Cập nhật mới

Dịch Full Tarzan 2: Trở Lại Rừng Già

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Lễ tế thần Mặt Trời


Thoạt đầu, Tácdăng nghĩ rằng mình đã được cứu sống. Nhưng khi thấy người đàn bà xua đuổi đám đàn ông hung tợn kia quá dễ dàng, chàng lại sinh nghi. Quả nhiên, người đàn bà quay ra nói gì đó với đám đàn ông rồi tất cả lại chuyển sang một vũ điệu mới. Thấy thế, Tácdăng biết rằng, việc người đàn bà vung chiếc dùi cui vàng đuổi đám đàn ông chỉ là một tiểu mục qui ước trong hình thức nghi lễ mà người đàn bà là chủ tế.

Tácdăng quan sát nàng một cách tò mò. Hóa ra đó là một cô gái khá xinh đẹp. Bỗng cô gái rút từ bên hông ra một con dao, xông thẳng tới Tácdăng. Cô cắt đứt phăng vòng dây ở chân chàng. Những người đàn ông kết thúc điệu nhảy, tiến lại gần. Cô gái ra lệnh cho họ lôi Tácdăng đứng dậy. Cô dùng sợi dây vừa cắt đứt ở chân Tácdăng thắt một vòng quanh cổ chàng rồi dẫn chàng đi xuyên qua sân đền. Đám đàn ông liền xếp thành hàng đôi, bước theo nữ chủ và tù binh, đoàn người rảo bước qua những hành lang vòng vèo, tiến tới một vùng đất rộng cách xa ngôi đền. Cuối cùng, cả đoàn dừng lại ở một căn phòng lớn, giữa phòng có một điện thờ.

Tácdăng đã hiểu ra ý nghĩa của nghi lễ được tiến hành trước đó. Thì ra chàng đã rơi vào tay những người có tín ngưỡng thờ cúng thần Mặt Trời. Việc chàng được cắt dây trói khi nãy chỉ là một hình thức tượng trưng nhưng bắt buộc phải có trong lễ tế Mặt Trời. Còn cô gái chỉ là một đạo sĩ hoặc phù thủy của bộ lạc này. Khi mặt trời xuyên nắng qua trần nhà, báo hiệu quyền thống trị tuyệt đối của nó trên đỉnh trời, cô gái đang nắm quyền chủ tế đã bước ra khỏi cửa, giả vờ giành giật đồ hiến tế từ bàn tay lông lá của những tín đồ để dâng nó cho Mặt Trời tối thượng.

Tácdăng đã phán đoán khá chính xác. Chỉ cần nhìn lên chiếc điện thờ bằng đá trước mặt và bốn phía xung quanh chỗ chàng đứng đã đủ để khẳng định điều đó. Xung quanh chàng đầy những vệt máu khô. Ở góc bàn thờ là một đống đầu lâu cả cũ lẫn mới, có chiếc đầu còn chưa tan rữa hết lớp da mặt.

Nữ chủ tế dẫn chàng tới chỗ bậc thang của điện thờ. Các hành lang và ban công bốn xung quanh lại xuất hiện những người đàn ông lông lá. Một lát sau, không biết từ đâu đổ ra một đám đàn bà. Họ tràn vào đầy phòng, im lặng chờ đợi một cách kiên nhẫn, chẳng khác gì những khán giả chờ xem buổi biểu diễn trong rạp hát. Đám phụ nữ này ăn mặc cũng không khác đám đàn ông bên cạnh. Họ cũng chỉ có một tấm da thú quấn quanh bụng. Có khác chăng chỉ là ở các thứ đồ trang sức. Mái tóc của họ được xoắn thành từng vòng và được áp sát da đầu bởi những chiếc vòng vàng. Khuôn mặt những người đàn bà có vẻ nhẹ nhõm, khôn ngoan hơn nhiều so với đám đàn ông và mỗi người đàn bà đều cầm trong tay hai chiếc cốc bằng vàng. Họ lặng lẽ tiến lại gần điện thờ. Trong khi đó, đám đàn ông xếp thành một hàng dài, hướng mặt nhìn về phía đám phụ nữ.

Tiếng hát bắt đầu vang lên và từ một hành lang tăm tối bước ra một người đàn bà có dáng người cao ráo. "Có lẽ đây là người chủ tế, điều khiển phần quan trọng nhất của buổi lễ" - Tácdăng thầm nghĩ. Đó là một cô gái còn rất trẻ, có khuôn mặt khá sáng sủa, thông minh. Mới nhìn qua, cô gái này ăn mặc không có gì khác so với những người đồng giới của mình. Có điều là các thứ đồ trang sức của cô có vẻ đẹp hơn, quý hơn. Hai cánh tay và đôi chân trần của cô đeo đầy những chiếc vòng vàng khá to. Bên hông cô, mảnh da báo được vén lên để lộ một xâu vàng lá, pha lẫn với những hạt kim cương và những viên đá quý đủ màu sặc sỡ. Phía hông bên trái, cô còn đeo thêm một con dao khá dài và nhọn. Một người bước tới đưa cho cô chiếc gậy vàng có gắn nhiều kim cương ở hai đầu. Có thể đó là vương trượng, tượng trưng cho quyền hạn tối cao của cô trong bộ lạc này. Cầm quyền trượng trong tay, cô gái tiến ra đứng đối diện với bàn thờ. Tiếng hát tự nhiên im bặt. Tất cả mọi người trong phòng quỳ xuống. Cô gái cất tiếng nói rất trang trọng, có vẻ như một lời khấn. Tuy vậy giọng con gái trong trẻo của cô làm cho lời khấn rất du dương, quyến rũ. Tácdăng không thể hình dung một cô gái như vậy có thể trở thành một kẻ hành hình rồi nếm ngay thứ máu tươi của nạn nhân bằng chiếc cốc đặt bên cạnh bàn thờ.

Khấn vái xong xuôi, cô gái quay ra nhìn Tácdăng. Đôi mắt cô có vẻ hơi ngạc nhiên. Cô nhìn chàng trai từ chân tới đầu rồi hé môi nói với chàng một vài câu. Hình như cô chờ chàng trả lời.

- Tôi chẳng hiểu cô nói gì hết - Tácdăng trả lời - Hay chúng ta thử nói bằng thứ tiếng khác xem.

Cô gái không hiểu Tácdăng lấy một từ, mặc dù chàng lần lượt nói bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ảrập, tiếng của bộ lạc Oadiri và một vài thứ ngôn ngữ nữa của vùng duyên hải Tây Phi.

Cô gái lắc đầu, thầm thì điều gì đó. Giọng cô có vẻ như nuối tiếc. Cô giơ tay ra lệnh tiếp tục nghi lễ. Đàn ông lại cầm dùi cui, câu liêm nhảy múa và chỉ dừng lại khi có lệnh của cô gái. Một lát sau, theo bàn tay vẫy của cô, đám đàn ông xông tới khênh Tácdăng đặt lên bệ dưới của bàn thờ. Xong việc, họ cùng đám đàn bà lùi lại xếp thành hàng đôi, trong tay vẫn không quên chiếc cốc của mình. Ngay lúc đó lại xảy ra một vụ cãi lộn rất gay gắt. Có hai người đàn ông đều nhận là mình xếp ở vị trí đầu hàng, gần bàn thờ nhất. Một gã béo tròn, mặt sần sùi cố lấy sức đẩy gã gầy gò bật ra khỏi hàng để chiếm chỗ. Cô gái bước tới, nghe hai gã phân trần rồi quyết định đuổi gã to béo xuống tận cuối hàng. Gã định lùi vào giữa hàng, nhưng trông thấy khuôn mặt nghiêm khắc của nữ chủ tế, gã lại lủi thủi bước xuống cuối hàng, vừa đi vừa lẩm bẩm chửi rủa.

Cô gái sau khi vãn hồi trật tự liền bước đến cạnh Tácdăng, đọc mấy câu gì đó rồi thong thả rút con dao dài khỏi hông. Lúc này Tácdăng cảm thấy thời gian như vô tận. Vì đã bị trói hai vòng vào bệ bàn thờ, chàng cảm thấy bất lực. Chàng chỉ biết nhắm mắt, chờ mũi dao trong tay cô gái lao phập xuống ngực mình. Vừa lúc đó, cuối hàng người chờ lấy máu vang lên lời chửi rủa. Gã đàn ông béo cuối hàng đang nhảy chồm chồm trong tay mấy người cản giữ gã. Gã hướng về bàn thờ chửi cô gái chủ tế bất công đã làm nhục gã. Cô gái đang vung hai cánh tay, nắm chặt cán dao để đâm xuống ngực Tácdăng. Nghe tiếng nguyền rủa, cô quay mặt, trừng mắt nhìn gã đàn ông đang nổi khùng. Gã đàn ông vẫn không hề sợ hãi, tiếp tục chửi rủa.

Thế rồi cái điều không ai ngờ tới trong lễ hiến tế đã xảy ra. Tácdăng quay đầu nhìn về phía cuối hàng người. Chàng nhìn thấy gã đàn ông nhảy bổ vào một người đàn bà đứng gần nhất. Gã vung chiếc dùi cui nặng, quật mấy nhát vào người đàn bà vô tội nọ. Tácdăng cảm thấy chuyện này rất giống chuyện đã xảy ra khi xưa trong bộ lạc vượn của mình. Gã đàn ông này chẳng khác gì những con vượn đực, như Kétchác, Tulát, Tơcốt. Điều mà Tácdăng ngạc nhiên là, trong số đàn ông ở đây, không có một ai nhảy ra bảo vệ người đàn bà nạn nhân và ngăn chặn bàn tay ác thú. Chính vì vậy, gã đàn ông nọ mỗi lúc một khùng. Gã lấy dao nhọn, câu liêm đâm chém tứ tung. Người chết, người bị thương, nền nhà máu chảy lênh láng.

Cô gái chủ tế lúc này đứng bên Tácdăng, trong tay vẫn nắm chặt cán dao. Cô lặng lẽ theo dõi gã đàn ông đang gieo rắc cái chết tứ phía.

Sân điện náo loạn một lúc rồi trống trơn, chỉ còn lại mấy người hoặc đang dẫy dụa, hoặc đang cố lết ra ngoài. Gã đàn ông nhìn quanh. Mắt gã dừng lại ở cô gái chủ tế. Vừa trông thấy cô gái đứng một mình bên bàn thờ, cặp mắt gã lại lóe lên một cái nhìn thù địch. Gã thong thả tiến lại gần cô gái và nói với cô điều gì đó. Tácdăng lắng nghe. Chàng có cảm giác rằng chàng đã hiểu hắn nói gì. Chưa bao giờ chàng nghĩ rằng mình sẽ gặp lại thứ tiếng nói quen thuộc mà mình dùng suốt một thời niên thiếu. Rõ ràng là gã đàn ông và cô gái đang nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của bộ lạc vượn mà chàng từng sống. Gã đàn ông đe dọa, còn cô gái cố gắng thuyết phục, an ủi gã. Nhưng mọi cố gắng của cô đã trở nên thừa thãi. Gã đàn ông mỗi lúc một tiến lại gần, vươn đôi cánh tay loài vượn qua bàn thờ để túm lấy cô gái.

Tácdăng dồn hết sức bình sinh, quặn mình như một con trăn. Mấy vòng dây buộc trên người chàng đứt bung ra. Cô gái hoàn toàn không biết điều đó. Vì đang bị con quỷ lông xồm nọ đe dọa, cô đã quên mất nạn nhân của buổi lễ tế thần. Tácdăng tụt xuống sàn đá, đứng thẳng nguười dậy. Xiết mười ngón tay vào nhau thật chặt, chàng mím môi, dồn hết sức dãn hai cánh tay. Những vòng dây ở hai cổ tay bị nới lỏng rồi rơi tụt xuống sàn đá. Chỉ trong phút chốc chàng khổng lồ tóc vàng đã vươn vai đứng thẳng trên đôi chân của mình. Chàng nhìn quanh và nhận ra xung quanh bàn thờ chẳng còn một ai. Cô gái và gã đàn ông hung dữ đã biến đi đâu không rõ. Vừa lúc đó, từ sau điện thờ vang lên tiếng kêu tắc nghẹn. Không hề nghĩ tới cơ hội chạy trốn để bảo toàn tính mạng, Tácdăng lao về phía tiếng kêu để cứu cô gái. Thoắt một cái, chàng đã đứng bên cửa lên xuống của các phòng tầng hầm. Các cầu thang bằng đá nối tiếp nhau dẫn chàng qua những phòng ốc kỳ quặc, xa lạ. Dưới ánh sáng lờ mờ từ trên cao dải xuống, chàng trông thấy một ngôi mộ ghép bằng đá, thấp lè tè. Từ ngôi mộ đá, ba bốn lối mòn tỏa ra các hướng khác nhau. Nhưng Tácdăng không thể đoán được lối mòn sẽ đi tới đâu. Bởi vì cả bốn phía đều tối - một thứ bóng tối đặc quánh, tưởng chừng không gì có thể lọt qua. Đang còn băn khoăn trước cái mê cung rùng rợn ấy, Tácdăng đã trông thấy cái mà mình cần tìm. Trước mặt chàng, chỉ cách vài bước, gã đàn ông lông xồm đang túm chặt tóc cô gái, nâng đầu cô lên cao để quật xuống nền đá.

Khi thấy bả vai mình bị giữ chặt bởi hai bàn tay cứng như thép, gã đàn ông vội buông cô gái, lao mình vào ngực kẻ can thiệp. Gã nhe răng nhọn, sùi bọt mép, vung tay tấn công. Trong chốc lát cả hai đối thủ đã quấn chặt lấy nhau, lăn lộn trong tầng hầm như hai con bò tót. Cả hai đều quên hẳn mục đích ban đầu. Trong khi đó, cô gái chỉ biêt đứng im, dán chặt lưng vào tường, giương mắt nhìn hai người đàn ông đang quần nhau dưới chân mình.

Chỉ một lúc sau, Tácdăng đã túm được cổ họng đối thủ rồi vung tay bồi vào sọ đối thủ hàng chục quả đấm. Khi đối thủ đã mềm nhũn, đổ vật xuống nền đá, Tácdăng mới buông lỏng tay, đứng dậy lắc mình như một con sư tử. Chàng đặt chân lên ngực đối thủ, ngẩng cao đầu...

Trông thấy trần nhà thấp sát đầu, Tácdăng chợt nhớ ra tình thế của mình. Chàng quyết định không cất tiếng thét như mọi lần. Lúc này, tốt nhất là im lặng, không để xung quanh biết chuyện.

Sau mấy phút hoảng hốt, cô gái lấy lại được bình tĩnh, cô đã thoát khỏi bàn tay tên quỷ lông xồm nhưng lại rơi vào tay kẻ mà khi nãy cô phải giết để dâng hiến cho thần Mặt Trời. Chỉ còn một cách duy nhất là chạy trốn. Những ngách hầm chỉ cách chân cô chục bước chân. Cô vội lao mình vào bóng tối. Nhưng Tácdăng đã biết trước ý định của cô gái. Chỉ bằng một cú nhảy, chàng đã đứng bên cô gái, đưa tay đặt lên vai cô.

- Khoan đã! - Tácdăng nói bằng ngôn ngữ của bộ lạc Kétchác. Cô gái ngẩng đầu nhìn Tácdăng một cách kinh ngạc.

- Anh là ai? - Cô gái hỏi thầm thì - Sao anh lại nói bằng ngôn ngữ của những Người Khởi Thủy?

- Tôi là Tácdăng, con trai của loài vượn - Tácdăng trả lời theo đúng lối nói của bộ lạc cũ.

- Bây giờ anh muốn gì ở tôi? - Cô gái tiếp tục hỏi - Vì sao anh lại giải thoát tôi khỏi tay Tha?

- Tôi không thích người ta giết một người phụ nữ.

- Thế anh cần gì tôi nữa? - Cô gái hỏi.

- Chẳng cần gì! - Chàng trai trả lời - Nhưng nếu cô không ngại thì giúp tôi một tí. Hãy giúp tôi thoát khỏi nơi này.

Tácdăng nói, nhưng trong bụng vẫn không tin là cô gái nhận lời. Chàng nghĩ rằng cô gái có thể buộc chàng trở lại bàn thờ để tiếp tục nghi lễ. Tất nhiên, một khi chàng đã phá được dây trói, lại có con dao trong tay, chàng không chịu làm một nạn nhân đáng thương trong vòng vây quỷ sứ này. Cô gái vẫn đứng im, chăm chú quan sát khuôn mặt Tácdăng.

- Anh là một người đàn ông hấp dẫn! - Cô gái nói - Người như anh, tôi đã từng gặp trong những giấc mơ thời thiếu nữ của mình. Anh rất giống những người thuộc thế hệ tổ tiên của dân tộc chúng tôi. Tổ tiên chúng tôi đã xây dựng nên thành phố tráng lệ này giữa rừng xanh hoang dã. Họ đã khai thác được từ lòng đất này không biết bao nhiêu vàng bạc và đá quí. Chính vì kho báu của vùng đất này mà họ đã từ bỏ quê hương xa xôi của mình đến đây canh giữ. Nhưng đó là chuyện của chúng tôi. Còn anh? Vì sao anh lại cứu tôi mà không trả thù tôi vì chuyện tôi đã định giết anh?

- Tôi nghĩ rằng, - Tácdăng trả lời - Cô chỉ hành động theo tiếng gọi của lòng tin, chỉ làm theo tín ngưỡng. Vậy cô là ai, tên là gì? Đám người dự lễ là thế nào?

- Tôi là La, đạo sĩ cai quản Đền Mặt Trời của thành phố Opa. Dân tộc tôi đã đến vùng đất dữ này tìm vàng. Khi xưa đất nước của dân tộc tôi nằm trên mặt biển, nơi sớm sớm mặt trời ló mặt và chiều chiều lại sà xuống những vầng trán nóng đỏ của mình. Đó là một dân tộc giàu có và hùng mạnh! Trong những lâu đài nguy nga, lóng lánh kim cương này, một năm dân tộc tôi chỉ sống một vài tháng thôi, còn thì phần lớn là sống ở tổ quốc mình, ở phương bắc xa xôi. Thuyền của chúng tôi cứ phải xuyên biển, đi đi về về giữa hai vương quốc. Vào mùa mưa, ở đây chỉ có một đám cư dân, bao gồm những người cai quản nông nô, những người trông coi kho thực phẩm và binh lính gác thành. Nhưng rồi một tai họa lớn đã xảy ra: Đã đến ngày mãn hạn trở về mà binh lính và nô lệ trong thành phố phải chờ không biết bao nhiêu ngày. Nóng ruột quá, họ đã đóng thuyền vượt biển, trở về xem ở nhà có chuyện gì xảy ra. Con thuyền Galera đó rất lớn, có tớihai trăm nô lệ da đen cầm chèo. Nhưng bơi suốt mấy tháng liền xuyên biển mà những người hồi hương của chúng tôi vẫn không trông thấy một vết tích nào của hải đảo quê hương. Hóa ra tổ quốc của chúng tôi đã biến mất trong sóng đại dương.

Từ năm ấy, dân tộc tôi bắt đầu tiêu vong. Những người còn lại trong dân tộc tôi dần dần biến thành nạn nhân của các bộ lạc da đen. Từ cả phương bắc lẫn phương nam, người da đen thỉnh thoảng lại kéo đến. Thành phố này mỗi năm một hoang tàn, đổ nát. Nó trở thành một con mồi béo bở của những thổ dân châu Phi. Qua bao nhiêu thế kỷ, chúng tôi phải rút lui vào cố thủ trong ngôi đền này, bỏ mặc vùng thành ngoài cho thổ dân tàn phá. Chúng tôi mất hết quyền sống, đánh mất những di sản của tổ tiên, lãng quên toàn bộ nền văn hóa của dân tộc và cuối cùng trở thành một đám người man rợ, một bầy vượn biết đi hai chân và biết mặc quần. Điều này không phải là chuyện ngẫu nhiên đâu, anh ạ! Bởi vì rất nhiều đàn vượn đã đến đây chiếm thành và ăn ở cùng chúng tôi. Chúng tôi sống với vượn đã lâu lắm rồi. Chúng tôi gọi chúng là những Người Khởi thủy. Chúng tôi dần dần biết nói thứ tiếng của loài vượn, nói thành thạo, chẳng khác gì tiếng mẹ đẻ của mình. Chỉ trong các dịp lễ, chúng tôi mới cố gắng dùng tiếng dân tộc mình. Nhiều người đàn ông chúng tôi đã lấy vượn làm vợ và ngược lại, nhiều phụ nữ chúng tôi cũng phải chấp nhận lấy vượn làm chồng. Chúng tôi bị vượn đồng hóa. Có thể một thời gian nữa, ngôn ngữ của dân tộc tôi sẽ bị lãng quên, trở thành tử ngữ. Ông đã nhìn thấy đấy, ở đây không hề có một người đàn ông ra dáng đàn ông. Có lẽ chúng tôi sẽ thoái hóa, lùi trở lại làm người nguyên thủy.

- Tại sao phụ nữ ở đây có hình dáng giống người hơn đàn ông? - Tácdăng hỏi.

Vì phụ nữ chúng tôi không thoái hóa nhanh như đàn ông. Vào thời kỳ hải đảo tổ quốc tôi bị cơn đại hồng thủy nhấn chìm, ở thành phố này chỉ có những người đàn ông đần độn, vô học. Trong khi đó thì phụ nữ chúng tôi phần lớn là những người học hành tử tế và thuộc tầng lớp thượng lưu. Riêng tôi, tôi là người đàn bà thuộc dòng dõi quý phái. Suốt mấy thế kỷ liền, đàn bà thuộc dòng họ tôi đều là những đạo sĩ thông minh, cao quý nhất trong dân tộc. Chức quyền đạo sĩ được kế thừa theo dòng họ mẹ, tức là từ các bà mẹ sang các cô con gái. Tất nhiên các ông chồng trong dòng họ chúng tôi phải là người đàn ông cừ khôi, được tuyển lựa từ những gia đình thượng lưu. Để cưới được một đạo sĩ làm vợ, đàn ông phải thực sự hoàn hảo về cả trí tuệ lẫn sức khỏe.

- Thế còn những người đàn ông mà tôi đã thấy ở đây thì sao? - Tácdăng mỉm cười, nói thêm - Khó mà kén được ai trong số đó, đúng không?

- Không được xúc phạm họ! - Cô gái nghiêm mặt, nhắc Tácdăng - Những người đàn ông anh thấy đều là những tín đồ đáng kính trọng cả đấy.

- Thế thì chắc ở đây còn có những người đàn ông mặt mũi dễ chịu hơn, phải không?

- Không có. Những người anh thấy là khá hơn tất cả.

Tự nhiên Tácdăng thấy thương cô gái vô cùng. Trong bóng tôi mờ ảo của tầng hầm, chàng thấy cô thật kiều diễm.

- Thế cô tính sao? - Tácdăng hỏi - Đưa tôi ra ngoài đi!

- Thần lửa ban phước cho anh! - Cô gái chắp tay lên ngực, nói bằng giọng thành kính - Ngay cả tôi cũng không được phép giải thoát cho anh. Người ta sẽ tìm thấy anh bất cứ chỗ nào. Nhưng thực lòng, tôi không muốn để cho người ta tìm thấy anh! Anh đã liều mạng cứu sống tôi. Cho nên tôi cũng liều mạng cứu anh. Điều này rất khó. Phải mất nhiều ngày. Có thể tôi sẽ dẫn anh ra khỏi đây. Nào! Đi đi! Họ sẽ tìm thấy anh. Còn nếu như họ thấy anh và tôi đang đi với nhau thì cả hai sẽ chết, họ sẽ giết cả tôi. Bởi vì họ nghĩ rằng tôi đã xúc phạm thánh thần.

- Thế thì không cần cô liều mạng nữa - Tácdăng nói - Tôi sẽ trở lại ngôi đền và liều thân chiến đấu, tự dành lấy tự do.

Cô gái lắc đầu phản đối và yêu cầu Tácdăng đi theo cô. Hai người đi rất lâu qua những đường hầm ngoằn nghèo, ngang dọc.

- Tôi sẽ giấu anh ở đây rồi quay về một mình - Cô gái nói - Tôi sẽ nói với mọi người là, vừa trông thấy anh giết chết Tha, tôi đã ngất đi. Vì vậy tôi không biết anh trốn đi đâu.

Cô gái dẫn Tácdăng qua một hành lang uốn khúc quanh co và cuối cùng dừng lại ở một căn phòng nhỏ. Từ trần nhà lộ ra một quầng sáng yếu ớt.

- Đây là đền thờ Thần Chết - Cô gái nói - Không ai nghĩ tới chuyện anh trốn ở đây. Chính tôi cũng không đủ can đảm một mình bước vào chốn này. Chịu khó chờ đến tối, tôi sẽ quay lại. Từ giờ đến tối, tôi sẽ nghĩ ra cách giải thoát cho anh.

Cô gái nói rồi vội vã bước đi, bỏ lại một mình Tácdăng trong đền thờ Thần Chết. Thế là Tácdăng đã đứng dưới lòng sâu của thành phố mang tên Opa - Một thành phố chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Những kẻ sống sót


Clâytơn mơ thấy đang được uống một thùng nước mát. Anh uống ừng ực từng hơi, nước tràn ra cổ áo, ướt cả ngực mà vẫn không hết khát. Tỉnh giấc, anh mới biết mình đang nằm dưới trận mưa rào của miền nhiệt đới. Anh ngửa thẳng mặt, cố há mồm thật rộng để uống. Một lúc sau, anh cảm thấy khỏe hơn, có thể cử động được chân tay. Trước mặt anh, Tơran vẫn đang nằm. Cách Tơran vài bước, Gian Potơrôva nằm bất động như một xác chết. Clâytơn cố hết sức lết lại gần cô gái. Anh đinh ninh là cô đã chết. Nhưng khi nâng đầu cô dậy khỏi tấm ván thuyền đẫm nước, anh mới biết rằng cơ thể cô vẫn đang còn âm ấm. Thật tội nghiệp cho Gian! Từ khuôn mặt trũng sâu và lồng ngực khô khỏng, da dính sát xương sườn của cô gái, Clâytơn cảm thấy cơ thể bé bỏng này chỉ còn lại là một đốm lửa le lói của sự sống. Nhưng dù sao đi nữa anh vẫn còn hy vọng.

Chộp lấy cái khay tràn trề nước mưa, Clâytơn dốc nước vào đôi môi khô nẻ của Gian Potơrôva. Chao ôi! Đôi môi mơ ước của anh! Chỉ mươi hôm trước thôi, từ đôi môi này chốc chốc lại bừng lên nụ cười mê hồn của tuổi trẻ và cái đẹp! Clâytơn chờ mãi vẫn không thấy một dấu hiệu nào của sự sống trên mặt cô gái. Nhưng cuối cùng thì cô cũng rùng mình và từ từ mở mắt. Clâytơn xoa xoa bàn tay gầy guộc của cô. Mở to mắt, cô nhìn Clâytơn đăm đăm rồi như choàng tỉnh giấc. Cô đã nhận ra mình đang ở đâu.

- Nước? - Potơrôva thều thào hỏi - Chúng ta được cứu sống rồi phải không?

- Mưa đấy - Clâytơn giải thích - Cuối cùng thì chúng ta cũng được sống. Trời đã cứu hai ta.

- Còn ông Tơran đâu rồi? - Potơrôva hỏi - Chết rồi à?

- Tôi không biết nữa - Clâytơn thật thà thú nhận - Nếu như ông ta chưa chêt thì nước mưa cũng làm cho ông ta tỉnh dậy...

Clâytơn trả lời nhưng trong lòng hơi tự ái. Vì sao Potơrôva lại nhắc ngay tới Tơran? Anh định kể lại cho cô biết chuyện cuộc rút thăm lần thứ hai giữa anh và Tơran. Nhưng anh nghĩ rằng, đưa câu chuyện tàn nhẫn đó ra lúc này là hoàn toàn không hợp.

- Ông Tơran đâu? - Potơrôva lại hỏi.

Clâytơn quay đầu về phía Tơran đang nằm. Im lặng một lát, anh mới nói:

- Thôi thì... anh tìm cách làm cho Tơran tỉnh dậy.

- Không! - Potơrôva thều thào kêu lên rồi túm chặt Clâytơn - Đừng làm việc đó! Ông ấy sẽ giết chết anh nếu như ông ta khỏe lại. Nếu ông ta đang chết, cứ để cho chết. Tôi không muốn ở bên cạnh loài thú.

Clâytơn do dự. Nhưng một vài giây sau anh lại cảm thấy vô cùng bứt rứt. Rất có thể là anh sẽ chẳng giúp được gì cho Tơran sống lại. Nhưng nếu anh cứ bỏ mặc cho người đồng hành nằm đấy, anh cảm thấy mình cũng độc ác chẳng khác gì hắn. Nếu cứ nằm yên, anh sẽ làm đẹp lòng Potơrôva... Trong lòng Clâytơn diễn ra một cuộc đấu tranh căng thẳng, một cuộc xung đột gay gắt giữa lương tâm và lòng vị kỷ. Anh cố đấu tranh với chính bản thân mình. Lặng lẽ một lúc, anh nghiêng đầu nhìn qua mạn thuyền, ánh mắt anh chợt vấp phải một vật gì đó trên mặt biển. Niềm vui bất ngờ làm cho đôi chân anh nẩy tung lên khỏi sàn thuyền. Một tiếng thét bật ra khỏi đôi môi nứt nẻ của Clâytơn.

- Đất liền! Gian! Đất liền! Lạy Chúa, đất rồi!

Gian Potơrôva nhìn theo hướng tay Clâytơn. Đúng là đất liền! Chỉ cách con thuyền chừng vài trăm mét, trước mắt Potơrôva là một dải rừng già.

- Bây giờ thì anh có thể đánh thức ông ta dậy - Cô gái nói. Cuối cùng thì cô cũng thấy lương tâm cắn rứt.

Chỉ một lát sau, Tơran đã tỉnh lại. Hắn mở to mắt nghe hai người thông báo cho biết chuyện gì mới xảy ra. Hắn chưa hết ngạc nhiên, con thuyền đã đứng lại. Hắn nghe rõ tiếng đáy thuyền chạm cát.

Trận mưa rào và niềm vui gặp được đất liền đã làm Clâytơn khỏe hẳn lên. Anh nhảy xuống nước, trong lòng lâng lâng khi thấy mình đứng thẳng bằng hai chân trên nền cát biển. Anh vừa lội, vừa kéo con thuyền sát vào bờ rồi cột chặt vào một lùm cây. Anh làm mọi việc thật nhanh chóng, vì lúc này thủy triều đang rút xuống. Biết đâu rồi trời ngừng gió, thủy triều lại giật con thuyền trở lại biển khơi.

Xong việc, Clâytơn quay lại đón Potơrôva. Lúc này anh lại cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Lê từng bước trong rừng, anh chợt nhớ tới Tácdăng. Anh hái một ôm hoa quả rồi tiến thẳng ra bờ cát.

Mưa đã tạnh từ lâu. Mặt trời như đổ lửa thiêu đốt vạn vật. Không thể chịu đựng được thứ ánh nắng tàn nhẫn của vùng nhiệt đới, Potơrôva cùng Tơran và Clâytơn chạy vội vào rừng. Sau khi đã nhồi đầy bụng đống trái cây mà Clâytơn mang về, cả ba người ngồi tránh nắng dưới gốc cây buộc thuyền. Chỉ một vài phút sau, ba kẻ sống sót của con thuyền Alice đã nằm dài dưới bóng cây, ngủ mê mệt cho tới tận chiều tối.

° ° ° Suốt một tháng sau đó, ba người sống rất bình an ven bờ biển. Clâytơn và Tơran dựng trên lùm cây cao một chiếc chòi khá rộng để phòng thú dữ. Ban ngày, hai người đàn ông tranh thủ đi đào củ mài và hái trái cây. Ban đêm, trên chiếc tổ cheo veo, cả ba không dám thò chân ra ngoài. Họ dùng cỏ khô chống khí lạnh ban đêm. Tấm chăn duy nhất cho Potơrôva là chiếc áo khoác cũ của Clâytơn. Đó là chiếc áo mà Clâytơn đã mặc từ cái ngày đáng nhớ ở Uytcơnxin.

Chàng Clâytơn tội nghiệp đã phải ngăn chiếc chòi làm hai phần. Một phần cho mình và Tơran, một phần dành riêng cho cô gái.

Ngay từ những ngày đầu tiên dẫm chân lên đất liền, Tơran đã bộc lộ rõ tính cách thật của mình. Dường như người ta có bao nhiêu tật xấu ở đời, Tơran đều có cả. Hắn ích kỷ, tàn nhẫn, hợm mình và vô cùng hèn nhát. Đã hai ba lần, xuýt nữa thì xảy ra cuộc đấm đá giữa hai người đàn ông, chỉ vì thái độ của Tơran với Potơrôva. Chính vì vậy, Clâytơn không dám để cô gái một mình với Tơran. Cuộc sống của hai kẻ hứa hôn đã trở thành một cuộc thử thách căng thẳng của lòng dũng cảm và đức kiên nhẫn. Cả hai đều cố gắng giữ gìn và hy vọng rằng, tới một ngày nào đó sẽ có người đến cứu.

Potơrôva thỉnh thoảng lại nhớ tới cuộc phiêu lưu khủng khiếp và lãng mạn của mình trong rừng già năm trước. Cô ước ao lại gặp được Thần Rừng. Nếu có vị thần dũng mãnh và trai trẻ ấy bên mình, cô sẽ chẳng sợ gì hổ báo, chẳng sợ gì kẻ đồng hành tàn nhẫn kia. Tất cả sự nhiệt tình, cố gắng của Clâytơn dành cho cô làm sao sánh được với Tácdăng.

Một lần, nhân lúc Clâytơn đi lấy nước, Potơrôva nói thẳng với Tơran:

- Ông đã gặp may đấy, ông Tơran ạ! May mà chàng Tácdăng tội nghiệp của tôi không có ở đây. Trên đường hộ tống tiểu thư Stroong đến Kapexity, Tácdăng đã bị chết đuối. Ông còn nhớ người đồng hành ấy chứ?

- Cô mà cũng biết cái thằng giẻ rách ấy à? - Tơran bĩu môi hỏi lại.

- Tôi biết người đó - Potơrôva trả lời rất nghiêm trang - Đó là một người đàn ông thực thụ, một người duy nhất thực sự là đàn ông mà tôi gặp được trên đời.

Nghe qua giọng cô gái, Tơran nghĩ rằng trong quan hệ giữa cô gái và Tácdăng hình như còn có một tình cảm gì đó vượt ra ngoài tình bạn thông thường. Hắn quyết định tiếp tục trả thù Tácdăng và chọc tức cô gái bằng những từ ngữ lăng nhục tên tuổi chàng trai. Trong thâm tâm hắn vẫn nghĩ rằng Tácdăng đã chết từ lâu. Nhưng dẫu Tácdăng đã làm mồi cho cá rồi thì hắn vẫn chưa hả giận.

- Gã đàn ông của cô còn vô dụng hơn cả đống giẻ rách - Tơran lắc đầu ra vẻ kinh tởm - Hắn ta vừa yếu vừa hèn. Hắn ta giở trò bẩn thỉu với một người đàn bà. Chuyện vỡ lở, tới khi người chồng nổi giận định trừng trị thì hắn lại đổ tội lỗi cho người đàn bà. Để tránh cuộc đấu súng danh dự, hắn ta tìm đường chuồn khỏi nước Pháp. Thế là vô tình, hắn đã bước xuống con thuyền mà tôi và tiểu thư Stroong đang đi tới Kapexity. Tôi biết hết mọi chuyện, vì người đàn bà tội nghiệp nọ là chị gái của bạn tôi. Còn một chuyện này nữa, chuyện này tôi chưa hé lộ cho ai biết. Chàng Tácdăng dũng cảm của cô vì sợ tôi nên đã nhảy xuống biển. Bởi vì khi đó tôi đã nhận ra hắn và gọi hắn vào phòng thách đấu.

Gian Potơrôva bật cười.

- Chả lẽ ông nghĩ rằng một người rất hiểu Tácdăng như tôi lại có thể dễ dàng tin theo những lời bịa đặt nhảm nhí?

- Thế tôi hỏi cô, vì sao ở trên tàu hắn lại dùng tên giả?

Potơrôva nín lặng hồi lâu rồi lắc đầu quầy quậy:

- Gì thì gì, tôi cũng không tin ông! - Cô gái kêu lên bực tức. Mặc dù vậy, trong lòng cô cũng gợi lên một chút băn khoăn. Rõ ràng là Stroong không biết một cái tên nào khác ngoài cái tên Giôn Canđuen.

° ° °

Trong lúc Tơran và cô gái đang cãi nhau thì cách đó không đầy năm dặm, Tácdăng đang đứng rình mồi. Và cũng chỉ cách đó không đầy sáu dặm về phương bắc, mười tám người còn lại của con thuyền tiểu thư Alice đang sống cụm với nhau dưới những mái lều che tạm. Họ đã chèo chống suốt ba ngày trên sóng biển. May mà biển không giận dữ nên sau ba ngày, họ đã thở phào nhẹ nhõm rồi bước lên đất liền. Họ vẫn không quên tai họa và cái chết của thuyền buồm Tiểu thư Alice. Ấn tượng về tấm thảm kịch của con thuyền càng tăng lên khi họ nhớ tới chiếc thuyền con của Potơrôva mất tích. Nhưng dù sao chăng nữa, họ vẫn cảm thấy mình là những người may mắn và cuộc sống của mình chưa đến nỗi tuyệt vọng. Họ hy vọng rằng chiếc thuyền của Potơrôva chưa bị đắm và một ngày nào đó họ sẽ tìm ra.

Phần lớn vũ khí đều đặt trong chiếc thuyền của Teningtơn. Vì vậy nhóm 18 người của Teningtơn có đủ súng ống để tự vệ trước thú dữ. Cuộc sống sinh hoạt của họ xét ra cũng không đáng phàn nàn. Chuyện làm mọi người rầu lòng và bực bội, có chăng chỉ là chuyện của giáo sư Acsimet Q.Potơ. Chẳng hiểu sao ông già cứ dứt khoát tin rằng cô con gái rượu của ông đã được một chiếc tàu nào đó cứu sống. Hoàn toàn yên tâm về con gái, ông lại bắt tay vào những tìm kiếm khoa học. Tất cả mọi chuyện khác ông đều coi là chuyện vặt, "không đáng quan tâm".

"Chưa bao giờ tôi lại khổ sở vì giáo sư Potơ đến thế!" - Viên trợ lý Philanđơ thở dài mệt mỏi trong khi dốc bầu tâm sự với Teningtơn - Anh thấy đấy, cứ rời mắt khỏi ông ta một lúc là có chuyện rắc rối. Như buổi sáng hôm nay, tôi vừa bỏ đi một lúc, tới lúc quay về, ông ta đã biến mất. Anh đoán thử xem, tôi tìm thấy ông ta ở đâu? Một mình ngoài biển! Ông ta lấy một chiếc thuyền rồi tự chèo ra khơi mà không cần biết chèo đi hướng nào. Có trời biết vì sao ông ta lại chèo được ra xa đến thế. Bởi vì thuyền ấy chỉ có một mái chèo. Khi ông ta chèo, thuyền cứ chạy vòng tròn. Thế mà ông ta ra được tới hơn một dặm. Khi tôi cùng một thủy thủ lấy thuyền bơi ra tìm, ông ta vẫn khăng khăng không chịu quay vào. Anh có biết ông ấy mắng tôi thế nào không? Ông ấy bảo: "Này ông Philanđơ! Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Tại sao một trí thức già, uyên bác như ông mà lại cản trở sự phát triển của khoa học. Sống qua mấy đêm ở vùng nhiệt đới này tôi đã quan sát các hiện tượng thiên văn và rút ra một kết luận mới về tinh vân. Có thể đó chỉ là giả thiết khoa học nhưng nó cũng đủ làm tất cả các nhà thiên văn toàn thế giới sửng sốt. Tôi muốn phản bác lại lý thuyết Laplaxơ - một công trình thiên văn học, mà nếu nhớ không nhầm, thì cho tới nay vẫn còn đang nằm trong một thư viện tư nhân ở New York. Sự can thiệp của ông thật quá thô bạo, ông Philanđơ ạ! Đó là một sai lầm không thể tha thứ được. Tôi đang định ra khơi quan sát và lấy số liệu. Thế mà vừa khởi hành thì ông đã mò ra chặn đường..." Anh thấy đấy, ông ta cứ vừa mắng tôi, vừa nhảy chồm chồm trong lòng thuyền. Rất khó thuyết phục để ông ta quay lại bờ". - Philanđơ thở dài kết thúc câu chuyện.

Mặc dù các loài thú dữ rình mò tấn công liên tục, nhưng hai người phụ nữ trong nhóm là Stroong và bà mẹ của cô lại tỏ ra hết sức bình tĩnh. Hai người tỏ ra rất lo lắng cho số phận của ba người vắng mặt. Khác với tất cả mọi người, hai người không tin rằng Gian Potơ rôva, Clâytơn và Tơran đã thoát nạn. Exmêranda thì suốt ngày suốt đêm than thân trách phận. Cô nghĩ rằng số cô thật quá hẩm hiu. Cô đã vĩnh viễn mất đi cô chủ đáng kính của mình. Hầu tước Teningtơn trong những ngày tháng nặng nề vừa qua thực sự là một nguời đàn ông tốt bụng. Anh vẫn là một ông chủ lạc quan vui tính. Anh chăm lo cho mọi người thật chu đáo và biết cách làm cho mọi người khuây khỏa. Mặc dù là một người chỉ huy nghiêm khắc, nhưng anh đã xử sự với các thủy thủ rất công bằng, thấu tình đạt lý. Chính vì vậy mà ngay ở chốn rừng sâu này, kỷ luật trật tự vẫn được duy trì chẳng khác gì như mọi người đang sống trên thuyền Alice.

Nếu như nhóm người này quá chân đi bộ khoảng vài dặm đường về phương nam, ắt hẳn họ sẽ gặp nhóm ba người - những người mà mới tuần trước đã cùng họ vui vẻ sống chung dưới một cánh buồm.

Lúc này Clâytơn và "ngài Tơran" đã mất sạch quần áo. Complê của họ đã bị nước mặn làm rách nát từ lúc lên bờ. Sau những ngày đi tìm thức ăn, gai nhọn và nhựa cây trong rừng lại phá nát tới mảnh lót cuối cùng. Tiểu thư Potơrôva cũng không thoát khỏi tình trạng ấy. Mặc dù cô có cẩn thận gìn giữ đến mấy thì áo váy của cô cũng đến lúc tự rụng khỏi người.

Clâytơn đã tận dụng từng mảnh da thú mà anh săn được. Anh căng từng mảnh trên cành cây, thận trọng tẩy rửa lớp bì. Sau khi gom góp được một đống da thú, anh dùng gai nhọn làm dùi, dùng những sợi cỏ khô làm chỉ, khâu một bộ quần áo. Cặm cụi mấy ngày liền, cuối cùng thì bộ quần áo cũng thành hình. Điều đáng phàn nàn là áo không có ống tay còn quần thì chỉ dài chưa tới đầu gối. Đã thế, bộ quần áo lửng đó lại bốc mùi da thối. Khi anh mặc vào người rồi bước ra trình diện với Potơrôva, cô gái vừa bịt mũi bỏ chạy, vừa cười sặc sụa. Noi theo gương lao động của Clâytơn, Tơran cũng phải khâu bộ cánh da thú cho mình. Bộ cánh của Tơran trông thật khủng khiếp vì nó được chằng đụp bởi hàng chục màu lông thú khác nhau. Vì vậy, khi Tơran đứng bên cạnh Clâytơn với cặp chân trần và bộ râu dài lởm chởm, hai người đàn ông này trông chẳng khác gì những người thợ săn mamút thời cổ đại. Hai tháng đã trôi qua tính từ ngày ba người đặt chân lên mép rừng. Một hôm, Tơran lên cơn sốt rét vì bệnh ngã nước nên nằm co quắp trong chiếc chòi cao. Clâytơn vào rừng kiếm đồ ăn. Tới khi anh trở về, đã thấy Potơrôva chạy ra xa đón mình. Clâytơn vui vẻ ngắm Potơrôva nên không biết rằng sau lưng mình đã vang lên tiếng bước chân rón rén của một con sư tử già. Đã mấy ngày nay, con sư tử già sục sạo mọi nơi mà không kiếm được miếng thịt nào lót dạ. Càng bị chiếc dạ dày co thắt hành hạ, con sư tử càng mở rộng bán kính lùng sục. Cuối cùng thì nó đã tìm được Clâytơn - một thứ mồi yếu đuối, tay không vũ khí, thịt rất dễ nhai.

Clâytơn không hề biết cái chết đang bám theo sát gót. Từ rừng sâu, anh bước ra, tươi cười nhìn cô gái. Khi Clâytơn bước lại gần, Potơrôva giật mình, kinh hãi tới mức không đủ sức kêu lên một tiếng. Cô đã trông thấy sau lưng Clâytơn cái đầu nửa vàng nửa đỏ của con sư tử.

Không cần quay đầu nhìn lại, mới nhìn vào mặt cô gái, Clâytơn đã biết rằng cả hai đang bị cái chết đe dọa. Tai họa đã ập đến sau lưng rồi! Clâytơn chỉ có trong tay một khúc cây. Khúc cây khá to và chắc. Nhưng để đối mặt với sư tử thì khúc gậy ấy chẳng khác gì một thứ vũ khí bằng nhựa dành cho trẻ con. Dạ dày con sư tử đã sôi lên vì cơn đói. Nước miếng của nó đã ứa ra đầy ngập chân răng. Tuy vậy nó vẫn không cần vội vã. Nó biết rằng cuộc săn lùng của mình đã không uổng phí. Đằng nào thì con mồi cũng không chạy thoát được nữa.

- Chạy đi, Gian! - Clâytơn thét lên - Chạy nhanh về chòi!

Cơ thể cô gái lúc này tự nhiên nhũn ra. Chỉ có hai bàn chân cô là cứng đờ, khiến cô cứ đứng im như mọc rễ, dương mắt nhìn trân trân vào bộ râu mép của thần chết.

Nghe tiếng thét đầu tiên của con sư tử, Tơran bừng tỉnh khỏi cơn sốt. Mồ hôi hắn bắt đầu vã ra. Khi trông thấy hai người và con sư tử dưới chân mình, hắn lao vào trong chòi, cuống cuồng kêu cứu:

- Chạy về đây, chạy về đây! Đừng để tôi một mình thế này!

Tiếng kêu của Tơran đứt đoạn vì tiếng khóc nức nở.

Nghe thấy tiếng kêu khóc của Tơran, con sư tử dừng bước, ngước mắt nhìn lên cây. Clâytơn lúc này đã không chịu đựng nổi sự căng thẳng thần kinh. Anh quay lưng lại phía con sư tử, úp mặt vào hai lòng bàn tay, chờ cú vồ của con thú.

Cô gái ngạc nhiên nhìn Clâytơn. Tại sao Clâytơn không hành động gì? Nếu như đằng nào cũng chết, sao anh không chết như một người đàn ông trong một cuộc chiến đấu, dù là một cuộc chiến vô vọng? Nếu như Tácdăng rơi vào tình huống này, chắc chắn chàng sẽ đối mặt với kẻ thù và chiến đấu tới giọt máu cuối cùng.

Con sư tử đã nhún hai chân sau. Cuộc săn mồi của nó đã đến lúc kết thúc. Gian Potơrôva quỳ sụp xuống cầu Chúa cứu rỗi linh hồn. Trên chòi cao, Tơran ngất xỉu vì kiệt sức. Những giây phút cuối cùng này như dãn ra, dài như hàng thế kỷ. Nhưng con sư tử vẫn chưa vồ. Clâytơn vẫn nhắm mắt chờ chết. Đầu gối anh run lẩy bẩy. Chỉ trong chớp mắt nữa thôi, cơ thể anh sẽ bị xé nát. Gian Potơrôva không chịu đựng nổi sự căng thẳng kéo dài. Cô quyết định ngẩng đầu nhìn lên. Phải chăng cô đang đứng trong một giấc mơ.

- Uyliam! - Cô gái thì thào kêu lên - Xem kìa!

Clâytơn cố gắng ngẩng đầu, quay lại nhìn về phía sư tử. Đôi môi cứng đờ của anh bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Con sư tử đã nằm vật ra đất. dãy dụa. Trên lưng nó, cắm sâu một mũi lao rất nặng, mũi lao mà các chiến binh thổ dân thường sử dụng. Potơrôva đứng dậy, nhưng khi Clâytơn bước đến bên cô đã loạng choạng vì kiệt sức. Clâytơn vội vã đỡ hai tay để cô khỏi ngã. Anh kéo cô vào lòng rồi cúi xuống hôn vào má cô một cái hôn nhẹ nhàng giống như một cử chỉ ơn Chúa vì thoát nạn.

- Đừng làm thế! Uyliam! - Cô gái thều thào - Dường như tôi vừa sống qua một thế kỷ. Tới khi đối mặt với cái chết, tôi mới hiểu ý nghĩa cuộc sống. - Potơrôva im lặng một lát rồi nhìn Clâytơn bằng cái nhìn như van lơn - Tôi không muốn làm anh đau khổ. Nhưng tôi không thể sống với ý nghĩ rằng mình đã nhận lời cầu hôn của anh. Chính những giây phút vừa qua tôi đã hiểu rằng tôi không thể tự lừa dối mình và lừa dối cả anh nữa. Như thế là không ngay thẳng chút nào. Clâytơn! Tôi không bao giờ thành vợ anh được. Ngay cả khi chúng ta thoát nạn trở về, tôi cũng không bao giờ...

- Tại sao, Gian? - Clâytơn kêu lên - Sao cô lại nghĩ thế? Tôi không hiểu nổi tình cảm của cô. Cô mất bình tĩnh rồi. Ngày mai cô sẽ sống một mình như một người cô đơn.

- Ngay lúc này, tôi đã cảm thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết. Mối hiểm họa vừa qua khiến tôi nhớ tới một người đàn ông khác. Đó là một người đàn ông dũng cảm. Người ấy yêu tôi, nhưng vì tình yêu mà anh ấy cố gắng tránh tôi. Tôi đã không ý thức được điều ấy nên đã từ chối anh ấy. Bây giờ anh ấy chết rồi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ lấy chồng. Bởi vì tôi không thể sống với một người đàn ông không dũng cảm như anh ấy. Nếu lấy chồng, có lẽ suốt đời tôi sẽ so sánh chồng tôi với anh ấy. Anh thông cảm cho tôi!

- Tôi hiểu rồi - Clâytơn cúi đầu, buồn bã trả lời. Khuôn mặt anh đỏ lên vì ngượng ngập. Anh cảm thấy chính lúc này mới là lúc mình gặp phải nỗi bất hạnh khủng khiếp nhất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Kho vàng của thành phố Opa


Chờ cho trời tối hẳn, nữ đạo sĩ La mới quay lại đền thờ Thần Chết để đem thức ăn cho Tácdăng. Không dám đốt đuốc nên cô phải đưa tay sờ soạng lần theo mép tường đá và các bậc cầu thang để bước xuống tầng hầm. Ánh trăng già vàng vọt xuyên qua những lỗ thủng trên những bức tường cổ long lở chiếu xuống bóng cô. Vừa nghe thấy tiếng bước chân người đi xuống, Tácdăng đã nhô ra khỏi góc phòng, bước tới đón nữ thần hộ mệnh của mình.

- Họ đang nổi điên - cô gái lên tiếng nói trước - Từ xưa tới nay, chưa có ai thoát khỏi chốn này. Có lẽ phải đến năm chục người đang sục sạo tìm dấu vết của anh. Họ lần tìm mọi ngóc ngách, trừ phòng này.

- Vì sao họ không dám xuống đây? - Tácdăng hỏi.

- Đây là phòng dành cho người chết. Anh có thấy chiếc bàn thờ kia không? Ở đó các linh hồn rất thèm sự sống. Hồn ma sẽ ăn thịt người sống nếu bắt được ai. Vì vậy người của chúng tôi rất sợ căn hầm này. Ai cũng nghĩ rằng nếu mình bước xuống đây sẽ lập tức bị giết và biến thành ma đói.

- Thế còn cô?

- Tôi là đạo sĩ trưởng. Vì vậy tất cả mọi linh hồn đều vị nể, không dám đụng tới tôi. Chính tôi là người có quyền lựa chọn và đưa các hồn ma từ điện thờ Thần Chết này lên sống ở trời cao. Vì vậy, tôi có thể xuống đây mà không gặp hồn ma nào đe dọa.

- Tôi thực sự tò mò. Chả lẽ không có hồn ma nào ngỗ ngược chộp lấy vai cô? - Tácdăng vừa hỏi vừa mỉm cười nhìn nữ đạo sĩ.

- Nhiệm vụ của đạo sĩ là truyền bá những điều mà cha ông chúng tôi đã sáng tạo nên. Trong những giáo lý thông thái của chúng tôi đã có một câu truyền rằng: Không được thắc mắc mà phải tin mọi lời phán truyền. Tất cả mọi điều đã được Thần Mặt Trời soi sáng. Ai càng biết nhiều, suy ngẫm nhiều về tôn giáo của mình thì càng ít lòng tin. Chẳng có ai trong dân tộc tôi biết về tôn giáo dân tộc hơn tôi đâu.

- Tức là cô chỉ lo những người đang sống trông thấy cô cứu tôi và cô chẳng tin gì cả?

- Đúng thế! Người đã chết thì chẳng còn gì nữa. Đã chết thì chẳng làm phiền ai cũng chẳng giúp được ai. Cho nên chúng ta phải trông cậy vào chính bản thân mình... Đánh lừa bọn lính gác không phải là chuyện dễ. Tôi mang thức ăn xuống cho anh đây. Tôi không thể nuôi anh dưới này mãi được. Hãy đi theo tôi! Thử xem xem con đường thoát khỏi ngôi đền dài bao nhiêu. Tôi phải quay về sớm để khỏi bị nghi ngờ.

Tácdăng vừa ăn vừa đi theo cô gái. Hai người quay lên bàn thờ hiến tế rồi rẽ sang một hành lang tối om. Tácdăng không thể nhận ra lối đi trong bóng tối, đành mò mẫm theo cô, cuối cùng hai người đã chạm tay được vào hai tấm cánh cửa. Tiếng chìa khóa vang lên lách cách trong tay cô gái.

- Anh có thể ở đây an toàn cho tới đêm mai. Đây là nơi có đường thoát dễ hơn cả - Cô gái nói rồi vội vã giật lùi ra cửa. Cô khép cửa rồi cài then rất chặt.

Tácdăng như bị chìm trong bóng tối. Đôi mắt của chàng tuy đã quen với bóng tối rừng sâu nhưng vẫn không đủ thị lực để phá vỡ bóng tối chốn này. Chàng đành phải dò dẫm từng bước để tìm hiểu căn phòng. Nền phòng lạnh giá, tất cả các bức tường đều được lát bằng đá hoa cương. Dường như căn phòng chỉ có một lối vào và không có cửa sổ. Chàng lần mò khắp bốn bức tường rồi lúc tiến lúc lùi, dùng mũi để kiểm tra từng góc. Có một mảng tường khiến chàng cảm thấy tò mò: chàng đã không đoán sai. Rõ ràng ở đó chàng đã ngửi thấy mùi gió mát rượi từ bên ngoài lọt vào. Chàng sờ từng phiến đá trên tuờng và lay thử. Một lát sau chàng đã phát hiện được một phiến đá lạnh hơn tất cả các phiến đá khác. Nó chỉ to chừng mười đốt ngón tay và có một lỗ thủng lờ mờ. Chàng dùng sức kéo bật nó ra rồi luồn tay giật bung những phiến đá xung quanh. Hóa ra bức tường được kết bằng những viên đá hình khối hộp. Một lúc sau, chàng đã moi được một đống đá. Khoảng trống mỗi lúc một rộng. Chui qua bức tường, chàng đã thấy có ánh sáng yếu ớt phía trước. Chàng quỳ xuống, thận trọng nhích dần từng tí một. Nền phòng này đột nhiên kết thúc. Chàng sờ chỗ nào cũng thấy mép vực. Thật hú hồn! Chàng ngẩng đầu nhìn lên và phát hiện một lỗ thủng nhỏ phía trên. Qua lỗ thủng, chàng trông thấy một mảng da trời phơn phớt ánh sao. Vừa bò, vừa sờ vách đá, lát sau chàng đã xác định được rằng mình đang ở trên miệng giếng.

Tại sao người ta lại xây dựng một công trình kỳ quặc thế này? Tácdăng băn khoăn tự hỏi rồi nhìn lên cao. Lỗ thủng trên đầu đột nhiên ló ra một vành trăng bạc.

Hóa ra bầu trời đang có những vệt mây di động, ánh trăng giúp chàng nhìn sâu xuống lòng giếng. Đúng là một chiếc giếng cổ. Đáy giếng ánh lên ánh sáng phản chiếu của mặt nước phẳng lặng. Vậy thì chiếc giếng này và căn phòng mà chàng vừa thoát ra có liên hệ gì với nhau? Người ta xây chúng nhằm mục đích gì? Chàng băn khoăn suy nghĩ.

Mảnh trăng đã trôi vào chính giữa lỗ hổng trên đầu, soi sáng khoảng không trước mặt Tácdăng. Bức tường phía trước lộ ra một lối thoát. Cần phải tiếp cận lối thoát đó! Tácdăng quyết định ngay tức khắc. Chàng lùi trở lại bức tường mà mình vừa đục thủng để lấy đà nhảy. Những lớp bụi đất bám quanh tường chứng tỏ rằng nếu như cư dân đang sống trong thành này có biết tầng hầm cũng chẳng bao giờ đặt chân xuống đây. Tácdăng nghĩ thầm và bê từng viên đá lấp kín lỗ hổng mà mình vừa phá. Miệng giếng rộng chừng dăm mét. Việc nhảy qua đó đối với chàng chỉ là chuyện vặt. Vì vậy chỉ trong chớp mắt chàng đã vọt qua miệng giếng. Chàng chui vào lỗ hổng dưới chân tường và thận trọng dò dẫm phía trước. Biết đâu chàng có thể rơi tõm xuống những chiếc giếng khác nữa.

Tiến thêm được một vài mét, chàng gặp một cầu thang dẫn sâu xuống lòng đất tối om. Cầu thang kết thúc trên nền đá lát lạnh lẽo. Chỉ lát sau chàng đã sờ tay được vào tấm cửa gỗ có thanh gỗ chặn ngang. Bây giờ thì chàng đã khẳng định được rằng, con đường này chính là con đường nối ngôi đền thờ Mặt Trời với thế giới bên ngoài. Nếu như khu vực này là nhà tù, cửa ra vào phải đặt ở hướng đối diện. Hơn nữa, cửa ra vào bám đầy bụi bặm, chứng tỏ từ lâu nó không được bàn tay nào đụng tới. Tácdăng tìm cách mở cửa. Cả căn hầm tối vang lên tiếng động ầm ĩ, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh, thiêng liêng của khu đền.Tiếng động làm chàng cảm thấy rờn rợn. Chàng dừng tay nghe ngóng xem xung quanh có phản ứng gì không. Không có tiếng động nào đáp lại. Chàng yên tâm bước qua cửa. Trước mặt chàng lại là một căn phòng rộng rãi. Chàng biết điều đó bằng sự nhạy cảm và kinh nghiệm khứu giác. Bởi vì bốn phía vẫn đen đặc bóng tối. Lần tay theo mép tường và dùng chân để kiểm tra, chàng phát hiện ra trong phòng có rất nhiều thứ đồ làm bằng kim khí. Phải chăng đó là vàng? Chàng tự hỏi rồi bật cười vì phán đoán ngây thơ của mình. Những thứ vật dụng kỳ quặc đó, thứ nào cũng nặng đến ngàn cân. Đã là vàng thì không ai đúc nặng đến thế.

Đi đến cuối phòng, chàng lại gặp một lối vào tương tự như cánh cửa phía trong. Biết đâu đây chính là ngưỡng cửa cuối cùng cho chàng trở về lại với núi rừng tự do? Rõ ràng là lối đi đã hướng lên cao. Nhưng rồi hy vọng của chàng vụt tắt. Hóa ra chàng đang ở trong một chiếc động lớn.

Mò mẫm một lúc chàng phát hiện ra một khe đá nằm giữa hai lối mòn. Trên đầu chàng đã nhấp nháy những ngôi sao muộn và một vách đá cao dựng đứng. Chàng vọt lên lối mòn và vượt qua một tảng đá khổng lồ. Chàng cảm thấy vô cùng sảng khoái vì không khí trong lành thoáng đãng của trời đất. Nhô đầu lên khỏi mặt đất, chàng nhìn được toàn cảnh thành phố Opa. Những tháp nhọn, đền đài của thành phố cổ tích này đang thiu thiu ngủ dưới ánh trăng mờ của vùng nhiệt đới.

Tácdăng quyết định quay trở lại căn phòng bí ẩn dưới hầm sâu. Sục sạo trong bóng tối một lúc, chàng đã tìm được cái cần tìm. Chàng tung từng mẩu kim loại nằng nặng đó trong lòng bàn tay. Chàng không còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là vàng. Chàng ngẩng đầu nhìn lên và giật mình. Mắt chàng như bị hút về những cột trụ màu vàng.

"Ôi Opa! - Chàng thầm kêu lên - cái thành phố của một thời vang bóng, cái thành phố của những con quỷ lông xồm cùng những người đàn bà kiều diễm, cái thành phố của đe dọa chết chóc gắn cùng hàng trăm huyền thoại".

Opa chính là thành phố được xây cất bằng vàng. Cuối cùng Tácdăng đã đặt được chân lên mặt đất mát lạnh của rừng già. Chàng mải miết bước đi không hề nhìn lại thành phố bí ẩn sau lưng. Con đường mòn dẫn chàng về với những dải rừng ngạt ngào mùi hoa dại.

Khi chàng bước lên ngọn núi phía tây thung lũng, mặt trời đã mọc. Chàng nhìn xuống phía dưới và trông thấy một luồng khói đang bốc lên từ một tán cây.

"Có người! - Tácdăng thầm nghĩ - Năm chục người đang lùng bắt mình chăng?" Chàng vội vàng bám theo vách đá rồi bò lên cây để luồn vào rừng rậm. Chàng tiến về hướng có luồng khói. Một lúc sau chàng đã tới đống lửa dưới gốc cây. Những người đốt lửa chẳng phải ai khác mà chính là các chiến binh Oadiri.

- Hỡi chiến sĩ! Hãy đứng dậy mà chào thủ lĩnh! - Tácdăng kêu lên bằng tiếng của bộ lạc Oadiri.

Nghe thấy tiếng người quát trên cao, các chiến binh của Tácdăng nhảy chồm lên mà không biết mình có cần phải bỏ chạy hay không. Từ ngọn cây, Tácdăng nhảy vụt xuống cạnh đống lửa, mỉm cười. Trông thấy thủ lĩnh của mình rõ ràng là bằng xương, bằng thịt, chứ không phải hồn ma, các chiến binh Oadiri vui mừng khôn xiết.

- Chúng tôi hèn nhát quá, thủ lĩnh ơi! - Busuli nói đầy vẻ ân hận - Chúng tôi đã bỏ chạy, bỏ mặc thủ lĩnh cho số phận định đoạt. Tới khi hoàn hồn, chúng tôi đã quyết định quay lại tìm thủ lĩnh hoặc sẽ báo thù cho thủ lĩnh. Vừa rồi chúng tôi đã đồng thanh cất lời thề độc và đang chuẩn bị vượt thung lũng, tiến vào cái thành phố quỷ quái đó để trả thù.

- Các người có thấy khoảng năm chục gã đàn ông lông lá leo qua vách núi tiến vào rừng không?

- Đúng thế! Chúng tôi đã trông thấy rõ - Busuli trả lời - Hôm qua, vào lúc xế chiều, chúng đi qua chỗ chúng tôi khi chúng tôi đang sửa soạn lên đường. Chúng nói chuyện rất to nên chúng tôi biết chúng đến từ xa. Vì chúng tôi chỉ muốn tìm thủ lĩnh nên đã kéo nhau vào rừng, để mặc cho chúng đi qua. Thật là một đội quân âm phủ! Chân của chúng rất ngắn, bước đi vòng kiềng. Có một số đứa lại đi bằng bốn chân, trông như con đười ươi Bongan. Đúng là vào khoảng dăm chục người thuộc dạng ăn lông ở lỗ, thưa thủ lĩnh!

Tácdăng ngồi kể lại cuộc phiêu lưu nguy hiểm của mình. Khi chàng nói tới các thứ đồ châu báu, tất cả các chiến binh của chàng đều hào hứng. Ai cũng muốn đột nhập lần nữa vào Opa để kiếm các đồ trang sức.

Chờ đến lúc tối nhọ mặt người, Tácdăng dẫn đạo quân của mình quay lại cửa hang. Tất nhiên vượt qua vách đá dựng đứng để trở lại Opa không phải là chuyện dễ. Tácdăng không thể cõng từng người leo qua vách núi. Chàng nghĩ mãi và cuối cùng nảy ra sáng kiến thật đơn giản mà hữu hiệu. Theo lệnh chàng, mọi người buộc các ngọn giáo vào làm thành một thứ dây xích. Chàng buộc một đầu vào hông, leo lên trước rồi kéo từng người lên cao.

Trong bóng tối của căn phòng, mỗi người đều chọn được cho mình khoảng bốn chục cân vàng. Chính vì không quen vác nặng, con đường trở về của đạo quân Tácdăng trở nên vất vả. Tuy nhiên mọi người còng lưng vượt rừng mà không hề phàn nàn một câu. Không đầy một tháng sau, đoàn người đã đến vùng biên giới của quê hương. Nhưng đến đây, lẽ ra đoàn người tiếp tục con đường về làng thì Tácdăng lại dẫn họ đi về phía tây. Đi được hơn chục ngày, Tácdăng kêu gọi mọi người hãy để bớt vàng lại rồi quay về làng trước.

- Thế còn thủ lĩnh thì sao? - Các chiến binh hỏi Tácdăng.

- Tôi sẽ ở đây vài ngày - Tácdăng trả lời - Còn các người thì nhanh nhanh về với vợ con.

Những người Oadiri vừa đi khỏi, Tácdăng lấy hai tấm vàng, nhảy lên cây. Chàng hướng về phía khu rừng đốn. Ở đó, ngay giữa khu rừng đốn có một bãi đất cao nhô lên. Chàng đã đến đó hàng trăm lần nên rất thông thuộc đường đi lối lại. Tất nhiên, đây là khu rừng vừa rậm rạp vừa hiểm trở, gần như không một loài thú nào, kể cả con báo Sêta lẫn con voi Tantơ cũng không dám chui qua. Khu rừng đó chẳng phải là nơi xa lạ. Nó chính là chỗ mà khi xưa Tácdăng chôn dấu chiếc hòm tiền vàng của giáo sư Potơ.

Tácdăng chuyển tất cả số vàng lấy đựơc ở Opa dồn thành một đống. Chàng tìm lại chiếc xẻng cũ, đào một chiếc hố vừa sâu vừa dài rồi chôn lấp toàn bộ số vàng.

Chàng ngủ lại một đêm ở đó. Sáng hôm sau chàng tranh thủ về thăm căn nhà gỗ, trước khi trở lại với người làng Oadiri.

Căn nhà gỗ của chàng vẫn gần như nguyên vẹn. Chàng yên tâm rẽ vào rừng săn một con dê, đem về nhà ngồi xé thịt ăn. Đồ đạc và các thứ đồ dùng trong căn nhà khiến chàng bồi hồi. Chúng gợi lại trong lòng chàng biết bao kỷ niệm vui buồn lẫn lộn. Còn đâu nữa tuổi thơ êm ái của chàng? Còn đâu nữa hình bóng người con gái mảnh mai ngồi viết thư bên cửa sổ? Gian Potơ rôva! Bây giờ em ở đâu?

Ngồi trong nhà, Tácdăng cảm thấy trong lòng nặng trĩu. Chàng ra rừng lang thang mấy dặm về phương nam. Chẳng mấy chốc, chàng thấy trước mặt mình cửa sông ăn thông ra biển. Đột nhiên chàng ngửi thấy trong gió có một thứ mùi vừa quen vừa laj. Không một loài thú nào của rừng già châu Phi này có mùi như thế. Băn khoăn giây lát, chàng bật cười vui vẻ. Đó chính là mùi người. Gió đang từ biển thổi vào. Điều đó có nghĩa là có người xuất hiện ở đâu đó ở hướng tây. Liền ngay sau đó, chàng lại phát hiện ra còn đó một thứ mùi gì đó phảng phất, lẫn với mùi người. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Đó là mùi mồ hôi của sư tử.

"Cần phải nhanh chân!" - Tácdăng tự nhủ. Bởi vì chàng biết rằng hai thứ mùi đó nặng nhẹ, cách xa nhau. Có thể là sư tử đang truy đuổi mồi người.

Lao nhanh như một bóng ma trên những ngọn cây, lát sau Tácdăng đã tới bìa rừng. Chàng nhìn thấy một người đàn bà rách rưới đang quỳ bên gốc cây. Cạnh đó, một người đàn ông ăn mặc trông rất man rợ đang úp mặt vào hai lòng bàn tay. Phía sau hai người, con sư tử đực già đang bước lại gần họ. Hai nạn nhân của sư tử, kẻ thì quay lưng về phía Tácdăng, kẻ thì cúi mặt cầu nguyện, vì vậy chàng không biết đó là ai.

Không còn thời gian nghĩ ngợi, Tácdăng cũng không kịp rút cung tên. Khoảng cách giữa chàng và con sư tử khá xa. Chàng không thể lao vào sư tử với con dao trong tay. Lối tấn công cuối cùng còn lại là phóng lao. Chàng nhổm người, lấy đà... Mũi lao xuyên qua lớp lá rừng dày đặc, cắm phập vào lưng con sư tử. Mũi lao ngập tới tận tim con thú, khiến nó ngã vật ra chết, không đủ sức kêu một tiếng.

Người đàn ông và người đàn bà nhìn con sư tử. Hai người đứng ngây ra như hai hình nhân. Người đàn bà kêu lên ngạc nhiên. Nhìn rõ khuôn mặt người đàn bà, Tácdăng giật mình thảng thốt. Chàng có nhìn rõ không? Chẳng lẽ đó là Potơrôva - người con gái mà chàng yêu dấu? Nhưng rõ ràng là Potơrôva chứ còn ai khác nữa.

Nhưng kia, Potơrôva đứng dậy và người đàn ông ôm hôn cô! Tácdăng cảm thấy ngực mình đau thắt. Vết sẹo trên trán chàng đỏ lựng lên cùng ánh mắt lóe sáng như tia chớp. Chàng sờ tay vào ống tên. Nhưng rồi tất cả các mũi tên dường như đã dính chặt vào nhau trong ống. Chàng buông tay. Cánh cung lạnh lẽo trong tay chàng rã xuống. Vết sẹo từ từ giãn ra, ngả lại màu nâu cũ.

Một cơn gió nổi lên, nghe như tiếng thở dài của biển cả. Tácdăng lắc mạnh mái tóc rồi buồn bã leo vào rừng sâu. Chàng trở về với những thổ dân của làng Oadiri.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Năm chục kẻ lông xồm


Gian Potơrôva và Uyliam đứng bên nhau, không nói một lời. Họ cùng nhìn thân thể bất động của con sư tử. Gian Potơrôva lên tiếng đầu tiên.

- Ai đã giết nhỉ? - Potơrôva thì thào.

- Có trời biết...

- Nếu như ai đó muốn cứu chúng ta, tại sao lại không cho chúng ta gặp mặt - Potơrôva vẫn băn khoăn - Có lẽ phải gọi người ấy ra để cám ơn.

- Tốt nhất là chúng ta chạy nhanh về chòi - Clâytơn nói - Ở đây nguy hiểm lắm. Về chòi, dù sao vẫn đỡ lo hơn. Một mình tôi thì... cô biết đấy, tôi không thể bảo vệ cô được - Giọng Clâytơn có vẻ ngậm ngùi, cay đắng.

- Anh đừng nói thế, Uyliam! - Cô gái lắc đầu phản đối. Cô cảm thấy thương Clâytơn và sợ rằng mình đã làm cho Clâytơn phật ý - Thật ra anh đã xử sự đúng và đã làm tất cả những gì mà mình có thể làm được. Anh chẳng có lỗi gì cả. Chúng ta có phải là thần thánh gì đâu. Thật ra chỉ có một người đủ can đảm và sức lực để hành động khác anh trong tình huống vừa qua. Có thể tôi mất bình tĩnh nên đã vô tình xúc phạm anh. Có điều tôi chỉ muốn anh hiểu cho rằng tôi không muốn lấy chồng. Hôn nhân không thể đem lại cho chúng ta hạnh phúc.

- Tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu cô - Clâytơn buồn bã trả lời - Thôi, về chuyện này, tốt nhất là chúng ta đừng nói đến nữa, ít nhất là im lặng cho tới khi chúng ta thoát nạn, về nhà.

° ° °

Ngày hôm sau tình trạng sức khỏe của Tơran càng trở nên tồi tệ. Hắn lên cơn mê sảng suốt ngày. Clâytơn đã cố gắng chăm sóc nhưng anh cũng chẳng giúp gì được Tơran. Thật ra, trong thâm tâm, Clâytơn vẫn lo Tơran khỏe mạnh lại dở trò, quấy nhiễu vị hôn thê bướng bỉnh của anh. Nhưng nhìn Tơran nằm rũ mình như một cái xác ướp, Clâytơn tin rằng trước sau Tơran cũng chết. Nhìn người lại ngẫm đến ta, thấy Tơran sắp chết, Clâytơn lại lo cho mình. Biết đâu lại đến lượt anh mắc bệnh và... cuối cùng chỉ còn lại Potơrôva một mình giữa chốn rừng hoang, không còn ai chăm sóc.

Lấy mũi lao từ xác sư tử, Clâytơn cảm thấy vững dạ hơn. Một hôm anh cầm dao, mạnh dạn vào rừng sâu săn thú. Để thoát khỏi cảm giác nặng nề trước bệnh tình của Tơran, Potơrôva chui ra khỏi chòi, tụt xuống đất. Tuy vậy, cô không đủ can đảm bước xa ra khỏi gốc cây. Đứng tựa lưng vào chiếc thang xộc xệch mà Clâytơn đã hỳ hục làm riêng cho cô, cô đưa mắt lơ đễnh nhìn ra mặt biển. Biết đâu cô lại thấy một con thuyền nào đó bơi qua!

Đứng quay lưng vào rừng, nhìn biển, Potơrôva không biết rằng ngay sau lưng cô đang có một khuôn mặt đầy lông lá nhô ra quan sát. Đôi mắt đỏ sọng như dính chặt vào lưng cô rồi lại đảo hướng ra xung quanh xem có ai không. Một lát sau, chiếc đầu thứ hai rồi thứ ba xuất hiện. Phía sau cô gái bắt đầu lố nhố chẳng biết bao nhiêu bóng người. Từ mái chòi bỗng vang lên một tiếng thét. Những cái đầu lập tức biến mất trong bóng cây. Potơrôva quay mặt lại. Cô ngơ ngác, chưa hiểu có chuyện gì xảy ra thì đã nghe thấy bốn phía vang lên tiếng chân bước rào rào. Từ rừng sâu túa ra hàng chục bóng người quái dị. Cô gái thét lên một tiếng. Đám người chạy bổ vào cô. Trong chớp mắt, hai cánh tay dài như tay đười ươi đã chộp lấy lưng cô, bê bổng lên cao. Một bàn tay bẩn thỉu bịt chặt lấy miệng cô khiến cô không kêu lên được, cũng không thở được. Vì mấy tuần lễ chịu đựng biết bao điều khủng khiếp, bất hạnh, cô đã kiệt sức. Kẻ bắt cóc chưa vác cô chạy được mấy bước, cô đã ngất đi.

Tới khi tỉnh dậy, cô thấy mình đang ở giữa những bóng cây um tùm của rừng sâu. Trời đã tối từ lúc nào chẳng biết. Gần chỗ cô nằm, một đống lửa cháy rừng rực. Có khoảng năm chục người đàn ông hình dạng nửa người nửa thú đang ngồi xổm xung quanh đống lửa. Ánh lửa bập bùng nhuốm đỏ những cái mặt to bè, lởm chởm lông lá. Tất cả đám người đang nhồm nhoàm nhai thịt sống chẳng khác gì bầy thú dữ. Gần đống lửa, chúng đặt một thùng nước lã. Thỉnh thoảng một tên trong đám đứng dậy, bước lại gần chiếc thùng rồi vục đầu xuống đáy thùng, uống nước ừng ực. Khi thấy tù binh của mình đã tỉnh lại, đám người gầm gừ nói với nhau điều gì đó rồi một tên đứng dậy, quẳng cho Potơrôva một tảng thịt. Tảng thịt rơi ngay trước mặt cô đánh phịch một cái. Bụi đất bốc lên khiến cô phải nhắm chặt mắt lại.

Đoàn người man rợ áp tải Potơrôva đi xuyên rừng hết ngày này sang ngày khác. Cặp chân trần của Potơrôva đã bị cào nát vì đá tai mèo và gai nhọn. Cô bước đi chuệnh choạng, xiêu vẹo dứới ánh nắng mặt trời chói chang như đổ lửa. Quần áo của cô đã biến thành đám giẻ rách treo tơi tả quanh lưng. Làn da trắng mịn màng ngày nào của cô đã ngả màu xám ngắt và chằng chịt những vết sẹo. Mỗi lần cô mệt quá, gục xuống nghỉ, bọn người rừng lại kêu lên choe chóe rồi đá vào chân cô.

Tới những ngày cuối cùng của cuộc hành trình, lũ người rừng có đánh đập cô đến mấy thì cô cũng không thể co đôi chân rớm máu của mình mà ngồi dậy được. Cô nằm rũ rượi trên đất, nhắm nghiền mắt. Khi biết chắc rằng nạn nhân của mình không có khả năng đứng dậy được nữa, bọn người rừng thay nhau vác cô đi nốt đoạn đường còn lại. Buổi tối ngày hôm sau Potơrôva đã nhìn thấy những mảng tường long lở bao quanh một thành phố cổ. Vì đã quá yếu ớt, Potơrôva chẳng hề tò mò, băn khoăn trước khung cảnh lạ mắt. Cô cứ để mặc bọn người lông lá đó đưa cô đi đâu thì đi.

Xuyên qua những bức thành cao, đoàn người gớm ghiếc đó đã bước vào cổng thành. Chúng khênh cô gái vào một ngôi đền đổ nát. Ở đó cô trông thấy có tới hàng trăm người, mặt mũi cũng kỳ quái tương tự, đang đứng chờ sẵn. Trong số những người đứng chờ, có cả đàn bà, con gái. Nghe thấy tiếng nói trong trẻo của phụ nữ, trong lòng cô gợn lên chút hy vọng yếu ớt. Nhưng hy vọng của cô vụt tắt. Cô không trông chờ gì được sự đồng cảm, thương xót của những người phụ nữ chốn này. Mặc dù không hành hạ cô, những đám đàn bà con gái tỏ ra rất sung sướng, hân hoan khi cô bị dùi cui đập túi bụi vào.

Sau khi để cho toàn bộ cư dân trong thành phố lật ngang lật dọc xem xét cô đến chán mắt, hai gã đàn ông dùng hai chiếc câu liêm khênh Potơrôva vào một căn buồng dưới tầng hầm tăm tối. Cô bị vứt vào trong buồng cùng với một bọc nước uống và một đống thức ăn. Suốt một tuần sau, thỉnh thoảng lại có mấy người đàn bà vào buồng, mang thêm cho cô đồ ăn thức uống. Cũng may cho Potơrôva là cô hoàn toàn không biết gì về số phận của mình. Cô không hề biết rằng mình đang được an dưỡng để làm đồ hiến tế cho lễ tạ thần Mặt Trời.

° ° °

Sau khi giết sư tử, cứu Gian và Clâytơn, Tácdăng trở về làng, trong lòng nặng trĩu. Chàng cảm thấy vết thương cũ trong trái tim yêu thương của mình như lại bắt đầu tái phát. Tuy vậy,chàng cũng mừng là mình đã kịp thời dập tắt được cơn ghen tuông nên đã không rút mũi tên thuốc độc sau lưng. Lúc bấy giờ, cái chết đến với Clâytơn chỉ còn một khoảng cách gang tấc. Số phận của người đàn ông yếu ớt đó hoàn toàn nằm trong tay chàng. Chàng ân hận rằng chàng đã nhìn quá kỹ. Chúa Trời thật độc địa! Tại sao lại bắt chàng nhìn rõ cảnh người con gái mà chàng ngày đêm nhớ nhung mong ước đứng trong vòng tay của người đàn ông khác? Nhưng dù sao đi nữa thì... ơn Chúa! Chàng đã hai lần chiến thắng: chiến thắng con sư tử và chiến thắng... chính bản thân mình. Tấm lòng cao thượng của một hiệp sĩ đã trỗi dậy ngăn chặn bàn tay chàng, không cho chàng rút mũi tên thuốc độc và hành động tự nhiên theo thứ luật quen thuộc của rừng già nguyên thủy.

Trên đường trở về với dân làng Oadiri, Tácdăng cố gắng xóa sạch trong đầu hình ảnh mà chàng đã phải tận mắt chứng kiến. Chàng tự nhủ rằng, tất cả những điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết, chẳng liên quan gì tới cuộc đời chàng. Và tốt hơn hết là từ nay chàng sẽ không bao giờ tiếp xúc với loài người văn minh... Cho tới khi đã cảm thấy trong lòng thanh thản, Tácdăng túm chặt hai sợi rễ cây cổ thụ, nhún mình đánh đu rất mạnh. Chàng vùn vụt đu mình từ cây này đánh đu sang cây khác, mái tóc dài, mượt óng tung bay trong gió. Như một con sư tử no mồi, chàng tận hưởng cái hạnh phúc của con người tự do trong rừng xanh, tự do trong đơn độc.

Đêm ấy, Tácdăng ngủ trong bãi săn của giống đười ươi. Chàng lưu lại đó mấy ngày liền. Ban ngày, chàng lang thang săn mồi kiếm ăn. Ban đêm, chàng ngủ dưới gốc cây cổ thụ. Không một con đười ươi nào dám đụng tới chàng. Những con đười ươi già từ lâu đã biết chàng là một đối thủ đáng gờm. Nhưng con đười ươi ít tuổi thì tỏ ra e ngại và coi chàng như một kẻ đồng loại nhưng thuộc dạng quái thai, lạc loài. Một hôm, chàng đang định ngả mình trên thảm cỏ nghỉ ngơi thì nghe thấy ở đâu đó vang lên những tiếng kêu quen thuộc. Hình như bộ lạc vượn cũ của chàng đi qua đây? Đúng thế! Chàng không thể nhầm được. Nằm nghiêng đầu theo chiều gió, chàng cố gắng nghe. Rõ ràng là đàn vượn của chàng đang tụ họp.

Tácdăng đứng dậy. Chàng đã nghe rõ từng bước chân của đàn vượn tiến lại gần. Chúng đổi hướng hành quân theo chiều gió, vì vậy có thể ngửi được mùi mồ hôi của chàng. "Có cần gặp lại chúng không?" - Tácdăng băn khoăn tự hỏi.

Khi đàn vượn tới gần, Tácdăng nấp vào cành cây cao nghe ngóng. Chỉ một lát sau, ở cành cây thấp nhất phía dưới chân chàng đã xuất hiện một khuôn mặt vượn to bè. Đôi măt của nó khá tinh nhanh. Nó đảo mắt quan sát bốn phía rồi thông báo cho các thành viên của bộ lạc biết rằng: Khoảng rừng trống nơi này không có ai, có thể tiến vào.

Nghe xong thông báo của con vượn trinh sát, con vượn đầu đàn là kẻ nhảy vào đầu tiên. Nối tiếp theo nó, đàn vượn lần lượt tiến vào. Đàn vượn đầy đủ các thế hệ già trẻ. Trong đàn có mấy chú vượn tí xíu, lông ướt nhẹp, vẫn còn bám đung đưa trên cổ vượn mẹ. Nhìn những con vượn già, Tácdăng vẫn nhận ra từng khuôn mặt cũ và nhớ rõ tính tình của chúng. Chàng tò mò muốn biết chúng còn nhớ chàng không.

Nghe tiếng của đàn vượn, Tácdăng hiểu rằng chúng kéo nhau tới đây để chọn kẻ cầm đầu bộ lạc. Vị thủ lĩnh cũ của chúng vừa mới bị chết vì một cơn bão đột ngột tuần trước.

Tácdăng bước ra đầu cành cây để nhìn cho rõ đàn vượn. Một con vượn đực ngước mắt nhìn lên cao. Trông thấy kẻ lạ mặt trên cành cây, con vượn đực kêu ré lên, báo động cho cả bầy. Lũ vượn đực lập tức nhe nanh, rướn thẳng lưng, tiến lại gần gốc cây của Tácdăng. Chúng muốn bao vây để tiêu diệt ngay kẻ lạ mặt.

- Kácnát! Tao là Tácdăng đây! - Tácdăng kêu lên bằng ngôn ngữ của bộ lạc cũ - Mày quên tao rồi à? Hai đứa chúng ta hồi còn bé đã từng trêu chọc Numa. Chúng ta đã nấp trên cành cây cao, ném vỏ cây và hạt hồ đào vào lưng nó.

Con vượn được Tácdăng gọi đúng tên liền dừng lại. Nó giương mắt nhìn Tácdăng một cách kinh ngạc rồi gật gù ra vẻ hiểu ý.

- Còn mày nữa, Môgôri! - Tácdăng tiếp tục gọi - Chả nhẽ mày không nhớ thủ lĩnh cũ của mày sao? Viên thủ lĩnh đã giết chết Kétchác khổng lồ ấy mà. Nhìn tao cho kỹ! Tao là Tácdăng, người đi săn cừ khôi, một võ sĩ vô địch của bộ lạc đây. Chúng ta quen biết nhau từ bao năm rồi.

Đàn vượn xúm lại quanh gốc cây Tácdăng ngồi. Chúng không giận dữ, không sợ hãi mà chỉ tò mò. Một lát sau chúng tỏ ra vui mừng.

- Mày đến đây tìm cái gì? - Kácnát lên tiếng hỏi.

- Tìm hòa bình! - Đứa con của rừng xanh vui vẻ trả lời.

Đàn vượn tỏ ra băn khoăn vì cái âm thanh "hòa bình" nghe rất lạ tai. Cuối cùng, chừng như đã hiểu, Kácnát gọi to:

- Vậy thì hãy xuống với chúng tao, Tácdăng ơi!

Tácdăng nhẹ nhàng nhảy thẳng xuống giữa đàn vượn. Đàn vượn xúm lại quanh Tácdăng thành một vòng tròn. Chúng muốn nhận mặt chàng cho thật kỹ. Trong phút chốc, chàng lại trở thành một con thú lý tưởng của bầy đàn. Tuy vậy, chàng có cảm giác thất vọng. Chàng thấy mình không được đón tiếp vồn vã theo kiểu một cuộc hội ngộ đoàn viên thường xảy ra trong đời sống loài người. Phần lớn đàn vượn sau khi nhìn chàng lại quay ra nô đùa và bới cỏ tìm sâu bọ. Chúng trở lại với những công việc hàng ngày. Chúng quên luôn cả việc lựa chọn thủ lĩnh mới và nhìn chàng một cách thờ ơ như không hề có chuyện chàng bỏ đi xa mới về.

Có hai con vượn đực mới lớn không thể nào nhớ được Tácdăng là ai. Cả hai thong thả đi bằng bốn chân, tiến lại gần Tácdăng, giương mũi ngửi. Một con nhe răng, gầm gừ định cắn Tácdăng. Nếu như lúc này Tácdăng rút lui, con vượn trẻ đó sẽ hài lòng bỏ đi. Nhưng đứa con nuôi của loài vượn này biết rằng, trong trường hợp này cần phải trả lời một cách quyết liệt. Nếu không, con vượn đó được thể, lần sau sẽ tiếp tục gây sự. Biết vậy, Tácdăng không lùi một bước. Chàng dùng toàn bộ sức lực đánh bật con vượn ngã vật ra bãi cỏ. Con vượn chồm dậy, lao vào đối thủ. Nhưng nó chưa kịp sử dụng hàm răng nhọn của mình thì đã bị Tácdăng tóm chặt cuống họng. Chàng khóa trái cổ con vượn, xiết chặt. Con thú cố sức giẫy dụa, vùng vẫy rồi yếu dần, yếu dần, cho tới khi rũ ra trong cánh tay đối thủ. Tácdăng buông tay, đứng dậy. Chàng không giết nó, chàng chỉ muốn cho nó biết sức mạnh của chàng.

Bài học của chàng thật đắc dụng. Từ phút ấy, tất cả những con vượn đực khỏe mạnh đều tỏ ra ngoan ngoãn với chàng. Chúng tuân theo luật của rừng già: kẻ yếu phải phục tùng kẻ mạnh. Chỉ những con vượn cái đang nuôi con nhỏ là vẫn nhe răng hăm dọa Tácdăng mỗi khi chàng lại gần. Trong trường hợp như vậy, Tácdăng thường nhanh chân lảng bước ra xa. Chàng biết rằng, trong bộ lạc này vẫn thường xảy ra chuyện những con vượn đực trong cơn khùng điên nhảy vào tấn công những con vượn đang làm mẹ. Nhưng chẳng bao lâu, đám vượn mẹ đã quen với sự có mặt của Tácdăng bên cạnh.

Tácdăng lại đi kiếm ăn cùng bộ lạc như những ngày xưa. Tới khi bộ lạc vượn nhận ra rằng bao giờ chàng trai cũng kiếm được nhiều thức ăn, cung tên và dao nhọn của chàng có thể nuôi sống cả bộ lạc, từ vượn già tới vượn con đều bắt đầu xử sự với chàng như một thủ lĩnh cầm đâu. Những con khỉ già thì nghĩ rằng chàng trở về là để khôi phục "ngôi báu" của mình.

Tácdăng hoàn toàn hài lòng với sứ mệnh của mình trước bộ lạc. Tuy nhiên, không thể nói rằng Tácdăng là người hạnh phúc. Từ lâu, chàng đã không còn tin vào hạnh phúc trọn vẹn ở đời. Có điều, ít nhất thì cuộc sống hiện tại cũng giúp cho chàng quên đi một quá khứ nặng nề, đau đớn. Chàng từ bỏ ý định trở lại với cuộc sống văn minh và cũng không muốn quay về với bạn bè của mình ở làng Oadiri. Tâm trạng chàng là một khối mâu thuẫn. Chàng đã bắt đầu cuộc sống của mình như một con vượn. Nhưng chàng lại muốn từ bỏ lối sống của loài vượn. Không muốn trở lại với loài người nhưng chàng không thể nào quên được cô gái mình yêu - cô gái đang sống đâu đó rất gần khu vực kiếm ăn của bộ lạc chàng. Đôi lúc, chàng lo lắng cho tính mạng của cô gái và ân hận rằng mình đã không tiếp tục bảo vệ cuộc sống của cô. Càng ân hận, càng nghĩ ngợi về chuyện cũ, trong lòng chàng lại càng cồn cào một nỗi nhớ khôn nguôi.

Thế rồi chàng bắt đầu ghét chính bản thân mình. Tại sao vì một phút ghen tuông ích kỷ, chàng có thể đang tâm đê cho Potơrôva sống giữa biết bao đe dọa của rừng già? Ngày qua ngày, cái ý nghĩ ấy càng dày vò chàng, thôi thúc chàng phải trở ra bờ biển, sống gần "người ấy". Phương đông đang lên tiếng gọi chàng. Chàng phải lên đường, bất chấp mọi nguy hiểm, bất chấp cái chết nếu như "người ấy" đang sống trong lo sợ. Và nếu như "người ấy"... không đứng trong vòng tay ai.

Trước khi Tácdăng gặp bộ lạc của mình, có một con vượn đực mới vào tuổi trưởng thành đã bỏ bộ lạc ra đi. Lí do ra đi rất đơn giản. Nó không kết bạn được với một con vượn cái nào trong đàn. Theo tập quán truyền kiếp của loài vượn, nó quyết định tiến vào rừng sâu để tìm người tình trăm năm. Một hôm, nó trở về cùng vị hôn thê mới cưới được từ bộ lạc láng giềng. Như một kẻ chiến thắng, nó hả hê kể lại chuyến phiêu lưu cướp vợ. Tácdăng đứng nghe. Trong câu chuyện, con vượn vô tình nhắc tới một bộ lạc vượn người có hình dạng rất kỳ quái:

- Tất cả là những con vượn mặt tròn, chân ngắn. Chỉ có một con vượn cái không có lông, da trắng như thế này này - Con vượn vừa nói vừa chỉ tay vào ngực Tácdăng.

Nghe nói thế, Tácdăng giật mình. Chàng hỏi tới tấp, khiến con vượn không kịp trả lời.

- Vừa ngắn, vừa cong.

- Chúng nó quấn ở bụng những mảnh da của Numa?

- Đúng vậy. Da của Numa.

- Chúng nó có dao nhọn và dao dài?

- Đứa nào cũng có.

- Cổ tay, cổ chân chúng có vòng vàng?

- Có vòng vàng.

- Còn con vượn cái thì rất gầy và trắng?

- Đúng thế.

- Thế nó có vẻ như là một thành viên của bộ lạc hay như một tù binh?

- Bọn vượn đực túm tóc nó, đánh nó, đạp nó như đánh tù binh.

- Trời đất ơi! - Tácdăng thầm kêu lên - Mày trông thấy chúng ở đâu? Chúng đi hướng nào? - Tácdăng hỏi dồn dập.

- Chúng đi dọc bờ sông, theo hướng này - con vượn trả lời và chỉ tay về hướng nam - Khi chúng đi qua chỗ tôi nấp thì chúng hướng về phía mặt trời buổi sáng.

- Mày gặp lâu chưa? - Tácdăng nôn nóng hỏi.

- Bấy giờ trăng đang tròn.

Không cần hỏi thêm một lời nào nữa, Tácdăng hối hả đi lấy vũ khí rồi nhảy vọt lên cây, nhằm phương đông thẳng tiến. Chàng hướng về phía Opa - thành phố bị lãng quên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Trở lại Opa


Vừa về đến chòi, Clâytơn đã thấy Gian Potơrôva biến mất. Anh cũng chẳng hiểu vì sao nỗi đau đớn và sợ hãi không làm mình chết ngất đi được. Tơran lúc này rất tỉnh táo bởi cuối cùng thì hắn cũng đã cất cơn sốt. Tuy nhiên hắn vẫn nằm bẹp dí trong ổ cỏ khô. Khi Clâytơn hỏi về cô gái, Tơran tỏ vẻ ngạc nhiên và nói rằng không trông thấy cô ở đâu hết cả.

- Tôi chẳng nghe thấy tiếng động nào khả nghi - Tơran nói - Tôi chẳng hay biết gì hết.

Có hỏi cũng bằng thừa, Clâytơn không hỏi gặng thêm. Từ lâu anh đã không tin gì ở Tơran. Nhưng anh cũng thấy rõ là Tơran cho tới lúc này vẫn chưa đủ sức để chui ra khỏi chòi.

Clâytơn chạy nháo nhác đi tìm khắp bốn phía rừng quanh chòi. Anh tìm tới chiều tối mà vẫn không thấy vết tích nào của Potơrôva. Thật ra những vết chân của năm mươi người đàn ông lông lá để lại quanh đó đối với các công dân của rừng già là bằng chứng rõ ràng về tội phạm, nhưng đối với một công dân Anh quốc như Clâytơn thì chỉ là những vết chân vô nghĩa. Clâytơn sục sạo từng gốc cây tới hàng chục lượt nhưng vẫn không biết rằng cách đó mấy giờ có một nhóm người đi qua.

Trong khi tìm kiếm, Clâytơn gọi thật to tên cô gái. Kết quả là anh chỉ làm khuấy động chim muông và thu hút sự chú ý của sư tử. Vừa trông thấy bóng con sư tử tiến lại gần, Clâytơn kịp thời nhảy tót được lên cây. Anh buộc phải kết thúc chuyện tìm kiếm. Bởi vì con sư tử ngồi chầu mõm lên gốc cây cho tới tận nửa đêm. Tới khi con sư tử chán ngán bỏ đi, Clâytơn cũng không dám leo xuống gốc cây. Anh không đủ can đảm ném mình vào bóng tối đen đặc của rừng già. Tốt hơn hết là cứ ngồi trên cây, chờ trời sáng rõ. Sáng hôm sau anh trở về bờ sông, trong lòng vẫn còn gợn chút hy vọng: biết đâu anh may mắn tìm được Potơrôva.

Một tuần lễ trôi qua, sức khỏe của Tơran mỗi lúc một khá lên. Tuy vậy hắn vẫn nằm yên trong chòi, trong khi Clâytơn vẫn len lỏi trong rừng lo tìm thức ăn cho cả hai. Hai người hầu như không trò chuyện gì với nhau. Họ chỉ nói khi nào thật sự cần thiết. Lúc này Clâytơn nằm ở khoảng chòi lâu nay vẫn dành cho Potơrôva, anh chỉ sang với Tơran khi phải tiếp thức ăn, nước uống và khi Tơran cần anh giúp đỡ. Khi Tơran đã hoàn toàn khỏe mạnh, đủ sức đi kiếm ăn thì Clâytơn lại bị sốt. Anh nằm li bì suốt mấy ngày liền trong chòi. Thấy anh không muốn ăn, Tơran cứ để mặc anh nằm mà lên cơn mê sảng, không ghé sáng thăm lấy một lần. Clâytơn cảm thấy mình khô cháy đi vì không được một giọt nước nào vào lưỡi. Sau đợt sốt, mặc dù còn yếu, anh vẫn phải tự lần ra suối lấy nước uống dự trữ. Tơran quan sát Clâytơn vất vả tìm kiếm nước với thái độ thích thú. Hình như hắn có vẻ khoan khoái trước nỗi đau của Clâytơn.

Một thời gian sau, Clâytơn lại bị cơn sốt tái phát. Anh yếu tới mức không đủ sức leo được cầu thang. Anh cố gắng chịu đựng cơn khát suốt một ngày, không muốn gọi Tơran. Tới khi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi nữa, anh lên tiếng nhờ Tơran đem cho mình ít nước. Gã người Nga bước sang với nụ cười nhăn nhở:

- Nước cho ông đây, - Tơran nói - Nhưng trước hết tôi muốn nhắc cho ông nhớ một điều, ông đã làm nhục tôi trước mặt cô gái. Ông đã giữ bo bo cô ấy cho mình mà không "chia" cho tôi tẹo nào.

- Ông im đi! - Clâytơn nổi điên lên - Nói về một cô gái như thế mà ông không xấu hổ à? Ông không biết rằng cô ấy đã chết rồi sao? Trời ơi, lẽ ra tôi phải để cho ông chết! Ông không đáng được sống ngay cả ở cái mảnh đất chết tiệt này!

- Nước của ông đây, - Tơran nhếch mép cười - Đó là ngụm nước cuối cùng của ông.

Tơran cầm chiếc vỏ sắt tây đựng nước, uống một hơi, không còn một giọt. Hắn "khà" một tiếng rồi quay đầu bỏ đi. Clâytơn quay đầu vào vách ngăn, úp mặt vào lòng bàn tay, chờ chết.

Ngày hôm sau, Tơran quyết định bỏ đi. Hắn đi dọc bờ sông, tiến về hướng bắc, hắn nghĩ rằng sớm hay muộn, thế nào hắn cũng gặp người. Mà nếu có gặp những điều rủi ro, tồi tệ thì theo hắn có lẽ chẳng có nơi nào rủi ro, tồi tệ hơn mảnh đất này. Hơn nữa, tiếng rên rỉ của gã người Anh sắp chết làm hắn không thể chịu nổi. Hắn cầm chiếc lao của Clâytơn. Thoạt đầu hắn định giết Clâytơn rồi mới đi. Nhưng ngẫm nghĩ một lúc, hắn lại buông tay. Sống ở đời, phải biết làm phúc chứ!

Đi đến chiều, hắn gặp một ngôi nhà gỗ gần bờ biển. Trông thấy ngôi nhà - bằng chứng rõ ràng về cuộc sống loài người, hắn cảm thấy thảnh thơi. Hắn nghĩ rằng hắn đã đặt chân tới vùng ven của một ngôi làng nào đó. Thật phúc đức cho Tơran! Nếu như hắn biết ngôi nhà đó là thuộc về ai, ai là chủ nhân đích thực của ngôi nhà? Nếu như hắn biết rằng chủ ngôi nhà đó mấy phút đã mở cửa ra đi với bao nhiêu kỷ niệm trong lòng, có lẽ hắn phải sởn gai ốc. Tất nhiên Tơran hoàn toàn không biết gì về ngôi nhà bất hạnh của dòng họ Grâyxtâu. Vì vậy hắn sống thoải mái trong ngôi nhà suốt mấy ngày liền để dưỡng sức và tìm kiếm thức ăn. Sau đó hắn lại tiếp tục cuộc hành trình, đi về hướng bắc.

° ° °

Trong khu trại mười tám người của huân tước Teningtơn, mọi người vừa củng cố chỗ ở, vừa sửa soạn cho chuyến lên đường. Ai cũng nghĩ rằng nếu đi về phương Bắc, sớm muộn thì cũng gặp người.

Bao nhiêu ngày trôi qua mà mọi người không thấy ai tới giúp đỡ. Hy vọng về sự sống sót của Potơ rôva và Clâytơn ngày càng mờ mịt. Về điều này, ai cũng biết là không nên nói với giáo sư Potơ. Hàng ngày, vị giáo sư này vẫn trầm ngâm trước những giả thiết khoa học mà ông tự đặt ra. Ông chẳng biết gì tới cuộc sống hiện tại. Một hôm, ông thản nhiên nói rằng, chỉ vài ngày nữa sẽ có một con tàu tới thả neo ven vùng biển này và rồi mọi người sẽ sung sướng vẫy tay khi tàu về bến cảng. Rồi một hôm khác, tự nhiên ông nhắc tới chuyện giao thông đường sắt và tỏ ra ngạc nhiên không hiểu vì sao tàu lại đến muộn thế. Cuối cùng ông lẩm bẩm đoán rằng chuyến tàu ông đang chờ đến chậm là vì bão tuyết làm lấp đường rầy.

- Nếu như tôi không biết rõ về giáo sư Potơ, - Teningtơn tâm sự với Stroong - thì có lẽ tôi cho rằng ông mắc bệnh tâm thần.

- Nếu như không lâm vào hoàn cảnh này thì nghe ông nói ai cũng phải bật cười - Cô gái phụ họa.

- Tôi là chỗ quen biết của ông nên tôi biết ông yêu con gái vô cùng. Mọi người có thể ngạc nhiên không hiểu vì sao ông có vẻ thờ ơ với số phận của con gái mình như vậy. Nhưng thật ra, ông yêu con tới mức không thể hình dung được cái chết của con mình, chỉ trừ khi ông phải chứng kiến tận mắt. Cô không thể hình dung được chuyện xảy ra hôm qua đâu, Stroong ạ! - Huân tước Teningtơn tiếp tục nói - Hôm qua tôi đi săn về thì gặp ông trên một lối mòn mà thú dữ thường hay qua lại. Cũng như mọi ngày, ông để trễ mũ sau gáy, hai tay đút túi. Nhưng ông đang hấp tấp chạy đi đâu đó. Mắt chăm chăm quan sát lối mòn trước mặt. Có lẽ nếu đụng mìn nổ thì ông mới dừng lại. "Ông đi đâu đấy, giáo sư Potơ?" Tôi gọi mấy lần ông mới dừng chân. "Vào thành phố". Ông trả lời, giọng rất nghiêm trọng. "Tôi đem đơn kiện ra bưu điện. Suốt một tuần liền mà tôi không nhận được lá thư nào. Tính riêng Gian viết, thì tôi phải có ở bưu điện vài lá rồi. Vậy mà tuyệt nhiên họ không hề chuyển cho tôi được một lá. Tôi sẽ tố cáo chuyện này lên tận Trung tâm bưu điện Washington". Thế là tôi đã rất vất vả mới chứng minh được cho ông tin rằng ở đây không có bưu điện, không có thành phố cũng như chẳng có Washington nào cả. Tới khi ông hiểu được những gì tôi nói, ông mới tỏ ra lo lắng cho số phận con gái mình. Tôi cho rằng đó là lần đầu tiên giáo sư nhận biết được mình đang sống trong hoàn cảnh như thế nào. Và ông bắt đầu nghĩ rằng chưa chắc Gian đã được cứu sống.

- Tôi cũng không thích nghĩ như vậy - Stroong nói - Mặc dù lúc nào tôi cũng nhớ tới những người vắng mặt.

- Chúng ta hãy tin vào những điều tốt đẹp - Huân tước nói - Chính cô là tấm gương của lòng can đảm, bởi vì những người mất tích có quan hệ đến cô nhiều nhất.

- Đúng thế! - Stroong gật đầu - Tôi rất yêu Gian. Chúng tôi chẳng khác gì hai chị em ruột.

Huân tước Teningtơn rất đỗi ngạc nhiên. Anh không ngờ Stroong lại trả lời như vậy. Từ khi chiếc thuyền buồm của anh bị đắm, anh thường gần gũi, trò chuyện với Stroong, cô gái của vùng Marilan xinh đẹp. Càng ngày anh càng cảm thấy yêu cô. Nhưng anh vẫn còn nhớ lời thông báo đầy tự tin của Tơran. Tơran đã nói với anh rằng đã cùng Stroong đính hôn và đang chờ ngày cưới. Thế mà bây giờ Stroong không nhắc tới Tơran (?) Hay là Tơran đã nói dối anh?

- Nếu như Tơran mất tích thì đối với cô, đó là tổn thất không gì bù đắp nổi, phải không? - Huân tước Teningtơn hỏi thăm dò.

- Ông Tơran là một người bạn tốt - Stroong nhìn Teningtơn có vẻ ngạc nhiên - Tôi cũng quý ông ta, mặc dù biết ông ta rất ít.

- Chả lẽ hai người chưa đính hôn? - Teningtơn hỏi với giọng rụt rè.

- Lạy Chúa tôi! Không! - Cô gái kêu lên - Chưa bao giờ tôi nghĩ tới chuyện đó.

Hình như chàng huân tước còn muốn nói với Stroong điều gì quan trọng nữa. Nhưng không hiểu sao "điều đó" cứ mắc cứng trong ngực anh, làm anh khó thở. Anh hắng giọng mấy lần và đỏ bừng mặt. Cuối cùng anh lúng túng nói rằng tất cả các mái lều cần phải lợp lại trước khi cơn mưa kéo đến. Hazen Stroong biết rằng chàng huân tước thật thà này đã không nói được cái điều đang muốn nói. Nhưng chính vì vậy, mà cô cảm thấy sung sướng. Thậm chí cô cảm thấy mình chưa bao giờ được sung sướng như vậy.

Cuộc trò chuyện của hai người lẽ ra còn tiếp tục nhưng bị cắt đứt bởi một bóng người đi tới. Đó là một thân hình trông thật man rợ và quái đản. Cả hai cùng giật mình và quay ra nhìn. Teningtơn vội chộp lấy súng ngắn. Ngay tức khắc cái con vật nửa người nửa ngợm, ăn mặc hở hang đó đã xưng tên, giơ cao hai bàn tay không lên trời, bình tĩnh tiến lại gần. Hai người giương mắt lên nhìn kẻ lạ mặt có mảnh da thú loang lổ quấn quanh mình. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người vừa được nhắc tới - Chàng công tử Tơran.

Vừa nhận ra Tơran, Teningtơn và Stroong đã hỏi ngay tới số phận của những người còn lại trên con thuyền cứu hộ.

- Chết hết cả rồi, - Tơran trả lời quả quyết - Tất cả thủy thủ đều chết trước lúc thuyền chạm đất liền. Potơrôva thì bị bọn đười ươi bắt cóc vào rừng sâu trong lúc tôi bị sốt. Clâytơn thì chết sau mấy ngày sốt rét. Tôi không ngờ là chúng tôi chỉ cách mọi người vài dặm đường thế này. Ôi, thật là kinh khủng!

° ° °

Gian Potơrôva không biết là mình đã nằm trong căn buồng tối của thành phố bí ẩn này trong bao lâu. Cô nằm thiêm thiếp trong những cơn mê sảng, thậm chí, có ngày cô chẳng biết mình đang ở nơi đâu. Nhưng rồi sức mạnh của tuổi trẻ cũng giúp cô hồi tỉnh và dần dần khỏe lại. Người đàn bà thường đem thức ăn cho cô đã kiên trì giúp cô đứng dậy, nhưng đôi chân cô vẫn còn mềm oặt.

Rồi một hôm, không cần người giúp sức, Potơrôva đã tự đứng dậy được và lần bước quanh bốn bức tường. Từ hôm ấy, những người đàn bà gác ngục thỉnh thoảng lại ghé vào quan sát cô với thái độ vừa tò mò vừa thích thú.

Cái ngày quyết định số phận của cô đã tới. Cô thấy một người đàn bà còn khá trẻ bước vào hầm cùng một tốp đàn ông hộ tống. Người đàn bà tiến hành luôn các nghi lễ ngay trong hầm. Trong khi chứng kiến các nghi lễ, Potơrôva tràn trề hy vọng. Ít ra thì cô cũng đang được sống trong môi trường của cuộc sống loài người. Khi mà người ta biết cúng tế thì tức là người ta biết sống theo những niềm tin thiêng liêng và cao cả. Có lẽ rồi người ta sẽ xử sự với cô một cách nhân ái.

Thấy người ta đưa mình ra khỏi hầm tối, dắt qua những hành lang, cầu thang sạch sẽ, làm bằng đá hoa cương, Potơrôva hào hứng bước đi, đôi lúc còn cảm thấy thích thú. Cô nghĩ rằng, người ở đây có niềm tin tôn giáo, biết tin vào thần linh thì họ sẽ sống theo tiếng gọi của hòa bình và lòng nhân đạo.

Nhưng vừa trông thấy xung quanh chiếc bàn thờ đá đầy những vệt máu khô, Potơrôva bắt đầu nghi ngờ. Cho tới khi đám người xúm vào trói chân, trói tay cô thì cô vô cùng sợ hãi. Chỉ trong chốc lát cô đã bị khênh lên, đặt ngửa dưới bậc bàn thờ. Lúc này thì chẳng còn hy vọng gì nữa! Cô gái bắt đầu run rẩy toàn thân.

Tuy vậy, cô vẫn còn kịp trông thấy con dao nhọn hoắt trong tay nữ chủ tế. Cô vội nhắm chặt mắt, đọc lời cầu nguyện cho linh hồn mình được trở về bên chân Chúa Trời. Cô lẩm nhẩm được mấy câu rồi ngất lịm.

° ° °

Suốt ngày suốt đêm Tácdăng xuyên rừng, hướng về phía thành phố đổ nát - nơi mà chàng tin rằng cô gái bị bắt chẳng phải ai khác ngoài cô gái mình yêu, Potơrôva của chàng! Nếu thực sự có Chúa Trời, nếu rừng xanh biển bạc có thần thánh linh thiêng, xin giữ nàng lại cho chàng, đừng để kẻ thù giết nàng trước lúc chàng đến! Vừa bay người qua những cành cây cao, Tácdăng vừa thầm kêu lên trong lòng như vậy.

Chưa bao giờ Tácdăng đi nhanh và bay nhanh đến thế. Lòng chàng nóng như lửa đốt. Căn cứ vào lời kể của con vượn tìm vợ, chàng biết rằng người đàn bà bị bắt làm tù binh đó chỉ có thể là Gian Potơrôva. Chàng đã đi khắp nơi, qua bao cánh rừng già, chàng đã gặp nhiều người đàn bà trong rừng sâu này, nhưng chưa gặp một ai có hình dáng như lời con vượn đực đã kể. Những người đàn bà trong thành Opa cũng không giống thế. Chắc chắn đó là Potơrôva tội nghiệp của chàng! Kinh nghiệm từng trải mới đây cho chàng hình dung ngay được điều gì sẽ đến với Gian. Chàng không biết được Gian bị hành hình vào lúc nào. Nhưng chàng biết chắc chắn Gian bị hành hình ở đâu. Chắc không còn chỗ nào khác ngoài chiếc bàn đá dưới bệ thờ.

Con đường tới Opa dài như xuyên qua một lục địa. Thời gian như đã trôi qua hàng thế kỷ. Tácdăng đi với ngọn lửa thiêu đốt ngùn ngụt trong lòng. Và rồi cuối cùng chàng đã tới được con đường mòn đầy vách đá, bao quanh thung lũng. Những ngọn gió khô khốc cuốn tung bụi đường. Tácdăng nhắm mắt lao đi trong gió. Liệu chàng còn kịp cứu cô gái nữa không? Chàng không chắc lắm. Nhưng dù không kịp, chàng cũng phải xông vào trả thù. Chàng sẽ tung hoành chiến đấu với cái thành phố ma quái này, không để sót một gã đàn ông trong đó.

Mặt trời đã đứng đỉnh đầu, Tácdăng dừng chân bên một tảng đá khổng lồ. Trên đỉnh cao của tảng đá, chàng biết, có một con đường bí mật. Như một con mèo lọc lõi, Tácdăng liếc mắt, nhìn đảo bốn phía rồi bất thần đu mình bám vào vách đá, leo lên. Chỉ một lát sau, chàng đã chui qua đường hầm dẫn tới căn buồng giấu chàng khi trước. Khu mộ cổ đây rồi! Đâu đó bên kia khu mộ, hẳn là nơi giam cô gái. Tácdăng băn khoăn dự đoán.

Chàng dừng lại bên miệng giếng tối om và chợt nghe thấy từ trên cao vọng xuống một âm thanh yếu ớt, rền rĩ. Chàng giật mình, hiểu ra. Đó chính là tiếng hát cho vũ điệu tạ ơn Thần Chết, thường tiến hành vào lúc hành quyết tù nhân. Chàng nghiêng đầu lắng nghe. Rõ ràng là có cả giọng hát của nữ đạo sĩ - chủ tế.

Như một con thú bị săn đuổi, Tácdăng chồm lên, lao mình bay qua miệng giếng. Trước mặt chàng là một hành lang dài hun hút, có lát đá lục lăng. Chàng quyết định mở lối đi tắt bằng cách phá tường. Dùng hết sức bình sinh, chàng đẩy bức tường và phá thủng được một lỗ vừa lọt đầu mình. Hòn đá bên lỗ thủng không lớn lắm. Chàng ghé vai đẩy mạnh. Cuối cùng thì hòn đá cũng bật ra, rơi xuống nền căn buồng bên cạnh. Tiếng hòn đá rơi vang lên lên náo động khu hầm. Chàng vọt qua lỗ thủng, băng qua căn buồng rồi dừng lại bên cánh cửa gỗ nặng nề. Có lẽ then gỗ phía bên kia cánh cửa được làm ra để ngăn chặn những người kiểu như Tácdăng. Sau vài cú đẩy, Tácdăng không làm cánh cửa nhúc nhích một li. Sức mạnh của chàng lúc này đã trở nên vô ích. Hai tấm cửa vẫn lì lợm chắn trước mặt chàng.

Chỉ còn lại con đường duy nhất là đường xuất phát cách xa ngôi đền. Con đường ấy, lần trước các chiến binh Oadiri đã cùng chàng đột nhập. Tácdăng bực bội. Chàng đã mất quá nhiều thời gian. Khi tới nơi, liệu Gian còn sống không? Nhưng lúc này, chàng không còn một quyết định nào khác.

Chàng vội vã quay lại hành lang có bức tường thủng. Khi đứng bên cạnh giếng, chàng lại nghe thấy tiếng hát của cô gái chủ tế. Tiếng hát nghe vừa ma quái, vừa thê lương như tiếng người quả phụ khóc chồng. Tácdăng càng đi xa, tiếng hát càng nhỏ dần. Một lát sau chàng đã trông thấy khoảng sân rộng rãi bao quanh điện thờ. Chàng có đủ can đảm bay từ trên cao xuống giữa sân thờ không? Liệu chàng có thể sử dụng được cuộn dây trong tay? Tất nhiên Tácdăng đã có cách giải quyết của mình. Chàng quay trở lại bức tường đổ, lấy một hòn đá buộc vào đầu dây rồi tung đầu dây cho cuộn dây vòng quanh chiếc xà ngang. Chàng cầm chắc phần giữa sợi dây rồi thả mình đánh đu vọt qua khoảng trống phía dưới. Trong phút chốc, chiếc dây đã trở thành một thứ đạo cụ trong tay nghệ sĩ của sân khấu xiếc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Xuyên rừng


Tất cả các sân nhà trong thành cổ đều trống trơn, không một bóng người. Các công dân của thành Opa đang lặng lẽ vây quanh bàn thờ dự lễ. Vũ khúc đã chấm dứt. Chỉ còn sót lại tiếng hát buồn bã, ai oán của đạo sĩ La. Biết đâu, mũi dao hành quyết trong tay người đàn bà bí hiểm đó đã vung lên trước ngực nạn nhân.

Tácdăng lao mình về phía có tiếng hát. Chàng trông thấy đám người dự lễ. Nhưng hình ảnh đầu tiên đập vào mắt chàng là những chiếc cốc vàng đặt ngay dưới cơ thể bất động của Potơrôva. Bàn tay nữ chủ tế La đã từ từ hạ thấp rồi chĩa thẳng vào ngực nạn nhân. Vết sẹo trên trán chàng đổi màu. Đôi mắt chàng thoáng hiện lên một lớp sương mờ đỏ. Chàng thét lên một tiếng khủng khiếp - tiếng thét của con thú vồ mồi - rồi nhảy bổ xuống giữa đám người hành lễ.

Giật chiếc dùi cui trong tay kẻ bị đập ngã, Tácdăng bắt đầu mở đường xuyên qua đám đông. Vừa trông thấy Tácdăng xuất hiện, nữ chủ tế tái mét mặt mày. Cho tới lúc này, cô vẫn chưa hiểu bằng cách nào mà người đàn ông da trắng kỳ quặc đó thoát khỏi phòng giam do chính tay cô khóa cửa. Trong thâm tâm, cô không muốn Tácdăng ra khỏi thành phố của cô. Cơ thể lực sỹ và khuôn mặt dễ mến của Tácdăng ngay từ đầu đã làm trái tim cô đập mạnh. Cô nhìn chàng trai bằng đôi mắt của người đàn bà nhiều hơn là bằng đôi mắt của một đạo sĩ. Sau khi lừa Tácdăng, dấu chàng vào căn hầm tối, cô đã chuẩn bị xong một kế hoạch cứu sống chàng trai. Cô định bụng sẽ nói với đám cư dân trong thành rằng: Chính thần Mặt Trời đã trao cho cô sứ mệnh phải tiếp nhận người đàn ông da trắng đó vào cộng đồng và phải làm phép cho người ấy trở thành tín đồ mới của thành Opa. Chính cô đã được thần Mặt Trời báo mộng... Cô tin rằng nếu cô nói ra điều đó, dân chúng sẽ tin cô, bằng lòng tiếp nhận Tácdăng. Và tất nhiên người đàn ông da trắng khỏe mạnh đó sẽ ở lại, trở thành chồng cô. Cô sẽ có một đàn con khỏe đẹp... Vậy mà trong phút chốc, giấc mộng vàng đã tan thành mây khói. Chàng trai mơ ước của cô biến mất rồi bây giờ đột nhiên quay lại, như từ trên trời sa xuống, vung gậy xua đuổi người của cô như xua một đàn cừu.

Trong cơn bàng hoàng, nữ chủ tế quên hẳn nạn nhân trên bàn đá. Tới khi cô tỉnh táo trở lại, chàng lực sĩ da trắng đã đứng sững trước mặt cô, bế gọn nạn nhân trên một cánh tay.

- Hãy tránh ra, La! - Tácdăng ra lệnh - Cô đã cứu tôi nên bây giờ tôi không hại cô. Đừng cản đường tôi và cũng đừng tìm cách vây bắt! Nếu không tôi buộc phải phụ lòng cô.

- Người đó là ai? - Nữ đạo sĩ hỏi và chỉ tay vào cơ thể mềm nhũn của Potơrôva.

- Là cô gái tôi yêu.

Nghe Tácdăng trả lời, nữ đạo sĩ sững người, đôi mắt căng tròn từ từ nhắm lại vì nỗi đau hành hạ. Cô kêu lên một tiếng nho nhỏ rồi ngã gục xuống sàn. Đúng lúc đó những kẻ cuồng tín của Mặt Trời tối thượng cũng hùng hục bước xông tới, bao vây Tácdăng. Nhưng chúng chưa lao tới bệ bàn thờ, Tácdăng đã biến mất. Chỉ bằng một cú nhảy, Tácdăng đã ôm Potơrôva đứng ở hành lang phía sau điện thờ. Khi đám người chân ngắn chạy tới nơi thì chỉ thấy dãy hành lang với những căn phòng trống rỗng. Cả đám phì cười đắc chí, bởi vì chúng nghĩ rằng ở đó không có con đường thoát. Nếu kẻ chạy trốn muốn thoát chốn mê cung của ngôi đền, thế nào cũng phải quay ra bằng lỗ thủng của tường thành.

Trong khi đó, Tácdăng ôm giữ Potơrôva trên vai. Tácdăng thong thả bước xuyên qua những tầng hầm. Khi đi tới miệng giếng, chàng yên tâm rằng thế nào chàng cũng vượt được ra ngoài. Trước lúc thoát qua lỗ thủng, chàng lấy đá lấp kín lại để không ai phát hiện ra lối đi dẫn tới kho báu và lối thoát mới của ngôi đền.

Chàng định bụng sẽ còn trở lại Opa lần nữa để lấy vàng. Trong khi chàng khép cửa kho báu và chui vào đường hầm dẫn ra ngoài, Gian Potơrôva vẫn mê man bất tỉnh.

Khi leo lên đỉnh cao của tảng đá khổng lồ, chàng dừng chân nhìn lại thành phố ma quái nọ. Vừa lúc đó, chàng trông thấy nhóm người lông xồm đang tản ra lùng sục chàng. Chàng nghĩ rằng có thể chạy thẳng tới lối mòn bên miệng vực hoặc cũng có thể ẩn náu và chờ trời tối hẳn. Nhưng nhìn khuôn mặt cô gái, chàng đi ngay tới quyết định: Không thể cùng Potơrôva nằm lại chốn này, chờ cho kẻ thù bao vây chặn mất lối về. Cũng không loại trừ khả năng là đám người rừng điên khùng đó đã lần mò, phát hiện ra lối thoát đường hầm. Nếu như chúng phát hiện ra chàng và tiến công, thể nào chàng cũng bị bắt. Bởi vì với cô gái mềm nhũn trên tay, chàng không thể tả xung hữu đột.

Để leo xuống dưới chân tảng đá khổng lồ này không phải là chuyện dễ. Nhưng nhờ cuộn dây thừng trong tay, Tácdăng đã bình tĩnh ôm cô gái, đặt chân xuống mặt đất mà kẻ thù không hề hay biết. Chàng vừa chạy tới thung lũng thì nghe thấy phía sau lưng mình vang lên tiếng hò reo. Một tốp người của thành Opa đã phát hiện ra chàng và hò nhau đuổi bắt. Nhưng chúng không hình dung được sức mạnh của Tácdăng và tự đánh giá quá cao tốc độ của đôi chân vòng kiềng của mình. Tácdăng vừa chạy chầm chậm vừa quan sát thần sắc cô gái trên tay. Mỗi lần nhìn gương mặt xinh đẹp của cô, trái tim chàng se lại. Chàng cũng không nhận ra rằng, trong tay chàng, cô gái lúc này đang dần dần tỉnh lại.

Cuối cùng, Tácdăng đã chạy tới bức tường thành lát đá. Đám người săn đuổi hò reo phía trên đầu chàng. Bọn chúng vừa hò hét, vừa vung dùi cui trên đầu, nhưng không một tên nào dám nhảy ra ngoài lãnh địa của thành Opa. Có lẽ chúng cũng biết rằng mọi cố gắng của chúng lúc này đã trở thành vô nghĩa.

Khi Tácdăng bước tới bìa rừng, một lần nữa, chàng quay mặt nhìn lại Opa rồi đặt cô gái lên một đám cỏ mềm. Cạnh đó có tiếng suối reo róc rách. Chàng vội vã lấy nước về, nhỏ từng giọt vào đôi môi khô héo của cô gái. Hình như nước suối có thấm qua môi, nhưng cô không hề mở mắt. Tácdăng thở dài, ôm cô lên vai rồi thong thả đi về hướng tây.

Tới lúc trời chiều ngả vàng thì Potơrôva đã tỉnh táo trở lại. Cô không mở mắt ngay vì muốn nhớ lại xem có chuyện gì đã xảy ra với mình: Bàn thờ, nữ chủ tế, mũi dao hành quyết sắc lạnh... Nghĩ tới đó, cô rùng mình và băn khoăn không biết mình đã chết rồi hay đang sống trong cơn mê trước khi hồn lìa khỏi xác.

Cuối cùng, cô mạnh dạn mở mắt và thấy rằng phán đoán của mình hoàn toàn chính xác. Đúng là cô đang được bế đi xuyên rừng, trong tay người đàn ông mà cô yêu mến, mong chờ và đã chết từ lâu.

- Ôi! Nếu như con đã chết rồi thì... cảm ơn Chúa đã cho con được chết! - Potơrôva thì thầm kêu lên.

- Cô đã nói được rồi! - Tácdăng cũng kêu lên sung sướng - Cô tỉnh lại rồi đấy.

- Đúng thế, Tácdăng! - Potơrôva trả lời. Lần đầu tiên sau bao tháng gian nan khổ ải, khuôn mặt cô bừng sáng vì nụ cười hạnh phúc.

- Ơn Chúa! - Tácdăng nói - Tôi đã đến kịp thời.

- Kịp thời? Anh nói kịp thời là nghĩa thế nào? - Cô gái ngây thơ hỏi.

- Đến kịp thời để cứu cô thoát khỏi cái chết trên bệ điện thờ - Tácdăng trả lời - Cô không nhớ sao?

- Để cứu sống em ư? - Cô gái hỏi với đôi mắt nghi ngờ - Chẳng lẽ anh và em đều không phải là người đã chết hay sao, Tácdăng của em?

Tácdăng vội đặt Potơrôva ngồi dựa vào gốc cây. Chàng lùi lại vài bước để nhìn rõ khuôn mặt cô.

- Những người đã chết? - Tácdăng nhắc lại lời cô gái rồi bật cười - Cô không phải là người chết đâu, Gian ạ! Cả hai chúng ta đều đang sống như những người khỏe mạnh ấy mà.

- Nhưng Hazen và ông Tơran đều nói cho em biết rằng anh đã chết đuối ở vùng biển cách rất xa đất liền? - Potơrôva hỏi dồn. Dường như cô muốn Tácdăng phải tự chứng minh cho cô rằng chàng vẫn còn sống - Người ta nói rằng anh không thể sống nổi và cũng không có thuyền nào vớt anh.

- Tôi biết thuyết phục cô bằng cách nào đây? Chẳng nhẽ cô nghĩ tôi là một hồn mà? - Tácdăng vừa hỏi vừa cười - Chắc chắn là tôi đây. Tôi là người mà ngài Tơran đáng kính đã hất xuống biển. Nhưng tôi không chìm được. Rồi tôi sẽ kể lại tất cả cho cô biết. Còn bây giờ tôi lại vẫn là một loài người rừng man dại mà ngày nào cô đã gặp, Gian ơi!

Potơrôva đứng dậy, bước lại phía Tácdăng.

- Cho tới bây giờ em vẫn không tin được đây là sự thật hay chỉ là ảo ảnh. Chả lẽ em đã gặp được hạnh phúc của mình, sau bao tháng ngày rùng rợn tính từ khi thuyền Tiểu thư Alice bị đắm?

Cô gái bước tới bên Tácdăng rồi đặt bàn tay mềm mại, run rẩy lên vai chàng.

- Hay đây chỉ là một giấc mơ? Em đang gặp anh trong mơ? Tới khi tỉnh giấc, em lại nhìn thấy mũi dao nhọn chĩa thẳng vào ngực em? Hôn em đi! Người yêu của em! Hôn em đi, ít nhất là một lần, kẻo em lại tỉnh giấc, không còn được thấy anh nữa.

Tácdăng không nỡ để cô gái phải năn nỉ quá lâu. Chàng đưa vòng tay rắn chắc của mình xiết chặt lấy đôi vai nhỏ nhắn của Potơrôva rồi hôn cô. Chàng hôn không phải chỉ là một lần mà đến hàng trăm lượt...

- Tôi đang thức, hay tất cả chỉ là mơ? - Potơrôva hỏi - Nếu như anh chỉ là một hồn ma thì em cũng cầu Chúa cho em được chết, đừng bắt em sống lại, để rồi phải xa anh.

Tácdăng không nói. Cả hai cùng đứng im, lặng lẽ nhìn sâu vào mắt nhau. Dường như cả hai sắp ngã xuống vì cái hạnh phúc quá lớn lao và đột ngột của mình. Họ quên hẳn cái quá khứ đầy đau đớn và tuyệt vọng. Tương lai thì hãy còn xa. Nhưng hiện tại thì đang thuộc về họ. Họ chỉ cần hiện tại và chỉ cần bên nhau.

Potơrôva là người đầu tiên phá vỡ không khí im lặng.

- Bây giờ chúng ta đi đâu, anh yêu? - Cô hỏi - Chúng ta sẽ làm gì bây giờ?

- Thế em muốn đi đâu? Em muốn làm gì?

- Em muốn đi nơi nào mà anh thích. Em sẽ làm tất cả những gì mà anh cho là cần thiết phải làm.

- Thế Clâytơn? - Tácdăng chợt nhớ ra rằng, họ không phải chỉ có hai. Bên cạnh chàng và cô gái còn có một người đàn ông khác nữa - Cả hai chúng ta đã quên mất, Clâytơn - chồng em...

- Em chưa lấy chồng, Tácdăng! - Potơrôva kêu lên - Em đã trót nhận lời cầu hôn, nhưng trước khi em bị bắt cóc, em đã nói thẳng với Xêrin Clâytơn rằng em yêu anh. Anh ấy cũng hiểu rằng em không thể giữ được lời hứa. Em đã nói thẳng điều đó khi anh ấy và em bị sư tử đuổi theo và được cứu thoát.

Vừa nói xong, Potơrôva sừng sờ nhìn Tácdăng rồi kêu lên:

- Chính anh đã cứu sống Clâytơn và em, phải không? Chính anh đã giết sư tử? Có lẽ chẳng còn ai khác.

Nghe cô gái hỏi, Tácdăng cúi mặt, bối rối. Chàng cảm thấy xấu hổ.

- Vì sao khi đó anh lại bỏ đi? - Potơrôva hỏi dồn.

- Thôi, chúng ta đừng nói về chuyện đó nữa, Gian! - Tácdăng buồn bã trả lời - Anh xin em! Em có biết khi đó anh đã đau khổ và ghen tuông đến thế nào không? Anh đã nguyền rủa số phận và đau đớn tìm về với đàn vượn. Anh đã nghĩ rằng, từ nay mình sẽ đoạn tuyệt với cuộc sống con người.

Potơ rôva ngả đầu vào vai Tácdăng. Cô nghe chàng kể tất cả mọi chuyện từ khi chàng trở lại rừng già, chuyện chàng biến đổi từ một người Pari lịch sự thành một thủ lĩnh của bộ lạc Oadiri và cuối cùng trở thành một con thú chẳng khác gì khi xưa. Potơrôva hỏi chàng đủ mọi thứ chuyện. Cô hỏi về những điều mà Tơran đã nói với cô. Cô hỏi cả tới những chuyện rắc rối của Tácdăng trong lâu đài Ônga Đơ Côngđơ. Tácdăng thành thật thú nhận tất cả, không dấu diếm điều gì. Chàng kết thúc bằng câu chuyện đấu súng với bá tước rồi im lặng nhìn trộm Potơrôva. Chàng lo lắng chờ phản ứng của cô gái, chẳng khác gì một phạm nhân chờ tuyên án của quan tòa. Potơrôva im lặng giây lát rồi nói:

- Em biết là Tơran nói dối. Thật khốn nạn!

- Có nghĩa là em không giận anh? - Tácdăng hỏi một cách rụt rè.

Cô gái suy nghĩ giây lát rồi trả lời bằng một câu hỏi rất xa vấn đề - một cách trả lời kiểu phụ nữ:

- Có nghĩa là cô Ônga Đơ Côngđơ rất đẹp?

Tácdăng cười xòa rồi hôn vào vai cô gái.

- Nhưng em lại đẹp gấp trăm lần, em yêu!

Đêm hôm ấy, Tácdăng làm một chiếc chòi nho nhỏ trên cây. Potơrôva vừa chui vào, ngả mình là ngủ thiếp đi - một giấc ngủ mê mệt với cặp môi thấp thoáng nụ cười hạnh phúc. Trong khi đó, Tácdăng ngồi ở một cành cây phía dưới. Suốt đêm, chàng thức, gác cho cô gái ngủ.

Ngày hôm sau hai người bắt đầu cuộc hành trình ra phía bờ biển. Ở những đoạn đường dễ đi, hai người cầm tay nhau rảo bước dưới mái che xanh sẫm của rừng già nguyên thủy. Đôi trai gái sánh vai nhau trông như Ađam và Êva - Thủy tổ của loài người. Ở những quãng rừng rậm rạp, nhiều gai nhọn, Tácdăng bế Potơrôva, chuyển từ lùm cây này sang lùm cây khác. Thật ra chặng đường khá xa, nhưng họ cảm thấy thời gian trôi qua rất nhanh và con đường quá ngắn. Bởi vì cả hai lúc nào cũng cảm thấy lâng lâng trong hạnh phúc. Nếu như họ không nghĩ tới việc cứu Clâytơn, có lẽ họ chỉ muốn đi bên nhau trong rừng xanh cho tới tận cùng cuộc đời.

Ra gần tới bờ biển, Tácdăng trông thấy có một tốp người da đen. Chàng nhắc Potơrôva phải bình tĩnh và thận trọng.

- Trong rừng này chúng ta có thể vẫn gặp bạn bè - Tácdăng nói.

Tốp người da đen mang vũ khí bên mình, đang mải miết đi về hướng Tây. Khi tới gần, Tácdăng vô cùng sung sướng. Đó là những người Oadiri. Đi đầu hàng quân chính là Busuli. Sau lưng anh là những chiến binh đã từng hộ tống Tácdăng tới thành Opa. Vừa trông thấy chàng, họ reo lên rồi cầm tay nhau nhảy múa tưng bừng. Hóa ra họ đi tìm chàng đã mất hơn một tuần trăng, bây giờ mới gặp.

Tốp người da đen ngạc nhiên khi thấy Tácdăng "đem theo" bên mình một cô gái da trắng nhỏ nhắn. Khi biết đấy là bạn gái của thủ lĩnh, họ cư xử với Potơrôva rất cung kính, lễ độ. Họ vừa cười, vừa múa, rước Tácdăng và Potơrôva đi đến chiếc chòi của Clâytơn. Tácdăng leo lên chòi. Chàng thấy lòng mình se lại, khi nhìn thân hình bất động của Clâytơn. Chàng vứt chiếc vỏ hộp xuống đất, giục Busuli đi lấy nước rồi gọi Potơrôva lên chòi. Chỉ lát sau, hai người đã cúi xuống với cơ thể tiều tụy của chàng quý tộc Anh quốc. Potơrôva bật khóc khi nhìn rõ khuôn mặt khô đét của chàng trai bất hạnh.

- Anh ấy vẫn còn thở - Tácdăng nói - Chúng ta phải cố gắng tìm mọi cách.. Nhưng anh sợ muộn mất rồi.

Busuli vừa mang nước tới, Tácdăng liền nhỏ vài giọt vào đôi môi nứt nẻ của người ốm. Sau đó chàng tưới nước lên trán và xoa bóp chân tay cho cơ thể Clâytơn nóng lên. Sau bao cố gắng của chàng, cuối cùng Clâytơn đã mở được mắt. Vừa trông thấy khuôn mặt Potơrôva cúi sát mặt mình, Clâytơn nở một nụ cười yếu ớt. Nhưng khi nhìn thấy Tácdăng, Clâytơn có vẻ kinh ngạc.

- Đừng lo lắng gì nữa, bạn thân mến! - Tácdăng nói - Chúng tôi đã tìm thấy anh rất kịp thời. Chỉ vài ngày nữa bạn sẽ khỏe và sẽ đi được.

Clâytơn khẽ lắc đầu.

- Muộn rồi! - Clâytơn thì thào - Nhưng mọi việc đều tốt đẹp cả. Và có lẽ mọi việc còn... tốt đẹp hơn, nếu như tôi chết.

- Ông Tơran đâu rồi? - Potơrôva hỏi.

- Hắn bỏ đi rồi. Khi tôi xin hắn cho uống nước, lúc đó tôi không đủ sức lấy nước, hắn đã lấy rồi uống cạn trước mặt tôi. Hắn còn cười để hành hạ tôi nữa.

Hồi ức khủng khiếp về Tơran dường như làm Clâytơn khỏe lên một chút. Anh nhỏm dậy bằng hai cùi tay rồi kêu lên:

- Đúng! Tôi không chết được! Tôi phải sống! Ít nhất là tới khi tìm được và giết chết hắn.

Sự phẫn nộ và cố gắng đã làm Clâytơn kiệt sức. Vừa nói xong, Clâytơn đã đổ vật xuống. Chiếc áo khoác rách rưới mà Potơrôva vừa phủ lên người anh bật tiếng kêu sột soạt.

- Đừng nghĩ về Tơran nữa! - Tácdăng nói và đặt tay lên trán Clâytơn - Hắn thuộc về tôi. Rồi tôi sẽ tính sổ với hắn. Đừng lo!

Clâytơn nằm thiếp đi rất lâu. Thỉnh thoảng Tácdăng lại cúi xuống, áp tai vào ngực Clâytơn để lắng nghe tim đập.

Tới sẩm tối, Clâytơn tỉnh lại được một lúc.

- Gian! - Clâytơn thì thào gọi - Tôi đã nghi oan cho em và anh ấy - Clâytơn chỉ tay vào Tácdăng - Tôi đã yêu em biết chừng nào! Nhưng tôi xin lỗi vì đã làm em khó chịu. Trước đây, tôi không chịu đựng nổi cái ý nghĩ là một ngày nào đó em sẽ bỏ tôi. Tôi không cần sự tha thứ đâu. Bây giờ tôi chỉ muốn làm cái việc mà lẽ ra phải làm cách đây một năm.

Clâytơn cố gắng thọc tay vào túi chiếc áo khoác. Lát sau, anh run rẩy rút ra một mẩu giấy nhầu nát, vàng úa, đưa cho cô gái. Cô gái vừa cầm được mẩu giấy, bàn tay Clâytơn đổ rập xuống ngực. Anh thở dài - hơi thở cuối cùng.

Tácdăng kéo vạt áo khoác phủ lên khuôn mặt trắng nhợt của Clâytơn rồi cùng Potơrôva quỳ xuống bên thì hài. Potơrôva thì thầm cầu nguyện. Khi hai người đứng dậy, lần đầu tiên Potơrôva thấy từ mắt Tácdăng ứa ra hai giọt lệ. Trái tim sắt đá của chàng trai người rừng đã biết mềm đi trước nỗi bất hạnh của người đồng loại.

Potơrôva lau nước mắt, nhìn vào mẩu giấy. Cô phải đọc đi đọc lại mấy lần mới hiểu được ý nghĩa dòng chữ điện tín:

"Những vết vân tay chứng tỏ rằng ngài thực sự là Grâyxtâu, xin chúc mừng - Ácnốt."

Potơrôva đưa mẩu giấy cho Tácdăng.

- Suốt bao lâu nay anh ấy biết rõ điều này - Cô gái nói - Vậy mà anh ấy chẳng hề nói tới.

- Anh là người biết đầu tiên, Gian ạ! - Tácdăng trả lời - Anh không biết là chính anh ấy cũng biết rõ điều đó. Anh đã đọc và vứt mẩu giấy bưu điện này trong đêm Clâytơn ở phòng chờ tàu. Anh nhận điện ở đó.

- Rồi sau đó anh lại nói rằng mẹ anh là một con vượn và anh không biết cha mình là ai - Potơrôva tiếp lời.

- Em đừng băn khoăn! Trang trại, tài sản và danh hiệu quý tộc có nghĩa lý gì khi anh sống thiếu em! Nếu như anh lấy lại quyền thừa kế của anh thì điều đó có nghĩa là anh giành giật cuộc sống của người con gái mà anh yêu quý. Em có hiểu anh không, Gian?

Tácdăng nói như một người xin lỗi rồi đưa tay về phía Potơrôva. Cô gái vội vàng đỡ lấy và xiết chặt vai chàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Tạm biệt Tarzan


Sáng hôm sau, mọi người theo Tácdăng tới ngôi nhà gỗ. Bốn người Oadiri khiêng thi hài của chàng trai nước Anh, vì Tácdăng đã quyết định mai táng Clâytơn bên cạnh mộ của huân tước Grâyxtâu. Điều này làm Potơrôva vừa mừng vừa có phần ngạc nhiên. Cô không ngờ một người từ bé đến lớn chỉ sống với các loài cầm thú mà có thể suy nghĩ và hành động một cách cao thượng và nhân ái đến thế. Cô vẫn nghĩ rằng cách nghĩ và cách làm của Tácdăng trước số phận của Clâytơn bất hạnh chỉ có thể xuất hiện ở những người được nuôi dưỡng và giáo dục chu đáo trong xã hội văn minh.

Lúc đoàn người đi tới gần cửa sông, một chiến binh da đen phát hiện thấy có người ăn mặc kỳ quái đang đi men bờ sông.

Đó là một người đàn ông đội mũ trụ may bằng nhung mịn, áo lễ phục đuôi tôm. Ông ta chăm chú bước, hai tay thọc sâu vào túi quần. Vừa nhìn thấy ông, Gian Potơrôva thét lên một tiếng vừa kinh ngạc, vừa sung sướng rồi lao ra đón. Ông già ngẩng đầu tiến lại gần, khi đã xác định được người gọi tên mình là ai, ông cũng lao tới, ôm chầm lấy con gái của mình, nước mắt ứa ra giàn giụa.

Một lúc sau ông già mới tự chủ trở lại và cất tiếng nói. Cũng ngay lúc đó ông nhìn thấy Tácdăng. Ông nhìn Tácdăng như nhìn một bóng ma. Bởi vì cũng giống như mọi người trong đoàn viễn chinh tìm vàng năm trước, ông nghe nói rằng Tácdăng đã chết từ lâu. Khi nghe Tácdăng kể về cái chết thảm thương của Clâytơn hôm trước, ông vô cùng xúc động.

- Tôi chẳng thể nào hiểu nổi - ông nói - Rõ ràng là ngài Tơran đã quả quyết với chúng tôi rằng Clâytơn đã chết lâu rồi.

- Tơran đang ở cùng các ngài ư? - Tácdăng hỏi ngay.

- Đúng thế! Cách đây vài hôm, Tơran tìm được chúng tôi và dẫn chúng tôi tới ngôi nhà gỗ của anh. Chúng tôi đã lập trại bên cạnh. Tơran chắc sẽ rất mừng khi trông thấy anh.

- Vâng, tôi sẽ tự trình diện với Tơran - Tácdăng cười.

Chỉ một lát sau mọi người đã đến khu rừng đốn có ngôi nhà gỗ của Tácdăng. Khu rừng đầy người đi lại. Người đầu tiên mà Tácdăng trông thấy lại chính là Ácnốt.

- Pôn! - Tácdăng gọi như thét - Lạy Chúa, anh làm gì ở đây? Có lẽ tất cả mọi người cùng một lúc hóa điên hay sao?

Tácdăng được giải thích rất nhanh. Con tàu của Pôn Đơ Ácnốt đã nhận nhiệm vụ tìm kiếm dọc bờ biển. Theo yêu cầu của trung úy Ácnốt, tàu dừng lại ở cửa sông. Các thủy thủ tò mò muốn xem ngôi nhà gỗ bí ẩn. Vì vậy họ đã gặp huân tước Teningtơn và những người sống sót trong đoàn. Gặp nhau rồi, mọi người quyết định ngày hôm sau sẽ lên đường trở về quê hương.

Hai mẹ con Hazen, Exmêranđa và ông Philanđơ vô cùng sung sướng khi thấy Potơrôva trở về. Nghe xong chuyện cô được cứu sống, mọi người cho rằng, ngoài Tácdăng, không ai có thể cứu được cô gái thoát khỏi thành phố ma quái ấy và ra khỏi được rừng sâu. Người nào cũng tỏ ra tò mò khi trông thấy các chiến sĩ khỏe mạnh của bộ lạc Oadiri. Không những thế, người Oadiri còn tặng cho bạn bè của thủ lĩnh mình rất nhiều quà quý đeo trên mình làm kỷ niệm. Tới khi biết tin thủ lĩnh của mình đã quyết định từ giã rừng già, lên tàu ra đi, các chiến binh da đen vô cùng buồn bã.

Cho tới lúc đó Tácdăng vẫn chưa gặp Teningtơn và Tơran. Từ sáng sớm, hai người đã đi bắt cá, chưa trở về.

- Người đàn ông mà tên thật là Rôcốp đó sẽ rất kinh ngạc khi trông thấy anh đấy - Potơrôva nói với Tácdăng.

- Nhưng hắn ta sẽ chẳng kinh ngạc được lâu đâu - Tácdăng nói. Trong giọng nói của Tácdăng có gì đó rất lạ, làm cô gái rất hoang mang. Cô vội đặt tay lên vai Tácdăng, yêu cầu chàng tố cáo gã người Nga đó trước chính quyền nước Pháp.

- Sống giữa rừng già, - Potơrôva nhắc nhở - nơi mà chẳng có thứ luật nào ngoài luật "cá lớn nuốt cá bé", thì anh hoàn toàn có quyền tự hành động theo ý thích của mình. Còn ở xã hội văn minh, theo công lý, nếu anh giết hắn thì anh lại trở thành một tên giết người, mặc dù nhiều bạn bè và người thân của anh có thể hài lòng khi anh trừng trị hắn. Nếu anh không tự kiềm chế, anh có thể đẩy tất cả bạn bè quanh anh vào tình thế khó khăn, rắc rối. Em không thể chịu đựng được cái ý nghĩ rằng, rồi một hôm nào đó em lại mất anh. Hãy hứa với em đi! Hứa rằng anh sẽ nộp hắn cho thuyền trưởng Đupran để hắn chịu sự trừng phạt của tòa án. Kẻ bẩn thỉu đó không đáng đê cho ta giận dữ tới mức vì hắn mà hạnh phúc của chính chúng ta lại bị đe dọa lần nữa.

Tácdăng lặng lẽ gật đầu. Chàng biết rằng Potơrôva đang thuyết phục chàng hành động một cách tỉnh táo và khôn ngoan nhất. Chàng hứa sẽ làm theo lời khuyên thống thiết của người yêu.

Được một lúc sau, Rôcốp và huân tước Teningtơn từ trong rừng trở về. Teningtơn trông thấy các chiên binh da đen đang cười nói vui vẻ với các thủy thủ tuần dương hạm. Ngay gần đó, một chàng lực sĩ da rám nắng đang dạo bước bên trung úy Ácnốt và thuyền trưởng Đupran.

- Người đó là ai thế? - Teningtơn kéo tay Rôcốp hỏi.

Vừa nhận ra Tácdăng, Rôcốp giật mình.

- Đồ chó chết! - Rôcốp buột mồm kêu lên.

Teningtơn chưa hiểu Rôcốp nói gì, đã thấy hắn rút súng nhằm thẳng vào Tácdăng, bóp cò. Rất may là Teningtơn kịp thời đẩy mạnh vào khuỷu tay của Rôcốp. Súng nổ. Viên đạn bay sượt phía trên mái tóc Tácdăng.

Rôcốp chưa kịp xoay xở để nổ phát đạn thứ hai, Tácdăng đã xông tới nơi, giật gọn khẩu súng ra khỏi tay hắn.Thuyền trưởng Đupran, trung úy Ácnốt cùng một số thủy thủ vội chạy tới nơi phát ra tiếng nổ. Tácdăng bẻ quặt tay Rôcốp, giao hắn cho tốp thủy thủ. Chàng kể lại toàn bộ câu chuyện cho các sĩ quan Pháp nghe. Theo lệnh thuyền trưởng, một vài thủy thủ giải Rôcốp xuống tàu và nhốt hắn vào khoang lưới sắt.

Trước khi các thủy thủ giải Rôcốp ra thuyền cao su để bơi ra tuần dương hạm, Tácdăng xin phép được khám xét kẻ tội phạm. Ngay lập tức, chàng tìm thấy trong người hắn tờ giấy bị mất cắp. Khi xẩy ra vụ xung đột, Potơrôva đang còn ngồi trong ngôi nhà gỗ của Tácdăng. Nghe tiếng súng nổ đột ngột, biết có chuyện chẳng lành, Potơrôva hớt hải chạy ra. Người đầu tiên cô gặp là huân tước Teningtơn. Tácdăng vừa lấy xong tờ tài liệu mật của Rôcốp cũng vội bước tới đón Potơrôva.

- Đây là Giôn Clâytơn, huân tước Grâyxtâu, thưa ngài Teningtơn! - Cô gái ngả tay về phía Tácdăng, giới thiệu.

Teningtơn có phần sửng sốt. Anh bắt đầu cư xử, nói năng với Tácdăng thật lịch sự. Anh đã nghe kể rất nhiều về chuyện Potơ rôva và Tácdăng. Chính vì vậy mà chàng huân tước tốt bụng này rất vui sướng khi thấy hai người từ rừng sâu trở về đều khỏe mạnh.

° ° °

Trước lúc mặt trời lặn, mọi người đưa thi thể Wiliam Xexin Clâytơn đi mai táng bên cạnh mộ ông bác và bà cô của anh. Theo yêu cầu của Tácdăng, các thủy thủ nổ ba phát đại bác danh dự để vĩnh biệt chàng trai nước Anh quả cảm. Người em họ của Tácdăng dù sao cũng đã sống và hành động một cách trung thực cho tới giây phút cuối đời.

Giáo sư Potơ khi xưa vốn đã là một nhà truyền giáo, vì vậy ông đứng ra làm chủ tang, điều khiển các nghi thức mai táng. Cho tới lúc mặt trời khuất hẳn dưới chân núi, mọi người vẫn đứng âm thầm xung quanh các nấm mộ. Thành phần của đoàn người đưa tang gồm ba dân tộc. Đó là các sĩ quan, thủy thủ Pháp, hai huân tước nước Anh và tốp chiến binh của bộ lạc châu Phi.

Xong việc mai táng, Tácdăng đề nghị thuyền trưởng Đupran nhổ neo chậm lại hai ngày. Chàng muốn quay về rừng rậm để lấy hành lý. Tất nhiên, thuyền trưởn đồng ý, chiều ngay ý nguyện của chàng.

Ngay ngày hôm sau, Tácdăng và các chiến binh Oadiri đã quay lại tàu với chuyến chuyên chở đầu tiên. Vừa trông thấy các thứ Tácdăng đem ra đều là vàng thật, mọi người tò mò, hỏi chàng tới tấp. Tácdăng nghe hỏi chỉ im lặng, cười. Chàng không hé răng tiết lộ một lời về xuất xứ của đống vàng. Sau khi toàn bộ số vàng đã được chất lên tuần dương hạm, thuyền trưởng Đupran nói rằng, ông có cảm giác như người chỉ huy của hải thuyền Tây Ban Nha đang trở về với kho vàng chiếm được của những người Adơtếch khi xưa.

- Nguy hiểm quá, nguy hiểm quá! Tôi chẳng biết lúc nào thì thủy thủ cắt cổ tôi rồi quẳng xuống biển đây - Đupran nói thêm với nụ cười dí dỏm.

Việc xếp hành lý lên tàu xong xuôi, Tácdăng rụt rè nói nhỏ với Potơrôva:

- Người ta nói rằng ngay cả loài thú dữ cũng có tình cảm chút ít, phải không em! Vì vậy mà anh muốn làm lẽ đính hôn với em ở ngay nơi mà anh đã chào đời, gần mộ của cha mẹ anh. Anh muốn tổ chức lễ ngay ở rừng già, quê hương thân thuộc của anh.

- Em sẽ làm ngay điều anh thích, anh yêu của em! - Potơrôva sốt sắng đáp - Trở thành vợ của Thần Rừng thì còn có nơi nào đẹp hơn là ngay ở giữa trái tim của rừng sâu hoang dã.

Tácdăng và Potơrôva đi thông báo quyết định của mình cho mọi người biết. Vừa nghe xong, ai cũng phải bật cười nhưng đều vui vẻ cho rằng, đó là một sáng kiến độc đáo tuyệt vời. Mọi người kéo nhau vào ngôi nhà gỗ để làm người chứng kiến. Chính giáo sư Potơ đứng ra điều hành các nghi thức. Trung úy Ácnốt được yêu cầu làm người chứng kiến số một cho Tácdăng. Về phía Gian Potơrôva thì đã có Hazen giúp đỡ. Nhưng ngay lúc đó huân tước Teningtơn đã lên tiếng can thiệp:

- Đừng bắt Hazen Stroong đi bên cạnh! - Teningtơn nói với mọi người rồi quay ra cầm bàn tay Hazen - Nếu tiểu thư đồng ý thì tôi nghĩ rằng có thể làm hai lễ đính hôn cùng một nơi, một lúc.

Hazen gật đầu giấu khuôn mặt đỏ bừng vào ngực chàng huân tước vui tính.

Ngày hôm sau, tuần dương hạm rời bờ biển. Khi con tàu từ từ lướt sóng, Tácdăng kéo Potơrôva sát vào mình. Chàng trai lực sĩ trong bộ trang phục sáng màu, rất lịch sự. Bên cạnh chàng, cô dâu xinh đẹp tươi cười nhìn vào bờ. Cả hai giơ tay vẫy chào bờ biển châu Phi. Phía ấy, họ vẫn nhìn rõ những ngọn giáo nhấp nhô của nhóm người Oadiri đang nhảy múa, tạm biệt người thủ lĩnh tuyệt với.

- Anh chưa bao giờ hình dung được có một lúc nào đó anh lại phải vĩnh biệt rừng xanh, Gian ạ! - Tácdăng nói - Tất nhiên anh chỉ có thể chịu đựng được điều này khi ra đi có em bên cạnh.

Chàng trai nói rồi cúi xuống hôn lên mái tóc vợ mình.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom