Ngôn Tình Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 40: Dẫu nàng đã mất bao năm, thì vẫn là bạn của ta


Món đường phấn của Phúc Mãn Đường quả thật rất ngon.

Tối hôm ấy, Lý Doanh nằm bò trên án kỷ, cằm tựa lên cánh tay, nghiêng đầu ngắm bình ngọc hồ xuân được cắm đầy những cành hoa nghênh xuân màu vàng nhạt. Nàng ngậm một viên đường phấn, hương vị ngọt ngào dần tan chảy trong khoang miệng, hòa quyện với mùi hương thanh thoát phảng phất từ những cánh hoa nghênh xuân. Lý Doanh cứ nằm nghiêng như thế, ánh mắt lưu luyến dõi theo từng cánh hoa bung nở rực rỡ, cho đến khi chìm vào giấc ngủ sâu từ lúc nào chẳng hay.

Sau ba nghìn tiếng trống báo hiệu bình minh, Trường An lại bước sang một ngày mới.

Từ sáng sớm Thôi Tuần đã đến Sát Sự Thính. Bộ địch y xanh thẫm thêu mười hai chương văn, lẽ ra phải được cất giữ tại cục Thượng Y, nhưng nay đột nhiên bị đánh cắp. Trong cung, ắt có nội ứng.

Khi Thôi Tuần hạ lệnh truy bắt những kẻ khả nghi trong cục Thượng Y, ngày hôm đó nữ sử phụ trách việc trông coi khố phòng lại bất ngờ tự sát để trốn tội. Manh mối vì vậy mà đứt đoạn. Tuy vậy, từ những gì thu thập được, Thôi Tuần càng khẳng định rằng: chuyện miêu quỷ tuyệt đối không phải chỉ một mình Tưởng Lương bày mưu tính kế, đằng sau nhất định còn có kẻ khác.

Muốn làm rõ mọi chuyện, có lẽ cần phải bắt đầu từ khởi nguồn là Vãn Hương, người từng là đối thực của Tưởng Lương.

Cách đây hai mươi chín năm, Vãn Hương đã bị Thái hậu đánh chết bằng trượng, thi thể chôn ở bãi tha ma giữa thành. Vài ngày nữa sẽ là tiết Hàn Thực, mà theo tục lệ, sau tiết này Quỷ Môn quan sẽ đóng lại. Triều Đại Chu quy định tiết Hàn Thực là ngày lễ tảo mộ, tránh chuyện vàng mã không kịp gửi đến âm phủ.

Vì thế, Thôi Tuần hạ lệnh cho vũ hầu Sát Sự Thính canh giữ suốt đêm bên mộ Vãn Hương tại bãi tha ma. Đến ngày Hàn Thực, quả nhiên có người đến tế bái nàng, nhưng không phải là Tưởng Lương, mà lại là một phụ nữ trung niên khoảng năm mươi tuổi.

Phụ nhân này bị bắt đưa về Sát Sự Thính. Thôi Tuần nghe tin, định lên xe ngựa tới đó thì Lý Doanh lên tiếng: “Ta cũng muốn đi.”

Nàng nói: “Chuyện miêu quỷ có liên quan đến sự an nguy của a nương ta, ta muốn tự mình tìm hiểu rõ ràng.”

Thôi Tuần gật đầu: “Vậy thì cùng đi.”



Đây là lần thứ ba Lý Doanh bước vào Sát Sự Thính. Lần đầu tiên, khi Thôi Tuần tra khảo Vương Lương để hù dọa nàng. Lần thứ hai, Vương Nhiên Tê thú nhận quá trình sát hại nàng. Nhưng thực tế, Vương Nhiên Tê không giết nàng, tất cả chỉ là lời cung khai giả do Thôi Tuần ép buộc. Hai lần ấy đều để lại ấn tượng không mấy dễ chịu, nên khi nhảy xuống xe ngựa, nhìn cánh cửa u ám của Sát Sự Thính, Lý Doanh không khỏi do dự.

Dường như nhận ra sự chần chừ của nàng, Thôi Tuần khi lướt qua bên cạnh, đã nói: “Không sao đâu.”

Lời ấy như trấn an lòng nàng. Lý Doanh mỉm cười nhẹ, đáp “Ừm”, rồi theo sau Thôi Tuần, chuẩn bị bước vào.

Nhưng chưa kịp bước qua bậc thềm, nàng đã trông thấy một đứa trẻ chừng bốn tuổi đang ngồi trên bậc đá trước cổng chính của Sát Sự Thính.

Thôi Tuần thoáng cau mày, vũ hầu dẫn đường phía trước chợt dừng bước, quay lại nhận lỗi: “Thiếu khanh, đây là cháu trai của Nghiêm Tam nương.”

“Nghiêm Tam nương?”

“Chính là phụ nhân đến tế bái Vãn Hương.” Vũ hầu khó xử nói: “Nó cứ đòi ở đây chờ Nghiêm Tam nương, không tài nào đuổi đi được.”

Một đứa trẻ bốn tuổi không chịu đi, họ cũng không thể đánh nó, nếu không, Sát Sự Thính sẽ trở thành cái gai trong mắt dân chúng ở Trường An.

Thôi Tuần thản nhiên nói: “Đừng để ý đến nó.”

Vũ hầu vâng lệnh. Bậc thang đá trước cổng chính của Sát Sự Thính cao mười tám bậc, giống như ở Đại Lý Tự. Phía đông cổng là trống kêu oan, phía tây là chiêng khai đạo. Cổng chính thường ngày đóng kín, chỉ mở khi Thiếu Khanh hoặc quan viên cấp cao đến. Còn lại mọi người đều ra vào bằng cửa phụ.

Khi Thôi Tuần vén tà áo quan phục, bước lên bậc thang, đứa trẻ cũng đứng dậy. Nó không khóc, không gào, chỉ mở to đôi mắt non nớt, hỏi: “Khi nào các người thả a bà?”

Đứa trẻ này thật thông minh, chỉ liếc mắt đã nhận ra Thôi Tuần là người đứng đầu Sát Sự Thính, nên hỏi thẳng hắn. Thôi Tuần không đáp, nó lại chắn trước mặt hắn, hỏi lần nữa, không sợ hãi: “Khi nào các người thả a bà?”

Vũ hầu giận dữ, nhưng Thôi Tuần chỉ xua tay, bình thản nói: “Nếu bà ta không phạm tội, chúng ta sẽ thả.”

Đứa trẻ nghe vậy, liền nói: “A bà không làm gì sai cả.”

Nói xong, nó tự động nhường đường. Thôi Tuần có chút ngạc nhiên trước sự lễ độ của đứa trẻ, dừng lại quan sát nó một lát, rồi mới bước lên bậc thang, định vào cổng chính. Lý Doanh theo sát hắn, nhưng khi vừa bước lên, tà áo của nàng bất ngờ bị đứa trẻ níu lại.

Nó ngẩng đầu nhìn nàng, ánh mắt đầy khẩn cầu. Lý Doanh sững sờ. Đứa trẻ này… có thể nhìn thấy nàng sao?

Nhưng nghĩ lại, người ta thường nói trẻ dưới sáu tuổi tâm linh thuần tịnh, có thể nhìn thấu vạn vật. Bởi vậy, việc đứa trẻ này trông thấy nàng, cũng chẳng lấy gì làm lạ.

Nhìn khuôn mặt non nớt đầy vẻ bơ vơ, Lý Doanh không khỏi mềm lòng. Đúng lúc ấy, Thôi Tuần cũng quay đầu lại. Vũ hầu dẫn đường nhìn thấy Thôi Tuần dừng bước, cũng quay lại theo, nhưng y chỉ thấy đứa trẻ ngẩng mặt nhìn về hướng Thôi Tuần, như đang cầu xin, liền giật mình lo lắng, sợ Thôi Tuần nổi giận.

Khi vũ hầu định quát mắng đứa trẻ, Lý Doanh lên tiếng trước: “Thôi Tuần, ngài vào trước đi.”

Thôi Tuần nhìn đứa trẻ thông minh này, sau một thoáng trầm ngâm, hắn gật đầu: “Ừ.”

Rồi theo vũ hầu bước vào Sát Sự Thính.

Nghiêm Tam nương bị giam trong ngục phòng. Trước khi bước vào, vũ hầu bẩm báo với Thôi Tuần: “Thiếu khanh, thuộc hạ đã điều tra. Phụ nhân này tên gọi Nghiêm Tam nương, từng là cung nữ hầu cận trong cung của Trịnh Hoàng hậu. Sau huyết án Thái Xương, bà ta bị trục xuất khỏi cung, gả chồng, sinh được một đứa con trai. Mấy năm trước, chồng và con trai đều qua đời, chỉ còn lại một đứa cháu trai bốn tuổi.”

Thôi Tuần gật đầu, ánh mắt lướt qua song sắt nhìn vào bên trong. Nghiêm Tam nương đang bị xiềng xích trói buộc, dáng vẻ tiều tụy. Bà trông già hơn tuổi thực rất nhiều, hai bên tóc mai gần như bạc trắng, khuôn mặt đầy những nếp nhăn hằn sâu, đôi tay thô ráp, y phục cũ kỹ đơn sơ. Rõ ràng, suốt hai mươi chín năm qua, bà đã sống trong cảnh cơ cực.

Thôi Tuần lặng lẽ quan sát một hồi. Mặc dù trong Sát Sự Thính khắp nơi đều đốt than hồng, nhưng khí lạnh từ những hồn ma oán khí vẫn khiến hắn ho khan vài tiếng. Hắn siết chặt áo choàng lông hạc, đẩy cánh cửa sắt.

Nghiêm Tam nương hoảng hốt quay đầu, nhìn thấy Thôi Tuần trong quan phục màu đỏ thẫm thì lập tức quỳ sụp xuống, dập đầu liên hồi: “Thôi Thiếu khanh, ta không làm gì cả, xin ngài thả ta ra!”

Thôi Tuần cúi mắt nhìn xuống, giọng điệu lạnh lùng, mang theo khí lạnh khiến người ta run sợ: “Không làm gì sao?”

“Ta… ta…” Nghiêm Tam nương ấp úng: “Ta chỉ… chỉ đốt ít giấy tiền cho một người bạn cũ. Chuyện đó… cũng là tội ư?”

“Người bạn của bà,” giọng Thôi Tuần trầm thấp nhưng sắc lạnh, “không phải người bình thường, mà là tội tỳ bị Thái hậu phạt trượng đến chết.”

Nghe vậy, thân thể Nghiêm Tam nương run rẩy không ngừng. Nhan sắc từng xinh đẹp của bà giờ đây đã bị năm tháng vùi dập, ánh mắt đục ngầu, trông đáng thương và bất lực. Thế nhưng, một người có vẻ ngoài yếu đuối như vậy lại dám cả gan đốt vàng mã cho một tội tỳ đã chết gần ba mươi năm.

Dù toàn thân run rẩy, Nghiêm Tam nương vẫn cố gắng ngẩng đầu, lấy hết dũng khí: “Thôi Thiếu khanh, không có điều luật nào cấm tế bái tội tỳ. Thái hậu cũng chưa từng lên tiếng. Vậy, ta có tội gì?”

Thôi Tuần không giận, ngược lại khẽ cười: “Ta chưa hề trách tội bà. Chỉ là ta thấy lạ. Một người bạn đã chết hai mươi chín năm, bà không tế bái cũng không ai chỉ trích. Vậy tại sao bà lại mạo hiểm tính mạng để đốt mấy tờ giấy tiền cho nàng ta?”

Nghiêm Tam nương cúi đầu đáp: “Ta không đọc sách, không nói được đạo lý lớn lao gì. Ta chỉ biết, Vãn Hương là bạn ta. Dù nàng ấy đã chết bao nhiêu năm, thì vẫn là bạn ta.”

Giọng bà run rẩy vì sợ hãi, nhưng ánh mắt lại ánh lên vẻ kiên định.

Trong thành Trường An, thanh danh của Thôi Tuần và Sát Sự Thính đã quá rõ. Người ta đồn rằng, hắn chính là ác quỷ từ Tu La đạo bò lên. Không, hắn còn đáng sợ hơn cả ác quỷ. Dù là vương công quý tộc hay thứ dân bần hàn, chỉ cần rơi vào tay vị quan tàn nhẫn này, không chết thì cũng tàn phế.

Lúc này, bên tai bà lại vang lên tiếng gào thét đau đớn của phạm nhân ở ngục phòng bên cạnh khi bị tra khảo. Nghiêm Tam nương sợ đến mức run lẩy bẩy, nhưng Thôi Tuần đột nhiên cúi người xuống. Đôi mắt đen thẳm của hắn, tuy trong trẻo như nước hồ thu, lại lạnh lẽo như sương tuyết, chăm chú nhìn bà.

Nghiêm Tam nương hốt hoảng co người lùi lại, nhưng Thôi Tuần vẫn bình thản cúi thấp đầu, chậm rãi tháo bỏ xiềng xích trên tay bà.

Nghiêm Tam nương thoáng sững sờ, Thôi Tuần nhẹ giọng: “Vũ hầu thô lỗ, đã mạo phạm lão bà. Đây là lỗi của mỗ.”

Nghiêm Tam nương ngơ ngẩn hỏi: “Điều này… điều này là vì cớ gì?”

Thôi Tuần không trực tiếp trả lời, chỉ nói: “Mỗ mời bà đến Sát Sự Thính, chỉ để làm rõ một vấn đề.”

Nghiêm Tam nương lúc này mới lấy lại tinh thần, vội vàng hỏi: “Vấn đề… vấn đề gì?”

Ánh mắt Thôi Tuần trầm xuống, ngữ khí lạnh nhạt nhưng lại khiến lòng người căng thẳng: “Vãn Hương, rốt cuộc vì sao mà chết?”



Khi Thôi Tuần ở Sát Sự Thính tra hỏi Nghiêm Tam nương, bên ngoài bậc đá, Lý Doanh đang ngồi cùng cháu trai của bà ta.

Cháu trai của Nghiêm Tam nương tên là Hổ Nô, mập mạp kháu khỉnh, nhưng tính cách lại chẳng giống vẻ ngoài. Hổ Nô bộc lộ trí thông minh từ sớm, dù mới bốn tuổi nhưng lời lẽ rõ ràng, lý lẽ mạch lạc như người lớn.

Hổ Nô ngước đôi mắt long lanh lên nhìn Lý Doanh, nghiêm túc hỏi: “A tỷ, bà của em sẽ không sao chứ?”

Lý Doanh dịu dàng xoa đầu cậu bé, trấn an: “Sẽ không sao đâu.”

“Nhưng mà…” Hổ Nô ngập ngừng, giọng thấp dần, “em nghe nói, Sát Sự Thính, rồi cả người rất xấu trong đó, đều rất đáng sợ. Ai vào đó rồi, sẽ không thể trở ra.”

Lý Doanh mím môi suy nghĩ một lúc, nhẹ giọng nói: “Kẻ xấu mà em nói, đôi lúc quả thực rất đáng sợ. Nhưng cũng có những khi, hắn lại không đến mức như vậy. Nếu bà của em thật sự không làm gì sai, hắn nhất định sẽ thả bà ra.”

“Thật không?”

“Thật mà.” Lý Doanh gật đầu chắc nịch.

Nghe vậy, Hổ Nô thở phào nhẹ nhõm: “A bà của em không làm gì cả. Bà chỉ đốt chút giấy tiền cho một người bạn, thế mà bị họ bắt đi.”

Lý Doanh nhướn mày, tò mò hỏi: “Vậy tại sao bà của em lại đi đốt giấy tiền cho người đó?”

Hổ Nô nghiêng đầu suy nghĩ, rồi ngây thơ đáp: “Em không biết. A bà nói, đó là bạn của bà. Nếu không quan tâm đến họ, họ ở dưới địa phủ sẽ rất đáng thương.”

Lời trẻ thơ đơn thuần mà chân thành, nhưng lại khiến Lý Doanh chợt trầm tư. Nàng nhoẻn cười, nhẹ nhàng nói: “Hổ Nô, ta có một tin tốt muốn nói với em.”

“Tin tốt gì ạ?”

“Kẻ xấu mà em sợ, sẽ không giết bà của em đâu.”

“Tại sao vậy?”

“Vì, hắn cũng có rất nhiều bạn. Trong lòng hắn, cũng có những người mà hắn muốn đốt vài tờ tiền giấy vào tiết Hàn Thực.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 41: Dường như ngài không giống với lời đồn


Trong phòng giam, Thôi Tuần nói với Nghiêm Tam nương: “Chỉ cần bà nói ra những gì bà biết, mỗ sẽ không làm khó bà.”

Ngoài phòng giam, Lý Doanh nói với Hổ Nô: “Chỉ cần a bà của em nói ra những gì bà ấy biết, hắn sẽ không làm khó bà ấy.”



Từ khi xuất cung Nghiêm Tam nương đã chịu đủ gian truân, ít khi được người khác đối đãi tử tế. Nghe vậy, khóe mắt bà bất giác ửng đỏ, nhưng vẫn cẩn thận đáp lời: “Thôi Thiếu khanh, ta sẽ nói hết những gì ta biết, nhưng… ta có một thỉnh cầu.”

“Cứ nói.”

“Ta muốn nhờ ngài giúp ta an táng hài cốt của Vãn Hương.”

Nói đến đây, như sợ Thôi Tuần không đồng ý, bà vội vàng nói tiếp: “Trong thành Trường An này, chỉ có ngài mới dám an táng hài cốt của Vãn Hương. Vãn Hương mệnh khổ, trong nhà chỉ có một người mẹ già mù lòa. Sau khi nàng mất, ta không dám báo tin cho bà ấy. Mấy năm sau, mẹ nàng cũng qua đời. Ta muốn chôn cất nàng bên cạnh mẹ nàng. Nếu ngài đồng ý giúp, ta sẽ nói tất cả những gì ta biết. Nếu ngài không đồng ý, dù có đánh chết ta, ta cũng không nói.”

Y phục làm bằng vải thô trên người Nghiêm Tam nương chằng chịt mảnh vá, trông bà sống thật nghèo khổ. Thế nhưng, dù khổ cực đến đâu, bà vẫn gắng sức chăm lo, tiễn đưa mẹ của Vãn Hương về nơi an nghỉ cuối cùng.

Ánh mắt Thôi Tuần rời khỏi những vết vá trên người bà, dừng lại trên gương mặt phong sương kia, rồi bình thản nói: “Cháu trai của bà rất thông minh. Nếu có tiền bạc học hành, sau này ắt có tiền đồ rộng mở. Bà chọn tiền bạc, hay chọn an táng Vãn Hương?”

Nghiêm Tam nương sững sờ, tựa hồ trong lòng đang giằng xé. Cuối cùng, bà đáp: “Vãn Hương là bạn của ta. Ta… ta chọn an táng cho nàng.”

Thôi Tuần lặng im giây lát, gật đầu nói: “Được, ta hứa với bà, giúp hài cốt nàng ta không còn phải nằm lại nơi bãi tha ma.”

Nghiêm Tam nương mừng rỡ, lập tức cúi lạy thật mạnh: “Đa tạ Thôi Thiếu khanh, đa tạ ngài, đa tạ ngài.”

Thôi Tuần đưa tay cản bà: “Nói ra tất cả những gì bà biết, không sót một lời.”

<i>– </i>

Hai mươi chín năm trước, Nghiêm Tam nương chỉ là một cung nữ quét dọn trong cung của Trịnh Hoàng hậu. Thân phận thấp hèn, lại vì tính cách trầm lặng, bà chẳng được Hoàng hậu yêu thích. Vãn Hương lớn tuổi hơn bà, vào cung sớm hơn, cũng khôn khéo hơn bà ấy rất nhiều. Những khi Nghiêm Tam nương bị Hoàng hậu trách phạt, Vãn Hương không hùa theo các cung nữ khác, cũng không đổ thêm dầu vào lửa, mà thường lén lút đưa thuốc chữa thương cho bà. Vì vậy, Nghiêm Tam nương ôm lòng cảm kích, dần trở thành bạn với Vãn Hương.

Nhưng kể từ khi Khương Quý phi được sủng ái, tính khí Trịnh Hoàng hậu ngày càng dở tệ. Nghiêm Tam nương thường xuyên bị trách phạt, cuộc sống không lúc nào được yên. Chính lúc ấy, Thẩm quốc phu nhân, chị gái của Khương Quý phi, đã tìm đến bà.

Thôi Tuần hỏi: “Bà ta muốn bà làm nội ứng sao?”

Nghiêm Tam nương gật đầu: “Đúng vậy. Bà ta cho ta rất nhiều bạc, nói rằng Trịnh Hoàng hậu đối xử tệ với ta. Nếu ta giúp bà ta, bà ta sẽ không bạc đãi.”

“Vậy bà đã đồng ý?”

“Không.” Nghiêm Tam nương đáp: “Nếu bị Hoàng hậu phát hiện, chắc chắn người sẽ đánh chết ta. Ta không có gan đó, cũng không muốn có tiền nhưng không còn mạng để tiêu.”

“Vậy bà từ chối?”

“Đúng.” Nghiêm Tam nương khựng lại, vẻ mặt thoáng chút âm u: “Nhưng ta không ngờ bà ta lại đến tìm Vãn Hương.”

“Vãn Hương đã đồng ý?”

Giọng nói của Nghiêm Tam nương đầy sự đau khổ: “Ta đã khuyên nàng. Ta bảo nàng, tranh đấu giữa các bậc quý nhân, chúng ta đừng nên xen vào. Những người như chúng ta, chỉ cần sống bình yên là được. Nhưng Vãn Hương phải nuôi mẹ già mù lòa, nàng cần tiền bạc, nên nàng đã đồng ý làm nội ứng cho Thẩm quốc phu nhân, trợ giúp Khương Quý phi.”

“Nàng ấy đã mật báo mọi chuyện trong cung Trịnh Hoàng hậu cho Khương Quý phi?”

Nghiêm Tam nương ngập ngừng, rồi nói: “Nếu chỉ như vậy, Vãn Hương đã không mất mạng.”

Thôi Tuần cau mày: “Vậy là sao?”

Nghiêm Tam nương nghiến răng: “Nàng không chỉ báo cáo những chuyện đã xảy ra trong cung Trịnh Hoàng hậu, mà còn dựng nên những chuyện chưa từng xảy ra rồi mật báo…”

Khi Nghiêm Tam nương dò hỏi Vãn Hương để biết chân tướng, bà đã kinh hãi đến rụng rời. Những lời Trịnh Hoàng hậu từng nói hay chưa từng nói, Vãn Hương đều báo lại với Khương Quý phi. Nàng kể rằng Trịnh Hoàng hậu thường xuyên nguyền rủa Khương Quý phi và công chúa Vĩnh An, mong cả hai sớm gặp bất trắc. Nàng còn bịa ra rằng Trịnh Hoàng hậu từng nói, một ngày nào đó sẽ biến Khương Quý phi thành một Thích phu nhân [1] thứ hai. Nhưng trên thực tế, Trịnh Hoàng hậu chưa từng thốt ra những lời như vậy.

<i>[1] Thích phu nhân (chữ Hán: 戚夫人, ? – 194 TCN), hay còn gọi là Thích Cơ (戚姬), là một phi tần rất được sủng ái của Hán Cao Tổ Lưu Bang, người sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.</i>

Bà là mẹ của Triệu vương Lưu Như Ý, do mẹ được sủng ái nên Như Ý cũng được Cao Tổ coi trọng, từng có ý định lập Như Ý thay Hán Huệ Đế Lưu Doanh làm Thái tử. Sau khi Cao Tổ băng hà, Thích Cơ cùng con trai bị mẹ của Hán Huệ Đế là Lữ hậu ra tay tàn sát rất độc ác, nổi danh trong lịch sử. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 42: Tiết Hàn Thực


Sau khi Nghiêm Tam nương và Hổ Nô rời đi, Thôi Tuần tiến đến trước mặt Lý Doanh. Hắn định kể với nàng về chuyện của Vãn Hương, nhưng Lý Doanh bỗng nhiên nói: “Thôi Tuần, hôm nay là tiết Hàn Thực, ta muốn du xuân. Ngài đi cùng ta có được không?”

Trong tiết Hàn Thực, ngoài việc tảo mộ, dân chúng Trường An còn thích ngắm hoa, cắm liễu, đạp thanh. Phong cảnh nhộn nhịp được lưu lại trong những vần thơ:

<i>“Hàn Thực quyền hào tận xuất hành,<b>Nhất xuyên như hoạ vũ sơ tình.
Thuỳ gia lạc lạc du xuân thịnh,
Đam nhập hoa gian át át thanh.” </i>[1]

<i>[1] Dịch nghĩa:</i>

<i>“Tiết Hàn Thực, quyền quý đồng loạt xuất hành,
Dọc theo dòng sông như tranh vẽ, sau cơn mưa trời vừa tạnh.
Nhà nào nhộn nhịp du xuân đông vui,
Tiếng xe đẩy trong rừng hoa vang vọng.”</i>

Đúng là đã khắc họa chân thực khung cảnh tưng bừng, náo nhiệt của ngày hội Hàn Thực.

Thôi Tuần nhìn nàng, khẽ gật đầu: “Được.”



Trên đường ra ngoại thành, cánh hoa rơi như mưa, nhành liễu tung bay trong gió. Hai người cùng đi qua con đường mòn giữa núi, nhìn xuống dưới thấy trẻ nhỏ đá cầu, thả diều, bọn trẻ mặc y phục gấm hoa, trong tay cầm cánh diều hình ưng.

Diều giấy vốn đắt đỏ, chỉ phổ biến trong giới quyền quý Đại Chu, còn nhà nghèo ít ai chơi được. Lý Doanh ngắm nhìn, nói: “Vừa rồi khi trò chuyện với Hổ Nô, ta mới chợt hiểu ý nghĩa của Tân chính Thái Xương.”

Thôi Tuần nhướn mày: “Ồ?”

Nàng cười nhạt, tiếp lời: “Trước đây ta chỉ biết Tân chính Thái Xương là chính sách do a gia thực hiện, là tâm huyết cả đời ông. Chính sách này có thể khiến Đại Chu phồn thịnh, dân chúng yên vui. Nhưng ta lại không hiểu rõ các biện pháp cụ thể, cũng không tường tận những thay đổi nó sẽ mang lại cho đất nước này. Thế mà giờ đây, ta dần hiểu ra rồi.”

Lý Doanh ngước nhìn những cánh diều vút cao trên nền trời: “Nếu không thực thi tân chính, cả đời Hổ Nô sẽ chẳng bao giờ thả nổi dù chỉ một cánh diều. Con cháu nó cũng vậy, đời đời chỉ là những nông phu nghèo khó, chẳng chút hy vọng. Nhưng nhờ có tân chính, Hổ Nô có thể thi đỗ khoa cử, từ người cày ruộng bước lên triều đường. Số phận nó sẽ thay đổi, con cháu nó cũng sẽ khác. Đây, có lẽ chính là ý nghĩa thực sự của tân chính Thái Xương.”

Giấy diều càng bay càng cao, tựa như đại bàng mạnh mẽ sải cánh giữa trời xanh. Thôi Tuần cất lời, giọng điệu trầm tĩnh mà sắc bén: “Phần quan trọng nhất của tân chính là xóa bỏ chế độ Cửu Phẩm Trung Chính, [2] khai mở khoa cử, rộng đường tuyển chọn nhân tài. Từ đây, sĩ tử hàn môn cũng có thể phong hầu bái tướng. Đại Chu không còn cảnh thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô thế tộc. Có thể nói, tân chính thực sự thay đổi vận mệnh của biết bao gia đình nghèo khó.”

<i>[2] Cửu Phẩm Trung Chính (九品中正) là một hệ thống tuyển dụng quan lại và quan chức dựa trên sự phân cấp thành 9 phẩm bậc, được sử dụng trong Trung Quốc thời cổ đại, bắt đầu từ thời kỳ Tam Quốc và phát triển qua các triều đại Tấn và Nam-Bắc triều. Đây là một cơ chế đặc biệt để lựa chọn nhân tài và bổ nhiệm quan chức theo tiêu chuẩn phẩm hạnh và dòng dõi.</i>

<b>*Khái quát về hệ thống:</b>

<i>– Nguồn gốc và mục tiêu: Cửu Phẩm Trung Chính được khởi xướng trong thời đại loạn lạc để tìm kiếm nhân tài phù hợp với nhu cầu hành chính và quản lý. Hệ thống này bắt nguồn từ Tào Tháo, người muốn cải thiện tình trạng tuyển dụng quan chức một cách công bằng và có tiêu chuẩn.</i>

<i>– Cấu trúc và phân cấp: Quan lại được phân thành 9 phẩm, từ cao nhất đến thấp nhất. Những người có xuất thân quý tộc, gia thế cao, hoặc đã thể hiện tài năng xuất chúng, thường được đánh giá cao hơn. Mỗi phẩm được đánh giá bởi một nhóm quan gọi là Trung Chính Quan, người có trách nhiệm xác định cấp bậc cho từng ứng viên.</i>

<i>– Chức năng và thực hiện: Trung Chính Quan thường là những người có uy tín và kiến thức sâu rộng về gia phả, phẩm hạnh của người dân địa phương, đánh giá mức độ tài năng và đức hạnh của từng cá nhân để đưa vào hệ thống quan chức.</i>

<b>*Ưu và nhược điểm:</b>

<i>– Ưu điểm: Đảm bảo một hệ thống hành chính có trật tự, tuyển dụng được nhân tài từ các gia tộc danh giá hoặc có học vấn.</i>

<i>– Nhược điểm: Hệ thống này dần trở nên thiên vị theo hướng chọn người dựa trên gia thế, làm suy yếu cơ hội cho những người không có xuất thân danh giá, dẫn đến tình trạng gia đình trị và cản trở người tài thực sự từ các tầng lớp thấp hơn.</i>

<b>* Thay thế bởi khoa cử: </b><i>Hệ thống Cửu Phẩm Trung Chính tồn tại và phát triển mạnh mẽ qua nhiều triều đại, nhưng dần bị thay thế bởi hệ thống khoa cử (thi tuyển công khai dựa trên học vấn và năng lực) dưới thời Tùy và Đường. Khoa cử được coi là một cải cách nhằm loại bỏ sự thiên vị gia tộc, giúp tuyển dụng dựa vào thực tài và học thức.</i>

Lý Doanh gật đầu: “Ngài biết không, Hổ Nô thực sự rất thông minh. Một đứa trẻ như nó, nếu mãi làm nông phu, không chỉ là tổn thất của riêng nó, mà còn là tổn thất của Đại Chu.”

Thôi Tuần cười nhạt: “Có khoa cử, nó sẽ không phải làm nông phu mãi mãi. Những nhân tài xuất chúng như nó, dù xuất thân hàn môn, cũng sẽ có cơ hội đổi thay vận mệnh.”

Lý Doanh mỉm cười, ánh mắt sáng lên: “Ta cũng nghĩ vậy. Vì thế, a gia và a nương của ta, quả thực rất phi thường.”

Nhắc đến Thái hậu, Thôi Tuần chần chừ, sau đó nói: “Vừa rồi, Nghiêm Tam nương kể lại với ta, nguyên nhân thực sự khiến Vãn Hương bị phạt trượng.”

Hắn thuật lại lời của Nghiêm Tam nương, từng câu từng chữ. Lý Doanh dần nhíu mày: “Vậy là, Vãn Hương chịu sự sai khiến của a di, cố tình chia rẽ quan hệ giữa a nương và Trịnh Hoàng hậu. Sau khi sự việc bại lộ, a nương quyết định xử tử nàng ta?”

Thôi Tuần gật đầu, Lý Doanh lại hỏi: “Vì sao a di lại làm như vậy?”

“Nghiêm Tam nương nói, bà ấy không biết.”

Lý Doanh chợt nhớ lại một lần nọ, Trịnh Hoàng hậu ban cho nàng một chén canh sâm do Cao Ly tiến cống. Nàng vừa định uống thì dì của nàng vội vã chạy đến, làm đổ bát canh. Sau đó, bà viện cớ đuổi nàng đi. Khi ấy, nàng còn chưa hiểu rõ sự tình. Chỉ nhớ rằng sau đó, a nương gặp nàng, sắc mặt vô cùng khó coi, thần thái hiếm khi nổi giận như vậy. Có lẽ, đó chính là lần a di bày mưu, khiến a nương hạ quyết tâm, quyết không đội trời chung với Trịnh Hoàng hậu.

Một cơn gió thoảng qua, những cánh liễu theo gió bay đầy trời, tựa như tuyết lớn phủ trắng lối đi phía trước. Lý Doanh giơ tay áo che mặt, đợi cánh liễu tản bớt mới hạ tay xuống, thẫn thờ nói: “A di của ta, từ sau khi ta ra đời, năm nào cũng tự tay làm cho ta một đôi giày. Lúc trẻ, nhà bà ấy rất nghèo, phải vá giày để mưu sinh. Nhưng vì không đủ tiền mua nến, bà đã khâu giày đến hỏng cả mắt. A nương bảo mắt bà không tốt, không cho làm nữa, nhưng bà lại nói khi xưa, mỗi lần bà khâu giày, a nương ta đều đứng bên cạnh, hỏi rằng: “A tỷ, bao giờ tỷ cũng làm cho muội một đôi giày đẹp như vậy?” Bà đã ghi nhớ câu nói đó trong lòng suốt nhiều năm. Nay bà có tiền, muốn mua bao nhiêu kim chỉ cũng được, thế nên đem nỗi áy náy với a nương đền bù lên người ta.”

Thôi Tuần trầm mặc giây lát, rồi nói: “Thái hậu chỉ có một người chị là Thẩm quốc phu nhân, Thẩm quốc phu nhân cũng chỉ có mỗi một em gái là Thái hậu. Trước kia, hai tỷ muội họ quả thật đã nương tựa lẫn nhau.”

Lý Doanh cười khổ: “Ta không biết từ khi nào, tất cả đã thay đổi. Có lẽ, cho đến trước khi ta chết, ta vẫn chưa từng thực sự hiểu rõ. Ta không biết a di đã sai sử Vãn Hương, cũng như không biết Trịnh Quân muốn giết ta.”

Trước khi rơi xuống hồ sen rồi bỏ mạng, ấn tượng của nàng về a di vẫn là một người luôn yêu thương nàng, còn Trịnh Quân là người luôn tôn trọng và bảo vệ nàng. Mãi đến giây phút lìa đời, nàng vẫn tin tưởng như vậy.

Thế nhưng, ba mươi năm sau, nàng mới nhận ra mọi chuyện không phải như thế. Những người luôn chăm sóc nàng hết mực, lại mang trong lòng những toan tính hoàn toàn khác nhau.

Nhìn theo bông liễu theo gió bay xa, Lý Doanh cảm thấy bản thân như rơi vào vòng nghi hoặc về nhân tính: “Thôi Tuần, trên đời này, rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là giả?”

Thôi Tuần nghiêng đầu nhìn ánh mắt mông lung của nàng, rồi lặng lẽ thu hồi ánh mắt, đáp: “Ban đầu, tình cảm họ dành cho cô quả nhiên là thật lòng. Nhưng sau này, vì nhiều lý do khác nhau, họ buộc phải nói dối cô. Nếu có thể chọn lại một lần nữa, họ nhất định sẽ không làm vậy.”

Lý Doanh vẫn mang theo chút ngờ vực, hỏi: “Thật sao?”

Thôi Tuần kiên định, nhẹ gật đầu: “Thật.”

Hắn ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp: “Bởi vì công chúa xứng đáng được tất cả mọi người đối xử chân thành.”

Lý Doanh ngây người nhìn Thôi Tuần. Gương mặt hắn vẫn nhợt nhạt, ánh mắt thâm trầm, không để lộ chút cảm xúc nào. Nàng nhìn hắn thật lâu, sau đó quay đi, khẽ mỉm cười, giọng nhỏ nhẹ: “Ừm.”



Hai người cứ thế bước đến một vùng xanh tươi cách Trường An ba bốn dặm. Cây cối nơi đây rợp bóng, hoa cỏ ngát hương. Thôi Tuần chợt dừng bước.

Thấy hắn đứng lại, Lý Doanh cất tiếng: “Đúng vậy, nơi này chính là mộ viên của nhà họ Thôi.”

Cũng là nơi an táng mẫu thân hắn.

Lý Doanh lại cất lời: “Thôi Tuần, hôm nay là tiết Hàn Thực.”

Chẳng có người làm con nào lại không muốn được về thắp nén nhang, quét dọn mộ phần cho mẫu thân trong ngày này.

Thôi Tuần đưa ánh mắt về phía nàng, giọng trầm thấp: “Vậy nên, không phải cô đến đây để du xuân?”

“Không phải.” Lý Doanh đáp, ánh mắt chân thành: “Ta muốn dẫn ngài tới đây là để viếng mộ mẫu thân ngài.”

“Tại sao?”

“Không tại sao cả. Ta chỉ muốn dẫn ngài tới thôi.” Lý Doanh dịu dàng nói, giọng điệu chân thành như khắc sâu vào lòng người: “Thôi Tuần, từ khi ngài gia nhập Thiên Uy quân, chắc hẳn chưa từng tế bái mẫu thân trong tiết Hàn Thực, đúng không? Ngài không muốn làm điều đó sao?”

Thôi Tuần không trả lời. Lý Doanh tiếp lời, giọng trầm ngâm: “Nếu không muốn, sao mỗi năm vào dịp Thượng Nguyên, ngài vẫn đến Tây Minh tự, thắp một ngọn đèn trường minh cho mẫu thân ngài?”

Thôi Tuần nhìn nàng, yết hầu khẽ động, nhưng không thốt nên lời. Lý Doanh thở dài nhè nhẹ: “Ta biết, ngài có lẽ lại muốn bảo rằng đây không phải chuyện của ta. Nhưng ta thực sự muốn làm gì đó cho ngài, và cũng rất muốn, ngài có thể vui vẻ hơn đôi chút.”

Hắn mím chặt môi, cảm thấy hốc mắt nóng bừng. Quay mặt đi, ánh mắt hắn dừng lại nơi những ngôi mộ lớn nhỏ trong mộ viên. Lý Doanh cũng không rõ trong lòng hắn nghĩ gì, liệu có trách nàng nhiều chuyện hay không. Nhưng rồi ánh mắt Thôi Tuần dừng lại ở một phần mộ chính giữa khu mộ, giọng khàn khàn vang lên: “Ở đó, là mộ phần của mẫu thân ta.”

Lý Doanh đưa mắt nhìn theo. Thôi Tuần thì thầm: “Sau năm mười bốn tuổi, ta chưa từng tới đây viếng bà.”

“Có phải vì phụ thân ngài không cho phép?”

Hắn gật nhẹ, nét mặt u uẩn: “Ông nói, ta là nỗi nhục của nhà họ Thôi.”

“Ngài không phải.” Lý Doanh khẳng định chắc nịch: “Ông ta mang danh người họ Thôi ở Bác Lăng, chẳng những không biết cầm quân chống giặc ngoại xâm như ngài, cũng chẳng được như huynh trưởng, nhập triều tận tùy vì nước. Ông ta để mặc hậu trạch rối ren, khiến gia đình chẳng lúc nào yên ổn. Một kẻ như vậy, không trị được nước, chẳng giữ nổi nhà, chính ông ta mới là nỗi nhục của Thôi gia!”

Lời nàng nói ngày càng thêm giận dữ. Thôi Tuần vốn ảm đạm u uất cũng bất giác bật cười, nét mặt giãn ra đôi phần. Thấy thế, nàng cũng mỉm cười, ngẩng đầu đầy tự hào: “Ta là công chúa Đại Chu, lời ta nói nhất định là đúng.”

Hắn gật nhẹ đầu: “Ừ, không sai.”

Lý Doanh nghiêng đầu, cười nhìn hắn: “Vậy đi thôi, viếng mộ mẫu thân ngài nào.”

Nàng hơi dừng lại, rồi nói thêm: “Nếu phụ thân ngài có tới, ta đã chuẩn bị cách đối phó rồi.”

Cỏ dại mọc um tùm trước mộ phần của mẫu thân Thôi Tuần, trông tiêu điều hơn hẳn những ngôi mộ khác. Chỉ nhìn qua đã biết, sau khi phụ thân hắn đã cưới vợ kế đã chẳng còn vương vấn gì người cũ. Lại thêm Thôi Tuần không được phép tới đây viếng mộ, đương nhiên chẳng ai chăm sóc mộ phần cho bà.

Thôi Tuần cúi người, chậm rãi ngồi xuống, cẩn thận nhổ từng nhánh cỏ dại trên phần mộ. Hắn làm việc rất tỉ mỉ, từng chút một, không chút qua loa. Lý Doanh định nói gì đó, thì thoáng thấy một đoàn nam nhân áo mão chỉnh tề từ chân núi đi lên. Qua vài đường nét có phần hao hao với Thôi Tuần, nàng đoán những người này hẳn là phụ thân và huynh đệ của hắn, nhưng tướng mạo thì không bằng một phần vạn hắn.

Hẳn là họ đến đây để tế bái tại mộ viên Thôi thị. Ngón tay Lý Doanh khẽ động, một ngọn quỷ hỏa xanh biếc bốc lên, bay vút về phía những người kia, hóa thành làn sương mờ bao trùm quanh người họ.

Thôi Tuần ngước mắt nhìn nàng, nàng cười bảo: “Chỉ là chút thuật che mắt thôi. Trong một thời gian ngắn phụ thân ngài sẽ không thể lên đây được. Thôi Tuần, ngài cứ yên tâm mà bái mẫu thân, những kẻ phiền phức ấy sẽ không quấy nhiễu được ngài đâu.”

Thôi Tuần mỉm cười nhè nhẹ, cúi đầu tiếp tục nhổ cỏ. Lý Doanh cũng ngồi xuống bên hắn, cùng hắn nhổ cỏ, động tác cẩn thận không kém. Nàng nói với hắn: “Thôi Tuần, ta giúp ngài dọn dẹp. Mộ phần mẫu thân ngài sẽ sạch sẽ hơn nhiều.”

“Ừ.”

“Ta còn rất nhiều tiền âm phủ, tất cả sẽ để ngài đốt cho mẫu thân.”

“Ừ.”

“Lễ vật dâng bà đều là thứ tốt nhất ở mộ viên này. Mẫu thân ngài dưới suối vàng nhất định sẽ rất tự hào vì có người con trai như ngài.”

Thôi Tuần ngừng tay, ngẩng đầu nhìn nàng. Nàng vẫn cúi xuống, tập trung nhổ cỏ. Đôi mắt vốn dĩ sâu thẳm như mặt nước yên lặng của hắn, giờ đây thoáng qua những gợn sóng lăn tăn. Hắn lặng lẽ nhìn nàng rất lâu, rồi khẽ nói một tiếng: “Ừ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 43: Khi đến gần, lại chẳng muốn rời xa


Khi hai người xuống núi, bầu trời đã bắt đầu nhuốm một sắc tối nhàn nhạt. Áng mây chiều nhuộm đỏ cả chân trời, biến nền trời xanh trong thành một dải vàng cam rực rỡ. Dưới chân núi, làn khói bếp lững lờ bay lên từ những gian nhà nhỏ. Dòng người nhộn nhịp đi tảo mộ ngày Hàn Thực cũng dần tan đi. Khi bước qua một con đường nhỏ giữa chốn thôn quê, ánh mắt Lý Doanh dừng lại trên một chiếc xích đu được buộc giữa hai gốc liễu bằng dải lụa màu. Nàng không khỏi dừng bước, hồi tưởng.

Nhớ lại mỗi năm vào đúng dịp Hàn Thực, trong cung luôn dựng những chiếc xích đu lớn. Các phi tần, công chúa, cung nữ đều thích chơi đánh đu. Lần nào a nương của nàng đánh đu cũng cao, cũng vững, còn nàng, kỹ năng cũng chẳng kém cạnh. Giữa đám đông trong cung, nàng luôn là một trong những người đánh đu đẹp nhất.

Thôi Tuần nhìn theo ánh mắt nàng, thấy nàng chăm chú nhìn chiếc xích đu, liền hỏi: “Công chúa muốn chơi thử sao?”

Lý Doanh gật đầu, giọng nói có chút ngập ngừng: “Đã ba mươi năm không chạm vào xích đu nữa. Thậm chí có chút e sợ.”

“Ta sẽ đỡ cô.” Thôi Tuần nói.

Lý Doanh nghiêng đầu nhìn hắn, nhoẻn miệng cười: “Vậy ta đi nhé.”

Nàng bước đến bên xích đu, nắm lấy hai dải lụa, nhẹ nhàng đặt chân lên tấm ván gỗ, cánh tay hơi dùng sức, xích đu liền nhịp nhàng lắc qua lắc lại.

Thôi Tuần đứng trước mặt nàng, ánh mắt dõi theo từng động tác. Ban đầu, hắn vẫn giữ tâm trạng lo lắng, sợ nàng trượt chân ngã xuống. Nhưng dần dần, ánh mắt ấy chuyển sang chăm chú, không muốn rời khỏi hình bóng nàng. Hôm nay, Lý Doanh mặc một chiếc áo tay lửng màu vàng nhạt, phối với váy dài màu phấn hồng. Trên vai nàng vắt chiếc sa mỏng màu ngọc bích, mỗi lần xích đu đưa lên cao, váy áo theo gió bay bổng, tà áo và dải lụa phấp phới như tiên nữ giáng trần. Bên hông nàng treo từng chuỗi ngọc, âm thanh phát ra lanh lảnh, nụ cười rạng rỡ như hoa đào tháng ba.

Thôi Tuần bất giác nhớ đến câu văn mà sử quan trong cung từng ghi lại ba mươi năm trước. Khi đó, vào ngày Hàn Thực, ông từng tận mắt thấy công chúa Vĩnh An đánh đu và đã viết nên mấy chữ: “Vĩnh An công chúa, quang thái động thiên.”<i> (ánh sáng rạng ngời khắp trời)</i>

Hôm nay nhìn thấy nàng, hắn mới hiểu, quả thực, những lời ấy không hề khoa trương.

Xích đu càng đưa lên cao, Lý Doanh càng có thể thấy rõ bầu trời hoàng hôn màu vỏ cam. Khoảnh khắc này, nàng như trút bỏ mọi muộn phiền, trở lại làm tiểu công chúa vô tư vô lo của ba mươi năm trước, được a nương và a gia yêu thương, không vướng bận bất kỳ điều gì.

Nàng nhắm mắt lại, cảm nhận làn gió nhẹ nhàng lướt qua. Toàn thân nàng như hòa vào thiên địa bao la, nơi non cao đua sắc, khe suối tranh chảy. Ba mươi năm trước là vậy, ba mươi năm sau vẫn chẳng hề đổi thay.

Thiên địa vô cùng, nhân sinh hữu hạn.

Lý Doanh từ từ mở mắt, ánh nhìn rơi vào bóng dáng cao gầy khoác áo choàng đen trước mặt. Hắn đứng đó, cô đơn tựa tùng già, lặng lẽ tựa cây khô. Nàng càng đu lên cao, khoảng cách giữa hai người lúc gần, lúc xa. Khi nàng tiến về phía trước, hắn chỉ cách trong gang tấc, nhưng khi nàng lùi về sau thì lại xa đến mức chẳng thể nhìn được rõ bóng hình.

Bất chợt, Lý Doanh nhớ đến lời nàng từng nói với Thôi Tuần. Nếu thật sự là a nương giết nàng, nàng sẽ chẳng còn lưu luyến gì nơi trần thế sẽ, sẵn sàng đến Vong Tử Thành chờ đợi, đợi đến khi a nương bách niên quy tận rồi sẽ đầu thai.

Nhưng nếu sự thật được phơi bày, liệu nàng có thể làm được không đây?

Giây phút này, nàng bỗng thấy lòng mình dao động.

Tâm trạng bỗng chùng xuống, bàn tay giữ lấy dây lụa cũng chẳng còn cố sức. Nàng không muốn đu cao nữa. Đu càng cao thì càng ngắm được cảnh đẹp mây hồng, nhưng cũng khiến nàng càng rời xa hắn.

Càng đến gần, lại càng chẳng muốn rời xa.

Xích đu dần chậm lại, khi đã ngừng hẳn, Lý Doanh định bước xuống, nhưng có lẽ vì lâu quá không chơi nên khi vừa bước xuống, nàng liền mất thăng bằng, cả người ngã chúi về phía trước.

Thôi Tuần kịp thời dang tay đỡ lấy nàng. Thân mình nàng chao đảo ngã vào lòng hắn. Ngẩng đầu lên, đập vào mắt nàng là gương mặt tái nhợt như tuyết nhưng vẫn rạng ngời tựa đóa sen.

Nàng không vội vã rời khỏi hắn như thường ngày, mà chỉ ngước mắt nhìn hắn. Đôi mắt nàng lấp lánh như sao trời. Còn Thôi Tuần, ánh mắt cũng dừng lại trên gương mặt nàng. Một lúc lâu sau, hắn bất chợt buông tay, lùi lại một bước, vẻ mặt thản nhiên: “Muộn rồi, chúng ta về thôi.”

Trong lòng Lý Doanh bỗng dâng lên chút hụt hẫng, nàng mím môi, cúi đầu: “Được.”



Tiết Hàn Thực sắp kết thúc, bên bờ sông Vị vẫn rộn ràng huyên náo. Hơn chục thanh niên quý tộc vận cẩm phục hoa lệ vây quanh một đài cao, chăm chú theo dõi cuộc hỗn chiến của hai con gà chọi trên đài.

Trong các hoạt động giải trí dịp Hàn Thực, chọi gà là môn đặc biệt thịnh hành. Người thì lớn tiếng reo hò, kẻ thì nín thở theo dõi. Trung lang tướng Thẩm Khuyết ngồi ngay ngắn trước án kỷ gỗ mun, tay nâng chén kim bôi, uống cạn loại rượu thiêu xuân được Thánh nhân ngự tứ, mắt không rời hai con gà đang đấu đá trên đài.

Hai con gà chọi mổ nhau đến rụng cả lông, chẳng bao lâu, con lớn hơn chịu thua. Một vị quan lục phẩm mặc thường phục màu xanh sẫm vỗ tay cười nói: “Thẩm tướng quân, mỗ thắng rồi!”

Phụ thân của Thẩm Khuyết được phong là Thẩm quốc công. Sau khi phụ thân qua đời, hắn kế thừa tước vị, nhưng luôn nghiêm cấm người khác gọi hắn là Thẩm quốc công, chỉ cho phép gọi là Thẩm tướng quân. Gương mặt hắn âm trầm, liếc nhìn con gà thua trận do gia nhân xách đến, lạnh lùng nói: “ Đồ vô dụng, giữ lại làm gì, giết đi rồi vứt xuống sông Vị!”

Gia nhân nhận lệnh, liền túm lấy cánh gà. Con gà chọi như dự cảm được tai họa, liều mạng giãy giụa, kêu lên những tiếng thảm thiết, nhưng cuối cùng vẫn bị vặn gãy cổ chỉ trong chớp mắt, sau đó bị quăng “tõm” xuống dòng Vị hà.

Vị quan lục phẩm thắng cuộc nhìn cảnh tượng ấy, cũng đành ngượng ngùng ngồi xuống. Đối diện Thẩm Khuyết là Hoàng môn Thị lang Vương Huyên và Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài. Lư Hoài bất bình nói: “Một con gà chọi nếu muốn mua về thì phải tốn hàng nghìn văn tiền, trong khi một nhà nông vất vả cả năm cũng chỉ kiếm được bấy nhiêu. Chỉ vì thua một trận mà gi.ết ch.ết nó, thật quá phung phí và ngang ngược!”

Vương Huyên cười khẩy: “Thẩm Khuyết nhận được ân sủng của Thái hậu và Thánh nhân chẳng kém gì Thôi Tuần. Liệu hắn có thấy tiếc một con gà chọi?”

Tiệc thưởng xuân vẫn tiếp diễn, đài cao đã dẹp màn chọi gà, thay bằng màn trình diễn của các nhạc cơ giáo phường, thổi sáo, gảy đàn. Tiếng nhạc réo rắt vang lên, nhưng sắc mặt mọi người lại có phần không vui. Lư Hoài bực bội nói: “Kẻ này hẹp hòi, phẩm hạnh thấp kém, còn tệ hơn cả Thôi Tuần. Nếu không phải thúc phụ bảo ta kết giao với hắn, thực lòng ta chẳng muốn tới bữa tiệc thưởng xuân này.”

Vương Huyên cũng phụ họa: “Xưa nay Lư tướng công luôn giữ phong thái cao thượng, không hiểu sao lại đặc biệt khoan dung với người này.”

Lư Hoài đáp: “Hắn là biểu huynh của Thánh nhân, lại là cháu ngoại của Thái hậu. Chắc rằng thúc phụ cũng không muốn đắc tội với hắn.”

Trong lòng Vương Huyên lại nghĩ khác. Thúc phụ của Lư Hoài, Lư Dụ Dân, nổi tiếng thanh liêm, ghét ác như thù. Dù là hoàng thân họ Lý, nếu phạm pháp vẫn sẽ bị ông ta tố cáo không chút nể nang. Vậy mà Thẩm Khuyết kiêu ngạo ương ngạnh, tham lam bất chính, ai ai ở Trường An cũng biết, nhưng lại chưa từng bị ông ta tố cáo lần nào. Thật là kỳ lạ!

Trong lòng mọi người đều oán thầm sự hống hách của Thẩm Khuyết, mặt mày không giấu nổi vẻ khinh thường. Thẩm Khuyết cầm chén kim bôi, lạnh lùng cười: “Chư vị, mỗ biết các người đều là con cháu thế gia, khinh thường trọc phú mới nổi như mỗ. Các người khinh thường mỗ, mỗ cũng khinh thường các người. Nhưng mẫu thân của Thánh nhân và mẫu thân của mỗ là thân thích ruột thịt. Thánh nhân xuân thu chính thịnh, <i>(đang tuổi khỏe mạnh, trai tráng)</i> trong mấy chục năm tới, mong các vị nhịn thở thêm chút nữa, tiếp tục chung đụng với kẻ hèn này đi!”

Lời nói của Thẩm Khuyết thật cuồng ngạo, sắc mặt Lư Hoài, Vương Huyên đều biến đổi. Lư Hoài suýt nữa đập bàn đứng dậy, may mà Vương Huyên kéo nhẹ tay áo hắn dưới bàn, hắn mới nén giận, căm phẫn nói: “Phách lối đến mức này! So với Thôi Tuần thì có gì khác biệt?”

Vương Huyên đáp: “Khác đấy.”

“Khác gì?”

“Ít nhất Thôi Tuần còn biết ai là kẻ mang đến vinh hoa phú quý cho mình, còn hắn, vừa hưởng thụ giàu sang, vừa căm hận kẻ mang đến vinh hoa cho mình”. Vương Huyên lắc đầu, nói: “Hắn sống được lâu đến đâu còn phụ thuộc vào kẻ mang đến vinh hoa kia cho hắn có thể nhẫn nhịn được lâu đến đâu.”



Tiệc thưởng xuân vẫn tiếp tục. Thẩm Khuyết uống một chén rượu Thiêu Xuân, nheo mắt ngắm nhìn các nhạc cơ trên đài vừa thổi sinh vừa gảy đàn. Trong số đó, một tỳ bà cơ có dung nhan đặc biệt xuất chúng. Đôi tay nàng thoăn thoắt lướt trên dây đàn, ánh mắt cúi xuống, chuyên tâm tấu nhạc. Dù thân là nhạc cơ thấp kém, nhưng ánh mắt nàng hướng xuống đám quan viên bên dưới lại không lộ vẻ khúm núm nịnh bợ như những nhạc cơ khác. Dường như trong mắt nàng, những kẻ quyền quý này chẳng đáng một đồng, ngược lại, chính nàng mới là người phải khinh thường họ.

Thẩm Khuyết bất giác nhớ đến sáu năm trước, khi hắn dụ giết viên Ngu hầu của quân Thiên Uy, một kẻ xuất thân hàn môn, địa vị thấp hèn, vậy mà tại Trường Lạc dịch, lại dùng ánh mắt khinh rẻ nhìn mình – biểu huynh của thiên tử, một quốc công tập tước. Đối phương dám công khai bày tỏ sự khinh miệt ấy, và Thẩm Khuyết cũng biết rõ lý do. Hắn từng bất kính với chủ soái của Thiên Uy quân, nên đến một Ngu hầu nhỏ nhoi cũng dám không nể mặt. Nhưng, một Ngu hầu quân thôi mà, y xứng sao?

Thẩm Khuyết hỏi gia phó: “Nhạc cơ kia tên gì?”

Gia phó đáp: “Thịnh A Man.”

“Thịnh A Man…”

Viên Ngu hầu kia cũng họ Thịnh. Y biết rõ rằng mình tất phải chết, nhưng vẫn liều mạng giết chóc, thân thể chi chít vết thương. Đến khi trọng thương ngã xuống, y lại đột nhiên bật dậy, suýt nữa là dùng một đao, chém đứt cổ Thẩm Khuyết.

Khi ấy Thẩm Khuyết kinh hồn bạt vía. Cuối cùng, Ngự hầu quân ấy bị đám thân binh của hắn xông lên chém chết. Chết đi mà hai mắt vẫn trừng lớn, không cam tâm nhắm lại. Nhưng những thân binh đã giết y, trên mặt từng người đều không giấu được vẻ kính phục.

Thẩm Khuyết căm ghét ánh mắt như vậy nhất. Một Ngu hầu quân, dựa vào đâu chứ? Chẳng qua y muốn vào cổng Thông Hóa để cầu viện cho quân Thiên Uy, thế nên hắn liền khiến y, bất kể là người hay quỷ, đời này kiếp này đều không bước qua được cổng Thông Hóa.

Thẩm Khuyết hồi tưởng lại quá khứ, tay khẽ lắc lư chén rượu kim bôi, lẩm bẩm: “Đều họ Thịnh sao?”

Gia phó lưỡng lự hồi lâu, cuối cùng lấy hết can đảm đáp: “Tướng quân, nàng ấy chính là… em gái của Thịnh Vân Đình.”

“Em gái Thịnh Vân Đình?”

Thẩm Khuyết kinh ngạc đến mức làm rơi cả chén rượu xuống án kỷ. Gia phó vội vàng lau sạch rượu, rót đầy chén mới. Nhưng ánh mắt Thẩm Khuyết chỉ đăm đăm nhìn về phía Thịnh A Man. Bỗng nhiên, hắn bật cười lạnh: “Đưa tỳ bà cơ ấy lại đây, cùng ta uống rượu.”

Khi ấy khúc nhạc vừa kết thúc, các nhạc cơ chuẩn bị lui xuống, nhưng Thịnh A Man lại bị gia phó của Thẩm Khuyết mạnh tay kéo đến, ấn ngồi cạnh hắn.

So với những nhạc cơ xung quanh, người nào cũng cố sức làm dáng lấy lòng, A Man ngồi bên Thẩm Khuyết, thân mình cứng ngắc, rõ ràng không hề tình nguyện. Thẩm Khuyết đặt mạnh chén rượu lên bàn, cất giọng: “Không vui sao?”

A Man nén giận, đáp: “Nô gia không dám.”

“Không dám thì uống rượu với ta!”

Tính tình ngang ngược của Thẩm Khuyết, khắp nơi ai ai cũng biết. A Man không muốn chuốc họa, đành uống liền mấy chén. Nhưng Thẩm Khuyết cứ rót thêm, nàng lại phải uống tiếp. Sau hàng chục chén, nàng bị rượu cay đến mức ho sặc sụa, giọng nói khàn khàn: “Thẩm tướng quân, tửu lượng nô gia thấp kém, thực sự không uống thêm được nữa.”

Thẩm Khuyết liền nổi giận: “Sao? Đến cả ngươi cũng dám coi thường ta?”

“Nô gia nào dám xem thường Thẩm tướng quân?”

Thẩm Khuyết cười khẩy: “Đừng ở đây giả bộ thanh cao nữa. Ngươi là em gái của một tên bại tướng Thiên Uy quân, chịu cảnh người người khinh thị, lấy tư cách gì mà giữ vẻ thanh cao?”

Hắn rót đầy một chén rượu Thiêu Xuân, đưa tới sát môi Thịnh A Man: “Uống!”

Nhưng A Man không hề tỏ vẻ sợ hãi, nàng thẳng tay gạt chén rượu của hắn. Nàng quét mắt nhìn qua án kỷ chất đầy mỹ tửu cao lương, rồi lướt qua đàn gà chọi lông vũ bóng mượt được nuôi để giải trí, “A huynh của ta, nhập ngũ từ năm mười lăm tuổi, mười năm trấn giữ biên cương. Khi a huynh ta hành quân trên sa mạc, chịu cảnh đói khát, ngươi lại đang thưởng xuân ở Trường An. Lúc a huynh ta liều mình chống lại Đột Quyết, ngươi ở Trường An, tụ tập chọi gà. Vậy, ngươi dựa vào đâu để sỉ nhục huynh ấy?”

Thẩm Khuyết bị A Man nói đến ngây người, hắn vỗ bàn, lớn tiếng quát: “Rượu này, ngươi uống hay không uống?”

A Man nói dõng dạc từng chữ: “Không uống.”

Lửa giận trong lòng Thẩm Khuyết bùng lên ngùn ngụt. Hắn vớ lấy chén rượu, định ép nàng uống, mạnh tay ghì chặt khiến nàng dù cố sức giãy giụa cũng không thoát ra được. Tình cảnh ấy trở nên vô cùng khó coi. Lư Hoài không chịu nổi nữa, đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Thẩm tướng quân, bắt nạt một nữ tử yếu ớt, không phải hành vi của bậc trượng phu!”

Động tác của Thẩm Khuyết khựng lại. Hắn nhìn Lư Hoài, lạnh lùng bật cười: “Một nô tỳ tiện tịch, luật định sánh ngang gia súc. Một nhạc hộ bán thân hèn mạt như nàng ta, bị ta bắt nạt thì đã sao?”

Lư Hoài giận dữ phản bác: “Cho dù nàng là nhạc kỹ tiện tịch, cũng không đáng bị làm nhục như vậy!”

Thẩm Khuyết liếc mắt đầy khinh thường: “Lư Hoài, thúc phụ ngươi còn không dám đắc tội với ta, ngươi bớt lo chuyện bao đồng!”

Lư Hoài nghiến răng, cất cao giọng: “Ta xen vào thì đã sao?”

Thẩm Khuyết cười lạnh, ánh mắt băng lãnh: “Nếu ngươi khăng khăng muốn xen vào, sợ răng thúc phụ ngươi sẽ chịu cảnh “người đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh.”

Thái độ ngông cuồng của hắn khiến Lư Hoài cũng nổi trận lôi đình. Nhưng lúc này, Vương Huyên vội kéo hắn ngồi xuống.

Lư Hoài phẫn nộ, gằn giọng hỏi: “Ngươi kéo ta làm gì?”

Vương Huyên thấp giọng khuyên nhủ: “Thẩm Khuyết là biểu huynh của Thánh thượng, cháu ngoại của Thái hậu, hoàng thân quốc thích, thân phận tôn quý. Thúc phụ ngài đang bị cường địch trong triều bủa vây tứ phía, đừng gây thêm phiền phức cho ông ấy, tốt nhất ngài đừng nên can dự!”

Lư Hoài siết chặt nắm tay, nhìn A Man bị Thẩm Khuyết bóp chặt má, cưỡng ép đổ rượu. Rượu cay nồng ướt đẫm mặt mày, thân thể nàng run rẩy chống cự, nhưng với hắn chẳng khác nào mèo cào. Mắt Lư Hoài đỏ rực, gằn từng tiếng qua kẽ răng: “Ta không quản được, nhưng ta cũng không thể nhắm mắt làm ngơ!”

Nói rồi, hắn xoay người, phất tay áo bỏ đi. Vương Huyên ngây người một lúc, cũng vội vã đuổi theo. Thẩm Khuyết chẳng thèm liếc mắt, chỉ cười nhạo: “Tưởng là anh hùng cứu mỹ nhân, hóa ra chỉ là kẻ hèn nhát nhu nhược.”

A Man bị rượu làm sặc, ho khan không ngừng. Thẩm Khuyết bóp cằm nàng, vỗ mặt, cười lạnh: “Ta nói cho ngươi biết, hôm nay ta làm nhục ngươi như thế, chỉ vì ngươi là muội muội của Thịnh Vân Đình. A huynh ngươi lúc sống không bảo vệ nổi ngươi, chết đi lại càng không thể!”

Tóc Thịnh A Man bị rượu làm ướt, cả người thê lương, nhếch nhác. Nhưng ánh mắt nàng nhìn Thẩm Khuyết vẫn dữ dội như lửa: “Lúc a huynh ta còn sống ngươi không dám động đến một ngón tay của ta. Phải chờ huynh ấy chết thì ngươi mới dám bắt nạt ta.”

Thẩm Khuyết giận đến tím mặt, tát mạnh một cái khiến Thịnh A Man ngã nhào xuống đất. Hắn rút kiếm bên hông, chỉ thẳng vào nàng, gằn giọng: “Tiện nhân, giết hạng như ngươi chẳng khác gì giết một con gà chọi. Hôm nay, ta tiễn ngươi xuống dưới đoàn tụ với a huynh ngươi!”

Thanh kiếm vung xuống, chợt nghe một giọng nói giận dữ vang lên: “Dừng tay!”



Người tới khoác áo hạc đen, thân hình cao lớn như trúc, gương mặt u lạnh, chính là Thiếu khanh Sát Sự Thính: Thôi Tuần.

Thôi Tuần cùng Lý Doanh vừa từ mộ viên họ Thôi trở về Trường An. Khi ngang qua vùng sông Vị, cả hai trông thấy Lư Hoài đang bước đi trong cơn giận dữ. Ánh mắt Thôi Tuần vô tình hướng về phía Lư Hoài, lại bắt gặp trước cao đài có một nhóm quan viên đang quây quần. Dường như họ đang tổ chức một yến hội thưởng xuân, song trên chủ tọa, một nam nhân lại ngang nhiên khinh nhục một thiếu nữ.

Lý Doanh kiễng chân nhìn kỹ, bất giác thốt lên: “Đó chẳng phải là A Man sao?”

Sắc mặt Thôi Tuần lập tức biến đổi. Hắn nhanh chóng sải bước tiến tới, Lý Doanh vội vàng theo sau, nhưng Thôi Tuần như chợt nhớ ra điều gì, quay đầu nói với nàng: “Cô đừng đi theo.”

Lý Doanh hơi sững sờ, bước chân thoáng khựng lại. Thôi Tuần không chần chừ, lập tức tiến về phía yến hội, ngăn cản Thẩm Khuyết.

Thẩm Khuyết bật cười nhạo báng: “Lại thêm một kẻ bại tướng của Thiên Uy quân, ồ không, phải gọi là tướng hàng mới đúng.”

Thôi Tuần không đáp, sắc mặt càng thêm âm trầm. Các quan viên xung quanh đưa mắt nhìn nhau, rồi từng người định âm thầm rời khỏi. Họ hiểu rõ, họ không thể trêu chọc Thẩm Khuyết, nhưng về phía Thôi Tuần, họ càng không dám đụng vào.

Vậy mà, Thôi Tuần chỉ nhàn nhạt nói: “Không được đi.”

Ba chữ nhẹ nhàng, nhưng tựa như thánh lệnh, khiến đám người đều bất giác dừng bước. Dù đang cầm kiếm nhưng Thẩm Khuyết vẫn bị khí thế ấy dọa đến sững sờ. Nhân lúc đó, A Man vội vã bò dậy, loạng choạng chạy đến bên cạnh Thôi Tuần. Nàng ôm khuôn mặt sưng đỏ, ánh mắt phức tạp nhìn hắn, nhưng chưa kịp mở miệng thì đã nghe hắn nói: “Đi đi.”

A Man ngẩn người: “Ta…”

“Ta nói, đi.”

Từ lần gặp lại ba năm trước, Thôi Tuần vẫn luôn để mặc nàng mắng nhiếc, chưa từng nổi giận dù chỉ một lần. Vậy mà lúc này, giọng nói hắn mang theo sự phẫn nộ hiếm thấy. A Man thoáng run sợ, cắn môi, liếc nhìn hắn một cái rồi siết chặt áo khoác, lảo đảo rời đi.

Thẩm Khuyết giận dữ: “Thôi Tuần, ngươi nghĩ ngươi là ai mà dám xem vào chuyện của ta?”

Hắn lảo đảo vung kiếm xông tới, song bỗng nhiên đầu gối đau nhói, ngã quỵ xuống đất.

Lúc này trong tay Lý Doanh đang là một ngọn quỷ hỏa màu xanh lục, ánh lửa lập lòe rực rỡ. Nàng vốn không định đi theo, nhưng vì lo lắng nên đã âm thầm bám sát. Thẩm Khuyết chật vật bò dậy, nhưng quỷ hỏa lại nhắm ngay đầu gối hắn, khiến hắn tiếp tục ngã. Lặp đi lặp lại mấy lần, cuối cùng Thẩm Khuyết bị quật đến mặt mũi bầm dập, chẳng còn sức đứng dậy. Hắn nghiến răng ken két: “Thôi Tuần… Ngươi là tên khốn kiếp!”

Thôi Tuần không đáp, cũng chẳng phí lời, chỉ cúi người nhặt thanh kiếm rơi trên đất. Ánh mắt hắn dừng trên lưỡi kiếm sáng lạnh, sắc bén đến mức chém sắt như bùn, nhưng bề mặt lại chẳng một vết trầy xước. Rõ ràng, thanh kiếm này rất ít khi được dùng đến.

Thôi Tuần cười nhạt, mũi kiếm sắc bén dí sát cổ họng Thẩm Khuyết.

Thẩm Khuyết sợ đến tỉnh nửa cơn say, không khí quanh đó lập tức trở nên tĩnh mịch, chẳng ai dám thở mạnh. Song hắn vẫn cố cứng miệng: “Thôi Tuần, ngươi dám giết ta sao?”

Thôi Tuần tay giữ chuôi kiếm, điềm nhiên đáp: “Hôm trước, khi ta bị cách chức, chính ngươi đã xông vào phủ ta, tuyên bố muốn lấy mạng ta. Ngươi từng nói giết ta chẳng khác gì giẫm chết một con kiến. Nay ta nói với ngươi, trong ba năm đảm nhiệm vị trí Thiếu khanh của Sát Sự Thính, việc giết Thẩm Khuyết nhà ngươi đối với ta cũng chỉ như giết một con kiến mà thôi. Nhưng… ta không giết ngươi.”

Thẩm Khuyết nhếch mép cười khẩy: “Hừ, ngươi không dám.”

Khóe môi Thôi Tuần hơi nhếch, mũi kiếm nhích thêm một tấc. Một vết cắt mảnh như sợi chỉ xuất hiện trên cổ Thẩm Khuyết, máu đỏ tươi rỉ ra, làm hắn lập tức câm lặng. Thôi Tuần từ tốn nói: “Sớm muộn gì ngươi cũng phải chết, nhưng không phải hôm nay.”

Hắn đưa mắt nhìn quanh đám đông đang bàng hoàng không thốt nên lời, đều giọng nói: “Các vị căm ghét Thẩm Khuyết chắc chẳng kém gì căm ghét ta. Hôm nay coi như ta giúp các vị, góp vui cho bữa tiệc thưởng xuân này.”

Dứt lời, hắn thả thanh kiếm xuống đất, cất tiếng cười lớn rồi ung dung rời đi. Một lúc lâu sau, gia nhân của Thẩm Khuyết mới dám tiến lên đỡ hắn. Thẩm Khuyết phẫn nộ, ánh mắt đầy sát khí, quét qua một lượt quan viên xung quanh. Nhưng tất cả chỉ dám nín cười, cố giữ vẻ mặt nghiêm nghị.

Hắn nghiến răng, giọng đầy căm phẫn: “Về phủ! Lập tức về phủ!”



Vừa về đến phủ, Thẩm Khuyết lập tức lao thẳng vào phòng ngủ. Hắn xoay nhẹ chiếc bình mai trên án thư, bức tường phòng ngủ bỗng dưng mở ra, lộ ra một mật thất bí mật.

Mặc kệ vết thương trên cổ vẫn rỉ máu, Thẩm Khuyết lao vào trong mật thất. Bên trong, một nam tử khoảng ngoài năm mươi, không để râu, đang an nhiên ngồi trên ghế.

Thẩm Khuyết túm lấy cổ áo người kia, gào lên: “Miêu quỷ đâu? Miêu quỷ đâu? Ta đã bảo ngươi giết Thôi Tuần! Giết hắn ngay lập tức!”

Nam tử kia nhẹ nhàng gạt tay Thẩm Khuyết ra, giọng nói bình thản: “Miêu quỷ không phải dùng để giết Thôi Tuần.”

Ông ta đưa mắt quan sát Thẩm Khuyết với khuôn mặt sưng bầm và dáng vẻ lôi thôi, ánh nhìn dừng lại nơi đầu gối hắn: “Tướng quân, ngài đã gặp quỷ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 44: Ta rất thích


Đêm đen gió lớn, một con mèo đen linh hoạt nhảy lên mái nhà, nó nhẹ nhàng bước đi dọc theo mép hiên. Trên mái ngói, một con mèo Xiêm toàn thân trắng muốt đang cuộn mình nằm nghỉ. Nghe thấy tiếng động, mèo Xiêm mở mắt, cảnh giác nhìn về phía mèo đen, sống lưng cong lên, lông mao dựng ngược, gầm gừ dữ dội.

Chuyện chỉ diễn ra trong tích tắc. Mèo đen nhảy bật lên, hai móng vuốt sắc nhọn cào trúng đôi mắt xanh biếc của mèo Xiêm, hàm răng hung ác cắn sâu vào cổ nó. Mèo Xiêm phát ra tiếng kêu thảm thiết, rồi lăn khỏi mái ngói, rơi xuống đất.

Trong phòng, một phụ nhân nghe thấy động liền khoác áo bước ra. Vừa nhìn cảnh tượng, bà đã kinh hoàng hét lên: “Ly Nô! Ly Nô!”

Mèo Xiêm nằm ngửa trên đất, đôi mắt giờ chỉ là hai hố máu, tứ chi giãy giụa yếu ớt giữa không trung, chẳng mấy chốc đã ngừng thở. Phụ nhân run rẩy ngẩng đầu nhìn lên mái nhà. Trên đó, mèo đen đang trệu trạo nhai đôi mắt của con mèo Xiêm đã chết, đôi mắt xanh lục âm u đầy tự đắc, nhìn chằm chằm vào bà.

Thế nhưng, dường như phụ nhân lại chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ ngó nghiêng tìm kiếm khắp nơi: “Ai? Ai đã giết Ly Nô?”

Mèo đen gầm gừ khoái trá, rồi nhảy qua mái nhà bên cạnh, mất dạng.



Trong thư phòng Thôi phủ, Lý Doanh đang gục đầu trên án thư, cặm cụi làm gì đó. Giờ đã sang canh ba, nàng mệt mỏi đến mức mắt nhắm mắt mở, nhưng vẫn cố giữ tinh thần, tiếp tục mài giũa vật gì đó trên bàn. Nửa canh giờ trôi qua, cuối cùng nàng cũng thở phào nhẹ nhõm: “Xong rồi!”

Tiếng nàng vừa dứt, bên ngoài chợt vang lên tiếng gõ cửa. Lý Doanh giật mình:“Ai đó?”

Nói rồi nàng bật cười, tự thấy câu hỏi của mình thật dư thừa. Trong Thôi phủ này, ngoại trừ Thôi Tuần, còn ai có thể thấy nàng chứ?

Nàng bước ra, mỉm cười mở cửa. Dưới ánh trăng lạnh, Thôi Tuần đứng đó, dáng vẻ như trúc, dung mạo như băng.

Hắn nói: “Ta nghe thấy trong thư phòng có tiếng động, nghĩ rằng chắc cô chưa nghỉ ngơi.”

“Đúng vậy.” Lý Doanh điềm đạp nói. “Ta vừa làm xong một món đồ, định tặng ngài.”

Thôi Tuần sửng sốt: “Tặng ta?”

“Ừ.” Lý Doanh dẫn hắn vào thư phòng. Trên án thư, một chiếc nỏ bằng tre <i>(gỗ?)</i> đang được đặt ngay ngắn, trên cánh nỏ, dây cung cũ của hắn được căng chỉnh hoàn hảo.

Nàng cầm lấy chiếc nỏ, xoay trục cong phía sau, khiến dây cung từ từ căng lên. Nàng thử bấm cò, dây cung bật mạnh ra phía trước. Lý Doanh nhìn hắn, cười nói: “Với chiếc nỏ này, ngài có thể tiếp tục sử dụng cây cung cũ của mình.”

Nàng đưa chiếc nỏ cho hắn: “Ngài thử xem.”

Thôi Tuần đón lấy. Hôm trước nàng xin hắn cây cung cũ, khi ấy hắn còn nói, cây cung đã không thể kéo nổi nữa, tặng nàng cũng chẳng sao. Nàng lại bảo hắn rằng, rồi hắn sẽ kéo được.

Nhìn chiếc nỏ trong tay, trong lòng Thôi Tuần dâng lên cảm xúc khó diễn tả. Hắn trầm ngâm một lát, rồi nói: “Hóa ra cô xin cung cũ là để chế thành nỏ gỗ.”*

<i>*Giai đoạn này mình đọc là “nỏ tre”, nhưng về sau là “nỏ gỗ”, để thống nhất mình sẽ đưa về nỏ gỗ ngay từ đầu luôn.</i>

Lý Doanh ngượng ngùng, gãi gãi vành tai: “Là ta tự ý làm bừa. Nhưng ta nghĩ, thay vì để cây cung cũ treo trong phòng khiến ngài mỗi khi nhìn thấy lại thêm đau lòng, chi bằng cải tạo nó, để ngài có thể sử dụng.”

Nàng càng nói càng có chút căng thẳng: “Ta biết cây cung này có ý nghĩa rất lớn với ngài. Nếu ngài không thích, ta có thể sửa lại nguyên dạng.”

“Không cần.” Thôi Tuần bỗng ngẩng đầu, nở nụ cười nhạt: “Ta rất thích.”

Đây là lần đầu tiên hắn nói với nàng lời như vậy. Khi hắn cười, khóe môi cong lên, vẻ lạnh lùng như băng tuyết trong mắt hắn dường như tan chảy một chút. Lý Doanh ngây ngẩn. Nàng cúi đầu, gãi tai, muốn nói điều gì đó nhưng cuối cùng lại không thốt nên lời, khẽ hỏi: “Phải rồi, ngài đến đây muộn thế này là vì có việc gì sao?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh bèn mời hắn ngồi xuống án thư. Trên án thư đen tuyền, một lò than nhỏ đang cháy âm ỉ, phía trên lò là một bình thuốc men trắng. Nàng cẩn thận nhấc bình thuốc xuống, sau đó múc ra một chén thuốc sắc đậm màu: “Canh gừng cam thảo nếu sắc theo phương thuốc của Tôn Tư Mạc thì có thể xua đuổi hàn khí.”

Thôi Tuần bất giác cúi xuống nhìn chiếc áo choàng lông hạc màu đen đang quấn chặt quanh mình, môi mím lại, lặng lẽ nhận lấy chén thuốc. Hắn dùng muỗng ngọc múc một ngụm, vị thuốc ngọt thanh thấm vào ruột gan. Sau khi uống xong ngụm đầu tiên, hắn nói: “Ban ngày ta có xung đột với Thẩm Khuyết. Những ngày tới, cô nhất định phải cẩn thận.”

“Ta? Cẩn thận?” Lý Doanh ngạc nhiên. “Nhưng Thẩm Khuyết đâu nhìn thấy ta.”

“Hắn không thấy, nhưng có kẻ thấy.”

“Ai?” Lý Doanh thử thăm dò: “Ngài muốn nói…?”

Thôi Tuần gật đầu: “Tưởng Lương, cùng với con miêu quỷ của ông ta.”

Nhớ đến ngày đó suýt bị miêu quỷ xé nát yết hầu, lòng Lý Doanh không khỏi lạnh đi: “Nhưng Tưởng Lương và Thẩm Khuyết thì có liên hệ gì? Chẳng lẽ…”

Thôi Tuần gật đầu: “Địch y của Thái hậu bị mất trộm ở cục Thượng Y, nữ sử trông coi khố phòng vì sợ tội mà tự vẫn. Chuyện này chắc chắn không phải chỉ một mình Tưởng Lương bày mưu, mà hẳn phải có người thân phận cao quý đứng đằng sau. Người ta nghi ngờ nhất chính là Thẩm Khuyết.”

Lý Doanh chợt nhớ ra điều gì, liền nói: “Hôm đó khi ta bám theo Bùi Quan Nhạc, Thẩm Khuyết cũng có mặt. Hắn còn thốt ra một câu rất kỳ quái: Chẳng bao lâu nữa, hắn và Bùi Quan Nhạc sẽ sẽ không cần đoán ý a nương. Tại sao lại không cần đoán ý a nương nữa? Trừ phi… hắn muốn dùng miêu quỷ để mưu hại a nương!”

Thôi Tuần nhíu mày, trầm ngâm hồi lâu, rồi cất giọng chắc nịch: “Xem ra, chính là Thẩm Khuyết.”

Hắn trầm tư đến mức quên cả chén canh gừng cam thảo trước mặt. Trong thư phòng, cửa sổ gỗ khép không chặt, gió lạnh ban đêm luồn qua khe cửa, khiến Thôi Tuần không kiềm được khẽ ho khan. Lý Doanh gõ nhẹ lên án thư, nhắc: “Vụ án quan trọng, nhưng sức khỏe cũng không được lơ là.”

Thôi Tuần mỉm cười, dùng chiếc thìa ngọc múc từng ngụm canh, uống cạn chén thuốc một cách nhanh chóng. Lý Doanh thấy vậy mới nhoẻn cười, đứng dậy khép chặt cửa sổ, rồi trở lại bên án thư, hỏi: “Nói đi, ngài nghĩ ra điều gì rồi?”

Thôi Tuần đặt bát canh xuống, trầm giọng đáp: “Thẩm Khuyết hận Thái hậu vì cái chết của Thẩm quốc phu nhân. Tưởng Lương hận Thái hậu vì cái chết của Vãn Hương. Nhưng cái chết của Vãn Hương lại chẳng thể tách rời khỏi Thẩm Quốc phu nhân.” Hắn dừng lại đôi chút, rồi tiếp lời: “Nếu ta đoán không sai, Tưởng Lương không chỉ muốn báo thù Thái hậu, mà còn nhắm đến đứa con trai duy nhất của Thẩm quốc phu nhân. Ông ta trốn khỏi cung, ẩn mình mấy chục năm, rốt cuộc luyện thành miêu quỷ. Sau đó, ông ta lợi dụng sự thù hận của Thẩm Khuyết, cấu kết để mưu hại Thái hậu. Nếu thành công, ông ta tiếp tục dùng miêu quỷ để trả thù Thẩm Khuyết. Nếu thất bại, ông ta chết cũng không đáng tiếc, nhưng Thẩm Khuyết sẽ bị kéo xuống, gánh tội mưu hại Thái hậu và chôn cùng ông ta.”

Nghe xong, Lý Doanh không khỏi ngỡ ngàng: “Tưởng Lương quả là tâm cơ thâm sâu. Chẳng lẽ Thẩm Khuyết không nhận ra sao?”

“Ta nghĩ… Thẩm Khuyết đã phát điên rồi.” Thôi Tuần bình thản đáp. “Hắn biết rõ mẫu thân và tỷ tỷ bị Thái hậu hại chết, nhưng lại không thể báo thù, phải sống dựa vào hơi thở của Thái hậu. Nếu hắn cam chịu thì đã tốt, đằng này hắn lại là người đầy tham vọng. Cho nên, dù biết ý đồ của Tưởng Lương, hắn vẫn tình nguyện để bị lợi dụng.”

Lý Doanh nhíu mày lo lắng: “Vậy tiếp theo hắn định làm gì? Tiếp tục dùng miêu quỷ để hại mẫu thân sao?”

Thôi Tuần chưa kịp trả lời thì chợt cảm thấy luồng khí lạnh thoáng qua. Hắn kéo chặt áo choàng hạc, ho khẽ hai tiếng, rồi đáp: “Nếu thuận lợi, mọi chuyện sẽ kết thúc trong đêm nay.”

Lý Doanh chưa kịp hiểu ý, Thôi Tuần đã cầm lấy chiếc nỏ gỗ nàng vừa chế tác xong, nói: “Vừa hay có dịp dùng tới.”

Nàng đầy nghi hoặc nhìn hắn, toan hỏi rõ thì Thôi Tuần đã giơ tay ra hiệu im lặng. Từ trong tay áo, hắn lấy ra một mũi tên bằng gỗ đào sắc nhọn, đặt lên dây cung. Hắn kéo căng dây nỏ, nhắm chặt vào cửa sổ, ánh mắt sắc bén chờ đợi.

Bất ngờ, một bóng đen mờ mịt như khói hiện lên trên tấm rèm cửa. Khi bóng đen lao vào phòng, Thôi Tuần lập tức bóp cò, mũi tên bằng gỗ đào xé gió lao đi, xuyên thẳng qua bóng đen.

Lý Doanh chỉ nghe thấy tiếng gào thét đau đớn, vội vàng chạy ra mở cửa sổ, nhìn xuống thấy một con mèo đen bị trúng tên ở bụng, đang lăn lộn trên đất kêu gào. Nàng kinh hãi kêu lên: “Miêu quỷ!”

Miêu quỷ bị phát hiện, mặc dù trọng thương nhưng vẫn gắng sức bỏ chạy. Lý Doanh vừa định đuổi theo thì Thôi Tuần ngăn lại:“Không cần, ta sẽ dẫn vũ hầu truy bắt. Cô ở lại đây chờ ta.”

Nàng biết hắn lo lắng cho sự an toàn của mình nên đành gật đầu: “Được.”

Thôi Tuần đẩy cửa bước ra, tay cầm chặt chiếc nỏ gỗ. Bước chân vừa chạm ngưỡng cửa, hắn bỗng ngoảnh lại, nhìn nàng, nhẹ nhàng thốt hai chữ: “Đa tạ.”



Thôi Tuần dẫn theo nhóm vũ hầu của Sát Sự Thính, men theo dấu máu của miêu quỷ, tiến đến một phủ đệ lớn trong phường An Nhân. Dừng chân trước cánh cổng sơn son, ánh mắt hắn dừng lên tấm biển đề bốn chữ lớn: “Thẩm Quốc công phủ”.

Thôi Tuần chau mày, vung tay ra hiệu. Đám vũ hầu lập tức tiến lên, kẻ đi đầu tung một cước mạnh mẽ, đá văng cánh cửa đỏ tươi. Tiếng “rầm” dội xuống, cả đoàn người khí thế hùng hổ theo Thôi Tuần xông vào, lần theo dấu máu đến tận tẩm phòng của Thẩm Khuyết.

Thẩm Khuyết đã khoác áo bước xuống giường, vừa trông thấy Thôi Tuần thì ngẩn người: “Thôi Tuần?”

Thôi Tuần đẩy hắn qua một bên, bước thẳng vào nội thất. Thẩm Khuyết sững lại, sau đó giận dữ quát lớn: “Thôi Tuần! Ngươi nửa đêm xông vào Quốc công phủ, rốt cuộc muốn làm gì?”

Thôi Tuần chẳng buồn phí lời, ánh mắt sắc bén quét qua căn phòng. Dấu vết máu loang đến đây thì biến mất, hắn cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh nhìn dừng lại trên chiếc bình mai men vàng đặt trên án thư.

Thẩm Khuyết thấy vậy, thần sắc hơi biến, vội đứng chắn trước mặt hắn, giọng nói đanh thép nhưng mang theo chút hoảng loạn: “Thôi Tuần! Ngươi thật to gan, dám xông vào phủ đệ của ta! Thật không coi ai ra gì!”

Thôi Tuần nhìn hắn đầy chán ghét, giọng nói lạnh băng: “Thái hậu lệnh ta điều tra vụ án miêu quỷ. Vương công quý tộc, đều có thể bắt trước xét sau. Nếu ngươi có ý kiến, cứ việc bẩm báo với Thái hậu!”

Thẩm Khuyết sững người, rồi bật cười lạnh lẽo: “Đừng mang Thái hậu ra để dọa ta! Ta là biểu huynh của Thánh nhân, há lại để loại người như ngươi nhục mạ?”

Thôi Tuần chẳng buồn tranh luận, liếc sang đám vũ hầu bên cạnh. Bọn họ lập tức tiến lên, túm lấy Thẩm Khuyết kéo sang một bên.

Thẩm Khuyết nổi trận lôi đình, quay sang quát mắng đám gia nhân đang đứng chết trân bên ngoài: “Lũ các người làm phản rồi sao? Còn đứng đờ ra đó làm gì?”

Đám gia nhân lúc này mới phản ứng, cuống quýt chạy tới muốn ngăn cản vũ hầu. Nhưng khi thấy ánh thép lóe lên từ thanh đao rút ra khỏi vỏ, vũ hầu quát lớn: “Sát Sự Thính tra án, kẻ nào dám cản?”, cả đám đều cứng người, không ai dám tiến lên.

Giữa tiếng người huyên náo, Thôi Tuần bước đến trước thư án, cầm lấy chiếc bình mai men vàng. Nào ngờ chiếc bình đã được gắn cố định vào án thư, không thể nhấc lên. Hắn nhíu mày, hai tay xoay bình một vòng. Tiếng “cách” vang lên, một cánh cửa mật thất hiện ra trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 45: Là bạn


Mọi người lần lượt xuống mật thất, nhưng bên trong lại trống không, không hề có một bóng người.

Thẩm Khuyết cuối cùng cũng thở phào, lớn tiếng nói: “Thôi Tuần! Ngươi dám tự tiện xông vào phủ của ta, nhất định ta sẽ tấu lên Thánh nhân, tru diệt ngươi để răn đe kẻ khác!”

Thôi Tuần không thèm để tâm, hắn ngồi xổm xuống, nhấc lên một con chuột.

Con chuột đã bị lột da, cả người máu thịt nhầy nhụa, dường như chưa chết hẳn, thân thể vẫn co giật từng hồi. Dù các vũ hầu đã quen thuộc với những cảnh tra tấn rùng rợn, nhưng trước thảm trạng này vẫn không khỏi cảm thấy ghê tởm, có người thậm chí còn suýt nôn mửa.

Ngay cả Thẩm Khuyết, khi vừa thấy con chuột, cũng theo bản năng che miệng, sau đó cố nén cảm giác nôn nao, hắn nói: “Chỉ là một con chuột, có thể chứng minh được điều gì?”

Thôi Tuần vẫn im lặng. Hắn biết tính tình của loài miêu quỷ ác độc, thích hành hạ và giết chóc sinh linh yếu ớt. Con chuột bị lột da này giống hệt những con quạ bị móc mắt trước đó, chứng tỏ miêu quỷ từng ẩn nấp trong mật thất. Nhưng giờ mật thất trống rỗng, vậy thì miêu quỷ và Tưởng Lương đã đi đâu?

Thôi Tuần đảo mắt quanh căn phòng. Bốn bề mật thất đều là đồng tường thiết bích, chỉ có lối ra duy nhất thông với phòng ngủ của Thẩm Khuyết. Kể cả Tưởng Lương nghe thấy động tĩnh rồi dẫn miêu quỷ chạy thoát, cũng không thể hoàn toàn không để lại dấu vết.

Vậy Tưởng Lương đã trốn đi bằng cách nào?

Thẩm Khuyết vừa thẹn vừa giận, hét lên: “Thôi Tuần! Ngươi đừng ép người quá đáng!”

Con chuột trong tay Thôi Tuần ngừng co giật, hắn đặt nhẹ nó xuống đất. Tại đây, có không ít con chuột hoặc bị móc mắt hoặc bị ăn mất tim. Thôi Tuần cười nhạt: “Không ngờ Thẩm Quốc công còn có thú vui như hành hạ chuột.”

Thẩm Khuyết sững sờ. Hắn vốn ghét người khác gọi mình là “Quốc công”, rõ ràng Thôi Tuần cố ý châm chọc. Hắn giận dữ: “Thôi Tuần!”

Thôi Tuần đứng dậy, thản nhiên đáp: “Quốc công không cần giải thích với ta những con chuột này đã chết như thế nào. Cứ để Thái hậu và Thánh nhân tự mình phân xử.”

Dù không có chứng cứ xác thực chứng minh Thẩm Khuyết chứa chấp miêu quỷ, nhưng xác những con chuột trong mật thất Quốc công phủ vẫn khiến Thánh nhân nổi lên nghi ngờ. Người hạ chỉ giam lỏng Thẩm Khuyết trong phủ. Đợi đến khi bắt được Tưởng Lương, rồi sẽ định đoạt sau.

Thế nhưng, từ lúc rời khỏi Quốc công phủ, Tưởng Lương như cá lạc vào biển rộng, không còn tung tích. Thôi Tuần dẫn người của Sát Sự Thính lục soát khắp thành Trường An nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng ông ta.

Thôi Tuần lo miêu quỷ sẽ gây bất lợi cho Lý Doanh, bèn dán bùa quanh Thôi phủ, căn dặn nàng không được ra ngoài. Lý Doanh trêu ghẹo: “Ta vốn là một quỷ hồn, dán bùa phòng quỷ để phòng một con quỷ khác, nghe cứ sai sai thế nào ấy.”

Thôi Tuần đáp: “Miêu quỷ hung ác, tính tình lại thù dai. Nó bị thương ở phủ ta, tất sẽ quay lại. Cẩn thận không thừa.”

Lý Doanh lo lắng hỏi: “Nếu vậy, ngài dùng mũi tên bằng gỗ đào, suýt nữa thì gi.ết ch.ết nó, chẳng phải nó càng muốn trả thù ngài hơn sao?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Miêu quỷ chỉ bắt nạt kẻ yếu. Ta đã làm nó bị thương, nó không dám tìm ta. Nhưng hai lần săn bắt cô đều không thành, chắc chắn lần thứ ba sẽ tiếp tục. Vậy nên cô không cần lo cho ta, chỉ cần tự bảo vệ mình là đủ.”

Dù hắn nói vậy, nhưng Lý Doanh vẫn thấp thỏm không yên. Thay vì để Thôi Tuần lục tung Trường An, nàng nghĩ chi bằng tìm cách để miêu quỷ tự hiện thân.



Khi ý định này vừa lóe lên trong đầu, Quỷ thương Ngư Phù Nguy lại đến tìm nàng.

Trước đó, tại Quỷ thị Trường An, Ngư Phù Nguy từng chế nhạo Thôi Tuần không kéo nổi cây cung cũ, khiến Lý Doanh cứ giận hắn mãi. Sau đó, hai người không gặp lại nhau, chẳng ngờ lần này hắn chủ động tìm đến, vừa thấy nàng liền xin lỗi: “Lần trước ở Quỷ thị, mỗ đã lỡ lời, là mỗ không đúng.”

Hắn đã xin lỗi, Lý Doanh cũng không tiện chấp nhặt, bèn đáp: “Chỉ cần ngài không nói xấu Thôi Tuần, ta sẽ không giận ngài nữa.”

Ngư Phù Nguy bật cười: “Yên tâm, sẽ không nói nữa.”

Lý Doanh ngồi bên hiên, nhìn những đóa hải đường đầy sân, đôi chân đi giày xếp lớp thoáng đung đưa, lộ vẻ yêu kiều của thiếu nữ. Nàng nói: “Nếu ngài đã hứa không nói xấu Thôi Tuần, vậy chúng ta có thể làm bạn.”

“Bạn?” Ngư Phù Nguy nghiêng đầu hỏi.

“Phải, bạn.” Lý Doanh ung dung đáp.

“Nhưng mỗ chỉ là một thương nhân, còn cô lại là công chúa Đại Chu.”

Lý Doanh cười: “Thương nhân hay công chúa, chẳng qua chỉ là thân phận. Thân phận không thể dùng làm tiêu chuẩn để phán xét một người. Bỏ qua thân phận, mọi người đều giống nhau, hai mắt, một mũi, có gì khác biệt đâu?”

Nàng nghĩ một lúc, rồi nói thêm: “Tuy đôi lúc ngài ăn nói không được dễ nghe, nhưng ngài từng giúp ta nhiều lần, lại cưu mang những Hồ cơ không nơi nương tựa. Ngài giao dịch âm dương, lấy phí của khách giàu, còn khách nghèo thì miễn. Chứng tỏ ngài không phải người xấu. Hà cớ gì ta không thể kết bạn được với ngài?”

Ngư Phù Nguy ngẩn người, hỏi lại: “Sao công chúa biết chuyện ta không thu phí?”

Lý Doanh trả lời: “Hôm đầu tiên gặp ngài để đổi vàng nén, ta đã cất công hỏi thăm.”

“Vậy vì sao công chúa không hề oán giận?”

Lý Doanh ngả người ra sau, đôi chân đập nhẹ vào bờ tường dưới hiên, bật cười khúc khích: “Tất nhiên là vì ta tự nhận mình thuộc nhóm khách giàu.”

Nghe vậy, Ngư Phù Nguy cũng bật cười ha hả.

Một trận gió thoảng qua, cánh hoa hải đường rơi đầy mặt đất. Lý Doanh vươn tay ra, làn da trắng như ngọc phản chiếu ánh sáng mềm mại, một cánh hoa hải đường chậm rãi đáp xuống lòng bàn tay nàng. Ngư Phù Nguy cũng nghiêng đầu nhìn, ánh mắt không tự chủ dừng lại trên gương mặt trắng trẻo thanh tú của nàng, lòng thoáng xao động. Hắn miễn cưỡng dời mắt, giọng nói chậm rãi vang lên: “Mỗ nghe nói, Trung lang tướng Thẩm Khuyết có liên quan đến vụ án miêu quỷ nên đã bị giam lỏng trong phủ. Hiện giờ Thôi Tuần đang lùng sục khắp Trường An để truy tìm miêu quỷ.”

Lý Doanh nhẹ giọng đáp: “Tin tức của ngài quả là nhanh nhạy.”

Ngư Phù Nguy mỉm cười: “Nếu thương nhân không nhạy bén với tin tức, thì làm ăn thế nào được?”

Trong lòng Lý Doanh dấy lên chút tò mò, khẽ hỏi: “Ngư tiên sinh, phụ thân ngài đặt tên cho ngài là Phù Nguy, hẳn không mong ngài làm thương nhân. Vậy vì sao ngài vẫn tiếp quản sự nghiệp của ông, tiếp tục buôn bán?”

Ngư Phù Nguy mỉm cười, trong nụ cười lộ ra một chút đắng chát: “Vì phụ thân luôn tin rằng một ngày nào đó, Tân chính Thái Xương sẽ cho phép thương nhân tham gia khoa cử, gia nhập quan trường. Nhưng đến lúc ông mất, vẫn chẳng có gì thay đổi.”

Nghe vậy, Lý Doanh không khỏi cảm thấy áy náy: “Xin lỗi ngài…”

Ngư Phù Nguy lắc đầu: “Thôi, chuyện đã qua rồi.”

Lý Doanh tiếp lời: “Vậy ngài có muốn tham gia khoa cử không?”

Ngư Phù Nguy thoáng sững sờ, giọng nói trầm xuống: “Sao lại không muốn chứ?”

Nếu không muốn, thì vì cớ gì lại ngày đêm khổ luyện, đầu treo xà nhà, dùi đâm vào chân, miệt mài đọc sách? Minh kinh, minh pháp, minh tự, minh toán, [1] môn nào hắn cũng tinh thông. Hắn tin rằng nếu được dự khoa cử, hắn sẽ đỗ Trạng nguyên, nếu được tham gia trị quốc, hắn sẽ an bang định quốc. Nhưng thực tế, ngay cả tư cách dự thi hắn cũng không có, nói gì đến chuyện trị quốc.

<i>[1] Minh kinh: nghĩa là “hiểu rõ kinh điển”. Đây là môn thi tập trung vào việc nghiên cứu và giải thích các kinh điển Nho gia, như “Tứ thư”, “Ngũ kinh”.</i>

<i>Minh pháp: nghĩa là “hiểu rõ pháp luật”. Đây là môn thi liên quan đến lĩnh vực luật pháp và các quy định hành chính.</i>

<i>Minh tự: nghĩa là “hiểu rõ chữ viết”. Môn thi này kiểm tra kỹ năng sử dụng và viết chữ Hán.</i>

<i>Minh toán: nghĩa là “hiểu rõ toán học”. Đây là môn thi dành cho những người giỏi về tính toán và quản lý tài chính.</i>

Nhìn thấy vẻ buồn bã thoáng qua gương mặt hắn, Lý Doanh nhẹ nhàng an ủi: “Mẫu thân ta vẫn đang thúc đẩy các chính sách cải cách, có lẽ không quá mười năm nữa, ngài sẽ có cơ hội tham gia khoa cử.”

Ngư Phù Nguy quay sang nhìn nàng, ánh mắt có chút phức tạp. Hắn muốn hỏi nàng, chẳng lẽ nàng không biết về những lời đồn đại đang lan truyền trong triều và dân gian hay sao? Nhưng khi nhìn thấy gương mặt tươi sáng của nàng, hắn nuốt xuống lời định nói.

Hắn im lặng, bỗng Lý Doanh lại nói: “Phải rồi, nếu tiên sinh đã đến đây, có thể giúp ta một việc gấp được không?”

“Việc gấp gì?”

“Thôi Tuần đã dán bùa khắp xung quanh Thôi phủ, ta không ra ngoài được. Ngài có thể giúp ta gỡ bùa, để ta ra ngoài không?”

“Gỡ bùa? Tại sao phải làm vậy?”

“Thôi Tuần nói rằng, miêu quỷ thù rất dai. Nó đã hai lần tìm cách giết ta nhưng đều thất bại, lần thứ hai còn bị trọng thương. Nếu nó thật sự thù dai, chắc chắn sẽ đến tìm ta lần thứ ba. Ta muốn ra ngoài làm mồi nhử, dụ nó xuất hiện.”

Ngư Phù Nguy kinh hãi: “Không được!”

“Tại sao không?”

“Sau khi bị thương, bản tính hung ác của miêu quỷ càng tăng lên gấp mười. Mỗ đến Thôi phủ là vì lo lắng cho sự an toàn của công chúa, giờ thấy công chúa vô sự, mỗ đã yên lòng. Sao mỗ có thể để công chúa lấy thân mạo hiểm được?”

“Nhưng nếu cứ để miêu quỷ tự do bên ngoài, sẽ còn nhiều người vô tội phải chịu họa.”

Ngư Phù Nguy vẫn kiên quyết lắc đầu: “Ta không đồng ý.”

Lý Doanh thở dài: “Ta cứ nhất nhất muốn rời khỏi Thôi phủ. Nếu ngài đồng ý, ít nhất còn có thể bảo vệ ta. Nếu không, ta đành tự mình mạo hiểm.”

Ngư Phù Nguy nghe xong, thoáng sững người, sau đó cười khổ: “Tại sao công chúa không nhờ Thôi Tuần giúp?”

“Vì hắn chắc chắn sẽ không đồng ý.”

“Sao công chúa lại khẳng định như vậy?”

Nàng không trả lời, ánh mắt hướng xuống, nhìn đóa hải đường trong lòng bàn tay. Gian thư phòng thoang thoảng mùi hương từ chậu mẫu đơn tím do lão bộc câm mới cắm sáng nay.

Lý Doanh lặng người, nàng bất giác nhớ lại hôm A Man bị Thẩm Khuyết ức h**p. Thôi Tuần từng bảo nàng đừng đi theo, hẳn hắn đã đoán ra Tưởng Lương đang ẩn mình trong Thẩm Quốc công phủ. Nếu nàng ra tay giáo huấn Thẩm Khuyết, ắt sẽ để lộ sơ hở, khiến Tưởng Lương nhận ra đầu mối. Quả nhiên, mọi sự diễn ra đúng như dự đoán của hắn.

Tưởng Lương không chỉ phát hiện manh mối, mà còn sai miêu quỷ đến thăm dò. Nhưng nhờ Thôi Tuần chuẩn bị sẵn, dùng mũi tên đào làm trọng thương miêu quỷ, nàng mới được an toàn.

Bởi vậy, với tính cách của Thôi Tuần, hắn sẽ không để chuyện này tái diễn.

Lý Doanh khẽ đáp: “Hắn lo lắng cho ta, nên sẽ không đồng ý để ta rời phủ.”

Ngư Phù Nguy thiếu chút là kinh ngạc đến rơi cả cằm. Lo lắng? Một kẻ lạnh lùng như Thôi Tuần, cũng biết lo lắng cho người khác sao?

Tuy hắn không biết vì sao Thôi Tuần giữ Lý Doanh lại trong phủ, nhưng hắn đã không ưa gì Thôi Tuần từ lâu. Vì thế, hắn càng tin chắc rằng Thôi Tuần không hề có ý tốt. Thế mà Lý Doanh lại nói Thôi Tuần lo lắng cho nàng?

Ngư Phù Nguy định nói gì đó, nhưng nhớ đến lời hứa không nói xấu Thôi Tuần, hắn đành cố nhịn, khẽ hỏi: “Cớ gì công chúa lại nghĩ rằng Thôi Tuần sẽ quan tâm đến an nguy của công chúa?”

Lý Doanh siết chặt nhành hoa hải đường trong tay, đôi mắt cụp xuống, nhẹ giọng đáp: “Ta chỉ cảm thấy vậy.”

Nàng ngừng một chút, rồi nói thêm: “Hơn nữa, ta tin rằng ta đúng.”



Ngư Phù Nguy chỉ biết thở dài bất lực, cuối cùng đành gỡ bỏ những lá bùa, lén đưa Lý Doanh ra khỏi Thôi phủ. Lý Doanh bảo hắn dẫn nàng đến Quỷ thị Trường An. Quỷ thị là nơi âm khí tụ tập, những chuyện kỳ bí thường xuyên xảy ra, miêu quỷ vốn ưa thích nơi này. Nếu nhìn thấy nàng, ắt hẳn nó sẽ lộ diện.

Ngư Phù Nguy nắm chặt dao găm gỗ đào trong tay áo, cùng với một xấp bùa vàng dày cộm. Hắn bất đắc dĩ nói: “Mỗ có linh cảm Thôi Tuần sẽ giết mỗ mất.”

Lý Doanh nhẹ giọng trấn an: “Ta sẽ không để hắn giết ngài.”

Chỉ một câu nói nhẹ nhàng, nhưng vào tai Ngư Phù Nguy, lại như khiến máu nóng trong người sôi sục. Hắn mơ hồ nghĩ, chỉ cần có lời này của nàng, dù có phải chết vì nàng, hắn cũng cam lòng.

Vừa suy nghĩ lung tung, hắn vừa cùng Lý Doanh tiến sâu vào Quỷ thị. Hôm nay, Quỷ thị hiu quạnh hơn thường lệ, không thấy một ai bày sạp. Ngư Phù Nguy lên tiếng: “Thôi Tuần đã lục soát khắp Trường An không biết bao nhiêu lần, tất nhiên Quỷ thị này cũng không ngoại lệ. Những kẻ bày sạp ở đây phần lớn đều có án trong người, nên nhất thời sẽ phải lẩn tránh ngay.”

Lý Doanh gật đầu. Không có người bán, cũng chẳng có người mua, cả khu rừng rộng lớn chìm trong tịch mịch, chỉ có viên dạ minh châu xanh biếc trong tay Ngư Phù Nguy tỏa ra ánh sáng dìu dịu. Nàng cảm thấy viên minh châu này có chút quen thuộc, bèn nghiêng đầu nhìn kỹ. Ngư Phù Nguy cười nói: “Đây là món quà công chúa đã tặng mỗ ở Quỷ thị, để cảm ơn mỗ vì đã cứu công chúa.”

Lý Doanh nghe vậy mới nhớ ra đúng là có chuyện như thế. Ngư Phù Nguy lại nói: “Viên minh châu này, mỗ chưa từng để nó rời khỏi người.”

Lời hắn có chút mập mờ, khiến Lý Doanh sững lại. Ngay lúc đó, Ngư Phù Nguy đột nhiên “suỵt” một tiếng, ra hiệu im lặng.

Vì phía sau họ, một bóng đen đang nhanh chóng tiến lại gần.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 46: Thôi Tuần, ngài giận sao


Khi bóng đen lao về phía Lý Doanh, Ngư Phù Nguy lập tức rút dao găm gỗ đào từ trong tay áo, trở tay đâm thẳng vào thân ảnh đó.

Nhưng thân ảnh kia linh hoạt vô cùng, nhát dao của Ngư Phù Nguy chỉ sượt qua cánh tay hắn, lưu lại một vết thương nông. Ngư Phù Nguy bảo vệ Lý Doanh, cả hai quay người lại nhìn, chỉ một cái liếc mắt, cả hai đều sửng sốt.

Hóa ra, kẻ lao tới Lý Doanh không phải miêu quỷ, mà là một con người.

Người đó trạc năm mươi tuổi, da dẻ đen đúa, gầy gò, cằm không có râu, nhưng điều kỳ lạ nhất là hắn bò bằng bốn chi như thú vật, đôi mắt phát ra ánh sáng xanh âm u, thoạt nhìn chẳng khác gì một con mèo, mà không phải con người.

Lý Doanh kinh ngạc nói: “Đây là… Tưởng Lương?”

Ngư Phù Nguy nắm chặt dao găm gỗ đào, che chắn trước người Lý Doanh: “Ông ta là kẻ từng nuôi miêu quỷ, hoạn quan Tưởng Lương?”

Lý Doanh gật đầu: “Sao ông ta sao lại thành ra thế này?”

Ngư Phù Nguy nhíu mày thật sâu, nhìn Tưởng Lương cong lưng như miêu quỷ, nhe răng gầm gừ. Hắn chợt tỉnh ngộ: “Đây không phải Tưởng Lương, mà là miêu quỷ!”

Lý Doanh sửng sốt: “Ngài nói gì?”

Ngư Phù Nguy trầm giọng giải thích: “Lần trước miêu quỷ tấn công cô, bị Thôi Tuần dùng mũi tên gỗ đào bắn trọng thương. Có lẽ sau khi bị thương, nó phát cuồng phản phệ chủ nhân. Tưởng Lương mà cô thấy bây giờ, chỉ còn là một cái xác không hồn. Thân thể ấy đã bị miêu quỷ chiếm đoạt rồi.”

Lý Doanh rùng mình: “Vậy, Tưởng Lương đã chết rồi sao?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Không chỉ chết, mà hồn phách cũng bị miêu quỷ cướp đoạt. Hắn không thể luân hồi, cũng chẳng đầu thai, chỉ có thể vĩnh viễn làm nô lệ cho miêu quỷ.”

Nghe xong, lòng Lý Doanh lạnh toát, nàng chỉ cảm thấy chuyện này quỷ dị đến cực điểm. So ra, Tưởng Lương còn đáng thương hơn nàng. Nàng chỉ bị giam cầm nơi trần thế, không thể đầu thai, nhưng Tưởng Lương thì ngay cả ý thức của mình cũng chẳng còn, mãi mãi phải sống trong hình dạng người không ra người, quỷ không ra quỷ.

Tưởng Lương, hay đúng hơn là miêu quỷ trong thân xác ông ta, dùng đôi mắt âm u màu xanh lục, căm hận nhìn chằm chằm Lý Doanh và Ngư Phù Nguy. Ông ta bò quanh hai người, nhanh như chớp, tìm kiếm sơ hở để tấn công Lý Doanh. Ngư Phù Nguy cầm chặt dao găm gỗ đào trong tay, ánh mắt đầy cảnh giác.

Đột nhiên, Tưởng Lương bật nhảy ra sau lưng hai người, rồi nhanh như cơn lốc lao về phía Lý Doanh. Nhưng ông ta nhanh cỡ nào thì Ngư Phù Nguy vẫn nhanh hơn. Hắn lập tức kéo tay Lý Doanh lui lại. Tưởng Lương rơi xuống đất, nhào tới hụt, nhưng lần này lại dừng bước, ánh mắt dán chặt vào khuôn mặt Lý Doanh.

Ông ta thoáng ngây người, rồi khàn giọng thốt lên bốn chữ: “Công chúa Vĩnh An?”

Bốn chữ vừa thốt ra, cả Ngư Phù Nguy lẫn Lý Doanh đều bất ngờ. Lý Doanh lên tiếng: “Ông ta là Tưởng Lương, ông ta nhận ra ta. Chắc vẫn còn ý thức!”

Đôi đồng tử xanh biếc của Tưởng Lương, vốn nhỏ như đầu kim, giờ dần tan đi, lóe ra ánh sáng xanh mờ nhạt. Ông ta cười khanh khách, giọng nói đầy vẻ mỉa mai: “Không ngờ ba mươi năm sau, công chúa Vĩnh An được Thái hậu sủng ái nhất lại biến thành cô hồn dã quỷ. Báo ứng, báo ứng!”

Ngư Phù Nguy lập tức chắn trước mặt Lý Doanh, giọng cương quyết: “Dù ngươi oán hận Thái hậu, nhưng công chúa chưa từng làm điều gì sai với ngươi, ngươi không được làm hại nàng!”

“Thật đúng là một kẻ hộ hoa si tình.” Tưởng Lương chống hai tay xuống đất, mái tóc bạc rối tung rũ xuống gương mặt khô héo. Lòng bàn tay ông ta rớm máu, dường như ông ta không cảm nhận được chút đau đớn nào. Nhìn Ngư Phù Nguy bảo vệ Lý Doanh hết mình, Tưởng Lương cười nhạt: “Thương nhân, công chúa, người sống, quỷ hồn, thú vị, thú vị.”

Ánh mắt Lý Doanh thoáng lộ vẻ thương xót: “Tưởng Lương, nhân lúc ngươi còn có thể khống chế thân xác mình thì hãy dừng lại. Nếu vậy, có lẽ ngươi vẫn còn cơ hội xuống Địa phủ, gặp lại Vãn Hương.”

“Ngươi không xứng để nhắc đến Vãn Hương!”

“Ta biết, a nương ta đã hại chết Vãn Hương.” Lý Doanh khẽ nói: “Ta không thể biện hộ rằng Vãn Hương đáng nhận kết cục đó. Có lẽ a nương đã quá nghiêm khắc, dẫn đến bi kịch sau này. Nhưng, Vãn Hương đối với ngươi một lòng một dạ. Nếu dưới cửu tuyền nhìn thấy ngươi thế này, nàng sẽ rất đau lòng.”

“Điều khiến nàng đau lòng nhất là ta không thể báo thù cho nàng!”

“Tưởng Lương, ngươi không giết được a nương ta đâu. Nếu tiếp tục như vậy, ngươi sẽ bị miêu quỷ nuốt trọn, đời đời kiếp kiếp không thể siêu sinh.”

“Ta không giết được bà ta, nhưng có thể giết đứa con gái bà ta yêu thương nhất!” Đôi mắt Tưởng Lương dần trở lại màu xanh lục, con ngươi thu nhỏ như đầu kim, nụ cười quỷ dị đầy hiểm ác: “Ta không siêu sinh, thì công chúa, ngươi cũng đừng hòng siêu sinh!”

Hắn vừa dứt lời, liền há miệng lộ ra hai chiếc răng nanh sắc nhọn, lao thẳng về phía Lý Doanh.

Ngư Phù Nguy nhanh tay rút bùa vàng từ tay áo, ném thẳng vào người Tưởng Lương. Lá bùa vừa chạm vào da hắn liền bỏng rát, tạo thành những vết phồng rộp đáng sợ, nhưng hắn chẳng mảy may để ý, như thể quyết tâm liều mạng giế.t ch.ết Lý Doanh.

Ngư Phù Nguy kinh hãi, vừa định giơ kiếm lên cản, thì đột nhiên một mũi tên gỗ đào xé gió bay tới, nhanh như chớp bắn thẳng vào Tưởng Lương.

Tưởng Lương nghiêng người né tránh, nhưng mũi tên vẫn xuyên qua đùi hắn. Hắn hét lên đau đớn, lăn lộn trên mặt đất. Ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Thôi Tuần cưỡi ngựa Khang Cư, [1] tay cầm nỏ, lao tới như một cơn gió.

<i>[1] ngựa Khang Cư: là một loại ngựa nổi tiếng xuất xứ từ vùng đất Khang Cư (nay thuộc khu vực Trung Á, có thể là Kazakhstan hoặc Uzbekistan ngày nay) trong lịch sử cổ đại. Đây là một trong những giống ngựa được đánh giá cao về sự dẻo dai, tốc độ và sức mạnh, thường được các nước cổ đại như nhà Hán và các vương quốc ở Tây Vực sử dụng làm chiến mã hoặc ngựa quý dành cho tầng lớp quý tộc.</i>

Tưởng Lương không cam lòng, trừng mắt nhìn Ngư Phù Nguy và Lý Doanh. Biết hôm nay không thể giết Lý Doanh, Tưởng Lương đành kéo lê chiếc chân bị thương, dùng tứ chi bò đi như mèo, nhanh chóng biến mất vào màn đêm.



Thôi Tuần ghìm chặt dây cương, chiến mã dưới thân hắn lập tức dừng lại. Ngồi trên lưng ngựa, hắn cúi đầu nhìn xuống Ngư Phù Nguy và Lý Doanh. Ánh mắt hắn lạnh như băng khiến Lý Doanh không khỏi cảm thấy chột dạ, trong khi Ngư Phù Nguy chỉ biết gượng cười, vừa định lên tiếng thì đã bị giọng nói lạnh lùng của hắn cắt ngang, từng chữ rõ ràng: “Ngư Phù Nguy, có phải ngươi chán sống nữa rồi không?”

Ngư Phù Nguy khựng lại, gượng gạo đáp: “Thôi Thiếu khanh, ngài quá lời rồi.”

Lý Doanh lên tiếng bênh vực: “Ngài chớ trách hắn, là ta muốn bắt miêu quỷ nên ép hắn đưa ta ra ngoài.”

Nghe vậy, ánh mắt Thôi Tuần càng trở nên u ám. Lý Doanh đã lâu không thấy hắn lộ ra vẻ mặt như vậy, lòng nàng không khỏi hoảng loạn, môi mấp máy muốn giải thích, nhưng dường như hắn chẳng buồn nghe. Hắn xoay ngựa định rời đi, Lý Doanh vội kêu lên: “Thôi Tuần, ngài đi đâu vậy?”

Nàng giữ chặt dây cương, dáng vẻ không chịu nhượng bộ nếu hắn không trả lời. Cuối cùng, hắn cũng mở miệng, giọng điệu hờ hững: “Không liên quan tới cô.”

Ánh mắt Lý Doanh dừng lại ở vết máu trên đầu ngựa: “Sao lại không liên quan? Ngài định đi truy đuổi Tưởng Lương, đúng không? Đưa ta theo cùng.”

Giọng hắn vẫn nhàn nhạt, không để lộ bất kỳ cảm xúc nào: “Có Ngư Phù Nguy dẫn cô đi, sao cứ bám lấy ta?”

Lý Doanh sững sờ. Ngư Phù Nguy không chịu nổi nữa, vừa định lên tiếng thì bị nàng ngăn lại bằng ánh mắt. Thấy thế, dù không cam tâm nhưng Ngư Phù Nguy cũng không nói gì thêm. Lý Doanh nắm chặt dây cương, kiên quyết nói: “Thôi Tuần, ta muốn đi. Ngài đưa ta theo.”

Nàng từ từ buông dây cương, rồi giơ tay ra, đôi mắt sáng long lanh nhìn hắn. Ánh mắt Thôi Tuần vẫn băng lãnh như sương tuyết, nhưng bàn tay giữ dây cương của hắn dần siết chặt. Hắn nhìn nàng rất lâu, đến khi nàng nghĩ rằng hắn sẽ bỏ mặc mình, thì bất chợt, hắn đưa tay ra, nắm lấy cổ tay nàng. Trái tim Lý Doanh như rơi xuống đất, nàng hơi mím môi, nở một nụ cười nhẹ, dưới sự giúp đỡ của hắn, nàng leo lên ngựa.

Ngồi vững trên lưng ngựa, nàng ngoảnh lại nhìn Ngư Phù Nguy: “Ngư tiên sinh, ngài cứ…”

Lời chưa dứt, Thôi Tuần đã vung roi quất mạnh. Ngựa Khang Cư đau đớn hí vang, phóng đi như mũi tên rời dây cung.



Con ngựa băng qua cánh rừng với tốc độ kinh người, gió thổi vù vù bên tai Lý Doanh. Thôi Tuần ngồi phía sau nàng, hai tay nắm chặt dây cương, vòng qua người nàng, dù không chạm vào nhưng đủ để giữ nàng khỏi ngã. Suốt chặng đường, hắn không nói một lời.

Đến khi vết máu trước mắt biến mất giữa khu rừng rậm, Thôi Tuần ghìm dây cương dừng ngựa lại. Hắn cau mày nhìn vào khu rừng sâu hun hút trước mặt, rồi thúc ngựa chậm rãi tiến vào.

Bên trong khu rừng chỉ có tiếng vó ngựa lộc cộc trên nền đất rắn. Lý Doanh khẽ cắn môi, lên tiếng hỏi: “Thôi Tuần, ngài giận rồi phải không?”

Hắn im lặng.

“Ta biết, ngài giận thật rồi.”

Lý Doanh cúi đầu, giọng nàng trở nên trầm thấp: “Ngài đã dặn ta ở yên trong Thôi phủ, nhưng ta không nghe lời. Ta nhờ Ngư Phù Nguy giúp, gỡ bỏ phù chú quanh phủ rồi lẻn ra ngoài. Ta muốn dùng bản thân làm mồi nhử, dẫn dụ miêu quỷ, để nó không hại người nữa.”

Cuối cùng, hắn cũng cất giọng, lạnh lẽo như băng: “Ta sẽ bắt được miêu quỷ, không cần cô tự ý hành động.”

“Ta biết ngài sẽ làm được, nhưng chỉ cần miêu quỷ còn sống, mẫu thân ta sẽ mãi gặp nguy hiểm.” Lý Doanh ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Ngài cũng vậy.”

Hắn trầm mặc một lúc, rồi nói: “Nhưng vừa rồi, sẽ càng nguy hiểm cho cô hơn.”

“Không phải ta liều lĩnh chạy ra ngoài.” Lý Doanh giải thích, “Ngư Phù Nguy mang theo rất nhiều bùa chú, còn có cả đoản kiếm đào mộc. Dù ngài không đến kịp, ta cũng sẽ không sao.”

Nói xong, người phía sau lại không hồi đáp. Qua một lúc lâu, hắn mới hỏi: “Cô rất tin tưởng hắn?”

Lý Doanh ngơ ngác, đáp: “Tuy lời lẽ Ngư Phù Quy không dễ nghe, nhưng cũng là người đáng tin cậy.”

Bàn tay cầm cương ngựa của Thôi Tuần bất giác siết chặt, con ngựa Khang Cư đang thong thả bước bỗng dừng lại. Lý Doanh thoáng nghi hoặc, đưa mắt quan sát xung quanh nhưng không phát hiện điều gì bất thường. Thôi Tuần hồi thần, thúc nhẹ chân vào bụng ngựa, ngựa Khang Cư lại cất vó bước tiếp. Hắn im lặng, chẳng nói thêm lời nào, khiến lòng Lý Doanh đầy sự bất an. Nàng dè dặt lên tiếng: “Thôi Tuần.”

Hắn không đáp.

“Thôi Tuần, ta không báo trước với ngài là lỗi của ta. Nhưng thật lòng ta chỉ muốn sớm bắt được miêu quỷ.”

Ánh trăng lạnh lẽo, bóng cây loang lổ. Giọng hắn lạnh nhạt: “Cô không cần giải thích với ta. Chân là của cô, muốn đi đâu là chuyện của cô, đâu liên quan gì đến ta.”

Lý Doanh sững sờ, nhẹ giọng gọi: “Thôi Tuần…”

Hắn vẫn chẳng đáp, chỉ ghìm cương, ánh mắt rơi vào thân cây phía trước. Một thanh bảo kiếm màu bạc sáng loáng cắm sâu trên thân cây, lưỡi kiếm loang lổ dấu máu, đầu kiếm ghim vào một lá bùa vàng vẽ bằng chu sa.

Hắn cau mày nhìn lá bùa, lẩm bẩm: “Đây là Bắc Đẩu Phá Tà Phù.”

Bắc Đẩu Phá Tà Phù?

Lý Doanh thất kinh. Loại bùa này cực kỳ tàn độc, không phải người có pháp lực cao cường thì không thể vẽ ra được. Ma quỷ trúng phải sẽ tan thành tro bụi, vĩnh viễn không hoá sinh. Vết máu của Tưởng Lương dừng lại tại đây, lại thêm bùa chú này, chẳng lẽ, kẻ truy sát Tưởng Lương không chỉ có hai người bọn họ mà còn có cả kẻ khác?

Máu trên kiếm nhỏ xuống từng giọt. Chẳng lẽ Tưởng Lương chạy đến đây, bị kẻ phục kích dùng Bắc Đẩu Phá Tà Phù đối phó? Một khi bùa chú này xuất hiện, ông ta sẽ không còn đường sống. Nhưng xác ông ta đâu? Là ai đã giết ông ta?
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 47: Chưa trải khổ đau, chớ khuyên người tu thiện


Hai người cưỡi ngựa dạo quanh rừng tìm kiếm hồi lâu, không thấy thi thể Tưởng Lương, chỉ phát hiện vết giao chiến lưu lại trên đất và cây cối. Trên mặt đất còn vương một cánh tay mang đạo bào, bị cắn nát máu me đầm đìa. Lý Doanh lẩm bẩm: “Nếu ông ta bị Bắc Đẩu Phá Tà Phù đả thương, thì giờ đang ở đâu?”

Thôi Tuần đáp: “Ông ta chỉ có thể ở một nơi thôi.”

Nói xong, hắn vung roi, thúc ngựa lao đi như sao băng.



Bãi tha ma trong thành, cỏ hoang rậm rạp, gai góc phủ đầy lối đi. Xung quanh toàn những bia mộ mục nát, nghiêng ngả. Lũ chó hoang đào bới những thi thể chôn nông, nhai ngấu nghiến những mảnh máu thịt còn chưa thối rữa. Trên cao, vài con quạ đen lượn quanh những cành cây khô, tiếng kêu khàn đặc như vọng lại từ tận cùng của cơn đói.

Thôi Tuần ghìm cương dừng ngựa, nhảy xuống đất trước. Lý Doanh không cao bằng hắn, mà ngựa Khang Cư lại thuộc giống quý hiếm từ nước Khang Cư ở Tây Vực tiến cống, nổi danh cao lớn. Nàng đứng trên bàn đạp, dáng vẻ lúng túng, bèn ngước lên, khẽ gọi: “Thôi Tuần ~”

Hắn mím môi, ánh mắt lạnh nhạt, nhưng cuối cùng vẫn chìa tay ra. Lý Doanh nắm lấy dây cương, chậm rãi di chuyển một chân sang bên kia, rồi bám lấy tay hắn nhảy xuống.

Khi nàng tiếp đất, hai tay hắn vô thức đỡ lấy vòng eo mảnh mai của nàng, giữ cho nàng đứng vững. Nhưng ngay khi Lý Doanh vừa ổn định, hắn đã nhanh chóng buông tay, lui lại một bước. Nàng chưa kịp nói câu cảm tạ, hắn đã quay lưng, thẳng bước đến khu mộ của Vãn Hương.

Chẳng nhẽ, hắn vẫn đang giận nàng.

Lý Doanh thở dài, đành theo sát phía sau.

Đi qua từng mô đất nhô cao, cỏ mọc phủ kín, cuối cùng, họ đến được nơi sâu nhất của bãi tha ma, trước mộ phần của Vãn Hương.

Ngôi mộ tuy cũ kỹ, xiêu vẹo, nhưng xung quanh lại sạch sẽ, không vướng một cọng rác. Tấm bia gỗ cũng được lau chùi sáng bóng. Hiển nhiên, hai mươi chín năm nay, nhờ sự chăm sóc của Nghiêm Tam nương nên nơi này mới giữ được vẻ ngăn nắp đến như vậy.

Trước mộ, một người toàn thân bê bết máu đang bò, tóc bạc khô cằn, chính là Tưởng Lương, kẻ bị Bắc Đẩu Phá Tà Phù làm trọng thương.



Tưởng Lương lúc này đã hấp hối, nhưng vẫn cố gắng lê tấm thân trọng thương để chạm vào bia mộ của Vãn Hương. Chỉ là, dù dồn hết sức lực, ông ta cũng chỉ bò được mấy bước. Khi nghe thấy động tĩnh, ông ta gắng sức quay đầu nhìn về phía Thôi Tuần và Lý Doanh. Vừa nhìn thấy Lý Doanh, ánh mắt lập tức tràn đầy oán độc, như muốn dù phải liều mạng cũng phải ăn tươi nuốt sống nàng. Lý Doanh bị ánh mắt căm hận đến tột cùng ấy dọa sợ, lui về sau hai bước. Nhưng Thôi Tuần chỉ thản nhiên nói: “Ông ta đã trúng Bắc Đẩu Phá Tà Phù, sắp sửa hồn phi phách tán, cô không cần phải sợ.”

Tưởng Lương tự biết mình sắp sửa hồn phi phách tán. Trong những khoảnh khắc cuối cùng của sinh mệnh, ông ta đã không còn muốn lãng phí thời gian vào việc hận thù Lý Doanh nữa. Ông ta nghiêng đầu, dồn chút sức lực cuối cùng, chật vật bò về phía bia mộ của Vãn Hương. Trên lớp bùn đất phía sau là những vệt máu dài đỏ thẫm, không biết ông ta đã bò bao lâu, rốt cuộc cũng đến được trước bia mộ.

Ngón tay khô gầy run rẩy của ông ta chạm vào tấm bia cũ kỹ, nơi khắc hai chữ “Vãn Hương”. Hai dòng lệ đục ngầu từ đôi mắt đã khô khốc của ông ta lặng lẽ lăn xuống. Đôi môi mấp máy, tựa hồ muốn gọi ra cái tên ông ta quý trọng như trân bảo, nhưng sinh mệnh của ông ta đang dần trôi qua, chỉ còn lại những tiếng thở khò khè phát ra từ cổ họng, chẳng thể thốt thành lời.

Hồi tưởng lại cả đời mình, khi còn nhỏ, ông ta đã bị bắt làm tù binh, bị tịnh thân và đưa vào cung Đại Minh. Ở nơi ấy, ông ta không biết nói quan thoại, lại là người dân tộc Miêu của Kiềm Châu, ắt hẳn đã chịu đủ sự khinh miệt, giày vò. Nhưng, Vãn Hương là người duy nhất coi ông ta như con người, dù thân thể ông ta tàn khuyết, nàng vẫn không chê bai, mà ngược lại còn dành cho ông ta tình cảm chân thành. Trong hoàng cung lạnh lẽo ấy, hai người họ tựa như đôi vợ chồng nương tựa lẫn nhau mà sống qua ngày.

Với ông ta, Vãn Hương là sự cứu rỗi, là người yêu, là Bồ Tát, là ánh sáng duy nhất trong cuộc đời tối tăm. Nhưng ánh sáng mà ông ta nâng niu cẩn thận trong lòng bàn tay ấy, lại bị Thái hậu như giết đi như đập chết một con kiến. Nàng đang sống sờ sờ, lại chịu trượng cho đến chết. Ông ta sao có thể không hận?

Ông ta muốn báo thù, phải báo thù cho Vãn Hương! Mang dòng máu Miêu Man, ông ta am hiểu thuật quỷ dị. Ông ta trốn khỏi cung, dâng thân mình nuôi dưỡng quỷ miêu. Khi đã có chút thành tựu, ông ta đã tìm cách lấy được y phục của Thái hậu, vốn chỉ còn một bước nữa là đạt được, nhưng trời không chiều lòng người, ông ta vẫn thất bại.

Ông ta đã dày công sắp đặt kế hoạch báo thù này suốt hai mươi chín năm trời. Con phù du muốn lay chuyển đại thụ, cuối cùng cũng gần đến thành công, nhưng giờ đây mọi sự bất thành, ông ta không còn cơ hội lần thứ hai nữa.

Những ngón tay của Tưởng Lương vẫn nhẹ nhàng v.uốt v.e bia mộ của Vãn Hương, nước mắt vẫn tuôn trào. Lý Doanh nhìn thấy từng luồng ánh sáng trắng nhỏ vụn bay ra từ cơ thể Tưởng Lương, đó là những mảnh hồn phách đã vỡ nát. Đợi đến khi ánh sáng ấy hoàn toàn biến mất, linh hồn ông ta sẽ tan thành mây khói. Nhưng trên khuôn mặt của ông ta không hề lộ vẻ sợ hãi, chỉ có ánh mắt tràn ngập sự lưu luyến bất tận, dừng mãi ở hai chữ “Vãn Hương” khắc trên bia mộ. Tưởng Lương không sợ tan biến, chỉ sợ không còn được gặp lại nàng.

Ánh sáng trắng nhanh chóng tan biến, tia sáng càng lúc càng yếu ớt. Bàn tay đang v.uốt v.e bia mộ của ông ta cũng từ từ buông thõng. Lý Doanh bỗng thấy mắt mình cay xè, nàng hít sâu một hơi, tựa hồ quyết định điều gì đó. Bước chân nàng tiến về phía trước, tháo xá lợi Phật đang đeo trên cổ, rồi cúi người, đặt nó vào lòng bàn tay của ông ta.

Phật cốt xá lợi tỏa ra ánh sáng ngũ sắc rực rỡ, nhập vào cơ thể Tưởng Lương. Hồn phách vốn đang tan rã của ông ta chậm rãi tụ lại. Đôi mắt vàng đục của ông ta tràn ngập vẻ ngỡ ngàng nhìn Lý Doanh. Ông ta muốn giết nàng, vậy mà nàng lại muốn cứu ông ta?

Lý Doanh nhìn ông ta, khẽ nói: “Ta biết, một Phật cốt xá lợi không thể đổi lấy mạng sống của Vãn Hương. Nhưng ít nhất, nó có thể giúp linh hồn ngươi không bị vỡ nát. Sau khi xuống địa phủ, ngươi hãy đi tìm Vãn Hương, hẳn nàng đã đợi ngươi từ rất lâu rồi.”

Tưởng Lương môi run run, dường như định thốt ra hai chữ “Vì sao”. Lý Doanh tiếp lời, giọng bình thản: “Không cần hỏi vì sao. Tưởng Lương, chuyện giữa ngươi và a nương ta, đúng sai thế nào, ta không muốn tranh luận. Nhưng là con gái của a nương, ta không phủ nhận rằng trước đây ta thực sự căm ghét ngươi, thậm chí từng mong ngươi sớm bị trừng trị, để không làm tổn hại a nương ta nữa. Nhưng giờ đây, ngươi bị miêu quỷ phản phệ, chỉ còn chút hơi tàn, chẳng thể gây họa gì thêm. Ta hà tất phải chấp nhặt với một kẻ sắp chết? Huống hồ, suốt hai mươi chín năm qua ngươi sống không ra người, không ra quỷ. Giờ đây kết cục đã định, ta nghĩ, dù ngươi có làm gì sai, sự trừng phạt này đến đây cũng đủ rồi. Ta không muốn tiếp tục hận ngươi nữa. Đối với ta, Phật cốt xá lợi này dù quý giá, nhưng không phải thứ không thể sống thiếu được. Còn với ngươi, nó có thể giúp ngươi giữ lại linh hồn, có thể cho ngươi cơ hội đoàn tụ cùng Vãn Hương. Ta chọn trao nó cho ngươi.”

Nàng dừng lại giây lát, ánh mắt thoáng hiện vẻ cảm thông: “Tưởng Lương, Vãn Hương đang ở Vong Tử Thành, còn ngươi bị miêu quỷ phản phệ mà chết, đáng lẽ không thể vào được đó. Nhưng ngươi đã kiên trì suốt hai mươi chín năm chỉ để làm một việc. Ta tin rằng, sau khi xuống địa phủ, ngươi nhất định có thể làm cảm động Cố Thành Vương, thuyết phục người cho ngươi vào. Hy vọng ngươi có thể tìm thấy Vãn Hương và cùng nàng nối lại tiền duyên.”

Tưởng Lương lặng người, nước mắt từ từ lăn dài trên gương mặt hốc hác. Ông ta há miệng, cổ họng phát ra những tiếng thở thoi thóp, như muốn nói điều gì. Ánh mắt nhìn Lý Doanh không còn một vẻ oán độc như trước, mà thay vào đó là sự van xin.

Lý Doanh thở dài: “Tưởng Lương, ngươi muốn nói gì?”

Ngón tay Tưởng Lương run rẩy, chỉ về phía gò đất nơi chôn cất Vãn Hương. Nước mắt lăn dài trên gương mặt đầy vết máu. “Ngươi… ngươi muốn được hợp táng cùng Vãn Hương, phải không?”

Tưởng Lương gật đầu, nước mắt không ngừng rơi, lồng ng.ực phập phồng dữ dội. Dường như tất cả những gì ông ta còn lại chỉ là khao khát cuối cùng này.

Lý Doanh thở dài một hơi, ánh mắt đầy thương cảm, nhìn thân thể đẫm máu của ông ta. Ngay cả khi cận kề cái chết, tâm nguyện cuối cùng của ông ta vẫn là được bên cạnh Vãn Hương. Nàng quay người, cắn môi, nói với Thôi Tuần: “Thôi Tuần, có thể… có thể để ông ta được hợp táng cùng Vãn Hương không?”

Nàng nhìn Thôi Tuần với ánh mắt đầy hy vọng: “Thôi Tuần, có lẽ yêu cầu này thật quá đáng, nhưng có thể giúp ông ta lần này không?”

Nàng lo sợ Thôi Tuần sẽ từ chối. Dẫu sao Tưởng Lương là trọng phạm triều đình, ông ta và Thôi Tuần chẳng chút liên quan, cũng không cần thiết phải giúp thu liệm thi thể. Nhưng người sắp chết, lời nói đều chân thành. Bất luận Tưởng Lương và Vãn Hương từng làm gì sai trái, tình cảm giữa họ vẫn trước sau như một. Nàng thật lòng mong Thôi Tuần sẽ thành toàn cho đôi lứa đáng thương này.

Thôi Tuần không từ chối, chỉ gật đầu.

Lý Doanh nhẹ nhõm thở phào: “Thôi Tuần, cảm ơn ngài.”

Nàng quay lại nhìn Tưởng Lương, ôn tồn nói: “Trước đây, Thôi Tuần từng hứa với Nghiêm Tam nương sẽ dời mộ của Vãn Hương về bên mẫu thân nàng ấy. Đến lúc đó, hắn cũng sẽ chôn cất thi thể ngươi bên cạnh Vãn Hương và mẫu thân của nàng.”

Đôi mắt Tưởng Lương đầy vẻ không thể tin. Ông ta dùng chút sức lực cuối cùng chống đỡ cơ thể, rồi quỳ xuống, dập đầu ba cái trước mặt Lý Doanh.

Lý Doanh hốt hoảng, vội muốn đỡ hắn dậy, nhưng hắn đã run rẩy rút từ trong ngực ra một hình nhân <i>(búp bê)</i> gỗ, trao vào tay nàng.

Nàng chưa kịp nhìn rõ thì đã thấy một luồng sáng trắng bừng lên từ cơ thể ông ta. Đó là hồn phách được Phật cốt xá lợi chữa lành. Linh hồn của ông ta từng bị miêu quỷ ăn mòn, lại bị Bắc Đẩu Phá Tà Phù tổn hại, nên dù được chữa trị thì vẫn chỉ là một làn sương trắng mờ nhạt, không thể hiện hình ở dương gian. Chỉ khi xuống âm phủ, ông ta mới có thể khôi phục nguyên dạng.

Làn sương trắng lượn lờ trong không trung, rồi nhanh chóng bay về phía Địa phủ.

Khi làn sương trắng tan biến, từ cơ thể của Tưởng Lương lại có một đám mây đen thoát ra. Mây đen bị ánh trăng bạc chiếu rọi, phát ra tiếng kêu thê lương, âm thanh bén nhọn đến mức khiến Lý Doanh kinh hoàng lùi lại mấy bước. Thấy vậy, Thôi Tuần nhíu mày, tiến lên một bước, chắn nàng ở sau lưng mình.

Sau tiếng kêu ai oán, mây đen rơi mạnh xuống đất, hiện lên hình dáng một con mèo đen, miệng và mũi ướt đẫm máu tươi. Rõ ràng, dưới sức mạnh của Bắc Đẩu Phá Tà Phù, miêu quỷ đã bị đánh trọng thương, không thể hồi phục. Lại thêm Phật quang từ xá lợi của Phật, cuối cùng khiến hồn phách miêu quỷ bị nghiền thành tro, vĩnh viễn không còn gây hại cho nhân gian.

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm. Thôi Tuần cúi người, cẩn thận kiểm tra vết thương trên cơ thể Tưởng Lương. Những vết thương có dấu vết của kiếm đào mộc, cũng có cả dấu do lôi kích mộc đâm trúng. Thôi Tuần trầm tư, nhớ lại trong phủ Bùi Quan Nhạc từng có một đạo sĩ rất giỏi sử dụng lôi kích mộc.

Xem ra, là Bùi Quan Nhạc đã sai đạo sĩ đến diệt khẩu Tưởng Lương.

Hắn đứng dậy xoay người, bắt gặp ánh mắt Lý Doanh đang đăm chiêu nhìn chằm chằm vào hình nhân gỗ trong tay, tựa như xuất thần. Nhận ra thần sắc nàng khác lạ, Thôi Tuần liền cầm lấy hình nhân từ tay nàng. Nhìn kỹ, hắn không khỏi sững sờ.

Hình nhân gỗ mặc cung trang, trên thân cắm đầy ngân châm. Trên cung trang còn có viết mấy chữ: “Hai mươi bảy tháng giêng năm Tân Tỵ” Lý Doanh khẽ lẩm bẩm: “Hai mươi bảy tháng giêng năm Tân Tỵ, đây là ngày sinh của ta.”

Thôi Tuần cả kinh, chẳng lẽ đây là… một hình nhân vu cổ?

Trên hình nhân có ghi sinh thần bát tự của Lý Doanh, chẳng lẽ lời nguyền này, chính là nhắm vào nàng?

Nhưng mà, đến cùng là ai… lại đi nguyền rủa một vị công chúa, đã qua đời hơn ba mươi năm nay?
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 48: Mỗ nguyện ý giúp công chúa


Thôi Tuần và Lý Doanh tạm thời chôn cất thi thể Tưởng Lương bên cạnh mộ phần của Vãn Hương, để tránh bị lũ chó hoang tha đi cắn xé. Khi việc mai táng hoàn tất, trời đã mờ sáng. Thôi Tuần dùng đoản đao gọt một mảnh gỗ, cắm trước mộ Tưởng Lương, đánh dấu để sau này tiện bề an táng. Hắn đứng dậy, gỡ dây cương buộc trên cây, còn Lý Doanh vẫn nhìn hai ngôi mộ đến ngơ ngẩn.

Thôi Tuần kéo ngựa đi, đôi môi mỏng mím chặt thành một đường, giọng lạnh nhạt: “Cô có về không?”

Lý Doanh nghe vậy, nghiêng đầu nhìn sang. Thôi Tuần lại nói: “Nếu cô muốn đi tìm Ngư Phù Nguy, ta cũng không cản.”

Lý Doanh thoáng ngẩn người, xem ra hắn vẫn còn giận. Nàng khẽ thở dài, bước tới trước ngựa. Thôi Tuần không nói thêm lời nào, chỉ cúi người đỡ nàng lên ngựa, sau đó mình cũng xoay người lên yên. Hắn vung roi, con ngựa Khang Cư phi như tên bắn, đưa hai người hướng về Thôi phủ.



Về đến Thôi phủ, Thôi Tuần lập tức mang hình nhân vu cổ kia đi. Những ngày sau đó, hắn không hề trở về phủ, mà ở lại Sát Sự Thính, toàn tâm toàn ý tra án. Thế nhưng, trong khoảng thời gian này, tính tình hắn càng thêm âm trầm, sáng nắng chiều mưa, khiến cả Sát Sự Thính trở nên căng thẳng. Đám vũ hầu sống trong cảnh nơm nớp lo sợ, chỉ e chọc giận hắn, rốt cuộc đều cố ý tránh xa. Nhưng nếu gặp phải việc cần bẩm báo, bọn họ vẫn phải cắn răng tới gặp.

Trong công đường Sát Sự Thính, qua khỏi nghi môn, xuyên qua đại sảnh thẩm vấn, sau bình phong là nhị đường, nơi Thiếu khanh Sát Sự Thính làm việc. Hắn ngồi nghiêm nghị trước án thư làm từ gỗ trắc xanh, trên bàn đặt một bộ thẻ tre cùng hình nhân vu cổ cắm đầy ngân châm. Lúc này, một vũ hầu hối hả bước vào, cúi đầu bẩm báo: “Thiếu khanh, mấy hôm trước mỗ bắt được vài thân tín của Thẩm Khuyết, tra khảo được một người tên Khâu Lục. Kẻ này không chịu được cực hình, cuối cùng cũng hé lộ vài manh mối.”

Vũ hầu dâng bản cung trạng. Thôi Tuần cầm lên xem, chậm rãi hỏi: “Hắn nói trong mật thất của Thẩm Khuyết có cất giấu mấy món đồ kỳ quái?”

Vũ hầu gật đầu: “Khâu Lục khai rằng, hắn từng nhận lệnh Thẩm Khuyết mang cơm đến mật thất. Lúc ấy, hắn nghe rõ tiếng mèo kêu vọng ra. Nhà hắn cũng nuôi mèo, nhưng tiếng mèo trong mật thất khiến hắn sởn gai ốc. Vì quá sợ hãi, hắn lập tức bỏ chạy.”

Thôi Tuần tiếp tục xem cung trạng, vũ hầu lại nói thêm: “Khâu Lục còn khai, Trong phủ Thẩm Khuyết có một lão đạo sĩ tên là Huyền Thành, rất được Thẩm Khuyết tín nhiệm. Huyền Thành thường xuyên bắt chuột cống mang vào mật thất, hành tung vô cùng khả nghi. Khâu Lục đoán rằng những con chuột này là để nuôi miêu quỷ.”

Thôi Tuần trầm tư, không nói gì. Vũ hầu lại thưa: “Thiếu khanh, mỗ cho rằng cung trạng này đã đủ để bẩm lên Thái hậu và Thánh nhân, định tội Thẩm Khuyết.”

Nghe vậy, Thôi Tuần lắc đầu: “Chưa đủ.”

Vũ hầu ngẩn ngơ khó hiểu. Thôi Tuần lạnh giọng: “Đánh rắn phải đánh dập đầu. Nếu không, nó sẽ cắn ngược lại. Khâu Lục, ngươi dẫn theo vũ hầu khác, dù phải lật tung cả Trường An cũng phải bắt được Huyền Thành về đây cho ta.”

Lục Cửu mặt mày khổ sở, nhưng chỉ biết than khổ trong lòng. Những ngày qua, Thôi Tuần toàn lực truy xét vụ án miêu quỷ, khiến đám vũ hầu đã mệt mỏi đến kiệt sức. Giờ lại nhận lệnh đi bắt Huyền Thành, e rằng họ lại phải tiếp tục chịu cảnh mất ăn mất ngủ. Nhưng Khâu Lục không dám phản bác, chỉ biết gượng cười, khom người lĩnh mệnh.



Mấy thân tín của hắn đều đã bị Sát Sự Thính bắt giữ và thẩm tra. Ít ai chịu nổi chín chín tám mươi mốt loại hình cụ ở Sát Sự Thính. Thẩm Khuyết biết rõ, bằng các chứng cứ hiện tại, không sớm thì muộn, Thôi Tuần sẽ lôi được những thứ hắn giấu trong mật thất ra ánh sáng. Đến khi đó, hắn sống hay chết đều không thể đoán trước được.

Sinh mệnh của hắn như sợi chỉ mành treo chuông, mỗi ngày đều chìm trong men rượu. Hắn tự nhủ, chuyện đã đi đến nước này thì không khác gì đã thò đầu nằm dưới mũi dao. Nhưng bảo hắn hạ mình, cầu xin Thôi Tuần tha mạng, thì hắn thà chết cũng không làm.

Thẩm Khuyết ngày ngày chìm trong men say, khiến đám gia phó hầu hạ hắn khổ không kể xiết. Kẻ thì bị roi da đánh đập, kẻ thì bị hắn quát tháo không ngừng. Hôm ấy, hắn đập vỡ một bình rượu lưu ly, đôi mắt lờ đờ cố trợn trừng, nhìn đám gia nhân đang dọn dẹp mảnh vỡ, cất giọng lè nhè: “Có phải các ngươi đều mong Thôi Tuần sớm tóm được Huyền Thành, để ta chết sớm đúng không?”

Đám gia nô vội quỳ xuống, dập đầu như giã gạo: “Tiểu nhân không dám.”

Hắn cười khẩy, đôi mắt đỏ ngầu đầy vẻ khinh bỉ: “Không dám? Hừ, ta biết các ngươi đều nghĩ ta đáng chết. Nhưng ta nói cho các ngươi hay, dẫu Thôi Tuần có bắt được Huyền Thành, ta cũng không chết.” Hắn nhấp một ngụm Thiêu Xuân, dù say bí tỉ nhưng vẫn cất giọng đường hoàng: “Bà ta nợ mẫu thân ta, nên sẽ không giết ta đâu.”

Đám gia phó đưa mắt nhìn nhau, trong lòng thầm nghĩ: “Bà ta” trong miệng hắn, hẳn là chỉ Thái hậu. Nếu là chuyện khác, có lẽ Thái hậu sẽ bảo vệ hắn, nhưng lần này… hắn lại muốn mưu hại Thái hậu, sao người có thể bỏ qua được?

Nếu Thái hậu thật sự khoan dung, thì a tỷ và a nương của tướng quân, lẽ nào lại bỏ mạng oan khuất?

Trong lòng họ dù không tin nửa chữ, nhưng ngoài mặt lại không dám lộ vẻ gì, chỉ đành quỳ rạp dưới đất, đầu cúi thấp, chờ mong Thẩm Khuyết buông tha.

Thẩm Khuyết liên tiếp rót rượu Thiêu Xuân uống cạn. Đôi mắt hắn đã lờ mờ hơi say, bỗng dưng đập mạnh bàn, nghiến răng nghiến lợi nói: “Đều tại Bùi Quan Nhạc hại ta! Nếu không phải vì ông ta cứ do dự chần chừ, thì ba năm trước Thôi Tuần đã chết rồi, làm gì có ngày hôm nay, dám tác oai tác quái trước mặt ta!”

Càng nghĩ, lửa giận trong lòng Thẩm Khuyết càng cháy bừng lên, chỉ hận không thể xé xác Thôi Tuần ra thành từng mảnh. Nhưng giờ đây, kẻ nắm dao thớt lại là Thôi Tuần, còn hắn chỉ là cá thịt trên thớt. Hắn không thể xé xác Thôi Tuần, nhưng Thôi Tuần lại có thể nghiền nát hắn không chút nương tay.

Thẩm Khuyết cầm chén rượu kim bôi ném mạnh vào tường. Chén rượu lăn long lóc trên nền, rượu thơm chảy tràn khắp đất. Trong khoảnh khắc, hắn chợt nhớ tỳ bà cơ từng bị hắn ép uống rượu thiêu xuân hôm ấy.

Nàng ta tên gì nhỉ? À, Thịnh A Man. Chính là muội muội của Thịnh Vân Đình trong Thiên Uy quân.

Thẩm Khuyết đột nhiên cười lạnh đầy ác ý. Thôi Tuần là Thiếu khanh Sát Sự Thính mang hàm tứ phẩm, hắn không thể động tới. Nhưng Thịnh A Man chẳng qua chỉ là một ca cơ tiện tịch. Theo luật Đại Chu, tiện tịch không khác nào súc sinh, hắn muốn xử lý nàng thế nào chẳng được, cũng chẳng có ai truy cứu.

Nếu Thôi Tuần quyết ép hắn đến đường cùng, thì trước khi chết, hắn cũng muốn hắn ta phải ôm nhục.



Thôi Tuần mấy ngày liền không về phủ, Lý Doanh cũng thấy thật vô vị. Thực ra, nàng vẫn chẳng hiểu được Thôi Tuần rốt cuộc đang giận gì. Nếu là chuyện nàng tự ý rời phủ, thì bảy tám ngày đã trôi qua, cơn giận ấy cũng nên nguôi rồi chứ. Nhưng chẳng có dấu hiệu nào cho thấy hắn đã bớt giận, nên nàng chỉ biết ngán ngẩm lắc đầu.

Dưới tán hải đường, chim yến non nàng cứu trước đó nay đã biết bay, lúc này đang nhảy nhót dưới đất, mải mê kiếm ăn. Lý Doanh ngồi xổm xuống, chăm chú nhìn chúng. Hai tay nàng đan vào nhau đặt trên đầu gối. Vốn dĩ, nàng yêu thích nhất khung cảnh tiết xuân tràn đầy sức sống như thế này, nhưng ngắm nhìn hồi lâu, trong đôi mắt trong trẻo tựa nước hồ lại tràn ngập nét bối rối. Nàng nhẹ giọng, thì thầm với chim yến: “Ngươi nói xem, rốt cuộc Thôi Tuần đang nghĩ gì chứ? Sao hắn vẫn còn giận ta được nhỉ?”

Chim yến đương nhiên không thể trả lời. Lý Doanh thở dài: “Thôi vậy, ngươi đâu thể biết được.”

Không rõ câu này nàng nói với chim yến, hay đang tự nhủ với chính mình.

Khi nàng định đứng dậy, bỗng một viên đá rơi xuống ngay trước mặt.

Ngẩng đầu lên, nàng thấy Ngư Phù Nguy đang nằm bò trên đầu tường, hướng ánh mắt ra hiệu về phía nàng.

Ngư Phù Nguy ra hiệu bảo nàng ra ngoài. Nhưng tại sao hắn không vào trong? Lý Doanh có chút thắc mắc, song vẫn xoay người đi qua cổng, bước ra ngoài phủ Thôi gia.

Bên ngoài Thôi phủ, cảnh tượng vắng lặng tiêu điều. Thấy nàng đi ra, Ngư Phù Nguy liền từ trên tường nhảy xuống, cười nói: “Thôi Tuần dặn lão bộc câm không được để mỗ đi vào, mỗ đành phải dùng hạ sách này.”

Lý Doanh đáp: “Thôi Tuần không cho ngài vào? Có phải vì chuyện ngài xé bùa, dẫn ta ra khỏi phủ không?”

“Có lẽ vậy, nhưng hắn không giết mỗ, đã là kỳ tích rồi.”

Lý Doanh thở dài: “Chuyện này dẫu là chúng ta tự tiện hành động, nhưng kết quả cuối cùng lại tốt, ta không bị thương tổn, miêu quỷ cũng đã bị trừng trị. Dù hắn có giận, cũng không nên giận lâu như vậy.”

Ngư Phù Nguy nhún vai: “Ai mà biết được.” Hắn ngừng lại, rồi nói: “Những lời khó nghe, công chúa không cho mỗ nói, mỗ sẽ không nói nữa.”

Lý Doanh bĩu môi, không muốn tranh luận thêm, bèn hỏi: “Ngư tiên sinh, hôm nay ngài tìm ta, là vì chuyện gì thế?”

Ngư Phù Nguy mỉm cười: “Kỳ thực, cũng không có chuyện gì lớn, chỉ là muốn gặp công chúa thôi.”

Lời nói thẳng thắn của hắn khiến Lý Doanh hơi ngẩn ra. Thấy biểu cảm của nàng, Ngư Phù Nguy liền nói thêm: “Chẳng phải công chúa từng nói, ta và cô là bạn sao? Bạn bè gặp nhau, trò chuyện đôi câu, lẽ nào không phải chuyện bình thường?”

Nghe hắn giải thích, Lý Doanh mới thở phào, gật đầu nói: “Ừm, rất bình thường.”



Hai người ngồi trên bậc thềm đá ngoài Thôi phủ, trò chuyện vu vơ. Ngư Phù Nguy ngỏ ý dẫn nàng đi dạo khắp các phố phường ở Trường An, nhưng nàng hơi lưỡng lự, rồi lắc đầu: “Ta muốn ngồi đây, không muốn đi đâu cả.”

Ngư Phù Nguy hỏi: “Tại sao?”

Đó là tâm sự riêng của nàng, nàng không muốn chia sẻ, chỉ ậm ừ cho qua. Thấy vậy, Ngư Phù Nguy cười khổ: “Không lẽ cô ngồi đây, là để chờ Thôi Tuần trở về?”

Lý Doanh kinh ngạc liếc nhìn hắn, rồi cúi đầu, không nói gì. Nhìn thái độ ấy, Ngư Phù Nguy hiểu mình đã đoán đúng. Hắn hậm hực nói: “Mỗ thật không hiểu nổi…”

Nhưng nói thêm nữa lại sợ nhắc đến những điều không hay về Thôi Tuần, Ngư Phù Nguy nhớ tới lời mình hứa với Lý Doanh sẽ không nói xấu Thôi Tuần trước mặt nàng, bèn vội ngậm miệng lại, thở dài một hơi: “Nếu công chúa muốn ngồi đây, vậy mỗ sẽ ngồi cùng công chúa.”

Lý Doanh mỉm cười: “Đúng rồi, Ngư tiên sinh, ta có thể nhờ ngài một chuyện không?”

“Công chúa cứ nói.”

“Thôi Tuần đi truy xét vụ án miêu quỷ, đã mấy chục ngày không về phủ, cũng không rõ tiến triển thế nào rồi. Bên ngài tin tức linh thông, có thể giúp ta dò hỏi không?”

Nghe xong, Ngư Phù Nguy tiếp tục cười khổ: “Công chúa bảo mỗ làm sao từ chối được đây?”

“Ngư tiên sinh…”

“Công chúa yên tâm, mỗ sẽ làm.” Hắn ngồi bên nàng, nói thêm: “Cũng như công chúa đối tốt với Thôi Tuần, mỗ cũng muốn đối tốt với công chúa, bởi vì cô là người tốt bụng nhất mà mỗ từng gặp. Mỗ nguyện ý giúp cô.”

Lời khen ấy khiến Lý Doanh ngượng ngùng, nàng cúi đầu, khẽ nói: “Vậy đa tạ Ngư tiên sinh.”

Nàng cúi đầu nên không thấy được ánh mắt đầy tình ý và ngưỡng mộ của Ngư Phù Nguy khi lặng lẽ nhìn nàng. Một lát sau, hắn mới quay đi, mỉm cười nói: “Hà tất phải khách sáo?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 49: Hắn là cầm thú


Ngày hôm sau, ngoài dự đoán của Lý Doanh, Ngư Phù Nguy đã mang tin tức về Thôi Tuần đến cho nàng. Hắn vẫn như hôm qua, trèo lên tường, ném đá để gọi nàng ra. Nhưng khác với vẻ thoải mái, đắc ý thường ngày, lần này, gương mặt hắn nặng nề, khóe môi vốn luôn mang ý cười giờ lại trầm xuống. Tim Lý Doanh bỗng chùng hẳn, chẳng lẽ Thôi Tuần đã xảy ra chuyện gì?

Nàng vội vàng đi qua tường, còn Ngư Phù Nguy cũng đã nhảy xuống. Nhìn vẻ mặt hắn, nàng muốn hỏi nhưng lại không dám, cứ chần chừ mãi. Cuối cùng, Ngư Phù Nguy mở lời trước: “Công chúa, xảy ra chuyện rồi.”

Cả người Lý Doanh lập tức căng thẳng, mang theo chút sợ hãi, nàng hỏi: “Chuyện… chuyện gì?”

“Công chúa có biết một nhạc cơ tên Thịnh A Man không? Nghe nói nàng ấy chỉ bán nghệ, không bán thân, và có mối quan hệ không tầm thường với Thôi Tuần.”

Thịnh A Man? Lý Doanh gật đầu: “Biết.”

“Nàng ấy gặp chuyện rồi.” Ngư Phù Nguy thở dài: “Thôi Tuần đang truy tìm chứng cứ chống lại Trung lang tướng Thẩm Khuyết vì chuyện miêu quỷ. Thẩm Khuyết không những không từ bỏ, mà còn bắt cóc Thịnh A Man, hủy hoại nàng ấy.”

Lý Doanh không tin nổi: “Hủy hoại? Ý ngài là gì?”

“Chính là…” Ngư Phù Nguy không biết nói sao: “Chính là cướp đi sự trong sạch của nàng ấy.”

Lý Doanh trợn tròn mắt kinh hãi: “Hắn là cầm thú sao? Mâu thuẫn giữa hắn và Thôi Tuần, sao lại kéo một nữ tử vô tội vào chứ?”

Ngư Phù Nguy cũng phẫn nộ không kém: “Đúng vậy! Dù hắn căm ghét Thôi Tuần thế nào, cũng không nên trút giận lên một nữ tử đáng thương lưu lạc chốn phong trần. Hành động này, quả thực không phải của người!”

Lý Doanh nhớ đến huynh trưởng của Thịnh A Man, quỷ tướng Thịnh Vân Đình. Sau khi linh hồn thoát khỏi trói buộc, việc đầu tiên y làm là thúc ngựa vào Đại Minh cung, cầu Thánh nhân phát binh, cứu viện Thiên Uy quân đang bị vây khốn, giải cứu sáu châu Quan Nội đang nguy cấp. Đến chết, y vẫn mong mỏi giữ gìn từng tấc đất của Đại Chu. Nhưng một người trung can nghĩa đảm như vậy, muội muội duy nhất của y lại bị quyền quý của đất nước y dốc lòng bảo vệ chà đạp. Lý Doanh nghiến răng, viền mắt đỏ hoe: “Thẩm Khuyết, hắn thật đáng chết!”

Ngư Phù Nguy tức giận đến mức giọng nói cũng tràn đầy căm phẫn: “Ai mà không nghĩ như vậy? Một nam nhân, lại đi trút giận lên nữ nhân, mỗ thực khinh thường hắn!”

“Thế còn Thôi Tuần? Hắn đã biết chưa?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Biết rồi. Mỗ nghe được, sau khi Thôi Tuần hay tin, giận đến đỏ mắt, lập tức cầm roi xông thẳng vào Quốc công phủ, đánh Thẩm Khuyết một trận nên thân. Nghe nói Thẩm Khuyết không hề cầu xin, chỉ lạnh lùng cười nhạt, nói: “Thôi Tuần, ngươi nghe đây, vì ngươi Thịnh A Man mà gặp nạn. Cả đời này, ngươi đừng mong qua được cửa ải này!”

Lý Doanh tức giận đến mức choáng váng, suýt ngã quỵ, Ngư Phù Nguy vội đỡ nàng, nhưng nàng lại nắm lấy tay áo hắn: “Sau đó thì sao? Thôi Tuần có giết hắn không?”

Ngư Phù Nguy lắc đầu, vẻ mặt đầy bất bình: “Chưa, gia nhân của Thẩm Khuyết chạy tới cung Đại Minh cầu cứu. Kim Ngô Vệ biết chuyện, lập tức áp giải cả Thôi Tuần và Thẩm Khuyết vào cung, đến giờ vẫn chưa được thả ra.”

“Ta phải đi…” Lý Doanh run rẩy nắm lấy tay áo của Ngư Phù Nguy, cố gắng đứng vững. Nàng thở d.ốc, nói: “Ta phải đến cổng Đan Phượng, ta phải chờ một kết quả.”



Lần chờ đợi ấy, bắt đầu từ khi trời vừa rạng sáng đến khi hoàng hôn lạnh lẽo bao trùm.

Mưa bụi lất phất rơi, từng giọt tí tách rơi trên mái ngói lưu ly xanh biếc của cung Đại Minh. Lý Doanh đứng bên ngoài cổng Đan Phượng, ánh mắt nàng không rời khỏi cánh cổng đỏ thẫm đang đóng chặt ấy.

Nàng đang đợi, đợi xem sau khi cửa cung mở ra, rốt cuộc ai là người sẽ bước ra ngoài.

Bên cạnh nàng, Ngư Phù Nguy nhẫn nhịn rất lâu, cuối cùng vẫn không kìm được mà lên tiếng: “Dù Thẩm Khuyết có làm những chuyện bỉ ổi không bằng cầm thú, thì hắn vẫn chẳng sao cả. Mấy năm trước, vì có mâu thuẫn với Hoài An vương, hắn dã cố tình dụ dỗ vị hôn thê chưa qua cửa của vị vương ấy, khiến Hoài An vương nhục nhã vô cùng. Hoài An vương dâng sớ lên Thánh nhân, Thẩm Khuyết chỉ bị trừ chút bổng lộc tượng trưng. Ngay cả vương tộc còn thế, huống chi đây chỉ là một ca kỹ thấp hèn.”

Ánh mắt Lý Doanh mơ màng. Từng sợi mưa bụi theo gió nghiêng bay tới, làm ướt hàng mi đen dài như lông quạ. Những giọt nước nhỏ xíu đọng trên mi, khiến cảnh vật trước mắt nàng như phủ một lớp sương mỏng, mịt mờ không thấy rõ.

Nàng ngẩn ngơ lắc đầu: “Không đâu, a nương và a đệ sẽ gi.ết ch.ết Thẩm Khuyết.”

Ngư Phù Nguy hít sâu một hơi, cười khổ: “Họ là a nương và a đệ của cô, nhưng họ cũng là Thái hậu và Thánh nhân của Đại Chu. Từ trước đến nay, chưa từng có vị Thái hậu hay hoàng đế nào vì một kỹ nữ mà gi.ết ch.ết hoàng thân quốc thích.”

Lý Doanh hé môi định nói, nhưng lại phát hiện bản thân không thể phản bác. Nàng hiểu, Ngư Phù Nguy nói không sai. Mẫu thân và đệ đệ, sẽ không vì Thịnh A Man mà giết Thẩm Khuyết.

Một nỗi tuyệt vọng sâu sắc dâng trào trong lòng nàng. Không chỉ vì Thịnh Vân Đình, vì Thịnh A Man, mà còn vì cả Thôi Tuần.

Cánh cửa cung đỏ thẫm cuối cũng chậm rãi mở ra. Toàn thân Thẩm Khuyết bị roi quất đến máu thịt bầy nhầy, được đặt lên cáng khiêng ra khỏi cung Đại Minh. Trên khuôn mặt tuấn mỹ của hắn cũng chi chít vết máu, trông ghê sợ vô cùng. Nhưng bất chấp cơn đau hành hạ, khóe môi hắn vẫn vương nụ cười nhạo báng, tựa như mang theo niềm khoái trá khi được rửa trôi mối hận. Hắn khinh miệt ngoái đầu nhìn lại cung Đại Minh uy nghi tráng lệ, rồi nói với gia bộc đang khiêng cáng: “Đi thôi, về chuẩn bị hỉ sự.”

Thẩm Khuyết rời khỏi cung Đại Minh đã lâu, thì Thôi Tuần mới nặng nề bước ra. Khuôn mặt hắn tái nhợt tựa tờ giấy, thân thể cũng thoáng run rẩy. Khi ánh mắt hắn lướt qua Ngư Phù Nguy và Lý Doanh, không còn phẫn nộ hay bực bội như đêm đó. Hắn chỉ hờ hững liếc nhìn hai người một cái, rồi vô hồn bước đi.

Lý Doanh mím môi, bước theo sau hắn, giữ một khoảng cách vừa đủ, từng bước chậm rãi. Ngư Phù Nguy nhìn theo bóng dáng hai người, gượng cười, lắc đầu tự giễu, rồi quay người bước về hướng ngược lại.

Mưa bụi dày đặc, gió xiên từng đợt lạnh buốt. Quan bào đỏ thẫm của Thôi Tuần đã ướt đẫm, dính sát vào người, khiến thân hình vốn đã gầy gò lại càng thêm mỏng manh. Lý Doanh lặng lẽ đi theo hắn, chốc lát gió lạnh thổi qua, khiến Thôi Tuần che tay áo ho sặc sụa. Lý Doanh bước nhanh hơn, gần như muốn tiến đến bên cạnh hắn, nhưng rồi lại chậm lại, chỉ duy trì khoảng cách ấy, âm thầm theo sau.

Thôi Tuần không trở về phủ Thôi, mà hướng thẳng đến một tửu quán ở Đông thị. Chủ quán nhận ra hắn, vội vàng cung kính dẫn vào gian phòng tốt nhất, bày lên loại rượu ngon nhất. Thôi Tuần cầm lấy vò rượu, không nói một lời, rót thẳng vào miệng.

Hắn uống hết vò này đến vò khác. Vì uống quá vội, rượu sặc vào cổ họng khiến hắn lại ho dữ dội. Lý Doanh vốn yên lặng ngồi bên nhìn hắn, thấy vậy không nhịn được nữa, vươn tay đoạt lấy vò rượu: “Đừng uống nữa.”

Sắc mặt tái nhợt của Thôi Tuần bị men rượu nhuộm đỏ, rực lên như ánh chiều tà, kiều diễm đến lạ. Nhưng đằng sau sắc màu tươi đẹp ấy, Lý Doanh như nhìn thấu nỗi đau vô bờ mà hắn đang phải một mình chống chịu.

Thôi Tuần đưa tay đòi lại vò rượu, nhưng Lý Doanh lắc đầu, giấu vò rượu ra sau lưng. Nàng nói: “Ta biết, ngài muốn say sớm một chút, say rồi có thể quên được chuyện của A Man. Nhưng chẳng phải sẽ tỉnh lại sao? Tỉnh lại, tất cả vẫn không có gì thay đổi. Ngài đã nghĩ chưa, nếu hôm nay ngài chết chìm trong cơn say ở đây, A Man sẽ trông cậy vào ai?”

Thôi Tuần nghe xong, chỉ lẩm bẩm: “Nàng ấy chẳng thể cậy vào ta. Ta cũng chẳng bảo vệ nổi nàng ấy. Thánh nhân đã hạ chỉ, bảo nàng phải làm thiếp của Thẩm Khuyết. Ta… bất lực.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Sao lại có chuyện như vậy? Kẻ gây tội không chịu bất kỳ trừng phạt nào, còn người bị hại thì phải dâng mình cho hắn, tiếp tục chịu nhục? Đây là đạo lý gì chứ?”

“Đạo lý?” Thôi Tuần cười lạnh: “Trên đời này, nào có đạo lý. Chỉ có đại cục. Một nhạc cơ, một quốc công; một cô nhi, một tướng quân. Một kẻ nhẹ như lông hồng, một người nặng tựa Thái Sơn. Đạo lý? Ha ha, đạo lý ư?”

Nói đến cuối, hắn đã đầy uất hận. Một luồng tanh ngọt dâng lên cổ họng, hắn đưa tay che miệng ho sặc sụa, đến khi trong lòng bàn tay đã có vệt máu đỏ.

Lý Doanh thất thần, ném vò rượu, nắm lấy tay Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ngài…”

Chữ “ngài” vừa thốt ra, nàng đã nghẹn ngào không nói nên lời. Những giọt nước mắt to như hạt đậu lăn dài trên má, rơi xuống lòng bàn tay Thôi Tuần. Hắn sững người, chậm rãi rút tay khỏi tay nàng, chỉ nói một câu: “Chưa chết được.”

Lý Doanh cắn chặt môi, đưa tay lau dòng lệ trên gó má, giọng nàng nghẹn ngào: “Thẩm Khuyết dùng lời nói, giết người không dao. Hắn nói vì ngài mà A Man chịu khổ. Nhưng kẻ cầm thú chính là hắn, là hắn ức h**p một nữ nhân yếu đuối. Hắn dựa vào đâu mà đem sai lầm của mình đổ hết lên đầu ngài? Ngài đừng vì những lời của hắn mà tự dằn vặt bản thân như vậy.”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ cười thê lương: “Không, hắn nói đúng. Nếu không phải vì ta, A Man sẽ không phải chịu cảnh ngộ như thế. Là ta không bảo vệ được A Man, ta đã phụ lòng Vân Đình… Không, không chỉ Vân Đình, mà là tất cả mọi người.”

Hắn bất giác nhớ lại lời của lão bộc câm từng dùng tay ra hiệu: “Mẫu thân của Tào Ngũ lang, chịu nhục không nổi, treo cổ tự vẫn.”

Ngón tay của Thôi Tuần siết chặt đến trắng bệch, giọng nói như tự trách: “Sáu năm rồi, đã sáu năm trôi qua. Nếu trong sáu năm này, ta có thể trả lại sự trong sạch cho họ, thì gia quyến của họ cũng sẽ không bị đối xử tàn nhẫn đến vậy. Ta thật sự… vô dụng đến cùng cực!”

Trong lòng chỉ toàn là nỗi thống khổ. Men rượu mạnh bắt đầu thấm dần, khiến đầu óc hắn càng thêm phần mụ mị. Hắn gục đầu xuống bàn tiệc làm bằng gỗ tử đàn, lẩm bẩm: “Ta không cứu được họ, cũng không cứu được người thân của họ, mà chính ta… cũng không cứu nổi chính mình.”

Lý Doanh nước mắt lưng tròng, nhẹ nhàng nói: “Thôi Tuần, ngài đừng như vậy, Thôi Tuần.”

Thôi Tuần nằm gục trên bàn, đôi mắt đen sâu thẳm ngước nhìn Lý Doanh. Gương mặt nàng thanh thoát, tựa ánh trăng sáng giữa trời cao. Hắn khẽ thì thào: “Ngay cả cô, cũng cứu không được ta.”

Nói xong, hắn khép mắt, thiếp đi trong men say. Chỉ là nơi khóe mắt, một giọt lệ lặng lẽ trượt xuống.

Lý Doanh không hiểu câu nói cuối cùng của hắn, nhưng lòng nàng đau đớn vô cùng. Nàng chưa từng gặp những người khác trong Thiên Uy quân, nhưng đã từng quen biết Thịnh Vân Đình và Thịnh A Man. Một người trung quân ái quốc, một người dám yêu dám hận, vậy mà kết cục của họ lại bi thảm vô cùng. Nàng… không thể giúp gì được cho họ.

Nỗi bất lực dâng tràn trong tim, gần như đẩy nàng đến ngưỡng nghẹt thở. Chỉ đối diện với máu và nước mắt của hai người, nàng đã đau đớn đến thế này. Còn Thôi Tuần, hắn phải đối mặt với máu và nước mắt của năm vạn quân Thiên Uy cùng gia quyến của họ, vậy sáu năm qua, hắn đã chịu đựng áp lực và đau khổ đến nhường nào?

Lý Doanh vội lau những giọt nước mắt trên mặt mình, ánh mắt dừng lại trên dáng vẻ say rượu của Thôi Tuần. Dù đã say, đôi mày hắn vẫn nhíu chặt, tựa như trong mộng cũng bị những cơn ác mộng quấy nhiễu. Trước khi chìm vào men say, hắn đã nói, ngay cả nàng cũng không thể cứu được hắn. Nàng không hiểu rõ ý hắn, nhưng vẫn đưa tay, đầu ngón tay lau nhẹ đi giọt lệ nằm trên khóe mắt hắn. Giọng nàng nhẹ nhàng mà kiên định: “Không, ta nhất định sẽ cứu chàng.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 50: Ban đầu, ta có hơi giận cô


Hai ngày sau, Quốc công phủ khua chiêng gõ trống, mười dặm hồng trang, đến giáo phường đón Thịnh A Man về.

Việc này thực chất là ý của Thái hậu và Thánh nhân. Hai vị quan tứ phẩm vì một kỹ nữ mà náo loạn đến mức động tay động chân. Đã vậy, cả hai người này, một người là Thôi Tuần thuộc danh gia vọng tộc đứng đầu thiên hạ, Bác Lăng Thôi thị, một người là Thẩm Khuyết, biểu huynh của đương kim Thánh nhân. Sự việc này không chỉ làm mất mặt Thôi Tuần và Thẩm Khuyết, mà còn làm tổn hại thể diện của cả triều Đại Chu. Nếu chuyện lan truyền đến phiên bang thuộc quốc, thì Thánh nhân biết giấu mặt vào đâu?

Theo ý của Tả bộc xạ Lư Dụ Dân và Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh, cần phải xử tử Thịnh A Man để làm trong sạch thanh danh chính khí, răn đe hậu thế. Lư và Thôi là hai đảng phái chính trị đối lập lớn nhất trong triều, nhưng lần này lại đồng lòng muốn trừng phạt Thịnh A Man. Điều này chẳng khác nào đại diện cho ý kiến chung của quần thần. Thánh nhân cũng ngầm đồng ý. Tuy nhiên, khi thánh chỉ chuẩn bị ban xuống, từ phía sau rèm ngọc, Thái hậu lại chậm rãi thốt lên một câu: “Hai người đàn ông đánh nhau, lại muốn lấy mạng một người phụ nữ để chấm dứt chuyện này?”

Mọi người lặng yên không nói. Chính vì một câu nói này, A Man tạm thời giữ được tính mạng. Thế nhưng, Tả bộc xạ Lư Dụ Dân nổi tiếng là người cố chấp và nghiêm khắc, ông nói: “Từ thời Tiên Tần đã có Tây Thi dùng mỹ nhân kế khiến nước Ngô đánh mất giang sơn, đến triều Hán lại có Điêu Thuyền ly gián Đổng Lữ. Từ xưa đến nay, hồng nhan vẫn là nguồn cơn của họa loạn. Nay Thịnh A Man vì tranh chấp giữa Thôi Tuần và Thẩm Khuyết mà nổi danh thiên hạ, sau này tất sẽ có thêm nhiều người tìm đến. Nếu để lâu dài, triều đình Đại Chu e rằng khó có ngày yên ổn!”

Giết không được, thả cũng không xong, bá quan tranh luận kịch liệt. Sau cùng, họ đồng thuận rằng Thẩm Khuyết đã chiếm đoạt thân thể Thịnh A Man, vậy thì cứ để hắn đưa “họa thủy” này về phủ quản thúc. Với một nhạc kỹ trong giáo phường, được thoát khỏi thân phận tiện tịch, làm thị tỳ của Quốc công, đã là phúc phận lớn lao.

Về phần Thôi Tuần và Thẩm Khuyết, mỗi người bị phạt một tháng bổng lộc, coi như răn đe.

Sau khi bàn bạc, cả hai Tả Hữu bộc xạ Lư Dụ Dân và Thôi Tụng Thanh đều tỏ ý tán thành. Phía sau rèm châu, Thái hậu hồi lâu không nói, mãi sau bà mới chậm rãi cất lời, nói với đám nam nhân đông nghịt đang đứng chầu bên ngoài: “Đạo lý thiên hạ, đều do chư vị định ra. Bút mực giấy nghiên cũng nằm trong tay chư vị. Chư vị nói Thịnh A Man là họa thủy, nàng ta sẽ là họa thủy.”

Mọi người còn đang suy ngẫm ý tứ trong lời nói của Thái hậu, bà lại tiếp tục: “Thẩm Khuyết có thể mang Thịnh A Man đi, nhưng không phải làm thị tỳ, mà phải là thiếp thất. Không phải ngồi kiệu nhỏ mà phải là mười dặm hồng trang, long trọng rước nàng vào cửa.”

Quần thần rúng động. Quốc công nạp một kỹ nữ làm thiếp, xưa nay chưa từng có tiền lệ. Nhưng nghĩ lại, chuyện này chỉ có mỗi mình Thẩm Khuyết là mất mặt. Thẩm Khuyết cậy thế biểu huynh của Thánh nhân, kiêu ngạo ương ngạnh, chẳng xem ai ra gì. Vậy thì việc gì phải tranh cãi với Thái hậu chỉ để giữ gìn thể diện cho hắn?

Thánh nhân bèn hạ thánh chỉ, ban Thịnh A Man làm thiếp của Thẩm Khuyết. Nhưng điều mà không ai ngờ tới là, Thẩm Khuyết lại vui vẻ nhận chỉ, chẳng chút ngượng ngùng, thậm chí còn chuẩn bị mười dặm hồng trang, rộn ràng đón Thịnh A Man về phủ.



Hôm nạp thiếp, đội ngũ đón dâu của Quốc công phủ tưng bừng trống nhạc, đi ngang qua Sát Sự Thính. Trong phòng, Lý Doanh nghe tiếng nhạc rộn rã bên ngoài, nàng bỗng cau mày. A Man ở phường Bình Khang, còn Thẩm Khuyết ở phường An Nhân. Theo lý, kiệu đón dâu không thể nào đi qua Sát Sự Thính ở phường Nghĩa Ninh. Rõ ràng là Thẩm Khuyết cố tình.

Thôi Tuần đang làm việc trong nhị đường của Sát Sự Thính. Hai ngày nay, hắn không ngủ không nghỉ, một mực đốc thúc các vũ hầu tìm kiếm tung tích lão đạo Huyền Thành. Lúc này, hắn cúi mình trên án thư bằng gỗ tử đàn, trước mặt là chồng chồng tư liệu ghi chép về các đạo quán trong thành Trường An. Rõ ràng đang là tiết xuân tháng ba, trời trong gió mát, vậy mà Thôi Tuần vẫn khoác trên người một chiếc áo choàng lông hạc màu đen tuyền. Liên tiếp lao lực khiến sắc mặt hắn càng thêm tái nhợt, tựa như tuyết trắng phủ trên đỉnh núi. Thỉnh thoảng hắn lại ho nhẹ vài tiếng, nhưng bàn tay đang lật từng tấm thẻ trúc vẫn không chút ngơi nghỉ.

Khi nghe tiếng trống nhạc vang dội từ bên ngoài truyền tới, ngón tay đang lật sổ của hắn thoáng khựng lại. Lý Doanh lo lắng nhìn hắn. Hai ngày nay, Thôi Tuần không chợp mắt, nàng cũng không rời khỏi Sát Sự Thính, âm thầm đồng hành cùng hắn. Nàng không nói nhiều, cũng không khuyên giải, chỉ lặng lẽ ở bên, cùng hắn san sẻ bầu không khí ngột ngạt này.

Tiếng trống kèn ầm ĩ ngoài kia dường như lấy đi mấy phần huyết sắc vốn đã ít ỏi trên gương mặt Thôi Tuần. Lý Doanh mím môi, lòng bàn tay bỗng hiện lên ngọn quỷ hỏa màu xanh biếc. Quỷ hỏa hóa thành một lớp ánh sáng nhàn nhạt, bay đến đậu trên khung cửa sổ và cánh cửa gỗ, chặn toàn bộ những âm thanh huyên náo từ bên ngoài.

Căn phòng lập tức yên ắng. Thôi Tuần vẫn không ngẩng đầu, thần sắc như nước, không chút gợn sóng. Duy chỉ có hàng mi dài như cánh quạ khẽ run lên, nhẹ đến mức khó lòng nhận ra. Ngón tay thon dài tiếp tục lật giở, trong không gian yên tĩnh, chỉ còn lại âm thanh giòn giã khi những cuộn thẻ trúc được mở ra.

Lý Doanh tiếp tục dùng quỷ hỏa để phong bế âm thanh bên ngoài, tuy nhiên, việc sử dụng quỷ hỏa quá lâu khiến nàng hao tổn không ít niệm lực. Huống chi, đã hai ngày nàng chưa được nghỉ ngơi, đầu nàng không tránh khỏi choáng váng. Lý Doanh nâng tay xoa trán, định đứng dậy để giảm bớt cảm giác chóng mặt. Nhưng ngay khi nàng vừa nhổm dậy, bóng tối lập tức ùa đến, nàng chỉ kịp cảm thấy thân thể mềm nhũn, rồi ngã xuống đất.



Trong cơn mơ màng, Lý Doanh như cảm nhận được một đôi cánh tay vững chãi bế nàng lên. Là Thôi Tuần sao? Nàng mơ hồ nghĩ vậy.

Thế nhưng, dù cố gắng đến mấy, nàng cũng không thể mở mắt. Dường như, nàng nghe thấy một tiếng thở dài khe khẽ, trầm thấp mà dịu dàng. Rồi đôi cánh tay ấy bế nàng lên, nhẹ nhàng đặt lên chiếc sạp thấp chạm khắc trong phòng. Một bàn tay kéo lấy tấm chăn gấm phủ lên người nàng, động tác cẩn thận vô cùng.

Hắn đứng đó, lặng lẽ trông chừng nàng hồi lâu. Sau khi xác định nàng không còn gì đáng ngại, hắn mới xoay người, chuẩn bị trở lại án thư tiếp tục công việc. Nhưng ngay khoảnh khắc hắn rời đi, vạt áo dài bất ngờ bị một bàn tay nhỏ bé nắm lấy.

Thôi Tuần ngoảnh lại, Lý Doanh hơi nghiêng người, đôi mắt mờ mịt mở ra một cách khó nhọc. Nàng dường như muốn ngồi dậy, nhưng cơn choáng váng làm cơ thể nàng mềm oặt, chẳng thể nhúc nhích. Thôi Tuần hơi nhíu mày, giọng điệu trầm thấp: “Đừng cử động.”

Hắn nói tiếp: “Cô hãy nghỉ ngơi đi.”

Nhưng tay áo của hắn vẫn bị Lý Doanh nhẹ nhàng kéo lấy. Đôi mắt nàng mờ mịt tựa sương sớm chưa kịp tan, đôi nhu đề trắng nõn như bạch ngọc níu lấy tay áo hắn, nhất quyết không chịu buông ra.

Thôi Tuần cúi đầu nhìn nàng, ánh mắt nàng cũng hướng về hắn. Trong đôi mắt mờ mịt ấy thoáng hiện vẻ dè dặt, ngập ngừng tựa ánh mắt chú nai nhỏ, vừa e sợ vừa như cầu xin. Một chút cảm xúc như gợn sóng lướt nhẹ qua lòng hắn. Hắn mím môi, không rời đi, mà ngồi xuống bên mép giường, khoanh chân đối diện với nàng.

Lý Doanh nằm nghiêng trên giường, đôi mắt nhìn chăm chú vào hắn. Trong căn phòng kín, lò sưởi vẫn cháy hừng hực, không khí ấm áp đến mức khiến người ta đổ mồ hôi. Thế nhưng, Thôi Tuần vẫn khoác một chiếc áo choàng lông dày nặng. Nàng nhớ lại cảnh tượng hai ngày trước, dưới cơn mưa lất phất, bộ quan phục màu thẫm trên người hắn bị mưa làm ướt, bám chặt vào thân hình gầy gò như cánh hạc. So với lần đầu tiên nàng gặp hắn hai tháng trước, dường như hắn lại gầy đi nhiều.

Phải, hai tháng qua, hắn đã trải qua không biết bao nhiêu biến cố. Từ lúc nghe lời dặn dò của Thịnh Vân Đình đến mức đau lòng mà thổ huyết, chịu một trăm trượng đến suýt mất mạng, lại còn chuyện của bá phụ, chuyện của A Man, từng chuyện từng chuyện đều là những đòn chí mạng. Sao hắn có thể không hao gầy?

Mũi Lý Doanh bất giác cay cay. Nàng cúi mắt, hàng mi dài đen mượt che đi đáy mắt, không để hắn nhìn thấu cảm xúc dâng trào trong lòng nàng. Thôi Tuần đột nhiên cất lời, giọng vẫn trầm ổn: “Cô nghỉ ngơi trước đi.”

Lông mi nàng khẽ rung động. Nàng ngẩng đầu lên, nhẹ nhàng lắc đầu: “Ngài không nghỉ, ta cũng không nghỉ.”

Thôi Tuần im lặng hồi lâu, rồi nói: “Hà tất phải như vậy?”

Lý Doanh cũng trầm mặc, một lúc sau, nàng bất ngờ hỏi: “Thôi Tuần, có phải ngài… vẫn còn giận ta không?”

Dường như Thôi Tuần cũng không ngờ nàng lại đột nhiên hỏi vậy. Hắn không đáp ngay. Nàng nói, giọng điệu nhẹ như gió thoảng: “Sau này, ta sẽ không tự ý quyết định nữa, nhất định sẽ bàn bạc với ngài. Ngài đừng giận ta nữa, được không?”

Nói đến đây, gương mặt nàng thoáng vẻ căng thẳng. Thôi Tuần nhìn sâu vào đôi mắt nàng, đôi mắt trong trẻo như suối nguồn. Hắn vốn không quen giải thích hay bộc bạch lòng mình với bất kỳ ai. Như nàng từng nói, hắn luôn giấu tất cả mọi chuyện trong lòng, chẳng ai biết hắn thực sự nghĩ gì. Nhưng đối diện với đôi mắt trong trẻo ấy, cuối cùng hắn thở dài, nói: “Thật ra… cũng không hẳn.”

“Không hẳn là sao?”

“Ban đầu, ta có hơi giận cô.”

“Vậy sau đó thì sao?”

“Sau đó…” Hắn ngập ngừng, rồi cười nhạt, tự giễu: “Lại giận chính bản thân ta.”

“Tại sao, ngài lại giận chính mình?”

Thôi Tuần cười nhạt, đôi mắt ánh lên sự chua xót: “Có lẽ… ta giận mình vì đã không tìm được miêu quỷ, giận mình vì phải để một nữ tử yếu đuối làm mồi nhử, giận mình cuối cùng… vẫn chẳng làm được gì.”

Khóe mắt Lý Doanh ươn ướt. Nàng hiểu rõ, hắn vẫn còn giận bản thân mình vì sự bất lực. Cũng như chuyện của A Man, rõ ràng là Thẩm Khuyết gây ra tội ác, nhưng hắn lại ôm hết trách nhiệm lên người, tự hành hạ bản thân suốt hai ngày không chợp mắt, chỉ để sớm tìm ra Huyền Thành, giải cứu A Man khỏi tay Thẩm Khuyết.

Trong sáu năm qua, những chuyện như vậy, có lẽ hắn đã trải qua không chỉ ngàn lần mà còn nhiều hơn thế. Trái tim hắn có lẽ đã bị tổn thương đến mức không còn cảm giác đau đớn. Lý Doanh mơ hồ hiểu được vì sao hôm đó, lúc say rượu, hắn lại nói với nàng rằng nàng không thể cứu được hắn.

Bởi vì cả thế gian này đều đang mắng nhiếc hắn. Họ mắng hắn tham sống sợ chết, mắng hắn làm nhục gia phong, mắng hắn dùng sắc hầu chủ. Họ căm ghét hắn, nhạo báng hắn, khinh miệt hắn. Ngay cả A Man, người hắn hết lòng bảo vệ, cũng như thân quyến của Thiên Uy quân, đều mang lòng oán hận hắn. Nhưng chẳng có ai chịu dừng lại để hỏi hắn, liệu những điều đó có thật không.

Có lẽ hắn đã từng đấu tranh, từng cầu cứu, từng mong có ai đó giúp mình. Hắn từng thử nói với bá phụ mà hắn kính trọng từ nhỏ về vụ án Thịnh Vân Đình, nhưng đổi lại chỉ là một câu lạnh lùng: “Tại sao ngươi không chết ở Đột Quyết đi?” Từ đó, hẳn hắn đã hoàn toàn tuyệt vọng. Vì vậy, hắn thà gánh chịu mọi thứ một mình, thà khép chặt lòng mình, thà không nói gì, không giải thích gì. Vì như vậy, có lẽ sẽ bớt đau đớn hơn.

Lý Doanh lặng lẽ nhìn hắn. Hắn ngồi xếp bằng trước giường, gần nàng đến mức nàng có thể nghe được hơi thở yếu ớt của hắn. Gương mặt tuấn tú tựa đóa sen trắng, nhưng lại nhợt nhạt đến mức gần như trong suốt. Dưới lớp hạc bào dày cộm, thân hình hắn gầy guộc tựa tàn cốt, trên chiếc cổ dài trắng ngọc, mờ mờ hiện ra vết sẹo dữ tợn. Nhưng trong đôi mắt kia, thần sắc lại hờ hững, tựa như chẳng có bất kỳ tổn thương nào từng chạm đến hắn.

Lý Doanh cảm thấy sống mũi cay xè, nàng cúi mắt, không dám nhìn hắn, giọng nói mang theo chút nghẹn ngào: “Thôi Tuần, sau này… đừng làm như vậy nữa có được không, đừng như lần này, tức giận rồi trốn vào Sát Sự Thính, mười mấy ngày không chịu gặp ta?”

Dường như lo sợ Thôi Tuần sẽ từ chối, không đợi hắn trả lời, nàng tiếp tục nói: “Dù ngài giận ta, hay giận chính bản thân ngài, cũng đừng trốn tránh ta nhé. Nếu ngài cảm thấy tự trách thì ngài hãy nói với ta. Nếu ngài không nói, ta sẽ không biết. Ta sẽ nghĩ mình đã làm sai điều gì đó, ta sẽ vì thế mà cảm thấy rất buồn.”

Nàng cúi thấp đầu, khẽ hít một hơi, hàng mi dài che khuất đôi mắt, cố giấu đi nỗi chua xót và khó chịu trong lòng. Có lẽ nàng nghĩ rằng Thôi Tuần không thấy được, nhưng Thôi Tuần nhìn rất rõ. Hắn chăm chú nhìn những giọt nước nhỏ đọng lại trên hàng mi như cánh chim mỏng manh của nàng, rồi nhẹ giọng nói: “Được.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 51: Đoạn đường gai góc, thân thể bệnh tật, đơn độc bước đi


Thôi Tuần suốt hai ngày không ngủ không nghỉ, quả thực đã tìm ra tung tích của Huyền Thành.

Hóa ra, Huyền Thành vốn là một đạo sĩ, vậy mà lại cạo đầu, trốn vào chùa làm hòa thượng, khiến các vũ hầu của Sát Sự Thính phải tìm kiếm khổ sở một phen. Sau khi bắt được, họ áp giải lão về Sát Sự Thính, dùng hình tra khảo. Nhưng Huyền Thành quả thực cứng miệng, suốt ba ngày trời không hé lấy một lời.

Lưu Cửu không còn cách nào khác, bèn đến xin chỉ thị của Thôi Tuần. Khi ấy, Thôi Tuần đang lật xem một khổ gấm dệt hoa văn liên châu đoàn khoa trên án thư. Khổ gấm ấy rực rỡ như mây hồng, nổi bật bên cổ tay trắng mịn như ngọc lạnh. Hắn không ngẩng đầu lên, chỉ hỏi: “Khi các ngươi bắt được Huyền Thành, sắc mặt lão ra sao?”

“Lão ta có chút kinh ngạc, nhưng không quá đỗi bất ngờ. Có lẽ lão đã đoán trước rằng thuộc hạ sẽ đến, chỉ không ngờ lại đến nhanh tới vậy.”

“Nếu muốn tận trung với chủ thì khi biết các ngươi sẽ tới, lão phải tự sát để giữ kín bí mật. Lão không muốn chết, tức không thể cứng miệng đến cùng. Tiếp tục dùng hình, ép lão phải khai ra sự thật.”

Lưu Cửu cúi đầu đáp: “Tuân lệnh!” Sau khi hắn đi khỏi, Lý Doanh từ bên ngoài bước vào.

Vừa vào, nàng đã nhìn thấy trên án thư đặt một khổ gấm dệt hoa văn liên châu đoàn khoa. Dường như nàng từng thấy khổ gấm này ở đâu đó…

Trên án thư của Thôi Tuần, còn đặt một hình nhân vu cổ, chính là thứ mà Tưởng Lương nhét vào tay nàng trước khi lìa đời. Bộ cung trang trên thân hình nhân có hoa văn giống hệt với khổ gấm kia.

Thôi Tuần thấy nàng tiến vào, liền cầm khổ gấm đỏ rực ấy, đưa đến trước mặt nàng: “Cô nhìn kỹ xem.”

Lý Doanh nhận lấy khổ gấm, lật qua lật lại ngắm nghía: “Hình như đây là khổ gấm mà a gia từng ban cho ta vào năm Thái Xương thứ mười chín.”

Thôi Tuần gật đầu: “Đây là khổ gấm do phường Thải Y ở Dương Châu tiến cống, chỉ có duy nhất một cuộn. Sau đó, hai huynh đệ chủ xưởng dệt tranh giành gia sản, xưởng dệt tan rã, các thợ thêu cũng tản đi khắp nơi, không thể dệt ra loại gấm đẹp tựa mây hồng này nữa.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Ý của ngài là, bộ y phục mặc trên người hình nhân và khổ gấm mà a gia từng ban cho ta đều từ một cuộn mà ra?”

Thôi Tuần không phủ nhận cũng chẳng khẳng định: “Khổ gấm cô đang cầm là thứ ta tìm được trong phủ Thẩm Khuyết.”

“Trong phủ Thẩm Khuyết?” Lý Doanh thì thầm: “Lẽ nào hình nhân vu cổ này có liên quan đến Thẩm Khuyết?”

“Khổ gấm này đã là chuyện của ba mươi mốt năm trước rồi.” Thôi Tuần nhắc nhở Lý Doanh: “Cô còn nhớ đã từng tặng nó cho ai không?”

Lý Doanh chau mày, trong đầu chợt vang vọng giọng nói của một thiếu nữ đoan trang, đôi môi cong lên, mỉm cười nhẹ nhàng: “Minh Nguyệt Châu, khổ gấm này đỏ rực như lửa, tươi tắn bắt mắt, nhìn đẹp thật đấy.”

Nàng nhoẻn cười, đáp: “Dung tỷ tỷ thích sao?”

“Đẹp thế này, ai mà không thích cho được?”

“Nếu Dung tỷ tỷ thích, vậy ta sẽ tặng tỷ cuộn gấm này.”

“Như vậy sao được? Đây là vật Thánh nhân ban tặng cho muội mà.”

“Đã ban cho ta thì chính là của ta. Đương nhiên ta có quyền tặng lại cho Dung tỷ tỷ, hơn nữa, di mẫu đã may cho ta biết bao đôi hài, ta tặng gấm này cho tỷ, cũng là lẽ đương nhiên.”

Lý Doanh cắn nhẹ môi, rồi khẽ nói với Thôi Tuần: “Ta đã tặng cuộn gấm ấy cho biểu tỷ của ta, Thẩm Dung.”

Thôi Tuần nhấc con hình nhân bằng gỗ trên án thư, bộ cung trang trên người hình nhân đã phai màu, cũ kỹ sứt sẹo, hoàn toàn tương phản với khổ gấm đỏ rực rỡ như áng mây được bảo quản hoàn hảo trong tay Lý Doanh. Hắn nói: “Hình nhân này không phải vừa mới làm gần đây, mà đã được làm từ ba mươi năm trước.”

“Ba mươi năm trước?” Lý Doanh giật mình. “Ba mươi năm trước, khổ gấm này nằm trong tay Thẩm Dung… Ý của ngài là, hình nhân này có liên quan đến biểu tỷ của ta?”

Thôi Tuần không nói phải, cũng không nói không, chỉ đáp: “Có lẽ, cái chết của di mẫu và biểu tỷ cô không đơn thuần chỉ vì biểu tỷ muốn vào cung tranh sủng, mà còn ẩn giấu nguyên nhân khác.”

“Nguyên nhân… khác?”

Thôi Tuần gật đầu: “Đợi đến khi Huyền Thành chịu mở miệng, chân tướng tất sẽ lộ diện.”



Nhưng muốn Huyền Thành khai nhận, e rằng còn cần thêm thời gian.

Lý Doanh nhẹ nhàng mở lòng bàn tay, trong đó là một viên hương hoàn nhỏ xinh. Thì ra hôm nay nàng không ở đây là vì bận đi chế hương hoàn.

Lý Doanh nói: “Giờ ngài đã tìm được Huyền Thành, cũng đã có manh mối về hình nhân vu cổ, nên ngài hãy nghỉ ngơi, được chứ?”

Thôi Tuần thoáng sững người, sau đó lắc đầu: “Ta không ngủ được.”

“Ta biết ngài không ngủ được, nhưng năm ngày qua ngài gần như không hề chợp mắt.” Lý Doanh nhìn gương mặt tiều tụy, tái nhợt của hắn, đôi mày nhíu lại: “Ta lo cứ tiếp tục thế này, Thẩm Khuyết chưa xảy ra chuyện, thì ngài đã ngã quỵ trước rồi.”

Ánh mắt nàng tràn đầy lo lắng, trong đôi đồng tử lấp lánh ánh nước là nỗi băn khoăn chân thành. Nàng nhẹ giọng nói: “Viên hương hoàn này được chế từ các loại thảo dược an thần. Khi đốt lên, nhất định ngài sẽ ngủ được.”

Nàng ngập ngừng một lát, rồi nói tiếp: “Thôi Tuần, ta muốn ngài nghỉ ngơi.”

Thôi Tuần nhìn viên hương hoàn trong tay nàng, cuối cùng khẽ gật đầu.

Lý Doanh nở nụ cười dịu dàng, nàng cẩn thận đặt viên hương hoàn lên ánh lửa, sau đó đặt vào lư hương hình hạc tiên bằng đồng vàng khảm rỗng. Một làn khói mỏng từ miệng hạc tiên chậm rãi bay ra, hương thơm nhè nhẹ lan tỏa khắp gian phòng.

Thôi Tuần nằm xuống trường kỷ, trong mùi hương dịu nhẹ ấy, hắn cảm thấy tâm trí rã rời dần bình yên lại. Mỏi mệt đè nặng rốt cuộc cũng biến thành cơn buồn ngủ. Mọi thứ kéo đến khiến hắn nhắm mắt, chìm vào giấc ngủ say.

Khi hắn đã ngủ say, Lý Doanh bước đến trước chiếc kỷ thấp bằng gỗ hoàng hoa lê, ngồi xuống khoanh chân, lặng lẽ ngắm nhìn Thôi Tuần đang ngủ. Hắn dường như không ngủ yên, đôi mày vẫn nhíu chặt, như thể trong giấc mộng vẫn chất chứa biết bao tâm sự chưa giải quyết.

Nàng thở dài, bàn tay giơ lên, định chạm vào, vuốt phẳng đôi mày đang chau của hắn. Nhưng khi tay sắp chạm đến, nàng lại do dự, rồi rút về.

Nàng cúi người, gối đầu lên cạnh giường nhìn hắn. Những ngày qua hắn đã quá lao lực, sắc mặt càng thêm nhợt nhạt, đôi môi chẳng còn huyết sắc. Cả thân hình hắn gầy yếu mong manh, tựa như hạc trắng đơn côi.

Thật ra, hắn cũng chỉ vừa tròn hai mươi ba tuổi. Ở tuổi này, những công tử Ngũ Lăng [2] khác vẫn còn dạo xuân trên lưng bạch mã, vui thú trong tiếng ca múa chốn gấm lụa phồn hoa. Nhưng hắn, lại như chưa từng có một ngày được sống thoải mái.

<i>[2] Ngũ Lăng (五陵) là cách gọi chung để chỉ khu vực quanh năm lăng mộ của các hoàng đế nhà Hán ở Trung Quốc, thuộc khu vực gần Trường An (nay là Tây An, tỉnh Thiểm Tây). Ngũ Lăng cụ thể gồm: 1. Trường Lăng (长陵) – Lăng mộ của Hán Cao Tổ Lưu Bang; 2. An Lăng (安陵) – Lăng mộ của Hán Huệ Đế Lưu Doanh; 3. Dương Lăng (阳陵) – Lăng mộ của Hán Cảnh Đế Lưu Khải; 4. Mao Lăng (茂陵) – Lăng mộ của Hán Vũ Đế Lưu Triệt; 5. Bình Lăng (平陵) – Lăng mộ của Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng.</i>

<i>Vào thời kỳ nhà Hán và cả các triều đại sau, khu vực này là nơi an táng hoàng đế và quý tộc, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa phồn hoa. Vì thế, từ “Ngũ Lăng” dần trở thành một cách nói mang ý nghĩa bóng để chỉ những công tử, thiếu gia giàu có, quý phái, sống trong nhung lụa, thường gắn với cuộc sống phong lưu, phóng khoáng.</i>

Thịnh A Man từng nói, năm vạn quân Thiên Uy đều bỏ mạng tại Lạc Nhạn Lĩnh, vì sao chỉ mình hắn sống sót? Nhưng Lý Doanh lại thấy, hắn đã chết ở Lạc Nhạn Lĩnh từ lâu rồi. Lý tưởng, niềm kiêu hãnh, lòng tự tôn của hắn, tất cả đều đã chôn vùi cùng năm vạn quân ấy.

Đôi khi, người sống, lại phải chịu cảnh sống không bằng chết.

Lý Doanh nhìn thấy Thôi Tuần dường như đang bị ác mộng quấy nhiễu. Hắn nhắm chặt mắt, hàng mày nhíu lại càng lúc càng sâu, hàng mi dài tựa lông quạ bỗng run lên, đầu ngón tay cũng không ngừng run rẩy, như thể đang cố gắng nắm lấy thứ gì đó trong vô vọng. Nếu cứ tiếp tục thế này, chẳng mấy chốc hắn sẽ bừng tỉnh.

Nàng đắn đo trong giây lát, cuối cùng đưa tay ra, đặt nhẹ lên lòng bàn tay hắn.

Lòng bàn tay Thôi Tuần lạnh lẽo như tuyết, thậm chí còn lạnh hơn cả bàn tay của một u linh như nàng. Trong khi đó, cửa phòng đều đã đóng kín, trong phòng còn đốt lò sưởi, vậy mà hắn vẫn lạnh đến mức này. Lý Doanh không khỏi kinh ngạc. Không trách được giữa tiết trời như thế này, hắn vẫn khoác chiếc áo lông hạc dày nặng. Rõ ràng hàn khí đã thấm sâu vào tận xương, đến mức ngay cả giữa ngày hè nắng gắt, hắn vẫn cảm thấy lạnh buốt.

Thân thể hắn yếu nhược đến mức như vậy, thế nhưng hắn vẫn chưa từng từ bỏ việc minh oan cho Thiên Uy quân. Thậm chí, hắn còn một mình gánh vác cuộc sống của năm vạn gia quyến mà Thiên Uy quân để lại. Con đường gai góc ấy, hắn một thân một mình, lê bước với cơ thể bệnh tật.

Lý Doanh không khỏi nghẹn ngào. Trong lòng nàng, cảm xúc phức tạp đan xen, chẳng rõ là đau lòng, kính phục hay bi phẫn.

Bàn tay nàng đặt nhẹ vào lòng bàn tay hắn. Trong cơn ác mộng, Thôi Tuần tựa như vớ được cọng rơm cứu mạng, lập tức nắm chặt lấy tay nàng, không chịu buông ra. Nàng không giãy dụa, chỉ lặng lẽ nhìn gương mặt tái nhợt như tuyết của hắn, khẽ nói: “Thôi Tuần, ta ở đây.”

Dường như hắn nghe thấy lời này, dần dần yên tĩnh lại. Đôi mày đang cau chặt của hắn từ từ giãn ra, cơn ác mộng giày vò cũng theo đó rời đi. Nhịp thở của hắn trở nên đều đặn, rơi vào một giấc ngủ an lành.

Chỉ là, đôi tay hắn vẫn nắm lấy tay nàng, nhất quyết không buông.



Giấc ngủ của Thôi Tuần kéo dài từ lúc bình minh vừa ló rạng cho đến khi trời ngả về tây.

Hắn gần như đã ngủ trọn một ngày, kể từ trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh sáu năm trước, chưa bao giờ hắn được ngủ một giấc bình yên như thế. Khi tỉnh dậy, ngay cả bản thân hắn cũng có phần kinh ngạc.

Hắn hơi nghiêng đầu, quả nhiên nhìn thấy thân ảnh mảnh mai của nàng đang gục đầu bên cạnh giường, ngủ thiếp đi.

Bàn tay hắn vẫn siết chặt lấy tay nàng. Lòng bàn tay nàng ấm áp như ngọc, tựa như xua tan phần nào hàn khí lạnh buốt quanh thân hắn. Thôi Tuần không buông tay nàng, chỉ nghiêng đầu ngắm nhìn. Nàng lúc ngủ yên bình đến lạ, hàng mi dài rợp bóng, như chiếc quạt nhỏ phủ nhẹ lên mí mắt, gương mặt thanh tú dịu dàng. Hắn cứ lặng lẽ nhìn nàng như vậy, cho đến khi một tràng gõ cửa vọng đến làm hắn nhíu mày.

Thôi Tuần buông tay nàng ra, chậm rãi đứng dậy đi mở cửa.

Bên ngoài là Lưu Cửu, hắn hớn hở báo: “Thiếu khanh, Huyền Thành đã khai rồi.”

Thế nhưng, ngoài dự đoán của Lưu Cửu, khi nghe tin này Thôi Tuần không lập tức đến ngục phòng ngay, chỉ nhàn nhạt đáp rằng sẽ đến sau rồi tiễn hắn một cách qua loa.

Sau khi Lưu Cửu rời đi, Thôi Tuần xoay người trở lại phòng. Hắn cúi người, nhẹ nhàng bế Lý Doanh đang gục bên giường lên, đặt nàng nằm ngay ngắn trên giường, cẩn thận đắp kín chăn cho nàng. Xong xuôi, hắn mới chậm rãi bước ra khỏi phòng, khép lại cửa gỗ, rồi mới rời đi đến ngục phòng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 52: Công chúa Vĩnh An, không thể chết uổng


Trong ngục phòng, Huyền Thành bị tra tấn đến máu chảy đầm đìa, toàn thân run rẩy. Đúng như Thôi Tuần nói, lão vốn không muốn chết. Sau ba ngày cố gắng chịu đựng cực hình, đến ngày thứ tư, rốt cuộc lão không thể chống đỡ nổi nữa. Nếu trên thế gian này thực sự có địa ngục trần gian, thì nơi đó chắc chắn chính là Sát Sự Thính.

Huyền Thành sợ hãi nhìn chằm chằm người thanh niên trước mặt. Người thanh niên ấy mang vẻ đẹp “thu thủy vi thần, bạch ngọc vi cốt”, [1] bề ngoài bệnh sắc tái nhợt, thân khoác trường bào đen tuyền, trông giống một công tử thế gia thanh nhã yếu ớt. Nhưng trong mắt Huyền Thành, hắn chính là ác quỷ bước ra từ địa ngục. Không, còn đáng sợ hơn cả ác quỷ!

<i>[1] “thu thủy vi thần, bạch ngọc vi cốt”: là một cụm từ mô tả vẻ đẹp con người, thường được dùng trong văn học cổ điển Trung Quốc để ca ngợi những người có dung mạo xuất chúng và khí chất thanh tao. “Thu thủy” (nước mùa thu) ám chỉ ánh mắt trong veo, tĩnh lặng mà sâu sắc, giống như mặt nước mùa thu yên ả. “Thần” ở đây nói về thần thái trong ánh mắt, ý chỉ đôi mắt đẹp và tràn đầy sức sống. “Bạch ngọc” (ngọc trắng) tượng trưng cho làn da trắng mịn màng, còn “vi cốt” (làm cốt) thể hiện sự tinh khiết, cao quý như ngọc. Ý nói người có dáng vẻ thanh cao, quý phái.</i>

Những ngón tay thon dài của thanh niên chậm rãi lật qua lật lại vài chục chiếc đinh dài đặt trên bàn gỗ. Mỗi chiếc đinh dài khoảng hai tấc, đầu nhọn ánh lên tia sáng lạnh lẽo. Tên ngục tốt bên cạnh vội vã lấy lòng: “Thiếu khanh, mới chỉ đóng hai chiếc đinh thôi, lão ta đã kêu gào xin khai rồi.”

Huyền Thành nghĩ đến những hình phạt vừa nếm trải, bất giác sợ hãi đến mức hai chân mềm nhũn. Thanh niên liếc mắt nhìn lão, khóe môi khẽ cong lên vẻ giễu cợt. Hắn nhàn nhạt nói: “Huyền Thành, ta hỏi một câu, ngươi trả lời một câu. Nếu có nửa lời gian dối, ta sẽ dùng toàn bộ số đinh còn lại đóng vào xương ngươi.”

Huyền Thành nào dám chống đối, nước mắt nước mũi tràn trề: “Thiếu khanh cứ hỏi, mỗ nhất định biết gì nói nấy, tuyệt không giấu giếm.”

Cuộc thẩm vấn kéo dài suốt một đêm. Đến khi trời đông vừa hửng sáng, Thôi Tuần bước ra khỏi Sát Sự Thính, đi thẳng đến cung Đại Minh.



Trên đường đến Đại Minh Cung, Thôi Tuần chạm mặt Thẩm Khuyết.

Mặc dù bị Thánh thượng ra lệnh giam lỏng trong phủ, nhưng Thẩm Khuyết vẫn viện cớ đưa tân phụ về thăm nhà mẹ đẻ để ngang nhiên rời phủ. Khi nhìn thấy Thôi Tuần đang cưỡi ngựa trên đường đến cung Đại Minh, Thẩm Khuyết cười khẩy, kéo A Man xuống xe ngựa cùng hắn.

Thẩm Khuyết giữ chặt tay A Man, ngẩng cao đầu, ánh mắt chế nhạo nhìn lên Thôi Tuần đang ngồi vững trên lưng ngựa: “Thôi Tuần, hôm nay là ngày A Man về nhà mẹ đẻ. Tuy nàng không còn huynh trưởng, nhưng nhà họ Thịnh vẫn có một vài thân thích. Ta vừa đưa nàng về, đám thân thích kia cảm tạ không ngớt, nói rằng A Man phải tu tám kiếp mới được gả làm thiếp cho ta. Ngươi là người quen cũ của nàng, chẳng phải nên chúc mừng nàng một câu sao?”

Khi hắn nói những lời này, A Man liên tục cắn môi, ánh mắt lấp ló vẻ xấu hổ xen lẫn phẫn uất. Nàng cố gắng giãy khỏi tay hắn, nhưng cánh tay hắn tựa như kìm sắt, giữ nàng chặt đến mức không cách nào thoát ra được.

Thôi Tuần lãnh đạm nhìn Thẩm Khuyết đang cố ý khiêu khích, ánh mắt lạnh lùng như đang nhìn một kẻ sắp chết. Một lúc sau, hắn khẽ cười, không đáp lại mà chỉ thúc ngựa đi qua. Con ngựa thong thả vượt qua Thẩm Khuyết, tiến thẳng về phía trước.

Thẩm Khuyết sửng sốt, thẹn quá hóa giận: “Thôi Tuần! Ta biết ngươi đã bắt Huyền Thành. Hừ, ta nói cho ngươi biết, dù Huyền Thành có khai thì ta cũng chẳng làm sao! Ngươi muốn lật đổ ta? Đợi kiếp sau đi!”

Thôi Tuần chẳng buồn quay đầu nhìn hắn, trên môi chỉ thoáng hiện nụ cười khinh miệt, dẫn các vũ hầu của Sát Sự Thính, thẳng thừng rời đi.

Thẩm Khuyết tức đến phát điên, cảm giác như vừa đấm vào bịch bông. Nhân cơ hội đó, A Man cuối cùng cũng thoát khỏi tay hắn, cười nhạt: “Thẩm Khuyết, ngươi không thấy vô vị lắm sao?”

Thẩm Khuyết lấy lại tinh thần, phẫn nộ quát: “Ngươi, con tiện nhân này, ngươi cũng dám chế nhạo ta sao?”

A Man không sợ hãi, nhìn thẳng vào hắn: “Thôi Tuần không hề thích ta. Ngươi lấy ta để chọc tức hắn, e là đã tính nhầm rồi!”

Thẩm Khuyết cười lạnh: “Ta nói cho ngươi biết, dù ta tính sai, ngươi cũng đừng mong thoát khỏi tay ta!”

A Man nghe vậy, không khóc lóc, cũng chẳng cầu xin, mà chỉ nhìn gương mặt tuấn tú nhưng đầy bạo ngược của hắn với ánh mắt khinh bỉ: “Thẩm Khuyết, cho dù ngươi không buông tha ta thì đã sao? Loại nam nhân chỉ biết hành hạ nữ nhân để trút giận như ngươi, dù ngươi có giết ta thì ta vẫn khinh thường ngươi!”

Thẩm Khuyết giận tím mặt, bàn tay giơ cao lên, chuẩn bị giáng xuống. Nhưng A Man vẫn không sợ hãi, chỉ nhếch môi chế giễu: “Đánh đi, ngươi chỉ giỏi trút giận lên ta thôi!”

Nàng có tính tình cương trực như lửa, đôi mắt rực lên vẻ kiên cường, bất khuất, khóe miệng còn vương nét cười lạnh lùng. Thẩm Khuyết chợt nhớ lại đêm hắn cưỡng đoạt nàng, ánh mắt nàng khi đó cũng kiên định như thế. Nàng không khóc, không làm loạn, cũng chẳng cầu xin. Đôi mắt ấy, như muốn đóng đinh vào hắn. Đêm hôm ấy, rõ ràng người chịu nhục là nàng, nhưng kẻ bị đánh bại lại chính là hắn.

Hắn biết, cả đời này, hắn cũng không thể khuất phục được nàng.

Thẩm Khuyết nghiến răng ken két, cơn giận bốc lên đến đỉnh điểm, nhưng bàn tay giơ cao cuối cùng vẫn không thể hạ xuống. Hắn quay người bước lên xe ngựa, ra lệnh phu xe rời đi, để lại A Man một mình giữa phố phường tấp nập.



Thôi Tuần tiến vào cung Đại Minh, hắn không dự triều, mà thẳng tiến tới điện Bồng Lai, dâng bản cung trạng của Huyền Thành lên Thái hậu phía sau bức rèm châu.

Bản cung trạng dài đến vạn chữ, Thái hậu xem mãi, không nói một lời. Điện Bồng Lai yên ắng đến mức có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Sau khi đọc xong, Thái hậu vứt mạnh tờ cung trạng xuống đất, lồng ng.ực phập phồng, biểu lộ cơn giận dâng trào.

Thôi Tuần là người lên tiếng trước: “Hồi bẩm Thái hậu, Huyền Thành đã nhận tội, Thẩm Khuyết đích thị là kẻ đã cấu kết với Tưởng Lương, lén trộm địch y của Thái hậu ra khỏi cung, dùng miêu quỷ để hãm hại người. Sau khi Tưởng Lương thất bại, chính Thẩm Khuyết đã che giấu Tưởng Lương trong phủ Quốc công nhằm tránh sự truy bắt của Sát Sự Thính. Chưa hết, Thẩm Khuyết còn ép Huyền Thành lập đàn làm phép, âm mưu đoạt mạng Thái hậu. Chỉ là Huyền Thành đạo thuật không tinh, nên Thẩm Khuyết chưa đạt được mưu đồ. Từng việc, từng việc, đều có đủ nhân chứng vật chứng, Thẩm Khuyết không thể chối cãi.”

Thái hậu nghiến răng nói: “Ngô chưa từng xử bạc với Thẩm Khuyết.”

Thôi Tuần đáp: “Thái hậu đối đãi với Thẩm Khuyết quả thực không bạc, nhưng hắn không thể quên cái chết của Thẩm quốc phu nhân và Thẩm Dung. Vì thế, hắn mới ôm hận trong lòng, dẫu Thái hậu có ân sủng thế nào, hắn cũng không hề cảm kích.”

Sau rèm châu, Thái hậu trầm tư một lúc. Bà biết rõ lời Thôi Tuần nói đều là sự thật. Một lúc lâu sau, bà mới cắn răng nói tiếp: “Ngô biết Thẩm Khuyết hận ngô, nhưng không ngờ hắn hận đến mức này, thậm chí không tiếc mạo hiểm bị tru di cửu tộc, chỉ để đoạt mạng ngô.”

Thôi Tuần quỳ rạp, giọng điềm nhiên: “Thẩm Khuyết mưu hại Thái hậu, chứng cứ rõ ràng, chiếu theo luật pháp đáng tội xử trảm. Xin Thái hậu định đoạt.”

Dứt lời, Thái hậu vẫn chần chừ chưa đáp. Thôi Tuần hiểu, có lẽ bà vẫn luyến tiếc chút tình nghĩa tỷ muội năm xưa. Vì thế hắn nói: “Thái hậu, thần còn một việc muốn bẩm báo.”

Thái hậu hỏi: “Việc gì?”

Thôi Tuần lấy ra một hình nhân vu cổ ra khỏi ống tay áo, giao cho nội thị trình lên Thái hậu: “Đây là vật tìm thấy trong phủ Thẩm Khuyết, là hình nhân dùng để nguyền rủa công chúa Vĩnh An.”

Nghe thấy bốn chữ “công chúa Vĩnh An,” thân thể Thái hậu liền chấn động. Bà cầm hình nhân trong tay, nhìn những chiếc kim bạc dài xuyên trên thân hình nhỏ bé, ngón tay bà siết chặt. Trong ánh mắt, sự phẫn nộ mơ hồ hiện lên, nhưng nét mặt lại không hề lộ ra vẻ bất ngờ, tựa như đã sớm biết về sự tồn tại của vật này.

Thôi Tuần ngước mắt, xuyên qua những khe hở giữa rèm châu lay động, lặng lẽ quan sát từng biểu cảm trên mặt Thái hậu. Trong lòng hắn càng thêm khẳng định, hắn nói: “Thái hậu, y phục trên hình nhân này là loại gấm được dệt cách đây ba mươi năm. Mà ba mươi năm trước, Thẩm Khuyết vẫn chưa ra đời, vật này rõ ràng không liên quan đến hắn. Nhưng nó lại được phát hiện trong Thẩm Quốc công phủ, dù không dính dáng tới Thẩm Khuyết, thì e cũng liên quan đến người khác trong phủ.”

Lồng ng.ực Thái hậu phập phồng dữ dội, ánh mắt lạnh lẽo: “Ngươi, rốt cuộc ngươi muốn nói gì?”

Hắn bình tĩnh đáp: “Thần cả gan suy đoán, cái chết của Thẩm quốc phu nhân và Thẩm Dung hẳn còn ẩn khuất, mà đầu mối của ẩn khuất này, chính là công chúa Vĩnh An.”

Lời vừa dứt, Thái hậu đã lớn tiếng: “Thôi Tuần! Đây không phải chuyện ngươi nên nhúng tay!”

“Quả thật, đây không phải việc thần nên can dự.” Thôi Tuần vẫn giữ thái độ bình thản mà không hề nao núng, hắn nói tiếp: “Nhưng Thái hậu không muốn giết Thẩm Khuyết, lại để hắn ôm hận với Thái hậu. Cách làm này sẽ để lại hậu hoạ khôn lường. Chuyện miêu quỷ có thể sẽ tái diễn. Thái hậu không nghĩ tới tính mạng của mình, chẳng lẽ cũng không màng tới ba mươi năm tâm huyết của Tiên đế và Thái hậu sao?”

Ba chữ “ba mươi năm tâm huyết” khiến Thái hậu khựng lại. Hắn nhìn thẳng bà: “Tân chính thời Thái Xương có lợi cho nước, có lợi cho dân, nhưng nay triều đình do Lư Dụ Dân và Bùi Quan Nhạc cầm đầu lại âm mưu bãi bỏ tân chính, khiến ba mươi năm tâm huyết của Thái hậu trở thành công cốc. Chẳng lẽ Thái hậu cam lòng vì một mình Thẩm Khuyết mà giao lưỡi dao vào tay hai người đó, để Đại Chu lại rơi vào cảnh “thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô thế tộc” một lần nữa hay sao?”

Thái hậu cắn răng không đáp, hiển nhiên trong lòng đang giằng xé mãnh liệt. Thôi Tuần bỗng cúi đầu, hạ thêm một câu đâm thẳng tâm can: “Thiên hạ hôm nay, chính là dùng sinh mệnh của công chúa Vĩnh An để đổi lấy. Thái hậu, chẳng lẽ người muốn để công chúa Vĩnh An chết một cách vô nghĩa sao?”

Nghe đến đây, Thái hậu bất ngờ đứng dậy, giận dữ quát lớn: “Ngươi chán sống rồi phải không?”

Thôi Tuần vẫn ung dung, đôi mắt trầm ổn: “Thái hậu có thể giết thần, thần chết cũng không đáng tiếc. Nhưng công chúa Vĩnh An, không thể chết oan uổng.”

“Ngươi muốn gì?”

Hắn đáp: “Vì niệm tình Thẩm quốc phu nhân mà Thái hậu không nỡ giết Thẩm Khuyết. Thái hậu có thể không nghĩ cho bản thân, nhưng cũng nên cân nhắc tới tân chính và công chúa Vĩnh An. Nếu cái chết của Thẩm quốc phu nhân và Thẩm Dung quả thật có ẩn tình, xin Thái hậu nói rõ với Thẩm Khuyết. Nếu hắn tỉnh ngộ, buông bỏ oán hận, Thái hậu có thể tha cho hắn. Nhưng nếu hắn vẫn cố chấp, ôm mãi mối hận này, Thái hậu đừng nên giữ lại hắn.”

Hắn nói xong, liền im lặng. Sau rèm châu, Thái hậu nắm chặt hình nhân trong tay, những chiếc kim bạc han gỉ cắm sâu vào trái tim hình nhân. Một hồi lâu sau, Thái hậu khẽ nói: “Ngươi nói đúng. Dẫu a tỷ đối với ngô ân trọng như núi, nhưng Minh Nguyệt Châu cũng không thể chết vô ích. Hôm nay, ngô sẽ nói rõ tất cả sự thật với Thẩm Khuyết. Nếu hắn vẫn hận ngô, thì đứa con duy nhất của a tỷ này, ngô cũng không thể giữ nữa.”



Kim Ngô vệ áp giải Thẩm Khuyết đến, Thái hậu cũng cho mời Long Hưng Đế tới. Hắn ngồi ở vị trí chủ tọa, còn Thái hậu thì hạ rèm châu, ngồi bên cạnh.

Từ vị trí của Thái thì hậu chỉ cần ngẩng đầu lên là có thể nhìn rõ nét mặt của Long Hưng Đế. Hoàng đế năm nay đã hai mươi ba tuổi, dung mạo rất giống Lý Doanh, đều mang vẻ thanh tú xuất trần. Tính tình của hắn thiên về nhu hòa, có phần nhu nhược. Bách tính thường nói, nếu hắn có được một nửa sự quyết đoán của Tiên đế, thì một nửa triều chính hiện giờ đã chẳng nằm trong tay Thái hậu.

Long Hưng Đế nhỏ giọng nói: “A nương cho gọi trẫm đến Điện Bồng Lai, không biết là vì chuyện gì?”

Thái hậu nhìn hắn một cái, thản nhiên đáp: “Cũng không phải chuyện lớn lao gì, chỉ là chuẩn bị xét xử một vụ án, muốn để con* nghe thử mà thôi.”

<i>* gốc là “ngô nhi”. Thái hậu tự xưng là “ngô”, gọi Long Hưng Đế là “ngô nhi”, mình sẽ giản lược lại là từ “con” đi kèm với chú thích này nhé!</i>

Long Hưng Đế lập tức im lặng không dám nhiều lời. Lúc này Kim Ngô Vệ đã áp giải Thẩm Khuyết tới, buộc hắn quỳ xuống. Thẩm Khuyết tự biết tai họa đã giáng xuống đầu, nhưng vẻ mặt vẫn ngạo mạn vô cùng, ánh mắt nhìn về phía Thái hậu đã không còn sự cung kính giả tạo như thường ngày, mà thay vào đó là sự khinh miệt và chế giễu lộ rõ.

Thái hậu thấy ánh mắt ấy, cơn giận lập tức bùng lên, bà ném mạnh tờ cung trạng trong tay xuống đất: “Thẩm Khuyết, ngươi còn gì để giải thích?”

Thẩm Khuyết liếc qua tờ cung trạng, vừa nhìn đã thấy điểm chỉ của Huyền Thành trên đó. Hắn chẳng buồn nhặt lên, thản nhiên thừa nhận: “Đúng vậy, là ta làm.”

Thôi Tuần đứng một bên, nghiêm nghị nói: “Vậy tức là ngươi thừa nhận đã cấu kết với Tưởng Lương, dùng miêu quỷ để hãm hại Thái hậu?”

Thẩm Khuyết dứt khoát đáp: “Đúng.”

Hắn vừa dứt lời, Long Hưng Đế đã kinh hãi đứng bật dậy: “Thẩm Khuyết, vì sao ngươi lại làm vậy?”

“Vì sao ư…” Ánh mắt Thẩm Khuyết nhìn Thái hậu tràn đầy oán hận, hắn cười lớn: “Thánh nhân hỏi ta vì sao ư? Nếu có người giết mẫu thân của người, giết cả a tỷ của người, chẳng lẽ người không muốn báo thù sao?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 53: Tham vọng


Long Hưng Đế còn chưa kịp lên tiếng, Thái hậu đã gằn từng chữ: “Thẩm Khuyết! Đúng, Thẩm Dung, a tỷ của ngươi là do ngô giết. Nhưng nàng ta đáng chết.”

Thẩm Khuyết bật cười lạnh, ánh mắt hằm hằm nhìn Thái hậu, giọng nói tràn đầy châm biếm: “Muốn vào cung hầu hạ Tiên đế thì đáng chết sao? Tiên đế đâu phải chỉ của một mình bà. Nói trắng ra, bà sợ a tỷ của ta trẻ trung xinh đẹp, đoạt mất sủng ái của bà nên mới giết tỷ ấy!”

“Nếu Thẩm Dung thực sự chỉ muốn vào cung hầu hạ Tiên đế, ngô đã không giết nàng ta!” Thái hậu vung tay, ném mạnh một hình nhân vu cổ làm bằng gỗ xuống đất: “Đây mới là lý do khiến ngô phải ra tay.”



Bình Sơn Quận phu nhân Thẩm Dung, qua đời năm nàng hai mươi tuổi.

Khi Thẩm Dung chào đời, dì ruột nàng là Khương Linh Diệp vẫn chưa nhập cung. Trong ký ức bốn năm đầu đời, nàng chỉ nhớ đến những bộ y phục chắp vá đến sờn cũ, căn nhà đất lụp xụp thấp bé, và cả hình bóng a nương nàng ngồi dưới ánh trăng, may vá đến tận khuya. Dù chỉ mới bốn tuổi, nàng đã phải giúp a nương giặt giũ, nấu cơm, làm việc nặng. Gia cảnh nghèo khó đến cùng cực, nhưng điều tuyệt vọng nhất không phải ở hiện tại, mà là tương lai mịt mờ vô vọng.

A gia nàng là một con buôn. Trong xã hội sĩ nông công thương, thương nhân hay con buôn luôn được xếp ở tầng lớp thấp nhất. A gia của nàng cũng như ngoại tổ nàng, đều là kiểu người không có chí tiến thủ. Khi nàng lớn lên, nàng cũng sẽ bước theo con đường của a nương, lấy một con buôn kém cỏi, rồi lại tiếp tục một cuộc đời nghèo khổ, bế tắc.

Nhưng tất cả đã thay đổi vào năm nàng bốn tuổi.

Di mẫu của nàng, Khương Linh Diệp, được tuyển vào cung.

Khương Linh Diệp có dung mạo kiều diễm, lại cực kỳ thông minh. Người quản lý sổ sách kinh doanh của tổ phụ đâu vào đó, rõ ràng mạch lạc, ngay cả việc mười năm trước ai nợ ngoại tổ bao nhiêu tiền, người cũng nhớ rõ mồn một. Nếu không phải ngoại tổ mẫu cấm người ra ngoài buôn bán, có lẽ người đã trở thành một nữ thương thành công.

Một người toàn vẹn như thế, những kẻ đến cầu thân người cũng nhiều đến dẫm nát cả bậc cửa. Trong số đó phần lớn đều là những người môn đăng hộ đối, nhưng cũng có không ít phú hộ si mê vẻ đẹp của người, sẵn lòng bỏ ra số tiền lớn để nạp người làm thiếp. Có đôi lần ngoại tổ cũng từng dao động, nhưng người đều thẳng thừng từ chối.

Ngoại tổ không hiểu, bèn hỏi: “Đến cả phú hộ mà con cũng không muốn, vậy con muốn gả cho ai?”

Người bình tĩnh đáp: “Nếu đã làm thiếp, thì sao không làm thiếp của người quyền thế nhất thiên hạ?”

Ai là người quyền thế nhất thiên hạ?

Đương nhiên là Thánh nhân ngụ ở Đại Minh cung.

Khương Linh Diệp đã chán ghét cuộc sống này. Ở Đại Chu, ngoài đồ tể mặc áo màu đen, tất cả đều mặc áo trắng, mà địa vị của thương nhân lại thấp nhất trong số các lương dân. Nếu người lấy một thương nhân, rồi sinh con gái, con gái người lại lấy thương nhân, vòng tuần hoàn ấy cứ tiếp nối mãi, đời đời kiếp kiếp, đều chỉ là tầng lớp thấp hèn.

Người không quyết định được việc mình sinh ra ở đâu, nhưng người có thể quyết định vận mệnh của mình.

Ông trời đã ban cho người nhan sắc mỹ lệ cùng trí tuệ vượt trội, người phải tận dụng tất cả để thay đổi số mệnh.

Di mẫu quyết định tham gia tuyển chọn cung nữ, tìm cách nhập cung để thoát khỏi vòng lặp luẩn quẩn này. Ngoại tổ và ngoại mẫu ra sức phản đối, nhưng a nương nàng lại tán thành. A nương nói: “Từ nhỏ di mẫu con đã là người có chí khí, tâm cao như vậy, thay vì để di mẫu gả cho một thương nhân rồi sống cuộc đời u sầu, chi bằng cứ để di mẫu thử một lần, dù thắng thua ra sao thì ít nhất cũng không phải hối tiếc.”

Kỳ thực, a nương của nàng cũng không nghĩ di mẫu sẽ làm nên chuyện, thiên hạ này nào thiếu mỹ nhân. Nhưng vì thương yêu đứa em gái duy nhất, a nương đã không ngần ngại mang hết thảy ra giúp di mẫu đặt cược. Di mẫu không có nổi một đôi giày vừa chân, cũng chẳng có y phục hoa lệ, sợ rằng không thể lọt vào mắt xanh của Hoa Điểu Sứ. A nương bèn cởi đôi giày tốt nhất của mình đưa cho di mẫu, gom góp hết tiền bạc trong nhà, làm cho di mẫu một bộ váy sáu mảnh bằng lụa Bích Đan. Khi ấy, di mẫu cảm động đến rơi nước mắt, nói: “A tỷ, nếu muội thật sự có thể làm phượng hoàng bay lên cành cao, muội nhất định sẽ không quên đại ân đại đức của tỷ.”

Cứ như thế, di mẫu vào cung. Không ai ngờ rằng, thiếu nữ nghèo đến mức không có nổi một đôi giày vừa chân này, sau khi nhập cung lại nhanh chóng được Thánh nhân sủng ái, từng bước đi lên, cuối cùng trở thành Hoàng hậu Đại Chu, dưới một người trên vạn người.



Trước bốn tuổi, cuộc đời Thẩm Dung có thể gói gọn trong bốn chữ: Không đáng nhìn lại. Sau bốn tuổi, cũng chỉ cần bốn chữ để hình dung: Gà chó lên mây.

Di mẫu nhập cung, được phong làm phi, gia cảnh nàng nàng cũng vì thế mà trở nên khấm khá. A nương không còn phải thức khuya đến hỏng mắt vì làm giày thuê cho phú hộ, a gia cũng không còn phải lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để rao bán hàng rong, và nàng, cũng không phải mặc những bộ y phục vá chằng vá đụp nữa, thậm chí còn thường xuyên được vào cung, bầu bạn với di mẫu và biểu muội: Vĩnh An công chúa, Lý Doanh.

So với cuộc sống trước kia của nàng, có thể nói biểu muội Lý Doanh trời sinh đã cao quý. Vừa chào đời nàng đã là đứa con được thiên tử yêu thương nhất, không chỉ có nhũ danh Minh Nguyệt Châu được rút từ bảo vật chí bảo trong kinh Phật, mà còn được ban vùng đất phong giàu có và trù phú bậc nhất là quận Quảng Lăng. Phụ thân Lý Doanh chỉ thiếu điều dâng cả thiên hạ đến trước mặt nàng, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, ngàn phần sủng ái, vạn phần chiều chuộng. May thay, Lý Doanh không vì vậy mà trở nên kiêu căng. Nàng ấy vô cùng ôn hòa, thiện lương, đối với biểu tỷ như nàng cũng rất tôn trọng. Chỉ là, có lẽ tính tình một người đã định hình từ năm bốn tuổi, những trải nghiệm thời thơ ấu khiến Thẩm Dung tuy đối xử tử tế với Lý Doanh nhưng hành động đó chưa từng xuất phát từ tấm lòng.

Năm nàng mười bốn tuổi, cũng là lúc di mẫu đã được phong làm Quý phi. Từ đó, gia tộc của nàng không còn là thương hộ, a gia nàng được phong làm quan tam phẩm, có thể nói đã vượt qua bậc thềm giai tầng. Di mẫu từng hỏi a nương nàng có để ý thanh niên tài tuấn nào không, nếu có, người sẽ tấu thỉnh Thánh thượng ban hôn. Khi a nương kể lại lời ấy, nàng lại lắc đầu. Bởi lẽ, câu nói của di mẫu từ hơn mười năm trước vẫn vang vọng mãi trong tâm trí nàng: “Đã làm thiếp, sao không chọn người quyền thế nhất thiên hạ để hầu cận?”



Khi Thẩm Khuyết nghe tới đây, hắn không thể tin nổi: “Bà nói, a tỷ của ta vốn ôm dã tâm, muốn vào cung tranh sủng?”

Thôi Tuần cũng thoáng chau mày. Người ta đồn rằng, vì Thái hậu mãi không thể hạ sinh hoàng tử nên để bảo toàn lợi ích gia tộc, Thẩm quốc phu nhân mới định đưa nữ nhi Thẩm Dung vào cung, hầu hạ Tiên đế. Thái hậu ghen tức, liền hạ độc giết cả Thẩm quốc phu nhân và Thẩm Dung, từ đó, Thái hậu mang tiếng độc phụ, không màng thân tình, thủ đoạn tàn nhẫn. Trong câu chuyện này, Thẩm Dung luôn hiện lên với hình tượng mỹ lệ, nhu nhược, thân bất do kỷ, đáng thương vô tội. Nhưng không ngờ, người thật sự muốn vào cung lại chính là Thẩm Dung.

Thái hậu hồi tưởng lại quá khứ, rồi cười chua chát: “Thẩm Dung không muốn xuất giá, a tỷ từng tìm đến ngô, vòng vo bóng gió, tiết lộ ý muốn đưa Thẩm Dung vào cung. Khi ấy, ngô đã cả kinh thất sắc. Cung Đại Minh là nơi thế nào, chả nhẽ tỷ ấy không rõ. Tạm không nói đến Trịnh Hoàng hậu như hổ đói rình mồi, những phi tần khác đều không phải hạng dễ đối phó. Ngày ngô mới nhập cung, từng làm cung nữ trong điện Hiền phi, chỉ vì Tiên đế khen ngô có đôi mắt đẹp mà Hiền phi đã nổi cơn ghen. Bà ta chẳng những đánh đập mà còn sai người khoét đôi mắt ngô, nếu không nhờ Tiên đế đến kịp, ngô đã chầu trời lâu rồi. Thẩm Dung chỉ nhìn thấy phong quang của một Quý phi, nhưng lại không nhìn thấy những khổ ải ngô trải qua từ khi là cung nữ, từng bước leo lên vị trí này.”

Thái hậu vốn dĩ luôn kiêu hãnh, chưa từng để lộ sự yếu đuối trước mặt người khác. Đây là lần đầu tiên bà kể về những cay đắng ngày xưa trước mặt Long Hưng Đế. Sắc mặt Long Hưng Đế không khỏi biến đổi, giọng nói run rẩy: “A nương…”

Thái hậu thì thầm: “Khi đó ngô không chỉ cự tuyệt a tỷ, mà còn nói với tỷ ấy rằng, chỉ cần ngô còn một ngày thì tuyệt đối không thể để Thẩm Dung nhập cung. Ngô chỉ muốn tốt cho Thẩm Dung, nào ngờ lại… hại chết Minh Nguyệt Châu.”



Thẩm Dung bị từ chối, trong lòng thất vọng tràn trề. Nàng hỏi mẫu thân: “A nương, di mẫu nói thế thật sao?”

Thẩm quốc phu nhân gật đầu, vẻ mặt đầy lo âu: “Dung nhi, thôi đi con. Giờ đây nhà chúng ta đã có địa vị, đàn ông ở Trường An nhiều vô số kể, con muốn chọn ai chẳng được, hà tất phải vào cung, gả cho Hoàng đế?”

Thẩm Dung tức giận: “Không, con không cần những người khác, con chỉ muốn gả cho Hoàng đế.”

Nàng mím chặt môi, trong đầu hiện lên dáng vẻ oai phong tuấn tú của Thái Xương Đế: “Nếu di mẫu không giúp con, con sẽ tự nghĩ cách.”



Cách mà Thẩm Dung nghĩ ra, bước đầu tiên chính là khơi mào cuộc tranh đấu giữa dì ruột nàng và Trịnh Hoàng hậu .

Người không đồng ý cho nàng nhập cung, Trịnh Hoàng hậu lại càng không. Cả hai đều là những nữ nhân quyền lực bậc nhất trong hậu cung, nàng phải khiến họ đấu nhau đến lưỡng bại câu thương.

Thẩm Dung liền xúi giục Thẩm quốc phu nhân, mua chuộc cung nữ bên cạnh Trịnh Hoàng hậu, lan truyền những tin tức giả, nhằm khơi dậy oán hận của di mẫu đối với Trịnh Hoàng hậu.

Thẩm quốc phu nhân không hiểu dụng ý của nàng: “Con mua chuộc cung nữ bên cạnh Trịnh Hoàng hậu để dò la tin tức thay di mẫu thì ta còn hiểu được, nhưng tại sao lại bảo cung nữ đó bịa ra những lời Trịnh Hoàng hậu chưa từng nói, khiến di mẫu con càng thêm chán ghét bà ta?”

“Con làm vậy vì muốn tốt cho di mẫu.” Thẩm Dung điềm nhiên đáp: “Từ sau khi sinh Minh Nguyệt Châu, di mẫu luôn dè dặt, còn đâu sự quyết đoán và táo bạo thuở mới trèo lên long sàng? Con hiểu, người sợ nếu đấu với Trịnh Hoàng hậu mà thua thì sẽ liên lụy đến Minh Nguyệt Châu. Nhưng chẳng lẽ người không đấu thì Trịnh Hoàng hậu sẽ buông tha cho người sao? Nực cười.”

Thẩm quốc phu nhân khuyên nhủ: “Từ trước đến nay, di mẫu con luôn là người biết co duỗi nhất. Lúc mới nhập cung, một chữ bẻ đôi người cũng không biết nhưng giờ thì từng nét chữ đều rất thanh tao, đã thế còn hay đọc đủ thoại thi thư. Thánh nhân lại hay cùng người thảo luận việc triều chính, có lẽ tâm tư của người chưa chắc đã đặt ở việc tranh sủng chốn hậu cung. Huống hồ di mẫu con vẫn luôn nhượng bộ, khiến Trịnh Hoàng hậu được nước lấn tới. Trong triều đã râm ran những lời bất mãn về Trịnh Hoàng hậu. Chúng ta cứ kiên nhẫn đợi xem, biết đâu chẳng bao lâu nữa, di mẫu con sẽ thắng.”

Thẩm Dung khinh thường đáp: “Một Quý phi không có con trai thì làm sao thắng nổi? Huống hồ, Trịnh Hoàng hậu chỉ là hơi nóng nảy, nhưng không phạm lỗi lớn nào. Nếu cứ tiếp tục chờ đợi, nếu Trịnh Hoàng hậu qua đời trước Thánh nhân thì còn may, nhưng nếu bà ta chết sau Thánh nhân, di mẫu sẽ trở thành Tích phu nhân tiếp theo. Cả nhà chúng ta e cũng không tránh khỏi bị tru di cả tộc.”

Thẩm quốc phu nhân kinh hãi: “Dung nhi, con đừng làm ta sợ.”

“A nương, người hãy nghe lời con.” Thẩm Dung nghiêm túc nói: “Con làm vậy là muốn tốt cho di mẫu, kể cả dì mẫu có biết cũng sẽ không trách chúng ta.”

Thẩm quốc phu nhân do dự mãi, cuối cùng vẫn đồng ý với Thẩm Dung, mua chuộc cung nữ Vãn Hương bên cạnh Trịnh Hoàng hậu, châm ngòi oán hận giữa Trịnh Hoàng hậu và Khương Quý phi.



Mọi chuyện tiến hành vô cùng thuận lợi, đặc biệt khi Thẩm Dung sai Vãn Hương vu khống rằng Trịnh Hoàng hậu đã đầu độc Lý Doanh bằng bát canh sâm. Điều này khiến di mẫu nàng hận Trịnh Hoàng hậu đến cực điểm. Tiếp theo, nàng chỉ cần thúc đẩy một chút nữa, để người hạ được quyết tâm, đánh gục Trịnh Hoàng hậu hoàn toàn.

Thẩm Dung hiểu rất rõ, trở ngại lớn nhất ngăn cản nàng vào cung không phải di mẫu mà chính là Trịnh Hoàng hậu. Trong cung vốn đã có một Khương Quý phi được sủng ái nhất mực, Trịnh Hoàng hậu tuyệt đối sẽ không để xuất hiện thêm một Khương Quý phi thứ hai.

Huống hồ, so với Khương Quý phi, Thẩm Dung trẻ trung hơn, dung mạo càng diễm lệ hơn. Mà đàn ông, ai lại không thích những thiếu nữ trẻ đẹp? Thái Xương Đế cũng là đàn ông, đương nhiên cũng không ngoại lệ.

Muốn tiến cung, muốn chuyên sủng, trước tiên phải trừ khử Trịnh Hoàng hậu hoàn toàn.

Về phần làm thế nào để hạ bệ triệt để Trịnh Hoàng hậu, Thẩm Dung chuyển sự chú ý lên biểu muội của mình: Lý Doanh.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 54: Bảo vệ con cái là bản năng của một người mẹ


Khi Thẩm Dung thổ lộ kế hoạch của mình với Thẩm quốc phu nhân, bà kinh hãi đến mức không thốt nên lời, mãi một lúc sau mới run rẩy nói: “Dung nhi, con… chẳng lẽ con điên rồi sao?”

Thẩm Dung bình tĩnh đáp: “Con không điên. Sau khi Minh Nguyệt Châu chết, chúng ta chỉ cần đổ mọi tội lỗi lên đầu Trịnh Hoàng hậu. Lúc ấy, nhất định di mẫu sẽ tin rằng Trịnh Hoàng hậu có ý muốn hại người và Minh Nguyệt Châu. Khi đó, di mẫu sẽ dâng lời thỉnh cầu Thánh nhân phế hậu. Thánh nhân yêu thương Minh Nguyệt Châu đến vậy, người chắc chắn sẽ đồng ý.”

Thẩm quốc phu nhân chỉ biết lắc đầu trong sợ hãi: “Dung nhi, chúng ta nghĩ cách khác được không, sao phải lấy mạng Minh Nguyệt Châu? Nó là biểu muội của con đấy! Sao con có thể nhẫn tâm đến như vậy?”

Thẩm Dung nhìn bà, giọng nói không chút dao động: “A nương, có người phụ nữ nào muốn trèo lên Cửu Trùng Thiên mà lại không nhẫn tâm? Năm đó, Tiết Thái hậu giết mẹ để giữ con, thân sinh của Thánh nhân là Lưu mỹ nhân, khi hạ táng còn bị dùng tóc phủ mặt, miệng ngậm cám gạo. Tiết Thái hậu muốn dù Lưu mỹ nhân có xuống địa phủ cũng không thể nói gì. Bà ta không nhẫn tâm sao? Mới đây là vậy, còn xa hơn thì có Hồ Hoàng hậu của tiền triều, để leo lên ngôi hậu, bà ta đã gả ba cô con gái như hoa như ngọc của mình sang Đột Quyết hòa thân. Bà ta không nhẫn tâm sao? Hay như di mẫu của con, năm đó vì vào cung mà đã rút hết gia sản của a nương. Người có từng nghĩ, nếu không thành công, cuộc sống của a nương sẽ ra sao? Chẳng phải di mẫu cũng rất nhẫn tâm sao?”

“Con đừng nói nữa!” Thẩm quốc phu nhân kiên quyết phản đối: “Minh Nguyệt Châu hiền lành hiểu chuyện, sao con nỡ mang nó ra tính kế? Giờ thì ta hiểu rồi. Con muốn hạ bệ Trịnh Hoàng hậu, chẳng phải vì nghĩ cho di mẫu, mà là để con có thể vào cung! Dung nhi, nhà chúng ta giờ đã đủ phú quý, cuộc sống hiện tại từng là thứ dù mơ a nương cũng không dám mơ tới, con hà tất phải u mê bất tỉnh?”

“A nương, không phải con u mê, nhưng phú quý dựa vào người khác chẳng lẽ lại bền vững bằng tự tay mình giành lấy? Nay di mẫu đang được sủng ái nhất hậu cung, nhưng người đã lớn tuổi rồi, lại không có con trai làm chỗ dựa. Năm năm, mười năm nữa, liệu Thánh nhân liệu có còn sủng ái người như bây giờ? A nương, chúng ta không bằng thế gia đại tộc, không có đường lui. Con không muốn quay lại những ngày tháng khốn khó như trước đây. Di mẫu có thể liều mạng vì tiền đồ của người, thì tại sao con không thể tự mình giành lấy?”

Thẩm quốc phu nhân nhìn nàng, không dám tin vào mắt mình. Dường như bà không thể nhận ra đứa con gái mình nuôi dưỡng từ nhỏ: “Dung nhi, con… con từ bao giờ lại trở nên như vậy? Tham vọng đến mức ta cũng không nhận ra con nữa.”

Thẩm Dung cười nhạt: “A nương, con chưa bao giờ thay đổi. Trong cơ thể con, chảy dòng máu của nhà họ Khương, cũng giống như di mẫu. Con là di mẫu, di mẫu cũng là con. Thứ người có thể đạt được, con cũng có thể đạt được.”



Hoặc giả như Thẩm Dung từng nói, trong huyết quản của nữ nhi họ Khương, trời sinh đã chảy một dòng máu tham vọng không chịu an phận. Sự thành công của Khương Quý phi đã khơi dậy khát vọng tiếp bước của các nữ nhi họ Khương. Thẩm Dung chẳng qua chỉ là điểm khởi đầu, không phải điểm kết thúc.

Trong kế hoạch của Thẩm Dung, cái chết của Lý Doanh chính là nước cờ “một mũi tên trúng hai đích”. Một mặt có thể phế truất Trịnh Hoàng hậu, mặt khác khiến Khương Quý phi đau thấu tâm can, không còn sức để bận tâm đến chuyện nàng nhập cung. Còn vị thiên tử cao cao tại thượng ở cung Đại Minh, người vừa là Thánh nhân, vừa là phụ thân, chắc chắn người sẽ rất đau lòng vì ái nữ. Đợi khi lòng người nguội lạnh, nàng sẽ mượn danh biểu tỷ của Lý Doanh, ở bên an ủi, lấy dịu dàng làm mồ chôn anh hùng, đến lúc ấy, người sẽ yêu nàng.

Thẩm Dung tự tin vào kế hoạch của mình. Nàng tìm tới một hành vu giả, âm thầm dùng vu cổ nguyền rủa Lý Doanh, sau đó sai Vãn Hương bí mật chôn hình nhân vu cổ trong tẩm cung của Trịnh Hoàng hậu, đổ vấy tội danh lên người Hoàng hậu. Đợi khi Lý Doanh bỏ mạng, nàng có thể thuận lợi nhập cung làm phi. Đến lúc đó, Trịnh Hoàng hậu đã sụp đổ, còn di mẫu nàng thì tuổi tác đã cao, hậu cung này sẽ chẳng còn ai là đối thủ của nàng nữa. Nàng tin chắc rằng, chiếc ghế phượng ở Đại Minh cung, sớm muộn cũng rơi vào tay mình.



Trong điện Bồng Lai, Long Hưng Đế trợn mắt há hốc mồm: “Thẩm Dung to gan, nhưng chẳng lẽ di mẫu cứ mặc nàng ta làm càn sao?”

Thái hậu thở dài: “Khi một người phụ nữ trở thành một người mẹ, thân phận người mẹ ấy liền vượt xa tất cả những thân phận khác. A tỷ từng thật lòng thật dạ đối đãi với ngô, nhưng nếu phải chọn giữa ngô và Thẩm Dung, tỷ ấy vẫn sẽ chọn con gái mình không chút do dự.”

Thẩm quốc phu nhân là thế, nhưng chẳng phải Thái hậu cũng từng như vậy hay sao? Thẩm quốc phu nhân chọn Thẩm Dung, còn Thái hậu, vì để bảo vệ Lý Doanh, đã không ngần ngại, ra tay với chính chị gái và cháu gái ruột của mình. Bảo vệ con cái là bản năng của một người mẹ.



Trong kế hoạch của mình, Thẩm Dung đoán đúng rằng Trịnh Hoàng hậu sẽ bị phế truất, đoán đúng rằng Khương Quý phi sẽ đau đớn khôn cùng, cũng đoán đúng rằng Khương Quý phi sẽ không còn thời gian để ngăn cản nàng nhập cung. Nhưng nàng lại bỏ qua một người.

Đó chính là Thái Xương Đế.

Nửa năm đã trôi qua kể từ ngày Lý Doanh qua đời. Trong nửa năm ấy, Trịnh Hoàng hậu bị phế, Trịnh Quân bị xử tử, nhưng Thái Xương Đế vẫn không sao quên được ái nữ. Người thường đến Phượng Dương các, nơi Lý Doanh từng sống, mà ngồi lặng một mình, mỗi lần như thế thường kéo dài đến tận nửa ngày, và Thẩm Dung luôn biết cách xuất hiện thật đúng lúc. Kể từ khi Lý Doanh qua đời, nàng lấy cớ bầu bạn với Khương Quý phi để lưu lại trong cung, sau đó thường xuyên đến Phượng Dương các để cùng Thái Xương Đế ôn lại chuyện cũ. Nàng hay kể về những câu chuyện thú vị giữa mình và Lý Doanh khi xưa vì biết Thái Xương đế thích nghe, rồi đến cuối, nàng khéo léo chuyển sang lời an ủi: “Người đã mất thì không thể sống lại. Nếu Minh Nguyệt Châu dưới suối vàng có linh, hẳn cũng không mong Thánh nhân vì nàng mà đau lòng đến như thế.”

Thái Xương Đế v.uốt v.e cây đàn giao của Lý Doanh, đôi mắt đỏ hoe. Thẩm Dung vừa hay cũng rơi lệ: “Có những lúc, con chỉ mong người ngã xuống hồ sen ngày ấy là con, nếu thế thì Thánh nhân sẽ không phải thương tâm đến tận bây giờ.”

Khóe mắt nàng hoe đỏ, lệ rơi như chuỗi ngọc, thân mình khẽ run rẩy tựa cành liễu mềm trước gió. Thái Xương Đế quả nhiên động lòng: “Dung nhi, con đừng nghĩ như vậy. Sinh mệnh của Minh Nguyệt Châu quý giá, nhưng sinh mệnh của con cũng quý giá không kém.”

Thẩm Dung đưa tay gạt lệ, ánh mắt ngập ngừng nhìn gương mặt anh tuấn của Thái Xương Đế, cắn nhẹ môi, gật đầu ra chiều đáng thương đến động lòng.

Vì thương nhớ Lý Doanh, Thái Xương Đế nhiễm phải phong hàn, bệnh mãi không khỏi. Thẩm Dung lo lắng ra mặt, quỳ xuống bên người, rụt rè đưa bàn tay mềm mại lên ngực người, nhẹ nhàng xoa dịu như muốn giúp người thuận khí. Nàng ngẩng đầu, khuôn mặt trẻ trung, mạo mỹ, đôi mắt chứa đầy ngưỡng mộ lẫn nhu tình. Những đầu ngón tay thon gầy của nàng lướt nhẹ qua lớp áo, giống như một cơn gió mát, m*n tr*n làn da người.

Một thiếu nữ nhan sắc khuynh thành, tâm tư tinh tế, lại dịu dàng khéo léo như vậy, mấy ai có thể chống cự?

Nhưng Thẩm Dung đã quên mất rằng, vị đế vương trước mặt nàng, dù cũng là một nam nhân, nhưng còn hơn thế, đó là người thâm sâu khó lường. Một người khôn khéo như Tiết Thái hậu, từng đấu ngã không biết bao nhiêu phi tần trong cung, nhưng cuối cùng vẫn không tránh khỏi kết cục bi thảm, bị đói đến chết dưới tay vị đế vương này. Khi hạ táng, mặt bị che bằng tóc, miệng ngậm cám gạo, tái hiện thảm cảnh mà Lưu mỹ nhân, mẹ đẻ Thái Xương Đế từng phải chịu.

Thẩm Dung hết lần này đến lần khác đến Phụng Dương các để an ủi Thái Xương Đế, mỗi lần lại càng thêm phần mập mờ thân mật. Khi nàng tự cho rằng Thái Xương Đế đã nảy sinh tình cảm đối với mình, thì Thái Xương Đế lại đi tìm Khương Quý phi, người đang ngày đêm chìm trong đau khổ, đau ốm triền miên trên giường bệnh.

Ông nói: “Cháu gái của nàng có vấn đề.”

Ông lại nói: “Nếu thật lòng thương tiếc Minh Nguyệt Châu thì nàng ta sẽ không đứng trước cây đàn giao của Minh Nguyệt Châu để quyến rũ phụ thân con bé. Khương Linh Diệp, đã đến lúc nàng phải rời khỏi giường bệnh, nghiêm túc tra xét mọi chuyện.”



Lần điều tra ấy đã khiến Thẩm Dung hoàn toàn vỡ mộng.

Thẩm Khuyết sững sờ như hóa đá, rồi nổi giận quát lớn: “Bà nói bậy, đây đều là lời nói phiến diện của bà, a tỷ của ta không thể là người như vậy!”

Thái hậu cười lạnh, ném về phía Thẩm Khuyết vài chiếc thẻ tre: “Đây là cung trạng của Thẩm Dung, còn có lời khai của vu hành giả nàng ta tìm đến, cùng với lời thú tội của Vãn Hương. Ngươi xem cho kỹ, xem ngô có vu oan cho nàng ta không?”

Thẩm Khuyết run rẩy nhặt lấy những thẻ tre, mở từng thẻ ra xem, càng đọc, sắc mặt càng tái nhợt. Mọi thứ viết trên đó, từ nhân chứng đến vật chứng, đều đầy đủ, không cách nào phản bác.

Thái hậu chậm rãi nói: “Thẩm Dung đã làm ra nhưng chuyện như vậy, dĩ nhiên ngô không thể giữ nàng ta lại. Nhưng vì nể tình a tỷ, ngô vẫn để nàng ta được chết toàn thây, thế nên ngô đã ban cho nàng ta một chén rượu độc, để tự kết liễu chuộc tội.”

Nhưng Thái hậu không ngờ rằng, Thẩm Quốc phu nhân đã dốc hết sức để cứu Thẩm Dung.

Trong ngục thất Đại Lý Tự, Thẩm quốc phu nhân vừa hạ sinh Thẩm Khuyết không lâu, quỳ lạy đến đầu đầy máu: “Linh Diệp, Dung nhi nhất thời bị ma xui quỷ khiến, sau này sẽ không dám tái phạm nữa đâu. Xin người hãy tha cho nó một mạng!”

Lúc bấy giờ, Thái hậu vẫn còn là Khương Quý phi, vẻ mặt chất chứa bi thương: “A tỷ, a tỷ yêu con, chẳng lẽ ta lại không yêu con? Thẩm Dung là máu thịt trên đầu quả tim của tỷ, thì đối với ta, Minh Nguyệt Châu cũng như thế.”

Thẩm quốc phu nhân nghẹn ngào van xin: “Ta biết, Dung nhi sai rồi. Người muốn đánh, muốn mắng, lưu đày nó đi nơi khác, gì cũng được, nhưng xin người đừng giết nó. Xin người hãy tha cho nó một con đường sống!”

Khương Quý phi thống khổ nhìn người chị gái mà bà kính trọng nhất, lắc đầu đáp: “Ai hại Minh Nguyệt Châu, ta sẽ lấy mạng kẻ đó. Dù kẻ đó là Thẩm Dung, ta cũng quyết không tha.”

“Đừng mà, Linh Diệp! Hãy nghĩ đến ân tình tặng giày năm xưa, xem như ta cầu xin muội!”

“A tỷ, vì ta nhớ kỹ tỷ có ơn tặng giày, nếu không, tỷ nghĩ rằng mình còn mạng đến hôm nay sao?” Khương Quý phi nghẹn ngào nói: “Ai cũng thương yêu con gái mình, Nhưng mà, con gái tỷ lại muốn giết con gái ta! Nó làm sai, chẳng những tỷ không ngăn cản mà lại còn tiếp tay cho nó? A tỷ, tỷ có còn là a tỷ của ta nữa không? Không, tỷ không phải! Từ nay về sau, ta cũng không muốn nhìn thấy tỷ nữa!”

Thẩm quốc phu nhân vừa hổ thẹn vừa đau đớn, ánh mắt bà dừng lại trên chén rượu độc trong tay tên ngục tốt. Bỗng nhiên loạng choạng đứng dậy, lao lên phía trước, đoạt lấy chén rượu rồi ngửa cổ uống cạn.

Khương Quý phi kinh hãi kêu lên: “A tỷ, tỷ làm gì vậy? Ta không muốn giết tỷ!”

Thuốc độc phát tác rất nhanh. Thẩm quốc phu nhân ngã gục xuống đất, máu tươi trào ra từ miệng và mũi. Bà khó nhọc bò về phía Thái hậu, nắm chặt lấy vạt váy người: “Linh Diệp, những ngày này, ta luôn tự hỏi, nếu như không có đôi giày và bộ y phục ta tặng ngươi, liệu có phải… sẽ không có tai họa hôm nay? Nhưng ngươi là phượng hoàng ở tầng trời thứ chín, ta không thể làm lỡ đại sự của ngươi… Tính mạng của Minh Nguyệt Châu, ta dùng mạng mình để đền cho con bé, xin ngươi tha cho Dung nhi của ta. Xem như lần cuối cùng… lần cuối cùng ta cầu xin ngươi…”

Nước mắt Khương Quý phi rơi như mưa, bao ký ức về những ngày được Thẩm quốc phu nhân che chở lần lượt ùa về. Bà nhìn người chị gái trước mặt, nhưng chữ “được” ấy lại không thể thốt ra. Cho đến khi Thẩm quốc phu nhân trừng mắt lìa đời, bà vẫn không thốt ra được chữ ấy.

Trong ngục thất, Thẩm Dung tóc tai rối bời, cả người run rẩy trong tiếng khóc. Tiếng khóc ấy, là bi ai, hay sợ hãi, chẳng ai rõ.

Khương Quý phi nhắm mắt lại, cố nén những cảm xúc hỗn loạn. Khi mở mắt ra lần nữa, ánh mắt của bà lạnh lùng đến mức giống hệt với Hoàng đế Thái Xương. Bà nói rõ từng chữ, từng lời: “Thẩm Dung, mẹ ngươi đã chết.”

Thẩm Dung kinh hoàng bò đến bên Khương Quý phi: “Di mẫu ơi, di mẫu, con biết biết con sai rồi! Xin di mẫu nể tình a nương con, tha cho con, tha cho con đi…”

Khương Quý phi nhìn nàng, ánh mắt tựa như nhìn một con kiến đang vô vọng giãy dụa: “Mẹ ngươi chết vì ngươi. Tỷ ấy yêu thương ngươi nhất, hôm nay, di mẫu sẽ tiễn ngươi xuống dưới, để ngươi tận hiếu với tỷ ấy.”

Thẩm Dung sững người, nàng nắm lấy vạt áo Khương Quý phi, hoảng loạn kêu lên: “Không! Di mẫu ơi, a nương ta đã dùng mạng mình đền bù cho Minh Nguyệt Châu rồi. Người không thể giết con, không thể giết con!”

Nhưng Khương Quý phi chỉ lạnh lùng gạt phăng tay nàng, kéo vạt áo ra khỏi tay nàng một cách đầy chán ghét. Bà quay lưng nhìn về phía ngục tốt: “Mang đến cho nàng ta một chén rượu độc, tiễn nàng ta lên đường.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 55: Vậy ngươi nghĩ ai là kẻ chủ mưu?


Trong đại điện được xây dựng tinh xảo với lan can chạm khắc ngọc ngà, những con rồng vàng năm móng cuộn mình quanh cột trụ, sống động như thật. Đôi mắt rồng sáng rực, lặng lẽ dõi xuống đoàn người bên dưới, như thể cũng đang tiếc thương cho bi kịch nhân luân khởi nguồn từ tham vọng này.

Thẩm Khuyết ngã quỵ xuống đất, khuôn mặt đờ đẫn không chút thần sắc. Thái hậu nhìn hắn, chậm rãi cất lời: “Thẩm Khuyết, mẫu thân và a tỷ ngươi, đích thực là vì ngô mà chết. Nhưng về chuyện này, ngô tự hỏi lòng, chưa từng có nửa phần sai trái với họ. Vì không muốn họ phải gánh tội danh sát hại công chúa, ngô nguyện chịu tiếng độc phụ, bị người đời thóa mạ suốt hai mươi chín năm. Ngô tự thấy mình đã tận tâm tận nghĩa. Nếu ngươi vẫn oán hận ngô, ngô cũng không còn lời nào để nói.”

Trong lời nói của Thái hậu ẩn chứa thất vọng và sát ý đối với Thẩm Khuyết. Long Hưng Đế nghe ra ý tứ trong lời bà, không khỏi liếc nhìn Thẩm Khuyết. Thôi Tuần cũng ngước mắt lên, ánh mắt sắc lạnh như sao băng chiếu thẳng về phía y.

Nhưng Thẩm Khuyết, người đang đứng trên lằn ranh sinh tử, lại đang thất thần, dáng vẻ cao ngạo, bất cần đời lúc bước vào điện Bồng Lai sớm đã tan biến. Hắn trầm mặc hồi lâu, cuối cùng bật cười thê lương: “Ta hận bà suốt hai mươi chín năm. Nay bà nói với ta rằng, ta đã hận sai người. Mọi chuyện đều là do a tỷ của ta tự chuốc lấy, còn cái chết của mẫu thân ta cũng là do bị a tỷ liên lụy, hoàn toàn không liên quan gì đến bà. Bà bảo ta làm sao chấp nhận đây?”

Thái hậu lặng thinh hồi lâu, rồi mới đáp: “Ngô không muốn đứa con trai duy nhất của chị ruột ngô trở thành kẻ tội đồ, nên đã giấu kín suốt hai mươi chín năm qua. Không ngờ, chính ngô đã làm hại ngươi.”

Thẩm Khuyết lẩm bẩm: “Thà bà giết ta ngay từ đầu, còn hơn để ta sống rồi trở thành trò cười như hôm nay.”

Trong lời hắn phảng phất chút ăn năn, nhưng vẫn không chịu cúi đầu nhận sai với Thái hậu. Bà chỉ biết thở dài một tiếng: “Thẩm Khuyết, ngươi cấu kết với Tưởng Lương, dùng yêu thuật hại ngô. Ngô có thể tha thứ cho ngươi. Nhưng…” Bà ngừng lại, cuối cùng cắn răng nói: “Ta không thể để Minh Nguyệt Châu chết oan…”

Thái hậu vừa định tuyên bố hình phạt dành cho Thẩm Khuyết, bỗng ngoài điện có người bẩm báo: “Thái hậu, Khương Quốc công cầu kiến.”

Phụ thân của Thái hậu chỉ có hai người con gái là Thái hậu và Thẩm quốc phu nhân. Khi Thái hậu được sắc phong làm Hoàng hậu, phụ thân bà cũng được truy phong làm Khương Quốc công. Tiên đế chọn ra một người cháu có tài trong họ Khương làm con thừa tự cho Khương Quốc công, sau đó cho kế thừa tước vị, nhằm bồi dưỡng thế lực bên ngoại cho Thái hậu.

Hiện tại, Khương Quốc công lâm vì trọng bệnh nên đã lâu không thượng triều. Thế nhưng, chẳng rõ vì sao hôm nay ông lại cố lê thân thể yếu nhược để đến điện Bồng Lai.

Dù rất lấy làm kinh ngạc nhưng Thái hậu vẫn cho triệu kiến. Khương Quốc công chống gậy, thở hổn hển bước vào đại điện. Thái hậu miễn lễ quỳ bái cho ông. Sau khi cảm tạ Thái hậu và Thánh nhân, Khương Quốc công liếc nhìn Thẩm Khuyết đang quỳ dưới đất với vẻ thất hồn lạc phách, rồi cung kính lấy ra một chiếc hộp gỗ, nói: “Hồi bẩm Thái hậu, đây là di vật của Thẩm quốc phu nhân.”

Nội thị nhận lấy chiếc hộp, trình lên Thái hậu. Bà mở ra xem, bên trong là một đôi hài thêu hoa tinh xảo.

Khương Quốc công nói: “Thái hậu, hai mươi chín năm trước, Thẩm quốc phu nhân giao chiếc hộp này cho thần cất giữ. Bà ấy nói, đây là đôi giày bà làm để mừng sinh thần năm mười sáu tuổi của công chúa Vĩnh An. Bà ấy còn dặn rằng, nếu sau này con trai bà khiến Thái hậu nổi giận, thì thần nhất định phải mang vật này dâng lên Thái hậu.”

Thái hậu lặng lẽ nhìn đôi hài thêu hoa văn như ý, trong đầu như vang vọng đoạn đối thoại năm xưa với Thẩm quốc phu nhân: “A tỷ, Minh Nguyệt Châu có cục Thượng Y làm giày cho rồi, con bé cũng không đeo hết được đâu, mắt tỷ không tốt, đừng làm nữa.”

“Linh Diệp, trước đây khi tỷ còn may giày kiếm sống, muội luôn nhìn tỷ với ánh mắt ngây thơ, hỏi rằng: “A tỷ, bao giờ tỷ mới làm cho muội một đôi giày thật đẹp đây?” A tỷ đã ghi nhớ câu nói ấy trong lòng suốt nhiều năm. Giờ muội lớn rồi, không cần a tỷ làm giày cho nữa, nên a tỷ muốn dùng những đôi giày còn nợ muội để bù đắp cho Minh Nguyệt Châu. Dù mắt a tỷ có kém, mỗi năm làm một đôi cũng đâu sao.”

Bà khuyên mãi cũng không lay chuyển được Thẩm quốc phu nhân. Từ đó, hằng năm vào dịp sinh thần của Lý Doanh, Thẩm quốc phu nhân đều tự tay làm một đôi giày cho nàng. Nhưng đến năm Lý Doanh tròn mười sáu tuổi, Thẩm quốc phu nhân lại không làm nữa. Thái hậu cũng cảm thấy lạ, nhưng chỉ nghĩ Thẩm quốc phu nhân đang mang thai, công việc bận rộn nên đã quên mất. Nghĩ vậy khiến bà cũng cảm thấy nhẹ lòng, bởi đôi mắt của Thẩm quốc phu nhân càng ngày càng kém, bà cũng không muốn a tỷ phải lao tâm lao lực.

Không ngờ rằng, Thẩm quốc phu nhân đã làm xong đôi hài ấy từ lâu. Chỉ là vào lúc đó, Thẩm Dung đã bắt đầu mưu tính hãm hại Lý Doanh, khiến Thẩm quốc phu nhân vì hổ thẹn nên không dám trao đôi giày ấy cho nàng.

Thái hậu khép mắt, hai hàng lệ chậm rãi lăn dài. A tỷ ấy của bà cả đời cùng cực, khó khăn lắm mới được sống những ngày bình yên thì lại bị con gái liên lụy, chết oan ở Đại Lý Tự. Tình cảm a tỷ dành cho bà là thật, dành cho Minh Nguyệt Châu cũng là thật, nhưng chính vì yêu thương con gái mình quá mức mà a tỷ đã lầm đường lạc lối, phạm phải sai lầm lớn.

Có lẽ a tỷ đã đoán trước được kết cục của mình, nên dù mang thai vẫn cố gắng làm xong đôi giày ấy, chỉ để bảo toàn mạng sống cho đứa trẻ trong bụng.

Thái hậu chậm rãi mở mắt, bình tĩnh nói với Thẩm Khuyết: “Thẩm Khuyết, ngô không giết ngươi, nhưng cũng không thể giữ ngươi lại Trường An. Ngô sẽ lưu đày ngươi tới Lĩnh Nam, coi như lời giải thích với a tỷ.”

Lĩnh Nam cách Trường An một nghìn bảy trăm dặm, núi cao đường hiểm, khổ sở trùng trùng. Ở đó, Thẩm Khuyết sẽ bị các tiểu lại giám sát, dù có bản lĩnh lớn đến đâu cũng không thể mưu hại Thái hậu thêm lần nữa.

So với tội lỗi Thẩm Khuyết gây ra, hình phạt này đã là quá khoan dung. Ít nhất, hắn còn giữ được tính mạng.

Thẩm Khuyết không cầu xin, cũng không cảm tạ, chỉ lặng lẽ để mặc Thiên Uy Vệ áp giải đi. Nhưng trước khi rời khỏi, Thái hậu bất chợt hỏi: “Thẩm Khuyết, ngươi dùng miêu quỷ để hãm hại ngô. Ngươi còn đồng phạm nào không?”

Khi Thái hậu nói câu ấy, ánh mắt liếc nhẹ sang Long Hưng Đế. Long Hưng Đế khựng lại, sắc mặt trắng bệch, ánh mắt thoáng hiện lên vẻ oan khuất. Thẩm Khuyết ngẩn người, lắc đầu đáp: “Không, việc này là một mình ta bày mưu, không liên quan đến ai khác.”

Dù là Thẩm Khuyết trả lời, ánh mắt của Thái hậu vẫn chăm chú nhìn Long Hưng Đế. Một lúc lâu sau, bà mới thu lại ánh nhìn, nhàn nhạt hỏi: “Thánh nhân có ý kiến gì về hình phạt mà ngô dành cho Thẩm Khuyết không?”

Long Hưng Đế gượng cười: “A nương đã quyết, trẫm ắt không dị nghị.”

Thái hậu gật đầu, nhìn Thẩm Khuyết bị áp giải đi, rồi mới nói: “Ngô cũng thấy mệt rồi. Nếu Thánh nhân không có việc gì khác, hãy lui xuống trước đi.”

Long Hưng Đế lặng lẽ gật đầu, đứng dậy. Thái hậu lại lên tiếng: “Thôi Tuần ở lại.”

Long Hưng Đế dừng bước, liếc nhìn Thôi Tuần, trên mặt lộ rõ vẻ chán ghét cùng căm hận. Thôi Tuần cụp mắt, chỉ cúi đầu đáp một câu: “Tuân lệnh.”



Bên ngoài điện Bồng Lai, hoa nở thành cụm, cây xanh phủ bóng, cảnh sắc tươi đẹp. Nhưng Long Hưng Đế không hề để tâm thưởng ngoạn mỹ cảnh ấy, cũng không trở về điện Thần Long của mình, mà vội vã đến cung Hàn Lương, nơi Huệ phi cư ngụ.

Sau khi Long Hưng Đế rời đi, trong điện Bồng Lai chỉ còn lại Thôi Tuần và Thái hậu. Thái hậu lên tiếng: “Thôi Tuần, vừa rồi ngươi không nói lấy một lời, phải chăng trong lòng còn có tính toán khác?”

Hàng mi đen như mực của Thôi Tuần rũ xuống, che khuất ánh mắt. Nhờ hình nhân vu cổ nên hắn đã suy đoán rằng cái chết của Thẩm quốc phu nhân ẩn giấu điều bất thường, nguyên nhân không hoàn toàn nằm ở Thái hậu, mà có liên quan đến Thẩm Dung. Vì thế, sau khi lấy được chứng cứ buộc tội Thẩm Khuyết từ miệng Huyền Thành, hắn lập tức đến điện Bồng Lai. Hắn biết từ trước đến nay Thái hậu luôn dung túng Thẩm Khuyết, lần này chưa chắc sẽ hạ lệnh giết hắn. Do đó, hắn đã dốc sức thuyết phục Thái hậu nói ra chân tướng năm xưa. Cho dù Thẩm Khuyết không chết, hắn cũng phải trở thành kẻ không còn nơi trút hận, sống như một kẻ phế nhân.

Nước cờ này, ngay cả Thái hậu cũng nằm trong kế hoạch của hắn. Quả nhiên, mọi việc diễn ra đúng như dự tính: Thái hậu không giết Thẩm Khuyết, nhưng Thẩm Khuyết giờ chẳng khác gì một kẻ tàn phế, phe cánh của Bùi Quan Nhạc đã mất đi một viên đại tướng.

Hắn hiểu rõ, đây là thời điểm nên thu tay lại, nhưng trong lòng vẫn còn do dự. Sau một hồi cân nhắc, rốt cuộc hắn vẫn mở lời: “Thái hậu, thần có một việc, không thể không hỏi.”

“Việc gì?”

“Khắp thiên hạ, những vu hành giả có năng lực thực sự như Tưởng Lương chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phần lớn chẳng qua chỉ là phường lừa gạt. Đúng là Thẩm Dung dùng tà thuật hòng nguyền rủa công chúa Vĩnh An, nhưng trước khi rơi xuống hồ sen, công chúa vẫn hoàn toàn khỏe mạnh. Vì vậy, dù Thẩm Dung có ý định sát hại công chúa nhưng nàng ta không phải là hung thủ thực sự.”

Thái hậu ngẩng đầu, ánh mắt sắc bén khẽ liếc qua Thôi Tuần, giọng nói lạnh nhạt thoáng lộ ý cảnh cáo: “Ồ? Vậy ngươi cho rằng ai mới là hung thủ?”

Lời nói này đã hàm chứa ý răn đe, nhưng Thôi Tuần không tỏ vẻ nao núng, chỉ chậm rãi đáp: “Không phải Thái hậu.”

Thái hậu cũng không ngờ hắn sẽ trả lời như vậy. Bà hỏi: “Vì sao không phải ngô?”

“Một kẻ từng muốn hại mình như Thẩm Khuyết mà Thái hậu vẫn niệm tình, đồng ý tha mạng thì sao có thể vì ngôi vị hoàng hậu mà ra tay sát hại công chúa Vĩnh An? Lẽ nào ngôi vị hoàng hậu còn quan trọng hơn cả tính mạng của Thái hậu hay sao?” Ánh mắt Thôi Tuần bình tĩnh: “Vậy nên, không phải Thái hậu.”

Thái hậu chăm chú quan sát gương mặt tái nhợt của Thôi Tuần, không nói một lời. Điện Bồng Lai chìm trong im lặng đến đáng sợ, không khí nặng nề như bóp nghẹt hơi thở của bất kỳ ai đứng đó. Thôi Tuần cúi mắt, dáng vẻ cung kính nhưng lưng thẳng như trúc, không có ý định thoái lui.

Bỗng Thái hậu bật cười: “Thôi Tuần, ngươi nói không sai. Thẩm Dung không sát hại Minh Nguyệt Châu, ngô cũng không phải hung thủ. Phương sĩ mà Thẩm Dung tìm đến quả nhiên chỉ là hạng lừa bịp. Việc Minh Nguyệt Châu rơi xuống nước chẳng liên quan gì đến tà thuật. Cả đời ngô, thân tình mỏng manh, suốt mấy chục năm chỉ có duy nhất Minh Nguyệt Châu là con gái. Con bé lại ngoan ngoãn, dịu dàng như thế. Dù có phải hy sinh tính mạng, ngô cũng không bao giờ làm tổn hại con bé dù chỉ một chút.”

Thôi Tuần đã có được đáp án mà mình muốn, nhưng sau một hồi cân nhắc, hắn vẫn dè dặt hỏi thêm: “Bản hịch văn của Giang Châu vương đã lan truyền khắp nơi. Nếu Thái hậu không liên quan đến cái chết của công chúa, vì sao lại chấp nhận gánh nỗi oan khuất này?”

Thái hậu như nhìn thấu tâm tư của hắn, nhưng không trả lời ngay. Bà chỉ từ tốn nói: “Thôi Tuần, trước đây, ngươi rất thông minh.”

Thôi Tuần hơi ngẩn người. Thái hậu tiếp lời: “Nhưng gần đây, ngươi đã thay đổi. Những điều không nên nói, ngươi lại nói. Những việc không nên làm, ngươi lại làm.” Thái hậu nhếch môi, nửa như cười nửa như không: “Hay là, ngươi gặp được hồng nhan tri kỷ nào đó, khiến con chó dữ như ngươi muốn giật đứt dây xích rồi?”

Thôi Tuần cụp mắt, hàng mi như cánh quạ khẽ run. Hắn đáp bằng giọng cung kính: “Thần không dám.”

“Vừa rồi, ngươi cũng thấy ánh mắt Thánh nhân khi nhìn ngươi rồi đấy. Thánh nhân ghê tởm ngươi.” Thái hậu từ từ nói: “Nếu không có sự che chở của ngô, với danh tiếng của ngươi, sớm muộn gì cũng bị đưa lên pháp trường, chịu cảnh lăng trì cho đến chết. Nếu là người thông minh, những điều không nên hỏi, vĩnh viễn đừng bao giờ hỏi đến.”

Thôi Tuần mím chặt đôi môi mỏng, quỳ xuống, cúi đầu dập đầu nói: “Thần lĩnh chỉ.”



Khi Thái hậu và Thôi Tuần nói chuyện, Long Hưng Đế lại đang nằm nghiêng trên đùi Huệ phi A Sử Na Gia chợp mắt. A Sử Na Gia mặc khôi giáp của Đại Chu, dáng vẻ oai hùng, khuôn mặt được điểm xuyết hình hoa sen rực rỡ. Đôi tay nàng xoa nhẹ huyệt thái dương cho Long Hưng Đế. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, đột nhiên hắn thốt lên: “Huệ phi, trẫm sợ.”

A Sử Na Gia nắm lấy tay Long Hưng Đế: “Thánh nhân đừng sợ, thiếp ở đây rồi.”

“Trẫm luôn mơ thấy, a nương phế truất trẫm.” Long Hưng Đế nắm chặt tay A Sử Na Gia. Khác hẳn sự mềm mại như tơ lụa của các quý nữ Trường An, trên ngón tay và lòng bàn tay nàng đều có lớp chai mỏng, dấu vết của một nữ tử Đột Quyết quen dùng cung tiễn. Có nàng bên cạnh, hắn như yên tâm hơn vài phần. Trong cơn mê man, hắn lẩm bẩm: “Lúc nào trẫm cũng cẩn thận lấy lòng a nương. Từ khi còn là Thái tử, đến khi làm Hoàng đế, trẫm đều chỉ mong bà nhìn đến trẫm một lần. Nhưng trong mắt bà, dường như mọi thứ đều quan trọng hơn trẫm. A tỷ quan trọng hơn trẫm, quyền lực quan trọng hơn trẫm. Ngay cả Thôi Tuần, cũng quan trọng hơn trẫm.”

Nghe đến cái tên Thôi Tuần, mí mắt của A Sử Na Gia bỗng giật mạnh, hoa văn hình sen trên má phải của nàng dường như càng thêm phần đẹp đẽ, lóa mắt. Nàng đưa tay vuốt nhẹ vành tóc mai của Long Hưng Đế, giọng điệu dửng dưng: “Sao có chuyện ấy được? Trong mắt Thái hậu, Thôi Tuần chỉ là một con chó mà thôi, làm sao có thể so với Thánh nhân được?”

“Nếu a nương chỉ xem hắn là một con chó, tại sao ba năm trước lại bất chấp mọi lời dị nghị cứu hắn ra khỏi Đại Lý Tự? Tại sao sau mỗi lần hắn gây họa đều dung túng tha mạng cho hắn? Liên Hoa Lang, đẹp tựa hoa sen… Trẫm ghét người này. Hắn khiến trẫm trở thành trò cười khắp thiên hạ. Trẫm nhất định sẽ giết hắn… giết hắn…”

Giọng nói của Long Hưng Đế dần nhỏ lại, dường như hắn lại chìm vào giấc ngủ sâu. A Sử Na Gia v.uốt v.e khuôn mặt tuấn tú của hắn. Đây là nam nhân của nàng, là phu quân của nàng, cũng là chỗ dựa của nàng trong nửa đời còn lại.

Thế nhưng, trong lòng nàng, vẫn luôn có một bóng hình khác.

Liên Hoa Lang…

Không, không phải Liên Hoa Lang, mà là Liên Hoa Nô của riêng nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 56: Hải đường thổi tuyết


Đông thành, cảnh sắc nhộn nhịp, dòng người như dệt vải.

Một cỗ xe ngựa tam mã chầm chậm lăn bánh trên con đường lát đá xanh, vó ngựa nhịp nhàng gõ xuống mặt đường, tiếng “lộc cộc” của bánh xe hòa quyện cùng tiếng huyên náo nơi phố thị. Rèm xe nhẹ nhàng lay động, để lộ dung nhan thanh lệ như đóa sen nở rộ, lại mang vẻ tái nhợt tựa như tuyết đầu mùa.

Một nữ lang dừng bước, tò mò ngoái đầu nhìn. Cỗ xe ngựa tam mã này hẳn là của một vị quan tứ phẩm, mà dung mạo tuyệt mỹ như xuân hoa đượm sắc kia, chắc chắn chính là của Thôi Tuần, Thiếu khanh của Sát Sự Thính. Cỗ xe xuất cung từ cung Đại Minh, có lẽ Thôi Tuần vừa diện kiến Thái hậu. Ai nấy đều thầm nghĩ, chẳng biết hôm nay lại có vị quan nào ở Trường An gặp phải tai ương. Đáng tiếc thay, gương mặt đẹp đẽ ấy lại che giấu một trái tim tàn nhẫn đến như vậy.

Bên ngoài, mặc tiếng bàn tán râm ran, không ai dám không nhường đường cho cỗ xe của Thôi Tuần. Trong xe, Thôi Tuần ngồi ngay ngắn, nét mặt không hề dao động trước những lời xầm xì theo gió lọt vào. Từ thắt lưng của hắn, chiếc quả cầu hương bằng bạc mạ vàng khẽ đung đưa, tỏa ra mùi hương thanh nhã len lỏi vào khứu giác. Hắn cúi đầu, ánh mắt dừng trên quả cầu hương nhè nhẹ lay động, nhưng trong lòng chỉ mải nghĩ làm thế nào để nói cho Lý Doanh biết sự thật về việc của Thẩm Dung.

Từ những lời nói ít ỏi của Lý Doanh, hắn nhận ra nàng rất tôn kính vị biểu tỷ này. Thẩm Dung yêu thích loại gấm thêu hoa văn liên châu từ Dương Châu tiến cống và Lý Doanh không chút do dự mà nhường lại cho nàng ta. Thế nhưng, nàng không hay biết Thẩm Dung cần loại gấm đó để làm hình nhân nguyền rủa chính nàng? Lý Doanh đối đãi Thẩm Dung như tỷ muội, còn Thẩm Dung lại coi nàng như bậc thang để trèo cao. Nàng tôn trọng thương yêu Thẩm Dung, còn Thẩm Dung lại độc ác đến mức muốn đòi mạng.

Nàng luôn thành tâm với những người bên cạnh. Dù là vị hôn phu Trịnh Quân, hay Thẩm quốc phu nhân và Thẩm Dung, nàng đều đối xử chân thành. Nhưng những người đó, ai nấy đều muốn hại nàng. Nghĩ đến đây, lòng hắn không khỏi chua xót thay.

Bên ngoài xe ngựa, dòng người vẫn tấp nập, một mùi thơm ngọt ngào bất chợt xộc vào mũi, hẳn là xe ngựa đã đi qua một quán ăn. Thôi Tuần nhấc nhẹ tay vén rèm xe, quả nhiên ánh mắt bắt gặp biển hiệu của Phúc Mãn Đường, nơi nổi danh về các loại điểm tâm đồ ngọt.

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu hắn, hắn dặn xa phu dừng xe, rồi tự mình bước xuống, bước chân chậm rãi đi vào Phúc Mãn Đường. Cửa tiệm được bày trí tinh tế nhã nhặn, các loại bánh điểm tâm muôn hình muôn vẻ được xếp ngay ngắn. Có bánh anh đào bóng bẩy trong suốt, bánh mè giòn rụm thơm ngon, bánh đắp hình hoa đa dạng phong phú. Chưởng quầy nhận ra Thôi Tuần, niềm nở hỏi: “Thôi Thiếu khanh, ngài lại đến mua đường phấn đúng không?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu. Chưởng quầy nhanh nhảu mời chào: “Đợt này, chúng ta có thêm chút hương hoa đào vào đường phấn, vị ngọt thanh hơn hẳn. Thiếu khanh có muốn thử không?”

Chưởng quầy lấy ra một miếng đường phấn, cẩn thận đưa tới. Thôi Tuần lắc đầu: “Đa tạ, mỗ không thích ăn đường phấn.”

Chưởng quầy thoáng ngạc nhiên, không ăn đường phấn, vậy mua để làm gì? Chẳng lẽ là mua cho người khác? Nhưng xưa nay Thôi Tuần, vị “Diêm Vương sống” này luôn sống đơn độc, chẳng nghe nói có bạn bè thân thiết, cũng chưa từng có hồng nhan tri kỷ nào bầu bạn. Dẫu nghi hoặc, chưởng quầy không dám hỏi thêm, đành gói một túi đường phấn màu hổ phách, cung kính đưa cho hắn. Thôi Tuần trả tiền xong, cầm túi đường phấn, quay lại xe ngựa. Cỗ xe tiếp tục lăn bánh, đưa hắn về phường Tuyên Dương.



Xuân sắc tươi đẹp, đào liễu đua nở, khung cảnh tràn ngập sức sống. Khi xe ngựa gần tới Thôi phủ, hắn để xa phu quay về Sát Sự Thính, còn hắn cầm theo gói đường phấn bọc trong giấy dầu, thong thả đi bộ về phía trước.

Trong ánh nắng xuân ấm áp, hắn trông thấy một thiếu nữ thanh mảnh với búi tóc song hoàn vọng tiên, đang ngồi trên bậc đá xanh, chống cằm, đợi hắn trở về.

Bước chân hắn bất giác chậm lại, gió xuân thổi nhẹ qua người, xua tan hàn ý âm u luôn đeo bám trong thân thể hắn. Thiếu nữ trông thấy hắn, đôi mắt nàng sáng lên, nụ cười rạng ngời nở trên khuôn mặt, nàng vui mừng đứng dậy, vẫy tay gọi: “Thôi Tuần, ngài đã về rồi?”

Khóe môi Thôi Tuần cong lên, hắn nhanh bước đến bên nàng, đưa gói đường phấn trong tay ra: “Ta mang đường phấn của Phúc Mãn Đường về cho cô này.”



Bên ngoài thư phòng, Lý Doanh ngồi trên thềm, đôi chân thả lơ lửng dưới hành lang. Nàng ngậm một miếng đường phấn có thêm hương hoa đào của Phúc Mãn Đường, lắng nghe Thôi Tuần kể về chuyện của Thẩm Dung. Khi hắn nói xong, ánh mắt nàng cụp xuống: “Vậy là, vì muốn nhập cung làm phi nên biểu tỷ đã dùng vu thuật để hại ta, di mẫu biết nhưng cũng không ngăn cản tỷ ấy, đúng không?”

Thôi Tuần gật đầu. Hắn nghiêng mắt nhìn nàng, trên gương mặt nàng quả nhiên hiện lên vẻ bi thương. Những người thân mà nàng từng chân thành đối đãi lại vì lợi ích cá nhân mà muốn lấy mạng nàng. Điều đó sao có thể không khiến nàng tổn thương?

Trái tim Lý Doanh như bị đè nặng bởi một tảng đá lớn, khiến nàng khó thở. May thay, vị ngọt thanh của đường phấn trong miệng đã phần nào làm dịu bớt nỗi đau. Nàng lẩm bẩm: “Thôi Tuần, cả đời này ta chưa từng làm điều gì sai trái, cũng chưa từng phụ lòng bất kỳ ai, tại sao bọn họ đều muốn ta chết chứ?”

“Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội.” [1] Thôi Tuần lặng lẽ nói: “Chuyện đời vốn dĩ không có lý lẽ.”

[1] Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội – 匹夫无罪,怀璧其罪 – pǐ fū wú zuì,huái bì qí zuì (thất phu (dân thường) vốn không có tội gì, nhưng vì trong người mang theo ngọc bích mà thành tội. Ý đen là mang theo tài bảo dễ chuốc họa; nghĩa ẩn dụ là do có tài năng, lý tưởng mà bị hại. Xuất xứ Xuân thu Tả truyện, có một câu chuyện dài lắm kèm theo). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 57: Tình cảm của hắn, sâu đậm hơn bất kỳ ai


Thẩm Khuyết nhận tội, vụ án “miêu quỷ” chính thức khép lại. Tuy nhiên, việc Bùi Quan Nhạc sai đạo sĩ chặn giết Tưởng Lương cho thấy chắc chắn ông ta biết rõ sự tình. Thôi Tuần định điều tra tung tích tên đạo sĩ, nhưng Bùi Quan Nhạc quá xảo quyệt, đã sớm giải tán toàn bộ. Thôi Tuần dù muốn cũng không thể lần ra manh mối, đành phải từ bỏ.

Thẩm Khuyết bị Thái hậu hạ lệnh lưu đày đến Lĩnh Nam, trừ hai con nhỏ, các thê thiếp còn lại đều phải đi cùng. Vốn là danh môn khuê nữ, những người này không chịu nổi cực khổ. Hơn nữa, dù Thẩm Khuyết có dung mạo tuấn tú nhưng bạc tình bạc nghĩa, dù chung chăn gối nhiều năm thì cũng không ai được hắn đối xử thật lòng. Vì vậy, không ít người chọn hòa ly với hắn.

Ngay cả Thịnh A Man cũng được Thôi Tuần thỉnh cầu Thái hậu ban ân, cho phép nàng hòa ly với Thẩm Khuyết, miễn cảnh lưu đày nơi đất khách.

Nhưng điều khiến Thôi Tuần bất ngờ là Thịnh A Man không muốn ở lại Trường An mà tình nguyện theo Thẩm Khuyết đến Lĩnh Nam. Thôi Tuần kinh ngạc, tìm nàng hỏi rõ nguyên nhân. A Man chỉ thản nhiên đáp: “Ở Trường An bị người khác ức h**p, ở Lĩnh Nam bị Thẩm Khuyết ức h**p, so ra cũng chẳng có gì khác biệt. Huống hồ, Thẩm Khuyết giờ đã mất hết ý chí, không còn sức để mà hành hạ ta. Biết đâu được, ở Lĩnh Nam, ta lại có thể tìm thấy một chân trời khác. Chọn Trường An, chẳng qua chỉ lặp lại những ngày cũ mà thôi.”

Thôi Tuần trầm giọng: “Nếu cô ở lại Trường An, ta sẽ không để ai ức h**p cô.”

A Man nhìn hắn, bỗng bật cười khinh bỉ: “Ta biết chỉ cần Thôi Tuần ngươi muốn, chẳng ai dám động đến ta. Nhưng ngươi muốn không có nghĩa là ta muốn. Ngươi phản bội Thiên Uy quân, phản bội a huynh ta. Đời này ta sẽ không tha thứ, càng không nhận ân huệ nào từ ngươi.”

Thôi Tuần cắn răng: “Cô đâu cần vì giận ta mà đem tính mạng ra đùa giỡn?”

A Man nhướng mày, ánh mắt đầy khinh thường: “Giận ư? Thôi Tuần, ta không giận ngươi, mà là khinh thường ngươi. Tiền của ngươi ta thấy bẩn, ân huệ của ngươi ta càng thấy bẩn.”

Thôi Tuần mím môi, đôi mắt lóe lên tia đau đớn thoáng qua. Hắn nói: “Cô khinh thường ta cũng được, nhưng cô không thể theo Thẩm Khuyết đến Lĩnh Nam.”

“Dựa vào đâu?”

“Dựa vào việc hắn chính là hung thủ gi.ết ch.ết huynh trưởng cô!” Thôi Tuần trầm giọng nói: “Trước đây cô từng quỳ trước mộ huynh trưởng, hỏi ta rằng huynh ấy có phải chết trong tay sơn tặc hay không. Nay ta nói cho cô biết, huynh ấy không chết dưới tay sơn tặc, mà chết dưới tay Thẩm Khuyết! Vì thế, cô không thể theo hắn đến Lĩnh Nam!”

Thịnh A Man mở to mắt, đôi mắt tròn xoe lộ rõ vẻ kinh hãi. Gương mặt thanh tú của nàng trắng bệch, bàn tay siết chặt thành quyền, ngực phập phồng dữ dội. Nàng trừng mắt nhìn Thôi Tuần, giọng run lên vì tức giận: “Chỉ vì muốn giữ ta lại Trường An mà ngươi dám bịa đặt bừa bãi sao!”

Thôi Tuần nói: “Ta bịa đặt ư? Sáu năm trước, Thiên Uy quân bị vây tại Lạc Nhạn Lĩnh, huynh trưởng cô phụng lệnh Quách soái, đến Trường An cầu viện. Khi đi ngang qua trạm dịch Trường Lạc, y bị Thẩm Khuyết bày kế hãm hại, rồi chôn xác ngoài cửa Thông Hóa. Sáu năm sau, bộ xương ấy mới được phơi bày dưới ánh mặt trời. Thịnh A Man, cô oán hận ta thế nào cũng được, nhưng đừng để a huynh cô chết không nhắm mắt.”

Thân thể Thịnh A Man bắt đầu run rẩy, sắc mặt nàng tái nhợt: “Ngươi nói Thẩm Khuyết giết a huynh ta, được, vậy ta hỏi ngươi, vì sao hắn phải giết huynh ấy?”

“Hắn không muốn a huynh cô vào được cửa Thông Hóa.”

“Vì sao hắn lại không muốn a huynh ta vào được cửa Thông Hóa?”

Thôi Tuần nghiến răng, trong lòng ngàn vạn lời muốn thốt ra, nhưng hắn biết mình không thể nói. Chuyện này dây mơ rễ má, không phải chuyện nữ lang thân cô thế cô như Thịnh A Man có thể gánh vác. Huống hồ, tính tình nàng nóng như lửa, nếu biết được, e rằng sẽ chuốc họa sát thân.

Hắn im lặng không nói. Thịnh A Man bật cười mỉa mai: “Ngươi không trả lời được chứ gì? Được thôi, thế bằng chứng đâu? Ngươi đưa bằng chứng ra đây!”

Cảm giác bất lực trong lòng Thôi Tuần càng sâu sắc, hắn nghiến răng, từ kẽ răng nặn ra mấy chữ: “Đã qua sáu năm, không còn bằng chứng nữa.”

Thịnh A Man cười lạnh: “Không có bằng chứng… Vậy ngươi định dựa vào mấy lời nói suông của ngươi để khiến ta tin tưởng? Thôi Tuần, một kẻ đầu hàng Đột Quyết như ngươi, một kẻ phản bội Thiên Uy quân như ngươi, dựa vào đâu để ta tin ngươi? Phải, Thẩm Khuyết không phải người tốt, nhưng ngươi thì tốt hơn chắc?”

Những lời chất vấn của Thịnh A Man khiến Thôi Tuần cứng họng. Hắn há miệng, nhưng không thốt ra được lời nào. Thịnh A Man nhìn hắn đầy khinh miệt, giọng nói lạnh lùng: “Thôi Tuần, ta không muốn gặp lại ngươi, ngươi cũng đừng xuất hiện trước mặt ta nữa. Từ nay về sau, Thịnh A Man ta sống hay chết, đều không liên quan đến ngươi.”



Thịnh A Man hận Thôi Tuần đến tận xương, hắn không thể thuyết phục nàng, chỉ có thể trơ mắt nhìn nàng cùng Thẩm Khuyết bước lên con đường lưu đày. Hôm ấy, trời xanh như ngọc, Thôi Tuần đứng trên sườn núi, mắt dõi theo quan đạo, nơi Thẩm Khuyết mang gông xiềng bị áp giải đi.

Thê thiếp của Thẩm Khuyết đều đã rời bỏ hắn, chỉ còn lại chính thê và Thịnh A Man tình nguyện đồng hành đến Lĩnh Nam. Thê tử của Thẩm Khuyết yếu đuối, đi được vài bước đã thở hổn hển. Thịnh A Man tiến lên, nói gì đó với sai dịch. Sau đó, họ dừng lại nghỉ ngơi. Không lâu sau, một cỗ xe ngựa đơn sơ được đưa tới.

Thịnh A Man đỡ Thẩm Khuyết và chính thê hắn lên xe ngựa, sau đó từ túi vải lấy ra mấy thỏi bạc vụn, đưa cho sai dịch: “Các vị lang quân, đường xa vạn dặm, phiền các vị chiếu cố thêm.”

Nàng thu xếp mọi chuyện đâu ra đấy. Sai dịch nhận bạc, nhìn nàng cười cợt: “Nghe nói Thẩm Khuyết từng làm ô uế tiểu nương tử, thế nên mới cướp được cô từ tay Thôi đại nhân. Nay Thẩm Khuyết sa cơ lỡ vận, sao tiểu nương tử không theo Thôi đại nhân mà lại cùng hắn đến Lĩnh Nam chịu khổ?”

A Man thản nhiên đáp, ánh mắt vô cảm: “Ta chỉ có cái mạng tiện này, đi đâu mà chẳng như nhau? Huống hồ, phu quân ta chỉ nhất thời thất thế. Dẫu sao chàng cũng là biểu huynh của Thánh nhân, lại là ngoại tôn của Thái hậu, chưa chắc phải ở Lĩnh Nam lâu dài. Ta cần chi phải đánh đổi, để mang danh là “kẻ gió chiều nào theo chiều ấy”, đúng không?”

Mấy tên sai dịch liếc mắt nhìn nhau, lời nói của A Man quả thực đã nhắc nhở bọn họ. Dù Thẩm Khuyết có rơi vào bước đường cùng đi nữa thì hắn vẫn là biểu huynh của Thánh nhân, bọn họ không thể đắc tội. Vì vậy, cả đám cung kính nói: “Tiểu nương tử nói đúng, đoạn đường này, tiểu nương tử không cần lo lắng.”

Thịnh A Man khẽ gật đầu. Nàng xoay người bước vào xe ngựa, lấy túi da vừa đổ đầy nước đưa cho Thẩm Khuyết và chính thê của hắn. Thẩm phu nhân dịu giọng nói: “Làm phiền muội muội rồi.”

Thẩm Khuyết thì chỉ nhìn nàng với ánh mắt phức tạp, không nói một lời. Một lúc sau, hắn mới chậm rãi hỏi: “Vì sao?”

A Man cúi đầu, chỉ đáp: “Ta chấp nhận số phận thôi.”

Khi nàng nói ra bốn chữ này, trong đầu bất giác vang lên hồi ức ngày Thẩm Khuyết bị phán lưu đày. Hắn từ hoàng cung trở về, uống đến say mèm, miệng lẩm bẩm những lời khó hiểu. Nào là “a tỷ”, “a nương”, rồi lại nhắc tới chuyện hắn đã oán hận suốt hai mươi chín năm, cuối cùng chỉ là một trò cười. Trong cơn mê sảng, hắn lại thốt ra mấy chữ “Thiên Uy quân” và “Thịnh Vân Đình.”

Trong yến tiệc thưởng xuân, nàng đã cảm thấy kỳ lạ. Tại sao a huynh nàng chỉ là viên Ngu hầu nho nhỏ, lại bị Thẩm Khuyết, một Trung lang tướng tứ phẩm dành sự oán hận lớn đến vậy? Nay hắn lại nhắc đến ba chữ “Thịnh Vân Đình”, lòng nàng càng thêm hồ nghi.

Nàng muốn theo Thẩm Khuyết đến Lĩnh Nam, muốn làm rõ sự tình. Nhưng giờ đây, mọi chuyện dường như đã sáng tỏ.

Thịnh A Man cụp mắt, che giấu sự oán hận ở đáy lòng. Nàng quay đầu, vén rèm xe ngựa, ngước nhìn về phía triền núi. Xa xa, bóng dáng màu đỏ sẫm kia vẫn thấp thoáng. Nàng không biểu lộ cảm xúc, chỉ buông rèm xuống, lặng lẽ cúi đầu.

Chuyến đi Lĩnh Nam này, sinh tử khó lường. Tuy nàng chỉ là một nữ tử yếu ớt, nhưng trong lòng đã sớm nung nấu ý chí sắt đá. Thù của a huynh chưa báo, nàng, Thịnh A Man thề không làm người.



Xe ngựa lăn bánh, dần dần khuất khỏi quan đạo, cho đến khi hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt. Khi ấy, Thôi Tuần mới mím môi, quay người lại.

Bất ngờ thay, hắn thấy Lý Doanh.

Hắn ngẩn người một lúc, hỏi: “Sao cô lại đến đây?”

Lý Doanh khẽ cười: “Hôm nay là ngày A Man lên đường, ta đoán ngài hẳn sẽ rất buồn, nên đến để bầu bạn cùng ngài.”

Thôi Tuần cũng cười, nhưng trong nụ cười phảng phất chút u sầu. Hắn chậm rãi nói: “Ta đã viết thư gửi đến Đô đốc Quế Châu, nhờ ông ấy để ý đến A Man nhiều hơn. Phần còn lại, nàng ấy phải dựa vào chính mình.”

Lý Doanh phần nào hiểu được về Đô đốc Quế Châu, Trương Hoằng Nghị. Người này vốn là một bậc thanh lưu trong triều, vì không kết bè kết cánh, không tư lợi riêng, lại thường can gián thẳng thắn nên không được lòng nhiều người, bị điều đi làm Đô đốc Quế Châu. Là bậc thanh lưu, hẳn ông ta sẽ không xem trọng Thôi Tuần. Lần này, Thôi Tuần viết thư cho ông ấy, chắc chắn phải cực kỳ hạ mình, nhẫn nhịn. Đợi khi Trương Hoằng Nghị hồi âm, chắc cũng không thiếu những lời nhục mạ, mà Thôi Tuần lại có lòng tự tôn mạnh mẽ, phải cầu cạnh một kẻ không ưa mình, chắc chắn trong lòng chẳng dễ chịu chút nào.

Lý Doanh mím môi, chợt nói: “Khi nãy lúc lên núi, ta thấy hoa tường vi nở rộ khắp đường, đẹp đẽ vô cùng. Ngài cùng ta ngắm hoa nhé, được không?”

Thôi Tuần gật đầu. Hắn cùng Lý Doanh men theo con đường nhỏ xuống chân núi, quả nhiên thấy một biển hoa tường vi trải dài trước mắt.

Cánh hoa tường vi xếp chồng từng lớp, sắc đỏ rực rỡ tựa ánh mây chiều, kiều diễm chói mắt. Lý Doanh và Thôi Tuần bước vào biển hoa, nàng bỗng hỏi: “Thôi Tuần, năm ngài mười bốn tuổi đã gia nhập Thiên Uy Quân phải không?”

Thôi Tuần thoáng giật mình, rồi gật đầu. Lý Doanh lại nói: “Ngài ở Thiên Uy Quân ba năm?”

Thôi Tuần gật đầu lần nữa. Nhưng sau đó, Lý Doanh không hỏi tiếp. Bởi ba năm sau, chính là trận Lạc Nhạn Lĩnh, toàn quân Thiên Uy Quân bị diệt, còn Thôi Tuần bị bắt làm tù binh của Đột Quyết. Người đời đồn rằng hắn đầu hàng Đột Quyết, nhưng Lý Doanh không tin.

Nhưng đây là chuyện Thôi Tuần không muốn nhắc lại, Lý Doanh cũng không hỏi thêm. Nàng chỉ nhẹ giọng: “Chủ soái của Thiên Uy Quân là Quách Cần Uy nhỉ? Ông ấy là người thế nào?”

Thôi Tuần không rõ vì sao bỗng nhiên nàng lại hỏi đến Quách soái, nhưng vẫn hồi tưởng rồi đáp: “Ông ấy là người rất tốt, thân thiện, quan tâm cấp dưới, ăn cùng mâm, ngủ cùng trại với binh sĩ. Tiền thưởng và lương bổng đều chia hết cho thuộc hạ, ai nấy đều yêu quý ông.”

Nàng khẽ hỏi: “Ngài cũng rất quý ông ấy, đúng không?”

Thôi Tuần gật đầu. Giọng thiếu nữ dịu dàng, như làn nước xuân tưới mát tâm can, khiến nỗi muộn phiền trong lòng hắn dần lắng lại. Yết hầu hơi động, hắn trầm giọng nói: “Ta… coi ông ấy như phụ thân.”

Lý Doanh gật nhẹ đầu: “Vậy chắc những người khác trong Thiên Uy quân, cũng đều là người rất tốt?”

Trong đầu Thôi Tuần thoáng hiện lên từng gương mặt trẻ trung đầy nhiệt huyết. Hắn khựng lại giây lát, rồi nói: “Họ đều xuất thân từ hàn môn, phần lớn nhà nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, lại chẳng được học hành. Nhưng dưới sự dạy bảo của Quách soái, tất cả đều biết lấy chân thành để đối đãi. Ta, coi họ như huynh đệ.”

Lý Doanh lặng thinh. “Như phụ thân… như huynh đệ…” Chỉ ba năm ngắn ngủi chung sống, lại đủ để khiến hắn buông bỏ cả tự tôn lẫn kiêu hãnh, hết lần này đến lần khác cúi mình, nén nhục. Người đời đều nói hắn là kẻ vô tình vô nghĩa, bất trung bất hiếu. Nhưng có mấy ai hiểu được, trong trái tim của kẻ bị gọi là “hèn mọn” ấy, lại ẩn chứa tình cảm sâu đậm hơn bất kỳ ai.

Nàng không nói thêm, hai người bước đến trước biển hoa tường vi. Mùi hương ngọt ngào thanh nhã của hoa vấn vít quanh mũi. Lý Doanh mỉm cười, điềm đạm nói: “Thôi Tuần, hôm nay, ta rất vui.”

“Hửm?”

“Ngài chịu kể cho ta nghe về Quách soái, về Thiên Uy quân, điều đó khiến ta rất vui.”

Thôi Tuần ngẩn người. Khi hắn còn chưa kịp suy ngẫm ý tứ trong lời nói của nàng, Lý Doanh lại tiếp tục: “Ngài dặn lão bộc câm thay hoa trong phòng ta mỗi ngày, đúng không?”

Thôi Tuần bối rối. Hắn không rõ nàng đã biết bằng cách nào. Ánh mắt bất giác lảng sang nàng, vẻ ngượng ngùng không giấu nổi. Lý Doanh đưa tay chạm nhẹ vào một cánh hoa tường vi, không giải thích làm sao nàng biết, chỉ chậm rãi nói: “Ngài đấy, chuyện gì trong lòng cũng không nói ra, việc tốt đã làm cũng chẳng bao giờ kể.”

Thôi Tuần thì thầm: “Chuyện đó đâu đáng gọi là việc tốt.”

“Sao lại không chứ? Ta thích hoa, mỗi lần nhìn thấy hoa, tâm trạng ta liền vui vẻ. Việc mang đến niềm vui cho người khác thì chẳng nhẽ lại không phải việc tốt?”

Khi nói những lời ấy, giọng nàng tràn đầy sự chân thành, như thể đó chính là suy nghĩ thật lòng, không chút giả dối. Trái tim Thôi Tuần bỗng trào dâng một cảm giác ấm áp khó tả. Hắn mỉm cười, đưa tay ngắt một đóa tường vi đỏ rực, rồi trao cho nàng: “Vậy hôm nay, việc tốt này ta sẽ làm trước một bước.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 58: Cô không nên ở lại nơi này


Ở biển hoa tường vi, Thôi Tuần còn nói thêm cho Lý Doanh vài chuyện.

Hắn nói rằng, mặc dù Thái hậu không phải là hung thủ giết nàng, nhưng Thái hậu chắc chắn biết điều gì đó.

Lý Doanh cau mày: “Ý ngài là, a nương biết kẻ đã giết ta là ai?”

Thôi Tuần gật đầu: “Nếu không, bà ấy sẽ không ngăn cản ta tiếp tục điều tra.”

“Nhưng, tại sao a nương lại làm như vậy?”

“Có lẽ, Thái hậu có nỗi khổ tâm khó nói.”

Ánh mắt Lý Doanh có vẻ mơ hồ. Rốt cuộc, nỗi khổ tâm nào mới có thể khiến a nương ngăn cản việc vạch trần hung thủ?

Trong lòng nàng dâng lên một thoáng bất mãn, xen lẫn chút thất vọng đối với a nương. Nhưng chỉ trong chốc lát, nàng đã mím môi, khẽ nói: “A nương làm vậy, hẳn là có lý do của người. Người yêu thương ta như thế, ta không nên nghi ngờ người.”

Khi nàng quyết định tin tưởng một người thì luôn sẵn sàng đặt trọn niềm tin. Nàng nói: “Nếu a nương không muốn nói, thì ta sẽ tự mình tìm hiểu. Ta tin rằng, sẽ có một ngày, ta tìm được chân tướng, rồi sẽ…”

Lời nói chợt nghẹn lại. Thực ra, nàng muốn nói: “Rồi sẽ đầu thai chuyển thế”, nhưng khi tới bốn chữ này, nàng bỗng nhiên ngập ngừng.

Đầu thai chuyển thế vốn là mong muốn lớn nhất trong suốt ba mươi năm qua của nàng. Nàng là một người sợ cô đơn, sợ đến mức ở hồ sen kia, bóng tối vô tận và sự tịch mịch chết chóc suýt nữa đã đẩy nàng đến bờ vực phát điên. Nàng chỉ có thể nhìn thấy những cung nữ, nội thị tới chơi ở hồ sen, nhưng chẳng ai có thể nhìn thấy sự tồn tại của nàng. Cứ phải một mình đối mặt với sự cô độc và bất lực triền miên ấy khiến nàng không muốn làm cô hồn dã quỷ thêm nữa.

Nàng muốn sớm ngày đầu thai, trở lại làm người. Thế nhưng…

Tâm trí rối bời, nàng bước nhanh rời khỏi biển hoa tường vi, nhưng đi được vài bước, chân nàng đã dừng. Quay đầu lại, nàng nhìn về phía Thôi Tuần. Giữa tiết tháng ba, hắn khoác trên mình áo lông hồ trắng muốt, đứng giữa biển hoa tường vi rực đỏ như ngọn lửa. Hoa tường vi đỏ rực tựa hồng liên nghiệp hỏa bừng cháy, nổi bật dáng hình gầy gò như hạc bệnh của hắn.

Một cơn gió nổi lên, cành tường vi oằn mình, những cánh hoa theo gió tung bay. Biển hoa đỏ rực cuộn trào như sóng dữ, tựa hồ ngọn lửa hồng liên trong địa ngục bùng cháy, muốn nuốt trọn thân ảnh gầy guộc này.

Lý Doanh ngây người nhìn hắn, thân hình nàng như hòa vào biển lửa đỏ thẫm. Nàng mấp máy môi, muốn nói ra bốn chữ kia, nhưng chẳng thể thốt lên thành lời.



Gió ngừng thổi.

Lý Doanh siết chặt trong tay đóa tường vi mà Thôi Tuần vừa hái tặng nàng. Nàng lặng lẽ nhìn hắn, bước chân không nhúc nhích. Đôi mắt nàng như muốn nói ngàn lời, cũng như chờ mong hắn sẽ bước tới. Thôi Tuần mím môi, chậm rãi tiến lên từng bước, từng bước rời xa biển lửa đỏ rực kia.

Cuối cùng, hắn đứng trước mặt nàng. Lý Doanh bỗng thấy khóe mắt mình ươn ướt. Nàng cúi đầu, hai tay đan lại, giấu trong ống tay áo lụa, đóa tường vi cũng được nàng cất giữ như báu vật trong lòng bàn tay.

Khi nàng cúi đầu, nơi gáy lộ ra làn da trắng như sứ, mịn màng thanh khiết. Ánh dương vàng nhạt rọi lên người nàng, tựa hồ toàn thân nàng đều tỏa ra ánh sáng nhàn nhạt. Thôi Tuần bỗng nói: “Vừa nãy, hình như cô chưa nói hết.”

Lý Doanh sững người, trấn tĩnh lại rồi ngẩng đầu đáp: “Không, ta đã nói xong rồi.”

Thôi Tuần cũng không truy hỏi thêm, chỉ trầm giọng nói: “Ta sẽ giúp cô.”

“Giúp ta?”

Thôi Tuần gật đầu: “Giúp cô sớm tìm ra chân tướng, rồi đầu thai chuyển thế.”

Hắn nói ra bốn chữ kia một cách thản nhiên. Lý Doanh không biết hắn vô tình hay cố ý, chỉ cảm thấy trong lòng dâng lên chút chua xót. Nàng khẽ hỏi: “Thôi Tuần, ngài hy vọng ta sớm đầu thai chuyển thế sao?”

Thôi Tuần nhìn vào đôi mắt trong veo như lưu ly của nàng, do dự trong giây lát, nhưng rồi vẫn gật đầu đáp: “Cô không nên ở lại nơi này.”

Lý Doanh ngẩn ngơ nhìn hắn. Trong ánh mắt hắn có sự bình thản lẫn quyết tuyệt. Nàng dời ánh mắt đi, giọng nói mang theo chút thất vọng: “Ta hiểu rồi.”



Long Hưng năm thứ hai mươi, mùa xuân.

Mùa xuân năm ấy, mưa thuận gió hòa, bạch lộ tung cánh, nông dân cày cấy, thương nhân qua lại, bách tính an cư lạc nghiệp, thiên hạ giàu có thái bình, tất cả tạo nên một bức tranh thịnh thế, biển lặng trời yên.

Nhưng có lẽ chỉ những người trong điện Tử Thần mới hiểu rõ, sự tranh chấp thế lực giữa lực Thôi đảng và Lư đảng đã đến mức gay gắt. Thôi đảng chủ trương tân chính, Lư đảng lại phản đối, muốn phế bỏ tân chính. Hai bên không ngừng công kích, thế như nước lửa, quyết không đội trời chung.

Dẫu vậy, dù tranh đấu đến mức này, hai người đứng đầu là Thôi Tụng Thanh và Lư Dụ Dân vẫn giữ được vẻ ngoài hòa khí. Hai người không tham tài, chẳng ham sắc, cũng không màng danh lợi, chỉ vì theo đuổi lý tưởng trong lòng. Nếu không vì khác biệt quan niệm, có khi họ đã trở thành tri kỷ.

Lư Dụ Dân từng tranh luận với Thôi Tụng Thanh trước triều đình: “Sĩ nhân trăm hạnh, lấy đức làm đầu. Đây chính là câu đầu tiên mà con em ngũ tính thất vọng được dạy khi nhập học. Thế gia trăm năm truyền thừa, gốc rễ sâu xa, con cháu ba tuổi đọc kinh, năm tuổi học sử, văn thao võ lược không gì không biết. Để thế gia giữ vị trí trọng thần, mới có thể kế thừa và phát triển lợi ích cho quốc gia, an ổn bách tính.”

Thôi Tụng Thanh nghe thế, chỉ cười nhạt: “Thế gia đương nhiên có thể làm trọng thần, nhưng quá nửa trong số đó ngay đến lúa và mì còn không phân biệt được, lấy gì để thấu hiểu khổ cực dân gian? Người hàn tộc tuy xuất thân thấp hèn, nhưng cũng có kẻ chí lớn, lòng son không đổi. Nếu con của tể tướng mãi mãi làm tể tướng, con của nông dân mãi mãi làm nông dân, thiên hạ chẳng khác nào vũng nước đọng. Cảnh Ngũ Hồ loạn Hoa, [1] chẳng phải sẽ tái hiện sớm thôi sao?”

[1] Thập lục quốc (giản thể: 十六国; phồn thể: 十六國; bính âm: Shíliù Guó), còn gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận Trung Quốc từ năm 304 đến 439 kéo theo sự rút lui của nhà Tấn về miền nam Trung Quốc đến khi Bắc triều thống nhất toàn bộ phương bắc, mở ra cục diện mới là Nam Bắc triều. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 59: Xem ra, người lún sâu không chỉ có mình ta


Trước bức hoạ treo giải thưởng, dân chúng tụ tập, bàn tán xôn xao:

“Kim Di này được treo thưởng đến ngàn lượng hoàng kim, ôi chao, thật đáng giá!”

“Hắn là Tả Hiền vương của Đột Quyết, đương nhiên đáng giá rồi.”

“Trước đây chẳng phải hắn là người Đại Chu sao? Vậy mà lại đầu hàng Đột Quyết, còn dẫn quân Đột Quyết đánh chúng ta. Loại phản quốc như hắn, nên bị lăng trì ba ngày ba đêm mới thỏa!”

“Không chỉ có kẻ phản quốc này, Đại Chu ta chẳng phải còn một tên phản quốc khác sao?”

“Suỵt! Ngươi không muốn sống nữa à?”

Mọi người lập tức im lặng. Trong lòng Lý Doanh bỗng dâng lên một nỗi khó chịu mơ hồ. Nàng biết họ đang nói đến Thôi Tuần, nhưng thân là cô hồn, ngay cả hiện hình còn không thể, huống hồ mở miệng biện giải thay hắn. Nàng chỉ biết lặng lẽ rời đi. Đến một con ngõ nhỏ, nàng bất chợt trông thấy Ngư Phù Nguy ôm trong tay một chiếc hộp dài đen bóng, được khảm xà cừ tinh xảo. Hắn mỉm cười phong lưu, giơ tay chào nàng.



Ngư Phù Nguy dẫn Lý Doanh đến một quán trà gần đó. Quán trà này do chính hắn mở, bên trong bố trí nhã phòng, giữa phòng là lư hương ba chân bằng ngọc Hòa Điền đốt trầm hương, mùi hương thoang thoảng lan toả. Ngoài cửa sổ là cảnh nước chảy dưới cầu, núi xanh trúc biếc. Lý Doanh khen: “Quả là một nơi phong nhã.”

Ngư Phù Nguy cười đáp: “Kẻ sĩ thưởng trà, chẳng chỉ để thưởng trà mà còn thưởng cảnh, thưởng tình, thưởng cảnh giới. Nếu không tạo chút phong nhã, làm sao hút được khách ghé thăm?”

Lý Doanh chống cằm, ngắm nhìn cảnh sắc ngoài cửa sổ. Nắng chiếu núi xanh, gió lay trúc biếc, cảnh sắc tinh khôi, đẹp không sao tả xiết. Nàng quay lại nhìn Ngư Phù Nguy, nở nụ cười: “Ngư tiên sinh làm ăn với quỷ cũng khéo mà buôn bán với người cũng khéo.”

Nụ cười ấy làm lu mờ muôn hoa ngày xuân, khiến tim Ngư Phù Nguy bất giác loạn nhịp. Hắn vội ho nhẹ hai tiếng, che giấu sự bối rối. May mắn thay, Lý Doanh chẳng phát hiện ra. Ngư Phù Nguy cầm chiếc thìa bạc dài khắc hoa văn dây leo đặt trên án kỷ, múc một chén trà Tử Duẩn đưa nàng. Lá trà Tử Duẩn mảnh nhỏ như măng, sắc tím nhàn nhạt, nên được gọi là Tử Duẩn <i>(tử = tím, duẩn = măng; Tử Duẩn là “măng tím”)</i>. Hắn nói: “Loại trà này tuy không phải cống phẩm, nhưng cũng chẳng thua kém gì trong cung. Mời công chúa thưởng thức.”

Lý Doanh nâng chén trà lưu ly màu ngọc bích, nhấp một ngụm. Quả nhiên, trà ngọt lành thanh mát, dư vị đọng lại là hương trúc thoảng nhẹ. Nàng mỉm cười nói: “Trà ngon, quả thực không kém gì trong cung.”

Ngư Phù Nguy vui vẻ: “Công chúa thích là tốt rồi.”

Lý Doanh đặt chén trà xuống án kỷ, khẽ nói: “Hôm nay quả thật trùng hợp, lại có duyên gặp được Ngư tiên sinh.”

“Không phải trùng hợp.” Ngư Phù Nguy điềm nhiên đáp: “Mỗi ngày mỗ đều dạo qua dạo lại quanh Thôi phủ. Giờ mới thấy công chúa rời phủ, nên đi theo đến tận đây.”

Lý Doanh ngạc nhiên: “Ngư tiên sinh đến Thôi phủ để làm gì?”

“Vì mỗ muốn gặp công chúa.” Hắn thẳng thắn nói.

Lý Doanh sửng sốt. Trong ánh mắt của Ngư Phù Nguy hiện lên vẻ nóng rực, hắn nhìn nàng chăm chú. Nàng bỗng thấy bối rối, cúi đầu, vội nâng chén trà lưu ly lên nhấp một ngụm, không dám đối diện ánh nhìn của hắn, chỉ biết tránh né. Đây tuyệt nhiên không phải phản ứng của một nữ tử trước lời tỏ tình của tình lang mà mình mến mộ, mà là phản ứng của một nữ nhân trước lời tỏ tình của kẻ mà nàng không hề yêu thích.

Ngư Phù Nguy nhận ra ngay. Lòng hắn thoáng dâng lên nỗi chua xót. Hắn gượng cười: “Từ sau chuyện của Thịnh A Man, mỗ chưa từng gặp lại công chúa. Thôi Tuần không cho mỗ vào phủ, thậm chí còn để lão bộc câm canh giữ tường viện nghiêm ngặt. Nhưng công chúa là một người bạn vô cùng quan trọng với mỗ. Vì lo lắng cho công chúa nên mỗ mới thường quanh quẩn trước Thôi phủ, hoàn toàn không có ý gì khác.”

Người bạn vô cùng quan trọng sao… Lý Doanh dần buông lỏng nghi ngờ. Ngư Phù Nguy xuất thân phố phường, tính tình phóng khoáng không ràng buộc, lại thích nói lời bông đùa, khác xa những văn nhân nghiêm chỉnh mà nàng từng tiếp xúc. Nghĩ đến ánh mắt vừa rồi của hắn, quả nhiên là nàng đã nghĩ nhiều.

Nàng chợt thở phào, ngẩng đầu đáp: “Đa tạ Ngư tiên sinh quan tâm, ta vẫn ổn cả.”

Ngư Phù Nguy gật đầu, lại hỏi: “Vậy hôm nay công chúa xuất phủ vì chuyện gì?”

“Ta vốn định ra ngoài tìm hiểu một vài tin tức.” Lý Doanh đáp: “Nhưng giờ, có lẽ không cần nữa.”

“Tại sao?”

“Vì ta vừa thấy một cáo thị truy nã.”

“Kim Di?”

Lý Doanh gật đầu: “Ta muốn tìm hiểu về một số chuyện xảy ra ba mươi năm trước. Kim Di từng là Đô úy của Bách Kỵ Tư, những chuyện cơ mật trong cung hay động thái của triều thần, không ai rõ hơn ông ta. Nếu tìm được ông ta, có lẽ ta sẽ biết được điều ta muốn.”

“Nhưng khắp Đại Chu đều đang truy lùng người này, e rằng không dễ tìm đâu.”

“Dù khó tìm, ta cũng phải tìm.” Lý Doanh kiên định đáp.

Ngư Phù Nguy bật cười: “Vậy thì để mỗ giúp công chúa tìm ông ta.”

Lý Doanh khẽ cười, nói: “Nếu vậy, xin đa tạ Ngư tiên sinh.”



Trong nhã thất, trầm hương trên lư đồng đã gần cạn, hương thơm vấn vít không gian, ngoài mùi trầm hương nồng đậm còn phảng phất một làn hương hoa nhè nhẹ.

Ngư Phù Nguy chợt nói: “Công chúa, có phải cô mang hoa tường vi theo không?”

“Tường vi?”

“Hình như mỗ ngửi thấy hương hoa tường vi.”

Lý Doanh chợt nhớ ra điều gì, liền ung dung lấy ra một bông tường vi khô đỏ thắm từ trong túi gấm thêu mẫu đơn ngũ sắc: “Mũi Ngư tiên sinh nhạy thật đấy, đúng là ta có mang theo tường vi.”

Đóa tường vi khô kia vẫn giữ được sắc đỏ như lửa, cánh hoa tuy đã mất đi độ ẩm nhưng vẫn lưu lại dáng vẻ và đường nét tinh tế nguyên sơ. Ngư Phù Nguy đưa tay cầm lấy đóa hoa, cẩn thận ngắm nghía, lòng chợt dấy lên ý niệm lãng mạn: “Công chúa có thể tặng mỗ bông hoa tường vi này không?”

Lý Doanh ngẩn người, sau đó mỉm cười gượng gạo, lắc đầu: “E rằng không được.”

Ngư Phù Nguy không cam tâm, hỏi tiếp: “Vì sao?”

Lý Doanh thoáng do dự, không biết nên đáp thế nào, nàng lúng túng: “Đây là vật người khác tặng ta, ta không tiện trao lại cho tiên sinh.”

“Người khác?” Ngư Phù Nguy vừa đoán đã trúng: “Làm gì có ai khác, chẳng phải là Thôi Tuần sao?”

Nhớ đến ngày ấy, dáng vẻ Thôi Tuần trao nàng nhành tường vi, Lý Doanh không khỏi cúi đầu, gật nhẹ. Ngư Phù Nguy cười khổ: “E rằng nhành hoa này chỉ là Thôi Tuần tiện tay tặng, vậy mà công chúa lại trân trọng giữ gìn, không nỡ để nó héo tàn, còn chế thành hoa khô, cất kỹ trong túi bên người.”

Lời của Ngư Phù Nguy tuy đúng với việc nàng làm, nhưng khi nghe, Lý Doanh lại cảm thấy có chút không thỏa đáng. Nhất là nghĩ đến câu nói “Cô không nên ở đây” của Thôi Tuần hôm trước, nàng càng thêm bấn loạn. Sau cùng, nàng lắp bắp thanh minh: “Ta không quá coi trọng đóa hoa này đâu, chỉ là thấy nó đẹp nên mới chế thành hoa khô.”

Ngư Phù Nguy nghe vậy, không đáp, chỉ cười khổ thêm lần nữa. Lý Doanh bỗng thấy lòng chột dạ, đành bưng chén trà lưu ly lên, nhấp một ngụm. Ngư Phù Nguy thấp giọng lẩm bẩm: “Xem ra, người lún sâu không chỉ có mình ta.”

Hắn nói rất nhỏ, Lý Doanh không nghe rõ, nàng hỏi: “Ngư tiên sinh, vừa rồi ngài nói gì vậy?”

Ngư Phù Nguy lắc đầu, giọng thoảng chua xót: “Không có gì.”

Hắn cầm chiếc hộp hình chữ nhật sơn đen khảm xà cừ để bên cạnh, từ tốn mở ra. Bên trong hộp là mười hai đĩa bạc nhỏ chạm khắc hoa văn tinh xảo, mỗi đĩa đặt một miếng bánh trà hình hoa, làm từ gạo Ngô Hưng và đậu trắng Bạch Mã. Bánh được nặn thủ công thành đủ các loại hoa, không chỉ hình dáng sống động như thật mà ngay cả nh.ụ.y hoa cũng vô cùng tinh tế.

Lý Doanh không khỏi tán thưởng: “Những chiếc bánh trà này nhìn đẹp quá.”

Ngư Phù Nguy nói: “Loại bánh này tên là Thập nhị hoa nguyệt lệnh, gồm mười hai loại hoa như mai, hạnh, đào, mẫu đơn, lựu, sen, ngọc trâm, quế, cúc, phù dung, sơn trà, thủy tiên, ứng với mười hai tháng trong năm. Bánh này không chỉ đẹp mắt mà còn có vị ngọt dịu không gắt, rất được ưa chuộng ở Trường An. Vừa rồi khi công chúa xem cáo thị của Kim Di, mỗ đã mua một hộp để công chúa nếm thử.”

Lý Doanh nhìn bánh trà đầy thú vị, nàng nói: “Thứ này chắc hẳn không rẻ chút nào.”

Ngư Phù Nguy cười: “Cũng không đắt lắm. Nếu thích công chúa thì cứ mang về Thôi phủ đi.”

Nghĩ ngợi một chút, tuy không cam lòng nhưng hắn không muốn lảng vảng tận vài ngày mới gặp được nàng một lần, thế nên cười gượng: “Xem như tặng Thôi Thiếu khanh, coi như bồi tội vì lần trước mỗ đã xé bùa chú của hắn.”

Nói xong, hắn định đậy nắp hộp lại thì Lý Doanh bỗng lên tiếng: “Khoan, chờ một chút.”

Ngư Phù Nguy thắc mắc hỏi: “Sao vậy?”

Lý Doanh nhón lấy một chiếc bánh trà hình hoa sen trong hộp, nói: “Cái này, không cần nữa.”

“Tại sao?”

Lý Doanh nhẹ giọng nói: “Thôi Tuần không thích hoa sen, nếu tặng thứ này cho hắn thì không ổn.”

Ngư Phù Nguy sững người: “Hắn không thích hoa sen sao?”

Nàng gật đầu. Thời này người người yêu chuộng hoa sen, từ đồ uống, đồ dùng như chén trà hay bầu rượu đều phổ biến họa tiết hoa sen. Thế nhưng, trong phủ của Thôi Tuần lại không hề thấy bất kỳ vật dụng nào mang họa tiết này, điều đó khiến nàng tin rằng Thôi Tuần hẳn không thích loài hoa này.

Ngư Phù Nguy không khỏi thắc mắc: “Hắn có biệt danh là “Liên Hoa Lang”, vậy mà lại không thích hoa sen sao?”

Lý Doanh nhớ lại lần trước khi Thôi Tụng Thanh nói rằng khi nhị đệ của Thôi Tuần đặt cho hắn biệt danh này, kết quả bị Thôi Tuần đánh cho một trận nên thân. Nàng liền đáp: “Ừ, hắn không thích.”

Ngư Phù Nguy càng thêm hoang mang: “Liên Hoa Lang, đẹp tựa hoa sen, danh hiệu này còn truyền tới cả Đột Quyết, vậy mà hắn lại không ưa?”

Thực tế, Thôi Tuần luôn giữ mọi chuyện trong lòng, không muốn thổ lộ với bất kỳ ai. Nàng chẳng biết nên phân bua thế nào, chỉ im lặng hồi lâu rồi chợt hỏi: “Ngư tiên sinh, tại sao mọi người đều nói Thôi Tuần đầu hàng Đột Quyết? Chẳng lẽ có chứng cứ xác thực sao?”

Lý Doanh luôn không cho phép Ngư Phù Nguy nói xấu Thôi Tuần trước mặt nàng, và hắn cũng chưa từng nhắc lại. Dù trong lòng cảm thấy uất ức, nhưng vì không muốn nàng phật ý, hắn đành im lặng. Tuy nhiên, hôm nay vì chính nàng hỏi nên không thể xem là hắn chủ động nói.

Hắn cẩn trọng đáp: “Là những người dân bị Đột Quyết bắt làm tù binh kể lại. Sau khi trốn về Đại Chu, họ nói rằng Thôi Tuần vì sợ bị giết nên đã đầu hàng Đột Quyết. Nghe đâu, vì có dung mạo xuất chúng, hắn được công chúa Đột Quyết để mắt, sống một cuộc đời phú quý. Không chỉ lấy lòng công chúa, hắn còn giúp Đột Quyết luyện binh. Vua Đột Quyết phong hắn làm Hữu Hiền vương, thanh thế lấn át cả Tả Hiền vương Kim Di.”

Lý Doanh nhớ lại thân thể đầy những vết thương chồng chất của Thôi Tuần, nàng cười khổ: “Ta thấy hắn chẳng giống kẻ nhận được đãi ngộ của Hữu Hiền vương.”

Ngư Phù Nguy cười nhạt: “Một người chạy thoát nói như thế thì thôi, nhưng nhiều người xa lạ cùng kể giống nhau, vậy hẳn là đáng ngờ rồi.” Hắn ngừng lại giây lát, rồi tiếp: “Hắn không thừa nhận cũng không sao. Chờ bắt được Kim Di, chỉ cần tra hỏi một phen là rõ. Nếu thật sự như vậy, ta e rằng lần này hắn khó tránh khỏi kết cục bị xử tội cùng Kim Di, bị róc thịt suốt ba ngày ba đêm.”

Khi câu nói cuối cùng vang lên, Lý Doanh như bị sét đánh ngang tai, đứng ngây người ra. Thấy nàng thất thần như mất hồn, Ngư Phù Nguy thầm thở dài trong lòng. Một lát sau, hắn chợt hỏi: “Phải rồi, trước khi dọn đến ở tại Thôi phủ, chẳng phải công chúa vẫn luôn ở tại lăng công chúa sao?”

Lý Doanh đang chìm trong suy nghĩ về lời nói của hắn, hoàn toàn quên mất phải trả lời. Ngư Phù Nguy lại thở dài một hơi, rồi chậm rãi nói: “Giờ công chúa ở tại Thôi phủ cũng không phải kế lâu dài. Dẫu cho một người một ma, nhưng xét cho cùng vẫn là nam nữ khác biệt. Mà lăng công chúa lại quá xa. Hay là thế này, ở phường Vĩnh Hưng, mỗ có một ngôi nhà để không, có thể bán lại cho công chúa.”
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom