Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full [Việt Nam] Lĩnh Nam Chích Quái (1960) - 嶺南摭怪

Chương 11 : Truyện Lý Ông Trọng


Cuối đời Hùng Vương, ở huyện Từ Liêm, quận Giao Chỉ, có một người họ Lý tên là Thân, sinh ra to lớn, cao hai trượng ba thước; hung tợn, Thân giết người, tội đáng tử hình, nhưng Hùng Vương tiếc không nỡ giết.

Đến đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn đem binh sang đánh nước ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân cống hiến; Thủy Hoàng được Lý Thân rất mừng, dùng làm quan Ty Lệ hiệu úy, Kịp lúc Thủy Hoàng nhất thống thiên hạ, Thân được sai đem binh ra giữ Lâm Thao, Hung nô không dám gần biên tái nên Thân được phong tước Vạn Tín Hầu, và được cho trở về nước. Sau Hung nô xâm phạm bờ cõi, Thủy Hoàng nhớ đến Lý Thân sai sứ sang vời; Thân không chịu đi mới trốn vào rừng khe; vua Tần trách hỏi; An Dương Vương tìm lâu không được, nói dối là Thân đã chết rồi, Vua Tần hỏi chết vì cớ gì. An Dương trả lời là đau bệnh tả. Thủy Hoàng sai Sứ sang nghiệm xem có phải không thì An Dương cho nấu cháo đổ xuống ao để làm thực tích. Thủy Hoàng bảo lấy thây đưa qua; Lý Thân bất đắc dĩ phải tự tận mà chết; người ta lấy thủy ngân ướp vào thây Lý Thân đưa sang nạp. Thủy Hoàng than tiếc, bảo đúc đồng làm tượng ông, ban hiệu là Lý Ông Trọng; tượng đặt ở cửa Tư Mã đất Hàm Dương, ruột tượng có thể chứa được vài mươi người; mỗi khi có Sứ bốn phương đến, vua sai người lén vào làm cho tượng dao động; Hung nô tưởng là Hiệu úy còn sống, không dám đến gần. Đến đời nhà Đường, Triệu Xương sang làm Đô Hộ Giao Châu, đêm mộng thấy cùng với Lý Thân giảng sách Xuân Thu của họ Tả, nhân đó hỏi nhà cũ ở đâu rồi lập đền thờ phụng.

Kịp lúc Cao Biền bình Nam Chiếu, Lý Thân thường hiển linh ứng; Cao Biền trùng tu miếu vũ, khắc gỗ làm tượng, gọi là đền thờ Lý hiệu úy, bây giờ ở tại huyện Từ Liêm, xã Thị Hiện (nay là xã Thụy Hương) cách phía tây Kinh thành năm mươi dặm, mỗi năm đến tế vậy.
 
Chương 12 : Truyện Việt Tỉnh


Việt Tỉnh ở núi Trâu Sơn, quận Vũ Ninh; đời Hùng Vương thứ ba, Ân Vương cử binh Nam xâm, đóng quân ở núi Trâu Sơn; Hùng Vương cầu Long quân giúp, Long quân bao tìm khắp thiên hạ, nếu được người kỳ tài thì dẹp được giặc; đến kỳ cầu được Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt đi đánh, tướng sĩ nhà Ân đều tan vỡ. Ân Vương chết ở dưới núi, làm Địa Phủ Quân; dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế nhưng lâu năm suy dần bỏ thành chùa hoang.

Người bản quốc tên là Thôi Lạng làm quan nhà Tần đến chức Ngự Sử Đại Phu thường đi ngang qua đấy, thương cảnh điêu tàn mới trùng tu miếu vũ lại, nhân đó có đề một bài thơ:

Cổ nhân truyền tụng chuyện Ân Vương. Tuần thú năm kia đến địa phương. Núi rậm, nước trôi không thấy miếu; Hồn thăng, dấu để vẫn nghe hương, Một mai thắng bại không Ân đức, Muôn thuở uy linh trấn Việt Thường. Trăm họ từ đây đều phụng tự. Âm phù vận nước vững vô cương.

Sau đến đời Nhâm Ngao, Triệu Đà Nam xâm lại đóng quân ở núi này, lại trùng tu miếu mạo, cúng tế hậu hĩnh; Ân vương cảm đức, muốn đền công cho Thôi Lạng mới sai Ma Cô Tiên đi tìm khắp nơi. Lúc bấy giờ Thôi Lạng đã chết, chỉ còn con là Thôi Vỹ.

Tiết Thượng nguyên tháng Giêng, phương dân đi lễ đền, có người cúng một cặp bình pha lê. Ma Cô cầm lên tay ngắm nghía, bỗng bình rơi xuống đất, vỡ sứt một mảnh; người ta bắt Ma Cô lại đòi bồi thường; Ma Cô mặc áo rách, không ai biết là người tiên; họ mới lấy roi đánh. Thôi Vỹ thấy thế thương hại, cổi áo đền hộ nàng; Ma Cô được khỏi đánh, nhân đó hỏi đến chỗ ở của Thôi Vỹ; Thôi Vỹ nói đến tên cha thì nàng mới hay là con Thôi Lạng. Nàng mừng bảo rằng:

- Ta bây giờ không có lấy gì để đền ơn, sau này chàng sẽ được hậu báo.

Bèn đưa cho Thôi Vỹ một tấm lá ngài và dặn rằng:

- Hãy giữ lấy vật này cho cẩn thận, lúc nào cũng để trong mình, gặp bệnh nhục ảnh [1] mà đem cứu tất khỏi, rồi thế nào cũng được giàu sang phú quý.

Thôi Vỹ cầm lấy lá ngải nhưng cũng chẳng biết đó là thuốc tiên.

Một hôm đi đến nhà Đạo sĩ Ứng Huyền, thấy Huyền có một cái nhọt trên đầu, Vỹ nói:

- Tôi có lá ngải trị được bệnh này, để tôi trừ cho.

Thôi Vỹ lấy ngải cứu cho Ứng Huyền, cái nhọt của Ứng Huyền liền tiêu tan. Ứng Huyền nói:

- Ấy là thứ thuốc tiên vậy, tôi không có gì đền đáp cho anh, tôi có một người thân thích cũng đau bệnh này, thường nói rằng ai chữa cho bệnh lành được thì dầu hết gia tài cũng chẳng hề tiếc, tôi đem anh qua đó để chữa cho họ và để đền ơn anh.

Ứng Huyền đem Thôi Vỹ sang nhà Nhâm Ngao; Thôi Vỹ lấy ngải ra cứu, cái nhọt lập tức lành ngay. Nhâm Ngao rất mừng, nuôi Vỹ làm con, mở trường để dạy Vỹ; tính Vỹ thông minh, ưa thích đàn cầm, thấy con gái Nhâm Ngao là Phương Dung mới đem lòng yêu dấu, nhân cùng nàng tư thông, tình ý quyến luyến; con Ngao là Nhâm Phu biết được, muốn làm cho Vỹ chết.

Đến cuối năm, có lễ tế thần Xương Cuồng, người ta chưa tìm được người tế nên Nhâm Phu bảo Vỹ:

- Ngày nay không nên đi ra ngoài, hãy vào Công sảnh mà tránh đi thì sau này khỏi hối.

Thôi Vỹ chưa hiểu ý là làm sao, Nhâm Phu đã khóa chặt cửa lại, bảo không được ra. Phương Dung biết ý, lén lấy con dao đưa cho Vỹ, bảo đục vách mà ra.

Đêm khuya, Thôi Vỹ trốn đi, muốn đến nhà Ứng Huyền, lật đật đi trên núi, rủi rơi vào trong một cái hang, tứ phía đều là vách đá không có chỗ nào trèo lên được, ở trên có một khối đá rỏ sữa đá chảy xuống một chiếc mâm đá, có một con rắn trắng dài trăm thước, mỏ vàng miệng đỏ, vây bạc, dưới cầm có một cái bướu thịt, trên trán có ba chữ vàng: “Vương tử xà”, bò ra ăn thạch nhũ; thấy trên thạch bàn hết cả, rắn cất đầu lên thấy Vỹ toan muốn nuốt đi; Thôi Vỹ sợ quá, quỳ xuống lạy rằng:

- Thần tỵ nạn, lầm rơi xuống đầy, đói bụng nên có ăn trộm vương vật, thực là có tội, dưới cầm vương có một cái nhọt, thần xin lấy ngải cứu lành, xin tha tội để thần trổ nghề mọn này.

Bạch xà lập tức ngang đầu lên cho Vỹ cứu, bỗng thấy đồng nội bị cháy, một tia lửa bay vào trong hang, Vỹ lấy lửa cứu cho rắn, cái nhọt liền tiêu ngay. Rắn mới khom mình đến trước Vỹ, ý muốn bảo Vỹ cỡi lên, Vỹ cỡi lên lưng rắn, rắn bò ra hang, ước một canh thì đến trên bờ, bờ vắng vẻ không có người nào đi lại; rắn quấn đuôi lại trở về hang.

Vỹ đi một mình, lạc đường, bỗng thấy trên cửa thành có một cái lầu cao, ngói đỏ lóng lánh, đèn sáng rực rỡ, trước cửa có treo một tấm biển đỏ chữ vàng đề là “Ân Vương Thành”. Vỹ ngồi bên cửa thành, hồi lâu không thấy có người nào qua lại mới bước vào cửa sân, thấy bên sân có một cái ao, trong ao có hoa sen năm sắc, trên bờ có nhiều rặng hòe liễu; đường lát bằng phẳng, ngọc điện châu cung, tòa ngang dãy dọc; trên điện đặt hai cái giường vàng trải chiếu hoa bạc, trên tường có treo một cây đàn cầm đàn sắt. Vỹ thong thả bước đến lấy cây đàn gảy một hồi lâu.

Kim đồng, ngọc nữ vài trăm người hầu bà Ân Vương Hậu mở cửa đi ra. Vỹ sợ quá, chạy xuống sân điện sụp lạy. Bà An Hậu cười bảo rằng:

- Thôi quan nhân ở đâu lại?

Sai người mời lên trên điện, bảo rằng:

- Đền thờ của Ân Vương ta lâu đời bỏ hoang phế, nhờ sức của Tiền thần Ngự sử trùng tu lại, người đời mới bắt chước thờ cúng luôn luôn. Vương đã sai Ma Cô đi tìm để báo đức nhưng không gặp được Ngự sử, chỉ gặp Công tử nên chưa có dịp đền đáp, nay thân được thấy mặt thì Thượng đế đòi Vương lên chầu trời rồi, thôi Công tử ở lại đây đợi vậy.

Rồi lưu Thôi Vỹ ở lại ăn uống no say.

Bỗng thấy một người râu dài bụng lớn, cầm một lờ biểu quỳ mà tâu rằng:

- Tháng Giêng ngày mồng ba, Nhâm Ngao bị thần Xương Cuồng đánh chết.

Nghe tâu xong, Hậu bảo rằng:

- Dương Quan Hậu đưa Thôi Vỹ về trần.

Vỹ cáo tạ mà về. Dương Quan bảo Vỹ nhắm mắt ngồi lên trên một chiếc quạt, hơn một khắc đã đến trên núi; Dương Quan Nhân hóa làm dê đá, đứng ở trên núi, ngày nay hãy còn sau đền thờ Triệu Việt Vương ở núi Trâu Sơn.

Sau Vỹ về đến nhà Ứng Huyền thuật chuyện cho Ứng Huyền nghe. Đến ngày mồng một tháng Tám, Vỹ cùng với Huyền đi chơi thì gặp Ma Cô Tiên dắt một người con gái đem cho Vỹ, bảo đem về làm vợ chồng, lại cho hòn ngọc Long Toại, nói đó là ngọc châu, từ thuở trời đất mới khai tịch đã có một cặp trống mái từ đời Hoàng Đế trải đến đời Ân truyền làm thế bảo; trong trận đánh Trâu Sơn, Ân vương đeo nó mà chết, ngọc châu giấu trong đất mà tia sáng chiếu thẳng lên trời. Thời nhà Tần, binh hỏa liên miên, những vật trân bảo đều bị đốt cháy; các nhà vọng khí đều biết hòn ngọc Long Toại còn ở phương Nam. Người Tàu đem vàng bạc gấm vóc trị giá trăm vạn để tìm mua; Vỹ nhân đấy đại phú.

Sau Ma Cô Tiên rước vợ chồng Thôi Vỹ đi không biết là đi đâu. Nay giếng bỏ hoang thành bẩn thỉu, hang thì còn ở núi Trâu Sơn. Người đời gọi là Việt Tỉnh Cương vậy.

__

1. Thịt thừa.
 
Chương 13 : Truyện Kim Quy


An Dương Vương nước Âu Lạc là người ở Ba Thục, họ Thục, tên Phán, nhân việc tiên tổ cầu hôn với con gái của Hùng Vương tên là Mỵ Nương không được nên sinh ra hàm oán; Phán muốn hoàn thành ý chí của tổ tiên nên cử binh đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải hiệu là Âu Lạc mà ở, đắp thành ở đất Việt Thường; thành đắp xong lại sập Vương mới lập đàn, trai giới cầu đảo ba tháng.

Ngày mồng bảy tháng Ba bỗng thấy một ông già theo phương tây mà đến thẳng cửa thành, vừa đi vừa than rằng:

- Xây đắp thành này thì bao giờ cho xong!

Vương rước vào trên điện, lạy và khóc rằng:

- Ta đắp thành này đã xong lại đổ, hao tốn công sức mà rồi không thành là tại làm sao?

Ông già thưa:

- Ngày nào có Sứ giả Thanh Giang cùng đắp với Vương thì thành ấy mới xong.

Nói đoạn cáo từ.

Rạng ngày, Vương đứng ở cửa Đông trông ra thì thấy một con rùa vàng theo hướng Đông mà bơi lại; rùa đứng trên mặt nước, nói được tiếng người, tự xưng là Thanh Giang sứ giả, biết rõ lẽ trời đất, âm dương, quỷ thần.

Vương mừng hỏi rằng:

- Điều đó ông già đã báo cho ta rồi.

Bèn sai lấy kim dư rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì cớ gì mà thành không đắp được. Kim Qui nói:

- Ở đây có tinh khí núi sông, con Tiên vương phụ vào để báo thù nước, lại có con gà trắng sống ngàn năm hóa làm yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu, trên núi có con quỷ, nguyên trước có một nhạc công chôn cất ở đấy hóa ra quỷ. Ở bên có một cái quán để cho hành khách qua lại ngủ nhờ; chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng là dư khí của quỷ thần. Hễ có người khách nào qua lại đến đấy ngủ nhờ thì quỷ tinh hóa ra thiên hình vạn trạng mà giết hại rất nhiều. Bây giờ nên bắt con gà trắng và đứa con gái của chủ quán mà giết đi thì tinh quái sẽ hết. Nhưng chắc là nó lại hóa ra yêu thư, sai chim Si Hưu [1] ngậm thư bay lên trên cây chiên đàn, tâu với Thượng đế để xin phá thành ấy đi. Thần này xin cắn cho rơi cái thư ấy xuống, Vương lập tức thu lấy tất nhiên thành đắp mới xong.

Kim Qui bảo Vương giả làm khách đi đường xin ngủ nhờ trong quán. Vương để Kim Qui ở trên ngưỡng cửa.

Ngộ Không nói:

- Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người, Lang Quân không nên ở lại, vả nay trời cũng chưa tối, nên đi mau đến chỗ khác để tránh họa.

Vương cười rằng:

- Sinh tử tại mệnh, quỷ mỵ mà làm gì, ta không sợ.

Mới ngủ lại đó.

Trong đêm có quỷ tinh đến ngoài kêu rằng:

- Ai ở trong nhà này phải mở cửa ra mau.

Kim Qui mắng rằng:

- Cửa đóng thì mày làm gì nào?

Quỷ tinh phóng hỏa tan ra vạn trạng, quỷ dị đủ phương để khủng bố nhưng rốt cuộc cũng chẳng vào được nhà.

Đến lúc gà gáy, các quỷ đều chạy tan. Kim Qui khiến Vương đuổi theo đến núi Thất Diệu, quỷ tinh thu về hết cả, Vương trở lại quán trọ.

Sáng ngày, chủ quán đem người đồng đến để chôn thi thể của khách ngủ lại hôm qua, thấy Vương ngồi đó, nói cười như không có gì cả. Quán chủ bước đến, vái lạy nói rằng:

- Lang quân được như thế tức là Thánh nhân rồi, xin ban linh thuật để cứu sinh linh.

Vương bảo:

- Hãy giết con gà trắng của mày mà tế thì quỷ thần tan hết.

Ngộ Không giết con gà trắng thì đứa con gái tự nhiên cũng nhào xuống chết. Vương lập tức bảo người đào núi Thất Diệu, được một nhạc khí đời cổ và một hài cốt, sai đốt trộn thành tro mà quăng ra sông.

Lúc bấy giờ trời đã gần chiều, Vương cùng Kim Qui leo lên núi Việt Thường, quỷ tinh đã hóa ra chim si hưu ngậm thư bay lên cây chiên đàn.

Kim Qui bèn hóa ra một con chuột mà bò theo sau lưng cắn chân chim; thư rơi xuống đất; Vương lập tức thu lấy thì sâu đã ăn hết hơn một nửa rồi.

Từ đó, quỷ tinh tan hết, không lại phá phách như xưa nữa.

An Dương Vương đắp thành nửa tháng đã xong; thành dài và rộng nghìn trượng, xoáy tròn như hình con ốc, lại đặt tên là thành Thăng Long [2]. Người nhà Đường gọi là thành Sát Quỷ Côn Lôn bởi vì thành rất cao lớn.

Kim Qui ở lại với Vương ba năm rồi từ về; Vương bảo rằng:

- Nhờ ơn của người, thành đã vững chắc, nếu như có việc ngoài thì lấy gì mà chống giữ?

Kim Qui thưa:

- Quốc tộ tu đoản, xã tắc an nguy là vận của trời, nhưng người biết tu đức thì có thể lâu dài được, Vương đã có lòng ước nguyện thì tôi đâu dám tiếc.

Mới cởi cái móng chân đưa cho Vương và nói:

- Thảng hoặc giặc có đến thì dùng móng này làm máy nỏ, đem ra mà đánh giặc thì không có gì đáng lo.

Nói đoạn trở về Đông Hải.

Vương khiến bầy tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy móng làm máy, hiệu là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ; sau Triệu Đà đem quân đến xâm lăng, cùng Vương giao chiến; Vương dùng thần nỏ mà bắn, quân Triệu Đà thua chạy, đóng đồn ở núi Trâu Sơn, đối lũy với Vương. Triệu Đà biết Vương có nỏ thần nên không dám tái chiến mới khiển sứ thỉnh hòa. Vương mừng, cắt từ sông Tiền giang trở về phương Bắc cho Triệu Đà cai trị, trở về phương Nam thì do Vương cai trị (nay là sông Nguyệt Đức) [3].

Chưa được bao lâu, Đà sai con vào túc vệ cầu hôn con gái Vương là Mỵ Châu; Vương bất ý không ngờ gian kế của cha con Triệu Đà; Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu trộm lấy nỏ thần cho xem, rồi lén làm nỏ khác đổi lấy vuốt rùa giấu đi, nói dối với Mỵ Châu là trở về thăm cha mẹ. Nhân đó nói rằng:

- Tình phu phụ thì không nỡ quên, mà ơn phụ tử cũng không nên bỏ, ta nay về thăm cha mẹ mà vạn nhất hai nước thất hòa, Nam Bắc cách biệt, ta trở lại tìm nàng thì nàng lấy vật gì mà làm dấu cho ta biết.

Mỵ Châu nói:

- Thiếp là nhi nữ gặp phải bước phân ly thực khó thắng được tình cảm; thiếp có chiếc nệm [4] gấm lông ngỗng thường mang trên người, đến lúc ấy thì thiếp lấy lông ngỗng mà rải ở các ngã ba để chỉ cho chàng biết chỗ thiếp đi mà đến cứu.

Trọng Thủy từ tạ, cắp nỏ mà về báo cáo với Triệu Đà; Đà được nỏ rất mừng liền phát binh đánh Vương; Vương không lo phòng bị, mãi đánh cờ vây, cười rằng:

- Đà không sợ nỏ thần của ta sao?

Đến lúc quân Triệu Đà tiến bức, Vương mới xách nỏ ra bắn thì thần cơ đã mất; quân chạy tán loạn.

Vương chở Mỵ Châu lên ngựa chạy về hướng Nam, đến bờ biển, cùng đường, không có thuyền để sang ngang, Vương hét lớn lên rằng:

- Trời để mất ta hay sao? Giang sứ đâu mau đến cứu ta.

Kim Qui nổi lên trên mặt nước, mắng rằng:

- Người cỡi ngựa ở sau lưng là giặc đó, hãy giết nó ta mới cứu.

Vương bèn tuốt gươm chém Mỵ Châu.

Mỵ Châu ngửa mặt lên trời mà cầu xin:

- Thiếp là con gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại đến phụ thân thời chết hóa thành bụi trần, bằng như một niềm trung tín, bị người phỉnh phờ thời hóa làm ngọc châu để rửa cái thù nhục nhã này.

Mỵ Châu chết ở bờ biển, máu chảy trên nước, hàu hến ăn vào lòng hóa thành minh châu.

Vương cầm sừng vân tê bảy tấc, Kim Qui rẽ nước dẫn Vương vào biển, đời truyền tại núi Mộ Dạ, làng Cao Xá, châu Diễn tức là chỗ đó vậy.

Quân Triệu Đà đến chỗ ấy không thấy gì hết, chỉ thấy tử thi của Mỵ Châu; Trọng Thủy ôm thây nàng mà về chôn ở Loa Thành, hóa làm giếng ngọc; Trọng Thủy thương cảm vô cùng, thấy lại những chỗ trang điểm hay tắm gội của Mỵ Châu, tưởng nhớ đến hình dung của nàng bèn nhảy xuống giếng mà chết. Sau này, ai được ngọc châu ở Đông Hải, càng múc nước giếng ấy mà rửa thì sắc ngọc càng thêm rực rỡ. Nhân tránh tên Mỵ Châu nên gọi ngọc châu là Đại Cưu, Tiểu Cưu vậy.

__

1.Chim cú. 2.Chắc sai: bản của Deepierres ghi là Tư Long. 3.Theo bản của Despierres thì là sông Thiên Đức (xem Cổ Loa, Capitale du royaume Âu Lạc). 4.Dịch chữ nhục 溽. Có người dịch là áo choàng e không đúng. Nhưng thực ra nệm gấm mà thường mang trên người thì cũng là một thứ áo choàng.
 
Chương 14 : Truyện Man nương


Thời Hiến Đế nhà Hán, quan Thái thú tên là Sĩ Nhiếp đắp thành ở phía Nam sông Bình giang (nay là thành phía Nam sông Thiên Đức). Ở phương Nam có một ngôi chùa gọi là chùa Phúc Nham, có một nhà sư từ phương Tây đến, hiệu là Già La Đồ Lê, trụ trì ở chùa ấy, hay làm phép đứng một chân; trai gái, già trẻ tín mộ, kính phụng tôn hiệu làm Tôn sư, ai nấy đều cầu học đạo Phật.

Lúc bấy giờ có một người con gái tên là Man nương, cha mẹ đều đã mất, nhà nghèo khổ nhưng cũng dốc lòng cầu đạo, chỉ vì nói ngọng, khó tụng kinh chung với mọi người nên thường ở sau bếp giã gạo nhặt rau, lo việc nấu thổi đổ cung dưỡng các sư trong chùa và học giả bốn phương đến học đạo.

Khoảng trời tháng năm, đêm lại ngắn ngủi, Man nương vội vã lo thổi nấu cho xong. Nàng nấu đã xong xuôi, nhưng các sư còn tụng kinh chưa nghỉ để ăn cháo; Man nương ngồi chờ, ngủ gật ở ngạch cửa không ngờ quên lửng nằm ngủ say. Đến khi tăng đồ tụng niệm xong, ai về phòng nấy thì Man nương còn nằm ở cửa; nhà sư Đồ Lê bước ngang trên mình nàng, Man nương hỗn nhiên tâm động, từ đó thụ thai. Trong khoảng được ba bốn tháng, Man nương lấy làm xấu hổ bỏ đi, nhà sư Đồ Lê cũng tránh đi đến chùa ngã ba đầu sông mà ở.

Mãn nguyệt, Man nương sinh được một đứa con gái và tìm nhà sư để giao lại. Đêm khuya, nhà sư Đồ Lê đến dưới cây đa ở ngã ba đầu sông mà đặt đứa con gái và nói:

- Ta gửi Phật tử này cho mày, mày giữ lấy, sau được thành Phật đạo.

Sư Đồ Lê và Man nương từ biệt nhau mà đi, Đồ Lê cho nằng một chiếc gậy và bảo rằng:

- Ta cho em cái gậy này đem về, hễ gặp năm nào trời đại hạn thì lấy gậy vẩy vẩy dưới đất tự nhiên có nước chảy ra để cứu người ta.

Man nương cầm gậy trở về, lại ở chùa như trước; gặp năm trời hạn, nàng lấy gậy vẩy trên đất, tự nhiên có nước suối chảy ra ào ào, dân chúng được nhờ vả rất nhiều.

Khi Man nương đã hơn tám mươi tuổi thì bất đồ cây đa bị lật đổ trôi đến trước bến chùa, quanh quẩn ở đó không trôi đi; người ở đó đua nhau bửa củi thì búa rìu đều bị gãy mẻ hết; làng xóm rủ nhau ba trăm người đến kéo cũng không chuyển động. Gặp khi Man nương xuống bến rửa tay, nàng khẽ lấy tay kéo thử, cây lập tức chuyển động trôi vào, ai nấy kinh dị, vội bảo Man nương kéo thẳng lên bờ, khiến thợ mộc trổ làm bốn pho tượng Phật; kịp lúc đẽo đến giữa cây, chỗ giấu người con gái thì chỗ ấy đã hóa thành một phiến đá rất cứng; người thợ đẽo đúng vào chỗ đó thì rìu búa mẻ hết, mới lấy phiến đá ném xuống giữa sông; phiến đá phóng xuất hỏa quang, giờ lâu mới chìm xuống nước; các người thợ đều chết hết. Mọi người đều xin nhờ Man nương van vái mướn người kẻ chài lặn xuống nước vớt lên, rước vào điện Phật, lấy vàng tô lên mà phụng thờ.

Sư Đồ Lê mới đặt tên cho bốn pho tượng Phật là: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, và Pháp Điện. Già trẻ trai gái bốn phương thường nhóm họp ở chùa này chơi đùa ca múa, gọi là hội tắm Phật, đến nay đang còn vậy.
 
Chương 15 : Truyện núi Tản Viên


Núi Tản Viên ở phía tây Kinh thành nước Nam Việt, núi đứng cao thẳng như hình một cái lọng nên đặt tên như vậy.

Xưa kia vua Lạc Long cưới nàng Âu Cơ, sinh được một bọc trăm trứng, Long quân đem năm mươi trai về biển, năm mươi trai theo mẹ về núi, phân trị thiên hạ, hiệu là Hùng Vương; Tản Viên Sơn Đại Vương là một người con trong số năm mươi trai chia về đó. Vương tử hải quốc do cửa biển Thần Phù mà về, tìm một nơi cao ráo thanh u, dân tục thuần hậu mà ở, mới chèo thuyền từ sông Cái đến làng Long Đậu thành Long Biên, toan muốn lưu lại đó nhưng còn có ý gì bất mãn, nên sau lại chèo thuyền từ sông Linh giang đi lên đến làng Phiên Tân ở bờ sông Phúc Lộc; Vương trông thấy núi Tản Viên tú lệ, ba hòn sắp hàng đứng, nghiễm nhiên như vẽ; dân ở dưới núi, tục chuộng tố phác. Vương khi ấy mở một con đường thẳng như dây đàn từ làng Phiên Tân mà đến bên núi Tản Viên, đi đến Uyên động, lại đi đến Nham tuyền là chỗ nguồn khác, rồi lại đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở; hoặc có khi chơi sông Chiết Giang để xem cá, phàm kinh qua đường thôn đều xây đền vũ để làm nơi nghỉ ngơi. Nhân những vết chân ấy, người đời sau lập đền thờ phụng, hạn thì đảo, lụt thì cầu, ngự hỏa tai, ngăn đại hạn mau hơn tiếng vang, cực kỳ linh ứng. Lại gặp ngày trời trong sáng như có hình trạng cái tàn phấp phới trên hang núi, những dân ở làng phụ cận đều bảo là sơn thần xuất hiện.

Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm linh tích các nơi danh thắng mới mổ bụng mười bảy người, tất cả đều là con gái chưa chồng, bỏ ruột đi, lấy cỏ chỉ độn vào ruột, cho mặc áo xiêm để ngồi trên ghế ỷ, dùng trâu bò mà tế, nhòm lúc nào thấy cử động thời lấy gươm chém đi. Các vị thần phàm ngu đều dùng thuật ấy. Cao Biền thường lấy thuật ấy trêu thần núi Tản Viên thì thấy Vương cỡi ngựa trắng đứng trên mây, khạc nhổ mà đi. Cao Biền than rằng:

- Linh khí Nam phương chưa thể trắc lượng được, vượng khí đâu khá diệt được, uy linh hiển ứng là như thế.

Tục truyền Vương và Thủy Tinh cùng cưới con gái Hùng Vương là Mỵ Nương: Vương đủ lễ cưới đem đến trước; Hùng Vương gả cho; Vương rước vợ về ở trên núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau mới hàm oán, đem cả loài thủy tộc đánh Vương để đoạt Mỵ Nương lại. Vương bèn dùng lưới sắt chắn ngang sông Từ Liêm để trấn át. Thủy Tinh khơi riêng một con sông nhỏ từ sông Lý Nhân ra sông Hát vào sông Đà để đánh sau lưng núi Tản viên. Lại mở thêm một lối nhỏ từ Tích giang đi đến trước núi Tản Viên, trải qua các làng Cam Giá, Đông Lâu, Thạch Kê, Ma Xá, Dục Giang, xói lở thành vũng sâu để thông loài thủy tộc, thường lại nổi cơn gió mưa mù mịt, dâng nước lên để đánh Vương. Nhân dân ở núi đều chẻ tre đan làm rào thưa để che đỡ, đánh trống, giã gạo, reo hò để cứu, mỗi khi thấy rác rêu trôi ở ngoài rào thưa thì bắn trúng chết hết hiện thành hình trạng giao long, cá trạch trôi đầy sông ngòi. Quần chúng thủy tộc bị thua trở về, lòng vẫn chưa nguôi nên thường đến khoảng tháng Tám, tháng Chín có nhiều trận lụt, mùa màng bị hại, dân ở dưới núi chịu thiệt hơn đâu hết, đến nay vẫn còn.

Người đời đều bảo Thủy Tinh, Sơn Tinh đều cưới vợ vậy đó.
 
Chương 16 : Truyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt


Năm Thiên Phúc của Lê Đại Hành hoàng đế tức là năm Tân Tỵ, vua Thái Tông nhà Tống sai tướng quân Hầu Nhân Bửu, Tôn Hoàng Hưng đem binh Nam xâm; họ đến sông Đại Than thì vua Đại Hành cùng với tướng quân Phạm Cự Lượng dàn quân ở Đồ Lỗ để chống cự, đối lũy cùng giữ.

Vua Đại Hành mộng thấy hai vị thần đến lạy ở trên sông và thưa rằng:

- Anh em thần tên là Trương Hống và Trương Hát nguyên trước thờ vua Triệu Việt Vương, thường theo vua đánh dẹp nghịch tặc lấy được thiên hạ. Sau vua Lý Nam Đế cướp ngôi, nghe tiếng anh em thần mới bảo người đến vời, bọn thần vì nghĩa không thể đến nên cùng nhau uống thuốc độc tự tử. Thượng đế thương người có công, khen là trung nghĩa nhất tiết, cho làm chức Quỷ Bộ Tướng quân thống lĩnh quỷ binh. Bây giờ thấy binh Tống vào cõi mà làm khổ cho sinh linh nước kia nên anh em thần đến đây ra mắt với Hoàng đế, nguyện giúp ngài đánh giặc để cứu sinh linh.

Vua Đại Hành giật mình tỉnh dậy, bảo thị thần rằng:

- Ấy là thần nhân giúp ta.

Lập tức đến trước ngự thuyền đốt hương vái rằng:

- Thần lực nếu có thể giúp cho công nghiệp này hoàn thành thì được ban phong huyết thực, vạn đại vô cương.

Bèn giết trâu bò cúng tế và cho áo mão, giấy tiền, voi ngựa đốt đi. Đêm ấy, lại mộng thấy hai vị thần đều mặc áo mão đã ban cho hôm trước đến lạy tạ ơn. Đêm sau lại thấy một vị thần thống lĩnh quỷ bộ áo trắng từ phía nam sông Bình giang đi lại, một vị thần thống lĩnh quỷ bộ áo đỏ do sông Như Nguyệt mà xuống, cả hai dều đến đánh doanh giặc.

Ngày hai mươi mốt tháng Mười, đêm đương canh ba, thiên khí hôn ám, gió to mưa lớn cả dậy; binh Tống kinh sợ thấy thần lờ mờ đứng ở trên không, cao giọng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam Đế cư.

Phân minh định phận tại Thiên thư.

Có sao nghịch lỗ sang xâm phạm.

Bọn chúng chờ xem phải bại hư.

Binh Tống nghe vậy, xô đạp nhau chạy tán loạn, bị bắt sống không xiết kể. Quân nhà Tống đại bại trở về. Vua Đại Hành lui quân, dâng lễ mừng thắng trận, bao phong hai vị thần: Ông anh là Uy Địch Đại Vương, lập đền thờ ở ngã ba sông Long Nhãn, bảo dân Long Nhãn Bình giang phụng tự; Ông em là Khước Địch Đại Vương, lập đền thờ ở sông Như Nguyệt, bảo dân duyên giang [1] phụng tự, đến nay vẫn còn vậy.

__

[1] Ở men sông.
 
Chương 17 : Truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không


Chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích (nay ở núi Sài Sơn, xã Phúc Sài, huyện An Sơn). Đạo Hạnh Thuyền sư họ Từ tên là Lộ; ông thân tên là Vinh, làm chức Tăng quan Đô án triều Lý, thường đến chơi làng An Lãng, sau lấy người con gái họ Tăng. Từ Lộ là con nàng Tăng thị, lúc trẻ ham chơi bời nhưng khẳng khái có chí lớn, thường cùng với một nho giả tên là Phí Sinh, một đạo sinh tên là Lê Toàn Nghĩa, một linh nhân tên là Phạm Ất kết làm bạn thân, đêm thời khắc khổ đọc sách, ngày thời thổi sáo, đá cầu, đánh bạc làm vui; cha thường trách là hoang đãng.

Một buổi chiều kia, ông cụ lẻn vào chỗ Lộ nằm dòm thử xem chàng làm gì thì thấy ngọn đèn cháy tàn, sách vở chất đống, Lộ đang dựa án mà ngủ, tay chưa rời quyển sách, từ đấy, ông cụ không lo nữa; sau Lộ ứng thí tăng đồ, đậu khoa Bạch Liên.

Chưa bao lâu, cụ Vinh dùng tà thuật chống lại Diên Thành Hầu, Hầu nhờ Thuyền Sư Đại Điên dùng phép đuổi đánh chết, quăng thây xuống sông Tô Lịch, thây trôi đến cầu Quyết Kiều chỗ nhà Hầu ở, bỗng đứng dậy không đi nữa; Hầu sợ, chạy cáo với Đại Điên; Điên đến đọc kệ rằng:

- Tăng giận chưa thỏa mãn hay sao?

Thây liền ứng thanh trôi đi.

Từ Lộ lo phục thù cho cha, nghĩ chưa ra kế gì, một hôm lén dòm Điên đi ra liền đón đường mà đánh, bỗng nghe giữa không trung có tiếng bảo đừng. Lộ sợ quăng gậy mà đi, muốn qua nước Phương Độ cầu linh thuật để chống Điên; đường phải đi ngang qua làng mọi răng vàng, hiểm trở nên Lộ bỏ về, mới ẩn lại trong hang núi Phật Tích, thường chuyên trì tụng Đại Từ Tâm Kinh, chú Đà La Ni, hết mười tám vạn tám ngàn lần.

Một hôm thấy một thần nhân đến thưa rằng:

- Đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm công đức trì kinh của Sư nên đến đây hầu hạ xem Sư có sai khiến gì chăng?

Từ Lộ biết rằng đạo của mình đã viên thành, thù cha có thể phục được, mới thân đến đầu cầu Quyết Kiều, thử ném cái gậy cầm trong tay xuống giữa dòng nước chảy thì cái gậy trôi ngược lên như con rùa bơi, đến cầu Tây Dương Kiều mới dừng lại.

Lộ nói:

- Phép của ta đã hơn Điên rồi.

Bèn đi thẳng đến nhà Điên; Điên thấy Lộ bảo rằng:

- Mày không nhớ cái việc ngày trước hay sao?

Lộ ngẩng mặt lên trời, thấy vắng vẻ không có gì mới đuổi Điên mà giết. Điên phát bệnh rồi chết.

Từ đấy thù xưa rửa sạch, tục lự tiêu tan, Lộ mới du lịch tùng lâm, khảo sát ấn chú, nghe sư Kiều Trí Huyền ở chùa Thái Bình, thân đến bái yết và hỏi đạo chân tâm, nhân đó đọc bài kệ:

Lặn lội phong trần vắng tiếng tăm. Chẳng hay đâu tá ấy chân tâm? Nguyền mong chỉ dẫn đường phương tiện; Muôn dặm nay không nhọc sức tầm.

Sư Trí Huyền cũng đáp lại bằng một bài kệ:

Ngọc phiêu bí quyết diễn thành âm, Trong ấy trăng tròn thấy thuyền tâm. Hà sa đấy phải Bồ Đề đạo; Nghĩ đến Bồ Đề cách vạn tầm.

Lộ mù mịt không hiểu làm sao mới bỏ mà đi; đi qua chùa Pháp Vân, hỏi sư Sùng Phạm rằng:

- Thế nào gọi là chân tâm?

Phạm bảo rằng:

- Cái gì cũng có chân tâm hết.

Lộ rõ ràng tỉnh ngộ lại hỏi rằng:

- Thế nào gọi là phép Bảo trụ?

Phạm bảo:

- Đói ăn, khát uống.

Lộ bái tạ mà lui.

Từ đấy pháp lực tăng gia, thuyền duyên thuần thục, rắn núi thú hoang đều hiền lành đến từng bầy, đốt ngón tay để cầu mưa, niệm chú vào nước để trị bệnh, không bao giờ là không hiệu nghiệm. Có một nhà sư hỏi rằng:

- Tại sao khi thì thầy làm, khi thì thầy nghỉ, lúc thì thầy ngồi, lúc thì thầy nằm mà đều là chân tâm cả?

Lộ cho xem một bài kệ:

Có thì cát bụi có. Không thì một tướng không. Có, không, trăng dưới nước. Không sắc ắt không không. [1]

Lại nói rằng:

Nhật, nguyệt lên đồi núi. Người người mất hỏa châu. Giàu, có lừa để cưỡi, Đi bộ chẳng cỡi câu.

Triều Lý, vua Nhân Tông chưa có hoàng tự, gặp năm Tường Phù Đại Khánh thứ ba, tháng ba, phủ Thanh Hoa có dâng sớ tâu rằng:

"Ở mé biển Nhữ Châu có một tiểu đồng linh dị, ba tuổi biết nói, tự xưng là Dị tử, hiệu là Giác Hoàng, Bệ hạ làm việc gì nó cũng biết".

Vua sai Trung sứ qua xem, quả như lời nói, mới rước tiểu đồng về Kinh sư ở chùa Báo Thiên. Giác Hoàng là Đại Điên hóa sinh vậy. Vua Nhân Tông thấy Giác Hoàng thông minh anh dị, rất yêu, muốn lập lên làm Hoàng thái tử; quần thần đều can cho là không nên; lại nói rằng nếu nó linh dị thực thì đáng lẽ nên thác sinh vào nơi cung cấm nhiên hậu mới có thể được. Vua nghe theo mới mở đại hội bảy ngày đêm để làm phép thác thai.

Từ Lộ nói riêng với bà chị rằng:

- Đứa trẻ kia là yêu quái, mê hoặc rất nhiều người, nếu ta ngồi xem không lo cứu vãn để cho nó huyễn hoặc nhân tâm, cổ loạn chính pháp hay sao?

Nhân đó khiến bà chị làm người giả đi xem hội, bí mật cầm vài cái ấn của Lộ đã kết sẵn giắt lên ở trên rèm. Hội đến ngày thứ ba, Giác Hoàng thụ bệnh, bảo với người ta rằng:

- Khắp cả bốn phía vườn, lưới sắt đều giăng kín mít, không có đường nào mà vào thác sinh được.

Vua nghi cho Lộ làm phép giải chú mới bắt đến tra hỏi, quả nhiên như vậy; vua bảo giam Lộ ở lầu Hưng Thánh, hội quần thần để nghị tội. Sùng Hầu đi ngang qua, Lộ van cầu rằng:

- Xin Hầu hết sức cho bần tăng khỏi tội, bần tăng nguyện thác thai trong cung để báo ân Hầu.

Hầu gật đầu.

Kịp đến khi hội nghị, quần thần đều nói rằng:

- Bệ hạ vì không có con nên mới cầu kẻ kia thác sinh mà Lộ dám cả gan làm phép chú giải, thật đáng bị tội đại lục để tạ thiên hạ.

Một mình Sùng Hâu tâu rằng:

- Giác Hoàng nếu có thần thuật, dầu cho Lộ có làm phép chú giải cũng có hại gì đâu, nay trở lại như thế thì Lộ xuất sắc hơn Giác Hoàng rất xa. Ngu thần trộm nghĩ ví bằng bắt tội Lộ, bất nhược tha cho nó để nó thác sinh thì hơn.

Vua tha cho Lộ.

Lộ đi lén đến nhà Sùng Hầu tạ ơn, lập tức đi thẳng đến cho phu nhân Đỗ thị tắm mà dòm vào. Phu nhân giận, cáo với Hầu; Hầu đã biết ý, không quở trách. Lộ dặn rằng:

- Lúc nào phu nhân đến kỳ sinh đẻ phải nói cho tôi biết.

Năm ấy, phu nhân quả có thai, mãn kỳ, sinh rất khó; Hầu nhớ đến lời Lộ dặn ngày trước, sai người đến bảo Lộ; Lộ nghe tin báo bèn tắm rửa, thay đồ mặc, bảo với các tăng rằng:

- Túc nhân của ta chưa hết lại phải ra thác sinh ở thế gian, tạm làm Quốc vương, đến lúc thọ chung lại phải làm vua hai mươi ba năm, nếu thấy chân thân của ta tổn diệt thời là ta vào Niết bàn chứ không phải sinh diệt đâu.

Tăng đồ nghe nói, hết thảy đều cảm động mà khóc. Lộ thuyết kệ rằng:

Thu sang chẳng báo nhạn về đây. Cười bấy nhân gian nước mắt đầy. Nhắn với môn nhân đừng luyến tiếc. Thầy xưa mấy độ, đến thầy nay.

Nói đoạn, vào trong hang núi, cỡi thây mà đi.

Khi ấy phu nhân sinh hạ được một con trai, đặt tên là Dương Hoán, mới ba tuổi đã được Nhân Tông nuôi ở trong cung, lập làm Hoàng thái tử.

Nhân Tông băng hà, Thái tử tức vị, đó là Thần Tông, tức là Từ Lộ hóa sinh vậy.

Người làng lấy làm linh dị, bỏ thây vào trong lồng mà phụng sự; chỗ Lộ thoát hình bây giờ ở tại hang núi Phật Tích, chùa Thiên Phúc, huyện An Sơn.

Xưa kia ở Tràng An có người làng Đại Hoàng Đàm xá tên là Nguyễn Chí Thành ở chùa Quốc Tự, hiệu là Minh Không thuyền sư, lúc trẻ đi du học gặp Đạo Hạnh theo học đạo giáo trải bốn mươi thu; Đạo Hạnh khen là người có chí nên truyền tâm ấn cho, lại đặt tên cho nữa. Kịp đến lúc Đạo Hạnh tạ thế, bảo Minh Không rằng:

- Ngày xưa, đức Thế Tôn ta đạo quả viên thành, còn có báo ân cho Kim Sáng, huống chi pháp thuật của ta chưa tinh, khởi đầu ta hẵng tự bảo vệ. Nay ta thác sinh nhân thế, địa vị nhân chủ, bệnh trái ở lai sinh đã định nên khó tránh, có dịp con nên cứu giúp ta.

Khi Đạo Hạnh thác hóa rồi, Minh Không trở về chùa cũ ở mười năm không cầu có tiếng tăm gì. Lúc bấy giờ, Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ, tiếng rên la như cọp rống rất sợ. Lương y trong thiên hạ ứng chiếu mà đến kể có hàng nghìn người đều chịu bó tay không làm gì được.

Hồi ấy có bọn tiểu đồng hát rằng:

Muốn lành bệnh Thiên tử, Phải được Nguyễn Minh Không.

Triều đình sai sứ đi tìm, quả tìm được Minh Không. Minh Không đã đến, các thầy thuốc danh tiếng đều ở trên điện làm phép, thấy Minh Không phác ngu, miệt thị không gia lễ. Minh Không thân cầm một chiếc đinh lớn dài năm tấc đóng vào cột điện, nói lớn lên rằng:

- Ai nhổ được chiếc đinh này ra mới chữa được bệnh.

Nói thế hai ba lần, không một ai trả lời. Minh Không lại lấy hai ngón tay trái mà nhổ đinh, đinh theo ngón tay ra ngay, mọi người đều kính phục.

Đến lúc Minh Không vào thăm bệnh cho vua, thấy vua thì lập tức la lên một cách dữ tợn:

- Đại trượng phu quý là làm Thiên tử, giàu có bốn phương sao lại sinh ra lồng lộn lên như thế?

Vua sợ quá run lên.

Minh Không bảo lấy một cái chảo lớn, đổ nước đun sôi lên, nước đã sôi một trăm lần, Minh Không lấy tay khuấy nước vài cái rồi rảy vào mình vua, bệnh lập tức khỏi ngay. Vua phong cho Minh Không làm chức Quốc sư, cho ăn lộc vài trăm nóc nhà để thưởng công cho ông.

Niên hiệu Đại Định năm thứ hai là năm Tân Sửu, Minh Không tạ thế, thọ bảy mươi sáu tuổi.

Sau đây là một truyện khác về Minh Không.

Làng Giao Thủy có chùa Không Lộ, xưa có một nhà sư tên là Trị Bình Gian, xuất gia trụ trì ở chùa ấy, được tiếng khen là người có đức hạnh. Một hôm, Minh Không từ ngoài đi vào, có một nhà sư cùng phòng (tức là Đạo Hạnh) ẩn ở trong cửa, nhảy ra làm như tiếng hổ để dọa Minh Không, Minh Không cười bảo:

- Ngươi đã tu hành còn muốn làm hổ à? Ta sẽ cứu ngươi.

Sau vài năm nhà sư mất, hóa làm Quốc vương, chưa bao lâu bỗng hóa ra có lông rồi nhảy nhót, gầm thét, mặt như hình mặt hổ; triều đình đi cầu khắp các y vu tăng đạo, chẳng một ai chữa được, nghe Minh Không có pháp thuật mới sai người đem thuyền đến rước Minh Không. Minh KKông lấy một chiếc nồi nhỏ nấu cơm cho bọn thủy thủ ăn. Sứ giả cười rằng:

- Thủy thủ đông như thế, e không đủ.

Minh Không nói:

- Không, để họ ăn mỗi người một ít, xem chút hậu tình của ta.

Tất cả thủy thủ bốn năm mươi người ăn mãi không hết, mọi người đều lấy làm lạ.

Đến lúc trời chiều, xuống thuyền, Minh Không lại bảo thủy thủ cùng Sứ giả rằng:

- Các ngươi hãy ngủ đi, sáng ngày mặt trời mọc, bần tăng thức dậy hãy chèo thuyền, nếu không thế thì ta không đi đâu.

Sử giả khẩn cầu không được, phải nằm xuống giả đò ngủ thì nghe dưới thuyền có tiếng gió thổi vèo vèo, qua một thời gian thì mặt trời mọc, Minh Không kêu dậy thì thấy thuyền đã đậu ở bến Kinh đô rồi. Minh Không bay lên trời vào cung, nấu nước sôi tắm cho vua, tắm vào mình thì lông rụng hết, thân thể bình phục như xưa, Vương hỏi cớ làm sao. Minh Không thưa:

- Người tu hành nếu có niệm mê thì chỉ sám hối mà thôi không khó gì cả.

Vương lại hỏi:

- Làm sao mà sư được thần thông như thế?

Minh Không thưa:

- Đó không phải là thuật, thần sẵn có phong tật, phát ra không thấy, quả tượng không hay, cái gì là không thì cứ để mặc mà đi chứ không phải thần thông vậy.

Minh Không lại trở về tay không, vua ban thưởng gì cũng không lấy. Vua mới cho hiệu là Thần tăng để thưởng công.

__

1.Bản dịch của Phan Kế Bính (trong Nam Hải Dị Nhân liệt truyện, trang 126). Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không? Thử xem bóng nguyệt dòng sông, Ai hay không có có không là gì?
 
Chương 18 : Truyện Nam Chiếu


Nước Nam Chiếu là hậu duệ của Triệu Võ Đế Đà. Xưa thời Hán Vũ Đế, quan Thừa tướng nước Triệu là Lữ Gia không phục nhà Hán, giết sứ nhà Hán là An Quốc và Vương Lý; Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem binh sang đánh, bắt Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia rồi chiếm luôn cả nước, chia đặt Thú Lệnh.

Họ Triệu mất rồi, con cháu tản mát ra ở khắp bốn phương, hội lại ở Thần Phù, Hoàng Sơ là những nơi hoang nhàn không có người ở, đóng thuyền qua biển, giết quan Thú Lệnh nhà Hán mà xưng làm Nam Việt, lại ngoa truyền là Nam Chiếu. Kịp đến đời Tam quốc, vua Ngô Tôn Quyền sai bọn Đái Lương, Lữ Đại qua làm Thú mục để cai trị.

Nam Chiếu từ mấy chỗ Thiên Cầm sơn, Hà Hoa, Cao Hoàng, Hoành Sơn, Ô thị, Hải Ngạn, Đại Bộ, Trường Sa, Chú Đổ, Cáp Lội Lôi, núi cao biển sâu, sóng gió hiểm trở, tuyệt nhiên không có dấu người, dân chúng Nam Chiếu chiếm cứ mà ở, dần dần càng đông mới đem của cải châu ngọc thông giao với nước Tây Bà Dạ mà cầu làm thân thuộc để cứu trợ nhau.

Cuối đời nhà Tấn, thiên hạ đại loạn, có kẻ Thổ tù tên là Triệu Ông Lý cũng là dòng dõi Triệu Vũ, anh em rất đông, dũng lực hơn người, dân chúng đều kính phục, cũng theo về với Nam Chiếu đông hơn hai vạn người, lại đem bảo ngọc cầu thông với nước Bà Dạ, xin chỗ đất trống ở mé biển mà ở. Bấy giờ, nước Bà Dạ sai lấy đều một nửa từ bờ biển đến tận đầu nguồn chia làm hai lộ, trên tự Quý Châu đến Diễn Châu làm lộ Nhứ Hoàn, dưới từ Cầm Châu đến Hoan Châu làm lộ Lâm An chia cho Nam Chiếu do Ông Lý thống trị.

Khi Ông Lý đắp thành ở Cao Xá châu Diễn Châu, Đông giáp biển, Tây đến Bà Dạ quốc, Nam đến Hoành Sơn tự lập lên làm vua thì nhà Đông Tấn sai Tướng quân Tào Khả đem binh sang đánh. Ông Lý ở chỗ yếu hiểm đầu nguồn, mai phục tượng binh đón đánh, lại xuất quân ra ngoài núi Liên Mạt để tránh, giặc tụ thời tan, giặc tan thời tụ, sớm ra tối vào, qua lại bốn năm năm chưa từng giao chiến. Quân Tấn không hợp lam chướng, tử vong quá nửa, đến lúc kéo quân trở về, Nam Chiếu lại xâm lăng các nơi đô thành Tràng An, quan Thú Lệnh không chế ngự được; đến đời Đường lại càng thịnh vượng.

Vua Ý Tông sai Cao Biền sang đánh; không hơn được, Biền phải trở về. Đến đời Ngũ Đại, Thạch Kính Đường nhà Hậu Tấn sai quan Tư mã Lý Tiêm đem mười vạn quân đánh ở Đồ Sơn; Nam Chiếu rút lui bèn phụ vào với nước Ngô Đầu Mô giáp giới với nước Ai Lao, nay là nước Bồn Man vậy.

Niên hiệu Hàm Thông thứ sáu, vua Ý Tông nhà Đường sai Cao Biền sang làm Đô Hộ đem binh đánh Nam Chiếu, bèn đặt đạo quan Thịnh Hải ở thành An Nam và cho Biền làm Tiết Độ Sứ.

Cao Biền thông hiểu thiên văn địa lý, mới xem địa hình đắp La thành ở phía Tây sông Lô, chu vi ba nghìn bước mà cư trú; có một con sông nhỏ từ Tây bắc chảy qua phương Nam, lại chảy vào sông Cái; mỗi lần trời mưa, nước sông dâng lên rộng lớn. Biền cỡi thuyền đi chơi bỗng thấy một ông già đầu tóc bạc phau, dung mạo kỳ dị đang chơi ở giữa sông cười nói tự nhiên. Biền hỏi ông già tính danh là gì. Ông già thưa:

- Ta họ Tô tên Lịch.

- Nhà ông ở đâu?

- Nhà ở giữa sông này.

Nói đoạn, vỗ tay một cái thì trời đất tối tăm, hốt nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là một vị thần mới đặt tên sông ấy là sông Tô Lịch.

Một buổi trời mới sáng, Biền đứng ở phía đông Nam đô thành, trên bờ sông Lô, trông thấy giữa sông lộng gió, sóng cuộn ầm ầm, mây đen mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mão tía, tay cầm thẻ vàng bay lên lượn xuống trong ánh sáng; mặt trời đã cao ba sào, khí mây chưa tan và hình người vẫn đứng; Biền rất kinh dị muốn yểm đi nhưng chưa quả quyết; đêm ấy, nằm mộng thấy thần nhân bảo:

- Đứng yểm ta, ta là tinh Long Đậu, trưởng của địa linh, nghe ngươi đến đắp thành ở đây chúng ta chưa được gặp nhau nên ta đến ra mắt, nếu có yểm thì ta cũng chẳng lo gì.

Biền kinh động, sáng ngày thiết đàn làm chay, dùng vàng bạc đồng sắt làm phù phép tụng chú ba ngày đêm, rồi chôn phù mà yểm. Đêm ấy sấm sét ầm ầm, gió mưa dữ dội, trong khoảng chốc lát lại thấy các phù vàng bạc, đồng sắt bị tung lên trời đất, hóa thành tro cháy bay đi mất hết.

Cao Biền than rằng:

- Chỗ này có thần linh dị, không nên ở lâu mà mắc phải hung họa, ta nên gấp trở về Bắc.

Sau Ý Tông triệu Biền về, Biền quả bị giết.
 
Chương 19 : Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải


Làng Hải Thanh có chùa Nham Quang; Không Lộ thuyền sư họ Dương là người làng Hải Thanh, nhà vốn sống bằng nghề câu cá, sau bỏ nghề câu đi tu, ở chùa thường niệm kinh Già Trì Đà La Ni Môn. Khoảng năm Chương Thánh Gia Khánh, sư kết làm đạo hữu với Giác Hải, lần đến chùa Hà Trạch nương thân, ăn cỏ mặc cây như quên cả thân thể, ngoài thì tuyệt sự tha cầu, trong thì tu theo phép thuyền định, tâm thần, tai mắt càng ngày càng sáng suốt, có thể bay lên không, vào dưới nước, phục được hổ, giáng được rồng, muôn trạng nghìn kỳ không ai lường biết được. Sau thì tìm về làng cũ, lập chùa mà ở; ngày kia có một nhà sư hỏi rằng:

- Từ khi ta đến đây, chưa nhờ chỉ dẫn tâm yếu cho, dám xin trình một bài kệ:

Rèn luyện tâm thân mới được thanh. Sum sê nhánh thẳng đối hư linh. Có người đến hỏi không không pháp. Thân ở bên hình bóng lộn hình.

Sư hiểu, bao rằng:

- Ngươi đem gốc tích đến, ngươi đem kinh đến, ta vì ngươi tiếp nhận, ta vì ngươi lo lắng, chỗ nào lại không hợp tâm nguyện của ngươi.

Rồi cười lên ha hả.

Sư thường thuyết kệ rằng:

Chọn đất long xà ở thảnh thơi. Trọn ngày tu luyện thú nào vui? Có khi lên thẳng trên đầu núi. Ba tiếng kêu to lạnh cả trời.

Sư tịch vào năm Hội Tường Đại Khánh thứ mười [1] (niên hiệu vua Lý Nhân Tông), ngày mồng ba tháng Sáu năm Kỷ Hợ¡; môn nhân thu liệm hình hài chôn trước cửa chùa, có lời chiếu mở rộng thêm chùa và quyên thuế ba nghìn nóc nhà để phụng hương hỏa.

Giác Hải thuyền sư cũng là người làng Hải Thanh, ở chùa Diên Phúc bản quận, họ Nguyễn, xưa vốn thích nghề câu cá, thường lấy thuyền làm nhà, trôi nổi trên biển; hai mươi lăm tuổ¡ mới bỏ nghề câu, cắt tóc đi tu. Ban đầu cùng với sư Không Lộ ở chùa Hà Trạch, sau tìm về làng Hải Thanh. Thời Ký Nhân Thông, ông thường cùng với Thông Huyền chân nhân được triệu vào cung Liên Hoa, chầu ngồi trên đá mát. Bỗng có hai con cáp giải kêu nhau, rộn tai đáng ghét: vua bảo sư Huyền dùng phép cho nó im đi; sư Huyền mật niệm chú, đầu tiên chỉ có một con thôi không kêu nữa. Vua cười bảo Giác Hải rằng:

- Còn lưu lại một con cho Sa Môn sư đó.

Giác Hải lập tức niệm chú, con kia cũng thôi kêu ngay. Vua lấy làm lạ, làm bài Tán rằng:

Giác Hải lòng như hải. Huyền Thông đạo cũng huyền. Thần thông hay biến hóa. Một Phật, một thần tiên.

Nhà sư từ đó nổi tiếng, tăng đồ trong thiên hạ theo học, vua cũng lấy lễ mà đãi nhà sư.

Mỗi khi giá ngự đến hành cung làng Hải Thanh, vua cũng ngự đến chùa trước. Một hôm, vua hỏi nhà sư rằng:

- Người có nghe nói về phép ứng chân định thần chưa?

Sư bèn làm bài tụng Bát biến, bay mình lên không cách mặt đất vài trượng, chốt lát lại trở xuống. Vua cùng quần thần đều vỗ tay khen ngợi. Từ đấy vua ban cho cái xe Kiến dư, ra vào các đình.

Đến đời vua Thần Tông, vua nhiều lần cho Sứ vời sư đế Kinh, nhưng sư lấy cớ bị bệnh già mà từ chối không đến.

Có người hỏi sư:

- Phật cùng với chúng sinh, ai khách mà ai chủ?

Sư cho nghe bài kệ này:

Biết đầu râu người bạc. Bảo người làm lão khách. Nếu rằng cảnh giới Phật; Cửa rồng gặp điểm nghạch.

Gặp đến khi sư gần tịch, lại cố một bài Kệ rằng:

Xuân về hoa buớm khéo quen thì. Hoa bướm đua nhau vẫn ứng kỳ. Hoa bướm xưa nay đều cảnh ảo. Chớ đem hoa bướm hỏi tâm trì.

Đêm ấy có sao Hỏa tinh rơi vào góc Đông nam nhà Thái thất. Gần sáng, sư ngồi nghiêm chỉnh mà mất. Vua hạ chiếu quyên thuế ba nghìn nóc nhà làm của hương hoa và cho hai người chức quan phụng tự để bao thưởng.

__

1.1119.
 
Chương 20 : Truyện Hà Ô Lôi


Niên hiệu Thiệu Phong thứ sáu đời Dụ Tông nhà Trần [1], có một người làng Ma La tên là Đặng Sĩ Dinh làm quan An Phủ Sứ, phụng mệnh đi sứ Tầu. Bà vợ là Vũ thị ở nhà. Trong làng có một ngôi đền thần gọi là Ma La Thần, thần tinh đêm đêm hóa làm Sĩ Dinh từ cách đứng ngồi đến nét mặt đều giống hệt Sĩ Dinh rồi vào phòng Vũ thị cùng nàng thông dâm; gần sáng lại đi, không biết đi đâu.

Đêm sau, Vũ thị hỏi rằng:

- Phu quân đã phụng mệnh Bắc sứ, sao lại đêm đêm được về mà ngày thời không thấy?

Thần nói dối rằng:

- Vua đi sai quan khác đi sứ, bảo ta chầu hầu tả hữu cùng vua đánh cờ vây không cho ra ngoài, ta niệm tình vợ chồng nên đêm trốn về với nàng để thỏa bề ân ái, sáng ngày phải gấp về triều không dám ở lâu, gà gáy lại phai đi.

Vũ thị trong lòng lấy làm nghi. Giáp một năm, Sĩ Dinh đi sứ về thì Vũ thị đã có thai gần đẻ; Sĩ Dinh đem việc tâu với vua. Vũ thị bị hạ ngục.

Đến đêm, vua mộng thấy một vị thần đến trình rằng:

- Thần đây là thần Ma La, vợ là Vũ thị đa có thai bị Sĩ Dinh tranh mất.

Vua giật mình tỉnh dậy, sáng ngày bảo ngục quan đem Vũ thị đến tra hỏi sự do.

Vua phán rằng:

- Vợ thì trả lại cho Sĩ Dinh, còn con thì giao cho thần Ma La.

Quá ba ngày, Vũ thị đẻ ra một cái bọc đen, xé ra thì được một đứa con trai, da thịt đen như mực; đến mười ba tuổi, đặt tên là Ô Lôi, tuy đen như sơn nhưng da láng như mỡ. Mười lăm tuổi, vua triệu vào chầu, rất là sủng ái nên cho làm tân khách.

Ô Lôi ra đi chơi gặp Lã Động Tân. Động Tân hỏi:

- Em bé đẹp lắm! Em có muốn cầu điều gì không?

Lôi thưa:

- Hiện nay thiên hạ thái bình, nhà nước vô sự, phú quý xem như đám phù vân vậy, tôi chỉ muốn có thanh sắc, cho vui tai thích mắt mà thôi.

Động Tân nói:

- Em ưa thanh sắc thì được cũng như mất, nhưng danh để được lưu ở đời.

Nhân đó bao Ô Lôi há miệng xem thử; Ô Lôi há miệng ra. Động Tân nhổ nươc bọt vào bảo nuốt rồi bay lên không mà đi.

Từ đấy, không biết chữ, nhưng Ô Lôi biện bác mẫn tiệp, có nhiều điều hơn người về từ chương, thi phú, ca kịch, ngâm xướng; cái giọng phúng vịnh như đùa gió cợt trăng, như mây bay nước chảy làm cho a¡ ai cũng thích nghe, đến như đàn bà con gái lại càng thích nghe hơn, càng muốn thấy mặt nó.

Vua thường bảo ở triều rằng nếu ai có thấy Ô Lôi gian phạm con gái nhà ai, bắt nó đến đây thì vua thưởng tiền một nghìn quan, nếu giết nó đi thì phải bồi thường một vạn quan. Đi chơi đâu, vua thường cho nó đi theo.

Lúc bấy giờ ở làng Nhân Mục có một nàng Quận chúa thuộc về hàng Tôn thất tên là A Kim; mới hai mươi ba tuổi mà chồng đã mất sớm, ở góa nhưng nhan sắc diễm lệ tuyệt thế vô song. Vua thích, nhưng cầu thông không được. Vua lấy làm lạ, bảo Ô Lôi rằng:

- Mày có kế gì để lấy được Quận chúa không?

Ô Lôi thưa:

- Thần nguyện hết sức trong hạn một năm nếu không thấy mặt thần tức là mưu bất thành, thần đã chết rồi.

Ô Lôi bái từ mà đi, về nhà lập tức cởi bỏ áo xiêm, dầm mình ở bùn lầy, phơi ra nắng mưa cho mặt mày xấu xí, rồi mặc một cái khố vải giả làm đứa giữ ngựa, lấy một đôi giỏ tre, một phong cau trầu, đến gần ngoài cửa nhà Quận chúa, đưa phong cau trầu cho người hôn đồng giữ cửa mà xin vào cắt cỏ. Người hôn đồng cho vào. Lúc bấy giờ vào khoảng tháng Năm, tháng Sáu, hoa nhài nở đầy vườn, Ô Lôi nhất thiết cắt sạch cho vào trong giỏ. Thị tỳ thấy vườn hoa đã hết mới hô lên bắt Ô Lôi trói lại, giam được ba bốn ngày không thấy người đến nhận, mời hỏi nó rằng:

- Mày ở cho nhà nào, sao không thấy chủ mầy đến chuộc?

Ô Lôi thưa:

- Tớ là người phiêu bạc, không có cha mẹ, không có chủ nhà, thường theo lũ con hát làm mướn kiếm ăn. Ngày trước thấy một ông quan cột ngựa ngoài cửa thành Nam, ngựa thì đói mà cỏ thì không có, gia đồng cho năm đồng tiền bảo đi cắt cỏ. Tớ mừng được tiền, đi cắt, có biết hoa nhài là gì đâu, ngỡ là cỏ cả. Bây giờ không lấy gì thường, nguyện vào làm nô để trả nợ ấy.

Giữ nó hơn một tháng, gia chủ, nô tỳ thấy đói khát thì cho ăn uống với họ; đêm thời ca xướng, giao du với hôn đồng. Từ gia chủ, nô tỳ đến kẻ nội thị cơ quyến nghe đến tiếng hát của nó đều say mê muốn nghe mãi.

Một hôm, quá hoàng hôn rồi mà không thấy thấp đèn, Quận chúa thầm ngỡ là tả hữu không có người, giận quá gọi thị tỳ đến trước mặt để trách mắng cái tội đã bỏ việc không lo, toan đánh đòn nữa.

Thị tỳ đều vòng tay tạ tội rằng:

- Chúng con nghe thằng cắt cỏ nó ca hát hay quá, say mê quên cả về, không ngờ bỏ việc đến thế, bây giờ Quận chúa đánh đập hay giáng truất chúng con đều cam chịu.

Quận chúa làm ngơ không hỏi nữa.

Lúc bấy giờ tiết mùa hạ nóng nực, đêm mới đầu canh, Quận chúa cùng với bọn thị tỳ ngồi chơi giữa sân, hóng gió trông trăng, lấy làm thắng thưởng, bỗng lắng tai nghe thấy tiếng hát Ô Lôi ở bên kia tường; tiếng hát véo von như tiết điệu Quân thiên, khác hẳn thanh âm ở trên đời; tinh thần nhiễm hội ý tứ thê lương lại càng thêm vui thích, bèn sai thị tỳ đem Ô Lôi vào làm gia đồng, một mình ở bên tả hữu để sai khiến, dần dần thành ra một người tớ cận mật, thường bảo nó ngâm vịnh để vợi mối tình uất kết. Ô Lôi nhân đó càng thêm siêng năng, bôn tẩu phục dịch, Quận chúa càng thêm tín sủng cho làm khách nhi, ngày thời chầu chực bên cạnh, đêm thời cầm đèn đứng hầu; có khi bảo nó ca xướng; thanh âm thấu cả trong ngoài, Quận chúa vì thế cảm động mới thành chứng bệnh u uất: dần dà đến ba bốn tháng, bệnh lại nặng thêm, bọn thị tỳ phục sức lâu ngày thành ra mỏi mệt, đêm khuya ngủ quên, Quận chúa kêu không hay biết.

Một hôm Ô Lôi đêm vào hầu bệnh, đứng gần Quận chúa; Quận chúa không ngăn được tình dục, mới bảo Ô Lôi rằng:

- Từ ngày mầy vào đây, vì giọng hát của mầy mà ta thành bệnh.

Rồi cùng Ô Lôi giao thông, bệnh dần dần bớt.

Từ đó tình ái càng ngày càng thân mật, đến như cái vẻ xấu xí cũng không cần đoái tiếc gì nữa, lại muốn đem ruộng đất cho Ô Lôi làm nhà ở.

Ô Lôi nói:

- Tôi không có nhà cửa, nay gặp được Quận chúa, thực là thiên tiên, đó là phúc cho tôi rồi đó, tôi chẳng muốn điền sản, vàng bạc, châu báu, chỉ nguyện được cái mũ giát vàng khảm ngọc của Quận chúa tiến triều, đội thử một cái thì dầu chết cũng nhắm mắt vậy.

Cái mũ giát vàng khảm ngọc là của Tiên đế ban cho Quận chúa để đội những khi có lễ triều cống, đến nay Quận chúa cũng cho Ô Lôi không tiếc. Ô Lôi được mũ rồi bèn âm thầm đi về, đội mũ ra mắt vua; vua thấy thế mừng quá, lập tức đòi Quận chúa tiến triều. Ô Lôi đội mũ đứng hầu. Vua hỏi Quận chúa rằng:

- Có biết Ô Lôi không?

Quận chúa trông thấy thế ngượng lắm.

Ô Lôi có bài quốc ngữ [2] rằng:

Chỉn đà nấu đến nguyện làm tôi, Hai chữ Thiên Tiên để cha Lôi.

Từ đó tiếng đồn ra thiên hạ, con gái nhà Vương hầu thường chê cười. Có bài thơ quốc ngữ rằng:

Sương kể dầu sương vẹn được mười. Những nơi quyền quý thiếu chi người. Bởi vì thanh sắc nên say đắm. Khá tiếc cho mà lại khá cười.

Tuy có thơ bỉ mặt như thế nhưng thường bị tiếng hát lôi cuốn không thể tránh được nên thường cùng nó giao thông; không có ai dám đánh đập nó vì đã có lời Chiếu bắt thường tiền.

Sau Ô Lôi tư thông với cô con gái đầu lòng của nhà Minh Uy Vương; Vương bắt được giam lại nhưng chưa giết. Sáng hôm sáu, Minh Uy Vương tiến triều tâu rằng:

- Ô Lôi hồi đêm vào nhà thần, tối sáng khó phân biệt nên thần lỡ đã đánh chết, dám xin tạ tiền, bao nhiêu thần xin tiến nạp.

Vua không biết là chưa giết, lập tức phán rằng:

- Lúc đó mà đánh chết thời không kể.

Lúc ấy Huy Từ hoàng hậu là chị ruột Minh Uy Vương nên vua có ý nể. Minh Uy Vương trở về giết Ô Lôi. Trước khi sắp chết Ô Lôi, ngâm một bài thơ quốc ngữ như sau:

Sinh tử là trời sá quản bao. Nam nhi miễn được tiếng anh hào. Chết vì thanh sắc cam là chết Chết đáng là nên cơm cháo nào.

Lại bảo rằng:

- Lã Động Tân đã nói với ta: "Thanh sắc của mầy, được mất ngang nhau, lời nói rất đúng vậy".

__

1.1346. 2.Tức chữ Nôm. Những bài thơ sau đều được viết bằng chữ Nôm.
 
Chương 21 : Truyện Dạ Xoa Vương


Xưa về thời thượng cổ, ngoài nước Âu Lạc của nước Nam Việt có nước Diệu Nghiêm, hiệu là Dạ Xoa Vương, có người gọi là Trường Minh Vương, có người gọi là Thập Đầu Vương. Nước ấy phía Bắc giáp nước Hồ Tôn Tinh. Nước Hồ Tôn Tinh gọi là Thập Xoa Vương, Thái tử gọi là Vy Tư.

Vợ Vy Tư gọi là Bạch Tinh Hậu Nương, dung mạo mỹ lệ, đời ít ai có; Dạ Xoa Vương nghe tiếng mà thích bèn đem dân chúng vây đánh nước Hồ Tôn Tinh, bắt được nàng Bạch Tinh Hậu Nương.

Vy Tư giận mới thắng lĩnh bọn di hậu dẹp núi lấp biển hết thảy hóa ra đất bằng, phá nước Diệu Nghiêm, giết Dạ Xoa Vương, lại đem nàng Tinh Hậu trở về.

Nước Hồ Tôn Tinh là tinh của loài khỉ bây giờ là nước Chiêm Thành vậy.
 
Chương 22 : Truyện Sĩ Vương Tiên


Quyển thứ ba của một nho sĩ họ Đoàn [1]

Xét Tam Quốc Chí thì Vương họ Sĩ, tên là Nhiếp, người làng Quảng Đức, quận Thương Ngô, Tiên tổ là người Vấn Dương nước Lỗ, gặp loạn Vương Mãng tránh ở chỗ này, đến đời Hoàn Đế nhà Hán thì làm quan Thái thú quận Nhật Nam.

Lúc nhỏ Vương du học Hán kinh, chuyên trị sách Tả Thị Xuân Thu [2], đậu khoa Hiếu liêm, được phong làm Thượng Thư Lang, vì công sự bị miễn chức. Sau đậu khoa Hiền lương Mậu tài, bổ làm quan Lệnh Vu Dương. Đời Hiến Đế thì thiên chuyển làm chức Thái thú Giao Châu. Gặp cuối đời Hán, Tam Quốc phân lập, Sĩ Vương xây đắp Lăng thành (nay là thành Long Biên). Hiến Đế nghe vậy gửi cho Vương một bức tỷ thư, khiến đổng đốc bảy quận và thống lĩnh chức Thái thú Giao Châu như cũ. Vương sai quan Lại là Trương Mân phụng mệnh sang Hán kinh lo chức cống. Vua Hán lại hạ chiếu phong cho Vương làm An Viễn tướng quân, tước Đình Hầu Long Độ. Đến đời Ngô Tôn Quyền gia phong làm Hữu Tướng Quân và tất cả ba con đều được phong chức Lang Trung. Kịp lúc sang cống phương vật, vua Ngô hậu gia thưởng tứ để đáp ủy, lại cho người em tên là Nhất lãnh chức Thái thú Hợp Phố, Vỹ lãnh chức Thái thú Cửu Chân, Vũ lãnh chức Thái thú Nam Hải.

Vương thể mạo khoan hậu, khiêm hư tiếp đãi mọi người, các danh sĩ nhà Hán tránh loạn qua nhờ vả rất nhiều. Dân ta tôn xưng là Vương. Vương Huy nhà Hán gửi thư cho Thượng thư Tuân Úc đại lược nói rằng: "Sĩ Phủ Quân ở Giao Châu học vấn đã ưu bác, lại thấu đạt chính trị, ở trong cảnh đại loạn mà bảo toàn được một phương, hơn ba mươi năm biên cảnh vô sự, dân không bị mất mùa, họ Đậu dù giữ Tây Hà cũng không lấy gì làm hơn được. Huống chi các em của Vương đều làm hùng trưởng liệt quận, đi ra thì xe ngựa đầy đường, người đương thời quý trọng, uy chấn bách man, kìa như Úy Đà cũng không hơn vậy".

Vương thọ chín mươi tuổi, ở ngôi được bốn mươi năm, càng giỏi điều nhiếp nguyên khí, giáo huấn nhân tài.

Vương mất, chôn xuống dưới đất, kể đến cuối đời nhà Tấn thì là một trăm sáu mươi năm; lúc bấy giờ Lâm Ấp vào cướp, khai mả Vương lên thì thấy toàn thể không hư nát, mặt mày như sống; chúng sợ quá bèn chôn cất như cũ. Đời truyền Vương được đạo tiên, lập đền mà thờ phụng.

Niên hiệu Hàm Thông thứ tám nhà Đường, Cao Biền chinh bình Nam Chiếu, đi ngang qua vùng ấy thì thấy một dị nhân, dung mạo tú lệ, y quan nghiêm nhã, liền đón đường nghênh tiếp; Cao Biền thích lắm, rước vào trong màn nói chuyện về thời sự đời Tam Quốc; lúc trở ra, Cao Biền đi đưa chân, hốt nhiên không thấy nữa. Cao Biền lấy làm lạ, hỏi những người trang thôn; họ chỉ mộ Sĩ Vương Tiên mà thưa.

Cao Biền than thở giây lâu bèn ngâm bài thơ rằng:

Sau Hoàng Sơ nhà Ngụy. Đến đây năm mươi niên. Đường Hàm Thông thứ tám. May gặp Sĩ Vương Tiên.

Nhân dân ở các châu huyện gần xa có việc đến cầu đảo đều thấy linh ứng. Triều nhà Trần gia phong Thiện Cảm Linh Ứng Vũ Đại Vương đến nay vẫn là Phúc Thần. Bây giờ đền thờ tại huyện Siêu Loại, xã Thanh Tương, thôn Lũng Triều, uà tại huyện Gia Định, xã Tam Á; hai đền thờ ấy đều được phong là thượng đẳng.

__

1.Quyển này in chữ ngả để phân biệt với hai quyển trên của Trần Thế Pháp (Xem phần Dẫn Nhập). 2.Sách Xuân Thu có ba bản, bản của họ Tạ, tức Tạ Khâu Minh được phổ biến nhiều nhất.
 
Chương 23 : Truyện Sóc Thiên Vương


Xét sách Thuyền Uyển Tập thì thấy chép rằng: Xưa ở triều vua Lê Đại Hành, có Khuông Việt đại sư người họ Ngô thường đến chơi làng Bình Lỗ, núi Vệ Linh, ưa cái cảnh trí u thắng ở đó mới lập am mà ở. Một đêm về canh ba, sư mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay bên hữu mang bảo tháp, theo sau có hơn mười người, dáng mặt dễ sợ, đến bảo Khuông Việt rằng:

- Ta là Tỳ Sa Môn Đại Vương, Thượng đế sắc qua đất nước Nam để phù hộ hạ dân, có nhân duyên với người nên ta đến đấy thúc báo.

Sư kinh khiếp tỉnh dậy, bỗng nghe trong núi có tiếng hát, lòng rất sợ hãi. Sáng ngày trong núi thấy có một cây đại thụ, cành lá rậm rạp xanh tốt, có thụy khí bao trùm lên trên. Sư bảo thợ đốn xuống, khắc gỗ làm tượng thần đúng như đã thấy trong mộng rồi lập đền miếu mà phụng sự.

Năm Thiên Phúc nguyên niên, binh Tống vào cướp phá, vua đã có nghe việc như thế mới sai quan đến đền thờ khẩn đảo. Lúc bấy giờ, binh Tống đóng tại làng Tây Kết, quân đội hai bên chưa đánh nhau, quân Tống bỗng thấy một người trổi dậy giữa sóng nước, cao hơn mười trượng, tóc đầu dựng đứng, trừng mắt mà nhìn, thần quang rực rỡ. Binh Tống thấy vậy cả kinh lùi giữ ngã ba sông, lại gặp phải sóng gầm sét nổ, giao xà long miết nổi lên làm dữ, binh Tống thấy như thế lại càng kinh khủng chạy vỡ tán loạn; tướng nhà Tống là Quách Tiến đem binh trở về Tống. Vua khen là anh linh, lập thêm đền thờ để sùng phụng. Có kẻ cho là sau khi Đổng Thiên Vương dẹp yên giặc Ân rồi, cỡi ngựa đến chỗ cây dung núi Vệ Linh, cởi áo mũ bay lên trời, đến nay đời còn bảo là "dị phục xuân thu" hễ có cầu cúng, thì dùng trà bánh, đồ chay mà thôi.

Triều nhà Lý sai sứ đến đền cầu đảo, lập miếu ở làng phía Đông hồ Tây, tôn làm Phúc Thần Đại Vương có chép tại kỷ tịch.
 
Chương 24 : Truyện ba vị phu nhân Kiền Hải


Xét Bản truyện thì Phu nhân họ Triệu, Công chúa nhà Nam Tống, mẹ con tất cả là ba người, Phu nhân là con gái út.

Niên hiệu Thiện Bảo đời Trần Nhân Tông, thuộc năm đầu đời Tống Đoan Tông, vua Tống chạy giặc ra ở một hòn đảo rồi bị bệnh mất; các đại tướng quân là Lạc Tú Phu và Trương Thế Kiệt lập em vua Đoan Tông là Đế Duế lên làm tự quân. Chưa được bao lâu, Văn Thiên Tường bại trận bị bắt đưa về Bắc, Thế Kiệt dời thuyền vào qua núi Nhai Sơn. Tướng nhà Nguyên là Trương Hoằng Phạm đem binh vây bắt, Tú Phú ôm vua Đế Duế nhảy xuống biển, Thế Kiệt cũng nhảy xuống biển mà chết; binh Tống chết hơn mười vạn người; ba mẹ con Phu nhân vin được tấm ván nhỏ trôi đến bờ một ngôi chùa, đói khát không biết nhờ ai; nhà chùa thấy vậy thương tình nên nuôi cho ăn uống.

Ở được vài tháng, Phu nhân da thịt như xưa, dung nghi tú mỹ, nhà sư đem lòng yêu thích liền sinh thói dâm, đêm đến cầu thông với Phu nhân; Phu nhân thủ tiết cự tuyệt; nhà sư sau hối ngộ lại lấy làm xấu hổ mới ra cửa biển nhảy xuống mà chết.

Mẹ con cùng khóc bảo rằng:

- Mẹ con ta nhờ tăng dưỡng dục mới được sinh sống, nay tăng vì ta mà từ trầm ta nhờ đâu mà sống?

Bà mẹ tự nhảy xuống biển, chị em con Phu nhân cũng nhảy theo chết luôn. Thi hài bị gió đẩy đến cửa biển Kiền Hải ở Diễn Châu nước ta, tạt vào đến bờ; người ở cửa biển trông thấy thân thể không có thương tích gì, bảo nhau rằng: "Thây từ nước kia trôi đến bờ này, không biết mấy nghìn dặm, mà y phục dung mạo y nhiên như sống". Mọi người đều kinh dị, cho là thần linh, rồi rủ nhau chôn cất, lập đền phụng sự.

Người ở xa gần đi thuyền ngang qua chỗ này, nếu gặp phải sóng gió nguy cấp mà thành tâm cầu đảo thì trong khoảng giây lát quả được bình an. Đến nay các nơi cửa biển đều sáng lập đền miếu mà thờ làm vị Phúc thần rất linh ở Nam Hải vậy.

Tục cũ, người làng không hiểu sự tích, cho là thần Dâm hý thực là rất lầm, nên biểu dương lên làm vị Phúc thần chính trực vậy.
 
Chương 25 : Truyện Long Độ Vương Khí


Thần vốn là vua Long Độ Vương Khí vậy. Xưa kia Cao Biền sang chơi nước Nam, đắp thành Đại La vừa xong, một hôm đi xem chơi cửa thành Đông thình lình mây mù nổi dậy, thấy đám mấy ngũ sắc từ mặt đất nổi lên, sáng lòa chói mắt, có một người mình mặt áo thêu, phấn sức kỳ dị, cỡi rồng vàng, tay cầm thẻ vàng, theo mây mà bay lượn trong không khí mù mịt, giây lát mới tan. Cao Biền lấy làm lạ, ngỡ là quỷ tinh nên muốn thiết đàn tràng để trừ yểm.

Thần tác mộng bảo Cao Biền rằng:

- Xin ông đừng sinh lòng nghi, ta không phải là yêu khí mà là Long Độ Vương Khí đây, mừng ông đương nay mới dựng Phủ Thành mà hiện lên xem đấy.

Cao Biền giác ngộ, sáng ngày, hội các người đi theo mà bảo rằng:

- Ta không thể hàng phục được người xa, để đến ngoại quỷ hiện lên thì là điềm chằng lành.

Có kẻ xin lập Pháp đàn, làm tượng hình trạng giống như mộng, lấy sắt nghìn cân làm phù để yểm; Cao Biền nghe theo nên làm phù mà yểm. Đến đêm, trời đất tối tăm, gió mưa rung chuyển đánh mất cả thiết phù hóa thành bụi đất. Cao Biền giận nói:

- Ta biết sẽ về Bắc.

Rồi thì quả nhiên như vậy; người ta cho là linh dị bèn lập đền thờ bên chợ Kinh sư.

Sau vua Lý Thái Tổ kiến lập thành quách, mộng thấy một vị thần đến trước, lạy hai lạy chúc mừng; vua nói:

- Ngươi nên giữ hương hỏa cho được trăm năm.

Thần trả lời:

- Nghiệp thánh truyền được vạn năm; thần được nhờ đấy nương tựa, há chỉ trăm năm mà thôi sao?

Vua tỉnh dậy, sai làm sinh lễ, rượu lệ tửu để cúng tế, phong làm Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương.

Lúc bấy giờ có gió bão thổi mạnh, phố sá đổ nghiêng, chỉ thấy đền thần là y nguyên như cũ. Vua bèn gia phong Minh Hạnh Đại Vương; các lễ Nghinh xuân, cầu cúng đều làm lễ ở đấy.

Đến đời Trần, ba lần đền bị hỏa tai đều cũng không cháy. Quan Thái sư Trần Quang Khải đề bài thơ đến nay đương còn được truyền tụng:

Xưa nghe lừng lẫy Đại Vương linh. Nay mới hay rằng quỷ cũng kinh. Lửa cháy ba lần thiêu chẳng rụi. Gió rung một trận thổi nào chênh.

Chỉ huy đàn áp muôn ngàn chúng. Hô hấp tiêu trừ trăm vạn binh. Mong cậy dư uy trừ giặc Bắc. Khiến cho vũ trụ hưởng thanh bình [1].

__

1.Bản dịch của Phan Kế Bính (trong Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện trang 122). Xưa nghe lừng lẫy tiếng anh linh. Ma cũng ghê mà quỷ cũng kinh. Ngọn lửa ba phen thiêu chẳng tới, Roi lôi một trận đánh không chênh. Chỉ tay đè nén trăm loài quỷ Quát tiếng trừ tan mấy vạn binh Nhờ đội oai thần xua giặc Bắc Khiến cho non nước lại thanh bình.
 
Chương 26 : Truyện thần Minh Chủ núi Đồng Cổ


Xét truyện Báo Cục thấy chép rằng Minh Chủ Chiêu Ứng Linh Đại Vương vốn là thần núi Đồng Cổ.

Núi Đồng Cổ ở huyện An Định, làng Đàn Đà Thượng. Ngày xưa, lúc đang làm Thái tử, Lý Thái Tông đem binh đi đánh Chiêm Thành, đến bãi Tràng Sa thì đóng quân ngủ lại; đêm quá canh ba, vương mộng thấy một vị thần bận binh phục đến thưa rằng:

- Ta là thần núi Đồng Cổ, nghe Vương nam chinh, xin theo quân Vương lập chiến công.

Trong giấc mộng, Vương cùng thần nói chuyện rất tường. Bình Chiêm Thành xong, Vương đem quân trở về Kinh, sai quần thần sáng lập từ vũ tại Kinh thành bên hữu chùa Từ Liêm. Kịp đến lúc vua Thái Tổ băng hà, Thái Tông phụng di chiếu tức vị. Đêm ấy thần lại cáo với Thái Tông rằng:

- Ba vương Vũ Đức, Dực Thánh, Đông Chinh mưu phản.

Sáng ngày, ba Vương đã phục binh trong thành, đánh gấp các cửa. Thái Tông ra lệnh cho vũ thần Lê Phụng Hiểu đem binh cự chiến; Phụng Hiểu kêu to bảo Đông Chinh, Vũ Đức rằng:

- Ba vương dòm dỏ thần khí, miệt thị tự quân, tại sao lại vong ân bội nghĩa? Phụng Hiểu này xin đem gươm đến hiến.

Rồi thẳng đến chém Vũ Đức Vương, còn Đông Chinh, Dực Thánh tẩu thoát được, hung đồ tán loạn, nội nạn thanh bình quả hợp ứng như thần mộng. Phụng Hiểu có công linh trợ, vua sắc phong làm Thiên Hạ Minh Chủ; mỗi năm đến ngày mồng bốn tháng Tư, vua hội trăm quan ở đền mà thề. Lời minh thệ là: "Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, Thần minh sẽ giết"; ai ai cũng đều úy mộ sùng phụng.

Phụng Hiểu tiêu trừ được nội nạn, tin thắng lợi tâu lên, Thái Tông ban khen, bảo Phụng Hiểu là người trung nghĩa anh dũng, hơn Kỉnh Đức nhà Đường rất xa. Sau phò Vua Nam chinh, đại phá giặc Chiêm Thành, công to nghiệp lớn lừng lẫy xa gần; dân lập đền thờ cầu đảo đều có linh ứng; trải mấy triều, Vương đều được gia phong tặng Vương tước cả.
 
Chương 27 : Truyện thần Ứng Thiên hóa Dục Hậu Thổ


Xét chuyện Báo Cực thấy chép rằng thần là tinh Đại địa chủ nước Nam. Xưa Lý Thái Tông chinh phạt Chiêm Thành, đi đến cửa biển bỗng thấy gió to mưa lớn, sóng cuộn ầm ầm, trông xa thấy núi đá, ngự thuyền cùng các thuyền tùy tùng đều không qua được, phải đậu một bên bờ. Đêm ấy, vua mộng thấy một người con gái áo trắng quần hồng, đạm trang dịu dàng, bước lên ngự thuyền mà thưa rằng:

- Ta là thần Đại địa nước Nam, nương thân ở trên cây lâu lắm, nay gặp minh quân xuất chinh, nguyện theo Vương để lập vũ công.

Nói đoạn, hốt nhiên đi mất; Vua kinh hoàng thức dậy mới hay là chiêm bao, cho triệu bá quan và các bậc kỳ cựu đến nói chuyện. Nhà sư Tống Huệ Sinh thưa rằng:

- Nếu như vua đã mộng thấy thần nhân báo nương thân ở cây thì thử tìm ở đấy xem sao.

Vua sai cận thần tìm khắp các núi trên bờ, thấy một khúc gỗ hình tượng giống như người, hệt như đã thấy trong mộng. Vua khiến đặt khúc gỗ lên trên ngự thuyền, đốt hương cầu đảo, gọi là Hậu Thổ Thị Phu Nhân. Trong khoảng chốc lát thì gió êm sóng lặng, thuyền đi êm ái không có một tiếng động. Đến khi phá được giặc Chiêm, ban sư khải hoàn, kinh qua chỗ cũ, vua sắc lập đền thờ thì lại thấy phong ba nổi dậy như trước.

Sư Huệ Sinh tâu rằng:

- Ý thần không muốn ở xa bờ biển, xin rước về Kinh.

Khi ấy sóng gió lại êm; về đến Kinh thành vua bèn lập miếu ở làng An Lãng, uy chương linh ứng; hoặc có người nào khí mạn thì bị hung họa.

Kịp đến thời vua Trần Anh Tông gặp năm trời đại hạn, vua sai đắp đàn cầu đảo. Thần cho vua mộng thấy rằng:

- Duy có thần Câu Mang ở bản từ là có thể làm mưa gió.

Vua tỉnh dậy sai quan Hữu ty đến tế, quả được mưa lớn dồi dào. Bà được phong làm Hậu Thổ Phu Nhân, trải qua các đời đều có gia phong vì là có công với dân.
 
Chương 28 : Truyện Long Trào Khước Lỗ


Truyện Long Trào Khước Lỗ [1]

Xét Sử ký và đời truyền thì vua họ Lý, tên húy là Phật Tử, tướng trong họ của Tiền Nam Đế. Tiền Lý Nam Đế tên là Bôn ở huyện Thái Bình, sẵn có kỳ tài, làm quan với nhà Lương một cách bất đắc chí, lại có Tinh Thiều giỏi về từ chương, quan Lại bộ nhà Lương là Thái Tỗn bổ làm Môn Lang Quang Dương, Thiều cho là sỉ nhục bèn cùng Lý Bôn trở về làng.

Nhân Thứ sử Tiêu Tư tàn bạo mới liên kết bọn hào kiệt cùng khởi binh kéo ta chiếm thành Lâm Ấp vào chiếm quận Nhật Nam, Bôn sai Phạm Tu đánh phá được, thừa thắng tự xưng là Nam Việt Đế, đổi niên hiệu năm đầu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, được tám năm rồi mất.

Lức bấy giờ có Việt Vương họ Triệu, tên húy là Quang Phục, vốn người Châu Diên, làm Tả tướng quân của Tiền Lý Nam Đế. Ở Châu Diên có một cái đầm lớn, quanh co không biết bao nhiêu dặm. Tiền Nam Đế mất, Vương mới thu thập tàn binh hơn hai vạn người, tụ hội trong đầm (nay tục gọi là Nhất Dạ trạch); vừa giáp một năm, Vương khẩn đảo trời đất quỷ thần, được thần nhân (tục truyền là Chử Đồng Tử) theo cho móng rồng, bảo giắt ở đầu đâu mâu; đi đến đâu giặc thua chạy đến đó, chém được tướng giặc là Dương Sằn, binh nhà Lương phải rút lui. Vương vào chiếm thành Long Biên, lại chiếu đời qua hai thành Cổ Loa và Vũ Ninh, tự hiệu là Nam Việt Quốc Vương. Vương sai chia nước, cắt địa giới ở bãi Quân thần mà cai trị chung, sau Nam Đế chiếm cứ châu Ô Diên.

Con Hậu Nam Đế là Nhã Lang xin cưới con gái Triệu Quang Phục là Cảo Nương, Vương gả cho. Nhã Lang nói với Cảo Nương rằng:

- Ngày xưa hai thân phụ ta là cừu thù, ngày nay lại là thông gia, cũng thực hay lắm.

Nhân hỏi Cảo Nương rằng:

- Thân phụ em có linh thuật gì mà binh của thân phụ anh phải thua trận?

Cảo Nương lấy tình thực thưa với Nhã Lang; thuận theo ý chồng, nàng lấy trộm cái đâu mâu có móng rồng đưa cho Nhã Lang xem. Nhã Lang âm mưu đổi lấy móng rồng, rồi bảo riêng với Cảo Nương rằng:

- Anh nay dứt tình mà về thăm cha, vạn nhất có điều gì bất trắc như giặc đến mà thân phụ em đánh không hơn, nếu có chạy đi đàng nào thì em nên lấy lông ngỗng ở nệm gấm mà làm dấu, sẽ đến cứu giúp em.

Rồi sau Nam Đế đem binh đến đánh. Triệu Vương ban đầu chưa biết gì, đốc binh, cầm đâu mâu ngồi chờ; binh giặc càng tiến, Vương biết thế kém không chống nổi, bèn dắt con gái chạy về hướng Nam, bỗng thấy Long Vương chỉ mà bảo rằng:

- Con gái Vương rắc lông chỉ dấu là giặc đó.

Vương bèn rút gươm chém rồi cỡi ngựa chạy đến cửa biển Tiểu Nha; bị nước ngăn, cùng đường, lại thấy Hoàng Long rẽ nước làm đường, Vương theo xuống; nước bèn hợp lại.

Nam Đế đuổi đến, thấy nước mênh mông. Triệu Vương ở ngôi hai mươi ba năm, quốc dân cho là kinh dị, mới lập đền ở cửa biển Đại Nha mà phụng tự.

Nam Đế đuổi Triệu Việt Vương xong, trở về hai xứ Loa Thành và Vũ Ninh, phong anh làm Thái Bình Hầu, giữ thành Long Biên, Đại tướng quân Lý Tấn Đỉnh làm An Ninh Hầu giữ thành Ô Diên.

Nam Đế ở ngôi ba mươi mốt năm, bị tướng nhà Tùy là Lưu Phương tiêu diệt. Người đời sau lập đền ở cửa biển Tiểu Nha mà phụng tự.

__

1.tức Lý Phật Tử. So sánh với truyện Kim Quy ở trên.
 
Chương 29 : Truyện Bố Cái Đại Vương


Đại vương họ Phùng, tên là Hưng, người huyện Đường Lâm, Giao Châu, tù trưởng biên man, hiệu là Lang, hào phú, có dũng lực, có thể vật được trâu, đánh được hổ. Em là Hãi cũng có sức mạnh, vác nổi nghìn cân, vác cả tảng đá mười hộc hoặc chiếc thuyền con mà đi hơn mười dặm; các man lào đều sợ uy danh.

Niên hiệu Đại Lịch đời Đường Đại Tông, nhân Giao Chỉ binh loạn trong nước, anh em đem nhau khắc phục các lân ấp, đất đai đều thuộc về anh em cả. Hưng cải danh là Cự Lão, Hãi cải danh là Cự Lực, đều hiệu là Đô Quân, Đô Bảo. Bọn tù trưởng Đường Lâm và Phong Châu thảy đều quy phục, từ đó uy danh chấn động. Quan Đô hộ nhà Đường là Cao Chính Bình đem binh dưới trướng đánh không hơn được, ưu phẫn thành bệnh mà chết. Hưng vào chiếm cứ đô phủ, làm việc cai trị được mười bốn năm rồi mất, dân chúng muốn lập Hãi lên thay, quan Tá lại đầu mục Bồ Phá Lặc là một người mạnh mẽ, sức có thể xô núi, không chịu nghe theo; dân chúng mới suy tôn người con của Hưng tên là An lên làm Đô phủ quân để ủy lạo lòng hoài vọng của nhân dân. Hãi tránh Bồ Phá Lặc, dời sang ở động Chu Nham, rồi sau không biết chết ở đâu.

An suy tôn thân phụ làm Bố Cái Đại Vương, bởi theo phương ngôn thì gọi cha bằng Bố, gọi mẹ bằng Cái, nên chi tôn xưng như vậy. Phùng An nối ngôi được ba năm, Đức Tông sai Triệu Xương sang làm Đô hộ An Nam; Xương đến nơi sai sứ dụ An; An cùng với man nhân về đầu hàng Triệu Xương; các người họ Phùng bỏ đi tản mát hết.

Hưng mất rồi, thường hiển linh dị, dân chúng cho là thần mới lập miếu ở phía Tây đô phủ mà phụng sự; hễ khi nào gặp đến mấy việc như trộm cướp và nghi ngục mà đến đền thờ thì thấy rõ họa phúc, nhờ thế hương hỏa được vô cùng vậy. (Nay Thổ tù tranh trưởng cũng hiệu là Lang).
 
Chương 30 : Truyện Trinh Linh Nhị Trưng phu nhân


Xét quốc sử thì hai bà Trưng họ Lạc, bà chị tên là Trắc, bà em tên là Nhị, người làng Mê Linh châu Phong, con gái Lạc tướng Giao Châu, ban đầu gả cho Thi Sách ở Châu Diên; Phu nhân người hùng dũng, hay quả quyết khi hành sự.

Lúc bấy giờ, Thái sử Giao Châu Tô Định là một người tham bạo, người trong châu lấy làm khổ sở, bà chị phẫn nộ cùng với bà em cử binh công hãm Giao Châu, rồi đến mấy quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lược định Lĩnh Nam hơn sáu mươi thành, tự lập làm vua, mới xưng là họ Trưng vậy. Trưng Vương đóng đô ở thành Ô Diên; Tô Định chạy về Nam Hải; Hán Vũ Đế nghe tin cách chức Định, sai hai tướng quân Mã Viện và Lưu Long đem đại quân sang đánh, đến Lạng Sơn, hai chị em cự chiến hơn một năm.

Sau thấy lực lượng của Mã Viện cường thịnh, e khó chống nổi, hai bà mới thối binh bảo vệ Cấm Khê; quân lính đào ngũ rất nhiều; Phu nhân thế cô bị hãm, chết ở hồ Lãng Bạc, có kẻ bảo Phu nhân lên núi Hy Sơn, không biết đi đâu. Người trong châu thương tiếc, lập đền thờ ở cửa sông Hát Giang mà phụng sự, nhân dân gặp phải tai nạn đến cầu đảo tất hiển thần linh.

Thời Lý Anh Tông, gặp trời đại hạn, Vua sai Uy Tịnh thuyền sư đảo mưa, cảm ứng một ngày thì mưa xuống, mát mẻ thấu người; một chốc, vua nằm ngủ, hốt nhiên mộng thấy hai người đội mũ phù lưu, bận áo lục, đai đỏ, cỡi ngựa sắt, theo mưa mà đi qua. Vua lấy làm lạ mới hỏi. Thần nhân đáp rằng

- Thiếp tức là chị em Nhị Trưng, phụng mệnh Thượng đế làm mưa.

Vua bèn ân cần xin thêm thì giơ tay bảo thôi. Vua tỉnh dậy cảm tạ, sắc phong lập đền miếu rất đẹp mà thờ. Sau lại thác mộng xin vua lập đền ở làng Cổ Lai; vua nghe theo, sắc phong là Trinh Linh Nhị Phu Nhân.

Triều nhà Trần gia phong huy hiệu là Uy Liệt Chế Thắng Thuần Trinh Bảo Thuận, đến nay hương hỏa vô cùng vậy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom