Tiên Hiệp Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên

Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 120: Giữ nhà


Khi kéo bọn họ trở về dòng rối loạn, cơn rét buốt và đau nhức vốn đã dịu hẳn khỏi người “Linh Vương” lại một lần nữa ập tới nhanh chóng.

Cái rét thấu xương chừng ấy chỉ cần một chút thôi đã có thể đông cứng thân thể lẫn linh hồn người ta. Phần cổ tay và ngón tay để lộ bên ngoài trắng bệch ra rồi lập tức nhiễm sắc xanh nhàn nhạt.

Cảm giác đau nhức đó tuyệt nhiên vượt quá sức chịu đựng của người thường, thậm chí đến cả thần tiên cũng phải run rẩy cong lưng.

Y thoáng nghe được một giọng nói thốt lên trong đầu mình, nó mơ hồ đến mức y không xác định được nó bắt nguồn từ đâu mà giống như nó đang rít gào cùng tiếng gió dữ lộng qua non nước hoang dã bao la.

“Có đau không?”

“Có lạnh không?”

“Đó chính là oán hận của người chết đấy, trên thế gian này không một ai có thể giảm nhẹ nó, không một ai có thể ngăn cản nó…”

Tiếng của “Linh Vương” bị ém sau tấm mặt nạ, nghe vào vừa khẽ khàng vừa thâm thấp. Ngón tay run rẩy một cách thiếu kiểm soát, nhưng y đáp trả, “Thế à.”

Giọng điệu giống hệt Ô Hành Tuyết.

Tiếng rít gào càng thêm mãnh liệt, khiến cho cả mặt đất cũng chấn động.

“Cảm giác giống như từng khúc xương, đoạn khớp của ngươi đều đứt lìa.”

“Giống như bị chôn trong núi băng.”

Gió dữ thổi đến càng thêm hung hãn, gần như muốn đẩy văng y đi hoặc quật y ngã xuống. Song y vẫn chống mũi kiếm trên mặt đất, đứng thẳng người và chẳng mảy may nhúc nhích.

“Ngươi sẽ nát tươm, sẽ đổ máu tràn trề, sẽ đau đớn cùng cực.”

“Ngươi sẽ hối hận, sẽ kêu trời trong vô vọng, sẽ không chốn dung thân.”

“Ngươi sai rồi,” y vẫn nhỏ nhẹ đáp trả giọng nói trong đầu, “ta sẽ không.”

Ngay thời khắc ấy, thứ sức mạnh Linh đài đang áp chế và bao trùm chặt chẽ trên người y bị phá vỡ hoàn toàn. Tựa như mặt đất gãy đoạn, đưa ánh sáng xuyên thủng trăm trượng mây cao.

Y đẩy lùi sức mạnh nặng như vạn quân đang áp chế mình, nhếch khẽ khoé miệng và nói, “Ta sẽ không bao giờ.”

Thân thể y là thanh kiếm của Linh Vương, trong cốt nhục y là một phần của Ô Hành Tuyết.

Kiếm sẽ không nát tươm, sẽ không đau đớn cùng cực, sẽ không hối hận.

Từ xưa đến nay, y chỉ biết hướng về phía trước.

Và trước đó nữa, y hãy là một nhành thần mộc được bao bọc trong tinh chất bạch ngọc.

Khởi đầu của y chính là can trường trước sinh tử và sự chở che không cầu báo đáp. Ngay từ thời điểm bắt đầu tồn tại trên thế gian này, vốn đã định sẵn y không biết sợ hãi và thoái lui.

“Bởi vậy nên,” y khẽ mấp máy môi để trả lời không thành tiếng, “ngươi không doạ được ta đâu.”

“Ta đã tỉnh.”

***

Trong tích tắc ấy, toàn bộ đất trời dòng rối loạn đổi sắc!

“Linh Vương” ngước mắt thoáng nhìn vòm trời mây gió vần vũ, rồi dời mắt sang phía Ô Hành Tuyết, Tiêu Phục Huyên, và Phương Trữ.

Vốn dĩ hai người họ chính là một thể, thế nên chẳng cần thừa lời.

Nhưng tại thời điểm ấy, “Linh Vương” vẫn mở miệng nói, “Ta biết mình phải làm gì, nhưng ta vẫn cần nhắc trước một tiếng.”

Y giương tay chỉ về Linh đài Tiên Đô trên chín tầng mây và nói, “Nếu nó có khả năng khống chế và ảnh hưởng lên ta, thì cũng có khả năng khống chế và ảnh hưởng lên những người khác. Thậm chí nó có thể làm vậy dễ dàng hơn nhiều, dầu sao…”

Y đã sống trên dòng rối loạn này quá lâu, dù bây giờ đã hoàn toàn tỉnh táo nhưng khi phải nhắc đến vẫn có một chút ngập ngừng như trước. Dù y đang đeo mặt nạ song nhìn vào vẫn hoàn toàn cảm giác được y ngẩn người ra trong chốc lát.

Có điều chẳng qua mấy lâu, y đã điềm tĩnh lại như bàn thạch và nói, “Nhìn trên một góc độ nào đó thì suy cho cùng, dòng rối loạn này là sản phẩm hình thành từ Linh đài của nó, mỗi một vị tiên nơi đây cũng ra đời từ đấy. Chỉ cần nó muốn là có thể khiến mọi người chĩa mũi kiếm về phía chúng ta mà chẳng cần một lý do gì.”

“Thế thì?”

“Thế thì có thể phải lấy một chọi trăm, lấy một chọi ngàn không chừng, chứ đừng mong nhận được nhiều trợ giúp.”

Tiêu Phục Huyên nói, “Không phải trước giờ đều vậy sao.”

Mọi người im một chốc rồi bật cười mỉa mai.

Quả đúng vậy.

Hai lăm năm trước cũng thế, cùng lắm thì lặp lại lần nữa thôi.

Nháy mắt sau đó, những bức tường cấm chế chọc trời cắm đất vỡ toang rầm rầm. Tiếng gió điên cuồng trộn lẫn tiếng sông nước ở bên ngoài cấm chế len vào trong tai.

Bọn họ cưỡi trên đầu ngọn gió đi hàng vạn dặm, đâm xuyên qua chín tầng mây tựa như hào quang, tiến thẳng đến Linh đài!

***

Ở bên kia.

Từ thời điểm “Linh Vương” thức tỉnh, Linh đài trên Tiên Đô trên chín tầng mây đã bắt đầu rục rịch. Vô vàn bức truyền thư đã được phóng ra ngoài vào khoảnh khắc ấy…

Trước đó, Tang Phụng cảm giác được tình huống bất thường trong núi nên hiện tại đang đi tuần núi Bất Động do mình cai quản. Đi được giữa chừng, anh ta đột ngột ngừng bước ngay giữa khúc quanh co khó đi trên lưng chừng núi rồi vươn tay bắt lấy một bức phù thư.

Khi mở ra thì thấy bức phù thư đó trống không, hoàn toàn không có nội dung gì.

Tuy vậy, thân thể anh ta cứng đờ, ánh mắt chợt tĩnh lại, hồi sau anh ta phóng ngay đến núi Thái Nhân, bước lên tháp Thông Thiên để lên Tiên Đô.

Cách đó ngàn dặm, bên trong nấm mồ khổng lồ Kinh Quan, Mộng Cô cũng nhận được một bức truyền thư tương tự.

Cô nàng đứng dậy từ một tấm bia mộ, kéo ra một bức truyền thư từ giữa không trung mà thẫn thờ hồi lâu. Sau đó, nàng phất váy và cũng phi thân rời đi.

Còn có cả Hoặc Ca ở Tuyết Trì.

Cô nàng băng xuyên qua ánh chớp sấm rền quanh năm không dứt quanh đầm băng này, sau khi tiếp nhận bức truyền thư liền vén mái tóc dài, buộc cao thành búi gọn gàng. Tiếp đó, nàng dẫn theo lôi vân Tuyết Trì tiến thẳng từ nam ra đất bắc.



Tất cả chúng tiên Tiên Đô đều nhận được bức truyền thư trống không giống vậy tại địa bàn quản lý của họ.

Đúng như lời “Linh Vương” nói, họ tiến thẳng về Linh đài mà không cần một lý do nào. Khắp người họ toả ánh tiên quang, trông vào như ngàn dải màu đa sắc đang đồng thời tụ hội về nơi cao trên chín tầng mây.

Và trong Tiên đường trên vách núi cao Linh đài, tất cả những người đang trò chuyện cùng Tiên thủ đột ngột lặng thinh.

Toàn bộ Tiên đường chìm vào tĩnh lặng yên ắng như tờ. Sự yên tĩnh này mang đến cho người ta cảm giác rất kỳ dị — rõ ràng rất nhiều tiên đang có mặt nơi này mà sao giống như không một bóng người, hết thảy đều là ảo ảnh.

“Chuyện gì thế?” Vị tiên nào đó phá vỡ sự yên lặng và cất giọng hỏi một cách thận trọng.

Ngay sau đó, có tiên sứ chạy lên mười hai đỉnh núi cao, hô lên thất thanh, “Có người tấn công vào Linh đài Tiên Đô!!!”

***

Toàn bộ khung cảnh không khác gì hai lăm năm trước ở hiện thế, tưởng chừng như đang tái hiện lại quá khứ.

Chỉ là vào lúc này, bên cạnh Ô Hành Tuyết có thêm một bóng hình khác…

Khoác trên mình trang phục trắng giản đơn, chàng cuốn theo ngọn gió sấn tới Linh đài, đưa sương mờ trắng nhạt nhanh chóng lan ra khắp các tiên điện và dao cung trên vách cao. Chỉ trong chớp mắt mà những nơi chàng lướt qua đều đọng đầy băng tuyết.

Để khi chúng tiên Linh đài thân mang pháp bảo tiến vào, ánh đèn của Tiên thủ lướt qua đẩy ngọn lửa sáng bừng loá mắt, cũng là lúc một bóng trắng thuần phóng qua cùng tiếng kiếm reo vang như gió thoảng rồi rơi vào bàn tay vẫn luôn trống không của Ô Hành Tuyết.

Sau ba trăm năm trời.

Chàng đã không còn là Linh Vương từ lâu, mà giờ đây lại cầm thanh kiếm ấy trong tay một lần nữa.

Lần này, Tiêu Phục Huyên không phải hối hả chạy tới.

Kiếm ý ngông cuồng của y giờ sánh vai cùng Ô Hành Tuyết, tựa như hải triều dũng mãnh nhất đang cuộn sóng ngang trời.

Hàng vạn bóng kiếm sắc vàng đâm thẳng xuống trước mặt chúng tiên Linh đài. Khi chúng đóng xuống mặt đất, nền tiên điện và dao cung nứt vỡ răng rắc, đá bắn tung toé.

Mỗi một tia bóng kiếm lao xuống, chúng tiên lại càng không thể bước lên phía trước!

Ô Hành Tuyết băng thẳng qua lửa dữ bùng lên từ đèn chiếu thế, thân thể chàng sáng rỡ như ánh chớp. Chàng vung lưỡi kiếm trắng bạc khắc vân và lạnh lùng chém thẳng xuống.

Cả vạn toà dao cung trên Tiên Đô như bị sấm sét dộng rền, hàng loạt vết nứt gãy đồng loạt lan ra.

***

Khi Tiên Đô rung chuyển, mây mù bên dưới ngàn vạn cầu ngọc Linh đài không ngừng dâng trào cuồn cuộn.

Bấy giờ mà có vị tiên nào trông thấy sẽ biết ngay nó thể hiện một điều — nền tảng của Linh đài đang mất đi sự ổn định, lốc xoáy sát khí long lên không ngừng, bắt đầu có dấu hiệu suy yếu.

Để áp chế sự suy yếu này và giúp Linh đài Tiên Đô hưng thịnh lên nhanh chóng thì buộc phải có thêm nhiều hương hoả, thêm nhiều những thờ phụng và ước nguyện từ nhân gian.

Thế nhưng “cầu nối” giữa dòng rối loạn và hiện thế đã bị chặt đứt, Phong Cư Yến và Phong Phi Thị cũng không còn, hương hoả hai bên ngưng liên kết với nhau nên thờ phụng cũng không đưa qua được.

Nếu muốn có thể hút được số lượng lớn hương hoả thờ phụng từ nhân gian trong thời gian cấp tốc chỉ còn một cách — xây thêm “cầu nối” khác.

Để có thể trở thành “cầu nối”, đa phần phải cần những linh phách vì không cam lòng qua đời mà lang thang không thôi. Chúng muốn có thân thể thể mới, muốn có một nơi để chúng ký sinh vào, chúng muốn sống.

Mà nơi có nhiều linh phách như vậy nhất trên thế gian chính là Kinh Quan với mồ mả khắp nơi, người chết tề tựu.

Thời điểm này, Mộng Cô cai quản Kinh Quan đã lên Tiên Đô. Dưới ảnh hưởng và áp chế toàn diện của Thiên đạo Linh đài, nàng đang vung kiếm đối đầu với bạn cũ năm xưa.

Vì vậy, nàng không nhìn thấy dị thường xuất hiện ở Kinh Quan nơi nàng cai quản — giữa nấm mồ khổng lồ, những mẩu linh phách li ti của người đã chết nhưng không cam lòng qua đời đang len lỏi nhoi lên từ sáu thước dưới đất mồ, bọc trong gió lạnh âm u và tụ về cùng một địa điểm.

Chỗ đám linh phách đó tụ về là một khe núi hoang vu, núi non hiểm trở và đá tảng rơi ngổn ngang trên đất, khắp nơi nơi đều có dấu vết linh kiếm bén nhọn chém qua.

Mới chưa tròn một khắc trước, Ô Hành Tuyết, Tiêu Phục Huyên, và cả “Linh Vương” dòng rối loạn đã giao chiến một trận nơi này.

Đấy chính là địa điểm kết nối với hiện thế.

***

Giữa miệt núi cao, cuồng phong xuyên khe hẹp.

Hàng mấy trăm linh phách không cam lòng qua đời kia đang xé ra một kẽ hở dưới sức ảnh hưởng của Thiên đạo Linh đài.

Chỉ cần chúng nó tiến được vào hiện thế, đặt chân xuống nhân gian phía bên kia, là “cầu nối” sẽ được hình thành một lần nữa.

Và lần này không chỉ một cây cầu, mà có đến hàng trăm cây.

Nếu một số lượng ngần ấy hình thành thì muốn chặt đứt lần nữa sẽ hao tổn rất nhiều công sức. Cho dù Ô Hành Tuyết hay Tiêu Phục Huyên có lập tức chạy sang cũng không còn kịp.

Những linh phách kia rít gào qua kẽ hở và xông thẳng vào nhân gian của hiện thế.

Song, ngay trước khi kịp chạm đất, chúng nó trông thấy một bóng người.

Người nọ vóc dáng không cao, thân mình gầy còm nhỏ thó. Thoạt nhìn đoán chừng chỉ tầm mười lăm mười sáu tuổi, ấy nhưng ánh mắt đang chòng chọc hướng về bọn chúng hung ác và lạnh lùng khác hẳn tuổi thiếu niên.

Đây không ai khác hơn ngoài Ninh Hoài Sam.

Nơi giao nhau giữa hiện thế và dòng rối loạn đã bị Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết phá nát. Vì vậy mà cửa vào bên dòng rối loạn được đặt giữa vùng đất hoang vu, còn cửa ra hiện thế nằm ở Tước Bất Lạc thuộc Chiếu Dạ thành.

Ban đầu, Ninh Hoài Sam không hiểu tại sao thành chủ kêu mình ở lại chốn nhà không vườn trống này, bắt mình phải “giữ nhà”. Cậu còn tưởng thành chủ thấy mình vô dụng không giúp ích được gì.

Tuy thế, cậu luôn biết nghe lời. Dù có ấm ức trong lòng đi nữa nhưng cậu vẫn ngoan ngoãn ngồi xếp chân bên dưới gốc đại thụ trong Tước Bất Lạc.

Cho đến tận thời khắc này, cậu mới hiểu ra dụng ý của Thiên Túc và thành chủ.

Hoá ra không ai cảm thấy cậu thiếu tư cách đi giúp đỡ.

Hoá ra ở nơi này quả thực cần có người đáng tin cậy đến trấn thủ.

Ninh Hoài Sam nhìn thấy những linh phách không biết từ đâu tới đang xuất hiện trong một góc của Tước Bất Lạc kia dắt theo hơi ẩm lạnh lẽo âm u của dòng rối loạn và nỗi oán hận đậm sâu không sao ngó lơ được.

Cậu nheo mắt, tức tốc đứng bật dậy bên dưới gốc đại thụ.

Cậu bẻ cổ tay cổ chân, bước thoăn thoắt đến trước những linh phách đó trong chớp mắt.

Oán khí từ đám linh phách kia bùng lên phừng phực trong tiếng rít gào như lửa mãnh, cuồn cuộn nghi ngút, chỉ trong chớp mắt đã bọc kín các toà lầu cao thấp trong Tước Bất Lạc.

Và Ninh Hoài Sam đang đứng trước mặt luồng oán khí phừng phực như lửa đó.

Đôi mắt cậu cụp xuống, hai tay cong lên khiến gân xanh nổi rõ mồn một, chạy dài từ trán đến cổ, xuống cánh tay đến tận các đầu ngón.

Khí độc không ngừng tuôn trào ồ ạt từ trên người cậu ra ngoài.

Khoảnh khắc đó, khí độc và oán khí va chạm vào nhau mãnh liệt!

Đất đai rung chuyển, lầu các lung lay, xen trong tiếng thét dài của linh phách. Tất cả trộn lẫn vào nhau, vang vọng khắp toàn bộ cực nam Chiếu Dạ thành.

Giữa tiếng thét dài ấy, Ninh Hoài Sam nhếch khoé miệng, để lộ một nụ cười vô cùng ma mị. Cậu vừa hiên ngang tung chiêu vừa cất giọng khàn khàn, “Xin lỗi chứ, Tước Bất Lạc này không phải chỗ không người cho các ngươi chui vào, nơi đây có người giữ nhà!”
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 121: Anh em


Đám linh phách đang mang ý đồ cắm rễ ở hiện thế rú lên, hò hét gọi nhau cùng giương nanh múa vuốt vồ về phía Ninh Hoài Sam!

Tiếng rú của chúng bén lẻm inh tai, nghe vào như thể dùng đao đục khoét trong ống nhĩ.

“Ồn ào quá!” Ninh Hoài Sam gằn giọng rủa một câu.

Cậu đập tan đám linh phách đó chỉ với một chiêu. Đám linh phách lãnh trọn chiêu thức bị đánh nát tươm ngay tại chỗ, tản ra trong khói độc và biến mất tăm.

Lũ còn lại bất chợt dạt hẳn sang hai bên như dòng nước chảy. Chúng dâng lên “con sóng” còn cao hơn khi nãy và đổ ầm ầm về phía Ninh Hoài Sam lần thứ hai.

Cậu thả ra một tiếng “Ha” đầy ngạo nghễ, tung chiêu càng hung hãn hơn.

Cậu chàng này ngày thường vốn đã hiếu động, không biết ở yên một chỗ bao giờ. Vào những lúc như thế này vô cùng có lợi bởi cậu phản ứng cực kỳ mau lẹ! Một chiêu vừa tung ra bên này, một chiêu tiếp tới đã tiến công sang bên kia.

Gần một trăm linh phách mang oán khí cuồn cuộn bị sa vào ảo ảnh trên ngón tay cậu, chìm trong khói độc kịch liệt không ngừng rồi tan tành không còn mảnh vụn!

Nhưng đấy cũng chưa phải tất cả…

Gần một trăm linh phách kia vừa bị Ninh Hoài Sam đánh cho tan tác, song cậu còn chưa kịp nghỉ một hơi nào thì linh phách mới đã lập tức bủa ra từ kẽ hở. Chúng kéo theo oán khí và gió âm đậm đặc, thét lên những tiếng gầm rú và hung hãn cắn xé.

Ninh Hoài Sam chùi đi giọt máu đọng trên cằm, hất máu xuống đất. “Còn nữa?!”

Cậu nhổ một phát, phóng cơ thể tuôn đầy khói độc vào trong cơn sóng linh phách đang dâng trào.

Đám linh phách đó không mang những hình thù kỳ dị mà thật ra rất giống với người sống. Chúng có tay có chân có thân thể, chẳng qua gương mặt chúng loè nhoè không nhìn rõ, giống như người ta ném hòn đá vào mặt nước khiến cho mặt nước gợn sóng, xoá đi hình ảnh phản chiếu bên dưới.

Thoạt nhìn, chúng nó có vẻ ốm yếu và vô hại, tưởng chừng quạt nhẹ tay là tan biến, chỉ cần là người có am hiểu một chút thuật pháp là có thể đương đầu với chúng mà không cần mất sức lực tí nào.

Vậy mà đến khi va chạm mới biết đám linh phách và luồng oán khí ngợp trời trên cơ thể chúng nguy hiểm và khó đối phó đến nhường nào!

Trong miệng chúng nó không có răng nhưng cứ như thể đâu đâu cũng là những chiếc răng bén nhọn.

Chỉ cần chúng bám vào cơ thể sẽ lập tức xâu xé máu thịt con người ta đến mức nhầy nhụa nát tươm. Vết thương và máu me khắp mọi nơi.

Bởi vậy, sau khi xé toạc linh phách và thoát khỏi oán khí bước ra bên ngoài một lần nữa, cả người Ninh Hoài Sam đã bê bết máu.

Máu chảy dọc từ búi tóc trên trán cậu xuống rồi len vào tròng mắt…

Đâm ra, đôi mắt cậu nhuốm một màu đỏ thẫm.

Cậu bóp nát tàn linh phách trong tay mình, ngang nhiên quay người đối mặt với kẽ hở kia và cất giọng trầm khàn, “Tới tiếp nào!”

Sau đó, cậu lại vùi mình sâu hơn vào oán khí mịt mùng dày đặc.

Mỗi lần một toán linh phách tan biến trong tay Ninh Hoài Sam, lại có một toán khác từ đủ mọi nơi trong dòng rối loạn chui đầu tới, chúng băng qua khoảnh đất hoang dã và cuồn cuộn đổ dồn về hướng này.

Người chết trên đời nhiều biết bao nhiêu, thậm chí hai chữ “muôn vàn” cũng không sao đếm xiết. Bọn họ tứ tán mọi nơi, song lại dường như đồng loạt bị đánh thức và lùa về đây bởi một bàn tay vô hình.

Hệ quả chính là… nhiều vô cùng tận.

***

Ninh Hoài Sam đã không còn đếm nổi rốt cuộc mình ngăn cản được bao nhiêu linh phách, cùng chẳng nhớ rõ mình đã canh giữ trước kẽ hở này hết bao lâu.

Mới đầu, cậu còn rủa xả và lầm bầm liên tục không ngơi. Mỗi lần chặn đứng một đợt, cậu liền cợt nhả mấy câu tục tĩu, vừa để móc mỉa mà vừa cho bõ tức. Nhưng đã là người thì ai cũng tới lúc kiệt sức, dù có là Ninh Hoài Sam hiếu động nhanh mồm cũng không phải ngoại lệ.

Dần dà, tiếng mắng chửi càng lúc càng thưa đi tại Tước Bất Lạc.

Không biết bắt đầu từ khi nào, Ninh Hoài Sam không thốt ra tiếng nào nữa, cậu chỉ im lặng liên tục tung sát chiêu.

Có lẽ, đây chính là khoảnh khắc mà Ninh Hoài Sam giống với tà ma nhất trong kiếp này.

***

Hơi thở càng lúc càng nặng nề, tay chân mỗi lúc một trì trệ, nhưng cậu nhất quyết không dừng lại. Có đến mấy vạn linh phách từ dòng rối loạn xông qua kẽ hở hòng xâm nhập hiện thế, mà tất cả đều bị cậu bóp ch3t tại Tước Bất Lạc.

Trong suốt một canh giờ, chẳng ngơi một khắc.

Với một thân thể phủ đầy khói độc, cậu đã phòng thủ chặt chẽ nơi này, không để lọt một mống nào.

Sau cùng…

Khi đang xé xác một linh phách, cậu quá mạnh tay khiến chân mình lảo đảo một bước.

Chỉ mất một tích tắc để cậu đứng vững trở lại. Thế nhưng đám linh phách kia lại canh chính xác vào đúng tích tắc này để tiến hành phản công!

Chúng nó cắn xé vùng cổ, bả vai, tay, và chân của Ninh Hoài Sam cùng một lúc, còn có một đám khác chuyển hướng cấu vào ngực cậu.

Ngay khoảnh khắc đó, dường như có một tầng bụi máu xuất hiện giữa Tước Bất Lạc.

Ninh Hoài Sam bật rên thành tiếng giữa đám bụi máu ấy.

Cậu gầm một tiếng thâm thấp, mạch máu cộm lên cũng nảy mạnh thình thịch! Tiếp tới, khói độc quanh hai tay cậu cuộn thành lốc xoáy khổng lồ và đập xuống một cách tàn bạo.

<i>Rầm!!!!</i>

Oán khí tán loạn khắp Tước Bất Lạc bị dẹp sạch tươm chỉ trong nháy mắt.

Ninh Hoài Sam đứng không vững, cả người đổ sụm ngay lập tức. Cậu khuỵu một gối dưới nền đất đá, chống một tay xuống đất. Máu tươi nhiễu từng giọt xuống đọng thành vũng trên mặt đất.

Nhưng cậu hiểu rõ, từng này vẫn chưa phải là toàn bộ.

Vì cậu đã ngửi được mùi ẩm thấp nồng và dày đặc đang lùa tới từ kẽ hở ngay sau lưng mình. Cậu chẳng cần ngoái đầu nhìn cũng biết phải có đến hàng ngàn, hàng vạn linh phách bị người điều khiển đang tề tựu lại chỗ này.

Hiện tại, không biết cậu còn có thể cản lại được bao nhiêu…

Cậu gầm nhẹ một tiếng, siết chặt tay hòng cố đứng thẳng dậy thì chợt nghe thấy tiếng ai đó lờ mờ hô lên.

Giọng nói ấy xa xăm như đến từ một thế giới khác và đang gọi tên cậu, “Ninh Hoài Sam!!!”

“Ai đó?”

Ninh Hoài Sam đờ đẫn chớp mắt.

Cậu đang canh giữ tại Tước Bất Lạc ở hiện thế, chỉ có thể ngửi được hơi gió từ dòng rối loạn thông qua kẽ hở vô hình chứ ngoài ra không nhìn thấy được bất kỳ thứ gì.

Vậy nên cậu cũng không hề hay biết…

Rằng vừa mới nãy, khi muôn vàn linh phách tụ lại vùng sơn dã của dòng rối loạn hòng chen qua kẽ hở để xâm nhập vào hiện thế, đã có một bóng người bên dòng rối loạn phóng qua tầng mây như ánh sao sa đáp xuống biển oán khí linh phách ngút trời với hai tay mang đầy sát chiêu.

Ngay tích tắc hắn chạm chân xuống đất, sát chiêu thình lình phóng ra…

Muôn vàn linh phách bị bóng người đó ngăn chặn lại!

Người đã phóng xuống ngay thời khắc hiểm nghèo đó không ai khác hơn ngoài Phương Trữ.

Phương Trữ đang ở bên dòng rối loạn ngăn cản không cho linh phách chạy sang hiện thế. Hắn đưa lưng về kẽ hở nối với hiện thế, gọi tên Ninh Hoài Sam rồi hỏi, “Còn chịu nổi không?”

Cách biệt giữa dòng rối loạn và hiện thế không thể đo lường bằng thời gian hay khoảng cách, lẽ ra họ không thể nghe thấy giọng nhau.

Song tại khoảnh khắc đó, Phương Trữ ở bên dòng rối loạn cảm thấy mình dường như có thể nghe được âm thanh bên Tước Bất Lạc.

Vì vậy, hắn tựa lưng mình chặn trên chỗ liên kết, hô to mà không ngoảnh đầu lại, “Đồ đần! Mày còn sống không?!”

Câu hỏi này men theo đường liên kết chẳng biết dài ngắn bao nhiêu để truyền đến hiện thế trong mơ hồ.

Ninh Hoài Sam đang quỳ một chân trong sân Tước Bất Lạc, cậu bật cười ngặt nghẽo trên nền đất đẫm máu.

Những lời này quá thân quen, dẫu có xa xăm và mơ hồ thì cậu vẫn có thể nhận ra.

Trước đây, mỗi một khi nghe Phương Trữ gọi mình “đồ đần”, cậu đều sẽ hung hăng đáp trả mấy câu. Chỉ riêng lần này, cậu bật cười.

“Cái thằng này…” Ninh Hoài Sam cười mắng lại một câu.

Cậu mở mắt ra, cũng cất giọng nói qua chỗ liên kết trong lúc quay lưng lại, “Sao mày tới đây?”

Giọng cậu đã khàn đi từ sớm, âm lượng cũng không to. Vậy mà người ở bên dòng rối loạn có vẻ vẫn nghe được.

Sau hồi lâu, cậu loáng thoáng nghe Phương Trữ trả lời, “Còn sao nữa, thành chủ kêu tao tới giúp mày.”

Ninh Hoài Sam phun máu trong miệng ra, nói, “Phắn đi, tao dư sức cân được, không cần mày tới giúp! Chưa kể mày tới đây rồi thành chủ với Thiên Túc ở bên kia phải làm sao?!”

Phương Trữ dường như rủa một câu gì đó từ phía bên kia, sau đó mới nói, “Mày câm miệng đi.”

Ninh Hoài Sam lại bật cười sang sảng.

Cậu lau máu bám đầy trên mặt, xoay vai xoay cổ rồi chầm chậm đứng dậy.

Cậu nói, “Tao còn sung mãn lắm, dư sức xé nát mấy vạn đứa nữa, mày đừng có tranh công với tao, thả cương cho bọn nó tràn qua mau!”

Ngay sau đó, cậu vung hai tay ra, khói độc lại bủa ra ào ạt, che mịt trời chẳng khác gì mây mù.



Từ thời điểm họ ôm phất trần gật gà gật gù bên hàng hiên Toạ Xuân Phong đến hiện tại đã qua hơn ba trăm năm.

Tính từ kiếp trước của họ đến giờ cũng chẳng rõ bao lâu rồi.

Từ sớm, hai người họ đã không phải là anh em ruột thịt, mà vào lúc này đây lại thấp thoáng bóng hình của mấy trăm năm trước…

Một người ở dòng rối loạn, một người ở hiện thế, đồng thời che chắn hai đầu đường nối, lưng đối lưng.

Linh phách và oán khí bất tận đang hung hãn đổ tràn về phía bọn họ.

Hai người miệng mắng nhiếc nhau, nhưng sống nương nhờ lẫn nhau.

***

Trong khoảnh khắc, Ninh Hoài Sam túm lấy đám linh phách đang xâu xé trên cổ mình quăng mạnh xuống dưới. Tầm mắt cậu đen ngòm giây lát, cậu phải vịn tay lên đá tảng trong sân để vững người lại.

Trong đầu cậu hiện lên một số ý nghĩ vô cớ. Những ý nghĩ mang tính “không tưởng” mà trước đây cậu chưa từng nghĩ đến…

Nói sao đi nữa đây cũng là một trận chiến với “Trời”, e là kết quả không mấy khả quan. Nếu họ không chống giữ nổi, nếu cả thành chủ lẫn Thiên Túc đều xảy ra chuyện, nếu tất cả mọi người đều chết…

Ninh Hoài Sam chống vào tảng đá để đỡ lấy người mình, cậu chợt thốt, “Phương Trữ, nếu lần này chúng ta phải chết thì có thể đầu thai chuyển kiếp không?”

Có vẻ như Phương Trữ bị ngỡ ngàng trước câu hỏi bất thình lình của cậu, sau hồi lâu sững sờ hắn mới trả lời, “Mày nói cái thứ gì xui xẻo vậy.”

Ninh Hoài Sam hít một hơi thật sâu rồi nói, “Ai nói cái gì xui xẻo, tự dưng tao chợt nhớ tới nên nói vậy thôi.”

Vọng lại từ dòng rối loạn ở bên kia là tiếng dộng đập không ngừng từ chiêu thức và âm thanh của gió ẩm âm u.

Một lúc lâu sau, giọng Phương Trữ mới loáng thoáng truyền sang, trong giọng nói kèm tiếng th ở dốc ngắt quãng giữa các chiêu thức được tung ra liên tục, “Nếu dòng rối loạn tồn tại thì hiện thế sẽ không còn, vậy lúc đó, chúng ta, e là, cũng sẽ biến mất, không… không được đầu thai chuyển kiếp nữa.”

Ninh Hoài Sam bĩu môi một cách chật vật.

Phương Trữ nói tiếp, “Nhưng nếu hiện thế được bảo vệ, thì… thì mọi chuyện sẽ khác. Cho dù chúng ta phải đón nhận kết quả ra sao cũng không đáng sợ.”

Ninh Hoài Sam: “Sẽ như thế nào?”

“Nếu hiện thế còn thì chúng ta có thể đầu thai chuyển kiếp.” Phương Trữ ở phía bên kia có lẽ cũng bị thương, giọng nói cất lên không liền mạch. “Cơ thể tà ma này phải chịu kiếp kỳ, có oan hồn bám víu… mất đi thì thôi, không có gì phải tiếc cả.”

Ninh Hoài Sam cũng tự cười nhạo theo, cậu th ở dốc, nói “Nhưng chuyển kiếp thì chúng ta không ai biết ai được nữa.”

Giọng Phương Trữ bị ngăn lại một chút rồi truyền đến trong tiếng gió, “Ở trong dòng rối loạn này… tao đã biết được một việc, trên người chúng ta có hai dấu ấn đặc biệt.”

Ninh Hoài Sam: “Dấu ấn gì?”

Phương Trữ nói, “Do thành chủ đặt lên.”

“Chỉ cần có hai dấu ấn đó thì dù cho chúng ta có chuyển kiếp đến đâu, thành chủ cũng sẽ biết được.”

“Mấy trăm năm nay, chúng ta luân hồi bao nhiêu lần, miễn còn sống trên đời này là thành chủ biết cả.”

“Ninh Hoài Sam.” Giọng Phương Trữ vọng lại từ xa xăm nhưng lại lọt vào tai Ninh Hoài Sam một cách rành rọt, hắn nói, “Sống rồi chết, sống rồi chết, vẫn luôn có người dõi theo chúng ta.”

Có người vẫn luôn ghi nhớ bọn họ, dõi theo bọn họ, đón nhận bọn họ những lúc chẳng còn chỗ để về…

Thế thì còn sợ chi sinh tử bất tương phùng.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 122: Vấn thiên


Nhờ Ninh Hoài Sam và Phương Trữ phòng thủ vững vàng ở “đường liên thông” nên không một linh phách nào chạm chân được vào hiện thế, thành thử “cầu nối” đã không thể hình thành.

Không nhận được hương hoả cúng kiếng bổ sung mà còn phải gánh nhận công kích kịch liệt từ Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết khiến Tiên Đô càng lúc càng hiện rõ sự suy sụp…

Cả vạn toà dao cung nứt ra như băng.

Từ cách đó ngàn dặm, mây đen đột ngột xuất hiện và bao trùm cả nền trời xanh chỉ trong nháy mắt.

Nhân gian cũng tối sầm xuống theo, tiếp nối là một tiếng sấm nện kinh hoàng! Trong chớp mắt, dông tố nổi nghịt trời.

Giữa cơn bão dông kín trời, Phương Trữ chật vật đứng thẳng người dậy, quét đi nước mưa hoà cùng máu đầm đìa trên mặt.

Hắn hướng mắt liếc nhìn về phía Tiên Đô, khản giọng nói một câu với Ninh Hoài Sam ở đầu bên kia mà không ngoảnh đầu lại, “Cố thêm chút nữa, xem chừng sắp sửa…”

Hắn tính nói “sắp sửa kết thúc rồi”, song dở nửa câu thì ngưng lại, vì hắn trông thấy một mảng trắng ở phía cuối dông bão.

Thoạt đầu, Phương Trữ tưởng rằng đó là hơi nước bốc lên từ việc mưa gió quá dữ dội. Hồi sau hắn mới nhận ra mảng trắng đó đang cuộn xoắn lao về phía này với tốc độ khủng khiếp, di chuyển phải đến cả trăm dặm chỉ trong chớp mắt.

Đấy chắc chắn không phải hơi nước!

Đồng tử Phương Trữ thít chặt lại, để sau đó lập tức nhận ra…

Đó là người.

Nhìn phục trang và phụ kiện là đoán được đây ắt là những người thuộc tiên môn dưới nhân gian.

Có lẽ họ đuổi theo những linh phách từ khắp nơi tụ lại về đây, hoặc có lẽ họ đến đây dưới sự tác động vô hình của Thiên đạo Linh đài. Nhưng dù là lý do nào đi nữa thì cũng chỉ mang đến nguy hiểm cùng cực cho Phương Trữ.

Vì sau khi ngăn chặn mấy vạn linh phách, khí tà ma bọc trên người hắn đã cuồn cuộn ngất trời. Lọt vào mắt mấy đệ tử tiên môn, hắn chính là vấn nạn nghiêm trọng nhất cần được trừ khử ở vùng sơn dã này.

“Nè đồ đần,” Phương Trữ nhìn hướng đó rồi bất ngờ trầm giọng mà bảo, “cái miệng của mày đúng là…”

Đang yên đang lành mắc chứng gì phải nói “Nếu chúng ta phải chết” chi vậy.

“Cái miệng của tao bị cái gì mày…” Giọng Ninh Hoài Sam truyền đến từ bên đầu hiện thế, tiếng mưa rơi ầm ĩ cũng không át được tiếng thở hổn hển và mỏi mệt trong giọng cậu. “Mày nói chuyện ít có khốn nạn lắm… nói cũng không nói cho hết câu.”

Phương Trữ muốn nói “Gặp phải rắc rối lớn rồi, có khi tao cản không nổi quá”, song lời ra đến miệng đã bị hắn sửa lại.

Hắn nhìn thấy đao kiếm pháp khí của mấy ngàn đệ tử tiên môn đang oanh liệt đổ về phía mình mà thốt chẳng nên lời. Sau cùng, hắn chỉ nói, “Thôi không có gì, tao đánh nhiều mệt nên muốn nhây lười một chút thôi. Có thể lát nữa số lượng linh phách đổ sang hiện thế sẽ tăng đột biến, mày…”

Phương Trữ ngừng chốc rồi nói, “Mày nhắm có bị đánh cho bò càng không?”

Ninh Hoài Sam văng tục một câu từ phía bên kia rồi rít lên, “Bò mà được… Tới!”

***

Ở đời hay gặp cảnh tiên môn vây đánh tà ma, trừ ma hộ đạo, đây là việc thiên kinh địa nghĩa.

Thế nhưng cảnh tượng hiện giờ thật hiếm gặp trên thế gian. Vì số lượng người quá đông…

Trường bào các đệ tử tiên môn như mây như lọng, song song cùng linh phách người chết đang cuồn cuộn tràn tới nơi này. Ánh sáng bén nhọn từ đao kiếm và sát khí trộn lẫn oán khí đồng loạt đổ dập xuống như sóng gầm lũ dữ, chỉ trong chớp mắt đã trùm kín tất cả.

Phương Trữ có dốc toàn lực cũng không thể nào ngăn cản nổi lực công kích ngần ấy, huống gì hắn vốn đã sức cùng lực kiệt.

“Sắp sửa ứng nghiệm vào cái mỏ xui xẻo của Ninh Hoài Sam rồi…”

Phương Trữ nhủ thầm trong lòng.

Dù vậy, hắn vẫn nghiến răng, ôm một bụng máu trong miệng mà vận hết sức mình nhằm ý đồ tự bạo linh thần, dùng mệnh đánh đổi một phen.

Không ngờ ngay thời điểm tự bạo, bỗng có thứ bất chợt loé lên, chặn lại trước mệnh môn và huyệt tim hắn.

Phương Trữ ngây người.

Luồng linh lực chắn lại giúp hắn có nhuốm sương giá lạnh căm. Đấy là hơi thở của thành chủ.

Bất chợt, hắn nhớ lại câu chuyện rất nhiều năm về trước…

Khi đó, hắn nhếch nhác tàn tạ không khác gì một tấm giẻ rách, được Ô Hành Tuyết nhặt về Tước Bất Lạc rồi ngâm mình trong ao máu bên dưới gốc đại thụ. Hắn đau chết đi sống lại, đầu óc mê man chỉ cảm thấy mình như ngấp nghé bên quỷ môn quan nhiều lần rất lâu đến khi tứ chi gãy lìa mọc lại một lần nữa và miệng vết thương dần dà khép lại.

Ngày hắn khốn đốn mở mắt ra, thành chủ vận trắng một thân đứng bên cạnh ao máu, cúi người dùng lòng bàn tay chạm lên trán hắn.

Khi ấy hắn run rẩy, lo rằng ma đầu khét tiếng này tính giết mình, sau lại nhận ra đối phương chỉ thả một phần linh lực vào trong cơ thể hắn.

Sau hôm đó, hắn đã thực sự được sống với tay chân trọn vẹn.

Từ đó về sau, hắn không bao giờ rơi vào tình huống cận kề cái chết đến như vậy một lần nữa.

Vì luôn có một phần linh lực níu kéo hắn trở lại.



Chính vì vậy, Phương Trữ không muốn phụ lòng người, hắn nỗ lực hết sức mình để giúp thành chủ và Thiên Túc một phen. Nhưng với tình huống trước mắt, ngoại trừ tự bạo linh thần hắn không còn biết làm gì khác hơn.

Trong một tích tắc hắn ngẩn người, đã có muôn vàn đao kiếm pháp khí chĩa mũi nhọn đến ngay trước mắt.

Phương Trữ nín thở, nhưng đã không còn kịp phản ứng lại nữa.

Ấy chính là thời khắc ngặt nghèo như ngàn cân treo sợi tóc…

Mũi kiếm chỉ còn cách đồng tử Phương Trữ một li, tích tắc nữa thôi sẽ đâm thẳng qua đầu và đóng đinh hắn lên thành vách đá.

Ngay khoảnh khắc ấy, vô số mũi kiếm trắng loá lao thẳng xuống từ chín tầng mây, kéo bóng thành một “sợi dây” dài, vùn vụt như sao sa.

Những “sợi dây” ấy khâu trời nối đất, đan lẫn vào nhau hình thành một tấm lưới tiên khổng lồ. Tấm lưới ấy bất chợt hiện hình giữa trời trước mắt Phương Trữ, ngăn cản hết thảy muôn vàn đao kiếm pháp khí rồi đột ngột siết lại!

Những đệ tử tiên môn và linh phách đang phi thân về phía Phương Trữ đã bị cản lại phía bên kia tấm lưới.

Ngay sau đó, sương giá trắng tuyết đọng lên khắp cả người khiến bọn họ cứng đơ lại không cầm nổi đao kiếm pháp khí gì nữa, bởi vậy mà không sao sấn tới trước được một li nào.

“Thành chủ?!”

Phương Trữ vừa nhìn thấy sương tuyết đã biết ngay chiêu này xuất phát từ ai.

Nhờ tấm chắn bảo vệ này nên hắn đã suýt soát giữ được một mạng.

***

Cùng lúc đó ở phía trên Tiên Đô, mọi việc cũng đang rơi vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc.

Ô Hành Tuyết vừa thu chiêu dưới nhân gian về đã nghe thấy giọng nói kia. Chàng và Tiêu Phục Huyên mới đánh bay chúng tiên, tiến vào Linh đài với một thân người nồng hương máu và khí thế đầy lẫm liệt.

Khi đó, giọng nói mơ hồ khó phân biệt kia lại vang lên lần nữa.

Có lẽ vì có cùng nguồn cùng cội nên lần này cũng chỉ mỗi mình Ô Hành Tuyết nghe được. Song âm thanh rót vào tai chàng như được truyền từ bốn phương tám hướng, vang vọng khắp toàn bộ Tiên Đô.

“Ngươi đã từng ngẫm lại chưa?”

“Tại sao ngươi liên tục lâm vào cảnh cùng cực?”

“Đó là vì ngươi cứ luôn như vậy. Phân tâm lúc không nên phân tâm, nhúng tay vào những chuyện không liên quan đến mình.”

“Hay cho câu chuyện không liên quan…” Ô Hành Tuyết rút kiếm ra bước thẳng lên một đỉnh Linh đài, mũi kiếm chàng lướt qua thạch đá khiến tuyết vụn b ắn ra ngoài. “Chuyện gì là chuyện không liên quan?”

“Sinh mệnh một ai đó?”

“Hay của tất cả sinh linh vạn vật trên đời?”

Sau lưng họ, một tiếng nổ khủng khiếp rền vang từ đỉnh toà Linh đài gần nhất. Vách núi bị phá thành đá tảng, đổ ầm ầm xuống dưới.

Linh đài Tiên Đô có tổng cộng mười hai đỉnh núi treo cao, mỗi một ngọn núi đều có cấm chế. Ngày thường, những cấm chế mang ảo cảnh trùng trùng và núi đao biển lửa này được dùng để trừng phạt những tiên vi phạm tiên quy. Vậy mà lúc này đây, chúng lại trở thành chướng ngại hòng ngăn cản Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên.

Ô Hành Tuyết trả lời bằng truyền âm, “Đối với ngươi, sống chết của một người đích thực là chuyện không liên quan chẳng can hệ, và có thể được dùng để bồi thiện đắp ác, được dùng để “định đoạt” sinh tử. Nhưng đối với ta, mỗi một sinh mạng ta gánh vác đều không thể thiếu.”

Ô Hành Tuyết siết kiếm trong tay và đứng thẳng người. Khí tà ma trên cơ thể chàng rực cháy như lửa, nỗi oán hận của sinh linh quấn rịt triền miên, chúng rít gào, cắn xé, tra tấn không ngừng nghỉ.

Gương mặt chàng tái nhợt, khắp người đẫm máu, chẳng chút gì đồng điệu cùng một Tiên Đô bóng bẩy không vết tì trước mắt.



Rõ ràng, chàng từng tịnh dưỡng trên những áng mây này, từng được xưng ôn hoà bi mẫn, và cũng từng được nhắc đến qua câu “kinh hồng một thoáng”.

Rõ ràng, chàng là vị tiên đầu tiên nơi đây.

Mà hiện tại, chàng đối đầu với Linh đài, trở thành sự tồn tại dị biệt nhất với nơi này. Ngoại trừ Tiêu Phục Huyên và thanh kiếm trong tay chàng, người người nơi đây đều gọi chàng hai tiếng “Tà ma”.

Chúng tiên bị đẩy ra ngoài lại tấn công về phía chàng chẳng biết lần thứ bao nhiêu. Vân Hãi, Mộng Cô, Tang Phụng, Hoặc Ca… và nhiều hơn nữa.

Những người trước đây từng là bạn xưa bè cũ, giờ đây chịu sự khống chế toàn diện từ Thiên đạo Linh đài trên dòng rối loạn. Ai nấy đanh nét mặt không chút vui cười, điều khiển đủ loại pháp khí tấn công từ bốn phương tám hướng hòng đối địch với nhóm họ hết lần này đến lần khác.

So với trận hỗn chiến Tiên Đô hai lăm năm về trước, thế tiến công giờ đây còn nặng nề hơn, cam go hơn, càng khiến người ta nuối tiếc nhiều hơn.

Vì lần này, bọn họ chiến đấu cho sinh mệnh của bản thân.

Các tiên điên cuồng thiêu đốt linh thần, trong khoảnh khắc ấy tất cả đều tung ra chiêu mệnh. Nguyên do vì Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên chỉ còn cách Linh đài một bước nữa thôi.

Mà Thiên đạo Linh đài đã nắm được một điểm mấu chốt — họ không thể xuống tay giết những vị tiên này.

Ô Hành Tuyết cầm linh kiếm trên tay, đang gánh vác trên vai mình những nỗi oán hận trầm trọng nhất, khốn đốn nhất từ các vong hồn. Ngược lại, chúng tiên Linh đài vẫn thường ban phúc cho nhân gian, trên người họ là những lời chúc phúc và nguyện cầu tốt đẹp nhất.

Một vị tiên như thế tương đương với muôn vạn người.

Chỉ cần giết một vị thôi, oán hận trói rịt trên người Ô Hành Tuyết có thể đè nặng chàng đến mức không sao đứng nổi, và cũng không thể nhấc nổi kiếm nữa.

Mà Ô Hành Tuyết tuyệt không thể từ bỏ thanh kiếm của mình.

Vì chàng sớm đã mang thân thể tà ma, bắt buộc phải giữ thanh linh kiếm này bên mình, bắt buộc “Linh Vương” của dòng rối loạn phải xuống tay tung chiêu vào giây phút chót cùng nhất — để chặt đứt dòng rối loạn này, để từ bấy về sau không còn Linh đài nữa.

Cục diện gần như rơi vào thế bế tắc.

Trong tình thế bế tắc này, chúng tiên dưới sự khống chế của Linh đài đang có ý định chặn đứng chàng và Tiêu Phục Huyên ngay trước thời khắc sau cùng.

Đây chính là khung cảnh tráng lệ và thê thiết nhất Tiên Đô này — phải lên đến hàng ngàn vị tiên đồng thời tung chiêu mệnh thẳng l3n đỉnh núi linh thiêng.

Về sau tất cả những mâu thuẫn và rối ren đến mất khống chế bắt nguồn từ Thiên đạo sẽ không còn tồn tại nữa.

Mà ngay trước thời khắc ấy, thanh âm xa xăm kia nói với Ô Hành Tuyết, “Ngươi cứ bảo là áp đặt, nhưng đấy không phải sự thật, hết thảy mọi điều đều nhằm vì sự cân bằng.”

“Cân bằng?”

“Cân bằng…” Ô Hành Tuyết lẩm nhẩm câu đó mấy lần rồi bật cười thành tiếng.

Chàng cất giọng nhẹ nhàng, “Nói thật, ta vẫn mãi thắc mắc một việc… ngươi có còn là Thiên đạo vô hình vô trạng, vô tâm vô tình lúc ban đầu hay không?”

“Ta đã thắc mắc rất lâu, giờ có lẽ đã có được đáp án rồi.”

Chàng ngước khẽ mắt.

Bóng dáng những vị tiên đang dốc sức công kích phản chiếu trong đôi ngươi chàng như áng mây mờ mịt. Những mũi nhọn và lưỡi bén pháp bảo dồn dập lao tới, phóng xuyên qua màn mây, kéo theo tiếng thét gầm của gió dữ cùng cực.

Mà Ô Hành Tuyết trao đổi ánh mắt với Tiêu Phục Huyên, xong lại nhìn đỉnh núi thiêng cách đó không xa và nói, “Ngươi đã không còn là Thiên đạo đó từ lâu rồi.”

“Khi ngươi mong mỏi bản thân trường tồn, khi ngươi mong mỏi Tiên Đô hưng thịnh, khi ngươi ghét phải nhìn bản thân mình sụp đổ tiêu tan, chính là lúc ngươi có ‘sinh tử’.”

“Một khi ngươi vì ‘sinh tử’ mà can thiệp vào việc của phàm nhân và tiên ma, dẫn dắt người ta mở dòng rối loạn và gây sự thị phi, chính là lúc ngươi có ‘thiện ác’.”

“Một khi ngươi sống trong ‘thiện ác’, ngươi đã không còn tư cách đứng bên trên chúng sinh, đòi hỏi cân bằng thiện ác.”

“Ngươi đã không xứng, thì lấy đâu tư cách nhắc đến ‘cân bằng’?”

Lời vừa dứt, mây gió Tiên Đô lặng bặt.

Bất chợt, một sức hút khổng lồ ngoi lên từ mặt đất Tiên Đô, mạnh mẽ hơn toàn bộ áp lực của chúng tiên cộng lại. Sức mạnh này đổ dồn đến với uy lực của ngàn quân, nó quấn lấy tất cả các đỉnh vách núi treo cao rồi quật mạnh xuống đất…

Ngay tiếp đó, Tiên Đô bạt ngàn đổ sụp!

Ấy có lẽ chính là cơn phẫn nộ của trời cao.

Trong cơn tai ương lồ ng lộng ngút trời, một giọng nói lạnh lùng vang lên, “Ta có thể thử tính xác thực của lời này.”

Người vừa cất giọng chính là Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên.

Dấu ấn ánh vàng nhàn nhạt bên cổ y hơi loé sáng, tiếp sau đó, thanh linh kiếm y phóng vun vút qua núi đá lở đổ và mây gió vần vũ, cắm thẳng vào bên trên Linh đài.

Thanh kiếm rung lên kịch liệt hơn bao giờ hết, lưỡi kiếm cuồn cuộn ánh kim quang lưu chuyển.

Thanh kiếm ấy đi theo bên người Tiêu Phục Huyên đã mấy trăm năm, giờ mới lần đầu xuất hiện vết rạn. Vết rạn nứt từ mũi kiếm rồi lan dần đến chuôi kiếm chỉ trong nháy mắt. Trông như thể nó sẽ vỡ nát thành những mảnh thiết vụn bất kỳ lúc nào.

Cuồng phong càng bạo liệt hơn, nó rống gầm bọc quanh lưỡi kiếm, sau cùng uốn thành một cơn lốc xoáy như thân rồng cuồng điên.

Ngay trước thời khắc linh kiếm vỡ nát hoàn toàn, mũi kiếm chợt loé lên như đang có ánh sáng vàng lưu chuyển.

Những ai từng gặp Thiên Túc chỉ cần nhìn qua là biết ngay hiện tượng linh kiếm hoá thành như thế này đại biểu cho một chuyện duy nhất…

Thẩm vấn.

Người đời tương truyền rằng, trước lúc tiêu diệt và giáng hình lên tà ma, Thiên Túc thượng tiên sẽ luôn ghim xuống một kiếm để thay trời thẩm vấn, <i>vì sao đi đến bước đường này</i>.

Nhưng tình hình giờ đây ngược lại.

Cho dẫu trong dòng rối loạn hay hiện thế, cho dẫu trong quá khứ đã qua hay tương lai chưa tới, thì lần này vẫn là đợt thẩm vấn long trọng bậc nhất.

Đây là lúc Thiên Túc Tiêu Phục Huyên thay mặt vạn vật chúng sinh vấn ngược trời cao.

Thay cho hết thảy những gì đã mất, đã chết dưới thiện ác bị cưỡng ép trong suốt mấy trăm năm; thay cho cõi trần lún sâu dưới nguy cơ không được thấy ánh mặt trời, ta hỏi ngươi…

Vì sao đi đến bước đường này?!
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 123: Lốc sát


Hết thảy những chuyện xưa cũ từng xảy ra xuyên suốt quãng thời gian mấy trăm năm, từ hiện thế đến dòng rối loạn, từ còn sống đến đã chết, đều lùa về như một cỗ xe ngựa băng băng lướt qua theo thời gian thấm thoắt thoi đưa.

Ở nơi ấy xuất hiện quá nhiều sự việc, xảy ra quá nhiều sinh tử, tồn tại quá nhiều ý trời trêu ngươi, phát sinh quá nhiều vận mệnh an bài.

Mọi thứ đều hiện lên chớp nhoáng, nhưng nhìn những khung hình lướt nhanh qua vẫn có thể trông thấy nhiều bóng hình quen thuộc…

Có thể thấy Tang Phụng rơi xuống trần, tan biến tiên nguyên, quên sạch quá khứ, sau cùng sống đơn độc trên một con phố suy tàn ở Tây Viên. Trên con phố ấy có một quán rượu vô cùng xoàng xĩnh, tường quán treo vài bức tranh vẽ không ăn nhập gì đến nhau. Một lần đi ngang qua, anh ta nhìn vào thấy trong đấy có bức tranh vẽ một cô gái, cô gái này sở hữu nét mặt hơi hung dữ, dưới chân cô là một con hổ đang nằm ngoan ngoãn.

Bức tranh ấy chẳng đẹp đẽ gì nhưng vẫn khiến anh ta dừng bước vấn vương một lúc lâu. Lâu đến mức ông chủ quán rượu cũng thấy thắc mắc bèn ra hỏi xem anh ta nhìn cái gì.

Tang Phụng lắc đầu, trả lời rằng mình cũng không biết.

Chỉ là, khi nhìn vào bức tranh kia, anh ta chợt thấy lòng mình đượm buồn man mác. Giống như thể anh ta từng quen biết người phụ nữ như vậy, một cô nàng hung dữ và thích nuôi dưỡng mãnh thú có linh trong nhà.

Nó dấy lên trong anh ta đôi phần hoài niệm.

Rồi họ cũng có thể thấy sau khi xuống nhân gian, Mộng Cô sống một thời gian dài ở phía bắc Miện Châu. Xứ sở đó lạnh lẽo quanh năm, sau một đợt cảm sốt, căn bệnh ăn sâu vào người khiến thân thể nàng về sau suy yếu hẳn đi.

Tính tình cô nàng vẫn cau có như hồi còn ở Lễ các, và cũng có nuôi một con hổ bị thương trong cánh rừng hoang cạnh nhà.

Để rồi có những phút tình cờ nào đấy, nàng còn ngỡ không biết sao núi rừng tĩnh lặng quá thể, phải mà bên cạnh có một người lanh miệng và ham chăm lo liệu sự thì tốt biết mấy.

Đôi lúc ngẫm về điều đó, nàng sẽ thẫn thờ nằm soài bên bệ cửa sổ trong chốc lát.

Khổ rằng bọn họ một ở nam một ở bắc, cả đời cũng chẳng thể gặp được nhau.

Rồi ở trong đó còn thấy được Hoặc Ca, nàng ta sống trong một con hẻm ven sông phía nam Mộng Đô, bên cạnh cây cầu vòm có tên “cầu Nghênh Tiên”. Ấy vậy, trên cầu không có thần tiên qua lại mà chỉ thường thấy ăn mày và lưu dân.

Nàng từng giúp đỡ một số người, và cũng giữ lại chăm sóc một số người.

Về sau, con hẻm ấy bị tà ma tàn sát vô tội vạ đến mức không còn một ai, nàng giúp chôn thây những nạn nhân đã khuất. Sau đó, nhân một đêm trăng thanh sáng trời, nàng ngân một điệu ca phúng điếu rồi trầm mình xuống sông.



Và có cả Vân Hãi.

Hắn nhảy khỏi Phế Tiên đài; hắn suýt mất mạng trong miệng đám tà ma ngoài hoang dã; hắn thảng thốt nghe thấy tiếng chuông mộng của “Linh Vương” dòng rối loạn, trong tích tắc hắn nhớ lại hết tất cả mọi chuyện, để rồi vì không cam lòng mà vùng vẫy hút ngược ma nguyên…

Hắn biến thành tà ma.

Hắn tạo ra một con rối để trốn khỏi Hoa Tín hàng mấy chục năm, và cả… sau cùng mất mạng dưới kiếm của chính Hoa Tín trong thung lũng Đại Bi.



Tất cả mọi việc đều lướt ngang qua trong âm thanh thẩm vấn của Thiên Túc.

Còn trước mắt họ, có lẽ chính là khung cảnh cam go nhất của Tiên Đô dòng rối loạn…

Hàng ngàn tiên nhân tung ra chiêu mệnh với sức mạnh động trời hòng tấn công Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên đang chỉ còn cách Linh đài một bước chân.

Y phục đảo mây, pháp khí xé gió.

Bọn họ sà xuống từ trên cao, để khi lưỡi nhọn pháp khí mấp mé chạm đến Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên thì cả cơ thể họ bất chợt chấn động.

Người có phản ứng lớn nhất chính là Vân Hãi.

Những dải cờ phiến đan xen lẫn nhau thừa sức siết chặt cổ người. Chúng vốn đang giăng kín một khoảnh trời, giờ vung ra thành từng đợt, đập thẳng vào trụ cột bằng ngọc khiến vách đá vỡ toang tung toé!

Tất cả cờ phiến đan thành một tấm lưới khổng lồ, chỉ cần hắn rút tay lại một lượt thôi là có thể giam hai người đang đứng trên vách núi thiêng kia vào trong mành cờ ngay lập tức.

Ấy thế mà các ngón tay hắn lại run lên bần bật, giống như thể lực ảnh hưởng của Linh đài đang tranh đấu kịch liệt với chính bản thân hắn. Bởi vậy, hắn có gồng hết toàn lực cũng không sao cong ngón tay lại được.

Gương mặt hắn cũng y hệt những người khác, là một gương mặt hoàn toàn vô cảm. Thế nhưng vì tranh đấu vật lộn và run rẩy mà đôi mắt hắn lại hửng đỏ hẳn lên.

Có lẽ vì phải nhớ về đợt “thẩm vấn” mà hắn không muốn nghĩ đến bên dưới lòng thung lũng Đại Bi chăng.

***

Những vị tiên khác cũng bắt đầu có dấu hiệu tự vùng vẫy, gần như các chiêu thức họ tung ra đều bị khựng lại trước khi vượt quá giới hạn cuối cùng.

Bọn họ không tiến công về trước, nhưng cũng không rút lui về phía sau.

Những đợt tự tranh đấu ấy không ngừng lặp đi lặp lại, song không thể duy trì được lâu. Chẳng qua mấy chốc, bọn họ đã bắt đầu điềm đạm hẳn, có vẻ như ảnh hưởng từ Thiên đạo đang dần đoạt lại thế thượng phong.

Tuy nhiên, ngay thời khắc mấu chốt ấy, Tiêu Phục Huyên lại bổ tiếp thêm một đợt.

Âm thanh ồn ã của thẩm vấn vang rền lần nữa. Đồng thời tại một nơi khác trên Tiên Đô, tiếng la hét thất thanh và khóc than đến nao lòng đột ngột vang lên.

Vào thời điểm tiếng khóc thét vang vọng, toàn bộ Tiên Đô cũng rung lên kịch liệt. Có vẻ như hang trời trên chín tầng mây đã chạm mức giới hạn chịu đựng sau cùng.

Tiếng khóc thét ấy khiến các tiên thất kinh, mọi người ngơ ngác ngoảnh sang hướng đó.

Sau một hồi lâu sững sờ, bọn họ mới nhận ra âm thanh kia vọng ra từ chính Nam Song Hạ. Mà ai cũng biết Nam Song Hạ là địa điểm đặc thù nhất trên Tiên Đô, bởi vì nơi đó có một cơn “lốc sát” không rõ nguyên cớ.

Trước đây, chúng tiên Tiên Đô chưa bao giờ suy nghĩ sâu xa xem cơn lốc sát kia rốt cuộc là thứ gì. Họ chỉ biết rằng nó mang sát khí âm tà vô cùng nặng nề, có thể sánh ngang với Kinh Quan nơi có vong hồn đông đảo nhất trần gian hoặc Động Ma nơi sát khí tràn trề nhất.

Mãi đến giờ phút này, mọi người mới bất chợt vỡ lẽ đây là gì…

Nó là nỗi oán hận vĩnh viễn không an nghỉ của những vong hồn.

Họ chính là những người đã mất mạng dưới cái được mang danh định mệnh an bài hoặc ý trời trêu ngươi trong suốt mấy trăm năm ròng, là nỗi “oán hận” thuộc về Thiên đạo Linh đài.

Các đệ tử tiên môn trên thế gian đều thường nói một câu…

Rằng con người ta ghim hận thù sâu đậm nhất lúc họ lìa đời.

Dầu có là người tốt hay người xấu, dầu là thiện hay ác, dầu là vô tội bị hàm oan hay có tội đáng phạt, chỉ cần lúc ra đi người ta có đôi chút không cam tâm thì đều sẽ oán hận người đã xuống tay giết mình.

Đó là loại oán hận không ai có thể hoá giải.

Khi trước, những lần giảng đến đây, các trưởng lão đệ tử đường đều bổ sung thêm một câu rằng, “Ngay cả thần tiên cũng không hoá giải được.”

Mà giờ phút này có lẽ phải bổ sung thêm câu nữa…

Không chỉ thần tiên mà đến cả Thiên đạo Linh đài cũng không được!

Cũng bởi đến cả Thiên đạo Linh đài cũng không hoá giải được những nỗi oán hận ấy nên nó buộc phải tìm một người có mệnh cách cực kỳ hung sát đến trấn áp…

Thành thử, ở Nam Song Hạ có Tiêu Phục Huyên.

Mà nguyên do Tiêu Phục Huyên luôn kiên trì trấn áp nơi đó chưa bao giờ là vì tuân thủ Linh đài. Chẳng qua y muốn đảm bảo ngọc đá vỡ trên cung điện Tiên Đô không bao giờ đổ sụp xuống nhân gian bên dưới chín tầng mây.

Ngay khi nhận ra được hết thảy những điều này, cơn phẫn nộ của Ô Hành Tuyết đã dâng trào đến đỉnh điểm.

Chàng từng trải qua cảm giác oán hận quấn thân, chàng hiểu quá rõ nếu không trấn áp nổi, để nỗi oán hận của những vong hồn kia phản phệ lên cơ thể thì sẽ phải gánh chịu khổ sở và đau đớn đến bực nào.

Vậy mà đến tận bây giờ chàng mới vỡ lẽ, hoá ra người mà mình trân quý nhất, người mà mình không sao buông bỏ nhất, đã phải ngồi trấn giữ phía trên nơi chất chứa oán hận mãnh liệt, điên cuồng nhất thế gian.

“Ngươi dựa vào đâu?!” Ô Hành Tuyết nhìn về phía Linh đài, khớp ngón tay siết chặt trên chuôi kiếm đã trở nên trắng nhợt.

Ngay sau đó!

Loáng thấy một thân hình cao dỏng rút kiếm phóng lên, chợt trông như một cơn gió lộng thình lình quét qua, thẳng tiến đến Linh đài.

Tiêu Phục Huyên bám theo sát bóng, kiếm khí lẫm liệt xé gió vung lên, bao bọc trọn bốn phía, hình thành một kết giới ánh vàng không gì phá vỡ nổi! Kiếm khí đột ngột bủa ra phía ngoài, mỗi một chóp nhọn đều lao thẳng đến những vị tiên đang chịu ảnh hưởng của Thiên đạo Linh đài.

Hòng ngăn cản bọn họ tung chiêu mệnh lần thứ hai để đối kháng.

Song ngay vào thời khắc ấy…

Cơn lốc sát khí bốc hơi rồi toả ra, từng tàn ảnh của các vong hồn thoát ra khỏi cơn lốc xoáy của oán hận mãnh liệt nhất. Trong dòng rối loạn chỉ toàn ảo ảnh, vì vậy mà bóng vong hồn đều trao hết thảy di nguyện của mình vào hiện thế.

Kết quả, mọi người chứng kiến nào những Vân Hãi, Hoa Tín, Tang Phụng, Mộng Cô, Hoặc Ca… nhà họ Phong, và thậm chí cả nhà họ Hoa…

Sau khi những tàn ảnh đó thoát ra khỏi lốc xoáy, một số trong đó nối gót Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên tiến đến Linh đài, một số khác chuyển hướng…

Vừa thoáng thấy tàn ảnh Vân Hãi đáp xuống phía sau lưng Vân Hãi của dòng rối loạn, tàn ảnh của Hoa Tín đáp xuống bên cạnh người Tiên thủ của dòng rối loạn…

Từng người từng người lần lượt đáp xuống bên cạnh phiên bản của mình trong dòng rối loạn. Bóng sáng loé lên rồi hình ảnh hai người chồng vào với nhau, trông như hai bên đang nhập vào làm một.

Khung cảnh lúc ấy không khỏi khiến người ta liên tưởng đến…

Chúng tiên hồi vị.

Vào khoảnh khắc hai bên hợp lại làm một, chúng tiên Tiên Đô cuối cùng cũng thoát khỏi sức ảnh hưởng và khống chế của Thiên đạo Linh đài.

Họ thoáng trao đổi ánh mắt một phen, đoạn đồng loạt quay sang tiêu diệt Linh đài.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 124: Linh vương


Tiên Đô vốn được sinh ra vì Linh đài, theo lẽ cũng nên thay đổi theo Linh đài. Thành thử, vạn vật nơi đây đều có thể trở thành vũ khí của Thiên đạo Linh đài.

Nếu đến cơn gió kề bên người, áng mây bảng lảng nơi nơi, vầng nhật nguyệt soi rọi trên đầu, vô vàn tiên sứ tiên đồng không kể xiết, cùng với hàng ngàn hàng vạn toà dao cung ngọc… tất cả những thứ trong tầm mắt, những âm thanh trong tầm tai, đều trở thành sự vật mang tính công kích, vậy thì tình huống quả thật nguy ngập.

Tiên Đô hiện tại đang lâm vào tình cảnh nguy ngập đó, nó khốn khó đến độ không một ai trong chúng tiên Linh đài có thể ngăn cản được.

Hành chu đồ của Tang Phụng có thể đóng mở tuỳ thích, Hoa nguyệt kính của Mộng Cô có khả năng khởi tạo ảo cảnh. Khi hai bên hợp lực với nhau, dao cung cũng khuất khỏi tầm mắt.

Các tiên như đang rảo bước trên hoạ đồ, băng xuyên qua non nước.

Cờ phiến của Vân Hãi giăng rộng khắp tám phương, lấp kín nền trời; đèn Minh đăng của Hoa Tín trải dài muôn nẻo, chiếu soi ngàn dặm.

Ngón tay Hoặc Ca lả lướt tựa sao sa, ôm nghiêng thanh tỳ bà. Dây đàn như nước xiết, tiếng ngân áp sấm rền.

Linh kiếm của Tiêu Phục Huyên đã vỡ vụn vào khoảnh khắc giáng xuống vấn thiên, trên hai tay y giờ rỗng không, thế mà y vẫn tự đốt linh phách mình, hoá ra một thanh cự kiếm ánh vàng phóng tới, chống đỡ bên dưới chín tầng mây giữa cơn chấn động kinh hoàng.

Nhờ vậy, dưới nhân gian lúc ấy xuất hiện một khung cảnh diệu kỳ…

Ngọc và đá đổ vỡ từ các vách núi Tiên Đô lật úp lại, đáng lý đã sập thẳng xuống nhân gian, nhưng rồi tất cả đều bị giữ lại bên trong ánh vàng sáng ngời. Chúng rung lên nhưng không một hạt nào rơi xuống.



***

Chỉ còn cách một bước là đến Linh đài bao trùm lên chúng sinh kia, vậy mà một bước này như trăm mối hoạ tụ về, như vạn kiếp nạn ngáng chân. Đấy là một bước xa xăm dằng dặc nhất thế gian, một chớp mắt dài như hàng trăm năm, không biết chừng cả đời cũng không chạm đến đích.

Nhưng có người dẫu linh đã lìa thể, vẫn dẫn bước chúng tiên ròng rã ba trăm năm.

Thế nên dù sau rồi pháp khí bị huỷ hoại toàn bộ, bọn họ vẫn chạm đến đỉnh ngọn núi thiêng kia.

Tay Hoặc Ca đẫm máu nhưng vẫn giữ chặt tỳ bà, đệm lên những nốt cuối cùng. Khi âm thanh đi được nửa đường, bốn sợi dây đàn đứt lìa, sắc đỏ thẫm văng cao mấy trượng, nhấn chìm pháp khí còn sót lại này vào biển lửa ngút trời.

Tiếng cầm thình lình lặng bặt.

Ngay kế đó, Linh đài bổ nhào về phía họ tựa như thứ binh khí mang đầy gió bão, mưa rền, sấm sét, lửa dữ khuynh đảo đất trời. Chúng tiên giơ tay lên che mặt theo quán tính. Bất chợt, có một bóng người nhuốm sắc máu phóng ngược lên như sao băng lướt qua, tiến thẳng vào màn gió mưa sấm lửa.

Ấy chính là Ô Hành Tuyết.

***

Chàng không nhớ được đây là dòng rối loạn thứ bao nhiêu bị mình chém đứt.

Chàng xuất kiếm quá nhiều lần, sát hại quá nhiều “người”. Giờ đây, con đường vô cùng tận khi xưa rồi cũng sắp đến hồi kết.

Từng một thời, chàng khoác ánh tiên quang toàn thân trong mỗi một lần xử chém dòng rối loạn. Chỉ riêng lần này, trên người chàng không một tia sáng của tiên mà quấn rịt quanh thân tuyệt nhiên là oán hận, hơn thế, những oán hận ấy thuộc về vô số vong hồn không sao đếm xuể.

Ô Hành Tuyết thả nhẹ giọng, ngỏ lời với những vong hồn kia, “Đây hẳn là một lời giải thích thích đáng cho các vị.”

Lời vừa dứt, chàng cầm thanh kiếm hoá hình từ “Linh Vương” dòng rối loạn trên tay, chém thẳng xuống đỉnh Linh đài từ trên cao!

Qua hàng trăm năm, biết bao dòng rối loạn không kể xiết, biết bao người chết không đếm xuể, biết bao những yêu hận chết sống rành rành nơi cõi trần đều được phó thác vào một kiếm này…

Thế rồi, nhát kiếm này trống rỗng.

***

Đáng lý ra, một khi lưỡi kiếm với khả năng chặt đứt dòng rối loạn kia chém xuống sẽ kéo theo cảm giác thân và linh bị xé toạc, tiếp đó đất trời sụp đổ, rồi dòng rối loạn hoá thành hư vô.

Nhưng chém kiếm xuống rồi, mà Ô Hành Tuyết chỉ thấy trống rỗng.

Sao lại như vậy?

Tại sao… lại như vậy?

Chàng bàng hoàng không thôi.

Sau đó, chàng lại nghe thấy giọng nói hư ảo kia. Giọng nói đó vang vọng bên trong Linh đài, vởn quanh người Ô Hành Tuyết, nó lớn tiếng giữa bão tố sấm rền, “Một Linh Vương được sinh ra trong dòng rối loạn đòi chém dòng rối loạn mà được sao? Nơi đây chính là nguyên do tồn tại của hắn.”

“Hoang đường.”

“Ngu xuẩn.”

“Châu chấu đá xe.”

Đồng tử Ô Hành Tuyết rút lại, trái tim chàng hẫng nhịp.

Bất giác, chàng hiểu thấu một lời mà người phàm vẫn thường tự nhủ hòng châm biếm bản thân, rằng dẫu có đánh đổi bằng tất cả mọi thứ mình có, hy sinh hết thảy sinh mệnh, rồi cũng phí hoài vô ích.

Phí hoài vô ích ư…

Chàng thấy mình như sa vào hầm băng rét buốt cùng cực dưới đáy biển Vô Đoan.

Bỗng dưng, biến cố ập tới bất ngờ, tình huống xoay chuyển mau chóng.

Ô Hành Tuyết thiếu chút đập người xuống mặt đất, linh kiếm nảy tiếng leng keng. Ngay tiếp đó, bão tố đột ngột quay cuồng…

Chấn động kịch liệt đến bất ngờ với sức mạnh bất thường, mỗi lần nó rung lên đều mang đến cảm giác như thân và linh bị xé rách, tưởng chừng một nửa người ở dòng rối loạn mà một nửa còn lại đã trở về hiện thế.

Tiếng r3n rỉ và âm vang bị chìm trong tiếng đứt gãy đổ sụp, rất khó mà nghe thấy được. Lẽ ra không một ai có thể phát giác, nhưng trong màn đen mịt mùng, Ô Hành Tuyết bỗng dời tầm mắt.

Bên dưới cảnh vật đang vỡ tan thành mảnh nhỏ, cả người chàng đẫm máu, trong tầm mắt không có gì ngoài màu máu, thật tình chàng không thể nhìn thấy được gì. Thế nhưng chàng lại cảm nhận được các tiên đang suy sụp hoàn toàn không chống đỡ nổi, họ sụm người quỳ rạp xuống đất.

Chàng đã quá quen với cảm giác này.

Hiện tượng này cho thấy Thiên đạo đang định đẩy tất cả những người thuộc hiện thế ra khỏi dòng rối loạn sau khi nhát kiếm của chàng chém xuống bất thành!

Thế nhưng lần này không chỉ có vậy…

Chàng cảm nhận được tất cả sự vật sự việc trong đầu mình đang phai nhạt nhanh chóng. Tất cả những điều chàng từng nghe, từng thấy, từng trải nghiệm đều đang bị rút dần ra khỏi trí óc.

Chìm trong trạng thái mơ màng dần trở nên trống rỗng một lúc, Ô Hành Tuyết đột ngột duỗi tay siết lấy lưỡi kiếm.

Lưỡi kiếm cứa rách lòng bàn tay, cơn đau nhói lên khiến chàng tỉnh táo trở lại trong giây lát!

Trong giây lát đó chàng đã nhận thức được, lần này Linh đạo không chỉ tính đẩy họ ra khỏi nơi này mà còn muốn xoá ký ức để họ quên sạch nơi này đi. Và có lẽ không chỉ nơi này mà còn tất cả những gì có liên quan nữa.

Ánh mắt Ô Hành Tuyết hoảng loạn trong phút chốc.

Chàng đột ngột lảo đảo đứng dậy, nhỏ giọng gọi, “Tiêu Phục Huyên…”

Trên thế gian không một ai hiểu rõ mùi vị của sự quên lãng hơn hai người họ, chàng đã phải trải qua điều này suốt mấy trăm năm.

Vùi mình trong núi đao biển lửa, gánh chịu cơn đau thân linh huỷ hoại cũng chưa khiến chàng phải cau mày một chút nào, chàng chỉ sợ mỗi một chuyện này mà thôi.

Chàng không muốn phải nghe Tiêu Phục Huyên hỏi “Ngươi là Ô Hành Tuyết à?“ một lần nữa, và cũng không tài nào chịu nổi phải để Tiêu Phục Huyên nghe lại câu “Ngươi nhìn nhầm người rồi.”.

Giữa cơn càn quét và xóa nhòe không sao ngăn cản được, Ô Hành Tuyết băng băng như đao như kiếm, đâm xuyên qua sấm chớp mưa dông, truy tìm Tiêu Phục Huyên bằng cặp mắt đẫm máu của mình rồi giương mạnh tay nắm chặt lấy người kia.

Song ngay trong tích tắc, khung cảnh vỡ nát thành nhiều mảnh cùng sông núi chấn động đều thình lình dừng bặt, ngay đến cảm giác bị rút ký ức cũng chậm hẳn đi.

Cảm giác nó mang đến rất lạ, giống như là… khi đang trong quá trình quay về hiện thế, có ai đó đã kéo ngược mọi thứ trở lại.

Ngăn cản trong chớp mắt đó đến quá đỗi đột ngột, không bất kỳ ai kịp nhận biết chuyện gì đang diễn ra. Kể cả Ô Hành Tuyết.

Nhưng ngay sau đó, trong cơn lạnh giá, chàng lập tức hiểu ra.

Vì khi níu tay giữ lấy Tiêu Phục Huyên, chàng trông thấy đối phương gục hẳn đầu xuống, đôi môi tái nhợt đi. Ba thanh đinh tang trên xương tai người kia lăn dài trên mặt đất.

Để rồi mặc cho Ô Hành Tuyết cuống cuồng mò mẫm, cũng không sao tìm được linh phách trong cơ thể y.

***

Quả thật, linh phách trời sinh đã vỡ nát của Tiêu Phục Huyên không nằm trong cơ thể.

Y đã từng siết chặt một pho tượng bạch ngọc trong tay khi còn ở cực bắc, từng trải qua lần quên lãng đằng đẵng nhất thế gian. Y hiểu rõ thứ cảm giác bị rút mất tất cả mọi điều mình trân trọng, hơn ai hết, y biết tường Thiên đạo Linh đài đang có ý đồ gì.

Lúc này đây, y muốn ngăn chặn chuyện đó, bằng bất cứ giá nào. Thành thử, ngay tích tắc đợt càn quét và xoá nhoè kia vừa bắt đầu, Tiêu Phục Huyên đã gỡ đinh tang xuống.

Lập tức, linh phách vốn trời sinh vỡ nát bị phát tán ra ngoài. Những mẩu vụn linh phách đó tản mác trên từng điểm một khắp tám hướng, không mẩu nào rơi xuống. Trông vào tưởng như vì tinh tú xa xăm giữa cái lạnh đêm đông thăm thẳm đầy tịch mịch.

Thiên Túc thượng tiên Tiêu Phục Huyên chống một gối quỳ trên mặt đất, dùng toàn bộ linh phách mình làm “dây”, đóng chặt vào dòng rối loạn để níu giữ toàn bộ. Nhờ vậy, tất cả những càn quét và xoá nhoè trực tiếp bị cản lại, tiến không được mà lui cũng không xong.

***

Thời khắc đó, sấm chớp mưa dông mịt trời trên đỉnh Linh đài thốt nhiên tĩnh lặng, rồi liền kế đó gầm rú điên cuồng.

Trong tiếng rít gào, giọng nói của Linh đài mà Ô Hành Tuyết từng nghe rất nhiều lần lại vang lên khẽ khàng, nó nói với người đang quỳ một gối trên mặt đất, cũng nói với tinh tú xa xăm khắp nền trời.

“Người như vậy…”

Thực chất từ mấy trăm năm trước, khi Tiên Đô vừa hình thành đã từng có người hỏi Tiêu Phục Huyên việc này, hỏi rằng, “Vì sao Thiên Túc lại thành tiên?”

Người phàm tu hành luôn mong cầu điều gì đó. Họ cầu trường sinh, hoặc cầu mong bảo vệ một người, hoặc cầu trở nên hùng mạnh. Những điều đó quả tình hời hợt nếu đặt trên người Tiêu Phục Huyên, dường như y vẫn luôn sống một đời kiên định, không e không sợ.

Rồi sau cùng, ngay cả Thiên đạo Linh đài cũng phải thốt lên câu “Người như vậy”.

Một người có thể cõng thi thể đứa bé trên lưng băng qua rừng núi; một người giữa khi hấp hối đã dùng thân mình chắn cản lôi kiếp cho cây thần thân cao chọc trời; một người ngồi trấn giữ ở nơi oán hận dày đặc nhất suốt mấy trăm năm nhằm tránh cho tai hoạ đổ ập xuống nhân gian; một người sẵn lòng dùng toàn bộ linh phách mình để chống đỡ vào thời điểm dòng rối loạn sắp lẩn mình đi mất…

Rốt cuộc, một người như vậy làm thế vì điều gì?

Tuy vậy, Tiêu Phục Huyên và Thiên đạo không cùng nguồn cùng cội, câu hỏi đó thốt lên bằng tiếng trời của Linh đài nên y hoàn toàn không nghe được.

Bằng không, có lẽ y sẽ trả lời rằng, “Vì đã từng hứa.”

Vì y đã từng hứa với người thương: Ngươi có thể đi đến bất cứ nơi nào ngươi muốn, có thể chấm dứt bất cứ việc vì cần được chấm dứt, thoả ý tự do, không gì cản nổi.

Quân tử nhất ngôn, tuyệt không nuốt lời.

Và còn cả một vài chuyện mà đến bản thân y cũng không nhớ rõ…

Y sinh ra với nghiệp binh suốt ba kiếp liền, cả ba đời bỏ mạng nơi sa trường. Trên người y mang sát khí nặng nề nhất thế gian. Y có mệnh cách rắn rỏi nhất, linh phách vỡ nát nhất, và đường kiếm ngông cuồng nhất. Những linh hồn chết dưới kiếm y cũng tương tự như Linh Vương, nhiều không đếm xuể.

Nhưng điều y hằng mong mỏi nhất chính là được chứng kiến một thời điểm khi y đứng ôm kiếm nhìn quanh và không phải thấy người cần bị chém giết. Nhờ đó, y có thể tra lại kiếm vào vỏ đặng yên lòng thưởng thức phồn hoa mười hai dặm vào dịp tháng ba xuân sang.

Có người đã từng ngồi trên chạc cây và lắng nghe những điều ấy. Thế nên cho dẫu bản thân Tiêu Phục Huyên đã quên, vẫn còn một người trên đời này thay y nhớ rõ, và nhớ đến tận hôm nay.

***

Hai mắt Ô Hành Tuyết hoen đỏ, chàng quỳ trước thân thể Tiêu Phục Huyên. Ngón tay chàng đặt lên giữa trán Tiêu Phục Huyên, đầu ngón tay run lên khe khẽ, lạnh lẽo như băng.

Không linh phách một ai có thể tách lìa cơ thể trong thời gian dài, cũng không một cơ thể nào có thể rỗng không trong thời gian dài.

Chàng cảm nhận được nhiệt độ ấm áp trên trán Tiêu Phục Huyên đang lạnh dần đi, chàng biết, việc dồn hết sức chống trời này không thể kéo dài lâu.

Chỉ lâu thêm một chớp mắt thôi cũng khiến chàng thương tâm.

Giọng hư ảo của Linh đài văng vẳng: Các ngươi là một lũ hoang đường, ngu xuẩn, châu chấu đá xe.

Quá nhiều chuyện xảy ra đã cho chàng hay rằng: Có những lúc, dù có đánh đổi bằng tất cả mọi thứ mình có, hy sinh hết thảy sinh mệnh, rồi cũng phí hoài vô ích.

Nhưng không.

Sao chàng có thể bỏ mặc để mọi thứ phí hoài vô ích sau khi tất cả những người này, sau khi người thương chàng đã phải đánh đổi tính mạng mình?

Chàng không cam tâm.

Vào thời khắc đó, Ô Hành Tuyết ngước đầu thoáng nhìn tinh tú xa xăm. Tiếp đến, chàng nghiêng đầu, nghẹn ngào thì thầm vào bên bên tai người kia.

Chàng nói, “Tiêu Phục Huyên, chờ đến tháng ba tới ở nhân gian, chúng ta cùng nhau ngắm hoa rơi nhé.”

***

Lời vừa dứt, thanh linh kiếm trong tay chàng rung lên lách cách, biến hình thành “Linh Vương” dòng rối loạn.

Cùng lúc đó, ấn thờ khảm năm lần trên cổ Ô Hành Tuyết loé lên rồi lưu chuyển ánh sáng.

Nhờ có ấn thờ này, chàng có thể dùng linh thần của mình để điều khiển thể xác “Linh Vương” dòng rối loạn.

Nói cách khác…

Hiện tại, chàng chính là “Linh Vương” dòng rối loạn.

Ô Hành Tuyết giữ bản thể gốc tại chỗ, kế đó tự mình nhảy xuống khỏi Tiên Đô.

Chàng nghĩ ra một biện pháp.

Một biện pháp bất đắc dĩ nhưng là biện pháp duy nhất lúc này.

Giữa thời gian bị Tiêu Phục Huyên tạm giữ chặt, chàng lao thẳng xuống, trông không khác nào một dải sao ánh bạc hạ phàm từ chín tầng mây.

Nơi chàng hướng đến chính là phố núi Lạc Hoa trong dòng rối loạn.

***

Ô Hành Tuyết dùng cơ thể của “Linh Vương” dòng rối loạn đi vào khu cấm địa trong phố núi Lạc Hoa. Và rồi, chàng thực hiện lại một lần nữa chuyện mình từng làm ba trăm năm trước…

Dưới vòm trời xanh thẳm trong cấm địa, chàng xẻ linh phách thần mộc, tự lột sống thần lực trên thân thể mình.

Chàng phải một lần nữa chịu đựng cơn đau xẻ linh, một lần nữa cảm thụ máu me đầm đìa, chứng kiến tiên khí tan biến khỏi cơ thể, để lại tà khí ngợp trời.

Để rồi ngay vào khoảnh khắc chàng từ tiên biến thành ma, màn trừng phạt tương tự như ba trăm năm về trước cũng bị kích hoạt và đổ ập xuống người chàng một lần nữa…

Đó chính là tận diệt của Thiên đạo.

Ấy là loại ảnh hưởng khủng khiếp và cũng cô quạnh nhất thế gian, tất cả mọi thứ liên quan đến “Linh Vương” của dòng rối loạn, từ sự hiện hữu đến mọi vết tích đều biến mất hoàn toàn. Cũng đồng nghĩa, sự tồn tại của “Linh Vương” dòng rối loạn bị xoá sạch đến ngọn nguồn.

Mà cũng ngay thời khắc ấy, dòng rối loạn đang được chống đỡ cũng rung lên dữ dội. Lần chấn động này không bắt nguồn từ việc nó muốn đẩy người ra ngoài mà là trời đất đổ sụp, vạn vật về hư vô đúng nghĩa.

Bởi lẽ…

Nếu dòng rối loạn này chưa từng tồn tại một “Linh Vương”, cũng tức là chưa từng có người nào mang một chiếc chuông mộng khác tiến vào hiện thế, và cũng không có người đi ngược dòng thời gian hiện thế hòng truy tìm ngọn nguồn.

Vì vậy, cũng không một ai tình cờ ghé ngang vùng sơn dã trong lúc ngược dòng thời gian, không ai nhìn thấy Vân Hãi bên bờ sinh tử dưới móng tà ma, không có tiếng chuông mộng ngân lên trong khoảnh khắc ấy.

Vân Hãi không nghe thấy tiếng chuông giữa khi hấp hối, không hề nhớ ra bản thân trong quá khứ từng là một vị tiên.

Hắn không còn vương vấn không cam lòng, không lưu lại nỗi hận hiềm.

Vị lang quan Tiên Đô xưa kia, sau thành phàm nhân Vân Hãi đã không vùng vẫy và phản phệ rồi trở thành tà ma. Hắn lặng lẽ đi vào luân hồi chuyển kiếp chứ không mất mạng dưới kiếm của Hoa Tín dưới đáy thung lũng Đại Bi.

Ngọn nguồn của dòng rối loạn biến mất, dẫn đến vạn vật sụp đổ.

Khoảnh khắc Thiên đạo Linh đài tận diệt “Linh Vương” dòng rối loạn cũng là lúc nó đang tự tận diệt bản thân.

***

Trong cơn đau cùng cực, Ô Hành Tuyết không tài nào chống cự, chàng quỳ sụm gối giữa khu cấm địa hoang vu tịch mịch, vạt áo bào rũ tán loạn trên nền đất, máu trào ra từ các huyệt đạo trọng yếu, thấm nhuộm trang phục một sắc đỏ thẫm.

Giữa mê man, chàng nuốt máu trong miệng xuống, gắng ngước khẽ đầu lên trong âm thanh ù ù bên tai. Năm giác quan của chàng đã nhạt nhoà, hiện giờ chàng không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì. Điều cuối cùng chàng trông thấy là một vùng không gian đen kịt.

Nhưng thực chất, Tiên Đô của ngày hôm ấy không ảm đạm đen tối mà sáng loà rực rỡ.

Thời điểm dòng rối loạn sụp đổ cũng đã vén bức mành để hiện thế lộ diện. Khung cảnh ấy rơi vào thời điểm bình minh vừa rạng, ánh nắng mai chầm chậm rọi sang từ xa tít chân trời…

Chàng thực hiện việc tương tự như ba trăm năm về trước, nhưng lần này không còn phí hoài vô ích, cũng chẳng phải đánh cuộc hết thảy mọi điều.

***

Cho dẫu về sau, hiếm có ai trên đời biết rằng…

Thế gian này đã từng có một vị Linh Vương.

Người có tên hiệu là Chiêu.

<i>Chiêu</i> giả, tức nắng ấm ban mai, huy hoàng rạng rỡ.(1)

(1) Từ <i>giả</i> trong <i>học giả</i>, <i>diễn giả</i>, ý chỉ người á.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 125: Thiên túc


Sự sụp đổ và tan biến của Linh đài xảy ra chớp nhoáng như chỉ trong một đêm. Nó đến đi chóng vánh đến mức không ai kịp phản ứng. Chẳng khác nào thái dương khuất bóng sau chân trời, trải qua một đêm tĩnh lặng rồi tiếp tục ló dạng như mọi ngày.

Nhưng đối với Ô Hành Tuyết, trải nghiệm tuyệt nhiên không được như vậy.

Ấy không phải chuyện một sớm một chiều, và dĩ nhiên không chớp nhoáng trong nháy mắt, mà kéo dài đằng đẵng không thấy điểm kết.

Năm xưa, chàng từ tiên đoạ ma, ngồi giữa biển lửa ngất trời khắp Lạc Hoa Đài, bị lửa dữ thiêu thân, bị xé toạc linh phách, bị triệt tiêu tiên nguyên… quá nhiều cơn đau thể xác bủa vây dồn dập, thế mà vẫn không thể sánh nổi lần này.

Bởi lần này, chàng phải trải qua sự tĩnh lặng chết chóc mà mình kháng cự nhất.

Lần này không giống với đợt tĩnh toạ ba năm hồi trước. Ít ra, trong lần tĩnh toạ ba năm đó, chàng còn biết khí kình mình đang lưu chuyển trong cơ thể và linh phách vẫn đang tĩnh dưỡng.

Còn hiện tại, hoàn toàn không có gì.

Cứ như thể… thật ra chàng đã chết rồi, chẳng qua chưa tự phát giác ra mà thôi.

***

Trên thực thế, đúng là Ô Hành Tuyết đã chết vào thời điểm Thiên đạo sụp đổ triệt để. Lúc đó, điều chàng từng nhắc đến khi thẩm vấn Linh đài đã được minh chứng rõ rệt…

Nó quả thực có “sinh tử”, và quả thực có “thiện ác”.

Vì vậy vào thời điểm tiêu vong, nó đã phát sinh một chuyện không nên có, chuyện được phàm nhân gọi bằng cái tên <i>không cam lòng</i>, còn người trong tiên môn đặt là nỗi<i> “oán hận”</i> lúc lâm chung.

Những oán hận của phàm nhân quấn siết quanh thân thể người đã sát hại họ, còn khi Linh đài tiêu vong, những “oán hận” đó lồ ng lộng như rồng như mây rồi bám rịt vào hai người đã đẩy nó vào bước tận cùng huỷ diệt.

Không một ai có khả năng gánh chịu nỗi oán hận nặng nề như thế khi đã sức cùng lực kiệt.

Chính vì vậy, ngay khoảnh khắc Linh đài bị triệt hạ và tiêu vong, thực chất cả Tiêu Phục Huyên lẫn Ô Hành Tuyết đều đã chết.

Nhưng trên thế gian còn tồn tại một câu thành ngữ thường xuất hiện trong miệng người đời song không ai có thể xác minh, ấy là câu “Gieo nhân nào gặt quả nấy”.

Không xác minh được là vì đây không phải sự cân bằng được ấn định rạch ròi, cũng không phải một lẽ tất yếu. Không một ai dám khẳng định quả báo có đến hay không, và đến khi nào. Đấy là thứ không bao giờ nói trước được.

Nó có tồn tại vốn dĩ là bởi một khi con người ta đã sống trong trời đất thì đi đến đâu rồi cũng sẽ lưu lại dấu vết, dù đó là ác hay thiện. Mà hễ có người còn nhớ rõ cũng tức có thể sẽ có người báo đền.

Thật ra, từ rất lâu về trước, đã từng có một người đánh cược sinh mệnh mình trong âm rền lôi kiếp bên dưới gốc thần mộc. Ngay bản thân người đó còn không nhớ rõ, nhưng khi bên bờ vực của cái chết, người đó đã tìm đến được đoạn nối tiếp của câu chuyện xưa…

Thời điểm nỗi “oán hận” của Thiên đạo ập xuống đầu Tiêu Phục Huyên, ánh sáng sức mạnh của thần mộc đã soi toả muôn nơi và cân bằng hết thảy.

Nhờ đó, khoảnh khắc tử vong cũng trở thành tân sinh, linh phách bị tan vỡ vì nhận lôi kiếp đã vẹn nguyên trở lại.

Cách trở mấy trăm năm, những thiện ý và phù hộ rồi đã đến hồi kết, mỗi nhân gieo đều kết quả.

Xưa kia, trong nhân gian có một truyền thuyết, kể rằng trên bệ đá cao nhất Lạc Hoa Đài có một gốc thần mộc thân cao rợp trời, lọng tựa vòm mây. Cây ấy có linh mang lòng bi mẫn, khắc ghi những điều tử sinh.

Dẫu là bậc quý hiển hay kẻ đầu đường, dẫu được người ghi nhớ hay chẳng một ai hỏi thăm, thì gốc cây thần ấy vẫn mãi trổ hoa đón sinh, lìa cành lúc tử, tán cây lộng lẫy như ráng đỏ chiều hôm.

Gốc thần mộc rợp trời trong truyền thuyết ấy chỉ hiện hình trước mắt phàm nhân trong hai trường hợp. Một là khi con người vừa cất tiếng khóc chào đời, lần còn lại là lúc người ta từ trần.

Về sau thế sự đổi dời, cảnh còn người mất, ngay đến truyền thuyết kia cũng mai một đi mất, rồi từ đó trên thế gian không một ai nhìn thấy được nữa.

Nhưng vào lúc này đây, Tiêu Phục Huyên đã “nhìn thấy”.

Ngay bên bờ vực của cái chết, trong khoảnh không đen ngòm lặng lẽ, bất giác y trông thấy một vách đá cao, trên vách đá có bóng dáng một thân cây êm ả.

Mãi đến lúc phát giác mình đang giắt kiếm trên người và vất vả cất bước tiến về đỉnh vách núi kia, y mới sực nhận ra những gì trước mắt không phải điều y “nhìn thấy”, mà ấy là nhớ về.

Vào thời khắc chấm dứt đời này, sau chót y đã nhớ ra chuyện xảy đến vào cuối đời trước của mình…

Y băng xuyên qua màn khói báo động chốn sa trường và sự tĩnh lặng vô tận, bước l3n đỉnh vách đá cao, chống kiếm giữ vững người dưới gốc thần mộc rồi ngẩng đầu lên.

Y đâu hề trông thấy tán hoa mãn khai rực rỡ như ráng hoàng hôn thường nghe trong truyền thuyết. Lờ mờ lọt vào đôi mắt đỏ quạch vì nhuốm máu của y là một bóng trắng tinh khôi đang ngồi tựa lưng vào chạc cây, tưởng chừng như ánh nắng rạng ngời đang len lỏi toả xuống qua từng kẽ lá đan xen.

Biết mình đã hoa mắt rồi, nhưng đó thật chính là tia nắng ấm sau cùng y được nhìn thấy.

Đó chính là Ô Hành Tuyết.

***

Tiêu Phục Huyên đã nhớ lại hết những chuyện từng xảy đến vào thời khắc qua đời, nhớ lại khởi nguồn của tất cả mọi sự vương víu xảy đến sau này. Từ giây phút này về sau, chuyện của hai người được trọn vẹn như thuở đầu, sẽ không còn chỉ một người ghi nhớ nữa.

Vào khoảnh khắc Tiêu Phục Huyên chết đi rồi sống lại ấy, bức tượng bạch ngọc trong túi gấm đeo bên hông y rung lên cành cạch. Vô số sợi tơ ánh vàng toả ra từ bạch ngọc, chiếu xuyên qua túi gấm, bao bọc kín kẽ người đã tạc nên nó.

Ấy chính là ái tình son sắc được lưu giữ trong bức tượng từ ba trăm năm trước, là từng đường từng nét kiếm để khắc nên chú thuật vào thời điểm y tĩnh toạ ngoài cực bắc. Chú thuật này có hiệu lực nối liền sinh tử giữa y và Ô Hành Tuyết.

Hễ Tiêu Phục Huyên còn sống, thì Ô Hành Tuyết sẽ sống.

Bọn họ từng có quá nhiều những liên kết và hệ luỵ nhân quả, trong đó mối vương víu sâu nặng nhất chính là Thiên đạo và thần mộc. Mà giờ đây Thiên đạo tiêu vong, thần mộc báo đền. Từ đó triệt tiêu cả đôi đường.

Bọn họ chết đi, rồi sống lại. Từ rày về sau, những ràng buộc sâu đậm nhất giữa hai người chỉ còn thuộc về lẫn nhau, không còn phải mang gánh nặng nhân quả trên vai.

***

“Linh Vương” dòng rối loạn đã bị tận diệt triệt để, theo đó tất cả mọi sự tương quan với hiện thế đều không tồn tại.

Còn thần mộc, trong lúc chống đỡ “oán hận” của Thiên đạo, nó không chỉ báo đáp việc Tiêu Phục Huyên thay mình nhận lấy lôi kiếp năm xưa, mà còn đáp ứng vô vàn những lời khấn nguyện nó từng nghe được và trả lại cho chúng sinh một thế gian trong sạch…

“Linh Vương” không tồn tại, dòng rối loạn “không tồn tại”, vì vậy hết thảy những việc đã xảy ra từ hệ quả của thiện ác cân bằng do Thiên đạo áp đặt cũng không còn tồn tại.

Cõi thế gian hoàn thiện chỉ hiện hữu tự thân mình, trải trên đoạn thời gian thanh bình nhất, rồi từ đó chầm chậm trôi về phía trước…

Đối với Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, bao nhiêu chuyện xảy đến kia chính là một quãng đường dài đấu tranh cùng sinh tử, con đường mà họ dốc bước ba trăm năm mới nhìn thấy điểm cuối.

Nhưng đối với nhân gian ở hiện thế, hết thảy chỉ là một giấc mơ hãi hùng. Người ta đánh một giấc say sưa, nằm mơ về một vùng trời tối tăm u ám và xác người la liệt nơi nơi. Rồi đến khi rạng đông ló dạng đón ánh bình minh, người ta nheo mắt tỉnh giấc và trông thấy cánh yến loé qua mái hiên. Tất cả tiếng khóc tang thương và khung cảnh kinh hãi chừng như sương khói trên mặt sông buổi sớm, bỗng chốc đều dạt về nơi xa.

Tất cả thế gian đều ngưng đọng dưới ánh nắng ấm áp, sau chút bần thần giây lát, chẳng còn mấy ai nhớ đến cơn ác mộng ấy nữa.

Rồi về sau, nó cũng chỉ thi thoảng xuất hiện trong những mẩu chuyện kể dân gian mà thôi.

Truyện dân gian kể rằng, trên đời từng có một gốc cây thần, và cũng từng hiện hữu một toà Tiên Đô, nhưng về sau cả hai đều biến mất. Chúng biến mất đúng dịp tháng ba. Nghe đâu khi đó ánh mặt trời bao phủ vạn vật, nhờ vậy mà toàn bộ hạnh mai đều mãn khai rợp cành chỉ sau một đêm, vào ngày mồng ba, và nở rực rỡ nhất vào ngày mồng bảy.

Hoa thắm lay động phố núi.

Nhân gian ngập tràn sắc xuân, ngoại trừ trên đỉnh vách núi cao nhất Lạc Hoa Đài, nơi có một gốc đại thụ xác xơ khô héo. Thân cây ấy to lớn, sừng sững chọc trời, nhưng cành cây không một chiếc lá, và cũng chẳng có lấy một đoá hoa.

Có người nói rằng đây là dấu tích còn lại của thần mộc, nó xác xơ khô héo là bởi lẽ tất cả nhành hạnh mai trên thế gian đã thay nó trổ hoa rợp cành vào thời điểm tiết trời vừa đẹp.

Còn có người nói rằng thần mộc không nở những loài hoa của nhân gian. Nếu bạn nhìn thấy một thân cây héo tàn không hoa không lá xuất hiện đồng thời với mây tía ùn ùn kéo đến kín trời hòng tôn lên sự khô cằn của chạc cây… cũng tức là bạn có duyên nhìn thấy nó.

Chuyện dân gian thường kể rằng trên đời từng có tiên, nhưng không ai trả lời được danh tính những vị tiên đó, họ thành tiên như thế nào, và sau này họ đã ra sao.

Thành thử, đời sau cũng hiếm có ai biết được rằng…

Trên đời từng có một vị tiên xưng hiệu “Thiên Túc”.

Ngày mà y chết đi rồi sống lại, Linh đài tiêu vong, thần mộc tự triệt hạ, giúp cho nhân gian tỏ rạng ánh mặt trời, người người bừng tỉnh khỏi giấc mộng đồ sộ. Tất cả những khổ đau, gian truân, cùng khung trời u ám đều hoá hư không. Ấy chính ứng với tên hiệu của y.

Tên hiệu y là Miễn.

<i>Miễn</i> giả, tức “xá”, giải trừ trăm tội thế gian.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 126: Bắt đầu


Phía ven sông bờ nam thành Mộng Đô có một khu vực vô cùng tuyệt đẹp.

Hàng trăm con hẻm xen kẽ dọc ngang với chim tước đề huề, cầu vòm nước chảy. Nếu đứng trên căn lầu các cao còn có thể trông thấy con đường lớn lát đá trắng dẫn lối thẳng vào một cánh rừng. Con đường ấy nối liền mười dặm núi Đình Sơn. Vào đầu tháng ba hằng năm, hạnh mai nở rộ cả một vùng sơn dã.

Nơi ấy vừa thanh bình vừa nhộn nhịp, người dân rất mực thân thiết. Chỉ cần có điều chi mới lạ sẽ lập tức truyền khắp xóm núi chỉ trong một sớm chiều. Mấy ngày gần đây, có một chuyện bọn họ tình cờ đề cập đến trong lúc tán gẫu, họ kháo, “Vừa có một căn nhà mới ở góc phía Đông Nam, bà con có nghe nói vụ đấy không?”

“Ở hẻm nào đấy?” Có người không rành hướng Đông Tây Nam Bắc, bèn hỏi.

Bá tánh vẫn giữ nguyên sở thích dùng chuyện lớn chuyện lạ để làm tên, đâm ra khoảng chừng một trăm con hẻm nơi này không phải hẻm nào cũng có tên. Nơi bọn họ vừa nhắc đến lại rơi đúng vào con hẻm dài vô danh.

Thế là họ phải khoa tay múa chân rồi đoán một hồi, mất không ít sức mới xác định được vị trí hẻm.

Sau đó câu chuyện chuyển hướng kỳ lạ…

Có người nói, “Mà căn nhà đó không phải mới xây, nó nằm ở cuối hẻm đó lâu rồi, chẳng qua trước đây bỏ hoang nên dây leo mọc dài che kín mất tường sân, khiến người đi qua lại không để ý mà thôi.”

Rồi có người khác nói, “Không phải, chỗ căn nhà đó trước đây chính là tường gạch đổ nát mà, không biết là đống hoang tàn từ đời nào để lại đó, tôi còn từng tới đó bắt dế mà, căn nhà đó chắc chắn là xây mới.”

“Không thể nào! Ông nhớ nhầm rồi. Nhà chỗ đó muốn xây mới thì phải chộn rộn hết cả năm, ông có nghe ngóng thấy động tĩnh gì không?”

“Không có…”

“Thì tức là không xây rồi.”

“Nhưng mà…”

Mấy vị ngồi trong quán trà càng cãi càng mù mờ, có một người trong nhóm nghe nhiều đâm mệt, bèn chốt đơn giản, “Trời cũng sắp tối rồi mà không bận rộn gì, chẳng thà tới nhìn thử coi sao. Xem xem đá dựng tường là mới hay cũ, dưới nền có đóng rêu gì không, nhìn một phát là biết ngay chứ gì.”

Một người khác nói, “Hợp lý đấy, đi đi, tới xem thử cho biết. Mấy ông nói chuyện làm tôi sởn hết da gà rồi, giá nào hôm nay tôi cũng phải xác thực một lần cho rõ. Chứ cứ để nguyên thế này mãi thì nơi đó biến thành nhà ma mất thôi.”



***

Chủ nhân căn nhà hoàn toàn không hay biết gì về những xôn xao trên phố.

Vì vốn không mấy bận tâm.

Gian nhà họ quả thật chỉ vừa xuất hiện ở cuối con hẻm đó vài ngày.

Sự xuất hiện lặng lẽ đến mức người ta đi qua đi lại cũng không biết được lai lịch là vì căn nhà được bọc trong một tầng kết giới nhè nhẹ.

Kết giới do Tiêu Phục Huyên lập nên.

Kết giới này khác hẳn với vô số những kết giới khác do Thiên Túc từng dựng, khác ở chỗ nó hoàn toàn không mang tính công kích. Nó chỉ như một màn sương lãng đãng, không gây thương tổn cho ai và cũng không cản trở ai. Hiệu lực duy nhất của nó là làm lu mờ tầm nhìn của bá tánh, giúp người qua lại dần quen thuộc với sự hiện diện của gian nhà này…

À, nó còn giúp cản bớt một ít tiếng động từ trong sân, vì trong đấy có người hơi ồn ào.

Còn rốt cuộc vì sao lại ồn ào, thì phải kể lại từ thời điểm Tiêu Phục Huyên tỉnh lại mới xong.

***

Nơi mà Tiêu Phục Huyên chết đi rồi sống lại đáng lẽ là sân vườn Tước Bất Lạc ở Chiếu Dạ thành, dù gì nơi đó cũng là lối vào hiện thế từ dòng rối loạn.

Thế nhưng vì Linh đài tiêu vong, thần mộc đồng thời triệt hạ, nên đủ những loại chuyện xảy ra suốt hàng trăm năm ở hiện thế đều theo đó mà đổi dời toàn bộ. Theo đó, trên đời không còn Động Ma Chiếu Dạ thành, và hiển nhiên cũng không còn gian biệt phủ chim muôn không dám tiếp cận của thành chủ nữa.

Khu vực đó vẫn là một vùng đất hoang dã.

Tiêu Phục Huyên tỉnh lại giữa vùng hoang dã, cuộn thân mình trong mùi máu lạnh căm như sắt thiết. Ôm trong tay Ô Hành Tuyết với y phục đẫm máu hãy còn chưa tỉnh lại, y xuống núi bước vào nhân gian.

Vỗn dĩ y tính tìm một vùng đất linh không người quấy nhiễu và trông coi đến khi Ô Hành Tuyết tỉnh lại.

Nhưng gần đến khi ấy, y lại đổi ý.

Đất linh thì hoang sơ, trong phạm vi mấy dặm hoàn toàn vắng dấu chân người, như thế hẻo lánh quá, tĩnh lặng quá. Nó sẽ gợi người ta nhớ về ba mươi ba tầng đất sâu thẳm chìm trong mây mù không tan ở Thương Lang Bắc Vực.

Có người sinh ra đã yêu thích phố xá chăng đèn nối đuôi nhau dài như thân rồng, yêu thích sự nhộn nhịp cùng tiếng người nô nức, yến tước vởn quanh. Nếu phải tỉnh giấc trong mây mù tĩnh lặng, hẳn người ấy sẽ thấy quạnh quẽ lắm…

Vì vậy, Tiêu Phục Huyên đã vòng ngược về Mộng Đô, chọn địa điểm yên bình và rộn ràng nhất ở phía nam thành, rồi dựng một căn nhà nơi cuối hẻm.

***

Gian nhà này không giống cả Nam Song Hạ lẫn Toạ Xuân Phong, và cũng khác hoàn toàn với Tước Bất Lạc. Đây là biệt viện vào hàng phổ biến nhất ở phía nam thành Mộng Đô, chẳng qua gác mái hơi cao hơn, có nhiều xà gỗ hơn để chim tước dễ dàng đáp đậu.

Trong sân có một thân cây, tán không tựa áng mây miên man rợp trời như thần mộc, song vẫn trải rợp chót vót, nửa tựa bên bờ tường nửa tựa vào gian nhà.

Từ nơi đây, có thể nghe thấy tiếng người nói cười rôm rả ngoài đường, dẫu có vào thời điểm khuya khoắt nhất vẫn có thể thi thoảng nghe được tiếng phiến đá xanh bị đạp vểnh lên rồi lại rơi xuống, phát ra âm thanh lạch cạch.

Yên bình, nhưng không tịch mịch.

Ô Hành Tuyết nằm trên trường kỷ đối diện với khung cửa sổ rộng thoáng, linh trận dưới thân vẫn âm thầm lưu chuyển đêm ngày chẳng ngơi.

Còn Tiêu Phục Huyên ngồi bên cạnh trông nom, đồng thời tĩnh toạ tu dưỡng, gần như chẳng rời đi nửa bước.

Nhưng thực chất, những việc y làm không chỉ có thế.

Ngày họ đặt chân đến Mộng Đô, Tiêu Phục Huyên đã dán trước cửa nhà một tấm “phù dẫn linh”.

Sau khi tỉnh lại, y không sao tìm được tung tích Ninh Hoài Sam và Phương Trữ. Y đoán rằng họ cũng bị tác động bởi sự hợp nhất của hiện thế nên không biết giờ họ đã trông ra sao, đã lưu lạc đến nơi nào.

“Phù dẫn linh” này dùng linh khí của Ô Hành Tuyết làm liên kết. Ninh Hoài Sam và Phương Trữ đều là đồng tử trên Tiên Đô trước đây, trên cơ thể họ còn có dấu vết Ô Hành Tuyết để lại. Nhờ lực hút này, cho dù họ đang ở đâu đi nữa cũng sẽ vô thức tiến gần đến khu nhà này.

Tác dụng của “phù dẫn linh” xem chừng còn mau mắn hơn kỳ vọng của Tiêu Phục Huyên, mới dán xong thì đến sáng hôm thứ ba đã có tiếng đập cửa từ bên ngoài.

Tiêu Phục Huyên nghe tiếng gõ cửa đã thấy ngờ ngợ có gì đó không đúng. Nhưng y không nghĩ nhiều mà sải bước ngay đến bên cửa, giải trừ kết giới đi giây lát.

Đến khi y dùng vỏ kiếm đẩy cửa ra và lia mắt nhìn bên ngoài, thì chẳng thấy đâu hai bóng dáng tà ma quen thuộc của Tước Bất Lạc. Vừa suýt cau mày, y bất chợt nghe được hai tiếng hô từ phía dưới, cả hai đồng thời gọi y, “Thiên Túc đại nhân.”

Tiêu Phục Huyên ngẩn người giây lát rồi mới rủ mắt xuống nhìn.

Thì thấy hai đứa đồng tử tí hon chưa cao đến đùi mình đang bám vào cửa, ngước mặt lên nhìn y bằng cặp mắt háo hức. Trên mặt chúng có nét hao hao với Ninh Hoài Sam và Phương Trữ. Không biết hai đứa đi từ đâu đến mà nhìn nét mặt đượm vẻ mệt nhoài vì gió bụi.

Tiêu Phục Huyên lộ vẻ ngạc nhiên hiếm gặp, mãi lâu sau mới hỏi, “Các ngươi từ đâu tới?”

Hai tiểu đồng tử nhao nhao nói loạn xạ. Đầu tiên là bảo Tiên Đô không còn nữa, rồi nói không hiểu sao chúng lưu lạc bên ngoài sơn dã rồi mơ thấy một giấc mơ dài, mãi tới lúc ngửi thấy được “phù dẫn linh”, chúng mới mơ màng tỉnh lại rồi vội vã chạy đến nơi đây.

Tiêu Phục Huyên hỏi, “Giấc mơ thế nào?”

Đứa em trai nhỏ tuổi hơn bảo, “Mơ thấy chúng ta biến thành tà ma…”

Người anh trai cao hơn chút đỉnh nói, “Mơ thấy chúng ta sống ở Động ma, nơi đó vừa lạnh lẽo vừa im lìm, đến mức chim cũng không dám đậu.”

“Đúng vậy.” Đứa em gật gù, nó giương mắt nhìn thân cây trong sân rồi đột ngột chỉ sang đó và nói, “Trong sân vườn ở Động ma cũng có một cây đại thụ cực kỳ cao, căn viện đó còn có tên cơ, tên là… là…”

Khi mới tỉnh giấc, hai tròng mắt cậu hoen đỏ, hơi thở cũng dồn dập. Cứ như thể vừa thoát khỏi một trận chiến sinh tử mà thiếu chút nữa còn không giữ nổi mạng mình vậy. Tất cả những chuyện xảy ra trong giấc mơ đó đều chân thực khôn cùng, tựa như đó không đơn thuần là một giấc mơ mà bọn họ đã thực sự trải qua những chuyện ấy…

Bọn họ thực sự có một cuộc đời như vậy.

Song khi đi hết một ngày đường, những cảnh tượng trong giấc mơ cũng bị đẩy lùi ra xa. Giờ đây kể lại, họ thậm chí không nhớ nổi tên của căn viện kia.

Dù rõ ràng họ đã gọi tên nó biết bao nhiêu là lần trong giấc mơ…

Đứa em trai vắt óc cả buổi, đâm ra cau có, đôi mắt cậu hửng đỏ, nhiễu giọt to giọt nhỏ liên hồi. Cậu gãi đầu, nói, “Căn viện đó… gọi là gì ta?”

Sau một hồi lâu, cậu mới ngước mặt lên. “Đại nhân ơi, ta quên rồi.”

Tiêu Phục Huyên im lặng một hồi mới nói, “Tước Bất Lạc?”

“Á!” Đứa em giậm chân một phát. “Hình như vậy!”

Đoạn cậu nhéo anh trai mình hỏi, “Phải không anh?”

Người anh gật đầu nói, “Đúng, chắc vậy.”

“Nhưng sao đại nhân biết được ạ?” Người anh thắc mắc hỏi Tiêu Phục Huyên. “Không phải đó chỉ là giấc mơ của hai đứa bọn ta sao?”

Tiêu Phục Huyên không trả lời thẳng mà hỏi tiếp, “Trong mơ có khổ lắm không?”

“Hơi hơi,” Người anh nói rồi ngưng đoạn mới tiếp, “… cũng bình thường.”

Cậu ta nhớ mài mại giấc mơ kia dài đến lạ, những chuyện xảy ra lúc trước khốn khổ thực sự. Thế nhưng đến chót cùng, có một lời đã trấn an cậu.

Cho dẫu cậu không còn nhớ rõ lời ấy là gì, thế nhưng khi vừa thốt ra lời ấy thì có sống hay chết, trong mơ hay bên ngoài, cậu đều không còn sợ hãi điều gì nữa.

“Thế thì được,” Tiêu Phục Huyên nói.

Y cho hai tiểu đồng tử vào cửa.

Hai đứa nhóc rất mau quên, thoắt cái đã không nhắc gì đến chuyện trong mơ nữa mà đi thẳng đến phòng ngủ rồi đứng bên cạnh trường kỷ, nhỏ giọng gọi Ô Hành Tuyết “đại nhân” này “đại nhân” nọ không ngừng.

“Sao trên người đại nhân có mùi máu thế ạ?” Đứa em trai có chiếc mũi cực thính, nó nhăn mũi rồi ngoảnh sang hỏi Tiêu Phục Huyên vừa nối bước vào cửa.

Tiêu Phục Huyên nói, “Lúc trước bị dính trên y phục.”

Y cong người, vuốt phẳng phiu tấm áo trắng phau không nhiễm bụi trần của Ô Hành Tuyết.

Người anh lại hỏi, “Đại nhân bị thương ạ?”

Tiêu Phục Huyên nói, “Hiện tại thì không.”

“Vậy sao mãi chưa tỉnh thế ạ?”

Tiêu Phục Huyên nắm lấy ngón tay để lộ ra bên ngoài y phục của Ô Hành Tuyết rồi đáp, “Vì quá mệt mỏi.”

Vì trước đây đã quá mệt mỏi, vì trước đây đã rất lâu chẳng được yên giấc, nên bây giờ người muốn ngủ lâu hơn một tí mà thôi.

“Nhưng cũng nhanh thôi.” Tiêu Phục Huyên nhìn linh trận dưới người Ô Hành Tuyết, trận này liên kết chặt chẽ với y nên y có thể cảm nhận được người trong trận đang hồi phục chậm rãi, và rồi sẽ tỉnh lại.

Đứa em tư lự rồi nói, “Chúng ta khóc bát nháo một hồi có được không? Trước đây chỉ cần chúng ta há mỏ một phát là đại nhân nhét giấy vào ngay, như vậy là tỉnh lại đúng không!”

Cậu vừa nói vừa nhéo anh mình, đoạn há miệng toan tru lên.

Kết quả chưa thốt ra tiếng nào đã bị một tấm vải đen bịt kín miệng.

Đứa em: “?”

Tiêu Phục Huyên: “Khỏi.”

Đứa em: “Ưm ưm ưm?”

Tiêu Phục Huyên: “Đừng ưm, nghe không hiểu.”

Đứa em: “…”

***

Biết là Thiên Túc đại nhân không cho khóc, nhưng hai đứa cực kỳ hy vọng đại nhân nhà mình tỉnh lại sớm hơn tí, không thấy đại nhân tỉnh giấc chúng không an tâm. Đâm ra hai đứa bày đủ thứ trò ồn ào bát nháo bên trong sân mỗi ngày.

Thực ra chuyện bọn chúng làm cũng không phiền nhiễu gì, trái lại còn tạo thêm không khí sôi động, rất ư hoà hợp với phố phường ngõ hẻm nơi đây.

Thế là Tiêu Phục Huyên cũng mặc kệ hai đứa để chúng tự biên tự diễn.

Cứ vậy, thêm ba ngày trôi qua.

Tới hôm nay, hai anh em đã nhẫn nhịn hết nổi.

Nhân thời cơ hiếm hoi Tiêu Phục Huyên rời khỏi trường kỷ để ra sân chọn một ít linh thạch mới bổ trợ cho linh trận dưới người Ô Hành Tuyết, hai đứa hăm hở chạy tọt vào nhà, lên tinh thần chuẩn bị khóc cho tới khi đại nhân nhà mình tỉnh.

Nhưng chúng nó sợ bị Thiên Túc bắt tại trận nên đành tựa lưng vào cạnh trường kỷ, mặt dóng ra cửa sổ để theo dõi mọi động tĩnh của Thiên Túc ở ngoài sân toàn thời gian.

Bọn chúng chờ đến lúc bóng dáng Thiên Túc dời vào góc chết tầm mắt rồi mới nhéo nhau một phát bên hông chỗ thịt nhạy cảm nhất. Mắt đứa nào cũng đỏ lên, miệng ngoác to bắt đầu gào.

Kết quả mới vừa cất tiếng, đứa em đã chợt thấy sống mũi mình lành lạnh…

Một bàn tay vươn tới từ sau lưng cậu và bịt kín mũi miệng cậu một cách lười nhác. Cánh tay kia mảnh mai tái nhợt, ngón tay cong lên nhè nhẹ, giống như thể đang hơi nhấc nhẹ lên giữa khi say giấc chứ chẳng hề có lực và có thể trượt xuống bất kỳ lúc nào.

Nước mắt còn rơm rớm trong đôi ngươi đứa em, cậu vừa rủ mắt xuống thì một giọt nước to tướng đã rớt xuống cánh tay kia. Cậu loáng thoáng trông thấy ống tay áo trắng như tuyết, bèn định hô lên, “Thiên Túc ơi! Đại nhân tỉnh rồi!”

Song chưa kịp hô tiếng nào, cậu bỗng thấy một làn gió lành lạnh lộng qua trước mặt mình…

Người vừa mới đây còn chọn linh thạch bên ngoài sân, giờ đã hiện diện bên cạnh trường kỷ.

***

Trước khi tỉnh lại, Ô Hành Tuyết nằm mơ thấy một giấc mơ dài.

Người ta nói thần tiên trên đời không nằm mơ, chàng đã đánh mất chuông mộng, không thể gióng chuông, ấy thế mà vẫn bước vào mộng hết lần này đến lần khác.

Trong phút lâm chung, chàng mơ thấy khung cảnh tương tự ba trăm năm trước, sau khi tách linh thần mộc, chàng ngồi quỳ trên mặt đất trong khu cấm địa Lạc Hoa Đài.

Chàng mơ thấy quanh thân mình vẫn là sơn hoả bừng bừng, thiêu đốt đất trời đến tàn rụi, sau cùng mới tắt ngúm đi.

Rồi chàng nhìn vào mảnh đất khô cằn trước mắt, đứng thẳng dậy, giấu đi vết máu bám trên y phục, tiếp đó nhấc từng bước một rời khỏi dãy núi.

Con đường núi ấy thật dài dẵng, trống trải, và tĩnh lặng.

Bước chân chàng khấp khiểng, đi mãi như mất mấy trăm năm mới đến được cuối đường.

Vậy mà đến bước chót, chàng chợt ngừng bước.

Bởi thời khắc này sao giống hệt ba trăm năm trước, trong giấc mơ này, chàng không phân định rõ được hiện tại là lúc nào. Giống đến độ chàng bất giác cảm thấy chỉ cần mình bước thêm một bước nữa, là phải chứng kiến cảnh tượng năm xưa…

Những phiến cờ hiệu tung bay trong nhân gian đổi từ “Tuế Ninh” sang “Thanh Hà”, bá tánh đi dọc ven núi chỉ trỏ vào chàng và thét “tà ma”.

Thậm chí, chàng còn nghe thấy tiếng khóc…

Ngay khoảnh khắc chàng buông mắt nhếch cười tự giễu, có người đáp xuống cuối con đường núi như một cánh ưng, người ấy vươn tay nắm lấy chàng rồi thì thầm thấp giọng, “Ô Hành Tuyết, không ai sợ hãi, không ai khóc than cả.”

“Ngươi có muốn tỉnh lại không?”

Ô Hành Tuyết ngơ ngác ngước mắt lên, rồi thình lình nắm chặt lấy bàn tay kia.

Chàng thuận theo lực kéo của người kia bước ra khỏi đường núi, vén những cành cây và dây leo khô héo trên vách đá, và nhìn thấy ánh sáng.

***

Ngay tích tắc ấy, Ô Hành Tuyết choàng mở mắt.

Trong giấc mơ, chàng đã cảm nhận được cuộc đời đằng đẵng của mình đã kết thúc vào thời điểm Linh đài tiêu vong. Tất cả những chuyện xảy ra tiếp đó đều mới mẻ, tựa chừng phàm nhân chuyển kiếp.

Kiếp này của chàng bắt đầu tự thời khắc này.

Khi choàng mở mắt, người đầu tiên chàng trông thấy chính là Tiêu Phục Huyên. Chàng thấy Tiêu Phục Huyên chớp mắt hòng rũ đi ánh đỏ nhạt nơi đáy mắt rồi cúi đầu nhìn sang.

Mãi lâu sau, Tiêu Phục Huyên mới gọi tên chàng, “Ô Hành Tuyết.”

“Nhìn ngoài cửa sổ,” Tiêu Phục Huyên lại thấp giọng nói tiếp.

Ô Hành Tuyết được y áp nhẹ vào má, chàng dời mắt nhìn sang bên trái.

Nơi đó có một khung cửa sổ còn khoáng đãng hơn Toạ Xuân Phong, thân cây trong sân vừa dịp vào mùa, hoa rơi không ngơi nghỉ. Cánh hoa đỏ nhạt bị gió hất tung bay về thềm cửa. Chim yến chao lượn bên mái hiên, có hai chú chim non lốc cốc đáp mình trên xà gỗ. Trẻ con nhà ai nô đùa chạy qua con hẻm, đá xanh đánh vang rầm rập đi kèm tiếng cười rôm rả khắp bờ tường.

Ấy là ánh dương hàng trăm năm chưa gặp, cuối cùng đã xuyên thấu chiếu sang vào giây phút khởi đầu một kiếp sống mới.

Dưới ánh mặt trời, Ô Hành Tuyết nghe thấy âm thanh ấm trầm của Tiêu Phục Huyên, rằng, “Lần này, còn nhớ ta chứ?”
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 127: Thư tín


Dĩ nhiên là chàng nhớ rõ.

Đời này chàng sẽ không bao giờ quên lần nữa.

Người vừa tỉnh giấc sau một chuyến vào cõi chết bị suy nhược toàn bộ năm giác quan, há miệng mà chẳng nói được tiếng nào.

Ô Hành Tuyết nhìn người trước mắt, chàng nâng khẽ đôi tay đang buông thõng bên cạnh trường kỷ và đặt lên mu bàn tay Tiêu Phục Huyên, xong lại níu áo y kéo người xuống một chút.

Tiêu Phục Huyên cúi người sang, nghe thấy chất giọng khàn khàn của chàng vang lên thâm thấp, “Tiêu Phục Huyên, ta lại mơ thấy ngươi.”

“Mơ thấy ta thế nào.” Giọng Tiêu Phục Huyên cũng thâm thấp như thế.

“Mơ thấy ngươi nói… ta luôn thiếu ngươi một việc.”

“Việc gì?” Tiêu Phục Huyên thắc mắc với âm điệu ấm trầm.

Lời vừa dứt, người vừa tỉnh lại đã nghiêng đầu tiến tới và hôn nhẹ lên khoé môi y. “Việc này.”

“Việc này?”

“Ừm.”

“Thiếu lúc nào?” Tiêu Phục Huyên nhấp môi mỏng, giọng trầm thấp hỏi.

“Thương Lang Bắc Vực,” Ô Hành Tuyết nói.

Nếu không vì “giấc mộng Thước Đô” vắng bóng một người lần đó, chàng chắc chắn sẽ làm việc này ngay lúc vừa tỉnh giấc nhìn thấy Tiêu Phục Huyên.

Tiếc thay, chậm trễ tận lúc này mới bù đắp được.

Ô Hành Tuyết lùi mặt ra một chút và nói, “Vừa rồi là lần trước.”

Tiêu Phục Huyên rủ mắt nhìn chàng, tiếp lời, “Lần này đâu?”

“Lần này đây.” Ô Hành Tuyết nói rồi lại nghiêng đầu sang.

Nụ hôn ấy phiêu diêu như gió nhẹ, mang đến xúc cảm dịu êm ấm áp.

Cặp mắt và đôi tai hai tiểu đồng tử giống như bị nhồi bông, từ ban nãy chúng đã bắt đầu chẳng nghe thấy được gì. Hiện tại hai đứa rất bực bội, muốn ngoái đầu sang nhìn.

Kết quả là vừa muốn nhích người thì có hai tấm vải đen xuất hiện từ thinh không, trùm kín mắt hai đứa nhỏ.

Tiểu đồng tử: “?”

Ngay sau đó, một cơn gió quét tới, xúc ngay chân chúng như một chung rượu, vời hai đứa nhỏ sang phòng bên.

Tiểu đồng tử: “???”

Giọng đứa em vọng sang từ bên ngoài cửa sổ, nghe cực kỳ nghiêm túc, “Đại nhân ơi, có người đánh lén chúng ta.”

“…”

Tiêu Phục Huyên tạm ngừng động tác, cực kỳ cạn lời.

Ô Hành Tuyết hơi nhếch khoé môi lên một chút.

Một hồi sau, chàng không nhịn nổi nữa bèn né nhẹ người ra để nghiêng đầu bật cười giòn giã.

Khi chàng ngoảnh đầu, đôi mắt cong lên chan chứa ánh nắng rọi vào từ cửa sổ. Trông vào toả sáng rực rỡ, ấm áp như gió xuân phơi phới.

Và về sau trong dòng đời nhàn nhã dài lâu này, nắng ấm ấy sẽ không bao giờ vụt tắt nữa.

***

Có lẽ sự thực quả như lời Tiêu Phục Huyên nói, Ô Hành Tuyết đã phải trải qua thời gian dài mỏi mệt, thậm chí trong giấc mộng từ chuông kia, chàng cũng chưa bao giờ được yên giấc, vì vậy chàng mãi vẫn không tỉnh lại từ cơn hôn mê, và sau khi tỉnh lại rồi cũng chưa khôi phục như xưa được trong thời gian ngắn.

Tiêu Phục Huyên chơi đùa với đá trận vừa mới chọn rồi cẩn trọng lập một trận pháp mới. Ô Hành Tuyết bèn ngồi xếp bằng bên trong trận và chầm chậm điều dưỡng bản thân.

Còn chưa điều dưỡng lành lặn di chứng cả người mình, mà vị đại nhân này đã bắt đầu đi lo cho người khác.

Đầu tiên, chàng cứ níu lấy Tiêu Phục Huyên, nằng nặc phải dùng khí kình để kiểm tra cả một buổi cho bằng đặng bằng được. Sau đó, chàng dùng lực từ xa kéo hai tiểu đồng tử vào trong phòng, toan tra hỏi một lần từ đầu tới đuôi, song lại bị một tràng gõ cửa gián đoạn mất.

Ô Hành Tuyết ngẩn người, thốt lên bất ngờ, “Có khách sao, ngươi có đặt kết giới không?”

“Có đặt.”

Tiêu Phục Huyên cũng khá ngạc nhiên.

Trên lý thuyết, nếu đã có kết giới thì cho dù các bá tánh bình thường bên ngoài hẻm có nảy lòng tò mò đi nữa thì cùng lắm cũng chỉ đi qua đi lại trước nhà mấy bận, nhìn ngó mấy phen thôi, chứ sẽ không gõ cửa thăm hỏi như vậy.

Để cẩn trọng, Tiêu Phục Huyên tiện tay với lấy kiếm đi ra mở cửa.

Kết quả cửa vừa mở ra, cảnh tượng tương tự lại xuất hiện, mai nở lần hai…

Thoạt đầu y nhìn không thấy khách ở đâu, song từ bên góc mắt, y trông thấy có gì trăng trắng, thấp cũn chưa cao tới hông, đang lấp ló ở ven tường.

Tiêu Phục Huyên dời mắt nhìn sang, lập tức trông thấy một hàng tiểu đồng tử vận tiên bào đang co cụm dưới chân tường. Cả đám đồng thời ngước mặt lên, nhìn y với đôi mắt đầy tủi thân.

Tiêu Phục Huyên: “……”

Dù số tiểu đồng rất đông nhưng y không cần đếm cũng biết tổng cộng là mười hai đứa. Còn ai vào đây ngoài lũ trẻ trước kia Ô Hành Tuyết từng sửa tính sửa nết rồi đẩy vào trong Nam Song Hạ chứ.

Tiêu Phục Huyên hơi hé miệng tính nói chuyện. Thế là đám tiểu đồng tử đó tung tuyệt chiêu đúng hệt năm xưa…

Chỉ trong chớp mắt, chúng nó bao vây quanh người Tiêu Phục Huyên, ngước mặt há mỏ lên mà khóc.

Đám tiểu đồng tử này đích thị là truyền thừa của họ nhà xướng ca, khóc mà chả cần chuẩn bị gì, nước mắt nói trào là trào, đứa nào đứa nấy gào như cắt ruột cắt gan, miệng kêu quang quác rồi còn nức nở sụt sùi gì đó không rõ tiếng.

Tiêu Phục Huyên cố lắng nghe chút mới loáng thoáng nghe được chúng nó nói “Đại nhân đừng đuổi bọn ta đi”, “Mai mốt bọn ta sẽ nghe lời” các kiểu các kiểu.

Tiêu Phục Huyên: “…”

Y bị làm ồn tới nhức cả đầu, đành mấp máy môi mỏng nhả một câu, “Không ai đuổi mấy đứa hết.”

Trong chớp mắt, đám tiểu đồng tử nín khe, cả đám lau nước mắt nhìn y, giống như là vừa muốn nhảy cẫng lên nhưng còn sờ sợ chưa tin hẳn.

Một lớn… mười hai nhỏ, đứng ngây ra trước cửa đối đầu nhau trong im lặng.

Đám tiểu đồng tử vẫn đứng im re, lẳng lặng nhìn y chăm chú một hồi, xác định là y không nói xạo lừa mình rồi mới nở vẻ mặt hớn hở, sau đó nhào tới chen qua đôi chân dỏng cao của Thiên Túc đặng phóng như bay vào trong sân.

***

Ô Hành Tuyết còn đang định hỏi Tiêu Phục Huyên “Khách nào đến vậy”.

Khổ nỗi đám nhóc đó khóc thê thiết quá, chàng vừa nghe đã biết ngay cơn cớ, lập tức nuốt ngược câu hỏi trở vào.

Đột nhiên, chàng tưởng như mấy đời đã trôi qua, khi chợt nhớ về lần đầu gặp Tiêu Phục Huyên năm xưa. Song chẳng mấy lâu chàng đã phải định thần lại, bởi thấy một dàn tiểu đồng tử kia xếp hàng bước vào, và đi phía sau hàng đồng tử là Thiên Túc đại nhân với một nét mặt…

Quá chi buồn cười.

Ô Hành Tuyết vừa mím miệng cười vừa nhìn Tiêu Phục Huyên đi vào cửa, không ngừng “Ừm ừm” đáp lời thăm hỏi “Thưa đại nhân” liên tục, sau đó mới mở miệng hỏi không thành tiếng, “Sao chúng nó tới được vậy?”

Tiêu Phục Huyên giơ tay lên, cho thấy giữa ngón tay y có kẹp một lá bùa. “Lúc trước ta dán phù dẫn linh trước cửa để tìm Ninh Hoài Sam và Phương Trữ…”

Quên gỡ.

Nhưng hai chữ “quên gỡ” đã được Thiên Túc đại nhân nuốt ngay vào trong, để tránh cho dàn đồng tử xuất thân xướng ca này cảm thấy đến đây phí công một chuyến xong lại bắt đầu bù lu bù loa quang quác lên.

Trên người đám tiểu đồng tử này còn vết tích bị Ô Hành Tuyết xử lý qua nên phù dẫn linh có tác dụng với Ninh Hoài Sam và Phương Trữ thì cũng có tác dụng tương tự với bọn chúng.

Khổ là Tiêu Phục Huyên không ngờ bọn chúng vẫn còn đây…

Ô Hành Tuyết cũng bất ngờ.

Nhưng đám nhóc này cực kỳ nhạy cảm, chàng không thể hỏi thẳng thừng mà phải nói vòng nói vo, “Sau khi Tiên Đô không còn, các ngươi đi đâu vậy?”

Cả đám tiểu đồng tử đồng loạt nhao nhao trả lời.

Một đứa tiểu đồng tử ăn đứt năm Phương Trữ, ba Ninh Hoài Sam, thì mười hai tiểu đồng tử… quả thực điên đảo đất trời.

Chẳng cần hỏi sâu xa, bọn chúng cũng kể hết tất cả từ đầu tới đuôi.

Qua lời kể của chúng, Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên cũng biết thêm được không ít chuyện…

Tỉ như hiện thế bắt đầu tự hợp nhất từ thời điểm sau khi Vân Hãi chết và trở thành tà ma, tiếp đó Tiên Đô biến mất, tà ma tàn sát vô vạ trên thế gian cũng gần như biệt tăm biệt tích.

Khi Tiên Đô bị diệt trừ không gây ra hệ quả tai hoạ nào cho nhân gian, nhưng trên núi Thái Nhân nơi trước đây từng nối liền với chín tầng trời vẫn còn vết tích linh khí xô xát lẫn nhau.

Để rồi sau đó trăm năm, và thậm chí đến ngàn năm, vì những vết tích đó mà thi thoảng trên núi Thái Nhân lại nổi lửa… (1)

Nhưng đấy là chuyện của sau này.

<i>(1) Núi Thái Nhân lần đầu được nhắc đến trong ngoại truyện của Phán Quan, đây là nơi Trần Bất Đáo thu nhận Chung Tư về chăm sóc sau khi cậu bé bốn tuổi bị lưu lạc vì trận hoả hoạn lớn kéo dài 13 ngày trên núi Thái Nhân.</i>

Còn phần linh khí mà nhân gian không tiếp nhận nổi đều đã tràn về phía nam. Đấy vốn là địa điểm của Chiếu Dạ thành, nhưng dưới tác động của sự hợp nhất, thế gian đã không còn tồn tại Chiếu Dạ thành nữa, địa phương đó giờ đây một nửa là đồng hoang, một nửa là biển hồ.

Phần linh khí tiên khí đổ hết vào biển hồ đó.

Người dân xưa giờ đều yêu thích truyền thuyết truyện cổ, cả một câu chuyện có thể được thêu dệt nên chỉ từ chút vết tích, trong đó sẽ có tiên có quỷ, có thiện có ác, có gặp gỡ biệt ly, có yêu hận vĩnh viễn không đổi dời.

Thực ra, người ta cũng ăn may đoán đúng trong một số trường hợp, có điều dù đúng thì bá tánh cũng chẳng biết. Ví như… một trong những lời đồn đãi kể rằng không rõ từ đâu mà vùng biển ở phía nam có linh khí cực thịnh, nói không chừng có thể thức tỉnh một số sinh vật ngủ sâu dưới lòng biển. (2)

Nhưng đấy cũng là chuyện của sau này.

<i>(2) Đoạn này khả năng là nhắc đến Tiết Nhàn trong Đồng Tiền Kham Thế có bản thể là rồng.</i>

Ô Hành Tuyết hỏi mấy tiểu đồng tử kia, “Người trên Tiên Đô có còn không?”

Tiểu đồng tử tranh nhau trả lời, “Tiên Đô tan biến xong không thấy nữa rồi.”

Ô Hành Tuyết hỏi, “Không thấy nữa là ý gì?”

Tiểu đồng tử không trả lời được.

Song, Tiêu Phục Huyên đã bổ sung thêm, “Linh đài Tiên Đô không còn, hẳn là tiên nguyên cũng quy về hư vô.”

Ô Hành Tuyết gật gù. “Chắc đại loại vậy.”

Có lẽ họ đều trở về làm những người tu hành.

Nói là “không thấy” cũng chưa hẳn là tiêu vong, mà có khả năng họ chỉ trở về đâu đó dưới nhân gian, hoàn thành những điều họ mong muốn vào thuở ban sơ khi mới bắt đầu tu tập, bảo vệ những người họ từng mong muốn chở che.

***

Những chuyện đã từng phát sinh, đã từng tồn tại cũng không biến mất hoàn toàn chẳng lưu dấu tích. Có đôi khi vẫn thoáng nghe được chút gì đó trong dăm ba lời kể ở nhân gian. Trong đó có những chuyện từ trước khi thế gian tự hợp nhất, và cả những chuyện xảy đến sau khi hợp nhất.

Về sau, Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên đã được nghe kể qua.

Sau khi họ tạm trú trong con hẻm này được nửa tháng, có một lần họ đi ngang qua cây cầu vòm cách đó không xa. Ô Hành Tuyết tình cờ trông thấy một chữ được khắc bên hông cầu vòm.

Chàng chợt dừng bước, thốt lên một tiếng ngạc nhiên.

Tiêu Phục Huyên nghe vậy nhìn sang phía đó thì thấy trên cây cầu ấy viết ba chữ “Cầu Lưu Tiên”.

Ô Hành Tuyết chỉ tay vào đấy và nói, “Nhìn chữ “Lưu” ở đấy xem, nét khắc trên đá có dấu vết mới bị sửa, một bên còn chưa bị mài mòn, giống như là được đổi lại sau ấy.”

Chàng có dung mạo ưa nhìn, khi mở lời nét mặt càng toả sáng, thần thái đầy khí khái. Chất giọng chàng ấm áp như sương lam triền núi, quả tình rất dễ bề thu hút sự chú ý của người đi ngang trên đường, khiến họ phải ngoái đầu nhìn xem.

Vừa khéo có một bà lão đang quải giỏ tre bước qua, tình cờ nghe chàng thắc mắc bèn giải đáp, “Cây cầu này từng đổi tên.”

Ô Hành Tuyết nhướng mày với Tiêu Phục Huyên, nhỏ giọng mà rằng, “Xem xem trực giác ta nói có linh không.”

Đoạn, chàng quay sang gật đầu hành lễ với bà lão, mỉm cười niềm nở thưa, “Vâng bà ơi.”

“…”

Tiêu Phục Huyên im lặng quay mặt sang chỗ khác.

Với số năm người này sống trên đời thì cái tiếng “bà ơi” nghe vào ê cả răng.

Vậy mà Ô Hành Tuyết hoàn toàn không để tâm mà gọi cực kỳ trơn tru, “Cây cầu này vì sao phải đổi tên vậy ạ?”

Bà lão tặc lưỡi rồi đáp, “Thợ xây cầu đổi vì bảo là gặp một giấc mơ.”

Ô Hành Tuyết: “Vậy à?”

“Đúng vậy, lúc sửa cầu có nhiều người đến xem lắm,” bà lão nói. “Người đó nói mơ thấy một tiên nữ gì gì đó vì không đành lòng nhìn bá tánh phải chịu khổ nên đã hát một khúc ca rồi nhảy xuống lòng sông. Người thợ xây cầu nói anh ta thấy rất bứt rứt sau khi tỉnh lại, cảm thấy khó chịu trong lòng nên đã đi kể với mọi người.”

“Trong vùng này có một một thầy số bị mù, người này xem số nói cần phải đổi tên cây cầu. Dựa vào giấc mơ đó, tên Lưu Tiên phù hợp hơn tên Nghênh Tiên, thành thử sau này đổi lại tên.”

Thoạt đầu Ô Hành Tuyết nghe rất hào hứng, khi nghe đến đoạn “tiên nữ hát một khúc ca rồi nhảy xuống lòng sông” thì sự hào hứng lúc đầu đã phai đi nhanh chóng.

Cảm xúc khi ấy rất chi diệu lạ…

Những chuyện xa xưa làm người ta khổ đau đã không còn nữa, hết thảy đều đổi thay. Với các bá tánh thì đấy chỉ là truyện dân gian, là cảnh trong mơ. Thế nhưng khi Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên nghe vào lại cứ như tình cờ nhận được thư tín từ bạn cũ.

Chàng hơi bần thần, mà bà lão lại ngỡ rằng cậu trai trẻ tuổi không tin vào truyền thuyết, cũng không tin những dấu vết thần tiên để lại, bà bèn túm lấy chàng mà nói, “Mấy chuyện này có những lúc không muốn tin cũng phải tin. Đâu chỉ có tay thợ xây cầu đó mà bà cũng từng gặp đây, không phải mơ mộng gì đâu, bà chứng kiến thực sự đấy.”

“Chứng kiến?”

“Đúng thế!” Không biết trước đây đã từng kể với bao nhiêu người rồi mà khi vừa nhắc đến thì bà lão đã phấn chấn lên. Bà nói, “Có một dịp Thanh minh bà lên núi đốt vàng mã, lúc đó xuống núi hơi trễ, bà nhìn thấy có một bóng hình nhoáng hiện lên rồi biến mất trên một con đường núi xa tít mù. Dù không nhìn rõ nhưng bà thấy phía sau lưng người đó còn có một con hươu trắng tràn đầy linh khí.”

“Hươu?”

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên trao đổi ánh mắt, cả hai đồng thời nghĩ về một người.

Đã từng, giữa Tiên Đô thênh thang, chỉ duy nhất một người dẫn theo hươu tiên bên mình. Dẫu cho sau trước bọn họ vẫn không thể gọi nhau hai tiếng “tiên hữu”, song mối quan hệ lại dây dưa muôn vàn qua những chuyện xưa giờ đây không một ai biết đến.

Ấy chính là Tiên thủ Linh đài một thuở, Minh Vô Hoa Tín.

***

Trên thực tế, bà lão kia không hề nhìn nhầm, mà bọn họ cũng chẳng đoán sai. Bóng người thoắt qua đường núi kia quả thực chính là Minh Vô.

Chỉ là, sau khi Tiên Đô tiêu vong, trên thế gian cũng chẳng còn Tiên thủ, mà chỉ có nhà tu hành Hoa Tín.

Trong tuổi đời dài dẵng của mình, hắn luôn phiêu lãng khắp nơi hòng tìm tung tích chuyển thế của một người.

Năm xưa, Vân Hãi đã chết mà hắn còn chưa kịp ghi dấu trên linh phách của đối phương, đâm ra việc tìm người về sau chẳng khác gì mò kim giữa biển người.

Qua hơn hai trăm năm, hắn mới tìm được người đã chuyển thế hai lần tại toà thành trên một ngọn núi nọ. Ngày mà bà lão trông thấy hắn cũng chính là ngày hắn hối hả chạy đến toà thành trên núi đó.

Khi ấy là một chiều chạng vạng cuối thu.

Hoa Tín theo dấu linh phù, vội vàng cất bước đến dưới chân toà thành trên núi, hắn đảo qua hai gốc cây quế giữa khói lam chiều để rồi nhìn thấy một gian nhà rất mộc mạc với khoảnh sân nhỏ được rào bởi khung cửa gỗ thâm thấp. Trong sân đóng cọc gỗ mà người tu hành thường dùng, trên mặt cọc có dấu chém binh khí. Trên một cọc gỗ còn có treo bầu rượu bằng sứ trắng, dây đỏ buộc sơ sài nhẹ nhàng đung đưa trong gió.

Khắp nơi đều có lưu dấu chân, chỉ tiếc một nỗi là cửa nhà đang đóng kín, bên trong chẳng thổi ánh đèn, chủ nhân căn nhà này không có ở nhà. Thoạt nhìn qua đoán chừng đã mấy ngày chưa về rồi, và cũng chẳng biết còn phiêu bạt bên ngoài bao lâu nữa.

Ấy thế mà Hoa Tín chẳng hề có thay đổi sắc mặt.

Mục đích hắn chọn đến vào lúc này là để nhìn một gian nhà trống.

Cũng khó mà nêu rõ được đây là dạng tâm lý gì, có lẽ có đôi chút sợ hãi khi đích đến nằm ngay trước mắt.

Chỉ là một gian nhà trống không người vẫn khiến hắn ngắm nghía thật lâu. Lâu đến mức bụi đất xốc lên từ đường núi sau lưng vì có người đang thúc ngựa chạy đến mà hắn chẳng hề hay biết.

Đến lúc nghe được tiếng vó ngựa kề bên, thì có muốn tránh đi cũng đã không còn kịp nữa.

Hắn xoay phắt người như hoảng sợ, và nhìn thấy một người dáng cao đang phóng tới.

Người nọ vốn đang đà băng quá chỗ hắn rồi, song đột ngột kéo cương từ cách đó mấy bước. Vó ngựa giật lên cao, người thiếu niên chỉ trạc mười bảy mười tám tuổi ngoái đầu nhìn hắn, ánh mắt người kia thoạt thấy hươu tiên thì thốt nhiên bật hỏi, “Người là… thần tiên sao?”

❄︎

Lời tác giả:

Đợi lâu ~ giao diện phía sau bề bộn quá, không biết ở mặt trước đã hiện chương lên chưa nữa.

Đây là chương kế cuối.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 128: Thước đô (Hoàn chính văn)


So với ba mùa xuân hạ thu, mùa đông ở Mộng Đô có phần khắc nghiệt hơn.

Lưu vực ven sông thường rơi vào tình trạng lạnh ẩm, khiến người ta dễ bị tê cóng đến lở da, bá tánh sống ở phía nam thành này gần như không bao giờ rời tay khỏi ấm sưởi, trong nhà cũng thường đốt lò lửa nhằm giảm độ ẩm không khí.

Nhưng đối với hai người sống ở cuối con hẻm thì việc này chẳng thành vấn đề.

Sau khi sống lại, Ô Hành Tuyết đã không còn thân thể tà ma, oán hận quấn rịt trên người tiêu tan theo mây khói, nên lẽ dĩ nhiên chàng cũng không gặp tình huống vong hồn phản phệ cơ thể dẫn đến kiếp kỳ nữa.

Nhưng dầu sao, những oán hận kia đã từng bao vây linh phách chàng qua hàng trăm năm, đành rằng đã sớm tiêu tan nhưng thi thoảng vẫn xuất hiện những cơn đau âm ỉ. Nó giống như việc bất chợt bước lên đất bằng sau quãng thời gian ngồi quá lâu trên một con thuyền nhỏ lênh đênh chìm nổi, sẽ tạo cho người ta cảm giác cơ thể vẫn còn rung rinh.

Đây không phải tổn thương thực sự, song vẫn cần tĩnh tu hai năm mới có thể hồi phục hoàn toàn.

Từ lúc Ô Hành Tuyết tỉnh dậy đến giờ còn chưa tròn một năm, mùa xuân và mùa hè ở Mộng Đô rất mực dung dưỡng thân người, song khi đông tới, linh khí lập tức khó mà vận chuyển suôn sẻ, gây trở ngại cho việc tĩnh tu.

Ô Hành Tuyết không sợ đau, tất nhiên là chàng chẳng bận tâm gì chút trở ngại này nên xem nhẹ nó cực kỳ.

Nhưng Tiêu Phục Huyên để ý.

Chỉ cần thoạt thấy nét mặt Ô Hành Tuyết có hơi tái đi, hoặc ngón tay bắt đầu trở lạnh, là y lập tức túm người đưa vào phòng ngủ rồi khởi động một linh trận và đưa khí kình của mình vào kiểm tra.

Thật ra đây cũng là một giải pháp.

Khí kình Tiêu Phục Huyên thuần khiết và mạnh mẽ, xét trên phương diện nào đó thì đúng là có thể hỗ trợ thuyên giảm. Cứ chầm chậm ấn tuần tự lên các huyệt đạo trọng yếu suốt một ngày một đêm sẽ giúp việc vận chuyển linh khí thuận lợi hơn rất nhiều.

Nhưng đây chỉ là “trên lý thuyết”.

Còn khi áp dụng vào thực tế, có khi kết quả sai lệch hơi nhiều.

Bởi cái cảm giác bị khí kình dạo quanh và đè ấn bên trong người có hơi… khó tả.

Lần nào cũng bắt đầu với việc “điều dưỡng”, sau đó đi được giữa chừng sẽ ngoặt sang một hướng khác. Kết quả là đám tiểu đồng tử lóc nhóc trong nhà đều bị bịt tai một cách bí ẩn, xong rồi cả bọn bị đẩy sang chỗ khác.

Có một đợt, bọn chúng không chịu tin, thế là chúng dừng rồi tiếp tục, tiếp tục rồi dừng, qua qua lại lại mấy lần như vậy, kết quả là kết giới trong nhà đặt liền tù tì năm ngày.

Suốt năm ngày…

Không thấy bàn ghế tủ giường gì hết.

Chót cùng, từ đường viền cổ đến khớp ngón tay, thậm chí cả đầu gối và mắt cá chân Linh Vương đại nhân đều nhuốm đỏ hửng mãi chưa phai. Ngay đến hơi thở cũng run run nhè nhẹ.

Chàng nắm giữ Tiêu Phục Huyên, hé mở đôi ngươi ướt át, nhìn thoáng qua phần eo hông đầy hỗn loạn rồi hơi cong cẳng chân dài lên. Tay còn lại của chàng đưa lên che mắt, mất không biết bao lâu mới lấy lại đủ bình tĩnh thốt lên một câu, “… Không được.”

Tiêu Phục Huyên cúi đầu xoa nguôi chàng bằng cách gieo hôn trên đầu ngón tay đang che mắt và hàng mi, trong giọng nói lộ vẻ biếng lười hiếm thấy, “Hửm?”

Ô Hành Tuyết nói, “Vẫn nên đổi chỗ khác thì hơn.”

Nếu cứ đà này, chàng chẳng chịu được nổi qua một mùa đông Mộng Đô đâu.

***

Tiêu Phục Huyên và Ô Hành Tuyết sống trong con hẻm này hơn nửa năm rồi ra đi giữa trời đông rét buốt. Họ tìm một vùng đất linh khác tại miền bắc rồi điều dưỡng thân thể hồi phục hoàn toàn.

Lúc họ rời đi, Ô Hành Tuyết đã đặt một lớp kết giới lên căn nhà kia. Nhờ lớp kết giới đó, khi những người tới lui trên con đường nhìn qua, khung cảnh ở cuối con hẻm trước đây ra sao thì sau này vẹn nguyên y thế, từ đầu đến cuối chẳng hề đổi thay.

Cứ như thể nơi đó chưa từng có người chuyển đến, và cũng chẳng một ai rời đi.

Bọn họ chỉ là những luồng sáng tình cờ loé ngang, không có ý phiền nhiễu một ai, cũng chẳng để lại mảy may dấu vết.

Song thực ra… vẫn có người nhớ rõ bọn họ.

Những bá tánh từng tranh luận trước đây trong quán trà đã ghé qua nơi cuối con hẻm ấy, về sau những dịp rỗi rãi, họ vẫn thường đi đường ghé ngang.

Vào một buổi chiều tà cuối xuân, một người trong số họ thoáng thấy một bóng hình trắng muốt như tuyết lướt trên gác cao, nhẹ nhàng đáp mình trên mái hiên, vươn tay đón lấy một nhúm hoa rơi, đoạn người đó cúi đầu nói cười gì đó với một người khác dưới sân.

Thực chất, ngày hôm đó tiểu đồng tử nghịch ngợm khiến kết giới bị rách, Ô Hành Tuyết phải lên mái hiên để đắp lại chỉ trong tích tắc.

Nhưng những người khác nào hay biết nguyên cớ sự việc.

Với những người tình cờ đi ngang khi đó, ấy chính là bóng dáng tiên nhân hiếm hoi, là khoảnh khắc một thoáng kinh hồng.

Mỗi lần kể lại thời khắc ấy với những người khác, vị bá tánh đó đều bảo tiên nhân trên lầu các khoác bạch y tuyết trắng, và nói con hẻm này có tiên duyên, đã từng có thần tiên cư ngụ nơi cuối hẻm, có lẽ rằng sau này sẽ lại có thần tiên xuất thế nơi này.

Chính vì thế, qua lời truyền miệng của người dân, con hẻm dài vô danh khi trước đã có cái tên.

Tên gọi hẻm Tuyết Y. (1)

Trăm ngàn năm sau, thế sự đổi dời, thành trấn sông hồ đã chuyển tên chẳng biết cơ man là bận, chỉ riêng ngõ hẻm nho nhỏ kia tự cổ chẳng đổi thay.

<i>(1) Hẻm Tuyết Y là con hẻm bên bờ sông Tiền Đường, sau này trở thành nơi ở của nhà họ Tạ, nơi ra đời của Tạ Vấn, cũng tức là tổ sư gia Trần Bất Đáo trong Phán Quan.</i>

***

Nhưng những lời này cũng là chuyện về sau, còn ngay lúc đó Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên không hay biết được.

Sau khi giăng kết giới xuống cuối con hẻm, họ chưa dời đi phương Bắc ngay mà vẫn lân la trong thành thêm một đêm nữa. Họ nghe nói thành Mộng Đô này có chợ đêm mùa đông, thêm cả họ cũng nghe nhắc đến một cái tên…

Y Ngô Sinh.

Chợ đêm mùa đông Mộng Đô là sự hiện diện náo nhiệt hiếm gặp trong tháng chạp, vì khi ấy đã gần đến giao thừa. Mỗi năm, ngay đến những người sống ở khu vực lân cận toà thành chủ cũng sẽ tới, bao gồm vùng ven ngoại thành, các làng xóm, Bạch Lộc Tân, và cả Xuân Phiên thành.

Những người đang bàn chuyện phiếm chính là các bá tánh đang vận chuyển hàng đến chợ mùa đông, thông thường ắt hẳn họ lui tới rất nhiều nơi, nên dĩ nhiên là vô cũng rành rẽ “Xuân Phiên thành”.

Khi đang dắt xe băng qua các con phố, không biết ai đó chợt nói “Mấy ngày nay trời đổ tuyết, trở lạnh hơn trước nhiều quá, bệnh cũ cứ tái phát mãi không đỡ đi được”.

Thế là một người khác tiếp lời, “Ở Xuân Phiên thành có một vị thầy thuốc cực kỳ tài ba tên là Y Ngô Sinh, người này rất tốt bụng, anh đến tìm xin bốc thuốc thử xem.”

Người bên cạnh anh ta phụ hoạ tức thì, “Đúng vậy đúng vậy, hầy, vừa đúng dịp! Hai ba năm nay năm nào anh ta cũng đến chợ mùa đông, năm nay chắc là cũng đến đấy. Anh thử canh xem, xe ngựa của anh ta thường hay dừng lại ở…”

Người nọ ngước mặt lên rảo tìm, thấy đèn đóm đã bắt đầu giăng cao trong chợ mùa đông cách đó không xa. Trông nó tương tự với những khu chợ náo nhiệt khác dưới nhân gian, ánh đèn nối tiếp nhau soi rực một khoảng trời rộng lớn.

Người nọ chỉ tay tới một nhà trọ ở gần lối vào chợ rồi nói, “Ở căn đó, gần lắm, nghe nói… ớ?!”

Đang nói dở, anh ta chợt hô lên một tiếng, đoạn vỗ vãi người bạn đang mắc bệnh của mình. “Khéo quá! Xem vận may của anh kia kìa, nhìn thấy xe ngựa đó không! Chẳng phải là xe ngựa đó sao!”

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên đang đi trước họ một chút, gần như vào tới chợ mùa đông rồi thì nghe được câu “Khéo quá”, thế là hai người đồng loạt ngừng bước, ngoái đầu nhìn theo hướng cậu ta chỉ.

Căn nhà trọ đó chỉ cách bọn họ mấy bước, chiếc xe ngựa kia vừa vòng qua đầu con phố, tiếp đó đánh lộc cộc mấy tiếng rồi dừng lại trước cửa nhà trọ.

Cửa xe ngựa phát ra tiếng cót két, sau đó một bóng hình gầy ốm nho nhã quen thuộc từ trên xe bước xuống. Thế nhưng hắn không đi vào nhà trọ ngay lập tức mà đứng bên hông xe và đưa tay ra đỡ một cô gái bên trong xe ra ngoài.

Từ cách đó không xa, giọng các bá tánh nọ loáng thoáng truyền đến, “Nhìn kìa, đó chính là Y Ngô Sinh và vợ của anh ta, phó đường của nhà họ Hoa.”

Sắc trời khi đó đã nhuốm bụi tuyết, dưới ánh đèn dầu trông càng thêm thanh thoát huyền ảo.

Trên mặt đất còn đọng tuyết rơi từ hai hôm trước, bị chân người đạp lên mỏng đi đôi chút và có hơi trơn. Hoa Chiếu Đài nắm lấy tay Y Ngô Sinh, khi bước từ trên xe xuống lại xui rủi giẫm trúng lớp băng mỏng nọ.

Người tu hành khó mà bị trượt chân vì một tầng băng mỏng như vậy. Song nàng vẫn “Ái da” lên một tiếng như đang muốn doạ người khác, đồng thời giả vờ lảo đảo.

Y Ngô Sinh giơ tay lên giữ lại theo thói quen, làm thế nào mà lôi kéo khiến người ta lảo đảo từ giả thành thật.

Hoa Chiếu Đài: “…”

Hai người giữ lấy nhau lắc lư một phen, sau mới đứng vững lại được. Vừa nghĩ lại “chuyện dư thừa” mình vừa làm, cả hai đều không khỏi bật cười.

Bấy giờ, Y Ngô Sinh mới ngước mặt lên, tình cờ chạm phải ánh mắt đang nhìn sang của Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên.

Y Ngô Sinh vẫn giữ đúng phong thái của một người nho nhã, hễ chạm phải ánh mắt với bất kỳ người qua đường nào cũng sẽ gật đầu hành lễ nhẹ nhàng. Thành thử, hắn gật đầu với Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên, đồng thời mỉm cười cất giọng ôn hoà, “Đã khiến nhị vị công tử chê cười.”

Ô Hành Tuyết ngẩn ngơ một chốc rồi mới mỉm cười đáp lễ. “Nào có.”

Tâm trạng chàng vui vẻ hẳn lên ngay thời khắc ấy.

Lúc trước bọn họ phải hứng chịu quên lãng của người đời, âu cũng vì những thời khắc như này đây…

Ông chủ nhà trọ ra cửa tiếp đón, đoạn dẫn Y Ngô Sinh và Hoa Chiếu Đài vào trong. Ở đầu chợ, mấy vị bá tánh đang có sở cầu cũng tức tốc tháo dỡ hàng hoá trên xe xuống rồi đi theo vào.

Ngay vào lúc đó, tuyết trở nặng, chỉ trong chớp mắt mà đường xe ngựa chạy đã phủ tuyết trắng dã một mảng, nhìn vào như ngọc thạch.

Chim trời nhập bọn bay sang, lướt qua chân trời giữa màn bụi tuyết rồi lại nhấp nhô chìm vào bóng đêm đang dần bao phủ.

Một bên là tiếng xe ngựa đánh vang lộc cộc, bên kia là tiếng người huyên náo dưới ánh đèn giăng dệt của chợ đêm mùa đông.

Ô Hành Tuyết ngước mắt bao quát một vòng, nhướn nhẹ mi với Tiêu Phục Huyên rồi cất giọng nhỏ nhẹ, “Nhìn xem, ‘Thước Đô’.”

“Ừm,” Tiêu Phục Huyên nhìn quanh một phen rồi ấm áp tiếp lời, “Thước Đô.”

***

Bọn họ rảo bước trên phố phường dưới ánh đèn dầu.

Ở nơi đây có quán trà quán rượu, có tiên sinh giảng giáo, có xe bán hàng nghi ngút khói cùng hầu bàn hô hào to tiếng, có muôn vàn linh bảo. Kể ra, cũng không khác biệt là bao so với hội chợ đèn hoa hạnh mai tháng ba hay phố núi Lạc Hoa. Dầu vậy, cái người trời sinh yêu thích rộn ràng khói lửa nhân gian vẫn ngắm nhìn tràn đầy hứng thú.

Cứ như thể, dẫu những nhộn nhịp có tương tự thì người ta vẫn không ngừng ghé sang hết lần này đến lần khác mà chẳng màng xuân đông. Cũng biết rằng truyện kể cũng xoay quanh những yêu hận biệt ly nhưng đến nơi đâu, vẫn có người lắng nghe chuyện xưa mà hứng khởi mà bùi ngùi, sân khấu ngày ngày kín ghế.

Ô Hành Tuyết dừng chân trước một quầy hàng, vươn tay tháo xuống một chiếc mặt nạ khá thú vị. Chàng đang lật xem thì chợt thấy có ai đó vỗ vai mình khe khẽ.

Chàng quay đầu lại, trông thấy Tiêu Phục Huyên giữa ánh đèn đan xen. Chớp mắt như ấy cũng sao mà tương tự, hệt như mấy trăm năm về trước.

Ấy chính là điều Ô Hành Tuyết từng mơ tưởng, một dịp tương ngộ buổi đầu tuyệt đẹp nhất nhân gian.

Ở quán trà cách đó không xa, vị tiên sinh giảng giáo vỗ lên tấm gỗ, cất vang giọng xuyên qua ánh đèn và bụi tuyết vọng đến tai, “Năm Thanh Hà thứ ba trăm, Miện Châu đổ tuyết lớn. Tuyết đóng cứng thành băng dọc mười vạn dặm mặt biển Vô Đoan, trải miết đến chân trời…”

Ô Hành Tuyết hơi sững sờ, chàng chợt nhớ về khoảnh khắc mình mới tỉnh dậy. Sau khi đi thăm hỏi trên phố xá ngõ hẻm, Tiêu Phục Huyên về nói với chàng một chuyện.

Nói rằng niên hiệu hiện tại vẫn là Thanh Hà, việc sửa niên hiệu vẫn xảy ra giống như trước khi nhân gian tự hợp nhất, song nguyên do chẳng phải vì lửa cháy miệt mài mấy ngày ở Lạc Hoa Đài, mà vì hải thanh hà yến.

Vì lẽ đó, trong truyện kể nay đã không có “Thiên Thù”, cũng chẳng thấy “Thương Lang Bắc Vực”.

Chỉ có vạn sự thái bình, hải thanh hà yến.

Đến giờ, đã tròn ba trăm năm.

Đây là năm thứ ba trăm thần vắng bóng quỷ biệt tăm…

Từ đấy, nào những suối chảy non cao, bao phen gió lành trăng tỏ (2), sẽ mãi là cuộc tương ngộ nơi thế gian cõi người.

<i>(2) “Suối chảy non cao, gió lành trăng tỏ”: nguyên tác là “cao sơn lưu thuỷ, thanh phong minh nguyệt”.</i>

<i>“Cao sơn lưu thuỷ” — được trích từ điển tích Bá Nha và Tử Kỳ, ý chỉ những người bạn tri âm tri kỷ, Bá Nha cho rằng chỉ có Tử Kỳ là người duy nhất nghe được tiếng đàn của ông. Khi gảy đàn cho Tử Kỳ nghe, Bá Nha nghĩ đến núi cao, thì Tử Kỳ cho biết tiếng đàn chơi vơi lên cao, khi Bá Nha nghĩ đến dòng nước chảy, Tử Kỳ cho biết tiếng đàn dồn dập như dòng nước. Tử Kỳ đã đoán trúng những tình cảm diễn biến trong nội tâm của Bá Nha. Chữ “cao sơn lưu thuỷ” do câu “Nga nga hồ chí tại cao sơn, dương dương hồ chí tại lưu thuỷ” nghĩa là: vòi vọi kìa chí tại non cao, mênh mông kìa chí ở dòng nước chảy. Về sau, Tử Kỳ bị bạo bệnh mất, Bá Nha đến tại mộ khóc han thảm thiết, xong liền đạp gảy đàn, vì ông cho rằng ngoài Tử Kỳ ra không còn ai là người biết thưởng thức tiếng đàn của ông.</i>

<i>“Thanh phong minh nguyệt” — gió mát trăng trong. Dùng để chỉ người thích làm bạn với thời tiết tốt. Trong sách “Thế thuyết” thuật lại: Tạ Huệ Liên thích giao du, nhưng hay lựa chọn người và không khinh suất. Trong nhà không thích khách lộn lạo (Môn vô tạp tân). Đôi khi ngồi một mình uống rượu say, ông nói: “Nhập ngô thất giả, dãn hữu thanh phong, đối ngô ẩm giả, duy dương minh nguyệt”, nghĩa là: Ai đến nhà ta, chỉ có gió trong quạt mát, cùng ta đối chén, nhân khi trăng sáng soi cao. Nghĩa bóng, thú vui tao nhã của những trang ẩn sĩ thoát tục.</i>

<i>— trích từ Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển —</i>

– Hoàn chính văn –
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 129: C129: Phiên ngoại - cây nhân duyên 1


Mùa hè năm Thanh Hà thứ ba trăm bốn mươi mốt.

Trong khung cảnh trăm năm yên bình, mùa hè năm nay có chút đặc biệt, theo cách nói của dân gian gọi là "Ngũ hành phạm thủy".

Bởi vì lượng mưa cực kỳ nhiều.

Đối với dưa trúc đào mận ao sâu ruộng tốt mà nói thật sự xem như điều tốt lành, rất sớm có thể thấy một năm được mùa. Nhưng đối với những người thường đi thuyền trên sông nước mà nói lại khá đau đầu.

Một khi sóng gió nổi lên, thật sự rất đáng sợ.

Cuối tháng sáu, thuyền ở vùng Đông Giang đều neo lại bến đò vài ngày.

Nhóm thuyền phu phanh áo ngồi xổm trên thuyền, dựng giàn che bằng tay, mắt nhìn thoáng về phía xa xăm. Họ sống trên sông nước đã hai ba mươi năm, thậm chí có vài người ngày thường ăn ngủ luôn ở dưới mui thuyền, họ đã quá quen thuộc với những con sông mà mình đi qua. Nói khoa trương một chút chính là liếc mắt một cái cũng biết được sóng gió kéo dài bao lâu.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 130: 130: Phiên Ngoại - Cây Nhân Duyên 2


Huyện Ngọa Long ở ngay sát vách Giang Châu thành, từ vùng sát cổng thành này đi qua, nếu xe ngựa chạy nhanh một chút, không đầy nửa ngày là đến nơi.

Khi công tử Lý gia rời thuyền, cúi chào thật sâu với họ, nói: "Ơn cứu mạng, ta vô cùng cảm kích, sau này mỗi lần gặp lại hai vị sẽ báo đáp một lần.

"
Ban đầu, Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên không xem những lời này là thật.

Tuy họ ở lại Giang Châu thành, nhưng nhà cửa có kết giới, ngày thường ra ngoài lại thích dịch dung.

Muốn tìm thấy họ tuyệt đối không phải chuyện dễ.

Một lần không tìm thấy, hai lần không tìm thấy! thất bại vài lần đương nhiên sẽ từ bỏ ý định.

Kết quả chưa đến nửa tháng, họ đã phát hiện ra bản thân đã bất cẩn.

Vị công tử Lý gia này nhiệt tình vô cùng, khả năng lăn lộn phi thường còn cực kỳ cố chấp.

Ngày thường hắn đều làm việc thiện, chuyện gì cũng chen vào, đối với ai cũng vô cùng quen thuộc.

Hễ là người từng được hắn giúp đỡ, đều sẽ vui vẻ thuận tay giúp hắn một phen!
Cho nên, vị công tử Lý gia này làm phàm nhân một giới, cứ thế để cho hai vị đã từng là chân tiên cảm nhận được cái gì gọi là "Có mặt khắp nơi".

.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 131: 131: Phiên Ngoại - Cây Nhân Duyên 3


Từ sau lần đó, nếu lại đến huyện Ngọa Long xem kịch, sẽ đổi người dịch dung thành Ô Hành Tuyết.

Cũng không phải bởi vì kỹ xảo của hắn cao hơn.

Dịch dung chỉ là thủ thuật nhỏ không cần bàn đến kỹ xảo gì, đương nhiên cũng khó phân cao thấp.

Vốn dĩ để cho hắn, là bởi vì!
Linh Vương ra tay, chính là tương đương với tùy tiện.

Hai người họ biến thành thế nào đều do hứng thú nhất thời của người nào đó cùng với những gì họ nghe thấy hoặc nhìn thấy.

Dựa theo cách nói của Ô Hành Tuyết, gọi là "Thể nghiệm nhân gian muôn màu".

Không hề nói ngoa, đó thật sự là muôn màu.

Sau khi dịch dung, họ không nhất định sẽ là người trẻ tuổi, cũng không nhất định sẽ là hai người.

Thậm chí có đôi khi không nhất định là người.

Thế nên, ở bìa rừng hoang bên ngoài huyện Ngọa Long sẽ thường xuất hiện cảnh tượng thế này ––––
Lúc họ vừa đáp xuống, đúng lúc nhìn thấy một ông lão mặc áo tơi xách theo giỏ tre đi ngang qua.

蓑衣 soa y: áo tơi
Ô Hành Tuyết nhìn thoáng qua một cái, lập tức nói: "Tiêu Phục Huyên, ngươi nhìn vị lão bá này, dịch dung thành như vậy thấy thế nào? Hiếm khi được thể nghiệm cảm giác râu tóc bạc trắng.

"
Sau đó, trong hí lâu ở huyện Ngọa Long sẽ có thêm hai cụ ông uống trà.

Nếu đúng lúc họ đáp xuống đất nhìn thấy thư sinh đeo chiếc rương bằng tre đi ngang, Ô Hành Tuyết nhìn thoáng qua một cái, sẽ nói: "Ngươi nhìn vị thư sinh kia, hào hoa phong nhã! "
Sau đó, ngày ấy trong hí lâu sẽ có hai vị thư sinh thanh y phấp phới.

Cứ lặp lại như thế, lần nào cũng ổn.

Linh Vương đại nhân lại càng chơi càng vui vẻ.

Có một lần, lúc họ đáp đất không có một bóng người đi ngang, nhưng lại có một đôi yến tước đốm hoa đậu trên cành.

Ô Hành Tuyết bị hấp dẫn mà nhìn một lúc, bỗng nhiên nắm lấy tay áo Tiêu Phục Huyên, nói: "Ngươi xem đôi chim kia.

"
Tiêu Phục Huyên: "! "
Làm người còn chưa thỏa nguyện phải không?
Đầy mặt Thiên Túc đại nhân viết "Không", Ô Hành Tuyết nhướng mày nhìn một lúc, rồi lại nắm lấy tay áo Tiêu Phục Huyên.

Hành động căn bản có thể xem như làm nũng.

Nhưng đối với loại chuyện thế này, làm nũng hữu dụng hay không???
!
Có.

Cho nên ngày ấy bên cửa sổ hí lâu có một đôi chim tước không sợ người, đậu lại suốt cả buổi trưa.

.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 132: 132: Phiên Ngoại - Cây Nhân Duyên 4


Công tử Lý gia nói: "Đúng vậy, nguồn gốc tên huyện Ngọa Long này là nghe được lúc thiếu thời, về sau tình cờ đi một chuyền về phương Nam, lại đi bằng đường thủy.

Có một ngày nửa đêm tỉnh lại, ta thò đầu ra khỏi mui thuyền dò xét, trong mê man, ta nhìn thấy một cái bóng đen dài trong màn sương mù trên biển."
"Bóng người thế nào?"
"Không nhìn thấy mặt, chỉ loáng thoáng nhìn thấy dáng người.

Ta nhớ rõ là vóc dáng cực cao lại gầy, mặc hắc y mang ủng đen, gần như hòa cùng một thể với cảnh sắc đêm đó." – Công tử Lý gia khoa chân múa tay, nói: "Ta thấy hắn cứ như vậy đi lại lơ lửng trên biển, vừa đi vừa buộc lọn tóc bay bay.

Ta vừa chớp mắt, hắn đã biến mất trong sương mù, không nhìn thấy nữa."
"Sau đó thì sao?"
"Sau đó ta mơ mơ màng màng mà ngủ thiếp đi, chờ đến ngày hôm sau, mặt trời đã lên cao mới tỉnh lại ở mui thuyền.

Cho nên ta mới viết vở kịch Nam này.

Lấy nguồn gốc tên huyện Ngọa Long làm mở đầu, lấy bóng người mặc hắc y trên biển làm nền, sau đó..."
Sau đó vô căn cứ mà bịa ra câu chuyện tình yêu quanh co thấm thía, như đôi chim liền cánh1.
1Raw 比翼双飞: Bỉ dực song phi (nghĩa bóng) hai trái tim đập như một; (văn học) một đôi chim bay gần nhau (thành ngữ)
Ô Hành Tuyết nghe đến đây, thấp thoáng đoán ra được đoạn kế tiếp: "Cho nên ngươi nói cái người báo mộng mắng ngươi là..."
Nước mắt công tử Lý gia chảy dài: "Chính là người ta nhìn thấy trên biển."
"Đã rất lâu rồi." – Trong giọng nói của công tử Lý gia mang theo nức nở: "Từ khi vở diễn này xướng đến 'Mỹ nhân đồ', ta lại bắt đầu chiêm bao mỗi đêm.

Đêm đêm trong mộng đều có một công tử mặc hắc y, vẻ ngoài cực kỳ tuấn mỹ, nhưng lại nóng nảy..."
"Hắn ở trong mộng nói với ta, kịch Nam kia chỉ là một đống vô nghĩa loạn xị.

Còn nói hắn tính tình rất kém, nếu ta không phải không muốn sống nữa, thì nhanh chóng sửa lại."
"Nhưng kịch Nam mà." – Vẻ mặt công tử Lý gia đầy uất ức mà bày tỏ: "Kịch Nam nào có sự thật, vốn dĩ chỉ là nói bậy thôi.

Huống hồ ta còn kết cho hắn một đoạn lương duyên..."
"Này, đừng nhắc nữa, đừng nhắc nữa." – Hắn bỏ qua đoạn lương duyên kia, tiếp tục khóc lóc kể lể: "Hắn còn mỗi ngày ở trong mộng dọa ta sợ."
Ô Hành Tuyết: "Ha? Hù dọa thế nào?"
Công tử Lý gia: "Giả quỷ."
Ô Hành Tuyết: "?"
Công tử Lý gia nói: "Hắn thường xuyên đến nói chuyện, giọng điệu trở nên yếu ớt, cực mờ nhạt cũng cực nhẹ, sau đó trong mắt chảy ra huyết lệ.

Hoặc là đột ngột đánh ta một cái, ta vừa quay đầu, hắn nhếch miệng cười, nụ cười cực kỳ âm tà, đánh tay ta đứt lìa, sau đó máu chảy đầm đìa mà lăn vào trong tay ta.

Ta..."
Công tử Lý gia này dù sao cũng ăn ngon mặc đẹp mà lớn lên.

Làm sao có thể chịu nổi cảnh tượng thế này, mà hơn nữa còn là mỗi đêm...
Thế nên sau mười ngày, dưới mắt đã xuất hiện mảng xanh đen.
Ô Hành Tuyết cảm thấy người trong mộng kia rất thú vị, nhưng ngoài miệng vẫn trấn an công tử Lý gia một câu: "Có lẽ mấy ngày nữa là thôi, không đến mức thật sự mỗi đêm đều đến mắng ngươi, nào có nhàn rỗi như vậy."
Kết quả công tử Lý gia càng khóc thảm hơn, vỗ đùi nói: "Có, hắn nói bản thân chính là người nhàn rỗi nhất thế gian."
Ô Hành Tuyết: "...".
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 133: 133: Phiên Ngoại - Đệ Tử 1


Nơi họ ước định là một hải trại đặc trưng.

Nhưng Ô Hành Tuyết còn chưa đến nơi đã bị vướng chân giữa đường.

Vướng chân hắn là một nơi gọi là Ba Phố Mười Hai Ngõ.

Nơi đó nhìn tên đoán nghĩa, có ba con phố và mười hai ngõ hẻm hẹp, là nơi bách tính tụ cư, vốn dĩ nên người đến người đi ngựa xe tấp nập.

Nhưng Ô Hành Tuyết bước vào phố hẻm chỉ thấy tất cả cửa nhà đóng chặt.

Trên đường chỉ có tiếng xào xạc của gió thu cuốn lá rụng, hoang vắng quạnh quẽ.

Ô Hành Tuyết suy nghĩ, giơ ngón tay, chọt trúng ót của tiểu đồng tử gần nhất, đẩy nó về phía trước một bước: "Nhóc con, đi hỏi thăm một chút.

"
Tiểu đồng tử "Ai da" một tiếng, che cái ót lại, quay đầu nói: "Sao đại nhân không hỏi?"
Ô Hành Tuyết: "Lười.

"
Tiểu đồng tử: "! Vậy vì sao lại là ta?"

Bởi vì ngươi xui xẻo đứng gần nhất.

Ô Hành Tuyết thuận miệng nói: "Người ở nơi này lòng phòng bị rất nặng, mặt ngươi tròn đôi mắt to, xinh đẹp được người khác yêu thích, vừa đến đứng trước mặt, người ta sẽ không thể nói ra chữ không.

"
Tiểu đồng tử thì thầm: "Nhưng mà đại nhân, mỗi lần đại nhân đứng trước mặt Thiên Túc, Thiên Túc cũng chưa từng nói không.

"
Ô Hành Tuyết: "! "
Tiểu đồng tử cố gắng vùng vẫy nhưng vô dụng, vẫn rầm rì mà đi.

.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 134: 134: Phiên Ngoại - Đệ Tử 2


Ô Hành Tuyết xoay kiếm, lại hỏi tiểu đồng tử một câu: "Vừa mới nói canh mấy rồi?"
Tiểu đồng tử nói: "Mới vừa canh hai.

"
Ô Hành Tuyết: "À.

"
Nhóm tiểu đồng tử hai mắt sáng lấp lánh, xoa xoa tay nóng lòng muốn thử sức: "Đại nhân, phải đánh nhau sao?"
Ô Hành Tuyết suy nghĩ, lại đặt ngón trỏ bên môi, "Suỵt" một tiếng.

Dù sao cũng còn cả một canh giờ.

Mà hắn lại đang lo không có việc gì làm!
Vậy dứt khoát tận dụng nó đi.

Hắn nhìn lướt qua nhóm tiểu đồng tử, nhéo nhéo mấy búi tóc gần nhất, khẽ hỏi: "Muốn diễn kịch không?"
Tiểu đồng tử: "! Hả???"
––––––
Có một vị công tử vô cùng cao quý mặc áo bào thuần trắng, đang chống đầu dựa vào ghế dài lật sách.

Trong nhà hay trong sân đều không có hộ vệ nào có thể đánh nhau, nhưng lại có vài thư đồng bận rộn trong ngoài lo rửa bút và nghiên mực.

Trong đó còn có hai đứa thường xuyên mở miệng ngáp một cái.

Vì thế tên thổ phỉ lấy mê hồn hương ra, ngón tay vê đầu nén hương một chút, khói hương lập tức lượn lờ bay vào trong sân nhà.

Mũi của mấy tiểu đồng kia ngược lại rất thính.

Chúng đang chen chúc cạnh ao mà tẩy rửa bút, đột nhiên ngẩng đầu hít hít mũi, rồi nói với người trong phòng: "Đại! Công tử ––––– ngươi có ngửi thấy không? Trong sân có một mùi hương, thơm quá.

"
Vị công tử đang dựa ghế dài lật sách nâng mắt, nhìn về phía mấy tiểu đồng kia.

Lập tức thấy mấy tiểu đồng dùng sức hít hít mũi, sau đó "Ai da" một tiếng, đỡ huyệt Thái Dương bắt đầu loạng choạng.

Công tử: "! "
Chúng lảo đảo vài cái.

Rồi lại nghe vài tiếng bịch bịch trầm nặng, chúng lấy đủ tư thế không trùng lặp nhau mà ngã một loạt bên cạnh hồ.

Công tử: "! ".
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 135: 135: Phiên Ngoại - Đệ Tử 3


Không bao lâu, nơi này bắt đầu lan truyền một lời đồn.

Nói rằng, trước khi tên thổ phỉ bị xử lý, từng có đứa nhỏ ăn mặc như tiểu tiên đồng đến gõ cửa, hỏi: "Vì sao mọi người ở nơi này đều đóng chặt cửa?"
Người nọ đáp: "Bởi vì có thổ phỉ làm loạn.

"
Cứ nghĩ như vậy, không phải đã xâu chuỗi được mọi chuyện sao!
Nhất định là tiểu tiên đồng hoặc là chủ nhân của tiểu tiên đồng diệt trừ thổ phỉ, bảo hộ bình an.

Người vùng Tây Nam vốn thích nghiên cứu tu tập kỳ thuật, bởi vì chuyện tên thổ phỉ kia, mà một vật trở nên thịnh hành –––––
Đó là kết quả của việc truyền lại thuật hình nhân linh động cùng sự trộn lẫn giữa các phương pháp dân gian.

Chính là dùng một khúc gỗ khắc thành một hình người nho nhỏ, hoặc là dùng giấy da vải vụn vẽ thành một con người nho nhỏ, lấy dây tơ mảnh vòng xung quanh là có thể điều khiển, cũng có thể treo trước cửa như môn thần.

Hy vọng nó có thể giống như tiểu tiên đồng kia, hiển linh trong tối tăm, che chở chủ nhân, bảo vệ nhà cửa bình yên.

Người vùng nọ lấy một cái tên cho món đồ này, gọi là "Mộc đồng tử".

Nhiều năm sau, có một người mang dáng vẻ công tử cao quý đi ngang qua vùng Tây Nam nhìn thấy cách làm "Mộc đồng tử", liếc mắt một cái đã có thể nhìn thấu.

Về sau lại được hắn thay đổi tỉ mỉ vài lần, một loại kỳ môn dị pháp gọi là "Con rối" ra đời.

Nhưng đó cũng là những chuyện về sau.

.
 
Ba Trăm Năm Không Gặp Thượng Tiên
Chương 136: 136: Phiên Ngoại - Đệ Tử 4


Không đến nửa tháng sau khi họ xuất quan, trấn Thường Bình ở Miện Châu có một cặp song sinh vừa cất tiếng khóc chào đời.

Đó là một hộ rất tốt.

Sẽ vì một tiếng khóc của đứa trẻ mới sinh mà vây quanh, vui mừng đến mức nói năng lộn xộn, chân tay luống cuống.

Sẽ mang theo lễ vật nhỏ, sẽ chạy xung quanh, cảm tạ người thân và láng giềng.

Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên tránh khách khứa đến chúc mừng, vòng đến sau nhà an tĩnh vắng người.

Họ thả một lá bùa bình an, lại đặt một ấn ký bảo hộ.

Ô Hành Tuyết đặt trên cửa sổ một bao kẹp hạt thông tiểu tiên đồng từng thích ăn cùng với một đôi khóa hộ tâm, sau đó ngoắt ngón tay rũ bên người của Tiêu Phục Huyên, khẽ nói: "Đi thôi.

"
––––––
Hai người dừng chân ở một vùng phía Đông cách trấn Thường Bình không xa.

Đó là vùng giao giới giữa Miện Châu và Mộng Đô.

Giống như mỗi lần trước đây, họ đặt một tòa trạch viện ở nơi đó.

Trong sân có mái hiên bốn góc treo chuông nhỏ, có ngọa tháp dựa vào khung cửa sổ to rộng, còn có nền đá trắng, hoa nở đỏ thắm khắp cây như ráng chiều.

Đây là một trong những tòa trạch viện Ô Hành Tuyết và Tiêu Phục Huyên ở lại lâu nhất.

Họ ở lại nơi này hơn mười năm, sau đó thu nhận một đôi đệ tử thiếu niên.

Đôi đệ tử này, một người trời sinh tính tình nóng nảy, từng cái giơ tay nhấc chân đều lộ ra một tia ngang tàng.

Người còn lại tuấn tú chín chắn hơn, ngày ngày luôn suy nghĩ cũng luôn suy ngẫm.

Họ là một đôi huynh đệ.

Thật ra từ mấy trăm năm trước đây, họ cũng đã là huynh đệ.

Một người gọi là Ninh Hoài Sam, một người là Phương Trữ.

–––––––
Người đời thường nói, thiên hạ chưa từng có bữa tiệc nào không tàn, cố nhân cuối cùng cũng sẽ rời đi.

Nhưng chỉ cần nhớ rõ diện mạo, rời xa rồi sẽ tụ họp.

Tựa như nhật nguyệt soi sáng luôn lặn về hướng Tây, nhưng cuối cùng vẫn sẽ mọc trở lại.

.
 
Back
Top Bottom