệt mỏi nên nhìn nhầm, vì thế không để tâm nhiều.

Thì ra hắn không nhìn nhầm.

Thôi Tuần bật cười: “Hóa ra đêm đó, là công chúa.”

Lý Doanh cười đáp: “Ta tìm người giúp tra án, đương nhiên phải tự xem xét coi người đó có đáng tin không.”

Nàng vuốt nhẹ quả cầu hương bằng bạc mạ vàng trong tay, rồi bất chợt hỏi: “Thôi Thiếu khanh, đêm mùng một tháng Giêng còn có một chuyện khác, không biết ngài có nhớ không?”

“Chuyện gì?”

“Ngài đã cứu một con sâu.”

Giọng nói của Lý Doanh dịu dàng, mang nét ngây thơ của thiếu nữ mười sáu tuổi, nhưng vì vừa khóc nên vẫn còn chút nghèn nghẹn. Nàng nhẹ nhàng kể, tựa như cơn gió xuân êm dịu: “Thực ra trước đây, ta đã nghe các cung nữ nói về ngài. Họ bảo ngài là một kẻ tàn nhẫn, máu lạnh, thủ đoạn vô cùng độc ác. Nhưng đêm hôm đó, ta đã nhìn thấy một con sâu bướm kẹt giữa khung cửa sổ, nó cố vùng vẫy mãi mà không thoát ra được. Khi ngài đến đóng cửa, cũng nhìn thấy nó. Ta nghĩ ngài sẽ bỏ mặc nó, không quan tâm đến sống chết của nó, nhưng không, ngài đã nhặt con sâu ra khỏi khe cửa và thả nó đi.”

Trong đầu Lý Doanh lại hiện lên hình ảnh con sâu nhỏ bé, vẫy đôi cánh trong suốt, loạng choạng bay lên bầu trời khi được phóng sinh. Nàng nói tiếp: “Lúc đó ta đã tin rằng Thôi Thiếu khanh không phải là người quá xấu. Một người sẵn lòng thả một con sâu thì có thể xấu đến mức nào được chứ? Mọi người đều trách mắng ngài, nhưng ta lại nghĩ rằng những việc ngài làm đều có lý do.”

Nàng quay sang nhìn Thôi Tuần, ánh mắt dịu dàng nhưng kiên định: “Thôi Thiếu khanh, khi ở hội đèn Thượng Nguyên, ta từng nói với ngài rằng ta tin tưởng ngài vì a nương của ta coi trọng và trọng dụng ngài, nên ta cũng tin ngài. Nhưng thực ra, không chỉ vì điều đó. Ta tin ngài là vì bản thân ta muốn tin. Ta tin rằng mình sẽ không nhìn nhầm người.”

Dưới ánh trăng sáng ngời, chiếu rọi khắp mặt đất, bóng cây bồ đề như được trải lên một tấm lụa bạc mỏng mịn. Ánh sáng rơi xuống người Thôi Tuần, khiến hắn như đang đắm mình trong dòng nước trăng thanh khiết. Hương thơm thoang thoảng từ quả cầu hương bằng bạc mạ vàng len lỏi trong không khí, nhẹ nhàng bao quanh. Ngón tay đặt trên gối của Thôi Tuần dần siết chặt. Hắn thì thầm: “Vậy sao? Có chuyện đó ư? Ta không nhớ nữa.”

Lý Doanh dường như đã biết trước câu trả lời này, nàng mỉm cười: “Chuyện nhỏ như vậy, ngài không nhớ cũng là lẽ thường.”

Nàng mở hộp hương ra, nhẹ nhàng hít lấy hương thơm: “Thôi Thiếu khanh, thực ra, ta rất muốn ngài kể cho ta nghe những điều mà ngài giấu trong lòng. Nhưng e rằng ta không còn cơ hội nữa. Trong hộp hương này, hương liệu được điều chế từ quế chi, ngải cứu, viễn chí, đương quy, xuyên khung và trầm hương, có thể giúp an thần và dễ ngủ.”

Nàng khép hộp hương lại, đưa cho Thôi Tuần: “Tặng ngài.”

Ánh mắt nàng trong veo, Thôi Tuần lại bất ngờ né tránh ánh nhìn ấy. Lần này hắn không từ chối nữa, lặng lẽ nhận lấy hộp hương. Hắn mở nắp hộp, đưa lên gần mũi, ngửi nhẹ: “Hình như còn có mùi hoa mai.”

Lý Doanh ngẩn ra một chút, rồi cười nhẹ: “Không có đâu.”

Thôi Tuần không hỏi thêm, chỉ khép lại hộp hương: “Ta nhận rồi.”

“Ừ.” Lý Doanh gật đầu: “Vậy ta đi đây.”

“Đi đường bình an.”

Lý Doanh đứng dậy, bộ y phục nàng mặc hôm nay không khác gì khi Thôi Tuần lần đầu gặp nàng: chiếc áo ngắn tay xanh lục, váy đỏ trắng xen kẽ, tóc vấn kiểu song hoàn vọng tiên, đôi mắt sáng ngời, dung nhan thanh tú, như tiên giáng trần. Nàng bước về phía trước, chuẩn bị rời đi thì bỗng Thôi Tuần gọi lại: “Công chúa.”

Lý Doanh quay đầu, ánh mắt Thôi Tuần kiên định nhìn nàng, đôi mắt không còn vẻ lạnh lùng vô tình như thường lệ, mà như có ngàn vạn cảm xúc đan xen. Hắn nắm chặt tay, cuối cùng chỉ thốt ra một câu: “Trên đường, cẩn thận.”

Lý Doanh mỉm cười, gật nhẹ đầu, rồi dần dần khuất bóng trong màn sương mờ ảo của ánh trăng, cuối cùng hoàn toàn biến mất trước mắt Thôi Tuần.



Trong màn đêm, một chiếc kiệu trông như lầu các, bốn phía phủ kín màn trắng thêu hoa văn bảo tướng, di chuyển vội vã theo những bước chân nhanh nhẹn của đám phu kiệu làm bằng giấy.

Lý Doanh ngồi ngay ngắn trong kiệu, nàng đang trên đường đến U Đô.

Bằng tốc độ của đám phu kiệu, hai canh giờ nữa, nàng sẽ đến núi Bàn Trủng.

Trong kiệu, lò hương tỏa ra mùi hương mai, bất giác nàng nhớ đến câu nói của Thôi Tuần: “Hình như còn có mùi hoa mai.”

Nàng đáp: “Không có.”

Nhưng thực ra, là có.

Khi dưỡng bệnh tại Thôi phủ, nàng đã nghĩ đến việc sử dụng các loại dược liệu an thần để điều chế hương liệu, làm một quả cầu hương tặng Thôi Tuần. Các dược liệu được thu thập rất nhanh, việc điều chế cũng không mấy phức tạp. Khi nàng đặt quế chi, ngải cứu, viễn chí, đương quy, xuyên khung, và trầm hương đã chuẩn bị sẵn vào cối đồng, rồi dùng chày ngọc nghiền thành bột mịn, nàng bất ngờ lấy ra từ túi thơm của mình một cánh mai đỏ đã khô.

Đó là cánh hoa mai mà nàng nhặt được ngày hôm ấy tại chùa Tây Minh, khi nàng cảm thấy xót xa vì thân phận ma quỷ của mình, đi trên đất nhưng không để lại dấu chân. Lúc ấy, Thôi Tuần bảo nàng đi theo sau, bước vào dấu chân hắn để lại trên tuyết. Một đóa mai đỏ rơi từ vai hắn xuống, rồi chầm chậm rơi vào tay nàng. Một cách tự nhiên, nàng đã giữ lại cánh mai ấy, cất kỹ trong túi thơm của mình.

Lý Doanh ngắm nhìn cánh mai ấy thật lâu, sau đó nàng mím môi, đặt cánh hoa vào cối đồng, rồi nhẹ nhàng nghiền nát cùng các hương liệu khác.

Vậy nên, trong quả cầu hương đó, thực sự có mùi hoa mai.

Lý Doanh cúi thấp mắt, bỗng thở dài. Cuộc đời này, nàng thật sự đã buông bỏ được hết sao?

Khi nàng còn đang suy nghĩ thì cỗ kiệu bỗng dừng lại.

Đã đến núi Bàn Trủng.



Xung quanh mờ mịt sương trắng, tiếng chim kêu bi ai vang vọng. Lý Doanh bước xuống từ kiệu, cảnh vật xung quanh u tối, không có chút ánh sáng. Nàng đứng trước một cánh cổng đá khổng lồ, trên đó khắc hình quỷ dữ với vẻ mặt hung tợn. Hai bên cổng có hai chiếc đèn đồng lớn hình đầu bò, trên đó ngọn lửa ma quái màu xanh biếc đang cháy bập bùng. Phía trên cổng đá có khắc bốn chữ lớn:

U Đô Quỷ Phủ.

Đây chính là lối vào của Địa phủ.

Lý Doanh hít sâu một hơi, bước thêm vài bước, đến trước cổng đá, nàng cất cao giọng: “Ta là Vĩnh An công chúa Lý Doanh, đến Địa Phủ để đầu thai chuyển kiếp.”

Ngọn lửa ma quái màu xanh bỗng nhiên nhảy lên một cách dữ dội, cháy bừng sáng hơn. Từ chiếc đèn đồng hình đầu bò phát ra hai tiếng cười khàn khàn kỳ quái, và sau đó, cánh cổng đá mở ra với tiếng động ầm ầm vang vọng. Lý Doanh không hề do dự, nàng bước nhanh qua cánh cổng. Khi nàng vừa vào trong, cánh cổng lại khép chặt, tiếng đá nặng nề đóng lại, chia cắt ranh giới giữa người và quỷ.



Vừa bước vào U Đô Quỷ Phủ, Lý Doanh như rơi vào một không gian trống rỗng vô tận, xung quanh là bóng tối dày đặc đến mức đưa tay cũng không thấy ngón. Tiếng gào thét đau đớn của những oan hồn chịu hình phạt vang lên từ xa xăm, mang theo sự ám ảnh kinh hoàng. Không khí lạnh lẽo thấu xương, đầy rẫy sự đáng sợ đến nghẹt thở. Lý Doanh run rẩy, nàng cắn răng, cố gắng tiếp tục bước đi trong cõi hư vô.

Không biết đã đi bao lâu, cuối cùng nàng thấy một tia sáng yếu ớt. Vui mừng, nàng vội vàng bước nhanh hơn. Trước mắt nàng hiện ra một con sông đen uốn lượn, mặt nước phủ đầy sương mù. Hai bên bờ là đất trống không một ngọn cỏ, khi nhìn xuống, Lý Doanh bất chợt nhận ra lớp đất dưới chân mình có màu đỏ tươi, như màu máu người.

Nàng giật mình, kinh hoàng lùi lại hai bước. Đúng lúc đó, mặt sông vốn yên ả bất ngờ gào thét dữ dội, nước sông chuyển thành màu đỏ như máu, hàng trăm cánh tay gầy gò từ dưới sông vươn lên, chới với trong không trung. Nhưng chỉ trong chớp mắt, những cánh tay ấy bị một con quái thú với hàm răng sắc nhọn, gọi là quỷ thú Ba Nhân Tượng, nhảy lên từ lòng sông nuốt chửng. Trên mặt sông lập tức nổi đầy những mảnh thi thể tàn khuyết, rợn người.

Lý Doanh muốn nôn, cổ họng nàng nghẹn lại, nàng cúi người, chống tay vào một tảng đá quái dị bên bờ sông, toàn thân run rẩy.

Nàng sợ lắm.

Đột nhiên, một giọng nói bình thản vang lên: “Những linh hồn đó là các oan hồn không được phép qua Nại Hà. Họ cố gắng vượt qua, nhưng cuối cùng đều bị Ba Nhân Tượng dưới sông nuốt mất.”

Lý Doanh giật thót, quay người nhìn về phía phát ra giọng nói. Sau tảng đá lởm chởm là một chiếc đò nhỏ, trên đò có một người lái đò đội nón lá rộng vành, che khuất dung mạo.

Trong đầu nàng lóe lên một ý nghĩ. Nàng khẽ hỏi: “Xin hỏi, lão có phải là người chèo đò, giúp các vong hồn vượt sông Nại Hà không?”

Người lái đò nhẹ gật đầu.

Lý Doanh phấn chấn: “Nghe nói chỉ cần qua được Nại Hà là có thể bước vào vòng luân hồi. Nhà đò có thể giúp ta qua sông không?”

Người lái đò lắc đầu.

Lý Doanh ngỡ ngàng: “Tại sao? Ta không còn là oan hồn nữa. Ta đã biết ai giết ta, kẻ hại ta cũng đã nhận báo ứng. Thù hận trong lòng ta đã tiêu tan. Tại sao ta vẫn không thể qua Nại Hà?”

Người lái đò chỉ lắc đầu, giọng nói già nua cất lên: “Cô… không thể.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 22: Thôi Tuần, vì sao ngươi lừa ta?


Lý Doanh mở to đôi mắt, không tin nổi liền hỏi: “Sao lại thế được?”

Người lái đò chỉ điềm tĩnh đáp: “Cô thật sự tìm được kẻ đã giết mình sao?”

“Đương nhiên.” Lý Doanh khẳng định chắc nịch: “Là Vương Nhiên Tê, Trịnh Quân và Vương Đoàn Nhi hợp mưu. Vương Nhiên Tê là kẻ chủ mưu, Vương Đoàn Nhi là người đã đẩy ta xuống nước. Còn Trịnh Quân…” Nàng mím môi, giọng ngập ngừng: “Tuy hắn muốn hại ta, nhưng rồi lại đến cứu ta… Sự thật chính là như vậy.”

“Thật sự là như thế sao?”

“Chẳng lẽ không phải?” Lý Doanh kinh ngạc: “Vương Nhiên Tê đã chính miệng thừa nhận, chính bà ta sai khiến Vương Đoàn Nhi giết ta, chứng cứ rõ ràng, sự thật hiển nhiên mà!”

Người lái đò hạ thấp vành nón, ông thở dài một tiếng: “Ta không biết vì sao bà ta lại thừa nhận. Nhưng ta biết một điều: kẻ khiến cô đến Địa phủ, tuyệt đối không phải người tốt.”

Lý Doanh ngẩn người, người lái đò bỗng ra dấu bảo nàng nấp sau tảng đá lớn. Dù không rõ nguyên do nhưng nàng cũng nhanh chóng làm theo. Vừa nấp xong, nàng đã thấy một nhóm quỷ sai mặc áo xanh, tay cầm xích sắt, lơ lửng trôi đến. Một tên quỷ sai nhìn quanh quất rồi nói: “Lạ thật, chẳng phải công chúa Vĩnh An ở đây sao?”

Nghe thấy chúng đang tìm mình, Lý Doanh hoang mang không biết vì sao lại bị truy đuổi. Thấy đám quỷ có vẻ hung dữ, nàng lập tức lo lắng, nhưng người lái đò chỉ khẽ nói: “Đừng lo.”

Ông giơ tay, một ngọn lửa ma trơi xanh lục bùng lên, chiếu thẳng vào người Lý Doanh. Đoàn quỷ sai lượn quanh bờ sông một hồi nhưng tuyệt nhiên không phát hiện ra nàng.

“Thật kỳ lạ.” Một tên quỷ thì thầm.

Hắn vươn cổ lên, quát về phía người lái đò: “Này, ngươi có thấy một tiểu nương tử cực kỳ xinh đẹp qua đây không?”

Người lái đò lắc đầu: “Không thấy.”

“Lạ thật.” Đám quỷ lùng sục một lúc, sau đó thất vọng bỏ đi. Một tên hậm hực nói: “Chắc là nàng ta đã quay lại Sinh Tử Đạo rồi. Dù sao nàng ta cũng chẳng thoát nổi, chúng ta cứ báo lại với đại vương vậy.”

Sau khi đám quỷ tốt áo xanh rời đi, Lý Doanh mới thở phào nhẹ nhõm. Nàng cúi đầu cảm tạ: “Cảm ơn nhà đò.”

Nàng ngừng lại, rồi lại băn khoăn hỏi: “Tại sao đám quỷ đó lại muốn bắt ta?”

Người lái đò điềm tĩnh đáp: “Bọn chúng là quỷ sai của Vong Tử Thành. Những kẻ chết oan mang theo oán hận, hồn phách không thể lang thang ngoài dương thế, nếu không sẽ trở thành lệ quỷ, gây hại cho nhân gian. Vì vậy, chúng phải bắt cô về giam giữ ở Vong Tử Thành.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Nhưng chẳng phải người chết oan, chỉ cần tìm ra kẻ giết mình và thấy kẻ đó bị báo ứng thì oán hận sẽ tiêu tan, sau đó có thể đầu thai làm người sao? Ta đã tìm ra kẻ hại mình rồi, Vương Nhiên Tê cũng bị xử tử, cớ sao bọn chúng vẫn muốn bắt ta trở về?”

Người lái đò nói từng lời rõ ràng: “Đơn giản thôi, điều đó chứng tỏ Vương Nhiên Tê không phải là hung thủ thực sự. Cô đã bị lừa.”

Lý Doanh như bị sét đánh ngang tai, nàng vội vàng lắc đầu: “Không, không thể nào.”

Người lái đò lại thở dài một hơi, rồi chỉ về phía sau lưng nàng: “Nếu không tin, tại sao không hỏi “kẻ sát nhân” một lần nữa?”

Lý Doanh quay đầu lại, sững người. Trước mặt nàng, người vừa xuất hiện chính là… Vương Đoàn Nhi.



Vương Đoàn Nhi mặc chiếc áo ngắn tay xanh sậm và váy vàng nhạt xen kẽ đã mặc ba mươi năm trước, vẻ mặt ngơ ngác, thần trí hoang mang. Nàng ta vô thức bước đến bờ sông. Người lái đò nhẹ giọng nói: “Nàng ta đã bị giam trong Vong Tử Thành ba mươi năm, giờ mới được thả và chuẩn bị qua sông để tái sinh.”

Hung thủ giết người như Vương Đoàn Nhi được qua sông, trong khi nàng, vốn là người bị hại, lại không thể?

Lý Doanh không hiểu.

Không hiểu thì nàng phải hỏi cho rõ.

Nàng bước ra từ sau tảng đá, đối diện với Vương Đoàn Nhi: “Vương Đoàn Nhi.”

Vương Đoàn Nhi thấy nàng, giật mình kinh hãi, mắt mở to: “Công chúa Vĩnh An?”

Lý Doanh hít một hơi thật sâu: “Ta và ngươi không oán không thù, nhưng vì tình nghĩa với cố chủ mà ngươi lại giết ta, đương nhiên ngươi có lỗi với ta.”

“Giết công chúa…” Vương Đoàn Nhi lẩm bẩm. Đột nhiên, nàng ta ngẩng lên, khổ sở nói: “Không! Ta không giết công chúa.”

Tiếng gào rống của quỷ thú Ba Nhân Tượng trên sông vang lên như sấm, đánh thẳng vào tâm trí Lý Doanh. Vương Đoàn Nhi cúi đầu, không dám nhìn thẳng nàng, giọng run rẩy: “Ta có lỗi với công chúa, nhưng ta không giết công chúa. Nếu ta giết người, sau khi ra khỏi Vong Tử Thành, Cố Thành Vương đã ném ta vào tầng thứ tám của Địa ngục để chịu tội, chứ đâu phán cho ta đi đầu thai.”

Lý Doanh nhìn Vương Đoàn Nhi đang phủ phục trước mặt, lòng rối bời: “Ngươi nói… ngươi không giết ta?”

Vương Đoàn Nhi ngẩng đầu lên, ánh mắt ngập tràn hối lỗi: “Ta bị tiểu nương tử Vương gia ép buộc, định giết công chúa vào ngày mùng sáu tháng Mười, nhưng… nhưng… ta không dám.”

Nước mắt nàng tuôn rơi, giọng nghẹn ngào: “Sát hại công chúa… đó là tội ác trời không dung đất không tha. Ta thực sự không dám…”

Nàng khóc nức nở vì hối hận, tiếng nấc nghẹn ngào như từng nhát dao cứa vào tâm can. Lý Doanh nghiến răng, giọng sắc lạnh: “Nói tiếp!”

Vương Đoàn Nhi lau nước mắt, cố gắng tiếp lời: “Hôm đó, ta thấy công chúa trang điểm lộng lẫy, đi đến hồ sen để gặp phò mã. Theo kế hoạch của tiểu nương tử Vương gia, đáng lẽ ta phải bám theo công chúa, chờ lúc người sơ ý rồi đẩy xuống hồ. Nhưng ta quá sợ hãi, không dám bước vào… Đêm đó, ta nghe tin công chúa rơi xuống hồ sen chết đuối. Cả cung Đại Minh náo loạn. Ta vô cùng hoảng hốt, không biết phò mã giết công chúa hay tiểu nương tử họ Vương ra tay. Chỉ biết rằng, nếu bị một trong hai người họ khai ra, ta nhất định chết không toàn thây.”

“Sau đó, Thánh nhân hạ lệnh Đại Lý Tự điều tra cái chết của công chúa. Phò mã bị bắt bởi Thôi công. Hắn nhận tội đã giết công chúa, nhưng lại không khai ra ta. Ta vừa sợ hãi, vừa mừng thầm. Đúng lúc đó, tiểu nương tử Vương gia hẹn ta ra khỏi cung, nói có chuyện quan trọng cần bàn. Ai ngờ, nàng ta lại giết ta để diệt khẩu… Sau khi chết, hồn phách ta bị giam cầm tại Vong Tử Thành suốt ba mươi năm, mãi đến hôm nay mới được thả ra.”

Lý Doanh vịn vào tảng đá, khó nhọc giữ thân mình đứng vững. Nàng cố lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Những lời ngươi nói… đều là thật sao?”

“Đã là hồn ma, những gì ta nói đương nhiên đều là thật.”

Người lái đò đang ngồi bên chiếc đò nhỏ cũng lên tiếng: “Vương Đoàn Nhi có ý định giết cô, nhưng chưa từng ra tay. Chính vì lòng trung ngu muội, nàng ta đã phải chịu hình phạt giam cầm suốt ba mươi năm. Như vậy là đủ. Nên Cố Thành Vương mới phán nàng ta được đầu thai. Nếu nàng ta thực sự giết cô, vị ấy tuyệt đối sẽ không để nàng ta thoát tội.”

Đầu óc Lý Doanh quay cuồng, một ý nghĩ đáng sợ chợt lóe lên, giờ đây như đang dần trở thành sự thật. Nàng khẽ hỏi: “Vương Nhiên Tê có biết ngươi không giết ta không?”

Vương Đoàn Nhi gật đầu: “Khi gặp nàng ta, ta đã nói rõ. Nàng ta biết.”

“Vậy tại sao nàng ta lại nhận tội?”

Vương Đoàn Nhi không biết. Nhưng Lý Doanh thì biết.

Vương Nhiên Tê vốn không giết nàng, nên chẳng có lý do gì để nhận tội trừ phi có người ép bà ta phải nhận tội.

Và tại Sát Sự Thính, ai là người có thể ép được Vương Nhiên Tê?

Trong lòng Lý Doanh, cái tên ấy hiện lên rõ ràng.

Ngực nàng như bị đè nặng, cảm giác nghẹn ngào không rõ là thất vọng hay phẫn nộ. Nàng nghiến răng: “Ngươi có thể ra khỏi Vong Tử Thành, chứng tỏ Vương Nhiên Tê đã chết. Ta hỏi ngươi, nàng ta chết thế nào? Có phải bị Thái hậu xử tử không?”

“Không phải.” Vương Đoàn Nhi lắc đầu: “Ta đứng trên đỉnh cao ở Vong Tử Thành quan sát, nhìn thấy rất rõ. Vương Nhiên Tê chết trong nhà lao của Sát Sự Thính, bị chết cháy vì hỏa hoạn.”

“Cháy?” Lý Doanh sững người, lặp lại từng chữ: “Chết cháy? Ngươi nói nàng ta vừa mới chết?”

Vương Đoàn Nhi gật đầu: “Vừa mới đây.”

Rõ ràng người đó đã nói với nàng rằng, Vương Nhiên Tê đã bị hạ lệnh xử tử bí mật từ hai ngày trước.

Nói cách khác, trước khi nàng đến Địa phủ, Vương Nhiên Tê vẫn còn sống.

Trước mắt Lý Doanh bỗng tối sầm lại, nếu không có tảng đá để vịn, nàng đã ngã gục từ lâu. Nàng cắn chặt răng, toàn thân run lên bần bật.

Tại sao?

Thôi Tuần, tại sao?

Tại sao ngươi lại lừa ta?



Cơn phẫn nộ dâng trào khiến Lý Doanh toàn thân run rẩy. Vương Đoàn Nhi vẫn phủ phục dưới đất, không dám ngẩng đầu lên. Người lái đò bên cạnh lại thở dài một hơi, ông ta nói với Lý Doanh: “Ta đã sớm nói với cô rồi, người bảo cô đến Địa phủ này tuyệt đối không phải là người tốt.”

Lý Doanh cắn chặt môi, nước mắt cuối cùng cũng trào ra không ngừng: “Hắn đã lừa ta, hắn lừa ta!”

Nàng nhìn ra dòng Nại Hà, sóng nước cuộn trào, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Đột nhiên nàng quyết liệt lau khô nước mắt: “Ta không thể ở đây được, ta phải trở về! Ta phải tiếp tục tìm ra sự thật! Ta phải tìm được kẻ nào đã giết ta!”

Nàng bất ngờ quỳ gối, hai tay chắp trước ngực, cúi rạp người hướng về phía người lái đò mà hành lễ: “Nhà đò, người đã giúp ta tránh được sự truy bắt của quỷ sai, chắc chắn ngài có thể giúp ta trở về nhân gian. Xin ngài, hãy giúp ta quay lại.”

Người lái đò thở dài: “Con đường hư vô mà cô đã đi qua ấy, nó gọi là Sinh Tử Đạo. Từ sống đến chết dễ, từ chết về sống thì khó. Một khi đã bước qua, không thể quay lại nữa đâu.”

Lý Doanh sững sờ: “Không thể trở lại? Chẳng lẽ ta chỉ có thể lang thang mãi ở Địa phủ, đợi đến khi quỷ sai bắt ta trở về Vong Tử Thành, giam cầm trong bóng tối suốt đời? Hoặc là, ta chỉ có thể cố vượt qua sông, rồi bị Ba Nhân Tượng xé xác ăn tươi, linh hồn tan biến?”

Người lái đò im lặng. Chính từ sự im lặng của ông, Lý Doanh biết rằng, nàng chỉ còn hai con đường ấy.

Nàng rơi vào tuyệt vọng vô hạn. Giây phút này, nàng mới hiểu rõ ý nghĩa của bốn chữ cuối cùng Thôi Tuần nói trước khi nàng rời đi: “Trên đường, cẩn thận.”

Nàng bật cười thê lương, bị hãm hại đến mức này rồi, còn cẩn thận thế nào nữa đây?

Thôi Tuần! Thôi Tuần! Nàng đã thực sự nhìn nhầm người!

Tay nàng bấu chặt vào tảng đá, móng tay đứt lìa, máu tuôn không ngừng. Trong cơn đau đớn tột cùng, Lý Doanh chợt bừng tỉnh: “Không, không! Nhất định còn có cách! Nhất định sẽ có con đường thứ ba!”

Nàng quay sang người lái đò: “Nhà đò, ta không muốn bị giam trong Vong Tử Thành, cũng không muốn bị Ba Nhân Tượng nuốt chửng. Ta sẽ quay lại Sinh Tử Đạo, ngài nói từ chết đi ngược về sống rất khó, nhưng chỉ cần có một tia hy vọng, ta cũng muốn thử!”

Cũng giống như nàng bị mắc kẹt ở ao sen suốt ba mươi năm, giờ đây là một linh hồn cô độc, việc điều tra sự thật có biết bao nhiêu khó khăn? Nhưng nàng vẫn muốn đi tìm, chỉ cần có một tia hy vọng, điều đó có nghĩa vẫn có thể thành công, phải không?

Người lái đò có chút động lòng, ông khẽ lắc đầu, khuyên nhủ: “Không có hồn ma nào từng quay lại được Sinh Tử Đạo, ngươi sẽ bị mãi mãi mắc kẹt trong hư vô!”

“Dù có bị kẹt mãi trong hư vô, ít nhất ta đã thử. Như vậy, ta không hối tiếc.”

Lý Doanh lại quỳ gối cúi đầu cảm tạ người lái đò: “Nhà đò, cảm tạ ngài. Ta đi đây.”

Nàng quay đầu nhìn Vương Đoàn Nhi vẫn phủ phục dưới đất: “Vương Đoàn Nhi, ngươi cũng đứng dậy đi. Ngươi đã chịu đủ tội rồi, hãy sớm đi đầu thai. Kiếp sau, đừng quá ngu trung nữa. Đời là của ngươi, không cần phải vì người khác mà hủy hoại cả cuộc đời.”

Nghe lời đó, Vương Đoàn Nhi lại khóc thảm hơn: “Công chúa… công chúa… Đoàn Nhi có lỗi với người…”

Lý Doanh lắc đầu cười khổ: “Ngươi may mắn hơn ta.”

Ít nhất nàng ta còn biết ai là kẻ đã giết mình.

Lý Doanh thở dài, xoay người chuẩn bị bước vào Sinh Tử Đạo. Bỗng nhiên, một luồng ánh sáng ngũ sắc phát ra từ cổ nàng, ánh sáng ấy không chói lòa mà lại mang theo một sự yên bình dịu dàng khó tả. Ngay cả những con quỷ thú hung ác trong Nại Hà, đang gào thét xé xác các linh hồn, cũng đột nhiên im lặng. Người lái đò kinh ngạc thốt lên: “Xá lợi Phật? Cô có xá lợi Phật sao?”

Lý Doanh sững sờ. Nàng vội vàng rút ra từ cổ chiếc chuỗi ngọc trai mà Ngư Phù Nguy đã trao cho nàng. Ở cuối chuỗi ngọc, viên xá lợi lấp lánh ánh sáng nhiệm màu. Người lái đò mừng rỡ: “Xá lợi Phật có thể chiếu sáng hư vô, với báu vật này trong tay, cô có thể trở lại nhân gian.”

Lý Doanh nghe vậy, trái tim nàng ngập tràn niềm vui, nàng nắm chặt viên xá lợi Phật, lẩm bẩm: “Ta có thể về rồi… Ta có thể trở về rồi…”

“Đi nhanh đi.” Người lái đò giục giã: “Ta còn phải đưa Vương Đoàn Nhi qua sông.”

Ông đỡ Vương Đoàn Nhi đứng dậy, dìu nàng lên thuyền. Khi chuẩn bị chèo thuyền rời đi, ông bỗng quay đầu lại, dặn dò Lý Doanh: “Tiểu công chúa, lần này về nhân gian, vạn sự phải cẩn thận. Mong rằng lần sau gặp lại, chính là lúc tiễn cô qua Nại Hà.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 23: Mưu hại con ruột, trời đất không dung


Lý Doanh trở lại Sinh Tử Đạo, chỉ khi đó nàng mới hiểu vì sao người lái đò bảo nơi này đi thì dễ, về thì khó. Khác hẳn với bóng tối vô tận trước kia, dường như đường quay về le lói thứ ánh sáng mờ ảo. Từ ánh sáng ấy, nàng nhìn thấy những cánh đồng bạt ngàn phủ kín hoa Mạn Châu Sa đỏ rực, rải khắp mọi nơi. Dù có đi về hướng nào, trái hay phải, cuối cùng cũng bị vây kín bởi tầng tầng lớp lớp những đóa Mạn Châu Sa đỏ như máu tươi của những linh hồn oan khuất. Ngoài khung cảnh ngút ngàn hoa đỏ ấy, Sinh Tử Đạo chỉ còn lại sự lạnh lẽo và tịch mịch đến rợn người.

Nếu bị vĩnh viễn giam cầm nơi đây, chẳng mấy chốc mà người ta sẽ phát điên. Rõ ràng có thể nhìn thấy ánh sáng, thấy những đóa hoa, nhưng vĩnh viễn không thể thoát ra. Thay vì chịu đựng nỗi đau này mãi mãi, để thịt xương nuôi dưỡng hoa Mạn Châu Sa có lẽ còn tốt hơn là mắc kẹt lại trong hư vô bất tận.

Lý Doanh siết chặt xá lợi Phật trong tay, nàng từ từ giơ nó lên cao. Ánh sáng từ xá lợi Phật bùng lên rực rỡ, hình bóng của mười vị tôn giả kim thân từ ngai Phật Thích Ca dần hiện ra trên bầu trời. Lý Doanh thấy những cánh hoa Mạn Châu Sa như máu từ từ khép lại, cánh hoa rủ xuống, nhường lối cho nàng. Trong khoảnh khắc, một con đường nhỏ hẹp hiện ra trước mắt nàng. Vô cùng vui sướng, nàng chắp tay trước ngực, thành kính cảm tạ mười vị tôn giả, rồi vội vàng bước lên con đường nhỏ ấy, rời khỏi Sinh Tử Đạo.



Trong lúc Lý Doanh đang bị vây hãm ở U Đô, tại Thôi phủ, Thôi Tuần cầm trong tay quả cầu hương bằng bạc dát vàng mà Lý Doanh đã tặng hắn. Hắn cẩn thận lấy ra một viên hương, thắp nó trên ngọn đèn, rồi nhẹ nhàng đặt vào bát hương. Khi nắp quả cầu được đậy lại, làn khói nhẹ từ những hoa tiết chim muông chạm trổ tỏa ra, thoảng qua mùi hương thanh khiết của hoa mai.

Thôi Tuần nắm chặt quả cầu, đến nỗi nó nóng rực trong lòng bàn tay, nhưng hắn không hề hay biết. Chỉ đến khi lòng bàn tay bị thiêu đỏ, hắn mới bất giác nhận ra. Tuy nhiên, ngay khi nhận ra, hắn lại càng siết chặt quả cầu hơn, như một sự chuộc tội. Cơn đau rát bỏng khiến hắn nhíu mày, nhưng hắn không buông tay. Chỉ một lát sau, hắn đột nhiên đứng dậy, cưỡi ngựa rời phủ, hướng đến Tây Minh Tự.

Trụ trì Tây Minh Tự không dám chậm trễ, tự mình ra nghênh đón. Vừa xuống ngựa, câu đầu tiên Thôi Tuần nói là: “Trụ trì, mỗ muốn thắp đèn trường minh.”

Trụ trì có chút ngạc nhiên. Hằng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, Thôi Tuần đều đến thắp đèn trường minh cho mẫu thân hắn. Nhưng năm nay, hắn đã làm điều đó rồi, cớ gì lại đến thắp thêm lần nữa? Trụ trì thử dò hỏi: “Thôi Thiếu khanh, có phải ngài muốn thắp đèn cho lệnh đường lần nữa không?”

Thôi Tuần im lặng một hồi rồi nói: “Không phải.”

Trụ trì không dám hỏi thêm. Hai người cùng nhau bước vào chính điện, nơi Phật Thích Ca an tọa trên đài sen, dung mạo trang nghiêm, ánh mắt bình thản. Thôi Tuần cúi đầu bái lạy ba lần, rồi đứng dậy, thắp đèn trường minh trước hương án, thành kính dâng lên chính điện.

Khi mọi nghi lễ đã hoàn thành, trụ trì mới dè dặt hỏi: “Thôi Thiếu khanh, xin hỏi, trên đèn trường minh này phải khắc tên ai?”

Thôi Tuần trầm mặc một lúc, sau đó nói: “Vĩnh An công chúa, Lý Doanh.”

“Vĩnh An công chúa?” Trụ trì càng thêm kinh ngạc. Công chúa đã mất ba mươi năm trước, vị Thôi Thiếu khanh này không thân cũng chẳng quen nàng, thì vì sao lại muốn thắp đèn cho nàng?

Thôi Tuần không giải thích, chỉ hỏi: “Trụ trì, nghe nói dùng máu cúng tế đèn trường minh sẽ gia tăng niệm lực của vong hồn, giúp nàng sớm ngày đầu thai, có đúng không?”

Trụ trì sững người một lát rồi gật đầu: “Quả có lời đồn như vậy.”

Thôi Tuần gật đầu, rút dao nhỏ bên người, rạch một đường trên tay, để từng giọt máu đỏ tươi rơi vào dầu đèn. Máu hòa vào trong dầu, tạo thành những gợn sóng lăn tăn. Tiếng từng giọt máu rơi tí tách vang lên trong chính điện tĩnh mịch, càng trở nên rõ rệt.

Trụ trì đã hoàn toàn kinh ngạc. Nhưng rồi ông lại nghĩ, chắc Thôi Tuần làm vậy để lấy lòng Thái Hậu, nên cũng không hỏi gì thêm, chỉ chắp tay niệm: “Thôi Thiếu khanh thành tâm thế này, chắc chắn Thái hậu sẽ rất vui lòng.”

Thôi Tuần nghe thấy vậy, chỉ cười nhạt. Hắn dùng khăn lụa quấn quanh tay mình, ngăn dòng máu chảy, rồi nói với trụ trì: “Trụ trì, mỗ muốn ở lại một mình trong chính điện, không cần phải tiếp mỗ.”

Trụ trì hiểu ý, bèn rời đi, để lại Thôi Tuần một mình giữa chính điện rộng lớn.



Thôi Tuần đưa tay khẽ lướt trên ngọn lửa đỏ sẫm của đèn trường minh. Ngọn lửa nóng bỏng thiêu đốt đầu ngón tay hắn, nhưng hắn chỉ cau mày, hồi lâu mới rụt tay lại. Hắn cúi đầu nhìn ngọn đèn, rồi thốt lên: “Công chúa, ta có lỗi với cô.”

Trong khoảnh khắc ấy, những lời nói dịu dàng của thiếu nữ như vọng về bên tai hắn, từng câu từng chữ một.

Nàng nói: “Ta biết trong lòng ngài có lẽ mang nhiều gánh nặng, nhưng dù thế nào đi nữa, chỉ khi còn sống, mọi chuyện mới có thể xảy ra.”

Nàng nói: “Nếu không ai yêu quý ngài, thì chí ít, ngài cũng nên tự thương lấy mình…”

Nàng nói: “Nếu ngài thực sự không đầu hàng Đột Quyết, ngài có thể nói với ta. Đừng giữ mọi chuyện trong lòng, như vậy sẽ rất khổ sở.”

Nàng nói: “Mọi người đều trách mắng ngài, nhưng ta lại nghĩ rằng những việc ngài làm đều có lý do.”

Nàng nói: “Thật ra, ta rất muốn nghe ngài trải lòng với mình, nhưng e là ta không còn cơ hội đó nữa rồi.”

Thôi Tuần nhắm mắt lại, nỗi đau đớn khiến mạch máu trên trán hắn căng lên. Hắn không rõ cơn đau này là do vết thương trên tay hay là nỗi đau từ tận đáy lòng.

Hắn siết chặt tay, hồi lâu sau mới từ từ mở mắt ra, nói nhỏ: “Công chúa, ta đã lừa dối cô.”

“Không phải Vương Đoàn Nhi giết cô. Ta cũng chưa từng báo chuyện này với Thái Hậu, và Vương Nhiên Tê chưa hề chết.”

Ba năm làm quan, tay hắn vấy máu không ít, nhưng chưa bao giờ hắn cảm thấy hối hận như lúc này. Có lẽ bởi tâm hồn của nàng quá thuần khiết, khiến hắn cảm thấy dối gạt nàng chính là tội nghiệt khó dung.

Thôi Tuần khẽ cắn môi. Hắn treo quả cầu hương bằng bạc dát vàng lên cột đèn trường minh. Ánh sáng từ ngọn đèn lúc mờ lúc tỏ, chiếu lên gương mặt thanh tú của hắn, khiến sắc mặt vốn đã tái nhợt lại càng thêm trắng bệch. Hắn cúi đầu: “Công chúa, có lẽ chẳng bao lâu nữa, ta sẽ xuống Địa phủ, đích thân tạ tội với cô. Khi ấy, cô muốn giết hay lăng trì ta đều được.”



Thôi Tuần ở lại chùa Tây Minh đến tận canh năm mới trở về phủ, chuẩn bị lên triều.

Vừa trở lại phủ, một vũ hầu hớt hải chạy tới báo: “Thiếu khanh, không ổn rồi, Sát Sự Thính, cháy lớn rồi!”



Ngục phòng của Sát Sự Thính bất ngờ phát hỏa, lửa cháy ngút trời, chiếu đỏ cả nửa thành Trường An. Khi Thôi Tuần đến nơi, ngọn lửa đã được dập tắt nhờ nỗ lực của các vũ hầu, nhưng tất cả tù nhân trong ngục đã bị thiêu cháy, trong đó có Vương Nhiên Tê.

Đến lúc chết, trong tay Vương Nhiên Tê vẫn nắm chặt chuỗi hạt gỗ tử đàn, tựa như chỉ cần giữ lấy chuỗi hạt ấy, bà ta sẽ chuộc lại tất cả tội lỗi của mình ở âm phủ.

Cái chết của bà ta khiến triều đình dậy sóng. Một vị phu nhân của đại thần tam phẩm bị Thôi Tuần vô cớ bắt vào Sát Sự Thính tra tấn, cuối cùng còn bị thiêu chết trong ngục? Thiên lý ở đâu? Quốc pháp ở đâu?

Triều thần lần lượt dâng sớ, tố cáo Thôi Tuần, trong khi Binh bộ Thượng thư Bùi Quan Nhạc, phu quân của người đã khuất, vì quá đau đớn mà đóng cửa không ra ngoài. Tuy không đích thân tố cáo Thôi Tuần, nhưng các tấu sớ của ngự sử vẫn ùn ùn kéo về cung Đại Minh. Thôi Tuần bỗng chốc trở thành cái bia cho người người chỉ trích.



Tại Thôi phủ, Thôi Tuần khoác chiếc áo choàng đen tuyền, che tay áo liên tục ho khan. Trên gương mặt hiện lên sắc đỏ bệnh tật. Từ sau trận hỏa hoạn ở Sát Sự Thính, hắn đổ bệnh, lòng ngập tràn phẫn uất. Rõ ràng hắn đã bắt được Vương Nhiên Tê, đã gần chạm đến sự thật hắn truy tìm bấy lâu, nhưng chỉ vì một mồi lửa, tất cả đều tan thành mây khói.

Hắn đã điều tra nguyên nhân vụ cháy và biết rằng đó không phải là tai nạn. Một ngục tốt đã cố ý phóng hỏa. Người này nợ cờ bạc đến mức sắp tan cửa nát nhà, nhưng bất ngờ trả hết nợ bằng một khoản tiền lớn. Sau đó, ngục thất bốc cháy và ngục tốt đó cũng chết trong biển lửa. Chuyện này không thể là trùng hợp.

Nhưng người chết không thể đối chứng. Một lần nữa, đối phương đã cao tay hơn.

Thôi Tuần phẫn nộ ngồi trước án thư, mở ra bó trúc, chấm chu sa, dứt khoát gạch bỏ ba chữ “Vương Nhiên Tê”.

Sau khi gạch bỏ, hắn buông bút lông sói, nằm rạp xuống án ho sù sụ. Trên khăn tay đã vương một ít máu. Hắn siết chặt chiếc khăn, lông mi rũ xuống, thì thầm trong tâm trí: Không! Ta không thể chết, ít nhất là bây giờ chưa thể chết!

Hắn cầm lên chén thuốc đắng đến nghẹn lòng trên án, nhưng lần này, chẳng còn ai làm ấm thuốc hay bỏ thêm đường vào thuốc cho hắn.

Thôi Tuần cúi đầu, ngửa cổ uống cạn chén thuốc đã nguội lạnh. Nhưng vì thuốc quá lạnh, khi vào đến dạ dày, hắn lại ho dữ dội hơn, ho đến mức mắt mờ đi. Ngay khi đó, hắn bất ngờ thấy một bóng dáng mảnh mai đứng trước án thư.

Thôi Tuần ngẩn người: “Vĩnh An… công chúa?”



Người đến chính là Lý Doanh. Nàng đã trở về từ cõi chết, quay lại trần gian. Điều đầu tiên nàng làm khi trở lại là tìm Thôi Tuần.

Thôi Tuần ngơ ngác nhìn nàng: “Không phải cô đã xuống âm phủ rồi sao?”

Lý Doanh nghiến răng, đôi mắt trong trẻo lúc này tràn đầy hận ý: “Vì sao ngươi lại lừa ta?”

Thôi Tuần sững sờ: “Cô biết rồi sao?”

“Phải, ta biết cả rồi. Ta biết không phải Vương Đoàn Nhi giết ta. Ta cũng biết Vương Nhiên Tê chưa chết. Vậy nên, lời thú nhận của Sát Sự Thính, tất cả chỉ là một màn kịch do ngươi bày ra, phải không?”

Trước những lời chất vấn dồn dập của Lý Doanh, đôi mắt tưởng chừng như vô cảm của Thôi Tuần thoáng lóe lên một tia dao động. Hắn cúi đầu, thản nhiên thừa nhận: “Phải.”

Lý Doanh không dám tin: “Vì sao ngươi lại làm như vậy? Ngươi có biết ta suýt mất mạng dưới âm phủ không? Tại sao ngươi lại hại ta như vậy?”

Cổ họng Thôi Tuần trào lên vị tanh, hắn đưa tay ôm khăn, ho rũ rượi, một giọt máu rơi xuống bó trúc. Hắn nhìn xuống, trên bó trúc, những cái tên gần như đã bị gạch bỏ hết. Ngay cả Vương Nhiên Tê cũng đã chết, nhưng hắn vẫn chẳng thu được gì.

Trong lòng bỗng trào dâng một cảm giác thất bại và bất mãn, hắn ngẩng đầu, nhìn Lý Doanh, nghiến răng nói: “Bởi vì ngay từ đầu, ta đã không định giúp cô điều tra.”

Lý Doanh bàng hoàng: “Nếu vậy, tại sao ngươi lại đồng ý?”

“Vì ta muốn sớm đuổi cô đi! Đỡ phải để cô quấy rầy ta! Còn việc cô xuống âm phủ rồi sống hay chết, liên quan gì đến ta?” Thôi Tuần cười lạnh: “Ta đã sớm nói rồi, kiếp sau đừng gặp lại một kẻ như ta nữa!”

Mắt Lý Doanh đỏ hoe, nàng không thể tin nổi, người nàng tin tưởng lại lừa dối nàng ngay từ đầu. Nàng đau khổ thốt lên: “Được! Ta đã nhìn nhầm ngươi! A nương ta cũng đã nhìn nhầm ngươi! Thôi Tuần, ngươi đúng như lời dân chúng chửi rủa, hoàn toàn không phải người tốt!”

Thôi Tuần siết chặt chiếc khăn, lạnh lùng đáp: “Giờ cô mới biết ta không phải người tốt, chẳng phải đã quá muộn sao? Để ta nói cho cô biết tại sao từ đầu ta đã không muốn giúp cô điều tra.”

Hắn ho khan vài tiếng, sắc mặt nhợt nhạt tựa hồn ma lại pha thêm nét quyến rũ đầy ma mị. Nhưng những lời hắn nói ra lại vô cùng cay độc: “Năm Long Hưng thứ mười, Vương Giang Châu mưu phản, cáo buộc Thái hậu là gà mái gáy sáng, [1] khuấy loạn triều cương. Trong hịch văn tố Thái hậu, có câu: “Mưu sát con ruột, hãm hại nguyên hậu, người người phẫn nộ, trời đất khó dung!”

<i>[1] Theo quan niệm dân gian ở nhiều nước châu Á, “gà mái gáy” là biểu hiện của việc “âm dương hỗn loạn”</i>,<i> là một dấu hiệu và điềm báo sắp có chuyện xấu xảy ra.</i>
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 24: Quỷ tướng


Trong không gian tĩnh mịch như chết.

Từng giọt máu nhỏ xuống từ vết thương ở móng tay đã gãy của Lý Doanh, loang trên sàn đá lạnh lẽo.

Giọng nàng khẽ đến mức hầu như không thể nghe thấy: “Ngươi nói bậy.”

“Ta nói bậy ư?” Thôi Tuần cười nhạt. “Chẳng lẽ khi bị giam trong hồ sen, cô chưa từng nghe gì sao? Cô dám nói trong lòng mình chưa từng nghi ngờ? Nếu thật sự không nghi ngờ, vì sao đêm giao thừa, lúc Thái hậu rời khỏi điện Bồng Lai để tham dự yến tiệc, cô lại không dám gặp bà? Là vì cô sợ! Sợ rằng người mẹ mà cô tôn kính bấy lâu nay lại chính là hung thủ hại chết cô!”

“Ngươi nói dối! Ngươi nói dối!” Lý Doanh ôm chặt đầu, tiếng gào thét xé lòng: “A nương ta sẽ không làm vậy!”

Thôi Tuần cười khinh miệt: “Sao lại không? Cô nghĩ mẫu thân cô là người nhân từ sao? Di mẫu cô là chị em ruột với bà ta, chỉ vì muốn đưa con gái vào cung hầu hạ cha cô mà bị bà ta đầu độc. Ngay cả tỷ muội còn nhẫn tâm như vậy, cô nghĩ đối với con gái sẽ nương tay sao? Mẫu thân cô không muốn chịu kết cục như Thích phu nhân thời Hán, nên bà ta đã nhấn chìm con gái mình, để lật đổ hoàng hậu. Điều đó có gì khó hiểu?”

“Ngươi nói dối!” Nước mắt Lý Doanh tràn xuống, nàng nghẹn ngào: “A nương ta sẽ không giết ta! Sẽ không!”

Thôi Tuần mỉa mai: “Bà ta không muốn giết cô, chỉ là giữa cô và bản thân, bà ta chọn bảo toàn chính mình!”

“Đây chỉ là lời nói của ngươi, ngươi không có bằng chứng, đừng nói bậy!”

“Bằng chứng ư? Ai dám đi tìm bằng chứng? Có những chuyện không cần bằng chứng, cô chỉ cần xem xét cái chết của cô mang lại lợi ích cho ai, thì cô sẽ biết ai là kẻ đã sát hại mình.”

Lý Doanh sững người.

Cái chết của nàng đã khiến Hoàng hậu Trịnh thị bị phế truất, a nương nàng nghiễm nhiên trở thành Hoàng hậu Đại Chu, rồi sau đó là Thái hậu, quyền thế khuynh đảo thiên hạ. Nếu nàng không chết, mẫu thân nàng, vốn xuất thân thương nhân, sao có thể lật đổ Trịnh Hoàng hậu hoàn hảo không tỳ vết, càng không thể trở thành Hoàng hậu Đại Chu.

Nước mắt Lý Doanh tuôn như suối, môi nàng run rẩy: “Ngươi nói dối! Ngươi nói dối!”

Thôi Tuần không muốn tranh luận thêm: “Cô đi đi. Vinh hoa phú quý của ta đều nhờ cả vào Thái hậu, nên ta không thể nào tra án giúp cô. Cô muốn tìm ai thì tùy, nhưng người đó không thể là ta, Thôi Tuần.”



Lý Doanh không biết mình đã ra khỏi Thôi phủ như thế nào, nàng cứ mơ màng bước đi, trong đầu chỉ còn vang vọng lời của Thôi Tuần: “Mẫu thân cô không muốn chịu kết cục như Thích phu nhân thời Hán, nên bà ta đã nhấn chìm con gái mình. Điều đó có gì khó hiểu?”

Không, không thể nào, a nương sẽ không vì bản thân mà gi.ết ch.ết nàng.

Nàng không tin, nhất định không tin.

Chắc chắn Thôi Tuần đang lừa dối nàng!

Chắc chắn Thôi Tuần đang lừa nàng! Hắn là kẻ xấu xa, cố ý bịa đặt để đuổi nàng đi. Đúng vậy, nhất định là vậy!

Nhưng rồi, trong cơn mơ hồ, nàng lại nhớ đến câu nói của Thôi Tuần: “Cô dám nói trong lòng chưa từng nghi ngờ sao?”

Nàng nhớ lại khi còn bị giam trong hồ sen, có một tiểu cung nữ chạy đến chơi, lén nói với đồng bạn: “Ngươi nghe gì chưa? Có lời đồn rằng, công chúa Vĩnh An không phải do Phò mã giết, mà là do Thái hậu!”

“Cái gì? Không thể nào.”

“Sao lại không? Mất con có thể sinh lại, nhưng ngôi vị Hoàng hậu chỉ có một. Vì vị trí đó, giết con gái thì có gì là lạ?”

Lý Doanh rùng mình, không, không thể nào. Họ đều nói bậy, không thể là a nương, không thể!

Nàng không tin, mãi mãi không tin!



Nước mắt Lý Doanh lại rơi, nàng vô định bước đi, trời đất bao la, nhưng nàng chỉ là một linh hồn cô độc, không biết đi đâu về đâu.

Bất tri bất giác, nàng lại bước đến cổng Đại Minh cung, nhìn cánh cửa đóng chặt, lòng nàng đầy nỗi tủi thân, đau đớn: “A nương, thật sự là người sao? Minh Nguyệt Châu không tin, Minh Nguyệt Châu thật sự không tin.”

Nàng v.uốt ve cánh cửa cao sừng sững, rồi từ từ quỳ xuống. Lính Kim Ngô Vệ đứng gác không nhìn thấy nàng. Họ mang giáp trụ, tay cầm vũ khí, uy phong lẫm liệt, không ai biết rằng, trước mặt họ là một công chúa đã chết từ lâu, đang thảm thiết khóc lóc.

Lý Doanh không biết mình đã khóc bao lâu. Nàng cố gắng lau đi những giọt nước mắt. Thị vệ Kim Ngô canh cổng đã đổi ca, những người trẻ tuổi ánh mắt sáng quắc, dốc lòng bảo vệ Thái hậu và hoàng đế trong cung Đại Minh. Lý Doanh vịn vào cánh cổng gỗ sơn đỏ, chậm rãi đứng dậy.

Dù có khóc đến chết ở đây, nàng cũng không nhận được câu trả lời.

Thay vì vậy, chẳng thà tiếp tục truy tìm sự thật, cho dù sự thật đó có tàn khốc đến đâu, nàng cũng muốn biết.



Lý Doanh quay lưng, rời khỏi cổng Đại Minh cung. Nàng không biết mình sẽ đi đâu, chỉ biết mơ hồ bước đi giữa phố phường tĩnh lặng. Đêm khuya, sương lạnh bao trùm, phố xá vắng vẻ, trong làn sương trắng, bỗng có một vị tướng trẻ mặc giáp đang phi ngựa vội vã hướng về phía cổng Đan Phượng.

Lý Doanh sững sờ. Giờ giới nghiêm, sao có tướng lĩnh cưỡi ngựa tiến vào cung Đại Minh? Chẳng lẽ biên cương lại có biến?

Nàng nhìn kỹ lại, cảm thấy có gì đó không đúng. Vị tướng trẻ ấy đầu tóc bù xù, bụi bặm, nhưng trên người lại đầy rẫy vết thương, máu dính loang lổ. Rõ ràng nàngthấy máu tươi chảy ra từ cơ thể hắn, nhuộm đỏ cả bạch mã.

Một người bình thường, nếu bị thương nặng đến thế, sao có thể còn sống để cưỡi ngựa phi nước đại? Nhìn kỹ lại, sắc mặt vị tướng tái xanh, Lý Doanh chợt hiểu ra.

Giống như nàng, hắn cũng là một hồn ma.

Nhưng sao hồn ma này không bị âm ty bắt đi mà vẫn có thể tung hoành trên phố?

Lý Doanh thấy nghi hoặc, nàng muốn hỏi rõ ràng, liền lao lên chặn hồn ma lại. Vị tướng lập tức ghì cương ngựa, khẩn thiết nói: “Tiểu nương tử, mỗ có việc khẩn cấp, xin hãy tránh đường!”

Lý Doanh ngẩng đầu hỏi: “Ngài có chuyện gì?”

“Đột Quyết tấn công, Thiên Uy quân bị vây khốn, Quách soái lệnh mỗ khẩn cấp về Trường An bẩm báo với Thánh nhân, nhanh chóng điều binh cứu viện!”

Lý Doanh kinh ngạc. Nàng nhớ lại lần ở chùa Tây Minh, tỳ bà cơ từng nói năm vạn quân Thiên Uy đều tử trận tại Lạc Nhạn Lĩnh, nên nghi ngờ hỏi: “Thiên Uy quân? Chẳng phải đã toàn quân Thiên Uy đã bị tiêu diệt rồi sao?”

Quỷ tướng sững sờ: “Tiểu nương tử, đừng nói càn! Chậm trễ quân tình, cô không gánh nổi đâu!”

Nhìn vẻ mặt nghiêm nghị của hắn, Lý Doanh chợt nhớ rằng nếu người sống mang nặng chấp niệm, sau khi chết sẽ vẫn kiên trì theo đuổi việc chưa hoàn thành. Vị tướng này hẳn là một tướng sĩ của Thiên Uy quân, được phái về Trường An cầu viện, nhưng không may qua đời giữa đường, vì thế sau khi chết vẫn tiếp tục lao ngựa về cung Đại Minh.

Lý Doanh không khỏi động lòng, nàng hỏi: “Xin hỏi danh tính của tướng quân là gì?”

“Mỗ là Thiên Uy quân Ngu hầu, Thịnh Vân Đình.”

“Thịnh Vân Đình?” Lý Doanh bỗng nhớ lại lá thư từng nhìn thấy trong thư phòng của Thôi Tuần, liền hỏi: “Có phải là người sống ở phường Đại An, trong nhà còn có một tiểu muội tên Thịnh A Man?”

Quỷ tướng ngẩn người: “Tiểu nương tử làm sao biết được?”

Lý Doanh thở dài, nhẹ giọng nói: “Thịnh Vân Đình, ngài đã chết rồi, chết tròn sáu năm rồi.”



Một hơi thở nghẹn lại, như tỉnh khỏi một giấc mộng dài.

Thịnh Vân Đình ngã xuống ngựa.

Lý Doanh giật mình, vội vàng bước đến xem xét thương thế của hắn: “Thịnh tướng quân, ngài có sao không?”

Thịnh Vân Đình gắng chịu đau đớn, chống tay xuống đất, chật vật đứng lên: “Sáu năm… đã sáu năm rồi sao…?”

Nhìn thấy dáng vẻ thê lương của hắn, trong lòng Lý Doanh cũng cảm thấy chút đồng cảm. Nàng gật nhẹ đầu: “Phải, sáu năm trước, năm vạn Thiên Uy quân các ngài đều tử trận ở Lạc Nhạn Lĩnh.”

Nàng ngập ngừng, đôi môi mím lại: “Không, còn một người không chết.”

Thịnh Vân Đình nghe vậy vô cùng vui mừng: “Là vị huynh đệ nào?”

Cái tên mà Lý Doanh thốt ra khiến ngực nàng như nén chặt một cơn phẫn hận: “Thôi Tuần.”

“Thập Thất lang? Cậu ấy không chết? Tốt quá rồi!”

Lý Doanh lẩm bẩm: “Hắn gọi là Thập Thất lang?”

“Phải, Thập Thất lang đứng thứ mười bảy trong nhà, bọn ta đều gọi cậu ấy như vậy. Những người lớn tuổi hơn còn gọi cậu ấy là Tiểu Thập Thất.”

Nhìn thấy tình cảm sâu sắc giữa Thịnh Vân Đình và Thôi Tuần, Lý Doanh bất giác tự hỏi, vì sao một người trung nghĩa can đảm, ngay cả khi chết cũng không quên lời dặn dò của Cố soái như Thịnh Vân Đình lại có thể kết giao với kẻ tiểu nhân như Thôi Tuần. Nàng không nhịn được, hỏi: “Quan hệ giữa hai người tốt lắm sao?”

Thịnh Vân Đình gật đầu: “Toàn quân Thiên Uy đều như huynh đệ thân thiết.”

Lý Doanh bất giác buông lời lạnh lùng: “Vậy mà hắn đã phụ lòng các ngài rồi. Người đó xấu xa lắm, để bảo toàn mạng sống đã đầu hàng Đột Quyết, làm ô nhục thanh danh của Thiên Uy quân. Khi trở về Trường An, hắn lại làm gian thần, hại chết không ít người. Cả thành Trường An đều đang mắng chửi hắn.”

Thịnh Vân Đình ngơ ngác: “Thập Thất lang không thể nào làm vậy.”

“Nhưng hắn đã làm.” Lý Doanh khẳng định. “Và còn làm mà lòng chẳng hề nao núng.”

Thịnh Vân Đình nắm chặt tay, hít thở dồn dập: “Thập Thất lang là hảo hán của Thiên Uy quân, nếu cậu ấy thực sự làm như thế, nhất định là có lý do!”

Lý Doanh cười khổ: “Trước đây ta cũng từng tin như vậy, nhưng ta đã sai rồi. Ta không thể tin hắn thêm nữa.”

Thịnh Vân Đình quan sát Lý Doanh từ trên xuống dưới, giờ mới nhận ra nàng là một hồn ma. Hắn hỏi: “Tiểu nương tử và Thập Thất lang có quen biết từ trước?”

Lý Doanh miễn cưỡng đáp: “Ừm.”

Thịnh Vân Đình như đã hiểu ra: “Thập Thất lang có tướng mạo tuấn tú, chỉ là tính tình có chút lạnh nhạt, đôi khi khiến các tiểu nương tử tổn thương mà chính cậu ấy cũng không hề hay biết…”

Lý Doanh thấy hắn hoàn toàn hiểu lầm, vội vàng thanh minh: “Không phải như ngài nghĩ đâu.”

Nàng thở dài: “Ta thực sự quen biết Thôi Tuần. Hắn có thể nhìn thấy ta, nên ta nhờ hắn giúp đỡ, nhưng không những hắn không giúp, mà còn lừa dối ta. Ngài nói xem, ta có nên giận không?”

“Đáng giận chứ.” Thịnh Vân Đình trầm ngâm rồi lại bênh vực Thôi Tuần: “Nhưng Thập Thất lang vốn là người tốt, nếu cậu ấy lừa tiểu nương tử, chắc chắn trong lòng cậu ấy cũng day dứt không yên.”

Lý Doanh lắc đầu: “Ta chẳng thấy hắn là người tốt chút nào, cũng không muốn gặp lại hắn nữa.”

Thịnh Vân Đình ngập ngừng, đột nhiên hắn chắp tay hành lễ một cách chân thành: “Nếu Thập Thất lang có thể nhìn thấy tiểu nương tử, mỗ có một thỉnh cầu, tuy rất xấu hổ, nhưng giờ phút này, chỉ có tiểu nương tử mới có thể giúp mỗ.”

Lý Doanh cảm thấy bất an: “Thỉnh cầu gì vậy?”

Thịnh Vân Đình trầm giọng: “Sáu năm trước, khi mỗ đến Trường An cầu viện, lúc đổi ngựa tại Trường Lạc dịch, mỗ gặp được Trung lang tướng Thẩm Khuyết. Người này và Quách soái của mỗ vốn không hòa hợp, mỗ không muốn để ý đến hắn. Nhưng trong trạm dịch còn có cả phu nhân của tướng quân Bùi Quan Nhạc, Vương nương tử. Phu nhân của Bùi tướng quân có mối giao hảo với Quách soái, bà ấy mời mỗ vào uống chén trà, nghỉ ngơi một lát. Vì bà ấy mời quá nhiệt tình, mỗ đành thuận theo. Nhưng vừa bước vào trạm dịch, mỗ đã bị quân lính phục kích sẵn, chém chết ngay tại chỗ.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Hóa ra tướng quân chết vì chuyện đó sao? Vậy là Thẩm Khuyết và Vương Nhiên Tê đã mưu sát tướng quân?”

“Đúng vậy.” Thịnh Vân Đình nói. “Sau khi ta chết, Vương nương tử lo sợ hồn ma của mỗ quay về báo oán nên dán lá bùa trấn hồn lên người mỗ. Giờ lá bùa đã rơi, hẳn là Vương nương tử đã chết rồi.”

Lý Doanh mím môi: “Đúng, Vương Nhiên Tê đã chết, bị lửa thiêu chết.”

“Thảo nào hồn mỗ mới được giải thoát.” Thịnh Vân Đình lại nói: “Hồn mỗ đã thoát khỏi giam cầm, âm ty chắc sẽ không cho mỗ ở lại dương gian quá lâu. Quỷ sai của Vong Tử Thành hẳn đã lên đường rồi. Mỗ không còn nhiều thời gian nữa. Có thể nhờ tiểu nương tử nói với Thập Thất lang về chuyện của mỗ không?”

Lý Doanh sững sờ: “Nói với Thôi Tuần sao?”

Thịnh Vân Đình đầy vẻ áy náy: “Mỗ biết thỉnh cầu này thật vô lý, nhưng giờ đây, mỗ chỉ còn biết nhờ tiểu nương tử.”

Hắn cắn răng, quỳ một gối xuống: “Thẩm Khuyết và Vương nương tử giết mỗ, sự diệt vong của Thiên Uy quân, nhất định có uẩn khúc! Toàn quân năm vạn người, chỉ còn lại một mình Thập Thất lang, năm vạn oan hồn, phải nhờ vào cậu ấy để rửa sạch oan khuất!”

Lý Doanh nghe xong, trong lòng giằng xé, nàng vốn không muốn gặp lại Thôi Tuần. Nhưng nhìn Thịnh Vân Đình thương tích đầy mình, vết đao khắp thân, máu thịt lộ ra, máu vẫn đang tuôn chảy, nàng chợt thấy xúc động. Đây là một tướng quân đã bảo vệ Đại Chu của nàng! Dù Thiên Uy quân có oan khuất hay không, thì một vị tướng như hắn lẽ ra phải chết trên chiến trường, chứ không phải chết bởi mưu hèn kế bẩn.

Máu trong lòng nàng sôi lên sùng sục, không còn bận tâm việc có muốn gặp Thôi Tuần hay không, liền gật đầu: “Được, ta hứa với ngài!”

Mắt Thịnh Vân Đình đỏ lên: “Đa tạ tiểu nương tử.”

Lý Doanh đỡ hắn đứng dậy, Thịnh Vân Đình ngập ngừng một lát rồi nói: “Xin tiểu nương tử hãy nói với Thập Thất lang, con đường phía trước gian nan, toàn quân Thiên Uy đều quỳ xuống cảm tạ.”

Lý Doanh lặng lẽ gật đầu. Bỗng cả hai nghe thấy tiếng xích loảng xoảng, quay đầu nhìn lại, quỷ sai áo đỏ cầm xích sắt đã xuất hiện giữa làn sương trắng, từng bước tiến lại gần. Thịnh Vân Đình vội đẩy Lý Doanh ra phía góc phố: “Tiểu nương tử, mau đi!”

Lý Doanh nhìn thấy quỷ sai, không dám nấn ná thêm: “Ta đi đây, tướng quân bảo trọng.”

Thịnh Vân Đình gật đầu, chợt nhớ ra điều gì: “Tiểu nương tử, nhớ nói với Thập Thất lang, thi thể của mỗ chôn ở ngoài cửa Thông Hóa.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 25: Thôi Tuân cũng biết khóc sao?


Đêm tối mịt mù, ánh trăng lạnh như lưỡi câu sắc bén. Lý Doanh đứng từ xa nhìn cánh cửa gỗ son của phủ Thôi Tuần, lòng nàng trĩu nặng, thực sự không muốn bước vào. Nhưng nàng đã hứa với Thịnh Vân Đình, không thể không vào.

Lý Doanh cắn nhẹ môi, bóng hình trong suốt xuyên qua cánh cửa đóng chặt, bước vào trong.

Nàng đi qua sân vườn với cây hải đường, những chú chim non trong tổ trên cây dường như cảm nhận được sự hiện diện của nàng, bất chợt kêu lên chiêm chiếp. Lý Doanh ngước mắt nhìn tổ chim, ánh mắt thoáng qua một tia dịu dàng, nhưng nhanh chóng, nàng lại cúi đầu, bàn tay phải giấu trong tay áo siết chặt lấy đoạn móng tay bị đứt nơi tay trái. Cơn đau buốt khiến đầu óc nàng tỉnh táo hơn, nàng nhìn về phía thư phòng của Thôi Tuần, ánh mắt lạnh lẽo như băng, từng bước một tiến về phía trước.

Trong thư phòng, Thôi Tuần khoác trên người áo choàng đen tuyền, tay cầm bút đang viết tấu chương lên tờ giấy gai trắng. Bệnh tới như núi đổ, chỉ viết được vài chữ, hắn đã ngừng lại, che miệng ho khan. Sau cơn ho, hắn lại điềm tĩnh cầm lấy bút, tiếp tục viết. Dưới ánh đèn dầu bằng sứ trắng nhạt màu, cổ tay cầm bút của hắn lộ rõ những đường gân xanh, bóng dáng gầy gò khom xuống bàn khiến hắn trông càng thêm tiều tụy.

Lý Doanh lặng lẽ đứng ngoài thư phòng nhìn vào. Con người này giờ đây yếu ớt đến mức khó mà tin nổi, rằng hắn từng là một thành viên của Thiên Uy quân, từng giương đao cầm kiếm, xông pha trận mạc. Nếu là trước đây, có lẽ nàng còn xót xa cho số phận hắn, còn muốn biết rốt cuộc sáu năm trước đã xảy ra chuyện gì khiến hắn rơi vào hoàn cảnh này. Nhưng tấm chân tình của nàng đã bị sự lừa dối vô tình của hắn đáp trả, nàng không còn thương cảm cho hắn nữa.

Thôi Tuần bỗng dừng bút, hơi ngẩng lên. Khi thấy Lý Doanh đứng ngoài cửa, hắn thoáng sững sờ, sau đó lạnh nhạt nói: “Cô lại đến làm gì?”

Đã bị phát hiện, Lý Doanh không giấu giếm nữa, nàng hít sâu một hơi, bước vào thư phòng: “Thôi Tuần, hẳn ngươi biết một người tên Thịnh Vân Đình?”

Chiếc bút đầu chim sẻ trong tay hắn trượt khỏi ngón tay, rơi xuống tờ giấy trắng, mực đen bắn tung tóe lên giấy. Vẻ mặt hắn vẫn bình tĩnh, nhưng hành động vô thức đó đã tố cáo sự chấn động trong lòng. Hắn chăm chú nhìn nàng, từng chữ rời rạc vang lên: “Cô… làm sao biết Thịnh Vân Đình?”

“Ta gặp y rồi.” Lý Doanh ngừng lại một lát, “Hồn phách của y.”

”Không phải hồn phách của huynh ấy đã được đưa vào Vong Tử Thành rồi sao?”

“Có chút biến cố. Mãi đến hôm nay mới bị đưa về đó.” Lý Doanh nhếch môi châm biếm: “Thôi Tuần, ngươi không tò mò sự cố đó là gì sao? Hay là ngươi đã trở nên nhẫn tâm đến mức quên cả cố nhân rồi?”

Những ngón tay của Thôi Tuần bắt đầu siết chặt lấy tờ giấy trắng trên bàn, tờ giấy trong tay hắn từ từ biến dạng, đầu ngón tay đã dần tái đi. Có vẻ như hắn không dám hỏi, không muốn nghe đáp án ấy, nhưng cuối cùng vẫn cất giọng khàn khàn: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Lý Doanh không trả lời ngay, thay vào đó, nàng hỏi thẳng điều canh cánh bấy lâu nay: “Thôi Tuần, ngươi bắt Vương Nhiên Tê, không phải vì muốn điều tra vụ án cho ta, mà là vì Thịnh Vân Đình đúng không?”

Thôi Tuần không nói lời nào, tức là ngầm thừa nhận. Lý Doanh đã đoán đúng. Lòng nàng lúc này khó nói rõ là cảm giác gì, nàng từng nghĩ Thôi Tuần thật lòng giúp nàng điều tra vụ án, thậm chí không ngại nguy hiểm mà bắt Vương Nhiên Tê, nhưng hóa ra ngay từ đầu, tất cả những gì hắn làm không phải vì nàng.

Nàng cảm thấy lòng mình thêm lạnh lẽo, nỗi căm hận đối với hắn càng sâu đậm hơn. Nàng cười khẩy: “Nhưng nhìn ngươi bệnh thế này, chắc hẳn là vì chưa kịp hỏi ra chân tướng, Vương Nhiên Tê đã bị thiêu chết, nên ngươi mới tức giận đến phát bệnh chứ gì?”

Thôi Tuần vẫn không nói gì, sắc mặt ngày càng trắng bệch. Lý Doanh cười khổ: “Có vẻ như ta lại đoán đúng rồi. Vậy ta nên nói gì đây? Mưu tính đủ đường, cuối cùng lại thành công dã tràng sao?”

Đối mặt với lời chế nhạo của nàng, Thôi Tuần cuối cùng cũng lên tiếng, trong giọng nói hắn thoáng hiện vẻ cầu khẩn: “Chuyện giữa ta và cô, quả thật ta có lỗi với cô. Cô muốn giết muốn mắng ta thế nào cũng được, chỉ xin cô cho ta biết, Vân Đình… rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Giờ phút này, ánh mắt của hắn lộ ra vẻ đáng thương, Lý Doanh chưa từng thấy hắn như vậy. Hắn luôn lạnh nhạt và kiêu ngạo, ngay cả khi bị người khác hạ nhục trong hội đèn Thượng Nguyên, hắn cũng chỉ lặng lẽ bỏ qua. Lý Doanh thật không thể ngờ rằng hắn cũng có lúc hạ mình thế này.

Không, người này tuy vẻ ngoài như ngọc quý, nhưng trong lòng lại độc hơn cả rắn rết!

Bàn tay giấu trong tay áo của Lý Doanh lại siết chặt lấy vết móng tay đứt, cơn đau nhói làm nàng run rẩy, ánh mắt cũng thêm sáng rõ. Nàng nhìn Thôi Tuần, cất giọng đều đều: “Ta đã hứa với Thịnh Vân Đình thì sẽ không nuốt lời. Sáu năm trước, Thiên Uy quân bị bao vây, Thịnh Vân Đình tuân lệnh Cố soái, đến Trường An cầu viện. Khi đến trạm dịch Trường Lạc, y bị Trung lang tướng Thẩm Khuyết và Vương Nhiên Tê lừa vào trạm, bị chém chết tại chỗ. Sợ oan hồn của y quay về báo thù, Vương Nhiên Tê dùng bùa trấn hồn phong ấn linh hồn y lại suốt sáu năm trời.”

Tờ giấy trắng trong tay Thôi Tuần đã bị vò nát, sắc mặt hắn trắng bệch như ma quỷ, lồng ngự.c phập phồng dữ dội, hơi thở cũng trở nên gấp gáp, như thể đang cố kìm nén nỗi đau đớn trong lòng. Lý Doanh chậm rãi nói tiếp: “Giờ thì Vương Nhiên Tê đã chết, và Thịnh Vân Đình…”

“Linh hồn của Thịnh Vân Đình cuối cùng cũng thoát khỏi sự giam cầm. Sau khi hồn phách ra khỏi cơ thể, việc đầu tiên y làm chính là nhảy lên ngựa, nhanh như sao băng, thúc ngựa chạy thẳng về Trường An. Tất cả chỉ để báo tin mà Cố soái đã ủy thác lên Thánh nhân, cầu xin phát binh cứu thoát năm vạn quân Thiên Uy đang bị vây khốn.”

Lý Doanh vừa dứt lời, trong thư phòng lại rơi vào sự im lặng đáng sợ. Thôi Tuần không nói gì, nét mặt không thay đổi nhiều so với trước, chỉ có hơi thở trở nên gấp gáp hơn. Lý Doanh bỗng nhiên cảm thấy thất vọng. Nàng tự cười khổ, nghĩ thầm rằng, có lẽ Thịnh Vân Đình đã nhìn nhầm người. Cái gì mà anh hùng hào kiệt Thiên Uy quân? Trái tim của Thôi Tuần, qua bao năm làm ác quan, đã trở nên cứng rắn như sắt đá, đến nỗi ngay cả cái chết bi thảm của cố nhân cũng không đáng cho hắn một tiếng thở dài.

Thất vọng tràn trề, nàng không biết liệu có nên tiếp tục nói cho Thôi Tuần những lời Thịnh Vân Đình căn dặn hay không. Điều mà Thịnh Vân Đình coi trọng, có lẽ Thôi Tuần chẳng hề bận tâm. Nhưng dù hắn không để tâm, nàng đã hứa với Thịnh Vân Đình, thì vẫn phải nói.

Lý Doanh khẽ mấp máy môi, chuẩn bị cất tiếng thì bất ngờ thấy Thôi Tuần phun ra một ngụm máu tươi, nhuộm đỏ tờ giấy trắng trên bàn.

Nàng lập tức sững sờ, những lời định nói đều bị chặn lại nơi cuống họng.

Mãi sau nàng mới run run hỏi: “Này… ngươi… ngươi không sao chứ?”

Máu thấm đầy trên vạt áo và mu bàn tay Thôi Tuần. Hắn ngây dại nhìn tờ giấy trắng đẫm máu, chính giữa viết một chữ “Trung” rõ ràng, giờ đây nhuốm đỏ tựa như bị rạch ngang bởi vết thương chí mạng.

Lý Doanh thử thăm dò gọi hắn lần nữa: “Thôi Tuần… Thôi Tuần?”

Hắn ngẩng đầu, đôi môi còn vương vệt máu đỏ sẫm, nổi bật trên gương mặt tái nhợt như tuyết lạnh đầu đông. Vài lọn tóc đen rối rũ xuống, tựa như đóa chu sa rơi rụng trên tuyết trắng. Khung cảnh trước mắt tưởng chừng phàm tục, nhưng trong khoảnh khắc ấy, lòng Lý Doanh bỗng xao động, cảm thấy cảnh tượng trước mặt còn thê lương hơn cả những cánh hoa Mạn Châu Sa đỏ rực nở rộ trên con đường sinh tử, và tuyệt vọng hơn cả ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Nàng gọi tên hắn thêm vài lần, cuối cùng Thôi Tuần cũng tỉnh lại. Hắn run rẩy vươn tay lấy chiếc khăn lụa bên cạnh, nhưng ngón tay run đến mức gần như không thể nắm lấy khăn. Sau vài lần cố gắng, hắn mới miễn cưỡng cầm được khăn và bắt đầu lau chữ “Trung” bị vấy máu. Tuy nhiên, máu đã thấm qua giấy, không thể nào xóa sạch. Cuối cùng, tờ giấy bị rách, và hắn đứng ngẩn ngơ nhìn mảnh giấy rách nát.

Hắn nhìn chăm chú vào tờ giấy rách ấy hồi lâu. Lý Doanh không dám gọi thêm nữa. Cuối cùng, Thôi Tuần cũng lên tiếng, giọng hắn run rẩy đến mức không thể kiểm soát. Đây là lần đầu tiên nàng thấy Thôi Tuần mất kiểm soát đến vậy, hoàn toàn khác hẳn với con người lạnh lùng, kiêu ngạo mà nàng từng biết.

Giọng hắn khàn đặc, hỏi nàng: “Vân Đình còn nói gì nữa không?”

Lý Doanh cố gắng trấn tĩnh: “Y nói… Thẩm Khuyết và Vương Nhiên Tê đã giết y, điều đó chứng tỏ việc Thiên Uy quân bị diệt vong có oan khuất. Y nói rằng năm vạn Thiên Uy quân giờ chỉ còn lại một mình ngươi. Y mong ngươi rửa sạch oan khuất, trả lại công bằng cho họ.”

Rửa sạch oan khuất… trả lại công bằng…

“Quân Thiên Uy, làm mất thành, mất đất, Thánh nhân hạ lệnh tịch biên gia sản, không cho phép thu xác, không cho phép chôn cất.”

“Mẫu thân của Tào Ngũ lang đã qua đời.”

“Là vì không chịu nổi nhục, đã tự treo cổ mà chết.”

Trước mắt Thôi Tuần dường như hiện ra bản danh sách dài dằng dặc của các gia quyến Thiên Uy quân. Những cái tên đã bị bút đỏ gạch bỏ dần dần càng nhiều thêm. Trái tim hắn như bị một lưỡi dao vô hình đâm xuyên qua. Mỗi nhịp đập đều đau đến nỗi hắn gần như nghẹt thở. Cơn đau làm khuôn mặt hắn càng thêm trắng bệch như giấy. Hai tay hắn nắm chặt lại, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay, để lại những vệt máu đỏ. Giọng hắn khản đặc hỏi tiếp: “Còn gì nữa?”

“Còn nữa… Y nói rằng con đường phía trước gian truân, toàn bộ tướng sĩ Thiên Uy quân đều … quỳ tạ ngươi.”

“Quỳ tạ?” Thôi Tuần ngơ ngác lặp lại hai chữ ấy: “Quỳ tạ… quỳ tạ…”

Lòng bàn tay của hắn đã bê bết máu, mặc cho móng tay cắm sâu thế nào, hắn cũng đã tê dại đến mức không còn cảm giác đau đớn. Khi nỗi đau thể xác không thể làm giảm bớt nỗi đau trong lòng, đôi vai của hắn bắt đầu run lên không kiềm chế được. Hắn cắn chặt răng, nhưng nước mắt vẫn từng giọt từng giọt chảy ra khỏi khóe mắt, lăn dài trên gương mặt trắng bệch như hồn ma của hắn.

Lý Doanh không tin nổi mà mở to mắt. Thôi Tuần, hắn đang khóc ư?

Vị quan tàn nhẫn khét tiếng, nịnh thần hà khắc vô tình, cũng có thể khóc sao?

Nhưng Thôi Tuần, quả thật đang khóc.

Hắn khóc mà không phát ra tiếng, chỉ nghiến chặt răng. Từng giọt nước mắt to như hạt đậu lăn dài trên gò má tái nhợt, rơi xuống tờ giấy gai trắng. Máu và nước mắt hòa quyện vào nhau, không thể phân biệt đâu là máu, đâu là nước mắt nữa.

Trong lòng Lý Doanh bỗng dậy lên bao cảm xúc hỗn độn, hóa ra Thôi Tuần cũng biết khóc.

Nàng từng căm ghét hắn vô cùng, nhưng giờ đây sự căm hận ấy dần bị lu mờ bởi nỗi kinh ngạc. Bên cạnh đó, nàng còn cảm nhận được một chút thương cảm dành cho Thôi Tuần, đến nỗi suýt quên đi ý định báo thù của mình.

Khi nàng còn đang bàng hoàng, Thôi Tuần chậm rãi cất tiếng: “Vân Đình có nói cho cô về nơi đặt xác của huynh ấy không?”

Lý Doanh chợt nhớ lại kế hoạch báo thù đã chuẩn bị sẵn. Nàng giấu đi sự thương hại trong lòng, từ tốn gật đầu.

“Ở đâu?”

Lý Doanh đáp: “Ta sẽ không nói cho ngươi.”

Thôi Tuần nhìn nàng bằng vẻ không tin nổi: “Cô nói gì?”

“Ta nói, ta sẽ không nói cho ngươi.”

Thôi Tuần tức giận vô cùng. Dù thân thể hắn yếu ớt vì bệnh tật, nhưng trong cơn phẫn nộ, hắn lảo đảo đứng dậy, bước từng bước tiến sát đến trước mặt nàng. Lý Doanh hoảng sợ lùi lại cho đến khi lưng chạm vào tường, không còn đường thoát.

Thôi Tuần căm phẫn nhìn nàng: “Xác của Vân Đình ở đâu?”

“Ta đã hứa với Thịnh Vân Đình rằng sẽ nói cho ngươi, nhưng không phải bây giờ.” Lý Doanh nhanh chóng thốt ra câu đã chuẩn bị sẵn. “Ngươi đã lừa ta một cách trắng trợn, ta cần ngươi phải trả giá. Ngươi đã hứa với ta sẽ điều tra vụ án, giờ ta muốn ngươi thực hiện lời hứa đó. Khi tìm ra hung thủ thật sự, ta sẽ cho ngươi biết xác của Thịnh Vân Đình nằm ở đâu.”

Cơn giận của Thôi Tuần đạt đến đỉnh điểm. Bất ngờ, hắn siết chặt cổ nàng: “Ta hỏi lần cuối, xác của Vân Đình ở đâu?”

Lý Doanh nghẹt thở, nhưng lại bật cười: “Ta đã là một hồn ma, chẳng lẽ ngươi có thể giết ta lần nữa sao? Nực cười!”

Thôi Tuần sững sờ, buông tay ra, để nàng rơi xuống và ho sặc sụa. Nàng cảnh giác nhìn hắn, nhưng hắn lại bỗng bật ra một tiếng cười thê lương, từ từ quỳ xuống: “Ta cầu xin cô, hãy nói cho ta biết xác của Vân Đình ở đâu.”

Lý Doanh hoàn toàn sững sờ, ngơ ngác nhìn Thôi Tuần cúi đầu quỳ trước mặt mình. Từ lúc nàng quen biết hắn, chưa bao giờ nàng thấy hắn quỳ lạy. Dù là một kẻ gian tà mang đầy tội ác, nhưng hắn luôn giữ lưng thẳng như tre trúc, thà gãy chứ không chịu khuất phục. Nhưng giờ đây, chỉ vì một nơi chôn xác mà hắn lại quỳ xuống cầu xin nàng?

Lý Doanh há hốc miệng, không thể nói nên lời.

Thôi Tuần cất tiếng van lơn: “Xin cô, hãy nói cho ta.”

Lý Doanh bừng tỉnh, nhớ lại cảnh mình suýt bị quỷ sai bắt ở Địa phủ, nhớ đến cảnh tượng tàn nhẫn ở dòng sông Nại Hà khi những bóng hồn bị chia nhau nuốt chửng. Nàng nhớ lại lời người lái đò từng nói: “Hắn không phải người tốt.” Ý chí nàng cứng rắn trở lại, lạnh lùng nói: “Thôi Tuần, ngươi không phải người tốt, ta sẽ không nói cho ngươi. Khi nào ngươi giúp ta bắt được hung thủ thật sự, ta sẽ nói.”

Thôi Tuần tuyệt vọng cúi đầu. Hắn quỳ trước mặt nàng, trên gương mặt đầy máu và nước mắt, lòng bàn tay rướm máu loang lổ. Trông hắn thật khốn khổ. Sinh mệnh hắn gắn liền với Thái hậu, trong mắt người đời, hắn chẳng khác gì một con chó trung thành dưới chân bà. Nếu con chó này dám quay lại cắn chủ, kết cục sẽ thảm khốc đến nhường nào, ai cũng hiểu rõ.

Lý Doanh cũng biết điều đó. Đúng lúc nàng tưởng rằng Thôi Tuần sẽ không vì một cái xác mà từ bỏ tất cả, hắn bỗng nhiên lẩm bẩm: “Được, ta đồng ý.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 26: Sấm chớp kinh hồn trong đêm mưa


Muốn điều tra vụ án của Lý Doanh thì nhất định không thể tránh khỏi việc điều tra những gì liên quan đến Thái hậu.

Như Thôi Tuần đã nói, muốn biết ai đã giết Lý Doanh, thì phải xem ai là kẻ được lợi lớn nhất từ cái chết của nàng. Không ai phủ nhận rằng, người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lý Doanh chính là Thái hậu.

Thôi Tuần đã hối lộ một tiểu lại trong Nội thị tỉnh để lấy hồ sơ ghi chép ra vào cung của các nữ tỳ bên cạnh Thái hậu từ ba mươi năm trước. Hắn thức trắng nhiều đêm để đọc, nhưng không tìm thấy điều gì bất thường. Ban ngày, hắn còn bận rộn với công việc của Sát Sự Thính, chỉ trong vài ngày, cơ thể hắn gầy rộc thêm một vòng. Những ngày này, Thái hậu đã triệu kiến hắn một lần. Ban đầu, hắn nghĩ rằng Thái hậu sẽ truy hỏi vì cái chết của Vương Nhiên Tê, nhưng điều bất ngờ là Thái hậu không hề trách phạt hắn.

Thái hậu chỉ hỏi: “Vọng Thư, rốt cuộc vì sao ngươi lại giam giữ Vương Nhiên Tê? Ngô không tin rằng bà ta có âm mưu gì bất chính.”

Thôi Tuần cúi đầu đáp: “Thần bắt giữ Vương Nhiên Tê không phải vì bà ta có âm mưu gì, mà là do phu quân của bà ta, Bùi Quan Nhạc, chỉ biết trung thành với Thánh nhân, không hề để mắt tới Thái hậu. Thần muốn khiến ông ta hạ bớt cái tôi, nhưng không ngờ rằng Sát Sự Thính lại xảy ra hỏa hoạn, gây ra cái chết của Vương Nhiên Tê.”

Sau bức rèm châu, Thái hậu khẽ cười, nhìn thẳng vào Thôi Tuần: “Thật chứ?”

“Chắc chắn là thế.” Thôi Tuần cúi đầu: “Mạng sống của thần đều dựa vào Thái hậu. Mọi điều thần làm đều là vì Thái hậu mà mưu toan.”

Câu nói này của Thôi Tuần rõ ràng đã làm Thái hậu hài lòng, bà mỉm cười: “Hôm nay thời tiết thật tốt, Vọng Thư, hãy cùng ngô ra hồ Thái Dịch dạo một vòng.”



Hồ Thái Dịch nằm trong cấm uyển của cung Đại Minh. Mùa xuân đến, sóng nước hồ Thái Dịch lăn tăn gợn sóng, liễu xanh rũ bóng, chim oanh hót líu lo, bướm bay lượn quanh. Thôi Tuần đi bên cạnh Thái hậu, dạo quanh bờ hồ. Một cơn gió xuân thổi qua, trong bộ quan phục đỏ thẫm, Thôi Tuần không khỏi che miệng ho khan. Thấy vậy, Thái hậu liền gọi nội thị mang tới một chiếc áo lông cáo trắng như tuyết để phủ lên người Thôi Tuần.

Sau khi tạ ơn, Thái hậu mới hỏi: “Ngươi đã để ngự y xem bệnh chưa?”

Thôi Tuần đáp: “Bẩm đã xem rồi, cũng đã kê đơn thuốc.”

Thái hậu gật đầu: “Ngươi không cần phải lo về những bản tấu chương tố cáo ngươi. Có ngô ở đây, Thánh nhân cũng không dám động đến ngươi.”

“Đa tạ Thái hậu.”

“Bùi Quan Nhạc cùng những kẻ kia luôn muốn đuổi ngô đến cung Hưng Khánh để an dưỡng, nhưng ngô sẽ không để chúng toại nguyện. Nếu không, ba mươi năm tâm huyết của ngô sẽ đổ xuống sông xuống bể.”

Thôi Tuần cung kính đáp: “Thần nguyện làm lưỡi dao trong tay Thái hậu.”

“Ba năm trước, ngươi cũng đã nói câu này với ta trong ngục Đại Lý Tự.” Thái hậu như nhớ lại ngày ấy, một người xuất thân từ dòng dõi Thôi thị quyền quý Bác Lăng, đáng lẽ phải thảnh thơi chèo thuyền trên Khúc Giang, nhàn nhã thưởng trà nghe mưa, chứ nào phải bò dưới nền ngục tối, thân thể mang đầy thương tích, dùng mười ngón tay đẫm máu bị rút sạch móng tay, bám lấy tà váy của bà, hơi thở thoi thóp khẩn cầu. Bà từ tốn nói: “Nếu không, chỉ vì ngươi xuất thân từ nhà họ Thôi ở Bác Lăng mà ngô sẽ không bao giờ dùng đến ngươi.”

Xưa nay Thái hậu chưa hề che giấu sự căm ghét của mình đối với nhà họ Thôi ở Bác Lăng. Sau khi tiên đế băng hà, việc đầu tiên Thái hậu làm khi lâm triều là điều Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh ra khỏi Trường An. Thôi Tụng Thanh đã hỗ trợ tiên đế thực hiện Tân chính Thái Xương, công lao hiển hách, tài năng xuất chúng, nhưng suốt hai mươi năm Thái hậu chấp chính, ông ta vẫn phải sống lưu lạc tại Bác Lăng, thậm chí còn không được làm một chức quan nhỏ như Tư mã Giang Châu.

Không ai biết tại sao Thái hậu lại căm ghét nhà họ Thôi ở Bác Lăng đến vậy. Có thể là do mối hận cũ khi Tiên đế biên soạn cuốn “Tông tộc chí” và các đại thần đã xếp nhà họ Thôi trên cả hoàng tộc họ Lý, hoặc cũng có thể là do mâu thuẫn khi Thôi Tụng Thanh còn đương nhiệm. Dù lý do gì, suốt thời gian Thái hậu nắm quyền, bà chưa từng dùng bất kỳ người nào thuộc nhà họ Thôi.

Cho đến khi Thôi Tuần xuất hiện.

Bên hồ Thái Dịch, liễu rũ xanh um, Thôi Tuần khoác áo lông cáo trắng, bóng dáng thanh nhã như ngọc, in bóng cùng cây liễu xuống mặt nước xanh biếc, khiến hắn trông giống như một quý công tử thanh nhàn đang gảy đàn ngắm hạc, không màng danh lợi. Nhưng ai có thể tưởng tượng rằng người này không chỉ bại hoại, mà còn tàn nhẫn đến tận cùng, ác danh lan xa, là một kẻ mà ai ai cũng muốn băm vằm thành muôn mảnh.

Hắn cúi đầu nói: “Thái hậu đã cứu mạng thần, thần nguyện vì Thái hậu mà lao vào nước sôi lửa bỏng, không hề do dự.”

“Vọng Thư, ba năm qua, tuy ngươi có nhiều chấp niệm, nhiều lần làm trái ý ta, nhưng cũng xem như trung thành tận tụy.” Chiếc túi thơm bằng vàng, chạm khắc hoa điểu của Thái hậu lắc lư theo từng bước chân, tỏa hương thoang thoảng. “Ngươi không chỉ giúp ngô tìm lại chiếc túi thơm Minh Nguyệt Châu, mà còn nhớ đến cây bồ đề con bé trồng ở chùa Pháp Môn. Ngươi hiểu lòng ngô, yêu thích những gì ngô thích, nên có một số chuyện ngô không muốn truy cứu nữa.”

Thôi Tuần lúc này mới hiểu ra rằng, Thái hậu không trách phạt hắn vì cái chết của Vương Nhiên Tê là vì còn nể tình chiếc túi thơm và cây bồ đề. Nói cách khác, nhờ có Lý Doanh, hắn lại thoát tội thêm lần nữa.

Nhưng nếu Thái hậu biết hắn đang bí mật điều tra cái chết của Lý Doanh, và hung thủ thực sự có thể liên quan đến Thái hậu, lúc đó sẽ ra sao?

Gió xuân vẫn còn mang theo chút lạnh, khiến mồ hôi lạnh rịn đầy lưng Thôi Tuần.



Dù là vậy, Thôi Tuần vẫn giấu kín điều này và tiếp tục bí mật điều tra người bên cạnh Thái hậu. Bởi vì chỉ khi tìm ra hung thủ, Lý Doanh mới tiết lộ cho hắn nơi chôn cất di hài của Thịnh Vân Đình.

Hắn không còn lựa chọn nào khác.

Lý Doanh căm ghét hắn, mỗi khi nói chuyện đều lạnh lùng, rõ ràng là không muốn gặp hắn. Nhưng vì muốn biết tiến triển của vụ án, nàng không thể không gặp.

Dù đêm nay trời mưa to gió lớn, sấm chớp vang trời, nàng vẫn đến. Nàng thu chiếc ô lụa, phủi vài giọt mưa còn đọng trên chiếc áo choàng màu xanh lá, đôi giày da hươu đã lấm bùn, nhưng khi bước trên hành lang dài của Thôi phủ, lại không để lại dấu vết.

Nàng chậm rãi bước vào thư phòng của Thôi Tuần. Thôi Tuần đang đọc “Xuất nhập lục”, Lý Doanh bước đi không tiếng động, nhưng Thôi Tuần dường như cảm nhận được điều gì đó. Hắn không ngẩng đầu lên, chỉ khi Lý Doanh tháo chiếc áo choàng xanh và ngồi đối diện với hắn, hắn mới ngước mắt, nói: “Ta đã xem “Xuất nhập lục” mấy ngày nay, nhưng không phát hiện điều gì.”

Câu trả lời này nằm trong dự liệu của Lý Doanh. Nàng cầm lấy cuốn “Xuất nhập lục” từ tay Thôi Tuần, lặng lẽ đọc. Nàng không muốn nói chuyện với hắn.

Thôi Tuần không bộc lộ cảm xúc khi đối diện với sự chán ghét rõ ràng của nàng. Hắn chỉ cầm lấy một cuốn “Xuất nhập lục” khác từ cạnh bàn và tiếp tục đọc.

Trong thư phòng chỉ còn tiếng xào xạc của những thẻ sách. Hai người ngồi yên trước bàn, cùng cúi đầu đọc “Xuất nhập lục”, một người khoác áo lông cáo trắng như sương, thanh thoát như ánh bình minh, một người mặc váy lụa xanh nhạt, tú lệ thanh nhã. Khung cảnh này trông giống như một đôi vợ chồng son, vô cùng xứng đôi. Nhưng thực tế, nàng coi hắn như kẻ thù, hắn đẩy nàng vào cảnh hiểm nguy, hai người không thể hòa hợp.

Rất lâu sau, Lý Doanh mới ngẩng đầu lên và nói: “Phó tỳ gọi là Đông Nhi này, ba mươi năm trước đột nhiên qua đời, liệu có liên quan gì đến vụ án không?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta đã điều tra rồi, Đông Nhi qua đời vì bệnh lỵ, có y án làm chứng, không thể giả mạo.”

Lý Doanh khẽ “ồ” một tiếng, trong lòng lại cảm thấy một chút nhẹ nhõm. Nàng tiếp tục xem một hồi, rồi ngẩng đầu hỏi Thôi Tuần: “Đã xem hết “Xuất nhập lục”, nhưng vẫn không phát hiện được gì. Có phải vụ án của ta không liên quan gì đến a nương ta?”

Thôi Tuần không chút nể tình, phá vỡ ảo tưởng của nàng: “Khả năng lớn nhất vẫn là Thái hậu.”

Lý Doanh không phục sự khẳng định chắc nịch của hắn: “Đây chỉ là lời từ một phía của ngươi.”

“Nếu công chúa không tin ta, có thể đi tìm người khác.”

Lý Doanh nghẹn lại, một lúc sau nàng mới bật cười: “Ta không dám tin Thôi Thiếu khanh nữa. Hậu quả của việc tin tưởng chính là suýt nữa bị nhốt lại nơi Địa phủ, có đi mà không có về!”

Khi nghe đến chuyện Địa phủ, Thôi Tuần không nói gì thêm. Những ngày này, lòng Lý Doanh đầy uất ức, lời lẽ luôn mang theo mũi nhọn chĩa vào hắn. Có lẽ vì cảm thấy mình có lỗi, Thôi Tuần chưa từng phản bác lại một lời nào. Hắn cúi mắt xuống, rút cuốn “Xuất nhập lục” từ tay nàng: “Nếu xem xong rồi, hãy trả lại cho Nội thị tỉnh.”

Lý Doanh trong lòng vẫn còn giận dữ, nàng liền giật lại cuốn “Xuất nhập lục” từ tay hắn: “Ta chưa xem xong.”

“Vậy thì cứ tiếp tục xem đi.” Thôi Tuần nhìn ra ngoài, trời đã gần sáng: “Sắp đến giờ lên triều rồi, ta cũng phải chuẩn bị.”

Thực ra Lý Doanh đã đọc xong từ lâu, nhưng vì bực tức với Thôi Tuần nên nàng vẫn mở quyển sách ra đọc lại lần nữa. Khi nghe hắn nói về việc lên triều, nàng không kìm được, lạnh lùng châm chọc một câu: “Người khác lên triều là để cứu đời, cứu dân. Còn Thôi Thiếu khanh lên triều là để hại người, giết người. Ngươi làm biết bao chuyện ác, đến khi xuống hoàng tuyền, làm sao có thể đối diện với các cố nhân của Thiên Uy quân, và cả Thịnh Vân Đình?”

Lời vừa dứt, sắc mặt Thôi Tuần đã tái nhợt, trong mắt cũng ánh lên vẻ bối rối. Thấy vậy, Lý Doanh lại thoáng chút hối hận. Trước khi đến U Đô, nàng luôn nghĩ Thôi Tuần không phải là người xấu xa đến mức đó, nàng đã từng muốn tin hắn. Nhưng thực tế lại chứng minh nàng đã sai. Vì vậy, khi đối diện với Thôi Tuần, nàng không thể kìm nén cơn giận trong lòng. Dù vậy, khi thấy hắn thật sự bị tổn thương bởi lời nói của mình, nàng lại băn khoăn liệu có phải mình đã quá lời. Dù sao, nàng cũng không phải loại người chuyên làm tổn thương kẻ khác, nhất là khi nàng biết rõ tình cảm của Thôi Tuần đối với Thiên Uy quân. Dùng Thịnh Vân Đình và Thiên Uy quân để chọc giận hắn, liệu nàng có nên làm vậy?

Lý Doanh mím chặt môi, không nói thêm gì, cúi đầu xuống, trong lòng cố thuyết phục mình rằng nàng không hề sai. Thôi Tuần suýt chút nữa đã hại chết nàng, nàng phản ứng lại vài câu để hả giận, chẳng lẽ cũng không được?

Nàng cúi đầu tiếp tục xem quyển “Xuất nhập lục”, nhưng chính nàng cũng không nhận ra rằng mình đã cầm ngược quyển sách. Thôi Tuần cũng không nói gì, chỉ im lặng đứng dậy, chuẩn bị rời khỏi phường Tuyên Dương để vào cung Đại Minh tham triều. Bỗng nhiên một tiếng sấm nổ vang trời, khiến cả đất trời rung chuyển. Lý Doanh hoảng hốt, làm rơi quyển sách xuống đất. Thôi Tuần cũng dừng bước, sấm vừa dứt thì liên tiếp những tia chớp xé toạc bầu trời, chiếu sáng màn đêm như ban ngày, mưa ào ào đổ xuống như thể cả dòng sông đang trút nước từ trên cao.

Lý Doanh ngẩn người nhìn cơn mưa như trút, trong lòng dâng lên một cảm giác bất an, thân thể nàng bỗng run rẩy theo từng tiếng sấm. Thôi Tuần nhặt quyển sách từ dưới đất lên, rồi trở về bàn, ngồi ngay ngắn chỉnh tề. Lúc ấy, Lý Doanh mới quay lại nhìn hắn: “Không phải ngươi phải vào triều sao?”

“Mưa to quá, không đi nữa.” Thôi Tuần trả lời.

Lý Doanh lắc đầu, thầm nghĩ rằng người đời chửi Thôi Tuần cậy sủng thật không oan. Triều chính mà muốn đi thì đi, không đi thì thôi, khí thế còn lớn hơn cả Thánh nhân.

Thôi Tuần đã đưa quyển sách cho Lý Doanh: “Chẳng phải công chúa nói chưa xem xong sao?”

“Đúng vậy, chưa xem xong.” Lý Doanh đón lấy sách, mở ra, tiếp tục đọc những cái tên đã thuộc lòng cùng ghi chép xuất nhập. Nhưng tiếng sấm cứ vang lên, làm nàng không thể tập trung, cảm giác bất an trong lòng càng lúc càng mạnh. Nàng xem mãi vẫn chưa xong một thẻ trúc nào. Bất ngờ, Thôi Tuần đưa cho nàng một chiếc hộp ngọc, nàng hỏi: “Đây là gì?”

Thôi Tuần đáp: “Mở ra sẽ biết.”

Lý Doanh mở hộp, bên trong có hai chiếc nút tai bằng ngọc nhỏ xinh.

Thôi Tuần bình thản nói: “Đeo nút ngọc vào đi, sẽ không còn nghe thấy gì nữa.”

Tiếng sấm vang dội, chấn động đến điếc tai. Lý Doanh không khỏi nhìn sang Thôi Tuần, hắn đã cúi đầu, chăm chú xem quyển “Xuất nhập lục” khác. Lý Doanh mím môi, rồi lặng lẽ lấy hai chiếc nút ngọc trong hộp, đặt vào tai. Quả nhiên, tiếng sấm bên ngoài đã nhỏ đi rất nhiều. Lòng nàng cũng dần bình tĩnh lại, cúi đầu tiếp tục đọc sách.



Mưa lớn kéo dài cho đến sáng hôm sau mới dứt. Lý Doanh tháo nút ngọc ra, xoa xoa đôi tai hơi đau nhức. Ngoài thư phòng, tiếng chim yến lại ríu rít cất lên. Ánh sáng từ những dải mây sau mưa xuyên qua khung cửa gỗ, hắt những vệt sáng loang lổ xuống sàn gỗ mun trong phòng. Lý Doanh nghiêng đầu nhìn vệt sáng vàng óng trên nền đất, trong lòng bỗng thấy an yên và đẹp đẽ. Nàng dường như có khả năng đặc biệt trong việc khám phá ra cái đẹp, từ một tia sáng lọt qua khe cửa, một bông hoa dại nở rộ, hay một chiếc lá rơi đều khiến nàng cảm nhận được sự bình yên và tốt lành.

Khi nàng quay đầu ngắm nhìn ánh nắng, đôi mắt nàng yên bình tĩnh lặng. Thôi Tuần có thể nhìn thấy rõ khuôn mặt thanh tú như tranh vẽ của nàng. Đôi d** tai nhỏ xinh của nàng giống như những viên ngọc trai tinh xảo gắn vào vành tai trắng ngần, cả người nàng trong sáng thuần khiết như tuyết trên đỉnh Thiên Sơn, khiến người nhìn cảm thấy như được đón gió xuân mát lành, dịu dàng như thấm vào ruột gan.

Thôi Tuần khép lại quyển sách, Lý Doanh nghe tiếng động liền quay đầu lại. Thôi Tuần cúi đầu, chỉnh lại những bó trúc. Lý Doanh cất tiếng: “Ta xem xong rồi, ngươi…”

Nàng vừa định bảo hắn đem trả lại sách cho Nội thị tỉnh, tránh để bị phát hiện, nhưng chưa kịp nói hết câu thì bên ngoài thư phòng vang lên tiếng gõ cửa dồn dập.

Thôi Tuần hỏi: “Ai đó?”

“Thiếu khanh, là Lưu Cửu, có chuyện lớn rồi!”

Thôi Tuần và Lý Doanh không hẹn mà cùng nhìn nhau. Hắn đứng dậy mở cửa, bên ngoài Lưu Cửu với vẻ mặt đầy lo lắng: “Thiếu khanh, không hay rồi, đêm qua mưa lớn, lăng mộ của công chúa Vĩnh An bị sét đánh hư hại, hai con sư tử đá trấn giữ trước lăng đều bị chẻ làm đôi!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 27: Thụ hình


Lăng mộ của Lý Doanh bị hủy hoại, tiếng là thiên tai, nhưng chủ bộ Hỗn Thiên Giám lại cho rằng đó là nhân họa. Theo như chủ bộ, lăng mộ của công chúa Vĩnh An bị phá hoại là do có kẻ đã khuấy động hồn phách của nàng. Việc sư tử đá trước lăng bị sét đánh nứt đôi chính là lời cảnh báo, ngụ ý nàng không hài lòng.

Nhưng kẻ nào đã khuấy động hồn phách của công chúa Vĩnh An?

Một vị ngự sử họ Giả đã dâng sớ tố cáo Thôi Tuần, Thiếu khanh của Sát Sự Thính, rằng hắn đã hối lộ các tiểu lại ở Đại Lý Tự và Nội thị tỉnh, không chỉ bí mật điều tra hồ sơ vụ án của công chúa, mà còn mang sổ ghi chép xuất nhập cung của cung nữ hầu hạ Thái hậu ba mươi năm trước về nhà. Mưu đồ đã rõ rành rành, nên chuyện kẻ nào khuấy động hồn phách công chúa cũng đã quá rõ ràng.

Thái hậu và Thánh nhân vô cùng phẫn nộ, hạ lệnh điều tra triệt để. Thôi Tuần bị buộc tạm thời cách chức, không được thượng triều cho đến khi sự việc được làm sáng tỏ. Hắn thừa biết rằng chuyện này khó mà xử lý êm đẹp.

Cuối cùng Lý Doanh cũng hiểu được nguồn gốc của cảm giác bất an hôm đó. Có kẻ đang lợi dụng cái chết của nàng để giăng bẫy hãm hại Thôi Tuần.

Nếu nói về việc khuấy động hồn phách, thì hồn phách của nàng ở đây, chính nàng đã yêu cầu Thôi Tuần điều tra vụ án. Hồ sơ và sổ “Xuất nhập lục” đều là do nàng yêu cầu mang ra. Vậy hồn phách bị khuấy động từ đâu mà có?

Nàng không thể tin nổi, đã chết hơn ba mươi năm, mà vẫn có thể trở thành công cụ để kẻ khác loại trừ đối thủ chính trị.

Thật đáng buồn! Thật đáng xót xa!

Chưa đầy hai ngày sau, Thôi Tuần đã bị triệu vào cung.

Việc điều tra nhanh như vậy không làm hắn ngạc nhiên chút nào. Người chết vì tiền, chim chết vì mồi, những tiểu lại ở Đại Lý Tự và Nội thị tỉnh vì ham tiền mà bán đứng bí mật, không hề trung thành với hắn. Chuyện bị tra khảo và khai ra là điều không có gì bất ngờ. Điều này, hắn đã đoán trước từ lâu.

Ngược lại, Lý Doanh vô cùng lo lắng khi biết hắn phải vào cung, nàng hỏi: “A nương ta sẽ giết ngươi sao?”

“Có lẽ.” Thôi Tuần đáp.

“Thật vô lý!” Lý Doanh bất bình: “Rõ ràng là ta nhờ ngươi điều tra, sao lại có kẻ mượn danh ta để hại ngươi?”

“Bởi vì chúng biết cô không thể lên tiếng.” Thôi Tuần bình tĩnh nói. “Người chết là công cụ lợi dụng tốt nhất.”

“Ta phải đi tìm a nương!”

Lý Doanh bước đi hai bước, rồi đột ngột dừng lại. Làm sao nàng có thể đi tìm a nương khi a nương không nhìn thấy nàng? Nàng sẽ tìm bà bằng cách nào?

“Thôi bỏ đi.” Thôi Tuần biết rõ đại họa đang đến gần, nhưng ngược lại, hắn tỏ ra vô cùng bình thản. Hắn quay về phía Lý Doanh, đột nhiên cúi sâu một cái, hành lễ: “Công chúa, chuyện giữa ta và người là lỗi của ta, nhưng chuyện này không liên quan gì đến Vân Đình. Nếu ta không thể quay về, xin công chúa nghĩ cách đưa hài cốt của Vân Đình về cho gia quyến. Đại ân đại đức này, Thôi Tuần ta khắc cốt ghi tâm, suốt đời không quên.”

“Ta…” Lý Doanh cắn môi, trong lòng rối bời. Nàng tuy căm ghét Thôi Tuần, nhưng lần này hắn thật sự gặp nạn vì nàng, nàng không thể nói ra những lời làm tổn thương hắn nữa. Cuối cùng nàng gật đầu: “Ta đồng ý.”

Nghe vậy, Thôi Tuần mỉm cười. Từ trước đến nay, hắn luôn lạnh lùng như băng, không hề để lộ cảm xúc vui buồn, khiến người khác không thể đoán được lòng hắn. Lần này, nụ cười của hắn lại mang theo chút cảm kích: “Đa tạ công chúa.”

Lý Doanh nhìn theo bóng dáng Thôi Tuần chậm rãi bước ra khỏi phủ, tiến về phía những Thiên Ngưu Vệ đang đợi hắn. Bóng lưng hắn cô độc, lặng lẽ, dưới ánh chiều tà, bóng hình bị kéo dài trên mặt đất càng làm hắn thêm đơn độc, từng bước đi như nặng nề hơn. Trong thời khắc sinh tử này, cả kinh thành Trường An rộng lớn, lại chẳng có ai vì hắn mà lo lắng.

Trong lòng Lý Doanh, nàng không biết phải nói gì, cảm giác lẫn lộn. Khi hắn vừa bước qua khỏi cổng phủ, nàng bất chợt gọi lớn: “Thôi Tuần… ngươi… ngươi hãy sống và trở về!”

Thôi Tuần khựng lại một chút, nhưng chỉ trong giây lát, hắn tiếp tục bước theo Thiên Ngưu Vệ, cùng họ tiến về phía số phận còn chưa biết trước.



Trong điện Bồng Lai, những cột trụ chạm trổ tinh xảo, mái hiên cao vút, hương trầm lan tỏa khắp không gian, rèm châu buông thấp. Thái hậu ngồi nghiêm chỉnh phía sau rèm, không nói lời nào trong suốt thời gian dài.

Thôi Tuần cúi sát xuống đất, cũng im lặng không nói. Rất lâu sau, Thái hậu mới cười lạnh một tiếng: “Thôi Tuần, ngươi còn gì để nói?”

Thôi Tuần lặng lẽ đáp: “Thần, không có gì để nói.”

“Vậy tức là ngươi đã thừa nhận việc hối lộ tiểu lại của Đại Lý Tự và Nội thị tỉnh?”

“Phải.”

Sau rèm châu, giọng Thái hậu không thay đổi, bà từ tốn nói tiếp: “Thôi Tuần, ngươi chán sống rồi phải không?”

“Thần không dám.”

“Không dám? Còn gì mà ngươi không dám nữa? Ngươi biết rõ Minh Nguyệt Châu là nỗi đau của ngô, vậy mà lại dám lợi dụng nàng làm công cụ để thao túng quyền lực sao?”

Thôi Tuần cúi đầu, biết rằng lúc này dù có giải thích cũng vô ích, chỉ đành im lặng: “Thần không dám.”

“Ngươi điều tra vụ án Minh Nguyệt Châu để làm gì?” Thái hậu cười lạnh: “Ngươi thậm chí còn tự ý xem sổ “Xuất nhập lục” của cung nữ bên cạnh ngô? Ngươi muốn tìm ra điều gì? Có phải ngươi muốn chứng minh rằng ngô đã giết Minh Nguyệt Châu?”

Nghe đến đây, Thôi Tuần đột ngột ngẩng đầu, trên trán hắn mồ hôi lạnh rịn ra, hắn nghiến răng cúi đầu lạy: “Thần không dám.”

“Để ngô đoán xem ngươi thực sự muốn làm gì. Ngươi muốn chứng minh ngô là hung thủ, rồi dùng chuyện này uy h**p ngô, để từ đó ngươi thao túng triều đình theo ý mình, đúng không?”

Giọng Thái hậu càng lúc càng gay gắt. Trong ba năm bên cạnh bà, Thôi Tuần chưa từng thấy bà tức giận đến mức này. Mồ hôi lạnh lăn dài từ trán xuống, nhỏ từng giọt lên sàn gỗ mun, phát ra âm thanh trong trẻo. Hắn cất lời, giọng run run: “Thần không dám.”

Thái hậu cười khẩy: “Thật không ngờ ta nuôi một con chó, lại có ngày bị nó quay lại cắn ngược.”

Thôi Tuần nằm rạp trên đất, đầu cúi rất thấp, lưng hắn chợt run rẩy. Hắn nghiến răng nói: “Thần biết tội của mình không thể tha thứ, chỉ mong Thái hậu có thể tha cho thần một mạng.”

“Ngươi không muốn chết?”

“Không muốn.”

“Nếu không muốn chết, tại sao lại làm chuyện phản chủ như vậy?”

Thôi Tuần không thể biện minh, chỉ đành dập đầu: “Cầu xin Thái hậu tha mạng, muốn đánh muốn phạt, thần đều chấp nhận.”

Hắn dập đầu mạnh xuống nền gỗ cứng, trán trắng trẻo giờ đã sưng đỏ, rỉ máu. Thái hậu lạnh lùng nhìn hắn quỳ rạp, cúi đầu cầu xin tha thứ. Hắn, người của họ Thôi ở Bác Lăng, vốn là dòng dõi sĩ tộc “sĩ khả sát bất khả nhục” <i>(kẻ sĩ có thể bị giết nhưng không thể bị sỉ nhục)</i>, vậy mà lại hèn hạ, cầu sống như một con chó. Thái hậu đã chấp chính hai mươi năm, không ngờ cuối cùng lại bị một kẻ như vậy phản bội. Thật đáng cười!

Cuối cùng, bà lạnh lùng nói: “Đủ rồi.”

Thôi Tuần ngừng dập đầu, nhưng không dám ngẩng lên, chỉ còn biết run rẩy chờ đợi phán quyết. Thái hậu cắn chặt răng, từng chữ như muốn nghiền nát: “Thôi Tuần, ngươi đã khiến Minh Nguyệt Châu chết cũng không yên, ngô chỉ hận không thể lột da ngươi!”

Nghe vậy, lòng Thôi Tuần thắt lại, nhưng Thái hậu lại nói tiếp: “Nhưng… nhưng…”

Bà ngừng lại, dường như vô cùng không cam lòng, nhưng vẫn phải đưa ra quyết định: “Ngô vẫn sẽ tha cho ngươi một mạng.”

Bà nghiêm giọng: “Người đâu!”

Thiên Ngưu Vệ lập tức bước vào điện. Thái hậu nghiến răng ra lệnh: “Thôi Tuần phạm tội khi quân, âm mưu bất chính, phạt một trăm trượng, bãi chức để làm gương!”

Hình phạt này không hề nhẹ, với thân thể Thôi Tuần, một trăm trượng có thể lấy đi nửa mạng của hắn. Nhưng Thôi Tuần lại như thở phào, hắn cúi đầu lạy tạ: “Tạ ơn Thái hậu.”

Khi bị áp giải ra khỏi điện Bồng Lai, Thôi Tuần lại cảm thấy trong lòng dần bình tĩnh. Hắn mặc kệ bọn Thiên Ngưu Vệ trói hắn lên ghế hình. Đại Chu có năm hình phạt: trượng, roi, tù, lưu đày, và tử hình. Trong đó, phạt trượng là nhẹ nhất, nhưng khi chịu hình phạt này, da thịt sẽ bị xé rách, máu me lênh láng, rất ít phạm nhân có thể chịu đựng mà không quằn quại trong đau đớn, vì vậy phạm nhân thường bị trói chặt vào ghế. Thôi Tuần bị trói bằng dây thừng thô ráp, chặt đến mức lún sâu vào thịt, nhưng hắn vẫn im lặng, không hề kêu la, khiến bọn Thiên Ngưu Vệ nghi ngờ rằng người bị trói không phải là kẻ sống, mà là một cái xác.

Nhưng khi bọn chúng định cởi áo của hắn ra, Thôi Tuần bất ngờ có chút phản ứng của một người còn sống, hắn giằng lại và nói: “Không cần.”

Mấy tên Thiên Ngưu Vệ liếc nhìn nhau, một tên lên tiếng: “Thôi Thiếu khanh, chúng tôi cũng vì tốt cho ngài thôi. Nếu không cởi áo, vải sẽ lẫn vào vết thương, khi chữa trị sẽ càng đau đớn hơn.”

Thôi Tuần chỉ lặp lại: “Không cần.”

Một tên Thiên Ngưu Vệ căm ghét Thôi Tuần, cho rằng hắn là kẻ tiểu nhân, định lên tiếng quát mắng, nhưng bị những người khác ra hiệu ngăn lại. Thôi Tuần đã hầu hạ Thái hậu ba năm, lần này bà giận hắn, nhưng ai biết được sau này liệu bà có nhớ lại điểm tốt của hắn mà triệu về không? Vì vậy, không cần thiết phải đắc tội quá mức với hắn.

Nếu Thôi Tuần không muốn cởi áo, thì cứ để vậy. Nhưng việc thi hành một trăm trượng là mệnh lệnh của Thái hậu, họ chỉ làm theo chỉ dụ, dù có vô tình đánh quá mạnh, Thôi Tuần cũng chẳng dám phản đối.

Dụng cụ hành hình bằng tre, dài năm thước, mỏng nửa tấc, các đốt tre chưa được gọt nhẵn. Ngay từ cú trượng đầu tiên giáng xuống lưng, bộ quan phục màu đỏ sẫm của Thôi Tuần đã thấy một vệt máu loang. Sau hai mươi trượng, quan phục của hắn đã rách nát, máu chảy thành dòng, nhưng hắn vẫn chỉ cắn chặt đầu lưỡi, không để mình r.ên r.ỉ thành tiếng, như thể nếu làm vậy sẽ giữ được chút tôn nghiêm ít ỏi.

Đầu lưỡi của hắn đã bị cắn đến chảy máu, vị tanh của máu trộn lẫn với vị đắng lan ra trong miệng. Trong cơn mê man, lưng hắn chẳng còn mảnh da nào nguyên vẹn, mỗi đòn giáng xuống đều đánh vào những vết thương cũ, khiến da thịt bị xé toạc thêm. Trước mắt Thôi Tuần dần mờ đi, trong đầu hắn lại hiện ra hình ảnh của những cánh đồng cát vàng, từng người cưỡi ngựa phi nhanh, kiếm trong tay lấp lánh dưới ánh nắng, tiếng cười vang vọng như nhật nguyệt. Trong tai hắn vang lên giọng nói trong trẻo của Lý Doanh: “Ngươi làm biết bao chuyện ác, đến khi xuống hoàng tuyền, làm sao có thể đối diện với các cố nhân của Thiên Uy quân?”

Máu từ đầu lưỡi tràn ra khóe miệng, ý thức của Thôi Tuần ngày càng mờ nhạt. Khi xuống hoàng tuyền, họ… liệu có còn nhận hắn là bạn không?

Một thùng nước lạnh đổ thẳng vào người hắn, khiến Thôi Tuần giật mình tỉnh lại. Bên tai hắn vang lên giọng khinh bỉ của bọn Thiên Ngưu Vệ: “Thái hậu nói, Thôi Thiếu khanh phải tỉnh táo mà chịu phạt.”

Thôi Tuần thở d.ốc, đau đớn khiến hắn không thể giữ nổi nhịp thở. Lưng hắn giờ đã bị đánh đến mức máu thịt nhão nhoét, vết thương sâu đến tận xương. Ánh mắt hắn mờ đi, sắc mặt tái nhợt như tờ giấy. Những cú trượng tiếp tục giáng xuống, mỗi cú càng nặng hơn cú trước. Đốt tre cọ vào thịt, rồi khi nhấc lên lại kéo theo cả một mảng da thịt nữa. Thôi Tuần vẫn cắn chặt đầu lưỡi, trên nền đá xanh, máu và nước hòa lẫn vào nhau, tạo thành một vũng lầy nhầy.

Hắn nhìn dòng máu trên mặt đất, tựa như thấy những thanh niên năm xưa đang xông pha chiến trường, máu từ ngực họ tuôn ra, loang đỏ cả sườn núi Lạc Nhạn Lĩnh.

Hắn từ từ nhắm mắt lại, mồ hôi và nước mắt đã thấm ướt cả khuôn mặt. Hắn để mặc bọn Thiên Ngưu Vệ trút giận lên lưng mình. Ý thức hắn lúc rõ lúc mờ, hết bị dội nước lạnh cho tỉnh rồi lại tiếp tục chịu đánh. Cứ thế lặp đi lặp lại, không biết đã bao lâu, cuối cùng hình phạt một trăm trượng cũng kết thúc.

Khi Thiên Ngưu Vệ tháo dây trói, quan phục sau lưng Thôi Tuần đã rách nát hoàn toàn, toàn bộ lưng hắn đầy máu thịt lẫn lộn, trông thảm thương vô cùng. Hắn thoi thóp, không thể đứng vững nổi, phải nhờ mấy tiểu lại trong Sát Sự Thính đánh bạo đỡ lấy, dìu hắn bước từng bước một ra khỏi cung. Nhưng chỉ vừa bước đi, vết thương trên lưng lập tức bị kéo căng, khiến hắn đau đớn đến mức cả người run lên không ngừng. Mồ hôi tuôn xuống thành dòng từ trên trán, hắn cúi đầu, nghiến răng chịu đựng cơn đau tê tái, và bất ngờ nhìn thấy một bóng áo tím.

Áo tím là của quan tam phẩm. Thôi Tuần ngước lên, quả nhiên đó là Bùi Quan Nhạc.

Mũ quan của Thôi Tuần đã bị tước, quan phục trên lưng rách nát, toàn thân đẫm máu, y phục đã bị thấm ướt bởi mồ hôi và nước, dính sát vào cơ thể. Những lọn tóc đen xõa xuống, ướt đẫm, bết vào khuôn mặt tái nhợt như tuyết. Dù thảm hại đến thế, khi nhìn thấy Bùi Quan Nhạc, Thôi Tuần vẫn cố chịu đau ngẩng cao đầu, thẳng lưng, lạnh lùng nhìn ông ta.

Bùi Quan Nhạc cười nhạt, cúi xuống múc một gáo nước lạnh và tạt thẳng vào mặt Thôi Tuần.

Mấy tiểu lại trong Sát Sự Thính đều kinh ngạc thốt lên: “Bùi… Bùi Thượng thư!”

Nhưng Bùi Quan Nhạc không để ý đến họ, chỉ thản nhiên nói với Thôi Tuần: “Một con chó rơi xuống nước mà cũng dám đấu với ta sao?”

Nước lạnh tạt vào mặt Thôi Tuần, từ trán sưng đỏ và rách da của hắn chảy xuống đôi mắt sâu thẳm, lướt qua đôi môi nhợt nhạt không chút sắc hồng, rồi trượt xuống đôi vai đầy thương tích. Dù bị lăng nhục như vậy, ánh mắt hắn vẫn không hề đổi sắc. Hắn chỉ thở d.ốc, nhếch miệng cười lạnh lùng: “Vậy thì cẩn thận đấy, lần sau con chó này sẽ cắn chết ngươi.”

“Hừ,” Bùi Quan Nhạc cười khẩy, “mơ mộng hão huyền!”

Ông ta nhìn Thôi Tuần từ trên xuống dưới, giống như đang nhìn một kẻ vừa được vớt lên từ vũng máu. “Ngươi nói xem, vất vả lắm mới giữ lại được mạng, chỉ cần an phận làm con chó của Thái hậu là được, vậy mà còn muốn đối đầu với ta. Bây giờ ngươi đã thua thảm hại, để ta xem, ngươi làm cách nào để xoay chuyển được tình thế!”

“Vậy cứ nhìn xem,” Thôi Tuần, dù mặt mày trắng bệch, vẫn cất giọng yếu ớt nhưng rất rõ ràng: “Đừng chết trước ta là được.”

Bùi Quan Nhạc khinh thường cười lớn. Ông ta đã hơn năm mươi tuổi, râu tóc bạc phơ, phong thái đĩnh đạc, danh tiếng lẫy lừng. Quan lại trong triều đều kính trọng ông ta, không ai dám so sánh với Thôi Tuần, một kẻ nổi tiếng tàn nhẫn. “Được, vậy để xem giữa chúng ta, kẻ nào chết trước!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 28: Ta muốn làm người, không muốn làm quỷ


Trời về khuya, gió lặng, trăng sáng vằng vặc.

Lão y sư tóc bạc từ trong phòng của Thôi Tuần bước ra, nhìn lão bộc câm đang chờ bên ngoài, lắc đầu thở dài: “Thôi Thiếu khanh không cho mỗ động vào y phục của ngài, thì chữa trị thế nào được?”

Lão bộc câm lo lắng khoa tay múa chân, lão y sư lại than: “Ngài ấy bảo có thể tự mình bôi thuốc, liền đuổi mỗ ra. Mỗ đã để lại thuốc trị thương, lão nhân gia, những chuyện khác mỗ cũng đành bất lực.”

Y sư thở dài một hơi rồi quay đi. Lão bộc câm đứng đó, nhìn khe cửa phát ra ánh sáng yếu ớt, ông cũng thở một hơi sâu rồi lắc đầu rời đi.

Cả hai không hề hay biết, dưới khung cửa sổ có một bóng dáng nhỏ nhắn đã đứng đó từ lâu. Người ấy mặc váy hai màu đỏ trắng đan xen, tóc vấn hai bên kiểu vọng tiên, dáng vẻ mong manh. Bóng dáng ấy đứng im, nhìn vào căn phòng qua lớp mành cửa xanh nhạt. Sau một hồi lâu, dường như nàng đã hạ quyết tâm, nhẹ nhàng đẩy cửa bước vào.

Ánh đèn leo lét chập chờn, Thôi Tuần nằm sấp trên giường, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, mồ hôi thấm đẫm mái tóc đen. Vài lọn tóc dính bết lên má, quan phục trên lưng hắn rách nát, những mảnh vải đã lẫn vào vết thương đẫm máu, trông cực kỳ đáng sợ. Hắn nhắm chặt mắt, nếu không phải còn nghe được hơi thở yếu ớt, hẳn Lý Doanh đã nghĩ rằng hắn mất mạng rồi.

Nàng ngồi xuống bên mép giường, cảnh tượng máu me trước mắt khiến nàng hơi chóng mặt. Một trăm roi đánh vào lưng đã khiến Thôi Tuần máu thịt be bét, da thịt gần như không còn nguyên vẹn. Những vết thương đẫm máu xếp chồng lên nhau, thậm chí nàng có thể nhìn thấy xương trắng bên trong.

Lý Doanh chưa từng trừng phạt cung nữ, cũng chưa bao giờ thấy nhiều máu đến thế, càng chưa từng nhìn thấy những vết thương kinh khủng như vậy. Trong lòng nàng thực sự có chút sợ hãi, nhưng dù có sợ hãi thế nào, nàng cũng không thể để mặc Thôi Tuần chết đi như vậy.

Huống chi, vì nàng nên Thôi Tuần mới bị phạt.

Lý Doanh run rẩy đưa tay lên, định cởi y phục của Thôi Tuần ra trước. Nhưng khi nàng vừa chạm vào, Thôi Tuần vốn đang mê man bỗng nhiên nắm lấy tay nàng. Bàn tay hắn yếu ớt, chỉ cần một chút sức nàng có thể dễ dàng thoát ra, nhưng nàng không làm vậy. Nàng nhẹ giọng giải thích: “Ta phải cởi y phục của ngươi, nếu không thì không thể trị thương.”

“Không cần.” Thôi Tuần thều thào, hơi thở yếu ớt.

Lý Doanh nóng nảy: “Không cần? Nếu không trị thương, ngươi sẽ chết mất.”

“Không chết nổi đâu…”

Lý Doanh suýt bật cười vì giận. Đã bị đánh đến mức thoi thóp rồi mà còn cứng miệng. Nàng ngừng một chút rồi nói: “Thôi Tuần, chẳng phải ngươi không muốn ai nhìn thấy những vết thương cũ trên người sao? Lễ Thượng Nguyên năm nay ta đã thấy cả rồi, đã nhìn một lần thì có nhìn thêm lần thứ hai cũng có sao đâu, đúng không?”

Nghe vậy, Thôi Tuần không nói gì thêm, chỉ thở d.ốc yếu ớt. Bàn tay hắn nắm lấy cổ tay nàng cũng dần mất đi sức lực. Lý Doanh có chút bất đắc dĩ, đôi lúc lòng tự tôn của hắn được sử dụng không đúng chỗ. Nàng hạ giọng, nhẹ nhàng an ủi: “Thôi Tuần, ngươi yên tâm, chỉ mình ta thôi, không ai khác thấy nữa đâu.”

Lý Doanh cúi đầu, nhẹ nhàng tháo bỏ tấm áo rách nát trên người Thôi Tuần. Hắn không phản kháng, chỉ chôn mặt vào chiếc gối lụa thêu, hơi thở nặng nề im lìm. Những vết thương cũ và mới chồng chất như mạng nhện giăng kín khắp lưng, mùi máu tanh xộc vào mũi khiến nàng không đành lòng nhìn thẳng. Lý Doanh cắn chặt môi, lòng như trĩu nặng. Nàng cẩn thận nhúng miếng lụa trắng trong chậu nước, vắt khô rồi từ tốn lau lên những vết thương đang rỉ máu.

Vừa chạm vào, thân thể của Thôi Tuần bỗng co giật vì đau, khiến Lý Doanh cũng trở nên hoảng loạn. “Ta sẽ nhẹ tay hơn.” Nàng nói, giọng điệu trầm lắng đầy áy náy.

Nhưng hắn vẫn vùi mặt vào chiếc gối, không lên tiếng đáp lại. Dù thế, Lý Doanh vẫn cố gắng động tác càng nhẹ nhàng càng tốt, tránh để hắn thêm đau đớn. Lau đến nửa chừng, mồ hôi đã thấm ướt vầng trán nàng, trong khi Thôi Tuần vẫn im lặng chịu đựng, chỉ có những rung động nhẹ trên thân thể là phản bội, tố cáo nỗi thống khổ đang dày vò hắn.

Chậu nước sạch nhanh chóng biến thành màu đỏ thẫm. Lý Doanh phải thay nước liên tục, lau đi hết thảy những vết thương kinh hoàng chằng chịt khắp lưng hắn. Khi lau xong, nàng ngẩng đầu nhìn hắn, bắt gặp khuôn mặt tái nhợt đến đáng sợ. Cả gối lụa dưới đầu hắn cũng đã thấm đẫm mồ hôi. Nàng cúi đầu, tay tiếp tục chăm chút cho vết thương cuối cùng. “Nếu đau quá… thì cứ hét lên.” Nàng khẽ nói.

Hắn vẫn không đáp lại, chẳng rõ là còn tỉnh hay đã ngất đi. Nàng lặp lại, giọng hơi trầm: “Không cần cố nhịn, sẽ hại sức khỏe.”

Một lúc sau, khi nàng nghĩ rằng hắn sẽ không bao giờ trả lời, Thôi Tuần bất chợt cất giọng yếu ớt: “Hét lên… để ai nghe chứ?”

Lý Doanh sững lại, lòng nàng chợt quặn thắt. Dù hắn không nói rõ thì nàng vẫn hiểu được. Với hắn, tiếng kêu đau chỉ khiến những kẻ ghét bỏ hắn càng thêm hả hê, còn những ai quan tâm đến hắn… giờ này đã chẳng còn ai nữa.

Ánh mắt nàng dừng lại nơi thân hình gầy gò như cánh hạc ốm bệnh của hắn, đôi bả vai nhô lên khẳng khiu. Người đời xem hắn là kẻ bội bạc hiểm ác, nhưng chẳng hiểu sao, vào khoảnh khắc này, hắn lại cô độc đến tột cùng, như thể cả trời đất chỉ còn mỗi mình hắn tồn tại. Nàng nắm chặt tấm lụa trong tay, cuối cùng bỗng thì thầm: “Vậy thì… ta nghe.”

Ngón tay Thôi Tuần khẽ run, như thể điều đó làm hắn hoang mang. Một lúc lâu sau, hắn cất tiếng khàn đặc: “Không phải cô hận ta sao?”

“Phải.” Lý Doanh trả lời thản nhiên, tiếp tục giặt miếng lụa đẫm máu. “Ai gặp phải chuyện như ta cũng đều hận ngươi hết á.”

Thôi Tuần im lặng, không có ý tranh cãi. Lý Doanh giặt xong tấm lụa, đặt nó lên mép chậu, rồi lấy chiếc ngân châm trong hòm thuốc. Nàng đưa châm qua ngọn lửa đèn dầu cho đến khi đỏ rực, đoạn nhẹ nhàng nói: “Nhưng lần này, ngươi chịu tội vì ta. Cho dù có hận ngươi thế nào… ta cũng không thể bỏ mặc ngươi.”

Nàng nhấc chiếc châm nóng bỏng: “Ta sẽ gắp mảnh vải trong vết thương ra. Đau thì cứ hét lên.”



Ngân châm vừa chạm vào thịt da, cơn đau nhói buốt lập tức làm mắt Thôi Tuần tối sầm lại. Mồ hôi túa ra từng lớp mỏng trên eo gầy, khiến hắn không khỏi run rẩy. Lý Doanh vẫn cẩn thận gắp từng mảnh vụn ra, miệng khe khẽ hỏi: “Thôi Tuần, rất đau phải không?”

Trong cơn mê man, hắn vô thức thốt ra: “Đau…”

“Cứ nói ra đi.” Nàng dịu dàng khích lệ: “Nói ra rồi sẽ đỡ hơn.”

Giọng nàng nhẹ nhàng như gió xuân. Thôi Tuần gục đầu trên gối, chẳng rõ thứ ướt đẫm là mồ hôi hay nước mắt. Hắn cất giọng khàn khàn từ cổ họng: “Rất đau…”

Tay cầm châm của Lý Doanh hơi khựng lại. Nàng cúi đầu, lặng đi một lát, rồi thốt lên: “Xin lỗi…”

Cơn đau vì mũi châm lút sâu vào thịt khiến mồ hôi lạnh túa ra khắp người hắn, tâm trí như trôi dần vào mê loạn. Thế nhưng, khi nghe lời xin lỗi từ nàng, Thôi Tuần vẫn cố giữ chút ý thức cuối cùng, hắn hỏi trong hơi thở đứt đoạn: “Tại sao…?”

Tại sao… nàng lại nói xin lỗi với kẻ đã hại nàng?

“Ngươi thành ra thế này, là lỗi của ta.” Lý Doanh chợt thở dài, giọng nói phảng phất chút nặng nề. “Ta không ngờ a nương lại trách phạt ngươi đến mức suýt lấy mạng.”

Giờ đây, nàng đã phần nào hiểu được vì sao ban đầu Thôi Tuần nhất quyết không muốn giúp nàng điều tra. Như hắn từng nói, mọi thứ hắn có đều phụ thuộc vào Thái hậu, sao hắn dám làm phật lòng người. Sau một thoáng do dự, nàng lại nói: “Nhưng… ngươi cũng có thể nói thẳng với ta, thay vì lừa ta rơi vào cạm bẫy.”

Nàng liếc nhìn hắn. Thôi Tuần vẫn nằm im trên giường, không rõ là tỉnh hay mê. Lý Doanh cụp mắt, đặt ngân châm đã vấy máu vào chậu nước để rửa. “Ta biết, ngươi đã quá quen với sự toan tính trên quan trường, quá thành thạo trong những trò mưu mô. Nhưng thật ra, nếu ngươi nói thẳng với ta rằng ngươi có chỗ khó xử, không thể giúp ta điều tra, ta sẽ không ép buộc ngươi.”

Thôi Tuần vẫn im lặng, không đáp lời. Trong không gian tĩnh mịch, chỉ còn tiếng hơi thở yếu ớt của hắn, tựa như hắn đã chìm vào cơn mê vì quá đau đớn.

Lý Doanh không mong hắn đáp lại. Nếu hắn có thể ngủ mê mệt thế này, ít ra hắn cũng không phải chịu thêm nỗi đau nào nữa. Nàng cúi đầu, tiếp tục cẩn thận nhặt từng mảnh vải lẫn trong vết thương. Suốt hai canh giờ trôi qua, cuối cùng nàng cũng đã xử lý xong tất cả.

Duỗi thẳng tấm lưng mỏi nhừ, nàng thở hắt ra một tiếng mệt mỏi, rồi nhìn về phía Thôi Tuần.

Hình phạt roi thường buộc người chịu tội phải trút bỏ y phục để tránh nhiễm trùng, thế nhưng hắn lại cố tình không cởi áo. Nghĩ đến đây, Lý Doanh thở dài, lẩm bẩm như nói với chính mình: “Chỉ vì không muốn ai nhìn thấy những vết thương cũ, mà ngươi chấp nhận chịu thêm bấy nhiêu đau đớn… Rốt cuộc có đáng không?”

Mái tóc đen của Thôi Tuần đã ướt đẫm mồ hôi, dán vào tấm lưng tái nhợt đầy những vết roi chằng chịt. Hắn nằm bất động, tựa như linh hồn đã rời xa thể xác, chỉ còn lại nhục thể hao gầy, trơ trọi ở trên giường.

Lý Doanh lau sạch tay, rồi với lấy lọ thuốc của y sư để lại. Mở nắp bình sứ trắng ra, nàng ngửi thấy mùi cay nồng của thuốc trị thương. Trong thuốc có chứa hoàng bách và mạt dược. Hai loại dược liệu này giúp hoạt huyết, tiêu sưng, nhưng vị cay đắng dữ dội, bôi vào vết thương ắt sẽ khiến bệnh nhân đau đến tận xương.

Nàng cầm lọ thuốc, hơi ngập ngừng, rồi cúi xuống bên tai hắn, nhẹ nhàng nói: “Thôi Tuần, ta sắp bôi thuốc cho ngươi. Sẽ rất đau… Ngươi cố chịu một chút nhé.”

Thôi Tuần không rõ là tỉnh hay mê, chỉ còn lại tiếng thở mong manh. Lý Doanh cắn môi, rồi thận trọng rắc từng lớp bột thuốc lên vết thương trên lưng hắn.

Thuốc vừa chạm đến da thịt, thân hình Thôi Tuần như cá bị ném lên cạn, đột ngột run bắn lên. Chiếc ngọc quan buộc tóc của hắn bung ra, để mặc mái tóc đen như mực xõa xuống giường. Khoảnh khắc đó khiến Lý Doanh thoáng sững lại, nhưng Thôi Tuần chẳng giãy giụa thêm, chỉ cắn chặt răng, ngón tay bấu vào tấm chăn lụa đến trắng bệch. Nhìn hắn gồng mình chống chịu nỗi đau khôn tả, không rõ lòng nàng thấy thương hơn hay là thấy trách hơn. Người đời mắng hắn là nịnh thần gian trá, kiêu căng phách lối, nhưng trong phút chốc, hắn lại kiên cường đến mức nhìn không giống một kẻ gian tà một chút nào.

Lý Doanh nhặt lại ngọc quan, đặt sang một bên. Nàng cúi xuống chỉnh lại mái tóc tán loạn của hắn, rồi dùng khăn lụa sạch lau khô những lọn tóc đẫm mồ hôi. Nàng còn nhẹ nhàng lau đi những giọt mồ hôi trên cổ hắn, bởi dù hắn là một bệnh nhân, nàng cũng muốn giữ lại cho hắn chút tôn nghiêm.

Làm xong tất cả, nàng tiếp tục rắc thuốc lên những vết thương còn lại trên lưng Thôi Tuần. Lần này, hắn không giãy giụa nữa, chỉ nằm lặng trên giường, tựa như thân xác kiệt quệ đã cạn sạch sức lực.

Khi nàng hoàn thành, trời đã sang canh khuya, trăng lặn sao mờ. Mệt mỏi rã rời, Lý Doanh ngồi xuống bên mép giường, định canh chừng hắn phòng khi có điều bất trắc. Nhưng cơn buồn ngủ quá đỗi nặng nề kéo đến, nàng tựa đầu bên giường, chìm vào giấc ngủ mê man cho đến khi ánh bình minh rọi khắp gian phòng.

Sương mai còn đọng trên lá, ánh dương đầu tiên trải dài trên những tán cây xanh mướt. Trong ánh sáng dịu dàng của buổi sớm, Thôi Tuần hơi cựa mình, cơn đau lập tức trỗi dậy dữ dội, khiến hắn bừng tỉnh. Mỗi cử động dù nhỏ cũng kéo theo cảm giác đau đớn xé thịt xé da, mồ hôi lạnh rịn khắp trên trán, nhưng hắn vẫn cố nghiêng đầu.

Động tác đơn giản ấy đã đủ khiến hắn phải gồng mình chống đỡ cơn đau, nhưng ánh mắt hắn lại bắt gặp một dáng hình thanh tú.

Lý Doanh ngồi bên mép giường, đầu gục xuống cạnh hắn, ngủ say sưa như đứa trẻ sau một đêm mệt mỏi. Ánh bình minh xuyên qua lớp màn mỏng, phủ lên khuôn mặt nàng một lớp sáng dịu êm, tĩnh lặng mà đẹp đến nao lòng.

Thôi Tuần lặng lẽ ngắm nàng. Thời gian trôi qua, hắn chẳng biết bao lâu, chỉ thấy hàng mi nàng khẽ động, như thể cơn mộng chợt làm nàng chau mày. Nhìn vậy, hắn lại quay đầu, chậm rãi vùi mặt vào chiếc gối thêu, lặng yên như chưa từng có ai đến gần bên đời hắn.

Lý Doanh mở mắt, nhìn thấy thân thể Thôi Tuần vẫn đang run rẩy vì cơn đau hành hạ. Nàng thấp giọng hỏi: “Thôi Tuần, ngươi cũng tỉnh rồi phải không?”

Từ trong chiếc gối thêu, giọng hắn khàn khàn truyền ra: “Ừm…”

Lý Doanh cúi xuống kiểm tra vết thương trên lưng hắn. Nhờ có thuốc trị liệu, giờ đây chúng đã bớt đi vẻ đáng sợ của ngày hôm qua. Nàng đứng lên, giọng bình tĩnh: “Ngươi tỉnh rồi, vậy ta đi đây.”

“Đi… đâu?”

“Ta cũng chưa biết.” Nàng ngừng một lúc, rồi nhẹ giọng nói: “Thôi Tuần, thi thể Thịnh Vân Đình được chôn bên ngoài cổng Thông Hóa.”

Ngón tay Thôi Tuần đột nhiên co giật mạnh, như thể vừa bị kích động:

“Cô… tại sao…?”

“Tại sao lại nói cho ngươi biết?” Trong mắt Lý Doanh thoáng ánh lệ quang, giọng nàng nhẹ nhàng như một lời thì thầm: “Vì ta không muốn tiếp tục như thế này nữa.”

Giọng nàng trở nên dịu dàng nhưng đầy mâu thuẫn: “Ta đã dùng thi thể Thịnh Vân Đình để ép buộc ngươi phá án, tưởng rằng làm vậy sẽ trả được thù, nhưng trong lòng ta chẳng hề cảm thấy thoải mái. Mỗi lần gặp ngươi, ta không nhịn được mà mắng nhiếc, chế giễu, rồi còn lấy Thịnh Vân Đình và Thiên Uy quân ra để khích bác ngươi. Nhưng dù làm tất cả những điều đó, ta chẳng hề cảm thấy thanh thản.”

Nàng hít một hơi thật sâu, giọng nói thoáng chút nghẹn ngào: “Ta vốn không thích căm ghét người khác, nhưng vì căm ghét ngươi, ta dần trở nên cay nghiệt, trở thành một kẻ mà chính ta cũng không ưa nổi. Thôi Tuần, ta tha cho ngươi, cũng là tha cho chính mình.”

Giọng nàng bỗng nhẹ nhàng hơn: “Ngươi suýt hại chết ta, còn ta đã khiến ngươi suýt mất đi nửa mạng. Chúng ta xem như đã trả đủ cho nhau rồi. Từ nay, không còn nợ nần gì nữa.”

Nàng đứng dậy, xoay người bước đi: “Ta đi đây. Ngươi hãy dưỡng bệnh cho tốt.”

Nhưng ngay khi nàng vừa quay lưng, một bàn tay lạnh như băng giữ chặt lấy cổ tay nàng.

“Đừng đi…”

Lý Doanh thoáng sững sờ, quay lại nhìn hắn:

“Ngươi… tại sao?”

Thôi Tuần vẫn nằm yên trên giường, bàn tay hắn chẳng còn bao nhiêu sức lực, nhưng lại bám lấy nàng không rời. Cơ thể hắn lạnh lẽo đến mức tựa như dòng nước dưới sông Nại Hà. Tóc đen rối tung, trải dài trên giường, thân thể cô độc như một cánh hạc gầy yếu giữa trời đông. Trên lưng, những vết sẹo chằng chịt trông như quỷ dữ bò lên từ cõi u minh, trắng bệch và đáng sợ.

Sau một hồi im lặng, hắn thì thào, giọng yếu ớt: “Ta… muốn làm người… không muốn làm quỷ…”

Lý Doanh khựng lại, ngỡ ngàng không thốt nên lời.

Hắn thở gấp, mỗi lời nói như rút cạn sức lực: “Ở lại đi… Ta… sẽ không lừa dối nàng nữa…”

Đôi mắt Lý Doanh đỏ hoe.

“Thôi Tuần… ta còn có thể tin ngươi được sao?”

“Tin ta… thêm một lần thôi…” Giọng hắn nhỏ dần, như hơi thở mong manh sắp tan biến cùng làn gió sớm. Hắn vẫn không buông tay, dồn chút sức lực cuối cùng, thì thào: “Sẽ không… sẽ không có lần thứ hai…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 29: Chưa từng thấy con chó dữ nào biết nhặt xác đồng bạn


Thi thể của Thịnh Vân Đình được chôn bên ngoài cửa Thông Hóa.

Cửa Thông Hóa nằm gần cung Đại Minh, bước qua cửa ấy cũng chính là bước vào hoàng thành. Trên cửa có lầu vọng canh, bên dưới mở ba cổng vòm, xung quanh đều có binh lính canh gác nghiêm ngặt. Cách đó bảy dặm, chính là dịch quán Trường Lạc, nơi Thịnh Vân Đình bỏ mạng. Đoạn quan đạo nối từ Trường Lạc dịch đến cửa Thông Hóa từng được tu sửa sáu năm trước, chính vì vậy Thôi Tuần đoán rằng, thi thể của Thịnh Vân Đình đã bị Trung lang tướng Thẩm Khuyết chôn giấu ở đoạn đường đó, không để lại dấu vết, vĩnh viễn không thấy ánh mặt trời.

Ý đồ của Thẩm Khuyết thật quá ngoan độc. Thịnh Vân Đình từng mong cưỡi ngựa phi nhanh qua quan đạo, vượt qua cửa Thông Hóa để vào cung Đại Minh cầu kiến Thánh nhân, cứu lấy năm vạn binh lính Thiên Uy quân. Nhưng Thẩm Khuyết lại khiến y mãi mãi không thể bước qua cửa Thông Hóa. Hơn nữa, hắn còn chôn thi thể y dưới quan đạo, để mỗi ngày từng đoàn người qua lại đều giẫm lên hài cốt của y, bước vào cánh cửa mà y cả đời khao khát.

Nghĩ đến đây, Thôi Tuần không khỏi tức giận đến nỗi huyết khí dâng lên. Hắn ho dữ dội, cơn ho làm vết thương trên lưng đau thấu xương tủy. Lý Doanh đang thay thuốc cho hắn, thấy vậy liền dừng tay, lo lắng hỏi: “Có phải ta làm ngươi đau rồi không?”

Thôi Tuần lắc đầu, giọng khàn khàn: “Ta chỉ… vừa nghĩ đến Vân Đình.”

Nghe nhắc đến Thịnh Vân Đình, Lý Doanh trầm mặc. Nàng cẩn thận lau đi lớp mồ hôi lạnh trên lưng hắn bằng khăn lụa trắng, rồi khẽ hỏi: “Thẩm Khuyết và Thịnh Vân Đình có thù hằn gì sâu nặng sao?”

“Không… chẳng có ân oán gì cả.”

“Nếu vậy, tại sao hắn lại làm vậy?” Nàng dừng một chút, rồi nhẹ giọng tiếp: “Sao ngay cả sau khi Vân Đình chết, hắn vẫn nhẫn tâm làm nhục y?”

Thôi Tuần nằm úp trên giường, sắc mặt trắng bệch vì cơn đau, giọng hắn nhỏ đến mức Lý Doanh gần như không nghe thấy: “Không phải vì Vân Đình… mà vì Quách soái, và có lẽ… vì Thái hậu đã đề bạt Quách soái.”

Lý Doanh khựng tay lại, hỏi chậm rãi: “Tại sao hắn lại thù ghét a nương ta?”

“Thẩm Khuyết… là con trai của Thẩm quốc phu nhân, cũng chính là… biểu đệ của cô.”

Thẩm quốc phu nhân là dì ruột của Lý Doanh và cũng là người chị ruột duy nhất của Thái hậu. Khi còn trẻ, Thái hậu gia cảnh bần hàn, từng định thông qua tuyển chọn cung nữ để vào cung đổi đời. Nhưng bà nghèo đến mức chẳng có nổi một đôi giày vừa chân, làm sao lọt được vào mắt xanh của Hoa Điểu sử? Thẩm phu nhân lúc ấy đã xuất giá, liền tháo đôi giày của mình cho em gái, còn thuyết phục phu quân dốc hết tiền bạc may cho Thái hậu một bộ váy lụa Bích Đan sáu mảnh. [1] Nhờ y phục sang trọng, dáng vẻ bà càng thêm xinh đẹp tuyệt trần, cuối cùng được tuyển vào cung, từ đó từng bước tiến l*n đ*nh cao của Đại Chu.

<i>[1] Lụa Bích Đan (碧緞) là một loại lụa cao cấp, thường có màu xanh ngọc bích, mềm mại, bóng mịn, và thường được sử dụng trong trang phục của tầng lớp quý tộc hoặc các dịp đặc biệt trong xã hội truyền thống phương Đông</i>

Có thể nói, không có Thẩm quốc phu nhân thì Thái hậu sẽ không có được vinh quang cùng địa vị như hôm nay.

Nhưng ai có thể ngờ được, hai người từng đồng cam cộng khổ lại chẳng thể cùng hưởng phú quý. Hai năm sau khi Lý Doanh qua đời, Thẩm quốc phu nhân vừa sinh Thẩm Khuyết không lâu thì đã cùng con gái là Thẩm Dung bị Thái hậu đầu độc. Lý do được đưa ra là vì Thẩm quốc phu nhân định đưa Thẩm Dung vào cung tranh sủng, khiến Thái hậu không thể dung thứ.

Trước khi chết, Thẩm quốc phu nhân từng lớn tiếng mắng chửi: “Khương Linh Diệp, ngươi đúng là kẻ vong ân bội nghĩa! Chẳng lẽ ngươi không nhớ ơn ta đã tặng giày cho ngươi sao?”

Nhưng Thái hậu vẫn không màng đến. Sau khi mẹ con Thẩm quốc phu nhân bị hạ độc, bà tuyên bố rằng cả hai chết bất đắc kỳ tử, rồi truy phong Thẩm quốc phu nhân, Thẩm Dung trở thành Bình Sơn quận phu nhân, để tỏ lòng thương tiếc.

Về sau, khi tuổi ngày càng cao, có lẽ Thái hậu nhớ lại ân tình ngày trước, nên bắt đầu hổ thẹn với Thẩm quốc phu nhân. Bà dành hết sự sủng ái cho Thẩm Khuyết, không ngừng ban thưởng, còn phong hắn làm Hữu giám môn vệ Trung lang tướng tứ phẩm, phụ trách các cửa thành Trường An khi tuổi đời vẫn còn rất trẻ. Từ đó, Thẩm Khuyết trở thành kẻ chạm vào là phải bỏng, quyền thế ngút trời ở Trường An.

Nhưng dù được sủng ái đến đâu, mối thù giết mẹ cũng không đội trời chung. Vì thế, Thôi Tuần nói, việc Thẩm Khuyết làm với Thịnh Vân Đình không phải vì thù oán cá nhân, mà là vì thù hận Quách soái, và trên hết, là mối hận với Thái hậu.

Lý Doanh cúi đầu, không nói gì thêm. Nàng từng thấy a di và biểu tỷ Thẩm Dung rất nhiều lần khi còn sống. A di hiền hậu, biểu tỷ xinh đẹp đoan trang, tình cảm giữa a nương và hai người họ cũng rất thân thiết. Ai ngờ, kết cục lại bi thảm đến thế?

Nàng thở dài, nhẹ tay rắc nốt thuốc bột lên lưng Thôi Tuần: “Ta không rõ thực hư ra sao, cũng không dám bình luận.”

Nàng vẫn không tin a nương là người hạ độc, sát hại a di và biểu tỷ.

Thay thuốc xong, Thôi Tuần đã đau đến mơ màng. Lý Doanh lấy áo trong sạch sẽ khoác lên người hắn, che đi những vết thương chằng chịt trên lưng. Chiếc áo trắng như tuyết phủ lên dáng người gầy gò, làn da nơi cổ mịn màng như ngọc, trông như một cánh hạc cô đơn lạc giữa cõi trần. Hắn thều thào: “Thi thể của Vân Đình… không thể ở đó mãi… Ta phải đón huynh ấy về…”

“Ngươi đã mất chức rồi,” Lý Doanh nói. “Đó là quan đạo, không dễ gì đưa về được.”

“Làm chó dữ… suốt ba năm… ít nhiều vẫn còn chút dư uy… Không ai muốn bị chó cắn…” Hắn cười yếu ớt, giọng nhỏ như gió thoảng.

Lý Doanh mím môi, cẩn thận kéo tấm chăn gấm trên giường, chỉnh lại cho Thôi Tuần. Nàng không tiếp tục khuyên hắn nữa, chỉ nhẹ giọng nói: “Nếu ngươi muốn thử, thì cứ thử đi.”

Nàng lặng lẽ giặt sạch khăn lụa dính máu. Một lúc sau, đột nhiên lên tiếng: “Về sau, đừng tự nhận là chó dữ trước mặt ta nữa nữa. Ta chưa từng thấy con chó dữ nào biết nhặt xác cho đồng liêu cả.”

Thôi Tuần nằm úp trên giường, im lặng không lên tiếng. Lý Doanh nghĩ rằng hắn đã lại ngất đi. Mấy ngày nay hắn đều như vậy, lúc thì mê man, lúc lại bị cơn đau làm tỉnh giấc. Tinh thần lúc tỉnh lúc mơ, có khi nàng nói chuyện với hắn, hắn không đáp, đến khi nhìn lại, hắn đã đau đến ngất lịm. Vì vậy, nàng không mấy để tâm, chỉ giặt xong tấm lụa rồi quay sang thu dọn bình thuốc bằng sứ trắng.

Chợt, một tiếng đáp rất khẽ vang lên: “Biết rồi…”

Lý Doanh ngẩn người, bất giác đưa mắt nhìn Thôi Tuần. Hắn nằm sấp trên giường, đôi mắt khép chặt, hàng mi đen dài chập chờn như cánh quạ, sắc mặt tái nhợt như giấy. Vẻ u mê của hắn khiến nàng ngỡ mình đã nghe lầm.

Lý Doanh không kiềm được, tự véo tai mình một cái. Cơn đau nhẹ truyền đến nói cho nàng biết rằng nàng không nằm mơ, thì ra nàng không nghe nhầm.

Lý Doanh lặng lẽ nhìn hắn hồi lâu, rồi mới mím môi, quay đầu thu dọn bình dược bằng sứ trắng cùng những vật dụng khác. Sau đó, nàng cầm chậu đồng trên bàn, bước ra khỏi phòng. Nhưng bước chân của nàng dường như đã nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều.



Đúng như lời Thôi Tuần nói: Ai cũng sợ bị chó dữ cắn, chẳng ai muốn dây vào cả.

Dù Thôi Tuần đã làm phật lòng Thái hậu, bị đánh một trăm trượng và tước bỏ chức quan, nhưng trong mắt đám tiểu lại, hắn vẫn là Liên Hoa Lang, người từng hầu hạ Thái hậu suốt ba năm. Huống chi hắn mới chỉ hai mươi ba tuổi, tuổi trẻ, dung mạo lại tuấn mỹ, biết đâu một ngày nào đó, Thái hậu nhớ đến hắn, lại triệu hồi hắn trở về bên mình. Lúc đó, kẻ nào đã đắc tội với hắn liệu có còn mạng không?

Thế nên khi Thôi Tuần dẫn theo vũ hầu của Sát Sự Thính, âm thầm đào bới quan đạo giữa trạm Trường Lạc và cổng Thông Hóa trong đêm, những binh lính trên lầu vọng canh của cửa Thông Hóa dù đã trông thấy, cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau mà giả vờ như không hay biết. Bọn họ chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt, cả đời cũng không được gặp Thái hậu hay Thánh nhân, nào dám đắc tội với người từng là sủng thần của Thái hậu?

Đêm ấy, gió giật, mưa rào.

Đám vũ hầu khoác áo tơi, cầm xẻng trong tay, cật lực đào bới. Thôi Tuần mặc áo choàng đen, đứng lặng trong đình ven đường, dõi mắt nhìn từng nắm đất tung bay, bụi bẩn vương vãi khắp nơi. Hắn không hề chớp mắt, chăm chú nhìn vào lòng đất, sợ bỏ lỡ bất kỳ dấu vết nào.

Lý Doanh đứng cạnh hắn, biết rõ thương tích của hắn chưa lành, nhưng hắn vẫn nhất quyết đến đây. Hắn nói, nếu hắn đích thân có mặt, nhất định sẽ tìm ra thi thể của Thịnh Vân Đình.

Thôi Tuần vừa đứng chưa bao lâu, đã thấy đầu óc choáng váng, thân thể nghiêng ngả, suýt không trụ nổi. Lý Doanh vội đỡ lấy tay hắn, giúp hắn đứng vững. Ánh mắt nàng và hắn chạm nhau trong màn đêm. Khuôn mặt hắn tái nhợt, hàng mi đen nhánh, đôi mắt phủ sương, ánh lên vẻ ngơ ngẩn sau cơn chóng mặt. Cả người hắn yếu ớt như con hạc đơn côi, chao mình trong gió bão.

Nàng bất giác muốn hỏi hắn rất nhiều điều, nhưng cuối cùng chỉ lặng lẽ buông tay, bước lùi lại một bước, khẽ nói: “Ngươi không chịu nổi đâu, quay về đi.”

Thôi Tuần thở d.ốc, nhưng vẫn lắc đầu: “Chỉ còn đêm nay thôi, đây là cơ hội cuối cùng.”

Lý Doanh hiểu rõ ý hắn. Hắn đã bị bãi chức, tất cả chỉ dựa vào chút oai danh còn sót lại để tranh thủ cơ hội cuối cùng này. Đến khi trời sáng, e rằng sẽ có cả đống tấu chương buộc tội hắn tự tiện đào bới quan đạo. Đến lúc đó, liệu hắn có phải chịu thêm một trăm trượng nữa hay không, cũng khó mà nói trước được.

Đêm nay, hắn nhất định phải mang thi hài Thịnh Vân Đình trở về.

Mưa càng lúc càng lớn, đổ xuống như trút nước.

Quan đạo ngập trong bùn lầy. Đám vũ hầu vẫn hì hục đào bới, nhưng đã ba canh giờ trôi qua mà chẳng tìm được gì.

Thôi Tuần mím chặt môi, sắc mặt tái nhợt, ánh mắt không rời khỏi những hố đất trước mặt. Lý Doanh đứng bên cạnh, lòng nàng cũng dần nóng như lửa đốt. Trời sắp sáng rồi, vậy mà vẫn chưa tìm thấy thi thể của Thịnh Vân Đình. Chẳng lẽ… không phải ở đây?

Nhưng nàng nhanh chóng tự phủ định ý nghĩ ấy. Thịnh Vân Đình từng nói rõ rằng hài cốt của mình được chôn ngoài cửa Thông Hóa, chắc chắn phải ở đây. Chỉ là… chẳng lẽ không phải nằm trong quan đạo?

Lý Doanh liền lên tiếng: “Đã đào gần hết quan đạo mà vẫn không tìm thấy. Liệu có thể nằm ở lối tắt chăng?”

“Không, chắc chắn ở đây.”

Thôi Tuần thì thầm, rồi bỗng vịn lấy cột đình ven đường, từng bước một, bất chấp cơn đau nhức nhối từ vết thương trên lưng, chậm rãi lê người ra ngoài.

Lý Doanh thất kinh: “Thôi Tuần, ngươi làm gì vậy?”

Hắn vẫn chưa khỏi hẳn, sao có thể dầm mưa thế được?

Nhưng chẳng biết lấy sức lực từ đâu, trong cơn mưa như trút, hắn lảo đảo, té ngã, rồi lại đứng dậy, toàn thân đã lấm lem bùn đất, cố lao về phía quan đạo. Lý Doanh hoảng hốt chạy theo ra khỏi đình, giậm chân gọi lớn: “Thôi Tuần! Thôi Tuần!”

Nhưng hắn như không nghe thấy gì, bước chân loạng choạng, vấp ngã rồi lại bò dậy. Quan đạo cách đình chừng trăm bước, và từng bước đi của hắn đều chật vật. Lý Doanh gọi thêm vài tiếng, nhưng dần câm lặng, chỉ đứng yên trong mưa xối xả, cắn chặt môi, ánh mắt phức tạp nhìn theo bóng lưng Thôi Tuần đang gắng gượng tiến về phía trước.

Đám vũ hầu cầm xẻng cũng đồng loạt quỳ xuống, run rẩy thỉnh tội: “Thiếu khanh, thuộc hạ vô năng… vẫn chưa tìm được…”

Thôi Tuần không đáp lời. Áo choàng đen của hắn đã lấm đầy bùn đất, vết thương sau lưng do vận động quá sức có lẽ đã rách toạc, cơn đau dữ dội khiến mắt hắn tối sầm lại, nhưng hắn vẫn gắng gượng đứng vững, dõi mắt về phía những hố đã đào. Một vũ hầu nhỏ nhẹ lên tiếng: “Thiếu khanh, thuộc hạ đã đào hết rồi, thật sự không có…”

Đột nhiên, ánh mắt Thôi Tuần dừng lại nơi một hố nông hơn hẳn. Hắn thở d.ốc, bước thêm một bước về phía đó nhưng không để ý đến tảng đá xanh dưới chân, lập tức bị vấp ngã xuống đất. Áo trong sau lưng hắn đã nhuốm đỏ máu, nhưng dường như hắn không hề cảm thấy đau, chỉ điên cuồng bò tới miệng hố, dùng hai tay cào đất.

Một vũ hầu rụt rè nhắc: “Thiếu khanh, chỗ này đã đào qua rồi, không có gì cả…”

Đồng bọn bên cạnh lập tức kéo hắn, giật áo ra hiệu im lặng.

Thôi Tuần vẫn bỏ ngoài tai, đôi bàn tay vẫn điên cuồng cào đất. Móng tay hắn đã gãy rời, mười ngón tay rớm máu, đau đớn đến tận tim, nhưng hắn chẳng mảy may cảm nhận, chỉ không ngừng đào bới như người mất trí.

Không biết qua bao lâu, một đoạn xương trắng dần hiện ra dưới lớp bùn nhầy nhụa.

Toàn thân Thôi Tuần sững lại.

Lý Doanh đứng giữa màn mưa, nhìn bóng lưng Thôi Tuần đang quỳ gục dưới đất. Những hạt mưa lớn như hạt đậu rơi lộp độp trên mặt nàng. Nàng không biết thứ làm mắt mình nhòe đi là mưa hay nước mắt.

Sau một lúc lâu, Thôi Tuần như bừng tỉnh. Hắn tiếp tục đào, động tác vô cùng nhẹ nhàng, như sợ làm tổn hại thứ gì rất quý giá. Cuối cùng, một bộ hài cốt nguyên vẹn xuất hiện trước mắt hắn.

Bộ xương ấy vẫn mặc trên người bộ giáp Thiên Uy quân, giáp trụ thấm đẫm máu khô, đầy những vết chém sâu cạn chằng chịt. Bộ giáp đã rách nát không còn nguyên vẹn, qua những vết chém, có thể nhìn thấy rõ những mảnh xương vỡ vụn bên trong.

Thôi Tuần quỳ trước bộ hài cốt, đầu ngón tay bê bết máu cắm sâu vào lớp đất mềm. Từ khóe môi hắn cũng bắt đầu rỉ ra máu tươi, máu hòa cùng nước mưa, từng giọt từng giọt thấm vào bùn đất.

Hắn nhìn bộ xương ấy, giọng nói khàn đặc, yếu ớt đến mức gần như tan vào tiếng mưa rơi: “Vân Đình… Thập Thất lang đây, ta đưa huynh về nhà…”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 30: Mộ hoang ngàn dặm, ai tỏ cùng ai nỗi xót xa


Ở nghĩa địa ngoại ô kinh thành, Thịnh A Man mặc tang phục, đầu quấn khăn trắng, khuôn mặt đờ đẫn, quỳ bên mộ phần, châm đốt tiền giấy.

Vài tên đàn ông lực lưỡng chặt bốn cành tre, cắm trước mộ, sau đó phủ một tấm chiếu thô lên bốn góc của cành tre, tạo thành một mái lều đơn giản. Chúng nâng một chiếc quan tài mỏng đặt vào bên trong, sau đó chui ra khỏi lều, tới trước mặt Thịnh A Man, đòi tiền công.

Thịnh A Man thẫn thờ mở túi lấy mấy đồng tiền, lần lượt phát cho từng người. Đến người cuối cùng, hắn cố ý, sờ vào bàn tay mềm mại của nàng một cách thô bạo. Thịnh A Man rút tay về, liếc hắn một cái: “Cút.”

Tên đàn ông kia nổi giận: “Ngươi chỉ là một nhạc cơ trong giáo phường, còn bày đặt làm trinh nữ thanh cao?”

Thịnh A Man không tranh luận: “Cút.”

Tên kia hằn học nói: “Chúng ta thấy ngươi đáng thương mới nhận cái mối làm ăn này, nếu không ai thèm nâng quan tài cho huynh trưởng của ngươi? Hắn là bại tướng bị Thánh nhân ngự bút chỉ đích danh, thậm chí người còn không cho chôn cất. Ngay cả thân thích Thịnh gia cũng chẳng ai chịu động tay!”

Thịnh A Man quỳ trước mộ Thịnh Vân Đình, không nói thêm gì, chỉ lặng lẽ đốt từng tờ tiền giấy, đôi mắt rưng rưng nhìn ba chữ “Thịnh Vân Đình” khắc trên bia mộ. Tên kia định nói gì thêm, nhưng bị người khác kéo đi: “Thôi bỏ đi, nàng ta thân cô thế cô, không nơi nương tựa, nhìn thật đáng thương, ngươi cũng nên tích chút âm đức.”

Chúng bỏ đi, nghĩa địa trở nên hoang vắng, chỉ còn Thịnh A Man âm thầm rơi nước mắt, tiếp tục đốt tiền giấy.

Đến khi tờ giấy cuối cùng hóa thành tro lạnh, mắt Thịnh A Man đã sưng đỏ như quả đào. Nàng thì thầm: “A huynh, huynh không còn, bọn họ đều ức h**p muội…”

Nước mắt nàng càng chảy nhiều hơn: “A huynh, tiền giấy đã đốt hết rồi. Nhưng huynh yên tâm, A Man sẽ kiếm thêm tiền, sẽ đốt nhiều tiền hơn cho huynh, không để huynh dưới Địa phủ phải chịu khổ.”

Nàng vẫn quỳ đó, đến khi tàn tro của tiền giấy đã nguội, nàng vẫn không muốn rời đi.

Phía sau hình như có động tĩnh, Thịnh A Man cảm thấy có gì đó, nàng lau nước mắt, bình tĩnh nói: “Thôi Tuần, ngươi ra đi, ta biết ngươi đã đến.”

Phía sau im lặng một lúc, sau đó vang lên tiếng giày ô da chạm vào cành cây.

Thịnh A Man không ngoảnh lại, chỉ nhìn tấm bia gỗ khắc ba chữ “Thịnh Vân Đình” cùng niên hiệu “Năm Long Hưng thứ mười bốn,” lạnh lùng hỏi: “Vì sao a huynh ta lại bị chôn ngoài cửa Thông Hóa?”

Người sau lưng vẫn không đáp, nàng lại hỏi: “Bọn họ nói, vì muốn báo tin tới cung Đại Minh nên a huynh ta mới bị sơn tặc giết hại. Có đúng không?”

Thôi Tuần vẫn im lặng, Thịnh A Man bật cười: “Sơn tặc gì mà dám giết Ngu hầu của Thiên Uy quân? Sơn tặc nào mà dám chôn người giữa quan đạo?”

Thôi Tuần gầy guộc tựa như thân trúc, cuối cùng cũng khó nhọc thốt ra: “Cứ xem như là sơn tặc đi.”

Nghe vậy, Thịnh A Man lảo đảo đứng dậy, mắt đỏ như quả đào: “Thôi Tuần, ta hỏi ngươi một lần nữa, có phải là sơn tặc không?”

Thôi Tuần nhìn nàng, bàn tay trong tay áo siết chặt rồi buông lỏng, ánh mắt trở lại tĩnh lặng như đầm nước, giọng nhẹ nhưng kiên định: “Phải.”

Thịnh A Man cười lạnh: “Sơn tặc… Sơn tặc…”

Nàng lẩm bẩm vài câu, rồi nhìn Thôi Tuần: “Được, ta không còn gì để nói với ngươi nữa.”

Nàng cúi xuống nhặt chiếc hộp gỗ bên đống tro, mở ra, bên trong đầy ắp tiền đồng.

Giọng Thịnh A Man bình thản: “Người ta bảo số tiền này là bạn của a huynh cho ta. Ngoài ngươi ra, a huynh ta lấy đâu ra người bạn nào hào phóng như vậy? Nên, là ngươi đưa, đúng không?”

Thôi Tuần chưa kịp trả lời, Thịnh A Man đã ném chiếc hộp đi, tiền đồng rơi rào rào xuống đất, nàng nói: “Ta không cần.”

Nàng lấy từ trong tay áo ra một thỏi vàng rực rỡ: “Quản sự giáo phường nói có người muốn chuộc thân cho ta, cũng là ngươi đưa đúng không? Ta cũng không cần.”

Nàng buông tay, thỏi vàng rơi xuống đất, phát ra tiếng va chạm trầm đục. Nhìn gương mặt tái nhợt như tuyết mà vẫn thanh tú như hoa sen của Thôi Tuần, Thịnh A Man cười nhạt: “Kỳ lạ thật, trước đây ta đã từng thích một kẻ như ngươi, giờ nghĩ lại, chỉ thấy thật ghê tởm.”

Nàng bước qua những đồng tiền trên đất, khi đi ngang qua Thôi Tuần, nàng dừng lại: “Ta không biết ngươi làm sao còn mặt mũi đến trước mộ a huynh ta, nhưng ngươi muốn đến thì cứ đến. A huynh ta chết vì trung nghĩa, ngươi hãy ngắm quan tài của huynh ấy thật kỹ, rồi tự vấn xem chính mình sống nhục nhã thế nào.”

Nói xong, nàng không thèm nhìn hắn, rảo bước rời đi.

Mãi đến khi Thịnh A Man đi xa Thôi Tuần mới ngước nhìn quan tài của Thịnh Vân Đình. Quan tài lẻ loi nằm trong căn lều rách nát, khác biệt với những ngôi mộ cao lớn xung quanh. Người khác đều có thể an táng, chỉ riêng y là không.

Thôi Tuần cúi đầu, lấy ra một chiếc bình lưu ly màu xanh từ trong tay áo rồi mở nắp, mùi rượu nồng nàn lan tỏa. Hắn đổ rượu trước mộ Thịnh Vân Đình, nhìn bia mộ khắc tên y, ánh mắt thoáng qua sự bối rối. Cổ họng hắn khẽ động, dường như có rất nhiều điều muốn nói, nhưng cuối cùng, hắn lại chẳng thốt nên lời.

Hắn lặng lẽ đặt chiếc bình xuống trước mộ, cúi người nhặt chiếc hộp gỗ lên. Sau đó, hắn lại nhặt từng đồng tiền rơi vãi trên đất, cẩn thận bỏ lại vào hộp.

Bất ngờ, một bàn tay mềm mại trắng trẻo cũng cúi xuống nhặt tiền. Hai người chạm tay vào nhau, Thôi Tuần ngẩng đầu, thấy đó là Lý Doanh.

Lý Doanh đến cùng lúc với Thôi Tuần, nhưng khi hắn trò chuyện với Thịnh A Man, nàng chỉ đứng sau gốc cây, lặng lẽ quan sát. Chỉ đến lúc này, nàng mới bước ra. Thấy Lý Doanh, Thôi Tuần không nói gì, cúi đầu tiếp tục nhặt tiền.

Lý Doanh cũng không nói gì, nàng chăm chú nhặt tiền. Đột nhiên, tay nàng chạm vào thỏi vàng mà Thịnh A Man vứt bỏ. Thỏi vàng này, trông có vẻ quen thuộc.

Nàng còn chưa kịp suy nghĩ, thì bên tai đã vang lên giọng nói trầm khàn của Thôi Tuần: “Đây là vàng mà cô đã tìm Ngư Phù Nguy đổi lấy.”

Nhưng chẳng phải toàn bộ số tiền ấy đều được đưa cho tiểu lại của Đại Lý Tự, hối lộ hắn nhằm lấy hồ sơ vụ án hay sao?

Giọng Thôi Tuần rất nhẹ: “Cô đưa cho ta chín thỏi vàng, nhưng ta chỉ dùng một thỏi cho Tào Khôn ở Đại Lý Tự, số còn lại… ta giữ.”

Lý Doanh thoáng sững sờ. Nàng ngẩng lên, thấy Thôi Tuần đang cúi mình nhặt tiền đồng, không dám nhìn thẳng vào mắt nàng.

“Ta sẽ trả lại cho cô.” Hắn thì thào.

Lý Doanh nhoẻn cười, nàng nhặt thỏi vàng lên, đứng thẳng người, hỏi Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ngài đã dùng số vàng còn lại vào việc gì?”

Thôi Tuần nhét đồng tiền vào trong hộp gỗ, vẫn không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, cúi đầu nhặt tiếp tiền đồng, lặp lại: “Ta sẽ trả lại cho cô.”

Lý Doanh lắc đầu: “Ta không cần ngài trả. Ta chỉ muốn biết, tám thỏi vàng đó, ngài đã làm gì với chúng?”

Ngón tay Thôi Tuần siết chặt miệng hộp, hắn không trả lời, mà trốn tránh ánh mắt của nàng, tiếp tục nhặt tiền đồng. Lý Doanh thở dài, giọng không trách móc, ngược lại rất dịu dàng: “Thôi Tuần, thật ra ta đã đoán được ngài dùng số vàng đó làm gì. Nhưng ta muốn nghe chính ngài nói.”

Thôi Tuần cảm nhận được sự ấm áp trong giọng nói của nàng, tay hắn đang nhặt tiền chợt khựng lại: “Ta…”

Nhưng nửa câu sau, hắn vẫn không thể thốt ra.

“Thôi Tuần, nói ra đi.” Lý Doanh khích lệ hắn: “Ta muốn nghe ngài kể.”

“Ta…” Thôi Tuần ngập ngừng một lúc, cuối cùng cũng đứng thẳng người, đôi tay đang cầm hộp gỗ bỗng run rẩy, hắn cúi đầu, nói ra từng chữ một cách khó nhọc: “Ta… đã đem số vàng ấy cho gia quyến của Thiên Uy quân.”

Lý Doanh mỉm cười, bên cạnh nàng là một cây nghênh xuân hoa đang nở rộ, nàng đứng dưới tán hoa vàng nhạt, những bông hoa rực rỡ như ngàn ngôi sao, chiếu sáng cả thế gian: “Thôi Tuần, ngài đã làm một việc tốt như thế, tại sao không dám nói ra?”

Thôi Tuần kinh ngạc ngẩng đầu lên, do dự nói: “Cô không trách ta vì đã tự ý giữ vàng của cô sao?”

“Trách ngài làm gì? Thay vì đưa chín thỏi vàng cho một tiểu lại tham lam, chẳng phải đem giúp đỡ những người cần giúp sẽ tốt hơn sao? Ta không chỉ không trách ngài, mà còn cảm thấy rất vui, vì dù ta đã chết ba mươi năm, vẫn có thể giúp đỡ được người khác.” Lý Doanh nhìn Thôi Tuần, đôi môi khẽ nhếch, nụ cười tươi tắn dịu dàng, nàng chân thành nói: “Giúp đỡ người khác, ngài nói xem, ta có nên cảm thấy vui không?”

Thôi Tuần ngẩn ngơ nhìn nàng, hồi lâu mới quay đi, thì thào đáp: “Đúng vậy…”

“Huống chi, ngài cũng không hề chiếm đoạt của ta” Lý Doanh nhớ lại cách bài trí trong phủ của Thôi Tuần. Những viên quan quyền cao chức trọng như hắn, phủ đệ thường xa hoa lộng lẫy, không chỉ nuôi nhiều nô lệ người Côn Luân hay Tân La mà còn thích những mỹ vị như sơn dương mật gấu, ở thì phải ở trong những phòng lát ngọc thạch, lò sưởi dùng gỗ đàn hương trắng. Thế nhưng phủ của Thôi Tuần lại giản dị đến mức khiến người ta bất ngờ, chuyện ăn uống sinh hoạt cũng cực kỳ đơn giản. Nàng nói: “Trong phủ của ngài, ngoài đồ vật do a nương ban thưởng, gần như chẳng có gì đáng giá. Bao năm qua, bổng lộc của ngài đều dùng để lo liệu cho gia quyến của Thiên Uy quân, có đúng không?”

Thôi Tuần nghe vậy, không khỏi sững sờ nhìn nàng, Lý Doanh lại nhẹ giọng hỏi: “Thôi Tuần, những năm qua, ngài vất vả lắm phải không?”

Yết hầu Thôi Tuần khẽ động, tròng mắt hình như ấm lên, hắn cúi đầu: “Không… đã sáu năm rồi… gia quyến của họ, mỗi năm một ít đi, giờ cũng chẳng còn lại bao nhiêu người nữa…”

Lý Doanh mỉm cười, nàng bước lên một bước, đặt thỏi vàng trong tay vào hộp gỗ của Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ta có rất nhiều, rất nhiều vàng, ta đều đưa hết cho ngài, ngài hãy dùng để giúp họ đi.”

Nàng ngẩng đầu, nhìn Thôi Tuần, giọng nói như gió xuân lướt nhẹ qua sườn mặt: “Thôi Tuần, sau này, khi ngài làm việc tốt, đừng ngại nói ra, ngài đã gánh vác cuộc sống của gia quyến năm vạn Thiên Uy quân, điều đó thật đáng tự hào biết bao. Đừng vì người khác trách móc mà ngại nói ra, nếu ngài sợ không ai nghe, thì nói cho ta nghe, ta thích nghe mà.”

Khuôn mặt nàng rạng ngời như ánh mặt trời ấm áp giữa ngày xuân, Thôi Tuần khoác chiếc áo choàng đen, cơn gió ấm thổi qua người hắn, khiến tứ chi lạnh lẽo và mệt mỏi như dần ấm lại. Hắn nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng, gật nhẹ đầu: “Ừm…”

Cả hai nhặt hết đồng tiền, đóng lại hộp gỗ rồi ngồi xuống nghỉ ngơi.

Trước mộ phần là một hồ cá trải dài, trong veo như ngọc bích, dưới đáy nước, đàn cá bơi lượn giữa đám tảo, tung tăng vui đùa. Xa xa là núi xanh như phấn vẽ, mây trắng bồng bềnh như thơ. Lý Doanh ngồi bên bờ hồ, chân nàng buông thõng: “A Man chọn nơi này, tốt hơn dưới quan đạo.”

Thôi Tuần cũng im lặng ngồi bên cạnh, nhưng vẻ mặt hắn hơi buồn bã: “Nếu có thể an táng… sẽ tốt hơn…”

“Sẽ có ngày ấy thôi.” Lý Doanh nói.

Gió xuân nhè nhẹ mang theo hương thơm của hoa nghênh xuân. Hai người cùng nhìn ngắm cảnh non xanh nước biếc, cá lội rong rêu. Lý Doanh đột nhiên hỏi: “Vết thương của ngài… vừa rồi không bị rách ra chứ?”

Ngày đó, Thôi Tuần đào được hài cốt của Thịnh Vân Đình giữa cơn mưa, đau đớn đến mức thổ huyết, vết thương sau lưng bị roi đánh toàn bộ nứt toác. Về phủ, quả nhiên đổ bệnh nặng, nhưng ngoài dự liệu, Thái hậu cùng Thánh nhân không trách tội về việc hắn tự ý đào bới quan đạo, nhờ vậy, hắn mới được ở lại phủ dưỡng thương. Suốt thời gian đó, Lý Doanh cẩn thận chăm sóc hắn từng ly từng tí, kéo hắn trở về từ cửa tử.

Thôi Tuần đáp: “Không sao.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Ta thật sợ ngày đến mộ phần của Thịnh Vân Đình, sẽ lại tái diễn chuyện đêm mưa ấy.” Nàng đếm ngón tay: “Một lần phạt trượng, một lần dầm mưa, ta không muốn phải kéo ngài về lần thứ ba đâu.”

Nàng nghiêng đầu, ánh mắt hiện lên vẻ tinh nghịch khó thấy ở một thiếu nữ mười sáu tuổi: “Mệt lắm đấy.”

Thôi Tuần không khỏi bật cười, khóe miệng nhếch lên, trong mắt không còn vẻ u uất mà thay bằng sắc màu ấm, sáng như ráng chiều sau cơn mưa, khiến khung cảnh xung quanh cũng trở nên lu mờ. Lý Doanh lặng lẽ nhìn hắn một lúc, sau đó mới quay đầu, mỉm cười nhàn nhạt.

Cơn gió nhẹ thoảng qua mang theo hương hoa nghênh xuân thanh khiết. Như chợt nhớ ra điều gì, Lý Doanh nói: “Ta có thứ này muốn đưa cho ngài.”

“Thứ gì?”

Lý Doanh mở chiếc túi gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn, lấy ra một quả cầu bạc chạm vàng tinh xảo. Quả cầu này giống hệt với chiếc nàng đã tặng cho Thôi Tuần lần trước. Nàng đưa nó cho hắn: “Đây này, ta đã thêm vào bạch chỉ, xạ hương, mộc hương, trầm hương, có thể giúp tán hàn giảm đau.”

Nàng không hỏi quả cầu hương lần trước đã đi đâu, chỉ thấy Thôi Tuần ngơ ngác nhìn vật trong tay nàng, im lặng trong chốc lát rồi mới nói: “Cô… vẫn sẵn lòng làm hương cầu cho ta sao?”

“Tại sao lại không?” Lý Doanh nhẹ nhàng đáp, “Ta đã quyết định tin ngài thêm một lần nữa, tất nhiên sẽ toàn tâm đối đãi, cũng không bận lòng những chuyện trước kia. Nếu không, chẳng phải đã tự làm khổ mình sao?”

Bàn tay nàng mở ra, trắng mịn như ngọc dương chi thượng hạng, tỏa ra hơi ấm dịu dàng. Thôi Tuần trầm mặc một lúc, rồi từ từ cầm lấy quả cầu hương chạm vàng từ lòng bàn tay nàng: “Quả cầu hương lần trước…”

Hắn ngập ngừng, giọng trầm lặng: “Đã không còn nữa…”

Thôi Tuần cẩn thận buộc dây bạc của quả cầu hương vào đai lưng, động tác thận trọng và chân thành: “Nhưng, chiếc này sẽ không mất đâu.”

Đôi mắt Lý Doanh trong suốt như làn nước hồ thu, nàng nhìn hắn rồi mỉm cười: “Được.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 31: Bạch y Khanh tướng


Dương xuân tháng ba, vạn vật hồi sinh.

Tại tây thị Trường An, thương nhân tụ hội, người qua lại như mắc cửi. Một tửu quán gần đại lộ Chu Tước vô cùng náo nhiệt, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng cười nói của các vũ nữ Hồ tộc và thực khách. Bên ngoài tửu quán, một thương nhân Hồ tóc vàng dắt theo lạc đà chở đầy hàng hóa chậm rãi đi qua. Trên nhã tọa tầng hai của tửu quán, hai vị lang quân trẻ tuổi trong thường phục sắc hồng ngồi đối diện nhau, vừa thưởng thức khung cảnh phồn hoa của đại lộ Chu Tước, vừa uống rượu đàm đạo.

Không biết hai người đã bàn đến chuyện gì, một người trẻ tuổi, khí phách mạnh mẽ bỗng giận dữ đập mạnh chén rượu xuống bàn: “Thôi Tuần ngang nhiên đào xới quan đạo, ta đã dâng mười phong tấu chương buộc tội hắn, nhưng đều như đá chìm đáy biển, thật đáng giận!”

Vị lang quân ấy chính là Quốc tử Tư nghiệp Lư Hoài, người từng không phục Thôi Tuần tại yến tiệc trừ tịch. Nay, hắn đã được điều nhiệm làm Đại Lý Tự Thiếu khanh. Công việc đầu tiên sau khi nhậm chức, là gửi tặng Thôi Tuần một vò rượu hình hoa sen khắc đầu phượng để châm biếm.

Người đối diện hắn là Hoàng môn Thị lang, [1] Vương Huyên, người từng chế nhạo Thôi Tuần lấy sắc thờ người, sắc suy tình mỏng. Hắn dùng giọng điệu ôn hòa, khuyên nhủ: “Hoài Tín, ta khuyên ngài không nên dâng tấu nữa. Thái hậu căn bản không có ý muốn trị tội Thôi Tuần.”

[1] Thị lang là phó quan, đứng sau Thị trung. Hoàng môn Thị lang là phó quan của Môn hạ tỉnh, phụ trách kiểm tra phân loại tấu chương của triều thần; phúc thẩm các chiếu, sắc của Trung thư tỉnh. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 32: Nàng mang trong mình một sức mạnh làm an lòng người


Lúc này, Thôi Tụng Thanh vừa nhập kinh, lần thứ hai được phong làm Thượng thư Hữu bộc xạ, chức vị ngang hàng Tể tướng. Ông ta một lòng vì nước, danh vọng trong triều và dân gian đều cực kỳ cao. Vì vậy, lần tái nhiệm này hầu như không gặp bất kỳ trở ngại nào. Bách tính truyền tai nhau, nói rằng cuối cùng Thái hậu cũng không còn bị Thôi Tuần mê hoặc. Nay Thánh nhân có Thôi tướng công và Lư tướng công phò tá, Đại Chu tất sẽ đạt tới cảnh thịnh thế thái bình, biển lặng nước trong.

Trong Thôi phủ, Lý Doanh vừa băng bó vòng vải lụa trắng cuối cùng cho Thôi Tuần, rồi quay lưng đi, không nhìn đến những vết sẹo chằng chịt trên người hắn. Nàng bưng chậu đồng đặt trên án, nói: “Ta ra ngoài trước. Ngài mặc áo cẩn thận, đừng để động đến vết thương.”

Phía sau, tiếng “Ừ” khẽ khàng của hắn truyền đến, Lý Doanh bưng chậu đồng ra giếng, bắt đầu giặt sạch dải lụa đã dùng.

Nàng vốn là một tiểu công chúa ngọc ngà cao quý, chưa từng phải làm những công việc này. Nhưng việc giặt lụa cũng không phải điều gì quá khó khăn; không cần học nàng cũng biết làm. Nàng cũng chưa bao giờ nghĩ vì mình là công chúa mà làm những việc này là hạ thấp thân phận. Thân phận công chúa là vinh quang nàng có từ khi sinh ra, không phải gông cùm trói buộc nàng tiến bước.

Dưới cửa sổ, Thôi Tuần đang khoác lên lớp áo ngoài cuối cùng. Dù hắn rất cẩn thận, nhưng vẫn không tránh khỏi làm động đến vết thương. Đau đớn khiến hắn hơi nhíu mày, nhưng ánh mắt lại vô thức dõi về phía bóng dáng mảnh mai đang ngồi xổm giặt lụa ngoài cửa sổ.

Hắn yên lặng ngắm nàng. Đột nhiên, nỗi đau từ những vết thương dường như tan biến. Nàng mang một loại sức mạnh khiến người ta bình tâm, làm dịu đi mọi giông tố trong lòng. Kẻ yếu nhược như Trịnh Quân là vậy, kẻ âm trầm như hắn, cũng không ngoại lệ.

Tiên đế chọn Trịnh Quân làm phò mã, có lẽ ôm lòng muốn nếu cải cách thất bại, Trịnh gia sẽ bảo vệ nàng. Nhưng thực ra, nàng chẳng cần ai bảo vệ. Tâm tính nàng kiên cường hơn bất cứ ai. Dù không còn thân phận công chúa, không cha mẹ, không nhà chồng, nàng vẫn có thể sống tốt.



Khi Lý Doanh giặt xong dải lụa, nàng đứng thẳng người, xoay đầu lại thì thấy Thôi Tuần đã mặc xong y phục, quỳ ngồi dưới cửa sổ. Trước cửa sổ, một nhánh hải đường vươn mình qua khung gỗ, những cánh hoa đỏ thắm tầng tầng lớp lớp như ráng chiều. Bên dưới tán hoa, gương mặt nghiêng của Thôi Tuần ẩn hiện mờ mờ, tựa băng ngọc, làm lu mờ cả sắc hoa rực rỡ.

Cảnh đẹp đến vậy, bước chân của Lý Doanh cũng bất giác chậm lại. Nàng thầm nghĩ, Thôi Tuần được gọi là Liên Hoa Lang quả không sai, nhưng dù là hoa sen rực rỡ, cũng không thể sánh bằng hắn.

Có lẽ cảm nhận được nàng đến gần, Thôi Tuần hơi nghiêng đầu. Đôi mắt đen như mực của hắn nhìn nàng, khiến tim nàng bất giác lỡ nhịp. Lý Doanh vội cúi đầu, giấu đi sắc đỏ thoáng qua trên gương mặt, rồi bước nhanh vào phòng ngủ.

Nàng ngồi đối diện hắn, thấy hắn đưa tới một chồng giấy trắng dày. Nàng đón lấy: “Đây là gì?”

“Sổ ghi chép việc ra vào của cung nữ bên cạnh Thái hậu.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Chẳng phải đã bị tra xét và thu giữ rồi sao?”

Lời vừa dứt, nàng liền nhận ra điểm khác thường. Trước đó, sổ ghi chép lấy được từ Nội thị tỉnh là trên thẻ tre, nhưng bản này viết trên giấy gai trắng, nét chữ tiểu khải ngay ngắn, nhỏ nhắn quen thuộc. Thôi Tuần gật đầu: “Bản này do ta sao chép lại.”

Lý Doanh nhìn vết mực còn chưa khô hẳn: “Ngài chép từ khi nào?”

“Vài ngày qua.”

Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn. Gương mặt hắn xanh xao tái nhợt, chẳng trách những ngày qua khi thay thuốc, nàng nhận thấy vết thương của hắn hồi phục rất chậm. Ban đêm, ánh sáng đèn từ cửa sổ vẫn luôn mờ mờ. Vì thế nàng nói: “Ngài còn chưa khỏi hẳn, viết chữ thế này sẽ động đến vết thương, không đau sao?”

Hắn lắc đầu: “Không đau.”

Lý Doanh thở dài một tiếng. Làm sao có thể không đau? Ai trên đời này không sợ đau? Chỉ là hắn đã quen nhẫn nhịn, không bao giờ chịu nói ra mà thôi.

“Dù có chép cũng không cần làm ngay như vậy, nhất là trong mấy ngày qua.”

“Sổ gốc đã bị tịch thu, ta sợ để lâu, trí nhớ sẽ phai nhạt.”

Lý Doanh lật qua từng trang, tất cả đều rất chính xác, không sai một chữ. Nàng càng xem càng cảm thấy áy náy.

“Ngài bị thương nặng thế này, còn hao tổn tâm trí vì ta mà làm những việc này, thực sự ta cảm thấy ngại lắm.”

Đôi mắt nàng cụp xuống, hàng mi dài run nhẹ, trên gương mặt thanh tú hiện lên nét lo lắng. Nàng thực lòng lo cho hắn. Thôi Tuần nhìn nàng chăm chú, hồi lâu mới thu lại ánh mắt.

“Không cần áy náy. Ta làm những việc này…” Hắn ngừng một chút, “… không phải vì cô.”

Lý Doanh sửng sốt, ngẩng đầu nhìn hắn.

Thôi Tuần nói tiếp: “Ta làm vì Vân Đình.”

“Thịnh Vân Đình?”

Hắn gật đầu: “Là bằng hữu chí cốt của ta. Nếu không có cô giúp đỡ, hài cốt của Vân Đình đã mục nát dưới quan đạo. Vì tình vì nghĩa ta đều phải cảm tạ cô.”

Lý Doanh mím môi, cõi lòng áy náy tựa hồ được giãn ra đôi chút, nhưng lại mang theo cảm giác bâng khuâng khó hiểu. Nàng siết nhẹ tay đang cầm tờ giấy gai trắng, thấp giọng: “A nương không cho ngài điều tra tiếp, ngài còn chép những thứ này làm gì. Nếu để a nương phát hiện, vậy phải làm sao?”

Nàng tuy trong lòng canh cánh muốn tra rõ chân tướng, nhưng kể từ khi thấy hắn bị mẫu thân trách phạt đến mất nửa mạng, nàng lại không muốn hắn điều tra nữa. Việc có đi hay không là chuyện của riêng nàng, nàng không muốn hắn bị liên lụy.

Thôi Tuần lại nói: “Cô yên tâm, Thái hậu sẽ không giết ta.”

Lý Doanh có chút không hiểu: “Tại sao ngài lại chắc chắn như vậy?”

“Lần trước lăng mộ của cô bị hủy hoại, Thái hậu cũng không giết ta, lần sau, bà ấy cũng sẽ không giết ta.”

Lý Doanh suy nghĩ một lát, hỏi: “Có phải a nương vẫn cần ngài giúp việc cho bà ấy?”

Câu trả lời trong lòng hắn không phải như vậy, nhưng hắn vẫn gật đầu. Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Vậy thì ta yên tâm đôi chút rồi.”

Nói xong, nàng lại có chút do dự: “Nhưng nếu lại bị phạt trượng trăm roi… thì đâu có được…”

Hắn đáp: “Vậy phiền cô, chăm sóc ta lần nữa.”

Thôi Tuần xưa nay lãnh đạm, rất ít khi nói ra những lời xem như yếu thế nhưng thực chất lại để xoa dịu bầu không khí. Thế mà khi nói lời này, nét mặt hắn vẫn điềm nhiên như thường, giọng điệu cũng không chút biến đổi, khiến Lý Doanh không nhịn được mà bật cười khúc khích. Từ sau khi tỉnh lại ở hồ sen, đây là lần đầu tiên nàng cười thoải mái đến vậy.

Chân mày vốn nhíu chặt của nàng dần giãn ra, dưới ánh dương ấm áp lọt qua song cửa, gương mặt trắng như ngọc của nàng tựa hồ được phủ lên một tầng ánh sáng dịu nhẹ như minh châu. Thôi Tuần bất giác cong khóe môi. Hắn cúi đầu, từ tay nàng cầm lấy một tờ giấy gai trắng: “Chỉ là, tối qua khi sao chép, ta phát hiện ra một thứ.”

“Phát hiện gì?”

Hắn định mở lời, thì đột nhiên cửa lớn phủ đệ bị người ta đạp mạnh, tiếp đó là một toán binh sĩ xông vào. Lý Doanh còn chưa kịp phản ứng thì đã thấy một nam nhân vận quan bào đỏ thẫm, diện mạo anh tuấn, ung dung bước vào sân.

Khi thấy người đó, Thôi Tuần lại không tỏ ra ngạc nhiên, tựa hồ đã sớm đoán trước hắn sẽ đến.

Hắn quay sang nàng, thản nhiên nói: “Đó là Thẩm Khuyết.”

Thẩm Khuyết?

Chẳng phải là con trai út của a di, biểu đệ của nàng, Thẩm Khuyết sao?

Lý Doanh bất giác nhìn về phía hắn. Thẩm Khuyết mặt vuông, mày rậm, mắt sáng như sao, giữa chân mày có vài nét phảng phất giống a di và biểu tỷ, nhưng khác biệt ở chỗ, a di và biểu tỷ hòa nhã khiêm tốn, còn hắn thì tỏ ra kiêu ngạo ngông cuồng, chẳng khác nào những đường huynh đường đệ bị chiều chuộng đến hư hỏng của nàng.

Huống hồ, Thịnh Vân Đình lại do chính tay hắn sát hại, nên dù Thẩm Khuyết là biểu đệ của nàng, Lý Doanh vẫn không khỏi sinh lòng chán ghét. Nàng thấy hắn hùng hổ đến đây, trong lòng vô cùng lo lắng cho Thôi Tuần: “Thôi Tuần…”

Hắn tựa hồ nhận ra nỗi lo trong mắt nàng, nhẹ giọng trấn an: “Không sao.”

Hắn đứng dậy, bước ra ngoài, thần sắc lạnh nhạt: “Thẩm tướng quân đại giá quang lâm, chẳng hay là có việc quan trọng gì?”

“Chẳng có việc quan trọng nào cả,” Thẩm Khuyết cười nhạt, “chỉ là đến đây để giết một con chó rơi xuống nước mà thôi.”

Thôi Tuần vẫn giữ nét mặt bình thản: “Ngươi nhận thánh chỉ, hay nhận lệnh của Thái hậu?”

“Không phải thánh chỉ, cũng chẳng phải lệnh của Thái hậu,” Thẩm Khuyết chậm rãi nói, “là ta, Thẩm Khuyết, muốn giết ngươi.”

Hắn phất tay, đám binh sĩ sau lưng lập tức xông lên, tay cầm đao kiếm, vây chặt lấy Thôi Tuần.

Bị đao kiếm bao quanh, hắn không sợ hãi, chỉ nhàn nhạt nói: “Thánh nhân và Thái hậu chưa hạ chỉ, ta xem các ngươi ai dám động đến ta?”

Giọng hắn tuy bình thản, nhưng khi thốt ra lại khiến người nghe không khỏi lạnh sống lưng. Đám binh sĩ cầm đao nhìn nhau, nhớ đến thủ đoạn tàn nhẫn của hắn trong ba năm qua, nhớ đến những hình cụ tàn khốc ở Sát Sự Thính, nhớ đến thi thể của Vương Lương bị chó hoang gặm nhấm. Cả bọn bất giác run rẩy, đồng loạt lùi một bước.

Thẩm Khuyết nổi giận, quất roi vào một binh sĩ gần nhất, khiến trên mặt hắn lập tức xuất hiện một vết máu dài. Thẩm Khuyết lại đá hắn văng ra: “Đồ vô dụng!”

Hắn sải bước về phía Thôi Tuần: “Thôi Tuần, đồ chó nhà ngươi, còn dám mượn thế Thái hậu mà làm càn sao? Ngươi chẳng qua là một con chó rơi xuống nước đã bị cách chức! Giết ngươi chẳng khác gì b*p ch*t một con kiến!”

Thôi Tuần cười khẩy: “Vậy ngươi thử xem.”

Lời nói dường như không hề đặt Thẩm Khuyết vào mắt.

Thẩm Khuyết tức đến mức giậm chân. Hắn nhớ lại ba năm qua, người này lần nào cũng chống đối hắn, ngay cả việc nhỏ như thu chút lợi lộc của thương nhân người Hồ, Thôi Tuần cũng có thể thổi phồng thành chuyện lớn, nói hắn cấu kết Hồ nhân mưu phản, suýt nữa bắt hắn vào Sát Sự Thính chịu cực hình. Nghĩ đến đây, Thẩm Khuyết càng căm hận.

Hắn rút kiếm bên hông, kề sát cổ Thôi Tuần, gằn giọng: “Thôi Tuần, đồ chó, ngươi thật sự nghĩ ta không dám giết ngươi sao?”

Hắn thậm chí không ngẩng đầu, chỉ lạnh nhạt mỉa mai: “Làm chuyện ngu ngốc như giết người, lại để Bùi Quan Nhạc xúi giục, xem ra quan hệ giữa các ngươi không gì có thể phá vỡ nổi.”

Thẩm Khuyết ngẩn người, sau đó cười nhạo: “Thôi Tuần, ngươi đừng tưởng có thể châm ngòi ly gián! Ta nói cho ngươi hay, cho dù hôm nay ta lấy mạng ngươi, Thái hậu cũng sẽ không trách phạt ta. Ai bảo ta là cháu trai bà ta, ai bảo bà ta thiếu nợ mẹ ta kia chứ.”

Dứt lời, hắn giơ bội đao lên, toan chặt cổ Thôi Tuần. Lý Doanh kinh hãi, ngọn quỷ hỏa màu xanh lục trong tay nàng thoáng hiện ra. Cho dù bị phản phệ, nàng cũng muốn cứu Thôi Tuần.

Thôi Tuần vẫn điềm tĩnh đứng trước mặt, ánh mắt không chút dao động, dù trước mặt là lưỡi đao sắc bén của kẻ địch. Tuy nhiên, khi lưỡi đao kia vừa giơ lên chuẩn bị giáng xuống, bỗng một tiếng quát vang lên từ phía sau:

“Dừng tay!”

Thanh âm trầm lạnh ấy làm cả sân viện đều im lặng. Thẩm Khuyết lập tức dừng động tác, lưỡi đao dừng lơ lửng trên không. Hắn quay đầu nhìn lại, hóa ra là tân nhiệm Thượng thư Hữu bộc xạ: Thôi Tụng Thanh.

Thẩm Khuyết nhíu mày không cam lòng, lớn tiếng hỏi: “Thôi tướng công, ta biết Thôi Tuần là cháu ruột của ngài, nhưng chẳng lẽ ngài đến đây để bao che hắn?”

Thôi Tụng Thanh ánh mắt lạnh lùng liếc qua hắn một cái, giọng điệu không chút cảm tình: “Cho dù Thôi Tuần không phải cháu ta, Thẩm tướng quân cũng không thể vô cớ giết người.”

Thẩm Khuyết vẫn không chịu nhượng bộ: “Ta giết Thôi Tuần, là ý nguyện của dân chúng!”

Thôi Tụng Thanh nghe vậy, khẽ nhếch môi mỉa mai: “Nếu chỉ cần ý nguyện của dân chúng là có thể giết người, tính mạng của Thẩm tướng quân e rằng cũng khó giữ nổi qua ngày hôm nay.”

Thẩm Khuyết nghe xong bị nghẹn họng, không thể nói thêm lời nào. Thôi Tụng Thanh tay chắp sau lưng, lạnh nhạt tiếp lời: “Biến đi. Chỉ cần ta, Thôi Tụng Thanh, còn đứng ở Trường An một ngày, không ai được phép động vào Thôi Tuần.”

Thẩm Khuyết đành nghiến răng, hung hăng liếc nhìn Thôi Tụng Thanh một cái, sau đó giận dữ rời đi.

Khi Thẩm Khuyết đã đi, Thôi Tụng Thanh vẫn đứng nguyên trước cổng chính, không chịu bước vào bên trong một bước.

Thôi Tuần đứng lặng hồi lâu, sau đó bước tới, cúi người hành lễ: “Bá phụ.”

Hành lễ xong, hắn từ tốn đứng thẳng người, nhưng ánh mắt của Thôi Tụng Thanh chỉ toàn sự chán ghét, như thể đang nhìn một kẻ không đáng tồn tại.

Sau một lúc lâu, Thôi Tụng Thanh lạnh lùng lên tiếng: “Sao ngươi không chết ở Đột Quyết?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 33: Có lẽ Vong Tử Thành còn sạch hơn cõi trần gian


Thôi Tuần ngẩn người.

Thôi Tụng Thanh hờ hững cất tiếng: “Ngươi mất mẹ từ năm ba tuổi, sau khi phụ thân tục huyền, ngươi không hòa hợp với mẹ kế và các huynh đệ. Có lần vì đứa em cùng cha khác mẹ đặt biệt danh cho ngươi là “Liên Hoa Lang”, ngươi đã đánh nó đến chảy máu đầu. Phụ thân ghét bỏ ngươi, cho rằng ngươi ngỗ nghịch phóng túng, tính khí thất thường. Nhưng ta lại nghĩ rằng bản tính của ngươi như vậy, tất cũng do hoàn cảnh mà ra. Huống hồ, ngươi văn thao võ lược, chính là người kiệt xuất nhất của Thôi gia ta. Nếu có thời gian rèn luyện, chắc chắn sẽ trở thành trụ cột của Đại Chu. Ta trân quý tài năng của ngươi, nhưng không thể can thiệp vào chuyện nhà ngươi, đành viết thư tiến cử ngươi cho Quách Cần Uy, chủ soái Thiên Uy quân, vào năm ngươi mười bốn tuổi. Quách Cần Uy tuy xuất thân hàn môn, nhưng yêu thương binh sĩ, trí dũng song toàn. Ta nghĩ, nếu được người như ông ta tôi luyện, ngươi ắt sẽ mài dũa thành tài, đạt được hoài bão.”

Thôi Tuần nghe đến đây, đầu càng cúi thấp hơn. Giọng của Thôi Tụng Thanh ngày càng lạnh lùng: “Nhưng ngươi thì sao? Ngươi đã làm gì? Trong trận Lạc Nhạn Lĩnh, Quách Cần Uy tuy quyết sách sai lầm, mất thành mất đất, nhưng ông ta vẫn lấy cái chết để bảo toàn danh tiết. Những binh sĩ khác của Thiên Uy quân không chịu bị bắt, đều quyết chiến đến cùng. Nếu kết cục dừng lại ở đó, Thiên Uy quân còn có thể nhận được sự thương cảm “tội đáng chém, tình đáng thương”. Còn ngươi, vì muốn sống sót, lại đầu hàng Đột Quyết, khiến sử quan đến cả lời cảm thông cũng không thể hạ bút nổi. Vậy nên, Thôi Tuần, tại sao ngươi không tự sát? Tại sao ngươi không chết ở Đột Quyết đi?”

Từng lời chất vấn của Thôi Tụng Thanh như những lưỡi dao, Thôi Tuần đột nhiên ngẩng đầu lên. Hắn nhìn người trưởng bối mà hắn tôn kính nhất, ánh mắt thoáng qua sự mơ hồ. Hắn cố gắng nói điều gì đó, nhưng cuối cùng chỉ khó nhọc thốt ra: “Ngay cả con kiến cũng có thể sống tạm bợ, tại sao ta lại không thể sống?”

Thôi Tụng Thanh cười giận: “Tốt! Một câu “con kiến cũng có thể sống tạm bợ”! Hay! Hay lắm! Là ta nhìn nhầm người! Không ngờ Thôi thị Bác Lăng lại sinh ra kẻ ham sống sợ chết như ngươi.”

Thôi Tuần ánh mắt ngày càng mơ hồ: “Mỗi người đều có đạo của riêng mình. Đạo của bá phụ là thúc đẩy tân chính, ổn định quốc gia, vì điều đó không tiếc trở mặt với thân bằng quyến thuộc, sống cuộc đời thanh bần. Còn ta, ta cũng có đạo của ta. Trước khi hoàn thành đạo của mình, ta không thể chết.”

Thôi Tụng Thanh quát lên: “Đạo của ngươi, chẳng lẽ chính là vì mạng sống mà đầu hàng Đột Quyết, cúi mình van xin trước nữ nhân Hồ tộc?”

Những lời nói ấy dường như đâm trúng nỗi đau sâu kín trong lòng Thôi Tuần. Đôi mắt hắn xám xịt, như mặt hồ bao phủ bởi sương mù lúc bình minh. Hắn khẽ khàng cười, đáp: “Khi ở Đột Quyết, quả thực ta có hàng nghìn, hàng vạn cơ hội để tự sát. Chết rồi, sẽ không còn bị sỉ nhục nữa. Nhưng ta không muốn chết.”

Thôi Tụng Thanh thất vọng tràn trề: “Trước khi đến đây, ta còn tìm đủ mọi lý do bào chữa cho ngươi. Ta nghĩ có lẽ vì Đột Quyết canh phòng nghiêm ngặt, nên ngươi không thể chết. Không ngờ, là chính ngươi không muốn chết!”

Khuôn mặt Thôi Tuần trắng bệch như đêm đông phủ đầy tuyết mới, không còn chút sắc máu. Hắn dường như giằng xé rất lâu, cuối cùng lên tiếng: “Bá phụ đã nghe về chuyện di hài của Thịnh Vân Đình, Ngu hầu Thiên Uy quân, bị phát hiện trong quan đạo chưa?”

Thôi Tụng Thanh nghe vậy, chỉ thản nhiên đáp một câu: “Thì sao?”

Một câu nói, khiến Thôi Tuần như rơi vào hố băng.

Thôi Tụng Thanh chậm rãi nói: “Chẳng lẽ ngươi muốn nói có kẻ cố ý khoanh tay đứng nhìn, khiến Thiên Uy quân toàn quân bị diệt? Tạm không bàn đến việc án Thiên Uy quân đã định, chỉ riêng việc dẫn năm vạn quân đến Lạc Nhạn Lĩnh, cũng là quyết định của Quách Cần Uy. Ông ta chịu tội, chẳng lẽ không đáng sao? Thôi Tuần, ngươi định đổ hết nguyên do cho việc ngươi ham sống sợ chết là vì cái không biết có hay không ấy sao?”

Khuôn mặt Thôi Tuần thê lương như đêm tuyết đầu mùa, bỗng bật cười nhẹ: “Không, vì chính ta ham sống sợ chết, không có lý do nào khác.”

Thôi Tụng Thanh hoàn toàn thất vọng. Ông lạnh lùng nhìn Thôi Tuần: “Tuy nhân phẩm ngươi thấp kém, nhưng vẫn còn đôi chút tài năng. Ta sẽ thuyết phục Thái hậu phục chức cho ngươi. Nhưng từ nay về sau, trên triều đình, ngươi không được gọi ta là bá phụ. Ta không muốn mất mặt vì ngươi.”

Thôi Tuần vô hồn đáp: “Được.”

Thôi Tụng Thanh liếc nhìn hắn lần cuối, đầy ghét bỏ, rồi phất tay áo bỏ đi.

Thôi Tụng Thanh vừa rời đi, Thôi Tuần lặng lẽ đứng trước cửa thật lâu, rồi mới chậm rãi xoay người, quay trở lại tẩm phòng.

Lý Doanh nhìn theo bóng lưng hắn, mím nhẹ đôi môi, bước theo, đến tẩm phòng rồi quỳ gối trước án thư.

Thôi Tuần không nói gì, nàng cũng lặng im. Chỉ yên tĩnh ngồi đối diện hắn, lặng lẽ bầu bạn.

Thần sắc Thôi Tuần trống rỗng, trong đôi mắt đen nhánh như mực ấy tựa hồ ẩn giấu một vực sâu không cách nào chạm đến. Một lúc lâu, hắn bỗng ngẩng đầu, trầm giọng nói: “Trước đó ta từng nói với cô, đêm qua trong lúc sao chép, ta phát hiện ra một điều bất thường.”

Lý Doanh nhỏ giọng hỏi: “Ngài phát hiện điều gì?”

“Hậu cung của Trịnh Hoàng hậu có một cung nữ tên Vãn Hương. Khi Trịnh Hoàng hậu phạm tội, các cung nữ trong cung đều bị giáng chức hoặc xử tử, duy chỉ có Vãn Hương không những toàn mạng mà còn được thăng làm Tư thiện của cục Thượng Thực. Nhưng một năm sau, nàng ta bị Thái hậu hạ lệnh, đánh chết ngay tại chỗ.”

“Ngài muốn nói rằng nàng ta là nội ứng của a nương, vì thế mới không bị xử tử mà còn được trọng dụng?”

Thôi Tuần gật đầu: “Trịnh Hoàng hậu có tính tình kiêu ngạo, đối đãi cung nữ không chút khoan dung. Mẫu thân cô vì tự bảo vệ mình, mua chuộc cung nhân trong cung Trịnh Hoàng hậu để thám thính tin tức, cũng chẳng phải điều gì sai trái.”

“Nếu là người của a nương, vì sao lại bị đánh chết không thương tiếc?”

“Nếu ta không đoán sai, nàng ta có lẽ giống như Vương Đoàn Nhi, bị giết để diệt khẩu.”

Lý Doanh chấn động: “A nương diệt khẩu? Vì cớ gì bà phải làm thế, chẳng lẽ…”

Nửa câu sau, nàng không cách nào thốt ra thành lời.

Bởi nếu Thái hậu quả thực làm vậy, chỉ có một nguyên nhân duy nhất.

Đó là Vãn Hương đã biết được bí mật kinh thiên động địa nào đó, khiến Thái hậu không thể không xuống tay.

Mà rốt cuộc, đó là bí mật gì, lại có giá trị để khiến bà làm đến mức này?

Lý Doanh chỉ nghĩ đến một điều duy nhất.

Đôi vai nàng khẽ run, hai bàn tay nắm chặt vạt áo, ngón tay trắng bệch. Một lúc lâu sau, nàng mới khó nhọc lên tiếng: “Thật… thật sự là a nương sao?”

Thôi Tuần nhìn nàng, nếu là trước đây, hắn chắc chắn sẽ không chút do dự nói rằng Thái hậu là kẻ tình nghi lớn nhất. Nhưng lúc này, trong lòng hắn lại nảy sinh một tia không nỡ, hắn chậm rãi nói: “Chỉ dựa vào cái chết của Vãn Hương, chưa thể khẳng định được điều gì.”

Nghe vậy, vẻ mặt Lý Doanh thoáng dịu đi đôi chút. Nàng lẩm bẩm: “Ngài nói đúng, có lẽ là nàng ta phạm phải sai lầm gì đó, mới bị phạt trượng đến chết, không phải a nương ta diệt khẩu…”

Lời vừa nói, chính nàng cũng cảm thấy khó tin. Nếu thật sự là phạm lỗi, thì sao lại bị đánh chết tàn nhẫn như thế? Khi ấy nương đã là một Hoàng hậu, nếu cung nữ ấy gây tội, sử quan sẽ ghi chép rõ ràng, chứ sao lại để Hoàng hậu mang tiếng ác, vì đã đích thân xử t* c*ng nhân?

Thôi Tuần thấy nàng thất thần, liền nói: “Muốn biết Vãn Hương chết vì cớ gì, cũng không phải là không có cách.”

Lý Doanh ngẩng đầu, ngạc nhiên hỏi: “Ngài có cách sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Vãn Hương từng có một đối thực [1] trong cung, tên là Tưởng Lương. Sau khi Vãn Hương qua đời, ông ta cũng chạy trốn khỏi cung. Nếu tìm được ông ta, có lẽ có thể biết chân tướng cái chết của nàng ta.”

<i>[1] Đối thực: một hình thức kết giao thân mật giữa cung nữ và thái giám trong cung đình cổ đại.</i>

“Vậy Tưởng Lương hiện ở đâu?”

“Lần cuối có người nhìn thấy ông ta, là ở Quỷ thị Trường An.”

Cái gọi là Quỷ thị Trường An, nằm trong phường Vụ Bản, là một chợ đêm náo nhiệt. Khi trời tối, Trường An cấm giới nghiêm, người đi đường không được ra khỏi phường, nhưng Quỷ thị lại khai chợ vào lúc nửa đêm, khi gà gáy thì giải tán. Những thứ được bán tại đây đều là hàng hiếm khó tìm, phần lớn không rõ nguồn gốc, thương nhân cũng không nộp thuế. Quan binh từng nhiều lần điều tra nhưng không lần nào thành công, vì thế nơi này được gọi là Quỷ thị.

Thôi Tuần nói: “Tưởng Lương cần tránh bị truy sát, lại cần bạc để mưu sinh. Quỷ thị là nơi tốt nhất cho ông ta.”

Lý Doanh gật đầu: “Vậy đêm nay chúng ta đến Quỷ thị tìm ông ta.”

Thôi Tuần đáp: “Được.”

Lòng Lý Doanh như gần chạm tới sự thật, nhưng càng lúc càng thấp thỏm. Nếu sự thật là… a nương nàng…

Thôi Tuần dường như nhìn thấu tâm tư của nàng, bất chợt hỏi: “Nếu thật sự là Thái Hậu, công chúa định thế nào?”

“Ta định thế nào?” Trong mắt Lý Doanh hiện lên vẻ mờ mịt: “Nếu thật sự là a nương ta, ta cũng đâu thể báo thù bà. Ta luôn nhớ, mỗi lần ta ốm đau, bà đều ôm ta vào lòng, lo lắng không yên… Ta không thể tin được vì ngôi vị Hoàng hậu mà bà đã giết ta.”

Thôi Tuần trầm mặc, Lý Doanh cũng không nói thêm, một lúc sau, nàng chỉ thở dài:

“Nếu đúng là a nương, thì ta cũng không muốn lang bạt nữa, ta sẽ tự tìm đến Vong Tử Thành.”

Thôi Tuần ngẩng đầu nhìn nàng: “Không phải công chúa luôn sợ cô độc hay sao? Vì sao lại tự nguyện đến Vong Tử Thành?”

Lý Doanh cười khổ, nói: “Từ sau khi tỉnh lại bên hồ sen, mọi chuyện đều đã đổi thay, vật còn mà người chẳng còn. Với thế nhân, ta chỉ là một vị công chúa yểu mệnh, người từng khiến Trường An máu chảy thành sông. Chẳng ai tiếc thương cái chết của ta, chỉ có a nương, chỉ có a nương là vẫn còn nhớ đến ta. Vì ta mà bà đã thắp sáng đèn trường minh khắp bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên cả nước, cầu nguyện cho ta sớm được đầu thai. Bà cũng có thể vì một túi thơm của ta mà tha thứ cho ngài, có thể vì cây bồ đề ta trồng mà khóc lóc thảm thiết. Nếu thật sự là bà đã hạ sát ta, vậy thì ta nghĩ… ta thật sự không biết phải tin vào điều gì nữa. Thay vì như vậy, chi bằng ta đến Vong Tử Thành, chờ đến khi a nương thọ chung, ta mới luân hồi chuyển kiếp.”

Nàng nói những lời này với vẻ mặt ngơ ngẩn, tựa như mất đi phương hướng. Đúng vậy, nếu ngay cả a nương cũng không thể tin tưởng, nàng còn biết tin ai đây?

Thôi Tuần mím môi, bỗng cất tiếng hỏi: “Vậy nên, nếu đêm nay tìm ra chân tướng, công chúa định đến Vong Tử Thành thật sao?”

Lý Doanh thoáng ngẩn ngơ, ánh mắt nhìn hắn. Khuôn mặt hắn trắng nhợt tựa tuyết, khiến lòng nàng bỗng dưng chùng xuống. Trong tâm trí, nàng lại nhớ đến ánh mắt trống rỗng khi nãy của Thôi Tụng Thanh khi chế giễu hắn không dám tự sát để giữ gìn danh tiết. Ngón tay nàng siết chặt lấy vạt áo, không khỏi dâng lên một chút không nỡ, nhưng… người sống kẻ chết vốn cách biệt, nàng chỉ là một cô hồn lạc lõng, nhân gian này chẳng phải là nơi nàng nên lưu lại quá lâu.

Thôi Tuần trầm mặc hồi lâu, bỗng nở một nụ cười nhạt: “Cũng tốt, có lẽ Vong Tử Thành còn sạch sẽ hơn nhân gian này.”

Lý Doanh cũng rơi vào trầm mặc, một lát sau mới khẽ đáp: “Ngài nói đúng, Vong Tử Thành, có lẽ sạch sẽ hơn cả nhân gian.”

Nàng ngừng lại một chút, rồi nói: “Thôi Tuần, ngài rất tôn kính bá phụ của mình, đúng không?”

Thôi Tuần không ngờ nàng đột nhiên nhắc đến Thôi Tụng Thanh, thoáng ngây người, rồi bỗng gật đầu: “Phải.”

“Nhưng ta không thích ông ấy,” Lý Doanh thẳng thắn nói, “Ông ấy nói ngài vì đạo lý của mình mà sống mòn, nhưng chính ông ấy chẳng phải cũng vì đạo lý của mình mà làm ngơ trước oan khuất của Thịnh Vân Đình đó sao?”

Thôi Tuần sững sờ nhìn nàng, nàng lại tiếp tục: “Đến cả A Man cũng có thể nhận ra Thịnh Vân Đình không phải bị sơn tặc sát hại, ta không tin ông ấy không nhận ra. Chẳng qua ông ấy không muốn vì một Thịnh Vân Đình mà lật lại những chuyện cũ sáu năm trước, để đánh cược một ván không biết thắng thua mà thôi.”

“Ông ấy là Bạch y Khanh tướng, lòng mang muôn dân. Ông ấy có rất nhiều việc lớn phải làm, phải quý trọng tính mạng của mình, không thể vì một chức Ngu hầu nhỏ bé mà bỏ mạng. Nhưng tính mạng của ông ấy là tính mạng, còn tính mạng của ngài ấy, lại không phải tính mạng sao?”

“Nếu như vậy, ông ấy lại có tư cách gì để hùng hồn chỉ trích ngài không chịu chết?”

Lý Doanh nhìn thẳng vào mắt Thôi Tuần, từng chữ từng lời nói ra như đinh đóng cột: “Cho nên, Thôi Tuần, ngài không cần vì lời của ông ấy mà đau lòng. Ông ấy không đáng.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 34: Quỷ thị Trường An


Lý Doanh nói những lời này với thần sắc nghiêm túc đến lạ thường. Không phải vì muốn an ủi Thôi Tuần mà nàng mới nói như vậy, đó đều là lời từ tận đáy lòng nàng.

Lỗ Ai Công từng hỏi Khổng Tử: “Nhân và đạo, cái nào lớn hơn?”

Khổng Tử đáp: “Chính <i>(chính nghĩa)</i> lớn hơn.”

Có lẽ, đây chính là nguyên tắc hành xử của Thôi Tụng Thanh. Vì lý tưởng trong lòng, ông có thể buông bỏ mọi thứ. Do đó, ông sẽ không vì một bộ hài cốt không rõ thật giả mà làm rối đại cục, hay dành trọn đời mình để tìm kiếm chân tướng. Khó mà nói hành động của ông là sai. Sau này, sử sách có lẽ sẽ dành cho ông một lời bình rằng: “Công trạng như núi, danh lưu hậu thế.” Nhưng khi ông nghiêm khắc chỉ trích Thôi Tuần vì không chịu chết, Lý Doanh lại nhớ đến hình ảnh Thôi Tuần khom người trước phần mộ của Thịnh Vân Đình, cúi mình nhặt từng đồng tiền đồng bị bùn đất làm vấy bẩn.

Đôi mắt nàng bỗng chua xót, hơi mím môi rồi nói: “Thôi Tuần, đường là của ngài, chỉ cần ngài thấy đúng thì cứ bước tiếp đi. Không cần bận tâm người khác nói gì, dù người đó có là bậc trưởng bối mà ngài kính trọng nhất.”

Nàng ngồi trước thư án, đôi mắt như chứa ngàn sao lấp lánh. Thôi Tuần lặng lẽ nhìn ánh mắt như nước ấy, thần sắc thoáng vẻ thất thần. Một lúc lâu sau, hắn chợt cất lời: “Vừa rồi, thực sự ta đã rất đau lòng.”

Thế nhân khinh miệt, nhạo báng, làm nhục hắn, hắn đã sớm quen. Nhưng khi đến cả bậc trưởng bối mà hắn kính trọng nhất từ nhỏ cũng đối xử như vậy, hắn thực sự không cách nào để không bận tâm.

Giọng nói của Lý Doanh dịu dàng như gió thoảng: “Ta biết.”

Thôi Tuần cố gượng một nụ cười cay đắng: “Nhưng ta đau lòng không chỉ vì trưởng bối mà ta kính trọng xem ta như bùn đất ô uế, mà còn vì cái chết của Vân Đình bị xem nhẹ tựa lông hồng.”

“Trên thân thể Vân Đình có không dưới trăm vết đao chí mạng. Ấy vậy mà Hình bộ chỉ mất hai ngày đã vội vã kết luận rằng huynh ấy bị sơn tặc cướp của sát hại. Triều đình văn võ bá quan đều giả điếc làm ngơ, không một ai chất vấn.”

“Họ muốn lưu danh sử xanh, muốn vinh quang ngàn đời. Nhưng Thiên Uy quân lại là nỗi sỉ nhục lớn nhất của triều đình, họ không thể để mình dính líu đến. Không một ai… không một người nào nguyện đứng ra rửa sạch oan khuất cho Vân Đình.”

Thậm chí, khi hắn lấy hết can đảm, thăm dò vị trưởng bối mà mình kính trọng nhất, nhưng chỉ nhận lại một câu: “Thì sao?”

Khoảnh khắc ấy, Thôi Tuần như rơi xuống vực sâu thăm thẳm, xung quanh chỉ toàn là bóng tối không thấy ánh sáng, dù có đi thế nào cũng không thoát ra được.

Bên tai hắn bỗng vang lên giọng nói nhẹ nhàng của Lý Doanh: “Không, Thôi Tuần, không phải không có ai nguyện vì Thịnh Vân Đình mà rửa oan. Ngài vẫn luôn muốn rửa oan cho y, chẳng phải sao?”

Nàng tiếp lời: “Ngài luôn tìm kiếm hài cốt của Thịnh Vân Đình, chưa bao giờ từ bỏ. Ngài hao tổn tâm sức bắt Vương Nhiên Tê, chẳng phải cũng vì hài cốt của y sao? Ngài đã tìm được rồi, ngài để y không phải chôn vùi nơi quan đạo nữa. Giống như lời y nói, ngài là một hảo hán của Thiên Uy quân.”

Thôi Tuần chỉ cảm thấy lồng ng.ực mình như nóng lên, khóe mắt bắt đầu ươn ướt. Hắn cắn chặt răng, cố kìm nén cảm xúc trong lòng: “Không, ta không phải. Sáu năm rồi, tròn sáu năm rồi, hài cốt của họ vẫn còn ở Lạc Nhạn Lĩnh, đến cả việc thu liệm cũng không thể. Là ta có lỗi với họ…”

Ngón tay đặt trên thư án của hắn siết chặt dần, nổi lên những đường gân xanh rõ mồn một trên bàn tay gầy guộc. Lý Doanh nhìn xuống cổ tay gầy yếu, trơ xương ấy, mím môi hỏi: “Thôi Tuần, chuyện Thiên Uy quân bị tiêu diệt có ẩn khuất, đúng không?”

Thôi Tuần đột ngột ngẩng đầu lên.

“Vì sao Thẩm Khuyết và Vương Nhiên Tê phải giết Thịnh Vân Đình? Vì sao phải ngăn cản y vào cung Đại Minh cầu viện? Và vì sao ngài phải từng bước ép sát Bùi Quan Nhạc? Chẳng phải tất cả những điều này đều liên quan đến Thiên Uy quân hay sao?” Lý Doanh nói: “Thôi Tuần, ta muốn biết, ngài hãy nói cho ta.”

Thôi Tuần nhìn nàng, ánh mắt đen sâu thẳm như điểm mực, nhưng mãi lâu sau vẫn không đáp. Một tia chua xót dâng lên trong lòng Lý Doanh. Hắn vẫn như trước đây, thà giữ tất cả trong lòng, không chịu nói với bất kỳ ai. Đau cũng không nói, khổ cũng không nói. Nhưng hắn cũng chỉ là một người, một trái tim, làm sao có thể chứa đựng hết máu và nước mắt của năm vạn người đây?

Nàng cúi đầu, lòng nặng trĩu, cảm giác đau xót mỗi lúc một dâng lên. Đúng lúc ấy, Thôi Tuần bỗng lên tiếng, giọng hắn mơ hồ: “Ta không biết… Ta không biết vì sao Đột Quyết biết được đường hành quân của chúng ta… Ta không biết vì sao Bùi Quan Nhạc rõ ràng biết chúng ta bị vây lại không đến cứu viện… Ta càng không biết vì sao Quách soái phải nhận được thánh chỉ thì mới xuất binh, còn Bùi Quan Nhạc lại nói không có thánh chỉ ấy…”

Nói đến đây, đầu ngón tay hắn run rẩy không thể khống chế, gương mặt trắng bệch như giấy, thân thể lung lay như sắp đổ. Trong đầu hắn như hiện lên từng gương mặt trẻ trung đầy sức sống của các chiến hữu. Họ kéo ngựa dừng lại trước mặt hắn, rồi máu từ mũi, tai họ chảy ra đỏ tươi. Họ trách hắn: “Thập Thất lang, vì sao ngươi vẫn chưa rửa oan cho chúng ta?”

Thôi Tuần đỏ hoe đôi mắt, khớp ngón tay đã siết chặt đến trắng bệch: “Là ta có lỗi với họ… Ta có lỗi với họ…”

Nỗi tuyệt vọng, day dứt, thống khổ đan xen, khiến trái tim hắn như bị một tảng đá lớn đè nặng, đến mức không thở nổi. Móng tay hắn đã bấm sâu vào lòng bàn tay, dường như sắp chảy máu. Lý Doanh nhìn bàn tay siết chặt ấy, rồi nhẹ nhàng đặt tay mình lên, che phủ lấy lòng bàn tay hắn.

Thân thể Thôi Tuần run lên, ngón tay đang siết chặt từ từ buông lỏng. Lý Doanh dịu dàng nói: “Thôi Tuần, ngài đã cố hết sức rồi. Ta tin rằng, nhất định sẽ có một ngày chân tướng được phơi bày.”

Nàng nhìn sâu vào đôi mắt trầm ngâm của hắn, đôi mắt ấy chứa đựng một thứ gì đó khiến lòng nàng day dứt. Một lúc lâu sau, nàng bỗng nói, giọng nàng nhẹ tựa mây trôi: “Để ta giúp ngài, được không?”

Ánh mắt của Thôi Tuần chợt khựng lại, như thể lời nàng nói vừa phá tan mọi sự câm lặng trong tâm hồn hắn. Nhưng rồi hắn lại thu bàn tay mình, từ từ rời khỏi lòng bàn tay nàng.

Hắn chỉ nói: “Quỷ thị sắp mở cửa. Chúng ta đi thôi.”



Quỷ thị Trường An, nơi được gọi là một thế giới khác giữa lòng kinh đô.

Thôi Tuần dẫn Lý Doanh đi qua con đường lát đá xanh của phường Vụ Bản. Ánh trăng mờ ảo xuyên qua những tầng mây, soi xuống con đường, khiến cả không gian chìm trong sự u ám lạnh lẽo. Quanh họ, mọi thứ yên tĩnh đến mức khác thường. Bước chân chậm rãi, Lý Doanh bất giác cảm thấy rợn người. Nàng vô thức bước sát lại gần hắn, nhưng ngay khi ánh mắt chạm đến chiếc áo choàng đen hắn khoác, nàng lại chần chừ, hơi dịch sang bên, giữ một khoảng cách nhỏ giữa hai người.

Sự trầm mặc bao phủ. Thôi Tuần bất ngờ cất tiếng, giọng nói như xé toang màn đêm: “Cô đang trách ta à?”

Lý Doanh sững người, đôi môi mím nhẹ, rồi chỉ lắc đầu.

Hắn im lặng một thoáng, rồi trầm mặc nói: “Chuyện của ta không nên làm liên lụy đến cô.”

Thì ra, trong lòng hắn, nàng chỉ là một người ngoài.

Cảm giác thất vọng len lỏi vào tâm can Lý Doanh, nàng cắn chặt môi, không nói thêm lời nào. Hai người cứ thế bước đi trong im lặng, cho đến khi một âm thanh chói tai vang lên tiếng cánh vỗ rào rạt của đàn quạ đen.

Lý Doanh ngẩng đầu, chỉ thấy một đàn quạ lớn từ trên cao lao xuống. Từng con một, dường như chúng đang bị thứ gì đó đáng sợ đuổi theo, vừa bay vừa kêu rít lên thảm thiết. Một vài con mất phương hướng, thậm chí va vào người nàng.

Trong khoảnh khắc, bàn tay Thôi Tuần đã kéo nàng sang bên, tránh cho nàng khỏi đàn quạ. Một con quạ rơi xuống đất, hắn cúi đầu nhìn, đôi mày thoáng nhíu lại. Lý Doanh giật tay ra, lùi về sau vài bước.

“Lại đây.”

Lý Doanh ngạc nhiên, đứng lặng. Hắn lặp lại, giọng điềm tĩnh: “Lại đây.”

Không còn lựa chọn, nàng miễn cưỡng tiến lên vài bước, đứng trước mặt hắn. Thôi Tuần mở rộng chiếc áo choàng đen, giơ tay, che chắn cho nàng.

Đàn quạ vẫn tiếp tục lao tới, nhưng giờ đây, dưới lớp áo choàng, nàng không còn nhìn thấy chúng nữa. Nàng thấp hơn hắn một cái đầu, muốn nhìn hắn phải ngước lên. Dưới ánh trăng mờ nhạt, khuôn mặt hắn gần đến mức khiến nàng bối rối. Đôi mắt hắn, sâu lắng như biển cả. Chiếc mũi cao thẳng tắp. Đôi môi mỏng nhợt nhạt thoảng mùi hương thuốc từ vết thương được băng bó. Lý Doanh lập tức quay đi, cố gắng tránh ánh mắt hắn, lòng dạ rối bời.

Vừa mới nhích chân, giọng hắn đã vang lên, kiên quyết: “Đừng động.”

Nàng cúi đầu, thì thầm: “Ta là hồn ma. Những con quạ này là vật sống, chúng không thể chạm vào ta.”

Thôi Tuần đáp, giọng lạnh băng: “Nếu không muốn chết thêm lần nữa thì đừng động đậy.”

Lời nói ấy khiến nàng sững sờ. Đôi chân bất giác khựng lại. Nàng ngoan ngoãn đứng yên dưới áo choàng của hắn, không còn nhúc nhích.

Ánh mắt vô tình rơi xuống quả cầu hương mạ vàng treo bên thắt lưng hắn. Đó chính là món quà nàng tặng hắn, nó vẫn được hắn mang theo bên mình, chưa từng rời xa.

Lý Doanh chăm chú nhìn quả cầu hương khẽ đung đưa. Một lúc lâu sau, khi tiếng vỗ cánh và tiếng kêu rít của đàn quạ dần biến mất, Thôi Tuần mới hạ tay, buông áo choàng xuống. Ngay lập tức, nàng bước lùi ra sau, giữ khoảng cách an toàn với hắn. Nàng gãi vành tai, cố xua đi bầu không khí ngượng ngùng, rồi hỏi: “Vừa nãy ngài nói nếu ta không muốn chết lần nữa? Ý ngài là gì?”

Thôi Tuần dùng mũi giày đá nhẹ con quạ vừa rơi xuống đất: “Nhìn đi.”

Nàng nghi hoặc nhìn xuống, nhưng vừa mới liếc qua, đã kinh hãi bật thốt thành tiếng.

Con mắt của con quạ đó đã bị móc đi, chỉ còn lại hai hốc máu rỉ đỏ. Ngay giữa ngực nó cũng có một lỗ hổng lớn, bên trong trống rỗng. Tim đã bị lấy mất.

Không có tim… thì làm sao nó bay được?

Thôi Tuần ngẩng đầu, ánh mắt hướng về nơi xa, nơi những ánh đèn leo lét phát ra từ Quỷ thị: “Có lẽ, câu trả lời nằm ở phía trước.”



Quỷ thị nằm trong một khu rừng hoang vắng tại phường Vụ Bản, rừng sâu tối tăm đến mức ngay cả ánh trăng cũng giấu mình sau tầng mây dày. Trong Quỷ thị không có ánh sáng, Lý Doanh chỉ có thể dựa vào ánh đèn lồng mờ nhạt người qua lại cầm theo, hoặc ánh sáng từ mồi lửa, để miễn cưỡng nhìn rõ tình hình các sạp hàng. Các sạp ở đây cách nhau khá xa, bày bán những vật không hề bình thường. Sạp gần Lý Doanh nhất bày vài bộ kim tuyến ngọc y rách nát, thứ vốn là liệm y của quý tộc nhà Hán.

Thấy vậy, chỉ e rằng đây là vật do Mô kim Hiệu úy [1] trộm về.

<i>[1] Mô kim Hiệu úy: Chức quan do Tào Tháo lập ra, để hợp thức hóa việc đào mộ, quật mả của người khác.</i>

Một sạp khác lại không bán đồ vật, mà là những con chuột lớn màu đen, bị nhốt trong lồng sắt.

Càng đi sâu, Lý Doanh càng cảm thấy tim đập nhanh hơn, nhưng dù có kinh hãi đến đâu, nàng vẫn không muốn tiến gần thêm về phía Thôi Tuần.

Thôi Tuần nhận ra điều này, bèn lên tiếng: “Còn giận à?”

“Không giận.” Lý Doanh trả lời, giọng có chút nghèn nghẹn: “Ta chỉ không muốn ngài gánh hết mọi chuyện một mình, nên mới muốn giúp ngài. Nhưng nếu ngài không muốn ta giúp, ta cũng không còn cách nào khác.”

Thôi Tuần im lặng, không nói gì. Lý Doanh cũng không nói thêm, chỉ cúi đầu bước đi. Nàng không hề nhận ra, trên một thân cây khô cằn gần đó, có đôi mắt màu xanh biếc, lạnh lẽo như ma trơi, vẫn luôn dõi theo bóng lưng nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 35: Miêu quỷ


Trong Quỷ thị, các tiểu thương đều mang nét mặt lạnh lùng, không cất lời rao hàng hay gọi mời khách. Khung cảnh im lặng này hoàn toàn đối lập với sự náo nhiệt trong hội đèn Thượng Nguyên. Lý Doanh thậm chí còn nhìn thấy một tiểu thương và khách buôn tranh cãi đến mức xô xát, những người xung quanh chẳng một ai đứng ra can ngăn, mà chỉ lặng lẽ ngồi ở chỗ mình, chờ đợi người mua ghé qua.

Thôi Tuần giải thích: “Những kẻ này bán toàn những món kỳ quái, không thể dùng suy nghĩ của người thường để đoán định.”

Lý Doanh khẽ gật đầu: “Nhưng phải thừa nhận, nơi này quả là chỗ trốn lý tưởng.”

Người bình thường chẳng dám bén mảng tới đây. Còn kẻ đến được đây đa phần đều mang trọng án, tất nhiên chẳng ai dại gì mà đi báo quan. Có lẽ vì vậy nên Tưởng Lương chọn mới nơi này làm nơi ẩn nấp.

Nàng hỏi: “Nhưng Tưởng Lương có thể trốn ở đây suốt ba mươi năm sao?”

“Nếu ông ta vẫn còn ở Trường An, thì đây chính là nơi ông ta lựa chọn.”

“Vậy ông ta có còn ở Trường An không?”

“Không biết. Nhưng Tưởng Lương là hoạn quan, không để râu. Chúng ta chỉ cần tìm quanh một vòng là rõ.”



Hai người tìm kiếm khắp nơi nhưng không hề thấy bóng dáng người bán hàng nào khoảng năm mươi tuổi và không để râu. Đúng lúc Lý Doanh định hỏi Thôi Tuần rằng liệu Tưởng Lương có thực sự không ở đây, thì Thôi Tuần bất ngờ dừng bước trước một sạp hàng.

Sạp này bày bán cung tên, trường đao và những binh khí khác, tất cả đều gỉ sét loang lổ. Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên một cây thiết thai cung.

Thiết thai cung <i>(cung sắt)</i> này toàn thân làm từ sắt, dây cung chế từ tơ dâu tằm. Tơ dâu tằm cực kỳ bền chắc, không chỉ khó đứt mà còn có ưu thế trên chiến trường, dễ dàng cắt đứt yết hầu kẻ địch hơn dây cung làm từ gân bò. Đây vốn là loại cung mà võ tướng Đại Chu thường sử dụng.

Ánh mắt Thôi Tuần như hóa đá khi nhìn cây cung ấy thật lâu. Hắn định đưa tay nhấc nó lên, nhưng một bàn tay khác đã nhanh hơn, cầm lấy cây cung trước hắn.

Là Quỷ thương Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy liếc qua Thôi Tuần và Lý Doanh. Lý Doanh vận áo lục, váy vàng xen kẽ đỏ, búi tóc cài trâm ngọc hải đường thạch lựu, ấn đường điểm ngọc châu hình giọt nước. Đứng cạnh nàng là Thôi Tuần, khoác cẩm bào hoa lệ. Cả hai trông vô cùng xứng đôi. Ngược lại, Ngư Phù Nguy chỉ mặc một thân áo vải thô màu chàm. Theo luật pháp Đại Chu: thương nhân không được mặc y phục xa hoa, không được cưỡi ngựa, không được tham gia quan trường.

Hắn mỉm cười nhạt, nâng cây cung trong tay, rồi đọc hàng chữ khắc trên thân cung: “Thôi… Vọng… Thư.”

Hắn ngước lên, nở nụ cười ý vị nhìn Thôi Tuần: “Thất lễ, thất lễ, thì ra cây cung này lại là vật cũ của Thôi Thiếu khanh.”

Lý Doanh cũng tò mò ngắm nghía cây cung, quay sang hỏi Thôi Tuần: “Đây là cung của ngài sao?”

Nhưng cây cung của Thôi Tuần làm sao lại xuất hiện ở Quỷ thị được?

Chưa kịp đợi Thôi Tuần trả lời, Ngư Phù Nguy đã quay sang hỏi lão bán hàng: “Này, ngươi trộm cây cung này từ đâu đấy?”

Lão bán hàng chẳng buồn ngẩng đầu lên, đáp: “Trộm cái gì mà trộm? Đây là của một gã Hồ thương người Đột Quyết thiếu nợ ta, nên đã mang đến để gán nợ.”

“Người Đột Quyết?” Ngư Phù Nguy quay sang Thôi Tuần, cười khẩy: “Chẳng lẽ cây cung này là thứ binh sĩ Đột Quyết đoạt được khi Thôi Thiếu Khanh hàng phục chúng sao?”

Sắc mặt Thôi Tuần thoáng căng thẳng, môi mím chặt, ánh mắt bừng lên cơn giận mơ hồ. Thấy vậy, Ngư Phù Nguy lập tức dừng lại, không nói tiếp nữa. Hắn đưa cây cung về phía Thôi Tuần, cười giả lả: “Thôi Thiếu khanh, mỗ lại nói năng bậy bạ rồi. Thôi thế này đi, mỗ sẽ trả tiền của cây cung này, sau đó tặng lại ngài coi như chuộc lỗi.”

Thôi Tuần lạnh lùng giật lấy cây cung từ tay Ngư Phù Nguy. Thân cung bằng sắt đã phủ đầy những vết gỉ sét loang lổ, đôi tay thon dài của Thôi Tuần nhẹ nhàng lướt qua bề mặt lồi lõm của lớp gỉ. Ánh sắc bén và vẻ huy hoàng từng có của cây cung sắt giờ đây đã hoàn toàn tan biến. Trong ánh mắt thoáng chút mơ màng của hắn, dường như không chỉ cây cung bị hao mòn theo năm tháng, mà còn cả hình bóng thiếu niên từng giương cung bắn chim, mũi tên như sao băng.

Ngư Phù Nguy lấy ra một xâu đồng từ trong túi tiền, giao cho lão bán hàng: “Chừng này đủ chưa?”

Lão bán hàng ngẩng đầu lên, ông ta chừng khoảng sáu mươi tuổi, đôi mắt đục ngầu. Ông nhận lấy xâu tiền nhưng ánh mắt vàng vọt lại nhìn chằm chằm vào Lý Doanh. Bỗng, ông lên tiếng về hướng phía sau nàng: “Cẩn thận.”

Lý Doanh chưa kịp nghĩ xem ông có thể nhìn thấy nàng hay không, thì đã vô thức quay đầu lại nhìn theo ánh mắt của ông. Chỉ thấy trên cành cây phía sau, một con mèo hoang đen tuyền, mắt lóe lên ánh lục u ám, bước đi không hề phát ra tiếng động.

Nói là mèo, nhưng phải gọi là một khối hắc ám thì đúng hơn, bởi bóng dáng nó trong đêm chẳng khác nào một mảng sương mù đặc quánh, hoàn toàn không rõ hình hài.

Khi bị phát hiện, con mèo đen rít lên một tiếng chói tai, rồi lao về phía nàng với một tư thế quái dị, gần như không giống loài vật.

Con mèo nhanh, nhưng Thôi Tuần còn nhanh hơn. Hắn lập tức rút một mũi tên từ ống đựng trên sạp, xoay người, tay trái nắm cung, tay phải kéo dây, đặt tên, mọi động tác hoàn thành trong chớp mắt. Nhưng cây cung hắn đã kéo hàng ngàn lần nay đến một nửa cũng khó khăn. Mũi tên vì thế chệch hướng, bay xiêu vẹo chưa được một trượng đã rơi xuống đất.

Con mèo đen trừng mắt, lông trên sống lưng dựng đứng, nhe nanh sắc nhọn như dùi đâm, nhưng cơ thể nó dưới ánh lửa lại không hề có lấy một chút bóng. Chỉ thấy nó lao thẳng tới, hàm răng nhọn ngoạm về phía cổ họng Lý Doanh.

Lý Doanh kêu thất thanh, Ngư Phù Nguy đã kịp chộp lấy cây cung sắt từ tay Thôi Tuần, giáng mạnh xuống người con mèo. Một tiếng “phịch” vang lên, con mèo đen rơi phịch xuống đất, lăn vài vòng rồi run rẩy đứng dậy.

Móng vuốt của nó bị dây cung sắc bén cứa phải, máu nhỏ tí tách. Nó giận dữ lườm Ngư Phù Nguy, đồng tử xanh lục co lại chỉ còn nhỏ bằng đầu kim. Cuối cùng, nó rít lên một tiếng oán hận, vừa nhăn răng gầm gừ, vừa lảo đảo chạy sâu vào rừng hoang.



Chờ đến khi con hắc miêu quái dị kia hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt ba người, Ngư Phù Nguy mới nhấc cây cung lên, kéo thử dây cung. Chỉ một động tác đơn giản, hắn đã dễ dàng kéo dây cung đến mức tối đa. Hắn giả vờ buông tay, như muốn bắn một mũi tên hờ, rồi bật cười chế nhạo: “Xem ra phong hoa tuyết nguyệt của thành Trường An đã làm Thôi Thiếu khanh mê mẩn đến rệu rã cả xương cốt, thế nên ngay cả cây cung cũ của mình cũng không thể kéo nổi.”

Thôi Tuần nhìn Ngư Phù Nguy kéo dây cung một cách nhẹ nhàng, ánh mắt thoáng trầm xuống. Cổ tay từng bị thương cũ giờ lại dấy lên cơn đau âm ỉ như kim châm từng hồi, không ngừng đâm xuyên da thịt. Bàn tay giấu trong lớp hạc bào màu đen dần siết chặt, nhưng hắn không hề đáp lại câu nào. Chỉ lặng lẽ xoay người, rời khỏi bóng tối của Quỷ thị, từng bước khuất xa.

Ngư Phù Nguy có đôi phần bất ngờ. Hắn vốn nghĩ rằng, với tính tình của Thôi Tuần, nghe những lời vừa rồi hẳn sẽ nổi trận lôi đình. Nhưng không ngờ, hắn lại cứ thế xoay người bỏ đi, không hề tỏ vẻ tức giận. Đây thật sự là Thôi Tuần nổi danh khắp Đại Chu với tính cách nhỏ mọn, lòng dạ hiểm độc, hành sự tàn nhẫn đó sao?

Lý Doanh nhìn bóng lưng tiêu điều của Thôi Tuần, đôi môi nàng khẽ mím lại. Nàng bước tới trước mặt Ngư Phù Nguy, từ trong túi lấy ra một viên minh châu trong suốt sáng lấp lánh, đặt trước mặt hắn: “Cho ngươi.”

Ngư Phù Nguy thoáng bừng tỉnh, liền hỏi: “Công chúa làm vậy là có ý gì?”

“Cảm tạ ngươi đã cứu ta.”

Trong lòng Ngư Phù Nguy không khỏi vui mừng, liền cười ha hả, nói: “Chỉ là việc nhỏ, công chúa không cần khách sáo như vậy.”

“Nhận lấy.”

Giọng nói của Lý Doanh mang một khí thế khác lạ, mơ hồ toát ra vẻ uy nghi của một công chúa Đại Chu. Ngư Phù Nguy sững người giây lát, rồi cũng cẩn thận nhận lấy viên minh châu. Thấy hắn đã nhận, Lý Doanh liền nói: “Chuyện của ta xem như đã xong, giờ đến lúc ta nói với ngươi về chuyện của Thôi Tuần.”

Ngư Phù Nguy nhíu mày, vẻ mặt đầy nghi hoặc: “Chuyện của Thôi Tuần?”

Lý Doanh xòe tay ra, ánh mắt bình tĩnh: “Đưa cung của Thôi Tuần cho ta.”

“Công chúa muốn chiếc cung đó để làm gì?”

“Trả lại cho hắn.”

Ngư Phù Nguy thoáng ngẩn người, sau đó thắc mắc: “Đến cả kéo cung hắn còn không kéo nổi, công chúa còn muốn trả lại cây cung đó để làm gì?”

“Dù kéo không nổi thì nó vẫn thuộc về hắn.”

Ngư Phù Nguy bất đắc dĩ, đem chiếc cung sắt đưa cho Lý Doanh: “Mỗ thật không hiểu, vì sao công chúa lại đối tốt với một kẻ gian nịnh tiếng xấu đầy người như hắn.”

Lý Doanh tiếp lấy cây cung, nàng hơi cụp mắt: “Ngư Phù Nguy, có phải ngươi luôn tự cho mình là một đại anh hùng không?”

Đây là lần đầu tiên nàng gọi thẳng tên hắn, chứ không kính cẩn xưng là “Ngư tiên sinh”. Ngư Phù Nguy thoáng sững sờ, nàng tiếp lời: “Có phải ngươi cảm thấy mình lấy thân phận thương nhân, dám công khai chê bai một viên gian nịnh mang tiếng xấu đầy người như hắn, là rất tài giỏi không?”

Ngư Phù Nguy bị hỏi đến mức lặng người, một lát sau mới yếu ớt phản bác: “Mỗ nào nghĩ mình tài giỏi, trái lại là công chúa đấy, cùng một kẻ bị người người căm ghét như chuột chạy qua đường dây dưa không rõ, chẳng lẽ không cảm thấy bẩn sao?”

Nghe vậy, Lý Doanh chỉ cười nhạt: “Ngư Phù Nguy, nếu như Thôi Tuần thực sự xấu xa như ngươi nói, thì ngay khi ngươi dám ở trong nhà hắn nói những lời này, ngươi đã bị hắn bắt vào Sát Sự Thính, chứ làm gì có thể an ổn đứng đây, cười nhạo hắn không kéo nổi chiếc cung cũ của mình?”

Ngư Phù Nguy há miệng, muốn chống chế nhưng không biết phải nói gì. Một lúc sau, hắn đáp: “Đó là vì… vì hắn cần mỗ tìm giúp một vài món đồ mà người khác không thể tìm ra.”

Nhưng vừa dứt lời, ngay cả bản thân hắn cũng thấy lý do này không đủ thuyết phục. Dù hắn có thể buôn bán âm dương thì cùng lắm cũng chỉ là một thương nhân. Thiên hạ có biết bao kẻ giống như hắn, Thôi Tuần sao lại nể tình hắn chỉ vì một lý do như vậy?

Lý Doanh lắc đầu: “Chỉ đơn giản là hắn không muốn tính toán với ngươi thôi.”

Ngư Phù Nguy nghẹn lời. Lý Doanh lại nói: “Từ nay về sau, đừng nói xấu hắn trước mặt ta nữa, ta không muốn nghe.”

Ngư Phù Nguy ngây người, còn Lý Doanh ôm lấy chiếc cung cũ, quay người rời khỏi tầm mắt của hắn. Hồi lâu sau, Ngư Phù Nguy mới bừng tỉnh, nắm chặt viên minh châu trong tay, quay lại nhìn về phía sạp hàng của ông lão từng nhắc nhở Lý Doanh. Lão bán hàng vẫn giữ thần sắc thờ ơ, dường như không nghe, không thấy bất kỳ điều gì. Ngư Phù Nguy đột nhiên cảm thấy bực bội, ném túi tiền lên quầy: “Mua hết!”



Lý Doanh ôm lấy chiếc cung, cảm thấy nó nặng trĩu. Nàng thở hổn hển, chạy một mạch mới kịp đuổi theo Thôi Tuần.

Thôi Tuần vẫn như thường ngày, ánh mắt tựa hồ sâu thẳm không đáy, gương mặt tái nhợt như tuyết, không lộ bất kỳ cảm xúc nào. Lý Doanh cất tiếng gọi, đưa chiếc cung về phía hắn.

Thôi Tuần dừng bước, nhìn chiếc cung cũ trong tay nàng. Ánh mắt hắn lạnh nhạt như sương tuyết. Hồi lâu sau, hắn đưa tay định chạm vào cây cung, nhưng còn chưa kịp chạm, Lý Doanh đã lên tiếng trước: “Đừng vứt đi.”

Động tác của Thôi Tuần thoáng khựng lại.

Lý Doanh lại nói: “Ngài vứt, thì ta sẽ nhặt lại.”

Đôi tay thon gầy tựa trúc của Thôi Tuần dừng giữa không trung, rồi hắn thu tay về, không nói thêm lời nào, xoay người tiếp tục bước đi.

Lý Doanh ôm lấy chiếc cung, dịu dàng nói: “Ta vừa nói với Ngư Phù Nguy, bảo hắn sau này đừng nói xấu ngài trước mặt ta nữa. Ta không muốn nghe.”

Thôi Tuần nghe xong, trầm mặc giây lát, mới nói: “Thiên hạ đều nói, cô quản không xuể.”

“Quản được người nào hay người đó.”

Thôi Tuần im lặng. Lý Doanh cũng không nói gì thêm. Trong khu rừng hoang vu, chỉ còn lại tiếng bước chân của Thôi Tuần trên lớp lá khô, đôi giày nặng nề của Lý Doanh khẽ phát ra âm thanh sột soạt. Hai người lặng lẽ đi một lúc, bỗng Lý Doanh lên tiếng:

“Thôi Tuần, nặng quá.”

Thôi Tuần khựng lại. Trong ánh trăng, Lý Doanh ôm chiếc cung sắt, ngẩng đầu nhìn hắn. Đôi mắt nàng trong suốt, sáng ngời như sương mai. Thôi Tuần nhìn sâu vào ánh mắt ấy, sau đó khẽ mím môi, đưa tay nhận lấy chiếc cung từ nàng, tiếp tục bước đi.

Lý Doanh cúi đầu, khóe miệng nàng khẽ cong lên một nụ cười nhàn nhạt. Nàng lại hỏi: “Thôi Tuần, chúng ta đi đâu?”

“Trên đất, có vết máu.”

Lý Doanh định thần nhìn kỹ, trên lá khô, quả nhiên có từng giọt máu đỏ thẫm. Nàng khẽ giật mình: “Đây là máu của con mèo hoang vừa nãy sao?”

“Không phải mèo hoang.”

“Không phải mèo hoang, thì là gì?”

“Đó là… Miêu quỷ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 36: Có kẻ muốn hại a nương


Nghe đồn miêu quỷ là một loại tà thuật vu cổ. Vu hành giả sát hại con mèo già đã sống hơn hai mươi năm, sau đó dùng phù chú giam giữ linh hồn nó. Hằng đêm vào giờ Tý, kẻ đó dùng máu tươi của mình và xác chuột để cúng tế. Trải qua hàng chục năm, linh hồn con mèo già bị thao túng, trở thành công cụ hãm hại những người mà vu hành giả muốn diệt trừ.

Chẳng trách con mèo hoang khi nãy lại không có bóng. Thì ra, đó không phải mèo sống, mà là một miêu quỷ.

Lý Doanh lẩm bẩm: “Vậy những con quạ không tim vừa nãy, cũng là do miêu quỷ làm hại sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Hẳn là miêu quỷ đã ăn mắt và tim của quạ, sau đó điều khiển xác chúng bay lượn. Những con quạ khác vì thế mới hoảng loạn mà vội vã rời khỏi khu rừng hoang.”

Lý Doanh lại hỏi: “Vậy miêu quỷ lao vào ta, vì muốn ăn ta sao?”

“Đúng vậy.” Thôi Tuần trầm giọng: “Miêu quỷ được nuôi dưỡng bằng tà thuật hàng chục năm, đã trở thành ác hồn. Ác hồn vốn ưa hành hạ những kẻ yếu hơn mình. Nó giết quạ để mua vui, rồi muốn nuốt luôn cả hồn phách của công chúa.”

Hồi tưởng lại cảnh kinh hoàng ban nãy, Lý Doanh bất giác lạnh toát cả sống lưng. Nếu yết hầu nàng bị miêu quỷ cắn nát, có lẽ kết cục sẽ chẳng khác gì bầy quạ kia. Nàng run giọng nói: “Ta nhớ triều trước từng xảy ra họa miêu quỷ trong cung. Bởi vậy, Đại Chu có luật ai nuôi miêu quỷ hay truyền bá tà thuật này đều bị xử trảm; người nhà nếu biết mà không báo thì lưu đày ba nghìn dặm. Là ai, ai lại dám mạo hiểm, chịu tội chết để nuôi miêu quỷ?”

Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên vệt máu kéo dài trên lá khô, hướng về phía trước. Hắn đáp: “Đi theo dấu máu này, ắt sẽ tìm ra đáp án.”



Vệt máu dẫn đến một căn nhà đá.

Nhà đá ẩn sâu trong rừng hoang, vô cùng hẻo lánh, xung quanh chẳng có lấy một bóng người. Tường nhà được xếp bằng những phiến đá thô, trên mái phủ dày lớp cỏ tranh. Thoạt nhìn, nơi này chẳng khác nào chỗ nghỉ chân của một thợ săn. Nhưng ánh trăng yếu ớt xuyên qua tầng mây, rọi lên đống xương chuột lớn bên cạnh, cùng bóng tối phủ trùm từ bên trong gian nhà, khiến không khí nơi đây trở nên lạnh lẽo đến rợn người.

Lý Doanh rùng mình, không khỏi sợ hãi.

Thôi Tuần không để lộ chút cảm xúc, chỉ nhẹ nhàng chắn trước nàng, trầm giọng nói: “Nắm lấy áo ta.”

Lý Doanh vội vàng gật đầu, bàn tay nhỏ run rẩy bám nhẹ vào chiếc áo bào lông hạc màu đen tuyền của hắn, theo sau từng bước, đến bên cánh cửa gỗ khép hờ.

Qua khe cửa, cả hai lén nhìn vào trong. Bóng tối ngập tràn, nhưng trong màn đen đặc ấy, một đôi mắt xanh lục âm u rực sáng, hiện ra rõ ràng.

Miêu quỷ!

Hai chữ này đồng thời xuất hiện trong tâm trí họ. Dường như nghe thấy động tĩnh, miêu quỷ ngoảnh đầu nhìn về phía cửa, cong lưng, gầm gừ nhe nanh. Nhưng khi trông thấy cây cung sắt dính máu trên tay Thôi Tuần, nó lập tức khựng lại, gầm một tiếng nhỏ sợ hãi, rồi phóng mình qua cửa sổ bỏ chạy.

Miêu quỷ đã trốn thoát.

Căn nhà đá lại chìm trong tĩnh lặng.

Thôi Tuần nói: “Chúng ta vào xem thử.”

Lý Doanh bấu chặt lấy áo hắn, dường như nhờ sự hiện diện của người trước mặt, nỗi sợ trong lòng nàng cũng vơi đi phần nào. Thôi Tuần bật lửa, ánh sáng đỏ rực lập lòe trong bóng tối, soi sáng cả căn nhà.



Khi bước vào, hai người đều sửng sốt.

Khắp nơi trong nhà đá bốc lên thứ không khí kỳ dị khó tả. Tường nhà phủ đầy rêu xanh ẩm ướt, bàn ghế bằng tre mục nát lốm đốm vết mốc. Nhưng điều khiến Lý Doanh kinh hoàng nhất chính là chiếc cọc gỗ hình chữ thập giữa phòng. Trên cọc, một hình nhân rơm mặc địch y xanh lục thêu mười hai chương văn, phần vai của nó còn loang lổ những vết máu khô. [1] Xem ra, đây là nơi trú thân của miêu quỷ.

[1] Địch y chính là lễ phục trang trọng nhất dành cho các bậc Hậu phi trong triều đình các nước Á Đông xưa. Từ thời Đường trở về sau, sắc áo được chuyển thành màu xanh sẫm, trên thân áo thêu đúng mười hai hàng hoa văn chim trĩ, viền tay áo và cổ áo đều thêu rồng. Kiểu dáng Địch y là nhất quán (giống với sự thống nhất của Cổn phục), chỉ có số lượng hàng chim trĩ sẽ thay đổi theo phẩm trật: bậc Hậu có 12 hàng, bậc Phi chỉ có 9 hàng. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 37: Thôi Tuân, ngài đang lo lắng cho ta sao?


Bùi Quan Nhạc, ngươi định đi đâu?

Lý Doanh không kịp nghĩ ngợi, lập tức chuẩn bị đuổi theo. Nhưng ánh mắt nàng lướt qua cây cung cũ trên đầu gối, lòng chợt do dự. Nghĩ ngợi một chút, nàng xòe bàn tay, một ngọn quỷ hỏa xanh lục bùng lên. Quỷ hỏa bay vút lên không trung rồi lập tức biến mất, ánh sáng xanh âm u len lỏi vào cây cung cũ. Sau khi thi triển xong thuật che mắt, Lý Doanh mới yên tâm. Nàng cẩn thận đặt cây cung dưới chân bệ đá của sư tử, rồi vội vã đứng dậy, đuổi theo hướng Bùi Quan Nhạc.

Xe ngựa của Bùi Quan Nhạc không gặp trở ngại nào trên đường, từ phường Tuyên Dương đến một căn viện yên tĩnh ở phường Bình Khang. Ông ta xuống xe, đi vào viện qua cổng sau. Cánh cổng vừa khép lại, không ai phát hiện một bóng dáng kiều diễm xuyên qua cánh cửa gỗ sơn đen đóng kín, âm thầm bước vào hậu viện cùng ông ta.

Vừa đặt chân đến hậu viện, Lý Doanh đã nghe tiếng nhạc cụ vang vọng, nàng bám sát theo hướng âm thanh. Nhìn bề ngoài tòa viện này trông vô cùng bình thường, nhưng bên trong lại được bài bố vô cùng tinh xảo: cầu nhỏ nước chảy, giả sơn kỳ quái, kỳ hoa dị thảo đủ cả, không hề thua kém phủ đệ của quan lại quyền quý. Rõ ràng Bùi Quan Nhạc rất quen thuộc nơi này, đi qua hành lang dài, thẳng tới một gian phòng bên cạnh.

Cửa sổ gian phòng được làm bằng khung gỗ sơn đỏ, hé mở một nửa. Qua khung cửa, Lý Doanh thấy trong phòng đèn đuốc sáng trưng, tựa như ban ngày. Mấy nàng Hồ cơ mắt xanh, y phục mỏng manh như sương, lộ ra những đường cong đầy đặn, đang uốn éo theo tiếng đàn Hồ cầm, gương mặt nở nụ cười đầy mê hoặc.

Y phục của các nàng quá mỏng, không che nổi những đường nét phập phồng. Lý Doanh chỉ nhìn một lúc đã thấy mặt đỏ tai hồng. Nàng lại nhìn quanh một lượt, đoán rằng nơi này chắc hẳn là một kỹ viện ở phường Bình Khang.

Triều Đại Chu không cấm quan lại lui tới chốn thanh lâu. Từ tể tướng đến mạc liêu, hiếm ai không qua lại những nơi như thế, thậm chí còn coi đó là thú vui tao nhã. Vì vậy, chuyện Bùi Quan Nhạc đến đây cũng chẳng có gì lạ.

Lý Doanh cố nén cơn ngượng, tiếp tục nhìn vào bên trong. Khi ánh mắt nàng bắt gặp vị lang quân anh tuấn đang ngồi dựa trên tràng kỷ giữa gian phòng, nàng hơi sững người.

Đó là… biểu đệ của nàng, Thẩm Khuyết.

Nét mặt Thẩm Khuyết lạnh lùng, dường như chẳng mấy hứng thú với màn múa hát. Hai nàng Hồ cơ ngồi bên cạnh: một người xoa bóp chân cho hắn, người còn lại bóc nho, đưa từng trái lên miệng hắn. Cảnh tượng này trông không khác gì một công tử ăn chơi vùng Ngũ Lăng. Lý Doanh cau mày, dù rất khẽ, bởi nàng chán ghét hắn. Dù là biểu đệ, dù có chung dòng máu, nàng vẫn không thích nổi con người này.

Bùi Quan Nhạc bước vào, cũng cau mày, giọng điệu có vẻ không vui: “Thẩm tướng quân, nhã hứng quá nhỉ.”

Thẩm Khuyết vừa ăn một quả nho, giọng điệu lạnh nhạt: “Hôm nay không trừ được chó dữ, đành tìm chút thú vui cho mình. Bùi Thượng thư, chuyện này ông cũng muốn xen vào?”

Hắn luôn kiêu căng, đến mức Bùi Quan Nhạc cũng không dám chạm vào vảy ngược của hắn. Chỉ đành ngồi xuống chiếc sạp thấp bốn chân bên cạnh, sửa lời: “Chuyện trừ chó dữ không thành, đều là do Thôi Tụng Thanh bất ngờ xuất hiện.”

Thẩm Khuyết cười lạnh: “Gì mà bất ngờ xuất hiện, tám phần là do mụ già kia không nỡ bỏ rơi sủng vật của mình, cố ý phái Thôi Tụng Thanh đến.”

Vừa nói, khóe miệng hắn nhếch lên thành một nụ cười khinh miệt, vẻ mặt đầy chế nhạo. Những nàng Hồ cơ không hiểu hắn nói gì, nhưng vẫn ánh mắt mê mẩn nhìn hắn. Thấy vậy, Bùi Quan Nhạc bật cười: “Tú bà ham tiền, giai nhân mê sắc, đàn bà ai chẳng vậy, huống chi là một góa phụ hai mươi năm không chồng.”

Thẩm Khuyết nghe thế, hừ nhẹ một tiếng. Bùi Quan Nhạc cũng cười lớn. Lý Doanh cảm thấy cả người không thoải mái, nhưng vẫn cố nén, tiếp tục lắng nghe.

Thẩm Khuyết lạnh lùng nói: “Nếu không phải mụ già đó mê sắc đến lú lẫn, đáng lẽ từ sáu năm trước, Thôi Tuần đã phải chết rồi.”

Bùi Quan Nhạc cũng thở dài đầy tiếc nuối: “Vì sáu năm trước không giết được hắn nên mới để lại mối họa hôm nay.”

“Chuyện này còn phải trách Bùi Thượng thư.” Thẩm Khuyết liếc nhìn ông ta, không khách khí nói: “Thôi Tuần bị giam ở Đại Lý Tự, ta đã nói nên giết hắn ngay, nhưng Bùi Thượng thư cứ chần chừ, bảo phải lấy được lời khai hắn đầu hàng Đột Quyết thì mới có lý do chính đáng để xử hắn tội phản quốc. Nếu hắn chết ở Đại Lý Tự một cách mơ hồ, mụ già kia chắc chắn sẽ bới móc. Kết quả thì sao? Thôi Tuần ở Đại Lý Tự suốt một năm, mọi hình phạt đều đã dùng, vậy mà hắn vẫn không mở miệng. Mụ già kia cũng chẳng có ý định cứu hắn. Một năm sau, Bùi Thượng thư cuối cùng tỉnh ngộ, muốn giết hắn, thì chẳng hiểu sao mụ già ấy tự dưng lại đến Đại Lý Tự, gặp được Thôi Tuần. Hừ, Liên Hoa Lang, đẹp như đóa sen, chỉ nhờ một lần gặp gỡ, Thôi Tuần lại được giữ tính mạng.”

Bùi Quan Nhạc ngượng ngùng cười: “Chuyện này không thể hoàn toàn trách ta. Khi ấy, Đại Lý Tự khanh Ngô Lục cũng có phần trách nhiệm. Nếu không phải ông ta cổ hủ, khăng khăng nói Đại Chu có luật, quy định không được tra khảo liên tục, mỗi lần phải cách nhau hai mươi ngày, thì Thôi Tuần đã chết dưới cực hình rồi.”

Thẩm Khuyết mỉa mai tiếp lời: “Bùi Thượng thư, đừng trốn tránh trách nhiệm nữa. Không phải sau đó cũng chính ông là người đã bảo với ông ta: luật pháp chỉ là thứ nằm trên giấy, chỉ có người sống thì định luật được. Về sau cũng đâu giữ cái luật chết tiệt cách hai mươi ngày mới được tra khảo một lần đó nữa. Dù ngài nói với Ngô Lục rằng cứ tùy ý tra khảo, nhưng phải giữ mạng Thôi Tuần, nên Ngô Lục mới rụt rè, để cho Thôi Tuần sống sót.”

Lý Doanh càng nghe càng kinh hãi. Chẳng trách Thôi Tuần không giương nổi cây cung cũ, chẳng trách hắn bệnh tật yếu ớt đến vậy. Ai bị tra khảo cực hình suốt một năm ở Đại Lý Tự, nếu không chết cũng mất nửa cái mạng, nào dám mơ đến việc hồi phục được như trước.

Hơn nữa, nghe Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết nói, Thôi Tuần bị cực hình ép cung suốt một năm vẫn không hé miệng, chứng tỏ hắn căn bản chưa từng đầu hàng Đột Quyết.

Lý Doanh nhớ lại lời Ngư Phù Nguy từng chế giễu Thôi Tuần rằng hắn bị phong hoa tuyết nguyệt ở Trường An làm mềm xương, đến mức không giương nổi cung cũ. Lòng nàng càng thêm khó chịu. Nhìn về phía Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc, ánh mắt càng thêm phần chán ghét.

Thẩm Khuyết lạnh lùng châm biếm liên tiếp, dù Bùi Quan Nhạc không muốn gây sự với hắn, cũng không khỏi bực mình: “Thẩm Tướng quân, giờ không phải lúc truy cứu trách nhiệm. Thay vì vậy, chi bằng nghĩ xem phải làm thế nào để trừ khử Thôi Tuần. Nếu không, chờ hắn phục chức, chúng ta còn có ngày lành sao?”

“Ta không nghĩ ra cách nào nữa.” Thẩm Khuyết nhận chén rượu nho từ tay Hồ cơ, uống một hơi cạn sạch: “Bùi Thượng thư bày bố cục tốt như vậy mà cũng không giết được Thôi Tuần, thì ta đành chịu.”

Bùi Quan Nhạc chán nản nói: “Vốn định mượn chuyện lăng mộ công chúa Vĩnh An bị phá hoại để trừ khử Thôi Tuần, không ngờ vẫn uổng công vô ích.”

Nghe những lời này, Lý Doanh không lấy làm bất ngờ. Quả nhiên không ngoài dự liệu, lăng mộ nàng bị hủy hoại là chủ ý của Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết.

Hồ cơ lại đưa thêm một chén rượu nho mỹ tửu cho Thẩm Khuyết, lần này hắn không uống mà chỉ lắc nhẹ chén vàng, chất rượu đỏ như máu lay động trong chén, ánh mắt trầm ngâm: “Nhắc đến việc Thôi Tuần điều tra nguyên nhân cái chết của công chúa Vĩnh An, hắn đang tính làm gì đây?”

“Ai mà biết được? Có lẽ là muốn dùng chuyện này để uy h**p Thái hậu.”

Thẩm Khuyết nắm chặt chén vàng, trong đôi mắt tuấn mỹ ánh lên một tia sắc lạnh: “Vì ngôi vị Hoàng hậu, ngay cả con gái cũng có thể giết, tỷ tỷ có thể giết, cháu gái cũng không tha. Loại phụ nhân độc ác như thế, thiên cổ chưa từng thấy!”

Lý Doanh nghe đến đây, sắc mặt nàng thoáng tái đi, thân mình hơi nghiêng về phía trước vài bước, càng áp sát khung cửa sổ gỗ son khắc hoa, lắng nghe từng lời đối thoại giữa Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc.

Nàng không hề hay biết, khi nàng còn đang dò xét trong viện, thì ở bên kia Thôi Tuần cũng đã rời khỏi phủ Thôi Tụng Thanh.

Thôi Tuần bước ra khỏi cửa, ánh trăng xuyên qua tầng mây chiếu lên gương mặt tựa tuyết của hắn. Môi hắn mím chặt, bàn tay giấu dưới tà áo khoác đen cũng hơi run rẩy. Khi bước qua ngưỡng cửa, cánh cổng son nặng nề lập tức đóng lại, dường như muốn cắt đứt toàn bộ liên hệ giữa hắn và Thôi phủ.

Tiếng cánh cửa gỗ vang lên, nặng nề và lạnh lẽo, như sự tuyên cáo công khai của bá phụ đối với sự chán ghét mà ông không định che giấu.

Hàng mi đen như cánh quạ của Thôi Tuần bỗng hạ xuống. Hắn kéo chặt áo choàng, khi ngẩng đầu lên, ánh mắt đã trở về vẻ bình tĩnh không chút gợn sóng. Hắn xoay người, định tìm bóng dáng mảnh khảnh bên cạnh con sư tử đá.

Nhưng ở đó lại trống không, không hề có ai cả.

Ánh mắt Thôi Tuần chợt trở nên sắc bén, hắn nhanh chân bước đến bên sư tử đá, chỉ thấy một cây cung sắt nằm trên bệ đá, ánh lên sắc xanh kỳ lạ giống như lửa ma trơi.

Hắn đưa tay nhặt cây cung lên, khi đầu ngón tay vừa chạm vào thân cung, ánh sáng xanh lập tức tắt ngấm.

Cầm cây cung trong tay, hắn phát hiện những vết rỉ sét loang lổ đã được gột sạch, cây cung sắt nay lại sáng bóng như mới. Thôi Tuần dùng ngón tay thon dài chậm rãi vuốt dọc thân cung, ánh sáng phản chiếu lên gương mặt tái nhợt của hắn, đôi mắt trong đó lại hiện lên một tia hoang mang hiếm thấy.

Ngay khoảnh khắc này, những lời lẽ lạnh nhạt của bá phụ đã bị hắn quên sạch. Hắn siết chặt cây cung, thân cung lạnh lẽo tựa băng giá khiến hắn khôi phục chút tỉnh táo. Hắn bước đến trước bệ sư tử đá, cúi nhìn mặt đá xanh bên dưới, nơi có vết bùn mới hằn từ bánh xe ngựa.

Trên phiến đá xanh, có tổng cộng mười sáu dấu móng ngựa – là xe tứ mã.



Trong phường Bình Khang, Lý Doanh vẫn đang chăm chú lắng nghe cuộc đối thoại giữa Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết. Hai người nhắc đến việc a nương của nàng từng muốn giết nàng. Nàng cứ nghĩ họ phải có chứng cứ gì rõ ràng, nhưng nghe qua nghe lại, ngoài những lời lăng mạ và chế giễu thì chẳng có lấy một chứng cứ xác thực.

Hóa ra, đó chỉ là phỏng đoán của họ mà thôi.

Lý Doanh thầm thở phào nhẹ nhõm, Bùi Quan Nhạc lại cất lời: “Có lúc, ta thực sự không hiểu nổi Thái hậu đang nghĩ gì. Nếu nói bà ta để tâm đến công chúa Vĩnh An, vậy tại sao lại biết chúng ta phá hủy lăng mộ công chúa mà không truy cứu? Còn nếu nói bà ta không để tâm, thì vì sao lại liên tiếp bãi chức Giả Phương, Lưu Viễn? Động thái này, chẳng khác nào đang xả giận.”

“Chỉ là làm bộ làm tịch mà thôi.” Thẩm Khuyết cười nhạt. “Một kẻ đã nhẫn tâm giết cả con gái mình, thì sao còn để tâm đến con gái?”

Bùi Quan Nhạc không đồng tình, ông ta nhấp một ngụm rượu đỏ như máu, khẽ lắc đầu, trông đầy vẻ hoài nghi khó hiểu.

Thẩm Khuyết lại chẳng còn kiên nhẫn để suy đoán: “Quan tâm mụ già ấy nghĩ gì làm gì chứ? Bao năm qua, chúng ta đã đoán tâm tư bà ta đủ rồi. Hừ, chẳng mấy chốc nữa, chúng ta sẽ không cần phải đoán nữa.”

Lý Doanh nghe đến đây, định nghiêng người chăm chú nghe thêm, thì chợt nghe tiếng nói vang lên từ hành lang dài: “Đạo trưởng, Thẩm tướng quân hiện đang ở trong gian phòng này, xin ngài đợi chút, để mỗ đi thông báo.”

Đạo trưởng? Là một đạo sĩ sao?

Trong lòng Lý Doanh thoáng sợ hãi. Nếu để đạo sĩ ấy gặp nàng, chắc chắn sẽ cho rằng nàng là yêu tà mà thu phục. Nàng liếc nhìn vào trong, nơi hai bóng người Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc còn đang đối thoại, rồi cắn răng, xoay người chạy khỏi.

Trong bóng đêm, Lý Doanh vừa vội vã chạy trốn, vừa không ngừng ngoái đầu nhìn lại. Đến khi chắc chắn rằng đạo sĩ kia không đuổi theo, nàng mới thở phào nhẹ nhõm, dừng bước, định nghỉ ngơi một chút.

Nhưng vừa mới đứng lại, cổ tay nàng bất chợt bị một người giữ chặt. Còn chưa kịp kêu lên, nàng đã bị kẻ đó kéo vào một con ngõ nhỏ.

Lý Doanh sợ hãi ngẩng đầu, hóa ra là Thôi Tuần.

Nàng lập tức an tâm: “Thôi Tuần, ngài làm ta sợ muốn chết.”

Thôi Tuần mím chặt môi, ánh mắt hiện rõ vài phần tức giận: “Cô đã đi đâu? Có biết là rất nguy hiểm không?”

Thôi Tuần xưa nay vui buồn không lộ ra ngoài, hiếm khi nào bộc lộ cảm xúc. Vậy mà lúc này, ngay cả giọng nói cũng mang theo chút bực bội. Dưới ánh trăng, Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn, đôi mắt hắn sâu thẳm, nhưng nàng không hề sợ, ngược lại còn bất giác bật cười, nói: “Thôi Tuần, ngài… lo lắng cho ta sao?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 38: Tâm kính lưu ly


Rõ ràng Thôi Tuần đã sững lại.

Gương mặt ngẩng cao của Lý Doanh trắng ngần như tuyết, đôi mắt long lanh sáng rực. Nàng khẽ mỉm cười, lặp lại câu hỏi: “Thôi Tuần, ngài lo lắng cho ta sao?”

Thôi Tuần lúc này mới hoàn hồn. Hắn buông tay khỏi cổ tay nàng, lùi lại hai bước, ánh mắt trở lại vẻ điềm tĩnh, không chút gợn sóng. Hắn không trả lời câu hỏi của nàng, chỉ nói: “Bên cạnh Bùi Quan Nhạc có rất nhiều đạo sĩ và hòa thượng. Cô đi theo ông ta, chẳng phải muốn chết thêm lần nữa hay sao?”

Nghe hắn nói vậy, trong lòng Lý Doanh không có chút hụt hẫng nào. Nàng cũng không tiếp tục truy hỏi, chỉ mỉm cười dịu dàng nhìn hắn, nói: “Được rồi, lần sau ta sẽ không như vậy nữa. Ngài đừng giận.”

Thôi Tuần lại ngẩn ra một lúc. Hắn thấp giọng đáp: “Ta không giận.”

Nhưng câu nói tiếp theo, dù thế nào hắn cũng không thể thốt ra. Hắn thở dài, đổi chủ đề: “Cô đi theo Bùi Quan Nhạc, có phát hiện gì không?”

“Có.” Lý Doanh trả lời: “Lăng mộ của ta bị phá hoại, quả nhiên là do bọn chúng.”

“Chuyện nằm trong dự liệu.”

“Còn một phát hiện khác.”

“Phát hiện gì?”

Ánh mắt Lý Doanh dừng lại trên chiếc cung cũ trong tay Thôi Tuần, rồi nhìn đến cổ tay lộ ra ngoài ống tay áo của hắn. Cổ tay ấy rất đẹp, trắng lạnh như ngọc, ngón tay cũng thon dài, sạch sẽ, vô cùng thanh thoát. Một bàn tay đẹp như vậy, thế mà ngay đến cây cung cũ của mình cũng không kéo nổi.

Lý Doanh ngẩng đầu. Nàng không nhắc đến chuyện Bùi Quan Nhạc nói rằng Thôi Tuần từng bị giam ở Đại Lý Tự, mà chỉ nói: “Bùi Quan Nhạc nói, Ngự sử Giả Phương từng dâng tấu vạch tội ngài đã bị a nương bãi quan, mấy kẻ bên phe ông ta cũng vậy. Ông ta nghĩ rằng, a nương làm thế là vì muốn xả giận.”

Nghe xong, Thôi Tuần thoáng trầm ngâm. Lý Doanh mỉm cười: “Ngài từng nói, vì muốn ngăn ngài tiếp tục điều tra nên a nương đã không truy cứu chuyện ai là kẻ phá hoại lăng mộ ta. Nhưng thực ra, a nương đã xử lý xong rồi.”

Khóe môi nàng cong lên, nụ cười như những đóa hoa đầu xuân, tươi sáng và rạng rỡ. Nàng rất dễ cảm thấy vui vẻ vì một điều nhỏ nhặt. Vì vậy, khi biết a nương không bỏ mặc mình, nàng thực lòng cảm thấy hạnh phúc. Đó là niềm vui khi tình yêu được đáp lại. Nàng biết, a nương chưa bao giờ quên mình.

Thôi Tuần nhìn vào nụ cười của nàng, nhưng trong lòng vẫn còn chút nghi hoặc. Phải chăng cơn giận dữ của Thái hậu không chỉ vì hắn điều tra được những người bên cạnh bà? Nhưng đối diện với ánh mắt long lanh của Lý Doanh, hắn không nói ra được những nghi ngờ trong lòng.

Thôi Tuần quay mặt đi, nhìn ánh trăng trong trẻo chiếu lên phiến đá xanh ngoài con ngõ: “Ừ, do ta tiểu nhân, hẹp hòi suy đoán.”

Lý Doanh hơi sững người, sau đó khẽ nói: “Ngài không phải là kẻ tiểu nhân.”

Câu “tiểu nhân thấp kém” mà hắn đã nghe không biết bao nhiêu lần, giờ đây được nàng bác bỏ, khiến hắn cảm thấy có chút mới mẻ: “Ồ? Không phải tiểu nhân, vậy là gì?”

Lý Doanh thực sự nghiêm túc suy nghĩ câu hỏi của hắn. Người tốt? Hắn không phải. Người xấu? Không, nàng cảm thấy hắn cũng không phải. Vậy là gì nhỉ?

Nghĩ một lúc lâu, nàng nói: “Ngài là… một kẻ si tình.”

Lần này đến lượt Thôi Tuần ngạc nhiên: “Tại sao lại nói vậy?”

“Chấp niệm là si mê. Ngài chấp nhất với một ý niệm, kẹt lại trong một ý niệm. Chẳng phải là kẻ si tình sao?”

Thôi Tuần chậm rãi nghiền ngẫm lời nàng, một lúc lâu sau, hắn mỉm cười, nói: “Chấp nhất với sống, với chết, với sáng, với diệt. Không sửa được rồi.”

Lý Doanh không khuyên hắn buông bỏ chấp niệm, chỉ lặng lẽ nhìn hắn. Ánh mắt nàng dịu dàng như ánh trăng sáng ngời.

Thôi Tuần bỗng hỏi: “Vậy công chúa cảm thấy mình là người thế nào?”

“Ta à?” Lý Doanh đáp: “Ta là người không có chí lớn gì cả, cũng không có lý tưởng vĩ đại. Ta chỉ hy vọng những người ta yêu thương được bình an, thuận lợi. Chỉ vậy thôi.”

Thôi Tuần đưa ngón tay chạm nhẹ lên thân cung cong vút trong tay mình. Trước đây, chiếc cung này đầy vết han gỉ, nhưng giờ đây đã bóng loáng như cũ. Hắn lắc đầu, nhàn nhạt nói: “Đức Phật Dược Sư có dạy rằng: Khi đắc Bồ Đề, thân như lưu ly, tinh sạch hoàn toàn, không chút vẩn đục. Bởi vậy, ta cảm thấy, công chúa là một người có trái tim lưu ly.” [1]

<i>[1] Đức Phật Dược Sư là vị Phật thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian. Còn gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Dược Sư Như Lai, Dược Sư Lưu Ly Như Lai, Đại Y Vương Phật. Bản nguyện của ngài là “cứu tất cả bệnh khổ cho chúng sinh” cho nên còn có tên Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Quốc độ của Ngài là cõi Tịnh Lưu Ly nằm ở phương Đông.</i>

Ngài có thể chữa trị hết tất cả bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 39: Đường phấn ở Phúc Mãn Đường, là loại nổi danh nhất ở Trường An


Thôi Tuần còn chưa kịp đáp, Lý Doanh đã nước mắt lưng tròng, nghẹn ngào nói: “Chắc chắn ngài sẽ bảo là không đau, nhưng ngài cũng là con người, làm sao mà không đau được?”

Vết thương sau lưng của Thôi Tuần đã nhuộm đỏ lớp trung y, sắc mặt như ngọc nhuộm ánh tà dương giờ đây vì mất máu mà trở nên tái nhợt. Hàng mày vì đau đớn mà hơi nhíu lại, hắn cố gắng kìm nén, lồng ng.ực phập phồng nhẹ, nhưng đôi mắt lạnh lùng như sương tuyết ấy lại thoáng hiện một tia rung động.

Suốt sáu năm qua, hắn bước ra từ núi thây biển máu, dẫm lên Tu La đạo, làm những việc quỷ dữ, tính toán với người, cũng toan tính với mình. Trên thân thể đầy rẫy vết thương cũ chồng lên vết thương mới, nhiều đến không thể đếm xuể. Chưa từng có ai hỏi hắn, đau không.

Hắn cũng chưa từng hỏi chính mình: “Có đau không?”

Bởi ác quỷ trên Tu La đạo, vốn không biết đau.

Thế nhưng khi thiếu nữ mỹ lệ vừa khóc vừa hỏi hắn, liệu có đau hay không, hắn mới sững sờ nhận ra, hóa ra, hắn vẫn là con người, chứ không phải là quỷ.

Hắn lặng lẽ nhìn Lý Doanh. Cửa sổ và cửa phòng đều đóng kín, ánh sáng lờ mờ. Ánh nến cháy dở hắt lên gương mặt đẫm lệ của nàng, phủ lên đường nét mềm mại một lớp ánh sáng dịu dàng. Thôi Tuần bất giác nhớ đến ánh trăng trong trẻo như lưu ly rải trên phiến đá xanh đêm qua.

Đêm lặng gió yên, trở về chỉ thấy, một dòng trăng sáng, xanh trong như ngọc.

Yết hầu hắn khẽ động, ba chữ gần như thoát ra: “Minh Nguyệt Châu.”

Nhưng rồi ba chữ ấy cuối cùng hắn vẫn không nói ra được.

Hắn chợt thở dài một hơi, cài lại trung y. Lý Doanh lúc này đã khóc nấc lên từng hồi. Thôi Tuần cầm lấy một chiếc khăn trên bàn gỗ tử đàn, đưa cho nàng.

Nàng lại hất tay hắn ra.

Hắn nhẹ giọng hỏi: “Giận rồi sao?”

Lý Doanh gật đầu, nghẹn ngào nói: “Ta giận ngài, giận chính mình, ta giận tất cả mọi thứ.”

Đôi mắt nàng vì khóc mà đỏ hoe. Thôi Tuần nhìn nàng, khẽ cười, chậm rãi nói: “Đi từ cổng Đan Phượng trở về phường Tuyên Dương, sẽ ngang qua một tiệm bánh gọi là Phúc Mãn Đường.”

Lý Doanh ngừng khóc, ngẩng đầu nhìn hắn đầy nghi hoặc, vai vẫn không ngừng run lên. Đầu mũi nàng còn vương một giọt lệ lấp lánh.

Hắn nói tiếp: “Đường phấn ở Phúc Mãn Đường, là loại nổi danh nhất ở Trường An.”

“Đường phấn…” Nàng khẽ lặp lại.

Thôi Tuần chống tay xuống đất, gắng sức đứng dậy. Hắn khoác lên mình chiếc lam sam, nói như không: “Trên đường về, ta sẽ mua cho cô.”

Lý Doanh ngẩn người, nhìn theo bóng lưng hắn cho đến khi hắn rời khỏi phòng, cánh cửa gỗ đóng lại, thân ảnh khuất dần khỏi tầm mắt nàng. Chợt nhớ ra điều gì đó, nàng vội lục lọi trong túi gấm ngũ sắc đeo bên hông, lấy ra một viên đường phấn màu hổ phách.



Trong điện Bồng Lai, lò hương hình đầu chim phượng không còn đốt loại hương giải đau đầu, mà thay bằng bạch đàn hương an thần.

Sau lớp rèm châu, sắc mặt của Thái hậu đã khá hơn trước. Bà lãnh đạm nhìn Thôi Tuần đang quỳ dưới sàn gỗ mun, ánh mắt lướt qua chiếc áo dài nhuốm máu sau lưng hắn. Nửa nén hương trôi qua, bà mới cất lời: “Đứng lên đi.”

Trán Thôi Tuần đã rịn đầy mồ hôi lạnh, hắn cắn răng đáp: “Tạ Thái hậu.”

Hắn gắng gượng đứng lên, nhưng đầu gối đau buốt như vạn mũi kim châm, đôi chân lảo đảo, thân mình loạng choạng mới miễn cưỡng đứng vững.

Thái hậu vẫn lạnh lùng như cũ, hờ hững nói: “Vết thương còn chưa lành, ngươi đã dám đi điều tra án miêu quỷ ở Quỷ thị. Thôi Tuần, có phải ngô nên khen ngươi một câu trung thành tận tụy không?”

Sắc mặt Thôi Tuần tái nhợt, lưng và đầu gối đau đến cùng cực, mồ hôi lạnh không ngừng rơi. Đôi mày thanh tú vì cơn đau mà càng thêm tiều tụy. Hắn cúi đầu nói: “Mạng thần là do Thái hậu cứu, đương nhiên phải tận trung.”

“Ồ?” Thái hậu bật cười lạnh: “Ngô chưa từng nhìn ra điều đó.”

Thôi Tuần nghe vậy, mím môi, rồi quỳ rạp xuống, đầu cúi thấp: “Tự ý điều tra người bên cạnh Thái hậu là lỗi của thần. Thần không còn lời nào biện giải, xin Thái hậu tùy ý xử trí.”

“Ngô đã xử trí ngươi rồi.” Thái hậu nhìn bóng dáng đẫm máu ngoài bên ngoài bức rèm châu, thản nhiên nói: “Hôm nay ngô chỉ muốn nghe xem, rốt cuộc ngươi nghĩ gì.”

Thôi Tuần nghiến răng cúi đầu, đôi tay chống đỡ cơ thể đã bắt đầu run rẩy nhẹ, một lúc sau, hắn mới lên tiếng: “Sáu năm trước, quân Thiên Uy ở Lạc Nhạn Lĩnh bị diệt toàn quân, Quách soái vì giữ gìn danh tiết, đã tự vẫn mà chết. Các tướng sĩ quân Thiên Uy còn lại, tất cả đều chiến đấu đến chết.”

Hắn nói đến đây, giọng nói cũng không tránh khỏi sự run rẩy. Thái hậu im lặng, không đáp lời. Thôi Tuần lại quỳ gối dập đầu: “Thần coi Quách soái như phụ thân, coi quân Thiên Uy như huynh đệ. Thần, chỉ mong có thể làm rõ sự trong sạch cho họ.”

Ánh mắt hắn hơi ướt, cổ họng nghẹn lại, không thể nói tiếp, chỉ dập đầu thật mạnh. Thái hậu vẫn không nói gì, mãi lâu sau, bà mới lên tiếng: “Thôi Tuần, khi ta cứu ngươi ra từ ngục Đại Lý Tự, đã từng nói qua, án Thiên Uy quân đã có đủ chứng cứ xác thực, huống chi sáu châu Quan Nội vẫn còn dưới vó ngựa sắt của Đột Quyết, nỗi nhục này như dao cứa vào lòng, khiến dân chúng phẫn uất không thôi. Họ cần một nơi để xả giận. Ai muốn lật lại án của Thiên Uy quân, chắc chắn sẽ trở thành đối tượng để người đời chỉ trích. Cho nên, án này không thể lật lại được. Sao ngươi cứ bướng bỉnh thế này?”

Mồ hôi lạnh đã thấm đẫm áo Thôi Tuần, mỗi lần động đậy, là nỗi đau đớn như cắt vào xương thịt, mắt hắn mờ đi, lẩm bẩm: “Thần chỉ cảm thấy, họ không nên chịu kết cục này.”

Thái hậu đứng sau rèm châu, nhìn bóng dáng gầy guộc của hắn, bà im lặng hồi lâu, đến khi hương trầm tàn đi, mới cất tiếng: “Vậy ngươi định mượn chuyện Minh Nguyệt Châu để uy h**p ngô, giúp Thiên Uy quân lật lại án sao?”

Người Thôi Tuần ướt sũng mồ hôi lạnh, từng nhịp hô hấp nghe thấy tiếng rít nhẹ, tựa hồ đang cố gắng kìm nén cơn đau. “Thần làm phiền công chúa, khiến người không được yên nghỉ, tội đáng muôn chết. Nhưng trong cơn ác mộng, thần vẫn luôn thấy trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh, vì thế mới làm bừa, xin Thái hậu ban tội.”

Thái hậu vẫn đang cầm chiếc túi thơm bằng vàng hoa văn bồ đào hoa điểu chạm rỗng mà Lý Doanh dâng tặng. Nhìn bóng dáng run rẩy của Thôi Tuần, ánh mắt bà thoáng qua một tia thương hại. Bà nắm chặt chiếc túi thơm, từng lời, từng chữ đều nghiêm nghị: “Thôi Tuần, không được phép động vào Minh Nguyệt Châu nữa.”

Thôi Tuần quỳ rạp trên đất, từng giọt mồ hôi lạnh rơi xuống mặt sàn gỗ đen bóng. Thái hậu lại nói: “Không được phép có lần thứ hai.”

Một câu này khiến Thôi Tuần hiểu rằng hắn đã an toàn vượt qua chuyện này. Hắn dập đầu xuống đất: “Tạ Thái hậu.”

“Ngô cho ngươi toàn quyền phụ trách vụ án miêu quỷ. Vương công quý tộc, nếu cần, đều có thể bắt trước xét sau, không cần bẩm báo với ngô.”

“Vâng.”

“Các vật quý hiếm trong cung không thể dễ dàng bị đánh cắp.” Đôi mắt Thái hậu thoáng lộ một nỗi bi ai, dường như không thể hóa giải: “Đi đi, tìm hiểu rõ ràng, ai muốn hại ngô, hy vọng đó không phải là hắn…”

Thôi Tuần mím môi, cúi đầu khấu tạ: “Thần tuân lệnh.”



Sau khi Thôi Tuần vào cung, Lý Doanh vẫn ngồi lâu lắm mới dần ngừng nức nở. Nàng cầm viên đường trong tay, ngọt ngào của đường thấm vào miệng, phần nào xoa dịu nỗi buồn trong lòng, nhưng khi nhìn thấy con dao găm dính đầy máu trên bàn tử đàn, lòng nàng vẫn không thể ngừng dâng lên cảm giác tủi thân. Sao hắn lại không yêu thương bản thân mình như vậy, nàng cũng không muốn quan tâm nữa.

Hắn nói muốn mua đường phấn cho nàng, nhưng nàng không thèm ăn thứ đường của hắn. Nàng không muốn quản hắn nữa.

Viên đường tan dần trong miệng. Lý Doanh lau nước mắt, đứng dậy trở về thư phòng. Khi Vương Nhiên Tê bị thương, nàng từng ở lại thư phòng của Thôi Tuần để tiện chăm sóc. Đến khi Thôi Tuần bị thương, nàng lại dọn về thư phòng, vẫn là để chăm lo cho hắn. Từ ngày nàng chuyển vào, Thôi Tuần dọn hết đồ đạc sang phòng ngủ, kể cả kệ sách gỗ mun chất đầy bí mật. Vì vậy, thư phòng giờ đây giống như một góc nhỏ của riêng nàng.

Lý Doanh quỳ xuống trước cầm án, trên bàn là một bình hải đường đã được cắm ngay ngắn. Ánh nắng xuyên qua cửa sổ gỗ, chiếu lên những đóa hoa màu hồng nhạt. Nhìn cảnh sắc ấm áp ấy, tâm trạng nàng dường như cũng khá lên.

Nàng nhẹ nhàng v.uốt ve nh.ụ.y hoa, nhưng ánh mắt không tự chủ lại nhìn ra ngoài cửa. Thôi Tuần vào cung đã gần một canh giờ, không biết khi nào hắn mới về?

Ý nghĩ ấy vừa thoáng qua, nàng liền giật mình. Chẳng phải nàng đã nói là không muốn quan tâm đến hắn nữa sao? Vậy thì còn để ý hắn làm gì?

Nàng hờn giận lắc đầu, thầm nghĩ sẽ không để tâm đến hắn nữa, cũng không thèm chăm sóc hắn. Hắn muốn làm khổ bản thân thì cứ làm đi, dù sao đau đớn cũng chẳng phải nàng chịu.

Nói thì nói vậy, nhưng khi nghe tiếng bước chân ngoài cửa, nàng vẫn không kiềm được mà đứng dậy, bước ra đón.

Nhưng người tới không phải là Thôi Tuần, mà là một người bán hoa từ Trường An.

Lão bộc câm đi cùng người bán hoa. Người bán hoa cầm một giỏ đầy hoa vàng nhạt mới hái. Hắn liên tục xin lỗi lão bộc câm: “Xin lỗi, những ngày qua trong nhà có chuyện, không kịp mang hoa đến.”

Lão bộc câm cũng không tức giận, nhận lấy giỏ hoa, chỉ vào cây hoa hải đường trong vườn, ra hiệu bằng tay. Người bán hoa cười nói: “Lão ông đã cắt cành hoa hải đường rồi sao, hoa hải đường trong phòng cũng thật đẹp.”

Lão bộc câm gật đầu, người bán hoa nói: “Nhưng hoa hải đường chỉ nở vào mùa xuân, nếu muốn có hoa quanh năm thì phải mua thêm những cành hoa khác.”

Lão bộc câm đưa mấy đồng xu cho người bán hoa, người bán hoa nhận lấy, tò mò hỏi: “Nhưng này, sao Thôi Thiếu khanh lại đột nhiên thích hoa thế? Trước giờ chưa từng nghe nói ngài ấy nhờ ai mang hoa đến.”

Lão bộc câm lắc đầu, người bán hoa lại hỏi: “Thôi Thiếu khanh không thích hoa sao?”

Lão bộc câm gật đầu, người bán hoa khó hiểu: “Không thích hoa sao lại mua hoa?”

Nhưng lão bộc câm không giải thích thêm, chỉ lịch sự tiễn người bán hoa đi, tự mình mang giỏ hoa vào vườn.

Trong vườn, Lý Doanh nhìn theo bóng người bán hoa, hắn không hiểu, nhưng nàng lại hiểu rất rõ.

Khi nàng bị thương ở phòng sách, mỗi ngày đều có hoa tươi, có khi là hoa nghênh xuân, có khi là hoa đỗ quyên, có khi là hoa mộc lan trắng. Nhưng trong viện của Thôi Tuần chỉ trồng hải đường, mà mấy cây hải đường ấy khi đó vẫn chưa nở hoa.

Hắn không thích hoa, ngay cả trong phòng ngủ cũng chưa từng đặt hoa tươi. Vậy thì những hoa tươi này là để dành cho ai, không cần nói ra cũng hiểu.

Một bông hoa nghênh xuân màu vàng nhạt từ giỏ hoa rơi ra, lão bộc câm không phát hiện, tiếp tục bước đi, phía sau, Lý Doanh cúi xuống nhặt bông hoa vàng nhạt ấy.

Hoa nghênh xuân màu vàng nhạt, nhỏ nhắn mà xinh đẹp, Lý Doanh cầm hoa, đưa nh.ụ.y hoa lên ngửi, hương thơm thanh nhã, nàng cầm bông hoa, mắt cũng không tự chủ được, lại nhìn ra cửa.



Mãi cho đến khi hoàng hôn, Thôi Tuần mới từ cung Đại Minh trở về phường Tuyên Dương. Hắn ngồi thẳng trên xe ngựa, lưng bị thương, vết thương rách toác, máu đông dính vào áo, mỗi khi cử động là cơn đau lại dâng lên, như muốn xuyên thủng tâm can. Hắn nhắm mắt lại, vẻ mặt bình thản, nhưng sắc diện tái nhợt vẫn không thể giấu nổi sự đau đớn tột cùng.

Khi xe ngựa gần đến cửa Thôi phủ, hắn rời xe, bảo người đánh xe quay về Sát Sự Thính, còn bản thân thì bước xuống, đi bộ trên đường. Cơn gió mát thoảng qua, đầu óc vốn đang choáng váng vì cơn đau cũng dần tỉnh táo lại. Hắn chậm rãi suy nghĩ về vụ án miêu quỷ. Thái hậu nói không sai, cung cấm nghiêm ngặt, một bộ địch y chắc chắn không thể tự biến mất, hẳn nhiên, phải có kẻ trộm đi.

Mà kẻ này, ắt hẳn phải là người có thân phận không tầm thường, nếu không sao có thể lẻn vào nơi phòng thủ nghiêm ngặt trong cung, lấy đi y phục cũ của Thái hậu?

Nhưng kẻ đó, làm sao biết được nơi của Tưởng Lương?

Thôi Tuần tiếp tục suy nghĩ, không hay biết, mình đã bước đến trước cửa Thôi phủ. Bên ngoài, không một bóng người, nơi đây vốn dĩ luôn vắng vẻ, ai ai cũng tránh xa, Thôi Tuần đã quen với điều đó.

Tuy nhiên, bước chân của hắn bỗng nhiên dừng lại.

Trên bậc thềm, có một thiếu nữ thanh tú đang ngồi chờ.

Thiếu nữ nhìn thấy hắn, ngẩng đầu lên, mỉm cười rạng rỡ: “Thôi Tuần, ngài đã về rồi sao?”

Nàng ngừng lại một lát, rồi tiếp lời: “Ta chờ… túi đường phấn của ngài.”
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom