Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

[BOT] Mê Truyện Dịch
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 175: Ngoại truyện Đế Hậu (3): Phong hiệu



Hoàng đế rời đi, Khương Linh Diệp cố nén cơn đau nhức trong rừng phù dung, chỉnh lại xiêm y cho ngay ngắn. Đến khi chắc chắn không để lộ ra chút dấu vết nào, nàng mới gắng gượng rời khỏi nơi đó.

Điện Lân Đức vẫn náo nhiệt như trước, tiếng tơ trúc vang vọng bên tai. Hẳn là Hoàng đế đã quay về đại điện, chắc chắn bên trong đang tưng bừng huyên náo. Khương Linh Diệp nhìn về phía điện Lân Đức nguy nga tráng lệ, có thể tưởng tượng ra cảnh tượng phồn hoa ở bên trong. Nhưng lúc này, dưới ánh trăng, bóng dáng nàng lại đơn độc lẻ loi hơn bao giờ hết.

Nàng đứng nhìn một lúc, khóe môi khẽ cong, sau đó chịu đựng tình trạng rệu rã trên người, từng bước từng bước trở về Tê Phượng các.



Từ đó về sau, Hoàng đế dường như đã quên hẳn sự tồn tại của nàng, chưa từng ban cho nàng bất cứ danh phận nào. Giống như nàng chỉ là một phiến hồng ở phường Bình Khang, hứng thú thì sủng hạnh một đêm, chẳng đáng để được sắc phong.

Ngẫm lại sự thô bạo của hắn đêm ấy, chẳng phải cũng chỉ xem nàng như một kỹ nữ thôi đó sao?

Hoàng đế không ban danh phận cho nàng, nàng cũng không đi cầu xin, chỉ lặng lẽ ở lại Tê Phượng các hầu hạ Hiền phi như trước, chưa từng hé lộ chuyện mình được Hoàng đế lâm hạnh.

Thoáng chốc, một tháng trôi qua. Hiền phi theo Thái hậu đến chùa Pháp Môn dâng hương, cũng nhờ thế mà Khương Linh Diệp cùng những cung nhân khác có được một phen nhàn rỗi. Nhưng đúng ngày hôm đó, Hoàng đế lại bất ngờ đến Tê Phượng các.

Đối diện với đám cung nhân đang phủ phục hành lễ khắp điện, Hoàng đế như sực nhớ ra điều gì, nhàn nhạt nói: “Ồ, Hiền phi không có ở đây.”

Hắn vừa định xoay người rời đi, bên ngoài mây đen bỗng giăng kín, xem chừng chẳng mấy mà trời sẽ mưa. Hoàng đế mỉm cười nói: “Xem ra, trời muốn giữ trẫm lại rồi.”

Lời vừa dứt, ánh mắt hắn vẫn dán chặt vào Khương Linh Diệp, còn nàng thì chỉ cúi đầu, vầng trán chạm nhẹ lên mu bàn tay, không hề ngẩng lên dù chỉ một lần.

Sau đó, Hoàng đế tiến vào nội điện nghỉ tạm, chờ mưa ngớt rồi mới hồi điện Thần Long. Hắn ngồi nghiêm chỉnh bên bàn gỗ tử đàn, tiện tay lật xem một cuốn sách, thản nhiên nói: “Trẫm không cần quá nhiều nô tỳ hầu hạ, giữ lại một người là đủ.”

Cung tỳ trong Tê Phượng các đưa mắt nhìn nhau, không ai dám lên tiếng, cuối cùng vẫn là Khương Linh Diệp bình thản quỳ xuống: “Tiểu tỳ hầu hạ Thánh nhân.”



Nội điện yên tĩnh đến mức chỉ còn nghe tiếng mưa rơi tí tách xuống nền gạch. Khương Linh Diệp quỳ bên cạnh, mài mực cho Hoàng đế. Hắn nâng chén trà nhấp một ngụm, rồi đặt xuống, ung dung hỏi: “Vì sao không đến tìm trẫm đòi một danh phận?”

Khương Linh Diệp khựng lại, Hoàng đế liếc nàng một cái, khóe môi lộ ý cười mà như không cười: “Hay là ngươi đang chơi trò lạt mềm buộc chặt?”

“Tiểu tỳ không dám…”

“Ngươi không dám?” Hoàng đế khẽ cười: “Có gì mà ngươi không dám làm?”

“Tiểu tỳ không dám.” Khương Linh Diệp cúi đầu, tiếp tục yên lặng mài mực: “Danh phận là thứ do Thánh nhân ban, Thánh nhân cho, tiểu tỳ mới dám nhận. Nếu Thánh nhân không ban, tiểu tỳ nào dám cầu?”

Hoàng đế im lặng, mắt vẫn dán vào cổ tay trắng nõn đang lướt trên nghiên mực của nàng. Đột nhiên, hắn vươn tay nắm lấy, kéo mạnh nàng vào lòng. Khương Linh Diệp không kịp đề phòng, suýt nữa kinh hô thành tiếng, nhưng vừa liếc nhanh ra cửa sổ, nàng đã mím môi, nhịn xuống.

Mỹ nhân ôn hương nhuyễn ngọc trong lòng, tâm trạng bực bội cả ngày của Hoàng đế phút chốc tan biến. Hắn thong thả miết nhẹ cằm nàng, cất giọng cười khẽ: “Nàng quả là thông minh.”

Hắn nói: “Hoàng hậu, tứ (4) phi, cửu (9) tần, nhị thập thất (27) thế phụ, bát thập nhất (81) ngự thê, con đường lên mây của nàng, rốt cuộc muốn đi đến đâu?”

Khương Linh Diệp đáp: “Chuyện này không phải do tiểu tỳ quyết định, mà là do Thánh nhân quyết định.”

“Ồ? Trẫm còn tưởng nàng tin vào “nhân định thắng thiên” cơ đấy.” [1]

[1] nhân định thắng thiên: ý chí, lòng quyết tâm của con người có thể thắng được ý trời, có thể thay đổi được định mệnh.

Khương Linh Diệp ngước mắt nhìn hắn, nhỏ nhẹ nói: “Thánh nhân e là không biết, tiểu tỳ xuất thân thương hộ.”

Nàng bình tĩnh tiếp lời: “Thương hộ làm ăn, trước tiên phải có vốn. Hiện giờ tiểu tỳ ngay cả một đồng vốn cũng không có, sao dám mơ đến giấc mộng kiếm lời vạn kim đây?”

Hoàng đế vẫn chậm rãi vu.ốt ve cằm nàng, ánh mắt dường như đăm chiêu suy nghĩ. Có lẽ, hắn đang nghĩ về chính mình, năm xưa đối mặt với kẻ thù giết mẹ, hận thấu xương nhưng lại bất lực vì không quyền không thế, mỗi ngày đều phải diễn một màn mẫu từ tử hiếu với kẻ thù, ngoài mặt cung kính, trong lòng căm hận.

Khương Linh Diệp dường như nhìn thấu tâm tư của hắn. Nàng rúc vào trong lòng Hoàng đế, nhỏ giọng nói: “Nhưng nếu Thánh nhân bằng lòng xuất vốn cho tiểu tỳ, tiểu tỳ… có thể giúp Thánh nhân kiếm lời vạn lượng hoàng kim.”

Lúc nói lời này, trong mắt nàng không thể che giấu nổi dã tâm cuồn cuộn. Trên đời này, chỉ trước mặt Hoàng đế nàng mới chịu để lộ dã tâm ấy.

Quả nhiên, Hoàng đế nhìn nàng hồi lâu, bỗng mỉm cười: “Đã từng có ai nói với nàng rằng, mắt nàng rất đẹp chưa?”

Khương Linh Diệp hơi ngẩn ra, Hoàng đế lại nói: “Trẫm thích đôi mắt của nàng.”

Hắn lướt ngón tay qua hàng mi nàng: “Số vốn nàng cần, trẫm sẽ cho.”



Hoàng đế hứa sẽ ban danh phận cho Khương Linh Diệp. Thế nhưng, danh phận chưa kịp trao, tai họa đã giáng xuống trước.

Đây là lần đầu tiên Khương Linh Diệp bị người khác hãm hại. Nàng không hề hay biết rằng khi mình đang hầu hạ Hoàng đế trong nội điện thì một tỳ nữ tên Xuân Nhiễm ở Tê Phượng các vẫn luôn ngó nghiêng ngoài cửa. Dù bị Kim Ngô Vệ canh gác ngăn lại, không thể vào trong, nhưng chừng đó đã đủ để Xuân Nhiễm nghĩ ra một kế sách đưa Khương Linh Diệp vào chỗ chết.

Thực ra, giữa Khương Linh Diệp và Xuân Nhiễm không hề có thù oán. Nhưng trên đời này, có những chuyện đâu cần phải có thù oán thì mới bị hãm hại. Xuân Nhiễm muốn sống yên dưới trướng Hiền phi, nhất định nàng ta phải bẩm báo chuyện này để lấy lòng chủ tử.

Sáng sớm hôm sau, Hiền phi đã trở về sau chuyến lễ Phật ở chùa Pháp Môn.

Xuân Nhiễm vào gặp Hiền phi, ở lại nội điện rất lâu.

Lúc ra ngoài, vừa vặn chạm mặt Khương Linh Diệp đang mang trà đến. Có lẽ vì chột dạ, Xuân Nhiễm không trò chuyện cười đùa với Khương Linh Diệp như thường ngày, mà lại cúi đầu tránh ánh mắt nàng.

Chính khoảnh khắc bối rối ấy đã khiến Khương Linh Diệp cảm thấy có điều chẳng lành.

Nàng không tiếp tục mang trà mà vội vã quay về phòng, lục tung toàn bộ số vàng bạc mình có. Đây đều là những thứ nàng đổi được nhờ những món đồ Hiền phi làm vỡ, từ chén ngọc bích đến bình hoa. Nàng nhét tất cả vào tay Ngọc Uyển: “Ngọc Uyển, tỷ mau đem hết chỗ này đến cho nội thị bên cạnh Thánh nhân, nhờ họ giúp muội chuyển lời. Chỉ cần nói rằng, vạn kim… sắp biến mất rồi.”

Ngọc Uyển sững sờ: “Đưa… đưa cho nội thị của Thánh nhân? Nói… vạn kim sắp biến mất rồi? Nghĩa là sao?”

“Chính xác là vậy.” Khương Linh Diệp cuống quýt: “Tỷ đi ngay đi, chậm trễ là không kịp nữa!”

“Nhưng ta vẫn chưa hiểu…”

“Tỷ không cần hiểu. Tỷ chỉ cần biết, mạng của muội nằm trong tay tỷ.”

Khương Linh Diệp đẩy mạnh Ngọc Uyển: “Mau lên!”

Ngọc Uyển dù chưa hiểu rõ ngọn ngành, nhưng vẫn cuống cuồng rời khỏi Tê Phượng các. Chân nàng vừa bước qua cửa, vài nội thị đã tìm tới phòng Khương Linh Diệp, không nói một lời, lập tức dùng giẻ rách nhét vào miệng Khương Linh Diệp, rồi lôi thẳng đến nội thất chuyên xử phạt cung nhân.



Khương Linh Diệp bị treo lên, từng nhát roi quất xuống tàn nhẫn. Khắp thân thể nàng đầy rẫy vết máu, sắc đỏ loang lổ trên làn da trắng ngần. Hiền phi ngồi ngay trước mặt nàng, gằn từng chữ một: “Hôm qua, Thánh nhân đến Tê Phượng các, ngươi đã nói gì với người?”

Khương Linh Diệp cắn răng, một mực không thừa nhận: “Không… không nói gì cả.”

Hiền phi cười khẩy: “Không nói gì sao? Lạ thật đấy. Lần trước Thánh nhân đến Tê Phượng các, ngươi hầu người thay y phục. Lần này đến Tê Phượng các, vẫn là ngươi hầu người chợp mắt. Sao cứ luôn là ngươi?”

“Bởi vì… bởi vì những người khác không dám hầu hạ Thánh nhân… tiểu tỳ mới cả gan bước tới…”

Hiền phi nửa lời cũng không tin. Nàng ta chăm chú quan sát Khương Linh Diệp, thiếu nữ trước mắt dù đầy thương tích, tóc tai rối bời, nhưng nhan sắc khuynh thành vẫn khó để che lấp. Ánh mắt Hiền phi ánh lên sự ghen ghét, lạnh giọng: “Từ lúc ngươi bước vào Tê Phượng các, ta đã biết, ngươi chính là một con hồ ly tinh!”

Bản năng của nữ nhân mách bảo nàng ta không thể tin lời Khương Linh Diệp, càng không tin giữa ả và Hoàng đế không có gì xảy ra. Hiền phi cất giọng sắc lạnh: “Người đâu, nghiệm thân cho ả!”



Những bà vú già như lang như hổ xông lên. Khương Linh Diệp cắn chặt môi, đôi mắt ngập nước. Hiền phi trông thấy, càng đắc ý hơn: “Ngươi nên sớm thú nhận đi, còn hơn chịu nỗi nhục này.”

Nước mắt rơi lã chã, song Khương Linh Diệp vẫn kiên quyết lắc đầu: “Không có.”

Lời nói quả quyết khiến những người có mặt, trừ Hiền phi, đều bắt đầu hoài nghi, liệu có phải Khương Linh Diệp bị oan không?

Nhưng Hiền phi chẳng chút dao động, nàng ta đã mất kiên nhẫn, quát lớn: “Nghiệm!”

Kết quả, Khương Linh Diệp đã thất thân.

Hiền phi giận đến phát run, giật lấy roi da, vung lên quật mạnh xuống người Khương Linh Diệp: “Tiện tỳ! Mở miệng là dối trá? Không phải ngươi nói là không sao? Vậy đây là gì?”

Roi vụt xuống liên tiếp như mưa, để lại từng vết máu rướm trên da thịt. Nếu cứ tiếp tục như vậy, e rằng chưa kịp đợi Hoàng đế đến cứu, Khương Linh Diệp đã bị đánh đến chết rồi.



Khương Linh Diệp nghiến răng chịu đựng cơn đau, nàng ngẩng đầu nhìn Hiền phi: “Tiểu tỳ khai, tiểu tỳ khai đây.”

Hiền phi ngừng tay, hừ lạnh: “Tiện tỳ! Không đánh thì không chịu nói!”

Nàng nghiến răng hỏi: “Nói! Ngươi quyến rũ Thánh nhân từ bao giờ?”

“Là… là lần trước, khi Thánh nhân tới ngụ ở Tê Phượng các…”

Khương Linh Diệp như sợ hãi đến tột độ, vừa khóc vừa lắp bắp thuật lại từng câu từng chữ chuyện mình quyến rũ Hoàng đế. Hiền phi tức đến tái mặt: “Tiện nhân! Đúng là phòng ngày phòng đêm, không ngờ lại phòng không nổi trộm trong nhà! Nói! Ngươi thất thân từ khi nào?”

“Là vào ngày Trùng Dương…”

Khương Linh Diệp không bỏ sót một chi tiết nào, kể lại tường tận chuyện xảy ra vào ngày hôm đó. Hiền phi nghe xong, lửa giận càng bùng lên, vung roi quất nàng mấy nhát: “Tiện tỳ thấp hèn! Ngươi là kỹ nữ sao? Không, ngươi còn đê tiện hơn cả kỹ nữ!”

Một roi nữa giáng thẳng xuống người Khương Linh Diệp, Hiền phi lạnh lùng hỏi tiếp: “Còn hôm qua thì sao? Ngươi và Thánh nhân đã những làm gì?”

“Hôm qua… không làm gì cả… nhưng… Thánh nhân nói tiểu tỳ… có đôi mắt rất đẹp…”

Hiền phi sững lại.

Ghen tuông như một cơn sóng lớn ập đến, nhấn chìm tâm trí nàng ta: “Thánh nhân nói mắt ngươi rất đẹp?”

Đột nhiên, Hiền phi phá lên cười điên dại: “Được, vậy ta sẽ khoét mắt ngươi, dâng lên Thánh nhân!”

Con dao sắc bén được đưa vào tay Hiền phi, nàng ta nắm chặt chuôi dao, từng bước tiến lại gần Khương Linh Diệp. Bàn tay giữ chặt cằm nàng, lưỡi dao sắc lẹm từ từ hướng về phía đôi mắt: “Ta muốn xem thử, bị móc xuống rồi, mắt ngươi có còn đẹp nữa không!”



Lưỡi dao sắp chạm vào mắt Khương Linh Diệp thì bỗng dưng có tiếng quát giận dữ vang lên: “Dừng tay!”

Hiền phi sững người.

Bên ngoài nội thất, Hoàng đế đang đứng đó.

Hắn sải bước đi vào, ánh mắt quét qua thân hình tả tơi, y phục rách nát của Khương Linh Diệp. Đôi môi mím chặt, đáy mắt thấp thoáng một tia giận dữ.

Hẳn là vì suýt nữa mất đi người có thể kiếm về ngàn vàng cho hắn nên mới giận chứ gì.

Chứ đâu phải vì lo lắng sống chết của nàng.

Hiền phi ấp úng: “Thánh… Thánh nhân!”

Hoàng đế chẳng buồn để tâm đến nàng ta, mà chỉ lạnh lùng đẩy nàng ta ra. Hắn cởi long bào màu vàng sáng, khoác lên người Khương Linh Diệp, rồi tháo sợi dây trói chặt đôi cổ tay nàng. Khương Linh Diệp kiệt sức, cơ thể mềm nhũn, ngã nhào vào lồng ng.ực hắn.

Ý thức được mình thất lễ trước ngự tiền, nàng cố gượng dậy, nhưng Hoàng đế trầm giọng hỏi: “Còn đi được không?”

Khương Linh Diệp khẽ gật đầu, giọng yếu ớt: “Được…”

“Trẫm không để nàng tự đi.” Hắn bế ngang nàng lên, sải bước ra khỏi nội thất: “Trẫm đưa nàng đi trị thương.”

Phía sau vang lên tiếng của Hiền phi: “Thánh nhân! Con nô tỳ này…”

Nàng ta còn chưa kịp nói hết câu, Hoàng đế đã quay đầu lại, nói: “Hiền phi, nàng ấy không còn là nô tỳ nữa. Từ giờ khắc này, nàng là chính Tiệp dư tam phẩm.”



Mãi đến khi Hoàng đế rời đi, Hiền phi mới hoàn hồn.

Những lời chối cãi ban đầu, rồi sau đó là từng câu từng chữ thú nhận rõ ràng, hóa ra chỉ là kế trì hoãn của ả nô tỳ này, nhằm kéo dài thời gian đợi Hoàng đế đến cứu.

Nghĩ thông suốt điều này, rồi lại liên tưởng đến dáng vẻ trước nay luôn nhẫn nhịn chịu đòn, dè dặt thận trọng của Khương Linh Diệp, một ớn rét từ sống lưng lan tỏa khắp cả người Hiền phi.

Lòng dạ sâu xa đến bậc này, quả thực đáng sợ tột cùng.

Cả hậu cung, bao gồm cả Hoàng hậu Trịnh thị, e rằng không ai là đối thủ xứng tầm của ả.

Về sau, mọi chuyện xảy ra đều chứng minh suy đoán của nàng ta là đúng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 176: Ngoại truyện Đế Hậu (4): “Sao nàng biết chỉ là diễn kịch chứ không phải thật lòng?”



Hoàng đế bế Khương Linh Diệp trở về điện Thần Long. Sau đó không lâu, liền nghe tin Hiền phi đến gặp Tiết Thái hậu, khóc lóc ầm ĩ, cầu xin bà làm chủ cho mình.

Nghe xong đầu đuôi câu chuyện, Tiết Thái hậu chỉ bật cười: “Chỉ là một món đồ chơi, có đáng để ngươi khóc lóc như vậy không?”

Hiền phi nức nở: “Nhưng Thánh nhân đã phong cho ả làm Tiệp dư…”

“Tiệp dư thì sao? Cũng đâu phải lập làm Hoàng hậu.”

“Nhưng ả thấp hèn như thế, dựa vào đâu mà được làm Tiệp dư?”

Tiết Thái hậu cười nhạt: “Ai nói xuất thân thấp hèn thì không thể làm Tiệp dư? Trong số phi tần của Tiên đế, người có xuất thân thấp kém cũng đâu phải là ít.”

“Nhưng… nhưng ả yêu mị quyến rũ! Ả dám quyến rũ Thánh nhân ngay trước giường của thần thiếp! Còn cùng Thánh nhân trong rừng phù dung… rừng phù dung…” Hiền phi tức giận đến mức lấy tay che mặt, nấc nghẹn: “Ả đê tiện đến mức thiếp cũng chẳng dám nói ra!”

Tiết Thái hậu thản nhiên đáp: “Một cung tỳ muốn đổi đời, chẳng phải chỉ có cách dụ dỗ đàn ông thôi sao? Khi dụ dỗ, còn mong giữ được sự cao quý? Chuyện này chẳng có gì to tát cả.”

“Nhưng di mẫu ơi, tâm cơ của ả quá sâu, e rằng sẽ khiến hậu cung gà chó không yên!”

Tiết Thái hậu không muốn nghe thêm nữa, ngáp nhẹ một cái rồi nói: “Thôi được rồi, chỉ là một cung tỳ, chưa có bản lĩnh lớn đến thế đâu. Ngô rồi, lui xuống đi.”

Dứt lời, bà thẳng thừng đuổi khách, cũng không hề tỏ ý phản đối việc Hoàng đế phong Khương Linh Diệp làm Tiệp dư. Dù sao, Hoàng đế là con trai bà, còn Hiền phi chỉ là cháu gái.

Giữa con trai và cháu gái, bà vẫn biết phải thiên vị ai hơn.

Dù rằng đứa con trai này không phải ruột thịt của bà thì đã sao? Hiện giờ, bà chính là mẫu thân của Hoàng đế, nhờ thân phận này, bà có thể một tay nắm trọn quyền hành, muốn làm gì thì làm.

Vậy nên chuyện nhỏ nhặt như việc Hoàng đế phong một nô tỳ làm Tiệp dư, bà chẳng buồn quản. Bà không muốn ép Hoàng đế quá mức.



Khương Linh Diệp cứ thế thuận lợi được phong làm Tiệp dư, ban cho nơi ở tại Phượng Dương các. Đứng giữa gian điện lộng lẫy, nhìn quanh những bày biện xa hoa, nàng chợt cảm thấy như mình đã bước sang một thế giới khác, mọi thứ dường như chỉ là giấc mộng thoáng qua.

Chỉ mới mấy ngày trước, nàng vẫn chỉ là một nô tỳ mặc người đánh mắng, chủ nhân muốn nàng sống thì nàng phải sống, muốn nàng chết thì nàng không thể có đường lui. Sinh mạng mỏng manh chẳng khác nào cỏ rác, không đáng một xu. Nhưng giờ đây, nàng cũng đã trở thành chủ nhân, trong nội điện, một hàng dài nô tỳ quỳ phục dưới chân, đợi lệnh hầu hạ. Mà nàng, cũng có thể định đoạt số phận của họ, muốn họ sống thì họ sống, muốn họ chết thì họ chết.

Đây chính là mùi vị của quyền lực sao?

Khương Linh Diệp nhìn đám nô tỳ cúi đầu dè dặt, ánh mắt nàng thoáng vẻ thất thần. Nhưng rất nhanh, nàng bừng tỉnh, bước lên trước, từng người một dìu họ đứng dậy. Đám nô tỳ chưa từng gặp qua chủ nhân nào như vậy, ai nấy đều kinh ngạc đến ngây người.

Nàng mỉm cười ôn hòa: “Các ngươi, ta cũng xuất thân là nô tỳ, ta hiểu nỗi khổ của những người cùng cảnh ngộ. Ta không dám hứa hẹn điều gì lớn lao, nhưng có một điều ta có thể đảm bảo, ta sẽ đối đãi với các ngươi như với một con người.”

Bọn họ đưa mắt nhìn nhau, chưa từng có ai nói với họ như vậy, cũng chưa từng có ai xem họ là con người để đối đãi. Trong lòng bàng hoàng, họ không biết phải phản ứng thế nào.

Nhưng rồi, Khương Linh Diệp dùng hành động để chứng minh lời nói của mình.

Nàng không giống những phi tần khác, không hề hà khắc với nô tỳ, trái lại còn vô cùng khoan hậu. Những phần thưởng Hoàng đế ban tặng, nàng không hề giữ riêng cho mình, mà rộng rãi chia sẻ với hạ nhân. Khi gia quyến của họ lâm bệnh, nàng sẽ thêm bạc để họ có điều kiện xoay sở. Lòng người có ân, lâu dần, nô tỳ trong Phượng Dương các đều cảm kích đến rơi lệ, một lòng trung thành với nàng, không chút nghi ngờ.



Sau khi Khương Linh Diệp được phong làm Tiệp dư, Hoàng đế sủng ái vô cùng, đến cả lúc phê duyệt tấu chương trong điện Thần Long cũng muốn nàng bầu bạn bên cạnh.

Khương Linh Diệp đã thuần thục việc mài mực. Khi nàng cúi đầu mài mực, thỉnh thoảng lại ngước lên, liếc nhìn tấu chương trên bàn ngự án. Hoàng đế thấy vậy, bật cười hỏi: “Nàng biết chữ sao?”

Khương Linh Diệp khẽ lắc đầu, trong đáy mắt hiếm hoi ánh lên một tia mất mát: “Không biết ạ.”

Nhà quá nghèo, có cơm ăn đã là may mắn, nào có dư bạc để học chữ.

Hoàng đế hỏi: “Vậy tại sao nàng cứ nhìn chằm chằm vào tấu chương của trẫm?”

Nàng mím môi, chậm rãi đáp: “Thần thiếp không nhìn tấu chương, mà đang nhìn cây bút trong tay Thánh nhân.”

“Ồ?” Hoàng đế cúi xuống, nhìn cây bút lông sói trong tay mình: “Bút thì có gì đáng xem?”

Khương Linh Diệp cẩn trọng đáp: “Thần thiếp cảm thấy, cây bút này, rất nặng.”

“Nặng ư?” Hoàng đế nhướng mày, cầm cây bút lên thử cảm nhận: “Nặng chỗ nào?”

Nàng mím môi, lấy hết can đảm, cung kính nói: “Bẩm Thánh nhân, ngoại tổ phụ của thần thiếp từng buôn hương liệu ở Trường An. Ngoại tổ cần cù, nhân hậu, gầy dựng cơ nghiệp bao năm, cuối cùng cũng tích góp được chút gia sản. Khi ấy, các nước Tây Vực đều ưa chuộng xạ hương Trung Nguyên, giá cả vì thế mà ngày một leo thang. Nếu mang xạ hương bán sang Tây Vực, tất sẽ thu về lợi nhuận lớn.”

“Vì vậy, ngoại tổ phụ dốc toàn bộ gia tài, thu mua một lượng lớn xạ hương, dự định chở sang Tây Vực buôn bán. Nào ngờ, triều đình đột nhiên hạ một đạo sắc lệnh, quy định xạ hương cũng như tơ lụa, vàng sắt, không được phép tự ý đưa ra Tây Vực. Lúc ấy, xe bò đã mua, người làm cũng đã thuê, sắc lệnh vừa ban, Tây Vực lập tức trở thành con đường không thể đặt chân tới.”

Hoàng đế nghe vậy, trầm ngâm một hồi rồi hỏi: “Sau đó thì sao?”

Khương Linh Diệp cụp mắt, giọng nhẹ bẫng: “Sau đó… một năm sau, sắc lệnh này bị thu hồi, xạ hương được mang ra buôn bán như trước. Nhưng ngoại tổ phụ thần thiếp vì uất ức đã thành bệnh, rồi qua đời. Thứ ông để lại cho cha mẹ thần thiếp không phải là gia tài, mà là vô số chủ nợ. Từ đó về sau, trong nhà thần thiếp không còn lấy một hạt gạo thừa.”

Chỉ một đạo sắc lệnh thay đổi trong tích tắc cũng đủ khiến một gia đình tan cửa nát nhà. Giọng nói của nàng nghẹn lại, hốc mắt đỏ hoe, song vẫn cúi đầu tiếp tục mài mực: “Cho nên, thần thiếp cảm thấy, cây bút của Thánh nhân, rất nặng. Nặng đến mức có thể định đoạt sinh tử của vạn dân trăm họ.”

Hoàng đế cúi đầu nhìn cây bút trong tay mình, hồi lâu sau mới khẽ nói: “Đạo sắc lệnh đó, là do tổ phụ trẫm ban ra.”

Tổ phụ của Hoàng đế là một hôn quân khét tiếng, sủng ái phi tần vô độ, sủng phi nói gì thì chính là như thế. Chỉ vì một lời làm nũng của sủng phi, than phiền giá xạ hương quá cao khiến chị em nàng ta không đủ tiền mua dùng, vậy mà vị Hoàng đế kia đã vung bút, hạ xuống đạo sắc lệnh khiến cả gia tộc Khương Linh Diệp rơi vào cảnh bần cùng.

Hoàng đế lẳng lặng cầm bút, từng nét từng nét phê lên tấu chương. Một lúc sau, hắn bỗng lên tiếng: “Trẫm… sẽ không đi theo vết xe đổ của tổ phụ.”

Khương Linh Diệp ngước mắt lên nhìn, chỉ nghe Hoàng đế nói: “Nàng cứ yên tâm, từ nay về sau, mỗi lần hạ bút, trẫm đều sẽ suy xét cẩn trọng.”

Viền mắt nàng nóng lên, liền buông nghiên mực xuống, cúi đầu lạy tạ, chân thành khấu bái: “Thiếp xin thay lê dân bách tính thiên hạ, dập đầu tạ ơn Thánh nhân.”

Hoàng đế dừng bút, nhìn nàng, qua một lúc lâu mới nhạt giọng dời ánh mắt đi. Hắn nhúng ngòi bút lông sói vào mực, rồi hờ hững nói: “Mực sắp cạn rồi, còn không mau mài thêm?”

Khương Linh Diệp vội đáp: “Thiếp sẽ làm ngay.”



Nàng chăm chú mài mực, Hoàng đế chuyên tâm phê duyệt tấu chương, không hay không biết, lúc này đã gần đến giờ Ngọ. Bên ngoài điện Thần Long trời cao mây tạnh, ánh nắng vàng trải khắp nhân gian, còn bên trong điện cũng ngập tràn một bầu không khí ấm áp, dịu dàng.

Hoàng đế đang duyệt một bản tấu, bỗng liếc mắt nhìn nàng, khóe môi nhếch lên, bật cười mấy tiếng. Khương Linh Diệp cắn môi, lòng hiếu kỳ dâng lên, ngẩng đầu trộm ngắm hắn. Hoàng đế bỗng nhướn mày: “Có phải đang nghĩ, vì sao trẫm lại cười không?”

Khương Linh Diệp gật đầu.

Hoàng đế cầm bản tấu, đọc cho nàng nghe, thì ra đây là một tấu chương khuyên can hắn không nên sủng ái nàng quá mức.

Tấu chương do Thái thú Cừ Châu dâng lên. Lão Thái thú tuổi tác đã cao, nghe nói gần đây Hoàng đế vô cùng yêu mến một nữ tử xuất thân thương hộ, trong lòng lo lắng không thôi. Trong bản tấu, lão đem nàng ví với Đát Kỷ và Bao Tự, khuyên nhủ Hoàng đế nên giữ khoảng cách, bớt gần gũi Khương Linh Diệp và tốt hơn hết là nên lui tới với các phi tần có xuất thân tôn quý như Hiền phi. Ở cuối tấu chương, lão Thái thú còn viết, trong dân gian lưu truyền lời đồn, nói rằng Khương Tiệp dư chính là hồ ly hóa thành, vì thế khẩn cầu Hoàng đế mời đạo sĩ đến xem xét, liệu nàng có phải yêu nghiệt hay không.

Nghe đến đoạn này, Khương Linh Diệp không nhịn được mà bật cười. Hoàng đế nói: “Lão bêu riếu nàng đến mức này mà nàng còn cười được sao?”

Khương Linh Diệp nháy mắt, khẽ cười nói: “Vậy chẳng hay Thánh nhân có định mời đạo sĩ tới xem thử liệu thiếp có phải yêu quái không?”

Trong mắt nàng thấp thoáng nét tinh nghịch hiếm thấy. Hoàng đế nhìn nàng, đáy lòng khẽ rung động, liền kéo nàng vào lòng, cằm tựa lên cần cổ trắng ngần của nàng: “Chết dưới hoa mẫu đơn, làm quỷ cũng phong lưu. Dù nàng có là yêu, trẫm cũng nhận.”

Hắn tiếp lời: “Người dâng bản tấu này, nên đánh hay nên phạt, nàng định đoạt đi.”

Khương Linh Diệp mỉm cười, cầm tấu chương lên, tùy ý ném vào lò hương trên bàn gỗ tử đàn. Chỉ trong chớp mắt, từng tấc giấy hóa thành tro bụi trong ánh lửa cam vàng. Nàng thong thả nói: “Thiếp đã xử lý xong rồi.”

Hoàng đế nhướn mày: “Nàng không giận sao?”

“Trên đời này có hàng vạn điều không vui, nếu chuyện gì thiếp cũng giận, e rằng sẽ giận không xuể.” Khương Linh Diệp đáp: “Huống hồ, chính thiếp là người đã bước tới trước mặt Thánh nhân, vậy những ghen ghét và phỉ báng theo sau, đương nhiên thiếp cũng phải gánh chịu. Bằng không, chẳng phải mọi điều tốt đẹp trên đời này đều bị thiếp chiếm hết rồi sao? Nào có đạo lý như vậy?”

Lời vừa dứt, Hoàng đế không kìm được mà bật cười. Hắn ôm nàng chặt hơn, nhẹ giọng nói: “Giờ trẫm thực sự mong mỏi, có thể cùng nàng sinh hạ một đứa trẻ.”

“Sao Thánh nhân lại nói vậy?”

“Trẫm muốn xem xem, đứa trẻ do nàng dạy dỗ, sẽ trở thành người như thế nào.”

Khương Linh Diệp cũng bật cười. Hoàng đế bế nàng đặt lên đùi, cằm hắn lấm tấm râu xanh lướt qua hõm cổ nàng, khiến nàng thấy nhột, cười khanh khách né tránh. Đùa nghịch một lúc, ánh mắt nàng vô tình lướt qua những tấu chương đặt trên bàn, động tác né tránh cũng khựng lại đôi chút.

Hoàng đế hít hà mùi hương thanh khiết trên gáy nàng, chủ động hỏi: “Có muốn học chữ không?”

Ánh mắt Khương Linh Diệp lóe lên sự vui mừng: “Thiếp… có thể sao?”

“Đương nhiên là có thể.” Hoàng đế nói: “Trẫm sẽ tự mình dạy nàng.”

Nàng vội vàng cúi đầu, cảm kích đáp: “Đa tạ Thánh nhân.”

Hoàng đế càng ôm nàng chặt hơn, khóe môi mang theo ý cười: “Nhưng mà, trẫm đâu dễ làm thầy của ai.”

Khương Linh Diệp hờn dỗi: “Vậy thiếp phải làm sao thì Thánh nhân mới chịu làm thầy của thiếp đây?”

“Trẫm muốn nàng trả công.” Hắn nhìn nàng, giọng điệu ung dung: “Mà còn phải trả bằng thứ có một không hai ở trên đời này?”

“Mọi thứ của thiếp, chẳng phải đều do Thánh nhân ban cho hay sao? Thiếp cũng không có gì gọi là độc nhất vô nhị cả.”

Hoàng đế bật cười sảng khoái, phất tay hất tấu chương trên bàn gỗ tử đàn sang một bên. Trong tiếng kinh hô khe khẽ của nàng, hắn đã đè nàng xuống mặt bàn, giọng trầm khàn: “Nếu không có, vậy thì lấy chính nàng để bù đi.”



Trong điện Thần Long, mưa gió triền miên, dây dưa quấn quýt. Hoàng đế không còn thô bạo như lần ở rừng phù dung, từng động tác đều trở nên dịu dàng hơn rất nhiều. Khương Linh Diệp run run, lần đầu tiên nàng cảm nhận được thứ cảm giác khác ngoài nỗi đau đớn kia, một niềm khoái lạc tột cùng. Nàng ngước nhìn vị đế vương đang đè lên người mình, trong cơn mê man, lòng nàng dâng lên thứ cảm xúc lạ lẫm. Những ngón tay đặt trên bàn gỗ tử đàn hết siết lại rồi lại buông lơi, như muốn níu giữ điều gì đó, nhưng lại không dám. Ánh mắt Hoàng đế sâu thẳm tựa như vực nước, sâu đến mức nàng không tài nào nhìn thấu tâm tư hắn. Bất chợt, bàn tay hắn phủ lên tay nàng, mười ngón đan xen, gắn chặt vào nhau, tựa như đôi tình nhân thân mật nhất.

Khương Linh Diệp sững sờ nhìn Hoàng đế, cắn nhẹ bờ môi run rẩy, những ngón tay khẽ động, thử thăm dò, cuối cùng nàng cũng rụt rè nắm lấy bàn tay hắn.



Sau cơn mây mưa, Khương Linh Diệp sắc mặt ửng hồng, tựa vào lòng Hoàng đế, mái tóc rối bời, vài lọn dính vào gò má. Nàng nhỏ giọng trách móc: “Tóc thiếp rối tung cả rồi, lát nữa ra ngoài, nhất định sẽ bị người ta chê cười mất.”

“Không phải rất tốt sao?” Hoàng đế đặt một nụ hôn nhẹ lên vành tai nàng: “Một vị đế vương hoang dâm giữa ban ngày, một Tiệp dư lẳng lơ mê hoặc quân chủ, đúng là trời sinh một cặp.”

Khương Linh Diệp chợt hiểu ra, liền bày ra vẻ phàn nàn: “Thì ra Thánh nhân muốn mượn thiếp để diễn một vở kịch.”

Một vở kịch cho Tiết Thái hậu xem, để bà ta nghĩ rằng Hoàng đế dễ dàng sa vào nữ sắc, không đủ tư cách chấp chưởng quyền hành.

Hoàng đế cười khẽ: “Sao nàng biết đây là diễn kịch, mà không phải thật lòng?”

Tim nàng bất giác run lên, nhưng rất nhanh, nàng nhoẻn cười: “Thiếp tự biết thân phận mình.”

Nàng chưa bao giờ cho rằng một đế vương thâm trầm cơ trí, ôm chí lớn như hắn lại có thể động lòng vì nàng.

Nghe vậy, Hoàng đế mỉm cười, không hề phản bác, chỉ nói: “Cứ thế mà ra ngoài đi.”

Khương Linh Diệp sớm đoán được kết cục này, nàng liền đáp: “Thần thiếp tuân chỉ.”

Nàng định đứng dậy, nhưng lại bị hắn kéo mạnh, ngã vào lòng hắn lần nữa. Nàng ngẩng lên, ánh mắt khó hiểu: “Thánh nhân?”

Hắn không đáp, chỉ nhẹ nhàng nâng cằm nàng lên, ánh mắt từ trên cao nhìn xuống, trong đó chứa đựng thứ cảm xúc mơ hồ khó đoán.

Bỗng nhiên, hắn lại nói: “Khương Linh Diệp.”

“Thiếp ở đây.”

Nhưng hắn chẳng nói thêm gì nữa, chỉ bất chợt cúi xuống, đặt lên môi nàng một nụ hôn.

Hắn vậy mà… hôn nàng ư?

Đây là lần đầu tiên hắn hôn môi nàng.

Khương Linh Diệp thoáng sửng sốt.

Hoàng đế cười khẽ, vỗ nhẹ mu bàn tay nàng: “Xuống dưới đi.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 177: Ngoại truyện Đế Hậu (5): “Trẫm và nàng, thử một lần xem sao”



Hoàng đế đích thân dạy nàng học chữ, Khương Linh Diệp tiếp thu rất nhanh. Khi dạy, hắn luôn nắm lấy tay nàng, kiên nhẫn hướng dẫn từng nét bút. Hoàng đế tinh thông nhiều thể chữ, trong đó giỏi nhất là lối Phi Bạch. Hắn hỏi: “Nàng muốn học kiểu chữ nào?”

Khương Linh Diệp nghĩ ngợi một lát rồi đáp: “Tiểu Khải.”

Hoàng đế cười: “Trẫm còn tưởng nàng sẽ muốn trẫm dạy Phi Bạch.”

Khương Linh Diệp nói: “Phi Bạch đương nhiên rất đẹp, nhưng khó học hơn Tiểu Khải rất nhiều. Hiện thiếp còn chưa viết nổi một chữ, tất nhiên phải học từ thứ đơn giản nhất.”

Hoàng đế nắm lấy tay nàng, khẽ cười: “Nàng thông minh lắm.”

Hắn kiên trì dạy, nàng chuyên tâm học, ngày đêm miệt mài không biết mệt mỏi. Chẳng bao lâu sau, nàng đã có thể nhận biết mặt chữ, thậm chí còn viết được Tiểu Khải khá ngay ngắn.

Từ khi biết chữ, Khương Linh Diệp đặc biệt thích đọc sách. Hoàng đế hào phóng đem hết tàng thư của mình cho nàng mượn. Thuở đầu, nhiều cuốn sách chữ nghĩa quá mức uyên thâm, Khương Linh Diệp đọc không hiểu, những lúc như thế Hoàng đế liền ôm nàng vào lòng, giảng giải từng chữ một. Khương Linh Diệp tựa trong lòng Hoàng đế, thỉnh thoảng lại ngước mắt hỏi đôi câu, hắn cũng chẳng phiền, nhẫn nại trả lời từng chút từng chút một.

Hôm ấy trong Phượng Dương các, vẫn là cảnh tượng quen thuộc. Hoàng đế đang giảng cho nàng nghe câu: “Người khác làm một lần thì mình làm trăm lần, người khác làm mười lần thì mình làm nghìn lần. Nếu có thể kiên trì như vậy, kẻ ngu cũng sáng, kẻ yếu cũng mạnh.” Đột nhiên, hắn bật cười.

Khương Linh Diệp khó hiểu: “Thánh nhân đang cười gì đấy?”

Hoàng đế ung dung nói: “Bên ngoài đều mắng trẫm là hôn quân, mắng nàng là yêu phi. Nhưng bọn họ đâu có ngờ rằng, trong Phượng Dương các này, hôn quân lại đang giảng sách cho yêu phi nghe.”

Khương Linh Diệp hơi nóng mặt, khẽ cọ cọ vào lồng ng.ực Hoàng đế, lẩm bẩm: “Thánh nhân lại trêu thiếp.”

Hoàng đế vuốt nhẹ mái tóc nàng, cười khẽ: “Giai nhân trong lòng, nếu trẫm chỉ giảng sách một cách đứng đắn, chẳng phải quá nhàm chán rồi sao?”

Khương Linh Diệp nói: “Có phải Thánh nhân thấy trêu ghẹo thiếp là việc hết sức thú vị?”

Khóe môi Hoàng đế thấp thoáng nét cười, nhưng đôi mắt đen thẳm lại nghiêm túc đáp: “Không phải việc trêu ghẹo Tiệp dư thú vị, mà là bản thân Tiệp dư vốn đã thú vị.”

Khương Linh Diệp vốn đang nép trong lòng hắn, ngẩng đầu nhìn hắn cười rạng rỡ, nhưng khi chạm phải đôi mắt sâu như hồ nước kia, nàng bỗng chột dạ, vội vàng dời ánh mắt đi. Nàng khẽ nói: “Thiếp thì có gì thú vị chứ?”

“Điểm nào cũng thú vị cả.” Hoàng đế đáp: “Một đóa mẫu đơn, cứ thế lớn lên, tất nhiên xinh đẹp, nhưng vẫn không thú vị bằng việc nhìn thấy nó dốc sức bung nở.”

Khương Linh Diệp nghe vậy, không khỏi bật cười: “Thì ra trong lòng Thánh nhân, thiếp là một đóa mẫu đơn sao?”

“Nếu không thì là gì?”

Khương Linh Diệp mím môi cười khẽ. Trải qua quãng thời gian này, nàng không còn dè dặt, cẩn trọng cân nhắc từng câu từng chữ khi đối diện với hắn như lúc ban đầu nữa. Nàng nhìn ra được, người đàn ông này không chỉ thích dã tâm của nàng, mà còn thích sự táo bạo, đôi khi có phần lấn lướt của nàng. Nàng nói: “Thiếp vẫn luôn cho rằng, trong lòng Thánh nhân, thiếp chỉ là một ngọn cỏ dại.”

Hoàng đế hơi sững lại, rồi cũng bật cười: “Nếu nàng là cỏ dại, vậy trẫm là gì?”

Khương Linh Diệp ngẫm nghĩ một chút, rồi đáp: “Thánh nhân là Hoàng đế Đại Chu, bách tính đều nương tựa vào người. Vậy nên, Thánh nhân chính là trụ cột.”

“Trụ cột?” Hoàng đế nghiền ngẫm hai chữ ấy, thong thả nói: “Cũng phải. Một cây trụ sừng sững giữa trời, đơn độc vô cùng. Nếu bên cạnh có cỏ dại bầu bạn, thì ít ra cũng bớt sự cô quạnh.”

Hắn bỗng dưng thốt ra câu ấy, khiến Khương Linh Diệp không hiểu rõ hàm ý. Nhịp tim nàng chợt rối loạn, chẳng biết là vì không hiểu ý Hoàng đế, hay vì chính câu nói ấy làm lòng nàng rung động.

Nàng cúi đầu, hồi lâu sau mới nói: “Trụ cột đứng giữa vạn dân, sao có thể cảm thấy cô đơn chứ?”

Hoàng đế lắc đầu cười: “Giữa vạn người, vẫn là con người. Mà đã là người, thì ắt có thất tình lục dục. Kẻ dứt tình tuyệt ái, chỉ có thể là hòa thượng mà thôi.”

Hắn vu.ốt ve vòng eo mảnh mai của Khương Linh Diệp, dừng lại chốc lát, rồi từ từ nói: “Trẫm không thể làm hòa thượng, vậy nên có lúc, trẫm cũng cảm thấy cô đơn, cũng mong có một người cùng chung chí hướng, có thể đồng hành với trẫm trên con đường đế vương dài vạn dặm này.”

Hắn chưa từng nói với Khương Linh Diệp những lời này, hoặc có lẽ, vị đế vương thâm sâu khó đoán ấy chưa bao giờ để lộ mặt yếu mềm trước nàng. Vì thế, nàng luôn cho rằng hắn vô tình vô ái, mạnh mẽ đến mức không gì không làm được, cũng sẽ không vì bất kỳ nữ nhân nào mà dừng bước.

Lúc Hoàng đế nói đến việc muốn tìm một người đồng hành, ánh mắt hắn lẳng lặng khóa chặt lấy nàng, sâu thẳm tựa đêm đen. Khương Linh Diệp mấp máy môi, nhưng rồi lại nhanh chóng dời đi ánh nhìn, trái tim dường như cũng lỡ nhịp. Khi nãy, nàng còn có thể đối đáp trơn tru, nũng nịu đùa bỡn với hắn, vậy mà lúc này, lại chẳng thể nói được một lời.

Hoàng đế thấy gò má nàng ửng hồng, diễm lệ tựa đào xuân thì không khỏi động lòng, liền cúi xuống hôn nhẹ lên môi nàng. Đang lúc Khương Linh Diệp tưởng hắn lại muốn đòi hỏi điều gì, thì hắn chỉ khẽ cười, cầm lấy quyển sách bên cạnh: “Vừa rồi trẫm có giảng “Người khác làm một lần, mình làm trăm lần; người khác làm mười lần, mình làm nghìn lần. Nếu thực sự có thể kiên trì theo đạo lý này, thì dù ngu dốt cũng có thể trở nên sáng suốt, dù yếu mềm cũng có thể trở nên kiên cường.” Giờ trẫm nói cho nàng biết, câu này có ý nghĩa gì.”

“Ý là, người khác bỏ ra một phần nỗ lực để làm việc, thì mình phải bỏ ra gấp trăm lần; người khác dùng mười phần sức lực, mình phải dùng đến nghìn phần. Nếu có thể kiên trì như thế, thì dù kẻ ngu muội cũng có thể trở nên sáng suốt, dù kẻ yếu đuối cũng có thể trở nên mạnh mẽ.”

Trong Phượng Dương các, Hoàng đế vẫn đóng vai người thầy như thường ngày, chỉ là tâm tư của người học trò đã sớm trở nên rối bời.



Tuy rằng nhất thời bị Hoàng đế làm cho dao động, nhưng như Khương Linh Diệp đã nói, nàng tự biết rõ thân phận của mình. Huống hồ, từ khi biết chữ, nàng đã đọc rất nhiều sách sử. Trong đó, nàng càng thấm thía một điều: thân là một phi tần chốn hậu cung, nếu như toàn tâm toàn ý đặt vào một người đàn ông, kết cục cuối cùng sẽ thê thảm đến nhường nào. Những ví dụ như thế, từ xưa đến nay, nhiều vô kể.

Nàng không dám tin Hoàng đế.

Hoàng đế dường như đã quên mất câu nói hôm ấy với nàng, một lần nữa trở lại dáng vẻ của bậc quân vương cường đại, lãnh đạm, tâm cơ sâu xa, không để lộ chút sơ hở nào. Khương Linh Diệp thậm chí hoài nghi, liệu những lời nói hôm đó có phải chỉ là ảo giác của nàng hay không.

Nàng học theo lời Hoàng đế dạy, dốc trăm lần, ngàn lần công sức để cố gắng. Dần dần, nàng nhận biết được nhiều chữ hơn, ngay cả những bản tấu chương đầy một bụng chữ, khó hiểu của các đại thần, nàng cũng có thể đọc hiểu. Hoàng đế chưa từng né tránh để nàng xem tấu chương, thậm chí còn cùng nàng thảo luận một hai điều. Khương Linh Diệp cũng mạnh dạn đưa ra kiến giải của mình, mà có đôi lời, ngay cả Hoàng đế cũng không khỏi tán thưởng.

Đó chính là lúc nàng bộc lộ được tài năng thiên phú về chính sự của mình, cũng như thực hiện được lời hứa trong rừng phù dung ngày ấy là sẽ trở thành một người có ích với Hoàng đế.



Bởi có sự tồn tại của Tiết Thái hậu nên chuyện đấu đá trong hậu cung của Hoàng đế có thể nói là cực kỳ khốc liệt. Họ Trịnh ở Huỳnh Dương, họ Tiết ở Hà Đông, họ Vương ở Lang Nha, lần lượt từng thế gia đại tộc đưa nữ nhi tiến cung, sau lưng mỗi người đều có gia tộc hùng mạnh chống đỡ. Mỗi nhà đều mong mỏi huyết mạch của mình có thể ngồi lên long vị, để thay thế họ Thôi ở Bác Lăng, trở thành danh môn đệ nhất thiên hạ.

Trong hoàn cảnh như thế, một nữ tử xuất thân thương hộ thấp kém lại độc chiếm thịnh sủng của Hoàng đế, điều này khiến toàn bộ thế gia khó hiểu vô cùng.

Nàng dựa vào cái gì?

Trong chớp mắt, muôn vàn công kích từ khắp nơi ùn ùn kéo đến, cả trong tối lẫn ngoài sáng. Khương Linh Diệp không hề cầu xin Hoàng đế ra tay giúp đỡ, bởi nếu ngay cả trong hậu cung nàng cũng không thể tự sinh tồn, thì làm sao có thể khiến Hoàng đế tin rằng nàng là một người hữu dụng?

Đám cung tỳ trong Phượng Dương các một lòng trung thành với nàng, nàng cũng bỏ công thu phục người hầu tại tẩm cung của các phi tần khác, để họ truyền tin cho nàng. Nhờ vậy, nàng biết rõ trong cung, Hoàng hậu Trịnh thị, Hiền phi và Đức phi tranh chấp chẳng khác gì gà chọi. Hoàng hậu Trịnh thị có ngôi chính cung, Hiền phi dựa vào Thái hậu, còn Đức phi lại có con nối dõi. Trịnh Hoàng hậu muốn giữ vững địa vị, Hiền phi và Đức phi lại nhòm ngó địa vị kia, ba người không ai chịu nhường ai.

Vậy nên, ngoài việc tránh xa Hiền phi, nàng thường xuyên lui tới tẩm cung của Hoàng hậu Trịnh thị và Đức phi, tỏ rõ sự kính cẩn, thần phục của mình.

Thậm chí Khương Linh Diệp còn tự tay làm bánh canh, mang đến dâng tặng Trịnh Hoàng hậu và Đức phi để bày tỏ thiện ý. Nàng được phong làm Tiệp dư đã một năm, nhưng đến nay vẫn chưa được thăng vị. Phụ thân cũng chưa được ban tước hầu. Ngày qua ngày, Trịnh Hoàng hậu và Đức phi dần cảm thấy nàng không có dã tâm, không đáng lo ngại, liền chuyển toàn bộ sự chú ý sang đối phó với những phi tần khác.

Cứ như vậy, Khương Linh Diệp lặng lẽ sinh tồn trong hậu cung. Sủng ái của Hoàng đế dành cho nàng chưa từng phai nhạt, nhưng hầu hết mọi người trong cung đều cho rằng vị Tiệp dư khiêm nhường, thận trọng này e rằng chỉ dừng lại ở bậc Tiệp dư, nào có cơ hội tiến xa hơn.



Đôi khi, Hoàng đế lén đưa Khương Linh Diệp ra khỏi cung. Một thiếu niên tuấn mỹ và một thiếu nữ kiều diễm sánh bước bên nhau, trông vô cùng xứng đôi. Thế nhưng, những lần Hoàng đế xuất cung không phải là để vui chơi, mà là để Khương Linh Diệp dẫn người đến phường Diên Tộ, nơi tập trung những bách tính bần hàn, lắng nghe họ bày tỏ bất mãn với Hoàng đế, với Đại Chu.

Mỗi lần nghe xong, Hoàng đế đều trầm mặc hồi lâu. Trong điện Tử Thần, hắn chậm rãi nói với Khương Linh Diệp: “Nàng xem, phố Chu Tước và hai chợ Đông Tây, phồn hoa bậc nào. Nhưng trong mắt trẫm, chỉ như lửa mạnh tưới dầu, sớm muộn gì cũng đến lúc trăng tròn lại khuyết.”

Hôm nay, Khương Linh Diệp vừa cùng Hoàng đế giúp đỡ một kẻ hành khất. Nhà lão nghèo đến mức phải bán thân làm nô. Về sau già yếu, bị chủ nhân đuổi ra ngoài. Lão run rẩy nói với Hoàng đế: “Con trai ta cũng là nô bộc. Đến khi già rồi, nó cũng sẽ bị chủ nhân đuổi đi, lúc ấy, e rằng cũng chỉ có thể như ta, sống nhờ vào việc ăn xin mà thôi. Ai… như chúng ta, số mệnh từ khi sinh ra đã định sẵn, chẳng có cơ hội thay đổi.”

Lời này khiến Khương Linh Diệp không khỏi chấn động. Nàng đem toàn bộ số bạc trên người trao cho lão ăn mày, dù trong lòng hiểu rõ, những đồng bạc ấy chẳng thể nào thay đổi vận mệnh của lão, cũng chẳng thể thay đổi vận mệnh của con trai lão.

Nàng mím môi, cả gan nói với Hoàng đế: “Thánh nhân, vì sao ở Đại Chu, con cháu quan lại mãi là quan lại, còn con cháu dân nghèo mãi là dân nghèo? Cõi đời này, nào có đạo lý như thế?”

Hoàng đế nhìn nàng, bình thản bảo: “Nói tiếp đi.”

“Thiếp may mắn được Thánh nhân thương xót, mới từ một nữ nhi thương hộ mà trở thành Tiệp dư. Nhưng thiên hạ này, mấy ai có được may mắn như thiếp?” Khương Linh Diệp nghĩ đến những cuốn sách sử từng đọc: “Thiếp cho rằng, trên đời này, hạng bần cùng vẫn chiếm phần đông. Khi họ ngày càng không thấy hy vọng trên con đường phía trước, họ sẽ trở thành Trần Thắng, Ngô Quảng, Trương Giác. [1] Thiếp cả gan kiến nghị, chế độ tuyển quan của Đại Chu nên có sự thay đổi.”

[1] Trần Thắng, Ngô Quảng, Trương Giác: 3 nhân vật dẫn đầu các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Trung Quốc.

Hoàng đế nghe xong, lặng thinh không nói. Khương Linh Diệp cứ ngỡ mình đã lỡ lời, đang lo lắng bất an thì Hoàng đế chợt cất giọng: “Trẫm cũng có ý này.”

Khương Linh Diệp vui mừng ngẩng đầu nhìn hắn. Hoàng đế nói tiếp: “Còn gì nữa, nói hết đi.”



Hôm đó, Hoàng đế và Khương Linh Diệp trò chuyện hồi lâu trong điện Tử Thần. Cả hai đều có những suy nghĩ tương đồng về cải cách chế độ tuyển quan của Đại Chu. Cuối cùng, Hoàng đế đưa nàng đến trước ngự tọa, bàn tay nhẹ vuốt tay vịn được chạm khắc tinh xảo, để rồi than thở: “Nếu không thay đổi, ngự tọa này, e rằng sẽ rơi vào tay người Hồ.”

Khương Linh Diệp nói: “Thánh nhân muốn đổi, ắt sẽ làm được.”

Lời này không phải nịnh hót mà xuất phát từ tận đáy lòng. Trước khi vào cung Đại Minh, nàng chưa từng nghĩ vị thiếu niên đế vương này lại có ngày dẫn nàng đi khắp nơi, lắng nghe tiếng lòng của dân chúng nghèo khó ở Trường An. Hắn có tham vọng, có khí phách, thông minh quả quyết, lại biết giấu tài chờ thời. Có chuyện gì mà hắn không làm được chứ?

Hoàng đế khẽ cười, ngồi trên ngự tọa bằng gỗ tiểu diệp tử đàn, [2] hỏi nàng: “Ngự tọa này, trông có đẹp không?”

[2] tiểu diệp tử đàn: có nguồn gốc từ Ấn Độ. Theo tiếng Phạn, “tử” nghĩa là may mắn, tốt lành, “đàn” là bố thí. Cây này còn có biệt danh vương mộc tử đàn (vua của các loại gỗ). Tiểu diệp tử đàn Ấn Độ có thời gian sinh trưởng hàng trăm năm. Loại này là có chất gỗ cứng và nặng, tom sao vàng nhỏ tựa như vàng ròng, kim sa trắng nhỏ có thể nhìn thấy khi soi đèn flash. Gỗ có mùi thơm ngọt nhẹ, sẽ rõ hơn khi đeo vòng tay lâu ngày hoặc đốt lên. Gỗ này có 2 màu: đỏ cam và đỏ tím sen lẫn sao vàng bắt mắt. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 178: Ngoại truyện Đế Hậu (6): Sinh nữ nhi



Hoàng đế muốn Khương Linh Diệp thử tin tưởng hắn, nhưng nàng hồi lâu vẫn không thể lấy lại tinh thần. Liên tiếp mấy đêm liền, nàng trằn trọc không sao chợp mắt nổi.

Nàng không thể nói rõ trong lòng mình là cảm giác gì, hoảng sợ, mong chờ hay bất an? Đến canh ba, nàng thường nghiêng người, mở to mắt nhìn khuôn mặt khi ngủ của Hoàng đế, cứ nhìn như thế đến tận canh năm.

Nàng thừa nhận, bản thân quả thực đã động lòng với hắn. Một người đàn ông trẻ tuổi, tuấn lãng, thông minh, văn võ song toàn, lại còn nắm trong tay quyền lực chí cao vô thượng, rất khó để nữ nhân không động lòng. Huống hồ, tính khí của Hoàng đế cũng không tệ, hắn chưa từng tùy ý giết hại hạ nhân, trong chuyện phòng the, trừ lần thô bạo trong rừng phù dung, thì từ đó về sau, hắn vẫn luôn nhẹ nhàng. Một trượng phu như vậy, thật dễ khiến nữ nhân sa vào lưới tình.

Thế nhưng, Khương Linh Diệp hiểu rõ, nàng vào cung là vì quyền thế, địa vị, là để thay đổi vận mệnh của chính mình, chứ không phải để yêu một người đàn ông. Bao nhiêu bài học từ những phi tần trong sử sách khiến nàng không dám giao trọn con tim cho Hoàng đế. Nàng sợ bản thân yêu lầm người, cuối cùng chỉ có thể nhận lấy kết cục thê lương.

Vậy nên, dù biết mình đã động lòng, nàng vẫn ra sức kiềm chế thứ tình cảm ấy.

Trong sự giằng xé ấy, nàng mang thai.



Khương Linh Diệp vui mừng xen lẫn kinh ngạc. Nàng lén gọi ngự y đến xem mạch không lâu sau khi được sủng hạnh, nhưng kết quả lại khiến nàng thất vọng vô cùng, ngự y nói nàng khó thụ thai, sau này e rằng sẽ vất vả đường con cái.

Cũng chẳng phải vì thích trẻ con nên thất vọng, mà là vì trong chốn hậu cung này, có một đứa trẻ sẽ giúp ích rất nhiều cho địa vị của nàng. Ngay cả Tiết Thái hậu quyền thế nghiêng trời, được sủng ái hơn hết thảy, cuối cùng vẫn phải đoạt lấy con của người khác để củng cố vị trí.

Nhưng rất nhanh sau đó, Khương Linh Diệp liền điều chỉnh lại suy nghĩ của mình. Nàng không nên chỉ nhìn vào chuyện Tiết Thái hậu cướp đoạt con của người khác để giữ vững địa vị, mà phải thấy rằng, dù cả đời bà ta chưa từng sinh con, vẫn có thể ngồi vững trên ngôi cao Thái hậu. Vậy nên, có con đương nhiên là tốt, nhưng nếu không có, cũng chẳng phải trời long đất lở.

Nếu không phải Tiết Thái hậu quá tàn độc, không chỉ đoạt con mà còn giết mẹ, thậm chí là hành hạ đến chết, ngay cả người đã khuất cũng không buông tha, khiến sinh mẫu của Hoàng đế bị trói chặt, bịt miệng bằng cám rồi đem chôn, còn ngoại thích của Hoàng đế thì bị tru diệt sạch sẽ, chỉ cần bà ta không tận diệt đến mức ấy, Hoàng đế ắt vẫn sẽ hiếu thuận với bà ta, chứ không phải chỉ giả vờ kính trọng ngoài mặt như bây giờ.

Khương Linh Diệp vu.ốt ve bụng mình. Trong khoảnh khắc ấy, nàng bỗng có cảm giác không chân thực.

Nàng đã có con rồi sao? Nàng sắp làm mẹ rồi sao?



Hoàng đế vô cùng mừng rỡ khi hay tin nàng mang thai, hắn ghé tai áp lên bụng Khương Linh Diệp: “Chẳng nghe thấy gì cả.”

Khương Linh Diệp thoáng hờn dỗi: “Mới hai tháng thôi, làm sao mà nghe được chứ.”

Hoàng đế cười vang: “Nàng nói phải, trẫm quá nôn nóng rồi.”

Khương Linh Diệp cắn môi, trong lòng có chút lo lắng, bèn nói ra một cách uyển chuyển: “Dạo này thiếp không thể hầu hạ bên cạnh, mong Tam lang đừng quên thiếp, hãy thường xuyên đến Phượng Dương các thăm thiếp.”

Hoàng đế bật cười: “Lẽ nào Linh Diệp cho rằng mỗi lần trẫm đến Phượng Dương các đều là vì muốn nàng thị tẩm sao?”

Khương Linh Diệp nhớ lại biết bao đêm triền miên say đắm, gò má không khỏi nóng bừng, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Chẳng lẽ không phải sao?”

Hoàng đế xoa nhẹ bụng nàng, tiếng cười trầm thấp: “Trẫm đâu phải dã thú đ*ng t*nh, trẫm đến Phượng Dương các là vì nàng, đâu phải vì chuyện giường chiếu. Còn những chuyện sau đó… chỉ trách trẫm không thể kiềm lòng.”

Hoàng đế thẳng thắn bộc bạch khiến Khương Linh Diệp vừa thẹn thùng, vừa buồn cười. Nàng nghiêng người tựa vào lòng hắn, bàn tay ấm áp đang đặt trên bụng nàng như truyền hơi ấm vào tận đáy lòng. Nàng ngập ngừng một thoáng, rồi thổ lộ nỗi lo canh cánh bấy lâu nay: “Tam lang, thiếp sợ lắm.”

“Sợ gì?”

“Sợ con sinh ra bị thiếu tay thiếu chân.” Khương Linh Diệp thì thầm: “Thiếp đã mơ thấy mấy lần rồi, nên thấy lo lắm.”

“Không đâu, trong cung có ngự y mà.”

“Ngự y cũng đâu thể chẩn đoán ra được.” Khương Linh Diệp đầy vẻ lo âu: “Đây là lần đầu tiên thiếp mang thai, thiếp không biết nỗi lo lắng này có phải là bình thường hay không.”

Hoàng đế là đàn ông, hắn cũng không rõ rốt cuộc Khương Linh Diệp đang suy nghĩ vẩn vơ hay vốn dĩ phụ nữ mang thai đều sẽ như vậy. Hắn trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thế này đi, mẫu thân và a tỷ của nàng hẳn có kinh nghiệm, trẫm ban cho họ môn tịch, để họ có thể tùy ý ra vào hoàng cung, cùng nàng san sẻ âu lo.”

Ban môn tịch cho thân quyến của hậu phi, đặc ân cho phép tùy ý xuất nhập cung, đây vốn là đãi ngộ chỉ dành cho Hoàng hậu và tứ phi. Khương Linh Diệp chỉ là một Tiệp dư, lẽ ra không được hưởng ân điển này. Trong lòng nàng vừa kinh hỉ, lại vừa thấp thỏm: “Tam lang, chuyện này… có thích đáng không?”

“Sao lại không thích đáng?” Hoàng đế xoa nhẹ bụng nàng, tựa hồ vô cùng yêu quý đứa trẻ này: “Tiệp dư lo lắng trong lúc thai nghén, mong muốn có mẫu thân và a tỷ bầu bạn, âu cũng là lẽ thường tình, trẫm tin rằng đám ngôn quan kia cũng sẽ thấu hiểu.”

Khương Linh Diệp mím môi, rồi mỉm cười đáp: “Thiếp xin thay đứa bé này, tạ ơn Tam lang.”



Có mẹ ruột và chị gái vào cung trấn an, nỗi lo lắng của Khương Linh Diệp trong lần đầu làm mang thai cuối cùng cũng vơi bớt phần nào. Hơn nữa, đứa trẻ trong bụng nàng vô cùng ngoan ngoãn, chẳng hề quấy phá một chút nào. Nàng cũng không giống mẫu thân và a tỷ, không có những cơn nôn nghén hay suy nhược, vì vậy vẫn còn đủ sức lực để đọc sách và cùng Hoàng đế bàn luận tấu chương. Nàng đặt tay lên bụng, cõi lòng tràn ngập dịu dàng. Đứa trẻ này còn chưa ra đời, nhưng nàng đã dốc hết thảy tình yêu thương cho nó.

Nàng dịu giọng nói: “Con ngoan, con thật hiểu chuyện, con là bảo vật quý giá nhất mà Bồ Tát Từ Thị đã ban tặng cho a nương.”

Nàng ngày càng mong chờ đến ngày con ra đời.



Thế nhưng, trong hậu cung này, ngoại trừ Hoàng đế cùng Khương Linh Diệp đang mong mỏi đứa trẻ chào đời thì dĩ nhiên, vẫn còn những người không hề mong đợi. Đứng đầu trong số đó chính là Hiền phi.

Hiền phi vẫn luôn căm hận Khương Linh Diệp bởi nàng từng là người hầu trong cung của nàng ta. Nay Khương Linh Diệp hoài thai, lại càng được Hoàng đế sủng ái, khiến Hiền phi càng thêm ghen ghét. Nàng ta ngấm ngầm ra tay với đồ ăn thức uống của Khương Linh Diệp, nhưng may thay, Tiết Thái hậu đã kịp thời phát hiện.

Tiết Thái hậu nghiêm khắc quở trách: “Nhìn ngươi xem, chẳng có chút tiền đồ nào cả! Nếu Khương Linh Diệp sinh hoàng tử, ắt có Đức phi toan tính, ngươi không có lấy một đứa con, thì tranh đoạt cái gì? Còn nếu là công chúa, càng không đáng để ngươi hao tâm tổn trí. Việc triều chính đã đủ khiến ngô phiền lòng rồi. Hừ, đám sĩ đại phu đó chẳng ưa gì chuyện nữ nhân nắm quyền, ngô cảnh cáo ngươi, đừng có sinh sự nữa!”

Bị Thái hậu cảnh báo, Hiền phi không dám manh động nữa. Về phần Đức phi, vì khinh thường xuất thân thấp hèn của Khương Linh Diệp, trước giờ vẫn chẳng xem nàng ra gì. Hơn nữa, bào thai trong bụng nàng còn chưa rõ là nam hay nữ, nên nàng ta cũng chưa vội ra tay.

Nhờ vậy, Khương Linh Diệp bình an vô sự cho đến ngày sinh nở.



Năm Thái Xương thứ tư, ngày hai mươi bảy tháng Giêng.

Hôm ấy, thành Trường An vừa có một trận tuyết rơi. Dân gian có câu: “Tuyết lành báo năm được mùa,“ bởi thế nên Hoàng đế long nhan đại duyệt. Huống hồ hội đèn Thượng Nguyên vẫn chưa qua được bao lâu, trong thành Trường An vẫn ngập tràn bầu không khí lễ hội tưng bừng.

Trưa hôm ấy, Khương Linh Diệp cùng Hoàng đế dùng bữa. Bụng nàng đã lộ rõ, ngự y chẩn đoán, ít ngày tới có khi sẽ là ngày lâm bồn.

Hoàng đế nghiêng người, tựa tai lên bụng nàng lắng nghe. Lúc này, hắn đã có thể nghe thấy động tĩnh của thai nhi. Hắn mãi chìm đắm trong âm thanh ấy một hồi mới ngồi thẳng dậy, cười bảo: “Trẫm nghe Lâm ngự y kể rằng, mỗi khi y áp tai lên bụng thê tử, đứa trẻ trong bụng sẽ đạp cho một cái. Thế nhưng, con của trẫm lại chưa từng đá trẫm lần nào.”

Khương Linh Diệp khẽ cười: “Chẳng những chưa từng đá Tam lang, mà ngay cả thiếp cũng vậy.”

Hoàng đế lấy làm lạ: “Trên đời lại có đứa trẻ ngoan ngoãn như thế thật ư?”

“Theo thiếp thấy, chắc vì con biết a gia vất vả quốc sự, biết a nương mang thai cực nhọc, nên mới không muốn gây thêm phiền toái cho a gia và a nương.”

Hoàng đế lại vu.ốt ve phần bụng đã nhô cao của Khương Linh Diệp, mỉm cười nói với hài nhi trong bụng: “Con ngoan quá, con nói xem, a gia nên ban thưởng gì cho con đây? Thế này đi, a gia sẽ ban quận Quảng Lăng cho con làm đất phong, phong hiệu của con sẽ là Vĩnh An, mang ý nghĩa vĩnh viễn bình an.”

Quận Quảng Lăng quận là vùng đất phong giàu có bậc nhất Đại Chu, phong hào Vĩnh An càng thể hiện nỗi lòng yêu thương con sâu đậm. Khương Linh Diệp vừa kinh ngạc, vừa xúc động, nàng khuyên nhủ: “Tam lang, đừng quá nuông chiều đứa trẻ này.”

“Chuyện này, trẫm đã suy nghĩ rất lâu, Linh Diệp, nàng đừng khuyên trẫm nữa.”

Khương Linh Diệp vẫn cảm thấy không ổn, còn muốn khuyên tiếp, nhưng bụng nàng chợt quặn đau, mồ hôi lạnh lập tức túa ra. Hoàng đế thấy vậy thì hoảng hốt: “Linh Diệp, nàng sao thế?”

“Thiếp… thiếp sắp sinh rồi…”



Trong Phượng Dương các, Hoàng đế sốt ruột đi đi lại lại bên ngoài. Sau cánh cửa gỗ, tiếng rên đau của Khương Linh Diệp vang lên đầy kiềm nén. Người ta vẫn nói, phụ nữ sinh con đau đớn chẳng khác nào một lần dạo qua Quỷ Môn Quan, thế nhưng ngay cả trong cơn đau tột độ, nàng vẫn cố sức đè nén thanh âm. Nàng lúc nào cũng vậy, cẩn trọng dè dặt, từng bước như đi trên băng mỏng.

Dù hắn đã nói với nàng rằng hãy thử tin tưởng hắn, nàng vẫn không dám.

Có lẽ là vì xuất thân của nàng quá thấp kém, nhà mẹ đẻ lại chẳng có thế lực gì, khiến nàng trở nên đơn độc trong cung Đại Minh, chẳng dám nuôi hy vọng gì lớn lao. Nàng sợ rằng, nếu trao hết tình yêu cho Hoàng đế, đến cuối cùng, kết cục nàng nhận lại chỉ là hồng nhan chưa già, ân tình đã cạn.

Bởi lẽ, chuyện nữ tử si tình gặp phải nam tử bạc tình, thực sự đã có quá nhiều tiền lệ.

Nhưng giữa hai người, luôn phải có một người bước tới trước, chứ không thể cứ mãi chờ đợi đối phương chủ động.

Hoàng đế đã hạ quyết tâm. Giữ biển người mênh mông, hắn chọn nàng, nữ tử có dã tâm, có thủ đoạn, lại vô cùng thông minh sắc sảo, hắn nguyện để nàng đồng hành cùng mình trên con đường đế vương đầy gian nan này, và để làm được điều đó, hắn nhất định phải xóa bỏ hết mọi lo lắng trong lòng nàng. Hắn đẩy cửa, định bước vào phòng sinh.

Nội thị bên cạnh gấp gáp ngăn lại: “Thánh nhân, phòng sinh ô uế, lại có huyết khí, chính là điềm xấu đấy ạ!”

“Điềm xấu gì chứ, trẫm không tin những thứ này.”

Hoàng đế vừa dứt lời liền định xông vào phòng sinh, mấy nội thị vội vàng ôm chặt lấy chân hắn, khẩn thiết van nài: “Thánh nhân không nghĩ cho mình, cũng phải nghĩ cho Khương Tiệp dư và hoàng tự! Thánh nhân là chân long thiên tử, có trời cao che chở, nhưng nếu tai họa giáng xuống Khương Tiệp dư và hoàng tự, thì phải làm sao đây?”

Nghe vậy, Hoàng đế thoáng do dự. Trong phòng, Khương Linh Diệp cũng nghe được lời khuyên can ấy, nước mắt nàng bất giác trào ra, chẳng rõ vì cơn đau giày xéo hay vì xúc động. Nàng nắm lấy tay cung tỳ bên cạnh, yếu ớt nói: “Đi nói với Thánh nhân, tạ ơn người vì lòng tốt, nhưng không cần vì ta mà phá vỡ quy củ… Ta không sao cả, nhưng ta không muốn đứa trẻ này vừa chào đời đã bị người đời chỉ trích… Nếu người thật sự muốn ở bên ta, vậy thì… lấy tóc thay người vậy…”

Cung nữ vội vã chạy ra bẩm báo. Nghe đến đoạn “không muốn đứa trẻ bị người đời chỉ trích“, Hoàng đế lặng thinh. Đợi đến khi cung tỳ thuật lại phần sau, Hoàng đế dường như đã rút ra chủy thủ, nhưng nội thị lại được một phen hoảng loạn khuyên can, nào là long thể quý giá, tuyệt đối không thể cắt tóc. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, bên ngoài liền trở nên tĩnh lặng. Cung nữ hớt hải chạy vào, tay run rẩy dâng lên một lọn tóc của Hoàng đế.

Khương Linh Diệp nước mắt giàn giụa, nàng siết chặt lọn tóc trong tay, như thể đang nắm lấy bàn tay ấm áp của hắn. Nàng nhắm mắt lại, từng cơn đau đớn xé nát thân thể, nhưng cuối cùng, nàng không còn kiềm nén nữa. Giống như bao nữ nhân bình thường khác, nàng đã bật ra tiếng kêu đau trước mặt trượng phu.



Trong tiếng rên đau khổ của Khương Linh Diệp, Hoàng đế bồn chồn như kiến bò trên chảo nóng. Phong thái ung dung, phong nhã ngày thường hoàn toàn biến mất, hắn gấp đến mức mồ hôi túa ra đầy trán. Một canh giờ sau, giữa cơn đau quặn cuối cùng của Khương Linh Diệp, tiếng khóc non nớt của trẻ sơ sinh vang lên.

Khương Linh Diệp đã đau đến mức lịm đi, mơ mơ màng màng nghe thấy cung tỳ dọn dẹp gian phòng sạch sẽ, rồi Hoàng đế vội vã bước vào. Việc đầu tiên hắn làm là ngồi xuống bên giường nàng, vuốt mái tóc ướt đẫm mồ hôi, lo lắng hỏi cung tỳ: “Tiệp dư không sao chứ?”

Cung tỳ đáp: “Thánh nhân yên tâm, Tiệp dư thập phần bình an.”

Lúc này Hoàng đế mới thở phào nhẹ nhõm. Cung tỳ bế đứa trẻ đến gần, tiếp lời: “Chúc mừng Thánh nhân, Tiệp dư đã hạ sinh một tiểu công chúa.”

Lời chúc mừng tuy vang lên, nhưng trong giọng nói lại có chút tiếc nuối, bởi đáng tiếc, đó lại không phải là một hoàng tử.

Khương Linh Diệp lơ mơ nghe thấy, trong lòng bỗng dưng khó chịu. Công chúa thì sao chứ? Công chúa cũng là cốt nhục của nàng, nàng chẳng hề thấy tiếc nuối, trái lại còn vô cùng vui mừng.

Nhưng chưa đợi nàng lên tiếng, Hoàng đế đã sung sướng như một thiếu niên, nét mặt bừng sáng: “Công chúa sao? Trẫm đã đoán từ trước rồi! Chỉ có công chúa mới ngoan thế này thôi! Công chúa tốt mà! Công chúa tốt mà!”

Hắn ẵm bồng đứa bé trong lòng, nhìn nữ nhi bật cười sảng khoái: “Công chúa Vĩnh An của trẫm, chào đời rồi!”

Niềm hân hoan của hắn không giống như giả vờ, trong lòng Khương Linh Diệp bất giác không khỏi cảm động. Nàng ra sức muốn mở mắt nhìn hắn, nhưng cơ thể quá đỗi mệt mỏi, dù thế nào cũng không thể mở ra nổi, nhưng vẫn nghe thấy cung tỳ lấy lòng Hoàng đế: “Tiệp dư sinh công chúa chỉ mất một canh giờ, ngay cả ngự y cũng nói chưa từng gặp ai sinh nhanh như vậy. Xem ra công chúa sợ Tiệp dư phải chịu khổ đây mà!”

Hoàng đế cúi đầu nhìn nữ nhi trong lòng, cẩn thận hôn lên trán cô bé: “Công chúa Vĩnh An từ nhỏ đã hiểu chuyện như thế, quả là bảo vật do Bồ Tát ban tặng. Trẫm đã nghĩ ra mấy cái nhũ danh, đợi a nương con tỉnh lại, sẽ để nàng quyết định.”

Hắn ôm công chúa bằng một tay, tay còn lại nắm lấy tay Khương Linh Diệp: “Linh Diệp, mau tỉnh lại đi, nhìn xem con của nàng và trẫm này.”



Khi mặt trời đã ngả bóng về tây, Khương Linh Diệp mới từ từ tỉnh lại. Nàng vừa mở mắt liền thấy Hoàng đế vẫn còn trong phòng, chưa rời đi. Hắn gục bên mép giường nàng, cạnh đó là đứa trẻ vừa mới chào đời, ngủ ngon lành. Đứa con bé bỏng, khuôn mặt nhăn nheo, chưa thể nhìn ra dung mạo sau này sẽ ra sao.

Khương Linh Diệp nhìn con, rồi lại dời ánh mắt sang Hoàng đế đang gối đầu lên mép giường mà ngủ. Ở góc độ này, gương mặt hắn lộ rõ những đường nét tuấn mỹ, sáng ngời như nhật nguyệt soi rọi. Nàng khẽ động ngón tay, muốn được như bao thê tử chốn nhân gian, được đưa tay chạm vào khuôn mặt trượng phu mình.

Nhưng Hoàng đế đã thức giấc. Khương Linh Diệp giật mình, vội rụt tay về giấu dưới lớp chăn gấm. Hắn ngước mắt nhìn nàng, thấy nàng đã tỉnh, hào hứng nói: “Linh Diệp, nàng tỉnh rồi.”

Hoàng đế cẩn thận bế đứa trẻ đặt cạnh nàng, để nàng nhìn mặt con: “Con của chúng ta.”

Khương Linh Diệp gật đầu: “Ừm, con của chúng ta.”

“Trẫm thấy con giống nàng.” Hoàng đế cười nói. “Sau này lớn lên, nhất định sẽ khuynh đảo thiên hạ.”

Khương Linh Diệp mím môi cười: “Nhăn nhúm thế này, trông xấu xí lắm, thiếp không nhìn ra được điểm nào giống thiếp, lại càng không nhìn ra được nhan sắc sẽ kinh diễm nhân gian về sau.”

“Xấu chỗ nào chứ?” Hoàng đế bất mãn: “Xinh yêu thế này cơ mà.”

“Ừm… xinh yêu lắm…”

Hoàng đế cũng bật cười, cùng nàng nói thêm mấy câu tâm tình, rồi nhẹ giọng bảo: “Trẫm đã nghĩ tận mấy nhũ danh, để trẫm nói nàng nghe.”

Hắn kể ra những cái tên mà hắn đang đắn đo suy nghĩ. Khương Linh Diệp lắng nghe, ánh mắt càng thêm nhu hòa như nước. Nàng đưa tay ra khỏi chăn gấm, chầm chậm nắm lấy bàn tay Hoàng đế, rồi dịu dàng nói: “Gọi con là Minh Nguyệt Châu đi.”

Hoàng đế nhìn bàn tay nhỏ nhắn của nàng chủ động nắm lấy mình, thoáng sững sờ. Khương Linh Diệp mỉm cười, chậm rãi nói: “Minh Nguyệt Châu, một trong bảy báu vật trong kinh Phật. Đứa trẻ này là trân bảo mà Bồ Tát Từ Thị ban tặng cho thiếp và chàng, vì vậy hãy gọi con là Minh Nguyệt Châu nhé.”

Hoàng đế mím môi, trở tay nắm chặt tay nàng, ôn tồn nói: “Được, vậy từ nay về sau, hãy gọi con là Minh Nguyệt Châu.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 179: Ngoại truyện Đế Hậu (7): Hết Ngoại truyện Đế Hậu



Đứa trẻ có nhũ danh Minh Nguyệt Châu ấy được Hoàng đế ban tên là Lý Doanh, phong hiệu công chúa Vĩnh An, nhận đất phong tại quận Quảng Lăng, sủng ái vô ngần.

Trước kia, Khương Linh Diệp vẫn cho rằng mình không phải người thích trẻ con. Nàng không giống a tỷ của mình, mỗi khi nhìn thấy những đứa bé đáng yêu đều không nhịn được mà trêu đùa đôi chút. Nàng không thích như vậy. Nàng mong muốn có một đứa con vì điều đó có thể giúp ích cho con đường thăng tiến của nàng, ngoài ra không còn ý niệm nào khác.

Thế nhưng, mọi thứ đã thay đổi từ khi nàng hoài thai Lý Doanh, đến lúc hạ sinh con bé, tâm tư nàng lại càng đổi khác. Lý Doanh vô cùng ngoan ngoãn, hiểu chuyện, ban đêm rất ít quấy khóc, để nàng có thể ngủ một giấc trọn vẹn. Mỗi khi trông thấy Khương Linh Diệp và Hoàng đế, cô bé đều nhoẻn miệng cười, còn biết giơ đôi tay bé xíu đòi bế, như thể từ trong tiềm thức đã biết bọn họ chính là a nương, a gia của mình, thông minh đến lạ thường.

Bởi vậy, làm sao Khương Linh Diệp có thể không thương yêu Lý Doanh đến tận xương tủy? Giờ đây, dù có phải dùng mạng mình để đổi lấy mạng con bé, nàng cũng chẳng hề do dự.

Sự cưng chiều Hoàng đế dành cho Lý Doanh cũng vượt xa tất thảy những hoàng tử, công chúa khác. Năm Lý Doanh tròn ba tuổi, trong cung có lần tổ chức xem Na Hí. [1] Nhạc sư mang mặt nạ quỷ quái nhảy múa trước mặt Hoàng đế. Ban đầu, Lý Doanh vẫn ngồi trong lòng Hoàng đế chăm chú xem, nào ngờ đột nhiên bị dọa đến bật khóc nức nở. Hoàng đế định dỗ dành cô bé, thế nhưng Lý Doanh chỉ lau nước mắt, bặm môi nhảy xuống từ lòng Hoàng đế, dù còn thút thít, dù vẫn sợ hãi, nhưng vẫn dũng cảm dang hai cánh tay bé nhỏ, chắn trước mặt nhạc sư, òa khóc mà nói:

“Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”[1]

Chúng thần trong điện nghe vậy đều cười vang vì lời trẻ thơ ngây ngô, chỉ riêng Hoàng đế, nụ cười trên môi hắn đã giấu đi cặp mắt đỏ hoe.

Có lẽ hắn chợt nhớ đến chuyện cũ thuở nhỏ, khi mẫu thân bị sát hại, hắn bị cướp đi, Tiết Thái hậu chưa từng thật lòng yêu thương hắn. Tất cả mọi người đều kính sợ hắn, lấy lòng hắn, nhưng chưa từng có ai, trong lúc hắn gặp nguy hiểm, nguyện đứng ra che chở, thậm chí chết vì hắn.

Vậy mà đứa trẻ ba tuổi này lại làm được.

Bé nguyện chết vì hắn, chỉ bởi vì hắn là a gia của bé, chứ không phải vì hắn là Hoàng đế Đại Chu.

Từ đó, Hoàng đế càng thêm thương yêu Lý Doanh, trong khi Lý Doanh cũng vô cùng hiếu thuận. A nương nàng mắc bệnh đau đầu, nàng liền chuyên tâm đọc y thư, học cách làm túi hương để giúp người giảm bớt cơn đau. A gia phiền muộn vì chuyện triều chính, nàng bèn lặng lẽ ở bên, cùng ông đánh cờ giải khuây. Nhờ có Lý Doanh, Hoàng đế và Khương Linh Diệp cũng dần trút bỏ khúc mắc, thử toàn tâm toàn ý tin tưởng lẫn nhau.

Nhưng ai có thể ngờ rằng, cũng chính vì Lý Doanh, hai người họ càng lúc càng xa cách, cuối cùng trở mặt thành thù.

Trong thần điện Thần Long, Nữ đế đã tuổi già sức yếu tựa người trên trường kỷ, hồi tưởng những chuyện cũ. Bà nhớ khi vừa vào cung, mình đã hao tâm tổn trí thế nào để quyến rũ ông, nhớ những ngày hai người dò xét lẫn nhau, vừa nghi kỵ vừa rung động. Nhớ đến khoảnh khắc bộc bạch lòng mình, cả hai hết mực tin tưởng đối phương. Suốt mười sáu năm sóng gió, bà và ông kề vai sát cánh, cùng nhau trừ bỏ Tiết Thái hậu, cùng nhau hoạch định tân chính, trấn áp thế gia, nâng đỡ hàn môn, đẩy hoàng quyền l*n đ*nh cao chưa từng có.

Bà cũng nhớ đến khoảng thời gian sau khi Lý Doanh qua đời, hai người bất hòa từ đây, đến cuối cùng, bà không còn gọi ông là “Tam lang”, ông cũng không gọi bà là “Linh Diệp” nữa, mà chỉ xưng hô với nhau bằng “Thánh nhân” và “Hoàng hậu”. Suốt mười năm ấy, bà đề phòng ông, mà ông cũng đề phòng bà, vợ chồng một thuở, đồng sàng dị mộng.

Có lẽ, chỉ khi gần đất xa trời con người mới hồi tưởng lại những chuyện xưa mà bản thân không muốn nghĩ đến nhất.

Quần thần cùng Hoàng thái tôn Lý Trưng đang xin ý kiến về chuyện hậu sự của Nữ đế. Khi bàn đến nơi an táng, Thượng thư Bộ Lễ Lương Bình cẩn trọng hỏi: “Bệ hạ, người có muốn hợp táng với Minh Hoàng Đế ở lăng Tây Định hay không?”

Từ khi lên ngôi, Nữ đế chưa từng nhắc đến chuyện hợp táng cùng Minh Hoàng Đế, nhưng cũng không cho xây dựng lăng mộ riêng, quần thần không đoán được tâm tư của bà, nhưng nay đại hạn đã gần kề, bọn họ buộc phải hỏi cho rõ.

Nữ đế không đáp, chỉ thất thần thật lâu, sau đó mới thốt lên: “Minh Hoàng Đế, ông ấy còn muốn gặp trẫm sao?”

Vấn đề này, ngay cả Lương Bình cũng không biết phải trả lời thế nào. Nếu xét về công, Nữ đế đã dốc hết tâm sức, củng cố thành quả của tân chính, đưa Đại Chu bước vào thời thịnh thế. Nhưng nếu xét về tư, bà là ngoại tộc, ngồi lên hoàng vị nhà Lý, đại sát các hoàng tử của Minh Hoàng Đế. Vậy nên, Lương Bình cũng không rõ, Minh Hoàng Đế có thực sự muốn gặp Nữ đế hay không.

Có lẽ chính sự im lặng của Lương Bình đã khiến Nữ đế cười khổ, nụ cười ấy chất chứa bao cay đắng. Thấy bà như vậy, Lương Bình càng không dám lên tiếng. Ngược lại, Lý Trưng bỗng mở lời: “Tôn nhi nghĩ, Minh Hoàng Đế hẳn là muốn gặp bệ hạ.”

Nữ đế nhìn sang hắn, Lý Trưng chầm chậm nói: “Minh Hoàng Đế đăng cơ khi còn niên thiếu, tru diệt gian thần, chấp chưởng quyền binh, thúc đẩy tân chính. Mỗi bước đi đều vô cùng gian nan, nhưng mỗi bước đi ấy đều thấy ánh sáng nơi cuối đường. Có thể nói, Minh Hoàng Đế chính là vị quân vương có công trạng lớn nhất kể từ khi Đại Chu khai quốc đến nay.”

Từ trước đến nay, người mà Lý Trưng kính phục nhất chính là ông nội mình. Hắn tiếp tục: “Minh Hoàng Đế trời sinh thông tuệ, lẽ nào người lại không đoán trước được những chuyện sẽ xảy ra sau khi băng hà? Nhưng dù thế, người vẫn chọn giao phó Đại Chu cho bệ hạ, vì người tin rằng bệ hạ chính là người thích hợp nhất. Bệ hạ có thể tiếp nối lý tưởng trị quốc của người. Nay đã ba mươi sáu năm trôi qua kể từ khi Minh Hoàng Đế băng hà, Đại Chu thanh bình thịnh trị, vạn quốc triều bái, man di không dám xâm phạm. Điều đó đủ để chứng minh rằng sự phó thác của Minh Hoàng Đế là chính xác.”

Tân chính Thái Xương, đó là tâm huyết cả đời của Thái Xương Đế, kết tinh tất cả lý tưởng và hoài bão của người. Về phần Nữ đế, bà đã kế thừa và phát huy tâm huyết ấy. Cuối cùng, Lý Trưng nói: “Nếu Minh Hoàng Đế có thể thấy Đại Chu hôm nay, sao người lại không muốn gặp bệ hạ chứ?”

Nghe vậy, Nữ đế không nói gì thêm, chỉ từ từ khép mắt lại: “Thôi vậy, bất kể ông ấy có muốn gặp trẫm hay không, trẫm cũng sẽ đến lăng Tây Định, hợp táng cùng ông ấy.”

“Năm mười lăm tuổi trẫm tiến cung, mười sáu tuổi trở thành phi tần của ông ấy. Giờ đây, trẫm đã tám mươi tuổi, còn ông ấy, đã rời xa trẫm ba mươi sáu năm rồi. Từng ấy năm trôi qua, tóc xanh hóa bạc, nhưng trẫm vẫn nhớ như in lần đầu tiên nhìn thấy ông ấy…” Giọng Nữ đế càng lúc càng nhỏ, như đang chìm trong ký ức xa xăm, dường như đang nhớ lại thiếu nữ tuyệt sắc từng quỳ phục dưới đất trong Tê Phượng các, len lén ngước mắt nhìn vị thiếu niên đế vương năm nào. Bà lẩm bẩm: “Dưới hoàng tuyền, trẫm và ông ấy, phu thê một đời, ân ân oán oán, cứ để đó rồi cùng thanh toán cho rõ ràng…”



Bên bờ sông Nại, người lái đò đội nón trúc nằm trên bãi cát vàng. Vành nón che khuất gương mặt ông, khiến người ta chẳng thể nhìn rõ biểu cảm.

Không ai biết giờ phút này ông đang nghĩ gì, là về đế quốc hùng mạnh từng được mình cai trị, về người thê tử từng tâm đầu ý hợp, hay về đứa con gái suýt nữa đã chết dưới tay mình?

Người chèo đò kéo nón xuống thấp hơn một chút, sau đó nhắm mắt lại. Trong cơn mơ hồ, ông dường như quay về năm Thái Xương thứ ba mươi, ngày mùng sáu tháng Mười.

Khi trông thấy thi thể Lý Doanh được vớt lên từ hồ sen, nỗi đau đớn đến tột cùng khiến ông không thể đứng vững. Trước tiếng khóc xé gan xé ruột của Khương Linh Diệp, trong đầu ông chỉ có một câu hỏi:

Vì sao lại thế này?

Rõ ràng ông đã sai Kim Di ngăn cản Kế Thanh Dương, tại sao Lý Doanh vẫn rơi xuống nước chết đuối?

Rốt cuộc là đã sai ở đâu?

Khương Linh Diệp vì mất con mà đổ bệnh chỉ sau một đêm, nhưng ông nào có khá hơn? Trong thời gian dưỡng bệnh tại điện Thần Long, ông cứ hết lần này đến lần khác nhớ lại quãng thời gian từ nhỏ đến lớn của Lý Doanh. Nhớ khi nàng ba tuổi, từng đứng chắn trước mặt nhạc sư đeo mặt nạ quỷ, non nớt kêu lên: “Muốn ăn thì ăn ta, đừng ăn a gia của ta!”

Trong lòng ông vừa hối hận, vừa đau đớn đến mức chẳng thể nuốt nổi một ngụm thuốc. Khi ông còn đang cố tìm hiểu nguyên do cái chết của Lý Doanh, Kế Thanh Dương đã ám sát ông.

Điện Thần Long canh phòng nghiêm ngặt, Kế Thanh Dương nào phải đối thủ của đám Kim Ngô Vệ? Y bị bắt giữ, đôi mắt đỏ ngầu, phẫn nộ trừng ông: “Thánh nhân muốn biết vì sao công chúa chết đúng không? Công chúa… là do Thánh nhân hại chết!”

“Ngươi nói bậy!” Thái Xương Đế không chịu đối diện với sự thật, kịch liệt ho khan, lưỡi kiếm trong tay đặt sát cổ Kế Thanh Dương: “Rõ ràng trẫm đã sai Kim Di ngăn ngươi lại, không đời nào Minh Nguyệt Châu là do trẫm hại chết?!”

Kế Thanh Dương cận kề cái chết, thế nhưng chẳng chút sợ hãi, chỉ cười lạnh: “Đúng là Thánh nhân đã sai Kim Di báo tin cho ta, thế nhưng công chúa vẫn chết chìm dưới nước. Thánh nhân có muốn biết vì sao không?”

Kế Thanh Dương gằn từng câu từng chữ: “Bởi vì công chúa… nàng tự nguyện tìm đến cái chết!”

Thái Xương Đế sững sờ, Kế Thanh Dương tiếp tục: “Công chúa đã biết Thánh nhân muốn giết nàng. Vì tân chính nên Thánh nhân định hy sinh chính con gái ruột của mình, còn công chúa, nàng đã thành toàn cho Thánh nhân!”

Một chữ “thành toàn“ khiến sắc mặt Thái Xương Đế tái nhợt, nửa lời cũng chẳng thốt nên nổi.

Kế Thanh Dương vẫn chưa dừng lại: “Công chúa không muốn Thánh nhân mang tiếng giết con nên nàng mới tự vẫn! Ha ha… ngay cả khi chết, nàng vẫn nghĩ cho Thánh nhân, nhưng Thánh nhân thì sao, người lại muốn giết nàng! Rốt cuộc công chúa đã làm sai điều gì? Nếu Thánh nhân đã muốn lấy mạng nàng, vậy thì vì sao ban đầu lại sinh ra nàng? Vì sao phải đợi đến khi nàng trở thành viên minh châu rực rỡ nhất Đại Chu mới đoạt lại mạng sống của nàng? Chẳng lẽ sự yêu thương mà Thánh nhân dành cho nàng bấy lâu nay chỉ là giả dối? Chẳng lẽ mười sáu năm nuông chiều như trân bảo, chỉ để nàng bước lên bữa tiệc tử vong này hay sao?”

Nói đến đây, Kế Thanh Dương bật khóc tức tưởi: “Nhưng ngay cả khi Thánh nhân bắt nàng đến dự bữa tiệc ấy, công chúa vẫn cam tâm tình nguyện rời đi. Nàng còn dặn thần, đừng ngăn cản nàng… Đây là con đường mà chính nàng đã chọn… Nàng bình thản đối mặt với cái chết, dùng chính sinh mạng của mình để thành toàn cho tân chính của Thánh nhân… Thánh nhân, người không xứng đáng có một nữ nhi như công chúa!”

Thái Xương Đế phun ra một ngụm máu tươi, loang lổ trên mặt đất.

Ông nắm chặt chuôi kiếm, ngón tay run rẩy. Kế Thanh Dương nhắm mắt lại, nếu Thái Xương Đế muốn giết y, vậy thì đúng ý y rồi, nếu thế, y sẽ xuống hoàng tuyền bầu bạn với Lý Doanh.

Thế nhưng, Thái Xương Đế lại cắt đứt dây trói, quát lớn: “Người đâu!”

Kim Ngô Vệ bị lui ra ngoài đồng loạt ùa vào. Một nhóm người vội vàng đỡ lấy Thái Xương Đế, một nhóm khác áp chế Kế Thanh Dương. Nhưng Thái Xương Đế chỉ mệt mỏi phất tay: “Thả hắn ra.”

“Thánh nhân…”

“Trẫm nói, thả hắn ra!”

Kim Ngô Vệ không hiểu nổi, Kế Thanh Dương cũng không hiểu nổi. Thái Xương Đế nhắm mắt, giọng điệu chậm rãi: “Kế Thanh Dương, ngươi đi đi, ngươi không giết được trẫm đâu.”

Ông nói: “Nhưng sự nhẫn nại của trẫm có giới hạn, đừng thử thách giới hạn đó thêm lần nào nữa.”

Ông mở mắt, lạnh lùng ra lệnh: “Áp giải xuống! Nếu còn dám hành thích lần nữa, giết không tha!”



Kế Thanh Dương bị trục xuất khỏi hoàng cung, lòng đầy căm phẫn, luôn muốn tìm cơ hội để lẻn vào cung hành thích, thế nhưng, cung Đại Minh phòng vệ nghiêm ngặt, y không sao đột nhập được.

Một năm trời lang thang ngoài cung, một ngày kia, trong cơn say túy lúy, y bỗng nhớ lại lời Lý Doanh từng nói. Trước khi chết, nàng đã dặn y hãy trở thành một người chính trực, được người đời tôn kính

Chứ đừng phung phí thời gian và sinh mạng chỉ để ám sát phụ thân nàng.

Kế Thanh Dương chợt ngộ ra. Từ đó, một mình một ngựa, cầm kiếm hành tẩu khắp nhân gian.

Ba mươi năm sau, trong đại lao của Sát Sự Thính, Kim Di cung khai với Thôi Tuần rằng chính Kế Thanh Dương đã giết Lý Doanh, còn ông ta thì giết Kế Thanh Dương. Nhưng lời khai ấy chỉ là bịa đặt, chẳng qua muốn kéo Thôi Tuần xuống nước trước lúc chết mà thôi.

Kế Thanh Dương đã rời đi tận chân trời góc bể nhưng bên trong cung Đại Minh, Thái Xương Đế vì hai chữ “thành toàn” của y mà đau đớn khôn nguôi. Ngày qua ngày chìm trong giày vò và hối hận, thân thể ông mỗi lúc một suy nhược, cuối cùng, mười năm sau, băng hà trong điện Thần Long.

Hồn ông trở về Địa phủ, qua lời kể của Thập Điện Diêm La, ông mới hay, vì gây ra huyết án Thái Xương nên linh hồn Lý Doanh đã bị giam cầm vĩnh viễn trong vòng lặp luân hồi. Để cứu con gái thoát khỏi bể khổ, ông từ bỏ cơ hội thành tán tiên, cam nguyện trở thành người lái đò bên bờ sông Nại Hà, dùng chính mình để chuộc tội thay nàng.

Nhớ đến cảnh Lý Doanh cô độc dưới hồ sen, Thái Xương Đế cầu xin Thập Điện Diêm Vương cho ông trở về nhân gian một lần.

Khi ấy, Lý Doanh đã bị giam cầm dưới hồ suốt mười năm. Ngày qua ngày, nàng chịu đựng bóng tối vô biên và sự tĩnh lặng vĩnh hằng. Ông cố ý đổi giọng, khẽ gọi tên nàng.

Dưới đáy hồ, Lý Doanh mừng rỡ vô cùng: “Ai đó?”

“Ta là… quỷ sai của Địa phủ.”

“Nếu ngài là quỷ sai, liệu có thể đưa ta đi cùng không?” Lý Doanh khẩn cầu, giọng nói tràn đầy tuyệt vọng: “Ta không muốn ở lại đây nữa… Nơi này tối quá… Ta muốn đi đầu thai.”

Ông ngập ngừng giây lát, rồi nói: “Cô không thể đầu thai.”

“Vì sao ta không thể đầu thai?”

Giọng Lý Doanh đã nghẹn lại, có lẽ vì đã khóc quá nhiều. Hiển nhiên, nàng đã chẳng còn chịu nổi sự tăm tối và cô tịch dưới đáy hồ này nữa.

Thái Xương Đế lặng im hồi lâu, cuối cùng thốt ra lời đã được chuẩn bị từ trước: “Cô bị chết oan, trước khi tìm được hung thủ, cô sẽ không thể đầu thai.”

“Ta chết oan… Phải tìm ra hung thủ thì mới được đầu thai, đúng không?”

“Đúng vậy. Sẽ có một ngày, cô sẽ rời khỏi hồ sen này. Khi đó, nếu tìm ra kẻ đã giết mình, cô đương nhiên có thể đầu thai chuyển thế.”

Lời nói của ông khiến cõi lòng Lý Doanh le lói chút hy vọng. Chỉ cần tìm được kẻ đã giết nàng, nàng sẽ được đầu thai chuyển thế.

Lý do Thái Xương Đế quay lại nơi này chính là để gieo cho nàng một niềm hy vọng. Chỉ khi có hy vọng, nàng mới có thể tiếp tục chống chọi.

Ông hiểu rõ con gái của mình, cũng đặt trọn niềm tin ở nàng.

Quả nhiên, Lý Doanh đã không còn tuyệt vọng như trước nữa. Nàng khẽ bảo: “Vậy ngài có thể ở lại trò chuyện với ta một lúc không? Ta cô độc lắm.”

“Được.”

Thái Xương Đế ngồi bên hồ, cùng Lý Doanh trò chuyện hồi lâu.

Nàng nhắc đến a nương, nhắc đến a gia, về tình yêu sâu đậm nàng dành cho cha mẹ. Trong từng lời nói, tràn ngập sự lưu luyến và nhớ thương đối với hai người.

Bên bờ hồ, Thái Xương Đế nước mắt tuôn trào.

Ông gắng sức kiềm nén cảm xúc, kể cho nàng nghe thật nhiều điều: về Vong Tử Thành, về hình dáng Địa phủ, về núi Bàn Trủng, cửa ngõ vào Địa phủ.

Đến khi trời gần sáng, ông vẫn không thể không rời đi.

Lý Doanh ngóng trông hỏi ông: “Vậy sau này liệu ta có thể gặp lại ngài không?”

Thái Xương Đế trầm mặc một lát, đáp: “Có lẽ vậy.”

Ông khẽ gọi: “Minh Nguyệt Châu.”

Lý Doanh sững người.

Ông dừng lại một chút, rồi nói: “Cô là đứa con gái tốt nhất của a nương và a gia cô. Một ngày nào đó, cô sẽ đạt được điều cô mong muốn.”



Rời khỏi hồ sen, Thái Xương Đế lại đến điện Thần Long. Khương Linh Diệp cùng Bồ Tát Bảo đang ở đó, dường như bà đang chuẩn bị đưa Bồ Tát Bảo lên triều. Điện Thần Long đã được thắp sáng, cửa điện dán tranh thần môn. Hai vị thần môn trên cửa chợt hiện ra. Khi trông thấy Thái Xương Đế, hai vị thần lưỡng lự một thoáng, nhưng vẫn không dám ngăn cản.

Ấy vậy mà Thái Xương Đế lại không bước vào, chỉ đứng từ xa nhìn ngọn đèn rực sáng trong điện Thần Long, sau đó xoay người rời đi.

Từ đó, là hai mươi năm đưa đò qua sông.

Ông cũng lại gặp nữ nhi của mình. Minh Nguyệt Châu đã thoát khỏi luân hồi, cùng lang quân nàng yêu chuyển sinh sang kiếp khác. Còn ông thì vẫn ở bên bờ sông Nại Hà, chống sào đưa đò. Chuyến đò ấy, lại kéo dài thêm mười sáu năm.

Thái Xương Đế chợt nghe thấy một tràng bước chân khẽ vọng đến. Ông bỏ nón trúc che mặt xuống, đứng lên.



Chuông tang ở cung Đại Minh vang lên, bên bờ sông Nại Hà, mái tóc bạc hóa thành suối tơ xanh. Khương Linh Diệp từng bước từng bước đi về phía người lái đò bên bờ sông Nại Hà, mắt ánh lệ nhưng lại nở nụ cười: “Tam lang.”

Thái Xương Đế lặng lẽ nhìn bà, yết hầu khẽ động, rồi cũng mỉm cười: “Linh Diệp.”

Chỉ bốn chữ, đã thắng vạn lời.

Sáu mươi năm ân oán tình thù, trong khoảnh khắc nhìn nhau, hóa thành hư không.

Bên bờ sông, chỉ còn tiếng thì thầm, khe khẽ:

“Tam lang, Bồ Tát Bảo ở đâu?”

“Ở… Huyết Bồn Khổ Giới.”

Sau một tiếng thở dài, Khương Linh Diệp vươn tay cầm lấy cây sào trúc: “Ở đây… có thiếu một bà lão chèo đò không?”

“Thiếu.”

“Là chèo thế này sao?”

“Phải.”

“Vậy còn chờ gì nữa?” Khương Linh Diệp cười tinh nghịch, như khi bà đốt tấu chương trong điện Thần Long năm xưa: “Ông lão chèo đò và bà lão chèo đò, cùng đi đón vong linh qua sông thôi.”
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back