Tiên Hiệp Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 40: Mặt người


Vừa tiến vào cấm địa, Ô Hành Tuyết tính mở miệng nói chuyện thì bị khói pháo trước mặt xộc thẳng vào khiến chàng sặc sụa, ho đến độ sườn mặt và cổ đều ửng đỏ.

Ngay sau đó, một người chặn lại trước mặt, cản cơn gió mang theo tro bụi, nhờ thế mà chàng mới vơi đi một chút và ngừng ho khan.

Ô Hành Tuyết giương mắt lên nhìn thì thấy quả nhiên là Tiêu Phục Huyên.

Trên người Thiên Túc thượng tiên cũng bám đầy khói bụi, hẳn nhiên bị mắc vào người do đã ở trong cấm địa nãy giờ. Khi gió lộng qua áo quần y cũng khiến người cộm họng.

Nhưng Ô Hành Tuyết im thin thít.

Chàng chỉ nheo mắt lại và cố nhẫn nhịn nuốt ngược cơn ho vào trong, gắng gượng đến mức máu nóng dồn lên khiến khoé mắt không khỏi đỏ hửng.

“Ở đây khói sương nồng nặc, sát khí nặng nề, ngươi không nên —” Tiêu Phục Huyên đưa mắt lướt ra đằng sau, song khi ngoái đầu nhìn lại thì chợt im bặt.

Ô Hành Tuyết thấy y nhìn mình thì hơi thắc mắc, “Làm sao thế?”

Tiêu Phục Huyên trả tầm mắt về. “… Không có gì.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Ô Hành Tuyết: “Ta không nên thế nào?”

Tiêu Phục Huyên: “Không có gì.”

Ma đầu có hơi bối rối. Tuy vậy, chàng đoán rằng khả năng cao Thiên Túc thượng tiên muốn nói “Ngươi không nên đến đây vào lúc này”, bèn không nén lòng được mà vạch ra lý do, “Không phải ta muốn làm càn mà vào. Bởi huynh không ở trong nhà trọ nên không biết, ông chủ quầy niềm nở hiếu khách lắm nên bày hẳn một màn diễn.”

Tiêu Phục Huyên nhìn sang. “Màn diễn gì?”

Ma đầu ngẫm nghĩ một chút rồi bắt đầu tố cáo, “Ông ta có một xác người không biết đã bao lâu rồi, đêm hôm khuya khoắt ngủ không được lại đi ngồi kè kè bên cạnh giường ta. Nửa đêm ta giật mình tỉnh giấc, vừa ngoái đầu nhìn đã thấy con đó, ta… ta sợ mất hồn mất vía.”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Nét mặt Thiên Túc thượng tiên bắt đầu chuyển biến sang biểu cảm khó lòng diễn tả cho trọn. Y mấp máy môi, dưới ánh nhìn ra hiệu của ma đầu mới đành không cam tâm mà tiếp lời mồi chuyện, “Sau đó rồi sao?”

Ma đầu vô cùng hài lòng, bèn tiếp tục nói, “Sau đó xảy ra xung đột nho nhỏ và kéo nhà họ Phong đến. Bọn họ vừa xuất hiện đã ném một đống tro giấy lên người ta rồi bảo là phù dò ma, cái thứ gì bừa bộn còn bụi bặm, bám dơ hết cả người ta…”

Vừa tỏ vẻ hơi ấm ức bực bội, chàng vừa cúi đầu phủi quần áo mấy cái, phủi ra một ít tro giấy còn sót lại thật.

Chàng giơ đầu ngón tay bám một hạt tro lên. “Xem này.”

Thiên Túc thượng tiên liếc nhìn ngón tay nọ, một hồi lau sau mới “Ừm” một tiếng cho hay đã thấy.

Trên người ma đầu không có lấy một vết xước, hiển nhiên không phải chịu khổ sở gì trong câu chuyện này. Tiêu Phục Huyên tất nhiên là biết vậy, nhưng cũng không đành đôi mắt đang đau đáu nhìn mình.

Y im lặng một hồi, cuối cùng vẫn hỏi một câu, “Ra tay à?”

Ô Hành Tuyết nói, “Họ xuất kiếm.”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Nói đến đây, dường như ma đầu cũng biết hơi lố rồi, bèn tức thì đổi chủ đề và nói, “May mà không gây chuyện quá ồn ào, họ nghe ta giải thích vài câu thì không hô chém hô giết nữa mà đổi ý định, giúp ta đi tìm huynh.”

Nghe đến đây, Tiêu Phục Huyên lay nhẹ ánh mắt.

Lát sau, y hỏi, “Tìm bao lâu rồi?”

Sương khói trong cấm địa mang hơi nóng hừng hực, có lẽ bởi vậy mà giọng y nghe vào không mấy lãnh đạm mà thấp thoáng lộ ra đôi chút ôn tồn.

Ô Hành Tuyết nghe thấy thì ngẩn ngơ, con tim chợt thổn thức.

Lạ kỳ thay, nhung nhớ vẩn vơ bị ép xuống khi nãy lại nhen nhóm lần nữa, nhen nhóm một cách vô cớ, bởi rõ ràng người chàng mất cả đêm để tìm đang ở ngay trước mắt.

“Ừm?” Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ thốt, “Thật ra cũng không bao lâu, có điều lối vào cấm địa được giấu kín quá, hình như chủ quầy còn bị hạ lệnh phong khẩu nên mất cả buổi trời cũng không nói ra được câu nào hữu ích, mà năng lực của mấy người nhà họ Phong cũng có hạn, bảo họ mở giúp ta một khe hở mà cứ nấn ná cả ngày không chịu ra tay, làm mất thời gian vì mấy chuyện không đâu —”

Nói đến đây, chàng chợt lặng thinh. Vì khi vừa nâng mắt lên đã nhìn thấy ánh mắt chăm chú chưa hề dời đi của Tiêu Phục Huyên.

Ô Hành Tuyết định hỏi “Sao thế” thì thấy Tiêu Phục Huyên bất chợt giơ tay lên, ngón tay cong lại và chạm nhẹ lên đuôi mắt chàng.

Ô Hành Tuyết nín thinh trong chớp mắt.

Vì sắp bước vào kiếp kỳ, cơ thể chàng lạnh căm như băng. Khi ngón tay đối phương chạm vào da, chàng có thể cảm nhận rõ rệt hơi ấm, bởi thế mà đến mãi một lúc lâu sau, đuôi mắt hãy còn nóng bỏng.

Dường như cảm xúc ngay nháy mắt ấy quá đỗi tương tự nên một số hình ảnh rời rạc lại hiện lên trong đầu. Sao mà càng đến gần Lạc Hoa Đài, chàng lại càng nhớ về thời quá vãng nhiều hơn.

Bên trong bức tranh nhạt nhoà chợt lướt qua đó, cận kề ngay trước mắt chàng là dấu ấn chữ “Miễn” đang sáng dần lên, hệt như ánh lửa vàng lấp lánh.

Ánh sáng chói loà ấy làm chàng nheo mắt, kế tiếp bị người chạm nhẹ lên đuôi mắt.

Chàng trông thấy Tiêu Phục Huyên vân vê ngón tay và thì thầm, “Ướt rồi.”



Rèm mi Ô Hành Tuyết run lên.

Chàng sờ đuôi mắt theo bản năng, chạm vào hơi ấm còn sót lại từ ngón tay Tiêu Phục Huyên giúp lòng chàng ắng yên trở lại, tựa như một chú cáo tuyết được vuốt xuôi lông.

Khẽ khàng đấu tranh trong âm thầm đôi chút, chàng hỏi, “Vừa rồi mắt ta dính tro giấy nhà họ Phong à?”

Tiêu Phục Huyên thấp giọng ầm ừ, sau một lúc mới mở miệng nói, “Không phải.”

Không phải?

Vậy tại sao huynh…

Ô Hành Tuyết nhìn y.

Sau một lúc nữa, giọng trầm thấp ấm áp vọng lên trong khói sương, “Dịch dung bị phai, ta sửa lại một chút.”

Ánh mắt Ô Hành Tuyết lung lay.

***

Khói sương sau lưng Tiêu Phục Huyên đã tản ra đôi chút, chỉ vừa lay động ánh mắt, trước tầm nhìn chàng đã hiện ra trăm dặm đất hoang cằn cỗi.

Ô Hành Tuyết nheo mắt, hỏi, “Vì sao đất ở đây cằn cỗi đến vậy?”

Tiêu Phục Huyên ngoái đầu nhìn thoáng qua. “… Không biết, lúc ta đến đã như vậy rồi.”

Mùi cháy khét nặng nề vô cùng khiến Ô Hành Tuyết không khỏi băn khoăn, bèn lẩm bẩm, “Thật à?”

Tiêu Phục Huyên giữ mắt nhìn thẳng, nói, “Thật.”

Ô Hành Tuyết không nghi ngờ y, tiếp tục hỏi, “À phải, sao huynh lại đến cấm địa này?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Lúc nửa đêm, ta nghe được một giọng nói.”

Ô Hành Tuyết thấy lạ, hỏi, “Giọng gì cơ?”

Tiêu Phục Huyên: “… Giọng ngươi.”

Ô Hành Tuyết: “?”

“Giọng ta?” Ô Hành Tuyết càng thấy lạ thường. “Giọng truyền đến từ đâu, nói gì cơ?”

Tiêu Phục Huyên đáp, “Từ trong sân, không nói gì, chỉ gọi tên ta.”

Khi đó trời đã về khuya, tiếng gọi “Tiêu Phục Huyên” dẫu khẽ vô cùng nhưng lại rõ ràng khôn kể, chắc chắn y không nghe nhầm.

Ban đầu, Tiêu Phục Huyên còn tưởng người cuộn mình trên giường vì quá lạnh nên kêu tên y, bèn xoay người kiểm tra nhiệt độ đối phương. Thế rồi lại nghe thêm một tiếng nữa.

Y lại tưởng là tượng thần trong túi gấm treo bên hông.

Đến khi nghe tiếng gọi lần thứ ba, y mới phát giác âm thanh kia vọng vào từ bên ngoài sân.

Nếu đây là ngày thường, biết được Ô Hành Tuyết thật đang nằm yên trên giường rồi, chắc chắn y sẽ không bị âm thanh từ bên ngoài kia làm phân tâm mà chỉ cần chém một nhát kiếm sang là được.

Thế nhưng, vì đây là ảo cảnh trong phố núi Lạc Hoa nên y hơi do dự. Lý do vì bên trong phố núi không chỉ có Ô Hành Tuyết hiện tại, mà có lẽ còn có Ô Hành Tuyết của năm xưa.

Y không thể hấp tấp xuất kiếm.

Bởi vậy, y bước đến cửa sổ và mở một cánh ra, dõi mắt về hướng phát ra âm thanh. Thế mà nơi đó tối đen không ánh sáng, chẳng cách nào thấy được bóng một ai.

Xét thấy khoảng cách không xa, Tiêu Phục Huyên bèn không tách linh thần ra khỏi thể xác mà chỉ thả một sợi linh thức từ đầu ngón tay vào trong sân để thăm dò.

Giọng nói kia truyền đến từ một góc tường trong sân, dòng linh thức y vừa chạm đến góc tường nọ đã thình lình cảm thấy một cơn gió lộng lên từ đất phẳng, cuốn cả người y vào bên trong.

Đến khi y đánh tan cơn lốc thì thấy mình đã đứng nơi đây.

“Thật kỳ lạ quá,” Ô Hành Tuyết nói. “Trong phòng có đến hai người, nhưng sao lại chỉ kéo một người vào trong? Không lẽ cấm địa này biết nhận ra người hay sao?”

Nhưng dù có nhận ra người đi chăng nữa thì cũng nên nhận chàng, chứ sao lại là Tiêu Phục Huyên?

Dù sao, năm xưa chàng đã từng nói mình ra đời ở đây cơ mà. Nếu tính theo nguồn gốc thì quan hệ của chàng còn sâu nặng hơn.

Ô Hành Tuyết suy tư một hồi, cuối cùng chỉ kết luận ra một đáp án — không phải cấm địa chủ động kéo Tiêu Phục Huyên vào, mà có ai đó đã nhúng tay chỗ này hòng kéo Tiêu Phục Huyên vào trong cấm địa.

Trong trường hợp đấy, vấn đề này có chút thâm thuý…

Trên đời này, có bao nhiêu người có khả năng hạ chiêu như vậy với Thiên Túc thượng tiên?

Ô Hành Tuyết hãy còn nghiền ngẫm trong đầu, đã nghe Tiêu Phục Huyên nói, “Ngươi vừa nói nơi này là cấm địa? Có nghe được chuyện gì à?”

Ô Hành Tuyết hơi bỡ ngỡ, vừa tính hỏi “Huynh không biết à?”, thì đã nhanh chóng nhận ra, lúc ông chủ nhà trọ kể chuyện Tiêu Phục Huyên không có ở đó nên không nghe được. Còn câu “Lạc Hoa Đài từng có một gốc thần mộc” trên Toạ Xuân Phong khi xưa cũng là lời hàng trăm năm về trước, có nghe qua cũng chưa hẳn nhớ rõ. Mà dù nhớ rõ cũng chưa chắc sẽ lập tức liên hệ đến ngay được.

Huống hồ…

Ô Hành Tuyết nhìn về nơi xa, suốt dải đất hoang cằn cỗi này đến một cành cây cũng không thấy. Vừa nãy mà không tình cờ nhớ đến đoạn đối thoại trên Toạ Xuân Phong kia thì ắt chính chàng cũng không cách nào đoán được đây là chốn niêm phong cây thần.

Vả chăng, mặc dù nói là niêm phong nhưng chàng cũng không nhìn thấy dấu vết nào của thuật phong ấn. Ngoại trừ khói sương dày đến ngạt thở phát ho, có thể nói mặt đất hoang cằn cỗi này hoàn toàn tĩnh lặng.

“Huynh vừa vào thì nơi đây đã im lìm đầy tử khí như thế này à?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Tiêu Phục Huyên đáp “Ừm”.

Ô Hành Tuyết lại hỏi, “Không gặp phải trận pháp linh tinh gì à?”

Tiêu Phục Huyên: “Không.”

Ô Hành Tuyết tự nhủ <i>thật kỳ lạ</i>. Nhớ ban nãy còn nghe Tiêu Phục Huyên bảo “sát khí nặng nề”, chàng mới phân vân hỏi, “Vậy sát khí huynh nói là ở đâu?”

Dường như Tiêu Phục Huyên hơi nghẹn lời, đoạn đằm giọng đáp, “Hù ngươi thôi.”

Ô Hành Tuyết: “?”

“Nếu đã vào đây rồi…” Tiêu Phục Huyên trông như hơi nhức đầu, “thì không có gì để bàn nữa.”

Ô Hành Tuyết nhìn xuyên qua màn sương khói, thấy có thứ lờ mờ gì đó ở phía xa xa.

Chàng nheo mắt lại, vỗ vỗ Tiêu Phục Huyên. “Ở đằng kia… có một căn nhà phải không?”

Tiêu Phục Huyên: “Chắc là một đền thờ, ta vốn đang định sang đó xem.”

Ô Hành Tuyết: “Nhưng?”

Tiêu Phục Huyên: “… Nhưng loáng thoáng nghe thấy ở bên ngoài có người nói ‘Nếu không mở được thì sẽ náo động hết mức có thể’.”

Có người: “…”

Ô Hành Tuyết im re một lúc rồi mới duỗi tay đẩy Tiêu Phục Huyên đi về phía trước. “Đi thôi đi thôi, ta không nói.”

***

Họ bước qua mảnh đất hoang cằn cỗi và trống trải đến dị thường kia, rồi dừng chân trước bóng đen nọ.

Đúng như Tiêu Phục Huyên nói, đây đích thị là một đền thờ, được dựng đơn lẻ đến dị thường trên mảnh đất khô cằn. Phía bên ngoài đền thờ xây bằng gỗ sẫm màu, bệ thờ bên trong và nền đất được lát bằng bạch ngọc.

Được thờ phụng trên bệ là một pho tượng nho nhỏ cũng đẽo bằng bạch ngọc. Rất khác với những tượng thần thường gặp, pho tượng này không toát ra thần thái trang nghiêm, uy nghi và từ bi; đó là một người thiếu niên đang tựa lưng vào một thân ngọc thụ cao ngất.

Pho tượng này không chạm mặt nên không biết thiếu niên nọ trông ra sao, song nhìn qua thôi có thể thấy người này cao ráo và hiên ngang. Sau lưng pho tượng đặt một phiến bia đá có khắc chữ bên trên, dòng chữ trên cùng hẳn là tên huý của người thiếu niên này.

Một cái tên kỳ lạ: Bạch Tướng.

Ô Hành Tuyết định lấy tấm bia ra xem thử thì chợt nghe được một giọng nói xa xăm vang lên, “Không được chạm vào, ngươi sẽ chết…”

Ô Hành Tuyết sựng tay.

Giọng nói nọ đến bất ngờ và kỳ dị, chàng đưa mắt nhìn một vòng cũng không phát hiện ra điểm khởi nguồn của nó. Tiêu Phục Huyên vung kiếm gạt mành vải bàn thờ, bên dưới bệ thờ chỉ có một lư nhang đựng đầy tro chứ không có người nào.

Ô Hành Tuyết suy tư giây lát, bỗng thấy có gì đó không ổn.

Giọng nói kia không giống như phát ra từ xung quanh, mà hình như là…

Từ trên đỉnh đầu.

Chàng nhíu mày, lập tức ngước mặt lên trên.

Và nhìn thấy trên xà nhà cao trên đỉnh miếu thờ dày đặc những gương mặt người… như thể toàn bộ mái nhà nhung nhúc toàn người bị treo ngược thân, chân móc lên trên và đầu chúc xuống dưới.

Ô Hành Tuyết: “…”

Ma đầu suy xét thì thấy với tình cảnh này, hoàn toàn có thể với tay níu tay áo Thiên Túc thượng tiên.

Số lượng mặt người quá là đông đảo, có đủ nam nữ già trẻ lớn bé, mà mặt ai nấy đều trắng bệch. Khi cơn gió thoáng lướt nhẹ qua cũng làm lung lay sợi dây cột chân họ và vang lên tiếng cót két khe khẽ.

Trong phút chốc, không cách nào nhận ra rốt cuộc câu “Không được chạm vào, ngươi sẽ chết” đến từ gương mặt nào.

Cả chàng và Tiêu Phục Huyên đều cau mày mà ngước mặt nhìn lên chúng.

Đang khi tìm kiếm, giọng nói nọ lại vang lên văng vẳng, “Cấm địa này phủ tầng tầng lớp lớp đao trận hoả trận, đi kèm tám mươi mốt đạo Cửu thiên Huyền lôi, thế mà chẳng mấy đã bị phá tan toàn bộ…”

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng có hơi kinh ngạc. “Đao trận? Hoả trận? Cửu thiên Huyền lôi? Ở đâu cơ?”

Giọng nói kia lại vang lên, “Hắn đã phá tan hết, chúng ta đều nhìn thấy.”

Ô Hành Tuyết ngẩn người đôi chốc mới ngỡ ra “Hắn” trong lời giọng nói kia nhắc đến là ai.

Thành thử, chàng hé khẽ miệng và quay đầu nhìn Tiêu Phục Huyên.

“Huynh…” Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ hỏi, “huynh vừa mới nói từ lúc bước vào đây thì cấm địa này đã im lìm tử khí như vầy rồi?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

“Huynh nói ở đây không có trận pháp, không nhìn thấy bất kỳ thứ gì?”

“Còn nói sát khí nặng nề chỉ để hù doạ ta.”

Tiếng cười giễu cợt vẳng lại từ trên đỉnh đầu, đám mặt người đó lần lượt há miệng hô thành tiếng, âm thanh nhẹ nhàng như mây gió, “Giả.”

“Giả.”

“Gạt ngươi thôi.”



Đúng thật là giả.

Ngay khi vừa bước vào cấm địa đã gặp núi đao biển lửa trải kín không một chỗ trống, vốn không chừa bất kỳ cơ hội nào cho người ta có thể thở được. Trừ phi sử dụng tường người để bảo vệ bản thân, bằng không đoan chắc nếu người yếu một tí lọt vào đây sẽ không có cơ may tìm được hy vọng sống sót nào.

Bởi lẽ đó, Tiêu Phục Huyên không cách nào phân tách thần thức để trở về nhà trọ và báo tin cho người đang ngủ say.

Cho đến khi sát khí vơi đi quá nửa, tiếng động bên ngoài cấm địa mới dần loáng thoáng lọt vào tai y.

Vừa nghe đoạn đối thoại giữa Ô Hành Tuyết và người nhà họ Phong, Tiêu Phục Huyên vừa cản mấy đạo huyền lôi cuối cùng. Tay bổ trường phong chém ngang biển lửa, hiên ngang vung kiếm khí vô biên đặng quét đi sạch sẽ hàng chục dặm lửa đỏ hừng hực.

Sau khi ánh lửa cuối cùng lụi tàn, mảnh đất hung trở nên cằn cỗi, không còn thấy sát chiêu nào nguy hại tính mạng nữa, y mới rũ bỏ bụi đất trên thân kiếm, bước dài một bước tới lối vào cấm địa.

Y còn chưa kịp xem xem trong cấm địa này có thứ gì, còn không ngó ngàng gì đến bóng dáng đền thờ đằng xa chứ đừng nói chi đến việc tìm hiểu xem nơi cấm địa này đang phong ấn thứ gì.

Sau khi quẹt mu bàn tay lau sạch tàn tro bám lại trên cằm, y tra kiếm vào vỏ, xong xuôi mới duỗi tay kéo người đứng bên ngoài vào trong.

Lời tác giả:

Để mọi người đợi lâu… chương này viết lần đầu không đúng lắm nên tui viết lại lần nữa.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 41: Chuyện giả


Những người treo ngược trên đỉnh đầu nhốn nháo nói chuyện.

Giọng họ văng vẳng như vô số nguồn âm thanh va vọng vào nhau, xong lại cười khúc khích, tiếng cười thoắt gần thoắt xa đan xen trong tiếng dây thừng lay cót két rồi càng lúc càng trở bên bén nhọn, đến cuối cùng gần như toàn bộ cấm địa bị phủ trùm trong tiếng cười khằng khặc.

Tiếng cười lanh lảnh vang lên một lúc dài rồi đột ngột dừng bặt trước nét mặt khó coi của Thiên Túc thượng tiên.

Không một ai cất lời, cả căn miếu chìm vào sự tĩnh mịch…

Dù cảnh tượng thật sự quái dị, song ma đầu không khỏi cảm thấy hơi buồn cười.

Ô Hành Tuyết thu lại nét cười trước khi Tiêu Phục Huyên đưa mắt sang, nghiêm nét mặt mà hỏi, “Các người là người phương nào?”

Sợi thừng lung lay, những người nọ lắc lư chầm chậm theo. Vì họ bị treo ở đây quá lâu rồi nên cả cơ thể lẫn mặt và cổ đều bị trĩu xuống dài ngoẵng, biến dạng hoàn toàn không còn nhận ra hình thù vốn dĩ.

“Chúng ta?”

“Chúng ta là người phương nào?”

“Ha ha ha ha ha.”

Nghe thấy câu hỏi này, không rõ vì sao mà họ bật cười khanh khách, rồi sau một hồi lại lặng đi lần nữa và cất lời bằng thứ giọng điệu thầm thì mà rằng —-

“Chúng ta đã chết.”

“Đừng nói bừa, chúng ta còn sống.”

“Thế thì đã chết, nhưng vẫn còn sống.”

“Ôi…”

Tiếng thở dài không biết từ người nào, kéo theo những tiếng thở dài liên hồi nối tiếp từ những người khác, khiến người nghe vào cực kỳ bức bối.

Ô Hành Tuyết nheo mày, cảm thấy những người này không giống với tà ma, vật tính âm, hay thậm chí là những bá tánh bị triệu hoán đến thung lũng Đại Bi mà chàng gặp lúc trước.

Vật tính âm và tà ma cấp thấp không thể nói chuyện, chúng chỉ láo nháo như những sinh vật chưa khai trí, không biết gì khác ngoài đói và ăn. Những tên phát triển hơn có thể sống không khác gì con người, chúng học đóng giả cách sinh hoạt như người sống, nếu năng lực kém khó lòng phân biệt được. Thậm chí những bá tánh gặp nạn bị triệu hoán cũng nói năng khá rành mạch khi chưa bị phát hiện.

Đây là lần đầu chàng đương đầu tình huống thế này, không biết nên nói thế nào.

“Bọn họ là gì?” Ô Hành Tuyết níu Tiêu Phục Huyên một chút và hỏi nhỏ.

“Không biết,” Tiêu Phục Huyên nói.

Có muôn vàn những thứ lạ lùng trên thế gian, hình thù linh hồn vô cùng đa dạng, dù là thần tiên cũng chưa chắc từng thấy hết cả hay liếc mắt nhìn liền biết ngay đó là gì. Thiên Túc thượng tiên vốn đã kiệm lời, còn không thích nói sai sự thật, một khi không đoán ra vật đó là gì thì khi hỏi chắc chắn sẽ đáp “Không biết”.

Thói quen này trên Tiên Đô vang danh đã lâu, nhưng lần nào cũng bị chính người này phá mất.

“Vậy huynh nói bừa một loại đi,” Ô Hành Tuyết nói.

Tiêu Phục Huyên: “…”

Tiêu Phục Huyên: “Trói.”

Ô Hành Tuyết: “Hửm? Đó là gì thế?”

Ma đầu này lập tức trưng vẻ mặt “Thượng tiên tuyệt vời quá” và kính cẩn lắng nghe.

Kính cẩn đến mức Thiên Túc thượng tiên bất chấp tất cả và mở miệng nói tiếp, “Nhờ có linh phách mà phàm nhân có thể bước vào luân hồi sinh tử, khi người ta chết, linh phách sẽ bước vào vòng luân hồi kế tiếp. Hoa nở rồi tàn, tuần hoàn lặp lại. Nhưng linh phách và thể xác không phải lúc nào cũng đồng hành. Có một số người dù thể xác đã chết, nhưng vì một lời hứa hay một ước hẹn nào đó, hoặc mang chấp niệm chưa nguôi mà linh phách vẫn vương vấn không rời đi, sống lang thang tháng ngày như người sống, đó gọi là <i>chấp</i>. Trường hợp ngược lại, thể xác chưa chết nhưng linh phách đã bị lột sống ra rồi dùng biện pháp nào đó để trói lại khiến họ không cách nào thoát được, nó tạo thành <i>trói</i>.”

Tiêu Phục Huyên nói, “Trông dáng vẻ bọn họ có hơi giống <i>trói</i>.”

Ô Hành Tuyết vẫn còn cảm thấy bình thường lúc nghe đến “chấp”, dù gì đó cũng là chấp niệm chưa nguôi ngoai của chính bản thân khiến họ không muốn rời khỏi. Thế nhưng đến “trói” thì lạnh tanh cả mặt…

Chàng suy tư chốc, hỏi, “Linh phách bị trói buộc, vậy thân thể họ thì sao?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Thân thể vẫn ở nơi họ thường ở, không chết không tan và cũng không thể rời khỏi, nhìn vào khó lòng phân biệt.”

Ô Hành Tuyết: “Đến huynh cũng cảm thấy khó phân biệt? Tại sao vậy? Vì họ không giống người chết nên không có thi khí à?”

Trước đây, Tiêu Phục Huyên từng gặp qua một vài “trói” đó đây rồi, bèn giải thích, “Cơ thể của những người bị trói là bất tử, song họ không biết chuyện gì xảy đến với mình. Lâu ngày như vậy, chính bản thân họ cũng bị lừa.”

“Lừa như thế nào?”

“Họ sẽ tiếp tục sống lại.”

Ô Hành Tuyết nghe thấy mà sững sờ, “Ý huynh là… thân thể họ sẽ quay về trạng thái trẻ sơ sinh, chào đời lại lần nữa rồi sống tiếp lần nữa?”

“Không bắt buộc khởi đầu từ sơ sinh, cũng không bắt buộc cần sống đến già. Việc này tuỳ thuộc nào mỗi người.”

Ô Hành Tuyết suy xét tình huống như vậy, cảm thấy quả thật có phần rùng rợn — một thể xác ngay cả linh phách cũng không còn, thì sống có khác gì một xác chết biết đi. Thế nhưng người đó lại hoà mình trong đám đông người sống, sẽ có quá trình lớn lên, sẽ thay đổi diện mạo theo năm tháng, sẽ nói sẽ cười cùng mọi người xung quanh.

“Nếu vậy quả thật đến thần tiên cũng khó lòng phân biệt…” Ô Hành Tuyết nói. “Thế nhưng những người thân ở cạnh bên ắt là sau mấy chục năm có lẽ sẽ nhận ra.”

Song, chỉ e một khi nhận ra, người kia sẽ bị kinh sợ đến điếng hồn mất!

Cứ thử tưởng tượng, có một người luôn chung chăn gối, hoặc người thân trong gia đình, hoặc bạn bè hàng xóm ngày ngày luôn gặp gỡ nói cười với chúng ta, bỗng một ngày nào đó ta nhận ra dường như người kia đã không phải là người sống từ rất lâu rồi… có bao nhiêu thường dân bá tánh có thể chịu nổi cú sốc nặng nề như vậy?

Tuy thế, người đớn đau nhất hẳn vẫn là chính họ.

Ô Hành Tuyết chợt cảm thấy những người bị treo ngược nơi đây thật đáng thương, chàng ngẩng đầu lên hỏi, “Các người bị treo ở đây bao lâu rồi?”

Những người đang lung lay trong gió thình lình xoay lưng về phía chàng, rồi chầm chậm dời về phía trước. Vì bị treo ngược như vậy nên khoé môi bọn họ trễ xuống tận hai bên má, trông như thể đang treo một nụ cười kỳ dị bất khả kháng trên gương mặt.

“Ta… ta không nhớ nữa.”

“Lâu lắm rồi, đã lâu lắm rồi.”

“Gần trăm năm?”

Ô Hành Tuyết nghĩ thầm: Thảo nào những người bị treo ngược này lại nói năng bất nhất như vậy, lúc thì bảo còn sống, lúc thì nói đã chết, người này xọ người nọ lại càng rối ren mông lung hơn. Đã bị bóc linh phách khỏi cơ thể và nhốt trong cái nơi ma quái này hơn trăm năm như vậy, e rằng dù có là người nào cũng mụ mị đầu óc, tâm thần bất ổn mà thôi.

“Vậy khi xưa quê quán các người ở đâu?” Ô Hành Tuyết hỏi tiếp.

Thật lòng, chàng cũng không mong đợi câu trả lời, cũng không cảm thấy bọn họ có thể nói ra ngọn nguồn cụ thể, có lẽ họ sẽ đáp “quên rồi”, “không nhớ” hay đại loại như vậy.

Ngờ đâu, bọn họ lại nhao nhao trả lời —

“Lãng Châu.”

“Côi Châu.”

“Người Tây Viên.”

“Dưới chân Bất Động sơn.”



Những địa điểm phong phú và đa dạng hùa tới như sóng thuỷ triều, inh ỏi réo vang trong đầu đại ma đầu.

“Được…” Ô Hành Tuyết nói, “Ta biết rồi.”

Trên khắp thiên hạ, đâu đâu cũng là quê quán mấy người.

Ô Hành Tuyết tính toán trong lòng.

Đây là một đền thờ, tác dụng thông thường của vật phẩm trong đền thờ là để cúng tế, thờ phụng gì đó; nói vậy những linh hồn bị trói buộc nơi này có khả năng cao là dùng cho mục đích trên.

Chàng vừa định hỏi “Ai đã trói các người lại đây”, “Vì sao các người lại bị chọn”, tuy nhiên vừa há miệng đã bị Tiêu Phục Huyên cản lại.

Dường như Thiên Túc thượng tiên có thể nhìn thấu suy nghĩ của chàng, bèn chủ động nói, “Có một vài chuyện không nên nhắc đến, ví dụ như…”

Y dừng đoạn, quay đầu sang kề gần bên tai Ô Hành Tuyết, thì thầm, “Oán chủ.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Dù biết là Tiêu Phục Huyên chỉ không muốn những bị treo kia nghe được, thế nhưng như này…

Ma đầu khép mắt lại, lát sau mới hỏi tiếp, “Vì sao?”

Chất giọng điềm nhiên của Tiêu Phục Huyên vẫn thủ thỉ như cũ, “Nhắc đến dễ khiến oán khí trỗi dậy, còn chưa biết rõ cấm địa này ra sao, khoan hãy hành động hấp tấp.”

Ma đầu: “Được…”

Chàng ngoan ngoãn lắng nghe xong xuôi, sau khi Tiêu Phục Huyên đứng thẳng người dậy mới chỉnh lại áo khoác, che kín phần lông chồn lên quá nửa tai.

Giữa lúc hai người thầm thì với nhau, những người treo ngược trên xà nhà vẫn lung lay nhè nhẹ, dù vậy, thân thể họ có dời phía nào đi nữa thì mấy tròng mắt nọ đều lom lom nhìn về hai người xâm nhập cấm địa. Đuôi mắt họ kéo dài, khi liếc nhìn từ khoé mắt ra phía ngoài trông vừa âm u vừa chăm chú vô cùng.

Họ nhìn một lúc lâu, rồi bất chợt mấy người trong họ run bần bật bả vai.

Tiếp đó, nhiều người khác cũng nối bước lay động trong âm thầm — vô số những nhánh dài màu da lặng lẽ rủ xuống từ hàng người nhung nhúc, không khác gì một cánh rừng đảo ngược.

Nếu quan sát kỹ, có thể thấy những nhánh kia không phải là nhánh cây mà là một cánh tay không xương bị kéo dài ra. Những người đó từ từ mở miệng, mấy cánh tay nọ uốn éo như thân rắn, phóng thẳng về phía hai người.

Toàn bộ ngôi đền vẫn tĩnh lặng như tờ, hai người đang nói chuyện chừng như không hề hay biết, thậm chí còn không quay đầu lại.

Đại ma đầu nghiêm nét mặt mà nói, “Nhưng ta còn có một thắc mắc.”

Tiêu Phục Huyên khẽ lay ánh mắt. “Nói.”

“Nếu có kẻ khiêu khích chúng ta trước thì sao?” Ô Hành Tuyết hỏi vô cùng thản nhiên.

“Vậy thì cứ… giết.” Tiêu Phục Huyên nói, ngón cái đẩy chuôi kiếm ra, thanh trường kiếm trên tay vạch nên một vòng cung đẹp đẽ khôn cùng, kiếm khí buốt lãnh bắn vun vút mãnh liệt tạo thành hằng hà lưỡi đao căm căm xé gió.

Y còn chớ cần ngoái đầu, lưỡi đao lạnh lẽo đã vòng ngược ra sau.

Chỉ nghe thấy vô số tiếng <i>phực phực</i> vang lên cùng lúc, mấy ngàn cánh tay ngoằn ngoèo như dây leo đã mất bao công sức lẻn tới sau lưng hai người họ, chỉ một chút nữa thôi là đến nhưng không bao giờ chạm được người. Chúng rơi lộp độp đầy đất giữa những tiếng thét bi thảm.

Ngay kế đó, những lưỡi đao lạnh căm kia đổi hướng, đằng đằng sát khí mà chém thẳng về đám người đang treo ngược trên xà.

Đám người uốn éo điên cuồng mong tránh né nhưng không cách nào thoát được, ngay khi lưỡi đao lạnh lẽo vồ xuống đỉnh đầu, họ mất kiểm soát mà la hét thất thanh, “A a a a a a a a —”

Song, lưỡi đao căm căm kia dừng lại ngay trước khi chạm đến da đầu!

Họ gần như mường tượng đến cảnh bị chém làm đôi rồi, mà chờ mãi không thấy lưỡi đao lại gần hơn nữa. Cảm giác chực chờ dai dẵng này mới thực tra tấn cực độ. Nó khiến bọn họ run rẩy cả người, run đến dây thừng cũng theo đó mà vang lên những tiếng cót két.

“Khó khăn lắm mới chờ đến lúc có người đến đây nên muốn bắt lại treo lên rồi thay thế cho các người à?” Ô Hành Tuyết ngước mặt lên hỏi.

“…”

Những người nọ hãy còn run rẩy, không ai nói một tiếng nào. Bầu không khí trong đền thờ trầm lắng trong sự im lặng thay cho một lời cam chịu.

Ô Hành Tuyết cũng không tức giận. Chàng đã thấy cảnh tương tự mấy lần rồi nên vô cớ nảy sinh cảm giác gặp nhiều thành quen. Những người bị nhét vào tượng đồng tử lúc trước cũng giống như những người đang bị trói linh phách nơi đây, họ luôn muốn tìm một chú chim non bất hạnh khác đến thay thế cho mình.

Chỉ là khốn thay, họ tìm nhầm người rồi.

Ô Hành Tuyết thoáng nhìn sang Tiêu Phục Huyên và hỏi, “Ta có thể làm một giao dịch trao đổi với họ chứ?”

Tiêu Phục Huyên: “… Ta cản ngươi à.”

Ô Hành Tuyết hài lòng ngẩng mặt lên lần nữa. “Thế này đi, các người bị nhốt ở đây lâu rồi nên cũng biết nhiều. Nếu các người giải thích rõ ràng tình hình trước sau trong cấm địa này cho chúng ta nghe, thì chúng ta sẽ tìm cách giải trói linh cho các người.”

Ngờ đâu những người kia dần xoay mặt về phía chàng. “Ngươi không giải được.”

Ô Hành Tuyết hỏi, “Sao các người khẳng định như vậy?”

Những người kia vươn cánh cổ dài, đau đáu nhìn những lưỡi kiếm kia rồi nhắc lại câu đó một lần, “Khẳng định ngươi không giải được.”

Ô Hành Tuyết vừa tính hỏi lại tiếp thì bỗng nhiên thấy có một người trong số linh phách bị treo ngược có biểu hiện cực kỳ thất thường, trông người nọ có vẻ tỉnh tảo hơn những kẻ bị treo ngược khác một chút, tròng mắt ông ta không mịt mờ trầm đục.

“Huynh nhìn người kia xem,” Ô Hành Tuyết chọt Tiêu Phục Huyên tí chút, tỏ ý muốn y nhìn sang người lạ thường kia. “Ông ta sao thế?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Có lẽ thân thể đã sắp tỉnh nên linh phách bị giày vò mãnh liệt.”

Thân thể sắp tỉnh?

“Ý huynh là, thể xác của người nọ đã sắp nhận ra bản thân mình không phải là người sống?” Ô Hành Tuyết hỏi.

“Không phải sắp, có lẽ đã nhận ra rồi.”

Người kia giãy giụa, gương mặt méo mó của ông ta biến dạng thiếu điều đảo ngược lại, bọng mắt phồng to lên khiến ông thiếu điều không mở mắt lên nổi. Ông ta khó khăn đưa mắt về phía Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, hé miệng rồi đóng lại mấy lần mà không nói ra được một chữ nào.

Sau một hồi lâu, ông mới nấc lên một câu, “Tôi khó chịu quá…”

Ô Hành Tuyết nhìn chòng chọc vào bọng mắt kia, thốt nhiên sửng sốt.

“Ta biết ông ta là ai,” chàng nắm lấy Tiêu Phục Huyên, nhỏ giọng nói.

Trước đây, mặt ông ta đảo ngược, rồi còn dài dẵng ra khiến chàng khó lòng nhìn rõ. Giờ đây, giữa lúc thân thể người nọ co giật rung chuyển liên hồi, nên trong một tích tắc nào đấy, lúc nhìn rõ bọng mắt to tướng kia, hai người đã tìm thấy nét quan thuộc trên gương mặt ông ta.

Đó là ông chủ quán trọ.

Trong khoảnh khắc, Ô Hành Tuyết dường như không kịp phản ứng.

Tại sao ông chủ quán trọ lại xuất hiện ở đây?

Thế rồi, chàng sực nhớ lúc chưa bước vào cấm địa, trông bộ dáng ông chủ như muốn nói gì đó nhưng không thể nói, bỗng dưng mọi mối nối đều liên kết lại với nhau —

Nếu những linh phách bị trói buộc này không phải tế phẩm thì sao? Nếu lý do họ bị lột linh phách thật ra là để cơ thể họ phải ở lại một nơi nào đó thật lâu, lâu đến vĩnh viễn, bất tử bất diệt không cách nào rời khỏi, thì sao?

Nếu phong ấn thần mộc thật ra không hề đơn giản và nhẹ nhàng như trong truyền thuyết hằng kể, thứ nó cần không chỉ là đôi ba trận cục hay một vùng cấm địa, mà cần rất rất nhiều người thì sao?

Và ông chủ quán trọ chỉ tình cờ là người canh giữ lối vào mà thôi.

Ô Hành Tuyết chợt nảy ra một suy đoán cực kỳ rợn người —

Tiêu Phục Huyên nói rằng, một khi những linh phách này bị tách khỏi cơ thể và trở thành <i>trói</i>, thể xác của họ vẫn sẽ tiếp tục sinh sống ở chỗ cũ, và sẽ tiếp tục sống lại, thoạt trông không khác gì người sống, ngay đến thần tiên cũng khó lòng phân biệt, chỉ có người hằng ngày sống gần đó mới có cơ hội nhận ra.

Vậy nếu những người sống gần đó cũng là <i>trói </i>thì sao? Nếu tất cả làng xóm họ gặp hàng ngày đều là <i>trói </i>thì sao?

Có phải khi đó chắc chắn không một ai phát hiện ngay được không?

Chàng đã quên mất không biết có ai từng nói rằng, Lạc Hoa Đài là một nơi thật tuyệt đẹp, dẫu cho thế gian có loạn lạc nhường nào thì nơi nọ vẫn luôn nhàn nhã an khang, rộn ràng náo nhiệt, người người sôi động xôn xao.

Và có ai đó đã từng nói rằng, có lẽ linh khí của thần mộc năm nào hãy còn vương lại đã luôn phù hộ nơi ấy.

Giờ ngẫm lại, câu chuyện đó nghe thật bất thường. Làm gì có chuyện người sống nào không chịu ảnh hưởng trong thời loạn lạc.

Thế nhưng, nếu toàn bộ phố núi đều bị trói thì sao? Nếu tất thảy những rộn ràng náo nhiệt đã tàn diệt từ lâu, chẳng qua chỉ đang bị khoá lại chốn cũ để rồi từ năm này sang năm nọ, vào mỗi mùng ba tháng ba lại thắp đèn khai trương, thì sao?

Giống như, những thân thể không có linh phách kia chỉ đang tự dối mình mà thực hiện một chu kỳ tuần hoàn — lớn lên, già đi, vui cười với người khác.

Sắc mặt Ô Hành Tuyết thâm trầm hẳn đi, ánh mắt chàng lướt nhìn qua những gương mặt chen chúc.

Lúc này nhìn lại, cuối cùng chàng đã nhìn ra một vài gương mặt có phần quen thuộc — đây là tiểu nhị béo tròn của quán trọ, và kia là tiểu nhị ở quán trà không ngừng hô hào lúc chàng vừa đặt chân vào phố núi Lạc Hoa, cả vị tiên sinh với gò má cao thuyết giảng trước cửa quán, viên hầu bàn đứng ra giải thích chuyện chiếc xe chở son phấn bị đổ ngã…

Và đến chót cùng, chàng dường như không tách bạch được, rốt cuộc lúc này chính mình đang phân biệt từng người từng người kia, hay liệu Ô Hành Tuyết của năm đó có phải cũng điểm qua gương mặt từng người như vậy hay không.

Đó đều là những gương mặt góp phần vào sự hối hả sinh động của Lạc Hoa Đài, họ là những người thắp lên ánh nến soi sáng mười hai dặm rặng núi, như một chú rồng dài rạng rỡ thâu đêm.

Đó là phố núi Lạc Hoa mà chàng từng tấm tắc ca ngợi với nhiều người.

Đó là nơi chàng ra đời.

Lời tác giả:

Đợi lâu ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 42: Nhân quả


“A a a…”

Linh phách chưởng quầy r3n rỉ một cách yếu ớt, nghe vào nửa thảm thiết nửa thê lương, ông không ngừng lặp đi lặp lại, “Tôi khó chịu quá, khó chịu quá, tôi khó chịu quá…”

Ban đầu, giọng ông hét lên tru tréo, rồi mỗi lúc một yếu đi, cuối cùng chỉ còn là tiếng lẩm bẩm khe khẽ. Tựa như một người lâm bệnh nặng đã rơi vào hôn mê, thi thoảng mới khó khăn tỉnh táo lại đôi chút, nhưng rồi lại thiêm thiếp trong vô thức. Ông muốn gào thật to song vô vọng, chỉ đành nấc lên những âm thanh nghẹn ngào.

Những người bị treo ngược còn lại đều nhìn sang ông.

Ban đầu, họ còn rầm rì be bé, những khi có biến đổi gì sẽ hùa theo nhau nói liên miên không nghỉ. Mà lúc này đây, tất cả đều rơi vào tĩnh lặng dị thường.

Họ im thin thít nhìn chưởng quầy, thấy lớp da thịt bên khoé miệng ông đã chùng xuống đến gò má, nhưng vì bị treo ngược nên trông khốn khổ đến tột độ.

“Vì sao ông ta khóc…” có ai đó thỏ thẻ hỏi một câu.

Câu hỏi này tưởng chừng giọt nước đổ vào dầu sôi, khiến tất cả linh phách treo ngược kia đột ngột kinh hãi và đồng loạt bùng nổ.

Vô số tiếng khóc than dâng trào, hết thảy đều tràn vào tai Ô Hành Tuyết. Chàng bất giác cảm thấy khói sương nơi này sao nghẹt thở quá, cái ngột ngạt nặng nề chèn ép lục phủ ngũ tạng chàng đến tê lạnh, từ đó nhói lên cảm giác kinh tởm trong vô cớ.

Chìm trong cảm giác kinh tởm ấy, Ô Hành Tuyết nghĩ: <i>Không có ký ức đã thấy lòng tê tái đến nhường này, thì khi có ký ức sẽ ra sao? Không biết năm xưa mình đã nghĩ gì khi biết được chuyện này…</i>

<i>Keng!!!</i>

Tiếng kiếm vút ra đột ngột vang lên và chém bay màn khói!

Ô Hành Tuyết bỗng chốc hoàn hồn, ngẩng đầu nhìn sang. Liền đó, đã thấy thanh kiếm với danh tự Miễn trên chuôi mạnh mẽ quét ngang nóc đền, loé nên quầng sáng vàng rực rỡ. Dù không nhìn thấy nét mặt người vung kiếm thì vẫn có thể cảm giác được khí lạnh thấu xương từ kiếm ý băng giá cuồn cuộn sát khí.

Tương truyền Thiên Túc thượng tiên một tay chưởng <i>hình </i>một tay chưởng <i>xá</i>. Nếu những người ở phố núi Lạc Hoa là người vô tội, do vướng tai ương mà bị nhốt nơi này, thì một khi Tiêu Phục Huyên ra tay ắt có thể cứu giải cho họ.

Ô Hành Tuyết đinh ninh là vậy, Tiêu Phục Huyên nghiễm nhiên cũng tin là thế.

Ánh sáng vàng chói lọi đánh rung toàn bộ khu cấm địa, khói bụi tung mịt mù, nhuốm xám ảm đạm cả bầu trời trong xanh. Luồng sáng ấy lướt qua với sức lực khiếp đảm không cách nào ngăn trở, che phủ tất cả linh phách nơi đây trong ánh vàng. Muôn nghìn ấn khắc chữ vàng ùn ùn chảy xuôi dọc theo luồng sáng vàng hệt như đang tiêu trừ nghiệp trên thế gian.

Cảnh tượng ấy khiến tất cả linh phách ngỡ ngàng há hốc miệng, lặng im mà quên đi than khóc. Trong một khoảnh khắc nhất thời, chút hy vọng như le lói bùng lên giữa tròng mắt lom lom của họ.

Nhưng chỉ trong tích tắc, tia sáng trong mắt đã tức thì vụt tắt…

Chỉ thấy lưỡi kiếm mang chữ Miễn lạnh lùng quét qua, mà bao sợi thừng trói linh phách chồng chất trên xà vẫn giữ nguyên trạng thái lắt lư trên không trung, chẳng mảy may biến đối.

Ô Hành Tuyết kinh ngạc quay đầu lại, và thấy Tiêu Phục Huyên cũng đang cau mày thật chặt.

Tiêu Phục Huyên vươn tay bắt lấy thanh kiếm, thoáng liếc nhìn những con chữ vàng đang ngùn ngụt chuyển động không ngừng. Ngay tiếp đó, y vung tay chém một đường kiếm mới.

Kết quả lần này vẫn hệt như lần trước — mũi kiếm nọ xuyên thẳng qua những sợi thừng kia cứ như thể tất cả chỉ là ảo ảnh, ngay cả sự miễn xá của Thiên Túc thượng tiên cũng không có tác dụng gì với chúng.

Những linh phách treo ngược kia im lặng không nói một tiếng nào, chỉ ngẩn ngơ nhìn những sợi thừng treo trên người mình. Họ vừa khóc lóc một lúc lâu song đôi mắt chớ hề nhuốm đỏ, chỉ thuần dáng vẻ ám đục nay được đắp thêm một tầng sương. Rất lâu sau đó, tiếng nói chuyện lại xì xào cất lên —

“Đấy, ta nói rồi mà, giải không được.”

“Đúng vậy thật.”

“Thôi, chả trông chờ gì.”

“Nhưng ta khó chịu quá.”



Tiêu Phục Huyên bắt lấy kiếm một lần nữa, ngón tay siết chặt hơn, trên mặt hiện lên chút tức tối. Y âm thầm suy nghĩ, dường như đang xem xét tại sao mình không ban xá được cho những người này.

“Tiêu Phục Huyên.” Ô Hành Tuyết gọi người nọ.

Lạ kỳ làm sao, cảm giác lạnh thấu tim phổi giờ đã phai đi tương đối. Chàng đoán chừng bởi vì có người này ở cạnh bên. Bởi Tiêu Phục Huyên đã xuất kiếm trước mặt chàng, trước khi chàng có thời gian nhận ra bản thân không thể làm gì khác ngoài giết chóc, y đã muốn giải thoát cho những linh phách này.

Song tiếc thay, kết quả bất thành.

“Vì đây là ảo cảnh à?” Ô Hành Tuyết suy tư. “Vì chúng ta vào cấm địa bên trong ảo cảnh nên chỉ có thể nhìn chứ không làm được gì khác?”

Tiêu Phục Huyên nhướng mày. “Ngươi đang an ủi ta?”

Ô Hành Tuyết có muốn an ủi y, nhưng những lời chàng vừa nói không phải chỉ nói suông để an ủi, mà thật trong thâm tâm chàng vẫn chưa hiểu tường tận thế nào là “cảnh giới giả, cảnh trí thật”. Sau khi họ nhìn thấy phố núi Lạc Hoa trong quá khứ rồi sao nữa? Họ có thể thay đổi được gì không?

Nếu không thể thay đổi được gì, không thể can thiệp hay gây tác động nào, vậy tại sao chàng có thể nói chuyện với ông chủ và tiểu nhị của quán trọ, không chỉ thế còn có thể đe doạ người nhà họ Phong? Bởi những điều này tưởng chừng có nghĩa chàng đã thật sự quay về phố núi Lạc Hoa của nhiều trăm năm trước.

Còn nếu như có thể thay đổi…

Vậy ảo cảnh nơi đây có thật là ảo cảnh hay không?

“Khi vừa bước chân vào phố núi, ta những tưởng nơi đây chỉ là ảo cảnh, nhưng hiện tại có hơi nghi ngờ.” Tiêu Phục Huyên cau mày rồi ngừng đoạn, sau đó mới ngắn gọn nói ra một chút nghi vấn và suy đoán của mình, “Dù đây là ảo cảnh thì khi xuất kiếm cũng không nên có kết quả thế này.”

“Vậy nên có kết quả thế nào?” Ô Hành Tuyết thắc mắc.

“Nếu ảo cảnh không chịu nổi sẽ bị phá. Còn nếu ảo cảnh chịu được, chắc chắn phải có sự thay đổi. Nói chung không nên như vậy,” Tiêu Phục Huyên không nói tiếp nữa, song nét mặt sa sầm, nặng nề như đang suy tư.

Ô Hành Tuyết nhìn biểu cảm nọ trên gương mặt tuấn tú, liền thấy được hai chữ “trừ phi” lồ lộ.

Chàng há mồm hỏi ngay, “Trừ phi thế nào?”

“Trừ phi —” Tiêu Phục Huyên trả lời thành tiếng mới phát giác mình lại bị dụ mở miệng. “…”

Y mím môi, nhìn Ô Hành Tuyết với ánh mắt đen thăm thẳm.

Chẳng rõ nguyên do vì sao mà Ô Hành Tuyết trông thấy một cảm xúc loé lên trong ánh mắt kia, dường như người nọ nghĩ đến lý do song lại không muốn nói ra.

Sau một hồi lâu, Tiêu Phục Huyên quay mặt sang chỗ khác, không nhìn Ô Hành Tuyết nữa. “Miễn xá không có tác dụng, chỉ có một lý do.”

Ô Hành Tuyết: “Lý do gì?”

Tiêu Phục Huyên cau mày, nói, “Bản thân ta nằm trong vòng nhân quả.”

Sự im lặng lần nữa bao trùm ngôi đền.

“Ta không hiểu.” Mãi một lúc sau, Ô Hành Tuyết mới hỏi, “Bản thân huynh nằm trong vòng nhân quả là ý gì?”

Tiêu Phục Huyên từ tốn mở miệng, “Lạc Hoa Đài có cây thần, cây thần bị phong ấn vì một nguyên nhân gì đó, từ đó nơi đây cũng thành cấm địa, dẫn đến việc những linh phách bị nhốt trong này hoá thành <i>trói.</i> Tất cả chuỗi sự việc này kết nối với nhau tạo thành nhân quả, mà ta…”

Giọng y lạc đi trong nháy mắt, hàng mày vẫn chau thật chặt, đoạn trầm giọng nói tiếp, “Ta nằm trong vòng nhân quả ấy, nên không xá được cho họ.”

Nói rồi, một lúc lâu sau, y mới giương mắt lên lần nữa.

Ô Hành Tuyết nhìn chăm chú vào đôi mắt ấy mà không hề dời khỏi, thấy được trong đáy mắt y là chút ngập ngừng và bối rối, lòng chàng mới thả lỏng đôi chút.

Tận đến giây phút đó, chàng mới sực vỡ lẽ nãy giờ cơ thể căng thẳng đến tột độ. Vì chính chàng cũng biết, có liên quan đến mối quan hệ nhân quả trong câu chuyện này chẳng phải điều hay ho gì.

Những người có khả năng liên quan đến là ai?

Ngoại trừ chính bản thân thần mộc và người có mối gắn kết thân thiết nhất, e rằng chỉ còn người đã đặt phong ấn nơi này, hoặc người dã giam giữ những linh phách kia ở nơi này…

Ô Hành Tuyết bất giác hiểu được vì sao trước đây mình lại muốn thay đổi ký ức của Tiêu Phục Huyên, có lẽ là do mối liên hệ với cái gọi là nhân quả ở đây.

Tiêu Phục Huyên hiển nhiên cũng nghĩ đến điều này, y nhìn Ô Hành Tuyết rồi chỉ nói một chữ “Ta…”, sau đó hoàn toàn im lặng.

“Không phải nhân quả kia,” Ô Hành Tuyết bất ngờ mở miệng.

Tiêu Phục Huyên khẽ nhướng mi, y đứng ngược ánh sáng từ ngọn nến thắp trong đền nên trông đôi ngươi càng thêm tối đen càng thêm thăm thẳm. Y là người lạnh lùng, đôi khi trong dáng dấp còn lộ vẻ ngạo nghễ, gai góc trên người dường như đã có từ thuở mới chào đời, và dẫu y có nén dồn vào lớp vỏ bọc đến cỡ nào đi nữa thì vẫn luôn hiển hiện đôi phần sắc bén nơi khoé mắt đầu mi.

Thế mà trong chớp mắt ấy, ánh mắt y nhìn Ô Hành Tuyết lại chan chứa thật nhiều hàm ý, chỉ tuyệt nhiên chẳng có điểm bén nhọn cấn tay.

Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ nói, “Không phải nhân quả từ mấy thứ như oán chủ.”

“Vì sao?” Tiêu Phục Huyên nhìn chàng chăm chú.

Ô Hành Tuyết khẽ mấp máy môi.

“… Vì sao có thể đoan chắc như vậy,” Tiêu Phục Huyên lại hỏi.

Thiên Túc thượng tiên xưa nay không nói sai sự thật, không huyễn hoặc trong những điều suy đoán, cho dù nghi ngờ có rơi xuống đầu y đi chăng nữa thì y cũng sẽ không hướng suy nghĩ mình về bất kỳ một đáp án nào, và cũng không tự thanh minh cho bản thân mình bằng mọi giá.

Tất cả những người trên Tiên Đô đều biết, Thiên Túc thượng tiên không thiên vị bất kỳ việc gì hay bất kỳ ai, kể cả chính bản thân mình. Y có thể chịu đựng bất kỳ một sự nghi kỵ nào, thậm chí còn bình tĩnh đến độ tưởng chừng người bị ngờ vực không phải là mình.

Điều này tựa như là bẩm sinh, là trời sinh vốn dĩ, bằng không làm sao y có thể được triệu hoán thành người chưởng quản hình xá.

Nhưng vào những lúc như thế này, y mới phát giác ra bản thân rất để tâm đ ến niềm tin tuyệt đối không đòi hỏi từ người nào đó. Khác với những kết luận đưa ra từ phân tích tỉ mỉ như ai khác, cũng không giống với đáp án đã được kiểm chứng cụ thể, mà là niềm tin tuyệt đối không kèm tâm tư, không đòi giải thích chỉ riêng thuộc về người kia.

Y hỏi hai lần và nghe thấy Ô Hành Tuyết trả lời, “Không biết, ta cảm thấy như thế đấy. Không phải ta là ma đầu à, ma đầu xưa nay có nói lý bao giờ.”

Ngay khoảnh khắc đó, biết bao năm tháng xa cách không gặp lại nhau giữa hai người bỗng trỗi lên rồi lại chìm xuống. Nó khiến người nghẹn ngào giống như màn sương khói nơi cấm địa này, tuy vậy chỉ cần gió thổi qua đã liền tan biến, chẳng còn ngất ngưởng ngút trời.

***

“A!” bỗng có tiếng thảng thốt hô lên, kế đó hít sâu vào một hơi.

Kéo theo tiếng người xôn xao bàn tán.

“Sao có thể như vậy?”

“Tượng thần kia trước giờ chưa hề biến đổi.”

“Chuyện này…”

Tượng thần?

Ô Hành Tuyết nghi hoặc trong lòng, bèn ngoái đầu nhìn. Chàng thấy tượng thần với hai chữ “Bạch Tướng” trên bệ thờ quả thật bắt đầu biến đổi, người thiếu niên nọ vẫn tựa mình vào thân cây, thanh kiếm trên tay cậu vẫn giữ nguyên một vẻ. Thế nhưng, thứ thay đổi chính là gốc thần mộc chạm ngọc phía sau lưng cậu, nhánh thần mộc ban đầu vốn chỉ có chạc cây, giờ đây không rõ từ đâu mà bắt đầu trổ mầm ti tí.

Ô Hành Tuyết cúi người để nhìn rõ hơn thì thấy đó mà một nụ hoa được bao bọc bên trong khóm lá, nó lần lượt sinh sôi không ngừng, dường như chỉ trong một chớp mắt đã phủ trọn cành cây.

“Ai đã tạc bức tượng này, đây là một bức tượng sống ư?” Ô Hành Tuyết lẩm bẩm.

Chàng không mong đợi có thể nghe được câu trả lời, thế mà những linh phách bị giam giữ nơi này lại cất lời, “Bản thân thần mộc…”

Ô Hành Tuyết ngỡ ngàng, ngoảnh sang mặt đối mặt với Tiêu Phục Huyên.

“Bản thân thần mộc sao?” Ô Hành Tuyết ngạc nhiên hỏi. “Thần mộc hoá thành hình người?”

Nhóm linh phách lắc đầu, đua nhau mà rằng, “Không biết.”

“Hình như không phải hoá thành hình người.”

“Chỉ từng nghe nói.”

“Truyền thuyết kể rằng.”

Ô Hành Tuyết lại chỉ vào cậu thiếu niên tạc bằng ngọc nọ và hỏi, “Đây có phải là thần mộc hoá thành hình người không?”

Nhóm linh phách lại lắc dầu. “Không phải.”

“Vậy đây là ai?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 43: Duyên xưa


Những người treo ngược trên xà nói, “Một vị tướng quân.”

“Một vị tướng quân trẻ tuổi.”

“Nghe nói đã chết bên dưới gốc thần mộc.”

“Nhưng vì sao khối ngọc này biến đổi?”

“Có phải vì hai chiêu kiếm vừa rồi không?”

“Chắc thế…”

Những người treo ngược nhao nhao nhìn sang Tiêu Phục Huyên vừa xuất kiếm với nét mặt tràn trề thắc mắc và ngờ vực.

Chỉ duy mỗi Ô Hành Tuyết nghe đến câu “chết bên dưới gốc thần mộc” thì khẽ run ngón tay đang thả bên người. Lạ kỳ thay, ngay vào khoảnh khắc ấy, lòng chàng nhen nhóm thứ cảm xúc day dứt cứ như chàng đã từng tận mắt chứng kiến người nọ đã “chết bên dưới gốc thần mộc” như thế nào.

Chàng ngẩn ngơ giây lát rồi vươn tay hướng về khối ngọc chạm theo bản năng.

Những người treo ngược kia hoảng hốt kinh hồn, rối rít hô to.

“Không được chạm vào bức tượng kia!”

“Đó là tượng do chính thần mộc chạm trổ, không được khinh khi…”

“Trừ chính bản thân thần mộc, ai chạm vào cũng sẽ gặp —”

Chữ “chuyện” còn chưa thốt ra lời, cả đám bọn họ đồng lòng ngưng bặt, lòng đây nghi ngờ băn khoăn.

Vì họ trông thấy Ô Hành Tuyết chạm tay vào khối ngọc kia nhưng không gặp bất kỳ chuyện gì. Chỉ duy một cơn gió lớn lộng qua gian miếu, thoáng như có thứ gì đó bên trong bức tượng ngọc chợt thức tỉnh.

Tiêu Phục Huyên nắm lấy cánh tay Ô Hành Tuyết, nhìn thấy hàng mi run khe khẽ của người nọ, bèn hỏi, “Thế nào?”

Mãi một lúc thật lâu sau, Ô Hành Tuyết mới mấp máy khoé môi, nói, “Không.”

Không có gì.

Chỉ là, ngay khoảnh khắc chạm vào tượng ngọc, chàng cảm nhận được một luồng linh thức len khẽ quanh đầu ngón tay và chảy xuôi vào cơ thể.

Nó giống như chút mảnh vụn tàn chàng từng đánh rơi bên trong tượng ngọc, đến giờ cuối cùng mới tìm về được.

Ngay khi linh thức hoà vào đầu ngón tay, chàng bỗng nhớ ra đôi việc.

Về thần mộc, về Bạch Tướng.

***

Thật lâu về trước, trước cả sự hiện diện của Linh đài, trên Lạc Hoa Đài có một gốc đại thụ cao ngất rợp trời, trên đội trời, dưới nối đất, cành lá sum suê tạo thành vòm vương miện rậm rạp tựa áng mây. Bao vòng luân hồi sinh tử chốn nhân gian đều xoay vần bên gốc đại thụ này —

Mỗi khi có một em bé cất tiếng khóc chào đời tại nhân gian, nó sẽ trổ một cành xanh mới và đơm một nụ hoa. Mỗi khi có thân xác ai từ giã cõi trần, một đoá hoa sẽ lìa khỏi thân cây.

Người bình thường không thể nhìn thấy nó, chỉ có người vừa ra đời hoặc người sắp rời đi mới có thể tuỳ duyên mà trông thấy nó một lần.

Đôi khi có người tìm được đường sống từ tuyệt cảnh, họ may mắn được toàn mạng trở về. Sau khi hồi phục đã kể lại việc mình gặp được một cây thần trên Lạc Hoa Đài. Rồi dần dà về sau, đủ loại tin đồn về thần mộc ra đời.

Lời đồn kể rằng, thần mộc có vẻ ngoài nửa rộ nửa tàn — nửa trên thân cây tán rủ um tùm, từ xa xa trông tới ngỡ như vầng ráng chiều tía đỏ vô biên. Song bên dưới tán cây và sâu trong cành lá, hoa lại không ngừng rơi rụng, dẫu sớm chiều xuân thu vẫn không hề ngơi nghỉ.

Cánh hoa rơi đủ để bao trùm cả dãy núi mười hai dặm, trôi lượn lờ theo dòng suối và nhuốm sắc đào đỏ thắm ở nơi nơi sông nước chảy ngang. Bởi thế, Lạc Hoa Đài từng có một cảnh sắc lộng lẫy nức danh mà người đời sau hiếm ai được trông thấy có tên “Nước trong tiến núi, dòng đỏ vào đồng”.

Cảnh sắc ấy là sinh tử cõi phàm trần, đại diện cho muôn người trên thế gian.

Lời đồn càng truyền càng lan xa, vì vậy mà người dân đã tu sửa khu vực Lạc Hoa Đài và xây một ngôi đền để thờ phụng gốc đại thụ mà người thường không cách nào nhìn thấy kia.

Những điều liên quan đến sự sống và cái chết đều có sức quyến rũ vô hình với con người, ngôi đền ấy từng là một trong những địa điểm đông đảo người thăm viếng nhất nhân gian, rất nhiều người từng bước qua ngưỡng cửa và nguyện cầu đủ điều nguyện ước.

Thoạt tiên, những nguyện ước nọ phần nhiều có gắn liền với sinh tử — cầu có được một đứa trẻ, cầu vượt qua bệnh nan y, cầu cuộc đời bình an hoặc trăm năm vô ưu.

Rồi dần dà về sau, lời khấn càng lúc càng đa dạng hơn. Bởi thế mà sau này, người ta dõi về thần mộc với một ý nghĩa đặc biệt nào đấy.

Tương truyền rằng, vì thần mộc lắng nghe rất nhiều niềm vui nỗi buồn cũng như lời nguyện cầu của phàm nhân nên đã từ từ sinh ra một phần tính người. Và sau nữa, những lời đồn về thần mộc lại mỗi lúc một nhiều và phong phú hơn.

… Người có duyên nhìn thấy thần mộc bảo rằng họ từng nhìn thấy một bóng người bên dưới tán cây mơn mởn sum suê của thần mộc, người như đang tựa tay lên cành và ngồi giữa muôn hoa đặng buông mắt nhìn Lạc Hoa Đài mỗi lúc một rộn rã.

Vì những sự tình liên quan đến thần mộc mà càng ngày càng có nhiều những căn nhà được xây ven sườn núi Lạc Hoa Đài, rất nhiều người từ nam ra bắc đều nhân tháng ba đầu xuân vạn vật sinh sôi mà ghé đến nơi này, từ đó hình thành nên hình mẫu thuở đầu của chợ phiên.

Ấy thế nhưng, trên thế gian có một sự thật chẳng ai ưa mà luôn trở thành lời sấm truyền, đó là câu “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”.

Dẫu là thần mộc cũng khó thoát khỏi những lời này.

Thoạt đầu, nghe đến thần mộc người ta nghĩ đến ước nguyện. Nhưng dần về sau, những người mang lòng tham không đáy xuất hiện, họ bắt đầu có những ý đồ bất chính.

Nếu thần mộc là đại diện của luân hồi sinh tử và những tháng năm trôi, vậy… nếu có thể tìm cách mượn một ít sức mạnh của thần mộc thì sao? Liệu có thể giúp người khởi tử hồi sinh không, liệu có thể níu kéo những năm tháng đã phí hoài không?

Những suy nghĩ này đã khiến lòng người chao đảo, thèm thuồng nhỏ dãi. Từ đó mà sự tồn tại của thần mộc đã mất đi ý nghĩa vốn dĩ từ xa xưa là phù hộ bình yên.

Những kẻ nọ dùng đủ mọi loại thủ đoạn và gây ra đủ mọi loại cơ sự phiền hà — có người vì thần mộc mà mất mạng, có người vì thần mộc mà gây ra cái chết cho người khác…

Tất cả mối phiền hà đó đều hoá thành nhân quả quải ngại, chập chồng trên thân thần mộc.

Người ta đồn rằng, bởi vì thần mộc đã sinh tính người, lại gánh thêm những nhân quả quải ngại kia nên không cách nào trốn thoát khỏi quy luật thế gian — nó có kiếp số.

Vào năm thần mộc nhận kiếp, nhân gian cũng không thái bình, chiến loạn triền miên.

Thuở đó, còn chưa có Lãng Châu, Mộng Đô, nơi nơi đều có các quốc gia lãnh thổ khác nhau.

Có nhiều tiểu quốc tụ tập ở phía tây nam, đó là nơi khói lửa chiến tranh ác liệt nhất, sắc đỏ phủ mấy trăm dặm đồng hoang, xác người rải rác không đâu không có. Sau đó, ngay cả những chàng trai đương độ thiếu niên cũng phải vác gươm giáo lạnh lẽo mà bước ra chiến trường.

Đêm mùa thu năm ấy, mặt trăng tròn vạnh sáng vời, mà khung cảnh phía tây nam sao buồn rười rượi…

Một bên là trận chiến vừa chấm dứt ở mảnh đất vô danh mà sau này trở thành cánh đồng Gia Minh, lửa tàn vẫn còn bừng bừng lan rộng khắp cánh đồng hoang vu, mùi cháy khét của thịt da xen lẫn trong tiếng ngựa nỉ non thê lương tan trăm dặm vào gió đêm.

Bên còn lại là sấm rền rung chấn Lạc Hoa Đài, ánh lửa điện chặt chẽ như một tấm lưới không khe hở, giáng trần từ chín tầng mây, nã từng đợt từng đợt vào nơi thần mộc cư ngụ.

Đó là thời điểm một người thiếu niên bê bết máu lê mình về phía thần mộc từ phía cuối sơn dã…

Trông cậu ta trạc mười bảy mười tám tuổi, mặt mũi đã bắt đầu ra nét thiếu niên song bị phủ khuất bởi sát khí ngột ngạt căm căm như sắt lạnh. Cậu có đôi chân dài, lẽ ra vóc người nên thật cao ráo nhưng cơ thể đã hoàn toàn kiệt sức, còn thương tích khắp người nên không cách nào đứng thẳng được.

Nhìn có thể đoán ngay là vừa ra khỏi lửa chiến.

Cậu mang một thanh trường kiếm trong tay và khoác tấm vải đẫm máu trên lưng.

Khi băng qua miền sơn dã, bàn tay nắm chặt kiếm của cậu có phần loạng choạng, tấm vải đẫm máu kia trượt ra, để lộ hai cánh tay gầy gò rũ thõng xuống, trên cánh tay nọ chi chít những vết thương và dấu hoen. Nếu có kinh nghiệm, chỉ nhìn từ xa cũng thấy ngay — đó là một đứa bé ốm yếu, và nó đã chết.

Trong hai năm vừa qua, không hiếm thấy những đứa trẻ như vậy trên chiến trường, chúng tan cửa nát nhà, không nơi nương tựa, nhận lấy kết cục hoặc bị đẩy trôi, hoặc trở thành xác chết đói. Cho dù có chết đói cũng không chết nguyên vẹn, mà chúng còn bị thú hoang, bọn vật tính âm, hoặc những kẻ đói khát cùng cực khác ăn mất, đẩy vào cái kết tan xác không còn đến cả xương. Người chết vẹn nguyên có thể đếm trên đầu ngón tay.

Người thiếu niên bước đến dưới tán thần mộc ngay giữa hai đợt thiên lôi, thời điểm toàn bộ Lạc Hoa Đài có phút giây yên bình ngắn ngủi.

Người ta đồn rằng người bình thường không thể thấy được thần mộc, nên những người đến Lạc Hoa Đài đều tìm ngôi đền chứ không thường đi lang thang tìm gốc đại thụ vô hình trong mắt họ.

Vậy mà, người thiếu niên nọ không tiến về phía ngôi miếu thờ, cậu chống kiếm và đứng bên dưới tàng cây, nuốt máu trong miệng và ngẩng đầu lên.

Gương mặt cậu ta tuấn tú khôn cùng, nếu rửa sạch máu tanh và sát khí phủ kín người thì ắt hẳn sẽ là một chàng thiếu niên lạnh lùng như ngọc, khí khái hiên ngang. Tiếc thay, cậu ta đã chẳng còn ngày ấy nữa.

Vì sau khi nuốt máu vào trong, cậu khàn giọng thì thào, “Ta nhìn thấy mi…”

Tương truyền rằng, chỉ có người mới chào đời hoặc người sắp qua đời mới có thể nhìn thấy thần mộc.

Cậu ta thấy được, cũng có nghĩa là cậu ta sắp chết.

Đôi mắt cậu phản chiếu sắc trời xanh đen, hơi lay nhè nhẹ như thể muốn một lần nhìn trọn toàn bộ thân thần mộc, nhìn vào đến lùm cây sâu nhất. Mãi một lúc lâu sau, cậu mới nuốt khan cổ họng, rủ mắt mà trầm giọng nói, “Không giống như trong truyền thuyết…”

Thần mộc của đêm này quả thật không như lời truyền thuyết, nó vừa lãnh chịu mấy chục đợt thiên lôi từ kiếp số, khắp thân thể chằng chịt những rãnh dài. Hoa trên cành chẳng còn mấy đoá, mà có thể thấy cánh hoa khô héo đã rơi đầy nền đất. Khác với truyền thuyết, nó không đẹp tựa ráng mây, và cũng không bàng bạc soi toả ánh trăng phản chiếu.

Người thiếu niên đã sức cùng lực kiệt, chỉ đứng vững trên Lạc Hoa Đài cũng muôn vàn khó khăn.

Sau khi cậu rủ mắt, cả người cũng quỳ sụm một chân dọc theo thân kiếm. Với chút sức lực cuối cùng của mình, cậu đào một khoảnh đất bên dưới gốc cây và chôn đứa trẻ trên lưng xuống đấy.

Dân gian thường nói nếu nhận được phù hộ của thần mộc sau khi chết thì kiếp sau có thể sống một đời hạnh phúc bình an, thọ lâu trăm tuổi.

Cậu đắp đất lại, sau cùng cũng không gắng gượng nổi nữa mà ngã ngửa ngồi trên mặt đất. Đầu cậu gục xuống nhưng tay vẫn nắm chặt thanh kiếm, mí mắt mong mỏng sụp dần khiến đôi mắt trở thành một đường hẹp và dài. Máu chảy xuôi từ trên trán, đổ vào hốc mắt và lan dần từ khoé mắt vào trong.

Khi ấy, ý thức cậu đã bắt đầu trở nên nhạt nhoà, không thấy gì trước mắt ngoài màu máu đỏ thẫm, bên tai cũng lùng bùng không nghe rõ. Bởi thế, khi một giọng nói khe khẽ cất lên hỏi “Cậu chôn ai thế?”, cậu chỉ chớp mắt chậm rãi chứ không hé miệng.

Cậu bật cười khẩy như một lời mỉa mai, vì cảm thấy đây chỉ là ảo giác trước lúc lìa đời của mình. Dù vậy, cậu vẫn mấp máy môi và thì thào ở mức độ gần như chỉ hà hơi, “Nhặt…”

Chỉ là một đứa bé không liên quan gì đến cậu, chẳng là tình cờ cậu đi ngang, vén lấy chút sức lực sau cùng để bắt lấy đứa nhỏ ấy.

Có lẽ vì sợ nó chết rồi dạt đi, hoặc sợ nó chết rồi còn bị người khác xâu xé mà đau đớn.

Sau khi trả lời một lúc lâu sau, cậu mới chợt nhận ra dường như giọng nói nọ xuất hiện thật bất chợt khó hiểu.

Truyền thuyết từng nói rằng, thần mộc từng sinh ra tính người, trước đây có người đã trông thấy bóng dáng mơ hồ bên dưới tán cây.

Người thiếu niên siết chặt đôi tay cầm kiếm, gắng th ở dốc và nuốt máu trào trong cuống họng, trái cổ cậu nhấp nhô khe khẽ. Cậu muốn mở mắt thật to để nhìn rõ xem rốt cuộc có ai bên dưới tán cây kia hay không, nhưng chớp mắt cỡ nào cũng không rửa sạch máu thẫm, cuối cùng vẫn không nhìn rõ được gì.

Cậu chỉ cảm giác giọng nói kia cũng có đôi phần yếu ớt, dường như người nọ cũng đớn đau không khác mình là bao. Rồi cậu chợt nhớ đến ánh điện sấm sét xé trời mình thấy ban nãy, tự hiểu phần nào.

Nếu cây thần có thể thật sự biến thành người, thì những rãnh dài trên thân thể kia ắt sẽ đau lắm, thảo nào… giọng lại khẽ đến vậy.

Cậu nghĩ thầm trong lòng, song dường như thần mộc có thể nghe thấy, thân thể lay nhẹ phát ra tiếng sột soạt.

Hoặc có lẽ tiếng sột soạt kia cũng chỉ là ảo ảnh trước lúc lìa đời mà thôi.

Khi cậu còn đang nghĩ, ánh sáng chợt loé bừng từ không trung, đó là những đợt thiên lôi cuối cùng giáng xuống gốc thần mộc từ chín tầng trời cao. Người thiếu niên chớp mắt trước ánh sáng, máu đọng trên viền mi theo đó mà rơi xuống mặt đất.

<i>Cậu đau lắm không?</i>

<i>Dù gì tôi cũng sắp chết rồi…</i>

Chàng thiếu niên nghĩ thầm.

Vào khoảnh khắc máu thấm xuống nền đất, thiếu niên kia thình lình chống mạnh trường kiếm, đứng thẳng người dậy và gồng lưng nhận thiên lôi giáng xuống vào người mình.

Trong giây phút cuối cùng của cuộc đời, điều loé lên trong đầu cậu lại là đồng hoang trăm dặm chồng chất những xác người nhìn hoài bất tận, và bóng dáng cây thần với cánh hoa úa tàn rụng đầy trên đất. Cậu đã nghĩ: <i>Kiếp sau được mở mắt ra, tôi có thể thấy cậu trổ hoa chứ…</i>

Xưa nay, thần mộc đã nghe được bao điều ước nguyện. Phàm nhân ai cũng có mong muốn, hết thảy đều cầu nó có thể chở che.

Đây là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, có một người lấy thân phàm nhân mà chở che cho nó.

Nhưng rồi thiếu niên ấy đã nhắm mắt thật lâu, không thể mở ra được nữa.

Nên cậu đã không cách nào nhìn thấy, sau khi mình mất đi, bóng hình giữa tán cây cao cao kia đã từ từ ngưng tụ thành một người thực thụ.

***

Rất lâu về sau, vẫn không ai nhìn thấy được thần mộc, nhưng họ tìm ra một bộ hài cốt nơi thần mộc ở, bên cạnh hài cốt có một tấm quân bài, mặt trước quân bài ấy có chữ “Tướng”, và mặt sau là họ “Bạch”.

Người ta đồn rằng, đó là một vị tướng quân đã chết dưới tàng cây, vị tướng nọ chỉ tầm mười bảy mười tám tuổi, còn chưa kịp đến tuổi trưởng thành đôi mươi.

Sau khi cậu chết, những nơi máu tươi chảy qua đều sinh sôi tinh chất ngọc, nó bao phủ toàn bộ cây thần mộc bên trong ánh sáng bạc lành lạnh và rực rỡ.

Và từ một hôm nào đấy, bỗng dưng có một khối ngọc xuất hiện bên trong đền thờ thần mộc, ngọc chạm trổ một thiếu niên anh tuấn lạnh lùng tựa mình bên gốc đại thụ ngất trời.

Mọi người đều ngạc nhiên khôn xiết, ai cũng không rõ tác phẩm khắc ngọc này sao lại xuất hiện từ thinh không. Về sau, có người lại nói đêm trước khi khối ngọc ấy xuất hiện, dường như có một bóng người áo trắng bước vào trong đền, rồi sau lẳng lặng biến mất như tan vào sương mây.

Thế là mọi người đồn rằng bóng người nọ là thần mộc hoá thành, và bức ngọc chạm kia do chính tay người tạc nên, dành riêng cho vị tướng quân còn rất trẻ đã bỏ mình dưới tàng cây.

Giờ đây ngẫm lại, truyền thuyết nọ hẳn đúng đến tám chín phần, song có một điều ngay cả truyền thuyết cũng chưa từng nhắc đến.

Chỉ có người tự tay tạc bức tượng ngọc mới tỏ tường nhất…

Ô Hành Tuyết nhớ ra, năm xưa khi tạc bức tượng ngọc kia, chàng đã gửi một sợi linh thần của mình vào trong đấy, kèm với một giọt máu của người nọ —

Theo đấy, nếu về sau người nọ được đầu thai trở lại nhân gian, nếu có duyên đến ngôi đền này, nếu khiến linh thần và máu trong tượng ngọc nhận ra hương vị linh phách quen thuộc… thì bức tượng ngọc người thiếu niên tựa thân cây ngất trời kia sẽ nhận ra ngay lập tức.

Chàng ra đời cùng thần mộc, từ thuở ban sơ đến về sau, chỉ duy một lần nghe được lời không liên quan đến ước nguyện, đó là câu nói của người nọ: “Có đau lắm không, tôi cũng sắp chết rồi. Kiếp sau được mở mắt ra, tôi có thể thấy cậu trổ hoa chứ.”

Khi đó, chàng chẳng thể ngờ rằng thần mộc rồi sẽ bị phong ấn, chìm vào cấm địa cùng cả ngôi đền này. Và chàng cũng nào có ngờ, vị tướng quân thiếu niên năm nào sau khi chuyển thế lại vì mối dây mơ với thần mộc lúc xưa mà bị triệu hoán thành tiên từ trẻ, nhận danh tự “Miễn” trời ban.

Vào năm đó, lần đầu trông thấy Tiêu Phục Huyên cầm trường kiếm bước lên những nấc thang bạch ngọc cao cao chốn Tiên Đô, chàng đã ngửi được hương vị linh phách quen thuộc ấy và chợt cảm thấy đôi phần nuối tiếc.

Không phải nuối tiếc vì người đầu thai đã mất đi ký ức của kiếp trước, mà nuối tiếc vì người kia sẽ không nhìn thấy bức tượng bạch ngọc, nơi ẩn giấu món quà tạ lễ nho nhỏ của chàng.

Tiêu Phục Huyên chưa từng biết đến phần tâm tình ấy, và rồi bản thân chàng cũng quên bẵng hơn hai mươi năm. Thật không ngờ đến ngày hôm nay, có được cơ duyên này và một sợi linh thức đã đưa chàng về phần ký ức ấy.

Và càng bất ngờ hơn rằng họ lại đứng bên trong ngôi đền này lần nữa.

Thế nên… khi hai đường kiếm của Tiêu Phục Huyên quét qua ngôi đền, gốc cây chạm ngọc kia đã nhận ra linh phách và trổ nụ đơm hoa.

Đó là cây hoa mãn khai chỉ dành riêng cho một mình y.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 44: Nhân quả


Vào mùa xuân năm thứ hai sau khi bức tượng bạch ngọc được đặt trong đền thờ, chiến tranh đã tạm ngơi, lần đầu tiên phố núi chân chính xuất hiện ở Lạc Hoa Đài.

Thần mộc vẫn luôn trong trạng thái nửa rộ nửa tàn với tán lá rợp tựa áng mây, chứ không trải qua chu kỳ mùa như cây cỏ thông thường. Dù thế, những người từng nhìn thấy thần mộc đều kể lại rằng những đoá hoa nở rộ đầu cành có điểm gì đó tương tự hạnh mai đỏ của thế gian.

Thuở ấy, bên cạnh bờ Đông Giang — nơi sau này trở thành Mộng Đô — có một ngọn núi có tên Đình Sơn, rừng mai nở suốt mười dặm núi, mãn khai rực rỡ nhất vào tháng ba hằng năm.

Bởi thế, mọi người đã dựa theo sắc mai trên núi Đình Sơn mà ấn định mùa hoa cho thần mộc, sau đó chọn ngày mồng ba tháng ba là ngày tốt để bắt đầu chợ phiên phố núi.

Ô Hành Tuyết đã chứng kiến khoảnh khắc ánh đèn đầu tiên thắp trên phố núi Lạc Hoa.

Chàng đứng vô hình, tựa mình vào thân thần mộc và buông mắt nhìn ánh sáng soi dần trên những khúc quanh đường núi từ lúc chập tối, đèn lồ ng nối đuôi nhau thành dây, ánh nến nối đuôi nhau mà thắp, vệt sáng ấy gần như trải dài đến cuối dãy núi nơi giáp đường chân trời.

Chàng mơ màng nhớ về cảm giác khi ấy…

Nhìn thấy người đến đi như dải lụa trên phố núi hoà cùng âm thanh nói cười rả rích khiến chàng thấy thật thoải mái trong lòng.

Chàng sinh ra ở đây, rồi lại bởi chút duyên cớ mà quyến luyến nơi này. Chàng mong rằng phố núi Lạc Hoa sẽ luôn rộn ràng như vậy, và càng lúc càng trở nên náo nhiệt hơn để nơi đây có thể trở thành điểm đến tuyệt vời ở nhân gian, tiếng tăm vang xa và thu hút du khách từ khắp trời nam biển bắc.

Vì nơi này càng trở nên náo nhiệt, thì khả năng vị tướng quân kia sau khi chuyển thế sẽ ghé đến nhờ mến mộ thanh danh càng cao…

Chàng đã nghĩ về điều ấy nhiều đến mức nó gần như trở thành một thói quen. Đến nỗi sau này thần mộc bị phong ấn, đền thờ cũng chẳng còn, mà chàng vẫn không thay đổi thói quen ấy.

Chàng chưa bao giờ nhắc đến nguyên nhân ban đầu với người ngoài. Mỗi lần nói về phố núi Lạc Hoa, câu chuyện luôn là: “Đó là một nơi vô cùng thú vị, nhộn nhịp cực kỳ.”

Mãi cho đến hôm nay, khi chạm tay vào khối ngọc và nhìn sang bên cạnh, Ô Hành Tuyết mới ngây người thật lâu rồi gọi người kia một tiếng, “Tiêu Phục Huyên.”

Tiêu Phục Huyên vẫn đang nắm chặt cổ tay chàng và mắt hãy còn hướng lên sắc hoa bạch ngọc trên thân thần mộc trong thẫn thờ. Y nghe tiếng gọi thì lay nhẹ ánh mắt và nhìn về phía Ô Hành Tuyết.

Khoảnh khắc ấy, Ô Hành Tuyết trộm nhói lên một xung động —

Chàng mong rằng đối phương có thể nhớ được những chuyện năm ấy, nhớ về đêm mùa thu hôm huyền lôi dấy động thần mộc và những lời đã nói. Nếu được thế, chàng chỉ cần cười thật tươi và chỉ vào hoa thắm rợp cành kia và nói: Tiêu Phục Huyên, là hoa mà ngươi muốn xem đấy.

Ngặt nỗi, đêm đó với Tiêu Phục Huyên có lẽ vô cùng đau đớn.

Giữa khói lửa chiến tranh, đã biết bao người bị sát hại và thương vong dưới tay y? Biết đâu chừng, bao vốn liếng, gia đình, đồng liêu đều đã tan nát trong những đêm dài ngợp sương mù, và để bước qua mảnh đất hoang vu tiến về thần mộc, y đã đi qua bao nhiêu vong hồn những người kính nể y, những người thù hận y.

Đến cùng, vào khoảnh khắc nhận thiên lôi xé tan xương cốt và qua đời, lẽ nào y không cảm thấy bất đắc chí và cô quạnh hay sao…

Thoáng nghĩ đến những điều đó, xung động đang mấp mé chực trào đã biệt tăm biệt tích.

<i>Tốt nhất là đừng nhớ tới thì hơn.</i>

Ô Hành Tuyết nhủ thầm.

Thế nên, chàng hơi hé miệng nhưng rồi bật cười, và cuối cùng bình thản bảo, “Huynh nhìn xem, thần mộc trổ hoa rồi.”

Nói xong, chàng liền thu tầm mắt về, không nhìn Tiêu Phục Huyên để tránh cho Thiên Túc thượng tiên phát hiện nuối tiếc thoáng chừng này.

Nào ngờ, chàng vừa dời mắt đi và tính khom lưng đặt khối ngọc xuống thì nghe giọng nói trầm nặng của Tiêu Phục Huyên vang lên, “Ô Hành Tuyết.”

“Thần mộc là ngươi à?” Y nói.

Ô Hành Tuyết ngây người.

Tiêu Phục Huyên nói, “Bọn họ nói không một ai có thể chạm vào khối ngọc này ngoại trừ bản thân thần mộc.”

Ô Hành Tuyết ngoảnh sang nhìn y.

“Ngươi cũng từng nói ngươi sinh ra ở Lạc Hoa Đài.”

Ô Hành Tuyết vẫn im lìm không hé môi mà chỉ lẳng lặng nhìn y.

“Ta…” Tiêu Phục Huyên ngừng đoạn, lia mắt nhìn người thiếu niên chạm ngọc đang dựa trên thân cây rồi quay trở về. “Là Bạch Tướng kia sao?”

Ô Hành Tuyết sợ Tiêu Phục Huyên sẽ nhớ ra điều gì, bèn nhìn chăm chú đôi mắt người nọ một lúc lâu, sau đó mới âm thầm thở phào trong lòng — có lẽ chỉ là suy đoán thôi chứ không nhớ ra.

Chàng cảm thấy yên tâm, mở miệng trả lời, “Họ nói năng lộn xộn, mơ hồ không rõ ràng, chắc gì đã đúng đâu. Thêm nữa sao huynh lại hỏi ta, ở đây chắc ta là người mù mờ nhất đấy.”

Tiêu Phục Huyên buông mắt nhìn chàng một lúc mới cất giọng, nói, “Trông ngươi không vui, như là nhớ ra chuyện gì đó.”

Ô Hành Tuyết cứng đờ người một chốc.

Sau đó một hồi, chàng mới thấy Tiêu Phục Huyên hơi nghiêng đầu xuống, cong ngón tay chạm vào mặt mình, hỏi với giọng ôn tồn trầm lắng, “Vì sao hoa lại nở?”



Đường đường là ma đầu mà bỗng dưng không biết nói gì.

Trong nháy mắt đó, tất cả cảm xúc trong chàng, dù là nuối tiếc hay hối hận đều bay biến. Thay vào đó là suy nghĩ không đâu mà loé lên — <i>Thiên Túc thượng tiên trên Tiên Đô chỉ e là một mối hoạ.</i>

Ô Hành Tuyết vừa tính trả lời y thì đột nhiên nghe một tràng nhốn nháo.

Cả chàng lẫn Tiêu Phục Huyên đều bất ngờ, quay đầu nhìn nơi phát ra náo động thì thấy những người bị treo ngược đang hếch mũi lên như đang ngửi mùi gì đấy. Họ hướng mặt về chính khối ngọc nọ chứ không đâu khác.

Bởi vì vậy, Ô Hành Tuyết cũng hít nhẹ mấy hơi.

Quả thật có mùi gì đang bốc ra bên trong căn đền, giống như… mùi máu.

Ban đầu, chàng còn thấy hơi là lạ, song khi nhìn lướt qua khối ngọc thì bất giác nhớ đến việc khối ngọc này từng hấp thu máu của Tiêu Phục Huyên kiếp trước. Mà bởi vì khối ngọc bất chợt thức tỉnh, kéo theo mùi máu nọ cũng dần tản ra ngoài.

Mà trước giờ, linh phách vốn rất nhạy cảm, có ngửi thấy cũng không có gì lạ.

Nhưng điểm kỳ lạ chính là phản ứng của họ sau khi ngửi thấy mùi máu…

Những người bị treo ngược trên dây vừa bóp mũi vừa thẫn thờ nét mặt như đang cố gắng nhớ lại gì đó mà không cách nào nhớ ra ngay được. Có điều, những âm thanh rì rầm dần dà nổi lên rồi lan tràn như thuỷ triều.

“Mùi này…”

“Hình như ta từng nghe mùi máu này ở đâu rồi.”

“Đúng vậy, mùi này rất quen.”

“Ta cũng thấy vậy, ta cũng thấy hơi quen quen.”

“Nhưng mà… ngửi thấy ở đâu cơ?”



Tiếng nháo nhào bàn tán không ngừng vang lên, động tác hít vào càng lúc càng rõ rệt, dáng vẻ của họ cũng trở nên kỳ dị bội phần.

“Bọn họ bị sao vậy?” Ô Hành Tuyết cảm thấy khó hiểu nhưng trực giác vẫn báo cho chàng có chuyện không ổn.

Máu kia đến từ kiếp trước của Tiêu Phục Huyên, còn những người bị treo ngược này đến từ phố núi Lạc Hoa. Phố núi Lạc Hoa ra đời sau khi Bạch Tướng đã mất, bất kể những người này đến phố núi Lạc Hoa vào năm nào đi nữa thì cũng không nên có phản ứng trước mùi máu này, và càng không nên thốt ra rằng “cảm thấy hơi quen”.

Nhưng rồi chàng sực nhớ trước đây Tiêu Phục Huyên từng nói: Phàm nhân dùng linh phách để luân hồi chuyển kiếp.

Những thân thể ở phố núi Lạc Hoa là thân xác đời này của họ, thân xác đời nào chỉ thuộc về đời ấy nên tất nhiên không có can hệ gì với đời trước của Tiêu Phục Huyên. Thế nhưng những người treo ngược ở đây không phải thân xác mà là linh phách, dù có luân hồi qua bao đời bao kiếp thì linh phách vẫn giữ nguyên là linh phách của năm xưa.

Nghĩ đến đây, Ô Hành Tuyết đanh cả mặt.

Thì chợt nghe Tiêu Phục Huyên nói, “Máu trong khối ngọc chạm này là của người à?”

Ô Hành Tuyết trả lời theo bản năng, “Không phải.”

Xong xuôi, chàng mới tặc lưỡi vì có hơi khó chịu.

Thế này chẳng phải gián tiếp thừa nhận mình nhớ ra một số chuyện rồi à?

Có điều xem xét tình hình trước mắt không phải lúc so đo chuyện ấy, Tiêu Phục Huyên cũng không nhiều lời mà chỉ nhìn chàng một cái rồi nói, “Thế thì tốt rồi.”

Ô Hành Tuyết ngạc nhiên, “Sao lại như thế?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Điều có thể khiến linh phách nhớ kỹ chắc chắn không phải chuyện tốt.”

Ô Hành Tuyết giật thót tim, vừa tính hỏi thêm đã nghe Tiêu Phục Huyên nói tiếp, “Phàm nhân sau khi chết không mang theo ký ức đời trước, và linh phách bị lột ra cũng vậy, nếu họ vẫn còn ấn tượng thì chắc chắn là chuyện gì đó khắc dấu ấn sâu sắc.”

Y dừng đoạn, trầm giọng mà nói, “Khó tránh khỏi có liên quan đến cái chết.”

Ô Hành Tuyết hiểu rõ ý Tiêu Phục Huyên muốn nói mà không cần y phải giải thích dông dài thêm.

Chỉ cần nghĩ kỹ sẽ thấy rất dễ hiểu — ký ức sâu sắc nhất đối với người chết ắt hẳn là khoảnh khắc mà họ lìa đời. Đó là giây phút cuối cùng, và lắm khi còn là giây phút khốn khổ nhất, ở đời nỗi buồn lại luôn dai dẳng hơn niềm vui.

Những linh phách treo ngược này bị lột sống khỏi cơ thể, không ngạc nhiên khi họ có thể nhớ những chuyện xảy ra trong đời này. Thế nhưng nếu nhớ kỹ cả kiếp trước, chỉ e rằng… hẳn phải có dây dưa đến “cái chết”.

Nói cách khác…

Máu của Tiêu Phục Huyên ở kiếp trước có liên quan gì đó đến cái chết trong kiếp nào đó của những người bị treo ngược này ư?

Nghĩ đến đây, Ô Hành Tuyết chỉ còn cảm nhận được một cơn buốt lạnh chạy dọc l3n đỉnh đầu. Song ngay khoảnh khắc suy nghĩ đó hiện lên trong đầu chàng, một tiếng kiếm quen thuộc bất chợt vang lên.

Từ bên rìa tầm mắt, chàng thấy bóng Tiêu Phục Huyên loé ngang. Chàng vội nhấc mắt lên, chỉ kịp thấy mũi kiếm của Thiên Túc thượng tiên đang đặt giữa trán một người treo ngược ở gần họ.

Tiêu Phục Huyên thấp giọng nói một câu, “Đắc tội.”

Đồng tử người treo ngược nọ thít chặt lại, hắn rít lên một tiếng thê lương khi mũi kiếm chạm vào trán, tiếng rên phóng vút lên tận trời, vọng vào tai Ô Hành Tuyết khiến chàng lùng bùng một chốc.

Nếu ấn tượng mà họ lưu lại có liên quan đến “cái chết”, thì nó sẽ dễ dàng bị kích phát lần nữa vào khoảnh khắc họ đến gần trạng thái tử vong nhất. Giữa tiếng kiếm đan lẫn tiếng rít gào, người treo ngược kia trợn ngược hai mắt, thất thanh kêu lên, “Ta nhớ ra mùi máu kia rồi!”

“Ta nhớ ra rồi…”

Chiêu vừa rồi của Tiêu Phục Huyên không phải là “thẩm vấn” chính danh, nhưng có hiệu lực tương tự với “thẩm vấn”.

Ngay sau đó, rất nhiều mảnh vụn hình ảnh vun vút hiện ra —

Khung cảnh trong ấy là một miền hoang dã tối mịt tận chân trời, tiếng vó ngựa hí vang xen lẫn trong tiếng quát hô hào chém giết.

Khi vừa nhìn thấy khung cảnh ấy, Ô Hành Tuyết lập tức nhận ra đó chính là chiến trường…

Là chiến tường mà Bạch Tướng đã từng kinh qua, còn nguyên nhân mà người bị treo ngược kia cảm thấy mùi máu này quen thuộc là do đời trước hắn đã từng có mặt trong trận chiến ấy, đã từng đương đầu với Bạch Tướng và mất mạng dưới thanh trường kiếm người này.

Vào khoảnh khắc cuối cùng trước khi chết, hắn đã ngửi thấy mùi máu thấm đẫm trên người Bạch Tướng.



Tiếng rít gào vẫn văng vẳng trong ngôi đền, Ô Hành Tuyết vội vàng ngước mắt lên nhìn Tiêu Phục Huyên bên kia những hình ảnh đang tan biến.

Những hình ảnh đứt đoạn đó đã khơi dậy ký ức của những người bị treo ngược còn lại, dẫn đến những tiếng hô tương tự nhau không ngừng tràn ra như sóng dữ, dồn dập tuôn về phía Tiêu Phục Huyên…

“Ta nhớ ra rồi…”

“Ta cũng nhớ ra rồi.”

“Là ngươi.”

“Ngươi đã giết ta.”



Trước đó, Ô Hành Tuyết từng thắc mắc không biết vì sao lại chọn những người này để phong ấn thần mộc, vì sao lại dùng linh phách của người phàm để trấn áp một gốc thần mộc ngất trời. Luận về nhân quả thì những người này không có mối liên hệ nhân quả gì với thần mộc cả, tại sao chuyện này lại xảy đến với họ.

Mà lúc này đây, tất cả mọi thứ bỗng nhiên rõ ràng —

Kiếp trước, Tiêu Phục Huyên đã lấy thân che chở cho thần mộc trước khi chết, trở thành người có mối dây liên hệ sâu sắc với thần mộc. Và trước đó y từng là tướng quân thiếu niên, từng kinh qua khói lửa chiến tranh với nhiều vong hồn treo dưới lưỡi kiếm.

Có người… đã cố tình tìm những người chết trên chiến trường vào kiếp trước, những người mất mạng dưới tay tướng quân, rồi lần lượt đưa họ đến phố núi Lạc Hoa, sau cuối cướp đi linh phách họ và treo tại đây.

Dùng nhân quả tràn ngập “sát chướng” giữa họ và Tiêu Phục Huyên để phong ấn gốc thần mộc được Tiêu Phục Huyên che chở.

Khó trách!

Khó trách chiêu miễn xá của Tiêu Phục Huyên cũng không cách nào giải thoát cho những linh phách này. Mang theo nhân quả dày dặc trước mắt như vậy sao có thể giải thoát được cho họ. Nếu thật sự muốn cưỡng ép mà xuống tay, ắt hẳn phải xuống tay với Tiêu Phục Huyên trước.

Gương mặt Ô Hành Tuyết lạnh tanh trong chớp mắt.

Chàng thấy phút giây trống rỗng hiếm hoi hiện trên gương mặt anh tuấn và lạnh lùng cố hữu của Tiêu Phục Huyên, thấy Thiên Túc sáng trong như bạch ngọc thu kiếm về, lẳng lặng cầm chuôi kiếm và nhìn những linh phách bị trói đằng kia…

Trái tim Ô Hành Tuyết bị một thứ mỏng manh mà cô đặc cứa xuyên.

Lời tác giả:

Ngủ ngon QAQ

Cá:

Huhu tui vẫn chưa vượt qua được cú sốc là bộ này niên hạ a huhuhuhu
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 45: Bắt cóc


Tất cả những chuyện đã sớm chìm trong vòng luân hồi sinh tử tại sao lại bị đào lên hoá thành gánh nặng? Và bằng cớ gì phải là Tiêu Phục Huyên?

Chỉ bởi vì Tiêu Phục Huyên đã chặn thiên kiếp lần đó sao?

Một câu chuyện mà chàng vấn vương nhiều năm bị người khác lợi dụng đến tận bây giờ… <i>Quá mức phi lý.</i>

Ô Hành Tuyết nghĩ.

<i>Phải mà Tiêu Phục Huyên không nhớ những chuyện xảy ra trong đêm này thì tốt rồi.</i>

Ý nghĩ đó bất chợt nảy ra trong đầu chàng, và cũng ngay khoảnh khắc ấy, chàng thấy có phần quen thuộc. Đoán chừng mấy trăm năm về trước, chàng cũng từng nghĩ như vậy.

Chàng không chỉ mong rằng Tiêu Phục Huyên không nhớ chuyện này, mà còn mong rằng những linh phách bị trói buộc nơi đây cũng quên đi thời khắc này.

Linh phách không phải người sống, họ không toan tính đời này khác đời sau thế nào mà chỉ hành động theo bản năng dưới sự thao túng của kẻ mang dụng tâm — ai giết họ, ai khiến họ lâm vào bi thương thì họ căm hận người đó.

“Là ngươi!”

“Là ngươi!”

“Ngươi khiến ta khốn quẫn…”

“Ban nãy ngươi còn chém tay ta…”

Những linh phách đã chìm vào thù hận và thống khổ thét gào sắc lẻm, chúng bất chấp hết thảy mà hung mãnh ùa về phía Tiêu Phục Huyên.

Lúc đầu, chúng toan đánh lén nhưng đã bị Tiêu Phục Huyên chém đứt tay. Hiện giờ sự hận thù của chúng đã đạt đến đỉnh điểm, khí lực đột ngột quay trở về, cánh tay trắng hếu duỗi dài từ vết cắt như một cành liễu đang đà sinh trưởng, cuộn trào điên cuồng dồn dập tới một người.

Với đà này thì không thể giải quyết chỉ bằng chém đứt lần nữa là xong.

Vì chém rồi lại mọc, mọc dài lại chém, thù hận càng tích trữ càng đậm sâu. Đây là một vòng tuần hoàn không ngừng lặp đi lặp lại cho đến khi họ kiệt sức mà chết ở đây.

Vẫn nên quên đi thì hơn.

Ngay trong tình thế nguy cấp, Ô Hành Tuyết duỗi tay sờ bên hông mình theo bản năng.

Ngón tay vừa chạm vào chuông mộng bằng bạch ngọc, chàng mới sực nhận ra hiện tại chuông mộng đã bị nứt và hư mất, thêm cả chàng cũng không nhớ làm sao để dùng nó.

Bỗng nhiên!

Một tràng chuông ngân mơ hồ vang lên không biết bắt nguồn từ đâu, song đã bao trùm toàn bộ vùng cấm địa.

Chỉ loáng cái, sương mù khắp cấm địa ngưng phắt, không di chuyển lấy một tí ti nào.

Những linh phách kia cũng thình lình lặng thinh, đông cứng lại y nguyên tư thế đang vồ về hướng Tiêu Phục Huyên giữa bụi cát mịt mù. Những sợi dây leo màu da người không phóng vun vút như đang sinh trưởng điên cuồng nữa mà dừng lại sít sao ngay kế cạnh Tiêu Phục Huyên.

Tiêu Phục Huyên ngưng động tác rút kiếm, quay ngoắt đầu nhìn sang Ô Hành Tuyết.

“Ngươi rung chuông?” Tiêu Phục Huyên sững sờ hé môi, liếc mắt xuống bên hông Ô Hành Tuyết.

Ô Hành Tuyết cũng hơi sững sờ. “Ta không có.”

Chuông bạch ngọc còn đang treo im lìm bên hông chàng, vết nứt vẫn còn, âm thanh nọ cũng không phát ra từ đây, thế nhưng tiếng chuông nghe vào rất giống với chuông mộng.

Tiếng chuông ở đâu? Là ai rung?

Ô Hành Tuyết chăm chú lắng nghe tiếng chuông hòng tìm ra điểm khởi nguồn. Thế nhưng, vì lắng nghe quá chăm chú mà bản thân cũng cảm thấy hơi mơ màng dưới hiệu lực của tiếng chuông. Có một giây lát, chàng thậm chí nhớ về Thước Đô.

Thế là chàng nhanh chóng hoàn hồn lại, ngẩng đầu lên liền thấy phải đến hàng ngàn linh phách đang nhìn cánh tay dài ngoằng của bản thân rồi nhìn sang Tiêu Phục Huyên với ánh mắt hoang mang, sau đó từ từ thu tay về.

“Sao tay ta tự dưng dài như vậy?”

“Ta cũng vậy, thật kỳ lạ.”

“Vừa nãy ta tính làm gì vậy?”

“Không biết nữa, ta cũng thấy mù mờ.”

“Các người là ai đó?!”

“Nơi này là cấm địa, các người vào đây bằng cách nào?”

Những linh phách kia dần quay đầu, nhìn Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết như thể chưa từng trông thấy bọn họ bao giờ, đoạn cất giọng răn đe, “Nơi này là cấm địa với tầng tầng lớp lớp đao trận và hoả trận chất chồng với tám mốt đạo Cửu thiên huyền lôi, các người dám cả gan?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Quên chóng vánh đến vậy, tác dụng thần kỳ đến vậy thật sự rất giống chuông mộng.

Chàng bỗng dưng nhớ lại thời điểm vừa bước vào quán trọ thì thấy phía trước quầy ngoài sảnh quán có treo một chiếc chuông bạch ngọc tương tự chuông mộng.

Ngay kế đó, vì tiếng chuông lay tỉnh mà chàng nhớ đến một khung cảnh khác —

Trong khung cảnh ấy, chàng đang cầm chiếc chuông bạch ngọc kia và đưa nó cho ông chủ quán trọ với bọng mắt đen sì rồi nói, “Nghe nói ông chủ khó an giấc về đêm, để ta tặng ông thứ đồ chơi nhỏ này.”

Ông chủ nhận lấy chiếc chuông, có phần cảm thấy ngượng ngùng pha lẫn ngờ vực. “Công tử là người của tiên môn ư? Chiếc chuông này… là pháp bảo gì chăng?”

“Ta tình cờ tìm được chút tiên duyên và học một phương pháp chế tạo. Không biết món đồ này có thể xem như pháp bảo được hay không, nhưng ít nhiều cũng tương đối hữu dụng.”

“Nó có tác dụng gì thế?”

Chàng ngẫm nghĩ rồi buông một nụ cười đạm bạc. “Nó có thể… đuổi ma trừ ta, bảo hộ bình an.”

Ông chủ nửa tin nửa ngờ, nhưng xét thấy nhận một món đồ có thể “đảm bảo bình an” cũng không sợ dư, bèn treo chiếc chuông ngọc nọ bên cạnh quầy quán trọ.



Ô Hành Tuyết bất chợt hoàn hồn.

Lý do mà ban đầu chàng chú ý đến quán trọ này là bởi trước cửa có treo chiếc chuông mộng phiên bản đơn giản này. Khi đó, chàng còn thấy thắc mắc không rõ chuông mộng ấy từ đâu ra.

Giờ ngẫm lại, nói không chừng chính mình ở lại quán trọ này mấy trăm năm trước và phát hiện ra đủ thứ chuyện bên trong cấm địa, nhưng nhất thời chưa nghĩ ra phương thức giải quyết ổn thoả, thêm cả e ngại về sau linh phách lại rơi vào sự thao túng của kẻ khác, rồi nhớ ra những hận thù dĩ vãng thì sẽ gieo rắc mầm hậu hoạ. Thành thử, chàng đã để lại món đồ tương tự như chuông mộng bên trong quán trọ để trấn áp linh phách đôi chút trong trường hợp chúng lại xao động.

Dù vậy, món đồ đó không phải chuông mộng thật, có vẻ nó có thể tự lay mà không cần tiên vận lực ra tay. Chỉ cần linh phách nổi điên lên là nó lập tức có phản ứng.

Tiếng chuông kia có hiệu lực cao nhất với linh phách, còn với người như chàng và Tiêu Phục Huyên thì không nghiêm trọng và chóng vánh đến thế.

Song, chàng vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng từ nó, đầu óc hơi choáng váng giữa tiếng chuông ngân.

“Món đồ chơi bé tí mà uy lực mạnh mẽ như vậy…” Ô Hành Tuyết cầm chiếc chuông nhỏ treo bên hông mình lên và rầm rì. Nói đoạn, chàng ngước mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên, liền thấy đối phương đang đứng yên một chỗ, mắt cụp xuống và lẳng lặng nghe tiếng chuông, nét mày chau lại như có hơi xuất thần.

Một lúc lâu sau, Tiêu Phục Huyên đưa tay lên và mân mê nhẹ vành môi.

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng còn chưa hiểu ngọn nguồn, muốn mở miệng hỏi thì lập tức thấy Tiêu Phục Huyên ngước mắt nhìn về phía mình. Y híp khẽ đôi mắt dài, không rõ vừa nhớ ra chuyện gì.

Ô Hành Tuyết cảm thấy chột dạ một cách vô cớ, nuốt ngược câu hỏi vào trong.

Bị người kia nhìn chằm chặp, chàng bất giác nảy ra một phán đoán trong đầu — chàng ngờ rằng sau khi nghe được tiếng chuông này, có thể Tiêu Phục Huyên đã nhớ đến việc mình bị mất cảnh giác để chuông mộng giành cơ hội thay đổi ký ức hồi mấy trăm năm trước như thế nào.

Còn nguyên nhân khiến y sờ môi…

Ờm…

Nhưng rồi Ô Hành Tuyết không nghĩ tiếp được nữa bởi tiếng chuông vẫn văng vẳng chưa nguôi, bấy giờ không chỉ linh phách chịu tác động mà chính bản thân chàng cũng bắt đầu thấy choáng váng nặng hơn. Nếu thừ người trong tiếng chuông này một lát nữa, không chừng chàng sẽ mở miệng lép bép tiếp về “Thước Đô”.

“Chúng ta có nên tránh đi một chút hay không—” Ô Hành Tuyết còn chưa kịp dứt lời đã thấy một bóng người cao dỏng vụt tới trước mặt trong nháy mắt.

Chàng bị người kia ôm lấy, vùi mình vào hơi thở của Thiên Túc thượng tiên.

Ngay kế đó, tầm mắt chàng tối sầm xuống và gót chân hẫng bước, chàng bị người nọ mang ra khỏi cấm địa.

Khi vừa vượt qua lối vào cấm địa, giọng nói Tiêu Phục Huyên lập tức vang lên ngay trước chóp mũi chàng, “Ta còn đang tự hỏi tại sao lúc trước sơ suất để bị người thay đổi ký ức.”

Hơi thở Tiêu Phục Huyên như lắng đọng giữa vành môi Ô Hành Tuyết khiến chàng ngưa ngứa. Ô Hành Tuyết mấp máy nhẹ đôi môi, chợt nghe y thấp giọng nói, “Ngươi gạt ta.”

Ta…

Ô Hành Tuyết li3m môi, vừa tính nói gì đó thì thấy ánh sáng loá lên trước mắt — họ đã thoát ra khỏi cấm địa.

Những người đầu tiên họ trông thấy bên ngoài cấm địa là mấy đệ tử nhà họ Phong nọ. Trong tay họ đều cầm trường kiếm, đanh chặt nét mặt canh giữ lối vào, trông dáng vẻ vừa muốn xông vào nhưng lại không dám xông vào bừa bãi.

Ô Hành Tuyết nhìn bộ dáng và nét mặt của họ thì chợt nghĩ đến một việc: Nếu những người ở phố núi Lạc Hoa đều bị <i>trói</i>, phải sống đi sống lại ở nơi này cả trăm năm hoặc lâu hơn, thì đúng thật những thần tiên thi thoảng hạ phàm như chàng và Tiêu Phục Huyên năm đó rất khó phát giác, những phàm nhân hàng năm ghé sang thăm thú dạo chơi ngắm cảnh phố phường nhộn nhịp cũng khó lòng nhìn ra, nhưng có một nhóm người ngoại lệ…

Đó chính là những người nhà họ Phong.

Đệ tử nhà họ Phong trông coi toàn bộ khu vực phố núi Lạc Hoa, bọn họ được mời đến bất cứ khi nào có chuyện xảy ra ở đây. Sau nhiều lần như vậy, cam đoan họ phải vô cùng quen thuộc với những người sống ở phố núi Lạc Hoa rồi, ắt nên phát hiện ra tuổi tác thất thường của những người ở đây.

Nếu chỉ ba năm năm năm thì không nói, còn lâu hơn thì sao có thể không thấy manh mối? Nếu đã thấy được manh mối mà còn tỏ vẻ mọi chuyện êm xuôi không có gì bất thường, vậy đó chính là điểm bất thường.

Nói vậy xem ra, nhà họ Phong quả nhiên có vấn đề.

Bọn họ biết chuyện gì đó, song vì nguyên nhân chưa rõ mà luôn giúp che giấu việc này? Hay chính bọn họ có dính líu đến việc này?

Thế nhưng, những chuyện tương quan với thần mộc hay cấm địa hẳn không phải chuyện mà một đệ tử trẻ có thể nắm rõ được, nếu nói có dính líu thì nên là những người đứng đầu nhà họ Phong. Có điều… làm sao để thay những người trẻ tuổi này thành những người đứng đầu nhà họ Phong đây?

Đại ma đầu có một sáng kiến.

“Tiêu Phục Huyên,” chàng lợi dụng tư thế hiện tại của hai người mà thì thầm bên tai Thiên Túc thượng tiên, “ngươi có thể trói đám tiểu quỷ trước mặt lại được không?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

***

Ninh Hoài Sam nào có ngờ mình sẽ bị trúng tà ngay trước cửa nhà mình, và càng không ngờ thế mà lại bị lạc đường bên trong ảo cảnh như phố núi Lạc Hoa, vừa mất dấu thành chủ nhà cậu mà vừa mất dấu Phương Trữ.

Cậu tìm dọc mười hai dặm phố phường, đồng thời tự châm biếm trong lòng: <i>Nếu người đầu tiên mình tìm được là Thiên Túc thượng tiên thì nên làm cái mẹ gì bây giờ? Ngoảnh đầu cắp đít bỏ chạy thì có hơi vã quá không?</i>

Chỉ mong trời cao có mắt, thành chủ phù hộ, làm ơn đừng để ta một mình đối đầu với Thiên Túc thượng tiên.

Ninh Hoài Sam nguyện cầu trong lòng như vậy cả đêm, ông trời quả nhiên tỏ mắt…

Cậu không gặp Tiêu Phục Huyên mà gặp phải Y Ngô Sinh.

Một cửa hàng bán mỹ phẩm nào đấy đã đánh đổ không biết bao nhiêu hàng hoá mà dìm phải hơn nửa con phố trong mùi son phấn. Ninh Hoài Sam hắt xì hơn chục cái liền, suýt chút đã khạc cả não ra ngoài.

Để rồi chỉ vừa ngoảnh đầu lau mũi một phát và quay trở lại đã thấy ngay Y Ngô Sinh.

Cậu thấy người kia trùm khăn vải kéo quá nửa mặt, che kín mũi chỉ để lộ hàng mày với dáng vẻ trắng nhợt bợt bạt, trông như một vị thư sinh nho nhã yếu đuối. Không có một chút phong độ của người nổi danh thuộc đại môn đại phái gì.

Ninh Hoài Sam trề môi.

Y Ngô Sinh vốn không chú ý có người đứng ở góc bên này, nhưng bị tiếng hắt xì dồn dập dẫn bước sang.

Hắn trông thấy đó là Ninh Hoài Sam thì hơi ngẩn người, có vẻ sượng nhẹ nhưng nhanh chóng vơi đi và nói, “Cuối cùng cũng gặp một người.”

Giọng hắn nghe qua rất hào hứng.

Ninh Hoài Sam khinh khi tặc nhẹ trong lòng, nhủ thầm <i>làm quái gì mà ông còn ở đây vậy? Chỉ là một chút tàn hồn mà sống còn dai hơn ta</i>.

Cậu rất muốn trưng sự khinh khi này ra mặt, ngặt nỗi hắt xì liên tục không ngừng được nên làm kiểu nào cũng không toát được khí chất hung tàn.

Y Ngô Sinh ngó thấy bộ dáng cậu thì lục lọi túi thuốc của mình.

Ninh Hoài Sam bịt mũi lại và khàn giọng làu bàu, “Thôi, đừng có lục, ta không cần! Ta có bị bệnh đâu, thuốc men cái gì. Ta bị cái mùi kia hun mũi đây này…”

Y Ngô Sinh lấy ra một viên thuốc và nói, “Tôi có vô số các phương thuốc cổ truyền, không chỉ để trị các loại bệnh mà còn giúp giảm nghẹt mũi khó thở. Chỉ cần một viên sẽ dứt ngay, cậu thử xem.”

Ninh Hoài Sam không muốn thử.

Thế nhưng, cậu càng lúc càng hắt xì nghiêm trọng hơn, nếu cứ tiếp tục như vậy có khi nước mắt nước mũi tèm lem mất. Đường đường là một tà ma mà bị điếng người vì cái thứ này thì mất mặt quá.

Thành thử, cậu không còn sự lựa chọn khác mà đành nhận lấy viên thuốc và nuốt trọng vào.

Vừa ngóc cổ lên, cậu đã nghe thấy tiếng ồn dậy lên bên ngoài con phố xen lẫn tiếng bước chân sàn sạt liên hồi. Nghe qua có kha khá người đến.

Ninh Hoài Sam nhìn sang bên kia thử, đồng thời hỏi Y Ngô Sinh, “Ông có gặp thành chủ nhà ta không? Với Phương Trữ nữa. Ta tìm bọn họ nãy giờ, trên lý thuyết không nên xảy ra chuyện này, rõ ràng chúng ta bước liền nhau vào trong Lạc Hoa Đài cơ mà. Làm sao chỉ vừa vào ảo cảnh đã bị tách lìa xa lắc tới nỗi tìm hoài không thấy người như vậy…”

Y Ngô Sinh lắc đầu. “Tôi chưa gặp, tôi cũng tìm đã lâu rồi. Ban đầu tôi tính vẽ một lá phù tìm người nhưng bị một số động tĩnh cản trở.”

Hắn siết tờ giấy cất trong ống tay áo, thoạt nghe như đang nói chuyện bình thường, không khác gì một người còn sống.

Những tiếng bước chân kia mỗi lúc một gấp rút và tiến đến càng lúc càng gần.

Ninh Hoài Sam vươn cổ nhìn lướt qua và nhỏ giọng nói, “Hình như không giống đi dạo phố núi…”

“Là người nhà họ Phong,” Y Ngô Sinh trả lời. “Tôi vừa đi từ hướng đó sang, có gặp phải một nhóm đệ tử nhà họ Phong với nét mặt không mấy vui vẻ, không biết họ đang tính làm gì.”

Nhà họ Hoa và nhà họ Phong có mối thân tình sâu sắc, thế nhưng những đệ tử nhà họ Phong này không phải những người Y Ngô Sinh thường giao thiệp. Đây ắt là những người sống mấy trăm năm về trước bên trong ảo cảnh của phố núi Lạc Hoa.

Khi hắn còn đang nói chuyện, một nhóm người mặc đồng phục của môn phái nào đó bước tới.

Người đi đầu là một người nam khó đoán được tuổi, dáng vẻ nhìn qua rất khôi ngô, nhưng đăm đăm nét mặt nên trông như một ông cụ non.

Ninh Hoài Sam vốn là tà ma nên rất nhạy cảm với mùi máu. Cậu hếch mũi lên hít vào mấy cái, rồi dời tầm mắt về cánh tay chàng trai kia, bấy giờ mới phát hiện có vết máu trên mu bàn tay cầm kiếm của hắn ta, có vẻ hắn vừa gặp vài chuyện không mấy thuận lợi và còn khiến hắn bị thương.

Người nam nọ ngước đầu nhìn sang quán trọ ở bên cạnh cửa hàng mỹ phẩm, đanh nét mặt hỏi người bên cạnh, “Thù Lan, phù cầu cứu cô nhận được bắt nguồn từ nơi này à?”

Người có tên Thù Lan là một cô gái cao và mảnh khảnh, mang song kiếm bên hông, nét mặt vô cùng xinh đẹp với nụ cười trời sinh. Thế nhưng lời nàng không đọng một chút ý cười nào, “Chính xác, nếu không phải quán trọ này thì tôi đã không làm phiền anh đến đây một chuyến.”

Khi vừa nghe thấy tên cô gái này, Y Ngô Sinh có hơi kinh ngạc.

Ninh Hoài Sam liếc sang nhìn hắn. “Sao nào? Quen biết à?”

Y Ngô Sinh nói, “Đó là… gia chủ đời trước của nhà họ Phong, Phong Thù Lan. Tất nhiên, bà ấy đã mất từ lâu.”

Nhìn tình hình trước mắt, đoan chắc thời điểm này Phong Thù Lan chưa lên đến vị trí cao nhất của nhà họ Phong. Có lẽ người của mấy trăm năm trước giống như toàn bộ những người trong ảo cảnh này.

Người nam đi đầu lại hỏi, “Phù cầu cứu có đề cập ai là người bắt họ không?”

Thù Lan hơi chần chờ, nói “Có nói.”

Người nam trầm giọng hỏi, “Ai.”

Thù Lan: “…”

Người nam mất kiên nhẫn, quay ngoắt đầu nhìn sang. “Ấp úng cái gì? Kẻ bắt được người tiên môn thì lòng vòng cũng chỉ là tà ma yêu vật, bọn tà ma hoành hành mấy năm nay có kẻ nào chúng ta chưa giao đấu đâu mà cần gì phải thế?”

Thù Lan suy ngẫm, mới nhẹ giọng mà nói, “… Không phải là ma vật.”

Người nam: “Vậy là cái gì?”

Thù Lan: “Phù nói là Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên.”

Người nam: “…”

Ai??????

Ninh Hoài Sam vừa nghe đến cái tên kia thì lập tức thấy khấp khởi hẳn lên. Nhưng sau đó lại muốn ngoảnh đầu chạy mất — giờ thành chủ nhà cậu không có ở đây mà tìm được Thiên Túc cũng không tốt lành gì.

Cậu vừa tính giả bộ không nghe được cái tên này và sủi gọn đi mất thì cảm thấy một luồng khí kình mãnh liệt quét từ trong quán trọ ra ngoài, luồng khí kình kia quét qua không khác gì một sợi roi dài vô hình, tất cả mọi người bị mất cảnh giác dẫn đến đau nhói cả người.

Tiếp theo đó, kiếm khí ánh vàng hoá thành một tia sáng dài bọc huyền lôi, trói gô tất cả những người theo đến trước cửa nhà trọ lại rồi kéo phăng vào trong tiệm.

Ninh Hoài Sam và Y Ngô Sinh xui xẻo đứng quá gần những người nhà họ Phong nên cũng bị trói theo vào trong.

Khi bị lôi vào, trên mặt Ninh Hoài Sam mọc đầy chấm hỏi: S<i>ao hôm nay Thiên Túc hành xử không ra dáng tiên gia gì hết trơn vậy?!</i>

Lời tác giả:

Học thói lưu manh lẹ thế

Ngủ ngon QAQ~

Cá:

Ò tạm thời trả về xưng hô <i>ta – ngươi</i> vì Tuyết Nhi nhớ ra rồi mà bộ này niên hạ nên hong có <i>ta – huynh</i> được nữa ~ chừng lào yêu đương thì ngộ sẽ nghĩ xưng hô khác (dù hai vị này cũng yêu đương từ trước rồi)
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 46: Ác bá


Người thường không ai thích bị trói, nói gì tới cái tên nóng nảy như Ninh Hoài Sam… Lại nói gì tới việc cậu còn chả ưa bị cột chung một cục với Y Ngô Sinh mà cậu ghét nhất.

Tức giận sôi máu, vừa bị lôi vào nhà trọ Ninh Hoài Sam đã muốn ngoác mõm chửi thề, kết quả chữ “đụ” vừa mới bật ra miệng đã đụng phải gương mặt lạnh như băng của Thiên Túc thượng tiên.

“…”

Ninh Hoài Sam vẫn còn hèn lắm. Cậu mím chặt môi, sượng chín người nuốt cụm đằng sau chữ “đụ” vào và ngoặt sang Y Ngô Sinh, “** làm gì ép ta vậy?”

Y Ngô Sinh nằm không cũng dính hoạ, nhưng không thể nổi cáu với cậu ta, bèn thôi so đo với cậu nữa mà nói, “Tôi có muốn đâu, người đông quá thế này còn gì.”

Quả thật đông người.

Gian nhà trọ này cũng không lớn lắm, tính luôn cả gác mái thì có tổng cộng ba tầng, rộng nhất là đại sảnh ở tầng một, chính là chỗ mà cả đám họ đang tụ lại vào lúc này.

Y Ngô Sinh nhìn bao quát qua một vòng, thấy gian đại sảnh này có bốn cột trụ, trên mỗi trụ trói mấy người, nhìn quần áo và phụ kiện thì đều là đệ tử nhà họ Phong, trên trán mỗi người có dán một lá bùa, trông vào vừa buồn cười và vừa nhục nhã…

Những đệ tử trẻ tuổi hơn đều đỏ gay cả mặt, không biết là vì lo lắng hay vì tức giận.

Những người lớn tuổi hơn quyết định nhắm tiệt mắt không nhìn ai cả, mặt mũi xệ xuống dài hơn cả lừa.

Đây là còn chưa tính tới nhóm vừa bị trói lôi vào trong…

Cùng lúc đó, thủ phạm Tiêu Phục Huyên đang ôm kiếm, vai rộng eo thon hiên ngang dựa vào trước quầy, đầu kia của kiếm khí trói người còn quấn vòng trên tay.

Ngón tay Tiêu Phục Huyên không hề cử động, nhưng kiếm khí vẫn xoay chuyển xung quanh các ngón. Kiếm khí trên tay ai khác ắt sẽ tạo cảm giác dửng dưng hờ hững, nhưng đi kèm với vẻ ngoài lạnh căm của y chỉ đè nặng thêm sự áp bức khôn lường.

Nhóm người nhà họ Phong vừa còn hô hào, giờ bị kéo vào đại sảnh tức thì im phăng phắc, không dám nói tiếng nào dưới bầu không khí tràn ngập bức bách.

Ngay đến Y Ngô Sinh cũng hiếm khi rơi vào tình huống gặp ác bá như vậy, nhất thời đơ cả giọng, sau một hồi mới thầm thì không liền mạch, “… Chuyện… chuyện này thật…”

Trái lại, Ninh Hoài Sam thích ứng khá nhanh, nhỏ giọng thầm thì, “Chuyện này thật không giống hành vi của một vị Thượng tiên.”

Y Ngô Sinh trầm ngâm, nói, “Là… Chiếu Dạ thành bày trò?”

Ninh Hoài Sam: “Đéo! Chiếu Dạ thành mà bày trò thì làm gì có chuyện dán phù trên trán, nói không chừng chưa chắc giữ được cái đầu nữa chứ lại.”

“…”

Y Ngô Sinh nhủ thầm <i>cũng đúng</i>.

Ninh Hoài Sam “Ò” một tiếng rồi bắt đầu vươn đầu ra thám thính thử xung quanh, cậu có cảm giác thành chủ nhà mình khả năng cao cũng ở đây. Cậu chả hề an phận, song mấy người nhà họ Phong bên cạnh sắp phát điên lên được…

Tức đến phát điên.

Nhìn qua một lượt là thấy, dây trói đệ tử nhà họ Phong là dây trói linh của nhà họ Phong, bùa dán trên đầu các đệ tử nhà họ Phong cũng là bùa phong hầu của chính nhà họ Phong.

Muốn nhục nhã bằng nào thì có nhục nhã bằng ấy!

Cô nương tên Phong Thù Lan cong ngón tay mảnh mai để lập thủ quyết và ném sang người nam dẫn đầu trong âm thầm.

Người nam nhíu mày, ánh mắt nhìn chằm chằm Tiêu Phục Huyên đứng cách đó không xa, thoạt trông như không hề đề phòng, nhưng gõ nhẹ mười ngón tay bị cột phía sau lưng để lấy tiếng vang làm hồi âm.

Đây là bí pháp truyền âm gia truyền của nhà họ Phong.

Người nam gõ tay cực kỳ bình tĩnh, nhưng mặt đã tái mét.

Hắn dùng bí pháp để hỏi, “Tại sao có nhiều đệ tử bị trói ở đây vậy?!”

Phong Thù Lan cũng dùng bí pháp trả lời, “Thưa Huy Minh trưởng lão, lúc nãy tôi có nói với anh…”

Dù nàng vô cùng xinh đẹp nhưng phải nặng lòng nhiều việc nên gương mặt đượm vẻ mệt nhoài. Đặc biệt, những câu chất vấn của người đàn ông kia làm cho độ cong trên môi nàng càng trễ xuống.

Phong Huy Minh run run xương hàm, lau đi máu trên mu bàn tay rồi nói, “Cô truyền tin đến vừa đúng lúc ta đang tiếp khách nên không phân tâm chú ý nghe được.”

Phong Thù Lan: “Là khách thật ư? Tôi còn đang muốn hỏi hình như trưởng lão bị thương à?”

Phong Huy Minh: “Không sao cả, vết thương cũ thôi. Cô nói chuyện của cô đi.”

Phong Thù Lan thấy hắn tỏ ý không muốn tiếp tục chủ đề đó, mím chặt đôi môi đỏ mọng nhưng không hỏi thêm nữa mà giải thích ngọn nguồn những chuyện đã xảy ra một lần, “Phố núi Lạc Hoa vốn chỉ gặp một số rắc rối nhỏ, trước đây chuyện này cũng xảy ra mấy lần rồi nên lần này vẫn cử mấy đệ tử trẻ đến xem tình hình thế nào và thu dọn tàn cuộc.”

Ngờ đâu các đệ tử trẻ lại một đi không trở lại.

Chẳng bao lâu sau, đệ tử đường nhà họ Phong nhận được một tấm phù cầu cứu, trên đó ghi một câu bằng nét chữ vô cùng tiêu sái —

<i>“Đệ tử trẻ gia tộc các vị bị bắt, mau đến cứu người.”</i>

Nói gì thì nhà họ Phong cũng là một đại gia tộc tiên môn có tiếng, nào có chuyện gì chưa gặp qua? Thế mà họ cũng sững sờ một lúc lâu khi nhìn thấy phù cầu cứu với tác phong này.

Chuyện đệ tử lâm vào tình huống nguy nan này nói nhỏ không nhỏ mà nói lớn không lớn, phía đệ tử đường có kinh nghiệm xử lý rồi bèn phái thêm bảy tám đệ tử lớn tuổi hơn đến tìm.

Kết quả được hoa nở đợt hai.

Bên đệ tử đường lại nhận được một tấm phù cầu cứu vẫn với nét bút tiêu sái nọ —

<i>“Mấy nhóc này cũng bị bắt rồi, đừng cử con nít đến nữa, cho ai có khả năng chủ trì ấy.”</i>

Với tư cách là một tiên trưởng của đệ tử đường, Phong Thù Lan là một trong số những người có khả năng chủ trì.

Thế nhưng gần đây cơ thể nàng lâm bệnh nhẹ, các đệ tử không muốn làm phiền đến nàng, đồng thời họ cũng bị khiêu khích nên không tin mà cử thêm bốn vị đệ tử kim văn đến hỗ trợ.

Đệ tử kim văn là những nhân tài kiệt xuất trong nhóm đệ tử trẻ tuổi, một người trong số họ cũng có thể tự mình đảm nhiệm đại sự, nói chi đến tận bốn người!

Kết quả cả bốn đều bị hốt trọn.

Khi tấm phù cầu cứu thứ ba được gửi đến nhà họ Phong, đệ tử đường không còn dám không truyền lên cấp trên nữa. Trên tấm phù cầu cứu vẫn là nét chữ bay bổng như trước —

<i>“Xem ra các người sợ đệ tử nhà mình đông quá phải không.”</i>

Trước khi truyền phù cầu cứu lên cho Phong Thù Lan, đệ tử đường có gửi trả một tấm vấn phù hỏi rằng:

<i>“Rốt cuộc là người phương nào đang càn quấy?”</i>

Những tưởng sẽ không nhận được hồi đáp cho tấm phù này, ngờ đâu thế mà họ thật sự nhận được. Lần này, nét chữ trên lá bùa đã đổi, đường nét bén nhọn như đao, chỉ viết vỏn vẹn ba chữ:

<i>“Tiêu Phục Huyên.”</i>

Đâu chỉ có đệ tử đường, đến Phong Thù Lan lúc nhận được tin cũng sững người như khúc gỗ.

Cho đến giờ phút này, khi bị kiếm khí ánh vàng kéo lê vào nhà trọ, Phong Thù Lan vẫn thắc mắc khôn tả, “Thiên Túc thượng tiên hành sự chỉ phụng thiên chiếu, xưa giờ toàn đối đầu với hạng ma đầu chí hung chí ác, tại sao lại câu nệ với những tiên môn dưới nhân gian như chúng ta? Thật vô lý.”

Nghe Phong Thù Lan kể sơ bộ tình hình, nét mặt Phong Huy Minh càng thêm sa sầm.

Phong Thù Lan nhìn hắn chòng chọc một hồi, tiếp tục dùng bí pháp để hỏi, “Thưa Huy Minh trưởng lão, tôi trước nay chỉ thu nhận và dẫn dắt đệ tử chứ không hỏi những vấn đề khác, mà tôi cũng không bận tâm đ ến những vấn đề này nọ. Thế nhưng… nếu thật sự có uẩn tình gì đó, xin phiền anh nói tôi hay một tiếng. Dù gì tôi cũng không muốn trở thành quỷ oan mạng.”

Phong Huy Minh: “Cô nói gì vậy, sao lại đến mức trở thành quỷ oan mạng.”

Hắn lặng thinh một chốc, đổi giọng điệu sang trấn an và nói, “Chúng ta là một tiên môn danh giá, làm gì có uẩn tình nào giấu giếm được các tiên, đừng lo lắng viễn vông. Ta từng nghe phong cách hành sự của vị Thiên Túc thượng tiên này khác hẳn chư tiên Linh đài, y không màng tình thương và lòng trắc ẩn, miễn dùng được kiếm để giải quyết sự tình thì tuyệt không dùng lời nói. Nghĩ lại thì… cũng tương tự những vị tướng trong nhân gian đấy, cô xem tính tình những người nọ mà xem, thỉnh thoảng khi họ ra tay thì nhìn qua còn không phân biệt được là địch hay ta. Thế nhưng Tiên Đô và tiên môn của chúng ta là cùng một phe, nên không cần lo sợ.”

Nói dứt lời, sắc mặt hắn cũng thả lỏng ra một chút, trông như chắc mẩm tất cả chỉ là một sự hiểu lầm.

Phong Thù Lan hãy còn nghi ngờ lời hắn, nhưng có một câu nàng cũng thấy đúng — nói chung Tiên Đô và tiên môn là chung phe, và dù gì đi nữa thì Tiêu Phục Huyên cũng là một vị Thượng tiên.

Thượng tiên ấy à, dù có tỏ vẻ lạnh lùng hù doạ người khác đi chăng nữa thì cũng có giới hạn.

<i>Nhìn về mặt tốt thì ông chủ quầy và tiểu nhị quán trọ có bị trói đâu.</i>

Phong Thù Lan nhủ thầm trong lòng, ngước nhìn ông chủ quầy và tiểu nhị béo ở đằng sau, lại thấy ống tay áo hai người kia run lẩy bẩy.

Phong Thù Lan: “…”

Nàng nhìn qua một chút rồi bỗng nhiên trỗi lên linh cảm bất tường.

Linh cảm này nhanh chóng trở nên trầm trọng hơn…

Nàng nhận ra có hai trong nhóm người bị trói không phải đệ tử nhà họ Phong. Ban đầu nàng còn tưởng người thường bất cẩn bị trói nhầm lôi vào, thế nhưng nhìn kỹ thì thấy hai người này rất không bình thường.

Một người trong đó chắc chắn là tà ma, người còn lại không hề có chút sinh khí nào.

Một khi vừa chú ý đến chuyện này, nàng thấy kiếm của Thiên Túc thượng tiên khảy nhẹ.

Vẽ ra luồng kiếm khí chói loà xé gió lao thẳng về hướng hai người kia!

Khoảnh khắc đó, cả Phong Thù Lan lẫn Phong Huy Minh đều bình tĩnh không lay động vì họ đã thấy cảnh này nhiều rồi. Khi phát hiện ra tà ma trà trộn vào người thường thì nếu có thể diệt gọn ắt hẳn sẽ ra tay giết thẳng, nên không có gì ngạc nhiên cả.

Nhưng chuyện xảy ra sau đó mới khiến họ sững cả người.

Bởi kiếm khí của Tiêu Phục Huyên xuyên qua đám người và dừng bên người tên tà ma lồ lộ kia, chỉ kịp nghe một tiếng <i>kengggg</i> vang lên kéo theo ánh vàng bắn tung toé. Dây trói trên thân tà ma trượt ra, kẻ đó đứng dậy mà không bị mất một cọng lông nào…

Tất cả đệ tử nhà họ Phong trong đại sảnh: “???”

Ngay tiếp đó, một tiếng <i>kenggg</i> khác lại vang lên, dây trói người bên cạnh tà ma cũng lỏng ra, và người kia cũng đứng dậy theo…

Mà chuyện đáng sợ nhất chính là tên tà ma với dáng vẻ như một người thiếu niên kia nhảy phốc lên, rồi không bỏ chạy ra ngoài cửa mà đi xuyên qua những người trong sảnh để bước về phía Thiên Túc, vừa đi vừa hỏi, “Thưa đại nhân, thành chủ nhà ta có ở trong nhà trọ chứ?”

Tiêu Phục Huyên tích chữ như vàng trong truyền thuyết thế mà lại trả lời cậu ta, y hất cằm bảo, “Trên lầu.”

Nhóm Phong Thù Lan choáng váng mặt mày.

Các đệ tử nhà họ Phong vô cùng hoang mang trước chuyện vừa xảy ra, cả những người bị dán phù phong hầu lẫn không bị dán phù phong hầu đều nhanh nhảu dời mắt sang Phong Thù Lan và Phong Huy Minh. Giữa khi bối rối, đã có thể thấy rõ ai mới là người lãnh đạo.

Phong Thù Lan còn chưa kịp phản ứng, đã thấy Thiên Túc thượng tiên nâng mi nhìn sang phía họ.

Một cơn gió bất chợt quét ngang.

Phong Thù Lan hơi nghiêng đầu né đi một chút, đến khi mở mắt ra lại đã thấy tất cả các đệ tử trẻ đều bị lùa ra ven tường, cả một cửa hàng đầy người phút chốc trở nên trống hoác, chỉ còn mỗi mình nàng và Phong Huy Minh…

Không thể động đậy, không chốn nương thân.

Còn Tiêu Phục Huyên vừa còn đứng trước quầy giờ đã sừng sững trước mặt họ.

Y quẹt mũi kiếm xuống đất, lạnh lùng mà nói, “Người chủ trì đã tới?”

Khoảnh khắc đó, Phong Thù Lan cảm thấy áp bức tột độ.

Cổ họng nàng thít chặt, nói không nên lời, chỉ đành quay đầu nhìn Phong Huy Minh một cái. Khi gia chủ nhà họ Phong vắng mặt, trưởng lão Phong Huy Minh luôn là người làm chủ.

Thế mà, gương mặt Phong Huy Minh lúc này vàng khè như giấy bùa, môi trắng bệch. Hắn ngẩng đầu nhìn Tiêu Phục Huyên, mấp máy đôi môi mấy lần rồi mới gượng lấy lại giọng để nói, “Không rõ… không rõ Thiên Túc tìm môn phái ta… có việc quan trọng gì?”

“Ngươi nói xem,” Tiêu Phục Huyên giữ chuôi kiếm, ngồi xổm nửa người xuống, lia ánh mắt hững hờ một vòng trong quán trọ, ý đồ viết hẳn lên trên mặt — đang ở trong quán trọ này, ngươi nghĩ ta muốn hỏi chuyện gì.

Khi Tiêu Phục Huyên không ngồi thì tạo cảm giác như liếc nhìn từ trên cao, mà khi ngồi xổm xuống, áp lực chẳng những không vơi bớt mà còn nặng nề hơn, âu là bởi ánh mắt nọ đang kề cận bên bạn và nhìn bạn với đôi ngươi nửa rủ…

Nằm dưới ánh mắt ấy một lúc, Phong Huy Minh trơ cứng người như một khối đá, không mảy may động đậy. Đoạn, hắn liếc mắt sang bên cạnh hòng hít thở một chút, song phát giác chẳng thà không né đi còn đỡ hơn.

Bởi vừa dời mắt, hắn đã nhác thấy bóng dáng một người khác đang bước xuống thang từ trên tầng hai quán trọ.

Người kia khoác áo choàng, thoáng đưa mắt về phía này từ đằng xa và nói, “Người chủ trì nhịn hết nổi rồi à?”

Ánh đèn nơi này không chiếu tới góc thang phía nọ nên trông hơi u ám, nhìn không rõ dung mạo người đang xuống lầu. Cho tới khi người kia đến gần, Phong Huy Minh mới thấy được gương mặt…

Vừa trông rõ gương mặt đó, Phong Huy Minh chết điếng người.

Chết điếng đến độ không cách nào che giấu được mà hiện rành rành trên mặt, đâm ra khiến Ô Hành Tuyết cũng ngạc nhiên theo.

Chàng trao đổi ánh mắt với Tiêu Phục Huyên, cảm thấy hơi quạu bèn nói bằng khẩu hình: <i>Nhìn mặt ta khủng khiếp vậy hả?</i>

Tay vẫn ôm ấm sưởi, chàng khom người nhìn Phong Huy Minh, che giấu tất cả sự bực mình và thắc mắc vào trong lòng mà chỉ nghiêm mặt thả một câu hăm doạ, “À, gọi các người tới đây cũng không nhằm gì khác mà chỉ muốn hỏi một câu, nhà họ Phong các người có liên quan gì đến khu cấm địa bị phong ấn phía sau quán trọ?”

Ngờ đâu vừa hỏi thì thấy Phong Huy Minh siết chặt cái tay bị thương, nhìn chàng với vẻ mặt “<i>hay anh giết tôi luôn đi</i>” và nói, “Mới hơn một canh giờ trước, anh vừa hỏi tôi đúng chuyện này rồi còn gì!!!”

<i>Thằng này mắc chứng quái đản gì à?!!</i>

Phong Huy Minh lẩm bẩm trong lòng.

Lời tác giả:

Ngủ ngon QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 47: Phong gia


Ô Hành Tuyết: “Ngươi nói ai hỏi ngươi, ta ấy à?”

Phong Huy Minh run rẩy khoé môi mà không trả lời, nhưng vẻ mặt hắn đã nói lên tất cả.

Ô Hành Tuyết ngoảnh đầu sang Tiêu Phục Huyên, trong mắt đượm vẻ bối rối.

Thế nhưng chàng nhanh chóng quay mặt lại, khi nhìn Phong Huy Minh lần nữa, nét mặt chàng vẫn im lìm bất động như núi. Giọng điệu thâm trầm bình tĩnh, tốc độ chầm chậm thong dong, không tỏ một chút nét ngạc nhiên nào.

Ngay cả chữ <i>“ta ấy à” </i>vừa nãy cũng như mang hàm ý khác.

Phong Huy Minh nuốt nước bọt, hắng giọng rồi mới lầm bầm, “Biết rõ còn ráng hỏi.”

Người nhìn hắn với dáng vẻ như vậy và còn cam đoan được hắn không thể bạ chuyện chỉ có thể là người đã tìm hắn cách đây một canh giờ và hỏi một câu y hệt.

<i>Giống mình y hệt luôn à?</i>

Ô Hành Tuyết sờ mặt mình một chút, đồng thời sắp xếp lại suy nghĩ.

Tiêu Phục Huyên đã thông báo cả tên huý ra, dịch dung cũng xoá rồi, nhưng chàng thì chưa. Gương mặt hiện tại của chàng là gương mặt đã được Tiêu Phục Huyên chỉnh sửa qua. Nếu người kia cũng giống chàng y hệt thì ắt hẳn phải là Ô Hành Tuyết đã dịch dung.

Chuyện này cũng không khó đoán.

Song ngẫm lại thì chuyện này thật ra rất bất thường —

Vào đêm hôm qua khi họ vào quán trọ, ông chủ quầy có nhắc rằng họ chỉ vừa trả phòng chưa bao lâu. Việc này không lạ, bởi dù gì toàn bộ khu phố núi Lạc Hoa đều là ảo cảnh. Việc họ nhìn thấy hình ảnh bản thân mấy trăm năm trước bên trong ảo cảnh tính ra cũng bình thường, xem như là một duyên hiếm gặp.

Thế nhưng bây giờ Phong Huy Minh lại nói “Cách đây một canh giờ ngươi mới vừa đi tìm ta”.

Câu này mới nghe qua thì không khác gì câu ông chủ quầy nói lúc đầu. Có thể hiểu là sau khi Ô Hành Tuyết của mấy trăm năm trước rời khỏi quán trọ, chưa xoá dịch dung thì đã đến nhà họ Phong tìm Phong Huy Minh và truy hỏi các quy tắc trong cấm địa.

Mà người nam này thật xui xẻo, vừa bị đè ra tra khảo một trận xong thì lại tiếp tục bị Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên hiện tại bắt được nên mới nói câu này, vừa khéo lại trùng khớp về mặt thời gian.

Thế nhưng chính bởi từng mốc sự kiện và thời gian đều trùng khớp vừa khéo nên càng không thích hợp. Khu phố núi Lạc Hoa này là ảo cảnh nhưng nhà họ Phong thì không, về lý mà nói thì họ không nên thuộc phạm vi của ảo cảnh.

Những chuyện xảy ra trong ảo cảnh có thể liên kết với những thứ bên ngoài phạm vi ảo cảnh à?

Không thể nào.

Ít nhất là không thể liên kết một cách mạch lạc vừa khéo như vậy được.

Ô Hành Tuyết vừa đổi hướng nghĩ thì chỉ suy ra một nguyên do thích đáng duy nhất: phố núi Lạc Hoa này không phải ảo cảnh mà là cảnh thật trong quá khứ! Ngay khi bước chân vào Lạc Hoa Đài, họ đã quay về quá khứ mấy trăm năm trước.

Nếu là như vậy, có thể lý giải cả hai sự kiện của ông chủ nhà trọ lẫn người nhà họ Phong.

Trong trường hợp của ông chủ, ông ta thật sự gặp hai người đã qua đêm rồi quay trở lại ở thêm một đêm nữa.

Trong trường hợp của Phong Huy Minh, hắn ta đã bị cùng một người đến tìm hai lần và hỏi cùng một vấn đề.

Quả thật dị thường, quả thật dễ khiến người ta khủng hoảng.

Nếu để Phong Huy Minh có thêm thời gian suy nghĩ kỹ càng một lượt, hoặc có thêm thời gian để tìm hiểu cặn kẽ sẽ dễ dàng phát hiện ra điểm bất thường, ví dụ như tại sao cùng một người mà trang phục và phụ kiện lại khác nhau chỉ trong khoảng thời gian tầm một canh giờ. Hoặc ví dụ như một canh giờ trước, trên thân thể người này toát ra tiên khí mà sau một canh giờ đã biến thành tà ma?

Khổ nỗi bấy giờ Phong Huy Minh không còn hơi sức đâu để suy nghĩ cặn kẽ, mà Ô Hành Tuyết cũng không cho hắn hơi sức để suy nghĩ.

Chàng trao đổi ánh nhìn với Tiêu Phục Huyên rồi quyết định phải rèn sắt khi còn nóng, không cho Phong Huy Minh có cơ hội phản ứng lại. Chàng xoa ấm sưởi tay, buông hờ mắt và bắt đầu diễn —

“Nếu đã hỏi một lần thì vừa khéo, ta không cần tốn công nhắc lại nữa. Ngươi đã biết tường tận ta muốn hỏi chuyện gì. Chà, giờ có thêm khán giả —” Ô Hành Tuyết hất cằm, “ngươi nói lại hết một lần những chuyện đã nói với ta một canh giờ trước cho tất cả mọi người cùng nghe đi.”

“Ngươi!” Sắc mặt Phong Huy Minh càng trở nên khó coi hơn. Khuôn cằm hắn căng chặt, khớp hàm rung nhè nhẹ, hắn trợn mắt nhìn Ô Hành Tuyết một cách cảnh giác và cất giọng khàn khàn, “Tôi đã nói hết tất cả những gì nên nói rồi, sao còn phải lặp lại lần nữa?”

Ô Hành Tuyết ngẫm nghĩ rồi tiếp lời hắn, “Ngươi quan tâm sao trăng làm gì? Trước đây ta có hứa là chỉ hỏi một lần à?”

Phong Huy Minh tức tối một lúc lâu mới nhả được một chữ, “Không.”

Ô Hành Tuyết: “Thế thì được rồi.”

Phong Huy Minh: “…”

<i>Được cái gì mà được???</i>

Phong Huy Minh tính mở miệng phản đối thì chợt nghe tiếng Tiêu Phục Huyên rục rịch ngón tay, thanh trường kiếm trên mặt đất đánh vang một tiếng khe khẽ.

Hắn chợt thấy căng thẳng, bèn nhìn sang hướng Tiêu Phục Huyên, thấy Thiên Túc đang nghiêng đầu nhìn mình và cất giọng trầm thấp bổ sung thêm, “Nếu đã nói thật thì nói thêm mười bảy mười tám lần có vấn đề gì?”

Phong Huy Minh: “…”

Đôi ngươi đen láy của Thiên Túc soi thẳng vào hắn, loé lên ánh sáng lạnh căm. “Hay là, ngươi không thể tự mình lặp lại?”

Nét mặt Phong Huy Minh lập tức cứng đờ.

Ô Hành Tuyết thấy toàn bộ phản ứng của hắn và hơi nhướng mày.

Chàng luôn cảm thấy Thiên Túc người kia giả làm ác bá một phen là đã quý giá vô cùng, hiếm gặp tột bậc. Chẳng thể ngờ người kia trông lạnh lùng chính đính thế mà hẳn nhiên học một được ba —

Không chỉ biết trói người mà còn học được cả bức cung, nói ra câu nào cũng cực kỳ đáng sợ.

Đến mức Phong Huy Minh bị câu nói nọ doạ đến váng đầu, đôi môi không ngừng mấp máy, song cuối cùng cũng chẳng đáp trả được tiếng nào.

Ô Hành Tuyết ngẫm nghĩ, lòng chợt thấy vị Thiên Túc thượng tiên bên cạnh mình rất khác với người trong miệng lưỡi thế nhân.

Thiên Túc thượng tiên rất khác kia dời mắt thoáng nhìn sang chàng rồi thu tầm mắt về.

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng suy ngẫm ý nghĩa của cái liếc nhìn ấy nhưng ngẫm không xuôi.

Sau đó một lúc lâu, một suy nghĩ rất chi dị thường bất chợt nảy ra.

Cứ như là… lần đầu tiên Thiên Túc đại nhân làm một chuyện không giống như Thượng tiên sẽ làm nên phân vân về chừng mực, bèn liếc nhìn chàng một cái để xem thử có phù hợp hay không.

Nghĩ như vậy, Ô Hành Tuyết khó lòng kiềm nén, đưa mắt sang nhìn Tiêu Phục Huyên một cái.

Gương mặt lạnh lùng nọ vẫn sắc bén ngạo nghễ như xưa, cảm giác áp bức toát ra khắp người vẫn nặng tựa ngàn quân. Thế mà Ô Hành Tuyết càng nhìn lại càng cảm thấy… dường như nguyên do chính xác như chàng nghĩ.

Bởi thế mà chàng nhìn một chốc rồi nhoẻn cười.

Nụ cười tươi rói kéo dài ra từ đuôi mắt, Ô Hành Tuyết chẳng cách nào che giấu được bèn quyết định không giấu giếm.

Tiêu Phục Huyên như có trực giác cảm thấy gì đó nên nhìn sang, để rồi ngẩn ngơ thoáng chốc.

Còn Phong Huy Minh…

Phong Huy Minh sắp điên đến nơi rồi.

Người đời luôn có thói suy bụng ta ra bụng người. Người có tâm địa ngay thẳng thì nhìn người khác không thấy uẩn khúc quanh co. Người mang nhiều tâm tư khi nhìn người khác luôn thấy đổi dời liên tục, đầu đầy mưu kế.

Còn nếu lòng đang giấu giếm chi đó, có điều dối trá thì lại càng hơn thế nữa.

Vào thời điểm này, Phong Huy Minh rơi vào đúng trường hợp đó.

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên liếc mắt nhìn nhau.

Phong Huy Minh tự nhủ trong lòng: <i>Chắc vừa nãy mình đã nói sai cái gì nên làm người khác nghi ngờ.</i>

Ô Hành Tuyết bắt hắn lặp lại lần nữa.

Phong Huy Minh tự nhủ trong lòng: <i>Họ bắt được sơ hở của mình nên muốn thử mình.</i>

Tiêu Phục Huyên nói nếu đã nói thật thì không ngại nói lại.

Phong Huy Minh tự nhủ trong lòng: <i>Đây không phải là muốn thử mình mà đích thị là đang trêu ngươi. </i>

Ô Hành Tuyết lại mỉm cười như thế…

Phong Huy Minh —

Phong Huy Minh thấy chắc mình đi đời nhà ma rồi.

Hắn thấy mình không khác nào một con kiến bị bắt chơi đùa trong lòng bàn tay, trái chọt một nhát phải chọt một nhát liên hồi, trong mắt người ta, hắn có vùng vẫy cỡ nào cũng chỉ là trò hề mà thôi.

Trước mặt là rất nhiều đệ tử nhà họ Phong đang giương hàng chục đôi mắt nhìn hắn. Và Phong Thù Lan cũng ở đây và nhìn chằm chằm hắn.

Khiến hắn chợt thấy giờ phút này sao khốn đốn quá.

Lẽ ra, hắn phải quen đứng trong sự chú ý của người khác từ lâu, bởi hắn nắm địa vị cao ở nhà họ Phong chứ không đơn thuần chỉ là một vị “trưởng lão”. Gia chủ nhà họ Phong không có con cả nam lẫn nữ, hắn và Phong Thù Lan đều được gia chủ nhận nuôi. Hắn vào nhà họ Phong từ rất sớm, thậm chí trước Phong Thù Lan rất lâu, từ thuở hắn chưa đến tám tuổi.

Gia chủ đã từng nói rằng, “Tám tuổi là độ tuổi vừa vặn.”

Vừa vặn hiểu được đôi chuyện, và vừa vặn không hiểu sâu cho lắm.

Ban đầu, Phong Huy Minh không hiểu câu nói kia có ý gì, thế nhưng qua mười năm, năm mươi năm, rồi gần một trăm năm, cuối cùng thì hắn cũng từ từ tỏ tường.

<i>Hiểu được đôi chuyện</i> ý nói hắn tự biết bản thân mình không thật sự mang dòng máu của nhà họ Phong, biết gia chủ không phải cha ruột mình, nên dù sau này có hãnh diện đến bực nào đi nữa, có được yêu chuộng đến bực nào đi nữa, cũng sẽ biết hành xử đúng mực, biết bản thân không thể dựa vào việc được ưu ái mà tỏ vẻ kiêu ngạo, biết tất cả những gì mình có được không phải là nghiễm nhiên.

Còn <i>không hiểu sâu cho lắm</i> ý chỉ rằng con nít vào độ tuổi đó luôn khát khao cuộc sống an ổn, mong được quan tâm, ước ao một mái ấm gia đình. Dẫu biết rằng mình chỉ được nhận nuôi nhưng miễn được người nhận nuôi đối xử tốt thì hắn vẫn cam lòng moi tim đào phổi mà dâng lên cho người.

So ra thì, Phong Thù Lan biết kiềm chế hơn hắn rất nhiều.

Dù cùng được nhận nuôi, còn được người ngoài gọi là “minh châu trong tay” nhà họ Phong, nhưng Phong Thù Lan chưa bao giờ tự cho mình là “con gái” mà chỉ xem bản thân như một “đệ tử” có quan hệ khăng khít hơn chút.

Tính cách nàng không thân thiện hoà đồng, càng lớn lại càng lãnh đạm, không tỏ ý muốn tham gia sự vụ gia tộc quá nhiều mà chỉ nhận danh “tiên trưởng đệ tử đường” và an phận truyền dạy kiếm pháp.

Trái lại, hắn biết quá nhiều chuyện.

Rất lâu về trước, hắn cảm thấy “biết nhiều” là động thái thể hiện sự thiên vị của gia chủ. Đó là bởi tài nghệ thiên bẩm của hắn rất cao, căn cốt ưu tú, là một mầm non xuất sắc vượt trội hơn hẳn “muội muội” Phong Thù Lan. Cũng nhờ vậy mà gia chủ sẽ nói hắn hay rất nhiều chuyện không thể nói ra ngoài, dắt hắn theo làm nhiều sự vụ không thể dẫn đệ tử thông thường theo.

Theo thời gian, hắn trở thành người đứng ngay sau vị trí gia chủ trong nhà họ Phong.

Về sau, hễ gia chủ bận việc hoặc vắng mặt, hắn nghiễm nhiên trở thành người chủ trì công việc.

Rồi về sau nữa, dù có gia chủ ở đấy, hắn cũng không bị rơi xuống hạ phong. Giống như là… gia chủ càng lúc càng đứng tuổi, còn hắn năm đó đang độ đỉnh cao nên có thể dần thay thế gia chủ.

Qua thời gian dài, hắn đã quen đứng trong tầm mắt của mọi người.

Rất hiếm trường hợp có thể khiến hắn e dè, hắn có thể thoải mái ứng đối phần lớn thời gian, thậm chí luôn tỏ phong thái vững chãi như bàn thạch, dù không nổi giận vẫn lộ rõ uy nghiêm.

Cho đến tận giờ phút này, hắn mới bỗng nhiên vỡ lẽ… trong các môn phái khác có rất nhiều đệ tử đang trong độ tuổi thanh xuân, không nói đâu xa, ngay đến nhà họ Hoa có giao tình thân thiết với nhà họ Phong cũng có kha khá, thế nhưng không bất kỳ một đệ tử đang độ tuổi xuân nào có thể đảm đương chức vị gia chủ.

Vì họ không đủ tư cách.

Hắn ngỡ rằng mình có đủ tư cách rồi, mà sự thật hoá ra chỉ vì hắn chưa gặp được nhiều người, những điều hắn nhìn thấy hãy còn hạn chế. Dầu sao, nơi hắn rong ruổi trường kiếm cũng chỉ quẩn quanh nhân gian.

Một khi chạm đến thần tiên đích thực, hắn chẳng là cái sá gì cả.

Hơn một canh giờ trước khi người nam trẻ tuổi xa lạ kia bất chợt hiện thân không một tiếng động trong thư các, Phong Huy Minh nhấn tay vào thanh kiếm trên bàn và nghĩ thầm: <i>Người này quả không biết trời cao đất dày</i>.

Hắn chẳng nhiều lời lấy một câu đã lập tức tung kiếm như sấm chớp. Nhác thấy đối phương còn chưa chạm được tay đến kiếm, hắn thầm nghĩ: <i>Phản ứng chậm chạp thế này mà cũng dám tự tiện xông vào Bách Bảo thư các nhà họ Phong</i>.

Đến khi mũi kiếm đâm gần đến, hắn mới ngỡ ra có gì đó không ổn —

Vì hắn phát giác vị trông như công tử quyền quý kia buông hờ đôi mắt, nhìn về mũi kiếm của hắn.

Nói một cách khác, cái gọi là tốc độ như sấm chớp chẳng qua cũng chẳng nhanh nhẹn gì dưới mắt người nọ, đến hướng kiếm cũng bị nhìn thấy rõ ràng.

Song, khi Phong Huy Minh phát giác ra chuyện này thì đã quá muộn.

Ngay nháy mắt tiếp theo, hắn thấy công tử nọ ngước khẽ mặt và nhìn thẳng vào đôi mắt hắn.

Trong giây lát, hắn chợt thấy mũi kiếm mình không hề chạm hay xuyên vào da thịt ai, mà trái lại còn như bị kéo vào đại dương bao la, muốn tiến không được mà muốn lùi không xong.

Tiếp theo đó, từ trên người vị công tử kia, áp lực nặng nề như biển Vô Đoan mênh mang đè úp xuống.

Cánh tay cầm kiếm của Phong Huy Minh rung chuyển, mạch máu cộm lên từ đầu ngón tay và nhanh chóng lan ra.

Trong cơn đau buốt, hắn thả lỏng ngón tay, nấc lên một tiếng rên tê tái, thanh trường kiếm rơi trên nền đất, dội vang leng keng mấy tiếng.

Máu đào đỏ thẫm chảy xuôi theo cánh tay, nhỏ giọt thành vũng trên mặt đất.

Hắn có thể cảm nhận được mạch máu trên cánh tay đã bị vỡ ra nhiều chỗ, và hắn cũng hiểu rất rõ rằng nhờ đối phương thủ hạ lưu tình mới đưa đến kết quả hiện tại…

Bởi bị đè dưới áp lực nặng nề kia, khó mà nói được hắn có toàn mạng nổi hay không, nên chịu vết thương như thế này đã xem như được thương xót lắm rồi…

Khoảnh khắc ấy, Phong Huy Minh gần như hãi hùng.

Dù có là ai đi nữa, một khi sống gần cả trăm năm như thiên chi kiêu tử, địch thủ chẳng mấy người, thì cơn chấn động của việc bỗng một ngày nhận ra mình rồi cũng trở thành một con kiến không phải là chuyện người thường dễ dàng chấp nhận được.

Ở bên ngoài cách Bách Bảo thư các không xa, có rất nhiều đệ tử vẫn đang tuần phòng hằng ngày. Xa hơn chút nữa còn có cả “muội muội” Phong Thù Lan.

Nếu muốn, hắn có thể lập tức triệu tập hàng nghìn người đến Bách Bảo thư các.

Nhưng vào thời điểm ấy, Phong Huy Minh chẳng làm phiền bất cứ ai.

Thứ nhất, hắn thấy việc đó cũng không ích lợi gì. Thứ hai… hắn mang tâm lý tự phụ từ lâu, không muốn bất kỳ một ai trông thấy cảnh tượng mình cầm kiếm cũng không nổi.

Thế nên hắn chỉ trơ người nhìn vị khách nọ, hỏi đối phương, “Ngươi là người phương nào…”

Song người nọ lại nói, “Ta là ai không liên quan mấy đến ngươi, ta đến làm phiền chẳng qua muốn hỏi một vài vấn đề.”

Phong Huy Minh nói, “… Vấn đề gì?”

Người nọ không mảy may chạm đến thanh kiếm bên hông, trên tay y chỉ cầm một chiếc mặt nạ chạm vân bạc, lấp lánh nhè nhẹ như vì sao le lói bên dưới ánh đèn. Y khẽ sờ mặt nạ, hơi nghiêng đầu và hỏi Phong Huy Minh, “Trăm ngàn người ở phố núi Lạc Hoa đều bị trói linh, ngươi có biết không?”

Phong Huy Minh sững người trong chớp mắt, mồ hôi lạnh đổ ròng ròng.

Hắn còn chưa kịp trả lời, người nọ đã gật đầu và nói, “Xem ra có biết, thế thì ta không đến sai chỗ.”

Phong Huy Minh hé miệng, “Ta…”

Người kia chưa chờ hắn hoàn tất đã tiếp tục nói, “Ta hỏi tiếp, những linh phách bị trói kia đều bị nhốt trong một khu cấm địa, chuyện này ngươi có biết không?”

Phong Huy Minh giật thót cổ họng.

Ánh mắt đen thẳm của người nọ nhìn hắn một lát rồi mỉm cười.

Hắn ngờ rằng người nọ đã dịch dung, dù nét mặt người này rất tuấn tú nhưng không quá nổi bật, trông không hợp với hàng mày kia.

Hàng mày thấm đượm ý cười nhìn vào rất đẹp, nhưng không ngả vào đuôi mắt, mà nụ cười kia cũng thật mông lung như màn sương mù mịt.

“Xem ra cũng biết,” người nọ lại nói.

Phong Huy Minh suy nghĩ thần tốc trong đầu nhằm suy đoán lai lịch và mục đích người nọ, nghĩ đến… phố núi Lạc Hoa mà họ đã giấu nhẹm từ lâu.

Thế nhưng đối phương không cho hắn nhiều thời gian để tự suy ngẫm.

Hắn chỉ vừa chớm nghĩ thì người kia đã đứng ngay trước mặt.

Thời điểm đó, áp lực ngất trời không mang một mảy may “thương xót”. Người nọ nói, “Những người ở phố núi Lạc Hoa… hàng ngàn linh phách bị trói đó là do người nhà họ Phong bắt về à?”

Đến khi Phong Huy Minh nhận ra, hắn mới vỡ lẽ mình vừa theo bản năng mà gật đầu, đáp, “Đúng…”

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi, tui đang sửa chương sau, tầm khoảng hai mươi phút nữa sẽ đăng ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 48: Căn cứ


Vừa thốt lên chữ “đúng” khỏi miệng, Phong Huy Minh đã giật bắn mình ngay lập tức.

Vì sao ta lại nói “đúng”?

Ánh mắt Phong Huy Minh trở nên mơ màng, hắn li3m vành môi một chút, muốn lắc đầu chống chế: <i>Không phải! Câu ta vừa nói không đúng, không phải do gia đình ta bắt về!</i>

Vậy mà cổ hắn như bị ai đó kiềm chặt, có muốn cũng không cách nào nhúc nhích được. Đầu lưỡi trơ ra như bị người niệm chú nên không nói được một chữ “không” nào.

Hắn đứng trong Bách Bảo thư các nhà mình và đối diện với đôi mắt của vị công tử xa lạ mang theo áp lực nặng nề như sa mạc Hãn Hải, thế mà không thanh minh nổi một câu nào.

Phong Huy Minh toát mồ hôi đẫm người, vì căng thẳng quá mức mà phiếm đỏ cả tròng mắt. Hắn mấp máy khoé miệng mấy lần, siết chặt ngón tay buông bên người thành nắm đấm, rồi cuối cùng chỉ nói trại ra được một câu, “Nhà… nhà họ Phong chúng ta không cố tình làm như thế.”

<i>Nhà con mẹ nó.</i>

Lần đầu tiên trong đời, Phong Huy Minh bật lên thứ ngôn ngữ tục tằn như vậy.

Một là để mắng chửi tình huống giãy giụa mà không tránh thoát nổi của hắn.

Một là bởi hắn nhận ra bản thân mình đang gặp vấn đề, dường như mỗi lần hắn mở miệng nói chuyện đều không thể kiểm soát được môi lưỡi mà toàn thốt ra những lời bản thân không muốn nói.

Phải trong dân gian, người ta sẽ bảo hắn bị trúng tà.

Thế nhưng hắn đâu phải bá tánh tầm thường mà đường đường là người có địa vị cao thứ hai ở nhà họ Phong chỉ sau gia chủ cơ mà, người nào dám trèo lên đầu hắn, người nào dám chơi trên đầu hắn một cú như vậy chứ?

Tròng mắt Phong Huy Minh nở to, nhìn chòng chọc vào vị công tử xa lạ trước mắt. Một khoảnh khắc nào đó, hắn còn tưởng đối phương đã khiến hắn ra nông nỗi. Bởi người có áp lực mạnh mẽ đến vậy mà đứng gần trong gang tấc thì ắt hẳn muốn thao túng hắn cũng không khó khăn gì.

Song hắn nhanh chóng nhận ra chỗ không đúng.

Rõ ràng là người này đến để hỏi chuyện, đây là những điều y muốn hỏi để biết rõ, vậy đâu có lý do gì để thao túng hắn đưa ra một câu trả lời? Việc này cực kỳ vô lý.

Như vậy phải có một người khác.

Phong Huy Minh nhìn vị công tử nọ, muốn nói với đối phương: <i>Những lời ta vừa nói đều là nói dối, đó không phải điều ta muốn nói mà có ai đó đã kiểm soát hành vi của ta, làm ơn đừng tin lời ta!</i>

Thế nhưng hắn vẫn không cách nào nói những lời này ra thành tiếng.

Còn vị công tử kia vẫn dừng ánh mắt trên mặt hắn chưa hề dời đi, như thể muốn soi đến toàn bộ những vẫy vùng sâu trong lòng hắn. Người nọ hơi nhướng mày, sau đó buông tay ra.

Một lúc lâu sau, người kia mới nói, “Thế này đi, ta đổi một câu hỏi khác.”

Nghe tới đổi câu hỏi, Phong Huy Minh thiếu điều trào nước mắt ra ngoài. Hắn có cảm giác rằng đối phương ắt đã nhìn thấy sự chật vật giấu sau gương mặt và lời nói hắn, thế nhưng còn chưa thể xác định là hắn thật sự như vậy hay chỉ giả vờ.

Vị công tử kia lại hỏi, “Nhà họ Phong các người có quan hệ gì đến vùng cấm địa bị phong ấn ở phố núi Lạc Hoa?”

<i>Không có quan hệ!</i>

Phong Huy Minh gào trong lòng đến khàn cả giọng.

Hắn đã chuẩn bị tinh thần muốn nói mà không nói ra nổi, nhưng lại thấy vị công tử kia nheo mắt, nhẹ giọng lặp lại, “Không có quan hệ?”

Bấy giờ, Phong Huy Minh mới phát giác lần này mình đã bật ra thành tiếng, không chỉ thế còn nói đúng những gì hắn nghĩ tròn vẹn không bị chỉnh sửa một chữ nào.

Thoạt tiên, hắn rất mừng rỡ, lòng nhủ thầm <i>rốt cuộc đã có thể nói ra lời thật lòng</i>. Nhưng chỉ giây lát sau, hắn chợt thảng thốt…

Bởi vì hắn nhận ra một điều —

Nếu lần này hắn cũng nói ngược lại rằng “có liên quan mật thiết”, thì ắt hẳn vị công tử có thể thấy rõ hắn đang gặp phải vấn đề, hơn nữa còn có thể đoan chắc như vậy.

Mà khốn sao lần này hắn lại nói thật.

Như vậy, đối phương sẽ khó lòng xác nhận rằng hắn đang “bị thao túng”.

Nếu bị thao túng thì sao lại nói một câu thật một câu giả chứ?

Nói nửa thật nửa giả như vậy càng dễ khiến người khác cảm thấy bản thân hắn đang giả bộ bị mụ mị mà thôi.

Phong Huy Minh cứng người ngay lập tức, hắn thật sự toát mồ hôi lạnh toàn thân.

Rõ ràng còn chưa nói được mấy câu mà hắn đã thấy đầu óc mình lùng bùng, rối ren hơn sợi tơ vò. Hắn lại bắt đầu muốn giải thích với vị công tử kia, “Đúng là nhà tôi có biết những người ở phố núi Lạc Hoa đều bị trói linh, nhà tôi cũng biết những linh phách kia trấn áp bên trong cấm địa phong ấn. Dù gì gia tộc chúng tôi cũng trông coi phố núi Lạc Hoa mà. Thế nhưng tại sao những linh phách nọ bị chọn trúng hay việc họ đến từ nơi nào và tại sao bị gom lại nơi đó, nhà… nhà họ Phong chúng tôi thật sự không biết gì cả.”

Hắn liến thoắng một tràn.

Để giải thích cho một câu mà hắn phải bắt đầu kể hết thảy từ ngọn nguồn.

“Việc này kể ra thì rất dài, năm đó tôi hãy còn nhỏ nên đa phần được phụ… được gia chủ kể lại cho nghe…”

***

Cách đây một canh giờ, đôi mắt đượm đầy ý cười của vị công tử trẻ tuổi còn rành rành trước mặt. Mà lúc này đây, Phong Huy Minh lại lần nữa nhìn thấy nét cười tương tự trên gương mặt Ô Hành Tuyết, nó khiến cảm giác hãi hùng và hoảng hốt trong lòng dâng lên bội phần.

Hắn không chống đối nữa, chỉ nhìn lướt qua các đệ tử nhà họ Phong rồi thoáng đưa mắt sang Phong Thù Lan, nắm chặt ngón tay và thở dài một hơi, cuối cùng cũng hạ quyết tâm mà nói, “Được… được rồi, muốn lặp lại một lần thì lặp lại một lần.”

Trong cơn hoảng loạn, hắn gắng nhớ lại những điều mình đã nói bên trong Bách Bảo thư các. Thế nhưng, hắn chợt thấy mình chẳng nhớ bất cứ điều gì mà trong đầu chỉ là một mảnh rối ren với đôi ba câu rải rác. Dưới ánh mắt của hai người Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết, hắn cảm thấy im lặng thêm một khắc nào nữa cũng hít thở không thông nổi, chỉ đành nương theo đôi ba câu rải rác đó mà nói, “Gia phụ… gia chủ từng nói, năm xưa có rất nhiều người mang tâm địa bất chính muốn lợi dụng thần mộc nên nảy sinh mầm mống hoạ hoạn. Từ đó dẫn đến nhiều người vô tội bị chết thảm và rất nhiều người vô tội khác bị liên luỵ. Dù những người mang tâm địa bất chính kia cũng gặp phải báo ứng chứ không được hưởng một cái kết ngọt, nhưng bọn họ đã gây bao điều nhiễu nhương, thành thử mọi người cũng nhận ra thần mộc không phù hợp phát triển ở nhân gian mà nên giấu vào một vùng đất mà người đời không cách nào tìm đến. Đây chính là ngọn nguồn của cấm địa phong ấn.”

“Nhà họ Phong chúng tôi ban đầu cũng không mang họ ‘Phong’, theo lời kể của gia chủ thì dòng họ chúng tôi đã từng sửa đổi, mà nguyên nhân sửa đổi là từ thần mộc…”

“Vì thần mộc bị phong ấn chung với Lạc Hoa Đài, chúng tôi được uỷ thác trọng trách trông coi khu vực này và đề phòng cấm địa thần mộc bị người khác xâm lấn và gây ra mầm mống tai hoạ lần nữa. Bởi vì thế mà chúng tôi đã sửa sang họ ‘Phong’, tuy không phải là danh tự trời ban như Thượng tiên nhưng cũng có đôi phần tương tự.”

“Thế nên, sự việc của những người ở phố núi Lạc Hoa… quả thật chúng tôi có biết. Chúng tôi cũng biết cấm địa phong ấn nằm ở đâu. Nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi nắm được. Còn lại những chuyện khác quả thật không can hệ đến chúng tôi.”

Phong Huy Minh lại nói tiếp, “Còn về linh phách…”

Theo bản năng, hắn thoáng lia mắt về phía ông chủ quán trọ như có chút kiêng dè, không muốn nhắc đến cụm “<i>trói”</i> trước mặt ông ta. Nhưng rồi cuối cùng vẫn cắn răng mà tiếp tục, “Muốn biết linh phách bị gom về đây bằng cách nào, bị nhốt vào trong đấy bằng cách nào thì phải hỏi đích thân người đã phong ấn thần mộc vào trong nơi đó.”

Giọng điệu hắn khi nói “người đã phong ấn thần mộc” không mang chút chần chờ nào, cứ như thể hắn biết rõ ai là người đã phong ấn vậy.

Nếu những lời hắn nói là sự thật, tức nhà họ Phong chỉ tuân mệnh chăm nom khu vực cấm địa, và cũng nhờ thế mà mang họ “Phong”, cũng đồng nghĩa là họ có chung nhịp đập với bản thân thần mộc, nên việc họ biết nhiều hơn chư tiên trên Tiên Đô cũng là lẽ thường tình.

Ô Hành Tuyết ngẫm nghĩ rồi hỏi, “Người phong ấn thần mộc là ai? Linh đài à?”

“Không phải,” Phong Huy Minh lắc đầu rồi trầm giọng mà nói, “người đã đưa ra quyết định phong ấn thần mộc đầu tiên là chính bản thân thần mộc.”

Nghe đến đây, Ô Hành Tuyết lung lay ánh mắt.”Bản thân thần mộc sao?”

Phong Huy Minh hơi ngừng một chút khi nhìn chàng, trong mắt hắn cũng lộ vẻ bỡ ngỡ. “Đúng…”

Lúc trước khi ở trong Bách Bảo thư các, vị công tử này nghe câu nói ấy không phản ứng mạnh như vậy mà nét mặt vẫn phẳng lặng như mặt nước.

Phản ứng hai lần trái ngược khiến Phong Huy Minh cảm thấy hơi bất an. Hắn nghĩ thầm: <i>Lại đang gài mình!</i>

“Quả thật là chính bản thân thần mộc, tôi không nói dối nửa lời!” Phong Huy Minh thiếu điều giơ hẳn hai ngón tay lên trời đặng thề thốt, song nghĩ lại, những lời này hắn được nghe gia chủ kể lại chứ không thật sự chứng kiến tận mắt. Thế nên sau khi do dự trong nháy mắt, hắn quyết định không thốt lời thề này.

“Chuyện tôi nghe được chính xác là như vậy,” Phong Huy Minh nói. “Chính bản thân thần mộc đã phong ấn thần mộc. Chính người đó đã khoanh vùng khu cấm địa, thiết lập đao trận và hoả trận bên trong, thậm chí cả huyền lôi cũng do chính thần mộc làm ra. Thần mộc biết tất cả mọi thứ bên trong cấm địa đó.”

“Chính người đó đã tận mắt chứng kiến thần mộc bị phong một cách thấu đáo, không cho một người nào cơ hội thâm nhập vào rồi mới rời khỏi Lạc Hoa Đài và bước lên Tiên Đô,” Phong Huy Minh khẳng định như thật.

Nói xong, hắn ngước mắt lên và trông thấy gương mặt với biểu cảm khôn tả thành lời của Ô Hành Tuyết.

Phong Huy Minh: “…”

Hắn do dự một thoáng chốc, cuối cùng vẫn không màng để ý xem rốt cuộc có tận mắt nhìn thấy hay chính tai nghe thấy gì hay không mà duỗi thẳng hai ngón tay lên cao và nói, “Ta thề có trời cao là không nói dối nửa chữ. Sự thật chính là như vậy.”

Dứt lời, sau đó một thời gian rất dài, hắn mới nghe đối phương nhỏ giọng hỏi một câu, “Ngươi nói ngươi thề có trời cao, nhưng lời thề này ta nói một phát mười tám lần cũng được, có tác dụng gì đâu? Ta không tin. Chẳng bằng ngươi nói ta nghe xem ai có thể làm chứng cho ngươi?”

Không ngờ Phong Huy Minh ngẩn người một lát rồi thật sự gật đầu và nói, “Ta có chứng cứ.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Câu nói này gợi nên sự tò mò vô bờ bến với Ô Hành Tuyết.

Không chỉ mình chàng, mà tất cả những người đang có mặt ở đây đều lẳng lặng nhìn Phong Huy Minh, bao gồm cả Phong Thù Lan. Nàng cau mày mà nói, “Anh đang nói cái gì thế?”

Chỉ trong một ngày mà bị người tra khảo hai lần, lần đầu tiên Phong Huy Minh còn có thể khua môi múa mép, đến lần thứ hai hắn chỉ thấy mệt mỏi tột độ từ tinh thần đến thể xác nên không nói nổi nữa.

Thay vào đó, hắn chỉ hơi hé miệng và ngập ngừng. Song một hồi lâu sau, hắn như hạ quyết tâm đưa ra một quyết định vô cùng khó khăn.

Hắn cụp mắt một lúc lâu mới quay sang Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, nói, “Tôi biết nếu hai người đã hỏi đi hỏi tôi một việc thì dù ta có múa mép điệu nghệ kể mấy chục lần thì các người cũng không tin hoàn toàn. Không bằng thế này…”

Hắn nói, “Hãy theo tôi trở về nhà họ Phong, tôi dẫn các người đi xem. Dù sao… cái gì thấy tận mắt thì sẽ tin thôi.”

Ô Hành Tuyết sững sờ trong giây lát.

Chàng quả thật không ngờ Phong Huy Minh sẽ chủ động đề nghị họ cùng quay trở về nhà họ Phong, bởi vậy chàng bèn lướt thoáng qua xem Tiêu Phục Huyên theo bản năng.

Trước đây, chàng có rất nhiều cơ sở suy đoán và kết luận rằng phố núi Lạc Hoa nơi này không phải một ảo cảnh mà là bối cảnh thật sự trong quá khứ.

Nhưng dù có đoan chắc đến đâu thì đó vẫn chỉ là suy đoán, nếu chàng đoán sai thì một khi họ bước ra khỏi phố núi Lạc Hoa, ảo cảnh sẽ bị phá tan tành và biến mất hoàn toàn.

Cả nhà họ Phong lẫn cấm địa cũng sẽ biến mất theo ảo cảnh vào sương mù núi thẳm.

Nghĩ đến đây, Ô Hành Tuyết có phần do dự.

Thế mà lại nghe Tiêu Phục Huyên hững hờ cất giọng theo kiếm khí đang kiềm chế, “Có là ảo cảnh thật cũng không sao, ta vào được cấm địa một lần có thể vào lần thứ hai. Nếu ngươi đã hỏi nhà họ Phong hai lần thì có thể cho ngươi hỏi đến lần thứ ba.”

Ô Hành Tuyết ngẩn người giây lát rồi bật cười sảng khoái.

Chàng bất giác cảm nhận được, vào lúc này, khi ma khí bao trùm thân thể, xiềng xích trói buộc bản thân, không làm được bất kỳ chuyện gì trừ việc tung sát chiêu. Nó đã trở thành một chướng ngại nặng nề, khiến cánh tay chàng đẫm máu trên mỗi bước đường.

Nhưng nhờ sự tồn tại của một người nào đó, mà chàng hẳn nhiên thoả ý tự do, không gì cản nổi.

Lời tác giả:

Mọi người lâu…… tui phải sửa lại hơi nhiều, xin quỳ nhận đánh.

Ngủ ngon QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 49: Tách linh


Tiêu Phục Huyên đứng thẳng người dậy, thu lại toàn bộ áp bức đang đè nặng khắp quán trọ.

Nhóm đệ tử trẻ nhà họ Phong chợt thấy nhẹ bẫng người, bấy giờ họ có thể cử động trở lại. Song họ nhìn qua nhìn lại lẫn nhau mà vẫn chẳng dám nhúc nhích, đoạn dời mắt nhìn về phía người chủ trì gia tộc.

Tiếc thay, Phong Huy Minh cơ bản không hơi sức đâu mà quan tâm đ ến họ. Nét mặt hắn căng thẳng, sau khi đứng lên thì chỉnh trang lại quần áo, dáng vẻ cũng không bừa bộn nhưng bên má ửng đỏ nhàn nhạt.

“Huy Minh trưởng lão, anh —” Phong Thù Lan hiểu rõ tính tình của hắn nên liếc nhìn mấy lần.

“Ta không sao,” Phong Huy Minh chặn lời nàng với giọng điệu chắc nịch.

Ban nãy gặp tình huống cấp bách, hắn đã nói rất nhiều chuyện, bây giờ khi bình tĩnh lại, có thêm thời gian suy nghĩ rồi hắn càng cảm thấy quẫn bách hơn. Tiếc là nước đã tràn ly thì khó lòng mà vớt lại, giờ hắn chỉ còn cách gồng mình ra vẻ mạnh mẽ trước mặt bao người.

Phong Thù Lan đến dìu hắn và thấp giọng nói, “Anh không nên dẫn người ngoài về nhà họ Phong, dù gì đi nữa cũng nên hỏi ý gia chủ trước.”

Phong Huy Minh nhíu mày, đáp, “Ta tự có chừng mực.”

Phong Thù Lan liếc nhìn hắn.

Phong Huy Minh bổ sung thêm một câu, “Chưa kể gia chủ từng nói, một khi ông ấy bận bịu thì ta có toàn quyền làm chủ.”

Phong Thù Lan không so đo thêm nữa. Nàng ngoảnh đầu lia mắt nhìn các đệ tử trẻ một lượt và cao giọng nói, “Đứng đờ ra đó làm gì? Không đứng nổi phải chờ ta đến đỡ dậy hay sao?”

Nàng có đôi môi mang nét cười tự nhiên nhưng lại không thích cười, giọng điệu còn đượm đôi phần đay nghiến. Nàng là người quản lý đệ tử đường nên các đệ tử trẻ vốn đã sợ nàng sẵn, nào dám để nàng đến đỡ dậy.

Họ vội vội vàng vàng mà bò dậy, giũ khoá trói linh trên người xuống rồi thay phiên giúp nhau gỡ phù phong hầu trên đầu ra. Sau đó, đám bọn họ mới bắt đầu rục rịch phát ra âm thanh nhưng vẫn co ro bên góc tường.

Phong Thù Lan: “Sang bên này.”

Nhóm đệ tử trẻ ngoan ngoãn tụ lại chỗ nàng.

Phong Thù Lan né người ra, chỉ tay về phía Tiêu Phục Huyên, và lạnh lùng ra lệnh cho các đệ tử, “Tới cảm ơn Thượng tiên.”

Nhóm đệ tử trẻ: “???”

Họ không tài nào hiểu được tại sao mình đã bị trói rồi mà còn phải đi cảm ơn người đã bắt mình.

Ngay đến Tiêu Phục Huyên cũng thấy hơi ngạc nhiên đôi chút, bèn đưa mắt sang nhìn Phong Thù Lan một cái.

Nhóm đệ tử trẻ sợ thì có sợ thật, nhưng cơn bối rối đã lấn áp tất cả. “Cảm ơn cái gì vậy ạ???”

Phong Thù Lan: “Cảm ơn bọn họ thủ hạ lưu tình.”

Câu này quả thật tràn đầy thâm ý.

Bây giờ ném ra bốn chữ “thủ hạ lưu tình” thì người nhận có muốn không lưu tình cũng không xong. Nếu về sau vì chuyện ngoài dự liệu nào đó mà xảy ra tranh chấp thì những đệ tử trẻ này cũng có thể được tha thứ một phen…

Vì dù sao họ cũng đã đích thân nói lời cảm ơn rồi.

Đối với những người luận bàn tình nghĩa trên thế gian, có thể nói biện pháp này cực kỳ hữu hiệu. Đáng tiếc Tiêu Phục Huyên không phải mẫu người như vậy.

Nhưng dù thế cũng không ngăn được Ô Hành Tuyết nhận thấy nét thú vị trong tính cách vị cô nương này, ít ra là thú vị hơn Phong Huy Minh.

Và nghiễm nhiên, không chỉ mình chàng cảm thấy như vậy, Ninh Hoài Sam thúc nhẹ Y Ngô Sinh và nhỏ giọng hỏi, “Lúc nãy ông nói gì? Nha đầu này mai mốt sẽ là —”

Y Ngô Sinh không nhịn nổi phải chặn họng cậu ta lại, “Cái gì này?”

Ninh Hoài Sam không thích bị chặn họng. “Nha đầu chứ gì, ủa sao vậy, gọi vậy mắc mớ gì ông giãy lên thế.”

Y Ngô Sinh: “…”

Hắn liếc Ninh Hoài Sam mấy cái, lòng thật sự thắc mắc không biết sao tiểu ma đầu này lớn lên không khác gì thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi mà cứ ham xưng hô kiểu trưởng giả bề trên với người khác.

Y Ngô Sinh có lòng tốt nhắc nhở cậu mà nói, “Đừng quên đây là thời điểm mấy trăm năm trước, trên lý thuyết thì cô ấy là tiền bối cậu đấy.”

Ninh Hoài Sam trề môi, nhìn Phong Thù Lan. “Thế ta gọi cô ta một câu lão tiền bối rồi bảo là tại ông kêu gọi thế, thì ông đoán xem cô ta có xách kiếm tới xẻo miệng ông không.”

Y Ngô Sinh: “…”

“Có,” giọng nhỏ nhẹ của Ô Hành Tuyết len vào.

Ninh Hoài Sam tức thì sun vòi. “Thành chủ.”

Giữa lúc Phong Thù Lan đang giải thích cho các đệ tử đàng kia, Ô Hành Tuyết loáng thoáng nghe thấy đoạn nói chuyện giữa Ninh Hoài Sam và Y Ngô Sinh, bèn hiếu kỳ mà tiếp lời, “Ông mới nói sau này cô nương kia sẽ là gì?”

Y Ngô Sinh vừa tính trả lời thì Ninh Hoài Sam đã giành trước: “Gia chủ.”

Ô Hành Tuyết bật “Ồ” một tiếng, vừa thấy ngạc nhiên nhưng cũng không ngạc nhiên. “Ngươi biết cả chuyện này à?”

Ninh Hoài Sam: “Dĩ nhiên!”

Hiếm khi cậu được thành chủ khen ngợi nên hào hứng vô cùng, bèn lôi hết những thứ nghe được từ Y Ngô Sinh ra và bắt đầu khoe mẽ, “Cô ta là gia chủ đời trước của nhà họ Phong, thế nhưng đã không còn từ sớm rồi.”

Ô Hành Tuyết nghe xong thấy tò mò, “Đời trước?”

Ninh Hoài Sam: “Đúng vậy.”

Ô Hành Tuyết: “Khi vào Chiếu Dạ thành, ngươi có nói thành chủ hiện tại của Chiếu Dạ thành Tiết Lễ là…”

Ninh Hoài Sam tặc lưỡi một tiếng bởi chả muốn nghe tới vị tân thành chủ kia.

Ô Hành Tuyết chỉ sang Y Ngô Sinh và nói, “Thời điểm đó tiên sinh có nói Tiết Lễ là con trai của bạn cũ, đứa út của gia chủ đời trước nhà họ Phong… vậy chẳng lẽ là nhi tử của vị cô nương này?”

Ninh Hoài Sam sửng sốt.

Ô Hành Tuyết nói, “Xem chừng tuổi tác có hơi lệch.”

Y Ngô Sinh ra đời tầm trăm năm về trước, còn phố núi Lạc Hoa trước mắt họ phải đến hơn ba trăm năm trước rồi. Tất nhiên, những người thuộc tiên môn có tuổi thọ rất dài nên sống mấy trăm năm cũng không vấn đề gì, thế nhưng nghe qua vẫn thấy thân thế chênh lệch quá nên có hơi lạ chút ít.

Ninh Hoài Sam hé miệng nhưng giờ muốn giành trả lời cũng không được, chỉ biết ậm ừ hai tiếng rồi đẩy Y Ngô Sinh ra. “Ông nói đi.”

Y Ngô Sinh không biết nên khóc hay nên cười, nhưng vẫn nghiêm túc giải thích, “Người bạn của tôi không phải là gia chủ dòng họ mà là đạo lữ của cô ấy. Tuổi tác đôi chúng tôi cũng có chênh lệch thật, tính ra cũng có thể xem là bạn vong niên, thế nhưng…”

“Thế nhưng?”

“Nhưng tôi vẫn thấy có gì đó không hợp lý lắm,” Y Ngô Sinh ngẫm nghĩ rồi nói. “Nếu tính độ tuổi của tiền bối Thù Lan thì vào thời điểm đến phố núi Lạc Hoa này có lẽ nên… trẻ hơn một chút. Vậy nên ban nãy ở ngoài quán trọ, tôi nghe được tên cô ấy còn suýt tưởng mình nghe nhầm nên rất ngạc nhiên.”

Nói rồi, hắn lại bổ sung thêm, “Nhưng những việc tôi biết cũng chưa chắc là chính xác đâu.”

Qua trăm năm, hiếm có ai trong tiên môn lại tính toán cụ thể tuổi tác bản thân nữa, chứ đừng nói đến tuổi tác người khác. Y Ngô Sinh xua tay mà rằng, “Không chính xác đâu, không chính xác đâu.”

Hắn sợ rằng mình nói sai sẽ trở thành trò cười bèn chủ động đổi sang vấn đề khác, “Tính ra thì có một vị khác càng khiến tôi ngạc nhiên hơn.”

Một vị khác?

Ô Hành Tuyết nhìn theo ánh mắt hắn và thấy Phong Huy Minh.

“Vì sao lại ngạc nhiên?”

“Người này trạc tuổi tiền bối Thù Lan, nhưng tôi chưa từng nghe đến tên ông ấy,” Y Ngô Sinh nhẹ giọng mà nói, thật sự chuyện này không nên để lọt vào tai người nhà họ Phong, bằng không rất dễ dẫn đến hiểu lầm.

Thoạt nghe qua sẽ khiến người ta liên tưởng đến những kết quả không mấy tốt đẹp, ví dụ như… chết yểu hay gì đó.

Nhưng trong đầu Ô Hành Tuyết lại loé lên một hướng nghĩ khác — nếu vấn đề là chết yểu hay những tình huống tương tự thì càng khiến lòng người khó nguôi ngoai, nên dễ nhớ sâu sắc, dễ thấy nuối tiếc hơn mới phải?

Nếu là vậy, tình huống của Phong Huy Minh càng thêm bất thường.

Thế nhưng đó đều là những việc chưa xảy ra vào lúc này, có suy đoán lung tung cũng không xác định được gì nên họ nhanh chóng kết thúc trò chuyện.

Thứ nhất là Phong Thù Lan đã giải thích kỹ càng với các tiểu bối xong xuôi, quay sang gật đầu với họ, tỏ ý có thể bắt đầu rời đi. Phong Huy Minh đang đứng chờ bên cạnh cửa quán trọ, nghiêng người chờ mọi người đi qua.

Thứ hai…

Chủ yếu là việc thứ hai, Ô Hành Tuyết bị Thiên Túc thượng tiên làm phân tâm.

Ban đầu khi họ bàn về chênh lệch tuổi tác giữa Phong Thù Lan và Y Ngô Sinh, Tiêu Phục Huyên vẫn đứng nghe bên cạnh. Nhưng sau đó không biết y tính toán gì mà dời chân tránh sau cây cột đỏ.

Khi đó Y Ngô Sinh còn đang nói chuyện, vì giữ phép lịch sự nên Ô Hành Tuyết không lay động mắt nhưng đã chuyển tầm mắt, khoé mắt vẫn luôn hướng về phía cột đỏ.

Chàng thấy được góc áo choàng và mũi giày của Thiên Túc, thế nhưng không cách nào nhìn rõ được. Cái cảm giác hệt như bị cào nhè nhẹ bởi một móng vuốt không mấy bén nhọn…

***

Tiêu Phục Huyên thả lỏng tay, kiếm khí giữa các ngón tay lặng xuống.

Y vừa toan nhấc chân thì chợt nghe thấy một giọng nói mềm mại vang lên, “Đường đường là Thiên Túc mà lén lút ở đây làm chuyện xấu gì thế này.”

Âm điệu còn hơi kéo dài ra như thể cố ý nhấn nhá vào hai chữ “lén lút”.

Trước đây có nhiều người nói rằng khi người kia cất giọng bằng âm điệu như vậy sẽ làm người nghe cảm thấy ngưa ngứa trong lòng. Mỗi khi nghe phải những lời đó, Tiêu Phục Huyên đều nhói lên chút bực dọc.

Thế là người ta cho rằng y không muốn nghe những chuyện liên quan đến “Linh Vương”. Sự thật không phải như thế, chẳng qua y chỉ không muốn nghe những lời như vậy nói ra từ miệng người khác.

Tiêu Phục Huyên xoay người lại thì thấy Ô Hành Tuyết đang nghiêng hẳn người về phía mình và nói, “Bị ta bắt gặp rồi nhé.”

Ánh mắt lung lay, Tiêu Phục Huyên nói nhỏ, “Bắt gặp làm chuyện gì?”

Ô Hành Tuyết nhìn y, môi mấp máy nhưng không trả lời ngay lập tức. Sau đó một lúc lại bắt đầu kéo giọng cù cưa dây dưa mà bảo, “Ta rất tò mò đấy.”

“Thế ngươi trốn sang bên này là để làm gì?” chàng hỏi.

Tiêu Phục Huyên nói, “Tách linh.”

Ô Hành Tuyết hơi ngạc nhiên. “Tách linh gì thế?”

Tiêu Phục Huyên: “Linh phách.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Ô Hành Tuyết: “Linh gì cơ?”

Dấu chấm hỏi nổi lồ lộ trên mặt đại ma đầu, lòng chàng còn thắc mắc thứ quan trọng như linh phách mà còn có thể phân tách được hay sao? Có phải ngươi lợi dụng lúc ta mất trí nhớ mà gạt ta không vậy.

Quả nhiên, Thiên Túc lia mắt sang gương mặt chàng một thoáng, xác định giỡn đủ rồi mới lại nói, “Linh thức.”

Linh thức nghe thấy đỡ hơn linh phách rất nhiều, dù sao lúc trước Ô Hành Tuyết còn từng thấy Tiêu Phục Huyên tách linh thức hoàn toàn khỏi cơ thể.

Chàng kêu “À” một tiếng, nghĩ thầm: <i>Đúng là học thói xấu nhanh ghê</i>.

Song chàng cũng chỉ tự nhủ trong lòng thôi, chứ ngoài miệng lại hỏi, “Sao bỗng nhiên ngươi muốn tách linh thức chi thế?”

Tiêu Phục Huyên: “Đề phòng vạn nhất.”

Ô Hành Tuyết nhớ ra câu chuyện mà Y Ngô Sinh vừa kể về Phong Thù Lan và Phong Huy Minh, đúng là sau khi nghe xong chuyện đó, Tiêu Phục Huyên mới lách mình ra phía sau cây cột, đoán chừng cũng phát giác có điều chi bất ổn.

Ô Hành Tuyết ngần ngừ, “Tách một ít linh thức ra để đề phòng cũng được nữa à?”

Tiêu Phục Huyên: “Đúng.”

Ô Hành Tuyết trầm ngâm.

Tiêu Phục Huyên không biết người này trầm ngâm cái gì, song trực giác cho y hay chắc chắn không phải chuyện tốt lành.

Thật vậy, ma đầu nọ lập tức quay sang y và nói, “Thế tách cho ta một ít với.”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Thiên Túc im ru nhìn chàng chứ không nói gì. Gương mặt không thể hiện một chút cảm xúc nhưng có thể thấy dường như y đang nhức đầu… à không, nhức cả người.

“Ô Hành Tuyết…” Tiêu Phục Huyên trầm giọng gọi.

Ma đầu linh cảm y sẽ không đồng ý, bèn giành lời trước, “Tách linh sẽ khó chịu lắm à?”

Nói rồi còn lia mắt soi xét Tiêu Phục Huyên một phen, dù gì người này cũng vừa mới tách linh xong.

Tiêu Phục Huyên giần giật khoé môi, sau đó mới nhả ra chữ, “Không.”

Ma đầu nói, “Sao lại không nhở, đã không khó chịu mà còn để lại được hậu chiêu thật à. Thế thì nếu không tách một ít ra chẳng thiệt thòi quá sao?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Tiêu Phục Huyên: “Ừ thì thiệt thòi.”

Ma đầu: “…”

Người ta bảo Thiên Túc thượng tiên không ăn mềm không ăn cứng, coi như được lĩnh giáo.

Ma đầu mím môi nhìn y, sau một lúc cân nhắc, chàng bèn ngoảnh người đi và nói, “Ò, thế ta đi hỏi xem Ninh Hoài Sam hay Y Ngô Sinh có thể giúp một —”

Chữ “tay” còn chưa ra khỏi miệng, Ô Hành Tuyết cảm thấy mình đã bị kéo lại.

Chàng ngoái đầu và nhìn thấy đôi ngươi buông hờ của Tiêu Phục Huyên, người nọ cất giọng trầm trầm, “… Đưa tay cho ta.”

Nét cười hiện rõ trong mắt Ô Hành Tuyết, chàng duỗi tay sang.

Nhưng chẳng mấy chốc mà nét cười sượng hẳn…

Ngay khi bàn tay ấm áp và sạch tươm của Tiêu Phục Huyên chạm vào tay chàng, khí kình thuộc về một người khác tràn vào huyết mạch từ điểm chạm nhau ấy. Khí kình kia cũng ngạo nghễ không khác gì kiếm ý của Thiên Túc, một khi đã tràn vào huyết quản thì chẳng cách nào có thể ngó lơ.

Chàng cảm nhận một cách vô cùng rõ rệt luồng khí kình kia quét qua tất cả các huyệt đạo trọng yếu trong cơ thể, đả thông quan khiếu rồi dâng trào từ khắp mọi hướng tràn về trái tim.

Ngón tay Ô Hành Tuyết khẽ cong lên trong vô thức.

Khi những luồng khí kình nọ cuồn cuộn đổ gần đến tim thì chợt chảy chậm lại và bao bọc con tim một cách thật dịu dàng.

Ngay khoảnh khắc đó, chàng nghe thấy giọng nói trầm thấp của Tiêu Phục Huyên vang lên cận kề như gần ngay trong ngực, “Ngươi xem linh thức là thứ gì mà có thể tuỳ ý nhờ người khác giúp đỡ.”

❄︎

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ ngày hôm qua viết chậm quá, tối nay tui cố gắng không đăng giờ âm phủ…

Năm mới vui vẻ, trước khi cập nhật chương sau sẽ lì xì tất cả bình luận trong chương này nha, =3=
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 50: Lựa chọn


Thật ra, Ô Hành Tuyết không hề biết nếu tìm người nhờ tách giúp linh thức ra sẽ dẫn đến kết quả như vậy, chứ nếu biết rồi thì chàng chắc chắn sẽ…

Vừa khi ấy, khí kình của Tiêu Phục Huyên chạm đến và xâm nhập vào linh thức, làm chàng nheo mắt lại và bất giác quên mất “chắc chắn sẽ” như thế nào.

Cuối cùng, chàng đã hiểu vì sao không thể tuỳ tiện tìm người giúp đỡ…

Không ai có thể đảm bảo một khi linh thức bị chạm đến thì bản thân sẽ không ra tay gi3t chết đối phương, chưa bàn đến việc phải kiềm nén sát khí và mở rộng mệnh môn cho người kia tiến vào.

Khả năng cao là người được nhờ giúp đỡ sẽ chết thê thảm.

Còn bằng không chết, thì…

Thì rất chi là thâm thuý.

Tiêu Phục Huyên không chết.

Hàng mi khép hờ của Ô Hành Tuyết hấp háy nhè nhẹ.

Không bao lâu sau, chàng có thể cảm thấy linh thức mình nhẹ nhàng tách ra một sợi…

Cảm giác đó không hẳn là đau, nhưng nó rất kỳ lạ. Không biết chỉ mình chàng mới thế hay những người khác cũng vậy, mà trong khoảnh khắc đó, trong chàng trỗi dậy một số cảm xúc cực kỳ vô cớ, và cảm xúc đó không dễ chịu cho lắm…

Còn chưa kịp nhận ra cảm xúc đó là gì, sợi linh thức bị tách ra kia đã bất ngờ quay ngược về chỗ cũ, giống như những gợn sóng lăn tăn trên mặt nước, chỉ vừa dập dìu hai vòng đã bị người ổn định trở lại.

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng thốt hỏi, “Có chuyện gì thế?”

Tiêu Phục Huyên: “Đổi ý.”

Những luồng khí kình kia nhẹ nhàng rút khỏi linh thức chàng, song vẫn bao bọc quanh trái tim. Bởi vậy mà âm thanh kề cận kia như phát ra từ trong cơ thể và trầm thấp khôn cùng.

Ô Hành Tuyết sững sờ một chốc rồi mới hỏi, “Đổi ý? Tại sao?”

“Không tại sao cả,” Tiêu Phục Huyên nói. “Ta tách một ít lưu lại ở đây là đủ, ngươi không cần làm gì nữa.”

Giọng y thật nặng nề mà dứt khoát, Ô Hành Tuyết nghe rồi vẫn không hiểu vì sao nên canh cánh mãi trong lòng, hồi sau mới chợt vỡ lẽ… là vì Tiêu Phục Huyên đã phát hiện ra mình cảm thấy không thoải mái khi linh thức bị tách ra hay sao?

Bị chàng nhìn một hồi, Tiêu Phục Huyên mới quăng ra một lời giải thích, “Hai luồng linh thức cùng tồn tại sẽ có mâu thuẫn.”

“Có chuyện đó luôn à?”

“Có.”

<i>Có cái rắm.</i>

Ô Hành Tuyết nói, “Bằng chứng đâu?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Gương mặt tuấn tú của Thiên Túc thoáng nghệt ra đôi chút, Ô Hành Tuyết nhìn mà khó nén cười. Những cảm xúc vô cớ trỗi dậy khi linh thức bị tách ra đã biến mất hoàn toàn không còn bóng dáng, chẳng khác nào vừa nãy chỉ là ảo giác đến mức bản thân chàng cũng không nhớ nổi.

Lúc này đây, ma đầu vô cùng nhạy bén. Chàng nhìn Thiên Túc thượng tiên mà rất muốn hỏi rằng “Không phải huynh ‘không nói sai sự thật’ à, sao giờ lại phá lệ vậy?” Thế nhưng vì một xúc cảm tinh tế khôn tả nào đấy mà chàng không hỏi ra thành lời.

Kế đó, khí kình thuộc về Thiên Túc cũng rời khỏi trái tim và chầm chậm lui ra.

Kỳ lạ thay, khi khí kình tiến vào cơ thể, chàng cảm thấy căng cứng cả người và không khoan khoái cho lắm. Vậy mà giờ khi nó rút ra chẳng một lời cảnh báo, chàng lại thấy sao trống rỗng trong lòng.

Nhìn thấy luồng khí kình kia sắp rút hoàn toàn khỏi cơ thể, Tiêu Phục Huyên chợt trầm giọng, “Thật ra có thể dùng khí kình để truyền âm.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng lẳng lặng nhìn Tiêu Phục Huyên. “Truyền âm? Là ý gì thế?”

Tiêu Phục Huyên: “Là nói chuyện không cần mở miệng.”

Khi nói những lời này, y không hề cử động môi. Nhưng Ô Hành Tuyết có thể nghe được vô cùng rõ ràng, âm thanh phát ra từ trong cơ thể chàng.

Ô Hành Tuyết: “…”

Kiến thức này khiến chàng thấy nóng bỏng bên tai, bèn dời mắt đi và giấu mình sau cổ áo khoác lông chồn.

<i>Đường đường là ma đầu mà…</i>

Chàng tự mỉa trong lòng.

Khi đến nhà họ Phong sẽ có rất nhiều loại người, chắc chắn có những lúc muốn nói nhưng không thể nói công khai. Có thể truyền âm tất nhiên tiện lợi hơn nhiều. Chàng tự nghiệm ra cho mình một lý do.

Để rồi sau đó, chàng đáp lời qua loa, “Vậy ngươi đừng rút ra.”

Ngay loáng mắt sau đó, khí kình sắp lùi ra kia lại lần nữa lấn vào trong. Khi nó tiếp tục bao bọc lấy trái tim chàng, Ô Hành Tuyết nghe Thiên Túc nói, “Được.”

Giọng nói vẫn vang lên trong cơ thể chàng.

Ô Hành Tuyết: “…”

Chàng bắt đầu nghi ngờ ai kia chắc đang cố tình.

***

Nhờ ơn của truyền âm mà Ô Hành Tuyết ngẩn ngơ cả người suốt một chặng đường tới nhà họ Phong.

Ninh Hoài Sam là người nói nhiều, cứ tía lia không ngừng bên cạnh chàng. Nhưng chàng chỉ nghe câu lọt câu không, dường như có nhắc đến tách linh nữa. Ngay khi rời khỏi phố núi Lạc Hoa, Ninh Hoài Sam đã tiện tay để lại một lá bùa trên vách núi ở cột mốc ranh giới làm dấu hiệu.

“Dù bản mặt mốc của Phương Trữ làm người ta kiêng dè nhưng ta là người tốt,” Ninh Hoài Sam nói, “ta đã không so đo, lại còn để lại lời nhắn cho hắn, tránh cho tên đó bị lạc đường thật rồi đến kiếp sau cũng không quay về Chiếu Dạ thành được.”

Y Ngô Sinh không hiểu lắm cái phong cách “cứu người nhưng phải chửi trước” của bọn tà ma, chỉ lẳng lặng giúp cậu ta đóng dấu hiệu xuống.

Đóng xong, hắn thừ người ra một chút, mãi hồi lâu mới lắc đầu mỉm cười.

Thời còn trẻ trung phong độ, có đánh chết hắn cũng không thể nghĩ đến việc đời mình sẽ có lúc đồng hành cùng cả tiên lẫn tà ma để bước trên nhân gian vào thời điểm mấy trăm năm về trước.

“Mấy hôm nay ông kiếm bộn quá he,” Ninh Hoài Sam đứng bên cạnh nói. “Người ta có khi mấy đời còn không được trải nghiệm mấy chuyện này, mà chỉ trong vòng mấy ngày ông đã gặp hết rồi. Ông nói thử xem giờ có cơ hội trở về nhân gian cách đây mấy trăm năm thì liệu có cách nào để chút tàn hồn này của ông sống lâu hơn chút không? Thêm mấy ngày nữa chẳng hạn?”

“Cậu không cần trêu ngươi tôi làm gì,” Y Ngô Sinh nói.

“Ta có trêu ông đâu! Chúng ta trở về trăm năm trước rồi thì chuyện gì cũng có thể xảy ra đúng không? Lại nói…” ánh mắt Ninh Hoài Sam lay động, cậu chợt chộp lấy Y Ngô Sinh và âm thầm truyền âm, “xét nguyên nhân dẫn ông đến hiện trạng này đi, chẳng phải là tại cái người nào ở dưới đáy thung lũng Đại Bi đó à?”

Ninh Hoài Sam nghĩ đoạn, tiếp tục truyền âm đề nghị, “Đã vậy, bọn ta đi đến nhà họ Phong, ông đừng đi.”

Y Ngô Sinh: “…”

Hắn khá là chắc cậu ta vòng vo cả buổi chỉ để nói ra được câu này.

Y Ngô Sinh bực bội trả lời, “Thế tôi đi đâu?”

Ninh Hoài Sam bày bộ mặt “ông bị thiểu năng hả”, nói, “Ông đi đâu bây giờ ta? Dĩ nhiên là đi thung lũng Đại Bi rồi!”

Y Ngô Sinh sửng sốt.

Ninh Hoài Sam nói, “Không biết lúc này người nào đó đã chết chưa, có ai đào khu hầm mộ bên dưới đáy thung lũng Đại Bi kia chưa. Nếu mà chưa chết, vậy… cứ đến ngăn cản lại là được. Còn nếu chết rồi, hầm mộ cũng đã lập rồi, thì cứ đến phong ấn kín lại chút là được.”

Y Ngô Sinh nghe vậy thì lặng thinh.

Ninh Hoài Sam: “Làm vậy có thể ngăn chặn hoàn toàn chuyện người kia thoát khỏi hầm mộ, thế thì ông sẽ không bị ra nông nỗi này đúng không? Hở?”

Ninh Hoài Sam nói rồi còn lắc đầu than thở, “Ông xem, ông suýt nữa đã lấy mạng của ta mà ta còn rộng lòng gợi ý giúp ông, không dễ gì tìm được người tốt bụng như ta đây đâu.”

Y Ngô Sinh: “…”

Hắn chắp tay, tỏ lời cảm ơn và thán phục theo lời Ninh Hoài Sam, nét mặt thất thần trong thoáng chốc.

Bởi những lời Ninh Hoài Sam nói quả thật hấp dẫn vô cùng.

Hắn vào tiên môn từ tấm bé, thích nghe chuyện linh tinh chốn phố phường nên từng nghe rất nhiều câu chuyện đồn đãi về cách “làm sao để khởi tử hoàn sinh”, “sống lại từ đầu”, dường như chỉ cần biết câu “người sống ở đời cuối cùng cũng phải chết” thì chắc chắn sẽ ham mê nghiên cứu hai đề tài trên.

Bây giờ ngẫm lại mới thấy những lời đồn đãi nọ có hơn nửa thấp thoáng bóng hình của thần mộc, gần như đều lấy nó làm cơ sở.

Năm đó, hắn có kể sơ những lời đồn nghe được cho Hoa Chiếu Đình và Hoa Chiếu Đài, xong tất cả đều đưa ra kết luận rằng: <i>Trái ngược với luân lý đất trời và con người nên không thể tin</i>.

Cho đến tận bây giờ, hắn mới nhận ra câu “không thể tin” năm xưa nói quá nhẹ nhàng rồi. Và cuối cùng hắn mới hiểu rõ vì sao mỗi lần nhắc đến thần mộc, Phong Huy Minh đều nói “Chỉ cần nó tồn tại ở một nơi con người có thể nhìn thấy, có thể tìm đến thì ắt hẳn không có thanh bình.”

Nhìn xem, giờ đây cơ hội được sống lại hiển hiện trước mắt, Ninh Hoài Sam bên cạnh còn khuyên rơn liên hồi. Mà hắn vẫn luôn chăm chú lắng nghe, đôi khi qua loa đáp trả nhưng không cách nào nói chữ “không” đơn giản kia ra thành lời.

“Đến ngả rẽ rồi,” Ninh Hoài Sam cất giọng vô cùng quái dị yêu tà. “Hướng bên này đi thung lũng Đại Bi, hướng kia đến nhà họ Phong, ông nghĩ kỹ chưa đó, chứ đi đến nửa đường rồi đổi ý thì nhục mặt lắm nha.”

Y Ngô Sinh chợt dừng bước chân.

Bọn họ bước xuống chân núi và thấy quả thật con đường chia thành hai ngả. Trong mắt người ngoài thì một bên là đường xe ngựa đưa đến thung lũng Đại Bi, bên kia là đường lộ đi vào thành. Thế nhưng trong mắt hắn —

Một bên là cơ hội để có lại cuộc sống, một bên là duy trì trạng thái hiện tại và ắt hẳn là cái chết.

“Tôi…” Y Ngô Sinh ngẩn người.

Ở phía bên cạnh, Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên đồng thời nhìn sang, phản ứng này của hắn không phải truyền âm mà trong lúc sơ suất đã siết chặt tờ giấy và nói ra thành tiếng.

“Có chuyện gì thế?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Y Ngô Sinh nhìn chàng rồi lại nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

“Tôi…” Y Ngô Sinh chần chờ, “để quên đồ ở phố núi.”

Ánh mắt Thiên Túc thượng tiên dừng trên người hắn, xưa nay người ta đều bảo vị Thượng tiên này có đôi mắt sắc lạnh như ánh sao và mang đậm kiếm ý. Chỉ e dù là người ngay thẳng sống không thẹn lương tâm mà bị y nhìn một hồi cũng sẽ bồn chồn lo sợ. Chứ huống gì là… người đang sống thẹn với lương tâm như Y Ngô Sinh.

Y Ngô Sinh cụp mắt và nói, “Các vị cứ đi trước đi, tôi tìm được đồ sẽ lập tức đuổi theo.”

Hắn không ngước mắt lên nên không thấy phản ứng của Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên khi nghe hắn nói những lời này, cũng không biết họ có tin hay không.

Sau một lúc lâu, hắn mới nghe tiếng Ô Hành Tuyết nói, “Được.”

***

Cuối cùng, trên con đường vào thành chỉ còn có nhóm người nhà họ Phong kèm thêm ba người nữa mà không có Y Ngô Sinh.

Người khi nãy thúc người khác bỏ đi chỗ khác chính là Ninh Hoài Sam, người bây giờ vô cùng hối hận vẫn là Ninh Hoài Sam. Vì cậu ta nhận ra một khi Y Ngô Sinh đi mất, bầu không khí bất giác trầm hẳn xuống.

Người nhà họ Phong dĩ nhiên không thoải mái trong lòng nên ai nấy đêu im lặng, chung quanh chỉ có tiếng bước chân nối tiếp nhau vang vọng trên con đường vào thành. Thế nhưng sao cả nét mặt thành chủ nhà cậu lẫn Thiên Túc cũng có vẻ không thích hợp.

“Ninh Hoài Sam,” Ô Hành Tuyết đột ngột gọi nhẹ tên cậu một tiếng, kế đó ánh mắt đen như mực dời sang.

Không biết vì đâu mà Ninh Hoài Sam chợt rùng mình, da đầu cũng tê rần lên.

“Ngươi nói gì với Y Ngô Sinh?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Ninh Hoài Sam run bắn, “… Không, không có gì.”

Chưa chờ Ô Hành Tuyết nói tiếp, cậu đã cúi gằm đầu nói tiếp, “Chỉ có một… một chút thôi, ông ta sắp chết rồi đúng không, thế nên ta mới nói một số chuyện ông ta có thể làm lúc này thôi.”

Cậu càng nói càng líu ríu hẳn, càng nói càng thấy rợn người ớn lạnh giống hệt như mình đang sắp chết tới nơi rồi.

Theo trực giác cậu cho thấy, hiện tại thành chủ cực kỳ không vui, nhưng khi cậu âm thầm ngó qua một chút thì thấy thành chủ mím đôi môi trắng bệch không một chút máu, thoạt nhìn không có vẻ như tức giận mà dường như có đôi phần… tiếc nuối.

Dù vậy, giả mà nét “tiếc nuối” này xuất hiện trên gương mặt một người bình thường còn đỡ, chứ khi nó nằm trên người ma đầu thì không chừng còn kinh dị hơn chỉ đơn giản là không vui.

Ninh Hoài Sam khó kiềm được lòng mà nghĩ: <i>Tại sao lại có vẻ mặt như vậy? Tiếc nuối chuyện gì mới được?</i>

Song nghĩ hoài nghĩ mãi cũng chẳng nghĩ ra.

Thật ra, ngay chính bản thân Ô Hành Tuyết cũng không biết vì sao mà khi nghe đến câu “những việc Y Ngô Sinh có thể làm”, hai chữ “đáng tiếc” không đâu lại bật lên trong đầu chàng như vậy.

Cứ như thể chàng đã nhìn mãi những việc tương tự thành quen nên tiềm thức tự hiện lên cảm xúc như thế.

Đến khi chàng chợt nhận ra thì thấy cánh tay mình đang sờ xuống bên hông trong vô thức, hệt như… sờ thanh kiếm không hề tồn tại ở chỗ ấy.

Thật kỳ lạ, mình sờ tìm thanh kiếm để làm gì?

Chàng thoáng lướt nhìn qua ngón tay mình, bất chợt nghe giọng Tiêu Phục Huyên vang lên trong người, “Ô Hành Tuyết.”

Ô Hành Tuyết chợt cong ngón tay, ngoái đầu nhìn sang.

Tiêu Phục Huyên: “Có linh thức ta đi theo.”

Ô Hành Tuyết ngạc nhiên một chút rồi mới hiểu ra, bèn truyền âm lại trong lòng mà nói, “Ý huynh là Y Ngô Sinh?”

Tiêu Phục Huyên: “Đúng vậy.”

Ô Hành Tuyết chợt thấy an tâm hẳn, vừa lúc nghe thấy giọng Phong Huy Minh vọng lại từ phía trước, “Tới rồi.”

Màn đêm của mấy trăm năm trước vẫn lạnh căm căm, đêm hôm qua còn trời còn đổ mưa, đóng thành sương giá lất phất trên mặt lộ, cả thành chìm trong màn sương rét, những chiếc đèn lồ ng chống gió kéo thành một luồng sáng giữa sương mù.

Nơi có nhiều đèn lồ ng tụ lại nhất có thể thấy lờ mờ dấu vết của tiên môn, đó đích thị là nhà họ Phong.

Nhà họ Phong là gia tộc tiên môn đồ sộ nhất ngôi thành này, khác với nhà họ Hoa ở Đào Hoa châu, nhà họ Phong toát ra khí chất quan viên với cửa nhà thoáng đãng, mái hiên phất cao, ở giữa đặt một toà nhà cao ngất như ngọn tháp. Cả khuôn viên môn phái vô cùng nguy nga, không khác gì một toà thành bên trong thành.

Muốn đặt phủ trạch ở những khu vực tiên môn như thế này đều phải chú trọng địa điểm, không thể cứ lấy bừa một miếng đất bất kỳ nào mà được. Vậy nên nhìn chung, hễ bước chân vào tiên môn nào cũng sẽ có cảm giác được linh khí bổ trợ cho cơ thể.

Vậy mà khi đặt bước vào nhà họ Phong, Ô Hành Tuyết cảm thấy bứt rứt cả người.

Dù linh khí nơi này rất dồi dào, nhưng có cảm giác bất nhất khôn tả…

Mà không hiểu sao nét mặt tất cả mọi người đều điềm nhiên như không, đến cả Tiêu Phục Huyên chừng như cũng không cảm nhận thấy sự dị thường này.

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ tui viết lại hết một lần, viết suốt nguyên đêm xong thành giờ âm phủ luôn, xin quỳ… phát lì xì là tuỳ theo hệ thống Tấn Giang nên có thể sẽ chậm một chút, tui đã chọn tất cả bình luận chương 49 để gửi rồi, chắc là không nhỡ đâu ~=3=
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 51: Mật địa


“Không thoải mái à?” giọng Tiêu Phục Huyên bỗng vang lên.

Ô Hành Tuyết ngạc nhiên, thầm nghĩ <i>mình còn chưa nói gì cả mà</i>.

Tiêu Phục Huyên lại nói, “Ta cảm nhận được.”

Ô Hành Tuyết: “…”

<i>Chuyện này cũng có thể cảm nhận được à?</i>

Tiêu Phục Huyên đáp “Ừm”, giọng nói y trầm thấp vờn quanh tim trong sự rung động khẽ khàng khiến chàng ngưa ngứa cõi lòng.

Cuối cùng, đại ma đầu cũng nhận thấy cái thứ khí kình này có hơi thái quá rồi đó. Thế nhưng lúc trước tự chàng chủ động đề nghị Tiêu Phục Huyên đừng rút ra mà bây giờ lại nuốt lời thì chẳng thành hành xử vô lý thiếu quyết đoán mất rồi.

Ừ thì lúc trước chàng từng khẳng khái mà nói “ma đầu xưa nay có nói lý bao giờ” nhưng giờ còn để câu đó trong đầu đâu. Cũng có khi là bị Thiên Túc thượng tiên nói được nói tới làm chàng quên béng đi mất rồi.

Giờ phút này, chàng thấy lòng mình cũng như bị tách đôi linh phách ra vậy.

Một nửa muốn giữ dáng vẻ bình thản thong dong, mưa gió không sờn và nói: Chỉ là không quen cách truyền âm đó thôi mà, dù gì cũng đâu đến mức cần phải “nuốt lời” đâu chứ.

Nửa kia lại nói: Tới như vậy mà chưa đến mức cần phải “nuốt lời” hả? Chính mày cũng thấy hơi thái quá còn gì.

Đại ma đầu lặng thinh một hồi, cảm thấy hai nửa này lép bép còn ồn ào hơn mấy câu xằng xiên của Ninh Hoài Sam, thấy phiền nhiễu quá mức bèn quét sạch một phát cho bay biến hết.

Chàng yên ắng trong lòng chưa được bao lâu mới bất chợt phát giác… ban nãy mình chỉ suy nghĩ bừa một chút mà đã bị Thiên Túc thượng tiên nghe được và trả lời lại.

Vậy mà bây giờ mình đắn đo xem “nuốt lời hay không nuốt lời” cả một buổi mà Thiên Túc chả nói tiếng nào.

Ô Hành Tuyết: “?”

“Tiêu Phục Huyên,” Ô Hành Tuyết gọi.

Khí kình rung động, Thiên Túc thượng tiên đáp “Ừm” một tiếng.

Ô Hành Tuyết: “Ta vừa đắn đo chút chuyện, ngươi có nghe thấy không?”

Thiên Túc nói, “Không nghe.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Cái này gọi là điếc có chọn lọc hả?

Đại ma đầu nhìn chòng chọc người kế bên.

Tiêu Phục Huyên để yên cho chàng nhìn chòng chọc một hồi mới dời mắt sang. “Sao thế?”

Đại ma đầu: “…”

Mãi một hồi sau, chàng mới bật được một câu, “Không sao hết.”

Nhưng lòng chàng tự hỏi… Năm xưa, những người trên Tiên Đô bảo Tiêu Phục Huyên không hiểu tình người là bị mù hết rồi phải không?

***

Các đệ tử phòng hộ của nhà họ Phong mau chóng cầm đèn lồ ng chạy vội đến, trước cúi người hành lễ với Phong Huy Minh và hô, “Thưa trưởng lão.”

Kế đến mới chuyển sang Phong Thù Lan và gọi, “Thưa tiên trưởng…”

Chỉ nhìn thứ tự thưa gửi của bọn họ cũng có thể thấy rõ địa vị của Phong Huy Minh trong môn cao hơn nhiều, thế nhưng bọn đệ tử ai cũng lớn lên trong đệ tử đường nên họ kính trọng Phong Huy Minh, còn với Phong Thù Lan lại có hơi lúng túng.

Chỉ cần nhìn sơ cũng thấy, họ thân thiết với Phong Thù Lan hơn.

“Thưa trưởng lão, những người này là?” các đệ tử phòng hộ huơ đèn lồ ng một phen để soi rõ mặt ba vị khách. Giờ này đã về khuya, sương mù giăng đậm nên họ lướt một lần chưa kịp nhìn rõ mặt mà chỉ thoáng thấy là người lạ.

Cũng có không ít khách khứa ghé thăm nhà họ Phong, thế nhưng khách khứa đến vào giữa đêm có thể đếm vỏn vẹn trên đầu ngón tay — lý do chính là nhờ cứu mạng gấp, hoặc có ý đồ bất minh.

Mà ba vị trước mắt đây hẳn nhiên không phải thuộc lý do sau, bởi họ là người mà Phong Huy Minh và Phong Thù Lan dắt về cơ mà. Thế nhưng trông họ cũng không giống thuộc lý do trước, vì sắc mặt họ chẳng hề âu lo…

So ra thì thấy sắc mặt Phong Huy Minh và Phong Thù Lan tái mét và bồn chồn hơn nhiều.

“Thưa trưởng lão,” các đệ tử phòng hộ không muốn làm khó người khi đang trong tâm trạng như vậy, thế nhưng họ cũng có những quy tắc buộc phải tuân thủ, không còn cách nào khác đành phải hành lễ và nói, “người cũng biết quy củ của gia chủ đấy ạ, sau giờ Tý và trước giờ Thìn là giờ đóng cửa tự kiểm điểm tu hành trong môn nên không tiếp đón khách ngoài. Hiện tại đang là giờ Dần, nếu người muốn dẫn khách vào thì cần báo cho gia chủ, nhưng…”

Đâu chỉ các đệ tử phòng hộ mà ngay đến Phong Huy Minh cũng nào dám làm phiền gia chủ vào tầm giờ này.

Các đệ tử phòng hộ cực kỳ tiến thoái lưỡng nan.

Phong Huy Minh vừa nghe họ muốn bẩm báo gia chủ thì nét mặt càng đen hơn…

Lúc vị công tử kia xuất hiện một cách âm thầm trong Bách Bảo thư các đã là sau giờ Tý, cái giờ được cho là “không tiếp khách” nữa, mà hắn cũng phải tiếp khách đó thôi?!

Hắn đưa một tay ra sau lưng, nhăn mặt và nói với đệ tử phòng hộ, “Các cậu có nghe chuyện đệ tử đường nhận được bùa giấy chưa?”

Đệ tử phòng hộ hơi ngượng ngùng đáp, “Thưa có nghe qua một chút.”

Phong Huy Minh liền nghiêm nét mặt. “Nghe qua rồi mà còn ngán đường ở đây?”

Các đệ tử phòng hộ đưa mắt nhìn nhau. “Chúng con dành phần lớn thời gian đi tuần phòng nên không nghe cụ thể lắm, chỉ biết rằng có một số sư đệ sư muội gặp gian khó nên trưởng lão và tiên trưởng phải dẫn người cứu viện…”

Vừa nãy họ lia mắt một vòng, đếm thấy sau lưng Phong Huy Minh và Phong Thù Lan có hai mươi người đệ tử đông đủ chỉnh tề, vậy hẳn là đã cứu tất cả về rồi.

À không, chắc chắn là được cứu về rồi.

Dù gì bọn họ cũng là một trong số những tiên môn oai phong nhất, xét về danh tiếng thì không thua kém nhà họ Hoa. Phong Huy Minh và Phong Thù Lan lại là hai nhân tài kiệt xuất trong thế hệ họ, hôm nay cả hai người đồng thời xuất môn thì chắc chắn không thể có chuyện gì xảy ra được.

Vị đệ tử phòng vệ đứng đầu sợ chọc tức Phong Huy Minh, bèn khéo léo ngỏ lời khen ngợi, “Các sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội đều bình an trở về là tốt quá rồi, không hổ danh có đích thân trưởng lão và tiên trưởng ra tay, không cúi đầu trước bất cứ hiểm nguy nào —”

Cậu ta vừa ca ngợi, vừa huơ tay ra sau lưng ý bảo mấy đệ tử đằng sau nhanh nhanh đi mời gia chủ đến.

Ngờ đâu nịnh nọt một hồi càng khiến người nghe đen sì mặt hơn nữa.

Không chỉ thế, mà nhìn nét mặt mấy đệ tử đã thoát nạn cũng kỳ lạ, họ ngửa đầu chống trán, rồi thậm chí còn nhân lúc Phong Huy Minh và Phong Thù Lan không để ý đặng đưa mắt ra hiệu liên tục với cậu ta.

Đệ tử phòng hộ bối rối vô cùng, gắng đọc khẩu hình của một vị sư huynh trong nhóm.

Sau một chốc, cuối cùng cậu cũng đọc được…

Vị sư huynh kia nói: Thoát thoát cái rắm.

Đệ tử phòng hộ:?

Vị sư huynh nọ lại vểnh môi chỉ chỉ về phía ba vị khách đến nhà, cường điệu mà múa mép trong thinh lặng: Hiểm nguy tìm đến tận cửa rồi kìa, bằng không mắc gì trưởng lão căng đét mặt vậy, đệ bị ngu hả —

Đệ tử phòng hộ sững người một chút rồi đột nhiên quay ngoắt sang ba vị khách.

“Ta thấy cánh cửa nhà của ngươi ngó bộ không dễ vào,” Ô Hành Tuyết không nhịn nữa mà cất giọng nói với Phong Huy Minh.

Giọng chàng không âm u mà trái lại nghe vào còn thong dong từ tốn, thanh thoát phiêu diêu. Ngặt nỗi Phong Huy Minh từng lĩnh giáo sức ép và tính tình của chàng nên vừa nghe đã cứng đờ cả họng.

“Đệ tử trẻ tuổi còn tuân theo khuôn phép xưa, không biết linh động. Mong Thượng tiên…” Phong Huy Minh cũng không biết địa vị của Ô Hành Tuyết đến đâu, song hắn trước phải gánh chịu sức ép cuồn cuộn tiên khí của người nọ, sau lại gặp người nọ đi cùng Thiên Túc Tiêu Phục Huyên. Như vậy ắt không quá chênh lệch, hắn bèn lấy cách xưng hô tối cao xem như lựa chọn an toàn và nói, “Mong Thượng tiên lượng thứ cho.”

Kết quả là vừa nói xong thì hắn nhận ra hai chữ này cũng không an toàn.

Bởi thoạt đầu Ô Hành Tuyết lộ vẻ ngạc nhiên, tiếp đó cười khẩy một tiếng. Mà nụ cười còn chưa vơi thì nét mặt đã ảm đạm hẳn xuống.

“…”

Phong Huy Minh nhức hết cả đầu. Hắn cảm thấy thật bực bội, bèn toan nhấc tay áo với các đệ tử phòng hộ —

Kiếm phong thuần khiết của nhà họ Phong quét mạnh ra phía ngoài.

Dĩ nhiên, các đệ tử phòng hộ không ngờ được hắn sẽ ra tay như vậy nên ăn trọn cú quét mà không hề đề phòng, kiếm phong đẩy mạnh mấy chục người lùi ra xa hơn mười trượng và đập mạnh vào vách bình phong đá.

“Huy Minh trưởng lão!” Phong Thù Lan hô to!

“Thù Lan, đừng chộn rộn! Ta tự có chừng mực,” Phong Huy Minh trầm giọng gào to giữa luồng kiếm phong quay cuồng, sau đó tung thêm một kiếm nữa —

Ô Hành Tuyết chỉ kịp thấy sương mù dày đặc bao bọc khắp toà thành lập tức tụ về nơi này, các đệ tử nhà họ Phong và cả Phong Thù Lan đều bị sương mù che kín mít không còn bóng dáng và cũng không nghe được tiếng nữa.

Theo hướng mà thanh trường kiếm của Phong Huy Minh vạch ra, hàng trăm ngọn đèn lồ ng hiện lên giữa trời và rọi sáng một con đường giữa màn sương mù.

Phong Huy Minh nói, “Đây là mật địa của nhà họ Phong, những người khác trong gia tộc, kể cả Phong Thù Lan cũng chưa từng đặt chân vào, năm xưa khi gia chủ kể sự việc thần mộc cho tôi nghe cũng đồng thời dẫn vào đây, bên trong đây có giữ tiên tích còn lại của thần mộc sau khi bị phong ấn.”

Ô Hành Tuyết nheo mắt nhìn sang và thấy bao toà lầu các nguy nga của nhà họ Phong đều biến mất sau sương mù dày đặc, chỉ còn lại căn tháp cao ngất mập mờ phía sau màn sương.

Những tầng mái vòm hành lang chỉ lộ ra đường viền góc cong cong nhạt nhoà, thoạt trông còn có bóng dáng của gốc đại thụ ngất trời.

Khi ánh mắt đưa tới toà tháp cao nọ, cảm giác bất nhất mà rối ren ùa đến ập thẳng… về phía Ô Hành Tuyết.

Phong Huy Minh tính nói tiếp gì đó nhưng bất chợt run cầm cập —

Như thể nhiệt độ quanh nhà họ Phong, không, nhiệt độ của cả toà thành đột ngột tuột dốc không phanh.

Dưới chân vang lên những tiếng tanh tách be bé, hắn vừa cúi xuống nhìn liền thấy băng kết một tầng mỏng dưới chân chỉ trong nháy mắt. Khí lạnh lùa ra từ lòng bàn chân và xộc thẳng lên lên, cái lạnh đó buốt đến mức hắn ớn lạnh thành từng cơn, thậm chí máu chảy trong huyết mạch cũng gần như muốn đông cứng lại.

Phong Huy Minh bất chợt giật bắn mình, ngẩng phắt đầu lên đã thấy xung quanh vắng tanh.

Và dưới chân toà tháp cao phía xa xa, một bóng người trải dài trong thầm lặng.

Đó là Ô Hành Tuyết…

Rồi tiếp đó, ánh mắt lạnh lùng của Thiên Túc dời sang.

Một chớp mắt sau, thêm một bóng người xuất hiện bên dưới toà tháp cao.

Để lại Phong Huy Minh và Ninh Hoài Sam mắt to trừng mắt nhỏ nhìn nhau trên con đường ngầm.

Ninh Hoài Sam xoa xoa cánh tay và dậm chân mấy cái rồi nói, “Đệt, lạnh chết ta. Ui… nè họ Phong, đoán coi chuyện gì đã xảy ra vào lần trước thành chủ nhà ta như thế này?”

Phong Huy Minh: “…”

Hắn không muốn đoán.

Ánh mắt hắn vẫn giữ nguyên trên bóng hai người đứng đằng xa, trong lòng mau mắn tính toán —

Tất nhiên là hắn không hấp tấp đến mức dẫn người lạ đến đào bí mật nhà mình cho dù người lạ kia có lai lịch thâm sâu bí hiểm như Thượng tiên trên Tiên Đô.

Hắn có thể quyết đoán và nhanh chóng đến vậy cũng nhờ có khu mật địa này.

Rất lâu về trước, khi dẫn hắn vào khu mật địa, gia chủ từng nói, “Khu mật địa này có giữ tàn tướng của thần mộc, ngay đến ta bước vào cũng phải kính cẩn thận trọng, người ngoài không can hệ không dễ gì tuỳ tiện xâm nhập được.”

Khi đó, hắn hỏi, “Nếu tự ý xông vào thì sao ạ?”

Gia chủ đáp, “Là hành động dẫn đến chết không chốn chôn thây.”

Hắn từng thấy những người xông bừa vào đây đã “chết không chốn chôn thây” như thế nào, đến Tiên Đô cũng không cách nào ngăn lại được.

Kế hoạch ban đầu của hắn là dụ bọn họ vào đây rồi bày mẹo để ba người khách này kích động lên hoặc mắc sai lầm nho nhỏ nào đó. Bằng cách đó, hắn không cần tốn nhiều sức cũng có thể giải quyết nhanh gọn mớ phiền phức này.

Ngờ đâu mọi chuyện diễn ra còn suôn sẻ hơn kế hoạch hắn đã dự liệu, chưa cần bày mưu gì mà hai người kia đã xông thẳng về phía trước.

Hiện tại chỉ còn một tên lâu la đứng bên cạnh.

Phong Huy Minh giữ nguyên nét mặt kinh ngạc và toan lừa cả Ninh Hoài Sam đến dưới toà tháp cao đó.

Song chỉ vừa mở miệng ra thì đột ngột im bặt.

Vì hai vị kia còn ngạo mạn hơn hắn nghĩ, ỷ mình là Thượng tiên mà rảo bước chẳng chút kiêng kỵ. Hắn thấy cái tên công tử ép cung hắn tận hai lần nhấc tay lên để chạm vào cánh cổng đen tuyền của toà tháp —

<i>Tới.</i>

Phong Huy Minh khép mắt lại theo bản năng.

Một trận sét bổ ra từ trên đỉnh tháp, ánh sáng trắng rỡ cắt ngang nền đen của không trung. Ngay tiếp đó, một tiếng sấm đùng đùng nhức óc dội vang!

Sấm chớp không thua gì thiên kiếp giáng thẳng xuống, có thể thấy rõ đang thần tốc đánh về phía hai người kia…

Phong Huy Minh chờ một lúc mà không nghe tiếng thét đau đớn hay tiếng va chạm khủng khiếp nào, bèn lặng lẽ hé nhẹ mắt trong cơn tò mò.

Để rồi chứng kiến một khung cảnh khiến hắn phải há hốc mồm đến cả đời này cũng khó lòng quên được.

Cự lôi đột ngột dừng lại trước mặt hai người nọ một lúc rồi nghiễm nhiên đánh đùng đoàng trả ngược về.

Phong Huy Minh: “?”

Tiếp đó, một tiếng động oanh liệt nổ ra.

Khu mật địa mà người không can hệ không thể tuỳ tiện xâm nhập đã mở rộng cửa chào đón hai người họ.

Phong Huy Minh: “???”

Lời tác giả:

Bổ sung chương bị thiếu hôm trước ~ ngủ ngon
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 52: Hoa rơi


“Cái…”

Lúc này, Phong Huy Minh kinh hãi thật sự.

“Sao có thể như vậy được?” hắn không tin nổi vào mắt mình, chau mày thật chặt. “Không thể nào, không đúng… chắc chắn không đúng.”

“Làm gì phải hốt hoảng vậy?” Ninh Hoài Sam vừa tính chạy theo tới chỗ Ô Hành Tuyết thì thấy nét mặt Phong Huy Minh, bèn quyết định đổi ý.

Cậu lùi chân trở về, nheo mắt nhìn biểu cảm trên mặt Phong Huy Minh và nói, “Không lẽ mật địa này của nhà các ngươi có chốt khoá gì à? Ồ không, không đúng, chắc chắn là phải có chốt khoá, bằng không sao có thể gọi là mật địa được. Nhưng cái điệu này của ngươi làm ta thấy giống như…”

Ninh Hoài Sam li3m láp một bên răng nanh nhọn và khoác tay lên vai Phong Huy Minh!

Tư thế này nhìn thì giống anh em đồng chí thân thiết bá vai bá cổ, có điều ngón tay cậu lại cấu vào trong, đặt kề sát cuống họng Phong Huy Minh.

Khí kình Ninh Hoài Sam không tạo cảm giác áp bức như thành chủ nhà cậu, song đầu ngón tay nhanh chóng chuyển đen kịt, chỉ cần am hiểu một chút chắc chắn nhận ra đấy là biểu hiện của độc tố cực mạnh đã được tu luyện đến mức thuần thục tột độ.

Nếu cậu muốn, độc tố cực mạnh này có thể lan rộng đến từng li trên thân thể lẫn tóc tai cậu.

“Ngươi!” Phong Huy Minh trở tay tính đâm cậu một kiếm, thế mà vừa lia mắt thấy ngón tay xanh đen của cậu thì sượng người dừng bặt.

Thật ra trong tình huống thông thường, Ninh Hoài Sam không cách nào ra chiêu với Phong Huy Minh dễ dàng như vậy, ngặt nỗi hắn ta đã thất hồn thất vía nên tạo sơ hở cho cậu tận dụng.

“Là ai?” Ninh Hoài Sam giữ nguyên tư thế và hỏi giọng đểu cáng. “Trưởng lão à, ngươi giải thích cái đã nào, tại sao ngươi lại sợ hãi như vậy? Ta cũng không đoán ra được nha. Ta còn tưởng sấm sét kia là cấm chế bảo vệ mật địa do gia tộc ngươi thiết lập ra đấy chứ, thế nhưng nhìn cái dáng vẻ này của ngươi… hình như không phải vậy.”

“Nếu đúng là gia tộc ngươi thiết lập nên và chỉ sơ suất nhất thời bị thành chủ nhà ta —” Ninh Hoài Sam dừng đoạn, dù cậu đúng là không thích tiên, nhưng để ra vẻ hùng hổ thì đành phải lật mặt, “và Thiên Túc thượng tiên phá vỡ, thì đâu có gì ghê gớm. Lại nói, cơn sấm sét đó là gì —”

Ninh Hoài Sam bẻ tay xuống làm đầu Phong Huy Minh cũng gập xuống theo. “— mà chạm vào chắc chắn phải chết?! Hả?!”

Hỏi xong, cậu giẫm mạnh chân xuống đất.

Mấy tiếng cạch cạch dội lên, nền đất xám tro của nhà họ Phong nứt ra một loạt vết.

Ngay tiếp đó, Ninh Hoài Sam giữ chặt Phong Huy Minh, phóng một bước đi mấy chục trượng giữa âm thanh đổ vỡ liên hồi, chỉ trong chớp mắt họ đã đến bên dưới toà tháp cao.

“Thành chủ!” Ninh Hoài Sam xô Phong Huy Minh đến trước mặt Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, đồng thời hùng hổ tố cáo, “Thằng ranh này có ý đồ giết người mà bị ta phát hiện!”

“Ồ,” Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ tiếp lời. “Ta cứ bảo sao bỗng dưng chịu phối hợp như vậy.”

Nói cho cùng, người này cũng là một vị trưởng lão nhà họ Phong, chỉ mới hỏi mấy câu đã giải thích ngọn nguồn rồi còn tự đề nghị mời người đến nhà, nếu không có mai phục thì mới dị thường.

Bấy giờ, nét mặt chàng vẫn thờ ơ không thay đổi, Ninh Hoài Sam trông thấy hẳn nhiên cho rằng tâm trạng không vui vẻ gì.

Phong Huy Minh cũng cảm giác ra được, dường như thấy run sợ bèn chống chế một câu, “Tôi không có, chẳng qua không ngờ nhị vị lại sốt sắng đến vậy, chưa chờ tôi mở đường đã tự ý bước thẳng tới đây.”

Ninh Hoài Sam cười khẩy, tỏ rõ không tin.

Phong Huy Minh vẫn chưa thoát khỏi nỗi khiếp sợ ban nãy, dù gì hắn cũng chưa từng chứng kiến hay thậm chí nghe nói tới cảnh cự lôi tự rút ngược trở về, chứ nói gì đến việc mật địa tự động mở cửa mời người…

Sau khi giải thích xong xuôi, hắn không dời mắt đi mà vẫn nhìn chằm chằm Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên. “Các người… người… rốt cuộc là vị Thượng tiên nào?”

Dĩ nhiên, hắn đã biết tên huý của Tiêu Phục Huyên từ trước, theo lý mà nói nếu đã đi cùng Thiên Túc tới đây thì không lẽ nào lại không đặc biệt. Mà vị duy nhất hắn không biết đến chỉ có vị còn lại kia.

Suy nghĩ vừa hiện lên trong đầu, còn chưa kịp ngẫm nghĩ kỹ càng, hắn đã nghe Ô Hành Tuyết nói, “Ta? Từ đầu tới giờ ta chưa từng nói ta là tiên đâu nhỉ?”

Phong Huy Minh thất kinh! Suy nghĩ vừa chớm hiện đã vụt tan thành mây khói, khi nghe thấy câu này, hắn đã bắt đầu cảm nhận được khí tà ma đang cuồn cuộn tuôn trào từ cơ thể đối phương.

Còn nồng nặc hơn bất cứ tà ma nào hắn từng đối đầu.

Phong Huy Minh: “…”

Ô Hành Tuyết chỉ thả lại một câu rồi không ngó ngàng gì đến Phong Huy Minh nữa.

Ánh mắt chàng rơi vào khung cảnh phía sau cánh cửa mở rộng của ngôi tháp, cảm giác bất nhất rối ren lại càng mạnh mẽ hơn, nhờ vậy mà chàng nhận ra cả sự quen thuộc lẫn lạ lẫm đan xen —

Ở đây có một thứ gì đó vô cùng thân thuộc với chàng, là liên kết khăng khít của máu thịt. Thế nhưng hiện giờ thứ đó đã trở nên vô cùng xa lạ…

Cánh cổng toà tháp đen kịt, vừa cao ngất vừa dày nặng như hai khối huyền thiết nguyên vẹn. Bài trí bên trong cánh cửa tương tự như những toà tháp thông thường khác, có bàn với đệm hương bồ để ngồi và thiền định. Ánh đèn lửa đỏ thẫm treo cao bên bốn góc phòng đang lung lay trong gió, soi nên khung cảnh lờ mờ phía trong ngôi tháp.

Ánh sáng kia không mấy dễ chịu, nhìn thoáng qua đã khiến lòng cồn cào.

Ninh Hoài Sam xụ hẳn mặt, kéo cao cổ áo và làu bàu trong miệng, “Cái chốn quái quỷ gì mà nhìn toát mồ hôi thế này.”

Ánh đèn kia đốt ra một mùi hương thoang thoảng không khó ngửi, thậm chí còn khá thơm. Thế nhưng hít vào mấy hơi lập tức khiến người ta choáng váng mị đầu.

Ninh Hoài Sam ngoái đầu lại và phe phẩy tay trước mũi, cảm thấy khá ngột ngạt trong người.

Cậu đá Phong Huy Minh mấy cái và hỏi, “Đây là giống đèn gì mà ngửi vào kinh tởm thế?!”

Phong Huy Minh mím chặt môi nhưng không nhìn lên.

Ninh Hoài Sam tiếp tục nói, “Ta hỏi ngươi đó!”

Bấy giờ, Phong Huy Minh mới nghiến răng lên tiếng, “Đuốc dược, không gây hại gì cả.”

Hắn đang cảm thấy lòng rối như tơ vò rồi.

Ban đầu, hắn định bày mưu cho ba kẻ này chết trước cửa tháp, bây giờ kế hoạch không chỉ tanh bành mà còn giúp họ mở cửa tháp không tốn chút công sức nào.

Nên đây không còn gọi là “có chừng mực” nữa mà hắn thật sự dẫn sói vào nhà. Chưa kể trong ba kẻ này còn có đến hai tà ma.

Những đệ tử phòng hộ kia chắc chắn sẽ bẩm báo lên gia chủ, cũng đồng nghĩa gia chủ sẽ sớm có mặt ở đây. Hắn thật lòng không muốn gây ra hậu quả gì đó quá tệ lậu khi gia chủ đến, bởi trông hắn như đang có hành vi phản bội nhà họ Phong vậy.

Bởi vậy, bây giờ buộc phải nghĩ ra cách nào đó để xử gọn cả ba người này ở đây.

“Đuốc dược à? Sáng hừng hực vầy là đang hun loại dược nào đấy?” Ninh Hoài Sam đá hắn phát nữa.

Nét mặt Phong Huy Minh như đang kiềm nén cơn giận dữ. “Dĩ nhiên là khi nào cần mới hun rồi.”

Ninh Hoài Sam nghe vậy chỉ “Hừ” một tiếng và lẩm bẩm, “Tốt nhất ngươi đừng có bày trò điêu ngoa gì đấy.”

Cậu chợt thấy hối hận chút đỉnh — nếu ban đầu không lừa Y Ngô Sinh đi có phải ổn rồi không. Y Ngô Sinh rành rẽ nhất các loại độc dược, và cũng thành danh từ y dược, nên vào những thời điểm như lúc này là tiện dụng nhất, có khi chỉ cần ngửi qua là biết ngay trong này bỏ loại thuốc gì.

Không như cậu… lần nào thử một loại thuốc cũng thấy muốn bệnh.

Ninh Hoài Sam đảo mắt trong im lặng, đành từ bỏ và tiếp tục bước sâu vào trong tháp, mũi hít sâu mấy hơi như một thằng hề ngu xuẩn, chỉ thiếu điều nhón cao chân để với tới ngọn đuốc nữa thôi.

Lần đầu tiên Ô Hành Tuyết thấy cậu hành xử như vậy nên hoàn toàn không hiểu gì. Còn chưa kịp mở miệng hỏi đã thấy Ninh Hoài Sam lùi chân lại, nhìn đầu ngón tay đang phai bớt màu xanh đen và nói, “Thưa thành chủ, hẳn không phải là độc, không gây nguy hiểm đến tính mạng.”

Đối với những người ở Chiếu Dạ thành như họ thì độc dược phải tính là hàng thật giá thật, hễ không gây nguy hiểm đến tính mạng thì không tính là độc dược mà cùng lắm chỉ là thứ trò đùa gây tác động nhè nhẹ thôi.

Phong Huy Minh nói, “Dĩ nhiên là không có độc rồi. Tôi là người thuộc tiên môn, sao có thể bỏ độc vào trong đuốc được chứ. Số người biết đến cấm địa này có thể đếm trên đầu ngón tay, chẳng lẽ tôi lại chuốc độc chính người nhà mình sao?”

Hắn biết rõ rằng nếu bây giờ nói ánh đuốc này hoàn toàn vô hại thì chắc chắn sẽ khiến người khác nghi ngờ là dối trá. Nhưng nếu giải thích hết tất cả thì lại giống như hắn có chuẩn bị hậu chiêu lần nữa.

“Hở, nhà ngươi ăn gì ngu thế? Trong mật địa mà mở cửa ra không thiết lập cơ cấu phòng vệ nào luôn hả?” Ninh Hoài Sam tức tối nói.

Trông Phong Huy Minh hơi sượng mặt như thể miễn cưỡng bản thân lắm, một lúc sau hắn mới đáp qua loa, “Đúng là không phải độc, đuốc dược này chỉ làm cho người đột nhập bị mơ màng một chút thôi…”

“Chỉ mơ màng một chút? Dường như không phải như vậy,” Ô Hành Tuyết nói, đồng thời xoa đầu ngón tay.

Lúc trước, hễ chàng muốn tung sát chiêu có thể ngưng tụ khí kình quanh cơ thể gần như ngay lập tức, tựa như hình thành theo bản năng. Thế nhưng nãy giờ chàng đã thử vận khí hai phen mà không cách nào tụ khí kình trên đầu ngón tay được, cứ như một tấm cát vụn vo mãi không gom thành hình nổi.

Phong Huy Minh chú ý đến cử động ngón tay của Ô Hành Tuyết, rồi liếc mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Bản thân hắn biết rõ hơn ai hết là ngoại trừ việc làm cho người đột nhập trở nên mơ màng thì vai trò chính của ánh đuốc này là để làm mềm khí kình. Có là tiên thì làm sao, sức ép nặng như biển cả thì sá gì? Một khi không ngưng tụ nổi khí kình thì chẳng hơn gì tu sĩ nhân gian như bọn hắn.

Không ngoài dự đoán, hắn thấy Thiên Túc thượng tiên cũng hơi nhướn mày.

Phong Huy Minh mừng rơn trong lòng: <i>Được rồi!</i>

Cho dù Thiên Túc không nói tiếng nào thì hắn cũng biết người nọ đã chịu ảnh hưởng của ánh đuốc và không ngưng tụ được khí kình nữa.

Thế nhưng, trong điều kiện khí kình bị ngoại lực tác động, sức ép không còn hung mãnh như lúc đầu thì cũng không giúp Phong Huy Minh lật ngược tình thế nổi. Đối phương có ba người còn hắn lẻ loi một mình, xét cho cùng vẫn là hắn ở thế hạ phong.

Đây là sự thật mà ai cũng biết.

Cái Phong Huy Minh cần chính là “ai cũng biết” đó.

Bởi trong trường hợp này, ba người kia sẽ không cảm thấy bị hắn đe doạ và tiếp tục dấn bước sâu hơn vào tháp.

Một khi bước vào sâu trong tháp là xem như ổn thoả.

Mỗi khi đến đây, hắn và gia chủ thường xuyên lên tầng một và tầng hai của toà tháp trong mật địa này. Hai tầng này có mượn sức lực còn sót lại của thần mộc, sinh ra từ kết cấu nửa phồn vinh nửa héo tàn và chu kỳ sinh tử của thần mộc —

Trên tầng một là “Vinh”, thuộc tính <i>dương</i>, khi người thường bước vào sẽ thấy người nóng hừng hực, tuôn mồ hôi dầm dề, cồn cào trong ruột gan. Nếu ở lâu trong đấy, sẽ vỡ kinh mạch, trường hợp xấu hơn còn có thể nổ tan xác cả người dẫn đến mất mạng.

Trên tầng hai là “Tàn”, thuộc tính <i>âm</i>, mang cái rét thấu xương, người bình thường ở lâu bên trong, kinh mạch sẽ co rút và đông cứng lại, sau đó không cách nào vận chuyển máu để cử động được nữa.

Là người tu hành thuộc tiên môn, thông thường rất dễ vì một phút sơ ý phạm sai lầm mà khiến dòng vận chuyển khí kình bị lệch, gây ra tẩu hoả nhập ma hoặc những hệ quả tương tự. Có khi là vì quá lạnh hoặc có khi vì quá nóng. Mà tu vi càng cao thì càng khó kiểm soát tình hình một khi có sự cố xảy ra.

Vào những lúc như vậy, hai tầng này là địa điểm lý tưởng để bế quan.

Trong các thế hệ nhà họ Phong, rất hiếm ai có nhu cầu dùng đến hai tầng này để tu luyện. Đời trước chỉ có mình gia chủ, đời này chỉ duy mỗi Phong Huy Minh.

Mỗi lần bước vào, họ bắt buộc phải ngậm một viên linh đan được bào chế đặc biệt ở dưới lưỡi để giảm một nửa thần lực bên trong hai tầng này mới có thể miễn cưỡng chịu nổi.

Phàm bất kỳ ai khác, ngay cả Phong Thù Lan chỉ xếp sau hắn, mà vào đây cũng sẽ nhận cái chết thê thảm.

Đó là ý đồ của Phong Huy Minh —-

Ba người này không thể ngưng tụ khí kình, sức ép hoàn toàn tan biến, về trình độ chỉ tương đương tu sĩ nhân gian. Cho dù bọn họ có ngang tầm với gia chủ hoặc mạnh hơn gia chủ một tí đi nữa, mà không có hộ linh đan thì vẫn không tránh được cái chết.

***

Hắn mưu tính trong lòng là thế, song ngoài miệng lại nói, “Hôm nay có dị tượng bên trong mật địa —”

Thế quái nào lại tự mở cửa cho tà ma vào.

“— bởi lẽ đó, tôi cũng không dám chắc một khi bước vào trong có thể xảy ra chuyện nguy hiểm khó lường nào hay không.”

Xem như đây là một lời cảnh báo đã được nguỵ trang.

“Nếu ba vị vẫn muốn vào trong xem, xin hãy ăn hộ linh đan do nhà họ Phong của tôi tự bào chế.”

Phong Huy Minh đã nói hết những gì cần nói, và hành động này trọn tình trọn nghĩa lắm rồi. Hắn lấy ba viên kim đan từ trong túi gấm treo bên hông và xoè lòng bàn tay ra trước mặt ba người nọ.

Dẫu thế, hắn biết chắc chắn ba người này sẽ không ăn một viên nào.

Ngược lại là hắn thì hắn cũng sẽ chọn không ăn. Dù sao, đâu ai chắc được viên thuốc một người “nói hai câu một thật một dối” đưa ra là loại thuốc tác dụng quái quỷ nào?

Thật vậy, Ninh Hoài Sam liếc mắt nhìn viên kim đan kia rồi nói, “Ta không ăn, ăn rồi đi gặp quỷ thì tìm ai để đòi công bằng.”

Thiên Túc thượng tiên cũng lạnh lùng nói, “Không cần.”

Về phần Ô Hành Tuyết…

Ma đầu nọ quẳng một câu “tự ngươi từ từ mà ăn” rồi bước qua ngưỡng cửa và tiến vào trong tháp.

Phong Huy Minh giấu viên hộ linh đan ra sau lưng, cười nhạo trong âm thầm và nhủ: Lời hay khó lòng thuyết phục quỷ chết giẫm, vi phạm lệnh cấm là không thể chấp nhận, có là tiên hay là ma cũng bằng thừa!

Nhân lúc không ai chú ý, hắn nhanh chóng đặt một viên hộ linh đan xuống dưới lưỡi rồi theo gót Tiêu Phục Huyên vào trong tháp.

Một tiếng vang rền đánh <i>đùng</i> —

Cánh cửa huyền thiết khổng lồ đóng lại đột ngột!

Ánh đuốc bên trong tháp lay lắt, sức lực tính <i>dương</i> còn sót lại của thần mộc lưu chuyển cuồn cuộn như lốc xoáy dưới đáy đại dương.

Ngay cả khi ngậm hộ linh đan trong miệng mà tim Phong Huy Minh vẫn đập loạn nhịp. Hắn đè mạnh lưỡi trên viên đan nhỏ như đang siết chặt lấy một khúc gỗ bảo mệnh.

Vì hắn hiểu rõ hơn hết thảy, nếu không có viên hộ linh đan này, hắn sẽ bị cuốn vào bên trong cơn lốc xoáy tính <i>dương</i> kia, sau đó nổ tan xác và chết mà không cách nào chống cự.

Ninh Hoài Sam lau trán và nói, “Sao càng lúc càng nóng vậy, mồ hôi cũng bắt đầu tuôn rồi.”

Phong Huy Minh lạnh lùng nhìn bọn họ, lòng thầm nhủ <i>nóng là tốt, bắt đầu đổ mồ hôi tức là bước gần đến cái chết rồi, chỉ cần mình kiên nhẫn đếm thêm một chút…</i>

Một, hai, ba…

Phong Huy Minh vừa đếm đến bốn thì nín thinh.

Bởi hắn nghe thấy một thứ âm thanh kỳ lạ — âm thanh như tiếng thuỷ triều vô hình đang gầm rú từ một nơi nào đó ập thẳng về phía này.

Hắn cố gắng nghe kỹ một chút rồi bật phắt đầu ngẩng lên.

“Thuỷ triều” đó không bắt nguồn từ đâu khác mà từ… trên lầu?!

Tầng một mang tính <i>dương</i>, tương ứng với thể <i>vinh</i> của thần mộc, tầng hai mang tính <i>âm</i>, tương ứng với thể <i>tàn</i> của thần mộc, và dường như tiếng thuỷ triều kia cho thấy thần lực tính <i>âm</i> trên lầu đã bắt đầu dịch chuyển…

Sao thế được?

Bây giờ mọi người còn đang ở tầng một! Tầng hai dịch chuyển là thế nào???

Phong Huy Minh còn đang hoang mang chưa dứt đã nghe tiếng thần lực trên tầng hai áp dần từ trên xuống dưới —

<i>Rầm rầm!!</i>

Trần tầng một toà tháp vỡ nát theo tiếng rền, khoét ra một lỗ hổng khổng lồ.

Phong Huy Minh: “Ta…”

???

Toà tháp này đã sừng sững trong mật địa nhà họ Phong nhiều đời, tại sao vào ngày giờ phút này lại bỗng dưng tự sập thủng thành một lỗ hổng khổng lồ???

Bấy giờ, hắn bắt đầu cảm thấy quá mức hoang đường.

Nhưng đó vẫn chưa phải là cái kết…

Vì hắn nhìn thấy sức lực chí âm bọc trong sương mù xám bạc lạnh lẽo vốn dĩ kết nối với tầng hai giờ đang đổ ập xuống dưới và hoà quyện chung vào sức lực tính dương đang lưu chuyển ở tầng dưới.

Loáng cái mà núi gầm biển thét, long trời lở đất.

Phong Huy Minh chỉ có thể điếng mình thấy hộ linh đan bên dưới lưỡi kêu răng rắc rồi vỡ nát thành bột, vị đắng lan ra từ đầu lưỡi và bủa cơn lạnh tới tê tái cõi lòng.

Một tiếng “<i>Bongg</i>” dội lên trong đầu hắn, tưởng chừng hôm nay chính là ngày chấm dứt đời mình rồi, hắn sẽ chôn thân nơi đây với ba người này…

Thần lực càng lúc càng mạnh mẽ, sóng thần hung hãn tuôn về phía Ô Hành Tuyết.

Phong Huy Minh nghĩ trong lòng: Đây là kẻ đầu tiên phải chết đêm nay.

Hắn lùi hai bước ra sau vì sợ rằng khi đối phương nổ tan xác mà chết sẽ văng máu khắp người mình, để rồi nhìn thấy thần lực cuồn cuộn như thác bỗng dưng đổi tốc độ, mềm mại uốn lượn ngay thời điểm chạm đến ma đầu kia…

Tưởng như thác nước đổ ập từ đỉnh núi, chạm vào hồ đá rồi len qua khúc quanh của đường núi và hoá thành dòng suối róc rách.

Dòng thần lực hung tàn, không đúng, êm dịu kia xuyên vào huyết mạch của ma đầu một cách nhẹ nhàng, ma đầu kia không bị căng phồng và nổ gân, cũng không nứt vỡ mạch máu.

Khí sắc còn trở nên hồng hào hơn…

“…”

Phong Huy Minh cảm thấy bao kiến thức gần trăm năm qua của mình bất giác vỡ tan — một là hắn điên rồi, hai là toà tháp này điên rồi. Đến khi hắn kịp hoàn hồn lại thì thấy bản thân đang nép mình bên góc tường và há hốc mồm trong kinh hãi.

Ma đầu nhận tất cả thần lực vào người, cúi đầu nhìn tay xong còn quay sang hỏi Thiên Túc thượng tiên, “Còn ngươi có bị ảnh hưởng gì không? Ta cảm thấy có một phần đã men theo khí kình chảy về phía ngươi rồi.”

Phong Huy Minh: “???”

Hắn không biết làm sao có người có thể dùng sức của chính mình để hấp thụ sức lực sót lại của thần mộc, nhưng càng không biết làm sao còn có thể truyền sang người khác được chứ.

Cho dù ngươi có năng lực trời phú nên không bị nổ tan xác, nhưng sao người khác nhận vào cũng thế được???

Mà sự thật là người khác kia không bị nổ tan xác.

Không những không nổ, mà dường như còn khôi con mẹ nó phục lại khí kình bị đuốc dược hoà tan.

Ngay khi Thiên Túc thượng tiên thử rê ngón tay, sức ép nặng tựa Thái Sơn lại ầm ầm áp xuống.

Toàn bộ toà tháp đều chấn động, Phong Huy Minh lẳng lặng trượt người xuống. “…”

***

Trong khi Phong Huy Minh đang trên đà phát điên lên, thì Ô Hành Tuyết lại mang tâm trạng khác.

Chàng cảm nhận thần lực bên trong cơ thể và thấy kỳ lạ giống đang nhận về một thứ đã mất đi từ lâu, tựa như chàng đã từng tự mình trút bỏ những thứ này ở một nơi vô danh nào đó và hiện tại nhờ tình cờ mới tìm về được, song nó đưa đến chút cảm giác “cảnh còn mà người đã mất”.

Cho dù chàng không bị nổ mạch máu đến chết, nhưng cảm giác hoà hợp lại vào cơ thể cũng không suôn sẻ cho lắm. Thần lực đó khiến khí kình trong người chàng bị dư đến ngập tràn, và cũng khiến chàng lạnh hơn bao giờ hết.

Cứ như thể kiếp kỳ của tà ma càng thêm trầm trọng.

Vào lúc này, trên người Ô Hành Tuyết xuất hiện hai trạng thái đầy mâu thuẫn.

Khí sắc chàng không còn nhợt nhạt như trước, nhưng ngón tay chàng lại trắng bệch ngả xanh.

Trong thoáng chốc, chàng cảm giác như xương cốt mình bị ngâm trong nước đá, cái lạnh buốt giá làm tê liệt hoàn toàn các giác quan, chàng nghe không rõ tiếng, thấy không rõ hình, khung cảnh trước mắt tối sầm lại.

Ánh đuốc trong phòng chỉ còn là vài chấm sáng trong mắt chàng, chẳng khác nào ánh sao trời từ xa xăm giữa đêm lạnh.

Dù vậy, biểu cảm chàng chẳng mảy may thay đổi, thoạt nhìn vững chãi tựa Thái Sơn, và thậm chí trong mắt Phong Huy Minh và Ninh Hoài Sam chẳng khác gì đang trong trạng thái đỉnh cao.

Thế mà chàng lặng thinh một chốc, rồi dùng khí kình gọi, “Tiêu Phục Huyên.”

“Ừm?” đối phương trả lời, giọng nói ấy vang lên trong cơ thể chàng và trở thành âm thanh rõ ràng nhất trong thời điểm ấy.

Dẫu cho năm giác quan đã suy giảm đột ngột, chàng vẫn cảm nhận được sự tồn tại của Tiêu Phục Huyên.

Ô Hành Tuyết không thể hiện ra mình bị suy giảm giác quan, chỉ nói, “Nhà họ Phong nói đây là tàn ảnh của thần mộc, nhưng ta cảm thấy chỉ tàn ảnh không thể có thần lực hùng mạnh đến vậy nên ắt là có gì đó khác hơn, ví như…”

Chàng chớp mắt đôi chút, nói ra suy nghĩ giữa bóng đêm mỗi lúc một sâu đậm và tĩnh lặng, “Ví như cành cây còn dư lại hoặc những thứ tương tự, ngươi có thể cảm nhận chúng được không?”

“Để ta thử.”

***

Tiêu Phục Huyên nghe chàng nói vậy bèn lướt nhìn xung quanh.

Sức mạnh của thần mộc đã tan một phần vào khí kình y. Theo lẽ thường, thần lực bên ngoài đưa vào cơ thể nên gây ra phản ứng đào thải, nhưng không rõ vì lý do gì mà thần lực này cực kỳ hoà hợp với y đến mức dịu dàng.

Tiêu Phục Huyên vừa thận trọng chú ý đến linh khí của thần mộc, đồng thời tìm quanh toà tháp, nhưng không bao lâu sau đã nhíu mày.

… Nếu có cành cây đang bị giấu ở đâu đó thì ắt hẳn nơi đó sẽ mang linh khí thần mộc nồng nhất và nổi trội hơn hẳn những vị trí khác. Vậy mà Tiêu Phục Huyên lại không tìm ra “chỗ nồng nhất” là ở đâu, mà trái lại, y thấy dường như nơi nào cũng đồng đều như nhau.

Tiêu Phục Huyên đăm chiêu, ngước mắt nhìn lên trên. Nhờ lỗ hổng khổng lồ bị khoét thủng trên trần, y có thể nhìn thấy trần tường tầng hai, bên trên nữa chính là tầng ba.

Tầng ba…

Tiêu Phục Huyên ngẫm nghĩ một chút, sau đó nâng tay lên và vung kiếm khí.

Ánh vàng bay vút xuyên qua lỗ hổng khổng lồ —

Một tiếng ầm ầm dội lên lần nữa, toàn bộ toà tháp lại rung chuyển.

Rất nhiều mảnh gỗ vụn rơi xuống lác đác, Phong Huy Minh lại trượt người xuống một khúc nữa. Hắn hãi hùng nhìn trần nhà bên trên, nuốt nước bọt vào rồi hô lên ngăn cản, “Không được!”

Ngón tay Tiêu Phục Huyên còn giữ trên cao, y liếc mắt sang nhìn hắn một cái. Vì hàng mày nhíu chặt nên trông y cực kỳ thiếu kiên nhẫn.

Phong Huy Minh vội nói, “Thật sự không được, không được chạm vào trần tầng hai! Tuyệt đối không thể lên tầng ba!”

Lúc này đây, tất cả lời hắn nói đều là lời thật lòng. Vì thâm tâm hắn đang hoảng loạn khôn cùng, làm gì còn hơi sức để bày kế nữa.

“Tại sao không được lên?” Tiêu Phục Huyên nói.

“Vì sẽ chết,” Phong Huy Minh nói. “Trên tầng ba là vùng cấm.”

Tầng ba của toà tháp này là vùng cấm, ngay bản thân hắn cũng không bao giờ dám bước chân lên tầng ấy. Nghe đâu phần tàn tướng của thần mộc bị phong cấm trên này.

Lần gần đây nhất Phong Huy Minh bước vào đây là hôm được gia chủ dẫn vào để hộ pháp cho người. Hôm đó, hắn nghe thấy trên kia có những tiếng người trò chuyện cực kỳ quái dị, trong lúc nhỡ tò mò cộng thêm tâm tính tự phụ của mình, hắn âm thầm bước lên cầu thang.

Hắn nhớ rõ mình đang đứng trên cầu thang và vươn tay mở cánh cửa trên tầng ba thì chợt thấy ngưa ngứa ở cổ.

Ban đầu, hắn tưởng do tóc mình vướng vào, nhưng sau đó phát giác thấy không đúng. Vì hôm đó hắn búi toàn bộ đuôi tóc lên cao để thuận tiện làm việc nên không thể có tóc vướng sau gáy được.

Hắn ngoái đầu lại nhìn liền thấy đó đúng là một lọn tóc… một lọn tóc dài buông thõng từ trên xuống.

Ngay khi đó, Phong Huy Minh giật bắn mình và ngước nhìn.

Nếu nhìn từ bên ngoài, toà tháp trong mật địa này không khác gì những toà tháp cao khác. Thế nhưng ở bên trong không như vậy, từ tầng ba trở lên nối liền nhau hoàn toàn chứ không phân tầng nữa.

Phong Huy Minh ngẩng đầu lên nhìn thì chỉ thấy toà tháp này cao ngất, phía trên mái chìm trong màu đen ngòm trải nghiêng theo dáng hình nóc tháp. Hắn căng thẳng cả người, cẩn thận thổi một đốm lửa trong lòng bàn tay và duỗi lên soi thử.

Trước mắt hắn hiện ra những nhánh cây trắng nhờn như xương người, treo thòng xuống từ những khe hở trên cánh cổng lớn, chúng đan xen chằng chịt từ tuốt trên đỉnh tháp xuống tới bên dưới.

Những nhánh cây đó bện vào nhau thành một tấm lưới dày đặc, dường như trong tấm lưới ấy là hằng hà những người đã chết.

Và lọn tóc dài khi nãy rũ xuống từ trong tấm lưới ấy…

Hắn sững sờ trong thoáng chốc nhưng nhanh chóng cảm thấy lạnh căm cả tim!

Hắn lập tức nhìn xuống thì thấy lồ ng ngực rung động một cách vô cớ, một lát sau, mảnh vải bị xuyên thủng, máu tuôn đầm đìa.

Tiếp theo đó, những nhánh cây trắng nhợt thò ra từ trong cơ thể như đang đâm chồi nảy lộc.

Để rồi sau này, mỗi khi nhớ đến ngày hôm đó, Phong Huy Minh đều rợn mình cho rằng mình đã suýt chết một lần trong tháp.

Cái cảm giác máu đột ngột ngừng chảy khiến cả người hắn rét run, không bao giờ muốn trải nghiệm thêm một lần nào nữa.

Gia chủ nói rằng: <i>Đó là cái giá phải trả khi nhìn trộm thần mộc.</i>

Thế mà khi hắn kể lại chuyện này với Tiêu Phục Huyên, chỉ thấy Thiên Túc lạnh lùng nhìn hắn một lúc lâu rồi mới hững hờ cất giọng, “Toàn nói bậy.”

Phong Huy Minh: “…”

Hắn còn muốn nói tiếp thì đã nghe thấy tiếng vỏ kiếm Thiên Túc vang lên, hàng mấy trăm luồng ánh kim bủa khắp căn tháp, thắp sáng như trời ban ngày.

Phong Huy Minh ngước đầu lên nhìn, suy nghĩ đầu tiên nảy lên là: <i>Thôi rồi, toà tháp sắp sụp.</i>

Ngay lúc suy nghĩ đó xuất hiện, hắn thoáng nghe thấy giọng nói mơ hồ vang lên giữa chấn động khủng khiếp và vụn gỗ đổ nát.

Giọng nói ấy truyền theo khí kình, trầm thấp nhưng rành mạch bao bọc bên tim Ô Hành Tuyết.

“Thần mộc vốn sinh ra trên đỉnh núi, hoa rơi phủ kín hơn mười hai dặm, có không ít người từng nhìn thấy. Không một ai phải trả giá chỉ vì nhìn thấy một lần cả.”

“Cái gọi là trả giá chẳng qua là lời áp đặt của người đời.”

Câu nói vang vọng trong lúc cả tầng hai hoá thành đống hoang tàn, không chỉ vậy mà toàn ngôi tháp cũng rung động như sắp đổ.

Theo bản năng, Phong Huy Minh liếc nhìn tầng ba nơi mình chưa bao giờ dám nhòm ngó và chỉ thấy nó giống hệt một cái hang sâu hút, ngoại trừ khói bụi và hơi ẩm thấp mang mùi mục rữa thì không còn bất kỳ một thứ gì.

Không có cái gọi là tàn tướng của thần mộc, không có bất kỳ món đồ nào có dính líu đến thần mộc.

Thoạt đầu, Phong Huy Minh sững sờ thảng thốt, kế đó trỗi dậy cảm xúc trớ trêu hoang đường trong lòng.

<i>Một toà tháp rỗng đã đe doạ hắn cả trăm năm?</i>

<i>Thế nhưng không thể nào.</i>

<i>Nếu toà tháp này trống rỗng, vậy thần lực ở tầng một và tầng hai từ đâu ra?</i>

Ngay khi những lời thắc mắc này hiện lên, hắn thấy Thiên Túc lướt nhìn căn tháp trống không rồi bất chợt sa sầm nét mặt như nhớ ra gì đó. Tiếp đó, ngón tay y khép lại —

Kiếm ý quét ra ngoài bay vút lên trong nháy mắt, âm thanh <i>tách tách</i> như thứ gì đó vỡ ra vang vọng liên hồi, vô vàn vết nứt lan tràn dọc theo cột và xà nhà rồi bao trùm toàn bộ toà toà tháp.

Từng thanh xà nhà điêu khắc tinh tế bằng gỗ lần lượt gãy nát bên dưới kiếm ý và đổ rầm rầm xuống dưới.

Đến khi những mảnh vụn xà gỗ chất chồng dưới sàn đất, Phong Huy Minh mới nhận ra những cây xà này rỗng và có khắc gì đó bên trong…

Dưới sức mạnh uy dũng của Thiên Túc, những thứ kia đã hiện ra ngoài, đó là một vài cành cây phủ tinh chất ngọc.

Thảo nào ban nãy tìm mãi mà chỉ cảm thấy linh khí của thần mộc ở khắp mọi nơi.

Thì ra nó được giấu bên trong toà tháp cao.

Nói một cách chuẩn xác thì có người đã dùng những cành cây còn sót lại này để xây nên toà tháp.

Ngay vào khoảnh khắc cành cây phủ tinh chất ngọc rơi xuống mặt đất và lấm lem cát bụi lên mình thì một ảo ảnh tràn ngập đất trời hiện lên.

Đấy là một thân đại thụ cao ngất đến độ ngước nhìn gần như không tới ngọn. Tán cây như mây khói, tựa ráng hồng soi rọi trời xanh, vô vàn cánh hoa lất phất lìa cành, lả lướt bạt ngàn như tuyết phủ ngàn dặm giữa trời đông giá rét.

Và Ô Hành Tuyết đang đứng bên dưới ảo ảnh ấy, giữa biển hoa rơi.

Vào lúc này, chàng không nhìn thấy, không nghe thấy, và cũng chẳng cảm giác được gì. Nhưng ngay khoảnh khắc ảo ảnh bao trùm cơ thể, chàng chợt nhớ về câu chuyện xưa quá vãng.

Lời tác giả:

Hai chương gộp một, cập nhật bù cho ngày hôm qua, chờ lâu rồi ~ mọi người ngủ ngon nha ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 53: Đảm nhiệm


Lần gần nhất Ô Hành Tuyết nương mình dưới gốc thần mộc đã là chuyện rất rất lâu về trước.

Năm đó là năm tán thần mộc phồn thịnh rực rỡ nhất, cũng là thời điểm mà những dây dưa của nó với nhân gian đã nhúng sâu và trở nên phức tạp nhất…

Từ trước đã luôn có người mang ý đồ muốn mượn sức mạnh của thần mộc nhằm “khởi tử hồi sinh” hay “níu kéo quá khứ, sống lại từ đầu”, người ta không ngừng truyền miệng nhau những lời đồn tương tự như vậy, khiến nó trở thành giai thoại nửa thật nửa giả.

Giai thoại cũng giống như ngọn lửa mấp mé dưới tấm giấy, ban đầu còn nhàn nhạt thoáng khẽ. Rồi đến một ngày nào đó, nó đột nhiên li3m đến mép giấy, cháy phừng lên và thiêu rụi mảnh giấy chỉ trong chớp mắt.

Thế là vào năm đó, câu chuyện này đã lan xa khắp bốn bể chỉ sau một đêm.

Có rất nhiều người ghé đến vì tiếng tăm này, họ che dấu bằng những lý lẽ này nọ, hoặc đưa ra những lý do vô cùng chính đáng hòng thử đủ mọi phương pháp trên trời dưới bể để mượn sức của thần mộc thực hiện ước nguyện của mình, đạt đến mục đích riêng nào đó.

Tuy nhiên, những người khác nhau có mong muốn khác nhau, đôi khi còn hoàn toàn trái ngược.

Cùng một thủ đô, có người sẽ mong nó thịnh vượng trường tồn, nhưng có người sẽ muốn nó chóng ngày tan tác. Cùng một nhân vật, có người hận họ cùng cực, có người mong họ được sống lâu. Cùng một vấn đề, những người ở hai bờ nhân quả thường mang cảm xúc và ước nguyện trái ngược.

Để rồi khi những điều đó va vấp lẫn nhau sẽ dễ sinh nhiễu loạn, và khi nó càng chất chồng sẽ càng khiến mọi thứ sẽ trở nên kém vững vàng, có bỏ công sức cũng vô vọng, cuối cùng chẳng ai nhận được kết quả tốt đẹp…

Bởi lẽ ấy, có rất nhiều người trong họ bắt đầu cảm thấy hối hận và dùng tất cả các biện pháp để đảo ngược quá khứ, mưu đồ xoá bỏ một số hệ luỵ ưu phiền hoặc tráo đổi thiên mệnh.

Và từ đó, mọi thứ càng đảo điên —

Nhân quả sinh sôi từ trong nhân quả, nhân gian nảy nở bên ngoài nhân gian.

Có thể mường tượng giống như một cành cây thẳng thóm tinh tươm bỗng nhiên mọc ra những cành con, mà thà những cành con ấy sum suê tốt lành thì cũng không sao, đằng này chúng lại mọc chỉa đủ hướng, chằng chịt mà đan lẫn vào nhau…

Trước đây, trên khu vực cánh đồng Gia Minh có truyền miệng một câu chuyện về “Quỷ hài nhi”.

Chuyện kể rằng có một đôi huynh đệ thiếu niên côi cút đã mất cả cha lẫn mẹ, chỉ biết sống nương tựa vào nhau. Sau đó, chúng lưu lạc về khu đô thành của một quốc gia nhỏ ở miền nam, phải vật lộn bươn chải trong cuộc sống, đồng thời hay lượm những trang giấy vụn vặt về đọc để học chữ, về sau nhờ bén duyên mà được người nhận nuôi. Sau khi trưởng thành, hai người đồng thời gia nhập quốc phủ và an phận sau nửa đời bôn ba, từ đấy về sau họ sống cuộc sống yên vui đến cuối đời mà không phải gánh chịu dông tố nào.

Đây hẳn nên là một câu chuyện nhẹ nhàng phẳng lặng, không có gì đáng nhắc đến.

Hiềm nỗi biến cố lại tràn lan…

Bởi một vị tu sĩ đã lầm lối nhưng không cam lòng buông bỏ, trước khi chết thảm, hắn đánh cược một canh bạc bằng trận cục sử dụng sức mạnh của thần mộc để quay về thời gian khởi điểm mấy chục năm trước.

Chỉ một hành động quay về đã trở thành viên đá ném thẳng xuống mặt hồ phẳng lặng, đảo loạn toàn bộ dòng nước và vạch ra mấy ngả rẽ loạn lạc trong nhân gian.

Từ đó, người vô tội mắc tai ương kiếp hoạ, mệnh số đổi thay, trong đó có hai anh em nhà kia.

Chúng còn không sống được đến khi bước chân vào toà thành mà đã mất mạng ở nơi cách cổng thành chưa đến một dặm.

Hai đứa trẻ chết khi hãy còn nhỏ tuổi, dáng người vẫn còn gầy gò loắt choắt, thân thể tong teo vì đói, áo quần mỏng tang, thậm chí còn không chuẩn bị nổi một đôi giày. Chúng ra đi bên vách tường đổ nát, có lẽ vì không đi nổi nữa nên đã nép mình vào vách tường đổ để tránh gió đêm và ngủ qua một giấc. Đứa anh còn che chắn cho em trai mình bên trong.

Khổ thay… chìm vào giấc ngủ rồi không bao giờ tỉnh lại được nữa.

Bởi vậy mà không còn ai kể về câu chuyện hai vị khách ngoại lai trẻ tuổi bước chân vào quốc gia nhỏ kia và cùng gia nhập quốc phủ nữa.

Nhưng rồi ở cánh đồng hoang ngoài ấy lại có thêm hai linh phách ngây thơ.

Đứa anh cõng em mình trên lưng, cứ đi đi lại lại trên con đường đó mà không bao giờ có thể bước vào thủ đô.

Từng có người gặp phải hai con quỷ nhỏ, và hầu hết họ khiếp sợ bỏ chạy trối chết. Nhưng cũng có một số người thiện lương thương cho số phận chúng, muốn giúp phổ độ cho chúng nhưng không thành công.

Là vì số chúng không nên bị chết…

***

Có rất nhiều người giống tay tu sĩ nọ, và có rất nhiều người lâm vào trường hợp như câu chuyện “Quỷ hài nhi”. Chỉ cần một người không cam tâm muốn làm lại từ đầu, có rất nhiều ngả rẽ loạn lạc sẽ mọc lên. Huống hồ có đến hàng trăm hàng ngàn người…

Thần mộc còn tồn tại một ngày, nhân gian càng thêm rối ren hỗn độn, những ngả rẽ đảo loạn nhập nhằng càng xuất hiện nhiều hơn một ít.

Và bởi thế, vào thời điểm tán cây thịnh vượng rực rỡ nhất cũng là lúc nó bước đến tận cùng.

Thần mộc trong truyền thuyết trên đội trời, dưới nối đất, là đại diện của sinh tử luân hồi, nghe những lời tâm nguyện và vui buồn của phàm nhân lâu ngày mà dần dà sinh ra tính người.

Bởi thế vào năm đó, sinh tử luân hồi đã dỡ thần mộc và trả về Thiên đạo. Còn phần hoá thành người nhận lấy danh tự “Chiêu” trời ban, trở thành vị tiên đầu tiên. Phong ấn thần mộc chính là việc cuối cùng người nọ làm trước khi trở thành Linh Vương.

Những người nhà họ Phong nói không sai, khu cấm địa đó ban đầu quả thực do đích thân chàng dựng nên.

Hôm đó, vẫn như khi trước, chàng đứng trên Lạc Hoa Đài, khoác tay nghiêng người tựa vào cành cây khô và buông mắt nhìn người trần đến rồi đi trên đường mòn dưới núi. Chàng nghe tiếng những người tiểu nhị, phục vụ bàn cất cao giọng, hô một chữ mà lên xuống vài lần như đang ca khúc nhạc phố phường.

Khói lửa nóng bỏng của bếp lò nhân gian bốc lên nghi ngút, tan thành sương lam trăng trắng phủ khắp sơn khê.

Chàng đứng nhìn hồi lâu, gốc đại thụ rợp trời yên ả phía sau lưng như một bóng hình cao thẳm.

Mãi đến khi màn sương lam lượn lờ bọc qua triền núi và không nhìn rõ đường núi được nữa, chàng mới thì thầm, “Nhân gian rộn rã đẹp biết bao, đáng tiếc…”

Đáng tiếc về sau hiếm dịp có thể nhìn ngắm được nữa.

Chàng xoay người lại, ngửa đầu nhìn tán thần mộc miên man như mây. Nơi chàng đứng là cả ngọn núi ngập đầy cánh hoa rơi, và chàng có thể cảm thấy thần mộc vẫn không ngừng đơm hoa và không ngừng héo úa rồi phiêu tán. Chàng cảm nhận được từng cành, từng đoá, từng hồi sinh tử, và từ đó trong lòng nhen lên đôi phần nuối tiếc.

Chàng duỗi tay ngắt một nhành dài đặng vẽ một vòng giam ngay tại chỗ, nhốt cả thần mộc lẫn ngôi đền vào trong, kế đó áp từng lớp trận lên trên.

Phong sương rồi lôi hoả, đao kiếm đến binh qua.

Mỗi khi nhận vào một lớp trận, thần mộc sẽ chấn động một hồi tưởng chừng có rất nhiều xiềng xích khổng lồ nhưng vô hình đang siết chặt trên cành cây. Chạc cây bắt đầu chuyển sang màu xám trắng — đó là dấu hiệu của sự khô héo.

Mỗi một lần thần mộc thụ thương, mỗi một tầng xiềng xích mới trói lên, Ô Hành Tuyết đều có thể cảm nhận rõ ràng. Cũng như có thể cảm nhận hoa trổ hoa tàn, chàng trải nghiệm cảm giác tương tự thế vào thời điểm thần mộc khô héo…

Trải nghiệm này nếu đặt vào thân thể con người, được gọi là suy nhược toàn bộ giác quan. Chàng nhìn không được, nghe không thấy, cảm giác không tới, tưởng như giam mình trong hư không tĩnh lặng vô biên.

Quá trình phong cấm diễn ra rất lâu, lâu hơn nhiều dự tính của chàng. Vì trong suốt quá trình phong cấm đó, hễ thần mộc có dấu hiệu khô héo là tinh chất bạch ngọc muôn nơi lập tức bao phủ toàn bộ thân cây.

Khi đó, Ô Hành Tuyết sẽ thoáng khôi phục chút giác quan, có thể lờ mờ nhìn thấy màu trắng tinh khiết của bạch ngọc. Và trong sắc ngọc sáng trong ấy, còn có thể thấp thoáng nghe được giọng nói của vị tướng quân thiếu niên nọ, đó là một câu rất mơ hồ —

Hỏi chàng rằng, “Cậu đau lắm không?”

Ô Hành Tuyết lắng nghe nhưng không hồi đáp.

Vì chàng hiểu rõ trong lòng những lời nọ hoàn toàn không có thật, mà chẳng qua chàng nhìn thấy tinh chất bạch ngọc nên giật mình nhớ ra câu hỏi mà vị tướng quân thiếu niên kia đã nói bên dưới tàng cây này rất nhiều năm về trước.

Câu nói xưa cũ đương không trở thành sự tồn tại rõ ràng duy nhất trong màn đêm vô tận.

Chàng nghe thấy câu nói ấy lặp đi lặp lại rất nhiều lần, rồi chợt vào một lần nào đó, giọng nói người kia lại vang lên, “Đau lắm ư?”

Chàng im lặng hồi lâu, cuối cùng cũng trả lời, “Không sao, còn thua xa thiên kiếp, chỉ như kiến cắn mà thôi.”

Suy cho cùng, năm giác quan đều đang suy nhược thì sao có thể cảm nhận được cơn đau, bất quá chỉ là không thoải mái trong tiềm thức, như một loại ảo giác mà thôi.

Đến khi cấm chế cuối cùng áp xuống và thần mộc bị giấu kín hoàn toàn bên trong, đã sang đến ngày thứ ba.

Thời điểm thần mộc bị khô khốc kiệt quệ, tinh chất bạch ngọc đã phủ kín quanh các cành cây khô, thậm chí lan đến cành cây mà Ô Hành Tuyết ngắt ra từ trước.

Tiếc rằng, Ô Hành Tuyết không hề nhìn thấy được cảnh tượng ấy.

***

Phong cấm toàn bộ thành hình xong, liên kết huyết mạch giữa Ô Hành Tuyết và thần mộc cũng hoàn toàn cắt đứt, chàng không san sẻ cảm giác và tri giác với thần mộc nữa, dù vậy ảnh hưởng từ quá trình phong cấm vẫn để lại di chứng với chàng…

Trong suốt một quãng thời gian dài sau đó, Ô Hành Tuyết luôn sống trong tình trạng tê liệt toàn bộ năm giác quan.

Chàng là vị tiên xuất hiện sớm nhất.

Ra đời từ thần mộc, cảm nhận bao phen sinh tử luân hồi, là sinh linh thừa phụng Thiên đạo, chàng được phong hào Linh Vương.

Và cũng vì cư ngụ trên Lạc Hoa Đài ngắm nhìn nhân gian hàng trăm năm, nên chàng rất yêu chuộng những nơi rộn ràng tiếng người, bản tính mê thích sự náo nhiệt sôi động.

Linh Vương yêu chuộng náo nhiệt rộn ràng đã đắm mình trong an tĩnh tối tăm ba năm ròng, suốt ba lần bốn mùa đổi thay.

Chàng khôi phục năm giác quan vào ngày nhân gian vừa bước sang tháng ba, mùa hoa hạnh mai rộ nở, ánh nắng chan hoà men theo dải mây sưởi ấm Tiên Đô.

Khi Ô Hành Tuyết mở mắt liền thấy cánh hoa rơi lác đác phủ một mảnh nhỏ bên cạnh cửa sổ, nhờ vậy mà lòng cũng khoan khoái hẳn lên.

Chàng thơ thẩn nhìn ngạch cửa trống trơn mà chợt nảy lên cảm hứng muốn đặt tên cho nơi này. Song lúc ấy cảnh xuân phơi phới bên khung cửa, chàng tựa hai chân bên thành và thấy mình biếng lười không muốn rời giường.

Chàng lia mắt một lượt cả phòng để tìm thứ gì đấy thuận tay, rồi tình cờ lướt thấy một nhánh cây dài bên thành giường.

Chàng vẫn còn nhớ đây là nhánh cây mà mình ngắt trong lúc đang lấp kín thần mộc. Thế nhưng vẻ ngoài cành cây này đã thay đổi hoàn toàn, giờ đây nó được bao bọc trong một lớp lành lạnh màu bạch ngọc.

Ô Hành Tuyết thẫn thờ lúc lâu mới ngỡ ra cơ sự, cầm lòng không đặng mà bật cười thành tiếng rồi giơ cành cây lên.

Cành cây màu bạch ngọc ánh lên theo đường vòng cung rồi hoá thành một thanh trường kiếm trong luồng linh quang chuyển dịch.



Hôm đó, những tiên sứ ghé qua đều trông thấy cảnh tượng ấy.

Toà dao cung bằng ngọc mở rộng cửa sổ, mành rèm phất phơ như sương khói. Linh Vương đạp bước trên những cánh hoa rơi bên thềm cửa, tay vén mành bước ra ngoài rồi một bước phi thân lên mái cung.

Người nhẹ nhàng đáp trên góc mái, tay xoay trường kiếm, chàng nhoẻn cười rạng rỡ và khắc ba chữ trên tấm biển trước cửa dao cung —

Toạ Xuân Phong.

Khi chàng thu kiếm về, vừa khéo đón một luồng gió xuân thổi tốc cánh hoa rơi bên thềm cửa sổ và tung khắp người chàng.

Sau này mỗi khi nhắc lại khung cảnh ấy, các tiên sứ đều kể về nó như một thoáng nhìn kinh hồng khó quên.

***

Trong ba năm Linh Vương tĩnh toạ, Tiên Đô đã thịnh vượng hơn xưa. Thiên đạo lập nên Linh đài, các tu sĩ nhân gian cũng lần lượt phi thăng, thời điểm đó Linh đài Thập nhị tiên đã có năm tiên đang tại vị.

Chúng tiên trên Linh đài cai quản những việc khác nhau, mỗi người một mảng riêng. Những ước nguyện rối ren của nhân gian được tách biệt giúp mọi thứ trở nên suôn sẻ chỉn chu hơn.

Nhưng nó cũng chỉ gói gọn trong phạm vi của các vị tiên thuộc Linh đài mà thôi, còn với Ô Hành Tuyết thì nó vẫn chưa bao giờ suôn sẻ hay chỉn chu cả.

Về sau, những người trên Tiên Đô đều thắc mắc — Thiên Túc chưởng quản hình xá, các chúng tiên cũng có chức vụ riêng để ban phước cho nhân gian. Duy mỗi Linh Vương vẫn là một bí ẩn, không một ai biết vị đó đảm nhiệm việc gì.

Có lần, ai đó quá tò mò trong lòng, đồng thời mang bên mình đôi phần ngưỡng mộ nên lén âm thầm bám theo Linh Vương xuống nhân gian. Họ muốn xem thử rốt cuộc những lúc không ở trên Tiên Đô thì Linh Vương đi đâu.

Song họ không bao giờ tìm ra được manh mối vì lần nào bám theo tới nhân gian, họ đều thấy Linh Vương đột ngột biến mất mà chẳng để lại một mẩu tung tích hay báo hiệu nào trước đó.

Đây không phải là thuật ẩn thân thông thường. Đều là thần tiên, nếu Linh Vương dùng thuật ẩn thân thì họ sẽ phát hiện được dấu vết. Khổ nỗi, họ không nghĩ ra một đáp án nào khác ngoại trừ thuật ẩn thân.

Đó là một điều bí ẩn, và đã được định sẵn mãi là điều bí ẩn.

Vì Linh Vương luôn trực tiếp lĩnh thiên chiếu, xưa giờ thiên cơ bất khả lộ. Bởi thế người duy nhất biết được sự thật chỉ có một mình Linh Vương.

Duy mỗi Ô Hành Tuyết mới rõ ràng hơn ai hết bản thân phải làm những gì trong những lần nhận thiên chiếu xuống nhân gian…

Nhiệm vụ của chàng là cắt đứt những nhánh rẽ đó, những người đã lạm dụng sức mạnh để kéo mọi việc trở lại quá khứ hòng “sống lại từ đầu”, sửa đổi thiên mệnh, dẫn đến hoạ loạn tràn lan. Đó là tình cảnh một nhánh cây dài bỗng mọc ra nhiều nhánh nhỏ và chằng chịt đan chéo vào nhau. Hệ quả là người không nên chết lại chết, người không nên sống lại tiếp tục sống, sinh tử lật ngược, năm tháng đảo loạn.

Và Linh Vương là người phải chặt bỏ những nhánh phụ kia.

Chàng đưa sinh tử quay trở về vị trí cố hữu, trả năm tháng trở lại đúng thứ tự. Lưu lại những người không nên chết, giết bỏ những người không nên sống.

Trên trời đông đảo chúng tiên, phần nhiều trong họ đều có tính tình điềm đạm và mang lòng trắc ẩn, việc họ đảm nhiệm cũng bao quát trong ban phước và chở che. Thậm chí, lưỡi kiếm của Thiên Túc cũng chỉ trảm chỉ hàng tà ma.

Duy mỗi Linh Vương từng giết người.

❄︎

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi, ngủ ngon ~

Tết đến rồi, thấy có cô gái nào đó nói chưa nhận được lì xì, Tết này ngày nào mình cũng phát lì xì nha, chúc mọi người vui vẻ ~

Cá:

Khóc mệt, lệ tràn bờ mi, điềm văn chỗ mô vậy?

Bất chợt nhớ đến một bài thơ cổ đời nhà Đường của thi sĩ Đỗ Mục, cũng bi kịch dữ lắm.

<i>Phồn hoa đâu nữa, bụi lan tràn,

Nước chảy vô tình, cỏ gặp xuân.

Ngày lụi gió đông chim não tiếng;

Hoa rơi tựa cảnh lúc gieo thân.</i>
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 54: Đồng tử


Người trên Tiên Đô kể rằng Linh Vương rất hay cười.

Nụ cười của chàng lắm khi thật nhạt, đuôi mắt đọng chút biếng lười bèn loé lên như ánh sao. Thi thoảng ánh sao ấy ngời ngời phóng khoáng, thực phù hợp với cái tên nơi ở chàng.

Địa vị chàng trên Tiên Đô cực kỳ đặc biệt nhưng bản thân không hề cao ngạo. Chàng thân thiện với bất kỳ người nào bắt chuyện với mình, thường trêu chọc và cũng hay đùa giỡn, đôi khi chòng ghẹo và lắm lúc tinh ranh.

Tính tình như thế hẳn nên giúp mọi người cảm thấy hoà đồng dễ gần, nhưng lạ lẫm thay, đến cả những người thầm ngưỡng mộ chàng sau này cũng không dám thân thiết với chàng.

Có lẽ bởi việc mà chàng đảm nhiệm là một bí mật không ai có thể biết nên đã tạo cảm giác thần bí và kéo giãn khoảng cách với người khác.

Các toà dao cung ngọc của chúng tiên trên Tiên Đô đều có đồng tử và tiên sứ theo hầu đặng chăm nom sự vụ hằng ngày. Lại vẫn chỉ riêng Linh Vương là ngoại lệ.

Chàng yêu thích sự rộn rã lắm đấy, nhưng Toạ Xuân Phong ngay từ thuở đầu đã không có cả tiên sứ lẫn tiên đồng.

Tiên Đô có một nơi gọi là Lễ các, chuyên phụ trách công việc ngày thường của các thần tiên.

Thời điểm đó, Lễ các có hai vị tiên quan phụ trách, một nàng tiên có tên Mộng Cô với tính cách hung bạo có tiếng, chỉ cần trái ý một câu là hất phất trần quạt người ra tít xa, muốn bao nhiêu xa có bấy nhiêu xa.

Vị còn lại tên Tang Phụng, là một tiên nhân tuấn tú to cao, mặt mũi sắc bén như ưng nhưng rất chuyên tâm công việc. Có lẽ anh ta đã quen lo toan mọi người từ trước khi phi thăng rồi, nên khi lên Tiên Đô cũng không sửa đổi tính tình mà rất đam mê đóng vai trò một người huynh trưởng, một người quản gia, một người cha cho người khác.

Một lần nào đó, Tang Phụng nhịn hết nổi, bèn ngồi lì ở Toạ Xuân Phong bảy ngày bảy đêm liền để chờ bắt cho bằng được Linh Vương vừa trở về từ nhân gian.

Vừa lên tới đã được nhận đại lễ, Linh Vương rất chi sợ hãi.

“Ôi chao? Đại lễ đến bực này ta không nhận nổi đâu,” Linh Vương nghiêng người sang bên, tiện tay bắt lấy tiểu đồng tử của Tang Phụng chắn trước người mình để nhận thay phần quà biếu kia.

Tiểu đồng tử: “…”

Tang Phụng: “…”

“Chú có chuyện gì cần nói cứ nói, không cần phải cúi đầu,” Linh Vương đặt tay lên đầu tiểu đồng tử, gương mặt còn giấu sau chiếc mặt nạ thường đeo, giọng nói vọng ra từ phía sau mặt nạ nên nghe có vẻ nghèn nghẹt không rõ ràng.

“Việc này…” Tang Phụng nhìn chiếc mặt nạ bạc chạm vân nọ mà hơi do dự chút đỉnh. Dầu sau một Linh Vương đeo mặt nạ thì cho dù có nói đùa cỡ nào cũng không khỏi tạo cảm giác bí ẩn.

Dường như Linh Vương cảm nhận được, bèn vén chiếc mặt nạ lên phân nửa.

Tang Phụng thả lỏng ngay lập tức. Anh đưa tiểu đồng tử về rồi ngỏ giọng van nài với Linh Vương mà rằng, “Thật ra cũng không phải chuyện lớn gì đâu, nhưng mà… thưa đại nhân, ngài cũng nên có vài tiên sứ và đồng tử.”

Nét cười cong cong trên khoé môi Linh Vương thu về, chàng nói, “Không cần.”

Tang Phụng: “…”

“Những việc này cũng tính là sự vụ thường nhật, hẳn cũng do chúng tôi đảm đương. Bên phía Lễ các đã chuẩn bị vài người cho ngài từ sớm, người cũng chờ đã lâu rồi, hẳn ngài cũng cần một hai người chứ.”

Linh Vương rất dễ chịu, nhưng không dễ dàng bị thuyết phục. “Lần trước ta đã nói không cần, ta cũng có ở Toạ Xuân Phong mỗi ngày đâu, cần nhiều tiên sứ với đồng tử để làm gì?”

Tang Phụng: “Chúng tiên ai cũng có, chỉ riêng chỗ đại nhân là không, như vậy tôi không yên tâm.”

Bản thân Ô Hành Tuyết không phải người hay lo toan này nọ nên thật sự không thể hiểu được tại sao trong phủ mình không người thì lại khiến người khác không yên tâm.

Chàng bèn mỉm cười đáp lời, “Chúng tiên ai cũng có thật à? Không bất kỳ một ai không muốn có sao? Ta không tin.”

Tang Phụng: “…”

Một hồi lâu sau, Tang Phụng mới không cam lòng mà thừa nhận, “Thôi được, thật ra chỗ bên Thiên Túc cũng không muốn.”

Ô Hành Tuyết nhướng mày.

Tang Phụng lật đật bổ sung, “Thế nhưng tính tình Thiên Túc chẳng thế còn gì.”

Ô Hành Tuyết: “Thế nào?”

Tang Phụng ngẫm nghĩ một lát, nói, “Theo lời của Mộng Cô thì nếu đưa tiên sứ và tiểu đồng qua bên đấy chỉ hai hôm chúng sẽ bị đông cứng chết mất thôi.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Trước đây, sau khi tỉnh dậy trong Toạ Xuân Phong, chàng từng nghe qua việc Thiên đạo triệu hoán một người khác thành tiên, nhận danh tự “Miễn” trời ban, danh hào Thiên Túc.

Thế nhưng thứ nhất, chàng cũng không mấy hứng thú với việc Tiên Đô có thêm những vị tiên nào. Thứ hai, dù chàng thân thiện cười nói với tất cả mọi người, nhưng không chủ động tìm đến cung phủ của người nào cả, và đoán chừng vị Thiên Túc kia cũng không có sở thích giao du kết bạn với chúng tiên.

Hơn nữa, bọn họ có những nhiệm vụ khác nhau, nên qua nửa năm rồi cũng chỉ mới nghe danh chứ chưa bao giờ gặp mặt.

Mỗi lần chàng trở về Tiên Đô đều nghe được lời ong tiếng ve về tên của Thiên Túc, lần nào cũng kèm mấy câu mắm muối kiểu “Tính tình như vậy, thế mà lại còn như thế này như thế nọ”.

Nghe nhiều lần thì có không muốn để ý cũng không được.

Nhưng sự tò mò của Ô Hành Tuyết vô cùng có giới hạn.

Chàng vừa trở về sau khi hoàn thành nhiệm vụ cắt đứt một dòng sự sống, giờ đây cảm thấy cực kỳ lười, chỉ muốn nghỉ ngơi.

Song, nụ cười nhoẻn bên khoé môi chàng dễ dàng đánh lừa người khác nên Tang Phụng hoàn toàn không nhận ra.

“Thôi, không nói chuyện bên ấy nữa. Tôi nghe kể rằng đại nhân rất yêu chuộng sự sôi động, sao có thể để chỗ mình ở vắng vẻ như vậy được,” Tang Phụng nói. “Không lẽ ngài… sợ tiên sứ và tiên đồng làm phiền mình?”

Chưa chờ Linh Vương mở miệng, anh ta đã nói tiếp, “Lễ các luôn đặt tâm huyết vào giúp đỡ cho các vị, tiên sứ và đồng tử dĩ nhiên vừa lễ độ vừa nghe lời, hành vi và ứng xử đều theo phép tắc chuẩn mực, chắc chắn sẽ không làm phiền Linh Vương!”

Anh ta khoe mẽ xong chốt lời khuyên một câu, “Ngài cần một đứa đúng không.”

“Không.”

“…”

Ô Hành Tuyết tự nói với bản thân rằng <i>tiên sứ và đồng tử xuất thân từ Lễ các các người đúng thật là nghe lời nhưng đứa nào đứa nấy đều cổ hủ và nhàm chán. Giờ kêu ta hốt về xếp thành một hàng cũng chả sôi động hơn tẹo nào, rước vô làm gì?</i>

Nhưng Ô Hành Tuyết nghe bảo vị Tang Phụng đại nhân này tự mình rèn luyện tính cách cho các tiên sứ và đồng tử. Xét thấy không nên bôi nhọ mặt mũi người khác, chàng bèn ậm ờ một câu mà nói, “Dù ta rất thích không khí sôi động nhưng có người trong nhà thì không ngủ được.”

Không cách nào bắt bẻ lý do này, Tang Phụng nài nỉ một hồi cũng không thành công, chỉ đành thở dài ngao ngán, không cam lòng cất bước rời khỏi. Bộ dáng anh ta thất thểu tới nỗi Ô Hành Tuyết cũng động lòng, bèn lịch sự bổ sung thêm, “Sau này nếu thiếu người, ta sẽ đến hỏi chỗ chú nhé.”

“Được, tôi biết rồi.”

Chỉ trách Tang Phụng quá chi thật thà, chứ chỉ cần nấp vài đêm ở Toạ Xuân Phong để theo dõi là biết ngay mấy lời của Linh Vương đều là xạo láo.

Đặc biệt là câu “Trong nhà có người thì không ngủ được”.

Chàng ra đời ở Lạc Hoa Đài, hoá thành người từ việc lắng nghe tiếng ồn ào sôi động, xưa giờ không ngại có tiếng người hay tiếng động trong nhà. Mà trái lại, chàng phải nghe thấy tiếng ồn mới có thể nghỉ ngơi được.

Tiếng hoa rơi cũng được mà tiếng gió lay cũng được, hay có một lần trước đây khi nhắm mắt dưỡng thần, chàng còn thả linh khí ra để ngưng tụ thành bóng người đánh trống đánh chiêng, ca hẳn một vở tuồng.

Và chỉ cần nghiêng đầu lắng nghe, chàng đã có thể chìm sâu vào giấc ngủ ngon.

***

Thời điểm đó, Ô Hành Tuyết quả thật không muốn tìm tiên sứ, tiểu đồng gì cả, mãi đến một lần chàng thực nhiệm nhiệm vụ tẩy sạch nhánh rẽ nằm loạn, tẩy thẳng một đường tới cánh đồng Gia Minh.

Nhìn chung, mấy việc như có người thay đổi quá khứ, tạo thành lối rẽ chệch đi hướng ban đầu thường có những biểu hiện tương tự. Chẳng hạn như có người và vật xuất hiện ở những mảnh đất lẽ ra không nên có, chẳng hạn như dòng thời gian bị rối loạn nên bị kéo đến một thời điểm nào đó trong quá khứ hoặc tương lai, rồi chẳng hạn như có người lâm vào trạng huống dị thường mà bảo sống cũng không phải mà chết cũng không phải.

Ô Hành Tuyết đã thấy những cảnh ấy rất nhiều lần, dù không có thiên chiếu cũng có thể liếc mắt đã nhận ra ngay.

Hiềm nỗi, sau khi những dòng rẽ nằm loạn kia bị chặt đứt rồi thì không còn biểu hiện nào có thể nhận ra bằng mắt thường được nữa mà tuyệt nhiên phải nhờ đến thiên chiếu chỉ rõ.

Chỉ là Ô Hành Tuyết cũng không mù quáng tin tưởng thiên chiếu, sẽ không vì một lời xác nhận ổn thoả của thiên chiếu mà nhắm mắt làm ngơ hết mọi thứ còn lại. Thông thường, chàng sẽ theo dõi nhân quả, cẩn thận truy xét kỹ càng từng li từng tí một để xác nhận nhánh rẽ này đã không còn rối loạn nữa rồi mới trở về Tiên Đô.

Thế nên mỗi chuyến chàng xuống nhân gian đều mất thời gian rất lâu chứ không hoàn thành trong nhất thời vài khắc. Đồng thời, những việc qua tay chàng đều chưa từng xuất hiện sai lầm.

Bởi vậy mà vào ngày hôm đó, chàng đã sững sờ hêt một lúc khi nhìn thấy hai linh phách gầy tong giữa cánh đồng Gia Minh.

Chàng đối mặt với hai tiểu quỷ nọ một hồi mới ngỡ ra đây chính là hai “quỷ hài nhi” trên cánh đồng Gia Minh trong truyền thuyết.

Giai thoại đó đã lưu truyền trong khoảng thời gian ba năm chàng bị phong bế năm giác quan, để rồi khi choàng mắt tỉnh lại, thiên chiếu đầu tiên chàng nhận được chính là đưa tất cả những người trong câu chuyện đó quay về quỹ đạo.

Chàng đã mất tận mười ngày tới lui những năm tháng khác nhau để cắt đứt nhân quả đan xen, đưa người tu sĩ đã khuấy lên hoạ loạn trở về khởi điểm ban đầu.

Chàng cầm thanh kiếm trên tay và chứng kiến cái chết thảm thương của tu sĩ nọ, đảm bảo người kia bước trên số mệnh đã an bài cho mình. Sau đó đã đưa tất cả hệ luỵ trở về vốn dĩ.

Chàng có nhớ rất rõ hai anh em không còn đường lui và phải dấn mình qua cánh đồng Gia Minh cuối cùng đã đến được thủ đô kia. Sau đó chàng kiểm tra rất kỹ lưỡng và xác nhận mọi việc đều trở về nguyên trạng chứ không còn một nhánh lệch nào.

Vậy hai linh phách phiêu bạt trên cánh đồng Gia Minh này từ đâu mà ra?

Không chỉ thế, hai linh phách nọ trông thấy chàng còn lót tót chạy lại, ngẩng mặt mà hô to, “Thần tiên!”

Trông ra rõ ràng là biết mặt chàng.

Vậy thì kỳ lạ vô cùng.

Lẽ ra không nên có một ai nhớ được những chuyện chàng đã làm — người được đưa về quỹ đạo luôn nghĩ rằng mình luôn luôn đi theo đúng quỹ đạo này chứ chưa hề có chuyện sai lệch nào xảy ra.

Ô Hành Tuyết nhíu mày, thầm đoán thiên chiếu đã không đúng chỗ nào, hoặc bản thân mình đã tẩy không sạch nên còn sơ sót.

Nhưng khi chàng đưa tay ra xem kỹ lại thì thấy hai linh phách kia không phải linh phách thật mà giống như hai ảo ảnh vậy. Song chàng vẫn không yên lòng nên kiểm tra kỹ lưỡng lại lần nữa. Một lúc lâu sau, chàng mới xác định mình không mắc phải sơ sót nào, hai anh em kia đang ở thủ đô nọ và sống những tháng ngày họ xứng đáng được có rồi.

Còn ảo ảnh trên cánh đồng Gia Minh này có lẽ là dấu tích còn lại của quá trình sinh tử quay về quỹ đạo vốn có, nó là một minh chứng cho những việc chàng đã từng làm trước đây.

Ô Hành Tuyết bần thần đôi chút, đoạn quay sang hỏi hai ảo ảnh kia, “Hai đứa đã từng gặp ta à?”

Đứa nhỏ lắc đầu nguầy nguậy.

Đứa lớn ngẫm nghĩ một chút rồi chỉ vào mặt nạ và nói, “Con từng gặp.”

Ô Hành Tuyết hỏi tiếp, “Gặp ở đâu?”

Hai đứa đều không nhớ được, bèn lẳng lặng lắc đầu.

“Vậy sao hai đứa lại vòng vòng ở đây làm gì?” Ô Hành Tuyết hất cằm chỉ khu vực hoang vắng không một bóng người này.

Hai tiểu quỷ mở to mắt nghĩ ngợi, mà nghĩ sao cũng không nhớ lý do.

Ô Hành Tuyết đã tỏ tường trong lòng.

Dù gì cũng chỉ là tàn ảnh, làm sao nhớ được tất cả mọi chuyện.

Tàn ảnh sẽ không gây ảnh hưởng đến quỹ đạo, sau vài ngày rồi cũng sẽ tan biến. Ô Hành Tuyết tính nổi lên cơn gió để tiễn chúng một đoạn đường.

Ngờ đâu hai tiểu quỷ nọ nhìn chòng chọc chàng với ánh mắt trông mong kèm thêm đôi phần tủi thân.

Ô Hành Tuyết nghĩ lại một chút, bèn thả tay xuống và cất giọng quạu quọ, “Vậy hai đứa tự xử đi nha, ta đi đây.”

Thế rồi đi chưa tới hai bước thì hai tiểu quỷ đã nhảy phốc tới bám vô người chàng.

Ô Hành Tuyết ngừng thì chúng nó ngừng. Ô Hành Tuyết đi thì chúng nó lại lẽo đẽo theo.

Sau mấy bận như vậy, đường đường là Linh Vương cũng chỉ đành ngồi xổm xuống và nói, “Muốn ăn vạ ta đấy hửm?”

Hai tiểu quỷ hiên ngang gật đầu.

Ô Hành Tuyết: “…”

<i>Được lắm.</i>

<i>Trái phải đều không có ai làm phiền, thôi thì cứ coi như dán hai đứa người giấy bên mình đi vậy.</i>

Chàng nghĩ thầm.

Thế là ba hôm sau, một lời đồn lan khắp Tiên Đô, đồn rằng sau khi nhận nhiệm vụ trở về, Linh Vương đã mang theo bên mình hai nhóc tiểu đồng tử, việc này chọc Tang Phụng đại nhân ở Lễ các ức tới phát khóc.

Đến chính Tang Phụng nghe được tin đồn còn hãi hùng khôn cùng, mà Linh Vương lại tin nửa vế sau. Thế là chàng dẫn hai đứa tiểu đồng tử ghé thăm Lễ các một chuyến với lý do muốn an ủi Tang Phụng.

Kết quả sau một canh giờ an ủi, Tang Phụng muốn khóc thật.

Linh Vương thấy tình hình không ổn, bèn ngoảnh mặt toan bỏ chạy với hai tiểu đồng tử nhà mình.

Tang Phụng nấc lên từ phía sau, “Đại nhân ơi! Vậy mấy đồng tử tuyệt vời đã chuẩn bị sẵn chỗ tôi phải đưa đi đâu bây giờ? Họ đã ở chỗ tôi gần nửa năm rồi đại nhân à!”

Linh Vương đáp lời mà không ngừng chân, cũng không ngoảnh đầu lại, “Giữ đó gây hoạ cho Thiên Túc đi, biết đâu được.”

Người chàng cao dỏng, chân đã dài còn vội vã bước lẹ hơn vì sợ Tang Phụng nồng hậu quá mức sẽ lập tức bám theo. Hai tiểu đồng tử còn chưa quen với đường phố Tiên Đô nên chỉ có thể lon ton đằng sau với cặp chân ngắn ngủn của mình, sau một lúc bị bỏ xa cả khoảng dài.

Ô Hành Tuyết đi đến thang bạch ngọc rồi mới sực nhớ giờ mình đã có đồng tử, bởi vậy phải dừng bước và quay đầu lại chờ hai đứa nhóc kia theo kịp.

Vào khoảnh khắc đó, lần đầu chàng gặp Tiêu Phục Huyên trên Tiên Đô.

Ô Hành Tuyết nghe thấy tiếng leng keng be bé như vỏ kiếm và thân kiếm khỏ nhẹ vào nhau. Vừa quay đầu lại, chàng nhìn thấy Thiên Túc thượng tiên đeo kiếm và bước lên từ bên dưới bậc thang bạch ngọc.

Người nọ có vẻ cũng thấy bên trên thang có người, bèn ngước mắt nhìn lên.

Gió Tiên Đô thổi qua người ấy rồi phất nhẹ lên trên. Trong hương gió, Ô Hành Tuyết ngửi thấy hơi thở của linh phách quen thuộc.

Nháy mắt đó, chàng thoáng giật mình giữa làn gió.

Còn đối phương cũng nán lại bước chân, không rõ vì điều gì.

Ô Hành Tuyết hoàn hồn, mấp máy cánh môi mỏng, vừa tính mở miệng thì chợt thấy hai bóng đen lon ton chạy lại phía mình trong hớt hải và suýt nữa đã hấp tấp tông thẳng vào chân chàng.

Vừa chạy còn vừa hỏi, “Tâu đại nhân, Thiên Túc là ai ạ? Sao vừa nãy người bảo đi gây hoạ cho y?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Thiên Túc vừa nhấc chân tính bước tiếp đi lướt qua bọn họ thì nghe được câu này, bèn đột nhiên ngừng lại.

❄︎

Lời tác giả:

Ngủ ngon ~ mình đã gửi lì xì cho chương trước trước khi cập nhật chương này rồi, có điều hệ thống sẽ hơi chậm chút nha ~

Cá:

Ngoài lề xíu, bữa giờ tui nghĩ mãi về xưng hô của Huyên với Tuyết sau khi chính thức yêu đương á nhưng mà vẫn chưa tìm được giải pháp hợp lý.

Với tính cách của Linh Vương thì tui muốn để Tuyết xưng hô <i>ta – chàng</i>, tự vì <i>ta – ngươi</i> thì lạnh lùng quá, mà Linh Vương rất là tiêu sái mờ nhỉ.

Vấn đề là ở Thiên Túc, anh ta lạnh lùng quá xá, xưng <i>ta – chàng</i> thì không hợp, mà <i>ta – người</i> thì xa cách quá, <i>ta – huynh</i> lại càng không được, thế là hợp lý nhất chỉ có <i>ta – ngươi</i> (?).

Nếu các bạn có ý tưởng gì có thể góp ý cho tui với hen ~ tạm thời đặt trước vậy chứ chừng nào yêu đương thì hên xui hihi.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 55: Tính sổ


Hai tiểu đồng tử chạy tới nơi mới phát hiện trước mặt còn có một người khác. Cả hai đều liếc nhìn Tiêu Phục Huyên rồi ngoan ngoãn nhận ai mới là chủ nhân, rúc ra sau lưng và nép mình vào áo choàng của Ô Hành Tuyết.

Ô Hành Tuyết thấy mình lượm trúng con nít quỷ rồi.

Tiêu Phục Huyên nghiêng mặt sang, không ngó ngàng tiểu đồng tử nói năng linh tinh mà nhìn thẳng vào Ô Hành Tuyết.

Ô Hành Tuyết khép mắt lại.

Lần đầu tiên trong đời chàng thấy muốn giấu gia môn tới vậy.

<i>Hay mình bịa bừa một cái tên đi.</i>

Ô Hành Tuyết nhủ thầm trong lòng.

Suy cho cùng, vị Thiên Túc này lạnh lùng xa cách, chắc chắn không nhớ rõ trên Tiên Đô có những ai. Nghe qua tên huý áng chừng cũng không để ý chứ đừng nói chi đến việc ghép tên với mặt.

Cứ quyết định vậy đi.

Chàng vừa tính mở miệng thì Tiêu Phục Huyên đã hé viền môi mỏng, âm thanh trầm ấm vang lên, “Ta và Linh Vương không thù không oán, tại sao phải cho người làm hại ta.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Khá lắm, khỏi bịa.

Hai tiểu đồng tử nghe vậy thì chìa đầu ra từ sau lưng chàng và tròn xoe đôi mắt. Sau đó, hai đứa nhìn sang Ô Hành Tuyết và nói nhỏ, “Tâu đại nhân, đó là Thiên Túc ạ? Có phải tụi con nói hớ rồi không?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Chàng đặt tay sau đầu nhóc ta để hướng mặt nhóc lên rồi hững hờ hỏi, “Hai đứa tưởng giọng hai đứa nhỏ lắm hả?”

Tiểu đồng tử lơ ngơ ngốc xít, đâu đã hiểu năng lực của những người trên Tiên Đô. Trước mặt Thiên Túc, thứ mà hai đứa đinh ninh “nhỏ giọng” chẳng khác gì nói xấu công khai.

Tiểu đồng tử: “Không nhỏ ạ?”

Ô Hành Tuyết tức tới bật cười.

Tiểu đồng tử thấy chàng cười thì có vẻ thẹn thùng, bèn lẳng lặng thụt đầu về.

Ô Hành Tuyết giữ nguyên nụ cười, giương mắt lên nhìn thẳng vào ánh mắt Tiêu Phục Huyên.

“…” Linh Vương đại nhân chỉ đành mở miệng giải thích, “Là thế này, ta vừa rời khỏi phủ Tang Phụng thì bị kéo lại nài nỉ ỉ ôi một hồi lâu, ta chịu không nổi nên nói bừa một câu để trốn đi, chỉ là nói đùa một chút mà thôi.”

Chàng nhủ thầm, cái tính kỳ kèo của Lễ các chắc ai cũng từng lĩnh giáo. Nhắc tới Tang Phụng ắt hẳn Tiêu Phục Huyên sẽ hiểu ngay cơ sự ra làm sao, đỡ phải giải thích dài dòng.

Không ngờ Thiên Túc thượng tiên nghe xong thì nhìn chàng rồi trầm giọng, “Tang Phụng là ai?”

Ô Hành Tuyết ngạc nhiên vô cùng. “Ngài không biết Tang Phụng à?”

Tiêu Phục Huyên: “Ta nên biết sao?”

Ô Hành Tuyết giải thích thêm, “Lễ các, cái vị chuyên đưa đồng tử tiên sứ cho người khác ấy.”

Tiêu Phục Huyên vừa nghe thì sượng mặt ngay lập tức.

Thật ra trên mặt y cũng không có biểu cảm gì, nhưng cái phản ứng vừa nhắc tới đồng tử đã vỡ lẽ như thể từng phải ngậm đắng nuốt cay này khiến Ô Hành Tuyết cảm thấy rất chi buồn cười.

“Xem ra Thiên Túc cũng bị giày vò không ít,” Ô Hành Tuyết nói.

Chàng không cách nào nén đi nét cười trong mắt, Tiêu Phục Huyên buông mắt nhìn chàng rồi cất giọng nghiêm nghị, “Xem ra, gây hoạ mà Linh Vương nhắc tới là kêu Lễ các đến giày vò ta lần nữa.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Là ai bảo Thiên Túc kiệm lời, tích chữ như vàng?

Chàng phủ nhận tắp lự, “Tất nhiên là không phải.”

Tiêu Phục Huyên: “Vậy thì là gì?”

Linh Vương nuốt “Ực” trong lòng một cái, bịa không ra lý do, sau cùng đành cười cong khoé mắt mà nói, “Đã nói là chỉ đùa thôi mà, không nên xem là thật. Nếu Lễ các đến gây hoạ cho ngài thật thì ngài đến tìm ta tính sổ cũng không muộn.”

Ngón tay để sau lưng chàng ngoắt lên, một cơn gió quét hai tiểu đồng tử đứng đằng sau ra.

Tiểu đồng tử ngơ ngác: “?”

Chưa chờ hai đứa hỏi ra thành lời, Ô Hành Tuyết đã đẩy cái ót chúng tới trước.

Hai hôm nay, tiểu đồng tử được chàng dạy nên hình thành phản xạ có điều kiện — vừa chọt vào ót liền lập tức gửi lời chào tạm biệt. Hai nhóc ngẩng mặt lên, cất giọng với Tiêu Phục Huyên bằng âm điệu lảnh lót, “Đại nhân ắt còn công vụ, đại nhân nhà ta cũng có việc bận, thôi thì không chậm trễ thêm nữa, xin cáo từ!”

Thiên Túc: “…”

Ô Hành Tuyết xoay người rời khỏi, chợt nhớ đến nét mặt khôn tả thành lời của Thiên Túc ngay khoảnh khắc ấy, chàng khó nén lòng mà bật cười.

Lần đầu tiên trong suốt ba ngày kể từ khi quay về từ nhân gian, chàng đã cười sảng khoái đến vậy.

Thường phục trắng lướt gió về Toạ Xuân Phong, áo choàng vân bạc như tuyết phất phơ sau người, thấp thoáng để lộ đôi ủng bạc hoà một thể vào sương gió mây sa nơi Tiên Đô.

Tiểu đồng tử nhìn mà ngây ngất, thoắt cái đã quên bản thân vừa gây hoạ. Hai đứa lần lượt lót tót đuổi theo sau, hiếu kỳ thưa, “Tâu đại nhân.”

Ô Hành Tuyết lười biếng đáp “Ừm” một tiếng.

Tiểu đồng tử hỏi, “Đại nhân và Thiên Túc có mâu thuẫn từ trước ạ?”

Ô Hành Tuyết: “Sao có thể? Không có.”

“Thế đại nhân và Thiên Túc có giao hảo phải không ạ?”

“Không luôn. Đây là lần đầu gặp đấy.”

“Ớ?”

“Nhóc ớ cái gì.”

Rời đi một lúc rồi, Ô Hành Tuyết mới nhận ra mình và Tiêu Phục Huyên hoàn toàn không trao đổi khách sáo, không chào hỏi hàn huyên, thậm chí còn không giới thiệu tên tuổi, quả thật chẳng giống như mới gặp lần đầu, tiểu đồng tử có tò mò cũng không lạ.

Nhưng không ngờ câu trả lời của tiểu đồng tử lại hỏi sang một chuyện khác, “Lần đầu gặp mà đại nhân biết người ta là ai ạ?”

Ô Hành Tuyết trả lời, “Dễ nhận ra mà, danh tự được ban còn chưa biến mất trên cổ, thân kiếm cũng có chữ ‘Miễn’ đó.”

Tiểu đồng tử “Ồ” lên rồi hỏi tiếp thắc mắc nữa, “Vậy làm sao người ta biết đại nhân là ai ạ? Đại nhân không đeo kiếm mà.”

Ô Hành Tuyết dừng bước chân.

Đúng thật, hôm nay chàng không mang mặt nạ, cũng không đeo linh kiếm, bên cổ cũng không có chữ. Vậy tại sao người kia khẳng định chắc nịch chàng là ai?

Chàng thơ thẩn một chút rồi quay đầu lại nhìn.

Bấy giờ, nấc thang bạch ngọc và Linh đài đã lùi lại đằng xa, chỉ còn bóng hình loáng thoáng. Chàng thấy bóng người cao ráo của Tiêu Phục Huyên đang bước lên những bậc thang cuối cùng rồi tan biến vào khói mây.

***

Thoạt đầu, Ô Hành Tuyết còn tưởng rằng một câu đùa bâng quơ sẽ chấm dứt tại đấy, và mối quan hệ giữa chàng và Tiêu Phục Huyên cũng không khác biệt nhiều so với những người khác trên Tiên Đô.

Những chuyện quá vãng kia chỉ giữ trong lòng là được, chàng nào mong đối phương nhớ ra những chuyện ấy, bởi vậy nên cũng không thể hiện thân thiện quá đà với người kia.

Linh Vương biếng lười thực sự, dù hay niềm nở và thích sự hài hước nhưng trước giờ không thể xem là thân thiện.

Trên Tiên Đô có một lời đồn vu vơ rằng mối quan hệ giữa Thiên Túc và Linh Vương không bình thường.

Lời đồn truyền tới tai Ô Hành Tuyết làm chàng chấm hỏi đầy mặt.

Hôm đó, Ô Hành Tuyết vừa định ra ngoài thì bị Tang ma ma của Lễ các kéo ngược trở lại.

Người kia lấy rượu trong hầm rượu ra và kể chàng nghe lời đồn nọ, Ô Hành Tuyết nghe vào chả hiểu ra làm sao, bèn hỏi, “Sao lại nói quan hệ không bình thường, chú nói rõ thêm xem nào.”

Tang Phụng nói, “Đại nhân còn nhớ hôm ngài đến Lễ các chỗ tôi không, có người bảo thấy đại nhân và Thiên Túc đứng nói chuyện một lúc rất lâu trước bậc thang bạch ngọc trước cửa Linh đài.”

Ô Hành Tuyết: “Rồi sao nữa.”

Tang Phụng: “Hết rồi.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Linh Vương hoang mang tột độ. “Vậy tại sao lại có tin đồn kia?”

Tang Phụng rất kiên nhẫn giải thích, “Thiên Túc thượng tiên tích chữ như vàng, cần nói chuyện gì đều nói tóm gọn trong thời gian ngắn nhất, việc lần đó đích thực là chuyện hiếm trong những chuyện hiếm, nghe đâu hôm đó Thiên Túc nói tương đối nhiều?”

“…”

Linh Vương thầm rủa <i>các người có bệnh à</i>.

Chàng tức giận, nói, “Bình thường các chú đếm số câu để luận quan hệ hả? Nói nhiều thì quan hệ tốt, nói ít thì quan hệ xấu à? Nếu nói vậy thì chẳng hoá ra ta giao hảo tốt nhất với Thiên đạo Linh đài hay gì.”

Tang Phụng: “…”

Nghe đến Thiên đạo, chúng tiên nhiều ít đều tỏ phần kính cẩn và kiêng dè, làm gì có chuyện tiện thể nhắc tới như vậy. Tang Phụng há miệng ra rồi đóng lại mấy lần mới nói, “Đại nhân xin đừng nói đùa như vậy.”

Ngừng đoạn, anh ta mới trả lời nửa đầu câu hỏi của Ô Hành Tuyết, “Tất nhiên là chúng tôi không xem việc nói ít nói nhiều để luận quan hệ, nói ra thì… thường xem xét tần suất ghé cung phủ nhiều hơn.”

Ô Hành Tuyết tóm gọn lại giúp anh ta, “Số lần thăm hỏi à.”

Tang Phụng ngẫm thấy cũng không phải chuyện gì xấu, bèn tiếp lời chàng và nói, “Đúng vậy, có thể ghé thăm dù không có công việc gì thì hẳn nhiên cho thấy đó là mối quan hệ thân thiết.”

Ô Hành Tuyết “Ồ” lên và cười nói, “Thế thì chú còn thân thiết với ta hơn Thiên Túc đấy.”

Nói đến đây, chàng ngừng lại một chút, xoay nhẹ ngón tay lên chén rượu trên bàn.

Nét cười còn vương trên mặt mà lòng chàng đã gợn lên một cảm giác lạ lùng, không rõ đấy là xúc động hay nuối tiếc, hay liệu chăng là xen lẫn cả hai.

Cảm giác nọ chỉ lướt qua chóng vánh.

Ô Hành Tuyết nâng chén nhấp một chút rượu, vui cười nói, “Ít nhất ta từng đến Lễ các chỗ chú, chứ Thiên Túc thì đến nơi ở ta còn không biết.”

Tang Phụng sững sờ, nâng chén cụng ly với chàng, uống một ngụm mới nói, “Chỗ Lễ các tôi đây không dám bàn việc khác, nhưng khẳng định nắm rõ cung phủ của chúng tiên hơn bất kỳ ai, dù sao ngày nào chúng tôi cũng phải ghi chép những việc này mà. Nơi ở Thiên Túc thượng tiên có tên là Nam Song Hạ <i>(1)</i>, cách chỗ ngài ở rất xa.”

<i>(1) Nam Song Hạ: có nghĩa là “bên dưới khung cửa sổ ở hướng nam”.</i>

“Mấy năm trước, ngài đóng cửa tĩnh toạ trong phủ nên có chuyện chưa biết. Có một khoảng thời gian linh khí trên Tiên Đô rơi vào trạng thái mất cân bằng cực độ và xuất hiện hai vòng xoáy.”

Thời điểm đó, cả năm giác quan của Ô Hành Tuyết đều suy giảm hoàn toàn nên đúng là không biết chuyện này, hôm ấy cũng là lần đầu chàng nghe đến. “Hai vòng xoáy là sao?”

Tang Phụng nói, “Hai vòng xoáy hình thành từ sự hội tụ của linh khí cực thịnh và cực suy, giống như những xoáy nước giữa lòng đại dương. Tôi và Mộng Cô gọi thế cho tiện, lâu ngày đâm ra quen miệng. Không nói cũng biết chỗ linh khí cực thịnh chính là Linh đài. Suy cho cùng, nơi đó liên kết trực tiếp với Thiên đạo. Còn chỗ cực suy…”

Tang Phụng dừng đoạn, Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ tiếp lời, “Nam Song Hạ?”

Tang Phụng gật đầu. “Đúng vậy, là nơi đó.”

Ô Hành Tuyết cau mày. “Y có biết không?”

Tang Phụng nói, “Biết chứ, chính y chọn nơi đó mà.”

“Khoảng thời gian Thiên Túc được triệu hoán chính là lúc sự mất cân bằng hiển hiện rõ rệt nhất. Nghe đâu chỉ cần lướt ngang qua cũng thấy được cái nơi âm u hắc ám cực độ với sát khí ngất trời đó. Thế nên không ai tình nguyện đến đó cả,” Tang Phụng nói. “Trong dân gian cũng có câu “lấy độc trị độc, dùng sát ngăn sát” đấy phải không? Nghe đâu cần người có sát khí nặng hơn nó mới có thể trấn áp được nó.”

Ngặt nỗi, người bình thường phi thăng thành tiên thì có ai mang sát khí đâu? Nói gì đến loại sát khí nặng đến mức có thể kháng lại luồng sát khí kia.

“Nếu để mấy vị trên Linh đài như Tiên thủ Hoa Tín đến trấn áp thì cũng được đấy, ít nhất là trong thời gian ngắn. Thế nhưng vài ngày còn ổn, mấy tháng cũng tương đối, rồi mấy năm mấy chục năm sau thì sao? Tiên nào có thể ngăn chặn hoàn toàn sát khí. Không một ai có thể trấn áp nó trong thời gian dài cả…”

Tang Phụng dừng đoạn, tiếp tục, “Nhưng Thiên Túc có thể.”

Nói rồi, anh ta hạ giọng thấp hơn, “Lần đầu tiên tôi gặp Thiên Túc đã thấy sát khí trên người y cực kỳ dày đặc, dày đặc đến mức tôi ngờ rằng người tôi gặp không phải là tiên mà giống như là… như là…”

Như là người bước ra khỏi núi thây biển máu với thanh kiếm trên tay.

Tang Phụng thấy câu này nghe không hay lắm, mà anh ta cũng không thích nói xấu sau lưng người khác nên đắn đo một hồi rồi quyết định nuốt ngược trở vào.

Song dù anh ta không nói ra, Ô Hành Tuyết vẫn có thể đoán được ý anh ta muốn nói gì.

“Thiên Túc thật sự dùng sát khí trấn áp sát khí, từ khi y vào ở nơi đó, mọi thứ đã quang đãng sáng sủa hẳn lên, chỉ còn sương mù bảng lảng chứ không thấy bất kỳ dấu vết nào khác của luồng khí cực âm u hắc ám năm nào.”

Tang Phụng khua cả hai tay và nói, “Nam Song Hạ của y đối xứng với Linh đài, mỗi nơi trấn áp một vị trí, nhờ đó giữ vững cân bằng cho Tiên Đô. Nếu không có y, có khi Tiên Đô không tồn tại được mấy năm đâu, ắt là sẽ sớm sụp đổ, không chỉ thế còn gây tai hoạ cho núi Thái Nhân và tháp Tiên ở bên dưới nữa, khi đó chẳng phải sẽ gieo tai ương khắp nhân gian hay sao.”

Ô Hành Tuyết lắng nghe chứ không nói gì nhiều.

Khi nghe thấy Tang Phụng lẩm bẩm “Mà cũng không biết tại sao một Thượng tiên lại mang sát khí dày đặc như vậy”, chàng đã thơ thẩn xuất thần.

Ai khác không biết, chứ chàng tường tận hết cả — sát khí nặng nề như vậy chỉ có thể tích tụ ở những anh tài làm tướng nhiều kiếp, kết thúc đời mình giữa sa trường và gánh vô vàn vong hồn dưới lưỡi kiếm.

Mà chàng không chỉ biết, còn tận mắt chứng kiến.

Chàng đã từng thấy Tiêu Phục Huyên kiếp trước vác kiếm băng qua mảnh đất hoang ngập đầy tử thi, giờ đây nhớ lại còn có thể cảm nhận được mùi hương khi ấy.

Thật lạ kỳ, vị tướng quân ấy cả người đẫm máu, nhưng sao chàng không ngửi thấy mùi máu. Không biết nên diễn tả mùi hương ấy ra sao, chỉ biết khi lọt vào khứu giác, nó khiến chàng bất giác nhớ tới thép lạnh và trời đông buốt giá.

“Đại nhân,” Tang Phụng bất thình lình nói, “hôm nay ngài kiên nhẫn ghê đấy.”

Ô Hành Tuyết chợt hoàn hồn, thu lại tầm mắt từ bên ngoài cửa sổ.

Chàng đặt chén rượu giữa hai ngón tay xuống rồi cất giọng bực dọc, “Sao hửm, không lẽ lúc thường ta thiếu kiên nhẫn ư?”

Tang Phụng thoáng ngẫm nghĩ mới nói, “Thông thường ngài không để tôi nói một hơi dài như vậy.”

Thật ra cũng không phải không để người khác nói một hơi dài như vậy, chẳng qua xưa giờ chàng hiếm khi đặt câu hỏi nên tất nhiên người khác cũng không giải thích hay kể chuyện gì một mạch, nói đến đâu chỉ dừng câu chuyện đến đó mà thôi.

Ô Hành Tuyết xoay chén rượu chứ không nói gì.

Mỗi khi ai khác nhắc đến Tiêu Phục Huyên, chàng vẫn luôn muốn nghe ngóng nhiều hơn một tí. Tuy vậy, chàng cũng không thể hiện ra ngoài mặt, đến cả hai đứa ngốc… hai tiểu đồng tử đi theo chàng ngày đêm mà cũng không nhận ra, không ngờ hôm nay lại tình cờ để Tang Phụng phát hiện chút manh mối.

Đến bản thân Ô Hành Tuyết cũng hơi ngỡ ngàng.

Có điều, chàng vẫn cảm thấy chuyện này thiết nghĩ cũng thường thôi, dù gì họ cũng có một câu chuyện xưa kia mà. Chàng bèn nói với Tang Phụng, “Dù gì cũng là Thiên Túc, nghe các người kể nhiều vậy nên ta cũng thấy hơi tò mò lây.”

Tang Phụng gật gù, lòng bảo <i>cũng phải thôi.</i>

***

Vậy nhưng Tang Phụng không biết rằng đêm hôm ấy, Linh Vương “chỉ thấy hơi tò mò” không dành thời gian nghỉ ngơi mà khoác áo mỏng ra ngoài.

Hai tiểu đồng tử theo bước mà thắc mắc không thôi. “Tâu đại nhân, hôm nay chúng ta đi đâu thế ạ?”

Đại nhân nhà chúng nhạt giọng trả lời, “Đi dạo chút thôi.”

Tiểu đồng tử “Ồ” lên.

Nhưng chúng không ngờ lần đi dạo này lại dạo hết một nửa Tiên Đô. Mà đại nhân nhà chúng đi thẳng băng băng có mục đích chứ nào có “dạo” ở đâu.

Mãi đến khi Ô Hành Tuyết dừng chân bên một cây cầu ngọc bích và dõi mắt trông về toà cung phủ bên kia rãnh nước quanh co, tiểu đồng tử mới nhận ra chuyến đi này quả thật là có chủ đích.

“Tâu đại nhân, đó là nơi nào thế ạ?” Tiểu đồng tử không hiểu lắm nên nhìn theo ánh mắt chàng về hướng kia, rồi đứa nào cũng run cầm cập. “Bên đó âm u quá.”

Ô Hành Tuyết nói, “Hai đứa nhóc các ngươi ngậm miệng được không?”

Tiểu đồng tử mím môi, nấc ầm ừ hai tiếng, tỏ vẻ đã ngậm chặt miệng.

Ô Hành Tuyết mỉm cười rồi nhanh chóng thu vén sắc mặt, bấy giờ mới nhỏ giọng trả lời, “Toà cung phủ đó tên là Nam Song Hạ.”

Không biết cái tên đó có sẵn hay do Tiêu Phục Huyên đặt, và cũng không biết vì sao y lại dùng cái tên như vậy.

Trước đây, Ô Hành Tuyết chưa từng đến chỗ này, nên không hề hay biết nơi này về đêm lại âm u đến thế, âm u đến mức không giống như đang ở trên Tiên Đô.

Mà khi nhìn kỹ, có thể thấy bên trong phủ có ánh đèn dầu. Ngặt nỗi ngọn đèn dầu đã bị che khuất sau màn sương mù xám xịt và lạnh lẽo, nhìn từ đằng xa thấy sao leo lắt mù mờ.

Tang Phụng có nói chỗ này đã tốt lên nhiều trong vài năm trở lại đây. Nói thế, thật khó lòng mường tượng nơi này trông ra sao lúc Thiên Túc vừa chuyển đến.

Nó quá chi… quá chi là quạnh quẽ.

***

Sớm hôm sau, Tang Phụng vừa đến Lễ các đã thấy một bóng người đứng chờ phía trước, người ấy dáng cao đ ĩnh đạc như ngọc.

Tang Phụng cực lực dụi mắt, hồi lâu sau mới thốt, “Linh Vương đại nhân? Sao ngài lại ở chỗ này?”

Anh ta nhấp miệng lẩm bẩm tính giờ, đoán thế nào cũng không biết tại sao người không thích thăm hỏi người khác như Linh Vương mà lại đứng trước cửa Lễ các chờ mình.

Suốt ngày hôm đó, Tang Phụng cảm thấy mơ màng lâng lâng.

Linh Vương chủ động tìm đến Lễ các ắt có việc khẩn cấp gì đó?

Không ngờ, anh ta mời Linh Vương vào trong rồi hàn huyên cả buổi mà không hề thấy đề cập đến “có việc” gì cả mà chỉ đơn thuần là ngồi nói chuyện phiếm.

Việc đó làm Tang Phụng ngơ ngác ngỡ ngàng, phải tự nhéo đùi xem thử thế nào vì cứ thấy chuyện này sai sai ở đâu.

Sau khi uống cạn hai bầu rượu, những mối nghi ngờ đã được ném sang một bên, hai người tiếp tục nói chuyện trên trời dưới đất.

Bản chất Tang Phụng thuộc dạng ma ma tổng quản thích lo toan, Lễ các còn chuyên trông coi mấy chuyện linh tinh, kể ra một phát là nói liền một hơi, mồi thêm hai câu sẽ dễ dàng chuyển đề tài sang hướng mà ai đó muốn nói đến.

Khi Tang Phụng nói tới ba chữ “Nam Song Hạ”, Ô Hành Tuyết mỉm cười cầm chén rượu, lòng nhủ<i> cuối cùng cũng nhắc tới, thật mệt chết ta</i>.

Chàng tiếp lời Tang Phụng, vờ như vô tình nhắc tới, “Thế thì… Thiên Túc sống ở cái chỗ sát khí ngất trời như vậy, ngày thường cũng không mấy ai ghé qua, trong phủ chẳng có hơi người. Thế các vị đây đưa đồng tử qua chỗ y một lần không được rồi thôi luôn hả?”

Tang Phụng: “…”

Nói thật thì nói thật thôi, nhưng không biết vì lý do gì mà anh ta không dám tỏ lời đồng tình, giống như là <i>ừ</i> một câu thôi thì trách nhiệm đổ lên đầu Lễ các chỗ họ ngay vậy.

Một lúc lâu sau, anh ta ậm ờ đáp “À” rồi bảo, “Biết làm sao bây giờ? Với tính tình của Thiên Túc thì tôi cũng bó tay.”

Ô Hành Tuyết tức giận nói, “Ta cũng bảo không cần mà chú vẫn cù cưa tới chỗ ta mấy lần đấy thôi? Không cố gắng thêm được hả.”

Tang Phụng: “Tôi cố lắm rồi, thậm chí còn liều mạng nhờ Mộng Cô cố giúp một lần.”

Ô Hành Tuyết: “Hửm? Cố thế nào?”

Tang Phụng gãi mặt, ra vẻ như đau quai hàm dữ lắm. “Tôi nhờ Mộng Cô thử dùng mỹ nhân kế.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Linh Vương nín thinh, nhưng Tang Phụng tự khai tiếp, “Sau đó Mộng Cô nói với tôi là nếu còn đưa ra mấy tối kiến chán sống như vậy nữa thì sẽ làm thịt tôi tại chỗ.”

“Tiểu đồng nhà chú ai cũng tác phong như thế à?” Linh Vương bất chợt hỏi.

Thật ra chàng muốn hỏi “đều rập khuôn” hay sao, nhưng nể mặt Tang Phụng nên không huỵch toẹt ra.

Tang Phụng hồn nhiên không hay biết, gật đầu nói, “Đúng vậy, tất cả đều rất hiểu chuyện.”

Linh Vương nói, “Vầy đi, mai chú dẫn vài đứa đến chỗ ta.”

Tang Phụng ngạc nhiên. “Để làm gì? Linh Vương đại nhân muốn nhận những tiểu đồng đó à?”

“Không,” Linh Vương khẳng định chắc nịch, sau đó nói tiếp, “ta giúp chú chỉnh trang một chút, xong chú đưa bọn họ sang chỗ Thiên Túc.”

Tang Phụng rất nghi ngờ. “Có tác dụng không?”

***

Sự thật chứng minh, có tác dụng.

Chưa tới hai ngày, Lễ các đã gửi một bức thư đến Toạ Xuân Phong, trên thư viết đầy những lời ngợi ca có cánh, thấy rõ người viết vô cùng vui vẻ phấn chấn.

Tóm tắt một chút, nội dung bức thư đại khái thế này:

“Tôi nhận mười hai tiểu đồng về rồi thực hiện theo lời đại nhân chỉ dẫn, nhân lúc Thiên Túc không ở nhà mà đưa chúng vào trong sân Nam Song Hạ rồi bỏ chạy. Hai hôm nay tôi chờ ở Lễ các nhưng những tiểu đồng kia hoàn toàn không bị gửi trả về. Nếu như là trước đây, một khi Thiên Túc hồi phủ, chắc chắn trong thời gian một chung trà thôi là mấy tiểu đồng tử đó xếp hàng nghiêm túc quay về ngay rồi. Đến Mộng Cô cũng hết hồn, lần đầu tôi được chiêm ngưỡng cảm xúc đó trên mặt cô nàng đấy, không biết đại nhân đã làm sao hay thế?”

Tiểu đồng tử đọc to bức thư với giọng vô cùng truyền cảm, đoạn ngửa đầu lên hỏi, “Tâu đại nhân, có cần hồi đáp không ạ?”

Ô Hành Tuyết nói, “Không cần, xong việc là được.”

Tiểu đồng tử lại hỏi, “Vậy đại nhân đã làm cách nào thế ạ?”

Đại nhân không chút niệm tình: “Nhóc đoán xem.”

Tiểu đồng tử: “…”

***

Kết quả là, hai tiểu đồng tử còn chưa kịp đoán thì đáp án đã tự tìm đến cửa.

Đêm hôm đó, Ô Hành Tuyết dựa đầu bên trường kỷ, tay xếp giấy tính hoá thành thứ gì ồn ào chút đỉnh thì chợt nghe tiếng mấy tiểu đồng tử lạch bạch chạy vào bẩm báo, “Tâu đại nhân! Bên ngoài phủ có người ạ.”

Ô Hành Tuyết hơi ngạc nhiên.

Bởi nhìn chung, nếu có người bên ngoài Toạ Xuân Phong thì chàng nên cảm nhận được. Chúng tiên Tiên Đô muốn âm thầm xuất hiện dưới mắt chàng nói thật là không dễ dàng gì, cho dù hiện tại chàng đang thơ thẩn thiếu tập trung nên không ngưng thần tụ khí đi nữa.

“Ai vậy?” Ô Hành Tuyết ngồi thẳng dậy.

Tiểu đồng tử chưa kịp trả lời đã thấy áo bào tuyết trắng lướt qua trước mặt mình. Ánh mắt nó loáng nhoè một cái, khi nhìn lại đã thấy Linh Vương nhà mình biến mất tăm khỏi trường kỷ, và ngoài sân vườn lại xuất hiện thêm một bóng người.

Ô Hành Tuyết lười ra cửa nên chỉ khoác áo vào rồi nhảy ra từ khung cửa sổ.

Bóng chàng tưởng chừng hoàn toàn tan vào sương đêm, trong một nháy mắt còn bên cửa sổ, nháy mắt tiếp theo đã đến cổng sân của căn phủ.

Chàng thoáng lướt nhìn bên ngoài.

Bên hông cửa Toạ Xuân Phong có treo những dải đèn rất dài, sáng ngời nơi nơi, trông có đôi phần tương tự dải đèn trên khu chợ Lạc Hoa Đài. Ánh sáng từ những dây đèn đan xen vào nhau thành từng mảng lớn, nhìn vào có thể cảm nhận được sự sôi động rộn ràng.

Một bóng người rất cao tựa lưng vào tường, tay ôm kiếm đứng dưới ánh đèn, đôi mắt buông hờ chờ tiểu đồng tử vào thông báo.

Đó là Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên.

Ô Hành Tuyết ngẩn người. “Sao ngài lại tới đây?”

Ít có ai ghé đến Toạ Xuân Phong chỗ chàng, mà ghé giờ này thì càng ít. Đằng này người tới còn là Thiên Túc thượng tiên không ưng giao thiệp thì càng quá ư là hiếm thấy.

Thiên Túc liếc mắt sang phía chàng, không trả lời mà xoay nhẹ thanh kiếm trong tay, gõ bao kiếm vào góc tường phía xa hơn, môi mấp máy, “Đi ra.”

“?”

Ô Hành Tuyết hơi khó hiểu, bèn đưa mắt nhìn về phía bao kiếm.

Chàng thấy sau khi Tiêu Phục Huyên gõ xong, một đám tiểu đồng tử cao chưa tới đùi Ô Hành Tuyết cúi gằm đầu, xếp thành một hàng dài bước ra khỏi góc tường và chầm chậm đi tới trước mặt mình.

Tiêu Phục Huyên hững hờ nói, “Quen mắt không?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Quá quen.

Khỏi cần đếm Ô Hành Tuyết cũng biết có tổng cộng mười hai tiểu đồng tử đang xếp hàng, đây là những người Lễ các đưa sang cho Tiêu Phục Huyên. Mấy tiểu đồng tử này đều bị chàng xử lý qua một chút nên tất nhiên là quen rồi.

Linh Vương nhủ thầm trong lòng <i>không xong rồi, bộ dạng này không phải tới làm khách thăm hỏi.</i>

Thật vậy, Thiên Túc hất cằm về phía nhóm tiểu đồng tử đó, nghiêm giọng nói, “Có người nói nếu Lễ các đến tìm ta thì khi đó tính sổ cũng không muộn.”

“Ta đi làm việc bên ngoài, vừa quay về Tiên Đô.” Trên người y còn đượm hương vị gió sương của nhân gian, sau khi đứng thẳng người dậy từ ven tường, y nhấc kiếm vén sợi dây đèn dài lên rồi cất giọng hững hờ, “Giờ đến tính sổ có muộn không?”
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 56: Vị khách


Tính sổ??

Ô Hành Tuyết lặng thinh một lát, thốt, “Muộn.”

Sau đó móc liền ngón tay, cổng lớn phủ Toạ Xuân Phong đóng sầm lại.

Hai tiểu đồng tử ton hót chạy lại, dừng bước bên cạnh chân Ô Hành Tuyết. “Dạ?”

Hai đứa bọn chúng đã chuẩn bị tâm lý tiếp khách rồi, nào có ngờ thấy cửa chính đóng kín bưng. Còn đại nhân nhà mình khoác áo bào và khoanh tay dựa lưng vào cửa, còn vị khách…

Vị khách vậy mà bị nhốt bên ngoài cửa.

Tiểu đồng tử vừa há mồm ra đã thấy Ô Hành Tuyết đưa ngón trỏ lên môi, làm thành tư thế “suỵt” với bọn chúng.

Chúng tức thì hạ thấp giọng, hỏi nhỏ, “Thưa đại nhân, sao phải đóng cửa chốt khoá vậy ạ?”

Ô Hành Tuyết giữ giọng chậm rãi, trả lời, “Giữ mệnh.”

Tiểu đồng tử: “?”

Hai tiểu đồng tử đưa mắt nhìn nhau, càng hiếu kỳ hơn. “Ai tới vậy ạ?”

Ô Hành Tuyết: “Thiên Túc thượng tiên.”

Tiểu đồng tử hiểu ra ngay. “Ồ”

Đứa nhỏ còn chớp chớp mắt. “Thiên Túc đại nhân tới đây làm gì?”

Ô Hành Tuyết nói, “Tìm ta đánh nhau.”

Tiểu đồng tử: “…”

Tiểu đồng tử thắc mắc không thôi, hỏi tiếp, “Thưa đại nhân, ngài đã làm gì mà Thiên Túc đại nhân muốn tìm ngài đánh nhau vậy ạ?”

Ô Hành Tuyết nghĩ thầm <i>ôi thôi chuyện dài lắm.</i>

Chàng ngoắt tay với hai tiểu đồng tử, hai đứa nghe lời bước lại gần với nét mặt nghiêm túc như đang muốn nghe “bí mật nghiêm trọng” này là gì.

Ô Hành Tuyết không mở miệng nữa mà gõ lên trán hai đứa nhóc một chút.

Tiểu đồng tử ôm lấy đầu, thấy bên trong kêu “ù ù” như bất chợt bước vào một cảnh giới khác — dù cho đại nhân nhà chúng không há miệng thì chúng vẫn có thể nghe thấy lời chàng.

Đại nhân nhà chúng nói, “Ta xét thấy tiểu đồng tử ở Lễ các giống như lão đồng tử, thiếu sinh khí, đã vậy còn nói gì nghe nấy quá mức, nên mới chỉnh lại chúng một chút.”

Chỉnh thế nào?

Cũng đơn giản thôi, nhưng nói ra thì hơi nguy hại một tí…

Chàng vẫn thường hay biến giấy trắng thành con hát khua chiêng gõ trống bên cạnh trường kỷ để xướng tuồng. Nội dung tuồng là gì cũng được, quẩn lại cũng là mấy vở năm xưa từng xem trên những con phố bên dưới Lạc Hoa Đài — nào là yêu hận tình thù, sinh ly tử biệt, tốt có xấu có tạp nham đủ kiểu, nhưng bất kể là loại nào thì cũng đều vô cùng náo nhiệt.

Sau khi Lễ các đưa mười hai đồng tử kia đến Toạ Xuân Phong, chàng đã dùng chút tạp kỹ của mấy con rối giấy con hát lên người bọn đồng tử…

Nói chung cũng đều là giấy, bản chất như nhau mà.

Tiểu đồng tử hỏi, “Cho thêm mấy cái đó lên người thì sao ạ?”

Thì có sinh khí, giống như người sống chứ sao.

Giấy còn được phủ một lớp bảo vệ, không mất đi linh khí kể cả khi tồn tại lâu trong môi trường nhiều sát khí.

Nhưng Ô Hành Tuyết đã chọn điểm mấu chốt nhất để trả lời, “Chúng sẽ thích diễn, khóc da diết luôn.”

Tiểu đồng tử: “…”

Tiểu đồng tử trơ mặt ngốc, rõ ràng không hiểu tại sao cần phải “khóc da diết” để làm gì, nhưng Ô Hành Tuyết tự hiểu rõ mình đã gây ra cơ sự gì…

Với các tiểu đồng tử từ Lễ các trước đây, nếu Thiên Túc thượng tiên nói “Không cần, các ngươi tự đi về đi” thì bọn chúng sẽ răm rắp nghe theo mà quay trở về Lễ các.

Nhưng mấy đứa này đã được Ô Hành Tuyết chỉnh lại, giờ Thiên Túc thượng tiên mà nói “Đi về Lễ các đi” thì đảm bảo chúng nó sẽ nắm chặt vạt áo choàng y mà tuôn một tràng lệ tới sông cạn đá mòn.

Tiểu đồng tử: “…”

Chúng nín thinh suy nghĩ rồi hỏi, “Nếu đã khóc, vậy mấy tiểu đồng tử đó có bị chém không?”

Ô Hành Tuyết “Ờm” rồi đáp, “Không đâu.”

Tiểu đồng tử lại hỏi, “Tại sao”

Ô Hành Tuyết thả nhẹ giọng, “Vì Thiên Túc đại nhân rất mềm lòng.”

Tiểu đồng tử nhớ tới phong thái lạnh băng của Thiên Túc mà cảm thấy khó tin gì đâu. Người đó mà nối tám cái sào tre cũng chưa tới gần chữ “mềm lòng” được ấy chớ.

***

Thật ra, không riêng hai tiểu đồng tử này mà đại đa số người trên Tiên Đô đều nghĩ vậy, bao gồm cả Lễ các.

Trong lúc Thiên Túc thượng tiên dắt tiểu đồng tử đến Toạ Xuân Phong tính sổ, bên phía Lễ các đã biết ân huệ này của Linh Vương —

Mộng Cô kẹp một tấm bùa truyền tin trong tay và huơ phần phật trước mặt Tang Phụng. Tang Phụng né đi một chút để tránh bị bùa đập vô mặt, đồng thời nói theo thói quen, “Chuyện gì vậy? Xin lỗi, là tại tôi.”

Mộng Cô: “…”

“Ông sai cái gì,” Mộng Cô ném lá bùa qua chỗ anh ta. “Tôi mới nghe được đây.”

Tang Phụng: “Nghe được cái gì?”

Mộng Cô tặc lưỡi. “Lý do vì sao Thiên Túc không đuổi đám đồng tử về Lễ các chúng ta đấy.”

Tang Phụng gật đầu lia lịa. “À à, chuyện này ấy à.”

Anh ta vừa nhớ ra chuyện này thì mặt còn chưa vơi sự hớn hở. Thế nhưng thấy nét mặt phức tạp của Mộng Cô thì nhanh chóng trấn tĩnh lại. “Sao thế? Chuyện này không phải chuyện tốt à.”

Mộng Cô cười gằn hai tiếng.

Tang Phụng tức thì sốt sắng, “Này, làm ơn tha cho tôi đi, đừng úp mở như vậy nữa. Trông bà như vậy tôi cũng rối theo đây này, chẳng an tâm chút nào cả.”

Mộng Cô nói, “Theo những gì tôi nghe được thì sẩm tối hôm qua, Thiên Túc đại nhân có quay về Tiên Đô và thấy đám đồng tử được gửi sang đó.”

Tang Phụng: “Rồi sau đó sao?”

“Sau đó muốn trả chúng nó về Lễ các.”

“Vậy tại sao không trả về?”

Nét mặt Mộng Cô lập tức trở nên khó tả, cô nàng nói, “Nghe đâu Thiên Túc vừa kêu chúng nó quay về Lễ các thì mười hai tiểu đồng tử kia nhao nhao lên cực kỳ thương tâm, mỗi đứa hùa nhau nắm một góc áo choàng của Thiên Túc —”

Tang Phụng: “?”

“— chúng nó bọc kín người Thiên Túc rồi oà khóc nức nở, khóc da diết thê lương, ruột gan đứt lìa từng khúc.”

Tang Phụng: “?”

“Mà có hai đứa kỳ quặc hơn cả, đã ngửa mặt lên khóc chứ chẳng chịu đứng yên thì chớ, còn khóc tới mức suýt ngã chổng vó ra sau. May mà có kiếm khí đỡ lên lưng nên mới đứng vững được.”

Tang Phụng: “???”

Anh ta đăm chiêu một hồi mới hỏi, “Rồi có chết không?”

Mộng Cô: “… Ai chết?”

Tang Phụng: “Hai cái đứa bị kiếm khí chọt vào ấy có bị biến lại thành bùa ngay tại chỗ không?”

Mộng Cô: “Không có.”

Cuối cùng, Tang Phụng cũng thấy chuyện này có hơi lố.

Nghĩ một chút, anh ta hỏi tiếp, “Bà nghe tin ở đâu vậy?”

Quá lố, không thể tin được.

Mộng Cô nói, “Tiên sứ Linh đài tình cờ ghé ngang qua đấy, thấy được tình cảnh nhưng sợ bị vạ lây nên trốn về.”

Tính tình các tiên sứ Linh đài đa phần đều thể theo Tiên thủ Hoa Tín nên sẽ không nói nhăng nói cuội.

Tang Phụng tin chắc mẩm rồi, nhưng vẫn cố gắng níu kéo một chút, “Có thấy rõ không? Có khi nào nhìn nhầm không?”

Mộng Cô: “Không nhầm, lúc đó cậu ta còn nghe được Thiên Túc hỏi đám đồng tử một câu với nét mặt vô cảm.”

Tang Phụng: “Hỏi cái gì?”

Mộng Cô: “Y hỏi ‘Ai dạy các ngươi cái trò này, Lễ các à?’, nhưng mấy tiểu đồng tử đó khóc tê tái, sướt mướt tới thở còn không nổi chứ nói gì đến trả lời. Nghe đâu Thiên túc đứng đơ ra đó một lúc lâu rồi mới thổi một luồng kiếm khí, quét toàn bộ đám nhóc đó vào Hướng Dương các trong Nam Song Hạ.”

Tang Phụng: “… Sau đó sao nữa?”

Mộng Cô: “Sau đó nghe nói Thiên Túc lại nhận thiên chiếu mới, ắt là có chuyện cần giải quyết nên quay xuống nhân gian. Mới vừa về Tiên Đô đây thôi.”

Tang Phụng nghe xong thì tái me tái mét mặt mũi, một lúc lâu sau mới nói, “Chết tôi rồi.”

Anh ta nghĩ đến khung cảnh đó mà thấy giống như lưỡi kiếm chữ “Miễn” của Thiên Túc sắp sửa kề sát bên cổ mình tới nơi.

Nếu Thiên Túc đã quay về Tiên Đô, giờ muốn giữ mệnh thì hẳn nên tự mình đến xin lỗi mới được.

Nghĩ vậy, Tang Phụng cũng không màng đêm khuya mà hối hả chạy tới Nam Song Hạ. Không ngờ khi tới nơi rồi chỉ thấy cả toà cung phủ vắng lặng không một tiếng động và cũng không thắp một ngọn đèn.

Anh túm lấy một tiên sứ tuần du về đêm để hỏi, “Có thấy Thiên Túc đại nhân về phủ chưa?”

Tiên sứ đáp, “Về rồi, nhưng vừa về đã đi tiếp rồi ạ.”

Tang Phụng ngạc nhiên. “Đi đâu vậy?”

Tiên sứ nói, “Đi về phía Toạ Xuân Phong thì phải.”

“… Giờ này, đi tới Toạ Xuân Phong?”

“Đúng vậy.”

Tang Phụng vừa thắc mắc mà vừa không còn cách nào khác phải chuyến hướng chạy sang Toạ Xuân Phong.

Thế mà khi đến đấy, anh ta không dám bước vào… bởi vì anh ta thấy Thiên Túc thượng tiên đang ôm kiếm đứng trước cửa Toạ Xuân Phong.

Kỳ lạ ở chỗ cửa chính đang đóng kín.

Mà kỳ lạ hơn nữa là Thiên Túc thượng tiên đã bị đóng kín cửa rồi nhưng chỉ cúi đầu, dường như đang nói chuyện với ai phía sau cánh cửa, thoạt nhìn có vẻ không vội bước vào mà cũng không tính rời đi.

Bầu không khí trở nên ảo diệu khôn tả.

Lẽ ra Tang Phụng phải bước tới, nhưng mà anh ta lại lặng lẽ lui bước và tránh đi thật xa.

***

Người bên trong Toạ Xuân Phong cũng không biết sự đắn đo của Tang đại nhân ở nơi xa.

Khi đó, hai tiểu đồng tử đang vẫn còn chìm trong dư âm của “bí mật” mà đại nhân nhà nó nói: Chuyện là Linh Vương nhà chúng táy máy vào tiểu đồng tử của Thiên Túc.

Bọn chúng cũng không biết rốt cuộc ở Tiên Đô này ai có năng lực cao hơn và ai mạnh hơn. Thế nhưng khi ngẩng đầu nhìn thấy dáng người mảnh khảnh điển trai của đại nhân nhà chúng, rồi nhớ tới Thiên Túc tới tính sổ bên ngoài cửa, chúng suy ngẫm một hồi và thành tâm khuyên nhủ, “Đại nhân ơi, chúng ta chạy đi.”

Linh Vương đại nhân tựa lưng vào cửa, bật cười khanh khách. “Cũng phải, mấy đứa chạy trước đi, ta bọc hậu cho.”

Tiểu đồng tử: “Sao vậy ạ?”

Linh Vương nói, “Nhỡ đâu Thiên Túc đại nhân muốn san bằng Toạ Xuân Phong thì ta còn có thể ra kiếm chặn một chiêu, xem như cũng đỡ hơn hai đứa một chút.”

Tiểu đồng hít vào một hơi. “Hứ, san bằng Toạ Xuân Phong? Thiên Túc đại nhân giận đến mức đó sao?”

Linh Vương nói, “Chà, không biết nữa.”

Thứ nhất là chàng không hạ cấm chế, thứ hai là không truyền âm. Hai người chỉ đứng cách nhau một cánh cửa, nên dù tiếng nói có thấp tới cỡ nào đi nữa thì cũng là giọng chọc con nít, hẳn nhiên vị bên ngoài cửa nghe không trượt phát nào.

Sau khi hăm doạ tiểu đồng tử xong, chàng tựa lưng vào cửa cười ngặt nghẽo.

Bất chợt nghe tiếng Tiêu Phục Huyên vang lên từ bên kia cửa ngọc, “Chơi vui không?”

Dường như người nọ cũng tựa vào cửa, giọng trầm thấp truyền qua lớp cửa bằng ngọc, thoáng như gần kề.

Ô Hành Tuyết vò vò tai mình.

Tiêu Phục Huyên lại nói, “Đường đường là Linh Vương.”

Y gọi tên của Ô Hành Tuyết xong thì lặng thinh một hồi.

Ô Hành Tuyết chờ nghe câu kế tiếp, nhưng chờ mãi không thấy gì.

Đối phương như đang cân nhắc mà chưa tìm ra được từ thích hợp. Sau một lúc sau, giọng Tiêu Phục Huyên mới truyền đến qua rãnh hở trên cánh cổng chính bằng ngọc.

Y lượt bỏ hết những từ khác và nói tiếp, “Lĩnh giáo.”

Ô Hành Tuyết hỏi, “Lĩnh giáo chuyện gì?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Đạo đãi khách đóng cửa không gặp.”

Ô Hành Tuyết ôn tồn nói, “Thiên Túc đại nhân mang kiếm đến cửa nhà, thậm chí còn không cười xã giao mà sao mong chờ đạo đãi khách gì ở chỗ ta? Ngài đến tìm ta để tính sổ chứ có phải để làm khách đâu.”

Chàng vốn tính trêu đùa cho vui, cánh cửa này cũng không đóng thật, trốn cũng không phải trốn thật. Thế nhưng khi vừa dứt lời này, chàng chợt thoáng dừng lại.

Cảm giác xúc động và tiếc nuối như khi nói chuyện với Tang Phụng lại nhói lên trong tim.

Chúng tiên trên Tiên Đô thật đông đảo, cho dù là người chẳng hề quan hệ gì cũng chỉ cần mang một vại rượu mới là có thể ghé thăm, qua hai lần làm khách đã có thể gọi nhau hai tiếng tiên hữu.

Vậy mà chàng với người bên kia cửa có quan hệ đậm sâu, mà muốn vào cửa còn cần một cái cớ “tính sổ”.

Vừa mới còn cười, chàng bất chợt chẳng còn tâm trạng trêu người nữa.

“Nhóc con,” Ô Hành Tuyết lia mắt nhìn hai đồng tử đứng trước cửa.

Hai tiểu đồng tử ngước mắt nhìn chàng.

“Tránh ra một chút,” Ô Hành Tuyết nói.

Tiểu đồng tử không hiểu nguyên do, nhưng vẫn ngoan ngoãn nép mình ra khỏi cánh cửa.

Ô Hành Tuyết thấy chúng đã né sang một bên, lại nhích ngón tay một cái, cánh cửa ngọc thạch khép kín lần nữa rộng mở.

Mười hai tiểu đồng tử còn đang tủi thân đứng gom thành một đống, nét mặt lầm lì oan ức như đang sắp “bị đuổi đi” tới nơi. Tiêu Phục Huyên vẫn đang ôm kiếm đứng dưới ánh đèn treo dài, gật gù khe khẽ.

Người nọ dường như không ngờ chàng lại bỗng dưng mở cửa, khi ngước mắt còn thoáng sững sờ.

Ô Hành Tuyết giữ nguyên nét mặt, trông không lộ vẻ gì y hệt lúc trước, trong mắt còn đượm nét cười. Chàng định bảo, “Thôi, không làm khó dễ Thiên Túc đại nhân nữa. Ngài muốn tính sổ thế nào thì cứ nói, ta sẽ nghe”.

Ngờ đâu Tiêu Phục Huyên đã mở miệng trước.

Không có tấm vách cửa ngọc thạch ngăn cản, giọng y nghe vào lành lạnh tương tự nhưng lại có phần phần trầm thấp hơn sương đêm.

Người ấy lẳng lặng một lúc rồi nói, “Ta cũng có thể tới làm khách.”
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 57: Kinh quan


Mười hai tiểu đồng tử vừa nghe hai chữ “làm khách” thì mắt sáng rỡ lên —

<i>Làm khách thì được nha!</i>

<i>Làm khách tức là không muốn đuổi tụi nó đi rồi á!</i>

So với hành vi của vị đại nhân nào đó, đàn nhóc con này xem chừng còn… sống động hơn người sống. Thậm chí không thua gì con hát thành tinh.

Vừa thấy chúng nó âm u như mây đen mịt mùng mà loáng cái đã lập tức cười toe toét đến cong cả đôi mắt.

Tiêu Phục Huyên vừa không để ý một chút, mười hai tiểu đồng tử này liền mất tăm không một tiếng động.

Khi giương mắt lên lần nữa thì thấy bọn chúng xếp thành hai hàng trước hai bên cửa Toạ Xuân Phong, mỗi bên đứng sáu đứa rất mực nghiêm trang, chúng vừa chắp tai vừa cất giọng non nớt, “Bẩm đại nhân, xin mời —”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Ô Hành Tuyết lẳng lặng nghiêng mặt đi, thấy dường như mình táy máy hơi lố tay rồi.

Còn hai nhóc tiểu đồng tử nhà chàng trợn mắt còn to hơn, một hồi lâu sau mới ngẩng mặt lên nói, “Thưa đại nhân, đây là —”

Chúng nó còn chưa dứt lời, ngón tay Ô Hành Tuyết đặt sau lưng đã di chuyển.

Hai nhóc con kia đang tính nói “đây là ‘hoạt bát, ưa diễn’ theo lời ngài đấy ạ?”, nhưng lời ra khỏi miệng đã bị biến thành “đây là đồng tử nhà Thiên Túc đại nhân đấy ạ? Ồ!”

Tiểu đồng tử: “…”

Hai đứa cúi đầu sờ sờ miệng, thấy cái cửa này bị ma ám rồi.

Ô Hành Tuyết liếc cái đỉnh đầu của hai nhóc, nhủ thầm trong bụng <i>hai đứa này cái gì không biết chứ khoản bán đứng chủ nhân thì số dách.</i>

Mà còn thích bán đứng trước mặt đúng một người…

Hai đứa bây đổi người khác không được hả?

May mà Tiêu Phục Huyên cũng mải đặt sự chú ý trên thân mười hai nhóc đồng tử đang đứng xếp hàng trước cửa rồi nên dường như không hề nhận ra sự náo động bên này.

Ô Hành Tuyết cảm thấy an tâm hơn.

Mười hai tiểu đồng tử chắp tay hành lễ cả buổi mà không thấy chủ nhân nhà mình nhúc nhích, bèn nhao nhao ngóc đầu lên và hô, “Thưa đại nhân?”

Ai ngờ vừa ngóc đầu lên đã thấy gương mặt chết lặng của đại nhân nhà mình.

Tiểu đồng tử lẳng lặng cúi gằm mặt xuống, tặng cho Thiên Túc hai mái đầu sáng láng.

Ô Hành Tuyết hoàn toàn quên mất mình chính là đầu sỏ phạm tội, mải mê nhìn cuộc vui mà cười tít cả mắt.

Chàng nói với Tiêu Phục Huyên, “Nếu còn không vào cửa thì bọn chúng lại diễn thêm một tuồng nữa bây giờ.”

Vừa dứt lời, chàng đã thấy một làn gió phất qua trước mũi, chớp mắt liền thấy Tiêu Phục Huyên đứng bên trong sân Toạ Xuân Phong.

Ô Hành Tuyết mỉm cười đóng cửa và sải bước vào trong.

Tiêu Phục Huyên bước bên cạnh người chàng, thả lỏng một bên vai.

Chỉ cách vài bước chân thế thôi mà Ô Hành Tuyết đã cảm nhận rành rành lời người trên Tiên Đô thường nói — dù Thiên Túc thượng tiên có im lặng vẫn tạo ra cảm giác tồn tại rõ rệt lạ thường.

Trước cửa nhà có treo một tấm mành sương thật dài, hai tiểu đồng tử đã nhuần nhuyễn công việc, tức tốc chạy đến vén mành sương sang hai bên.

Ngờ đâu giữa khi vị khách nhân vén rèm bước qua thì bỗng dừng bước, đứng gần kề chàng và quay đầu sang, hé miệng hỏi, “Những tiểu đồng tử sau lưng ta là bút tích của Linh Vương?”

Giọng người nọ thật thấp, dù đang hỏi chuyện nhưng lại trầm trầm hạ thấp điệu, không hề mang dáng dấp của lời thắc mắc mà giống với một câu trần thuật hơn.

Linh Vương phủ nhận ngay, “Không phải.”

Tiêu Phục Huyên nhướng mày.

Linh Vương lại nói, “Ta dây vào đồng tử của ngài làm gì.”

Tiêu Phục Huyên không cử động, chỉ nhìn chàng một lúc lâu mới gật đầu.

“À, thế à,” chất giọng trầm thấp vang lên, còn người đã bước vào bên trong.

Không biết cớ gì mà Ô Hành Tuyết cứ thấy ba chữ này sao mà có ẩn ý sâu xa. Thế nhưng nhìn qua, gương mặt Thiên Túc vẫn thờ ơ không tỏ rõ cảm xúc, chẳng có vẻ như y định làm gì cả.

Hẳn là chàng cả nghĩ rồi.

Rủi thay chẳng bao lâu sau, chàng đã phải âm thầm nuốt ngược những lời này trở lại.

Không phải chàng cả nghĩ, chính xác là chàng nghĩ chưa thông…

Thiên Túc thượng tiên nào có ghé qua làm khách, y đến đây chơi chàng một vố thì có…

Chàng sai tiểu đồng tử dâng rượu lên và rót một chung đầy cho Tiêu Phục Huyên. Người nọ nâng ly vô cùng khẳng khái, dốc một lần cạn chung. Tiếp đó mới cất giọng lành lạnh với tiểu đồng tử đứng bên cạnh, “Rượu ngon, đến tạ đi.”

Ô Hành Tuyết đang cầm chung rượu, còn chưa kịp hiểu “đến tạ đi” là sao thì mười hai tiểu đồng tử kia đã ngoan ngoãn chủ động đứng xếp thành một hàng thẳng tắp, rầm rập bước tới trước mặt chàng…

Tiểu đồng tử đứng đầu hàng cúi người thật sâu, chắp tay lạy chàng một lạy, nếu bổ sung thêm ba nén nhang thì không khác gì hành động “vái ông bà” trong từ đường dưới nhân gian.

Ô Hành Tuyết: “?”

Tiểu đồng tử lạy xong xuôi mới nói, “Cảm tạ Linh Vương đã khoản đãi!”

Cảm tạ xong, nó cong đít lên chạy.

Tiểu đồng tử đứng sau lưng nó bước lên trước, lạy tạ lễ với tác phong kiểu mẫu xong lại tiếp lời, “Cảm tạ Linh Vương đã khoản đãi!”

Kính tạ xong lại đổi sang đứa thứ ba.

Tiếp nữa là đứa thứ tư, thứ năm…

Một đợt cảm tạ liên tục mười hai lần.

Linh Vương còn chưa uống được nửa hớp rượu mà nhìn thôi đã ngà ngà say.

Nhưng hoá ra đó chỉ mới là khởi đầu.

Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên quả thật là một người kiệm lời, số câu nói tính ra không nhiều, rõ ràng là một vị khách lịch lãm và trầm tĩnh. Thế nhưng nhờ phước mười hai đứa đồng tử này mà Toạ Xuân Phong không có một giây bình yên.

Mười hai đứa đồng tử sợ Thiên Túc đại nhân không cần chúng nó nữa nên tích cực vận động cả một đêm. Ban đầu ra lệnh mới tuân lời, về sau thì không cần ra lệnh cũng tự hiểu ngầm —

Cụng ly với Linh Vương là phải cụng một lượt mười hai lần.

Rót rượu cho Linh Vương là phải có mười hai bầu rượu kính cẩn chờ sẵn, vừa cạn một ly là rót đầy ly khác, vừa uống hết lại rót đầy tiếp một ly.

Ngọc tử mới mới ủ dưới hầm rượu hơi nồng, uống vào nóng lây cả người, ngay lập tức bên cạnh chàng xuất hiện mười hai cây quạt phiến.



Đến hai tiểu đồng tử nhà Ô Hành Tuyết cũng không có cửa can thiệp. Lúc đầu, chúng còn cố chen chân vào giữa với ý đồ muốn cản sức công phá. Nhưng song quyền đấu không lại bốn tay, đằng này có đến tận hai bốn tay cùng lúc. Cuối cùng, hai nhóc tì cũng đành chào thua, chỉ đành ngoan ngoãn đút tay vào ống tay áo và nép mình sang một bên nâng hộ rượu nhấc hộ quạt.

Ô Hành Tuyết vừa ngoảnh đầu sang đã thấy cái dáng vẻ cầm quạt phiến phẩy phần phật của hai đứa nó, tức đến mức cười gằn.

Một nụ cười này ném bay sạch lễ nghi đãi khách gì gì.

Chàng đặt chung bạch ngọc lên mặt bàn rồi lên giọng, “Tiêu Miễn!”

Thuở đó, trên Tiên Đô gọi người nọ đều kính xưng hai chữ “Thiên Túc”, bởi đấy là tôn hào danh dự. Khi nói chuyện trực tiếp còn phải đặt thêm phụ tố “đại nhân” chứ không một ai gọi thẳng họ Tiêu của y cả.

Đã vậy còn gọi với ngữ khí thế kia.

Trong hoàn cảnh bình thường, hành vi như vầy ắt đã bị liệt vào hàng “thất lễ”. Linh Vương ra đời từ thần mộc, được trời sinh trời dưỡng, có gọi tuỳ gọi đại thế nào cũng không mấy bận tâm. Nhưng Thiên Túc thì khác…

Trong lời người ta, Thiên Túc lạnh lùng và đanh thép, không thân thiện với mọi người, đoán chừng không thích bị “thất lễ”.

Nhưng người nọ nghe hai chữ “Tiêu Miễn” xong vẫn ngẩng đầu uống cạn chung rượu. Trái cổ lung lay theo động tác nuốt xuống, bấy giờ y mới dời mắt nhìn sang Ô Hành Tuyết và cất giọng trầm thấp, “Ừm.”

Ngọc tử rất dễ làm người tuý luý, vậy mà người nọ đã uống khá nhiều nhưng ánh mắt vẫn sáng ngời như tinh tú giữa đêm đông quạnh quẽ.

“Linh Vương tức,” y nói.

Tiểu đồng tử vừa nghe rằng Linh Vương tức lên rồi, liền lập tức biến sắc, quay mặt ngước nhìn Ô Hành Tuyết. Không ai phẩy quạt nữa mà cả đám cứng đờ tại chỗ. Chẳng mấy lâu sau, ánh mắt tròn xoe đen láy như quả nho rơm rớm nước rồi tràn ra hai dòng nước mắt.

Ô Hành Tuyết: “…”

Mười hai tiểu đồng tử vây quanh người chàng, đứa nắm đứa kéo vạt áo choàng mạnh nhau bù lu bù loa, chàng nôn nóng không biết làm sao liền nhắm mắt lại…

Sau đó, quơ móng một phát nắm lấy Thiên Túc.

Thiên Túc thượng tiên vừa hoàn thành công việc dưới nhân gian, vận một thân trang phục tối màu thêu viền vàng khói trên cổ tay áo bó. Ngón tay thon dài của Linh Vương đang đặt bên trên càng tôn thêm sự khẳng khiu trắng trẻo. Thật khó lòng nhìn ra đây là đôi tay siết chặt lưỡi kiếm đặng chém giết chẳng mảy may lưu tình.

Tiêu Phục Huyên rủ hờ ánh mắt xuống những ngón tay chàng, hồi lâu sau mới nâng mắt trở lên.

Ô Hành Tuyết mỉm cười đầy tao nhã, tiếp đến đột ngột rút tay về với nét mặt thẫn thờ. “Ngươi đừng làm khách nữa. Mau dắt tiểu đồng tử trở về Nam Song Hạ đi.”

Khi đó, khuôn mặt Linh Vương đã hoàn toàn thay đổi, nhìn vào như phản chiếu lại gương mặt khóc lóc inh ỏi của đám nhóc đồng tử.

Tiêu Phục Huyên lia mắt sang bọn họ rồi quay mặt đi.

Đôi mắt y khẽ rung, để rất lâu về sau, Ô Hành Tuyết vẫn mãi khắc ghi khung cảnh ấy, và luôn ngỡ rằng đó là nét cười hiếm hoi chợt thoáng qua.

Cũng vì thế mà giây lát đó, chàng ngẩn người đôi chút, rồi chợt mở miệng hỏi, “Vì sao hôm đó ngươi nhận ra ta?”

Tiêu Phục Huyên vừa toan đứng dậy lấy kiếm thì nghe được, cánh tay duỗi ra giữa chừng chợt ngưng lại, y ngoái đầu nhìn Ô Hành Tuyết. “Hôm nào?”

Ô Hành Tuyết: “Còn hôm nào nữa.”

Lúc này Tiêu Phục Huyên mới nhận ra. “Trên thềm ngọc?”

Ô Hành Tuyết gật đầu. “Đúng vậy.”

Tiêu Phục Huyên thấp giọng trả lời, “Trên Tiên Đô có bao nhiêu Linh Vương, sao lại không nhận ra.”

Câu này nghe vào thì không sai, tuy nhiên…

Đúng là Tiên Đô chỉ có một Linh Vương, nhưng bọn họ đã đụng mặt nhau bao giờ đâu. Cho dù y có nghe chúng tiên kể về “Linh Vương” đến mức nào đi nữa, thậm chí có tả y đúc cũng đâu thể nào vừa nhìn đã nhận ra được.

Nếu gặp tận mặt, thì ắt vẫn phải tìm những điểm đặc trưng mới nhận ra được.

Nhớ lại lời tiểu đồng tử ngày hôm ấy, chàng thắc mắc, “Hôm đó ta không đeo mặt nạ, không mang bội kiếm, trên cổ cũng không có danh tự được ban, thế thì làm sao ngươi —”

Ba chữ “nhận ra được” còn chưa nói xong, tiếng leng keng chợt vang lên trong phòng.

Ô Hành Tuyết dừng lời, ngước mắt nhìn nơi phát ra tiếng động thì thấy thanh trường kiếm tựa bên thành trường kỷ vì đâu đó mà chợt rung lên và rơi xuống đất.

Chàng giơ tay từ xa, thanh linh kiếm vạch một nét cung thanh thoát và rơi vào tay chàng.

Kiếm tiên có linh nên có khả năng cảm ứng với người và vật, việc chúng bất chợt dịch chuyển cũng không có gì lạ thường. Huống hồ thanh kiếm này mang tinh chất bạch ngọc xưa kia được tạo thành từ máu của Tiêu Phục Huyên.

Còn Tiêu Phục Huyên đang đứng cách đó một bước và hỏi, “Kiếm làm sao thế?”

Ô Hành Tuyết khẽ “À” lên, hạ mắt nhìn thanh kiếm trong tay rồi xoay nó một vòng và nói, “Không sao cả, nó khá là… linh.”

Người dùng kiếm vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi của kiếm, chỉ cần lướt nhìn có thể chỉ rõ ưu khuyết điểm. Mà đây còn là thanh kiếm của Linh Vương.

Tiêu Phục Huyên nói, “Thanh kiếm của ngươi không phải làm từ thiết.”

“Thiên Túc có đôi mắt thật tinh tường, thanh kiếm này quả đúng không đúc từ thiết,” Ô Hành Tuyết nhỏ nhẹ nói. “Nó được làm từ… tinh chất bạch ngọc.”

“Tinh chất bạch ngọc?”

“Đúng thế, dưới nhân gian có một nơi tên là Lạc Hoa Đài, không biết ngươi đã từng nghe qua chưa?” Ô Hành Tuyết nói. “Ở nơi ấy có tinh chất bạch ngọc.”

Khi nhắc đến Lạc Hoa Đài, chàng ngước mắt nhìn qua nét mặt Tiêu Phục Huyên.

Biểu cảm Thiên Túc không mảy may thay đổi mà vẫn tĩnh lặng như thường lệ, chừng như chỉ đang nghe đến một nơi hoàn toàn xa lạ.

<i>Quả vậy…</i>

<i>Không còn nhớ rõ.</i>

Ô Hành Tuyết tự ngẫm trong lòng.

Đoạn chàng thu tầm mắt về, bất giác cảm thấy không cần thiết thốt lên lời vừa bồng bột muốn hỏi nữa.

Nhưng lạ thay, trước đây có lẽ chàng sẽ cảm thấy mất mát đôi phần. Mà giờ phút này, dường như đã có Tiêu Phục Huyên đứng ngay trước mặt chàng, nói “đến làm khách” và bước vào Toạ Xuân Phong. Những mất mát kia cũng bởi vậy mà tan biến vào thinh không.

Chàng đang đưa tay ra sau lưng cầm kiếm và nháy mắt ra hiệu với hai tiểu đồng tử kêu tiễn khách, thì chợt nghe được Thiên Túc nói, “Ta từng thấy ngươi dưới nhân gian.”

Cánh tay đặt sau lưng Ô Hành Tuyết chợt căng siết, chàng giương mắt nhìn lên.

Một lát sau, chàng mới nhận ra Tiêu Phục Huyên đã nghe thấy và đang trả lời câu hỏi bồng bột không cần thiết thốt lên lời ban nãy.

<i>– Ngươi làm sao nhận ra được?</i>

<i>– Ta từng thấy ngươi dưới nhân gian.</i>

***

“Nơi nào dưới nhân gian?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Đôi mắt dài của Tiêu Phục Huyên thoáng nheo lại như đang thất thần, sau đấy mới đáp, “Rất lâu về trước, ở Kinh Quan.”

Ngón tay Ô Hành Tuyết khẽ khàng thả lỏng.

Câu trả lời này không ngoài dự kiến, nhưng cũng ngoài dự kiến.

Không gặp ở “thần mộc trên Lạc Hoa Đài” là không ngoài dự kiến.

Còn gặp ở “Kinh Quan” lại ngoài dự kiến.

Kinh Quan là tên gọi về sau, cách gọi này ra đời muộn hơn Lạc Hoa Đài, nhưng sớm hơn Tiên Đô bấy giờ khoảng vài thập kỷ.

Nơi đó không phải một toà thành, một ngọn núi, hay một châu một đảo gì. Kinh Quan trước đây là một dải đất hoang không gì đặc sắc, nằm ở ranh giới của vùng đất sau này trở thành Mộng Đô.

Sở dĩ dải đất hoang không gì đặc sắc kia để lại ấn tượng và có một cái tên là vì nơi đây từng có những cuộc chiến tranh triền miên kéo dài tận mấy trăm năm.

Những cuộc chiến tranh đó đã đưa đến cái chết của cơ man là người từ thế hệ này sang thế hệ khác, thậm chí chừng như còn dằng dẵng hơn cuộc sống của một người bình thường.

Theo hệ luỵ của chiến tranh, xác người chất chồng như núi, mẩu vụn tứ chi đứt lìa ngổn ngang, máu bùn trộn lẫn. Sau khi khói lửa phai tàn, người ta không cách nào phân rõ ai là ai được nữa, thêm cả đa phần người sống ở những năm tháng ấy đều tan cửa nát nhà, không ai đến nhặt xác.

Bởi vậy mà những xác chết nọ được chuyển dời đến một vùng đất hoang vu ít người qua lại, người ta lấp đất với cát và đá để lập nên một ngôi mộ tập thể khổng lồ.

Mỗi ngôi mộ trong đấy đều chứa xác của hàng trăm ngàn người vong mạng.

Sau thời gian dài, vùng đất hoang vu kia trở thành khoảnh đất chuyên chất chứa thi thể vô danh, nó được đặt cho cái tên là Kinh Quan.

Có lẽ đấy là nấm mồ tụ tập số lượng đông đảo người đã từ giã cõi đời nhất, chỉ cần ai có dụng tâm sẽ dễ dàng biến nó thành một cơn lốc hung sát tột độ.

Muôn sự thế gian đều mang tính tương đối — nếu đã tồn tại một ngôi mộ như vậy, ắt hẳn nên có người giữ mộ cho nó.

Người có thể bảo vệ cho cái chốn như kia, chí ít cũng phải có bản lĩnh đôi chút. Nghe đâu người đã định cư xây phủ nơi ấy là một vị tán tu không nhà không phái.

Vì những người thân thương có kết nối với anh ta trên thế gian đều đã từ trần và chôn thây giữa Kinh Quan, thế nên anh ta đã ở lại đó và trở thành người giữ mộ Kinh Quan.

Người tán tu đó xây một căn tháp cao tại ranh giới Kinh Quan và sống bên trong căn tháp ấy.

Trên đỉnh tháp có treo một chiếc chuông cổ.

Mỗi đêm, người tán tu đó sẽ rảo một vòng khắp Kinh Quan, nếu không có gì xảy ra thì anh ta sẽ tự mình bước l3n đỉnh tháp và rung chiếc chuông kia.

Có một thời, tất cả những người sống quanh vùng lân cận đều nghe thấy tiếng chuông ấy —

Tiếng chuông vang lên đại biểu đêm ấy vạn sự bình yên.

Về sau, người tán tu đó nhận nuôi một vài đứa trẻ vô gia cư, những đứa trẻ có thể sống trong tháp cao ở Kinh Quan đều có một vài nét đặc trưng…

Bọn chúng sinh ra với mệnh cách cực hung cực sát, nhờ vậy mà tương hợp với đặc tính hung sát của Kinh Quan nên đỡ bị chết yểu hơn.

Thế nhưng sinh hoạt lâu ngày ở một nơi như vậy vẫn gây bất lợi ít nhiều cho người sống. Thế nên người tán tu đã dạy cho lũ trẻ một số thuật pháp để sống còn.

Người ấy vừa là một người cha, vừa là một người thầy.

Câu chuyện thế ấy đáng ra nên trở thành một truyền thuyết hoặc một giai thoại được lưu truyền nhiều đời ở nhân gian.

Tiếc tay, sự đời không may mắn đến vậy.

Người tán tu sống một thời gian dài, chịu ảnh hưởng từ cái nơi hung sát tột độ mà không hay biết. Đến một lần, anh ta hơi bất cẩn trong lúc luyện công nên đã va vấp vào khí hung thần nơi đấy và tẩu hoả nhập ma.

Để rồi sau đó, người tán tu hoàn toàn thay đổi, anh ta bắt đầu có những suy nghĩ vô cùng rùng rợn. H@m muốn máu thịt, h@m muốn thịnh vượng, từ từ nảy lòng căm ghét thân thể phàm trần đang già đi theo năm tháng.

Dù vậy, anh ta không hề thể hiện ra bên ngoài.

Thêm vào đó, anh ta vẫn tiếp tục bảo vệ nơi ấy bình yên, những người quen biết anh ta không bao giờ sinh lòng hoài nghi anh ta có khả năng làm chuyện gì đó trái với lẽ thường.

Không một ai hay biết, những đứa trẻ được anh ta nhận nuôi và dạy dỗ đã dần trở thành tế phẩm trong toà tháp cao của anh.

Máu, thịt, da, xương…

Một khi đã bước lên con đường tà đạo, hết thảy những thứ ấy đều trở thành khao khát mong mỏi của anh ta. Để không bị người ta phát hiện, anh ta giết những đứa trẻ kia vô cùng cẩn trọng đến mức gần như âm thầm lặng lẽ —

Đầu tiên là đứa gần gũi với anh ta nhất, vì nó không đề phòng anh ta nên dễ xuống tay nhất.

Anh ta chọn lựa từ đứa có sức kháng cự yếu nhất và khả năng gây náo động thấp nhất để tránh tiêu hao sức lực.



Và anh ta tận hưởng chúng thật chậm rãi, chuyên chú bồi bổ bản thân vô cùng tỉ mỉ.

Hệ quả là người sống trong tháp cao càng lúc càng ít, và xác chết biết đi mỗi lúc một nhiều. Vậy nhưng mãi vẫn không ai phát hiện ra.

Sau đó, người tán tu càng lúc càng lún sâu hơn, thứ anh ta khao khát cũng càng lúc càng đa dạng hơn, và biện pháp chầm chậm tỉ mẩn đã không còn phù hợp để sử dụng nữa.

Số người sống sót ít ỏi còn lại không đủ để chặn lại sự thay đổi của anh ta — anh ta tiếp tục già đi, thối rữa, ngày ngày đều có thể ngửi được thứ mùi héo hon và tàn lụi trên cơ thể.

Anh ta chừa lại ba tên đệ tử khó xử lý nhất để làm đường lui. Tiếp đó mày mò những phương thức mới. Anh ta không thể kiểm soát những xác chết biết đi kia mà cũng không kiểm soát nổi những đệ tử còn sống.

Nếu có việc cần xử lý mà anh ta không thể xuất hiện thì để bọn nó đi thay — nếu cần người chết thì dùng lũ xác sống, nếu cần người sống thì dùng ba tên đệ tử kia.



Cứ thế nhiều năm trôi qua.

Người tán tu tìm thấy một thuật pháp âm tà giúp mở ra một “con đường” bằng hàng ngàn vạn xác người đã lìa đời ở Kinh Quan, nhờ đó mà thu vén được một cành gãy của thần mộc lúc bị phong ấn.

Theo lẽ thường, rất khó để giấu cành gãy của thần mộc trong phố xá nhân gian, nhưng Kinh Quan là ngoại lệ…

Nơi đây chất chứa hằng hà những nấm mồ khổng lồ, chôn cất vô vàn người đã khuất, nghi ngút thi khí sát khí ám ngợp không trung. Nơi hung tà tột độ này dễ dàng che đi linh khí của cành thần mộc.

Nhờ vậy mà tán tu đã bước lên con đường mà rất nhiều người không cách nào cưỡng lại được.

Anh ta cùng dùng cành gãy của thần mộc để quay ngược về trước không biết bao bận —

Trở về thời điểm anh ta xuống tay giết đứa nhỏ đầu tiên và đuổi toàn bộ những đứa mình đã nhận nuôi. Anh ta nhẫn nhịn chịu đựng tà tâm nhiều năm cho đến ngày nó bộc phát, khiến anh ta phát khùng đến mất kiểm soát và tàn sát sạch sẽ những thành trấn lân cận, một bước không cách nào vãn hồi…

Rồi anh ta lại quay về thời điểm trước lúc tẩu hoả nhập ma với ý định tự phong bế bản thân, khổ nỗi nảy lòng lưu luyến tu vi mình dày công bấy lâu và cảm giác sung sướng và thoả mãn khi có thể muốn làm gì tuỳ thích.

Rồi anh ta quay về thời điểm sớm hơn cả khi đó, muốn né tránh Kinh Quan, muốn tìm một căn phủ khác. Thế nhưng anh ta không cam lòng khi nhìn thấy vong hồn phá rối ở Kinh Quan, cuối cùng lại quay về đường cũ.

Con người ta thật phức tạp lắm.

Tán tu kia cứ quay ngược lại rất nhiều lần, nhiều đến mức chính bản thân anh ta cũng không biết tột cùng mình là thiện hay ác, không phân rõ vì sao mình từng hành thiện nhiều như vậy mà sao sau đó lại gây ra biết bao tội ác?

Vì sao sau này giết người ăn thịt không chớp mắt mà khi trở lại quá khứ, nhìn thấy vong hồn hoành hành lại không kiềm nổi lòng mà ra tay giúp đỡ?

Cứ lặp đi lặp lại mãi như thế đã khiến anh ta tê liệt.

Mấy chục năm cuộc đời không ngừng diễn đến diễn đi, làm cách này không được anh ta lại thử cách khác. Bởi thế mà đôi khi anh ta sinh lòng hoài nghi rằng chính bản thân mình mới là người đã khuất duy nhất không chốn nương thân, bị mắc kẹt trong thế cục có giới hạn mấy thập kỷ đó.

Về sau nữa, anh ta thậm chí đã quên mất duyên cớ mình không ngừng trở về quá khứ, tất thảy chỉ còn duy một chấp niệm “muốn trở về”.



Đó là thiên chiếu rối rắm nhất mà Linh Vương từng tiếp nhận.

Vì người tán tu nọ đã quanh đi quẩn lại quá nhiều lần, chỉ riêng một mối là anh ta mà đã sinh ra hàng mấy chục ngã rẽ khác nhau.

Ô Hành Tuyết hãy còn nhớ như in…

Vào thời điểm bắt đầu mỗi dòng rẽ, chàng đều đích thân bước tới Kinh Quan, đứng bên dưới toà tháp cao trong bóng mờ không ánh sáng và ngửa đầu nhìn chiếc chuông treo trên đỉnh tháp.

Chàng luôn duỗi tay khép mặt nạ vân bạc để che kín mặt mày, kế đến vuốt chuôi kiếm và cất bước vào màn sương xám lạnh.

Xuyên qua sương mù lạnh giá là khi chàng đặt chân đến một dòng rẽ.

Nhìn người tán tu bước trên con đường đã vạch sẵn ấy, chàng chờ thời điểm nhân quả chuyển dời đặng tuốt kiếm và trảm sạch sẽ.

Mỗi lần cắt đứt một dòng rẽ, chàng lại phải cẩn trọng rà soát một lần để lau dọn một số sai lầm nhỏ không đáng kể và đảm bảo mọi thứ đều ổn thoả rồi mới chuyển sang một dòng rẽ khác.

Đảm bảo mọi thứ đều ổn thoả ở đây ngụ ý chàng phải chứng kiến tất cả những chuyện trọng yếu xảy ra…

Đó là một chuỗi gập ghềnh những chém giết, lau dọn, rà soát trong các dòng thời gian rối loạn.

Mỗi một lần, chàng đều nhìn người tán tu nọ cầm đèn đuổi linh, lặng lẽ rảo một vòng vùng mộ hoang rộng lớn rồi bước l3n đỉnh tháp và rung chiếc chuông cổ.

Nhìn anh ta giúp người, cứu người, sau lại hại người, giết người.

Nhìn anh ta đi từ thiện đến chí ác.

Rồi chàng phải hết lần này đến lần khác đảm bảo những đứa trẻ được nhận nuôi kia lần lượt rơi vào miệng cọp, từng đứa từng đứa một lìa đời và biến thành xác sống mặc người thao túng.

Đôi khi chàng sẽ đứng bên cạnh thi thể chúng thật lâu, nhưng khó lòng mà nói khi ấy tâm tình chàng ra sao.

Đôi tay cầm kiếm vẫn vững vàng muôn thuở, dáng người cao dỏng nghiêm trang chưa một lần thay đổi. Trên mặt chàng đeo mặt nạ, và không một ai biết biểu cảm của người bên dưới mặt nạ kia.

Chàng chỉ đứng yên như thế một lúc lâu rồi mới vẩy bùn hoặc máu trên thân kiếm, đoạn xoay người và biến mất vào màn sương mù dày đặc.

Sau nữa, chàng đã nhìn cuộc đời người tán tu cơ man lần, nhìn những đứa trẻ lìa đời không kể xiết, nhìn những đồi xác người chẳng đếm xuể, và chính tay chàng đã nắn chúng về lại như cũ.

Vì vậy mà một thoáng chốc nào đó, chàng cảm thấy thật kinh tởm.

Cũng không biết cái cảm giác kinh tởm bất giác tuôn trào ấy bắt nguồn từ đâu và hướng về người nào, liệu đó là sự kinh tởm những người hành sự không màng hậu quả, hay liệu đó còn bao gồm cả người giắt kiếm thờ ơ đứng nhìn như một kẻ ngoài cuộc.

Sau khi dọn sạch những dòng thời gian rối loạn, chàng quay về khí hậu bình thường nơi nhân gian bình thường. Vừa hay khi đó đúng dịp tháng ba, chàng bèn đánh một chuyến đến Lạc Hoa Đài.

Phố núi Lạc Hoa vừa mở, ánh đèn dầu thắp dài mười hai dặm, sắc đỏ nhuộm sáng cả một vùng núi đồi.

Chàng bước đi trong vô định, chỉ muốn đưa mình vào biển người xôn xao, muốn nhìn ngắm những gánh hàng rong nhộn nhịp và phố thị ngập tràn khói sương lam. Chàng tựa mình vào cột cửa nhà trọ và lắng nghe vị tiên sinh giảng sách phun phèo phèo như ngựa, nghe mấy vở đậm đà tiếng trống chiêng ồn ã, và trêu chọc em bé nhí bằng xâu tò he đường với hình dạng đáng yêu.

Đó là đợt chàng lưu lại nhân gian lâu nhất.

Tuy nhiên, chàng phải bước qua rất nhiều nhánh thời gian rối loạn chứ không ở trong dòng thời gian hiện thế, nên trong mắt mọi người, Linh Vương chỉ rời khỏi Tiên Đô vỏn vẹn hai ngày, và cả hai ngày đó đều ở Lạc Hoa Đài.

Không một ai biết chàng đã trải qua quãng thời gian đó ra sao, đã làm những gì, và cũng không một ai biết vì sao chàng yêu mến khu chợ sôi động kia đến vậy.

Tiêu Phục Huyên là người đầu tiên, và duy nhất, nói rằng đã từng nhìn thấy chàng ở Kinh Quan.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 58: Hòm gỗ


Cảm giác đột ngột dứt khỏi hồi ức không dễ chịu cho lắm.

Vừa hoàn hồn lại, Ô Hành Tuyết hãy còn nghe bao tiếng lộn xộn vang vọng bên tai.

Chàng nghe giọng Tiêu Phục Huyên nói “Ta gặp ngươi dưới nhân gian”, nghe người thuyết giảng và rao hàng giữa phố núi Lạc Hoa, và cũng nghe gió hú len lỏi trong âm thanh quỷ khóc than và tiếng chuông đánh vang trên đỉnh tháp Kinh Quan.

Thậm chí, chàng còn nghe thấy âm thanh vào thời điểm vừa chặt đứt dòng rối loạn, đó là một linh phách, sau khi được giải thoát còn nấn ná chưa rời đi và mơ hồ hỏi chàng “người là ai”.



Nhiều quá, nhiều quá đi mất.

Sau tất cả, những âm thanh trong ký ức kia đều tan biến, chỉ để lại một ý nghĩ độc nhất —

Đây chính là căn tháp đó.

Ngôi tháp cao dưới mật địa nhà họ Phong này chính là căn tháp người tán tu từng sống trước kia.

Ô Hành Tuyết nhìn ngôi tháp cao đang bao quanh bọn họ phía sau những tàn ảnh của thần mộc. Dưới kiếm khí càn quét mãnh liệt của Tiêu Phục Huyên, cả ngôi tháp lâm vào khung cảnh hỗn loạn, xà nhà đứt lìa đổ gãy, tinh chất bạch ngọc và cành thần mộc bị giam bên trong rơi ra và rớt đầy trên mặt đất.

Không còn mảy may vết tích của một thời dĩ vãng.

Hình dáng căn tháp đã bị chỉnh sửa, kết cấu nay hơi khác một chút, chiếc chuông cổ trên chóp cao đã mất dạng. Giờ phút này, cho dù người tán tu năm nào đứng nơi đây cũng e không thể nhận ra căn tháp.

Nói chính xác là không thể nhận ra.

Bởi trong cái kết của câu chuyện đó, toà tháp đã bị phá huỷ hoàn toàn sau khi Ô Hành Tuyết cắt đứt dòng thời gian rối loạn…

Có lẽ người tán tu kia đã hao tổn rất nhiều nguyên khí mà vẫn hoàn toàn vô vọng trong nỗ lực xoay trời chuyển đất, có lẽ người đó đã quá mệt mỏi giữa chuỗi lặp quay đầu và kháng cự, hoặc có lẽ mặt thiện của anh ta đã giành thế thượng phong…

Anh ta hạ một chú thuật, sau đó lẳng lặng nhắm mắt yên vị trong tháp và vùi thân cùng ngôi tháp vào biển lửa vô biên.

Thể theo lẽ thường, một khi đã bị phá huỷ, toà tháp đó không thể xuất hiện trở lại được nữa.

Đó là suy nghĩ của người đời, ngoại trừ Ô Hành Tuyết.

Trong mắt Ô Hành Tuyết, một toà tháp bị phá huỷ vẫn có thể xuất hiện nguyên vẹn một lần nữa mà không mảy may sứt mẻ. Nhưng không phải trong hiện thế, mà thuộc về một dòng thời không khác. Ví như năm đó, thiên chiếu đã sơ sót để lọt một dòng thời không, dẫn đến Linh Vương không tuyệt đường của nó, thì nhánh rẽ kia cùng với tất cả những người và việc bên trong nó đều sẽ tiếp tục tiến về phía trước theo thời gian.

Có thể tán tu đã không hạ chú thuật nọ, có thể toà tháp cao vẫn còn tồn tại.

Tức là hiện tại, họ đang đứng bên trong một dòng không gian bị gián đoạn.

“Thảo nào…”

Ô Hành Tuyết thì thầm.

Thảo nào ban nãy, Ninh Hoài Sam và Y Ngô Sinh nói tuổi của Phong Thù Lan không đúng lắm, đã thế họ còn chưa từng nghe đến tên nhân vật Phong Huy Minh này.

Đó là vì nơi đây không nằm trong cùng một nhánh với thế giới hiện tại, nó là một nhánh rẽ sớm bị chệch đi từ xa xưa.

***

Nhưng có là nhánh rẽ bị rối loạn đi nữa cũng sẽ có nhân quả, chứ không tạo ra những mối dây dưa không duyên cớ. Nói thế có nghĩa là cho dù toà tháp này không bị phá huỷ mà vẫn tiếp tục tồn tại, thì nó vẫn có liên kết chặt chẽ nhất với người tán tu nọ.

Vậy mà hôm nay, nó lại xuất hiện bên trong mật địa nhà họ Phong, bị nhà họ Phong kéo vào trong địa giới nhà họ.

Việc này quả thật mang nhiều ẩn ý sâu xa.

Một khả năng là nhà họ Phong có quan hệ mật thiết với người tán tu kia, nên sau khi rời khỏi hoặc chết đi, người tán tu đã để toà tháp lại cho nhà họ Phong.

Một khả năng khác, cũng là lý do khả dĩ nhất — nhà họ Phong sợ có tà thuật hay cấm thuật còn sót lại trong tháp cao với khả năng gây hại đến nhân gian, nên với tư cách là người tu hành, họ phong ấn khu vực nguy hiểm đó lại trong địa giới nhà mình, nhưng sau một thời gian trấn áp lại nảy lòng tham và muốn lợi dụng sức mạnh của thần mộc bên trong tháp để hỗ trợ tu hành.

Và một khả năng khác nữa… là vì một lý do nào đó, nhà họ Phong cần dùng toà tháp này để làm một số việc, nên mới lôi nó vào bên trong đất nhà mình.

Ô Hành Tuyết còn đang thầm suy tư, thì chợt nghe thấy tiếng kiếm chém vang lên lanh lảnh.

Thanh kiếm chữ “Miễn” xé một đường vòng cung trên không, phóng thẳng về phía Phong Huy Minh và dộng thẳng cổ hắn ta vào tường.

Gương mặt Phong Huy Minh tái mét, ánh mắt trợn trừng nhìn thân kiếm đang không ngừng rung chuyển. Hắn cũng không tính ở yên chờ chết, bèn lập tức thụt người xuống dưới để né mũi kiếm, đồng thời ngã ngửa người ra đất và chống bằng hai tay. Đoạn, hắn lật người sang một bên, toan với lấy thanh kiếm của mình.

Một tiếng <i>đùng</i> nổ ra, thanh kiếm chữ “Miễn” đã rút khỏi mặt tường và ghim thẳng ngay trước tay hắn không lệch một li, như thể đã sớm đoán trước được động tác của hắn. Nếu hắn duỗi tay ra trước thêm một chút xíu nữa thôi là lãnh đủ lưỡi kiếm cắm xuyên lòng bàn tay.

Phong Huy Minh thở hổn hển trong cơn bàng hoàng, quay ngược người lăn sang bên lần nữa —

Một lần nữa bị lưỡi kiếm chặn ngay trước mặt!

Hắn ráng sức mấy lần, cuối cùng cả cổ, tay chân, lẫn đỉnh đầu đều bị ánh kiếm vàng rực chặn đường chặt chẽ, hễ nhích một phân sẽ lãnh hậu quả phơi thây giữa đường.

“Ngươi —” viền mắt Phong Huy Minh muốn nứt cả ra nhưng hắn không cách nào cử động, chỉ biết siết chặt nắm tay, nghiến răng mà nói, “Thượng tiên có chuyện gì cứ nói thẳng, cần gì phải áp bức đến mức này!”

Thế rồi, giọng thâm trầm của Tiêu Phục Huyên vang lên, hỏi hắn, “Tại sao căn tháp này ở nhà ngươi?”

Ô Hành Tuyết thoạt ngỡ ngàng. Sau mới sực nhận ra, khí kình của Tiêu Phục Huyên hãy còn bao quanh trái tim chàng, người kia có thể nghe được tiếng lòng và suy nghĩ của chàng nên tất nhiên biết hết những điều chàng suy tính ban nãy.

Phong Huy Minh nổi tơ máu đỏ oạch hai mắt. “Ta không biết!”

Tròng mắt hắn đảo qua những vị trí yếu hại trên cơ thể đang bị kiếm khí giữ chặt, nói tiếp, “Ta thật sự không biết!”

Tiêu Phục Huyên lạnh lùng nói, “Ngươi biết.”

Phong Huy Minh th ở dốc mấy hồi, kinh ngạc trong giây lát rồi tiếp tục nghẹn giọng giải thích, “Làm sao ta biết được?! Lúc ta đến nhà họ Phong thì toà tháp này đã ở đây rồi! Những gì ta biết được đều do gia chủ nói cho. Lúc trước ta đã khai hết với các người rồi còn gì! Nơi này là mật địa nhà họ Phong, gia chủ nói với ta như vậy thì ta nghe như vậy thôi! Đây là mật địa nhà họ Phong, toà tháp này do nhà chúng ta xây, ta —”

Lời còn chưa dứt, Ô Hành Tuyết đã sấn đến trước mặt hắn và cúi đầu ngắt lời, “Xem ra là ngươi biết thật, suýt chút ta bị ngươi lừa mất rồi.”

Ban đầu, chàng cho rằng Tiêu Phục Huyên chỉ nói quàng để gạt Phong Huy Minh, nhưng nhanh chóng nhận ra không phải như thế, mà Phong Huy Minh quả thật có biết gì đó…

Phong Huy Minh thanh minh cho bản thân, “Hả… ta không biết, những gì ta nói đều là thật, không nói dối một chữ nào!”

Ô Hành Tuyết nói, “Thế à, thế nhưng phản ứng của ngươi không hợp lý.”

Phong Huy Minh ngạc nhiên hỏi, “Ngươi nói vậy là ý gì?”

“Nếu ngươi hoàn toàn không biết gì và tin tất cả những lời gia chủ nói, cũng đồng nghĩa ngươi thật sự cho rằng nhà họ Phong đã xây toà tháp này,” Ô Hành Tuyết chỉ sang Tiêu Phục Huyên. “Thế ban nãy khi vị này hỏi ngươi ‘tại sao toà tháp này ở nhà ngươi’, lẽ ra ngươi nên trả lời một cách hợp tình hợp lý rằng gia tộc nhà ngươi đã xây toà tháp này nên tất nhiên nó phải ở đây chứ ở đâu được nữa?”

Ô Hành Tuyết ngừng đoạn, tiếp tục nói, “Hay là… ít nhất phải tỏ vẻ thắc mắc một chút chứ.”

Ô Hành Tuyết nói rồi vén vạt áo choàng, hạ gối ngồi xuống, đôi mắt nhìn Phong Huy Minh từ trên cao, cất giọng từ tốn điềm đạm, “Thế nhưng ngươi không phản ứng như vậy, ngươi trả lời quá nhanh.”

Bởi hắn trả lời quá nhanh, nhanh đến mức gần như không hề có dấu hiệu nghi ngờ hay thắc mắc. Điều này chứng tỏ hắn biết rõ câu hỏi của Tiêu Phục Huyên, và cũng chứng tỏ hắn biết rằng… căn tháp này không nên tồn tại trong nhà họ Phong.

Phong Huy Minh đơ hết cả người, ánh mắt chòng chọc vào Ô Hành Tuyết, đôi môi hắn mím chặt tới mức ngả hẳn sang tái xám. Bởi vậy mà người hắn như được bọc trong luồng tử khí cực kỳ quái dị.

Ô Hành Tuyết hơi chau mày. Chàng suýt đã cho rằng đó chỉ là ảo giác, bèn nhìn kỹ Phong Huy Minh lần nữa và tính đưa tay ra kiểm ra rõ ngọn ngành, chợt nghe thấy giọng Tiêu Phục Huyên vang lên ngay kề bên, “Ngươi sắp chết rồi, có biết không?”

Lời này thẳng thừng quá đỗi, khiến Phong Huy Minh tức thì biến sắc.

Ngay cả Ninh Hoài Sam đi chung vào đây cũng bất ngờ, thầm thì thốt lên, “Thật sao?”

Tiêu Phục Huyên không trả lời.

Phong Huy Minh mím miệng chặt hơn nữa, đôi mắt đỏ ngầu sưng húp, nhưng không nói một tiếng nào. Thấy phản ứng hắn như vậy, Ninh Hoài Sam cũng tặc lưỡi một phát và nói, “Là thật sao! Bản thân ngươi cũng biết à? Vậy sao còn không nói tiếng nào vậy.”

“Ta có thể sống,” một hồi lâu sau, Phong Huy Minh mới cất giọng khàn khàn. “Ta đã tìm được cách rồi, ta sẽ không chết, nhà họ Phong… nhà họ Phong giờ đây không thể thiếu ta, ta sẽ không chết.”

Những lời này thốt ra quá đột ngột, Ô Hành Tuyết nghe thấy thì khẽ nhướng mày và quay sang trao đổi ánh mắt với Tiêu Phục Huyên.

Nhờ vào khí kình trong tim, Ô Hành Tuyết truyền âm sang nói rằng, “Tiêu Phục Huyên, vì sao hắn sắp chết vậy? Ta thấy tử khí trên người hắn ta thật quái dị, nhìn có vẻ không phải vì thể xác hắn có vấn đề.”

Tiêu Phục Huyên lướt nhìn Phong Huy Minh, sau đó vươn tay kiểm tra linh của hắn rồi truyền âm trả lời, “Dường như là một loại cấm thuật đổi mệnh nào đó.”

Ô Hành Tuyết: “Đổi mệnh?”

Tiêu Phục Huyên đáp <i>Ừm</i> và tiếp tục, “Chắc người ở đầu kia đã chết rồi.”

Ô Hành Tuyết đã hiểu ra.

Có người muốn đổi mệnh Phong Huy Minh cho một người đã chết nào đó.

Loại thuật pháp này phải được tiến hành liên tục, và có khả năng đã hoàn thành sơ bộ rồi, chính lẽ đó mà trên cơ thể Phong Huy Minh mới có thứ tử khí lởn vởn không rõ nguyên do này.

Thật ra, nếu muốn Phong Huy Minh khai thật, cách nhanh nhất là nói thẳng chuyện này ra trước mặt hắn, bởi đâu ai có thể chấp nhận chuyện mình bị tráo mệnh, hơn thế còn là phía phải hy sinh.

Quả thật có phần thương tâm…

Nhưng Ô Hành Tuyết chọn truyền âm chứ không kích động Phong Huy Minh.

Dù rằng Phong Huy Minh có nói hay không thì giờ họ cũng có thể đoan chắc tương đối…

Với địa vị của Phong Huy Minh ở nhà họ Phong, chỉ cần nhìn một lượt từ trên xuống dưới là thấy ngay, người có thể xuống tay với Phong Huy Minh chỉ có thể là vị gia chủ kia.

Vả chăng, nếu muốn thực hiện cấm thuật thì phải dùng một số thủ đoạn mờ ám không minh bạch hoặc mượn sức âm hồn hay tà vật. Theo hướng này, không khó để giải thích lý do vì sao toà tháp lại xuất hiện ở nhà họ Phong.

Ô Hành Tuyết lại tiếp tục hỏi qua truyền âm, “Ngươi có thể tìm xem hắn đổi mệnh với ai được không?”

Tiêu Phục Huyên: “Để ta thử xem.”

Ô Hành Tuyết gật đầu.

Ninh Hoài Sam đứng một bên chớp chớp đôi mắt, nhìn họ mấy lần, một dấu chấm hỏi mọc l3n đỉnh đầu. “Thưa thành chủ, sao tự dưng ngài gật đầu vậy? Có ai mới nói gì à?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Ninh Hoài Sam: “Ta bị điếc hở?”

Hỏi rồi, cậu ta sáng mắt lên như vừa ngộ ra sự tình. “À, truyền âm…”

Ô Hành Tuyết thấy cậu ta hiểu ra rồi thì tính để mặc cậu ta một bên, bỗng thấy có người chọt vào cánh tay mình. Giọng nói đầy tủi thân của Ninh Hoài Sam vang lên, “Thành chủ ơi, ngài đừng truyền âm với một mình Thiên Túc, ngài làm vậy ta sợ lắm.”

Ô Hành Tuyết: “?”

“Ngươi sợ cái gì?” Ô Hành Tuyết vặn lại.

“Ta sợ mình mới làm chuyện ngu si gì đó nên ngài đang nghĩ xem sẽ trừng phạt ta kiểu gì.”

<i>Chịu, đã làm bao nhiêu chuyện ngu si để đến mức có suy nghĩ này vậy.</i>

Ô Hành Tuyết tự nói trong lòng.

Chàng vừa định nói với Ninh Hoài Sam là “Nếu ngươi muốn sợ thật thì cứ truyền âm thử đi”, ngờ đâu chưa kịp mở miệng đã thấy khí kình quanh tim mình chợt thít lại, khẽ khàng như một cái véo nhẹ và hoàn toàn dời đi sự chú ý của chàng.

Ô Hành Tuyết quay đầu nhìn sang Tiêu Phục Huyên, nghe được giọng nói của Thiên Túc thượng tiên vọng ra từ trong tim, “Ta tìm ra rồi.”

Ô Hành Tuyết tuyệt nhiên ngó lơ Ninh Hoài Sam, hỏi, “Đổi cho ai thế?”

“Không biết là ai, nhưng ở ngay bên dưới tháp,” Tiêu Phục Huyên nói, đoạn phất tay lên thu thanh kiếm chữ “Miễn” trở về, tiếp đó chống thẳng mũi kiếm xuống mặt đất, giữ chuôi kiếm trong một tay và ấn mạnh xuống —

Hàng ngàn hàng vạn vết rạn gãy ra trên nền đá lạnh dưới chân, lấy mũi kiếm làm tâm và tràn khắp bốn phương tám hướng với tốc độ nhanh như cắt.

Ngay thời điểm mặt đất sụp đổ, Phong Huy Minh rốt cuộc cũng phải gào lên, “Không! Đừng mở ra —”

Khoảnh khắc đó, hắn mặc kệ hết thảy sự đe doạ của kiếm khí đặng đưa tay lên che mắt mình lại. Hắn nhắm nghiền hai mắt, thậm chí phong bế cả thính giác, thâm tâm hắn không muốn nhìn thấy thứ bên dưới toà tháp cao.

Bởi vì thời điểm hắn trông thấy cũng chính là thời điểm hắn bắt buộc thải thừa nhận rằng bản thân rốt cuộc chỉ là một con cờ thế mạng phải hy sinh mà thôi.

***

Nền đất chỉ đổ sụp một tấc đã bất chợt dừng lại.

Lập tức, có vô số sợi xích bạc lóng lánh vút tới, móc vào từng kẽ nứt và trồi ra ở một khe hở khác, dậy lên tiếng kim loại va chạm với ngọc đá rền vang.

Chỉ trong loáng mắt, đám xích đó đã móc lại với nhau tạo thành một tấm lưới khổng lồ, siết chặt lấy nền đất vỡ vụn và giữ cho nó không đổ sụp xuống dưới.

Là ai?!

Ô Hành Tuyết ngoái đầu nhìn về điểm bắt đầu của những sợi xích.

Phía bên ngoài cổng vòm của căn tháp vẫn còn lấp loáng ánh sáng sót lại từ sấm chớp huyền lôi, một bóng người đang đứng ngay ngoài cổng, tay giữ chặt đầu kia của những sợi xích.

Người đó trông dáng vẻ còn đang trạc tuổi thanh xuân với vóc người hiên ngang. Đa phần người trong tiên môn đều có khí phách như vậy nên cũng không bất ngờ cho lắm. Ngặt nỗi, bên dưới ánh sáng ngọn đuốc, gương mặt người đó trông tiều tuỵ khôn cùng, hai bên khoé môi hằn vết nhăn sâu hóp.

Giọng nói và tướng mạo của người tu hành khó mà thay đổi, có sống qua trăm năm cũng chẳng đến mức phải trở nên như vậy. Có lẽ người đàn ông này đã sống rất, rất lâu rồi, vì nếp nhăn bên môi trĩu nặng đã phủ thêm đôi phần cay nghiệt độc địa trên gương mặt ông ta.

Người đàn ông lia mắt nhìn một vòng quanh căn tháp tan hoang, khoé miệng giần giật, “Tôi nghe đệ tử trong môn nói có khách ghé thăm lúc nửa đêm, được Huy Minh dẫn đến đây.”

Nghe giọng điệu này thì ắt hẳn là gia chủ nhà họ Phong.

“Đệ tử trong môn còn trẻ tuổi, hễ sợ hãi là nói năng thiếu rành mạch. Tôi cũng đã vào giấc nên còn hơi mỏi mệt. Sau khi nghe chuyện một buổi vẫn không nắm rõ tình hình ra sao, chỉ loáng thoáng nghe rằng dường như lai lịch khách nhân không tầm thường, hình như là tiên.”

Ông ta đặc biệt hạ thấp giọng khi nói “hình như là tiên”, nghe rất thờ ơ và chừng như cũng không hề sợ hãi.

Dù sao nhà họ Phong cũng mang trên vai nhiệm vụ trông coi phố núi Lạc Hoa, trấn giữ cấm địa nơi phong ấn thần mộc, tất nhiên có địa vị cực kỳ đặc biệt ở nhân gian. Hơn nữa ông ta còn là gia chủ, dù phải đương đầu với một vài tiểu tiên cũng chưa bao giờ tỏ ý dè dặt.

Ông ta cầm sợi xích trong tay, chân bước qua ngạch cửa vào trong tháp, vừa siết chặt sợi xích vừa tiếp tục nói, “Nếu tiên khách đã ghé thăm, sao có thể để các trưởng lão hay đệ tử đến tiếp đón xuề xoà cho được, làm vậy là thất lễ với các vị rồi. Bởi thế tôi phải đích thân đến đây để xem thử là vị thượng tiên nào nhàn rỗi, có ý tò mò toà tháp này của nhà họ Phong chúng tôi đến mức phải gây náo động một phen như vậy, tôi —”

Bước chân vào tháp rồi, ông ta mới dời tầm mắt khỏi những vết nứt tan tác trên mặt đất và nhìn về “kẻ gọi là tiên” bên trong…

Đoạn, không thốt nổi nên lời.

Khi lướt qua Tiêu Phục Huyên, vẻ mặt ông ta trở nên căng thẳng.

Khi dời mắt sang Ô Hành Tuyết, đồng tử ông ta tức thì rút chặt lại, đôi môi mỏng thoáng mấp máy khe khẽ.

“Người…”

Ô Hành Tuyết nhướng mày.

“Phản ứng ông ta thật lạ, dường như gia chủ nhà này nhận ra ta thì phải,” chàng lẳng lặng nói với Tiêu Phục Huyên. “Nhưng ta hoàn toàn không có ấn tượng gì với ông ta.”

Tiêu Phục Huyên không đáp lời.

Một lúc lâu sau, y mới nói, “Ngươi không có ấn tượng với nhiều người lắm.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Bất giác, chàng chợt nhớ đến khoảnh khắc ở Tiên Đô khi Tiêu Phục Huyên nói “Ta từng gặp ngươi dưới nhân gian”, “Ở Kinh Quan”, vậy mà chàng quả thật không có ấn tượng với lần gặp mặt đó, còn tưởng rằng người kia chỉ tình cờ đi ngang qua và nhìn thấy mình thôi.

Nhưng giờ nghe đến câu nói đột ngột này, dường như… chuyện không đơn giản như chàng nghĩ?

Có điều lúc này cũng không phải thời điểm thích hợp để hỏi rõ.

Vì sau khi gia chủ nhà họ Phong nhìn thấy chàng thì đứng đơ cả người, sau chót còn quấn chặt thêm một vòng xích trên tay mình. Không biết có phải ảo giác không mà ông ta khiến chàng chợt nhen nhói cảm giác “đứt gánh, chìm xuồng”, cứ như thể ông ta biết rõ tối nay khó lòng toàn mạng nhưng cũng không còn cách nào khác.

Ông ta siết chặt những sợi xích trong tay và cụp mắt xuống, thốt lên với giọng khàn khàn trầm nặng, “Cho dù là hai vị… ta cũng sẽ không nới lỏng xiềng xích này.”

Ô Hành Tuyết hỏi, “Ông nhận ra ta?”

Gia chủ nhà họ Phong nhếch nhẹ khoé miệng nhăn nhúm, một hồi lâu sau mới cất giọng, “Lúc thiếu thời, ta… ta hồi trẻ từng sơ ý mắc phải tà thuật, thiếu chút đã mất mạng.”

Ô Hành Tuyết giật mình.

Lý do mà những giai thoại về thần mộc được lưu truyền khắp nhân gian chính là vì đôi khi có những người như vậy — họ rơi vào tình thế thập tử nhất sinh, nhưng lại may mắn giữ được mạng sống.

Đó là những người đã tận mắt nhìn thấy thần mộc.

Còn có lời đồn rằng sau khi hoá thành hình người, thần mộc bước vào ngôi đền sau nửa đêm và thả một bức tượng ngọc chạm trên bệ thờ.

Những người kể lại chuyện này cũng từng tận mắt nhìn thấy chàng.

“Có lẽ nhờ tiên duyên như vậy nên về sau tôi may mắn được trấn thủ Lạc Hoa Đài,” gia chủ nhà họ Phong tiếp giọng chầm chậm và hơi nghẹn ngào.

“Tiên duyên… may mắn…” Ô Hành Tuyết khẽ khàng lặp lại hai từ này, đồng thời cúi người nhặt một nhánh thần mộc trên mặt đất và tiếp tục, “vậy ông nói ta nghe, những cành cây gãy này, toà tháp này, và cả việc ông đang níu kéo không để mảnh đất này sụp đổ là từ tiên duyên nào, từ điềm may mắn nào?”

Lướt mắt một vòng quanh toà tháp, Ô Hành Tuyết nói tiếp, “Ta không thấy được tất cả những thứ này có liên quan gì đến tiên, mà cũng chẳng nhìn ra nổi một điều may mắn.”

Sắc mặt gia chủ nhà họ Phong càng thêm tồi tệ, chừng như còn lẫn đôi phần gian nan.

Tiêu Phục Huyên nhấn thanh kiếm xuống mặt đất, dùng lưng ngón tay lau qua vết bẩn vừa bám trên lưỡi kiếm và nói, “Một là ngươi nói, hai là ta phá nó ra.”

Gia chủ nhà họ Phong bất chợt giương khẽ mắt, rồi lại lẳng lặng cụp xuống, ông ta gồng cứng cả thân thể đến mức gân xanh muốn nổi lên trên cổ, thế nhưng tay ông vẫn giữ chặt xiềng xích mà không mảy may nới lỏng một li. “Tôi đã đi được đến hôm nay, chuyện chính là như vậy rồi, có nói hay không cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa.”

Tiêu Phục Huyên trầm giọng đáp, “Được.”

Giọng nói vừa vang lên, cánh tay cầm kiếm đã ra lực.

Cuồng phong ào ạt dấy lên bên trong căn tháp, phóng cao chót vót như muốn che phủ đất trời. Cuồng phong cuộn thành một cơn lốc như thân rồng dài hút lấy tất cả mọi thứ xung quanh vào trong.

Xà nhà, thân gỗ, bệ đài, nệm bồ đoàn, sắt đá, ngọc thạch, hết thảy đều không cách nào tránh thoát.

Ngay cả Ninh Hoài Sam và Phong Huy Minh cũng phải chấn trường kiếm xuống đất và bám chặt cơ thể vào nó mới tránh cho mình bị cuốn vào cơn lốc kia.

Dường như tất cả mọi thứ xung quanh đều bị biến dạng dưới áp lực của luồng lốc xoáy, bao xiềng xích dưới nền đất nện vang ồn ã, va đập vào nhau toé lên ánh lửa tứ tung.

Chúng nó chẳng cách nào kiềm giữ nổi đá lạnh lát dưới nền đất nữa, từng khối đá to nặng nứt rạn ra trong cơn dông gió quật, chẳng mấy chốc đã nát thành cát bụi.

Ngay tiếp đó, nhác thấy dáng trường kiếm của Tiêu Phục Huyên lướt qua, ánh vàng chém xuyên hết thảy xiềng xích.

Pháp khí đều tương thông linh thần với người tu hành, ngay khoảnh khắc xiềng xích gãy lìa, gia chủ nhà họ Phong cũng không nhịn nổi, phải thét lên một tiếng vang dài.

Kinh mạch cả cơ thể ông ta đều phồng lên lộ hẳn ngoài da, nhìn qua cực kỳ đáng sợ. Thế nhưng ông vẫn không ngừng ném tiếp những sợi xích khác ra ngoài —

Mỗi một sợi xích bị đứt đoạn, ông ta lập tức tung ra một sợi xích khác.

Đứt mười sợi, ông ta lập tức tung ra mười sợi.



Tiếng nứt gãy và tiếng xiềng xích đánh vang chất chồng lên nhau, để rồi cuối chót ông ta cũng phải đành thất thủ.

Bao gân máu phồng lên ngoài da ông ta nứt toạc, máu tuôn ào ạt ra ngoài, trượt theo cánh tay tràn tới ngón tay và nhuốm đỏ mấy vòng xiềng xích.

Một sợi xích không được bồi đắp thêm, cả người ông ta đã hoàn toàn kiệt quệ, thậm chí không giữ vững được tư thế mà loạng choạng mất một hồi.

Rồi đến sợi xích thứ hai, thứ ba…

Chỉ loáng mắt mà nửa bên xiềng xích đã gãy lìa toàn bộ.

Gia chủ không vận nổi lực nữa, quỳ sụm xuống đất giữa cuồng phong gió lốc.

Trong nháy mắt tiếp theo, nửa bên còn lại cũng hoàn toàn đứt đoạn.

Chỉ nghe thấy một tiếng nổ vang trời, tất cả xích bạc tan tành thành mảnh vụn, đổ ào ạt xuống dưới nền chúng với đất đá lát sàn. Thứ cất giấu bên dưới đáy tháp lộ ra bên ngoài.

Thoạt tiên, Ô Hành Tuyết trông thấy hai cỗ quan tài gỗ đặt giữa một trận pháp khổng lồ, bao quanh bởi rất nhiều ngọn nến.

Tiếp tới, chàng nghe thấy hàng vạn những tiếng rít gào da diết thê lương…

Lần gần đây nhất mà chàng nghe được âm thanh như vậy là bên trong khu mộ tập thể khổng lồ ở Kinh Quan.

Mà không chỉ có âm thanh, đến bầu không khí nơi này cũng giống ở đó. Cứ như thể ai đó đã đưa hàng mấy vạn người chết ở Kinh Quan tới đây, phong ấn chúng dưới đáy tháp nhằm nuôi dưỡng hai cỗ quan tài này và luyện cấm thuật tráo mệnh.

Nếu là bình thường, lượng âm khí hung tàn ngút trời đến nhường này sẽ tác động đến cả một vùng trăm dặm xung quanh và ai ai cũng phát giác được.

Vừa hay bên trong những thanh xà của căn tháp lại giấu cành gãy của thần mộc. Linh lực thần mộc đủ để che giấu hoàn toàn âm khí hung tàn nơi đây, đồng thời âm khí hung tàn cũng che giấu được linh khí của thần mộc.

Cũng xem như là một kiểu bổ trợ tương hỗ xét trên một phương diện nào đó.

Ô Hành Tuyết sa sầm nét mặt.

Thảo nào chàng cảm thấy linh khí thần mộc chỗ này vừa thân quen vừa lạ lẫm, không chỉ vậy nó còn khiến chàng cảm thấy như bị nhiễm tà khí, hoá ra tất cả đều vì cái thứ bị phong ấn dưới lòng đất này mà nên.

“Người trong quan tài là ai?” Ô Hành Tuyết trầm giọng hỏi.

Cả người gia chủ nhà họ Phong đã bê bết máu, ông ta vẫn đang giữ chặt những sợi xích gãy vụn. Đầu gối chống trên đống tàn dư đá vụn, mắt ông thẫn thờ nhìn hai cỗ quan tài kia một hồi rồi bật cười nghẹn ngào.

Hồi lâu sau, ông mới trả lời, “Đó là con trai và con gái tôi.”

Con?

Ô Hành Tuyết chau mày, liếc mắt sang Phong Huy Minh trong vô thức.

Cánh tay Phong Huy Minh giữ chặt chuôi kiếm, hắn cũng kiệt sức hoàn toàn, đang cúi gằm đầu quỳ rạp trên mặt đất, thậm chí hít thở cũng run rẩy không xuôi.

Thế thì xem ra, thứ gọi là “đổi mệnh” chính là dùng Phong Huy Minh để đổi lấy hai đứa con đã chết của ông ta.

Trong ánh mắt gia chủ nhà họ Phong chỉ có hai cỗ quan tài nọ. Dù cả người đẫm máu, ông ta vẫn cất nhỏ giọng, “… con trai tôi quân tử đoan chính, ôn hoà độ lượng, ngay cả vóc người cũng mảnh khảnh thanh tao. Ái nữ tôi nhỏ hơn hai tuổi, tư chất thông minh, là kỳ tài hiếm gặp, tính tình rắn rỏi…”

Từ thuở hai đứa nhỏ còn tấm bé, ông đã từng mơ tưởng sau này chúng lớn lên, vị trí gia chủ dòng tộc sẽ truyền lại cho người con gái kỳ tài tuyệt nghệ. Còn con trai sẽ giữ chức trưởng lão phụ trợ, đảm nhiệm trông coi đan dược và y đường.

Hai anh em sẽ hỗ trợ nhau chèo lái nhà họ Phong và trở thành một câu chuyện truyền đời.

Nhưng tiếc thay…

Hai đứa trẻ này còn chưa trưởng thành đã qua đời, chết cùng một ngày, cùng một nguyên do, và đều không hề có dấu hiệu báo trước. Người khác không biết vì sao họ chết, ai nấy đều tỏ lòng tiếc thương khôn nguôi nhưng không biết làm sao an ủi ông, nên chỉ đành quy về mấy chữ “xin hãy nén bi thương.”

Ông là cha ruột chúng, chỉ mỗi ông hiểu rõ trong lòng…

Khi xưa lúc còn niên thiếu, ông từng sơ sẩy mắc phải tà thuật, lẽ ra đã mất mạng từ thuở ấy nhưng mượn sức thần mộc kéo mình trở về. Phương thức đó chẳng mấy trong sạch, và chính ông cũng biết sau này phải trả giá.

Nhưng ông nào có ngờ được cái giá phải trả lại đặt trên người hai đứa con mình.

Ông đã từng nhạo báng muôn lời: nhà họ Phong chúng tôi diệt ma trừ tà, cớ gì phải gặp báo ứng như vậy?

Nó thật sự… quá trái ngang.

Thế nên ông ta không phục.

Vì không phục, ông truy tìm đủ mọi biện pháp để đấu tranh với số mệnh, tìm mọi cách vực dậy hai đứa con thương yêu của mình khỏi quan tài, ông mong muốn chúng được sống, được toả sáng và rạng danh dòng họ.

Cuối cùng, ông đã tìm ra một loại cấm thuật đổi mệnh, cấm thuật này nói khó thì rất khó, nhưng nói dễ cũng dễ vô cùng.

Nó đòi hỏi linh hồn người chết, và sinh mệnh người sống.

Dùng linh hồn người chết để thi triển cấm thuật, và dùng sinh mệnh người sống để tráo đổi mạng.

Nhưng nó không chỉ cần một hai người chết mà đòi đến hàng ngàn, thậm chí hàng vạn linh hồn bỏ mạng mới mong vạch ra một con đường đổi mệnh. Bởi vậy, ông ta đã chuyển mục đích sang Kinh Quan, nơi có nấm mộ khổng lồ, nơi đã chôn thây không biết bao nhiêu vong hồn.

Chẳng qua ông không ngờ rằng, có một người tán tu lại đến Kinh Quan và xây một căn tháp cao để bảo vệ nơi đó đêm ngày không ngơi. Tán tu nọ còn sống ở đó một ngày, kế hoạch của ông sẽ bị trì hoãn một ngày.

Nên ông đã động tay đôi chút.

Thế là chẳng bao lâu sau… tán tu kia bị tẩu hoả nhập ma, sa vào tà đạo, và toà tháp cao ấy trở thành nơi vấy đầy ô uế bẩn thỉu.

Dù để giết hay để phong ấn, giờ đây ông đã nắm trong tay lý do chính đáng để xuất binh.

Lời tác giả:

Đợi lâu rồi QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 59: Hư tình


Gia chủ nhà họ Phong không ngừng hoài tưởng về việc hai đứa con mình tốt đẹp ra sao, khiến ông nuối tiếc đến nhường nào, từng câu từng chữ thốt ra đều là những lời thâm tình.

Phong Huy Minh siết chặt kiếm, im lặng lắng nghe hồi lâu mới cử động một chút. Ngón tay hắn bắt đầu run rẩy, kéo cả người cũng run rẩy theo, để rồi đến thanh kiếm đang chống trên mặt đất cũng lung lay lách cách. Tưởng chừng đó như là nơi khởi nguồn của đá va vào mặt hồ, sóng càng gợn càng lan rộng…

Ninh Hoài Sam đứng gần hắn nhất nên nhận ra trước tiên. Ban đầu, cậu còn tưởng hắn đau đớn vì bị thương, để rồi sau đó mới ngỡ ra Phong Huy Minh đang cười.

Nụ cười đó vừa thấm đẫm trào phúng, lại mang nặng căm hờn, thoáng thêm phần gì điên rồ khó tả, Ninh Hoài Sam nghe thấy mà rợn cả người.

“Con ta, con ta, con ta… cả miệng câu nào cũng là con ta.” Phong Huy Minh chẳng thiết ngước mặt mà chỉ khẽ gật đầu và nghẹn ngào lặp lại những lời gia chủ nói, sau đó hừ cười, “Rốt cuộc năm đó tôi ngu đần tới mức nào, khờ dại tới mức nào! Để rồi chỉ nghe ông gọi “con ta” vài lần đã mụ mị cả đầu óc, chẳng còn thấy rõ phương hướng nữa?”

Hắn cười một tràng dài, nấc lên nghẹn ngào, “Tôi còn tưởng hai chữ này mới trân quý làm sao, phải mang đậm chân tình cỡ nào, đến mức một tiếng gọi thôi mà tôi đã ngỡ chúng ta là người một nhà, tôi đúng là…”

Hắn th ở dốc hồng hộc, lúc nhấc mặt lên đã thấy trong mắt đỏ au. Đôi mắt ấy giương thẳng về phía gia chủ nhà họ Phong bên kia ánh đèn dầu hửng lửa, hắn cất giọng khẽ khàng, “Tôi chính là một mầm non tuyệt vời, đây chính là lời ông thường nói với tôi đấy thôi. Trước đây tôi chưa hiểu rõ, nhưng bây giờ đã tỏ tường hơn cả…”

“Tôi chính là một mầm non tuyệt vời đúng không, chỉ bằng mấy câu ‘con ta’ đã lừa được tôi xoay mòng mòng, còn tìm ở đâu ra một đứa nhỏ ngu ngốc như vậy? Trước đây ông đem tôi về nuôi chắc đã nghĩ thế đúng không?”

Bằng không sao lại thốt ra những câu như “tám tuổi là vừa đẹp” được chứ.

Khi được gia chủ nhà họ Phong nhận vào, hắn chỉ vừa tròn tám tuổi, hiểu được đôi điều. Hắn hiểu rõ thân phận mình tan cửa nát nhà, không cha mẹ người thân, phải hứng chịu cuộc sống rày đây mai đó ăn bữa nay lo bữa mai. Nhưng nhờ ơn gia chủ mà từ lúc ấy, hắn có một mái ấm che gió che mưa, hắn có một mái nhà.

Để từ đó về sau, hắn phải cảm tạ người này cho những gì hắn đạt được trong đời, sư phụ của đệ tử đường nói: Con người sống cần có lòng biết ơn.

Hắn nhớ nằm lòng câu ấy rất nhiều năm.

Hắn biết rằng mình không mang dòng máu nhà họ Phong, tất cả những đãi ngộ mà hắn nhận được đều không phải là chuyện đương nhiên, mà đánh đổi bằng sự chịu thương chịu khó, ngoan ngoãn, và giữ thể diện cho gia trưởng trong họ…

Người ta nói gia chủ hiếm khi niềm nở, không phải là một người cha biết quan tâm, và luôn đòi hỏi vô cùng nghiêm khắc. Để ông mỉm cười còn khó hơn lên trời, muốn được nghe một câu khen ngợi động viên cũng chẳng dễ dàng gì. Đã từng có một quãng thời gian rất dài, mỗi ngày hắn chẳng mong gì hơn là được gia chủ gật đầu và nói “tốt lắm”.

Hắn nỗ lực tu luyện hơn hết thảy các đệ tử, làm hỏng nhiều quần áo luyện công và đá kiếm hơn bất kỳ một ai. Sau bảy tám năm, cuối cùng đến một ngày kia, gia chủ đã mỉm cười với hắn và nói, “Con là một mầm non tuyệt vời”.

Chỉ một chữ “con ta” đã nhen lên ảo giác “phụ từ tử hiếu” trong lòng hắn.

Khi đó hắn còn trẻ tuổi và tràn đầy nhiệt huyết, lòng ngập ý chân thành, thiếu điều khoét trọn quả tim hiến dâng cho nhà họ Phong, chỉ cầu tận lực giúp ích cho gia tộc. Thậm chí, hắn còn từng nói với Phong Thù Lan, “Nếu ngày nào phải đánh đổi tính mạng mình, ta cũng cam lòng.”

Và nhận được một chậu nước lạnh từ Phong Thù Lan, nàng nói, “Chúng ta căn bản không khác gì những đệ tử khác.”

Thế là từ hôm đó, giữa hắn và người “muội muội” Phong Thù Lan này đã có sự ngăn cách mang tên “đạo bất tương đồng bất tương vi mưu” (1).

(<i>1) Câu thành ngữ xuất phát từ quyển Luận ngữ – Vệ linh công của Khổng Tử, ý nói những người với quan điểm và chí hướng khác nhau thì không thể làm việc, hợp tác với nhau.</i>

Con tim hắn bị mê muội trong hai chữ “con ta” hết lần này đến lần khác, nó khiến hắn cảm thấy dù mình chỉ là con nuôi nhưng không khác gì con ruột. Hắn cũng tin rằng sau này mình sẽ được gánh vác trọng trách của gia chủ, bằng không sao gia chủ lại kể cho hắn nhiều chuyện xưa tích cũ và trao hắn vô vàn cơ duyên của nhà họ Phong cơ chứ?

Hắn tự dối mình trong “mê hồn trận” suốt gần trăm năm, mãi đến một ngày nào đó, hắn bất chợt phát hiện có một luồng tử khí như có như không phảng phất toả ra từ người hắn.

Ban đầu, hắn còn tưởng có sơ suất trong lúc trảm diệt tà ma nên bị trúng chiêu mà không biết.

Nhưng ngu ngốc hơn cả chính là việc hắn đi nói chuyện đó với gia chủ…

Giống như một đứa con trai bình thường bỗng bị thương nên đã tìm phụ thân mình hỏi ý, hắn đã thành thật khai báo hết mọi thứ với người chủ gia đình.

Phong Huy Minh không bao giờ quên được ngày đó — nét mặt gia chủ tràn đầy ưu tư, ông gọi trưởng lão y đường đến cho đích thân vị trưởng lão đó xem bệnh cho hắn. Sau đó, ông dẫn hắn đến khu mật địa kia và mượn sức mạnh của thần mộc để hồi phục.

Mà hắn còn thấy cảm động khôn cùng…

“Thế mà lúc đó tôi còn xúc động đến luống cuống tay chân cơ đấy, ông có biết không!” Phong Huy Minh đạp chân xuống đất, phóng ngay một bước tới trước mặt gia chủ nhà họ Phong, mũi kiếm rê trên sàn đá lạnh lẽo rạch thành một vết nứt sâu hoắm.

Hàng mày gia chủ nhăn nhúm, những sợi xích gãy lìa lại đột ngột vung lên, mỗi mối đứt biến thành một lưỡi dao bén ngót phóng băng băng về phía Phong Huy Minh!

Phong Huy Minh cũng tuôn kiếm khí ào ào khắp người, từng lưỡi kiếm khí sắc trắng đâm mạnh chắn lấy một lưỡi dao.

Chỉ loáng mắt mà những tia điện b ắn ra khắp nơi.

Phong Huy Minh trông như không chút e sợ những lưỡi dao kia. Đôi mắt đã đỏ oạch, hắn không ngừng ép mình về trước, nghiến răn nói, “Trước đây tôi chỉ hận không thể đào tim đào phổi trao cho ông! Ông có biết không — hả phụ thân?”

Gia chủ nghe được hai tiếng “phụ thân” kia thì khẽ run những ngón tay đang giữ chặt xiềng xích. Thế nhưng run rẩy đó chỉ là một chút giật nhẹ, sức lực trên sợi xích vẫn giữ nguyên vẹn.

“Trước đây tôi cảm động biết bao nhiêu, đến khi phát giác ra sự thật lại đau lòng thất vọng đến bấy nhiêu,” Phong Huy Minh tiếp tục bước một bước về phía trước, ngón tay xuất huyết dưới áp lực khí kình rung động nhưng hắn chẳng buồn để ý. “Ông đã từng trải qua cảm giác đó chưa? Cảm giác như bị lột tr@n trụi đứng giữa cánh đồng tuyết ấy, với nỗi đau đớn còn khó nhịn hơn cái chết…”

Nét mặt gia chủ cuối cùng cũng hơi ngây ra, đoạn lại nhíu chặt mày lần nữa và nói, “Con biết? Con… biết?”

Phong Huy Minh chậm rãi bật cười, đáy mắt hắn căng tràn châm biếm xen lẫn chút giằng xé đau thương. “… Đúng vậy, mỗi lần vào trong toà tháp này và dùng sức mạnh thần mộc để điều trị, luồng tử khí kia tạm thời được che giấu. Nhưng về lâu về dài, có ngốc đến đâu cũng sẽ nhận ra chỗ bất thường chứ? Sao ông lại ngạc nhiên như vậy.”

“Hay là… trong mắt ông, tôi ngu đến hết thuốc chữa rồi? Ngu đến mức không nhận ra được cả manh mối này?”

Gia chủ mấp máy khoé môi.

Khi hắn hỏi đến đây, ngay cả nhóm Ô Hành Tuyết cũng nhíu mày.

Đánh giá phản ứng trước đó của Phong Huy Minh, rõ ràng hắn biết trên người mình có tử khí, nhưng mọi người cho rằng hắn chỉ cảm thấy kỳ lạ hoặc loáng thoáng nghi ngờ mà thôi.

Mà lúc này nghe được lời bộc bạch của hắn mới ngỡ ra hình như… hắn không chỉ cảm nhận được tử khí trên người mình, mà còn biết đến sự tồn tại của trận pháp đổi mệnh.

Ninh Hoài Sam nhìn Phong Huy Minh, cầm lòng không đặng phải lầm bầm, “Ngươi… tội gì phải thế? Điên rồi à?”

Phong Huy Minh nghẹn giọng trả lời, “Ta tội gì sao? Ta cũng muốn biết ta có tội gì đây! Ta hoàn toàn có thể phản chiêu cơ mà!”

Phong Huy Minh nhìn sang gia chủ, nói, “Tôi có thể phản chiêu và giết ông, ông có biết không?! Tôi đã mưu tính không biết bao nhiêu lần trong đầu, đã mường tượng rất nhiều phen! Chỉ cần một lần trong đó thôi, chỉ cần tôi hạ quyết tâm bất kỳ một lần nào trong đó thì có thể khiến ông chết ngay trước mặt tôi. Tôi có thể dùng hàng trăm cách để ông sống không bằng chết, ép cung ông, tra tấn ông, bắt ông phải chính miệng nói ra đã bày trò gì trên người tôi —”

Kiếm khí hắn lại tiến về trước một tấc, sức ép đè nặng đánh vang xiềng xích trong tay gia chủ, khiến cả hai phía đều run bần bật.

“Thậm chí, tôi có thể ép ông phải tự mình dời hết toàn bộ những thứ trên cơ thể tôi lên người ông. Tôi đã từng nghĩ về nó cơ man là lần —”

“Vậy tại sao ngươi không xuống tay?” Ninh Hoài Sam tiếp tục hỏi.

“Ta —” Phong Huy Minh rốt cuộc không cách nào dồn nén khốn khổ trên nét mặt mình, nhìn vào có phần đáng thương. Hắn đang đăm đăm mắt vào gia chủ trước mặt, nét mặt hắn tối tăm, đôi môi run rẩy nhưng không nói nổi một chữ nào.

Tại sao?

Bởi vì hắn do dự thiếu quyết đoán, dù cũng chẳng phải quân tử gì nhưng muốn tàn nhẫn dứt tình cũng tàn nhẫn không tới.

Mỗi lần ý nghĩ hung độc đó nhen nhóm, hắn lại nhớ về khoảnh khắc được dắt đến trước cửa nhà họ Phong, nhớ đến câu nói “con người sống ở đời phải biết nhớ ơn” của người sư phụ trong đệ tử đường năm nào.

Cũng vì vậy mà tất cả những suy nghĩ hung độc, phản chiêu giết ngược mãi mãi chỉ hiện hữu trong giấc mơ, chỉ cần hắn mở mắt ra, chỉ cần hắn tỉnh táo lại, tất thảy những chuyện đó đều bị hắn dồn ngược vào sâu tận đáy lòng, nén kín đến mức hắn đã giả vờ rằng mình không hay biết gì cả.

Thời gian cứ thế trôi qua, ảo giác bắt đầu xuất hiện trong đầu hắn, cứ như thể nếu hắn không đụng đến, không hỏi han, không nhìn thẳng vào đại trận đổi mệnh đó thì tất cả mọi thứ cũng chỉ là giả, tất thảy chỉ là u uất sâu nặng trong lòng đã khiến hắn suy đoán lung tung.

Nói cho cùng, hắn cũng chỉ là con nuôi, đã tận sức tận lòng từng bấy nhiêu năm thì dù có là một con chó đi nữa người kia cũng nên lưu luyến chút nào chứ? Sẽ không đành lòng xuống tay chứ?

Cái hắn chờ chính là việc người kia không nỡ xuống tay.

Đến mức mà hắn còn suy tính muốn sớm có chỗ đứng vững chắc và lên đến vị trí cao trong nhà họ Phong. Trước khi đại trận đổi mệnh thành hình, hắn sẽ trở thành người có tiếng nói nhất trong gia tộc.

Trong trường hợp đó, người “phụ thân” này của hắn sẽ biết phân định đại cục, thay đổi suy nghĩ có đúng không.

“Không phải tôi không thể tự cứu lấy mình, ông không hiểu sao?” Phong Huy Minh trầm giọng. “Tôi chỉ đang…”

Chỉ đang muốn thấy ông hối hận, muốn thấy ông thể hiện chút “tình phụ tử”, chỉ thế mà thôi.

Hắn còn chưa nói hết câu, gia chủ dường như đã hiểu rõ lòng hắn.

Trong một thoáng chóng vánh, gương mặt gia chủ hiện lên nét gì đó hơi phức tạp. Nó khiến người ta không khỏi hoài nghi rằng ông ta thật sự có hơi hối hận.

Phong Huy Minh đã bắt được khoảnh khắc mong manh như chớp đó, hắn nheo đôi mắt. Đã đến giờ phút này rồi mà lời hắn thốt ra lại chẳng thật với lòng, “… Ông lại bày ra vẻ mặt giả mù sa mưa để lừa tôi ư?”

Sau mấy lần biến chuyển cảm xúc, gương mặt gia chủ đã đằm lại. Ông vẫn không nói ra lời mà người kia muốn nghe, chỉ gằn thấp giọng giữa lúc gồng mình chống đỡ, “Việc đã đến nước này, ta không còn gì để nói nữa.”

“Việc đã đến nước này?”

“Việc đã đến nước này…”

Phong Huy Minh không ngừng nhắc lại câu trả lời ấy.

Đây là vấn đề sinh mạng, là biết bao tâm tình phức tạp dằn xé ngần ấy năm, mà cuối cùng chỉ gói gọn trong năm chữ “Việc đã đến nước này” nhẹ cẫng.

Ngay khi nghe được câu đó, tia sáng mong manh cuối cùng trong đáy mắt Phong Huy Minh cũng phai nhạt.

Đến tận lúc này, hắn mới vỡ lẽ thì ra bản thân vẫn còn ôm một khao khát mong manh, khao khát người kia sẽ hối hận dù chỉ chút ít thôi. Bởi như thế, ít ra tấm lòng trung trinh thời niên thiếu của hắn cũng sẽ bớt phần trớ trêu.

Nhưng tiếc thay, trớ trêu vẫn hoàn trớ trêu.

Cuối cùng, hắn không đắn đo nữa, không thiếu nhẫn tâm nữa. Hắn lắc đầu khe khẽ, rồi đột ngột bùng nổ —

Khoảnh khắc đó, kiếm khí mang nguồn lực khổng lồ tuôn trào ra khỏi thân thể hắn, nhuộm trắng bốn bề. Đây là tất thảy những gì hắn học được trong hơn trăm năm ở nhà họ Phong; chăm chỉ, cần cù, mua vui cho người khác đều bao bọc trong luồng kiếm khí, bổ sung cho lưỡi trường kiếm hắn siết chặt trong tay.

Bao hồng hào trên mặt nhanh chóng phai nhạt, tử khí trên cơ thể tăng lên nhanh chóng. Phản ứng này đã nói rõ — hắn đang chiến đấu bằng chính sinh mệnh của mình.

Gia chủ nhà họ Phong vừa gánh chịu một đòn dưới tay Tiêu Phục Huyên, bây giờ lãnh thêm mệnh chiêu này nên không gắng gượng nổi nữa.

Một khoảnh khắc, ông ta bất chợt trừng to đôi mắt, tiếp đến chầm chậm gục đầu.

Thanh trường kiếm mang chữ “Phong” kéo theo kiếm khí trắng bạc xuyên thẳng qua cơ thể ông, tàn dư xiềng xích trong tay cũng tan thành cát bụi.

Sau đó, ông nghe được giọng Phong Huy Minh, “Tôi vui lắm…”

Kể từ ngày nhận ra mình chỉ là vật hy sinh, hắn đã nén trong lòng một nỗi uất nghẹn, u sầu không vui, và không bao giờ mỉm cười được nữa.

Cho đến tận giây phút này, hắn mới cảm thấy thật sung sướng.

Và khi đó, Tiêu Phục Huyên nhấc ngón tay lên.

Vừa nãy y không xen vào mà chỉ chờ đợi, chờ đợi Phong Huy Minh tìm cho bản thân một lời đáp.

Bây giờ đã có lời đáp, nạn nhân đã có thể vui lòng. Thì y cũng không chần chờ nữa.

Chỉ thấy trong vòm tháp cao loé lên ánh vàng, bóng kiếm khổng lồ mang chữ “Miễn” c ắm vào linh phách của gia chủ nhà họ Phong, xuyên thẳng xuống mặt đất.

Đó lại là một đợt thẩm vấn.

Lời tác giả:

Yên tâm ha ~ thẩm vấn lần này nhanh thôi à ~
 
Back
Top Bottom