Cập nhật mới

Dịch Full Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh

Tarzan 1: Con Của Rừng Xanh
Tác giả: Edgar Rice Burroughs
Tình trạng: Đã hoàn thành




Người dịch: Phạm Thành Hưng

Trên đường đi công tác huân tước Clayton và vợ - Alice bị bỏ lại trên đảo hoang. Sau một tai nạn bất ngờ, cả hai cùng qua đời bỏ lại đứa con trai mới ba tháng tuổi. Cậu bé được một con vượn nuôi dưỡng và đặt tên là Tarzan. 

Một lần tình cờ, một số người da trắng đã bị ép vào đảo hoang, nơi Tarzan sinh sống. Chàng trai hoang dã lần đầu tiên tiếp xúc với những người đồng loại, lần đầu tiên có cảm xúc như con người nhưng đã phải vội xóa nhòa, vì Jane - cô gái chàng yêu đã nhận lời cầu hôn của chính anh họ chàng. Vì người con gái ấy, chàng quyết từ bỏ tước vị cũng như nguồn gốc chính thống của mình. Nhưng cũng vì người con gái ấy, chàng đã từ bỏ cuộc sống hoang dã, học cách trở lại thành một con người. Dưới sự giúp đỡ của Pôn, chàng đã tìm được một công việc tương đối phù hợp với tính cách của chàng, được đi khắp nơi, được quen biết nhiều người. Những mối quan hệ mới giúp chàng kết giao được với nhiều bạn bè, nhưng cũng chuốc lấy không ít kẻ thù. Gặp lại Jane, sau một loạt những biến cố kinh khủng, cuối cùng hai người đã trở thành vợ chồng và Tarzan trở lại thành huân tước Clayton. 

Kẻ thù không ngừng bám đuổi Tarzan, chúng âm mưu bắt cóc con trai chàng để mang bán cho một tộc ăn thịt người. Để cứu con, hai vợ chồng Tarzan lại một lần nữa lại dấn thân trở lại rừng già. Cuối cùng, đứa con của rừng xanh vẫn tiếp tục chiến thắng, tiếp tục bảo vệ tốt gia đình mình. 

Phần II của Tarzan lại nói về số phận của đứa con trai chàng - Jack. Một dịp tình cờ, Jack được gặp Acut, con vượn cũ bạn bè của cha mình, và bị cuốn vào một số rắc rối khủng khiếp, để rồi chàng trai đã tiếp nối cha mình trở thành một đứa con của rừng già. Sau hàng loạt những biến cố, cuối cùng, Tarzan cũng tìm được con trai mình trở về, và lại nhận thêm được một đứa con gái. Có lẽ từ nay cuộc sống của chàng mới tương đối bình thường. 

Tarzan là một tiểu thuyết cực kỳ nổi tiếng của nhà văn Mỹ Edgar Rice Burroughs, đã từng được dựng thành phim truyện, phim hoạt hình, với hàng chục phiên bản khác nhau, dù thế nào cũng được hoan nghênh nhiệt liệt. Xét cho đến cũng, điều đó là dễ hiểu. Vì chàng Tarzan đáp ứng đầy đủ hết những mơ ước của các cô gái trẻ. Còn gì lãng mạn hơn khi đang nằm chờ chết trên một cái bàn hiến tế, khi con dao sắc nhọn kề vào cổ, bỗng dưng người đó xuất hiện, chỉ với hai bàn tay trần thịt có thể phá tan được tất cả. Khi xã hội ngày càng dựa vào máy móc, con người trì trệ và phì nộn vì lười hoạt động, rồi sự bình đẳng ngày càng rõ tới mức đàn ông từ chối giúp đỡ phụ nữ, thì còn ai đáng được ngưỡng mộ hơn chàng Tarzan, người hùng chỉ một ngọn giáo cỏn con cũng dám đối mặt với Sư tử, với hổ báo lang sói. 

Đôi lúc giữa câu truyện, chúng ta bắt gặp những suy nghĩ của Tarzan về thế giới con người. "Không những thế, trước mắt chàng bây giờ, những người này lại hành động tồi tệ hơn cả đàn vượn. Họ còn man rợ hơn cả sư tử Sabo. Loài người cũng chẳng có gì đáng trọng!" Khi đã từng sống một cách tự do thỏai mái trong thế giới rừng già, khi mọi việc được giải quyết minh bạch dựa trên thực lực của mỗi người, thì người ta không khỏi hoài nghi về cái gọi là thế giới con người, cái thế giới mà lẽ phải nhiều khi là một điều khá khôi hài. 

Tất nhiên không thể đánh đồng tất cả. Và triết lý của Burroughs khá rõ ràng. Dù lớn lên ở đâu đi chăng nữa, thì nguồn gốc vẫn là thứ người ta không thể chối bỏ. Và chỉ cần nơi đâu có những người yêu thương ta, đó sẽ chính là nhà của ta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Túp lều ven biển


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Con thuyền buồm Phunda băng băng cắt sóng, hướng mũi về phía lục địa Châu Phi. Huân tước John Clayton đứng trên khoang thuyền, khoan khoái hít mùi gió biển. Trong chuyến công cán ở châu Phi lần này, huân tước có nhiệm vụ giải quyết một số chuyện rắc rối mới xảy ra trong nội các một nước vùng tây Phi thuộc Anh. John Clayton đưa vợ đi cùng. Hai vợ chồng mới lấy nhau được một tháng. Hạnh phúc của tuần trăng mật vẫn còn in dấu thắm hồng trên má tiểu thư Alice. Theo chồng lênh đênh trên biển khơi, lòng Alice vô cùng thanh thản.

Nhưng thật tội nghiệp cho nữ huân tước Alice! Alice có biết đâu rằng, vợ chồng nàng đã bước chân vào một cuộc phiêu lưu không có ngày trở lại. Cái chết đang đợi họ ở cuối chân trời!

Phunda chỉ là một hải thuyền cỡ nhỏ. Thủy thủ trên chiếc thuyền buồm này thuộc nhiều màu da, dân tộc khác nhau. Nhóm sĩ quan chỉ huy trông hung dữ như những con sói biển với làn da rám nắng. Chẳng hiểu vì sao họ rất ghét đám thủy thủ lẫn viên thuyền trưởng. Còn thuyền trưởng thì mặc dù là một người đàn ông tài ba nhưng tính tình nóng nảy và đôi khi xử sự rất tàn bạo. Chính vì đi cùng với những con người đầy hằn thù xung khắc như vậy mà chỉ sau khi rời bến ít ngày, vợ chồng huân tước đã phải chứng kiến một thảm kịch xảy ra ngay trên con thuyền. Thật là tấm thảm kịch mà nữ huân tước Alice lâu nay nghĩ rằng, chỉ có thể xảy ra trong các tiểu thuyết viết về chuyện cướp biển ở Luân Đôn.

Một hôm viên sĩ quan chỉ huy trưởng đang bước dạo một mình trên sàn thuyền. Mải ngắm biển xa, hắn không biết rằng dưới chân mình có một thủy thủ đang lúi húi lau sàn. Bị vấp hắn ngã chỏng gọng ngay trên sàn. Thùng nước cọ sàn bẩn thỉu đổ ụp vào người hắn. Bộ quân phục sĩ quan mới là ủi phẳng tự nhiên nhão bẹt ra. Viên sĩ quan bị ướt như chuột lột.

Nhìn cảnh tượng ấy Alice chỉ thấy buồn cười. Nhưng ngay lúc đó viên thuyền trưởng bước tới, chẳng nói chẳng rằng vung tay đấm thẳng vào mặt người thủy thủ vô tội nọ. Vốn có tầm vóc nhỏ bé, hắn lập tức bị ngã bắn vào chân cột buồm. Ngay lập tức, một thủy thủ khác cũng đang lau sàn gần đó xông tới. Đó chính là Mikhan, lâu nay mọi người vẫn gọi là Mikhan đen. Mikhan rất đen và to như chiếc cột nhà cháy. Thấy bạn của mình bị đánh oan uổng và đau đớn, Mikhan đen xông thẳng vào viên thuyền trưởng. Viên sĩ quan bị ướt lúc này ngỏm dậy, đỏ bừng mặt. Hắn rút súng ngắn, nhằm thẳng vào Mikhan đen bóp cò. Nhưng huân tước John Clayton vừa trông thấy đã chạy tới, nhanh tay chộp lấy cổ tay của viên sỹ quan. Súng vẫn nổ, nhưng viên đạn không trúng ngực mà chỉ trúng vào bắp chân Mikhan. Mikhan ngã quỵ xuống.

Biết tình thế rầy rà đã đến, viên thuyền trưởng vội vàng chạy tụt xuống khu buồng ngủ. Viên sỹ quan cũng bám gót chạy trốn theo. Mikhan đau đớn ngồi dậy, cắn răng để cho người thủy thủ bé nhỏ lau máu và băng bó vết thương cho hắn.

Hai ngày sau dường như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng tới sáng ngày thứ ba thì huân tước John Clayton trông thấy các thủy thủ đang đứng xúm xít quanh một cái xác chết cứng đờ. Clayton không muốn nhìn lâu. Chàng đi về phía đuôi thuyền nơi có một thủy thủ đang kỳ cọ lan can. Người thủy thủ lau lan can quay ra nói :

- Hắn sẽ phải trả giá. Tôi đặt cược với huân tước đấy. Hắn sẽ phải đền nợ máu. Đồ chết tiệt.

- Ông nói gì thế ? Clayton ngạc nhiên hỏi

Người thủy thủ nhìn Clayton với cặp mắt nghi ngờ một lát rồi mới thì thầm :

- Ngài không biết gì sao ? Bắt đầu rồi. Hôm qua hai người bị đập vỡ sọ. Hôm nay lại thêm một cái sọ nữa là ba. Mikhan đã đi lại được rồi, nhưng anh ta chẳng nói năng gì hết. Ngài cứ nhớ thế nhé, và thử đoán xem rồi cái gì sẽ đến.

Nghe người thủy thủ nói xong, Clayton vội vã đi tìm ngay viên thuyền trưởng. Rõ ràng là đang có nguy cơ bùng nổ ngay một cuộc nổi loạn của thủy thủ trên thuyền. Nhưng Clayton đã như bị dội một gáo nước lạnh. Nghe Clayton hổn hển thông báo viên thuyền trưởng chỉ cười nhạo rồi đẩy Clayton ra khỏi buồng lái.

Clayton đoán không sai. Ngay sáng sớm hôm sau, phía mũi thuyền bỗng vang lên một tiếng súng nổ. Hai phát, rồi ba phát. Clayton lao lên mặt thuyền. Dưới sự chỉ huy của Mikhan đen, thủy thủ tàu Phunda đang lùng sục, tiêu diệt các sĩ quan.

Cuộc nổi loạn của đám thủy thủ diễn ra nhanh chóng nhưng khá quyết liệt. Khi tòan bộ sĩ quan trên thuyền bị giết chết hết thì một thủy thủ cầm chiếc rìu, lừ lừ bước tới phía Clayton. Chiếc rìu bổ củi hoa lên một vòng sáng loáng. Nhưng ngay lúc đó Mikhan đen đã nhanh tay giật lấy cán rìu và quát lên : "Không được! Ông này đã cứu mạng tao. Tao coi cặp vợ chồng này như bạn bè. Để cho họ yên ! Hiểu không. Bây giờ, thuyền trưởng con tàu là tao. Tất cả những gì tao nói là mệnh lệnh của thuyền trưởng"

Họ quẳng xác viên thuyền trưởng và bọn sĩ quan xuống biển. Tới ngày thứ năm thì viên thủy thủ quan sát đã nhìn thấy đất liền. Mikhan lập tức ra lệnh bẻ lái. Con thuyền chuyển hướng, lao nhanh về phía dải đất xanh mờ cuối chân trời. Mikhan đến thông báo cho Clayton biết rằng, vợ chồng huân tước phải chuẩn bị thu dọn tất cả hành lý để rời khỏi thuyền, lên đất liền.

- Vùng đất này hoang vu quá, hãy để chúng tôi đi đến một bến cảng nào đó rồi hãy đuổi xuống ! - Clayton đề nghị

- Điều ấy là không thể được, thưa ngài - Mikhan khẽ lắc đầu - Nếu ghé vào bến cảng nào đó thì tôi và cả thủy thủ đoàn sẽ có thể bị bắt ngay lập tức. Tôi không chỉ lo cho mình mà còn đang phải lo cho mình vì tôi đang nắm trong tay sinh mạng của tất cả các thủy thủ.

Nhìn vành môi to dày mím chặt của Mikhan đen, Clayton thở dài thất vọng. Chàng hiểu rằng không thể nào lay chuyển nổi lòng dạ của con gấu biển này. Và như vậy, vợ chồng chàng sẽ phải chấp nhận mọi sự may rủi của số phận

Đến buổi chiều, con thuyền đã bơi sâu vào một dòng sông chảy rất xiết. Hai bên bờ sông cây cối mọc dày đặc, sừng sững như hai bức tường thành màu xanh. Sáng sớm hôm sau, người ta dùng một chiếc thuyền con chở Clayton và Alice vào bờ sông. Hai vợ chồng phải khuân theo tất cả những gì mình chuẩn bị cho chuyến công tác dài ngày, kể cả khẩu súng săn, vải bạt, sách vở và thực phẩm.

Thuyền trưởng Mikhan tiễn đôi vợ chồng người Anh bất hạnh tới tận bờ sông rồi nói mấy lời từ biệt.

- Lẽ ra chúng tôi phải thủ tiêu cả hai vợ chồng ngài để đề phòng lộ chuyện. Nhưng vì tôi đã chịu ơn ngài, thưa huân tước ! Huân tước đã cứu sống tôi. Hãy sống ở đây một thời gian. Khi nào chúng tôi thoát khỏi sự nghi ngờ của cảnh sát, tôi sẽ lo liệu báo cho chính phủ nước Anh đến đón vợ chồng ngài về.

Clayton và Alice đứng bên bờ sông, im lặng nhìn con thuyền Phunda quay mũi. Tiếng sóng nước đập vào mạn thuyền làm hai người cảm thấy mình chưa mất hết mối liên hệ với đất liền của lòai người. Họ vẫn còn mong manh hy vọng, chưa thể nào ý thức được ngay mối bất hạnh của mình. Chỉ đến khi con thuyền Phunda nhỏ dần, biến mất trên mặt biển mênh mang, Alice mới nhảy tới, ôm lấy cổ chồng khóc nức nở :

- Clayton anh nói đi. Chúng ta làm thế nào bây giờ ? Thật là kinh khủng! Làm gì bây giờ ?

- Chỉ còn một việc duy nhất Alice - Clayton cất giọng trầm trầm - Làm việc, bắt tay vào công việc bảo vệ sự sống. Không còn gì khác hơn là làm việc và kiên nhẫn chờ đợi. Anh tin rằng vợ chồng chúng ta sẽ không chết. Chúng ta sẽ trở về.

Nói xong Clayton đi lấy rìu. Ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu chàng là phải có một chỗ ngủ thật an toàn, tránh được thú dữ. Chàng chặt bốn thân cây làm thành một chiếc khung hình vuông. Chàng lại chặt những cành cây thẳng, mỗi chiếc dài ba mét, vát nhọn đầu rồi vừa chôn vừa buộc tạo thành một hàng rào vững chắc. Chàng dùng những mảnh buồm rách và những cành cây nhỏ khum lại thành một mái che cao hơn hai mét. Cuối cùng chàng còn làm thêm một chiếc thang nữa.

Tới lúc mặt trời lặn, hai vợ chồng Clayton đã có một chỗ ngủ, nửa như chiếc nhà, nửa như cái tổ.

- Clayton ! - Đột nhiên Alice thều thào kêu lên - Anh nhìn kìa. Cái gì thế kia. Hình như có bóng người.

Clayton căng mắt nhìn sâu vào bóng tối theo hướng tay vợ chỉ. Ngay tức khắc, chàng nhìn thấy một bóng người khổng lồ. Cái đầu to xù khẽ đung đưa rồi biến mất trong bóng tối.

- Cái gì thế, Clayton ?

- Anh cũng không biết nữa - Clayton cố nén tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực để trả lời cho bình tĩnh - Có thể đó chỉ là bóng một cái thân cây cụt.

Đêm trong rừng già Châu Phi dường như dài hơn các nơi khác. Hai vợ chồng vừa định nhắm mắt thì xung quanh họ đã vang lên tiếng báo gầm. Con báo khịt mũi đánh hơi suốt một tiếng đồng hồ làm cái tổ của họ cứ rung lên từng đợt. Khi con báo bỏ đi xa, họ chưa kịp thở phào thì lại nghe thấy tiếng cú rúc và tiếng chân của các lòai thú ăn đêm rậm rịch.

Sáng hôm sau, hai vợ chồng thức dậy ăn sáng thật sớm rồi bắt tay luôn vào công việc. Họ phải làm một cái nhà tử tế, chắc chắn cho cuộc sống lâu dài. Clayton biết rằng vợ mình sẽ không thể nào ngủ nổi nếu như phòng ngủ của hai người không ngăn được những tiếng động ghê rợn của rừng đêm.

Công việc dựng nhà vô cùng vất vả nặng nhọc và kéo dài suốt một tháng liền. Cuối cùng căn nhà của họ cũng tới ngày hoàn thành. Nhà có đủ xà ngang, mái che. Tường nhà được ghép bằng những thân gỗ cứng. Các khe hở được trát kín bằng đất dẻo phù sa. Thứ đất ấy Clayton đã tìm được và khai thác sau khi moi hàng mét lá mục phủ kín ven sông. Chàng còn làm thêm cả cửa sổ, cửa ra vào bằng gỗ của những chiếc thùng đựng hành lý. Mái nhà của chàng được làm bằng lá cọ và các thứ lá khô ít thấm nước. Trong phòng, chàng dùng đá xây lên một hệ thống bếp, lò sưởi và cuối cùng là giường nằm ghế ngồi và bàn viết

Một hôm Clayton đang chặt cây để làm thêm một chiếc tổ dự phòng thì trông thấy một đàn vượn đi kiếm ăn. Trông thấy chàng, chúng nhăn mũi kêu khèng khẹc rồi dắt díu nhau chạy vào sâu trong rừng. Clayton đang mải nhìn theo đàn vượn thì chợt thấy một con quái vật có hình dáng như người khổng lồ mà chàng và vợ chàng đã nhìn thấy thấp thoáng trong buổi tối mới đến.

Con quái vật nửa đi, nửa bò, tiến lại gần Clayton. Các ngón chân trước của con quái vật xiết lại với nhau thành hai quả đấm, chống xuống đất, to như hai chiếc găng đấm bốc của võ sĩ quyền Anh. Chỉ một lát sau Clayton đã xác định được đó chính là một con vượn lớn, thường được gọi là đười ươi. Con đười ươi vừa đi vừa phát ra những tiếng kêu khàn khàn, đùng đục trong cổ họng.

Lúc này Clayton đang đứng cách rất xa ngôi nhà của mình. Chàng nghĩ rằng mình có thể chạy kịp về căn phòng của mình và đóng cửa lại. Hy vọng vậy, chàng vừa chạy vừa kêu to báo cho vợ chạy về phòng trước, chuẩn bị cửa. Nghe tiếng gọi thất thanh của chồng, Alice chạy vào nhà. Nhưng khi nàng quay ra thì nhìn thấy con đười ươi đã đuổi gần kịp Clayton. Hình như biết không thể chạy thoát, Clayton đột nhiên dừng lại, vung chiếc rìu lên dọa.

- Đóng ngay cửa lại, - Clayton thét to lên - Anh sẽ giết nó.

Mặc dù kêu như vậy nhưng Clayton cũng biết rằng mình không đủ sức giết chết con quái vật. Alice cũng hiểu như vậy

Đó là một con đười ươi khổng lồ, nặng ít nhất cũng phải một tạ rưỡi. Hai hốc mắt đười ươi rất sâu, nằm sát nhau. Đôi mắt nó lóe lên dưới hàng hai hàng lông mày lồm xồm.

Clayton và con vật chỉ còn cách ngôi nhà chừng hai chục bước nữa. Con đười ươi nhe bộ răng to, trắng nhởn ra làm Clayton sợ tới mức dựng cả tóc gáy. Nhưng chàng còn kinh sợ hơn nữa khi trông thấy cửa phòng mình bật mở, vợ chàng thò đầu ra vẫy vẫy chiếc khăn

- Đi vào Alice - Clayton hoảng hốt kêu lên - Đi vào, đóng cửa lại.

Nhưng Alice chẳng thèm nghe lời cảnh cáo của chồng. Nàng vẫy vẫy khăn rối rít cho con vật quay sang phía mình. Tuy vậy con đười ươi vẫn chồm tới Clayton. Clayton vung rìu chém. "Bịch", lưỡi rìu chỉ vang lên một tiếng rồi bật khỏi lớp da đầy lông lá. Thật là một nhát chém vô nghĩa ! Con đười ươi tuốt chiếc rìu khỏi tay Clayton rồi vứt đi như vứt một mẩu gỗ. Nó định tóm cổ đối phương, nhưng nó chưa kịp vung tay thì đã giật bắn mình vì tiếng súng nổ váng óc. Viên đạn trúng vào tấm lưng gù của nó. Nó rống lên một tiếng đau đớn rồi xoay mình quay lại tìm kẻ đã gây ra tiếng nổ. Nó nhìn thấy Alice đang loay hoay với khẩu súng. Nàng lúng túng không biết nạp viên đạn thứ hai vào bằng cách nào. Nhìn thấy mặt con đười ươi ngay trước mặt mình, Alice sợ quá ngất xỉu.

Con đười ươi bỏ người đàn ông lao về phía người đàn bà đang nằm. Mặc dù biết cuộc chiến đấu của mình là hết sức vô nghĩa, Clayton vẫn bám theo đuôi con đười ươi với hy vọng nó sẽ bỏ Alice, quay lại phía mình. Rất may là mọi cố gắng của Clayton bỗng chốc trở nên thừa thãi : con đười ươi đang chạy thì đứng sững lại, lảo đảo vài vòng rồi ngã vật ra đất. Viên đạn của Alice khi nãy đã hoàn thành sứ mệnh của nó.

Clayton bế vợ vào nhà. Vợ chàng gần như không biết gì nữa. Chàng cố gắng tìm mọi cách cho vợ tỉnh lại. Phải tới hơn hai giờ sau Alice mới hé được mắt nhìn chồng

Đối với Alice mọi việc xảy ra như một cơn ác mộng. Từ hôm đó nàng trở nên thẫn thờ như người mất trí. Nàng không bao giờ bước ra khỏi cửa và không hề biết rằng mình đang sống giữa rừng già châu Phi. Clayton rất lo lắng về tình trạng thần kinh của vợ. Tuy vậy, chàng lại an ủi mình rằng, chẳng thà như vậy còn hơn là trông thấy vợ mình sợ hãi đau khổ. Nàng không biết vui, không biết buồn. Nàng không còn bị căng thẳng thần kinh, tức là không còn bị hành hạ nữa. Suốt ngày nàng đi lại trong phòng, âm thầm như một cái bóng. Đôi mắt nàng trở nên âm u, sâu vời vợi. Điều đáng vui và cũng là đáng lo là : cái thai trong bụng nàng mỗi ngày lại nhô lên dưới lớp áo.

Clayton cùng vợ sống gần một năm trong rừng sâu. Chàng biết rằng hy vọng sống sót trở về của cả hai vợ chồng chàng ngày càng trở nên mong manh. Chàng chỉ còn trông vào sự ngẫu nhiên của số phận, tới một ngày nào đó, có một con thuyền bơi lạc vào cửa sông này ! Nhưng chàng không thể ngồi chờ đợi. Hàng ngày chàng vẫn phải lao động quần quật, gấp rút chuẩn bị cho đứa con ra đời. Chàng vác súng đi săn lấy thịt để ăn và lột da thú làm đệm trải sàn. Chàng ngăn căn nhà ra làm nhiều căn phòng tượng trưng, lấy rong biển phơi khô làm mành mành và nặn mấy chiếc chậu đất trồng hoa cho vui mắt vợ.

Trong những phút giây rảnh rỗi, Clayton đọc sách cho vợ nghe. Vợ chồng chàng mang khá nhiều sách cho chuyến công cán rủi ro này. Thỉnh thoảng chàng còn ngồi viết nhật ký. Tất nhiên phần lớn thời gian chàng phải đi hái lượm trái cây và săn bắn kiếm ăn.

Sống tới năm thứ hai trong rừng, Clayton bị mấy con vượn khổng lồ phục kích và vây bắt. Rất may là lần nào chàng cũng thoát chết vì luôn có súng trong người.

Nhưng tới một buổi chiều nọ, huân tước John Clayton đứng trước một nỗi bất hạnh khủng khiếp : sau một cơn sốt nhẹ, vợ chàng lặng lẽ qua đời, bỏ lại một đứa con trai đỏ hỏn.

Ngồi nhìn xác vợ và đứa con trong nôi Clayton chết lặng đi như hóa đá. Chàng không biết nuôi con của mình ra sao, chăm sóc nó như thế nào bây giờ. Chàng chạy ra ngoài, ngắm nhìn mặt biển mênh mang rồi lại chạy vội về phòng, đóng chặt cửa lại. Ngôi nhà của chàng âm thầm như một ngôi mộ. Rừng già buổi chiều hôm ấy yên tĩnh một cách kỳ lạ, chẳng khác gì một bãi tha ma. Thỉnh thoảng, đứa con trai của chàng lại ngọ nguậy hai gót chân đỏ hỏn. Tiếng khóc oe oe của đứa trẻ tan đi yếu ớt trong tiếng rì rào muôn thuở của rừng sâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Thằng da trắng


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Gần ngôi nhà của Clayton có một cánh rừng khá bằng phẳng và cao ráo. Cánh rừng thoáng gió, rộng rãi, trải dài như một bình nguyên, nằm cách bờ biển không đầy một dặm. Chủ nhân của bình nguyên này là một bộ lạc vượn khôn ngoan, dưới sự cầm đầu của một con vượn già có tên là Ketchac. Mặc dù khá nhiều tuổi, Kétchác còn rất khỏe và đặc biệt là nó rất hung dữ. Gần như ngày nào Kétchác cũng chạy qua chạy lại lồng lộn khắp bình nguyên để thể hiện quyền lực của mình trong bộ lạc.

Để tránh những cơn thịnh nộ vô cớ của tên bạo chúa, những chú vượn nhỏ thường phải sống ở trên những cành cây cao. Vì rất to và nặng, Kétchác không dám leo lên những cành cây mảnh dẻ để bắt lũ vượn con. Những con vượn đực to khỏe trong đàn chẳng có cảm tình gì với Kétchác, nhưng mỗi khi thấy hắn nổi cơn điên, chúng vẫn phải tránh xa. Nhiều khi chúng cũng phải leo lên cây, ngậm ngùi nhìn cảnh tên bạo chúa hành hạ bạn mình dưới đất. Nhiều lúc có những chị vượn cái yếu bóng vía trốn lên những cành cây quá cao, để rồi kết cục lại bị gẫy cành, rơi ngay xuống chân tên bạo chúa đang nhe răng chờ dưới đất.

Trong bộ lạc vượn do Kétchác cầm đầu có một con vượn cái tên là Kala. Kala nổi tiếng trong bộ lạc của mình vì sự thông minh và khéo léo. Kala mới đẻ con được ít ngày. Kể cả những lúc đi kiếm ăn xa, Kala vẫn bế đứa con bé bỏng của mình trên tay.

Một hôm, không hiểu sao Kétchác lại nổi cơn điên. Đúng lúc đó hắn lại trông thấy Kala đang bồng con trên đường kiếm ăn trở về. Mải âu yếm con, Kala không để ý tới bộ mặt hung dữ của Kétchác. Mãi tới lúc nghe thấy tiếng đàn vượn nhỏ báo động nguy hiểm, Kala ngẩng mặt lên thì đã muộn, Kétchác đã lù lù ngay trước mặt nó. Trong tình thế nguy kịch, Kala tiến hành một cú nhảy ngoạn mục. Đó là một cú nhảy mà loài vượn và loài khỉ nói chung chỉ có thể thực hiện trong những tình thế nguy hiểm nhất.

Cú nhảy thành công. Nhưng khi Kala bám vào được cành cây cao trên đỉnh đầu thì đứa con nhỏ đang ôm cổ vì không có tay mẹ đỡ đã bị rơi bắn ra. Kala chỉ còn biết giương cặp mắt đau đớn nhìn đứa con mình vừa rơi vừa bị đập vào cành cây, rồi rơi bịch xuống mặt đất lởm chởm đá. Phát điên vì thương con, bất chấp sự đe dọa của Kétchác, từ trên cao Kala lao xuống với con. Kala ôm con vào ngực, nhưng đã muộn, đứa con bé bỏng trong tay mẹ chỉ còn là một cái xác còn ấm nóng . Kala rít lên đau đớn, siết chặt đứa con vào lòng. Bên cạnh Kala, Kétchác đứng im, nhìn trân trân. Cái chết của kẻ đồng loại đã làm cho dòng máu dã thú điên cuồng trong hắn nguội dần.

Kétchác là một con thú to lớn, nặng gần tới hai tạ. Trán Kétchác ngắn ngủn, hai mắt ti hí nằm sát chiếc mũi nông choèn. Tai Kétchác rất mỏng và dài, nhưng lại hẹp hơn tai của những con vượn khác. Vì sức lực dư thừa và tính khí hung hãn, đã từ lâu nó trở thành kẻ nắm quyền tối cao trong bộ lạc. Cả khu rừng già này không có một con thú nào trong rừng lại dại dột gây sự với nó. Có chăng chỉ là con voi Tăngtơ. Khi con voi Tăngtơ đi tới, Kétchác thường phải tránh đường.

Bộ lạc vượn mà Kétchác làm thủ lĩnh chỉ có khoảng chục gia đình, tổng cộng từ lớn đến bé có khoảng sáu chục thành viên

Kala là vợ của một con khỉ đực có tên là Túpláp. Đừng quên rằng, cũng như nhiều loài động vật khác, loài vượn cũng có ngôn ngữ riêng của chúng. Theo ngôn ngữ của đàn vượn này thì Túpláp có nghĩa là "Mũi chẻ". Con vượn con mới bị chết chính là đứa con đầu lòng của Kala và Túpláp. Khác với loài người, Kala tuy đã sinh đẻ nhưng cũng chỉ chin mười tuổi gì đó. Đang ở cái tuổi gái một con, Kala là một con vượn cái đẹp nhất bộ lạc này. Kala có cái trán rất cao, khuôn mặt thông minh, nhẹ nhõm. Cũng nhờ trí thông minh nên tình cảm làm mẹ của Kala khá mạnh mẽ. Chết mất đứa con, Kala bị nỗi ân hận và đau đớn hành hạ.

Khi đàn vượn biết rằng cơn điên khùng của Kétchác đã qua, chúng lại tụt xuống đất để tiếp tục công việc bỏ dở. Đàn vượn con lại chơi đùa chòng ghẹo nhau. Mấy con vượn nhỡ nằm lăn trên bãi cỏ sưởi nắng. Một đám khác thì xúm tay vào lôi bật những cành cây mục dưới đất để tìm thức ăn. Những con bọ cánh cứng nằm trong đất ẩm là món ăn ưa chuộng của vượn. Mấy con vượn lớn khôn ngoan hơn thì rủ nhau đi hái quả. Chúng nhặt cả những những hạt quả khô, thọc tay vào tổ chim tìm trứng và rình bắt để ăn thịt cả những con chim non mới rời khỏi tổ.

Khoảng nửa giờ sau, Kétchác hú lên một hồi để tập hợp bộ lạc đến nghe lệnh mới. Cả bộ lạc bám theo Kétchác đi về phía bờ biển.

Phần lớn đàn vượn đi trên mặt đất. Chúng đi theo con đường mòn mà đàn voi thường qua lại. Mấy con vượn con tinh nghịch lại không thích đi trên con đường nồng nặc mùi voi đó. Chúng tản ra hai bên đường, leo lên cây và chuyền thoăn thoắt từ cành nọ sang cành kia. Chúng tiến đi song song với các anh chị và cha mẹ dưới đất. Suốt chặng đường hành quân ra biển, Kala cũng bám sát theo đàn. Nó vẫn ôm xác đứa con trên ngực, buồn bã bước đi sau cùng.

Khoảng xế trưa đàn vượn đã tiến sát tới cửa sông đổ ra biển. Chúng đã trông thấy ngôi nhà của Clayton. Ngôi nhà thật kỳ quặc, trong con mắt của đàn vượn, nó trông như một cái tổ chim khổng lồ

° ° °

Lâu nay Kétchác đã nhiều lần trông thấy những con vật trong rừng thường bị chết sau một tiếng động dữ dội phát ra từ một chiếc gậy màu đen. Kẻ sử dụng chiếc gậy đen đó là một con khỉ trông rất kỳ quặc, sống trong cái tổ chim khổng lồ trước mặt nó. Kétchác nảy ra ý định chiếm đoạt bằng được chiếc gậy đen đó và muốn sục sạo chiếc tổ chim đó xem nó có những gì. Nó cũng muốn đánh nhau với con khỉ kỳ quặc đó vì lâu nay con khỉ đó thường tỏ ra rất coi thường nó. Chính vì vậy lâu nay nó thường kéo cả bộ lạc của mình tới gần chiếc tổ này để rình rập, chờ cơ hội.

Hôm nay con khỉ không lông đó hình như không sống trong tổ. Chiếc tổ im lìm không một tiếng động nào phát ra. Kétchác trông thấy chiếc tổ có một lối ra vào hé mở. Nó liền dẫn thêm mấy con vượn trong đàn đi tới.

Chúng rón rén tiến lại gần, vừa đi vừa thận trọng quan sát. Kinh nghiệm đã cho chúng biết rằng, nếu con khỉ không lông ấy không cầm chiếc gậy đen thì chiếc gậy đen sẽ không phát ra tiếng nổ, và sẽ không khạc lửa vào chúng. Chúng tiến sát tới chiếc tổ và cuối cùng Kétchác đã lọt vào cửa. Đứng sau lưng Kétchác là hai con vượn đực và Kala với cái xác trong tay.

Chúng đã trông thấy con khỉ không lông trong tổ. Con khỉ đó đang ngồi, úp mặt vào hai bàn tay, gục đầu xuống bàn. Ngay gần đó còn có một con khỉ không lông khác, bé tí tẹo đang nằm trong một cái nôi đung đưa. Con khỉ bé tí tẹo đó ngọ nguậy và kêu khóc có vẻ đau đớn lắm. Không chần chừ lâu la, Kétchác tiến thẳng vào trong phòng, nhún hai chân sau vươn hai chân trước để giáp chiến. Vừa lúc đó huân tước John Clayton giật mình ngẩng mặt lên. Chàng chợt nhớ ra rằng mình đã quên đóng cửa.

Tất cả đều đã muộn rồi. Bộ ngực lông lá của con đười ươi khổng lồ đã trùm lên mặt chàng. Không thể lấy súng được nữa. Người chàng tự nhiên bủn rủn vì tuyệt vọng.

Kétchác siết chặt Clayton vào bụng. Hai cánh tay lông lá của nó cuốn chặt lấy thân thể Clayton như hai con trăn. Các khớp xương của Clayton rêu răng rắc. Cùng lúc đó, trong phòng lại vang lên tiếng khóc của trẻ con. Không thèm để ý tới xung quanh, con thú độc dùng tay phải bẻ đầu Clayton quặt ra phía sau. Một lúc sau, nó mới thả lỏng hai cánh tay. Thân thể Clayton nhão ra rồi đổ vật xuống sàn, bất động

Cũng ngay lúc đó, nghe thấy tiếng khóc của đứa trẻ, Kala lao ngay đến chiếc nôi. Tiếng khóc của đứa trẻ khát sữa làm thức dậy trong lòng Kala nỗi xót xa của một bà mẹ. Kala cảm thấy thương đứa trẻ trong nôi hơn là cái xác cứng đờ trong tay mình. Đột nhiên, nó thọc cả hai tay vào trong lòng nôi, bế lấy đứa bé. Cái xác từ tay Kala lại rơi vào lòng nôi. Kétchác vừa giết xong chủ nhà, chưa kịp chặn lại thì Kala đã ôm đứa bé ra cửa, chạy biến vào rừng sâu.

Trên một cành cao, lá rậm um tùm, Kala vừa ôm đứa trẻ vừa lắc lư vừa ru. Hơi ấm từ khoang ngực lông lá của Kala làm cho đứa trẻ cảm thấy dễ chịu và ngừng khóc. Đứa con trai của một huân tước danh giá bậc nhất nước Anh bắt đầu thiu thiu ngủ trong vòng tay một con vượn.

Trong lúc Kala ru đứa bé ngủ trên cây thì trong phòng, Kétchác cùng mấy con vượn đực khác vẫn còn nghịch ngợm phá phách các thứ đồ vật. Biết rằng chủ nhân của cái tổ đã chết hẳn, Kétchác bắt đầu quan sát khẩu súng treo trên vách. Suốt mấy tháng nay, Kétchác rất thèm sờ mó vào cái gậy sấm sét này. Nhưng đến lúc này, khi cái gậy kì quái đó đã nằm trong tầm tay thì nó lại do dự. Phải nghĩ ngợi một lúc nó mới dám đứng thẳng lên bằng hai chân sau, vươn tay mó vào khẩu súng một cái. Hơi lạnh của khẩu súng bằng thép làm nó rụt tay lại. Nó lắc lư cái thân thể đồ sộ của mình một lúc rồi kêu lên the thé ra điều tức tối. Nó bắt đầu lồng lộn trong phòng, suy tính, lấy can đảm sờ vào khẩu súng vài lần nữa rồi cuối cùng cũng liều mạng đứng hẳn lên, giật hẳn khẩu súng xuống sàn nhà. Khi biết chắc chắn là cái gậy kỳ quái đó không nổi giận, Kétchác bắt đầu đến gần để tìm hiểu. Nó bắt đầu vuốt ve báng súng, thò mõm mút nòng súng và cuối cùng thò cả ngón tay vào cò súng.

Bỗng khẩu súng giật mình và một tiếng nổ vang lên chói tai. Mấy con vượn hoảng hốt đạp cả vào nhau chạy tháo thân ra ngoài. Kétchác sợ hết hồn. Nó sợ tới mức bỏ chạy mà lại quên không buông khẩu súng khỏi tay. Nó vẫn cầm nguyên khẩu súng, chạy phóng ra ngoài. Mũi khẩu súng vướng vào cánh cửa để ngỏ, làm cánh cửa sập lại sau lưng Kétchác.

Khi Kétchác chạy ra ngoài được một đoạn nó mới nhớ ra rằng mình còn đang cầm cái vật đáng ghét trong tay. Nó liền tức tối vứt khẩu súng xuống đất như vứt một thanh củi khô. Nó thề rằng từ bây giờ sẽ không bao giờ sờ vào cái vật ấy nữa. Tiếng nổ làm nó quá sợ. Nhưng qua đó nó cũng rút ra được một kinh nghiệm là : cái gậy kinh khủng này sẽ không khạc lửa và phát ra tiếng nổ nếu như được nằm một mình, không có bàn tay nào động tới.

Một tiếng đồng hồ trôi qua. Đàn vượn đã hết sợ, chúng lại mon men quay lại căn nhà, định tiếp tục công việc lục lọi. Nhưng chúng không thể nào vào được bên trong. Chúng không biết rằng cánh cửa nhà được Clayton làm rất công phu. Cửa đã sập thì ở phía ngoài rất khó đẩy vào. Căn nhà có một vài cửa sổ nhưng đều bịt lưới sắt. Vì vậy đàn vượn lởn vởn lượn quanh ngôi nhà một lúc rồi chán nản kéo vào rừng.

Lúc này Kala vẫn ngồi trên cây cao với đứa bé trong tay. Chợt Kala nghe thấy tiếng Kétchác hú gọi cả bộ lạc trở về. Nghe tiếng hú của Kétchác, Kala hiểu rằng Kétchác không có gì giận dữ. Kala yên tâm leo xuống, nhập vào đàn để trở về rừng sâu.

Thoạt đầu đàn vượn rất tò mò về đứa trẻ trong tay Kala. Con nào trông thấy cũng mon men lại gần định sờ vào đứa bé. Nhưng lần nào Kala cũng dựng lông cổ lên, xua đuổi chúng rất kiên quyết. Chỉ tới khi biết rằng lũ vượn chỉ tò mò chứ không có ác ý, Kala mới cho phép chúng đến gần. Tuy vậy Kala không cho một bàn tay nào được chạm vào đứa bé. Đứa trẻ trong lòng Kala mềm yếu như một mầm cây, chịu sao nổi những bàn tay lông lá, thô bạo nọ. Con đường trở về rừng của Kala lúc này trở nên vô cùng nặng nhọc. Trong khi những con vượn sơ sinh khác biết ôm cha mẹ chúng thì tiểu hầu tước Clayton Greystock chỉ biết biết rúc mặt vào ngực Kala, thỉnh thoảng lại còn túm lấy từng nhúm lông bụng làm Kala rất đau. Nhưng vì đã tận mắt trông thấy đứa con mình rơi từ tay xuống đất chết, Kala không muốn cái chuyện thê thảm đó xảy ra lần nữa. Kala ôm đứa bé rất thận trọng, cố gắng không chậm bước.

° ° °

Một năm trôi qua, Kala chăm sóc cậu bé rất chu đáo nhưng lại vô cùng ngạc nhiên khi thấy đứa con nuôi của mình sao mà chậm lớn thế. Nó quá yếu đuối và không nhanh nhẹn như những con vượn cùng tuổi. Hết tháng này qua tháng khác mà cậu bé vẫn chẳng chịu tập đi. Còn chuyện leo trèo thì, chao ôi, chắc chắn nó sẽ rất vụng về.

Kala thường tâm sự với những con vượn đang làm mẹ như mình về đứa trẻ. Nhưng chẳng có bà mẹ nào giải thích nổi cho Kala về sự chậm chạp và lười biếng của đứa trẻ. Hơn một năm rồi mà nó vẫn không tự kiếm ăn được.

Đàn vượn bắt đầu cho rằng cái con khỉ không lông, trắng nhợt của Kala sẽ không sống nổi. Con cái của chúng thì chỉ mới ba tháng tuổi đã lớn hơn cái con vật kỳ quặc đó rất nhiều.

Chồng của Kala là Túpláp thì tỏ ra rất khó chịu. Nhưng vì thấy vợ chăm sóc đứa bé rất chu đáo nên nó không dám làm già. Một hôm Túpláp bảo vợ :

- Cái thứ này rồi sẽ không thành một con vượn ra hồn đâu. Rồi mụ xem, mụ sẽ phải ôm nó trong tay suốt đời thôi. Mà nó có lớn lên thì cũng chẳng có ích gì cho bộ lạc. Vô ích ! Tốt nhất là mụ cứ quẳng nó ra ngoài bãi cỏ cho nó sống lấy một mình.

- Không bao giờ ! Ôi cái lão mũi chẻ này ! - Kala cau có trả lời - Tôi phải nuôi nó suốt đời cũng được

Bực quá, Túpláp liền đi tìm Kétchác. Nó muốn Kétchác dùng uy quyền dọa dẫm để Kala tống khứ cái con vật ngứa mắt đó đi khỏi bộ lạc. Nhưng cuối cùng Kétchác cũng bất lực. Thậm chí Kala còn thề rằng, mình sẽ từ bỏ bộ lạc ra đi nếu như có kẻ nào quấy rầy hai mẹ con mình. Vì cả đàn không muốn mất Kala, một con vượn khôn ngoan bậc nhất của cộng đồng, nên tất cả đàn vượn đều phải im lặng, không dám nói gì nữa.

Thế là chẳng bao lâu tiểu huân tước Clayton đã trở thành thành viên hính thức của bộ lạc. Kala đặt tên cho cậu là TARZAN. Theo ngôn ngữ của lòai vượn, " Tarzan" có nghĩa là da trắng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Sư tử Sabo


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Tarzan sống với vượn mẹ Kala đã qua rất nhiều mùa quả chín. Những con suối trong rừng già đã đổ ra biển biết bao nhiêu nước. Những hòn đá trong suối đã nhẵn thín vì bị nước bào mòn. Bao nhiêu năm đã trôi qua !

Thời gian làm Kala già đi thì cũng làm cho Tarzan lớn lên. Lên mười, Tarzan đã biết chuyền cây thành thạo. Khi đi trên mặt đất, Tarzan có thể làm nhiêu điều kỳ diệu - những việc mà lũ vượn bằng tuổi Tarzan không thể nào làm nổi. Về thể lực và chiều cao, cậu có thể thua kém lũ bạn cùng tuổi. Bởi vì một số bạn đồng niên của cậu khi lên 10 có thể có chiều cao tới hai mét.

Trong khi đó cậu vẫn chỉ là cậu thiếu niên. Nhưng ngược lại, cậu lại vượt xa các bạn cùng tuổi trong bộ lạc ở cái đầu của mình. Trí thông minh của lòai người đã làm cậu tăng thêm sức mạnh.

Lên ba tuổi, Tarzan đã bắt chước bà mẹ khổng lồ của mình chuyền từ cành cây nọ sang cành cây kia. Lên sáu, cậu đã cùng các "ông anh bà chị" của mình nô đùa hàng giờ trên các ngọn cây. Cậu có thể nhảy từ ngọn cây cao bảy mét xuống mặt đất nhẹ như một con mèo. Cậu có thể leo lên những ngọn cây cao nhất để hái quả và nhún mình bay từ ngọn cây này sang ngọn cây khác xa tới bảy mét, trước sự kinh ngạc của bạn bè. Mười tuổi, cậu đã có sức khỏe của một chàng trai 17 tuổi và nhanh nhẹn như một kiện tướng điền kinh. Sống giữa bộ lạc vượn, cậu cảm thấy thật thoải mái hạnh phúc. Cậu không hề biết rằng, ngòai thế giới rừng già Châu Phi mà cậu đang sống - còn có một thế giới khác nữa - thế giới của con người.

Nhưng rồi một hôm cậu bé Tarzan cảm thấy rằng giữa cậu và các thành viên khác trong bộ lạc mình có sự khác biệt rất lớn. Cậu thấy các anh chị mình có bộ lông rất đẹp, còn cậu thì chẳng có một sợi lông nào. Thân thể cậu cứ nhẵn thín, trơn tuột như mình mẩy của một con trăn. Cậu ghét cay ghét đắng cái thân thể trắng ởn của mình. Để che đậy cái thân thể xấu xí đó, cậu lấy bùn trát vào da từ đầu đến chân. Nhưng rồi chỉ một lúc sau, bùn khô bong ra rồi rơi hết. Sau nhiều lần làm như vậy, cậu đâm ra chán nản. Từ đó cậu quyết định để mặc cho thân thể mình trần truồng, nhẵn nhụi như cũ.

Ở dãy núi mà đàn vượn thường tới kiếm ăn có một hồ nước. Mặt hồ rộng yên tĩnh phẳng lặng và sáng như một chiếc gương lớn. Vào một ngày nóng nực, Tarzan cùng bạn bè lên hồ uống nước. Cậu nhìn xuống dưới hồ nước và giật mình kinh ngạc. Lần đầu tiên trong đời cậu nhìn thấy khuôn mặt mình. Thật kỳ quặc ! Cậu khác xa bạn bè của mình. Cậu cũng có bốn chân, nhưng chẳng có sợi lông nào cả. Cậu cúi nhìn xuống mặt nước, há mồm và trông thấy trong mồm mình những chiếc răng bé tí xíu. Răng của cậu không to và không nhọn như răng của các anh các chị. Còn cái mũi của cậu thì chao ôi thật xấu hổ, nó vừa nhọn vừa nhỏ. Tarzan đỏ bừng mặt khi so sánh mình với bạn bè anh chị. Tất cả đều có bộ lông và khuôn mặt tuyệt vời ! Chỉ có cậu là cái gì cũng nhỏ bé, xấu xí và kỳ quặc. Tarzan nhắm mắt lại đau khổ rồi lại mở mắt ra nhìn tiếp. Lại còn đôi mắt nữa chứ. Mắt cậu có một vòng màu nâu xung quanh màu trắng ngà. Cả đến lòai rắn cũng chẳng có thứ mắt kì quái như mắt cậu ! Thật tội nghiệp cho Tarzan ! Cậu bé run lên vì đau khổ và phiền muộn. Cậu ước gì trong chốc lát thân thể mình mọc lông để cậu có thể có được vẻ đẹp tuyệt vời như mọi thành viên trong bộ lạc.

Mải mê soi mình trên mặt nước, Tarzan không nghe thấy phía bãi cỏ sau lưng mình có tiếng động xào xạc. Có một con vật to lớn đang tiến lại gần bờ hồ. Bạn bè của Tarzan quanh đó cũng không hề biết gì. Tất cả đều mê mải uống nước và bắt châu chấu ăn.

Cách bờ hồ khoảng vài chục bước chân thân hình con vật đã lộ rõ. Đó là con sư tử độc thân có tên là Sabo. Sabo ghìm đuôi, rón rén tiến lại gần mép nước. Mồm nó đã bắt đầu há ra. Còn khoảng hai mươi bước chân nữa, nó cuộn chặt đuôi vào mông, thận trọng ngả hai chân sau xuống sát mặt đất để lấy đà. Cả cơ thể Sabo rắn lại, bất động như một tảng đá. Nhưng điều đó chỉ diễn ra trong một vài giây. Sabo thét lên một tiếng rùng rợn rồi nhảy vọt lên phía trước...

Sabo là một con sư tử rất khôn ngoan và hung dữ. Nó có thể nghe được tất cả những tiếng động xào xạc trong rừng mà đoán được từ xa bước chân của từng loài thú. Ngay cả khi đói, nó vẫn biết tự kiềm chế, không bao giờ buột miệng kêu. Nó biết rõ rằng chỉ một tiếng thở dài của nó cũng làm các cư dân của rừng già này hoảng hốt bỏ chạy. Chính vì vậy nó chỉ thét khi tiếng thét là cần thiết. Đó là tiếng thét vồ mồi. Tiếng thét của nó thường làm con mồi bủn rủn cơ bắp, mất hết khả năng bỏ chạy.

Đối với lũ vượn con, Sabo có một cách bắt riêng. Nó mai phục dưới những gốc cây cao, chờ cho lũ vượn con nô đùa trên cây thật thoải mái rồi thét lên một tiếng. Tiếng thét của nó làm hàng chục con vượn con khiếp đảm, rụng xuống đất bình bình chẳng khác gì những quả mít chín tụt cuống. Nhưng riêng đối với Tarzan thì Sabo chưa bao giờ tìm được cách vồ. Đứa con của loài người sống trong rừng sâu này có một khả năng tự vệ rất lạ. Trí tuệ và cuộc sống khắc nghiệt giữa muôn lòai thú dữ đã tạo ra ở Tarzan những phản xạ kỳ lạ. Tiếng thét của Sabo chưa bao giờ làm Tarzan giật mình. Tiếng thét rùng rợn đó chỉ làm thức dậy ở Tarzan ngay tức khắc khả năng lựa chọn và hành động thật quyết liệt.

Từ trước tới nay Tarzan chẳng ưa gì nước. Đối với cậu nước chỉ có tác dụng dập tắt những cơn khát. Ngoài ra nước chỉ làm cậu khổ sở, nước xuất hiện trong những cơn mưa nhiệt đới dầm dề. Nước đã bao lần quất vào da thịt cậu cùng với gió bão. Nước còn xuất hiện với những tia chớp giật và những tiếng sét xé trời làm cậu rất sợ. Bà mẹ Kala của cậu cũng thường nhắc nhở cậu nhiều lần vì sự nguy hiểm của hồ nước trên núi. Chính mắt cậu cũng nhìn thấy cô bạn Nata bé nhỏ của mình chết đuối trong hồ nước, chẳng bao giờ quay về nữa.

Lúc này, khi Sư tử Sabo tiến lại gần, Tarzan tự nhiên thấy mặt nước hồ mà mình đang soi bóng có một váng đỏ. Linh tính mách cho cậu biết ngay rằng, cái chết đã xuất hiện sau lưng. Cái chết bởi nanh sư tử. Trong đầu cậu diễn ra một sự lựa chọn nhanh chóng : chết đúôi hay chết cạn, chết bởi hồ nước hay chết bởi hàm răng sư tử - cái nào đau hơn, cái nào nguy hiểm hơn Thế là Tarzan nhảy vọt xuống hồ. Vuốt chân sư tử chụp xuống một khoảng đất trống làm tung lên một đám bụi mù.

Tarzan chưa xuống nước bao giờ. Nước hồ rất sâu. Tarzan khua khoắng chân tay, vùng vẫy rất mạnh. Cậu thấy bốn bề đều là nước, chẳng biết đâu là trên, đâu là dưới bây giờ. Mặt dù vậy cậu vẫn không hề tuyệt vọng. Cậu kiên quyết không uống nước, cố gắng nín thở vẫy hai tay đạp hai chân. Chỉ một lát sau, cậu nhận thấy rằng, nếu vận động cả hai chân hai tay một cách thật nhịp nhàng thì không những không bị chìm mà còn có thể tiến về phía trước. Cậu cảm thấy vui sướng vì phát hiện đó. Nhưng cậu cũng chẳng có thời gian mà sung sướng lâu. Cậu bơi dọc bờ hồ và quan sát. Trên bờ hồ, một con vượn nhỏ đang dãy dụa dưới chân Sabo.

Vừa xé thịt vượn, Sabo vừa chăm chú nhìn theo Tarzan. Nó chờ Tarzan bơi vào bờ, vì rất thèm cái cơ thể nhẵn nhụi của cậu bé lên mười đó. Nhưng thật là ảo tưởng! Cậu bé không những không bơi vào mà còn vừa bơi dọc bờ hồ, vừa cất tiếng hú, báo động cho bộ lạc của mình biết Ngay lập tức, từ xa có tiếng hú đáp lại. Khoảng năm sáu con vượn lớn chuyền cành thoăn thoắt qua các cành cây tiến về phía bờ hồ. Lao đi đầu tiên là vượn mẹ Kala. Bà mẹ đã nghe thấy đầu tiên tiếng hú của đứa con yêu dấu.

Vừa trông thấy khuôn mặt vừa đau khổ vừa dữ tợn của Kala, Sư tử Sabo đã thấy ớn. Mặc dù Sabo khỏe hơn, có khả năng chiến đấu mạnh hơn lòai vượn, nhưng rõ ràng là nó không muốn đụng độ với cả một đàn vượn đang ào ào xông tới như thế. Nó bỏ miếng ăn, quật đuôi đánh đét một cái xuống đất rồi nhảy vào bụi rậm, biến mất. Chỉ tới lúc thấy sư tử Sabo bỏ đi hẳn, Tarzan mới bơi vào, bước lên bờ.

Cậu như quên hết chuyện nguy hiểm vừa qua. Khi bước lên bờ, cậu cảm thấy thật khoan khoái và dễ chịu. Nước đã kích thích làn da của cậu. Hóa ra bơi trong nước là một việc cực kỳ lý thú. Cậu định bụng từ nay sẽ thường xuyên xuống nước và một ngày nào đó cậu sẽ nhảy xuống biển để nô đùa với cá.

Từ khi thoát khỏi hàm răng của sư tử Sabo, Tarzan càng ngày càng trở nên hiếu động. Hình như cú chết hụt đã khuấy động cả một đoạn đời yên tĩnh và tẻ nhạt của Tarzan. Ngày nào cậu cũng bỏ đi một mình, ra bơi lội giữa dòng sông đầy xoáy lũ. Vượn mẹ Kala tức phát điên lên, nó không thể hiểu nổi cái sở thích kỳ quặc của đứa con nuôi. Trong bộ lạc này cũng có những con vượn biết bơi. Nhưng chúng chỉ nhảy xuống nước trong tình thế bắt buộc, chứ chẳng bao giờ lại đi đùa nghịch với sóng nước. Vì vậy Kala phải vừa la hét mắng mỏ, vừa canh chừng từng bước đi của Tarzan. Cả bộ lạc này chẳng có con vượn nhỏ nào lang thang lêu lổng như Tarzan. Cả bộ lạc hàng ngày chỉ có mỗi hai việc là tìm thức ăn và tìm chỗ ngủ. Không con vượn nào bỏ đàn đi xa quá nửa cây số. Cuộc sống bầy đàn của bộ lạc phụ thuộc vào nguồn thức ăn, thời tiết và mức độ an toàn của nơi cư trú. Hết thức ăn hay bị quá nhiều thú dữ đe dọa là cả đàn lại phải di cư đi nơi khác. Tuy vậy, thỉnh thoảng bộ lạc cũng phải di cư theo lệnh của thủ lĩnh Kétchác. Cứ ở lâu lâu một nơi là Kétchác cảm thấy tù túng, ngán ngẩm. Khi đó, nó bực tức rống lên, thúc ép cả đàn hành quân đi thật xa. Vì những cuộc hành quân đột xuất đó mà không con vượn nào dám bỏ đàn đi quá một ngày. Riêng có Tarzan là không để ý đến điều đó. Cậu hay bỏ đàn đi lung tung một mình tùy thích.

Vào những đêm tối trời, khô ráo, cả bộ lạc của Kétchác không ngủ trên cây mà ngủ ngay trên mặt đất. Lũ vượn cũng biết bẻ cành cọ để che trên đầu hoặc đắp lên người cho ấm. Vào những đêm lạnh lẽo, chúng ôm lấy nhau mà ngủ. Tarzan cũng vậy, gần chục năm liền cậu thường ngủ trong vòng tay ấm áp của Kala. Kala thì gần như quên mất rằng Tarzan chỉ là đứa con mình nhặt được. Kala chăm chút cho Tarzan như một người mẹ đẻ. Tuy rất yêu quý Tarzan, nhưng khi thấy con trai tỏ ra bướng bỉnh, ngang ngạnh, Kala cũng biết cốc đầu mắng mỏ. Chỉ có Túpláp, chồng của Kala là trước sau vẫn căm ghét Tarzan. Biết rõ điều đó nên khi còn bé, Tarzan vẫn phải cắn răng chịu đựng. Nhưng khi lớn lên, Tarzan bắt đầu tìm cơ hội trả thù. Cậu thường bẻ cành khô ném vào mình Túpláp và có cơ hội thuận tiện là cậu gây cho Túpláp đủ thứ chuyện bực mình. Vốn thông minh và khéo tay, cậu dùng cỏ bện thành những sợi dây dài rồi giăng bẫy xung quanh chỗ Túpláp ngủ. Mỗi khi thức dậy, bước đi, Túpláp thường bị vướng dây ngã dúi dụi.

Một hôm, Tarzan thắt sợi dây dài thành một cái vòng thòng lọng. Cậu buộc một đầu dây vào gốc cây rồi ném vòng thòng lọng vào cổ Túpláp. Túpláp giật mình bỏ chạy, nhưng nút thòng lọng thít chặt lấy cổ hắn làm hắn ngã vật trở lại. Càng lắc cổ dứt sợi dây ra thì Túpláp càng bị nghẹt thở. Chẳng biết làm cách nào nên Túpláp cứ phải cầm sợi dây chạy vòng quanh gốc cây suốt một ngày trời, làm cho đàn vượn con thích chí cười nhăn nhở. Cái thằng vượn mũi chẻ đó thì cả đàn có mấy ai ưa.

Túpláp thấy cuộc sống của mình ngày càng trở nên nặng nề. Suốt ngày suốt đêm, lúc thức cũng như lúc ngủ, Túpláp lúc nào cũng nơm nớp đề phòng chiếc thòng lọng của Tarzan bất thần rơi vào cổ. Thấy thế Kala rất bực mình. Kétchác thì gầm gừ giận dữ. Nhưng Tarzan chỉ im lặng tủm tỉm cười.

Một hôm Tarzan nảy ra sáng kiến. Cậu nghĩ nếu sợi dây thòng lọng có thể tóm cổ Túpláp, thì lẽ nào lại không thể tóm cổ được con sư tử Sabo ?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Con dao gia bảo


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Có một dạo bộ lạc vượn thường quay lại kiếm ăn quanh ngôi nhà gỗ của huân tước Claytơn bất hạnh. Ngôi nhà đóng kín mít làm Tarzan hết sức tò mò. Cậu thường đánh đu trên những dây leo để nhảy xuống mái nhà và nhìn qua lỗ ống khói. Cậu không biết có những thứ gì phía dưới. Nhiều hôm cậu cứ vơ vẩn trên mái nhà cả buổi rồi lại nhảy xuống đất đi vòng quanh ngôi nhà. Bởi vì cả đời chưa bao giờ trông thấy nhà nên cậu không biết rằng có thể vào nhà bằng cửa. Mắt cậu có nhìn thấy cái cửa ra vào nhưng không biết đó là cái gì. Trong thâm tâm cậu đinh ninh đây là một cái hộp kín mít khổng lồ không có cách nào đột nhập và trong.

Những con vượn lớn tuổi hơn cậu thì tỏ ra thờ ơ với ngôi nhà, thậm chí có con còn sợ, không dám đến gần. Hơn mười năm đã trôi qua nhưng chúng vẫn không quên tiếng sét bùng ra từ cây gậy đen kì quặc. Ngôn ngữ của bộ lạc vượn này quá ít ỏi nên chẳng có con vượn nào nói cho Tarzan biết rằng ngôi nhà này có liên quan tới số phận bất hạnh của cậu. Vượn mẹ Kala cũng không kể được cho Tarzan nghe chuyện đã xảy ra hơn mười năm về trước.

Thật ra đã có một lần Kala cố gắng giải thích cho Tarzan hiểu rằng, bố cậu không phải là Túpláp mà là một con khỉ da trắng không lông. Tất nhiên Kala không dại gì mà để lộ cho Tarzan biết rằng cậu không phải con đẻ của mình.

Nhưng một hôm, trong lúc thám thính nơi chôn nhau cắt rốn của mình, vô tình Tarzan phát hiện ra những kẽ hở của tường nhà. Suy nghĩ mất một lúc, Tarzan mới hiểu ra rằng đó chính là lối ra vào của ngôi nhà. Cậu hì hục xoay chốt cửa theo các chiều khác nhau vừa xoay vừa đạp và rồi cuối cùng sau hơn một chục năm im lặng, cánh cửa của ngôi nhà đã bật mở trước mặt Tarzan.

Sau một vài giây lưỡng lự và chờ cho mắt quen với thứ ánh sáng âm u trong phòng, Tarzan mạnh dạn bước vào. Giữa phòng là một bộ xương người đã khô trắng. Vải quần áo đã mủn rách, bám phất phơ vào từng khúc xương. Trên chiếc giường bên cạnh cũng có một bộ xương tương tự, nhưng nhỏ hơn một chút. Cách đó không xa có một chiếc nôi đứt dây, rơi xệ xuống sàn nhà. Trong nôi lại thêm một bộ xương nữa. Tất nhiên Tarzan không hề biết đó chính là bộ xương của con vượn lọt lòng của Kala.

Tarzan chẳng hề bận tâm với những bộ xương khô khốc đó. Cuộc sống trong thế giới rừng già lâu nay đã tạo cho Tarzan thờ ơ với mọi cái chết. Cậu chỉ chú ý tới những thứ đồ gỗ và dụng cụ lạ mắt trong phòng. Có biết bao nhiêu thứ mà cậu trông thấy lần đầu tiên trong đời : súng đạn, sách vở, quần áo, xoong chảo.v.v.

Tarzan ở trong căn phòng cho tới tận chiều tối. Khi bước ra khỏi phòng, cậu dừng lại ngẫm nghĩ một chút rồi quay lại đóng cửa và cài chốt rất cẩn thận. Cậu không muốn cho kẻ nào bước vào cái kho báu bí mật này của mình.

Ngày hôm sau cậu lại đến ngôi nhà. Trong khi lục lọi các đồ vật, cậu tìm thấy một con dao cực sắc. Cậu nghịch con dao một cách thích thú. Thích thú tới mức bị chảy máu nhiều lần mà cậu không cảm thấy đau. Một lúc sau, cậu phát hiện ra rằng, mũi con dao nhọn này có thể chọc thủng nhiều thứ và có thể gọt được gỗ ở cạnh bàn ra thành từng mẩu nhỏ. Phát minh này làm cậu sung sướng đến ngây ngất.

Sau khi đã nghịch chán chê con dao, cậu quay sang nghiên cứu các đồ vật khác. Cậu lật từng trang sách và trông thấy trong sách có rất nhiều tranh ảnh rực rỡ, vui mắt. Thật ra đó chính là những cuốn sách học vần vỡ lòng có tranh minh họa cho từng chữ. Cậu giật mình vì trong sách cũng có vẽ rất nhiều con vượn không lông, mặt mũi cũng chẳng khác gì cậu. Ở những trang tiếp theo lại có mấy con vượn trông thoáng qua thì rất giống những bạn bè trong bộ lạc của cậu. Cậu ngắm nghía nó rất kỹ và cuối cùng nhận ra rằng chẳng có con nào giống những con vượn mà cậu đang cùng sống. Toàn bộ cuốn sách chẳng có con nào là Kétchác, Túpláp và Kala cả.

Thoạt đầu cậu định giơ tay túm các con vật trong cuốn sách ra ngoài, nhưng ngay lập tức cậu đã hiểu rằng không thể làm được điều đó. Hóa ra đây chỉ là những thứ để nhìn mà thôi. Trong cuốn sách còn có thuyền bè, tàu hỏa, bò sữa, ngựa bạch.v.v. Tất nhiên cậu chẳng hiểu những thứ đó là gì, vì cả đời cậu chưa bao giờ trông thấy chúng. Ở khoảng giữa cuốn sách, Tarzan trông thấy sư tử Sabo, kẻ từ thù của cậu. Trang tiếp theo cậu thấy con rắn Hixo. Thật là lý thú ! Cậu cứ lần lượt lật từng trang sách mà không hề nhớ rằng, bên ngòai trời đã tối dần. Mãi tới lúc tối quá không thể nhìn rõ thứ gì cậu mới đặt cuốn sách cẩn thận vào chỗ cũ. Trước khi rời khỏi căn phòng, cậu nhìn thấy con dao mà cậu vứt xuống dưới sàn nhà lúc trước. Cậu cầm lấy con dao với ý định sẽ đem về khoe bạn bè trong đàn của mình.

Đi được một lúc, bỗng cậu thấy trước mặt mình có một bóng đen lù lù chắn trước mặt. Thoạt đầu cậu nghĩ rằng chỉ là một con vượn nào đó trong bộ lạc, nhưng khi nhìn kỹ, cậu giật mình. Đó chính là con khỉ đột Bonga, kẻ thù nguy hiểm của cả bộ lạc.

Con khỉ đột sấn tới chỗ cậu. Không thể bỏ chạy dựoc nữa rồi! Cậu nhớn hác nhìn xung quanh và biết rằng phải chấp nhận một cuộc huyết chiến một mất một còn. Cậu cũng biết rằng mình không thắng nổi, nhưng không còn con đường nào khác. Trái tim cậu đập sùng sục trong lồng ngực. Nhưng lòng quyết tâm đã làm cậu không hề hoảng sợ. Cậu hạ thấp người rồi nhảy bổ vào con đại ác thú. Quả đấm đầu tiên của cậu giáng rất mạnh vào bụng con đười ươi. Nhưng ngay sau đó cậu nhận ra rằng quả đấm của mình quá vô nghĩa, chẳng khác nào châu chấu đá voi. Cậu chợt nhớ ra con dao đang cầm trong tay trái. Cậu vội chuyển nó sang tay phải. Thế là khi móng tay của con đười ươi vừa chộp được vào vai cậu bé, cũng là lúc mũi dao bập sâu vào ngực nó.

Con vật buông tay, rú lên một tiếng kinh hoàng Trong giây lát, Tarzan nhận ra sức mạnh kỳ diệu của con dao nhọn. Khi con đười ươi đè sấp cậu xuống đất, cậu vẫn tiếp tục đâm mấy nhát dao vào bụng nó. Cả hai đối thủ cùng vật vã trên mặt đất và cùng đuối sức dần. Những nhát dao của Tarzan nhẹ dần nhưng nhát nào cũng làm cho con thú giãy nẩy và kêu thét ầm ĩ.

Tiếng thét của con đười ươi Bonga làm vang động cả rừng già. Vừa nghe thấy tiếng thét, Kétchác liền hú gọi cả bộ lạc mình lại để điểm danh. Nó biết ngay là thiếu mặt Tarzan. Nhưng vốn không ưa gì Tarzan nên nó giả vờ như không hay biết. Còn Kala, khi nghe thấy tiếng kêu thét của con đười ươi thì giật mình hoảng hốt. Dường như bản năng làm mẹ đã báo cho Kala biết có chuyện chẳng lành xảy ra đối với đứa con trai. Không thèm để ý tới mệnh lệnh của Kétchác, Kala chồm đi vùn vụt từ gốc cây nọ đến gốc cây kia, hướng về phía có tiếng kêu dữ dội. Nó biết chắc chắn rằng phía đó đang có cuộc tử chiến.

Như một bóng ma, Kala tiến như bay trong rừng đêm. Bụng Kala nóng như lửa đốt. Nhưng đang chạy, Kala thấy tiếng hú ngừng bặt. Rừng sâu trở nên yên tĩnh. Chẳng lẽ thằng con yếu đuối của mình lại có thể chiến thắng được con thú độc ? Kala chẳng tin điều đó. Chạy thêm một quãng nữa, Kala dừng lại vì mùi hăng của cây cỏ bị xéo nát. Nó chăm chú nhìn quanh. Trên một khoảng đất trống, ánh trăng non nhợt nhạt rải xuống cái cơ thể rách rưới, đầm đìa máu của Tarzan. Ngay bên cạnh Tarzan là xác con khỉ độc khổng lồ. Kala rú lên một tiếng đau xót rồi nhảy bổ tới, ôm lấy Tarzan.

Kala ôm đứa con vào lòng, vừa đi vừa rên rỉ nghẹn ngào. Suốt một tuần liền, Tarzan không hề ăn. Cậu nằm bẹp vì những cơn sốt li bì. Kala thức suốt đêm để mớm nước vào mồm cậu. Nỗi lo âu và vất vả làm Kala gầy rộc đi. Kala tất nhiên không biết cách chữa bệnh, nhưng hơi ấm của tình mẫu tử đã giúp Tarzan vượt qua từng cơn sốt. Những cơn sốt nhẹ dần. Những vết thương nặng không thể quật ngã được sức mạnh của rừng xanh trong cơ thể đứa con lạc loài. Trong những lúc đau đớn, Tarzan vẫn cắn răng chịu đựng, không hề rên rỉ. Nằm trần truồng trên bãi cỏ, cậu không thích kẻ nào tới quấy rầy mình. Cậu chỉ muốn có Kala bên cạnh.

Lòng cậu se lại khi thấy những ngón tay Kala cứ ngày một dài ra, gầy đét như que củi. Một tháng sau Tarzan bắt đầu ngồi dậy. Rồi một tháng nữa thì cậu đã khỏe mạnh trở lại như cũ. Cậu bắt đầu nhớ lại cuộc huyết chiến của mình. Ý nghĩ đầu tiên của cậu là tìm lại cái vật sắc nhọn đã giúp cậu chiến thắng kẻ thù. Cậu lại thấy thèm khát trở lại ngôi nhà bí ẩn ven biển với bao nhiêu đồ vật lý thú ở đó.

Một hôm, cậu lên đường trở lại chiến địa cũ của mình. Tới nơi, cậu trông thấy bộ xương con đười ươi và bên cạnh là con dao chớm gỉ. Không thích cái màu đen xám bám trên lưỡi dao, cậu bực mình đâm con dao xuống đất phầm phập. Đâm được một lúc, cậu thấy con dao sáng lại như cũ. Cậu thích thú giữ con dao làm vũ khí.

Chỉ một lát sau cậu đã có mặt ở trước ngôi nhà của mình. Cậu phải đứng hồi lâu mới nhớ ra cách mở cửa, đóng cửa. Cậu nhìn hết lượt mọi thứ trong phòng. Không hiểu vì sao thứ hấp dẫn cậu hơn cả lại là những cuốn sách. Cậu dừng lại rất lâu ở cuốn sách vỡ lòng có tranh minh họa khá vui mắt.

Những chữ cái A, B, C loằng ngoằng làm cậu rối cả mắt. Chúng chẳng giống những thứ gì mà cậu đã thấy lâu nay. Thật tội nghiệp cho cậu bé Tarzan bất hạnh ! Cậu không hề biết rằng những cuốn sách đó là giành cho chính cậu. Vợ chồng huân tước Clayton đã đem những cuốn sách đó tới Châu Phi vì họ đã tính trước rằng đứa con đầu lòng của mình sẽ ra đời và có thể phải lớn lên trên đất khách.

Tarzan ngồi vào ghế, đặt cuốn sách lên mặt bàn. Đó là bộ bàn ghế mà cha cậu hơn mười năm trước đã hì hục đóng. Tấm lưng trần rám nắng của Tarzan cúi xuống cuốn sách. Mái tóc dày và rất dài của cậu rũ xuống mắt như một chiếc bờm ngựa. Cậu bắt đầu cau mày nhìn từng con chữ trên mặt giấy. Trong đầu cậu bắt đầu diễn ra cuộc xung đột căng thẳng giữa bóng tối u mê của lòai động vật và ánh sáng le lói của ý thức loài người. Mặt mũi Tarzan mỗi lúc một nhăn nhúm lại vì những cố gắng vượt bậc. Cậu muốn tìm hiểu ý nghĩa của những chữ cái bí ẩn. Đầu óc cậu trở nên mông lung như con thuyền bơi trong sương mù. Tuy vậy cậu cũng cảm thấy trong một trang sách có vẽ một hình con khỉ be bé, tương tự như cậu. Nhưng con khỉ trong sách chỉ giống cậu ở bàn tay, bàn chân và từ cổ trở lên. Từ cổ trở xuống thì không giống vì cơ thể nó được bao bọc bởi một lớp da dày có màu sặc sỡ. Cậu không biết đó chính là quần áo. Dưới hình con khỉ này, cậu lại thấy có hình ba con giun đất co quắp mỗi con nằm co một kiểu : "boy".

Phía dưới nữa là một hàng giun đất giống hệt nhau. "Boy, boy, boy" ( 1 ). Cậu lật sang trang khác và giật mình nhận ra là vẫn có hình con khỉ be bé đó, nhưng bên cạnh lại có thêm một con vật có bốn chân giống như con chó sói. Phía trước bức tranh lại xuất hiện một đàn giun uốn éo nhưng vẫn rất thẳng hàng : " a boy and a dog" ( 2 ). Đàn giun này giống như những con giun mà mẹ Kala của cậu vẫn bắt cho hai mẹ con cùng ăn. Cậu trầm ngâm rất lâu và cuối cùng cho đó không phải là giun. Những hình con giun đó hẳn phải liên quan tới những hình vẽ phía trên. Cái chùm giun "boy" đó chính là cái thay thế cho những con khỉ be bé phía trên. Tarzan chưa bao giờ nói, vì cậu chưa học nói bao giờ. Cậu chỉ được Kala dạy cho biết kêu giống tiếng kêu của loài vượn mỗi khi gặp các tình huống khác nhau. Vì vậy trước cuốn sách vỡ lòng, cậu không phát âm lên được thành tiếng nhưng cậu hiểu được ý nghĩa của những nét vẽ hình giun.

Một ngày, một tuần, rồi một tháng trôi qua. Dần dần sau một năm Tarzan đã nhớ hết được các nét chữ gắn liền với các hình vẽ. Chỉ nhìn nét chữ là cậu có thể hình dung hay ra hình ảnh. Một hôm, hết sức tình cờ, cậu lại phát hiện ra cái ngăn kéo dưới mặt bàn. Cậu lôi ra từ ngăn kéo mấy chiếc bút. Cậu vô tình quệt ngòi bút lên mặt bàn và vô cùng sửng sốt : ngòi bút trên tay cậu đi đến đâu là để lại trên mặt bàn những vệt đen đến đó. Cậu vô cùng thích thú vì trò chơi mới này. Chỉ một lúc sau, trên mặt bàn cậu đang ngồi đã phủ kín những nét mực ngoằn ngoèo. Cậu nghịch lần lượt từng chiếc bút và tự nhiên nảy ra ý định bắt chước theo những đàn giun trong cuốn sách. Cậu khoan khoái mỉm cười khi khoanh tròn được đầu bút, làm ra được chữ "O". Tất nhiên đó là một việc chẳng dễ dàng chút nào. Bởi vì cách cầm bút của cậu cũng chẳng khác gì cách cầm dao găm... Thế rồi suốt mấy tháng liền, lần nào tới ngôi nhà cậu cũng ngồi vào bàn lôi bút ra bắt chước những nét chữ trong cuốn sách. Vô tình Tarzan lại biết viết trước khi biết nói.

Việc học viết của Tarzan còn dẫn tới việc học tính. Cậu không biết đếm nhưng lại có ý thức rất rõ ràng về số lượng. Cậu biết phân biệt số lượng, biết so sánh sự ít nhiều qua năm ngón tay. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cậu đã dùng cuốn sách vỡ lòng như một cuốn từ điển minh họa. Nhờ có bức tranh, cậu có khái niệm hàng trăm sự vật khác nhau tồn tại trong xã hội loài người.

Khi đã mười bảy tuổi, cậu hiểu hết ý nghĩa của các chữ trong cuốn sách. Chỉ có điều đáng phàn nàn nhất là cậu chưa biết xấu hổ vì ở truồng. Nhìn vào cơ thể mình cậu đã biết rằng cậu được nặn ra từ một thứ bột nào đó khác với thứ bột nào nhào ra các bạn bè trong bộ lạc. Cậu đã ý thức được rằng cậu là "người đàn ông", trong khi đó những bạn bè trong bộ lạc lại là ''những con khỉ". Cậu cũng biết rằng Sabo thuộc loài "sư tử", Hixo là một con " rắn" và Tanto là "voi". Nhờ những dòng chữ trong cuốn sách, cậu nhận biết được rất nhiều sự việc khác nhau.

Việc tự học của Tarzan thường bị gián đoạn vì cuộc sống di cư của bộ lạc. Nhưng nếu không được ngồi trong ngôi nhà thân yêu của mình, Tarzan lại nghĩ ra rất nhiều việc làm lý thú. Cậu dùng bút viết lên vỏ cây, lá cây, hoặc dùng mũi dao nhọn viết lên mặt đất bằng phẳng. Bất kỳ vật gì nhẵn nhụi, bằng phẳng đều có thể trở thành vở viết của cậu Tarzan mỗi năm một cao lớn tráng kiện. Nhờ sức khỏe và đặc biệt là trí thông minh, Tarzan đã làm cho nhiều đàn khỉ trong rừng phải hoảng sợ, bỏ đi nơi khác. Cậu tích trữ được rất nhiều thực phẩm để đề phòng những ngày thời tiết xấu. Ngay cả khi không may bị đói, cậu cũng không bao giờ dùng dao để dọa nạt, chiếm đoạt của láng giềng. Không những thế, cậu còn che chở bảo vệ những con vượn yếu đuối và duy trì công lý trong bộ lạc. Thỉnh thoảng có những con vượn đực mưu toan đảo chính, chiếm quyền cai trị của Kétchác, mặc dù không ưa Kétchác nhưng cậu vẫn ra tay dẹp tan các cuộc nổi loạn để duy trì ngôi vị cho Kétchác.

Tarzan ngày càng có uy tín trong bộ lạc. Phần lớn đều xem cậu như một thành viên trong bộ lạc của mình. Tuy nhiên trong số đó cũng có một số con vượn xử sự với cậu rất tồi. Thậm chí có một vài con vượn đực hung dữ rất căm ghét cậu. Có điều là nhờ vào sức mạnh và trí thông minh của con người, cộng thêm với sự gìn giữ bảo vệ của mẹ Kala, cậu vẫn sống ung dung, vượt lên mọi sự thù hằn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Chiến thắng Túpláp


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Trong những cánh rừng già châu Phi mà Tarzan đang sống có một thung lũng rất đẹp. Đó là thung lũng duy nhất không có những loài cây dây leo, không có những loài cỏ ngứa. Ngay cả trong những ngày rừng già bị hun nóng lên vì mặt trời nhiệt đới thì thung lũng vẫn mát mẻ dễ chịu. Giữa lòng thung lũng lại nổi lên một gò đất rộng rãi bằng phẳng, trông chẳng khác gì võ đài của các đấu sĩ quyền Anh. Đứng trên võ đài ấy có thể dễ dàng trông thấy từ xa những loài thú độc đang đi tới. Mùa hè thì mát mẻ, mùa đông thì ấm áp, quanh năm lúc nào thung lũng cũng sáng sủa, mơ màng trong tiếng rì rào của những ngọn gió thanh bình, quyến rũ.

Bộ lạc vượn của Kétchác thường tới thung lũng để tụ họp. Ở đó chúng có một cái trống rất kỳ quặc, dùng để khai mạc các lễ hội. Những người thám hiểm trong rừng sâu thỉnh thoảng cũng nghe thấy tiếng trống, nhưng không ai biết những âm thanh kỳ quặc đó từ đâu ra. Tarzan chính là người đầu tiên của xã hội lòai người trông thấy chiếc trống đó và cũng là người đầu tiên cùng tham gia vào lễ hội. Bộ lạc vượn gọi lễ hội này là lễ hội "Đum đum".

Hội Đum - đum thường được tổ chức khi bộ lạc có những sự kiện quan trọng : hoặc là mừng chiến thắng của bộ lạc trước một đàn thú nào đó, hoặc là mừng bắt được tù binh, hoặc là vĩnh biệt một "thủ lĩnh" vừa qua đời và mừng thủ lĩnh mới đăng quang.

Một hôm cả bộ lạc của Kétchác tụ họp trong thung lũng vì mới giết được một con khỉ độc, kẻ thù của bộ lạc lâu nay. Tarzan cũng tham gia lễ hội. Cậu nhanh nhẹn chuyền qua các cành cây là là sát mặt đất rồi nhảy xuống bãi cỏ trong thung lũng. Hai con vượn to khỏe ì ạch khiêng xác kẻ thù tới chỗ chiếc trống rồi ngồi xổm bên cạnh như hai tên lính gác. Những thành viên còn lại thì tản ra xung quanh, ngồi co ro thiu thiu ngủ. Chúng cần nghỉ ngơi chờ trăng lên.

Suốt mấy tiếng đồng hồ trôi qua yên tĩnh. Rừng xanh thầm thì tiếng gió. Thỉnh thoảng lại vang lên tiếng kêu lảnh lót của những con vẹt hiếu động và tiếng chim chóc chuyền cành quanh những bụi dạ lan. Khi bóng tối vừa loãng ra dưới mảnh trăng bạc, cả bộ lạc cũng bắt đầu thức dậy. Chúng lục tục di chuyển, ngồi lại thành vòng tròn xung quanh chiếc trống. Đám "đàn bà trẻ em " khiêm tốn ngồi ra xa. Còn đám "đàn ông" tức là lũ vượn lớn thì tiến sâu vào vòng trong để cùng tiến hành phận sự. Ba chàng vượn lực lưỡng tiến tới gần sát mặt trống. Mỗi gã đều có một khúc cây dài chừng vài gang tay. Tất cả đều ngửa mặt lên trời chờ đợi.

Khi tia sáng đầu tiên từ mảnh trăng bạc vừa rọi xuống khu rừng, ba con vượn cùng vung gậy đánh vào mặt trống. Trong giây lát cả thung lũng ầm vang tiếng trống. Cả một vùng rừng núi thức giấc. Những lòai hổ báo sư tử đang ngủ bị giật mình, ngẩng đầu lên nghe ngóng. Tuy thế chúng cũng không dám bén mảng tới thung lũng. Nghe tiếng trống đánh nhịp nhàng, chúng hiểu rằng cả bộ lạc vượn khôn ngoan và đông đúc của rừng xanh đang bước vào lễ hội. Tất nhiên từ phía xa cũng vang lên những tiếng kêu có vẻ giận dữ, bất bình. Nhưng giận gì thì giận, chẳng hề có con thú nào dám bén mảng tới gần thung lũng. Lễ hội của bộ lạc vượn từ xưa tới nay bao giờ cũng gây nỗi kinh hoàng cho cả rừng xanh.

Ba con vượn đánh trống đã mỏi tay. Tiếng trống mỗi lúc một nhỏ dần. Đến lúc đó Kétchác mới chồm ra bãi đất trống. Nó rướn người, đứng thẳng lên bằng hai chân sau. Nó lắc đầu vài cái rồi vừa ngửa mặt nhìn trăng, vừa xiết hai nắm đấm, đấm bình bịch vào ngực mình. Nó bắt đầu lấy hơi thật đầy vào phổi rồi thét lên ba hồi. Tiếng thét của nó nghe thật man rợ và chết chóc.

Thét xong nó tiến lại gần cái xác, lượn vài vòng. Một con vượn đực khác cũng tách ra khỏi vòng tròn, bước lại gần Kétchác và cũng nhe răng ra nhìn mặt trăng rồi thét lên, bắt chước tiếng thét của Kétchác. Thế rồi ngay lập tức, cả bộ lạc cùng thét. Rừng đêm lại như rùng mình vì tiếng thét đồng thanh của đàn vượn. Bỗng nhiên Kétchác chồm tới chiếc trống, xoay mình một vòng. Tiếng thét tự nhiên ngừng bặt. Đàn vượn cầm tay nhau kết thành vòng tròn, bắt đầu nhảy múa. Chúng nhảy chệnh choạng xiêu vẹo vì chúng không quen đi bằng hai chân. Vũ khúc của chúng chỉ kéo dài không đầy nửa phút. Tất nhiên Tarzan cũng tham dự vũ khúc chung của bộ lạc. Cơ thể săn chắc và dẻo dai của Tarzan lượn qua lượn lại rất uyển chuyển giữa những thân thể đầy lông lá của đàn vượn. Mái tóc bờm xơm của chàng trai cao vượt lên giữa những cái lưng gù.

Kétchác cầm một khúc cây đánh vào cái xác. Ngay lập tức cả lũ vượn chạy lại đống củi mà chúng đã chuẩn bị từ trước, mỗi con cầm lấy một khúc, bắt chước thủ lĩnh cùng xông vào hành hạ cái xác. Hình như thấy lũ vượn cái và vượn con đã sốt ruột vì phải làm khán giả quá lâu, Kétchác liền ra lệnh ngừng đánh trống. Ngay tức khắc, từ bốn phía, đám đàn bà trẻ con cùng xông vào cái xác, tranh nhau xé xác ra thành từng mảnh nhỏ.

Theo thói quen từ lâu nay, Tarzan cũng xông vào để lấy phần thịt của mình. Nhưng Tarzan còn chưa kịp đưa miếng thịt lên mồm đã trông thấy Túpláp chồm tới phía mình. Mắt Túpláp ngầu đỏ. Tarzan hiểu ngay rằng điệu nhảy vừa rồi đã làm cho Túpláp trở nên hung hãn. Túpláp không thích cho cái thằng khỉ không lông của vợ nó được hưởng món lộc chung của bộ lạc. Biết thái độ đó của Túpláp, Tarzan liền lẩn trốn vào đám đông. Nhưng Tarzan đi tới đâu, Túpláp cũng bám theo chàng sát gót. Thấy tình thế bất lợi, Tarzan liền chạy ra khỏi bãi trống, nhảy lên một cành cây cao lánh nạn. Túpláp lập tức đuổi theo ngay. Nhưng Túpláp theo tới lưng chừng thì phải dừng lại. Những cành cây phía dưới Tarzan quá mềm, không chịu nổi trọng lượng của Túpláp. Ngồi trên cành cây cao, Tarzan khoái trí cúi xuống trêu chọc Túpláp.

Bất lực vì không đuổi được Tarzan, con vượn khổng lồ Túpláp liền nổi cơn điên. Từ cành cây nó nhảy bổ xuống đất rồi xông vào cắn xé lũ vượn cái và lũ vượn con. Đám đàn bà con nít bỏ chạy tán loạn lên cây. Chẳng có con nào cả gan đương đầu với răng nanh và móng vuốt của thằng vượn khùng.

Mấy con vượn đực chậm chân đã bị thương vừa chạy lặc lè vừa kêu lên những tiếng đau đớn. Chỉ một lát sau, giữa bãi đất trống chỉ còn lại Túpláp và một con vượn cái. Con vượn cái có vẻ bình tĩnh thong thả bước lại gần gốc cây của Tarzan. Túpláp do dự nhìn theo rồi bất thình lình lao vào con vượn cái. Tarzan nhìn kỹ thì nhận ra đó chính là mẹ Kala của mình, vợ của Túpláp. Thấy tình thế nguy ngập của mẹ, Tarzan liền thò chân xuống, ấn một cành cây thấp xuống cho Kala nhảy lên. Kala nhún mình một cái, nhảy lên bám vào cành cây.

Nhưng rắc một tiếng, cành cây trong tay Kala bị gãy đôi, Kala bị rơi trúng xuống đầu của Túpláp ở dưới đất. Cả hai đều ngã vật ra mặt đất và bắt đầu xông vào cắn xé lẫn nhau. Nhanh như cắt, Tarzan rút dao ra khỏi chiếc bao mà chàng mới tự làm lấy. Chàng nhảy xuống đất, xông vào giữa hai vợ chồng nhà vượn, lấy lưng che cho Kala, mắt gườm gườm nhìn Túpláp.

Túpláp cũng chỉ chờ có thế. Nó thét lên một tiếng rồi chồm vào người Tarzan. Nhưng hàm răng nhọn của Túpláp không thể nào đớp được vào làn da nâu sậm của Tarzan. Cánh tay gân guốc của chàng trai đã vung lên. Dùng bàn tay trái thúc vào cổ họng đối phương, Tarzan xiết chặt gốc dao găm đâm liền ba nhát vào ngực đối thủ. Mặc dù bị đau, Túpláp vẫn dồn hết sức chồm thẳng vào người Tarzan. Nhưng nó không còn điều khiển nổi hai cánh tay nặng nề của nó nữa rồi. Tarzan né người, bồi thêm một nhát dao cuối cùng vào khoang ngực lông lá của con vượn độc. Chàng trai không rút dao ra khỏi ngực nó. Đốc dao trong tay chàng rung rung. Cơ thể đồ sộ của con thú chùng lại, rồi từ từ đổ gập xuống.

Khi Túpláp đã nằm im bất động trên mặt đất, Tarzan mới ngửng mặt lên. Chàng ngẩng đầu lên cao nhìn vầng trăng bạc, rồi đột nhiên lắc lắc mái tóc dài rũ rượi, thét lên tiếng thét man rợ của bộ tộc mình. Thấy trận đánh đã kết thúc, một con, hai con rồi cả bộ lạc vượn mon men tiến lại gần Tarzan. Chờ cho cả bộ lạc từ bốn phía kéo đến đông đủ thành một vòng tròn xung quanh mình, Tarzan liền nhảy lên một mô đất cao, thét lên :

"Ta là Tarzan, Tarzan vĩ đại! Tất cả phải kính trọng Tarzan và mẹ Kala. Cả rừng này không ai mạnh bằng Tarzan đây. Hỡi kẻ thù hãy coi chừng Tarzan "

Trong khi dõng dạc tuyên bố như vậy, Tarzan vừa đấm tay vào ngực mình vừa nhìn thẳng vào đôi mắt đỏ, đùng đục của Kétchác. Nhìn cái xác bất động của Túpláp, Kétchác tránh cặp mắt kiêu hãnh của chàng trai. Nó gầm gừ mấy tiếng rồi lẳng lặng bỏ đi.

° ° ° Sau lễ hội Đum đum cả bộ lạc vượn lại quay về cánh rừng ven cửa sông. Xác của Túpláp vẫn còn nguyên ở chỗ cũ. Bộ lạc vượn này không có thói quen ăn thịt đồng loại của mình. Bộ lạc vượn lại tiếp tục công việc tìm kiếm thức ăn. Cánh rừng ven cửa sông có rất nhiều chuối và dứa. Nhưng đàn vượn này không chỉ ăn hoa quả mà còn săn bắt cả những lòai thú nhỏ. Chúng đào bới trứng rùa, phá tổ chim, bắt thằn lằn, bọ cạp và nhiều loại côn trùng khác nữa. Với hàm răng khỏe mạnh, đôi khi chúng còn ăn cả hạt táo, hạt hồ đào. Hạt nào rắn quá, không cắn vỡ được thì chúng dùng đá đập vỡ ra để lấy nhân.

Con sư tử Sabo trong khi săn mồi thường xua cả bộ lạc vượn lên cây. Chỉ riêng Tarzan là độ này không chịu chạy lên những cành cây quá cao. Chàng chỉ trèo lên vừa đúng tầm cao mà sư tử Sabo không chồm tới rồi ung dung ngồi bẻ cành cây ném vào mình sư tử. Những lúc ấy con sư tử khổng lồ thường quay lại, nghênh đầu lên nhìn Tarzan một cách tức tối. Nó quẫy tít đuôi, nhe hàm răng vàng khè, nhìn lom lom vào Tarzan. Thấy con sư tử càng tức tối Tarzan càng trêu chọc. Tuy thế, trêu mãi rồi cũng chán. Lần nào cũng vậy, khi cả hai không làm gì được nhau thì chỉ một lúc là cả hai đều ngán ngẩm. Tarzan lại lôi dao ra nghịch. Còn sư tử Sabo thì đủng đỉnh bỏ đi. Rừng nuốt con sư tử vào lòng như đại dương nuốt vào một con sóng dữ. Bốn bề lại trở lại không khí yên tĩnh, thanh bình

Nhưng rồi một hôm, khi sư tử Sabo bỏ đi, Tarzan lóe lên trong đầu một ý định táo bạo. Chàng đã chiến thắng Túpláp vẻ vang như một dũng sĩ, tại sao chàng không giết nổi Sabo ? Cần phải tiến hành một cuộc săn bắt chưa từng thấy trong bộ lạc! Tarzan suy tính. Săn sư tử Sabo còn có một cái lợi khác nữa. Chàng trai muốn bắt chước những con khỉ kì quặc mà chàng trông thấy trong những cuốn sách học vần. Những con khỉ trong sách đều có một lớp vở bọc từ cổ trở xuống. Lớp vỏ bọc sặc sỡ đó chính là cái khác biệt giữa chúng với những con khỉ trong rừng. Lớp vỏ bọc đó khi cần có thể tháo ra được. Mà khi chàng có lớp vỏ bọc đó, bộ lạc này sẽ không còn kẻ nào dám chê chàng là một con khỉ không lông nữa. Không còn ai trông thấy làn da nhẵn thín như da rắn của chàng nữa. Suy tính như vậy nên suốt mấy tháng liền, lúc nào Tarzan cũng mường tượng tới lớp da của sư tử Sabo, hoặc của con báo Seta. Nhiều đêm chàng trai cứ nằm trằn trọc với hình ảnh con sư tử trong đầu.

Ý định giết Sư tử Sabo càng được nung nấu hơn vì một sự kiện khác nữa. Đó là sự kiện mới xảy ra vào quãng giữa trưa. Không hiểu vì sao buổi trưa hôm đó rừng già tự nhiên yên tĩnh một cách rất đáng ngờ. Cây cối trong rừng đứng im phăng phắc. Không một tiếng lá lay động. Cũng không có lấy một tiếng chim kêu. Cái không khí im lặng đáng ngờ này hình như là điềm báo một tai họa nào đó thật khủng khiếp Đúng như vậy! Từ chân trời xa đột ngột vang lên tiếng động của một đợt gió lạ. Tiếng gió tru nghe như tiếng rên đau đớn của đất trời. Tiếng gió càng tới gần, càng trở nên ghê rợn. Đang đứng im phăng phắc, bỗng chốc cây rừng rùng rùng chuyển động. Những thân cây vặn răng rắc rồi đổ rập xuống. Bầu trời tự nhiên tối sầm lại, những đám mây đen đặc như bùn lầy. Một tia sáng rạch trời làm sáng bừng mặt rừng, cùng lúc với một tiếng sét tưởng vỡ tan cả mặt đất. Rừng già như đã biến thành âm phủ. Dưới ánh chớp chói mắt, có thể trông thấy những con thú rừng chạy nhớn nhác. Bị choáng mắt vì những tia chớp và hoảng sợ vì những tiếng nổ, chim chóc giật mình rơi xuống đất như sung rụng. Tất cả các loài muông thú đều bị quật xuống mặt đất. Tarzan cùng bộ lạc vượn của mình tán loạn dưới những gốc cây cổ thụ.

Tìm được chỗ trú, Tarzan co mình trong trận mưa bão. Chàng trai cảm thấy bỏng rát khắp mình mẩy. Làn da chàng bị cào nát vì những cày cây gẫy, buốt giá vì mưa táp. Trận bão kéo dài hơn một tiếng đồng hồ rồi kết thúc một cách đột ngột chẳng khác gì lúc vừa kéo đến. Gió ngừng thổi, mặt trời lại hiện ra. Chỉ một lát sau, những bông hoa rừng đọng nước lại sáng lên rực rỡ. Cuộc sống trong rừng già lại trở về nhịp cũ.

Chính trong cơn bão ấy Tarzan đã hiểu ra điều bí ẩn của lớp vỏ bọc trên thân mình những con khỉ không lông trong sách. Chàng đã biết được công dụng của áo quần. Bộ da sư tử đã trở thành mục tiêu quyết định của dự kiến phiêu lưu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Cái chết của Ka-la


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Trong khi bộ lạc vượn kiếm ăn gần cửa sông thì Tarzan thường chui vào ngôi nhà của con khỉ da trắng không lông khi xưa để xem sách. Chàng thuộc hết các nét chữ và hay say sưa ngắm các bức tranh minh họa. Sách đã cho chàng biết có bao nhiêu cái lạ trên đời. Ngay cả khi bộ lạc vượn đã kéo nhau vào rừng sâu, chàng trai cũng chẳng thèm quan tâm tới. Xem sách chán chê, chàng trai lại quay ra bện những sợi dây thòng lọng để bẫy thú rừng. Một hôm chàng quyết định bắt con lợn Hoty hay chạy qua lại kiếm ăn gần chỗ chàng ngồi. Chàng leo lên cây nắm đầu dây thòng lọng và nín thở chờ con lợn rừng chạy tới. Quả nhiên vòng thòng lọng thắt vào cổ Hoty. Nhưng khi bị vướng sợi dây vào cổ, con lợn giật mình chạy vụt đi. Tarzan đang nắm chặt đầu dây trong tay nên bị con lợn giật phăng xuống đất. Con lợn kêu rống lên, chạy một đoạn rồi quay đầu nhìn lại. Khi nhận ra kẻ xúc phạm mình chỉ là một thằng khỉ oắt con, nó tức tối hùng hục quay đầu trở lại. Nó cúi đầu húc Tarzan.

Thật là may mắn!

Tarzan rơi xuống đất nhưng không bị thương. Chàng rơi xuống đất như một con mèo, hai chân hai tay đều chạm mặt đất cùng một lượt. Khi Hoty vừa lao mõm tới thì chàng cũng kịp nhảy vọt lên cây như một con khỉ. Chàng tóm cành cây, đu người lên cao. Lợn Hoty chỉ đớp sượt vào mông đít chàng trai. Thật hú vía.

Thế là Tarzan mất toi sợi dây thòng lọng. Tuy vậy chàng cũng rút ra được một bài học quý giá về cách sử dụng dây. Nếu như sư tử Sabo giật chàng rơi xuống đất như vừa rồi thì chắc chàng đã toi mạng. Chàng lại ngồi hì hục mấy tiếng đồng hồ bện một đoạn dây thừng mới. Xong xuôi, chàng thắt thành vòng thòng lọng rồi lại leo lên cây ngồi rình. Lần này chàng ngồi rình ở lối đi xuống bến sông. Nhiều con thú lớn thường đi qua lối này xuống uống nước. Đã có một vài con thú nhỏ đi qua nhưng chàng không thèm để ý tới. Chàng chỉ muốn bắt những con thú thật to, có bộ da thật đẹp. Giết được những con thú lớn sợi dây thòng lọng của chàng mới thành một phát minh có ích.

Chàng ngồi chờ mãi chờ mãi. Cuối cùng cái điều mà chàng mong đợi đã đến. Con thú lớn chưa tới gần, chàng đã ngửi thấy mùi hôi của nó từ xa. Bước chân của nó quá nhẹ. Nhẹ tới mức nó đã tới gốc cây mà chàng vẫn không nghe thấy bất kỳ một tiếng động nào. Cái đầu của con thú giương lên cao đầy kiêu hãnh. Những cơ bắp của nó chuyển động mềm mại uyển chuyển dưới lớp da vằn vện. Chẳng phải con thú nào xa lạ, đó chính là con sư tử Sabo

Sabo tiến tới gần sát gốc cây. Từ trên cao, Tarzan vẫn ngồi im lìm như một pho tượng đồng. Một bước, hai bước rồi ba bước, vòng thòng lọng trong tay Tarzan vụt bay xuống đầu Sabo. Nghe thấy tiếng gió phát ra từ vòng dây bay, con sư tử giật mình ngẩng cổ nhìn lên. Nhưng nó chưa kịp hiểu cái vật lạ trên đầu thì vòng thòng lọng đã thít vào cổ nó. Tarzan liền kéo dây cho vòng thòng lọng thít chặt hơn vào cổ sư tử. Vì không muốn mất sợi dây lần nữa nên Tarzan đã buộc một đầu dây còn lại vào thân cây từ trước. Con sư tử lúc này hoàng sợ, định bỏ chạy nhưng nó đã bị giật ngược trở lại và ngã ngửa ra mặt đất. Thấy thế Tarzan thích quá. Chàng lấy lại thăng bằng, ngồi thật vững rồi bắt đầu túm sợi dây kéo thử. Tới lúc này chàng mới biết rằng mình không thể kéo nổi Sabo, mà ngược lại thì đúng hơn. Con sư tử phát điên lên, lồng lộn giật sợi dây thừng làm Tarzan cảm thấy kéo nó chẳng khác nào kéo con voi Tanto.

Lồng lộn mãi dưới lùm cây rậm rạp mà không thoát nổi sợi dây trên cổ, sư tử Sabo bình tĩnh trở lại. Nó lần theo sợi dây và tiến đến gốc cây. Nó nhìn ngược dần lên theo sợi dây và trông thấy Tarzan đang ngồi vắt vẻo trên cành cây, một tay túm đầu sợi dây. Trong giây lát nó đã hiểu ra ai là kẻ làm nhục nó. "Khừ ứ ứ ứ!" Thét lên một tiếng thét căm hờn, con sư tử nhún mình nhảy bổ lên cây. Tarzan đánh đu vọt lên cao. Bụng con sư tử Sabo vắt ngang trên cành cây Tarzan vừa ngồi. Nó chới với vì mất thăng bằng trong không trung. Tarzan ngồi vắt vẻo phía trên khoái quá, liền bẻ cành cây chọc vào mình sư tử. Thấy Sabo ngã, Tarzan lại tụt xuống thấp để cầm sợi dây. Nhưng lúc này con sư tử đã nhận ra sợi dây đang thít vào cổ nó chỉ là một sợi dây nhỏ bé. Vì vậy Tarzan chưa kịp túm sợi dây, Sabo đã ghé răng cắn đứt. Mẩu thòng lọng vẫn quấn quanh cổ Sabo chẳng khác gì một thứ đồ trang sức.

Tarzan vừa bực bội vừa thất vọng, chỉ còn biết ngồi bẻ cành cây ném vào mình con sư tử. Còn Sabo cũng không chịu bỏ đi ngay. Nó cứ lồng lộn dưới gốc cây, thỉnh thoảng lại nhảy với lên cao, cào xoàn xoạt vào thân cây. Nó lồng lộn mãi cũng mệt mỏi, lại ngồi xuống gốc cây chờ Tarzan suốt một tiếng đồng hồ. Tarzan cũng thế. Trêu chọc Sabo được một lúc, chàng cũng chán ngán. Kẻ trên cây, người dưới đất chờ nhau chẳng khác gì một con mèo rình chuột. Cho đến khi Tarzan ném một trái cây thối vào đúng mặt con sư tử thì chàng quyết định bỏ đi. Chàng chuyền mình qua những cành cây nhỏ, lúc thì nhảy, lúc thì đánh đu, vươt từ cây này sang cây khác. Dưới mặt đất, sư tử Sabo vẫn đeo sợi dây thòng lọng ngắn ngủi quanh cỏ, ngửa mặt chạy theo Tarzan phía trên cao. Được một lúc, nó mỏi cổ, thất vọng bỏ đi hướng khác.

Về tới bộ lạc của mình, Tarzan hào hứng kể lại chuyến đi săn thất bại nhưng khá lý thú của mình. Lũ vượn ngồi nghe khóai chí, nhe răng ra cười. Vượn Kala thì vô cùng bực tức vì việc làm liều lĩnh của con trai, nhưng khi thấy cả bộ lạc xúm xít nghe chuyện con mình, nó cũng không giấu khỏi niềm kiêu hãnh. Nó nhảy xuống đất, khiêu vũ một mình Những chuyến đi săn bằng thòng lọng những ngày sau đã làm cho Tarzan cảm thấy cuộc sống của mình ngày càng lý thú. Nhưng rồi một hôm chàng phải chịu đựng một nỗi mất mát đau đớn. Đó là nỗi mất mát mà sau này, suốt cả đời chàng sẽ không bao giờ gặp nữa.

° ° °

Ở phía Đông khu rừng già gần đây mới xuất hiện một đoàn người da đen trông rất lạ mắt. Đi đầu đoàn người là khoảng năm chục người đàn ông lưng đeo cung tên, tay cầm giáo mác. Trên lưng người đàn ông còn có những chiếc khiên cong cong hình ôvan. Người da đen nào cũng cắm quanh đầu mình những chiếc lông chim sặc sỡ đủ màu. Cánh mũi của họ hơi lệch sang một bên vì những chiếc khuyên tròn bằng xương hoặc bằng kim loại. Khi họ cười, hai vành môi to dày của họ hé ra, làm lộ ra những chiếc răng sáng lóa, được mài đều tăm tắp như những chiếc cọc hàng rào. Tiếp theo sau những người đeo cung tên là một lũ đàn bà và trẻ nhỏ. Đàn bà đội trên đầu đủ những thứ nồi niêu thúng mủng và những sọt đựng ngà voi. Cuối đoàn người còn có khoảng một trăm người đàn ông nữa.

Họ trang bị vũ khí chẳng khác gì đội tiền quân của họ. Với một đội hình lý tưởng như vậy có thể đoán rằng bộ lạc da đen này sợ bị tấn công bất ngờ từ phía sau nhiều hơn là phía trước Đúng như vậy, bộ lạc da đen này đang chạy trốn những người da trắng. Cách đây không lâu, những người da đen đang làm lễ tế thần thì bị những người da trắng nổ súng tấn công. Những người da trắng chẳng thèm khát cái gì ngoài ngà voi và cao su của bộ lạc. Cùng đi với những người da trắng này là những tên lính da đen rất thông tỏ núi rừng. Chính vì vậy mà chỉ sau nửa tiếng đồng hồ, những người da đen đã hoàn toàn bị khuất phục. Nhưng cũng chỉ ít lâu sau những người da đen đã nổi lên khởi nghĩa. Cả bộ lạc xông vào tiêu diệt những người da trắng bằng tất cả những thứ vũ khí kiếm được quanh mình. Họ còn giết sạch cả đội lính da đen tay sai. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi. Những người da đen lột sạch quần áo của những người da trắng mặc vào người và rụt rè nếm thử các thứ đồ ăn đóng hộp mà xưa nay họ chưa bao giờ trông thấy. Nhưng niềm vui chiến thắng của họ kéo dài chưa đầy một ngày thì súng lại nổ vang từ phía làng. Một tốp người da trắng dẫn một đội lính da đen khác có đầy đủ súng ống kéo đến báo thù. Trong chốc lát cả bộ lạc chìm trong cuộc thảm sát đẫm máu. Cả làng bị cướp bóc tan hoang. Bộ lạc da đen mới ngày nào còn đông đúc, thế mà sau vụ thảm sát chỉ còn lại vài trăm người. Những người thoát chết bỏ nhà cửa trốn đi. Họ trốn vào những khoảng rừng sâu xưa nay chưa hề có dấu chân người. Họ đi tìm tự do, không chịu làm nô lệ cho những người da trắng. Nhưng thoát khỏi mũi súng của những người da trắng thì họ lại rơi vào nanh vuốt của đủ các loại thú rừng. Xung quanh họ, ở đâu cũng đầy hổ báo và những tốp người rừng man rợ. Mỗi đêm dừng chân nghỉ ngơi, dù canh phòng kỹ lưỡng thế nào đi chăng nữa thì đám người còn sót lại của bộ lạc vẫn mất thêm vài người vì hổ báo. Suốt một tuần liền họ vẫn chưa tìm được một mảnh đất lành.

Tới ngày thứ tám, những người tha phương dừng chân ở một khu rừng rậm. Trong rừng không hề có một con đường mòn nào. Rừng rất hoang vu, nhưng giữa rừng lại có một khu đất bằng phẳng và ở gần đó có một con sông nước rất trong. Những người đàn ông bắt tay vào dọn dẹp, dựng lều và chặt gỗ vây làng. Những người đàn bà rủ nhau đi tìm đất trồng ngô, trồng bí. Họ tin rằng trên quê hương mới này họ có thể làm lại cuộc đời. Những người da trắng sẽ không thể tìm thấy họ. Nhưng khốn khổ cho họ. Họ không hề biết rằng mình đang sống trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của một người da trắng lạc loài : Tarzan

Chỉ sau một tuần trăng, làng người da đen đã bị sư tử Sabo bắt ăn thịt mất mấy người. Gần như ngày nào cũng có người bị thú rừng vồ hụt. Đêm đêm, trong làng thỉnh thoảng vẫn vang lên tiếng kêu khóc đau đớn của những người mẹ mất con. Ban ngày, đàn ông trong làng cũng không dám đi săn quá xa.

Nhưng một hôm, Kuloga, con trai của tộc trưởng Bonga dã liều lĩnh đi săn một mình về hướng tây của khu rừng già. Kuloga đi rất thận trọng. Tay phải lăm lăm ngọn giáo, tay trái cầm chiếc mộc bọc da. Trên tấm lưng trần đen bóng của Kuloga còn có cây cung và một ống tên tẩm thuốc độc. Đi suốt một ngày liền, cho đến tối, Kuloga mới leo lên một chạc cây to, sửa soạn chỗ nằm ngủ. Anh chàng này không hề biết rằng mình đang đi vào vùng lãnh thổ của bộ lạc vượn Kétchác.

Sáng hôm sau, khi Kuloga mở mắt cũng là lúc bộ lạc của Kétchác rủ nhau đi kiếm ăn. Lũ vượn con ở lại với mấy con vượn già yếu. Còn Tarzan, theo thường lệ cũng đi ra ngôi nhà bí ẩn của mình ở ngoài cửa sông. Vượn mẹ Kala cũng vô tình đi về hướng tây, lần theo lối mòn của voi. Kala cầm một cành cây, vừa đi vừa lật từng hòn đá bên đường để bắt sâu bọ và nhặt nấm ăn. Chợt Kala trông thấy có một bóng người đang tiến lại phía mình. Khúc đường mòn ở đó rất thẳng và quang đãng nên Kala rất khó trốn. Bóng người đó chạy ập tới ngay trước mặt Kala. Người đó chính là Kuloga. Kala chạy ngược trở lại. Kuloga nắm chặt ngọn giáo đuổi theo. Vừa trông thấy con vượn cái, anh chàng đã nghĩ tới món khỉ nướng rỏ mỡ trên đống than hồng tháng trước. Nếu săn được con mồi này, anh chàng có thể có đủ thức ăn trong mấy ngày và có thể đem về cho bộ lạc. Cuộc đuổi bắt cũng không phải là đơn giản. Mặc dù Kala yếu ớt, nhưng bản năng tự vệ đã làm nó khỏe hẳn lên. Kuloga chạy vã cả mồ hôi. Những bắp cơ dưới làn da màu gỗ mun nổi lên cuồn cuộn. Khi đã đuổi tới gần con vượn, Kuloga dừng lại một chút rồi ngả mình về phía sau lấy đà phóng giáo. Một cú phóng hơi tồi! Ngọn giáo hay sượt bên hông Kala. Kala thét lên một tiếng vừa đau đớn vừa giận dữ rồi quay ngoắt lại đối mặt với kẻ thù. Tiếng kêu đau đớn của Kala lúc này đã làm cho đàn vượn đang kiếm ăn quanh đó nhớn nhác. Từ các lùm cây bốn phía bỗng vang lên tiếng cành cây gẫy răng rắc. Bầy vượn lao về phía có tiếng kêu. Nhưng lúc này, khi Kala chưa kịp xông vào tấn công. Kuloga đã đủ thời gian để lắp cung tên. Trong chớp mắt, mũi tên thuốc độc của Kuloga lao đi đánh vút một cái, cắm phập vào tim con vượn đáng thương.

Kala rú lên đau đớn rồi ngã vật xuống đất trước con mắt kinh ngạc của đàn vượn cứu viện. Đàn vượn cũng không do dự gì lâu. Chúng lập tức xông tới kẻ thù của bộ lạc. Còn anh chàng da đen này khi thấy mình bị đàn vượn bao vây thì cũng vắt chân lên cổ mà chạy như một con thú rừng. Lùa được một lúc, đàn vượn cảm thấy thất vọng. Chẳng hề bảo nhau, chúng bỏ mục tiêu, lần lượt quay trở lại nơi vừa xảy ra thảm kịch. Đàn vượn ngồi vây quanh xác Kala và tỏ ra rất hoang mang không hiểu vì sao Kala bị chết. Chẳng có con vượn nào trông rõ mặt người da đen nên không hiểu kẻ giết Kala là một con vật có hình thù, bộ dạng ra sao

Lúc đang ngồi trong ngôi nhà gõ bên cửa sông, Tarzan cũng nghe thấy tiếng kêu đau đớn của mẹ mình. Tiếp theo đó là tiếng kêu nháo nhác của đàn vượn. Tarzan hiểu ngay rằng có chuyện không lành đã xảy ra với Kala.

Chàng bỏ cuốn sách trên mặt bàn, lao nhanh vào rừng. Nhưng dù có chạy nhanh đến mấy thì mọi sự cũng quá muộn ! Tới nơi, Tarzan chỉ thấy một đàn vượn đang ngồi xúm xít trên một khoảng đất trống la hét, trò chuyện om sòm. Chàng xô mình chạy vào giữa đám đông thì trông thấy mẹ Kala của mình đang nằm im lìm trên mặt đất. Chàng ôm lấy Kala, siết chặt vào lòng và bật khóc. Nước mắt chàng chan chứa, chảy thành dòng, làm thấm ướt cả một đám lông con vượn mẹ. Nỗi căm uất của chàng thật là kinh khủng, cơ thể chàng rung lên từng đợt. Chàng đặt Kala xuống đất rồi siết chặt nắm tay lại đấm vào ngực mình. Từ cổ họng của chàng phát ra một tiếng thét khủng khiếp. Đó là tiếng thét chứa hứa hẹn mối thù không đợi trời chung Từ xưa tới nay, đúng là chưa bao giờ Tarzan nhìn Kala như nhìn một con vượn cái xấu xí. Bởi vì Kala đã vắt vào miệng chàng từng giọt sữa từ núm vú nhăn nheo, cằn cỗi của mình. Bởi vì Kala đã bồng bế nâng niu chàng từ nhỏ. Cho đến năm chàng lên tám tuổi, chàng vẫn không thể nào ngủ nổi nếu không có mùi lông bụng ấm áp quen thuộc của Kala. Chàng đã yêu Kala bằng tình yêu pha lẫn sự biết ơn và lòng kính trọng. Nếu như nữ huân tước Alice còn sống và nuôi nấng chàng lâu nay, chàng cũng chỉ yêu Alice đến thế là cùng Trong cơn giận dữ và đau khổ, Tarzan cố gắng phán đoán chuyện gì đã xảy ra dẫn tới cái chết của mẹ mình. Đàn vượn với thứ ngôn ngữ nghèo nàn của chúng không thể phán đoán và thông báo cho nhau được nhiều. Nhưng nhìn vào vết thương trên ngực Kala và bằng trí thông minh của con người, Tarzan hiểu ngay rằng chính những người da đen đeo lông chim trên đầu mà có lần mình thấy gần đây là thủ phạm gây ra cái chết. Có thể nó đã dùng một cành cây nhọn cắm vào ngực Kala rồi chạy trốn như con hươu chạy trốn mặt trời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Truy tìm thủ phạm


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Con đường mòn mà Kuloga chạy trốn rất quanh co, vòng vèo. Tuy vậy, Tazran lại biết rõ từng khúc ngoặt nên chàng chạy cắt góc để rút ngắn thời gian hòng chặn đầu thủ phạm. Chàng đã sẵn sàng vũ khí : con dao găm và sợi dây thòng lọng. Sau một tiếng đồng hồ Tazran đã chạy tới một bãi đất bằng phẳng, lớp nhớp bùn. Trên mặt bùn in rõ một vết chân chạy. Giữa rừng già hoang vu này, những dấu chân đó chẳng của ai khác ngòai thủ phạm đã giết Kala. Tazran thầm nghĩ và đứng lại quan sát. Chàng nhẩm đếm số dấu chân và thấy bàn chân có năm ngón ngăn ngắn, không giống bàn chân những con vượn trong bộ lạc chàng, mà ngược lại rất giống bàn chân chàng. Ướm thử bàn chân mình vào dấu bùn chàng thấy dấu chân thủ phạm to hơn bàn chân mình một tý.

Xác định lại hướng con đường mòn, Tazran lại nhảy lên cây. Chỉ một lát sau chàng đã biến mất sau cái màu xanh đậm đặc của rừng già. Chỉ còn nghe thấy tiếng lá cây lao xao, xa dần, xa dần. Chạy được một lúc, Tazran dừng lại nghe ngóng. Trước mặt chàng, giữa khoảng rừng, một người da đen đột ngột hiện ra. Chỉ chút nữa là chàng bị hắn ta trông thấy. Người da đen đang cầm trong tay một chiếc cung mảnh mai, dây cung đã căng lên. Mũi tên nhỏ thẳng băng đang hướng về phía trước. Tazran nhận ra con lợn rừng Hoty với cái đầu nghênh nghênh, cái mõm sủi bọt, đang trong tư thế lao vào cuộc chiến. Tazran không quan tâm tới Hoty. Chàng rất ngạc nhiên về người cầm cung dưới đất. Hóa ra kẻ thù của chàng chỉ khác chàng chút xíu. Khác ở màu da và khuôn mặt. Trong các cuốn sách chàng xem lâu nay cũng có vẽ những người da đen. Nhưng giữa các hình vẽ mong manh bất động trên giấy với cái con người bằng xương bằng thịt dưới chân chàng bây giờ khác nhau kinh khủng. Nhìn người đàn ông này, chàng không nghĩ tới khái niệm "người da đen" mà chỉ nghĩ tới khái niệm "người bắn cung" được minh họa trong cuốn sách học vần.

Tazran càng ngắm người da đen cầm cung dưới đất, chàng càng cảm thấy thích thú. Chàng thú vị vì sự trùng hợp giữa người bắn cung trong sách với người bắn cung ngoài đời. Trong giây lát, chàng quên hẳn mục đích truy lùng của chàng. Chàng bắt đầu quan sát từng cử chỉ của người da đen. Cánh tay cuồn cuộn cơ bắp của hắn co về phía sau làm cánh cung cong lại. Sợi dây cung có vẻ như dãn ra, sắp đứt. Vừa lúc đó, con lợn rừng Hoty cũng chúi đầu lao vào địch thủ. Nhưng đánh "phựt" một tiếng, mũi tên đã bay ra nhanh như một tia chớp, cắm phập vào cái cổ đầy lông cứng của Hoty. Hoty có vẻ như không thèm để ý tới mũi tên, vẫn đeo chiếc tên ở cổ, hùng hục lao tới. Nhưng Kuloga khá nhanh nhẹn. Anh chàng đã lắp xong mũi tên thứ hai và nhảy vọt sang bên. Hoty vừa lao vọt qua đã bị mũi tên thứ hai bắn phập vào lưng. Sau cú húc trượt, Hoty lại quay ngoắt trở lại, lấy đà mở đợt tấn công mới. Nhưng lúc này Kuloga đã kịp nhảy lên cây. Hoty đang chạy bỗng nhiên dừng lại rồi ngã kềnh ra đất. Trong giây lát các cơ bắp của con lợn rừng cuộn lên, co giật đùng đùng. Từ mõm con lợn nổi lên vài đám bọt trắng. Nó rên lên một tiếng rồi nằm yên như một khúc gỗ.

Kuloga nhảy ngay xuống đất. Bằng một động tác hết sức thành thạo, anh chàng rút dao xẻo một mảng thịt ở hông con lợn. Chỉ một lát sau chàng đã nhóm được một đống lửa rừng rực và dúi miếng thịt vào giữa đống lửa. Ăn hết nửa số thịt, Kuloga vứt nửa còn lại vào chỗ xác con lợn rồi bỏ đi Trên cành cây cao, Tazran chứng kiến bữa ăn của Kuloga rất chăm chú. Tất nhiên Tazran muốn giết chết Kuloga, nhưng trong lòng chàng lại nổi lên một khao khát không kém phần mãnh liệt. Đó là khao khát được nhận thức. Chàng muốn biết kẻ thù xuất hiện từ đâu. Ngoài việc bắn cung, hắn còn biết những gì ? Còn việc giết hắn thì chàng cảm thấy rất dễ, có thể làm bất cứ lúc nào. Chờ cho Kuloga đi khuất, Tazran nhảy xuống đất. Chàng dùng dao xẻo vài miếng thịt lợn ăn. Chàng vẫn ăn thịt sống như mọi khi. Chàng không hề đụng tới tảng thịt nướng mà Kuloga vứt lại. Nhìn đống lửa tàn, chàng vẫn chưa hết băn khoăn. Chàng đã trông thấy lửa nhiều lần, nhưng chỉ trông thấy ngọn lửa bốc lên khi sét đánh vào những cây cổ thụ. Chàng không hiểu vì sao gã da đen lại có thể gọi được ngọn lửa ra để liếm sạch cả đống củi khô. Tại sao lửa có thể nuốt hết cả đống củi và chỉ để lại một đống bụi đen. Tazran vô cùng băn khoăn. Chàng còn kinh ngạc không biết vì sao Kuloga lại đem làm hỏng thịt đi rồi mới ăn. Theo chàng nghĩ, vùi thịt vào lửa tức là làm hỏng thịt. Ngẫm nghĩ một lúc rồi chàng cho rằng : lửa và tên bắn cung này là bạn. Hắn và lửa đã chia nhau miếng thịt. Bỏi vì rõ ràng là sau khi đưa thịt cho lửa ăn, lúc lấy ra, miếng thịt bé đi rất nhiều.

Bằng lòng với kết luận của mìn, Tazran quay lại với con lợn. Chàng cắt thịt ăn thêm vài miếng nữa rồi chùi những ngón tay đầy máu vào bắp chân mình. Chàng đút dao vào bao, tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Suốt một ngày dài Tazran bám sát Kuloga như một con ma rừng. Chàng còn thấy Kuloga giương cung bắn hai lần nữa : một lần bắn sói Hyna và một lần bắn khỉ Mana. Cả hai con vật đều chết ngay. Tazran lấy làm lạ. Lâu nay chàng thấy con thú dữ khi bị chảy máu thì rất khỏe và hung hãn. Vậy mà tại sao con lợn Hoty và chó sói Hyna lại có thể dễ dàng chết vì một cái que nhọn mỏng manh như vậy ? Chàng quyết định phải tìm cho ra cái điều bí ẩn đó.

Đêm hôm đó, Kuloga ngủ trên một chạc cây cao. Anh chàng không hề biết rằng Tazran đang lởn vởn ngay bên cạnh. Đến sáng, thức dậy, Kuloga không thấy bộ cung tên của mình đâu cả. Anh ta nhảy xuống đất đi tìm nhưng không thấy. Cả đến dấu chân của kẻ ăn trộm cũng không có nốt. Linh tính báo cho Kuloga biết có chuyện chẳng lành. Anh ta bắt đầu run. Chiếc giáo hôm qua giết con vượn đó đã không kịp lấy lại, đến bây giờ lại mất thêm bộ cung tên, chỉ còn lại con dao đeo ở bên hông. Liệu với con dao nhỏ này Kuloga có đủ sức chiến đấu phòng thân hay không. Kuloga cầm chắc con dao duy nhất trong tay như cầm một hy vọng mỏng manh. Anh chàng bắt đầu chạy nhanh về phía làng mình.

Nhưng khi Kuloga vừa bước chân chạy thì Tazran cũng nhô ra khỏi lùm cây và tiếp tục bám theo như hình với bóng. Tazran đã giấu bộ cung tên trên một tổ chim. Chàng chỉ mang theo hai thứ vũ khí quen dùng: chiếc dao găm và sợi dây thòng lọng. Chàng có thể giết chết kẻ thù bất cứ lúc nào, bởi vì gần như lúc nào chàng cũng là người đứng trên đầu kẻ thù như một con chim ưng. Chàng chưa muốn ra tay vì muốn biết Kuloga sẽ đi về đâu. Cái ý nghĩ tò mò đó nẩy sinh trong đầu chàng chưa được bao lâu thì chàng đã giật mình đứng lại. Trước mặt chàng xuất hiện một khu rừng mới đốn. Trên vạt rừng trống đó có những túp lều rất kỳ quặc. Lập tức chàng hiểu rằng đã đến lúc phải ra tay hành động. Nếu không kẻ thù có thể trốn thoát mất.

Trước khi Kuloga, con trai của tộc trưởng Bonga kịp chạy vào trong lều, chiếc thòng lọng đã bay xuống. Vòng thòng lọng thít chặt lấy cổ họng Kuloga. Từ trên cành cây cao, Tazran siết chặt sợi dây và giật mạnh về phía mình. Kuloga chỉ kêu khè khè được vài tiếng đã bị giật ngược trở lại như một con cá mắc câu. Chỉ kéo thêm vài sải tay nữa, Tazran đã kéo vọt Kuloga lên khỏi mặt đất. Chàng buộc chặt sợi dây vào cành rồi nhảy xuống đất trước mặt kẻ thù. Sau vài cái giãy yếu ớt, Kuloga đã nghẹo đầu sang một bên, bất động. Vượn mẹ Kala đã được báo thù !

Tazran lấy luôn con dao găm và chiếc thắt lưng của Kuloga. Chàng ngắm nghía những chiếc lông chim trên đầu Kugola và thầm nghĩ : hắn cũng là một con khỉ không lông như mình. Không có lông nên hắn phải đeo lông giả. Tazran tự nhiên thấy đói. Chàng ngửi thịt Kuloga đầy băn khoăn do dự. Hôm giết chết Túpláp, chàng đã không ăn thịt hắn. Bởi vì cũng như những con khỉ khác trong đàn, chàng ý thức được rằng, Túpláp là một thành viên trong bộ lạc. Nhưng bây giờ Kuloga thì sao ? Kuloga là gì đối với chàng. Rõ ràng là Kuloga không thuộc những thú rừng mà lâu nay chàng vẫn ăn thịt.

Nhớ lại những bức tranh trong cuốn sách mà lâu nay chàng đã xem, mắt chàng chợt sáng lên vì một suy nghĩ : đây là một CON NGƯỜI, một NGƯỜI BẮN CUNG. Vậy thì người với người có thể ăn thịt nhau được hay không nhỉ. Chàng tự hỏi, nhưng cũng không tự trả lời được câu hỏi đó. Nhưng khi nghĩ tới việc xẻo thịt Kuloga đưa lên miệng, chàng tự nhiên cảm thấy buồn nôn. Bản năng con người trong lòng chàng như thầm thì lên tiếng nói với chàng : "Đừng ăn thịt người !"

Tazran quyết định thả xác Kuloga xuống đất. Chàng tháo sợi dây thòng lọng ra khỏi cổ Kuloga rồi đeo sợi dây vào người. Chàng leo lên ngọn cây cao và bắt đầu quan sát cuộc sống trong làng da đen. Chàng thấy những túp lều, những vạt đất trồng ngô, những người đàn bà hở vú cho con bú. Một ý nghĩ tò mò dấy lên trong lòng chàng : "Những người da đen này ăn ở ra sao ?"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Những người da đen


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Tazran thận trọng tiến đến gần ngôi làng da đen của thủ lĩnh Bonga. Chàng bước đi nhẹ nhàng trên những cành cây, cố gắng không để phát ra một tiếng động nhỏ. Sau cuộc báo thù cho Kala vừa rồi, chàng đã biết được rằng, cái que nhọn có màu đen ở đầu có thể từ rất xa bay tới cắm vào ngực chàng và chàng có thể chết rất nhanh như con chó sói Hyna. Với ý nghĩ đó, chàng thận trọng ngồi thu mình trong một lùm cây rất cao, có tán lá dày đặc. Từ lùm cây không ai có thể nhìn thấy chàng, ngược lại chàng có thể quan sát toàn bộ thế giới dưới mặt đất.

Sân làng có nhiều đứa trẻ đang chạy nhảy nô đùa. Những người đàn bà hở ngực đang giã chuối khô trong những chiếc cối đá sần sùi. Một vài người đang ngồi chụm đầu bên nhau, nặn bánh bột kê. Trên những cánh đồng phía xa, mấy người đàn bà đang lom khom hái bí xanh. Tất cả đều ăn mặc rất sơ sài. Áo của họ được kết bằng một thứ cỏ khô tồi tàn, nhưng những chiếc vòng đeo cổ của họ lại sang lấp lánh ánh đồng thau và màu trắng ngà của răng nanh thú rừng. Tazran trông thấy có mấy người đàn ông chỉ đứng im, không làm lụng gì cả. Họ mang trên người rất nhiều vũ khí. Có thể họ đang đứng canh làng, đề phòng sự tấn công từ xa.

Bỗng Tazran giật mình vì có tiếng động dưới gốc cây. Chàng cúi xuống nhìn thì thấy có một người đàn bà đang ngồi ngay ở dưới gốc cây chàng nấp. Người đàn bà quỳ bên đống lửa. Trên đống lửa là một chiếc nồi đựng một thứ nước màu đen đặc sánh đang sôi lục sục. Người đàn bà thong thả cầm từng nắm tên nhọn, nhúng đầu nhọn vào nồi nước đen một lát rồi đặt sang bên. Tazran chăm chú theo dõi từng động tác của người đàn bà bên nồi nước đen. Chàng đoán rằng, có lẽ đây là điều bí ẩn của những mũi tên khủng khiếp đã làm chết mẹ Kala. Người đàn bà nhúng đầu que rất thận trọng, cố gắng không để nước đen vào tay. Nếu bị dính, người đàn bà vội vã nhúng tay vào một nồi nước khác và chùi tay vào một búi lá có nhiều nhựa trắng.

Tất nhiên Tazran không biết nồi nước đen đó là nồi thuốc độc. Nhưng chàng lờ mờ hiểu được rằng thứ nước đen đó mới là cái giết chết mẹ mình, chứ không phải là cái mũi que nhỏ bé mỏng manh nọ. Mũi que chỉ có tác dụng chuyên chở nước đen đó đến ngấm vào da thịt. Ngay lập tức chàng nảy ra ý định chiếm đoạt bằng được những chiếc tên màu đen. Chàng ngồi chờ rất lâu. Khi người đàn bà dừng tay, chạy xuống dốc, chàng nhảy ngay xuống, vơ vội một nắm que đã nhuộm tẩm rồi lại nhảy lên cây.

Vừa lúc đó, phía cuối làng bỗng vang lên những tiếng kêu thất thanh. Tazran trông thấy một người đàn ông da đen đứng kêu ngay dưới gốc cây mà Kuloga nằm chết. Người da đen lại tiếp tục la hét, hai tay khua chiếc giáo lên trời rối rít. Cả làng bắt đầu huyên náo. Đàn ông cầm vũ khí nhảy vọt ra khỏi lều, chạy xô tới phía người da đen đang la hét. Nối theo những người đàn ông là những người già và phụ nữ, trẻ em. Tất cả nháo nhác như một đàn ong vỡ tổ.

Tazran biết ngay là xác kẻ thù mà chàng tiêu diệt đã bị phát hiện. Nhưng chàng chẳng quan tâm tới chuyện đó. Điều quan trọng nhất lúc này đối với chàng là phải thực hiện bằng được ý định dọc đường. Chàng nhảy xuống đất như một con mèo, vơ hết số tên thuốc độc dưới chân. Vừa nhặt tên, chàng vừa nhìn vào trong túp lều. Do dự, quan sát một hồi, cuối cùng chàng chui ngay vào căn lều rộng nhất.

Trong lều rất tối. Tuy vậy chàng cũng trông rõ các thứ vũ khí treo kín các bức vách. Thôi thì đủ các thứ : cung tên, giáo mác, dao găm, mộc da.v.v. Giữa lều là một chiếc nồi để không. Chàng sờ mó tất cả những thứ đồ vật trong lều. Thứ nào chàng cũng sờ và dí mũi vào ngửi, đúng kiểu tò mò của lòai khỉ. Tự nhiên chàng nảy ra một ý nghĩ tinh nghịch. Chàng thu lượm tất cả các thứ trong lều, dồn thành một đống ở giữa tấm thảm. Chàng lật chiếc nồi lên rồi đặt vòng lông chim mà chàng đã chiếm được của Kuloga lên trên. Xong xuôi mọi việc, chàng ngắm nghía cái kì quan của mình một lúc rồi phì cười.

Vừa lúc đó, chàng nghe bên ngoài có tiếng khóc rất to. Nhẹ nhàng như một con báo, chàng luồn ra khỏi cửa lều. Chàng chưa trông thấy những người da đen trở về, nhưng biết rằng họ đã rất gần mình. Bằng một cú đá, chàng lật nhào chiếc nồi, cho nước đen tràn ra đất rồi ôm bó tên nhảy lên cây. Khi chàng ngồi vững trên cây cũng là lúc người da đen đầu tiên ló ra trên con đường cạnh cổng làng. Chàng leo lên cao chút nữa và quan sát xem những người da đen phản ứng ra sao trước những việc làm của mình.

Dưới mặt đất, bốn người da đen đang khênh thi thể của Kuloga. Nối sau lưng họ là những người đàn bà đầu tóc rũ rượi, khóc lóc thảm thiết. Đoàn người rước xác kéo nhau đi chật cứng cả con đường vào làng, dừng ngay lại trước căn lều mà Tazran vừa phá phách. Người đàn ông da đen đầu tiên bước vào lều đã vội nhảy vọt trở ra. Cả đám rước lại nhốn nháo. Phải mất một lúc lâu mọi người mới cụm lại được thành đám trước cửa lều. Tiếng kêu khóc, bàn tán lắng dần. Bốn người đàn ông lom khom chĩa ngọn giáo về phía trước, thận trọng tiến vào lều. Cuối cùng, một người đàn ông nhiều tuổi cao to nhất, có vũ khí đẹp nhất đã dũng cảm đột nhập vào lều. Đó chính là thủ lĩnh Bonga, cha của nạn nhân.

Căn lều im lặng như một hang đá. Nửa phút căng thẳng trôi qua. Cuối cùng Bonga bước ra với khuôn mặt vừa lo sợ vừa giận dữ. Bonga nói gì đó với đám đông. Lập tức họ tản ra bốn phía để tìm kiếm. Chỉ một lát sau họ đã phát hiện ra nồi thuốc độc bị lật úp và toàn bộ số tên đã không cánh mà bay. Thủ lĩnh Bonga không thể nào giải thích ngay cho bộ lạc của mình về hàng chuỗi sự kiện thê thảm và bí hiểm vừa xảy ra liên tiếp : đứa con trai dũng cảm nhất bộ lạc bị giết chết và bị tước đoạt hết vũ khí trên người, nồi thuốc độc bị lật đổ, số tên tẩm thuốc độc bị mất hết, lều trại bỗng nhiên bị xáo trộn, vòng lông chim của Kuloga lại xuất hiện trong lều ??? Cả làng im lặng.

Những người đàn ông nhìn nhau dò hỏi. Họ cụm lại thành từng đám, không dám đứng cách xa nhau, mồm lẩm bẩm, mắt nhớn nhác nhìn ra bốn phía.

Bên ngoài làng, rừng xanh vẫn rì rào tiếng lá. Ngồi đong đưa trên ngọn cây cao, Tazran nhìn thấy tất cả nhưng không hiểu hết được nỗi lo lắng của dân làng. Chàng không hết biết gì về tín ngưỡng, tôn giáo của người da đen. Chàng chỉ biết điểm chủ yếu nhất : chàng đã làm cho những người da đen sợ hãi.

Mặt trời đã lên cao, Tazran thấy đói. Nhưng chàng nhớ rằng mình đang ở rất xa con lợn rừng bị ăn dở. Chàng quyết định quay về. Lùm cây cao rung chuyển. Chỉ một lát sau chàng đã lặn vào cái màu xanh đậm của rừng già, chẳng khác gì con cá mập lặn vào biển đêm.

Trời tối một lúc thì Tazran đã có mặt trong bộ lạc của mình. Chàng mệt mỏi vì đã khuân về đủ thứ. Tuy vậy chàng rất khoan khoái và kiêu hãnh vì mối thù đã được trả, vì những chiến công của mình. Chàng đem khoe các thứ chiến lợi phẩm của mình. Nào là chiếc cung, nào là bó tên tẩm thuốc độc, nào là giáo mác dao nhọn.v.v. Thấy Tazran hoa chân múa tay trước các thứ vũ khí kì lạ, Kétchác tỏ ra bực bội. Cái thằng khỉ không lông này thật quá lắm chuyện. Nó chỉ là một con khỉ lạc loài, kì quặc, thế mà dám ba hoa trước bộ lạc mình cầm đầu. Từ bộ não nhỏ xíu trong đầu Kétchác nảy ra một ý nghĩ thù hằn, khi nào thuận tiện phải thanh toán Tazran ! Với ý nghĩ đó, Kétchác không hành động gì cả mà chỉ nhe răng gầm ghè.

Ngày hôm sau, trời vừa hửng sáng, Tazran đã thức dậy đi tập bắn cung. Thoạt đầu chàng bắn chiếc nào là mất chiếc tên ấy. Bởi vì chàng chỉ bắn vào không khí. Một lúc sau chàng mới nảy ra sáng kiến là cần phải bắn vào một cái đích nào đó tượng trưng cho con mồi hoặc kẻ thù. Thế là chỉ sau một tháng luyện tập say mê, kiên trì, Tazran đã trở thành một tay bắn thiện xạ.

Chàng có thể bắn trúng cả vào đầu những con rắn đang leo trên cây cao. Mũi tên như một chiếc đinh đóng đầu con rắn vào thân cây. Có điều là tài thiện xạ của Tazran cũng phải trả giá. Sau một tháng, chàng đã tiêu xài hết sạch toàn bộ số tên kiếm được. Chàng quyết định lên đường, trở lại làng người da đen để kiếm tên.

Ngay ngày hôm sau, Tazran lên đường từ sáng sớm tinh mơ. Muốn đến khu làng vào buổi trưa chàng vừa leo cây vừa nhảy xuống đất chạy nhanh. Tới nơi, chàng nấp vào bụi cây và lại thấy người đàn bà da đen ngồi nấu thuốc độc ở lò nấu cũ. Chàng ngồi suốt mấy tiếng đồng hồ chờ cơ hội.

Nhưng thật rủi ro ! Hình như ngày hôm đó không phải ngày tốt của chàng. Người đàn bà cứ ngồi lì bên nồi thuốc, chẳng đi đâu cả. Mặt trời sắp lặn mà Tazran vẫn nằm thở dài trên ngọn cây.

Trời đã tối. Những người đàn bà từ các cánh đồng trở về lều. Cánh đàn ông đi săn cũng lác đác trở về. Khi bộ lạc đã về đông đủ, cổng làng được đóng lại và chen chắn rất cẩn thận. Đám đàn bà bắt đầu bê nồi ra trước cửa lều, chia thịt cho nhau nấu nướng.

Bỗng ngoài cổng làng vang lên một tiếng kêu. Tazran nhìn ra. Đó là tiếng gọi cổng của nhóm người đi săn về muộn. Nhóm người từ phía bắc trở về. Họ vừa kéo vừa đẩy một con vật trông rất lạ mắt đi bằng hai chân sau. Nhìn kỹ Tazran thấy không phải là con thú mà là một con người - một tù binh da đen. Nạn nhân vừa bị đẩy vào giữa làng, đàn bà trẻ con xô nhau ra xem, vây kín xung quanh. Ngay lập tức, đám người vui vẻ dùng đá và gậy gộc đánh đập con mồi người. Tazran ghê sợ tới mức co rúm cả người lại. Chưa bao giờ chàng trông thấy một cảnh tượng như vậy. Mặc dù lớn lên trong đàn vượn, hàng ngày sống với thú rừng, chàng cũng không nghĩ rằng những người đi bằng hai chân như chàng lại có thể đánh đập đồng loại một cách vui vẻ như vậy. Trong các lòai thú, chàng chỉ thấy có hổ báo là hành hạ con mồi trước khi ăn thịt. Các lòai thú khác vồ được mồi là ăn thịt ngay. Nói cho đúng thì chúng không phải là ác thú. Chúng giết con mồi chẳng qua chỉ là cần phải ăn.

Trước kia, khi bám theo Kuloga, Tazran nghĩ rằng Kuloga có thể dẫn chàng tới một thành phố, nơi có những ngôi nhà kỳ quặc với những ống khói mây đen mà chàng đã trông thấy trong cuốn sách học vần. Khi đó chàng vừa cảm thấy vừa ngại ngùng vừa kính trọng lòai người. Còn bây giờ, cái làng người da đen này đã làm chàng vô cùng thất vọng. Cả làng không có một căn nhà nào to, sạch sẽ như căn nhà bí ẩn của chàng ở ven bờ sông. Không những thế, trước mắt chàng bây giờ, những người này lại hành động tồi tệ hơn cả đàn vượn. Họ còn man rợ hơn cả sư tử Sabo. Lòai người cũng chẳng có gì đáng trọng !

Giữa sân làng, người tù binh đã bị trói vào một chiếc cọc. Những người da đen đã đứng thành vòng tròn nhảy múa. Những ngọn dao găm những mũi giáo hoa lên theo nhịp nhảy, sáng lóa mắt. Đám đàn bà cũng nắm tay nhau thành một vòng tròn rộng hơn để nhảy múa. Một vài người vừa nhảy vừa đập tay vào những chiếc trống con. Tiếng trống làm Tazran nhớ lại lễ hội Đum Đum của bộ lạc mình

Vòng người nhảy múa mỗi lúc một điên dại và thắt nhỏ dần xung quanh chiếc cọc. Người tù binh co rúm lưng, giương đôi mắt trắng dã nhìn quanh. Bỗng một mũi giáo cắm phập vào mặt người tù. Mũi đâm như một tín hiệu mớ màn. Ngay lập tức, hàng chục ngọn giáo khác thi nhau cắm vào người nạn nhân như một trận mưa rào. Máu trên mình nạn nhân tóe ra. Tazran rùng mình suýt ngã. Chàng phải nắm chặt cành cây và nhắm mắt lại. Đàn vượn mà chàng đang cùng chung sống cũng chưa bao giờ làm thế !

Nhưng ngay lúc đó Tazran nhận thấy rằng : cái cơ hội mà chàng mong chờ cả ngày đã tới. Bóng tối đã trùm xuống từng kẽ lá rừng. Người đàn bà nấu thuốc độc dưới gốc cây đã trở về từ lúc nào không rõ. Cả làng đang say máu. Tazran nhanh nhẹn tụt xuống đất vơ vét các mũi tên. Lần này chàng đã biết dùng dây bó tên thành một bó cho dễ mang. Tuy lấy gọn hết số tên nhưng chàng chưa muốn đi. Chàng muốn làm một cái gì đó cho những người da đen này hoảng sợ. Chàng phải cho họ biết rằng chàng đã xuất hiện ở đây lần thứ hai.

Họ đông hơn chàng, có vẻ cao lớn hơn chàng, nhưng chàng lờ mờ cảm thấy rằng, so với họ, chàng có một cái gì đó giỏi hơn, tốt hơn. Giấu bó tên vào một gốc cây, Tazran lại lén vào căn lều lần trước. Trong lều tối om. Tazran sờ soạng xung quanh. Tay chàng chạm phải một vật gì đó to, tròn vo, nhẵn thín như quả dừa. Nhưng vừa lúc đó chàng nghe có tiếng chân người chạy vào lều. Trong ánh sáng lờ mờ của cửa lều vén lên, chàng nhận ra người đi vào là một người đàn bà. Chàng vội nép sang một bên. Người đàn bà bước vào giữa lều, tìm một vật gì đó. Hai tay người đàn bà khua khua trong bóng tối mỗi lúc một gần Tazran. Tazran sờ vào chuôi dao. Nhưng chàng chưa kịp rút dao ra thì người đàn bà đã kêu lên một tiếng hài lòng. Hình như bà ta đã tìm được vật cần tìm, nên vui vẻ bước ngay ra khỏi cửa. Tazran thở phào. Chàng cũng chuồn ra khỏi lều. Chàng chạy lại gốc cây lấy bó tên và lại đạp úp nồi thuốc trên lò xuống đất. Xong việc, chàng cầm cái vật tròn tròn, ăn trộm được trong lều, bò lại gần đám người đang say sưa hành hình tù binh. Chàng nhổm dậy, lấy đà rồi ném cái vật trong tay vào giữa đám người. Vật đó từ trên cao rơi xuống trúng đầu một gã cầm giáo, làm gã ngã lăn quay ra đất, lăn tròn vài vòng rồi dừng lại trên chiếc cọc khổ hình. Đám đông giật mình kinh ngạc. Khi nhận ra đó là cái gì, cả đám người bỏ chạy toán loạn.

Thì ra đó là một chiếc đầu người. Từ trên trơi cao rơi xuống cả bộ lạc một cái đầu lâu khô - một chuyện vô cùng bí hiểm. Điều này chứng tỏ cho những người da đen biết rằng, khu rừng họ đang ở không phải là vô chủ. Sau khi phát hiện ra rằng nồi thuốc độc bị phá, toàn bộ số tên trong ngày đã bị mất, tộc trưởng Bonga nhận định rằng : bộ lạc đã làm cho thần rừng nổi giận. Bộ lạc đã cả gan đốn cây, đào đất, đốt lửa, săn thú mà không hề cúng tế thần rừng.

Từ hôm đó, bộ lạc da đen của thủ lĩnh Bonga ngày nào cũng đem đồ tế lễ ra đặt dưới gốc cây mà Tazran đã nấp. Họ muốn làm dịu cơn thịnh nộ của thần rừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Người cầm đầu bộ lạc


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Tazran sống trong rừng già đã tới năm thứ mười tám. Chàng rất hài lòng với cuộc sống của mình. Tất nhiên chàng không hề biết rằng bên ngoài thế giới rừng già này còn có một thế giới khác, một thế giới mà lẽ ra chàng phải lớn lên ở đó với tất cả sự giàu sang và vinh quang của một huân tước Rừng già châu Phi có khá nhiều ao hồ. Hằng ngày, Tazran say mê đánh cá và săn bắt thú rừng. Sư tử Sabo cùng nhiều loài thú dữ khác đã làm cho cuộc sống của chàng đỡ buồn tẻ. Đối phó với chúng, chàng có thêm niềm vui của sự phiêu lưu. Khi thì chúng săn đuổi chàng, khi thì chàng săn đuổi chúng. Sabo là một con sư tử cái rất nhanh nhẹn. Con báo Seta và con sư tử đực Numa cũng nhanh không kém. Tuy vậy, sống từ thuở lọt lòng cùng đàn vượn, Tazran còn nhanh hơn chúng. Những con thú dữ trong rừng chưa lần nào chạm được vào da thịt Tazran. Còn đối với con voi Tanto thì đã từ lâu với Tazran là chỗ bạn bè. Vào những đêm trăng sáng, Tazran thường đi dạo cùng Tanto. Nếu thấy đường đi lầy lội, Tanto thường dùng vòi cuốn Tazran lên, đặt vào tấm lưng rộng rãi của mình.

Trong rừng, thật ra Tazran cũng không có nhiều bạn bè cho lắm. Thậm chí nhiều con vượn đực trong bộ lạc cũng tỏ ra ác cảm với Tazran. Dường như để bù lại cái khoảng trống tình cảm đó, Tazran đã có ngôi nhà gỗ với bao thứ đồ vật lạ mắt làm nguồn vui. Một hôm Tazran ngồi trong nhà mân mê chùm chìa khóa. Loay hoay một lúc, chàng mở được chiếc hòm. Chàng lôi ra được trong hòm một tấm ảnh đã ngả vàng. Trong ảnh là một người đàn ông trẻ tuổi có mái tóc khá mượt. Chàng còn lôi ra được một tập thư, một cuốn nhật ký và một sợi dây chuyền vàng. Chàng ngắm nghía từng thứ một và có vẻ rất thích sợi dây chuyền vàng. Bắt chước những người da đen, chàng đeo sợi dây xích vàng đó vào cổ. Chỉ có những bức thư trong hòm là chàng không thích thú cho lắm. Mặc dù đã biết đọc khá nhiều nhưng chàng không đọc nổi các lá thư. Lý do rất đơn giản. Nhiều là thư viết bằng tiếng Pháp và những lá còn lại thì không viết bằng thứ chữ in hoa như trong sách học vần mà bằng thứ chữ thường xiêu vẹo. Chàng lôi cuốn sách học vần ra so sánh theo kiểu tra cứu từ điển nhưng đành bất lực. Thất vọng, chàng đút cả nắm thư từ cùng cuốn sổ vào tủ

Tazran không biết rằng cuốn sổ nhỏ mà chàng vừa cất vào tủ là cái chứa đựng toàn bộ bí mật về nguồn gốc, lai lịch của chàng. Nó chứa đựng tất cả những chuyện đã xảy ra gần hai mươi năm trước. Nó chứng tỏ rằng cha mẹ chàng đã đến đây, sinh ra chàng ở đây. Bởi vì đó là cuốn nhật ký viết chung của hai vợ chồng Clayton - Alice. Cuốn nhật ký được viết bằng tiếng Pháp, trong khi đó những cuốn sách mà chàng đọc lâu nay lại viết bằng tiếng Anh.

Cất cuốn nhật ký và thư từ vào tủ, Tazran suy nghĩ rất mông lung. Chàng nghĩ rằng đến một lúc nào đó, thế nào chàng cũng hiểu bằng được những nét chữ ngoằn ngoèo đó. Cũng từ hôm ấy, trong trí nhớ của chàng, khuôn mặt của người đàn ông mỉm cười trong tấm ảnh thường xuyên xuất hiện.

Những chuyện đó xảy ra vào thời kỳ Tazran đã trở thành một người bắn cung thiện xạ. Đó cũng là thời kỳ xảy ra một trận đụng độ mới giữa chàng và con sư tử Sabo.

Một hôm, chàng đang mải mê săn chim thì thấy sư tử Sabo xuất hiện ngay trước mặt. Đôi mắt to, vàng của nó chiếu thẳng vào chàng đầy giận dữ. Cơ thể vừa vạm vỡ, vừa uyển chuyển của nó tì nhẹ xuống mặt đất. Vì đã hiểu nhau quá rõ, Sabo không hề vội vã. Từng bước, từng bước, Sabo tiến lại gần. Tazran không bỏ chạy. Đây là dịp chàng thử nghiệm thứ vũ khí mới trước kẻ thù mà nhiều lần chàng phải tránh mặt. Chàng giương cung chờ đợi. Vì cú nhảy của Sabo hơi ngắn, mũi tên đầu tiên của Tazran bay vọt qua đầu Sabo. Tazran nhảy sang bên, tránh cú vồ của Sabo rồi nhanh chóng lấy mũi tên thứ hai. Khi Sabo còn đang rượt theo đà, mũi tên thứ hai đã cắm vào sống lưng nó. Bằng một tiếng gầm như động đất, con sư tử quay ngoắt lại, mở đợt tấn công thứ hai. Nó chưa kịp lấy đà, mũi tên tiếp theo đã cắm ngọt vào mắt trái. Tazran định nhảy sang bên thì vấp phải rễ cây, ngã ngay tại chỗ. Mặc dù phải đeo hai mũi tên trên mình theo đà bay, con sư tử vẫn đổ ụp xuống người Tazran. Trong nháy mắt, Tazran thấy mình nằm dưới bụng Sabo. Chàng rút dao găm, dùng hết sức cánh tay đâm dao vào sườn con sư tử.

Cả hai lăn lộn trên mặt đất. Thuốc độc đã ngấm, chỉ một lát sau cơ thể con sư tử đã mềm oặt. Tazran đẩy cái bụng nóng hổi của con sư tử ra và đứng dậy. Chàng lắc mái tóc dài rũ rượi của mình sang bên rồi thét lên một hồi ghê rợn. Đó là tiếng thét chiến thắng, theo thói quen của bộ lạc vượn Kétchác Tiếng gầm của con sư tử Sabo và tiếng thét chiến thắng của Tazran làm cả rừng xanh nín thở. Chim chóc ngừng kêu. Các loài thú bốn chân không dám bước mạnh. Hổ báo cũng lẳng lặng tránh xa cuộc ẩu đả. Trong thâm tâm, chúng không thích dây dưa với Sabo và Tazran.

Cần phải nói thêm rằng, lúc Tazran cất tiếng thét vang động núi rừng, làm muôn loài phải dỏng tai nghe ngóng thì cũng là lúc ở thủ đô Luân Đôn xa xôi, ngài hầu tước Henri Clayton, ông bác của Tazran và cũng là người thừa kế gia tài dòng họ quý tộc Clayton đang đọc một bài diễn văn chính trị dài dòng trước hạ nghị viện. Mặc dù diễn văn được chuẩn bị công phu và giọng ông cũng khá hùng hồn, ông vẫn chẳng làm các nghị sĩ chú ý, mà ngược lại, chỉ làm họ ngủ gà ngủ gật.

Thịt sư tử không dễ nuốt, nhưng lúc này cơn đói đã làm Tazran quên mùi hôi của nó. Chàng dùng dao găm lột da Sabo, treo lên cành cây phơi rồi quay lại xẻo vài miếng thịt ăn lót dạ. Ăn xong, chàng lau những giọt máu giây quanh mép, leo lên cây ngủ một giấc say như chết. Tới tận chiều ngày hôm sau, Tazran mới thức giấc. Chàng tụt xuống đất, đến chỗ xác con sư tử để ăn chiều. Tới nơi, chàng vô cùng tức tối. Sư tử Sabo chỉ còn lại bộ xương. Chàng phải lang thang mất một lúc mới tìm được một con nai. Vừa lúc con nai trông thấy chàng thì một tên cũng bay vào gáy nó. Mũi tên độc ngấm rất nhanh. Con nai chỉ chạy được vài bước đã ngã lăn ra đất. Tazran ăn thịt nai no nê rồi vội tìm về với bộ lạc của mình. Vừa trông thấy đàn vượn, chàng đã đưa ngay tấm da sư tử ra khoe.

"Hãy nhìn đây ! Tazran gọi to - Hãy nhìn đây, những con vượn của Kétchác. Tazran đã làm được điều này. Có kẻ nào giết nổi Sabo? Chỉ có Tazran. Tazran này mạnh hơn tất cả chúng mày. Bởi vì Tazran không phải là vượn, không phải là khỉ. Tazran là...." Chàng định nói là "Một người đàn ông" như chàng đã thấy viết trong sách học vần. Nhưng chàng chỉ nhớ đến nét chữ mà không biết phải phát âm chữ "đàn ông" như thế nào cả.

Cả bộ lạc vượn xúm vào xem tấm da sư tử. Tất cả đều nghe Tazran nói và đều tỏ ý thán phục. Chỉ riêng có Kétchác là quay lưng đi, không thèm nghe. Nó lắc lư cái đầu đầy lông xù. Đột nhiên nó chạy lung tung vài vòng rồi nhảy xổ vào đám đông đang vây quanh Tazran. Nó bắt đầu cắn xé, cào cấu đám thính giả. Vì bị tấn công bất ngờ, mấy con vượn không kịp bỏ chạy đã bị chảy máu. Kétchác vẫn chưa hả giận. Bằng một tiếng thét giận dữ, nó nhảy xổ vào Tazran. Rất may là Tazran đã kịp nhảy vọt lên cây.

- Xuống đây, Tazran ! - Kétchác thét to - Xuống đây ! Mày sẽ biết ai mạnh hơn. Tại sao mày lại chạy trốn Kétchác ?

Hiểu lời thách thức của Kétchác, Tazran thong thả tụt xuống đất. Cả bộ lạc vượn trên các cành cây cao đều nín thở cúi xuống nhìn. Kétchác vẫn tiếp tục la hét. Nó vung đôi tay dài vạm vỡ về phía Tazran. Các bắp cơ của nó vừa to vừa chắc, chuyển động cuồn cuộn dưới lớp lông đen lưa thưa. Cái đầu của nó to như quả bóng đặt trên tấm lưng rộng lù lù như một đụn than. Nó nhe mõm làm lộ ra những chiếc răng vàng bẩn thỉu. Sự giận dữ của nó lộ rõ trong hai hốc mắt đỏ ngầu.

Tazran tỏ vẻ thản nhiên, chờ Kétchác tấn công. Trước Kétchác lúc này Tazran có vẻ trở nên nhỏ yếu. Bộ cung tên chàng đã giấu ở một nơi. Đối mặt với kẻ thù, chàng chỉ có con dao găm. Khi Kétchác nhảy bổ vào Tazran thì cũng là lúc chàng kịp rút dao ra khỏi vỏ. Chàng phải thật nhanh nhẹn để Kétchác không áp sát được vào mình. Đôi tay Kétchác dài gấp rưỡi tay Tazran nên chàng phải giật lùi và tránh sang bên. Thừa lúc Kétchác sơ ý, Tazran túm được mấy ngón tay của nó. Chàng giật mạnh cánh tay con vật sang bên và vung dao đâm một nhát vào giữa ngực trái. Nhát đâm ngập cán dao. Chàng vừa rút dao ra thì Kétchác tóm được cổ tay chàng bóp mạnh. Con dao rơi xuống đất. Rất may là Kétchác không biết dùng dao. Nó chỉ dẫm lên con dao rồi vung bàn tay đập mạnh xuống đầu đối thủ. Nếu nó đập trúng, thế nào Tazran cũng bị vỡ sọ. Nhưng ngay lúc đó Tazran đã luồn đầu xuống dưới và thuận tay thoi một đấm vào dạ dày con vật. Kétchác loạng choạng suýt ngã. Nhưng ngay sau đó nó túm được vai Tazran và há mõm cắn. Tazran phải tóm lấy cổ họng nó và dùng hết sức đẩy mặt nó ra. Tazran đẩy tay, con vượn đẩy cổ, được một lúc, tay Tazran mỏi dần. Bộ quai hàm to bạnh với hai hàm răng lởm chởm của Kétchác mỗi lúc một áp sát vào mặt Tazran. Khi răng của nó chỉ còn cách mũi Tazran chừng một đốt ngón tay thì đột nhiên con vật chùng chân xuống.

Đôi tay dài đang bấu chặt hai vai Tazran tự nhiên lỏng ra, bất lực. Vì mất máu, Kétchác ngã vật xuống đất. Tazran nhặt con dao rồi quay lại đặt chân lên cổ con thú. Chàng lắc mái tóc dài và hét lên tiếng hét chiến thắng quen thuộc của mình Chàng trai của dòng họ quý tộc Clayton đã trở thành chúa tể của một vùng rừng già châu Phi.

° ° ° Một vài tháng trôi qua. Cuộc sống của bộ lạc vượn đã có những cải thiện đáng kể. Nhờ trí thông minh của người cầm đầu bộ lạc, lũ vượn tìm được nhiều thức ăn hơn. Con vượn nào cũng trở nên béo tốt và vui vẻ. Chúng tỏ ra rất hài lòng với chế độ mới, dưới quyền cai trị của Tazran. Tazran nhiều lần dẫn đàn vượn của mình tới những cánh đồng của người da đen. Nhưng chàng nhắc nhở đàn vượn để chúng không phá hoại hoa màu. Vì vậy những người da đen vẫn tiếp tục trồng cấy mà không hề biết là mình đang bị đàn vượn bóc lột. Trong thời gian đàn vượn bẻ trộm ngô, Tazran tranh thủ vào thăm "làng". Chàng vẫn tiếp tục lấy tên dự trữ để cho ống tên của mình không bao giờ bị trống. Một hôm chàng phát hiện ra ở dưới gốc cây chàng nấp có rất nhiều thức ăn được bày rất trang trọng và cung kính. Chàng liền nếm thử. Chàng không thấy ngon, nhưng thứ nào cũng dễ ăn và đặc biệt là dễ nhai. Lần đầu tiên trong đời, chàng biết tới những thứ thức ăn nấu chin. Chàng ăn chủ yếu vì tò mò. Từ lần ấy, chàng có thói quen khi nào tới thăm làng cũng mò ra gốc cây chén sạch các thứ đồ ăn đó. Những người da đen thấy đồ cúng bị mất lại càng hoang mang lo sợ. Họ vẫn tiếp tục cúng, nhưng rất băn khoăn vì tính nết của các vị thần. Thần rừng đã vui lòng nhận đồ cúng của họ, nhưng vẫn không tha thứ cho họ. Cung tên vẫn bị mất, đồ đạc trong lều vẫn hay bị đạp đổ. Thần thánh không chỉ giận họ mà còn trêu chọc họ. Cuộc sống của họ mỗi ngày thêm nặng nề.

Ít lâu sau, tộc trưởng Bonga quyết định thay đổi chỗ ở. Một số đàn ông khỏe mạnh được cử đi tìm đất. Họ đi về phương nam, vừa săn bắt, vừa tìm hiểu đất đai, nguồn nước để cắm đất lập làng. Vì vậy bộ lạc vượn của Tazran lại bị những người da đen quấy nhiễu. Sự yên tĩnh thanh bình của vùng rừng già ven biển lại bị khuấy động bởi những tiếng hò hét và tiếng kêu thảm thiết của những con vượn bị thương. Không chỉ những loài thú rừng sống trên mặt đất mà chim chóc, cũng không được sống yên. Hóa ra sự có mặt của con người là như vậy !

Trong rừng có rất nhiều loai thú dữ đi kiếm ăn bất kể đêm ngày. Khi thấy chúng lùng sục, các loài động vật nhỏ yếu thường lảng tránh một lúc, chờ yên tĩnh rồi lại quay về chỗ cũ. Xét cho đến cùng, chúng vẫn là láng giềng của nhau. Nhưng riêng với con người thì gần như không có chuyện đó.

Khi con người tới một nơi nào, nhiều loài động vật đã bỏ đi để rồi không bao giờ quay trở lại. Các lòai khỉ, vượn cũng vậy. Chúng lảng tránh con người chẳng khác gì loài người ghê sợ bệnh dịch

Có tới vài tháng liền, bộ lạc vượn của Tazran chỉ lang thang dọc bờ biển, không bỏ đi xa. Thật ra chúng rất muốn xa lánh loài người. Nhưng chúng nể Tazran. Vị thủ lĩnh mới của bộ lạc không muốn từ giã cái kho báu của mình trong ngôi nhà gỗ. Cho tới một hôm, khi trông thấy hàng chục người da đen gần đó phá rừng, lập trại, đàn vượn mới hoảng hốt chạy vội tới cầu xin Tazran. Biết không thể trì hoãn thêm được nữa, Tazran đành quyết định dẫn cả bộ lạc vượn vào rừng sâu, một nơi mà từ thuở khai thiên lập địa tới nay chưa hề có dấu chân người

Một tháng sau đó, Tazran trở về nơi cũ. Cả ngày chàng nằm vắt vẻo trên cành cây xem sách. Ngày hôm sau chàng quyết định đột kích vào làng người da đen để kiếm thêm ít thuốc độc. Công việc này cứ mỗi ngày một khó khăn hơn, bởi vì những người da đen thường cất giấu cung tên của mình trong lều. Tazran phải rình mò suốt cả ngày để tìm ra những nơi cất giấu. Có hai lần chàng phải lấy ống tên của họ ngay trên giường ngủ trong lều. Thấy công việc này quá nguy hiểm, chàng quyết định phải rình bắt những người da đen đi lẻ trong rừng để thu lượm cung tên. Cũng may là những chuyến giết người thu vũ khí lâu lâu mới xảy ra một lần. Nếu việc đó xảy ra thường xuyên chắc bộ lạc Bonga phải bỏ đi nơi khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Ông Vua không ngai vàng


Người dịch: Phạm Thành Hưng

Nguồn: vnthuquan

Khi đã trở thành thủ lĩnh, với tư cách như một ông vua của loài vượn, Tazran phải có trách nhiệm giải quyết nhiều việc phức tạp. Ví dụ, có một con vượn đực Taka đến phàn nàn với Tazran là tên vượn già Mugo quyến rũ vợ mình. Tazran phải nghe cho rõ ngọn ngành để giải quyết. Chàng quyết định: nếu như vợ của Taka đem lòng yêu Mugo thì từ nay mụ không được phép quay về với Taka nữa. Nhưng để cho Taka đỡ bị thiệt thòi, Mugo phải gả một trong những đứa con gái của mình cho Taka làm vợ. Rồi một hôm, Tana ôm bụng nhăn nhó tới gặp Tazran. Từ bụng Tana máu nhỏ ra từng giọt. Tana kêu rằng mình bị chồng là Gunto cắn. Gunto khi được gọi tới thì lại kêu rằng, vợ mình rất lười, đi kiếm ăn cả ngày về mà chẳng chịu đem cho chồng lấy một quả hồ đào hay một con bọ cạp nào hết. Đã thế mụ lại chẳng chịu gãi lưng cho chồng. Tazran phải gọi cả hai vợ chồng tới một gốc cây và phán rằng: từ nay Tana phải làm tròn bổn phận của người vợ. Còn Gunto nếu cứ tiếp tục hành hạ vợ, chàng sẽ cho nếm một nhát dao găm.

Cuộc sống của Tazran cứ trôi qua như thế. Chàng luôn phải lo hòa giải những xung đột gia đình lặt vặt. Công việc này chẳng có gì thú vị. Nhưng nếu chàng không giải quyết, xung đột một gia đình có thể trở thành xung đột cả đàn. Điều an ủi chàng là những con vượn sau khi nghe chàng phán xét đều ngoan ngoãn nghe lời, vui vẻ quay về tiếp tục công việc kiếm ăn. Chàng cảm thấy thiệt thòi nhất là sau khi trở thành thủ lĩnh, chàng trở nên bận bịu, mất tự do. Chàng không còn nhiều thời gian để trở về ngôi nhà cũ lục lọi sách vở, không dám bỏ bộ lạc ra bờ biển nằm kềnh mà ngắm những con sóng lấp lánh ánh mặt trời. Gần đây chàng ra thăm ngôi nhà gỗ và rất mừng là ngôi nhà chưa bị những người da đen phát hiện. Những lúc chàng bỏ đi thăm ngôi nhà gỗ, đàn vượn tỏ ra không bằng lòng chút nào.

Càng ngày Tazran càng để ý đến sự khác biệt giữa mình và những con vượn. Chàng thấy chúng ít chịu suy nghĩ. Chúng không hiểu được những ý định, những mơ ước của chàng. Số lượng từ ngữ của bộ lạc vượn này quá ít ỏi. Vì vậy nhiều khi chàng líu lô kể lại một giấc mơ lý thú nào đó của mình thì hay bị cụt hứng. Chúng nghe mà chẳng hiểu gì cả. Nhiều lúc chàng muốn nói với chúng những điều mà chàng biết được trong sách nhưng cũng đành im lặng bất lực. Trong khi đó, nhu cầu trao đổi giao tiếp của chàng mỗi ngày một mạnh mẽ.

Khi Tazran còn bé, chàng có một số bạn bè cùng tuổi. Lúc đó Tazran vui vẻ sống trong tình bạn tuổi ấu thơ. Nhưng khi chàng đã trở thành một người đàn ông thực thụ thì những người bạn cùng tuổi với chàng chỉ là những con vượn to cao nhưng đần độn. Chúng cũng chẳng khác gì cha mẹ chúng. Khi Kala còn sống, chàng còn thấy mình có sợi dây gắn bó với bộ lạc. Bây giờ mẹ chàng đã chết, bạn cũ của chàng chỉ là những con thú hoang dã, chàng trở thành một con người cô đơn. Vì vậy ngôi nhà gỗ trở thành nguồn vui duy nhất của chàng.

Từ khi chàng lên ngôi vua có một con vượn đực hay tỏ ra ngang ngạnh với chàng. Đó là Tơcốt, con trai của Túpláp. Chỉ vì trông thấy chàng có dao găm, cung tên giáo mác, Tơcốt không dám động tới chàng. Nó chỉ tỏ ra bướng bỉnh. Tuy vậy Tazran biết rằng, nếu có cơ hội thuận lợi, Tơcốt sẵn sàng dẫm lên xác chàng để kế ngôi thủ lĩnh. Tơcốt ghen tỵ và căm thù Tazran vì theo nó, Tazran trước sau vẫn chỉ là con khỉ trần trụi kỳ quặc, chỉ là do có vũ khí trong tay mà cướp được ngai vàng. Trong khi đó nó mới chính là con khỉ to khỏe nhất đàn. Từ xưa tới nay, nó đã chịu nhường bước trước bất kỳ con vượn nào đâu !

Tazran rất muốn vặn cổ Tơcốt, muốn cho hắn một bài học không cần dùng tới dao găm. Bởi vì đây là thời kỳ chàng cảm thấy sung sức nhất, mạnh khỏe nhất, nhanh nhẹn nhất. Chàng tin rằng mình có thể chiến thắng Tơcốt trong một cuộc đấu tay không. Chỉ hiềm vì chàng không có hàm răng chắc khỏe rất lợi hại của loài vượn. Nếu đánh tay đôi, chàng biết sẽ bị thua thiệt rất nhiều.

Nhưng điều này trước sau cũng không tránh được. Một hôm cả bộ lạc đang thong thả kiếm ăn, Tazran đang nằm sấp bụng bên bờ suối, thò tay xuống kẽ đá bắt cá. Bỗng chàng nghe thấy tiếng kêu cứu. Ngay lập tức cả bộ lạc đổ xô về phía có tiếng kêu. Hóa ra là Tơcốt. Hắn đang nằm đè lên một con vượn cái già yếu, vung tay đánh không thương tiếc. Tới nơi, Tazran giơ tay ra hiệu bắt Tơcốt dừng tay. Tơcốt biết rằng dưới chế độ cai trị của Tazran, đánh nhau là phạm luật. Tuy thế, hắn vẫn không chịu dừng tay. Hắn tiếp tục hành hạ con vượn cái và nhìn xem thủ lĩnh Tazran phật ý tới mức nào.

Tazran không lặp lại mệnh lệnh của mình. Chàng nhảy vào bảo vệ con vượn cái. Thế là cuộc chiến đấu diễn ra, một cuộc đọ sức sinh tử mà xưa nay một khi Tazran chấp nhận thì không bao giờ chịu lùi bước.

Ngay từ đầu Tơcốt đã chiếm được ưu thế. Suýt nữa thì Tazran đã bị giết. Nếu như chàng chết thì cái chết của chàng cũng giống như những cái chết bình thường và vô nghĩa của những con vật hoang dã của bình nguyên châu Phi. Tất nhiên điều đó rất khó xảy ra. Bởi vì vượt lên toàn bộ dân cư của rừng già này, chàng có một thứ vũ khí lợi hại nhất. Đó chính là trí thông minh. Nhờ trí thông minh chàng luôn tránh được cái chết, thoát đường vòng tay lông lá và bộ răng kinh tởm của Tơcốt.

Cuộc chiến đấu kéo dài không đầy nửa phút. Cả hai lăn lộn trên mặt đất không khác gì hai con hổ cắn xé nhau. Tơcốt cũng bị toạc da. Nó quả thực không phải một con vượn đần độn. Nó tìm cách cắn cho bằng được những mạch máu ở cổ Tazran. Nhưng trong lúc cả hai mệt nhoài, ghìm nhau đứng im để thở, Tazran bổng nảy ra một sáng kiến. Chàng nghĩ rằng trước con thú cao to này, chàng không nên đối mặt với hàm răng và sải tay dài của nó mà phải tấn công từ phía sau lưng. Tất nhiên Tơcốt không đoán được ý định của Tazran. Nó gầm lên tức tối, vì không hiểu sao địch thủ cứ vòng ra sau lưng mình. Vừa lúc Tazran vung dao định xả một nhát vào lưng Tơcốt thì nó lại giật được con dao trong tay chàng. Chàng trai trong phút chốc trở thành người tay trắng.

Cả hai bắt đầu lăn lộn, du đẩy nhau làm nát nhừ cả bãi cỏ. Lợi dụng lúc vòng tay Tơcốt hơi lỏng, Tazran luồn hai tay qua nách Tơcốt. Mười ngón tay chàng đan vào nhau, ghì cổ con vật xuống đất. Thật ngẫu nhiên Tazran đang thực hiện một miếng võ mà không ai dạy cả. Đó chính là miếng khóa gáy.

Nhưng suy cho cùng, miếng khóa gáy của chàng cũng không hòan toàn là ngẫu nhiên. Chính trí thông minh và sự khéo léo của con người đã mách bảo chàng cần phải hành động thế nào cho hiệu quả nhất. Lúc này Tơcốt hết sức tức tối. Tazran đã áp ngực vào lưng nó, khóa chặt cổ khiến nó không thể ngoảnh cổ lại được, cũng không thể tự do cử động hai tay. Cứ mỗi lúc nó lại bị dí cổ xuống đất thấp hơn. Tazran dồn hết sức lực vào hai cánh tay siết mạnh. Các khớp xương cổ Tơcốt kêu răng rắc. Đấy cũng là lúc trong đầu Tazran nảy ra một ý nghĩ nhanh như ánh chớp - ánh sáng của tư duy : "Nếu như mình giết nó thì điều gì sẽ xảy ra. - Tazran nghĩ - Nếu nó chết, bộ lạc này sẽ mất đi mọt vệ sĩ can đảm trong các trận chiến đấu với các đàn thú khác. Nếu nó chết, nó sẽ không còn biết là mình khỏe hơn nó. Nếu để nó sống, nó sẽ phục mình và trở thành một tấm gương nhắc nhở kẻ khác. "

Nghĩ như vậy, Tazran liền ghé miệng vào tai Tơcốt kêu gọi đầu hàng. Nếu như chúng ta hiểu được ngôn ngữ của lòai vượn này, lời gọi đầu hàng của Tazran có nghĩa là :

- Mày đầu hàng không ?

Tơcốt không trả lời và vẫn cố gắng chịu đựng. Tazran lại siết cánh tay ghì chặt một lần nữa. Con vượn thấy hai bả vai của nó đau tê dại.

- Ta rất khỏe, phải không ? - Tazran nói vào tai Tơcốt

- Khỏe, rất khỏe - Tơcốt trả lời hổn hển và ra hiệu xin tha.

- Hãy nghe đây ! - Tazran ra lệnh và hơi thả lỏng cánh tay - Ta là Tazran, là người đứng đầu cả đàn. Ta là người đi săn tài giỏi và là một tráng sĩ. Cả rừng này không ai mạnh mẽ bằng ta. Mày phải công nhận là ta khỏe mạnh, ta vĩ đại. Hãy nói cho cả đàn nghe rõ. Từ nay mày không được làm cho Tazran này nổi giận ! Mày hiểu không

- Hiểu - Tơcốt gật đầu, thôi chống cự

- Tazran vĩ đại nói đi !

Tơcốt lấy hơi hô to :

- Tazran vĩ đại nói đi !

- Đồ ngu ! - Tazran cáu kỉnh siết chặt tay - Tao chỉ cần mày nói là : "Tazran vĩ đại" thôi

- Tazran... vĩ... đại ! - Vượn Tơcốt gào lên vang rừng.

Tazran gật đầu bằng lòng và thả Tơcốt ra.

Chỉ vài phút sau, đàn vượn lại hí húi kiếm ăn. Rừng xanh trở lại yên tĩnh như trước đó chẳng có chuyện gì xảy ra. Lũ vượn con lại nô đùa, cắn nhau chí chóe. Lũ vượn lớn lại bình thản bắt rận cho nhau. Nhưng sau khi tha cho Tơcốt, Tazran không biết rằng trong đầu lũ vượn lại bắt đầu nảy sinh một quan niệm mới về thủ lĩnh của mình : đó là một thủ lĩnh cừ khôi nhưng lại dở hơi. Đã khỏe thì phải giết chết kẻ thù. Đằng này anh chàng lại thả ra !

Buổi chiều hôm đó, sau khi rửa vết thương bên bờ sông, Tazran gọi tất cả những con vượn lớn lại gần mình, phán bảo :

- Chúng mày thấy con vượn Tazran này khỏe nhất đàn phải không ?

- Đúng thế - Cả đàn vượn gật đầu rồi ra hiệu cho nhau đồng thanh hô tiếp - Tazran... vĩ... đại

- Nhưng Tazran này không phải là vượn, cũng không phải là khỉ - Chàng trai nói tiếp - Tazran không giống chúng mày. Ý thích của ta không giống ý thích của chúng mày. Tazran này sẽ trở lại ngôi nhà ven cửa sông. Đấy mới chính là chỗ ở xứng đáng của Tazran. Chúng mày hãy bầu lấy một thủ lĩnh khác. Tazran này sẽ đi và sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.

Cả lũ vượn nhao nhao phản đối. Mấy con bật tiếng khóc sụt sùi. Thiếu Tazran chỉ đường, chúng sẽ không kiếm được nhiều thức ăn, những ngày trời mưa chúng sẽ bị đói. Suốt đêm hôm đó, cả bộ lạc vượn buồn bã, âm thầm

Sáng sớm hôm sau, Tazran lên đường đi về phía bờ biển phía Tây. Vì những vết thương sau trận đánh với Tơcốt chưa lành hẳn, chàng trai bước đi khập khiễng. Nhưng phương tây đang vẫy gọi chàng. Chàng vô tình đi theo tiếng gọi thầm thì của nền văn minh đồng loại. Chàng muốn tìm những người da trắng giống chàng.

Chuyến đi của Tazran lần này kéo dài mất mấy ngày. Các vết thương làm mỗi lần bước đi của chàng thêm nhức nhối. Tới nơi, chàng vào nhà nằm nghỉ, không muốn đi lại nhiều. Chàng chỉ ló ra ngoài ít phút, kiếm ít trái cây để làm dịu dạ dày. Mười ngày sau chàng mới khỏe mạnh trở lại, chỉ có vết rách từ mắt trái kéo qua đỉnh đầu xuống tận mang tai là chưa lành sẹo. Trong thời gian nghỉ ngơi trong nhà, chàng lôi tấm da sư tử Sabo ra để làm quần áo. Nhưng tấm da sư tử rất cứng, chàng đành từ bỏ ý định. Chàng chợt nhớ ra mình còn có những thứ quần áo của bộ lạc da đen đã chiếm được, đang cất trong nhà. Chàng nghĩ rằng mình phải xoay xở bằng mọi cách để dung mạo của mình giống như những người trong những cuốn sách đã xem. Đối với chàng lúc này, quần áo và đồ dùng là cái giúp chàng khác hẳn với các lòai muôn thú.

Với ý định như vậy, thỉnh thoảng Tazran lại lôi những đồ trang sức của những người da đen ra đeo vào mình. Sợi dây chuyền của Alice thì lúc nào chàng cũng đeo trên cổ. Chàng thắt chiếc thắt lưng da của Kuloga rồi cắt vài mảnh da sư tử gắn thêm vào thắt lưng để che kín những chỗ mà chàng cho là xấu xí nhất trên cơ thể. Thứ vũ khí cuối cùng không thể thiếu được với chàng là cái cung. Chàng vòng chiếc cung qua ngực, đeo vào vai trái. Mái tóc của chàng dài tới ngang vai, lâu nay hay làm chàng vướng mắt. Để tránh tóc khỏi xõa xuống mắt, cản trở tầm nhìn, chàng dùng dao găm cắt ngắn đi.

Điều chàng cảm thấy bực bội khó chịu nhất là việc chàng đã bắt đầu có râu. Nhìn khuôn mặt có bộ râu quai nón của mình, chàng rất sợ. Chàng sợ rằng với đám lông mặt ấy, mình lại giống những con vượn mà mình vừa vĩnh biệt. Nhìn lại những bức tranh trong cuốn sách, chàng thấy người ở trong đó cũng có lông ở mặt, cằm, ở dưới mũi. Chàng nhìn rất lâu, cảm thấy yên tâm một phần, nhưng mối lo lắng bị hóa thành vượn cứ lởn vởn trong đầu chàng. Vì vậy chàng quyết định dùng dao găm tiêu diệt bất kỳ sợi râu nào dám thò ra khỏi mặt. Đối với chàng, hành động cạo râu là hành động đoạn tuyệt với vết tích của thú rừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Những người da trắng


Khi đã hoàn tòan khỏe mạnh, Tazran quyết định trở lại thăm ngôi làng người da đen. Lần này chàng không đi trên cây mà đi theo những lối mòn trên mặt đất. Đến gần làng, chàng chạm mặt một người đàn ông da đen. Vừa trông thấy Tazran, khuôn mặt người đàn ông da đen méo xệch đi vì kinh ngạc.

Tazran chưa kịp giương cung bắn thì người đàn ông đã bỏ chạy. Vừa chạy anh ta vừa kêu la ầm ĩ, chẳng khác nào trông thấy một con quỷ. Tazran lập tức nhảy vọt lên cây đuổi theo. Đuổi được một quãng, Tazran lại trông thấy hai người da đen khác cũng đang hoảng hốt bỏ chạy. chạy. Chàng bỏ qua hai người đàn ông đó, tiếp tục rượt theo người đàn ông thứ nhất. khi sắp bắt kịp hắn, chàng tung ngay dây thòng lọng vào hắn. Sau cú giật mạnh, chiếc thòng lọng đã xiết chặt cổ nạn nhân. Một tiếng kêu nghèn nghẹt vang lên.

Vừa lúc đó hai người đàn ông đi sau chạy tới. Họ ngước cổ lên nhìn, thấy người hàng xóm nhà mình đang lửng lơ trên không. Cái xác cứ đung đưa và từ từ bay lên một lùm cây rậm rạp. Hai người há hốc miệng ra nhìn rồi rẽ ngay sang lối khác, bỏ chạy như hóa điên.

Tazran kéo xác nạn nhân lên cành cây. Thật ra lúc đó người da đen vẫn sống. Anh ta chỉ mới bị nghẹt thở và vì sợ quá mà ngất đi. Tazran tước đoạt vũ khí và các thứ đồ trang sức của hắn. Trước tiên chàng lột chiếc quần da hươu mặc vào người. Chàng tự ngắm mình và thấy vô cùng khoan khoái. Tự nhiên chàng thấy rất nhớ bộ lạc của mình. Chàng muốn trở về để cho lũ vượn thấy rằng chàng đã có dáng vẻ như một CON NGƯỜI. Tazran đột nhiên lại nảy ra một kế hoạch mới. Chàng vác nạn nhân lên vai và tiếp tục tiến về làng người da đen. Tới gần hàng rào của làng, chàng nhẹ nhàng thả nạn nhân xuống một cành cây để quan sát phía trước. Trong làng, một đám đông đang vây quanh hai người vừa thoát nạn để nghe chuyện. Hai người đàn ông chỉ tay lên trời, có vẻ thề thốt điều gì đó. Hai chân họ vẫn còn run lẩy bẩy. Họ đang mô tả sự kiện khủng khiếp mà họ vừa chứng kiến trên đường.

Họ kể rằng : họ đang đi thì Mirando chạy vụt đến chỗ họ, kêu rằng có một vị thần da trắng định giết mình. Cả ba cùng chạy về làng. Mirando chạy trước nhất. Thế mà chạy một lúc, họ thấy Mirando đang lửng lơ trên đầu họ. Hai tay, hai chân Mirando vẫy vẫy trong không khí rồi bay lên trời. Trong lúc đó thì xung quanh chẳng có một bóng người nào cả.

Đám người nghe chuyện giương mắt nhìn nhau bối rối. Riêng có thủ lĩnh Bonga là tỏ ra bình tĩnh và có ý nghi ngờ hai người. Bonga cho rằng hai người đã bịa chuyện. Chẳng qua là ba người đi với nhau, nhưng giữa đường gặp hổ, hai người đã bỏ chạy trước, để mặc cho hổ vồ Mirando. Hai người này chỉ là đồ hèn nhát và dối trá mà thôi.

Bonga đang nói chuyện thì phía ngòai hàng rào có tiếng cành cây gẫy. Mọi người ngoái cổ ra nhìn. Thủ lĩnh Bonga tự nhiên cứng họng, không nói được nữa. Từ ngọn cây cao um tùm có một người da đen đang nhảy xuống đất, vọt qua hàng rào của làng. Đó chính là Mirando. Không ai bảo ai, cả đám đông bỏ chạy thục mạng. Họ không dám chạy vào lều mà nhảy qua hàng rào, chạy tuốt vào rừng. Hồn ma Mirando đang hiện về làng.

Tazran thả Mirando xuống đất. Chàng lấy lại sợi dây thòng lọng rồi nhảy qua hàng rào vào nhặt ống tên rơi vãi. Khi đã nhặt được một bó lớn, chàng quay ra gốc cây cũ để hưởng các thứ đồ ngon lành và lạ miệng. Đó là những thứ đồ cúng mà dân làng của Bonga đã cung kính bày đặt dưới gốc cây để hy vọng làm giảm cơn thịnh nộ của... chính chàng.

Khi Tazran ôm bó tên lên đường trở về thì Mirando cũng bắt đầu hồi tỉnh. Anh ta mở mắt nhìn quanh và chẳng hiểu mình đang ở đâu và đã gặp chuyện gì. "Tại sao mình lại nằm cạnh hàng rào thế này ?" Anh chàng vừa xoa cổ vừa băn khoăn tự hỏi.

Mấy tiếng đồng hồ sau đó, những người da đen lại rón rén trở về làng. Sau nhiều lần dụi mắt để nhìn cho rõ, họ trông thấy Mirando cởi truồng, đi đi lại lại. Rõ ràng là một Mirando còn sống, bằng xương bằng thịt hẳn hoi !

Họ thử dậm chân bình bịch vài lần để dò xét phản ứng rồi mới liều bước vào gặp Mirando. Anh chàng bất hạnh lúc này trông thật đần độn : mặt cứ dài thuỗn ra, ngơ ngơ ngác ngác chẳng hiểu mọi người nói gì mình. Tới lúc có người kêu rằng các thứ đồ cúng biến mất, tên độc cũng biến mất, Bonga mới đi đến một quyết định chắc chắn rằng Mirando đã gặp thần Munago Kewat - một vị thần ác của rừng già. Chẳng qua vì Mirando dám cả gan nhìn vào mắt thần Kewat, nên thần đã nổi giận trừng phạt. Thần Kewat không thích thú rừng của mình bị giết nên đã thu các mũi tên độc của làng. Thủ lĩnh Bonga lập tức ra lệnh nổi lửa để nấu các thứ đồ cúng mới. Lần này ngoài các thức ăn đặt cạnh gốc cây, Bonga còn cúng thêm một bó tên rất đẹp.

° ° ° Tazran về đến nhà. Ngay ngày hôm sau, chàng đã chứng kiến màn kịch bất ngờ bên bờ biển.

Ở chỗ cửa sông đổ ra biển, đột nhiên xuất hiện một con thuyền lớn. Con thuyền đã thả neo, dập dềnh trên mặt nước. Ngay cạnh đó, Tazran còn thấy một chiếc thuyền con đã được kéo hẳn lên bờ cát. Nhưng điều thu hút sự quan tâm của Tazran nhiều nhất là có một đám người cũng da trắng, trông giống như chàng. Vì đã trông thấy những người tương tự trong các cuốn sách của mình, Tazran cảm thấy chẳng có gì đáng sợ. Chàng leo lên cây, luồn đến ngồi ngay phía trên những người lạ mặt đó.

Đám đông có khoảng mười người đàn ông. Người nào cũng cháy nắng, mặt mày có vẻ dữ tợn. Vừa tụ họp với nhau cạnh chiếc thuyền nhỏ, họ vừa cãi nhau ầm ỹ. Mấy người còn giơ nắm đấm, hầm hè định đánh nhau.

Bỗng một người tầm thước nhỏ bé, râu đen đầy mặt bước ra nói gì đó. Khuôn mặt gã có vẻ độc ác, đáng ghét khiến Tazran nhớ tới con chuột Pammpa. Đó là con chuột xưa kia hay mò ra gậm chân mẹ Kala của chàng vào lúc nửa đêm. Gã đàn ông mặt chuột đó vỗ vai một người to béo từ nãy đến giờ có vẻ đứng về một phía để cãi nhau với cả nhóm. Theo ngón tay chỉ của gã mặt chuột, người đàn ông to béo quay lưng lại, nhìn sâu vào rừng.

Ngay lập tức gã mặt chuột rút một vật gì nho nhỏ ở thắt lưng ra, dí vào lưng người to béo. Một tiếng nổ vang lên. Người to béo giương hai tay lên trời, đầu gối khụy xuống. Ông ta ngã xuống đất, không một tiếng kêu.

Tiếng súng bắn trộm đó cũng là tiếng súng đầu tiên trong đời mà Tazran nghe và trông thấy. Chàng ngạc nhiên, lòng đầy ác cảm. Tiếng nổ không làm chàng giật mình. Thần kinh chàng rất khỏe. Hình ảnh đầu tiên về những người da trắng ngoài đời đã khơi lên trong lòng chàng nỗi thất vọng nặng nề. Cũng may là trong những giây phút hào hứng, chàng đã không nhào ra bờ biển để ôm lấy họ và cất tiếng chào đầu tiên của tình đồng loại.

Thì ra những người da trắng này xử xự cũng chẳng hơn gì loài vượn, thậm chí còn tồi hơn cả sư tử Sabo. Lúc này, sau tiếng súng nổ, những người đàn ông còn lại đều im lặng. Họ nhìn gã mặt chuột rồi lại nhìn xác chết trên mặt cát. Một người bước tới vỗ vai gã mặt chuột với vẻ tán thưởng. Số còn lại chuyện trò râm ran. Hình như họ không còn lý do để cãi nhau nữa. Một lát sau, tất cả xúm lại kéo con thuyền nhỏ xuống nước rồi nhảy lên, chèo ra thuyền lớn. Trên con thuyền lớn còn có mấy người nữa. Chờ cho những người lạ mặt leo hết lên con thuyền buồm, Tazran tụt xuống đất. Chàng đi về nhà gỗ của mình, rón rén vừa đi vừa nấp, cố gắng để những người trên thuyền không trông thấy mình.

Bước vào nhà, Tazran thấy tất cả đồ đạc trong phòng đã bị lục tung. Sách bút của chàng nằm lăn lóc. Cung tên, giáo mác của chàng cũng bị moi ra vứt ngổn ngang. Tazran tức giận, mặt đỏ bừng. Vầng trán sáng sủa thanh thản lâu nay của chàng gợn lên những nếp nhăn nho nhỏ, trông giống như một mảnh nhung hồng. Tazran tiến lại phía tủ. Chàng thở dài nhẹ nhõm. Những thứ quý giá của chàng trong đáy tủ vãn chưa bị lục lọi. Tấm ảnh có người đàn ông nheo mắt cười và mấy cuốn sách học vần vẫn nằm nguyên chỗ cũ.

Hình như còn chuyện gì đó xảy ra bên ngòai nữa. Tazran lắng nghe: có tiếng người lao xao. Tazran nhảy tới cửa sổ, nhìn ra ngoài. Người ta lại thả xuống nước một con thuyền nhỏ nữa. Mấy người nhảy xuống thuyền. Tazran hiểu rằng họ còn quay lên bờ lần nữa.

Một lát sau người ta xếp vào chiếc thuyền con mấy chiếc thùng gỗ và những bao tải lớn. Chiếc thuyền con bắt đầu rời chiếc thuyền lớn, tiến vào bờ. Tazran lấy một mảnh giấy ra và viết vào đó mấy dòng chữ mà chàng đã học được trong sách. Chàng dùng mẩu que nhọn, găm tờ giấy vào cửa. Xong việc, chàng thu lượm các thứ đồ trong tủ, đeo cung tên vào người rồi chạy ra khỏi nhà. Thoắt cái chàng đã biến vào rừng sâu.

Khi chiếc thuyền con đỗ lên bãi cát, đám người ăn mặc khá sặc sỡ bước lên bờ. Khoảng hai chục người. Trong số đó có khoảng mười lăm người dung mạo dữ tợn chẳng khác gì bọn cướp. Số còn lại ăn mặc hoàn toàn khác.

Người thứ nhất là một ông già tóc bạc, khuôn mặt phúc hậu. Ông ta đeo một chiếc kính trắng có bộ gọng khá to. Thân hình thanh mảnh của ông lộ rõ trong bộ lễ phục rẻ tiền, có vẻ chẳng ăn nhập gì với cảnh núi rừng này.

Người thứ hai là một chàng trai hơi gầy, mặc một bộ quần áo mùa hè sơ sài. Đi sau chàng trai là một ông già nữa, trán khá rộng nhưng luôn luôn cau có. Người thứ tư là một người da đen đẫy đà ăn mặc lòe loẹt, hai mắt trợn tròn, có vẻ rất sợ đám thủy thủ. Người cuối cùng là một cô gái chừng mười chín tuổi.

Tất cả lặng lẽ tiếng về phía ngôi nhà gỗ. Khi đám thủy thủ trút hành lý xuống cạnh cửa ra vào, một người phát hiện ra mẩu giấy của Tazran trên cửa.

- Cái gì thế này ? - Gã thủy thủ kêu lên - Trước đây khoảng một giờ không hề có mảnh giấy lộn này. Tôi đem cả đầu lẫn cổ ra mà thề như thế.

Cả đám người xúm lại, dán mắt vào tờ giấy nhỏ. Vì số thủy thủ phần lớn là những người không biết chữ, nên một thủy thủ quay sang ông già tóc trắng mặc lễ phục

- Này giáo sư - Gã thủy thủ gọi - Đến đây đọc hộ bọn này mẩu giấy lộn.

Người đàn ông mặc lễ phục tiến sát đến cánh cửa, đeo kính lên, nhìn lướt qua mẩu giấy rồi lẩm bẩm:

- Hãy cẩn thận ! Hãy cẩn thận. Đúng là rất đáng quan tâm.

- Thế nào ? Gã phù thủy khọm già này - Một tên thủy thủ có cái cổ dài lắc lư kêu lên. - Bọn này gọi lão đến làm gì hả. Để lão đọc một mình phải không ? Đọc to lên, đồ cận thị !

- Vâng, vâng, tất nhiên là tôi đọc rồi.

Ông giáo sư già trả lời nhũn nhặn và đọc lên rất cẩn thận :

" ĐÂY LÀ NHÀ CỦA TAO. TAO ĐÃ GIẾT SƯ TỬ. HAI MẮT TAO ĐANG NHÌN"

Phía dưới dòng chữ, thay cho chữ ký là một hình vẽ rất vụng về. Đó là hình vẽ một người đàn ông đang đứng với cánh cung trong tay.

- Đồ quỷ tha ma bắt, thế có nghĩa là gì ? - Một gã thủy thủ lầu bầu rồi xịt một bãi nước bọt qua kẽ răng thành hình vòng cung

- Xem ra tác giả của mẩu giấy là một người ít học. Tiếng Anh quá tồi - Chàng trai mặc đồ mùa hè bình luận.

- Nhưng người ta muốn nói gì ? - Cô gái cất tiếng hỏi - Người viết mảnh giấy này là ai ?

- Tôi không biết, thưa cô Potorova - Chàng trai nhún vai trả lời. - Nhưng rõ ràng là quanh đây đâu có một người đang sống ẩn dật, sống một cuộc sống hoang dã. Có thể rồi chúng ta sẽ phát hiện ra một con khỉ của vườn thú Luân Đôn. Con khỉ đó đã hưởng một nền giáo dục Âu Châu rồi sau đó trả lại rừng già. Ngài nghĩ sao, giáo sư Poto ?

Giáo sư A.Q. Poto chỉ lắc đầu tỏ ý không biết rồi thong thả bước vào rừng.

- Thằng già này rất ngu - Gã thủy thủ mặt chuột nói với đồng đội - Xem ra hắn cũng chẳng biết nhiều hơn chúng ta.

- Câm mõm, Humpo ! - Chàng trai mặc áo sơ mi màu xám quát lên - Mày đã giết các sĩ quan. Mày đã ăn cắp của chúng tao. Nhưng nếu mày còn hỗn láo với giáo sư, tao sẽ dần cho mày nhừ xương, dù mày có súng đi nữa.

Chàng trai áo trắng vừa nói vừa xông tới chỗ tên thủy thủ mặt chuột, làm hắn phải nhảy vọt sang một bên.

- Đồ hèn nhát ! - Người mặc áo sơ mi trắng giễu cợt - Loại người như mày chỉ dám bắn người ta sau lưng thôi

Người mặc áo sơ mi trắng nói xong, rồi như thách thức, quay ngay lưng lại bước vào rừng tìm giáo sư. Tên mặt chuột lén lút thò tay vào mân mê báng súng ngắn. Mắt hắn lóe lên những tia sáng hằn học. Hắn nâng súng lên... Nòng súng của hắn rung rung có vẻ do dự. Cô gái thét lên sợ hãi. Nhưng cũng ngay lúc đó, một ngọn giáo từ xa bay tới cắm vào lưng gã mặt chuột. Súng nổ. Viên đạn bay đi mất trong không khí. Gã mặt chuột kêu lên một tiếng đau đớn rồi ngã vật xuống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Người anh em họ


Từng cử chỉ nhỏ của những người đổ bộ ven biển đều không thoát khỏi cặp mắt tinh anh đang ẩn sau kẽ lá rừng. Đó là cặp mắt của Tarzan. Chàng không muốn lộ diện vì cách xử sự của những người đổ bộ làm chàng phải cảnh giác. Chàng không hiểu được họ nói gì, nhưng theo dõi hành vi của họ, chàng đoán được rất nhiều điều. Khi thấy gã thủy thủ mặt chuột trong nhóm giết người một cách vụng trộm, Tarzan rất ghét hắn. Sau đó, khi thấy hắn cãi nhau với chàng trai áo trắng, Tarzan đã đoán trước mọi việc và chuẩn bị vũ khí.

Chàng đoán không sai. Thấy gã mặt chuột sờ tay vào bao súng ngắn bên hông, Tarzan lập tức giương cung. Nhưng vì lá rừng dày quá, sợ mũi tên vướng cành cây, chệch hướng, Tarzan vội chụp lấy ngọn giáo. Mũi giáo của chàng đã bay kịp tới mục tiêu và cứu được chàng trai áo trắng.

Nghe tiếng súng nổ sau lưng, Claytơn - chàng trai mặc áo sơ mi trắng liền quay lại. Gã mặt chuột bị trúng giáo đang vật vã trên mặt đất. Số thủy thủ còn lại đứng vây quanh hắn, vũ khí lăm lăm trong tay, nhìn vào phía rừng nơi có ngọn giáo vừa bay tới. Clayton trông thấy một khẩu súng ngắn nằm ngay trên bãi cát. Chàng biết đó là khẩu súng vừa văng ra khỏi tay Humpo. Chàng lẳng lặng nhặt lấy khẩu súng, đút vào túi quần. Giấu súng xong, chàng nhìn về phía xuất phát của ngọn giáo.

Có tiếng người hỏi thì thào bên tai Clâytơn. Chàng quay lại. Đó là Jane Potorova. Cô gái đứng bên Clâytơn, hai mắt mở to vì chưa hết kinh ngạc

-Điều này chứng tỏ có một người sống ở vùng bờ biển này và lúc nào cũng theo dõi chúng ta - Clâytơn trả lời nho nhỏ - Nhưng tôi muốn biết mũi giáo đó có phải nhằm vào Humpo hay không. Nếu nhằm vào hắn thì người đó là bạn chúng ta.

Clâytơn im lặng một lát rồi kêu lên hoảng hốt :

-Lạy chúa tôi ! Cha cô và Philando đâu rồi ? Helo, giáo sư ở đâu rồi ? Philando ơi ! Không có tiếng trả lời

-Chúng ta làm gì bây giờ ? - Clâytơn hỏi - Tôi phải vào rừng tìm họ ngay. Nhưng tôi không muốn đưa cô đi theo. Mà cô ở lại giữa đám kẻ cướp này thì cũng không được. - Clâytơn nói rồi đập tay lên trán - À đúng rồi, tôi có cách đây rồi. Cô biết bắn súng chứ ?

- Em biết. Nhưng anh hỏi làm gì vậy ?

-Có khẩu súng ngắn đây - Clâytơn nói nhỏ vào tai cô gái - Có khẩu súng trong tay cô sẽ yên tâm hơn. Cô gọi ngay người đàn bà da đen cùng nhau vào nhà chờ. Nhớ chờ tôi trong nhà, đừng đi ra ngoài. Tôi thử đi tìm cha cô và Philando xem. Chắc họ chưa đi xa lắm.

Jane Potorova làm theo lời Clâytơn. Khi cô gái và người đàn bà da đen đã bước vào nhà, Clâytơn mới bước đi. Anh đến chỗ đám thủy thủ, định mượn họ một khẩu súng làm vũ khí phòng thân trên đường vào rừng. Đám thủy thủ lúc này đang xúm xít quanh Humpo, tìm cách rút ngọn giáo ra khỏi người hắn. Humpo đã tỉnh lại và đang nguyền rủa Clâytơn. Hắn quát bảo đám thủy thủ cứ đưa cho hắn bất cứ thứ vũ khí gì cũng được. Từ lúc hắn giết thuyền trưởng, đám thủy thủ tỏ ra ngoan ngoãn nghe lời hắn. Humpo nhớ ra khẩu súng ngắn của mình, liền sai đám thủy thủ đi tìm trên bãi cát. Chúng hỏi Clâytơn về khẩu súng, nhưng anh không nói gì, chỉ khẽ nhún vai rồi bước tới nhặt ngọn giáo vừa được rút ra khỏi lưng Humpo lên xem. Với ngọn giáo đó, Clâytơn đi vào rừng

Chỉ một lát sau hai người phụ nữ trong ngôi nhà đã nghe thấy tiếng Clâytơn cất tiếng gọi hai người bị lạc. Tiếng gọi của anh mỗi lúc một xa dần, nhỏ dần rồi mất hút trong tiếng lá rừng xì xào. Chắc là anh đã đi khá xa. Giáo sư Acsimet Q Poto và người trợ lý của ông - Samen T Philando đi dạo trong rừng được một lúc, định quay lại ngôi nhà gỗ nhưng đi mãi mà không thấy ngôi nhà đâu. Hai người không định hướng nổi con đường trở lại của mình. Vì vậy, mặc dù đã ra sát bờ biển nhưng họ vẫn chẳng trông thấy con thuyền cặp ở bến. Trợ lý Philando cho rằng hai người chỉ đi chệch hướng ngôi nhà gỗ khoảng hai chục mét về phía bắc, nhưng thực ra họ đã đi lệch hơn hai trăm mét về phương nam. Nếu lúc bấy giờ hai người cất tiếng gọi thì những người trong ngôi nhà gỗ có thể nghe và đáp lại ngay. Đáng buồn là trợ lý Philando không nghĩ ra điều đó. Ông ta cứ dắt vị giáo sư, đồng thời là bạn mình đi về hướng nam. Vì vậy càng đi, họ càng bỏ xa ngôi nhà gỗ sau lưng mình

Jane Potorova, con gái của giáo sư và cô hầu da đen tên là Exmeranda lúc này đã vào ngôi nhà gỗ. Ý nghĩ đầu tiên của Exmeranda là phải chặn cửa lại cho thật chặt. Nhưng vừa bước vào phòng tìm vật chặn cửa, cô đã hét lên một tiếng kinh hoàng. Trong cơn hoảng hốt, cô chạy như một đứa trẻ, đến nấp vào vai cô chủ. Potorova đã trông thấy cái vật làm người hầu của mình hoảng hốt. Cách cô mấy bước là một bộ xương người. Tất nhiên cô không biết rằng đó là bộ xương của người chủ ngôi nhà này. Từ bao lâu nay Tarzan không bao giờ có ý định dọn dẹp những bộ hài cốt đó

Nhìn quanh một lát, cô gái lại phát hiện ra bộ xương thứ hai trên giường. "Sao mà khủng khiếp thế" Cô gái thì thào. Tuy vậy giọng cô chưa có vẻ gì là sợ hãi. Cô cố gỡ vòng tay của người hầu ra khỏi vai mình, đi sâu vào trong nhà quan sát. Cạnh giường nằm còn một bộ xương khác, rất bé, nằm trong cái nôi bằng gỗ. "Nơi này đã xảy ra một thảm kịch !" Potorova thầm nghĩ và rùng mình khi nghĩ rằng một thảm kịch tương tự biết đâu chả có thể xảy ra với mình ngay bây giờ. Cô cố gắng gạt ra khỏi đầu những ý nghĩ bất hạnh đó. Quay sang người hầu, cô gắt lên : " Thôi đi ! Exmeranda, buông tôi ra ngay. Cô mà cứ hoảng hốt thế thì không khéo tình thế còn tồi tệ hơn đó." Nói xong chính cô cũng bắt đầu run. Cô có linh cảm cha cô, ông trợ lý và cả Clâytơn, những người đàn ông có khả năng bảo vệ cô lúc này đều đi lạc trong rừng.

Sau vài phút bàng hoàng, cô phát hiện ra cây gỗ chèn cửa, liền bảo người hầu bắt tay ngay vào công việc. Chỉ sau một lát lúng túng, hai người đàn bà đã đưa được cây gỗ nặng vào đúng vị trí của nó hai mươi năm trước. Xong việc, họ ngồi xuống, ôm chặt lấy nhau, chờ đợi

° ° °

Sau khi Clâytơn đi vào rừng, đám thủy thủ nổi loạn trên con thuyền Ơrau lại cãi nhau. Thoạt đầu, họ cãi nhau vì không tìm thấy khẩu súng ngắn bị văng ra khỏi tay Humpo. Sau đó về chuyện phải làm gì tiếp theo. Họ chỉ thống nhất được với nhau được mỗi một chuyện : phải cấp tốc ra ngoài thuyền buồm để khỏi dính vào những ngọn giáo bất thần từ trong rừng phóng ra. Thế là bỏ mặc cho hai người đàn bà ngồi trong ngôi nhà gỗ, đám thủy thủ hối hả nhảy xuống hai chiếc thuyền con, chèo ra con thuyền Orau đang thả neo ngoài xa.

Tarzan đã nhìn thấy tất cả mọi chuyện. Chàng cảm thấy đau đầu. Những người da trắng là như vậy đấy. Họ đã làm cho chàng mất hết niềm tin. Chàng cả thấy rất ghét gã Humpo cùng đám thủy thủ. Xem xét cách nói, điệu bộ của đám thủy thủ, chàng biết rằng họ thù địch với nhóm năm người còn lại. Với năm người này, chàng lại cảm thấy dễ mến. Chàng mến người đàn ông mặc áo trắng, mến cô gái và mến cả hai ông già. Còn đối với người da đen, chàng giữ thái độ dửng dưng. Mặc dù cô ta ăn mặc diêm dúa, chàng cũng chẳng ngạc nhiên là mấy. Những người đàn bà da đen kiểu ấy chàng đã trông thấy một đôi lần.

Tarzan có cảm tình với nhóm thứ hai mà chính chàng cũng không biết tại sao. Nếu nhóm này có vũ khí thì không biết họ có xử sự giống như đám thủy thủ kia không ? Tarzan băn khoăn suy nghĩ. Rõ ràng họ cũng cần vũ khí. Chàng đã trông thấy người mặc áo trắng bí mật nhặt khẩu súng trên cát cho vào túi. Đó chính là cái vật đã gây ra tiếng động kinh hoàng và vật ấy đã văng khỏi tay Humpo sau khi chàng phóng lao. Sau đó chàng lại thấy người mặc áo trắng đưa nó cho cô gái, trước khi cô chạy vào nhà và đóng cửa lại.

Tarzan băn khoăn về nhiều chuyện. Tại sao những người đàn ông thuộc nhóm thứ hai này lại đi vào rừng sâu ? Chàng không nghĩ rằng người ta có thể bị lạc. Nhưng vì đám thủy thủ đã ra ngoài thuyền và hai người đàn bà đã đi vào nhà, không còn ai để xem, chàng quyết định đi tìm người đàn ông áo trắng. Vì sợ người áo trắng đó có thể bất thần nhìn thấy mình trên đường, Tarzan nhảy lên cao, chuyền thoăn thoắt qua các ngọn cây. Chàng đi theo hướng mà người áo trắng vừa đi. Chỉ một lát sau chàng đã nghe thấy tiếng gọi của người áo trắng.

Người áo trắng đang bước những bước xiêu vẹo qua từng gốc cây, dáng đi rất mệt mỏi. Cứ một lúc anh ta lại lau mồ hôi trán. Từ tán lá um tùm, hai mắt Tarzan sáng lên. Chưa bao giờ chàng trông thấy một người da trắng nào ở một khoảng cách gần như thế. Chàng háo hức nhìn, bởi vì chàng thấy người da trắng này thật giống với mình như cùng thuộc về một bộ lạc.

Người áo trắng tuy mệt mỏi nhưng vẫn không chịu nghỉ. Anh ta vẫn bước, vừa đi vừa khum khum bàn tay lên miệng kêu mấy tiếng thật dài. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Tarzan mới đoán ra là anh ta đi tìm hai người già. Tarzan quyết định đi theo. Nhưng vừa lúc đó chàng trông thấy sau lưng người áo trắng có một con báo đang rón rén đi tới. Đó là con báo Sêta. Tarzan nghe rõ tiếng lào xào dưới chân con báo. Vậy mà anh chàng áo trắng này vẫn chẳng hay biết gì.

Con báo nhún mình về phía sau, chuẩn bị vồ. Tarzan liền thét lên. Tiếng thét quyết chiến, man rợ vang động cả rừng già. Con báo giật mình, giương mắt lên nhìn. Trông thấy Tarzan trên cành cây, nó lập tức chạy biến vào bụi rậm.

Anh chàng áo trắng cũng rụng rời chân tay. Anh ta biết rằng mình suýt bị thú rừng vồ. Nhưng con thú nào đã thét trên đầu mình? Chàng áo trắng chẳng thể nào hiểu nổi.

Bóng chiều đã ngả. Rừng tối dần. Người áo trắng cảm thấy bất lực và quá mệt mỏi. Làm sao tìm nổi hai người bị lạc giữa rừng đêm bây giờ. Hơn nữa, anh ta cảm thấy hình như mình cũng đang bị lạc hướng. Không loại trừ khả năng hai ông già đã tự tìm được đường trở về nhưng thật nực cười ! Anh ta không biết rằng mình không đi về phía ngôi nhà gỗ mà tiếp tục đi sâu vào rừng.

Tarzan ngạc nhiên, không hiểu vì sao anh chàng áo trắng này lại không tiếp tục đi tìm hai người già nữa. Chàng đã thấy rõ vết chân hai ông già trên cỏ, chỗ ngã ba con đường mòn. Người áo trắng chỉ cần đi một đoạn nữa là gặp họ. Tarzan không biết rằng anh chàng áo trắng này không có khả năng nhận dấu vết trong rừng như mình. Chàng lo lắng. Anh chàng ngốc nghếch này không khéo sẽ thành mồi cho thú dữ mất thôi.

Đột nhiên rừng già im lặng một cách kỳ lạ. Những con chim đi ăn đêm dường như cũng nín thở. Có tiếng xào xạc rất mềm mại. Thật ra con sư tử Numa đã lần theo dấu vết của người áo trắng từ phía bên bờ biển. Bây giờ có thể nó đang chuẩn bị cho một cú vồ. Nhưng mồi đâu nhỉ ? Chỗ nào ? Đây rồi ! Con sư tử khổng lồ với bộ lông bờm lòa xòa đã nhìn thấy người đàn ông cách đó không đầy hai chục bước .

Con sư tử bước đi rất chậm. Khi chạm vào cơ thể của người áo trắng, ánh mắt nó sáng lóe lên. Nó dừng lại, hai chân sau thận trọng chùng xuống sát đất. Người áo trắng đứng im như hóa đá. Anh ta không dám chạy, cũng không dám vung ngọn giáo.

Vừa lúc đó anh ta nghe có tiếng động trên đầu mình. Không lẽ lại thêm một thần chết nữa ư ! Nghĩ như vậy nhưng anh ta không đủ can đảm rời mắt khỏi hai đồng tử nửa xanh nửa vàng của con sư tử đang chiếu vào mình.

"Păng", một tiếng động mỏng manh bỗng vang lên, nghe như tiếng đàn ghita đứt dây. Ngay tức khắc người áo trắng nhìn thấy một mũi tên cắm phập vào đám lông vàng của con sư tử

Con thú dữ nhảy dựng lên cùng với một tiếng kêu đau đớn và giận dữ. Người áo trắng nhổm dậy, chạy sang bên đường. Khi quay sang nhìn con sư tử, anh ta đứng sững lại, há mồm vì kinh ngạc. Cảnh tượng trước mắt anh ta chẳng khác gì một màn kịch ngắn : con sư tử chưa kịp lấy lại thăng bằng thì từ trên lùm cây cao, một thân người gần như trần truồng nhảy bổ xuống lưng nó. Nhanh như cắt, hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp của người rừng luồn qua nách con sư tử, ghì chặt lấy gáy nó. Ngay lập tức, con sư tử bị nâng bổng hai chân trước lên như một con mèo. Nó kêu thét một cách bất lực và thở hồng hộc. Toàn bộ cảnh tượng lạ lùng diễn ra trong ánh sáng lờ mờ của rừng đêm châu Phi này đã sống mãi trong kí ức của người đàn ông da trắng đến suốt cuộc đời.

Người rừng trần truồng đánh nhau với con sư tử không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp. Ưu thế của chàng là tốc độ, trí khôn và mũi dao nhọn. Đang ghì chặt gáy con sư tử, đột nhiên tay trái của chàng vòng xuống, thọc con dao găm vào bụng nó. Con sư tử chới với, giãy giụa, nhưng chỉ điều khiển được hai chân sau. Nó phải chống đỡ ở một tư thế hoàn toàn bất lợi. Nếu trận chiến kéo dài thêm vài giây nữa thì kết cục có thể sẽ khác. Nhưng trận đấu diễn ra rất chóng vánh. Ngấm thuốc độc ở đầu mũi tên, con sư tử ngã vật ra đất mà vẫn chưa hết kinh ngạc

Người áo trắng lúc này đã nhìn rõ mặt vị cứu tinh của mình. Đó là một người đàn ông còn rất trẻ, có làn da rám nắng tuyệt vời. Chàng ta che thân chỉ bằng mảnh da sư tử lất phất quanh bụng. Trên khoang ngực ngăm ngăm của chàng ta lấp lánh sợi dây chuyền vàng, có gắn thêm thứ đồ trang sức gì đó.

Bỗng nhiên người rừng vung dao thét lên một hồi ghê rợn. Người đàn ông áo trắng sợ hết hồn, định bỏ chạy vì nghĩ rằng người rừng sẽ hạ thủ nốt mình. Nhưng không phải ! Người rừng đứng lên xác sư tử, chỉ nắm chặt cán dao vung lên trời, lắc lắc mái dóc dài rũ rượi rồi thét lên từng hồi. Sau khi thét đã hả hê, người rừng gài dao vào bao và nhặt bộ cung tên của mình lên

Người mặc áo sơ mi trắng nói với người rừng bằng tiếng Anh. Anh ta muốn cảm ơn cứu mạng và bộc lộ niềm thán phục của mình trước sức mạnh và lòng dũng cảm vô song của người rừng. Nhưng người rừng chỉ nhìn và khẽ nhún đôi vai vạm vỡ của mình. Cử chỉ đó có thể hiểu theo hai cách : chàng ta rất xem thường việc giết sư tử của mình, hoặc là chàng ta không biết tiếng Anh. Người áo trắng thấy người rừng kêu lên mấy tiếng the thé như tiếng khỉ rồi lặng lặng rút dao ra rạch da sư tử. Chàng ta lọc ra từ đùi sư tử khoảng chục miếng thịt nho nhỏ, đặt cả lên đầu gối rồi thong thả đưa từng miếng vào mồm nhai rất ngon lành. Chàng ta ra hiệu cho người áo trắng đến ăn cùng.

Hàm răng của người rừng nghiền thịt rất khỏe. Máu từ miếng thịt sống ứa ra đỏ lòm cả mép. Người áo trắng khẽ rùng mình và lắc đầu từ chối. Anh ta chưa bao giờ ăn thịt sống. Hơn nữa, nếu có ăn được thì lúc này anh ta cũng không biết no đói là gì, vì vẫn chưa lấy được hồn vía. Anh ta chỉ ngồi giương mắt quan sát chàng trai người rừng và suy nghĩ. Rõ ràng đây là người đã cứu sống anh. Nhưng lẽ nào đây lại là người đã viết dòng chữ "đây là nhà của tao... " trên cửa. Người này chẳng biết nói một từ tiếng Anh nào cả.

Người mặc áo sơ mi trắng lại bắt đầu cất tiếng nói. Đáp lại lời anh ta, người rừng chỉ phát ra những âm thanh ú ớ trong họng. "Không, dứt khoát đây không phải là người đã viết những dòng chữ trên cửa " Người áo trắng suy nghĩ.

Ăn xong, người rừng vẫy tay chỉ về hướng rừng mà người áo trắng khi nãy đã bỏ qua. Những nghĩ ngợi một lát, người rừng lại đi về chính hướng đó. Đi một lát, quay lại, thấy người áo trắng vẫn đứng do dự, không chịu đi theo mình, người rừng bèn chạy trở lại, chộp lấy cánh tay anh ta kéo đi

Người áo trắng hoảng hốt, nghĩ rằng mình đã bị người rừng bắt làm tù binh. Anh ta rất buồn nhưng không dám chống cự, chỉ lẳng lặng đi theo, vừa đi vừa nghĩ kế thoát thân. Chàng trai người rừng thoăn thoắt vượt qua từng mô đá, từng gốc cây, không quay đầu lại. Còn người áo trắng bước thấp bước cao, vừa đi vừa ngã. Cảm thấy sợ thú rừng hơn sợ người rừng nên khi bị tụt lại phía sau anh ta lại hoảng hốt gọi người rừng chờ mình. Anh ta sợ bị bỏ lại giữa rừng. Rất hay là sau mỗi lần gọi, người áo trắng lại vừa sung sướng vừa ngạc nhiên : trong nháy mắt, người rừng đã ló mặt ra ngay ở cành cây trên đầu mình.

Đi được một lúc chàng người rừng quay lại ngắm người áo trắng từ đầu đến chân, có vẻ như tính toán điều gì đó. Chàng ta chỉ tay vào cổ mình, rồi lại chỉ lên lưng mình. Người áo trắng băn khoăn chưa hiểu điều gì thì chàng người rừng đã khom lưng xuống, cõng bổng anh ta lên, tiếp tục đi

Trên lưng người rừng, người đàn ông da trắng vừa sợ vừa cảm thấy thích thú. Người rừng cõng anh ta đi vùn vụt, vừa đi vừa nhảy. Người rừng nhảy qua các mô đá, có lúc lại túm sợi dây leo đánh đu, vọt qua miệng vực. Nhưng lúc đó, người đàn ông da trắng chẳng còn cách nào khác là ôm thật chặt lấy cổ người rừng, nhắm mắt lại. Anh ta chỉ dám thở mạnh khi người rừng đã bay qua miệng vực, chân chạm xuống đất. Sau đó người rừng lại đi rất thoải mái. Người rừng đi trong rừng đêm không khác gì đi trên đường phố Luân Đôn giữa buổi trưa hè vậy

Vậy người vừa cứu sống mình là ai đây ? Chàng ta sinh ra từ đâu ? Bố mẹ chàng ta là ai ? Uyliam Xêxin Clâytơn, tức là người áo trắng vô cùng thắc mắc. Tất nhiên, nếu Clâytơn có hỏi, thì cũng chẳng nhận được câu trả lời. Bởi vì đây là lần đầu tiên trong đời mình, Tarzan được gặp một người da trắng. Ngược lại, người đàn ông mặc áo sơ mi trắng cũng không biết rằng, chàng trai người rừng cứu sống mình cũng là Clâytơn, là huân tước Grâyxtâu Clâytơn. Số phận đã run rủi cho hai người cùng dòng máu gặp nhau giữa rừng sâu Châu Phi. Hai người không hề hay biết rằng, họ chính là hai anh em họ, con chú con bác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Thần chết đến thăm nhà


Lúc này hai người đàn bà vẫn ngồi co ro trong ngôi nhà gỗ. Người đàn bà da đen sụt sịt khóc. Cô gái da trắng vẫn giữ khuôn mặt bình thản, nhưng thực ra trong bụng hết sức lo sợ. Trước hết cô lo cho ba người đàn ông đang còn lạc trong rừng sâu. Nhưng cô còn lo sợ hơn nữa là vì ngoài nhà lúc nào cũng có tiếng động. Rừng lúc này đang rậm rịch tiếng bước chân thú ăn đêm.

Quả nhiên ngoài nhà có tiếng động rất mạnh. Có một con thú nào đó rất to đang cọ lưng vào tường. Chỉ một lát sau, quanh bốn bức tường gỗ mỏng manh đã vang lên tiếng bước chân đều đặn và tiếng kêu gầm gừ. Đúng như vậy, ngoài tường gỗ đang có một con thú lớn đánh hơi. Cô gái da trắng run bắn lên. Cô xích người lại gần người đàn bà da đen : "Nín đi ! Nín đi Exmeranđa" Cô gái da trắng lắc lắc vai người đàn bà da đen. Cô biết rằng tiếng nức nở của người đàn bà da đen từ nãy đến giờ đã lọt qua kẽ tường gỗ, kích thích thêm cơn đói của con thú dữ.

Con thú đang tìm cách đột nhật vào nhà. Nó cào một vài lần, sau đó dừng lại. Một lát sau, bên ngoài lại vang lên tiếng bước chân uyển chuyển, rón rén. Tiếng bước chân dừng lại ở phía cửa sổ. "Lạy chúa" Jane Potorova thì thào. Cô đã trông thấy ở khung cửa sổ bịt lưới sắt hiện ra cái đầu to đùng của con sư tử. Đôi mắt lóe sáng của nó chiếu thẳng vào cô

"Nhìn kìa ! - Cô gái kêu lên - Exmeranda! Làm gì bây giờ ? Kia kìa, ở cửa sổ ấy ?" Người đàn bà da đen đang khóc từ từ ngẩng đầu lên đúng lúc con sư tử lắc đầu. Cái vật mà cô chợt thấy dưới ánh trăng mờ ở khung cửa sổ đó thật quá sức chịu đựng của cô. "Lạy thánh Gabrien." Cô ta kêu lên một tiếng rồi ngã lăn ra bất tỉnh.

Thời gian như đứng chững lại. Con sư tử đã đặt được hai chân trước lên bậu cửa sổ, giương mắt ngó vào trong phòng. Đột nhiên nó lay lay thử tấm lưới.

Cô gái da trắng sợ đến mức muốn tắt thở. Cô chỉ tiếp tục thở được khi cái đầu sư tử bên ngoài biến mất và nghe tiếng bước chân nó xa dần. Nhưng chỉ một lát sau, tiếng chân đó lại vang lên ở phía cửa ra vào. Con sư tử đã quay lại. Nếu như Potorova biết rằng chiếc cửa ra vào được làm rất chắc chắn thì chắc cô cũng không đến nỗi sợ như thế. Vì không biết nên cô cứ ngồi run lên từng cơn, tưởng tượng tới cảm giác đau đớn khi mình bị xé ra thành từng mảnh.

Suốt hai mươi phút liền con sư tử hết ngửi lại đến cào cửa. Thỉnh thoảng nó mới thốt ra tiếng gầm gừ. Sau đó nó từ bỏ ý định tấn công ở lối cửa chính. Potorova nghe thấy tiếng chân sư tử bước về phía cửa sổ. Tấm lưới sắt rung lên bần bật. Con thú ngã vật trở lại. Tuy thế, sau một cú lao, một vài thanh gỗ nẹp lưới đã bị gẫy.

Con sư tử vẫn tiếp tục tấn công. Đến cú lao thứ ba thì một mảng lưới đã bị rách toạc ra. Ngay lập tức con sư tử chồm lên, thò đầu và một chân vào trong. Nó dùng cả mõm và chân để phá lưới. Cứ mỗi lúc cơ thể mềm mại của nó lại nhích sâu thêm được một đoạn vào trong phòng

Cô gái đứng im như trong một giấc mơ, hai mắt đờ đẫn nhìn cái mõm con vật chỉ còn cách mình không đầy hai mét. Dưới chân cô, người đàn bà da đen vẫn nằm bất tỉnh. Nếu như người đàn bà da đen tỉnh dậy, biết đâu hai người có thể tìm ra cách nào đó xua đuổi được con vật. Nghĩ như thế Potorova cúi xuống, chụp vai người đàn bà da đen mà lay : "Exme, Exme, dậy. Cứu tôi với. Tỉnh dậy mau nếu không chúng ta sẽ bị chết."

Người đàn bà da đen từ từ mở mắt. Vừa trông thấy những chiếc răng lởm chởm của con sư tử, cô ta đã nhỏm dậy, lao vào góc phòng : "Lạy thánh Gabrien. Lạy thánh cứu con." Cô ta kêu lên líu lưỡi. Nghe tiếng kêu, con sư tử liền dừng lại. Nó nhìn theo người đàn bà da đen đang bò vào gầm tủ. Nhưng cô ta chỉ đút được mỗi cái đầu. Vì không biết dấu phần cơ thể còn lại vào đâu, cô ta chỉ kêu lên một tiếng rồi ngất đi tiếp.

Nhìn miếng mồi da đen, con sư tử lại càng tiếp tục phá lưới để dấn mình sâu thêm vào phòng. Cô gái da trắng lúc này đã tái xám mặt mày. Cô dựa người vào bàn cho khỏi ngã và nhìn xung quanh xem có chỗ nào có thể trốn được không. Chợt bàn tay cô chạm vào một vật gì đó cưng cứng trên mặt bàn. Hóa ra đó là khẩu súng ngắn. Hình như Clayton đã biết trước cô sẽ cần tới nó. Cô gái chộp lấy khẩu súng, chĩa thẳng vào con vật và siết cò. Mũi súng bùng một đám lửa đỏ. Tiếng nổ chát chúa vang lên trong căn phòng. Con sư tử kêu lên một tiếng đau đớn. Potorova vừa trông thấy con thú biến mất khỏi cửa sổ thì ngã vật ra đất vì quá kiệt sức.

Nhưng con sư tử không chết. Viên đạn chỉ sượt qua và làm nó bị thương nhẹ, và chỉ đủ làm cho nó giật mình. Sau vài phút, nó lại xuất hiện bên cửa sổ. Bằng một sức mạnh điên cuồng, nó lao đầu vào cửa sổ. Mặc dù bị đau nhưng nó hăng hái hơn hẳn khi thấy miếng mồi đã gần bên, những con mồi đã hoàn toàn bất lực không có ý định chống cự nữa. Potorova mở mắt khi con vật đã lọt được nửa mình vào phòng. "Thần chết đã hiện hình" Cô gái thầm nghĩ và tự nhiên hết sợ vì đã hoàn toàn tuyệt vọng. Cô cầm lấy khẩu súng, nhưng không phải để tấn công con thú mà chĩa thẳng vào thái dương mình. Cô muốn tự tử.

Cô liếc sang nhìn người hầu da đen của mình đang nằm ngất bên cạnh tủ. Cần phải làm gì với người hầu trung thành nầy đây. Potorova bò lại gần Exmeranda. Nhưng cô thấy con thú rít lên một tiếng. Hình như nó muốn lùi trở ra để lấy đà. Thế là mọi sự đã kết thúc. Cô run run bóp cò. Súng nổ. Nhưng thật lạ lùng. Cô lại thấy có một lực kéo nào đó từ phía ngoài lôi con sư tử trở ra.

° ° ° Khi tiếng súng nổ đầu tiên vang lên trong ngôi nhà gỗ, Tarzan và Clayton đã đi tới quãng rừng thưa. Cát biển lạo xạo dưới chân

Tiếng nổ làm Clayton giật mình. Đám thủy thủ giết nhau hay Potorova đang gặp nạn. Đang băn khoăn lo lắng, Clayton đã thấy mình rơi phịch xuống đất. Chàng trai người rừng đã hất Clayton khỏi vai, chạy vọt về phía ngôi nhà gỗ.

Clayton chạy theo Tarzan. Lúc này anh đã biết người rừng đưa mình tới đâu. Khi chạy tới ngôi nhà gỗ, Clayton chứng kiến một cảnh tượng mà lâu nay anh tưởng chỉ có trong những câu truyện cổ lãng mạn : một con sư tử rất to đang cố gắng chui qua cửa sổ vào nhà. Nhưng sau lưng nó, chàng trai người rừng đang dùng cả hai tay túm chặt lấy đuôi. Chàng chống cả hai chân vào tường nhà để lấy đà, dùng hết sức kéo con sư tử ra khỏi cửa sổ. Thấy thế, Clayton vội chạy lại giúp sức. Chàng trai người rừng kêu lên những tiếng rất lạ tai. Clayton đoán là Tarzan đang ra lệnh gì đó nhưng anh không hiểu nổi. Anh cứ túm lấy đuôi con vật. Tới khi hai tay anh chạm vào những sợi lông đuôi cứng của con sư tử, anh mới nhận ra rằng mình đang ở một tình huống hết sức nguy hiểm. Bởi nếu con sư tử bị kéo ra, nó sẽ trả thù ngay tức khắc. Nhưng sau đó, anh cảm thấy yên tâm vì thái độ dũng mãnh và sức khỏe của người rừng. Thế là anh cũng ra sức kéo.

Tarzan kêu lên mấy tiếng, nhưng càng nghe, Clayton càng bối rối, không hiểu gì cả. Thật ra Tarzan muốn nói với cái anh chàng da trắng ngốc nghếch đó rằng : hãy lấy một mũi tên thuốc độc ở sau lưng chàng mà đâm vào con ngực sư tử. Nhưng người da trắng đó làm sao hiểu nổi. Còn Tarzan cũng biết là anh chàng da trắng không hiểu gì, nhưng chính chàng cũng không dám buông tay. Chàng biết rằng nếu mình vòng tay ra sau lưng để rút mũi tên hoặc con dao thì anh chàng mặc áo sơ mi trắng này không giữ nổi đuôi con sư tử lấy một giây.

Bị kéo một lát, con sư tử từ từ tuột ra ngoài. Hai chân sau của nó chới với bên ngoài cửa sổ rồi chạm mạnh xuống đất. Khi hai chân trước và đầu con sư tử còn tì ở bậc cửa sổ, Tarzan liền buông tay khỏi đuôi nó, rút dao găm rồi nhanh chóng đâm phập vào ngực nó. Chàng để nguyên mũi dao, dùng cả hai tay vòng qua nách con thú rồi đan mười ngón tay vào nhau, ghì cổ con vật xuống. Con thú kêu rống lên, ngã ngửa ra đất. Thân thể nặng nề của nó đổ ầm xuống, che kín cả người Tarzan. Nó giãy tung mình lên, cố dùng vuốt sau để cào vào đối thủ. Nhưng nó càng giãy, Tarzan càng ghì chặt, bẻ gập đầu nó xuống. Được một lúc, những cú giãy giụa của con thú thưa dần. Máu từ ngực nó tràn qua cán dao, đẩy con dao ra ngoài. Đầu nó bị bẻ gập xuống lớp lông ngực ướt sũng máu. Nó lả dần, lả dần rồi giẫy chết.

Một lát sau, dưới ánh trăng mờ, chàng trai nước Anh lần đầu tiên được chứng kiến tận mắt cảnh sư tử giãy chết : những lớp cơ to phồng dưới làn da nổi cuồn cuộn từng đợt. Những đốt xương cổ của con sư tử đã bị Tarzan bẻ gãy.

Tarzan buông đầu con sư tử, giẫm chân lên cổ nó. Chàng trai siết chặt nắm đấm, vung tay thét lên. Thế là lần thứ hai trong ngày, Clayton được nghe tiếng thét chiến thắng của người rừng. Cùng ngay lúc đó, Clayton nghe thấy tiếng kêu sung sướng của Potorova : "Clayton, Clayton. Lạy Chúa tôi. Anh có sao không ?"

Clayton chạy tới cửa, kêu lên rằng mọi việc đã ổn thỏa, nhưng cần phải mở cửa ngay. Cô gái hấp tấp lay lay cây gỗ chẹn cửa. Hì hục một lúc, cô mới đón được Clayton vào nhà.

- Tiếng ai vừa thét thế ? - Cô gái vừa thở dốc vừa hỏi.

Clayton phẩy tay nói :

- Đừng sốt ruột, cô cứ yên tâm. Đó là người đã cứu chúng ta. Chờ một tý, tôi sẽ ra dẫn chàng ta vào.

Cô gái không dám đứng một mình trong nhà nên chạy theo Clayton ra ngoài. Nhưng ngoài chân tường gỗ chỉ có xác con sư tử nằm sóng xoài mà không có bóng người nào cả. Clayton cất tiếng gọi vài lần nhưng không có tiếng đáp lại. Chỉ có tiếng gió lướt trên cát. Tarzan đã biến mất. Clayton gọi thêm vài lần nữa rồi kéo cô gái vào nhà.

- Tiếng thét thật kinh khủng. - Cô gái nói - bây giờ người tôi vẫn còn run. Người ta không ai thét như thế cả.

- Có lẽ đúng thế - Clayton gật gù - Cô biết không. Có thể đó không phải là người mà là một thần rừng.

Sau khi chèn chặn cửa một cách cẩn thận, Clayton kể cho cô gái nghe về chuyến phiêu lưu của anh bên cái con người kỳ lạ đó. Anh mô tả người rừng đã cứu anh như thế nào. Anh hào hứng ca ngợi sức mạnh tuyệt vời và sự khéo léo nhanh nhẹn sự tận tụy giúp đỡ của người rừng và cả tiếng thét chiến thắng kỳ quái của người rừng.

- Tôi không dám chắc điều này - Clay ton dừng câu chuyện một lát rồi nói tiếp - Lúc đầu tôi nghĩ rằng đó chính là người đã viết mấy chữ ở cửa. Nhưng chàng trai người rừng này hoàn toàn không biết tiếng Anh. Không thể là chàng ta được.

- Dù sao đi chăng nữa - Cô gái ngắt lời Clayton - Dù sao đi nữa chúng ta cũng chịu ơn người ấy suốt đời.

Vừa lúc đó sau lưng hai người có tiếng kêu lạ tai. Clayton và cô gái giật mình quay lại. Cô hầu da đen đang ngồi dựa lưng vào tủ, đôi mắt mở to ngơ ngác. Cô ta không tin là mình vẫn còn sống.

Trông thấy người hầu của mình mở mắt, Potorova chắp tay vào ngực, kêu lên sung sướng. Vì run sợ khi thấy con sư tử lùi lại lấy đà, mũi súng của cô đã chệch ra khỏi thái dương mình. Viên đạn trượt ra ngoài, cắm một lỗ thủng trên nền nhà, ngay bên cổ cô hầu. Chỉ tới lúc này, nhớ lại hành động dại dột của mình, Potorova mới ngã nhoài ra ghế, bật khóc nức nở.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Rất đáng quan tâm


Cách căn nhà gỗ chừng vài dặm về phía Tây, trong một cánh rừng ven biển Châu Phi có hai ông già vừa đi dạo vừa nói chuyện. Xa xa trước mặt họ là những con sóng chập chùng của Đại Tây Dương. Sau lưng họ là những dải rừng già tăm tối của đại ngàn Châu Phi. Xung quanh họ rừng xanh rộn rã tiếng chim và tiếng bước chân các loài thú. Hai người tìm đường trở về ngôi nhà gỗ rất lâu, và cuối cùng thì hoàn toàn lạc hướng. Thoạt đầu hai người còn lúng túng sợ hãi, nhưng bây giờ vì quá nản lòng rồi, họ lại trở nên dửng dưng chẳng cần quan tâm đến điều đó nữa

- Thưa giáo sư quý mến của tôi - Same.T Philandơ nói - Tôi cho rằng không có chuyện chiến thắng của Phécđinăng và Isabenla trước những người More thế kỷ mười lăm. Nếu chúng ta lùi lại khoảng mười thế kỷ thì sẽ thấy những người More rất khiêm nhường. Đó chính là những người đã sáng tạo ra những nền văn minh.

- Nhưng đó lại là những quan niệm sai lầm, Philando ạ - Giáo sư Poto ngắt lời - Ông hãy nhớ rằng tôn giáo của người More đã loại trừ toàn bộ khả năng mà ông nói với tôi.

- Lạy chúa, Giáo sư ơi - Philandơ kêu lên - đằng kia có người nào đang đi

Giáo sư nhìn về hướng rừng mà người cộng sự cận thị của mình vừa chỉ.

- Hừ, Philandơ - Giáo sư tỏ vẻ bất bình - Tại sao ông không chịu tập trung tư tưởng vào vấn đề. Ông đừng cắt ngang giả thiết của tôi. Đó không phải là người. Đó chỉ là một con thú bốn chân thuộc họ động vật du cư mà thôi. Tôi nói là....

- Lạy Chúa tôi, giáo sư ơi ! Đó là một con sư tử ! Philandơ kêu lên thất thanh rồi giương cặp kính dày như hai cái đít chai ngó con sư tử đang hiện ra trước mắt mình.

- Đúng thế đấy - Giáo sư tiếp lời - Nhưng theo cách gọi dân gian thì đó là một con cọp. Tôi đang nói là.... ...

- Giê su ma, lạy Chúa tôi ! Chả lẽ chúng ta không tạm gác cái chuyện về người More lại được hay sao ?

Trong khi hai người đang nói chuyện con sư tử vẫn tiến về phía họ. Tới gần, nó ngoe nguẩy đuôi rồi tò mò nhìn hai ông già.

- Rất đáng phạt, đáng phạt ! - Vị giáo sư già nhìn con sư tử rồi mổ mổ ngón tay trỏ về phía nó - Làm sao một con cọp như thế này có thể sổng chuồng. Tôi phải báo ngay cho giám đốc sở thú ở đây.

- Đúng đấy thưa giáo sư. Càng làm sớm càng tốt.

Philandơ vừa nói vừa chộp lấy cánh tay giáo sư, lôi đi xềnh xệch buộc giáo sư phải sải chân chạy theo cho khỏi ngã. Chạy cách xa con sư tử một quãng, hai người đi chậm lại. Viên trợ lý quay lại nhìn con sư tử rồi nói :

- Hình như nó đi tìm chúng ta. - Ông thở dốc rồi lại kéo tay giáo sư chạy tiếp.

- Ôi Philanđơ ! Chạy kiểu này hoàn toàn không phù hợp một chút nào với những người có học.

Không thèm để ý đến lời phàn nàn của giáo sư, Philanđơ ngoảnh mặt lại nhìn. Thật kinh khủng! Con sư tử đã ở ngay sau lưng họ, chỉ cách dăm bảy bước. Ông ta liền buông giáo sư, cắm cổ chạy nhanh tới mức những vận động viên điền kinh cũng phải thèm thuồng.

- Tôi đã nói thế nào, Philando.... - Giáo sư kêu lên. Nhưng vừa nói xong ông đã trông thấy đôi mắt vàng nhợt và cái mõm của con sư tử ngay trước mặt. Thế là ông giáo sư cũng vắt chân cuống cuồng chạy theo viên trợ lý.

Trước mặt hai người là khoảng rừng nhô ra biển. Họ cứ thẳng hướng đó mà chạy. Họ không hề biết rằng trên tầng cây cao có một đôi mắt đang dõi theo họ. Đó là đôi mắt Tarzan. Tarzan nén cười, theo dõi trò chơi rượt bắt của con sư tử. Chàng biết rõ ràng là con sư tử cho phép con mồi của mình chạy trốn. Bởi vì bụng nó vẫn còn no. Tất nhiên sư tử no không có nghĩa là mọi việc đều ổn thỏa. Nếu như một trong hai người đang chạy mà vấp ngã, nhất định nó sẽ vồ. Vì vậy Tarzan phải chuyền qua các cành cây thấp bám sát hai người. Tới khi Philando chạy sát dưới chân mình, chàng liền cúi xuống, thò tay túm lấy cổ áo, kéo ông lên cành cây. Một lát sau, vị giáo sư lảo đảo chạy tới, chàng cũng kéo được ông ta lên, đúng lúc con sư tử chạy tới nơi. Nó rống lên, thất vọng vì bị mất mồi.

Hai ông già cùng ngồi trên một cành cây, mặt mũi nhăn nhó vì phải giữ thăng bằng cho khỏi ngã. Trong lúc đó, Tarzan bám chặt lấy thân cây phía trên đầu họ. Tò mò và thích thú, chàng cúi xuống ngắm hai người đàn ông da trắng.

Giáo sư là người lên tiếng trước :

- Ông làm tôi ngán quá đấy, Philando. Ông không đủ can đảm trước một loại động vật cấp thấp. Sự hoảng hốt của ông đã làm đứt mạch suy nghĩ của tôi trước một vấn đề đang lý thú. Tôi đã nói đến chỗ nào nhỉ ?

- Thưa giáo sư Poto! - Philando ngắt lời - Đã tới lúc mà lịch sự là một tội ác. Ngài cẩn thận đấy. Ngài đã buộc tội tôi là hèn nhát nên tôi phải tự quyết định mọi chuyện.

Vị giáo sư im lặng một lúc rồi lên tiếng :

- Nghe đây Sking Philando - Giáo sư nói bằng giọng mũi rất thách thức - Nếu cậu thích đánh nhau thì cởi áo khoác vứt xuống đất. Tớ sẽ đè bẹp cậu như dẫm một quả anh đào, chẳng khác gì sáu mươi năm trước ở kho thóc Poka Evan. Còn nhớ không ?

- Ồ Jack ơi - Philando thở dài kinh ngạc - Sao bỗng nhiên cậu lại nói thế ? Thế thì tớ rất yêu cậu, bởi vì cậu lại trở thành người rồi. Tớ chờ điều này đã hai mươi năm nay...

Giáo sư Poto đưa bàn tay nhăn nheo vỗ vào vai người bạn già của mình. Một vài phút trôi qua im lặng. Dưới gốc cây hai người ngồi, con sư tử vẫn thong thả đi qua đi lại, chờ đợi.

- Cậu kéo tớ lên rất đúng lúc - Giáo sư lên tiếng - Tớ phải cảm ơn cậu, Sking ạ, vì công lao cứu sống tớ.

- Nhưng tớ có kéo cậu lên đâu, Jack ! - Philando nói - Vừa rồi tớ quên nói với cậu là chính tớ cũng được một ai đó kéo lên cao. Trên cái cây này hẳn có một người nào đó nữa.

Tarzan thấy con sư tử dưới gốc cây chờ đợi đã quá lâu. Sốt ruột, chàng liền ngửa mặt lên trời, thét lên một tiếng. Tiếng thét làm hai ông già váng tai và run bắn lên. Nhưng ngay lập tức, họ cảm thấy yên tâm, vì sau tiếng thét, con sư tử đã giật mình bỏ chạy.

- Cả đến sư tử cũng phải sợ - Philando nói nhỏ

- Rất đáng quan tâm ! Rất đáng quan tâm đấy! - Giáo sư nén giọng nói và ôm chặt hơn người bạn của mình. Nhưng chỉ đáng buồn là chỉ vì cái ôm thân thiết ấy mà Philando bị mất thăng bằng, ngã nhào xuống đất. Tất nhiên là Philando cũng kéo theo cả giáo sư Poto.

Một vài giây im lặng trôi qua. Lúc này vị giáo sư cảm thấy đã có thể cử động được. Ông liền co tay, dang chân và kêu lên :

- Rất đáng quan tâm, rất đáng quan tâm. Ta vẫn còn lành lặn.

Ông đứng dậy, quay sang nhìn Philando lúc đó vẫn còn đang nằm im trên đám cỏ :

- Ngài Philando ơi. Bây giờ không phải là lúc nghỉ ngơi đâu. Chúng ta phải dậy để còn đi tiếp thôi.

Viên trợ lý cáu tiết đang định gắt lên thì giật mình, trợn tròn mắt nhìn lên. Ông nhìn thấy một thân hình kỳ quái xuất hiện ngay trước mặt mình. Vị giáo sư thì vẫn nằm dài và thong thả phủi bụi trên chiếc mũ phớt của mình. Nhìn thấy viên trợ lý giơ tay chỉ một cái gì đó, ông quay cổ lại nhìn. Ngay trước mặt ông là một chàng lực sĩ ăn mặc quá ít ỏi, hình thù quái dị :

- Xin chào ngài ! - Vị giáo sư đứng dậy, ngả mũ

Thay cho câu trả lời, chàng trai người rừng ú ớ gì đó rồi ra hiệu cho hai người đi theo chàng. Chàng ta rảo chân bước đi đúng cái hướng mà hai người vừa quay lưng lại

- Tôi nghĩ rằng chúng ta phải đi theo anh ta - Philando nói

- Ông Philando ! Cách đây mấy tiếng ông đã khẳng định là ngôi nhà gỗ nằm ở phía nam. Tôi rất nghi ngờ điều đó, nhưng ông đã chứng minh và thuyết phục được tôi. Tôi đã tin ông rồi thì bây giờ tôi cũng vẫn cứ đi về hướng nam.

- Nhưng thưa giáo sư, tôi nghĩ rằng người đàn ông này thông thuộc núi rừng hơn chúng ta. Hãy đi theo anh ta thôi.

Nhưng vị giáo sư vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình. Hai người bắt đầu cãi nhau. Nhưng cuộc cãi nhau của họ mở màn chưa được bao lâu thì đã bị phá ngang. Thấy hai ông già không chịu đi theo mình, Tarzan quay lại, tháo cuộn dây thòng lọng trên vai ra, buộc vào cổ viên trợ lý

- Thế nào ông Philando - Giáo sư hỏi mỉa mai nhưng giọng vẫn đầy tự ái - Chả lẽ ông lại phải chịu đựng một kiểu can thiệp bạo lực như thế này hay sao ? Xưa nay ông...

Nhưng giáo sư chưa nói hết câu thì đầu dây thòng lọng thứ hai cũng vòng qua cổ ông. Làm xong việc, Tarzan lẳng lặng dắt cổ hai người đi về phía bắc.

Ba người đi rất lâu. Hai ông già bị buộc cổ kéo đi nên khá mệt và hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra với mình. Nhưng cuối cùng thì hai ông cũng rạng rỡ mặt mày khi trông thấy ngôi nhà gỗ mà mình mong đợi đã hiện ra phía trước. Tarzan chỉ tay về phía ngôi nhà rồi tháo dây thòng lọng ra khỏi cổ hai người. Trong nháy mắt, chàng lại mất hút vào rừng xanh.

- Rất đáng quan tâm, đáng quan tâm lắm - Giáo sư gật gù- Bây giờ thì ít ra cũng thấy là tôi đã đoán đúng. Nếu như cứ đi theo cái đầu ương ngạnh của ông thì còn gặp khối chuyện sỉ nhục.

Nhưng Philando không thèm nghe giáo sư nói, ông đang vui vì chuyện lạc rừng cuối cùng đã kết thúc một cách may mắn. Ông ta chộp lấy tay giáo sư dắt chạy thẳng tới ngôi nhà.

Cả nhà sung sướng đón hai ông già trở về an toàn. Sau đó mọi người đều thức tới tận sáng, kể cho nhau nghe những chuyện khủng khiếp và may mắn của mình. Người nào cũng nói tới vị cứu tinh bí hiểm đang sống ở vùng bờ biển này. Người đàn bà da đen thì quả quyết rằng đó chính là thánh Gabrien hoặc một vị thần nào đó mà trời phái xuống.

- Nếu mà cô trông thấy - Clayton phì cười - trông thấy chàng ta lúc đang nhai thịt sống thì cô sẽ không quả quyết thế đâu

- Tiếng thét của anh ta cũng không có vẻ tiếng thiên thần - Potorova nói chen vào. Cô nhớ lại cái âm thanh vừa chói tai vừa man rợ mà Tarzan đã phát ra từ cổ họng sau khi giết chết con sư tử.

- Tôi bác bỏ giả thiết về thần thánh. - vị giáo sư gật gù nói - cái anh chàng tốt bụng đó đã buộc cổ chúng tôi là những người có học thức học vị đáng kính trọng mà dắt đi trong rừng như dắt hai con bò đực.

Vì lúc này trời đã hửng sáng, cả nhóm người quyết định nghỉ lại trong căn nhà gỗ. Trước tiên họ phải thu dọn những vết tích của tấn thảm kịch ngày xưa trong nhà. Hai nhà khoa học quan sát các bộ xương rất kỹ lưỡng. Họ đều thống nhất với nhau rằng : hai bộ xương lớn một là của đàn ông, một là của đàn bà, đều thuộc giống da trắng. Hai ông không quan tâm nhiều tới bộ xương nhỏ. Bởi vì nó nằm trong nôi, nên chắc chắn phải là đứa con của hai vợ chồng

Nhưng riêng Clayton thì rất quan tâm đến chiếc nhẫn của bộ xương đàn ông. Chiếc nhẫn vẫn nằm nguyên trên đốt xương ngón tay. Clayton cầm lên lau chùi rất kỹ. Chợt anh kêu lên kinh ngạc. Anh không còn tin vào mắt mình nữa. Rõ ràng đây là chiếc nhẫn của dòng họ quý tộc Clayton.

Cùng trong lúc đó, Potorova lại nhìn thấy một vài cuốn sách trong tủ. Khi mở một cuốn, cô thấy trong cuốn sách có ghi tên chủ sở hữu là John Clayton ở London. Ở cuốn thứ hai mà cô xem lướt qua thì chỉ có một tên đề là Clayton.

- Anh Clayton - Cô gái kêu lên - Thế này là thế nào. Các cuốn sách toàn ghi họ của anh kìa...

- Còn đây nữa - Clayton trả lời, giọng đầy vẻ nghiêm trọng - Đây là chiếc nhẫn của ông chú tôi, huân tước Graystau. Chú tôi bị chết đuối trên biển, trong một chuyến công du sang châu Phi. Lâu nay chúng tôi vẫn đoán như thế.

- Nhưng còn những vật này - Cô gái thở dài hỏi - chúng lại nằm ở đây giữa rừng già châu Phi.

- Vậy thì chỉ còn một cách giải thích là - Clayton thở dài - Huân tước Grayxtau không chết đuối. Ông đã được cứu chữa ở đây trong ngôi nhà gỗ này. Và rồi cũng chết ở đây

- Còn bộ xương này - Cô gái chỉ vào bộ xương trên giường, nói thầm thì - là thuộc về nữ huân tước

- Đúng thế - Clayton trả lời - Tội nghiệp tiểu thư Alice.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Chiếc hòm bí mật


Clâytơn rất ngạc nhiên khi xác định chắc chắn rằng người chú ruột của mình đã sống và chết trong ngôi nhà gỗ này. Cả năm người đứng rất lâu trước hài cốt của hai vợ chồng Clâytơn. Họ không biết hai vợ chồng bất hạnh đó vì sao mà chết. Họ cũng không khỏi lo lắng cho chính bản thân mình. Biết đâu rồi một số phận bi thảm tương tự như vậy cũng sẽ đến với họ trong ngôi nhà gỗ?

Trong ngày hôm đó, cả hai bộ hài cốt đều được mai táng ngay bên cạnh ngôi nhà. Tất nhiên họ cũng đem chôn luôn bộ xương trẻ con trong nôi. Nhưng khi Philanđơ đặt bộ xương "đứa trẻ" vào mảnh buồm cũ, ông nhìn rất kỹ xương hộp sọ. Ông gọi giáo sư Potơ đến và hai người thầm thì vào tai nhau khá lâu.

- Đúng như thế, rất đáng quan tâm! - Giáo sư gật gù.

- Ngài nói sao? - Philanđơ hỏi - Chúng ta có cần thông báo chuyện này cho Clâytơn biết không?

- Không cần đâu! Vô nghĩa thôi! - Vị giáo sư lắc đầu phản đối - Hãy để người chết yên nghỉ.

Một lát sau, đứng trước ngôi mộ mới đắp, vị giáo sư già thay mặt mọi người nói mấy lời tưởng niệm. và mọi người đều cúi đầu mặc niệm.

Từ trên cành cây cao, Tarzan ngồi quan sát đám tang dưới đất. Tarzan rất thắc mắc, không hiểu vì sao người ta lại mất công đào một cái hố sâu mà chỉ để lấp mấy bộ xương khô. Họ thật nực cười, ngốc nghếch và nhút nhát! Cả đến Manu, con vượn còi cọc nhất trong bộ lạc của chàng trước kia cũng còn khôn ngoan hơn họ! Nhưng chàng nghĩ, đằng nào thì họ cũng là đồng loại với chàng, vì vậy chàng phải giúp đỡ họ, bảo vệ họ.

Tarzan cũng không quên nhóm người thứ nhất, nhóm người mà chàng căm ghét vì những việc làm tàn bạo và lén lút của họ. Có thể họ đã rời bờ biển, đi thuyền buồm đến một nơi nào đó. Tarzan quyết định đi tới vùng vịnh bán đảo. Biết đâu cái con thuyền bồng bềnh chở đám người man rợ đó vẫn còn ở vịnh.

Đúng như Tarzan dự đoán, chiếc thuyền buồm Ơ-râu đang chạy ở vùng vịnh. Trên khoang thuyền có khoảng hai chục người. Họ đang tất tả chạy qua chạy lại, điều khiển dây buồm. Tácdăng chú ý quan sát đám thủy thủ căng những cánh buồm no gió. Ngay lúc đó có một cột khói nhỏ bay lên trên biển phía bắc. Lần đầu tiên trong đời Tácdăng trông thấy cột khói. Tuy vậy chàng không nhìn lâu. Cái hấp dẫn chàng lúc này vẫn là chiếc thuyền buồm.

Chỉ một lát sau, người quan sát trên cột buồm Ơ-râu cũng nhìn thấy cột khói bốc lên. Ngay lập tức, tất cả những lá buồm trên thuyền đều được hạ xuống. Chiếc thuyền vội vã quay trở lại đất liền. Tới bờ, một người đàn ông đứng trên mũi thuyền quẳng một cuộn dây xuống biển, làm cho con thuyền bị giằng lại bởi một vật gì dưới đáy nước.

Con thuyền đã được thả neo. Trên thuyền bắt đầu nhộn nhịp. Một chiếc thuyền con được thả xuống nước. Người ta vội vã thả xuống lòng chiếc thuyền con một cái hòm rất to. Sau đó có khoảng chục thuỷ thủ ngồi vào chèo đi. Chiếc thuyền vùn vụt hướng thẳng tới chỗ Tácdăng đang nấp. Khi chiếc thuyền tiến sát vào bờ, đám người khênh chiếc hòm lên bờ cát. Lúc này họ đã ở phía bắc của bán đảo. Vì vậy từ ngôi nhà gỗ của Tácdăng không ai có thể trông thấy họ.

Đám người khênh hòm cãi nhau một lúc rồi tuân theo lệnh của tên thủy thủ mặt chuột. Hắn giơ tay chỉ đúng gốc cây mà Tácdăng đang nấp trên cành.

- Đây là chỗ tốt hơn tất cả. - Tên mặt chuột nói.

- Chỗ nào cũng tốt cả, - một gã thuỷ thủ lắc đầu đáp lại - Cái chính là đất liền. Tao không muốn để người ta tóm được với cái hòm này. Chuyện ấy có thể xảy ra nếu không may có con thuyền nào đó ghé vào đây.

Từ chiếc thuyền con lại có mấy người nữa cầm cuốc xẻng đi tới.

- Nhanh lên nào, lũ ngu! - Humpơ mặt chuột quát lên.

- Câm mồm đi! - Một thủy thủ cáu kỉnh chửi lại - Thứ mày mà cũng đòi làm đô đốc. Mày chỉ là con chuột dũi thôi.

- Tao là thuyền trưởng. Tao sẽ dạy cho từng đứa chúng mày hiểu thế nào là lễ độ - Humpơ rít lên, chửi rủa cả đám thủy thủ.

- Thôi đi, các chàng trai! - Một thủy thủ từ nãy đến giờ im lặng đã lên tiếng hòa giải - Chửi bới nhau mãi thế này cũng chả ích gì.

- Đào chỗ này! - Humpơ quát lên, chỉ tay xuống một đám đất phía dưới chỗ Tác dăng đang nấp. - Còn thằng Pie thì nhớ vẽ lại sơ đồ để sau này ta quay lại tìm cho dễ. Bốn đứa mau đi khênh hòm lại đây.

- Thế còn mày thì làm gì? - một thủy thủ vừa cãi nhau ban nãy hất hàm hỏi - Làm ông chủ chắc?

- Câm mõm đi! - Humpơ đỏ bừng mặt - Chả lẽ mày ngu đến mức cho là thuyền trưởng cũng đi thò tay vào cán xẻng hay sao?

Cả đám thủy thủ tức tối nhìn Humpơ, nhưng không nói gì. Chẳng một ai ưa gã, nhất là từ khi gã giết Kingô - người tổ chức cuộc nổi loạn trên thuyền.

- Thế có nghĩa là mày muốn nói rằng mày không phải làm gì cả?

- Không! Thậm chí tao không hề nghĩ tới, - Humpơ dằn giọng trả lời rồi thò tay sờ khẩu súng ngắn bên hông.

- Vậy thì vĩnh biệt! - Một thủy thủ tên là Taran vừa nói vừa vung cuốc chim lên - không thích sờ cán xẻng thì cho mày cái mũi cuốc chim.

Mũi cuốc chim bổ xuống trúng đầu Humpơ. Tất cả im lặng đứng nhìn nạn nhân quằn quại trong vũng máu. Cuối cùng, một người tặc lưỡi nói:

- Thế cũng được. Nó đúng là một con chuột!

Một người trong bọn bắt đầu xắn lưỡi xẻng xuống đất. Tất cả vứt cuốc chim sang bên cạnh, dùng xẻng đào vì đất rất mềm. Cả đám mải miết đào, không ai đả động gì tới cái xác. Hình như từ lúc gã mặt chuột bị giết, đám thủy thủ làm việc có vẻ hào hứng hơn. Khi đã đào được một cái hố khá rộng, Taran lại nảy ra sáng kiến là cần đào hố cho sâu hơn để chôn luôn cái xác.

- Thằng nào đi tìm, đào xuống gặp cái xác thì chán nản, bỏ ngay thôi. - Taran nói, có ý giải thích thêm cho mọi người hiểu sáng kiến của mình.

Tất cả lại vui vẻ tiếp tục công việc. Họ khoét một chiếc hố hẹp hơn, sâu hơn để bỏ chiếc hòm gỗ đã được bọc vải buồm xuống đó. Sau khi lấp kín chiếc hòm, họ đặt cái xác Hum pơ lên trên. Trước khi lấp đất, họ không quên lấy lại cây súng ngắn ở lưng tử thi. Lấp xong, họ trồng thêm mấy bụi cây khô. Đứng xa trông tới thì rất khó phát hiện ra lớp đất mới đào.

Sau khi xóa hết vết tích hố chôn, đám thủy thủ hối hả xuống thuyền con rồi chèo ra chiếc thuyền lớn. Gió mỗi lúc một mạnh. Luồng khói ở con tàu phía xa bốc lên rất rõ. Vì vậy những người nổi loạn không dám chần chừ. Họ vội vã nhổ neo, căng buồm tiến về hướng tây nam.

Ngồi trên cây, Tácdăng chứng kiến toàn bộ việc làm của đám thủy thủ. Chàng ngồi thừ người, suy nghĩ rất lâu về những chuyện vừa xảy ra dưới chân mình. Đám người này quả thật còn ác hơn thú dữ. Trước khi họ đến, rừng xanh này thanh bình, yên tĩnh biết bao! Và khi ấy, lòng chàng cũng yên tĩnh biết bao!

Tácdăng tò mò không hiểu có gì trong chiếc thùng gỗ. Tại sao họ lại phải chôn xuống đất? Nếu như người ta không cần tới chiếc thùng thì có thể vứt xuống biển, như thế tiện hơn nhiều. Vậy thì điều này chứng tỏ là tới một ngày nào đó họ sẽ lại cần chiếc thùng. Họ chôn ở đây có nghĩa là sau này họ sẽ còn quay lại lấy.

Tácdăng nhảy xuống chỗ đất dấu. Trông thấy một chiếc xẻng bị bỏ lại, chàng cầm lên, bắt chước đám thủy thủ, thử đào xuống đất. Thật không đơn giản chút nào! Chàng sử dụng chiếc xẻng rất lóng ngóng. Nhưng chỉ kiên nhẫn một chút, chàng đã nhận ra công dụng tuyệt vời của nó. Chàng đào một lúc, cái xác người đã lộ ra. Tác dăng kéo cái xác sang một bên rồi tiếp tục đào. Chàng moi chiếc hòm lên, đặt cái xác vào hố rồi lấp đất lại như cũ.

Chiếc hòm cần tới bốn thủy thủ khiêng bốn góc, nhưng đối với Tácdăng, nó có vẻ nhẹ nhàng như chiếc hòm rỗng. Chàng buộc chiếc xẻng vào hòm, nâng cả hòm lẫn xẻng lên vai rồi thong thả đi vào rừng.

Tất nhiên chàng không thể đi trên cành cây mà phải đi len lỏi theo những lối mòn. Đi mất mấy tiếng đồng hồ về hướng đông, chàng tới một khu rừng rậm tưởng chừng không ai có thể qua lọt. Lá rừng cùng những đám dây leo ken đặc vào nhau như thành lũy. Chàng phải leo lên những cành cây thấp mới qua được. Mười lăm phút sau chàng đã tới "quảng trường" của bộ lạc, nơi hay diễn ra lễ hội Đum-đum.

Chàng đặt chiếc hòm giữa bãi đất trống, gần trống Đum-đum và bắt đầu mở hòm. Công việc này hóa ra nặng nhọc hơn nhiều so với việc moi chiếc hòm lên khỏi hố. Nhưng Tácdăng là một người rất kiên nhẫn. Chàng xoay sở rất lâu, cố gắng làm mọi cách cho chiếc hòm phải há ra.

Tại sao Tácdăng lại làm như vậy? Vì Tácdăng là một con người, có khả năng tư duy như một con người, nhưng vì lớn lên trong đàn vượn, Tácdăng nhiễm những thói quen của vượn. Lý trí con người thì mách bảo cho chàng rằng: trong hòm có gì đó khá hấp dẫn, nếu không đám thủy thủ không nhọc công đến thế. Còn thói quen mang tính bản năng của loài khỉ thì thôi thúc chàng cần phải bắt chước những gì bất thường của kẻ khác. Xét cho cùng thì tính tò mò - cái đặc tính chung của cả loài người lẫn loài khỉ đã thôi thúc chàng phải mở hòm để khám phá những gì có bên trong. Nhưng ổ khóa lớn và những thanh sắt nẹp to bản của chiếc thùng đã chống lại sức lực cùng trí khôn có hạn của chàng. Chàng buộc phải chôn chiếc hòm đi cho khuất mắt. Chàng không muốn nó trêu tức trí tò mò của mình.

Trời đã tối. Loài thú ăn đêm đã rậm rịch rời chỗ ngủ chuẩn bị lên đường kiếm ăn. Tácdăng cũng quay trở lại ngôi nhà gỗ quen thuộc của mình.

° ° °

Từ ngôi nhà gỗ có ánh sáng hắt ra. Clâytơn đã tìm thấy chiếc đèn cũ của hai vợ chồng bất hạnh ngày xưa. Trông thấy ánh sáng, Tácdăng giật mình. Từ trước tới nay, ngoài ngọn lửa mà chàng trông thấy trong làng người da đen, chàng chưa trông thấy một thứ lửa nào khác. Trong các cuốn sách, người ta cũng có vẽ các vật cháy nhưng dù tưởng tượng đến các ngọn lửa trong sách thế nào đi nữa chàng cũng không nghĩ rằng một vật nhỏ trong phòng như vậy mà vẫn có thể cháy rất lâu. Không những thế, nó còn tỏa ánh sáng ra khắp mọi đồ vật trong nhà và chui qua kẽ cửa, lọt tới chỗ chàng đang đứng.

Tácdăng rón rén tiến lại gần cửa sổ, nhìn vào. Lòng nhà được chia thành hai phần. Ở phần ngoài, ba người đàn ông đang ngồi. Hai ông già không ngớt trò chuyện. Người đàn ông trẻ, mặc sơ mi trắng thì đang chúi đầu xuống những cuốn sách của Tácdăng. Chàng rón chân bước sang chiếc cửa sổ thứ hai. Ở một góc phòng, người đàn bà da đen đang ngồi ngủ gật trong đống cỏ khô. Ngay cạnh cửa sổ, cô gái da trắng ngồi bên bàn và đang viết một cái gì đó. Tácdăng ngắm cô gái rất lâu. Tự nhiên chàng cảm thấy rất thích nói chuyện với cô gái. Nhưng chàng lại cảm thấy không đủ can đảm. Hơn nữa, chàng biết rằng, cũng giống như người đàn ông mặc sơ mi trắng, cô gái rồi cũng chẳng hiểu chàng nói gì. Nếu chàng lên tiếng gọi, chắc chắn cô gái sẽ giật mình hoảng sợ.

Một lát sau, cô gái đứng dậy, nhưng lại để nguyên tờ giấy đang viết trên bàn. Cô bốc một ôm cỏ khô, làm thành một cái đệm rồi tắt đèn. Ngôi nhà lập tức chìm trong bóng tối. Tácdăng đứng một lúc nữa. Chàng chờ cho tới khi trong phòng vang lên tiếng thở đều đặn rồi mới thận trọng thò tay qua mắt lưới cửa sổ. Chàng sờ soạng mặt bàn và tóm được lá thư mà Potơrova vừa viết.

Lấy được lá thư ra ngoài, Tácdăng cuộn nó lại thật bé rồi đút vào ống đựng tên. Như một cái bóng, chàng lại biến vào rừng.

Sáng hôm sau, vừa thức dậy Tácdăng đã nhớ tới lá thư trong ống tên. Chàng lấy lá thư ra, nóng lòng muốn biết cô gái viết cái gì chiều tối hôm qua. Nhưng khi nhìn vào tờ giấy, chàng rất buồn. Chữ trong thư là một thứ chữ mà chàng chưa bao giờ trông thấy. Chữ viết không rõ ràng và dễ xem như các cuốn sách của chàng. Những nét chữ li ti như những con kiến, thỉnh thoảng cũng có những chữ lăp lại nguyên xi như dòng trước. Đã thế chúng lại to bé không đồng đều nhau và ngả về cùng một hướng, không giống những dòng chữ thẳng đứng, vững chãi trong sách học vần. Tácdăng nhìn lá thư rất lâu. Thỉnh thoảng chàng cũng tìm được những chữ y hệt trong sách của mình. Nhưng cho tới tận chiều tối, chàng chỉ hiểu được vài chữ lẻ tẻ trong lá thư.

Thế là gần một ngày đã trôi qua. Tácdăng vẫn ngồi cắn môi trước lá thư của cô gái. Đột nhiên chàng nhớ lại những chỗ mà chàng đã viết vào giấy gắn trên cửa. Chàng băn khoăn không biết người ta có hiểu ý chàng muốn viết trên tờ giấy đó không. Nếu không biết thì bây giờ chàng phải cho họ biết rằng chàng chính là người đã viết những dòng chữ đó. Nghĩ như vậy, chàng bèn chạy vội đến chiếc tổ của mình trên cây. Thực ra đó chỉ là một mái che làm bằng lá cọ khô. Chàng thường lên đó ngủ trong những ngày mưa gió và cất giấu ở đó những đồ vật quý của chàng. Trong những thứ quý giá của chàng có mấy chiếc bút lấy từ ngôi nhà gỗ.

Tácdăng cầm xuống một chiếc bút. Chàng muốn viết dưới tên cô gái cái tên của mình. Chàng muốn viết rằng: "TÁCDĂNG của bộ lạc vượn". Nhưng phiền một nỗi là chưa bao giờ chàng trông thấy chữ "Tácdăng" trong sách. Chàng cũng không viết nổi tên mình. Chàng chỉ có thể biết phát âm các từ và viết ra thành chữ khi nào chàng nghe người ta nói chuyện nhiều và nói thật nhiều với người khác. Chính vì vậy, chàng ngồi băn khoăn rất lâu trước lá thư. Cuối cùng chàng thể hiện cái tên của mình không phải bằng chữ mà bằng hình vẽ như trước. Dưới tên cô gái, chàng vẽ hình một người đàn ông đeo cung tên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Lá thư


Lá thư của Potorova mà Tác dăng lấy trộm về có nội dung khá lý thú. Nó giải thích cho chúng ta rõ vì sao chuyến đi biển của cô lại dừng lại tận đây - một vùng rừng hoang dã. Tác dăng không hiểu lá thư nhưng chúng ta có thể đọc được 1 cách dễ dàng:

"Bờ biển Tây Phi, khoảng vĩ tuyến 10

Ngày 3 tháng 2 năm 1909

Bạn Hazel yêu quý của tôi!

Tôi sẽ rất sung sướng nếu như bức thư mà tôi đang viết cho bạn đây bạn sẽ không phải đọc nó. Tôi hy vọng rằng sẽ gặp bạn, kể lại cho bạn mọi chuyện trong thư. Nhưng tốt nhất là tôi cứ viết, viết để thông báo cho một người nào đó, có thể không phải là bạn, biết về những điều khủng khiếp mà chúng tôi đã phải trải qua từ ngày từ giã châu Âu, lênh đênh trên con thuyền Ơrau bất hạnh. Nếu như chúng tôi không bảo giờ trở lại được lục địa văn minh (điều này rất dễ xảy ra) thì tờ giấy này sẽ là một bằng chứng về sự tồn tại của chúng tôi, về những chuyện khủng khiếp đã đổ vào đầu chúng tôi.

Như bạn biết trước khi chúng tôi lên đường, nhiệm vụ của chúng tôi là tiến hành một chuyến nghiên cứu khoa học ở Công gô. Cha tôi nói rằng ông có những bằng chứng về một nền văn minh cổ mà những di tích của nó còn lưu lại dưới những tầng đất nào đó ven bờ sông Công gô. Nhưng khi chúng tôi ra biển thì mục đích của chuyến đi lại hoàn toàn khác. Cha tôi nói dối đó thôi.

Một người sưu tầm đồ gỗ và buôn sách ở Bantimo đã tìm thấy trong một cuốn sách có một lá thư rất cổ, viết năm 1550. Lá thư miêu tả một chuyến phiêu lưu của đội thủy thủ nổi loạn trên con thuyền Tây Ban Nha rời bờ biển Nam Phi, ra khơi với một khoang hàng hóa đặc sản và báu vật. Tác giả của lá thư đó là người trong đội thủy thủ nổi loạn. Lá thư viết cho con trai của ông ta, lúc bấy giờ đang làm chủ một con thuyền buôn. Toàn bộ câu chuyện trong thư đầy mùi cướp biển bi tráng. Người viết thư đã kể lại tường tận chuyện thủy thủ nổi loạn ra sao, giết các sĩ quan và những thủy thủ không đồng tình như thế nào. Nhưng chính vì sự chém giết hàng loạt đó mà đám thủy thủ nổi loạn đã nhanh chóng đi tới thất bại. Bởi vì trong số những người còn sống không có một ai biết chỉ huy con thuyền.

Suốt hai tháng liền con thuyền trở thành trò chơi cuả sóng biển. Cuối cùng tất cả đều bị ốm. Bệnh suy dinh dưỡng, bệnh tâm thần, những cơn khát nước đã tiêu diệt gần hết đám thủy thủ trên một hòn đảo. Con thuyền bị bão giật ra khỏi mép đảo và bị đánh tan tành. Tuy vậy vẫn còn sống sót mười người. Họ giữ được tính mạng của mình và giữ được cả một thùng báu vật.

Họ giấu chiếc thùng trên đảo. Họ sống ở đảo ba năm liền với hy vọng có người đến cứu. Nhưng lần lượt từng người đều ốm và chết cho tới người cuối cùng - người đã viết lá thư cho con trai mình.

Cái anh chàng Robinson này đã không chịu đựng nổi nỗi cô đơn. Ông ta lấy những mảnh thuyền vỡ đóng một chiếc thuyền con. Mặc dù không biết hòn đảo nhỏ mà mình đang sống nằm ở vị trí nào trên trái đất, ông ta vẫn lên thuyền chèo ra biển. Ông ta thích đi tìm cái chết trên biển khơi hơn là ngồi phát điên và chờ chết trên cái hòn đảo hoang dã mà ông đã chịu đựng hơn một năm trời.

Ông ta đi về hướng bắc. Và một sự tình cờ may mắn đã đến với ông ta. Sau gần một tuần lễ ông ta đã đi tới đường hàng hải của các thuyền buồm Tây Ban Nha, dọc tuyến Tây Ban Nha - Ấn Độ. Người ta đưa ông ta lên khoang thuyền của con thuyền đang trở về Tây Ban Nha. Ông kể cho mọi người trên thuyền nghe chuyện con thuyền bị bão đánh tan, nhưng chuyện vụ nổi loạn, chuyện cất giấu thùng báu vật thì ông không hề hé một lời.

Viên thuyền trưởng đảm bảo với ông rằng, căn cứ vào hải đồ và vị trí mà ông đượt vớt lên thì con thuyền đó bị đánh vỡ ở quần đảo Cáp Ve, nằm ở khoảng 16 tới 17 độ vĩ bắc.

Đó là tất cả những gì mà tác giả lá thư - người sống sót trên thuyền kể lại cho con trai của mình. Lúc này ông ta đã trở thành một công dân đáng kính của một thành phố nào đó ở Tây Ban Nha. Nhưng ông ta lại không thể nào quên được kho vàng trên đảo. Lá thư còn mô tả tỉ mỉ chỗ cất dấu thùng vàng, sơ đồ đường đi và vị trí chôn dấu được đánh chữ thập.

Không rõ vì sao lá thư lại nằm trong cuốn sách. Cũng có thể là lá thư đó đã không đến tay người nhận. Thế là cha tôi bỏ ra một nghìn đô la và đã có lá thư trong tay.

Trên biển, khi biết được toàn bộ câu chuyện, tôi nghĩ rằng cha tôi đã bị chủ hiệu sách đánh lừa. Và tôi đã phát khùng lên khi biết rằng để tổ chức chuyến đi biển tìm thùng vàng này, cha tôi đã vay mười ngàn đô la của Rôbơt Calơ. Chắc bạn hiểu được chuyện gì sẽ xảy ra nếu như cha tôi không trả nổi cho Calơ số tiền đó. Ông Philanđơ và ông Clây tơn, người Luân Đôn cũng tham gia vào nhóm hai cha con tôi chỉ vì khát vọng phiêu lưu. Khi biết, hai người cũng nghi ngờ kết quả chuyến vượt biển chẳng khác gì tôi. Tôi xin kể ngắn hơn. Chúng tôi đã tìm thấy hòn đảo và cả thùng báu vật. Đó là một cái thùng làm bằng gỗ sồi, rất to, có nẹp sắt dày. Thùng được bọc thêm bằng vải buồm tẩm dầu, vì vậy nó còn rất chắc, mặc dù nó nằm trong đất ẩm đã 300 năm. Thùng chứa đầy tiền vàng, nặng tới mức bốn người khiêng mới nổi.

Nhưng chiếc thùng vàng đáng nguyền rủa đó chỉ mang đến rủi ro và cái chết cho những ai có nó. Khi chúng tôi rời quần đảo Capve được ba hôm thì thủy thủ của chúng tôi nổi loạn. Họ giết hết các sĩ quan. Thật là một chuyện khủng khiếp mà trong đời tôi chưa bao giờ trông thấy! Tôi không thể tả lại chuyện đó. Những người nổi loạn cũng muốn giết chúng tôi. Nhưng người cầm đầu, tên là Sking không cho phép họ làm điều đó. Và thế là chúng tôi bị đưa đi dọc bờ biển rồi bị đẩy xuống một dải rừng già.

Sau đó đám người nổi loạn ra đi cùng thùng tiền vàng. Nhưng ông Clâytơn thì nói rằng họ sẽ bất hạnh, mọi chuyện rồi sẽ xảy ra như với đám thủy thủ của con thuyền ngày xưa. Bởi vì Sking, người duy nhất còn lại biết chỉ huy con thuyền, sau khi cập bến đã bị giết.

Sau khi lên đất liền chúng tôi đã gặp bao chuyện khủng khiếp. Cha tôi và ông Philanđơ bị lạc trong rừng và bị sư tử săn đuổi. Ông Clâytơn cũng bị lạc sâu trong rừng và bị thú dữ vồ hụt hai lần. Exme và tôi nằm trong ngôi nhà nhỏ thì suýt bị sư tử phá cửa vào xé xác. Mọi chuyện thật khủng khiếp!

Nhưng một chuyện kì lạ nhất trong những chuyện chúng tôi gặp là có một nhân vật thần kỳ đã cứu sống chúng tôi. Tôi chưa nhìn thấy ông ta, nhưng Clâytơn, cha tôi và Philanđơ thì đã gặp. Họ đều nói rằng đó là một người đàn ông da trắng, có sức mạnh của voi, sự khéo léo của khỉ và lòng dũng cảm của loài sư tử. Người đó thường làm một việc gì đó giúp chúng tôi rồi lập tức biến mất như ma quỷ hoặc thần linh. Nhưng cho tới nay chúng tôi biết rằng người đó lại không biết tiếng Anh.

Ngoài ra chúng tôi còn có một người láng giềng bí ẩn sống ở bìa rừng già này nữa. Người đó viết cho chúng tôi mấy chữ trên một tờ giấy cũ, bằng tiếng Anh rồi găm vào cánh cửa ngôi nhà chúng tôi đang ở. Người đó cảnh cáo chúng tôi để chúng tôi không phá hủy tài sản trong nhà. Chúng tôi chưa trông thấy ai, nhưng chắc là người dó đang quanh quẩn đâu đây. Có thể người đó chính là người tàng hình, từ rừng sâu đã phóng mũi giáo vào gã thủy thủ đang định mưu sát Clâytơn.

Bọn thủy thủ chỉ để lại cho chúng tôi vẻn vẹn vài cân thức ăn. Chúng tôi chỉ có một khẩu súng ngắn và ba viên đạn, vì vậy rất lúng túng, không biết làm gì xoay xở cho ra miếng ăn. Ông Philanđơ thì quả quyết rằng ông có thể kiếm đủ cho chúng tôi hoa quả trong rừng.

Bạn gái thân mến của tôi! Tôi mệt lắm rồi, phải đi nằm. Có thể tôi sẽ viết tiếp.

Gian Potơrova của bạn.

° ° °

Sáng hôm sau, thức dậy, Potorova không thấy lá thư của mình đâu cả. Cô hết sức kinh ngạc. Nhưng cô lại càng kinh ngạc hơn nữa khi buổi sáng hôm sau nữa lại trông thấy lá thư xuất hiện trên mặt bàn. Điều lạ nhất là phía dưới lá thư bây giờ lại có hình vẽ người bắn cung. Cô cầm lá thư quan sát thật kỹ và hết sức lo sợ. Cô lập tức đưa lá thư cho Clâytơn xem.

- Anh thử tưởng tượng xem! Cô gái nói - Cái nhân vật bí ẩn đó đã giữ bức thư của tôi suốt một ngày. Có thể là người đó đã đứng ngoài bóng tối nhìn tôi, trong khi tôi viết. Cứ tưởng tượng tới cảnh đó là tôi lạnh hết cả xương sống.

- Theo tôi, người đàn ông đó là bạn bè của chúng ta thôi - Clâytơn bình luận - Đằng nào thì người đó cũng trả lại bức thư mà không hề quấy rầy chúng ta. Tôi đoán rằng đó cũng chính là người đã bộc lộ thiện chí với chúng ta sáng sớm hôm nay. Cô ra mà xem! Sáng hôm nay có ai đó đã đặt trước cửa nhà chúng ta một con lợn rừng săn được.

Sau khi trả lại bức thư, ngày nào Tácdăng cũng đặt trước nhà gỗ một con thú. Hôm thì là một con nai nhỏ, hôm thì là một con lợn lòi hoặc một con báo. Có hôm chàng đặt ở đó mấy chiếc bánh ngô lấy được trong làng người da đen của Bonga. Tácdăng thích chăm sóc những người da trắng giống như một ông chủ mến khách. Nhưng chàng làm điều đó cũng còn vì một lí do khác nữa: chàng muốn trở lại căn nhà của mình để xem lại những cuốn sách. Nhưng chàng biết rằng chàng không thể vội vàng được.

Những người da trắng trong nhà gỗ mỗi ngày càng đỡ sợ sệt. Họ đã lấy lại được lòng can đảm và yên tâm với số phận hẩm hiu của mình. Thỉnh thoảng họ cũng đã đi sâu vào rừng.

Khoảng một tháng sau Tácdăng quyết định thăm ngôi nhà của mình vào ban ngày.

Lúc đó vào quãng giữa trưa. Clâytơn đã đi ra bờ biển chờ những con tàu ngẫu nhiên đi qua. Ở những mỏm đá cao nhô ra ngoài bờ biển, anh đều xếp những đống củi khô. Thỉnh thoảng anh lại nổi lửa làm hiệu. Nếu ở ngoài biển xa, ban ngày người ta có thể trông thấy khói, ban đêm có thể trông thấy ngọn lửa. Buổi trưa hôm nay giáo sư Potơ đi ra bờ biển dạo mát. Philanđơ dù không thích cũng phải bám theo ông ta để đề phòng thú dữ. Potơrova và Exmeranda rủ nhau đi vào rừng hái quả.

Biết nhà vắng người, Tác dăng tiến vào. Chàng đứng một lát trước cửa, do dự, rồi quyết định vào nhà viết một lá thư. Chàng muốn cho những người da trắng trong nhà biết rằng chàng đứng về phía họ, muốn giúp đỡ họ. Chàng viết rất vất vả, nét chữ xiêu vẹo, đầy lỗi chính tả, nhưng có thể đọc được là: "Các người đang sống trong nhà tôi. Tôi mang thú rừng đến. Tôi là người thợ săn vĩ đại. Tôi là một tráng sĩ. Tôi đã nhìn tờ giấy của cô gái. Đây là tờ giấy của tôi..."

Đang viết, bỗng Tácdăng dừng bút. Đôi tai tinh tường của chàng đã lọc được trong tiếng lá xào xạc một âm thanh gì đó rất quen thuộc. Đúng là phía xa có một con vượn nào đó khá to đang chuyền trên cây. Chỉ một lát sau chàng lại nghe thấy trong rừng già phía đó vang lên tiếng kêu của phụ nữ. Tiếng kêu có vẻ hoảng hốt và đau đớn. Nhanh như một con báo, chàng vứt bút, nhảy bổ vào rừng.

Clâytơn, giáo sư và Philanđơ cũng nghe thấy tiếng kêu cứu. Sau vài phút họ chạy về đến nhà. Cả hai người đàn bà đều vắng mặt. Clâytơn chạy ngay vào rừng. Vị giáo sư và viên trợ lý cũng bám theo. Sau khoảng nửa tiếng mò mẫm trong rừng, cuối cùng Clâytơn mới nhìn thấy người đàn bà da đen đang nằm trên mặt đất.

- Exmeranda! - Clâytơn gọi - Có chuyện gì thế? Gian đâu?

Người đàn bà da đen mở mắt nhìn người đàn ông trẻ tuổi rồi lại hoảng hốt nhìn ra bốn phía. Mãi tới khi giáo sư và Phialan đơ thất thểu chạy tới, cô ta mới nói được.

- Lạy thánh Ala! - Cô ta kêu lên. - Tôi chết mất thôi! Mắt nó trông khủng khiếp quá!

- Exmeranda! Tôi đây mà. Clâytơn đây. Gian đâu? Có chuyện gì thế?

- Gian không có ở đây. - Người đàn bà da đen kêu lên - Một con vật khổng lồ, lông lá đầy mình. Nó vồ cô ấy đi rồi.

- Con gì, con đười ươi phải không? - Philanđơ phán đoán.

Cả ba người đàn ông đều xanh xám cả mặt mày. Clâytơn bắt đầu đi tìm dấu vết. Anh chỉ nhìn thấy những vết cỏ bị dẫm nát. Hiểu biết về săn bắn của anh quá nông cạn nên anh cũng chẳng nhìn thấy gì nhiều hơn được.

Suốt cả buổi chiều còn lại, ba người đàn ông lang thang rong rừng một cách vô nghĩa. Khi bóng tối ập tới, họ buộc phải kết thúc công việc tìm kiếm, thất vọng trở về ngôi nhà gỗ. Họ ngồi ủ rũ trong phòng, không muốn nhìn mặt nhau. Sau một lúc giáo sư lên tiếng trước:

- Bây giờ tôi đi ngủ đây. Thử ngủ xem có được không. Sáng mai nhìn rõ mặt người là tôi đi tìm ngay. Không tìm được Gian tôi sẽ không quay về nữa.

Clâytơn bước tới, đặt tay lên vai người cha bất hạnh:

- Tôi sẽ đi với giáo sư - Clâytơn nói - Ngài đừng từ chối! Đừng thuyết phục tôi ở lại. Vô ích thôi...

Ông già ngẩng đầu nhìn Clâytơn. Ông hiểu rằng Clây tơn không phải là người nói lấy lòng.

- Các ông bỏ quên tôi hay sao? - Philanđơ lên tiếng.

- Thôi, bạn ạ! - giáo sư trả lời - Chúng ta không thể đi tất cả. Đi đông quá thì chỉ chết vô nghĩa lý trong cái rừng già độc địa này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Một vụ bắt cóc


Từ khi Tácdăng đi khỏi, cuộc sống của bộ lạc vượn ngày càng nhốn nháo. Những vụ đánh nhau, cãi cọ, và rủi ro thường xuyên xảy ra. Tơcốt đã trở thành thủ lĩnh của bộ lạc, nhưng lại tỏ ra là một kẻ cầm đầu vừa tàn bạo vừa độc đoán. Đám vượn già và những con vượn yếu ớt phải luôn luôn cảnh giác để tránh những cơn thịnh nộ bất thần của Tơcốt. Dưới sự thống trị của hắn, cuộc sống còn tồi tệ hơn dưới thời Kétchác cầm đầu. Ít lâu sau, nhiều gia đình vượn phải tách khỏi bộ lạc, bỏ đi sống độc lập tận tít trong rừng sâu, không bao giờ quay lại. Những con vượn ở lại thì phải kiên trì chịu đựng sự thống trị bạo tàn của Tơcốt. Nhưng rồi một hôm, một thành viên của bộ lạc nhớ tới lời dặn của Tácdăng trước lúc ra đi. Tácdăng khi ấy đã nói: "Nếu như chúng mày bị một kẻ cầm đầu thô bạo thì đừng đánh nó tay đôi theo kiểu lâu nay. Ba bốn đứa chúng mày phải nhảy vào cùng một lúc. Chỉ như vậy mới có thể thắng được".

Con vượn có trí nhớ tốt liền kể lại lời khuyên của Tácdăng cho bạn bè nghe. Một hôm Tơcốt đi săn về. Nó cảm thấy bộ lạc đón nó chẳng niềm nở gì. Ngay sau đó, chẳng nói chẳng rằng, ba bốn con vượn đực nhảy bổ vào tấn công cùng một lúc. Tơcốt bộc lộ ngay tính hèn nhát của mình. Sự hèn nhát này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Sự hèn nhát gắn với sự thô bạo ở loài khỉ cũng chẳng khác gì ở loài người. Tơcốt vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng vây, bỏ chạy thục mạng.

Một vài ngày sau đó nó cố mon men trở về bộ lạc. Nhưng cả hai lần nó đều bị xua đuổi và tấn công dữ dội. Nó từ bỏ ý định trở về. Sau một vài ngày thất thểu trong rừng như một kẻ cô độc, Tơcốt quyết định tìm một con vượn nào đấy để đánh đập cho hả giận. Thật là cầu được ước thấy! Ngay lúc đó nó trông thấy hai người đàn bà. Nó vội tụt xuống đất, tiến lại phía họ.

Gian Potơrơva kêu ré lên khi nhìn thấy cái mặt kinh tởm và cái mồm nhăn nhở của con thú. Tiếng kêu chưa dứt thì vòng tay vạm vỡ đầy lông lá của Tơcốt đã chộp gọn cô gái. Thấy mình trong phút chốc đã nằm ngay trước hàm răng trắng nhởn của con thú, Potơrơva nghĩ rằng phút cuối cùng của đời mình đã tới. Tơcốt túm chân cô gái vứt lên vai rồi nhảy lên cây.

Tiếng thét đầu tiên của Potơrova hòa vào tiếng thét của người đàn bà da đen. Exmeranda cũng như lần trước, chỉ thét lên một tiếng rồi ngất xỉu. Potơrova thì hơn người hầu của mình một tí. Bộ mặt gớm ghiếc của con thú cùng hơi thối từ mồm nó phả ra làm tăng thêm nỗi kinh hãi của cô. Tuy thế cô vẫn biết chuyện gì đang xảy ra với mình.

Con vượn nhanh nhẹn vác cô gái đi vào rừng sâu. Potơrova không dám chống cự. Trong đầu cô vẫn le lói một hy vọng: con vượn sẽ đưa cô ra bờ biển. Tới đó cô sẽ lấy hết sức kêu to để mọi người đến cứu. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng. Cô càng đóan, càng bối rối sợ hãi thêm vì con vượn độc mỗi lúc một tiến sâu vào rừng.

Tiếng thét của cô gái gọi Clâytơn và hai người già đã thôi thúc Tácdăng hơn tất cả. Chỉ trong chớp mắt, Tácdăng đã biết là người đàn bà da đen vẫn đang còn sống. Chàng bỏ qua người đàn bà đó. Thật ra với người đàn bà này, chàng cũng không quan tâm nhiều lắm. Thoáng nhìn qua mặt đất, cành cây, giác quan tinh nhậy của loài khỉ đã giải thích cho chàng tất cả. Chàng hình dung khá chính xác sự việc đã xảy ra và xảy ra như thế nào, chẳng khác gì chàng đang trông thấy nó đang diễn ra trước mắt. Chàng nhảy vọt lên cây, đuổi theo dấu vết của tên tội phạm, nhanh nhẹn như một thám tử tài ba. Chàng truy đuổi lúc này không phải theo sự điều khiển của mắt, của mũi mà chủ yếu là theo một bản năng định hướng bí mật rất kỳ diệu, vốn chỉ có ở một vài động vật rừng già.

Đến một cành cây, Tácdăng dừng lại vì đã trông thấy dấu vết của Tơ cốt để lại trên lá cây. Ngửi qua mùi lá dập, Tácdăng xác định ngay được đoạn đường ngắn nhất để chặn đường thủ phạm. Mùi da tay của Tơcốt vẫn còn để lại trên vỏ cây. Càng đi theo hướng đó, Tácdăng càng ngửi rõ mùi mồ hôi của Tơcốt. Bởi vì cả chàng và Tơcốt lúc này đều đi ngược chiều gió.

Mặc dù Tácdăng đi rất nhẹ nhàng, Tơcốt vẫn nghe thấy tiếng lá xào xạc sau lưng mình. Tiếng động đó thôi thúc Tơcốt đi nhanh hơn. Nhưng cuối cùng Tácdăng đã đuổi kịp.

Trông thấy Tácdăng, Tơcốt biết rằng lúc này có cố chạy cũng bằng thừa. Nó quyết định nhảy xuống một bãi đất trống để có thể lao vào trận đấu bảo vệ con mồi vừa bắt được, hoặc có thể dễ dàng bỏ chạy nếu như địch thủ mạnh hơn. Ngay tức khắc Tácdăng cũng nhảy xuống, nhẹ nhàng như một con báo. Nhìn thấy rõ ràng kẻ truy đuổi mình là Tácdăng, Tơcốt hiểu ngay rằng nó không thể giữ được cô gái trên lưng. Bởi vì theo nó, không những Tácdăng khỏe hơn mà còn là kẻ cùng "loài khỉ không lông" với con mồi trên lưng nó. Tơcốt lắc mình một cái, có vẻ như dồn toàn lực, chuẩn bị bước vào cuộc chiến.

Vừa nhìn thấy người đàn ông kì quặc, mặt mũi tuy sáng láng thông minh nhưng ăn mặc chẳng khác gì vị thần rừng trong chuyện cổ tích, Potơrơva choàng tỉnh. Nhớ lại lời mô tả của cha mình và Clâytơn, cô gái biết ngay đây chính là người đã mấy lần cứu họ thoát chết. Nhưng cô vừa kịp nghĩ như thế thì Tơcốt đã vứt cô xuống đất. Cô nhìn trộm con đười ươi khổng lồ với hàm răng dữ tợn của nó. Trái tim cô lại thắt lại vì sợ hãi. Không những thế, cô còn lo cho chàng trai người rừng. Làm sao chàng trai người rừng này có thể thắng nổi con vật to lớn và hung dữ như thế này!

Hai đối thủ nhanh chóng xông vào nhau như hai con trâu rừng. Đối chọi với hàm răng lởm chởm của Tơcốt là lưỡi dao găm lóng lánh của Tácdăng. Potơrơva bò tới một gốc cây to, nép mình vào thân cây, theo dõi cuộc đọ sức sinh tử giữa một người nguyên thủy và một con đười ươi.

Những cơ bắp của Tácdăng căng phồng lên vì sự cố gắng công kích. Hai cánh tay của chàng lúc nào cũng phải đưa ra vờn vờn phía trước để giữ một khoảng cách nhất định với hàm răng lởm chởm của Tơcốt. Tơcốt không thể nào cắn được chàng trai. Bàn tay lông lá của nó chỉ cào sượt được vào da đối thủ vài lần. Chỉ một lát sau, Tơcốt đã bị mấy nhát dao vào ngực. Nó yếu dần, loạng choạng trong đám đất đầy máu rồi ngã vật ra, bất động.

Potơrova kêu lên một tiếng sảng khoái. Cô định chạy ra đón chàng trai chiến thắng nhưng rồi lại dúm người lại do dự. Người cứu cô đây tính nết thế nào? Anh ta là ai? Liệu cô có phải đề phòng anh ta không? Nhưng khi cô còn đang phân vân, Tácdăng đã bước tới, bế cô gái lên vai rất nhẹ nhàng, vội vã bước đi. Con đường quay trở lại ngôi nhà gỗ đâu phải là ngắn!

° ° ° Ngày hôm sau, trời chưa hửng nắng, bốn người còn lại trong ngôi nhà đã bừng tỉnh giấc vì tiếng đại bác gầm. Clâytơn là người đầu tiên lao ra cửa. Anh trông thấy có hai con thuyền thả neo ở cửa biển. Một chiếc chính là hải thuyền Ơrâu. Chiếc thứ hai không phải là thuyền mà là một chiếc tuần dương hạm của Pháp. Lá cờ nước Pháp trên đài quan sát bay lất phất trong gió biển. Trên boong tàu, đội thủy thủ đứng cụm thành một đám, mắt đăm đăm trông vào bờ. Clâytơn và ba người sau lưng anh hiểu ngay rằng những phát đại bác là tín hiệu báo cho họ. Nhưng buồn một nỗi là hai con tàu còn rất xa bờ. Chẳng có gì đảm bảo là thủy thủ trên tàu trông thấy họ giữa những bóng cây rậm rạp thế này.

Exmeranda chạy ra ngoài nhà. Cô cởi chiếc tạp dề màu đỏ ở bụng ra, đưa lên đầu vẫy vẫy rối rít. Trong khi đó Clâytơn chạy ra những đống củi chuẩn bị từ trước ở các mỏm đá cao. Anh cảm thấy con đường từ nhà tới những đống củi lúc này dài đến vô tận. Anh phải chạy xuyên qua nhiều vạt rừng. Tới khi nhóm được mấy đống củi cháy lên, anh cảm thấy như bị nghẹt thở: thuyền Ơrâu đã căng buồm, còn chiếc tuần dương hạm đã bỏ ra ngoài khơi xa. Clâytơn vội đốt thêm vài đống lửa nữa rồi cởi chiếc sơ mi trắng ra vẫy. Anh buộc chiếc áo vào một chiếc gậy, đưa lên đầu quay thành vòng tròn hối hả. Hai chiếc tàu vẫn lùi ra xa. Clâytơn đã cảm thấy tuyệt vọng. Nhưng những đống lửa lúc đó đã bắt đầu bốc lên những cột khói đen cuồn cuộn. Clâytơn trông thấy trên vọng gác của một con tàu tuần dương có mấy chiếc ống nhòm đang chĩa về phía bờ biển.

Chiếc tàu bắt đầu quay mũi trở lại. Thuyền buồm Ơrâu vẫn đứng nguyên một chỗ. Con tàu tuần dương hướng mũi thẳng vào bờ. Tới một khoảng cách nhất định, nó thả xuống nước một chiếc thuyền con. Khi chiếc thuyền con chèo tới bờ, một sỹ quan trẻ nhảy lên.

- Xin lỗi! Nếu như tôi không nhầm thì ngài là Clâytơn? - Viên sỹ quan hỏi.

- Ơn Chúa vì các ông đã tới - Clâytơn kêu lên - Thế này thì cũng chưa phải là muộn.

- Ông muốn nói thế nào? - Viên sỹ quan hỏi.

Clâytơn liền kể vắn tắt cho viên sỹ quan tất cả những chuyện đã xảy ra và đặc biệt là chuyện Gian Potơrova bị bắt cóc. Anh nói rằng cần phải cấp tốc tìm cô gái.

- Tôi cũng không biết phải làm gì bây giờ, - viên sỹ quan trả lời với giọng thông cảm - Hôm qua thì tôi nghĩ là còn có hy vọng tìm được cô ta. Nhưng để cho tới hôm nay thì... Rừng châu Phi chẳng phải là đất mến khách lắm đâu.

Trong khi hai người nói chuyện, chiếc tuần dương hạm còn thả xuống nước mấy chiếc thuyền con nữa. Clâytơn nhảy lên chiếc thuyền con của viên sỹ quan, ra dẫn chiếc tuần dương hạm bơi tới phía ngôi nhà gỗ. Ở đó giáo sư Potơ và viên trợ lý đang đứng ngóng ra biển. Sau lưng hai ông già là người đàn bà da đen đang ngồi khóc.

Trong chiếc thuyền con bơi vào sau cùng có viên chỉ huy con tàu. Sau khi nghe hết mọi chuyện, ông kêu gọi các thủy thủ tình nguyện tham dự vào đội tìm kiếm cô gái trẻ. Chẳng có thủy thủ nào thờ ơ trong chuyện đi tìm một cô gái. Vì vậy viên thuyền trưởng chỉ chọn trong những người giơ tay lấy khoảng hai chục thủy thủ từng trải và hai viên sỹ quan là trung úy Acnôt và trung úy Trơpintơ. Ông ra lệnh cho một chiếc thuyền ra tàu lấy vũ khí.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Tiếng súng giữa rừng sâu


Tácdăng vác Gian Potorova xuyên qua mê cung của rừng sâu. Lúc thì chàng đi trên những ngọn cây nhờ những đám dây leo, lúc thì túm những rễ cây lộ thiên, đánh đu vượt qua khoảng trống. Con đường đi của Tácdăng lúc tối lúc sáng. Những lùm cây mở ra rồi khép lại sau lưng hai người. Potorova không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Cũng có lúc cô phải nín thở vì những cú đánh đu vượt qua các miệng vực sâu. Nhưng ngay sau đó cô lại yên tâm vì sự vận động nhịp nhàng và khả năng giữ thăng bằng của chàng trai. Chàng đưa cô đi xuyên qua rừng rậm cũng chẳng khác gì con cá bơi tung tăng trong nước. Cô bình tĩnh tới mức đã bắt đầu ngắm nhìn thật kỹ khuôn mặt Tácdăng. Chàng người rừng này có một chiếc sẹo trắng dài từ mắt trái ngược lên vầng trán. Cô còn nhớ là khi chàng nhảy xổ vào con đười ươi hung dữ thì chiếc sẹo trắng đó đỏ hồng lên. Có thể vết sẹo đó là một chiến tích sau những trận đánh của chàng nhằm cứu sống những người trong nhóm của cô.

Con đường dọc bìa rừng khá dài. Tất nhiên với một thân thể yếu mềm của cô gái trên vai, Tácdăng không thể chạy như mọi ngày. Ngoài việc phải vác cô gái vừa nặng vừa dễ chịu đó ra, bóng hoàng hôn trong rừng cũng xuống rất sớm. Đang đi trên cây, tự nhiên Tácdăng tụt xuống mặt đất. Chàng đặt cô gái lên một đám cỏ rồi lại nhảy lên cây, biến mất.

Potorôva hoảng hốt nhìn quanh. Chàng người rừng đó chạy đi đâu? Chàng ta bỏ cô ở lại đây mất rồi! Vừa nghĩ như thế, cô đã cảm thấy trong mỗi rừng cây đều có cặp mắt thú dữ đang nhìn mình. Mỗi một tiếng động đều làm cô tưởng tượng tới hai hàm răng thú. Có thể chúng đang chuẩn bị để vồ cô.

Mới chỉ vài phút mà cô đã cảm thấy thời gian dài như hàng tiếng đồng hồ. Đột nhiên cô nghe thấy có tiếng động mạnh sau lưng. Cô thét lên một tiếng, co chân và quay đầu nhìn lại. Hóa ra là chàng trai người rừng. Chàng đang ôm trong tay một đống hoa quả.

Cả hai ngồi xuống. Chàng trai dùng dao găm tách từng hột hồ đào, lấy nhân đưa cho cô ăn. Hai người lặng lẽ nhai, thỉnh thoảng lại nhìn trộm nhau.

- Tôi rất muốn nghe anh nói tiếng Anh. - Cô gái lên tiếng trước.

Nhưng Tácdăng chỉ lắc đầu rồi cười. Cô gái thử nói mấy câu tiếng Pháp rồi lại chuyển sang tiếng Đức. Lúc đó cô hơi xấu hổ vì cách phát âm tiếng Pháp của cô rất dở. Nhưng rõ ràng là chàng trai này chẳng biết một thứ tiếng nào cả.

Potơrôva thất vọng, đành trao đổi với Tácdăng bằng cách ra hiệu. Nhưng chợt cô nhìn thấy sợi dây chuyền vàng trên cổ Tácdăng. Chiếc dây chuyền có gắn một mẩu gia huy nho nhỏ. Cô chỉ tay vào sợi dây chuyền. Tácdăng liên tháo ra ngay, sốt sắng thả vào lòng bàn tay cô gái. Potơrova xác định ngay được rằng thứ đồ trang sức này là một thứ đồ mỹ nghệ của các thế kỷ trước. Cô lật mặt sau tấm gia huy, dùng chiếc bút máy bật chốt, tách đôi ra. Hai mặt trong của tấm gia huy đều được lót bằng một lớp ngà voi rất mỏng. Trên nền ngà voi, nổi bật chân dung của một cô gái xinh đẹp và một người đàn ông trẻ, có khuôn mặt sắc nét, hơi nheo cười.

Potơrova nhìn Tácdăng, cô thấy chàng nhìn hai tấm ảnh bằng cặp mắt sửng sốt. Chàng đưa tay ra, thẫn thờ cầm tấm gia huy và quan sát rất kỹ. Điều đó chứng tỏ rằng Tácdăng đeo tấm gia huy đã lâu nhưng không hề biết rằng nó có thể mở ra được. Chàng chưa bao giờ trông thấy hai chiếc ảnh. Quan sát một lúc, chàng xoay ống đựng tên ra phía trước, dốc hết tên ra rồi moi ra một gói nhỏ bọc bằng cỏ khô. Chàng mở gói cỏ khô và đưa cho cô gái xem cái vật được bảo quản trong đó. Hóa ra là chân dung một người đàn ông. Chàng chỉ tay vào tấm chân dung rồi lại chỉ tay vào bức ảnh trong gia huy. Cô gái hết sức ngạc nhiên. Người đàn ông trong tranh và trong ảnh chỉ là một. Chính Tácdăng đã nhận ra điều đó. Khuôn mặt chàng trở nên tư lự, có vẻ muốn hỏi cô gái điều gì.

Potơrova chỉ vào người trong ảnh rồi lại chỉ vào Tácdăng có ý muốn hỏi rằng đó có phải là ảnh của chàng không. Bởi vì chàng có khuôn mặt rất giống người trong bức ảnh. Nhưng Tácdăng chỉ lắc đàu. Chàng lấy lại bức ảnh, gói ghém nó thật cẩn thận rồi đút vào ống tên như cũ. Po tơ rova vẫn cầm tấm gia huy đã mở. Cô hết sức xúc động vì cái đồ trang sức bí ẩn này. Chiếc gia huy đó rõ ràng là của huân tước Grayxtau. Hai chiếc ảnh đó, một là chân dung huân tước, một là chân dung Alice. Chàng trai người rừng này đã tìm thấy chiếc gia huy và tấm ảnh trong ngôi nhà gỗ ven biển. Nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt người rừng rất giống khuôn mặt người trong ảnh

Tácdăng ngồi quan sát cô gái. Chàng không biết cô đang nghĩ gì. Chàng đoán là cô có vẻ thích sợi dây đeo cổ. Khi cô gái trả lại cho chàng, chàng liền mở rộng vòng dây, đeo luôn vào cổ cô. Cô gái rụt đầu lại, có vẻ lượng lự giây lát rồi lại để yên cho chiếc gia huy tụt xuống ngực mình. Thay cho lời cảm ơn món quà tặng của Tácdăng, cô gái đứng dậy cúi đầu thật thấp. Tácdăng không hiểu cử chỉ của cô gái có nghĩa là như thế nào. Chàng cũng đứng dậy bắt chước cô, cúi đầu xuống. Hai mái tóc mượt mà của tuổi trẻ chạm vào nhau. Cả hai cùng cười.

Nhưng lúc này trời đã tối. Tácdăng lại chạy đi một lúc rồi trở về với một bó cỏ khô trong tay. Chàng chuẩn bị cho cô một chiếc đệm dưới đất và dựng một mái che phía trên. Cô gái chui vào nằm, còn chàng trai lùi ra ngoài đứng gác.

Sáng hôm sau Potorova tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngon lành. Thoạt đầu cô nhìn ngơ ngác ra xung quanh. Nhớ lại câu chuyện hôm trước, cô thở dài nhẹ nhõm. Cô hoàn toàn yên tâm về hiện tại của mình. Nhưng kìa! Cô chẳng thấy bóng chàng trai đâu cả. Cô sợ hãi nhưng vẫn tin rằng chàng trai sẽ quay trở lại.

Đúng như vậy! Cô đã nghe thấy tiếng động xào xạc trên cành cây. Cô nhìn lên cao, nhận ra bóng dáng người rừng đang chuyền thoăn thoắt qua các cành cây mềm. Chàng trai đem về cho cô một ôm quả rừng. Hai người ngồi xuống, cùng ăn.

Ăn sáng xong, Tácdăng ra hiệu cho cô gái đi theo mình tới những gốc cây ở rìa khu rừng đốn. Tới nơi, hai cánh tay săn chắc của chàng nâng bổng cô lên, đặt cô lên một cành cây. Đứng trên cây, cô gái hiểu ngay rằng chàng trai đang đưa cô về ngôi nhà ven biển. Suốt mấy tiếng đồng hồ, hai người lại xuyên rừng mà chân không hề bén đất. Lúc này Tácdăng không vội vã nữa. Hai người ngồi trên cây nghỉ vài lần và uống nước. Đi một lúc nữa, Tácdăng đột nhiên nhảy xuống đất, nhổ một búi cỏ xanh tốt, đưa cho cô gái. Potorova chẳng hiểu gì. Nghĩ một lát cô mới biết rằng chàng trai muốn cô hiểu là loài cỏ đó chỉ mọc ven bờ biển. Điều đó cũng có nghĩa là ngôi nhà gỗ không còn xa nữa. Quả thật, sau khi leo lên cây, cô đã nghe thấy tiếng sóng biển rì rầm và nhìn thấy những đường nét lờ mờ của ngôi nhà gỗ.

Potorova cầm tay Tácdăng. Cô muốn đưa chàng vào ngôi nhà gỗ và kể cho cha mình biết rằng đây là người đã cứu cô. Nhưng đột nhiên khuôn mặt chàng trai lại bộc lộ sự rụt rè, lo âu. Chàng rút tay lại và lắc đầu. Potorova không hiểu vì sao chàng trai này lại muốn quay trở lại với những cánh rừng già độc địa, trong khi chẳng bị ai thúc ép. Cô không hiểu vì sao chàng lại không muốn vào nhà.

Vừa lúc đó vọng tới chỗ hai người một âm thanh yếu ớt của những phát súng xa. Hai người ngẩng đầu nhìn quanh.

Từ trong ngôi nhà gỗ Philando và người đàn bà da đen bước ra, nhìn đất, nhìn trời. Tácdăng chỉ về phía có tiếng súng, sau đó lại chỉ vào ngực mình. Cô gái hiểu: chàng người rừng này muốn đi giúp đỡ ai đó. Tất nhiên là chàng muốn giúp đỡ những người đồng hành của cô đang lâm vào tình thế nguy hiểm mới. Potorova lúc này tất nhiên không dự đoán được những gì đã xảy ra ở ngôi nhà gỗ sau khi cô bị bắt cóc. Từ chỗ hai người đứng, không thể nhìn thấy hai con thuyền thả neo ngoài vịnh.

Tác dăng chạy vào rừng sâu. Còn cô gái chạy đến khu đất trống trước căn nhà gỗ. Philando là người trông thấy bóng cô đầu tiên. Nhưng vì cận thị nên từ xa ông lại kêu ầm lên:

- Exmeranda! Chạy ngay vào nhà! Sư tử! lại sư tử!

Exmeranda vừa nghe thấy đã tin là thật. Chỉ bằng vài bước nhảy, người đàn bà da đen đã chui được vào trong nhà, đóng chặt cửa. Viên trợ lý già chạy phía sau nhưng không kịp lọt vào nhà. Cánh cửa sập ngay trước mũi ông. Ông đứng ngoài, đấm cửa như điên.

- Mở ra đi! Exmeranda! Mở cửa nhanh cho tôi vào với!

Nhưng người đàn bà nhút nhát nghe tiếng đập cửa lại nghĩ là mõm con sư tử đang thúc vào cửa. Theo phản xạ cũ, cô ta lại ngất đi. Trong cơn hoảng hốt, lúng túng vì "con sư tử" sau lưng, viên trợ lý già không thể nào đẩy nổi cửa. Ông vội chạy ra sau nhà, định trèo lên mái. Nhưng mái nhà cũ lợp bằng lá đã qua hai mươi năm sương gió, nên ông già vừa túm được nắm lá khô, định đánh đu, co người lên thì rơi huỵch xuống đất. Rơi xuống đất rồi, trong tay ông vẫn còn cầm nguyên nắm lá.

Nằm trên mặt đất, đau ê ẩm, nhưng ông không quên con sư tử. Chợt nhớ là có cuốn sách viết rằng: sư tử không ăn thịt người chết, thậm chí nó không thèm đến gần những xác chết, viên trợ lý vội vàng nằm xõng xoài ra mặt đất, dang hai tay, hai chân ra thật rộng.

Gian Potorova chạy đến nơi, trông thấy ông Philando đang nằm giả vờ chết, cô không nhìn được cười. Nghe tiếng khúc khích, ông Philando ngồi nhổm dậy, sửa lại cặp kính cận để nhìn cho kĩ. Ông đã nhận ra Potorova.

- Cô đấy à? - Ông ôm ngực kêu lên - Lạy Chúa tôi! Chúa ở trên trời.

Ông vội đứng dậy, chạy đến chỗ cô gái. Ông chạy rất nhanh, hình như muốn tự kiểm tra lại xem mình có phải thật sự đang còn sống hay không.

- Lạy Chúa tôi! - ông lại cầu Chúa lượt nữa - cô từ đâu ra thế? Cô đã ở đâu? Thế nào?...

- Ông Philando ơi! - Potorova cười - ông hỏi chừng ấy câu hỏi thì tôi trả lời một lúc làm sao nổi.

° ° °

Ngay từ sáng sớm trung đội thủy thủ đã bị lạc rừng. Việc tìm kiếm Potorova dường như là một việc làm vô nghĩa. Chỉ vì thấy vị giáo sư già quá đau khổ và xót xa cho con gái nên trung úy Ácnốt không ra lệnh trở về. Chính trung úy cũng cho rằng, trong trường hợp may mắn nhất, cũng chỉ tìm được xác nạn nhân mà thôi. Mọi chuyện hình như đã quá muộn! Lấy chỗ người đàn bà da đen bị ngất làm tâm điểm, trung úy Ácnốt ra lệnh mở rộng bán kính tìm kiếm. Trung đội thủy thủ chia thành từng nhóm, tỏa ra các hướng lùng sục. Cứ mỗi lúc họ lại xa nhau, cho tới khi người nào cũng phải vật vã xiêu vẹo vì phải len lỏi qua những bụi rậm um tùm, tưởng chừng con rắn cũng không chui qua nổi. Mặc dù vậy, mệnh lệnh và lòng nhiệt tình vẫn thôi thúc họ tiến lên phía trước.

Khoảng giữa trưa họ dừng lại nghỉ ngơi lấy sức. Sau khi nghỉ, họ tưởng chừng như đã gặp may. Bởi vì họ phát hiện ra một con đường mòn dễ đi. Đó là lối mòn mà đàn voi thường qua lại. Con đường hướng về phía đông bắc. Sau khi thảo luận với giáo sư Poto và Clayton, viên trung úy liền ra lệnh cho cả trung đội tập trung hành quân theo lối mòn.

Dẫn đầu hàng quân là viên trung úy. Đường dễ đi, nên trung úy đi rất nhanh. Đi sau trung úy là vị giáo sư già chậm chạp. Mọi người không muốn để cho giáo sư tụt lại sau cùng nên đã để cho ông đi ngay sau viên trung úy. Tuy vậy, chỉ một lúc sau, ông lại tụt về phía sau trung úy hàng trăm mét.

Tới một khoảng rừng thưa, viên trung úy bị lọt vào ổ phục kích của sáu người da đen. Anh kêu to, báo động cho những người phía sau biết. Nhưng anh chưa kịp rút súng ngắn thì đã bị sa lưới và bị khênh luôn vào rừng sâu. Tốp thủy thủ đi sau giáo sư đã nghe thấy tiếng kêu. Họ chạy bổ lên phía trước để cứu viên trung úy nhưng chẳng thấy đâu, trừ vị giáo sư đang đứng im phăng phắc như cây sồi cụt ngọn. Trung đội thủy thủ chạy dồn lên phía trước, tới đúng chỗ trung úy bị bắt. Ngay lập tức từ trong các bụi cây vùn vụt lao ra năm sáu ngọn lao. Có mũi lao đã cắm trúng vào lưng một thủy thủ. Mọi người chưa kịp định thần thì lại một loạt lao nữa phóng ra. Không chần chừ gì nữa, các thủy thủ xả hàng loạt đạn vào các bụi cây.

Tốp thủy thủ đi sau cùng đã chạy tới nơi. Trung úy Sapinto chạy vọt lên phía trước, thay quyền chỉ huy. Cả trung đội xông vào các bụi rậm lùng sục. Chỉ vài phút sau họ đã thực sự bước vào trận chiến đấu gian nan, quyết liệt với khoảng năm chục người lính tự vệ của làng người da đen. Giáo mác, dao rừng, súng tiểu liên và cả mái chèo va đập vào nhau tạo thành một không khí đầy huyết chiến. Nhưng chẳng bao lâu sau, những người da đen của Bonga đã phải bỏ chạy vào rừng. Khu rừng trống chỉ còn trơ lại những chàng thủy thủ chiến thắng - một chiến thắng phải trả bằng giá đắt: trong số hai chục người đi biển có bốn bị chết, năm người bị thương, chưa kể tới trung úy Ácnốt bị bắt.

Đêm đã bắt đầu xuống. Không dễ gì tìm được con đường mòn lúc trước, trung úy Sapinto ra lệnh nghỉ đêm. Chỗ nằm của các thủy thủ phải có hàng rào bảo vệ bằng những bụi gai nhọn. Đó là mệnh lệnh. Mệnh lệnh này dường như vượt quá khả năng của các thủy thủ mệt mỏi sau trận đánh. Nhưng họ không thể làm khác. Việc xây dựng chỗ nằm thật vất vả, nhưng các thủy thủ làm tới nửa đêm thì cũng xong. Các thủy thủ đốt những đống lửa thật to xung quanh để người gác đêm dễ phát hiện thú dữ và những người da đen đánh lén. Sau khi cắt phiên gác cho từng người, Sapinto ra lệnh nghỉ ngơi. Mệnh lệnh đó có vẻ là thừa, vì họ vừa đặt lưng xuống là thiếp đi như chết.

Trời vừa hửng sáng, trung úy Sapinto liền cử người đi tìm lối mòn hôm trước. Chỉ nửa giờ sau họ đã tìm được con đường. Các thủy thủ lên đường trở lại bờ biển. Họ đi rất chậm, vì còn phải mang trên vai bốn thi hài và hai người đồng đội bị thương nặng. Những thủy thủ bị thương nhẹ cũng không thể đi nhanh.

Về tới nơi, trung úy Sapinto khẩn khoản yêu cầu vị thuyền trưởng giúp đỡ. Anh muốn xin thêm vài tay súng để đi tìm trung úy Ácnốt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Chiếc cọc hành hình


Đám thổ dân bắt cóc trung úy Ácnốt đã không chờ trận đánh kết thúc. Họ lôi ngay chàng trung úy bất hạnh theo con đường mòn về cho thủ lĩnh Bonga.

Khi họ về tới làng thì trời đã tối, không nhìn rõ mặt người. Mấy người gác làng chỉ nhận ra tốp người làng mình trở về có đem theo tù binh. Một tiếng kêu vang lên. Cổng làng bật mở. Lập tức đàn bà trẻ con lại xông ra, hò reo đón tiếp.

Ngay sau tiếng reo hò, trung úy Ácnốt đã phải chịu những giây phút khủng khiếp nhất của đời mình. Cách đó không lâu, làng da đen của Bonga đã phải đổ máu và bỏ làng trốn vào rừng để thoát ách áp bức của những tên thực dân da trắng. Vì vậy ngay lập tức Ácnốt trở thành kẻ thù không đội trời chung của bộ lạc. Đàn bà, trẻ con vừa la vừa xông vào Ácnốt như đàn cá rỉa mồi. Anh bị đánh đập bằng tay, bằng gậy gộc và bằng cả những hòn đá nhọn. Anh cố gắng nghiến răng chịu đựng, không hé miệng kêu một tiếng. Chỉ nửa phút sau anh đã muốn chết thật nhanh để thoát khỏi sự đau đớn.

Nhưng một khi người ta mong chết thì cái chết thường đến rất chậm chạp. Mấy người da đen chạy ra xua đuổi đám đàn bà, trẻ con. Bởi vì theo luật của làng, tù binh không được phép chết một cách nhẹ nhàng, nhanh chóng. Nó phải bị hành hạ theo đúng nghi lễ. Bộ lạc phải được nhấm nháp cái hạnh phúc báo thù. Ngay lập tức trung úy thoát khỏi cơn mưa đá. Những người da đen dắt anh ra khỏi đám đông rồi trói vào cọc. Đám đàn bà hối hả nhóm lên giữa bãi trống của làng vài đống lửa to. Mọi người reo hò mừng vui vì có tin báo về là họ sẽ còn có nhiều tù binh nữa. Người của Bonga vẫn còn đang chiến đấu.

Nhưng một lúc sau lại có tin mới báo về: những người da trắng đã đánh tan đội quân của bộ lạc. Cuộc chiến đấu đã kết thúc, nhưng chiến thắng lại thuộc về những người da trắng. Nghe tin ấy, những người da đen man rợ liền vây quanh chiếc cọc hành hình. Họ nhảy múa những vũ điệu ca ngợi thần chết.

Vừa đau đớn, vừa căm tức, trung úy Ácnốt mở to mắt nhìn đám người mọi rợ. Anh có cảm giác như đang lạc vào một thế giới khác hoặc đang chịu đựng một cơn ác mộng khủng khiếp. Nhưng anh đoán chắc rằng sớm hay muộn rồi cái chết cũng sẽ đến giải thoát anh khỏi cơn ác mộng này. Những khuôn mặt bôi màu sặc sỡ, những hàm răng mài đều chằn chặn, những cơ thể trần truồng, nhễ nhại mồ hôi, những mũi giáo nhọn lấp lánh màu kim khí - tất cả những thứ đó xô đẩy, quay cuồng xung quanh anh giống như những bức tranh minh họa của những truyện phiêu lưu về thời nguyên thủy. Vòng người cuồng loạn đó bắt đầu xiết lại nhỏ dần quanh Ácnốt. Bỗng một ngọn giáo bay vèo từ xa cắm vào vai Ácnốt. Anh chưa kịp kêu đau thì ngọn giáo thứ hai, rồi thứ ba liên tiếp xỉa vào mình anh. Anh cũng chẳng còn biết chúng đâm vào chỗ nào trên cơ thể mình nữa. Anh chỉ biết rằng mình đang chết...

Bỗng một tiếng hét khủng khiếp vang lên từ đâu đó trong không trung. Trung úy Ác nốt mở mắt ra nhìn. Một người da đen to béo đang nhảy múa trước mặt anh giật mình, lảo đảo rồi như bị một bàn tay vô hình nào đó kéo ngược trở ra. Nhưng gã lực sĩ đó không chạy được: gã dẫy dụa, chới với rồi từ từ rời khỏi mặt đất, hai chân đạp đạp trong không khí. Trông thấy gã bay lên cao, những người da đen đang nhảy múa quanh gã trợn tròn mắt ngạc nhiên. Tới khi gã lực sĩ bay vọt vào một lùm cây rậm rạp trên cao thì cả bộ lạc cùng thét lên rồi chạy toán loạn khỏi làng.

Chỉ còn viên trung úy bị trói đứng trơ trơ một mình giữa bãi trống. Bốn bề im lặng.

Mặc dù là một sĩ quan nổi tiếng dũng cảm, nhưng khi nghe thấy tiếng thét quái đản trong không trung và nhìn thấy người da đen dẫy dụa, bay lên cao, trung úy Ácnốt cũng cảm thấy xương sống của mình ớn lạnh. Anh hoang mang không hiểu mình đang còn sống hay chết. Phải chăng anh chỉ còn tồn tại như một linh hồn. Cảnh tượng trước mắt anh chỉ là cảnh tượng ở nơi âm phủ? Tuy vậy anh vẫn cố ngước mặt lên nhìn lùm cây cao, nơi mà người da đen bay lên và biến mất.

Thoạt đầu anh nghe thấy tiếng lá cây sột soạt. Hình như trên cây đang có sự di chuyển của một vật nào đó rất nặng. Lùm cây rung lên một lát rồi từ đó rơi phịch xuống đất thi thể của gã lực sĩ da đen. Gã nằm bất động trên mặt đất. Ngay từ lùm cây vọt nhảy xuống một người. Một người đàn ông gần như trần truồng, một người da trắng. Đó là ai? Thế này là thế nào?

Người da trắng lạ mặt lặng lẽ tiến lại gần viên trung úy. Cái nhìn của người lạ mặt không có vẻ gì là thù địch cả. Không, hoàn toàn không! Người đàn ông bí hiểm này hoàn toàn không thuộc số những người hành hình vừa rồi! Người đó chẳng nói chẳng rằng rút dao găm bên hông cắt đứt những vòng dây trói quanh chiếc cọc hành hình. Dây đứt đến đâu, cơ thể chàng thủy thủ nhão ra đến đấy. Khi vòng dây cuối cùng bị đứt, chỉ chậm chút nữa là cái cơ thể mất máu, be bét đó ngã vật ra đất nếu như không có đôi cánh tay vạm vỡ của người lạ mặt đỡ lấy.

Trung úy Ácnốt lờ mờ cảm thấy mình được nâng lên cao. Sau đó anh thấy mình bồng bềnh bay đi trong bóng tối, tới một nơi nào đó xa xôi. Anh bắt đầu mê man.

° ° °

Người đàn ông lạ mặt đó chẳng phải ai xa lạ ngoài Tácdăng - chàng trai của những cánh rừng nguyên thủy. Ngày hôm qua Tác dăng đã cứu Gian Potorova khỏi mõm con đười ươi Tơcốt. Ngày hôm nay, khi đưa cô gái trở lại ngôi nhà gỗ ven biển, Tácdăng nghe thấy trong rừng có tiếng súng nổ. Ngay tức khắc chàng lại nhảy lên cây lao vào rừng, nhằm hướng làng người da đen thẳng tiến.

Tácdăng biết có trận đánh đang xảy ra. Nhưng chàng không quan tâm. Nếu có ai trong khi chiến đấu bị giết thì chàng cũng chẳng thể làm được gì cho họ sống lại. Nhưng chàng có thể giải thoát cho một người nào đó không may bị bắt và bị giải về làng da đen. Tiếng súng rộ lên từng đợt rồi thưa thớt dần. Lúc này rừng đã tối. Tácdăng tiến tới gần làng. Dọc đường, từ trên những ngọn cây cao, chàng nhìn thấy ở bên phải, phía xa có những đám lửa cháy. Tuy vậy chàng không rẽ sang phía đó. Chàng đoán rằng người ta đang đốt lửa đi tìm cô gái da trắng mà chàng đã cứu. Nhưng thật ra đó là những đống lửa của các thủy thủ đốt lên để canh chừng những trận tấn công bất ngờ trong bóng tối. Tácdăng hoàn toàn không biết gì về đội thủy thủ tình nguyện. Bởi vì chàng không trông thấy chiếc tầu tuần dương Pháp ngày hôm đó đã thả neo gần ngôi nhà gỗ và hàng chục người can đảm đã lên đường cứu người bị nạn.

Sau vài phút, Tácdăng đã ngồi vắt vẻo trên ngọn cây cao của làng người da đen. Chàng đã tới đúng lúc. Ở chiếc cọc hành hình của làng đang có người đang ông bị trói đứng. Mới nhìn qua, chàng chưa hiểu được tình thế của người đàn ông nguy kịch tới mức nào. Tuy vậy chàng vẫn tháo cuộn dây thòng lọng khỏi vai. Chàng hít hơi căng lồng ngực... Ngay tức khắc trên đầu những người da đen cuồng loạn vang lên tiếng thét vồ mồi khủng khiếp của một con ác thú. Đám người da đen ngừng nhảy. Sợi dây thòng lọng bay vèo xuống. Dưới ánh lửa yếu ớt, những người da đen không trông thấy sợi dây. Họ chỉ nhìn thấy một người đồng tộc to béo của mình bị một vị thần nào đó đưa bàn tay vô hình tóm cổ lên trời.

° ° ° Mãi tới xế chiều ngày hôm sau trung đội thủy thủ mới trở lại bờ biển. Tất cả đều kiệt sức, rã rời. Khi các thủy thủ cùng giáo sư Poto và Clayton nhô ra khỏi bìa rừng, họ đã trông thấy Potorova đang đứng ngay trước cửa ngôi nhà gỗ. Họ dụi mắt nhìn. Đúng là Potorova bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Cô gái kêu lên sung sướng rồi chạy tới, nhảy bổ vào ông bố của mình. Giáo sư Poto cũng không cầm nổi nước mắt.

Trông thấy thế, Xexin Clayton không muốn quấy rầy phút giây hội ngộ của hai cha con. Anh cùng các thủy thủ lên thuyền con, bơi ra tàu tuần dương. Trung úy Sapinto lên chiếc thuyền sau cùng. Anh ngồi chống hai tay vào cằm, buồn bã nhẩm trước những điều sẽ báo cáo với viên thuyền trưởng: "... trung đội bị tổn thất nặng nề và bị mất trung úy Ácnốt."

Một lúc sau Clayton trở về ngôi nhà gỗ. Anh cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm: Gian Potorova đã trở về an toàn, con tàu đang chuẩn bị nhổ neo đưa anh về quê hương! Vậy thì còn lí do gì để mà phàn nàn nữa?

Nhưng lúc này Clayton vẫn chưa biết Potorova thoát nạn ra sao. Anh vẫn chưa tin rằng Potorova trở về hoàn toàn lành lặn. Khi anh chưa bước tới ngôi nhà, Potorova đã chạy ra đón anh.

- Anh Clayton! - Potorova nói nhỏ, đưa bàn tay ra cho Clayton - Rất cám ơn anh! Anh đã cứu cha tôi, đã vất vả tìm tôi. Tôi biết đền ơn anh thế nào!

- Tôi đã được đền ơn rồi đấy. Bởi vì tôi đã được trông thấy cô và giáo sư trở về an toàn. Cả hai đều khỏe mạnh! - Clayton trả lời - Đó chính là món quà quý nhất cho tôi. Nhưng cô trở về bằng cách nào thế?

- Chắc anh còn nhớ chàng trai người rừng đã cứu anh thoát khỏi con sư tử?

- Sao, cô nói sao? Clayton kêu lên ngạc nhiên - Chàng ta đã cứu cả cô nữa? Cô kể xem nào!

- Tôi tiếc là anh ấy không chịu ở lại đây. - Gian nói - Chúng tôi đã đi cùng nhau trở về đây. Khi nghe thấy trong rừng có tiếng súng nổ, lập tức anh ấy bỏ tôi ở lại. Chắc là anh ấy đã đến cứu giúp các anh?

- Chúng tôi không nhìn thấy anh ta. Chàng ta không tham gia vào nhóm thủy thủ của chúng tôi - Clayton trả lời rồi im lặng, ngẫm nghĩ - Có thể là chàng ta đã đến giúp sức cho bộ lạc da đen để tấn công chúng tôi.

Cô gái nhìn Clayton bằng đôi mắt ngạc nhiên:

- Không! - Cô gái kêu lên, bất bình - Không thể có điều đó được. Bởi vì anh ấy là một người da trắng. Anh ấy đã giúp đỡ chúng ta kia mà.

- Cô Potorova! Chính cô cũng cho rằng đó là một người rừng, một nhân vật bán khai của rừng nguyên sinh. Có thể nói thêm như vậy. Và ngoài ra, chúng ta không biết gì hơn về anh ta nữa. Không nói, không hiểu một thứ ngôn ngữ châu Âu nào, anh ta lại còn mang những thứ vũ khí và đồ trang sức giống hệt như của những người da đen man rợ. Theo thuyền trưởng tàu tuần dương cho biết, thì trong phạm vi một trăm dặm rừng này không có một bộ lạc người nào khác. Vậy thì anh ta hoặc là thành viên của bộ lạc thổ dân định tiêu diệt chúng tôi, hoặc là thành viên của một nhóm người rừng nào tương tự thôi. Biết đâu anh ta thuộc giống ăn thịt người.

Potorova tái mặt.

- Tôi không tin. Không phải thế! - Cô gái nói - Khi nào anh ta quay lại, anh sẽ thấy là dễ mến đến nhường nào. Tôi biết rõ anh ấy. Sống trong rừng nhưng anh ấy xử sự rất lịch sự.

Mối thiện cảm và sự bảo vệ hăng hái của cô gái đã làm Clayton phật ý. Trong phút chốc Clayton hoàn toàn quên mất những giây phút được người rừng cứu sống.

- Có thể là cô nói đúng, - Clayton mỉm cười trả lời - Nhưng chúng ta không thể không thừa nhận răng: đó là một người lang thang, đã từ bỏ xã hội, hoặc bị xã hội loài người ruồng bỏ. Anh ta sẽ quên chúng ta ngay trong khi chúng ta còn đang nhớ anh ta. Còn bây giờ thì anh ta có thể đang nằm ở một nơi nào đó trong rừng để nhai thịt sống. Xét cho cùng, anh ta cũng chỉ là một con thú rừng.

Potorova không trả lời. Cô nín lặng, quay gót bước trở lại ngôi nhà gỗ. Trong thâm tâm, cô cũng phải thừa nhận một điều là: rất khó chứng minh được rằng chàng trai người rừng này là người của thế giới văn minh.

Sáng hôm sau, một đoàn tìm kiếm mới lại lên đường đi vào rừng sâu. Clayton đi cùng họ. Các thủy thủ vẫn nóng lòng tìm cho được trung úy Ác nốt. Họ mang theo trên lưng thức ăn đồ uống cho cả một tuần lễ.

Khoảng giữa trưa, toán quân đã đến nơi xảy ra trận đánh. Từ nơi đó, họ nhanh chóng tìm ra con đường mòn voi đi. Con đường dẫn tới làng của Bonga. Chỉ khoảng hai tiếng sau họ đã gặp khu rừng bị khai hoang và những bãi trồng ngô.

Trung úy Sapinto - người chỉ huy đội quân tiễu phạt liền ra lệnh bao vây ngôi làng. Khoảng sau nửa giờ, chờ cho các thủy thủ từ những chỗ ẩn nấp quan sát thật kỹ ngôi làng, trung úy Sapinto nổ súng, ra hiệu tấn công. Ngay lập tức khu rừng chìm ngập trong tiếng súng máy và khói đạn. Những người da đen còn chưa hết bàng hoàng thì cổng làng của họ đã bị phá toang. Trận đánh diễn ra hết sức mau lẹ. Những người lính tự vệ của làng không đủ thời gian chống cự. Một lát sau cả làng bị dồn ra khỏi lều, tập trung thành một đám giữa sân. Trong khi khám xét, các thủy thủ phát hiện ra có một người da đen mặc quân phục của trung úy Acnốt. Nghĩ rằng chàng sĩ quan can đảm và đáng yêu của mình đã bị giết chết, các thuỷ thủ phát điên lên. Họ quật báng súng vào đám đàn ông da đen.

Trung úy Sapinto ra lệnh đi tìm xác bạn. Thủy thủ tìm kiếm cẩn thận tất cả các góc làng, sục vào từng ngôi lều, nhưng họ không tìm thấy dấu vết gì của Ácnốt. Họ dùng ngôn ngữ cử chỉ hỏi những người da đen tù binh đáng nghi ngờ nhất về cái xác của viên trung úy. Nhưng đáp lại, những người da đen không hé răng, cũng không hề nhúc nhích. Nhìn những khuôn mặt ngang ngạnh và đầy hận thù của những người da đen, các thủy thủ đoán rằng trung úy của mình không chỉ bị giết chết mà còn bị ăn thịt. Trong cơn uất ức và tuyệt vọng, các thủy thủ phá tan tành một lúc mấy chiếc lều.

Đêm hôm đó họ ngủ lấy sức và sáng hôm sau đành buồn bã lên đường, quay lại bờ biển.

Gần chiều tối, Clayton trở về tới ngôi nhà gỗ. Gặp cô gái trước cửa, anh nói với cô: "Chúng tôi không tìm thấy trung úy. Chắc là anh ta đã bị hành hạ đến chết và bị... Cô Potorova ạ! Đó là những kẻ ăn thịt người!" Chợt nhớ tới người đàn ông da trắng kì dị. Clayton tặc lưỡi nói thêm: "Còn vị thần rừng của cô, sau khi thả cô lại đây chắc chạy vội về làng để dự bữa tiệc khủng khiếp đó rồi (!)".

Clayton vừa nói xong đã biết mình lỡ lời. Bởi vì vừa nghe xong, Potorova sững người, tròn mắt nhìn anh từ đầu đến chân rồi chạy ù vào nhà. Ai đúng? Potorova, người từng trò chuyện, ăn uống với Tácdăng hay Clayton, người vừa tham gia cuộc trừng phạt bộ lạc người da đen?
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom