Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full [Việt Nam] Lĩnh Nam Chích Quái (1960) - 嶺南摭怪

Chương 31 : Truyện Mỵ Ê Trinh Liệt Phu Nhân


Phu nhân vốn người nước Chiêm Thành, không có họ, tên là Mỵ Ê, vợ Vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu.

Thời vua Lý Thái Tông, Sạ Đẩu thất lễ phiên thần vua thân hành nam chinh, Sạ Đẩu đem binh dàn ở sông Bố Chính mà chờ; sau rồi bị Vương giết, phu nhân Mỵ Ê bị bắt; đến sông Hoàng giang, phu nhân nghe Trung sứ phụng mệnh đòi đến hầu thuyền ngự; phu nhân phẫn uất vô cùng, lấy tấm chiên trắng tự quấn mình rồi nhảy xuống sông mà chết; mỗi khi sương sớm đêm trăng thường có những tiếng khóc ai oán, người trong nước nghe thấy mới lập đền miếu mà phụng tự.

Sau khi vua đi chơi sông Lý Nhân, ngồi trong thuyền rồng, thấy đền miếu ở bên sông, lấy làm lạ mới hỏi tả hữu, Tả hữu thưa rằng:

- Đó là đền Mỵ Ê phu nhân.

Vua cảm động bảo rằng:

- Quả có trinh liệt, thế nào cùng báo trẫm.

Đêm ấy đến canh ba, vua mộng thấy một người bận y phục Chiêm Thành, lạy hai lạy mà khóc rằng:

- Thiếp có nghe đạo người đàn bà là một mực theo chồng sống cùng giường, thác càng huyệt, thủ tiết không ô nhục, huống chi Sạ Đẩu tuy không thể tranh tiên cùng Bệ hạ nhưng khí khái nam nhi cũng đã đắc ý một phương, thiếp vẫn đội sủng huệ; Sạ Đẩu vì lỗi đạo, Thượng đế giáng trách, mượn tay Bệ hạ để đến bây giờ quốc phá thân vong, lòng thiếp ngày đêm không quên việc đồ báo; một buổi sáng, may nhờ Bệ hạ sai Trung sứ đưa thiếp xuống tuyền đài, thiếp rất cảm ơn chứ nào có thuật gì mà xưng là linh, nói thêm nhàm tai Bệ hạ.

Nói đoạn bỗng bay lên không mà đi.

Vua kinh hãi tỉnh dậy, sai Thị thần đem rượu, giết sinh vật đến tế, phong làm Thân Chính Phu Nhân.

Qua đến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, nhà Trần gia phong là Tá Lý Phu Nhân, đến năm Trùng Hưng thứ tư, gia phong hai chữ Trinh liệt, đến năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Trực Mãnh để biểu dương cái tiết đoan trinh của phu nhân.
 
Chương 32 : Truyện Hồng Thánh Đại Hồng Vương


Xét Sử ký thì Vương họ Phạm, tên là Cự Lượng, xưa thời vua Lý Thái Tông, phủ Đô hộ có nhiều nghi ngục, quan Sỹ sư không hay minh quyết, nghĩ nên lập đền miếu ở ngục, ý muốn nhờ sự hiển hách của thần linh và để răn đe kẻ gian trá, mới tắm gội đốt hương xin cáo với Thượng đế.

Đêm ấy, vua mộng thấy một Sứ giả áo đỏ, nói là Thượng đế có khẩn sắc cho Cự Lượng làm Minh Chủ ngục tụng đô phủ. Vua hỏi Thiên sứ rằng:

- Thế thì là người nào, hiện giữ chức gì?

Thiên sứ:

- Vua Lê Đại Hành có người bầy tôi là Phạm thái úy, làm tôi tận trung với vua, đến ngày tạ thế, Thượng đế khám xét công lao, bổ làm Nam Đài Trung Ty Lục, lấy chức cũ sai xét đoán nghi ngục của dân gian.

Nói đoạn không biết đi đâu.

Vua tỉnh dậy, vời hỏi tả hữu, quan Tể chấp nói:

- Ấy là một người hiền lành, là cháu quan Châu mục Vũ An là Phạm Chiêm, con quan Tham chính Phạm Man, em quan Đô úy Phạm Dật. Phạm Chiêm giúp vua Ngô Vương có công khai quốc gia phong Đồng Giáp tướng quân. Phạm Man giúp Nam Tấn vương thăng chức Tham chính. Phạm Dật giúp vua Đinh Tiên Hoàng. Phạm Cự Lượng giúp vua Lê Đại Hành có công, quan thăng Thái úy đều là bậc danh dự cả.

Vua cho là phải, phong làm Hồng Thánh Đại Vương.

Vua lại mộng thấy thần nhân bận đồ quan phục cổ miễn, rảo đến trước sân lạy tạ, giống như thị thần còn sống. Vua lấy làm lạ, sai soạn văn khắc bia đá, để chép sự linh dị của thần.
 
Chương 33 : Truyện Minh Ứng An Sở Thần Từ


Xét Đỗ Thiện thấy chép Vương họ Lý tên là Phục Man, người làng Cổ Sở.

Lý Thái Tổ ngự chơi đến bến đò làng Cổ Sở, trông thấy tú khí của núi sông, cảm hứng tràn ngập, mới rót rượu đổ xuống sông mà nói:

- Trẫm nghe chỗ này sơn kỳ thủy tú, nếu có nhân kiệt, địa linh, thần kỳ, xin thụ minh hưởng của ta.

Rồi thì đến đêm mộng thấy một dị nhân cao lớn đẹp đẽ cúi đầu xưng tạ rằng:

- Thần là người bản hương, họ Lý tên Phục Man, giúp vua Lý Nam Đế làm Tả tướng, nhờ sự trung liệt được danh, trao cho một dãy sông nước Đỗ Động giữa dân cư. Đến ngày chết, Thiên đế khen là người trung trực, lại gia phong giữ chức như cũ. Thần thường nhiều lần lãnh quỷ binh đánh phá nghịch tặc nhiều năm ở đây. Nay gặp Bệ hạ đoái thương cho thần giữ chức hôm mai ở đây.

Rồi lại than rằng.

Thiên hạ gặp mờ tối,

Trung thần giấu tính danh.

Giữa trời nhật nguyệt sáng.

Ai chẳng thấy rõ hình.

Nói đoạn bỗng biến bay đi mất

Vua Thái Tổ giật mình tỉnh dậy, đem chuyện mộng nói với một người; quan Đại phu Vương Nhậm Chí nói:

- Đó là ý thần muốn lập đền miếu, trùng tu hình tượng.

Vua sai quần thần xin keo, quả được, mới khiến thợ thiết lập đền miếu chạm trổ hình tượng giống như đã thấy trong mộng, gia phong làm Phúc thần một phương.

Đến khoảng năm Nguyên Phong nhà Trần, mọi Thát Đát vào cướp, ngựa què không tiến được, khua vào trong thôn; thôn nhân ỷ uy lực của thần, đem dân chúng ra cự, phá được quân giặc; Thát Đát không dám dòm dỏ nữa.

Đầu nhà Trần, đời Trùng Hưng nguyên niên, giặc Bắc lại vào cướp, đến chỗ nào đều đốt phá nhà cửa, kịp đến đi ngang qua Từ Sở, như có phòng hộ, may lông mùa thu không dám xâm phạm.

Giặc đã yên, vua gia phong mỹ hiệu bốn chữ: Diên An Minh Ứng, đến nay càng hiển hách thần linh vậy.
 
Chương 34 : Truyện Đại Than Đỗ Lỗ Thạch Thần


Xét Đỗ Lỗ bản truyện thì Vương họ Cao tên Lỗ là một người tài giỏi của An Dương Vương. Tục danh Đỗ Lỗ Thạch Thần cũng gốc bởi tên thần là linh của Thạch Long vậy.

Sau khi bình định Nam Chiếu xong, Cao Biền đi tuần hành ở châu Vũ Ninh, đến một chỗ địa đầu, mộng thấy một dị nhân mình cao chín thước, tướng mạo kỳ khôi, búi tóc dùi trống, giắt trâm bằng dao, áo cụt đỏ, nịt đỏ, đến yết kiến Cao Vương; Cao Vương hỏi:

- Ngươi tên là gì?

Thưa:

- Thần tên là Cao Lỗ, ngày xưa giúp An Dương Vương làm Tướng quân, thường có công lớn đuổi giặc, bị Lạc hầu dèm pha nên bỏ đi. Sau khi đã mất thì Thượng đế thương là trung trực nên cho giữ một dải giang sơn, chức Quan Lãnh Đô Tướng Quân; việc bình Nam Chiếu, việc thảo trừ giặc cướp, việc gieo mạ gặt lúa đều am tường cả, làm Phúc thần một phương. Nay theo Minh Công tước bình nghịch tặc, bờ cõi lặng lẽ, thần phải trở về bản bộ, nếu không cáo tạ thờ phi lễ.

Cao Vương lấy làm lạ, hỏi:

- Lạc hầu việc gì lại ghét?

Thưa rằng:

- Việc u âm không thể tiết lậu.

Cao Vương lại hỏi thì đáp rằng:

- An Dương Vương là tinh Kim Kê, Lạc hầu là tinh Bạch Viên, mỗ là tinh Thạch Long. Gà với vượn hợp nhau, còn rồng thời tương khắc là vì vậy.

Nói đoạn, biến mất.

Cao Vương nói với liêu thuộc, tự ngâm thơ rằng:

Đẹp lắm đất Giao này, Vững vàng muôn thuở đây. Cổ hiền lại tương kiến. Trọn chẳng phụ linh đài.

Lại ngâm thơ rằng:

Bách Việt yên bờ cõi. Một vùng định núi sông. Thần linh đều thuận giúp. Phúc họ Đường chẳng cùng.

Lại ngâm thơ rằng:

Sông núi nước Nam đẹp. Long thần ở đất linh. Châu dân khỏi nhăn trán; Nay lại được an bình.

Trải qua mấy triều gia phong mỹ hiệu, đến nay hương hỏa còn rực rỡ vậy.
 
Chương 35 : Truyện Xung Thiên Chiêu Ứng Thần Vương


Xét Cổ Pháp ký và bia Kỷ Đức thì Vương gốc là vị Thổ thần chùa Kiến Sơ. Ngày xưa làng Phù Đổng lập đền Thổ địa thần ở bên hữu của chùa để làm nơi tụng niệm, đến sau tăng đồ vắng vẻ, năm tháng chầy lâu, người làng lấy chỗ thần từ theo tập tục mà cầu đảo. Kịp đến khi Đa Bảo thuyền sư trùng tu chùa quán, thầy Trụ trì Truyền Đăng cho là dâm từ ý muốn dời đi.

Một hôm thần đề bài thơ ở một gốc cây trong đền rằng:

Phật pháp hay gìn giữ. Là nhờ Trú Kỳ Viên. Nếu không bọn ta đó; Đã dời chỗ khác liền. Chẳng chép Kim Cương bộ; Giấu kín Ná-la-diên.

Vài ngày sau lại thấy tám câu Kệ đề rằng:

Phép Phật từ bi lớn. Sáng trùm cõi tam thiên. Vạn thần đều biến hóa; Tâm giới thảy quanh bênh. Thầy ta làm chính lệnh. Tà quỷ dám tranh tiên. Nghe theo lời thầy dạy. Lớn nhỏ học Kỳ Viên.

Pháp sư hiểu biết mới thiết đàn để cho thần thụ giới, cúng đều dùng đồ chay cả.

Xưa kia vua Lý Thái Tổ đang buổi tiềm long biết nhà sư Đa Bảo là người cao hạnh, thường cùng theo ông đi chơi, sau khi thụ thiền thì vua thân hành đến chùa. Khi ấy nhà sư tước ngự giá đi ngang bên đền có lên tiếng hỏi thần rằng:

- Phật tử đã có thể bỏ trần tục, lại có thể khánh hạ tân Thiên tử không?

Thần lập tức trả lời, tự đề bốn câu rằng:

Đế đức càn khôn lớn. Uy linh động tám miền; Uy minh nhờ ân trạch, Nhuần thấm khắp Xung thiên.

Vua nghe đọc bài thơ, biết tình ý của thần mới cho hiệu là Xung Thiên Thần Vương, hốt nhiên bài thơ biến mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ chạm trổ tượng thần, dung mạo trác vỹ và các thị tùng, làm lễ khai quan khánh tán xong, hốt nhiên thần lại hiện ở cột chùa bốn câu kệ rằng:

Một bát nước công đức. Theo duyên hóa thế gian. Quang minh lại soi sáng. Bóng lặn nhật lên non.

Sư đem bài kệ trình vua Lý Thái Tổ, Thái Tổ không hiểu ý làm sao; sau đến đời Lý Huệ Tông mất ngôi là đời thứ tám, tức là bát công đức, húy chữ 旵 [1] tức là bóng mặt trời lên núi mất nước. Kệ của thần cũng đáng tin thay!

Trải mấy đời, gia phong mỹ tự, phụng sự hương hỏa để biểu dương sự phù hựu của thần.

__

1. 旵 là chữ Sảm, tên của Lý Huệ Tông khi chưa lên ngôi. Chữ Sảm gồm có chữ nhật nghĩa là mặt trời, trên chữ sơn nghĩa là núi. Chữ này không thấy trong Từ Hải.
 
Chương 36 : Truyện Khai Thiên Trấn Quốc Đằng Châu Phúc Thần


(Đây là một vị trong mười hai Sứ quân. Miếu ở huyện Kim Động, xã Đằng Châu).

Xét sử Đỗ Thiện thì thấy chép rằng Thần vốn là vị Thần Thổ địa ở cổ miếu Đằng Châu. Xưa cuối đời Lê Ngọc Triều, Lý Thái Tổ chưa lên ngôi, còn giữ thân vệ binh, thực ấp ở Đằng Châu, có khi đi chơi xem đến bản hương, thuyền đi giữa sông bỗng gặp gió to mưa lớn, vương ngoảnh lại hỏi:

- Trên bờ sông là đền thờ thần gì thế, có linh ứng không?

Thưa rằng:

- Đó là đền thờ thần Thổ Địa của Đằng Châu, dân thường đến cầu mưa đảo nắng, cho là linh ứng.

Vua Thái Tổ lớn tiếng bảo rằng:

- Nếu làm lui được một trận gió mưa, khiến nửa bên tạnh ráo mới là linh ứng.

Trong khoảng chốc lát, quả một nửa sông mưa, một nửa sông tạnh; vua cho làm lạ bèn khiển sửa sang từ vũ mà phụng sự. Thôn nhân có bài thơ rằng:

Tốt bấy Đại vương danh vọng trọng. Đằng Châu Thổ địa hiển thần linh. Khiến cho mưa lớn không xâm phạm. Một nửa sông mưa, nửa vắng tanh.

Vua nghe bài thơ, thầm có ý tự phụ. Kịp đến thời của Ngoại Triều hôn bạo, vua toan mưu đại sự nên đến đền thần xin cáo mộng. Đêm ấy, vua mộng thấy thần nhân cáo rằng:

Muốn thắng tất thắng. Muốn thành là thành. Muôn nước hưởng thăng bình. Ba năm nên hoan lạc. Bảy miếu tự an ninh.

Rồi vua tỉnh dậy, chưa hiểu ý (...) quẻ,

què bói cho là điềm lành.

Sau Vua Thái Tổ lên ngôi, thăng (...) làm Thái Bình Phủ, đặt thần làm Khai Thiên Thành Hoàng Đại Vương.

Đời Trùng Quang nguyên niên gia phong mỹ hiệu bốn chữ: Khai Thiên Trấn Quốc. Đền thần ở trong đê sông thường bị nước lụt tràn vào; người trong thôn ở gần bờ sông có khi trông thấy xe ngựa, cờ lọng và thị tùng như là đến để phòng hộ nước lụt; bởi vậy đê tuy bằng phẳng thấp bé mà nước lụt không vào làm hại được, đó là nhờ ở sức hộ trì của thần.

Trải qua lâu năm sông lở gần đến đền thần; đến niên hiệu Tống Nguyên, năm Bính Tuất, về tiết mùa đông, lại đắp nền lập miếu trên đê lớn, gian giữa sắp xong. Một hôm, huyện lại và thợ thuyền ngủ ở nhà tranh ngoài chân đê thì nghe tiếng người đến mượn cuốc xẻng, tiếng cuốc bới vọng lại như thợ thuyền đang công tác. Đến sáng họ qua xem thì thấy cái trụ bằng đá đã đem dời vào bên tả ngạn hơn ba thước; như thế linh dị càng rõ hơn vậy.

Kịp đến ngày rước thần vào đình, quan Tri phủ Khoái Châu tên là Hoàng Nam Kim có đề bài thơ ở miếu rằng:

Bờ bãi đất chia rành chói chói. Khai thiên huyền tạo ngóng vơi vơi. Đền thành muốn biết chân linh tích. Đêm ấy công thần khéo chuyển dời.
 
Chương 37 : Truyện Bạch Hạc Thần Từ


Xét Giao Châu ký của Triệu Công thì thấy chép rằng: Thần này vốn hiệu là Thổ Lệnh Trưởng: Trong khoảng niên hiệu Vĩnh Huy Cao Tông nhà Đường, Lý Thường Minh sang làm Đô đốc Phong Châu.

Thường Minh mới đến nhậm chức, thấy đất rộng nghìn dặm, núi sông bao bọc, mới dựng quán Linh Quán tại làng Bạch Hạc, thờ tượng Tam Pháp cho xứng với phong cảnh kỳ vỹ; lại biệt lập trước sau hai cái nhà ngang, nghĩ muốn đắp tượng thần Hộ Quán nhưng chưa biết thần nào linh bèn đốt hương cầu rằng

- Thần kỳ ở đây, nếu có linh hiển thì kíp hiện hình trạng để tiện đắp tượng.

Đêm mộng thấy hai dị nhân, diện mạo ôn nhã, có đồ đệ theo hầu, rầm rộ kéo đến nhà ngang trước sân.

Thường Minh hỏi rằng:

- Các ông tên họ là gì?

Một người xưng là Thổ Lệnh, một người xưng là Thạch Khanh. Xin thử so sánh võ nghệ, ai hơn thời ở trước. Thạch Khanh vâng lời, nhảy một cái qua bên kia bờ sông đã thấy Thổ Lệnh đứng đó rồi. Khi ấy Thổ Lệnh được ở trước. Thần tượng uy linh người trong châu kinh sợ, phụng sự hương hỏa, làm vị Phúc Thần ở Tam Giang vậy.

Triều nhà Trần, Hàn Lâm Học Sĩ Nguyễn Cố hộ giá vua đi đánh Ai Lao, đến đền bái yết, có đề bài thơ rằng:

Rùa, rồng, phù, ấn buộc lưng ngang. Việc ấy mong cầu phụ tướng quan. Hèn yếu thư sinh không chỗ cậy, Đến xin từ quán được bình an.

Lại có Học Sĩ Vương Đức Thành hộ giá nam chinh, đến lúc khải hoàn, vua bảo làm bài thơ tán thần rằng:

Tỳ hưu mười vạn rõ Vương linh. Thế ép Vân Nam ải ngoại thành. Giang tả con con nào đủ mộ. Gió reo tiếng hạc khiếp Tần binh.
 
Chương 38 : Truyện Thần Châu Long Vương


Đời truyền: Thần vương là tinh của Viêm Long Vương. Xưa đời Hồng Lạc có người làng Hãn Kiều, họ Đặng, một người tên là Quyết, một người tên là Thiện Xạ, anh em xuống biển làm nghề bắt cá. Lúc bấy giờ họ gặp một vật lạ, hình trạng giống như gỗ, dài vừa ba thước, màu như màu trứng chim, theo con nước mà nổi lên; hai người vớt được; đêm bỗng nghe trong đốt gỗ có tiếng như hai người nói chuyện; anh em cả kinh đem quăng gỗ ra sông, chống thuyền đi nơi khác mà ngủ thì mộng thấy một người đến bảo hai anh em rằng:

- Bởi vì trước đây bà Đông Hải Long Phi tư thông với Viêm Long Vương, sợ Đông Hải Vương biết nên đem gởi cho bọn ngươi gìn giữ, chớ cho kẻ khác xâm phạm đến; nó khôn lớn lên sẽ làm phúc cho các ngươi không việc gì mà sợ.

Hai người giật mình tỉnh dậy cùng nói với nhau hốt nhiên đã thấy đốt gỗ đen sán lại bên thuyền; hai người lấy làm lạ, vớt lên chở về. Về đến làng Bố Bái, đốt gỗ ở trong thuyền bỗng nhảy lên trên bờ. Hai anh em cho là thần muốn ở chỗ này mới lập đền thờ, thuê thợ khắc gỗ làm tượng mà phụng sự; thần linh ứng, hiệu là Long Quân.

Tiên triều sai người tìm ngọc châu ở cửa biển thì tìm được rất ít, duy chỉ có con cháu nhà họ Đặng là tìm được rất nhiều. Sai quan hỏi tại sao, con cháu họ Đặng đem sự thực trình cáo. Sai quan vâng triều mệnh sắp lễ đến tế, do đó tìm được rất nhiều ngọc châu. Vua bao phong cho hiệu là Thần Châu Long Vương, trải qua mấy đời đều gia phong mỹ hiệu rất có linh ứng, nhưng sau có kẻ gian hoài oán, trừ yểm, cũng có hại cho lương dân, thật đáng tiếc.
 
Chương 39 : Truyện ni sư Đức Hạnh


Thanh Lương ni sư người họ Phạm, con nhà thế tộc Giao Chỉ, xuất gia làm Ni ở Thanh Lương, không kể đồ mặc chỉ biết khổ hạnh, cốt lấy cần khẩn giải ngộ làm thông sướng; sư thường tập phép xước ngại, diện mạo giống như La Hán, tăng đồ xa gần đều kinh sợ coi là một vị Ni Sư ở đời; nhà của Sư thì cho tăng đồ làm chùa Hồng Vũ. Có Trần Tứ, tên là Huệ Thông Đại Sĩ ở núi Vọng Đông, một hôm bảo đồ đệ rằng:

- Ta muốn đem thân này thí cho hổ lang.

Một đêm đạo sĩ ngồi vào phiến đá nhỏ và tuyệt thực ba ngày; hổ lang đến ngồi quanh không dám đến gần. Tăng đồ khẩn xin đạo sĩ trở về am, mở cửa nhập định. Khi gần mất, Huệ Thông tập họp tăng đồ để thuyết pháp, nhân đó đóng cửa ngồi yên mà hóa, thọ hơn tám mươi tuổi. Trà Tỳ có cốt Phật Xá Lỵ rất nhiều, vì vậy có quan dựng tháp ở bản tự.

Trước kia Huệ Thông thường dặn đệ tử rằng:

- Sau khi ta chết, nên lấy xương ta cho thế gian rửa bệnh.

Đến lúc thu cốt, đệ tử không nỡ lấy chỉ bỏ vào hòm đậy lại; cách đêm bỗng thấy cái xương lớn để ở trên ghế ngoài hòm; chúng lấy làm lạ, cho là linh nghiệm.

Sau người nào có bệnh đến cầu đảo, đệ tử mài vào nước đem cho rửa, lập tức lành ngay; lời thề nguyền sâu xa đến như thế.
 
Chương 40 : Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy


Thời vua Lý Huệ Tông, có Phạm Tử Hư, người làng Nghĩa Lư, huyện Cẩm Giang, nhà nghèo túng, dời đến ở Hoa Phong; người thiếu niên sống cô độc, nhưng lại lạc đạo và hiếu học; theo thầy là Công Trạng, tên chữ là Công Trực, chàng thường như lời giáo huấn, học tập ý kiến thầy mà làm văn chương. Đến khi Công Trực mất, đứa con tuổi còn ấu thơ chưa có thể phụng sự, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

- Thầy nghèo con dại, mẹ có thể để cho con bao nhiêu ruộng?

Bà mẹ nói:

- Có thể cho con sáu sào.

Từ Hư khóc:

- Xin mẹ trích ra hai sào bán cho người trong thôn lấy tiền để giúp thầy.

Bà mẹ cũng khóc nghe theo, bán hai sào ruộng được ba mươi quan tiền. Tử Hư mua sắm các vật để trợ tế cho thầy. Lại làm nhà ở bên mộ thầy, ngày đêm hương hỏa, phụng sự trong ba năm, xong việc mới trở về. Đến khoa Giáp Tý thì ứng thí, đậu tam trường; khoa Đinh Mão lại ứng thí đậu tứ trường. Năm ấy tháng Mười một, trên đường từ nhà đến Kinh, Tử Hư đi đến chùa Châư Võ; gặp ngày trời nắng to, Tử Hư vào nghỉ ở chùa, bỗng thấy Công Ttực ngồi ở trong. Tử Hư kinh sợ vừa lạy vừa khóc rằng:

- Thầy về âm ty đã bảy tám năm nay, không hiểu vì sao lại thấy ở đây?

Thầy bảo:

- Tử Hư có nghĩa với ta nên ta hiển hiện lên đây để bảo cho biết.

Tử Hư cúi đầu khóc rống:

- Ngày thầy về, nhà con nghèo túng không lấy gì làm lễ, ngày nay gặp thầy cũng tại tay không mà thôi, lấy gì làm nghĩa?

Thầy đáp:

- Sinh thời, ta ở trên dương thế có công bình chính trực nên Thượng đế cho làm Phán quan, kiêm trị việc cống cử.

Tử Hư thưa:

- Thầy có biết phận mệnh của con ra sao không?

- Nay thì ta chưa biết, con cứ về đi, đến ngày hai mươi tháng Chạp sang năm lại đến chùa này, ta sẽ bảo cho.

Tử Hư bái lạy về nhà. Đêm ngày, chàng suy nghĩ và tin vào lời nói của Thầy. Đến ngày, Tử Hư thưa với mẹ rằng:

- Mẹ ở nhà, con đi qua Kinh sư theo quan Kinh có việc.

Rồi đem theo rượu thịt đến chùa, đã thấy thầy và các đệ tử ở đó rồi. Tử Hư cúi đầu lạy, dọn rượu thịt dâng lên thầy; thầy trò cùng nhau ăn uống.

Thầy bảo Tử Hư cởi áo mũ đi giao lại cho đệ tử, rồi lấy áo mũ của đệ tử mặc cho, xong thầy lấy tay phất vài ba cái; Tử Hư nhắm mắt lại theo thầy đi lên trời. Đến chỗ làm việc của Nam Tào Bắc Đẩu, Tử Hư ngồi hai bên tả hữu, thầy cũng ngồi phía dưới cùng luận xét những người đức hạnh văn chương trong thiên hạ để yết tên lên bảng.

Có người tiến cử Trần Thái ở Quế Dương, ưu bác về văn học. Nam Tào nói:

- Trần Thái có văn học nhưng không có đức hạnh.

Có người tiến cử người làng Tây Mục là người có văn học Nam Tào nói:

- Người Tây Mục lấy văn học kiêu ngạo với người, vả lại người vợ bất tiếu, không được.

Đến người làng An Lạc tên là Phạm Công Bình giỏi văn học, vả lại tổ tông, cha mẹ đều tốt, vợ lại hiền, đáng đậu nhất đó là Trạng nguyên. Nguyễn Viết Chất người Phụng Sơn, văn học sắc sảo đức hạnh cũng hoàn toàn, đáng đậu nhì, đó là Bảng nhãn. Vương văn Hiệu người làng Thượng Hiền, văn học đầy đủ, đáng đậu thứ ba, đó là Thám Hoa, kịp đến Dương Chánh người làng Thượng Phúc, văn học tuy kém nhưng mẹ và vợ đều hiền lành, nhà nghèo nhưng mộ đạo, đáng đậu thứ tư, ấy là Hoàng Giáp. Trước sau được bốn mươi người biên tên vào bảng. Phán quan mới tiến cử người Hoa Phong Phạm Tử Hư, văn học khả thủ, Nam Tào nói:

- Tử Hư lấy văn học lên mặt với người khác.

Phán quan thưa:

- Tủ Hư còn trẻ tuổi, tuy có kiêu ngạo với người nhưng chưa từng hại người.

Ông quan áo tía nói:

- Tử Hư mồ côi từ nhỏ, mẹ có tiết hạnh, vả lại có nghĩa với Phán quan, cũng nên dung thứ cho nó đậu chót.

Lập tức niêm tên họ Tử Hư ở sau bốn mươi người, treo bảng ở cửa nhà trời.

Quan ngồi bên hữu là Bắc Đầu nói:

- Tử Hư văn học khá, nếu để đậu chót, e có trái thứ tự.

Quan áo tía nói:

- Ta lấy chữ "Bạch" thêm vào thì nó bị truất xuống chót, có trái gì đâu.

Năm sau là năm Mậu Thìn tháng Ba thi hội, Tử Hư vào đệ nhất trường, vì thiếu trị kinh, khảo quan thấy sai mới treo cảo ở dưới công đường, rồi lại đưa bài vào chấm, quả trúng cao đệ. Đến trường đệ tứ, Tử Hư văn thể thuần hậu, điển nhã cẩn mật đáng được đậu cao, chỉ vì hai chữ "bạch" nên không được lấy đậu. Kể được lấy đậu chỉ có bốn mươi người. Khảo quan tâu với vua để treo bảng. Vua bảo rằng:

- Mỗi khoa lấy năm mươi người làm hạn, khoa này lấy ít quá không được.

Lại khiến Khảo quan xét tên nào văn thể thuần hậu thì lấy thêm, không câu nệ chữ bạch; Khảo quan lấy thêm một quyển, quả là Tử Hư, dán thêm tên ở dưới bốn mươi người, mới hay ý trời rất nghiệm, vinh tiến đã định sẵn không thể dối vậy.

Sau này Tử Hư làm nên quan to, đến chức Tán Trị Dực Vân Công Thần Đặc Tiến Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, đai ngọc mão vàng, tham lùng Lại Bộ thượng thư.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom