Tiên Hiệp Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 20: 20: Trang Tương


"Bị điểm triệu đã đủ thảm rồi, bây giờ vậy mà còn thi cốt vô –––– "
"Đừng nói nữa."
Đệ tử tiên môn mặt đỏ kia xì xào lầm bầm nửa chừng đã bị sư huynh của mình củng một giò.
Ô Hành Tuyết nhìn bọ họ một cái, quay đầu lại, phát hiện mấy bá tánh kia sắc mặt cực lỳ khó coi, nhìn chằm chằm lá bùa trong tay Tiêu Phục Huyên, dường như có chút hoảng hốt.

Trong đó có một người càng run rẩy hơn cả, đứng cũng không vững.
Hắn có thể là muốn khom lưng hoà hoãn lại một chút, kết quả lại ép áo khoác kia một cái mùi cống hương nồng nặc lại toả ra khắp nơi.
"......"
Đệ tử tiên môn một bước dài tiến lên giữ hắn lại.
"Sư đệ ta không lựa lời, cả ngày đều nói bậy." – Đệ tử kia lo sợ mùi cống hương quá nặng sẽ dẫn tới một ít thứ nguy hiểm, nói không ngừng: "Thật ra đều không phải là tệ hại như vậy, có lẽ là......!có lẽ là......"
Hắn có lẽ nửa ngày cũng không có lẽ ra được cái gì, vẻ mặt cầu cứu mà nhìn sang, gấp đến mức mặt đỏ tai hồng.
Ô Hành Tuyết thầm nói nhìn ta làm gì, ta có thể có lẽ được cái gì tốt, mở không chừng còn doạ người hơn cả sư đệ ngươi.
Hắn im lặng một chốc lại chọt Tiêu Phục Huyên một cái.
Chọt xong hắn mới phản ứng lại hình như có chút quá thuận tay.
Tiêu Phục Huyên đang lật xem lá bùa dừng lại, liếc nhìn ngón tay chọt mình, sau đó quay đầu nhìn đệ tử tiên môn cầu cứu kia.
Đệ tử đầy mặt viết "Làm ơn, mở miệng nói cái gì đó cắt ngang đi, giải vây giúp ta đi."
Vì thế Thiên Túc thượng tiên mở miệng vàng.
Hắn hỏi người phụ nữ: "Lệnh thiên kim tên gì họ gì."
Ô Hành Tuyết: "......"
Mấy chữ này thêm vài nét bút chính là ý tứ –––– hai người con cái của ngươi đoán chừng cũng giống Triệu Thanh Lai này, cũng ở bên trong tượng đồng nam đồng nữ cũng viết tên bên trên, nói tên ra để bọn ta tìm xem.
Mấy bá tánh kia lôi kéo đệ tử tiên môn tới nơi mục nát này mục đích đúng thật là như thế, lời này cũng không sai.....
Nhưng miệng vàng này về sau vẫn là đừng mở bừa bãi.
Ô Hành Tuyết thầm nghĩ.
Vị tiểu đệ tử xin giúp đỡ kia đóng băng tại chỗ luôn rồi, cả mặt tái mét.
Người phụ nữ kia càng sụp đổ hơn, nàng lảo đảo đỡ lấy vách đá, biểu tình một mảnh trống rỗng, cả người không kiềm được mà run rẩy.

Hai tiểu đệ tử khác lập tức bước đến vỗ nhẹ lưng nàng.
Nàng cả vỗ nhẹ cũng không chịu nổi, vỗ một cái đã suy sụp thêm một ít.

Nàng khom lưng run lên một lúc lâu, ngẩng đầu nhìn Tiêu Phục Huyên, giọng khản đặc thì thào: "Ta hai tiểu nha đầu tuổi tác còn nhỏ......!gọi......!gọi......"
Nàng nghẹn một hồi lâu mới đọc ra hai nhũ danh: "Gọi là A Nguyên, còn có A Đài."
"A Nguyên......"
"A Đài......"
"Chờ ta, từ từ đã nha."
"Từ từ ta."

Người phụ nữ lại nhỏ giọng lặp lại vài lần, mặc dù không ra tiếng, môi vẫn luôn cử động.

Cũng không biết là đang an ủi hai tiểu nha đầu không biết hồn linh đang ở nơi nào hay là đang an ủi chính mình.
Nàng đã nói tên, những người khác cũng không kiêng dè, lần tìm dọc theo vách đá.
Bọn họ lần tìm mới phát hiện huyệt mộ không phải chỉ có một cụm như vậy mà còn khá dài.

Chỉ vì ngẫu nhiên có vài khúc cua, ánh sáng từ đèn dầu trên lỗ thủng bị giấu sau khúc cua, vừa nhìn thấy tựa như đã tới cuối đường.
Thật ra lại không phải, nó được xây dựng dựa theo sơn cốc, cực dài, còn có rất nhiều ngã rẽ, hướng đi kỳ quái.
Mấy vòng ngoặt một lần, mọi người lần sờ cũng không ra phương hướng.

La bàn của đệ tử tiên môn ở chỗ này căn bản không thể dùng, bọn họ không hiểu ra sao mà băng qua vài ngã rẽ, đột nhiên ý thức được bản thân không đi theo la bàn mà là đi theo Tiêu Phục Huyên.
Nhưng dù là Tiêu Phục Huyên cũng tạm thời dừng lại một tích tắc ở mấy ngã rẽ.
Ô Hành Tuyết quan sát, cuối cùng hỏi: "Ngươi không phải đã tới?"
Tiêu Phục Huyên "ừ" một tiếng.

Hắn ngừng bước, ngón tay thật dài ấn nhẹ vách đá, hơi dùng lực lập tức chấn tảng đá rơi xuống từng mảnh.
Ô Hành Tuyết: "Vậy tại sao không biết đường?"
Ngón tay Tiêu Phục Huyên thăm dò trong khe đá, rũ mắt chớp nhẹ, nói: "Không có vào."
"Không có vào?" – Ô Hành Tuyết hơi ngạc nhiên, "Vì sao?"
Cả tảng đá chắn đường khổng lồ bị hai ngón tay xốc lên, ầm vang một tiếng rơi xuống đất, chấn đến bụi mù xám xịt.

Ô Hành Tuyết đứng trong bụi mù híp mắt một chút lại nghe thấy giọng nói trầm thấp của Tiêu Phục Huyên: "Không muốn vào."
Trong đầu bỗng hiện lên một hình ảnh, dường như là một đêm lạnh Đại Bi cốc tràn ngập khói bụi, cũng có một bóng người cao cao đứng trong sương mù, cách cầu treo thật dài nhìn vào đại cốc.
Ô Hành Tuyết ngẩn ra.
Hắn hẳn là đã gặp qua cảnh tượng như vậy nhưng cố nhớ lại hắn lại không thể nào nhớ nổi.
Đến khi hắn hoàn hồn đã nghe mấy đệ tử tiên môn kia nói: "Lại là một bức tượng đồng tử!"
Bọn họ một đường tìm được hai bức tượng đồng tử đồng nữ, đều là trống không, bên trong đầy máu khô.

Bên trên đều dán lá bùa, viết tiên sứ kính cung.
Một cái tên là Lưu Chí, một cái tên Liễu My.
Nghe thấy là một nam một nữ, cũng đều không biết tung tích.
Tính cả Triệu Thanh Lai lúc đầu, trước mắt bọn họ là cái tượng đồng tử thứ tư.

Bọn họ đã hình thành thói quen, theo bản năng rút kiếm chém một cái tượng đồng tử chia năm xẻ bảy......
Lộ ra một người.

Đó là một nam tử thành niên lại lấy một kiểu gập xoắn làm xương cốt đứt gãy, cổ là một đường đứt gãy, đầu chôn vào trong ngực.
Đệ tử tiên môn cả kinh vội vàng thối lui mấy trượng, lưng tựa vào phía bên kia của vách đá.
Sau một lúc lâu, bọn họ lẩm bẩm: "Cái này tại sao lại còn ở bên trong? Có biến thành hung vật hay không?"
Bọn họ cầm kiếm đến thăm dò lại thấy Y Ngô Sinh lấy lưng ngón tay chạm vào cái đầu kia, lắc lắc đầu.

Hắn nắm giấy nói: "Không có việc gì, lại đây đi."
Ô Hành Tuyết quan sát hình thái xác chết này, đoán chừng đây là tiều phu bị điểm triệu đầu tiên.
Mảnh sứ kẹp lá bùa, trên lá bùa là tên tiều phu, viết vô cùng xiêu vẹo trúc trắc.
Lúc trước chỉ là nghe đồn đãi chưa nhìn thấy người, còn chưa có cảm giác chân thật.

Giờ phút này tiều phu trong lời đồn kia ngồi xếp bằng trước mặt họ, vừa làm người khác sởn tóc gáy vừa có chút không thoải mái.
Mấy bá tánh kia căn bản không chịu đến gần đây, xa xa chen chút ở nơi tối tăm.
Đệ tử tiên môn vẻ mặt không đành lòng mà nhìn tiều phu kia, lại không bày hắn ra đặt ở nơi này.

Vì thế lấy ra một tấm bùa, cẩn thận dán trên trán hắn, đánh dấu lại.
"Chúng ta trước tiên tìm những nơi khác rồi trở lại."
–––––––
Bọn họ tiếp tục dọc theo vách đá đi sâu vào trong huyệt mộ, vừa đi vừa không ngừng do dự.
"Vì sao ba tượng đá trước người đều mất tích, cái này lại vẫn còn đó?"
"Có lẽ là bởi vì tiều phu kia xảy ra chuyện sớm hơn."
"Xảy ra chuyện sớm, linh phách bị tổn hại đến mức không còn lại bao nhiêu, bị niêm phong trong tượng đá cũng không thể động đậy.

Xảy ra chuyện sau, linh phách còn lại nhiều hơn một ít, không thể niêm phong được."
Còn không niêm phong được sẽ làm cái gì thì không cần nói cũng biết –––––
Đói cực kỳ sẽ tìm thức ăn.

Hoặc là không muốn thừa nhận mình đã chết, tìm kẻ chết thay.

Tất cả đều có khả năng.
Đèn dầu trong huyệt mộ lúc sáng lúc mờ, những xác chết bị cắt lìa kia có lẽ đang nằm sấp trong góc nào đó chờ người sống tới.
Nghĩ đến điểm này, tuy là am hiểu tiên thuật cũng sẽ không rét mà run.
Không bao lâu bọn họ lại tìm thấy một bức tượng đồng nữ.
Tượng đồng nữ này bộ dạng loang lổ, một ít màu bị tróc ra, nhìn thoáng qua tựa như nửa bên môi đang cười nửa bên đang khóc.
Có bóng ma từ trước, bọn họ do do dự dự không dám xuất kiếm.

Kết quả một đạo kình phong lướt qua bọn họ, tiếp theo nghe răng rắc vài tiếng giòn vang, tượng đồng nữ kia nứt ra.

Lần này trong tượng đồng nữ vẫn trống không, không có người, chỉ có máu và dấu cào, giống như người bị niêm phong bên trong đã từng dùng sức cào vào bức tượng gốm, ý đồ muốn thoát ra......
Lại nhìn mảnh nhỏ đầy đất, nói rõ......!nó thật sự đã thoát ra.
Lá bùa trong mảnh vỡ chợt "vèo" mà bay ra lọt vào giữa ngón tay Tiêu Phục Huyên.

Hắn mở tờ giấy ra vừa thấy chữ viết trên đó: Tiên sứ Cao Nga kính cung.
"Cao Nga?" – Đệ tử tiên môn trầm ngâm mãi.
Ô Hành Tuyết thấy một tên trong đó rối rắm đầy mặt, hỏi: "Làm sao vậy, nghẹn đến mức một mặt cay đắng."
"Cao Nga......"
"Chậc, Cao Nga?"
Tiểu đệ tử kia đọc lại mấy lần, lắc đầu nói: "Ta chỉ là suy nghĩ vị này là nhà ai, cái tên này ta đã từng nghe qua, nhưng mà hình như không phải nghe được từ sư huynh sư tỷ.

Ôi, không nhớ gì cả, gần đây nghe qua quá nhiều tên khổ chủ, lẫn lộn mất rồi."
Nói đến quá nhiều khổ chủ, bọn họ nhìn thoáng qua Tiêu Phục Huyên.

Dường như muốn hỏi gì đó, lại chùn bước.
Bọn họ quay đầu chọn Y Ngô Sinh tướng mạo tuấn tú ôn hoà: "Tiền bối, ngài nếu thông hiểu lai lịch và cách dùng của sinh linh phù, vậy ngài có biết, nếu thật sự muốn làm tượng thần sống lại, tổng cộng cần bao nhiều tượng đồng tử đồng nữ hay không?"
"Những chuyện làm tượng thần sống lại này đừng xem là thật, dù sao cũng là truyền sai." – Y Ngô Sinh nói, "Ta trăm năm đều chưa từng nghe nói qua có ai thành công."
Thật ra gọi là triệu thỉnh cũng không đúng hoàn toàn.

Bản chất chỉ là làm cho tượng thần ngấm vào một chút điểm nhỏ kinh, sau đó người triệu thỉnh sẽ thông qua tượng thần chuyển những lời họ muốn nói tới bản tôn Tiên Đô nghe.

Có nghe được hay không là chuyện khác.
Đây là trận pháp mà tiên môn chính quy đều sẽ không dùng qua, coi như là tập tục dân gian nghe qua rồi thôi.
Thời niên thiếu Y Ngô Sinh vừa lúc thích nghe những tập tục dân gian phố phường này, tuy rằng qua loa không có trật tự nhưng lại rất có ý nghĩa, nghe qua đa phần hắn đều sẽ nhớ rõ.

Nhưng hắn không nghĩ tới, một ngày kia sẽ nhìn thấy những tập tục dân gian đó theo cách như thế này.
Hắn trầm mặc một lúc, đáp: "Chắc là 33 vị đồng tử đồng nữ."
"Vậy đúng rồi." – Đệ tử tiên môn gật đầu.
"Nhớ không lầm thì, người nhà bị điểm triệu đúng là 33 hộ.

Đúng không sư huynh?"
"Đúng vậy.

Tính đến hôm nay, vừa đúng 33 hộ."
Vừa đúng 33 hộ?
Ô Hành Tuyết bỗng nhiên mở miệng nói: "Hay là các ngươi nghĩ lại lần nữa, có thể đếm được bao nhiêu?"
Tiểu đệ tử tiên môn sửng sốt, da mặt đỏ lên: "Tiền bối đừng có giễu cợt bọn ta, tổng cộng có 33 hộ, còn có thể đếm sai sao?"
"Vậy không đúng." – Ô Hành Tuyết nói: "Có một hộ có hai người, 33 hộ, không phải có 34 người?"
Nhóm tiểu đệ tử sửng sốt, phản ứng lại.

Gia đình dẫn bọn họ tới Đại Bi cốc chính là nhà của hai tiểu cô nương A Nguyên và A Đài, nếu đếm như vậy chẳng phải dư một người.
Nếu thiếu, còn có thể nói là chưa gom đủ người.

Bây giờ nhiều hơn một người, vậy trận pháp kia có thể thành không?
"Huống hồ, vì sao lại thêm một người?"
"Là đếm dư ai sao?"
"Hỏi một chút đi."
Tiểu đệ tử kia muốn hỏi mấy bá tánh một chút, kết quả vừa quay đầu lại đã phát hiện người phụ nữ kia đứng sau lưng hắn, cách hắn rất gần, đôi mắt đen nhánh sâu thẳm nhìn hắn.
Một chớp mắt kia, tiểu đệ tử bông nhiên nhớ tới, la lên: "Cao Nga!"
Hắn cuối cùng cũng nhớ ra được, cái tên "Cao Nga" trên tượng đồng nữ này không phải nghe từ trong miệng sư huynh sư tỷ hắn mà là người phụ nữ này khi đến tìm hắn đã tự báo tên họ, nàng nói hai đứa con gái của nàng bị triệu vào Đại Bi cốc, muốn bọn họ trợ giúp đi tìm trong cốc.
Nếu bị điểm triệu căn bản không phải hai đứa con gái thì sao?
Nếu......!chính là bản thân nàng thì sao?
Vậy 33 hộ kia, nhân số đã vừa khớp rồi.
Ngay sau đó hắn lại nghĩ đến, bọn họ tìm được tượng đồng tử đồng nữ trống không tổng cộng có bốn cái, theo tên gọi là hai nam hai nữ.
Mà bá tánh tìm bọn họ vào cốc vừa vặn cũng bốn người, hai nam hai nữ!
Cao Nga nở một nụ cười với hắn, đôi mắt đen nhánh cong cong, miệng lộ ra từ khăn vải thật dày, cũng là một đường cong tối om.
Tiểu đệ tử lông tơ dựng ngược, kiếm bay ra ngoài.
Trong tích tắc, khăn vải bọc quanh cổ Cao Nga trải ra, lộ ra chữ giữa cổ.

Cái cổ bị cắt dọc theo con chữ, chỉ có một chút da thịt còn dính liền, theo động tác của ả lung lay sắp đổ.
Tiểu đệ tử kia bỗng nhiên hiểu rõ, vì sao mấy bá tánh lại quấn quần áo quanh người, tay chân đều bó cực chặt.
Đó là bởi vì sợ tan......
Có lẽ là cảm thấy không giấu được nữa, bốn bá tánh kia không giả vờ nữa, từng người một người liền áp sát theo.
Ba tên trong đó chọn ba tiểu đệ tử tiên môn kia, còn một tên còn lại thì lủi đến bên này.
Khi Ô Hành Tuyết cảm thấy sau lưng có hơi thở, khe khẽ thở dài.
Thầm nói thật sự chọn.
Hắn cong ngón tay lên, quay đầu lại đối diện với ánh mắt của Tiêu Phục Huyên.
Ô Hành Tuyết: "......"
Tích tắc sau, vừa mới đánh nát một đống *m v*t – Chiếu Dạ thành chủ lại buông tay, mũi chân vừa chuyển đến sau lưng Tiêu Phục Huyên.

Ngón tay hắn chống lưng thượng tiên đẩy về phía trước một bước, nói: "Thượng tiên cứu mạng, ta sợ."
Tiêu Phục Huyên: "......"
Ninh Hoài Sam và Phương Trữ: ".........................................."
Hai bọn ta càng sợ hơn ngươi tin hay không?
_________________
Tác giả có lời muốn nói:
Đợi lâu rồi QAQ, ngày mai nghỉ một ngày để dành, ngày mốt nhập V đổi ba hợp một.

Yêu mọi người~.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 21: 21: Gò Mộ (Mộ phần)


Chọn trúng quỷ xui xẻo Ô Hành Tuyết đúng là "tiên sứ" Triệu Thanh Lai bọn họ tìm được đầu tiên.

Triệu Thanh Lai giấu móng tay dài nhọn bên dưới ống tay áo, sắc như lưỡi dao, cào lên vách đá dễ dàng tạo ra một khe rãnh.

Hắn chọn Ô Hành Tuyết chính là bởi vì đối phương có vẻ cao quý lại mảnh mai, tay không tấc sắt, vừa thấy chính là loại công tử ca chỉ chơi trăng thưởng gió.

Công tử ca cả cái khăn dày chắn gió cũng không bọc, chỉ ôm noãn lô sưởi tay, cổ lại trưng ra như vậy.

Hắn chỉ cần nhẹ nhàng rạch một đường trên cổ kia, máu nóng lập tức phun trào! !

Không cần tốn nhiều sức, tất cả đều thành công!
Triệu Thanh Lai li3m răng, nhìn về bên gáy kia, vỗ tay chính mình một cái ––––
Keng!
Khi thanh âm kia vang lên, Triệu Thanh Lai không phản ứng lại.

Quá chết người, phản ứng luôn chậm hơn.

Đến lục hắn kịp ý thức được đó là tiếng kiếm xuất vỏ –––––
Cái tay muốn rạch cổ Ô Hành Tuyết đã không còn.

Dưới kiếm ý cuồng loạn, hàng ngàn mũi nhọn mở ra như tránh được rét đậm cũng không thể tránh được gió lạnh, lướt qua thân thể Triệu Thanh Lai.

Chiếc áo khoác dày của hắn bị chia năm xẻ bảy, sức lực chống đỡ thân thể cũng đột nhiên không còn.

Hai tròng mắt Triệu Thanh Lai bùng phát hung bạo, đột ngột giương mắt.

Ô Hành Tuyết đã không còn bóng dáng, lúc này chắn trước mặt hắn là một người khác.

Lại thấy người nọ cực cao, trường kiếm không nhẹ không nặng chống trên mặt đất, vịn chuôi kiếm rũ mắt nhìn hắn, lạnh lùng nói: "Tới."



Lai tới không nổi.

Trong nháy mắt, Triệu Thanh Lai đổ mình trên đất, thét lên một tiếng đầy thô bạo rồi dần sang bén nhọn, như một tiếng rít dài vang vọng khắp hầm mộ, nhuốm đầy cảm giác không cam tâm.

Mà không chỉ có Triệu Thanh Lai.

Ba tên bổ nhào về phía đệ tử tiên môn cũng bị kiếm ý bay sang cắt sạch lớp áo bọc.

Các đệ tử tiên môn đâm kiếm ra phía ngoài nhưng không đâm trúng thứ gì. Họ trơ mắt nhìn những người vừa mới hung bạo bừng bừng, giờ thình lình đổ ập xuống thành một đống bùi nhùi.

Khi bị “triệu hoán” vào thung lũng Đại Bi, cơ thể họ đã bị cắt thành nhiều mảnh, mang theo oán hận âm tà sâu sắc, sát khí ngợp trời, ai cũng hẳn là một hung vật đáng sợ.

Song khi họ té vùi tan tác trên mặt đất, thi thể cứng đờ và ngả màu trắng xanh với nhiều vệt lốm đốm khắp người. Họ xoay đầu mấy vòng, mắt hoen đỏ mà long lên sòng sọc…

Mọi người đều không nỡ nhìn.

Bởi đáo cùng thì họ đều từng là người sống cơ mà.

Mấy đệ tử tiên môn còn trẻ tuổi nên hiện rõ cảm xúc ra ngoài nhất, ba người trắng bệch mặt và lùi mấy bước về phía sau, thanh kiếm trên tay muốn xuất chiêu cũng không được mà không xuất chiêu cũng không được. Cuối cùng, họ bất lực nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Y Ngô Sinh là tứ đường trưởng lão của nhà họ Hoa nên gặp qua nhiều tình huống tương tự, đâm ra không bước lùi ra sau. Nhưng với bản tâm của người hành y, hắn vẫn không đành lòng nhìn, bèn theo bản năng cũng ngoái sang phía Tiêu Phục Huyên.

Ở nhân gian không có nhiều lời tương truyền về vị Thượng tiên này, nói cho cùng những người dính líu đến y đều là những kẻ chí tà chí ác. Y không bàn phúc hoạ, mặc kệ cát hung, bỏ mặc tất cả ước nguyện của mọi nhà, và cũng không bảo vệ bất cứ điều gì.

Tranh vẽ y rất hiếm, tượng thần cũng chẳng mấy bức, đa phần đều đặt ở cánh đồng Gia Minh nơi người thường không ai dám bén mảng.

Những vị tiên khác như các tiên nhân thuộc Linh đài đều có tranh vẽ và tượng thần đượm ý cười, mang gió xuân thổi tràn thế gian.

Chỉ mỗi tượng thần của riêng mình y, dù khắc ra giống thật hay không vẫn chung một nét lạnh lùng vĩnh cửu, chẳng có lấy một điểm nụ cười.

Thế nên khó trách vì sao chúng bá tánh không chuộng thờ phụng vị này. Thoạt trông, hết thảy tụ tán ly hợp và sinh tử buồn vui của người thường đều không cách nào lung lay ánh mắt y dù chỉ đôi chút.

Chẳng hạn như lúc này đây, khi y rủ mắt, ánh mắt buông xuống phía trên cao từ khe mắt dài và lướt qua những cánh tay cẳng chân, những mái đầu tàn tạ, nhìn đến bằng nào cũng không mảy may khép lại, trên mặt không vỏn vẹn một luồng xúc cảm.

Y nhìn qua rồi cũng chỉ hơi nhướn nhẹ hàng mi mỏng.

Tiếng rít gào của nhóm Triệu Thanh Lai càng thê lương đến cùng cực, nó vọng trong hầm mộ để lại âm vang thoáng nét bi thương.

Mà Tiêu Phục Huyên hoàn toàn ngó lơ tiếng vọng ấy, y thu kiếm ý về và tra kiếm vào vỏ.

Trong giây phút đó, hết thảy mọi người có mặt trong ngôi mộ đều thấy nao nao.

Cảm giác nao nao không bắt nguồn từ thích hay ghét, mà chỉ vì phong thái quá nhọn quá bén, đó là dáng vẻ nghiêm nghị lạnh căm khiến mọi người không thoải mái.

Cảm giác như một thanh gươm đã chém giết quá nhiều thứ thì cho dù có lau sạch vết máu, giấu vào trong lớp vỏ bọc ngọc ngà và ngâm mình dưới vầng trăng cô lẻ sáng ngời ấm áp, thì nó vẫn là một thứ binh khí hung tàn không ai dám chạm đến.

Chỉ riêng Ô Hành Tuyết không thấy vậy.

Chàng vẫn luôn tựa tay vào lưng Tiêu Phục Huyên, khi Triệu Thanh Lai và những người kia ngã xuống đất khiến đầu và tứ chi họ lăn lông lốc các nơi, chàng cảm thấy Tiêu Phục Huyên hơi nghiêng người.

Động tác ấy cỏn con lắm, thoáng đến độ Ô Hành Tuyết còn chưa kịp ngỡ ra.

Mãi đến khi tầm nhìn của chàng bị chắn hoàn toàn khỏi những cánh tay cẳng chân gãy lìa kia và không nhìn thấy những đôi mắt trợn trừng không nhắm đó, thì chàng mới vỡ lẽ rằng Tiêu Phục Huyên đang chắn trước mặt mình để giúp mình không phải nhìn những gì diễn ra trên mặt đất.

Điều này quá hiếm hoi.

Sao lại có người cản lại tầm mắt của một ma đầu giết người không chớp mắt cơ chứ.

Sau khi bị ngăn trước mặt, Ô Hành Tuyết mới dần dà cảm thụ được, mình đúng thật không muốn thấy những điều đó.

Có lẽ giấc mơ dằng dẵng ở Thước Đô đã thay đổi bản tính chàng. Giờ đây nhìn thấy những tàn tích của chân tay và đầu họ khiến lòng chàng khó chịu vô cùng, giống hệt như việc chàng không nhịn nổi bị dính máu trên tay sau khi gi3t chết lũ vật tính âm kia vậy.

Ô Hành Tuyết lặng người một chốc, ngón tay tựa trên người Tiêu Phục Huyên khẽ động.

“Tiêu Phục Huyên.”

“Ừm,” Tiêu Phục Huyên thấp giọng đáp lời.

Ô Hành Tuyết nghiêng người ra trước tính nói, song đã thấy Tiêu Phục Huyên không chờ chàng bước tới mà ngoảnh đầu lại.

Khoảnh khắc đó, hai người đứng như kề sát nhau, hơi thở gần gũi ngay trước chóp mũi.

Ô Hành Tuyết mím môi, sau một lát thì đứng thẳng người dậy.

Tiêu Phục Huyên trầm giọng nói, “Gọi ta có việc gì?”

Ô Hành Tuyết: “Không có gì, ta tính nói gì đó mà quên mất rồi.”

Tiêu Phục Huyên nhướn mắt, ép hàng mi thành một nếp cung sắc sảo từ đuôi mắt mỏng.

Ô Hành Tuyết nhìn y và nhỏ nhẹ, “Vậy… xin đa tạ Thượng tiên?”

“…”

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ nghe được câu tạ ơn mà thấy muốn chết quách cho xong.

***

Những khúc tay chân gãy lìa la liệt trên đất không hề nằm yên mà vẫn luôn tranh nhau vồ vập, ngón tay sắc nhọn cào trên đất vang lên những tiếng kẽo kẹt liên hồi, tưởng chừng chúng đang muốn bấu lấy nhau mà chống thẳng dậy.

Đệ tử tiên môn nghe tiếng mà sởn hết cả tóc gáy, xoa tay sau cổ rồi mò mẫm khắp người.

“Túi càn khôn của đệ đâu rồi? Sư huynh ơi, huynh có cầm theo không? Nếu không đem những, những thứ…”

Tròng mắt nhóm Cao Nga, Triệu Thanh Lai vẫn còn đảo điên chưa dứt, nhìn mọi người chòng chọc, miệng khép mở không ngừng như đang nói gì đó. Trước cảnh tượng như vậy, các đệ tử trẻ không tài nào thốt lên được hai tiếng “hung vật”.

“Cho tất cả bọn họ vào túi sao?! Không thể để họ rời rạc như vậy được, hay là chúng ta dùng phù dán lại?”

“Nhưng dán lại bằng cách nào? Ta không đem theo nhiều phù đến vậy!”

Người tiều phu lúc nãy dù gì cũng còn tương đối nguyên vẹn, chỉ cần dán một tấm phù để đề phòng anh ta không đột ngột dựng xác dậy gây rối mà thôi. Còn khung cảnh trước mắt hiện tại là một mớ hỗn loạn, tứ chi vung vãi khắp nơi, cho dù muốn dán phù cũng không biết nên dán vào phần nào.

Cậu để tử khó khăn lắm mới lấy được túi càn khôn ra, ngồi xổm người xuống tính thử dán xem thì bị một cánh tay đứt lìa trong đám đó đột ngột nắm lấy.

“A!!!”

Cậu nhảy dựng người lên, rút kiếm ra vừa tính chém đứt cánh tay kia rơi xuống thì nghe thấy một âm thanh vô cùng nức nở, “Xin người, tiểu sư phụ ơi, tôi xin người…”

Cậu đệ tử trẻ khóc không ra nước mắt, suýt nữa đã cầu ngược lại cô gái, “Cầu cầu cái gì, cô cô cô bỏ tay ra trước đi đã.”

Móng tay sắc nhọn cấu vào da thịt cậu, siết chặt không thôi. “Cầu người, tiểu sư phụ ơi, tôi không thể ở lại đây được, tôi không ở lại đây được, tôi thật sự có hai người con gái, tôi thật sự có mà…”

Cô gái khàn giọng rồi nức nở bật khóc.

Nghe vậy, mọi người mới phát hiện người nói chuyện là Cao Nga.

“Tôi không thể ở lại đây, tôi cần tìm ai đó đến thay tôi, tôi cần phải về nhà…”

“Tôi phải về nhà, tôi cần phải về nhà.”

Cơ thể cô bắt đầu dịch chuyển một cách khó khăn, một cánh tay khác nhanh chóng bò trên mặt đất và nắm lấy chân một người gần đó.

Người bị cô nắm lấy chân không phải đệ tử tiên môn nào, mà là Ninh Hoài Sam.

“Này, cô…” Trong lòng Y Ngô Sinh vừa tính ngăn cản.

Ninh Hoài Sam xụ nét mặt, trên gương mặt hiện lên vẻ hung tàn. Dù gì, cậu cũng khét tiếng trong Chiếu Dạ thành, từng bò mình khỏi biển thây núi xác, làm gì còn mấy nhân tính như các đệ tử tiên môn.

Cậu ta nhanh chóng khom người hạ gối ngồi xuống, li3m răng nanh và bật cười còn khiếp đảm hơn hung vật. “Ngươi xui xẻo cầu sai người rồi, nè bà cô này, đừng thấy ta nhỏ con mà tưởng ta dễ ăn h**p, tính tình ta không được dễ dãi lắm đâu, ngươi mà dám gây thương tích trên mắt cá chân ta, thì ta sẽ…”

“Xin người, xin người tiểu ca ơi, hai đứa con gái nhỏ của tôi còn đang chờ tôi mà, chúng nó còn nhỏ lắm.”

“Chồng tôi đã mất rồi, nếu tôi cũng không còn thì chúng không đường nào sống nổi.”

“Các con tôi thật sự không chịu nổi trần gian này, hai đứa còn quá nhỏ, tôi xin người…”

Cao Nga siết chặt mắt cá chân cậu và nói.

Y Ngô Sinh bước tới tính cản một tay thì thấy móng tay dài nhọn của Cao Nga đã xuyên rách da dưới mắt cá chân Ninh Hoài Sam, máu tươi đổ trượt theo rãnh xương cậu chảy xuống dưới.

Ngón tay cậu cong lên, gân xanh lồ lộ rõ ràng dưới làn da mỏng dính.

Uy áp nặng nề đến vậy, nhưng cậu không hề bóp nát cánh tay không màng sống chết kia. Chẳng rõ vì sao, cậu đã ngừng tay nửa chừng, rồi cứ thế mà nghe lời bộc bạch của Cao Nga.

“Tôi chỉ còn mỗi hai đứa con này, hai chúng nó là mạng sống của tôi đó, cầu xin người.”

“Cầu ta thì có ích lợi gì đâu hả cô ơi?” Ninh Hoài Sam bất chợt nói, vẫn với giọng điệu ngả ngớn khiêu khích người khác. “Cô đã chết rồi, không về nhà được nữa. Hai đứa con cô cũng đã tận số không còn sống nổi đâu. Những tình cảnh như cô ta từng gặp, gặp rất nhiều lần…”

Cậu cất giọng nhẹ tênh, “Mẹ ta trước đây cũng van nài người khác như vậy đấy, nhưng có tác dụng gì không? Không hề.”

Y Ngô Sinh bước đến vừa khéo nghe được câu ấy, ngạc nhiên vô cùng.

Ninh Hoài Sam đang ngồi xổm nên không ai thấy được vẻ mặt cậu khi đó ra sao, chỉ có thể nhìn ngón tay như móng vuốt và đỉnh đầu cậu ta.

Y Ngô Sinh bất giác nhớ đến thời điểm lần đầu gặp ma đầu này mấy chục năm về trước. Khi đó cậu ta mới mười ba mười bốn tuổi, người teo tóp như cây sậy, bộ dáng đánh bừa một phát thôi cũng chết, chỉ riêng đôi mắt sáng ngời để lộ hung ý kiên cường.

Lúc ấy, hắn đã nhủ thầm: <i>Không biết nhà ai mà để con cái mình lầm đường lạc lối.</i>

Mà giờ qua mấy chục năm nhìn lại, tiểu ma đầu nọ đã không còn gầy gòm đến thế, song vẫn không tránh khỏi vẻ ốm tong. Khi cậu ta ngồi xổm trông dáng người nhỏ xíu, mặc dù sát ý ngợp thân nhưng rề rà mãi không xuống tay.

Chắc rằng Cao Nga đã khiến cậu nhớ về giây phút ban đầu lầm lỡ.

“Có tác dụng, có tác dụng, có cách…” Cao Nga vẫn chai lì khóc lóc không buông.

“Hừ, cách gì hả? Có cách mà cô còn tan xương nát thịt như vậy à? Cô nhìn mình xem, suốt ngày tôn thờ những tượng thần kia. Rồi bây giờ khóc lóc thở than đến vậy thì có thần tiên nào hiểu thấu không?” Ninh Hoài Sam nói. “Đã vậy cô chọn sao còn chọn trúng ta, để ta nói cho cô nghe một chân lý, một là tìm cách tồn tại, hai là chết đi, chớ van nài chớ khóc lóc, chấp nhận…”

Chữ “số phận” còn chưa thành tiếng, cậu đã bị đá một phát từ sau lưng.

Đá không nặng, bởi không nặng nên càng khiến cậu bực mình!

Ninh Hoài Sam quay ngoắt ra sau trong vẻ mặt đằng đằng sát khí, và đối diện với thành chủ nhà cậu.

Ninh Hoài Sam: “…”

Chuyện qué gì nữa vậy!

“Bớt nói nhiều dong dài đi. Xoè cái tay nửa buổi mà cũng không thấy ngươi làm gì, tránh ra,” Ô Hành Tuyết dùng chân gạt cậu mấy cái.

Ninh Hoài Sam: “…”

“Không thoát được mà, tại cô ta bám chân ta ăn vạ đây chứ đâu.” Ninh Hoài Sam cất giọng có hơi uất ức, đoạn tránh người ra nhưng chân vẫn yên chỗ cũ để cho thành chủ nhà cậu nhìn xem.

Ô Hành Tuyết nhìn cánh tay bén nhọn bị chặt gãy nọ. “Cô vừa nói là có tác dụng, ắt không phải nói bừa vô cớ, nói ta nghe một chút có cách là có cách thế nào?”

Cao Nga tức thì gào lên, “Tìm người thay tôi! Chỉ cần có người đến thay tôi là được!”

Có vẻ cô đang vui mừng tột độ, giọng nói vỡ oà, “Chỉ cần có người đến thay tôi là tôi có thể quay về.”

Ô Hành Tuyết hỏi, “Ồ, cô đoan chắc thế à? Có ai nói cô hay cách này hay sao?”

Mấy đệ tử tiên môn đều ngỡ ngàng, lòng nhủ thầm <i>đúng vậy</i>. Không phải ai cũng biết đến phù sinh linh, đa phần người bình thường bị nhốt vào trong trận rồi hoá thành hung vật gây rối đều bắt nguồn từ bản tính — họ đói bụng nên phải đi tìm thức ăn.

Còn giả như bản năng muốn tìm người đến chết thay mình thì cũng chỉ nên lang thang trong thung lũng và chờ người ta xui rủi bước vào.

Thế nhưng mấy người này lại rất đặc thù, họ còn biết giả dạng, biết ra khỏi thung lũng để tìm người, thậm chí họ biết được mùi nhang có thể át đi mùi âm thi khí trên cơ thể, để người khác không phát giác được họ đã trở thành hung vật.

Đây quả thật không giống bản năng mù mịt của hung vật mà có vẻ đã được ai đó chỉ điểm cho.

Cao Nga: “Có! Có, có…”

Cô không phản ứng mau lẹ bằng người sống, nên chỉ lặp đi lặp lại hoài một vài câu.

Mọi người liền hỏi, “Ai?”

Cao Nga nhẹ nhàng nói, “Thần tiên, là thần tiên đã cho tôi hay.”

Thần tiên?

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng trên Tiên Đô có rất nhiều vị thần tiên không thọ mệnh, những người kia cũng tương tự Vân Hãi, những bức tượng thần của họ về sau cũng được giữ ở nơi này, chẳng khác nào một ngôi mộ tiên rộng lớn.

Vậy nên, câu trả lời của Cao Nga cũng không quá bất ngờ.

Có điều, những người còn lại không nghe được lời Tiêu Phục Huyên nên tỏ ra khó hiểu, “Tại sao thần tiên lại nói cho cô, và làm sao cô biết đó là thần tiên thật? Cô từng thấy tận mắt sao?”

“Không phải, không phải,” Cao Nga nói. “Là nhờ báo mộng, thần tiên báo mộng cho tôi hay.”

Khi những khúc tay chân la liệt trên đất nghe thấy những lời này thì đều nhao nhao cả lên, bọn Triệu Thanh Lai cũng nhanh chóng nói thêm vào, “Đúng vậy, chúng tôi cũng được báo mộng.”

Đám bọn họ đua nhau mà nói liên tục, nhờ vậy mọi người cũng hiểu được đại khái—

Mấy người này bị triệu hoán đến thung lũng Đại Bi theo phương thức gần giống mộng du, họ tự phanh thây mình thành từng mảnh nhỏ, rồi tự nhét mình vào bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng rỗng này.

Khi những việc này xảy đến, bản thân họ cũng không có ý thức mà chỉ tưởng rằng mình đang ở trong một giấc mơ lạ kỳ.

Trong mơ, họ đến một toà miếu tiên và ngồi xếp bằng ở hai bên bệ thờ, tay ôm lư hương, giống hệt như những vị tiên sứ thực thụ.

Rồi họ theo gót những tiên sứ khác mà niệm kinh tụng kinh, sau bất chợt thấy một bóng hình cao cao bước vào phòng và nói với họ rằng: <i>Các vị đây trần duyên chưa đoạn, còn nhiều âu lo, tạm thời không thể trở thành tiên sứ. Phải làm phiền các vị mời người khác đến giúp.</i>

Đến khi tìm được người đến thay thế là họ có thể quay trở về.

Họ choàng tỉnh lại và phát hiện mình bị nhốt bên trong những pho tượng nam đồng và nữ đồng.

Ngay khoảnh khắc đó, họ sợ hãi tột độ, một nỗi sợ đến chết cũng khó phai.

“Vị thần tiên kia trông như thế nào?” Y Ngô Sinh hỏi.

Đến đây, nhóm Cao Nga không cách nào nói được gì, giống như đã bị người nào niêm phong miệng hoặc hạ cấm chế.

Mà hễ là cấm chế càng khiến mọi người tò mò hơn.

Có điều họ dò hỏi một hồi cũng không nắm rõ được nguyên do nên đành từ bỏ, trái lại hỏi thêm, “Người đó có từng nói cần các người tìm người như thế nào đến thế không?”

Theo lẽ thông thường, nếu mấy bá tánh này muốn tìm người đến thay thì nên tìm người già trẻ con hoặc goá bụa ở những vùng hẻo lánh thì có phải đơn giản hơn không. Theo lời thần tiên nọ nói, tìm người “trần duyên đã kết thúc” thôi chứ tội gì phải liều mạng đi đến tiên môn?

“Có, người nọ có nói mọi việc trong miếu đã chuẩn bị xong xuôi, thế nhưng bốn hướng đông tây nam bắc còn thiếu một chút tiên khí.”

Họ cũng đoán được tiên khí hẳn là ám chỉ người trong tiên môn. Thế nhưng hạng bình dân áo vải như họ thì nào dám tìm những đại đệ tử hay danh nhân lợi hại nào, sau khi nghĩ ngợi mấy phen, họ mới quyết định chọn những đệ tử trẻ mới nhập môn chưa được bao lâu này.

Mà xem ra, vận may của họ cũng không đến nỗi nào, vừa mới mấy hôm gần đây có chuyện xảy ra nên nhiều người đến cửa tiên môn cầu giúp đỡ, dẫn đến hành động của họ cũng không quá bất ngờ.

Thêm nữa, Thương Lang Bắc Vực đã sụp đổ, những nhân vật cấp cao trong các tiên môn phụ cận đều còn ở ngoài chưa về đến, hoặc chỉ vừa về đến nên không có thời gian nhúng tay vào việc này. Nhờ vậy, họ mới hốt được ba tay đệ tử trẻ.

Đệ tử tiên môn cau có bảo, “Thế chẳng phải còn thiếu một người à?”

Cao Nga có phần do dự, nói, “Lừa được bao nhiêu người thì lừa bấy nhiêu người, nếu thiếu… thì chờ cơ hội lần sau.”

“…”

Nhóm đệ tử trẻ càng ngẫm nghĩ càng thấy kinh hãi, mặt mũi ai nấy đều tái mét.

Nét mặt Y Ngô Sinh cũng có đôi phần phức tạp. Hắn liếc sang Ô Hành Tuyết một cái rồi quay về Triệu Thanh Lai và nói, “Vậy tại sao cậu lại chọn người kia… chọn Trình công tử vậy?”

Nếu đã bảo cần tìm người có tiên khí thì ngoại trừ ba đệ tử trẻ ở đây, còn có hai người có thể chọn. Một người là Tiêu Phục Huyên, người còn lại chính là Y Ngô Sinh.

Cho dù Tiêu Phục Huyên thoạt trông có vẻ không dễ tiếp cận, thì vẫn còn hắn đây cơ mà, hiện tại hắn chỉ còn một chút tàn hồn, nếu phải lâm trận thật thì có khi còn yếu hơn ba đệ tử trẻ kia không chừng.

Thế mà cách chọn người của Triệu Thanh Lai cũng thật có cá tính, bỏ lơ qua hắn mà chọn trúng ma đầu kia.

Vốn Y Ngô Sinh chỉ thắc mắc một câu như lời than thở, ngờ đâu Triệu Thanh Lai lại lầm bầm trả lời, “Trong những người có tiên khí thì y có vẻ dễ đối phó nhất.”

Y Ngô Sinh: “…”

Trong những người cái gì???

Khoảnh khắc đó, Y Ngô Sinh cảm thấy một là mình bị điếc, còn không là Triệu Thanh Lai bị mù.

***

Nhóm Cao Nga vừa nói vậy thì mọi người cũng đã hiểu ra.

Thảo nào dù đã thu thập đủ ba mươi ba pho tượng “nam đồng” “nữ đồng” mà toàn bộ hầm mộ trông quá yên tĩnh, chẳng có vẻ gì là sắp mở trận. Hoá ra vì không đúng người nên bốn vị trí đông tây nam bắc còn thiếu bốn người có tiên khí.

“Nói vậy, chẳng lẽ phù sinh linh kia có hiệu quả thật sao? Có thể hồi sinh tượng thần thật sao?” đệ tử trẻ tiên môn nhìn sang Y Ngô Sinh. “Bằng không vị thần tiên nọ đang có ý định gì?”

“Chuyện này…” Y Ngô Sinh cũng không cách nào trả lời được.

“Vô ích thôi,” giọng Tiêu Phục Huyên bất chợt vang lên.

Ô Hành Tuyết quay đầu sang nhìn thì thấy y kẹp tấm phù sinh linh dán trên những pho tượng nam đồng nữ đồng giữa hai ngón tay mình và nói, “Loại phù này ít gặp ở nhân gian, nhưng trên Tiên Đô đâu đâu cũng có.”

Ý chỉ vô cùng rõ ràng, vị thần tiên nào trên Tiên Đô sẽ chọn loại đồ chơi này để hồi sinh chính mình?

“Vậy có khi nào là do người trong dân gian không hiểu nên mới làm như vậy?” nhóm đệ tử trẻ suy đoán.

Tiêu Phục Huyên mấp máy môi, song chưa kịp nói gì thì nhóm đệ tử trẻ đã lắc đầu nguầy nguậy và tự phủ nhận, “Không không không, không thể nào, làm gì có thường dân thiếu hiểu biết nào ở dân gian mò đến chỗ tà môn như thung lũng Đại Bi để lập trận cơ chứ, có mà điên à.”

“Nói vậy tại sao phù sinh linh này dán ở đây?”

“Đúng rồi, lá phù này chỉ gỡ nhẹ đã rơi ra, mấy pho tượng nam đồng nữ đồng kia cũng vỡ không ít…”

Bọn họ lẩm ba lẩm bẩm.

Nhắc đến vỡ, Ô Hành Tuyết thấy Tiêu Phục Huyên hơi chau mày lại, xong quét mũi kiếm vào mấy mảnh vỡ trên mặt đất ra một chút.

Ô Hành Tuyết nhìn theo, thấy trên pho nữ đồng đóng giả Cao Nga bám đầy vết xước và vệt máu. Chàng nhìn vệt máu một hồi, chợt thấy có điểm không đúng.

Sau khi Cao Nga và những người kia hoá hung vật, sở hữu móng tay bén nhọn như đao kiếm, có thể chém sắt như chém bùn, quét qua vách đá để lại đầy rẫy vết nứt, thế nhưng tại sao không thể cứa vỡ những pho tượng nam đồng nữ đồng này mà chỉ cào bới loạn xạ ở mặt trong?

Hơn nữa, những bá tánh này gặp nạn cũng mới gần đây, nhưng mấy pho đồng tử đồng nữa này không khá cũ, có vẻ như đã chút tuổi rồi, nói không chừng còn lâu đời không thua gì tượng thần trong ngôi mộ này.

Vậy trước khi dùng để dán phù sinh linh vào những bá tánh, rốt cuộc mấy pho nam đồng nữ đồng này đã làm gì bên trong hầm mộ?

Mũi kiếm Tiêu Phục Huyên bất chợt khảy lên, một mảnh tượng nhỏ nảy vào trong tay y.

Ô Hành Tuyết thoáng nhìn theo, thấy bên dưới những vết cào cấu rướm đầy máu trên mặt mảnh vỡ dường như có một dấu ấn nho nhỏ, song nó đã bị huỷ hoại gần như hoàn toàn nên không còn nhìn rõ nữa.

“Đây là?” Ô Hành Tuyết hỏi một câu.

“Không nhìn rõ,” Tiêu Phục Huyên dừng đoạn. “Khả năng cao là ấn thờ.”

“Ấn thờ?” Ô Hành Tuyết dĩ nhiên chưa từng nghe nói đến, bèn hỏi tiếp, “Dùng để làm gì?”

Tiêu Phục Huyên: “Để thu thập hương khói thờ phụng.”

Ô Hành Tuyết cười. “Thượng tiên ơi, huynh nhìn xem ta nghe có hiểu gì không?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Người này hiếm khi chịu giải thích cặn kẽ tỉ mỉ những vấn đề nhỏ nhặt không đáng kể này với người khác, song dưới ánh nhìn và nụ cười của Ô Hành Tuyết, y im lặng một chốc rồi tiếp tục nói, “Vốn dĩ, chúng tiên trên Tiên Đô muốn nhận được hương khói thờ phụng từ các tiên miếu dưới nhân gian, cần phải để ấn thờ trên các pho tượng thần.”

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời y kể về Vân Hãi trước đây rằng cuối cùng, vì không nhận được hương khói nữa nên Vân Hãi đã bị phế tiên vị, đẩy ngược về nhân gian.

“Nếu vậy, hương khói thờ phụng với tất cả thần tiên cũng tương tự như thức ăn với bá tánh à. Nếu không có thì không thể sống được?” Ô Hành Tuyết nói.

Tiêu Phục Huyên chỉnh lại lời chàng, “Gần như tất cả.”

Ô Hành Tuyết: “Có ngoại lệ ư?”

Tiêu Phục Huyên: “Ừm.”

Ô Hành Tuyết: “Ví dụ như?”

Tiêu Phục Huyên: “… Ta.”

Ô Hành Tuyết “À” nhẹ một tiếng, thầm nghĩ <i>cũng không khó hiểu. Vị này được triệu hoán thành tiên, không nằm dưới sự quản lý của Linh đài Thập nhị tiên. Hơn nữa còn chưởng về hình xá nên không có liên hệ gì với bá tánh dưới nhân gian, là ngoại lệ cũng là bình thường.</i>

Chàng không hỏi thêm nhiều về điều đó, chỉ nói tiếp, “Dấu ấn thờ bên trên những pho tượng đồng tử đồng nữa này dùng để làm gì? Hầm mộ này nằm sâu bên dưới lòng đất, không có ai đến cúng tế, thì có thể thu nhận hương khói của ai?”

Ô Hành Tuyết nói xong, chợt nhớ đến số đèn trường minh yên ắng thắp sáng đầy vách đá ngoài kia, bỗng cảm thấy có lẽ người đã đào hầm mộ này trước đây không thả pho tượng nam đồng nữ đồng xuống với mục đích thu nhận hương khói gì cả. Nó chỉ đơn thuần đóng vai trò người bầu bạn kề bên, thầm lặng và yên ả như những ngọn đèn trường minh kia.

Bên trong quần áo rách nát của nhóm Cao Nga còn một ít nhang cúng nguyên vẹn, Ô Hành Tuyết cúi người rút ra ba cây nhang, lấy một ngọn đèn dầu bên trên vách đá rồi châm đầu nhang vào ngọn lửa, thắp bên cạnh đống vụn đổ nát kia một chốc.

Thì thấy làn khói mong manh nọ chợt tan về một hướng nào dó.

“Khói này bay đi đâu đấy?” Đệ tử tiên môn nhìn về phía này, vươn tay phủi phủi một chốc và nói. “Hiện tại trong hang đâu có gió.”

“Chẳng lẽ nó đang chỉ hướng?”

Mọi người nhìn nhau, rồi lập tức nối bước đi theo hướng làn khói.

Suốt dọc đường, họ tìm thấy không biết bao nhiêu hang rỗng, tìm đến gần hai mươi pho tượng nam đồng tử và nữ đồng, bên trong pho tượng ấy đều có chứa thảm trạng thi thể của ai đó. Tất cả pho tượng đều bị trầy xước do người bên trong cào cấu, thế nên khi mở ra thấy đầy những vệt máu chằng chịt, trông vô cùng hỗn loạn.

Ở mỗi pho tượng, Tiêu Phục Huyên nhặt một mảnh vỡ, trên mỗi mảnh đều có dấu ấn thờ bị rạch nát nằm bên dưới vệt máu.

***

Đi một hồi chẳng biết bao lâu, Y Ngô Sinh mới thì thầm một câu, “Không chừng chúng ta đến chót cùng của thung lũng Đại Bi…?”

Hắn còn chưa nói hết câu, cả nhóm đã rẽ sang một nhánh theo hướng lan của khói, trước mắt họ hiện ra một mái vòm hầm rộng lớn. Y Ngô Sinh thảng thốt không nói nên lời…

Vì bên trong mái vòm hầm chất đầy tượng thần cao ngất.

Tiếng bàn tán của mấy đệ tử tiên môn thốt nhiên im bặt, họ hít sâu một hơi. Trước đây, họ từng vào những miếu tiên thông thường rồi, tượng thần trong đấy không cao đến vậy. Trước cổng vào một vài thành trấn hoặc bến cảng cũng có dựng tượng thần, cao thì có cao nhưng số lượng không nhiều thế này.

Đa số tượng thần ở nơi ấy được đẽo trên thân gỗ hoặc trụ đá, nên đây cũng là lần đầu tiên họ nhìn thấy tượng thần khổng lồ đặt san sát nhau như trước mắt. Khung cảnh này tạo ra một áp lực vô hình nhưng rất nặng nề, khiến bọn họ ai nấy im bặt, thậm chí còn không dám nhìn thẳng.

Thế nhưng họ vẫn không kiềm được lòng mà dò xem.

“Những bức tượng thần này đều lạ lẫm… giống như bức tượng đầu tiên bên ngoài hầm mộ vậy,” đệ tử tiên môn tỏ vẻ kinh hãi. “Trước giờ tôi chưa từng nhìn thấy nhiều tượng thần xa lạ như vầy trong cùng một chỗ.”

“Thưa tiền bối, còn ngài có biết vị nào trong đây không ạ?”

Y Ngô Sinh lắc đầu, ngẩng mặt lên nhìn, sau khi đảo một vòng qua từng pho tượng một hồi lâu thì đáp lời, “Ta không biết một ai cả.”

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ bước vào trong này liền thấy có thể ói liền tù tì ba đời ba kiếp. Mặt mũi hai người tái me tái mét, cổ họng nhộn nhạo một phen, rồi chợt nghe thấy thành chủ nhà mình cất giọng hỏi, “Trong đây mà các ngươi cũng buồn nôn à?”

Ninh Hoài Sam ép chặt miệng, ráng nuốt cảm giác trào ngược như sóng dữ trong cổ họng xuống, một lúc lâu sau mới nói, “Chúng ta không nên ói sao ạ?”

Phương Trữ khoác tay lên vai Ninh Hoài Sam, cúi gằm lưng xuống. Sau khi vất vả cả buổi, hắn trợn trừng trắng dã cả mắt, mới quay sang hỏi Ô Hành Tuyết, “Thưa thành chủ… lúc trước ta đã muốn hỏi ngài, tại sao ngài không có phản ứng gì với tượng thần cả vậy?”

Vừa nói xong hắn lại muốn oẹ ra, nhưng sợ vô lễ với thành chủ bèn vội vã chôn mặt mình trên vai Ninh Hoài Sam.

Và bị Ninh Hoài Sam cảnh cáo, “Mày mà dám ói lên người tao thì tao đếch có tha mạng cho mày đâu, thề đấy.”

Ngược lại, Ô Hành Tuyết cực kỳ bình tĩnh, “Ta nào có biết vì sao không có phản ứng.”

Ninh Hoài Sam nhìn chàng với gương mặt xanh mét, hồi sau mới “Ực” một tiếng và tự nhủ trong lòng, <i>đúng vậy, thành chủ không nhớ gì cả, chắc là đã quên luôn lý do rồi, </i>oẹ…

Đệch.

Hai người họ nhịn không nổi nữa, thả tay xuống rồi lăn ngược về phía sau.

Để lại một Ô Hành Tuyết đứng thắc mắc mãi.

Chàng tò mò quay sang hỏi Tiêu Phục Huyên, “Trước đây huynh từng nói trong hầm mộ không chỉ có mỗi mình Vân Hãi là thần tiên không thọ mệnh, phỏng chừng những vị thần trên mấy bức tượng trong này đều như vậy à?”

Tiêu Phục Huyên nhìn vào mấy bức tượng thần kia. Gương mặt y không mấy ngạc nhiên mà chỉ đơn thuần lướt mắt một vòng không ngừng. Cứ như… y biết rõ có những ai ở nơi này, nhưng vẫn đang tìm một thứ gì đó.

Đến khi nhìn hết một vòng rồi, y thu tầm mắt về và bình tĩnh trả lời, “Ừm, đúng vậy.”

Thật kỳ lạ.

Ô Hành Tuyết nói thầm trong lòng, <i>nếu những người này đều bị giáng xuống nhân gian giống như Vân Hãi, vậy họ đã không còn là tiên từ lâu.</i>

<i>Nếu đã không còn là tiên, lại còn bị người đời quên lãng, vậy lẽ ra những bức tượng đá này không nên có bất kỳ tác động nào lên hai tiểu ma đầu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.</i>

<i>Bởi trước đây lúc nhìn thấy bức tượng thần của Vân Hãi, họ cũng đâu có phản ứng nghiêm trọng nào.</i>

Chàng tính nói gì đó thì nghe tiếng hô thất thanh của một đệ tử trẻ, “Trên bệ thờ này có chữ viết.”

Ô Hành Tuyết thả mắt nhìn xuống, thấy phía dưới bệ đài dưới chân tượng thần có khắc chữ.

“Tang Phụng, trông coi Bất Động sơn.”

“Hoặc Ca, trông coi Tuyết Trì.”

“Mộng Cô, trông coi Kinh Quan.”



Ô Hành Tuyết lia mắt từ những bức tượng thần kề sát nhau, đọc dần chữ trên bệ thờ. Bên trên ấy khắc tên huý của từng vị thần tiên và những nơi đặt dưới sự trông coi của họ.

Trong một thoáng chốc, chàng dừng chân giữa hàng tượng thần và cảm thấy dường như những người không được thọ mệnh này cũng không hề xa lạ đến vậy.

Giống như… chàng đã từng nhìn thấy những gương mặt và dáng vẻ tươi cười này, thế nhưng về sau đã không còn gặp được nữa.

“Phía sau có ấn!” Có ai đó kêu lên.

Ô Hành Tuyết bỗng nhiên choàng tỉnh, lướt mắt nhìn qua. Sau lưng hai bức tượng thần bên cạnh chàng có dấu ấn ở vị trí đối xứng với tên huý và địa điểm trông coi ở mặt trước. Ô Hành Tuyết cúi người và lia đèn dầu để nhìn rõ một chút thì phát giác những dấu ấn nọ tương ứng với dấu ấn thờ trên các pho tượng nam đồng nữ đồng.

“Đúng là dùng để thờ phụng những bức tượng thần này,” Ô Hành Tuyết thấp giọng tự nhẩm, đoạn xoay đầu đếm qua và xác định bên dưới đây có vừa đúng ba mươi ba pho tượng thần không hơn không kém, hoàn toàn trùng khớp với số lượng nam đồng nữ đồng.

Dường như người đã tu sửa lại khu mộ tiên này khi xưa đã mong rằng, cho dù họ không còn là tiên nữa thì vẫn sẽ luôn có người bầu bạn qua ngày, để họ không phải chịu cảnh lặng lẽ cô đơn.

Nhưng nếu vậy thì khó lòng lý giải vì sao những bá tánh kia bị triệu hoán đến đây.

Vì sao những người kia tự nhét bản thân mình vào tượng nam đồng nữ đồng, vì sao họ lại cào xước dấu ấn thờ mặt trong tượng? Tựa như… ấn thờ đó không có tác dụng xoa dịu mà ngược lại còn khiến thứ gì đó khó chịu cáu gắt.

Trong hang vòm này không có nhiều đèn dầu, mà càng đi sâu vào trong càng u ám không nhìn rõ.

Ô Hành Tuyết thấy được lờ mờ dường như có một thứ gì đó ở phía cuối hàng tượng thần đặt san sát nhau. Nơi đó vô cùng nhạt nhoà sau những thân hình mờ ảo, chỉ nhác thấy mái vòm cong bên một góc.

Lầu các?

Dao đài?

Theo bản năng, chàng nghĩ đến những thứ mà trên Tiên Đô có thể có, có lẽ là nơi ở trước đây của những tiên nhân kia. Dầu sao trong nhân gian, người ta cũng xây những khu tương tự nhà cửa trong mộ địa.

Ô Hành Tuyết cầm đèn dầu trên tay và bước về hướng đó với ý định xem rõ rốt cuộc đấy là thứ gì. Ngờ đâu vừa nhấc chân đã bị người nắm tay kéo lại.

“Đừng bước tới.”

Tiêu Phục Huyên giữ vai chàng, giọng nói trầm thấp vang lên bên tai.

“Sao thế?”

“Có trận.”

“Trận?”

“Ừm,” Tiêu Phục Huyên nói. “Ta vừa xem xét, ba mươi ba bức tượng thần không đặt theo vị trí ngẫu nhiên mà xếp thành một thế trận.”

Vừa dứt lời, tiếng thét thảm thương đột ngột dội lên trong căn hầm tròn, “Aaaaaaa —”

Tiếng thét nghẹn ngào nghe vào bi thiết, xen lẫn cả giọng nam giọng nữ, đó là tiếng của nhóm người Cao Nga.

Khi tập trung nhìn kỹ hơn, Ô Hành Tuyết trông thấy những cánh tay cẳng chân đứt gãy của họ nhanh chóng bò về bóng đêm trước mắt như thể bị hấp dẫn bởi thứ gì đó, vừa bò vừa la hét thất thanh. Trong phút chốc, mùi máu tanh bủa ra khắp nơi.

Ô Hành Tuyết gần như thấy những tia máu bắn phụt về phía mình.

Cổ tay chàng vẫn đang bị nắm chặt nên chỉ có thể khép mắt và nghiêng đầu đi. Thế rồi chàng chợt thấy bờ vai nhẹ vẫng, bàn tay mảnh khảnh nhưng rộng của Tiêu Phục Huyên đang chắn khẽ trước chóp mũi chàng và chặn lại tia máu bắn tung toé.

Tiêu Phục Huyên rút tay về, rũ những giọt máu kia xuống một cách lạnh lùng, rồi ném một ngọn đèn dầu vào trong màn đen kia.

Trong giây lát, tiếng lửa nổ “<i>bùm</i>” bừng lên sáng rực màn đen, lưỡi lửa trắng hơi ngả xanh cao vút lên không như sắp chạm đến đỉnh.

Nhóm Cao Nga bị lửa thiêu đốt nên thét lên rồi choàng tỉnh, ràn rạt lùi về chứ không chui vào mảnh đen ngòm kia nữa.

Y Ngô Sinh không chút bận tâm đ ến lễ nghi, quát lớn giọng để át tiếng la hét của họ và hỏi, “Các người chạy về phía đó làm gì!”

“Tiếng gọi.”

“Tôi lại nghe thấy tiếng gọi của thần tiên.”

Cao Nga nói.

Là vị “thần tiên” đã báo mộng cho họ, nói rằng còn thiếu tiên khí ở bốn hướng đông tây nam bắc đó sao?

Ô Hành Tuyết nheo mắt lại, nhìn về phía bên kia ngọn lửa ánh xanh. Cuối cùng khi ngọn lửa dần rơi xuống, chàng đã thấy được thứ nằm bên trong mảnh đen ngòm nọ —

Đó là một lầu các được đúc bằng đá lạnh.

Đây không phải là toà tiên miếu dùng để thờ cúng thông thường mà giống như nơi ở của một ai đó, bên trong có cả trường kỷ và một bức bình phong, phía bên ngoài là lan can bằng đá và hành lang lơ lửng, trông giống một toà dao cung trên Tiên Đô, thế nhưng dao cung này được nối liền với một bệ đài cao, trên đài khắc đầy sấm ngôn.

Dù không đọc rõ được lời sấm ấy, nhưng có thể thấy trên dao cung treo một tấm biển, trên ấy hẳn có viết chữ song vì lý do gì đó không rõ đã bị xén mất. Bây giờ tấm biển ấy chỉ còn lại một góc, phần còn lại đều rơi trên mặt đất, lờ mờ thấy được một chữ “Phong”.

… Toạ Xuân Phong?

“Toạ Xuân Phong.”

Khi ba chữ nọ bật ra trong đầu Ô Hành Tuyết, Tiêu Phục Huyên cũng cất giọng nặng nề, thật lòng không rõ ai mới là người nói trước.

“Đây là đâu thế?” Ô Hành Tuyết lặng lẽ nhìn bậc đài cao kia, sau đó chuyển mắt sang mái vòm cong cong.

Tiêu Phục Huyên lặng thinh hồi lâu mới nói, “Phế Tiên đài.”

Ô Hành Tuyết khẽ khàng “À” một tiếng.

Vậy cũng có nghĩa, những thần tiên bị phế kia đều từng đứng trên đỉnh bệ đài cao khắc đầy sấm ngôn nọ. Vì sao nơi để truất phế các vị tiên lại có tên “Toạ Xuân Phong” cơ chứ, sao mà… không đâu phụ lòng gió xuân đến vậy.

Phế Tiên đài được dựng lại ở đây mang ý nghĩa vô cùng rõ ràng là để chấn chỉnh răn đe một người nào đó.

Ô Hành Tuyết nghĩ đến căn hầm tròn có ba mươi ba bức tượng thần, so ra thì Vân Hãi cô độc ngoài kia có vẻ hơi lạc lõng.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ phản ứng vô cùng mạnh mẽ trước ba mươi ba bức tượng thần này, vừa nôn mửa vừa bức bối, cho thấy những bức tượng thần vẫn còn một ít tiên lực, ắt rằng lưu lại từ hương khói thờ phụng từ những nam đồng nữ đồng kia.

Song, hai người họ không có bất kỳ phản ứng gì với Vân Hãi, nói rõ Vân Hãi đã hoàn toàn bị cách tiên danh.

Trong trường hợp này, không cần nói cũng biết Phế Tiên đài đặt ở đây để chấn chỉnh răn đe ai.

Ô Hành Tuyết nhớ đến lời Tiêu Phục Huyên, nói rằng xưa kia Vân Hãi bị tà ma cắn nuốt và đã mất mạng ở thung lũng Đại Bi. Dẫn đến việc Hoa Tín mang kiếm xuống trần, tàn sát sạch sẽ tà ma bên trong thung lũng Đại Bi, sau lại dựng lên khu mộ địa này để thờ phụng tượng thần của Vân Hãi, sau nữa tiếp tục thờ phụng tượng thần của những vị khác.

Thoạt tiên, chàng có vài thắc mắc trong câu chuyện này, nếu quan hệ giữa hai người họ là thầy trò tình thâm, và Hoa Tín muốn thờ phụng ái đồ đã mất, vậy vì sao phải đặt huyệt mộ bên dưới lòng đất và không cho phàm nhân đến gần?

Bây giờ ngẫm lại… xem ra không chỉ là đơn thuần là thờ phụng.

Ánh lửa xanh rực sáng chói kia bừng bừng không ngớt, tạo thành một tấm bia chắn giữa mọi người và toà Phế Tiên đài nọ.

Bên trong ánh lửa, trông Phế Tiên đài không khác gì một nấm mồ đang nặng nề đè lên những thứ dưới hầm mộ.

Xem hiện trạng tấm biển bị đập nát kia thì ắt có người đã ra tay với ngôi mộ dưới đây.

Ngọn lửa quá chói lọi, ánh sáng toát từng luồng soi rọi cả ba mươi ba bức tượng thần khổng lồ, chiếu lên mi mắt khẽ rủ nhìn xuống của họ khiến thoạt trông cứ như đôi mắt họ đang lay động.

“Sư huynh ơi… sao đệ thấy pho tượng thần kia đang nhìn chúng ta vậy?”

“Ta cả nghĩ rồi sao? Bức tượng kia giống như đang nghiêng người xuống vậy.”

“Ánh lửa chói quá.”

Ánh sáng chiếu xuống khiến những rãnh đá bên dưới chân ba mươi ba bức tượng thần có chiều hướng lập loè, trông như đang khởi động một trận cục đã được thiết lập sẵn.

“Tiêu Phục Huyên,” Ô Hành Tuyết nghiêng đầu sang hỏi, “huynh nói tượng thần đang bày một trận cục, mục đích trận đó để làm gì?”

Tiêu Phục Huyên nhìn những đường viền lập loè sáng tối bên dưới mặt đất, nói, “Để trấn tà ma, hoặc trấn tàn hồn.”

Sau một thoáng im lặng, y nói tiếp, “Để người bên trong không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời được nữa.”

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi, hôm qua là Đông chí, các bình luận trước khi đăng truyện hôm nay đều được lì xì rồi nhé~ muah muah
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 22: 22: Cung Ấn (Ấn thờ)


Những người khác nếu am hiểu trận pháp cũng có thể nhìn ra đây là một cự trận.

Phàm là cự trận đều sẽ có mặt trận.

Trong mắt trận thường thường sẽ áp chế viên đá trận mấu chốt nhất hoặc là tấm linh phù quan trọng nhất.

Trên đá trận thường sẽ khắc ấn ký của người bày trận, vừa nhìn là biết thủ bút của ai.

Linh phù sẽ viết rõ mục đích của cự trận, nếu là đại trận trấn áp trên linh phù sẽ có tên huý của người bị trấn áp để tránh ngộ thương người khác.

Cho nên người trong tiên môn gặp phải trận cục đều có thói quen tìm mắt trận trước.

Y Ngô Sinh nhìn những đường vân phát sáng đang di chuyển xen kẽ trên mặt đất và thận trọng suy xét, giây lát sau mới nhíu mày chỉ về một hướng. “Mắt trận của trận này… ở phía đó.”

Các đệ tử trẻ cũng ngẩng đầu lên nhìn, thấy nơi hắn chỉ không đâu khác hơn ngoài toà Phế Tiên đài đằng sau ánh lửa xanh.

“Nơi này…”

“Nơi này có hơi lộ liễu quá, có thật là nơi đó không?”

“Thật không dám giấu giếm, ta cũng vừa thấy chỗ đấy, nhưng còn cho rằng đó chỉ là thuật che mắt.”

Các đệ tử trẻ đều chưa dám tin.

Bởi vì thông thường, người lập trận có xu hướng e sợ trận cục bị phá, nên ít nhiều cũng có suy nghĩ chôn mắt trận trong một nơi bí mật nào đó nằm ngoài dự kiến của người bình thường.

Cự trận này thế mà được lập bởi phương thức hoàn toàn trái ngược — ai có đôi mắt tinh tường đều có thể thấy rằng Phế Tiên đài chính là trung tâm trận cục, người lập trận lại có thể đặt mắt trận ở nơi ấy.

Tình huống này quả thật vô cùng khó tin.

Bởi nó quá khó tin, nên họ càng không thể tin nổi, mà trái lại cảm thấy có lẽ mình thiếu sót gì đó hoặc tính sai ở đâu rồi.

Trong phút chốc ngắn ngủi, không một ai dám hành động thiếu suy nghĩ. Bởi chỉ cần thay đổi một vị trí trong trận như một mẩu đá vụn hoặc một chiếc lá cánh hoa thôi thì cũng có thể biến chuyển đến mức long trời lở đất.

“Có lẽ người lập trận đã đoán được suy nghĩ của chúng ta rồi?” đệ tử trẻ nhỏ giọng thì thầm.

Y Ngô Sinh lắc đầu khe khẽ. “Đại trận lớn như vầy không thể làm liều thế được.”

Đệ tử trẻ: “Tiền bối nói rất chí lý. Nếu như người nọ cố tình dàn trận kiểu vậy thì khả năng cao đó là một kẻ có máu cờ bạc.”

Y Ngô Sinh: “Thế nên ắt hẳn không phải người nọ cố ý làm như vậy, mà là không thể không làm như vậy.”

Còn tại sao lại không thể không làm như vậy?

Là bởi vì vào thời điểm lập trận, linh thần người đó không tốt nên không đủ sức chống đỡ hòng bày bố nhiều tầng phức tạp và giấu mắt trận sâu hơn ư? Hay là vì lúc thiết lập mắt trận, người nọ đã bị sự cố ngoài ý muốn quấy rầy nên phải kết thúc trong vội vã?

Rầm!!!

Mọi người còn đang băn khoăn chưa nghĩ ra nguyên cớ, âm thanh dội trời chợt vang lên trong căn hầm vòm.

Rầm!!!

Lại thêm một tiếng nữa.

Bọn họ hoảng hốt giật bắn mình, ngoái nhìn về phía phát ra tiếng động thì phát hiện tiếng nện nặng nề nọ bắt nguồn từ Phế Tiên đài.

Rầm!!!

Khi tiếng thứ ba vang lên, tất cả mọi người đều nhìn thấy toàn bộ dao cung và Phế Tiên đài bất chợt nảy lên, tấm biển đứt lìa chỉ còn một góc đã rơi xuống hoàn toàn, đập vào thềm đá phía trước dao cung rồi vỡ tan thành tro bụi.

Nếu ví toà dao cung và Phế Tiên đài như một cỗ quan tài tinh xảo, thì chấn động kinh hoàng như hiện tại có thể tương tự đồ vật bị nhốt bên trong cỗ quan tài đã bất chợt tỉnh giấc và đang nện mạnh mẽ lên lớp phong ấn hòng tìm cách thoát thân.

Rầm!!!

Tiếng thứ tư vang lên, tất cả đệ tử trẻ tiên môn đều thót mình nhảy dựng!

“Không ổn! Cẩn thận!”

Họ rút kiếm ra, vào thế giương kiếm sẵn sàng nghênh đón. Vô số luồng kiếm bay trên không bao quanh người họ với mũi kiếm chĩa thẳng vào Phế Tiên đài, chỉ cần va chạm sẽ lập tức phát nổ…

Đột nhiên, gió nổi trên đất bằng, lộng vù vù vang vọng bốn phía.

Sức lực khủng khiếp cuộn qua bên cạnh mọi người, phóng thẳng về Phế Tiên đài tựa như ngàn vạn lưỡi đao sắc bén.

“Trận này!”

“Trận này đang di chuyển!”

Cự trận trong gian phòng vòm đột ngột sáng lên và bắt đầu rầm rập chuyển động đồng thời với chấn động bên Phế Tiên đài.

Thời điểm này, cự trận sẽ không màng đến mọi thứ xung quanh nữa, không quan tâm xem còn bao nhiêu người sống mà chỉ tung vô vàn những chiêu trí mạng.

Áp lực đè nặng như toà Thái Sơn dội thẳng xuống không hề báo trước!

Tiếng va chạm ầm ầm vang vọng không ngừng, dưới sức ép nặng nề, Phế Tiên đài rung động rồi bị đè dần xuống mặt đất, khung sườn bị lún sâu xuống dưới trong sỏi đá nát vụn bắn tung toé.

Song thảm thương nhất chính là con người.

“A a a —” nhóm Cao Nga thét lên thống khổ.

Tay chân đứt lìa của họ gãy nát dưới áp lực đằn xuống và bị biến dạng hoàn toàn.

Nhóm đệ tử trẻ tuổi chống hai tay trên kiếm để giữ vững cơ thể, song vẫn không tránh khỏi bị ép đến còng lưng.

Tay sư huynh bị ảnh hưởng nặng nề nhất, cúi người hộc ra một ngụm máu.

Y Ngô Sinh muốn ra tay giúp đỡ, nhưng còn không lo nổi cho bản thân mình.

Sức ép kia đè nặng khiến tàn hồn hắn chấn động không ngừng, tấm vải đen bị rách ra một đường, suýt nữa đã không che nổi mũi miệng hắn. Nếu tấm vải bị rách hoàn toàn và hơi trong miệng bị ép ra thì đến hắn cũng khó tránh chôn thân nơi này.

Vừa nhác thấy sức ép sắp bổ xuống đợt thứ hai, mọi người chợt nghe tiếng kiếm đánh vang.

Ngay sau đó, ánh sáng lướt ngang qua đỉnh đầu họ vẽ nên bóng kiếm khổng lồ như một tấm lá chắn, chặn lại sức ép bổ xuống lần hai.

Khi sức ép nọ va vào mặt trên bóng kiếm, tia lửa vàng xẹt tung toé, âm thanh dội rền toàn bộ thung lũng Đại Bi.

Bên dưới bóng kiếm, tất cả mọi người nhắm nghiền mắt theo bản năng, đến khi mở mắt lần nữa mới thấy bóng kiếm kia hãy còn sừng sững, không mảy may lay động.

Đồng thời, mấy luồng bóng kiếm giống như vậy đang đảo quanh bốn phía lấy mọi người làm tâm để giữ họ bên trong.

Chiêu trí mạng từ cự trận vẫn chưa ngơi nghỉ, nhưng những sát chiêu nọ không tiếp cận được người bên trong lớp chắn bằng bóng kiếm.

Đó là kiếm ý của Tiêu Phục Huyên.

Mấy đệ tử trẻ tiên môn đỡ lấy nhau, ho khù khụ máu từ trong cuống họng, vừa định nói “Cảm ơn tiền bối đã ra tay giúp đỡ” thì ngước mặt lên liền thấy thấp thoáng chữ “Miễn” mờ mờ bên trên bóng kiếm.

Đệ tử trẻ: “…”

Đệ tử trẻ: “???”

Họ sững sờ một lúc, mới đột ngột quay ngoắt sang nhìn Tiêu Phục Huyên, mạnh đến nỗi suýt nữa hộc thêm một ngụm máu.

Người nhỏ tuổi nhất nói khẽ, “Sư huynh, đệ vừa nhẩm lại danh kiếm phổ.”

Sư huynh: “… Ai chả làm thế hả.”

Các đệ tử tiên môn thường học hai quyển phổ đồ, một quyển là tiên phổ, thứ hai là danh kiếm phổ. Họ đã nhẩm đến thuộc nằm lòng rồi mà gặp thực tế mới phát hiện cũng chẳng có tác dụng gì.

Trong gian phòng vòm này có ba mươi ba bức tượng thần mà họ không biết một ai. Bây giờ đến Thiên Túc thượng tiên đứng ngay bên cạnh, mà họ cứ gọi “Tiền bối” dài “Tiền bối” ngắn hết cả buổi, đến bây giờ mới nhận ra.

“Tranh vẽ trên tiên phổ không giống một tí nào,” đệ tử trẻ nói đoạn, tiếp tục lẩm bẩm, “nhưng… nhưng không phải Thượng tiên đã qua đời rồi sao?”

Không lẽ đã sống lại trong thầm lặng? Mà chết rồi còn sống lại được à?

Cậu không hiểu vì đâu, đang thắc mắc và bối rối vô cùng thì nghe thấy sư huynh cũng hoang mang không kém, “Không biết, đệ nhìn cổ y xem, không có dấu ấn chữ Miễn như trên tiên phổ.”

“Chẳng lẽ không phải bản tôn?”

“Đệ hỏi ta ta hỏi ai?” Sư huynh ngẫm nghĩ đôi chút rồi nói, “Thế nhưng, nếu không phải bản tôn, sao y có thể dùng được thanh kiếm mang chữ Miễn này? Tất cả tiên kiếm đều nhận chủ.”

Sau đó, họ nhìn sang chuôi kiếm bên hông Tiêu Phục Huyên, lần này họ nhìn kỹ lưỡng vô cùng và xác định quả thật chuôi kiếm này giống với thanh kiếm trong danh kiếm phổ.

Trên danh kiếm phổ có liệt kê tất cả những thanh kiếm của các vị tiên gia trên Tiên Đô, gần như thanh nào cũng có tên, trừ mỗi Tiêu Phục Huyên. Không một ai biết thanh kiếm ấy tên gì nên cuối cùng chỉ đành gọi nó bằng chữ “Miễn” trên thân kiếm.

Thế nhưng, truyền thuyết cũng kể rằng thật ra kiếm của Tiêu Phục Huyên có tên, và cái tên ấy không phải do y tự đặt.

Nhưng không một ai biết lời kể trong truyền thuyết bắt nguồn từ đâu, và cũng không biết có đúng hay không.

***

Ô Hành Tuyết nhìn bóng kiếm ánh kim đang bảo hộ quanh người, chợt không đâu mà trỗi lên ý nghĩ <i>thanh kiếm xuất chúng như thế nên có một cái tên</i>.

Chàng vừa tính hỏi chủ nhân thanh kiếm, đã thấy ở phía ngoài bóng kiếm, Phế Tiên đài đang chấn động kịch liệt, giống như thứ ở bên dưới mỗi lúc một cồn cào.

Đại trận chuyển dịch càng ngày càng nhanh, toàn bộ khu hầm mộ, thậm chí toàn bộ thung lũng Đại Bi đều chấn động liên hồi trong nỗ lực áp chế thứ đang bị trấn bên dưới Phế Tiên đài.

Mọi người cảm thấy đầu óc mình xoay mòng mòng. Ba mươi ba pho tượng thần chầm chậm chuyển động, họ xoay mặt về Phế Tiên đài như đang bao vây nó trong lặng lẽ.

Kế đó, khi cơn chấn động ở Phế Tiên đài đạt đến đỉnh diểm, một giọng nói mơ hồ bất chợt vọng lên khắp khu huyệt mộ. Giọng nói ấy như gió lộng qua hẻm núi và hô lên một cái tên, “Vân Hãi đồ đệ ta.”

“Vân Hãi, đừng làm càn.”

“Vân Hãi, bình tĩnh.”

“Vân Hãi…”



Giọng nói nọ như tiếp sức cho áp lực của cự trận, mỗi một câu vang lên, sức ép từ cự trận lại nặng hơn một chút. Chấn động khủng khiếp trong Phế Tiên đài thình lình lặng bặt.

“Đây là giọng ai?” đệ tử trẻ tiên môn hốt hoảng hỏi.

“Minh Vô Hoa Tín…” Y Ngô Sinh là hậu nhân được tiếp nhận tiên huấn của nhà họ Hoa, chỉ nghe thoáng đã lập tức nhận ra.

Ban nãy, họ còn dự định tìm mắt trận để đoán xem người bị trấn bên dưới đây là ai.

Nhưng âm thanh vọng lên đã cho thấy không cần phải đoán nữa.

Người xưa đồn rằng Vân Hãi đã bị tà ma nuốt trọn, Hoa Tín đã đồ sát tà ma, nhưng giờ xem ra có vẻ không phải như vậy.

Mà dường như chính Vân Hãi đã trở thành tà ma, Hoa Tín giết không được, không giết cũng không xong, chỉ có thể thiết lập cự trận “vĩnh viễn không nhìn thấy ánh mặt trời” để trấn Vân Hãi ở nơi này, và phong ấn hàng trăm năm.

***

Phế Tiên đài lâm vào sự tĩnh mịch ngắn ngũi sau âm vọng “Vân Hãi đồ đệ ta”, song mọi người không lơi là cảnh giác.

“Đã trấn áp được rồi sao?” đệ tử trẻ tiên môn nhìn chằm chặp vào Phế Tiên đài đằng kia, nhất thời còn không dám chớp mắt.

“Khó mà kết luận,” Y Ngô Sinh nói.

“Nó rung chuyển bất ngờ như vậy là vì chúng ta bước vào đây, có phải bởi nó ngửi thấy mùi người sống nên đâm ra đói bụng không?”

“Không biết nữa, có lẽ vậy.”

Ô Hành Tuyết nghe bọn họ bàn bạc, trong lòng còn đang tự suy xét thì bất chợt nghe tiếng Tiêu Phục Huyên thâm thấp nói, “Đừng nhúc nhích.”

“Có chuyện gì thế?” Ô Hành Tuyết ngẩn người.

“Cúi đầu,” Tiêu Phục Huyên nói.

Vị trí sau gáy là một trong những vị trí hiểm yếu trên người, không một ai dễ dàng để lộ nơi ấy cho người khác. Ô Hành Tuyết theo bản năng nheo khẽ mắt, nhưng vẫn cúi đầu xuống.

Khi ngón tay Tiêu Phục Huyên chạm vào sau cổ chàng, cơ thịt bên cổ hơi căng lại một chút. Cảm giác ấy lạ lùng khôn tả, may mà Tiêu Phục Huyên chỉ quét qua một tí rồi lập tức thu tay về.

Ô Hành Tuyết duỗi tay ra sau xoa cổ, cảm nhận được hơi ấm còn dư lại, đoạn ngước mắt lên hỏi, “Có chuyện gì thế?”

Tiêu Phục Huyên chau mày, nói, “Có dấu ấn phía sau.”

Ô Hành Tuyết sượng ngón tay. “Dấu ấn? Dấu ấn thế nào?”

Nói về dấu ấn sau cổ, chàng lập tức nghĩ đến Y Ngô Sinh, Hoa Chiếu Đình, và những người bị trúng chiêu trong thung lũng Đại Bi lúc trước. Sau cổ những người nọ đều có dấu ấn, ngặt nỗi đến lúc phát hiện được thì họ đã gãi rách những dấu ấn đó nên không cách nào nhìn rõ trông thế nào được nữa.

Thật vậy, Y Ngô Sinh vừa loáng thoáng nghe được thì chạy vội về phía họ, “Dấu ấn sau cổ? Là dấu ấn giống như tôi à?”

“Đang ở trong thung lũng Đại Bi, vị trí cũng tương tự, ắt là cùng một loại,” dù Ô Hành Tuyết không nhìn thấy nhưng cũng có thể đoán ra.

Bởi vậy, dấu ấn khi xưa Y Ngô Sinh nhìn thế nào cũng không thấy rõ được, giờ đây đã hiện rõ nguyên hình.

Y Ngô Sinh thảng thốt nói, “Đây là… ấn thờ!”

“Ấn thờ?” Ô Hành Tuyết hỏi. “Ý ông là dấu ấn phía sau cổ tôi giống với những dấu ấn bên trong tượng nam đồng nữ đồng à?”

“Đúng vậy,” Y Ngô Sinh sững sờ một lúc lâu mới duỗi tay sờ lên vết sẹo chồng chất sau cổ mình và lầm bầm, “Hoá ra lại là ấn thờ…”

Giữa lúc nói chuyện, Tiêu Phục Huyên nhìn một lượt sau cổ những người còn lại.

Ô Hành Tuyết hỏi, “Bọn họ có không?”

“Không có,” Tiêu Phục Huyên trả lời, nét mặt trở lạnh đăm đăm.

“Chỉ có mỗi ta thôi à? Bất công thế,” Ô Hành Tuyết khẽ lẩm bẩm một câu, lòng chàng tự nhủ, quả thật chuyện gì người khác không làm thì chàng làm.

Nghĩ đến chuyện này, quả thật có một chỗ — dâng hương.

Chỉ có mình chàng từng lấy ba cây nhang đưa về phía những pho tượng nam đồng nữ đồng ban nãy. Dù không có ý định cúng vái nhưng về hình thức cũng xem như đã dâng hương.

Nếu nói lý do ấn thờ xuất hiện là vì dâng hương thì có thể giải thích được việc người ta bị trúng chiêu trong thung lũng Đại Bi mấy chục năm về trước. Có lẽ trước khi họ vào thung lũng, họ cầu mong có một chuyến đi thuận lợi, bèn đến miếu tiên ngoài lối vào thung lũng để dâng hương cúng vị sơn thần thung lũng Đại Bi đã sớm ra đi.

Vậy nên… vị bị trấn bên dưới lòng đất thung lũng hẳn nhiên đã thẳng thừng nạp họ vào làm tín đồ.

“Tại sao lại là ấn thờ?” có người thắc mắc hỏi. “Không phải chỉ có thần tiên cần hưởng hương khói mới dùng ấn thờ à?”

“Cùng nguyên tắc thôi,” Y Ngô Sinh thẫn thờ mở miệng. “Khi thần tiên muốn dùng, hương khói thờ cúng mà các tượng thần và tiên sứ khắc ấn thờ thu được sẽ chuyển hết cho chính bản thân thần tiên. Còn trong trường hợp tà ma dùng…”

Khi tà ma muốn dùng, những thứ mà người bị khắc ấn thờ nuốt cũng đều sẽ chuyển hết cho bản thân tà ma.

Y Ngô Sinh chợt thấy tất cả những chuyện này sao mà trớ trêu quá đỗi, hắn và Hoa Chiếu Đình vật lộn cầu sinh hơn hai mươi năm, thế mà hoá ra chỉ đang đóng vai trò một pho “tượng đồng tử” cho kẻ khác, vun đắp dinh dưỡng để nuôi vị bên dưới đáy vực Đại Bi này mà không hay không biết.

“A!” đệ tử trẻ tiên môn nọ vội vã moi túi gấm và nói với Ô Hành Tuyết, “May quá, may mà chúng tôi có chuẩn bị vô mộng đan, nếu xuất hiện dấu ấn này chỉ cần ăn một viên là có thể hoá giải.”

Ô Hành Tuyết nhận lấy, ngắm nghía viên đan giữa ngón tay mình một cách hiếu kỳ rồi trả lại nó cho đệ tử trẻ kia. “Ta không cần, cậu giữ lại đi, đưa ta cũng phí thôi.”

“Sao lại không cần!” đệ tử trẻ tức tối. “Nếu huynh không ăn sẽ bị tà ma nhập vào người và biến thành ma đầu đấy!”

“Chỉ e là thuốc không có tác dụng mà ta cũng không biến thành ma đầu được.”

“Tại sao?!” đệ tử trẻ bất ngờ.

Thì thấy Ô Hành Tuyết cười với mình một chút, “Vì ta vốn dĩ chính là thế mà.”

Lời tác giả:

Chờ lâu QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 23: Thẩm vấn


Có người nhấn vai chàng từ phía sau và gọi, “Ô Hành Tuyết…”

Tiếng nói rất trầm và thấp vang bên tai, mang rõ ý định cảnh cáo nhưng hàm chứa chút gì bất đắc dĩ.

Ô Hành Tuyết quay đầu lại, bắt gặp hàng mày sắc trên gương mặt đang nghiêng của Tiêu Phục Huyên. Chàng chợt thấy may mắn thay khi vị Thiên Túc thượng tiên này không thường xuống nhân gian, bởi chỉ bằng gương mặt này thôi thì dù ít nói kiệm lời cũng có thể dụ dỗ không biết bao nhiêu cô nương.

Vừa thoáng động tâm, chàng chợt hỏi, “Ta nói sai sao?”

Tiêu Phục Huyên nhướng mi.

Ô Hành Tuyết lại nói, “Thân thể này của ta vốn là tà ma, còn gây ra vụ mấy thứ kia hành hương ở nhà họ Hoa. Thiết nghĩ ắt là không dễ bị tà ma nhập vào đâu nhỉ, dù gì cũng là thể xác đại ma đầu cơ mà. Vô mộng đan không dễ tìm, bớt dùng viên nào đỡ viên nấy, Thượng tiên huynh thấy thế nào?”

“…”

Thượng tiên không có thấy gì cả.

Tiêu Phục Huyên liếc nhìn đôi môi hấp háy liên hồi của chàng, quay mắt sang chỗ khác và đứng thẳng người dậy, phỏng chừng hết muốn nói gì.

Kết quả Ô Hành Tuyết lại nhỏ giọng bồi thêm một câu, “Với lại, huynh doạ tiểu đệ tử nhà người ta rồi kìa.”

Tiêu Phục Huyên: “?”

Thật khó diễn tả biểu cảm của Thiên Túc thượng tiên khi nghe được lời này, bởi Ô Hành Tuyết còn mỉm cười…

Nhưng các đệ tử trẻ tiên môn đã phát rồ.

Riêng câu trước “Ta chính là tà ma” còn chừa cho chàng một đường sống. Đến khi Tiêu Phục Huyên thêm vào một cụm “Ô Hành Tuyết” đã thẳng thừng tiễn bay chàng về nơi xa luôn.

Đám đệ tử trẻ nghe được ba từ này chỉ thấy rạn cả đầu, sấm sét ầm ầm, hồn bay phách lạc.

May mà cạnh họ còn có một Y Ngô Sinh nhẫn nhịn hết nổi.

Sau sự vụ bị Tiêu Phục Huyên chọt kiếm vào người và bắt “Nuốt ngược vào”, vị tiên sinh này đã luyện ra một bộ lý lẽ hùng biện vô cùng thuyết phục. Thường ngày hắn dùng để tự nhủ trong lòng, giờ đây có thể đem ra an ủi người khác.

Hắn đỡ các đệ tử trẻ, kể lại một mạch câu chuyện “Đại ma đầu đã bị thương nặng nề cỡ nào ở Thương Lang Bắc Vực, sau đó bị linh hồn một người vô tội nhập vào ra sao”.

Đệ tử trẻ nghe mà nửa tin nửa ngờ. Họ tính hỏi kẻ như Ô Hành Tuyết sao lại có thể bị một người phàm mắt thịt nhập thể thì nghe được tiếng vang răng rắc.

Âm thanh kia chấn động cả thung lũng rộng lớn, khiến mọi người đồng thời ngước mặt.

Phế Tiên đài yên mình trong tĩnh lặng thình lình xuất hiện vô số vết nứt, tựa chừng thứ bị trấn bên dưới chịu dồn ép lâu năm, giờ đây bùng nổ một kích mãnh liệt.

Tà khí đen ngòm bủa ra từ các vết nứt khiến đệ tử tiên môn bất giác rùng mình, nổi da gà khắp người một cách thiếu kiểm soát.

Nền đất chỗ đám Cao Nga rung động rầm rập, xương cốt gãy vụn theo đó nảy lên va vào nhau phát ra tiếng lách cách.

Gian phòng tròn tức thì trở lạnh, ai nấy đều như rơi vào hầm băng.

“Trận à? Sao trận này hình như… bất động?” Đệ tử trẻ lầm bầm, ngoái mặt nhìn ba mươi ba pho tượng thần theo bản năng.

Bấy giờ, cậu ta mới phát giác gian phòng tròn này im ru không biết tự lúc nào, những tiếng vọng “Vân Hãi đồ đệ ta” của Minh Vô Hoa Tín đã bặt âm.

Áp lực nặng nề chất chồng lên nhau tầng tầng lớp lớp dường như đã tiêu hao sạch sẽ chút tiên lực chót cùng của cự trận này.

Trên mặt đất, ánh sáng cự trận dần mờ đi, trận văn vận động không ngừng cũng biến mất.

Kế đó, tiếng vỡ vụn không ngừng vang lên.

Nhóm đệ tử trẻ bất chợt nhìn về Phế Tiên đài, họ tưởng nơi đó sẽ nứt rạn trước tiên. Để rồi phát hiện, âm thanh nọ không bắt nguồn từ Phế Tiên đài mà đến từ… tượng thần.

Ai nấy nhìn về hướng phát ra âm thanh thì thấy vết nứt khổng lồ xuất hiện trên thân những pho tượng thần đặt san sát nhau.

Ô Hành Tuyết liếc nhìn thật nhanh, nhận ra vết nứt kia chạy từ ấn thờ trên bàn thờ của họ và lan rộng l3n đỉnh đầu.

<i>Rầm rầm —</i>

Tượng thần đầu tiên vỡ vụn và sụp đổ.

<i>Rầm rầm —</i>

Pho thứ hai.

Theo sau là pho thứ ba, thứ tư, thứ năm…

Mỗi một bức tượng to lớn nhường này sụp đổ đều chấn động toàn bộ núi rừng, huống hồ có đến bấy nhiêu đây bức.

Trong phút chốc, cả căn phòng tròn phủ ngập bụi đất, đá vụn bắn tung khắp nơi. Nếu không nhờ bóng kiếm của Tiêu Phục Huyên che chở thì e là tất cả mọi người đã bị chôn sống dưới đất đá.

Chỉ một giây lát mà toàn bộ ba mươi ba pho tượng thần đổ nát gần như không còn lại gì.

Nhìn qua màn khói bụi, Ô Hành Tuyết thấy chỉ bốn bức tượng vẫn còn đứng nguyên vẹn, dù cả bốn đều tràn đầy vết nứt. Có vẻ chúng chỉ còn giữ một chút thăng bằng mong manh.

“Vừa đúng bốn bức, không hơn không kém…” chàng lẩm bẩm.

Khi này, khói bụi hẵng còn mịt mù nên khó lòng nhìn rõ. Nhưng chàng đoán chừng bốn bức tượng đó là hai nam hai nữ.

Thật vậy, viên đệ tử tiên môn đứng đằng trước hô to tên của những tượng thần còn lại rồi bảo “Hai vị nam tiên, hai vị nữ tiên.”

Ô Hành Tuyết nhìn thoáng qua bốn người trong nhóm Cao Nga, cuối cùng cũng hiểu vì sao những bá tánh kia lại bị “triệu hoán”.

Những pho tượng nam đồng nữ đồng dưới hầm mộ ứng với ba mươi ba bức tượng thần, mỗi pho đồng tử phụng dưỡng một bức, họ dâng tiên lực hòng duy trì sự vận động của cự trận.

Tượng thần một ngày chưa ngã, cự trận một ngày chưa ngưng, Vân Hãi bên dưới Phế Tiên đài một ngày chưa an nghỉ.

Bởi thế Vân Hãi đã “triệu hoán” những bá tánh kia.

Những người phàm vô tội phải gánh chịu hành hạ khốn đốn đến chết, rồi bị phong ấn vào tượng đồng nam đồng nữ, lẽ hiển nhiên sẽ mang oán khí sâu nặng. Oán khí đó đi vào ấn thờ đặng phụng dưỡng ba mươi ba bức tượng thần này…

Một khi thần tiên nhiễm mình trong sự giết chóc và tà oán oan nghiệp thì tiên lực có thể duy trì được bao lâu?

Huống hồ, ba mươi ba vị này vốn là tiên bị phế, e là tiên lực còn lại trên thân tượng hoàn toàn nhờ Hoa Tín để lại trước đây. Mỗi lần bị trấn áp, tiên lực kia lại tiêu hao bớt một ít, cộng thêm tà oán bào mòn thì sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ thôi.

Có lẽ, tiếng “Vân Hãi đồ đệ ta” vang vọng khi nãy chính là lần trấn áp chót cùng.

Sở dĩ còn bốn tượng thần chưa bị sụp đổ là nhờ có người báo mộng cho nhóm Cao Nga, họ thoát ra khỏi tượng nam đồng nữ đồng khiến tà oán phụng dưỡng tượng thần cũng vơi đi nhiều ít.

Lúc trước, khi họ nghe Cao Nga nói “có thần tiên báo mộng”, mọi người còn nghĩ vị thần tiên kia chẳng tốt lành gì. Mà giờ ngẫm lại, người đã nói họ “trần duyên chưa dứt” và nói nơi đây “thiếu phần tiên khí” có lẽ chính là thần tiên chân chính, là người muốn tận sức cứu vãn cự trận sắp sụp đổ này.

Ô Hành Tuyết nghĩ đoạn, cảm giác vị tiên báo mộng kia có lẽ chính là Minh Vô Hoa Tín.

Mọi người vừa định mở lời, song tình thế chẳng cho họ cơ hội —

Bốn bức tượng thần còn sót lại không đủ sức chống đỡ đại trận, sau khi gần hết tượng thần đổ nát, Phế Tiên đài cũng đột ngột phát nổ và vỡ tan tành trên mặt đất.

Mặt đất nứt ra một cái huyệt mộ sâu hoắm, không ai trông rõ người nằm dưới hố là ai. Họ chỉ thấy tà khí đen như mực đang cuộn vào lẫn nhau và ngùn ngụt trào ra ngoài.

Tà khí trông chẳng khác gì bầy rắn lổm ngổm đang duỗi vô vàn đầu rắn ra, nhe cái miệng khổng lồ để lộ răng nanh và chồm người về trước…

“Cẩn thận…”

Y Ngô Sinh thét lên.

Thế nhưng hắn đã chậm, mấy đệ tử trẻ tu luyện chưa lâu, bị mắc phải luồng tà khí lồ ng lộng kia thì chẳng khác nào những cái xác biết cử động, tự mình bước ra bên ngoài bóng kiếm đang che chở họ.

Ngay sau đó, tà khí đột ngột ập đến như một đàn mãng xà!

“Aaaaaaaaa!”

Tiếng thét kinh hãi vang lên, mấy đệ tử trẻ bị cuốn vào luồng tà khí đen kịt.

Họ rút kiếm trong hoảng loạn, mấy chục lưỡi kiếm sáng choang trắng rỡ vụt ra từ trong màn khí đen nhưng chỉ đánh thẳng lên trời chứ chẳng chém được gì.

Có lẽ người nằm dưới huyệt mộ đã đói rã rời, chỉ vừa vung tà khí bắt được ba người sống đã lập tức muốn lôi họ xuống huyệt.

Ngay khi tiếng sấm nổ đoàng, trường kiếm bên hông Tiêu Phục Huyên tức khắc rời vỏ, chuôi kiếm bật lên trong tay y, mũi kiếm thân dát ánh vàng xoay vòng trên không trung và vẽ nên một đoá hoa kiếm khổng lồ.

Năm ngón tay đặt trên tay cầm màu bạc, y lạnh lùng nhấn mạnh…

Kiếm ý ngút ngàn đổ dập về như núi thét biển gào, lưỡi kiếm lạnh lẽo giương cao hàng chục trượng rồi hiên ngang chém xuống với công lực tựa ngàn quân.

Một nhát kiếm tưởng chừng xé biển.

Tà khí che trời lấp đất bị xẻ làm đôi, bất chợt thả lỏng khiến mấy đệ tử trẻ té huỵch trên mặt đất. Họ nháo nhào quơ lấy kiếm của mình, chỉ kịp nghe một tiếng “Đi” lạnh lùng đã thấy một luồng kim quang quét ngang tới, đẩy ngược cả người lẫn kiếm vào lại bên dưới bóng kiếm kia.

Bọn họ ngoái đầu nhìn liền thấy tà khí ngút trời vừa thả lỏng đã điên cuồng tụ lại lần nữa, chúng phồng ra kín mít cả hầm mộ, còn Thiên Túc thượng tiên cầm kiếm trên tay một cách lãnh đạm và tung mình vào màn đen vô tận.

“!!!” Ai nấy đều tái mét mặt mũi, kinh hãi nấc lên theo bản năng.

Song ngay giây kế tiếp, họ đã thấy vô số luồng sáng vàng rực ngân vang tiếng kiếm đâm thẳng ra ngoài từ sâu trong tà khí đen ngòm vô tận.

Hệt như vầng dương chói lọi xuyên xé mây mù.

Thanh kiếm với danh tự “Miễn” kia phóng thẳng lên cao, đâm thủng tà khí vươn ra ngoài rồi lập tức chém xuống một cách tàn nhẫn.

Mũi kiếm chạm mặt đất, toé ra vô vàn tia lửa điện bao bọc trong gió rét và sương giá, dưới cái lạnh và cái nóng cực độ giao hoà, toàn bộ tà khí bị quét bay không còn tăm hơi.

Ô Hành Tuyết trông thấy Tiêu Phục Huyên nắm chuôi kiếm, chống một gối phía trước huyệt mộ.

Chàng bước ra khỏi bóng kiếm bảo hộ, bỏ ngoài tai mọi lời khuyên ngăn của các đệ tử trẻ mà bước đến trước.

Tà khí đen kịt tản ra để lộ người nằm bên dưới huyệt mộ.

Đó quả thật là Vân Hãi.

Hắn giống tượng thần bên ngoài kia đến mức có thể đoan chắc người đặt bức tượng thần bên trong hầm mộ là một người vô cùng thân thuộc với hắn.

Bức tượng thần được điêu khắc bằng đá nên có màu xám trắng, mà so ra trông hắn còn cô tịch hơn khối xám trắng kia. Gương mặt này nếu khoác thêm thần thái, điểm chút hồng hào thì hẳn là một nam nhân muôn phần anh tuấn.

Song giờ đây, mái tóc dài thượt rũ rượi trên mặt, dây leo quấn chằng chịt quanh người, quần áo đen kịt chẳng khác nào tà khí vởn quanh tứ phía, rốt cuộc chẳng còn lưu lại cho hắn dáng vẻ một người đã từng sinh sống tại Tiên Đô.

Dây leo cuộn bò lên tận cổ hắn, có một nhánh cây vươn dài nối liền đoá hoa thật to nhưng sớm héo tàn trên đầu cành, đoá hoa nọ vừa khéo che đi nửa mặt hắn.

Ô Hành Tuyết duỗi tay muốn vén đoá hoa kia ra một chút nhưng bị Tiêu Phục Huyên nắm lại.

Có điều động tác nọ đã nổi gió khiến đoá hoa kia lung lay đôi chút…

Giữa những phiến lá đung đưa, nửa gương mặt bị che khuất của Vân Hãi thoáng hiện ra.

Ô Hành Tuyết chau mày.

Nếu nửa gương mặt bên ngoài của hắn mang phong thái anh tuấn của tiên nhân, thì nửa bên này có phần hơi đáng sợ — nó rướm đầy vết thương, trông thật quỷ mị.

Không biết lẽ gì đã biến hắn thành như thế này.

Và càng không biết năm xưa, Hoa Tín đã cảm thấy ra sao khi mang theo kiếm bước vào thung lũng Đại Bi và trông thấy đồ đệ của mình ra nông nỗi.

Thanh kiếm của Tiêu Phục Huyên chợt rung lên, y rút nó ra khỏi đá và đâm ngược trở lại.

Giữa chấn động từ kiếm ý, tất cả mọi người ở đây nghe thấy âm vang lanh lảnh như tiếng chuông truyền khắp thung lũng. Chỉ đánh một tiếng cũng khiến các đệ tử trẻ tiên môn ôm đầu thụp người xuống.

“Đây là tiếng gì vậy?!” Họ đứng sát nhau mà thậm chí không nghe được tiếng người bên cạnh, thiếu điều phải hét to lên.

Y Ngô Sinh gõ lên trán họ trấn an một chút thì ba người mới bình tĩnh lại.

Xong xuôi, hắn nhìn chuôi tiên kiếm rung động không ngừng của Tiêu Phục Huyên và nói, “Đó ắt là… thẩm vấn.”

Truyền thuyết kể rằng, khi Thiên Túc thượng tiên giáng <i>hình</i> sẽ thay trời khảo linh, thẩm vấn tà ma từ đâu mà đến.

Vì thế, giữa âm thanh vang rền không nghỉ của thanh kiếm và sương đen khắp lối, khung cảnh mấy trăm năm trước hiện ra trước mắt mọi người.

Lời tác giả:

Trước giờ cập nhật ngày mai, tất cả bình luận trong chương này đều được phát lì xì ~ chúc các bạn siêu dễ thương một Giáng Sinh vui vẻ nha ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 24: Vân hãi


Mấy trăm năm về trước, ở nhân gian vẫn còn Vương Đô, nơi ấy nằm bên cạnh Thái Nhân tiên sơn.

Nơi quan trọng nhất tại Vương Đô có tên Vấn Thiên Liêu, được dùng để cúng bái Linh đài Thập nhị tiên, phụ trách bói thiên cơ và có mối quan hệ mật thiết với các tiên môn cường thịnh đương thời.

Trông coi Vấn Thiên Liêu là hai vị Tả Hữu đại liêu sứ, phụ thân của Vân Hãi là một trong hai vị đó.

Công việc này vừa oai phong vừa nguy hiểm, nó khiến người khác ngưỡng mộ và cũng làm bao người đố kỵ. Những lúc tốt đẹp thì huy hoàng bậc nhất, mà lúc tệ lậu lại tan cửa nát nhà.

Vân Hãi gặp Minh Vô lần đầu tại phủ dành cho khách bên trong Vấn Thiên Liêu.

Khi đó hắn vẫn còn nhỏ, lại được nuông chiều từ bé nên xem Vấn Thiên Liêu như căn phủ thứ hai của gia đình và vẫn thường đùa giỡn trong sân vườn bên ngoài hành lang khách phủ.

Hôm nọ, hắn đuổi theo một chú chồn thông và rẽ gấp qua khúc cua hành lang, suýt nữa đã đụng trúng một vị khách vãng lai.

Giữa lúc hớt hải, một cơn gió lộng lên từ hư không chắn ngang trước mắt, kế đó có bàn tay đỡ trán hắn đang chúc về phía trước.

Những người có trách nhiệm chăm sóc hắn hô to “Cẩn thận” rồi nháo nhào chạy đến. Họ bế vội hắn lên và lùi về sau mấy bước, tiếp đến cúi đầu với vị khách kia theo một tác phong vừa kiêng dè vừa kính sợ.

Chỉ mỗi Vân Hãi không biết sợ là gì, còn tò mò ngẩng đầu nhìn.

Hoa Tín hôm đấy khoác dáng vẻ người thường chốn nhân gian, không dắt theo huơu trắng như trong tranh và tay cũng không nâng đèn chiếu thế. Trang phục hắn chỉ thuần một màu trắng giản đơn, tóc buông dài vén lên ngẫu nhiên và được cắm xéo qua bởi một cây trâm gỗ chưa khắc hình.

Đây là phong cách thường gặp nhất của người đi đường trên phố xá Vương Đô, thế mà vẫn khiến người nhìn ngẩn ngơ.

Đến khi Vân Hãi hoàn hồn, Hoa Tín đã đi đến cuối ngã rẽ hành lang và bước chân vào khách đường, bóng bạch y lướt trên ngưỡng cửa cao cao, thoắt cái đã mất dạng.

Vân Hãi ngoái đầu, ngẩng mặt hỏi người chăm sóc mình, “Đó là ai thế?”

Họ chỉ ậm ừ nhè nhẹ rồi bế hắn rời khỏi khách đường, khi ra đến góc sân sau hành lang mới nhỏ giọng đáp, “Đó là tiên hữu của đại nhân.”

Thuở đó Vân Hãi còn hiểu chuyện còn chưa bao nhiêu, chứ nói chi đến các quy củ giữa tiên và phàm. Hắn chỉ ngây ngô nghĩ rằng: Thần thông quản đại được gọi là “tiên”, người có quan hệ thân thiết được gọi là “hữu”.

Thành thử, hắn đinh ninh vị “Tiên hữu” nọ chính là người thế đấy, để rồi sau mới ngỡ ra người nọ vài năm mới xuất hiện một lần.

***

Lần thứ hai Vân Hãi trông thấy Minh Vô Hoa Tín, đã sáu năm trôi qua.

Khi đó, Vương Đô chìm trong loạn lạc và chướng khí mịt mù, người phụ trách Vấn Thiên Liêu đã đổi từ lâu. Phụ thân hắn bị kẻ lập mưu hãm hại, hơn một nửa gia nhân trong phủ đều mất mạng, chẳng mấy chốc mà cả phủ đệ huy hoàng đã hoá tan tác.

Tuổi hắn vẫn còn nhỏ lắm song đã mang danh con trai tội nhân, dẫn đến hệ quả không được phép dùng tên họ gốc của mình nữa. Hắn đi theo một nhóm lưu dân di cư về nam, chật vật một đường đến được Ngư Dương.

Ngư Dương bấy giờ lo ngại hoạ loạn lan đến nên vội vã phong thành, lưu dân tiến thoái lưỡng nan rồi chỉ đành sống tạm bợ trong miếu hoang ngoài sơn dã.

Đợt rét đậm năm đó lạnh lẽo cùng cực, quá nửa số lưu dân chẳng chống cự qua nổi một tháng. Thế nên, trong căn miếu hoang chốn sơn dã kia chất ngập xác chết nằm thành tụm năm tụm ba, oán khí nặng nề, dẫn về không ít các loại tà ma âm sát.

Căng mình gắng sức hết mùa đông, đã chẳng còn bao người sống sót bên ngoài sơn dã.

Vân Hãi chính là một trong số người còn lại.

Ngày hôm đó, hắn cưỡm đoạt thức ăn từ tay một sinh vật tính âm đã tàn phế nửa thân, kéo lê một bên cẳng chân bị con vật tính âm đó đánh gãy, ôm lấy mắt trái bị cào rách của mình và trốn trong một hang núi.

Hắn cuộn người ở phía sau vách đá, chùi sạch máu me quanh mắt, nắm chặt miếng thịt không rõ ngọn nguồn trong tay rồi há miệng toan cắn. Bất chợt từ trong sơn cước rét lạnh, một ánh đèn rọi tỏ giữa màn đêm.

Vân Hãi đã tập thành thói quen, không cần biết đó là người phương nào vật nơi đâu đã nhanh chân nhổm dậy muốn bỏ trốn.

Nhưng ánh đèn kia đến quá nhanh.

Hắn còn chưa kịp chạy một bước thì người nâng đèn đã đứng trước mặt.

Vân Hãi còn nhớ rõ gương mặt ấy, tuy hắn chỉ gặp qua một lần, tuy hắn không nên ghi nhớ sâu đậm, thế mà hắn thật sự nhớ rõ. Dù đã cách sáu năm ròng nhưng chỉ thoáng nhìn đã nhận ra.

Người ấy không phải ai khác mà chính là vị khách vãng lai tại Vấn Thiêu Liêu năm nào, là vị tiên hữu của phụ thân.

Vân Hãi ngước mắt nhìn người nọ, động tác giống hệt khi còn bé thơ.

Chẳng qua khi xưa, hắn mở to đôi mắt tròn xoe đầy vẻ tò mò, còn giờ đây đã mù một mắt, mang theo nửa thân thể đầy máu và gương mặt chết lặng.

Hắn lếch cánh chân gãy, quỳ xuống ngồi phía sau tảng đá lạnh lẽo, giương mắt nhìn người mà mình từng kinh hồng một thoáng năm xưa và nghe đối phương mở miệng nói, “Ta được người gửi gắm đến đón con.”

Giọng nói ấy thật êm tai, xuyên qua sương mù đêm lạnh mà rơi xuống như cơn gió ấm nồng kề cận.

Phàm nhân quá đỗi lạ kỳ. Gia phủ tan thương không khóc, sống đời khất cái lưu dân không khóc, chịu đông rét chịu đói khát không khóc, gãy chân mù mắt cũng không khóc…

Thế mà nghe người nói câu “Ta đến đón con”, hai mắt đã đỏ bừng.

Vân Hãi siết chặt tảng thịt chết trong tay với gương mặt vô cảm và đôi mắt hoen đỏ nhìn Minh Vô Hoa Tín.

Khi thấy đối phương đưa tay về phía mình, hắn bất ngờ bùng nổ, nắm chặt lấy bàn tay từng đỡ trên trán mình mà há miệng cắn mạnh xuống.

Hắn cắn rất mãnh liệt, chỉ trong giây lát mà thoáng chừng ngửi được mùi máu trong miệng. Miệng nồng mùi máu, hắn phẫn nộ đay nghiến trong lòng: <i>Không phải người là tiên hữu ư? Nếu đã là “hữu” thì khi cha ta bị mưu hại người đang ở đâu? Khi cha ta bỏ mạng người đang ở đâu? Khi tan cửa nát nhà thì người đang ở đâu?!</i>

<i>Là ai gửi gắm cho người, vì cớ gì giờ lại đến đón ta?!</i>

Dù hắn chỉ uất hận trong lòng thôi nhưng đối phương dường như nghe được tất cả.

Sau một lúc lâu, chất giọng bùi tai kia vang trên đỉnh đầu hắn, “Linh đài có thiên quy, ta không thể nhúng tay vào sự vụ dưới nhân gian.”

Giọng nói ấy dịu dàng và ngọt ngào nhưng lại không vương xúc cảm sâu đậm — không có bi ai khi bằng hữu qua đời, không có áy náy bất lực khi khoanh tay đứng nhìn, thậm chí chẳng nghe được chút nào tiếc thương, tưởng chừng chỉ là một con người mang ý chí sắt đá.

Song mãi hồi lâu sâu, Vân Hãi mới nhận ra: Tiên nhân vốn thần thông quảng đại, sao có thể bị hắn cắn mạnh vào tay, và càng không thể bị hắn cắn đến chảy máu ồ ạt.

Người kia có thể ngăn cản nhưng đã không can ngăn, người kia đang cho hắn cơ hội cắn xé cho hả giận.

Nghĩ đến đây rồi, cuối cùng hắn cũng dần nhả miệng ra.

Hoa Tín không lau đi vết thương rách miệng và máu tươi trên da, mà chỉ cúi người kiểm tra con mắt bị thương và cẳng chân gãy của hắn rồi nói, “Đi thôi, ta dẫn con về trị thương.”

Vân Hãi né đầu mình khỏi tay người kia, khàn giọng cất lời, “Không đi được.”

Hoa Tín không mảy may để tâm đ ến lời chống cự của hắn, còn hơi ngạc nhiên hỏi, “Lưỡi vẫn còn à?”

Vân Hãi, “…”

“Ta còn tưởng không nói được nữa rồi.” Hoa Tín nói, đồng thời khẽ nhấc tay.

Một con hươu trắng phóng ra từ cánh rừng phía sau, Hoa Tín đặt Vân Hãi trên lưng hươu và dẫn hươu xuống chân núi.

Dường như sợ bị té ngã, Vân Hãi vừa ngồi lên lưng đã trơ người ra, chỉ có thể ngoan ngoãn dựa vào phía trước và nghe Hoa Tín hỏi, “Con bao lớn rồi?”

Vân Hãi thầm cười gằn: <i>Đến cả những việc này còn không biết tí gì mà dám xưng là “Tiên hữu”.</i>

Hoa Tín vẫn giữ vẻ bình tĩnh, “Thời gian trên Tiên Đô rất chậm rãi nên ta không nhớ những việc ấy đâu.”

Vân Hãi: “Mười một.”

Hoa Tín hỏi tiếp, “Thế tên thì sao?”

Vân Hãi lại cười gằn trong lòng cái nữa.

Hoa Tín nói, “Sau này con không cần tên tục ấy nữa, nếu lấy theo danh Vân thì cứ gọi con là… Vân Hãi đi.”

Vân Hãi: “…”

Đã lâu hắn không nhắc đến tên họ của mình nên cũng sắp quên mất thật rồi. Song, khi nghe Hoa Tín nói vậy vẫn khiến trong lòng trỗi lên đau khổ mà cơ thể chẳng cách nào nhúc nhích được, hắn bèn nhắm mắt lại.

Từ đó về sau, hắn tên là Vân Hãi.

***

Phàm nhân không thể lên toà tháp ba mươi ba tầng trên Thái Nhân tiên sơn nên tất nhiên không cách nào bước đến Tiên Đô.

Khi Hoa Tín nói “Dẫn con về trị thương” ý là sắp xếp cho hắn đến nhà họ Hoa.

Người ta gọi là “sắp xếp”, nhưng trong mắt Vân Hãi, đó chẳng qua là quẳng hắn vào nhà họ Hoa.

Nhà họ Hoa năm đó chưa đến Đào Hoa châu, đệ tử môn hạ chưa đông đúc như sau này nhưng cũng đã cực kỳ hưng thịnh.

Đa số đệ tử nhà họ Hoa nhập đạo bằng kiếm, chỉ có một số ít tu về y thuật. Song dù là tu theo đường nào đi nữa thì cũng có đầy công việc và bài vở hàng ngày.

Chỉ riêng mỗi Vân Hãi vừa không có kiếm riêng mà cũng không có phương thức luyện đan để thực tập nốt.

Sau khi dưỡng lành mắt và chân, hắn ta đã rảnh rỗi đến phát điên, ngày ngày chạy long nhong khắp các toà đường trong nhà họ Hoa. Hắn hỏi gia chủ nhà họ Hoa rồi hỏi sang các vị đường trưởng lão là mình nên luyện gì thì tốt? Hoặc hỏi chừng nào hắn mới có thể sở hữu thanh kiếm cho riêng mình?

Thế mà từ gia chủ cho đến trưởng lão đều ngợi khen tư chất hắn là dạng trăm năm hiếm thấy, có kỳ tài ngút trời, căn cốt tuyệt hảo, đồng thời thoái thác nói rằng hắn là đồ đệ do đích thân Tiên thủ Linh đài là Hoa Tín nhận về nên họ không thể thay thế Hoa Tín để dạy dỗ hắn, bởi làm thế là vượt quá giới hạn, và kết luận rằng hắn nên chờ vị tiên đến tự truyền dạy.

“Vậy người kia phải đến dạy con chứ!” Vân Hãi thốt.

Gia chủ và trưởng lão đều không thể trả lời mà chỉ đành cười trừ.

Sau năm lần bảy lượt như vậy, Vân Hãi đã chán ngán việc tự vấn bản thân và không thắc mắc gì vấn đề này nữa. Thỉnh thoảng thấy đệ tử khác luyện kiếm, hắn sẽ đứng nhìn một chút. Rồi khi đệ tử luyện đan hắn cũng xem qua vài lần.

Nhưng phần lớn thời gian, hắn lòng vòng trong Tàng Thư các.

Trong Tàng Thư các có lưu giữ tượng thần và tranh chân dung của Hoa Tín. Lâu lâu, hắn đọc một quyển sách nào đấy thấy được, bèn thẫn thờ trước bức ảnh ấy cả ngày, lòng mang một nửa ngẩn ngơ một nửa trách cứ.

Tuổi trẻ thiếu niên khí phách hào hùng, sao có thể chấp nhận bị bỏ rơi.

Chưa kể, hắn thật lòng rất muốn nhanh chóng học hỏi và gầy dựng tên tuổi…

Hắn cứ lẩn thẩn như thế hai năm mà không rõ nguyên cớ, ngẩn người đến vô cảm rồi mới gặp được Hoa Tín lần nữa.

Tưởng chừng Hoa Tín đã quên bẵng đi người đồ đệ duy nhất này, hôm đấy hắn đến nhà họ Hoa cũng không phải để tìm Vân Hãi. Song, Vân Hãi tuyệt nhiên không từ bỏ cơ hội và tìm cho bằng được Hoa Tín trước khi người kia đi mất.

Đầu tiên, Vân Hãi ngoan ngoãn gọi một tiếng “Thưa sư phụ” xong xuôi mới hỏi, “Tất cả đệ tử trong môn phái đều được tu luyện, chỉ mỗi mình ta ngoại lệ. Không biết có phải sư phụ đã hối hận vì đưa ta về đây không? Nếu thật là thế, mong sư phụ đừng ngại cho ta hay, để ta tự giác rời khỏi đây là được.”

Hắn đã được nuông chiều từ tấm bé, trên người luôn mang chút gì kiêu ngạo. Về sau lưu lạc đầu đường xó chợ làm ăn mày lưu dân đã bổ sung đôi phần nhạy cảm đầy sắc bén. Khi này tuổi hắn vẫn còn trẻ, cả hai nét kiêu ngạo và nhạy cảm đều hiện rõ trên mặt chẳng chút nào giấu giếm.

Hoa Tín vốn không tính trả lời, nhưng thấy vẻ mặt hắn như vậy hồi lâu thì vẫn đưa ra một lời giải thích, “Căn cốt của con quả thật tuyệt hảo, hiếm gặp trên thế gian. Nếu con thật lòng muốn nhập đạo, ắt nhiên dễ dàng phi thăng thành tiên hơn những người khác rồi. Như vậy không cần gấp gáp chi đâu một hai năm.”

Vân Hãi hỏi, “Không cần gấp gáp một hai năm tức là bao lâu nữa?”

Hoa Tín đáp, “Chờ đến lúc thích hợp để con cầm kiếm.”

Vân Hãi vẫn không từ bỏ, “Vậy tại sao hiện tại không thích hợp?”

Mãi lâu về sau, Vân Hãi hãy còn nhớ rõ ánh mắt Hoa Tín nhìn mình trong khoảnh khắc ấy, ánh mắt thật tĩnh lặng mà tựa như thấu tỏ hết thảy. Hoa Tín nói, “Vì hiện tại con vẫn luôn nghĩ đến việc giết sạch những người đã mưu hại phụ thân con, con muốn họ phải chịu đựng mọi điều tra tấn, muốn nợ máu phải trả bằng máu.”

Vân Hãi lặng thinh.

Một lúc sau, hắn mới nói, “Sư phụ thật anh minh thông tuệ, mắt người sáng tựa ánh đuốc. Ta xác thật có nghĩ như vậy. Thế nhưng chẳng lẽ ta không nên nghĩ vậy ư? Chẳng lẽ tu hành là phải không yêu không hận, không thù không oán, chẳng lẽ ta phải giống như ngài, có thể bình tĩnh nhìn những người kia sống lâu trăm tuổi ư?”

Hoa Tín không đáp lời.

Vân Hãi vẫn nhìn hắn đau đáu, nhìn đến mức đỏ bừng hai mắt, chẳng khác gì lúc xưa tay siết chặt tảng thịt chết kia mà lặng lẽ giãy giụa cầu được sống sót trong hang động.

Cuối cùng, Hoa Tín nói, “Không ai bắt con phải giống như ta cả. Thế nhưng con nên biết tu hành là một chặng đường dài, và con đường con hằng tìm kiếm quá ngắn ngủi.”

Vân Hãi, “Ngắn ở đâu?”

Hoa Tín, “Giết người chẳng qua chỉ là một nhát kiếm. Giết xong rồi sẽ thế nào? Lúc đó con chẳng còn điểm tựa nào nữa.”

Thì chờ đến lúc không còn điểm tựa lại nghĩ tiếp.

Vân Hãi tự nói với mình. Song bên ngoài hắn chỉ mấp máy môi, sau cùng thi lễ và buông mắt, nói, “Đệ tử minh bạch, ta… ta sẽ cố gắng.”

Trên một phương diện nào đó, hắn ta quả thực là một kỳ tài ngút trời. Hắn ngỏ lời sẽ cố gắng thì không còn thấy dáng vẻ lúc trước. Hắn không ngóng trông kiếm của mình và cũng không đến những chỗ luyện đan nữa. Suốt thời gian đó, hắn vẫn một mực dành thời gian ngâm mình trong Tàng Thư các hàng ngày.

Cứ thế thấm thoắt đã qua hai năm.

Trong quãng thời gian hai năm ấy, Hoa Tín đã ba lần đến nhà họ Hoa. Cả ba lần đó, Vân Hãi đều ở yên trong Tàng Thư các chứ không đuổi theo hỏi dò sư phụ nữa.

Lần kế tiếp Hoa Tín gặp hắn, chàng trai nọ trông khác hoàn toàn cậu thiếu niên siết chặt tảng thịt chết bên trong hang núi năm nào.

Mặc dù hắn chỉ vừa mười sáu.

Hoa Tín thấy vậy, thử thách lai rai hắn thêm một năm nữa.

Đến năm mười bảy tuổi, Vân Hãi có kiếm của riêng mình.

***

Thuở trước vào thời điểm còn chưa rơi vào quên lãng, người đời từng miêu tả Vân Hãi như sau:

Người này có kỳ tài ngút trời, trăm năm hiếm thấy, mười bảy tuổi đã sở hữu kiếm riêng, sau tám năm dùi mài tu hành, hắn được hưởng vô vàn cơ duyên mà nhiều người mong mỏi cả đời cũng chẳng thấy, cuối cùng một sớm phi thăng thành tiên. Hoa Tín và hắn có tình nghĩa thầy trò sâu đậm, sau này cùng đứng trên Tiên Đô. Đây có lẽ là câu chuyện đầu tiên về hắn được người đời ca tụng…

Vì người này tuổi trẻ tài cao, câu chuyện về ngày Vân Hãi thăng thiên lên Tiên Đô đã dệt nên một giai thoại thường xuất hiện trong lời kể chúng tiên. Thế nhưng đối với bản thân, điều Vân Hãi nhớ rõ nhất vào ngày hôm ấy không phải là việc hắn đã bước l3n đỉnh tháp Thái Nhân tiên sơn ra sao, bước vào Tiên Đô như thế nào…

Mà là việc hắn đã trông thấy hai người.

Lời tác giả:

Ôi… Cuối cùng cũng viết đến người nào đó trên Tiên Đô rồi…
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 25: Linh vương


Hôm đó khi Vân Hãi vừa vào đến Tiên Đô, đã có một vị tiên sứ Linh đài cầm gậy ngọc dài đứng đợi sẵn.

Tiên sứ vừa thấy hắn liền mỉm cười niềm nở, “Chào Lang quan.”

<i>Giọng của người trên Tiên Đô cứ thật mềm mại, cuối câu hơi cao lên, hai chữ nọ còn mang hàm ý thân thiết thế nào, nghe bùi tai tới lạ…</i>

Vân Hãi thầm nghĩ.

Hắn hỏi, “Vì sao lại gọi như vậy?”

Tiên sứ Linh đài đáp, “Những tiên quân chưa phong hào đều được gọi như vậy.”

Vân Hãi: “Ai gặp ta cũng sẽ gọi như thế à?”

Tiên sứ Linh Đài gật đầu. “Ai gặp cũng sẽ gọi như thế.”

Vân Hãi: “Tiên thủ cũng gọi vậy ư?”

Tiên sứ Linh đài hơi ngỡ ngàng. “?”

Vân Hãi khoát tay. “Ta chỉ thuận miệng hỏi thôi.”

Tiên sứ Linh đài dẫn hắn lên một bậc thang dài vô cùng, chỉ tay từ xa và nói, “Thưa Lang quan, tất cả tiên nhân mới đến đều phải ghé bái trời trên Linh đài, nhận một chỉ thiên chiếu, tiếp đó sẽ gặp Linh đài Thập nhị tiên. Gần như tất cả chúng tiên tại Tiên Đô đều tôn kính Linh đài Thập nhị tiên và đặc biệt là Tiên thủ Minh Vô.”

Theo lẽ hiển nhiên, Vân Hãi vui mừng tột độ, Hoa Tín vốn không thường xuống nhân gian nên một năm hắn cũng không gặp người kia được mấy lần.

“Thế nhưng cậu vừa nói gần như?” Vân Hãi thắc mắc.

“Đúng vậy,” tiên sứ Linh đài giải thích, “có hai vị ngoại lệ.”

Ắt là cậu ta đã giải thích việc này với rất nhiều người rồi nên khi thấy Vân Hãi tò mò chỉ trình bày đơn giản, “Hai vị ấy không thăng thiên từ tu hành mà được Thiên đạo Linh đài trực tiếp triệu hoán.”

Cậu ta giải thích cho Vân Hãi ý nghĩa của triệu hoán, xong nói tiếp, “Thiên đạo có chiếu lệnh gì cũng sẽ báo thẳng cho hai vị ấy, người khác không ai biết được, lẽ hiển nhiên họ không thuộc quản lý của Linh đài Thập nhị tiên.”

“Trực tiếp nhận thiên chiếu?” Vân Hãi sững sờ cùng cực.

“Đúng thế.”

Với tầm ảnh hưởng sâu nặng của Vấn Thiên Liêu, Vân Hãi tưởng rằng Linh đài Thập nhị tiên là vị trí tối cao của Tiên Đô, và Minh Vô Hoa Tín là tôn sư được kính trọng nhất trong bậc tôn giả. Giờ đây mới nghe đến việc có hai vị nằm ngoài nơi ấy, hắn nhất thời không biết nên tiếp nhận thế nào.

“Nói thế chẳng phải so ra còn hơn vị trí Tiên thủ…” Vân Hãi bật thốt.

Tiên sứ Linh đài không thể trả lời câu hỏi này, dù sao bản thân cậu cũng trực thuộc Linh đài. Cậu chỉ đành ngừng đoạn, nói qua loa, “Hai vị ấy không quan tâm những việc lẻ tẻ, không hưởng thờ phụng, không nhận điều động của Linh đài. Nói chung, họ không can thiệp vào chuyện của Linh đài và ngược lại, cả hai bên đều kính trọng lẫn nhau, kính trọng lẫn nhau.”

“Hai vị nọ dung mạo ra sao? Phong hào là gì? Có dễ nhận diện không? Sau này ở Tiên Đô nhỡ gặp mặt có cần tránh đi không?” Vân Hãi suy tư rồi cười nói, “Tính ta ưa đùa giỡn, nhỡ đâu sơ ý đắc tội người ta mà không biết thì không hay lắm. Phiền tiên sứ nhắc nhở trước một vài điểm?”

Tiên sứ Linh đài đáp, “Một vị phong hào Thiên Túc, khi triệu hoán được trời ban danh tự “Miễn”, chưởng quản hình xá. Trên xương tai có bấm ba thanh đinh tang, hẳn là dễ nhận diện.”

Vân Hãi: “Đinh tang? Sao lại là đinh tang?”

Tiên sứ Linh đài đáp, “Không rõ, trước giờ đều gọi như thế. Thiên Túc được triệu hoán từ rất sớm, từ khi Linh đài Thập nhị tiên ra đời đã có ngài ấy rồi nên chúng tiên cũng theo đó mà tỏ lòng tôn kính. Lại nói, tính tình vị Thượng tiên ấy khó gần, đâm ra cũng không ai dám hỏi nhiều.”

Vân Hãi tự nhủ với lòng nếu mình tránh được thì cứ tránh vẫn hơn.

“Vị còn lại thế nào?”

“Vị còn lại… vị còn lại thăng thiên còn sớm hơn Thiên Túc thượng tiên,” Tiên sứ Linh đài cho hay. “Ngài ấy phong hào Linh Vương, khi triệu hoán được trời ban danh tự ‘Chiêu’.”

Linh Vương…

Vân Hãi còn chờ nghe kể tiếp thì thấy tiên sứ Linh đài nọ chợt ngẩn người. Dường như cậu thấy ai đó nên bèn xoay người lại, gác gậy ngọc và cúi người trịnh trọng thi lễ.

Vân Hãi vừa tính xem xem là ai mà tiên sứ Linh đài phải kính cẩn như vậy thì đã nghe tiên sứ mở lời, “Không biết Thiên Túc đại nhân ghé Linh đài có việc chi?”

Vân Hãi ngỡ ngàng, ngoái đầu lại nhìn thì thấy Thiên Túc thượng tiên đang bước lên bậc thang.

Đó là một chàng trai trẻ tuổi tột độ, lạnh lùng và toả đầy áp lực. Quả thật, dù có đứng giữa nhóm chúng tiên cũng nổi bật vô cùng, chỉ nhìn từ đằng xa hàng mấy bậc thang vẫn có thể cảm nhận sát khí nồng đậm bao quanh ba thanh đinh tang trên xương tai y. Trông y tưởng chừng sắt lạnh phủ ngọc thạch, khí chất ngang ngược và lãnh đạm thoạt ngỡ mâu thuẫn, nhưng hoà chung một chỗ mang đến cảm giác đặc biệt vô cùng.

Chẳng là Thiên Túc tính tình khó gần chứ không phải ngạo mạn vô lễ. Y gật đầu với tiên sứ Linh đài và cất giọng nhàn nhạt, “Có việc.”

Tiên sứ Linh đài nói, “Hôm nay có Lang quan phi thăng, có lẽ nhóm Tiên thủ còn đang bộn bề, để không chậm trễ, có cần ta đi trước báo tin không?”

Nghe câu “Lang quan phi thăng”, Vân Hãi cười khẩy, quay sang hành lễ với cậu ta và nói, “Đại nhân có việc xin mời vào Linh đài trước, ta nói chung tương đối rỗi rãi, có thể chờ thêm ít lâu.”

“Không cần.”

Thiên Túc chuyển tầm mắt sang, gật đầu với hắn một cái. Kế đó tiếp tục cất giọng trầm thấp một cách lạnh nhạt, nói, “Ngươi đi với cậu ta, ta không đến tìm Hoa Tín.”

Khi y còn đang nói, màn sương lành lạnh ngoài lối vào Tiên Đô lại khẽ động, tiếng hành lễ của tiên sứ trông cửa vang vào từ xa, nghe qua vô cùng cung kính.

<i>Sao hôm nay tấp nập quá vậy.</i>

Vân Hãi nghĩ thầm, đoạn nhấc chân tính bước tiếp lên trên thì nhác thấy Thiên Túc thượng tiên dừng động tác, mắt lướt nhìn cửa vào phía dưới bậc thang.

Rồi kế tới, vị tiên sứ Linh Đài vội khom người thi lễ với người vừa vào từ đằng xa.

Vân Hãi tò mò ngoảnh nhìn thì thấy một bóng người đang bước qua màn sương lạnh.

Người nam này vận áo lụa màu bạch ngọc, thít chặt đai nơi cổ tay và eo, trên có thêu hoa văn chìm ánh bạc, tôn lên vóc người cao dỏng với đôi chân dài, toát ra thần thái quý phái đầy dạn dĩ.

Sau khi người này bước khỏi màn sương thì không đi tiếp mà nghiêng người chờ đợi gì đó.

Giây lát sau, có hai tiên đồng theo gót bước ra từ màn sương. Một cậu vác thanh trường kiếm, miệng càu nhàu một cách khó chịu, “Bẩm đại nhân, nó nặng thật đấy ạ.”

Thanh kiếm ấy xinh đẹp muôn phần, trên vỏ kiếm chạm hoa văn bạc tinh tế, ngó chừng dáng bộ bước không nổi của cậu tiên đồng kia thì thanh kiếm này thật sự rất nặng.

“Có nặng như ngươi không, đưa cho ta nào,” người nọ đáp ngược lại.

Tiên đồng vừa nghe vậy thì hớn hở hẳn ra, lập tức ném thanh kiếm về phía trước —

Người nọ bắt lấy kiếm bằng một tay.

Thanh kiếm xoay vài vòng trên ngón tay thon dài nhưng đã được nắm vững chãi. Người kia cầm kiếm và ngoảnh người bước lên bậc thang đầy khí khái.

Đến bấy giờ, Vân Hãi mới nhận ra người nọ đeo mặt nạ.

Trên mặt nạ cũng chạm những đường vân mỏng cầu kỳ và xinh đẹp như trên vỏ kiếm, và cũng toát ra khí chất cao quý đẹp đẽ thật ma mị. Giữa chúng tiên, nó nổi bật chẳng khác nào đinh tang trên xương tai Thiên Túc.

Vân Hãi thấp giọng hỏi tiên sứ Linh đài, “Vị đó là…”

Tiên sứ Linh đài nhỏ nhẹ đáp, “Chính là người kia mà ta nhắc đến.”

Khi người kia thong thả cất bước lên bậc, ánh dương bàng bạc rẽ màn mây mù trên Tiên Đô đặng vẽ nên vầng hào quang sáng ngời bọc lấy dáng người thon cao của y.

Vân Hãi chợt nhớ về cái tên trời ban cho người kia, Chiêu.

“Vì sao vị Linh Vương này phải mang mặt nạ? Lẽ nào cần kiêng kỵ điều gì?” hắn lại hỏi.

Tiên sứ Linh đài nhỏ giọng đáp, “Cũng không phải có gì cần kiêng kỵ, chẳng qua Linh Vương đại nhân luôn mang mặt nạ mỗi khi tiếp nhận thiên chiếu đi làm việc.”

“Làm việc gì?”

“Chuyện này chỉ có Thiên đạo mới rõ,” Tiên sứ Linh đài không nói nhiều.

Vân Hãi những tưởng vị Linh Vương này sẽ lãnh đạm khó gần như Thiên Túc, để rồi nhanh chóng phát hiện không phải như vậy.

Linh Vương đi lên vài bậc thang rồi chợt ngừng bước.

Dù đang đeo mặt nạ, nhưng có thể thấy rõ y hơi nghiêng đầu, khẽ khàng nhìn sang Thiên Túc.

Chính chủ chưa nói gì, song hai tiên đồng bên người đã lên tiếng trước, họ hành lễ với Thiên Túc, hô to từ dưới bậc thang xa xôi, “Bẩm đại nhân, đại nhân nhà ta nói trò đùa lần trước chỉ là hiểu lầm thôi, đáng ra chúng ta không nên làm vậy.”

Thiên Túc không tỏ vẻ gì, chỉ im lặng nghe hai đứa gáy quạc quạc, sau một hồi mới mấp máy khoé môi nói, “Miễn.”

“Tâu đại nhân, ngài ấy nói miễn,” tiên đồng ngước mặt lên.

Vị Linh Vương nọ “Ò” một tiếng, kéo mép dưới mặt nạ lên một chút để lộ khuôn cằm trắng phau và góc mũi thẳng thóm.

Người nọ cười khẽ rồi thả tay ra, mặt nạ lại che kín gương mặt. Kế đó, y khẩy chuôi kiếm vào tiên đồng một chút rồi mang kiếm rẽ sang một hướng khác.

***

Vân Hãi vừa lên Tiên Đô ngày đầu tiên đã gặp được hai vị kia nên có ấn tượng đầu với họ từ trước khi kết bạn với những vị tiên khác, có lẽ vì thế mà hắn không mấy bị tác động từ những tin đồn lạ kỳ quái đản về sau.

Nhờ vậy mà trong một trăm năm sau đó, hắn đã trở thành một trong số hiếm hoi trên Tiên Đô có giao tình với hai người họ.

Nhưng quan hệ với Thiên Túc thượng tiên có phần nhạt hơn, bởi nói cho cùng tính tình người kia chính là như vậy, đã thế còn chưởng quản hình xá, không vương chút bóng dáng tư tình trên thân.

Mối giao hảo giữa hắn và Linh Vương sâu sắc hơn, cũng bởi tính tình người kia chính là như vậy.

Nhưng dù có giao tình đi nữa, Vân Hãi vẫn không khỏi tò mò. Tính tình vị Linh Vương kia không lạnh lùng cô quạnh mà trái lại rất mực niềm nở hoạt bát. Thế mà nơi ở của y xa xôi cùng cực.

Tiên Đô rộng lớn nhường ấy, dao cung có đến vạn toà, mà y lại sống nơi xa lìa chúng tiên nhất, chưa kể bốn phía quạnh quẽ không người, cận kề còn là Phế Tiên đài nơi ai ai cũng kiêng dè.

Hắn từng hỏi Linh Vương, “Sao huynh lại ở một nơi như thế này?”

Người nọ đáp, “Vì thích hợp.”

Hắn cũng từng nhắc đến việc đó với Hoa Tín, Hoa Tín trả lời rằng, “Không biết, tự y có tính toán riêng.”

Linh đài không can hệ đến hai vị kia, mà Hoa Tín còn là người không bận tâm đ ến chuyện của kẻ khác, nên khi đi cùng nhau họ cũng ít khi đề cập đến những đề tài như vậy.

Phần lớn thời gian, Vân Hãi cố gắng mua vui cho sư phụ.

… Hoặc nói chọc tức sư phụ cũng không sai.

Có lẽ trước đây, hình ảnh nét mặt vô cảm không buồn không vui khi Hoa Tín đón hắn về đã đốt nên dấu ấn sâu sắc mà dài lâu trong lòng hắn, để rồi sau này hắn đã nảy sinh một chấp niệm.

Rằng hắn muốn nhìn thấy cảm xúc phong phú trên gương mặt ấy, không phải những cảm xúc hoà nhã dịu dàng trên tượng thần hay tranh vẽ mà là cảm xúc vui vẻ và tức giận thật sự…

Loại nào cũng được.

Có đôi khi, hắn chọc cười sư phụ mà hồ hởi trong lòng, nhưng cũng đồng thời phỉ nhổ bản thân…

Hắn thấy bản thân mình thật kỳ lạ.

Xưa kia nỗ lực hết mình hòng tu luyện khi còn ở nhân gian chỉ để một ngày có thể bước lên Tiên Đô. Mà khi lên đến Tiên Đô rồi, hắn lại gắng hết sức cố hết mình làm đủ mọi cách chỉ để mang về chút nhân khí cho vị Tiên thủ với dáng vẻ thần tiên bậc nhất kia.

Hắn đã nhiều lần thất bại, và cũng không ít lần thành công.

Đến mấy vị tiên sứ Linh đài cũng trầm trồ rằng Tiên thủ dường như có hơi khác xưa rồi.

Một lần nọ, hắn nhìn dáng vẻ cười rộ lên của Hoa Tín mà nghĩ thầm trong lòng, nếu cứ sống như thế cũng bõ mấy trăm mấy ngàn năm, xem như đứa cô nhi chân gãy mắt mù năm nào đã mất mạng bên trong ngọn núi hoang kia vậy.

Sau rồi hắn phát hiện hoá ra vẫn không xong.

Hắn cai quản tang hỉ nhân gian, là vị tiên có giao tiếp nhiều nhất với phàm nhân hạ giới, hiển nhiên có muốn né cũng không cách nào tránh khỏi việc gặp lại những người lúc xưa hắn từng thề nguyền phải giết.

Hắn cố tránh ba lần để rồi không thể tránh được lần thứ tư.

Những người nọ thế mà sống lâu đến trăm tuổi thật, hắn mãi chẳng cách nào hiểu nổi chuyện đó. Và thế là, hắn xuống tay giết họ.

Tổng cộng ba mươi mốt người, song vẫn ít hơn những người đã mất ở nhà hắn khi xưa.

Sau khi xuống tay rồi, hắn lãnh chiếu và đến quỳ trước Linh đài nhận thiên phạt.

Đó là lần đầu tiên hắn trông thấy Hoa Tín tức giận đến bậc ấy.

Lời tác giả:

Quỳ thêm một ngày nữa QAQ thời gian cập nhật mấy ngày này tương đối âm phủ, cộng thêm đụng trúng lúc bận rộn, mong mọi người đừng thức đêm chờ đợi ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 26: Đoạ tiên


Linh đài không phải một toà dao cung hay một bệ thềm. Đó là hệ thống gồm mười hai vách núi treo cao, được nối với nhau bởi hành lang bằng ngọc bích. Mỗi vị trong Linh đài Thập nhị tiên cư ngụ một toà, và nơi cao nhất thuộc về Minh Vô Hoa Tín.

Trên mỗi vách núi đều có một nơi chuyên dùng để lĩnh phạt, hình phạt ở từng nơi ấy không giống nhau.

Vân Hãi bị tước pháp khí và chịu phạt qua từng chỗ một. Khi đến trước mặt Hoa Tín, hắn đã không còn đứng nổi nữa, song vẫn gắng gượng chống thẳng lưng, tiên khí xưa kia thoáng ẩn thoáng hiện quanh trang phục thấm máu nhiễu giọt tí tách, nơi cuối vạt áo còn vương tàn tích lửa thiêu khi hắn quỳ nhận phạt trên một toà đài trước đó.

Hắn mãi mãi không quên ánh mắt Hoa Tín nhìn mình khi ấy, hắn đoan chắc đã thấy nét đau lòng giấu sau cơn phẫn nộ điên cuồng của người nọ.

Cả người hắn đẫm máu, nhưng miệng nở nụ cười.

“Vân Hãi!” vừa thấy hắn cười, Hoa Tín càng tức giận. “Ngươi!!!”

Lần đầu tiên Vân Hãi trông thấy sư phụ mình tức đến mức không nói nên lời, xưa nay sư phụ luôn bình tĩnh giảng đạo lý, là loại bình tĩnh không gợn sóng khi thốt lên những lời như nghiễm nhiên, còn giác ngộ được hay không thì tự người nghe hiểu lấy.

Trên đời có nhiều chuyện nhỏ nhặt lắm, những chuyện này nọ trên Tiên Đô cũng không thiếu, dù có hiếm thấy hay lạ thường đến đâu cũng không khiến Hoa Tín phải biến sắc như vậy.

<i>Ta quả thật là thằng khốn nạn.</i>

Vân Hãi nhủ thầm.

Nói thế nhưng hắn vẫn không khỏi cảm thấy vui tự đáy lòng vì được nhận thứ “có một không hai” như vậy.

“Ngày ngươi vào Tiên Đô đã lập lời thề thế nào trước Linh đài này của ta? Ngươi nhận thiên chiếu, trên đó đã ghi rõ chuyện gì được phép làm chuyện gì không được phép làm. Ngươi xem đó chỉ là một tờ giấy rách ư?!” Hoa Tín trách mắng.

“Thưa không,” Vân Hãi đáp. “Ta vẫn còn nhớ rõ, thưa sư phụ. Ta hiểu rõ hậu quả.”

Hoa Tín còn định nói gì đó song Vân Hãi đã ngắt lời trước, “Nhưng ta vẫn chọn trả thù.”

Hoa Tín tức thì lặng thinh.

“Ta chọn trả thù,” Vân Hãi tiếp tục. “Ta không muốn thấy những kẻ cặn bã vô lại kia sống an nhàn không bệnh không lo trên thế gian. Người biết không, ta không cam lòng nhìn những điều đó, nó quá bất công.”

Nói đoạn, hắn bước tới đài phạt quỳ.

Mười hai đỉnh, mười hai đài phạt quỳ, trên mỗi đài mang khổ ải núi đao biển lửa khác nhau.

Hoa Tín lẳng lặng nhìn hắn bước lên đài đá móc đầy xiềng xích trói buộc, một hồi lâu sau mới quay người đưa lưng về phía hắn và nói, “Chuyện bất công trên thế gian vô vàn như biển cả, ngươi quản một việc, tất rằng phải quản việc khác. Rồi sớm hay muộn sẽ có một ngày…”

Vân Hãi quỳ xuống đài đá, chờ câu tiếp theo của hắn, song Hoa Tín ngưng lời một chút rồi chẳng nói thêm gì nữa.

Phản ứng này đã tự nói rõ quá rồi — hắn không muốn một lời của mình thành sấm, không muốn đồ đệ mình “sớm hay muộn sẽ có một ngày” nên đã dừng lời ở nửa câu trước.

Vân Hãi hiểu rõ, cảm thấy ấm cả lòng.

Hoa Tín phất tay áo, cổng đá trước đài phạt quỳ hạ xuống, đóng lại.

Nhìn bóng Hoa Tín dần biến mất bên kia cánh cửa, Vân Hãi cúi đầu và cất đi nụ cười, dần dà chìm vào tĩnh lặng.

Phạt quỳ trên Linh đài thống khổ khôn cùng, dù có mang cơ thể thần tiên hay kiên dũng đến bậc nào đi nữa cũng sẽ bất tỉnh nếu phải qua mười hai lần trừng phạt, đồng thời tổn thương nguyên khí nặng nề.

Vân Hãi tỉnh lại ở chỗ của Hoa Tín.

Khi tỉnh lại, các vết thương trên người hắn đã được thoa tiên dược và đều khép miệng tương đối. Tiên nguyên bị tổn hại trong cơ thể cũng được bồi đắp lại, dù không cách nào phục hồi như ban đầu nhưng không gây trở ngại quá lớn.

Nhìn thôi cũng biết là thành quả của ai.

Sau khi tỉnh lại, việc đầu tiên Vân Hãi làm là đi tìm Hoa Tín, song dao cung rộng lớn bực này mà không thấy bóng dáng Hoa Tín đâu cả, hắn chỉ tìm được mấy đồng tử bảo rằng, “Tiên thủ dặn dò, một khi Lang quan tỉnh lại xin cứ tự rời khỏi ạ.”

Thật ra, hắn được phong hào từ lâu rồi, trên lý thuyết không cần phải gọi là Lang quan nữa. Song, hắn vừa thích trêu đùa và còn hay nói ngọt, kết quả nói ngọt cho các đồng tử và tiên sứ xung quanh mụ mị cả đầu, không biết tại sao đồng ý với hắn, hễ mở miệng gọi hắn là lại “Lang quan” ngắn “Lang quan” dài.

Duy có mỗi Hoa Tín vẫn luôn há miệng “Vân Hãi”, ngậm miệng cũng “Vân Hãi”, thân thiết lắm cũng chỉ gọi hắn “đồ đệ của ta”.

“Thế nếu ta không đi thì sao?” Vân Hãi hỏi đồng tử nọ. “Tiên thủ có dặn dò các ngươi đuổi ta đi không?”

Đồng tử lắc đầu. “Không có ạ.”

“Tiên thủ không ở đây nhiều ngày rồi, nếu Lang quan thấy không thoải mái có thể nán lại thêm vài ngày nữa ạ,” nhóm đồng tử của Hoa Tín cũng dựa theo tính tình của hắn, vô cùng nghiêm nghị ít khi vui đùa.

Những lời thân thiết thốt ra từ miệng bọn họ nghe vào cũng mất hứng ít nhiều, cứ có vẻ như toàn lời khách sáo. Thậm chí, họ gọi “Lang quan” cũng chả khác gì “Vị tiên quân này”.

Vân Hãi ngồi cạnh đầu giường một lát rồi lắc đầu cười nói, “Không cần đâu, ta quay về đây. Nhờ các ngươi nhắn lại với Tiên thủ là…”

Hắn lặng thinh một nháy mắt rồi tiếp, “Cảm tạ thuốc và tiên nguyên của người, đã làm người lo lắng rồi.”

Tiên đồng hơi ngỡ ngàng, còn hắn nói xong đã rời đi.

Tựa như từ giây phút đó, hắn đã rẽ sang một bước ngoặc lầm lối.

Mặc dù hắn không hề cố ý làm như vậy, mà sao mọi thứ vẫn diễn biến đúng như lời Hoa Tín nói. Những chuyện bất công trên thế gian mênh mang như biển rộng, ban đầu hắn chỉ muốn hoàn thành một việc đó thôi rồi bỏ mặc hết cả, song sau đó mới biết nào có làm thế được, hắn không thể không tiếp tục làm việc thứ hai…

Bởi chuyện thứ hai là hệ quả của chuyện đầu tiên.

Nói ra cũng đơn giản.

Hắn chưởng quản việc tang hỉ nên hẳn nhiên phải chứng kiến muôn kiểu biệt ly hội hợp. Có những lúc người ta vừa kết duyên đôi lứa rồi chẳng mấy lâu đã mất mạng.

Hắn vẫn thường thổn thức khôn nguôi, nhưng tuyệt đối không nhúng tay khi không cần thiết. Thật ra, cách hành xử như thế vô cùng bình thường, đến cả Tiên Đô còn khó tránh những buổi tụ hợp chia ly, đôi lúc còn có thần tiên bị giáng xuống phàm trần cơ mà.

Tuy nhiên vào hôm đó, hắn trông thấy một cô gái nhỏ quỳ gối trước tượng thần của mình.

Cô gái nọ vừa qua tuổi dậy thì, ngay vào thời điểm thanh xuân rạng ngời, tươi trẻ tựa hoa thì cô ấy đã qua đời.

Đây là một cô nương trẻ rơi vào số phận làm âm hồn bất tán, cô vận hỉ phục, bên trên còn thêu phù văn, có lẽ là một cô gái bị cưỡng ép minh hôn.

Làn da cô đốm xanh đốm trắng, đôi mắt thủng sâu thành lỗ hổng, đổ hai dòng lệ máu. Môi cô đã bị dán kín nên chẳng nói được gì — đây là một loại biện pháp dân gian sử dụng để người sau khi chết đi không đường nào cáo trạng.

Thế nhưng, sát khí trên người cô vô cùng nặng nề, dù chẳng nói tiếng nào cũng dễ dàng đoán được cô mong muốn khẩn cầu điều gì.

Những người như cô thường là những người rơi vào cảnh tan cửa nát nhà, không người che chở mới bị người khác ép buộc làm tân nương cõi âm ty. Có nguyện cầu cũng chỉ mong người đã ép uổng cô sẽ không thể chết an ổn.

Người cầu nguyện luôn mong muốn đối phương cũng phải nhận lấy những chuyện tương tự hoặc còn nặng nề hơn bản thân. Cô bị móc mắt, người gây ra cơ sự cũng phải gánh chịu hình phạt giống vậy. Cô chết thảm thương nhường nào thì kẻ kia cũng nên chết thảm thương nhường ấy.

Nhưng việc này sao có thể thành, báo ứng cũng không phải như vậy.

Theo đúng quy tắc của tang hỉ thần, Vân Hãi hoàn toàn có thể can thiệp nhưng không thể quá sâu mà chỉ vừa đến giới hạn. Hắn vốn tính chỉ làm đến đấy thôi, những hành động “đến giới hạn” khi áp xuống hạ giới thông thường không dẫn đến kết quả nào.

Mãi đến khi hắn tìm hiểu nguyên lai dẫn đến cái chết thảm thương của cô gái, trở về nhiều năm trước…

Hắn mới vỡ lẽ, cô nương này lâm vào cảnh tan cửa nát nhà, không ai bảo vệ đều bởi cha mẹ cô đã bị kẻ thù sát hại từ khi cô còn tấm bé.

Và kẻ thù đó chính là Vân Hãi.

Thật vậy, cha mẹ cô là một trong những người năm xưa mưu hại cả nhà Vân Hãi.

Chính vì thế, hắn chẳng còn cách nào khác đành phải ra tay, hơn nữa không thể chỉ dừng “ở giới hạn”. Bằng không, chính hắn sẽ trở thành “bất công, ông trời vô lý” trong mắt cô gái nhỏ kia.

Tất cả chuyện này chỉ là một sự khởi đầu.



Về sau, không biết đã là lần thứ bao nhiêu Vân Hãi trở về từ nhân gian và giam mình bên trong dao cung của bản thân.

Đáo cùng, hắn đã hiểu những lời Hoa Tín nói với mình khi xưa là lẽ gì…

Những chuyện kia to rộng như biển cả, hắn quản một việc rồi không thể không quản việc thứ hai, càng về sau càng dây dưa liên luỵ, kẻ thù của người này là ân nhân của người khác, người này muốn giết nhưng người nọ muốn bảo ban, những mối dây mơ ấy phức tạp và chằng chịt. Một khi nhúng tay quá nhiều, sớm muộn cũng có một ngày, chính sự tồn tại của hắn trở thành “vô lý bất công” lớn nhất.

Từ thời điểm hắn xuống tay giết ba mươi mốt người kia đã định sẵn sẽ có một ngày như thế…

Hắn nhiều lần vi phạm thiên quy Linh đài, Hoa Tín buộc phải nhận Thiên chiếu giáng chức hắn hết lần này đến lần khác, từ một hỉ tang thần hương khói dồi dào trở thành sơn thần thung lũng Đại Bi không người ngó ngang.

Không chỉ vậy, dường như số lượng hương khói cũng ảnh hưởng đến Tiên Đô. Một khi không ai ở nhân gian dâng hương thờ phụng hắn thì cổng đình trên Tiên Đô cũng dần dà vắng bóng người ghé qua.

Tính tình Vân Hãi nhạy cảm, ban đầu hắn còn cho rằng tiên nhân chẳng qua cũng không thoát khỏi thói đời hợm hĩnh. Không chừng cũng có ít nhiều là thật thế, song về sau hắn mới dần nhận ra, đây là một dạng quên lãng dưới quyền Thiên đạo.

Chúng tiên vẫn còn nhận ra hắn khi gặp mặt, nhưng khi không gặp nữa thì chẳng thể nhớ nổi hắn là ai. Chỉ duy nhất một người có vẻ không gánh chịu ảnh hưởng của Thiên đạo, đó là Linh Vương.

Thuở trước, khi vừa lên Tiên Đô chưa bao lâu, hắn từng hỏi Hoa Tín, “Thiên Túc chưởng quản hình xá, vậy Linh Vương chưởng quản chuyện gì? Hình như ít khi nghe người nào nhắc đến.”

Lúc ấy, Hoa Tín suy tư rồi trả lời, “Chưởng quản những việc chúng tiên không thể làm được, nhưng cụ thể là chuyện gì thì ta cũng không biết.”

Nghe vậy khiến Vân Hãi khá khó hiểu. Dù gì chúng tiên cũng tựa mây gió, gần như quản được cả thiên hạ rồi, có chuyện gì mà thần tiên cũng không giải quyết được?

Thế nên hắn cho rằng đó chẳng qua chỉ là một lời bao biện hòng tôn Linh Vương lên thôi, sau này mới dần dà cảm thấy được những lời nọ không phải để bao biện và cũng không phải để tôn người kia.

Có một quãng thời gian, Vân Hãi luôn cảm thấy bất an nên cứ ghé sang chỗ Linh Vương vì y vẫn còn nhớ rõ mình, nhưng chỗ người kia ở lại kề bên Phế Tiên đài mà ai ai cũng lảng tránh. Thành thử về sau nữa, hắn chỉ thường ghé sang Linh đài và nơi ở của Hoa Tín.

Hơn hết, hắn rất sợ có một ngày đến Hoa Tín cũng không còn nhớ ra mình từng có một đồ đệ mang tên Vân Hãi.

***

Người ta đồn rằng có một quả chuông trời bí ẩn trên Tiên Đô mà không bất kỳ ai trong chúng tiên có thể thấy, xong có những lúc họ thoáng nghe được tiếng chuông ngân vang.

Mỗi lần chuông ngân vang đồng nghĩa với việc có một vị thần tiên bị giáng phàm.

Vân Hãi đã từng nghe thấy vài lần nhưng chưa bao giờ biết được chiếc chuông ấy treo ở nơi đâu.

Cho đến một hôm hắn được tận mắt chứng kiến.

Đêm ấy là một đêm dài hiếm thấy ở Tiên Đô với sương mù dày đặc. Hắn ngồi cạnh cửa sổ, bất giác cảm thấy muốn gặp Hoa Tín.

Cảm giác nọ bất chợt ùa đến chẳng hề báo trước, khiến hắn ngẩn ngơ đôi chút, rồi tính khép cửa sổ và rời khỏi dao cung. Song, hắn chỉ vừa bắt lấy song cửa liền nghe thấy tiếng vang be bé khi có khi không, chừng như do va chạm với phụ kiện hoặc kiếm đeo bên hông mà thành.

Có người tới?

Vân Hãi quay ngoắt người lại thì thấy Linh Vương.

Người kia vấn tóc bằng bạch ngọc quan, đeo chiếc mặt nạ khắc vân bạc, cả người bọc trong màn sương lạnh, thân cao như ngọc tạc. Giống hệt hình ảnh lần đầu gặp gỡ năm nào trước cổng vào Tiên Đô.

Khác rằng khi đó thân người kia trải một vầng hào quang, còn giờ đây chỉ có màn đêm thăm thẳm.

Vân Hãi nhìn y mà hốt hoảng trong lòng, ngoài miệng nói, “Sao ghé thăm bạn bè còn cần mang mặt nạ?”

Dường như Linh Vương thở dài thật khẽ. “Cậu nhìn xem ta thế này giống như đến thăm bạn bè sao?”

Thật vậy.

Chẳng những không hề giống thăm bạn, mà còn không dẫn đồng tử thường đi cùng, và thậm chí không giắt theo thanh kiếm y hằng yêu chuộng.

Vân Hãi cứng người đứng thẳng, trong chớp mắt ấy dường như có cảm giác đối đầu giữa những người bạn cũ.

Linh Vương không nhúc nhích và cũng không nói gì, hiếm khi trong giọng không mang ý cười.

Cuối cùng, Vân Hãi vẫn mở miệng trước, “Đại nhân, huynh… nhận Thiên chiếu.”

Linh Vương đáp “Ừm” rồi nói tiếp, “Đã đoán được là Thiên chiếu, vậy hẳn cậu biết ta đến đây làm gì.”

Vân Hãi cười khổ, “Nghĩa là, ta sẽ về nhân gian?”

Linh Vương không nói gì, xem như ngầm thừa nhận.

Vân Hãi, “Ta những tưởng chỉ cần nhảy khỏi Phế Tiên đài là được.”

Hắn luôn cho rằng chỉ cần bước lên Phế Tiên đài rồi nhảy xuống là sẽ trở về nhân gian, không cần thêm gì nữa. Đến đêm hôm đó, khi thấy Linh Vương mang Thiên chiếu tới, hắn mới vỡ lẽ mọi chuyện không đơn giản đến thế.

Hắn còn cần phế bỏ tiên nguyên và cắt đứt mọi liên kết với Tiên Đô.

Quy trình đó trải qua nhanh chóng, chỉ loáng mắt thôi mà như dài vô tận bởi nỗi thống khổ chẳng thể nói thành lời. Giữa lúc bàng hoàng trong bi ai, hắn thấy Linh Vương móc một món đồ trên ngón tay.

Trông nó tựa chiếc lục lạc màu bạch ngọc, hắn nhìn không rõ nhưng nghe loáng thoáng tiếng chuông.

Hắn bất giác tỏ tường quả chuông trời huyền thoại kia ở đâu trên Tiên Đô. Nó không được treo dưới mái hiên nào mà vẫn luôn giắt bên người Linh Vương.

“Chuông trời…” Vân Hãi khàn giọng.

Linh Vương khẽ lắc đầu, giọng nói văng vẳng vừa mờ mịt vừa xa xăm, “Chúng tiên đồn bừa rồi, đây không phải chuông trời, nó tên là chuông mộng.”

Chuông mộng…

Vân Hãi gập người lại, đầu lặp đi lặp lại cái tên trong vô thức. Hắn nghe thấy Linh Vương nói, “Thật ra nhân gian cũng không tệ đâu, dưới đấy có một nơi gọi là phố núi Lạc Hoa nhộn nhịp cực kỳ, thú vị hơn Tiên Đô nhiều đấy. Chuông mộng này ngân chín lần sẽ tạo cho cậu một giấc đại mộng. Một khi mở mắt rời khỏi Phế Tiên đài, cậu sẽ quên ngay trăm năm trước đây và cũng không thấy đau lòng thế nữa.”

Mở mắt quên ngay trăm năm trước đây.

Đây là lý do vì sao có tiếng chuông vang lên trước khi những vị thần tiên kia bị giáng xuống phàm trần.

Là bởi vì họ sẽ không còn nhớ bất kỳ điều gì nữa.

Không còn nhớ bất kỳ một ai nữa.

Không có tiên nguyên, cơ thể người phàm không thể ở lại lâu trên Tiên Đô.

Vân Hãi đã rơi vào rối loạn nhưng vẫn gắng sức vẫy vùng. Khi quả chuông bạch ngọc kia vang lên, hắn đã vận hết chút tiên lực còn sót lại của mình để dồn cả một nửa linh hồn hòng cản tiếng chuông lại.

Hắn ngoan ngạnh cả một đời, không đụng tường chắn không ngoái đầu, cho dù đụng cũng không ngoái đầu.

Hắn không muốn quên.

***

Vân Hãi xuống nhân gian trong những năm sóng yên gió lặng.

Dẫu hắn cố gắng cản lại nhưng chuông mộng vẫn phát huy tác dụng, hắn đã quên mất những chuyện xảy ra trong trăm năm kia mà chỉ tưởng rằng mình nằm mơ vào một hôm nào đấy, trong mơ hắn gãy một chân và mù một mắt, giữa lúc đói khát tột cùng khắp người đầy máu, có một tiên nhân đã bế hắn lên lưng hươu trắng.

Hắn từng kể giấc mơ nọ cho rất nhiều người, nhưng hễ mở miệng là quên bẵng mất nên chỉ đành kết chuyện trong hời hợt.

Cũng bởi giấc mộng không rõ đầu đuôi ấy, hắn bắt đầu thử học tiên thuật, mong muốn được bước đến gần vị tiên nhân kia một chút.

Hắn đến gõ cửa hỏi thăm rất nhiều tiên môn trong khu vực lân cận, nhưng không một tiên môn nào chịu nhận hắn chính thức. Tất cả họ đều nói hắn trời sinh đã khiếm khuyết, không thể tụ khí kình, không thể ngưng đan nguyên. Cơ thể hắn không có nền tảng để tu hành.

Dần dà về sau, thế đạo trở nên loạn lạc, những thứ học được không đủ sức bảo vệ nên hắn phải bôn ba chạy trốn khắp nơi, chẳng khác nào lưu dân.

Thẳng đến ngày nọ, hắn đụng phải tà ma kiếm ăn giữa đêm khuya, giao đấu một hồi hắn không trụ nổi và bị tà ma nhập thân.

Cảm giác linh hồn bị cắn xé khác hoàn toàn mắt mù chân gãy, hắn đau đớn cùng cực đến thét gào thảm thiết.

Giữa lúc cuộn mình giãy giụa trên mặt đất, hắn thình lình thấy những việc này sao quen thuộc quá đỗi.

Hắn đã từng cuộn mình như thế, dùng hết sức bình sinh để chống lại một thứ gì, hình như đó là… một tiếng chuông.

Bao điều khốn khổ và trớ trêu nhất thế gian bất quá cũng đến mức này thôi —

Ở phút cuối đời, hắn nhớ về một trăm năm đã lãng quên, nhớ ra vị tiên nhân đi cùng hươu trắng ấy hoá ra không phải giấc mộng dã tràng. Trăm năm trước đây, thật sự từng có một vị tiên nhân đã cứu hắn ra khỏi hang núi lạnh lẽo.

Hắn nhớ ra mình trở thành đồ đệ của người ấy, rằng từng có lần mình được khen có thiên tư trác tuyệt. Hắn nhớ ra mình từng là người trẻ tuổi nhất phi thăng thành tiên, chưởng quản tang hỉ có hương khói dồi dào nhất nhân gian.

Ngày cuối cùng ở Tiên Đô, hắn mong muốn được gặp người kia lần nữa.

Còn chưa gặp được người kia, hắn sao có thể chết.

***

Sau này, Vân Hãi vẫn thường cho rằng thiên tư của mình vẫn thật xuất chúng, bằng không sao có thể chỉ vì “không muốn chết” đã đảo khách thành chủ, cắn nuốt và hấp thu hoàn toàn tà ma chiếm cơ thể hắn.

Những người trong tiên môn nói hắn tụ không nổi khí kình, ngưng không được đan nguyên. Không phải như vậy, chẳng qua hắn không ngưng tụ được tiên nguyên mà thôi chứ tà ma thì không thành vấn đề.

Giữa khi bất chấp tất thảy mà vùng vẫy hấp thu khí tà ma, trong đầu hắn hiện lên cảnh tượng trăm năm về trước — khi hắn trốn trong hang núi, Hoa Tín đã nâng đèn đến tìm, soi sáng đêm lạnh.



Từ nay về sau, không có tiên nhân đến cứu hắn nữa.

Dù vẫn sống chấp vá, nhưng có lẽ cả đời này hắn cũng không bao giờ dám gặp lại người kia.

Lời tác giả:

Thẩm vấn Vân Hãi cũng sắp xong rồi, để mọi người chờ lâu QAQ chương sau ngày mai cập nhật, gần đây bận nhiều chuyện ở bên ngoài quá, kèm thêm bị hối ký tên hai bộ sách nữa nên cả thời gian làm việc và nghỉ ngơi có hơi âm phủ chút, cúi đầu.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 27: Hoàn thẩm


Những tháng ngày sống đời tà ma rối ren hỗn loạn, giống như thành trì phủ bóng sương mù quanh năm.

Nói thế nhưng cuộc sống hắn không lấy gì làm vất vả cho lắm, bởi dân thường bá tánh sống trong nơm nớp sợ hãi, ngày ngày bươn chải cầu sống còn; tiên môn phải che chở tứ phương, dang tay trừ ma hiệp đạo.

Còn tà ma thì không cần như vậy. Tà ma chỉ cần lo cho bản thân nên dễ chiếm được ưu thế hơn.

Những tà ma còn chưa khai thông trí tuệ, sống trong hỗn độn, hoặc những kẻ vừa nhập đạo có lẽ sợ đụng phải đệ tử tiên môn, lo ngại bị giết ngược.

Nhưng Vân Hãi thì không.

Hắn tu luyện cực nhanh, đệ tử thông thường không có khả năng đương đầu hắn thì chớ, ngay đến hạng gia chủ tiên môn ắt còn phải kiêng dè vài phần.

Có lẽ hắn nên có cuộc sống sung sướng và hoành hành không sợ bất kỳ điều gì, nhưng hắn đã không làm như vậy.

Hắn luôn né các tiên môn, hạn chế hết thảy tin tức tủn mủn nhất về mình truyền đến Tiên Đô và lọt vào tai vị Tiên thủ Linh đài nọ.

Thậm chí, vì không còn dùng được tiên thuật phân thân nên hắn từng đến bồn địa Tây Nam một chuyến. Ở Tây Nam, hắn đã học được rất nhiều cấm thuật và tạp thuật, dành sự kiên nhẫn bậc nhất đời này để nặn ra một con rối mà thần tiên cũng khó lòng nhận ra.

Hắn nắn con rối nọ theo gương mặt mình và thả nó vào Xuân Phiên thành chỗ nhà họ Hoa cư trú.

Ở Xuân Phiên thành có mấy chục vạn dân thường, con rối kia vào đấy chẳng khác nào mưa hoà trong biển, lặn mình trong đám đông phố phường, xác suất đụng mặt người nhà họ Hoa cực kỳ cực kỳ nhỏ.

Nhưng hắn vẫn cho con rối kia sống những tháng ngày bình thường nơi đó, đóng giả thành Vân Hãi từ Tiên giới trở về nhân gian, bắt chước cuộc đời tầm thường của một bá tánh.

Sau khi sắp xếp mọi chuyện xong xuôi, Vân Hãi rời khỏi Xuân Phiên thành và đến Côi Châu cách đó rất xa.

Nơi nọ đông tà ma tụ hội, thêm hắn nữa cũng chẳng vấn đề.

Đồn rằng nơi đấy có một đại thuật phong cấm, tu thuật này giúp giải thoát con người ta khỏi tất thảy, kể cả niềm vui và lòng căm phẫn. Song, rất ít ai chọn tu loại cấm thuật này bởi tà ma coi trọng d*c v*ng x*c th*t, chúng tận hưởng cảm giác hưng phấn và kh*** c*m tột đỉnh từ đấy.

Một khi chặn hết tất thảy, thứ nhất là tự tổn hại bản thân, tiếp nữa làm vậy có khác nào những tiên môn nhạt nhẽo nhập vô tình đạo đâu?

Song, Vân Hãi chọn tu đường này.

Phong bế toàn bộ hỉ nộ ái hận, những thứ nhấn chìm hắn trong khổ đau đã không còn dày vò suốt ngày đêm nữa. Hắn đã trở thành kẻ không sầu không vui, không có cảm giác sợ hay không sợ, dù là cỏ cây kiến mối hay tiên gia tà ma đi nữa cũng không khác biệt gì trong mắt hắn, nếu sinh hẳn sinh, nếu tử ắt tử.

Điều mà khi ở Tiên Đô hắn chưa bao giờ làm được, thành tà ma rồi đã thành công.

Ngẫm lại… vẫn thật bất công.

Đại thuật phong cấm thật tuyệt, sau mấy năm sống kiếp tà ma và tự do làm theo ý mình, hắn cũng chẳng kiêng dè sinh sát.

Thậm chí có một dịp khi hắn ghé ngang phố núi Bất Động thành, tình cờ nghe thấy tên “Minh Vô Hoa Tín” mà lòng chẳng chút gợn sóng. Hắn chỉ khẽ nhướn mi còn chân vẫn đều bước.

Thứ bất cập duy nhất của phong cấm thuật chính là tự hủy hoại bản thân.

Cứ qua vài tháng sẽ có tầm một hai ngày hắn chịu đau đớn khắp cả người đến mức không vận nổi chút tẹo thuật pháp khí kình nào, cơ thể trở nên yếu ớt và sợ lạnh.

Một hai ngày đó với hắn quả thật là tra tấn tột độ, giữa cơn đau vật vã gian nan, hắn thường thấy hồn mình như bị xé thành hai nửa. Khi thì khóc lúc thì cười, khi điên cuồng lúc bình tĩnh.

Những lúc tỉnh táo lại, hắn thấy trên thân mình đầy rẫy vết thương, bởi quá khốn khổ mà toát quỷ khí tràn trề che kín hết nửa gương mặt.

Song vào thời điểm ấy, hắn vẫn chẳng sầu chẳng vui, đến độ còn nghĩ rằng cũng không đến nỗi nào, bởi rằng nửa gương mặt giả làm người, nửa còn lại lồ lộ tính quỷ…

Đó chính là bản thân hắn còn gì, chẳng phù hợp quá đấy ư.

Những năm đó, tà ma khác đều tránh xa hắn. Cũng không rõ là vì gương mặt không ra người không ra quỷ hay vì hắn thật sự làm quá nhiều chuyện điên rồ.

***

Vân Hãi những tưởng có thể tiếp tục sống mãi như thế. Người trên Tiên Đô sống được bao lâu thì hắn có thể sống được bấy lâu.

Rủi rằng, có lẽ Thiên đạo thật sự không dung hắn, làm quá nhiều chuyện điên rồ tất phải nhận báo ứng.

Hắn cũng không rõ cơ sự đã bắt đầu ra sao, chỉ nhớ hôm đó nhận được tin đám tà ma bị hắn đuổi khỏi Côi Châu đang sinh sống ở thung lũng Đại Bi.

Nghe đến cụm “thung lũng Đại Bi”, hắn chỉ nhả một nụ cười nhạo báng mà thậm chí còn chẳng hề nhớ lại thứ chuyện nhàm chán như việc từng làm sơn thần ở thung lũng Đại Bi năm nào.

Rồi sau đó, hắn lại nghe kể có một đoàn xe ngựa thương gia vận chuyển hàng hoá qua thung lũng Đại Bi bị lũ tà ma chia rẽ, trong đó còn có một vài bá tánh bình thường chỉ nương nhờ đoàn xe để qua thung lũng.

Trong nhóm bá tánh có một người trông giống hệt hắn, bởi thế hù bọn tà ma kia một phen, suýt chút đã không dám ra tay. Sau đó chúng mới phát hiện chỉ giống vẻ ngoài mà thôi.

Nghe đến đây, Vân Hãi biết ngay đó là con rối hắn tạo thành để lại ở Xuân Phiên thành.

Ngày xưa hắn thả con rối ra với mong muốn đánh lừa vị nào đó trên Tiên Đô rằng hắn đang là một thường dân bá tánh thông thường thôi.

Sau đó hắn tu đại thuật phong cấm nên chẳng bận tâm đ ến những chuyện đó nữa, đâm ra cũng quên luôn con rối và chẳng để ý xem tung tích nó thế nào.

Khi hắn nghe được tin đồn nọ thì thoáng ngẩn ngờ, song vẫn không mảy may để tâm.

Chẳng qua là một con rối đã chết, trừ việc tiếc công ba ngày ba đêm nặn thành thì với hắn chẳng có thiệt hại gì cả.

Chính hắn còn không quan tâm thì còn ai khác quan tâm nữa chứ.

Thế mà hắn lại nghe nói tiếp rằng, có người đã báo tin bá tánh bị thiệt mạng cho nhà họ Hoa – tiên môn toạ trấn ở Xuân Phiên thành.

Nghe đâu nhà họ Hoa đã phái người đến thung lũng Đại Bi.

Không biết nên diễn tả chính xác cảm xúc của Vân Hãi khi đó là gì. Đại thuật phong cấm vẫn còn đây, thời kỳ phản phệ vài tháng một lần còn đây, lý ra hắn nên thờ ơ hết thảy.

Hắn trải qua một ngày, hai ngày như thường lệ…

Nhưng không bước qua nổi ngày thứ ba.

Vào đêm thứ hai, hắn đã đứng trên vách núi cao cao trong thung lũng Đại Bi.

Xưa kia hắn từng là sơn thần chở che nơi này, mà hết thảy đều vạn sự bình an, không một ai cầu sự che chở. Trái lại sau khi hắn xuống phàm rồi thì nơi đây chẳng còn cảnh thái bình, tà ma ra tay tàn sát hoành hành.

Những năm vừa qua, hắn từng đi nhiều nơi nhưng tuyệt nhiên không đến thung lũng Đại Bi. Giờ đến rồi, hắn nhận ra toà tiên miếu kia vẫn còn đấy song đã vắng bóng tượng thần.

Thế nhưng, trên bệ thờ quanh nắm vắng vẻ khi xưa còn cắm vài nén hương chỉ vừa cháy hết.

Hắn đứng bên ngoài cửa tiên miếu rỗng tuếch, nhìn bầu trời ảm màu xám tro một chốc rồi lần theo mùi tà ma và tiến sâu vào khe núi hẹp.

Khoảnh khắc ấy, linh hồn hắn tưởng chừng bị tách làm đôi.

Một nửa hỏi rằng, “Tại sao mày tới đây, nơi này còn liên quan gì đến mày nữa đâu?”

Một nửa kia đáp, “Ta muốn xử lý lũ lâu la kia và nặn thêm một con rối mới.”

Hắn muốn giải quyết hết số tà ma tác quái trong thung lũng trước khi những người nhà họ Hoa tới, sau đó sẽ tạo ra một con rối mới ở gần đoàn xe ngựa.

Thậm chí hắn đã tính toán kỹ lưỡng nên cho cơ thể con rối kia bao nhiêu vết thương, mỗi vết thương nông sâu thế nào cho hợp lý, có cần phải nặn kèm vài ba bá tánh này nọ hay không.

Chuyện duy nhất là hắn chưa nghĩ kỹ là lý do vì sao hắn phải làm như vậy.

Tạo ra một con rối “Vân Hãi” giả vờ sống sót sau đại nạn, may mắn giữ được tính mạng mỏng manh rồi được người nhà họ Hoa dẫn về Xuân Phiên thành, tiếp tục đóng giả một bá tánh tầm thường…

<i>Rồi sao nữa?</i>

<i>Làm bộ cho ai xem?</i>

<i>Ai quan tâm cơ chứ?</i>

<i>Khen cho một kẻ không sầu không vui, đoạn tình tuyệt ái.</i>

Vân Hãi cười tự giễu, kéo lại áo choàng đen và quét sạch toàn bộ thung lũng Đại Bi bằng tà khí ngợp trời. Những tà ma kia thông thường đã sợ hắn, đến khi tâm trạng hắn đang kém thế này thì chúng càng không có cửa địch lại.

Một khi hắn đã nổi điên thì không thể kiềm chế chính bản thân mình, giết đến tên cuối cùng rồi mà ngón tay hắn hãy còn run rẩy trong phấn khích.

Tà ma hoàn toàn bị đồ sát, thi thể và hài cốt của đoàn xe ngựa cũng chẳng may mắn thoát nạn. Tất cả đều bị xé nát tươm dưới áp lực của tà khí ngợp trời, những cái xác rỗng kia bung lên rồi rớt xuống, tan tành như giẻ rách.

Núi đá tan hoang đổ sụp, cát bụi tung toé khắp trời, khi ấy Vân Hãi mới mơ màng tỉnh lại trong luồng tà khí cuồng loạn.

Hắn vừa tính rút về liền nghe kiếm khí xé gió giáng xuống từ một nơi không rõ trên trời cao. Nó chém xuyên tà khí đen mịt mùng trong thung lũng Đại Bi, hướng thẳng về phía hắn!

Vào khoảnh khắc đó, đồng tử hắn thít chặt lại, cả người cứng đờ như thể bị chìm sâu dưới biển Vô Đoan băng giá.

Hắn chẳng cần nhìn thấy chuôi kiếm mà chỉ qua luồng ánh kiếm đã biết người đến là ai.

Kiếm khí của Minh Vô Hoa Tín.

Vân Hãi đã nhiều lần mường tượng cảnh hai người họ gặp lại, dù thâm tâm hiểu rõ sẽ không có ngày ấy nhưng hắn vẫn không kiềm được lòng mà tơ tưởng.

Hắn từng nghĩ mình sẽ tránh né, rời khỏi và biệt tích trước khi Hoa Tín có cơ hội phát hiện ra.

Hắn cũng từng nghĩ lòng mình sẽ không gợn sóng như lần nghe danh tự “Minh Vô Hoa Tín” ở núi Bất Động năm nào, rồi vẫn vung kiếm đối mặt nhau.

Chỉ là hắn chưa một lần nghĩ tới, mình sẽ che đi nửa gương mặt thuộc về “Vân Hãi” mà chỉ để lộ nửa gương mặt bám đầy quỷ khí, tung tà khí đen ngòm quấn lấy vị tiên nhân giáng trần từ trên trời cao kia.

Hắn né luồng ánh kiếm, vừa tiếp chiêu vừa cất giọng chế nhạo một cách nghẹn ngào chẳng hề giống hắn, hỏi người kia, “Chốn thung lũng Đại Bi nhỏ bé này chẳng qua vừa chết ít người ít ngựa, dăm ba bá tánh, cớ gì khiến Thượng tiên phải vung kiếm xuống nhân gian?”

Hai người cách nhau giữa tà khí sâu dày, không ai nhìn thấy người kia, song hắn có thể cảm nhận rõ ràng sát khí kinh hoàng xưa giờ chưa từng có từ thanh kiếm của Hoa Tín, sát khí ấy càng lúc càng nặng nề.

Sát khí nọ khiến tim hắn đánh dồn như nổi trống mà chẳng rõ nguyên cớ.

Tựa như đã qua rất nhiều năm rồi mà quanh đi quẩn lại, hắn vốn dĩ luôn chờ một ngày như thế.

Hắn tiếp từng chiêu từng chiêu, thúc Hoa Tín ra kiếm mỗi lúc một nhanh hơn, sát khí tràn ra bốn phía. Dưới kiếm ý người kia, cả dãy núi quanh thung lũng Đại Bi chấn động, tiếng vang rền kéo dài không ngơi.

Hắn thấy Hoa Tín tung chiêu mệnh, mũi kiếm chứa đầy lực lượng thiên binh vạn mã đâm thẳng về phía ngực hắn.

Và rồi… hắn thu hồi toàn bộ kháng cự.

Khi mũi kiếm xuyên qua tim, tiên khí bủa oà khắp chốn va chạm kịch liệt với tà khí dày đặc quanh người hắn. Dưới sức nặng của cú đánh, hắn bị thanh kiếm ghim chặt trên nền đất.

Hoa Tín theo kiếm hạ xuống, trong tay còn mang một đòn khác như tính chưởng thêm một nhát nặng nếu tà ma ra sức chống cự.

Một chưởng ấy đáp xuống chém toạc cả mảng núi.

Tà khí đen ngòm đặc quánh bị xé ra, để lộ một nửa gương mặt còn lại của Vân Hãi.



Không cách nào ngăn cản chiêu mệnh của Tiên thủ Linh đài dù tà ma có ra sức phản kháng, huống hồ hắn còn chẳng hề chống cự. Kết quả hẳn nhiên chỉ có một — hồn phi phách tán, cái chết là không thể nghi ngờ.

Đó là lần đầu tiên Vân Hãi trông thấy vẻ mặt Hoa Tín như thế, đôi mắt đen láy mở to và hơi run rẩy.

Hắn thấy gương mặt mình phản chiếu trong con ngươi người kia, gương mặt nửa người nửa quỷ, xung quanh là máu lượn thành sông.

Hắn cảm giác được linh hồn mình đang bị tách thành vô số mảnh nhỏ và tản ra khắp nơi. Hắn cũng cảm thấy tà khí ngút trời không còn bị ràng buộc vào cơ thể mà lùa xuống thung lũng như mây đen.

Và hắn cũng cảm giác được, trong tích tắc ấy, bàn tay hằng ấm áp của vị Tiên thủ Linh đài kia lạnh lẽo tựa băng.

“Vân Hãi?”

“Vân Hãi…”

Giọng Hoa Tín nghẹn ngào mà nhẹ bẫng. Không biết người gọi tên hắn với nét mặt ra sao. Liệu là trắc ẩn? Hay là đau khổ xốn xang?

Hắn tò mò thật lòng, song đã không còn nhìn thấy gì nữa.

Năm giác quan thoái mòn, ý thức mù mịt, hắn sắp chết.

Thế mà tại loáng mắt ấy, lòng hắn trỗi lên kh*** c*m khôn tả…

<i>Người xem, nếu thế người sẽ không quên được ta nữa.</i>

Hắn nhoẻn cười ngay thời khắc chót.

Và nghĩ thầm, <i>ta vẫn là tên khốn nạn như thế.</i>

***

Màu đen vô tận và tà khí nghi ngút trộn vào nhau đến khi ánh kiếm của Tiêu Phục Huyên vang lên ngăn lại, mọi người ngẩn ngơ một lúc lâu mới nhận ra thẩm vấn đã hoàn tất.

Ký ức con người chẳng qua chỉ là những hình ảnh thưa thớt, chúng đan xen vào nhau trong lúc thẩm vấn, ngoại trừ chính bản thân Thiên Túc thượng tiên chưởng quản hình xá thì người thường chỉ có thể lướt sơ qua chứ không cách nào thấu tỏ.

Họ chỉ ấn tượng những phút giây kinh hồng một thoáng, ấn tượng bậc thang bạch ngọc cao cao hôm đầu Vân Hãi lên Tiên Đô, ấn tượng núi đao biển lửa khi lãnh phạt quỳ ở mười hai Linh đài, và cả vị Linh Vương mang mặt nạ chưa từng xuất hiện trong bất kỳ sách tiên nào…

Khi Ninh Hoài Sam và Phương Trữ bước vào gian phòng tròn tiến hành thẩm vấn thì vừa khéo thấy được khung cảnh ấy.

Họ ấn tượng sâu sắc với cảnh nọ bởi bất giác cảm thấy phong cách tiếp kiếm của Linh Vương sao quen thuộc quá đỗi, cứ như họ đã từng gặp ở đâu rồi.

Nên khi thẩm vấn kết thúc, họ hãy còn thất thần nghĩ về cảnh tượng ấy hồi lâu mà chưa kịp hoàn hồn.

Cho đến khi họ nghe tiếng hít thở khẽ vọng lên từ huyệt sâu.

Bọn họ bất chợt hoảng hốt. Trong cơn tò mò trỗi dậy, họ bước đến bên cạnh Ô Hành Tuyết và vươn cổ nhìn xuống huyệt mộ. Bên dưới dây leo chằng chịt kia, người mặc áo đen bị trấn áp mấy trăm năm nay đột ngột mở mắt.

Con ngươi đen nhánh dần dà lấy lại tiêu cự, người đầu tiên hắn nhìn thấy là Ô Hành Tuyết đang cúi người đứng bên cạnh huyệt mộ.

Khoảnh khắc đó, hắn nhìn chòng chọc Ô Hành Tuyết, đôi môi khô khốc run run và thốt lên một cái tên theo bản năng.

Giọng hắn khàn nghẹn, gần như không thành tiếng.

Nhưng nếu nhìn kỹ khẩu hình vẫn có thể nhận ra, hắn vừa thốt lên hai chữ…

<i>Linh Vương.</i>

Vị tiên được trời ban danh tự “Chiêu” xưa giờ chưa từng hiện diện.

Phương Trữ: “………”

Ninh Hoài Sam: “………”

Lời tác giả:

Phương Trữ, Ninh Hoài Sam: Trả một khoảng bộn để đổi lấy cặp mắt mù.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 28: Tự phạt


Ninh Hoài Sam âm thầm véo hông Phương Trữ một phát, lẳng lặng truyền âm sang, “Thấy không, Linh Vương…”

Phương Trữ: “…”

Hắn cắn răng nuốt tiếng rít trở lại, bẻ ngược ngón tay ra, “Thấy rồi, tao không mù, mày nhéo nhéo cái gì?”

Ninh Hoài Sam: “Tao thấy chẳng thà mù còn hơn.”

Cậu trầm ngâm song càng nghĩ càng thấy lạ kỳ. “Đó là thành chủ của chúng ta đó, ngài ấy xây nên nguyên cả Động Ma Chiếu Dạ thành. Thân là đại ma đầu trứ danh bậc nhất, vì sao lại có người dám gọi ngài ấy bằng danh xưng của một Thượng tiên.”

“… Tại sao, khùng rồi à?”

“Không loại trừ mặt mũi tương tự nên nhận nhầm, hoặc là…” Phương Trữ nghẹn họng đẻ ra lý do, nói được nửa đành dừng lại. “Thôi, nghĩ không ra, cứ vậy đi.”

Khắp thiên hạ này, dễ gì đào ra người khác có gương mặt giống thành chủ họ. Trong tất cả mọi loại đồn đãi, người từng gặp y đều bảo nhìn một lần thôi đã khó cách nào quên được, thế thì làm sao có thể nhận nhầm?

Huống hồ, Ninh Hoài Sam và Phương Trữ hãy còn nhớ rõ động tác tiếp kiếm của Linh Vương nọ…

Ai ở lâu bên cạnh Ô Hành Tuyết đều biết rằng ma đầu này không thích cầm những món đồ phiền phức trong tay. Nếu cần dùng gì chỉ việc chọn ngay những thứ tại nơi ấy hoặc hỏi từ những người xung quanh.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đi theo y lâu nhất nên thường chỉ cần Ô Hành Tuyết đưa tay là họ ngoan ngoãn giao đồ ra ngay.

Và mỗi lần Ô Hành Tuyết bắt lấy món đồ đều sẽ xoay nó một chút.

Nhắc đến lại thấy trớ trêu, trên Tiên Đô với vạn toà dao cung, y xoay kiếm thật nhẹ nhàng đầy khoáng đạt. Rồi khi vào Động Ma nhân gian lại hoá thành bộ dáng khó lường và bất cần…

Rõ ràng là cùng một động tác.

Ninh Hoài Sam bần thần một chớp mắt rồi nhanh chóng bỏ ý nghĩ này ra khỏi đầu. Cậu và Phương Trữ kè kè bên nhau, cùng nhìn thành chủ nhà mình một cách bất chấp bão tố như đang cố gắng thấu tỏ phần nào ngọn nguồn.

Song, Ô Hành Tuyết cũng chẳng khá khẩm hơn hai người họ là bao.

Chàng lặng tinh giây lát, đoạn rủ mắt hỏi Vân Hãi, “Ngươi gọi ta là gì?”

Vân Hãi không trả lời.

Gương mặt ngủ say dưới lòng đất, lâu ngày không đón nhận ánh mặt trời giờ đây trắng bệch, nhợt nhạt không khác gì tro giấy đã bị thiêu trụi trong những buổi cúng tế ở nhân gian, thoáng như một cơn gió xua qua là tiêu tán.

Hắn chậm rãi chớp nhẹ mắt, đồng tử quét qua từng phản ứng của Ô Hành Tuyết, kế đó dần dà chuyển sang Tiêu Phục Huyên, ánh mắt hắn soi từ trên xuống dưới và lướt qua cổ tay với dấu ấn đen bên trên.

Thế rồi, Vân Hãi khép mắt lại, cả thân thể run lên nhè nhẹ bên dưới dây leo chăng kín.

Một hồi sau, Ô Hành Tuyết mới nhận ra là hắn đang cười.

Hắn đã yếu ớt cùng cực nhưng vẫn kiềm lòng không đặng mà bật cười trong lặng lẽ.

“Ngươi lại đi hỏi ta rằng ta vừa gọi ngươi là gì…” Vân Hãi hấp háy môi mà vẫn chỉ để lọt âm thanh như tiếng thở mong manh. Dường như những sợi dây leo kia đã bó chặt lấy hắn, siết vào lồ ng ngực và cổ họng hắn khiến hắn thậm chí không nấc ra được một hơi trọn vẹn.

Dầu thế, hắn cũng đã sớm quen với sự bó buộc này nên chẳng lấy gì bận tâm. Hắn chỉ giữ nguyên đôi mắt nhắm nghiền và tiếp giọng lặp lại bằng một cường độ nhỏ đến mức không nghe được, “Ta không thể ngờ, không thể ngờ có một ngày ngươi lại hỏi ta vừa gọi ngươi là gì…”

“Chẳng phải chỉ có những vị tiên bị phế truất khỏi Tiên Đô, đẩy về nhân gian và không còn nhớ bất kỳ điều gì mới hỏi như vậy hay sao? Thế mà ta lại được nghe từ miệng ngươi cơ chứ…”

Vân Hãi lại nấc cười không thành tiếng, chậm rãi nói, “Linh Vương… Thiên Túc… Được trời triệu hoán, không hưởng thờ phụng, không nhận hương khói…”

Khi khép mắt, trông hắn thật bình tĩnh như rơi vào giấc mơ, trong mơ, khung cảnh ngày đầu bước chân vào Tiên Đô hãy còn sinh động tựa thuở nào. Hắn chầm chậm nhắc lại những lời tiên sứ Linh đài nọ từng nói.

“Ta đã từng… rất ngưỡng mộ hai ngươi,” hắn nhắc lại tên xong thì nhẹ nhàng nói tiếp.

Ô Hành Tuyết lắng nghe và thoáng nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Ngay khoảnh khắc đó, trong đầu chàng chợt hiện lên câu: “Ta rất ngưỡng mộ huynh…”

Giọng nói ấy không uất nghẹn nhường này, âm điệu cũng không khẽ khàng đến thế, lời kia chỉ tựa một lời than thở vu vơ giữa những người bạn. Ô Hành Tuyết không nhớ rõ tình huống cụ thể nhưng tiềm thức chàng biết đây là lời của Vân Hãi.

Là lời của một Vân Hãi còn ở Tiên Đô.

***

Khi đó, Vân Hãi mới vừa bị giáng chức làm sơn thần thung lũng Đại Bi, đồng thời còn lãnh thêm phạt từ Tiên thủ Hoa Tín nên hắn vòng qua vòng lại trước cửa Linh đài sáu lần mà không dám vào, rảo một hồi quanh Tiên Đô rộng lớn rồi cuối cùng dừng chân ở “Toạ Xuân Phong” heo hút nhất.

Hiếm khi gặp được Linh Vương ở đây, Linh Vương ngồi gác chân bên hông cửa sổ, trên mặt bàn trước mặt có đặt một bình rượu tiên và hai chiếc ly không.

“Huynh vẫn luôn nói nơi này ít người lui tới, đã ít người lui tới mà sao mọi thứ đều đủ đầy thế kia,” Vân Hãi chịu đựng chưa đến trăm năm, dù trong lòng có nghĩ gì cũng không treo ra trước mặt, mỗi lần mở miệng đều tỏ ý trêu đùa. “Có phải Linh Vương hẹn vị giai nhân nào không? Ấy, hay là ta đến không đúng lúc rồi nhỉ?”

“Đúng vậy, cậu đến không đúng lúc, giờ đi đi còn kịp đấy,” Linh Vương tức giận đáp lời.

“Không được rồi, hôm nay ta bức bối quá, làm gì làm cũng phải kiếm chỗ nào đó xả vài câu chứ không…” Vân Hãi thoáng ngừng.

“Chứ không thì sao?”

“Chứ không có khi ta lại vòng tới Linh đài lần thứ bảy mất,” Vân Hãi bật cười châm biếm.

Theo nguyên tắc xưa giờ, Linh Vương sẽ không hỏi chuyện Linh đài. Dù không đáp câu ấy nhưng Linh Vương vẫn hỏi thăm hắn câu khác, “Bị gì mà bức bối đến mức nghẹn cả lòng như vậy.”

“Ta uống rượu này được không?” Vân Hãi hỏi.

“Không được,” Linh Vương chìa tay phẩy một cái, cả rượu tiên lẫn ly không đều đáp sang khay trống trên tay tiên đồng. “Đây là quà tạ tội của ta.”

Nói đoạn, y hươ tay với một tiên đồng khác và lấy bầu rượu mới cho Vân Hãi.

“Tạ tội? Ai dám bắt huynh tạ tội? Mỹ tửu xứng mỹ nhân, dùng tạ tội khác nào phí hoài cho huynh đêm nay,” Vân Hãi lầm bầm rồi rót một ly rượu cho mình.

Với người khác, rượu vào lời ra, giải toả bao nỗi bực dọc trong lòng.

Còn Vân Hãi uống hết ba ly mà vẫn chưa trút bầu tâm sự, chỉ càu nhàu rằng rượu mới ủ trong kho không thơm ngon bằng rượu cũ, uống ba ly vào đã say mèm.

Hắn giơ chén rượu lên và cụng nó trước mặt Linh Vương rồi nói, “Ta rất ngưỡng mộ huynh, huynh không cần rầu lo hương khói điêu tàn, có thể tranh thọ cùng Linh đài.”

“Vì sao đại nhân nhà ta phải tranh thọ cùng Linh đài,” Linh Vương chưa nói gì mà tiểu đồng tử đã thắc mắc trước.

Nhưng rồi Vân Hãi chỉ cười to, đoạn nắn mặt tiểu đồng tử nọ, tay kia ôm bầu rượu mà rằng, “Tiểu đồng tử ở Linh đài không khác gì lão đồng tử, chẳng đáng yêu và lanh lợi như ở Toạ Xuân Phong gì cả.”

Linh Vương chẳng hề khách sáo, “Dĩ nhiên rồi, đây là đồng tử ta nuôi cơ mà.”

Tiểu đồng tử xoa mặt bỏ chạy, ngờ đâu đụng trúng một đôi chân dài ngoài cửa và kêu lên “Ái da”.

Linh Vương ngước mắt, Vân Hãi đang lim dim cũng ngoái đầu nhìn theo thì thấy Thiên Túc thượng tiên Tiêu Miễn đang nâng mành đứng bên cửa.

Y quét mắt nhìn trong phòng và dừng lại nơi Vân Hãi đang ôm bầu rượu tiên. Sau một lát, y mới quay mặt sang Linh Vương đặng cất giọng nhàn nhạt, “Ngươi bứt lá trúc trong cung của ta rồi dán ghi chú lên trán đồng tử để kêu ta đến xem cảnh này à.”

Vân Hãi lúc này đã mơ màng, ngó trái ngó phải đoạn cười trêu, “Lần đầu tiên ta được nghe Thiên Túc thượng tiên nói một câu có nhiều chữ như vậy đấy, quá hiếm gặp. Ta đã học hỏi được nhiều rồi.”

Đoạn, hắn lại tiếp tục, “Huynh bảo mỹ tửu xứng mỹ nhân không có ý nói đến Thiên Túc đại nhân đấy chứ?”

Nét mặt Thiên Túc thượng tiên tức thì trở nên khôn tả.

Hệ quả là, y vốn định đi luôn thì bất chợt đổi ý, hai ngón tay vén trên bức mành buông rủ tựa rèm sương và chờ nghe tiếp còn chuyện quái gì sau đấy nữa.

***

Có lẽ hôm ấy nhiều lần bị ngắt lời, chỉ e rằng chính Vân Hãi cũng không nhớ được trọn vẹn câu nói của hắn. Mấy trăm năm sau mới có dịp nhắc lại nghiêm túc một lần.

Thế mà người ôm bầu rượu bật cười sang sảng năm nào thân xác giờ như quỷ ma. Thiên Túc thượng tiên vén mành bước vào năm nào giờ chỉ còn là một phân thân. Và chủ nhân dao cung người đãi khách năm nào thậm chí không còn nhớ bản thân mình là ai, một mình giữa gió xuân mà Linh Vương đã vắng bóng.

“Ta những tưởng hai vị là người sẽ không bao giờ âu lo về sinh tử hay phế tiên, sẽ sóng đôi với Linh đài, trường cửu cùng Tiên Đô, nào có ngờ…”

Nụ cười không thành tiếng của Vân Hãi đầy châm biếm, không rõ hắn đang châm biếm bản thân hay đang cười nhạo kẻ khác.

“Sao hai người lại ra nông nỗi này?” Hắn yên lặng một hồi rồi chợt rê nhẹ cổ, tròng mắt khẽ run và thở “À” một hơi như nhớ ra gì đó, thốt, “Phải rồi, Tiên Đô cũng đã diệt vong, dĩ nhiên còn có thể làm tiên gì nữa đâu chứ.”

Nghe đến đây, Ô Hành Tuyết thoáng chau mày, “Sao ngươi biết Tiên Đô đã diệt vong?”

Nhóm Ninh Hoài Sam cũng sửng sốt theo, “Đúng vậy. Sao ngươi biết chuyện này?”

Vân Hãi bị nhốt dưới này tối thiểu cũng phải vài trăm năm, vào thời đó Tiên Đô vẫn còn hưng thịnh.

Trong mấy trăm năm vừa qua, hắn đã hấp thu kha khá dưỡng chất thông qua “Ấn thờ”, và cũng dùng việc báo mộng để dụ dỗ bá tánh đến nơi này hòng đánh đổ đại trận. Thế nhưng nào có một ai dấn sâu vào chốn thâm cùng hầm mộ này để giảng giải thế đạo đổi dời cho người dưới lòng đất đâu.

Vậy làm sao hắn biết Tiên Đô đã diệt vong?

Ô Hành Tuyết lia mắt nhìn thì thấy trên vách đá huyệt mộ có khắc phù văn, những nét phù văn này vừa dày đặc vừa lộn xộn nên ban đầu chàng không để ý đến, thoạt nhìn không biết đó là phù văn mà tưởng chỉ là vết nứt do dư chấn tạo thành.

Giờ nhìn kỹ mới phát giác nguyên do những nét phù văn kia dày đặc và lộn xộn như vậy là bởi nó bị chồng hai lớp — trước đây từng có một lớp và sau này phủ thêm một lớp nữa.

Không chỉ thế, nét bút của hai lớp phù văn này không giống nhau, có vẻ không phải do một người lập nên.

Nếu nét phù văn cũ là nét chữ của Hoa Tín để lại khi chôn Vân Hãi dưới hầm mộ này thì…

Nét mới của ai?

Một suy đoán nảy ra trong đầu Ô Hành Tuyết.

Chàng vừa quay sang nhìn những sợi dây leo chằng chịt quanh người Vân Hãi thì nghe người kia mở hé mắt và cất giọng thì thào, “Vì ta đã từng ra ngoài.”

Mọi người thất kinh ngay lập tức.

Câu nói thật giản đơn mà khiến chúng đệ tử tiên môn toát mồ hôi lạnh cả người.

Tà ma bị trấn dưới đây còn có thể ra ngoài được?!

Họ thiếu điều muốn khai một đợt kiếm trận nữa thì nghe Y Ngô Sinh chợt lên tiếng, giọng thật khẽ khàng, “Có phải… hơn hai mươi năm về trước không?”

“Hơn hai mươi năm trước ngươi ra ngoài phải không?”

“Có phải ngươi đã… đến nhà họ Hoa không?”

Y Ngô Sinh gắng mình hồi tưởng lại những việc hơn hai mươi năm trước, thời điểm mà nhà họ Hoa ra sức chữa trị cho người lạ. Vào quãng thời gian ấy, có quá nhiều người bị mắc nạn, khách đến nườm nượp không khi nào ngơi nghỉ, đến độ như muốn đạp nát thềm cửa nhà họ.

Nếu vị tà ma này trà trộn trong số những người kia thì hoàn toàn có thể lý giải vết ấn thờ bí ẩn xuất hiện sau cổ hắn và Hoa Chiếu Đình…

“Nhưng ngươi ra ngoài bằng cách nào?!”

Vân Hãi nghe một đằng trả lời một nẻo mà bảo, “Ta đến nhà họ Hoa không chỉ một lần.”

Lời này vừa thốt, tất thảy dây leo trói chặt cơ thể hắn thình lình phát điên như sống dậy, chúng quật lên cùng tiếng gió rít gào và đập liên tục về phía mọi người.

Đệ tử tiên môn vừa vung kiếm đâm thủng một sợi, tà khí từ bên trong tức thì cuồn cuộn trào ra không ngớt!

Hắn đột ngột nổi điên như vậy khiến đa phần mọi người không kịp trở tay.

May mà thanh trường kiếm của Tiêu Phục Huyên còn chưa tra vào vỏ, bao kim quang tuôn trào như sóng cuộn nhanh chóng toả ra. Ánh vàng đi đến đâu dây leo bị nát vụn đến đấy!

Giữa dây leo chằng chịt và tà khí mịt mùng, mũi kiếm mang chữ “Miễn” xé không chém thẳng xuống, ngay trước khi đâm xuyên qua trái tim Vân Hãi thì đột ngột ngừng lại.

Khoảnh khắc ấy, cả hầm mộ lặng tắp không một tiếng động.

Sau khi nín thở hồi lâu, mọi người mới nghe thấy âm thanh trầm thấp của Tiêu Phục Huyên vang lên, “Nếu đã ra ngoài rồi tại sao còn phải quay về.”

Ai nấy đều ngỡ ngàng, bấy giờ mới kịp phản ứng.

Phải rồi, nếu người đã ra ngoài được thì cần gì phải quay về? Ngươi đã tốn trăm phương ngàn kế, hao tổn đến từng ấy là để thoát khỏi trấn áp, để được nhìn thấy ánh sáng mặt trời kia mà?

Thế rồi họ mới dần dà ngỡ ra, cơn bùng nổ bất thình lình ban nãy của Vân Hãi dường như chỉ là nỏ mạnh hết đà chứ không phải sát chiêu. Đã biết rõ nơi đây có Tiêu Phục Huyên mà còn phát rồ như vậy thì chỉ tổ nhận về một đòn trí mạng chứ có đánh đổi được chi khác.

Ý định của hắn là gì…

Vân Hãi cất giọng khàn khàn, “Tuy ta và Linh Vương là cố hữu, nhưng vốn không mấy thân thiết với Thiên Túc đại nhân, một khi đương đầu không cần niệm tình cũ thiếu thiết thực đó.”

Nói đoạn, dây leo trên người hắn lập tức xoắn vào lưỡi kiếm của Tiêu Phục Huyên, bởi không chịu nổi tiên khí mà liên tục nổ tung, song vẫn không ngừng siết chặt mũi kiếm kéo mạnh xuống…

Một tiếng <i>phập</i> vang lên.

Thanh kiếm tiên xuyên tim mang đến cơn rét run người. Bởi thế mà hắn hoài niệm về bầu trời xám tro trên đỉnh thung lũng Đại Bi mấy trăm năm về trước…

Thanh kiếm chuôi khắc hoa văn nhành đào của Hoa Tín không lạnh đến thế.

Nhát kiếm năm xưa lẽ ra nên tước đi sinh mệnh hắn, mà không rõ vì sao vẫn chừa hắn một con đường sống. Và hắn cũng không rõ Hoa Tín đã làm gì sau khi mình chìm vào hôn mê.

Hắn chỉ biết rằng một ngày kia thức giấc, hắn choàng mở mắt như bừng tỉnh khỏi cơn mơ, thấy có gì đó phủ đầy cả người mình và trên cao đã không còn ánh nắng.

Khắp nơi khắc đầy phù văn và hắn không cách nào cử động.

Khi hắn nóng lòng cùng cực đến độ bùng nổ tà khí cũng là lúc hắn nghe được một giọng nói vọng từ nơi xa mà cận kề bên cạnh. Giọng nói ấy thân thuộc khôn cùng, là giọng nói dù qua nhiều đời hắn cũng chẳng thể nào quên.

Giọng nọ bảo, “Vân Hãi đồ đệ ta.”

Hắn nghe vào an lòng trong nháy mắt, rồi tiếp tục tiếp tục lắng nghe.

Chẳng là có đôi khi hắn không thể kiểm soát bản thân, dù gì tu đạo tà ma cũng đều khó tránh khỏi những lúc như vậy. Đã tu đến cuối đường vẫn không rõ tột cùng mình nắm quyền tà khí hay tà khí nắm quyền mình.

Những khi đó, cảm giác một hồn xé đôi lại trỗi dậy, một nửa hắn nói: <i>Ta muốn ra ngoài, có ai có thể ngăn cản được ta?</i>

Nửa còn lại bảo: <i>Không thể đi.</i>

Người ta vẫn thường ghé chân qua thung lũng Đại Bi, hắn có thể tận dụng những lúc cự trận lơi là mà thả một phần linh thức thoát khỏi hầm mộ, bám lên thân thể của một người qua đường nào đó.

Một khi hơi thở người sống lọt vào mũi rồi mới khiến hắn nhận ra không ngờ mình đã đói bụng lâu lắm rồi. Ngày hôm đó, hắn lặng lẽ đứng trên bệ thờ trong miếu tiên hệt như tượng thần năm nào hiên ngang ngó nhìn người cúng tế, rồi vừa cười mỉa mai vừa lưu lại trên người họ vài dấu vết.

Thời điểm ấy, một nửa kia hồn phách hắn bật thốt: <i>Quả nhiên, ngươi vẫn là thứ tà ma.</i>

Thông qua ấn thờ, hắn được nếm bao hương vị ngon ngọt, thành thử lại dùng một vài cách khác để có thể tiếp nhận sức sống của sinh linh không ngừng tuôn trào dù chẳng cần tự mình phải ra tay.

Hắn tích trữ sức lực càng lúc càng nồng hậu, rồi đến một ngày kia đã có thể bám trên cơ thể người sống và rời khỏi thung lũng Đại Bi.

Thế giới trong mắt hắn đã sớm lạ lẫm từ lâu, bất giác hắn không rõ mình nên đến nơi nào.

Chợt khi nhận ra thì hắn đã đứng trong Thính đường nhà họ Hoa ở Xuân Phiên thành, ắng yên mà nhìn bức chân dung treo trên Thính đường nọ.

Trong một chớp mắt, tà khí chiếm ưu thế kiểm soát, khiến hắn hổ thẹn tới tức giận.

Nửa phần hồn kia châm chọc: <i>Một kẻ ra tay giết ngươi mà ngươi còn tính thương nhớ cái gì?</i>

Nửa còn lại nói: <i>Nhưng ta đã chết đâu.</i>

Nửa kia lại móc mỉa: <i>Thế thì ngươi muốn chết thật một lần để thể hiện tấm lòng à? Ta không cho ngươi toại nguyện đâu.</i>

Chỉ với chút u hồn khi ấy, trong mấy ngày mà hắn tác quái không ít lần.

Đầu tiên phải kể đến bản tính của tà ma, còn thứ hai… hẳn rằng hắn cũng muốn xem xem liệu có thể tái ngộ vị Tiên thủ kia lần nữa hay không.

Mắng nhiếc hắn cũng được, mà giết hắn cũng được, làm thế nào cũng chẳng nề hà.

Nhưng hắn chờ mãi vẫn không thấy ai đến.

Một khi linh thần sắp tiêu hao hoàn toàn, hắn lại quay về hầm mộ đặng tích tụ thêm ít “thức ăn”. Hắn cũng không đếm xem một lần ngủ say sẽ mất mấy tháng hay là mấy năm.

Cứ thế, hắn ra ra vào vào trong mơ hồ mấy bận, cho đến một ngày kia, hắn đứng trước Thính đường nhà họ Hoa và ngẩn người thật lâu trước bức chân dung Hoa Tín một lần nữa.

Đệ tử trẻ nhà họ Hoa cất tiếng hỏi, “Không biết tiên sinh gặp phải vấn đề gì chăng? Có phải vấn đề liên quan đến hồn mộng nên ngài đến tìm Y Ngô Sinh tiên sinh không ạ?”

Hắn đâu có biết Y Ngô Sinh là ai mà cũng chẳng để tâm đ ến lời đệ tử trẻ nọ mà chỉ bần thần hồi lâu mới hỏi, “Tiên thủ Minh Vô gần đây vẫn tốt chứ?”

Ấy thế mà vị đệ tử nọ há hốc mồm, kinh ngạc trả lời, “Thưa tiên sinh, Tiên Đô đã diệt vong ít lâu rồi, Linh đài Thập nhị tiên không còn nữa, Tiên thủ cũng đã qua đời rồi ạ.”

Vân Hãi chẳng thể nhớ rõ ngày hôm ấy hắn đã thoát khỏi cơ thể người sống kia bằng cách nào, cũng chẳng thể nhớ rõ mình đã tạo nghiệt gì nữa hay không, và thậm chí chẳng nhớ rõ mình đã quay về thung lũng Đại Bi ra sao.

Thốt nhiên, hắn chỉ ngỡ ra rằng, thế gian rộng lớn nhường này hoá ra cũng chỉ đến thế.

Được nhìn thấy bầu trời thì có sá gì? Còn không bằng chôn mình dưới đáy mộ trong lòng thung lũng Đại Bi, ít ra nơi đây hắn còn được nghe thấy giọng người kia.

Đấy là lần đầu tiên hai phần hồn của hắn nảy sinh xung đột mãnh liệt đến thế, một nửa muốn bỏ chạy còn một nửa muốn ở lại đây mãi mãi.

Hắn là đồ đệ Vân Hãi của Hoa Tín, hắn là tà ma Vân Hãi.

Khi tỉnh táo, lúc cuồng điên.

Những lúc cuồng điên, hắn vận hết thảy tà thuật hòng đập vỡ lớp trấn áp nơi đây. Khi tỉnh táo, hắn bồi thêm một tầng phù văn bên trên cự trận đã nới lỏng của Hoa Tín.

Trận phân tranh với bản thân không ngơi nghỉ đã kéo dài hơn hai mươi năm, đủ rồi.

Giờ đây cự trận tiêu tán, hắn chẳng bao giờ nghe thấy giọng người kia được nữa, thế thì còn lưu luyến chi đâu, chẳng bằng mượn tạm lưỡi kiếm cố nhân và trao bản thân một lần giải thoát.

Từ nay về sau, sóng gió vạn dặm thế gian đã chẳng còn can hệ gì đến hắn.

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 29: Đoạn ngắn


Giờ đây, tà khí tai ương cuồn cuộn đều vùi theo xuống mồ.

Sức sống leo lắt trên người Vân Hãi tan biến. Dẫu dáng vẻ hắn chẳng đổi thay nhiều song vẫn khiến người nhìn có cảm giác chỉ tích tắc đã úa tàn, có lẽ vì dây leo trên người hắn héo khô một cách chóng vánh.

Tận bấy giờ, mọi người mới vỡ lẽ những sợi dây leo kia đều mọc ra từ trái tim hắn.

Ắt rằng chúng nó cộng sinh với Vân Hãi, một khi hắn chết đi thì dây leo cũng chẳng còn sức sống. Mấy nhánh dây xoắn trên thân kiếm Tiêu Phục Huyên tức thì buông lỏng, trượt xuống mũi kiếm và khô quắt lại.

Chỉ có cành hoa vẫn y nguyên dáng vẻ, thân và lá quấn quanh cổ Vân Hãi với đoá hoa nâng đỡ một nửa gương mặt quỷ của hắn.

Không một ai ngờ Vân Hãi sẽ chọn con đường tự sát nên tất cả đều thẫn thờ.

Tiêu Phục Huyên lặng lẽ rút kiếm ra và ngồi dậy, hai hàng mày dần nhíu chặt.

Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt chẳng còn sức sống của Vân Hãi một hồi, rồi mới nhỏ giọng hỏi, “Có còn tàn hồn không?”

Tiêu Phục Huyên lắc nhẹ đầu. “Thần hồn toàn diệt.”

Thanh kiếm y xuyên thẳng vào tim Vân Hãi, y là người hiểu rõ nhất tàn hồn dưới mũi kiếm có còn lại gì hay không. Thế mà chẳng tìm được chút nào, ắt là thần hồn đã toàn diệt.

Dây leo khắp người rũ rạp xuống giúp trông rõ phần lớn thân thể Vân Hãi, một góc thẻ bài lộ ra dưới vạt áo đen bên hông hắn.

Y Ngô Sinh khẽ khàng thốt, “Đó là thẻ bài của phái tôi.”

Thẻ bài đeo bên hông và phụ kiện treo kiếm của nhà họ đều được đẽo hoa đào từ ngọc phù dung, đây là nét đặc trưng có một không hai nên rất dễ phân biệt trong các tiên môn.

Song, chỉ có đệ tử môn hạ nhà họ Hoa mới đeo thẻ bài bên hông mà thôi, khi đến cấp trưởng lão hay môn chủ, đặc biệt là những người như Y Ngô Sinh với Hoa Chiếu Đình thì không dùng thẻ bài để tỏ rõ thân phận.

Thật không ngờ vị này từng thăng tiên từng đoạ ma, thế mà vẫn mang thẻ bài bên mình đến chết.

“Chữ trên thẻ bài do ai khắc thế?” Ô Hành Tuyết lật tấm thẻ bài ra xem, thấy cái tên “Hãi” thon và dài khắc ở mặt sau. “Có phải một vị gia chủ trước đây không?”

Y Ngô Sinh lắc đầu, “Không phải, thẻ bài do chính tay đệ tử khắc.”

Ô Hành Tuyết: “Vậy đây là nét của Vân Hãi à.”

Y Ngô Sinh: “Đúng vậy.”

Ô Hành Tuyết chỉ “À” nhẹ, tự nhủ <i>thế thì đúng rồi</i>.

Ban nãy, chàng phát hiện trên tường hầm mộ có hai lớp phù văn, lớp đặt bên trên được viết bằng nét chữ thon dài tương tự thế này, vậy ắt do tự tay Vân Hãi viết.

Sau đó, mọi người tìm thấy đá mắt trận để trấn áp đại trận trong máu me và bùn đất bên dưới tay trái Vân Hãi.

Bên trong mắt trận có hai viên đá trận, một viên đã vỡ nát, một viên được đặt vào sau. Bên trên viên đá được đặt vào sau cũng có một dấu ấn, đó là chữ “Hãi” tương tự nét chữ trên thẻ bài.

Khi nãy, mọi người còn đắn đo không hiểu vì sao con mắt trấn áp đại trận lại nằm rành rành ngay giữa trung tâm hầm mộ như vậy, mà giờ đây khi nhìn thấy viên đá trận thì ai nấy đều tỏ tường.

Người gia cố và tiếp tục trấn áp đại trận là chính bản thân Vân Hãi.

“Việc này…” Y Ngô Sinh cầm viên đá trận nọ với nét mặt phức tạp, khó nói là thổn thức hay còn cảm xúc gì khác. Sau chót, hắn lắc đầu thở dài và đành lòng mà rằng, “Thật đáng tiếc.”

Trong tất cả những người có mặt nơi đây, Y Ngô Sinh là người không nên mang tâm trạng ấy nhất. Nói cho cùng, dấu ấn sau cổ hắn do chính Vân Hãi ban, hơn hai mươi năm vật vã khốn cùng của hắn đều bắt nguồn từ nơi này.

Ai cũng có thể xúc động cảm khái trước câu chuyện của Vân Hãi, trừ mỗi Y Ngô Sinh.

Thậm chí nếu giờ đây, hắn rút kiếm trút giận lên xác chết Vân Hãi đi nữa cũng chẳng ai có quyền mắng hắn sai rồi. Song, hắn đã không làm như vậy, hơn thế, còn thốt lên tiếng “đáng tiếc” thương thay cho tà ma kia.

Ô Hành Tuyết nhìn vết thương thành sẹo sau cổ Y Ngô Sinh, bất giác trỗi dậy chút nuối tiếc.

Chàng thầm nhủ, <i>không rõ trong quá khứ mình và vị Y Ngô Sinh nhà họ Hoa này có mối quan hệ đến bực nào. Nghĩ lại có vẻ không thân thiết lắm, dầu gì một người cũng là đệ tử tiên môn, người kia lại là ma đầu.</i>

<i>Cũng thật đáng tiếc.</i>

<i>Nếu có thể quen biết một người như vậy không tệ chút nào.</i>

Y Ngô Sinh khom người ngồi xuống và chôn viên đá trận bên dưới lòng bàn tay Vân Hãi lần nữa. Cầm lên thả xuống một bận khiến máu me và bùn đất xung quanh bị xới lên ít nhiều, hắn tính đắp máu bùn lên trên thì có hai ngón tay chặn lại.

“Thưa Thượng tiên?” Y Ngô Sinh ngước nhìn thì thấy Tiêu Phục Huyên đang chắn tay mình lại.

Tiêu Phục Huyên đáp, “Có gì ở đây.”

Ngón tay thẳng dài của y chỉ vào máu bùn đậm đặc, ngoài ra không thấy thứ gì khác.

Mọi người giương mắt nhìn nhau, tò mò không thôi.

Ô Hành Tuyết đứng bên cạnh y bèn cúi người, hỏi, “Thứ gì thế?”

Tiêu Phục Huyên không trả lời ngay lập tức.

Ngó chừng tìm kiếm bất thành, y bèn nhấn thẳng một ngón tay xuống mặt đất. Cơ thể Vân Hãi nằm yên không nhúc nhích nhưng đất bùn và máu bất ngờ rung chuyển, đẩy thứ đang chôn sâu bên dưới trồi lên.

Đó là một món đồ màu trắng, phát ra ánh sáng âm ấm từ giữa cát bùn. Ô Hành Tuyết cực kỳ nhạy bén với sắc độ ấy nên chỉ lướt sơ đã biết đấy là bạch ngọc.

Tiêu Phục Huyên duỗi một ngón tay và móc món đồ nọ từ dưới bùn lên.

“Chuông mộng!” Y Ngô Sinh buột miệng thốt.

Nó là một chiếc chuông bằng bạch ngọc với vẻ ngoài tương tự chiếc chuông ở nhà họ Hoa, nhưng khi nhìn kỹ thì tinh xảo hơn nhiều. Trên mặt ngọc chạm rỗng những sợi vân mỏng giống hệt vỏ kiếm và mặt nạ của vị Linh Vương kia, chỉ nhìn thoáng qua cũng biết thuộc về cùng một người.

Có quả chuông mộng này trước mắt, nghiễm nhiên chiếc chuông ở nhà họ Hoa không cách nào kham nổi hai tiếng “hàng thật”.

Giống như Y Ngô Sinh đoán từ trước, nếu Hoa Chiếu Đình đã giấu chuông mộng bên cạnh mình, thì kẻ duy nhất có thể tráo giả thành thật là tà ma thao túng hắn.

Giờ đây, tìm được chuông mộng dưới nấm mồ của Vân Hãi cũng không ngoài dự đoán, thế nhưng có một việc khiến Y Ngô Sinh thắc mắc, “Không biết… hắn ta tìm chuông mộng thật để làm gì?”

Mục đích của chuông mộng không gì khác hơn là dệt nên giấc mơ, biến dĩ vãng thành cảnh trong mơ hoặc đưa người vào cảnh trong mơ mới.

Trước đây khi bị phế, Vân Hãi còn không tính dùng chuông mộng, thế vì lý do gì phải đi một bước cồng kềnh là lấy chuông thật ở nhà họ Hoa rồi còn đặt chuông giả vào để nguỵ trang.

Ô Hành Tuyết tự hỏi.

Song giờ Vân Hãi đã chết, trích theo đúng lời Tiêu Phục Huyên là “Thần hồn toàn diệt” thì cũng hết cách tra hỏi rõ ràng việc này. Ô Hành Tuyết không đường nào xác nhận phán đoán của mình có đúng hay không.

Khi chàng còn đang suy tư thì chợt nghe một giọng nói trầm thấp gọi, “Ô Hành Tuyết.”

Ô Hành Tuyết ngước mắt.

Tiêu Phục Huyên đứng dậy, treo chiếc chuông bạch ngọc trên ngón tay và nói, “Đưa tay.”

“Hửm?” Ô Hành Tuyết thốt hỏi, kế một hồi mới mở lòng bàn tay về phía y.

Lòng bàn tay chàng bỗng dưng lành lạnh, chiếc chuông mộng đang nằm bên trên.

Dù chàng đã quên hết ráo trọi, chẳng nhớ tí ti gì về những việc từ Linh Vương đến chuông mộng. Mà ngay khi chiếc chuông nọ rơi vào lòng bàn tay, chàng chớp mi thật khẽ, có cảm giác mất mát gì đó thật xa xăm.

Chàng tăm tia chiếc chuông bạch ngọc kia một tí thì phát hiện bên trong chuông có một vết nứt.

Chàng bèn cầm soi kỹ một chút, thình lình có hình ảnh lờ mờ hiện ra trong đầu.

Lúc trước Y Ngô Sinh từng nói rằng, một khi chuông mộng đã đưa con người ta vào giấc mơ thì chỉ có chuông mộng mới có thể giải được, bằng không khi tỉnh lại linh hồn vẫn không nguyên vẹn hoặc ký ức vẫn không rõ ràng.

Mà bây giờ trông ra, chiếc chuông này bị hỏng rồi, chàng cũng không biết nên làm sao với nó nhưng trong lòng đã nảy ra chút linh cảm.

Ô Hành Tuyết mân mê ngón tay bên trên chuông mộng, ráng nhớ lại đoạn ngắn vừa loé qua…

Đó là một đêm rét trời nào đó.

Không biết vì lý do gì mà chàng đứng khoanh tay bên cạnh cửa, lòng bàn tay siết chặt một món đồ cưng cứng và lạnh căm. Món đồ ấy góc cạnh và cộm đến mức đau điếng cả tay chàng.

Còn Tiêu Phục Huyên đang đứng ngay cửa, tay y nâng tấm mành che, không bước tới cũng không bước lùi mà nhìn chàng với đôi ngươi thoáng rủ.

Sau lưng là một trảng vườn rộng lớn, trong vườn có một gốc đại thụ rợp trời phủ tuyết.

Và chàng, đang nắm chặt món đồ trong tay đặng âm thầm tranh đấu với người ở cửa.

Mãi một hồi lâu sau, chàng mới khẽ nghiêng đầu mà rằng, “Tiêu Phục Huyên, ngươi đã từng nghe tà ma coi trọng d*c v*ng chưa?”

Cả căn nhà chìm vào tĩnh lặng.

Tiêu Phục Huyên vẫn giữ tư thế vén mành, mãi sau mới lên tiếng, “Từng nghe.”

Ô Hành Tuyết lặng người giây lát, nói tiếp, “Nếu ngươi đã từng nghe mà còn cố tình chọn ngày này để đến, thì có phải… muốn làm khách ghé loan phòng với ma đầu ta đây?”

Nói đoạn, chàng ngoảnh đầu nhấc cằm chỉ về phía giường.

***

“…”

Hình ảnh không đầu không đuôi lại rõ ràng đến lạ, Ô Hành Tuyết run bắn tay trước câu “khách ghé loan phòng” ấy. Để khi chàng ngước mắt lên thì thấy ngay gương mặt Tiêu Phục Huyên giống y đúc gương mặt trong ký ức.

Ô Hành Tuyết lặng thinh đứng im hồi lâu, rồi lặng lẽ nhét chuông mộng ngược vào tay Tiêu Phục Huyên.

Lời tác giả:

Năm mới vui vẻ, mình phải chạy về nhà nên chương này hơi ngắn ~ trùm đầu. Các bình luận của chương này đều được nhận lì xì, sẽ gửi trước lúc cập nhật của ngày mai, xin cảm ơn mọi người đã làm bạn với mình thêm một năm nữa, yêu mọi người nhiều, hy vọng mọi người có một năm 2022 tràn đầy sức khoẻ, vui vẻ và bình an.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 30: Chuông hỏng


Tiêu Phục Huyên liếc cái chuông mộng bị đẩy ngược về mình rồi nhìn lại Ô Hành Tuyết, song chưa kịp nói gì đã bị người cắn trước…

Ô Hành Tuyết: “Trả lại cho huynh đó, huynh đưa ta làm gì.”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Mấy đệ tử trẻ tiên môn vẫn còn nhớ rõ mồn một.

Họ nhớ chiếc chuông bạch ngọc này đã từng thoáng xuất hiện giữa cuộc thẩm vấn Vân Hãi ban nãy, nó là tiên bảo của Linh Vương. Họ cũng nhớ rõ trong câu chuyện kể giúp họ an lòng, Y Ngô Sinh ngỏ lời khen Ô Hành Tuyết rằng, “Vị công tử này có tấm lòng cao quý, người bình thường mà gặp phải tiên bảo hiếm thấy nhường này thì chắc chắn sẽ không bỏ qua, thế nhưng vị công tử này chẳng những không bị mờ mắt trước tiên bảo mà còn có thể trả lại nó.”

“…”

Tiêu Phục Huyên không khỏi nhìn sang mấy đệ tử trẻ kia một cái.

Đệ tử trẻ hãy còn đặt tay lên ngực tự vấn, “Thật tâm mà nói thì ta cũng không làm được đến vậy… ơ?”

Cái liếc của Thiên Túc thượng tiên khiến họ giật thót mình, bấy giờ mới phát giác những lời đàm luận xì xào của mình bị nghe được, ai nấy đỏ bừng cả mặt mà ấp úng hồi lâu mới chỉ sang Y Ngô Sinh. “Là hồi nãy chúng tôi nghe tiền bối nói rằng Ô…”

Đám bọn họ đâu chưa dám nhìn thẳng mặt ma đầu mà gọi tên, chỉ “Ô” một phát qua loa rồi nói tiếp, “… Ờm, không phải là bản nhân mà do linh hồn phàm nhân sơ ý nhập sai thể xác mà thôi.”

“…”

Y Ngô Sinh lặng thinh che mặt, trong lòng nhủ thầm mấy nhóc đệ tử này dễ bị gạt ghê.

Bao cặp mắt đổ dồn về đệ tử trẻ khiến mặt cậu đỏ càng thêm đỏ, cậu vội vã giải thích thêm, “À ừm… bọn tôi cũng từng nghe sư tôn dạy rằng sau khi Tiên Đô diệt vong, có một số tiên bảo đã lưu lạc chốn nhân gian, dẫn đến việc các đại môn phái lẫn cao nhân tán tu đều mưu đồ giành giật không thôi. Nói cho cùng, bên trong tiên bảo thường có lưu lại mệnh nguyên của tiên nhân, và phần linh lực ấy đã được tích tụ qua trăm ngàn năm nên hẳn nhiên ai cũng muốn chiếm đoạt. Thế nhưng trên thế gian, số người có khả năng giữ tiên bảo bên mình chỉ đếm được trên đầu ngón tay, nếu không có nền tảng tu vi hàng trăm năm thì làm gì có khả năng tiếp nhận từng ấy tiên khí đâu.”

“Công tử mang linh hồn người phàm thì quả thật không nên cầm tiên bảo. Ngặt nỗi, dù vô số người hiểu được đạo lý này, nhưng có thể làm được mà chẳng mảy may dao động lại chẳng có bao nhiêu. Thế mới nói việc làm của công tử thật đáng thán phục.”

Cậu ta bô lô ba la cả tràng xong còn chắp tay với Ô Hành Tuyết một cách nho nhã.

Ô Hành Tuyết cười mệt trong lòng nhưng bên ngoài vẫn không hề đổi sắc, chàng cũng đáp lễ đệ tử kia một cách vô cùng lịch thiệp, “Quá khen.”

Nét mặt cạn lời của Thiên Túc thượng tiên chuyển sang chết lặng.

Ô Hành Tuyết nhìn gương mặt lãnh cảm trời sinh của y mà trong lòng càng thêm khoái trá. Đang cười mệt mỏi thì bất chợt nhớ tới câu “khách ghé loan phòng” và chiếc giường nọ…

Xong thình lình im bặt, nín thinh không cười nữa.

Và cũng như lần bên trong xe ngựa, Tiêu Phục Huyên không vạch trần.

Đệ tử trẻ còn đang nói nói, Tiêu Phục Huyên vừa lắng nghe vừa lơ đãng mân mê ngón tay trên chiếc chuông mộng.

Dưới ngón tay thon dài của y, chuông mộng trông lung linh đẹp đẽ đến lạ, màu bạch ngọc ánh lên láng mượt mịn màng.

Chỉ trách viên đệ tử kia nhắc đến câu “tiên bảo thường có lưu lại mệnh nguyên của tiên nhân”, dù Ô Hành Tuyết đã quên bẵng mệnh nguyên là cái gì rồi song vẫn không khỏi cảm thấy mình có kết nối linh thần với chiếc chuông mộng kia.

Mà bây giờ còn thấy ngón tay khảy chuông mộng của Tiêu Phục Huyên, quả ư là…

Ô Hành Tuyết chăm chú một hồi thì duỗi tay ra lấy chuông mộng lại.

Một loạt chấm hỏi nổi đầy đầu đệ tử trẻ tiên môn vừa không tiếc lời khen ngợi con người vẹn toàn nào đó.

Tiêu Phục Huyên nhìn sang Ô Hành Tuyết. “Vừa nói tính trả ta mà.”

Ô Hành Tuyết đáp, “Đổi ý rồi.”

“Lý do?”

“…”

Ô Hành Tuyết nhìn sang đầy ẩn ý.

Chàng cũng đâu thể trả lời là vì “Ta không muốn thấy huynh cứ mân mê chuông mộng”, bởi nhỡ đâu Tiêu Phục Huyên lại chồng thêm một câu “Lý do” nữa thì nhục không để đâu cho hết.

Ai chứ Thiên Túc thượng tiên dám lắm.

Ô Hành Tuyết lặng thinh một hồi mới nói, “Ta chợt nhớ ra có đưa cũng không nên đưa cho huynh.”

Nói đoạn, chàng quay sang đưa chuông mộng cho Y Ngô Sinh.

Y Ngô Sinh: “…”

<i>Không cần!</i>

Ô Hành Tuyết nói, “Tôi bỗng sực nhớ hồi đầu tiên sinh có nói muốn đến thung lũng Đại Bi hoàn thành hai việc. Việc đầu tiên là tìm rõ nguyên lai dấu ấn phía sau cổ mình, việc thứ hai là muốn tìm tiên bảo thật đem về giúp nhà họ Hoa.”

Y Ngô Sinh vội vã xua tay và nói thầm với bản thân là ngài với Thiên Túc thượng tiên cứ đá banh cho nhau đi, liên luỵ người vô tội tôi đây làm gì.

Song, Ô Hành Tuyết không buông tha hắn. “Sao tiên sinh lại xua tay với tôi, món đồ này do nhà họ Hoa đánh mất, giờ tìm được rồi trả về âu cũng hợp lý thôi.”

Y Ngô Sinh: “…”

Thà không nhắc tới thì thôi, chứ nhắc rồi chỉ khiến Y Ngô Sinh thiếu điều muốn tìm một cái hố chui vào cho xong.

Hôm ở nhà họ Hoa, lúc phát hiện ra chuông mộng bị mất hắn đã nói mấy chuyện ngớ ngẩn gì ấy nhỉ?

Ặc, đầu tiên là đoán ngay Ô Hành Tuyết là thủ phạm…

Ngay trước mặt Ô Hành Tuyết.

Sau đó lại bảo muốn đến thung lũng Đại Bi tìm chuông mộng vì đó là tiên bảo nhà họ Hoa.

Giờ cuộc thẩm vấn Vân Hãi đã minh chứng rõ ràng chủ nhân của tiên bảo này chính là vị Linh Vương nọ. Rồi sau đó thì sao?

Ặc, Vân Hãi nhìn Ô Hành Tuyết và gọi một tiếng “Linh Vương”.



Cho dù Y Ngô Sinh chưa từng thấy vị Linh Vương kia trên bất kỳ sách tiên nào, không biết địa vị người nọ trên Tiên Đô như thế nào, và cũng không biết việc gì đã xảy ra trong khoảng thời gian đó để khiến một Linh Vương như thế biến thành ma đầu mà ai ai cũng khiếp sợ.

Nhưng sự thật chuông mộng thuộc về người nọ là không thể chối cãi.

Thiên Túc thượng tiên đặt chuông mộng trong tay Ô Hành Tuyết chính là trả đồ về cho chủ nhân chân chính. Mà giờ đây không biết vì lý do gì, vị chủ nhân đó lại giả câm giả điếc, một hai nằng nặc phải đưa chuông mộng cho hắn.

Hắn dám nhận không?

Làm gì dám.

Đâu chỉ không dám, mà còn không có mặt mũi để nhận.

Tính tình Y Ngô Sinh rất thư sinh và dễ ngại ngùng. Thuở còn thiếu niên, hai anh em Hoa Chiếu Đình và Hoa Chiếu Đài đều lấy đó làm niềm vui và thích trêu hắn ngượng chín mặt. Về sau, hắn trở thành tứ đường trưởng lão vang danh lẫy lừng nên cặp đôi huynh muội dần trưởng thành trầm tĩnh lại cũng không bỡn cợt hắn, đâm ra không còn một ai dám trêu đùa hắn như vậy nữa.

Đã lâu lắm rồi, đến tận giờ phút này hắn mới được trải nghiệm cảm giác ngượng chín mặt lần nữa.

Một trong những lời đồn được lan truyền rộng rãi nhất chính là việc nhà họ Hoa thu được món tiên bảo nhờ vào tiên duyên, về sau chẳng may bị Ô Hành Tuyết cướp mất.

Giờ nhìn lại mới thấy châm biếm đến bực nào.

Người ta lấy đi món đồ thuộc về mình, còn câu nhà họ Hoa “thu được tiên bảo nhờ vào tiên duyên” nghe như có chút ẩn tình gì đó.

Trong tình huống như vậy, sao Y Ngô Sinh dám nhận lấy chuông mộng kia.

Nếu vị tổ tông đó không sống chết chẳng nhận bản thân không phải “hồn nhập nhầm thể”, nếu Thiên Túc thượng tiên không dùng kiếm ép hắn phải che giấu, nếu bọn nhóc đệ tử tiên môn yếu đuối mong manh kia không ở ngay bên cạnh, thì ắt là Y Ngô Sinh đã chắp tay xin Ô Hành Tuyết <i>làm ơn tha cho</i> luôn rồi.

Vậy đó mà bây giờ hắn chả dám hé nửa lời, chỉ biết nhìn đau đáu Ô Hành Tuyết với ánh mắt dần thầm than.

Sau cùng, hắn siết tờ giấy và nói, “Bẩm công tử, tôi chỉ còn chút tàn hồn này thôi…”

Ngụ ý: Làm ơn ăn h**p người khác đi được không.

Ô Hành Tuyết nhìn nét mặt hắn thì vỡ lẽ, đồ chừng mình bắt nạt người ta hơi quá rồi. Chàng bèn đảo cái móng ma của mình sang hai tên thuộc hạ.

Tính chàng biếng lười xưa giờ, nào có sở thích cầm đồ gì trong tay, có xem thuộc hạ như túi treo đồ cũng không lạ. Ninh Hoài Sam với Phương Trữ chắc phải quen với việc đó từ lâu.

Ngờ đâu, chàng vừa ngoái đầu sang đã thấy gương mặt uất ức khôn cùng của Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.

Ô Hành Tuyết: “?”

“Ta còn chưa nói gì mà,” Ô Hành Tuyết từ tốn nói.

Ninh Hoài Sam: “Bẩm thành… công tử, ngài còn nhớ có một số tà ma hễ gặp tượng thần là ói thốc ói tháo không?”

Nét mặt cậu ta in đậm dòng chữ: Ngài đoán xem ta cầm tiên bảo thì có ói tại chỗ hông.

Ô Hành Tuyết: “…”

Thôi được.

Kết quả là sau khi tra tấn trọn một vòng, đại ma đầu Ô Hành Tuyết vẫn quyết định tự tay giữ chuông mộng.

***

Vụ án “Triệu hoán” ở thung lũng Đại Bi đã giải quyết xong xuôi, thứ cần tìm cũng đã tìm thấy. Tính ra mọi chuyện đều ổn thoả với đệ tử tiên môn và Y Ngô Sinh.

Song, Ô Hành Tuyết vẫn còn hơi thắc mắc không biết khi xưa Hoa Tín đã làm gì để giữ lại chút hơi tàn mạng sống cho Vân Hãi, ngặt nỗi chính Vân Hãi cũng không hay biết gì về chuyện này.

Hơn nữa, Tiêu Phục Huyên từng nói, lúc Hoa Tín mang kiếm hạ trần thì y đang ở Thương Lang Bắc Vực, rất lâu sau đó y mới quay về Tiên Đô.

Không một ai trên Tiên đô biết Hoa Tín đã làm gì, họ chỉ biết những việc xảy ra sau đó — hắn phải đến quỳ nhận thiên phạt trên Linh đài giống như Vân Hãi khi xưa, xong xuôi bế quan trăm ngày.

Về sau, hắn càng trở nên không màng thế sự, càng ra dáng một vị Tiên thủ hơn, còn đâu không mảy may có điểm gì khác biệt.

Họ lần mò quanh tường hầm mộ Vân Hãi một lần nữa mà vẫn không phát hiện bất kỳ dấu vết nào khác nên cũng đành bỏ qua.

Vầng dương đã rạng phía trời đông khi mọi người rời hầm mộ dưới đáy thung lũng Đại Bi.

Ba viên đệ tử tiên môn đang thu thập túi càn khôn, họ đã tìm đủ ba mươi ba pho tượng đồng tử và những bá tánh không may bị “triệu hoán”, miệng nhủ “đắc tội, đắc tội” và tay xếp những người nọ vào túi càn khôn.

“Khi trao họ về đừng quên sửa soạn lại một chút, ít nhất cũng phải dùng thuật chỉnh trang che mắt,” Y Ngô Sinh có lòng lo lắng nên dặn họ đôi lời.

Tử trạng những vị bá tánh này rất hãi hùng, phần lớn thi thể đều không còn nguyên vẹn. Sẽ thật tàn nhẫn nếu cứ đưa họ về gia đình trong hiện trạng như vậy.

Các đệ tử trẻ cúi người thi lễ. “Mong tiền bối an tâm, chúng con nhất định sẽ dốc lòng siêu độ và an bài họ thoả đáng.”

Rất nhiều sư huynh sư tỷ của họ đến đây mà chẳng có kết quả gì. Ba người họ dù còn non trẻ đã có thể đồng thời đưa tất cả trở về thì ắt hẳn sẽ là việc lớn cho môn phái, thậm chí cho cả vùng Ngư Dương.

Họ rất muốn mời nhóm Tiêu Phục Huyên cùng trở về môn phái song đã bị từ chối khéo.

À không, Thiên Túc không từ chối khéo, mà từ chối thẳng. Y đáp đúng hai chữ, “Không được.”

Ô Hành Tuyết khéo léo hơn chút đỉnh, chỉ vào mặt mình và nói, “Nếu ta đến môn phái nhà các cậu thì e là gia chủ và các vị trưởng lão sẽ mừng rỡ đến xanh mét mặt mày mất.”

Các đệ tử: “…”

Y Ngô Sinh là người bình thường nhất trong hội, hắn bảo, “Giờ đây ta chỉ còn lại chút ít tàn hồn, không níu kéo được bao lâu nữa nên không làm phiền mọi người.”

Nghe vậy, các đệ tử trẻ dĩ nhiên cũng không muốn làm mất thời gian sót lại cuối cùng của hắn. Họ nhanh chóng hành lễ từ biệt, quay về Ngư Dương cùng túi càn khôn và ba mươi ba vong hồn.

Ô Hành Tuyết hỏi Y Ngô Sinh, “Không biết tiên sinh có dự định gì không?”

Y Ngô Sinh sờ lên tấm vải đen che mũi và miệng, hắn đã bắt đầu có cảm giác bản thân càng lúc càng không ổn. Lúc ngồi trên xe ngựa, hắn còn có thể kiểm tra linh hồn bằng cách sờ cổ tay, khi xuống dưới đáy thung lũng Đại Bi thì lực đã bất tòng tâm. Còn bây giờ, đến năm giác quan của hắn cũng không rõ ràng được như trước.

Hắn quay sang và hỏi Tiêu Phục Huyên, “Thưa Thượng tiên, không biết tàn hồn của tôi còn có thể trụ được mấy hôm nữa?”

Tiêu Phục Huyên đặt ngón tay lên trán hắn và im lặng một thoáng rồi trầm giọng, “Bốn ngày.”

Y Ngô Sinh bình tĩnh gật đầu. “Vâng.”

Kế đó, hắn mới trả lời Ô Hành Tuyết, “Tôi vẫn còn một vài nuối tiếc chưa hoàn thành nên muốn đi xem một chút, có lẽ trước tiên tôi sẽ đến cánh đồng Gia Minh một chuyến, sau đó quay về Đào Hoa châu. Nếu may mắn có lẽ sẽ về đến nhà trước khi thời gian kết thúc.”

Hắn vừa nói mà vừa bật cười mỉa mai.

Hôm nào, hắn mới còn siết chặt tay trên áo quần Ô Hành Tuyết và cầu xin chấm dứt sinh mệnh thật dứt khoát biết bao, mà giờ đây khi đường sống được mở ra, hắn lại muốn níu kéo thêm chút nữa…

Ban đầu bảo rằng muốn tìm nguyên nhân dẫn đến oan trái cho nhà họ Hoa và tung tích chuông mộng rồi sẽ an lòng ra đi. Giờ cả hai việc đều xong xuôi, hắn lại muốn hoàn thành thêm vài tiếc nuối nữa.

Con người ấy mà, thật là tham lam.

Hắn mỉa mai bản thân, đoạn thủ lễ bái biệt với Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên rồi nói lời giã từ.

Để rồi vừa đi được mấy bước thì căn bệnh hay lo toan lại trỗi dậy. Hắn không nén lòng mà bước ngược về và hỏi Ô Hành Tuyết, “Tôi hỏi thế này có hơi đường đột, không biết…”

Hắn muốn hỏi không biết ngài có còn nhớ cách dùng chuông mộng để giải mộng hay không. Hắn có thể thấy được là Ô Hành Tuyết đã quên kha khá chuyện rồi, biết đâu chừng cũng đã quên mất cách dùng chuông mộng.

Có điều để hỏi thẳng chính chủ câu hỏi này thì hắn cũng không biết phải mở lời thế nào.

Ô Hành Tuyết thấy hắn ngập ngừng cả buổi trời mà không nói được tiếng nào, ánh mắt cứ dây dưa trên chiếc chuông mộng treo bên hông mình. Chàng bèn trực tiếp ngoắt tay móc chuông mộng lên và nói, “Tiên sinh muốn hỏi cái chuông này à?”

Y Ngô Sinh gật đầu, đang tính mở miệng thì bất chợt hoảng hồn ra mặt.

Hắn thốt lên, “Sao chuông mộng nứt hết cả vậy?! Ở bên dưới mộ nó có phải thế này đâu.”

Ô Hành Tuyết không lấy gì làm ngạc nhiên, nói, “Ban đầu nó đã bị nứt bên trong rồi, chẳng qua ở ngoài không thấy thôi, may mắn là vẫn còn nguyên vẹn chứ chưa bị mẻ thành tám cánh, cũng không biết có thể dùng được nữa hay không.”

“Tuyệt đối không thể dùng,” Y Ngô Sinh nhanh chóng nói.

“Tại sao thế?”

Y Ngô Sinh: “Món này là tiên bảo, mang rất nhiều tiên khí và còn vương mệnh nguyên của thần tiên nên có rất nhiều hạn chế khi dùng và phải vô cùng cẩn trọng, nhỡ đâu phạm sai lầm thì chẳng những không nên chuyện mà còn bị tẩu hoả nhập ma.”

Nghe lời hắn khuyên cũng khá hợp lý, song những chuyện liên quan đến tiên bảo thì hỏi thần tiên hẳn là chí lý nhất.

Ô Hành Tuyết treo chuông bạch ngọc trên tay mà nghĩ ngợi, đoạn quay sang Tiêu Phục Huyên.

Tiêu Phục Huyên: “Đúng là như vậy.”

Thật ra, Y Ngô Sinh tự biết mình đã nói giảm nói tránh, bởi tẩu hoả nhập ma chỉ là một trong số những con đường bị chệch. Phiền nhất ở chỗ tiên bảo rất quý hiếm, quý hiếm ở đây không chỉ theo nghĩa ít gặp trên thế gian, mà còn cực kỳ quý hiếm và khó lấy lại đối với chính bản thân thần tiên.

Một khi tiên bảo bị hỏng thì có lên trời xuống bể cũng khó cách nào khôi phục như cũ.

Khổ nỗi Ô Hành Tuyết có biết chuyện này đâu. Chàng lắc nhẹ cái chuông mấy lần trong thẫn thờ một hồi rồi mới hỏi, “Vậy có cách nào khôi phục được không?”

Chuyện này vẫn hỏi thần tiên là chí lý nhất, thành thử chàng thốt xong thì ngoái đầu sang nhìn Tiêu Phục Huyên.

Tiêu Phục Huyên: “…”

Đôi môi mỏng của Thiên Túc thượng tiên đã khẽ mấp máy như thể sắp sửa bật ra chữ “Không” tới nơi rồi, song cuối cùng lại không nói gì.

Y xoay mặt sang một bên, lát sau mới xoay ngược lại và đáp, “Có cách.”

Y Ngô Sinh: “…”

Hắn im re một lúc lâu mới nuốt ngược câu “Không có cách nào” vào trong.

Mà lòng hắn đang hú hét <i>đây là thần tiên thật à? Bị người khác nhìn không chớp mắt một hồi là câu “Không có cách nào” biến thành “Có cách” được luôn hả?</i>

Hắn rất chi là muốn thỉnh giáo cái “cách” này có ở đâu ra…

Kết quả là nửa canh giờ sau, bên trong chiếc xe ngựa hướng về phố núi Lạc Hoa cổ lại có thêm một vị Y Ngô Sinh sớm nói “Xin bái biệt tại đây”.

Lời tác giả:

Mọi người chờ lâu QAQ ngày đầu năm mới mà tui đã bị phỏng rồi, báo hiệu tình hình năm nay của tui chắc có khi cũng đỏ hồng y như hôm nay vầy nè Orz
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 31: IV. PHỐ NÚI LẠC HOA - Tinh chất ngọc


Xe ngựa đông người nhưng không khí chẳng được thoải mái gì.

Tiêu Phục Huyên vẫn không thích ngồi, chỉ đứng tựa người ở chỗ cũ.

Phương Trữ và Y Ngô Sinh ngồi một bên, từ khi bước lên xe, hắn ta đã “chết” dí bên thành xe và trưng bộ dáng muốn ngủ một giấc tới tối sầm mới thôi.

Ninh Hoài Sam và Ô Hành Tuyết ngồi bên còn lại, thân người gầy ốm tựa vào trong góc. Vết thẹo do kiếm chém bên cổ cậu lại bắt đầu nhói nhói, sờ vào mềm mềm âm ẩm, ngó chừng lại sắp vỡ miệng lần nữa.

Cái vết thương hết lành rồi rách tái phát không ngừng này khiến cậu bức bối trong lòng mà không có chỗ xả, chỉ có thể liếc xéo Y Ngô Sinh rồi dửng dưng nói, “Không phải ngươi có nuối tiếc gì cần làm hả? Giờ hết muốn làm rồi hay gì?”

Y Ngô Sinh thẹn thùng đáp, “Ngại quá.”

Bản tính hắn vô cùng tò mò, mỗi lần đào sâu tìm hiểu việc gì đều muốn hiểu rõ tường tận, đích thị là phong thái của người văn sĩ. Nếu không nhờ tính tò mò cao thì hắn cũng chẳng sáng chế ra nhiều loại thuốc mới như vậy.

Trước đây còn vướng bận địa vị ở nhà họ Hoa, muốn làm gì cũng cần ngó chừng đại cục, phải là người vững chãi như Thái Sơn nên hắn cố gắng kiềm nén bản tính của mình. Còn giờ đây thời gian chẳng còn bao nhiêu, có thể thoả thích thực hiện những điều mình mong muốn.

Ninh Hoài Sam chỉ nổi hứng muốn khích hắn chút, giờ thấy hắn sượng cả người cũng chẳng bực bội gì mà còn thấy nhàm chết thôi, bèn nằm trở xuống. Chưa được bao lâu cậu đã bắt đầu sờ sờ vết thẹo trên cổ.

Người cậu vốn đã gầy, giờ rúc người trong một góc nhìn vào càng thấy tủi thân.

Y Ngô Sinh nhìn cậu một hồi thì không nhịn được mà hỏi, “Vết sẹo này của cậu…”

Ninh Hoài Sam xù lên như hung thần. “Ai mướn ngươi lo?”

Vết thương này ngày xưa bị Y Ngô Sinh chém để lại, dù trên danh nghĩa đệ tử tiên môn trừ ma hiệp đạo đi nữa thì hiện tại nhìn thấy Ninh Hoài Sam như vậy, hắn cũng khó lòng không trỗi dậy bệnh hay lo toan của mình.

Y Ngô Sinh hỏi, “Lại đau à?”

Ninh Hoài Sam: “Không đau!”

Y Ngô Sinh: “Tôi có ít thuốc…”

Ninh Hoài Sam: “Không cần!”

Y Ngô Sinh còn tính nói gì đó.

Ninh Hoài Sam: “Nói nữa cho ngươi chết!”

Cậu ta mà mắng người thì chả bao giờ nể nang gì, nói oan oác ra miệng chứ không động não, nói xong câu này rồi mới sực nhớ ra Y Ngô Sinh thật ra cũng chẳng còn sống được bao lâu.

Vì vậy tự dưng cậu thấy hơi đuối lý và nhột trong lòng.

Y Ngô Sinh ngỡ ngàng chút đỉnh, song chỉ cười chứ không nói gì, tay vẫn lấy thuốc từ trong túi mình ra.

Ninh Hoài Sam càng đuối lý hơn.

Cậu ta ngẩng đầu lên liền thấy thành chủ đang nhắm mắt nghỉ ngơi bên cạnh hé mắt nhìn sang, cậu tức thì im bặt, đưa tay ra nhận lấy số thuốc của Y Ngô Sinh rồi uất hận uống vào.

Nuốt trọng hết thuốc xong, cậu mới duỗi chân ở dưới bàn, chạm vô Phương Trữ và truyền âm nói, “Đừng giả bộ ngủ nữa, cứu tao với.”

Phương Trữ nhắm nghiền hai mắt không hề động đậy, một hồi sau truyền âm về một chữ trả lời, “Không.”

Phương Trữ bắt đầu giả chết từ khi bước lên xe ngựa là có lý do, một khi mành xe vừa buông xuống thì hắn đã phát hiện ra một chuyện…

Trên đường đến thung lũng Đại Bi, cũng trên chiếc xe ngựa này, vẫn là năm người này, bọn họ tưởng là trong xe có ba tà ma của Chiếu Dạ thành, một kẻ là con rối chịu kiểm soát của tà ma. Cũng tức là họ chiếm thế thượng phong.

Đệ tử tiên môn duy nhất là Y Ngô Sinh chẳng qua đơn lẻ, bị nhét giữa quần ma thì toang cho hắn thôi.

Còn hiện tại thì hết rồi.

Y Ngô Sinh không bị bắt cóc tới mà tự chủ động đi theo xe. Con rối cũng không phải con rối mà chính là Thiên Túc thượng tiên hàng thật giá thật. Còn thành chủ bọn họ cũng không đơn thuần là thành chủ mà còn là Linh Vương trên Tiên Đô, mang danh tự giống như cái tên Thiên Túc vậy.

Năm người mà có ba người dính líu tới tiên, chừa lại hắn với Ninh Hoài Sam mới tổ trác đó.

Huống hồ, nơi trước đây là phố núi Lạc Hoa bây giờ đã là lối vào Động Ma Chiếu Dạ thành. Hai người họ dẫn một xe toàn tiên về không biết phải gọi là nối giáo cho giặc hay là tạo phản đây nữa.

Đi đâu không đi, mắc chứng gì cứ phải là phố núi Lạc Hoa…

Phương Trữ ngậm một bụng máu trong họng.

Vừa ói máu thì nghe giọng biếng lười và hơi ngái ngủ của thành chủ bọn họ.

“Tiêu Phục Huyên,” Ô Hành Tuyết gọi.

Người dựa bên thành cửa liếc mắt.

Ô Hành Tuyết hỏi, “Huynh không ngồi xuống à, có chỗ đây mà.”

Chỉ một câu mà cả Phương Trữ giả chết lẫn Ninh Hoài Sam đang mất sức đồng thời trợn mắt.

Chiếc xe ngựa này đúng là đủ rộng, cho dù một bên có ngồi ba người thì cũng chả nhằm nhò gì, nhưng vấn đề nằm ở hai người bọn họ.

Cả Y Ngô Sinh lẫn Ô Hành Tuyết đều ngồi ở phía trong, còn hai người họ mỗi người ngồi ở ngoài của một bên xe, bây giờ nếu Thiên Túc thượng tiên đến ngồi thì chắc chắn một trong hai người sẽ bị kẹp vào giữa…

Ninh Hoài Sam lập tức khều chân Phương Trữ và truyền âm, “Mày mau mau chạy qua đây, để Thiên Túc ngồi với Y Ngô Sinh kìa!”

Phương Trữ đá chân trở về. “Tao đi qua thì tao với mày ép thành chủ vô góc hả, mày điên à?”

Kết quả Phương Trữ đá chân mạnh quá nên đá nhầm sang Ô Hành Tuyết luôn.

Ô Hành Tuyết vân vê ấm sưởi trong tay và mở miệng nói, “Ta có điên hay không thì không biết, nhưng hai ngươi léo nhéo hơi ồn đấy.”

Ninh Hoài Sam: “…”

Phương Trữ làm ma đầu cũng mấy chục năm rồi mà đây là lần đầu tiên mặt chín như gấc. Hắn hết còn biết nói gì, chỉ nhìn chòng chọc thằng khơi mào là Ninh Hoài Sam.

Ninh Hoài Sam thấy bị lộ mất rồi thì không dám ngồi kế bên Ô Hành Tuyết nữa mà phóng một phát trốn qua đối diện.

Ô Hành Tuyết: “…”

Chàng tức tối, “Ngươi chạy gì hả?”

Ninh Hoài Sam ngồi xuống bên cạnh Phương Trữ, đâu dám nói “Ta sợ ngài” nên chỉ có thể sượng sùng bảo, “Ta nhường chỗ cho Thiên Túc.”

Dứt lời, cả xe ngựa im bặt trong thoáng chốc, cả thành chủ lẫn Thiên Túc đều nhìn sang cậu.

Ninh Hoài Sam: “…”

Cậu đoán chừng câu này của mình sai sai ở đâu đó rồi, nhưng nghĩ sao cũng không biết sai ở đâu, sau khi suy tư một hồi bèn chốt lại bằng cách bịt cổ giả bộ ngu cho xong.

Thế là cậu ậm ừ nói, “Thưa thành chủ, cổ ta đau quá.”

Ô Hành Tuyết nhủ thầm <i>sao không bảo đau cái mõm ấy.</i>

Chàng nhấc cằm lên và thong thả nhắc nhở, “Ngươi che nhầm bên đang bắt đầu kết vảy rồi, có thể dời xuống một chút.”

Ninh Hoài Sam: “…”

Đan dược của Y Ngô Sinh rất hiệu quả, chỉ uống một viên đã không còn thấy đau đớn gì nữa. Nhưng bây giờ cậu lỡ đóng kịch rồi phải đóng cho trót chứ biết sao.

Thế là cậu nín thinh lùi cái tay xuống chút.

Thành chủ vẫn chưa chịu tha cho cậu mà tiếp tục nhẹ giọng, “Di chuyển chầm chậm thôi, chỗ đó giờ cũng kết vảy rồi.”

Ninh Hoài Sam thả tay xuống, hết đóng kịch nổi nữa.

Thành chủ xưa giờ vẫn luôn lười biếng, ngay cả nói chuyện cũng lười nên hiếm khi nào bắt chẹt hai người họ như vậy lắm. Ninh Hoài Sam bị ép tới độ thấy oan ức dữ thần, líu ríu lầm bầm một câu, “Ta mới vừa nhường chỗ mà…”

Ô Hành Tuyết nhủ thầm <i>bộ ai ép nhường hay gì?</i>

Lại nói, dường như Thiên Túc thượng tiên trời sinh đã không thích ngồi, hoặc không thích quá kề cận người khác. Thậm chí là Ô Hành Tuyết hỏi, hay Ninh Hoài Sam có chủ động nhường chỗ đi nữa thì đoán chừng y cũng chỉ đáp lại một tiếng “Không cần” mà thôi.

Giống như lúc đi đến thung lũng Đại Bi vậy.

Ô Hành Tuyết đang nhìn thẳng về phía Ninh Hoài Sam sượng chín mặt, còn tính châm chọc tiếp thì nhác thấy một bóng người cao cao di chuyển.

Thanh trường kiếm treo bên hông rung lên tiếng khe khẽ vọng từ xa tới gần, tiếp đến, hơi ấm và nhịp thở một người khác bất giác trở nên rõ ràng hơn.

Tiêu Phục Huyên ngồi xuống bên cạnh chàng.

Ô Hành Tuyết thốt nhiên nín thinh.

Thế là Ninh Hoài Sam được chiêm ngưỡng một kỳ quan, thành chủ nhà cậu vừa mới rồi hừng hực khí chất thần bí khó lường mà ngay nháy mắt sau đó đã im lìm xìu xuống.

Có hơi giống loài hồ ly mặt trắng cậu từng gặp thuở còn bé mà giờ đã tuyệt chủng, giống hồ ly này xù hết sống lưng mà một khi gãi cằm hai cái là lập tức ngoan ngoãn hẳn ra.

Rồi ngay sau đó, cậu mới phát giác cái suy nghĩ này còn đáng sợ hơn việc thành chủ thần bí khó lường nữa.

Cậu suy xét một hồi thì quyết định bắt chước Phương Trữ và nhắm mắt giả chết cho vạn sự thái bình.

Ô Hành Tuyết nghiễm nhiên không biết nội tâm hoang tưởng trong đầu tên thuộc hạ dở hơi này. Đến một khoảnh khắc nào đó, chàng ngẩng đầu lên thì thấy khung cảnh cả ba người ngồi ở diện đều nhắm tiệt hai mắt và chết tập thể.

“…”

Suýt chút chàng giận tới bật cười.

“Cười gì vậy,” Tiêu Phục Huyên bất chợt mở miệng.

Ô Hành Tuyết: “Không có gì.”

Chàng không nhìn đối diện nữa mà thu mắt trở về, lúng túng nhét ấm sưởi tay vào trong ống tay áo rồi mới ngước mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên. “Lúc trước từng nghe họ bảo phố núi Lạc Hoa là một khu chợ từ mấy trăm năm về trước, nhưng bây giờ đã không còn nữa.”

Lần đầu tiên chàng nghe thấy cái tên này là khi Y Ngô Sinh nhắc đến “Chuông mộng trên nhân gian bắt nguồn từ nơi ấy”, lần thứ hai nghe thấy là trong cuộc thẩm vấn Vân Hãi.

Lẽ ra chàng chẳng có chút ấn tượng nào với nơi đó cả, song không biết liệu có phải vì chiếc chuông mộng đang treo bên hông mình hay không mà cứ hễ nhắc đến “Phố núi Lạc Hoa” là chàng lại mường tượng về một nơi mơ hồ nhưng rộn rã tiếng người huyên náo.

Ắt hẳn đấy là một khu vực rất nhộn nhịp, tiếc thay giờ đây đã trở thành cửa vào Động Ma Chiếu Dạ thành.

Theo lời của Ninh Hoài Sam, cửa vào này do đích thân chàng đã xuống tay thu nạp vào địa giới của Chiếu Dạ thành năm nào.

Ô Hành Tuyết hỏi, “Phố núi ấy vì sao không còn nữa?”

Tiêu Phục Huyên trả lời, “Bị cháy.”

Ô Hành Tuyết: “Bị cháy ư?”

Tiêu Phục Huyên đáp “Ừm”. Việc ấy cũng đã trôi qua rất rất lâu rồi, y phải ngẫm lại một lát rồi mới trầm giọng mở miệng, “Có lẽ là vào thời điểm mồng ba tháng ba khi chợ mở, nghe đồn năm ấy chợ vừa mở chưa được bao lâu thì trên núi nổi lửa. Cơ sự diễn ra quá đột ngột mà lửa lan dồn dập mạnh mẽ nên không một ai kịp đến hỗ trợ.”

Năm nào phố núi Lạc Hoa cũng chong đèn xa tít tắp, nhộn nhịp đến lạ thường. Nghe đâu khi đám cháy mới bốc lên thì những người đứng bên ngoài núi còn ngỡ rằng đó chỉ là ánh đèn thắp trên phố giống như những năm về trước mà thôi.

Ngày hôm đó, lửa phủ kín khắp mười hai dặm dọc dãy núi, ngay đến vầng trăng treo cao trên đỉnh cũng bị ám lửa đỏ bừng bừng. Bá tánh xung quanh nhìn thấy ánh trăng đỏ rực như vậy đều hồ hởi chỉ lên mà rằng, “Đây là dấu hiệu của sự hưng thịnh.”

Để rồi sau đó, khi toàn bộ Lạc Hoa Đài chìm trong khói lửa mịt mù, mọi người mới chưng hửng phát hiện có gì đó không đúng, họ chạy đến nơi thì không ai còn lên núi được nữa.

Các gia tộc tiên môn đã thử rất nhiều cách như dẫn nước vào núi, hô vân hoán vũ các kiểu song không cách nào dập tắt được ngọn nửa trên núi nọ. Đến tận khi mười hai dặm Lạc Hoa Đài bị thiêu trụi không còn lại gì để đốt nữa thì ngọn lửa kia mới dần dần tắt ngúm.

“Khi ấy tôi còn chưa ra đời, có điều về sau nghe được rất nhiều lời đồn đãi,” Y Ngô Sinh mở mắt ra và nói. “Nhiều người thuở đó cho rằng đó không phải là mồi lửa trên núi bình thường mà một việc gì đó xảy ra khiến Thiên đạo phải giáng hình.”

Vừa nghe được hai chữ “giáng hình”, Ô Hành Tuyết đã liếc mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Song ngay lúc đó, Y Ngô Sinh tiếp tục nói, “Không phải do Thiên Túc thi hành, lời đồn kể rằng vào năm đó Thiên Túc thượng tiên… ừm, mang lệnh cấm trên người nên bị nhốt tại cực bắc suốt trăm năm?”

Mang lệnh cấm trên người?

Suốt trăm năm?

Ô Hành Tuyết cũng không hiểu lệnh cấm ở đây là ý gì, và mang lệnh cấm này trên người sẽ có những hệ quả gì. Thế nhưng khi hắn kịp phản ứng thì hai hàng mày đã nhíu chặt.

“Chỉ bị giới hạn một số thứ thôi, không vấn đề gì,” giọng nói trầm thấp của Tiêu Phục Huyên vang lên.

Ô Hành Tuyết ngẩn ngơ ngước mắt thì thấy ánh mắt Tiêu Phục Huyên chợt lạnh đi trong một thoáng chốc, có vẻ cũng không tính nói thêm gì nữa.

Y Ngô Sinh xem chừng khéo léo hơn đám Ninh Hoài Sam nhiều, lập tức chuyển đề tài quay lại câu chuyện, “Nói chung, sau đó phố núi Lạc Hoa không mở lại nữa, toàn bộ Lạc Hoa Đài bị thiêu trụi chỉ còn một vùng đất hoang cằn cỗi, tương truyền rằng quá nhiều máu thấm nhuộm vùng núi nên con sông chảy qua nơi đấy trong xanh ở đầu nguồn nhưng thoát ra khỏi núi thì dòng nước đã chuyển sang đỏ sẫm và uốn quanh toàn bộ cánh đồng Gia Minh.

“Tuy nói vậy nhưng vào mồng ba tháng ba hàng năm, vầng trăng khuyết vẫn yên mình treo trên đỉnh núi, ánh lửa leo lắt vẫn soi mười hai dặm dọc Lạc Hoa Đài.”

Ban đầu, các tiên môn và bá tánh không rõ sự tình, thấy ánh lửa thì vội vã chạy đến chân núi, song khi họ đến gần đấy rồi mới phát hiện không có lửa ở trên núi.

Về sau, họ dần cho rằng những vong hồn năm nào mãi không thể yên giấc ngàn thu nên hàng năm đều đi phổ độ Linh kinh và hát khúc Linh ca. Đến cả trẻ sơ sinh mới bập bẹ tập nói cũng hô lên đôi câu.

Tiếp đó nữa, nơi ấy trở thành cửa vào Động Ma, không biết có phải gặp hung tướng mạnh mẽ khắc chế hay thế nào mà từ đấy về sau Lạc Hoa Đài đã an ổn trở lại, hàng thập kỷ sau cũng chẳng còn phát sáng nữa.

Đối với những người bây giờ mà nói thì nơi kia đã chẳng còn ý nghĩa đặc biệt nào.

Thế nên Y Ngô Sinh rất tò mò trong lòng, không rõ tại sao muốn tu sửa chuông mộng lại cần đến một nơi đã khuất bóng từ lâu như phố núi Lạc Hoa.

Nhưng dầu gì món đồ ấy cũng là tiên bảo, tiên nhân sẽ không vô duyên vô cớ nói cho bạn cách rèn hay cách sửa chữa, đối với nhiều người mà nói thì đây là việc cần hạn chế đề cập tới. Y Ngô Sinh xuất thân từ tiên môn, nên hẳn nhiên cũng không phạm huý bừa bãi dù suốt dọc đường đã nhẫn nhịn tới sắp xanh cả mặt.

May thay, trong xe có một vị tổ tông phát ngôn không câu nệ…

Và tổ tông nọ hỏi gì thì Thiên Túc thượng tiên trả lời nấy.

Tổ tông hỏi vấn đề khiến Y Ngô Sinh bứt rứt nhất.

Tiêu Phục Huyên đáp: Vì có tinh chất ngọc ở Lạc Hoa Đài.

Mà tổ tông còn không biết tinh chất ngọc là cái mô tê gì.

Chàng lẳng lặng nhìn Tiêu Phục Huyên đặng trông chờ một lời giải thích… để rồi nhận được bàn tay của Tiêu Phục Huyên.

Chỉ thấy ngón tay người nọ sờ vào chiếc chuông mộng đang treo lủng lẳng bên hông chàng, vê tay trên viền chuông một chút rồi nhạt giọng mà nói, “Chất liệu ban đầu của nó là tinh chất ngọc lấy từ nơi đó.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Đèn trong xe không sáng lắm, bầu không khí ảm đạm và hơi mờ, chỉ thi thoảng mới có ánh sáng mờ sương luồng vào từ bên mép cửa sổ theo lay động của mành nỉ dày.

Tiêu Phục Huyên không nhìn rõ được biểu cảm trên mặt Ô Hành Tuyết mà chỉ thấy chàng đang buông nửa rèm mi, móc tay vào sợi dây treo chuông mộng.

Sau một hồi lâu, Ô Hành Tuyết mới lẳng lặng cầm chuông bạch ngọc nọ về.

Lời tác giả:

QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 32: Kiếp kỳ


Ban đầu, đại ma đầu còn tính đẩy chuông mộng sang cho người khác, giờ đây treo kè kè ở mình rồi thì lại đổi ý. Mặc dù chàng chẳng nhớ được chút gì những chuyện trong quá khứ nữa, song vẫn xem chiếc chuông mộng này như bảo bối, không cho một ai khác chạm vào.



Đặc biệt không cho Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên chạm vào.

Mỗi khi y chạm vào chiếc chuông, nét mặt của đại ma đầu lại biến hoá một cách diệu kỳ. Rõ ràng lúc tính đẩy chuông mộng cho người khác, người này đã chọn Tiêu Phục Huyên trước tiên còn gì.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ vừa nhắm mắt giả chết vừa theo dõi tình hình qua khoé mắt không lệch một li, trong lòng ca ngợi không hổ danh là thành chủ chúng ta, quả thật tính tình bất ổn tâm tư khó đoán, trở mặt còn nhanh hơn lật sách.

Ô Hành Tuyết không muốn chỉ vì chiếc chuông bé tí mà cứ không ngừng kéo qua kéo lại với Tiêu Phục Huyên như vậy, trên mặt chàng không tỏ vẻ gì thế nhưng nhìn vào cứ như bọn họ có mờ ám gì đó trong lòng.

Chàng bèn nhắm nghiền mắt lại, tựa mình trên vách xe ngựa và giả vờ ngủ mất. Lòng chàng không khỏi tự mỉa: <i>Đường đường là một đại ma đầu mà học ai không học, lại đi học cái thói của hai thằng ngu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.</i>

Phương thức của người ngu thường hữu dụng hơn, sau khi làm bộ một lát thì Ô Hành Tuyết thấy buồn ngủ thật.

***

Theo lời Y Ngô Sinh cho hay, ở thời điểm hiện tại thế đạo rất loạn lạc, dẫn đến việc các tiên môn tiến hành thiết lập cấm chế và kết giới tiên môn quanh ranh giới địa bàn hoạt động của gia tộc họ, nó cũng tương tự với vách ngăn trên đường đến thung lũng Đại Bi với kích cỡ lớn nhỏ vô cùng đa dạng.

Những thứ này được đặt san sát ở ngoại ô, núi đồi, bến tàu và những nơi giao thương khác thành tầng thành lớp nên không thể xem thường.

Thuở trước, những người có tu vi cao trong tiên môn có thể ngự kiếm trên trời, có thể xới ngàn dặm đất, đi từ cực bắc đến cực nam cũng chẳng tốn mấy công sức.

Bây giờ không còn như thế nữa.

Lý do không phải vì tu vi họ thụt lùi nên không thể ngự kiếm, mà bởi vì khi đi như vậy sẽ xuyên qua không biết là bao nhiêu kết giới và cấm chế, gây phiền hà cho không biết bao nhiêu tiên môn, đi một đường thôi có mà trật tay với số phong thư nhận được từ các dòng tộc.

Thành thử để tránh những phiền phức như vậy, trừ phi lâm vào tình huống khẩn cấp đặc thù, trong mấy năm gần đây đa phần các gia tộc đều chọn di chuyển bằng xe ngựa được chế tạo đặc biệt.

Ngồi trên xe ngựa chỉ cần thắng lại một chốc hoặc rẽ thình lình một lần là đã vượt qua một cấm chế. Làm vậy có thể đi qua kha khá thành trì và thẳng một đường đến nơi.

Ước chừng đi từ thung lũng Đại Bi đến Lạc Hoa Đài phải mất trọn một ngày để qua bốn toà thành.

Giữa lúc lim dim, Ô Hành Tuyết cảm thấy xe ngựa nảy lên một phát, đoán chừng đây đã là toà thành thứ ba, tức là cách Lạc Hoa Đài không xa nữa.

Họ lên đường khi trời vừa hừng sáng, mà lúc này đã gần đến xế chiều, xem ra bởi vì càng lúc càng đến gần Chiếu Dạ thành nên nhiệt độ không khí cũng tuột giảm nhiều.

Ô Hành Tuyết cảm thấy lạnh thật sự.

Ngón tay chàng luồng trong ống tay áo bào rộng, đầu ngón tay xoa trên ấm sưởi. Nhiệt độ trên ấm sưởi nhìn chung là đủ dùng, ôm một thời gian dài trên tay còn cảm thấy hơi nong nóng, cực kỳ phù hợp dùng trong những đêm mùa đông như vậy.

Thế mà Ô Hành Tuyết vẫn thấy lạnh căm căm.

Ban đầu, chàng cho rằng hơi lạnh lùa vào từ khe hở trên cửa sổ xe ngựa, song hồi sau mới vỡ lẽ không phải từ đó. Cơn ớn lạnh kia như toát ra từ tận xương tuỷ chàng, lạnh như đá băng ướt đẫm chảy dọc cơ thể theo kinh mạch và khớp xương.

Hơi ấm trên tay không đủ để cân bằng cái lạnh rét thấu như vầy.

Chàng bèn thử vận khí kình cho nó xoay chuyển vài vòng…

Càng lạnh hơn.

Thiếu đi trí nhớ phiền hà như vậy đấy. <i>Lúc giết người thì gọn gàng chẳng màng chớp mắt, mà đến những khi thế này thì vô dụng chẳng khác gì hạng ăn hại.</i>

Ô Hành Tuyết tự mỉa mình một câu.

Kế đó hững hờ mở mắt ra nhác nhìn thử, toan kéo một chiếc chăn nỉ dày đến để đắp. Nào ngờ mắt vừa mở đã gặp phải đôi mi hơi rủ xuống của Tiêu Phục Huyên, ánh mắt ấy đang dừng trên người chàng, không rõ là đang nhìn chàng hay chỉ bần thần mà ngẫm nghĩ đi đâu.

“…”

Ô Hành Tuyết ngẩn ra một giây lát rồi lẳng lặng nhắm mắt lại.

<i>Không lấy chăn được rồi, làm vậy gây chú ý quá. Còn lạnh ấy à…</i>

<i>Thì thây kệ nó đi, thân là ma đầu rồi cũng có bị cóng chết được đâu!</i>

Trong cái rét quẩn quanh cơ thể, chàng thiếp mắt chìm vào giấc miên man. Trước khi hoàn toàn đắm sâu vào giấc ngủ, ý thức chàng hãy còn loáng chút tỉnh táo và không quên đặt chiếc chuông mộng vào lòng bàn tay mình để tránh người khác lại chạm vào lần nữa.

Có lẽ vì cầm chuông bạch ngọc trong tay mà chàng đã có một giấc mơ.

***

Trong mơ, chàng cũng cảm thấy thật lạnh lẽo, cái rét buốt vẫn men theo xương tuỷ mà chảy tràn khắp cơ thể. Khác mỗi chỗ, khi này chàng chỉ khoác một lớp áo mỏng manh và tay không cầm ấm sưởi.

Hai tay trống không, chàng đứng giữa một sân vườn khoáng đãng nào đó và cúi người rửa tay bên khóm trúc xanh.

Rêu phong quanh rìa tảng đá đóng băng chóng vánh, có thể thấy dòng nước kia lạnh lẽo khôn cùng. Mà chàng như vô tri vô giác, chỉ lẳng lặng buông mắt nhìn những ngón tay nhợt nhạt của mình.

“Thưa thành chủ,” một ai đó gọi chàng.

Ô Hành Tuyết giũ tay hai cái, kế đó mới thong dong đứng thẳng người và quay đầu nhìn lại.

Phương Trữ đang đứng bên gốc đại thụ rợp trời, trước chân là một cái đầm hun hút, cạnh đầm tuyết đọng thành đụn, nước bên dưới trông thăm thẳm và đặc sệt.

Thoạt nhìn dòng nước kia đen kịt, mà bọt nước sủi lên bắn vào nền tuyết nhuộm thành một mảng đỏ thắm.

Có một cánh tay đang vùng vẫy từ dưới đầm, cố gắng nắm lấy không khí vài lần. Phương Trữ thấy thế đạp một đạp, cánh tay kia liền chìm sâu xuống dưới.

Sau đó, không còn động tĩnh gì nữa.

Phương Trữ ngoáy đế giày của mình trên cỏ mấy cái để chùi máu và bẩm báo, “Bẩm thành chủ, đã xử lý xong xuôi hai đứa ngu xuẩn thích nói quàng rồi ạ, có điều không biết tin đồn đã lan xa đến đâu rồi.”

Ô Hành Tuyết cầm một chiếc khăn vải trắng như tuyết từ giá treo bạc bên cạnh khóm trúc, vừa lau tay vừa nói, “Ta không nhớ rõ mặt, hai thú vui nhỏ này từ đâu đến đấy?”

Phương Trữ: “… Thú vui nhỏ.”

Hắn mấp máy khoé miệng.

Thành chủ nhà hắn há miệng ngậm miệng đều gọi người khác như vậy, người ngoài nghe vào không hiểu có khi còn tưởng là biệt danh gì đấy. Song thật ra ý là hai thứ vô tri không biết trời cao đất dày, đồ chừng là muốn dò la tin tức cho chủ tử mình nên mới cả gan chán sống mò đến Tước Bất Lạc.

Xui rủi cho chúng gặp lúc thanh chủ nhà hắn đang có tâm trạng không vui, mệt mỏi cả người nên ném thẳng chúng xuống ao máu, xương cốt gì cũng chẳng thừa một mẩu.

Hẳn nhiên, khi tâm trạng vui vẻ có khi còn thảm thiết hơn.

Ninh Hoài Sam có chút bóng ma tâm lý với đầm máu, còn Phương Trữ ngược lại, xưa kia hắn sống lại nhờ có đầm máu này nên hoàn toàn không có cảm giác sợ hãi gì với nó.

Nhác thấy trên đầm máu có một cái móc nhỏ màu vàng, hắn chẳng chút chần chờ duỗi tay kéo nó lên, săm soi một chút rồi nói, “Thưa thành chủ, có móc câu phách.”

Động Ma Chiếu Dạ thành là nơi không bàn tình người và cũng không có tính người, bên trong phủ trạch của bọn đại ma đầu đều có nuôi rất nhiều tiểu tà ma giúp mình làm đủ thứ việc.

Khi bị đại ma đầu trấn áp, lũ tà ma trở thành thuộc hạ và tuỳ tùng ngoan ngoãn tuân lời. Còn một khi ma đầu bị thương hoặc suy yếu không kiểm soát nổi nữa thì lũ tà ma kia sẽ như những con sói đói nhăm nhe cơ hội để cắn ngược lại bất kỳ lúc nào.

Để an lòng bản thân và dễ điều khiển, có một số ma đầu cài móc câu phách lên mệnh môn của những tên thuộc hạ kia, làm vậy cũng tương đương với việc đeo xích chó trong thế giới phàm nhân.

Thường ngày, móc câu phách ẩn bên dưới da, chỉ lộ ra lúc rã thịt sau khi chết mà thôi.

Nếu là ở tiên môn, chắc chắn không ai khắc tên mình lên những thứ âm độc tà quái như thế này, có làm cũng giấu diếm không muốn người ta biết mình là ai. Còn ở Động Ma thì ngược lại.

Bọn ma đầu vừa kiêu ngạo vừa ngang ngược nên trên từng móc câu phách đều sẽ có dấu ấn riêng đặc biệt của kẻ đó chứ chẳng ngại ngần bị ai khác nhìn thấy. Nếu có thấy thì càng tốt bởi nó giúp củng cố uy danh hung tàn cho chúng.

Danh tiếng càng hung tàn, thì kẻ khác càng không dám mạo phạm, thuộc hạ cũng phục tùng ngoan ngoãn và trung thành hơn.

Bởi vậy, Phương Trữ thoạt nhìn dấu ấn đã biết ngay là ai, “Bẩm thành chủ, đây chắc là Tang đại nhân ạ.”

Ô Hành Tuyết: “Tang đại nhân à, Tang đại nhân nào vậy?”

Phương Trữ liệt mặt.

Ô Hành Tuyết ngâm “À” nhàn nhã rồi nói, “Ngươi nói Tang Dục à?”

Phương Trữ chịu hết thấu, lầu bầu trong họng, “Chiếu Dạ thành cũng có mỗi vị này họ Tang.”

Ngụ ý là còn nhầm với ai được nữa!

Thế mà thành chủ nhà hắn thần kỳ lắm, có lẽ bản thân quá mạnh rồi nên chẳng để ai khác vào mắt. Chiếu Dạ thành có vài tay ma đầu trứ danh khắp thế gian mà ai nghe tới tên cũng sợ vỡ mật, vậy nhưng thành chủ nhà hắn nghe vào có khi còn lơ ngơ một hồi mới phản ứng.

Đặc biệt là với vị Tang Dục này.

Vừa khéo hung danh của tên này chỉ xếp sau Ô Hành Tuyết.

Trước đây nhiều bảo rằng Ô Hành Tuyết nói không nhớ rõ đại danh của Tang Dục chẳng qua chỉ là một cách châm biếm, chứ không làm sao có thể không biết “Tang đại nhân” là chỉ ai.

Ban đầu, Phương Trữ cũng nghĩ vậy, song sau khi đi theo thành chủ lâu năm, hắn mới phát giác thành chủ nhà mình không hề cố tình.

Trên thế giới, số người có thể khiến Ô Hành Tuyết “cố tình” chỉ đếm vỏn vẹn trên đầu ngón tay.

“Ninh Hoài Sam đâu rồi?” Ô Hành Tuyết mắc khăn vải lên rồi hỏi.

“Ra ngoài làm việc rồi ạ,” Phương Trữ nói. “Cậu ta bảo muốn nhanh chóng hoàn thành việc lần trước thành chủ giao cho trong vòng hai ngày này. Hôm qua, có nghe cậu ta la ó là trở lạnh rồi, đoán chừng sắp bắt đầu bước vào kiếp kỳ nên chắc hẳn mấy hôm nữa sẽ không ra ngoài được.”

Nghe đến kiếp kỳ, sắc mặt Ô Hành Tuyết nhạt đi.

Phương Trữ chăm chú nhìn Ô Hành Tuyết một lát rồi mới ngập ngừng nói, “Thưa thành chủ, mấy ngày nay kiếp kỳ của ngài…”

Ô Hành Tuyết lia mắt sang nhìn hắn.

Phương Trữ lặng thinh, không dám hó hé gì thêm.

Ô Hành Tuyết nói, “Nếu móc câu phách là của Tang Dục, thế thì ngươi với ta cùng đến chỗ Tang Dục một chuyến đi.”

Phương Trữ vâng lời đưa móc câu phách lại gần chàng và không nhịn mà hỏi, “Sao phải cần đến thành chủ đến tận đấy, nếu có phải là hắn tự vác xác đến cửa bồi tội mới hợp lẽ.”

“Không cần đâu,” Ô Hành Tuyết không nhận móc câu phách kia mà bước qua hành lang dài ra ngoài cửa với hai bàn tay trống. “Ta chịu không nổi mùi trên người hắn, tốt nhất là đừng bén mảng tới đây.”

Hành động dâng móc câu của Phương Trữ cũng là cố tình, thấy chàng không nhận thì hắn cũng cho vào túi đeo bên hông của mình một cách thuần thục, sau đó nói, “Chỗ luyện Thi đạo quả thật có hơi ẩm thấp, song Tang đại nhân đã tu luyện đến cực cảnh nên cũng không bám mùi vị gì.”

Nói thế nhưng hắn vẫn sực nhận ra thành chủ nhà mình có những thời điểm trông không giống ma đầu chút nào, nên hắn cũng không nói thêm gì nữa.

Thời điểm trong mơ dường như cũng vào một mùa đông giá rét, sương mù miên man trải khắp Chiếu Dạ thành, thở ra một hơi là khói trắng tuôn trào.

Ô Hành Tuyết bước khỏi xe ngựa đen kịt và tiến vào một ngôi phủ to lớn.

Tà ma trong Chiếu Dạ thành có nhiều sở thích rất kỳ quặc, muốn trang hoàng dị dạng cỡ nào có dị dạng cỡ đó. Phủ trạch của những kẻ luyện Thi đạo thường được tu sửa chẳng khác nào một khu địa cung dưới lòng đất.

Nhưng toà phủ của Tang Dục lại bình thường đến lạ, thoạt trông không khác gì căn phủ tường đỏ của những gia tộc quyền quý nơi Vương đô Kinh thành. Ngặt nỗi vừa bước vào đã khác hẳn…

Bên trong thính đường của một gia đình bình thường đặt ghế ngồi cho khách, còn nơi này thì trái ngược hoàn toàn, tựa bên tường là một cỗ quan tài đen trũi.

Nắp quan tài đóng đinh phong ấn giáp vòng, bên trên phủ giấy vẽ phù màu vàng, có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng cười chát chúa ngắt quãng từ bên trong.

Nhỡ có bá tánh nào đến đây chắc sẽ bị tiếng cười kia doạ đến mất hồn mất mật.

Tuy thế, Ô Hành Tuyết như không thấy gì, chỉ đơn giản dẫn Phương Trữ đi từ ngoài vào trong nhà.

Đám thuộc hạ của Tang Dục hối hả chạy theo sau gót họ, muốn cản người lại nhưng không dám đứng gần quá, “Thành chủ, bẩm thành chủ, bẩm thành chủ!”

“Nói đi, ta nghe đây,” Ô Hành Tuyết vẫn không ngừng bước chân mà tiếp tục với phong thái không nhanh không chậm, sau đó lại thong thả bước một bước đến cuối hành lang chỉ trong chớp mắt, đoạn nghiêng khẽ đầu. Giảo quyệt đến mức đám tà ma thuộc hạ không cách nào ứng phó kịp.

“Tang đại nhân nhà chúng ta… ngài ấy không tiện tiếp khách lắm,” bọn thuộc hạ thưa.

Trong Chiếu Dạ thành này, Tang Dục vô cùng ngạo mạn, gã nuôi ra một bọn thuộc hạ cũng không kém cạnh gì. Nếu kẻ bước vào là người khác thì chúng đã động thủ từ sớm chứ nào có buồn động miệng làm gì. Khốn nỗi người đến lại là Ô Hành Tuyết nên chúng mới chẳng dám ra tay, chỉ đành khua môi múa mép.

Ô Hành Tuyết chỉ “À” nhẹ một tiếng rồi nói, “Có tiện hay không là việc của hắn chứ liên quan gì đến ta, ta có hỏi ý hắn à.”

Lũ thuộc hạ: “…”

Chàng bước tiếp như vào chốn không người, sau khi quẹo vài lần thì dừng chân trước một căn phòng cao ngất.

Không hỏi cũng biết Tang Dục đang ở trong căn phòng này, bởi cả căn phòng chìm trong hơi ẩm âm u và nồng nặc, nó nồng đến mức tưởng chừng đây là nơi chôn cất hàng vạn người.

Đến độ ngay cả Phương Trữ cũng cảm thấy mùi quá nồng.

Ô Hành Tuyết hơi cau mày, nhấc tay lên che mũi mà chẳng chút giấu giếm.

Lũ thuộc hạ: “…”

Chúng muốn cản cũng không cản nổi, chỉ còn cách hô lên với người bên trong căn phòng, “Bẩm đại nhân, thành chủ tới!”

Trông chúng như muốn tiến lại gần cửa phòng nhưng đồng thời e dè không dám bước tới. Giống hệt một lũ sài lang xương mỏng mắt xanh đói rệu rã, bên trong có thứ đồ ăn mà chúng thòm thèm nhưng lại không đủ sức nên chỉ đành chùn bước.

Không có bất kỳ tiếng đáp lời nào phát ra từ trong phòng, song có thể nghe được tiếng người thâm thấp, có vẻ nỉ non mà nhớp nháp nhưng bị chắn sau một tầng kết giới.

Đồng thời hơi ẩm quanh quẩn trong không khí lại càng đậm đặc hơn.

“Bẩm đại nhân…” bọn thuộc hạ toan gọi lần nữa.

Ô Hành Tuyết giật ngón tay đang buông thõng bên người, chỉ nghe một tiếng <i>Rầm</i> khủng khiếp, đã thấy trong thoắt chốc mà cánh cửa có đặt cấm chế đóng chặt bị một cỗ lực vô hình mạnh mẽ oanh tạc.

Cánh cửa đập mạnh vào vách tường và vẳng lên âm thanh vang dội.

Âm khí ẩm thấp và dày đặc thoát ra khỏi cửa không khác gì màn sương xám xịt phiêu diêu.

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu né đi xong mới quay lại, lần này đã thấy rõ khung cảnh bên trong cánh cửa…

Một cái giường to lớn khuất sau mành treo, cả căn phòng tràn đầy những bóng dáng dây dưa quấn vào nhau và ngập ngụa mùi máu nóng còn chưa kịp khô.

Cấm chế vừa bị phá, không còn gì cản trở âm thanh bị chắn lại bên trong, chúng lùa ra khắp nơi, đập vào tường, va lên ô cửa sổ lúc mờ lúc tỏ.

Xưa nay, tà ma luôn đam mê các loại khoái lạc, chúng là kẻ vô tâm vô phổi và hiển nhiên không có đạo đức và liêm sỉ của người bình thường.

Tang Dục thoáng quay mặt liếc ra cửa chính, rồi nheo mắt lại và quay đi. Sau một lúc lâu, gã mới thản nhiên trở người ngồi thẳng dậy, gác chân tựa người trên giường giữa những thân thể quấn rịt vào nhau.

Gã cất giọng khàn khàn về phía cửa, “Sao thành chủ lại ghé đây thế này? Không khéo ta đang vào giữa kiếp kỳ nên lạnh lẽo quá đỗi, phải gọi những người này đến để sưởi ấm nên không cách nào nghênh đón bên ngoài được, xin đắc tội.”

Ô Hành Tuyết không tỏ vẻ gì, nhưng Phương Trữ đã dời mắt đi chỗ khác.

Tang Dục thấy thế thì nhoẻn cười. “Sao nào, kiếp kỳ nào chẳng như thế đâu nhở, nếu không làm những việc này thì còn cách nào khác à?”

Được mấy bóng người kia ôm ấp nên cả người gã toàn mồ hôi, tất nhiên không cảm thấy lạnh lẽo. Có điều mồ hôi nhanh chóng khô ran, khiến gã khẽ rùng mình, bèn cứa tay một người trong số đó và ôm người nọ vào uống máu.

Ban đầu người bị cắn cánh tay còn chưa kịp sinh phản ứng, nhưng sau một lát thì bắt đầu run lên cầm cập và ra sức giãy giụa.

Tang Dục bỏ cánh tay kia đi rồi dựa lưng vào một người khác ở phía sau, nhìn vào đại ma đầu đứng ở cửa phòng với khoé miệng hãy còn vương vết máu.

Gã khịt mũi một phát ra vẻ như ngửi ngửi gì đó. “Hừm… phải rồi, ta nghe thuộc hạ bảo rằng mấy hôm trước thành chủ cũng đến kiếp kỳ phải không.”

“Chậc, những kẻ tu đường này như chúng ta không bị quản chế bởi một giới hạn nào, chuyện gì cũng tốt chỉ khổ nỗi gian nan khi gặp kiếp kỳ, cảnh giới càng cao càng khó vượt qua,” Tang Dục cười nói. “Xem như ta cũng có chút an ủi tâm hồn bởi ít ra nỗi khốn khổ của thành chủ ắt phải nặng nề hơn ta nhiều.”

“Nhưng sao ta chưa từng nghe nói thành chủ bắt người trong kiếp kỳ bao giờ thế nhỉ, không biết ngài đã làm sao để vượt qua giai đoạn ấy? Ta tò mò thật đấy, nên đã phái mấy kẻ này lưu ý giúp ta một chút, nhưng xem ra bọn chúng không trở về được rồi nhỉ?”

Giọng điệu này cho thấy gã biết rõ lý do vì sao Ô Hành Tuyết đến đây và cũng chẳng thèm giấu giếm mà trải bài ra cả. Gã giả mù sa mưa thở dài thườn thượt, “Ôi hai đứa nhóc đáng thương làm sao. À nhưng hôm qua hai đứa nhóc đáng thương này có báo ta biết một việc vô cùng thú vị.”

Gã liếc sang Ô Hành Tuyết và tiếp tục, “Nghe chúng bảo mấy hôm kiếp kỳ gần đây có thấy một người ở Tước Bất Lạc, chúng nó thấy mà hoảng sợ đến độ tưởng rằng mình bị rối loạn tâm thần nên nhìn nhầm người rồi. Giờ đây hai kẻ đáng thương kia đã chết thì chẳng bằng ta giúp chúng hỏi ngài một câu…”

“Thành chủ à, vì sao những ngày kiếp kỳ này mà Thiên Túc thượng tiên lại ở Tước Bất Lạc của ngài thế nhỉ?”

❄︎

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ

Cá: kiếp kỳ (劫期) đọc là jié qī, viết tắt là JQ, giống với gian tình (奸情) jiān qíng. Không biết tác giả có cố tình không chứ ngộ là cố tình rồi đó ~ 3 ~
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 33: Bịt miệng


Câu hỏi của Tang Dục vừa bật ra, toàn bộ căn phòng và thậm chí toàn bộ Tang phủ yên ắng đến độ có thể nghe được tiếng châm rơi.

Bọn thuộc hạ gã đồng loạt quay đầu sang, hàng mấy chục đôi mắt đều chòng chọc không chớp trên người Ô Hành Tuyết. Những lúc như thế này, có mang danh phận “Thành chủ” cũng không áp chế được những con mắt tọc mạch lấm lét kia.

Chỉ duy nhất một Phương Trữ đứng cạnh bên người Ô Hành Tuyết không dám thể hiện ra bên ngoài là muốn nhìn lén.

“Thành chủ?” Tang Dục đổi một tư thế khác và gọi lần nữa. Gã đang ở ngay trên địa bàn của mình nên càng hống hách hơn những khi ở bên ngoài một chút. “Xem ra thành chủ…”

Chưa kịp dứt câu đã bị Ô Hành Tuyết ngắt lời, “Còn nói gì nữa?”

Tang Dục sững sờ chưa kịp phản ứng lại.

Ô Hành Tuyết lặp lại lần nữa, “Hai thú vui nhỏ của ngươi còn nói gì nữa?”

Lần này, chàng còn không màng lên giọng ở cuối câu. Âm điệu hững hờ bay bổng nhưng hạ thấp giọng.

Rốt cuộc Phương Trữ cũng không nén lòng nổi nữa mà ngoái sang nhìn thành chủ nhà mình, hắn chỉ vừa nhúc nhích đã cảm thấy hơi nôn nao.

Ngay cả Tang Dục cũng căng thẳng hẳn ra trong giây lát, nhưng rồi lại thả lỏng trở lại, không biết chỉ đang giả vờ hay đã hút khí huyết no nê trong kiếp kỳ nên tâm trạng hứng khởi và cho rằng mình chẳng sợ hãi chuyện gì nữa.

“Nói không ít chuyện,” gã cười đáp. “Có vẻ thành chủ quan tâm đ ến việc này nhỉ… À không, rất kiêng kỵ chủ đề này thì đúng hơn. Vì sao vậy? Từ khi ta nghe hai nhóc đáng thương kia kể lại những việc này thì mãi không ngừng băn khoăn, vì sao vậy?”

“Ngài nói xem, cái thứ như kiếp kỳ này xuất hiện chẳng qua bởi số lượng oan hồn chết dưới tay chúng ta quá nhiều nên lâu lâu nó trở chứng, khiến chúng ta bị khó chịu vài hôm thôi,” toàn thân thể Tang Dục toát ra sự biếng lười sau khi được tận hưởng kh*** c*m tột độ. “Dùng người thường không hiệu quả gì cho lắm nhưng dễ bắt. Còn đệ tử tiên môn thì hơi khó bắt hơn, tuy vậy dùng chúng để khắc chế oan hồn thì hiển nhiên hiệu quả hơn nhiều. Còn những kẻ trên Tiên Đô ấy à, trên lý thuyết thì chúng là hàng thượng phẩm cao cấp nhất còn gì, chẳng qua đâu cách nào bắt được chúng. Cho dù có may mắn mà bắt được đi nữa cũng chẳng cách nào dùng được, làm sao để dung hợp tiên khí với âm khí dày đặc bén rễ trong cơ thể chúng ta. Nghĩ lại thì…”

Tang Dục nói đến đây thì thoáng dừng như thể bỗng dưng quên mất muốn nói gì tiếp theo, song gã đã nhanh chóng ngạo nghễ cười nhạo. “Tóm lại thì thành chủ à, ta nào có nửa phần ác ý đâu, chẳng qua đang thắc mắc không biết thành chủ đã tìm được cách nào hay ho rồi thôi?”

Gã chống tay lên cằm, ánh mắt vốn mơ màng thình lình trở nên sắc bén hướng thẳng về phía này. “Đó là Thiên Túc thượng tiên chưởng <i>hình</i> đấy, là Thiên Túc thượng tiên mà ai trong Chiếu Dạ thành chúng ta cũng sợ hãi không thôi, nghe thấy tên thiếu điều chạy còn không kịp, rẽ vội sang hướng khác để không gặp phải. Không biết đến cùng thì thành chủ đã tìm được phương pháp hay ho nào để sử dụng một người như thế vậy hả?”

Gã săm soi một lượt từ trên xuống dưới lớp áo mỏng mà không thấy Ô Hành Tuyết như đang phải chịu một chút rét lạnh nào, bèn nói, “Xem ra kiếp kỳ lần này của thành chủ cũng không khốn khổ gì. Thế thì thành chủ à, nể tình cùng sống tại Chiếu Dạ thành, có thể tiết lộ cho ta một chút được không? Bắt mãi dăm ba tên đệ tử tiên môn chả ngon lành gì, ta cũng muốn thử một hai tên tiểu tiên xem sao.”

Kiếp kỳ của tà ma mỗi lúc một nặng nề. Ban đầu bắt một hai dân thường là qua được, lần kế tiếp phải bắt bốn năm người, rồi càng về sau càng đòi hỏi nhiều hơn.

Cứ như vậy cũng tới lúc nào đó, chỉ dân thường thôi không thể thoả mãn được nữa. Dân thường vô dụng thì cần tìm đệ tử tiên môn, nhưng đến lúc đệ tử tiên môn cũng chào thua thì sao?

Tang Dục tu gần đến cuối Thi đạo nhưng vướng mãi không cách nào bước lên nấc mới, một lý do trong đó chính là vì kiếp kỳ. Mà kẻ duy nhất gã có thể tham khảo được trong Chiếu Dạ thành cũng chỉ có một mình thành chủ, nên việc gã sai người dò la cũng không có gì bất ngờ.

Ô Hành Tuyết lắng nghe gã giãi bày mà không hề ngắt lời lấy một lần. Khi nói càng nhiều thì càng lộ rõ rốt cuộc gã ta biết được tới mức nào.

Nghe xong xuôi mới nói, “Thật ra, ta cũng có một điểm thắc mắc.”

Tang Dục, “Điểm gì?”

Ô Hành Tuyết nói, “Từ đâu khiến ngươi cảm thấy một khi ngươi hỏi thì ta sẽ cho ngươi hay?”

Tang Dục bật cười sang sảng. “Dĩ nhiên ta biết nào có chuyện dễ dàng như vậy, bằng không sao thành chủ có thể một bước vượt bậc lên đến chức thành chủ cơ chứ. Vả chăng, vừa nãy thành chủ kiêng dè và quan tâm đ ến bực này thì liệu có phải đây là một phương pháp không thể để lộ cho người khác không. Nhưng mà thành chủ ơi… ngài hiểu rõ hơn ai hết cái thói của những kẻ sống trong Chiếu Dạ thành cơ mà. Chúng ta là những kẻ không bàn tình cảm, ngài cứ nhìn mấy con chó ta nuôi mà xem…”

Gã liếc nhìn bọn thuộc hạ bên ngoài cửa. “Có đứa nào không muốn tìm một cơ hội để cắn ngược ta đâu? Có nhiều kẻ như vậy cũng khó mà ngủ yên giấc lắm. Mà những kẻ muốn cắn ta đã chừng này, thì khó nói có bao nhiêu tên muốn cắn thành chủ nhỉ.”

“Không biết nếu những kẻ khác cũng biết thành chủ giấu bí pháp riêng thì sao?”

Dường như Ô Hành Tuyết cũng không lấy gì làm bất ngờ, chỉ khẽ gật đầu và nói, “Có vẻ hai thú vui nhỏ của ngươi rất lanh mồm lẹ miệng. Đã thế ngươi nói xem, nói chuyện này cho bao nhiêu người thì gây ảnh hưởng đến ta?”

Tang Dục thoáng run gò má như thể vừa bất chợt nghiến chặt hàm răng, song vẫn nói tiếp, “Nghĩ lại thì…”

Thật ra, không phải gã không dè chừng gì, bởi câu nói kia là đúng chứ không sai, ở Chiếu Dạ thành không bàn tình cảm, người sống trong Chiếu Dạ thành cũng hiếm khi khiêu khích lẫn nhau. Nói cho cùng, một khi những tà ma kề bên đều hoá thành đám sói đói, lũ hổ rình mồi thì làm sao có cách nào ngủ yên giấc được.

Không phải Tang Dục không sợ Ô Hành Tuyết mà gã vẫn còn đang mẩm tính, giữa việc đưa ra phương pháp an toàn vượt qua kiếp kỳ và việc thu hút một đàn sói đói cuồng loạn thì… nói sao đi nữa cái trước vẫn nhẹ ký hơn.

“Thôi Âm? Thường Cô? Hồng Quang lão đạo?” Tang Dục chầm chậm liệt kê từng cái tên một, những kẻ này đều là những cái tên khiến người ta không dám chọc vào trong Chiếu Dạ thành.

Kể ra vài cái tên rồi, gã chợt ngưng bặt, bởi phát hiện Ô Hành Tuyết đang lắng nghe cực kỳ chăm chú.

Nãy giờ gã huyên thuyên rất nhiều, nhưng chỉ có tên là được quan tâm nhất.

Tang Dục biến sắc.

Ô Hành Tuyết lại nói, “Bảy cái, còn nữa không?”

Bấy giờ, Tang Dục nghiêm túc chau mày, “Ý thành chủ là sao?”

Ô Hành Tuyết đáp, “Ta nói, hiện tại có bảy cái tên, còn tên nào nữa không? Nếu muốn moi bí pháp từ ta thì chắc cũng phải có thừa tự tin nhỉ.”

Tang Dục siết chặt nắm tay trên vạt trường bào bên cạnh giường, ánh mắt còn chưa dám dời khỏi người Ô Hành Tuyết, nét mặt càng lúc càng tệ hơn.

Ô Hành Tuyết bất thình lình nhấc chân bước qua bệ cửa, Phương Trữ hấp tấp bước theo cho kịp.

Chỉ trong loáng mắt mà ngón tay đang siết chặt trường bào của Tang Dục nhích nhẹ, gã thốt lên ba cái tên tiếp nữa.

“Mười cái,” Ô Hành Tuyết tiếp tục hỏi, “còn nữa không?”

Tang Dục nấc lên một tiếng cười ngắn ngủi, ngón tay gã cong lên. Bao nhiêu khí huyết tươi vừa hút vào đang cuồn cuộn trong huyết quản, mạch máu cộm lên trên cổ và mặt, gã thốt, “Đó chính là Thiên Túc thượng tiên đấy, chuyện hiếm đến vậy thì ngài đoán xem…”

Ngay khoảnh khắc gã thốt lên từ cuối cùng thì nhác thấy dáng người nhợt nhạt phóng lên chóng vánh như một bóng ma.

Một cơn gió lạnh căm quét ngang mặt khiến gã không khỏi chớp mắt một phen. Đến khi tỉnh hồn lại thì thấy đại ma đầu kia vẫn đứng nguyên tại chỗ với vạt áo bào khẽ đung đưa, trên tay đã cầm một thanh trường kiếm.

Tang Dục, “Mày!!!”

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu. “Ta thế nào?”

Ngay tiếp đó, bọn thuộc hạ đang bao vây bên ngoài cửa đồng loạt rú lên những tiếng thét gào thê thảm.

Tiếng hét thảm thiết cất lên vô cùng dị thường, chỉ gào một nửa đã lặng bặt và chuyển sang tiếng t hở dốc không thành lời.

Kế đến, mùi máu tanh còn nồng nặc hơn trong phòng bủa ra tràn trề. Chỉ kịp nghe thấy tiếng rơi thình thịch vô cùng nặng nề trên sàn — bọn thuộc hạ của hắn đều không toàn thây, đầu lăn lộc cộc trên mặt đất.

Chúng chết quá chóng vánh, thân thể hãy còn giữ nguyên trạng thái đứng thẳng người, máu nóng phun trào từ cánh cổ đứt lìa.

Cũng vì tốc độ quá nhanh nên thân kiếm của Ô Hành Tuyết chỉ điểm chút máu tươi đỏ thẫm từ dòng máu vừa phun ra kia.

Ô Hành Tuyết phẩy nhẹ lưỡi kiếm, vết máu biến mất hoàn toàn, chỉ để lại sương muối lan nhanh từ chuôi kiếm xuống mũi kiếm rồi toả ra tứ phía.

Tương truyền rằng Ô Hành Tuyết chỉ đi tay không mà không bao giờ cầm kiếm.

Tang Dục từng nghe nói qua, song vì cả hai đều là ma đầu nên họ chưa bao giờ giao chiến lẫn nhau, thành thử gã chưa chứng kiến tận mắt chuyện đấy bao giờ. Cho đến giờ phút này…

Gã liếc nhanh Phương Trữ một cái thì thấy thanh kiếm bên hông Phương Trữ chỉ còn vỏ kiếm không.

<i>Rầmmm!!!</i>

Cánh cửa sau lưng Ô Hành Tuyết đóng mạnh vào trong nháy mắt, toàn bộ căn phòng kín kẽ không còn khe hở.

Đèn đóm đột ngột tắt ngúm, cả căn phòng rộng lớn chìm vào đêm đen.

Khoảnh khắc đó, Tang Dục mới vỡ lẽ mình tính sai mất rồi. Gã không màu mè gọi “Thành chủ” ngắn “Thành chủ” dài cù nhây nữa mà khai thật, “Tao chỉ muốn biết bí pháp…”

<i>Chỉ cần một cái bí pháp thôi mà?! Chạm phải cái vảy ngược nào đâu mà làm dữ thế?</i>

Nhưng gã không còn thời gian để nghĩ kỹ, đốt lên mười tấm kim phù ngay lập tức.

Chỉ trong nháy mắt, hàng trăm cỗ quan tài đen bên trong Tang trạch bùng nổ, giấy bùa đồng loạt dịch chuyển, nắp quan tài vỡ toang. Giữa hằng hà đinh quan tài bắn tung toé trong không khí là tiếng thét gào của lũ âm thi đang ào ạt đổ về hướng nhà chính.

Nhưng vô ích.

Gã đã từng cho rằng mình chỉ kém sau thành chủ Chiếu Dạ thành một bước chân mà thôi, khoảng cách giữa gã và Ô Hành Tuyết chẳng qua là cự ly ngắn. Chỉ cần chọn đúng ngày đúng giờ, thì cự ly ngắn nọ đâu đến mức là một quãng trời vô tận.

Thái độ của gã ngày hôm nay là bởi gã chắc mẩm rằng đây chính là thời điểm đúng ngày đúng giờ. Bởi vì hai tên thuộc hạ vong mạng của gã đã báo lại rằng trông tình trạng Ô Hành Tuyết có vẻ không tốt lắm.

Đối với tà ma thì chuyện này cũng dễ hiểu thôi, nó đơn giản là kết quả của sự va chạm giữa tiên khí và tà ma khí.

Thành chủ Chiếu Dạ thành có bao giờ làm chuyện gì mà không đảm bảo không?

Không.

Nếu Thiên Túc thượng tiên đến Tước Bất Lạc của hắn thì chắc chắn hắn có phương pháp để dung hợp khí tiên và khí tà, thế nhưng quá trình dung hợp cũng cần thời gian, và trước khi có thể dung hợp hoàn toàn thì hắn không thể dùng toàn lực.

Cũng từ đó, cự ly ngắn kia sẽ không còn nữa.

Chính thế mà Tang Dục rất tự tin.

Song, đến khi bị Ô Hành Tuyết nắm cổ ấn lên vách tường lạnh lẽo như băng, bao bọc trong thứ mùi khôn tả của âm thi nổ tan xác khắp cả phủ, gã mới thấu một điều, mình đã tính sai mất rồi.

Gã trợn trừng đôi mắt, vất vả mở miệng, “Vì sao… trên người mày không hề có bám tiên khí?”

Dù có dung hợp thế nào đi chăng nữa, hễ bước qua kiếp kỳ chắc chắn trên người Ô Hành Tuyết phải bám tiên khí của Thiên Túc thượng tiên. Ban nãy hơi ẩm trong căn phòng quá nồng nên không phát hiện ra, thế nhưng hiện tại khoảng cách hai người đã gần đến như vậy mà gã vẫn không ngửi thấy một chút tiên khí từ Thiên Túc nào.

“Mày…” máu bị ép trào ra từ khoé mắt Tang Dục.

Ấy nhưng Ô Hành Tuyết chẳng màng đáp lời gã mà khẽ khàng nói, “Trừ mười kẻ đó thì còn ai nữa?”

Tang Dục mở miệng đầy máu mà nói, “Một truyền mười… mười truyền trăm… thành chủ tính cản thế nào đây? Đến khi truyền ra khỏi Chiếu Dạ thành đến nhân gian rồi… sau, sau đó truyền lên đến Tiên Đô… thì thành chủ sẽ ngăn lại thế nào?”

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu đi, quạt ngón tay giữa không trung.

Bao nhiêu đinh quan tài đóng trên máu thịt của lũ âm thi bay vọt vào tay hắn. Mỗi thanh đinh quan tài dài mấy tấc, trên thân có khắc phù chú và dính đầy máu me.

Ô Hành Tuyết nhìn gã và nói, “Hễ chết thì không truyền được nữa.”

Đồng tử Tang Dực thít lại, đây là lần đầu tiên một kẻ với thân ma đầu như gã hiểu được cảm giác ớn lạnh cả người gần kề đến độ này. Đó không phải là nổi giận bừng bừng sát ý mà gần giống với cơn rét buốt đến từ kiếp kỳ, là nỗi sợ hãi tiết ra từng chút một từ sâu trong xương cốt và lan tràn khắp cơ thể.

“Sao cơ… thành chủ muốn… giết hết… từng người một… ư?” Tang Dục thảng thốt.

“Không được giết à?” Ô Hành Tuyết hỏi ngược, hơi lên cao ở cuối câu cứ như đang hỏi cực kỳ nghiêm túc, song gương mặt lại hoàn toàn vô cảm.

Bấy giờ, Tang Dục mới thật sự ngộ ra mình có lẽ đã phạm phải vảy ngược của đối phương thật rồi. Nhưng nực cười ở chỗ trước đây, gã thậm chí còn không cho rằng Ô Hành Tuyết có vảy ngược. Và hơn hết thảy, gã không biết câu nào của mình mới xứng danh với hai chữ vảy ngược đó.

Ô Hành Tuyết chỉ im lặng nhìn Tang Dục, trong một thoáng chốc nào đó, trên mặt lộ ra nét mệt mỏi nhưng đã nhanh chóng chuyển sang nụ cười.

Ô Hành Tuyết không trả lời Tang Dục mà chỉ nói, “Thế mày chờ xem.”

Tang Dục: “Cái gì?”

Khoảnh khắc đó, đến cả Phương Trữ cũng nhìn Ô Hành Tuyết trong hoang mang, không hiểu câu này có ý gì.

Nhưng chẳng mấy chốc họ đã hiểu ra…

Ô Hành Tuyết không xuống tay giết Tang Dục ngay lập tức mà đóng từng cây đinh quan tài do Tang Dục tự tay khắc chú lên người Tang Dục và ghim đối phương vào tường.

Rồi tiếp đó, thể theo đúng từng cái tên mà Tang Dục nêu lên, Ô Hành Tuyết bước dọc theo đêm đen thâm u trong Chiếu Dạ thành và giết từng kẻ một.

Trước khi xuống tay đều sẽ hỏi, “Còn ai nữa?”

Còn ai truyền tin này đi nữa?

Trong giấc mơ, Chiếu Dạ thành luôn luôn bị bao trùm bên trong màn sương mù lạnh lẽo, tưởng chừng quanh năm chưa bao giờ tan biến. Mà Ô Hành Tuyết cũng không cách nào biết được khi trải qua những sự kiện trong mơ ấy, đến cùng mình đã cảm thấy thế nào.

Khi bước ra khỏi phủ trạch của người cuối cùng, ánh ban mai mong manh đã rọi xuyên màn sương lạnh lẽo mà đến. Ô Hành Tuyết ngẩng đầu nhìn, mắt hơi híp lại.

Đoạn đưa thanh gươm cho Phương Trữ. “Lúc nào rồi?”

Phương Trữ nối gót một đường cả đêm, lúc nhận lấy thanh kiếm kia, đồng tử hắn thoáng co rút lại bởi lòng hắn cũng hoảng sợ theo bản năng.

“Thưa, là giờ Mẹo,” Phương Trữ cất giọng khô khốc, bấy giờ mới tiếp lấy thanh kiếm rồi cúi đầu tra kiếm vào vỏ.

Túi gấm đeo bên hông hắn lắc lư thành tiếng, bên trong ấy chứa thứ bên người của tất cả những tà ma bị tàn sát trong đêm nay.

Cuối cùng, Ô Hành Tuyết dẫn Phương Trữ quay về phủ trạch của Tang Dục và đứng trước mặt Tang Dục đang bị đinh đóng chặt trên tường. Phương Trữ lấy túi gấm ra và trút những thứ bên trong xuống, mỗi món đồ trong ấy đều cực kỳ cá biệt và dễ dàng nhận ra.

Tang Dục trợn mắt khe khẽ, nhìn qua từng món đồ một, càng nhìn càng run rẩy tay chân bị ghim trên cán đinh.

Rất nhiều người từng nói rằng xét trên vẻ bề ngoài, người không giống tà ma nhất bên trong Chiếu Dạ thành chính là vị thành chủ nọ. Đến tận thời điểm này, gã mới ngỡ ra một khi đối phương bắt đầu xuống tay và tiến hành tra tấn kẻ khác thì quả thật vô cùng xứng đáng với hai chữ “Ma đầu”.

Thế nhưng, đấy cũng là chuyện cuối cùng mà gã ngỡ ra trong đời.

Mấy chục thanh đinh đóng quan tài rơi leng keng trên mặt đất, dấy lên tiếng vang vọng không ngừng. Tang Dục đã mất mạng cũng nặng nề nện xuống đất, kéo theo một tiếng thụp thâm thấp, máu nóng bắn nơi nơi.

Ô Hành Tuyết buông mắt nhìn gã một lát rồi quay sang nói với Phương Trữ, “Trở về.”

Khi họ trở về Tước Bất Lạc, Ninh Hoài Sam cũng vừa hoàn thành nhiệm vụ và quay lại.

Kiếp kỳ của cậu sắp đến nên chưa bị lạnh run đến mức kia, chỉ xoa xoa tay nhún nhún chân một tí. Cậu hỏi Phương Trữ, “Mày với thành chủ đi đâu mà giờ mới về đến đấy?”

Phương Trữ liếc nhìn Ô Hành Tuyết một cái rồi lắc đầu nguầy nguậy. “Không có gì, mày hỏi ít thôi.”

Ninh Hoài Sam “Ờm” một tiếng rồi vừa nhảy cho ấm người vừa lóc cóc theo chân Ô Hành Tuyết vào trong nhà.

“Bẩm thành chủ, mấy ngày sắp tới ta cần phải bế quan một chút,” Ninh Hoài Sam hít mũi một phát và nói.

Ô Hành Tuyết cởi bỏ áo ngoài mỏng dính như voan, cầm trên tay nhìn lướt qua rồi trả lời mà không ngẩng đầu lên, “Ừm, ta biết rồi, Phương Trữ có nói.”

Máu bám trên áo đã khô, chỉ cần dùng biện pháp tịnh y là có thể tẩy sạch sẽ không để lại một chút dấu vết nào. Thế nhưng Ô Hành Tuyết vẫn đưa áo khoác ngoài cho Phương Trữ và nói, “Đốt.”

Phương Trữ và Ninh Hoài Sam không hề ngạc nhiên, dù gì tính sắc mắc này của thành chủ nhà họ cũng không phải mới ngày một ngày hai, đặc biệt là với những thứ ô uế như máu.

Đến nỗi đôi lúc họ nổi lòng nghi ngờ không biết Ô Hành Tuyết có phải không thể nhìn thấy máu hay không.

Nhưng phần lớn thời gian, họ đều thấy cái suy nghĩ này ngu vãi ra. Người không thể nhìn thấy máu thì sao khi ra tay giết người có thể lưu loát thẳng thừng như vậy.

Phương Trữ ôm áo đi ra cạnh ao máu, nổi lửa trên đầu ngón tay rồi đốt sạch áo khoác nhuốm máu này. Để cho chắc, hắn còn lau sạch máu trên vỏ kiếm của mình rồi mới vào phòng khác chọn một tấm áo choàng sạch.

Hắn đã chọn một chiếc áo giống lúc ban đầu, màu xám nhạt với chất liệu mỏng như voan.

Tay ôm áo choàng, hắn bước vào phòng xong lại hấp tấp bước ngược trở ra.

Ô Hành Tuyết quay sang hỏi hắn, “Sao thế?”

Phương Trữ bắn như pháo, “Thành chủ chờ một chút ạ, ta lấy sai rồi.”

Khi Phương Trữ quay lại buồng phụ thì Ninh Hoài Sam cũng bước vào theo, cậu vừa ôm tay x** n*n vừa nói, “Sao mày lấy có cái áo khoác thôi mà rườm rà thế.”

Phương Trữ liếc xéo cậu. “Mày thì biết cái rắm gì.”

Ninh Hoài Sam nhanh nhảu cãi lại, “Làm quái gì mà tao không biết, bộ tao chưa từng lấy đồ cho thành chủ hay gì?”

Phương Trữ chọn một cái áo choàng lông chồn trong đống quần áo.

Ninh Hoài Sam hoang mang một cây. “Mày làm gì vậy? Úng não hả? Mới nãy thành chủ khoác áo mỏng như cánh ve kia kìa, bây giờ mày đào ra một cái áo khoác lông chồn là muốn trùm chết thành chủ hả? Mày muốn chết thì chết một mình đi nhá, tao phắn trước đây, lát nữa tự mày đi mà đưa cho thành chủ.”

Phương Trữ: “…”

“Mày!!” Phương Trữ tính nói lại thôi, nhưng rồi không chịu nổi nữa bèn phải xách cổ cậu như xách gà tới và nói, “Không được, có chết cũng phải chết chung, mày có cửa chạy hả.”

Sau một hồi chần chừ, hắn quyết định kể lại những chuyện xảy ra đêm qua cho Ninh Hoài Sam nghe. Trước giờ hai người họ nói sợ Ô Hành Tuyết là sợ thật, đâu ai điên đi theo thành chủ mà dám mở miệng nhắc đến “bí pháp”, phải làm vậy để đảm bảo không chạm trúng vảy ngược và chọc giận thành chủ.

Ninh Hoài Sam nghe xong thì rùng mình trong âm thầm, thì thào, “Thế tên Tang Dục kia nói trên người thành chủ không có chút tiên khí nào thật hả?”

Phương Trữ gật đầu. “Đúng thế, nếu vượt qua kiếp kỳ thì nên có mới phải.”

Cuối cùng Ninh Hoài Sam cũng hiểu lý do vì sao Phương Trữ đổi áo mỏng thành áo lông chồn, “Tức có nghĩa là hiện tại thành chủ vẫn còn lạnh.”

Không chỉ thế còn là cái lạnh âm hàn khó lòng nhẫn nhịn.

Thế rồi cậu lại chưa hiểu lắm. “Vậy nếu thành chủ còn đang lạnh thì tại sao phải mặc áo mỏng? Chỉ để dằn mặt lũ Tang Dục thôi à?”

Phương Trữ lắc đầu, nói, “Chắc không phải đâu, nếu chỉ muốn dằn mặt Tang Dục thì mặc khi ra ngoài thôi là được. Còn thành chủ đã mặc vậy từ trước rồi.”

Ninh Hoài Sam đăm chiêu. “Ở trong chính phủ của mình mà sao phải gồng mặc áo mỏng chi? Gồng cho ai xem?”

Phương Trữ tính trả lời không biết thì chợt nảy ra một suy đoán.

Hắn thúc Ninh Hoài Sam một cái rồi nói, “Hay có khi nào là… Thiên Túc thượng tiên?”

Ninh Hoài Sam thất kinh trước đáp án này, thộn người hồi lâu mới tiếp lời, “Cũng có thể lắm… nếu Thiên Túc thượng tiên tới đây thật nhưng không phải như suy đoán của bọn Tang Dục thì tất nhiên không thể tỏ ra yếu thế, bằng không…”

Nhưng rồi cậu thấy càng rối ren hơn, “Nhưng cũng không đúng, nếu Thiên Túc thượng tiên mà đến Tước Bất Lạc không phải với lý do theo lời bọn Tang Dục thì tức là có xảy ra một cuộc tranh đấu giữa tiên và ma rồi đúng không? Một khi tiên ma đấu nhau thì ít nhiều cũng phải có một phe bị thương, chưa kể Tước Bất Lạc cũng sẽ tan hoang một nửa chứ hả? Làm sao có thể giữ nguyên vẹn không chút suy suyển như vầy?”

Phương Trữ càng nghĩ cũng càng hoang mang hơn.

Họ không dấm dúi thì thầm nữa mà ai ấy rơi vào trầm tư thì bất chợt thấy không ổn.

Trong phòng này có hơi thở của người khác ngoài hai bọn họ.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đồng loạt hoảng hồn, xoay ngoắt người lại thì thấy Ô Hành Tuyết đang nghiêng người tựa bên cửa, đôi con ngươi đen như mực lặng lẽ nhìn bọn họ, không biết là đã đứng nghe từ lúc nào.

Suốt đêm vừa qua, Ô Hành Tuyết đã giết rất nhiều người, hao tổn lượng lớn khí kình, đến khi trở về Tước Bất Lạc mới thả lỏng lại một chút.

Cũng bởi vì khí kình bị suy giảm nên những thứ vốn bị che giấu kín kẽ trước đây đang dần lộ ra đôi chút…

Thế là, Phương Trữ và Ninh Hoài Sam đều ngửi thấy khí tức của một ai đó không phải thành chủ bọn họ.

Hai người sửng sốt một lát mới ngỡ ra, trên người Ô Hành Tuyết đang dần dà hiện ra… tiên khí của Thiên Túc.

Cũng trong tích tắc đó, Phương Trữ thốt nhiên tỏ tường, cái vảy ngược mà đám Tang Dục chạm trúng không phải là “ép giao ra bí pháp” mà là dám truyền tin “Thiên Túc thượng tiên tới Tước Bất Lạc” ra ngoài.

Ngay khi ý nghĩ này vừa loé lên, Ô Hành Tuyết vừa còn tựa bên cạnh cửa đã xuất hiện ngay trước mặt họ chỉ trong một chớp mắt.

Phương Trữ giật bắn mình, thảng thốt nói, “Thưa thành chủ, ta không nói!”

Ô Hành Tuyết dừng cánh tay đang nhấc lên một chút.

Phương Trữ tóm Ninh Hoài Sam kéo sang, lật đật nói, “Chúng ta sẽ không hé nửa lời chuyện kiếp kỳ lần này!”

Nhưng Ô Hành Tuyết vẫn hạ tay xuống.

Trước khi nhắm mắt, họ loáng thoáng nghe được một tràng tiếng chuông.

***

Ô Hành Tuyết bị tiếng mưa rơi đẫm ướt bên ngoài xe ngựa đánh thức, không chỉ vậy xe ngựa còn vừa vượt qua một lớp cấm chế nên nảy nhẹ một chút.

Khung cảnh cuối cùng mà chàng nhìn thấy trong mơ là hình ảnh mình đang treo chuông mộng trên đầu ngón tay, đồng thời giữ chặt Ninh Hoài Sam và Phương Trữ. Câu nói cuối cùng vang bên tai là tiếng hô nức nở của Phương Trữ, “Chúng ta sẽ không hé nửa lời chuyện kiếp kỳ lần này!”

Chàng mở mắt ra trong dư âm của cảnh tượng kia và thấy góc nghiêng gương mặt của Tiêu Phục Huyên dưới ánh đèn mờ.

Đó không phải đèn đuổi linh và cũng không hề chói mắt, ánh đèn lay động theo rung lắc của chiếc xe ngựa, ánh sáng vàng ấm áp đang dừng bóng trên hốc mắt và cánh mũi cao thẳng đặng ngả xuống viền môi người kia.

Ô Hành Tuyết còn đang thiêm thiếp chưa tỉnh hẳn, híp đôi mắt lười nhác nhìn y một chốc rồi chợt mấp máy môi.

Dường như Tiêu Phục Huyên có thể cảm giác được, bèn vừa khéo dời mắt nhìn sang.

Chàng lặng người một thoáng, bất chợt nhớ tới cụm “Thiên Túc thượng tiên” được vô vàn người trong mộng nhắc đến. Giờ mới giật mình bừng tỉnh, chàng lật đật thu lại tầm mắt đang vương vấn dưới mũi Tiêu Phục Huyên.

“Thành chủ tỉnh lại rồi ạ?”

“Thành chủ ơi.”

Giọng Ninh Hoài Sam và Phương Trữ vang lên cùng lúc hệt như tiếp nối với dư âm giấc mơ.

Ô Hành Tuyết ngẩn người một chốc mới sực nhớ ra họ đang ngồi trên xe ngựa đi đến Lạc Hoa Đài. Từ bên rìa tầm nhìn, có thể thấy ánh mắt Tiêu Phục Huyên vẫn đang đặt trên người mình. Chàng ngồi thẳng dậy, hỏi bừa một câu với ba người trước mặt, “Chưa tới nữa à?”

Ngờ đâu Ninh Hoài Sam và Phương Trữ không nói gì, thế mà Tiêu Phục Huyên lại nhạt giọng đáp, “Tới rồi.”

Bấy giờ, chàng mới nhận ra lúc chàng còn đang lim dim nửa tỉnh nửa mơ, chiếc xe ngựa nảy lên một cái khe khẽ rồi sau đó im lìm luôn, có vẻ là đến nơi thật rồi.

Ô Hành Tuyết bối rối ngồi dậy, ánh mắt vẫn nhìn thẳng phía đối diện bàn, “Nếu đã tới rồi sao các ngươi không nhúc nhích gì vậy?”

Và nghe thấy Thiên Túc thượng tiên trầm giọng tiếp lời lần nữa, “Hai tên kia không dám gọi ngươi dậy.”

Ô Hành Tuyết: “…”

<i>Có ai hỏi huynh đâu mà huynh trả lời vậy.</i>

<i>Bình thường không hó hé nửa lời mà sao tự dưng nói liền tù tì câu này tới câu khác dợ.</i>

Tiêu Phục Huyên đã nói liền hai câu rồi, bây giờ chàng có muốn nhìn chòng chọc vào ba người ở đối diện cũng không được, thiệt sự không dám nói tiếng nào nữa. Thế nên chàng…

Chàng cúi đầu nhìn lướt qua trên người mình. Lúc nãy khi chìm vào giấc ngủ, chàng hãy còn mặc một lớp áo đơn và ôm ấm sưởi trong tay. Thế mà bây giờ mở mắt tỉnh dậy đã thấy không biết từ đâu có một tấm chăn vải nỉ dày cộm đắp trên người.

Khi vừa ngồi thẳng người, tấm chăn dày hơi trượt xuống một chút, khí lạnh luồng vào từ khe hở khiến Ô Hành Tuyết kéo tấm chăn theo bản năng và đắp kỹ lại một chút, “Chăn này…”

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ vẫn mang vẻ mặt muốn nói mà không dám nói, nhưng may có Y Ngô Sinh trả lời mau lẹ, “Lúc nãy thấy… thấy ngón tay công tử trắng bệch, có vẻ hơi lạnh.”

Ô Hành Tuyết tự nhủ <i>nào có phải hơi lạnh.</i>

Chàng còn đang tính gật đầu cảm ơn Y Ngô Sinh một câu thì nghe đối phương nói:

“Nên Thượng tiên đắp chăn cho công tử.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Cuối cùng, chàng cũng chịu nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

Không biết xui rủi kiểu gì mà tự dưng ngay lúc đó Ninh Hoài Sam ngập ngừng cất tiếng, “Thưa thành chủ, có thể ngài còn chưa biết ít chuyện. Thể chất của chúng ta có hơi đặc biệt nên lâu lâu sẽ xuất hiện một số…”

Hình như cậu muốn nói “oán linh phản phệ thân thể” hay gì đó, mà chữ “Oán” vừa ra tới cửa miệng thì cậu liếc mắt sang Tiêu Phục Huyên một cái rồi âm thầm nuốt ngược vào và nói, “Một số tình huống…”

Phương Trữ ngồi bên cạnh nói tiếp vào, “Những lúc như vậy cơ thể sẽ cảm thấy lạnh lẽo đến mức không chịu nổi, ai càng mạnh thì càng vất vả, ờ…”

Vì có tiên ngồi ở đây nên họ cũng không dám huỵch toẹt ra, ngặt nỗi lại sợ Ô Hành Tuyết không nhớ được gì rồi đến lúc có chuyện lại không chịu nổi. Hai người khốn đốn tới mức suýt vò đầu bứt tóc tại trận.

Ô Hành Tuyết ôm chăn và nhìn họ với nét mặt trơ như đá, nghĩ thầm: <i>Đừng có nói nữa, biết rồi đây, thay vì diễn hề ở đây thì biến lẹ xuống xe ngựa đi kìa.</i>

Hai thằng ngốc kia đang đứng dậy toan xuống xe, vẫn còn cố cứu vớt múa may, “Nói chung là sẽ có những lúc mà… ờm…”

Hai người ờm ờ mấy bận thì giọng nói trầm ấm của Thiên Túc thượng tiên vang lên, điền vào chỗ trống giúp bọn họ, “Kiếp kỳ.”

Ô Hành Tuyết nghe thấy thì run run hàng mi, suýt nữa kéo thẳng chăn lên trùm kín mặt.

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi QAQ chương này gom lại hai chương thành một, xem như là bù thời gian cập nhật trễ 24 tiếng đợt trước được hông ~

Cá:

Ơ cái kiếp kỳ này cứ như kinh nguyệt ấy nhở🙂 lạnh từ trong lạnh ra ngoài, lâu lâu một lần, người uể oải đồ nữa…
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 34: Phố núi


Ninh Hoài Sam và Phương Trữ phản ứng còn kịch liệt hơn Ô Hành Tuyết.

Bọn họ vừa đang kéo mành nỉ, toan xuống xe ngựa thì nghe được hai chữ “kiếp kỳ” từ miệng Tiêu Phục Huyên, dấu chấm hỏi bất giác nổi đầy đầu, chân hẫng một bước…

Chỉ nghe thấy hai tiếng rơi thình thịch nặng nề, hai tiểu ma đầu suýt thành chó táp bùn ngay trước cửa Động Ma nhà mình.

Ninh Hoài Sam vịn cửa xe đặng vững người cho khỏi loạng choạng. Sau một hồi mới hất mành vải nỉ lên và thò đầu vào trong xe. “… Làm sao ngươi biết?!”

Cặp mắt cậu ta đã to sẵn, mà giờ còn trợn trừng lên thiếu điều muốn b ắn ra ngoài tới nơi. Cậu ta chong cặp mắt đó mà nhìn chòng chọc Tiêu Phục Huyên.

Chẳng bao lâu sau, Phương Trữ cũng thò đầu vào trong với nét mặt hoang mang không kém. “Làm sao Thiên Túc có thể biết cái tên “kiếp kỳ” này?!”

Y Ngô Sinh đứng cạnh thắc mắc hỏi, “Kiếp kỳ? Kiếp kỳ nghĩa là gì? Đây là lần đầu tôi nghe thấy tên này.”

Ninh Hoài Sam lập tức quay ngoắt sang mà hô, “Nói gì hiển nhiên vậy! Những chuyện như thế này ai lại tuỳ tiện đi nói với người trong tiên môn các người cơ chứ?”

Y Ngô Sinh: “?”

Trong thời gian kiếp kỳ, chỉ cần tà ma bất cẩn tí sẽ bị kẻ khác lợi dụng sơ hở xâm nhập vào trong cơ thể. Bởi thế nên tà ma yêu đạo trong Chiếu Dạ thành đều tự hiểu rõ trong lòng rằng cần phải giấu kín, ra khỏi thành không được cho người ngoài biết. Không bất kỳ tà ma nào sẽ để người ngoài, đặc biệt là người trong tiên môn phát hiện ra điểm này, bởi như thế không khác gì vạch áo cho người xem lưng.

Huống hồ, “kiếp kỳ” cũng chỉ là cách nói do chúng tà ma tự đặt, tự vì cho rằng việc oan hồn phản phệ thân thể như một lần ngộ kiếp nên mới gọi như vậy. Một khi tiên môn biết được thì chỉ e người ta sẽ hồ hởi vỗ tay mà trầm trồ rằng cái này đích xác phải gọi là “quả báo”.

Bọn họ thay phiên nhau quang quác một hơi, chưa nói đến vấn đề khác thì ít nhất Ô Hành Tuyết cũng nhận ra một việc — cái cụm “kiếp kỳ” này không nên được thốt ra từ miệng Tiêu Phục Huyên.

Còn việc vì sao Tiêu Phục Huyên biết từ này…

Ồ đúng là một vấn đề thật sự thú vị.

Ô Hành Tuyết nắm lấy tấm chăn nỉ, nhớ tới những đoạn đối thoại ngắn ngủi mơ hồ trong giấc mơ, đặc biệt là giọng điệu đầy mờ ám của Tang Dục khi nhắc tới “Thiên Túc thượng tiên” trước mặt mình…

Tóm lại, không còn chút mặt mũi nào để ngồi trong xe ngựa này.

Mệt mỏi hơn nữa là, hai thằng ngu kia vẫn còn tía lia chưa ngừng, “Không thể nào, Thiên Túc, rốt cuộc… rốt cuộc làm sao ngươi biết được chuyện này? Là ai có thể để lộ ra ngoài?”

Tiêu Phục Huyên không trả lời họ ngay lập tức mà huơ kiếm vén mành cửa nỉ lên rồi quay sang nói với Ô Hành Tuyết, “Xuống xe.”

Ô Hành Tuyết nhìn y một cái rồi vén chăn ra và đi tới cửa xe.

Chàng cúi đầu né thanh kiếm vén mành cửa của Tiêu Phục Huyên để chuẩn bị bước xuống. Bên khoé mắt thấy được Tiêu Phục Huyên liếc chàng một cái rồi bất chợt mở miệng trả lời thắc mắc nãy giờ của Ninh Hoài Sam và Phương Trữ.

Giọng nói trầm thấp kề cận bên tai, “Đúng dịp biết.”

Ô Hành Tuyết giật thót cả mình.

Kế đó giọng nói kia lại vang lên lần nữa, “Mặc thêm áo khoác.”

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ: “?”

Câu nói kia thốt lên bất thình lình mà còn không gọi tên không báo họ, ai nấy nghe được đều kinh ngạc. Một lúc lâu sau, hai người mới nhận ra câu kia dành cho thành chủ nhà họ.

Ờm………

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ vốn tính nói gì đó nữa mà phút chốc tự dưng thấy cạn lời. Rồi thấy thành chủ nhà họ chợt sững người lại, liếc nhìn Tiêu Phục Huyên với ánh mắt khôn tả và sau chót vẫn quay ngược lại vào trong xe.

Y Ngô Sinh đưa áo khoác đã chuẩn bị sẵn trong xe và nói, “Tôi không hiểu kiếp kỳ mang ý nghĩa thế nào, song nếu cảm thấy lạnh khó nhẫn nhịn thì vẫn nên khoác thêm áo để giữ ấm. Có lẽ… nếu công tử không ngại, có thể diễn tả sơ bộ xem cảm giác khi mắc kiếp kỳ là như thế nào, và có những biện pháp nào để khắc chế. Những vấn đề khác thì tôi không dám lạm bàn, nhưng có chuẩn bị không ít thuốc thang nên biết đâu chừng có thể dùng được.”

“…”

Lời vừa dứt, toàn bộ xe ngựa lặng thinh không một tiếng động, yên tĩnh đến mức nếu châm rơi có thể nghe được.

Y Ngô Sinh có phần ngạc nhiên, trên mặt đầy vẻ thắc mắc. “Có vấn đề gì thế?”

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đều lẳng lặng quay mặt đi chỗ khác chứ không dám bon chen nói gì vào lúc này. Họ tỏ tường trong lòng nên lảng đi một hồi, xong mới chợt vỡ lẽ…

Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên thế mà cũng im ru y hệt như họ.

Tất nhiên, Thiên Túc xưa giờ đã tích chữ như vàng, không thích mở miệng. Nhưng trong khoảnh khắc vữa nãy, họ cảm thấy một sự khác biệt tinh tế, phản ứng của Thiên Túc thượng tiên không phải là thái độ im lặng như thông thường mà mang chút tế nhị khó nói tương tự như bọn họ vậy.

Cứ như thể y không chỉ biết kiếp kỳ là gì, mà thậm chí còn biết người trong kiếp kỳ sẽ có phản ứng thế nào và nên khắc chế bằng cách nào vậy.

<i>Hở????</i>

Ninh Hoài Sam liếc mắt với Phương Trữ.

Có điều, chưa chờ hai người họ nghĩ kỹ thì thành chủ nhà họ đã lên tiếng trước, “Thật không dám giấu giếm, tôi thật sự chẳng nhớ kiếp kỳ phải như thế nào hay cần làm gì cả, thuốc men thì không cần đâu, tôi cũng không muốn uống, xin nhận tấm lòng quan tâm của tiên sinh thôi vậy.”

Nói đoạn, Ô Hành Tuyết khoác áo lên và bước xuống xe ngựa trông có hơi vội vã.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ nhanh chóng chạy lại bên cạnh, nhỏ giọng thầm thì với chàng, “Thưa thành chủ, chuyện này lạ kỳ quá, sao cứ như Thiên Túc thượng tiên biết hết trơn mọi chuyện vậy, đến cả cách khắc chế kiếp kỳ mà…”

Lời còn chưa dứt, họ đã nghe thấy thành chủ cất giọng nhẹ bẫng mà sâu kín, “Các ngươi im miệng đi.”

Hai người sợ nhất là nghe phải giọng điệu thế này, liền lập tức thấy tê rần cả da đầu, nhanh chóng mím miệng lại.

Cuối cùng, Ô Hành Tuyết cũng có chút thời gian thanh tịnh.

Gió đêm se lạnh thổi qua mặt họ mang theo hơi ẩm từ nước mưa, phả vào tai lạnh buốt. Bấy giờ, Ô Hành Tuyết mới nhận ra ban nãy bên trong xe ngựa, hai tai mình có hơi nóng lên.

Tiếng kiếm khe khẽ vang lên sau lưng chàng, Tiêu Phục Huyên cũng xuống xe ngựa.

Ô Hành Tuyết lướt mắt nhìn bao quát một vòng, thấy Tiêu Phục Huyên đang đứng bên cạnh xe ngựa cách mình mấy bước phía sau lưng và thoáng nhìn về phía này nhưng không có ý định lại gần.

“Hử… đâu ra lắm người bên cạnh bục đài quá vậy?” Ninh Hoài Sam chợt thắc mắc thốt hỏi.

“Hửm?” Ô Hành Tuyết ngoái đầu nhìn sang.

Chỗ xe ngựa dừng lại là một khu hàng rào dựng ngựa có mái che. Ở đằng sau cách đó không xa ắt là lối vào Chiếu Dạ thành.

Chỉ thấy chỗ đó có một bức tường cao sừng sững, hai bên đặt hai toà tháp nhọn, trên mép mỗi toà tháp dường như treo một quả chuông, chuông ngân văng vẳng xuyên màn sương mù theo tiếng gió lạnh đẩy đưa.

Đặt giữa bức tường cao là một cánh cổng huyền thiết khổng lồ, hai bên cánh cổng có hàng mấy chục chiếc đèn xanh nhợt cao thấp xen kẽ.

Thoạt đầu, Ô Hành Tuyết tưởng đấy là đèn lồ ng treo trên tường. Song khi chú ý nhìn kỹ một lát mới thấy đó là ma trơi lơ lửng giữa màn sương.

Có bóng người chuyển động giữa đàn ma trơi.

Ô Hành Tuyết hỏi, “Đó là ai vậy? Thủ vệ à?”

Chàng tự thắc mắc trong lòng <i>Chiếu Dạ thành không phải là Động Ma à, tại sao trước Động Ma còn cần thủ vệ?</i>

Quả nhiên, nghe được Ninh Hoài Sam đáp, “Trước đây Chiếu Dạ thành chúng ta không có thủ vệ. Những chiếc đèn thanh minh kia đều do thành chủ thả ra, và cả hai quả chuông đen treo trên ngọn tháp kia cũng vậy. Một khi người từ Tiên Đô muốn xâm nhập vào Chiếu Dạ thành, chiếc chuông đen kia sẽ đánh vang, còn đám đèn lồ ng thanh minh sẽ thổi phừng thành tường lửa dài hàng trăm dặm.”

“Tuy nhiên, sau này có một số thay đổi,” Ninh Hoài Sam nói tiếp.

“Vì sao?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Ninh Hoài Sam ngập ngừng mới nói, “Dạ… bởi vì thành chủ bị nhốt ở cái chốn quỷ Thương Lang Bắc Vực kia không biết khi nào mới quay về được. Có nhiều người sợ đèn thanh minh và chuông đen này không dùng được lâu dài nữa, cho nên…”

Câu này đã có ý nói giảm nói tránh.

Trong lòng Ô Hành Tuyết tự hiểu rõ, khả năng cao là bọn tà ma trong Chiếu Dạ thành đoan chắc chàng không thể tránh khỏi cái chết nên không còn tin vào những thứ này nữa.

Hơn nữa, đã thiết lập thủ vệ ở đây cũng tương đương cho thấy trong Chiếu Dạ thành hiện tại có một kẻ tiếng nói có trọng lượng.

Ô Hành Tuyết ngoắt tay với Ninh Hoài Sam và hỏi, “Này, ta hỏi chút, thành chủ hiện tại của Chiếu Dạ thành là ai?”

Ninh Hoài Sam không cam lòng trề môi, trả lời theo bản năng, “Tiết Lễ.”

Nói đoạn, bị Phương Trữ cho ăn một cùi chỏ to tướng.

Bấy giờ Ninh Hoài Sam mới sực hoàn hồn, thốt, “Thưa thành chủ…”

Ô Hành Tuyết không ngạc nhiên chút nào, bởi người đời đều cho rằng chàng chắc chắn đã chết. Sao có chuyện vị trí thành chủ Động Ma Chiếu Dạ thành có thể để trống mãi được, nơi này có biết bao nhiêu là tà ma yêu đạo, dù sao cũng phải có kẻ đấu đá nhau để ngồi lên vị trí ấy. Hẳn nhiên chuyện có thành chủ mới là chuyện vô cùng bình thường.

Chợt nhớ đến khi mới vừa ra khỏi Thương Lang Bắc Vực, Ninh Hoài Sam đã vô cùng hối hả kéo chàng về Chiếu Dạ thành, đoán chừng là vì nguyên do này.

“Tiết Lễ?” Y Ngô Sinh chợt lẩm bẩm, “Tiết Lễ…”

Hắn bị tà ma chiếm đoạt cơ thể nên sống trong mê man suốt hơn hai mươi năm, trước lúc tỉnh lại cũng không cách nào biết được thành chủ mới đổi của Chiếu Dạ thành là ai. Giờ đây nghe thấy cái tên này, hắn lặp đi lặp lại vài lần mới nói, “Tên này giống với tên con trai một người bạn cũ của ta.”

Ninh Hoài Sam: “Bạn cũ của ngươi là người nhà họ Phong?”

Y Ngô Sinh gật đầu. “Đúng vậy, nhà họ Phong có thân tình với nhà họ Hoa nhiều đời rồi, gia chủ đời trước có hai nam một nữ, nam trưởng Phong Phi Thị, ái nữ Phong Cư Yến, và con út là Phong Tiết Lễ.”

Ninh Hoài Sam: “Đúng vậy, chính là hắn.”

Y Ngô Sinh thảng thốt biến sắc. “Nói vậy rốt cuộc là sao?!”

Ninh Hoài Sam: “Đúng là Phong Tiết Lễ đó, không biết lúc trước vì lý do gì hắn ta đã trở mặt thành thù với gia đình và nhập tà ma đạo, tới Chiếu Dạ thành rồi sửa lại tên họ, đổi thành Tiết Lễ. Hai lăm năm qua trong Chiếu Dạ thành không xuất hiện đại ma đầu nào hùng mạnh nên thằng ấy lợi dụng thời cơ, trở thành tân thành chủ.”

“Không chỉ thế!” Ninh Hoài Sam bùng nổ một bụng lửa, mặt nhăn nhó dài hơn cả mặt lừa. “Hắn tới Chiếu Dạ thành rồi không ở yên trong phủ trạch của bản thân mà còn lăm le chiếm đoạt Tước Bất Lạc của thành chủ. May mà sau khi thành chủ đi rồi thì Tước Bất Lạc tự niêm phong lại, chứ không chắc hắn đã dọn cả gia sản vào đấy từ lâu!”

Chính bởi nguyên nhân như vậy mà cậu cực kỳ không ưa cái họ Tiết Lễ kia.

Trước đây, cậu với Ninh Hoài Sam chỉ mong Ô Hành Tuyết mau mắn quay về thành giết chó thị uy. Với bản lĩnh của thành chủ nhà cậu mà về rồi thì Tiết Lễ kia làm gì còn có cơ hội tác oai tác quái.

Nhưng giờ cậu đổi ý rồi. Thành chủ nhà họ không nhớ gì hết, mà xui rủi còn gặp trúng kiếp kỳ, tốt nhất vẫn nên chờ khôi phục lại ký ức và vượt qua kiếp kỳ đã rồi hẵng ra tay đập Tiết Lễ kia một trận cho hắn không kịp trở tay.

Thành thử, trước mắt tạm thời không nên để lộ thân phận thì hơn.

Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đều nghĩ như vậy, vừa định kêu Ô Hành Tuyết để bảo chàng dịch dung một tí trước khi đi tới bệ đài kia. Ngờ đâu còn chưa kịp mở lời đã nghe được tiếng gió lộng qua phía sau lưng.

Đây là một cơn âm phong mang theo thi khí, ngửi thấy mùi vị ấy, Ô Hành Tuyết bỗng nhiên nhớ đến phủ trạch của Tang Dục trong giấc mơ ban nãy — đây là thứ mùi luôn bám trên người những kẻ luyện Thi đạo.

Ô Hành Tuyết thoáng nhăn mũi lại, đến khi ngước mắt nhìn đã thấy những bóng người chuyển động bên trường thành biến mất tăm. Thoắt cái trước mắt họ đã xuất hiện mấy chục người vận áo đen.

Da dẻ những người này tái mét, trên cổ có quấn một đường đen cực kỳ nổi bật, thoạt trông cứ như đã bị chặt lìa đầu, sau đó bị khâu lại trên thân một cách vô cùng thô thiển.

Mà nhìn kỹ hơn mới thấy, vòng đen nọ không phải là đường may với những sợi chỉ đen không đều nhau, mà là một loạt đinh quan tài đóng dọc vòng quanh cổ.

“Đây là thủ vệ của tân thành chủ đó à?” Ô Hành Tuyết xem xét những người này rồi khẽ nghiêng đầu sang một bên và cất giọng nhỏ nhẹ. “Những món đồ xấu xí gì thế này.”

Thật hiếm hoi khi chàng nói xong mà không nghe được tiếng phụ hoạ, lòng nhủ thầm Ninh Hoài Sam thế mà cũng có lúc trầm ngâm tư lự cơ à.

Kết quả lại nghe thấy giọng Ninh Hoài Sam vọng lại từ phía kia, “Bọn tao mới ra khỏi thành có vài ngày mà sao trên bệ đài lắm người thế?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Ninh Hoài Sam mới vừa đây còn lẽo đẽo sát rạt bên người chàng mà loáng cái đã đi tới vị trí cách đó mấy bước. Cái người đang đứng cạnh nghe cậu nói nhăng nói cuội là ai?

Ô Hành Tuyết ngoái đầu, thấy Tiêu Phục Huyên đang đeo kiếm ngay bên cạnh.

Ô Hành Tuyết ngẩn người. “… Không phải huynh đứng chỗ xe ngựa à, sao lại đến đây thế này.”

Tiêu Phục Huyên: “Không phải không thèm ngoái đầu à, làm sao biết ta đứng chỗ xe ngựa.”

Ô Hành Tuyết mấp máy bờ môi, nín thinh không nói gì. Cảm giác tế nhị khôn tả ban nãy lại trỗi dậy.

Chàng có cảm giác dường như Thiên Túc thượng tiên đang không vui cho lắm, rõ ràng ban nãy khi chàng vừa tỉnh dậy còn không như vậy. Ngẫm kỹ lại thì có vẻ là kể từ lúc chàng nói với Y Ngô Sinh “không nhớ rõ kiếp kỳ” rồi hấp tấp bước ra khỏi xe ngựa thì phải.

Ô Hành Tuyết: “…”

Ờm…

Thân là một ma đầu, xưa giờ có hồi nào đi quan tâm người ta có vui hay không vui. Huống chi, chàng thật sự không biết những lúc như thế này mà nói thì nên nói gì cho phải.

Thôi chẳng thà giả mù không thấy gì.

Đại ma đầu nghĩ vậy bèn mím môi.

Một lát sau mới sực nhớ. “Vậy sao huynh lại tới đây?”

Tiêu Phục Huyên nhướng mày. “Tới đổi mặt cho người ta.”

Ô Hành Tuyết: “?”

Chàng thộn người đôi chốc mới nghe Tiêu Phục Huyên trầm giọng, “Tạm thời đứng yên.”

Ngay nháy mắt kế tiếp, chàng đã hiểu rõ ý Tiêu Phục Huyên, bởi nghe thấy tay thủ vệ đứng đầu vừa cất bước về phía này vừa giải thích với Ninh Hoài Sam, “Có vài dị tượng xảy ra ở Lạc Hoa Đài, thành chủ e ngại sẽ thu hút người lạ tới đây nên xuống lệnh tăng cường phòng thủ toàn thành. Tụi bây vào thành dĩ nhiên không có vấn đề, còn ba vị đây là…”

Đám thủ vệ nổi lửa trong lòng bàn tay, ánh sáng lan tới chỗ họ đứng. Gần như không một ai tại Chiếu Dạ thành không biết Ninh Hoài Sam và Phương Trữ là tâm phúc của Ô Hành Tuyết. Nhưng họ vẫn muốn kiểm tra cho kỹ xem ba người còn lại lại là ai.

Trong khoảng cách gần như thế này, dưới tình huống như hiện tại, hễ Tiêu Phục Huyên nâng tay lên chạm mặt ai cũng tạo ra động tĩnh quá lộ liễu.

Ô Hành Tuyết tự nhủ thôi rồi tổ trác.

Mấy người họ vốn muốn đi tới Lạc Hoa Đài để tìm tinh chất ngọc sửa chuông mộng. Còn những vấn đề khác để chờ khi chàng hoá giải cảnh mộng và khôi phục lại ký ức rồi mới bàn tiếp.

Nhưng e là trong tình hình hiện tại lại càng khiến người ta chú ý nhiều hơn…

Chắc chắn những người trong Chiếu Dạ thành đều biết gương mặt này của chàng. Tiêu Phục Huyên cũng không khá hơn là bao vì dù gì cũng là Thiên Túc thượng tiên. Qua những đoạn giấc mơ rời rạc của mình, có thể đoán được áng chừng quá nửa cư dân trong Chiếu Dạ thành đều biết mặt Thiên Túc thượng tiên.

Thậm chí Y Ngô Sinh cũng không kém phần nguy hiểm, thân là trưởng lão của một tiên môn vọng tộc, thanh danh lẫy lừng thiên hạ, nói không chừng cũng sẽ có kẻ chỉ cần liếc mắt là biết thân phận hắn là ai.

Nói ra thì, với danh tính như vậy, trông họ giống như muốn đến khiêu chiến toàn bộ Chiếu Dạ thành hơn là hành sự trong thầm lặng.

Khi thủ vệ dí sát lửa trong lòng bàn tay tới chỗ họ, Ô Hành Tuyết nghe Tiêu Phục Huyên nhỏ giọng nói giữa kẽ răng, “Xong.”

Xong?

Ô Hành Tuyết nhìn sang cánh tay chưa hề nhúc nhích của Tiêu Phục Huyên mà thắc mắc khôn nguôi. Cánh tay im lìm thế này mà bảo xong là xong cái gì?

Đến khi quay đầu sang thì thấy Y Ngô Sinh với trang phục không hề biến dạng, mảnh vải vẫn chằng kín miệng mũi, song phần mặt để lộ bên ngoài đã thay đổi hoàn toàn.

Thoạt trông chẳng khác nào một thư sinh yếu ớt không biết võ công bị tà ma khống chế.

Tay thủ vệ lia ngọn lửa trong tay qua khiến Ô Hành Tuyết bị loá mắt phải hơi nheo lại.

Ngay lúc đó, tay thủ vệ kêu lên một tiếng rồi lẩm bẩm với tên thủ vệ đứng bên cạnh, “Này, sao tao thấy… đôi mắt này quen quá, hình như từng gặp ở đâu rồi.”

Từ khoé mắt, Ô Hành Tuyết có thể thấy tay Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đã đặt trên chuôi kiếm, sẵn sàng chớp thời cơ tấn công bất kỳ lúc nào. Xong liền nghe thấy một tên thủ vệ khác cất giọng, “Hai hôm nay ngày nào cũng có mấy người ai mày đều bảo sao quen mắt quá.”

Họ săm soi kỹ lưỡng một hồi rồi dời ánh lửa trong tay sang Tiêu Phục Huyên.

Bởi thế, Ô Hành Tuyết có thể xác định gương mặt mình đã bị chỉnh sửa lại khác hoàn toàn giống như Y Ngô Sinh vậy.

“Kiểm tra xong chưa? Điên cả người. Tao đã nói là hai tụi tao đi đường đói bụng nên bắt bừa vài người về rồi,” Ninh Hoài Sam cất giọng một cách thiếu kiên nhẫn. “Bộ không thể vác người về thành hay sao?”

Có thế thấy rõ, cậu ta và Phương Trữ cũng thuộc dạng có địa vị bên trong Chiếu Dạ thành. Đám thủ vệ thấy cậu mất kiên nhẫn thì không cù cưa thêm nữa mà nép người sang bên chừa họ một lối đi.

“À phải rồi, vào trong thành đừng đi về phía Lạc Hoa Đài, thành chủ đã mở sẵn một con đường khác phía bên tay phải,” tay thủ vệ đứng ở phía sau cất giọng căn dặn.

“Có vấn đề gì ở Lạc Hoa Đài?” Ninh Hoài Sam hỏi.

“Cũng không phải có vấn đề gì, mà trong núi lại nổi ánh lửa.”

“Ánh lửa?”

“Ừ.”

Nhớ lại lúc ngồi trong xe ngựa, Y Ngô Sinh có kể sau khi phố núi Lạc Hoa bị lửa thiêu trụi năm nào thì hằng năm về sau, vào mỗi mùng ba tháng ba, ánh đèn dầu vẫn nổi lên suốt mười hai dặm Lạc Hoa Đài. Hệ luỵ đến việc nhiều đệ tử tiên môn vác kiếm đến thăm dò song chỉ chứng kiến một ngọn núi trống không có gì ngoài trảng đất cằn cỗi.

Đến sau khi Lạc Hoa Đài bị xác nhập vào địa giới Chiếu Dạ thành và trở thành cửa khẩu bước vào Chiếu Dạ thành thì ánh đèn lấp láy hằng mỗi mùng ba tháng ba kia mới dần dà biến mất.

Như vậy, theo lời mấy tay thủ vệ này thì cứ cách mấy trăm năm ánh lửa kia lại bùng lên một lần à?

Ninh Hoài Sam nói, “Mấy hôm trước lúc tụi tao rời thành ở đó đã có vấn đề gì đâu.”

Thủ vệ trả lời, “Mới bắt đầu hai ngày trước thôi.”

Hai ngày trước?

Ô Hành Tuyết tính nhẩm lại.

Hai ngày trước là ngày bọn họ rời khỏi thung lũng Đại Bi còn gì?

Tình cờ quá vậy? Hay có liên hệ gì giữa hai sự kiện này?

Chàng ngẫm nghĩ một chốc, đến khi định thần lại thì mọi người đang đứng trước cánh cổng huyền thiết lớn rồi. Nghe đâu chính chàng đã thiết lập những ngọn đèn thanh minh này ở hai bên cổng thành, khi mọi người đến gần, chúng hấp háy một chút như thể đang manh nha muốn động đậy.

Nhân lúc nhóm thủ vệ không đứng bên cạnh, Ninh Hoài Sam hỏi nhỏ, “Thưa thành chủ, ngài còn nhớ cách điều khiển đèn thanh minh này không ạ?”

Ô Hành Tuyết thản nhiên đáp, “Quên rồi, có gì không?”

Ninh Hoài Sam trưng vẻ mặt như ê ẩm cả người và nói, “Đèn thanh minh này có khả năng phát hiện tiên khí, nó cực kỳ nhạy cảm. Nghe đâu đã canh giữ ở đây mấy trăm năm rồi mà chưa sai sót một lần nào. Bất kỳ người nào từ Tiên Đô bước qua đều sẽ bị phát hiện, cho dù có dịch dung cũng không cách nào đánh lừa được chúng.”

Ninh Hoài Sam ngó lên Thiên Túc thượng tiên một chốc rồi hạ giọng thấp hơn nữa, “Nếu ngài còn nhớ cách điều khiển thì có thể giúp Thiên Túc thượng tiên vượt qua nó. Còn nếu quên mất rồi thì chúng ta nên làm sao đây?”

Ô Hành Tuyết: “…”

Cậu ta than thở với vẻ mặt đưa đám, “Nghe đâu đám đèn thanh minh này cháy lên rất kinh hoàng, eo ôi ta không muốn bị đứt gánh chỗ này, ta…”

Khóc lóc được nửa câu thì cậu đột nhiên mở to mắt, âm cuối rít lên như muốn vỡ giọng.

Ô Hành Tuyết quay sang nhìn theo ánh mắt của cậu thì thấy Tiêu Phục Huyên dừng chân trước dàn đèn thanh minh trong tích tắc rồi tiếp tục bước tới trước.

Trường kiếm vang lên âm thanh khe khẽ, vạt bào phất lên để lộ đôi ủng cao cổ màu đen. Dàn đèn thanh minh hai bên chỉ nhấp nháy mấy cái như có hơi do dự. Ngay tiếp đó, chúng hoàn toàn yên ắng xuống, triệt để ngó lơ việc chúng vừa thả xổng một vị thượng tiên.

Ninh Hoài Sam: “?????”

Lần này, cả cậu lẫn Phương Trữ đều kinh hãi tới điếng người.

“Thành chủ ơi sao y bước vào được vậy?”

“Tại sao ngài không làm gì hết mà y vẫn bước vào được vậy?”

“Mà sao trông như đây không phải là lần đầu tiên y bước vào đây luôn vậy.”

“Thành thủ ơi?”

Hai người ngoái đầu nhìn thành chủ nhà mình thì thấy thành chủ đang giấu cánh cổ mảnh khảnh và nửa cằm mình sau áo khoác lông chồn trắng bạc, sau một hồi lâu mới nhả ra một câu, “Không biết, hai ngươi có đi không thì bảo?”

“…”

“Đi.”

Sau khi bước qua khỏi cánh cổng huyền thiết khổng lồ kia rồi, Ô Hành Tuyết hãy còn suy ngẫm về câu “Tại sao y bước vào được, mà trông như đây không phải là lần đầu tiên y bước vào” nọ.

Thật ra chàng cũng có thể đoán được nguyên do.

Trong giấc mơ nọ, hai thú vui nhỏ của Tang Dục đến Tước Bất Lạc dò la thì phát hiện Thiên Túc thượng tiên. Nếu cảnh tượng trong giấc mơ kia là thật thì đồng nghĩa trước đây khi Thiên Túc thượng tiên đến Chiếu Dạ thành chưa bao giờ đánh động đèn thanh minh và dĩ nhiên cũng không biết cảm giác bị ma trơi thiêu thân là gì.

Mà theo lời Ninh Hoài Sam thì chính chàng đã dựng dàn đèn thanh minh này, nếu có ai đã vọc tay vào chúng thì chỉ có thể là chàng mà thôi.

Nói vậy, đáp án chỉ có một…

Rất lâu về trước, khi còn là thành chủ Chiếu Dạ thành, chàng đã tạo điều kiện cho Tiêu Phục Huyên vượt qua chúng nó rồi.



Ô Hành Tuyết ngưng trệ bước chân.

Nãy giờ chàng chỉ theo bản năng mà nối gót người phía trước, bây giờ vừa giương mắt lên nhìn mới thấy không biết tự lúc nào chân đã bước trên một con đường mòn, hiện tại xung quanh bao phủ bởi sương mù trên triền núi.

Chỉ chậm một bước chân thôi đã thấy bóng lưng cao cao của Tiêu Phục Huyên nhạt nhoà trong sương mù bàng bạc.

Sương mù dày đặc bất thường và cũng lạnh lẽo đến lạ.

Ô Hành Tuyết theo bước xuyên qua màn sương bạc, cảm thấy sương mù kia sượt ngang cổ hệt như một khối nước đóng băng rơi <i>tách</i> phía sau gáy và trượt xuôi theo sống lưng xuống dưới. Cái lạnh căm căm đột ngột khiến chàng khẽ híp mắt lại, đến khi mở mắt ra thì khung cảnh trước mắt đã hoàn toàn thay đổi.

Màn sương dày đặc bị bỏ lại phía sau, bên chân chàng là cột mốc biến giới bằng đá trắng bám dây leo ngoằn ngoèo, trên trên cột đá đẽo nét chữ vô cùng xinh đẹp: Lạc Hoa Đài.

Trước mặt là ánh đèn dầu vàng cam cong cong trải dài như một thân rồng, bắt đầu từ con đường núi ngay kề bên và uốn lượn tít tắp đến tận chân trời.

Dưới ánh sáng ngọn đèn, có thể loáng thoáng nhìn thấy những toà nhà nối đuôi nhau san sát với cửa sổ rộng mở, mặt tiền các cửa hiệu hàng quán nhấp nhô cao thấp, bóng người lác đác tới lui.

Hàng hàng những lá cờ đủ mọi sắc màu phấp phới bên tnền núi, trên lá cờ dài gần nhất có viết bốn chữ:

Phố núi Lạc Hoa.

Ô Hành Tuyết đứng lặng nơi đó hồi lâu mới nhấc chân bước tới chỗ cây cờ dài kia. Chàng khom lưng bước qua tấm cờ, bao tiếng người rộn ràng huyên náo bất chợt dâng trào như sóng đổ dạt về phía chàng.

Tuy không còn nhớ gì nữa, nhưng nghe thấy những âm thanh xao động kia, chàng bỗng dưng cảm thấy quả thật chính là nơi ấy. Chính là phố núi Lạc Hoa của một thuở năm xưa.

Thế nhưng, phố núi Lạc Hoa đã bị thiêu trụi và hoàn toàn biến mất từ hàng trăm về trước.

Thế khung cảnh trước mắt này là gì?

Vừa nãy khi vào thành, thủ vệ có nói, dị tượng xảy ra ở Lạc Hoa Đài vào những ngày gần đây là ánh lửa đèn dầu nổi lên trên núi.

Lẽ nào, vì bất cẩn nên chàng đã rơi vào ảo cảnh mất rồi?

Mà những ảo cảnh sao chân thật quá đỗi.

Phố núi này không giống như dựng trên một con đường núi mà tương tự một con phố thật dài không thể nhìn thấy điểm cuối. Đá trắng lát dưới mặt đường, mối lát không kề nhau san sát mà khi giẫm chân xuống sẽ chệch sang một bên, rồi khi nhất chân lên lại trả về vị trí ban đầu.

Cửa hàng gần chàng nhất là một tiệm trà ba tầng, được xây tựa lưng trên vách núi nhưng vẫn thẳng thóm không hề nghiêng vẹo.

Dây đèn lồ ng treo từ mái hiên mũi cong rủ dài xuống, có rất nhiều khách ngồi trong quán bên dưới đang nói nói cười cười. Trước sảnh, một vị tiên sinh đang ngồi giảng giải gì đó, trên nay ông cầm cây thước gỗ huơ huơ, miệng liến thoắng bắn tung toé như ánh sao.

Tiểu nhị dựng quầy phía trước sảnh quán, một bên vai đắp khăn bằng vải bố trắng, giọng vang lanh lảnh vào tai Ô Hành Tuyết, “Trà linh chi tiên tuyền Lạc Hoa Đài, một ấm chữa bách bệnh, hai ấm thọ ngàn năm yên vui…”

Ô Hành Tuyết: “…”

Vạt chăn trải lót trà bay lất phất bên cạnh quầy hết nửa buổi khiến chàng khó nhịn trong lòng, bèn vươn tay sờ bên mép một chút…

Ảo cảnh này sao mà lợi hại quá vậy, đến cảm giác thô ráp trên hoa văn vải cũng chân thật thế này.

“Ơ kìa, vị lang quan này xin đừng quấy tấm lót trà nhà tôi vậy chứ!” Tiểu nhị cất lời với chàng. “Ngài có muốn dùng trà không? Trà bánh nhà tôi là tuyệt thế đấy, không tìm được ở đâu khác ngoài phố núi Lạc Hoa này đâu.”

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu một chút, vừa tính nói “Không cần đầu,” thì bất chợt lướt thấy một dáng người cao cao trước mặt, đứng cách chàng tầm ba trăm trượng. Người nọ nhấc kiếm vén tấm rèm vải bố treo trước một cửa hàng, đồng thời nghiêng người né một ông bác đang đẩy xe hàng, trông chừng người nọ đã sắp sửa chìm vào biển người.

Ô Hành Tuyết bước chân qua, tính gọi “Tiêu Phục Huyên”.

Song, chữ “Tiêu” mới thốt ra khỏi miệng thì thấy có ai đó vỗ lên vai mình một cái. Ngay kế đó, một bàn tay ôn tồn che trước miệng. Chàng bước lui nửa bước về sau, bờ lưng chạm vào một điểm tựa ấm áp.

Giọng Tiêu Phục Huyên vang lên bên tai, thì thầm thật thấp, “Đừng gọi, đó là ảo cảnh.”

Lời tác giả:

Chờ lâu rồi, chương này hai chương gom làm một, bổ sung chương thiếu ngày hôm qua QAQ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 35: Nhà trọ


Loáng một tích tắc, trong đầu Ô Hành Tuyết bỗng hiện lên cảnh tượng ngắn ngủi…

Cũng vào thời điểm không nên lên tiếng, cũng trong tư thế tương tự lúc này, với cánh tay Tiêu Phục Huyên đang che trước miệng. Chàng thậm chí có thể nhớ rõ cảm giác khi ngón cái của đối phương khẽ chạm lên chóp mũi, và hơi thở nhạt vuốt trên vành tai khi y cất giọng thầm thì.

Nửa thân trên cứng đờ trong nháy mắt, chàng thốt lên bên dưới tay người nọ, “Tiêu Phục Huyên, huynh có biết tiếp cận một ma đầu từ phía sau là hành động lỗ m ãng đến nhường nào không.”

Nơi đây là mệnh môn, nếu bất cẩn rất dễ tung ra sát chiêu.

“Biết,” Tiêu Phục Huyên yên lặng một lát rồi chầm rãi cất giọng trầm thấp, “nhưng Ô Hành Tuyết… mau thu khí kình vào.”

Ô Hành Tuyết choàng tỉnh khỏi cảnh tượng ngắn ngủi nọ.

Sau đấy, chàng mới dần dà nhận ra ngón tay mình đã cong lên theo bản năng khi bị người vỗ vai. Giờ đây tựa lưng vào lòng Tiêu Phục Huyên và nghe được giọng nói y, chàng mới dần dà rút khí kình trở lại.

Đến khi hoàn hồn, chàng đã bị Tiêu Phục Huyên dắt tay nấp vào sau một vách tường chắn gió.

Khu chợ vẫn rộn rã nô nức, nhưng hết thảy đều xảy ra bên kia bức tường.

Ô Hành Tuyết nhìn những món đồ nóng hôi hổi bên trên kệ các cửa hàng trà bánh và hỏi, “Đây là ảo cảnh thật ư?”

Bàn tay đặt trên môi chàng chợt nhích nhẹ, sau đó rời đi.

“Sao cơ,” Tiêu Phục Huyên nói. “Ngoài kia ồn quá, nghe không rõ.”

“Ta hỏi nơi đây là ảo cảnh thật à? Trông giống hệt như thật ấy,” Ô Hành Tuyết giương mắt nhìn bên ngoài tường một chút.

Tiêu Phục Huyên trả lời, “Coi như thế.”

Ô Hành Tuyết lại hỏi, “Sao lại nói là coi như?”

Tiêu Phục Huyên: “Cảnh giới giả, cảnh trí thật.”

Ô Hành Tuyết: “…”

Chàng chìm trong im lìm một hồi mới ngoái đầu lại, nói, “Thượng tiên này, nói thêm sáu chữ không tính là giải thích đâu.”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Y liếc Ô Hành Tuyết một cái, trông bộ như không muốn nói chuyện nhưng rồi vẫn mở miệng nói tiếp, “Phố núi Lạc Hoa từ lâu đã không còn, giờ bỗng dưng xuất hiện từ thinh không thì ắt nhiên là ảo cảnh. Tuy vậy, cảnh trí khu phố núi này không phải ảo ảnh mà thật sự là Lạc Hoa Đài vào một ngày nào đó.”

Lạc Hoa Đài vào một ngày nào đó?

Ô Hành Tuyết lại nhìn khu chợ lần nữa.

Sao những sự kiện này lại xuất hiện trùng hợp nhau quá vậy. Từ khi bọn họ rời khỏi thung lũng Đại Bi thì trong Lạc Hoa Đài xuất hiện dị tượng.

Những dị tượng lúc trước chỉ là có ánh lửa bất chợt xuất hiện, mà giờ họ vừa bước chân vào khu núi thì dị tượng không chỉ đơn thuần là ánh lửa nữa mà chuyển sang khung cảnh Lạc Hoa Đài vào một ngày nào đó.

Nếu chỉ xảy ra một lần còn có thể nói là trùng hợp, còn nếu liên tục trùng hợp thì đó là có mục đích.

Nếu đây là khung cảnh Lạc Hoa Đài vào một ngày nào đó…

Thì nó đang muốn nói cho họ điều gì? Hoặc là có mục đích gì?

Ô Hành Tuyết suy tư, ngoảnh đầu lại hỏi, “Tiêu Phục Huyên, trí nhớ huynh tốt chứ?”

Tiêu Phục Huyên: “…”

Biểu cảm Thiên Túc thượng tiên thật khôn tả nên lời.

Chưa chờ Ô Hành Tuyết tiếp tục há miệng, y đã nói, “Ta không biết đây là ngày nào.”

Ô Hành Tuyết: “Ta còn chưa hỏi gì cơ mà.”

Ánh mắt Tiêu Phục Huyên lia qua mặt chàng. “Viết rõ trên mặt.”

Ô Hành Tuyết: “…”

<i>Được.</i>

Quả thật chàng tính hỏi câu này, nỡ nào bị Thiên Túc thượng tiên chặn miệng trước, song chàng cũng không cam lòng cho lắm.

Ô Hành Tuyết đưa mắt về phía đường phố, bóng người cao cao ban nãy đã khuất dạng, chẳng rõ chìm vào đâu trong dòng người hối hả phương kia. Chàng chưa ngoảnh đầu lại đã hỏi, “Vừa nãy huynh nói không được gọi người nọ, đó là huynh à?”

Hỏi rồi, chàng lại lầm bầm theo bản năng, “Chắc vậy rồi, dù sao ta cũng không nhìn nhầm được.”

Tiêu Phục Huyên đứng đằng sau chợt cất tiếng, “Vì sao?”

Ô Hành Tuyết ngoái lại nhìn y. “Hửm?”

Tiêu Phục Huyên dời mắt từ đường phố trở về đây và rủ nhẹ tầm mắt rơi trên người chàng, “Sao lại nói sẽ không nhìn nhầm được?”

Ô Hành Tuyết hé khẽ môi nhưng không trả lời, thốt nhiên lặng bặt.

Tiểu nhị chỗ quán trà hét lên một tiếng dài, phá tan bầu không khí bên góc khuất phía này.

Ô Hành Tuyết vội vã quay đầu sang ngoái nhìn về hướng đó, đổi chủ đề, “Nếu năm đó huynh từng đến, có còn nhớ…”

Nói lưng chừng, chàng quay lại nhìn thì thấy bản mặt quan tài của Tiêu Phục Huyên đang lom lom về phía quán trà.

Ô Hành Tuyết: “…”

Chàng chững lại một thoáng rồi đột nhiên nhoẻn cười.

Đây dường như là lần đầu tiên chàng bật cười mà không hề kéo theo gánh nặng hay ngại ngần gì kể từ khi tỉnh giấc tại Thương Lang Bắc Vực. Nụ cười ấy không nhằm đe doạ người khác, không phải cười lạnh, không phải cười bất lực vì bị chọc tức, cũng không phải vừa cười vừa toan tính chi khác.

Tiêu Phục Huyên không nhìn quán trà nữa mà đưa mắt sang phía chàng. Sau hồi lâu mới nói, “Cười xong chưa, xong thì đi thôi.”

Nói đoạn, y nhấc kiếm bước chân ra khỏi góc tường.

Ô Hành Tuyết nối bước theo sau, cất giọng hãy còn đậm ý cười, “Ôi, ta còn chưa hỏi xong cơ mà.”

Nếu Tiêu Phục Huyên xuất hiện trong ảo cảnh này thì có thể nhờ y nhớ lại chút xem thử có năm nào y từng đến phố núi Lạc Hoa và gặp phải chuyện gì lạ thường hay không.

Nhưng mà, Ô Hành Tuyết vừa ngẫm lại thì thấy những chuyện này đã xảy ra nhiều trăm năm về trước rồi, ai còn nhớ rõ những chuyện xa lắc xa lơ như vậy nữa.

Nghĩ vậy, chàng nói rồi liền sửa lại ý định và nói, “Thôi, huynh cứ xem như ta chưa nói gì đi.”

Tiêu Phục Huyên trái lại cứ như có thể đoán được ý định chàng, bèn nói, “Ta đã tới phố núi này rất nhiều lần.”

Ngụ ý là chỉ thông qua một bóng người thì thật sự không thể đoán ra được là lần nào, chứ đừng nói chi là những việc đã xảy ra từ xưa trước.

Ô Hành Tuyết gật gù. “Vậy bây giờ chúng ta đi đâu?”

Nói dứt câu thì họ vừa khéo đến trước một mỏm đất ở vị trí cao hơn. Ô Hành Tuyết vừa ngước mắt đã thấy toàn cảnh đám người xôn xao trên những khúc quanh phía trước.

Từ nơi xa xa, chàng thấy bóng người thân quen kia, người ấy có tướng mạo lẫn chiều cao xuất sắc phi phàm, cực kỳ nổi bật khi đứng giữa biển người.

Đó là Tiêu Phục Huyên trong ảo cảnh.

“Chúng ta theo dõi huynh à?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Câu hỏi nghe vào khá kỳ dị, Tiêu Phục Huyên chỉ <i>Ừm</i> một tiếng rồi không nói thêm gì nữa.

“Vậy ban nãy sao chúng ta không bám sát theo luôn mà huynh phải kéo ta vào góc tường làm chi?” Ô Hành Tuyết lại hỏi.

Câu hỏi này nghe còn kỳ dị hơn câu trước đó, sau một hồi im lặng, Tiêu Phục Huyên mới mở miệng vàng, “Gần quá sẽ bị phát hiện.”

<i>À đúng vậy.</i>

Ô Hành Tuyết thầm nhủ, nói cho cùng Thiên Túc thượng tiên trong ảo cảnh vẫn là Thiên Túc thượng tiên, nếu có hai người bám sát phía sau trong cự ly như vậy thì chắc chắn sẽ bị phát hiện.

Nghĩ đến cảnh y phát hiện ra người lai lịch bất minh bám theo, rồi thêm người nọ còn giống mình như đúc nữa thì…

Bảo đánh một trận đã là nhẹ, chỉ sợ còn bị tung sát chiêu chứ không vừa.

Thảo nào ban nãy Tiêu Phục Huyên muốn bịt miệng chàng lại, chứ không che thì to chuyện.

***

Tương truyền rằng phố núi Lạc Hoa trải dài mười hai dặm núi, dõi mắt nơi xa không thấy điểm kết.

Họ bước dưới ánh đèn dầu lay lắt chưa đến một dặm, bất chợt ngửi được mùi hương vô cùng đậm vị. Mùi hương này toả nồng khắp cả con phố và lấn át hết mọi thứ mùi khác, khiến cho Ô Hành Tuyết cảm thấy nhức cả đầu. Chàng bịt mũi lại và thấp giọng nói, “Có ai đánh đổ một xe chở mỹ phẩm à?”

Quả nhiên, bỗng nghe được tiếng hô hoán than vãn inh ỏi phía trước, lời ai oán không ngừng vẳng vào tai. Đã thế, những người qua đường còn tò mò hóng hớt, tụ lại cản trở một cụm làm người ta tiến không được mà lùi không xong.

Thấy trước mặt có một tiểu nhị ốm tong từ một cửa hàng nào đó trật chân chạy hai bước, bò tới bàn của quán và hô với mọi người, “Xin các chư vị khách quan chớ vội, khoan hãy mắng, mong mọi người tạm thời bình tĩnh chút. Nhà Lý Ký bên cạnh vừa đem phấn mặt ra khỏi quán, không may va phải đá lở lật xe, làm mấy hộp son phấn mỹ phẩm đổ ra trên đất. Hiện tại đã thu dọn xong xuôi hết rồi ạ.”

“Có đá lở ở phố núi Lạc Hoa sao?” Ô Hành Tuyết hơi ngỡ ngàng. Thêm cả đang bóp mũi nên giọng chàng nghe vào nghèn nghẹn.

Tiêu Phục Huyên phải nghiêng đầu sang mới nghe rõ được, đáp lời, “Quả thật rất lạ.”

Theo thông lệ, phố núi Lạc Hoa tổ chức mỗi năm một lần, đa phần hàng quán đều châu lưng về phía sườn núi nên chắc hẳn họ đã sớm kiểm tra rõ chỗ nào vững chắc và chỗ nào nguy hiểm cả rồi. Nếu lưng núi cứ thường xảy ra đá lở như vậy thì phố núi Lạc Hoa đã không phồn thịnh đến được như bây giờ.

“Mái nhà của các cửa hàng trong phố núi đều được gia tộc tiên môn gia cố mà?” có nhiều người tỏ vẻ nghi hoặc trong đám đông. “Sao lại có đá lở vậy được, ngần ấy năm rồi đã bao giờ xảy ra chuyện này đâu.”

“Đúng là như vậy,” tiểu nhị nói. “Đúng là như vậy, ông chủ chúng tôi đã sai người đến mời nhà họ Phong đến xem xét, mong các vị chớ quá lo lắng.”

“Lại là nhà họ Phong?”

Ô Hành Tuyết không nhớ rõ danh tính các dòng họ tiên môn, ấn tượng sâu sắc nhất cũng chỉ có mỗi nhà họ Hoa. Kể ra thì nhà họ Phong có thể xem là gia tộc để lại ấn tượng thứ hai, cũng nhờ ban nãy trước khi bước vào cổng Chiếu Dạ thành, họ có nghe việc tân thành chủ Tiết Lễ từng có qua lại với nhà họ Phong, giờ đây nghe có người nhắc đến lần nữa, có muốn không để ý cũng khó.

“Nếu có vấn đề xảy ra trong phố núi, họ sẽ mời những tiên môn ở gần đấy nhất nhất hoặc những tiên môn có thế lực lớn mạnh nhất vùng lân cận,” Tiêu Phục Huyên giải thích.

Khi y nói chuyện, Ô Hành Tuyết thoáng nhìn qua vị “Tiêu Phục Huyên” mà họ đang theo dõi, thấy y chợt dừng bước và lướt nhìn lại phía sau từ bên kia đám người.

Bấy giờ, Ô Hành Tuyết phản ứng nhanh nhạy, tay nắm lấy người bên cạnh và kéo người ta chạy vù vào cửa hàng gần nhất, xem như nép vào trong hành lang cửa hàng để trốn.

Khác với mặt tiền đường đông đúc người tụ tập, bên trong cửa hàng vắng vẻ hơn nhiều. Chỉ có một người đàn ông đứng tuổi với đôi mí sụp đang cặm cụi đẩy bàn tính đằng sau quầy tủ gỗ.

Nghe có tiếng người, ông ta cũng không ngẩng đầu lên mà cất giọng khàn khàn, chầm chậm nói, “Tiểu nhị, có khách tới.”

Ô Hành Tuyết chỉ tính né vào trong một chút rồi quay trở ra, song lại thấy bên trên giá đặt trên quầy có treo một chiếc chuông đẽo bằng bạch ngọc, toả ra ánh sáng ấm áp nhờ đặt dưới ánh đèn.

Thoạt nhìn, giống chuông mộng đến tám phần.

Chỉ thoáng dừng như vậy, đã có một bóng người mập lùn giẫm gót vững chãi trên bậc thang gỗ, bước từng bước cồm cộp xuống dưới lầu.

“Khách tới là sao hả ông chủ? Lại có khách tới? Hai hôm nay cửa hàng chúng ta hơi bị bất thường rồi nha!” Tay mập lùn tí hon trông còn trẻ, lết thân tới nhìn không khác gì quả banh lăn lộc cộc, suýt chút đã va thẳng vào người họ nhưng bị cánh tay Ô Hành Tuyết duỗi ra cản lại.

Tay Ô Hành Tuyết lạnh lẽo như băng, làm mập lùn tí hon buốt điếng người run rẩy một chút, khi ấy mới giương mắt nhìn kỹ hai người rồi chẳng hiểu thế nào lại đực mặt ra tại chỗ.

Hắn nhìn Tiêu Phục Huyên, rồi nhìn sang Ô Hành Tuyết, miệng hấp háy không ngừng nhưng mãi hồi sau vẫn không hó hé gì.

“Cậu làm sao thế?” Ô Hành Tuyết xoa xoa đầu ngón tay mình, lòng tự nhủ thầm không lẽ tay mình lạnh quá nên đóng băng người ta váng đầu luôn rồi.

Mập lùn tí hon lật đật xua xua tay. “Không không không không.”

Có lẽ hắn ta đứng quá gần mà động tác lại cực kỳ mạnh mẽ, nên khi này mùi vị son phấn đậm đặc trên đường cũng không còn quá nồng nữa.

Từ cơn gió quét qua theo động tác huơ tay của mập lùn tí hon, Ô Hành Tuyết ngửi được một mùi hương thoang thoảng. Mùi này chỉ thoáng lướt qua rồi tức thì tan biến, ngửi lại lần nữa đã không cảm nhận được gì.

Bằng là ai khác cũng có khả năng không hề phát giác ra vấn đề.

Thế nhưng Ô Hành Tuyết thì khác, vừa nãy chàng có ấn tượng sâu sắc với mùi này trong giấc mơ của mình, thêm nữa lại ngửi thấy lần thứ hai ở trước cửa Chiếu Dạ thành.

Đến bây giờ đã là lần thứ ba…

Trên người tay mập lùn này thế mà có mùi vị âm tà của những kẻ luyện Thi đạo như bọn Tang Dục, Tiết Lễ.

Cửa hàng này tuyệt đối không bình thường.

Mập lùn ấp a ấp úng một hồi khiến cho ông chủ quầy chú ý. Người đàn ông đứng tuổi sau quầy đặt bàn tính sang một bên và chầm chậm cất giọng hỏi, “Tiểu nhị đừng rề rà, hai vị muốn trọ lại quán à?”

Ô Hành Tuyết nhớ đến mùi hương âm tà mới nãy, rồi cả chiếc chuông mộng treo trên giá đỡ trước quầy, bèn tính trả lời “muốn”.

Thì thấy chủ quầy ngẩng đầu lên.

Sau cùng, người đàn ông đứng tuổi cũng thấy rõ diện mạo của khách nhân, ban đầu ông ta giật mình sững sờ, phản ứng y hệt mập lùn tí hon kia.

Một chốc sau, ông mới cao giọng hỏi, “Khoan đã nào, không phải nhị vị vừa mới trả phòng đây à?”

Ô Hành Tuyết nuốt ngược chữ “muốn” vào trong.

“………”

Hả???

❄︎

Lời tác giả:

Tối hôm qua lễ mừng thọ ông tui nên về nhà muộn, tui viết xong ngủ quên mất mà không đăng giấy xin nghỉ phép QAQ, chương trả cho ngày hôm qua, hôm nay sẽ cập nhật chương mới buổi tối nha, *quỳ
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 36: Nửa đêm


<i>Làm ơn cho hỏi?</i>

<i>Nhị vị mới trả phòng là ý gì hả?</i>

<i>Đề nghị ông nói cho rõ, trả phòng là trả một phòng hay hai phòng?</i>

Ô Hành Tuyết ngốn đầy một bụng câu hỏi nhưng không cách nào hỏi ra thành lời. Lỡ đâu hỏi ra thật chắc tối nay ông chủ quầy nghỉ ngủ luôn.

Thử nghĩ mà xem, trường hợp một người vừa tiễn hai vị khách xong thì lập tức đón về hai người giống y hệt, mà người sau còn dò hỏi tình huống của người trước với bộ dáng thắc mắc không biết xảy ra chuyện gì. Có phải sẽ càng rùng rợn hay không?

Vả chăng, lỡ ông ta lại coi hai người họ là hạng yêu ma quỷ quái gì rồi thỉnh mấy vị tiên môn tới bao vây tróc nã gì đó thì càng gây ra náo động lớn hơn.

Thiên Túc thượng tiên đã nói dù đây là ảo cảnh, nhưng cảnh trí bên trong là thật. Ô Hành Tuyết không biết nếu tạo ra náo động quá lớn sẽ để lại hệ quả thế nào, song nếu xét theo lẽ thường mà nói thì chắc không phải kết quả hay ho gì, tốt hơn hết vẫn nên hành xử âm thầm một chút.

Nghĩ vậy, chàng bèn nén bao sự tò mò trong lòng xuống, bày ra vẻ mặt thản nhiên, che giấu không lộ một tẹo sơ hở, nhìn không khác gì chàng thật sự vừa mới rời khỏi nơi này chưa bao lâu.

Chủ quầy nhìn họ chòng chọc với ánh mắt “chuyện quái gì với hai người vậy” rồi cất giọng khô khan, “Sao nào, hai vị lại đổi ý muốn ở thêm một đêm à?”

Ô Hành Tuyết tự nhủ trong lòng không cần đâu, đoạn suy nghĩ xem nên lấy cớ gì để rời khỏi đây.

Ngờ đâu cớ còn chưa kịp tìm cớ xong xuôi thì Tiêu Phục Huyên đã đáp lời chủ quầy, “Làm phiền.”

Ô Hành Tuyết: “?”

<i>Huynh gượm đã.</i>

Thiên Túc thượng tiên không gượm.

Kế đó chưởng quầy cất giọng cao hơn, “Ngươi… Nhị vị thật sự muốn ở lại thêm một đêm nữa à?”

Tiêu Phục Huyên: “Ừm.”

Ô Hành Tuyết nghiêng đầu nhìn vị thượng tiên nào đó với ánh mắt đầy ẩn ý.

Tiêu Phục Huyên liếc chàng một thoáng rồi quay lại phía chủ quầy, gần như không hề mấp máy môi mà thấp giọng nói, “Lát lên rồi nói.”



<i>Được.</i>

Ô Hành Tuyết hạ mình gật đầu một cách tôn quý.

Chỗ dở của việc mất đi ký ức là việc thường thường phải chịu vâng lời.

Đường đường là một đại ma đầu thì đâu ra chuyện phải vâng lời người khác? Thế mà suốt dọc đường, chàng cứ luôn phải nhún nhường ngoan ngoãn. Chỉ e là trong mắt người không tỏ tường đầu đuôi thì đích thị là một vị công tử khiêm nhường, nho nhã và hiền hậu.

Cách miêu tả này mà lọt vào tai những kẻ trong Chiếu Dạ thành thì áng chừng sẽ doạ chúng chết khiếp.

Quả nhiên, Tiêu Phục Huyên xử trí nhanh chóng và gọn gàng, nhưng thái độ tay chủ quầy lại vô cùng khiên cưỡng. Giống như thể ông ta cực kỳ không vui trước việc khách ở lại thêm một đêm nữa vậy.

Biểu hiện của ông ta đã thành công thu hút sự chú ý của vị ma đầu nào đó.

Ô Hành Tuyết nheo hờ mắt, quan sát ông ta. Thấy người đàn ông nọ gõ gõ bàn tính hai cái rồi lấy quyển sổ bìa xanh xám ghi chú tên trên quầy lên, li3m ngón tay đặng giở tờ giấy vàng mong mỏng ra và nâng bút.

Động tác ông lẫn giọng điệu khi nói chuyện đều chậm rề rề, mặc dù nét mặt rõ ràng đứng tuổi nhưng mái tóc còn đen tuyền, hơn nửa còn toát ra dáng vẻ già nua u ám, trông khác hẳn tay tiểu nhị bụ bẫm kia.

Chưởng quầy chấm bút vào mực rồi mới ngẩng đầu lên và hỏi, “Nhị vị vẫn thuê gian cũ à?”

Tiêu Phục Huyên: “Ừm.”

Nghe được tiếng “Ừm” này, đại ma đầu không còn tâm trí đâu mà ngó nghiêng chủ quầy nữa. Ô Hành Tuyết lại ngoái sang nhìn Tiêu Phục Huyên chằm chằm. Ở góc độ này ông chủ quầy không nhìn rõ được mặt nên chàng mở miệng hỏi bằng khẩu hình: <i>Một phòng???</i>

Thế rồi chàng thấy Tiêu Phục Huyên liếc nhìn mình một cái, chỉ một cái liếc này đã thấy rõ khẩu hình miệng và thắc mắc. Thế nhưng chàng chờ mãi một hồi mà vẫn không thấy Tiêu Phục Huyên bổ sung thêm câu “Lát lên rồi nói”.

Cứ như thể… ngầm thừa nhận.

Ô Hành Tuyết trơ người câm nín giữa bầu không khí yên tĩnh, hồi sau bèn mím môi và thu tầm mắt về.

Chưởng quầy chọn lấy một chiếc chìa khoá trong hàng chìa khoá đồng treo trên móc tròn lớn rồi đưa cho tiểu nhị mập lùn. Tiểu nhị nhận lấy chìa khoá và vời hai vị khách “đi rồi lại đến” lên lầu hai.

Hắn ta ngập ngừng một chốc mới nhỏ giọng nói với gương mặt đỏ như gấc, “Ờm, quán trọ của chúng tôi không thường có khách lui tới, cũng mới hơn một canh giờ kể từ lúc hai vị trả phòng thôi, cho nên… cho nên tôi còn chưa kịp dọn phòng nữa.”

Nói đoạn, hắn ta liếc nhanh xuống dưới quầy như đang sợ ông chủ quầy nghe thấy được sự lười biếng của mình.

“Nếu hai vị không vội thì có thể chờ tôi một chút, tôi lau nhà sửa soạn lại cho tươm tất rồi sẽ đổi bình trà nóng mới…” Mập tí hon dừng chân trước cửa phòng, chưa nói dứt câu đã chợt thấy tay mình lạnh tanh, liền đó chiếc chìa khoá treo trên đầu ngón tay biến mất.

Hắn vô cùng quen thuộc với cảm giác lạnh căm này, bởi đã cảm nhận được một phen khi vị công tử với dáng vẻ nho nhã chạm vào mình ban nãy, nó khiến hắn buốt điếng người đến giật thót.

Mập tí hon bối rối đưa mắt nhìn Ô Hành Tuyết, thấy chiếc chìa khoá kia quả thật đang nằm trong tay người nọ.

Ngay sau đó, vị khách đã tự mình mở cửa vào phòng.

<i>Chà, có thế thấy chàng ta rất gấp gáp.</i>

Cậu béo nghĩ thầm.

Ô Hành Tuyết hiển nhiên không biết tiểu nhị đang nghĩ gì trong đầu, sau một hồi bị nghệch người vì câu “ở một phòng” kia, chàng thật sự muốn xem xem lúc chưa được dọn dẹp thì căn phòng này rốt cuộc trông như thế nào.

Đại ma đầu vừa mở cửa vừa nghĩ thầm, nếu mà khó coi như cái giường của Tang Dục thì…

Chàng sẽ làm thịt tên tiểu nhị tò mò tọc mạch này ngay tại chỗ.

Mập tí hon không hề biết mình vừa được dạo một vòng trước Quỷ môn quan. Cậu lôi chiếc khăn vải vắt trên vai mình xuống và tót theo vào phòng, vừa tính ra tay quét dọn thì ngẩn ngơ cả người. “Hả?”

Căn phòng trước mắt sạch sẽ tinh tươm, giường chiếu gọn gàng, ghế xếp chỉn chu dưới mặt bàn, bộ ấm trà còn đang đặt úp ngược trên khay. Gian phòng có người ở mà trông như chưa hề có ai động chạm qua một tí nào.

“Hai vị đây…” cậu béo chớp mắt lia lịa, nhìn sang hai vị khách với nét mặt ngỡ ngàng. Nói thật, cậu còn chưa từng gặp vị khách nào thu dọn phòng ốc chứ đừng nói chi đến gọn gàng bực này.

Nếu đã không ở đây thì thuê hẳn một căn phòng để làm gì?

Ô Hành Tuyết cũng ngỡ ngàng khôn cùng, song ngoài mặt vẫn không biểu lộ cảm xúc gì. Chàng quét mắt nhìn một vòng từng góc phòng rồi mới quay sang cậu béo, nói, “Không cần dọn, cậu đi đi.”

Cậu béo mừng rơn, “Dạ!” lên một tiếng rồi khoác khăn vải lên vai và phắn mất.

Người lạ vừa rời khỏi, Ô Hành Tuyết tức thì nhìn sang Tiêu Phục Huyên.

<i>Huynh được lắm Thiên Túc thượng tiên.</i>

Ô Hành Tuyết nhìn y chằm chằm, nói, “Huynh cố tình?”

Tiêu Phục Huyên nâng kiếm gõ lên cửa phòng, cánh cửa đóng lại ngay lập tức, ngăn chặn hoàn toàn gió núi về đêm bên ngoài. Y bước đến trước bàn, cúi đầu và búng tay trước ngọn nến.

Ánh đèn dầu sáng bừng lên, không rõ chỉ là ảo giác thôi hay sao mà căn phòng dường như ấm áp hơn rất nhiều.

Rút tay khỏi thành đèn, y mới ngước mắt nhìn sang Ô Hành Tuyết. “Cố tình chuyện gì?”

<i>Cố tình im lặng không nói gì khi chưởng quầy bảo “một gian phòng”, cố tình khiến người khác nảy sinh hiểu lầm.</i>

Nhưng Ô Hành Tuyết đâu nói ra được.

Bởi vì cái “hiểu lầm” nọ sẽ không còn ngay khi mở cửa vào phòng, cả chưởng quầy lẫn tiểu nhị đều đã gặp nhiều rồi nên họ vừa không cần biết cũng không muốn để ý tới.

Tác dụng duy nhất của sự hiểu lầm này xem ra chỉ nhằm trêu chọc Ô Hành Tuyết hiểu lầm trong giây lát mà thôi.

Mà cái kẻ đầu sỏ gây sự còn đang đứng bên cạnh bàn, tay ôm trường kiếm với dáng vẻ lạnh lùng lãnh đạm vốn dĩ.

Ngọn đèn dầu trên bàn lay khẽ.

Thốt nhiên, Ô Hành Tuyết có hơi tò mò muốn biết vào đợt kiếp kỳ năm đó, nếu Thiên Túc thượng tiên thật sự đã ở trong Tước Bất Lạc của mình thì sẽ có biểu cảm thế nào, liệu có phải vẫn như thế kia không…

Nhưng suy nghĩ này vừa bật ra đã bị đại ma đầu quét sạch.

Ánh đèn dầu chợt lay động, chàng nghiêng đầu chớp mắt nhè nhẹ, đến khi mở mắt ra lại liền không nhắc đến “hiểu lầm” không “hiểu lầm” gì nữa, mà chỉ âm thầm lầu bầu “thôi”, tiếp đó hỏi Tiêu Phục Huyên, “Thế vì sao huynh lại đổi ý muốn ở lại đây một đêm vậy?”

Hỏi rồi chàng mới ngỡ ra, khẽ khàng “À” một tiếng và nhìn Tiêu Phục Huyên, “Xem ra… Thượng tiên đây đã nhớ ra dịp này là dịp nào rồi?”

Phải thôi, chắc không đến mức lần nào đến phố núi Lạc Hoa cũng đều… ờm, đều ở lại nhà trọ này chứ ha.

Ma đầu thầm nghĩ.

Không ngoài dự kiến, chàng nghe thấy Tiêu Phục Huyên đáp “Ừm”, sau đó im lặng một hồi mới nói, “Đây là lần cuối cùng ta tới phố núi Lạc Hoa.”

Ô Hành Tuyết sững sờ một chút. “Lần cuối cùng?”

Tiêu Phục Huyên gật đầu. “Sau đó chỉ được nghe kể lại là nơi đây bị lửa thiêu rụi hoàn toàn.”

Ô Hành Tuyết nhủ thầm rằng thế thì ắt là đúng rồi, lý do họ bị kéo vào ảo cảnh này có lẽ do có một bí mật gì đó bị chôn giấu trong phố núi Lạc Hoa vào ngày này.

Chàng lại hỏi, “Thế hôm đó có chuyện bất thường hay đặc biệt gì xảy ra không?”

Tiêu Phục Huyên điềm nhiên đáp, “Không có.”

Ô Hành Tuyết hơi bất ngờ, “Không có sao?”

Tiêu Phục Huyên: “Ừm.”

Đúng thật là không có việc gì bất thường xảy đến vào hôm ấy cả, y chỉ vừa đúng dịp gặp được Linh Vương ở phố núi Lạc Hoa, sau đó dịch dung và dạo phố cùng nhau một chuyến.

Hôm ấy, Linh Vương vừa hoàn thành thiên chiếu nên tiêu hao không ít tiên khí, trên người toát nên vẻ biếng lười uể oải. Khi trời về đêm, gió núi lộng qua, chợt thấy người trở lạnh bèn vào nhà trọ này một đêm.

Ông chủ nhà trọ vừa chậm chạp vừa thiếu chu đáo, tiểu nhị thì lỗ m ãng và bất cẩn cực kỳ.

Y còn nhớ vào đêm thâu hôm nọ, bên trong phòng có đặt một cái lò sưởi, y châm đèn dầu trên bốn góc phòng, ánh sáng toả ngời khắp căn phòng tạo nên cảm giác vô cùng ấm áp.

Linh Vương đã mệt mỏi từ sớm, chống đầu một chút rồi dần dà cuộn mình trên giường ngủ mất, đồng thời vận tiên khí điều hoà khắp cơ thể trong giấc ngủ mê.

Còn y không thấy buồn ngủ chút nào, bèn ngồi thả chân bên bệ cửa sổ, thi thoảng nhìn người đang cuộn tròn trên giường để đề phòng đối phương điều hoà tiên khí gặp phải bất trắc giữa chừng.

Đêm ấy trôi qua thật bình lặng, không ai nói chuyện gì, nếu không bước vào gian phòng trọ này thêm một lần nữa thì có lẽ y đã quên bẵng hôm ấy mất rồi.

Thế nhưng bây giờ ngẫm lại mới thấy, không có gì bất thường mới là chuyện bất thường nhất.

***

Tiêu Phục Huyên thất thần phút chốc mới thình lình chau mày, nói, “Chắc hẳn là ký ức của ta đêm đó đã bị sửa rồi.”

Ô Hành Tuyết sửng sốt, “Ai sửa?”

Hỏi đoạn, chàng mới phát giác mình vừa thốt một câu cực kỳ thừa thãi — trên hông chàng treo chiếc chuông mộng kia, thế mà còn đi hỏi Tiêu Phục Huyên là ai đã sửa ký ức huynh ấy.

Thế nhưng dù sao đi nữa, trên Tiên Đô, Thiên Túc thượng tiên cũng là một nhân vật sánh ngang với Tiên thủ. Cho dù là người có giao tình tốt với y, hoặc thậm chí vô cùng thân cận đi chăng nữa, cũng không dễ gì xuống tay thay đổi ký ức y được.



Đến cùng, đã xảy ra chuyện gì vào hôm ấy để khiến chàng phải sửa ký ức của Tiêu Phục Huyên?

Hoặc nên hỏi, chuyện gì đã xảy ra trong nhà trọ này vào hôm ấy, từ đó dẫn đến hệ luỵ gì để sau này phố núi Lạc Hoa chỉ còn là một mảnh đất hoang cằn cỗi?

Những câu hỏi này cứ lởn vởn không ngừng trong đầu Ô Hành Tuyết, thậm chí đến khi đã chìm vào giấc ngủ mà nó vẫn bám rịt không thôi như cành dây leo khô hay mãng xà trườn lên lên phía trên và bủa ra thứ mùi âm tà hôi thối.

Vào giờ Dần giữa đêm, Ô Hành Tuyết bất chợt choàng mở mắt.

Ngay khi tỉnh lại, trước mũi chàng vẫn còn không khí âm tà ẩm ướt, giống như dư vị chưa tiêu tán từ trong giấc mơ.

Cả căn phòng tối đen như mực, tô điểm thêm sự tịch mịch xung quanh, chỉ còn hơi thở của bản thân và một người khác yếu ớt đến mức gần như không nghe được.

Chàng nằm nghiêng mình cuộn người mà ngủ, mặt xoay vào trong tường, tiếng hít thở còn lại đang ở phía sau lưng.

Đôi môi khẽ mấp máy, chàng cất giọng thì thầm gọi “Tiêu Phục Huyên”, vừa tính hỏi người kia vì sao lại tắt đèn. Xong chàng lập tức phát giác có gì đó không ổn!

Đó không phải Tiêu Phục Huyên.

Vì tiếng hít thở kia quá cận kề, đến độ… chừng như nó đang nằm ngay bên mép giường, lặng lẽ và im lìm nằm sát phía sau lưng chàng trong màn đêm tĩnh mịch.

Ô Hành Tuyết trở mình, đối diện với một đôi mắt trắng dã trợn trừng không chớp.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 37: Bức cung


Nửa đêm bị “Ma” trèo lên giường thì phúc phận cũng tốt lắm đấy.

Ô Hành Tuyết tính giả bộ nhu nhược yếu đuối chút, vậy mà rà soát cả căn phòng một lượt lại không tìm được một tí hơi thở nào thuộc về Thiên Túc thượng tiên.

Tiêu Phục Huyên thật sự không ở trong phòng.

Cũng phải, nếu huynh ấy ở đây thì chắc chắn không để những thứ bẩn thỉu như thế này bò vào phòng.

Nghĩ vậy, Ô Hành Tuyết không còn tâm trạng giả vờ nhu nhược nữa. Người ta không có ở đây thì giả bộ cho ai nhìn.

Thứ nằm kề bên trên giường vừa định ra tay, tốc độ người nọ lại nhanh hơn nó bội phần. Chỉ trong chớp mắt, cả chiếc giường trống hoác, Ô Hành Tuyết đã biến mất tăm.

Đôi mắt trắng dã như đã chết kia chớp chớp mấy cái, vồ lên khắp giường, quét sang hai bên rồi lia xuống gầm giường… mà vẫn không tìm thấy bóng dáng Ô Hành Tuyết.

Tròng mắt nọ dáo dác chuyển động cực nhanh đến mức mí mắt gần như không giữ lại nổi. Hai bên viền nổi lên sắc đen xanh tựa hồ thịt da đang trên đà thối rữa. Nó mà đảo nhanh một chút nữa có khi tròng mắt sẽ rớt liền ra khỏi hốc mắt.

Nó đang tính ngóc đầu tìm phía trước thì một giọng nói nhẹ nhàng vang lên từ đằng sau, “Tao ở sau lưng mày.”

Nó chợt cứng đờ, tròng mắt trắng dã im lìm không nhúc nhích. Ngay lập tức sau đó, ngón tay nó quắp lại như sắp phát nổ! Chợt thấy điểm trí mệnh sau gáy và da đầu bị ai đó siết lại.

Bàn tay nọ lạnh lẽo như sương giá, lạnh hơn cả người chết.

Sau một phen đất trời đảo điên, nó bị lôi mạnh thân thể rồi nện thẳng xuống mặt đất. Bàn tay bóp chặt gáy ban nãy đã chuyển sang nắm cổ họng nó.

Nó vùng vẫy kịch liệt với sức lực khủng khiếp đến độ sàn nhà bị đập rung chuyển rầm rầm, vỡ ra nhiều vết nứt dài ngoẵng.

Thế mà cánh tay trắng ngần mảnh khảnh chẳng mảy may suy suyển.

Nó có thể cảm nhận được sát ý ngùn ngụt nóng hổi từ cánh tay nọ.

“Mày thật kém may mắn, tao đây không còn nhớ gì nữa, bây giờ chỉ còn sát chiêu, tốt nhất mày nghe lời một chút, đừng phiền nhiễu,” Ô Hành Tuyết nhẹ nhàng cất giọng.

Đây là lần đầu tiên nó gây rối bất thành, không chỉ thế còn bị áp chế ngược đến mức không thể động đậy, cơ thể co rút lại một chút dưới lời đe doạ.

Trong tích tắc, gió lạnh bốc lên cuồn cuộn, cửa sổ bằng gỗ bị gió tốc mở đánh rầm vào tường.

Giữa màn đêm, Ô Hành Tuyết lại tiếp tục lên tiếng, trong giọng chàng có vẻ niềm nở hững hờ mà khi nghe vào khiến người ta cười không nổi, “Hiện tại tâm trạng ta đang không vui, cái kẻ nằm lăn lốc ngoài cửa sổ kia khôn hồn thì bò vào trong này và thắp đèn lên.”

“…”

Người ngoài cửa sổ ắt hẳn chưa bao giờ được nghe loại yêu cầu như vậy, chỉ im ỉm không đáp lời.

Hồi lâu sau, cuối cùng cũng có một cánh tay run rẩy mở cửa ra, cẩn thận chạm vào mặt bàn.

***

Đèn dầu đã tắt từ lâu lại tỏ lên, ánh nến soi sáng toàn bộ quang cảnh trong phòng…

Người thắp đèn là ông chủ quầy nhà trọ.

Ô Hành Tuyết khoác thường phục, quỳ một chân trên mặt đất, tay bóp cổ cái thứ bò lên giường nửa đêm…

Nói một cách chính xác, nó không phải đồ vật mà là một người.

Một người thoạt trông đã chết nhiều ngày.

Đầu, mặt, và cổ hắn sưng phồng lên một chút, không phải to tròn do cơ địa mập mạp mà giống như bị ngâm lâu ngày trong một loại chất lỏng nào đó nên da thịt trắng bệch và bị bơm nở ra.

Ô Hành Tuyết nghĩ đến dịch quan tài…

Có một số nơi trong dân gian, người ta mong xác chết sẽ không bị thối rữa nên thường nhờ tiên môn pha chế một vài loại nước thuốc đặc biệt để rót vào bên trong quan tài.

Trong nhất thời, gương mặt Ô Hành Tuyết không hiện chút cảm xúc nào. Chàng lướt nhìn một lượt, thấy bên hông thi thể kia còn đeo một thanh bội kiếm.

Thế nên chàng buông lỏng cánh tay trên cổ đối phương, rút thanh kiếm ra và đứng dậy.

Xác người đang muốn tận dụng thời cơ ngồi thẳng dậy liền bị mũi kiếm chặn lại ngay giữa trán.

“Ta có cho ngươi đứng dậy à?” Ô Hành Tuyết hỏi.

Ngữ điệu chàng chưa bao giờ mang vẻ hung tàn mà chỉ nhẹ nhàng thanh thoát như đang mạn đàm với người đối diện. Tuy thế, luồng sát ý nọ chưa hề thoái lui, bởi vậy xác người dưới mũi kiếm cũng không dám nhúc nhích, mà chủ quầy đứng cạnh bàn cũng không dám động đậy.

“Chủ quầy, đưa khăn sạch đó cho ta,” Ô Hành Tuyết nói.

Chủ quầy thả cái túi to tướng xuống, nhìn chòng chọc chàng với ánh mắt khiếp sợ, ông cẩn thận cầm khăn lên rồi đưa sang từ xa. Ông không dám cử động cũng không dám hó hé, chỉ có thể đứng nhìn Ô Hành Tuyết lấy khăn lau ngón tay. Thấy người nọ lau tay xong thì không làm thêm gì nữa mà buông mắt nhìn cánh tay mình.

<i>Hai bên cổ tay nhẵn mịn và sạch tươm, không bám chút vết bẩn nào, không hiểu nhìn cái gì.</i>

Ông chủ quầy thầm nghĩ.

Đáng sợ hơn nữa là người kia vừa nhìn vừa cau mày, bộ dáng rõ ràng là cực kỳ không vui.

Ông chủ quầy thận trọng rụt người lại.

Người ngoài nghiễm nhiên không biết, chính bởi trên hai cổ tay trống không không có bất kỳ thứ gì mới là điều khiến Ô Hành Tuyết cau mày.

Lần trước khi ở nhà họ Hoa, trước khi tách hồn khỏi thân thể ra ngoài làm việc một mình, Tiêu Phục Huyên có cột tơ treo lục lạc trên cổ tay chàng.

Chàng chỉ cần khẽ kéo mấy lần là người kia lập tức trở lại.

Giờ đây chiếc lục lạc để gọi người ta về cũng không có, hơn nữa không tìm thấy một chút tẹo tồn tại nào của Tiêu Phục Huyên trong nhà trọ này.

<i>Rốt cuộc là đi đâu rồi?</i>

Ô Hành Tuyết ném khăn lên bàn, ngẩng đầu nhìn chằm chặp chủ quầy.

Chủ quầy rợn tê da đầu dưới ánh mắt đau đáu của chàng, cơn lạnh trào lên sống lưng. Còn đang tính huơ tay giải thích, ông đã nghe Ô Hành Tuyết hỏi, “Tiêu Phục Huyên đâu.”

Chủ quầy ngơ ngác như thể chưa kịp nghe rõ, “Hả? Ai?”

Trong giây phút đó, ông đã mường tượng rất nhiều việc Ô Hành Tuyết có thể hỏi, ví dụ như…

Xác người trên đất này là sao? Tại sao nửa đêm xuất hiện trong phòng ta?! Tại sao ông kè kè bên cửa sổ? Các người làm vậy rốt cuộc có mục đích gì?

Bất luận là người nào gặp phải tình huống hiểm nghèo lúc nửa đêm đều sẽ thắc mắc những vấn đề này, thế mà Ô Hành Tuyết lại hỏi đúng câu không liên quan nhất.

“Ta hỏi,” Ô Hành Tuyết nhẹ nhàng nói, “người đi cùng ta đến đây đâu rồi, ông có thấy không?”

Chủ quầy lắc đầu.

Sắc mặt Ô Hành Tuyết tức thì lạnh căm.

Một khi cảm xúc không còn trên gương mặt ấy, đuôi mắt hơi rủ kia lộ rõ vẻ chán ghét, luồng sát ý chưa từng thoái lui càng trở nên nặng nề hơn.

Ông chủ quầy thật sự hoảng sợ, nhúc nhích trái cổ một chút rồi nuốt nước miếng, “Tôi… tôi không nhìn thấy thật.”

“Không phải ông bám ngay ngoài cửa sổ sao?” Giọng Ô Hành Tuyết càng nhẹ bẫng hơn.

“Tôi, tôi, tôi mới vừa lên tới, lúc tôi lên tới… lúc tôi lên tới…” dường như chủ quầy không biết nên giải thích ra làm sao, nói năng cũng rời rạc không đâu vô đâu. “Lúc tôi lên tới đã nghe thấy ngài nói ‘tao ở sau lưng mày’, sau đó… sau đó thế nào ngài cũng đã biết rồi.”

Ô Hành Tuyết nghe vậy, sắc mặt càng tồi tệ hơn. “Ông nói gì thì ta tin nấy à?”

Ông chủ quầy hoảng hốt, “Tôi nói thật! Tất cả đều là thật! Nếu tôi nói dối dù chỉ một câu thì… thì sét đánh phanh thây!”

Không phải Ô Hành Tuyết không tin lời ông ta. Thật ra, trước khi chàng hỏi vốn đã đoán trước được tình huống thế này… trông cái bộ dáng hăm doạ một phát là lúng túng co rúm người lại thế này thì không làm sao có thể gây khó dễ cho một vị thượng tiên được.

Thế nên việc Tiêu Phục Huyên biến mất cầm chắc không can hệ đến ông ta.

Ô Hành Tuyết có thể đoán được. Chẳng qua không tìm được người nên cáu bẳn trong lòng mà thôi.

“Vậy còn ngươi?” chàng trở tay cầm kiếm, đóng thẳng xuống…

Xác người đột nhiên nhắm mắt lại, chỉ chợt cảm thấy lưỡi kiếm sượt qua da đầu mình, thậm chí còn cảm giác được làn da đã bị rạch một đường. Bằng là hắn còn sống, chắc chắn máu đã tuôn trào ồ ạt từ vết rạch dài ấy.

Dù không chết được nữa, nhưng nó vẫn khiến hắn sợ hãi đến ch ảy nước mắt nước mũi dầm dề.

“Ngươi là loại gì? Vào phòng từ khi nào, người còn lại trong phòng đâu?” Ô Hành Tuyết ngồi xổm xuống.

Đôi mắt trắng dã của xác người nhìn chòng chọc vào chàng không nhúc nhích, miệng hắn hé ra một chút rồi mím chặt lại. Sau đó lắc đầu.

Ô Hành Tuyết nhìn mà cau cả mày. Chàng nâng hai bên má xác người bằng ngón cái và ngón trỏ, bóp mạnh vào.

Hai tiếng cành cạch vang lên, xương hàm người chết thả lỏng ra một tí, miệng há ngoác giống hệt như một hang động đang mở…

Hắn ta có hai hàm răng đều đặn, nhưng không có đầu lưỡi.

Ô Hành Tuyết bấu vào lần nữa thì thấy có thứ gì đó nổi lên bên dưới xương họng hắn ta, sờ vào có hơi cồm cộm, có vẻ có một cây đinh bị đóng ở bên trong.

Vừa không có lưỡi, còn bị đóng đinh, e là bởi vậy mà không cách nào nói chuyện được.

Nếu có Tiêu Phục Huyên ở đây, chắc chắn sẽ có cách khiến xác người không lưỡi này mở miệng.

Thế nhưng huynh ấy không ở đây.

Ô Hành Tuyết càng thêm bực bội, tiện tay cầm một tách trà hắt vào cạnh cánh tay xác người, trầm giọng ra lệnh, “Viết.”

Cánh tay xác người run lẩy bẩy, vẽ nên những hình thù ngoằn ngoèo vô nghĩa giữa vệt nước trà.

“Tên này… tên này không trả lời được,” chủ quầy không kìm được nên nói giúp hắn một câu.

“Vậy ông trả lời được cái gì không?” Ô Hành Tuyết nói mà chẳng màng ngẩng đầu lên. “Lúc trước có người từng nói…”

Tiêu Phục Huyên từng nói nơi này là ảo cảnh, nên tốt hơn hết không nên gây náo động quá lớn, hạn chế chịu ảnh hưởng của ảo cảnh và phát sinh ra những chuyện ngoài dự kiến.

“Huynh ấy nói không nên gây náo động quá lớn,” Ô Hành Tuyết quay đầu nhìn ông chủ quầy. “Bây giờ huynh ấy biến mất, ta không còn ai để hỏi. Ngươi nói xem… náo động như thế nào là quá lớn? Đánh nhau à? Giết người à?”

Ông chủ quầy nghe vậy tái mét mặt mũi, vội vàng nói, “Không không không, không được không được. Tôi… ôi thôi, tôi nói, để tôi nói hết mọi việc.”

Ông chủ quầy ngỏ rằng câu chuyện này kể ra thì rất dài, ông không biết nên giải thích từ đâu nên thôi đành nêu rõ cơ sự từ đầu.

***

“Tôi mở nhà trọ ở phố núi Lạc Hoa đã bao năm rồi, làm ăn yên ổn, chưa từng có chuyện gì xảy ra. Khi trước, có một số người trong tiên môn đến xem giúp còn nói rằng vị trí tôi chọn là nơi tốt nhất của Lạc Hoa Đài, nơi này là mảnh đất quý tích tụ nhiều phúc khí. Rồi về sau, một hôm nọ có cành ngọc bích mọc ra từ khe đá mặt sau nhà trọ của tôi, dù chỉ nhú ra một tí thôi…”

Ngón tay ông run rẩy, cẩn thận ra dấu chiều dài chưa đến một tấc, nói tiếp, “Tôi trộm nghĩ không biết có phải đất quý hiển linh hay không? Thế nên lại nhờ tiên môn đến xem lần nữa. Song lần này, họ lại bảo món kia không phải điềm lành, và rằng bảo địa phúc khí chỗ tôi đã tan, sắp sửa chuyển từ thịnh sang suy, từ cát hoá hung, họ còn khuyên tôi nên đổi sang một khu vực khác…”

Dĩ nhiên là ông không tin những lời xui xẻo ấy, trước đây còn bảo vùng đất này là đất quý, chẳng rõ tự dưng sao lại trở thành đất tai hoạ. Nghĩ thế, ông bèn dò la, hỏi thăm, tìm hiểu không biết bao nhiêu là sách có thể đọc hiểu và cả đọc không hiểu, đến những quyển thần thoại từ thuở khai thiên lập địa của Thiên đạo cũng không bỏ qua.

Cuối cùng, ông đã tìm thấy một câu trả lời cho mình.

“Tôi cho rằng tôi đã tìm thấy một ít tinh chất ngọc trăm năm khó gặp,” ông chủ quầy nói.

Ô Hành Tuyết từng nghe Tiêu Phục Huyên nhắc đến “tinh chất ngọc”, bèn nhướng mày.

“Tinh chất ngọc là một món bảo vật trong truyền thuyết, nếu đó là thật thì nó nên mang điềm đại cát mới đúng. Vì sao sẽ từ thịnh thành suy được!” chủ quầy nói. “Nên tôi không nghe theo lời khuyên của các vị tiên trưởng nọ và cũng không có ý định dời ra khỏi đây. Kết quả… hầy, chẳng bao lâu sau đã xảy ra chuyện.”

Chủ quầy nhác nhìn sắc mặt của Ô Hành Tuyết, nói tiếp, “Có một vị khách bất chợt biến mất, tìm sao cũng không ra dấu vết.”

“Vị khách ấy dắt theo con gái, cô bé kia tuổi hãy còn nhỏ, nói năng cũng chưa được trôi chảy lắm, khóc lên khiến mọi người nao lòng. Tôi cũng không cách nào ngó lơ, bèn mời tiên môn đến xem giúp. Phố núi Lạc Hoa đông người qua lại, thành phần đa dạng, những vị tiên trưởng nọ sợ gây động tĩnh quá lớn nên đều ở trong quán trọ của tôi đặng âm thầm tra xét. Kết quả…”

Chủ quầy lại lặng lẽ liếc nhìn Ô Hành Tuyết cái nữa, do dự tính nói nhưng rồi im lặng, có vẻ không dám kể tiếp.

Ô Hành Tuyết nhìn ông ta chằm chằm, nói, “Kết quả.”

Chủ quầy nuốt nước bọt, nhắm mắt lại nhận mệnh mà tiếp lời, “Kết quả là những vị tiên trưởng nọ lục khắp toàn bộ phố núi Lạc Hoa mà không tìm thấy vị khách nọ. Anh ta cứ thế biến mất vào hư không, không bao giờ xuất hiện trở lại nữa.”
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 38: Nhung nhớ


Xét về mức độ bi thương, việc mất mát một ai đó vốn không phải điều quá kinh thiên động địa trong thời bấy giờ. Mỗi ngày đều có người lìa khỏi thế gian, và không phải cái chết nào cũng rõ ràng minh bạch.

Nhóm đệ tử tiên môn kia không tìm được người mà cũng không dò ra nguyên cớ, đến cuối cùng chỉ đành đưa ra lời kết luận dễ được người ta chấp nhận nhất – tà ma quấy nhiễu.

Chắc hẳn là một tên tà ma ẩn náu hoàn hảo và chưa từng bị phát hiện đã âm thầm ăn mất chàng trai kia.

Bởi thế, vấn đề “tìm người mất tích” đã trở thành vấn đề “tìm tà ma ẩn náu”.

Để rồi tiếp sau, nó dẫn họ đến một kết quả hãi hùng…

Đến tận hiện tại, mỗi khi nhớ đến khung cảnh ấy, chủ quầy vẫn còn ớn lạnh cả thân thể, tê rần da đầu, ông mở giọng khô khan, “Ngài… ngài đã từng thấy phù dò ma các tiên trưởng thường dùng chưa, cái loại đốt giấy bùa thành tro rồi thả vào trong gió, gió sẽ cuốn tất cả tro ra ngoài và tụ lại ở nơi có vương hơi thở của tà ma.”

“Vào hôm đó, tôi đã chứng kiến số tro giấy kia bị thổi bay khỏi quán trọ của tôi ra ngoài. Nhóm tiên trưởng sợ đe doạ đến những người bên ngoài, nên giả vờ đi tuần hàng ngày hoặc dạo phố thông thường để men theo hướng tro giấy đi một vòng hết phố núi Lạc Hoa, rồi cuối cùng lại quay về quán trọ của tôi…”

Khi đó, ai nấy đều ngỡ ngàng nhìn lẫn nhau, tưởng do ở phố núi Lạc Hoa quá đông người dẫn đến việc khí của người sống dày đặc đã áp đảo tất cả khí tức của tất cả những thứ khác, nên khiến phù dò ma mất đi tác dụng.

Họ toan thu tro giấy lại thì thấy số tro xám bạc kia cuộn tròn lại và bám vào một người.

Người đó lại chính là cô con gái nhỏ của anh chàng bị mất tích kia.

Cô bé hãy còn nhỏ tí, tiểu nhị không nỡ thấy cô khóc lóc không ngừng nên đã ra chợ ôm về một đống đồ chơi để dỗ dành cô, không chỉ thế còn vào bếp hâm cho cô một chén chè táo tàu ngọt lịm.

Vào thời điểm đó, cô bé kia đang ngồi trước gian phòng đón khách nhà trọ, húp từng muỗng chè một.

Khi tro giấy bám trên người, cô giương mắt lên nhìn về phía mọi người và khẽ li3m khoé miệng.

Thoạt tiên, tất cả mọi người đều chết lặng, kế theo bỗng thấy sao vừa trớ trêu vừa khó lòng tin nổi…

Cô bé nhỏ tí này đã ăn chính người cha của mình?

Làm sao có thể…

Thế là nhóm người thuộc tiên môn kia lại thử một loại phù tìm hồn khác. Ban đầu, họ dùng phù tìm hồn này trên từng ngóc ngách ở phố núi Lạc Hoa để tìm chàng trai bị mất tích, song hoàn toàn trắng tay.

Lúc này, họ dùng lại loại phù tìm hồn ấy thì thấy nó lửng lơ trên không một hồi rồi cuối cùng rơi xuống cạnh chân cô bé kia.

Nếu phù tìm hồn không bị nhầm lẫn thì phần hồn phách còn vương lại của người bị mất tích thật sự nằm trên người cô bé kia…

Trong khoảnh khắc ấy, tất cả mọi người lặng bặt như ve sầu vào đông.

***

Sau đó, nhóm tiên môn nọ dẫn cô bé kia rời khỏi, câu chuyện “vị khách biến mất không rõ nguyên do” cũng xem như đã giải quyết tròn vẹn.

Ông chủ quầy và tiểu nhị của quán trọ đều bị doạ một phen, lâm bệnh mấy ngày liền. Sau khi họ khỏi bệnh, mọi việc lại quay về guồng máy như thường lệ, họ cũng dần không nhớ đến chuyện đó nữa.

Cho đến năm sau, khi phố núi mới lên đèn mở chợ ít ngày, lại có chuyện xảy ra trong nhà trọ…

Vào hôm đó, một người với dáng vẻ thư sinh đi chung với thư đồng đến thuê phòng trọ, chàng ta nói cười niềm nở, trông vô cùng nhã nhặn khiêm cung.

Thế nhưng chỉ sau một đêm, cậu thư đồng chàng mất tích. Chuyện xảy ra giống hệt hai cha con lần nọ.

Chủ quầy tưởng như cơn ác mộng lại ập về lần nữa. Ông nhìn dáng vẻ “lo lắng nôn nao” của chàng thư sinh mà chỉ tưởng tượng đến hình ảnh một tà ma ăn uống no say li3m láp khoé miệng bên dưới lớp vỏ bọc da người kia.

Rồi cũng tương tự lần trước, ông mời mấy vị tiên trưởng đến, và chứng kiến họ lần lượt dùng phù dò ma rồi phù tìm hồn.

Kết quả không ngoài dự đoán, cả phù dò ma lẫn phù tìm hồn đều dẫn đến người thư sinh nọ.

Lúc bị tấm phù dán lên người, trên gương mặt nho nhã của chàng thư sinh hiện nét hoảng sợ kinh hoàng còn khiếp đảm hơn tất cả những người còn lại. Chàng điên cuồng phủi tro tàn của phù dò ma ra khỏi người mình, miệng liên tục hô “Không phải tôi” “Không phải tôi”, chàng ta hoảng hốt đến độ ngã xuống đất, mất hoàn toàn phong thái nho nhã.

Chủ quầy nhìn thấy cảnh tượng đó thì chợt nảy một ý nghĩ cực kỳ rùng rợn — nếu sự thật không phải viên thư sinh nọ che giấu đến kín kẽ mà chỉ là trót lỡ vô tình, thì có khi nào chàng ta đã bị thứ gì đó thao túng trong lúc mơ ngủ không? Và liệu có khi nào chàng ta vốn hoàn toàn bình thường, nhưng vì quán trọ có vấn đề nên mới dẫn đến sự tình như vậy hay không?

Ông nhớ đến lời khuyên trước đây của nhóm người tiên môn rằng chỗ ông đã chuyển từ đất phúc sang đất hoạ, chắc chắn sẽ phát sinh việc âm tà.

Nó khiến ông khiếp sợ khôn cùng, còn cảm thấy từng tấc đất dưới chân mình đều mang dáng vẻ ma mị dị thường.

Dù rằng những việc này chỉ xảy đến với khách, và suốt hai năm cũng chỉ có hai người bị thì cũng không tính nhiều nhặn cho lắm. Nhưng đâu chắc được sau này sẽ như thế nào, biết đâu có một ngày chuyện sẽ xảy đến với chính họ thì sao?

Đợt đấy, ngày nào ông chủ quầy cũng mơ thấy ác mộng, hoặc thấy cảnh mình bị tiểu nhị trong nhà trọ ăn, hoặc thấy cảnh mình ăn tiểu nhị trong nhà trọ. Mà cảnh tượng nào cũng khiến ông trằn trọc mất ngủ cả đêm.

Thế nên, ông không gắng gồng nữa mà lại nhờ tiên môn đến giúp đỡ.

***

“Thật ra họ rất niềm nở chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi, và cũng phái kha khá người có kinh nghiệm đóng giả làm khách ở lại quán trọ tôi hàng ngày,” chủ quầy kể với vẻ mặt rầu rĩ. “Thế nhưng ông trời thật muốn trêu ngươi tôi mà, người tiên môn đến thì không xảy ra bất kỳ sự cố nào. Một lần cũng không có, tất thảy đều gió êm sóng lặng.”

“Người ta bộn bề công vụ, còn phải dành thời gian để tu hành, đâu thể ở lì trong quán trọ tôi cả ngày được. Thế nên họ mới nghĩ ra một phương pháp chu toàn đôi bên,” chủ quầy chỉ xác người trên mặt đất. “Chính là nó…”

Đây là lần đầu tiên ông nhận ra, thì ra ngay cả tiên môn cũng dùng những phương thức thoạt nhìn không được quang minh chính phái cho lắm như “Đuổi thi” này.

Vào thời điểm đó, người trong tiên môn đã giải thích với ông rằng, “Nếu không rơi vào tình huống bất đắc dĩ thì chúng tôi cũng không làm vậy đâu. Có lẽ ông chủ còn chưa biết, xác người nhạy cảm với tà ma hơn người sống chúng ta rất nhiều, sử dụng còn hiệu quả hơn những loại như phù dò ma. Nếu có tà ma vào nhà trọ của ông thì chắc chắn nó sẽ nhận ra. Nên dùng nó có thể ngăn cản những việc tương tự lúc trước phát sinh.”

“Nhưng sau đó thì sao?” Chủ quầy nghe vậy cũng chưa cảm thấy thấy an tâm tuyệt đối. “Đâu thể chỉ cản lại, nhỡ như cản không được thì sao!”

Người tiên môn trả lời, “Trên người nó có phù chú, nếu có kẻ động thủ ở đây thì dù cách xa ngàn dặm chúng tôi cũng sẽ biết. Một khi nhận được tin sẽ cử người đến đây ngay lập tức. Dù có là tà ma hay hung hoạ gì đi chăng nữa, có thể khẳng định đó là lúc hơi thở chúng nồng đậm nhất, nên sẽ dễ dàng tìm ra dấu vết. Đến khi đó để xem xem rốt cuộc chỗ nào trong khu đất nhà ông là đất hoạ, và lý do vì sao nó lại trở thành đất hoạ.”

Dù các vị tiên môn nhiều lần cam đoan rằng họ đã xử lý xác người này tươm tất rồi, hoàn toàn không giống gì âm thi mà bọn tà ma ngoại đạo hay dùng đâu. Nhưng ông chủ quầy vẫn bất an trong lòng và nghi ngờ đôi phần.

Theo lời dặn dò của nhóm tiên trưởng, ngày ngày ông để xác người kia bên trong cỗ quan tài, rồi đặt quan tài lên gác mái trên tầng cao nhất, đồng thời dán một số lượng kha khá phù chú niêm phong trên nắp quan tài.

Ông cũng dặn dò tiểu nhị trong nhà trọ phải nhớ thường xuyên thay mới số bùa chú đó để tránh trường hợp quan tài bị niêm phong không kín, xác người bên trong xổng ra gây loạn.

***

Cứ thế qua hai năm, không còn tai hoạ mới nào xảy ra trong nhà trọ nữa, xác người nọ cũng nằm yên bên trong chứ không lật nắp quan tài.

Con người chính là thế đấy, sớm lành thẹo chóng quên đau.

Dần dà, ông chủ quầy lại lần nữa cảm thấy cái gọi là đất hung gây hoạ chẳng qua cũng chỉ là nhất thời. Người ta thường nói tiểu vận ba năm, đại vận mười năm, cho dù lúc trước có kém may mắn thì cũng đến lúc thời thế đổi thay thôi.

Tiểu nhị nhà trọ đã ám mùi tử thi, bản thân ông trằn trọc sưng cả bọng mắt, rồi cuối cùng cũng được ngon giấc. Thế nhưng tình hình kinh doanh của nhà trọ không cách nào cứu vãn được.

Mặc dù ai cũng kín tiếng hai tai hoạ kia, không lan truyền lung tung bên ngoài phố núi Lạc Hoa, song nhà trọ của ông vẫn ngày một vắng vẻ, khách đến mỗi lúc một ít.

Sau hai lần tai hoạ kia, chủ quầy và tiểu nhị quán trọ đã tạo thành một thói quen xấu…

Nếu khách đến đơn lẻ thì họ tiếp đón vô cùng niềm nở. Còn nếu có hai người đi cùng nhau thì họ cực kỳ miễn cưỡng và lo lắng, sợ rằng ngủ dậy một giấc rồi bỗng dưng lại có một người biến mất.

Chủ quầy nhìn lướt qua Ô Hành Tuyết với vẻ mặt khiếp sợ rồi nhanh chóng thu tầm mắt về, “Ngày hôm trước hai người đến ở trọ, tôi đã sợ chết khiếp rồi, thật sự là sợ chết khiếp luôn đó! Cả đêm hôm đó tôi không chợp mắt được tí nào, mà cũng không dám mở mắt ra, tôi cứ lo đến đêm sẽ có sự cố.”

Chủ quầy còn chưa dám nói ra một chuyện — ông ta thật sự vểnh tai nghe lén tình hình bên trong phòng khách suốt cả đêm. Chẳng qua, đêm hôm đó trôi qua thật bình yên, ông không nghe thấy một chút âm thanh nào, thậm chí không có cả tiếng nói chuyện, tiếng bước chân, hay bất cứ tiếng động nào khác.

Ông đã từng ngờ rằng hai vị khách nọ đã đặt cấm chế hay kết giới gì đấy quanh căn phòng.

Đến sáng sớm ngày hôm sau, ông đứng sau quầy đợi chờ hai vị khách kia rời phòng bước xuống sảnh.

“Khi thấy cả hai người đều toàn vẹn trở xuống, tôi nhẹ nhõm cả người.” Chủ quầy thở dài nói, rồi tiếp tục với giọng buồn rầu, “Cho nên, rốt cuộc tại sao hai người còn phải quay trở lại làm gì, nếu không ở thêm một đêm này thì ngài đã không…”

Chủ quầy chất chứa bao ngao ngán trong lòng, đến khi tuôn trào hết nửa mới sực nhận ra mình vừa nói gì. Ông ngưng bặt giọng, dè dặt ngước nhìn.

Đối diện là đôi mắt sâu thẳm của Ô Hành Tuyết đang nhìn ông. “Ta đã không thế nào?”

Chủ quầy căng thẳng nuốt nước bọt, có thêm một trăm lá gan nữa ông cũng không dám nói tiếp.

Nhưng dù không nói lời nào, Ô Hành Tuyết vẫn hiểu ông đang ám chỉ điều gì.

Ông đã kể rất nhiều chuyện — kể rằng cô bé kia gặp hoạ ở nơi này và ăn thịt cha ruột mình vào nửa đêm; kể rằng viên thư sinh kia gặp hoạ ở nơi này và ăn thịt thư đồng của mình vào nửa đêm.

Giờ đến phiên Ô Hành Tuyết cũng tương tự như vậy. Theo góc nhìn của ông chủ quầy, đây cũng đơn thuần là một tai hoạ dẫn đến thảm kịch người nhà ăn thịt nhau mà thôi.

Trong phút chốc, Ô Hành Tuyết cảm thấy phi lý cực độ, phi lý đến mức chàng muốn bật cười thành tiếng.

<i>Không thể nào, mình không hề bị điên.</i>

Chàng nghĩ thầm.

Nhưng chẳng mấy chốc, chàng lạnh cả lòng bởi một ý nghĩ cực kỳ phi lý trong những điều phi lý nọ…

Vì chàng đích thực là tà ma.

Mà tà ma không màng đúng mực — Tang Dục ngay phút trước nương nhờ tinh khí con người để sưởi ấm xoa dịu bản thân, rồi ngay giây phút tiếp theo đã uống sống máu người kia. Vân Hãi nguyên là tiên cũng không tránh khỏi mất kiểm soát và hành động bừa bãi.

<i>Còn mình thì sao?</i>

Ô Hành Tuyết nghĩ thầm.

<i>Mình từng có những lúc như vậy hay không? Mình từng mất kiểm soát rồi sao? Còn từng làm chuyện gì tương tự? Và cả…</i>

<i>Tiêu Phục Huyên có từng nhìn thấy không?</i>

Thật ra, chàng cũng không tin rằng đường đường là Thiên Túc thượng tiên lại có thể biến mất tăm và vĩnh viễn không bao giờ trở lại trong một quán trọ nhỏ, những lời đồn kia không khiến chàng sợ hãi.

Chỉ là, chàng bất giác mong mỏi được gặp đối phương, mong mỏi khôn cùng.

Ý nghĩ này chỉ vừa loé lên, bỗng có tiếng bước chân ồn ào vang lên ngoài cửa phòng. Một đống tro giấy lùa vào bên trong và tập trung bên người Ô Hành Tuyết.

Có lẽ tà ma khí quá mãnh liệt nên số tro bụi kia còn b ắn ra tia lửa lập loè.

Một nhóm người vận trang phục đệ tử đồng màu đuổi theo số tro kia chạy vào phòng, họ búi cao tóc bằng phát quan treo lụa dài, mỗi người đều cầm kiếm trong tay, trên vỏ kiếm bạc khắc một con dấu tròn sắc đỏ với chữ “Phong” bên trên.

Đây là nhóm tiên môn thường được mời đến phố núi Lạc Hoa, người nhà họ Phong.

Dẫn đầu nhóm là một cô nương với gương mặt sáng láng, nàng lên tiếng, “Xác người im lìm không cử động một lúc rồi, ắt hẳn đã chế ngự tà ma kia phải khuất phục r…”

“… rồi.”

Vừa bước vào phòng, họ thấy ngay xác người “im lìm không cử động” trên mặt đất và tà ma “bị khuất phục” đang cầm kiếm trên tay.

Tà ma nọ có chất giọng mơn man như làn gió, nhưng lời nói ra càng nghĩ càng đáng sợ, “Phiền các vị giúp ta đào ba thước đất tìm một người, không tìm được thì đừng về.”

❄︎

Lời tác giả:

Ngủ ngon ~

Cá:

Tuyết Nhi: nhớ chồng rồi, trả chồng đây!!!! (⇀‸↼‶)
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 39: Thần mộc


Người nhà họ Phong không tài nào ngờ được vừa mới đến đã nghe thấy một câu như vậy.

Mấy trăm năm nay, hoạ hoạn không ngừng xảy ra trên thế gian, nhưng nhờ có sự bảo hộ của nhà họ Phong mà phố núi Lạc Hoa vẫn luôn giữ được sự hưng thịnh và nhộn nhịp. Bởi thế, mỗi khi nhìn thấy họ, những người trong phố núi đều tỏ lòng kính trọng khôn cùng.

Một khi tà ma phải đương đầu với họ, đặc biệt khi thấy những thanh gươm khắc chữ Phong, chúng đều tỏ vẻ kiêng dè, thường sẽ lập tức tấn công hoặc ngoảnh đầu chạy biến.

Hôm nay là lần đầu tiên họ gặp phải một vị như vậy.

Tà ma này vô cùng dửng dưng trước kiếm mang danh “Phong” thì chớ, mở miệng nói câu đầu tiên không phải hô đánh hô giết, mà lại bảo họ làm việc.

Quả thật quỷ quái!

Cô nương trẻ tuổi nọ nghe vào mà cứng cả họng, suýt chút ức chế không biết nên trả lời làm sao. Nàng ngây người giây lát rồi trừng to đôi mắt hạnh và nói, “Ngươi là một… người bò ra từ dưới lòng đất bẩn thỉu, chớ có ngông cuồng mạnh miệng!”

Lẽ ra, nàng có thể tỏ vẻ hung hãn hơn nữa, song tên tà ma này toát ra dáng vẻ tự phụ như lẽ nghiễm nhiên, khi đối diện với một người như vậy thật khó lòng thốt ra những câu từ quá chát chúa.

Dù vậy, nó cũng không cản trở họ xuất kiếm—

Lời hăm doạ của tà ma vừa nói ra, bảy tám đệ tử nhà họ Phong đã đồng loạt rút trường kiếm bên hông!

<i>Keng keng —</i>

Vừa nghe thấy mấy tiếng kiếm vang dội, kiếm khí trên thân những thanh trường kiếm kia tức thì hoá thành mũi nhọn và đâm thẳng về phía Ô Hành Tuyết!

Ngay tiếp đó, chỉ còn thoáng thấy bóng người nọ — kiếm khí luân phiên xuyên xé nhưng không hề chạm đến tà ma kia mà hướng thẳng về chiếc giường phía sau lưng.

Tiếng gỗ gãy lìa nảy lên liên hồi, gỗ vụn bắn tung toé khắp nơi.

Chủ quầy đứng cạnh bàn giật bắn cả người, hối hả lùi về sau mấy bước để nấp vào bên cạnh đệ tử nhà họ Phong, đảm bảo an toàn cho tính mạng bản thân.

Ông vừa dịch chuyển thì nghe thấy một tiếng nổ <i>đùng</i> nặng nề.

Bốn thanh chống giường bị kiếm chém tan tành, chiếc giường mới rồi còn nguyên vẹn đổ sầm trên mặt đất và trở thành một đống gỗ nát.

Tất cả những người nhà họ Phong đều mất hồn mất vía.

“Người đâu rồi?!” Họ thốt hỏi một câu, không ngờ lập tức nghe thấy lời đáp.

“Các người tìm ta à?”

Tiếng nói truyền đến từ sau lưng.

Ai nấy đều sượng cả người, đoạn đột ngột quay đầu lại thì thấy tà ma kia đã di chuyển tức thời đến giữa nhóm bọn họ tự khi nào.

Tà ma đứng sau lưng một viên đệ tử xui xẻo, nắm lấy cánh tay đệ tử kia và ép ngược thanh kiếm của cậu vào bên trong, mũi kiếm đảo chiều kê bên cạnh cổ cậu đệ tử nọ.

“Ngươi…” nét mặt cậu đệ tử tái me tái mét, trông cực kỳ căng thẳng, gân xanh nổi cộm trên mu bàn tay.

Cậu gắng gượng tranh đấu với bàn tay đang nắm cổ tay mình nhưng không chút hiệu quả, còn suýt nghiến đến gãy răng.

Chợt nghe tà ma kia cất giọng thong dong, “Có người không cho ta náo động quá ầm ĩ nên ta cũng chỉ đành làm vầy. Lẽ ra ta nên khống chế vị đi đầu kia, thế nhưng đứng đầu nhóm các vị lại là một cô nương, ra tay bừa bãi lại hoá ra không khác gì hạng háo sắc. Ta cũng hết cách, chỉ đành làm khổ cậu vậy.”

“…”

Giọng điệu nghiêm túc cực kỳ, đệ tử nghe xong thiếu điều hộc máu.

Mà vào tai những người khác còn mang thêm một tầng nghĩa rằng: <i>Ta có khả năng bắt bất kỳ ai trong các ngươi, chẳng qua tuỳ ý ta chọn lựa mà thôi.</i>

Mấy đệ tử bị khích vậy thì sa sầm nét mặt, toan giương kiếm lên thì nghe thấy một tiếng r3n rỉ, lưỡi kiếm nhấn sâu hơn bên cổ cậu đệ tử bị bắt, vết hằn nông hiện ra trên cuống họng.

“Không một ai cử động!” Cô nương trẻ tuổi quát lên.

Ai nấy đều siết chặt chuôi kiếm trên tay nhưng không nhúc nhích.

Lưỡi kiếm kề trên cổ đệ tử nọ cũng ngừng lại, không nhấn sâu xuống nữa.

Chủ quầy chần chừ một chút rồi lẳng lặng nhích từng bước nhỏ trở lại kế bên bàn.

Cô nương trẻ tuổi nhìn chằm chặp thanh kiếm kia một hồi, cuối cùng cất giọng, “Khi chúng ta vừa vào phòng, ngươi nói muốn tìm người?”

“Đúng vậy.”

Gương mặt xinh đẹp của nàng nhăn nhúm lại. Nàng nhìn Ô Hành Tuyết với vẻ khó hiểu một lát mới dời mắt mình sang chủ quầy và thấp giọng hỏi, “Rốt cuộc tại sao lại thành ra thế này? Không phải lần này cũng giống những tai hoạ lúc trước à?”

Chủ quầy trông vô cùng đau khổ. “Đúng là giống đấy.”

Cô nương trẻ lại liếc sang Ô Hành Tuyết, rồi liếc sang chủ quầy. “Vậy phải tìm ai? Người mất tích lẽ ra nên là…”

Chủ quầy khoát tay lia lịa. “Đừng nói đừng nói! Xin các tiên cô tiên trưởng hãy làm theo và cứ tìm giúp đi ạ.”

Cô nương trẻ hãy còn chưa cam tâm, quay đầu nhìn Ô Hành Tuyết chằm chằm lần nữa. “Nếu ngươi đã mạnh đến mức muốn bắt ai có thể bắt ngay người đó, xem ra không một ai trong nhóm chúng ta có thể gây khó dễ nổi, vậy thì ngươi…”

Ánh mắt nàng lấp láy, dường như đã bắt được sơ hở, nói, “Vậy thì ngươi cần gì phải nhờ đến sự trợ giúp của chúng ta cơ chứ? Muốn tìm một người thì cứ tự mình tìm là được. Xét ra thì… chẳng lẽ trên cơ thể ngươi còn có hạn chế gì đó? Bị thương? Thế thì chẳng qua ngươi đã là nỏ mạnh hết đà, giờ chỉ đang giở chiêu ra oai với bọn ta thôi đấy hả?”

Cũng không phải họ chưa từng gặp tà ma chỉ giỏi hư trương thanh thế, bởi vậy những lời của nàng tương đối thuyết phục.

Một số đệ tử tiếp tục siết chặt kiếm, cố gắng chú ý xem có sơ hở nào trên người Ô Hành Tuyết hay không thì nghe trả lời, “Không phải.”

Ma đầu nhìn họ với đôi ngươi đen thâm, nói, “Đó là vì ta chỉ biết giết người, không làm được những chuyện khác.”

Mọi người: “…”

Những lời Ô Hành Tuyết nói đều là sự thật, thế nhưng người ta nghe vào không khác gì một câu đe doạ. Không chỉ thế, lời đe doạ này vô cùng rõ ràng và tương xứng với ánh mắt hắn, hoàn toàn không giống một kẻ hư trương thanh thế.

Ông chủ quầy điên cuồng nháy mắt ra hiệu, song đệ tử nhà họ Phong vẫn chưa biết nên làm sao.

Mắt thấy Ô Hành Tuyết nhíu mày, dường như bắt đầu thiếu kiên nhẫn, cô nương trẻ nọ bèn nói, “Được, chúng ta tìm.”

Nàng rút ra mấy tấm giấy bùa có đóng con dấu của nhà họ Phong từ trong ngực, không buồn mượn tạm bút lông của chủ quầy mà quẹt ngón tay mình lên lưỡi kiếm rồi cất giọng hỏi với ngón tay lấm máu, “Tên người ngươi muốn tìm là gì?”

Lúc hai người vào tiệm, chủ quầy có hỏi tên và ghi lại trong hồ sơ của nhà trọ. Ông nhớ lại tên mà hai người cho hay vào lần đầu họ đến trọ ở chỗ mình và tính trả lời.

Thì nghe Ô Hành Tuyết nói, “Tiêu Phục Huyên.”

Chủ quầy ngậm miệng. “?”

Đệ tử nhà họ Phong lại há hốc miệng. “???”

Bầu không khí trong phòng im phăng phắc.

Một lát sau, chủ quầy lắp ba lắp bắp hỏi, “Hả?”

Rồi ông nói tiếp, “Lúc hai người đến nhà trọ đưa tên khác mà… tên này… tên này không phải tên của vị Thiên Túc thượng tiên ấy sao… vậy…”

Ông ta lí nhí lặp đi lặp lại với nét mặt rõ vẻ thảng thốt. Song điều này mới thực bình thường, ai nghe thấy việc Thiên Túc thượng tiên ở quán trọ nhà mình hai ngày cũng sẽ hoảng sợ như vậy thôi.

Thế nhưng có một khoảnh khắc nào đó, trong nỗi thảng thốt lại loáng hiện một cảm xúc khác, nó thoắt đến nỗi gần như chưa từng hiện ra ngoài.

Nhưng Ô Hành Tuyết vẫn thấy.

Cảm xúc ấy… là vui mừng?

Nhưng đó tựa chừng không phải hoan hỉ vui mừng, mà gần giống với chuỗi ngọc lưu ly bị bám bụi lâu ngày bỗng chốc vun vén linh hồn mà loé bừng lên một thoáng.

Ô Hành Tuyết nhớ lại một chút thì thấy ánh mắt ấy khá quen — nó gần giống như đôi mắt Y Ngô Sinh lúc nắm chặt vạt áo chàng trong sân nhà họ Hoa và kêu lên “Cứu tôi với”.

Lẽ nào ông chủ quầy cũng bị tà ma chiếm thân, khi nãy nghe thấy cụm “Thiên Túc thượng tiên” mới chợt lộ nguyên hồn trong nháy mắt?

Không đúng, trông ông ta không giống, vả chăng trên cơ thể ông ta cũng không có tà ma khí.

<i>Vậy thì là chuyện gì?</i>

Ô Hành Tuyết thầm thắc mắc. Chàng ngẫm lại những lời chủ quầy kể ban nãy, bất chợt phát giác ra một vấn đề vô cùng vô cùng tiểu tiết…

Chủ quầy nói rằng, sau khi viên thư sinh và thư đồng mắc nạn, ông ta nhớ đến những lời khuyên nhủ của người trong tiên môn và cho rằng quán trọ của mình quả thật là một vùng đất tai hoạ, từng tấc đất đều mang dáng vẻ ma mị. Cũng bởi thế mà ông thường xuyên gặp phải ác mộng, mất ngủ cả đêm.

Vì vậy, ông đã đến tìm tiên môn nhờ giúp đỡ.

Thoạt nghe qua, đây là những câu chữ rất bình thường, song giờ ngẫm lại có hơi kỳ lạ.

Nếu cuộc sống hàng ngày không an ổn, đến đêm còn trằn trọc khó ngủ, vậy vì sao ông ta không đổi sang một chỗ khác? Ông ta cam lòng đặt một cỗ quan tài rợn người trong nhà trọ, nuôi một con xác người không chắc có kiểm soát được mãi hay không, mà lại chưa từng tính đến chuyện chuyển sang một nơi khác.

Tại sao?

Vì ông không muốn đổi? Hay không thể đổi?

Ông tiếc nuối nhà trọ này? Hay vì một lý do nào đó mà không thể rời khỏi nơi này?

Ô Hành Tuyết nheo mắt.

***

Chủ quầy chỉ vừa chớp nhẹ mắt, bỗng thấy một cơn gió se lạnh lùa qua từ sau gáy. Ngay kế đó, mũi kiếm có thể chém lìa cọng tóc phất bay đã kề sát cổ.

Ô Hành Tuyết vừa tích tắc trước còn bắt giữ đệ tử nhà họ Phong mà giờ đã đứng sau lưng ông, tốc độ nhanh như một bóng ma.

Ông nghe Ô Hành Tuyết thấp giọng hỏi, “Khiếp sợ nơi này nhưng không rời khỏi nơi này… ông đang canh giữ cái gì à?”

Câu hỏi này tựa chừng đã khoét một lớp rách bên ngoài vỏ bọc phong kín.

Đôi mắt chủ quầy loé lên trong giây lát, cả cơ thể rung lên kịch liệt như thể vừa choàng tỉnh khỏi một giấc mơ thật dài.

Hàng mi ông run rẩy và đôi môi hé mấp máy, trông giống đang cố gắng nói ra chuyện gì đó, song đến cùng chỉ mím môi lại rồi lắc đầu một cách chật vật. Có vẻ như ông muốn nói mà bị một thứ gì đó ràng buộc nên không thể nói ra, thậm chí còn bị ép phải phủ nhận và đưa ra giải thích trái ngược.

Dù phản ứng như vậy cực kỳ bất thường, nhưng đã khẳng định suy đoán của Ô Hành Tuyết.

Lúc trước, chàng nghe chủ quầy kể trời trăng mây nước, còn tưởng rằng ông ta là kiểu người thích nói nhiều. Nào là cô bé kia ăn cha ruột mình, nào là thiếu gia ăn thư đồng mình, đều là những chuyện chỉ cần nói sơ vài câu là có thể giải thích đầy đủ, mà chủ quầy lại cố tình bắt đầu kể từ “lúc sân sau mọc tinh chất ngọc”.

Giờ ngẫm lại thấy hệt như ông đã cố tận lực trong giới hạn cho phép để kể cho người nghe ẩn ý sự việc sau những câu chữ mịt mờ mông lung rằng, khu đất này có điểm bất thường, nhưng tôi không cách nào đi được.

Ô Hành Tuyết hỏi tiếp, “Ông đang canh giữ một thứ gì đó hay một nơi nào đó?”

“Ai bắt ông canh?”

“Rồi cả…”

<i>Liệu có phải Tiêu Phục Huyên ở đó hay không…</i>

Chủ quầy căng thẳng, cố gắng hấp háy môi.

Có lẽ trong những năm gần đây, ông đã nói đi nói lại câu chuyện này cho rất nhiều người, song ai nghe thấy cũng khiếp sợ hãi hùng hoặc kiêng dè, chứ không một ai suy nghĩ sâu xa về nó cả.

Bây giờ, cuối cùng ông đã gặp được một người hỏi cặn kẽ những chuyện này, nên bất luận ra sao ông cũng muốn nói thêm chút nữa.

Chủ quầy cất giọng nghẹn ngào, rặn ra từng chữ một để hỏi Ô Hành Tuyết một câu, “Ngài có biết… vì sao nơi đây được gọi là… Lạc Hoa Đài…”

Ô Hành Tuyết ngẩn người, trong đầu cũng hiện lên một câu tương tự:

“Ngươi có biết, vì sao nơi đó có tên là Lạc Hoa Đài không?”

***

Đêm ấy là một đêm dài trên Tiên Đô.

Hôm đó, Linh Vương Ô Hành Tuyết cũng vừa hoàn tất công sự và quay về Toạ Xuân Phong, đuổi hai nhóc đồng tử loi nhoi đi nơi khác rồi cầm một vò ngọc tử, leo lên mái hiên ngọc cao cao trên nóc toà dao cung.

Sương mù bảng lảng bên mái hiên, chàng tựa một chân vào trong ấy, chẳng khác nào đang nghiêng mình bên mép một áng mây lững lờ.

Sau khi nhấp ba chung rượu, chàng bắt đầu cảm thấy lâng lâng muốn thiếp ngủ, bèn ngả lưng xuống mái, tựa đầu lên khuỷu tay, trên mặt vẫn đeo chiếc mặt nạ thường ngày.

Thế rồi chưa bao lâu sau, chàng nghe thấy tiếng động trên mái hiên ngọc, có vẻ vừa có người khác cũng bước lên đây.

Tiếng bước chân bắt đầu đi từ nơi khác trên mái ngọc, đến gần rồi dừng lại bên cạnh chàng.

Hồi lâu sau, chiếc mặt nạ bị người nọ nhấc lên đôi chút, không gỡ ra hoàn toàn mà chỉ nhấc nhẹ góc dưới cằm.

Và rồi, giọng Tiêu Phục Huyên vang lên trong màn đêm, “Ngươi uống rượu của ta.”

Nửa trên mặt Ô Hành Tuyết vẫn giấu sau chiếc mặt nạ, chàng cũng lười nhúc nhích, bèn không màng mở mắt đã ôn tồn trả lời nhỏ nhẹ, “Sao ngươi ngang ngược thế, ta có đến tận ba vò ngọc tử, hai vò trong đấy là của ta, chỉ có một vò lấy chỗ ngươi thôi. Làm sao ngươi biết ta uống vò nào.”

Tiêu Phục Huyên đáp, “Ngửi được.”

Gió đêm trên Tiên Đô thổi vào bên tai làm người ta thấy nhồn nhột, mặt nạ cũng có hơi khó chịu, bởi thế mà Ô Hành Tuyết híp khẽ mắt.

Chàng ngồi dậy, gỡ mặt nạ ra rồi đưa vò rượu cho người bên cạnh. “Trả ngươi nè.”

Tiêu Phục Huyên không nhận, chỉ nói, “Lần sau trả ta một vò nguyên.”

Ô Hành Tuyết liếc y một phát, đoạn gõ tay lên mái hiên ngọc. Hai nhóc đồng tử nhảy phót ra từ trong nhà, đứng dưới mái hiên và ngước mặt lên hô: “Thưa đại nhân, ngài cần phân phó điều gì ạ?”

Ô Hành Tuyết nói với chúng, “Lấy một vò ngọc tử đến cho ta, Thiên Túc bảo ta trả lại.”

Hai nhóc nọ gom tay áo, đồng thời đưa mắt nhìn sang Tiêu Phục Huyên, chân truyền một thói sắc lẻm như đại nhân nhà chúng, nói, “Đường đường là Thiên Túc mà sao bủn xỉn thế.”

Ô Hành Tuyết huơ chân cười nắc nẻ.

Tiêu Phục Huyên rủ mắt nhìn hai đứa nhỏ kia, cất giọng thản nhiên, “Còn hùng hồn thêm nữa thì dọn sạch Nam Song Hạ chỗ ta.”

“…”

Đồng tử cứng họng, không đáp trả được gì bèn co giò bỏ chạy.

Ô Hành Tuyết xét thấy trả nửa vò cũng là trả, bèn rót ba ly cho Tiêu Phục Huyên.

Đến khi Tiêu Phục Huyên uống cạn chén rồi, mới thấy Ô Hành Tuyết chỉ một vùng sơn dã nào đó dưới nhân gian và nói, “Dường như Lạc Hoa Đài đã lên đèn, hôm nay là mùng ba tháng ba ư?”

Tiêu Phục Huyên: “Ngươi hỏi lịch nhân gian à?”

Ô Hành Tuyết đáp, “Ừm, ắt là thế, phố núi kia lên đèn khai trương mỗi mùng ba tháng ba, nơi ấy nhộn nhịp sôi động lắm, đôi khi ta cũng tình cờ ghé xem.”

Tiêu Phục Huyên nhìn ánh đèn le lói theo hướng tay Ô Hành Tuyết chỉ, y cũng hơi có ấn tượng với nơi ấy bởi trước đây tình cờ lên rặng núi nọ, thế nhưng thời điểm đó không đúng dịp nên chưa có cơ hội trông thấy chợ phiên phố núi.

Ô Hành Tuyết nhìn nơi ấy một lát mới nói, “Ngươi có biết, vì sao nơi đó có tên là Lạc Hoa Đài không?”

Tiêu Phục Huyên quay sang nhìn chàng. “… Vì sao?”

Ô Hành Tuyết nói, “Rất lâu về trước, trước khi có cả Linh đài, ở đó có một cây thần mộc, sinh trưởng nơi nào sẽ mọc ra tinh chất ngọc ở nơi ấy, lúc cánh hoa rơi sẽ rải dài suốt mười hai dặm, từ đấy có tên Lạc Hoa Đài. Bây giờ ở nơi ấy vẫn còn sót một ít tinh chất ngọc.”

Nhiều vị thần tiên từng nghe qua câu chuyện về thần mộc rồi, nhưng số người thật sự biết được thì rất ít ỏi. Nghe đồn cây thần nọ kiến hiệu khởi tử hoàn sinh, và cũng có lời đồn rằng chuyện đó không đúng. Chỉ có một tin đồn xưa giờ chưa từng thay đổi là từ sau khi Linh đài xuất hiện thì cây thần không còn trên đời nữa, nó biến mất hoàn toàn như thể chưa từng tồn tại.

Để rồi về sau, đôi khi người đời lại thắc mắc không rõ từ đâu một nơi vắng cây thiếu hoa và nổi tiếng với chợ phiên phố núi lại có tên “Lạc Hoa Đài”.

Tiêu Phục Huyên liếc nhìn Ô Hành Tuyết và hỏi, “Vậy vì sao ngươi biết nguồn gốc của Lạc Hoa Đài?”

Ô Hành Tuyết đáp, “Bởi trước đây ta sinh ra ở nơi đó.”

***

Nhờ câu hỏi của ông chủ quầy, Ô Hành Tuyết mới nhớ lại một vài mảnh nhỏ linh tinh về Lạc Hoa Đài, để rồi liên tưởng đến tinh chất ngọc bất chợt mọc ra ngoài sân sau quán trọ…

Chàng lập tức biết thứ đang được canh giữ ở nơi đây là gì, và cũng biết Tiêu Phục Huyên đang ở đâu.

Có lẽ cây thần mộc kia không biến mất hoàn toàn, mà vì một nguyên nhân nào đó đã dẫn đến việc Thiên đạo Linh đài phong ấn nó lại.

Chàng chưa biết Tiêu Phục Huyên bị kéo vào đấy bằng cách nào, nhưng có thể đoan chắc nếu bây giờ muốn vào trong phải tìm bằng được cửa vào khu cấm địa kia.

Ô Hành Tuyết bất chợt ngước mắt, hỏi chủ quầy, “Rãnh đá chỗ mọc ra cành ngọc trong nhà ông nằm ở đâu?”

Nếu tinh chất ngọc xuất hiện ở nơi có thần mộc, vậy đi tìm chỗ có cành ngọc chắc chắn không lệch được.

Chủ quầy khàn giọng trả lời, “Trong sân.”

Sân nhà trọ này cũng được xây làm ba tầng tựa lưng vào núi, tạo thành một vòng tròn bao quanh một nửa gian nhà khách.

Tầng một đặt một cái giếng, bên trên có giàn che nắng và xung quanh là vách núi. Ở hai tầng còn lại trồng một vài loại cây cầu phúc lành và cát tường, bên dưới tàng cây cũng đặt vào vách núi.

Trong sân vườn to rộng đến vậy, nơi nơi chất đủ loại đá tảng, đá phiến, và đâu đâu cũng thấy rãnh đá.

Song, chàng nhất định phải tìm bằng được vị trí chính xác nhất, bởi cấm địa được tạo ra để người khác khó nhận thấy thì chắc chắn lối vào của nó không lớn.

Ô Hành Tuyết lia mắt bao quát một vòng rồi hỏi chủ quầy, “Rãnh đá ở phía nào?”

Ông chủ quầy duỗi ngón tay chỉ về bên trái, Ô Hành Tuyết thoáng nhìn theo hướng ông ta chỉ rồi nhanh chóng ngoảnh đầu bỏ đi theo chiều hoàn toàn ngược lại.

Ông chủ quầy: “…”

Nơi đó là cấm địa, và chủ quầy bị áp đặt nhiều hạn chế, đến nói còn không nói ra được. Thế thì phương hướng ông ta chỉ dĩ nhiên là hướng sai.

Trong trường hợp chỉ sai hướng như vầy, hẳn nhiên muốn đưa người đi càng xa càng tốt. Vậy nên dù chủ quầy không nói thẳng ra miệng được thì Ô Hành Tuyết cũng có thể dựa theo lời ông ta mà tìm đúng đường.

Sau khi đi được một lúc, chàng lại hỏi chủ quầy lần nữa.

Lần này, chủ quầy ngừng lại một chút rồi mới chỉ về hướng đông nam.

Ông ta những tưởng người kia sẽ đổi hướng đi sang phía tây bắc, ngờ đâu lúc này Ô Hành Tuyết lại tin lời ông. Chàng chuyển hướng đi theo đúng vị trí ông ta chỉ và rẽ về phía đông nam.

Chủ quầy: “…”

Cứ đi vài chập như vậy, ông chủ quầy sắp uất nghẹn tới nơi, còn Ô Hành Tuyết lại canh hướng hoàn toàn chính xác.

Cuối cùng, chàng dừng chân ngay bên rìa một đống đá vô cùng kín đáo không bắt mắt.

Trông nó bình thường như những mảng tường chịu dông bão gió mưa lâu ngày nên sụp xuống thành đá, nằm ngổn ngang trong một góc mà không ai dọn dẹp, đâm ra bám đầy rêu phong, gần như không thấy được khe hở.

Ô Hành Tuyết giơ tay sờ lên bức tường bị nứt nọ, ngoái đầu hỏi mấy đệ tử nhà họ Phong, “Các vị có thể khoét một lỗ ở chỗ này được không? Làm cách nào đỡ ồn ào nhất ấy.”

Mấy đệ tử nhà họ Phong nhìn nhau, dường như họ hãy còn bị chấn động trước thông tin người bị mất tích là Tiêu Phục Huyên, đến tận giờ vẫn chưa hoàn hồn. Đặc biệt là cô nương thủ lĩnh. Trong tay nàng còn cầm mấy tấm phù tìm hồn chưa kịp viết tên Tiêu Phục Huyên, và giờ cũng không cần dùng đến nữa rồi.

Nghe Ô Hành Tuyết hỏi vậy, nàng sững sờ giây lát mới kịp phản ứng và nói, “Có thể thử, nhưng nhỡ không mở ra được thì sao?”

Ô Hành Tuyết nhìn họ và trả lời, “Thì ta cũng chỉ đành náo động hết mức có thể thôi.”

Chỉ cần ra tay xé thật mạnh, đến thời điểm ảo cảnh bị lung lay sắp sụp thì chính những nơi được bảo hộ chắc chắn nhất là những nơi trông bất thường nhất.

Ô Hành Tuyết càng nghĩ càng thấy biện pháp này vô cùng khả thi, bèn muốn ra tay ngay lập tức.

Chỉ trong nháy mắt, mây đen ùn ùn gào thét ùa về khắp bầu trời tối thăm thẳm trên phố núi Lạc Hoa, sấm sét rền vang, một nửa bức tường sụp kia cũng bắt đầu rung lắc dữ dội tưởng chừng như hàm răng đánh lập cập không thể kiểm soát trong cơn rét cùng cực.

Ngón tay trắng nhợt lạnh như băng của Ô Hành Tuyết đã cong lên.

Khí kình cuồn cuộn trong người đang muốn điên cuồng trào ra bên ngoài, chàng bất chợt cảm thấy có một bàn tay vươn ra từ giữa màn sương mù núi thẳm và nắm lấy tay mình.

Chàng ngẩn ngơ thốt, “Tiêu Phục Huyên?”

Ngay sau đó, những ngón tay cong lên căng cứng của Ô Hành Tuyết thả lỏng ra.

Sương mù dày đặc ập vào mặt — chàng bị bàn tay nọ kéo vào cấm địa.

Lời tác giả:

QAQ
 
Back
Top Bottom