Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc

Ung Châu Tàng Cốc
Tác giả: thanhlongcongtu
Tình trạng: Đang cập nhật

--- oOo ---


Một câu chuyện đầy màu sắc huyền ảo, khắc họa rõ nét kỳ í của Đông Phương qua ngòi bút của tác giả thanhlongcongtu.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Khách lạ đến nhà


Sài Gòn-Chợ Lớn 1930...

Khí hậu ngoại ô thành phố Chợ Lớn gần trưa nóng bức, tôi đang ngồi bên ao rau muống hóng cơn gió hiu hiu, nghỉ ngơi sau khi vớt đám bèo lục bình rải rác trên mặt ao. Định bụng vào gọi thằng A Lủ dậy ăn chút cơm cho lại sức. Nó nghiện thuốc phiện cũng mới khoảng nửa năm thì bị cha nó bắt gặp. Lão gia này tính cách nghiêm nghị, nào bỏ qua cho nó được? Tội thằng A Lủ bị chấp hành gia pháp, một trận đòn đoản côn đến bầm hết người, cấm không cho ra khỏi căn nhà khi chưa được cho phép.

Đến cả tôi cũng bị vạ lây, vì biết nó hút thuốc phiện mà che dấu ông ấy. Cha nó cũng không có đánh tôi gậy nào, chỉ nói như ra lệnh rằng mày phải giúp nó cai nghiện, trông trừng nó thật kỹ trong thời gian này mà thôi.

Tôi gọi ông ấy là thầy, vì không quen kiểu xưng hô sự phụ theo kiểu người Hoa như nhà nó. Và tôi coi ông ấy như cha mình vậy, vì ông nuôi dạy tôi đã gần tròn mười năm nay. Từ ngày bà nội tôi mất lúc 12 tuổi. Không cha me, sống với bà nội từ bé, tôi cũng chưa từng biết hay muốn tìm hiểu về thân thế của mình. Vì lúc đó còn quá nhỏ, đến khi muốn tìm hiểu thì cũng chẳng còn người thân nào để mà hỏi cho ra...Sau khi bà mất, vì tôi và nhà nó là hàng xóm thân thiết, cộng thêm ân tình bà tôi cũng giúp đỡ thầy nhiều từ ngày về đây lập nghiệp, ông nuôi và xem tôi cũng như thằng Lủ con ông. Còn tôi và nó cũng xêm xêm tuổi, chơi với nhau từ bé, thân hơn anh em. Mà ngoài nó ra tôi còn có anh em nào đâu chứ.

Ngày thường tôi và A Lủ theo ông vào thành phố, nơi ông có 1 tiệm bốc thuốc gia truyền, xem bệnh, tuy tiệm nhỏ mà lại rất đông khách. Cho nên cuộc sống của cả nhà cũng khá dễ chịu trong thời buổi bấy giờ. Tuy vậy ông vẫn thích sống ở ngoại ô, trong căn nhà lá lụp sụp cho mát mẻ, hàng ngày đạp xe vào phố. Tối về, thầy dạy hai thằng chúng tôi đọc, viết, cả tiếng Quốc ngữ và tiếng Hoa. Rồi ông cũng dạy chúng tôi học Vịnh Xuân Quyền, thầy quan niệm rằng nam nhi phải văn võ song toàn. Nhưng thằng Lủ thì lười học chữ, võ vẽ thì nó học rồi đánh lộn ngoài thành phố suốt ngày. Tôi thì không dám, vì nể và sợ thầy, nên cũng chăm chỉ hơn. Vì vậy nên thầy thường dạy tôi nhiều thứ lặt vặt, bốc thuốc xem bệnh..., ông còn hay kể cho tôi nghe nhiều tích xưa, từ truyện Hán Sở, Tam Quốc..., hay những câu chuyện lặt nhặt trong suốt cuộc đời ông ấy khi di dân từ Triều Châu đến vùng Chợ Lớn này.

Đang miên man trong suy tư thì bỗng nhiên có tiếng động cơ ô tô chạy đến. Ngoài thành phố thì không hiếm, đa phần thời này dân tài chủ có tiền, người Pháp, binh lính Pháp cũng thường diễu những chiếc Mercedes lớn trên phố Sài Gòn-Chợ Lớn. Nhưng ô tô chạy đến nhà chắc hẳn có việc gì quan trọng. Nghĩ đoạn tôi vội chạy vào nhà, lôi cổ thằng Lủ dậy, nó uể oải đứng lên khỏi phản ra sau rửa mặt. Lúc này chiếc xe cũng dừng ngay sát cửa nhà, ba người cùng khiêng một người trung niên xuống xe trong tình trạng mê man không biết gì nữa. Thầy cũng ngừng xắt thảo dược, đứng lên chắp tay phía sau ra xem có chuyện gì. Tôi đứng cạnh chờ xem có gì sai bảo.

Trong ba người thì có một người là người Pháp làm tài xế, tôi đoán. Vì người đàn ông trung niên là người Việt, và cô gái trẻ trạc tuổi tôi đi cùng nhóm hình như là lai Tây. Vì cô có nước da trắng, đôi mắt thì to tròn, có màu xanh như bầu trời ngày hạ.

- Xin hỏi đây có phải nhà của lương y Gia Long?

Cô gái hỏi. Tôi đang còn mải ngắm nhìn, thì thầy đã lên tiếng:

- Phải, Thiên, còn không mau giúp đưa người bệnh vào nhà?

Đoạn quay qua hỏi ngắn gọn:

- Bị rắn cắn a?

Cô gái trẻ vôi trả lời bằng tiếng Việt lơ lớ:

- Dạ vâng.

Người đàn ông bất tỉnh đã được cột garo ngay bắp đùi, lúc này tôi phụ gã tài xế đưa ông ấy vào chiếc phản mà thằng Lủ vừa nằm ngủ. Căn nhà vách lá nhỏ lúc này dường như trở nên chật hẹp. Thầy tôi lấy kéo cắn ngắn chiếc quần âu, lộ ra vết cắn của rắn độc. Đoạn bắt mạch và trầm ngâm 1 lúc rồi nói:

- Cũng may là chuyển đến kịp thời.

Đoạn quay qua nhìn tôi, vì ở cùng thấy, cũng đã gặp nhiều trường hợp cấp cứu rắn độc cắn nên tôi hiểu ý. Chạy vào kệ thuốc lấy một viên đá nhỏ dẹp như bánh xà phòng, đem ra phía sau múc 1 chén nhỏ nước mưa trữ trong lu nước rồi ngồi mài viên đá vào đó. Thằng Lủ vẫn chưa tỉnh hẳn, nó lười biếng nhìn tôi. Bà mẹ nó chứ, thằng này chắc vừa nhúng mặt vào lu nước, vì trong chén nước còn nổi váng dầu mồ hôi của nó lềnh bềnh. Tôi cũng không là gì nó, đang vội cứu người như cứu hỏa nên cũng chả nói gì mà tập trung mài cho đến khi nước trong chén ngả màu đen thì đem vào nhà.

Thầy bảo tôi đỡ người đàn ông dậy, cho uống thứ nước đen đen đó. Vì ông ta đang hôn mê, nên phải nhờ cô gái đỡ dậy, tôi mới banh miếng và đổ nước vào. Rồi thầy tôi cầm viên đá từ tay tôi đặt nhẹ lên vết rắn cắn và lấy vải cột nhẹ lại. Xong đâu đó mới quay qua hỏi chuyện:

- Làm sao lại bị rắn hổ chúa cắn a?

Cô gái trả lời nhỏ nhẹ:

- Dạ ba con đang lội ruộng lấy một số mẫu vật ven ngoại ô thì bị cắn. Đưa vào thành phố thì có người chỉ đến tiệm thuốc của bác. Mà hôm nay bác không mở cửa nên phải chuyển vội về đây. Tình hình ba con có nguy hiểm không thưa bác?

- Cũng không nguy hiểm gì a, vì may mắn là đưa tới kịp thời, chỉ nửa giờ nữa thôi thì cũng hết cách. Ông ấy cần nghỉ ngơi khoảng ba ngày. Tạm thời cứ để nằm đây a. Không tiện di chuyển mà.

Rồi ông đứng lên, tiếp tục vào sắt thảo dược mà không nói gì thêm. Tích cách thầy tôi lúc nào cũng kiệm lời như thế. Cô gái lúng túng không biết nên làm gì, bèn quay qua nói với gã tài xế bằng tiếng Pháp xì xồ. Tôi không hiểu gì, mà cũng không để ý vì đang mải ngắm người đẹp. Chỉ thấy lúc sau gã tài xế lại nổ máy ô tô và chạy đi. Cô gái quay qua nói với tôi:

- Anh cho em ở lại để chăm sóc ba em.

Có phải nhà tôi đâu sao tôi quyết định đc cơ chứ, quay qua nhìn thầy thì ông cũng chẳng nói gì. Đúng lúc thằng Lủ mò lên, hai mắt nó sáng rực, chẳng ai nhận ra nó là thằng cai thuốc phiện cả, vội vã đáp lời:

- Ôi cô bé thích ở bao nhiêu ngày mà chả đc, ở luôn đây đi nha, hô hô.

Cái giọng cười hô hố của nó làm cô gái ngượng đỏ mặt. Thầy mới quay qua gắt:

- Hai thằng mày đi dọn bữa ăn đi, giữa trưa rồi. Cô cũng xuống ăn với tụi nó mà lấy sức chăm người bệnh đó mà.

Tôi dạ vâng rồi cùng thằng Lủ dọn cơm. Xong xuôi thì lên mời thầy và cô gái xuống. Thầy đang suy nghĩ gì đó nên chưa muốn ăn. Ông nói cô gái xuống ăn trước với hai thằng tôi. Không biết vì đói hay dường như sợ uy của thầy, cô gái răm rắp nghe theo ngay lập tức. Vì thói quen không nói chuyện trong bữa cơm, nên cả ba ngồi cúi mặt ăn cho xong. Không biết thằng Lủ nghĩ gì, nó quay qua nháy mắt với tôi, cười đểu.

Xong bữa, cô gái tiếp tục ngồi trông chừng bệnh nhân. Hai thằng tôi cũng ra ngoài ngồi cho mát, gần đây mới đc ở nhà mấy ngày. Cũng phải cảm ơn thằng Lủ, tất cả là nhờ nó thôi. Mà cũng tội, từ ngày ở nhà cai, nó gầy đi trông thấy. Trước hơn tám mười cân thì giờ cũng phát sút mất gần chục. Ấy là so với người thường thôi, chứ nó vẫn còn to lắm. Vậy nên tôi gọi nó thân thiện là thằng Mập.

- Ê Mập, mày thấy lão bị rắn cắn có gì lạ không?

- Lạ cái gì, ông già bảo bị hổ chúa cắn mà? Chưa chết là may còn lạ con mẹ gì.

Thằng này ít chịu để ý, tôi mới bảo nó:

- Vết rắn cắn không bình thường mày ơi, dấu nanh có tận bốn cái...mà không phải hai cái như bình thường.

- Vậy à, chắc con rắn này nó tợp hai phát, hô hô. - Nó đáp tỉnh khô. 

Tôi vẫn đang còn thắc mắc, thì thầy đã đứng sau từ bao giờ. Ông thong thả nói:

- Thiên à, là con tinh ý. Đây không phải rắn hổ chúa đâu, là rắn giữ mả. Độc tính nó không phát tác nhanh, nhưng rất khó trị. Làm cho cơ thể người bị cắn rữa nát dần dần. Mà loài này thường tấn công những người mang hoặc nhiễm hàn khí âm lãnh mà thôi a. Thật khó hiểu mà...

Đoạn ông lại chìm vào suy tư, dường như đang nhớ về điều gì đó. Cả ba chúng tôi cùng lặng im, một lúc lâu sau ông thở dài và bắt đầu kể với giọng điệu mà ông thường kể chuyện tôi nghe, nhưng câu chuyện lần này tôi cảm thấy nó có gì u oán lắm:

- Năm đó di dân, trên đường qua Quảng Tây. Thầy cũng đã gặp loại rắn kỳ quái này rồi...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Rắn ma giữ mả


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

- Năm đó di dân, trên đường qua Quảng Tây. Thầy cũng đã gặp loại rắn kỳ quái này rồi. Chuyện cũng đã hai mươi năm trôi qua. Không ngờ hôm nay lại gặp cảnh này. - Đoạn ông quay qua như muốn kể với thằng Lủ, tôi đoán chuyện này ít nhiều có liên quan tới nó.

Rồi ông nói với nó:

- Mẹ mày cũng bỏ mạng trên đường vì loài độc xà này. Khi đó mày mới gần hai tuổi mà. Gần đến biên giới Bắc Việt, nơi tiếp giáp với vùng Thập Vạn Đại Sơn thì đoàn di dân gặp một toán thổ phỉ. Đoàn người chống cự không lại nên chia ra để chạy trốn, tao cùng mẹ mày và gần chục người khác tách ra chạy sâu vào trong núi ẩn nấp tìm đường để vòng qua đi xuôi về biên. Không có người dẫn đường, lần mò nơi rừng thiêng nước độc, nhắm hướng mà đi. Được mấy ngày, một chiều mưa rừng lất phất, cảm thấy mệt mỏi, gặp một sườn đồi dốc thoải. Cả nhóm chọn một gốc cây lớn ngồi nghỉ ngơi. Lạ là trong rừng rậm ở Thập Vạn Đại Sơn lại có một quả đồi nhỏ mà gần như không có cây lớn nào ngoài gốc cổ thụ mà mọi người dừng chân. Cách đó không xa là lớp lớp những ụ đất như các tổ mối nổi lên. Có người trong nhóm tò mò đến xem thì thấy có sự khác thường như binh khí rỉ sét, mũ giáp lộ ra, lại còn có cả xương trắng. Dù khó nhận ra nhưng cũng đoán đc đây là một khu mồ chôn tập thể có thể của các binh lính vùng biên giới ngày xưa. Hiếu kỳ, nhóm người tìm cách đào bới, phần vì mong muốn xem có tìm được của cải gì có giá trị hay không. Nên cũng chẳng kiêng kị gì a.

- Người thì tìm cây hoặc lấy dao, mã tấu mà đào, người thì dùng tay mà bới...lúc đó mẹ mày ẵm mày nên tao với bả cũng chỉ đứng ngoài xem. Tao thì nghĩ, binh lính thì có của cải gì mà tìm a. Đám người đang đào đào bới bới thì bỗng có tiếng thét đau đớn. Vì là thầy thuốc, tao chạy lại xem sao. Lúc này lão ấy vẫn chưa hôn mê như người trong nhà, nhưng cứ ú ớ lầm bầm gì đó trong miệng, trên chân lão có vết cắn của rắn, lạ là nó có bốn dấu răng nanh. Nhưng tuyệt nhiên không thấy con rắn ở đâu cả. Chỉ thấy dưới đất có lỗ nhỏ đen thui. Cho rằng con rắn đã chui vào hang ổ, cả đám cũng dừng tay lại để hỗ trợ. Đang tìm cách bó lại bắp chân cho người bị cắn, thì cả đám nghe tiếng xè xè, rè rè. Nhìn lại thì thấy không biết từ bao giờ cơ man những con rắn đen dài gần mười xích (gần 3m) đang đục lỗ từ trong đất chui ra. Đám rắn đen trùi trũi lại có cặp mắt đỏ hung tàn. Nghĩ đến thôi bây giờ tao vẫn còn khiếp sợ. Tốc độ của các con rắn cũng không nhanh lắm, nhưng nhìn vào những cặp mắt kia, đám người ai cũng có cảm giác tê liệt, phản ứng cũng trở nên hoảng loạn và chậm chạp vô cùng. Vậy nên chưa kịp định thần thì nó đã đến sát rồi. Lúc này cả đám mới hoảng hồn vùng lên mà chạy. Tao kéo theo người bị cắn, cố gắng lôi đi. Nhưng lão ta cứ như mất hồn, nên rất khó khăn. Kéo đến chỗ mẹ mày đang địu mày trên lưng thì thấy bả vẫn đứng nhìn đàn rắn một cách khó hiểu. Tao quát lớn sao còn không chẩu a. Mà mẹ mày như không nghe thấy, cảm nhận có gì đó không ổn, tao liền cởi nút thắt, địu mày trên lưng. Đang cột chặt lại thì nghe phập một tiếng. Bả đã bị cắn vào ngay bắp chân. Tao vội vàng xoay mày về phía trước ngực, điểm vào huyệt Phong Trì sau gáy mẹ máy rồi cõng bả lên lưng. Dùng hết sức mà chạy về phía trước trong trời mưa trơn trượt. Xuống khỏi sươn đồi, quay lại nhìn thì lạ thay đàn rắn không đuôi tới. Lão bị rắn cắn vẫn nằm đó, cả đàn rắn bu lại cắn xé. Nó cắn và ăn thịt như loài hổ vậy a...cảnh tượng đó thật không thể nào quên được, nó quá đỗi kinh hoàng. Lão kia vẫn không có cảm xúc gì, cứ nằm bất động đó. Tao có cảm giác lão cũng đang nhìn tao. Cặp mắt lão cũng chuyển thành màu đỏ như máu giống lũ rắn kia. Bỗng lão cười to lên "hé hé hé,he he hé, he he hé...". Đoàn người lúc này một số kẻ đã chạy toán loạn trong vô thức, chỉ còn lại năm người tính cả tao và mẹ mày, không tính mày mà thôi. Cả đám lạnh sống lưng mà chắc chắn rằng không phải là do cơn mưa phùn buổi chiều chạng vạng. Bỗng một tia sét rạch ngang trời, tiếng sấm nổ thức tỉnh bọn tao. Lúc này mới cõng mẹ mày tiếp tục rời đi tìm nơi để có thể yên tĩnh chữa trị độc rắn cho mẹ mày, bỏ lại một người anh em làm mồi cho lũ rắn vẫn đang nhìn tụi tao mà thét lên điên dại "he he hé..."

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


- Mang trong người hòn đá hút nọc độc gia truyền Bách Độc Hắc Thạch, tao cũng tự tin có thể cứu mẹ mày khỏi nguy kịch. Di chuyển một lúc, tìm chỗ dừng chân mới, cố gắng nhặt nhạnh củi khô dưới các tán cây lớn mà nhóm lửa và bắt đầu trị thương. Sau hai canh giờ hút độc như bình thường, mẹ mày cũng tỉnh lại. Bả đòi ẵm mày một lúc, tao chiều theo ý. Đưa mày cho bả bế, ôm mày ngủ. Tao cũng tranh thủ nhắm mắt một lúc cùng mọi người. Mệt mỏi, thiếp đi cũng đã khoảng ba canh giờ, cái lạnh mưa rừng đêm làm tao giật mình. Nhìn sang thì bả vẫn đang bế mày như lúc trước. Dưới ánh lửa bập bùng, tao thấy cặp mắt bả đã chuyển sang màu đỏ, nhìn mày chằm chằm. Bỗng dưng bả xoay cổ từ từ qua tao nhìn tao, thét lên giọng cười quái đản "he he hé..." thật tà môn. Tao không nghĩ nhiều, lao đến một lần nữa đập mạnh vào huyệt đạo. Khiến bả chìm vào hôn mê, rồi bế mày giao cho anh em trong nhóm lúc này cũng đã giật mình vì giọng cười kia mà thức dậy. Rồi cả đám người không nói nhiều, lập tức đốt lửa băng rừng ngay trong đêm vì không ai muốn ở lại vùng đất kinh dị này thêm một khắc nào nữa.

Cõng theo vợ bảy ngày bảy đêm, tốc độ di chuyển cũng không nhanh được. Đoàn người còn lại sắp cạn lương thực mang theo, và hầu như đã cạn hết hy vọng thì gặp được một bản Miêu nhỏ. Trong bảy ngày bảy đêm đó, mẹ thằng Lủ không tỉnh dậy nữa dù vẫn thở thoi thóp. Lúc vào bản, tình trạng bà ấy đã hết sức tồi tệ. Khắp người rữa ra và bốc mùi như xác chết. Dân bản đều kinh sợ, cũng không ai muốn cho một cái xác vào nhà. Chuyện đến tai thầy mo của bản. Ông ta liền tới, vừa nhìn qua đã kinh ngạc. Rồi khẽ lắc đầu...

Mẹ nó được chôn cất ở bãi tha ma của bản. Thầy hết sức đau buồn mà nằm li bì liền mấy hôm. Sau vì thằng Lủ, nên cố mà gượng dậy. Rồi tìm cách hỏi lão thầy mo. Ông ta mới giải thích rằng đó là loài rắn ma trong truyền thuyết. Không ai biết chúng sinh sản như thế nào, cách thức nhân giống ra làm sao...chỉ biết rằng phải rất cẩn thận khi đụng tới mồ mả ở vùng đất này. Truyền thuyết cũng cho rằng các binh lính bản bộ vùng đất biên giới của các động ngày xưa khi đánh trận thường mang theo một quả trứng rắn trong người. Khi chẳng may nằm xuống ở chiến trường, thì trứng rắn sẽ nở ra và đùn đất lên như mồ như mả. Đồng thời chúng cũng ở đó để bảo vệ xác chiến binh khỏi các động vật ăn xác hoặc bất cứ kẻ nào muốn quấy phá sự yên nghỉ thiêng liêng vĩnh hằng.

Kết thúc câu truyện cũ, thầy bảo thằng Lủ:

- Gia Phi à, có điều kiện cũng nên tìm về thắp cho mẹ con một nén nhang a.

Tôi biết ông đang rất xúc động, bình thường hiếm khi ông xưng hô cha con với nó, cũng không gọi nó là con như với tôi. Nhưng ông vẫn thương nó, dù gì cũng là phụ tử mà. Nó nghe câu chuyện xong thì vẫn ngồi đó trầm ngâm. Nhưng trong mắt nó tôi thấy long lanh vẻ cương nghị chứ không còn bóng dáng gì của thằng nghiện á phiện nữa. Nó đáp lời:

- Vâng, con biết rồi!

Như nhớ ra điều gì, ông nói với tôi:

- Thiên, chiều con đạp xe chở người nhà bệnh nhân về phố, và tìm mua một số thứ cho thầy.

- Vậy cô ta không ở lại chăm người nhà sao? - Tôi thắc mắc.

- Không được con à, việc chữa trị này, không để phụ nữ bên cạnh được đâu à.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Trị độc, trừ tà


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Theo lời thầy, buổi chiều mát mẻ, tôi lấy chiếc xe đạp, chở cô gái về phố. Trên suốt quãng đường đi, tôi chỉ hỏi và biết được tên của cô ấy là An, ngoài ra nguyên nhân vì sao lại bị rắn độc cắn thì dù thắc mắc nhưng cũng ngại mở miệng hỏi. Chỉ biết An rất lo lắng về tình hình của cha cô ấy, tôi nói rằng cứ yên tâm đi, cả phố Hoa này ai không biết thầy tôi cao tay như Hoa Đà tái thế. Đạp xe gần năm cây số đưa An về khu phố người Pháp, không từ biệt, tôi vội về tiệm thuốc của thầy. Lấy một ít trầm hương, một ít đèn cầy, tìm mua thêm một cân rượu loại cực nặng và một bao gạo nếp như lời thầy đã dặn.

Về đến nhà thì đã chập choạng tối, trong bữa cơm, thầy bảo tôi rót rượu để cả tôi và A Lủ đều cùng uống. Xong đâu đấy, thầy bảo hai đứa chúng tôi cùng xuống phụ sắt một ít thuộc, để chuẩn bị lát nữa sẽ thực sự trị bệnh cho lão bị rắn ma cắn. Lúc này thấy sự thắc mắc của hai đứa, thầy mới bắt đầu giải thích thêm, sau khi đã hút nọc độc rắn ra rồi nhưng trong người vẫn còn lại một loại độc khác mà viên đá không hút được, loại này đã lan khắp cơ thể rồi, để chữa dứt hẳn thì phải dùng cách khác, mà cách này ông học được trong lúc ở bản Miêu năm nọ, từ tay thầy mo của bản. Đại ý người dân tộc Miêu ở đó cho rằng nếu không phải vô tình đạp phải hốc rắn, thì nó chỉ tấn công những người mang tử khí như những người đào mồ, bốc mả và phụ nữ mang hàn khí mà thôi, loại độc này ngấm dần vào cơ thể và tàn phá linh hồn người bị cắn, để lại cái xác không hồn mục rữa dần dần như sự trừng phạt những ai đụng đến sự an nghỉ vĩnh hằng của những chiến binh đã khuất.

Chờ đến nửa đêm, thầy bảo bọn tôi đổ gạo nếp ra phản, đốt trầm trong góc nhà, rồi thầy cắm bảy cây nến chung quanh người bệnh và lại rót rượu nặng ra, để một lần nữa ba người cùng uống cạn một chén, vì thầy giải thích là để tránh hàn độc xâm nhập cơ thể. Người đàn ông lúc này nằm trên gạo nếp, chung quanh nến thắp sáng lập lòe tựa như một nghi thức cổ xưa nào đó, rất ma mị. Thầy lấy một con dao nhỏ, rạch một đường ngay tại vết cắn, đổ chỗ rượu còn lại vào vết thương và rưới lên cả gạo nếp chung quanh phản, đoạn châm lửa chỗ vết cắn. Loại rượu nặng này cháy như cồn, nó phụt lên một tia lửa và lan dần ra chỗ gạo nếp theo một đường đi kỳ lạ mà dường như rất quen thuộc. Khi lửa lan gần hết một vòng quanh tấm phản, thì có chuyện kỳ quái xảy ra làm tôi và A Lủ há hốc mồm kinh ngạc, còn thầy thì vẫn không tỏ thái độ gì, dù tôi nhận thấy ông đang rất căng thẳng. Từ chỗ vết thương, đám lửa chuyển thành màu đen chũi, nhưng vẫn bập bùng cháy, lửa đen này lan theo đường lửa cũ mà đi, đến bây giờ tối mới biết vì sao lại quen thuộc như thế, vì đường lửa này hiện tại giống như một con rắn đen đang trườn trên mặt đất vậy, nó trườn đến đâu, thì gạo nếp chung quanh nó cũng chuyển sang màu đen như nếp than. Các cây đèn cầy cũng phụt tắt dần khi vệt lửa trườn đến. Nó đi một vòng từ phía chân trái, vòng qua đỉnh đầu trườn xuống phía chân phải nơi chúng tôi đang đứng đó dưới bóng cây nến cuối cùng còn lại, chợt nó như lao vào cắn ngọn lửa của bấc đèn cầy. Tôi chắc chắn rằng mình không hoa mắt, vệt lửa đen như con rắn há miện nhe nanh đớp lấy thứ ánh sáng cuối cùng trong căn nhà lá lúc nửa đêm.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Bỗng đâu giữa trời đêm không trăng, không giông gió, một tia sét vang lên nghe sẹt sẹt làm bọn tôi giật mình. Định thần lại thì thấy con rắn đen kia đã biến mất, cây đèn cầy leo lét bập bùng rồi lại bừng sáng lên, vệt lửa trên phản cũng chuyển về màu bình thường vốn có rồi dần lụi tắt. Cả đám người toát mô hôi lạnh khắp người, nhưng cũng không còn vẻ căng thằng nữa. Người đàn ông kia chợt lắc lắc cái đầu như đang mơ ngủ, miện lẩm bẩm nói cái gì lạnh, lạnh quá...thầy bảo bọn tôi dọn chỗ gạo nếp, đắp chăn dày cho ông ta rồi đốt lại sáu cây nến đã tắt lúc nãy và cả ba cũng đi nghỉ ngơi. Tôi cứ trằn trọc mải, phần vì thằng Lủ nó gáy như bò, phần thì do trải qua những sự việc kỳ lạ lần đầu được thấy. Cứ suy nghĩ miên man rồi cũng thiếp đi lúc nào.

Sáng thức dậy, thì thấy thầy đang cùng người đàn ông trò truyện gì đó, sắc mặt ông ta còn nhợt nhạt nhưng đã tốt hơn trông thấy, cảm giác như có lại sinh khí của con người. Thầy bảo tôi lấy cháo đã nấu sẵn lên cho người bệnh ăn cho lại sức, rồi ngồi sắt thuốc ngay đó. Nghe loáng thoáng được cậu chuyện giữa hai người, cũng giải đáp được phần nào khúc mắc về người đàn ông và loài rắn ma quái nọ. Cụ thể thì người đàn ông tên Minh, là một nhà khoa học, giáo sư gì đó chuyên nghiên cứu lịch sử, văn hóa các dân tộc thiểu số của Việt Nam. Đoàn công tác được sự hỗ trợ của người Pháp, thám hiểm các khu vực ngoài miền biên giới phía Bắc Việt - Trung, trong quá trình tìm hiểu một hang động nhỏ lưng núi, phát hiện xác một vị tướng quân tọa hóa rất lâu đời, đang khi vui mừng thì có một bóng đen dài phi tới, An đã nhanh tay chém đứt đôi nó xuống, hóa ra là loài rắn mà chúng tôi đã biết. Vì hiếu kỳ, giáo sư đến xem thử thì nó vẫn chưa chết và cắn vào chân ông. Các phương pháp cấp cứu của đoàn dường như không có hiệu quả, và xuất hiện những triệu chứng kỳ lạ chưa từng gặp, nên cả đoàn dừng công việc là và cấp tốc chuyển giáo sư về Nam Kỳ. May mắn cho ông là đã gặp được thầy tôi, người cũng đã có kỳ ngộ với loài rắn ma giữ mả và ông đã được cứu.

Lại nói, sau khi ông bị cắn, mọi người liền đập nát đầu con rắn đen mắt đỏ ấy, thì bỗng nhiên xác vị tướng quân vừa tìm được từ từ tan biến thành tro bụi, chỉ còn trơ lại những mảnh giáp mà thôi. Thầy tôi cho rằng loài rắn này ngoài việc giữ xác, còn có công dụng tỏa ra một số khí, chất có chức năng như thể việc ướp xác vậy. Nên ngay khi nó chết, mới xảy ra hiện tượng cái xác biến mất trước mặt đoàn thám hiểm. Giáo sư Minh cũng rất đồng tình với phán đoán của thầy và đồng ý ở lại đây thêm vài ngày để dưỡng bệnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Họa đồ tàng cốc


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Trưa hôm ấy, An quay lại cùng với người tài xế Pháp và một mớ đồ đạc, thấy giáo sư Minh đã tỉnh lại nên cô ấy rất mừng, ra vẻ cảm ơn thầy mãi. Hôm nay thầy tôi lên phố trông tiệm, chỉ có tôi với Lủ ở nhà thôi. Sẵn tiện An thắc mắc hỏi chuyện về việc trị độc, được dịp thằng Lủ nó ba hoa trời đất mất nửa ngày, nào là có con rắn chui ra từ vết cắn của giáo sư, rồi thì nữa đêm sét đánh trúng nó mà không chết. Tôi thấy An nghe chuyện mà kinh ngạc vì những sự việc "lạ lùng" thì chỉ cười trừ, tin thằng này chỉ bán thóc giống mà ăn thôi, để khỏi làm cô ấy hoang mang, tôi mới nói:

- Mày nói nhăng nói cuội gì vậy, đi chuẩn bị nấu cơm đi.

Chợt nhớ ra điều gì, An nói:

- Không cần nấu đâu anh, tôi có mua ít đồ ăn trên phố đem về rồi. - Đoạn An lấy trong đống đồ lỉnh kỉnh mấy bọc đồ ăn đưa cho A Lủ để nó chuẩn bị bữa trưa. Thấy nó đi, tôi mới lần nữa kể lại sự việc đêm qua một cách chính xác nhất theo những gì tôi nhìn thấy, rồi cho rằng mạng giáo sư còn lớn, nên mới gặp thầy và được chữa trị kịp thời, chứ nếu không...thật không dám nghĩ tiếp. An đã yên tâm hơn nhiều, cô ấy đưa một số giấy tờ cho giáo sư Minh:

- Ba à, chuyến đi vừa rồi cũng có chút thu hoạch đó.

Rồi như vì có tôi ở đó nên phải chờ giáo sư đồng ý, An mới tiếp tục:

- Theo xét nghiệm các mẫu vật của vị tướng quân, kết quả chỉ ra rằng cái xác cổ đó có từ thời chiến tranh Tống-Việt trong khoảng 1075-1076 cách đây cũng đã gần ngàn năm tuổi rồi.

- Ừ, khả năng đúng như ba đã suy đoán, ngoài ra còn gì khác không?

- Trong số mẫu vật ít ỏi thu được thì có một tấm da dê có vẽ hình như bản đồ và một số văn tự tiếng Hán. Đồ hình đã khá mờ nhạt, con nghĩ cần phải có thời gian phục dựng. Tuy nhiên phần văn tự thì còn khá rõ để có thể xem được.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Ảnh minh họa. Nguồn: dailymail.co.uk

Rồi An cũng lấy trong mớ đồ tấm da đưa cho giáo sư, ông cầm lên tay xem, trầm ngâm 1 lúc lâu rồi đọc vanh vách với vẻ vui mừng như đứa trẻ được mẹ cho quà: "Vượt dòng Ung Giang, đến Thập Vạn - Khai mở tàng cốc, giữa bạt ngàn - Chôn sâu, giữ chặt trong lòng thác - Hồn thiêng tử sĩ mãi không tan", rồi nhìn xuống tiếp: "Ung Châu Tàng Cốc, trời ơi, đây chính là bản đồ đến kho tàng Ung Châu thời chiến tranh Lý-Tống...". Nghe đến đây, An có vẻ như hiểu ra điều gì, còn tôi thì vẫn ù ù cạc cạc nghĩ thầm, kho tàng gì chứ, mạng không còn thì vàng bạc có thể để làm gì? Đúng là giáo sư học nhiều biết nhiều thì lại thích thám hiểm hơn là thích sống rồi, thật chả trách. Giáo sư Minh vẫn chưa hết xúc động:

- Lần này nếu có thể tìm ra kho tàng Ung Châu thì coi như là một phát hiện lịch sử động trời đó con gái. Chỉ hận không thể lập tức mà lên đường thôi.

- Được rồi ba à, nếu là thật thì còn ở đó thôi. Việc này con cũng chưa cho ai biết hết. Trước mắt ba hãy yên tâm mà tịnh dưỡng cho khỏe hẳn rồi tính.

Tôi biết là An lo lắng cho sức khỏe của giáo sư, nhìn xem ông ấy chẳng để ý chút nào, vẫn cứ xăm soi tấm họa đồ mà cười cười, gật gật. Kho tàng chắc gì là thật, đã ngàn năm qua rồi, nếu có thật thì chắc cũng chẳng còn đến bây giờ, hoặc là vàng bạc cũng đá hóa thành bùn đất cả rồi không chừng, nghĩ vậy nên tôi cũng chẳng buồn nghe thêm, đi chuẩn bị cơm nước cùng thằng Lủ đã, đồ ăn mới là quý, bỏ vào miệng được, no được thì mới chính là vàng. Rồi tôi cũng kể vắn tắt cho thằng Lủ nghe chuyện, mắt nó lại sáng lên, phán một câu xanh ngắt:

- Mày nghĩ xem Thiên, tao mà đào đc kho vàng này thì hút đến ba đời nhỉ, hô hố...

- Thằng mập này mày còn chưa tỉnh ra, để tao bảo thầy cho mày đi đào rồi về mua thuốc phiện mà hút nhé?

- Thôi xin mày, nói chơi thôi, hô hô.

...Hai hôm sau, giáo sư Minh khỏe hẳn, ông ấy cảm ơn thầy tôi, định gửi chi phí thuốc men, nhưng thầy không lấy. Ông cứu giáo sư vì muốn thử phương pháp chữa trị với loại rắn độc này, đồng thời cũng để xóa đi day dứt trong lòng bao nhiêu năm nay về người vợ đã khuất. Giáo sư cũng không dấu gì ông, nói cho ông nghe dự tính sẽ tiếp tục quay ra biên giới để thực hiện công việc thám hiểm, nhưng tuyệt nhiên không nhắc tới việc "Họa đồ tàng cốc". Không biết thầy tôi nghĩ thế nào, liền hỏi giáo sư liệu có thể cho tôi và thằng Lủ theo đoàn đi được hay không. Giáo sự không chần chừ mà nhận lời, vì phần thầy tôi vừa cứu ông một mạng, lại vì nghĩ hai thằng tôi chắc cũng có chỗ hữu dụng cho đoàn.

Ra ý thầy tôi muốn cho thằng Lủ đi để nó tìm về nơi chôn cất mẹ mà thắp nén nhang vì chẳng biết khi nào mới có cơ hội tốt thế này. Đồng thời để thằng mập đang cai nghiện này đi một mình thì không yên, nên tôi phải theo nó đi, mà kể cả không nói, tôi cũng sẽ đi theo, phần vì ở nhà mà không có nó thì buồn chết mất, phần muốn xem thử cuộc sống các nơi như thế nào cho thỏa chí. Tôi vẫn không nghĩ đến, đây sẽ là chuyến đi đầy phong ba, nguy hiểm, vô cùng đáng nhớ trong đời và có sự ảnh hưởng lớn đến cuộc đời của chúng tôi cùng cả đoàn thám hiểm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Biên giới Bắc Việt


Những ngày sau đó, trong khi giáo sư Minh đang dưỡng bệnh ở nhà, tôi, An và Lủ thường xuyên lên phố làm công tác chuẩn bị cho chuyến đi. A Lủ lâu ngày mới được ra lại thành phố, nó háo hức lắm. Thường xuyên kể lại cho An nghe những chuyện trước đây của nó ở chỗ này chỗ nọ. Tất nhiên nó cũng tránh không nhắc đến việc nó hút thuốc phiên ở đâu. Tôi không biết cần chuẩn bị những thứ gì, cứ để phó mặc cho An, chỉ đi theo để trông chừng thằng Lủ, kẻo nó lại ngựa quen đường cũ mà tìm mấy động hút thì chắc về thầy giết tôi, mãi đến khi An hỏi chúng tôi có cần gì cho chuyến đi không, hai thằng không hẹn cùng nói:

- Vài cây thuốc Ba tốt lát (Batos) là đc.

- Sao các anh không hút Mélia cho sang trọng nhỉ? - An thắc mắc.

- Cô em không biết rồi, anh em tôi dân đen, quen hút thuốc này không bỏ được. Cô em chưa nghe câu: "Hỡi ai đi sớm về trưa,Kiu Bát Tốt Lát đón đưa chào mời, Hương thơm khói đậm tuyệt vời, Hút cho một điếu cho đời thêm tươi" sao? Hô hô. - A Lủ cười nói. Thời bấy giờ, thuốc lá ngoại cũng khá nhiều, ngoài Me1lia còn có Cotab, Pall Mall, Salem, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston, Marlboro...nhưng Batos vẫn hợp với giới lao động bình dân hơn cả. Chiều theo ý bọn tôi, An không hỏi thêm nữa, cô ấy nhờ chúng tôi dẫn đi mua một ít bao muối trắng, rượu mạnh, gạo nếp và đèn cầy. Mấy món rượu, gạo, nến thì tôi đã rõ, chắc là chuẩn bị cho trường hợp không may như vừa xảy ra với giáo sư Minh, nhưng nếu không có hòn đá hút nọc rắn của thầy thì cũng vô dụng. Chuyến này thằng Lủ đi cùng, chắc thầy cũng không tiếc gì mà giao nó cho bọn tôi, còn muối trắng thì An giải thích là thầy tôi đặc biệt dặn, đem muối lên khu vực rừng núi biên giới có thể nói là có giá trị hơn vàng, dùng nó để đổi các mặt hàng cần thiết với bà con trong các bản, hoặc tặng cho họ để lấy được các nguồn thông tin hay sự hỗ trợ của đồng bào nơi đây, cuối cùng vẫn là thầy tôi hiểu biết nhiều và chu đáo.

Khoảng một tuần sau, chúng tôi từ biệt thầy, khởi hành chuyến đi Nam-Bắc, thầy không dặn dò gì nhiều, chỉ đưa cho chúng tôi cặp Hán Đao mà thầy luôn cất kỹ, thầy hy vọng A Lủ có thể tìm được lại mộ mẹ nó mà thắp nén nhang an ủi người đã khuất. Giáo sư Minh quyết định thay vì di chuyển bằng máy bay quân sự của Pháp thì tự lái xe ô tô mà đi, vì chuyến đi lần này có nhiều thông tin không nắm chắc, và cũng không tiện để lộ ra bên ngoài, cho nên ông và An sẽ thay nhau lái chiếc Mercedes đưa chúng tôi tới Hà Nội rồi theo tuyến đường sắt lên Đồng Đăng, thuộc tỉnh Lạng Sơn. Xe lửa thì tôi và Lủ đã có đi rồi, đó là tuyến Sài Gòn-Mỹ Tho được hoàn thành vào năm 1885, hồi ấy chúng tôi mới mười bảy, mười tám, ham chơi bỏ nhà đi bụi, cũng có nhiều kỷ niệm vui vẻ đáng nhớ lắm. Lại nói, lúc bấy giờ cả Đông Dương tràn ngập người ngựa-ngựa người, xe kéo, xe đạp thì ô tô cũng chỉ có khoảng một ngàn chiếc, được ngồi ô tô đi thật là thích thú, sang trọng vô cùng. Ai ngờ đâu thằng Lủ nó không chịu được xe, nên những ngày đầu cứ chóng mặt nôn mửa mãi. Những hôm sau đó thì nó dựa ghế mà ngủ li bì, trừ lúc ăn uống nghỉ ngơi thì mới chịu tỉnh lại. Suốt gần hai tuần trời di chuyển, tôi có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn về An và giáo sư Minh. Giáo sư được du học bên Pháp, chuyên ngành văn hóa, khảo cổ. Ông lấy vợ tây, mới sinh ra An, đến năm An mười tám tuổi thì ông về nước để nghiên cứu nên cho An về theo. Tính tình An cũng tương đối cứng cỏi, được tiếp xúc với văn hóa phương Tây từ sớm, nên cũng không lạ gì nhựng việc lái ô tô, bắn súng hay cưỡi ngựa. Còn chúng tôi thì chịu, nên tôi rất tò mò không biết súng Tây Dương lợi hại thế nào, tôi với thằng Lủ quan niệm chỉ có cương đao mới có thể tin tưởng được thôi, nó chẳng bao giờ bỏ mình cả, trừ khi mình bỏ nó. Không biết bao lần tôi cùng thằng Lủ chém lộn ngoài phố với những anh chị máu mặt thời bấy giờ ở các khu Chợ Lớn, Lăng Ông - Bà Chiểu, Xóm Thuốc (Gò Vấp), bến phà Thủ Thiêm, cầu Sắt (Đa Kao) và bến xe Lục tỉnh. Nét đặc biệt của giang hồ đầu thế kỷ 20 so với du đãng bây giờ chính là bản lĩnh. Tay anh chị nào cũng võ nghệ đầy mình, không giỏi quyền cước thì đừng hòng trụ vững ở cái thế giới “lắm người, nhiều ma” này. Tôi bị cuốn vào đa phần là vì thằng Lủ gây chuyện, cũng có lúc đúng lúc sai, nhưng là anh em thì không thể nào bỏ nhau được, mà những chuyện này tôi không muốn nhắc đến, ít nhất trong lúc này.

Đến Hà Nội, thủ đô của toàn Đông Dương bấy giờ, chúng tôi cũng không nghỉ lại lâu mà tiếp tục theo đường xe lửa về Lạng Sơn, cho nên ấn tượng về Hà Nội không nhiều lắm, cảm thấy hơi tiêu điều hơn so với Sài Gòn được mệnh danh hòn ngọc Viễn Đông thời đó. Mất thêm một ngày lên tới Lạng Sơn, chúng tôi dùng muối trắng, thuê người bản địa cung cấp ngựa và dẫn đường qua Biên Giới. Để tránh kinh động lãnh chúa Mèo, vì Miêu vương Đèo Văn Long này hiện tại cũng có làm ăn với chính phủ Pháp trong việc buôn bán thuốc phiện, nên người được thuê lần này chỉ là một thanh niên thợ săn trạc tuổi tôi trong bản nhỏ tên là Đèo A Lang, với lý do là dẫn đường tham quan rừng núi vùng biên. Giáo sư Minh có quan hệ với người Pháp, các loại giấy thông hành được cấp đầy đủ nên chuyện đoàn người qua biên giới cũng không gặp bất cứ trở ngại nào. Tôi và A Lủ mất khá nhiều thời gian để học và làm quen với việc cưỡi ngựa, nếu không thì chỉ có cách đi bộ đến nơi mà thôi, nói vậy chứ cũng không khó lắm, vì bọn tôi thanh niên nhanh nhẹn nên cũng không cảm thấy khó khăn, đặc biệt A Lủ cho rằng, cưỡi ngựa vẫn thích hơn đi ô tô nhiều, tôi chỉ e con ngựa nó cưỡi không nghĩ như thế, cũng may thời gian cai nghiện làm nó bớt mập một chút rồi. A Lang biết nói tiếng Việt, và còn có thể lắp bắp vài câu tiếng Pháp. Anh ấy giải thích do trước đây cũng từng tham gia các cuộc vận chuyển "hàng" cho người Pháp và vua Mèo, nên học được lõm bõm, về sau cảm nhận đây là công việc nguy hiểm và có hại cho dân bản, nên anh quyết định không làm nữa mà quay lại nghề thợ săn sống qua ngày.

Đi theo đường lớn hai ngày, đến khu vực rừng núi Thập Vạn Đại Sơn giáp với Quảng Tây-Trung Quốc, An và giáo sư mô tả lại con đường dẫn đến điểm thám hiểm lần trước là hang động nơi tìm được xác vị tướng quân tọa hóa, sau đó để A Lang dẫn đường, chúng tôi có thuê thêm hai con ngựa để vận lương thực, đồ đạc nữa là đoàn người năm người bảy ngựa từng bước từng bước tiến vào Thập Vạn Đại Sơn linh thiêng và huyền bí. Do có thổ địa dẫn đường nên hành trình có vẻ suôn sẻ. Ban ngày rong ruổi trên lưng ngựa, chiều tối hạ trại để nghỉ ngơi, chúng tôi chia nhau công việc, giáo sư và An thì dựng lều trại và tìm củi khô, đây là các bộ lều bạt quân dụng của Pháp, nên việc dựng và thu dọn nhẹ nhàng. Tôi cùng A Lủ xung phong đi theo A Lang săn thú chung quanh khu vực trại để có lương thực mà không cần dùng đến số đồ hộp mang theo, chủ yếu thú săn được là thỏ, chim và một số loài rắn nhỏ. Đêm về ngồi bên đống lửa, ăn thịt thú rừng nướng thật thú vị. Ban đầu chúng tôi chỉ chấm với muối trắng, sau đó A Lang chỉ cho các pha trộn một số loại gia vị đặc thù của người đồng bào Tây Bắc như mắc khén, hạt dổi, vỏ quế, ớt rừng...ăn rồi mới thấy cảm giác ngon miệng thật tuyệt vời. Đặc biệt hơn, chúng tôi được nghe A Lang kể nhiều câu chuyện đi săn, về rừng thiêng nước độc ly kỳ, chuyện ngậm ngải tìm trầm, chuyện ma rừng quỷ núi...Trong đoàn, chỉ có thằng Lủ là yếu bóng vía, đừng nhìn nó to con thế mà lầm, các câu chuyện của A Lang làm nó ngồi sởn gai ốc, tin như tin Phật, nó ngồi hút thuốc liên tục cho bớt sợ hãi căng thẳng. Chỉ đến khi giáo sư giải thích một số chuyện theo nguyên lý khoa học, thì nó mới giảm bớt phần nào, ví dụ như thuyết ngậm ngải tìm trầm hóa thú, giáo sư cho rằng đó là vì tác dụng của cái gọi là ngải, ngâm lâu trong miệng có tác hại làm tê lưỡi hay bị câm hẳn và ảnh hưởng đến hệ thần kinh, rồi người đi rừng lâu ngày, đầu tóc râu ria cũng sẽ mọc dài ra, lúc ấy thì có khác gì con thú hoang đâu, thêm phần người đồng bào mê tín, đồn thổi thành ra những câu chuyện rất hoang đường. An cũng theo lập trường khoa học của ba mình, nên cũng không tin hẳn, còn tôi thì sao cũng đc, có chuyện nghe là vui rồi, là thật cũng được, là giả thì cũng không ảnh hưởng gì tới mình.

Đêm thứ ba, đã đến vùng Thập Vạn Đại Sơn hùng vĩ, cả đoàn dừng chân bên một bờ suối nhỏ, nước chảy róc rách rất êm tai, chúng tôi quyết định hạ trại ngay đó trên một đám đấy trống và khô thoáng. Sau khi ăn tối, mọi người đi nghỉ sớm để chuẩn bị cho ngày mai chính thức đặt chân sâu vào vùng núi rừng trùng điệp. Tôi cũng mệt chuẩn bị ngủ thì thằng Lủ nó nhăn nhó, rủ tôi đi ra ngoài giải quyết nỗi buồn. Chắc tại lúc nãy ăn cá không quen bụng, giờ thì hay rồi, tuy khó chịu nhưng tôi vẫn bò dậy ra khỏi lều đi theo nó, hai thằng đem theo một cây củi đang cháy làm đuốc, rọi đường đi ra cách trại khoảng vài chục mét, nó ngồi đó bắt đầu "công việc" tôi đành đứng gần hút thuốc chờ. Đang khi tận hưởng lạc thú hút thuốc giữa rừng đêm, hít thở không khí mát lạnh trong lành, thì thấy thối kinh khủng, tôi quay qua chửi nó:

- Mẹ mày ăn lắm vào, thối không ngửi được!

- Ơ, tao đã đi được đâu mà thối cái gì? Mũi mày thối à Thiên? - Nó thật thà trình bày. Nghe đến đây, tôi cảm giác có gì đó không đúng, vì mùi thối này cũng không giống mùi "sản phẩm" con người giải quyết ra...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Thổ phỉ Vân Nam


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Nhận thấy có sự khác lạ, tôi không dám vọng động, ở vùng rừng núi âm u, trong đêm đen tĩnh mịch như thế này thì chuyện gì cũng có thể xảy ra cả, nghĩ vậy nên tôi bảo thằng Lủ đứng lên quay về trại, chịu khó nhịn một chút đi. Nó làu bàu kéo quần đứng, hai thằng quay về trại đánh thức mọi người, tôi mới kể lại sự việc có mùi lạ trong đám rừng gần đó. Vừa nghe đến đây, A Lang liền phản ứng, nói với mọi người:

- Có chuyện rồi, cùng đi xem thôi.- Đoạn dẫn đường đi trước, chúng tôi cũng lập tức theo sát sau. Tôi và Lủ cẩn thận thuận tay mang theo theo hai cây hán đao quen dùng.

Đến chỗ lúc nãy tôi và Lủ đứng, A Lang hít hít mũi để đánh hơi, tìm hướng phát ra thứ mùi hôi thối đó. Nhìn anh ấy lúc này, tôi liên tưởng đến những chú chó săn chuyên nghiệp, à không, phải là loài sói mới vừa đúng với tên gọi A Lang. Không mất nhiều thời gian, A Lang đã tìm được hướng, mọi người cùng chầm chậm tiến đến. Dưới ánh sáng của những cây củi cháy lập lòe, rừng đêm trở nên huyền bí hơn bao giờ hết, bóng cây cối, dây leo trở nên giống những bóng ma đang đi theo quan sát đoàn chúng tôi. A Lang dừng lại, giơ cao cây đuốc để chiếu sáng và chỉ xuống đất:

- Mọi người nhìn xem, là xác một con heo rừng lớn đang phân hủy.

- Xác con heo thì có chuyện gì lớn đâu, chắc già quá nên nó chết thôi. Hô hô.- A Lủ lạc quan lên tiếng. Tôi thì không đồng tình với suy nghĩ đó, mới đặt chân vào Thập Vạn Đại Sơn đã gặp phải xác thú, không biết có phải là dấu hiệu không tốt hay không? Dù sao thì cũng nên cẩn tắc vô áy náy. Đang còn suy nghĩ thì thằng Lũ đã vác đao ngồi xuống bẻ nanh con heo rừng, loại này về Chợ Lớn bán chắc cũng được bộn tiền, chẳng nhẽ thấy tiền trước mắt lại bỏ qua thì không phải Gia Phi-A Lủ rồi, biết tính nó nên tôi cũng không can ngăn làm gì. Nhưng đối với kinh nghiệm đi rừng của A Lang thì chuyện này không đơn giản như vậy. A Lang nói:

- Nhìn cái xác xem, có vết cắn của thú ăn thịt, có thể con heo bị hổ tấn công, mà con hổ chưa ăn ngay thì thuộc loại hùm núi ăn xác thối trong truyền thuyết rồi.

Tôi thấy A Lang nói cũng đúng, mọi người nên cẩn thận đề phòng. Vì có quan niệm cho chuyện rằng hổ cũng thích ăn xác thối là thật, nhất là xác người chết. Có những chuyện kể về việc hổ rất thích ăn xác thối. Khi cắn chết ai, nó thường tha vào rừng để ăn thịt. Khi ăn thịt người, nó thường nhìn trăng. Nếu là trăng đầu tháng, nó ăn đầu, giữa tháng ăn phần bụng và cuối tháng ăn phần chân. Ăn no, nó giấu xác để hôm sau tìm đến ăn tiếp. Xác người càng thối, nó càng khoái khẩu, nó còn đào mộ moi xác người lên để ăn nữa. Thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện, tôi giục Lủ:

- Nhanh lên thằng mập!

- Xong ngay, xong ngay hô hô.- Nó đáp lại tỉnh như ruồi, quên cả cơn đau bụng lúc nãy mà tích cực lấy cho bằng được hai cái nanh heo. Hì hục một lúc thì cũng xong, nó cầm chiến lợi phẩm trong tay với vẻ mặt thỏa mãn, cười hô hô không ngớt. Chuyện cũng đang xong, mọi người lại quay về trại để nghỉ ngơi, đi được một đoạn, đã nhìn thấy đống lửa trại, A Lủ lại lên cơn đau bụng, mặt nhăn nhó, nó bảo chúng tôi cứ về trước đi, nó về sau rồi chạy luôn vào bụi cỏ khuất sau tảng đá lớn. Tôi mặc kệ nó, đi về cùng mọi người, còn cách trại được một chục bước, bỗng nghe tiếng thét lớn: 

- Tất cả đứng im!

Liền sau đó có người bước ra từ phía sau trại, một hai ba...tất cả bốn người. Trong đó có hai tên chĩa khẩu súng về phía chúng tôi như cảnh cáo. Quá bất ngờ, chúng tôi cũng không biết phải làm sao cả. Lúc tôi còn cầm trên tay cây đao, đang định thần suy nghĩ tìm cách thì tên cầm súng đã quay nòng súng chĩa về tôi rồi quát lớn:

- Thằng này, bỏ đao xuống, tất cả giơ tay lên cho ngộ nà.

Hết cách, tôi đành phải phục tùng theo, quăng đao xuống đất. Giáo sư Minh lắp bắp:

- Các ông tha cho chúng tôi, bọn tôi chỉ là đoàn nghiên cứu địa chất, không có của cải gì quý giá đâu. Xin...xin các ông...

Không để tâm đến lời cầu xin, một trong hai tên cầm súng có vẻ là thủ lĩnh đám thổ phỉ lia lia họng súng rồi dừng trước An, hắn nói:

- Không tha được mà, tụi ngộ đã phải đi theo mấy ngày mới tìm được bọn lị đó mà, có tha thì chỉ tha được cho cô em xinh đẹp này thôi mà, tỉu nà!!!

Đoạn cả đám bốn tên thổ phỉ cùng cười lên hô hố, làm An bậm môi lại ra tức giận mà không làm gì được. Việc này làm tôi khá ấn tượng, đàn bà con gái gặp thổ phỉ mà không sợ hãi tý nào thì cũng thật khó hiểu. Mà điệu cười của bọn thổ phỉ sao lại giống thằng mập A Lủ đến vậy chứ, không phải nó là anh em với tôi, tôi còn nghĩ nó cấu kết với đám này mà hãm hại chúng tôi không chừng. Vừa nghĩ đến đây thì có một bóng đen lao tới, xoẹt một tiếng, cánh tay cầm súng đang chỉa vào mặt tôi rớt bịch xuống đất. Máu nóng từ cánh tay bắn đầy mặt tôi, thì ra thằng Lủ thấy có chuyện, nó lẻn về tìm cơ hội, thấy tôi bị dí súng vào đầu nó liền ra tay ngay. Trông nó mập thế nhưng thân thủ cũng nhanh nhẹn một cách khó tin, vì cả hai chúng tôi từ bé đều được học võ, lại có tập luyện thường xuyên hàng ngày, rồi chưa kể cũng từng thi thoảng chém lộn ngoài phố, nhất là thằng Lủ, nó chém người cũng gọi là quen tay rồi nên động thủ quyết đoán và cực kỳ chuẩn xác. Tình thế lúc này như bị đảo ngược, tên đang cầm súng còn lại xoay nòng súng đang chĩa từ An qua định bắn thẳng Lủ thì đoàng một tiếng, tôi thấy hắn đã nằm xuống, còn trong tay An đã cầm một khẩu súng mà nòng súng còn bốc khói. Không suy nghĩ nhiều, tôi nhặt lại cây đao của mình rồi lách qua A Lủ, lao đến một trong hai tên đứng phía sau, hắn cũng đưa mã tấu lên đỡ theo phản xạ, tuy nhiên đường đao của tôi đã xuyên qua cắt đứt đôi cây mã tấu và chém đến cổ họng hắn một cách ngọt vô cùng. Chuẩn bị quay qua giải quyết tên con lại thì không thấy hắn đâu, nhìn kỹ lại thì hắn đã nằm dưới đất, trên ngực găm một con dao ngắn như phi đao rồi. Tác giả không ai khác chính là thợ săn A Lang, con sói của bản Mèo. Vậy là trong nháy mắt cả bốn tên thổ phỉ đã bị hạ gục, Ba trong số đó đã chết tại chỗ, chỉ còn lại tên bị A Lủ chém rớt tay đang nằm quằn quại rên rỉ dưới đất. Chưa biết xử lý thế nào, thì A Lang đã lao đến, túm cổ hắn hỏi:

- Còn tên nào không?

- Không,...không còn ai cả.- Tên thổ phỉ đau đớn trả lời. Hắn vừa nói xong thì A Lang rút dao đâm luôn vào ngực, chỉ thấy hắn nấc nấc mấy tiếng, trào máu lên miện ọc ọc rồi tắt thở. Cả đám nhìn A Lang kinh sợ. Không biết có thù hằn gì sao lại ra tay hiểm độc quá, đúng là loài sói khát máu mà. Dường như hiểu được bọn tôi đang nghĩ gì, anh ấy giải thích:

- Đám này là thổ phỉ Vân Nam, bọn chúng hoạt động rất mạnh ở vùng này và còn tràn sang cả vùng Tây Bắc Việt Nam, dân rừng núi vùng biên đàn ông phần đi vận chuyển thuốc phiện cho Pháp, phần đi làm xa trên mãi mỏ bạc Tụ Long, dân bản thường bị những đám thổ phỉ như thế này quấy phá. Nhẹ thì chúng cướp bóc trâu bò của cải, nặng thì bắt cóc phụ nữ trẻ em. Mà vợ tôi cũng là trong số đó.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

A Lang thổ lộ với vẻ xúc động, xong anh ấy đứng dậy đi về phía đống lửa ngồi đó, mắt đỏ hoe, chất thêm củi vào như muốn đốt sạch cả Thập Van Đại Sơn tìm vợ. Tôi cũng trấn tĩnh lại hơn sau chuyện xảy ra vừa rồi, cứ bảo rừng thiêng nước độc, vừa bước chân vào rừng đã thấy con người tàn sát lẫn nhau, có độc thì là luật rừng mạnh được yếu thua này độc địa thôi, chứ rừng nào có ăn thịt người sống bao giờ? Đoạn nói giáo sư và An cũng ra đó ngồi nghỉ, tôi còn nói An để ý khuyên nhủ A Lang một chút. Đoạn bảo với Lủ:

- Dọn dẹp thôi! Mày xem chém người ta bầy nhầy ra như thế này, giờ có khổ không, tao là lần đầu tiên giết một mạng người đó, cảm giác thật khó tả.

- Tao cũng đã giết ai bao giờ đâu Thiên, chắc tại hai cây đao của ông già cho bọn mình nó bén quá, đúng là bảo vật mà, thế mà lại không đưa cho tụi mình sớm nhỉ, biết đâu...

- Mày nghĩ đi đâu vậy, kéo đám này ra chỗ xác con heo rừng đi, để đây sao mà ngủ được.- Tôi thấy nó bắt đầu lảm nhảm liền vội giục. Hai đứa kéo bốn cái xác mấy chục mét, để cạnh chỗ con heo rừng đang thối rữa lúc nãy, một lúc lâu sau mới xong xuôi. Người chết không còn linh hồn, không nhẹ đi thì thôi lại còn như nặng thêm sao mà khó hiểu.

Quay về đống lửa, giáo sư và An chắc đã khuyên A Lang, tôi thấy anh đã đỡ xúc động hơn nhiều, lần này cũng may mắn qua khỏi mà không có thiệt hại gì, cảm ơn trời đất. Nhớ ra là có mang theo rượu trong hành lý, tôi nháy mắt với A Lủ, chúng tôi đem ra, mời mọi người cùng uống một chén cho dễ ngủ. A Lang không từ chối nốc liền mấy chén, cả giáo sư và An cũng uống cho ấm người để bình tĩnh lại. Rượu thấm, chúng tôi chia ca ra gác rồi nghỉ ngơi. Tôi và An sẽ gác ca đầu nên ngồi lại, còn lại ba người thì vào lều nằm. Vì mệt mỏi nên ai cũng lập tức ngủ ngay, chả mấy chốc trong lều vang lên nhưng tiếng ngáy đều đều an giấc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Bốn xác mất hai


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Tiếng ngáy trong lều không thể át đi tiếng côn trùng ban đêm, thi thoảng có tiếng cú mèo và một số loài chim lạ tôi chưa từng nghe kêu vang vọng đại ngàn, chuyến đi này không những không vui vẻ như đã tưởng tượng mà còn thập phần nguy hiểm. Tôi quơ quơ tay vào đống lửa, xoa xoa vào nhau rồi áp lên má cho ấm. An vẫn ngồi im, đầu hơi cúi xuống, mắt nhìn xa xăm suy tư, được dịp tôi ngắm cô ấy kỹ hơn. Con gái đẹp không phải là tôi chưa từng thấy, nhưng An có nét gì đó cuốn hút lạ kỳ. Đặc biệt là đôi mắt xanh long lanh ấy. Chợt thấy An ngẩng lên, tôi ngại quá ngó lơ đi chỗ khác, lấy tay bỏ thêm củi vào, rồi giả vờ hỏi chuyện cho đỡ buồn ngủ:

- Sao? Cảm giác giết một mạng người không vui vẻ gì phải không?

An cười dịu dàng, gật gật đầu đồng ý, trả lời:

- Vâng...

- Tôi cũng không ngờ cô bắn súng giỏi như thế, mà sao cô mang theo súng lại không nói cho bọn tôi biết trước?

- Tại em thấy cũng không cần thiết, và còn không nghĩ là sẽ cần dùng đến súng đạn làm gì. Hồi còn ở Tây, ba em thường xuyên làm việc chung với các tổ chức quân đội, chính phủ nên em hay đi theo và được học, những chuyện như vậy bên Tây xem là bình thường thôi anh. Còn anh với anh Lủ cũng giỏi quá ha!

Nghe An khen, tôi cũng phổng mũi, tỏ vẻ khiêm nhường:

- Uh, do ở nhà thầy cũng có dạy bọn tôi chút võ nghệ để phòng thân và khỏe mạnh. Phải rồi, sao khẩu súng của cô nhìn khác với của bọn thổ phỉ thế? - Nói đoạn tôi lấy cây súng dắt ở sau lưng đưa ra, lúc dọn thi thể bọn chúng, Lủ lấy một cây, cây còn lại đưa tôi, nó bảo để thủ thân, nhỡ đâu cần dùng đến.

An đưa tay lấy cây súng của tôi, cầm lên nhìn một lúc rồi nói:

- Đây là súng Mauser C96, còn được gọi là Pạc Họoc, loại súng này trước đây có hồng quân Liên Xô sử dụng nhiều trong cuộc nội chiến. Sau này Trung Quốc được viện trợ hoặc là nhập thêm, cá biệt có một số mẫu do Trung Quốc tự học theo và sản xuất lại, do máy móc tồi, làm thủ công nhiều nên rất hay hóc, trái hẳn với nguyên bản. Nó lai giữa súng trường và súng ngắn, nên nặng, khó cầm, tốc độ bắn cũng chậm.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Như chạm phải sở thích, An quên hết những chuyện vừa xảy ra, tiếp tục lấy khẩu súng của cô ấy để tôi xem rồi nói tiếp:

- Đây anh xem, khẩu súng này của em là loại mới hơn, kết cấu cũng khác, dùng cơ chế bắn bán tự động. Dòng súng này chưa nhiều người có đâu anh, sử dụng rất tốt đấy.

Tổ nhìn khẩu súng của An, nó màu đen hoàn toàn, trông có vẻ nguy hiểm hơn rất nhiều. An giải thích thêm:

- Đây là mẫu súng ngắn M1911 của nước Mỹ, là trang bị tiêu chuẩn của quân đội Mỹ từ năm 1911, được sử dụng trong các lực lượng đặc nhiệm, tinh nhuệ của Hải quân và Thủy quân lục chiến. Vì em rất thích súng, nên ba đã tìm cách mua cho em. Nếu anh thích sau này em sẽ nhờ ba em cho. - An nhiệt tình.

- Uh, tôi không cần đâu, mấy thứ này ít phải dùng đến thì tốt hơn cả.- Sợ An tiếp tục nói về súng đạn sẽ không may, tôi liền đổi chủ đề:

- Chuyến đi này theo cô có bao nhiêu phần trăm chắc chắn?

An trả lời:

- Về kho tàng hả anh? Em cũng không rõ lắm đâu, ba em xem việc nghiên cứu văn hóa lịch sử là sứ mệnh, cho nên việc tìm kho tàng không phải là mục đích chính, mà ông muốn chứng minh lại những ghi chép về lịch sử dân tộc Việt Nam thôi. Chỉ cần tìm thấy những dấu hiệu rõ ràng thì có thể gọi là thành công rồi, không nhất thiết cứ phải tìm được vàng bạc gì đâu. Anh có biết lịch sử nguồn gốc kho tàng này không?

- Hôm trước tôi có nghe giáo sư nói qua, có liên quan đến cuộc chiến tranh với nhà Tống phải không?

- Vâng, chính xác là cuộc chiến tranh biên giới Lý-Tống gần một nghìn năm trước, khoảng 1075-1076. Đây là cuộc chiến oanh liệt đi vào lịch sử, được ghi chép lại rất cụ thể rõ ràng. Lý Thường Kiệt lấy công làm thủ, huy động hơn 10 vạn quân sang đánh phá căn cứ Ung Châu của nhà Tống, bao gồm cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn quân của các thủ lĩnh dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Sau khi đánh phá các châu Khâm, Liêm các cánh quân Đại Việt tập trung lại để công phá thành Ung Châu. Cuộc công thành diễn ra suốt bốn mươi hai ngày với chiến thắng cho quân Đại Việt. Khi Ung Châu thất thủ quân Đại Việt giết hết dân trong thành, tổng cộng 5 vạn người. Lý Thường Kiệt ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống. Vì biết không thể nào ở lại giữ thành nên phía Đại Việt phải rút lui, mang theo kho tàng lớn của nhà Tống. Sử sách thì chép lại là để rút quân nhanh, Lý Thường Kiệt đã cho hủy kho tàng, nhưng nếu Tàng Cốc là có thật, thì đây chính là một phát hiện mang tính lịch sử vô cùng to lớn.

Tôi tập trung nghe câu chuyện lịch sử An kể mà cảm thấy hùng tráng vô cùng. Hóa ra để giữ vũng được bờ cõi Việt Nam hôm nay, ông cha đã đổ xuống không biết nhiêu xương máu. Lúc ấy tôi suy nghĩ đơn giản, quyết tâm phải tìm được Tàng Cốc, đem của cải về cho đất nước. Xong lại giật mình nghĩ đến thằng Lủ, xưa kia là tổ tiên mình và tổ tiên nó đánh lộn với nhau. Giờ kho tàng tìm được chắc nó sẽ bắt chia đôi không chừng. Vừa nghĩ vừa cười một mình, An thắc mắc, không biết vì sao nghe chuyện lịch sử như thế lại có thể ngồi cười vô tư như tôi, hết cách tôi ậm ừ cho qua chuyện:

- Không có, không có gì đâu, tôi nghĩ vu vơ thôi. À để tôi gọi A Lủ, A Lang dậy, đổi ca cho tôi với cô ngủ thôi.

Rồi không chờ An phản ứng, tôi chạy vào đá thằng Lủ và gọi A Lang dậy, riêng giáo sư vì ông có tuổi nên vẫn để ông nghỉ ngơi. An cũng theo vào, ca trực hoàn tất không có bất kỳ vấn đề gì xảy ra, tôi yên tâm nhắm mắt ngủ. Đang say giấc, tôi nhìn thấy có những bóng người vây kín khu trại, chĩa súng vào chúng tôi quát mắng om sòm bằng thứ tiếng kỳ lạ và khó hiểu, chúng bắn như điên dại vào chúng tôi, máu me văng tung tóe. Tôi vùng vẫy trong vô vọng, giật mình ngồi phắt dậy, hóa ra chỉ là ác mộng thôi. Vì gặp phải chuyện đêm qua mà thần hồn nát thần tính, mơ ngủ mồ hôi toát ra ướt hết người thật mất mặt. Lúc này trời đã mờ sáng, mọi người cũng thức hết rồi, tôi không nằm nữa mà bật dậy, ra suối rửa mặt rồi về ngồi với cả đoàn ở đống lửa. Thấy thằng Lủ đang cầm cái nanh heo đã được cột vào đoạn dây dù để đeo vào cổ, nó ném cho tôi:

- Cho mày này, đeo vào nhìn cho oách.

Tôi không cảm ơn, đeo luôn vào rồi nhìn cái nanh lúc này đã được sơ chế bằng lửa. Chắc A Lang chỉ cho nó. Nó cũng móc trong ngực ra một cái, dứ dứ đưa qua đưa lại, khoái chí cười hô hô, điệu cười như bọn thổ phỉ. Mà nhắc đến thổ phỉ, tôi nhớ lại giấc mơ lúc nãy, liền bảo:

- Hay ra xem chỗ bọn thổ phỉ hôm qua, rồi đào cái huyệt chôn xuống đi, dù gì người cũng đã chết, nghĩa tử nghĩa tận...

- Mày lại mua việc à, nếu hôm qua bọn nó bắn mày chết, chắc nó có chôn mày? Hô hô, thôi đi, thôi đi.

- Tao thì sao mà chết kiểu đó được, nghe tao đi, xem như làm một việc tốt Mập ơi.

Thấy tối cứ nài nỉ, nó cũng phải đồng ý chiều theo tôi, cả A Lang nữa, ba người chúng tôi cùng đi, giáo sư Minh và An ở lại thu dọn trại. Vừa đi tôi vừa lấy khẩu Pạc Họoc ra hỏi nó:

- Mày biết đây là súng gì không?- Tôi cười thầm, thằng này đời nào biết được, phen này cho nó lác mắt ra chơi.

- Mauser C96, còn được gọi là Pạc Họoc, loại súng này...- Nó trả lời trôi chảy.

- Thôi im đi, mày cũng khoe cho An xem rồi à?

- Hô hô! Định lòe ông à?

Thật mất hứng, nhìn cái bản mặt nó vênh vênh lên tôi tức không chịu được. Đang để ý nó, chợt thấy nó và A Lang dừng phắt lại, mặt mũi nghệch ra vẻ khó hiểu, miệng thì há hốc tròn vo. A Lủ chỉ tay về phía chỗ mấy cái xác, miệng lắp bắp:

- Mất...mất...mất mẹ hai...hai ông phỉ rồi.

Tôi hoảng hồn quay ra nhìn, thiếu mất hai cái xác thật. Như chưa tin vào mắt mình cả ba người cùng lao đến. Hôm nay mùi con heo rừng đã bớt hôi thối, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải bịt mũi lại. Hai cái xác tựa như bốc hơi, không để lại một dấu vết gì. Thật tà môn. A Lang nhìn ngó chung quanh thật kỷ một lúc lâu, lắc đầu nói:

- Không có dấu vết gì cả, là thú rừng tha đi hay chúng chưa chết đứng dậy lết đi cũng đều không có khả năng.

Sớm đã biết mọi chuyện không đơn giản như vậy rồi, tôi bảo A Lủ chạy về phụ dọn trại cấp tốc với giáo sư và An, đoạn bất lực cùng A Lang đào một cái hố nông, kéo xác hai tên thổ phỉ xuống rồi vội lấp lại. Khi quay về trại, mọi người cũng đã dọn dẹp xong. Trao đổi sơ qua với giáo sư về tình hình vừa xảy ra nhưng ông cũng lắc đầu không đưa ra được bất cứ ý kiến nào. Ai cũng quả quyết rằng bọn chúng đã chết, không thể nào sống sót được sau vụ va chạm đêm qua. Cả đoàn đành cùng thống nhất tiếp tục khởi hành, tìm đến hang động giáo sư đã thám hiểm trước rồi tính tiếp, chỗ này không nên ở lại lâu nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Hùm tinh Thập Vạn


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Men theo bờ suối để đi, có sự hướng dẫn từng trải của con sói đại ngàn A Lang, kèm theo trí nhớ của giáo sư trong lần thám hiểm trước. Sau nửa ngày chúng tôi tìm về được hang động lưng núi. Trước đây tôi và Lủ chưa được thấy hang động bao giờ, lúc gặp rồi thì tiu nghỉu, vì nó không giống trong tưởng tượng. Hang động này khá nhỏ, nhìn như một cái hốc giữa lưng chừng một ngọn núi đá. Cửa hang cách mặt đất khoảng mười lăm mét tây, chằng chịt dây leo, nếu không để ý thì không tài nào phát hiện được. Sườn núi này cũng khá thoải, không khó để có thể leo lên, sau khi cột đám ngựa, từng người thay nhau leo vào cửa hang. Bên trong hang rộng hơn, có thể đứng thẳng mà không sợ bị đụng đầu, tuy nhiên do thiếu ánh sáng nên không khí ngập mùi ẩm mốc. A Lủ không quen nên hắt xì hơi liên tục, tôi bảo nó ra phía cửa hang ngồi xem có đỡ hơn không, tiện coi lũ ngựa, và đặc biệt là để nó khỏi làm cái hang động nhỏ bé này thêm chật chội.

Chúng tôi được An đưa cho một số đèn pin đội đầu, loại chuyên dùng trong các hầm mỏ, rất thích hợp cho việc thám hiểm. An và giáo sư Minh đang rà soát lại, xem có manh mối nào sót lại trong hang động này không, vừa làm, ông vừa nói:

- Các mẫu vật còn lại lần trước đã thu dọn hết rồi, dường như không còn gì. Theo kết quả xét nghiệm tôi nhận được, dựa trên các mẫu giáp, binh khí sót lại, có thể khẳng định xác cổ lần trước đã biến mất ở đây có thể một vị tướng Đại Việt, thời nhà Lý. Giả thiết đặt ra như sau: trên đường rút quân từ Ung Châu, mang theo kho tàng của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã cho một đội quân tách ra, lo việc tìm cách chôn cất, mặt khác ông công bố ra bên ngoài là kho tàng đã bị hủy với lý do cần rút quân nhanh, không thể vận chuyển được. Do vậy, việc tồn tại của kho tàng sẽ không có nhiều người biết đến, kèm theo thời gian sau đó chiến sự liên miên, Đại Việt không chỉ phải đánh nhau với nước Tống mà còn chiến đấu với cả liên minh Tống – Chiêm – Chân Lạp, cho nên câu chuyện kho tàng Ung Châu cũng chìm sâu vào quên lãng. Đồng thời việc này cũng có thể lấy làm lý do giải thích tại sao nhà Lý, hay Lý Thường Kiệt không tổ chức các cuộc tìm, vận chuyển kho tàng về Đại Việt. Hơn nữa một người hầu như dành suốt cuộc đời của mình để chống giặc ngoại xâm, giữ vững bờ cõi như Việt quốc công - Lý Thường Kiệt thì hẳn ông biết rõ kết quả nếu như các cuộc tìm kiếm kinh động đến phía nhà Tống. Đổi kho tàng lấy sự bình yên của biên giới lúc bấy giờ mới là thức thời và vô cùng đáng giá.

Cả đoàn cùng tìm kiếm lại khắp hang động, đúng là không còn sót lại bất cứ thứ gì mang giá trị thông tin nữa. Họa đồ đã phai mờ, không thể phục chế được rồi, không nhẽ bây giờ đi dò dẫm từng mét đất, lật tung Thập Vạn Đại Sơn lên tìm? Tôi đã sớm thất vọng, còn giáo sư thì vẫn sôi sục nhiệt huyết ban đầu, ông tự tin bảo rằng, vị tướng của đoàn vận chuyển kho tàng tọa họa ở đây, có nghĩa là kho tàng cũng sẽ không xa nơi này. Dựa theo những câu thơ trên họa đồ, có thể xác định được kho tàng chắc chắn nằm trong lòng một dòng thác lớn. Giáo sư đang quả quyết thì có tiếng ngựa hí náo loạn, A Lủ hét vọng vào từ phía cửa hang:

- Ối Thiên ơi! Mau, xem ông phỉ...ông hổ cắn bầy ngựa.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tay cầm chắc cây đao, tôi và A Lang lao ra, theo hướng tay của A Lủ, chúng tôi nhìn thấy cảnh hết sức dị thường bên dưới. Lẫn trong đám cỏ cao tới bụng người, một con hổ lớn, đang cắn xé bầy ngựa như say máu cách chỗ chúng tôi khoảng vài chục mét. Con hổ này màu xám, vằn màu đen chứ không phải loại hổ vàng như tôi từng biết. Mà điểm dị thường tôi muốn nói đến, là trên lưng con hổ, có người đang ngồi, hơi cúi xuống như không thèm nhìn chúng tôi, mà người này chúng tôi không lạ. Chính là một trong bốn tên thổ phỉ đã chết, và lại là một trong hai tên mà tôi cùng A Lang chính tay đào lỗ chôn xuống sáng nay. Sao chuyện này lại xảy ra được...tôi nhìn qua A Lang, anh ấy cũng đang ngơ ngác như chưa hiểu gì. A Lủ thấy con ngựa của nó cưỡi bị cắn cổ đến chết liền sôi máu lên, rút khẩu Pạc Họoc ra bắn liên tiếp về phía con hổ, mặc kệ là hổ hay phỉ, nó cũng mặc kệ đám ngựa chung quanh, bắn được ba bốn phát thì bị kẹt đạn cạch cạch, nó bực mình cầm luôn khẩu súng đứng từ phía trên cửa hang ném mạnh về con hổ, miện chửi um lên: "Chết mẹ mày!". Cây súng rớt ngay trước mặt con hổ, nó cúi xuống hít hít, rồi ngẩng nhìn chúng tôi hằn học, rống lên những tiếng "uuum uuummmm, gruu...gruuu..." đầy tức giận. Rõ ràng là loạt đạn của A Lủ không thể gây ra uy hiếp gì đến nó. Tên thổ phỉ vẫn ngồi trên lưng hổ cúi mặt xuống bất động, tôi cũng tức mình rút súng ra định bắn thì An đứng sau khẽ nói:

- Để em...

Đoạn An lách người bước tới, lên đạn cho khẩu súng ngắn, nheo mắt nhắm kỹ, đoàng một phát, tôi thấy con hỗ hơi khụy chân trước xuống, có vẻ phát bắn đã trúng chân, nó gầm gừ nhìn chúng tôi, lui lại mấy bước như không cam lòng, rồi quay người cõng theo gã thổ phỉ biến mất vào rừng sâu. Lúc này tất cả mới trấn tĩnh lại, từ từ leo xuống. Lúc mải nhìn con hổ tôi không để ý, giờ mới thấy rõ, không biết do ăn ở thế nào mà hai con ngựa bị cắn chết lại là của tôi và A Lủ, tôi sợ phải đi bộ là một chuyện, sợ phải vác đồ là chuyện khác. Đồ đạc lỉnh kỉnh bây giờ phải chia đều ra năm con ngựa. A Lang vừa nói vừa chỉ tay:

- Men theo hướng kia sẽ có một ngôi làng Miêu, lúc đứng trên cửa hang cao tôi đã nhìn thấy khói bếp rồi. Đi đến đó có thể bổ sung ngựa.

- Ừ, cũng chưa tìm được gì, đến đó biết đâu dò hỏi được manh mối.- Giáo sư Minh đồng ý, cả đoàn liền khởi hành. Vì vừa gặp hổ, chúng tôi vô cùng cảnh giác, chia đội hình ra để đi. Tôi và A Lang đi trước, giáo sư ở giữa, cuối cùng là A Lủ và An. Vừa đi tôi vừa hỏi chuyện A Lang:

- Ở chỗ anh cũng có mấy ông hổ cõng người à?

- Cũng có là thế nào tôi không hiểu? Không lẽ ở chỗ anh thì có sao?- A Lang ngạc nhiên. Tôi thật thà kể tiếp:

- Cũng là một số chuyện ly kỳ tôi được nghe thầy tôi kể lại thôi, trước kia ở khu vực Long An gần chỗ tôi ở, có xuất hiện những giai thoại. Một trong những điều kì lạ nhất là nơi đây trước kia chỉ có rừng rú hoang sơ nên cọp, beo rất dữ dằn. Rồi có một sư thầy thấy đất ở đấy tốt, lại có bàu nước quanh năm trong mát nên chặt che, hái lá dựng ngôi chùa nhỏ để tu tập. Trước khi có ngôi chùa lá, mặc dù biết bàu nước này trù phú cá tôm nhưng người dân không ai dám đến đánh bắt, lấy nước. Cách xa hàng trăm cây số, vào những đêm thanh vắng, người dân đều nghe rõ tiếng gầm vang trời của cọp lớn. Các loài khác cũng tụ tập về đây uống nước, tắm táp nên cọp beo thường xuyên xuất hiện săn mồi. Tuy nhiên, sau khi có chùa, hùm beo nơi đây không những không gây hại mà còn im ắng. Thậm chí, chúng còn vào khuôn viên chùa nghe kinh Phật. Có hai con cọp một đực, một cái to lớn vào chùa nằm nghe kinh. Mỗi khi chùa tụng kinh lại thấy chúng dắt nhau về nằm ngoài sân nghe. Sau này, chúng không đi nữa mà ra góc chùa, chui vào bọng gốc cây củ chi khổng lồ ở luôn. Bây giờ, những dấu móng cọp cào vào thân cây, gốc cây khi chúng giỡn vẫn còn in trên gốc cây này và có một dấu in rõ năm móng cọp cắm sâu vào thân cây cao hơn đầu người. Vết này cứ lớn lên theo cây, đến giờ, nó lồi to ra, nhìn vị trí và dấu móng thì cũng có thể tưởng tượng con cọp to nhường nào. Ngoài chuyện li kì trên, thầy cũng kể giai thoại, cọp đực nửa đêm vào nhà bà mụ trong chùa, cõng bà này đi đỡ đẻ cho "cọp vợ". Cho nên tôi nghĩ cọp ở đây cũng thế. 

A Lang lắc đầu, tỏ vẻ không biết và không đồng tình với câu chuyện cổ tích của tôi. Thằng Lủ đi sau nghe thấy, nó cười:

- Hô hô! Mày bị ông già phỉnh rồi, làm mẹ gì có chuyện đấy. Hổ ở đây mà nghe kinh Phật thì đã không cắn chết con ngựa của tao rồi, mẹ nó!

Thấy nó bắt đầu tức tối chửi bậy, tôi hỏi vọng lại:

- Vậy còn chuyện nó cõng thằng thổ phỉ đã chết, mà chính tay tao chôn xuống, cả A Lang cũng làm chứng, thì mày giải thích thế nào?

Thật ra đây là câu hỏi rất lớn đang lởn vởn trong đầu mỗi người chúng tôi. Tôi hỏi nó cũng như hỏi đang cả đoàn. Đáp lời tôi vẫn là sự im lặng, không có lời giải thích nào cả, mọi người lại lầm lũi dong ngựa đi trong sự nghi hoặc. Cứ thế, đi được một lúc lâu A Lang bảo mọi người dừng lại, chỉ tay xuống dưới sườn dốc. Theo hướng đó, chúng tôi nhìn thấy một quả đồi trọc nhỏ, trong đầu tôi và Lủ cùng lóe lên một ý nghĩ: Đây chính là quả đồi trong câu chuyện của thầy tôi hai mươi năm về trước, cũng chính là nơi mà mẹ A Lủ bị rắn độc ma cắn phải vong mạng. Quay lại nhìn, nó khẽ gật đầu với tôi với vẻ mặt nghiêm túc, ra vẻ hiểu ý. Tôi kể lại ngắn gọn cho cả đoàn câu chuyện của gia đình Lủ, trừ giáo sư đã biết một phần từ thầy tôi, còn lại nghe rất chăm chú và đặc biệt để tâm đến chi tiết có tìm thấy nhiều dấu vết mũ giáp, binh khí của quân lính thời cổ. Tôi nói với mọi người:

- Nếu đây là ngọn đồi năm xưa, thì bản Mèo nơi chôn cất mẹ A Lủ cũng gần đây và khả năng là bản mà A Lang đã nhìn thấy lúc ở hang động. Vì cũng là một phần của chuyến đi, tôi đề nghị chúng ta nên dừng lại đây để xem xét trước.

Giáo sư và An đồng tình đầu tiên, gì chứ chuyện thám hiểm những di tích thế này không phải dễ mà gặp được. Tôi và A Lủ thì muốn tận mắt chứng kiến xem bọn rắn độc thực hư lợi hại thế nào, tiện tay có thể diệt hết bọn chúng để trả thù không, A Lang cũng cho rằng không thể di chuyển ngay đến bản trong đêm nên cả đoàn quyết định dừng tại đây, không dựng trai mà chỉ nghỉ ngơi một chút rồi cùng nhau thám hiểm ngọn đồi ngay trong đêm nay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Đồi chôn tử sĩ


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Buổi tối trời có trăng, khu rừng sáng lên màu vàng huyền ảo. Tối nay không đi săn nên chúng tôi ăn đồ hộp mang theo, tôi và Lủ ngồi hút thuốc như thói quen sau bữa ăn, nhìn trời đêm đầy cảm khái, chuyến đi dù nguy hiểm trùng trùng nhưng làm tôi kích thích vô cùng. Sau khi thấy nghỉ ngơi đã đủ, cả đoàn đứng lên, đi bộ băng rừng đến ngọn đồi trọc. Kiểm tra lại khí giới, A Lang dùng nỏ, có lên sẵn tên độc đầu bịt sắt. A Lủ chán Pạc Họoc rồi nên không dùng nữa dù trong súng vấn còn ba viên đạn, nó quyết định dùng hán đao, thứ vũ khí quen tay sở trường. Tôi và An vẫn dùng súng, đi ngay phía sau. Đoàn thám hiểm từng bước chậm rãi, nhẹ nhàng tiếp cận sườn đồi từng chút một, mà kể cả muốn đi nhanh cũng bất khả thi vì cây cối chằng chịt, ánh trăng sáng cũng không thể lọt qua được những tán cây cổ thụ ngàn năm rậm rạp tươi tốt.

Khi chỉ còn cách đồi trọc hơn ba trăm mét, gặp một con suối cạn, chúng tôi tạm nghỉ, lúc này giáo sư Minh mới đưa ống nhòm lên quan sát tình hình khu đồi trọc rồi ông nhận định chỉ cần băng suối có thể thoải mái tiến lên, bên kai suối đường đến ngọn đồi không có cây cối lớn, thậm chí cỏ dại cũng rất ít, bất chợt đang nói, ông dừng lại, quay qua ra hiệu giữ im lặng, rồi đưa ống nhòm cho An, cô xem xong thì vẻ mặt ngưng trọng, chuyển tiếp cho tôi. Không khó nhận ra điều đã làm A kinh ngạc, đến bản thân tôi khi nhìn cảnh tượng đó trong ống nhòm cũng vô cùng hoảng hốt, đến mãi về sau này nghĩ tới tôi vẫn không khỏi lạnh người. Đồ tây tốt thật, nhìn sự vật thông qua đó cứ như sát ngay trước mắt và rõ ràng từng chi tiết mà mắt thường không cách nào nhìn thấy, dù chỉ là dưới ánh trăng đêm mờ ảo. Đưa ống nhòm đến ngang lưng sườn đồi nơi gần khuất tầm nhìn của đoàn, tôi thấy con hổ xám vằn đen đang nằm phục ở đó, nó không ngừng cúi xuống liếm liếm thứ gì dưới đất, rồi lại liếm vết thương do đạn bắn ở chân trước lúc trưa nay. Đúng là oan gia ngõ hẹp, cả vùng Thập Vạn núi rộng lớn bao la như thế, chưa qua hết một ngày đã lại đụng mặt với nó. Mà kỳ dị hơn nữa, nguyên nhân chính làm tôi rùng mình chính là lúc nhúc bên cạnh nó, một đàn rắn đen đông đúc đang bò trường lên xuống, quấn quanh và cắn xé hai, ba xác chết. Ra là hồi trưa khi gặp hổ, còn cho nó là hùm tinh, biết cõng người, rồi tôi còn tưởng là bọn phỉ biết thuật trường sinh, đội mồ sống dậy nữa, thì ra do con hổ này bới xác cõng lên lưng, xác chết đúng thời điểm co cứng tử thi, nên chúng tôi mới được vinh dự chứng kiến cảnh ông hổ cõng ông phỉ chạy trong rừng đầy ma mị. Giờ thì hay rồi, xác bọn phỉ bị cõng về đây làm mồi cho rắn, thật khó hiểu thay, tại sao con hổ lại phải tìm thức ăn cho bọn rắn ma quỷ này. Thấy tôi cầm ống nhóm mãi, Lủ sốt ruột dựt lấy:

- Đưa tao xem nào.

Rồi cũng chẳng khá gì hơn tôi, vẻ mặt của nó trở nên căng thẳng cực độ, xong đâu đấy lại giãn dần ra. Nó không nhìn nữa mà quay qua bảo với chúng tôi với biểu cảm như vừa phát hiện ra chuyện gì lớn lắm:

- Ông hổ là đồng môn với tao mày ạ. Mày thấy không, nó cũng nghiện kia kìa. Đến cơn phải đi tìm đồ ăn cho bọn rắn để được vào liếm liếm cái thứ kia. Giờ tao mới thấy bỏ được thuốc phiện thật là đúng đắn, chứ không chắc tao cũng cõng mày lên đồi rồi ngồi liếm chung với ông hổ. Hô hô. Mà không biết cái con hổ liếm mùi vị thế nào, có thơm ngon không nhỉ, hay liếm xong có khi lại nhìn thấy tiên cô bay về không chừng. Hô hô.

Riêng lần này thằng Lủ bất chợt thông minh, phân tích một giả thiết vô cùng sắc bén. Bỏ qua những câu vớ vẩn về á phiện của nó, thì có lẽ không còn lời giải thích nào chính xác hơn cho chuyện hổ tinh cõng người, xác phỉ đội mồ mà chúng tôi đã gặp. Đến cả giáo sư cũng phải đồng tình với nó. Chúng tôi phải hội ý thật nhanh phương án, hoặc là quay về, hoặc tiếp tục tiến lên. Nếu tiến đến quả đồi thì phải đối đầu với con hổ nghiện, rồi còn bọn rắn ma đáng sợ kia mà chưa biết ẩn dấu những điều nguy hiểm gì nữa. Cuối cùng, ngoài A Lang không có ý kiến gì, thì chúng tôi không ai muốn quay lại. Mọi người súng nỏ sẵn sàng, A Lủ vẫn quyết cầm chặt cây đao của mình. Ngoài ra chúng tôi còn mang theo sẵn nhiều rượu mạnh và củi khô, dự định sẽ đốt sạch bọn rắn ma giữ mả. Lúc chúng tôi từ từ tiến đến, con hổ vẫn không hay biết, đúng kiểu như những con nghiện đang phê, chỉ khi khoảng cách còn lại tầm hai mười mét, nó như giật mình tỉnh lại, đứng lên nhìn chúng tôi với cặp mắt đỏ như máu, gầm vang một tiếng lao chồm lên tấn công. Không chờ đợi, tôi và An nhắm vào đầu nó, liên tục nổ súng, không phải mày chết thì tao chết thôi, tôi không nhân nhượng chút nào mà cứ cố nhắm vào đầu con ác thú bắn liên tục, cả An và tôi bắn hơn chục viên, đạn trong súng đã hết khóa súng kêu cạch cạch mà con hổ vẫn lao tới, nó bay chồm lên nhưng muốn vồ chúng tôi, A Lủ tay cầm chặt đao lao lên, lộn một vòng dưới đất căn đà nhảy con hổ chém mạnh, đường đao cắt ngọt một chân trước của con hổ, nó nằm phịch xuống đè lên A Lủ nó gượng 1 chân đứng dậy, há miệng định táp Lủ, chúng tôi không kịp trở tay, đành giương mắt đứng nhìn, tôi thầm than phen này thằng mập đi đời rồi, bỗng đâu nó đổ ập xuống, bất động. Tôi và A Lang chạy lại, tìm cách vật con hổ ra để A Lủ khỏi bị đè đến tắt thở, may mắn nó không sao, lồm cồm ngồi dậy thở hồng hộc. Khi vần xác con hổ, tôi thấy có một mũi tên găm vào ngay vùng da phía sau chân trước một chút. Có lẽ đây mới là nguyên nhân chính khiến con hổ bị chết chứ không phải do đạn của tôi hay An, dù trên đầu nó cũng có một hai vết đạn, nhưng có lẽ cũng không kết liễu được nó ngay. Về sau tôi mới biết không phải cứ bắn vào đầu là chết, mà thú rừng có những điểm yếu đặc biệt, nếu bị bắn trúng chúng sẽ ngã gục ngay lập tức. A Lang ngắn gọn:

- Trúng tim.

[Diendantruyen.Com] Ung Châu Tàng Cốc


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Kéo A Lủ đứng lên, chúng tôi cũng không có thời gian nói chuyện phiếm nữa mà lập tức dùng củi khô và rượu dựng một phòng tuyến chặn bọn rắn đang hướng chúng tôi trườn dần tới. Đúng là loài rắn này sợ lửa, không dám bò đến sát đám lửa. Tuy nhiên số củi mang theo có hạn, phòng tuyến đâm ra quá mỏng manh. Trong khi chúng tôi đã lầm, số lượng rắn đen kéo đến ngày càng nhiều, có khi lên tới hàng ngàn con, không tài nào đếm hết được... hết cách, chúng tôi buộc phải quay đầu chạy. Chạy một đoạn thấy giáo sư Minh vẫn đứng như trời trồng mặc cho An cố hét gọi: "Ba, ba đi mau!", tôi đã nghe câu chuyện của thầy gần như thuộc lòng nên vội cùng Lủ quay lại, cõng phắt giáo sư lên lưng, dắt nhau chạy băng qua suối cạn, chạy mãi cho đến khi chắc chắn lũ rắn không đuổi theo nữa mới dám dừng lại thở. Đếm đã khuya, sương xuống nhiều hơn nên ngay khi giáo sư đã tỉnh táo trở lại, cả đoàn chấp nhận về chỗ cột ngựa, đốt lửa và căng tạm lều để ngủ. Hôm nay đã gặp quá nhiều chuyện xảy ra rồi, dù là ai có thần kinh thép cũng phải căng thẳng đến tột độ, nếu như không được nghỉ ngơi chỉ có nước đứt dây thần kinh mà chết hoặc trở nên phát khùng.

Vẫn giữ ca trực như mọi hôm, tôi và An ngồi nói chuyện linh tinh trong lúc gác. Cũng may bọn rắn không đuổi theo xa, đúng như chuyện thầy kể, tôi cho rằng bọn chúng không rời khỏi quả đồi trọc, chỉ tập trung làm nhiệm vụ thiên mệnh được giao là bảo vệ thi thể những chiến binh. Tuy nhiên bọn chúng chấp hành nhiệm vụ một cách thái quá, dường như đã trở nên giống bọn tư bản nhà giàu thích bóc lột tầng lớp lao động rồi, bằng chứng là dùng chất kích thích sai khiến con hổ xám phải nai lưng ra đi tìm thức ăn nuôi chúng nó. Tôi hỏi An:

- Mà cô nghĩ xem bọn rắn đông như thế kia, bao nhiêu ông hổ mới nuôi được chúng nó?

An chỉ cười trừ, tôi cũng thấy mình hơi lỡ lời. Một là An sinh ra bên Tây, có thể nói cô cũng đại diện cho chủ nghĩa tư bản, nên bị tôi nói đến đỏ cả mặt mà không dám cãi lại, chuyện thứ hai tôi thấy mình nói xằng nói bậy chính là nhỡ không chỉ có một ông hổ, thì thôi rồi có phải chúng tôi quá đen đủi. Rồi tôi tự nói tiếp:

- Xin lỗi cô, nói chơi cho có chuyện thôi, đừng để bụng.- Vừa xin lỗi An, vừa lắc đầu cười tự trấn tĩnh bản thân mình, tự dặn lòng về sau đừng có rảnh miệng nói bậy bạ nữa. Chẳng may còn có hổ khác thật....không dám nghĩ tiếp, nhìn lên An đã tựa vào gốc cây ngủ gục tự khi nào. Có lẽ do mệt mỏi quá, nên tôi cũng không đánh thức cô, quyết tâm ga lăng ngồi gác một mình. Mồi một điếu thuốc hút cho bớt buồn ngủ, tôi thả khói bay vào rừng đêm, trong đầu suy nghĩ cách diệt bọn rắn, nghĩ mãi cũng không có kết quả gì, một vài con còn có thể, đằng này cả ngàn con như một đội quân quả thật khiến cho người ta tuyệt vọng.

Cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi, đâu đó văng vẳng giữa rừng bỗng có tiếng người vang lên trong đêm khuya với cung bậc cao vút:

"Nam quốc sơn hà, nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"

Sau đó lặp đi lặp lại: "Nam quốc sơn hà, nam đế cư, nam đế cư, cư cư cư cư..." rồi im bặt. Tôi còn tưởng mình mơ ngủ hay căng thẳng quá mà nghe nhầm. Tôi lay An tỉnh lại hỏi, thì cô ấy nói xin lỗi đã ngủ quên, không nghe thấy gì cả, sợ có chuyện không tốt phát sinh, tôi gọi mọi người dậy thông báo tình hình. Ai dè thằng Lủ làu bàu, nói tôi mơ ngủ, rồi bảo tôi đi ngủ đi, để nó đổi ca cho. Dù ấm ức nhưng đúng là mắt đã chùng xuống rồi, tôi cũng không cãi thêm câu nào, im lặng mà đi ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Người đọc thơ thần


Trước mắt không thể tìm ra cách nào để diệt trừ đám rắn trên đồi trọc, chúng tôi đành phải bỏ qua nó mà đi về bản Mèo. A Lủ dù hồi hộp được thắp nén nhang cho mẹ vẫn không quên nói cả đoàn chờ một chút, nó rủ A Lang quay lại chặt đầu và chân con hổ xám, xách theo bên người, chắc nó cũng dự định cậy nanh và móng, sau này về bán lại ở Chợ Lớn kiếm bộn bạc. Tôi chỉ lắc đầu nhìn nó, giang sơn dễ đổi bản tính thì khó dời. Cũng may nó và A Lang đi nhanh về nhanh, không có chuyện gì xảy ra cả, nó nói ở trên đồi trọc, ban ngày bọn rắn hình như không hoạt động, chỉ trốn trong hang hốc, nó còn lấy về được một số mảnh giáp rỉ sét được cho giáo sư Minh xem như bằng chứng. Ông cầm lấy, lật qua lật lại xem rồi gật gù:

- Có thể nhìn ra kiểu giáp của binh lính nhà Lý. Đây có lẽ là bình đoàn vận chuyển kho tàng ngàn năm trước của Lý Thường Kiệt. Đoàn quân này vì sao lại chết ở đây xem ra còn cần phải tìm hiểu kỹ, nhưng ít nhất chúng ta đã đến gần kho tàng hơn rồi. Tạm thời tôi nghĩ nên bỏ qua việc này, đi tới bản Mèo xem có thêm thông tin gì không rồi tính tiếp.

Nói đoạn cả đoàn khởi hành theo hướng khói bếp bản Mèo, vừa đi vừa mở đường nên mãi chiều tối mới đến nơi. Bản nhỏ hiện ra dưới sương mù mờ ảo, làm tôi cảm thấy bình yên đến lạ lùng. Ngót nghét đã hơn chục ngày lang bạt trong rừng rậm chập trùng, nay mới nhìn thấy cảnh cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người sao mà thất thiết đến vậy. Nhìn thấy chúng tôi cưỡi ngựa đến, mấy đứa nhỏ hiếu kỳ đang chơi ở sân bản chạy ra, dùng con mắt tròn vo đen láy nhìn soi mói, rồi khi chúng nó thấy đầu hổ xám treo trên con ngựa của A Lủ thì hét lên sợ hãi, kéo nhau chạy tuột vào trong nhà. A Lủ cười cười ra vẻ oai phong lắm. Được một lúc, người lớn trong bản cũng kéo ra, có một ông lão cao tuổi, râu tóc bạc phơ nhưng thân thể còn rất tráng kiện, đặc biệt là đôi mắt tinh anh làm tôi nghĩ ngay đến những vị già làng đạo hạnh, ông ấy hỏi bằng thứ tiếng bản địa, đại ý chúng tôi là ai, đến bản có việc gì. A Lang có thể hiểu được nên trở thành thông dịch viên và phát ngôn viên cho cả đoàn. Sau khi biết được câu chuyện và mục đích của cả đoàn là thám hiểm rừng hoang, đặc biệt là nhìn thấy đầu hổ xám, họ liền mời chúng tôi đến nhà chung của bản để nghỉ ngơi. Để lại giáo sư Minh và A Lang ngồi nói chuyện, tôi xin phép rồi rủ Lủ cùng An đi tìm chỗ tắm rửa, lang thang trong rừng mãi, giờ mà soi gương có lẽ không còn nhận ra mình nữa rồi. Mặt mũi ai cũng lấm lem, tóc tai bù xù như ăn mày thật lếch thếch. Được dân bản chỉ cho con suối gần đó, chúng tôi dẫn nhau đi. Nhường cho An tắm trước, tôi cùng Lủ ngồi trên bờ canh. Nó bảo lúc nãy đi quên không mượn giáo sư cái ống nhòm, mà không biết trời tối nhòm có thấy gì không, rồi nhìn tôi cười hô hô đầy tà ý. Đang mải bốc phét với nhau, tôi lại nghe có tiếng vang lên trong rừng thẳm:

"Nam quốc sơn hà, nam đế cư, nam đế cư cư ư ư..."

Tôi liền kinh hãi hỏi A Lủ:

- Đấy mày có nghe thấy không mập?

- Có, tao có điếc đâu!

- Không lẽ có người đi theo bọn mình à, mày biết ý nghĩa câu nói đó không? - Tôi lại hỏi.

- Chịu, nghe giống tiếng Việt, mà nó đọc cái mẹ gì vậy?

- Bình thường mày lười biếng không chịu học nhiều, đây là một câu bài thơ Nam quốc sơn hà của dân Đại Việt đó, thầy từng dạy tao rồi. Thật là kỳ quái, không lẽ có người của Lý Thường Kiệt còn sống tới bây giờ hay là hồn ma tử sĩ đi theo ám tụi mình mãi vậy.

Rồi thấy An đã lên, tôi hỏi cô:

- Cô có nghe thấy không, giống y như tiếng hôm qua tôi đã nghe mà, lúc đó thì chẳng ai tin, giờ A Lủ cũng nghe thấy đây.

- Em có nghe...nên sợ có chuyện e mới lên đây. Thôi hai anh tranh thủ tắm nhanh đi rồi về bản.

Chờ mỗi thế, hai thằng tôi lao xuống suối ngay lập tức. Nước suối ở đây trong vắt, mát lạnh làm bao nhiêu mệt nhọc những ngày qua như tan biến, hai thằng bơi qua bơi lại thỏa thích một lúc mới chịu lên bờ về bản. Về đến nhà chung, chúng tôi leo lên bậc thang và bước vào. Căn nhà khá rộng rãi và thông thoáng, căn nhà bài trí đơn sơ, giữa gian nhà có bếp lửa nhỏ, ánh sáng hắt lên trên tường nơi treo những đầu hươu nai, cung nỏ như chứng tích của những thợ săn trong bản. Già làng đang ngồi đó trò chuyện cùng giáo sư và A Lang, chúng tôi tiến đến chào hỏi, rồi A Lủ đưa cho già làng gói thuốc lá, nhờ A Lang hỏi giúp chuyện của mẹ nó năm xưa. A Lang vừa hỏi đến đâu, mắt ông lão sáng ra đến đó như đã nhớ lại câu chuyện, thì ra già làng cũng chính là thầy mo của bản năm nào. Ông nói có nhớ chuyện đó, và bảo cả đoàn cứ yên tâm nghỉ ngơi, cơm nước xong sẽ dẫn chúng tôi đi thăm nơi chôn cất mẹ A Lủ.

Trong bữa ăn mọi người cũng trò chuyện với nhau nhiều hơn, rượu lá của bản làm chúng tôi cảm thấy lâng lâng dễ chịu, thì ra nguyên nhân chính để được sự hậu đãi của bản Mèo này chính là việc A Lủ mang theo đầu hổ xám. Con hổ này cũng thường bắt người của bản, mà thợ săn bất lực không có cách nào để diệt trừ, thành ra A Lủ trở thành người hùng của bản. Rượu vào nó bốc đồng lên, lấy luôn cây đao của tôi nữa rồi bước ra múa bài Bát trảm Vịnh Xuân Đao và nhận được sự hoan hô nhiệt liệt của mọi người, đặc biệt là các cô gái trẻ trong bản, nó vui lắm, uống rượu liên tục như nước lã đến ngủ gục trên sàn. Văn hóa dân bản là vậy, nếu không nhiệt tình với sự tiếp đón của họ, sẽ bị coi là khinh thường cả bản, đến lúc ấy thì khó có thể ăn ở cùng nhau. Tôi vừa ăn uống, vừa cùng trò chuyện với mọi người, già làng nói họ có biết khu đồi ma, và xem đó như một khu vực cấm địa, vì trước đây cũng có nhiều người từng bị rắn cắn mà vong mạng rồi, ông cũng muốn diệt trừ bọn rắn độc, nhưng lực bất tòng tâm, hơn nữa dù đông nhưng bọn rắn không ra khỏi đồi trọc bao giờ, cho nên rồi cả bản cũng mặc kệ chỉ cảnh báo nhau tuyệt đối không được bén mảng tới gần. Giáo sư tranh thủ dò hỏi xem quanh đây có thác nước nào hay không, câu trả lời nhận được là cũng có hai cái thác lớn, dân bản vẫn không biết mục đích thật sự của chuyến đi nên muốn cho người dẫn chúng tôi đến xem thác nước, với lý do không muốn làm phiền mọi người và đã có A Lang dẫn đường, nên giáo sư chỉ hỏi hướng đi rồi cảm ơn vì đã nhiệt tình hỗ trợ.

Đến tối muộn, tôi gọi A Lủ tỉnh dậy rồi cả đoàn theo già làng đi đến nơi chôn cất mẹ nó. Đối với tôi mà nói, thì bà cũng là sư mẫu trên danh nghĩa nên tôi đi cùng thắp nhang cho bà là chuyện phải làm, còn người khác muốn đi theo chủ yếu vì tỏ lòng thành kính với người đã khuất và phần nào muốn cầu xin sự bình an cho cả chuyến đi trước mắt. Lúc tôi và A Lủ quỳ xuống thắp nhang vái lạy, già làng cảm khái nói mới ngày nào A Lủ còn được bế trên tay, nay đã trưởng thành rồi, thời gian trôi qua thật là mau chóng. Đúng lúc này, ngay chỗ chúng tôi lại vang lên tiếng người quái dị nọ: " ư ư ư, Nam quốc sơn hà, nam đế cư, nam đế cư cư ư ư...", mà lần này tiếng nói vọng lại rất gần như ngay sát bên. Cả đoàn hoảng hốt đưa mắt tìm kiếm nhưng không thể xác định được giọng nói từ đâu phát ra. Lúc ấy già làng mới giải thích rằng đây là tiếng một loài chim rừng, đặc biệt chỉ có ở khu vực này thôi. Họ không hiểu được tiếng Việt, nên không tài nào biết được ẩn tàng trong đó là cả một câu chuyện dài ly kỳ gần một ngàn năm lịch sử. Lúc này chúng tôi mới vỡ lẽ ra và có đáp án cho nghi hoặc suốt mấy hôm nay.

Tối đến cả đoàn được tự do nghỉ lại nhà chung của bản. Lúc này giáo sư mới thích thú nói về giả thiết loài chim rừng đọc thơ được nuôi dạy bởi đội quân của Lý Thường Kiệt. Ông giải thích thêm, Nam quốc sơn hà là một bài thơ Hán văn thất ngôn tứ tuyệt không rõ tác giả. Đây là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, khẳng định chủ quyền của nhà cầm quyền Đại Việt trên các vùng đất của mình. Bài thơ được cho là bài thơ thần, do thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1075-1076. Người phương Bắc coi Đại Việt như một thuộc địa, chỉ phong vương cho chứ không cho xưng đế, vậy nên bài thơ là sự khẳng định sự tự chủ của dân tộc Việt Nam. Cụ thể hơn trong cuộc chiến của Lý Thường Kiệt, khi ông lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa.

- Nếu loài chim này được dạy đọc thơ và còn tồn tại đến giờ suốt một ngàn năm thì quả thật đầu óc người xưa chính là thiên tài, bởi con người vì hoàn cảnh mà nhiều khi không dám phát ngôn những chân lý, còn động vật giống như các máy hát bây giờ, có gì thì đọc đó thôi. Hơn nữa việc dùng loài chim này phát thanh bài thơ thần, gây ra được các hiệu ứng cực mạnh về tinh thần, vừa cổ vũ cho quân Đại Việt, vừa dùng nó hù dọa, làm suy sụp tinh thần quân binh nhà Tống, thật là một độc chiêu vô tiền khoáng hậu.

Giáo sư vừa giải thích vừa tấm tắc khen làm tôi cũng cảm thấy ông cha mình năm xưa đã dụng binh thật tài tình, đến những cách đánh trận như vậy cũng nghĩ ra và triển khai được một cách hiệu quả thần thánh. Cả ngàn năm qua rồi, loài chim này đã tồn tại và sinh sôi khắp vùng rừng núi Thập Vạn Đại Sơn, đọc vang bản tuyên ngôn một cách hào hùng và đầy nhiệt huyết như nhắc nhở bất cứ kẻ nào dám mạo phạm đến bờ cõi của Đai Việt đều sẽ chỉ nhận được kết cục bi thảm mà thôi. A Lủ không mấy yêu nước như vậy, nó rủ A Lang:

- Lúc nào có dịp anh với tôi tìm bắt một con, về bán kiểu gì cũng dư tiền mua thuốc hút cả năm đó. Hô hô!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Đường vào Tàng Cốc


Sau một đêm nghỉ ngơi yên tĩnh tại nhà chung của bản Mèo, cả đoàn chúng tôi đều cảm thấy hưng phấn, sức khỏe cũng như tinh thần đều được phục hồi lại trạng thái đỉnh cao như sẵn sàng cho những bước đi sắp tới. Để cảm ơn già làng đã cho tá túc, chúng tôi tặng mọi người nhiều muối trắng và thuốc lá. A Lủ không tiếc tay, tặng lại đầu hổ xám để treo trong nhà chung, nó tự quyết định giống như con hổ này là của nó, do nó giết được không chừng. Đồng thời giáo sư ngỏ lời muốn mua hai con ngựa để chở đồ đạc thay cho số bị hổ cắn hai hôm trước và được dân bản nhiệt tình đáp ứng. Theo lời già làng, có hai ngọn thác trong vùng này, thật may là cả hai đều cùng một hướng, đỡ tốn thời gian đi lại rất nhiều. Do tâm lý thoải mái, chúng tôi băng rừng khá nhanh, chẳng mấy chốc đã đến thác nước thứ nhất. Ngọn thác này khá lớn, tuy nhiên nước chảy không quá siết mà dàn trải ra và đổ xuống hạ lưu tạo nên một màn nước bạc. Chung quanh thác nước thông thoáng, cây lớn cũng không nhiều nên chúng tôi thoải mái tìm kiếm nửa ngày, cuối cùng cũng không phát hiện được gì, nghĩ cũng đúng thôi, nếu như cửa vào kho tàng dễ kiếm như thế, thì sớm đã chẳng còn gì sau suốt ngàn năm qua, vậy nên đoàn chúng tôi tiếp tục băng rừng nhắm hướng tới ngọn thác thứ hai.

Càng ngày đường đi càng khó khăn và hiểm trở, cho đến khi nghe được tiếng thác nước đổ ầm ầm từ xa thì đã không thể cưỡi ngựa đi tiếp mà phải chia nhau hành lý mở đường vượt rừng hoang mà xuống chân thác. Khi nhát dao cuối cùng chặt đứt những sợ dây leo dày đặc, thác nước hùng vĩ cao cả trăm mét hiện ra trước mắt chúng tôi. Trong ánh hoàng hôn, sương mù do thác đổ xuống tạo nên những ánh xạ cầu vồng tuyệt đẹp. Tuy nhiên dưới cân những cầu vồng đó là một xoáy nước hun hút, chảy xiết vô cùng, làm cho bất kỳ ai nhìn thấy cũng phải choáng váng mặt mũi, kinh sợ trước sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Ngoài xoáy nước, khu vực thác nước đổ xuống khá rộng, áng chừng vài chục mét, báo hiệu việc tìm kiếm lần này sẽ thực sự mất thời gian và công sức.

Do khu vực thác quá rậm rạp, quá trình thám hiểm không suôn sẻ như dự tính. Hai bên bờ thác không thể di chuyển sát mép nước. Muốn lục lọi khu vực này chỉ có thể dùng cách bơi xuống vùng xoáy nước ngay chân thác mà thôi. Tôi đề nghị mặc áo phao, cột dây thừng vào người rồi chia ca lần lượt từng người gồm A Lang, tôi, A Lủ sẽ xuống nước. Người ở trên bờ tranh thủ chặt cây cối tạo một khu vực thoáng để dựng trại rồi đốt lửa để sưởi ấm sau khi bơi lặn dưới nước. Cả đoàn nhanh chóng đồng ý, tôi sẽ tìm kiếm lượt đầu tiên, mặc chiếc áo phao mỏng, đội đèn pin thám hiểm, cố định chắc chắn dây thừng để bắt đầu xuống nước. Lộ trình tìm kiếm trước tiên là bơi vòng các bờ vùng vực thác. Suốt mấy tiếng đồng hồ cố gắng lùng sục không có kết quả, kèm theo trời đã về khuya. Tôi lên bờ dừng lại việc tìm kiếm, ngày mai sẽ tiếp tục vào buổi sớm, tôi nhận thấy càng ngày mình càng dị ứng với trời đêm trong rừng thẳm đại ngàn này rồi.

Hôm sau đến A Lủ tiếp tục công việc, nó tìm kiếm không mấy nhiệt tình, làm mọi người ở trên ai cũng sốt ruột. Phần nữa vì nó hơi mập mạp, bơi lặn không nhanh nhẹn được như lúc trên bờ. Không ngoài dự đoán của mọi người, nó cũng chẳng tìm được tý gì giống như một lối vào mà mọi người đang mong mỏi. Khi A Lang xuống nước, chúng tôi mới cảm thấy được sự khác biệt giữa thợ săn rừng núi và những con người thành phố như tôi, anh ấy ngụp lặn trong dòng nước giống như loài rái cá, tốc độ gấp đôi gấp ba chúng tôi, cũng may chuyến đi này có A Lang dẫn đường, nếu không khó có thể đến được đây dù chỉ một bước ngắn. Đang nhìn A Lang bơi lội, tôi chợt phát hiện ra có gì không ổn, ngay phía sau anh ấy có gợn nước nổi lên bất thường. Định thần nhìn kỹ lại, một vệt đen ngoằn ngoèo uốn lượn đang trườn tới. Tôi hét lên đầy kinh hãi:

- Cẩn thận!!!

Đoạn hối A Lủ và An phụ một tay kéo A Lang vào bờ cấp tốc. Lúc này A Lang còn chưa kịp hiểu ra chuyện gì, bị chúng tôi kéo dây thừng nên vùng vẫy tứ phía, trong lúc quay cuồng ấy, anh kịp nhìn thấy một con trăn lớn đang lao về phía mình. Nó ngóc đầu lên khỏi mặt nước rồi cắn về phía A Lang, nhanh như chớp, A Lang cũng lặn người xuống để né tránh. Có vẻ con trăn đớp hụt phải sợi dây thừng, nó cuộn người lại, cuốn luôn vào sợi dây thừng khiến tôi bị hụt đà kéo trên bờ, ngã chúi người về phía trước. May mắn A Lủ nhanh tay, kéo tôi lại được, lúc này giáo sư cũng đã lao đến phụ kéo dây thừng. Bốn người dùng hết sức giằng co với con trăn lớn mà vô cùng vất vả. Chúng tôi trước hết phải cột cố định sợi dây thừng vào một gốc cây, rồi từng tý một vận sức kéo vào, sợi dây căng cứng chìm sâu xuống làn nước xanh thẫm., rồi thi thoảng lại trồi lên mặt nước, phía đầu dây vẫn là A Lang đang cố vật lộn trong nước với một con trăn lớn cuốn quanh người. Rồi con trăn kéo A Lang hụp xuống rất sâu, thấy mặt nước nổi lên những trận bọt khí, tôi liên tục động viên mọi người phải cố lên, nếu không A Lang có thể bị ngạt nước mà chết. Đang lúc lo lắng, mặt nước bỗng loang lỗ màu đỏ của máu rồi theo bọt khí A Lang đã nổi lên, trên tay anh cầm con dao săn ra hiệu chúng tôi đã ổn rồi, mau kéo anh ấy vào bờ. Tôi bỏ thêm củi vào đống lửa để A Lang sưởi ấm, anh ấy kể lại rằng con trăn nước khá dài, có lẽ hơn năm mét, lúc nó cắn trượt, liền từ sợi dây cuốn đến anh, may thay còn có con dao đi rừng bất ly thân, một tay anh ấy cố túm lấy cổ con trăn, gồng hết sức không cho nó cắn mình, một tay rút dao ra, cảm giác lúc này cơ thể đã bị xiết chặt đến cực hạn, các khớp xương đã bắt đầu kêu răng rắc. Dùng hết sức lực cuối cùng, trong lúc vật lộn dưới nước anh đã cắt được cổ nó, ngay yếu huyệt, lúc này nó mới chịu chết mà buông tha anh ấy, dần dần thả lỏng cơ thể A Lang ra rồi chìm sâu xuống vực thác đen ngòm. 

- Trong lúc vật lộn với con trăn và bị nó kéo chìm xuống nước, tôi có nhìn thấy phía dưới mép nước có một hốc lớn đen kịt không thể nhìn rõ, rất có thể là cửa của một hang động ngầm. - A Lang nói thêm.

Lúc này ánh mắt cả đoàn tràn ngập tia hy vọng, đã tìm được đường vào kho tàng rồi thì mọi thứ trở nên đơn giản hơn rất nhiều. A Lủ thì lo lắng không biết kho tàng bị ngập nước bao nhiêu năm liệu có còn gì không, việc này cũng rất có khả năng xảy ra. Các duy nhất để kiểm chứng là phải một lần nữa lặn vào hang ngầm để khám phá. Vì A Lang vừa trải qua cơn hiểm nghèo, nên tôi quyết định sẽ tự mình lặn vào hang động đó. Tôi thống nhất nếu mọi người thấy tôi dật dây ba lần nghĩa là có nguy hiểm phải lập tức kéo tôi trở lại. Còn nếu kéo dây một lần nghĩa là không có gì xảy ra cả, tôi vẫn ổn. Bơi đến hướng A Lang chỉ, hít một hơi thật sau rồi rôi lặn xuống, trên đầu có đội đèn pin chuyên dụng, tuy nhiên dưới làn nước đục, ánh sáng không thể chiếu xa được, cái hốc vẫn chỉ có một màu đen huyền bí. Tôi lặn sâu vào trong hốc, ánh đèn pin chỉ chiếu được một khoảng ngắn chưa đầy hai mét làm tôi chỉ biết tiến tới theo quán tính, ngay khi gần hết hơi, trước mặt tôi hiện ra một vài bậc thang chìm trong đáy nước, đây chính là bậc thang đá, có dấu vết đục đẽo rõ ràng của con người không thể sai được. Hai tay lần mò theo từng bậc, bỗng có cảm giác người đã trồi ra khỏi mặt nước, tôi đã đứng hẳn trên bậc cuối cùng, đèn pin lúc này đã phát huy công dụng tốt hơn lúc dưới nước. Tuy vậy trước mắt tôi vẫn là đường hầm tối đen không thể thấy được đầu cuối.

Dù kinh ngạc trước phát hiện của mình, tuy nhiên tôi không dám khinh thường mà hành động đơn lẻ liền dựt dây báo hiệu cho mọi người biết mọi việc vẫn ổn, tôi tìm cách cột lại đầu sợi dây vào một mầm đá chỗ đầu bậc thang rồi lần theo sợi dây quay ra ngoài. Lên tới bờ, tôi thuật lại cho mọi người nghe phát hiện mới. Giáo sư mừng rỡ ra mặt, động viên chúng tôi rằng đã đến được kho tàng, mọi người nên ngay lập tức tiến vào. Rút kinh nghiệm từ những biến cố trước, tôi yêu cầu mọi người chuẩn bị hành trang thật chu đáo, mang theo những gì cần dùng nhất, bỏ vào các ba lô hành quân chống thấm, một lần nữa ăn uống thật no trước khi bắt đầu tiến vào động ngầm dưới nước.

Sau đó do có sẵn dây thừng cố định hai đầu, mọi người không mấy khó khăn để đến được hang động. Duy chỉ có giáo sư vì tuổi cao nên hơi yếu, phải cố gắng lắm mới lặn qua hết được đoạn hang ngập nước. Khi tất cả mọi người đã vào tới và lên hết các bậc thang, chúng tôi dùng đen pin soi thật kỹ chung quanh, tìm hiểu xem rốt cuộc có gì trong hang tối. Đèn pin vẫn không thể chiếu tới nóc hang động, do vậy ít nhất nó phải cao vài chục mét. Tuy cao nhưng thành hang lại khá hẹp, có chỗ thì trơn tru như được chỉnh sửa bởi sức người, cũng có chỗ lồi lõm giống như tự nhiên sinh ra đã vậy. Giáo sư nhận định:

- Hang động này hình thành tự nhiên, sau mới được đội quân vận kho tàng sửa chữa lại làm chỗ cất dấu. Mọi người xem, có mầm đã nhô lên cao như thế này, phải biết rằng nhũ đã cao lên với tốc độ chỉ chưa tới một phần năm phân một năm mà thôi. Nhìn cái này xem, hang động này đã hình thành trên dưới năm bảy ngàn năm là ít.

Ông vừa nói vừa chỉ tay vào những nhũ đã lởm chởm bên vách hang, có cái cao cả gần một mét. Khoan hãy nói vì sao người xưa có thể phát hiện hang động này, nội việc vận chuyển và cải tạo hang động đã là một kỳ tích, rồi ông hối thúc chúng tôi nhanh chóng tiến lên khám phá. Lần mò trên nền đá rêu bám ngàn năm, cả đoàn chầm chậm tiến về phía trước, đi được khoảng vài trăm mét, đang nghĩ thầm không biết hang này dài bao nhiêu, thì A Lủ đi đầu dừng lại hỏi chúng tôi:

- Có tiếng nước đổ xuống như thác nước vậy, không lẽ còn một cái thác khác trong đây à? Thác trong thác, cái này mới hay này. Hô hô.

Chúng tôi cũng im lặng, lắng nghe, khi không còn tiến chân người vang vọng trong hang thì quả đúng là có tiếng thác đổ. Cứ mỗi bước tiến lên tiếng thác càng lớn hơn. Cho đến khi nghe thấy ầm ầm đinh tai nhức óc thì chúng tôi đã ở trên bờ một khoảng không vô cùng rộng lớn nhựng vẫn tối đen như hũ nút mà thôi. May mắn thay, có những bậc thang dẫn xuống phía dưới. Những bậc thang đá này lớn hơn rất nhiều so với bậc thang ngoài cửa động. Nó không hoàn toàn trơn nhẵn, nhưng dù gì có bậc để đi vào lúc này cũng là khá tốt rồi. Càng đi sâu xuống, tiếng thác nước lại càng rõ ràng, cho đến khi xuống được gần trăm bậc, trước mắt chúng tôi dưới ánh đèn pin đã có thể nhìn thấy hai cái vòi nước lớn như vòi rồng đang phun ra từ vách đá hai bên cạnh bậc thang. Các dòng nước này rất có thể được hút vào từ xoáy nước nơi các thác phía ngoài đổ xuống. Chúng tôi băng khoăn không biết người xưa dẫn nước vào đây để làm gì, hay do tự nhiên nước đục đá sói mòn thành đường ống dẫn vào nơi này, sẽ rất vô lý nếu giả thiết tự nhiên là đúng. Vì hai voi nước phun ra nơi này rất cân đối với nhau, cảnh quan hoành tráng này không thể do thiên nhiên tạo ra được. Bậc thang vẫn có vẻ còn rất dài, chúng tôi không còn cách nào khác ngoài việc tiến dần xuống dưới, đi mãi qua thêm trăm bậc nữa mới hết được con dốc bậc thang nghiêng tầm bốn mươi lăm độ đó. Dòng nước đổ ra từ voi rồng hai bên lúc này theo hai con lạch chạy xiết như muốn cuốn phăng tất cả, chỉ chừa lại một khoảng thạch đạo nhỏ làm nối đi được nối với cầu thang nơi lúc này chúng tôi đang đứng mà thôi. Tôi cùng An chiếu đèn pin, dẫn đường để bước tiếp trên thạch đạo, An nói:

- Mọi người phải tập trung vào nhé, đường tuy không trơn trượt nhưng khá nhỏ, đừng để bị rớt xuống dòng nước hai bên là không cứu được đâu.

Bước đi khoản chục bước, dưới ánh sáng nhạt nhòa vừa chiếu đến được, tôi giật mình nhìn thấy lố nhố những bóng người đứng dọc hai bên thạch đạo, liền khựng người lại, không biết lại có chuyện gì nữa đây nhỉ. Sau tôi An cũng nhìn thấy hình ảnh đó, hai người chúng tôi liền quay người lại chuẩn bị cảnh báo với mọi người, nhưng vừa quay lại thì trong mắt tôi đã hiện lên cảnh tượng còn khủng khiếp hơn nhiều lần.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Đại trận mộc nhân


A Lang là người đi cuối đoàn, trong nháy mắt lúc tôi và An quay người lại, phía sau A Lang bỗng có thêm một cây cột dựng đứng. Nhìn kĩ lại thì lần này thực sự là một con trăn khổng lồ, nó to gấp đôi con trăn bị A Lang cắt cổ ngoài cửa hang vực thác. Trông thấy sự hoảng hốt trên mặt tôi, A Lang quay người lại phía sau thì con trăn đã mổ xuống, phản xạ nhanh như chớp, hơi lách người ra để tránh cú táp trực diện vào đầu làm A Lang loạn choạng. Con trăn không bỏ qua cơ hội tốt, nó vặn mình quật phăng anh ấy xuống dòng nước xiết tối đen bên cạnh thạch đạo rồi phi xuống theo. Mọi chuyện xảy ra trong tích tắc, mãi đến khi nghe thấy tiếng “ùm ùm” lớn, giáo sư Minh và A Lủ mới quay lại nhìn thì đã không còn thấy A Lang đâu nữa rồi.

- Có chuyện gì xảy ra vậy, A Lang rơi xuống nước à? - A Lủ hỏi tôi.

Lúc này cả tôi và An vẫn chưa hết kinh hoàng, miệng khô không khốc rồi cứ như bị á khẩu, không thể nói bất kỳ lời nào. Bóng đêm làm con người ta rất dễ tuyệt vọng, An quỳ phịch xuống đất, hai mắt đỏ hoe ngân ngấn nước mắt chỉ trực trào ra, tôi cũng không còn đứng vững được, chuyện xảy ra hết sức bất ngờ, mãi một lúc sau mới định thần được để kể lại cảnh tượng chúng tôi trông thấy. Nghe xong câu chuyện cả đoàn đều bần thần, từ lúc khởi hành chuyến thám hiểm, có A Lang bên cạnh chúng tôi cảm thấy an tâm rất nhiều, vô cùng tin tưởng vào anh ấy, cùng nhau vượt qua biết bao nhiêu hiểm nguy bên lằn ranh sống chết mong manh mà bây giờ chưa một lời từ biệt đã bỏ chúng tôi đi mất rồi. A Lủ là người lạc quan nhất trong đoàn mà lúc này cũng không thể giấu được vẻ mặt buồn bã, thậm chí nó còn nói hay là cả đoàn bỏ cuộc tìm kiếm, quay lại thôi.

- Bây giờ không có A Lang dẫn đường, quay lại cũng chưa chắc đã có thể ra khỏi rừng núi chập trùng. Hơn nữa A Lang rớt xuống nước còn chưa biết sống chết thế nào, chúng ta không thể bỏ mặc anh ấy được. - Tôi quyết đoán.

Giáo sư Minh tiếp lời:

- Nghe tả con trăn lớn như thế, có thể là con cái cùng một cặp với con bị giết. Giống trăn cái bao giờ cũng to lớn và hung dữ hơn nhiều. Thiên nói đúng, bây giờ chỉ có cách tiếp tục tiến lên thôi. Phải rồi, lúc nãy sao cậu và An đang đi đột ngột dừng lại, phía trước còn có chuyện gì?

- Phía trước hình như có người ba à!- An trả lời thay tôi.

- Có người???

A Lủ và giáo sư cùng trợn mắt, tôi nói rằng quả thật không chắc lắm, nhưng dưới ánh sáng cực hạn chế của đèn pin trong động ngầm đen tối, quả thật đã nhìn thấy lố nhố những bóng người xếp hàng ngay phía trước. Muốn biết thật giả thì dễ thôi, đi thêm mấy bước là rõ. Chúng tôi xốc lại tinh thần, trong đầu nhủ thầm phải thật cận thận rồi chầm chậm tiến từng bước một trên thạch đạo. Không khí lúc này thật nặng nề, không ai dám thở mạnh, tôi đi trước, lấy thêm một cây đèn pin cầm tay từ ba lô của An để soi cho rõ hơn. Tiến sát đến gần những bóng người, cả đoàn mới vỡ lẽ hóa ra đây là những bức tượng binh lính được dựng đứng theo hàng lối hai bên thạch đạo hẹp có khoảng cách với con đường tầm hai mét. Cảm thấy an toàn, tôi mới để giáo sư lại gần xem xét. Ông rọi đèn pin quét qua bức tượng đầu tiên rồi nói:

- Là binh lính thời Lý, những bức tượng này được tạc theo mẫu binh lính Đại Việt thời xưa. Mọi người cùng xem này.

Theo ánh đèn của giáo sư, chúng tôi quan sát kĩ hơn. Những bức tượng được tạc từ gỗ, không biết vùng này ngày xưa có loại gỗ gì mà có thể tồn tại cả ngàn năm không có dấu vết hư hao như thế này. Khuân mặt bức tượng được tạc rất có hồn với thần thái nghiêm trang, uy nghi lẫm liệt. Nếu gắn cho các bức tượng này một bộ râu dài thì trông không khác gì tượng ông Quan Công trong nhà chúng tôi. Các bức tượng có kích thước bằng một người bình thường, đứng theo thế xếp hàng nghiêm, một tay cầm kiếm, một tay đặt lên vỏ kiếm như sẵn sàng chiến đấu. Vừa nhìn thấy những khớp nối trên tay chân và hông bức tượng, A Lủ vội bảo chúng tôi:

- Mọi người cẩn thận, lùi lại nhanh.

Chúng tôi dù chưa hiểu có chuyện gì, nhưng qua chuyện của A Lang vừa rồi, vội lùi lại về sau mấy bước. Nó tiến lên rọi rọi đèn pin, xem hết một lượt rồi hỏi tôi:

- Thiên, mày thấy những bức tượng này giống cái gì?

- Giống người, giống binh lính nhà Lý, giáo sư nói rồi đó thôi? 

- Người cái đầu mày, xem các khớp nối đi, tao nghĩ đây là mộc nhân đó!

Lúc này tôi mới để ý, thầm trách mình sao không nghĩ ra sớm chứ. Hàng ngày chúng tôi đều được tập Vinh Xuân với mộc nhân, nhưng hình dáng thô lỗ của mộc nhân ở nhà làm tôi không thể nào liên tưởng được. Mộc nhân hay còn gọi là mộc nhân thung, là một công cụ luyện tập hữu ích trong một số môn võ thuật. Nó mô tả lại các thế đánh hay phản xạ của con người, mô phỏng quá trình thực chiến cho các võ sinh dễ hình dung và cảm nhận hơn. Giáo sư cũng không xa lạ gì với mộc nhân, ông cũng biết truyền thuyết về điều kiện phải chiến thắng 108 mộc nhân để chứng tích võ công trước khi được hạ sơn của các cao tăng Thiếu Lâm tự rất nổi tiếng, tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn không tìm thấy dấu tích của mộc nhân tại Tung Sơn - Trung Quốc, và hiện nay mộc nhân thung pháp vẫn là dụng cụ tập luyện đặc thù của các võ phái Thái Lý Phật, Hắc Hổ Môn ở Hồng Kông, và Vịnh Xuân quyền...Giáo sư nói:

- Dù không tập luyện võ thuật, nhưng tôi cũng có biết về mộc nhân. Không có một khuôn mẫu nghiêm ngặt về hình dạng, kích thước của mộc nhân thung mà tùy theo môn phái và thể trạng người tập, có thể có những yêu cầu về kiểu dáng khác nhau. Tuy nhiên trên tổng thể, mộc nhân có cấu tạo đơn giản là một trụ gỗ tròn đường kính trong khoảng 20 cm-50 cm, dài cỡ 1m60-1m80 tùy theo chiều cao mỗi người nếu đặt trên giá đỡ đó gọi là loại sống, động. Nếu chôn xuống đất, dựa tường, treo trên tường, hoặc đặt trên nền đất thì là loại chết, bất động. Thông thường mộc nhân loại sống được sử dụng nhiều hơn do tính linh hoạt khi chịu lực và phản đòn chân thực.

Vậy hai hàng mộc nhân đặt ở đây có mục đích gì? Chắc chắn không phải để cho đẹp rồi. Tôi nói giáo sư và An hãy lui về phía sau, đừng quên cẩn thận đề phòng chung quanh. Tôi và Lủ dựa lưng vào nhau, chậm chậm tiến lên. Vì không gian thạch đạo hẹp, hai đứa quyết định bỏ lại đao, chỉ dùng tay không mà dò xét. Bước đều từng bước một, một bước, hai bước, ba bước giữ nguyên tư thế thủ, hai đưa vẫn không thấy chuyện gì phát sinh, đến bước thứ tư, khi đặt chân xuống, tôi cảm thấy dưới chân mình hơi lún xuống rồi khựng lại, biết có chuyện tôi hét cảnh báo A Lủ: “Cẩn thận”. Chung quanh xuất hiện những tiếng cạch cạch, hai hàng mộc nhân cạnh chỗ chúng tôi bắt đầu vun vút chuyển động tiến sát vào thạch đạo.

Mỗi bên thạch đạo chỗ chúng tôi đang đứng có bốn mộc nhân, chúng đồng loạt rút kiếm ra khỏi vỏ. Tôi nhủ thầm: “Mẹ nó, người gỗ lại chơi hàng thật…”. Sau khi rút kiếm, tốc độ mộc nhân cũng nhanh hơn rất nhiều, bắt đầu chém vèo vèo vào hai đứa. Phải nói loại mộc nhân này rất độc đáo. Các khớp tay, chân và hông kết hợp với nhau mô tả lại các thế đánh như người thật. Hai đứa chúng tôi sử dụng Vinh Xuân, vừa né tránh vừa tấn công lại, bọn tôi quen các thế đánh vuốt tay mộc nhân và bẻ khớp theo kiểu cầm nã thủ, định bụng sẽ hủy các khớp này thì mộc nhân sẽ hết cử động. Tuy nhiên tôi đã tính sai, các khớp nối mộc nhân tuy linh hoạt nhưng không mềm mỏng như tôi nghĩ. Cầm nã thủ đánh theo nguyên tắc tác động lên cơ, dây chằng, xương, hô hấp, tuần hoàn và huyệt vị. Tuy nhiên đám mộc nhân này chỉ có các khớp nối tạm gọi là liên quan đến xương mà thôi. Tuy đã cố gắng dùng hết sức nhưng vẫn không thể đánh gãy được. Ông bà từng nói song quyền nan địch tứ thủ, chúng tôi hai đứa có bốn đầu quyền đang vật vã chống đỡ với mười sáu cánh tay còn có cầm kiếm, sơ hở một chút là mất mạng như chơi. Không cần nói, tình hình lúc này chúng tôi đã rơi và hạ phong thê thảm. Vất vả lắm mới có thể chống đỡ và né tránh các đòn chém đâm hiểm hóc của mộc nhân, An ở ngoài lo lắng, hét lớn gọi chúng tôi lui lại tìm cách thoát ra. Đành vậy, tôi vừa đánh vừa lui ra, Lủ thấy vậy cũng không cố nán lại, vừa lui ra đến chỗ mộc nhân đầu tiên, trong lúc đỡ một đòn chém mạnh, tôi vô ý bị xô về phía sau, văng vào lưng A Lủ đẩy nó tới sát mộc nhân bên phía đó. Nó bị quýnh lên, quát tôi lớn tiếng:

- Thằng chó.

Rồi cuống cuồng đấm mạnh vào ngực con mộc nhân làm nó khựng hẳn, hai đứa an toàn lui ra ngoài ngồi thở dốc. An đưa nước cho chúng tôi uống, quá mệt mỏi tôi cầm lấy tu ồng ộc đến nỗi không kịp nói cảm ơn. A Lủ đỡ hơn tôi, nó ung dung câm chai nước uống xong từ tốn nói với vẻ mặt dạy đời:

- Chỉ cần đấm mạnh vào ngực đám mộc nhân nó sẽ dừng lại thôi.

Đang hả hê, đám mộc nhân từ từ chuyển động thu kiếm lại vào bao rồi lui về vị trí cũ tạo khoảng cách với thạch đạo như ban đầu, kể cả con mộc nhân bị A Lủ đấm cho đơ cứng. Quan sát nãy giờ, giáo sư đưa ra nhận định, đám mộc nhân này sử dụng sức nước của dòng nước xiết chung quanh để hoạt động. Lúc tôi đạp phải lẫy chôn dưới thạch đạo đã vô tình khởi động chúng, nhìn hai dòng nước xiết kia, chả trách chúng mạnh mẽ đến thế. Nói gì thì nói, tôi vô cùng thán phục nghệ nhân nào đã chế tạo ra được hệ thống mộc nhân cũng như cơ quan vận hành chúng. Chúng tôi cùng nhau ngồi phân tích lại tình thế lúc này, nếu như dùng hết tốc độ chạy nhanh qua mà may mắn thoát được cũng sẽ bị loạt mộc nhân tiếp theo vây đánh, dùng đao phá hủy thì không thể, bởi khoảng cách từ thạch đạo ra đến chỗ chúng là quá xa, số lượng chưa xác định được mà chắc chắn sẽ không đủ đạn để bắn phá hết. Chỉ có một cách duy nhất là tôi và A Lủ phải vào vòng vây một lần nữa, dùng sức đấm cho các một nhân tạm ngừng hoạt động một chút rồi tranh thủ cho An và giáo sư Minh đi qua, tiếp theo lại phải đi đến đám một nhân thứ hai, vì khoảng trống ở giữa không đủ cho cả bốn người cùng nghỉ lại. Nghĩ đến đây đã thấy vô cùng mệt mỏi, chúng tôi lấy đồ hộp ra ăn lót dạ, từ lúc sáng bơi lội tìm cửa hang cho tới bây giờ chưa có gì vào bụng, đừng nói là đánh đấm, bước đi thôi còn không nổi nữa rồi. Tôi vừa ăn vừa nhớ tới A Lang, miệng đắng nghét không tài nào nuốt được, đành bỏ đó moi bao thuốc trong ba lô ra hút. Cũng may mà có ba lô chống thấm nên thuốc không bị ướt, A Lủ cũng đánh lửa rít một hơi thật sảng khoái. Xong xuôi chúng tôi theo phướng án đã định, tôi cùng nó lại nhảy vào đại trận mộc nhân. Vì đã có kinh nghiệm giao thủ, dù cơ quan có tinh vi cỡ nào đi nữa cũng chỉ là máy móc, các hành động liên tục lặp đi lặp lại không làm khó được chúng tôi khi đã có sự chuẩn bị. Vượt qua tám mộc nhân thứ nhất, không dùng bước chúng tôi lao đến đám tiếp theo. Giáo sư và An cũng tranh thủ thời gian chạy nhanh qua, dừng bước ở khoảng trống giữa đã định. Trong lúc tôi và Lủ tấn công số mộc nhân khu vực thứ hai, đám thứ nhất không hư hao gì, tiếp tục lui ra vị trí trấn thủ ban đầu. Không có thời gian để ý chuyện phía sau, hai thằng chúng tôi dùng hết sức tấn công và vượt qua khá dễ dàng. Ngay khi lọt vào đại trận thứ ba, tiếng cạch cạch cũng vang lên quen thuộc, nhưng không thấy đám mộc nhân lao vào như trước, tôi nhủ thầm không ổn, tình huống hiện tại đã có sự thay đổi rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Lạc trong mê động


Khu vực mộc nhân thung trận thứ ba này có thay đổi khác biệt rõ rệt, trong khi hai đứa tôi chưa kịp nhận ra, vẫn đang chờ mộc nhân tiến đến gần giáp công thì vun vút đã nghe những tiếng binh khí vụt chém vào không khí bên tai, chỉ khi cảm nhận được luồng gió đến gần chúng tôi mới nhận ra được đó là những cây trường thương. Xem như tính toán trước đây đã sai bét, tại sao lại không nghĩ ra cổ nhân đã chế tác được mộc nhân dụng kiếm, thì cũng dư sức để có thể chế thêm mộc nhân dùng thương chứ. Biết đâu còn có mộc nhân bắn cung tên hay nỏ thì chúng tôi đã sớm thành bầy nhím rồi, lúc này chỉ biết cố gắng né tránh đòn công của tám thanh trường thương hai bên thạch đạo. Do độ dài của thương và kiếm là khác nhau, lực tác động lên chúng tôi lúc này lớn hơn nhiều, nếu lúc trước có thể dùng cầm nã thủ cản những thế chém của kiếm, thì bây giờ tôi chỉ có thể lách người khỏi những đòn hiểm hóc mà thôi. A Lủ cũng rất khó khăn trong trận, vì khoảng cách đến mộc nhân là quá lớn, chúng tôi không có cách nào để chủ động tấn công, hơn nữa tư thế đánh của mộc nhân biến đổi liên tục không theo những trình tự nhất định như trước nữa, lúc thì đâm, khi thì chém chứng tỏ cơ quan lần này được thiết lập tinh vi hơn rất nhiều, tôi còn cảm thấy chúng đang phối hợp với nhau rất nhịp nhàng, trong khi tôi và A Lủ đã bắt đầu loạn, khi tránh đòn liên tục va vấp vào nhau đến khổ sở, bóng thương vẫn ngập trong không gian ấy như một cái lưới cá đã ụp vào thì chỉ có thể giẫy giụa cho đến kiệt sức mà thôi, có lần không tránh được, phải đưa tay lên đỡ và lãnh trọn một thương vụt tới làm xương tay tôi như muốn nứt ra, đau đớn không thể tả, còn A Lủ cũng đã bị đâm sượt qua mấy phát, áo quần rách tả tơi rươm rướm máu. Ngay khi tôi để ý Lủ mất cảnh giác, trong nháy mắt một thương đâm tới vô cùng hiểm hóc, lần này thì tiêu thật rồi, vợ còn chưa cưới đã phải về chầu ông bà, số tôi thảm rồi.

Trong tích tắc đó, tôi giật mình bởi tiếng súng nổ, nhìn lại thì thấy đầu thương đã cắm vào bụng, tuy nhiên có vẻ không sâu lắm, liên tiếp tiếng súng lại tiếp tục nổ đùng đoàng, khi tất cả chìm vào trong tĩnh lặng, đám mộc nhân cũng đã không còn tấn công tới nữa, chỉ nghe những âm thanh cạch cạch vang lên, các cơ quan đã bị lỗi không thể hoạt động được. Bên ngoài An đang cầm súng, giáo sư chiếu đèn kiểm tra lại đám mộc nhân, còn hai đứa tôi nằm bịch xuống đất thở hổn hển, cuối cùng cũng giữ lại được cái mạng nhỏ. An và giáo sư chạy đến cấp tốc kiểm tra vết thương cho chúng tôi, may thay cả hai đều chỉ bị thương ngoài da không có gì đáng ngại, cả người đau nhức tột độ, đây là lần đầu tiên chúng tôi mất nhiều sức như thế trong suốt chuyến thám hiểm, tôi nói với An:

- Sao cô không bắn sớm sớm một tí, chậm chút nữa thì lủng bụng tôi rồi.

- Xin lỗi…, em không nhớ ra có thể dùng súng thử, mà cũng nghĩ các anh sẽ giải quyết được dễ dàng…- An ngập ngừng phân bua.

Tôi mệt mỏi nên cũng không thèm chất vấn An nữa, tranh thủ thời gian mà nằm im nghỉ ngơi. Hai hàng mộc nhân vẫn rung lên cạch cạch nhìn chúng tôi đầy giận giữ, cánh tay chúng đã buông thõng xuống không thể đâm chém gì được nữa rồi. A Lủ cũng đã được An băng bó các vết thương, hầu hết là vùng ngoài da không đáng ngại nhưng số lượng khá nhiều. Nó rên hư hử đòi lấy rượu ra uống cho bớt đau, tôi cản lại vì rượu có thể làm loãng máu, sẽ chảy nhiều hơn và khó cầm máu được. Nằm nghỉ một lúc thấy đã đỡ hơn, vết đâm không ảnh hưởng nhiều lắm nên tôi đứng dậy cùng giáo sư tiến lên dò xét phía dưới. Lúc đèn pin rọi thấy một bức tượng lớn mang hình dáng tướng quân cưỡi ngựa, tôi nghĩ bụng lại gặp phải một ông đại mộc nhân nữa rồi, liền gọi An lại, định sẽ dùng súng bắn nát nó ra. Quan sát kĩ hơn, chúng tôi thấy bức tượng cũng được chạm trổ từ cây gỗ lớn, trên bức tượng hoàn toàn không có khớp nối nào, có nghĩa đây không phải là mộc nhân như tôi nghi hoặc. Con ngựa được đặt trên một bệ đá cao dáng chồm hai chân trước lên trong tư thế đang xung trận, vị tướng quân tay cầm kiếm chỉ về phía trước theo hướng chếch lên trời như khi chỉ huy trận đánh, áo bào phất phới trong gió, thần thái uy nghiêm vô cùng. Dưới bệ đá có khắc chữ Hán tự, giáo sư đọc chầm chậm xem xét rồi đọc lên:

- Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt, đây chính là tượng Lý Thường Kiệt được binh sĩ lập tượng thờ sống trong hang động này. Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, nguyên danh của ông là Ngô Tuấn, có tự là Thường Kiệt. sau được ban quốc tính nên có tên là Lý Thường Kiệt. Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập–hoàng tử trưởng của Ngô Quyền. Mọi người nhìn xem chung quanh có nhiều chén uống rượu đã vỡ, tôi có thể chắc chắn rằng đoàn binh sĩ sau khi hoàn thành việc chôn kho tàng đã hành lễ từ biệt ở đây, nghĩ thử xem uy vọng trong quân của Lý tướng quân phải lớn lắm mới nhận được sự kính trọng nhường này.

Tôi không biết nghi thức được cử hành trong quân đội ngày xưa, nhưng nghe giáo sư cảm khái cũng có thể tưởng tượng ra được cảnh các binh sĩ uống chén rượu thề rồi đập chén, hứa sẽ bảo vệ bí mật về kho tàng này như một cách thể hiện lòng trung quân ái quốc, một cảnh tượng vô cùng bi tráng mà khiến ai nghĩ đến cũng muốn mình sẽ là một trong số những người có mặt ở đó. Vượt qua thạch đao mộc nhân rồi, phía sau bức tượng lớn chắn ngang đường có một cửa động khác, tối đen hun hút, đã đến bước này thì chỉ còn cách tiến lên, đến đâu hay đến đó mà thôi. Thấy đèn pin của mình đã mờ nhạt chập chờn, tôi hỏi An:

- Cô có mang theo pin dự phòng không?

- Có, để em thay cho anh!

Đoạn An lấy trong ba lô đồ đạc lỉnh kỉnh ra mấy cục pin, lần lượt thay cho cả đoàn để đảm bảo chút ánh sáng nhỏ nhoi trong lòng thác tối tăm như hũ nút này. Sau khi được thay pin, tôi dẫn đường tiến vào cửa động, dặn A Lủ đi phía sau nhớ cẩn thận để phòng các tình huống có thể xảy ra, bản thân tôi không muốn đoàn phải mất thêm người nào nữa, và chắc chắn chỉ cần có chuyện xảy ra thì chuyến thám hiểm này coi như là thất bại, bắt buộc phải dừng lại. Động đá lần này cũng rộng rãi, đi đứng thoải mái hơn và không lo bị rớt xuống nước rồi bị cuốn đi mất xác. Giáo sư vừa đi vừa xem hai bên vách đá rồi khẳng định đây là một hang động do con người tu sửa từ dòng chảy nước ngầm cũ, có thể binh đoàn năm xưa đã cải tạo để thay đổi dòng và vận dụng sức nước vào hệ thống cơ quan, dấu vết dòng chảy bào mòn đá vẫn còn in trên vách động. Thần kinh chúng tôi căng ra đến tột độ, cơ thể thì rã rời vô cùng mệt mỏi, vừa đi vừa ngáp ngắn ngáp dài. Đi được một lúc thì thấy cảnh vật quen quen, tôi ngờ ngờ rằng mình đã đi qua rồi nên liền nói ra nghi vấn trong lòng, để đề phòng lạc đường giáo sư bảo tôi và Lủ dùng xẻng hoặc đao đánh dấu lên một vài chỗ dễ nhìn thấy rồi chọn đại hướng đi mà tiến tới. Cứ thế mỗi lần phải rẽ tôi liên tục đánh dấu lại. Lòng vòng một lúc thì gặp phải đường cùng, trước mắt chỉ là vực sâu không đáy tối đen nơi dòng nước cũ ngàn năm trước đổ xuống sông ngầm, chúng tôi lại lần mò quay ra, may mà lúc trước nghe theo giáo sư đánh dấu, cách đi của chúng tôi là theo nhánh rễ cây nhiều cấp, cứ gặp đường cụt thì quay trở lại dò xét lối đi tiếp theo khá mất thời gian, có lúc trở ra tôi bỗng có cảm giác giống như có bóng người vừa lướt qua mình, nhưng nghĩ bụng lúc vào đã là đường cụt rồi, làm gì có ai nào ở đó nữa mà khả năng do thần hồn nát thần tính trong lúc thần kinh căng thẳng quá mà thôi. Dù nghĩ bụng vậy nhưng khi quay ra đến chỗ rẽ, tôi vẫn đứng lại đánh dấu thêm một lần với ký hiệu của riêng tôi trước con mắt nghi hoặc của A Lủ:

Mày làm gì đó Thiên? Chỗ này đánh dấu rồi mà, đừng có làm loạn lên nữa.

Không có gì, tao vừa thấy ma trong đó, nên đánh dấu chơi vậy thôi.

Tôi nửa đùa nửa thật nói với nó, vì không có gì chắc chắn chỉ là cảm giác thoáng qua nên tôi không nói ra sợ mọi người thêm căng thẳng. Hành trình cứ tiếp tục trong sự lần mò vô định ấy, do dòng chảy ngầm cũ cũng có giới hạn số lượng ngã rẽ nên cuối cùng chúng tôi đã đi qua hết mọi ngõ ngách, chân đã không còn muốn bước nữa, cả đoàn cần phải ngồi nghỉ ngơi rồi. Khi đó tôi mới hỏi:

- Có khi nào kho tàng được thả xuống lòng sông ngầm không?

- Không có khả năng này! - Giáo sư nói - Nếu thả xuống sông ngầm thì không khác gì hủy hoại kho tàng, cần gì cất công đưa vào tới đây rồi bày ra bao nhiêu cơ quan bảo vệ như thế chứ. Nhưng chúng ta cũng đã đi hết mọi ngõ ngách rồi, lạ thật. À mà lúc nãy tại sao cậu đánh dấu ngã rẽ lần nữa làm gì?

Đang ngồi rảnh rỗi, tôi mới kể lại cảm giác của mình khi đó cho mọi người nghe. A Lủ còn cười, cho là tôi rảnh rỗi dọa ma nó, nhưng An thì có suy nghĩ khác, cô ấy nói:

- Em nghĩ khu vực đó có vấn đề, mau quay lại xem thử.

Vừa ngồi nghỉ chưa được mấy tí đã bắt đứng lên đi, tôi không hài lòng định cãi lại, nhưng thấy vẻ mặt nghiêm túc của An nên cũng đành chiều theo, cùng lắm thì không tìm được đường, hủy chuyến đi quay về thôi, còn hơn ở mãi trong động đen tối tăm này. Khi tìm lại được chỗ rẽ có đánh dấu của tôi, cả đoàn bước vào dùng đèn pin soi thật kĩ trần hang, dưới chân và cả hai bên vách động. Tôi đứng tại vị trí cũ nói:

- Đây, ngay chỗ này không sai được.

An tiến đến gần, soi đèn pin lên vách động rồi như phát hiện được điều gì, cô mừng rỡ la lên:

- Mọi người xem thử, chỗ vách động này có vấn đề! - Rồi cô ấy tiến sát lại, sờ sờ tay lên vách hang. 

Tôi đứng gần ngay đó, cũng bước lại làm theo An, ngay khi rờ tay vào thì thấy có cảm giác đây không phải là đá, bề mặt khu vực này trơn nhẵn hơn, dù hình dáng vẫn như những chỗ khác. Lúc này cả bốn người cùng căng mắt ra quan sát và phát hiện, đây là một đoạn vách giả được làm bằng kim loại như đồng thẫm màu. Dưới ánh sáng đèn pin của tôi khi đó đã phản chiếu lại tạo cảm giác như gương. Diện tích tấm kim loại cũng không lớn nên nếu không để ý thì không cách nào phát hiện được điều kỳ diệu này, hơn nữa nó được chế tạo như một phần của vách hang, chắc chắn là có che dấu huyền cơ trong đó. Giáo sư vẫn đang chiếu đèn thắc mắc không biết đây là kim loại gì mà ngàn năm qua vẫn không rỉ sét. Còn tôi có nghi vấn khác, đó là tại sao An biết được khu vực này có vấn đề chỉ thông qua lời kể mơ hồ của tôi. Không chờ thôi hỏi, An đã giải thích:

- Cảm giác của anh giống như khi người ta đi ngang qua những tấm gương trang điểm trong phòng vậy, việc này em cũng thường gặp nên mới vô tình nghĩ ra, không ngờ lại đúng.

Tôi cũng bất ngờ trước sự liên tưởng ấy, và thán phục An hơn ở chỗ, bây giờ là lúc nào rồi mà còn nghĩ tới trang điểm được. Đúng là phụ nữ, dù ở đâu, hoàn cảnh nào cũng vẫn khao khát mình sẽ được xinh đẹp hơn. Cái muốn tìm đã tìm được, tôi bảo A Lủ dùng đao phụ tôi tìm cách cạy miếng kim loại ra khỏi vách động xem thử, vì không biết phía bên kia sẽ có chuyện gì xảy ra nên tôi dặn nó: “Phải hết sức cẩn thận”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Vượt dòng sông ngầm


Tôi và A Lủ dùng xẻng, đao cố gắng cạy tấm kim loại ra khỏi vách hang, giáo sư cùng An chiếu đèn và luôn miệng nhắc chúng tôi phải cảnh giác cao độ. Thực sự không thể hiểu nổi tại sao tấm kim loại được lắp vào một cách vô cùng kín, cũng có thể do ngàn năm trôi qua, đất đá xâm lấn hòa quyện vào nhau như một thực thể trời sinh đã vậy, rất khó khăn để thực hiện công việc này dưới hoàn cảnh thiếu thốn ánh sáng, một thứ xa xỉ trong động ngầm tối như đêm đen. Cuối cùng khi mồ hôi hai đứa tôi nhỏ từng giọt, tấm kim loại cũng được tách ta, nhẹ nhàng chúng tôi đặt nó xuống nền hang, trước mặt bây giờ là một cầu thang nhỏ không nhìn thấy điểm cuối với độ dốc gần như thẳng đứng xuống dưới. Trong tích tắc nhìn nhau như hội ý, tôi dẫn đầu bước xuống những bậc thang hẹp chỉ vừa một người đi, bốn người nối đuôi nhau chầm chậm cẩn thận đi xuống. Vừa đi tôi vừa hình dung, nếu như những hang động trước là đường cụt tiếp giáp với vực sâu thăm thẳm, thì đoạn bậc thang đá này là con đường duy nhất để có thể tiến sâu xuống dưới, cầu thang không có lan can nên phải hết sức tập trung trong từng bước đi. Chúng tôi cứ đi mãi xuống mới biết được khi trước chẳng may sẩy chân rớt xuống vực thì chỉ có một khả năng duy nhất là tan xác mà thôi. Độ sâu được áng chừng hơn một trăm mét thì chạm đáy vực, quét đèn pin chung quanh thềm bậc thang thì chỉ thấy một vùng không gian rộng lớn, không khó để nghe được những tiếng nước chảy cuồn cuộn phía xa, giáo sư Minh nói khả năng phía trước sẽ có sông ngầm. A Lủ mệt mỏi đi cuối đoàn, nó không cẩn thận nên vấp chân, ngã dúi người về phía trước, An liền quay lại đỡ dậy, nhưng nó lười biếng uể oải, cứ nằm lì ra đó. Tôi định bụng quay ra đá vào mông nó, bây giờ là lúc nào rồi còn giở trò, chợt cảm giác phía dưới chân cũng bấp bênh, mặt đất lồi lõm chứ không hoàn toàn bằng phẳng. Quan sát kĩ hơn tôi nhận thấy bên dưới chân mình đầy những ụ đất như ụ mối lớn, tất cả mọi nơi đều như thế cả. Không biết lúc đó nghĩ gì, tôi có cảm giác không ổn liền bảo mọi người nhanh chân chạy về phía trước thật nhanh. A Lủ cũng phải bò dậy mà chạy cắm đầu chạy một lúc lâu, chúng tôi đã đến sát mép nước cuồn cuộn, đúng là có sông ngầm như giáo sư Minh dự đoán. Tuy nhiên bây giờ đã là đường cùng, tôi không kịp giải thích, bảo mọi người tìm khắp bờ sông xem có gì có thể dùng để vượt sông hay không, An quét đèn một lúc nhìn thấy dấu hiệu công trình nhân tạo, tôi vội chạy đến hướng đó xem xét. Đây là một khu vực được xây dựng giống như một bến đò trên sông ngầm, tương đối giống các bên đò ven sông Sài Gòn - Chợ Lớn lúc bấy giờ, chỉ khác nhau diện tích nơi đây lớn hơn nhiều. Khu bến được làm bằng gỗ, nhô ra mặt sông một khoảng nhỏ, khi cả đoàn đã đứng trên bến, tôi mới lần nữa chiếu đèn quét qua bãi đất vừa đi qua, đây đó nhấp nhô các gò đất lồi lõm khiến tôi càng khẳng định chắc chắn:

- Đây là một nghĩa địa lớn, nhìn xem.

Lúc này mọi người mới biết lý do vì sao tôi lại dẫn đoàn chạy nhanh qua bãi sông. A Lủ vẫn chưa hiểu được vấn đề, nó hỏi:

- Mày chắc không? Mà bãi tha ma thì có sao đâu? Tao đâu phải chưa từng đi qua.

Tôi chán nản không muốn giải thích với nó, những lúc như thế này tôi hay tự nhủ thà nói chuyện với đầu gối còn hơn. An kiên nhẫn hơn, phần cũng để xác định lại nghi ngờ của tôi, cô nói:

- Có thể đây là nơi chôn cất tử sĩ, những người chết trong công cuộc vận chuyển và chôn cất kho tàng.

Mặt A Lủ vẫn ngơ ngơ ngác ngác, như chưa hiểu ra vấn đề nó hỏi lại:

- Thì sao? Ai chết chả giống nhau.

Tôi bực mình gắt lên ngắn gọn:

- Khả năng có rắn giữ mả!

Lúc này nó mới à ừ ra vẻ đã thông suốt, nhưng không như những gì tôi lo ngại, chờ mãi mà không thấy bọn rắn xuất hiện, chắc là tôi lo xa quá mà thôi. Bọn rắn muốn tồn tại cũng phải có thức ăn, nếu như ở ngoài động nơi đồi trống giữa rừng, chúng có thể sai khiến con hổ xám như nô lệ thì ở trong này không có loài nào khác tồn tại để kiếm ăn thay chúng, hơn nữa trong hang động kín, nguồn thức ăn cũng rất hạn chế cho nên có lẽ bọn chúng đã sớm tuyệt diệt rồi. Khi vậy nên tôi cũng vững tin hơn, đưa ra ý kiến dò xét bãi sông ngầm tìm đường đi tiếp. Sau khi dò xét khắp nơi, ngoài bãi tha ma rộng lớn lồi lõm những ụ đất, không có con đường nào cả. Trên bến sông có xếp những cây gỗ tròn lớn, tôi mới nảy ra ý tương làm đò vượt sông, nghĩ là làm liền, mọi người cùng nhau xếp hơn chục cây gỗ, dùng dây thừng cố định để tạo bè thô sơ. A Lủ bảo tôi:

- Hay là đừng đi nữa, cái gì cũng được như thuyền bè tao sợ lắm.

- Vậy mày cứ bơi theo sau đi, hết cách rồi. 

Tôi trả lời ngắn gọn, A Lủ từ bé sợ thuyền bè, vì nó bị say sóng bẩm sinh, giống như say xe vậy nhưng tệ hại hơn nhiều lần. Thầy cũng từng nói mẹ nó cũng giống y thế, không thể chịu nổi việc ngồi tàu thuyền vượt biển, đó là lý do vì sao thầy phải chọn đường bộ chứ không đi đường thủy sang Việt Nam định cư như bao người Hoa khác. Nếu gọi họ là Ba Tàu, tôi nên gọi thằng Lủ là Ba Bộ thì đúng hơn. Cũng bởi vậy nên mẹ nó mới táng mạng nơi rừng hoang biên giới, và cũng vì cơ duyên đó chúng tôi là thế hệ sau mới tiếp tục quay về đây để tìm về một phần khuất tất của ngàn năm lịch sử. Mặc kệ nó có thích hay không, nếu không kết bè thì không thể đi tiếp, nương theo dòng chảy sông ngầm là cách duy nhất để tiến lên trong bối cảnh hiện tại. Dùng hết một mớ dây thừng, khi cảm thấy bè gỗ đã khá chắc chắn, chúng tôi thả bè xuống nước rồi từng người một bước lên, bè nổi rất tốt, thả tay ra khỏi bến, chúng tôi trôi theo dòng nước trong đêm đen vô định. Bè gỗ lướt qua dòng sông ngầm chảy xiết, bề rộng lòng sông cũng có giới hạn, nên chúng tôi vẫn chiếu đèn nhìn thấy hai bên bờ khá rõ ràng. Vẫn là cảnh mô đất nhấp nhô, không cần ai phải nói tôi cũng biết chắc chắn rằng dưới mỗi mô đất là một thây người, một binh sĩ hi sinh trong lúc thi hành nhiệm vụ mang tính tuyệt mật và lịch sử này. Bè gỗ dập dềnh trôi, chúng tôi không thể thoải mái đứng trên bè, chỉ có thể ngồi bám chặt các sợ dây thừng để giảm bớt sự chênh vênh trên đó. A Lủ nằm dài dưới mặt bè, nó bắt đầu cảm thấy say sóng nặng nề, mà cảm giác này tôi củng hiểu được, nó khó chịu hơn say rượu nhiều lần, thậm chí là muốn chết đi sống lại mà thôi.

Bè đang trôi khá nhanh chóng, tay tôi cầm xẻng để mỗi khi bè gỗ dạt sát vào bờ thì dùng sức đẩy nó ra lại giữa lòng sông. A Lủ chịu không nổi cơn say, nó bò ra mép bè, nôn mửa xuống dòng nước rất khổ sở. An cũng vỗ vỗ lưng nó, ra vẻ động viên phải cố lên làm tôi cũng thấy tôi nghiệp, giáo sư cũng chỉ biết lắc đầu, chẳng ai ngờ một thanh niên sức dài vai rộng thế lại say sóng tới nhường này. Đang cúi người xuống lòng sông nôn ra mật xanh mật vàng, bất chợt tôi thấy nó giật nảy mình, bật người về phía sau mặc kệ nước dãi đang chảy đầy trên mép. Nó lắp bắp không ra tiếng:

- Rắn...có rắn dưới nước.

Khi này chúng tôi mới thật sự để ý, đàn đàn lớp lớp những con rắn đen đang bơi ngược dòng nước về phía chúng tôi, tưởng rằng bọn chúng đã tuyệt chủng vì đói ăn, ai dè đâu lũ quỷ quái này vẫn còn tồn tại. Khả năng đám rắn vừa đi kiếm mồi, đang bơi về để tiếp tục thiên chức giữ mả, chúng bơi hơi sâu dưới mặt nước nên không ai để ý thấy cho tới khi A Lủ phát hiện được. Tôi vứt xẻng xuống bè, bắt đầu cầm đao cố gắng chém loạn xạ vào làn nước và không khí trước mũi bè, nơi đàn rắn đen mắt đỏ đã đánh hơi được mùi đang cố gắng vượt ra khỏi mặt nước phi lên bè gỗ. Nếu có A Lủ giúp sức cũng không đến nỗi nào, đằng này nó đang quay cuồng bẹp dí, một mình tôi vô cùng chật vậy xoay sở với đàn rắn. Dòng sông lúc này lấp lánh những ánh sáng đỏ quạch phát ra từ mắt đàn rắn đang trồi dần lên mặt nước đầy ma mị. Trong lúc tôi một mình đương đầu với đám rắn vô cùng khốn đốn, An và giáo sư ở phía sau dùng xẻng làm máy chèo đẩy nước mà đi, cộng thêm dòng chảy của sông ngầm, bè gỗ trôi nhanh vun vút về phía trước. Bất chợt tôi cảm thấy đám rắn không có ý định tấn công nữa, chúng dần dần chìm lại xuống đáy nước. Chưa kịp mừng thầm thì trên đầu đã phát ra những tiếng kêu rít rít xào xạc, tôi ngước mặt nhìn lên thì thấy trần hang động lúc này đã thấp xuống có thể nhìn thấy trong tầm mắt. Ánh đèn chiếu lên bắt gặp những cặp mắt đỏ khát máu quen thuộc của loài dơi, chúng đang tỉnh giấc ngủ say, nhe nanh dữ tợn bay nháo nhác sà xuống mặt nước. Những con dơi lớn sải cánh lên tới gần một mét đang giương vuốt bay loạn xạ, một số con rắn chưa kịp lặn xuống lòng sông bị cắn nhấc lên không trung, hóa ra loài dơi lớn chính là thiên địch của đám rắn giữ mả cho nên chúng mới lặn sâu trong lòng sông mỗi khi đi kiếm ăn để tránh đụng mặt. Trước tình hình phát sinh đột ngột, chúng tôi kéo áo trùm kín đầu, nằm úp xuống sát mặt bè phó mặc cho dòng nước trôi đi theo quán tính, trên đầu vẫn là những tiếng đập cánh và âm thanh tần số cao chói tai phát ra từ đàn dơi khổng lồ. Thời gian cứ thế trôi đi, đến lúc cảm thấy trên đầu không còn tiếng đàn dơi, tôi mới từ từ kéo áo trùm đầu đưa mắt nhìn, trước mặt tôi lúc này đã có ánh sáng mờ nhạt, trong động tối chưa quen mắt nên vẫn cảm thấy rất chói lòa, đúng là ánh sáng hắt vào từ cửa động làm bừng lên hi vọng trong lòng tôi, mừng rỡ tôi hét lớn:

- Có cửa động, đã ra khỏi sông ngầm rồi.

Nghe tiếng tôi, lúc này ngoài A Lủ đang nằm mê mệt còn lại đều ngóc đầu dậy xem và mừng rỡ. Thoát khỏi đám rắn và đàn dơi trong sông ngầm là một chuyện, tìm được đường ra khỏi sông ngầm đen tối mới là điều đáng mừng. Suốt thời gian lang thang trong màn đêm đen đặc, thấy lại được ánh sáng mặt trời làm tinh thần cả đoàn phấn chấn hẳn lên, mỗi người một tay chèo bè gỗ ra cửa động. Dòng chảy ra khỏi cửa động trở thành một dòng sông tĩnh lặng hiền hòa. Không đợi thêm phút giây nào nữa, tôi hướng bè tấp vào bờ sông. Cảnh vật lúc này hiện ra rõ rệt, trước mắt là những tàn cây lớn rậm rạp tươi tốt. Phóng tầm mắt nhìn ra xa chỉ thấy bốn chung quanh là vách núi đá dựng đứng thẳng tắp cao lớn vô cùng, chứng tỏ đây là một hệ sinh thái biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài. Nếu như không tính đến chuyện đi máy bay để nhảy dù vào thì cũng chỉ có một con đường duy nhất để vào đây, đó chính là con đường gian khổ và nguy hiểm mà chúng tôi đã vừa trải qua. Lôi A Lủ lên khỏi bè, giáo sư khẳng định đoàn đã thành công đặt chân đến được “Ung Châu Tàng Cốc”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Bắt hụt Long Vương


Sau khi đưa A Lủ lên khỏi bè, tôi nói mọi người tìm kiếm củi khô chung quanh mé sông, đốt một đống lửa lớn để sửa ấm và hong cho khô người. Xem đồng hồ đã hửng sáng, ánh mặt trời hắt vào trong cốc không quá chói chang mà chỉ đủ soi sáng mà thôi, cho nên khái niệm thời gian cũng khá mơ hồ đối với chúng tôi lúc này. Đói và mệt mỏi là cảm giác đang xâm chiếm trong cơ thể, tôi hỏi An:

- Cô còn đồ hộp mang theo không, phải ăn gì cho lại sức đã!

- Em còn đây, nhưng không nhiều, chỉ đủ dùng trong một hai ngày nữa thôi.

Tôi không để ý đến chuyện còn bao nhiêu, có là tốt rồi, no bụng rồi mới tính tiếp được. Trải qua biết bao nguy hiểm như thế còn giữ lại cái mạng nhỏ đã là may mắn lắm rồi. A Lủ cũng dần tỉnh táo lại, nó không khách khí ngồi nhét đồ ăn vào miệng với tốc độ như hổ đói vồ mồi. Chúng tôi đang cố gắng ăn uống cho lại sức, chợt một thanh âm lớn hùng hồn vang vọng khắp trong cốc khiến cả đoàn phải giật mình:

- Nam quốc sơn hà nam đế cư, tuyệt nhiên định phân tai thiên thư ư ư…

Ngừng lại mấy giây, từ một phía khác lại vang lên:

- Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, nhữ đẵng hành khan, thủ bại hư ư ư…

Lỗ tai chúng tôi lập tức trở nên lùng bùng, thanh âm nay không phải được phát ra từ một người, mà giống như cả ngàn người cùng đồng thanh hợp xướng vang vọng khắp cả núi rừng. Trước đây đã từng thấy qua loài chim quái dị đọc bài thơ thần này nên cũng không còn ngạc nhiên lắm, tuy nhiên khi ở trong cốc cùng lúc cả ngàn con chim từ đâu cùng cất tiếng, cảm giác này thật là khó tả. Hóa ra con chim chúng tôi gặp được bên ngoài có xuất xứ từ trong cốc, đây là địa bàn của chúng sinh sôi nảy nở suốt ngàn năm qua. Vì trí nhớ của loài chim không cao lắm, chúng chỉ nhớ được một hai câu thơ nên cổ nhân phải chia cả bài thơ ra làm hai, rồi huấn luyện hẳn hai tổ đội với những câu thơ khác nhau một cách có chủ đích, cách huấn luyện này cũng phải nói là quá kì công mới có thể khiến bầy chim tồn tại được và ghi nhớ những gì đã được học sau biết bao nhiêu thế hệ. Cứ đời này nối tiếp đời kia chỉ làm duy nhất một công việc là đọc bản tuyên ngôn độc lập này mà thôi. Chúng tôi chưa từng trải qua đời làm lính, nhưng thiết quân luật trong đồn đại có lẽ là thật và vô cùng nghiêm khắc đến mức loài chim cũng phải tuân theo và duy trì. Tôi nghĩ bụng nếu như không phải là đoàn chúng tôi mà là người Tống năm xưa vào trong cốc lúc này chắc sẽ có cảm giác vừa khiếp sợ rồi chuyển qua trạng thái tức giận run người, chỉ hận không thể bắt nướng hết bầy chim này mà thôi. Tôi hỏi giáo sư tiếp theo nên làm gì, ông trả lời:

- Thực tình tôi cũng không biết phải làm thế nào nữa, bây giờ chỉ có cách chầm chậm mà tìm kiếm trong cốc này thôi, với những manh mối chúng ta có mà đặt chân được tới đây đã là may mắn lắm rồi. Trước mắt cứ nghỉ ngơi thoải mái đi!

Khỏi phải nói, A Lủ là người đồng ý đầu tiên với quyết định này, hiện tại trong cốc chia ra làm hai ngăn cách bởi dòng sông nhỏ. Diện tích cốc khá lớn, nếu như có đường thuận lợi dự tính cũng phải đi bộ cả tháng trời mới hết được các ngõ ngách, mọi thứ rậm rạp làm việc xác định khu vực chôn cất kho tàng là điều không thể, thôi thì cứ hạ trại lại đây vậy, tôi rủ An đi xem tình hình chung quanh, tiện kiếm ít củi khô hay coi có thể săn bắt được gì không, chứ nếu với số lương thực còn lại thì lúc này kể cả quay về cũng sẽ rất khó khăn. Nơi chúng tôi chọn dừng chân lúc này là nửa bên tay trái của dòng sông, cảnh vật nơi đây trông có hơi khác so với phía ngoài cốc, mà bản thân tôi trong lúc này cũng không thể phát hiện ra điểm khác biệt ấy, chỉ có cảm giác mang máng mà thôi. Tôi vốn không phải thợ săn cho nên chuyện săn bắn trong tưởng tượng thì thấy dễ hơn nhiều, tự thân mình đi làm thử mới thấy khó biết bao. Nôi việc tìm con mồi đối với tôi cũng là một thử thách lớn rồi, dụng cụ săn bắn cũng chẳng có gì, không lẽ cầm khẩu Pạc Họoc đi bắn chim rừng, mà giống chim đọc thơ thần cũng tinh quái lắm, không dễ dàng đến gần chúng chút nào, hơn nữa nếu như bắt được thì mỗi người phải nướng vài ba con mới đủ gọi là no bụng, chúng quá nhỏ bé so với cơn đói cồn cào trong mỗi người chúng tôi lúc này. Đang phân vân không biết nên làm thế nào, thì tôi thấy phía bờ sông có động tĩnh trong các lùm cây cỏ phát ra tiếng sột soạt. Sợ có loài động vật săn mồi hay ăn thì nào đó, tôi ra hiệu cho An cùng chầm chậm tiến đến một cách hết sức cẩn thận, khi đến sát bờ sông, ngay trong lùm cây lòi ra một cánh tay người đang cố gắng bám lấy bụi cỏ, không khó khăn mấy để có thể nhận ra đó chính là người dẫn đường của đoàn chúng tôi, A Lang. Cả hai chúng tôi vui mừng hết sức, chạy lại kéo A Lang lên khỏi bờ sông về phía trống trải hơn để anh ấy nằm nghỉ. Tôi muốn hỏi A Lang nhiều lắm, nhưng sợ trong tình cảnh lúc này có lẽ anh không thể trả lời tôi được. Không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng A Lang lúc này khá tiều tụy, cả người ướt sũng và tím tái, môi khô nứt nẻ không thể mở miệng ra nói được dù ánh mắt có vẻ vẫn còn nhận biết được chúng tôi. Trong đôi mắt đó lộ lên vẻ hân hoan rồi chầm chậm nhắm lại vẻ buông xuôi và phó mặc. Thấy tình hình không ổn, tôi nói An xốc A Lang lên, để tôi dùng hết sức cõng anh về khu đất hạ trại, trong lúc đó chúng tôi không hay biết phía dưới lòng sông có một cặp mắt đang nhìn chúng tôi đầy hằn học. Thật may khi về đến, A Lủ đã nhóm được đống lửa, tôi đặt A Lang xuống cảnh đó rồi nói sơ qua tình hình hoàn cảnh gặp được A Lang. Giáo sư Minh đến gần xem qua, tìm trong ba lô một số loại thuốc kháng sinh cơ bản rồi cho A Lang uống, xong đâu đấy ông mới nói:

- Lao lực quá độ nên bị ngất thôi, đồng thời cũng bị cảm lạnh khá nặng, chắc cậu ấy ngâm mình trong nước lâu rồi. Cũng may là còn có thể toàn mạng, thật không nghĩ cuối cùng còn có thể gặp lại nhau ở đây.

Mỗi người chúng tôi đều muốn nói rất nhiều những suy nghĩ trong lòng, tuy nhiên nhất thời lại không thể nào mở miệng ra nói, đành mỗi người mỗi tay chất thêm củi để sưởi ấm cho A Lang rồi lặng lẽ đứng nhìn. Để tránh nhàm chán, tôi lại rũ A Lủ tiếp tục đi vòng vòng chung quanh khu trại, bây giờ mới có thời gian để ý khung cảnh chung quanh một cách kĩ càng hơn. Thực vật trong cốc cũng có nhiều điểm khác biệt hơn so với bên ngoài, chúng tôi không phải nhà sinh vật học, nên cũng chẳng thể nào biết tên được của các loài cây cối, chỉ thấy lạ ở chỗ ánh sáng trong cốc thì hơi thiếu, nhưng vẫn có nhiều loài cây cỏ màu sắc sặc sỡ, trông lòe loẹt và nhức mắt vô cùng. Hai thằng tôi tính cách vốn xuề xòa, nhức mắt thì khỏi nhìn nữa vậy, tìm đại mấy đoạn cây tre nứa nhỏ nhỏ, buộc cước và lưỡi câu trong ba lô mang theo ra mé bờ sông ngồi vừa câu cá vừa hút thuốc. Mồi câu thì dùng ít giun đào được ngay đó, cá nhỏ nhỏ tầm hai ba ngón tay liên tục cắn câu, hai đứa vừa thả vừa giựt cần, cá bắt được thì xâu từ miệng qua mang bằng những cọng cỏ dài cho tiện xách về, chủ yếu câu được là loài cá rô phi bé, chúng háu ăn vô cùng. Xem ra ở trong này cũng không lo đói nữa rồi, lúc này A Lủ bảo tôi:

- Mày có thấy con con cá to nào không? Chứ toàn cái loại be bé thế này thì bao giờ mới đủ.

- Câu cá là phải kiên nhẫn, bao lâu rồi mày không ngồi câu cá thế? Ăn sẵn nó quen thân đi rồi. - Tôi đáp.

Hồi bé thì tôi với nó thường xuyên câu cá ở các ao rau muống, dần dần lớn lên thì nó chán, chỉ còn tôi thi thoảng vẫn ngồi câu giết thời gian hoặc để làm cơm ở nhà, vừa câu cá vừa suy tư miên man cũng là cái thú. A Lủ câu mãi toàn được mấy con cá nhỏ, nó dần mất kiên nhẫn, bực mình móc hẳn con giun lớn như ngón tay đang còn ngoe nguẩy vào lưỡi câu ném xuống, định bụng hốt cú chót. Tôi nhìn nó cười đểu, ý rằng chỉ phí công mà thôi, nào ngờ đâu nó vừa ném cần xuống đã thấy dây câu căng đét, tôi còn chưa hết ngạc nhiên thì nhìn cần câu của nó có gì đó không đúng, cây tre nhỏ bị oằn cong đi, rồi không chịu nổi sức kéo mà gãy ra làm đôi. Tay A Lủ rung lên bần bật, nhìn đó thì biết lực kéo của con cá lớn cỡ nào. Bất chợt lực kéo đó lại tăng lên nhiều lần, đột ngột kéo vút một cái làm cần câu của A Lủ bị tuột khỏi tay, lao vút xuống sông rồi chìm nghỉm xuống đáy nước. Mặt nó ngơ ngác hẳn ra, nó bảo tôi:

- Con cá này phải to lắm mày ơi, tao mà không buông tay kịp nó lôi tao xuống sông luôn rồi, khéo tao câu phải ông Long Vương rồi, thôi về, về đi.

Thấy câu cũng được khá nhiều cá nhỏ, sợ ở lại lâu có chuyện nên tôi cũng thu cần, nhặt mấy xâu cá rồi cùng nó đi về, hai thằng vừa quay lưng đi được mấy bước, thì nghe tiếng ùm ùm phía dưới sông, quay lại nhìn thì chỉ thấy những xoáy nước nhỏ nổi lên trên dòng sông đục ngầu. Chẳng ai bảo ai, hai thằng cắm đầu chạy nhanh về trại...

Đến nơi tôi lấy dao nhỏ, chỉ cho An rồi cùng làm sơ qua mấy con cá, xiên vào những que nhỏ rồi nướng trên đống lửa. Chẳng mấy chốc cá đã chín, bụng đói ngửi mùi cá nướng làm cả đoàn cồn cào, chúng tôi vừa ăn vừa kể chuyện suýt nữa thì câu được Long Vương, làm An và giáo sư cứ cười mãi. A Lang vẫn đang nằm hôn mê, chắc là mệt quá nên ngủ sâu. Tôi mới chọn mấy con cá to, lọc bớt xương ra rồi dằm nát, trộn vào bột lúa mạch đem theo nấu lên cho anh ấy uống, coi như là có tí cháo cá bỏ vào bụng cho nhanh lại sức. An đang đổ cháo cho A Lang thì anh ấy tỉnh lại, tôi nói:

- Anh cố gắng ăn một chút đi cho lại sức, mọi chuyển ổn rồi.

Anh ấy lúc này có lẽ còn rất mệt, chỉ dùng mắt ra vẻ đồng ý rồi húp cháo cá lỏng, húp hết thì lại nhắm mắt ngủ tiếp. Chúng tôi no bụng thì bắt đầu tính chuyện tiếp tục đi sâu hơn vào trong cốc nhằm tìm cho bằng được kho tàng. Lúc này A Lang chưa tự di chuyển được nên cả đoàn phải tạm đóng lại đây, tuy nhiên có thể tranh thủ thời gian dò tìm chung quanh khu vực một đoạn ngắn xem có thông tin hay dấu hiệu gì không. Đang cùng nhau suy tính thì ở các bác cỏ chung quanh chung tôi kêu lên soạt soạt, các cây cỏ dường như đang đổ rạp xuống theo một vòng tròn quanh trại, không lơ lai, chúng tôi đứng dậy quay lưng vào nhau, trên tay cầm chắc vũ khí sẵn sàng trước mọi tình huống có thể xảy ra. Mặc kệ chúng tôi căng thẳng thế nào, các đám cỏ vẫn cứ tiếp tục đổ rạp vòng vòng dần sát vào phía trại, nhưng khi gần đến bãi đất trống thì lại im bặt. Đợi một lúc lâu vẫn không có gì xảy ra, tôi mới cùng An tiến lên, chầm chậm đi đến đám cỏ tìm hiểu xem chuyện gì vừa diễn ra. Khi vạch được đám cỏ để đi vào, thì trước mặt tôi là một đường cỏ đổ rạp và ướt sũng đúng một vòng tròn chạy quanh trại, lẫn trong đám có đổ rạp, tôi nhận thấy cái cần câu bị gãy của A Lủ, đầu lưỡi câu còn dính lại một miếng thịt nhỏ đỏ tươi trên đó. Tôi nhặt lấy cần câu, đem về trại ném cho A Lủ xem rồi nói với nó:

- Ông Long Vương lên bờ kiếm mày rồi đây.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom