Cập nhật mới

Dịch Quan Cư Nhất Phẩm

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 834: Thời gian không đợi ta


Dù sao Cao Củng là con cháu dòng dõi thi thư, vốn tử chửi người hữu hạn, quanh đi quẩn lại chỉ có mấy câu, kẻ bị chửi lại im re, nên bản thân mất hứng trước, nói:
- Ngẩng đầu lên, cho ta xem cái mặt các ngươi.

Hai tên run run ngẩng đầu lên, mặt mày đầy nước mắt nước mũi, đem bi thương đâu khổ và hối hận xấu hổ thể hiện tới cùng cực.

Nếu là cao thủ như Từ Giai, Dương Bác và Thẩm Mặc, hay là tiểu cao thủ như Trương Cư Chính cũng không bị mánh vặt của bọn chúng làm mê hoặc... Đường đường là là quan lớn tam phẩm, người ta cũng đâu chọc đít các ngươi, cần gì đau đớn thành như thế.

Nhưng chiêu số này dùng với Cao Củng lại được, thấy hai tên đúng là có ý hối hận, lửa giận trong lòng ông ta tan đi ba phần:
- Năm xưa hắt nước theo mưa hẳn không ngờ có ngày hôm nay hả?
Nhớ tới chuyện cũ, tà hỏa trong lòng Cao Củng lại bốc lên, nhìn hai tên như muốn ăn thịt, cứ như bọn chúng trả lời không vừa lòng là lập tức xông tới xé nát.

- Các lão, chúng tôi làm thế đúng là khiến người ta khinh bỉ.
Lưu Thế Càn dập đầu nói:
- Nhưng tình hình khi đó cả triều đều như vậy, thêm hay bớt hai người chúng tôi, đều không ảnh hưởng gì tới đại cục...

- Nhưng chúng tôi làm thế có thể bảo tồn thực lực, đợi ngài về...
Từ Dương Chính tiếp lời.

- Đúng thế ạ, đó chỉ là kế quyền biến thôi.

Một tên hát một tên phụ họa, Cao Củng bực mình thô bạo cắt ngang:
- Bất đắc dĩ? Sao Ngụy Học Tăng và Vương Hi Liệt không bị bọn chúng bức tử?

- Đó là vì các lão rớt đài quá nhanh.
Từ Dưỡng Chính vô sỉ nói:
- Bọn chúng đã ép ngài và Quách các lão đi rồi, thế nào cũng phải trì hoãn một chút mới động thủ tiếp.

- Ngài phải tin chúng tôi.
Lưu Thế Càn nói hết sức tội nghiệp.

- Mặc dù chúng tôi có lỗi với ngài, nhưng lòng ngày với ngài là lòng trung...

Cao Củng hừ một tiếng:
- Rắm chó, chúng ta là quân thần hay chủ tớ mà nói tới chữ trung?
Nói thì nói thế, nhưng mặt hòa hoãn hơn, cây đổ đàn khỉ tan, chẳng thể bắt người khác chết cùng mình.

Hai tên thấy tình thế chuyển biến tốt, thầm nghĩ:" Quả nhiên chỉ thích mềm không thích cứng", vì thế tự tin hẳn, càng dùng lời lễ hạ mình biểu đạt áy náy và trung thành.

Cao Củng nghe tới bực mình, chửi:
- Hai thằng hèn...
Liền bước qua hai tên.

Bị chửi là hèn, hên tên Từ Lưu đúng là lòng như hoa nở, dù là bị chửi, nhưng hiển nhiên là hơn "rùa" nhiều..

Người ở ngoài tiền sảnh thấp thỏm, hả hê đợi kết quả thấy Cao các lão hầm hầm đi ra, còn hai tên Từ Lưu theo sát gót, cố kiếm lời để nói:
- Các lão cẩn thận dưới chân...
Hiển nhiên là làm cho người ta xem.

Cao Củng dù không để ý tới bọn chúng, nhưng cũng chẳng tỏ ra phản cảm, nói với mọi người:
- Các vị đợi lâu rồi.

Rượu thịt đã chuẩn bị xong, Cao Củng ngồi xuống, liền được đưa lên, mọi người tất nhiên chúc rượu, nói lời vui vẻ, Cao Củng hứng trí rất cao, uống liền mười mấy chén, cả Từ Dưỡng Chính mới rượu cũng chỉ lạnh nhạt nhìn một cái rồi uống.

Vì phải về kinh trước khi đóng cửa thành, nên không ai dám quá chén, đợi tới khi vào kinh thành rồi mới làm bữa tiệc lớn.

Ăn uống qua loa, tới giờ múi, đại đội nhân mã xúm quanh Cao Củng, cùng rời khỏi đại sảnh. Cẩm Y vệ đã nai nịt gọn gàng đợi đại giá Cao các lão.

Cũng chẳng biết là quá đắc ý hay là rượu bốc lên đầu, Cao Củng cướp lấy giây cương một thị vệ bên cạnh, nói:
- Ngươi lên ngồi xe.
Rồi nhảy lên ngựa phóng đi trong ánh mắt kinh ngạc của đối phương.

Đợi mọi người tỉnh lại thì ông ta đã rời khỏi Kinh Nam dịch.

- Mau đuổi theo.
Vì thế người lên ngựa, người lên xe, cuống cuồng đuổi theo.

Kỵ thuật của Cao Củng không kém, thúc ngựa chạy rất xa, hưởng thụ khoái cảm tung vó rong ruổi trên thảo nguyên Hoa Bắc, ngay cả con ngựa phía dưới cung khoan khoái phi như bay.

Lão phu liễu phát thiếu niên cuồng,
Tả khiên hoàng,
Hữu kình thương,
Cẩm mạo điêu cầu,
Thiên kỵ quyển bình cương.
Vị báo khuynh thành tùy thái thú,
Thân xạ hổ,
Khán Tôn lang.

Tửu hàm hung đởm thượng khai trương,
Mấn vi sương,
Hựu hà phương?
Trì tiết Vân Trung,
Hà nhật khiển Phùng Đường?
Hội vãn điêu cung như mãn nguyệt,
Tây bắc vọng,
Xạ Thiên Lang.

***

Già này nổi tính trẻ ngông cuồng,
Giắt chó vàng,
Mang chim ưng,
Mũ gấm áo cừu,
Thúc ngựa ruổi bãi bằng
Đáp lại cả thành theo quan phủ,
Tay bắn hổ,
Vẻ kiêu hùng.

Rượu say gan dạ chính đang hăng,
Tóc đốm sương,
Truyện coi thường.
Ra sứ Vân Trung,
Ngày nào sai đến Phùng Đường?
Cung cứng co lên như vàng nguyệt,
Miền Tây Bắc,
Bắn sao Lang.

Giang Thành Tử - Tô Thức - Dịch Nguyễn Xuân Tảo.

Cao Củng cứ thế sảng khoái một mình một ngựa bất chấp tất cả phóng ngựa tới thẳng dưới thành Bắc Kinh nguy nga.

Binh sĩ thủ thành thấ có người phóng ngựa tới, xa xa thấy khỏi bụi cuồn cuộn, không khỏi liên tưởng:" Chẳng lẽ Thát Đát lại tới? Sao chẳng có chút dấu hiệu nào?"
Nhưng chẳng ai dám sơ xuất, gõ chuông cảnh báo, đóng cổng thành làm bách tính hoảng loạn chen lấn nhau, cửa thành nhất thời không sao đóng được.

Nhìn thấy cảnh hỗn loạn Cao Củng vô cùng xấu hổ, giờ ông ta mới nhớ ra ngoại trừ tín sứ thập vạn hỏa cấp, trong vòng 30 dặm quanh cổng thành, không một ai được phép phóng ngựa. Định đi tới giải thích thì thấy cung nỏ nhô ra khỏi ụ thành, đoán chừng mình còn dám tiến tới sẽ bị bắn thành nhím luôn.

Lúc này người phía sau cũng đã đuổi tới, đợi bụi tan đi, thủ quân trên thành nhìn rõ, ối mẹ ơi, đội nhân mã này ghê quá... Có Cẩm Y vệ, có quan cao, có thị vệ, tất cả xúm quanh một ông già, chẳng biết là thân phận gì.

Ít nhất cũng khiến bọn họ buông lỏng cảnh giác, đầu lĩnh Cẩm Y vệ thúc ngựa xông tới, chỉ lên tường thành cười mắng:
- Lưu Đại Mã, hoảng hốt cái gì, còn không mau mau mở cửa thành.

- Chu choa, tưởng là ai, ra là Chu đại ca.
Lưu Đại Mã thấy tình huống nguy hiểm, định lén lút trốn đi, lúc này mới ngượng ngùng thò đầu ra, cười:
- Huynh đệ mang chức trách trên mình, lượng thứ lượng thứ.

- Đừng rườm lời, mau mở cửa thành.
Đầu lĩnh đó là người lão luyện, không để lộ thân phận của Cao Củng.

- Dạ, dạ..
Lưu Đại Mã thấy họ Chu dẫn đội rời thành, biết đi đón sư phụ hoàng đế về, vội lệnh mở cửa.

Chuyện vừa rồi làm Cao Củng có chút mất mặt, cho nên không còn cảm giác lâng lâng nữa, nghiêm mặt thúc ngựa vào thành.
Nhưng không ảnh hưởng tới quan viên bị tiếng chuông cảnh báo làm hoảng sợ, khi biết Cao Râu Rậm vệ, lẩm bẩm:" Con bà nó, có tới mức phải đánh chuông cảnh báo không, còn chê bản thân chưa đủ đáng sợ à?"

Có điều những lời này không truyền được tới tai Cao Củng, vì ông ta mới tới kinh thành đã được thái giám mời vào cung, Long Khánh muốn đích thân tẩy trần cho hắn.
Quân thần sư đồ chia cách hơn một năm có thể nói là ngày đêm tưởng nhớ, lúc này gặp lại tay bắt nước mắt rơi, trong bữa tiệc Long Khánh liên tục nâng chén, nói sư phụ đi mình đau lòng ra sao, quốc sự khó khăn thế nào, sau đó vui mừng nói:
- Có điều sư phụ về, trẫm có thể kê cao gối ngủ kỹ rồi.

Cao Củng luôn miệng xưng không dám, nhưng mặt không giấu được vẻ đắc ý, làm mấy vị đại học sĩ hoàng đế gọi tới ăn thấy vô vị.

Cao Củng chẳng bận tâm, Long Khánh không phát hiện, tửu yếu tiến hành trong không khí quai quái, tới tận khi có người không nhịn nổi, kính rượu nói:
- Trung Huyền lần này quay lại đúng là đáng mừng, vi huynh chúc lão đệ lập nên đại nghiệp.
Cả nội các thậm chí cả Đại Minh, chỉ một người dám nói thế với Cao Củng.

Cao Củng nhiều năm rồi mới nghe thấy có người gọi mình như thế, ngớ ra một lúc mới nhớ Trung Huyền là tên mình, lại nghe ông ta xưng "vi huynh", sắc mặt khó coi:
- Cao mỗ ở nội các chẳng qua ngồi ghế cuối, nếu nói tới lập nên đại nghiệp phải là Triệu huynh, đâu đến lượt bản nhân.

Tới ngay cả hoàng đế cũng nghe ra mùi thuốc súng giữa hai bên, cười giảng hòa:
- Tục ngữ nói, chung tay đoàn kết, chém đứt cả vàng, hai vị sau này phải thân cận hơn nhé.

Ngại thể diện của hoàng đế, hai người đều hừ một tiếng không nói.

Nhưng không khí bữa tiệc nặng nề, dần dần hoàng đế cũng mất hứng, nói mệt rồi, thế là tan tiệc.

Rời khỏi cung Càn Thanh, Trần Dĩ Cần và Triệu Trinh Cát đi tụt lại phía sau, nói:

- Chọc giận Cao Rậm Râu làm cái gì?
Là đồng hương của Triệu Trinh Cát, đồng niên của Cao Củng, Trần Dĩ Cần không thể thấy dấu hiệu xích mích mà ngó lơ.

- Sợ cái gì?
Triệu Trinh Cát cười lạnh:
- Ta là người của Từ các lão, lại chắn trước mặt hắn, va chạm là chuyện sớm muộn, việc gì phải nể mặt?

Trần Dĩ Cần nghe thế chán hẳn, vỗ đầu nói:
- Bao giờ mới được yên đây?

- Yên tâm.
Triệu Trinh Cát hoàn hoãn hơn, nói:
- Ông ta không phạm ta, ta không phạm vào ông ta.

Ông ta tỏ thái độ như thế, Trần Dĩ Cần đành nuốt lời khuyên nhủ vào bụng, hắn chẳng hề tin hai còn trâu cứng đầu này có thể chung sống hòa bình.

"Ôi, muốn cùng nhau làm việc hòa thuận sao mà khó như thế?" Đêm đó Trần Dĩ Cần mất ngủ.

Mất ngủ còn có Trương Cư Chính, dù năm ngoái đi hắn ra tiễn, hôm nay ông ta về cũng do hắn đề nghị trước tiên. Nhưng dù sao hắn là đệ tử đích truyền của Từ Giai, mối quan hệ từng khiến hắn kiêu ngạo, từng là hào quang trên đầu hắn, ra lại thành nguồn rắc rối.

Hắn chẳng dám chắc Cao Củng sẽ tha cho mình, dù Cao Củng hiện giờ ngồi cuối cùng ở nội các, nhưng e là ai cũng biết, thời đại thuộc về Cao Củng tới rồi.

Trằn trọc suốt cả đêm, Trương Cư Chính cuối cùng đã có kế, hôm đó vừa khéo là hưu mộc, hắn lệnh người chuẩn bị lễ vật, lấy thân phận bằng hữu, hào hứng tới nhà Cao Củng chúc mừng.

Hắn tới, phản ứng của Cao Củng coi như tích cực, chưa thấy hắn đã sai người mời tới thư phòng... Bản thân điều này đã nói rõ vấn đề.

Hai người hàn huyên mấy câu đơn giản xong, không ngờ không tìm được lời để nói, đành im lặng uống trà...
Trương Cư Chính có tôn nghiêm của mình, dù chủ động tới cửa nhưng muốn hắn vẫy đuôi như đám Lưu Thế Càn là tuyệt đối không thể.

Hắn không vội lên tiếng, vì Cao Củng chắc chắn sẽ lên tiếng trước, mà thái độ đối với mình chắc chắn ẩn chứa trong mấy câu nói đầu.

Quả nhiên Cao Củng lên tiếng trước:
- Nghe nói năm ngoài Từ Giai hỏi các thần tội của ta, người khác đều phụ họa, chỉ có Thái Nhạc ngươi nói "học sinh không dám nói bừa, hôm nay học sinh nói thừa một câu, e ngài mai bị người ta lấy nó đi hại người khác", có chuyện này không?

Trương Cư Chính thầm thở phào, gật đầu.

- Ngươi không sợ đắc tội với sư phụ của mình?

- Đệ càng sợ có lỗi với lương tâm của mình.
Trương Cư Chính nói mà chính bản thân cũng buồn nôn, biết làm sao, ai bảo lão Cao thích nghe như thế?

Cao Củng nhìn hắn với vẻ đùa cợt:
- Nếu ta báo thù Từ Giai thì sao?

- Lương tâm sẽ nói đệ phải làm ra sao.
Trương Cư Chính tỏ ra rất cao thượng.

- Ha ha ha.
Đối với đáp án này, Cao Củng không giận còn mừng, nếu Trương Cư Chính vì bảo vệ bản thân bất chấp sư phụ, Cao Củng tuyệt giao với loại người này.

Ngược lại hai câu "lương tâm" rất hợp với khẩu vị Cao Củng.

Vì thế không khí trong thư phòng trở nên thân thiệt hơn, Cao Củng vuốt chòm râu bờm xờm, nói:
- Ta biết, lần này ta trở lại giang hồ, triều đình không ai không cho rắng ta báo thù Từ Giai, lo chính cục sẽ thay đổi lớn.

Trương Cư Chính không lên tiếng, chỉ dùng ánh mắt lo lắng trả lời.

- Lão đệ đừng lo..
Cao Củng tỏ ra phóng khoáng:
- Hoa Đình công quá khứ có ơn với ta, về sau có chút hiểu lầm, tiếp đó bị tiểu nhân xúi bẩy, sinh chút mâu thuẫn, nhưng đều là chuyện công, không có thù riêng.. Đại trượng phu làm việc phải quang minh lỗi lạc, nếu không thoát khỏi hai chữ ân oán, há chẳng phải hạng tầm thường. Huống hồ Từ các lão lui rồi, ta có vô sỉ tới đâu cũng không đi quấy nhiễu một ông già không uy hiếp gì tới ta.

Trương Cư Chính im lặng lắng nghe, trong lòng tính toán, hắn biết Cao Củng đang thừa cơ bày tỏ, tiêu trừ lo lắng của mình. Ngoài ra hắn nghe ra vài thứ, món nợ này sẽ tính lên đám tiểu nhân, ngoài ra còn uy hiếp nếu Từ Giai dám làm gì, sẽ không ngại cho lão già vô quyền vô thế có tuổi già thê thảm.

"Ngay cả vỗ về người ta mà cũng bá đạo" Trương Cư Chính nghĩ tới đó khẽ mỉm cười.

Nắm bắt được thay đổi của hắn, Cao Củng trầm giọng hỏi:
- Cười cái gì?

- Tiểu đệ cao hứng.

- Cao hứng cái gì, cao hứng ngươi không cần khó xử nữa hà?
Cao Củng chẳng nể nang ai.

- Đó là điều thứ nhất.
Trương Cư Chính nghiêm mặt nói:
- Chủ yếu nhất là Đại Minh có vị tế tưởng nhìn xa trông rộng, lòng dạ rộng lớn lèo lái, nên cảm thấy phấn chấn.

Cao Củng toàn thân thư thái, nhưng nghĩ lại thì thấy ủ rũ:
- Xếp bét nội các, tế tướng cái chó gì.

- Huynh trưởng ngàn vạn lần đừng nói thế, tiểu đệ nhất định sẽ nhượng hiền.

Cao Củng cũng chẳng định ở dưới hắn cho nên chẳng cám ơn:
- Hai vị trước ta không nhường, ngươi nhường cũng vô dụng... Nhất là lão Triệu Đại Châu.
Nhớ tới yến tiệc hôm qua Triệu Trinh Cát dám lên tiếng chế nhạo mình trước mặt hoàng đế, hơi thở của ông ta trở nên nặng nề.

Trương Cư Chính tuy đã định kế ôm chặt chân Cao Củng rồi, nhưng dù sao Triệu Trinh Cát đại biểu của Từ đảng ở triều đình, sao có thể nói bỏ là bỏ được sao?
Nếu có suy nghĩ như thế chỉ có thể nói là ngươi là người dân lương thiện, còn "chính trị gia" là một thứ sinh vật khác hẳn hoàn toàn.

Trương Cư Chính gần như không hề do dự nói:
- Nói tới họ Triệu, tiểu đệ đầy một bụng tức, uổng cho ông ta còn là bậc đại nho, suốt ngày nói lời dơ bẩn, xỉ nhục tiểu đệ. Mong ngày, mong đêm cuối cùng huynh trưởng đã về, tiểu đệ đã có chỗ dựa, huynh trưởng mà về muộn một hai tháng, chỉ e đệ không gặp được nữa.

Cao Củng nghe thế hứng thú nói:
- Ồ, với bản lĩnh giao tế của ngươi mà không lọt được vào mắt họ Triệu sao?

- Đâu chỉ không lọt vào mắt, ông ta sai bảo đệ như nha hoàn.
Trương Cư Chính mặt đầy uất ức:
- Trong nội các ông ta chẳng nể nang ai, khí thế hùng hổ lắm.

Cao Củng liền hỏi Triệu Trinh Cát đắc tội với hắn thế nào.

Trương Cư Chính chẳng che giấu, còn thêm dầu thêm mỡ chửi mắng một phen.

Cao Củng nửa tin nửa ngờ, dù là với cái tính của ông ta cũng không thể chửi mắng một vị đại học sĩ như thế... Chẳng lẽ trên đời còn có kẻ hung hơn mình? Nhất thời không chắc, càng không tỏ thái độ, chuyển chủ đề:
- Kỳ thực Cao Củng ta năm ngoái về quê, vốn không mặt mũi nào quay lại kinh thành nữa. Nhưng hiện giờ ta quay về không phải vì tư lợi càng không phải để trả thù... Cao Củng ta nhi tử còn không có tranh cái gì. Nhưng ta vẫn phải tranh, ta đã đọc Trần lục sự sơ của lão đệ, hết sức tán đồng, quốc sự thế này, nếu còn chơi trò chính trị quân tử gì chỉ có rơi vào đảng tranh vô tận. Hiện giờ cần bớt nghị luận, chấn kỷ cương, bảo những tên chỉ biết nói xuông ngậm miệng lại. Để những kẻ làm cảnh cuốn xẻo, chỉ thế mới có hi vọng.

Từ sau khi đề xuất Trần lục sự sơ, Trương Cư Chính chẳng hề được hưởng ứng nhiệt liệt như hắn mong muốn, trừ Triệu Trinh Cát nói ngọt nói nhạt vài câu, những người khác đều tỏ ra rất lãnh đạm...
Nhưng Trương Cư Chính chẳng buồn, vì hắn biết kiến nghị của mình thế nào cũng sẽ được tán thưởng.

Nay, người đó đã về.

Đó kỳ thực là cương lĩnh chấp chính "vãn đồi tập dĩ sùng thánh trì sơ" dâng lên năm Gia Tĩnh thứ 45. Cũng có thể coi là cương lĩnh chấp chính của Trương Cư Chính.

Cơ bản tinh thần của hai người nhất trí cao độ, đều xuất phát từ trừ bỏ cái cũ tuyên cáo cái mới, gửi gắm tiền đồ quốc gia ở cải cách, mặc dù thời gian dâng sớ của hai người khác nhau, hoàn cảnh khách quan khác nhau, góc độ lý luận hơi chút khác biệt, nhưng người trước hô hào, người sau hưởng ứng, chí hướng đồng nhất.

Đó mới là nguyên nhân thực sự Cao Củng khoan dung với Trương Cư Chính. Đối với Cao các lão mà nói, cản trở ông ta cải cách là kẻ địch sinh tử cần lật đổ, mà giúp ông ta cải cách là chiến hữu, đồng chí.

Cho nên dù người đó là học sinh của Từ Giai, Cao Củng cũng không che dấu sự tán thưởng của mình.

Hai người lại nói rất nhiều rất nhiều chuyện cải cách, đương nhiên đại bộ phận thời gian là Cao Củng nói, Trương Cư Chính vùi đầu ghi chép, chỉ ngẫu nhiên xen vào vài câu, nhưng đều nói trúng chỗ yếu hại, làm người ta không khỏi sinh khoái cảm gặp được tri âm.

Khi thảo luận xong, Trương Cư Chính đặt bút xuống, thổi khô mực, nói:
- Huynh trưởng trau chuốt lại một chút là có thể dâng tấu lên hoàng thượng được rồi.
Không kìm được hưng phấn nói:
- Một khi hoàng thượng phê chuẩn, kỷ nguyên mới của Đại Minh sẽ do huynh viết.

Cao Củng cười khà khà ngồi nghe, tới câu cuối cùng của hắn thì lúc lắc ngón tay:
- Sai rồi, là do hai người cùng viết.

Trương Cư Chính kích động, xem ra Cao các lão đặt mình ở vị trí ngang hàng với ông ta rồi, vội khiêm tốn nói:
- Tiểu đệ sao dám xếp ngang hàng với huynh trưởng, đệ chỉ dám cầm cờ dắt ngựa, xung phong hãm trận cho huynh...

Nói xong liền xấu hổ, vì hắn thấy Cao Củng dùng ánh mắt kỳ quái nhìn mình.

- Có gì không ổn sao?
Trương Cư Chính chột dạ sờ lên mặt.

- Lão đệ định vị bản thân chuẩn đó...
Cao Củng cố gắng dùng ngữ khí không để tổn thương Trương Cư Chính, hai người ông ta nói, không có hắn.

~~~~o0o~~~~~

Khi Trương Cư Chính tới thăm Cao Phủ, Thẩm Mặc gặp Đàm Luân và Ngô Đoái.

- Hôm nay là thất tịch, ngày ngưu lang chức nữ tụ hội.
Thẩm Mặc thoải mái dựa mình vào ghế, cười nói:
- Chúng ta chẳng khác gì đôi uyên ương số khổ đó, muốn gặp nhau một lần sao mà khó thế?

Thấy tâm tình y không tệ, Ngô Đoái và Đàm Luân thả lỏng, Ngô Đoái nói:
- Vì người ta là đôi phu thê, chúng ta có ba người, gặp nhau càng khó hơn.

- Ha ha ha, thôi đi..
Đàm Luân cười lớn:
- Bản nhân chỉ hứng thú với với nữ tử tươi trẻ thôi.

- Cái này không nói cũng biết.

"Khụ" Thẩm Mặc ho một tiếng, nhìn đồng hồ nói:
- Hai vị nói chính sự đi.

Hai vị thị lang vội ngồi ngay ngắn lại.

- Chớp mắt một cái hai vị đã nhậm chức được một năm rồi, hôm nay tổng kết đơn giản lại.
Thẩm Mặc nhìn hai người:
- Ai trước nào?

Hai người nhìn nhau một cái, Đàm Luân không khách khí nói:
- Hạ quan trước.
Thấy Thẩm Mặc gật đầu, hắn liền trầm giọng nói:
- Trung đường đại nhân bố trí nhiệm vụ cho hạ quan nhiệm vụ là chuyển biến sách lược phòng thủ chủ động. Năm nay là năm thứ hai, cũng là năm quan trọng mục tiêu có thể hoàn thành hay không, cho nên từ tháng riêng tới giờ hạ quan cơ bản là tuần thị các biên trấn.

- Vất vả rồi.
Thẩm Mặc gật đầu tỏ ý an ủi, hỏi:
- Kết quả ra sao?

- Tổng thế là khá hài lòng.
Đàm Luân có chút phấn chấn:
- "Địch chưa động ta động trước, đặt trọng thương địch lên trên" đã cho kết quả ở Tuyên Đại, nay Kế Liêu Tam Biên chủ động xuất kích, phái tinh nhuệ đi tìm kiếm doanh trại của Thát Đát, cướp ngựa hoặc đốt đồng cỏ, đánh lén, mặc dù thực lực không tốt, thêm vào người Mông Cổ đã có đề phòng, khiến cho thu hoạch không nhiều. Nhưng chúng ta quấy nhiễu liên tục, người Mông Cổ không dám chia ra chăn thả như trước nữa, mà tụ lại thành bộ lạc lớn, như thế chăn thả gia súc của bọn chúng bị ảnh hưởng, trâu bò không đủ cỏ ăn... Hắc hắc, đảm bảo tuyết mùa đông không dễ chịu đâu.

- Thứ hai, phạm vi hoạt động của chúng ta đã mở rộng ra ngoài hai trăm dặm gần biên giới, điều này rất quan trọng cho việc cảnh báo, đề phòng bọn chúng đánh lén.

- Thứ ba không phải là tin tức tốt, năm nay số lần Mông Cổ cướp bóc biên cương ít hơn mọi năm ba phần, hạ quan và các vị tổng đốc sau khi thảo luận xong đều cho rằng đây là dấu hiệu sắp đánh trận lớn.

- Ừm.
Thẩm Mặc gật gù.

- Năm ngoái Yêm Đáp vì vãn hồi thể diện, tấn công hết sức dữ dội, nhưng chúng ta đã có chuẩn bị trước, mặc dụ hắn tạo ra thanh thế không nhỏ, nhưng kiếm chác chẳng được bao nhiêu, cho nên năm nay hiện nguyên hình.
Đàm Luân tiếp tục nói:
- Các bộ lạc khác đều nghe theo hắn, cũng nửa năm không có động tĩnh, nhưng bị chúng ta quấy nhiễu cho phát điên, lại không có Bản Thăng cấp máu, không cướp được đủ vật tư, chẳng chống chọi nổi tới mùa xuân. Cho nên bọn chúng sẽ thúc giục Yêm Đáp xuất binh, đánh cho chúng ta một trận thật dữ dội. Yêm Đáp vì thu lòng người, tám phần sẽ gật đầu.
Cuối cùng tổng kết:
- Cho nên rất có khả năng sau kỳ sinh sản của chiến mã, sớm nhất chừng tháng 9, tháng 10 sẽ xâm nhập quy mô lớn.

- Các biên chuẩn bị ra sao rồi?
Thẩm Mặc hỏi.

- Tất cả đều đã biết, Vương Sùng Cố, Hoắc Ký, Tào Bang Phụ đều nhân tài ở phương diện này, chỉ cần cẩn thận phòng bị sẽ không tới mức xảy ra chuyện như năm ngoái.
Đàm Luân ngừng lại nhìn sắc mặt Thẩm Mặc:
- Nhưng biên cương chính sự bỏ bễ đã lâu, bọn họ cũng không dám đảm bảo, kêu khó với chúng ta, đều nói "binh không nhiều, ăn không đủ, tướng soái không có người mình cần, e rằng khó chu toàn"

- Ông thấy sao?

- Hạ quan thấy cả ba điều này không đủ thành họa, biên quân họa không phải ở thiếu mà là ở yếu, hơn nữa nam binh mấy năm qua điều tới, các trấn đều có mấy vạn khách binh, bất kể thế nào cũng không thể nói là thiếu; còn về phần lương không đủ, không cần vội cấp chi phí, để nuôi sức chiến đấu. Còn về tướng soái, dùng trọng thưởng khuyến khích người có công, ắt có bậc vũ dũng nghĩ cách phấn đấu, cần gì phải lo.

Thầm Mặc vỗ tay:
- Muốn gây dựng cơ nghiệp phải có khí độ này. Có điều sao ta thấy bọn họ đề ra ba điểm này là có ý khác nhỉ.

- Trung đường anh minh, hạ quan cũng cho rằng như thế.
Đàm Luân trầm giọng nói:
- Ba vị tổng đốc kêu khổ tuy không thực lòng, nhưng thể hiện ra mâu thuẫn thực sự đằng sau, "binh không nhiều", kỳ thực là khách binh quá nhiều, không điều khiển thuận; "lương không đủ" là ghen tị khách binh cung ứng sung túc; "tướng soái không có người mình cần", chẳng qua là vì tướng lĩnh phương nam quá nhiều, tự thành một phái, không nghe điều khiển.

- Cho nên quy cho cùng là mâu thuẫn giữa chủ binh và khách binh?

- Vâng, quân trấn phương bắc là quan binh thế tập, hai trăm năm qua đã hình thành tam đại tập đoàn liên kết chặt chẽ; còn mấy vạn khách binh mang khí thế thắng trận mà tới, lại ở chốn xa quê, tất nhiên đoàn kết với nhau. Ba vị tổng đốc chỉ vừa có chút ý nghĩ trộn quân đã làm quân sĩ náo loạn, quyền uy giảm mạnh, tất nhiên không vui.

- Ha ha, đúng là mất lòng ba phía.
Thẩm Mặc cười khổ.

Nam binh bắc thượng là do Đàm Luân đề xuất ra trước tiên, hiện giờ kết quả thế này, hắn không khỏi có chút bẽ mặt, vội giải thích:
- Theo kế hoạch nam binh bắc thượng chỉ là bước thứ nhất, bước thứ hai là trộn quân, đây là bước quan trọng nhất, vì biên quân Yến Triệu sớm đã mất sạch nhuệ khí, quân kỷ không có, phải lấy quân Ngô Việt trộn vào chỉ dạy, nếu không chẳng được việc gì. Nhưng giờ chủ binh khách binh như nước với lửa, làm sao thành công được?

- Chuyện này ta đã có kế, chỉ là thời cơ chưa chín muồi mà thôi.
Thẩm Mặc xua tay:
- Đợi đánh lui Thát Lỗ lần nữa là có thể thi hành.

- Tuân lệnh.

Thẩm Mặc nhìn sang Ngô Đoái:
- Quân Trạch, phía huynh ra sao?

- Nhiệm vụ năm nay của hạ quan là tổ chức tỉ thí võ chức và kiến thiết cửu đại binh xưởng. Một năm qua dựa theo yêu cầu của đại nhân, hạ quan đích thân đảm nhận tổng trưởng của tổng xưởng binh công, thành lập chín binh xưởng chuyên môn ở Kinh Thành, Trực Lệ, Sơn Đông, chưa ra sản xuất khác loại khí cụ chiến đấu. Nhưng hiệu quả không khả quan, thợ thiếu, hiệu suất thấp, lãng phí nghiêm trọng, chất lượng kém... Vẫn phải dựa vào các xưởng nhỏ của công bộ.

Sắc mặt Thẩm Mặc trở nên âm trầm, theo kế hoạch của y năm nay là phải đón cửa toàn bộ xưởng nhỏ, chuyển hết sang tổng xưởng của công bộ, nhưng bên công bộ không muốn, đám huân quý không muốn, chẳng qua chỉ vì hai chữ "lợi ích", không muốn chia thịt béo cho binh bộ mà thôi...

- Có điều chúng tôi đã nâng cao tiêu chuẩn nghiệm thu.
Thấy sắc mặt Thẩm Mặc khó coi, Ngô Đoái vội nói:
- Nhìn chung chất lượng cao hơn trước không ít.

- Chuyện này ta sẽ giải quyết.
Thẩm Mặc mặt vẫn âm trầm:
- Nói chuyện "tỉ thí võ chức" đi.

- Vâng, mặc dù còn hai năm nữa mới tổ chức "tỉ thí", nhưng vấn đề đã bộc lộ ra, không lạc quan nữa. Binh bộ chúng ta ra sức chấp hành, nhưng vấn đề chủ yếu xảy ra ở địa phương. Các ti chính, đốc học các tỉnh gửi tấu lên binh bộ, nói gạo lẫm sinh viên hao phí quá lớn, không có sức cung ứng cho con cháu võ tướng nữa. Cho nên chỉ có ba nơi Trực Lệ, Sơn Đông và các tình đông nam là mở võ học, còn các nơi khác không triển khai.

- Vậy đốc phủ các tỉnh có ý kiến gì?

- Ý bọn bọ là con cháu võ tướng phải tự bỏ tiền, hoặc binh bộ cấp tiền. Làm theo cái thứ nhất, các võ tướng sẽ tạo phản mất, làm theo cách thứ hai, binh bộ chẳng có tiền, dù có gửi xuống qua đủ mọi tầng bóc lột, số còn lại chẳng ăn thua.

Cuộc tụ hội hôm nay thật ngán ngẩm, cơ bản nhiệm vụ của hai người đều không hoàn thành. Nhưng Thẩm Mặc biết không thể trách bọn họ, vì cái gốc có vấn đề, hai vị thị lang khó giải quyết được.

Thấy cả hai mặt mày ủ ê, Thẩm Mặc đành cổ vũ:
- Trước kia điều kiện chưa thành thục đã ép hai vị làm việc này, thật là làm khó hai vị. Hơn nữa một năm qua cũng đâu uổng phí, ít nhất các vị có kiến thức sâu sắc về lĩnh vực của mình, một khí thời cơ tới, ta tin hai vị sẽ dùng thời gian ngắn nhất làm ra thành tích tốt nhất.

Hai người đồng thành:
- Đó là khi nào?

- Sắp rồi.
Thẩm Mặc thong thả nói:
- Đêm tối đã qua, bình minh ở ngay trước mắt.

~~~~o0o~~~~

Cao Cùng chỉ nghỉ ở nhà 2 ngày, mùng 10 tới nội các báo danh.

Khi đó các vị đại học sĩ đều có mặt, nhìn thấy nam nhân có bộ râu bờm xờm phong cách đi vào, vẻ mặt mỗi người đều rất đặc sắc.

- Tới rồi...
- Sớm quá...
Mọi người đứng dậy, cố gắng chào hỏi không mất tư cách, chừng mực rất chuẩn.

Khó xử nhất là Lý Xuân Phương, trước kia ở dưới Cao Củng, nay là thủ phụ, nhìn mọi người gật đầu chào ông ta, chẳng biết nên đứng hay nên ngồi, cuối cùng thành tư thế nửa đứng nửa ngồi, như sắp bay biểu thị hoan nghênh, rất xấu hổ.

May là Cao Củng không làm khó hắn, chắp tay hành lễ trước.

Lý Xuân Phương như được đại xá, đứng hẳn dậy, tươi cười nói:
- Còn tưởng lão huynh sẽ nghỉ thêm vài ngày chứ.

- Thời gian không đợi người...
Cao Củng giọng vang vang:
- Vừa nghĩ tới còn bao chuyện phải làm, ta một khắc cũng không đợi nổi.

Hàn huyên đơn giản xong, Cao Củng thản nhiên ngồi ghế cuối cùng trong ánh mắt chú ý của mọi người, mở túi công văn mang theo, lấy tài liệu ra đọc chăm chú, chẳng hề để ý tới người khác.

Nhìn một lúc ai về chỗ nấy, nhưng tâm trí cứ đề đâu đâu, lo ông ta nổi khủng bất kỳ lúc nào... Chẳng trách được, mọi người cho rằng đối với Cao Củng mà nói bị ngồi cuối cùng, thực sự quá ủy khuất.

Một lúc sau thấy mặt Cao Củng vẫn bình thường, Lý Xuân Phương hơi yên tâm một chút, hắng giọng nói:
- Bắt đầu đi.

Cuộc họp thường lệ của nội các diễn ra.

Ban đầu vì sự có mặt của Cao Củng, Triệu Trinh Cát còn kiềm chế, nhưng khi nói tới vấn đề cải cách tài thuế, ông ta không chịu nổi nữa, cùng Trương Cư Chính cãi nhau, cãi không nổi thì mắng:
- Trưởng Tử, đây là sách lược Từ các lão định ra, ngươi là học sinh dám lật nhào à?

Trương Cư Chính định nhịn như trước kia thì nghe rầm một cái.

Mọi người quay đầu sang, thấy Cao Củng đập bàn xong phủi tay, thản nhiên nói:
- Đánh chết con muỗi kêu vo ve, mọi người tiếp tục đi...

Mọi người thầm nghĩ, thật hay giả thế? Nhưng không thể để ông ta dọa sợ được chứ? Vì thế mọi người tiếp tục đàm luận, lần này tới lượt Triệu Trinh Cát và Cao Nghi, vì chuyện kinh diên.

Cao Nghi tuy dễ tính, nhưng không chịu nổi người khác chỉ chỏ chân tay với mình, có điều ông ta cãi không nổi lão Triệu, đành im lặng nghe Triệu Trinh Cát lớn tiếng giáo huấn mình.

Triệu Trinh Cát đang nói văng nước bọt lại nghe rầm một cái, giật bắn mình, nhìn theo tiếng động, lại là Cao Củng đập bàn.

- Sao, lại có muỗi à?
Triệu Trinh Cát xầm mặt xuống.

- Phải, muỗi to lắm.
Cao Củng cười lạnh.

- Nội các đâu ra nhiều muỗi thế?
Triệu Trinh Cát có ngu cũng biết kẻ này nhắm vào mình.

- Không có à?
Cao Củng giả ngốc:
- Sao cứ nghe thấy tiếng vo ve nhỉ?

- Ông nói cái gì?
Triệu Trinh Cát hai mắt trợn tròn, từ khi ông ta vào nội các chưa ai dám kiếm chuyện.

- Muốn phải nói trắng ra à, sợ có kẻ chịu không nổi.

- Ông...

Thấy mùi thuốc súng ngày càng đậm, mọi người vội khuyên can, dù sao ngày đầu Cao Củng cũng không muốn sinh sự, quay đầu đi.

Triệu Trinh Cát biết lão Cao chẳng phải tùy tiện bắt nạt được, hừ một tiếng, không nói nữa.

Cuộc họp kết thúc trong không khí quái dị.

Cuối cùng là an bài phòng cho Cao Củng, hiện nay, Lý Xuân Phương và Thẩm Mặc mỗi người có một phòng riêng, Trương Cư Chính và Cao Nghi một phòng, Trần Dĩ Cần và Triệu Tinh Cát một phòng.

Hiểu tình huống xong, không đợi an bài, Cao Củng nói:
- Không cần phiền hà nữa, ta cùng Giang Nam một phòng. Giang Nam không có ý kiến gì chứ?

- Cầu mà không được.
Thẩm Mặc cười chân thành, bắt tay ông ta:
- Làm việc cùng Tân Trịnh công, là chuyện vui trên đời.

Cao Củng cười ha hả.

Vì Cao Củng nghỉ đã lâu tất nhiên làm quen chính vụ trước, cho nên ngày đầu không có công việc cụ thể gì, chỉ xem tấu trương, nghe mọi người họp, sau đó lúc nào Triệu Trinh Cát nổi điên thì trấn áp, làm lão Triệu cực kỳ khó chịu.

Mọi người nhìn thấy hết cả, cười thầm:" Triệu bá vương có đối thủ rồi."

Bất tri bất giác tới giờ thân, vì hôm nay họp nhiều, nên có mấy bản tấu chưa đọc xong, Thẩm Mặc sai người về báo với nhà đêm nay không về. Nội các bận rộn, các nàng ở nhà cũng quen rồi.

Ăn tối xong Thẩm Mặc quay về trị phong tiếp tục làm việc, kỳ thực Thẩm Mặc không thường xuyên tăng ca, càng không đem công việc về trị phòng, không biết vì sao hôm nay phá lệ.

Vừa xem công văn được một lúc thì cửa mở ra, quả nhiên Cao Củng quay lại, Thẩm Mặc đặt bút xuống:
- Giờ cơm không thấy đâu, còn tưởng huynh về nhà rồi.

- Ừ, đúng là về nhà, có điều lại tới.
Cao Củng vừa lấy khăn rửa mặt vừa nói:
- Lão bà bị bệnh, không yên tâm.

- Vậy huynh còn tới làm gì, có việc gì quan trọng đâu.
Thẩm Mặc rất muốn nói, cái khăn đó của ta, nhưng cố nhịn.

- Đợi không nổi, hôm nay bàng quan, thấy hiện trạng nội các không tốt.

Thẩm Mặc gập bản tấu lại, đợi Cao Củng nói tiếp.

- Đùn đẩy, thủ cựu, không hợp thời.
Cao Củng tổng kết xong, nói:
- Không thể tiếp tục như vậy, phải thay đổi.

- Đúng thế.
Thẩm Mặc gật đầu, vẻ mặt dưới ánh đèn có vài phần thần bí:
- Lão huynh chuẩn bị làm thế nào?

- Trước khi thảo luận vấn đề này, ta muốn xác nhận với lão đệ một việc.

- Được.

- Lão đệ biết Thiệu đại hiệp chứ?
Cao Củng nhìn chằm chằm vào Thẩm Mặc.

- Thiệu đại hiệp.
Thẩm Mặc tỏ ra hoang mang một chút rồi gật đầu:
- Có qua lại một lần, khi binh biến Nam Kinh, hắn có đem tới một thuyền bạc giải vây, kẻ này sau lưng có bóng dáng nhiều gia tộc lớn, đệ nợ ân tình này, tới giờ vẫn bất an.

Cao Cung nghe thế nửa tin nửa ngờ hòi:
- Nói vậy hắn không phải người của lão đệ?

- Không phải.
Thẩm Mặc lắc đầu.

Cao Củng im lặng, tình cảm của ông ta với Tiệu Phương rất rắc rối, một là cảm kích, hai là cảnh giác... Điều này không khó lý giải, một nhân vật giang hồ lại có liên hệ với người trong cung, thao túng hướng đi của đại học sĩ. Đằng sau chuyện hoang đường này ẩn chưa bao nhiêu bí mật, sẽ tạo thành uy hiếp gì với mình?

Hồi lâu sau Cao Củng mới thở hắt ra:
- Nói vậy ta không cần phải nợ ân tình của lão đệ rồi.

- Huynh không cần nợ bất kỳ ai.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Huynh là Cao Tân Trịnh, là người định sẵn sẽ nắm giữ càn khôn triều Long Khánh.

Tin tức ẩn chứa sau câu nói đó làm tim Cao Củng giật đánh thót, thầm kêu:" Quả nhiên y là kẻ thao túng đằng sau."
Cao Củng cũng hiểu vì sao Thẩm Mặc không thừa nhận, vì mình lên, tiền đề là phải hạ Từ Giai, nói thế nào cũng là khi sư diệt tổ. Hai là sai phái người giang hồ hợp mưu với thái giám, chẳng phải chuyện vinh quang gì.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 835: Thần cản giết thần


Mặc dù Thẩm Mặc không nhận công, nhưng Cao Củng nhận ân tình này, chắp tay vái Thẩm Mặc.

Thẩm Mặc thở dài, đi qua đỡ ông ta lên, hai người đều hiểu nhau, không cần nói thêm gì nhiều, Thẩm Mặc mời Cao Củng ra là vì nước, nếu có chút lòng riêng tội gì đem tảng núi lớn chặn trước mặt.

Thẩm Mặc lên tiếng trước:
- Hi vọng Quản Trọng huynh, đừng làm Lão Bảo đệ thất vọng nhé.

*** Bảo Thúc Nha là người tiến cử Quản Trọng.

Thấy y đem nhà cải cách Quản Trọng so với mình, Cao Củng nổi lòng tri kỷ nói:
- Nay quốc sự nguy nan như tường sắp đổ, chính cần huynh đệ ta đồng tâm hiệp lực, để thành sự nghiệp vĩ đại chưa từng có.

Nhìn thấy vẻ chân thành của Cao Củng, Thẩm Mặc trịnh trọng gật đầu:
- Nguyện phò tá Tân Trịnh công thành đại nghiệp này.

Để thủ phụ nói ra lời "phò tá", dù là người không chịu phục ai như Cao Củng mặt cũng nóng lên:
- Hỗ trợ lẫn nhau mà thôi.

- Chim không đầu không bay được.
Thẩm Mặc lắc đầu:
- Để Tân Trịnh công làm chính, đệ làm phụ.

Cao Củng có thể thản nhiên mà nhận với bất kỳ ai, nhưng với Thẩm Mặc thì không dám, Thẩm Mặc nói lớn:
- Đệ đâu phải tác thành cho danh vọng của lão huynh, thuần túy là lo lắng cho quốc gia, vì sao đùn đẩy mãi, chẳng lẽ có lòng riêng?

Bị Thẩm Mặc nói thế, Cao Củng chắp tay nói:
- Vậy ta đành nhận.

- Nên như thế chứ.
Thẩm Mặc đứng dậy, vài Cao Củng thật sâu:
- Mong tấm lòng vì quốc gia triều đình của Tân Trịnh công vĩnh viễn không mất.

- Giang Nam...
Cao Củng cảm động hết sức, ông ta nhớ tới khi hai người ở Quốc tử giám, đã cùng ôm chí vì thiên hạ, mười năm sau thời khắc thực hiện cũng đã tới.

Hai người nắm chặt tay nhau, coi như kết minh, lúc này ai về chỗ nấy, thảo luận việc tiếp theo.

- Nay chuyện rối bung rối bét, không biết Giang Nam cho rằng nên bắt đầu từ đâu?

- Trước lập quyền uy, sau chỉnh đốn lề thói.
Thẩm Mặc trầm giọng nói:
- Phải làm tốt hai việc này mới nói tới cải cách cụ thể được, nếu không... Giống như đệ cải cách quân sự, Trương Thái Nhạc cải cách tài thuế, chỉ được nửa vời, làm người ta thất vọng.

- Đúng thế, ta cũng có suy nghĩ này, vậy phải làm sao?

- Lập quyền uy, ắt phải quét hết dư uy của kẻ trước.
Thẩm Mặc nhìn về phía trước, như muốn xuyên qua tường, thấy tương lai xa xôi:
- Lão huynh là lại bộ thượng thư...

Cao Củng hiểu ý gật đầu, trầm ngâm một lúc hỏi:
- Đệ thấy Triệu Trinh Cát thế nào.

- Người này lòng có tài tế thế, tâm có chí báo quốc, là người hết sức hiếm có.
Không ngờ Thẩm Mặc đánh giá Triệu Trinh Cát rất cao.

Nụ cười Cao Củng cứng lại, giọng trở nên nặng nề:
- Nói thế tức là không thể động vào ông ta?

- Phải động.
Thẩm Mặc bi ai nói:
- Trương Thái Nhạc nói đúng, lúc nguy nan thế này phải bớt tranh luận, trọng chiếu lệnh... Ài, để ông ta xuống địa phương làm quan lớn một vùng là chuyện lưỡng toàn kỳ mỹ.

Cao Củng gật đầu:
- Đúng thế.

Ấn tượng của Thẩm Mặc về Triệu Trinh Cát vẫn dừng ở lần tiễn Triệu lão phu tử nghỉ hưu, được tặng cuốn Mạnh Tử.

Thế nhưng sau khi nhập các lão Triệu lại như thành một con người khác, rất nhiều người nói ông ta nhìn thấy xếp phía trước toàn là hậu bối, cho nên tâm lý mất cân bằng.
Nhưng Thẩm Mặc biết, người này không nông cạn như thế, thứ ông ta thể hiện ra, chẳng qua chỉ là một loại thủ đoạn.

Là các lão tuổi cao nhất, nhưng vị trí xếp gần cuối, nếu cứ làm theo lệ thường thì e phải tới kiếp sau mới lên nắm quyền được, chỉ có ai cũng dám chọc, lúc nào cũng bày ra tư cách lão làng mới có quyền phát ngôn.

Triệu Trinh Cát có tài có lòng báo quốc là thực, nhưng ông ta đã trên 60 rồi, tư tưởng bảo thủ và cầu ổn định. Cùng Lý Xuân Phương, Trần Dĩ Cần đi theo con đường của Từ Giai, thành chướng ngại lớn nhất của cải cách.

Vì đuổi Từ Giai đi, Thẩm Mặc phải hi sinh rất nhiều, nhưng ngăn cản Cao Củng hạ thủ với ông ta, vì tán thưởng nhân phẩm của người này.

Đêm đó bàn kế xong, hôm sau Cao Củng liền về lại bộ nhậm chức, hôm đó là ngày 11 tháng 7 năm Long Khánh thứ hai, được hậu thế gọi là khởi điểm của cải cách ngàn đời...

Trước kia trọng điểm công tác của Từ Giai và Lý Xuân Phương chỉ là điều chỉnh chênh lệnh xã hội nghiêm trọng của Đại Minh, hóa giải một chút ít, nhưng không dám đụng vào "hiến pháp tổ tông", tất cả đều tuân thủ cái cũ, gặp phải vấn đề là đi đường vòng, không dám thăm dò cải cách toàn cục.

Nếu là Thẩm Mặc làm thủ phụ, chỉ e kết quả không chênh lệch là bao, ít nhất ở giai đoạn này, y chưa cho rằng tới lúc mình ra mặt.
May ưu điểm lớn nhất của y là biết đặt người thích hợp nhất vào một vị trí.

Cao Củng đúng là lại bộ thượng thư số một, ngày đầu tiên tới bộ, liền mở cuộc họp toàn thể ti quan, không hàn huyên, không rườm lời, lập tức vung ngay bảo kiếm trong tay lên.

Đầu tiên ông ta nghiêm khắc phê bình chế độ khảo sát nhân sự dùng trong hai trăm năm qua, ba năm khảo sát một lần, ba lần mới luận thăng giáng, mà năm 9 năm, có người chết, người đình ưu, sự cố v.v..v.. mà mất chức, có người thuận lợi thăng tiến liên tục, làm gì có chuyện ở nguyên vị trí chín năm đợi tam khảo? Mà cái gọi là khảo sát liền thành chỉ thăng không giáng.

Hoang đường hơn nữa, mỗi năm tới kỳ khảo sát, số lượng quan viên bị đánh trượt đều ngang nhau, Cao Củng chất vấn:
- Làm gì có chuyện cứ sáu năm số quan viên không hợp cách lại định sẵn như thế? Có thể thấy có kẻ muốn làm cẩu thả cho xong việc mà thôi.
Làm đám quan viên xấu hổ vô cùng.

Cao Củng trước nay không nể mặt kẻ thất chứng, chỉ ra:
- Dù là quan viên không hợp cách, lại bộ chẳng qua chỉ nói mập mờ lý do; còn kẻ đại gian đại ác thì làm như không biết, thậm chí là đảo lộn trắng đen, gọi là cao khiết. Loại khảo sát này chẳng qua là dung túng hổ lang, dìm chết cáo chuột hay kẻ không phục mà thôi.

Vì vậy Cao Củng nhấn mạnh làm nghiêm kỷ luật: Phàm là quan viên nhận lệnh mà không tới nhậm chức, tất cả miễn chức hạ cấp. Đối với quan tham ô bị tra ra bằng cứ, không cho phép phục chức; với quan viên bị khoa đạo đàn hặc với xác thực được chứng cứ mới xử trí; đối với quan viên lại bộ phạm pháp tội nặng thêm ba bậc. Yêu cầu ti quan lại bộ đem tất cả hồ sơ quan viên đóng thành sách, đồng thời phía dưới ghi chú rõ trước tiên làm gì, có xứng chức không, tránh dùng sai người. Đương nhiên quan viên đưa ra đánh giá phải chịu trách nhiệm, một khi dùng sai người phải bị trừng phạt v..v..v..

Hội nghị còn chưa kết thúc, tiếng than vãn đã nổi lên khắp nơi. Lại bộ là nơi quyền lực lớn nhất, béo bở nhất, rất nhiều quan viên dựa vào quyền lực nhân sự trong tay, thi ân với người khác kiếm chác. Nếu làm như Cao Củng, còn đắc tội hơn cả Đô sát viện, nghĩ tới thành nha môn thanh bạch lại còn đắc tội với khắp nơi, đám quan viên nghĩ, còn cho người ta sống nữa không?

Vì thế có một tên lang trung lấy dũng khí nói:
- Bộ đường, trước kia đâu có quy củ này.

Cao Củng liếc xéo hắn:
- Ngươi mới tới phải không?

Lang trung kia ngớ người:
- Vâng, hạ quan ở tỉnh, mãi tới nắm ngoái mới điều đến bộ.

- Chẳng trách.
Cao Củng vỗ vai hắn:
- Năm xưa ta còn là thị lang, liền nói tiền nhiệm của ngươi một câu, hiện giờ ngươi nghe kỹ, ta chỉ nói một lần.
Người kia liền bày ra vẻ rửa tai lắng nghe, Cao Củng trầm giọng nói:
- Nhớ kỹ, sau khi ta tới, là có quy củ này.

Nói xong mặc cho thị lang kia há hốc mồm, sải bước đi khỏi hội đường.

Muốn làm tốt việc gì, thì phải có công cụ làm việc trước.

Mà công cụ trong tay Cao Củng, là lại bộ, cho nên trước khi chỉnh đốn các nha môn khác, ông ta phải chỉnh lại bộ một lượt.

Đầu tiên, nghe nói ông ta muốn khảo sát trong bộ, đám quan viên tuy lo nhưng vẫn nghĩ, chẳng qua tân quan thượng nhiệm nên mới nhiệt vậy thôi, chẳng lẽ Ca Rậm Râu dám đuổi toàn bộ bọn ta sao, vậy ai làm việc cho ông?

(thiếu phần 2 của chương này)

Đúng thế, về điểm này y không nói thực với đại gia tộc, đại quan ở đông nam. Những người đó chỉ có được tin tức là, Cao Củng là lá chắn dư luận, đao khai sơn diệt trừ đối thủ của Thẩm các lão, là loại dùng xong rồi vứt.

Song đó chỉ là cái cớ Thẩm Mặc mà thôi, nếu y cần một cái lá chắn, cần một thanh đao, hiện giờ chẳng biết có bao nhiều người sẽ sẵn sàng ra sức vì y, cần gì thả Cao Rậm Râu căn bản không chịu khống chế, không khéo cắn trả ra?

Mục đích của Thẩm Mặc chỉ có một, là dùng người làm việc mình không làm nổi, vạn sự khởi đầu nan, khó nhất là khởi đầu, chỉ có Cao Củng là có thể khởi đầu được.

- Thấy Thẩm Mặc có chút xuất thần, Cao Củng chỉ nghĩ y lo lắng về hậu quả của sự kiện này, nói nhỏ:
- Chuyện phía sau ta tự có chủ chương, lão đệ không phải lo.

Thẩm Mặc tỉnh lại, hỏi:
- Có cần đệ giúp gì không?

Cao Củng nghĩ một lúc rồi nói:
- Ta biết trong tay đệ có một đám thanh niên tài tuấn, có thể tiến cử mười mấy người qua không?

Thẩm Mặc cười khổ:
- Huynh chắc đó là tài tuấn chứ không phải củ cái?

- Lão đệ không cần lo ta sẽ cả nghĩ.
Cao Củng tuy không thèm vòng vo, nhưng ông ta có đôi mắt lửa ngươi vàng, có thể nhìn thấu bản chất sự việc:
- Cao Củng ta lấy nhân phẩm đảm bảo, tuyệt đối không phải vì do đệ tiến cử mà đưa vào danh sách khác! Tiến cử người hiền không tị hiềm thân nhân, Giang Nam đừng chối từ nữa.

- Huynh cũng đừng hiểu lầm.
Thẩm Mặc chỉ còn biết cười khổ.
- Đệ không có tâm tư lấy công cụ triều đình dùng vào việc riêng, chỉ là bọn chúng còn quá trẻ, ai hơn ai kém còn chưa nhìn ra, có lẽ trưởng thành theo tự nhiên sẽ tốt cho bọn chúng hơn.

- Giang Nam, thời gian không đợi ta.
Cao Củng mặt đầy nhiệt thành:
- Hiện giờ cần lượng máu tươi mới, phá vỡ cục diện suy đồi, mới làm triều đình sống lại. Đệ không cho bọn chúng cơ hội, làm sao biết bọn chúng có được hay không?
Xem ra Cao Củng đã thất vọng tột độ với đội ngũ quan liệu hiện tại rồi.

Thẩm Mặc đau đầu lắm, nhưng hiện giờ Cao Củng mới nhậm chức, sĩ khí chỉ được lên không được xuống, nên dù không thiếu lo lắng, y vẫn gật đầu:
- Đệ sẽ cho huynh danh sách.

- Quá tốt.
Cao Củng hài lòng vỗ tay, thấy sắp tới thiêm áp phòng, nói:
- Phải rồi, lần trước chẳng phải đệ bảo muốn thương lượng với ta vài việc sao? Chọn ngày không bằng gặp ngày, hôm nay luôn đi.

- Cũng được.

Hai người đi vào thiêm áp phòng, đóng cửa lại thương lượng.

Thẩm Mặc muốn nói với Cao Củng ba việc, kỳ thực không phải mới mẻ gì, mà y ấp ủ lâu rồi, cũng đã thử đề xuất, nhưng không được Từ Giai coi trọng.

Thứ nhất lac huyện cải cách Quốc tử giám mà y đã từng nhắc tới ở Nam Kinh.

Chế độ Quốc tử giám nếu như được chấp hành quán triệt nghiêm khắc, sẽ bồi dưỡng ra rất nhiều nhân tài trị quốc, quốc gia lo gì không có người để dùng? Thực ra năng lực hành chính của Đại Minh là tốt nhất, là thời kỳ quốc gia cường thịnh nhất, chính là nhờ giai đoạn giáo dục chấp hành tốt.

Thế nhưng cùng với quốc lực Đại Minh suy giảm, vì bù đắp thiếu hụt tài chính, cho phép đại hộ "quyên hiến nhập giám", khiến số giám sinh tăng vọt, chất lượng tụt giảm.
Triều đình cũng không gánh vác nổi chi phí giáo dục đắt đỏ, nên giảm tiêu chuẩn tốt nghiệp, rút gọn thời gian học tập...
Điều này làm địa vị Giám sinh mất hẳn, không thể so được với quan viên xuất thân chính đồ, từ quốc tử giám đi ra, cùng lắm chỉ làm tới được tri huyện là quá lắm, hoặc vào nha môn chim chẳng buồn ỉa như Hồng Lư tự, Thái phó tự, không hề có tiền đồ.

Kết quả giám sinh ngày càng nản chí, thậm chí xuất hiện chuyện con cháu đại hộ thuê người lên lớp hộ, khảo hạch càng chỉ còn hình thức, khiến Quốc tử giám chỉ còn lại trên danh nghĩa, hoàn toàn đi nược lại mong muốn ban đầu của thái tổ.

Cải cách Quốc tử giám, khiến nó khôi phục lại tác dụng Thẩm Mặc khi còn làm ti nghiệp Quốc tử giám đã đề xuất với tế tửu Cao Củng, cũng từng tham khảo với Trương Cư Chính, cả hai đều cho rằng, suy nghĩ của y có ý nghĩa phi phàm, cũng có khả năng thành hiện thực...

Trước tiên Quốc tử giám có pháp độ tổ tông bảo vệ, chỉ cần nắm được quyền là có thể thi hành, không ai dám công khai phản đối, cần vượt qua được vài năm đầu, đợi giám sinh có được thành tích, sẽ thành pháp điển vạn đời không đổi.

Đồng thời, nhờ phúc của Chu Nguyên Chương, nhân số quan lại của Đại Minh là ít nhất trong các triều đại, không hề tồn tại vấn đề biên chế phình to, thậm chí các nha môn TW, phủ huyện địa phương thiếu người nghiêm trọng.
Nếu dưới tiền đề không gia tăng số người vượt qua khoa cử, lại cung cấp đủ giám sinh ưu tú cho các chức vị trống, sẽ không bị đội ngũ quan lại phản đối.

Thế nhưng khi đó cả ba người cho rằng, muốn làm được việc này, phải thỏa mãn ba tiền đề:

Thứ nhất, phải nắm được quyền lực quốc gia, ít nhất phải có quyền định đoạt trong nội các.

Thứ hai, phải tiến hành cải cách lề thói, ít nhất khi giám sinh mới thứ nhất hoàn thành học tập, có đủ quan chức cung cấp, hình thành vòng tuần hoàn tốt.

Thứ ba, ngăn chặn quyên giám, điểm này không chỉ ba người mà triều đình cũng sớm hình thành nhận thức chung, muốn đề cao chất lương và địa vị của giám sinh.

Thấy Thẩm Mặc nói lưu loạt tự tin, thi thoảng còn biểu hiện sự hưng phấn khác hẳn thường ngày, Cao Củng vuốt râu cười:
- Nói như thế là lão đệ cho rằng thời cơ đã chín muồi?

- Đúng vậy.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chuyện này cần lại bộ, lễ bộ, Quốc tử giám chung vai phối hợp mới được. Chỗ Từ Vị và Cao Nghi, đệ đã trao đổi, đều không có vấn đề, chỉ cần huynh toàn lực ủng hộ là có thể làm.

- Được.
Cao Củng vỗ bàn nói:
- Vậy cùng mở cuộc họp, thảo luận chi tiết, để mau chóng triển khai.

- Đệ đang muốn thế đây, chuyện thứ hai là cải cách nhân sự binh bộ mà chúng ta từng thảo luận.

- Ừm...
Cao củng lấy ra mấy bản tấu trên bàn:
- Có phải mấy cái này không?

Thẩm Mặc lấy một bản lên xem, gật đầu nói:
- Chính nó, thì ra huynh đi trước một bước, viết thành tấu sớ rồi.

- Ha ha, toàn là trên đường đi rảnh rỗi viết bừa.
Cao Củng có chút tự hào nói:
- Đệ xem xem có cần bổ xung gì không?

Thẩm Mặc gật đầu, đọc xem, thấy nội dung trung tâm mấy bản tấu này có ba phương diện.

Thứ nhất, xét thực tế biên quan hơn trăm năm qua nhiều chuyện, trong thiếu quan viên hiểu tình hình, ngoài thiếu tướng soái đủ tài, mà bộ thần cùng biên soái qua lại có khoảng cách, cho nên xin trong binh bộ tăng thêm hai thị lang, thỏa mãn nhu cầu phòng vụ.

Phương án này là một sáng tạo, thị lang tăng thêm vừa có thể nhậm chức trong bộ, lại có thể tùy thời lấy tư cách thị lang làm tổng đốc biên phỏng. Cơ chế này khiến thượng thư và tổng đốc liên kết và phối hợp chặt chẽ hơn, hạn chế tình trạng bộ thần và tổng dốc mỗi người làm một phách trước kia.
Phương diện thứ hai là kiến nghị chuyên nghiệp hóa quân sự và quan văn.

Ở các địa phương, đốc phủ to hơn tổng binh, cho nên đốc phủ là trưởng quan tối cao, nhưng đốc phủ không nghiên cứu chuyên môn quân sự, Cao Củng và Thẩm Mặc cho rằng, dùng người như thế khiếm khuyết quá lớn, kiến nghị chuyên dụng.

Vì thế tấu sớ nói "chuyện binh là chuyện chuyên môn, không phải ai cũng có thể làm..."

Nói thẳng ra là đối với các cấp quan lại của binh bộ phải tuyển dụng chuyên môn, hơn nữa lại lưu dùng lâu dài, không điều qua bộ phận khác, để tiện bồi dưỡng nhân tài quân sự chuyên môn...

Phương diện thứ ba là đối với văn võ biên cương, tuyển chọn phải nghiêm, phạt phải nặng, ưu đãi cũng phải đặc biệt.

Thời đó, những nhân vật xuất thân bất chính, hoặc phạm tội, hoặc là không thể an bài trong nội địa là đầy ra biên cương nhậm chức. Kết quả đương nhiên là những người đó chẳng tâm tư nào chú ý đến chuyện nhung chính.

Phương án chỉnh đốn là tuyển quan tùy vùng, biên cương là vùng xa xôi, nhưng là cánh cửa quốc gia, quản lý tốt hay không, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới an nguy quốc gia.
Vì thế nên chọn người kiêm võ sự, tuổi trẻ tinh tráng, có hào khí. Bỏ đi cái tệ đoan coi biên cương là nơi lưu đầy.

Tiếp đó thưởng phạt phải công minh, lấy hiệu quả quản lý làm tiêu chuẩn, không thể chỉ bằng tư lịch xuất thân. Nếu thành tích nổi bật, quân công trác tuyệt, thăng tiến sớm hơn quan viên nội địa, thậm chí phá cách đề bạt; nếu đùn đẩy trách nhiệm, làm lỡ quân cơ, nhẹ thì giáng cấp nặng thì lấy quân pháp ra trị.

Phương sách trọng thưởng phạt này sẽ khích lệ tướng tá biên quan chăm chỉ chính sự, ra sức chiến đấu; đem so với trước kia công tội không phân, thưởng phạt không rõ, không quan tâm tới binh sĩ vất vả, đương nhiên là một tiến bộ lớn, sẽ thấy hiểu quả tức thì.

Cao Củng uống cạn nước trong bình trà, vừa định nói thì thấy Thẩm Mặc lắc đầu mặt đầy tiếc nuối, không khỏi lo lắng hỏi:
- Sao thế, có gì không ổn à?

Cao Túc Khanh hết sức khâm phục thanh niên trẻ hơn mình tới 24 tuổi này, vì ông ta cảm nhận được đối phương nhìn vấn đề còn toàn diện sâu sắc, nắm phương hướng lớn còn chuẩn hơn mình.

Thẩm Mặc biết phải để Cao Củng kiêng kỵ và khâm phục mình, nếu không ông ta sẽ chẳng thèm quan tâm ý kiến của mình, coi mình như tay sai... Cùng lắm chỉ là tay sai cao cấp.

Thấy Cao Củng khẩn trương nhìn mình, Thẩm Mặc cười:
- Đừng hiểu lầm, đệ chỉ đang cảm thán, nếu lão huynh là thủ phụ thì tốt rồi, chuyện "võ chức tỉ thí" sẽ được thi hành triệt để.

Cú vỗ mông khéo léo quả nhiên làm Cao Củng sướng rơn, cười khà khà:
- Chuyện đó của lão đệ ta ở quê nhà đã nghiên cứu qua rồi, đúng là khả thi. Mặc dù ta không phải thủ phụ, nhưng không có nghĩa là ta không giúp được đệ.

- Ồ, huynh nói ra xem nào?
Thẩm Mặc lên tinh thần.

- Ta chuẩn bị lấy danh nghĩa lại bộ, thi hành "khảo hạch pháp", yêu cầu lục bộ TW tới các cấp địa phương, phải làm xong đúng kỳ hạn nộp lên...
Cao Củng hể hả nói:
- Chỉ cần đem số lượng và chất lượng khảo sinh võ chức vào trong tiêu chuẩn khảo hạch, lo gì bọn họ không tận lực mà làm.

Thẩm Mặc cười phá lên:
- Chỉ là làm như thế chẳng biết có bao nhiêu người chửi sau lưng huynh!

- Chỉ cần có thể cản được cơn sóng dữ, kéo dài quốc độ, ta quan tâm làm gì mấy tiếng chửi.

- Hay.
Bị hào tình của Cao Củng cảm nhiễm, Thẩm Mặc vỗ tay khen:
- Đúng là "bình sinh không biết Cao Tân Trịnh, há dám xưng kẻ hào kiệt?", đúng là thông khoái.

- Quá khen rồi.
Cao Củng cũng cười vui vẻ:
- Ta lại nghe người ta nói, sống không cần phong vạn hộ hầu, nhưng nguyện được biết Thẩm Thiệu Hưng.

- Được rồi, chứng ta đừng thổi phòng nhau nữa.
Thẩm Mặc cười khổ:
- Ý tưởng này tuy mỹ hảo, nhưng muốn biến thành hiện thực không biết còn bao khó khăn. Cái gì chưa nói chỉ "khảo hạch pháp " này của huynh đã đắc tội với ối người rồi.

- Cải cách vốn là việc đập bát cơm của kẻ khác mà, sao không đắc tội được. Ta chẳng sợ, thiên hạ này chẳng thiếu kẻ đợi được làm quan, kẻ nào không nghe lời thay kẻ đó, tưởng thiếu bọn chúng là không xong sao?

- Không thể quá gấp.
Thẩm Mặc cau mày:
- Nếu không cản trở ngày càng lớn, dù sao chỉ cần làm được việc không phải là khoe khoang sức mạnh của mình.
Đó là lời phê bình uyển chuyển của Thẩm Mặc về chuyện ngày hôm nay.

Trên đời chỉ có Thẩm Mặc nói chuyện với Cao củng như thế mà không bị ông ta khó chịu... Đương nhiên Long Khánh cũng có thể, nhưng hắn tuyệt đối không phê bình sư phụ của mình.

Cao Củng nghe thế im lặng chốc lát, sau đó nói:
- Cái nhìn của ta lại hoàn toàn ngược lại, phải dùng thế sấm sét, thứa lúc bọn chúng chưa kịp phản ứng làm xong việc. Như thế mới nắm được quyền chủ động.
Nói rồi lo lắng nhìn Thẩm Mặc, ông ta biết cải cách muốn thành công không thể thiếu sự ủng hộ của y.

Thẩm Mặc nghe vậy mỉm cười:
- Được, nghe huynh hết.

Thấy y đồng ý thống khoái như thế, Cao Củng yên tâm hẳn.

Hai người tiếp tục thương lượng vài câu, biết Cao Củng đang bận chuyện trong bộ, Thẩm Mặc đứng dậy cáo từ, Cao Củng đưa y ra ngoài, thấy Lục Quang Tổ đang đợi ở hành lang, hỏi nhỏ:
- Nghe nói đệ và hắn quan hệ cũng được.

- Huynh bảo không phân biệt đối xử cơ mà.
Thẩm Mặc không phủ nhận, ở chỗ Cao Củng phủ nhận là giả dối.

- Kha kha, đệ hiểu lầm rồi, ta chỉ muốn làm rõ, ai có thể dùng được mà thôi.

- Dùng đi, hắn là tài năng hiếm có, ắt có thể giúp được huynh một tay.

- Ừ.
Cao Củng gật đầu, tiễn y rời nha môn.

Cao Củng thay tẩy lại bộ, không hề bất ngờ khơi lên cơn sóng lớn, dư luận chửi ông ta hẹp hòi, độc tài, ngang ngược. Thế nhưng mọi người nhiều lắm cũng chỉ thầm nghiến răng nghiến lợi, cùng lắm chửi lén sau lưng, chẳng ai dám chỉ trích trước mặt, càng không dám dâng thư đàn hặc, ai mà dám vuốt râu hổ?

Cao Củng vốn chuẩn bị sẵn sàng đón đợi một cuộc phản kích lớn, ai ngờ ngoại trừ thi thoảng nghe mấy câu chửi ra thì chẳng ai dám đối đầu với mình, thầm nghĩ:" Khà khà sợ rồi chứ gì?"

Sau khi rửa sạch lại bộ từ trên xuống dưới, Cao Củng đem một nửa vị trí trống đổi thành người của mình, một nửa là tiểu thanh niên Thẩm Mặc cung cấp.

Thấy không ai dám mạo hiểm chọc giận Cao Củng, đám bất mãn còn lại đành cụp đuôi xuống, làm việc cho ông ta.

Ổn định hậu phương lớn xong, Cao Củng không vội đem tấu chương mà ông ta và Thẩm Mặc soạn sẵn tung ra, mà khiêu chiến với bóng dáng bao phủ cả kinh thành kia...

Ông ta biết rõ, phương án của mình và Thẩm Mặc cho dù có tốt đến đâu, đề xuất ra với dám ngoan cố bảo thủ kia cũng chẳng ăn thua gì.
Vì Từ Giai tuy đã đi, nhưng trong triều vẫn còn nền móng của mình, tuyệt đại bộ phận vẫn phụng hành chính sách của Từ Giai.

Uy vọng Từ Giai gây dựng lên 20 năm, sức ảnh hưởng khủng bố của ông ta đủ để kẻ muốn làm trái ý ông ta không thể thi triển được.

Muốn cải cách, trước tiên phải triệt để đuổi bóng dáng lão già này ra khỏi kinh thành.

Đang vất vả tìm kiếm cơ hội thì cơ hội đã dâng ngay tới trước mặt.

Buổi chiều ngày hôm đó, Cao Củng như thường lệ từ nội các về lại bộ, hôm nay trực ban là Lục Quang Tổ, vội đem công văn buổi sáng, đem cho vị tổ tông này thẩm duyệt..

Khác với Dương Bác chuyện lớn không hồ đồ, chuyện nhỏ tùy tiện, thì Cao Củng cực kỳ hà khắc, chuyện lớn, chuyện nhỏ đều yêu cầu làm thật chính xác, không có chút sai sót nào, nếu không bất kể có là thị lang hay lang trung đảm bảo sẽ bị chửi cho thối mặt, làm ngươi hối hận đã bước vào sĩ đồ.

Chỉ trong chưa tới hai tháng, Lục Quang Tổ đã bị chửi ba lần, mặc dù đây là kỷ lục bị chửi ít nhất rồi, nhưng với Lục thị lang mà nói đây tuyệt đối không phải chuyện đáng khoe khoang.

Cho nên sau khi dâng lên số công văn kia, Lục Quang Tổ tuy làm bộ bình tĩnh đứng trước bàn, nhưng chuẩn bị sẵn sàng lấy nước bọt rửa mặt.

Cao Củng xem rất chăm chú, thiêm áp phòng cực kỳ yên tĩnh, mỗi lần Cao bộ đường cau mày là tim hắn lại run lên.

Sợ cái gì cái đó tới, khi Cao Củng xem tới một bản tấu, sắc mặt vốn bình thường liền tối lại, nhưng nhịn không lên tiếng, tiếp tục đọc. Nhưng khi đọc bản tấu tiếp theo cũng thế thì quẳng ngay sang một bên:
- Về sau thỉnh cầu kiểu này không phê chuẩn.

Lục Quang Tổ vội xem phong bì, biết ngay nội dung, thì ra là đám Đường Xu, Vương Tuân quan viên từ triều Gia Tĩnh, dâng tấu xin ấm ân...
Cả hai đều là quan viên được hồi phục nhờ Gia Tĩnh di chiếu, theo thông lệ trước đó, dâng thư lại bộ xin ấm quan. Tấu sớ như vậy từ khi di chiếu ban ra gửi tới không dứt, nhiều quan viên được xá miễn nhưng không trong danh sách được an ủi, giương cao di chiếu, hoạt động khắp nơi, ý đồ quay lại.

Mọi người đều biết Từ Giai hết sức coi trọng việc này, cho nên chẳng ai dám chuốc phiền phức vào thân, trừ hạng đại gian đại ác, tất cả thỉnh cầu đều được phê.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 836: Cuộc loạn đấu cuối cùng


Lục Quang Tổ biết rõ, chỉ danh sách an ủi ban đầu là qua nghiêm khắc tuyển chọn, toàn bậc nghĩa sĩ được trong ngoài triều công nhận trung trinh, về sau toàn là cửa để người ta kiếm chác..
Lục Quang Tổ rất muốn hỏi:" Trong các ngươi kẻ nào dàm vỗ ngực tự xưng là mình vô tội bị đàn áp? Đa phần các ngươi đều đáng tội."

Về sau tiếng chất vấn trong triều ngày càng lớn, lại bộ không dám khua chiêng gõ trống phê duyệt an ủi nữa, nhưng hành vi này chưa hề lúc nào dừng, chỉ đổi thành công bố danh sách công khai, sang cá nhân dâng thư, kín đáo xử lý...
Thậm chí sau khi Cao Củng nắm lại bộ, suốt ngày bị tấu sớ kiểu này quấy nhiễu, phiền phức vô cùng.

Trước ngày hôm nay, mỗi lần có tấu thỉnh ắt khảo sát kỹ xem có hợp lệ không.. Nhưng kẻ không được duyệt, ỷ vào di chiếu, liên tục dâng thư, nhất quyết phải đạt được mục đích.

Thấy Lục Quang Tổ ngẩn ra, Cao Củng lớn tiếng lặp lại lần nữa:
- Về sau thỉnh cầu kiểu này không phê chuẩn nữa, đừng mang tới làm phiền ta.

Lục Quang Tổ nuốt nước bọt nói:
- Làm thế chỉ e trái với di chiếu tiên đế.

Nhắc tới di chiếu đó, sắc mặt Cao Củng âm trầm hết sức đáng sợ, chửi:
- Di chiếu cái rắm, toàn do họ Từ giả danh tiên đế, mua chuộc lòng người.

Lục Quang Tổ cũng trải qua mưa gió rồi, từ trong ngữ khí của Cao Củng, nghe ra ông ta muốn thừa cơ phát tác. Thẩm Mặc đã dặn hắn, phải toàn lực phối hợp với Cao Củng, dù là việc làm tổn hại cho đông nam cũng phải làm, nên Lục Quang Tổ gật đầu:
- Thuộc hạ cũng rất bực minh, biết trong này có không ít kẻ thừa nước đục thả câu, nhưng bọn chúng giương cao lá cờ di chiếu, chỉ cần không có hành vi xấu quá rõ, chúng ta không có lý do để cự tuyệt.

- Chẳng qua chỉ là thánh chỉ thôi.
Cao Củng thấy hắn không nói giúp đám người kia, sắc mặt dãn ra được một chút:
- Vậy ta xin một thánh chỉ, chặn đứng ảo tưởng của bọn chúng.

Nói làm là làm, chẳng ngại Lục Quang Tổ ở bên, lấy giấy trắng ra viết ( chánh cương thường định quốc thị dĩ ngưỡng bì thánh chánh sứ ).

"Quốc triều lấy hiếu trị thiên hạ, xưa nay giữ vững đạo cương thường quân thần phụ tử. Thế nhưng khi tiên đế giá băng, kim thượng đăng cơ, đại thần thác cô quên đi lễ quân thần, một vị giả di chiếu tiên đế, dùng lại hết kẻ vì đại lễ nghị mà mắc tội, thậm chí đề bạt lên công khanh, thực là hoang đường."

" Tiên đế linh thiêng trên trời làm sao an nghỉ được? Hoàng thượng mỗi lần tế miếu làm sao đối diện với tiền nhân? Chẳng lẽ tất cả những quan viên bị tội kia không kẻ nào là đáng chịu sao?"

"Vậy mà đại thần thác cô chẳng phân biệt có tội hay không, chẳng phân hiền hay ác, chỉ cần là tiên đế cách chức là sẽ phục hồi. Đây chẳng phải phỉ báng tiên đế hay sao? Cho dù là Chu Vũ Vương phản Thương, cũng chẳng qua bình xét lại cho vài người mà thôi, chưa từng bao giờ nghe nói người triều Thương bỏ là sẽ dùng hết. Huống chi kim thượng và tiên đế không phải là hai triều đại, mà là thân sinh phụ tử, nhưng lại bị ép phỉ bảng phụ tử ân nghĩa, làm thần đau đớn vô cùng."

" Thần chấp chưởng lại bộ tới nay, chuyển xin ân ấm tràn lan như Đường Xu, Vương Tuấn Dân đều nhất luật dừng lại, tránh tình thế ngày càng tệ, không thể vãn hồi. Loại hành vi lung lạc nhân tâm thi ân cầu lợi này lại được người đời cho là chuyện bình thường, chẳng lẽ lẽ trời đã tận diệt, lòng người đã trơ lỳ rồi sao? Vì thế thần xin bệ hạ thánh dụ cho người đời, nay về sau phàm kẻ lạm thi ân đẩy oán cho tiên đế, đều luận tội đại bất kính."

Viết xong Cao Củng đưa tấu sớ cho Lục Quang Tổ xem, dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng anh bạn Tiểu Lục mặt tắng bệnh, kêu khổ không thôi:" Quả nhiên thần tiên đánh rắm chẳng hề tầm thường, ngài thì hả giận rồi, nhưng Từ các lão để mặt mũi vào đâu?" Liền khuyên Cao Củng, liệu có nên uyển chuyển một chút?

- Tại sao bọn chúng không uyển chuyển với tiên đế một chút?
Cao Củng phất tay, bắt hắn đem tấu sớ tới Thông chính ti.

Cánh tay không vật nổi bắp đùi, Lục Quang Tổ đành làm theo. Nhưng hắn đánh giá thấp sức ảnh hưởng của Cao Củng với hoàng đế, càng đánh giá thấp độ mẫn cảm chính trị của Cao Củng...
Chỉ hai ngày sau liền được tin hoàng đế phê chuẩn tấu của Cao Củng, thầm cảm thán, Đại Minh sang thời đại khác rồi.

Kỳ thực còn rất nhiều người đánh giá thấp trí tuệ chính trị của Cao Củng, tưởng ông ta nhìn ai ngứa mắt là vác gạch đập, không thèm vờ vịt. Kỳ thực dưới bề ngoài thô hào đó là trí tuên sâu xa, ông ta mẫn cảm nhận ra, mặc dù ban đầu Long Khánh ủng hộ di chiếu, nhưng hai năm sau, lòng hoàng đế đã phát sinh biến hóa cực lớn.

Chẳng có gì khó hiểu, hai năm trước Long Khánh mới từ một hoàng tử suốt ngày nơm nớt lo sợ, chịu hết ủy khuất, lên làm hoàng đế chí tôn. Trong lòng hắn chỉ muốn báo thù phụ hoàng, bồi thường khổ nạn cả mình. Cho nên mới đồng ý với di chiếu phủ định Gia Tĩnh toàn diện này.

Song nay Long Khánh tuy lười biếng chính sự, nhưng không ai phủ nhận được, hắn đã đứng ở lập trường một hoàng đế nhìn vấn đề một cách chững chạc. Triệt để phủ nhận tiên đế là bôi bẩn hoàng gia, làm người ngoài chê cười hai cha con họ.
Bất kể thế nào, thể diện hoàng gia là quan trọng nhất, cho nên Long Khánh hối hận vì sao trước kia mê muội nghe Từ Giai oán trách phụ hoàng?

Tiếp đó hận luôn Từ Giai xúi bẩy mình:" Ta còn trẻ không hiểu chuyện, ông là các lão thác cô, chẳng lẽ cũng không hiểu chuyện? Để ta làm chuyện bất hiếu, rốt cuộc có mưu đồ gì?"

Cao Củng nắm chắc điểm Từ Giai bất kính với tiên đế, lên tiếng bất bình vì tiên đế, lấy tiếng hiếu cho đương kim, thắng là cái chắc.

~~~~~o0o~~~~~~

Khi bản tấu của Cao Củng đưa tới nội các, mặt ai nấy đều trở nên quái dị, nửa số đại học sĩ là học sinh của Từ Giai, hiện giờ Cao Củng công khai phủ định di chiếu, hành động Từ các lão đắc ý nhất đời, có khác gì triệt để phủ nhận Từ Giai?

Bất kể bọn họ ngầm thành thế nước lửa, đấu tranh sống chết với Từ Giai ra sao, nhưng ở trường hợp công khai, quyết không thể đứng cùng phía với Cao Củng, thậm chí còn nói vài câu bảo vệ Từ Giai, tránh bị chê cười....

Nhưng ai dám đối đầu với Cao Củng? Còn muốn có cơm ăn nữa không?

Lý Xuân Phương xem xong, nhìn sang ghế trống bên cạnh mình, mắng:" Tên giảo hoạt họ Thẩm, hiển nhiên sớm biết phong thanh, lấy cớ tuần thị kinh doanh trốn mất, làm bọn ta trốn không kịp."
Gặp chuyện khó nhằn, thủ phụ đi hâm mộ thứ phụ chuồn mất, truyền ra ngoài người ta sẽ cười rụng răng.

Trương Cư Chính cũng oán trách:" Lão Cao ông có muốn lập uy phong cũng phải trao đổi trước với ta chứ? Giờ làm ta trở tay không kịp, phải làm sao đây?"

Còn về phần Trần Dĩ Cần và Cao Nghi, thấy hai học sinh đều chẳng nói cho sư phụ, đương nhiên an tâm giả câm, xem vở kịch tiếp diễn.

Ánh mắt mọi người bất giác hướng về vị duy nhất có thể đấu với Cao Củng...

Chỉ thấy Triệu Trịnh Cát mặt tối đen, mắt nheo lại, quả nhiên đã tới mép bờ bùng nổ.

Cao Củng lại làm như không thấy, nói với Trần Dĩ Cần:
- Nếu không có ý kiến thì lão Trần viết lời phê đi, để ta đọc...

- Phê cái rắm.
Cao Củng còn chưa nói xong, Triệu Trinh Cát cảm thấy bị ngó lơ vỗ bàn đứng dậy, quát:
- Làm thế có khác gì bia gian đảng triều Tống?

"Bia gian đảng" là do Tống Huy Tông lệnh gian tướng Thái Kinh, đem đám Ti Mã Quang, Văn Ngạn Bác, Tô Thức gồm 309 người phản đối biến pháp Vương An Thạch khắc lên bia, ban hành thiên hạ, từ đó không ai dám chỉ trích triều đình nữa. Triệu Trinh Cát hiển nhiên so Cao Củng với Thái Kinh.

Nói xong Triệu Trinh Cát hầm hầm phát tay áo bỏ đi.

Thấy thế Cao Củng đành rời vị trí, đi ra đưa tay chặn Triệu Trinh Cát lại:
- Cần gì phải thế, chuyện gì cũng thương lượng được mà...
Xem ra câu kẻ ngang ngược sợ kẻ lỗ mãng, chẳng sai tí nào.

Triệu Trinh Cát cũng thấy mình bỏ đi chẳng phải trúng gian kế Cao Củng, hừ một tiếng về chỗ, không thèm nhìn ông ta.

Cao Củng cười khan:
- Bản tấu này hoàng thượng đã chuẩn, nội các lại không phê, há chẳng phải ép hoàng thượng hạ chỉ sao? Chuyện mà làm lớn lên, uy tín của nội các sẽ không có lợi.

Câu này đánh trúng chỗ yếu của mọi người, làm thần tử không thể khiêu chiến quyền uy của hoàng đế, nhất là chuyện hoàng đế còn chiếm lý...
Chẳng lẽ ngươi bắt kẻ làm con cứ đâm dao lên người cha mãi sao? Cho nên một khi Long Khánh nghĩ thông chuyện này, di chiếu tới ngày thành tro bụi không xa nữa.

- Ngươi thật vô sỉ.
Triệu Trinh Cát như mèo bị dẫm phải đuổi, nhảy bật dậy:
- Cố ý báo thù Từ các lão.

- Nếu như đạo sớ này không thông qua, ta sẽ dâng bản khác, tới khi đó không còn nói kín đáo như vậy nữa đâu.
Cao Củng vỗ bàn nhìn Triệu Trinh Cát:
- Năm xưa đại lễ nghị, ông cũng có mặt, hẳn biết vụ án này chẳng qua là tập đoàn quan văn của cha con họ Dương, mang Hiếu Tông hoàng đế ra làm cái cớ áp tiên đế còn chưa đứng vững chân, muốn khống chế triều cục. Tiên đế không chịu yếu thế, tập trung lực lượng đấu tranh với cho con họ Dương. Vị án này vốn chỉ là tranh đấu quyền lực, làm gì có thiện ác đúng sai? Còn đám quan viên liên quan chẳng qua là nanh vuốt cho phe mình, đấu khẩu vô nghĩa, làm gì có công lý?
Nói tới đó cười lạnh:
- Không biết ta đem cái này nói rõ với hoàng thượng rồi, người sẽ có cảm tưởng gì?

Triệu Trinh Cát giọng run run:
- Ngươi định đem quân thần đẩy vào hướng đối diện?

- Chẳng qua ta chỉ muốn nói cho hoàng thượng biết mà thôi. Thực ra ta cũng chẳng phải người lắm chuyện, cho nên mới bảo dừng chuyện an ủi tiền thần, nếu không đại lễ nghị thành sai sao? Vậy thì Minh Luân Đại Điển cũng nên bỏ, Hiến hoàng đế có phải cũng nên đưa khỏi thái miếu? Đại Minh này hoàng đế còn quyền uy nữa không?

Một loạt câu hỏi không thể trả lời đã triệt để khống chế cục diện, ngay Triệu Trinh Cát cũng thừa nhận, Từ Giai năm xưa làm thế để lại thóp cho người ta nắm, đành lui lại:
- Việc đó có thể dừng, nhưng di chiếu không thể phủ định. Bất kể ông nói thế nào, thứ đó có tên là Gia Tĩnh di chiếu, ban bố với danh nghĩa tiên đế, trong mắt người đời nó là di mệnh của tiên đế, ông luôn nói tránh để hoàng thượng mang tiếng bất hiếu, vậy càng không có lý nào phản đối di chiếu.

Lúc đó Cao Củng có cảm giác vác đá đập chân mình, đành gian nan gật đầu:
- Được...

Cuối cùng sau thỏa hiệp của hai bên, lệnh dừng an ủi chỉ dùng hình thức công văn phát đi, không biến thành thánh chỉ.

Nhưng giấy không gói được lửa, huống hồ cũng chẳng hề có ý gói lửa, hành động đó rất nhanh chóng được toàn triều biết tới. Chỉ cần biết Từ Giai dựa vào thi hành di chiếu mua chuộc được bao nhiêu lòng người, là biết Cao Củng chọc vào tổ ong lớn thế nào.

Tức thì tiếng chỉ trích vang lên không ngớt, nhất là đám được dựa vào di chiếu mà phục chức, cùng đám "hậu nhân trung lương" được ưu đãi, càng coi Cao Củng là gian tà.

Vương Thế Trinh kịch liệt phê bình:" Từ các lão với mục đích vỗ về trung thần, mới lấy danh nghĩa tiên đế tặng ấm, khiến thiên hạ trở nên tươi mát. Còn Cao các lão cưỡng từ đoạt lý muốn vấy bẩn Từ công, đoạt lợi ích của trung thần, dụng tâm thật ngoan độc."

Thế là mỗi ngày đều có cả đống người hùng hổ chặn đường đi làm của Cao Củng, lấy trứng thối ném vào kiệu của ông ta. Khiến cho một khoảng thời gian dài, mỗi khi Cao Củng xuất hành là Cẩm Y vệ phải mở đường trước.

Thẩm Mặc bày tò lo lắng với tình cảnh của Cao Củng, từng đế xuất muốn điều đình giúp ông ta, trừ bỏ tâm tình đối địch.

Thế nhưng Cao Củng nói:
- Không cần, đệ cứ đợi xem tiếp kịch là được.

Thẩm Mặc nhìn thấy rõ chiến ý ngụt ngụt cháy trong mắt ông ta, chửi thầm:" Cao Điên, ông chưa chơi đủ à?"

Cao Củng đúng là chưa chơi đủ, chuẩn xác mà nói ông ta vừa mới bắt đầu thôi..

Quả nhiên vài ngày sau ông ta lại kiếm được cơ hội.

Mùa thu là mùa lá rụng, cũng là mùa xử quyết phạm nhân trong năm, theo lệ hình bộ đem danh sách tử tù gửi lên nội các, phê xong do hoàng đế định đoạt...

Nội các chỉ quan tâm tới tài chính thu chi, quốc gia đại sư, chứ không phải là đám tử tù chờ chặt đầu, mà danh sách chi chít tên, chẳng ai biết người trên đó có đáng giết hay không, nên chỉ là làm cho có thôi.

Nhưng chuyện bị các đại lão coi là chuyện nhỏ đó bị Cao Củng tóm lấy, ông ta xem đi xem lại danh sách mấy lượt, cuối cùng nói:
- Mấy người này không giết được.

Nội các đại thần ngẩng đầu lên nhìn Cao các lão chỉ sợ thiên hạ không loạn, nghe ông ta nói tiếp:
- Vương Kim, Đào Thế Ân, Đào Phảng, Thân Thế Văn... Không được giết.

Triệu Trinh Cát dù sao năm ngoái mới về kinh, chuyện trước kia không rõ lắm, trầm ngâm:
- Nghe quen quen.

Nhưng những người khác đều biến sắc, những kẻ kia đều là đám phương sĩ cuối cùng bên Gia Tĩnh, theo di chiếu bị bắt vào ngục, tội danh "dâng bừa dược vật" hại chết tiên hoàng, theo Đại Minh luật, tội tử hình.

Chỉ là không ai biết rằng, đám phương sĩ này còn sống được tới hôm nay là phải cám ơn vị đại học sĩ phân quản hình danh, được người ta nhờ giữ chúng lại tới ngày hôm nay.

- Ông không chịu yên một chút được sao?
Sau khi biết nguồn cơ, Triệu Trinh Cát nổi giận:
- Không sinh sự thì chết à?

Cao Củng chẳng hề để ý tới Triệu lão phu tử đã tức tới lỗ mũi xì khỏi, nói với Lý Xuân Phương:
- Thủ phụ, mấy tên phương sĩ này chết không đáng tiếc, nhưng ngài đã nghĩ tới chưa, nếu lấy tội danh này giết chúng, chẳng phải xác thực tin đồn tiên đề dùng đan dược mà chết? Há chẳng phải nói, tiên đế không chết an lành?

Lý Xuân Phương nào dám tiếp lời, ném ngay củ khoai nóng cho Thẩm Mặc:
- Thẩm các lão thấy sao?

- Cao các lão nói có ý lắm.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chuyện liên quan tới thanh danh tiên đế, ta cần thận trọng.

- Pháp ti đã xét qua rồi, có gì phải thận trọng.
Triệu Trinh Cát cực kỳ khó chịu Thẩm Mặt và Cao Củng vào hùa với nhau.

- Hồ sơ khi đó ta cũng xem qua.
Trương Cư Chính chậm rãi nói:
- Thẩm tra đúng là hơi cẩu thả, ta cũng kiến nghị tam pháp ti xét lại, không thể làm tiên đế bị oan.

Hắn đã nhìn rõ Cao Củng và Thẩm Mặc đã kết thành đồng minh, thêm vào hoàng đế đứng đằng sau, triều đường đã không ai cản được hai bọn họ nữa. Chuyện lần trước mình không đứng về phía Cao Củng, nếu lần này không lên tiếng, đắc tội với cả hai đằng, sẽ bị Thẩm Cao đẩy sang bên lề...

Thấy nhiều người tỏ thái độ như thế, Cao Nghi cũng nói:
- Tra, chuyện này phải tra rõ, càng triệt để càng không ai có thể lấy nó ra tác quái. Tùy tiện giết người là thiếu trách nhiệm với lịch sử với triều đình.

- Vậy thì tra...
Ý kiến nội các ngả về một phía, Triệu Trinh Cát biết mình phản đối cũng vô ích, nhưng ông ta dùng ánh mắt phun lửa nhìn Cao Củng, như muốn khoét thủng hai lỗ trên người Cao Củng vậy.

Trong di chiếu có ba việc, một là phục hồi các đại thần tiến ngôn mà đắc tội, hai là dừng xây dựng cung quan, ba là luận tội đám phương sĩ.

Ba việc này là chính tích của Từ Giai, hiện việc đầu đã bị dừng, nếu còn lật lại vụ phán quyết phương sĩ, vậy trừ việc xây dựng hao tiền mệt dân không thể không chấp hành, tất cả chính tích của Từ Giai đã bị Cao Củng lật nhào.

Triệu Trinh Cát thấy mình còn nhịn, là có lỗi với gửi gắm của Từ Giai, càng làm bản thân bì dồn vào bờ vực, cần phải phản kích rồi.

Được nội các thúc đẩy mạnh mẽ, ngày xử lại vụ án Vương Kim mau chóng được xác định.

Mọi người đều biết, nếu như lật lại vụ án này, quốc sách mà Từ Giai định ra sẽ bị lật nhào hết, sức ảnh hưởng của ông già ở Tùng Giang kia với triều đình sẽ giảm mạnh, ít nhất bề ngoài không ai dám lấy quy định trước kia của ông ta ra nói nữa, Từ đảng cũng rất có khả năng mất đi khống chế triều chính.
Điều này có nghĩa là gì mỗi phần tử Từ đảng đều rất rõ, trong cái tổ vỡ làm gì có trứng lành? Từ đảng đã tới thời khắc nguy hiểm nhất.

Dưới tầng tầng áp lực, Triệu Trinh Cát không ngồi yên được nữa, hôm đó lấy danh nghĩa tẩy trần cho Chu Hành vừa ở đề về, mời ông ta tới nhà ăn cơm thương lượng.

Hôm đó Triệu Trinh Cát về nhà sớm, bảo nhà bếp sửa soạn một bàn tiệc thịnh soạn đợi Chu Hành tới, ai ngờ đợi mãi, tới khi cơm canh nguội cả Chu Hành mới ngồi kiệu đi cửa sau vào phủ.

Hiếm khi mời khách, khách lại đến muộn, nếu là trước kia Triệu Trinh Cát đã thể hiện hết khó chịu ra mặt, nhưng hiện giờ là thời kỳ phi thường, ông ta đành miễn cưỡng nặn ra nụ cười:
- Sĩ Nam, sao đến muộn thế? Phải phạt ba chén.

Chu Hành mặc thường phục, trên người còn mang tàn lưu vẻ mệt mỏi trên đê mang lại, nghe thế cười yếu ớt:
- Thế nào cũng phải đợi trời tối mới tiện đi.

- Đây không giống lời Chu Sĩ Nam...
Triệu Trinh Cát cố làm ra vẻ thoải mái:
- Khi ta lần đầu bị Nghiêm Tung lưu đầy, ông tiễn ta ba mươi dặm trước mặt mọi người, đâu có sợ ai

Chu Hành nghe thế thần thần, nhớ lại thời thanh niên nhiệt huyết, lắc đầu:
- Già rồi, gan nhỏ rồi.

- Lời này ta không thích nghe.
Triệu Trinh Cát rót rượu cho ông ta:
- Sao ta thấy mình càng già càng mạnh, một có thể chống hai?

Chu Hành thầm nghĩ:" Mạnh miệng, vậy ông còn tìm ta làm gì?" Đương nhiên không thể nói ra, nhìn xung quanh hỏi:
- Bàn tiệc thịnh soạn thế này chỉ có hai ta ăn thôi sao?

- Còn ai nữa.
Triệu Trinh Cát trêu:
- Hay là ta sai người đi kiếm vài tiểu nương tử, hát ca rót rượu cho chúng ta?

- Thôi.
Chu Hành cười khổ:
- Lúc này ông tìm ta khẳng định là có chuyện, tâm tư đâu uống rượu nghe hát. Ông đâu phải là loại người ấy.

- Đúng.
Triệu Trinh Cát tự cho thanh cao, không đụng vào nữ sắc, nói tìm ca kỹ chỉ chứng minh lòng ông ta bất an, bị Chu Hành nói toạc ra, Triệu Trinh Cát đỏ mặt nói át đi:
- Nào, nào, uống rượu...

Hai người uống rượu, không khí có chút trầm lắng, Triệu Trịnh Cát đi vào chính đề:
- Sĩ Nam, ông đã nghe nói tới chuyện xét lại vụ án Vương Kim chưa?

Chu Hành gật đầu:
- Cao Túc Khanh nói, giết đám Vương Kim là thừa nhận tiên đế chết không nhắm mắt, đây là tin mới ở kinh thành, ai mà không biết?

Triệu Trinh Cát mặt tối lại:
- Cao Củng có ý gì mọi người hiểu hết, Sĩ Nam, chúng ta không phản kích chỉ đành ngồi chờ chết thôi.

- Nội các nhiều người như thế mà để cho Cao Củng làm bừa sao?

- Đừng nói tới nội các, không ta lại tức điên lên.
Triệu Trinh Cát mặt trở nên khó coi:
- Nói ra trong 7 người có tới bốn là học sinh của Từ các lão, nghe qua thì ghê lắm, thực tế? Thủ phụ chỉ biết co đầu rụt cổ. Thứ phụ thì bày rõ cùng một bọn với Cao Củng... Hai đứa con tiểu thiếp này cũng đành đi, nhưng cả tên họ Trương được Từ các lão dốc toàn bộ tâm huyết bồi dưỡng cũng mắt qua mày lại với Cao Củng, không cách khi sư diệt tổ bao sa nữa.
Uống cạn chén rượu đặt mạnh lên bàn:
- Ài, ông nói xem, Từ các lão tinh minh cả đời, sao dùng nhiều kẻ trảo trở như thế?

- Tức là trong nội các ông bị cô lập rồi?
Chu Hành lòng trầm xuống.

- Không thể nói thế.
Triệu Trinh Cát xấu hổ nói:
- Trần Dĩ Cần là đồng hương của ta.

Chu Hành thở dài:
- Mạnh Tĩnh, còn chưa nhìn ra sao, đại thế không còn bên ta nữa.

- Đại thế cái rắm, ông đừng chỉ nhìn vào nội các, đừng quên ngôn quan đứng về phía chúng ta, còn các các bộ, địa phương, thực lực chúng ta vẫn hơn chúng.

- Đúng, ta thừa nhận, người của chúng ta còn nhiều, Cao Củng muốn thắng không dễ, nhưng quan trọng là, chúng ta có thắng nổi không?

- Chuyện này...
Triệu Trinh Cát không phải kẻ tự đại mù quáng, biết sau khi Từ Giai đi, đám học sinh đều mang lòng khác, ông ta sở dĩ ngang ngược như thế trong nội các há chẳng phải vì hư trương thanh thế cho Từ đảng?

Nhưng đối với Chu Hành, ông ta không thể che dấu được:
- Không thắng nổi.

- Vậy đấu đi đấu lại có ý nghĩa gì, cùng lắm làm triều đình thêm vài năm hỗn loạn.

- Ông nói gì thế?
Triệu Trinh Cát cảnh giác nói:
- Không phải ông ăn cây táo rào cây me chứ?

- Ta chỉ thấy, Đại Minh như cái thuyền rách, nếu người trên thuyền không hợp lực chèo chống tới khi thuyền laatj thì chẳng ai thoát được.

Lời của Chu Hành làm lòng Triệu Trinh Cát lạnh đi quá nửa, ông ta muốn Chu Hành đứng đầu đám thanh lưu phối hợp với mình, ai ngờ Chu Hành lại theo chiều hướng đầu hàng...

Nếu chẳng phải giao tình nhiều năm, biết Chu Hành là người cương chính, ông ta đã hoài nghi đối phương phản bội rồi, lạnh lùng nói:
- Sĩ Nam, Cao Củng chuốc thuốc mê gì cho ông mà ông chuyên môn tới dát vàng lên mặt hắn.

- Không phải thế, ta chỉ nghĩ Cao Củng đúng là một người có thể biến chuyện người khác không dám nghĩ thành hiện thực, Đại Minh hiện nay cần người như thế lèo lái mới có thể thoát khỏi khốn cảnh.

- Đủ rồi.
Triệu Trinh Cát không chịu nổi nữa, vỗ mạnh bàn, làm bát đũa rung lên, canh bắt hết cả ra:
- Cao Củng là loại người gì, nhìn hành vi gian tà gân đây của hắn là biết. Ông cho rằng ta vì tranh quyền đoạt lợi mới chuẩn bị đối đầu với hắn? Vậy ông quá coi thương Triệu Mạnh Tĩnh này.

Chu Hành đặt đũa xuống không nói.

- Từ các lão mạo hiểm đắc tội với đám phương sĩ, đại thần văn võ nhờ siểm nịnh được tiên đế đắc sủng, kiên trì ban bố di chiếu là vĩ đại nhường nào, ông cũng phải hiểu chứ? Tiên đế là người thế nào, ông cũng phải hiểu chứ? Nếu không di chiếu làm sao được lòng người như thế.

- Quốc gia hai năm qua có thể bình ổn quá độ, dần phục hồi nguyên khí là công lớn của di chiếu, công lớn của Từ các lão. Nếu để Cao Củng đạo lộn trắng đen, vấy bẩn di chiếu, đừng nói là có lỗi với Từ các lão, chỉ riêng với lương tâm, ông thấy có xứng không?

Chu Hành một lúc lâu mới nói:
- Ông nói đúng cả, nhưng sứ mệnh lịch sử của di chiếu đã hết, nếu còn tiếp tục thế này, chỉ trói buộc cải cách.

- Cải cách, cải cách, thì ra ông bị họ Cao truyền nhiễm rồi.
Triệu Trinh Cát vỡ lẽ:

Chu Hành thở dài:
- Không thể thương lượng hay sao?

- Không thể.
Triệu Trinh Cát trợn trừng mắt trâu:
- Pháp lệnh tổ tông hoàn thiện. Nếu để bọn chúng, à không các ngươi tự tiện sửa đổi, thế nào thiên hạ cũng đại loạn.

- Nhưng thiên hạ đã tới mép bờ đại loạn rồi.

- Nhảm nhí, trị nước lớn như nấu cá nhỏ, dù quốc gia có bệnh, cũng phải từ từ điều trị, ổn định là hàng đầu.

Chu Hành biết, đạo bất đồng bất tương vi mưu, nói nữa cũng vô ích, mặc Triệu Trinh Cát chửi bới đám Cao Củng một hồi rồi đứng dậy cáo từ.

- Không tiễn.
Triệu Trinh Cát mặt sương giá:
- Sau này cũng đừng tới nữa.

Chu Hành buông một tiếng thở dài rồi lên kiệu rời đi.

Chu Hành đi rồi, Triệu Trinh Cát ngồi lặng người, cuối cùng không áp chế nổi lửa giận càng lúc càng vượt, hất mạnh bàn an, cả phòng cơm canh tung tóe.

Triệu Trinh Cát không biết vì sao Chu Hành thay đổi, ông ta cũng chẳng muốn tìm hiểu, cho dù tất cả chiến hữu ngày trước thay đổi, ông ta vẫn còn mấy trăm ngôn quan, ngự sử hậu thuẫn, có thể chiến tới cùng.

Vì chính đạo thiên hạ tuyệt đối không lui.

Cùng lúc này cách đó mấy con đường, ở Thẩm phủ cũng đang tổ chức yến hội, nhưng không khí náo nhiệt hơn nhiều, tuần phủ Sơn Đông Tôn Quán về kinh, chuẩn bị thay Đường Nhữ Tập tiếp nhận tổng đốc Giang Nam, Thẩm Mặc liền mời đám đồng niên tới.

Đại lý tự khanh Tôn Phi Dương cũng tới, trong bữa tiệc hắn được gia đinh trong phủ gọi tới thư phòng, thấy Thẩm Mặc lấy cớ thay y phục, đợi ở đó.

Tôn Phi Dương biết Thẩm Mặc có việc tìm mình.

Thẩm Mặc biết tính lạnh lùng của hắn, liền không nhiều lời:
- Ngày mai hội thẩm, ta nghĩ huynh cũng biết vụ án này liên quan tới hướng đi triều đình mấy năm sau.

- Ta chỉ là Đại lý tự khanh, chủ thẩm là Mao bộ đường.
Tôn Phi Dương không có thiện cảm gì với hành vi ngang nhiên chơi đùa pháp luật này.

- Huynh hiểu lầm rồi, ý ta là huynh phải nỗ lực làm cho thật rõ, đừng sợ lực cản. Phía Mao bộ đường ta cũng nói như thế, cố gắng xử án công bằng, tất cả đã có ta gánh vác.

- Huynh quá lo rồi.
Tôn Phi Dương lúc này mới biết mình trách lầm Thẩm Mặc, cũng hiểu lo lắng của y, nói:
- Triệu tổng hiến sẽ lấy thế ép người, quấy nhiễu xử án sao?

- Chắc chắn.
Thẩm Mặc cau mày:
- Ông ta mà khùng lên, ta cũng phải tránh xa, chỉ sợ mọi người không chống lại.

- Ta sẽ tận lực, chẳng lẽ ông ta còn to hơn được công lý.

Hay cái là bên kia cũng nghĩ mình chiếm công lý, thật không biết đâu mới là công lý thật.

(thiếu phần 4 của chương này)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 837: Tam kê báo hiểu


Vụ án Vương Kinh xét lại khiến trong ngoài triều xôn xao đúng như dự liệu, gần như tất cả mọi người, bao gồm cả phe thứ ba đều nhất trí cho rằng, Cao Củng xét lại vụ án này mục đích là để gán Từ Giai tội danh "giả soạn chiếu chỉ, phỉ báng tiên đế", để bôi xấu ông ta triệt để.

Lúc này ngay Thẩm Mặc cũng không thể im lặng được nữa, một là nếu y không làm gì sẽ bị người ta cho rằng khoanh tay ngồi nhìn sư phụ chết mà không cứu; hai là Cao Củng tiếp tục làm thế sẽ bị người người oán hận, mình cũng không bảo vệ nổi ông ta nữa.

Đúng vậy người đời chỉ thấy Cao Củng đánh đông dẹp tây mà không thấy vì phối hợp với ông ta, Thẩm Mặc đứng sau điều động bao nhiêu mối quan hệ.
Điều này Cao Củng hiểu rõ, không có Thẩm Mặc giúp mình chải chuốt những mối quan hệ rối rắm, ông ta căn bản không thể chém giết sảng khoái như vậy.

Hai người nói chuyện một buổi mới làm vụ án kia không liên lụy tới ông già đang nghỉ hưu ở Tùng Giang...

Thế nhưng Cao Củng liên tục tung ra những cú đấm mạnh đã triệt để chọc giận đối tượng ông ta muốn đả kích, đám người kia cuối cùng ý thức được, đây không phải là người làm theo quy củ....

Trong cuộc chơi chính trị mà bọn chúng trải qua trước đó, luôn chú trọng cái gọi là "làm người để lại một đường lui, ngày sau còn gặp mặt", dù sao lúc lên voi lúc xuống chó, ai mà biết khi nào mình bị vận may quay lưng.

Nhưng Cao Củng không thế, ông ta đã bày rõ quân trận, nhất định muốn triệt để xóa bỏ ảnh hưởng của ông già kia tại kinh thành, không đuổi tận giết sách Từ đảng không thôi.

Không thể nhịn được, không cần nhịn nữa, đám ngôn quan tích cực tìm kiếm chứng cứ, mỗi ngày nhiều hơn mười bản, ít bốn năm bản đàn hặc Cao Củng. Trong dân gian cũng thả ra tin đồn, Cao Củng nhận tiền của đám Vương Kim cho nên giữ mạng chúng, tạo thành ảnh hưởng lớn.

Người dân tin loại tin đồn này là vì phán quyết vụ án Vương Kim thực không thể làm người ta phục, không thể không hoài nghi động cơ của Cao Củng có thuần chính hay không? Tiếp đó nghi ngờ nhân phẩm của ông ta, tin tưởng lời nói xấu kia.

Cao Củng cũng không thua kém, thân tín của ông ta liên tục nổ pháo biện hộ cho vụ án Vương Kim, cho rằng đây là thắng lợi của pháp luật. Còn những kẻ chỉ trích Cao Củng, chẳng qua sợ chân tướng vạch trần, từ đó khiến việc nhơ nhớp của chúng bại lộ, mũi giáo chĩa thẳng vào Triệu Trinh Cát.

Quan hệ giữa hai vị các lão xấu đi trông thấy, thậm chí ngay cả hòa khí bên ngoài cũng không làm được nữa. Chỉ cần là cái người này ủng hộ là người kia phản đối, mỗi ngày cãi nhau ba bận, thậm chí về sau phát triển tới mức động thủ, Cao Củng thiếu chút nữa ném nghiên mực vào đầu Triệu Trinh Cát, lão Triệu đấm Cao Củng thiếu chút nữa "lỗ mũi ăn trầu", làm người ta dở khóc dở cười...

Chẳng trách được, đều là người thẳng tính, bảo bọn họ học kiểu khẩu phật tâm xà như Từ Giai, Thẩm Mặc, bọn họ không học nổi.

Ai cũng biết hai vị này không thể cùng tồn tại nữa, tức thì không khí chiến tranh bao phủ nội các, mọi người chờ đợi thời khắc hai người quyết sống mái nữa thôi.

Thế nhưng người đầu tiên không chịu nổi là Trần Dĩ Cần, Trần các lão mang phong cách quân tử cổ này có dị nghị lớn vớ việc xét xử lại vụ án Vương Kim, dâng thư yêu cầu ngừng phúc thẩm, giương cao chính nghĩa.
Hắn không phải là Thẩm Mặc, đương nhiên làm thế là đã chọc giận Cao Củng, có điều Cao Củng niệm tình xưa, lại không muốn kẻ địch qua nhiều nên ngó lơ.

Bên kia Triệu Trinh Cát lại hạ quyết tâm quyết chiến tới cùng với Cao Củng, Trần Dĩ Cẩn khuyên không nổi, nhìn thấy nội các sắp lún vào vũng bùn tranh đấu bất tận, Trần các lão chán nản, thêm vào con hắn đã trúng tiến sĩ, nên càng thêm kiên định quyết tâm "bỏ chuyện thiên hạ, về vui điền viên".

Nói đi là đi, Trần Dĩ Cần dâng liền tám bản tấu từ chức, Long Khánh thấy không giữ nổi nữa, đành ban thưởng, rơi lệ tiễn Trần sư phụ đáng kính.

Trần Dĩ Cẩn trước khi đi nói những lời làm Long Khánh xúc động lớn, khiến hắn luôn đặt mình ngoài cuộc tranh đánh của hai hổ đã hạ quyết tâm làm người hòa giải...

Long Khánh mời hai người Cao, Triệu tới ăn cơm, nói:
- Hai khanh đều là lão thần đức lớn định quốc an bang, triều đình có hai vị trông coi, trẫm có thể yên chí lớn. Nghe nói hai vị có chút chuyện không vui, trẫm hết sức lo lắng, ăn không ngon ngủ không yên, đành mời hai khanh tới để hòa giải, chuyện cũ bỏ qua, sau này chung vai góp sức, cùng quản tốt nhà cho trẫm, có được không?

Hoàng đế đã nói đến thế rồi, hai người đâu dám nói không, đành vâng dạ, thậm chí uống với nhau ba chén, nặn ra nụ cười còn khó coi hơn khóc...

Thế nhưng nếu lời hòa giải có tác dụng thì còn cần quân đội làm gì? Dù người hòa giải là hoàng đế cũng vô dụng, vì một núi không thể chứa hai hổ, câu tục ngữ ai cũng thuộc nằm lòng này là chân lý ngàn đời không đổi, đang tín hơn cả lời lão Khổng...

Cao Củng và Triệu Trinh Cát chưa từng có ý định hòa giải.

Có điều Cao Củng biết tính khí của Long Khánh, mặc dù vẫn cấu véo với Triệu Trinh Cát ở Cao Củng, nhưng không làm phiền tới chỗ hoàng đế nữa.

Nhưng Triệu Trinh Cát không hiểu chuyện này, cãi nhau ở nội các không lại họ Cao, liền sai đám thủ hạ dâng tấu, còn tự lừa mình lừa người nói là "ta không quan được người dưới làm gì"... Vì thế để mặc thậm chí ngầm xúi bẩy cho đám ngôn quan chửi mắng Cao Củng không còn ra thể thống gì.

Cao Củng không sợ, nói đùa à, năm ngoái ta bị hai kinh mười ba tỉnh đàn hặc vẫn sống trơ trơ, chút hỏa lực này chẳng đủ gãi ngứa.

Thấy bao nhiêu bản tấu dâng lên mà như muối bỏ biển, tan biến không vết tích gì, đám ngôn quan không chịu, có ngự sử Diệp Mộng Hùng dâng sớ yêu cầu hoàng đế không được bao che Cao Củng nữa, tránh làm lòng người thiên hạ nguội lạnh.

Bản tấu này dâng lên, Cao Củng không im lặng nữa, lập tức cầm lấy bản tấu đi tìm Long Khánh, quỳ xuống nói:
- Bệ hạ, thần đã biết bọn chúng không thần trở về, giờ tới bệ hạ cũng bị trách lây rồi.

Long Khánh xem tấu xong lửa bốc ngùn ngụt:
- Quả nhiên Từ các lão đã đi, nhưng đám âm hồn này không chịu tan. Xem ra không dùng thủ đoạn sấm sét, không trừ được cái thói này.
Từ khi đăng cơ cho tới nay, hắn bị đám ngôn quan hành cho đến khổ, sớm căm ghét đám người này lắm rồi, giờ thấy chúng lại muốn đuổi Cao sư phụ đi, thực sự nổi giận hỏi:
- Cao sư phụ đám người này nên xử ra sao?

Cao Củng muốn bắt cố thả:
- Thần cho rằng, hoàng thượng chỉ trách mắng nghiêm khắc là được.

- Thế chẳng phải quá nhẹ sao?

Lời Long Khánh sớm trong kế Cao Củng rồi, nghe vậy hơi cau mày hỏi lại:
- Theo hoàng thượng phải xử trí thế nào?

- Hắn dám ức hiếp sư phụ như thế, trẫm giết hắn vẫn chưa hả giận.

- Không thể.
Cao Củng vội nói:
- Như thế thành toàn cho mỹ danh của hắn, còn quân thần chúng ta lại bị hiểu lầm.

- Nhưng không nghiêm trừng đám ngôn quan sẽ càng ngang ngược.

- Hoàng thượng nói phải, thần ở quan trường hơn hai mươi năm, thấy thói đời ngày càng đi xuống, lòng đau như cắt...
Biết sư phụ sắp có bài phát biểu dài, Long Khánh ngậm miệng lại, yên tĩnh nghe ông ta nói:
- Kỳ thực từ thời khai quốc tới nay, lề thói Đại Minh ta rất tốt, chỉ là tiên đế tu huyền, đem hết quốc sự cho Nghiêm Tung xử lý. Hai cha con chúng mua quan bán tước, bài xích trung lương, khiến cương thường đi xuống, chính lệnh không thông

- Lâu dần như thế khiến trung thần trục xuất nghỉ hưu, đám tiểu nhân cơ hội đắc lợi..
Cao Củng đau đớn nói:
- Lại nói Diệp Mộng Hùng chỉ dâu mắng hòe, châm chọc hoàng thượng, có đủ lý do để trị tội hắn. Thế nhưng quan trọng là hạng đầu cơ như Diệp Mộng Hùng không phải là thiểu số mà là đa số. Nếu không làm trong sạch khoa đạo ngôn quan, hôm nay xử phạt một tên Diệp Mộng Hùng ngày mai sẽ nhảy ra bảy tám tên Trương Mộng Hùng, Lý Mộng Hùng, dâng bản tấu loạn xạ làm nhiễu loạn triều chính...

Long Khánh nghe xong vỗ tay nói:
- Sư phụ chỉ ra tệ nạn triều đình, trẫm rất tán đồng. Không cần nói nhiều, cứ nói tiếp theo lại bộ chấn chỉnh lề thói suy đồi này ra sao đi.

- Thần nghe nói năm ngoái hoàng thường từng hạ chiếu muốn khảo sát ngôn quan, song bị Từ Giai ngăn lại?
Cao Củng biết mà vẫn cố ý hỏi:

- Đúng là có chuyện này, giờ xem ra Từ các lão và chúng là một, đương nhiên không muốn trẫm khảo sát.

- Giờ Từ các lão không còn nữa, hoàng thượng có gì phải cố kị.

- Đúng thế...
Long Khánh choàng tỉnh:
- Lần này không ai cản được trẫm chứ hả? Làm luôn một chuyến kinh sát nữa.

- Kinh sát?
Cao Củng động lòng, nhưng ông ta biết phải tiến hành từng bước, hạ đám ngôn quan rồi hẵng hay:
- Không được, các nha môn đều có việc thực, khảo sát một cái là mấy tháng bất an, không làm liên tục được. Còn khoa đạo ngôn quan thì không có việc thực, khảo sát không rắc rối gì, huống hồ kia đạo nắm phong hiến triều đình, giám sát bách quan. Trước tiên chỉnh đốn bọn chúng xong, lại để chúng giám sát bách quan, lề thói sẽ có một khởi đầu mới tốt đẹp.

- Sư phụ lão thành mưu quốc, người về đi, trẫm lập tức thảo chiếu khảo sát khoa đạo.

Tháng 10 năm Long Khánh thứ 2, Cao Củng đề xuất khảo sát ngôn quan, tin tức mọc cánh bay đi, không ai không kinh ngạc.

- Năm ngoái mới kinh sát xong, giờ lại kinh sát cái gì nữa?
Không ngoài dự liệu Triệu Trinh Cát nổi đóa ngay.

- Chuyện gì chẳng có trường hợp đặc biệt.
Cao Củng hừ một tiếng:
- Hữa nữa không phải khảo sát toàn bộ, mà chỉ ngôn quan thôi.

- Quá đáng lắm rồi.
Triệu Trinh Cát không nhịn nổi nữa:
- Ai chẳng biết năm ngoái ông bị ngôn quan kéo rót đài, giờ mới lên đã đề nghị khảo sát khoa đạo, lấy công báo thù riêng quá rõ đấy.

- Vậy là ông nhầm rồi.
Mắt Cao Củng lạnh xuống:
- Ta dâng bản tấu này là ý của hoàng thượng. Năm ngoái vì vị sư phụ tốt của ông muốn bao che ngôn quan, nên phản bác lại chuyện này. Hiện giờ đã qua một năm sao không thể đề xuất. Hơn nữa, chỉ khảo sát sai phạm thôi, nếu ngôn quan tự hỏi không thẹn với lòng thì có gì phải sợ.

- Tóm lại là không được.
Triệu Trinh Can đuối lý giở bài cùn.

- Vậy xem xem hoàng thượng nói sao nhé.

Triệu Trinh Cát là Tả đô ngự sử, lãnh tụ ngôn quan toàn quốc, tất nhiên không muốn thấy đám tiểu đệ bị chỉnh, mặc dù không thể cản trở Cao Củng, nhưng ông ta cũng dâng tấu ngôn từ khẩn thiết hợp tình hợp lý, mong hoàng đế không nên tùy tiện khảo sát.

Thấy ông ta dâng tấu, Cao Củng lo đám học sinh của mình dao động, lại dâng một bán tấu nói với Long Khánh, hoàng thượng đã quyết thì tuyệt đối không thể thay đổi. Hơn nữa đãm ngôn quan hiện nay thành bọn "ưng khuyển sài lang", phải rửa sạch bổ xung máu mới mới có được tác dụng ban đầu.

Ở chỗ Long Khánh, lời của Cao Củng hiển nhiên có sức nặng hơn Triệu Trinh Cát, huống hồ hoàng đế cuốn muốn cho đám ngôn quan đáng ghét một bài học, cho nên cuối cùng hạ chỉ tiến hành khảo sát.

Ai cũng biết giờ quyết chiến đã tới.

Nhìn bề ngoài thế lực hai bên cân bằng, cả hai vị đều là đại học sĩ, một nắm nhân sự, một nắm ngôn luận, đều là vị trí có quyền bính cực lớn...

Có vẻ thắng thua khó đoán.

Có điều hiện ngôn luận đang bất lợi lớn, mặc dù Long Khánh cũng biết "thuốc đắng dã tật", nhưng có thằng điên nào thích bị chửi mỗi ngày không?

Cao Củng nói không sai, Từ Giai coi trọng ngôn luận, khiến đám ngôn quan đầu cơ, đón ý số đông, thậm chí dám cả gây sự với hoàng đế kiếm lấy vốn liếng chính trị.

Từ chuyện ăn uống, tới sinh hoạt phu thê của hoàng đế không có gì bọn chúng không dám quản. Long Khánh lành tính cũng bị bọn chúng chửi phát điên, trước còn có Từ Giai nên đành nhịn, nhưng giờ lão Từ không còn, hoàng đế lại có Cao Củng chống lưng, làm sao không đòi nợ cho được.

Cho nên lần này vì tấu chương Diệp Mộng Hùng thiếu thỏa đáng, Long Khánh làm lớn lên, không qua nội các, trực tiếp hạ chỉ:" Khoa đạo xưa nay càn rỡ, hỏng triều cương" yêu cầu triệt để khảo sát. "Suốt ngày bới móc người khác, xem các ngươi có vấn đề không?" Long Khánh khoái trá nghĩ.

Đây là cuộc tổng thanh toán của Long Khánh với ngôn quan, nhưng vui sướng nhất lại là Cao Củng, ông ta hận ngôn quan không phải ngày một ngày hai nữa, chính đám náy ôm chân thối của Từ Giai hè nhau kéo đổ ông ta. Lần nay xuất sơn, Cao Củng chỉ đợi cơ hội rửa sạch sỉ nhục.

Theo lệ, khảo sát kiệu này do lại bộ nắm khảo sát, ngự sử giám sát, vừa vặn là chức trách của hai người Cao - Triệu, nên vở kích này nhất định rất náo nhiệt...

Bên phía Triệu Trinh Cát thấy không cản được hoàng đế nữa, đánh dàn trận đợi sẵn, quyết tranh từng mảnh đất. Khảo sát vừa bắt đầu, hai người lập tức xung đột trực tiếp, đôi khi vì phán xét một người mà cãi nhau khô cổ họng...

Lão Triều lần này liều rồi, bất kể thế nào cũng phải bảo vệ tiểu đệ của mình.

Nhưng so liều thì Cao Củng còn thua ai được, kiên quyết không thỏa hiệp.

- Ta nói không đúng à? Lão già ngươi đừng mơ cho hắn vào danh sách.

- Ta nói sai sao! Lão Triệu Điên, muốn bao che hắn à, đừng nằm mơ nữa.

Hai vị đại lão hoàn toàn mất đi lý trí...

Túi khôn hai bên cũng hoạt động hết công suất, Cao Củng nhanh chóng đưa ra một danh sách bãi chức, đem hết thân tín của Triệu Trinh Cát đặt lên trên cùng:" Triệu Điên, ta sẽ cho ngươi thành con lừa chết đuối."

Triệu Trinh Cát cũng đưa ra một danh sách bãi chức, trên đồ đen "cẩu đảng" của Cao Củng quét sạch:" Xem oắt con ngươi làm thế nào, tưởng thường ngày ta mù câm điếc hay sao?"

Hai bên tức thì bế tắc, cả đám đít tên nào cũng dính phân, cách chức ai cũng không oan uổng... Nếu chấp hành hai bản danh sách này thì đánh nhau thành vô nghĩa rồi.

Thấy hai bên giằng co mãi chẳng ra thể thống gì, Lý Xuân Phương đành ra mặt khuyên:
- Hai vị đại ca, tiếp tục thế này thành ra gì nữa, có gì thong thả nói, thong thả nói.

Kỳ thực cả hai vị đều vào thế cưỡi hổ rồi, giờ thấy có thang, sao chẳng trèo xuống?

- Ông buông trước đi.

- Vì sao không phải ông trước?

- Vậy chúng ta cùng buông, ta đếm.. Một... Hai...

- Gượm đã, ta có điều kiện...

Cuối cùng hai bên đều không truy cứu người của nhau nữa.. Nhưng Cao Củng có điều kiện phụ:
- Đám Vương Bát Đản trước kia giúp Từ Giai hại ta, giờ lại không quy thuận ông, ông đừng quản chúng.

Lúc này khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia đã thể hiện ra, họ Triệu thờ Nho gia tin họ Cao thờ Pháp gia sẽ giống như nước Tề ngu xuẩn thời chiến quốc, vứt bỏ minh hữu cầu an...

Cao Củng được Triệu Trinh Cát ngầm chấp nhận, thi triển thần uy, cách chức liền 47 tên ngôn quan....
Đán Vương Kỳ, Hác Kiệt những nhân vật uy phong thời Từ Giai nắm quyền đều bị Cao Củng đuổi sạch..

Thủ đoạn vô tình bá đạo của Cao Củng làm tất cả mọi người không rét mà run, thấy mỗi ngày số quan viên bị cách chứng tăng lên, ngay cả Lý Xuân Phương cũng không nhịn được, uyển chuyển đề xuất:
- Vì Tránh chấn động triều đình, nên chăng bớt số quan viên cách chức xuống?

Thế nhưng Cao Củng chẳng thèm đếm xỉa gì tới vị thủ phụ có mỗi cái danh này, làm Lý Xuân Phương đành chịu.

Lý Xuân Phương lại tìm Thẩm Mặc và Trương Cư Chính, mong hai người họ khuyên nhủ Cao Củng, nhưng Thẩm Mặc sẽ không lên tiếng, vì thanh trừng ngôn quan là mắt xích quan trọng trong kế hoạch cải cách, Cao Củng chủ động gánh lấy, Thẩm Mặc sao có thể can được.

Thấy y không đồng ý, Lý Xuân Phương ủ rũ nói:
- Nội các suốt ngày đấu đá sống chết, ta từ quan cho xong.

Trương Cư Chính đột nhiên lên tiếng:
- Như thế có khi còn bảo toàn được thanh danh...

Lý Xuân Phương không khỏi ngạc nhiên, tiếp đó gật đầu, không quản vào chuyện này nữa.

Triệu Trinh Cát sở dĩ ngầm cho Cao Củng bãi chức một bộ phận là vì ông ta cảm nhận được áp lực cực lớn từ hoàng đế, đánh hi sinh đám không quan trọng, làm dịu lửa giận của hoàng đế.

Thế nhưng hành động này của ông ta lọt vào quan viên trong triều bị hiểu lầm thành, dưới áp lực mạnh mẽ của Cao Củng, Triệu các lão đã không chống đỡ nổi nữa...

Triệu Trinh Cát vốn tưởng quan viên hiểu được chiến lược rút lui của mình, nhưng quên mất quan trường là nơi không thiếu kẻ "gió chiều nào theo chiều đó"...

Cho nên ban đầu Triệu Trinh Cát không lui một bước đám người này còn có thể đứng nguyên, không đặt cược vào bên nào, nhưng một khi ông ta lộ ra thế bại, bọn chúng sẽ vội vàng đổi phe, thành thủ hạ đắc lực của đối phương.

Tức thì Cao Củng vốn gần như không có trợ lực trong khoa đạo được một đám ngôn quan quy thuận, trong đó có Lục Thụ Đức, Tống Chi Hàn, Trình Văn, Đồ Mạnh Quế được xưng là "tứ đại kim cương"...

Thành lũy bị công phá từ bên trong, lại có tứ đại kim cương hỗ trợ, Cao Củng như gió mạnh quét lá, chỉ cần là kẻ không được lão Triệu bảo vệ là diệt hết.
Kẻ nào lên tiếng thay cho người bị bãi chức là đàn hặc kẻ đó, nhắm kẻ nào đánh bại kẻ nấy, đúng là cuộc thảm sát trên quan trường.

Thấy thế cục ngả hẳn sang một bên, Cao Củng biết thời khắc tổng công kích đã tới, phái ra Hàn Tiếp tân cấp sự trung lại khoa.

Hàn Tiếp chẳng phải hạng phản bội hàng địch mà là đích hệ của Cao Củng, hiện thành đứng đầu lục khoa là nhờ ân sư nâng đỡ, sao có chuyện không lấy mạng báo đáp? Hắn xông thẳng vào trận địch lấy thủ cấp tướng soái.

Mặc dù Triệu Trinh Cát làm quan thanh liêm, cũng không có lỗi lầm gì, nhưng với cấp sự trung lấy cáo trạng làm nghề kiếm cơm, tội danh chưa bao giờ là vấn đề, Hàn Tiếp đàn hặc Triệu Trinh Cát trong quá trình khảo sát là phụ thần tầm thường vô dụng lại ngang ngượng, mong hoàng thượng quở trách bãi miễn, giương cao pháp điển.

Thấy mình bị đối phương lừa một vố đau, Triệu Trinh Cát lòng đầy bi phẫn dâng tấu tự biện hộ.

"... Cao Củng bẻ cong thánh ý, phóng túng kẻ ác ngang nhiên trước mặt mọi người, nếu thần không không đứng ra nói thì thành phụ thần vô dụng thật rồi. Người như Cao Củng mới là ngang ngược. Họ Hàn chẳng phải muốn bãi chức thần sao? Được, nhưng mong hoàng thượng trước khi đuổi thần, thu lại quyền của Cao Củng trước, ngàn vạn lần đừng cho ông ta đại quyền, khiến ông ta lôi bè kết cánh.."

Giỏi, muốn quyết chiến trận cuối với ta rồi sao?

Cao Củng lập tức đâng tấu đáp lại, nội dung bình thường, nói Hàn Tiếp đàn hặc Triệu các lão là hành vi cá nhân, không phải do thần sai phái, hơn nữa thần cũng không phóng túng kẻ ác v..v..
Cuối cùng ông ta phẫn hận viết:" Nếu Triệu các lão không ưa thần đến thế mong hoàng thượng bãi chức thần cho vừa lòng Triệu các lão!"

Thế là bắt hoàng đế quyết rồi -- Không phải ông ta đi thì thần đi. Hai con hổ không thể ở chung một chuồng.

Nếu là một vị quân vương cần mẫn sẽ đi công tác cho hai người:" Đều là đại thần rượng cột, tay phải hay tay trái trẫm cũng cần, thôi thì dĩ hóa vi quý đi..."
Nếu là bạo quân kiểu tiên đế Gia Tĩnh, khẳng định có thể đầy hai con trâu này đi được bao xa cho đi xa bấy nhiêu, dám uy hiếp hoàng đế à? Chán sống rồi.

Thế nhưng Long Khánh là tên lười, đối với thần tử không có tình cảm gì mà đã khuyên bảo rồi không nghe thì không giữ nữa.

Chiếu thư mau chóng đưa xuống, trong đó chẳng nói gì tới Triệu Trinh Cát, chỉ bảo Cao Củng:" Khanh trung thành phò tá, làm việc công chính, là cánh tay trái phải của trẫm, sao từ chức được? Cứ làm tốt đi, từ chức tuyệt đối không được phê chuẩn."

Hoàng đế chỉ giữ Cao Củng mà chẳng một lời nhắc tới mình, Triệu Trinh Cát không biết giấu mặt vào đâu...

Đám quan viên đợi tin tức cuối cùng xác định được ai là người thắng cuối cùng rồi.

Triệu Trinh Cát sao chịu được nỗi nhục này? Liền dâng liên tiếp bốn bản tấu, cuối cùng cũng được cho từ chức, lúc này tuy trời băng tuyết giá, nhưng ông ta không mặt dày ở lại tới mùa xuân mới đi như Từ Giai, mà dứt khoát một mình lặng lẽ rời kinh thành.

Triệu Trinh Cát đi, Lý Xuân Phương hoàn toàn mất đi đồng minh, nổi lòng muốn quy ẩn. Qua năm mới lấy lý do sức khỏe không tốt, dâng tấu xin từ chức, hoàng đế tất nhiên không cho.
Khi ông ta định tiếp tục dâng tấu thì đám Sơn Tây khuyên dừng, tuy ông ở trong ổ lang sói, nhưng không thể đi vào lúc này, nếu ông đi, Tử Duy của bọn ta sẽ ra sao?

Vì đại cục Lý Xuân Phương không nhắc tới chuyện từ chức nữa.

Nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, đám ưng khuyển quy thuận Cao Củng đang say máu sao chịu bỏ qua hòn đá ngáng đường lớn nhất của Cao các lão?

Vì thế đầu tháng 2, cấp sự trung Vương Trinh đàn hặc Lý Xuân Phương, tiếng xin từ chức nhưng chỉ dâng tấu một lần là thôi, chẳng hề có thành ý. Nói Lý Xuân Phương muốn thăng quan cho đệ đệ, nên mới lưu luyến quyền vị nội các, lại nói hành vi của cha hắn tại quê không ra gì, Lý Xuân Phương khó tránh khỏi trách nhiệm.

Đường đường thủ phụ đương nhiên không thể nói đi là đi, hoàng đế một mặt chỉ trích Vương Trinh kinh suất nói càn, một mặt an ủi Lý Xuân Phương.
Nhưng tiếp ngay đó đám Trình Văn lấy vụ án Hồ Tôn Hiến năm trước ra nói, chỉa chẳng vào Lý Xuân Phương có vai trò không vẻ vang gì trong vụ án này.

Lý Xuân Phương vốn đã chán nản, càng không chịu nổi chuyện xấu bị bới lên, thế là dâng liền năm tấu chương từ chức, thấy hắn đã quyết, Long Khánh đành phê chuẩn...

Cao các lão quay lại chưa tới nửa năm, liền có ba vị các lão rớt đài, sắc chiến đấu mạnh mẽ tới mức làm người người giận dữ, chỉ là hiện giờ còn lại các đại thần lần lượt là Thẩm Mặc, Trương Cư Chính, Cao Nghi, Cao Củng, dù từ thứ bảy thành thứ tư, nhưng bét vẫn là bét.

Muốn làm thủ phụ Cao các lão phải hạ thêm ba vị nữa.

Cao đảng ngày càng lớn mạnh sĩ khí ngụt ngụt tên nào tên nấy xoa chân mua tay, hô hào muốn vì Cao các lão hạ liền ba thành, đưa ông ta lên thủ phụ...

Nhưng tựa hồ nếu theo quy củ, hiện giờ tới lượt Thẩm các lão làm thủ phụ rồi.

~~~~~~~~o0o~~~~~~~~~~

- Ta đương nhiên không làm thủ phụ...

Hiếm lắm được một ngày hưu mộc, tháng ba mùa xuân, ánh nắng ấm áp, hoa cỏ mơn mởn là thời tiết đẹp nhất trong năm ở kinh thành.

Hoa viên Thẩm phủ, có một giàn nho, phía dưới đặt một bàn trà, hai cái ghế trúc, trên bàn là ấm trà, lò than, trên ghế có hai nam nhân tuổi tác chênh nhau rất lớn. Người vừa nói câu trên là nam nhân trẻ, là thứ phụ Thẩm Mặc.

Người nhiều tuổi hơn mặc nho phục, mặt quắc thước, giống vị tiên sinh dạy học, là Cao Nghi. Nghe Thẩm Mặc nói thế ông ta không đáp ngay mà nhìn ấm trà bốc hơi nghi ngút trước mặt tới xuất thần.

Nói ra thân phận của Cao Nghi cũng khiến người ta phải suy ngẫm, năm xưa khi Thẩm Mặc ở Hàng Châu trúng Giải Nguyên, ông ta đang dưỡng bệnh ở nhà, thường tham gia các loại băn hội, còn chỉ dạy y cách làm văn, từ khi đó giao tình của hai người đã không tệ.
Chính vì quan hệ như thầy như bạn đó làm Cao Nghi không thể như quan viên khác bất chấp hình tượng ngả theo người thanh niên này.

Có điều gia tộc của ông ta lại nằm trong khu vực quyền lực hạch tâm của Thẩm đảng, sớm bị Thẩm Mặc buộc vào cùng trận tuyến.
Quan hệ phức tạp này làm giữa ông ta và Thẩm Mặc như đôi nam nữ "tình trong như đã mặt ngoài còn e".

Lần trước Thẩm đảng có một hạn ngạch nhập các quý giá, Thẩm Mặc chẳng hề do dự đem cho ông ta. Điều này khiến Cao Nghi vốn bị Từ Giai bài xích cảm kích vô cùng. Mặc dù ông ta vẫn giữ thanh cao như thời ở Hàng Châu, nhưng không hề nghi ngờ, ông ta và Thẩm Mặc đã ngồi chung một con thuyền.

Trước kia Cao Nghi không hiểu vì sao Thẩm Mặc coi trọng mình, giờ ông ta đang cảm thán tầm nhìn xa rộng của đối phương...

Vì Cao Củng và ông ta cùng là tiến sĩ năm Gia Tĩnh thứ 20, tuổi tác cũng tương đương, là một trong vài đồng niên hiếm hoi mà Cao Củng coi trong. Khi Cao Củng quay về, càn quét nội các, tình hữu nghị năm xưa này càng thêm giá trị...

Có điều Cao Nghi tuy là học giả ưu nhã, song ông ta không phải người chỉ biết thỏa hiệp rút lui như Lý Xuân Phương, ông ta là người kiên trì nguyên tắc, thanh danh cao, được trong ngoài triều kính trọng.

Từ khi Cao Nghi nhập các, Cao Củng đã dùng thân phận đồng niên lôi kéo ông ta, ngay Trương Cư Chính dù biết rõ ông ta được Thẩm Mặc tiến cử vẫn tỏ ra rất tôn trọng và nhiệt tình.

Nếu hỏi hiện nay trong nội các vị nào có thể giữ quan hệ tốt đẹp với ba vị còn lại, có thể giao đàm thoải mái, chắc chắn thuộc về ông ta.

Kỳ thực Cao Nghi vốn chẳng muốn chen vào cuộc đấu tranh chính trị làm người ta buồn nôn này, nhưng từ khi Long Khánh đăng cơ tới nay, triều đình đấu tranh không ngơi nghỉ, làm vị thuộc phái ôn hòa triệt để này cũng mất kiên nhẫn, ông ta phải đứng ra nỗ lực dẹp phân tranh, ổn định chính đàn.

Thế nhưng khi ông ta cẩn thận đem vấn đề mình lo lắng ra thì Thẩm Mặc đáp dứt khoát, làm ông ta không khỏi nghi ngờ y có thực lòng hay không?

Nhưng Thẩm Mặc không thể nói đùa ở chuyện này, nghĩ một chút thấy phải giải thích:
- Thứ phụ hiểu lầm rồi, ta không phải là thuyết khách của Tân Trịnh, chỉ là muốn tới hỏi, tiếp theo ngài định tính toán gì.

- Tránh người sang bên, nhìn Cao Củng lên thủ phủ...
Mặt trời chan hòa chiếu lên người Thẩm Mặc, làm y trở nên lười biếng, ngữ khí giống như đang tán gẫu vậy.

- Vì sao?

- Bởi vì ông ấy thích hợp hơn ta.

- Trong mắt ta, ngài càng có tốt chất hợp hơn ông ấy.
Cao Nhi dùng kính ngữ với Thẩm Mặc:
- Mặc dù nhiều nhân vật lớn không rõ, nhưng trong ba năm ở quê dưỡng bệnh, ta từng để tâm khảo sát bố cục của ngài ở Giang Chiết, không thể phủ nhận, ở Đại Minh không ai tinh thông bố cục mới hơn ngài.

- Chỉ một vùng đâu so được với một quốc gia.
Thẩm Mặc bình tĩnh nói:
- Huống chi ta không giải quyết bất kỳ một mâu thuẫn nào, chỉ có gắng hòa hoãn nó. Vốn tưởng kỳ trăng mật ít nhất phải kéo dài 50 năm, ai ngờ đông nam phát triển quá nhanh, mới chỉ 10 năm các loại mâu thuẫn đã có dấu hiệu bùng phát rồi...

Cao Nghi không hiểu mâu thuẫn đó là gì, nhưng cau mày:
- Nếu có mâu thuẫn thì ngài càng nên làm thủ phủ.

- Không.
Thẩm Mặc rót trà cho Cao Nghi:
- Thỏa hiệp và nhượng bộ vĩnh viễn không giải quyết được mâu thuẫn, khi nó tới mức độ nào đó, chỉ có dùng cường quyền tiêu diệt. Mà ta hiển nhiên không muốn làm thanh đao này...

- Cũng phải, nhứng chuyện này ngài làm không hợp. Nhưng không làm thủ phụ không thể quyết được, nếu như một số việc Cao các lão vượt quá giới hạn các đại gia tộc kia, ngài tự xử ra sao??

- Cho nên ta mới mời lão đại nhân xuất sơn.
Thẩm Mặc cười tủm tỉm:
- Tin rằng ngài giúp được ta việc này.

Cao Nghi cười khổ, ông ta không thể không bội phục Thẩm Mặc, ông ta và Cao Củng là bằng hữu bao năm, có tình cảm rất sâu, khi Cao Củng và Thẩm Mặc tranh chấp, có thể hòa giải. Nhưng ông ta biết sức ảnh hưởng của mình với Cao Củng không lớn như người ngoài nghĩ, nhắc:
- Cao Tân Trịnh nhận định việc gì tới 9 con trâu cũng không kéo lại được, tác dụng của lão hủ chỉ e bằng 0.

- Không sao, chỉ cần Cao Tân Trịnh hiểu quyền lực của ông ta tới từ đâu, ông ta sẽ không làm khó ta.

- Quyền lực tới từ đâu...
Cao Nghi trầm ngâm:
- Hoàng đế?

- Còn cả ta...
Thẩm Mặc thản nhiên nói ra một câu cuồng tới mức khiến người ta bật cười, nhưng Cao Nghi biết, y nói thật.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 838: Long Khánh tân chính


Nghe xong tuyên bố tưởng như ngông cuồng Thẩm Mặc, Cao Nghi có chút lo âu:
- Địa vị và quyền lực sẽ làm con người ta thay đổi. Huống hồ Trịnh công này cũng là loại nhỏ nhen, mặc dù trong khoảng thời gian này ngài đã giúp hắn rất nhiều, nhưng hắn cũng sẽ không vì thế mà cảm kích ngài.

- Ha ha...
Thẩm Mặc nâng ly trà uống một ngụm nói:
- Tiên sinh hiểu lầm rồi, Thẩm Mặc ta chưa bao giờ là người đòi người khác báo ân cả, ta nói quyền lực của Cao Trịnh xuất phát từ hoàng đế và ta, cũng không phải khoe khoang mình tài giỏi thế nào, mà chỉ là muốn nói sự thực.

- Điều này có gì khác nhau sao...
Cao Nghi cười khổ nói.

- Khác.
Thẩm Mặc lắc đầu nói:
- Quyền lực của một người có lớn thế nào không phải nhìn bằng mắt mà thấy được, mà phải xem hắn làm được chuyện lớn đến thế nào. Vì sao Cao Củng có thể hoành tảo thiên quân, chính là nhờ dựa vào thánh quyến... Thứ này ta cũng có, hơn nữa cũng không kém ông ta bao nhiêu. Cao Củng muốn cải cách triều chính, nhưng như thế lại đắc tội với người khác, nên nhất định phải được hoàng đế ủng hộ, như vậy mới không tạo mâu thuẫn với ta... Sự việc nên làm thế nào, Cao Củng tự mình biết rõ.

- Thì ra là thế...
Cao Nghi gật đầu, nhưng lại nghĩ ông ta còn một lựa chọn, chính là đuổi ông đi.

- Chỉ cần đầu Cao Củng không có vấn đề, thì ông ta không thể không biết, có được một người như ta trợ giúp thì có lợi với cải cách của ông ta thế nào.
Dường như nhìn ra được thắc mắc của Cao Nghi, Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Nếu như không muốn lưỡng bại câu thương với người khác, thì nhất định ông ta phải dựa vào ta.

Cao Nghi im lặng, hắn biết Thẩm Mặc có tư cách nói lời này. Nếu y đã có tự tin đối mặt với vấn đề trong tương lai, thì hắn cũng không lắm miệng nữa, bèn cười nói:
- Chỉ là thế này ngài sẽ phải chịu ủy khuất rồi.

- Ba hai tuổi làm thứ phụ!
Thẩm Mặc cười rộ lên:
- Nếu ta coi đây là ủy khuất thì người trong thiên hạ chẳng phải chửi chết ta sao?

- Cũng phải...
Cao Nghi cười khổ nói:
- Có điều giờ ai mà có gan nói đến tuổi tác của ngài.

- Bọn họ nói mặc bọn họ.
Thẩm Mặc thản nhiên:
- Nói đến tuổi tác, Cao Trịnh và ta đều là tuổi Dậu, nhưng hắn hơn ta đến hai giáp...

Mặc dù không nói tiếp, nhưng Cao Nghi nghe thế đã hiểu, hai người hơn kém nhau 24 tuổi, cũng là một thế hệ, đến lúc Thẩm Mặc lên được thì Cao Củng cũng không phải là đối thủ của y. Liền gật đầu:
- Nhưng ngồi ở vị trí đó sớm cũng chẳng phải là điều tốt.

- Không cần lo xa như vậy.
Thẩm Mặc khoát tay:
- Hiện tại nắm lấy cho tốt là được.

- Đúng vậy.
Cao Nghi nhẹ giọng hỏi:
- Ngài thấy nếu Cao Trịnh làm được như ngài nói, thì sau này hắn có xảy ra vấn để gì không?

- Với tính tình thối tha của hắn...
Thẩm Mặc cười khổ nói:
- Cả ngày không làm loạn lên mới là lạ.
Thấy sắc mặt Cao Nghi trắng bệch ra, Thẩm Mặc cười nói:
- Nhưng tiên sinh yên tâm, sau này dù có loạn, cũng chỉ loạn trong nội bộ, cũng sẽ không lan ra tới triều đình đâu mà lo.
Rồi hạ giọng:
- Từ lão, Triệu lão đều đã đi, thiên hạ còn ai là đối thủ của hắn?

- Cũng phải.
Kỳ thật Cao Nghi đã đoán được trước, chỉ là không nghe được chính miệng Thẩm Mặc nói ra thì hắn vẫn thấy không yên lòng, liền cười nói:
- Xem ra một hồi loạn đấu cũng không phải không có tác dụng.

- Ừm.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Ít ra cũng làm nội bộ bớt lục đục...
Nghĩ một chút rồi lại nói:
- Hiện giờ chúng ta có bốn người, chắc có thể tiến cử thêm Trương Tứ Duy, có điều hắn trước nay tao nhã, chắc không muốn theo Cao Trịnh chuốc lấy phiền phức.

- Trương Thái Nhạc định sẽ thế nào?
Cao Nghi hỏi. Mặc dù Trương Cư Chính vô cùng kín tiếng, nhưng Triệu Trinh Cát vừa đi, hắn liền trở thành đại biểu của Từ đảng trong triều, nếu như lại đứng về phía Cao Củng thì thật là phiền phức.

- Hắn và Cao Trịnh vẫn còn qua lại, chắc sẽ không đến nỗi như vậy...
Thẩm Mặc nhẹ nắm mắt, hiện giờ nếu còn có điều gì khiến y không yên tâm thì không phải là do Cao Củng, mà bởi vì kẻ ngày xưa là bạn tốt giờ thành người xa lạ Trương Cư Chính.

Đối với Trương Cư Chính, trong lòng Thẩm Mặc vô cùng khó xử, một mặt hai người từng là tri kỉ, từng có chung nguyện vọng vì thiên hạ bách tính; nhưng khi chức quyền mỗi người một khác lại không thể tránh khỏi mâu thuẫn. Cuối cùng Trương Cư Chính trở mặt, Thẩm Mặc cũng từ đó đoạn tuyệt quan hệ giữa hai người.

Mặc dù hai người đều kín tiếng, nhưng người bên ngoài có ai lại không biết mâu thuẫn của bọn họ? Cho nên bọn họ cũng không cần ra vẻ khách khí, bình thường ngoài mục đích công việc, thì hai người đã không còn qua lại nữa.

Thẩm Mặc từng một lần muốn diệt trừ Trương Cư Chính, nhưng vì hắn có quan hệ với Long Khánh, mặc dù không bằng y, nhưng cũng gọi là thân thiết, cho nên y cũng phải nể mặt hoàng đế. Mà Từ Giai trước khi rời khỏi kinh cũng ám chỉ rằng Trương Cư Chính là người của lão để lại trong kinh, nếu Thẩm Mặc y dám làm gì hắn thì lão sẽ từ mặt. Mặc dù lão không còn tại vị nhưng lão vẫn là thầy của Thẩm Mặc, nếu thật sự bị lão từ mặt thì Thẩm Mặc cũng khó xử.

Thật ra việc hạ bệ Trương Cư Chính mà không để người khác dị nghị đối với Thẩm Mặc y cũng không phải là không thể làm được... Đối với những việc thế này Thẩm Mặc rất thành thạo, nhưng từ tận trong lòng y không thích làm như vậy, y không muốn tham gia vào loại chuyện tranh quyền đoạt lợi tầm thường thế này.

Lòng tự tôn của Thẩm Mặc không cho phép y làm như thế, y thà nhìn Trương Cư Chính trở thành một cải cách gia lớn mạnh. Bởi vì y tin rằng, đến lúc thích hợp y có thể đủ sức loại bỏ đối phương, cho nên y để mặc Trương Cư Chính về theo phe Cao Củng.

Thật vậy, chỉ nửa năm ngắn ngủi sau khi trở về, Cao Củng đã có thể loại bỏ được ba người cạnh tranh với mình, ngoài việc ông ta chiếm thiên thời địa lợi nhân hoà, thì cốt yếu là có được sự trợ giúp của Trương Cư Chính.

Không cần xem tình báo của Cẩm Y Vệ Thẩm Mặc cũng có thể biết, Cao Củng kia mặc dù hư trương thanh thế, nhưng thực ra đã giăng bẫy để dẫn dụ Triệu Trinh Cát vào tròng, đến nỗi Triệu Trinh Cát phải liều mạng với Cao Củng và thánh quyến. Cao Củng lấy sở trường của mình để đánh với sở đoản của đối thủ, sao lại không thắng cho được?

Dù sớm biết rằng Cao Củng sẽ thắng, nhưng thắng dễ dàng như thế khiến Thẩm Mặc biết chắc rằng trong đó tất có âm mưu. Nhưng biết rồi cũng chỉ để thở dài một tiếng, hay cho một kế một đá ba chim... Đầu tiên, khiến Triệu Trinh Cát cuốn gói về nhà; thay thế Lý Phương; còn tiện thể hạ đài Trần Dĩ Cần, một lần loại bỏ được ba người phản đối cải cách. Thứ hai, qua việc này Trương Cư Chính đã lấy được tín nhiệm của Cao Củng, trở thành quân sư của ông ta, đối với thời còn núp dưới bóng của Thẩm Mặc, ăn bữa nay lo bữa mai mà nói, thì đây chính là một bước củng cố vững chắc địa vị của Trương Cư Chính; cuối cùng, sau khi Lý Phương và Triệu Trinh Cát không còn, Trương Cư Chính đương nhiên trở thành đại diện cho Từ đảng, điều này giúp tăng cường thực lực cho hắn rất nhiều.

Có thể nói, lần tranh đấu này có thể ngắn ngủi và dễ dàng đến vậy, chính là bởi vì có Trương Cư Chính đằng sau hiến kế, còn Cao Củng chỉ là người làm theo, mặc dù nở mày nở mặt, nhưng trong lòng Cao Củng vẫn có cảm giác bị người khác lợi dụng...

- Nếu như ngài đã nói như vậy, chắc hắn sẽ cũng không làm gì quá đáng...
Cao Nghi thoải mái nói:
- Khó khăn lắm mới có được thời khắc yên bình thế này.

- Phải, cho dù thế nào...
Thẩm Mặc gật đầu cười:
- Cũng đã tới lúc làm chính sự rồi...

-oOo-

- Tới lúc làm chính sự rồi.
Cao Củng ngồi trên vị trí tể phụ cũng không cảm thấy vui mừng tột độ, bởi vì ông thấy vị trí này vốn thuộc về mình, cho nên trên mặt không lộ vẻ kích động, cũng không lộ vẻ cảm kích, chỉ nghiêm mặt nói:
- Quốc sự đã thế này chúng ta không thể đợi được nữa. Cùng thực hiện cải cách, loại bỏ cái cũ, mong chư vị hãy cùng nỗ lực, đừng để phí thời gian.

Trong ba tháng nhậm chức, từ tháng ba đến tháng sáu, ông đã liên tiếp dâng lên mười bản tấu chương, trực tiếp nói ra tư tưởng cải cách chấn động triều dã của mình. Có câu muốn lên đài phải tốn mười năm công phu, vì ngày hôm nay, Cao Củng hiện giờ sao lại chịu bỏ phí mười năm công sức chứ?

Cải cách đương nhiên không phải là mọi người ngồi với nhau mà nói cải cách đi, cải cách đi, sau đó làm không đâu vào đâu. Đó là hồ đồ, không phải cải cách.

Nếu muốn cải cách, ngoài thiên thời địa lợi nhân hoà còn phải chuẩn bị để hứng chịu nghi vấn, phải tỏ rõ khả năng thực tiễn của lý luận và phương hướng cải cách đó.

Về điều này thì Cao Củng đã chuẩn bị tất cả.

[Đầu tiên, Cao Củng lợi dụng công báo, một lần nữa nêu rõ lý luận cải cách của ông... Trong lịch sử cũng có ghi lại, cải cách phải dựa vào lý luận cơ sở, lấy lý luận làm trọng tâm, nếu thiếu đi lý luận thì cải cách sẽ không xuất hiện, nếu có xuất hiện thì cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn mà thôi.

Thứ hai, vào lúc Long Khánh thay đổi niên hiệu, Cao Củng đã đưa ra chủ trương chính trị của bản thân. Nhưng vì lúc đó chức quyền còn yếu, tự nhiên lại đưa ra chủ trương như vậy, đương nhiên là tự chuốc lấy xấu hổ. Chủ trương của ông là vạch trần những luật lệ tập quán bất hợp lý cổ lổ sĩ, liệt kê ra "bát tệ": không theo luật pháp, tham tiền, cay nghiệt, đố kị, trốn tránh trách nhiệm, bè đảng, cẩu thả, viển vông. Những thói quen lâu ngày này rất khó sửa. "Bát tệ rộng khắp khắp thiên hạ, không những không thể cứu nạn, mà còn tạo ra loạn khắp nơi", nhưng Cao Củng tin tưởng chắc chắn lại trị có thể sửa được, mọi chuyện có thể dẹp yên, binh yếu có thể luyện, tài thiếu có thể bồi, nhất định phải dùng biện pháp mạnh, nhất định phải cải cách. Kính người trung hậu thì cay nghiệt bị tiêu; khen thưởng đúng mực thì không còn đố kị; phân rõ nhiệm vụ thì sao có trốn tránh trách nhiệm; tất cả vì lợi ích chung thì bẻ đảng bị giải trừ; luận công tội rõ ràng thì ai dám cẩu thả; luôn bám sát thực tế thì viển vông nào còn.

Chủ trương cải cách tập trung vào một vấn đề: tất cả mọi việc, đều lấy luật pháp làm chủ. "Bát tệ trừ xong, mọi chuyện sẽ được tốt đẹp! Chỉ có bài trừ Bát tệ mới có thể xoay chuyển được nguy cơ, tránh được suy tàn, đạt được mục đích "Sửa trong chống ngoài, đủ thực đủ binh".

Sau khi quay trở lại, Cao Củng định trình lên một bản điều trần, trình bày cụ thể các điều mục kiến thiết, nhưng khi xem [Trần lục sự sớ] của Trương Cư Chính, thấy trong đó gần như đã nói hết những điều trong lòng, Cao Củng liền coi Trương Cư Chính là đồng chí.
[Trần lục sự sớ: sớ kể sáu chuyện]

Đến khi Cao Củng nắm quyền, đã mang lý luận và cương lĩnh ra áp dụng vào thực tế, cũng chính ông dâng lên liên tiếp mười đạo tấu chương. Nội dung của cả mười tấu chương chính là các kiến nghị cải cách hành chính, tài vụ, tư pháp, quân sự, thuỷ lợi, vốn bắt chước theo thời Gia Tĩnh, đến nay đã không còn hợp lý nữa.

Trong đó có ba điều quan trọng, cải cách lại trị, cải cách quân sự và cải cách tài vụ. Bản thân Cao Củng gánh trách nhiệm cải cách lại trị, nhiệm vụ cải cách quân sự giao cho Thẩm Mặc, còn nhiệm vụ cải cách tài vụ chính là của Trương Cư Chính. Về phần Cao Nghi... Dù sao cũng cần phải có một người phụ trách sự vụ hằng ngày.

Vì sao nói ba điều này quan trọng, rất đơn giản, Đại Minh từ ngày lập quốc tới nay, quân sự vẫn đứng vị trí thứ nhất, nhưng đối với một dân tộc làm nông mà nói, chiến tranh chính là tiêu tiền, không có tiền thì chiến tranh làm sao? Về phần lại trị... Cao Củng có [Trừ bát tệ sớ], chấn chỉnh các tệ nạn chốn quan trường. Cao Củng vô cùng tỉnh táo, phương án cải cách dù là tốt cũng đều yêu cầu các quan viên phải nghiêm chỉnh chấp hành, nếu như chỉ đội ngủ con con thế này mà hắn không chỉnh đốn ổn thỏa được, thì dù phương pháp tốt cũng sẽ bị hoàng thượng quở trách.

Sở dĩ cải cách của Vương An Thạch làm mọi người lên án, chính là bởi vì nguyên nhân không biết cách dùng người...

-oOo-

Cao Củng phụ trách cải cách lại trị. Lại trị là chế độ chính trị cơ bản của quốc gia, chính trị thối nát dẫn đến lại trị bại hoại, mà lại trị bại hoại lại càng làm cho chính trị thêm thối nát. Hơn nữa còn khiến cho quan trường đen tối, chính sự trong triều bị bỏ bê, tài chính khó khăn, dân chúng khốn cùng, tình cảnh xã hội cùng quẫn.

Trong [Trừ bát tệ sớ], Cao Củng cũng đã nói rõ về vấn đề này, nhưng để cải cách thì phải hiểu rõ, rồi sau đó mới bốc thuốc đúng bệnh được. Trong một loạt các tấu chương, ông đã nêu ra những điều tệ hại sau đây:

Điều tệ thứ nhất chính là việc chọn quan viên chỉ dựa vào số năm làm quan. Thời Thái tổ, chọn quan viên phải dựa theo hiền đức, không quan tâm tới thâm niên làm quan, nhưng tới thời Tuyên Đức lại ngược lại, chỉ chú trọng tới thâm niên làm quan. Trong [Nghị xử khoa mục nhân dĩ hưng trị đạo sớ] Cao Củng có nói, quan viên xuất thân tiến sĩ thậm chí lấy tội làm công, còn quan viên xuất thân cử nhân từ công lại biến thành tội. Thực tế, quan viên xuất thân khoa bảng có nhiều người chỉ biết nói những điều viển vông mà không biết làm, những người có thực lực, hiểu dân lại không có mấy. Trái lại, những cử nhân xuất thân khoa cống vì chăm chỉ làm nhiệm vụ của mình, đối với những việc của dân chúng vô cùng quen thuộc, cho nên rất thích hợp với công việc gần dân.
(Nghị xử khoa mục nhân dĩ hưng trị đạo: bàn về đạo dùng người để hưng thịnh)

Nhưng bản triều lại có sự phân biệt đối xử nghiêm trọng với quan viên xuất thân từ tiến sĩ và khoa cống. Tiến cử, lên chức, tất cả những ưu đãi này đều thuộc về tiến sĩ quan viên; mà khổ sở vất vả, chịu tiếng xấu thay cho người khác lại dồn hết lên khoa cống, hơn nữa bọn họ không thể có tiền đồ. Vì thế, không những kìm hãm rất nhiều người, mà còn khiến cho triều đình không thể tìm được nhân tài thích hợp, vì nước ra sức, cũng khiến cho khoa bảng quan viên càng được nước làm điều xằng bậy.

Điều tệ thứ hai chính là khảo hạch không sát thực tế, thưởng phạt lộn xộn. Vốn bản triều đã hoàn thiện đầy đủ các chế độ khảo hạch nghiêm ngặt, thưởng phạt phân minh. Nhưng từ thời Thành Hoá tới nay đã xuất hiện vấn đề nghiêm trọng. Một là các bè cánh dùng khảo hạch làm công cụ loại trừ lẫn nhau. Hai là thưởng phạt bừa bãi, trong tấu chương Cao Củng không chỉ vạch trần phủ án mỗi tỉnh không tuân theo luật pháp, còn chỉ ra các quan lại bao che cho nhau. Ba là việc trừng trị quan lại không theo thực tế mà lấy theo định mức: Hơn mười năm qua, việc trừng phạt quan viên đều có định mức, năm nào cũng vậy, chỉ cần đủ số thì dù thực tế còn xấu cũng không tính vào; nhưng nếu thiếu thì trừng phạt cả những quan viên tốt cho đủ số.

Điều tệ thứ ba là xem thường biên quan, diêm quan và mã quan. Cao Củng chỉ ra quan viên ở Liêu, Sơn, Thiểm nếu không theo bè cánh thì sẽ bị giáng chức, cho dù không bị giáng chức thì cũng không chịu nổi sức ép mà từ quan.

Điều tệ thứ tư là lấy chuyện công làm việc tư, không từ thủ đoạn. Trong tấu chương, Cao Củng có nói tới tình hình quan trường hiện nay: người thời nay làm quan đều vì tranh giành bổng lộc chức tước, tất cả đều nhắm mắt chạy theo, kẻ nào cũng xu nịnh bợ đỡ, cho rằng làm như thế mới là quan tốt. Lấy công mưu tư, tham ô vô lại, chỗ nào cũng có, gần như đã thành phong trào.

Điều tệ thứ năm là bỏ bê nhiệm vụ, không nghe mệnh lệnh. Bởi lại trị bại hoại, thưởng phạt lộn xộn, khiến những người làm quan không chuyên tâm làm việc. Triều đình truyền lệnh tới các bộ, các bộ cũng lần lữa, bỏ mặc, mọi chuyện sau một thời gian, cũng chẳng còn ai nhắc đến.

Những điều này cũng đã khái quát được sơ qua về tình hình lại trị đương triều.

-oOo-

Những điều này Cao Củng cũng đã nêu ra phương pháp giải quyết.

Để giải quyết điều tệ thứ nhất: chọn quan không cần hỏi điều gì, chỉ cần xem số năm làm quan, đối sách chính là: chọn người có năng lực, không quan tâm xuất thân. Cao Củng giao cho Lại bộ phải đảm bảo các quan viên xuất thân tiến sĩ, cử nhân cùng giám sinh đều phải có quyền lợi như nhau, luận xuất thân chỉ ở lúc đầu nhận chức, còn quyền lợi sau đó đều phải dựa theo thành tích mà xét. Ông cũng xin hoàng đế hạ chỉ cho Đô Sát viện và mỗi quan phủ án, cần phải làm họ thay đổi tư tưởng cũ, không được trù dập những người hiền đức, bảo hộ người vô năng chỉ vì xuất thân của họ. Ông tuyên bố rằng, chỉ cần làm theo điều này, thì tiến sĩ không còn tự kiêu, cử nhân sẽ chú trọng hơn vào hiệu quả, tất sẽ có nhiều thiện chính. Cho dù tất cả mọi người có thể không được như thế, nhưng trong mười chỉ cần có sáu, bảy thì cũng đã quá nửa rồi. Mà thiện chính nhiều thì dân an, dân an thì nước tự khắc giàu mạnh.

Cao Củng giao trách nhiệm cho ti quan Lại bộ, ghi lại danh sách tất cả các người tài có thể dùng được; lại truyền cho mỗi quan lại địa phương dốc sức tìm kiếm người hiền đức, chỉ cần có năng lực thì bất luận xuất thân, đều phải tiến cử không được bỏ sót.

Sau đó từ danh sách tiến cử chọn ra người để bồi dưỡng. Cao Củng nói: Triều đình dùng người tất phải bồi dưỡng, nếu không như vậy thì cũng chỉ là dùng cho đủ số mà thôi. Chủ trương của ông là đầu tiên chọn ra một số người, sau đó cử họ tới mỗi nha môn hoặc địa phương làm trợ lý cho các quan, tích lũy kinh nghiệm, cũng nhờ đó mà triều đình có thể nhận định rõ họ có phải là người tài thật sự không, rồi dựa theo năng lực mà giao cho trọng trách.

Đối với mỗi người đã bồi dưỡng tốt thì đều được dùng hết. Cao Củng nói từng người đều có tính cách khác nhau, cũng như có khả năng khác nhau, tựa như năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng tất cả đều có tác dụng riêng, quan trọng là phải sắp xếp được cho những người này vị trí thích hợp... Ông dựa theo năng lực mà chia tất cả mọi người làm ba cấp: thượng, trung và hạ, nhưng ông cũng biết mọi người đều có chỗ hữu dụng của mình, quan trọng là phải biết phát huy sở trường tránh sở đoản, thì mọi chuyện đều có thể hoàn thành.

Hơn nữa đối với việc xử phạt quan viên phải xác định rõ ràng lỗi phạm phải là lớn hay nhỏ, đừng để vì lỗi nhỏ mà bỏ phí người tài. Đây cũng là chính sách dùng người mà Cao Củng đã nhiều lần nhấn mạnh. Theo quan điểm của ông, đã là người thì ai ai cũng có lỗi lầm, không tồn tại người nào mà không có sai lầm trong đời. Người không có sai lầm chẳng qua là người chưa từng làm qua việc đó mà thôi, một khi đã làm chắc chắn sẽ có lầm lỗi.

Cho nên Cao Củng yêu cầu đối với những lỗi "rất nhỏ" thì cần phải có thái độ khoan dung, nếu nhận định là việc lớn liên quan tới quốc gia đại sự thì phải có xem xét cụ thể, ngoại trừ giam giữ như trước đây thì phải điều tra tường tận. Đối với những người có năng lực nhưng phạm lỗi, khi xét xử sẽ được chú ý điều tra; với những người đã từng phạm lỗi nhưng biết ăn năn hối cải, thì không ai được để ý tới chuyện cũ của người đó, mà phải hết sức giúp đỡ, vì mục tiêu chung phấn đấu. Còn những người chưa từng phạm lỗi nhưng không có thành tích biểu hiện gì, thì phải xem xét đề nghị bãi chức, tránh cản trở hiền tài tiến thân.

Đồng thời chỉ ra vì người giỏi toàn diện có rất ít, nếu như cách dùng người quá khắt khe thì chỉ khiến họ chán nản, co về tự bảo vệ lấy mình, lúc này quốc gia dựa vào ai để kiến công lập nghiệp chứ?

Ngoài ra còn phải chuẩn bị lớp quan viên dự bị cho thật tốt. Trong tấu chương ông có nói: dùng người không phải chỉ trong ngày một ngày hai, phải có kế hoạch bồi dưỡng lớp kế cận. Hơn nữa với những chức quan quan trọng cần phải nhắm tới hai ba người có thể thay thế, để khi một người có chuyện thì đã có người khác làm thay, tránh chức quan bị bỏ trống. Cái này gọi là "Dự vi chi kế" đối với việc làm quan.

Sau đó ông điều chỉnh chính sách một người không được làm quan tại tỉnh của mình. Chính sách này vốn đã có từ thời lập quốc tới nay, Cao Củng một mặt cho đây là một chính sách cần thiết, ông nói: Quốc gia dùng người không được điều về tỉnh của người đó, bởi vì tộc nhân của họ trong tỉnh, rất dễ để việc riêng tư ảnh hưởng vào việc công, cho nên phải điều đi tỉnh khác làm quan; một mặt lại nói chính sách chỉ áp dụng cho các chính quan ở các phủ, châu, huyện, tỉnh, mà không áp dụng cho các quan lại thuộc hạ bên dưới. Ông nói: các quan lại thuộc hạ chức quyền không lớn, lại thường xuất thân gia cảnh bần hàn, nếu như phải đi xa thì có thể không muốn làm quan nữa, hoặc có đi thì cũng không thể quay về, vô cùng cô độc, tình cảnh rất đáng thương. Cho nên có thể cân nhắc để bổ nhiệm tới địa phương kế cận.

-oOo-

Để tránh điều tệ thứ hai, khảo hạch không sát thực tế, thưởng phạt lộn xộn Cao Củng có đối sách: khảo hạch phải nghiêm ngặt, đúng đắn. Chủ trương cụ thể là:

Đầu tiên phải thống nhất các tiêu chuẩn khảo hạch. Cao Củng yêu cầu khi khảo hạch quan lại thì không được dựa vào xuất thân, mà phải dựa theo thành tích, ưu khuyết mà ra kết luận. Ông còn đề ra các nội dung khảo hạch riêng cho từng chức vụ, từng bộ ngành cụ thể.

Thứ hai nhắc lại tính đúng đắn, đầy đủ của khảo hạch. Trong [Minh sự lệ dĩ định khảo hạch sớ] Cao Củng có nhắc lại về các điều cụ thể trong khảo hạch, yêu cầu Lại bộ, Đô Sát viện cùng với mỗi nha môn phủ, án đều phải làm theo.

Thứ ba cho phép người bị khảo hạch được biện bạch, người oan uổng phải được minh oan, người vu cáo phải bị trị tội. Cao Củng nhấn mạnh các quan viên giám sát khảo hạch phải xử sự theo lẽ công bằng, lại đề xuất cho phép người bị khảo hạch được phản biện cho mình.

Thứ tư, tăng số lượng quan viên giám sát khảo hạch. Cao Củng yêu cầu mỗi quan viên phủ án đều phải vô tư, không vì tình riêng mà bao che kẻ xấu, hãm hại người tốt.

-oOo-

Với điều tệ thứ ba là xem thường biên quan, diêm quan và mã quan, đối sách của Cao Củng là tăng cường lựa chọn biên quan, diêm quan và mã quan. Đối với biên quan, ông đề xuất với các đại quan ở vùng biên: sau này đối với tiến sĩ, cử nhân đều phải có cách lựa chọn và loại trừ giống nhau, có tài thì dùng, không thì loại. Còn về diêm quan và mã quan, trong tấu chương ông có nói: nay để mã quan chuyên tâm coi sóc ngựa, đáp ứng cho nhu cầu của quân đội. Diêm quan thì chuyên tâm vận chuyển muối, đáp ứng nhu cầu cả nước. Tất cả đều được coi là các chức quan quan trọng, còn phá vỡ lệ thường, nếu sau này "Khanh", "Sử" mà thiếu, sẽ chọn người liêm khiết có triển vọng bổ nhiệm vào.

Đối với điều tệ thứ tư, lấy chuyện công làm việc tư, không từ thủ đoạn, Cao Củng cũng đưa ra đối sách. Tại Lại bộ, chỉnh sửa lại cách thức bổ nhiệm và bãi miễn quan lại, ngăn chuyện lấy công làm tư. Trước đây việc thăng chức quan viên đều là chủ sự văn tuyển ti hỏi lang trung, lang trung lại bí mật trình lên thượng thư. Cho dù trong đường có thị lang, ti có viên ngoại cũng không hề biết. Chuyện này là vì sao? Cao Củng chỉ một câu đã nói được nguyên nhân của nó, cái này chẳng qua là chuyện riêng của họ thì họ phải giấu kín mà thôi. Vì vậy liền yêu cầu sau này nếu có điều chuyển, thì phải lệnh cho thư lại mang văn kiện tới hâu đường, hai thị lang cùng đồng thời xem xét, có như vậy thì mới tránh được tư tâm.

Ngoài ra phải thưởng thanh liêm trừ tham quan. Đối với tham ô, chủ trương của Cao Củng là trừng phạt nghiêm khắc, không chỉ bãi quan tước chức, còn phải truy tìm tài sản tham ô, không để cho tham quan lộng hành làm sa sút lòng tin của dân chúng. Đối với quan thanh liêm, ông đề nghị tưởng thưởng. Ông nói: Không trừng phạt thì sao răn đe, không khen thưởng thì sao khích lệ? Hơn nữa còn đả kích người đút lót và nhận hối lộ để nhằm vào thói quen hối lộ đang phổ biến trong xã hội, cần phải có sự trách phạt nặng nề làm gương cho kẻ khác.

Đối với điều tệ thứ năm, quên như vậy, không nghe mệnh lệnh. Cao Củng chủ trương loại bỏ những quan viên này, ông nhấn mạnh hai điểm, một là phải dựa theo thực tế, không nên dựa theo một con số cụ thể nào; hai là phải phân biệt rõ ràng người đáng bị loại bỏ với người mắc lỗi nhưng có thể sửa sai được, tránh loại nhầm đi hiền tài của quốc gia.

-oOo-
Phương diện cải cách tài chính thì xảy ra bất đồng đối với các quan lại cũ. Trong [Nghĩa lợi quan], Cao Củng lần đầu tiên không kiêng kị gì mà nêu lên thế nào là nghĩa hay bất nghĩa, yêu cầu các cấp quan lại phân rõ công lợi và tư lợi, nếu là làm lợi cho quốc gia thì lợi này gọi là nghĩa, nếu như chỉ làm lợi cho bản thân thì lợi này gọi là bất nghĩa. Còn nói rõ việc quản lý công lợi và tư lợi cũng chính là một nhiệm vụ quan trọng của triều đình. Điều này không chỉ phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa phi công lợi của Lý học Tống Minh, mà mục đích chính của nó chính là muốn hiệu triệu quan phủ các cấp phải chú ý tới thực tế tài chính, vì Long Khánh mà ra sức phục hồi kinh tế Đại Minh.

Vậy cụ thể là làm thế nào?

Giai cấp thống trị thì từ trước tới nay chỉ muốn có thật nhiều tiền, mà đều lấy từ của bách tính. Cao Củng cho rằng nếu thật sự muốn có thật nhiều tiền, thì không thể chỉ dựa vào việc ép lấy sưu cao thuế nặng, mà còn phải biết "Khai tài chi nguyên" và "Tiết tài chi lưu".
(Khai tài chi nguyên: nôm na là tạo nguồn tiền)
(Tiết tài chi lưu: tiết kiệm)

Trước tiên là nói về "Tiết tài chi lưu", Cao Củng cho rằng điều này chính tiết kiệm và dự trữ. Tiết kiệm chính là hàng năm triều đình phải có chính sách cụ thể với tiền thu vào, phàm là việc không có ích cho quốc gia, bách tính, hoặc là việc ban thưởng vô tội vạ, tổ chức lễ tiết không cần thiết, tất cả đều cắt giảm. Như vậy không những giảm bớt gánh nặng cho bách tính, còn có thể tiết kiệm dành cho cứu tế và quân phí.

Còn về dự trữ, chuyện này được Cao Củng xếp thành chuyện quốc gia đại sự, vậy dùng phương pháp nào để sử dụng hợp lý nguồn thu hàng năm của quốc gia? Cao Củng đề xuất phương pháp ba và một, thu nhập hàng năm được chia làm bốn phần, chi tiêu chỉ được ba phần, còn một phần dành để tiết kiệm. Tổng cộng sau ba năm sẽ dự trữ được ba phần tư thu nhập một năm, cũng vừa đủ để chi dùng cho năm đó. Cứ theo đó mà tính, sau chín năm thì có thể tiết kiệm để chi dùng cho ba năm tiếp theo nữa, như vậy cho dù có gặp phải một năm thiên tai mất mùa thì cũng có thể không phải lo lắng.

Vậy còn "Khai tài chi nguyên" là thế nào? Cao Củng ngoài việc chú trọng vào nông nghiệp như trước đây, còn xác lập địa vị của công thương nghiệp và các hoạt động tài chính. Trước đây mỗi triều đại vẫn luôn áp dụng chính sách "Trùng bản ức mạt", mặc dù từ thời Thành Hoá tới nay cũng đã có không ít người kêu gọi coi trọng công thương nghiệp, nhưng người có thể biến chính sách đó thành hiện thực, áp dụng trong thực tế cũng chỉ có Cao Củng mà thôi. Ông cho rằng, nông nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh, coi trọng nó là việc đương nhiên, nhưng mặt khác cũng không thể bỏ qua sự phát triển của công thương nghiệp.
(Trùng bản ức mạt: Coi trọng nông nghiệp khinh công thương nghiệp)

Đương nhiên Cao Củng vẫn biết nông nghiệp mới là gốc rễ của quốc gia, chỉ cần người người có ruộng nương, chăm chỉ cần cù thì quốc gia mới có thể có nguồn lực hùng hậu. Cao Củng cũng thấy được mối quan hệ giữa nông nghiệp và thương nghiệp là hỗ trợ lẫn nhau, nếu như nông nghiệp được mùa bội thu nhưng lại không có thương nhân mang sản phẩm đi buôn bán, thì nông dân cũng không thu được bao nhiêu lợi ích. Năm được mùa thì dự trữ, đến năm không may mất mùa thì lấy lợi của năm được mùa mua lương thực được thương nhân mang từ nơi khác tới, như vậy mới thấy được mối quan hệ dựa vào nhau của nông nghiệp và thương nghiệp, công thương nghiệp phát triển cũng kéo theo nông nghiệp phát triển.

Về phần phát triển công thương nghiệp thế nào, Cao Củng cho rằng phải nâng cao địa vị của thương nhân. Trong sớ dâng lên hoàng thượng, Cao Củng mong rằng sẽ bỏ được tệ nạn lâu nay, không được tìm cách chèn ép, bóc lột thương nhân, bắt thương nhân đút lót, hối lộ hay các thu các khoản tiền không hợp lý khác. Nếu triều đình có mua bán với thương nhân, thì phải định giá rõ ràng, thu mua theo giá của chung của thiên hạ, hơn nữa không được khất nợ tiền hàng, cho dù trong lúc đó quốc khố thiếu bạc, thì cũng phải mượn từ nơi khác để bù vào, nhằm bảo đảm lợi ích của thương nhân.

Đương nhiên thương nhân mà Cao Củng nói tới ở đây chỉ là tiểu thương và thợ tiểu thủ công, còn đối với đại thương nhân ở Đông Nam ông cũng không có đánh giá, hay đưa ra một chính sách nào.

Cải cách tài chính thì do Trương Cư Chính đảm nhiệm. Thật ra từ những năm cuối thời Gia Tĩnh khi bắt đầu chấp chưởng Hộ bộ, hắn đã gắng sức phổ biến chính sách của hắn, chỉ bởi vì bị đám người đương quyền cựu thần Từ Giai, Cát Thủ Lễ, Triệu Trinh Cát coi là liều lĩnh mà cản trở hắn khắp nơi, cho nên mới không thể thực hiện được. Thế nhưng mấy năm gần đây sự việc đã có nhiều biến chuyển, lúc này hắn đã có thể triển khai toàn bộ kế hoạch cải cách của mình.

Phương án cải cách của Trương Cư Chính gồm ba phần cấu thành: cắt giảm chi tiêu, cải cách thuế và cải cách tiền tệ.

Trước tiên là nói về cắt giảm chi tiêu, ngoài việc Cao Củng nói không lợi ích thì không làm, không có công không ban thưởng... để tiết kiệm chi phí, thì hắn còn bắt tay vào làm "Tông phiên thế lộc" và "Nhũng quan nhũng viên".
( Tông phiên: tôn thất được phong đất phong hầu)
(thế lộc: quý tộc được thừa hưởng chức tước truyền đời)
(nhũng quan nhũng viên: quan viên thừa, vô dụng)

Tông phiên thế lộc chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu của sự khủng hoảng tài chính của Đại Minh, điều này trong triều ai cũng đã biết. Ở Hà Nam, Hồ Quảng, Tứ Xuyên tông phiên dày đặc khắp nơi, tiền thu thuế ruộng thậm chí còn không đủ để trả cho tôn thất của thế lộc. Đám tôn thất này trở thành quỷ hút máu, ký sinh trùng, giờ cũng đã hút cạn máu của vật chủ là Đại Minh rồi.

Từ những năm bắt đầu thời Gia Tĩnh, Lễ bộ đã đề nghị phong hoàng tử làm quận vương, thân vương thì phong làm trấn quốc tướng quân, chính là một biện pháp để giảm thiểu chi tiêu. Thế nhưng bởi vì tôn thất phản đối mãnh liệt nên lại thôi. Rồi đến những năm cuối thời Gia Tĩnh mới ban ra [Tông phiên điều lệ], hạn chế đặc quyền của vương thất, một là cắt giảm bổng lộc, hai là quy định nếu như thân vương không có con thì người trong tộc không được kế thừa tước vị. Tuy vậy hoàng thân quốc thích vẫn còn được hưởng rất nhiều đặc quyền.

Đến thời Long Khánh, đại thần đã nhiều lần thượng sớ yêu cầu sửa đổi [Tông phiên điều lệ], yêu cầu nghiêm chỉnh thi hành việc hạn chế đặc quyền của vương thất, nhưng rồi cũng không đi tới đâu. Bây giờ khi Cao Củng tái nhậm chức, thời cơ mới chín muồi, Trương Cư Chính liền quyết đoán thực hiện, bày mưu cho ti lang trung Thích Nguyên Tá dâng sớ viết:

"Thân vương, quận vương, tướng quân từ thời lập quốc chỉ có bốn mươi chín vị, đến giờ đã phát triển lên thành hai vạn chín nghìn bốn trăm chín mươi hai vị, so với lúc lập quốc thì gấp tới mấy trăm lần, lấy toàn bộ thu nhập của năm nay cũng không đủ trả cho một nửa trong số họ. Kính thỉnh:

Một là hạn chế số người được phong tước. Trưởng tử của thân vương được thừa kế tước vị, con thứ được phép phong tước ba người, trưởng tử của quận vương thừa kế tước vị, con thứ được phong tước hai người, còn trấn quốc tướng quân chỉ có trưởng tử kế thừa tước vị, con thứ không được phong người nào. Phụng quốc trung úy thì không phân biệt trưởng thứ đều không được kế thừa, chỉ cho phép được phong một người. Còn những người không được phong thì ban cho tiền bạc, chương phục.

Hai là kiểm tra nghiêm ngặt tư cách thừa tự. Tôn thất không có nối dõi thì không được lôi kéo cả anh em họ hàng để thừa tự. Thân vương, quận vương không may tuyệt tự thì chỉ cho phép lập nên một người để trông coi chuyện trong phủ, không được mạo nhận thừa kế tước vị.

Ba là phân biệt thân sơ. Quy định con cháu bảy đời của quận vương chỉ được phong phụng quốc trung úy, sau đó không được truyền thừa nữa, đời kế tiếp được ban cho năm trăm lượng bạc, tùy ý sử dụng.

Bốn là nghị chúa quân. Nữ nhi của thân vương chỉ được phong ba, nữ nhi của quận vương chỉ được phong hai, nữ nhi của tướng quân trung úy chỉ được phong một, ngoài phong hào quận, huyện chúa hoặc quận, huyện, thôn quân thì bị cắt bổng lộc, khi xuất giá thì trượng phu không được cấp mũ áo, tất cả phải tự lo liệu lấy.

Năm là nghị mạo phí. Con cái của những tôn thất lai lịch không rõ, tôn thất đã bị đổi tước, tôn thất tự ý lập gia đình, sau này có sinh con cái thì con cái thì phải tự lo. Chỉ có con cái của tôn thất tự ý lập gia đình thì được thưởng danh, không được cấp cho bổng lộc gì".

Thật ra theo suy nghĩ của Trương Cư Chính, tốt nhất là con trưởng của thân vương thì phong quận vương, còn lại đều phong trấn quốc tướng quân, giáng phong thế này sẽ giảm thiểu được sự bành trướng của tôn thất thế lộc, nhưng mà Long Khánh không đành lòng, nội các cũng lo lắng sẽ làm cho tôn thất chấn động, rồi dựa vào đó mà mượn cớ phản đối tân chính (chính sách mới), cho nên mới phải dừng lại mà tiến hành từng bước. Nhưng chỉ cần như vậy cũng đủ để cho tình hình tài chính quẫn bách của Đại Minh dễ thở hơn rất nhiều... Qua sự kiểm kê đối chiếu của Lễ bộ và Hộ bộ, đã tra ra số tôn thất không rõ lai lịch có tới một vạn bảy nghìn bảy trăm sáu mươi mốt người, mặc dù phần lớn chỉ là tước lộc cấp thấp, nhưng cũng có thể tiết kiệm cho mỗi tỉnh hai trăm lượng bạc, năm trăm vạn thạch lương thực, giảm rất nhiều gánh nặng cho mỗi tỉnh.

Đối với những quan viên không cần thiết hoặc không có năng lực, Trương Cư Chính làm rất mạnh tay. Lúc này Đại Minh có rất nhiều quan viên thừa thãi, không phải là quan phủ mà là các trung quan, cẩm y cùng thế tập huân quý võ tướng. Trong [Nghị tài cách nhân viên thừa sớ] có đề cập tới việc lập ra quy định cắt giảm, được chia làm ba đợt trong vòng năm năm, làm cho nhân số giảm về như hồi lập quốc.
(Nghị tài cách nhân viên: bàn về việc thay đổi nhân viên)

Còn về phần cải cách tài chính và thuế vụ, chủ yếu chính là phổ biến "Nhất điều tiên pháp", nhưng trước tiên phải tiến hành đo đạc lại ruộng đất trong toàn quốc. Mục đích chính của đo đạc lại chính là phát hiện ruộng chưa được kê biên, Trương Cư Chính biết rõ việc này đương nhiên sẽ đụng chạm tới lợi ích của huân quý, quan lại và thân hào, khiến cho bọn họ cùng phản đối. Nhưng hắn đã hạ hạ quyết tâm không bị lay chuyển, kiên định triển khai việc đo đạc. Hắn viết thư cho tuần phủ các nơi, khuyến khích họ thẳng tay mà làm, đồng thời cũng hạ lệnh trừng trị nghiêm khắc huân quý ngang ngược cản trở việc đo đạc và quan viên không làm được việc. Đây cũng là bước quan trọng tiếp theo của Trương Cư Chính.

Ngoài điều đó ra, hắn còn chủ trương cố gắng thực hiện cải cách tiền tệ, như ngày trước đã thỏa thuận với Thẩm Mặc, để Hối liên hào cùng Nhật Thăng Long ở hai nơi Giang Nam Giang Bắc cùng ấn hành tiền giấy mới.

Thật ra Trương Cư Chính cũng không muốn để cho hai đại phiếu hào phát hành tiền giấy, nhưng vì quốc khố của triều đình đã sớm cạn kiệt, tài chính vô cùng quẫn bách, cho nên hắn đành phải để hai đại phiếu hào này được lợi. Nhưng hiện giờ không cần biết hắn có thừa nhận hay không, thì ngân phiếu do hai đại tiền trang phát hành đã sớm thông hành toàn quốc, hiện tại triều đình cũng đã thừa nhận, hắn có muốn cũng đành phải chịu vậy mà thôi.

-oOo-

Về phương diện cải cách quân sự thì do Thẩm Mặc toàn quyền phụ trách. Cũng giống với Trương Cư Chính, từ khi nắm quyền ở Binh bộ tới nay, y đã dần dần đẩy mạnh cải cách, thực hiện các chính sách đã thương nghị với Cao Củng từ trước. Nhưng so với hai người Cao, Trương thì tình cảnh của y có vẻ ung dung hơn nhiều.

Chỉ có duy nhất một điều tranh cãi chính là, năm nay y đề xuất bãi bỏ xét duyệt nội giám doanh, phải do hoàng đế tự mình cử hành "Đại duyệt". "Đại duyệt" chính là đại duyệt binh, lần đại duyệt trước còn ở thời Võ Tông hoàng đế, đến nay đã gần năm mươi năm không được cử hành lại. Cho nên khi vừa đưa ra đã bị không ít đại thần phản đối, nói đây chỉ là việc hao tài tốn của, là Thẩm Mặc vì lấy lòng hoàng đế mới đưa ra ý kiến thối tha này, thiên hạ có thể có địch nhân vì ngươi đại duyệt binh mà kinh hãi sao? Có tiền không bằng tiếp tế cho biên quân còn hơn.

Nhưng chẳng mấy chốc, những tên bàn tán đều thành mục tiêu của các cải cách của Cao Củng, khiến tất cả lại phải quay đầu dựa vào Thẩm Mặc mong được giúp đỡ, nào còn dám trêu chọc y? Vì vậy mà cũng không còn người nào phản đối nữa. Còn Long Khánh hoàng đế mặc dù đối với các loại sách lược cải cách rất thờ ơ, nhưng đối với "Đại duyệt" lại vô cùng hứng thú... Một mặt kinh thành mấy năm liên tục đều nhận được cảnh báo, khiến cho hoàng đế phải coi trọng biên phòng, mặt khác còn có cơ hội được khoác chiến bào, cưỡi tuấn mã, giả làm tướng quân một hồi, đối với một hoàng đế quanh quẩn thâm cung mà nói thì việc này quả thực quá hấp dẫn...

Vì vậy hạ chiếu xuống muốn cử hành "Đại duyệt" vào mùa thu. Sau khi chiếu lệnh truyền đi, mỗi lộ tướng soái đều phấn chấn, đều gia tăng thao luyện, cố gắng tới lúc trước mặt hoàng đế thể hiện được điều gì, mong có cơ hội vươn lên nở mày nở mặt.

Còn Thẩm Mặc cũng bắt đầu tăng cường chuẩn bị quân tư, Cao Củng cũng tán thành đề xuất của y, ở ti Thanh lại quản lý kho vũ khí của Binh bộ bổ sung thêm một lang trung, hai viên ngoại lang cùng với bốn chủ sự, xem như là trợ thủ của Ngô Đoái, chuyên quản lý việc sản xuất. Cũng hạ tử lệnh phải hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm chất lượng, số lượng mà Binh bộ đã đề ra.

Trong buổi gặp mặt động viên sản xuất, y nói rõ với quan viên tham dự cùng người phụ trách công binh xưởng rằng những đồ quân giới này đều là gửi đi chiến trường, nếu lúc đó xảy ra vấn đề gì thì nhất định truy ra trừng phạt nghiêm khắc không tha. Để bảo đảm chất lượng, y còn hạ lệnh cho một lang trung của ti Thanh lại phải nghiêm ngặt kiểm tra chất lượng của toàn bộ quân giới nhập kho, không được để một bộ quân giới không đủ tiêu chuẩn nào nhập kho, nếu không thì chém không tha.

Nghe xong phát biểu đằng đằng sát khí của Thẩm các lão, tất cả mọi người biết là y đã thực sự ra tay, cũng không ai dám vuốt râu hùm nữa. Đệ đệ Chu Hi Hiếu của Thành quốc công thay mặt cho nhóm sản xuất tham dự cuộc họp đành phải nói trên dưới công binh xưởng đều nguyện ý vì mục tiêu đánh đuổi Thát Lỗ mà ra sức cống hiến, chỉ là nếu dựa theo tiêu chuẩn sản xuất như vậy thì chi phí sẽ tăng vọt, khoản dự trù trước kia sẽ không thể đủ.

- Thiếu hụt bao nhiêu ta đã tính qua...
Thẩm Mặc nhìn Chu Hi Hiếu nói:
-...là tám mươi vạn lượng, số tiền này Binh bộ sẽ chi làm ba lần, trong vòng nửa năm sẽ trả hết.

Từ Văn Bích vốn định nói lý một phen, nhưng không ngờ Thẩm Mặc đã điều tra hết chi phí, lợi nhuận của bọn họ, chỉ là nếu cứ như thế thì kiếm được quá ít.

- Chỉ cần có thể hoàn thành đúng hạn...
Thẩm Mặc thản nhiên cười:
-... Binh bộ sẽ thưởng thêm cho các vị hai mươi vạn lượng.
Muốn ngựa chạy nhanh mà không cho nó ăn thì đời này nó chạy?

Nghe xong lời này tất cả các chủ xưởng đều không còn dị nghị gì nữa, Chu Hi Hiếu ngượng ngùng cười:
- Mặc dù còn thiếu một chút, nhưng vì chia sẻ khó khăn cho quốc gia, chúng ta sẽ cố gắng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 839: Đại duyệt binh


Sau khi tan họp, Ngô Đoái vác cái mặt xám xịt tới gặp Thẩm Mặc:
- Dùng tiền như thế thì cùng lắm là trong tháng này sẽ tiêu hết dự toán của cả năm nay, vậy còn nửa năm nữa phải xoay sở làm sao?

- Đừng lo.
Thẩm Mặc cười an ủi hắn:
- Ngươi chỉ cần để ý chi tiêu, tới lúc đó sẽ không thiếu tiền của ngươi.

- Không phải là ta không có lòng tin vào ngài.
Lúc này xung quanh đã không còn ai, Ngô Đoái cũng không quanh co nữa, thở dài nói:
- Chỉ là hiện giờ đang giai đoạn chuẩn bị chiến đấu, cần tiêu rất nhiều tiền, nếu lại tiếp tục dùng nhiều tiền nữa thì triều đình lo làm sao xuể?

- Không cần lo lắng.
Thẩm Mặc mỉm cười nói:
- Binh bộ chỉ cần lo đánh trận, còn chi tiền để Hộ bộ lo.

- Không phải đều là tiền của triều đình cả sao?
Ngô Đoái cười khổ nói:
- Thôi bỏ đi, ta đúng là hoàng đế không vội mà thái giám đã vội, lo lắng những chuyện đâu đâu.
Nói xong định đứng dậy xin cáo lui, nhưng động tác có chút chần chừ.

- Giữa ta và ngươi còn có gì không thể nói?
Thẩm Mặc sao lại không nhìn ra cơ chứ.

- Nghe nói Đường Nhữ Tiếp đòi về làm thượng thư?
Ngô Đoái nói xong lại giải thích:
- Ta đối với vị trí này không có ý gì khác, chỉ là người này chưa từng lĩnh binh bao giờ, bây giờ đảm nhiệm được sao?

- Sở trường đặc biệt của hắn chính là lo lắng hậu cần.
Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Trước chúng ta đều tác chiến trong nước, chuyện hậu cần không có gì phải lo lắng, chỉ khi muốn chủ động xuất kích, thâm nhập vào thảo nguyên thì hậu cần lại trở thành một áp lực rất lớn.
Dừng một chút lại nói:
- Không nói ngoa chứ hậu cần chính là then chốt quyết định thành bại. cho nên dù bị người khác đàm tiếu, thì cũng phải để cho hắn giữ chức này.
Rồi lại nhìn Ngô Đoái:
- Hai ngươi chung sức hợp tác, một người phụ trách sản xuất quân nhu, một người phụ trách cung ứng hậu cần thì ta mới có thể yên tâm ra tiền tuyến.

- Ra tiền tuyến?
Ngô Đoái cả kinh:
- Ngài phải tự thân xuất mã sao?

- Sao lại không?
Thẩm Mặc chau mày lộ vẻ lo lắng:
- Tục ngữ nói, không đoàn kết chính là họa, tình cảnh của chúng ta bây giờ cũng không khác là mấy... Biên quân là của Sơn Tây bang, kinh quân là của huân quý, còn quân từ Đông Nam tới, ba nơi cũng không phải là loại lương thiện gì, sợ rằng còn chưa đánh nhau với người Mông Cổ, thì đã sống mái với nhau một trận rồi.

- Cũng phải...
Ngô Đoái gật đầu, đột nhiên nhớ tới lời đồn gần đây, bèn ướm hỏi:
- Bọn họ nhất quyết đòi hoàng thượng phong tước cho ngài phải không?

- Ừm...
Thẩm Mặc gật đầu không nói gì, nhưng có thể thấy tâm tình thật không tốt.

Về chuyện phong tước thì phải kể từ lúc Yêm Đáp hãn lại ngóc đầu dậy. Yêm Đáp sau khi trải qua thời kỳ suy yếu, một lần nữa tạo được uy danh trong các bộ tộc Mông Cổ, lần kéo quân này còn mạnh hơn trước đây, liên tục bảy lần quấy nhiễu các trọng trấn Kế trấn, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Cố Nguyên, nhưng đều phải trở về tay không, thậm chí còn phải chịu thiệt thòi.

Nguyên nhân sâu xa chính là, từ khi Thẩm Mặc chủ quản quân sự tới nay, thì bất cứ sự việc nào dù nhỏ của đối phương y cũng đều vô cùng quan tâm, tuyệt không không qua loa đại khái. Y biết rõ rằng, phòng thủ biên giới phía bắc có quan hệ tới vận mệnh của quốc gia, chuyện gì có thể qua loa chứ chuyện này thì tuyệt đối không thể.

Đầu tiên là điều binh khiển tướng, y điều tinh binh trong thiên hạ tới, hơn nửa là đến từ chín tỉnh tiền tuyến, bên Thiểm Tây văn có Vương Sùng Cổ cùng Trần Kỳ Học, võ có Lưu Hiển, Lý Tích cùng Khương Ứng Hùng; phía Tuyên Đại văn có Đàm Luân cùng Phương Phùng Thì, võ có Mã Phương, Doãn Phụng, Triệu Hà cùng Ma Quý; bên Kế Liêu văn có Tào Bang Phụ cùng Trương Học Nhan, võ có Thích Kế Quang, Lý Thành Lương, Lư Thang cùng Thang Khắc Khoan, tất cả đều là soái tài của Đại Minh, tinh hoa tụ hội, từ thời Vĩnh Lạc tới giờ mới thấy.

Đồng thời y cũng rất chú ý lắng nghe ý kiến của biên soái biên tướng. Không lâu sau khi y chấp chưởng Binh bộ, tổng đốc Kế Liêu Tào Bang Phụ kiến nghị thiết lập phòng ngự ở Kế trấn, cứ cách một dặm lại có một địch đài, bên trong địch đài đồn trú tinh binh, bình thường thì cảnh giới, đến khi đánh nhau thì có thể xung phong... Kế trấn là cửa ngõ của kinh sư, nếu Kế trấn bị phá thì kinh sư cùng các thành lân cận sẽ phơi bày trước miệng địch. Do đó để tranh cho việc hàng năm kinh sư đều rơi vào cảnh bị cảnh báo, Tào Bang Phụ đề nghị tăng cường phòng thủ Kế trấn.
(địch đài: nơi ẩn náu trên tường thành cho binh lính)

Mặc dù Tào Bang Phụ và Thẩm Mặc không hợp nhau, nhưng sau khi nhận được tấu chương của hắn, Thẩm Mặc lập tức trả lời: "Hôm qua đọc được tấu chương của ngươi, thấy quả thật là một biện pháp rất tốt. Binh bộ sẽ lập tức có công văn trả lời. Nhưng ngươi yêu cầu trong mỗi địch đài cần có năm mươi binh lính, như vậy một nghìn dặm phải cần năm vạn người, không biết năm vạn người này sẽ lấy từ binh đồn trú hay là điều từ nơi khác tới? Nếu lấy binh đồn trú thì việc thủ thành sẽ phải giao cho binh nơi khác, như vậy có thể xảy ra mâu thuẫn hay không?" Lại nói: "Mô hình địch đài ngươi gửi kèm về, chu vi là một trượng hai, dù đây chỉ là mô hình, nhưng ta ước chừng thực tế cũng chỉ gấp đôi thế này mà thôi, một nơi nhỏ như vậy sao có thể chứa được nhiều người, chưa kể còn y phục, lương thực và các đồ linh tinh nhét vào bên trong, không phải là quá hẹp sao? Cho nên ngươi cũng cần phải giải thích cho rõ.

Khi Tào Bang Phụ có giải thích thỏa đáng là y lập tức chấp nhận, còn tự mình đốc thúc, tốn mất một năm mới hoàn thành xong toàn bộ địch đài, phái binh vào trú, tạo cho kinh đô và các vùng lân cận một phòng tuyến vững chắc. Cũng chính phòng tuyến này đã chặn đứng gót sắt của Yêm Đáp, giúp cho kinh thành lần đầu tiên không phải nhận một tin cảnh báo nào.

Cũng từ chuyện này mà Tào Bang Phụ có cái nhìn khác về Thẩm Mặc, không còn mâu thuẫn như trước nữa.

Thẩm Mặc vô cùng quan tâm tới việc phòng bị, những việc mà các đại thần trước cho là không quan trọng thì y đều coi trọng. Tỉ nhu khi y biết được binh sĩ ở Du Lâm phải đi một, hai trăm dặm mới lấy được quân lương thì liền viết thư cho Vương Sùng Cổ: "Ta nghe nói một nhà mấy miệng ăn của binh sĩ đều phải dựa vào một thạch lương thực hàng tháng của hắn để sống, một thạch này không những phát chậm, lại còn bị cân thiếu, hơn nữa còn bắt bọn họ phải đi mấy trăm dặm mới lấy được. Tiền đi đường, tiền mướn xe thì ai trả bọn họ? Huống hồ gần đây binh sĩ nhiều nơi đều lấy lương tại một chỗ, như vậy bọn họ có thể ăn no được sao, có thể chống địch được sao? Ta tìm đọc điển tịch, biết mỗi nơi đóng quân đều có kho lương, cho người đi kiểm tra thì thấy mặc dù kho lương đã bị hao tổn, nhưng quy chế vẫn còn, quan viên trông coi cũng vẫn còn, sao không sửa đổi một chút, cho binh sĩ được lấy lương ở gần chứ? Việc này ngươi không cần dâng sớ, cứ thương lượng trực tiếp với lang trung quản lương tìm một biện pháp là được".

Thẩm Mặc là người như thế, đối với báo cáo gửi lên không chỉ đơn giản phê "Đồng ý" hay "Không đồng ý", mà là nghiên cứu kĩ càng nội dung của nó, đưa ra những suy xét cẩn thận, hơn nữa lúc nào cũng làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm, chuyện hôm nay chớ để ngày mai, không bao giờ y dây dưa chuyện gì. Nội các đại thần còn cẩn thận nghiêm túc như vậy, thì đám tổng đốc sao có gan chậm trễ?

Thẩm Mặc còn là người thưởng phạt phân minh, đối với tướng soái có công y chưa bao giờ tiếc ban thưởng, lúc nào cũng vì họ mà cố gắng tranh thưởng. Y không tính oán cũ, đề bạt Tào Bang Phụ, Vương Sùng Cổ, lại hết sức đề cao địa vị của văn võ biên quan. Thưởng sao phạt vậy, đối với những quan viên phạm sai lầm thì nghiêm khắc trừng trị, cho dù là tổng đốc cũng không có bất cứ ưu đãi nào... Ví như chuyện tổng đốc Tuyên Đại Hoắc Ký run sợ trước Yêm Đáp hay chuyện đám người hiếu chiến Mã Phương, Doãn Phụng khi truyền tới tai Thẩm Mặc đều bị y khiển trách, cho rời khỏi tiền tuyến, lại điều Binh Bộ Thị Lang Đàm Luân tới tiếp quản.

Nói tới việc thưởng phạt, y lúc nào cũng khuyên mọi người không đố kị, không đấu đá nội bộ, phải đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nhất trí để phòng thủ biên quan cho tốt.

Cứ thế các tướng soái dần dần quy thuận y, y đã trở thành tấm gương cho tất cả các tướng soái hướng tới. Trong lòng y không lúc nào quên sự an nguy của biên cương, cho nên tướng sĩ nơi nơi cũng đều chăm chỉ tập luyện, sẵn sàng đón địch, khiến cho Yêm Đáp không thể nào tiến lên một bước.

Vừa có danh tướng trấn thủ, lại có lương thần mưu tính, tới năm Long Khánh thứ ba Minh quân đã có nhiều biến chuyển... cán cân sức mạnh hai bên đã lặng lẽ chuyển dời.

Yêm Đáp không cam lòng chịu nhục nên lập quyết tâm tập trung lực lượng, tập trung đánh vào Tuyên Phủ theo kế của Hán gian Tiêu Cần hiến lên, Yêm Đáp tính toán cẩn thận, lệnh cho con là Tân Ái dẫn theo quân đi đánh nghi binh Úy châu, đợi đến khi Minh quân trúng kế xuất kích thì phái kỵ binh tinh nhuệ thừa cơ tấn công Tuyên Phủ, mưu đồ lập lại chiến tích đánh thắng nhanh gọn Tuyên Phủ như hồi năm bốn mươi hai Gia Tĩnh.

Nhưng nơi đây đã có Đàm Luân tọa trấn, nên lần này Minh quân không rút lui nữa, đợi tới khi Yêm Đáp dẫn binh gấp rút chạy tới Tuyên Phủ thì đã thấy binh sĩ Đại Minh bày trận chờ sẵn, thành cao hào sâu, chiến mã mạnh khỏe, tạo thành phòng tuyến vững chắc ngăn đại quân của hắn. Biết không thể thực hiện được âm mưu, Yêm Đáp lập tức quất ngựa chạy về phương bắc, Mã Phương nào chịu bỏ qua, lập tức dẫn quân theo truy sát hai trăm dặm, cuối cùng ở Trường Hải hồ cũng đại phá được quân chủ lực của Yêm Đáp.

Yêm Đáp đời nào chịu thiệt thòi, sau khi Mã Phương vừa mới khải hoàn thì hắn đã tập kết trọng binh đằng đằng sát khí đuổi tới lần nữa. Khi quân tiên phong của Yêm Đáp tới gần thì quân của Mã Phương vẫn còn đang ăn cơm, Mã Phương hay tin liền ném bát xuống đất, hô to với chúng tướng: "Tất cả theo ta giết địch!", rồi lập tức dẫn binh xuất chiến, đối đầu trực tiếp với Yêm Đáp quân ở Yên Tử sơn, sau một hồi khổ chiến cũng đã đánh cho Yêm Đáp phải tháo chạy một lần nữa.

Sau trận chiến Mã Phương sai người nấu đồ ngon, rồi đem chôn cùng với tướng sĩ chết trận. Khi Thẩm Mặc nghe được không khỏi khen ngợi: "Yêu binh như vậy mới là tướng tài".

Sau mấy lần ăn quả đắng ở Tuyên Phủ, Yêm Đáp đành phải thay đổi hướng tấn công, chuyển sang tập trung công kích Đại Đồng bên này, lần này Đàm Luân đã phán đoán sai lầm, lệnh cho tổng binh Đại Đồng Triệu Hà đem trọng binh tới đóng ở Tử Kinh, tuy đẩy lùi quân địch được một lần nhưng lại bị Yêm Đáp lập kế tránh nặng tìm nhẹ, tránh Tử Kinh mà đánh vào Hoài Nhân, Sơn Âm. Đàm Luân thấy vậy nổi cơn thịnh nộ, lệnh cho tổng binh Tuyên Phủ Mã Phương hoán đổi với tổng binh Đại Đồng Triệu Hà, để Mã Phương về Đại Đồng phòng bị Yêm Đáp. Đúng như dự đoán, Yêm Đáp hay tin liền tìm cách tránh mặt Mã Phương, không những không tấn công Đại Đồng mà còn quay đầu lại điên cuồng tấn công Tuyên Phủ, tới khi quân tiếp viện của Mã Phương về thì lại co giò tháo chạy lên phương bắc... Điều này không phải cho thấy Triệu Hà kém hơn Mã Phương, mà là Mã Phương đã đánh với Yêm Đáp hàng trăm trận, đại thắng rất nhiều, cho nên đã tạo thành uy danh hiển hách. Vừa nghe thấy Mã vương gia tới thì sĩ khí của kỵ binh Mông Cổ tắt ngấm, chỉ muốn chạy thật nhanh chứ không muốn phải đối mặt với hắn, tướng lĩnh bọn chúng có muốn trấn định lại cũng không đủ sức.

Đối mặt với Yêm Đáp chỉ biết bắt nạt kẻ yếu, trung thành với chiến thuật ngươi tiến ta lui, Mã Phương liền quyết định chủ động tấn công.

Ngay trong tháng này, Cẩm Y Vệ do thám được Yêm Đáp dẫn chủ lực đồn trú ở Hàm Ninh hồ, Mã Phương lập tức cho gọi Doãn Phụng, tập trung toàn bộ chủ lực xuất kích. Trước trận chiến Mã Phương nghiêm lệnh tam quân, toàn quân vứt bỏ quân nhu vật tư, mỗi người chỉ mang theo khẩu phần lương thực cho ba ngày, với quyết tâm liều chết. Ngày bảy tháng sáu toàn quân xuất phát, dọc theo đường đi giữ im lặng tuyệt đối, người không nói một câu, ngựa không hí một tiếng, âm thầm hành quân trong tám ngày thì tới gần Hàm Ninh hồ mà không hề bị Yêm Đáp phát hiện. Tới hừng đông ngày thứ chín Mã Phương ra lệnh tổng tiến công, trước dùng hỏa khí công kích, gia binh tinh nhuệ của Mã Phương từ hai cánh của doanh trại quân địch bất ngờ ập vào, còn Mã Phương dẫn chủ lực đánh vào chính diện, Doãn Phụng thì lĩnh quân chặn giết A Lặc Thản trên đường hắn tháo chạy. Bị đánh bất ngờ không kịp phòng bị, Yêm Đáp tiếp tục phải dẫn quân tháo chạy, nhưng không may lại rơi vào vòng vây của Mã Phương, toàn quân bị Mã Phương mặc sức chém giết. Quân Yêm Đáp lúc này hoảng loạn vứt bỏ đội ngũ, dẫm đạp lên nhau cố chạy thoát thân.

Qua một đêm huyết chiến, cuối cùng Yêm Đáp không chống nổi phải bỏ chạy, Minh quân đuổi sát theo sau, một đường từ Hàm Ninh hồ truy sát tới phía tây hơn mười dặm. Cuộc chiến này khiến cho quân đội của Yêm Đáp bị thương vong nặng nề, thủ lĩnh các bộ lạc bắt được hơn mười người, quân nhu chiến mã thu được vô số, tạo thành trận thắng lớn nhất sau chiến thắng ở Vạn Toàn hữu Vệ. Đàm Luân ở hậu phương sau khi đọc xong chiến báo hết sức vui mừng nói: "Đại Đồng tạm thời vô sự rồi!".

Tin vui truyền tới kinh thành, hoàng đế liền mở tiệc mừng công, tự mình tới Thái miếu cáo tế tổ tông, thưởng lớn cho chư tướng. Mã Phương thăng làm chính nhất phẩm thái bảo, đại đô đốc; Đàm Luân, Doãn Phụng được phong làm thái tử thái bảo, còn lại các tướng lĩnh cũng đều có thưởng, mọi người đều vui vẻ.

Ngay tại lúc ban thưởng, tả phó Đô ngự sử Trâu Ứng Long đề xuất thứ phụ Thẩm Giang Nam phụ trách việc quân vất vả, công lao càng lớn, lại còn đại thắng Vạn Toàn hữu Vệ năm đó cũng nhờ sự chỉ huy của y mới có được, mong hoàng đế phong tước cho y. Sau khi nói xong liền có rất nhiều quan viên phụ họa theo, vì xin cho y được phong tước mà dâng tấu chương lên rào rào.

Long Khánh vốn đang cao hứng, hơn nữa lại cảm thấy áy náy với Thẩm Mặc về việc để Cao Củng lên làm tể phụ, từ lâu đã muốn đền bù cho y một chút, nên không nghĩ ngợi gì mà hạ chỉ yêu cầu Lễ bộ định ra tước phong rồi báo cáo lên.

Tin tức truyền ra, Thẩm Mặc thì không nói gì, còn Thẩm Minh Thần mắng: "Thế này có khác nào làm hại cha..."

Mặc dù không có quy định rõ ràng, nhưng người được phong tước không thể nằm trong nội các, điều này mọi người đều thầm chấp nhận. Nhưng Thẩm Mặc lại chẳng có cách nào chối từ, bằng không chắc chắn sẽ bị người khác cho rằng dã tâm bừng bừng, quả thật thoáng chốc đã rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Sau khi phân tích rõ nguyên nhân hậu quả của việc phong tước, Vương Dần nói với Thẩm Mặc rằng dường như y đã bị rơi vào một âm mưu nào đó, chỉ là không biết ai đang đứng sau màn thao túng mà thôi.

Thẩm Mặc cười khổ nói:
- Ta cảm thấy rất quen thuộc, ngoại trừ hảo lão sư của ta ra ta cũng không nghĩ ra còn người nào.
Nói rồi hơi thở dài:
- Ta vẫn đợi lão trả thù, cuối cùng bây giờ cũng đã tới rồi, dù trong lòng kiên định nhưng quả thật vẫn thấy khó đối phó.

Thì ra Từ Giai đã sớm biết nhược điểm của y là gì... Thẩm Mặc thân là nội các đại thần mà lại nắm giữ quân quyền của Đại Minh, đây chính là điểm yếu chết người của y.
-oOo-
Thật ra Đại Minh chưa từng có quy định bá tước không thể làm trong nội các, nhưng điều này cũng không phải không có đạo lý, bởi vì Thái tổ hoàng đế quy định, ngoại trừ quốc trượng thì không có quân công không được phong tước, hơn nữa còn phải là quân công cực lớn mới được, còn như dẹp loạn khởi nghĩa nông dân hay đánh mấy trận với người Mông Cổ thì còn xa mới đủ. Ít ra cũng phải cỡ như Dương Minh Công bình định Ninh Vương mới được, phải thắng được một trận mà liên quan tới vận mệnh quốc gia.

Cho nên quan văn được phong bá tước chẳng khác nào được dán trên mặt mác "Quân công hiển hách", thử hỏi nhân vật như vậy làm sao có thể khiến mọi người yên tâm khi hắn lại còn được nắm thực quyền nữa chứ? Không phải là bởi vì tâm lý bề trên sợ phản loạn hay sao?

Thẩm Mặc cũng chẳng lo lắng cho tiền đồ của mình, bởi vì y là người được tôi rèn trong khó khăn, không có chuyện gì có thể khiến y bận tâm. Quân công có lừng lẫy thì cũng chỉ củng cố thêm địa vị cho bản thân một chút, chí ít khi Long Khánh còn tại vị thì không ai có thể làm gì được y. Nhưng y cũng không định nhận các tước này, y đã viết một tấu chương nói với hoàng đế rằng, công lao của mình rất bình thường, không xứng được triều đình ban tước, xin vì nước xuất chinh, nếu đánh đuổi được Thát Lỗ, làm cho thiên hạ thái bình thì lúc đó nhận phong cũng không muộn.

Không phải là y không muốn cái bá tước này, chỉ là cảm thấy bản thân còn chưa đủ tư cách. Vậy đến lúc nào mới có tư cách? Chính là đến lúc suất lĩnh đại quân, đuổi hết người Mông Cổ ra khỏi lãnh thổ Đại Minh, lúc đó mới thích hợp, rất có phong phạm của Hán tướng quân Hoắc Khứ Bệnh: "Hung Nô chưa diệt, sao có thể nghĩ về nhà".

Thật ra khi Thẩm Mặc còn ở phương nam cũng đã có kế hoạch, định trong tương lai rời khỏi kinh thành một thời gian. Thứ nhất là vì chiến dịch lần này có quan hệ đến vận mệnh quốc gia, quân đội ở tiền tuyến lại do nhiều nơi tụ lại mà thành, ngoại trừ bản thân y ra thì không ai có thể phối hợp được các bên cho hoàn hảo cả, lấy đại cục làm trọng nên y đành vứt bỏ được mất cá nhân trước mắt. Mặt khác dù y và Cao Củng đang trong thời kỳ hòa hoãn, nhưng cổ nhân có câu một núi sao có thể có hai hổ, trước nay chưa từng có sai. Theo quá trình cải cách, quyền lực của Cao Củng cũng lớn mạnh lên, sẽ rất khó để duy trì mối quan hệ hòa hảo như hiện nay, cho nên tốt nhất là y cứ chuẩn bị bước đi cho mình.

Nào ngờ y chưa kịp trình lên hoàng thượng thì đã có người chen vào trước, sống chết xin phong tước cho y. Thẩm Mặc cũng không ngại thuận nước đẩy thuyền, tỏ ra điệu bộ công chính liêm minh, khiến cho mọi người cũng chẳng thể nói được gì về việc y cho Từ Giai về vườn.

Chỉ là dù Từ lão đã về vườn nhưng vẫn kịp giăng cho y một cái bẫy, khiến cho Thẩm Mặc căm tức không biết làm sao, vốn lúc đầu dự định nước sông không phạm nước giếng, nhưng giờ xem ra không thể khách khí với lão được nữa.

Cũng giống như Cao Củng và Trương Cư Chính, buổi sáng Thẩm Mặc ở trong nội phụ, buổi chiều lại về Binh bộ, cho nên nếu có việc gì thì lại phải chờ tới sáng ngày hôm sau mới thương nghị được.

Trong ngày hôm nay có ba sự kiện quan trọng, một là có Ngôn quan dâng sớ, cho rằng Cao Củng đã là nội phụ nhưng lại chậm trễ từ nhiệm Lại bộ thượng thư, khó tránh khỏi có người nói chuyên quyền kết đảng. Hy vọng hoàng đế có thể nhanh chóng bổ nhiệm người mới, tránh cho Cao lão bị người dị nghị.

Đối với tấu chương này, Cao Củng ủy khuất nói:
- Ta đã trình lên hoàng thượng xin từ chức, nhưng thánh thượng không chịu đáp ứng ta có thể làm sao?
Lời này nghe qua ai cũng biết là không thật, có điều cũng đủ để mọi người biết trong lòng ông ta nghĩ gì... Mạnh Tử nói, cá và tay gấu chỉ được chọn một, nhưng Cao lão rõ ràng là đang muốn cả hai. Cho nên các quan viên cũng đành im lặng mặc ông ta muốn làm gì thì làm.

Lại nói Cao lão dường như không để ý, nội phụ không thể kiêm nhiệm Lại bộ thượng thư, đây là lệ từ khi khai quốc đến giờ. Huống chi Cát Thủ Lễ đã trở lại kinh thành, mặc dù trong thánh chỉ không nói rõ nhưng mọi người cũng đều biết, Cát lão trở về để thay thế Dương Bác đảm nhiệm chức Lại bộ thượng thư, dựng lại ngọn cờ cho Tấn đảng.

Nhưng Cao Củng ỷ thế được hoàng thượng dung túng, nhất quyết không chịu từ nhiệm, Cát Thủ Lễ thì không tính toán, nhưng những người khác trong Tấn đảng lại không để yên... Cao lão này có chuyện gì vậy, mọi người vẫn là minh hữu chứ, sao lại làm việc không nhìn mặt nhau thế này?

Kỳ thật Cao Củng cũng là bất đắc dĩ, lại trị cải cách của ông vừa mới triển khai, chính là lúc phải có quyền lực, phải có thời gian, nếu như nhường chức thượng thư cho người khác làm thì chắc chắn cải cách sẽ bị ảnh hưởng lớn. Vì muốn cải cách thuận lợi, ông đành phải khiến cho minh hữu chịu thiệt trước, thật ra ông vô cùng kính phục Cát Thủ Lễ.

Bù lại ông định để Cát Thủ Lễ làm tả Đô ngự sử, đương nhiên việc này cũng chưa đủ để đền đáp lại ân tình, Cao Củng biết rất rõ, chỉ có cựu thần chính trực cứng rắn như Cát Thủ Lễ đây mới có thể dẫn dắt Ngôn quan từ từ đứng dậy, khôi phục lại sĩ khí cho bọn họ.

Thấy không ai nói gì, Cao Củng liền nhân lúc bọn họ chưa kịp phản ứng mà ỉm đi tấu chương kia, sau đó lại đưa ra một cái khác: "Đây là tấu chương do Hộ bộ và Binh bộ liên hợp tấu lên, làm công trái cho chiến tranh, các vị có ý kiến gì không?

- Là dự định thôi.
Trương Cư Chính bổ sung:
- Công trái hai nghìn vạn lượng bạc ba lần trước thì do Nhật Thăng Long mua bảy phần, Hối liên hào mua ba phần... Sau đó còn nói nếu như còn bán thì còn mua.

- Vay tiền chiến tranh à...
Cao Nghi từ đầu vẫn im lặng giờ cũng không nhịn được nói:
- Trước giờ chưa từng thấy.

- Chẳng qua là trước đây không ai muốn vay mà thôi.
Cao Củng cười rộ lên:
- Chiến tranh có người bỏ tiền ra, không cần quốc khố phải lo, chuyện tốt như vậy giờ ta mới biết.

- Nhật Thăng Long cũng không phải thật lòng muốn giúp triều đình.
Trương Cư Chính thản nhiên nói:
- Bọn họ còn có điều kiện... Sau khi thu được vùng Hà Sóc thì phải cho bọn họ mặc quyền khai thương trong hai mươi năm, triều đình không được giữa chừng đổi ý.

- Lý nào lại vậy!
Cao Nghi nghe vậy biến sắc nói:
- Vậy chẳng phải là triều đình đánh nhau hộ bọn chúng sao? Nếu như không có tiền thì thôi không đánh, việc gì phải vì chút thể diện mà đi khai chiến hao tài tốn của chứ?

- Cũng không hẳn như vậy.
Lúc này Thẩm Mặc mới nói:
- Thứ nhất, cửu biên tập trung năm vạn quân, hơn nữa còn chiến mã, tính ra mỗi ngày tốn gần mười vạn lượng, nếu như chần chờ không đánh thì không những sĩ khí giảm sút, mà triều đình cũng tiêu tốn không gượng dậy nổi. Thứ hai, Kế Liêu đối mặt với Thổ Man bộ lạc cùng Đóa Nhan tam vệ, Tuyên Đại đối mặt với Yêm Đáp phía bên trái, còn Cam Thiểm phía bên phải. Địch yếu ta mạnh, đương nhiên có thể chiến thắng, hơn nữa còn có thể thắng nhàn. Ba là nếu như thành công, thì đường từ Cam Thiểm sẽ được rút ngắn, có thể tiết kiệm binh lực cùng vật lực, trợ giúp Tuyên Đại, Kế Liêu, tiện thể thiết lập an bình cho toàn bộ cửu biên.

Y nâng chung trà lên nhẹ hớp một ngụm, chậm rãi nói:
- Bốn là việc khai thông vùng biên luôn là vấn đề làm đau đầu triều đình, nếu làm thì rất tốn công tốn của, làm nhiều thu ít, giống như dùng rổ tre đựng nước vậy; nhưng nếu không làm thì cũng không được, nếu không làm thì không có cách nào giữ chắc biên cương, hàng năm sẽ tốn rất nhiều tiền đổ vào quân đội. Bây giờ Nhật Thăng Long, hay thậm chí là Sơn Tây thương nhân muốn sau chiến tranh thay triều đình làm việc, hơn nữa sau ba năm bọn họ còn nộp thuế... Cho dù bọn họ làm không đúng ý chúng ta thì cũng không nên siết chặt, quân đội là của chúng ta, quan viên cũng là của chúng ta, muốn bọn họ dừng lúc nào chẳng được.

- Đây chỉ là thử nghiệm với vùng Hà Sóc, nếu thành công thì sau này có thể mở rộng ra Liêu Đông.
Cao Củng tiếp lời, ánh mắt sáng lên:
- Đất đai quan ngoại chính là kho lúa lớn ở phương bắc, điều này có ý nghĩa gì với Đại Minh, không cần phải nói chứ?

- Nguyên ông quả là người nhìn xa trông rộng.
Trương Cư Chính bợ đỡ:
- Chúng tôi còn đang lo Hà Sóc, ngài đã nghĩ tới Liêu Đông rồi.

Thấy ba người thống nhất ý kiến, Cao Nghi cũng không thắc mắc nữa, nhưng vẫn hơi lo lắng hỏi:
- Dù sao cũng phải thận trọng, tránh bị điều tiếng. Ngoài ra cũng cần phải biết bọn họ định làm thế nào chứ?

- Trồng trọt thì sẽ trồng lương thực và bông sợi, chăn nuôi thì sẽ nuôi ngựa và cừu.
Thẩm Mặc đã sớm chuẩn bị mọi việc, giờ đưa ra cũng chỉ cần chờ phê chuẩn là xong:
- Trồng lương thực và nuôi ngựa là do triều đình yêu cầu, đến lúc đó sẽ do Hộ bộ và thái bộc trực tiếp thu thuế... Hai loại này có ý nghĩa với triều đình thế nào chắc Nam Vũ huynh cũng biết. Về phần trồng bông vải và nuôi cừu thì do bọn họ đề xuất.

- Mục đích bọn họ để làm gì?
Cao Nghi hỏi.

- Trồng bông vải theo nhu cầu của sản xuất. Tô Châu viện và Âu Dương phường cùng một loạt các xưởng khác đã mở rộng, hiệu suất của các cơ sở sản xuất bông vải cũng được tăng cao, mà đất trồng ở Đông Nam thì có hạn, dẫn đến giá cả leo thang. Ngoài ra vì thương nhân Sơn Tây vẫn muốn nắm giữ kinh tế Đông Nam, cho nên bắt buộc bọn họ phải nghĩ tới Hà Sóc. Các cơ sở sản xuất còn yêu cầu một lượng lớn lông cừu...
Thẩm Mặc kiên trì giải thích:
- Đối với mậu dịch hải ngoại, bông vải là nguồn thu lớn ổn định, còn lợi nhuận từ tơ lụa cũng không phải là nhỏ, cho nên bọn họ muốn khống chế từ khâu nguyên vật liệu.

- Thì ra là thế...
Nghe Thẩm Mặc nói xong Cao Nghi lập tức hiểu rõ, không khỏi thở dài:
- Để kiếm tiền mà những thương nhân này cái gì cũng dám làm.

- So với để cho bọn họ buôn lậu nguyên vật liệu, câu kết với người Mông Cổ thì thế này còn tốt chán, chí ít như thế bọn họ sẽ phải cần yên bình, nói không chừng còn có thể có ích với chúng ta.
Cao Củng cảm thấy không cần dây dưa vấn đề này nữa, bèn khoát tay chặn lại:
- Điều tiếng người đời thì làm sao? Không bị người đố kị mới là tầm thường, Giang Nam ngươi chỉ cần mặc sức mà làm, việc phía sau cứ để bọn ta lo, kẻ nào không biết điều nói xằng bậy ta sẽ xử kẻ đó trước!
Sau tuyên bố đằng đằng sát khí của Cao Củng, chuyện này cũng coi như đã định.

- Còn một việc.
Cao Củng nhìn báo cáo trong tay nói:
- Sau khi thí điểm đo lại đất, chia lại ruộng xong, cũng đã tiến hành ở ba tỉnh Đông Bắc Nam trực, Giang Tây cùng Sơn Đông được ba tháng...
Đến đây ông nhíu mày lại:
-... nhưng kết quả lại không được như ý... Ngoại trừ Giang Tây cơ bản là xong thì ở Nam trực và Sơn Đông đều bị thân sĩ địa chủ nhất quyết chống đối, bọn họ phái người giả mạo nông dân, xua đuổi nhân viên đo đạc của quan phủ, thái độ chống cự rất mạnh mẽ. Hộ bộ phái quan viên nào tới cũng bị bọn họ vừa đấm vừa xoa, công tác hoàn toàn bị đình trệ.

Mọi người thầm nghĩ việc này đương nhiên phải thế, bởi vì cái gọi là đo lại đất, chia lại ruộng chính là việc phân chia lại đất đai, quyền sở hữu của họ, xác định cấp độ nộp thuế của họ, sau đó triều đình dựa vào đây để tiến hành thu thuế, chính là Nhất điều tiên pháp. Đối với tá điền và nông dân mà nói thì không thể nghi ngờ đây là chuyện chỉ lợi vô hại, nhưng đối với hầu hết thân sĩ địa chủ mà nói thì việc này có ảnh rất lớn tới quyền lợi của họ.

Nhưng không làm không được, từ khi Trương Cư Chính nắm giữ Hộ bộ đến nay, vẫn vắt óc suy nghĩ tìm cách mở rộng nguồn thu, tăng thu nhập, lúc này những thuế có thể tăng thì cũng đã tăng hết cả... Lấy mấy tỉnh làm thí điểm mà nói, thuế thu của nông dân đã tới giới hạn, không thể tiếp tục tăng thêm nữa, vì nếu như vậy không phải là mở rộng nguồn thu, mà đơn giản chỉ là cướp đoạt mồ hôi nước mắt của dân mà thôi.

Nhưng ai cũng biết, tiền thuế thật sự thu được có thể tăng lên gấp đôi, nhưng chỉ bởi vì bị bọn thân sĩ địa chủ giấu diếm, trốn thuế, không khai báo lên trên. Theo như Cao Củng nói, nếu không khai đao với những người này mà chỉ chăm chăm thu thuế của dân, thì so với tạo phản có khác gì nhau?

- Chuyện này nói khó khăn thì quả thật khó như lên trời.
Trương Cư Chính khẽ nói:
- Nhưng phải hạ quyết tâm làm, hơn nữa cũng không phải không thể làm được.

- Nói.
Cao Củng vung tay lên, không khách khí nói.

- Vì sao Giang Tây có thể phổ biến Nhất điều tiên pháp trước? Ngoài năng lực xuất chúng của Bàng Thượng Bằng, thì nguyên nhân sâu xa chính là ở thời kỳ Chính Đức, Ninh Vương đã quét sạch mọi thế lực tông phiên ở đây; tới thời Gia Tĩnh thì thanh toán Nghiêm đảng, khiến cho hào môn Giang Tây điêu đứng, cho nên sự cản trở đối với cải cách giảm đi rất nhiều.
Trương Cư Chính tự tin thản nhiên nói:
- Cho nên muốn phá được cục diện bế tắc hiện nay, thì chỉ có cách thẳng tay với mấy hào môn cùng tôn thất để làm gương, sau đó tất cả đương nhiên sẽ ngoan ngoãn nghe lời.

- Nhà nào?
Cao Củng hỏi tới?

- Lỗ Vương cùng Khổng gia ở Sơn Đông...
Trương Cư Chính mặt vô cảm nói:
-... Tùng Giang của Nam trực.

Lời vừa nói ra cả sảnh đường ai nấy đều kinh hãi, tất cả mọi người đờ đẫn, Thẩm Mặc mắt cũng trừng to nhìn Trương Cư Chính, dường như muốn đánh giá lại con người này.
-oOo-
Vì sao khi Trương Cư Chính nói ra ba cái tên lại có thể khiến mọi người sửng sốt như vậy?

Là một tể tướng không nhất thiết phải biết rõ tất cả cường hào đại hộ ở các nơi, nhưng đối với hắn, ba nhà này cũng không có gì xa lạ.

Trước tiên là nói về Sơn Đông, họ Khổng có rất nhiều, nhưng có thể xưng là "Khổng gia" duy nhất chỉ có một, đó là hậu duệ của "Đại thành chí thánh tiên sư", được Hồng Vũ hoàng đế sắc phong làm "Diễn thánh công", danh tước được đời đời thế tập - Khổng gia ở Khúc Phụ. Mọi người vẫn truyền nhau rằng "Vương triều có đổi thay, nhưng Khổng gia vẫn vĩnh viễn tồn tại", quả thật xứng đáng với đệ nhất thế gia Hoa Hạ, tới nay đã truyền được sáu mươi bốn đời.

Đối với ác danh của vị Diễn thánh công này các quan có thể nói là nghe nhiều nên thuộc... Bởi vì các đời hoàng đế đều tôn kính bọn họ, cho nên thế lực của Khổng gia bành trướng một cách đáng sợ, không chỉ toàn bộ Tể Ninh là tá điền của họ, thậm chí ngay cả Tế Nam phủ, Tào châu cùng Đông Bình châu gần cạnh cũng bị bọn họ chiếm hữu không ít. Khổng Tử năm đó chu du các nước du thuyết lễ giáo, thân không mảnh đất cắm dùi, hoảng sợ như chó nhà có tang, chắc không thể ngờ con cháu sau này lại như vậy, tìm mọi cách vơ vét của cải, mở rộng đất đai, trở thành mối họa của địa phương.

Về Lỗ Vương phủ, năm đó sau khi Chu Nguyên Chương thống nhất thiên hạ, đã phong đất cho ngũ đệ và thất đệ của mình ở Sơn Đông, phong hào lần lượt là Tề Vương và Lỗ Vương. Nhưng Tề vương phủ đã bị trừ bỏ thời Hồng Vũ, dòng dõi đã tuyệt. Lỗ vương phủ thì ngược lại, ngày càng phát triển lớn mạnh, sinh sôi nảy nở cho tới bây giờ đã được sáu đời, hiện nay con cháu có tới mấy nghìn người, ruộng đất hơn mười vạn khoảnh.

Ruộng đất của Khổng gia và Lỗ gia chiếm hữu đã chiếm đến hơn một phần ba của cả tỉnh Sơn Đông. Hơn nữa vì một nhà là thế tập công tước, một nhà là khai quốc thân vương, theo chế độ cũ thì được hoàng thượng miễn thuế hoàn toàn. Nhưng lật lại hồ sơ từ lúc khai quốc tới giờ, tổng số ruộng đất mà triều đình ban cho phủ Diễn thánh công không quá hai mươi vạn mẫu, ban cho Lỗ vương phủ chỉ có tám vạn mẫu. Có điều hai nhà này dựa vào thế lực khổng lồ ở địa phương, không ai dám động tới, bất chấp vương pháp sáp nhập thêm nhiều ruộng đất, trốn thuế nhiều năm.

Bởi có hai nhà này đi đầu, vì vậy các địa chủ nơi đây cũng có nơi nhờ cậy để chống đối lại triều đình, khiến chính sách ích nước lợi dân "Đo lại ruộng đất" ở Sơn Đông không thể tiến hành.

Về phần Tùng Giang cũng không khác là mấy, thậm chí còn khó khăn hơn. Bởi vì đại địa chủ chính là Từ lão gia, ai mà có gan xuống tay với lão? Cho nên cũng không có tiến triển gì.

Nghe xong mấy lời Trương Cư Chính nói ra, tất cả mọi người bên trong nuốt nước bọt ừng ực. Cao Nghi trước nay ôn hòa cũng không nhịn được mà tức giận nói:
- Một nhà mà chiếm hết ruộng đất, bách tính sao có thể nhẫn nhịn được, sao mà không tạo phản cơ chứ?

- Nam Vũ huynh, việc này có thể huynh đã nhầm, thực tế mỗi lần quan viên chúng ta bị đuổi, thực sự đều là do chính nông dân làm...
Trương Cư Chính bất đắc dĩ thở dài:
- Địa chủ và nông dân không đứng về phía chúng ta, cho nên bọn họ cũng không hề sợ hãi mà chống đối triều đình.

- Sao lại có thể như thế?
Cao Nghi khó hiểu hỏi.

- Những nông dân này tự nguyện mang ruộng đất hiến cho đại hộ, từ nông hộ biến thành tá điền - cái này gọi là đầu hiến. Phong trào đầu hiến đã bắt đầu từ vài chục năm trước, hiện giờ đã càng ngày càng nghiêm trọng, dân chúng ở những nơi này có tới hơn bảy phần là muốn hiến đất cho hào môn đại hộ. Bởi vì sau khi quan phủ thẩm tra xong, bọn họ sẽ không phải nộp thuế nữa, chỉ phải nộp cho các đại hộ số tiền cho thuê ruộng mà thôi. Đương nhiên số tiền này ít hơn thuế của triều đình, bằng không các nông hộ cũng không đầu hiến. Mà đại hộ ỷ vào đặc quyền không phải nộp thuế của mình, hàng năm tiền thuê ruộng đất thu về không dứt.

- Thực sự là biết cách vơ vét của cải.
Cao Củng cắn răng, oán hận mắng:
- Đây chẳng phải là kiếm lời trên tiền thuế của quốc gia sao, lẽ nào mắt của nha môn đều đui mù, dùng để trang trí thôi sao? Sao lại để mặc bọn chúng đục khoét như vậy?

- Thực ra nha mông từ trước đến nay chính là quản dân không quản quan.
Trương Cư Chính thản nhiên nói:
- Những đại hộ này hoặc là có vương công quý tộc, hoặc là có người làm quan lớn, đừng nói là huyện lệnh, cho dù là tri phủ, tuần phủ cũng không dám đắc tội.

- Không làm theo vương pháp để tiểu nhân lợi dụng, làm ảnh hưởng tới lợi ích chung, không trừ sao còn làm tể tướng!
Cao Củng vỗ án:
- Ta không tin bọn chúng vuốt râu hùm mà còn vô sự!
Nói rồi trợn mắt:
- Bọn chúng càng chống đối càng nói rõ chính sách "Đo đạc đồng ruộng" là dúng đắn, là nhằm vào mệnh môn của bọn chúng.

- Đúng thế, chỉ cần ghi lại rõ ràng ruộng đất của từng nhà, thì dù là thế hào địa chủ cũng phải ngoan ngoãn mà nộp thuế.
Trương Cư Chính gật gật đầu:
- Nguyên ông nói đúng, bọn họ càng sợ lại càng nói rõ chúng ta đã tìm đúng nhược điểm của bọn họ. Chỉ cần chúng ta cương quyết tiến hành là có thể giải quyết được mọi vấn đề.

Cao Nghi gật đầu liên tục, rõ ràng là đã bị sự hăng hái của hai người tác động.

Thẩm Mặc dù cũng đồng ý, nhưng y không thích cách làm này của Trương Cư Chính. Theo y thấy, mặc dù có thể áp chế hào môn đại hộ, tăng nguồn thu cho triều đình, thậm chí có thể tăng rất nhiều, nhưng cái được không đủ bù cái mất. Bởi làm thế sẽ đắc tội với cường hào địa chủ trong cả nước, mà cường hào địa chủ là loại người gì? Là vương công quý tộc, quan lại thân hào. Đơn giản mà nói chỉ là bốn chữ, chính là giai-cấp-thống-trị ngoài hoàng đế ra.

Y vẫn tin rằng gây thù chuốc oán thì cải cách sẽ không thể thành công, trừ phi dùng tới bạo lực. Mà để cải cách thành công, không thể dựa vào một phía là được. Nói chung miếng bánh lớn phải chia cho mọi người cùng hưởng, khiến cho giai cấp cũ cũng phải có được lợi ích, như vậy cải cách mới có hy vọng.

Đại Minh hiện nay mặc dù công thương nghiệp đang phát triển mạnh mẽ, nhưng thực ra vẫn nằm trong tay hào đại hộ. Những người này có thế lực chính trị cực lớn, Đại Minh cũng không có lực để khống chế đối với Đông Nam, không cách nào được thu thuế của công thương nghiệp. Đối với sự phát triển của công thương nghiệp đã không thể làm gì hơn.

Tầng lớp này tạm thời gọi là "Tư bản quan liêu", mặc dù cũng có ý muốn tiến bộ, nhưng phần nhiều vẫn là bảo thủ... Bởi vì công thương nghiệp chẳng qua chỉ là công cụ vơ vét của cải của bọn họ, chứ chưa phải là gốc rễ, sinh mệnh của bọn họ. Do đó sẽ có người mềm yếu, sẽ có người bảo thủ, dẫn đến xã hội không thể tiến bộ.

Điều mà Thẩm Mặc mong chờ chính là công thương nghiệp phải được bành trướng, mậu dịch với hải ngoại phát triển cực nhanh, mạnh, trở thành tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. Chỉ khi có những người này mới có thể tiến bộ triệt để được, sẽ đưa việc tư hữu, không được xâm phạm cá nhân thành khuôn mẫu. Y cũng sẽ theo đuổi quyền lực, cũng vì không đủ thời gian, y đành phải xuất ra dã tâm cùng lực lượng để thay đổi thiên hạ.

Vốn Thẩm Mặc cho rằng để ngày tầng lớp này trưởng thành cũng ít nhất phải đợi đến khi y già mới được. Nhưng thiên hạ biến hóa, giai cấp công thương đã bắt đầu bừng bừng sinh cơ... Về điểm này khi y còn ở phía nam cũng đã thấy được trên báo thảo luận về mười hai biến pháp rất hăng hái, thấy những người đọc sách xuất thân từ gia đình trung tiểu công thương nghiệp đã nghiêm túc thảo luận vấn đề tư hữu. Y liền biết rằng chỉ cần thời điểm và hoàn cảnh thích hợp, thì công thương nghiệp bị đè nén hàng nghìn năm sẽ xuất ra một lực lượng kinh người thế nào.

"Có khi không tới hai mươi năm, giai cấp ta chờ đợi sẽ bước lên vũ đài chính trị?" Thẩm Mặc thầm nghĩ trong lòng, để có thể chờ đến lúc đó giúp cho bọn họ chút sức lực, tốt nhất bây giờ phải bảo vệ bản thân cho tốt mới được...

Mặc dù ý niệm bất đồng, nhưng trong thời gian dài lúc đầu thì phương hướng của Thẩm Mặc cùng Cao Củng, Trương Cư Chính là giống nhau. Bởi vì khi cương quyết thực hiện đo đạc đồng ruộng, thì sẽ khiến cho thế hào đại hộ chuyển dời sang công thương nghiệp, do đó sẽ khiến cho công thương nghiệp được đẩy mạnh nhanh chóng. Mặt khác. y cũng yêu cầu Cao Củng, Trương Cư Chính nghiêm khắc trừng trị thế hào đại hộ, để hạn chế quyền lực bọn họ, lấy không gian rộng rãi cho giai cấp công thương nổi lên.

Cho nên Thẩm Mặc định tạm thời rời kinh thành một thời gian, để tránh khỏi việc bị kẹp giữa thế hào đại hộ cùng Cao Củng.

- Giang Nam...
Tiếng gọi khiến y bừng tỉnh, Thẩm Mặc bình tĩnh lại, thấy mọi người đều đang nhìn mình thì hơi xấu hổ, ho nhẹ một tiếng:
- Nghĩ đến có chút xa...

Mọi người biết y chưa bao giờ mặn mà với cải cách, cho nên cũng không để ý, Cao Củng liền nói:
- Phương Thái Nhạc nói muốn phái Tôn Phi Dương đến Sơn Đông, Lâm Nhuận đến Tô Tùng, ý ngươi thế nào?
Toàn là đồng niên của y, chả trách phải hỏi y.

- Tôn Lập Sơn ta nghĩ nên tới Tây Bắc.
Thẩm Mặc suy nghĩ một chút, chậm rãi nói:
- Để Lâm Nhuận tới Sơn Đông là tốt nhất, năng lực của hắn xuất chúng, chính trực mà không cổ hủ, linh hoạt mà có nguyên tắc, chính là người tốt nhất để chọn.

- Rất tốt.
Cao Củng với đề nghị của Thẩm Mặc từ trước tới nay chưa từng nghĩ ngợi, lập tức đồng ý:
- Còn Tô Tùng?
Ông biết Tô Châu là địa bàn của Thẩm Mặc, cho nên muốn nghe ý của y.

- Tình hình của Tô Tùng thì có hơi phức tạp.
Thẩm Mặc chậm rãi nói:
- Tùng Giang tập trung nhiều đại thần, tiến sĩ từ thời Cảnh Thái nhiều như trâu, thời Thành Hóa cùng Hoằng Trị còn có tể phụ, nói về thực lực chính trị còn vượt xa vương công Sơn Đông, cần phải có một người hiểu rõ nơi này, lại không liên quan tới bên nào, một lòng chỉ nghĩ tới việc công, không bị nơi nào lôi kéo mới được.

Cao Củng trong lòng muốn cười, thầm nghĩ: "Ngươi nói thẳng ra là xong, việc gì phải vòng vo?", nhưng lại nói:
- Nếu như vậy ta thấy không phải Hải Cương Phong thì không được...

- Nguyên ông anh minh.
Thẩm Mặc thản nhiên nói.

- Điều này...
Lần này tới lượt Trương Cư Chính trợn tròn mắt, khó khăn nói:
- Thứ cho ta nói thẳng, Hải Thụy quá mức cương trực, tư pháp thì còn được, nếu thật muốn hắn đi an dân thì không khéo còn chuốc thêm phiền phức.

- Hắn đi Tô Tùng vốn không phải để an dân.
Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Mà là phá cục. Thái Nhạc huynh, huynh có thể tìm ra người nào có thể khai thông cục diện Tô Tùng sao?

-...
Trương Cư Chính nghe vậy chẳng còn gì để nói. Vì để có thể phổ biến đo đạc ruộng đất, hắn đã viết thư cho lão sư, hy vọng Từ Giai có thể là người đi đầu, trả lại ruộng đất cho người đầu hiến, hắn cũng tin tưởng tiểu sư đệ Lâm Nhuận làm việc có chừng mực, sẽ không động chạm tới thể diện của lão sư, để có thể phổ biến đo đạc ruộng đất... Đương nhiên nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng chưa thử làm qua sao biết được thế nào?

Nhưng bây giờ xem ra Thẩm Mặc không định cho Từ lão sư sống dễ chịu. Trương Cư Chính chưa kịp tính toán với lão sư thì Thẩm Mặc đã thay hắn thực hiện rồi.

Nhìn mặt Cao Củng đang không ngừng che giấu sự sung sướng thì biết chắc rằng ông ta cũng đang muốn Hải Thụy đi làm việc này... Lấy tính cách có thù tất báo của ông ta mà nhịn tới bây giờ cũng đã là kỳ tích. Nhưng không phải ông ta thay đổi tính nết, chẳng qua là chưa tìm được cớ nào mà thôi.

Trương Cư Chính đã nghĩ tới trong tương lai, lão sư sẽ không dễ chịu... Hắn không định ngăn cản, bởi vì mọi người trong đây đều đã thống nhất ý kiến, bản thân hắn có nói cũng phí công, thứ hai chính là như Thẩm Mặc nói, dự định Hải Cương Phong quả thật là người tốt nhất để làm việc này.

Đương nhiên hắn sẽ không bao giờ thừa nhận, bản thân cũng muốn thông qua phương pháp này, để cho Cao Củng thấy trung tâm thế nòa.

-oOo-

Sau khi tan buổi họp, Cao Củng kéo Thẩm Mặc ra một chỗ rồi hỏi:
- Ngươi nhất quyết ra tiền tuyến?

Thẩm Mặc gật đầu:
- Vâng.

- Nếu như là vì chuyện bọn họ xin cho ngươi được phong...
Cao Củng trầm ngâm chốc lát rồi nói:
-... Ta sẽ thay ngươi giải thích với hoàng thượng.

Thẩm Mặc có chút cảm động nhìn Cao Củng:
- Không phải vậy, chỉ đơn giản là muốn tòng quân thôi.

- Cải cách vừa mới khởi đầu.
Cao Củng không muốn nói:
- Chúng ta có thể cùng lập nên sự nghiệp thì tốt.

- Đánh đuổi Thát Lỗ, khôi phục Hà Sóc cũng là một sự nghiệp vĩ đại.
Thẩm Mặc khẽ nói:
- Hơn nữa sau khi khai chiến sẽ trở thành lực lượng to lớn, giúp đỡ ông cải cách.
Nói rồi cười:
- Nhưng nếu như tiền tuyến đánh không tốt, thì áp lực có thể lớn lắm, sẽ có người nhân cơ hội mà loại bỏ cải cách của chúng ta.

- Cải cách của chúng ta...
Trên mặt Cao Củng nở nụ cười:
- Gọi như vậy không sai...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 840: Sa trường điểm binh


Trung tuần tháng chín năm thứ ba Long Khánh, mỗi lộ đại quân tham gia duyệt binh đều tụ họp tại kinh thành, kinh quân, biên quân, nam quân, tổng cộng hơn hai mươi vạn nhân mã, chen chúc trong Phong Đài đại doanh, bên ngoài cũng dựng đầy quân trướng, cao thấp nhấp nhô kéo dài tới tận chân kinh thành. Bách tính trong thành đã nhiều năm chưa từng thấy tình cảnh hoành tráng vậy, mấy ngày nay cũng hưng phấn như năm mới về.

Nhưng trong các lớp lớp quân doanh lại là một bầu không khí khẩn trương, tất cả tổng đốc, tổng binh mỗi lộ đều ở trong doanh trại, vừa đốc thúc bộ hạ dựng cờ, tắm rửa chiến mã, lau giáp trụ, mài binh khí, vừa sát sao tiến hành huấn luyện, quyết tâm không làm hỏng buổi lễ. Ngoài việc nghiêm khắc với chuyện đó ra, các tổng đốc đại nhân đều trở nên dễ tính hơn rất nhiều, các bộ dưới trướng muốn mua thêm đồ gì thì chỉ cần nói miệng là được, lại tăng cải thiện đồ ăn, chỉ cầu đến lúc trước mặt hoàng đế thể hiện ra binh cường mã tráng.

Dân chúng thấy một ngày dài như một năm, còn quan binh lại thấy thời gian như nước chảy ngựa phi, chỉ chớp mắt đã tới ngày đại duyệt binh hai mươi mốt tháng chín!

Sáng sớm hôm nay, tất cả bách tính trong kinh thành, bất kể thường dân hay phú gia đại hộ, đều rủ bạn bè mang lương khô dìu dắt nhau đi, từ đường lớn trên Chương Nghi môn thẳng tới ngoài Quảng An môn. Hôm nay thực sự là nhiều người, vừa mới mở cửa thành mà trên đường ra Chương Nghi môn đã nườm nượp người đi lại, đơn giản bởi vì có ai lại không muốn xem đại quân duyệt binh? Ai không muốn xem xem hoàng đế trông thế nào?

Chưa tới giờ mão mà đồi núi xung quanh có thể chứa cả vạn người, đã đứng dày đặc bách tính từ sườn núi tới tận thao trường... Cũng may Binh bộ sớm đoán trước nên đã cắt cử quan binh bảo vệ, ngăn không cho bách tính làm ảnh hưởng tới buổi duyệt binh.

Đúng giờ mão, trong Phong Đài đại doanh vang lên ba tiếng đại pháo rung trời động đất, đoàn người lập tức yên lặng, chỉ thấy từng đội binh sĩ kinh doanh, tinh thần tỉnh táo cầm mâu chỉnh tề đi ra, tạo thành một vòng tròn trong thao trường. Chỉ thấy cứ cách hai mươi trượng lại có một thải lâu, mà hai bên thải lâu cứ cách ba bước lại có một tốp, năm bước lại có một trạm. Quan quân đứng dưới thải lâu khôi giáp uy vũ, tay đặt lên chuôi kiếm, đứng thẳng bất động, tất cả các quân sĩ cũng đều mặc áo có số, uy vũ trang nghiêm.

Lúc này từ Củng Thần Đài trong thành vang lên ba tiếng pháo, sau đó toàn bộ quan binh cấm quâ từ trong thành đi ra, giới nghiêm toàn bộ quan đạo trước Tử Cấm thành, đợi hoàng đế ngự giá tới.

-oOo-

Vương triều Đại Minh từ sau thời Chính Đức hoàng đế rất ít có sự kiện gì chấn động thế này. Chính Đức hoàng đế yêu thích duyệt binh nhưng lại bị quần thần phản đối, cho nên bị các văn thần cho là hồ đồ, ghi vào sử sách toàn lời chê bai.

Thế nhưng Long Khánh hoàng đế Chu Tái Hậu hiện nay không giống, hắn được quần thần ủng hộ nên mới tiến hành lần duyệt binh này, quan quân trông mong, toàn dân cũng ngóng đợi. Cho nên ngay cả người xưa nay tầm thường lười biếng như Long Khánh cũng không khỏi cảm thấy uy nghi thêm vài phần.

Buổi sáng hôm nay, Long Khánh không ngủ như mọi ngày mà dậy sớm, dùng mấy món điểm tâm đơn giản, sau đó liền mặc đồ tế lễ, tới trước Thái miếu tế bái liệt tổ liệt tông, rồi được cung nhân hầu hạ thay đồ, chuyển sang mặc một bộ giáp trụ long văn ánh vàng rực rỡ.

Nhìn trong gương Long Khánh không khỏi hoảng hốt, đây thật sự là bản thân hắn sao? Sao lại oai hùng đến thế? Hai vai hoàng kim giáp phiến, trên thân thì xếp từng phiến bạch kim như vảy cá, trên áo choàng rồng bay vờn ngọc, sau lưng còn đeo Thất Tinh kiếm tổ truyền, đầu đội bạch kim khôi, bên trên còn cắm thiên nga linh (lông đuôi ngỗng trời, kiểu như mũ Tôn Ngộ Không). Sau khi tự sướng một lúc, hắn cảm thấy trên đầu nặng trịch, hắn bèn bỏ xuống, định đưa cho thị vệ nhưng lại nghĩ cả đời có mấy lần được mặc quân trang, cho nên lại kẹp vào khuỷu tay.

Ra tới ngoài đã thấy công khanh văn võ sớm đợi ở đó, có lẽ là lâu lắm rồi không có sự kiện lớn thế này, nên vẻ mặt mỗi người đều rất kích động, Long Khánh nhìn mọi người, rồi vung tay lên trang nghiêm nói:
- Đi!

Cùng với tiếng này của hắn, tiếng chuông trên lầu vang lên, sau đó các chùa các miếu điều nhất tề hưởng ứng, xa gần đều đánh chuông. Long Khánh hoàng đế bước lên xe ngựa xong, công khanh bách quan không phân biệt văn võ, tất cả đều lên ngựa, theo sát hoàng đế ra khỏi thành.

Nghe thấy tiếng chuông ầm vang trong thành, bách tính ngoài thành liền biết hoàng đế sắp giá lâm, tất cả hướng về phía cửa thành trông ngóng. Không biết qua bao lâu, chỉ thấy đại quân nghi thức đi ra. Phía trước là năm trăm cấm quân cầm long kỳ dẫn đường, theo sau là hai trăm đại hán mặc giáp vàng cầm kim tỏa, ngọa qua, lập qua, tỏa phủ, đại đao, hồng đăng, hoàng đăng, tiếp nữa là hai trăm hoạn quan mặc mãng y, cầm cờ, phướn, quạt. Sau khi hơn nghìn người này đi qua mới lộ ra chiếc xe màu màu vàng cực lớn chở Long Khánh, dưới sự bảo vệ nghiêm mật của Cẩm Y Vệ chậm rãi xuất hiện trước mắt mọi người.

Long Khánh toàn thân mặc quân trang, tay phải nắm bảo kiếm, tay trái đặt trên tay vịn xe, hàng nghìn người trước sau vây quanh hắn, hộ vệ hắn; bách tính đông đảo chiêm bái hắn. Xe của hắn đi tới đâu, mọi người đều rạp xuống như rạ, ngũ thể đầu địa không dám nhìn lên. Cảnh tượng này quả thật không phải vinh quang tầm thường, lần đầu tiên trong đời hắn cảm nhận được... Năm đó lúc đại điển đăng cơ, vì đế tang mà tất cả giản lược, cho nên Long Khánh không có được cảm giác như hôm nay. Hắn phóng mắt nhìn ra, tinh kỳ phấp phới, giáo mác sáng choang, hắn cố gắng kiềm chế, hết sức giữ tâm tình kích động, ưỡn ngực mà nhìn về phía trước, chỉ thấy thao trường rộng lớn đã ở ngay trước mắt.

Đường vào bên phải thao trường đứng mấy vị Binh bộ thị lang, ba vị cửu biên tổng đốc, cùng các tham tướng đã đứng đợi sẵn, thấy xe đi tới gần tất cả đều quỳ xuống, đồng thanh hô to:
- Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Long Khánh vẫn yên lặng nhìn khung cảnh say đắm lòng người này, một lúc lâu sau mới nói:
- Bình thân...

Sau đó tiếng kèn sáo đồng loạt vang lên trên thao trường, trong tiếng quân nhạc, Long Khánh hoàng đế bước tới đài cao phía bắc.

Bách quan cũng nối bước theo sau mà tới hai bên đài, còn các quân quan đều thúc ngựa về doanh, chuẩn bị bắt đầu đại duyệt.

-oOo-

Sau đó là đợi, tới tận khi hoài biểu của Long Khánh chỉ đến giờ Thìn. Hai đại hán tướng quân mỗi người mang theo roi lớn dài hơn một trượng, tới trước đài cao rung tay lên, tức thì hai sợi roi thẳng tắp nằm trên mặt đất.

Sau khi quan viên Hồng lư tự ra lệnh một tiếng, hai đại hán tướng quân lập tức vung roi, trong không trung cuộn thành một vòng, rồi sau đó là một tiếng giòn vang, lập tức trấn áp các âm thanh ầm ĩ, khiến trên đài đều trở nên yên tĩnh.

Roi lại tiếp tục vung lên, một tiếng giòn vang, sau đó lại tiếp tục vung lên, lại một tiếng giòn vang.

Ba tiếng vang đã xong, nội phụ Cao Củng gắng sức mở cuống họng, tuyên bố duyệt binh bắt đầu!

Vì vậy quân nhạc liền nổi lên, không chỉ có dụng cụ cổ nhạc mà còn có dụng cụ Tây nhạc, ống sáo các loại, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ cung đình Sa Vật Lược, diễn tấu khúc [Sa trường điểm binh khúc] hào hùng.

Các lộ quân chỉnh tề bước đều tạo thành tiết tấu, lộ quân đầu tiên duyệt binh đã xuất hiện ở phía đông thao trường.

Đây là một phương trận do năm trăm giáp trụ kỵ binh tạo thành, tất cả ngựa đều một màu, yên ngựa dây cương đều từ gấm lụa làm nên, các tướng sĩ mặc toàn thân khôi giáp màu bạc sáng ngời, cầm trong tay họa kích, theo sau một người cầm "Long tương" đại kỳ tiến vào thao trường.

Khi đi qua kiểm duyệt đài, tất cả tướng sĩ trong phương trận đều giơ cao họa kích, hướng về hoàng đế cùng hô to: "Vạn tuế!", sau ba lần như thế đã làm cho bầu không khí náo nhiệt hẳn lên. Các quan văn võ ngồi đây đều không tự chủ được mà đứng dậy, Long Khánh hoàng đế trên đài cao không ngừng cảm thấy hưng phấn dâng cao... Tình cảnh trước mắt khiến cho vị hoàng đế luôn ở trong thâm cung phải nhiệt huyết sôi trào, hắn cuối cùng cũng hiểu vì sao bá phụ của mình lại say mê duyệt binh như vậy.

Đợi tới khi Đàm Luân phía sau nhắc nhở, Long Khánh mới nhớ tới mà rút kiếm chỉ về phía phương trận, sau đó lại là một tràng vạn tuế vang lên.

Phương trận thứ nhất đi qua, tiếp sau là một đội hắc giáp kỵ binh năm trăm người, người dẫn dường cầm cờ thêu "Tuyển phong giáp tự doanh", mặc dù đội kỵ binh này không được trang bị loá mắt như cấm quân phía trước, nhưng nhìn năm trăm con ngựa chỉnh tề cùng bước, thần thái sung mãn ngẩng cao đầu vẫn khiến cho người khác phải hoan hô... Đây là thành quả có được sau hai năm luyện binh của Thích Kế Quang.

Sau "Phong giáp tự doanh" là "Đại Đồng trấn tiêu binh doanh" với năm trăm khinh giáp kỵ binh, mặc dù đội ngũ này đã cố gắng bày ra cái tốt nhất của mình, nhưng so với hai đội phía trước thì vẫn thua kém. Nhưng khi bọn họ xuất hiện đã khiến toàn trường nhiệt liệt hoan hô, tất cả các công khanh đại thần thận trọng, nhân vật nổi tiếng triều dã đều cật lực vỗ tay, dường như họ cảm thấy nếu không như vậy thì không biểu thị được sự tán dương của họ.
(tiêu binh: binh lính làm mẫu khi duyệt binh)

Ngay cả quân nhạc cũng hơi bị biến đổi, tấu lên khúc anh hùng khải hoàn ca. Từ Phong đài tung ra hoa tươi, như thiên nữ tán hoa, rơi khắp trời rực rỡ, khoác lên cho đội ngũ này một tầng giáp hoa. Những bách tính không biết chuyện đều rối rít hỏi thăm, không biết đây là lộ quân nào mà được ưu đãi đến vậy?

- Vậy mà cũng không biết?
Người bên cạnh đầu tiên là nhìn với ánh mắt khinh bỉ, sau đó mới nói:
- Đây là Mã gia quân!

- Thì ra là thế...
Mọi người bừng hiểu ra, đây chính là anh hùng quân đã đánh cho Yêm Đáp chạy trốn chui lủi như chuột, cho nên không còn ai lấy làm lạ nữa. Vì vậy mọi người từ vẻ không chú ý, đã chuyển thành tâm trạng không thể kìm hãm, ầm trời hoan hô...

Sau khi Mã gia quân đi qua là "Kế trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Thích Kế Quang; "Xương Bình trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Thang Khắc Khoan; "Chân Bảo trấn tiêu binh doanh", là thân binh của Dương Tứ Úy; sau đó là "Tuyên Phủ trấn tiêu binh doanh" thân binh của Triệu Hà; "Thái Nguyên trấn tiêu binh doanh" thân binh của Doãn Phụng; "Liêu Đông trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lư Thang; "Du Lâm trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lưu Hiển; "Ninh Hạ trấn tiêu binh doanh" thân binh của Lý Tích; "Cam Túc trấntiêu binh doanh" thân binh của Khương Ứng Hùng; "Cố Nguyên trấn tiêu binh doanh" thân binh của Quách Hổ... Các lộ quân của mười một vị tổng binh của cửu biên Đại Minh đã lần lượt trình diện.

Áp trận phía sau chính là "Tuyển phong đinh tự doanh" và "Tuyển phong tân tự doanh", đều là kỵ binh từ cấm quân...

Tổng cộng tám nghìn kỵ binh đứng cuồn cuộn trước mặt người xem, mang theo khí thế hào hùng, dẹp tan lo sợ trong lòng bách tính Hoa Hạ, người người đều huyết mạch sôi sục, lớn tiếng hô vang:
- Khu trục Thát Lỗ, lấy lại giang sơn!

Mọi người còn chưa kịp ổn định tâm tình thì tiếng trống trận xung quanh thao trường đã đồng loạt vang lên, khắp nơi vang lên tiếng hô hùng hậu trầm thấp, lan tỏa trong lòng mọi người. Nhịp trống chuyển từ chậm sang nhanh, như đập cùng nhịp đập với trái tim bách tính vậy, làm chấn động tâm can, sôi trào nhiệt huyết, khiến bách tính hận mình không thể lập tức ra tiền tuyến...

-oOo-

Kỵ binh đi qua là tới chiến xa phương đội. Trong tiếng trống trận, song mã kéo thiên sương xa, trên mỗi xe chở hai Phật Lãng Cơ, hai bên kỵ binh cùng bộ binh hộ vệ, rầm rập bước tới. Đầu tiên là một trăm khinh chiến xa, tiếp theo lại một trăm thiên sương xa, rồi một trăm trùng chiến xa, cuối cùng là một trăm chiếc lưỡng phúc trùng xa.

Sau đội xe đi qua, đội pháo binh mang theo khí thế kinh người tiến tới, hai trăm hổ tôn pháo do mỗi con ngựa kéo; một trăm đại tướng quân pháo do hai con ngựa kéo cùng với năm mươi thần uy đại pháo do bốn con ngựa kéo. Nhìn miệng pháo của thần uy đại pháo có thể nhét vừa một trẻ em,người xem đều suy nghĩ một khi khẩu pháo này bắn ra, liệu có bắn tan một quả núi không?

Những người ngồi xem đều rơi vào yên lặng, còn khuôn mặt thâm trầm của Thẩm Mặc từ khi duyệt binh bắt đầu cũng đã giãn ra. Trương Cư Chính ngồi bên cạnh y thấp giọng chế nhạo:
- Đã vừa ý chưa?

- Còn chưa đủ?
Thẩm Mặc thản nhiên nói:
- Trò hay vẫn còn ở phía sau.

- Chuyết Ngôn huynh cũng sâu xa quá chứ.
Ánh mắt Trương Cư Chính chậm rãi nhìn sang phía đài đối diện. Ngoại trừ công khanh văn võ kinh thành còn có người đến từ Lữ Tống, Lưu Cầu, Bà La... thậm chí cả Bồ Đào Nha, Hà Lan cũng có đại biểu đến đây. Trừ những người nước ngoài, còn có hơn trăm thủ lĩnh các nơi như Vân Quý, Lưỡng Quảng, Hồ Quảng, Tứ Xuyên... đủ mọi sắc tộc, đủ mọi trang phục tề tựu ở đây.

- Cũng không còn cách nào khác...
Thẩm Mặc chậm rãi nói:
- Không làm bọn họ sợ hãi, làm sao khiến bọn họ từ bỏ ý niệm động binh?

- Chuyện này trả giá cũng không nhỏ.
Vẻ mặt Trương Cư Chính lạnh nhạt nói:
- Nếu như cứ theo kế hoạch của huynh, thì phải tốn đến cả trăm vạn lượng, chuyện này mà truyền ra, tin chắc rằng sẽ có không ít người gièm pha huynh làm hao tài tốn của.

- Đại pháo vang lên, hoàng kim vạn lượng mà.
Thẩm Mặc ngượng ngùng cười:
- Huynh coi như đang xài tiền của Tấn thương, cho lòng đỡ tiếc.

- Không cần.
Trương Cư Chính hơi ngẩng đầu nói:
- Nếu tiêu tiền chính đáng thì ta chẳng tiếc gì. Chỉ cần đạt được mục đích, dù thuế quan năm năm sau đều cho ngươi cũng có làm sao.

Thẩm Mặc quay đầu nhìn hắn, trong mắt hiện lên vẻ tán thưởng:
- Ta sẽ khống chế quy mô. Không để cho việc chưa kịp đánh người đã nghèo rớt mùng tơi xảy ra.
Nói rồi cười cười:
- Hơn nữa chúng ta chiến tranh thay cho tài chủ Sơn Tây, chẳng lẽ còn phải bỏ tiền?

Trương Cư Chính định nói gì nữa, nhưng đột nhiên nghe được tiếng ca, chất giọng đậm chất Cam Thiểm khiến hắn ngạc nhiên, bèn tập trung nghe quan binh hát:

"Tiên thủ Sơn Tây thập nhị châu, biệt phân loan tương đả nha đầu.
Hồi khán Tần tắc đê như mã, tiệm kiến Hoàng Hà trực bắc lưu."

Tiếng ca hào hùng hòa trong tiếng trống, làm tất cả mọi người trong thao trường trong nháy mắt đều yên tĩnh lại, ngừng thở mà nghe tiếng hát chấn động hồn phách:

"Thiên uy quyển địa quá Hoàng Hà, vạn lý khương nhân tẫn Hán ca.
Mạc yển hoành sơn đảo lưu thủy, tòng giáo tây khứ tác ân ba."

Bắt đầu từ bộ binh Cam Túc trấn đang đi qua kiểm duyệt đài, sau đó đến quan binh Cố Nguyên trấn, Du Lâm trấn, Ninh Hạ trấn cũng tiếp lời hát vang, cứ tiếp tục như thế cho tới lúc cả mấy vạn người trong thao trường đều đồng thanh cất tiếng, tạo nên rung động trong lòng từng người, khiến tất cả quên thở, quên nói mà tròn mắt tròn miệng, trong thoáng chốc thời gian như ngừng trôi, gió như ngừng thổi, chỉ thấy tiếng ca vang mãi khắp thao trường.

"Mã vĩ hồ cầm tùy Hán xa, khúc thanh do tự oán Thiền Vu.
Loan cung mạc xạ vân trung nhạn, quy nhạn như kim bất ký thư.
Kỳ đội hồn như cẩm tú đôi, ngân trang bối ngôi đả hồi loan hồi.
Tiên giáo tịnh tảo An Tây lộ, đãi hướng hà nguyên ẩm mã lai..."

Tiếng ca dừng lại một lúc lâu, mọi người mới bắt đầu tỉnh lại, chỉ thấy toàn bộ quan binh đều đã xếp thành hàng quay mặt về phía kiểm duyệt đài, trên thao trường tinh kỳ như rừng, người người đều đứng thẳng, lặng ngắt như tờ. Hơn mười vạn quan binh đều tăm tắp đứng dưới đài, cho dù không nói lời nào cũng đã khiến cho người ta áp lực nặng nề.

Long Khánh hoàng đế vui mừng tán thưởng quan binh tham gia duyệt binh, khen ngợi quân tâm sĩ khí, hy vọng bọn họ sẽ tiếp tục phô diễn sức mạnh cùng uy phong, cho tất cả mọi người thấy sức mạnh của vương triều Đại Minh.

Trong tiếng tung hô vạn tuế, Long Khánh hoàng đế bước xuống đài, rồi đi tới trướng đã chuẩn bị sẵn nghỉ ngơi. Các quý khách còn lại cũng được dẫn vào trong các quân doanh để nghỉ.

Sau một lúc nghỉ trưa, hoàng đế lại xuất hiện trên kiểm duyệt đài, lần này thì không phải ngồi không chịu trận như lúc sáng nữa, mà có thể uống rượu ngon, thoải mái ngồi dưới mái che để xem các lộ quân luận võ.

Buổi chiều đầu tiên luận võ chủ yếu là do mỗi binh chủng biểu diễn sở trường của mình, nào là bộ binh đột kích, bộ kỵ cùng đánh, còn diễn luyện tổ hợp xa trận, bắn kình nỗ, luyện trường thương. Tất cả tác phong chỉnh tề, bước đều như một, đao quang kiếm ảnh, sát khí tận trời, khiến cho những người xem đều kinh hồn động phách.

Nhưng khiến bọn họ kinh hoảng nhất, chính là khi thần cơ doanh biểu diễn lúc trời bắt đầu tối. Đầu tiên là một nghìn hai trăm binh sĩ cầm súng kíp đứng thành hàng, dài đến cả trăm trượng cùng bắn. Mà bia bọn họ bắn đâu phải là hình nộm đứng yên, mà là mấy trăm chiến mã Mông Cổ...

Nhìn người ngựa trên chiến trường, ai cũng hiểu đây là đang diễn luyện súng kíp trận đối kỵ binh. Hầu hết mọi người đều biết súng kíp trận từ trước đến nay đều đứng sau trường thương trận, nhưng bây giờ giữa hai bên lại không có chướng ngại gì, cự ly hai bên lại không tới hai trăm trượng, chiến mã chỉ cần chạy hai mươi nhịp là có thể áp sát, nếu trừ thời gian lên đạn nhắm bắn thì thời gian còn lại chỉ còn hơn mười nhịp để cho thần cơ doanh khai hỏa...

(thiếu phần 3 chương này)

Nhưng đối với hoàng đế cùng các quan khách mà nói, thì loại diễn tập không có máu me này không kích thích bằng lúc bắn súng. Dù có người muốn mượn cơ hội mà dò la hư thực của quân Minh cũng bị khéo léo từ chối, khuyên ở lại trong soái doanh chờ đợi diễn tập.

Đương nhiên Long Khánh hoàng đế cũng không nhàn rỗi, nhân cơ hội này mà tiếp kiến các đặc phái viên trong và ngoài nước. Lần duyệt binh này thanh thế rất lớn, không thể nghi ngờ đã thu được kết quả như ý muốn, tất cả các thổ ty, thủ lĩnh trước lúc diễn luyện đều kiệt ngạo bất tuân, nay đã trở nên dễ bảo... Ngay cả các đại biểu của Bồ Đào Nha và Hà Lan cũng quỳ xuống, quên cả lý do "nước ta không có phong tục này", làm cho hoàng đế tâm tình cực tốt.

Long Khánh hoàng đế cũng không nhân lúc người mềm yếu mà bắt nạt, mà thể hiện khí độ ung dung của hoàng đế Thiên triều. Một số thủ lĩnh nhận được sự đối xử của hoàng đế mà khóc lớn, biểu thị nguyện ý đời đời kiếp kiếp phụng dưỡng hoàng đế Đại Minh, tuyệt đối sẽ không có dị tâm. Với những thổ ty như vậy, Long Khánh cũng không tiếc ban thưởng, thăng quan tiến tước, cho ân sủng trọn đời.

Các đại diện của phiên quốc sau khi chứng kiến duyệt binh cũng bắt đầu lo sợ vì lễ vật của mình chuẩn bị quá ít, sợ hoàng đế bệ hạ không nhận. Nhưng Long Khánh rộng lượng nói:
- Lễ vật nghìn dặm, của ít lòng nhiều. Của cải trẫm nhiều như biển, chẳng lẽ lại vì các ngươi mà thiếu sao?
Hoàng đế rộng rãi lại khiến Trương Cư Chính kêu khổ, bởi mỗi lần như vậy lại mất cả vạn lượng bạc ban thưởng.

Có điều hắn cũng biết, trải qua sự thống trị vô lý của Chính Đức, Gia Tĩnh, sự khống chế của Đại Minh với các thổ ty phiên bang đã gần như không còn... Ô Tư Tàng của Tây Tạng, Đóa Cam lưỡng vệ chỉ tồn tại trên danh nghĩa, Tây Ninh Vệ ở Thanh Hải cùng tứ Vệ ở tái ngoại cơ bản đã bị Mông Cổ thay thế, thoát khỏi sự thống trị của triều đình. Không nói đâu xa, chỉ nói trong hai kinh mười ba tỉnh, hiện tại có Vi Ngân Báo ở Quảng Tây, Tằng Nhất Bản, Quách Minh ở Quảng Đông, Ngụy Thái Thanh, Hà Thuật ở Thiểm Tây, Vạn Dương Sơn ở Giang Tây, Phụng Kế Tổ ở Vân Nam cùng phản loạn, năm tỉnh mà có đến hơn mười nơi phản loạn. Nếu không phải mấy năm gần đây cố gắng tiêu diệt thì không biết đã loạn đến mức nào.

"Chỉ qua lần duyệt binh này có thể khiến họ bớt phản loạn, thì tiêu một chút cũng đáng giá." Trương Cư Chính trong bụng nghĩ thầm. Thật ra hắn đã rất hài lòng với kết quả của lần đại duyệt binh này, hắn tin rằng sau lần này, nhiều kẻ có dã tâm tạo phản sẽ phải tự lượng lại sức mình.

Suy đoán của Trương Cư Chính không sai, lần đại duyệt binh này đã thu được kết quả như ý. Quân uy của Minh triều cùng quốc sách hoà thuận hữu hảo đối với các phiên bang đã tạo thành tiếng vang lớn. Mấy năm sau có tới hai mươi bảy quốc gia, bốn mươi hai thổ ty đến Đại Minh triều cống, phản loạn trong nước cũng giảm đi rõ rệt... Điều này quả thật có ý nghĩa với cuộc chiến tranh với người Mông Cổ.

Còn một điều không ngờ tới, chính là trong các đại diện Âu Châu tới xem duyệt binh lại có một đại diện của Tây Ban Nha, người kia sau khi xem xong thì vô cùng chấn động, nhất là đối với trận đấu súng với chiến mã. Sau khi trở về liền viết một báo cáo, nói người Tây Ban Nha phải đánh giá lại sức mạnh quân sự của Đại Minh, đình chỉ hạm đội đang chuẩn bị xuất phát, sau đó phải chuẩn bị thật kỹ mới có thể khai chiến được.

Đương nhiên đây chỉ là những chuyện sau này.

-oOo-

Nếu như hỏi mỗi người đã xem duyệt binh, quân diễn lần này điều gì ấn tượng nhất, thì chắc chắn có hơn một nửa sẽ chọn trận đấu súng của thần cơ doanh với chiến mã kia, đến giờ bọn họ vẫn chưa hiểu vì sao lại có thể như thế được? Bọn họ cũng đã cố tìm hiểu sự thật, nhưng cho tới mãi tới khi rời đi cũng vẫn chưa tìm được câu trả lời... Thật ra cũng chẳng có gì bí mật, chỉ là bọn họ không hỏi đúng người mà thôi. Quan viên phụ trách tiếp đãi đều là người của Lễ bộ và Hồng lư tự, làm sao có thể biết cấu tạo của vũ khí Đại Minh, mà các quan viên cũng không thể đi hỏi giúp bọn họ, cho nên bọn họ đành ôm thắc mắc về nước, nhưng trong lòng vẫn mong sau này có thể biết vì sao.

Đối với đáp án của việc này, các tổng đốc, tổng binh của Đại Minh triều cũng muốn biết giống đại diện các nơi vậy, nhưng bọn họ không như đại diện các nơi, mà có thể quấn lấy Thẩm Mặc truy hỏi kỹ càng sự việc... Mấy ngày này, đề tài mà các tướng lĩnh nói tới nhiều nhất chính là về vấn đề đó: uy lực, xạ trình, cách thức khai hỏa. Với sự hiểu biết của bọn họ, sao lại không biết việc một loại vũ khí như thế có khả năng chuyển biến toàn bộ hình thức chiến tranh chứ.

Có người còn đoán không biết lúc đó có phải binh sĩ thần cơ doanh mỗi người đều cầm theo ba khẩu súng? Lời này nói ra liền bị mọi người cười nhạo, mọi người bảo hắn thử giấu hai khẩu súng trên người xem có giấu nổi không, đơn giản là không thể.

Lại có người nói liệu đay có phải là loại súng "Liên xạ" trong truyền thuyết? Lời này nói ra lại được mọi người tán thành. Các tướng lĩnh cao cấp đều biết vài chục năm trước, xảo tượng của Công bộ đã từng nghiên cứu chế tạo một loại súng thần kỳ có khả năng bắn liên tiếp. Nhưng có người nghe vậy thì cười nhạt, cho rằng cái gọi là súng "Liên xạ", dùng chơi thì còn có thể, chứ ra chiến trường không bắn được chết người. Bởi vì hắn là Thích Kế Quang cho nên mọi người không ai dám cười nhạo, chỉ có thể hỏi:
- Ngươi làm sao biết bắn không chết người?

Thích Kế Quang bình tĩnh đáp:
- Bởi vì ta đã từng là phó tướng của thần cơ doanh.
Mọi người nghe vậy không dám nói nhiều, nhưng vẫn mời hắn nói rõ nguyên nhân. Thích Kế Quang nói cho bọn họ biết, khi còn ở thần cơ doanh đã hắn đã từng có hứng thú với loại súng này, cũng tiến hành nghiên cứu cẩn thận, không chỉ chế tác phức tạp mà sai số khi bắn cũng rất cao, quan trọng là xạ trình lại quá thấp, cho nên mới nói chơi thì được còn trong thực chiến thì chỉ có duy nhất một tác dụng là làm ám khí.

- Ta xem súng bắn lúc diễn tập không chỉ khác về hình thức so với súng "Liên xạ", mà xạ trình của nó cũng xa hơn, hai loại súng này chắc chắn khác nhau.
Mọi người đều biết Thích Kế Quang là người cẩn thận, cho nên cũng không hỏi nhiều nữa, mà dành chuyện này đến khi kết thúc đại duyệt binh hỏi Thẩm lão một thể.

Thẩm Mặc bị cuốn lấy, bất đắc dĩ phải cho Binh Bộ Thị Lang Ngô Đoái trả lời.

Ngô Đoái sai người mang tới hai khẩu, một khẩu là điểu súng phổ biến trong quân, một khẩu chính là súng kíp mà thần cơ doanh dùng khi diễn luyện. Các tướng lĩnh cẩn thận xem xét hai khẩu súng, thấy khẩu sau so với khẩu trước nhỏ đi không ít, trang bị cũng khác một chút.

Ngô Đoái cẩn thận giải thích cho họ:
- Khẩu này là sản phẩm của tổng xưởng công binh trực thuộc Binh bộ, hoàng thượng đặt tên là "Long Khánh thức bộ thương", nguyên lý của nó không giống với điểu súng, mà xuất phát từ Âu Châu...

Thì ra mặc dù quân đội Âu Châu hiện nay vẫn sử dụng phổ biến súng có ngòi, nhưng từ đầu thế kỷ mười sáu, cũng là năm mươi năm trước, kỹ sư đồng hồ kiêm nhà chế tạo súng của Đức là Cơ Không Tư đã tạo ra một loại súng mới... Có người nói người này trong lúc nhìn đá lửa ma sát sinh ra tia lửa mà lóe lên ý nghĩ, sau đó hắn nghiên cứu để kết hợp giữa bánh răng thép của đồng hồ với đá lửa. Với kinh nghiệm và trí tuệ của hắn, vào năm 1515 tây lịch đã chế tạo thành công súng đá lửa có ổ đạn quay.

Việc Cơ Không Tư chế tạo thành công súng có ổ đạn quay được quân Đức quan tâm, sau đó quân Đức bắt đầu trang bị súng này cho bộ binh và kỵ binh. Hai mươi năm sau, trong một lần giao tranh với quân Pháp, lúc đó quân Pháp vẫn dùng loại súng có ngòi, còn quân Đức được trang bị loại súng mới. Trong lúc trận đánh diễn ra thì trời đột nhiên đổ mưa, súng của quân Pháp gần như không bắn nổi, còn súng của quân Đức thì càng bắn càng hăng, đánh cho quân Pháp chạy trối chết.

Nhưng loại binh khí này vẫn không thể mở rộng ra khỏi phạm vi nước Đức, bởi vì nó vẫn còn một số nhược điểm nghiêm trọng, cấu tạo vô cùng phức tạp, chế tạo khó khăn cho nên giá thành cao. Ngoại trừ trang bị cho các vương cung vệ đội, quý tộc bảo tiêu thì cũng không được dùng rộng rãi. Vì thế tuy đã xuất hiện nhiều năm nhưng cũng không ảnh hưởng tới địa vị của súng có ngòi.

Thế nhưng sự ưu việt của loại súng mới là rất rõ ràng, cho nên các nhà chế tạo luôn tìm cách cải tiến ổ quay của súng, đồng thời đơn giản hóa các chi tiết. Không lâu sau, người Tây Ban Nha khi đó rất hùng mạnh đã cải tiến được, họ thay bánh răng có nguồn gốc từ đồng hồ, đặt vào đó một khối đá lửa, phía sau có một cái cò. Đến khi xạ kích thì lẫy sẽ tác động tới cò súng, dưới tác dụng của lò xo sẽ đánh vào đá lửa, tạo thành tia lửa để bắn đạn. Loại cơ cấu này gọi là cơ cấu đánh lửa, còn súng thì gọi là "Súng đánh lửa".

Súng đánh lửa đã đơn giản quá trình xạ kích đi rất nhiều, tăng khả năng bắn nhanh và độ chính xác, sử dụng thuận tiện, hơn nữa chi phí thấp, dễ dàng sản xuất đại trà. Nhưng vật mới thay thế vật cũ cũng phải có một quá trình, trải qua vài chục năm với nhiều lần cải tiến, tin tức thu được cho thấy quân đội Tây Ban Nha đã bắt đầu đổi sang dùng loại súng này, nhưng cũng không phải là toàn bộ, ít ra thì tại các thuộc địa của người Tây Ban Nha vẫn chưa thấy qua súng này. Bằng không người đại diện kia của Tây Ban Nha cũng không giật mình đến vậy.

Đại Minh có thể đi trước các nước khác bắt chước sản xuất loại súng này, một nửa phải cảm ơn Thẩm Mặc có lòng, một nửa phải cảm ơn các "Thương nhân" đã trăm cay nghìn đắng trộm loại súng vẫn còn trong bí mật của Tây Ban Nha này về.

Nhưng để thần cơ doanh đại triển thần uy, còn phải dựa vào hai pháp bảo khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 841: Tây bắc vọng


Từ khi súng xuất hiện vào thế kỷ mười lăm, thời đại vũ khí lạnh trải qua mấy nghìn năm đã đi tới hồi kết. Sau khi chứng kiến uy lực cùng sự ưu việt của loại vũ khí mới, rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới, bao gồm cả Trung Quốc và Nhật Bản, đều không ngừng cải tiến thiếu sót của nó, cũng trang bị cho quân đội rất nhiều. Đến giữa thế kỷ mười sáu, trong vài chục năm, quân đội Âu Châu đã sử dụng rộng rãi súng châm ngòi, gồm cả bộ binh và kỵ binh.

Lúc này quân đội Âu Châu chủ yếu là bộ binh bắn súng, trường mâu binh thì trở thành người yểm hộ chính cho bộ binh bắn súng. Kỵ sĩ khôi giáp hoa lệ thời Trung cổ cùng trường cung thủ của Anh đã qua đi. Thực dân Tây Ban Nha cùng Bồ Đào Nha ỷ vào súng kíp, đại pháo, dùng trăm nghìn người được trang bị đầy đủ có thể đánh chiếm được một quốc gia, đánh tan mấy vạn dân mông muội bản xứ. Đây là điều tất nhiên của lịch sử, là sự quá độ từ vũ khí lạnh lên vũ khí nóng.

Với hiểu biết hai kiếp người của Thẩm Mặc thì điều này chẳng có gì phải nghi ngờ. Nhưng điều y thấy vô cùng hoang mang, chính là vì sao vũ khí nóng đã được sử dụng ở hơn năm thành của Minh quân, nhưng lại thảm bại dưới trường mâu cung tiễn của kỵ binh Hậu Kim chứ?

Mãi đến khi nắm rõ trang bị của Đại Minh, đồng thời so sánh với với hỏa khí của phương tây, Thẩm Mặc mới dần hiểu rõ, quy luật bản thân nó không sai, mà chính là bản thân Đại Minh sai... Sự quá độ lên vũ khí nóng, không phải chỉ là sự tiến hóa của vũ khí trong chiến tranh, mà còn phải gắn liền với sự phát triển của khoa học và công nghiệp. Không thể nghi ngờ, nếu không có hiểu biết về vật lý học, không có quy trình sản xuất chính xác đến từng milimet, thì không thể chế tạo được một khẩu súng tiêu chuẩn, đương nhiên cũng vì thế không thể đại triển thần uy của nó trên chiến trường.

Trận chiến của công ty Nam Dương tại Manila đã cho thấy rõ điều này. Lúc đó có đến mấy trăm binh sĩ đã qua huấn luyện của Đại Minh, dùng ưu thế nhân số áp đảo tuyệt đối mà đánh toàn quyền Tây Ban Nha. Không ngờ lại bị đối phương có hơn mười khẩu súng ngoan cường ngăn cản. Sau trận đánh, trong chiến báo truyền về có nói, tử thương của hai bên là một so với ba mươi, sự sát thương kinh khủng này của súng kíp thần cơ doanh của Đại Minh cũng không thể nào tạo được.

Ngoài nguyên nhân người Tây Ban Nha được huấn luyện bài bản, xạ thuật cao cường, thì còn có một nguyên nhân quan trọng, chính là bọn họ sử dụng loại súng có chất lượng hơn xa súng ống của Đại Minh.

Sau đó Thẩm Mặc đem súng ống thu được mang tới một nửa cho tổng xưởng công binh, để cho các công tượng mắt cao hơn đầu ở đây nghiên cứu. Một tháng sau, khi Thẩm Mặc quay lại tổng xưởng, đã thấy đầu bọn họ cúi thấp hơn trước, không thể nghi ngờ, so với các loại súng của Đại Minh sản xuất, thì những súng này không bị nổ trong khi châm ngòi, tránh cho binh sĩ khỏi nỗi sợ vỡ đầu khi châm lửa, hơn nữa nòng súng cũng không bị trước to sau nhỏ, bên trong nhẵn nhụi, viên đạn bắn ra ngoài đương nhiên tốc độ nhanh hơn nhiều, do đó xạ thủ sẽ tin cậy mà gia tăng luyện tập, đề cao xạ thuật.

Khi Thẩm Mặc nói đây chỉ là loại súng dùng cho thuộc địa của Tây Ban Nha, chứ chưa phải loại súng dùng cho cận vệ vương thất, thì các công tượng này cuối cùng cũng vứt bỏ kiêu ngạo của bản thân, bằng lòng thay đổi kỹ thuật sản xuất. Vì vậy Thẩm Mặc bỏ ra một số tiền lớn mời chuyên gia cùng kỹ sư từ Âu Châu về, để dạy lại từ đầu các nguyên lý, quy trình sản xuất cho các công tượng.

Tất cả các ý nghĩ đều phải dựa trên cơ sở khoa học, như binh khí cục trước kia vì muốn biểu diễn tư tưởng kỳ diệu của mình, đã sản xuất ra loại súng năm nòng, để trưng bày còn được, chứ mang ra chiến trường thì chỉ thuần túy là thứ coi mạng người như cỏ rác.

Lạc hậu liền bị ăn đòn! Nhưng còn đáng sợ hơn cả lạc hậu, chính là đã lạc hậu mà còn không thừa nhận! Thẩm Mặc yêu cầu tổng xưởng công binh phải vứt bỏ tất cả các ảo tưởng phi thực tế, chịu khó học tốt cái cơ bản từ các chuyên gia Âu Châu, ban đầu là bắt chước, sau đó thì sản xuất ra súng ống đạt chuẩn.

Cứ như thế sau một thời gian, công tượng cũng đã chế ra "Long Khánh thức bộ thương".

-oOo-

- Loại "Long Khánh thức bộ thương" này khi siết cò, sẽ tác động tới lò xo, làm cò phía sau tác động lên đá lửa, tạo thành tia lửa châm mồi cho đạn, bắn viên đạn ra.
Ngô Đoái cầm một khẩu súng trường, dẫn theo các vị tướng lĩnh ra bên ngoài, thành thạo biểu diễn nói:
- Dĩ nhiên súng này so với điểu súng tốt hơn rất nhiều. Ngoại trừ xạ trình thì ưu điểm quan trọng của nó, chính là bình quân cứ một trăm lần châm lửa, có thể đạt tám mươi lăm lần thành công.

Lời vừa nói xong dẫn đến một trận xuýt xoa, bởi vì nhược điểm của điểu súng, chính là khả năng thành công của mỗi lần châm lửa chỉ đạt được năm phần, mười lần có tới năm lần không cháy. Nếu như có thể tăng lên thành tám phần rưỡi, thì chẳng phải uy lực được tăng lên ba phần rưỡi hay sao?

Hơn nữa cho dù một lần không cháy, thì với loại "Long Khánh thức bộ thương" này mà nói, chỉ cần siết cò lại lần nữa thì có thể bắn tiếp lần hai, gần như không có thời gian trễ.

- Ngoài điều đó ra...
Ngô Đoái tiếp tục giới thiệu:
-... thì từ sáng kiến của đại nhân, đã chế tạo ra điểm ngắm (đầu ruồi) cho súng, so với việc bắn bằng cảm giác trước kia thì độ chính xác tăng lên nhiều... Đây là điều mà Âu Châu cũng không có.

Nghe xong giới thiệu của Ngô Đoái, các võ tướng trong lòng ngứa ngáy, hận không thể lập tức cầm súng để xem nó thần kỳ tới mức nào. Nhưng trước mặt lão đại Binh bộ, ai cũng không dám lỗ mãng, chỉ đành đứng một bên vò đầu bứt tai, ho khan liên tục.

Nhìn bộ dạng của bọn họ Thẩm Mặc không nhịn nổi cười, bèn nói:
- Cho bọn hắn xem thử đi.

Vì vậy ở ngoài trăm bước treo một vò rượu. Mà súng kia cũng đã ở trong tay Thích Kế Quang... Đã từng là người trong thần cơ doanh, nên nhiệm vụ thử súng đương nhiên là của hắn.

Thấy Thích Kế Quang nâng "Long Khánh thức" lên nhắm bắn, Thẩm Mặc không khỏi thầm toát mồ hôi. Năm đó tại Long Sơn Vệ, y đã nhìn thấy biểu hiện hơn người của Thích gia quân, chỉ bắn ba lần tên mà lui địch, nếu như nói ai có tư cách đánh giá ưu khuyết của súng và cung tiễn, thì chắc chắn phải là Thích Kế Quang.

Thích Kế Quang nín hơi ngưng thần, dựa theo sự chỉ dẫn của Ngô Đoái, vững vàng nhắm vào vò rượu, sau đó từ từ siết cò. Súng trong tay hắn như mọc rễ, không bị ảnh hưởng chút nào của lực phản chấn, vững vàng bắn đạn ra, tạch một tiếng đã bắn vỡ vò rượu nát bấy. Toàn bộ động tác được thực hiện trơn tru, hoàn chỉnh không giống với người lần đầu tiên sờ vào súng, khiến mọi người trầm trồ khen ngợi.

Thích Kế Quang rất hài lòng, yêu thích không muốn buông khẩu súng ra, hỏi Ngô Đoái:
- Có thể bắn xa hơn được nữa không?

Ngô Đoái lắc đầu:
- Loại súng này chỉ bắn trong vòng một trăm bộ, xa hơn nữa không đảm bảo sẽ trũng mục tiêu.

Một trăm bộ chính là 150m.

Trên thực tế, một cung tiến thủ muốn huấn luyện đạt chuẩn phải từ hai đến ba năm, nhưng đối với súng kíp thủ thì chỉ cần trên dưới hai mươi ngày là có thể cơ bản xong, đây cũng là nguyên nhân vì sao các đời vũ khí sau lại được chọn dùng. Biên quân những năm cuối thời Gia Tĩnh đã bắt đầu sử dụng điểu súng, hiệu quả cũng nhanh chóng thấy rõ, mặc dù vẫn không thể ngăn cản người Mông Cổ xâm lấn, nhưng mỗi lần đều có thể khiến cho họ thương vong nặng nề... Thử nghĩ một chút, nếu như các binh sĩ Đại Minh, ai ai cũng thiện xạ, thì còn lo gì chiến tranh?

Thích Kế Quang nhíu mày nói:
- Hôm đó ta thấy, xạ trình của thần cơ doanh còn hơn một trăm bộ.

- À, đó là một loại súng đặc chế.
Ngô Đoái nói rồi vẫy tay, liền có binh sĩ chạy tới dâng lên một khẩu súng có hình dáng gần giống với "Long Khánh thức".

- Nhìn xem khác nhau ở đâu.
Thẩm Mặc mỉm cười.

Thích Kế Quang mỗi tay cầm một khẩu ngắm nghía, những người còn lại cũng tiến vào tìm hiểu, nhưng xem một hồi lâu vẫn chẳng nhìn ra điều gì, thấy vẫn là một khuôn đúc ra mà thôi.

- Nhìn nòng súng...
Thẩm Mặc cười nhắc nhở:
- Bí mật ngay trong nòng súng.

Thích Kế Quang theo lời Thẩm Mặc nheo mắt lại, dùng mắt kia nhìn nòng của khẩu súng thứ hai, cuối cùng cũng phát hiện ra manh mối... Chỉ thấy bên trong nòng súng đáng ra phải nhẵn nhụi, thì lại thay bằng các rãnh xoắn. Hắn không nhịn được ngẩng đầu hỏi:
- Chẳng lẽ là do các vòng xoắn này?

- Phải.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Cái này gọi là thang tuyến, đừng coi thường nó, nó có thể làm cho đạn bắn ra chuẩn xác hơn.
(thang tuyến: đường xoắn nòng súng)

Sau khi tiếp quản Binh bộ, Thẩm Mặc âm thầm sai người điều tra trang bị hiện nay của quân đội, xem có thiếu hụt chỗ nào không. Trong đó có vấn đề về súng kíp, ngoài việc quan binh kêu thiếu thốn thì còn một vấn đề về xạ trình, bởi vì viên đạn hình tròn, nòng súng lại không đạt chuẩn, thường thường rõ ràng nhắm vào hươu nai dưới đất, nhưng khi bắn có khi lại trúng cả chim trên trời.

Thẩm Mặc đem vấn đề này cho các công tượng của tổng xưởng công binh và các chuyên gia Âu Châu nghiên cứu... Y cũng đã tự mình suy nghĩ, mặc dù y chỉ là người ngoài nhưng dù sao với kiến thức hơn năm trăm năm của mình, y có thể dựa vào kinh nghiệm mà có được một chút linh cảm. Y nghĩ tới hai phương pháp, một là tăng rãnh trong nòng súng, hai là trang bị thiết bị ngắm bắn (đầu ruồi).

Sau khi được cải tiến theo hai phương pháp trên, độ chuẩn xác của súng đã tăng lên rất nhiều, có thể bắn xa tới hơn 200m. Nhưng vì thời đại này phải khắc rãnh thủ công, cho nên chi phí rất cao, chi phí để làm một khẩu có rãnh phải làm được hai khẩu không có rãnh. Có điều vấn đề chủ yếu vẫn là ở lúc sử dụng súng, viên đạn phải kết hợp chặt chẽ với đường rãnh trong nòng súng, không giống như súng không nòng xoắn, đường kính viên đạn chỉ cần nhỏ hơn so với nòng súng là được, cho nên trang bị đạn cho súng có rãnh vừa khó vừa tốn. Cũng chính vì thế mà hầu hết súng dùng trong quân đội vẫn là súng nòng trơn. Hơn nữa qua thời gian, các binh sĩ đã nghĩ ra phương pháp tăng cường hiệu quả, ví như trước khi nhét đạn vào thì dùng vải thấm dầu bôi qua, cũng không khó hơn súng có rãnh bao nhiêu.

Như súng săn của Thẩm Mặc, nòng súng rất ngắn, công dụng chính là để săn bắn vui chơi. Có người nói mấy năm gần đây loại súng này đã thịnh hành ở Âu Châu, các quý tộc thường xuyên tổ chức các cuộc thi bắn súng để giải trí. Đương nhiên loại súng có xạ trình xa, uy lực lớn này không chỉ là đồ chơi của quý tộc, lúc đó thu nhập các chư hầu của Đức chủ yếu là từ lính đánh thuê, lính đánh thuê của bọn họ có ở khắp Âu Châu, trang bị chính là loại súng này.

Loại vũ khí uy lực thế này đời nào Thẩm Mặc bỏ qua, y liền mang cho tổng xưởng công binh nghiên cứu kỹ thuật tạo rãnh nòng súng. Với sự hiểu biết của thời đại này, chỉ cần các tổng giám, công tượng cố gắng, thì tạo rãnh nòng súng cũng không khó khăn gì. Chỉ trong mấy ngày đã nghiên cứu xong máy tạo rãnh nòng súng thủ công, từ đó tạo ra "Long khánh thức bộ thương" đúng chuẩn.

-oOo-

Để cải tiến độ chuẩn cũng như tầm xa của súng, Thẩm Mặc còn kiến nghị thay viên đạn từ hình cầu sang một đầu nhọn, một đầu dài, việc này cũng không phải sử dụng kĩ thuật khó khăn gì.

Trong phòng thử nghiệm của tổng xưởng công binh, viên đạn dài cho thấy sự ưu việt hơn hẳn viên đạn hình cầu. Thứ nhất, tuy có cùng trọng lượng nhưng đường kính của viên đạn dài nhỏ hơn viên đạn cầu, hơn nữa đầu nhọn của nó có thể giảm sức cản của không khí khi bắn ra. Vì thế đường kính của súng cũng được thu nhỏ lại, trọng lượng giảm đi, tăng thêm sự chắc chắn cho súng rất nhiều. Thứ hai, diện tích tiếp xúc với rãnh nòng súng của viên đạn dài lớn hơn đạn cầu, nương theo rãnh nòng súng tốt hơn, vì thế có thể giảm bớt độ sâu của rãnh nòng súng, từ đó giảm bớt chi phí sản xuất.

Hiện nay các công tượng chế tạo đạn đều dùng thiếc hoặc chì làm đầu đạn, nhưng vì tính mềm dẻo của chúng nên khi bắn sẽ gây tắc trong nòng súng. Đáng lẽ loại chất liệu này không còn được dùng nữa, nhưng có người lại nghĩ liệu có thể thu nhỏ đường kính viên đạn hơn nữa được không, không ngờ thực nghiệm sau đó cho kết quả rất tốt. Trải qua tìm tòi, đã làm ra loại đạn có đáy lõm, như vậy khi bắn đầu đạn có thể giãn nở, khiến đầu đạn kề sát rãnh nòng súng, dưới sự đè nén của rãnh nòng súng đầu đạn sẽ xoay tròn bắn ra, khi trúng mục tiêu sẽ tăng diện tích công phá, tạo thành tổn thương lớn, nhất là đối với các loại động vật có thân hình lớn lại càng có tác dụng.

Nhưng vì loại đầu đạn này chỉ có thể chế tạo bằng kim loại mềm, mà bây giờ chỉ có chì và thiếc là thích hợp. Trong đó thiếc có điểm nóng chảy thấp, mềm, hiệu quả tốt, nhưng các công tượng lo lắng binh sĩ sẽ chiếm lấy kim loại quý này, cho nên quyết định dùng chì để chế tạo... Hơn nữa vì đầu đạn này rất dễ bị biến dạng, cho nên công binh xưởng không sản xuất, mà cung cấp khuôn đúc cho các binh sĩ tự đúc lấy đạn trước mỗi trận chiến.

Ở thời đại này, chưa có nước nào dùng hỏa khí sánh được với Đại Minh.

-oOo-

- Ngươi vừa mới bắn chính là đạn đã cải tiến.
Thẩm Mặc nói với Thích Kế Quang:
- Nếu là đạn cũ thì xạ trình chỉ có tám mươi bộ.
Nói rồi ngón tay chỉ vào Long Khánh thức nói:
- Ngươi có thể thử cho biết.

Thích Kế Quang theo lời, lui ra hơn 150 bộ rồi ngắm bắn, trúng. Sau đó lại lùi đến 180 bộ ngắm bắn, vẫn trúng... Hắn định lùi nữa nhưng sân chỉ rộng có vậy, Ngô Đoái tự tin nói rằng súng này trong vòng 200 bộ bắn trúng mục tiêu là chuyện thường.

Sau khi thử súng, mọi người quay lại phòng nghị sự, các vị tướng lĩnh vẫn còn đang bị chấn động chưa kịp tỉnh... Loại súng này trước nay chưa từng có, bộ binh có thể bắn ra mưa đạn, cho dù đối mặt với kỵ binh xung phong cũng không còn chịu cảnh chờ chết nữa.

Cuối cùng, có người không nhịn được hỏi Ngô Đoái:
- Ngô đại nhân, chúng ta lúc nào thì được trang bị Long Khánh thức?

Ngô Đoái lắc đầu:
- Còn chưa có kế hoạch.

- Cứ cho một khoảng thời gian cũng được mà.
Mọi người nhao nhao nói:
- Dù sao cũng cho một chút hi vọng chứ.

Ngô Đoái nhìn Thẩm Mặc, vấn đề này không phải là vấn đề hắn có thể trả lời.

Thẩm Mặc đặt chén trà trong tay xuống, cười nói:
- Chư vị, ai nói với các vị sẽ được trang bị loại súng này?

- Trên thao trường đã biểu diễn, chẳng lẽ lại không trang bị cho các quân?
Mã Phương ỷ mình thế lớn, hắc hắc cười nói.

- Đó chỉ là để dọa thôi, hiểu không?
Thẩm Mặc như cười như không nói:
- Trên thao trường chỉ để cho các thổ ty thủ lĩnh xem, các ngươi nhờ bọn họ mới được thấy mà thôi.

- Mạt tướng không hiểu.
Mã Phương mở to mắt nói:
- Súng tốt như vậy sao lại không trang bị cho quân?
Nói rồi lắc đầu:
- Thấy Long Khánh thức rồi, ai còn muốn dùng điểu súng rách nát này nữa.

- Xin lỗi.
Thẩm Mặc nhẹ lắc đầu:
- Phần lớn quân đội vẫn phải dùng điểu súng tác chiến.

- Vì sao?
Mã Phương nóng nảy.

- Sao lại nói với đai nhân như vậy?
Đàm Luân vội vàng quở trách.

Thẩm Mặc xua tay ý nói không có gì, thản nhiên nói với Mã Phương:
- Ngươi chỉ biết súng này tốt, nhưng không biết tốn bao nhiêu tiền mới làm được nó...

- Đúng thế...
Ngô Đoái vội vàng nói tiếp:
- Đừng chỉ nhìn súng này đơn giản vậy, muốn làm ra thật không phải là chuyện dễ. Cái khác không nói, chỉ nói riêng nòng súng này...
Nói rồi nhìn sang Thích Kế Quang:
- Nguyên Kính huynh đối với điểu súng rất có hiểu biết, huynh nói xem nòng súng trước kia của chúng ta có vấn đề gì?

- Vấn đề không nhỏ.
Thích Kế Quang khẽ than một tiếng:
- Dễ bị rỉ sét không nói, hơn nữa nòng súng cũng không thẳng, chỉ có thể bắn phát nào biết phát đó.

- Đúng thế, điểu súng của Đại Minh ta sở dĩ không cách nào so với súng của Tây Dương chính là vì chất lượng sắt đúc nòng súng.
Ngô Đoái thở dài một tiếng.

- Vấn đề này, năm đó khi đánh Oa, mạt tướng đã nhận ra.
Thích Kế Quang gật đầu nói:
- Binh khí của chúng ta luôn bị đao của Oa nhân chém đứt, đường đường kỹ thuật luyệt sắt của Đại Minh Thiên triều không ngờ không so được với một Oa nhỏ bé, thật sự thấy xấu hổ đến chết.

- Không phải là kỹ thuật không bằng người.
Ngô Đoái lắc đầu:
- Hai năm nay chúng ta đi khảo sát Âu Châu, thì thấy kỹ thuật luyện sắt và rèn sắt của mười mấy quốc gia đều lạc hậu so với Đại Minh ta hơn trăm năm.
Nói rồi cười khổ:
- Kể cả Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha cũng vậy.

- Vậy vì sao súng kíp của chúng ta lại lạc hậu?
Thích Kế Quang không hiểu hỏi.

- Có hai nguyên nhân quan trọng.
Ngô Đoái giơ hai ngón tay lên nói:
- Thứ nhất, nước ta thiếu quặng sắt chất lượng tốt. Binh bộ phái người đi khảo sát mười lăm khu rèn đúc lớn, thì thấy bọn họ sử dụng chỉ là quặng sắt có hàm lượng tạp chất cao...

- Chính xác là photpho và lưu huỳnh.
Thẩm Mặc thản nhiên nói, y nói với kỹ thuật thăm dò khảo sát của thời đại này thì Trung Quốc vẫn không tìm được quặng sắt có chất lượng cao, vẫn phải nhập loại quặng chất lượng thấp từ bên ngoài vào.

- Một nguyên nhân khác chính là vấn đề về nhiên liệu luyện sắt. Nhật Bản cũng tốt, Âu Châu cũng được, phàm là những nơi có thể rèn ra sắt tốt, đều dùng than củi để luyện. Thật ra Hoa Hạ chúng ta từ xưa đến nay cũng dùng than củi, mặc dù tới thời Tống Minh chuyển sang dùng than, nhưng thực chất không phải là kỹ thuật tiến bộ, mà bởi vì rừng phương bắc ngày càng cạn kiệt, không thể cung cấp than củi được nữa, chỉ có thể dùng than đá để luyện.
Ngô Đoái khẽ than một tiếng.

- Than đá của chúng ta cũng giống quặng sắt, đều có hàm lượng lưu huỳnh và photpho cao.
Thẩm Mặc nói tiếp:
- Vì sự ảnh hưởng của than đá, cho nên chất lượng của sắt luyện ra rất xấu. Đến khi mang vào sử dụng, sắt có nhiều lưu huỳnh dễ bị nứt vỡ, nhiều photpho thì giòn, dùng làm đao kiếm dễ gãy, làm thang dễ sập. Việc này có ảnh hưởng lớn tới việc chế tạo súng, bởi vì không thể để súng dễ vỡ hỏng như vậy, cho nên chỉ còn cách làm cho súng dày và nặng để bù lại.

- Hiện giờ có ba cách giải quyết.
Ngô Đoái nói:
- Một là dùng đồng thay thế, nhưng chi phí cao, hơn nữa Đại Minh cũng thiếu đồng, nên không khả thi; cách hai là không tiếc chi phí rèn lại nhiều lần, muốn đạt được tiêu chuẩn nòng súng như Âu Châu, Đại Minh chúng là rèn mười cân gang lấy một cân sắt, lại dùng năm cân sắt rèn ra một điểu súng, nhưng cách này chi phí không nhỏ, hơn nữa lại tốn thời gian.

- Còn cách thứ ba?
Doãn Phụng hỏi.

- Chính là nhập quặng sắt từ nước ngoài về, sau đó dùng than củi trong nước luyện sắt.
Ngô Đoái nói:
- Hiện nay sắt để đúc Long Khánh thức đều là dùng cách này, từ Vu Hồ tinh luyện xong sẽ vận chuyển tới kinh thành, do đó chi phí rất cao, nhưng hiện nay đây cũng là cách duy nhất.
Rồi ước lượng một con số:
- Hiện nay chi phí để chế tạo một khẩu Long Khánh thức là năm mươi bốn lượng bạc, sau này có giảm cũng vẫn là năm mươi lượng, trong đó nòng súng chiếm đến bảy phần chi phí.

- Vậy chẳng phải là đúc bạc mà thành sao?
Chúng tướng líu lưỡi.

- Cho nên nếu không thể giải quyết được vấn đề nguyên liệu...
Ngô Đoái nói:
-... thì mỗi năm chỉ làm được một vạn khẩu Long Khánh thức mà thôi... Không phải là Binh bộ không muốn làm nhiều, cũng không phải là thiếu quặng sắt, mà là triều đình không có tiền.

Ở bất cứ quốc gia nào, quặng sắt đều là mặt hàng cấm buôn bán, vận chuyến, nhất là quặng sắt có hàm lượng cao luôn bị các quốc gia độc chiếm cho riêng mình. Mặc dù trên đời này không có chuyện gì mà tiền không làm được, nhưng vì vậy mà chi phí cũng bị đẩy lên rất cao. Cho nên để giải quyết vấn đề nguyên liệu, trừ phi triều đình tăng thu nhập, bằng không không thể nào tăng sản lượng được.

Thực tế với một vạn khẩu thì có thể trang bị được cho bao nhiêu bính sĩ? Nếu như bình thường, mỗi người một khẩu không thành vấn đề, nhưng trong chiến tranh mà nói, thì dù số lần giao tranh ít, cộng với hậu phương tiếp tế không ngừng, cũng chỉ có thể trang bị cho tối đa năm, sáu nghìn người, điều này đối với hơn mười vạn nhân mã cửu biên hiện nay thì chẳng thấm vào đâu...

Cho nên đối với một vạn khẩu súng này, các tổng binh đều nóng lòng muốn có, cho dù không thể độc chiếm cũng muốn được chia một chén canh, ngay cả các tổng đốc vốn tự giữ thân phận cũng đứng ngồi không yên.

Thẩm Mặc ngồi trên thấy các tướng lĩnh tranh giành nhau tới mức mặt đỏ gay thì trong lòng sinh tức giận... Đều là đại tướng từng dẫn mấy vạn nhân mã, sao lại có cái nhìn thiển cận như vậy. Thực ra cho dù súng có tốt, cũng không thể xảy ra tranh giành đến mức này, mà nguyên nhân sâu xa chính là mâu thuẫn nội bộ trong quân... Trước kia, mặc dù võ tướng mỗi trấn không hợp tính, nhưng cũng vẫn hòa thuận với nhau, việc tranh chấp tài nguyên đều do tổng đốc đứng ra. Sau khi tổng đốc lấy được, mỗi trấn sẽ tự định đoạt với nhau, tốt xấu gì cũng là một quy củ.

Nhưng bây giờ chẳng còn quy củ nào, tất cả trở nên hỗn loạn, nguyên do cũng chính là mâu thuẫn giữa biên quân, kinh quân cùng nam quân. Đại ý là, biên quân không ưa kinh quân cùng nam quân, vì bọn họ đều có đãi ngộ và tiếp tế tốt hơn; nam quân coi thường biên quân cùng kinh quân, bởi vì bọn họ thường bại trận, phải dựa vào sự hỗ trợ của nam quân để ổn định thế cục; kinh quân đối với biên quân và nam quân thì luôn có tư tưởng tự cao về thân phận. Ba quân đều nghĩ mình là nhất, đương nhiên chuyện gì cũng muốn lợi cho mình.

Tác hại của mâu thuẫn nội bộ, quả thực là đáng sợ.

Thẩm Mặc không thể giải quyết mâu thuẫn, nhưng y có tuyệt kỹ làm gác lại mâu thuẫn, vì thế y trầm mặt xuống.

Mặc dù chúng tướng đang tranh cãi ầm ĩ, nhưng thật ra luôn luôn để ý tới Thẩm Mặc, thấy y lạnh lùng không nói gì thì tất cả liền im re.

- Sao không ầm ĩ nữa?
Thẩm Mặc nhếch miệng hỏi.

Mọi người không ai dám nói gì, dù thở mạnh một chút cũng không dám.

- Đều là tổng binh, đô đốc, vì mấy khẩu súng mà cãi nhau thành thế này sao?
Thẩm Mặc lạnh nhạt nói:
- Chỗ này là cái chợ à?

- Mọi người cũng chỉ vì muốn đánh cho Thát...
Mã Phương bạo gan đánh liều nói.

- Lẽ nào Mã vương gia ngươi có thể thắng Yêm Đáp liên tiếp, đều là nhờ vào Long Khánh thức?
Thẩm Mặc trừng mắt nhìn hắn, rồi nhìn sang chúng tướng:
- Các ngươi không có Long Khánh thức thì không bảo vệ khu vực của mình được sao?

- Đương nhiên không phải thế...
Mọi người lắc đầu nói.

- Vậy ngoan ngoãn ngồi xuống đi.
Thẩm Mặc đứng lên nói:
- Sự vụ cửu biên nhiều như núi, lần này cho gọi các vị trở về chắc các vị cũng đoán được, không đơn giản chỉ vì quân diễn chứ?

- Vâng.
Chúng tướng đều đứng dậy, theo sau Thẩm Mặc vào phòng họp bí mật bên trong.

-oOo-

Ngoài phòng có Cẩm Y Vệ nghiêm ngặt đứng gác, các vị tổng đốc, tổng binh chỉ có thể tiến vào một mình, không được mang theo bất cứ một tùy tùng hộ vệ nào. Các cửa sổ bên trong đều dùng rèm lục sắc dày che lại, một tia sáng cũng không lọt. Nhưng trong phòng có hơn mười ngọn đèn ngọc lưu ly không khói, chiếu sáng như ban ngày.

Đợi chúng tướng an vị, Thẩm Mặc sai người sai người kéo tấm màn che trên tường phía bắc xuống, lộ ra một bản địa đồ biên phòng của cửu biên. Thấy địa đồ này, tất cả mọi người đều biết khoảnh khắc mong chờ cuối cùng đã đến.

- Chắc chắn chư vị không xa lạ gì với bản địa đồ này, đây là "Đại Minh cửu biên biên phòng đồ".
Giọng nói Thẩm Mặc vang lên:
- Từ ngày lập quốc, Thái tổ hoàng đế đánh đuổi Thát Lỗ, khôi phục Trung Hoa, đem tàn dư quân Nguyên đuổi về Mạc Bắc, nhưng Nguyên Thuận đế khi rút về phương bắc vẫn dẫn theo nhiều tướng lĩnh, dân chúng không dưới trăm vạn. Vì để củng cố vương quyền mới lập, tiêu trừ thế lực tàn dư của Nguyên quân, mà Thái tổ mấy lần dụng binh lên đại mạc, tuy nhiên cũng không được như ý, đành phải thay đổi sách lược lấy phòng ngự là chính. Thái tổ thiết lập bắc bộ biên phòng tuyến, phía đông từ Liêu Đông Áp Lục Giang, tới tận Cam Túc Tửu Tuyền phía tây, đóng quân trải dài mấy nghìn dặm, trước sau thiết lập chín trọng trấn Liêu Đông, Nghi Phủ, Đại Đồng, Diên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Sơn Tây và Cố Nguyên, gọi là "cửu biên". Cũng thiết lập phía bắc trường thành ba đội quân tiền tiêu Đại Ninh, Khai Bình, Đông Thắng Vệ để ngăn ngừa Mông Cổ nam tiến, hình thành nên thế cục quân sự liền lạc.

- Sau đó nhị tổ dựa vào cửu biên đã vài lần bắc phạt, khiến biên cảnh Đại Minh được hưởng vài chục năm an bình. Nhưng sau biến Thổ Mộc Bảo, Đại Minh ta tổn thất nặng nề, từ đó vai trò công thủ với người Mông Cổ cũng đổi chỗ, hàng năm đều phải chịu công kích của chúng. Hơn nữa từ thời Thiên Thuận tới nay tình hình càng trở nên nghiêm trọng, cửu biên hàng năm vẫn phải chống đỡ sự xâm lấn hàng trăm lần, Thát Lỗ liên tiếp đi sâu vào đất Đại Minh, giết người đốt nhà, thậm chí còn đánh tới sát kinh sư, làm mặt rồng sợ hãi.
Thẩm Mặc nhìn mọi người đang ngồi nói:
- Thân là tướng soái biên trấn, chư vị ắt hẳn rõ ràng việc này, không biết có suy nghĩ thế nào?

Chúng tướng đều cúi đầu, thầm nghĩ sao ngài lại vạch áo cho người xem lưng.

- Sau này khi ta nhậm chức, đã hỗ trợ Binh bộ điều tra tình hình phòng bị của cửu biên.
Thẩm Mặc lạnh lùng nhìn chúng tướng, mặt không lưu tình nói:
- Kết quả thu được khiến người ta khó lòng mà tiếp nhận. Ở mỗi thành trấn tuần sát, trang bị mùa đông chuẩn bị cho mỗi nhánh nhân mã định mức tuy nhiều, nhưng cứ năm mươi bộ lại thiếu tới ba, bốn mươi bộ; quân đội thiếu y phục, quân khí hỏng hóc, ngựa già xấu, gian khổ vô cùng. Với tình hình như vậy quân đội không làm phản đã là may, nói gì tới việc phòng thủ?
Y đảo mắt qua mọi người nói:
- Về phần các thành sát biên, lương thực, đồ dùng đều không nhiều, hơn nữa còn không có dự trữ. Về phần khí giới hỏng hóc, không dùng được rất nhiều. Thậm chí có sĩ tốt của Vệ sở dùng gậy gỗ đi tuần tra! Ta muốn hỏi các vị một chút, việc này rốt cục là do đâu? Do triều đình không chuẩn bị tốt, Binh bộ cắt xén lương bổng, hay là do tầng tầng tướng lĩnh mỗi trấn ăn bớt? Còn quân điền, ruộng đất cũng đi đâu mất, sao trong sổ sách các trấn đều không ghi? Rút cục là đất có chân chạy mất sao?

Chúng tướng nghe y nói mà mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, thầm nghĩ chẳng lẽ lần về không phải là để động viên, mà là trách tội? Lúc này cũng không thể im lặng được nữa, mọi người quay sang nhìn nhau, cuối cùng tất cả đều nhìn về phía Đàm Luân, năn nỉ vị Binh Bộ Thị Lang, Tuyên Đại tổng đốc này có thể thay mặt mọi người nói vài câu.

- Phòng chính đại nhân bớt giận...
Đàm Luân đành liều mình nói:
- Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, chúng tôi mặc dù là tổng đốc, tổng binh nhưng cũng không dám làm quá. Chúng tôi không phải không biết vấn đề ở đâu, nhưng nếu phải xuống tay với thuộc hạ, sợ rằng sẽ loạn mất.
Khẽ than một tiếng lại nói tiếp:
- Nếu cứ truy tới cùng, triều đình sẽ phải điều chuyển các tướng lĩnh cao cấp, nhưng từ tham tướng trở xuống, thường là sống suốt đời ở quê nhà, những người này trải qua đời đời kiếp kiếp, đã kết hôn sinh nở, con cháu lại tiếp tục như vậy, tới nay đã gần được mười đời, coi như đã trở thành người bản địa.
Dừng lại một chút lại tiếp:
- Vừa rồi phòng chính đại nhân hỏi ruộng đất đi dâu, chính là cho gia tộc các tham tướng này, không tin ngài có thể điều tra các địa chủ Tuyên Đại, Cam Ninh, sẽ thấy phần lớn bọn họ có quan hệ gia tộc với các quân quan ở đó.

Chúng tướng vội vã phụ họa:
- Đúng thế thưa phòng chính đại nhân. Nhưng chúng tôi không giống bọn họ, nguyên nhân cũng vì một khi biên phòng thất thủ, mọi tội lỗi liền đổ lên đầu chúng tôi. Ngài xem mấy chục năm nay các vị đốc phủ, tổng binh, có ai có thể chết già trên cương vị không? Từ lúc chúng tôi lên nhậm chức, sớm chiều đều lo sợ, chỉ sợ làm không tốt thì họa tới con cháu, người nào còn dám đi bớt xén quân tư, bóc lột sĩ tốt?

Nhất thời ai cũng có vẻ đáng thương, nào còn cái vẻ bệ vệ thường ngày.

Thẩm Mặc lặng yên nghe chúng quan kể khổ, đợi đến khi họ nói xong mới bình thản nói:
- Ta cũng không thể biết hết mọi chuyện, nếu chư vị khổ sở như vậy, vì sao còn xích mích với nam quân lên tiếp viện? Chẳng lẽ chư vị không biết bọn họ tới là để giúp chư vị sao?

Chúng tướng bừng tỉnh, thì ra Thẩm lão vòng vo như vậy là vì chuyện này. Đành phải nói vì biên quân không ưa nam quân, nam quân cũng coi thường biên quân, hai bên lại ở cùng nhau nên rất khó quản lý, cho nên mới xảy ra vấn đề.

- Vậy để cho biên quân thủ trong thành, nam quân ngoài thành.
Thẩm Mặc gõ gõ tay nói:
- Huynh đệ không hợp còn ra ở riêng, sao cứ bắt bọn họ ở chung một chỗ?

Khuôn mặt chúng tướng khẽ biến... Kỳ thật mâu thuẫn của nam quân và biên quân chính là vì hai quân quá cách biệt giàu nghèo. Mặc dù Thẩm Mặc đã cố gắng can thiệp, hiện tại biên quân đều được tuần phủ nha môn trả lương hàng tháng, nhưng mỗi tháng chỉ có ba tiền, vẫn như trước không đủ ăn, đừng nói trang bị quân tư, trang bị.

Nam quân thì ngược lại, theo yêu cầu của Thẩm Mặc, áp dụng chính sách "Bản tỉnh cung đệ", tức là binh Chiết Giang thì Chiết Giang trả lương bổng, binh Phúc Kiến thì do Phúc Kiến phụ trách, hơn nữa vì đều là mộ binh cho nên lương bổng gấp mấy lần biên quân, cũng chưa bao giờ khất nợ. Về trang bị thì hè có quần áo mùa hè, đông có trang phục mùa đông, một năm bốn mùa quần áo chỉnh tề, cho dù bị trì hoãn thì cũng rất nhanh được bổ sung.

Hai quân đối lập như vậy đương nhiên khiến cho biên quân đố kị, mà các võ tướng lại mượn cơ hội gây chuyện, mang nguyên nhân tướng sĩ dưới trướng ăn không đủ no, mặc không đủ ấm đổ lên đầu nam quân... Nói bọn họ đi từ xa tới, không thể mang theo vật tư, nên dùng tiền mang theo mua đồ ăn tại chỗ, dẫn đến giá cả tăng cao, hơn nữa còn làm cạn kiệt vật tư, làm cho biên quân bọn họ càng thêm khó...

Dưới sự kích động khéo léo như vậy, mâu thuẫn của biên quân và nam quân ngày càng gay gắt, gần như mỗi ngày đều có ẩu đả xảy ra, thậm chí án mạng cũng không phải không có. Ngay cả các vị tổng binh cũng bị ảnh hưởng mà cuốn vào mâu thuẫn lúc nào không hay, cho nên mới có việc tranh súng vừa rồi.

-oOo-

Dù đã làm thứ phụ, có địa vị cao quý, nhưng Thẩm Mặc cũng không cách nào giải quyết vấn đề này, trừ phi y có thể thuyết phục nam quân chi trả quân phí cho cả biên quân.. Nhưng chuyện này là chuyện không thể xảy ra, cho dù y có là Đông Nam vương, thì cũng phải dựa vào lợi ích của Đông Nam mà quyết định, nếu y cứ làm theo ý mình thì chắc chắn sẽ bị quan thân đại hộ ruồng bỏ.

Y chỉ có thể áp dụng biện pháp tách rời hai quân trước, ngoài ra cũng chẳng còn cách nào.

Chúng tướng nghe vậy cũng thấy đây là biện pháp tốt nhất có thể làm bây giờ, nhắm mắt làm ngơ, giả mù giả điếc, như vậy sẽ giảm rất nhiều chuyện phiền phức. Vì thế tất cả đều đáp ứng, sau khi trở về sẽ áp dụng.

Nhưng tổng đốc Kế Liêu Tào Bang Phụ rất có lập trường, hắn hỏi:
- Làm vậy bình thường còn được, nhưng nếu như gặp phải đại chiến sẽ rất khó hợp lực.

- Nói không sai.
Thẩm Mặc gật đầu, nhìn hắn nói:
- Nhưng huynh có biện pháp tốt hơn sao?

Tào Bang Phụ lắc đầu, đây vốn là sự khác biệt tài lực giữa nam và bắc, không thể dựa vào sức người mà bù đắp, hắn nói:
- Không có nam binh thì không phòng thủ được, có nam binh rồi thì không tiến công được, đúng là cũng chẳng còn cách nào.

- Nhiều người thì đương nhiên tốn cơm.
Thẩm Mặc vung tay lên, kiên quyết nói:
- Cho nên chiến lược mấy năm tiếp theo của chúng ta, không thể chỉ tiến công, mà phải vừa công vừa thủ.

Nếu như ngay từ đầu nói như vậy thì chúng tướng chắc chắn sẽ phản đối, ai lại muốn người khác tác oai tác quái trên đất của mình chứ? Nhưng sau khi bị Thẩm Mặc dụ dỗ dọa dẫm, chúng tướng đều thấy chuyện này là việc nên làm, không có ai có ý kiến gì.

Thấy đã làm chủ được tình hình, Thẩm Mặc nâng chung trà lên uống một ngụm, thấy nước trà hơi lạnh thì khẽ cau mày:
- Thật ra nếu muốn ổn thỏa, thì phải chuẩn bị trong mười năm, sau đó mới cùng Thát Lỗ quyết chiến.

Chúng tướng đều gật đầu, đúng vậy, nếu như có thể có mười năm dưỡng sức, chắc chắn biên quân sẽ không sống dở chết dở như bây giờ, đánh cũng không thể đánh, đến lúc đó binh cứng lương đủ, sao phải sợ nam quân? Hơn nữa mười năm sau, Yêm Đáp đã bảy mươi tuổi, gần đất xa trời, có khi chết rồi cũng không chừng, mà người như lão ở Mông Cổ rất khó kiếm người thứ hai, người có thể đoàn kết các bộ lạc. Có khi sau khi hắn mất, tám phần mười sẽ tam phân ngũ liệt, đến lúc đó chỉ còn phải đối phó với các bộ lạc riêng lẻ, độ khó cũng giảm đi rất nhiều.

"Thật ra thì Đại Minh vẫn chưa chuẩn bị để khai chiến toàn diện." Trong lòng mọi người đều nghĩ vậy.

- Ta biết có người hy vọng tới lúc Yêm Đáp chết già.
Thẩm Mặc vỗ bàn nói:
- Hy vọng vào việc địch nhân bị thời gian giết chết là suy nghĩ của kẻ nhu nhược! Chẳng may Yêm Đáp sống thọ trăm tuổi, lẽ nào Đại Minh ta còn phải chịu chà đạp bốn mươi năm?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 842: Kỵ quyển bình cương


Đối với quân nhân mà nói, gửi hi vọng vào thời gian đánh bại đối thủ là suy nghĩ sỉ nhục, nhưng đối với chính trị gia mà nói, chỉ cần có kết quả vừa ý là được, còn về phương pháp ra sao không quan trọng, cho nên những lời hùng hồn của Thẩm Mặc chỉ là để nói với các chiến sĩ, nguyên nhân tại sao nội các khai chiến lúc này không nói rõ.

Thực tế cải cách của nội các chỉ ở giải đoạn thử nghiệm đã bị các phía kháng cự mạnh mẽ, nếu như tiến vào giai đoạn toàn diện thi hành, cục diện sẽ mất kiểm soát. Muốn quá độ vượt qua kỳ bố trí nguy nan nhất này, nội các cần cực lực tăng cường quyền uy...
Dưới thể chế của Đại Minh, ngoài cần hoàng đế toàn lực ủng hộ, còn phải được triều đình từ trên xuống dưới, ngoan ngoãn ngậm miệng nghe lời mới được.

Hoàng đế tất nhiên là ủng hộ các vị sư phụ rồi, nhưng muốn bịt miệng bách quan thì ngay hoàng đế cũng làm không được... Đừng nói Long Khánh, trừ Thái tổ Thành tổ giết người như ngóe ra thì không một vị hoàng đế nào làm nổi.

Hoàng đế không làm nổi, thần tử tất nhiên càng không làm nổi. Vậy chỉ còn một cách, đó là để quốc gia tiến vào trạng thái chiến tranh cấp thấp.
Đặc điểm lớn nhất trạng thái ngày là nghiêm pháp, hiệu quả, bớt nghị luật. Nội các có thể tập quyền mà không ai nói gì, hơn nữa không phải chiến tranh toàn diện, nên dù có thất bại cũng không tới mức không thể vãn hồi.

Đương nhiên, với trí tuệ của Cao - Thẩm - Trương, tuyệt đối không thể chỉ vì cải cách mà cố chấp phát động chiến tranh... Đó là điên chứ không không phải là cải cách.
Bọn họ đã cân nhắc kỹ rồi, cho rằng lúc này tiến hành chiến tranh cục bộ, nếu như thắng, sẽ xoay chuyển cục diện biên phòng bị động của Đại Minh.

Hiện giờ là giai đoạn suy yếu nhất của người Mông Cổ mấy chục năm qua, quân minh liên tục phái nhóm kỵ binh nhỏ giết gia súc, đốt cỏ ngoài biên ải, khiến các bộ lạc Mông Cổ tài sản nhân khẩu tổn thất lớn, bất tri bất giác suy yếu thực lực các bộ lạc biên cảnh Mông Cổ không ít.

Còn phương diện Mông Cổ, Yêm Đáp không giải quyết được sự thù địch của Ngột Thận Bộ, một khi Yêm Đáp suất đại quân xâm nhập Đại Minh như trước kia, phải lo tới việc bộ lạc hùng mạnh này sẽ chặn đường lui. Cho nên ngày nào còn chưa giải quyết được bộ lạc này, Yêm Đáp còn như vướng xương trong cổ, không để ý được tới việc khác.

Họa vô đơn chí, mấy năm qua các khu vực như Hô Hòa Hạo Đặc nơi đặt vương đình của Yêm Đáp, cùng địa khu Bản Thăng, liên tục gặp phải thời tiết ác liệt... Mùa đông lạnh cắt da, mùa hè mưa ít, khiến cỏ sinh trưởng khó khăn, thêm vào quân Minh phá hoại, khiến cuộc sống gian nan.

Vì duy trì sinh tồn bộ lạc, Yêm Đáp đành phải quên mình từng hạ lệnh "đối đãi tử tế với người Hán quy hàng", ngầm cho phép người Mông Cổ cướp bóc các khu vực người Hán quy thuận.

Hoa mầu của người Hán vốn sụt giảm nghiêm trọng, lại bị quý tộc Mông Cổ ngang ngược cướp bóc, cuộc sống rất khó khăn.

Đến thời Long Khánh, Thẩm Mặc dâu tấu xin ưu đãi người quy hàng, để giảm bớt thực lực của Yêm Đáp, sau khi triều đình chuẩn tấu, tin tức mau chóng truyền khắp Bản Thăng, khiến không ít người sinh lòng quay về nam, mau chóng có người lên kế hoạch hành động.

Nhóm người Hán quay về đầu tiên có tới năm bộ lạc, triều đình bỏ qua tất cả tội lỗi, đồng thời còn cho lập bách hộ, chọn đất để sống, dù sao biên cảnh không thiếu đất...
Thế là những người chờ đợi quan sát liền yên tâm, càng muốn quay về, khiến dân tâm ở Bản Thăng dao động lớn.

Đủ các loại dấu hiệu cho thấy đây là thời kỳ Yêm Đáp suy yếu nhất trong 20 năm qua, Thẩm Mặc triệu tập quan lớn các ti binh bộ tới, nhất trí cho rằng qua vài năm nữa Yên Đáp sẽ có thể hóa giải được, khi ấy Đại Minh sẽ mất đi quyền chủ động có được không dễ dàng gì, không còn cư cách do dự giữa chiến và không chiến nữa.

Vậy thì khắc phục khó khăn đánh một trận thôi, thắng Đại Minh có cơ hội cải biến vận mệnh; thua, nói "lại thua rồi.."

- Chiến lược của chúng ta là...
Giọng Thẩm Mặc vang vang trên cuộc họp:
- Tuyến đông dùng thế thủ, tuyến giữa chủ động phòng ngự, toàn lực đột phá ở phía tây...

Cả phòng tức thì mạch máu căng phồng, hô hấp nặng nề, đó là kế "phục Sóc"! Trên đời này không còn hai chữ nào khiến người dân Đại Minh sôi sục hơn thế.

Hà Sóc chính là dải đất ba mặt Hoàng Hà vòng quanh, có điều kiện tự nhiên ưu việt, hợp nông nghiệp hợp chăn thả, là vùng màu mỡ hiếm có ở vùng tây bắc cằn cỗi.
Quan trọng hơn vùng này cách cao nguyên Mông Cổ chỉ một con sông, nam dựa vào nội địa Trung Nguyên, vị trí địa lý được trời ưu đãi, là đất tất tranh của chính quyền Trung Nguyên và dân tộc du mục.

Người Hán có được vùng này, ba mặt sông chia cắt, kẻ địch khó vượt qua, có thể dùng binh lực nhỏ giữ vững 2000 dặm biên cảnh tây bắc.
Dân du mục có được nó, thì biên cương mở rộng, kỵ binh tới lui tự nhiên, người Hán chống đỡ mệt nghỉ cũng không cản được ngoại địch xâm nhập.

Cho nên Hà Sóc xưa nay là chiến trường chính giữa dân tộc du mục và dân tộc Hán, có thể nói một cách không hề khoa trương, tồn vong của Hà Sóc liên quan tới tồn vong của Đại Minh.

Diệt Nguyên lập Minh, thái tổ Chu Nguyên Chương nhiều lần phái binh quét thế lực Mông Cổ khỏi Hoàng Hà, đuổi lên sa mạc phía bắc. Vì tăng cường khống chế vùng này, lập các vệ Phong Châu, Vân Xuyên, Trấn Lỗ, Hưng Hòa dùng bảo vệ Hà Sóc, tạo thành phòng tuyên kiên cố đề phòng Mông Cổ nam hạ, biên cương tránh được cái họa chiến tranh 60 năm...

Không ngờ về sau đám con cháu ăn hại làm mất đi Hà Sóc, từ đó ngàn dặm biên cương Đại Minh rơi vào cục diện bị động chiến lược...

Năm Gia Tĩnh thứ 27, binh bộ thượng thư tổng đốc tam biên Tằng Tiển vì thúc giục hoàng đế "phục Sóc" mà bị giết, thủ phụ Hạ Ngôn bị chặt đầu giữa chợ, không ít đại thần và đốc phủ biên cương vì chuyện phục Sóc mà bị đả kích, đại thần trong triều, ngôn quan bị đình trượng, đầy ải...

Từ đó trong triều không ai dám nghị luận phục Sóc nữa, thêm vào Gia Tĩnh và Nghiêm Tung thiếu tầm nhìn về vấn đề biên cương, có thái độ tiêu cực với vấn đề thông thương khiến tình thế biên cảnh ngày càng diễn biến xấu...

Trạng thái này tới tận khi Nghiêm Tung mất chức, Từ Giai chấp chính mới có cải biển ít nhiều...

Các vị ngồi ở đây đều phục dịch ở cửu biên khi Tằng Tiển đề nghị phục Sáo, mặc dù khi ấy còn là quan viên trung hạ tầng, nhưng khi ấy các trấn bài binh bố trận, chỉ đợi một tiếng hạ lệnh xua quân phục Sóc, đấu chí hừng hực bấy giờ vẫn còn như mới, từng đau đớn, tiếc hận vì Tằng Tiển vì kiến nghị phục Sóc thất bại mà chết.

Bao năm qua không biết bao nhiêu vị tiền bối trước khi chết mãi không quên phục Sóc, không phục được Sóc, chết không mặt mũi nào gặp Tằng đại soái.

"Phục Sóc" đã thành tâm nguyện của quá nhiều thế hệ Đại Minh...

Cho nên khi Thẩm Mặc nhắc tới "phục Sóc", những đại tài chủ động nam liền sẵn lòng trả quân phí cho nam binh; cho nên khi Thẩm Mặc đề xuất "phục Sóc" các tướng soái đều tranh nhau thỉnh chiến.

- Trung đường, nhất định phải để mạt tướng đi. Mạt tướng từng phục vụ dưới trướng Tằng đại soái, rất quen thuộc nơi đó.

- Các lão, phải dùng mạt tướng. Cha mạt tướng trước khi chết thề, nếu một ngày triều đình phục Sóc, nhất định phải anh dũng xung phong, dù làm tiểu tốt cũng phải đứng trên chiến trường phục Sóc.

- Đốc soái, ngài điều mỗ từ Tứ Xuyên tới đây là vì phục Sóc, không thể thiếu mỗ được.

- Luận tới tập kích đánh úp, Lão Mã này mà là thứ hai, Đại Minh không ai dám xưng thứ nhất, đại nhân, ngài không thể không mang Lão Mã theo...

Đợi các tướng bình tĩnh lại đôi chút, Thẩm Mặc nói:
- Các vị tích cực thật đáng quý, nhưng cửu biên dài dằng dặc, đi hết tới Hà Sóc thì ai giữ Tuyên Đại? Ai bảo vệ Kế Trấn?... Cho nên khẳng định phải có phân công.

Các tướng nín thở, nhìn Thẩm Mặc chằm chằm, hi vọng y chọn mình.

- Để thu phục Hà Sóc, lực lượng trú quân tam biên là không đủ, vì thế ba năm trước triều đình đã điều nam quân bổ xung tam đại quân doanh, tuyển tân binh, tạo thành thập doanh, nuôi binh ngàn ngày dùng nhất thời, chính là lúc này đây…

***
Tên nào gọi Thẩm Mặc là trung đường tức là đệ của y từ thời ở Tô Châu.

Lời Thẩm Mặc vừa dứt phòng họp nhao nhao cả lên, các tướng lại mất kiểm soát, Thích Kế Quang, Lý Thành Lương tướng lĩnh tân tuyển binh, cùng Lưu Hiển, Lý Tích, Khương Ứng Hùng tướng lĩnh tam đại quân doanh tất nhiên mừng thầm. Còn Vương Sủng Cố, Trần Kỳ các đốc phủ sớm biết tình hình, giữ được bình thản.

Nhưng các tướng lĩnh khác không chịu, om sòm cả lên:
- Dựa vào cái gì mà cho đám nhãi chưa lên chiến trường đi phục Sóc, chúng tôi không chịu.

- Ai nói Thích tướng quân chưa lên chiến trường.
Thích Kế Quang trầm tính, Lý Thành Lương không chịu thua thiệt, đáp chát lại:
- Thích tướng quân bách chiến bách thắng là tự phong hay sao?

- Đánh nhau với đám giặc Oa khác gì thổ phỉ, đâu phải bản lĩnh.

- Tới Vạn Toàn cũng đánh Oa sao?

- Đó là dựa vào Lão Mã ta liều mạng dụ địch, nếu không Thát Đát đâu có ngu đâm đầu vào trận.

- Đủ rồi.
Hai bên cãi nhau chí chóe, Thẩm Mặc đập bàn quát, mọi người khựng lại, y nhìn thẳng vào Mã Phương:
- Mã Hinh huynh, huynh còn nợ ta một lời hứa?

- Hả?
Mã Phương tức thì cảm thấy không ổn, nhưng trước mặt bao người sao có thể quịt nợ, đánh nuốt nước bọt nói:
- Đúng...

- Vậy ta muốn huynh giúp Đàm bộ đường giữ vững Tuyên Đại.
Thẩm Mặc gằn giọng nói.

- Đại nhân.. Ngài quá giảo hoạt...

- Thế nào, định nuốt lời à?
Thẩm Mặc khích.

- Đương nhiên không phải..
Mã Phương cúi đầu ủ rũ:
- Nhưng phòng thủ chưa bao giờ là sở trưởng của mạt tướng, không có mạt tướng, tổng đốc đại nhân và lão Doãn cũng làm được...
Ông già 60 tuổi đầu năn nỉ như con nít:
- Đại nhân, cho mạt tướng đi Hà Sáo với.

- Đức Hinh huynh.
Tái độ Thẩm Mặc cũng mềm xuống:
- Huynh xem vương đình của Yêm Đáp ở đâu, cách Hoàng Hà chỉ một ngày, mà Hà Sóc là nơi hắn gây dựng đã lâu, nếu không ai kiềm chế, hắn sẽ dẫn đại quân vượt sông nam hạ, tới khi đó cuộc chiến cục bộ sẽ thành toàn diện quyết chiến với Yêm Đáp, tới lúc đó chưa nói thắng thua. Chỉ nói triều đình có chịu nổi không?

Thấy Mã Phương cúi đầu im lặng, Thẩm Mặc tiếp tục:
- Lần tác chiến này bị bị Kế Trấn điều đi phân nửa, vì sao không dùng tới Tuyên Đại, nguyên nhân là ở đó, triều đình cần một lực lượng mạnh kiềm chế Yêm Đáp, một khi hắn dám phái binh vượt sông, các vị có thể dẫn quân chọc thẳng vào vương đình của hắn, chỉ còn xem Yêm Đáp muốn trao đổi hay không thôi.

- Chuyện này đúng là người khác không làm được...
Mã Phương cuối cùng cũng gật đầu nhận lời.

Trấn an phía Tuyên Đại xong, Thẩm Mặc lại nói các tướng dưới quyền Tào Bang Phụ:
- Điều Thích Kế Quang và Lý Thành Lương đi rồi, trọng trách phòng vệ kinh sư đặt lên vai các vị đó.

Tào Bang Phụ im lặng gật đầu, ông ta phòng thủ bộ tộc hướng Liêu Đông, thực lực tuy không bằng Yêm Đáp, nhưng tham lam độc ác hơn, nhất định không bỏ lỡ cơ hội ngư ông đắc lợi này nên áp lực không nhỏ.

Tào Bang Phụ trầm ngâm nói:
- Hạ quan chỉ có thể đảm bảo với triều đình không cho đại quân Thát Lỗ quấy nhiễu kinh kỳ.

- Thế là đủ rồi.
Thẩm Mặc gật đầu:
- Chỉ cần làm được là đại công.

Phân phối nhiệm vụ các trấn xong, Thẩm Mặc nghiêm trang nói:
- Các vị, mặc dù phân công khác nhau, nhưng chúng ta chung một mục tiêu, thực hiện hoài bão của tiền bối, đuổi Thát Lỗ, phục Hà Sóc. Vì thế khẩn mong các vị đông tâm hiệp lực, chỉ cần mọi người đều hoàn thành nhiệm vụ của mình, ngày mừng công, tất cả sẽ là công thần.

- Thề không nhục sứ mệnh.
Chúng tướng hô vang.

Ngày hôm sau đại quân tập hợp, hoàng đế phát biểu cổ vũ tướng sĩ khắc khổ huấn luyện, sau đó tuyên đó quân diễn kết thúc tốt đẹp.

Sau đó hoàng đế và chúng thần quay về thành, các lộ quân chuẩn bị hành trang, về nơi trú quân.

Nhưng trong đoàn người về kinh không có Thẩm Mặc...

Chập tối khi đại quân cắm trại, Thẩm Mặc mặc bộ quân phụ ngũ phẩm bình thường xuất hiện trong lều của Vương Sùng Cố.

- Có lẽ đây là lần đại quân suất chinh kín tiếng nhất của Đại Minh.
Vương Sùng Cố đã chuẩn bị một bàn rượu thịt chờ đợi, dù không bất ngờ nhưng hết sức cảm khái:
- Đường đường đốc sư cửu biên, vậy là phải ăn vận thế này trong quân doanh của mình.

- Huynh nghĩ người Mông Cổ mù sao?
Thẩm Mặc lấy khăn ướt lau mặt:
- Bọn chúng có Bạch Liên giáo giúp sức, nắm rõ chuyện trong biên cảnh Đại Minh như lòng bàn tay.

- May là tín đồ Bạch Liên giáo đa phần là người dân nghèo khổ, nếu không điều động quân đội quy mô lớn thế này dù có lấy cớ duyệt binh cũng không giấu được.
Trần Kỳ Học nhiều tuổi hơn cả Vương Sùng Cố, tư cách lão thành, năm xưa đáng lẽ ông ta lên làm tổng đốc tam biên, nhưng Vương Sùng Cố nhảy xuống cản đường, vị lão tiên sinh này rất có phong độ trưởng giả, vẫn cứ cần mẫn làm tốt chính vụ phối hợp với Vương Sùng Cố, nên được mọi người kính trọng.

- Không giấu được chúng lâu, chỉ cần đảm bảo lần tấn công đầu tiên giữ được tính bất ngờ là được.
Thẩm Mặc gật đầu nói.

Vì trong quân doanh cho nên ba người chỉ uống vài chén rượu, có điều hành quân cả ngày, nên sức ăn hơn bình thường không ít.

Ăn xong mọi người pha trà tiếp tục bàn việc.

Vương Sùng Cổ trải bản đồ ra nói:
- Màu đỏ là địa bàn Ngạc Nhĩ Ba Tư, màu đen là khu vực Đại Minh khống chế..

Giới tuyến Minh Mông ở Hà Sóc là biên tường Du Lâm với tam thập lục bảo làm trung tâm, kéo dài hai nghìn dặm..

Mặc dù biết Thẩm Mặc không lạ gì tình hình Hà Sóc, nhưng mở đầu, Vương Sùng Cố vẫn giới thiệu sơ qua:
- Hải Lỗ bên trong Hà Sóc đều là tộc chúng của huynh trưởng Yêm Đáp, gọi chung là Ngạc Nhi Đa Tư bộ, sau khi Cổn Tất Lý Khắc chết, con trai hắn là Nặc Nhan Đạt Lạp kế thừa, nhưng không trấn áp được đáp huynh đệ, nếu không có Yêm Đáp khống chế, sợ chín huynh đệ chúng đã đánh nhau tưng bừng rồi.

- Về sau Yêm Đáp hòa giải, chín huynh đệ phân chia nhau ra sống, thậm chí vượt qua Hoàng Hà, phân tán nhiều nơi. Nặc Nhan thiếu năng lực thống soái, không có uy vọng nên càng thêm suy nhược.
Vương Sùng Cố chỉ vào địa danh trên bản đồ:
- Nhị đệ Bái Tang chiếm cứ Đạt Lạp Đặc, tam đệ Duy Đạt Nhĩ chiếm cứ Ngạc Thác Khắc; tứ đệ Mộc Tháp Nhĩ chiếm cứ Ô Thẩm; ngũ đệ Bố Dương Cổ chiếm cứu Mộc Cách Nhĩ; lục đệ Ban Trát Lạp chiếm cứ Ô Lạp Đặc; thất đệ Ba Đặc chiếm cứ Tích Nhi; bát đệ A Mục Nhĩ chiếm cứ Y Kim Hoắc Lặc; cửu đệ Ngặc Khác Lạc chiếm Cứ Ngạc Thác Khắc.. Những bộ lạc này không lớn, lớn nhất là của Nặc Nhan Bộ có sáu bảy vạn nhân khẩu, nhỏ nhất là Ban Trát Lạp có hơn vạn khẩu, các bộ lác khác chừng ba tới năm vạn người, nếu động viên toàn thể binh lực ước chừng sáu bảy vạn.

- Đủ dọa người rồi.
Thẩm Mặc cầm cốc trà lên uống.

- Đúng là chủ đủ dọa người mà thôi, nếu huynh đệ bọn chúng đồng tâm hiệp lực thì chúng ta căn bản không dám nhắm vào chúng. Nhưng từ bản đồ có thể nhìn ra, ngoài trừ bát đệ A Mục Nhĩ kế sát vương đình Đặc Nhan ra thì đám huynh đệ khác đều đều cách rất xa, nhìn có vẻ đang bảo vệ quanh hắn, thực tế không muốn bị hắn kiềm chế. Quan hệ giữa huynh đệ bọn chúng diễn biến tới mức không thể hòa giải được, không hợp lực được nữa...
Vương Sùng Cố cười khổ:
- Thế nhưng những bộ lạc này rải rác trong chu vi sáu bảy ngàn dặm, làm quân ta tiễu trừ khó hẳn.

- Đoạn biên tường này vì sao không có thay đổi gì?
Thẩm Mặc chỉ đoạn biên tường từ huyện Thần Mộc lên phía bắc.

- À, vì bản đồ chưa kịp sửa. Từ khi hạ quan tới tam biên, liên bắt đầu theo ý tứ đại nhân, không mừng mở rộng đoạn biên tường này lên phía bắc.
Nói rồi dùng móng tay vẽ một hình vòng cung khoa trương hướng về phía bắc:
- Tình hình thực tế chỉ hơn không kém.

Trần Kỳ Học bổ xung:
- Phía tây bắc mở rộng tới 40 dặm rồi.

Thẩm Mặc hỏi:
- Người Mông Cổ có phản ứng gì?

- Bọn chúng chỉ cho rằng chúng ta tranh địa bàn, mà vùng này hết sức hoang vu không họp chăn thả, cho nên trừ thi thoảng có thám bảo tới xem thì không được chúng chú ý lắm.

Thẩm Mặc chỉ vào chỗ nhô ra của biên tường nói:
- Rất tốt, nơi này chính là chỗ chúng ta phát động công kích rồi...

Thảo nguyên tháng mười, trời cao mây mỏng, hùng ưng bay liệng. Nếu dựa vào mắt ưng nhìn khắp sông núi, có thể thấy được một bức tường thành uống lượn chia cách cao nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư và bình nguyên Quan Trung.

Phía nam trường thành là trấn Du Lâm của Đại Minh...

Hiện giờ là cuối mùa thu, cỏ trên thảo nguyên Ngạc Nhi Đa Tư có màu hoàng kim hết sức ưa nhìn, sông Ô Lan Mộc Luân như một thắt lưng bạc vắt ngang, đem lại rất nhiều sức sống cho thảo nguyên bao la này.

Trời xanh nước biếc, mấy đàn dê bò cao lớn nằm trên thảm cỏ bên sông, tranh thủ thời gian ăn thật nhiều cỏ, chuẩn bị cho mùa đông dài lạnh lẽo.

Một mục dân ngồi trên ngựa đi theo sau đàn dê đang cất cao bài ca tiếng Mông Cổ.

Đột nhiên ông ta ngừng hát, ngẩng đầu nhìn về phía bắc, chỉ thấy đằng xa có vài thớt tuấn mã phóng nhanh tới, mắt mục dân rất tốt, nhìn thấy phi ngựa đầu tiên là thiếu nữ Mông Cổ mặc trang phục đỏ bắt mắt, lưng đeo cung tên, hông thắt loan đao, vô cùng xinh đẹp. Sát đằng sau cũng là nữ tử Mông Cổ đeo cung dắt đao...

Thấy thế ông ta thở thảo, tránh sang bên đường hành lễ của người Mông Cổ.

Có lẽ sợ làm bầy dê kinh động, đội nữ tử kia phóng ngựa chậm lại, tới trước mặt mục dân, thiếu nữ áo đỏ hỏi:
- A Y Cổ Lặc đại thúc, gần đây có gì khác thường không?
Giong dễ nghe như chim bách điểu trên thảo nguyên.

- Biệt Cát còn nhớ tên tiểu nhân sao?
Mục dân sợ hãi không dám ngẩng đầu lên, lắp bắp nói:
- Tiểu nhân vừa phía nam về, tất cả đều bình thường, người nam không tới tường bắc nữa.

- Ta phải tự đi mới yên tâm.
Thiếu nữ đó cáo biệt cùng tùy tùng tiếp tục đi về phía nam.

Đoàn nhân mã đi rất lâu, mục dân vẫn cứ nhìn theo công chúa thảo nguyên... Trong tiếng Mông, Biệt Cát là công chúa.

Thiếu nữ kia dọc theo sông, chạy một hơi năm sáu dặm mới kìm ngựa lại, con ngựa nàng cưỡi cũng màu đỏ cực kỳ đẹp.

Mấy kỵ sĩ phía sau cũng đuổi kịp, tán ra xung quanh thiếu nữ áo đó, trong đó một nữ tử dáng vẻ tùy tùng thúc ngựa tới lấy tấm khăn tay trắng muốn đưa cho nàng.

Thiếu nữ áo đỏ tay cầm kính thiên lý vỏ đồng nhìn về phía nam, lúc này mới quay đầu lại, khuôn mặt như tạc từ viên ngọc hoàn mỹ, trắng như hoa mai đầu xuân, trong vẻ xinh đẹp toát lên sự mạnh mẽ. Nhất là đôi mắt mỹ lệ như ánh trăng ẩn chứa sức sống vô cùng, dường như chỉ cần nàng liếc tới đâu, đất trời nơi đó bừng bừng sức sống.

Nữ tử bên cạnh là thị nữ cùng nàng lớn lên bên nhau từ nhỏ, dù hai người cực kỳ thân thuộc, nhưng mỗi lần nhìn vào mắt nàng đều tim đập loạn lên, nghĩ:" Chẳng trách dũng sĩ trên thảo nguyên mỗi lần thấy Biệt Cát là như con trâu uống say, ngây ngây ngốc ngốc."

Thiếu nữ áo đỏ thấy thị nữ thất thần, hỏi:
- Trác Mã, nghĩ gì đấy.

- À..
Trác Mã thè lưỡi ra:
- Nô tỳ nghĩ, chỗ này gần địa phương của người Hán, chúng ta rời xa thì tốt hơn.

- Xa làm sao mà nhìn rõ được.
Thiếu nữ áo đỏ lắc đầu:
- Từ khi phát hiện quân Minh xây tường tới Thạch Ngật, ta liền cảm thấy bất an. Nói cho a ba, a ba bảo ta trẻ con nghĩ lung tung, nói cho Bát thúc cũng không được. Nam nhân không chịu nghe chúng ta phải chú ý hộ.

- Hiện giờ nhìn rồi, không có gì, chúng ta về thôi.

- Đúng đấy Biệt Cát, nơi này chán lắm.
Lại một nữ tử đi tới:
- Hôm nay ở Bát Bạch Thất cử hành đại hội xạ tiễn, chúng ta về xem náo nhiệt đi.

- Ta thấy Đóa Nhi muốn xem A Bất Đài mới đúng.
Thiếu nữ áo đủ thấy biên tường đằng xa vẫn bình yên, liền có tâm tình trêu ghẹo tùy tùng.

- Biệt Cát lại trêu người ta...
Đóa Nhi mặt tức thì đỏ như quả táo.

- Được chúng ta về thôi, nếu không Đóa Nhi lại tránh ta..

Đúng lúc này thiếu nữ áo đỏ đột nhiên có linh cảm, người cứng lại, quay đầu nhìn, thấy đoạn tường thành đằng xa đổ sầm xuống, nàng tròn mắt, không biết rốt cuộc do quân Minh xây dựng không hợp cách hay do đâu..

Tới khi bụi tan đi, nàng cuối cùng nhìn rõ, là đại đội quân minh từ chỗ tường thủng tuôn ra...

Thiếu nữ áo đỏ mặt hoa biến sắc hét lên:
- Là quân Minh, chúng ta mau đi thôi, Đóa Nhi mà Trác Mã mau báo tin cho Bát thúc, ta đi thông báo cho a ba.
Nói xong quất rôi ngựa, con tuấn mã phóng đi như tên bắn.

Những nữ từ còn lại sực tỉnh, ra sức thúc chiến mã theo sát.

Thiếu nữ áo đổ không biết lúc đó quân Minh cũng đang theo dõi nàng.

Bỏ thiên lý kính rời khỏi mắt, Vương Sùng Cố nói với Thẩm Mặc:
- Chúng ta bị phát hiện rồi.

Thẩm Mặc cười thản nhiên:
- Động tĩnh lớn như thế sao chẳng bị phát hiện.
Rồi ánh mắt chuyển sang đại quân đang tập kết, chỉ thấy mông mảng đen nhìn không thấy điểm cuối, trên núi vẫn còn quân đang cuồn cuộn đổ xuống, hòa vào đội ngũ.

Nhìn cảnh đại quân tụ tập hùng tráng như thế, Vương Sùng Cố mắt ươn ướt:
- Hôm nay tâm nguyện của Tằng đại soại cuối cùng được đèn bù, đại soái ở trên trời nhất định cổ vũ cho cúng ta.

- Đáng tiếc giờ là mùa khô.
Thẩm Mặc im lặng một lúc mới nói:
- Tới năm sau xuân hạ giao thoa mới có thể thủy lục cùng tiến.

Lúc này Thích Kế Quang, Lưu Hiển, Hồ Thủ Nhân, Lý Thành Lương, Thích Kế Mỹ.. Các tướng lĩnh xuất chinh cùng ngự sử giám quân, binh bị tới trước mặt hai vị đốc soái.

Thẩm Mặc và Vương Sùng Cố sẽ không theo đại quan xuất chiến, hôm nay tới tiễn chân mà thôi, vì đại quân đã tới biên cảnh địch, nên Thẩm Mặc không thừa lời, phất tay lên.

Thị vệ đưa mỗi bị tướng quân một bát rượu, lúc này dưới núi cũng có hơn hai nghìn thủ quân bê vò rượu rót cho các quân sĩ xuất chinh.

Thẩm Mặc giơ bát rượu lên quá đầu, nói lớn:
- Chư vị tướng quân, đằng sau có Vương tổng đốc thủ biên tường, có ta đốc thúc quân lương, các vị cứ tận tình giết địch, không cần lo lắng gì. Mời uống hết bát rượu này, chúc mọi người khai kỳ đắc thắng, hai ta đợi tin lành.

- Không thu phục Hà Sóc, thề không quay về.
Các tướng sĩ giơ cao bát rượu.

- Không thu phục Hà Sóc, thề không quay về.
Tướng sĩ dưới núi gầm vang.

- Cạn.
Thẩm Mặc hét lớn, uống cạn bát rượu, ném bát xuống đất.

- Cạn.
Các tướng cùng hô, nâng bát uống cạn sau đó ném vỡ dưới đất.

- Cạn.
Tướng sĩ dưới núi uống một hơi hết sạch, tiếng bát vỡ loảng xoảng.

- Xuất phát.
Thẩm Mặc phất mạnh tay.

Trên núi trống trận tùng tùng, các tướng sĩ đồng thanh hát quân ca ào ào tiến bước.

Xuất kích với quy mô lớn thế này với Đại Minh mà nói đã là cực hạn rồi, Thẩm Mặc nói rõ với Thích Kế Quang, nếu cuộc chiến không thuận lợi, đừng hi vọng trong biên cảnh còn có binh lực chi việt, thậm chí trước khi qua mùa khô, bọn họ phải bảo hộ lấy tuyến đường cấp dưỡng, tranh khỏi bi kịch lương hết lối về chẳng còn.

Bao nhiêu nhân mã thế này muốn vượt qua trường thành rồi chấn chỉnh lại đội ngũ ngoài tường thành đủ làm bất kỳ quan chỉ huy nào cũng phải phát điên.

Thẩm Mặc phải phí bao tâm lực chuẩn bị tránh cho người Mông Cổ phát hiện ý đồ, từ rất lâu trước đó sai Vương Sùng Cổ xây biên tướng mở rộng sang phía bắc, bao lấy toàn bộ Thần Mộc Sơn.

Thế nhưng mưu sự tại nhân thành sự tại thiên, ai ngờ vừa mới hành động đã bị mấy người Mông Cổ nhìn thấy rồi, khiến Thích Kế Quang do Thẩm Mặc phải chống lại ý kiến số đông đưa lên làm tổng chỉ huy chiến dịch toát mồ hôi, tới khi thấy bộ đội chiến đấu vượt qua núi xếp xong hàng phía dưới hắn mới thở phào.

Qua giờ Ngọ mới có thám báo tới báo tin, phía trước có đội ngũ kỵ binh Mông Cổ chừng năm nghìn người tới.

Lúc này dù bộ đội hậu cần còn đang vất vả vượt núi, nhưng kỵ binh đã sẵn sàng đón địch, chút kỵ binh kia chẳng thể làm Thích Kế Quang e ngại, nhìn đám tướng sĩ háo hức phía dưới, nói vang:
- Vị tướng quân nào muốn suất quân tới đánh?

- Mạt tướng nguyện đi.
Thích Kế Mỹ là người đầu tiên nhảy ra.

- Mạt tướng nguyện đi.
Lý Thành Lương hơi chậm hơi một chút.

Lưu Hiển và Khương Ứng Hùng cũng muốn giành lấy chiến công đầu, nhưng tự trọng thân phân không tranh với tiểu bối.

Thích Kế Quang nhìn hai người, cuối cùng ánh mắt dừng ở Lý Thành Lương:
- Phiền Lý tướng quân đi chuyến này, trận đầu tiên nhất định thành công.

- Thích soái yên tâm, mạt tướng lấy đầu đảm bảo.
Lý Thành Lương tung mình lên ngựa:
- Các con đâu, theo ta chơi một trận.
Cực kỳ thổ phỉ, hoàn toàn khác xa với phong phạm nghiêm chỉnh của Thích gia quân.

Lưu Hiển và Thích Kế Quang là chỗ quen biết cũ, cười nói:
- Không ngờ thủ hạ của Nguyên Kính có hạng thổ phỉ thế này.

- Lý tướng quân là thiên tài, ta không nỡ mài đi cá tính của hắn.
Thích Kế Quang bình thản đáp.

- Ồ, vậy càng phải rửa mắt để xem rồi.
Lưu Hiển cười lớn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 843: Sạ thiên lang


A Mục Nhĩ rất bực, hắn là huynh trưởng của Yêm Đáp, kiêu dũng thiện chiến vang danh thảo nguyên, vì thế mà bị lệnh đi thủ lăng của Thành Cát Tư Hãn...

Lăng tẩm của Thành Cát Tư Hán tại Y Kim An Lạc, thời người Mông Cổ rút khỏi Hà Sóc, từng bị để hoang hóa bao năm, nhưng từ Đạt Duyên Hãn thống nhất các bộ Mông Cổ, khôi phục vinh dự hoàng kim gia tộc, lăng tẩm Thành Cát Tư Hãn không chỉ khôi phục cung phụng, mà mỗi năm mùa xuân thủ lĩnh các bộ lạc tới tế điện vị tổ tiên vĩ đại này.

A Mục Nhĩ suốt ngày phải canh giữ ở đây, tuy trong mắt người Mông Cổ là vinh dự vô thượng, nhưng người muốn mọc rêu rồi, hiếm có cơ hội lấy danh nghĩa tuyển dũng sĩ thủ lăng thống khoái chơi bời một lần, nhưng bị tin tức làm hỏng hứng trí.

Thị nữ của chất nữ hắn tới bẩm báo quân Minh xâm nhập, A Mục Nhĩ chỉ coi là trẻ con đùa nghịch, sai người đuổi đi. Hai cô gái lòng như lửa đốt, tìm A Bất Đài, dù A Bất Đài không tin, nhưng thấy nữ nhân trong lòng lo lắng, vẫn đem vài tên thủ hạ đi xem.

Kết quả nửa đường gặp thám báo của quân Minh, hai bên va chạm, đều có tổn thất, A Bất Đài biết được sự tình nghiêm trọng, vội vàng về bẩm báo.

Nhìn vết thương trên người A Bất Đài, A Mục Nhĩ mới tin, một mặt lệnh người phát cảnh báo cho huynh đệ, một mắt triệu tập dũng sĩ kéo xuống phía nam, định thừa lúc quân Minh chưa kịp ổn định cho một bài học, đồng thời thăm dò thực hư.

A Mục Nhĩ mau chóng tới nơi cách quân Minh chừng 20 dặm, còn chưa chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu thì đã thấy từ đằng xa, bụi bốc mùi mịt, kỵ binh quân Minh từ ba phía đồng thời đánh tới.

A Mục Nhi không ngờ quân Minh chủ động xuất kích, có điều hắn không sợ, trên thảo nguyên mênh mông, kỵ binh Mông Cổ là vô địch. Vì thế hắn sai hai thiên phu trưởng dẫn binh chặn hai cánh, còn mình dẫn ba nghìn quân đón địch ở chính diện.

Theo chiến thuật mấy trăm năm qua, kỵ binh Mông Cổ phóng thẳng tới quân Minh, bọn chúng không phải đi nạp mạng, mà ỷ vào cung kỵ thuần thục quấy nhiễu đối phương. Khiêu khích quân Minh bắn tên để phán đoán tầm bắn, xác lập tuyến hợp kịp thích hợp.

- Không được nổ súng.
Hai nghìn quân Minh ở phía đối diện chính là do Lý Thành Lương suất lĩnh, lệnh binh sĩ kiềm chế, chỉ phái tiểu đội kỵ binh ra đấu với đối phương.

Không biết Lý Thành Lương luyện quân ra sao không ngờ trên ngựa chẳng hề kém người Mông Cổ, hai bên đánh nhau một hồi bất phân thắng bại.

Lúc này đại quân của Lý Thành Lương ép tới gần, nhóm nhỏ kỵ binh Mông Cổ đành vứt lại vài cỗ thi thể rút lui.

Mặc dù không đo được tầm bắn cả đối phương, nhưng A Mục Nhĩ cho rằng, vì tầm bắn không đủ nên đối phương không muốn lãng phí đạn dược.

Vì thế hắn hạ lệnh bộ hạ tản ra, bọc sườn hai bên, không tới lúc vạn bất đắc dĩ, kỵ binh Mông Cổ sẽ không tấn công chính diện, chúng luôn vừa chạy vừa bắn, giữ khoảng cách ngoài tầm bắn của đối phương.

Đó là chiến thuật vô địch năm xưa thiết kỵ Mông Cổ hoành hành Âu Á, sớm đã ngấm sâu trong máu mỗi người Mông Cổ.

Hiện giờ bọn chúng sắp được bài học vì quan niệm lỗi thời.

Một tiếng tù và ù ù vang lên, bộ đội Lý Thành Lương phân tán đội hình, lúc này người Mông Cổ mới phát hiện vũ khí quân Minh khác thường, ai nấy cầm ống sắt chưa tới hai xích, kẹp ở dưới nách xông tới.

Không kịp suy nghĩ kỵ binh Mông Cổ gương cung lắp tên, bọn chúng ai nấy đều là thần xạ thủ, dù trên ngựa cũng có thể phóng ra mũi tên trí mạng trong tầm 30 trượng.

Thế nhưng khi khoảng cách hai bên tới chừng 40 trượng, đột nhiên cái ống dưới nách quân Minh phun lửa nổ vang, liền có một đám kỵ binh binh Mông Cổ kêu thảm ngã ngựa.

- Trụ vững, trụ vững.
Nhìn bộ hạ kinh hoàng, A Mục Nhĩ rống lên:
- Bọn chúng chỉ bắn được một lượt..
Như để trả lời hắn, mấy cái ống đã bắn một lần kia lại nổ vang, khói trắng mù mịt, lại một đám kỵ binh Mông Cổ ngã ngựa.

A Mục Nhĩ trố mắt nhìn vũ khí mới của quân Minh, không ngờ bắn được hai, không phải... ba loạt.

Đợt súng thứ ba vang lên đánh tan hoàn toàn ý chí người Mông Cổ, bọn chúng rối rít thúc ngựa bỏ chạy, chỉ muốn cách xa thứ hỏa khí khủng bố kia.

A Mục Nhĩ chết đứng, Trương Sinh Thiên ơi, đây là sự trừng phạt kẻ bất kính sao? Lúc này không biết từ đâu có viên đạn bay tới đánh bay mũ trụ vàng, hắn ngã lăn xuống đất.

Hộ vệ của hắn vội vàng kéo lên lưng ngựa, mặc kệ tất cả rút khỏi chiến trường.

A Mục Nhĩ chết rồi.... Đó là phản ứng đầu tiên của đám thủ hạ, bản thân bị hỏa khí của quân Minh làm sợ vỡ mật, lúc này hoàn toàn mất đấu chí, bỏ chạy tứ tán.

Thu lại khẩu súng bắn bay mũ trụ của A Mục Nhĩ, Lý Thành Lương lắc đầu, thầm nghĩ:" Nếu là Thích soái thế nào cũng lấy được mạng tên này." Hắn nheo mắt lại nhìn tình thế chiến trường, hạ lệnh:
- Bỏ truy kích, hợp vây hai cánh.

Tiếng tù và ù ù vang lên, quân Minh chia hai cánh chặn đằng sau quân Mông Cổ rút lui, thấy bị bao vây, người Mông Cổ nổi hung tính, vung mã đao xông lên, hai bên chớp mắt quấn lấy nhau, tiếng chém giết tiếng vó ngựa hỗn loạn, máu nhuộm đỏ thảo nguyên.

Người Mông Cổ ỷ vào kỵ thuật cao xiêu, thoát khỏi vòng vây bỏ chạy... Người Mông Cổ chiến sự thuận lời thì tiến công, không thuận thì bỏ chảy, chẳng lấy đố làm sỉ nhục.

Quân Lý Thành Lương bỏ mặc chúng, tập trung xử lý những kẻ không chạy thoát.

Binh khí của quân Minh không ngờ là loại hỏa khí vừa rồi, nhưng không bắn, mà cầm báng gỗ, dùng như lang nha bổng.
Xạ kỵ của người Mông Cổ hoàn toàn không thể phát huy, chỉ dựa vào mã đao đối kháng với quân Minh, ngắn đấu dài, bị thiệt lớn. Rất nhiều dũng sĩ Mông Cổ kỵ thuật cao siêu bị quân Minh hợp vây, dùng "Lang Nha bổng" đập chết.

Tịch dương như máu, chiến trường dần dần yên tĩnh, Lý Thành Lương sai người kiểm tra chiến quả, tổng cộng giết 230 quân địch, bắt làm tù binh 200, bên mình tổn thất 70 người.
Lý Thành Lương sai giết hết kẻ bị thương, chỉ giữ lại 50 tên tù binh hoàn toàn lành lặn, giao Thích Kế Quang xử lý.

Tin thắng trận làm sĩ khí quân Minh dâng cao xua tan sợ hãi tác chiến nơi đất khách, đám Lưu Hiên cũng phải nhìn Lý Thành Lương với con mắt khác, nhưng không phải vì thắng lợi, mà vì hắn không vì thắng lợi mà truy kích kẻ địch.
Phải biết rằng lúc này trời đã tối, đường không rõ, rất có khả năng bị đối phương quen thuộc địa hình quay lại đánh trả.

Trần đầu tiên yêu cầu thắng đẹp, tướng lĩnh đầu óc tỉnh táo sẽ không vẽ rắn thêm chân.

Thích Kế Quang lập tức thẩm vấn tù binh, biết đích xác vị trí của bộ lạc A Mục Nhĩ, lập tức lệnh Khương Ứng Hùng và Thích Kế Mỹ dẫn đại quân đi lật nhào ổ của A Mục Nhĩ.

Lưu Hiển không hiểu nói:
- Trời sắp tối rồi, hành quân trong đêm nguy hiểm lắm.

- Người Mông Cổ cũng nghĩ như thế, Lý tướng quân khi ấy không truy kích, bọn chúng càng không ngờ đại quân chúng ta sẽ tới. Đối phương mới thua, sĩ khí sụt giảm, nếu không nhân cơ hội này mở rộng chiến quả, e ngày sau không thời cơ tốt hơn nữa..

- Được, ngài là chủ soái đương nhiên nghe ngài.

Thấy Lý Thành Lương giết thống khoái, Khương Ứng Hùng lòng ngứa ngáy, vì thế cùng Thích Kế Mỹ điểm binh thừa bóng đêm, âm thầm mò mẫm tiến về phía đông bắc.

Lý Thành Lương và Lưu Hiển ở lại hộ vệ đại quân tập kết hoàn chỉnh.

Khương Ứng Hùng và Thích Kế Mỹ dẫn thủ hạ hành quân liền 60 dặm, tới canh năm thám báo về cho biết doanh trại người Mông Cổ cách đó tám dặm.

Hai vị tướng quân hạ lệnh thủ hạ xuống ngựa, người ngậm miệng, ngựa bịt mõm, rón rít hành quân đoạn đường cuối cùng, để khôi phục sức ngựa.

Cứ thế đi được ba dặm liền nhìn thấy lửa trại đằng xa, cố áp kích động xuống, Khương Ứng Hùng và Thích Kế Mỹ lên bộ hạ yên tĩnh lên ngựa, thong thả tiến về phía ánh sáng.

Trời tờ mờ sáng, thêm vào ánh trăng trong, trên thảo nguyên mênh mông, có thể nhìn thấy lều bạt người mông cổ thấp thoáng phía trước, giữa các túp lều có vài đống lữa.
Một vạn quân sĩ cắn chặt răng, bọn họ biết, càng mò tới gần thì khả năng chiến thắng càng lớn.

Đột nhiên trong doanh tại vang lên tiếng hò hét kinh hoàng của người Mông Cổ, hiển nhiên bọn họ đã bị phát hiện. Gần như cùng lúc Khương Ứng Hùng và Thích Kế Mỹ cùng quát lớn:
- Giết.

Đằng sau vang lên tiết giết chấn động màng nhĩ, chớp mắt tiếng ngựa hí tiếng hò hét lan đi khắp nơi.

Mặc dù binh sĩ gác đêm đã phát hiện ra quân Minh, nhưng đại bộ phận người Mông Cổ đang ngủ say, cả doanh trại gần như không có bố trí phòng ngự, nam nhân Mông Cổ kinh hoàng chạy ra khỏi lều chưa kịp kháng cự đã bị quân Minh chém chết...

Quân Minh xông vào như hổ đói, người Mông Cổ kinh hoàng, doanh trại hỗn loạn, tiếng chém giết, tiếng phụ nữ trẻ em kêu khóc hỗn tạp, trận địa hoàn toàn rối loạn. Quân Minh có lý nào không thừa cơ điên cuồng chém giết, ai nấy "thề tắm máu đất này.!

Sau kinh hoàng ngắn ngủi, người Mông Cổ bắt đầu phản kích, vì lều trại bọn chúng rất phân tán, cho nên góc phía nam đã đại bại, các phương hướng khác vẫn chưa bị công kích.

Lần này không kẻ nào bỏ chạy, vì đây là nhà của bọn chúng, có vợ có con, có dê có ngựa, toàn bộ gia sản ở đây, nam nhân Mông Cổ biết, một khi mình bỏ chạy, mình từng đối xử với bách tính Đại Minh ra sao, bi kịch đó sẽ diễn ra trên người thân của mình.

A Mục Nhĩ đang dưỡng thương cũng xuất hiện, hắn giật tấm vải băng đầu đẫm máu, lộ ra vết thương sâu tới tận xương, rống lên:
- Bảo vệ nữ nhân và nhà cửa của chúng ta, đánh đuổi quân Minh.
Hắn mau chóng tổ chức một phòng tuyến chặn đứng quân Minh bên ngoài, yểm hộ phụ nữ và trẻ em rút lui.

Quân Minh tập kích thành công, sĩ khí cao vời vợi, sao có thể nhìn trái quả chiến thắng chạy đi trước mắt.

- Đại trượng phu lập công dựng nghiệp là ở đây, các huynh đệ, giết!
Thích Kế Mỹ dẫn 600 thân binh đánh mạnh vào phòng tuyến của người Mông Cổ.

Kỵ binh của A Mục Nhĩ tuy ít, nhưng vì gánh vác trọng trách bảo vệ tổ lăng, nên đều là dũng sĩ Mông Cổ tinh tuyển cả các bộ lạc, thêm vào thủ vệ nhà cửa, tất nhiên tử chiến không lui.

Thích gia quân huấn luyện nhiều năm, quân kỷ nghiêm chỉnh, kết trận tiến lui chuẩn xác, hai bên đánh nhau không phân thắng bại.
Bộ đội Khương Ứng Hùng là hán tử Du Lâm không sợ chết có thâm thù với người Mông Cổ, lao vào kịch chiến.

Trận đánh sát lá cà này diễn ra từ lúc rạng sáng tới khi trời sáng hẳn vẫn không bớt phần kịch liệt, tới khi thủ hạ bẩm báo tất cả phụ nữ trẻ em đã di chuyển tới vùng an tàn, một thiên phụ trưởng kéo A Mục Nhĩ nói lớn:
- Đạt Nhĩ Cáp Đặc, vì nữ nhân và hài tử của chúng ta, nam nhân không thể chết hết ở chỗ này. Chúng ta còn 2000 người chưa tham gia chiến đấu, đối phương còn tới 4000. Không còn ai tới chi viện nữa, trận này chúng ta thua chắc rồi, mau dẫn bọn họ rút lui, bảo vệ tộc nhân của chúng ta.
Nói xong hắn dẫn thân vệ xông vào vòng chiết, chỉ để lại lời dặn cuối cùng:
- Chạy mau đi.

A Mục Nhĩ gầm lên như dã thú bị thương, dẫn hai nghìn kỵ binh rút khỏi chiến trường.

Số người Mông Cổ còn lại vung đao chém giết như phát điên, muốn tranh thủ thời gian cho tộc nhân rút lui, nhưng không chống nổi số đông, bị quân Minh vây kín.

Khương Ứng Hung thương bộ hạ bị thương vong quá nặng, ngăn Thích Kế Mỹ tiếp tục giáp lá cà, chỉ dẫn quân kết trận bên ngoài, không cho đối phương phá vây.

Khương Ứng Hùng cũng không muốn du đấu với đám tàn binh này, điều hết quân dự bị lên, chia thành ba đội, luân phiên nổ súng...
Người Mông Cổ ngã rạp từng mảng xuống vũng máu, mất hết đấu chí, kẻ trốn được bắt đầu bỏ chạy tán loạn, kẻ không chạy được vứt vũ khí đầu hàng.

Sau thời gian một bữa cơm, cuộc chiến kết thúc, quân Minh trận vong 1300, bị trọng thương tương đương. Quân Minh thương vong còn như thế, người Mông Cổ càng thây chất đầy đồng, một bộ lạc lớn có hơn 8000 nam đinh, chỉ chạy thoát hơn 3000, số còn lại nằm hết tại đây.

Thích Kế Mỹ toàn thân thương tích, ngân giáp đã biến thành hồng giáp, trận này quân hắn giết địch nhiều nhất, nhưng cũng thương vong nhiều nhất, đau đớn mắt đò dừ. Khương Ứng Hùng vỗ vai hắn cười sang sảng:
- Người trẻ tuổi, thả lỏng chút đi, đây là trận đại thắng thực thụ đó.

Thích gia quân tung hoành đông nam, luôn lấy giá nhỏ nhất dành thắng lợi lớn nhất, sau khi tới phương bắc, đánh một trận đại thắng duy nhất, qua mưu tính kỹ càng, dựa vào xa trận trợ chiến, đại pháo oanh kích. Dù tổn thất không ít, nhưng lượng địch bị giết khủng bố, làm người ta cảm thấy đáng, thắng thảm như lần này đúng là lần đầu.

- Đây là người Đạt Nhĩ Hỗ Đặc.
Nhìn thấy vị tướng trẻ ủ rũ, Khương Ứng Hùng chỉ lá cờ trên mặt đất:
- Bọn chúng thủ vệ lăng Thành Cát Tư Hãn, là dũng sĩ tinh anh tuyển chọn từ các bộ lạc. Mặc dù thực lực không so được với trăm năm trước, nhưng cao hơn bộ lạc khác một bậc. May nhờ kẻ nắm quyền là hạng hữu dũng vô mưu, chỉ luyện xạ kỵ, không tập chiến thuật, nếu không tổ chức hai đạo tinh kỵ vòng ra sau lưng chúng ta thì ai thắng ai thua chưa rõ đâu.

- Do tại hạ trước kia quá cuồng vọng, chưa chuẩn bị đủ cho tổn thất lớn này.

- Quen rồi sẽ ổn thôi, làm gì có chuyện không có ai chết.
Khương Ứng Hùng vỗ vai hắn:
- Đây là đất người Mông Cổ, kẻ địch có thể đến bất kỳ lúc nào, mau chóng thu dọn chiến trường, tụ họp với đại quân đi.

- Bộ đội tiếp ứng đã đến.
Vừa dứt lời thám mã phóng tới báo.

Liền thấy Hồ Thủ Nhân suất lĩnh một doanh bộ binh một doanh chiến xa hơn vạn người từ xa kéo tới.

- Hồ đại ca, sao lại tới đây?
Thích Kế Mỹ vội lên đón.

Hồ Thủ Nhân nhìn kỹ Thích Kế Mỹ, thấy hắn không mất chân tay gì mới thở phào:
- Đại soái lo chiến sự không thuận lệnh ta tới tiếp ứng, tiếc là hai chân không bằng bốn chân, chỉ kịp thu dọn chiến trường. Bảo các tướng sĩ tranh thủ nghỉ ngơi đi, chỗ này để ta.

Khương Ứng Hùng biết đây không phải là lúc khách khí, để bộ đội nhanh chóng khôi phục, để phòng người Mông Cổ tới tập kích mới là việc chính.

Dọn dẹp chiến trường, chỉnh lý trang bị, tính toán chiến lợi phẩm...v...v...v.. Tất cả tiến hành đúng trình tự, Thích Kế Mỹ định phái người hủy Bát Bạch Thất, Hồ Thủ Nhân ngăn lại:
- Đốc sư có lệnh, cấm chỉ hủy hoại lăng của Thành Cát Tư Hãn.

Mặc dù không hiểu, nhưng Thích Kế Mỹ không dám chất vấn quyết định của Thẩm Mặc, bĩu môi không đi phá nữa.

Tới trưa, thu dọn xong, tổng cộn bắt được 3000 phụ nữ và trẻ em, hơn 1 vạn chiến mã, 2 vạn bò dê, thu hoạch lớn.

Quan sát mặt trời, lệnh đại quân di động về phía tây bắc, Hồ Thủ Nhân nghe phó tướng hỏi:
- Tù binh và phụ nữ trẻ em thì làm thế nào?

- Áp giải chúng đi theo.
Hồ Thủ Nhân đáp:
- Làm cơm, chiếu cố thương binh đều cần người...

Sau khi rút được 30 dặm, thám báo tới báo:
- Phát hiện đại đội kỵ binh Mông Cổ.

Hồ Thủ Nhân cười nhạt:
- Mặc xác bọn chúng, giữ nguyên tốc độ hành quân.

Tới chiều người Mông Cổ phái kỵ binh tới quấy nhiễu, nhưng tới gần trong vòng trăm trượng bị thần xạ thủ của quân Minh ngồi trên chiến xa bắn chết hơn 100 kỵ binh trong chớp mắt, số còn lại hoảng sợ không dám tới gần, đành theo sau, trở mắt nhìn nữ nhân và trâu bỏ của mình mang đi....

Điều này làm người Mông Cổ cực độ sa sút, vì theo kính nghiệm trong quá khứ, tình cảnh hai bên phải phải chuyển ngược lại mới đúng.

Trời tối, bộ đội xuất kích tới được địa điểm ước hẹn, đại quân của Thích Kế Quang đã cắm trại đợi ở đó, đại đội nhân mã tiến vào doanh trại kiên cố dùng chiến xa quây thành...

Trong doanh trại, Thích Kế Quang bố trí nhiệm vụ phòng vệ cụ thể từng nơi, một khi nơi nào có sơ xuất, chém đầu mục phụ trách, nếu đầu mục phụ trách bị chết trận, toàn đội bị chém đầu.
Trong thời đại quân đội còn chưa hiểu chiến đấu vì cái gì, đương nhiên chỉ mỗi nghiêm khắc là không được, cương nhu phối hợp mới là chính đạo.

Thích Kế Quang đích thân ra cửa đón tiếp các tướng khải hoàn, nhưng vào doanh trước là từng xe chở thi thể quân sĩ trận vong.
Thích Kế Quang đã ra lệnh không được bỏ đồng bảo bị thương, thi thể cũng phải tận lực đưa về, như thế khiến quan binh dũng cảm đối diện với hi sinh.

Trong không khí nghiêm trang, các tướng sĩ tiễn đồng bào trận vong chặn đường cuối cùng, thi thể hỏa táng xong cho vào hũ, đợi mang về quê hương an táng.

Đối với hán tử bán mạng cho triều đình mà nói, chết sông đáng sợ, sợ là bị phơi thây đồng hoang, thành cô hồn dã quỷ trên thảo nguyên, giờ lá rụng về cội, với người sống hay người chết đó đều là an ủi lớn.

Bố trí xong cho binh sĩ tử thương thì trời đã tối hẳn, trong doanh trại khắp nơi đốt lửa, quan binh giết dê nấu cơm, không cần quan quân phải lo. Nhưng Thích Kế Quang vẫn tuần thị doanh trại một lượt, mời về đống lửa ở trung quân...

Trận thắng này Thích Kế Quang rất cao hứng, mặc dù đã vang danh thiên hạ, nhưng hắn chưa từng giao chiến với người mông cổ, cái danh đệ nhất tướng lĩnh Đại Minh luôn có chút miễn cưỡng, tới ngay bản thân hắn cũng hồi hộp.
Nhưng trận này đánh thắng, hắn tràn trề tự tin với bản thân và quân đội.

Ngồi xuống da hổ của mình, Thích Kế Quang mới nhìn kỹ bào đệ của mình, quan tâm hỏi:
- Không bị thương chứ?

- Toàn thương tích ngoài da, không sao.
Thích Kế Mỹ mặc dù dũng mãnh khác thường, nhưng rất sợ người ca ca như huynh trưởng như phụ thân này, ấp úng như trẻ nhỏ làm việc sai trái:
- Nhưng huynh đệ tử thương quá nhiều..

- Ừ.
Thích Kế Quang đưa miếng đùi dê thân đặt trước mặt mình cho đệ đệ:
- Tác chiến trên thảo nguyên tàn khốc làm ta cũng không ngờ.

- Người Mông Cổ quả nhiên rất mạnh, nếu một chọi một, tướng sĩ bên ta sẽ ở vào thế hạ phong, may chúng ta còn có hỏa súng và chiến xa.

Khương Ứng Hùng đầy cảm xúc nói:
- Nếu không lần xuất chính này e sẽ không có kết quả lạc quan.

Thích Kế Quang gật đầu:
- Hi vọng trận này có thể mang lại hiệu quả cần có.

Thời đó đánh trận toàn dựa vào sĩ khí, kẻ nào xuống tinh thần, kẻ đó sẽ phải nếm quả đắng thất bại.

Hiện giờ có thể đánh tan Thổ Nhĩ Hỗ Đặc bộ tinh nhuệ nhất ở Hà Sáo, dù hi sinh một chút cũng đáng rồi.

Thích Kế Quang dự liệu không sai, khi tin tức Thổ Nhĩ Hỗ Đặc bộ gần như toàn diệt truyền khắp thảo nguyên, các bộ Mông Cổ chấn kinh, toàn lực động viên phụ nữ người già trẻ em xua dê bò lên phương bắc, nam nhân mặc lên người giáp da tổ truyền, mang cung tiễn mã đao, cho ái mã ăn no, rồi tập trung ở trung tâm các bộ lạc...

Ở đó bọn họ từ mục dân biến thành kỵ binh Mông Cổ dũng mãnh, dưới sự suất lĩnh của thủ lĩnh, thề dũng máu tươi bảo vệ nhà cửa...

Quang cảnh tương tự diễn ra khắp nơi trong Hà Sóc, thảo nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư yên bình chỉ sau một ngày đã tràn ngập không khí chiến tranh khiến người ta ngạt thở.

Mấy thủ lĩnh bộ lạc gần hãn đình lúc này không để ý hiềm khích trước kia, nhận lệnh triệu tập của Đặc Nhan Đạt Lạp, tới thành Tế Nông, triệu tập hội nghị..

A Mục Nhĩ bắt đầu hội nghị trong tiếng gầm gừ, xưa nay hắn rất tự kiêu, mặc dù binh lực không bằng đại ca, nhưng được công nhận sức chiến đấu đệ nhất trong Sóc, thậm chí trong mắt nhiều người, nếu chẳng phải nhiệm vụ thủ linh cho thánh chủ trói buộc con mãnh hổ này, thủ lĩnh của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ chính là hắn.

Như thế bộ lạc sẽ không thành nắm cát rời phải phụ thuộc vào Yêm Đáp như hiện nay.

Nhưng chỉ trong một ngày, bộ lạc của A Mục Nhĩ gần như bị đánh tan, làm sao mà hắn chịu nổi, chỉ mũi giáo vào đại ca vô dụng phát tiết:
- Chúng ta chỉ cách nhau chưa tới trăm dặm, vì sao ta mấy lần phái người cầu viện, ngươi lại thấy chết không cứu.

Nặc Nhan Đạt là mỹ nam tử mặt mày trắng trẻo, giữ gìn cực tốt, đối mắt đẹp, mũi thẳng, râu quai nón cắt tỉa tỉ mỉ, khiến bất kỳ ai cũng bị khí chất quý tộc của hắn làm ngây ngất.

Nhưng hắn có đẹp như hoa cũng vô dụng, ở thảo nguyên ngươi phải tàn nhẫn, phải xảo trá, giống như cha hắn Cổn Tất Lý Khắc mới được. Đáng tiếc là... Nặc Nhan Đạt lại giống mẹ, một chút phẩm chất thành công của cha hắn cũng không được di truyền.

Chính vì mang đậm khí chất văn nhân này mà hắn bị coi là căn nguyên khiến Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ đi xuống, cho nên đám huynh đệ cũng chẳng hề tôn kính hắn... Thậm chí nếu chẳng phải Yêm Đáp muốn nhìn thấy cục diện này thì Nặc Nhan Đan đã bị đuổi khỏi thành Tế Nông từ đời tám hoánh rồi.

Bị chửi mắng trước mặt đám đệ đệ, đợi A Mục Nhi mắng xong, Nặc Nhan Đạt mới đủng đỉnh nói:
- Thân là thủ lĩnh bộ lạc, quan trọng nhất là bảo vệ an toàn của bộ lạc, tin tức quân Minh xâm nhập do con gái ta phái người thông báo với đệ, sao đệ không cẩn thận?
Thấy A Mục Nhi muốn nổi đóa, hắn dừng đúng mức:
- Chẳng ai muốn xảy ra chuyện này, gặp khó khăn huynh đệ phải hỗ trợ nhau. Quan trọng nhất là đệ không sao, nếu không ta chẳng biết phải ăn nói thế nào với anh linh phụ hãn trên trời.. Phải rồi, đệ cả ngày chưa ăn gì, đói không? Ta bảo mẹ Chung Kim nấu cho đệ bát mỳ nhé.

Bị Nặc Nhan Đạt nói lăng nhăng một hồi, A Mục Nhĩ tức mà phát ra nổi, nhịn ở trong lòng rất khó chịu, hầm hừ nói:
- Ăn gì không ăn, suốt ngày học người Hán ăn mỳ, ta muốn ăn đùi dê nướng.

Sai người đi chuẩn bị dê nướng cho các huynh đệ xong, Nặc Nhan Đạt đi vào chính đề:
- Lần này Đại Minh khí thế rất hung, theo thám báo, nhân số không dưới 10 vạn, có thể thấy lần này đánh thật rồi.

Trừ A Mục Nhĩ ra còn có lão nhị Bái Tang, lão ngũ Bố Dương Cổ và lão thất Ba Đặc.

Trong mấy huynh đệ ở đây lão nhị Bái Tang là đa mưu âm trầm nhất, nhưng sinh ra không gặp thời, nếu không có Yêm Đáp trấn áp, không biết hắn soán ngôi huynh trưởng bao lâu rồi, nên ngọt nhạt nói:
- Đại ca là tế nông, phải làm sao huynh cứ nói, bọn đệ nghe đây.

Bố Dương Cổ và Ba Đặc coi thường lão đại nhất, rất nghe lời lão nhị, nghe thế cũng nói:
- Đại ca nói đi.

- Nếu đã như thế vi huynh mặt dày nói vậy...
Nặc Nhan Đạt văn vẻ chua lè một hồi mới nói:
- Giờ nhớ lại, từ hai năm trước quân Minh đã dần xây biên tường mở rộng về phía bắc, chỉ là mọi người không tin bọn chúng sẽ chủ động xuất kích, cho nên sơ xuất. Hiện giờ xem ra bọn chúng mưu tính kỹ càng, muốn thu phục Hà Sóc.

- Đừng mơ.
Đám huynh đệ nghe vậy đều lạnh lùng nói:
- Chúng ta đã ở đây nhiều đời, đời chúng ta lại càng mở mắt ra đã thấy vùng thảo nguyên này, chúng đừng hòng đoạt được.

- Tốt.
Nặc Nhan Đạt vỗ tay nói:
- Chư vị huynh đệ có lòng này, chúng ta ắt có thể đuổi được kẻ địch đi.
Vì thế các huynh đệ bắt đầu thảo luận sách lược đối địch.

~~~~~~~~~~o0o~~~~~~~~~~

Hội nghị diễn ra tới đêm khua, Nặc Nhan Đạt về cung thất của mình, thấy nhi tử Triết Hách, nữ nhi Chung Kim và thê tử A Nhu Cáp Truân, trong tiếng Mông, Cáp Truân là phu nhân, chỉ có thê tử hãn vương mới được xưng hiệu này, thấy mọi người đều đợi mình, tâm tình tồi tệ của hắn mới khá hơn.

A Nhu giúp hắn cởi áo người, nữ nhi pha một bát trà sữa nóng hổi cho hắn, Triết Hách ồm ồm hỏi:
- A ba, thương thảo ra sao? Bọn họ có đồng ý tới thành Tế Nông không?

- Chưa thương thảo xong.
Nặc Nhan Đạt lắc đầu:
- Bọn họ đều nói, kỵ binh Mông Cổ phải rong ruổi trên thảo nguyên, vào thành khác gì hùng ưng gẫy cánh, thành gà mới đợi giết... Ài, nói cho cùng thì họ nghĩ Tế Nông là địa bàn của ta, không muốn đổ máu cho chúng ta.

- Sao có thể nói như thế? Đây là hãn đình của Ngạc Nhĩ Đa Tư.
Triết Hách giận dữ:
- Con thấy bọn họ tham sống sợ chết thì có.

- A ca, giờ không phải là lúc tức giận.
Chung Kim nhẹ giọng an ủi ca ca xong, nói với cha:
- A ba, nữ nhi không phải người nhiều chuyện, nhưng lúc này không thể không nói.

- Con cứ nói.
Nhớ lại lời nhắc nhở của Chung Kim trong một năm qua, Nặc Nhan Đạt thấy hối hận, đồng thời ý thức được nữ nhi bảo bối của mình không chỉ mỹ lệ, còn có tài hơn người, cho nên không coi là tiểu cô nương nữa.

- Các thúc thúc nói, chiến thuật của người Mông Cổ là địch tiến ta trốn, địch mệt ta quấy, lợi dụng ưu thế đánh địch là đúng. Nhưng chuyện gì cũng có ngoại lệ, thành Tế Nông vạn lần không thể mất.
Chung Kim khẽ lắc bím tóc nhỏ, nói lưu loát:
- Nơi này bốn phương bằng phẳng, lên đài quan sát có thể thấy rõ từng người từng ngựa trong vòng trăm dặm. Nếu như bị quân Minh chiếm mất, chu vi trăm dặm xung quanh sẽ thuộc về chúng. Tới khi đó quân Minh chỉ cần phái những nhóm kỵ binh nhỏ luân phiên quấy nhiễu, chúng ta sẽ không sống được ở trong Sóc nữa, chưa tới một năm toàn bộ Ngạc Nhĩ Đặc Tử sẽ bị đuổi khỏi Sóc.

- Hơn nữa không phải có bộ lạc bốn thúc thúc sao, bảo họ ở ngoài quấy nhiễu quân Minh, không cho bọn chúng toàn lực công thành.
Trong đôi mắt lớn của Chung Kim ánh lên vẻ trí tuệ:
- Chỉ cần cầm cự được vài tháng, ngoại công nhất định sẽ dẫn mấy ca ca tới cứu viện, tới khi đó nếu người Hán rút chậm, sẽ vĩnh viễn ở lại thảo nguyên.

Thời đó người Mông Cố không để ý cận thân không thể kết hôn, ngoại từ mẹ con, huynh đệ tỷ muội ruột thịt ra, tất cả đều có thể cưới gả.
Bọn họ dùng phương thức thân càng thêm thân này duy trì quan hệ giữa các bộ lạc. A Nhu chính là con gái của Yêm Đáp, đường muội của Nặc Nhan Đạt, vì thế Chung Kim có thể gọi Yêm Đáp là a thúc, cũng có thể gọi là ngoại công.

Lời của Chung Kim làm cả nhà gật gù, Nặc Nhan Đạt nhìn phu nhân nói:
- Đáng tiếc Chung Kim là nữ nhi, nếu không sẽ là kiêu hùng trên thảo nguyên.

A Nhu lắc đầu cười:
- Thiếp thà để nó kiếm một nam nhân tốt như chàng, sống yên ổn cả đời.

- Ta tốt như vậy sao?
Nặc Nhan Đạt cười ha hả, âu yếm nhìn nương tử.

- A ba, a mụ, chú ý trường hợp chứ.
Chung Kim xấu hổ nói:
- Đang bàn chính sự đấy.

Triết Hách tuy không nói gì, nhưng bày ra bộ mặt hết cách với đôi phụ mẫu cực phẩm này.

- À, nói chính sự.
Nặc Nhan Đạt đứng dậy:
- Chung Kim nói rất đúng, thành Tế Nông không thể mất, ta sẽ gặp riêng từng đệ đệ, nói rõ đạo lý với chúng.

- A ba, thái độ phải kiên quyết, người là Tế Nông của người Mông Cổ chúng ta.
Chung Kim siết hai bàn tay nhỏ, cổ vũ cho phụ thân.

- Khà khà, được.
Nặc Nhan Đạt cười với nữ nhi rồi đi ra ngoài.

Cả ngày hôm đó cả nhà đợi hắn về, tới khi trới sắp sáng, cả ba đã mơ mảng ngủ, Nặc Nhan Đạt Lạp mới kéo tấm thân mỏi mệt về, mọi người thấy động tĩnh đều mở mắt ra, thấy mặt Nặc Nhan Đạt ủ rũ, tâm tình trầm xuống.

- Bọn họ nói ta càng sống càng đi xuống, lại đi nghe một con bé con nói nhảm.
Nặc Nhan Đạt thả mình xuống giường mềm:
- Họ về cả rồi, giờ chỉ hi vọng vào phía nhị thúc.

Nhị thúc của Nặc Nhan Đạt Lạp tất nhiên là Yêm Đáp.

Nặc Nhan Đạt liền phái đại như tử của mình Biệt Hách ngày đêm không nghỉ vượt Hoàng Hà, sáng sớm hôm sau tới được Hô Hòa Hạo Đặc, tuy đã tới đây nhiều lần, nhưng mỗi lần thấy tường thành, dân cư, lầu gác và cung điện nơi này, Biệt Hách tưởng chừng mình tới nhầm đất hán.

Đương nhiên không phải, nơi này là vương thành của Yêm Đáp hãn.

Khi đứng đợi triệu kiến ngoài cửa cung, một thanh niên gầy gò đi ra, nhiệt tình ôm lấy Biệt Hách, nói:
- Đại ca, sao lại tới đây?

Biệt Hách thân thiết vỗ vai hắn:
- Bả Hán Na Cát, lâu nay khỏe chứ? Ta tới báo cáo quân tình khẩn cấp cho hãn vương.

- Ồ, gia gia đệ và các thúc thúc đang nghị sự, không tiện quấy nhiễu.
Bả Hán rất biết nói chuyện, khoác tay hắn đi vào trong:
- Nhưng nếu là quân tình khẩn cấp vào cũng không sao.

Hắn là độc tử của Thiết Bối Đài Cát, tứ nhi tử được Yêm Đáp yêu quý nhất, cha hắn theo Yêm Đáp tây chinh bị chết, Yêm Đáp liền nuôi dưỡng hắn bên người, hắn bản tính hiền lành, rất được phu thê Yêm Đáp yêu quý, vì thế là đứa cháu được Yêm Đáp cưng chiều nhất. Chuyện xông vào hãn trướng chỉ có hắn dám làm.

Đương nhiên sẽ có nguy hiểm bị giáo huấn, song cũng phải làm.

Biệt Hách biết hắn si mê muội muội của mình, mặc dù năm ngoài đã bị Yêm Đáp an bài cuộc hôn nhân chính trị khác, nhưng mãi nhớ nhung Chung Kim, nên phu thế không hài hòa, cầu xin Yêm Đáp làm mai, cưới Chung Kim Biệt Cát làm thê.
Nhưng Nặc Nhan Đan rất cưng nữ nhi, không muốn con làm nhị phu nhân, Yêm Đáp thấy nữ nhi duy nhất của Tế Nông lại gả cho người khác làm nhị nương tử là không ổn, nên không đồng ý khẩn cầu của Bả Hán.

Song Bả Hán không từ bỏ, muốn lấy lòng Biệt Hách, đi đường vòng.

Biệt Hách cười khổ, để hắn kéo thẳng tới trước cửa vương trướng, đợi Bản Hán vào báo cáo.

Không lâu sau Bả Hán mang khuôn mặt dính đầy nước bọt ra nói:
- Vào đi.

Đi vào hãn trướng, Biệt Hách không dám ngó ngang ngó dọc, vội hành đại lễ:
- Trưởng tử Biệt Hách cả Nặc Nhan Đạt Lạp đầu lĩnh Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ, bái kiến Thổ Mặc Đặc Yêm Đáp hãn, quốc chủ Đại Kim...

Thấy hắn lễ số chu toàn, Yêm Đáp cười nói:
- Thì ra là tiểu tử nhà Nặc Nhan, tới đây làm gì?

- Hồi đáp Yêm Đáp hãn, Biệt Hách phụng lệnh phụ thân tới báo cáo quân tình khẩn cẩm.

- Đứng lên nói đi.
Yêm Đáp bảo người dọn chỗ ngồi cho hắn, Biệt Hách đứng dậy chào từng nhi tử của Yêm Đáp, đám Đài Cát tâm tình không tốt, không thèm để ý tới hắn. Biệt Hách cũng không bận tâm, ngồi xuống đợi Yêm Đáp hỏi.

- Biệt tiểu tử không ngờ đích thân tới đây, phải chăng người Hán vượt biên tường xâm nhập thảo nguyên rồi?

- Đại hãn anh minh.
Biệt Hách đáp:
- Đúng là như thế.

- Hả.
Yêm Đáp thực ra chỉ nói đùa thôi, ai ngờ là thật, mấy tên Thai Cát cũng không ngồi yên được nữa, hỏi:
- Có bao nhiêu binh mã?

- Không dưới mười vạn.

- Đừng nói bừa.
Hoàng Thai Cát nói:
- Quân Minh chẳng lẽ điên xuất động đồng thời binh lực hai tuyến, bọn chúng lấy đâu ra thực lực đó?

- Cái gì?
Biệt Hách cũng ngớ ra:
- Tiền Sóc cũng bị công kích rồi?

Bính Thỏ Thái Cát và Biệt Hách quan hệ khá tốt, gật đầu đáp:
- Hai ngày trước, tên nô tài kia dân gia binh của hắn sát nhập Thổ Mặc Đặc Xuyên, liên tục tập kích ba bộ lac của chúng ta, đốt liền mười mấy đồng cỏ. Hơn nữa phía Tuyên Phủ cũng điều động đại quân, có ý tả hữu hô ứng, càn quét thảo nguyên.

Kỳ thực còn một tin nữa hắn không nói, đó là Ngột Thận bộ vốn chắn trước Đại Đồng đột nhiên di chuyển về phía tây bắc, nhường ra con đường thông tới Thổ Mặc Đặc Xuyên.
Tin tức này vốn làm Yêm Đám và đám nhi tử cực kỳ phẫn nộ, giờ nghe nói tới tình cảnh của Ngạc Nhi Đa Tư bộ, phẫn nộ thành sợ hãi, lần này Triều Minh muốn chơi thật rồi.

- Đại hãn minh xét, từ quy mô quân Minh mà xét, phương hướng chủ công của bọn chúng là Hà Sóc...
Biệt Hách đành nói:
- Phụ thân cháu nói, Ngạc Nhi Đa Tư bộ như chín cái đũa, sẽ bị bọn chúng bẻ gãy từng cái một, chỉ có đại hãn mới có thể gom chín cái đũa này lại, làm người Hán không dám làm gì.

Yêm Đáp cảm thấy rất dễ chịu, đang định nói thì Hoàng Thai Cát tranh trước:
- Cha ngươi vô dụng biết cái gì, người Hán xảo tra luôn tỏ vẻ thế này làm thế khác, nếu chúng ta đem đại quân tới, thế nào cũng bị tên nô tài kia xới tung ổ...
Mấy tên Thai Cát phẫn hận Mã Phương tới mức mở mồm ra là nô tài.

Yêm Đáp không nói, tòa Hô Hòa Hạo Đặc thành này gửi gắm vinh diệu và mổng tưởng cả đời của hắn, bất kể thế nào cũng không thể vứt bỏ.

Giờ hắn mới hiểu được thống khổ của người Hán, tài phú một khi ngưng tụ vào cung thành hoa lệ phải bảo vệ mọi lúc, không thể muốn đi đâu thì đi như cuộc sống bám vào đồng cỏ trước kia nữa.

Nhớ tới cẩm nang diệu kế của muội muội trước khi đi dặn dò, Biệt Hách cắn răng nói:
- Đại hãn minh xét, một khi người Hán chiếm thành Tế Nông, Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ sẽ không còn chỗ đứng trên thảo nguyên nữa. Lúc đó không thể giữ hậu phương cho đại hãn, Hô Hòa Hạo Đặc sẽ gặp địch cả hai hướng, người tiến công Tuyên Đại sẽ bị quân Minh vượt sông tấn công. Người muốn thu phục Hà Sóc, ắt bị Tuyên Đại thừa cơ đánh Hô Hòa Hạo Đặc. Còn chúng tôi những thuộc hạ trung thành nhất của đại hãn, mấy vạn người không nơi chăn thả gia súc, đành mạo hiểm tây tiến tới sông Hòa Ngạch Nhĩ Tề Tư tranh giành không gian sinh tồn với Ngõa Thứ bộ.

Lời Biệt Hách không có chút kỹ xảo nào, nhưng làm Yêm Đáp và đám con áp lực nặng nề. Bố Ngạn Thai Cát tức giận nói:
- Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ có mấy chục vạn người, nhất định cần chi viện mới giữ được nhà sao?

- Tiểu chất nói rồi, chim không đầu không thể bay, ngựa không đầu không chạy được.
Biệt Hách chậm rãi nói:
- Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ tan rã chia rẽ, phụ thân tiểu chất không cách nào xoay chuyển, đành cầu cứu Yêm Đáp hãn vĩ đại.

- Đừng nói nữa.
Mấy tên Thai Cát còn định phản đối thì Yên Đáp nạt ngang:
- Biệt tiểu tử nói đúng, Ngạc Nhĩ Đa Tư là bộ lạc của huynh trưởng ta, giờ các chất nhi bị nguy hiểm, ta là thúc thúc không thể khoanh tay ngồi nhìn.

- Đại hãn nhân từ.
Biệt Hách kích động tạ ơn.

- Đừng vội.
Yêm Đáp xua tay:
- Nếu muốn ta chỉ huy thì giờ nghe ta, quân Minh tiến công Hà Sóc là thực, nhưng Mã Phương tới bên Hô Hòa Hạo Đặc cũng không phải giả. Mặc dù nhân số của hắn không đông bằng bên Hà Sóc, nhưng có một vạn kỵ binh, nên bản vương phải ở lại đấu với hắn...

- Còn về phần binh lực ở Hà Sóc thế là đủ, chẳng qua không có người lãnh đạo mà thôi, vậy để nhi tử của ta thay mặt ta tới đó, quyết định của chúng là ý của ta, ta tin các chất tự của ta sẽ không có ý kiến chứ hả?

Biệt Hách không nói, hắn biết đám thúc thúc của mình ngang ngược quen rồi, trừ Yêm Đáp ra ai trấn áp nổi nữa?

Biết hắn không hài lòng, Yên Đáp nhượng bộ:
- Ta mau chóng xử lý Mã Phương rồi đích thân tọa trấn. Thế đã được chưa?
Nói tới câu cuối, ngữ khí Yêm Đáp đã trở nên bất thiện.

Nhìn mấy tên Thai Cát mặt âm trầm, Triết Hoạch biết mình nói thêm một câu là Yêm Đáp sẽ trở mặt, đành gật đầu:
- Tất cả xin nghe đại hãn định đoạt.

Nghe thế sắc mặt của Yêm Đáp mới hòa hoãn hơn, nói:
- Được rồi lui đi, để ta và các thúc thúc của ngươi bàn việc.

Biệt Hách đứng dậy cáo lui, tới cửa bị Yêm Đáp gọi lại:
- Đúng rồi để Bả Hán cùng đi, hi vọng lúc nó trở về, mang theo ngoại tôn nữ của ta.

Biệt Hách người run lên, chửi thầm:" Con hồ ly già, không lợi dụng nguy của người khác thì chết à?" Nhưng phải cầu tới người ta nên đành gật đầu:
- Đại Thành Thai Cát tới, phụ thân cháu khẳng định mong mà chẳng được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 844: Phục đông thắng


Hiệu quả của trận chiến thảm liệt với Thổ Nhĩ Hỗ Đặc bộ vài ngày sau mới hiện ra. Từ Y Kim Hoắc Lạc cho đến dưới thành Đông Thắng, Minh quân cũng không lọt vào tiến công của người Mông Cổ, chỉ có một số du kỵ như ruồi quấy rầy chẳng quản ban ngày đêm tối, nhưng sợ cái loại vũ khí kinh khủng có thể đánh xa trăm trượng nên cũng không dám đến gần quá, chỉ quấy rầy ở bên ngoài.

Minh quân không thèm để ý tới loại hành động ruồi bu này, vẫn bảo trì đội hình hành quân, mỗi ngày tiến lên bốn mươi dặm. Sau đó hạ trại, nên làm gì thì làm, cứ như vậy vững vàng đi hết ba ngày. Chạng vạng ngày mùng 9 thì đến dưới thành Đông Thắng.

Đại quân của người Mông Cổ cũng đã tập kết sẵn ở hai mặt đông tây ngoài thành, chờ đợi đã lâu. Các quý tộc Mông Cổ dũng cảm là sẽ không thừa nhận mình sợ quân Minh. Họ giải thích với thủ hạ lần trước không chủ động tiến công là dĩ dật đãi lao, đợi quân Minh đến dưới thành Đông Thắng, đặt chân chưa vững là sẽ phát động một kích sấm sét!

Không quan tâm có nghĩ như vậy thật hay không, dù sao thì mạnh miệng nói ra rồi. Hiện tại quân Minh cũng đã đến, chung quy không thể kéo dài tiếp tục được. Huống hồ họ cũng biết đợi quân Minh lập xong doanh trại rồi, muốn tiến công thì khó khăn càng thêm khó khăn. Cho nên chỉ có thể kiên trì, đồng thời phát lệnh tiến công, cấp cho quân Minh một đòn phủ đầu...Theo họ, trận chiến này không nhất định phải sát thương bao nhiêu quân Minh, nhưng nhất định phải đả kích sĩ khí của đối phương, cho nên đưa hết ra toàn bộ lực lượng có thể điều động. Từ ba mặt khởi xướng mãnh công.

Hơn hai vạn kỵ binh tụ quần xung phong, cát bụi phủ khắp bầu trời, tràng diện hết sức đồ sộ khiến người khác không khỏi nhớ tới đội thiết kỵ vô địch của thời Thành Cát Tư Hãn.

Nhưng mà đối thủ lần này của họ cũng không phải là các tướng lĩnh xoàng xĩnh tự đại vô năng, mà là Thích Kế Quang, tướng lĩnh ưu tú nhất suốt 200 năm qua của Minh vương triều từ sau Từ Đạt. Hơn nữa dưới trướng của hắn còn tập trung phong vạn quân đội cường hãn nhất của thời đại này, sở hữu trang bị hoàn mỹ nhất, sĩ khí đang cao ngất. Đối với tướng lĩnh như Thích Kế Quang, mức độ cường hãn của thủ hạ quân đội có quan hệ trực tiếp với sức chiến đấu chỉnh thể của quân đội. Hắn đã sớm phòng bị thủ đoạn này của người Mông Cổ rồi, cho nên thủy chung khống chế tốc độ hành quân của bộ đội, cũng mệnh lệnh các quân quan nhiều lần tuyên đạo tư tưởng với các tướng sĩ, thời khắc đến dưới thành Đông Thắng đó là lúc đại chiến.

Cho nên bộ đội đã làm tốt chuẩn bị đầy đủ, chiến xa doanh, sĩ trùng doanh đã sớm di chuyển đến tuyến đầu phòng tuyến. Một khắc người Mông Cổ khởi xướng tiến công thì đã đầu đuôi tương liên, hợp thành ba đạo phòng tuyến vững chắc. Mà bộ đội kỵ binh thì di chuyển đến hậu trận, phòng bị người Mông Cổ từ sườn tập kích, cũng thời khắc chuẩn bị giảm bớt áp lực cho phòng tuyến vì gặp phải nguy hiểm. Bộ binh sĩ tốt thì dựa vào chiến xa chuẩn bị xạ kích. Lần này trong mấy vạn bộ binh chỉ có không tới một vạn trường mâu binh, còn lại tất cả đều là Hỏa thương binh được trang bị lưỡi lê... Ngoại trừ một vạn Toại phát thương, còn lại cũng đều được trang bị Hỏa thằng thương do các binh công xưởng sản xuất, chất lượng đề cao rất nhiều so với trước đây, sẽ không xuất hiện tình trạng một loạt đạn bắn qua mà địch nhân không ai bị thương.

Nhưng mà khai hỏa trước tiên lại là 80 khẩu thần uy đại pháo nặng 3000 cân, dài gần một trượng trực thuộc trung quân... Loại pháo này bắt nguồn từ Châu Âu, quân Minh thu được từ trong nhân thủ phật giáo. Thật ra nó là hồng y đại pháo thuộc thời đại trước kia của Thẩm Mặc. Đương nhiên dựa vào nguyên tắc đặt tên trước đó của ai đó, y đặt cho nó cái tên này. Loại pháo giật trọng hình không nòng xoắn này có tầm bắn ngoài 7 dặm, uy lực cực kỳ kinh người. Cho dù nhét vào đạn bồ đào cũng có thể bắn xa bốn năm dặm. Khi thấy quân đội Mông Cổ trong tầm mắt của quân Minh chỉ còn là một đường thẳng, liền có trên trăm phát đạn pháo kèm với tiếng pháo ù ù bắn ra. Dưới lục trùng kích to lớn, thân đạn tại giữa không trung phân giải thành mấy miếng thiết đạn hình cầu, lập tức hóa thành một trận mưa đạn rơi xuống trận địa quân Mông. Phàm là rơi vào trong đoàn người, trong nháy mắt có thể quét ngã một vòng mười mấy kỵ binh. Chỉ một vòng xạ kích bốn năm trăm quân Mông đã bị té ngựa, không chết cũng tàn phế.

Thông qua kính thiên lý Thích Kế Quang thấy được chiến quả, thoả mãn gật đầu, thầm nghĩ đốc sư đại nhân bỏ số tiền lớn mời giáo quan của Phật Lãng Cơ truyền thụ pháo binh học, quả nhiên dạy cho tụi nhỏ biết bắn pháo thế nào. Cái này nếu như lại thêm vài ba đợt nữa, có lẽ sẽ đánh cho đối phương chạy luôn.

Chỉ tiếc... Thích Kế Quang bất đắc dĩ nhìn trận địa pháo binh, thấy nơi đó hết sức lộn xộn. Sau khi bắn ra một lần, các pháo binh phải tưới nước vào pháo để dập lửa, lấy vải khô lau bên trong phần thân pháo rồi mới nhét hỏa dược vào, chất dẫn cháy, nhét vào đạn pháo, sau đó mới có thể bắn nữa. Những động tác này khá lề mề và phiền phức, còn chưa bao gồm tu chỉnh ụ súng... Bởi vì lực phản chấn rất lớn nên mỗi lần bắn ra đều làm cho ụ súng bị chếch đi.

Đây là bệnh chung của hoả pháo nạp đạn đầu nòng, có thể hai phút một phát đã tốt lắm rồi, cho nên khi đối mặt với kỵ binh căn bản không kịp bắn đệ nhị pháo. Song Thích Kế Quang mang chúng tới đây cũng không phải dùng cho dã chiến, vòng xạ kích lúc nãy chỉ thể xem như là tặng phẩm, và vua của dã chiến chân chính, khi quân Mông chạy tới cự ly ba dặm mới coi là gặt hái khấm khá!

500 khẩu đại tướng quân pháo đồng thời nổ súng, tràng diện đồ sộ hơn nhiều so với lúc nãy, hiệu quả cũng tuyệt vời... Mỗi khẩu đại pháo phóng ra viên đạn lớn nhỏ như hột đào, trên đầu quân Mông tạo ra một cơn mưa đá đoạt mệnh, khiến trận hình địch như vỡ tung, bất kể là người hay ngựa chỉ cần bị bắn trúng đều lập tức bị mất đi sức chiến đấu, kỵ binh quân Mông như bánh chẻo ngã hết xuống đất, trên chiến trường chớp măt chỉ còn lại tàn chi đoạn thể bay tứ tung, máu me nội tạng tung tóe, tràng diện như Tu La địa ngục!

Khác với Thần uy đại pháo, Đại tướng quân pháo được Đại Minh chế tạo. Thân dùng gang đúc, diễn sinh từ Hổ tôn pháo, phân đại trung tiểu ba loại, dài ba năm xích, nặng ba năm trăm cân. Vì dưới tiền đế khinh lượng hóa phòng ngừa tạc thang, trên ống pháo có nhiều vòng sắt siết chặt thêm, miệng pháo có vuốt sắt. Thân pháo dùng đinh sắt lớn cố định trên mặt đất để giảm độ giật sinh ra sau khi phóng, khắc phục được nguy hiểm đối với pháo thủ, sau khi xạ kích cũng không cần chỉnh lại ụ súng. Càng đáng khen hơn nó là một loại xe chở pháo, bánh xe trước cao sau thấp. Nhưng ở trên xe trực tiếp phóng ra tạo thành lực sát thương rất lớn đối với kỵ bộ binh. Thiết kế của nó tiên tiến hơn nhiều so với hoả pháo của Châu Âu.

Pháo này dễ dàng cơ động tại vùng sơn lâm kênh rạch chằng chịt, điều khiển được tại nơi hiểm yếu, càng có thể bắn ra trên trăm viên đạn nhỏ hoặc hơn mười viên đạn lớn, toả ra mặt đất, hiệu quả sát thương hơn cả Phật Lãng Cơ khi nhằm vào quân địch lấy đội hình dày đặc mà tiến công. Trong tác chiến kháng Oa đã phát huy tác dụng quan trọng. Trong năm Long Khánh khi Thích Kế Quang đến Kế trấn luyện binh lại sáng tạo ra đem pháo này trang bị cho kỵ binh sử dụng, hơn nữa hoả pháo sản xuất mới nhất đã hấp thu sở trường của hoả pháo phương tây, dưới tình huống có độ tin cậy cao hơn lại càng nhẹ hơn. Hơn nữa trang bị thiết bị ngắm đã khắc phục nhược điểm lớn nhất là không thể nhắm chuẩn xác lúc trước, trở thành kỵ binh pháo tốt nhất đương đại.

*******

Dưới ảnh hưởng của Thẩm Mặc, độ coi trọng của Thích Kế Quang đối với hỏa pháo đã đến tình trạng độc nhất vô nhị. Khi kỵ binh Mông Cổ phải trả giá thảm trọng, rốt cuộc chạy đến trong vòng hai dặm, lại thêm trên 1000 khẩu Phật Lãng Cơ thiết lập trên chiến xa phát hỏa. Loại hỏa pháo đường kính nhỏ này hoặc là nói hỏa súng đường kính lớn uy lực của nó không thể so sánh với các huynh trưởng. Nhưng mà tán đạn mà nó phóng ra lại dày đặc mà chuẩn xác, lại có thể liên tục phóng ra mà các đại pháo làm không được.

Đây là bởi vì cấu tạo đặc biệt của Phật Lãng Cơ, nó cấu thành từ mẫu súng (ống pháo) và tử súng (tiểu hỏa súng). Mẫu súng thân ống dài nhỏ, đường kính nhỏ dần lại, thân súng phối hợp với ống ngắm, có thể tiến hành nhắm vào xạ kích đối với mục tiêu cự ly xa. Hai bên thân súng có pháo nhĩ, có thể đem thân súng đặt trên giá, có thể giơ lên giơ xuống điều chỉnh góc độ xạ kích, cho nên có thể đạt được độ chính xác tương đối cao. Phần sau thân súng khá to mở ra cái rãnh dùng để nhét vào tử súng. Tử súng cùng loại như tiểu hỏa súng. Mỗi một mẫu súng có tất cả từ năm đến chín tử súng, có thể nhét đạn dược vào sẵn để chuẩn bị dùng, khi chiến đấu thay phiên lắp vào mẫu súng phóng ra, cho nên tốc độ phóng ra được đề cao.

Mặc dù như vậy sẽ bởi vì sức nén không đủ dẫn đến uy lực hữu hạn, nhưng dưới hình thức thiết kế ba tầng hỏa lực của Thích Kế Quang có hai loại đại pháo chiếu cố đường xa, Phật Lãng Cơ chỉ cần đối phó với địch nhân tầm trung là được, cho nên có thể dương trường tị đoản, tạo thành sát thương lớn nhất.

Trên thực tế, loại hỏa lực xấp xỉ với bắn liền này đả kích nghiêm trọng nhất đối với sĩ khí của người Mông Cổ, uy lực của đại pháo tuy lớn nhưng chỉ có thể vang một lần, chịu một lần rồi qua, khẽ cắn môi còn có thể chịu được. Nhưng loại vũ khí phun ra đạn liên miên không dứt này đã khiến cho chúng triệt để tan vỡ...

Trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, vô số đinh sắt, mảnh đạn vô cùng sắc bén văng ra tứ tán, dưới sự trợ giúp của lực nổ mạnh trong nhiệt độ cao và sức nén cao, đinh sắt mảnh đạn bắn tung toé như mưa không thể tránh né phun về phía trận địa của kỵ binh Mông Cổ, khiến chúng cả người lẫn ngựa nổ tung máu thịt không rõ. Trong tiếng nổ mạnh và khói đặc cuồn cuộn, binh sĩ quân Mông lửa cháy khắp người gào thét thê lương, chiến mã lăn mình kêu thảm trên mặt đất. Tràng cảnh giống như Tu La địa ngục!

Các quý nhân Mông Cổ đang quan chiến ở trên sườn núi đằng xa không nhẫn nổi nữa, nhất là Bố Dương Cổ và Ba Đặc tổn thất nhiều nhất kêu la muốn Ba Tang hạ lệnh lui binh.

- Lúc này lui binh chẳng phải là chết uổng bao nhiêu người rồi sao? - Ba Tang đỏ mắt nói: - Sẽ nghịch chuyển ngay thôi, tin tưởng ta!

Liên tục lừa với dọa mới trấn an được hai người, rồi tiếp tục nhìn chiến trường vô cùng thê thảm, chờ đợi chiến cuộc biến hóa.

Nhưng mà đợi được chỉ là súng trường kiểu Long Khánh của quân Minh gia nhập giết chóc, đạn dày đặc mà chính xác tuy không có thanh thế của pháo hỏa nhưng làm cho nhân số sát thương tăng lên nhanh chóng. Chỉ bắn một vòng đã có hơn 1000 kỵ binh ngã ngựa, hơn 1000 chiến mã bay tung lên, sau đó mới bị thương ngã xuống đất.

Lúc này, kỵ binh Mông Cổ biểu hiện ra phẩm chất ưu tú của con cháu Thành Cát Tư Hãn, trước mặt thương vong nhưng họ dũng mãnh không sợ chết, cứ xông về phía trước. Nhưng Hỏa thằng thương với số lượng càng nhiều hơn công kích mới là vũ khí phổ cập nhất trong tay binh sĩ Đại Minh, mặc dù tốc độ và tầm bắn không thể so sánh với cái trước nhưng ăn nhau ở độ dày của đạn. Thẩm Mặc cũng chơi tới bến rồi. Sau khi cải chế chín xưởng công binh lớn, số vũ khí sản xuất trong hai năm toàn bộ phân chia hết cho Phục Sóc quân, khiến trang bị hỏa khí của nhánh quân này bất kể là số lượng hay là chất lượng đều vượt qua bất cứ nhánh quân nào tại đương đại.

Vũ khí nóng đào thải vũ khí lạnh đó là cơn thuỷ triều lịch sử không thể nghịch chuyển, làm không được điểm này chỉ có ba nguyên nhân. Một là vũ khí nóng chất lượng quá kém, hai là tố chất quân đội quá kém, ba là quan chỉ huy là một tên ngốc. Phục Sóc quân hiện tại hiển nhiên không có duyên với ba tố chất này...

Nhưng mà đội ngũ kỵ binh dày đặc như mây lại vẫn hung hãn không sợ chết chạy về phía trước. Các kỵ binh trên lưng ngựa hô to tên của Thành Cát Tư Hãn, khẩn cầu thánh chủ bệ hạ ban tặng cho họ dũng khí cùng lực lượng để tiêu diệt những kẻ xâm lấn đáng sợ này!

Rốt cuộc, kỵ binh trước nhất đã vọt tới cách quân Minh chưa tới 50 mét. Họ dừng lại, giơ lên cung đã cài tên dùng tốc độ bình sinh nhanh nhất bắn như mưa về xa trận quân Minh.

Đáng tiếc họ đụng phải là Thích gia quân tuyệt không nao núng, đối mặt với mưa tên tập kích đến, các bộ binh ở hàng trước mặc Tỏa tử giáp bất động, nửa bước không di, chuẩn xác dùng Long Khánh thức của họ tiến hành xạ kích. Tỏa tử giáp có thể chống đỡ uy lực của cung tiễn rất tốt, nhưng bì giáp trên người quân Mông trước mặt đạn sắt thì chỉ như thùng rỗng kêu to. Dưới ba tầng hỏa thương xạ kích dày đặc của quân Minh, cùng với bắn cự ly gần của Phật Lãng Cơ, quân Mông khó ổn định địa thế, đảo mắt hàng nhân mã đầu tiên đã tử thương hầu như không còn.

Vì vậy kỵ binh Mông Cổ lại lần nữa cất bước đi tới. Đúng lúc này, hoả pháo của quân Minh lại được nhồi vào, kèm với tiếng cảnh báo dồn dập chói tai, binh sĩ quân Minh đồng loạt nằm xuống, để rồi mấy trăm khẩu Đại tướng quân pháo trong cự ly 30 bước phóng ra một vòng lựu pháo.

Kỵ binh Mông Cổ đổ ngã như cắt lúa, chiến trường trong nháy mắt trở nên im ắng, toàn bộ dũng khí cũng theo một vòng pháo kích này mà hôi phi yên diệt, quân Mông tại trung lộ liền ngừng lại...

Nhưng ở hai cánh quân Minh có hỏa lực tương đối yếu vẫn có quân Mông vọt tới trước trận. Sáp chiến bắt đầu rồi. Trên hỏa thương của hàng trước quân Minh đều trang bị lưỡi lê, một lần xạ kích cuối cùng hoàn tất liền đem hỏa thương dùng làm trường thương. Những chiến sĩ cảm tử tinh nhuệ nhất này đều là lão binh kinh nghiệm sa trường, họ vững vàng đứng ở trên chiến xa, lợi dụng độ dài của vũ khí khi dễ quân Mông cầm trong tay Mã đao. Phía sau họ còn có đội vũ khí lạnh duy nhất của Phục Sóc quân cầm trong tay trường mâu một trượng trợ chiến, khiến quân Mông không thể nào chiếm được tiện nghi.

Trước trăm cay nghìn đắng vọt tới trận địa địch lại bị chiến xa ngăn trở sít sao, căn bản không thể phá tan phòng tuyến của quân địch, đội quân có ngoan cường mấy cũng triệt để tan vỡ. Trong nháy mắt khi tiếng kèn lệnh rút quân vang lên, quân Mông liền đồng loạt giục ngựa dùng tốc độ nhanh hơn so với lúc đến lao ra khỏi chiến trường.

Quân Minh tự nhiên dùng thương pháo mãnh liệt vui vẻ đưa tiễn, khi quân Mông rời khỏi ngoài ba dặm thì Thần uy đại pháo của quân Minh rốt cuộc lần thứ hai lên tiếng, lại một nhóm nhân mã ngã xuống. Quân Mông đã triệt để sợ hãi, chúng điên cuồng chạy ra xa hơm 10 dặm, cách quân Minh càng xa càng tốt.

Nói đến thì hình như thời gian rất dài, nhưng thật ra từ khi quân Mông phát động cho đến khi chúng rút quân cũng chỉ chốc lát như mặt trời từ lúc sắp xuống núi đến khi xuống núi mà thôi. Thi thể chết trận của quân Mông nằm la liệt khắp nơi, nhìn qua cũng phải tới năm sáu nghìn. May mà sắc trời đã tối nên quân Minh không thể phái kỵ binh truy kích, bằng không còn không biết sẽ tử thương thành bộ dáng gì nữa.

Một trận đánh thành như vậy đã hoàn toàn vượt qua sự tưởng tượng của các phương. Nặc Nhan Đạt Lạp đứng trên tường thành sắc mặt tái nhợt, vã mồ hôi lẩm bẩm:
- Ma quỷ, ma quỷ...

Thì ngay cả bản thân quân Minh cũng khó có thể tin, đây vẫn là kình địch số một của Đại Minh triều, sao lại chịu không được một kích rồi?

Duy nhất có thể bảo trì thanh tỉnh cũng chỉ có Thích Kế Quang. Hắn biết, những người Mông Cổ này chưa kiến thức qua xa trận của mình, càng chưa lĩnh giáo qua uy lực của hỏa khí chân chính, tùy tiện xông lên đương nhiên sẽ bị va phải đầu rơi máu chảy. Chỉ là trải qua lân này, quân Mông khẳng định sẽ không trứng chọi đá lần nữa. Cho nên cũng không có gì mà kích động.

Hắn phân phó bộ hạ lập tức thu thập chiến cuộc, cứu trị thương binh. Bộ đội chưa tham chiến thì vội vàng dựng doanh trại, thành lập phòng ngự, để ngừa vui quá hóa buồn, bị người Mông Cổ chưa tham chiến thừa cơ đánh lén, vậy thì xấu hổ quá.

Đến khi liên doanh kết trại, dựng lên đại trướng thì đã là lúc đêm khuya.

Trong soái trướng than lửa cháy hừng hực, hơn 10 ngọn nến to như cánh tay chiếu sáng rõ trong và ngoài lều. Thích Kế Quang, Lưu Hiển mấy vị tướng lĩnh đứng ở trước sa bàn, một bên nghiên cứu địa hình, một bên nghe thám báo bẩm báo. Căn cứ tra xét, hiện nay quân Mông tụ tập tại khu vực Đông Thắng có năm bộ lạc...trong đó bao gồm Ngạc Nhĩ Đa Tư bản bộ, cùng với đông tây bắc ba bộ lạc lân cận với nó, phía nam nam Đạt Nhĩ Hỗ Đặc bộ đã bị đánh tàn, hiển nhiên sẽ không tái xuất chiến. Lại thêm Ô Lạp Đặc bộ tới đây hôm qua, tổng cộng hơn 35000 người.

Nhưng số nhân mã này cũng không ở cùng một chỗ. Hơn 1 vạn người của Ngạc Nhĩ Đa Tư bản bộ canh giữ trong thành Đông Thắng, nhân mã của bốn bộ khác phân biệt đóng quân ở đông tây ngoài thành Đông Thắng 20 dặm, hiển nhiên mặc dù họ không muốn khốn thủ trong thành, nhưng nghe khuyên bảo của Nặc Nhan Đạt Lạp ở bên ngoài và trong thành hô ứng. Tuy nhiên ngày hôm nay sau khi bị một kích đã tổn thất thảm trọng, còn có thể trợ giúp cho trong thành lớn thế nào nữa thì khó nói rồi.

Sau khi đại thể lý giải tình hình quân địch, Thích Kế Quang liền cùng đám người Lưu Hiển thương nghị an bài tiến công cho ngày mai... Cản trở lớn nhất ở chỗ, trải qua hai đời Tể Nông tu kiến, Đông Thắng thành cao hào sâu, phòng bị hoàn thiện, nếu như cường công thì tổn thất khẳng định không nhỏ, cho nên đối với việc áp dụng loại phương án nào các tướng lĩnh tranh luận rất sôi nổi. Nhất là sau một trận triệt để đại thắng thì càng không muốn tổn thất thêm quan binh ở dưới thành Đông Thắng này nữa.

Đang thương nghị thì có thân binh đi vào bẩm báo, nói có người của Cẩm Y Vệ có việc trọng đại cần báo. Lần này xuất chinh có thể rõ ràng tình huống của người Mông Cổ như lòng bàn tay thì cũng nhờ có hơn 3 năm công tác bí mật của Cẩm Y Vệ. Người bình thường không biết, nhưng đám người Thích Kế Quang lại trong lòng biết rõ. Hơn nữa Thích Kế Quang càng biết, Cẩm Y Vệ phụ trách quân sự tình báo chính là lão nhân năm đó đi ra từ Trấn phủ ti rất hiểu được nặng nhẹ. Lúc này đến đây quấy rối thì tất có đầy đủ lý do.

Hội nghị tạm dừng, Thích Kế Quang mệnh chúng phó tướng, tham mưu đi ra ngoài trước, chỉ có hắn và Lưu Hiển lưu lại, sau đó mời người của Cẩm Y Vệ vào.

Vào là Lục Cương, gió cát quan ngoại đã làm cho khuôn mặt người thanh niên này đậm nét tang thương, công tác bí mật trường kỳ càng khiến hắn trở nên trầm mặc.

- Không biết các hạ xưng hô thế nào? - Thích Kế Quang tự mình rót cho hắn một chén trà nóng rồi mỉm cười hỏi.

Lục Cương tiếp nhận trà nhưng không chạm môi, thản nhiên nói:
- Làm cái nghề như chúng tôi không có tên, chỉ có một danh hiệu, gọi Hôi Lang, đại soái chớ trách.

- Hôi Lang, tên rất hay. - Thích Kế Quang cười nói: - Không biết Hôi Lang huynh đệ đến đây có gì chỉ giáo?

- Tại hạ đến đây là vì hiến kế sách lấy Đông Thắng.

Lục Cương nói không lớn, nhưng làm cho Thích Kế Quang và Lưu Hiển chấn động.

Lấy trả giá cực nhỏ mà giành được một trận đại thắng, hơn nữa là tại trong dã chiến chính diện đánh với thiết kỵ Mông Cổ. Điều này tuyệt đối có khích lệ cao hơn đối với tướng sĩ Đại Minh so với lần trước thủ chiến thắng lợi và ngay đêm tập kích địch doanh. Dù sao hai trận chiến lần đó do bộ đội kỵ binh đảm trách, vả lại ở ngoài tầm mắt của đại bộ đội, không thể so sánh với loại tràng diện khi tự mình trải qua.

Tướng sĩ quân Minh sĩ khí tăng vọt, suốt đêm chế tạo khí giới công thành. Cùng sử dụng trúc và da dê chế tạo 20 cái cầu phao, sau đó gắn lên xe ngựa nối liền trước sau, chuẩn bị khi công thành mắc vào. Lúc bình minh lên, chuẩn bị sẵn sàng, quân Minh giết trâu mổ dê, ăn no nê rồi mới tranh thủ từng phút từng giây tĩnh dưỡng tinh thần. Giờ Mẹo vừa đến đại quân tập kết, dưới quan quân suất lĩnh ầm ầm xuất doanh, tại ba mặt đông tây nam thành Tế Nông liệt trận đợi lệnh.

Các kỵ binh xuất phát sớm hơn để tới lui tuần tra ngoại vi chiến trường, phòng bị có quân Mông tới quấy rầy công thành.

Thấy tràng cảnh này, người Mông Cổ trên thành Tế Nông biết quân Minh muốn công thành rồi. Thấy ngoài thành đông nghịt quân đội càng tụ càng nhiều, nghĩ đến thảm bại gặp phải ngày hôm qua như ác mộng, họ nhịn không được sắc mặt tái nhợt, nắm chặt cung tiễn trong tay, đều lo lắng cho số phận của mình.

- Tế Nông tới rồi...

Không biết ai hô to một tiếng, quân Mông trên thành theo tiếng nhìn lại. Thấy Nặc Nhan Đạt Lạp mặc quân trang chói mắt di cùng với đôi nữ nhân xuất hiện ở trước mặt mọi người.

Thấy ánh mắt mọi người nhìn sang minh đều lộ ra do dự ít hoặc nhiều, Nặc Nhan Đạt Lạp khẽ ho một tiếng:
- Các dũng sĩ của Ngạc Nhĩ Đa Tư, chúng ta đối mặt với một trường nguy cơ trước nay chưa có, 10 vạn quân Minh trang bị hoàn mỹ lập tức sẽ triển khai tiến công đối với thành trì của chúng ta rồi. Nếu như thành Tế Nông bị mất, chúng ta sẽ bị đẩy ra khỏi gia viên của chúng ta, từ nay về sau sẽ không còn nơi mà về, hoặc là bị các bộ lạc khác chiếm đoạt, vợ con nữ nhân sẽ thành nô lệ của chúng. Hoặc là tiêu vong ngay lúc này, hóa thành xương trắng không ai thu gom...

Nói đến đây hắn cũng có chút động tình, đề cao giọng nói:
- Cho nên chúng ta đã không còn đường lui, chỉ có bảo vệ cho thành Tế Nông, đợi khi viện binh của Yêm Đáp hãn tới rồi, Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ của ta mới có thể vượt qua nguy cơ hiện tại. Bằng không, chúng ta sẽ triệt để mất đi thảo nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư, biến thành kẻ không nhà! Các ngươi nguyện ý biến thành kẻ không nhà sao?

- Không muốn...

Mọi người đáp.

- Nói còn nhỏ quá. - Nặc Nhan Đạt Lạp lớn tiếng nói: - Ta hỏi lại một lần, các ngươi đồng ý không?

- Không đồng ý! - Lần này câu trả lời vang dội hơn nhiều.

- Ta cũng không đồng ý!

Nặc Nhan Đạt Lạp rút ra bảo kiếm bên hông, trở tay cắt rách đầu ngón tay của mình, điểm máu lên trán và nói:
- Ta, con trai của Cổn Tất Nhĩ Khắc, hậu duệ của gia tộc hoàng kim, Tế Nông Mông Cổ Bột Nhi Chích Cân Nặc Nhan Đạt Lạp ở đây lập thệ với trời xanh, thành còn người còn, thành mất người mất, tuyệt không vứt bỏ gia viên của mình!

Những lời động viên này rất là thành công, các dũng sĩ Mông Cổ không khỏi nhìn với cặp mắt khác xưa đối với Tế Nông xưa nay văn nhược này. Người Mông Cổ tín phục nhất anh hùng hào kiệt. Nếu cao quý như Tế Nông cũng có thể làm được không chút nào lui bước, vậy những con dân như họ hiển nhiên không có đạo lý dao động rồi. Vì vậy người Mông Cổ trên thành đều noi theo Tế Nông cắt rách ngón tay mình rồi điểm máu lên trán, phát thệ cùng tồn vong với thành Tế Nông!

Chung Kim Biệt Cát, viên vô song minh châu của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ rất được kính yêu và Triết Hách Đài Cát, nhị nhi tử của Tế Nông cũng tự mình cầm túi châm rượu sữa dê cho các dũng sĩ trên ngựa. Tướng sĩ quân Mông thấy công chúa tôn quý của họ rủ xuống mái tóc dài đen nhánh, dùng dây da buộc lại theo kiểu nam càng có vẻ giỏi giang lưu loát. Nàng khoác chiếc áo mỏng màu đỏ, bên trong mặc nhuyễn giáp màu trắng nửa người, hông thắt một đai lưng to màu bạc, tô điểm thêm cho thân thể yểu điệu của nàng càng tươi đẹp quyến rũ. Dưới ánh nắng sớm, gương mặt tuyệt mỹ càng có vẻ trắng trẻo sinh động, đôi mắt long lanh ánh lên sự kiên định, làm cho các dũng sĩ Mông Cổ không khỏi huyết mạch sôi sục, thầm phát thệ dù cho trả giá bằng tính mạng cũng phải bảo vệ công chúa yêu dấu.

- Bảo vệ gia viên!

Mọi người bưng lên bát rượu uống một hơi cạn, sau đó ném xuống dưới thành cùng đồng thanh hô:
- Tử chiến tới cùng!

************

Hôm nay bốn doanh bộ binh của Thích gia quân hợp với hai vạn bộ binh của Du Lâm, Duyên Tuy tổng cộng 4.4 vạn người làm chủ công. Lộc trùng doanh chức trách vận chuyển củi đá, vận chuyển khí giới công thành, bộ đội pháo binh hiển nhiên nhận nhiệm vụ áp chế phòng ngự đầu thành, cung cấp hỏa lực trợ giúp. Đứng ở trên đài cao, Thích Kế Quang từ xa nhìn bộ đội như đàn kiến đang bận rộn, trong lòng dâng lên chút tâm tình bi thương... Mặc dù đều nói, nhất tương công thành vạn cốt khô, nhưng hắn cũng không phải một cuồng nhân chiến tranh, ngược lại hắn hy vọng có thể tận khả năng đem binh sĩ của mình được nhiều hơn, giảm thiểu bi kịch "Khả liên Vô Định hà biên cốt, do thị thâm khuê mộng lý nhân."(Đáng thương thay nắm xương bên sông Vô Định, vẫn còn là người trong mộng xuân của khách.- LŨNG TÂY HÀNH)

Lắc đầu, đuổi hết những tâm tình lỗi thời này đi, Thích Kế Quang tập trung tinh thần, cầm lên kính thiên lý nhìn lên thành xa xa, nhìn địch một lúc lâu không nói.

- Sao hả Nguyên Kính, tâm tình không tốt à? - Lão tướng quân Lưu Hiển bên cạnh hăng hái, tay cầm chuôi kiếm, sang sảng cười nói: - Công tích chiếm lại Đông Thắng chẳng lẽ còn không thể khiến ngươi hưng phấn sao?

- Ài, Duy Minh huynh, chớ trách ta đề cao sĩ khí người khác. - Thích Kế Quang khẽ than một tiếng thấp giọng nói: - Ta thấy trên thành quân Mông đang bận rộn, chuẩn bị rất có thứ tự, không giống như là làm qua loa chống lại rồi sẽ vứt bỏ.
Rồi hắn đặt kính xuống, chỉ vào đối diện nói:
- Thành này tường cao hào sâu, nếu có người biết phòng thủ, chỉ cần hai vạn quân luân phiên thủ thành, quân ta khó có thể công phá.

Lưu Hiển là tướng lĩnh ưu tú Nam chinh Bắc chiến, kinh nghiệm và tư lịch của hắn còn trên cả Thích Kế Quang, nhất là trong trận bình Tứ Xuyên đã ăn không biết bao nhiêu trái đắng của người Khương, tự nhiên có lĩnh ngộ sâu sắc đối với đạo thành phòng công thủ. Nghe vậy sắc mặt hắn cũng trở nên nghiêm túc, gật đầu nói:
- Đúng vậy, không ngờ được thành trì của người Mông Cổ lại tường cao kiên cố, lâu lỗ đủ cả, thoạt nhìn vũ khí cũng không thiếu. Chỉ cần quyết tâm chống lại, thủ thành đúng phương pháp, quân ta ngay cả gấp 10 lần chúng, nếu như không được một tuần đến một tháng chuẩn bị, nửa tháng không ngừng cường công, sợ khó mà phá thành.

Rồi hắn lại thở dài một tiếng:
- Đáng tiếc xe ngựa của quân ta đều dùng hết vào vận chuyển đại pháo, đạn dược, thảo nguyên lại không gì dùng được, vội vàng không kịp chế tạo khí giới công thành cỡ lớn... Nếu không có kế phá địch, ta sẽ không tán thành công thành vội vàng thế này đâu.

- Hiện tại chúng ta đơn độc thâm nhập, quanh mình tất cả đều là địch nhân! - Thích Kế Quang lại kiên định nói: - Phải mau chóng lấy Đông Thắng, đạt thành kế hoạch tác chiến sơ bộ. Bằng không kéo dài càng lâu thì tình cảnh sẽ càng thêm nguy hiểm!

Rồi hắn nói với quan truyền lệnh bên cạnh:
- Truyền lệnh toàn quân. Hôm nay phá thành xong, toàn bộ tài vật đoạt được sẽ phân thưởng quan binh!

Quan truyền lệnh lập tức truyền mệnh lệnh xuống, dẫn tới toàn quân hưng phấn đến xao động!

Giờ Mẹo canh ba vừa đến, Thích Kế Quang hạ lệnh phóng ra pháo hiệu. Sau ba tiếng pháo vang tận trời, 80 khẩu thần uy đại pháo, 500 khẩu đại tướng quân pháo của quân Minh, bắt đầu ngửa bắn công kích, trong tiếng ầm ầm rung trời động đất, đạn pháo gào thét bay lên tường thành. Bộ đội hoả pháo Đại Minh trải qua huấn luyện pháo binh học quả nhiên không như bình thường. Đạn pháo tập trung rơi vào chỗ lâu thành của địch đoạn chuẩn bị công thành. Những tòa lâu trên thành bằng gỗ là chỗ xạ thủ bí mật của quân Mông, tùy thời có thể xạ kích quân Minh dưới thành. Những công trình này trải qua dụng tâm gia cố nên có năng lực chống đỡ đạn pháo rất mạnh, nhưng một vòng xạ kích của quân Minh dùng đều là khai hoa đạn(lựu đạn), chỉ cần một quả rơi vào trong lâu, mảnh đạn và đinh sắt bắn ra bốn phía sẽ làm bị thương quân Mông bên trong. Dưới thành đều có thể nghe được tiếng kêu thảm thiết không ngớt.

Bộ binh quân Minh nhân cơ hội phát động tiến công, một trăm dũng sĩ đánh trần đang thúc xe ngựa vận chuyển cầu phao, chung quanh có đồng đội giơ cao trướng bằng da trâu ba tầng yểm hộ, hú la lao tới thành Đông Thắng. Sông Ô Lan Mộc Luân ôm lấy thành, là con sông hộ thành tự nhiên của thành Đông Thắng, người Mông Cổ lại mấy lần mở rộng thêm, nếu là tại mùa lượng nước cao, quân Minh thậm chí khó có thể lướt qua được cái lạch trời này.

Cũng may sớm có chuẩn bị, các tướng sĩ đẩy xe thẳng vào giữa sông, ngay cả người cũng nhảy xuống theo, trên bờ giữa sông đồng thời ra sức, chuyển cầu phao qua bờ bên kia.

Quân Mông đã phát hiện ra ý đồ của quân Minh, không để ý pháo thạch bay lượn khắp trời bắn tên xuống phía dưới từ lỗ châu mai, đồng thời dùng trên trăm khẩu hoả pháo kiểu cũ lớn nhỏ không đồng nhất thu được từ chỗ quân Minh trước đây đánh trả. Mặc dù xạ thuật của họ dở tệ, uy lực tầm bắn của pháo cũng không thể nào uy hiếp được hoả pháo của quân Minh, nhưng đối phó với quân Minh ở trên sông hộ thành thì vẫn có thể đảm nhiệm được.

Tên pháo như mưa rơi vào nước làm bọt nước bắn lên tung tóe, dũng sĩ quân Minh không chỗ tránh né, tử thương hết sức thảm trọng. Nhưng sự dũng mãnh không biết sợ của Thích gia quân tại giờ khắc này mới lộ ra. Phía trước ngã xuống, phía sau lập tức bổ sung, không có bất kỳ ai lui về phía sau. Mà các tướng sĩ giơ trướng da trâu ba tầng thì vọt lên cầu phao khi chưa đến bờ, được các dũng sĩ đỡ cầu phía dưới chống đỡ...Loại trướng phòng ngự do ba tầng da trâu làm mặt ngoài, lấy một tầng sắt lót bên trong, trong lều có chín xà tám trụ, tên đạn bắn lên mặt trên đều bị bắn ngược lên, không thể tiến vào. Thương vong của quân Minh giảm xuống ngay. Các tướng sĩ hô to khẩu hiệu, sử xuất sức lực bú sữa rốt cuộc đưa được cầu phao lên bờ bên kia.

Đến bờ rồi, các dũng sĩ quân Minh đã tình trạng kiệt sức cố nhảy lên bờ sông, dưới sự yểm hộ của trướng da trâu, rút ra hai cây cọc gỗ ở đoạn trước cầu phao rồi cắm trên mặt đất, lại dùng chùy sắt đập chặt cố định lại cầu.

Khi cây cầu phao đầu tiên được dựng lên, ngay sau đó cây thứ hai, thứ ba, thứ tư...Dưới tường thành ở phía Tây chỉ rộng 200 dặm đã dựng lên tám cây cầu phao, chiếm gần phân nửa tổng số.

Mà lúc này pháo hỏa của quân Minh cũng hơi biến đổi, không oanh kích đầu thành nữa mà lấy hỏa lực dày đặc oanh kích đoạn tường thành này. Chỗ bị bắn trúng đá bùn vỡ nát, tường thành sụp đổ, lực phá hoại của nó vượt xa sự tưởng tượng của người Mông Cổ.

Lúc này, tiên quân của quân Minh đã xông qua cầu phao và khởi xướng tiến công tường Dương Mã dưới thành...Cái gọi là tường Dương Mã chính là một vòng tường vây xây ngoài thành hào, có thể mượn cái này chống đỡ quân địch, lại tiện bề cho thủ quân trên thành lấy tên đạn sát thương đối phương, thường là thành phòng tương đối cao cấp mới có thể xây cái này. Người Mông Cổ hiển nhiên hết sức dụng tâm đối với thành Đông Thắng nên cũng thiếp lập cái này. Tường này bằng đất cao sáu xích, dày ba xích chạy thẳng đến cạnh thành hào. Nếu là mùa nước cao, quân Minh không thể mắc cầu được.

Thế nhưng dù sao cũng là tường đất, bị nước ăn mòn hằng năm nên khó tránh khỏi xuất hiện vết nứt, quân Minh liền dùng công cụ trong tay mở rộng nó ra, dự định lợi dụng thuốc nổ phá vỡ. Bởi vì tường thành chính diện bị đạn pháo làm cho lắc lư, quân Mông chỉ có thể xạ kích từ hai bên, song ỷ vào uy lực của hoả pháo vẫn khiến quân Minh thương vong nghiêm trọng. Nhờ đội viên cảm tử người trước ngã xuống, người sau tiến lên, rốt cuộc móc ra được một lỗ to như trái dưa hấu, rồi lập tức nhét vào thuốc nổ được chứa trong thùng sắt, dùng đuốc châm vào, các đội viên cảm tử tay chân cùng sử dụng triệt thoái ra phía sau.

Ngay khi họ vừa mới nhảy vào trong nước thì ánh sáng lóa mắt lóe lên, tiếng nổ rung trời liên tiếp vang lên, rất nhiều binh sĩ quân Minh bị tiếng nổ làm cho ngất xỉu.

Nhưng càng có nhiều người hơn đã sớm có chuẩn bị, khi bùn đất đầy trời rơi xuống, họ liền liều lĩnh đứng lên, vượt qua tường Dương Mã bị nổ tung thành đất bằng rồi vọt tới dưới tường thành... Không quăng thang mây, không có lâu xa, cứ chẳng hề để ý lao tới dưới thành.

Quân Mông trên thành đã định thần lại từ trong vụ nổ, trừng mắt nhìn quân Minh chỉ cầm cuốc, thầm nghĩ những người này sao cả một cây thang mây cũng không mắc, chẳng lẽ muốn bay lên sao? Tường thành cao chừng ba trượng, dù có dùng khinh công cũng làm gì mà lên tới được? Mà đến lúc nào rồi quân Minh nghèo đến nỗi dùng nông cụ để đánh trận, chẳng lẽ là dân binh?

Sau một khắc, bọn họ đã có được đáp án, thấy binh sĩ quân Minh bắt đầu lóc cóc gõ móc ở chân tường, đây không phải là hiện tượng cá biệt, mà là hành vi tập thể của toàn bộ quân Minh lao tới dưới thành.

Quân Mông bỗng nhiên phát giác được ý nghĩ của quân Minh, lẽ nào loại tường thành móng dày tới ba trượng này cũng muốn dùng thuốc nổ phá sao? Mặc dù người Mông Cổ không quá tinh thông hỏa dược, nhưng cũng biết đây là điều tuyệt đối không thể được. Tuy nhiên tuân theo nguyên tắc, phàm là thứ địch nhân kiên trì thì chúng ta phải phản đối. Họ liều mạng dùng đá, gỗ và dầu ngăn cản. Đây cũng là thời khắc có lực sát thương lớn nhất đối với bộ đội công thành. Một chậu dầu đổ xuống liền có vài quân Minh hét thảm ngã xuống đất. Một cây gỗ lăn xuống thì quét sạch một mảng luôn.

Binh sĩ quân Minh lao tới dưới thành, pháo hỏa tự nhiên không thể xạ kích tường thành nữa, ngược lại tiếp tục áp chế đầu thành. Nhưng mà quân Mông có tường thành chống đỡ, không cần lộ ra nhiều cũng có thể trút xuống gỗ dầu. Cho nên hoả pháo của quân Minh cũng chả giúp được gì nhiều, rất nhanh liền dời đi mục tiêu, không quan tâm đến binh sĩ thương vong phe mình tiếp tục dùng đạn pháo cỡ lớn oanh kích tường thành, bắn cho ngoài tường thành phía tây lửa cháy, cát đá tung tóe. Lúc này trướng da trâu ba tầng của quân Minh rốt cuộc đến dưới thành. Dưới sự yểm hộ của họ, binh sĩ đến tiếp sau mới dám tiếp tục đến gần, liều mạng đào móc móng tường thành. Người Mông Cổ là mục nhân, từ nhỏ đã tiếp xúc với da trâu, cự ly gần thế hiển nhiên không thể bị ba tầng da trâu làm khó. Họ dùng phân người trộn lẫn với dầu cây trẩu đổ xuống. Da trâu liền bị bỏng rách, tầng sắt cũng bị bỏng khó mà nắm chặt được. Binh sĩ quân Minh đành phải buông tay, trướng ầm ầm hạ xuống, dầu vẩy ra trút lên người binh sĩ khiến họ da cháy thịt nát, tiếng la hét inh ỏi.

Quân Minh đành phải tạm thời lui ra, thứ đợi họ lại là lưỡi đao vô tình của đốc chiến đội...

Nhìn các tướng sĩ không bị chết dưới gỗ lăn, dầu đổ của quân Mông mà lại bị chết dưới tay đồng bào, thống lĩnh bộ quân Trương Nguyên Huân chỉ huy công thành tại mặt trận đau đến toét mắt. Trong đó có cả cháu ruột của hắn! Nhưng mà tình thế chiến trường không cho phép hắn có chút dao động. Người chưa nghe thấy tiếng la mà lui là trảm. Đây là thiết quy của Thích gia quân, huống chi đang ở trong công thành chiến tàn khốc nhất.

Đợt xung phong lần ba lập tức triển khai. Lần này quân Minh tại trướng da trâu đã được thêm hai tầng chăn bông thấm nước trong sông hộ thành, mặc dù khiến nó rất nặng nề, nhưng tốt xấu gì cũng có thể chống đỡ được dầu hỏa chết người kia một lúc.

Tướng sĩ quân Minh tru lên như dã thú, lại nhằm dưới thành điên cuồng đào móng...

***********

Màn điên cuồng này đã sớm lọt vào mắt các thủ lĩnh quân Mông trong vọng lâu ở trên thành. Họ một mặt đốc thúc binh sĩ liều mạng ngăn chặn, một mặt suy đoán quân Minh đang phát điên cái gì.

Ngay lúc mồm năm miệng mười thì một giọng nữ có phần hoảng loạn vang lên:
- Chúng ta phải làm tốt chuẩn bị tường thành bị công phá rồi!

Chúng đầu lĩnh nhìn qua, nói chính là Chung Kim Biệt Cát. Từ khi quân Minh xâm lấn, cô bé ngày xưa trong mắt mọi người này lấy sự bình tĩnh và thông minh đã giành được sự tín nhiệm của mọi người trong bộ lạc, chí ít các thúc thúc của nàng sẽ không mãi coi nàng như trẻ con nói lung tung.

- Sao có thể được? - Nặc Nhan Đạt Lạp nói: - Tường thành dày thế, ngoại trừ động đất, trên đời này không có gì làm nó sụp đổ được hết.

- Nhìn từ trận đánh hôm qua, tướng lĩnh của quân Minh cực kỳ ưu tú, không có khả năng đột nhiên ngu đi được. Lại nhìn biểu hiện của họ hôm nay, vẫn mục đích minh xác, không tiếc tất cả trả giá chuyên tấn công đoạn tường thành này. Cho nên họ nhất định có biện pháp.

Chung Kim nhìn một người mập bên cạnh nói:
- Đạt Hàn Nhĩ thúc thúc, năm ngoái là ai phụ trách tu sửa đoạn tường thành này?

Năm ngoái vùng Thiểm Tây, Mông Cổ động đất, thành Tế Nông bị phá hoại, ba mặt tường thành đều xuất hiện khe nứt, vì thế thành Tế Nông đã trả giá tiền cao để mời công tượng từ thành Hồi Hột đến đây sửa chữa.

Tên mập được gọi là Đạt Hàn Nhĩ bị lời nói của nàng làm lóe lên một ý nghĩ đáng sợ trong lòng, lúc này tự nhiên không thể giấu diếm, sắc mặt tái nhợt nói:
- Là, là người mời tới từ thành Bản Thăng. Nhưng họ nhân thủ không đủ, còn tìm một đội xây dựng khác từ Bản Thăng tới, đoạn tường thành này là do những người Bản Thăng đó sửa.

- Nếu tường thành bị phá thật thì ngươi chờ mà tự sát đi! - Một thanh âm phẫn nỗ liền vang lên, mọi người đã rõ ràng hoảng loạn rồi.

- Hiện tại không phải là lúc tranh chấp! - Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng ngăn cản mọi người xung đột: - Nhanh chuẩn bị đối sách đi.
Rồi hắn nhìn sang nữ nhi:
- Chung Kim con có biện pháp sao?

Thấy Chung Kim gật đầu, hắn liền giao bội kiếm của mình cho nữ nhi:
- Con toàn quyền phụ trách, người nào không nghe thì cứ giết ngay!

- Vâng!

Lúc này cũng không quản được nhiều, Chung Kim cầm lấy bội kiếm rồi chạy vội xuống thành.

Dưới cố gắng và hi sinh rất lớn, quân Minh rốt cuộc móc ra được một hầm sâu một thước, rộng một thước, dài gần 100 trượng ở đoạn tường thành phía Tây này, thấy được lớp gạch dùng giấy dầu bao lấy ngụy trang.

Đập xuống một búa thiệt mạnh phá vỡ lớp giấy dầu và vỏ bùn, thuốc nổ khô màu đen liền trút xuống. Hình dạng vẫn như khi được bỏ vào.

Băng dày ba thước, không phải do chỉ một ngày lạnh. Đối với quyết sách quan hệ đến vận mệnh quốc gia, thậm chí đi hướng của dân tộc, càng không thể một sớm một chiều, do một người nào đó vỗ đầu một cái mà định ra được.

Trên thực tế, tại cuối thời tiên đế Gia Tĩnh, thậm chí muốn tìm hiểu được Hồ Tôn Hiến khi còn làm tổng đốc Đông Nam, Thẩm Mặc liền mượn cơn gió đông của thắng lợi kháng Oa bắt đầu thử du thuyết các đại lão trong triều, đem Phục Sóc xem như chiến lược mục tiêu kế tiếp.

Nhưng mà người cầm quyền lúc đó là Từ Giai lại không ủng hộ Phục Sóc. Ông ta cho rằng năm đó Hạ Ngôn và Tăng Tiển bị giết đã chứng minh việc này không thể làm. Cho tới bây giờ, càng không thể phục cũng không cần phục. Cho nên kiên quyết không đồng ý hành động này, cũng thầm trách Thẩm Mặc, hiếu chiến tất vong. Đây cũng một trong những nguyên nhân sau đó Từ Giai kiên định ủng hộ Trương Cư Chính, dẫn đến thầy trò thế như nước lửa.

Nhưng Thẩm Mặc cũng không lẻ loi vì có được Cao Củng kiên quyết ủng hộ Phục Sóc dưới tình huống điều kiện cho phép; mà Sơn Tây bang sau khi trải qua bàn bạc cũng lựa chọn đứng ở bên y...Đây bắt đầu cho quan hệ giữa Thẩm Mặc và Dương Bác được cải thiện, tuần trăng mật giữa Đông Nam bang và Sơn Tây bang.

Bố cục hai nhà thêm một nhân vật cường lực chống lại đại lão duy nhất đã chi phối rất lớn mỗi một lần triều khởi triều lạc trong những năm đầu Long Khánh. Cuối cùng sau khi trải qua luân phiên chém giết, hảo hổ giá bất trụ quần lang, đại lão duy nhất phải nói lời chào cảm ơn, Đại Minh tiến vào giai đoạn mới hai thế lực lớn lên đài, một vị cường nhân hát hí khúc. Vì vậy kế hoạch Phục Sóc đưa bọn họ liên hệ đến với nhau tự nhiên cũng phải được thực thi rồi.

Thật ra trước đây toàn bộ kế hoạch đã qua nhiều lần sửa đổi, mỗi lần nó đổi thì tương ứng với công tác tình báo càng tiến hành sớm được mấy năm. Sau khi xác định kế hoạch đánh Ngạc Nhĩ Đa Tư, từ Trấn phủ ti thoát thai xuất hiện Quân tình ti, cũng bắt đầu gắng sức thẩm thấu đối với thành Ngạc Nhĩ Đa Tư. Sau trận động đất năm ngoái, khi họ biết được tin tức tường thành bị hư hại, cần phải sữa chữa, liền lập tức yêu cầu Tấn thương tại cửu biên không gì làm không được đưa cho họ khống chế ngành kiến trúc tại Bản Thăng. Bởi vì người Mông Cổ rất thiếu thốn công tượng, càng không am hiểu kiến trúc xây dựng, cho nên nhiều lần đều phải dựa vào công tượng, dân phu thuê từ Bản Thăng để sửa chữa thành Tế Nông.

Dưới năng lực vận tác mạnh mẽ của Tấn thương, đội kiến trúc do mật thám của Quân tình ti khống chế liền trở thành một trong năm đội kiến trúc chịu trách nhiệm sửa chữa thành Tế Nông, phụ trách sữa chữa một đoạn tường thành phía tây dài gần 100 trượng. Nói đến cũng buồn cười, khi họ dè dặt đem thuốc nổ lẫn với nguyên liệu bỏ trong đoàn xe lén vận tới dưới thành Tế Nông mới phát hiện người Mông Cổ người ta không có phòng bị chút nào. Họ căn bản là không nghĩ tới những người Bản Thăng, hảo bằng hữu này lại là không có hảo ý mà đến.

Dưới ánh mắt của người Mông Cổ, các công nhân ban ngày bình thường làm việc, ban đêm thừa dịp khởi công lại đem trên trăm bao thuốc nổ được ngụy trang thành gạch bỏ vào các chỗ bị nứt trong tường thành. Bên ngoài bao thuốc nổ dùng giấy dầu cây trẩu bao kỹ lại để ngừa hơi ẩm xâm nhập, sau đó dùng gạch thật tầng tầng bịt kín lại, biến đoạn tường thành này thành một hố boom lớn... Vì bảo đảm vạn vô nhất thất, Quân tình ti từng tiến hành thí nghiệm tại một thành trì bỏ đi ở Sơn Tây, phát hiện không cần nhiều lắm thuốc nổ, chỉ cần vị trí và không gian bịt kín đầy đủ cương tính thì có thể hất tung bất cứ bức tường thành nào nhìn như không gì phá nổi.

Người Mông Cổ căn bản không ngờ được người Hán lại sử dụng thủ đoạn như vậy nên đâu có gì phòng bị nhiều. Mặc dù ngày đó nghiệm thu họ đã kiểm tra hết sức tỉ mỉ chất lượng của tường thành, nhưng người của Quân tình ti lại không có ăn bớt ăn xén nguyên vật liệu. Mà dù kiểm tra có cẩn thận mấy cũng không thể dỡ ra tường thành đang lành lặn cho họ nhìn nên hiển nhiên không thể tra ra trong đó còn có gia vị khác.

Vì vậy nên mới có màn Lục Cương hiến kế phá thành lúc trước, quân Minh không tiếc trả giá tất cả cũng phải trùng kích đoạn tường thành phía Tây.

**********

Khi phá vỡ được gạch thành, tìm được gói bộc phá Quân tình ti để lại sẵn, các tướng sĩ quân Minh lập tức nhét vào bao thuốc nổ đã chuẩn bị sẵn, sau khi châm kíp nổ toàn thể lui lại như thủy triều...

Quân Mông trên thành còn chưa biết tình hình, thấy quân Minh nhét vào mấy bao thuốc nổ cỏn con liền sợ hãi lui lại. Họ không khỏi hai mặt nhìn nhau. Chỉ có vài người cẩn thận mới vội vàng nằm phục xuống đất, nhưng cũng chỉ phí công thôi...

Sau mười giây đồng hồ ngắn ngủi, thế giới hình như đột nhiên đứng lại một chốc, sau đó kèm với tiếng nổ như long trời lở đất, sóng xung kích kinh khủng hết văng các sinh linh trong phương viên vài dặm xuống đất. Đá đất, binh khí, thậm chí là người bị khí lưu không biết từ đâu mà đến hết lên trời, bụi mù tung lên bao phủ hết tầm mắt mọi người.

Đài chỉ huy của Thích Kế Quang vì cự ly xa, hắn lại nắm chặt lan can nên có thể đứng vững, nhưng hai tai vang lên ong ong, cũng bị tiếng nổ kinh khủng chấn cho choáng váng. Nhưng rất nhanh hắn liền tỉnh táo lại, mở hai mắt nhìn vào phía trước tràn ngập bụi mù. Khi bụi bậm dần dần hạ xuống, thấy đoạn tường thành kia quả nhiên xuất hiện một chỗ hổng dài hơn trăm trượng.

Thích Kế Quang vỗ mạnh tay lên lan can nói:
- Đánh trống!

"Thùng thùng thùng thùng!"

Tiếng trống trận thôi thúc vang lên trên chiến trường, bộ đội dự bị công thành đứng hết lên từ mặt đất. Thấy tường thành ngăn ở trước mặt không ngờ đã bị sụp xuống vào phía trong một đoạn thật dài, các tướng sĩ lập tức phấn chấn, đi theo các quân quan của mình như thủy triều thông qua sáu cây cầu phao còn lại lao vào đoạn chỗ hổng đó.

Quân Mông là bên thủ thành tự nhiên nhận được tổn thật lớn hơn quân Minh, thế cho nên quân Minh bắt đầu xung phong rồi mà quân Mông trên dưới tường thành gần đó còn đang vùng vẫy chưa bò dậy được.

Chỗ hổng rộng như vậy hình như có thể tuyên cáo tường thành của người Mông Cổ đã thất thủ, họ chỉ có thể lui vào bên trong thành triển khai hạng chiến thôi...

Nhưng mà khi các binh sĩ dũng cảm xông tới trước chỗ miệng vỡ tường thành, chuẩn bị đánh vào thành thì lại phát hiện từ chỗ hổng đó đổ ra đàn cừu trắng xóa.

Điều này làm cho nhiều binh sĩ cơ linh cũng hơi ngây ra, huống chi bởi vì tiêu chuẩn trưng binh của Thích Kế Quang, Thích gia quân thuần là nông dân xuất thân, nói trắng ra là tứ chi phát đạt, ý nghĩ đơn giản. Thấy trước mặt đàn cừu lũ lượt lao ra ngoài, các tướng sĩ đã ôm cái tâm chết trận lại ngừng bước. Là nhà quân sự ưu tú nhất, trong [Luyện Binh Kỷ Thực], Thích Kế Quang đã liệt kê ra các loại khả năng tình huống trên chiến trường không phân lớn nhỏ, cũng nói cho bọn quan binh nên ứng đối thế nào. Từ xa xưa tới nay, tướng sĩ của Thích gia quân đã quen dựa vào phương pháp giáo dục của quân quan để đi ứng đối các loại tình huống rồi.

Nhưng mà coi như là Thích Kế Quang cũng không ngờ được quân Mông sẽ dùng loại phương pháp này để chặn lại chỗ hổng của tường thành... Chỉ thấy ở trong thành, trên trăm kỵ binh quân Mông ra sức quất roi ngựa trong tay, lớn tiếng thét đuổi đàn cừu tập trung về phía trước. Đàn cừu là tài sản quý báu của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ, sau khi nhận được tin tức quân Minh xâm lấn mọi người liền đuổi chúng chạy vào trong thành để tránh chiến hỏa. Nhưng hiện tại theo một tiếng ra lệnh của Chung Kim Biệt Cát, họ đành phải hiến chúng nó ra để đắp tường. Tuy nhiên ai cũng biết, một khi thành Tế Nông bị công hãm, bò cừu đều sẽ bị quân Minh cướp đi. Lúc này không ai có tư tâm nữa, tất cả chỉ vì có thể đắp lại tường thì thủ quân trên thành mới có được cơ hội trùng chỉnh phòng ngự, ngăn cơn sóng dữ!

Người khởi xướng tất cả điều này là Chung Kim công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư. Lúc này nàng đang ngồi trên lưng ngựa, tại hậu phương khẩn trương nhìn tình hình trước mắt. Mặc dù nàng ngờ tới quân Minh có kế phá thành, nhưng không nghĩ tới đối phương có thể hất tung cả tường thành, đè chết hơn phân nửa 500 dũng sĩ mà nàng cho tập trung dưới thành chuẩn bị ứng biến. Nếu không phải nàng vì triệu tập đàn cừu, rời xa tường thành, sợ cũng khó có thể may mắn tránh khỏi rồi.

Hiện tại tạm thời không ai có thể chống chọi được rồi, chỉ có thể nhờ những chiến sĩ cừu này thôi...

Vì sao dùng cừu mà không dùng ngựa hay bò, bởi vì ở đâu cừu cũng có thể như giẫm trên đất bằng, sẽ không bị phế tích của tường thành ngăn cản bước tiến.

Đối mặt với đàn cừu vô tội như thủy triều dũng mãnh tiến ra, binh sĩ quân Minh không bước nổi nữa. Trong tay bọn họ cầm là Long Khánh thức tiên tiến nhất, có thể tùy thời khai hỏa phát đạn thứ nhất. Điều này rất quan trọng, thậm chí quan hệ đến việc có thể đoạt được thành hay không, thế sao có thể dùng để bắn cừu được chứ? Hơn nữa nhiều cừu như vậy có bắn cũng không hết, chỉ có thể dùng lưỡi lê trên súng để đâm thôi.

Nhưng mà người Mông Cổ cái gì cũng thiếu, chỉ không thiếu cừu thôi. Dàn dương đổ ra thật sự quá nhiều, cứ như thủy triều khó có thể ngăn trở. Ngay cả Thích gia quân lấy Uyên Ương trận thành danh cũng không có biện pháp chặn đàn cừu trùng trùng điệp điệp này dừng chân lại. Trong nháy mắt, người và cừu trộn lại với nhau, tràng diện hỗn loạn vô cùng, làm cho Trương Nguyên Huân đang ở tiền quân chỉ huy buồn bực đến hộc máu. Cừu ùa ra càng ngày càng nhiều, cứ ở trước con sông hộ thành không tiến, phía sau lại bị đuổi chạy nhanh ra ngoài, quân Minh thì bị chen đến không tự chủ được lui trở lại cầu phao, còn kéo theo rất nhiều cừu. Thảm nhất chính là những người đang liều mạng chạy vào thành, phát hiện trong thành vẫn là cừu vô biên vô tận, lập tức liền có xung động nuốt súng tự sát.

- Gõ la ngay!

Trương Nguyên Huân đã giận đến xanh mặt:
- Thỉnh cầu pháo hỏa trợ giúp!

Tiếng kim la vang lên, các binh sĩ trên cầu chán nản lui xuống. Đây là lần đầu tiên Thích gia quân lui về phía sau. Không ngờ không phải là bị địch nhân đẩy lùi, mà là lùi bởi đàn cừu. Thật sự mất mặt quá thể.

Lúc này tiếng còi chói tai chuẩn bị pháo kích cũng vang lên rồi. Binh sĩ trong sông hộ thành người biết bơi kéo người không biết bơi liều mạng bơi trở về. Về phần quân Minh vẫn bị kẹt trong đàn cừu thì chỉ có thể cố gắng bảo vệ nơi yếu hại, quỳ xuống đất mà cầu xin kỳ tích thôi.

Tiếng pháo ầm ầm rất nhanh vang lên, đạn pháo gào thét ập vào đàn cừu, khai hoa đạn, bồ đào đạn, cùng với đạn dầu hỏa vỏ bằng đồng đắt đỏ cứ thế trút xuống. Trong nháy mắt khói đen mù mịt, lửa bốc lên khắp nơi, xác cừu la liệt trên đất. Đàn cừu hoảng hốt vội vội vàng vàng chạy tán loạn dọc theo tường thành, cũng có rất nhiều nhảy vào trong nước. Cừu mọc lông sau mùa đông là không thể bơi được, rất nhanh chết đuối hết. Ánh lửa và cái chết khiến đàn cừu dễ bảo rốt cuộc không nghe lời nữa, mặc cho những mục dân quất roi thế nào cũng không chịu đi về trước lấy một bước.

Phía trước chạy trốn. Phía sau giẫm chân tại chỗ. Đại quân cừu ở chỗ hổng tường thành rốt cuộc biến thành vùng xác cừu, mùi thịt quay bốc lên nghi ngút.

Lúc này, giáo quan xạ kích ưu tú của quân Minh đã phát huy tác dụng. Bọn họ chỉ huy hoả pháo đem tầm bắn hướng sâu vào bên trong thành, lợi dụng dầu lửa áp chế bộ đội cừu của quân Mông, ngăn cản họ giở lại mánh cũ... Đạn dầu hỏa mà xưởng Quân công tỉ mỉ nghiên cứu chế tạo bởi bỏ thêm nhiên liệu hữu hạn nên hiệu quả sát thương cũng không được tốt lắm, không tạo nhiều uy hiếp đối với mục tiêu hoạt động. Cho nên chỉ mang theo số lượng rất ít, định là dùng để phóng hỏa gì đó. Ai ngờ loại có hoa không quả này lại phát huy được công dụng lớn... Động vật dù sao đều sợ lửa, huống chi là giống cừu mới mọc lông dài?

Đồng thời cũng không quên tường thành hai bên chỗ hổng, đạn pháo ập đến áp chế quân địch đầu thành, yểm hộ phe mình khởi xướng đợt tiến công thứ hai.

Năng lực tổ chức của Thích gia quân có lẽ chỉ có bộ binh hoàng gia Tây Ban Nha ở phương tây xa xôi mới bằng được, chí ít ở trong phạm vi Châu Á họ đã không ai sánh kịp, rất nhanh liền tập hợp lại, do ba viên thiên hộ suất lĩnh công thành. Trương Nguyên Huân tự mình cầm đao đốc chiến. Nếu như lần này không làm nên cơm cháo gì nữa, hắn thật sẽ trở tay cắt cổ mất thôi.

Quân Minh ngóc đầu trở lại, nỗi nhục lúc nãy khiến họ phẫn nộ, nỗi kiêu ngạo của Thích gia quân không cho phép thất bại lần thứ hai. Các tướng sĩ gào lên, đỏ mắt lao lên cầu phao, giẫm lên xác cừu ngập đất, ùa về phía tường thành đổ nát.

***********

Lúc này, thủ quân đầu thành bị lửa đạn dày đặc áp chế không ngẩng đầu lên nổi, đàn cừu sợ đạn dầu hỏa giẫm chân tại chỗ, mắt thấy không còn gì có thể ngăn cản quân Minh đi tới được nữa, tường thành thất thủ hình như đã thành kết cục đã định.

Tuy nhiên ngăn trở lúc nãy vẫn có tác dụng, chí ít cho viện binh nơi khác nhân cơ hội tụ tập dưới tường thành. Pháo hỏa chỗ hổng dừng lại, họ liền ào ra từ hai bên, che trước mặt quân Minh vừa mới lao qua cầu phao, giương cung cài tên bắn về phía Quân Minh. Quân Minh nổ súng đánh trả. Song phương cách nhau 30 bước, đều ở trong cự ly sát thương của đối phương, và đều tạo thành sát thương rất lớn cho đối phương.

Từ khi khai chiến tới nay, cung tiễn của quân Mông đã liên tiếp thất bại ở trước mặt hỏa thương kiểu mới của quân Minh, nhưng thời gian chúng nó rời khỏi sân khấu lịch sử vẫn còn chưa tới, chí ít trong tay các xạ thần như người Mông Cổ, tốc độ bắn nhanh chóng, độ tinh chuẩn cao của nó, hỏa thương đều không thể so được.

Binh sĩ quân Minh sau khi kết thúc một phát súng căn bản không có cơ hội bắn phát thứ hai, chỉ có thể liều mạng vọt tới trước, tranh thủ tiếp cận địch sáp lá cà. Nhưng mà xạ thủ của quân Mông lại có thể bắn ra phát tên thứ hai, thứ ba. Họ đem nỗi phiền muộn dành dụm từ khi khai chiến đến nay cùng với nỗi căm hận với kẻ xâm lược đặt hết lên trường tiễn nanh sói. Mỗi một lần dây cung vang lên liền có một quân Minh la lên ngã xuống đất. Ở tại cự ly có thể thấy rõ mặt đối phương, khôi giáp cũng không thể chống lại loại sát thương của Phá giáp tiễn này.

Quân Mông trên tường thành hai bên cũng bất chấp lửa đạn trên đầu dùng cung tiễn cùng pháo đất bắn xuống dưới, trợ giúp phòng thủ. Quân Minh thương vong vô số kể. Nếu như đổi thành quân Minh thông thường, dưới màn tên đạn dày đặc thế này tất nhiên sẽ tháo chạy rồi.

Nhưng mà, đối thủ của họ không phải là quân Minh bình thường, mà là Thích gia quân danh chấn thiên hạ!

12 năm trước, Thích Kế Quang tại Đông Nam thành lập nhánh quân đội đặc biệt này. Từ đó trở đi, họ luôn liên hệ chặt chẽ với cái tên quang vinh này, cũng dưới sự bao phủ bởi quang mang của hắn chiến đấu hăng hái hơn 10 năm trên trăm trận chiến lớn nhỏ, chiến chiến đại thắng, chưa từng bại trận! Mặc dù hiện tại binh sĩ không phải là những gương mặt như khi đó, nhưng mà quân đội thế này đã sản sinh ra quân hồn như lò luyện, biến đổi từng nông dân giản dị khi hiến thân vào thành binh sĩ ưu tú có ý chí sắt thép, có dũng khí không sợ, cùng kỷ luật nghiêm minh!

Hiện tại, bọn họ đối mặt không phải là giặc Oa, mà là Thát Lỗ làm hại Đại Minh gấp trăm lần hơn, đủ để khiến cho họ chịu được hi sinh, leo lên đống hoang tàn như núi, phát động xung phong không biết sợ! Mặc dù cung tiễn của người Mông Cổ vẫn thần chuẩn mà dày đặc, nhưng Thích gia quân có kinh nghiệm tác chiến phong phú, nhất là bộ chiến tại loại địa hình phức tạp này, họ giống như đã trở về vùng núi Đông Nam gồ ghề khó đi, linh hoạt ẩn náu né tránh, cố gắng giảm thiểu hi sinh, đồng thời cũng rất nhanh tiến lên phía trước.

Rốt cuộc, quân tiên phong tới gần, cung tiễn của người Mông Cổ cũng không thể dùng được nữa. Người Mông Cổ rút ra loan đao, hai mắt đỏ ngầu chém giết với trường thương lưỡi lê của quân Minh. Đao pháp của người Mông Cổ tinh xảo, võ nghệ cao cường, đơn binh tác chiến với quân Minh. Nhưng mà chiến thuật tố dưỡng của Thích gia quân cực cao, mặc dù trên đỉnh đầu là tên đạn, dưới lòng bàn chân khó có thể đứng vững, bên người cũng không phải đồng bọn đã từng phối hợp, nhưng mà họ vẫn cấu thành từng Tam Tài trận nho nhỏ, yểm hộ lẫn nhau, phối hợp đối địch.

Song phương triển khai nhiều lần tranh đoạt trên đoạn tường thành 300 trượng, theo quân Minh bò lên trên càng ngày càng nhiều người, phòng tuyến của quân Mông dần dần có dấu hiệu không cản nổi nữa.

Biến hóa này được Thích Kế Quang đang bình tĩnh quan chiến thấy rõ. Hắn đoạt lấy dùi trống của tay trống bên cạnh, "thùng thùng thùng thùng", gõ lên vài tiếng trống trận. Thấy thống soái tự mình đánh trống, toàn bộ tay trống nào dám chậm trễ, liều mạng mà gõ trống trận. Tiếng trống dồn dập khiến người khác huyết mạch sôi sục truyền khắp chiến trường.

Ba thiên hộ lĩnh binh nghe được thì biết là thống soái đang giục bọn họ, vì vậy không bận tâm đến an toàn của bản thân nữa, tự mình dẫn binh lao tới tiền tuyến trước nhất, trực tiếp lấy dao gặp gỡ với quân Mông.

Các tướng sĩ của Thích gia quân nghe được, bạo phát lực lượng vô cùng, cao giọng hò hét, liều mạng chém giết! Dưới phát lực đột nhiên của quân Minh, phòng tuyến của quân Mông lung lay sắp đổ, sĩ khí hình như đều nhận được ảnh hưởng.

Ngay tại thời khắc chỉ mành treo chuông, trên tường thành quân Mông lại bùng nổ tiếng hoan hô rung trời, lớn tiếng hô, Chung Kim Biệt Cát! Chung Kim Biệt Cát. Thì ra họ thấy được vị công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ đã tháo xuống áo choàng đỏ, cầm trong tay song đao tự mình dẫn đội thân vệ Tế Nông tiếp viện chỗ hổng!

Sau một khắc khiến dũng sĩ Mông Cổ lại suốt đời khó quên, lại tuyệt không nghĩ đến thấy được một màn đã xảy ra. Họ thấy viên minh châu thảo nguyên của họ cũng không phải dẫn viện quân đến thì thôi, mà là trực tiếp đưa vào chiến đấu, cũng lấy dao gặp gỡ với quân Minh!

- Bảo vệ Biệt cát!

Các nam nhân của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ như toét mắt ra, không để ý đến lưỡi lê bên mình, dùng toàn bộ dũng lực cũng muốn bảo vệ công chúa của họ chu toàn. Thậm chí có rất nhiều quân Mông từ trên đầu thành nhảy xuống, ôm lấy quân Minh cắn xé với nhau trên mặt đất.

Chung Kim công chúa tự mình ra trận nghênh địch đã thấy ngay được tác dụng khích lệ đối với quân Mông. Người Mông Cổ hoàn toàn áp dụng chiến pháp lấy mạng đổi mạng, phòng tuyến trước kia đã lung lay sắp đổ dần dần ổn định. Hơn nữa càng nhiều dũng sĩ Mông Cổ từ bốn phương tám hướng đổ qua, cuối cùng đẩy lui Thích gia quân vĩnh viễn không nói lui.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 845: Mùa đông dài nhất


Đối mặt với quân Mông liều chết chống lại, Thích gia quân mặc dù dũng mãnh, nhưng bên công thành vốn đã nằm ở tình thế không thuận lợi, đối phương lại hoàn toàn không để ý tới sinh tử, nhất thời thế tiến công mặc dù mãnh, nhưng không thể đạt được chiến quả ngay. Chiến sự lâm vào lo lắng.

Mắt thấy quân Mông tụ tập đến chỗ hổng tường thành càng ngày càng nhiều. Thích Kế Quang lại không hề có ý dừng lại. Hắn vung lệnh kỳ lên, mệnh lệnh quân Minh dưới thành ở hai mặt đông nam tập kết lại, lập tức triển khai công thành. Lần này không có thuốc nổ ngầm mai phục hỗ trợ, bọn họ phải mắc thang mây, thành thật leo lên tường thành. Quân Mông ở hai mặt này nhân số tuy ít nhưng ỷ vào mình ở trên cao, ngay cả nữ nhân cùng trẻ con cũng bất chấp tên đạn đi tới đầu thành đổ nước sôi, ném đá, lăn cây xuống dưới, hẩy đi thang mây công thành. Sau đó thì thấy quân Minh như bánh chẻo rơi xuống dưới thành, cho dù có vài người may mắn bò lên trên được cũng bị người Mông Cổ vây lấy tiêu diệt, tổn thất rất lớn.

Từ xưa đến nay, gian nan nhất chính là công thành chiến, thủ quân tự nhiên chiếm ưu thế cực lớn, thậm chí có thể lấy một địch mười. Đối phương lại là vì gia viên mà chiến, sức chiến đấu bộc phát ra có thể nghĩ. Nếu như có thể thì Thích Kế Quang sẽ áp dụng phương thức càng ổn thỏa hơn, chế tạo khí giới công thành hùng mạnh hơn, kiến tạo công sự công thành hoàn thiện hơn, lấy thời gian kéo dài để đổi lấy hi sinh giảm thiểu. Đều là nam nhi nhà Hán ưu tú nhất, Thích Kế Quang thật sự không muốn thấy được hi sinh như vậy. Nhưng mà tình thế bức bách, hắn đành phải mau chóng phá thành, một khi kéo dài quá lâu, kỵ binh Mông Cổ bị đánh tan tất nhiên tập hợp lại rồi đến đây chi viện trong thành. Huống chi địch nhân hắn lo lắng nhất, Yêm Đáp hãn của Thổ Mặc Đặc bộ tùy thời có thể xuất binh Hà Sóc. Đến lúc đó, chư bộ thuộc Ngạc Nhĩ Đa Tư năm bè bảy mảng sẽ hợp lại, bày ra thực lực chân chính của kỵ binh Mông Cổ, nếu như quân Minh không có thành trì dựa vào, tất sẽ rơi vào ác mộng.

Cho nên trong kế hoạch tác chiến định ra hôm qua Thích Kế Quang và Lưu Hiển đạt thành chung nhận thức, không quản hi sinh lớn thế nào, ngày hôm nay phải lấy được thành Đông Thắng. Lưu Hiển thấy các tướng sĩ của mình chỉ công hai ba lần mà đã có tư thế xuất công bất xuất lực rồi. Lưu Hiển lại nhìn Thích gia quân, sau khi hi sinh lớn như vậy nhưng vẫn liều mình chém giết cùng địch nhân, trên mặt hắn đã không nhịn được rồi. Nói một tiếng với Thích Kế Quang, Lưu Hiển liền mặc giáp ra trận, dẫn dắt kỵ binh thân vệ vây thành dò xét. Thấy đường đệ Lưu Hạ của mình áp chế không nổi địa thế, trong quân bắt đầu có người rút lui bỏ chạy.

Nhưng hắn không để ý đến Lưu Hạ mà đi thẳng tới dưới thành ngăn cản một quân quan bại lui, vung lên Yển nguyệt đao trong tay.

Giơ tay chém xuống, đầu mình chia lìa.

Các binh sĩ bại lui kinh hãi nhìn cảnh này. Nhãn lực của Lưu Hiển rất tốt, trực tiếp giết một người có quan giai cao nhất trong đó... cũng là đệ tử võ tướng thế gia bình thường đối với hắn bằng mặt không bằng lòng. Thật ra đệ tử Du Lâm cường hãn nhất, tuyệt đối sẽ không bất lực như vậy, chỉ là những võ tướng thế gia nhìn binh sĩ là tài sản riêng chỉ nghĩ đến vơ vét chiến công cũng không nguyện thực lực bị hao tổn, nên mới có thể nghĩ rút lui nhanh như vậy.

Lạnh lùng nhìn các bộ hạ đang hướng mặt về mình, Lưu Hiển dùng Yển Nguyệt đao vừa mới giết người vạch một đường thẳng đỏ tươi trên mặt đất, hắn gằn từng chữ:
- Kẻ nào vượt qua vạch này, giết chết bất luận tội!

Các thân binh lập tức hướng họng súng về các quan binh đang muốn lùi về sau.

Quân Minh tháo chạy ngừng bước.

- Thích gia quân đánh từ sáng đến giờ hi sinh còn nhiều hơn các ngươi gấp mười, nhưng vẫn anh dũng xông lên!

Thanh âm của Lưu Hiển to như tiếng thương pháo nổ vang, trong hoàn cảnh hỗn loạn không chịu nổi có thể truyền tới tai mỗi một binh sĩ:
- Khách quân còn như vậy, còn các ngươi, những kẻ tự xưng hào dũng bưu hãn lại sợ sệt thế sao?

Thanh âm của hắn tràn đầy mỉa mai vang lên:
- Đừng quên, có thù bất cộng đái thiên với những bộ Lỗ này là đệ tử Thiểm Tây các ngươi, mà không phải là họ!

Giọng mỉa mai của hắn truyền tới trong tai mỗi người, bọn quan binh xấu hổ và giận dữ không chịu nổi. Nhà họ ai mà không có người thân huynh đệ bị người Mông Cổ sát hại, sao có thể để cho khách quân giúp đỡ báo thù, còn mình thì lại làm rùa đen rút đầu chứ?

- Giết hết bộ Lỗ, phục Đông Thắng!

Lưu Hiển vung Yển Nguyệt đao trong tay chỉ phương hướng đầu thành:
- Ngay tại hôm nay!

Quân Minh lần thứ hai phát động thế tiến công, không phá Đông Thắng, thề không thu binh!

Lần này thủ quân rõ ràng cảm giác được áp lực tăng mạnh, nhưng họ cũng là liều mạng, trong thành hầu như muôn người đều đổ xô ra, tất cả đều tụ tập đến dưới tường thành. Các nam nhân liều mạng cự địch, thậm chí ôm quân Minh đang xông lên tường thành nhảy xuống dưới, cũng quyết không để cho họ đứng vững một bước trên thành. Phụ nữ và trẻ em thì vận chuyển đạn dược gỗ đá, lão nhân sửa chữa tường thành bị hư hại. Chí người vững như thành đồng, thề sống chết đánh một trận. Quân Minh ỷ vào người đông thế mạnh, lại có pháo hỏa trợ giúp, cũng không phải quân Mông có thể đẩy lùi được. Trong nhất thời, loạn thạch bay tán loạn, lửa đạn liên miên, song phương tử thương vô số kể...

Bất tri bất giác, trận đánh đã kéo dài tới trời tối đen, quân Minh lại không hề có ý lui binh, trái lại mượn sự yểm hộ của bóng đêm khiến thế tiến công càng thêm mãnh liệt. Thang mây bị hất lại mắc lại, người ngã xuống không chết lại bò lên, người bò lên trên thì giơ đao cùng quân địch tử chiến.

Vì thấy rõ quân Minh, người Mông Cổ châm rất nhiều đuốc, chiếu sáng đầu thành dưới thành rõ như ban ngày, tiếp tục ác chiến không ngừng...

Từ sáng đến tối, Thích Kế Quang vẫn luôn bất động đứng ở đó, giọt nước hạt gạo cũng chưa từng, chỉ lạnh lùng nhìn chiến sự thảm liệt trên tường thành. Mãi đến khi hắn phát hiện bầu trời tối đen như mực, đã nhìn không thấy quan truyền lệnh bên người mới thấp giọng nói:
- Bắt đầu đi!

*********

Khi Tây thành, Nam thành cùng Đông thành đánh túi bụi, lung lay sắp đổ thì thành Bắc Tế Nông lại im ắng, vi tam khuyết nhất, đây là quy tắc công thành từ xưa, quân Mông tự nhiên không xa lạ. Bọn họ biết quân Minh không đánh bắc môn là muốn cho thủ quân bên trong thành không chịu nổi áp lực vứt bỏ thành chạy trốn, do đó lấy trả giá ít nhất đạt được thành trì.

Khi bố phòng, các quý nhân Mông Cổ dự liệu đối phương có lẽ sẽ ở đây triển khai tập kích...Thật ra vùng địa hình này bằng phẳng rộng lớn, bất lợi cho bộ đội ẩn nấp và tập kích, rất khó tìm được trọng điểm công kích. Nhưng họ vẫn phái 2000 thân vệ Tế Nông tinh nhuệ nhất bố phòng ở đây.

Thật ra người sáng suốt đều có thể nhìn ra, các quý nhân là vì bảo tồn thực lực, bảo hộ đường lui nên mới đưa bộ đội tinh nhuệ nhất đặt ở chỗ này.

Thế nhưng theo chiến sự căng thẳng, người Mông Cổ đành phải từ nơi này điều nhân thủ trợ giúp nơi khác. Thành trì quá lớn, thủ quân không đủ, đây chính là nhược điểm sở tại trí mạng của quân Mông. Chính như lời Thích Kế Quang đã nói, nếu có 2 vạn người thủ thành, quân Minh không có khả năng đánh hạ nơi này. Nhưng mà không có một bộ lạc nào đồng ý vào thành tác chiến cùng người của Nặc Nhan bộ, cho nên họ động viên toàn bộ cả nam đinh từ 14 đến 60 tuổi, cũng không đến 1,2 vạn người.

Nhân số này lúc đầu thì cũng đủ thủ thành, nhưng theo thế tiến công của quân Minh duy trì liên tục, thương vong của thủ quân tăng lên, khuyết điểm khuyết thiếu đội dự bị liền lộ ra. Vì ngăn chặn chỗ hổng ở Tây thành, Chung Kim Biệt Cát cầm trong tay Tế Nông đoản kiếm, điều đi 500 quân từ Bắc thành để lắp lại phòng tuyến sắp bị phá.

Sau đó chiến sự thảm liệt, ngay cả lão nhân cùng nữ nhân cũng phải lên đầu thành, điều này làm cho dũng sĩ quân Mông đang không có việc gì sao kiềm chế được? Họ thường thường chủ động trợ giúp phòng thủ gần tường thành. Nhân số bất tri bất giác giảm đi, đến khi bầu trời tối đen, trên đoạn tường thành thật dài chỉ còn chưa tới 400 người.

Mà 400 người này, nghe những người khác ở ba mặt hò hét, hận không thể chạy qua cùng các người thân đồng sinh cộng tử nữa chứ!

Nhưng mà rất nhanh bọn họ liền phát hiện, mình sẽ không tịch mịch. Một nhánh quân tinh nhuệ nhất đương đại đang lén lút tới gần thành trì!

Tên tuổi của 'Thích gia quân' quá vang dội, thế cho nên quân đội mà Thích Kế Quang thống lĩnh đều được xưng là 'Thích gia quân'. Nhưng chân chính gầy dựng được danh hiệu vinh dự Thích gia quân này lại là Nghĩa Ô binh của Chiết Giang!

Năm đó Thích Kế Quang đã từng mắt thấy thợ mỏ, hương dân Nghĩa Ô cùng các người khai thác mỏ xứ khác dùng binh khí đánh nhau, người tham dự đạt tới hơn 3 vạn. Vị tướng quân lúc đó đã kinh nghiệm sa trường lại bị chấn động đến tột đỉnh về những những gì thấy được lúc đó. Sau đó khi hắn trở lại báo cáo cho Thẩm Mặc có nói:
- Mạt tướng thuở nhỏ theo phụ tòng quân, đi khắp tứ phương, 22 tuổi tham gia thi hội gặp ngay Yêm Đáp xâm chiếm. Mạt tướng đảm nhiệm cảnh giới, sau đó đóng ở Kế môn, cũng từng mắt thấy thiết kỵ Thát Đát, tới vô ảnh đi vô tung động như sấm sét, có thể nói rất mạnh. Sau đó cùng giặc Oa tác chiến, loại người này thiện dụng đao kiếm, võ nghệ cao cường, vả lại tính tình thô bạo, quả thực là cường địch khó gặp.

Nhưng sau một hơi thở, hắn hộc ra sợ hãi buồn bực ở trong lòng nói:
- Nói không khoa trương chứ, người mạnh mẽ thiên hạ mạt tướng phần lớn từng gặp qua, nhưng cũng chưa từng sợ hãi. Nhưng bưu dũng, thiện chiến không sợ như người Nghĩa Ô thì thật là trước đây mạt tướng chưa từng gặp, khiến người nghe tiếng sợ vỡ mật, đáng sợ! Đáng sợ!

Cuối cùng, hắn nói một câu thế này:
- Nếu như cho phép ta tại Nghĩa Ô trưng binh 4000, loạn giặc Oa tất bình!

Thẩm Mặc thuyết phục Hồ Tôn Hiến, chấp thuận thỉnh cầu của Thích Kế Quang. Thích Kế Quang liền từ Nghĩa Ô chiêu mộ 4000 nam đinh dũng cảm nhất, tinh nhuệ nhất, lúc này mới có 'Thích gia quân' danh chấn thiên hạ!

Chiến tích hiển hách tại Đông Nam hầu như tất cả đều là Nghĩa Ô binh gầy dựng, sau đó Thích Kế Quang liên tục chiến đấu ở các chiến trường phương bắc, tự nhiên cũng dẫn theo họ. Có phân nửa người có đầu óc linh hoạt chút thì được phái đến Tuyển phong doanh đảm nhiệm quân quan các cấp, phân nửa còn lại thì tiếp tục đi theo Thích Kế Quang, xem như là thân binh của Thích Kế Quang!

Quan binh của nhánh quân này có tuổi tác bình quân khoảng 30, người nào cũng thân kinh bách chiến, võ nghệ cao cường, kinh nghiệm phong phú, đang lúc ở thời kì đỉnh phong của chức nghiệp quân nhân. Sức chiến đấu của họ mạnh mẽ, đương đại vô xuất kỳ hữu. Thích Kế Quang chậm trễ không phái họ ra trận, chính là đang chờ đợi cơ hội đánh một trận quyết định này.

Nghĩa Ô binh toàn thân hắc y băng qua chiến trường khí thế ngất trời, lặng yên không một tiếng động từ hai mặt đông tây vòng qua, mượn bóng đêm yểm hộ, động tác cả hành trình cực kỳ bí mật. Mãi đến khi họ mắc thang mây bắt đầu đăng thành thì người Mông Cổ trên tường Bắc mới phát hiện việc lớn không tốt, vội vàng kêu la ngăn cản. Nhưng quân Minh đã mắc đủ 20 cây thang mây, từ các đoạn tường thành leo lên công thành. Quân Mông nhân số quá ít, lo cái này mất cái kia, căn bản không thể ngăn cản toàn bộ các lộ tuyến công kích của quân Minh.

Khi các Nghĩa Ô binh tiếp cận tường thành, hai chân ôm lấy cây thang, một tay tháo xuống Chấn thiên lôi treo bên hông, một tay lấy ra hỏa chiết tử rồi nhanh chóng đốt ngòi nổ, ước chừng đốt tới phân nửa thì ném lên thành, vừa lúc nổ tung trên đỉnh đầu quân Mông, mảnh đạn, đinh sắt văng ra, một loại bị ngã xuống.

Các Nghĩa Ô binh liền nhân cơ hội leo lên đầu thành, cũng không cần hỏa khí gì, trước tiên kết thành Tam Tài trận ngăn quân Mông đang lao đến, yểm hộ đội sau đăng thành. Đợi đến nhiều người rồi liền cấu thành từng Ngũ Hành trận thích hợp tác chiến với địa hình hẹp, đánh tới quân Mông vẫn còn đang ngăn trở công thành.

Đội quân tinh nhuệ quân Mông thủ vệ Bắc thành đều là hảo thủ thân thể khoẻ mạnh, võ nghệ cao cường, nhưng ở trước mặt Nghĩa Ô binh võ nghệ cao cường hơn, trận pháp lại tinh diệu thì không đáng nhắc đến. Bọn họ vung đao ngăn trở tiến công phía trên thì lại bị một thanh trường thương xuyên qua ngực, chặn vị trí ở ngực thì lại bị phác đao chém đứt hai chân. Hoàn toàn không ngăn nổi.

Thủ quân hoàn toàn bị áp chế, Nghĩa Ô binh bò lên trên đầu thành càng ngày càng nhiều, trong nháy mắt đã bao vây lấy quân Mông. Chỉ thời gian một nén nhang, quân Minh đã hoàn toàn khống chế đầu thành. Trên bắc thành đã không còn người Mông Cổ nào đứng thẳng nữa...

Người Mông Cổ trên ba mặt tường thành khác còn chưa phát hiện Bắc thành thất thủ.

Trên thực tế, bản thân họ cũng lung lay sắp đổ, cho dù phát hiện cũng bất lực.

Giao lại nhiệm vụ trông nom đoạn tường thành này cho bộ đội phía sau còn chưa bò lên, Nghĩa Ô binh không chút ngơi nghỉ chia ra hai mặt tường thành đông tây.

Quân Mông đang liều mạng ngăn địch đột nhiên lọt vào công kích từ cánh ngay lập tức trở nên lộn xộn. Nói gì thì họ cũng tương đối gan dạ, không cần đầu lĩnh tổ chức liền lập tức lao qua bổ sung. Đáng tiếc đã không còn kịp rồi, Nghĩa Ô binh như lang như hổ căn bản không thể ngăn cản!

Uyên Ương trận do Nghĩa Ô binh cấu thành mới là Uyên Ương trận chân chính. Uy lực của nó trong cận chiến tại đất bằng không phải dựa vào dũng mãnh gan dạ có thể ngăn cản được. Quân Mông lại phần lớn đã kịch chiến cả ngày, chưa được một hạt gạo vào bụng, đụng phải Nghĩa Ô binh như hổ điên thì đâu phải là đối thủ?

Rất nhanh, Nghĩa Ô binh liền quấy cho đầu thành đại loạn, áp lực của quân công thành dần dần tăng lên, càng ngày càng nhiều quan binh xông lên đầu thành. Quân Minh rốt cuộc đứng vững gót chân không nói hai lời, rút đao chém xuống quân Mông, muốn phát tiết ra hết lửa giận và bực tức một ngày nay.

Quân Mông vẫn dũng mãnh, nhưng thua thiệt trên nhân số, sĩ khí lại chịu đả kích, quân Minh đã triệt để chiếm thượng phong... Càng quan trọng là, Nghĩa Ô binh vô địch gia nhập chiến đoàn đã khiến chiến sự mất đi dữ dội, họ xuất hiện ở đâu thì quân Mông bị đánh liên tiếp bại lui, rốt cuộc, hai đoạn tường thành đông tây lần lượt thất thủ...

3 vạn quân Minh đỏ mắt, từ các nơi tường thành leo lên vào thành, chuẩn bị huyết tẩy thành Đông Thắng!

Quân Minh đã công hãm được tường thành, hơn 3 vạn quân công thành nhảy lên đầu thành, người Mông Cổ bị bại rút vào trong thành. Bước tiếp theo là nên chiến đấu trên đường phố rồi.

Nhưng mà đại quân công thành lại nghe được hiệu lệnh tạm hoãn tiến công, rất nhanh quân quan các cấp nhận được mệnh lệnh, giới bị phản công, tu chỉnh tại chỗ! Các tướng sĩ giết đỏ cả mắt rồi tức thì om sòm, các quân quan cũng vây lấy Thích Kế Quang ở tiền tuyến, thỉnh cầu nhất cổ tác khí, tiêu diệt tàn quân!

- Hôm nay chảy máu rất nhiều rồi...

Thích Kế Quang nhìn thi thể la liệt trên đất, thấp giọng nói:
- Không thể để các huynh đệ chết oan trước thắng lợi nữa. Trong thành ít nhất còn có 7000 binh Mông Cổ, nếu như chiến đầu trong thành Đông Thắng nhân sinh địa không quen, còn không biết sẽ phải chết bao nhiêu người nữa.

Nghe xong lời nói của Thích soái, các tướng sĩ liền an tĩnh lại, nhiệt huyết đầy đầu cũng dần dần thối lui, họ mới nhớ tới một ngày một đêm hôm nay có bao nhiêu đồng bào huynh đệ đã mệnh tang sa trường. Nghĩ đến các gương mặt quen thuộc sẽ vĩnh viễn không thấy nữa, các tướng sĩ dần tan biến đi lệ khí tích tụ, mệt mỏi tuôn ra trong lòng. Rất nhiều người không khống chế được gào khóc lên.

Thích Kế Quang khẽ than một tiếng, phân phó bộ hạ an bài bộ đội tổn hao quá lớn về doanh nghỉ ngơi trước, mệnh các tướng sĩ của Phúc trùng doanh tiếp quản phòng thủ, cứu trị người bệnh, suốt đêm xây dựng công sự, thiết trí hỏa lực, làm chuẩn bị cho chiến sự ngày mai.

Đêm đó, trên dưới tường thành sáng như ban ngày. Tướng sĩ quân Minh vội vàng bận rộn, quân Mông cũng phát động vài lần phản công nhưng bị quân Minh chiếm địa lợi sau một đợt xạ kích giết cho hoa rơi nước chảy. Thử vài lần đều húc phải đinh, rốt cuộc biết luận về bản lĩnh thủ thành quân Minh thật sự mạnh hơn họ nhiều.

Thích Kế Quang cũng không lo lắng quân Mông có thể đoạt lại tường thành, nhưng hắn vẫn đứng suốt một đêm trên tường thành. Thống kê thương vong đã được báo lên, trận công thành chiến từ sáng đến tối này đã trận vong hơn 3800 tướng sĩ, bị thương hơn 6000 người, trong đó trọng thương 3000. May mắn đó là hơn phân nửa thương binh chỉ là thương cân động cốt, té bị thương, bị phỏng, tĩnh dưỡng một mùa đông, đầu xuân sang năm lại là một hảo hán.

- Nghĩ cái gì thế Nguyên Kính? - Giọng Lưu Hiển vang lên, có thể một ngày phá thành, lão tướng quân tâm tình khá tốt.

- Thương vong lớn quá. - Thích Kế Quang thấp giọng nói.

- Công thành mà, lần nào mà không dùng người lấp. - Lưu Hiển thấp giọng nói: - Ta tại Tứ Xuyên bình Bạch Liên giáo tạo phản, đánh mấy sơn trại cả nghìn người, đều phải chết con số này.
Rồi hắn cười nói:
- May người Mông Cổ không biết thủ thành, lại có người của Quân tình ti hỗ trợ, bằng không thì chúng ta lấp 2 vạn người có thể lấy được đã không tệ rồi.

- Đúng vậy. - Thích Kế Quang gật đầu, nói tránh đi: - Việc ngày mai ta muốn thương lượng với ngươi một chút...

- Bắt ba ba trong rọ rồi, còn có gì khó khăn nữa đâu? Giết con mẹ nó là được rồi! - Lưu Hiển nhìn hắn nói: - Nguyên Kính, ta thấy ngươi có tâm sự à.

- Ừh. - Thích Kế Quang gật đầu nói: - Ta biết trận này trả giá thảm trọng, ngày mai sau khi lấy toàn thành rồi, tất phải có một trận đồ thành.

Những lời này nói ra từ miệng một quân nhân kiểu mẫu như Thích Kế Quang đủ để khiến người sau này phải rớt cả kính. Nhưng mà trong mắt các tướng lĩnh vào lúc này thì nó lại bình thường như cân đường hộp sữa.

Làm sao để cho các binh sĩ nghe theo chỉ huy, anh dũng tác chiến, đây là vấn đề lớn làm phức tạp các tướng lĩnh lúc này.

Trong mắt rất nhiều văn nhân, chinh chiến sa trường, bảo vệ quốc gia là nghĩa vụ của mỗi binh sĩ.

Không quan tâm bình thường đối với những binh sĩ này thế nào, chỉ cần tại thời khắc mấu chốt phái họ ra chiến trường, ca vài câu 'vì quốc gia, vì dân tộc', sau đó mọi người có thể giúp đỡ nhau, chiến thắng được địch nhân.

Nhưng Thích Kế Quang kiên trì giải thích cho các tướng lĩnh của hắn. Đây là một quyết định rất sáng suốt, bởi vì lúc này thành Đông Thắng đã hạ được, quân địch cũng đã bị tiêu diệt, mục đích chiến lược đã hoàn toàn đạt được, hiện nay yêu cầu nhất là tranh thủ thời gian tu chỉnh bộ đội, củng cố thành phòng để ngừa các bộ Mông Cổ phản công. Mà trong thành còn có năm sáu ngàn kẻ liều chết, cùng với phụ nữ và trẻ em rất có địch ý với quân ta. Ngạnh công không chỉ tiêu hao tinh lực, thương vong cũng sẽ rất lớn, thời gian dài còn có thể sinh biến. Cho nên đàm phán vẫn là thích hợp nhất.

Bởi vì Thích Kế Quang có uy vọng rất lớn, các tướng lĩnh không dám nghi vấn phán đoán của hắn. Nhưng thật ra điều họ quan tâm không phải là đàm phán hay không, mà là có cơ hội để bộ hạ rút lui hay không. Cho nên mặc dù không ai phản đối, nhưng đều ngập ngừng không chịu rời đi.

- Trận này mọi người đánh rất đẹp. - Lúc này giám quân Trịnh Lạc lên tiếng: - Thẩm các lão đã nói trước, nếu như chư vị thuận lợi đánh hạ thành Đông Thắng thì tuyên bố ban thưởng lần này...

Hắn cố ý dừng lại một chút dẫn tới mọi người vô cùng hiếu kỳ, rồi hắn mới lớn tiếng nói:
- Bạc 100 vạn lượng!

Tức thì tiếng hoan hô vang lên rung trời, 100 vạn lượng, đó là bao nhiêu tiền chứ!

Nhìn Trịnh Lạc vị vây quanh, Lưu Hiển có hơi buồn bực lườm hắn. Sau khi đáp ứng đối phương, ngoảnh lại hắn liền thì ý thức được "Người này thật sự là kẻ dối trá". 100 vạn lượng đó vốn là triều đình chuẩn bị ban cho bọn quan binh, lại bị hắn mượn hoa hiến phật. Thật sự là khi dễ kẻ làm lính thành thực mà!

Thật ra 100 vạn lượng nghe thì kinh khủng, nhưng chia đều cho 10 vạn đại quân, hơn nữa các quân quan khẳng định muốn được nhiều hơn, binh lính bình thường có thể được năm sáu lượng bạc cũng đã rất tốt rồi, nhưng cũng đâu đến mức làm cho đám quân quan này vui quá hóa rồ chứ? Lưu tổng binh không khỏi oán thầm, cũng không nghĩ ban đêm hôm qua mình cũng bị lừa cho mụ cà đầu...

100 vạn lượng này tựa như một quả boom đánh cho đám quân quan thành thỏ ngốc. Trịnh Lạc nói cái gì họ cũng gật đầu, cuối cùng hồ đồ đáp ứng ước pháp tam chương của hắn...

Người Mông Cổ vốn cho rằng hẳn phải chết, nhưng không ngờ quân Minh lại muốn thả cho họ một con đường sống. Lúc này, vị công chúa chủ chiến bị trọng thương trên chiến trường đang trong cơn hôn mê. Nặc Nhan Đạt Lạp hôm qua cũng đã tiêu hao hết dũng khí, lúc này như nắm được cọng rơm cứu mạng, vội vàng sai người trả lời: "Chúng tôi tình nguyện lui quân, dâng lên tài bảo, xin đừng phái người chặn đường." Ý là, chúng tôi nguyện ý đầu hàng, vàng bạc trang sức thuộc các ngươi hết, nhưng phiền giơ cao đánh khẽ, đừng nhân cơ hội ám toán chúng tôi.

Lập tức Thích Kế Quang biểu thị đồng ý, sai người mở bắc môn cho họ một canh giờ ra khỏi thành, mỗi người chỉ cho phép cưỡi một con ngựa, có thể mang vũ khí, không được mang hành lý. Một canh giờ sau sẽ đóng cửa thả chó, một người cũng đừng nghĩ chạy, từ khi tín sứ phái ra là lúc bắt đầu tính thời gian.

Bắc môn đã được dọn dẹp từ đêm qua, đang từ từ mở ra, chờ đợi người Mông Cổ rời đi.

Tại lúc đếm ngược đòi mạng mạng này, người Mông Cổ rất nhanh đáp ứng. Song phương đạt thành hiệp nghị. Dưới cảnh giới vạn phần, người Mông Cổ cầm trong tay vũ khí tụ tập lại từ các nơi ẩn nấp bí mật, dìu già dắt trẻ, từng bước rút khỏi thành Tế Nông của họ.

Quân Minh quả nhiên hết lòng tuân thủ hứa hẹn, không nhân cơ hội công kích khi đối phương ra khỏi thành. Nhưng mà khi họ rời khỏi thành Tế Nông, chuẩn bị thở phào thì kỵ binh quân Minh lại từ hai bên ập ra, rất nhanh vây kín người Mông Cổ.

Vì thú còn tranh đấu thì khó đối phó, nhưng thả ra thú mệt mỏi thì dễ đối phó. Sau khi quân Mông đầu hàng không còn sĩ khí, thấy nòng súng tối om của quân Minh, thậm chí ngay cả sức lực giơ lên cung tiễn cũng không có, đâu còn ý chí chống lại nữa? Chỉ lớn tiếng quát mắng quân Minh không tuân thủ hứa hẹn, là lừa đảo...

- Chúng tôi không cùng một hệ thống với bên trong thành. Bọn họ là bộ binh, chúng tôi là kỵ binh. - Lưu Hiển buồn bực nửa ngày rốt cuộc thoải mái cười to: - Các ngươi đã giao tiền chuộc cho họ, nhưng chúng tôi thì chưa được gì hết.

- Nhưng chúng tôi đã không còn tiền tài. - Người Mông Cổ bi phẫn nói.

- Vậy đền thịt. - Lưu Hiển nhe răng cười nói: - Hiện tại cho các ngươi hai lựa chọn, hoặc là hết thảy nhận lấy cái chết, để cho lão tử đã nghiền, hoặc là giao thủ lĩnh của các ngươi ra đây, để cho lão tử đi đổi lại tiền thưởng.

Người Mông Cổ xôn xao, hiển nhiên những lời nói của Lưu Hiển đã khiến họ tâm phiền ý loạn. Quân Minh chờ chỉ chốc lát liền lên nòng súng, giục họ nhanh quyết định.

Ngay tại thời khắc người Mông Cổ khó có thể lựa chọn thì Nặc Nhan Đạt Lạp, vị Tế Nông Mông Cổ từ trước đến nay lấy nhu nhược thành danh đứng ra, nói với Lưu Hiển:
- Ta là Tế Nông, trên thảo nguyên gần với đại hãn, ta đi theo ngươi, nhưng xin ngươi thả các tộc nhân của ta ra.

Lưu Hiển nhìn mật thám Quân tình ti bên cạnh, thấy đối phương gật đầu, biết không phải là thay mận đổi đào. Hắn liền nhe răng cười nói:
- Phân lượng này cũng đủ nặng đấy, trói lại.

- Chậm đã! - Nặc Nhan Đạt Lạp lấy ra một thanh đoản nhận trong tay áo, chỉ vào cổ họng mình nói: - Xin thả các tộc nhân của ta trước!

Hành động này của hắn khiến các tộc nhân rất là cảm động, lại có rất nhiều người đứng ra yêu cầu cùng hắn đồng sinh cộng tử.

- Con mẹ đi hết đi, lão tử không thừa cơm.

Lưu Hiển không nhịn được vung tay lên, các kỵ binh liền tránh ra lối đi. Đại bộ đội của người Mông Cổ dần dần rời khỏi, nhưng vẫn còn một số kỵ binh không chịu đi, yêu cầu ở lại hầu hạ Tế Nông.

Lưu Hiển cũng không để ý đến họ, nhìn Nặc Nhan Đạt Lạp nói:
- Bỏ đao xuống đi.
Rồi hắn cười mắng:
- Ngươi nói sao ta lại tin được chứ, ngươi rõ ràng là một kẻ sợ chết.

Nặc Nhan Đạt Lạp bỏ đao xuống, sắc mặt tái nhợt cười nói:
- Con gái của ta cũng có thể làm gương cho binh sĩ, người làm phụ thân sao có thể khiến nó mất mặt được.

Sau khi trở thành tù binh của quân Minh, Nặc Nhan Đạt Lạp không có gặp cảnh như trong tưởng tượng, cũng không có vào thành Tế Nông nữa mà được một đội kỵ binh quân Minh áp giải về hướng Nam. Dọc theo đường đi ngựa không dừng vó, cả ngày lẫn đêm, buổi sáng ngày hôm sau thì thấy Trường Thành của Minh triều. Cảnh tượng trước mắt suýt nữa đã chọc mù con mắt của hắn:

Thấy đoạn biên tường trước kia đã biến thành thành trì được bảo vệ nghiêm mật, chiến hào hãm sâu. Khi hắn thấy được hàng đại pháo trên thành, còn có trường thương trên vai quân Minh, con ngươi không khỏi rụt lại. Trận này, thực sự không thể đánh rồi...

Sau khi xác nhận thân phận, quân Minh thả cầu treo để cho bọn họ vào thành.

Sau khi đi vào liền giống như bước vào một công trường lớn, trên thành dưới thành mấy nghìn dân phu đang bận rộn thi công công sự phòng ngự, xây dựng phòng ốc thương khố. Nơi nơi đều là công trình, nơi nơi đều là kiến trúc, làm cho Nặc Nhan Đạt Lạp thấy mà lòng trầm xuống... Mặc dù hắn mềm yếu nhưng nhãn lực vẫn phải có, biết đây là người Hán đang gấp rút xây dựng pháo đài. Đợi đến khi những thương khố, binh doanh này được xây hết lên rồi, ở đây chính là căn cứ hậu cần quân Minh ra vào Hà Sóc. Từ nơi này đến thành Tế Nông chỉ 150 dặm lộ trình, vả lại ven đường trống trải, độ khó tiếp tế giảm đi rất nhiều.

Thấy quân Minh đưa vào nhân lực vật lực lớn mạnh như vậy, Nặc Nhan Đạt Lạp thầm nghĩ: 'Người Hán quả nhiên là thế tại tất đắc.' Ở trong tòa thành chưa xây xong nghỉ ngơi một chút, ngày hôm sau lại tiếp tục lên đường. Đi ra ngoài tòa thành không lâu sau liền bước lên con đường giữa Thần Mộc và Phủ Cốc. Nặc Nhan Đạt Lạp không khỏi nghĩ đến 20 năm trước, lúc phụ hãn còn sống, mỗi năm mình đều theo ông ấy phá biên tường, men theo con đường này xâm lấn Thiểm Tây.

Lúc đó hắn tuyệt đối không ngờ được, 20 năm sau, mình lại rơi vào cảnh làm tù binh của người Hán, bị áp giải trên con đường năm đó. Hắn không biết đợi mình sẽ là cái gì, bị áp giải đến Bắc Kinh hiến phu, sau đó đưa lên thị trường lăng trì xử tử? Hay là bị xử quyết ngay, sau đó đem thủ cấp đến Bắc Kinh lĩnh thưởng?

Không quản loại nào, hình như cái chết đều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên ngẫm lại cũng bình thường, mình hẳn là người Mông Cổ cấp bậc cao nhất 100 năm qua mà quân Minh bắt được, sao có thể dễ dàng tha cho mình được chứ?

Dọc theo đường đi cứ miên man suy nghĩ như thế, khi đến thị trấn Thần Mộc lại chuyển hướng Du Lâm. Khi đến Du Lâm bảo, thấy được thành phòng với các khối lập thể hoàn thiện hắn rốt cuộc biết được, cái gì gọi là thành bảo phòng thủ kiên cố, mà thành Tế Nông mình vẫn cho rằng không gì phá nổi, ở tước mặt Du Lâm bảo chẳng qua là một trò cười.

Sau khi vào thành hắn được giam trong một nhà tù, sau đó một đêm nào đó bị áp giải ra ngoài. Hắn vốn tưởng rằng ngày chết của mình đã đến, ai ngờ người Hán chỉ chuyển mình đến một gian nhà càng sâu hơn, giam lỏng trong một tiểu viện, sau đó liền bắt đầu cuộc đời của kẻ tù tội buồn chán.

Nói 'cuộc đời kẻ tù tội' thì cả hắn cũng hơi đỏ mặt. Bởi vì ngoại trừ không có tự do, cuộc sống của hắn thật ra rất tốt... Mỗi ngày ba bữa có người đưa cơm tới, rau thịt phối hợp, hương vị đủ cả, tối còn có một bầu rượu. Cách hai ngày còn có người đưa y phục cho hắn tắm rửa. Mặc dù đều là đồ của người Hán mặc, nhưng đối với hắn tuyệt đối không thành vấn đề.

Điều khiến hắn cảm thấy thỏa mãn đó là mình thậm chí có sách báo để đọc... Hắn đã sớm nghe nói, phía nam Minh triều có loại gọi báo chí gì đó, chuyên ghi lại những chuyện mới nhất cho mọi người xem, cũng nghĩ biện pháp làm mấy bài báo đã quá trên nữa năm, nhưng xem vẫn còn hay, lật qua lật lại cũng sắp thuộc làu rồi.

Lúc đó hắn đã nghĩ, nếu mỗi ngày đều có báo xem là chuyện hạnh phúc cỡ nào chứ. Mà thật không ngờ được, nguyện vọng này lại được thực hiện ngay sau khi bị bắt, không biết có tính là vạn hạnh trong bất hạnh hay không.

Cứ như vậy, hắn bắt đầu cuộc đời trạch nam ngày qua ngày, không có người đến quấy rầy hắn, cũng không ai để ý đến hắn, giống như các đại nhân vật đã quên hắn rồi vậy. Nặc Nhan Đạt Lạp cảm thấy, an tĩnh như vậy cũng rất tốt, đối với kẻ tù tội thì đã là niềm hạnh phúc không thể mong cầu gì rồi.

Nhưng rất nhanh hắn không cảm thấy đây là hạnh phúc nữa, bởi vì từ trên báo hắn thấy được tiến triển của chiến sự...

**********

Sau đó chứng minh, Thích Kế Quang không tiếc tất cả trả giá cũng muốn một ngày lấy thành Đông Thắng là anh minh và may mắn thế nào.

Bởi vì gần một ngày sau đó, trưởng tử của Yêm Đáp Tân Ái Hoàng Đài Cát suất lĩnh 1 vạn nhân mã của bản bộ, dưới sự tiếp ứng của Bái Tang, Bố Dương Cổ và Ba Đặc bình yên vượt qua Hoàng Hà, sau đó không phút ngơi nghỉ đánh về thành Đông Thắng. Nhưng lúc này quân Minh đã xây dựng lên thành phòng cơ bản rồi, nhất là trên đầu thành đặt trên 100 khẩu đại pháo, đợi Hoàng Đài Cát suất quân đến gần sẽ đồng loạt nã pháo.

Tiếng pháo làm ba huynh đệ Bái Tang đã thành chim sợ cành cong sợ hãi bỏ chạy, Hoàng Đài Cát cũng nghĩ làm anh hùng hảo hán một phen, nhưng thân thể máu thịt sao có thể chống được đại pháo, chưa tới gần sông hộ thành thì đã bỏ lại gần nghìn thi thể. Lúc này hắn mới nhận rõ hiện thực, bỏ đi vọng tưởng, chán chường rút lui để hội hợp cùng ba huynh đệ Bái Tang.

Lại qua vài ngày, ba bộ khác của Ngạc Nhĩ Đa Tư cũng lĩnh binh chạy tới, tập hợp được 4 vạn kỵ binh. Thanh thế cực kỳ lớn nhưng không dám tới gần thành Đông Thắng một bước, chỉ có thể thay đổi sách lược, lấy quấy rầy và tập kích tuyến vận tải của quân Minh là chủ.

Nhưng mà quân Minh căn bản không dự định năm nay làm thông tuyến vận tải, lương thực họ mang theo cộng thêm ngưu dương thu được đủ để duy trì qua mùa đông này. Bởi vậy cũng không vội vã chủ động xuất kích, mà là bước vào kỳ nghỉ ngơi. Nói đến kỳ nghỉ ngơi cũng không đúng, bởi vì họ cũng không nhàn rỗi, ngày đêm thêm giờ, rốt cuộc trước khi đợt tuyết đầu tiên kéo đến đã tu sửa lại tường thành bị hủy, cũng xây thêm các phương tiện phòng ngự như pháo đài, vọng lâu, tường chắn mái, đem hãn đình ngày xưa của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ kiến thành đại bản doanh tại Hà Sóc.

Đối với quân Mông đã tụ tập đủ ưu thế binh lực, lại kiến thức được tam bản phủ của quân Minh thì họ cái gì cũng không sợ, chỉ có sợ quân Minh co đầu rút cổ không ra. Bốn năm vạn người tụ tập trên Sóc nội thảo nguyên, cung cấp đã thành vấn đề lớn, chỉ có thể dựa vào lương thảo qua mùa đông của các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư để duy trì.

Cái gọi là 'tăng nhiều cháo thiếu', chính là dùng để hình dung tình cảnh hiện tại của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ, họ vốn là vội vàng rút khỏi Hà Sóc, tự dùng còn không đủ, lại cung cấp cho binh mã của Hoàng Đài Cát, còn phải tiếp tế cho Đạt Nhĩ Hỗ Đặc bộ tay không trốn ra, bản bộ thành Tế Nông bị vơ vét sạch sẽ. Hơn ba vạn người ngựa, tiêu tốn mỗi ngày cực kỳ kinh người... Đây cũng là nguyên nhân vì sao quân Minh rõ ràng có thể bắt làm tù binh lại thả cho người Mông Cổ chạy đi, thật sự lo không nổi cơm ăn mà.

Vì vậy làm sao cầm cự qua mùa đông này đã thành nan đề hai quân Minh Mông cùng đối mặt. Đối với quân Minh thì mặc dù tuyến đường tiếp tế không dài, nhưng trước khi chưa có đuổi người Mông Cổ ra khỏi Sóc nội, phiêu lưu phải tiếp nhận quá lớn. Cũng may quân Minh đã sớm có chuẩn bị trường kỳ không viện trợ, trước khi mùa đông qua cũng cũng không cần phải lo. Mà đối với người Mông Cổ thì phải giải quyết vấn đề phân phối lương thảo cho nội bộ, đồng thời mau chóng tìm được nguồn tiếp tế mới... Vấn đề là, hai sự kiện này đều hết sức khó giải quyết.

Nguồn tiếp tế mới là điều không thể, vì đoạn tuyệt hy vọng của họ, quân Minh đã chặn biên cảnh, một hạt lương thực cũng không cho chảy vào Hà Sóc...Trước kia buôn lậu nhiều quá cấm không xuể là bởi vì thương nhân Sơn Tây không gì làm không được, nhưng hiện tại vì đại kế, Sơn Tây bang sẽ không cho phép các thương nhân làm bậy nữa, cho nên người Mông Cổ trả bao nhiêu tiền cũng mua không được bất cứ đồ vật nào.

Cầu viện với các bộ lạc lân cận cũng không thể, Thổ Mặc Đặc bộ của Yêm Đáp hãn mấy năm liên tục thiên tai, còn cần phải cướp đoạt Bản Thăng để duy trì, nào có lương thực dư mà giúp họ? Về phần Tây Hải Mông Cổ ở phía Tây là kẻ thù truyền kiếp, không nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của đã tốt lắm rồi, sao có thể tiếp tế cho họ được.

Ngay cả một chiêu cuối cùng cũng là phương pháp bọn họ thường dùng nhất -- cướp đoạt. Nhưng bởi vì phải đột phá tuyến biên cảnh do trọng binh quân Minh canh gác. Tại thời kì thịnh nhất, mỗi lần người Mông Cổ xuất động hơn 10 vạn kỵ, quân Minh sợ hãi thua chạy như cỏ lướt theo ngọn gió. Ít nhất cũng phải ba năm kỵ, ít hơn nữa thì sẽ thành món ăn cho quân Minh rồi. Nhưng mà sau khi giành lại được Đông Thắng, quân Minh đã chiếm vùng trung bộ Sóc nội, khống chế cả nghìn dặm, nếu như Mông Cổ xuất động, quân Minh khẳng định sẽ vượt qua Hoàng Hà đánh thẳng vào nơi lánh nạn cuối cùng của họ --hậu Sóc bình nguyên. Thế thì vợ con già trẻ khó giữ được. Nếu như chia binh thì còn có khả năng bị quân Minh phân ra đánh bại. Cho nên cũng không thích hợp.

Các bộ Mông Cổ nhớ tới lời nói lúc trước của Nặc Nhan Đạt Lạp đều hối tiếc không kịp. Nếu như ông trời cho họ một lần cơ hội nữa, họ nhất định sẽ không vứt bỏ thành Tế Nông. Nếu như nhất định phải gia tăng một kỳ hạn, bọn họ hy vọng là một vạn năm. Nhưng mà hiện tại nói gì cũng muộn rồi...

Cục diện tăng nhiều cháo thiếu không có cách thay đổi, nếu có người muốn ăn no thì tất nhiên sẽ có người ăn không đủ no, thậm chí không có mà ăn. Ăn không đủ no khẳng định sẽ bất mãn, không có mà ăn càng sẽ oán hận. Đối với người Mông Cổ thì Hoàng Đài Cát bộ ngang ngược cường đại chính là bộ nhất định phải ăn no. Họ cho rằng mình tới là để đánh trận cho ngươi Ngạc Nhĩ Đa Tư, không cần thù lao thì rất không nên rồi, có thể nào ngay cả lương thảo cũng không lo đủ chứ? Cho nên lương thảo họ cần Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ phải kịp thời dâng lên đủ số, bằng không sẽ rút quân về, không quản nhàn sự xui xẻo này nữa.

Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ chỉ còn dựa vào họ hỗ trợ thôi, bởi vậy chỉ có thể thắt chặt đai quần mà dè xẻn, ưu tiên cung cấp cho Hoàng Đài Cát bộ. Như vậy, chính họ cũng ăn không đủ no, tự nhiên không muốn tiếp tế cho Đạt Nhĩ Hỗ Đặc bộ và bản bộ của Nặc Nhan Đạt Lạp nữa. Vì thế A Mục Nhĩ và các huynh đệ làm ầm lên, thậm chí dẫn người cướp lương thảo của Ban Lạp Trát bộ, kết quả bị mấy bộ lạc thảo phạt, song phương giương cung bạt kiếm. Nếu không phải lão nhị Bái Tang điều giải, thiếu chút nữa đã lao vào nhau rồi. Cuối cùng A Mục Nhĩ trả lại phân nửa số lương thảo cướp được cho Ban Lạp Trát, xem như là đã lý giải việc này. Nhưng như vậy thì ngay cả Ban Lạp Trát bộ cũng chịu không nổi qua mùa đông này...

Về phần Tế Nông bản bộ, vốn nhân khẩu đã nhiều nhất, lại bị quân Minh hai lần cướp sạch, đã nghèo rớt mồng tơi, tình huống còn tồi tệ hơn Đạt Nhĩ Hỗ Đặc bộ, lúc nào cũng phải chịu đói chịu lạnh, thiếu y thiếu dược dày vò. Thế mà ông trời không có mắt, mùa đông năm nay lạnh vô cùng. Mới vào tháng 11 đã rơi hai trận tuyết lớn, tình cảnh các bộ lạc không thể nghi ngờ là họa vô đơn chí, mỗi ngày đều có người chết...

Những tình huống này đương nhiên không thể đăng hết lên báo được, nhưng Nặc Nhan Đạt Lạp thông qua cái đầu cũng biết bộ lạc của mình đang rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm nhất, các con trai còn non nớt, thê tử tính tình quá hoà nhã, đều gánh không nổi gánh nặng. Hiện tại khẳng định không biết làm thế nào. Càng làm cho hắn lo lắng chính là con gái khi tách ra còn đang trong hôn mê cũng không biết tình huống thế nào rồi, có thể vượt qua được trời đông giá rét thiếu y thiếu dược này hay không?

Lo lắng một khi sinh ra sẽ biến thành nỗi dày vò mỗi ngày cứ thế tăng lên, mỹ thực mê người cũng trở nên nhạt như nước ốc, báo chí yêu tha thiết cũng thành cội nguồn của phiền não, mỗi ngày đành phải nhìn, càng nhìn càng phát khổ. Giờ thì coi như hắn đã cảm nhận được cái gì là sống một ngày bằng một năm, khổ không nói nổi, không người nói hết, ruột gan đứt từng khúc rồi.

Thời gian mỗi ngày trôi qua, Nặc Nhan Đạt Lạp thông qua báo hằng ngày biết hiện tại đã là cuối tháng 11. Mùa đông năm nay đặc biệt lạnh, ở trong phòng đốt than còn phải mặc áo bông, ngoài cửa tuyết đọng quá đầu gối. Điều này làm cho nỗi lo lắng của hắn đối với tộc nhân và nữ nhân của mình đã đến mức tột đỉnh.

Rốt cuộc, sau bao đêm trằn trọc không ngủ, hắn đã đưa ra một quyết định khó khăn, mời binh đinh đưa cơm cho mình nhắn giúp, nói mình muốn gặp tổng đốc Đại Minh. Nhưng mà binh đinh rất nhanh đưa ra câu trả lời, rằng mình không có cách truyền tin tức cho tổng đốc đại nhân được, không giúp được hắn.

Nặc Nhan Đạt Lạp thất vọng suy nghĩ một đêm. Ngày hôm sau, hắn liền bắt đầu tuyệt thực, không ăn cũng không uống, muốn nhìn xem người Hán có phải định cho mình tự sinh tự diệt hay không.

Năm ngày sau khi hắn cảm giác mình sắp hồn quy thảo nguyên thì rốt cuộc có quan viên Minh triều xuất hiện, báo cho hắn ngày mai có người mời hắn ăn cơm, nếu như còn muốn đến lúc đó có sức lực để nói chuyện thì nhanh mà ăn chút gì đi.

Vào lúc ban đêm, Nặc Nhan Đạt Lạp đã ăn đủ ba bát cháo lớn, còn muốn ăn thêm chú thịt nhưng lại bị binh sĩ hầu hạ hắn ngăn cản, nói dạ dày chịu không nổi, sẽ sinh bệnh. Thế là Nặc Nhan Tế Nông đã uống no một bụng nước đành phải nằm xiêu vẹo trên kháng, muốn dùng giấc ngủ để đuổi cơn đói, bất đắc dĩ cả đêm khó ngủ, nhưng cũng không phải bởi vì đói.

*******

Buổi sáng hôm sau, binh sĩ dựa theo yêu cầu đưa tới xiêm y trước kia của hắn, chất liệu của 'Nạp thạch thất' trải qua giặt hồ không khác gì mới.
( Nạp thạch mất: ngữ âm Mông Cổ, một loại gấm do kim tuyến dệt thành)

Đội vào nón Tế Nông có kim duyên, mặc vào thượng y hạ thường liền nhau, kiểu đồ hơi chặt, hạ thường tương đối ngắn, bên hông có nhiều nếp gấp, giữa vai lưng luồn vào 'Chất tôn phục' có châu ngọc. Đây là trang phục của vương công Nguyên triều, là trang phục Bác Địch hãn ban tặng cho phụ thân của hắn khi nhậm chức Tế Nông. Sau khi phụ thân qua đời, hắn kế thừa ngôi vị Tế Nông cũng kế thừa loại Chất tôn phục tôn quý này.

Bộ trang phục này mặc dù đã mặc nhiều năm, nhưng mình tự tay mặc vào thì vẫn là lần đầu tiên, bởi vậy khó tránh khỏi có chút vụng về, mất thời gian khá lâu mới quần áo nón nảy chỉnh tề. Nhìn bộ trang phục quen thuộc, khuôn mặt yếu ớt, vành mắt thâm quầng trong gương, Nặc Nhan Đạt Lạp thầm than một tiếng, thầm nghĩ: 'Phụ hãn, xin đừng trách ta, dù sao sinh tồn của các tộc nhân mới là quan trọng nhất...'

Sau đó hắn đẩy ra cửa phòng, thấy hoa tuyết đang lặng yên rơi xuống, đất trời mênh mông, Nặc Nhan Đạt Lạp hít sâu một hơi không khí lạnh lẽo, rồi bước ra khỏi tiểu viện đã giam lỏng mình hai tháng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 846: Hy vọng


Điều khiến Nặc Nhan Đạt Lạp bất ngờ đó là đại nhân Minh triều muốn gặp mình lại cũng đang ở trong trạch viện này.

Đi theo binh đinh dẫn đường, Nặc Nhan Đạt Lạp đi tới ngoài noãn thính ở tiền viện, binh đinh đi vào thông báo một tiếng rồi dẫn hắn đi vào.

Đi vào liền cảm thấy ấm áp như xuân, hơi nóng hôi hổi. Hắn lại nhìn thì thấy trên kháng đặt một cái nồi lẩu bằng đồng thau, bên nồi lẩu là mười mấy đĩa chứa đầy thức ăn. Nặc Nhan Đạt Lạp không xa lạ gì thứ lẩu này, bởi vì nó vốn là do tổ tông Nguyên triều của họ lưu truyền tới nay. Hơi nóng đang bốc ra từ đó. Một nam tử trung niên mặc miên bào xanh thẫm nghiêng người ngồi ở mép kháng, đang dùng quạt nhẹ nhàng thổi gió vào cửa lò, than củi trong bụng lò bị quạt cháy nổ đồm độp, ngọn lửa thoát ra từ cửa lò, thức ăn trong nồi tản mát ra hương thơm mê người.

Nặc Nhan Đạt Lạp vừa nghe không khỏi nuốt nước bọt, sau đó thầm mắng mình không có tiền đồ.

Trung niên nam tử liếc hắn một cái, lại cúi đầu tiếp tục quạt.

- Ngồi đi.

Nói chính là một người ngồi vị trí thượng thủ bên trong, bị hơi nóng từ nồi lẩu che đi nên Nặc Nhan Đạt Lạp không phát hiện.

Mãi đến khi ngồi yên bên phải mép kháng rồi Nặc Nhan Đạt Lạp mới nhìn thấy người nói là một nam tử ngoài 30, mặt trắng như ngọc, đầu đội mũ quả dưa gấm màu đen có nút thắt bằng san hô, mặc bộ miên bào mỏng màu grafit nửa cũ, quần bó ống rất phẳng phiu, vớ trắng, dày đen, phong thần tiêu sái, từ đầu đến chân đều là kiểu cách của quý công tử Thanh Hoa gia thế. Chỉ ngồi ở đó, phần khí độ bất động như núi làm cho Nặc Nhan Đạt Lạp biết, người này tuyệt đối là đại nhân vật khó lường... Nếu như không phải là biết hoàng thân quốc thích của Minh triều không thể tham gia vào chính sự, hắn sẽ đoán đối phương có phải là thái tử gia của người Hán hay không.

- Tại hạ Thẩm Mặc, ngưỡng mộ đại danh của Nặc Nhan Tế Nông đã lâu. - Đối phương không úp úp mở mở với hắn, tươi cười ôn hoà nói: - Hôm nay gặp lại như vậy, cũng đừng trách tại hạ thất lễ.

- Thảo nào. - Nặc Nhan Đạt Lạp cười khổ nói: - Ta còn đang suy nghĩ, vị đại quan người Hán nào trẻ tuổi có tướng mạo trẻ tuổi có liên hệ với Thẩm đốc sư, lại không thể có được uy danh hiển hách như ngài đây.
Rồi hắn cảm kích cười nói:
- Đa tạ đốc sư đại nhân thông cảm.

Đây dù sao cũng là lần đầu tiên gặp mặt giữa tù binh và người thắng, hắn mặc vào lễ phục long trọng nhất, chính là vì khi gặp mặt có thể thoát khỏi bi kịch dập đầu chịu nhục. Nhưng đối phương an bài như vậy khiến hắn không cần phải vì hành lễ mà xấu hổ nữa, cứ cởi giày leo lên kháng ăn lẩu là được.

- Người tới đều là khách mà.

Thẩm Mặc cười chỉ tay sang nam tử trung niên nói:
- Giới thiệu một chút, vị này chính là tam biên tổng đốc Vương Sùng Cổ, hiệu Giám Xuyên.

Nặc Nhan Đạt Lạp ôm quyền nói với Vương Sùng Cổ:
- Bái kiến Vương bộ đường.

Vương Sùng Cổ chỉ nhìn hắn gật đầu không nói gì, khiến Nặc Nhan Đạt Lạp có chút xấu hổ.

- Đừng chú ý, hắn là người ngoài lạnh trong nóng thế đấy.
Thẩm Mặc giải vây cho hắn, cười nói:
- Tế Nông tới Du Lâm cũng gần nửa tháng rồi, tại hạ bận việc quân vụ nên vẫn chưa gặp mặt, hôm nay rốt cuộc có cơ hội ngồi cùng nhau, phải uống vài chung mới được.

Rồi y bày ra mấy bình rượu hình dạng khác nhau ra kháng, nói với Nặc Nhan Đạt Lạp:
- Không có rượu sữa ngựa, nhưng ở nơi Thiểm Tây đây lịch sử đã lâu, rượu nổi tiếng cũng nhiều.

Y liền thuộc như lòng bàn tay nói:
- Đây là Tần Xuyên danh tái Tây Phượng, đây là Đỗ Khang hà dĩ giải ưu, đây là rượu thái bạch thi tiên Lý Bạch từng uống qua, đây là hoàng quế trù tửu Dương phu nhân thích nhất. Tế Nông thích uống loại nào?

Thẩm Mặc nhiệt tình giới thiệu làm cho Nặc Nhan Đạt Lạp không còn câu nệ nữa, nhỏ nhẹ nói:
- Đốc sư cứ gọi ta là Nặc Nhan đi, Tế Nông đã là quá khứ rồi, hiện tại ta chỉ là một tù nhân...

- Ai nói ngươi là tù nhân? - Thẩm Mặc cười hỏi Vương Sùng Cổ: - Ngươi hạ lệnh bắt Nặc Nhan Tế Nông sao?

Vương Sùng Cổ lắc đầu nói:
- Không có.

Lúc này nồi sôi rồi, Vương Sùng Cổ liền dùng đũa gắp lấy một miếng thịt dê tốt nhất hơi mỏng, cả đĩa cũng đổ xuống trong nồi nước sôi sùng sục. Trong nồi đã có hải sâm, cẩu khởi, trứng bồ câu, các món cao cấp bổ dưỡng, chính là mỹ thực hiếm có vào mùa lạnh này.

- Ta đã nói mà. - Thẩm Mặc cười nói: - Tế Nông là quý khách chúng tôi mời tới, ngài hoàn toàn tự do, không có quan hệ gì với tù nhân hết.

- Đa tạ ân điển của đốc sư.

Nặc Nhan cảm kích cười nói. Hắn rốt cuộc tin tưởng, trên đời này có loại người có thể khiến cho người cùng hắn nói chuyện như được tắm gió xuân, không quan tâm trước kia lập trường đối lập thế nào, chỉ nói với hắn mấy câu thì ngươi cảm thấy hắn là người rất dễ thân cận.

- Đừng khách khí thế.
Thẩm Mặc xua tay, cầm lấy bình rượu sứ men xanh nói:
- Chúng ta uống trước Đỗ Khang đi, hà dĩ giải ưu, chỉ có Đỗ Khang mà...

Rồi y châm cho Nặc Nhan Đạt Lạp một ly:
- Vẫn luôn hâm nóng trên kháng, vừa lúc uống.

Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng hai tay đỡ ly rượu, tâm trạng thấp thỏm.

Thẩm Mặc lại châm cho Vương Sùng Cổ một ly:
- Đừng có dài mặt ra vậy, Tế Nông sẽ nghĩ là ngươi không chào đón đấy.

Vương Sùng Cổ liền nặn ra nụ cười, Thẩm Mặc bất đắc dĩ nói:
- Cười gì còn khó coi hơn khóc.

Rồi y cũng tự châm cho mình một ly, giơ lên ly rượu nói:
- Có câu là, "Bạch phát ngư tiều giang chử thượng, nhất hồ trọc tửu hỉ tướng phùng" (Bạn đầu bạc ngư tiều trên bãi, một bầu rượu vui vẻ tương phùng) chúng ta có thể ngồi cùng một chỗ uống rượu, chính là duyên phận thiên đại rồi đấy! Nào, cạn một ly!

Vương Sùng Cổ đành phải bất đắc dĩ bưng lên chung rượu cạn một cái với Nặc Nhan Đạt Lạp, ba người ngửa đầu uống cạn rượu trong ly, Thẩm Mặc vừa cầm bình châm rượu, vừa nói:
- Mau mau, thịt sắp nhừ rồi kia, nhanh động đũa đi

Nặc Nhan Đạt Lạp đành phải gắp một đũa thịt dê bỏ vào trong chiếc chén của mình. Hắn không khỏi thầm cười khổ, thực sự là nằm mơ cũng không ngờ được, mình có thể được ăn món ăn của tam biên tổng đốc nấu, các lão của Đại Minh rót rượu. Nhưng hắn tuyệt không cảm thấy vinh hạnh, trái lại trong lòng nặng trịch... Hắn biết người Hán giảo hoạt hơn xa người Mông, huống chi mình còn là một kẻ bình thường, đối phương tận lực bày tỏ như vậy, chỉ sợ lát nữa sẽ bị họ bán, mình còn giúp người ta kiếm tiền nữa chứ.

Gắp một miếng thịt dê đưa vào miệng. Quái lạ, thường ngày nhắc tới thịt dê non liền thèm đến chảy nước miếng, lúc này lại nhạt như nước ốc. Nặc Nhan Đạt Lạp nín thở miễn cưỡng nuốt xuống, nhìn qua không khác gì uống thuốc độc, khiến cho Thẩm Mặc kỳ quái nói:
- Sao hả, thịt này không ngon sao?

Rồi y gặp một miếng nếm thử, lắc đầu nói:
- Đâu có đâu.

Vương Sùng Cổ mặt đanh lại nhìn Nặc Nhan Đạt Lạp, ý là, ngươi tốt nhất cho một lý do, thịt lão tử nấu sao lại ăn không ngon?

- Nhị vị hiểu lầm rồi. - Nặc Nhan Đạt Lạp bưng lên ly rượu nói: - Cảm tạ đốc sư sư bộ đường đại nhân ưu ái như vậy, ta mượn hoa hiến phật, trước kính nhị vị một ly.

Thẩm Mặc cười uống rượu của hắn, chờ hắn nói tiếp.

- Nhận được chiêu đãi đều là mỹ tửu mỹ thực tốt nhất, nếu là thường ngày, ta khẳng định sẽ ăn một bữa ra trò. - Uống một hơi cạn, Nặc Nhan Đạt Lạp đặt chung rượu xuống: - Nhưng mà hiện tại, thật sự ăn không vô.

- Vì sao thế? - Thẩm Mặc châm rượu cho hắn: - Lẽ nào rượu Đỗ Khang này cũng giải không được tâm ưu của Tế Nông sao?

- Nỗi lo của ta không ở bản thân, mà là các tộc nhân của mình. - Nặc Nhan Đạt Lạp nhỏ nhẹ nói: - Vừa nghĩ đến mình hưởng dụng mỹ thực mỹ tửu ngon thế này, nhưng họ còn chịu đói trong cơn gió lạnh, lòng ta đau như đao cắt, làm sao có thể nuốt xuống được.

- Chỉ dựa vào những lời này. - Thẩm Mặc nhìn Vương Sùng Cổ nói: - Nặc Nhan Tế Nông tốt hơn nhiều so với đa số quan viên của Đại Minh rồi.

Vương Sùng Cổ không nói gì.

- Đại nhân quá khen rồi, khiến ta xấu hổ vô cùng. - Nặc Nhan Đạt Lạp có chút thương cảm nói: - Nhìn các tộc nhân đang trong tai hoạ mà không thể cứu vãn, sao ta xứng với bản chức của mình được.

Mặc dù hắn am hiểu Hán ngữ, nhưng dù sao vẫn nói chuyện còn ít với người Đại Minh, nên luôn mang theo chút ngữ pháp và cường điệu không được tự nhiên.

- Sự tại nhân vi mà, ta tin tưởng ngươi có thể làm tốt. - Thẩm Mặc bưng lên chung rượu lại cạn một ly với hắn: - Đúng rồi, hôm qua mới biết Tế Nông tìm Vương tổng đốc đã lâu nhưng hắn không để ý tới ngươi, ta để ý, tới cùng là có chuyện gì?

- Là như thế này...

Lại uống một hơi cạn ly, Nặc Nhan Đạt Lạp đặt chung rượu lên bàn, hai mắt đỏ lên nhìn Thẩm Mặc, thấp giọng nói:
- Lúc trước khi rời khỏi thành Tế Nông, các bộ dân của ta hai tay không có gì, thậm chí ngay cả phần lương 10 ngày cũng không có, năm nay mùa đông lại đặc biệt lạnh. Ta hết sức lo lắng, không biết tình cảnh hiện tại của họ thế nào, muốn hỏi một chút.

- Vấn đề này ta có thể trả lời ngươi. - Thẩm Mặc gật đầu, nhỏ nhẹ nói: - Mặt Hoàng Hà đã đóng băng, có thể phi ngựa qua được, nhưng người bộ lạc của ngươi thủy chung không có qua sông, còn đang ở Sóc nội...

Rồi y nhìn Nặc Nhan Đạt Lạp nói:
- Ngươi cũng biết đây là vì sao mà?

- Tám phần mười là đám đệ đệ của ta không cho phép họ qua sông rồi. - Nặc Nhan Đạt Lạp chán nản nói: - Nếu là thường ngày thì họ mong sao có cơ hội chiếm đoạt chúng tôi, nhưng hiện tại đều coi tộc nhân của ta như là gánh nặng, dẫn theo chỉ sợ liên lụy đến mình.

- Không sai. - Thẩm Mặc gật đầu nói: - Chính là nguyên nhân này, căn cứ theo thám báo nói, bộ lạc của ngươi thiếu y thiếu dược, càng thiếu lương thực, từ lâu đã dựa vào giết ngựa mà sống rồi...

Người thảo nguyên ngay cả ngựa cũng không có thì chính là con sơn dương đợi làm thịt, cho nên không đến tình cảnh sơn cùng thủy tận lộ tuyệt, người Mông Cổ thà rằng bị đói cũng sẽ không ăn thịt ngựa.

- Chỉ sợ, ngay cả ngựa cũng bị ăn hết.

Trong bộ lạc có bao nhiêu cái miệng thì có bấy nhiêu con ngựa, có thể ăn đến khi nào, trong lòng Nặc Nhan Đạt Lạp biết rõ. Hắn tháo nón xuống, bi thương nói:
- Nếu như không phải là hết cách rồi, các tộc nhân của ta sẽ không ăn ngựa của mình đâu. Ta không thể nhìn họ đi chết được, đốc sư đại nhân, mặc dù yêu cầu này có hơi mạo muội, nhưng ta vẫn cả gan xin ngài suy nghĩ, có thể tiếp thu nội phụ (quy phụ triều đình) của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ chúng tôi hay không?

Vương Sùng Cổ đang gắp một viên thịt, nghe xong lời này tay hắn run run làm viên thịt rơi vào trong nồi. Mu bàn tay bị nước lẩu bắn lên đau đến nhăn cả đít lại. Trên mặt thì vẫn như không có việc gì, từ từ thu tay về.

- Nhưng ngài đừng hiểu lầm, Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ mà ta nói chỉ là Tế Nông bản bộ của ta.

Thấy Thẩm Mặc trầm mặc không nói, Nặc Nhan Đạt Lạp giải thích:
- Khi phụ hãn tại thế, toàn bộ hữu quân Mông Cổ 3 vạn hộ đều phải nghe Tế Nông, nhưng đám con trai vô năng của ta, ngay cả bọn đệ đệ của mình cũng khống chế không được.

************

Gió Bắc gào thét, bầu trời âm u như mực, gió tuyết lạnh lẽo và cát đá cuồn cuộn nổi lên vỗ vào nhà bạt cũ nát.

Những căn nhà bạt này đã hỏng be hỏng bét, mặc dù sửa chữa qua vô số lần nhưng khi bão tuyết vừa đến nhà bạt sẽ hở ra khắp nơi, tuyết cứ thế chui vào. Không ra khỏi cửa, rúc ở bên trong còn co được cổ, gập thắt lưng, ưỡn chút ngực. Phía sau thì như chạm phải một thanh dao lạnh lẽo.

Bên trong nhà bạt ánh sáng rất mờ, tràn ngập mùi hôi, mùi mốc, mùi nước tiểu. Người già trẻ lớn bé ngồi quây quanh chậu than dùng phân trâu ngựa trộn với cỏ khô thành sưởi ấm, phân trâu ngựa tươi sau khi khô dùng để đốt thời gian cũng dài, nhiệt lượng cũng mạnh. Nhưng trong quá trình đốt sẽ sinh ra mùi khó ngửi, khiến người choáng đầu, mê man.

Mỗi người quây quanh lò đều như ăn mày, toàn thân rách nát, tả tơi không chịu nổi. Ngay cả hai con trai của Nặc Nhan Đạt Lạp, đầu lĩnh Tế Nông bản bộ hiện giờ cũng không ngoại lệ. Trên đầu Triết Hách còn mang theo vết thương khi thủ thành chưa lành. Hắn bị đá văng làm rách da đầu, dùng băng vải bẩn quấn lấy, không chết đã là vạn hạnh rồi. Biệt Hách ăn mặc xem như là chỉnh tề nhất, nhưng tay áo bông lù xù mấy sợi bông rách, chiếc quần da bằng lông cừu đen dính vụn cỏ lộ ra theo miếng rách. Tất cả có thể nói rõ tình cảnh mấy tháng gần đây của họ.

Trên chậu than đang đun thịt ngựa, bọt sủi bốc lên mùi tanh tưởi khiến người khác ăn không vô, nhưng loại nước trắng đun thịt ngựa lại là vật cứu mệnh của Ngạc Nhĩ Đa Tư Tế Nông bộ.

Đợi thịt ngựa nấu chín rồi, một phụ nhân Mông Cổ múc thịt ra, trước tiên múc cho nhị vị Đài cát hai chén. Thấy thịt ngựa trắng bệch, Triết Hách nhíu mày nói:
- Ngửi đã muốn nôn rồi, ta ăn không vô.

Biệt Hách lại cầm lấy một miếng thịt, cố cắn một miếng nói:
- Ăn không được cũng phải ăn, bằng không sẽ bị đói.

- Chết đói cũng không ăn thịt ngựa. - Triết Hách gắt gỏng: - Ngựa là bạn của người thảo nguyên chúng ta, ăn chúng rồi thì chúng ta lấy ngựa đâu mà chở?

Những lời này có lực sát thương rất lớn, người nào vốn có thể nuốt trôi, giờ thì ăn không nổi nữa.

- Sống sót là quan trọng nhất. - Biệt Hách cũng cảm giác không nuốt nổi, nhưng vẫn còn ép mình nuốt vào miếng thịt trong miệng, chán ngán nói: - Ngựa không có cỏ khô đã chịu không nổi cưỡi, sớm muộn gì cũng phải chết đói. Chúng ta chỉ có thể trước tiên bảo đảm các tộc nhân không đói bụng chết thôi.

- Chỉ dựa vào giết ngựa có thể giải quyết vấn đề sao? - Triết Hách hậm hực nói: - Mùa đông còn dài lắm, đợi ăn hết ngựa rồi thì chúng ta sống qua được hả?
Dừng một chút hắn lại nói:
- Nói xa một chút, cho dù sống qua thì đi thế nào? Đợi đến khi xuân ấm hoa nở, người Hán khẳng định sẽ càn quét. Đến lúc đó chúng ta không có ngựa, còn không phải cũng chờ nhận lấy cái chết?

Biệt Hách nhìn đệ đệ, rốt cuộc phát hiện ngày hôm nay kỳ thật là hắn đang nói bóng nói gió. Biệt Hách không khỏi sầm mặt nói:
- Rốt cuộc ngươi có ý gì? Nói những lời không may này có ích lợi gì?

- Nếu là thủ lĩnh thì phải có nghĩa vụ tìm một con đường sống cho chúng ta, mà không phải là rúc ở đây giết ngựa sống qua ngay. Đây không phải là biện pháp! - Triết Hách không khoan nhượng, lớn giọng nói.

Hai huynh đệ gây gổ với nhau, tất cả thân thuộc trong trướng đều nín hơi yên lặng nghe. Khi nghe được những lời này của Triết Hách, tâm tình tích tụ nhiều ngày nay bỗng như tìm được chỗ phát tiết, vì vậy họ đều nói theo:
- Đúng vậy Đài cát. Tiếp tục thế này không phải là cách đâu!

Thấy mình đã thành cái đích cho mọi người chỉ trích, Biệt Hách cố nén tức giận nói:
- Quả thật không phải là cách, nhưng còn có cách nào khác đâu?

- Người sống sẽ không bị mắc đái chết. Biện pháp luôn luôn có! - Triết Hách lớn tiếng nói: - Nếu như ngươi không nghĩ ra thì xin mời ngươi nhượng hiền, đừng chiếm lấy đồng cỏ không chăn thả, lại còn liên lụy đến các tộc nhân.

- Xem ra ngươi có biện pháp. - Biệt Hách giận quá hóa cười: - Không ngại nói ra để mọi người nghe thử xem! Nếu như có đạo lý thật thì ta sẽ nhượng hiền, thế nào?

Triết Hách vừa muốn bắt đầu thì lại nghe Biệt Hách bổ sung một câu:
- Nhưng không thể quy thuận Thổ Mặc Đặc bộ. Việc này tuyệt đối không thể thương lượng!

- Vì sao! - Triết Hách tức giận đến xì khói: - Lẽ nào một cái danh phận lại quan trọng đến thế? Có thể khiến ngươi không màng đến sống chết của tộc nhân?

- Ngươi đừng có mà tin lời của Bả Hán Na Cát.
Biệt Hách thấy quả nhiên đoán trúng tâm tư của đệ đệ, hắn khẽ nói:
- Hắn chỉ có cái miệng, tin hắn chúng ta sẽ bị hãm hại chết.
(3)

Chuyện này phải nói đến từ lúc trước Biệt Hách đi Hồi Hột cầu cứu binh, kết quả ngoại trừ Hoàng Đài Cát, đến Hà Sóc còn có Bả Hán Na Cát bảo bối tôn tử của Yêm Đáp... Ý của lão già lưu manh Yêm Đáp đó là lợi dụng lúc người ta gặp khó khăn mà ép cưới Chung Kim Biệt Cát, hoàn thành tâm nguyện của tôn nhi, cũng dễ bề thu Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ dắt lên lưng.

Ai ngờ đại quân còn chưa qua Hoàng Hà thì thành Tế Nông đã bị chiếm, Nặc Nhan Đạt Lạp cũng bị bắt làm tù binh. Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ bị cái vận rủi này đương nhiên là xấu chuyện đối với Thổ Mặc Đặc bộ vốn đồng khí liền nhánh. Nhưng đối với Bả Hán Na Cát thì dường như lại là một tin tức tốt... Một là, không có vướng bận của lão trượng nhân, tỷ lệ ôm được mỹ nhân tức thì tăng nhiều. Thứ hai, hắn thấy được cơ hội tốt đem Ngạc Nhĩ Đa Tư Tế Nông bộ làm của riêng.

Thật ra Nặc Nhan Đạt Lạp vừa chết, các con trai của Yêm Đáp liền có ý nghĩ chiếm đoạt các bộ của Ngạc Nhĩ Đa Tư, bất đắc dĩ thảo nguyên mấy năm liên tục đại hạn, khấu biên (cướp biên giới) lại liên tục chịu trở ngại, nuôi sống con dân cũng thành vấn đề lớn, thì làm sao dám tiếp nhận nhiều người hơn đến tranh thủy thảo chứ?

Đặc tính của dân tộc du mục đã quyết định họ cần diện tích mục trường lớn thì mới có thể duy trì sinh tồn cho bộ lạc. Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ bị đuổi ra khỏi Sóc nội hiện tại tụ tập ở trên bình nguyên hậu Sóc của Thổ Mặc Đặc bộ. Đợi đến khi mùa xuân mùa chăn thả vừa đến, khẳng định sẽ tranh cỏ tranh nước, cuối cùng ngay cả Thổ Mặc Đặc bộ cũng chịu liên lụy.

Cho nên trừ phi đoạt lại thành Đông Thắng để cho Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ trở về Sóc nội thảo nguyên chăn thả, bằng không Thổ Mặc Đặc bộ không dám nuốt họ vào. Vậy nên mặc dù trong các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư không ít lần phái người đi Hồi Hột, chủ động thỉnh cầu quy thuận nhưng Yêm Đáp kề cà không có trả lời thuyết phục. Cũng không nói có thể, cũng không nói không thể. Các con hắn tự nhiên vâng lão tử như như Thiên Lôi sai đâu đánh đó, cũng cự tuyệt lén liên lạc với các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư.

Chỉ một ngoại lệ, chính là Bả Hán Na Cát, vị Đại Thành Đài cát trẻ tuổi này không chỉ muốn cưới công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư làm vợ, còn muốn ăn luôn cả bộ lạc của nàng. Về phần mình có năng lực nuôi sống hơn 2 vạn người này hay không thì Bả Hán Na Cát không quá lo lắng. Hắn tin tưởng cho dù gia gia không đáp ứng, Y Khắc Cáp Truân, nãi nãi thương yêu hắn nhất cũng sẽ nghĩ biện pháp giúp hắn tìm được đồng cỏ.

Vị quý nhân trẻ tuổi từ nhỏ đã kiêu căng này hạ quyết tâm liền tìm Biệt Hách xưa nay có giao hảo, nói ra ý nghĩ của mình.

Biệt Hách thường xuyên qua lại Hồi Hột nên biết rõ nội tình. Hắn biết rõ Yêm Đáp sắp già rồi, mấy đường thúc của mình người nào cũng đang lén đoạt địa bàn, chỉ lo cha già vừa chết mình sẽ chiếm không được nhiều mục trường. Dưới bối cảnh này, Bả Hán Na Cát chỉ có mấy trăm mẫu đồng cỏ, trên dưới một trăm dân, mà dám có chủ ý tới hai ba vạn nhân khẩu của họ, thật không biết nên nói hắn to gan lớn mật hay là si tâm vọng tưởng.

Trong lúc bó tay hết cách, Biệt Hách thà rằng cái gì cũng không làm cũng sẽ không đồng ý đề nghị không phụ trách nhiệm của Bả Hán Na Cát. Sau đó hắn nói chuyện này cho muội muội, Chung Kim cũng kiên quyết không đồng ý. Vì vậy hai huynh muội quyết định từ chối Bả Hán Na Cát.

Từ sau đó Bả Hán Na Cát không đề cập qua chuyện này nữa, Biệt Hách còn tưởng rằng hắn bỏ ý định rồi chứ.

***************

Hiện tại mới biết, Bả Hán Na Cát cũng không phải bỏ ý định, mà là du thuyết đệ đệ Triết Hách của Biệt Hách. Dưới giáp công của tiền cảnh tốt đẹp hắn miêu tả cùng với hiện thực tàn khốc, một kẻ tay chân phát triển, đầu óc đơn giản như Triết Hách, lại thêm đầu vừa mới bị va đập mạnh quả nhiên vào tròng. Vì thế hắn không tiếc phản bội thân ca ca của mình.

- Đến bây giờ thì mọi người cũng chỉ có thể tin tưởng ta thôi!

Hai huynh đệ đang trợn mắt với nhau thì rèm cửa bị hai người vạm vỡ xốc lên, Bả Hán Na Cát trong bộ da cừu lộng lẫy hăm hở lớn tiếng nói:
- Dù gì cũng tốt hơn ngồi chờ chết đúng không.

Nhưng rất nhanh hắn ngửi được mùi khó ngửi, hắn dùng tay phải đeo bao tay da trâu che mũi, trong lòng mắng thầm: "Còn thối hơn cả chuồng dê."

Trong lều mọi người bởi vì cực độ thất vọng đối với hiện trạng, vốn phần lớn phản đối Biệt Hách, nhưng sau khi thấy Bả Hán Na Cát thì tất cả đều cúi đầu không nói...Nói như thế nào thì họ cũng là bản bộ của Mông Cổ Tế Nông. Hiện tại lại cần một tiểu tử không có râu mép che chở, nhân tình này đâu thể tiếp nhận được.

Triết Hách lại cảm giác có chỗ dựa vững chắc, hắn càng lớn tiếng nói:
- Đại ca, nhanh đáp ứng đi, thừa lúc các tộc nhân còn có thể động, chúng ta phải mau chóng xuất phát đi Thổ Mặc Xuyên.

Trước mặt nhiều người như vậy, Biệt Hách không thể làm Bả Hán Na Cát mất hết thể diện, dù cho tương lai sẽ thế nào hắn cũng không tiện nói, không thể đắc tội với đứa con mà Yêm Đáp sủng ái nhất. Hắn liền cười nói với Bả Hán Na Cát:
- Bộ lạc khác đầu trốn tránh chúng tôi, chỉ có Đại Thành Đài Cát thì nhiệt tình như xưa. Nếu như Biệt Hách còn không cảm động thì tệ quá rồi.

Nghe hắn nói như thế Bả Hán Na Cát mặt mày rạng rỡ nói:
- Không dám không dám, chờ ta thành thân với Chung Kim rồi, chúng ta chính là người một nhà mà.

- Nói đến Chung Kim...
Biệt Hách thoáng dừng lại, mỉm cười nói:
- Nó đi tìm sư phụ nó cầu viện rồi, trước khi đi nói với ta, Đại Thành Đài Cát đã đồng ý, trước khi nó trở về sẽ không nhắc lại việc quy thuận.

Bả Hán Na Cát nghe vậy thì đỏ mặt, không nghĩ tới Chung Kim lại đem chuyện mình đã thuận miệng đáp ứng nói cho đại cữu ca rồi:
- Ta vốn đâu có muốn nhắc tới, chỉ là trùng hợp đi ngang qua nên vào nói vài câu.

Hắ ngượng ngùng nói:
- Cứ coi ta chưa nói qua, coi ta chưa từng tới đây là được rồi.

Nói xong hắn liền rời khỏi căn nhà bốc mùi khó ngửi.

Xem ra dù cái khác là giả, nhưng cảm tình của tiểu tử này đối với Chung Kim là thật. Biệt Hách cũng không ngờ được lời của muội muội lại có tác dụng với Bả Hán Na Cát như vậy, hắn không khỏi giảm đi chút địch ý với tiểu tử này.

- Nhưng mà.
Cảm thấy đồng ý đi như thế thì mất mặt quá, Bả Hán Na Cát dừng bước trước cửa trướng, quay đầu lại nói:
- Nếu như Chung Kim một tháng không trở lại, lẽ nào chúng tôi ở chỗ này đợi một tháng?

- Không quản thành hay không, trong một tháng khẳng định sẽ có tin tức. - Biệt Hách thản nhiên nói: - Đến lúc đó chắc chắn sẽ cho Đài cát một câu trả lời.

- Được, một lời đã định! - Bả Hán Na Cát nhìn Biệt Hách nói.

- Một lời đã định! - Biệt Hách gật đầu.

********

Cùng lúc đó, Thiểm Tây Du Lâm bảo, trong noãn thính, hành dinh của tam biên tổng đốc.

Cố lấy dũng khí nói xong câu đó, Nặc Nhan Đạt Lạp thấy Thẩm các lão vẫn cúi đầu ăn thịt dê, không có mở miệng trả lời. Vương Sùng Cổ bên kia thì nghiêm mặt nói:
- Người Mông Cổ từ trước đến nay thay đổi thất thường, sao chúng tôi biết được qua mùa đông này các ngươi có thể phản loạn nữa hay không?

- Người Mông Cổ chúng tôi nói tín nghĩa nhất. - Nặc Nhan Đạt Lạp rất không vui với lời đánh giá của Vương tổng đốc, hậm hực nói: - Chỉ cần người Hán các ngươi đối đãi với chúng tôi sáu phần, chúng tôi sẽ trả lại các ngươi mười phần.
Dừng một chút hắn mới nói:
- Nếu như ngươi không tin thì ta có thể phát thệ với Trường Sinh Thiên. (Thần tối cao của người Mông Cổ)

- Cho dù ngươi có cái tâm này, nhưng ngươi có thể thuyết phục tộc nhân của ngươi sao? - Vương Sùng Cổ cười lạnh nói: - Khói thuốc súng trận chiến Đông Thắng vừa mới đi, người các ngươi chết cũng không ít.

Nỗi đau tận đáy lòng bị Vương Sùng Cổ khơi dậy, Nặc Nhan Đạt Lạp chán nản nói:
- Đúng vậy, người chết không ít.

Rồi hắn chuyển đề tài, chậm rãi nói:
- Nhưng chỉ có lần thành phá nhân vong này khiến ta cảm nhận được nỗi đau khổ của người Hán khi bị chúng tôi cướp bóc... Bạo lực không phải là thứ tốt, nó chỉ mang đến tử vong và hủy diệt, khiến người rơi vào nỗi đau đớn dài lâu. Cho nên cho dù chiến tranh có tốt cũng không bằng hòa bình xấu nhất...

Chuyện này phải nói đến từ lúc trước Biệt Hách đi Hồi Hột cầu cứu binh, kết quả ngoại trừ Hoàng Đài Cát, đến Hà Sóc còn có Bả Hán Na Cát bảo bối tôn tử của Yêm Đáp... Ý của lão già lưu manh Yêm Đáp đó là lợi dụng lúc người ta gặp khó khăn mà ép cưới Chung Kim Biệt Cát, hoàn thành tâm nguyện của tôn nhi, cũng dễ bề thu Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ dắt lên lưng.

Ai ngờ đại quân còn chưa qua Hoàng Hà thì thành Tế Nông đã bị chiếm, Nặc Nhan Đạt Lạp cũng bị bắt làm tù binh. Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ bị cái vận rủi này đương nhiên là xấu chuyện đối với Thổ Mặc Đặc bộ vốn đồng khí liền nhánh. Nhưng đối với Bả Hán Na Cát thì dường như lại là một tin tức tốt... Một là, không có vướng bận của lão trượng nhân, tỷ lệ ôm được mỹ nhân tức thì tăng nhiều. Thứ hai, hắn thấy được cơ hội tốt đem Ngạc Nhĩ Đa Tư Tế Nông bộ làm của riêng.

Thật ra Nặc Nhan Đạt Lạp vừa chết, các con trai của Yêm Đáp liền có ý nghĩ chiếm đoạt các bộ của Ngạc Nhĩ Đa Tư, bất đắc dĩ thảo nguyên mấy năm liên tục đại hạn, khấu biên (cướp biên giới) lại liên tục chịu trở ngại, nuôi sống con dân cũng thành vấn đề lớn, thì làm sao dám tiếp nhận nhiều người hơn đến tranh thủy thảo chứ?

Đặc tính của dân tộc du mục đã quyết định họ cần diện tích mục trường lớn thì mới có thể duy trì sinh tồn cho bộ lạc. Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ bị đuổi ra khỏi Sóc nội hiện tại tụ tập ở trên bình nguyên hậu Sóc của Thổ Mặc Đặc bộ. Đợi đến khi mùa xuân mùa chăn thả vừa đến, khẳng định sẽ tranh cỏ tranh nước, cuối cùng ngay cả Thổ Mặc Đặc bộ cũng chịu liên lụy.

Cho nên trừ phi đoạt lại thành Đông Thắng để cho Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ trở về Sóc nội thảo nguyên chăn thả, bằng không Thổ Mặc Đặc bộ không dám nuốt họ vào. Vậy nên mặc dù trong các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư không ít lần phái người đi Hồi Hột, chủ động thỉnh cầu quy thuận nhưng Yêm Đáp kề cà không có trả lời thuyết phục. Cũng không nói có thể, cũng không nói không thể. Các con hắn tự nhiên vâng lão tử như như Thiên Lôi sai đâu đánh đó, cũng cự tuyệt lén liên lạc với các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư.

Chỉ một ngoại lệ, chính là Bả Hán Na Cát, vị Đại Thành Đài cát trẻ tuổi này không chỉ muốn cưới công chúa của Ngạc Nhĩ Đa Tư làm vợ, còn muốn ăn luôn cả bộ lạc của nàng. Về phần mình có năng lực nuôi sống hơn 2 vạn người này hay không thì Bả Hán Na Cát không quá lo lắng. Hắn tin tưởng cho dù gia gia không đáp ứng, Y Khắc Cáp Truân, nãi nãi thương yêu hắn nhất cũng sẽ nghĩ biện pháp giúp hắn tìm được đồng cỏ.

Vị quý nhân trẻ tuổi từ nhỏ đã kiêu căng này hạ quyết tâm liền tìm Biệt Hách xưa nay có giao hảo, nói ra ý nghĩ của mình.

Biệt Hách thường xuyên qua lại Hồi Hột nên biết rõ nội tình. Hắn biết rõ Yêm Đáp sắp già rồi, mấy đường thúc của mình người nào cũng đang lén đoạt địa bàn, chỉ lo cha già vừa chết mình sẽ chiếm không được nhiều mục trường. Dưới bối cảnh này, Bả Hán Na Cát chỉ có mấy trăm mẫu đồng cỏ, trên dưới một trăm dân, mà dám có chủ ý tới hai ba vạn nhân khẩu của họ, thật không biết nên nói hắn to gan lớn mật hay là si tâm vọng tưởng.

Trong lúc bó tay hết cách, Biệt Hách thà rằng cái gì cũng không làm cũng sẽ không đồng ý đề nghị không phụ trách nhiệm của Bả Hán Na Cát. Sau đó hắn nói chuyện này cho muội muội, Chung Kim cũng kiên quyết không đồng ý. Vì vậy hai huynh muội quyết định từ chối Bả Hán Na Cát.

Từ sau đó Bả Hán Na Cát không đề cập qua chuyện này nữa, Biệt Hách còn tưởng rằng hắn bỏ ý định rồi chứ.

***************

Hiện tại mới biết, Bả Hán Na Cát cũng không phải bỏ ý định, mà là du thuyết đệ đệ Triết Hách của Biệt Hách. Dưới giáp công của tiền cảnh tốt đẹp hắn miêu tả cùng với hiện thực tàn khốc, một kẻ tay chân phát triển, đầu óc đơn giản như Triết Hách, lại thêm đầu vừa mới bị va đập mạnh quả nhiên vào tròng. Vì thế hắn không tiếc phản bội thân ca ca của mình.

- Đến bây giờ thì mọi người cũng chỉ có thể tin tưởng ta thôi!

Hai huynh đệ đang trợn mắt với nhau thì rèm cửa bị hai người vạm vỡ xốc lên, Bả Hán Na Cát trong bộ da cừu lộng lẫy hăm hở lớn tiếng nói:
- Dù gì cũng tốt hơn ngồi chờ chết đúng không.

Nhưng rất nhanh hắn ngửi được mùi khó ngửi, hắn dùng tay phải đeo bao tay da trâu che mũi, trong lòng mắng thầm: "Còn thối hơn cả chuồng dê."

Trong lều mọi người bởi vì cực độ thất vọng đối với hiện trạng, vốn phần lớn phản đối Biệt Hách, nhưng sau khi thấy Bả Hán Na Cát thì tất cả đều cúi đầu không nói...Nói như thế nào thì họ cũng là bản bộ của Mông Cổ Tế Nông. Hiện tại lại cần một tiểu tử không có râu mép che chở, nhân tình này đâu thể tiếp nhận được.

Triết Hách lại cảm giác có chỗ dựa vững chắc, hắn càng lớn tiếng nói:
- Đại ca, nhanh đáp ứng đi, thừa lúc các tộc nhân còn có thể động, chúng ta phải mau chóng xuất phát đi Thổ Mặc Xuyên.

Trước mặt nhiều người như vậy, Biệt Hách không thể làm Bả Hán Na Cát mất hết thể diện, dù cho tương lai sẽ thế nào hắn cũng không tiện nói, không thể đắc tội với đứa con mà Yêm Đáp sủng ái nhất. Hắn liền cười nói với Bả Hán Na Cát:
- Bộ lạc khác đầu trốn tránh chúng tôi, chỉ có Đại Thành Đài Cát thì nhiệt tình như xưa. Nếu như Biệt Hách còn không cảm động thì tệ quá rồi.

Nghe hắn nói như thế Bả Hán Na Cát mặt mày rạng rỡ nói:
- Không dám không dám, chờ ta thành thân với Chung Kim rồi, chúng ta chính là người một nhà mà.

- Nói đến Chung Kim...
Biệt Hách thoáng dừng lại, mỉm cười nói:
- Nó đi tìm sư phụ nó cầu viện rồi, trước khi đi nói với ta, Đại Thành Đài Cát đã đồng ý, trước khi nó trở về sẽ không nhắc lại việc quy thuận.

Bả Hán Na Cát nghe vậy thì đỏ mặt, không nghĩ tới Chung Kim lại đem chuyện mình đã thuận miệng đáp ứng nói cho đại cữu ca rồi:
- Ta vốn đâu có muốn nhắc tới, chỉ là trùng hợp đi ngang qua nên vào nói vài câu.

Hắ ngượng ngùng nói:
- Cứ coi ta chưa nói qua, coi ta chưa từng tới đây là được rồi.

Nói xong hắn liền rời khỏi căn nhà bốc mùi khó ngửi.

Xem ra dù cái khác là giả, nhưng cảm tình của tiểu tử này đối với Chung Kim là thật. Biệt Hách cũng không ngờ được lời của muội muội lại có tác dụng với Bả Hán Na Cát như vậy, hắn không khỏi giảm đi chút địch ý với tiểu tử này.

- Nhưng mà.
Cảm thấy đồng ý đi như thế thì mất mặt quá, Bả Hán Na Cát dừng bước trước cửa trướng, quay đầu lại nói:
- Nếu như Chung Kim một tháng không trở lại, lẽ nào chúng tôi ở chỗ này đợi một tháng?

- Không quản thành hay không, trong một tháng khẳng định sẽ có tin tức. - Biệt Hách thản nhiên nói: - Đến lúc đó chắc chắn sẽ cho Đài cát một câu trả lời.

- Được, một lời đã định! - Bả Hán Na Cát nhìn Biệt Hách nói.

- Một lời đã định! - Biệt Hách gật đầu.

********

Cùng lúc đó, Thiểm Tây Du Lâm bảo, trong noãn thính, hành dinh của tam biên tổng đốc.

Cố lấy dũng khí nói xong câu đó, Nặc Nhan Đạt Lạp thấy Thẩm các lão vẫn cúi đầu ăn thịt dê, không có mở miệng trả lời. Vương Sùng Cổ bên kia thì nghiêm mặt nói:
- Người Mông Cổ từ trước đến nay thay đổi thất thường, sao chúng tôi biết được qua mùa đông này các ngươi có thể phản loạn nữa hay không?

- Người Mông Cổ chúng tôi nói tín nghĩa nhất. - Nặc Nhan Đạt Lạp rất không vui với lời đánh giá của Vương tổng đốc, hậm hực nói: - Chỉ cần người Hán các ngươi đối đãi với chúng tôi sáu phần, chúng tôi sẽ trả lại các ngươi mười phần.
Dừng một chút hắn mới nói:
- Nếu như ngươi không tin thì ta có thể phát thệ với Trường Sinh Thiên. (Thần tối cao của người Mông Cổ)

- Cho dù ngươi có cái tâm này, nhưng ngươi có thể thuyết phục tộc nhân của ngươi sao? - Vương Sùng Cổ cười lạnh nói: - Khói thuốc súng trận chiến Đông Thắng vừa mới đi, người các ngươi chết cũng không ít.

Nỗi đau tận đáy lòng bị Vương Sùng Cổ khơi dậy, Nặc Nhan Đạt Lạp chán nản nói:
- Đúng vậy, người chết không ít.

Rồi hắn chuyển đề tài, chậm rãi nói:
- Nhưng chỉ có lần thành phá nhân vong này khiến ta cảm nhận được nỗi đau khổ của người Hán khi bị chúng tôi cướp bóc... Bạo lực không phải là thứ tốt, nó chỉ mang đến tử vong và hủy diệt, khiến người rơi vào nỗi đau đớn dài lâu. Cho nên cho dù chiến tranh có tốt cũng không bằng hòa bình xấu nhất...

Nghe xong lời này Thẩm Mặc ngẩng đầu lên nhìn Nặc Nhan Đạt Lạp một cái, thầm nghĩ theo tin tức đây là một vương công Mông Cổ có văn thanh khí chất. Xem ra quả nhiên không giả. Không ngờ bị một trận thảm bại lại nêu ra được hòa bình chủ nghĩa tiêu cực. Tuy nhiên y vẫn rất tôn trọng người có cách nghĩ như vậy, bởi vì không quản thế nào, người theo đuổi hòa bình đều tỏa ra quang huy nhân tính.

- Cho dù chiến tranh có tốt cũng không bằng hòa bình xấu nhất. Lời này nói rất hay. - Thẩm Mặc đặt đũa xuống, dùng khăn trắng lau khóe miệng rồi nói: - Nhưng ta muốn bổ sung một câu, nếu như trả giá của đạt được hòa bình sẽ tạo thành chiến tranh tiếp theo càng thảm liệt hơn, vậy hòa bình giả tạo này còn không bằng một trận đại chiến thắng lợi!

Nặc Nhan Đạt Lạp không khỏi có cách nhìn khác về Thẩm Mặc:
- Tể tướng chính là tể tướng! Người Hán có câu nói rất đúng "Bất mưu vạn thế giả, bất túc mưu nhất thời." Rất nhiều đại quan Minh triều trước ngài luôn luôn chỉ nhìn nhất thời, không mưu vạn thế, cho nên ngay cả nhất thời cũng làm không tốt.
Nói đoạn hắn thở dài:
- Tuy nhiên cũng không thể trách bọn họ, Mông Hán là kẻ thù truyền kiếp 300 năm, đánh nhiều năm như vậy, há có thể nói dừng là dừng được... Cho dù nhất thời có thể dừng lại, nhưng tương lai nói không chừng lúc nào, bởi vì một chuyện nào đó mà lại đánh trở lại.

Thẩm Mặc châm rượu cho Nặc Nhan Đạt Lạp, phát hiện Đỗ Khang đã hết rồi, y liền mở ra một lọ Tây Phượng, nói:
- Ngươi nghĩ tới hay chưa, căn nguyên tạo thành loại hiện tượng này là ở đâu?

Dừng lại một chút y lại nói:
- Hoặc là nói, người Mông Cổ các ngươi vì sao cứ phải đánh người Hán chúng tôi?

Vì sao dân tộc du mục một khi thực lực cường đại thì sẽ nhiều lần xâm lược ra phía ngoài?

Từ trước đến nay mọi người có rất nhiều giải thích. Xuất phát từ tính tình, sẽ nói bởi vì họ trời sinh hiếu chiến, dã man, tàn nhẫn, thích cướp đoạt; Xuất phát từ kinh tế, nói du mục kinh tế lạc hậu, năng lực kháng cự thiên tai thấp, đành phải dựa vào cướp đoạt của dân tộc nông nghiệp để bổ sung cho mình.

Những điều này mọi người đều biết, Nặc Nhan Đạt Lạp tự nhiên có thể nói ra, nhưng Thẩm Mặc nói cho hắn, thật ra còn có nguyên nhân thâm tầng hơn, đó chính là yêu cầu duy trì thống nhất.

Khi nhân loại còn lạc trong thời đại mông muội, không có dân tộc nào mà không muốn mở rộng cùng xâm lược, bởi vì ngươi không đi chinh phục người khác thì sẽ bị người khác chinh phục... Kỳ thật dù cho đến thời đại văn minh, người không biết tiến thủ vẫn sẽ nhận được nghiêm phạt của thời đại, mạnh hiếp yếu nó tồn tại mãi mãi, đồng thời theo đó nó đưa nhân loại đến diệt vong.

Đối với dân tộc thảo nguyên thì pháp tắc này càng chí cao vô thượng. Bởi vì các bộ lạc thật sự nhỏ yếu, nhân khẩu rất thưa thớt, sản xuất lạc hậu. Họ vì bảo hộ bản thân nên đành phải chinh phạt lẫn nhau, tìm kiếm thống nhất, nhưng sau khi thống nhất họ lại không có đủ đầu tư để duy trì loại thống nhất về cơ sở kinh tế nông nghiệp văn minh mà yêu cầu nhân lực đại quy mô này. Hơn nữa cố định dân chúng tại thổ địa, nhưng kinh tế du mục chỉ cần duy trì quần thể chăn nuôi mấy trăm người là đã đủ để tự lập, vả lại cư trú theo đồng cỏ và nguồn nước, giữa các bộ lạc cách xa nhau tới mấy trăm dặm, tường an vô sự, tự nhiên sẽ khuyết thiếu lực ngưng tụ.

Như vậy, làm sao duy trì một đế quốc du mục thống nhất chứ? Chính là phải đưa ra một lý do phải đoàn kết cùng một chỗ.

Lý do dễ dàng tìm được nhất đó là chiến tranh, không ngừng mà phát động chiến tranh... Người Hung Nô, người Đột Quyết ai cũng như vậy. Mông Cổ thì dưới sự kiến tạo của Thành Cát Tư Hãn đã trở thành quần thể chiến tranh thuần túy nhất. So với người Hung Nô gặp phải Đại Hán, người Đột Quyết gặp phải Đại Đường, vận khí của Thiết Mộc Chân thật sự rất tốt, không ngờ đả biến thiên hạ vô địch thủ, chưa từng có một quốc gia có thể giằng co thời gian dài cùng hắn, do đó đã nghênh đón thời đại hoàng kim của đế quốc du mục, thành lập một đế quốc vô địch vượt qua cả Á Âu.

Sau đó người Mông Cổ cũng không tìm được kẻ khiêu chiến nữa, đành phải đao thương nhập khố, mã phóng Nam Sơn, sau đó lấy tốc độ chia rẽ rơi xuống còn nhanh hơn quật khởi, đế quốc chỉ còn là ánh tà dương, dư huy thảm đạm...

Cho nên không có chiến tranh, quốc gia du mục sẽ rơi vào chia rẽ, đây đã thành chân lý khắc sâu trong đầu người Mông Cổ. Cho nên bất kể là Dã Tiên hay là Đạt Duyên Hãn, những người cầm đầu hùng tài vĩ lược thống nhất các bộ Mông Cổ này đều cũng như Thành Cát Tư Hãn, khi về tới Mông Cổ quật khởi, không ngừng phát động chiến tranh, ý đồ khôi phục vinh quang năm xưa.

Nhưng thời đại hoàng kim của dân tộc thảo nguyên đã qua, tộc nhân Mông Cổ từ lâu đã chia tách thành Thát Đát và Ngoã Lạt lưỡng bộ, đây đó chinh phạt nhau hơn 100 năm, cừu hận với nhau thậm chí đã vượt qua cả căm thù đối với Minh triều. Bọn họ cũng không có may mắn như Thành Cát Tư Hãn, vượt qua Tống Kim giằng co, địch nhân của họ Minh vương triều đã phủ định cố quốc Mông Nguyên của họ thành lập mà thành, từ ngày thành lập vuỗn luôn coi họ là sinh tử đại địch.

Hơn nữa Minh triều kiến quốc hai trăm năm, thủy chung không có gặp phải địch nhân cường đại thứ hai, cho nên có thể điều động lực lượng toàn quốc giằng co cùng địch nhân duy nhất này, thậm chí ngay cả thủ đô cũng đến Bắc Kinh, lấy thiên tử thủ biên giới, để củng cố phòng tuyến biên cương.

Nội ngoại hoàn cảnh như vậy, bất kể lịch đại đại Hãn nỗ lực thế nào, Mông Cổ cũng không thể khôi phục cường thịnh như ngày xưa, họ cũng đã không có vận khí như tổ tiên, nhiều lần phát động chiến tranh cùng Minh triều, những gì đạt được chẳng qua cũng là lấy công làm thủ, bảo tồn sinh tồn quốc gia mà thôi...

****************

- Cho nên cũng là chiến tranh, tổ tiên Thành Cát Tư Hãn của các ngươi có thể dùng vài chục năm thời gian quét ngang Âu Á, mà hiện tại các ngươi thì sao, càng đánh càng nghèo, càng đánh nhân khẩu càng ít.

Bình Tây Phượng thứ hai cũng đã thấy đáy, Thẩm Mặc lại mở bình thứ ba, châm cho Nặc Nhan Đạt Lạp rồi nói:
- Thế dịch thời di, chiến tranh đã không còn là linh đan diệu dược để người Mông Cổ các ngươi gắn bó thống nhất nữa, đã đến lúc đi tìm kiếm con đường mới rồi.

Nặc Nhan Đạt Lạp cúi đầu, mặt đỏ lừ, ánh mắt lại mê ly nói:
- Con đường mới, có thể tìm được sao?

- Có thể. - Thẩm Mặc trịnh trọng gật đầu.

Nặc Nhan Đạt Lạp ngẩng đầu lên nhìn Thẩm Mặc.

- Bây giờ ta vẫn chưa thể nói rõ với ngươi. - Thẩm Mặc đưa ra một nút thắt: - Gần đây có một vị khách nhân tôn quý muốn đến Du Lâm, đến lúc đó Tế Nông không ngại gặp thử xem, có lẽ nghĩ ra được gì đó cũng không chừng.

Thấy Thẩm Mặc không muốn tiết lộ, Nặc Nhan Đạt Lạp đành phải áp chế lại nghi vấn, uống cùng Thẩm Mặc một lúc nữa. Khi sắp tan tiệc, hắn mới nhịn không được lại nói:
- Đốc sư đại nhân chẳng qua lo lắng các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư sẽ hàng rồi tạo phản lại. Nặc Nhan Đạt Lạp ta quản không được các bộ lạc khác, nhưng có thể bảo đảm các tộc nhân của ta vĩnh viễn quy thuận Đại Minh, làm con dân Vương hóa...

Dừng một chút hắn cắn răng nói:
- Vì biểu đạt thành tâm, ta có thể vĩnh viễn không trở về thảo nguyên, cũng đời đời đưa con cháu đến Bắc Kinh làm con tin.
Rồi hắn quỳ xuống trước mặt Thẩm Mặc, nghẹn ngào nói:
- Nhưng xin Đại Minh phải cứu các tộc nhân của ta, họ đã không đợi được nữa rồi...

- Ài, mau đứng lên mau đứng lên! - Thẩm Mặc đỡ bờ vai của hắn nói: - Đại Minh ta rộng rãi bao la, nếu Tế Nông đồng ý quy thuận, đương nhiên không có đạo lý cự tuyệt rồi.
Đoạn y khẽ than một tiếng nói:
- Nhưng hiện tại ngươi không có trong bộ lạc, làm sao ra lệnh chứ?

- Ta có thể viết thơ cho nhi tử của ta, sau khi nó thấy thư nhất định sẽ dẫn mọi người tới. - Nặc Nhan Đạt Lạp lấy ra một bức thư đã viết sẵn từ trong người: - Xin đưa nó cho trưởng tử Biệt Hách của ta, nó nhất định sẽ nghe theo.

- Ừm.
Thẩm Mặc gật đầu, ôn hòa nói:
- Chỉ cần bọn họ phối hợp, Đại Minh sẽ không để tộc nhân của ngươi bị chết đói.

- Đa tạ đốc sư khoan dung độ lượng. - Nhận được Thẩm Mặc hứa hẹn, Nặc Nhan Đạt Lạp rốt cuộc thở phào nhẹ nhõm.

Sai người đưa Nặc Nhan Đạt Lạp đi, Vương Sùng Cổ bảo người thu dọn nồi, rồi thay bằng nước chè xanh tráng miệng.

Thẩm Mặc tay đang cầm ly trà, thoải mái dựa vào gối cười nói:
- Nặc Nhan Đạt Lạp này cũng là một đóa kỳ hoa, nếu các vương công Mông Cổ đều như hắn thì thiên hạ đã sớm thái bình rồi.

- Người như thế lực ảnh hưởng ở trong các bộ Mông Cổ đã định trước là hữu hạn, cho dù hắn thật sự dẫn người quy phụ, cũng ảnh hưởng không được các bộ lạc khác. - Vương Sùng Cổ ngạo nghễ nói: - Huống chi trước đây họ cũng không ít lần xâm phạm Cam Thiểm ta, lần này tại thành Tế Nông lại sát thương mấy nghìn tướng sĩ của ta, hiện tại bị buộc phải sơn cùng thủy tận, như chó nhà có tang thì mới nhớ tới quy thuận... Đại nhân lại đáp ứng dễ dàng như vậy, tiện nghi cho họ quá.

Theo Vương Sùng Cổ, triều đình không có lý do gì tiếp thu Nặc Nhan Đạt Lạp đầu hàng, ngược lại hẳn là tiến hành đả kích nghiêm khắc đối với bộ lạc của họ, để cho các thát tử minh bạch đối nghịch với Thiên triều là không có kết cục tốt!

- Giám Xuyên huynh cũng đừng xem thường Nặc Nhan Đạt Lạp, mặc dù thực lực của hắn không đủ, nhưng có thân phận Mông Cổ Tế Nông, thậm chí còn tôn quý hơn cả Yêm Đáp.

- Một vương công "không có ống"* mà thôi. - Vương Sùng Cổ bĩu môi nói: - Coi như là Tế Nông thì sao? Còn không phải cũng tôn kính Yêm Đáp.
(*ví mũi tên không có ống không bắn được)

- Ngươi không thể bởi vì thế mà phủ định tầm quan trọng của ngôi vị được. - Thẩm Mặc thản nhiên cười nói: - Nghĩ đến những năm cuối Đông Hán, Hán thất suy vi, chính lệnh của Hiến Đế không ra khỏi kinh thành, nhưng mà Tào Mạnh Đức có thể hiệp thiên tử dĩ lệnh chư hầu... Danh phận cho tới bây giờ đều là thứ tốt, chỉ xem ngươi có thực lực dùng nó hay không thôi.
Dừng lại một chút y mới tự tin nói:
- Lá đại kỳ Nặc Nhan Đạt Lạp này không những giúp chúng ta thu phục toàn bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ, thậm chí ngày sau kinh lược Mông Cổ, hắn cũng rất có chỗ dụng võ.

- Sợ là sợ, thát tử Mông Cổ nhân tâm không đủ xà nuốt tượng. Đến lúc đó vượt qua cửa ải khó khăn thì sẽ trở mặt.

Vương Sùng Cổ là một phái chủ chiến, hắn đại biểu cho ý nghĩ phổ biến hiện nay trong quân... Thừa dịp tình thế hiện nay đang tốt, triệt để đuổi người Mông Cổ ra khỏi Hà Sóc, hắn tự nhiên không thích thú với việc giảng hòa. Đương nhiên điều này cũng là bởi vì hắn thấy nhiều người Mông Cổ hàng rồi phản làm thí dụ, tự nhiên không tín nhiệm với đối phương.

- Lo lắng của Giám Xuyên huynh có đạo lý. - Thẩm Mặc gật đầu nói: - Sói thảo nguyên tham lam hung tàn, hàng rồi phản là chuyện thường, cho nên buộc họ đầu hàng chỉ là bước đầu tiên, kế tiếp phải xem chúng ta có bản lĩnh thuần hóa họ thành chó hay không, lại dùng xích xích lại, khiến cho họ vĩnh viễn không sinh loạn, mới có thể xem như là thành công!

- Thuần hóa sói thành chó? - Vương Sùng Cổ khó có thể tin nói: - Điều này khó khăn hơn Phục Sóc nhiều...

Sói và chó mặc dù là thân thích, có thể một là đồng bọn, một là địch nhân. Vương triều Trung Nguyên trên lịch sử phần lớn đã làm thử qua việc này. Như Hán triều hòa thân, Đường triều đối xử bình đẳng, Tống triều văn hóa đồng hóa. Làm tốt nhất là thuộc về Đường triều rồi. Tại thời kì thịnh Đường, Hán Di thân như một nhà, có rất nhiều danh thần lương tướng đều xuất thân từ hậu duệ du mục. Nhưng đây là trên cơ sở thành lập tại Đại Đường vương triều có quốc lực cường thịnh, hơn nữa một khi quốc lực chuyển suy, làm loạn trước tiên lại là những dị tộc nhân này. Thật sự khiến người khác đau lòng.

- Không thể vì chuyện nhỏ mà bỏ việc lớn, cũng không thể thả lỏng cảnh giác. - Thẩm Mặc lại tự tin nói: - Mặc dù hiện tại thực lực của chúng ta kém thịnh Đường, nhưng họ còn xa mới bằng người Đột Quyết lúc trước. Tổng kết được mất của tiền nhân, hành sự cẩn thận vẫn rất có triển vọng.

Vương Sùng Cổ nghe ra Thẩm Mặc đã sớm ứng phó sẵn tất cả rồi, hắn liền nghiêm mặt nói:
- Cũng muốn thỉnh giáo kế tuần lang của đại nhân.

- Kế này là tam quản tề hạ. - Thẩm Mặc gật đầu nói: - Một là đại bổng đi đầu. Hổ lang chính là hổ lang, chỉ khi ngươi mạnh hơn nó thì nó mới ngoan ngoãn làm theo ngươi an bài, bằng không nó muốn cái gì thì cứ đi cướp, đâu thể nói quy củ với người.

- Lời này rất phải. - Vương Sùng Cổ gật đầu nói: - Người Mông Cổ cả ngày kêu la, là bởi vì Đại Minh ta không cho phép khai biên hỗ thị, họ không mua được vật phẩm sinh hoạt nên mới xâm nhập cướp đoạt. Trên thực tế, trước đó không phải là không đáp ứng qua hỗ thị, nhưng mỗi lần khai thị, người Mông Cổ đều ỷ vào binh hùng tướng mạnh mà khi hành bá thị, giành giật ăn cướp, hỗ thị đương nhiên không mở được.

- Ừm. Cổ nhân nói 'Nước tuy lớn, hiếu chiến tất vong. Thiên hạ tuy an ổn, vong chiến tất nguy.' đây là lời vô lý không hợp logic.

Dưới tác dụng của cồn, một mặt khí phách dấu dưới nét ôn hòa của Thẩm Mặc đã hiển lộ ra đêm nay:
- Quốc gia không hiếu chiến tất nhiên vong chiến, thì giống Đại Minh chúng ta, may mà có người Mông Cổ quấy rầy cửu biên mới có thể sau 200 năm kiến quốc, quân lực mới miễn cưỡng dùng được. Ta rất là lo lắng, tương lai thực sự giải quyết vấn đề người Mông Cổ rồi, cửu biên bình yên, đao thương nhập khố, mã phóng Nam Sơn rồi, quân đội Đại Minh ta sẽ rơi xuống tình cảnh thế nào?

Vương Sùng Cổ nhìn Thẩm Mặc với ánh mắt phức tạp, cho tới nay, hắn đều khó có thể bày ra quan hệ đoan chính với vị 'lão đệ' ngày xưa này, chung quy hắn cảm thấy đối phương chẳng qua là vận khí tốt mới có thể trở thành thủ trưởng của mình. Nhưng sau khi tiếp xúc đoạn thời gian gần đây khiến hắn rốt cuộc minh bạch, bất kể là ánh mắt hay là lòng dạ, đối phương đều hơn xa mình... Giống như lần này, khi mình còn đang đắc chí vì chiến sự thuận lợi thì y lại nghĩ đến chiến hậu xử lý thế nào, thậm chí tương lai của quân đội Đại Minh. Xem ra khác biệt giữa mình và y thật là ở 'mưu một vực' cùng 'mưu toàn cục'. Ở trước mặt chênh lệch loại này, cái gì tuổi tác, tư lịch các loại thật bé nhỏ không đáng kể.

Mãi đến lúc này, Vương Sùng Cổ mới ngay ngắn bày ra vị trí của mình, không tự cho mình là là lão tư cách nữa, mà là cẩn trọng thực hiện chức trách thuộc hạ của mình.

************

- Một nước lớn phải hiếu chiến, phải có khí phách 'kẻ phạm cường Hán ta dù xa tất tru', phải kiên quyết đánh trả đối với bất luận sự khiêu khích nào! Bằng không chỉ có thể nuôi dưỡng kẻ lòng muông dạ thú, sẽ nhận lấy càng nhiều chiến tranh hơn nữa cho quốc gia.

Ánh mắt Thẩm Mặc lạnh lẽo, trong giọng nói tràn đầy khí phách:
- Thậm chí cho dù nước láng giềng cũng không dám sinh sự, cũng phải định kỳ phát động chiến tranh khống chế được để tôi luyện quân đội của mình, khiến cho họ đừng vong chiến, cũng để cho nước láng giềng thời khắc bảo trì kính nể.

Những lời này rất hợp với khẩu vị của Vương Sùng Cổ, hắn cười ha ha nói:
- Những lời thiết huyết thế này thì uống trà quá nhạt, phải dùng rượu!

Vì thế bỏ trà đi, Vương Sùng Cổ mở một vò 'Hoàng quế', châm cho Thẩm Mặc nói:
- Tuy nhiên hiếu chiến vong quốc, ví dụ cũng không ít.

- Hiếu chiến không phải là tội, then chốt là phải lượng sức mà làm.

Thẩm Mặc bưng lên chung rượu, hớp một ngụm rồi nói:
- Trận không thể đánh tất thua, cũng như trận không thể đánh sẽ thua lỗ. Cái trước sẽ tổn hại uy tín của triều đình, cái sau thì sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính, tiện đà gieo vạ lên đầu bách tính. Đều là căn nguyên họa quốc. Trước khi đánh một trận, nội các sẽ phân tích trạng thái của địch ta. Yêm Đáp già đi, các bộ sinh dị tâm, thảo nguyên lại liên tục 5 năm thiên tai, chính là thời khắc mệt mỏi khốn quẫn, hoàn toàn không có khí thế kiêu ngạo như năm rồi. Mà chúng ta chúng chí thành thành, tỉ mỉ chuẩn bị đã vài năm, danh tướng quân mạnh tập hợp, lại có thêm hỏa khí kiểu mới, đã giúp chúng ta có được năng lực chiến thắng kỵ binh thảo nguyên. Lúc này nếu như không chủ động đánh một trận, Thái tổ hoàng đế cũng phải tức giận mà đội mồ khỏi hoàng lăng.

- Ngoại trừ sẽ không thua, trận này còn sẽ không thua lỗ. - Thẩm Mặc cười nói: - Có thương nhân Sơn Tây cùng thương nhân Đông Nam nguyện ý trả tiền, có kẻ ngu mới không dám chơi thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 847: Lai khách


- Biểu hiện của Nặc Nhan Đạt Lạp ngươi cũng thấy đấy, mặc dù hắn hơi hèn nhát, nhưng là đại biểu cho tâm tính của người thảo nguyên. Họ là một dân tộc thờ phụng thực lực, nếu muốn khiến họ an tâm nghe lời ngươi an bài thì phải đánh cho họ phục trước.

Trong noãn thính, Thẩm Mặc nói cho Vương Sùng Cổ kế sách bình Mông của mình:
- Nhưng chỉ dựa vào vũ lực là không được, không thay đổi cách sống của người thảo nguyên, họ vẫn khó có thể khống chế, không thay đổi diện mạo bần cùng của họ, họ vẫn sẽ bí quá hoá liều, sa vào cường đạo, cho nên ta chuẩn bị hai dạng lễ vật khác tặng cho họ.

- Đại nhân nắm bắt rất sát vấn đề, nhưng không biết là hai dạng pháp bảo nào đây? - Vương Sùng Cổ hiếu kỳ hỏi.

- Một trong số đó, chính là mục đích mà các thương nhân tài trợ Phục Sóc. - Thẩm Mặc cười nói.

- Ngài nói là...lông cừu? - Vương Sùng Cổ sáng mắt ra.

- Không sai, chính là lông cừu. - Thẩm Mặc vuốt vê tấm thảm ngồi bằng lông cừu trong tay: - Đây là một thứ tốt, dùng để kéo tơ dệt ra đồ len dạ, nó có thị trường trong ngoài nước rất rộng. Mấy năm trước, không ít hương thân địa chủ phía nam thấy được điểm này nên đã thử làm chuồng nuôi cừu, nhưng đất lành cũng không phải cái gì cũng nuôi được. Cừu không quen khí hậu ở phía nam, chất lượng và sản lượng lông rất kém. Vì thế nên thôi.
Rồi y thản nhiên cười nói:
- Lúc trước ta bảo người nhắn với hắn, lẽ nào các ngươi không biết cố sự "Nam quất bắc chỉ" sao? cũng một đạo lý, cừu không thích hợp nuôi ở phía nam, nước ta đất rộng của nhiều, lẽ nào tìm không được nơi thích hợp để nuôi cừu?

- Sau đó khi họ nghe ngóng được, thì ra thảo nguyên tây bắc bất kể là khí hậu hay là thủy thổ đều rất thích hợp để chăn nuôi cừu. Huống hồ ở đây khí hậu lạnh cũng có thể nâng cao chất lượng xén lông cừu.

Thẩm Mặc thảnh thơi cười nói:
- Lúc này, các Tấn thương bỏ chủ ý tới ngành tơ dệt, bông vải, cũng bắt đầu tiến công vào ngành dệt len. Thế là song phương ăn nhịp với nhau, quyết định phương bắc bỏ tiền bỏ người, phía nam xuất kỹ thuật. Song phương hợp tác khai phá Hà Sóc, cho nên mới sẽ giựt giây khai chiến, chủ động cho triều đình vay tiền chiến tranh.

Y nói nghe thì đơn giản, kỳ thật ngẫm lại đủ biết phía sau chuyện này còn không biết có bao nhiêu báo giấy tuyên truyền oanh tạc, nhiều lần đại biểu đàm phán bàn bạc nữa.

Nhưng bất kể thế nào thì thương nhân xuất tiền, triều đình xuất binh đã trở thành sự thật rồi, ai cũng không thể đổi ý, chỉ có thể một đường đi đến cùng thôi.

- Nói đến nuôi cừu tự nhiên không có mục dân nào tốt hơn người Mông Cổ, cho nên sau khi khống chế Hà Sóc sẽ do Tấn thương phụ trách thuyết phục các bộ lạc Mông Cổ nuôi thả cừu trên diện tích lớn, mùa xuân cung cấp lương thực, công cụ cùng với vật tư sinh hoạt cần thiết cho họ. Đợi đến mùa hè thì sẽ lấy giá cả hợp lý thu mua lông cừu. Cứ như vậy sẽ giải quyết được vấn đề nguyên liệu của ngành dệt len. Thứ hai, có thể giải quyết vấn đề sinh kế cho người Mông Cổ, khiến họ có thể chuyên tâm chăn thả, không còn dựa vào cướp bóc mà sống nữa. Thứ ba sẽ khiến người Mông Cổ trên kinh tế phải dựa vào Đại Minh mà sống. Thật ra nó đều đáng tin hơn bất cứ loại quan hệ nào. Hơn nữa song phương theo như nhu cầu, đều có thể có lợi, hợp tác mới có thể lâu dài." - Thẩm Mặc ngồi trên kháng nói.

- Như vậy thậm chí có thể thay đổi phương thức sinh tồn của họ. - Vương Sùng Cổ sáng mắt lên: - Làm cho họ trở thành một bộ phận của kinh tế Đại Minh! Đến lúc đó cho dù vương công Mông Cổ muốn gây chuyện cũng chưa hẳn có nhiều mục dân đồng ý theo.

- Ai nói không phải đâu. - Thẩm Mặc gật đầu cười nói: - Hơn nữa nguồn lao động của ngành dệt len cần nhiều hơn so với nông nghiệp, có thể giúp Vương tổng đốc giải quyết vấn đề lưu dân làm phức tạp Cam Thiểm đã lâu.

- Xem ra chuyện này thuộc hạ còn phải ra sức ủng hộ rồi. - Vương Sùng Cổ chợt cao hứng nói.

Cái gọi là lưu dân, chính là bởi thổ địa sát nhập mà mất đi sản nghiệp, nông dân phá sản xa rời quê hương. Vấn đề sinh tồn của những người này đã thành nguy cơ, sức ăn mòn và thiệt hại của nó đối với sự thống trị trật tự của phong kiến khó mà tưởng tượng. Nói tổng thể thì nông dân Trung Quốc khá cần cù, nhưng nhát gan sợ phiền phức, lực nhẫn nại rất mạnh, nếu như không đến tình cảnh sơn cùng thủy tận, cùng đường bí lối, họ kiên quyết sẽ không chó cùng rứt giậu. Cho nên sự xuất hiện của rất nhiều lưu dân thường thường ý nghĩa vương triều này đã đến hồi chuông cảnh báo rồi.

Chu Nguyên Chương, lưu dân xuất hiện tại Nguyên mạt có nhận thức sâu sắc đối với việc này, cho nên sau khi ông ta thành lập bản triều từng tam lệnh ngũ thân rằng: 'Người làm ruộng sẽ theo số nam đinh mà phát ruộng đất. Để người ngheo cũng có tài sản, người giàu không được thôn tính. Nếu như kẻ thôn tính nhiều làm của mình khiến bần dân không có đất thì nghiêm trị không tha.' Đồng thời hạn lệnh vương công các đại thần, sơn trường thuỷ bộ điền địa của họ cũng phải cấp phát theo quy định, không được quá phận chiếm làm của mình. Thậm chí còn làm thiết bảng cửu điều thân giới công hầu, nghiêm cấm công thần cùng công hầu ỷ thế chiếm đoạt ruộng đất của quan dân.

Vì ngăn cản lưu dân sinh sôi tại Đại Minh, để nông dân an tâm trồng trọt, Chu Nguyên Chương còn chế định "chế độ lộ dẫn". Cái gọi là "Lộ dẫn" chính là giấy thông hành, cần phải xin của quan phủ địa phương. Không có lộ dẫn thì sẽ không thể tùy tiện rời bỏ ruộng đất, như vậy đã quản chế việc đi lại của nông dân trong vòng 100 dặm.

Nhưng mà sự tình lại bị phá hủy ở trong tay ông ta. Sự thương yêu của Chu Nguyên Chương đối với đám con cháu đã tạo nên số lượng tôn thất kinh khủng nhất trên đời. Đời sau của đám tôn thất này trên chính trị không thể xuất đầu, cũng chỉ có thể theo đuổi hưởng thụ xa xỉ, liền lợi dụng đặc quyền đối với bách tính và quan phủ địa phương, trắng trợn thôn tính ruộng đất. Tôn thất chiếm đoạt đất đai, tầng lớp đặc quyền khác tự nhiên đều làm theo, văn võ huân quý, ngoại thích thái giám, thân hào quan lại, không ai nhường ai chiếm đoạt của bách tính. Kết quả của nó là... Căn cứ vào Ngư Lân sách (một loại sách đăng ký ruộng đất) của năm Hồng Vũ thứ 26, tổng số ruộng đất toàn quốc là trên 850 vạn khoảnh, đến năm Hoằng Trị thứ 15 lại giảm còn 420 vạn khoảnh. Phân nửa bị giảm đi này chính là các tầng lớp đặc quyền thôn tính, cho nên không ở quan sách.

Lần này trước khi đo đạc đất trong phạm vi toàn quốc, Đại Minh đã có 70 năm chưa có đo đạc rồi, mặc dù kết quả vẫn chưa có, nhưng căn cứ vào thuế má thụt lùi, cũng có thể biết tại sách đất đai đã bị giảm đi phân nửa.

Thật ra 850 vạn khoảnh của năm Hồng Vũ thứ 26 là một con số thấp nghiêm trọng, ngoại trừ đại lượng ruộng đất chưa khai khẩn nên chưa được thống kê, còn có đại lượng ruộng đất đã bị tầng lớp đặc quyền giấu đi. Mà hiện tại đã thái bình 200 năm, nhân khẩu tăng mạnh, sông núi đất rừng, khe sâu sườn núi, phàm là nơi có thể khai khẩn đều đã được khai phá. Đất trong danh sách của Đại Minh hoặc là nói ruộng đất trong tay nông dân bình thường lại giảm mạnh đến trình độ này.

Kết quả chính là số lượng lớn trung nông chuyển hóa thành tá điền, bị ép tiếp thu hai tầng bóc lột của địa chủ và quốc gia, năm được mùa còn không chịu nổi gánh nặng, vừa gặp thiên tai thì triệt để phá sản. Khi công việc lao động chân tay vất vả cũng không thể no bụng, còn phải chịu thuế ruộng và cho vay nặng lãi, các tá điền đành phải lưu vong.

Tá điền lưu vong càng nhiều, sưu cao thuế nặng mà trung nông phải gánh vác cũng càng trầm trọng, vì vậy nông dân có ruộng cũng bắt đầu vứt bỏ ruộng trốn đi. Lại bởi vì chế độ lộ dẫn của bản triều, những nông dân lưu vong này đến vùng khác bị quan phủ đuổi bắt, tự nhiên trở thành cái gọi là lưu dân. Loại hiện tượng này xuất hiện khắp nới trên toàn quốc, nhất là Cam Thiểm, Hà Nam, Sơn Tây, các tỉnh phương bắc nghiêm trọng nhất.

Khu vực phòng thủ của Vương Sùng Cổ chủ yếu tại Cam Thiểm. Ở đây đất đai cằn cỗi, sản xuất lạc hậu, thuế má và lao dịch nghiêm trọng, lại còn thêm mấy năm liên tục xảy ra thiên tai, cuộc sống nông dân càng gian khổ hơn các vùng khác. Vùng này vừa Mông, Hán, Hồi, là vùng các dân tộc đấu tranh kịch liệt, các loại mâu thuẫn gay gắt, cho nên hiện tượng lưu dân nghiêm trọng nhất.

Thật ra mấy năm gần đây theo Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ suy thoái, áp lực biên phòng của Đại Minh đã Đông di, chủ yếu tập trung tại vùng Tuyên Đại và kế liêu, mà nhiệm vụ chủ yếu của tây tam biên cũng từ ngăn Mông Cổ xâm lấn trước kia chuyển thành đàn áp các khởi nghĩa nông dân liên tục. Cho nên lần này Phục Sóc tác chiến, Vương Sùng Cổ sau khi chắt bóp ra 4 vạn tinh binh, đã không thể điều thêm binh mã xuất quan nữa, bằng không cảnh nội sẽ xảy ra đại loạn.

Làm sao giải quyết vấn đề lưu dân, đó là nhiệm vụ trọng đại quan hệ đến sự tồn vong của vương triều. Cho tới bây giờ, bao gồm những nhà cải cách trác việt như Cao Củng và Trương Cư Chính cũng chỉ đặt ánh mặt trên việc đả kích thôn tính ruộng đất. Nhưng Thẩm Mặc biết, như vậy hoặc là nhất thời có thể dựa vào cường quyền đạt được đột phá, nhưng kết quả của việc tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của tập đoàn quan thân chính là nhân vong chính tức, thậm chí nhân còn chưa vong, chính đã tức trước rồi.

Chịu hạn chế của thời đại, Cao Củng và Trương Cư Chính không thể cởi ra bế tắc này, nhưng Thẩm Mặc có tri thức siêu việt thời đại, y biết còn có một loại biện pháp đã đạt được hiệu quả có thể dưới điều kiện không tổn hại lợi ích cá nhân lại có thể giải quyết được vấn đề lưu dân.

Then chốt của nó ở chỗ, có thể mở ra một hoặc mấy bộ môn công nghiệp tại quốc nội có năng lực sản xuất và tiềm lực phát triển, cũng có thể đưa vào thị trường quốc tế, chuyển dời sức lao động từ các bộ môn nông nghiệp truyền thống, tự cấp, có giá trị sản lượng theo đầu người rất thấp thành các bộ môn công nghiệp có giá trị sản lượng theo đầu người đề cao trên diện rộng, hoàn thành chuyển biến thu nhập quốc dân từ giảm dần đến tăng lên. Trong quá trình này, giới quyền quý địa chủ sẽ chuyển hóa thành các nhà tư bản công nghiệp, do đó trở thành lực lượng thúc đẩy tiến bộ xã hội, đây chính cái gọi là con đường công nghiệp hoá.

Điều này làm cho Vương Sùng Cổ vẫn khổ vì vô pháp phá cục bỗng có loại cảm giác "Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn", hắn không khỏi hăng hái nói:
- Xem ra công thương nghiệp vẫn là rất quan trọng.

- Nhưng Đại Minh yêu cầu không phải là giá trị trao đổi, mà là năng lực đề cao sản xuất. - Thẩm Mặc nghĩ đến những năm gần đây, phương hướng phát triển của công thương nghiệp Đại Minh, y không khỏi cười khổ nói: - Đề thăng thực lực quốc gia còn quan trọng hơn cả theo đuổi tài phú, đạo lý này mấy người có thể hiểu chứ?
Rồi y phẩy tay nói:
- Lạc đề quá xa rồi, việc này để hôm khác nói tiếp đi.

Vương Sùng Cổ gật đầu nói:
- Đại nhân nói tam quản tề hạ, vũ lực tính một cái, lông dê tính một cái, còn thứ ba là cái gì?

- Thứ ba, chính là tôn giáo. - Thẩm Mặc ánh mắt sâu thẳm nói: - Ta muốn cho tôn giáo thay thế chiến tranh, trở thành công cụ duy trì thống trị quý tộc Mông Cổ, đây cũng là nguyên nhân vì sao ngày hôm nay ta nói nhiều với Nặc Nhan Đạt Lạp vậy.

- Tôn giáo. - Vương Sùng Cổ nhỏ nhẹ nói: - Môn phái nào?

- Đạo Lạt-ma. - Thẩm Mặc nhàn nhạt nói.

- A, thì ra là Phật Giáo Tây Tạng.

Vương Sùng Cổ không xa lạ gì cái này. Giáo này có nguồn gốc tại Tây Tạng, rất phổ biến tại Thanh Hải, nó có tác dụng như phật giáo, tuyên truyền tứ đế ngũ minh, lục đạo luân hồi, coi trọng là tu kiếp sau, cho nên đặc quyền của quý tộc là "thiện báo" được tu hành từ kiếp trước, mà vất vả chịu khổ chịu tội là bởi vì "ác báo" của nghiệp chướng kiếp trước, có thể khiến tín đồ an tâm với hiện trạng, tự nhiên có lợi đối với thống trị quý tộc.

- Nhưng người Mông Cổ không phải là tin đạo Tát Mãn sao? - Vương Sùng Cổ hỏi: - Tín ngưỡng lẽ nào có thể đơn giản thay đổi được?

- Tôn giáo khác không thể, nhưng đạo Tát Mãn có thể, bởi vì nó cũng không tính là một môn tôn giáo. Nó không phải do cá nhân nào đó sáng lập, mà là nương theo sự xuất hiện của bộ lạc nguyên thủy mà sinh ra, đối tượng sùng bái cực kỳ rộng khắp,, động vật thực vật sông núi đều có thể trở thành tín ngưỡng của nó. Không có kinh điển thành văn, không có tổ chức tôn giáo, không có chùa miểu, cũng không có thống nhất, nghi lễ tôn giáo theo quy phạm hoá, càng không có giáo lí. Nó hoàn toàn dựa vào Vu sư của bản bộ lạc khẩu truyền thân thụ theo thời đại, có thể nói tôn giáo của nó lực lượng rất yếu. Hơn nữa bởi vì thần tượng giữa các bộ lạc sùng bái không giống nhau, không những không có lực ngưng tụ, trái lại còn có thể dẫn đến nội loạn vĩnh viễn.

Thẩm Mặc giải thích cho Vương Sùng Cổ:
- Thứ gì đạo Tát Mãn không có, Phật Giáo Tây Tạng đều có, căn bản không phải đối thủ của cái sau. Hơn nữa quan trọng nhất là, kinh nghiệm thành công của đạo Lạt-ma tại đất Tạng cho thấy, bọn họ quả thật có thể hóa đi lệ khí của dân tộc thiểu số, khiến cho sức chiến đấu của họ giảm xuống rất nhanh.

- Ngẫm lại cũng đúng. Bắt đầu từ Tống triều, người Thổ Phiên vẫn không đối địch với Trung Nguyênm trái lại còn chủ động triều cống, bản triều càng như vậy. - Vương Sùng Cổ gật đầu nói: - Sức chiến đấu cũng quả thật giảm mạnh, hơn 10 vạn Tạng dân Thanh Hải bị hơn 1000 tàn binh bại tướng của Ngõa Thích (bộ lạc Oát Diệc Thích) khi dễ. Lẽ nào thật sự có quan hệ tới đạo Lạt-ma sao?

- Đương nhiên không tuyệt đối như vậy, nhưng quả thật quan hệ rất lớn. Ta suy nghĩ, nguyên nhân đại thể có ba. Một chính là vừa mới nói, đạo Lạt-ma tuyên truyền chỉ cầu kiếp sau, khiến tín đồ nhẫn nhục chịu đựng, tính khí hung tàn đã bị tiêu mòn hết bởi thắp hương niệm Phật. Thứ hai, tăng nhân của họ tuần hoàn, 'Nhị bất giới luật', một không tham gia sản xuất lao động, hai không cưới vợ sinh con. Điều này đối với Phiên tộc nhân khẩu vốn đã thưa thớt thì có ý nghĩa nhân khẩu và sức chiến đấu giảm xuống. Thứ ba chính là sau khi chính giáo hợp nhất, người Tạng đã không còn lý do để chiến đấu, trường kỳ bất chiến tất sẽ vong chiến, bị người Mông Cổ khởi phục cũng là hợp tình lý.

Thẩm Mặc uống cạn ly rượu lại nói tiếp:
- Đối với dân tộc thảo nguyên du mục thì dùng đạo Lạt-ma thay thế đạo Tát Mãn còn có một tác dụng, đó chính là có thể thu hút các mục dân du đãng bất định khắp nơi trước kia tới khu vực tương đối cố định. Bởi vì đạo Tát Mãn tế bái núi đá, cây cối, hồ nước, có thể tại bất cứ địa phương nào cử hành nghi thức tôn giáo, nhưng sau khi chuyển sang đạo Lạt-ma thì nhất định phải có chùa chiền mới được. Chính gọi là hòa thượng chạy trốn được nhưng miếu thì không!

- Như vậy tam quản tề hạ, phối hợp lẫn nhau, trải qua thời gian dài, đám con cháu bướng bỉnh của Thành Cát Tư Hãn cuối cùng cũng sẽ trở thành thuận dân của Đại Minh ta!

Cuối cùng, Vương Sùng Cổ bái phục khen:
- Lần đầu tiên ta có hy vọng đối với bình định cửu biên rồi!

Lần gặp sau, Thẩm Mặc khôi phục tự do cho Nặc Nhan Đạt Lạp, cho phép hắn tùy ý ra vào hành dinh tổng đốc, cũng có thể tự do đi lại trong Du Lâm bảo. Nói chung ngoại trừ không thể ra ngoài thành, hắn muốn làm cái gì cũng được. Nặc Nhan Đạt Lạp bị nhốt tới gần 2 tháng, cả ngày chỉ nhìn bốn vòm trời trên đỉnh đầu, hắn đã sớm bứt rứt khó chịu, muốn ra phố đi dạo rồi.

Thế là thừa dịp một ngày trời quang, hắn bảo một binh đinh hầu hạ dẫn mình ra phố đi dạo. Binh đinh liền thay một bộ đồ khác cho hắn, bận thành hình dạng như quân quan, rồi dẫn hắn ra khỏi phủ tổng đốc, tham quan phong tình thành Du Lâm.

Trong ấn tượng của Nặc Nhan Đạt Lạp, thành Du Lâm có lịch sử lâu đời, từ xưa là chỗ xung yếu tại Tây Bắc, còn là trọng trấn một trong cửu biên của bản triều, dân phong bưu hãn. Khi lần đầu hắn tới đây nhìn thấy đều là binh mã dân phu đầy thành, hỗn loạn, tiếng huyên náo, bách tính không chịu nổi quấy nhiễu nên cửa hàng phần lớn đóng cửa, không hề có vẻ phồn hoa lộng lẫy như trong tưởng tượng.

Nhưng lần này đi ra ngoài, hắn lấy tâm bình khí hòa tỉ mỉ nhìn, thật ra đường phố nơi đây chỉnh tề, phòng ốc đẹp, bất kể từ phương diện nào cũng tốt hơn nhiều thành Tế Nông của mình.

Hơn nữa hắn phát hiện, lúc trước khi tới đây thì con đường hỗn loạn, đầy phân trâu ngựa, lần này nhìn thì đã trở nên khang trang hơn... Rác trên mặt đường đã được quét dọn sạch sẽ, đại đội dân phu cũng đã giải tán để về nhà đón tết. Quan binh đi trên đường cũng không lôi thôi mà ăn mặc chỉnh tề, ngẩng đầu xếp thành hàng. Nhân mã đi tới đi lui rất nhiều đều như vậy, càng không có hiện tượng quấy nhiễu dân chúng.

Đối với loại chuyển biến này Nặc Nhan Đạt Lạp tự nhiên hiếu kỳ, hắn hỏi binh đinh đi cùng mình thì mới biết thì ra sau khi Thẩm đốc sư đến Du Lâm rất ghét thói quấy nhiễu dân chúng của quan binh, nên mới nghiêm lệnh chỉnh đốn quân kỷ, cấm tiệt nhiễu dân. Việc này đối với Thẩm Mặc cũng không phải mới mẻ gì. Khi tại Hàn Nam bình loạn y cũng đã cùng với Thích Kế Quang đem quân quy quân pháp đơn giản thông tục hóa, biên thành cùng loại như quân ca, tam đại kỷ luật bát hạng chú ý, yêu cầu mỗi một binh sĩ trong quân đều phải ca.

Sau khi trong lòng quan binh đã minh xác quân kỷ, liền do đội đôn đốc chuyên môn tùy thời giám sát, một khi phát hiện có người trái với kỷ luật thì dựa theo quân pháp nghiêm trị không tha. Cũng đưa ra thứ hạng xử phạt đối với quan binh các doanh xai phạm, đơn vị thấp nhất sẽ nhận được tưởng thưởng các loại tinh thần và vật chất, gần như nhận lương gấp đôi trong tháng đó, ban phát cờ thi đua.v..v. Về phần quân quan đội sổ thì sẽ bị phê bình, thậm chí giáng chức. Dưới sự chỉnh đốn thưởng phạt phân minh này, chỉ trong gần thời gian 2 tháng. Quân phong quân kỷ trong Du Lâm bảo đã có chuyển biến tốt đẹp.

Dân chúng không còn bị quấy rối cả ngày, trong thành nhất thời có vẻ sinh khí nhiều...Các cửa hàng dần dần mở cửa lại, đại cô nương, tiểu tức phụ cũng dám lên phố, từ nam đến bắc các cửa hàng tạp hoá rực rỡ muôn màu, tửu quán tiệm cơm thơm nức mùi món ngon. Giữa các con phố tiếng rao hàng mời chào nhộn nhịp, thậm chí giữa chốn thanh lâu còn có tiếng sáo trúc truyền đến.

Đây vẫn là lần đầu tiên Nặc Nhan Đạt Lạp nhìn thấy cảnh tượng tấp nập ở thành thị của người Hán, hắn tự nhiên thấy thích, nghển cổ hết nhìn đông tới nhìn tây, giống như thế nào cũng nhìn không đủ. Binh sĩ bên cạnh không khỏi có chút tự đắc, thầm nghĩ mới có đến đây mà đã trấn trụ được Tế Nông Mông Cổ rồi, nếu đến thành Tây An nhìn, không biết có rơi cả tròng mắt hay không nữa... Đại Minh rất hợp với khẩu vị của mình, Nặc Nhan Đạt Lạp thầm nghĩ. Mặc dù Du Lâm phủ không phải là nơi trù phú của Đại Minh, binh còn nhiều hơn dân, nhưng đối lập với cảnh bần cùng khốn đốn, đấu tranh cầu sinh của các bộ lạc Mông Cổ cũng đã như trên trời dưới đất rồi.

**********

Dù sao hắn là Tế Nông Mông Cổ, cũng không thể rảnh rỗi liền ra ngoài đi loanh quanh, sau khi đi một lát, ăn vài món ăn Thiểm Tây liền trở lại hành dinh tổng đốc, đại môn không ra cổng trong không bước, chờ đợi vị quý khách mà Thẩm các lão nói giá lâm.

Nhưng mà đợi đến đầu tiên lại là tộc nhân của mình...

Khi hắn thấy con gái mình xuất hiện ở trước mắt, Nặc Nhan Đạt Lạp vẫn còn cho rằng là do mình nhớ nhung quá độ mà xuất hiện ảo giác. Mãi đến khi Chung Kim cất tiếng gọi "A ba", hắn mới định thần lại nhéo mu bàn tay mình một cái, nhếch miệng cười nói:
- Đau, xem ra không phải là đang nằm mơ.

- Đương nhiên không phải là nằm mơ rồi. - Chung Kim bảo mười mấy tùy tùng dọn ra cái lồng đem theo, kéo cánh tay hắn nói: - Vừa nhận được tin tức của phụ thân, con gái liền qua đây ngay, bao nhiêu vất vả mới được thấy ba đấy.

- Qua đây làm gì? - Nặc Nhan Đạt Lạp sủng ái nhìn khuôn mặt tuyệt mỹ của con gái, phát hiện nàng gầy đi không ít.

- Đương nhiên là chăm sóc ba rồi.
Thấy phụ thân không phải chịu ngược đãi, Chung Kim rốt cuộc cũng yên lòng:
- Cha đường đường là Tế Nông, bên người dù sao cũng phải có tộc nhân hầu hạ chứ?

- Cô bé ngốc, mình còn chưa chăm sóc cho mình được kìa. - Nặc Nhan Đạt Lạp kéo cánh tay con gái, thân thiết hỏi: - Thương thế của con tốt chưa?

- Tốt lâu rồi ba. - Chung Kim cười khanh khách nói: - Còn chạy nhảy được đây này.

- Thật tốt quá.

Nặc Nhan Đạt Lạp lại hỏi nàng về mẫu thân và hai ca ca, biết được đều khỏe mạnh hắn cũng yên tâm. Hắn lại kéo con gái ngồi xuống kháng, đưa bánh ngọt cho nàng ăn.

Thẩm Mặc không bạc đãi vị Tế Nông này chút nào, trên bàn bày tám loại bánh, bánh mứt táo, bánh móng ngựa, bánh xốp củ sen, bánh xốp táo, mọi thứ đều làm tỉ mỉ, người trên thảo nguyên đều chưa từng được ăn.

Chung Kim nếm một miếng liền không dừng được, miệng cứ thế nhét vào cổ, thiếu chút nữa bị nghẹn.

- Ăn từ từ, của con hết. - Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng rót cho nàng một chén trà táo đỏ, mắt đục đỏ ngầu nói: - Con gái phải chịu khổ rồi, có phải đã lâu rồi chưa có được ăn no không?

Chung Kim ngại ngùng đặt bánh trong tay xuống, cầm lấy ly trà cúi đầu nói:
- Các tộc nhân thời gian qua rất khổ...

- Ta cũng đoán vậy...
Nặc Nhan Đạt Lạp buồn bã nói:
- Tính tình của người thảo nguyên đều như lang, gặp phải đại nạn sẽ không có ai chịu giúp chúng ta.

Chung Kim nghe vậy cau mày, nhỏ nhẹ nói:
- Chỉ có thể tự mình cứu mình thôi.

- Đúng vậy. - Nặc Nhan Đạt Lạp hài lòng cười nói: - Xem ra con gái cũng có tâm tư như ba. Chỉ là không biết các ca ca của con thì sao?

- Các ca ca...
Chung Kim sửng sốt vài giây mới hiểu được ba đã hiểu lầm ý của mình, nhưng thoáng nghĩ qua nàng lại không có giải thích, có chút che giấu gật đầu nói:
- Đương nhiên nghe ba rồi...

- Vậy là tốt rồi, vậy là tốt rồi.
Nặc Nhan Đạt Lạp cảm thấy vui mừng nói:
- Ta còn lo lắng thanh niên nhân tính tình ương ngạnh, không biết suy nghĩ chứ.

- Không đâu. - Chung Kim cười tươi nói: - Chúng con thì biết gì? Vẫn là ba đứng cao, nghĩ xa.

- Đời sau càng mạnh hơn đời trước mới đúng chứ...
Nặc Nhan Đạt Lạp lắc đầu, nghiêm mặt hỏi:
- Đại ca con còn có tin gì cho cha không?

- Có!

Chung Kim lấy ra một tờ giấy trong ống tay áo rồi đưa cho phụ thân.

Nặc Nhan Đạt Lạp cầm lấy xem, là chữ của Biệt Hách, viết rằng: việc nói trên thư toàn do phụ thân làm chủ. Chỉ là nhanh nói người Hán đưa lương thảo tới để giải nguy nan của tộc nhân. Sau khi xem xong, Nặc Nhan Đạt Lạp nhíu mày suy nghĩ chốc lát mới gật đầu nói:
- Để ta xem có gặp lại Thẩm đốc sư hay không.

***************

Nặc Nhan Đạt Lạp không thể thấy Thẩm Mặc ngay được, bởi vì người sau lúc này đã đi về Tây 800 dặm, tự mình đến trấn Cố Nguyên để nghênh tiếp vị quý khách từ phương xa đến kia.

Rốt cuộc là người nào có thể khiến đường đường tể tướng Đại Minh, cửu biên đốc sư trịnh trọng đối đãi như vậy, điều này làm cho Vương Sùng Cổ dù biết nội tình cũng hết sức khó hiểu và hiếu kỳ.

Nhưng mà Thẩm Mặc biết, người này quan hệ đến tương lai giữa Đại Minh và Mông Tạng, cho đối phương một ấn tượng tốt đẹp là điều hết sức cần thiết vả lại đáng giá, người này tên gọi Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso), chuyển thế Lạt Ma của phái Cách Lỗ (Gelugpa) Phật Giáo Tây Tạng, một nhân vật đã định trước phải lưu danh thiên cổ.

Thật ra rất lâu trước đây khi Thẩm Mặc nhậm chức Lễ bộ thượng thư đã từng viết thơ cho vị cao tăng này, mời hắn tới Bắc Kinh triều cống. Sách Nam Gia Thố hồi âm lại nhiệt tình, cũng phái lạt ma A Hưng có địa vị gần với mình mang theo cống phẩm hậu hĩnh vào kinh, nhưng vẫn chưa đích thân tới. Hiện tại sau khi nhận được Long Khánh duyệt qua, Thẩm Mặc lần thứ hai thông qua A Hưng lạt ma đang dự lễ tại Bắc Kinh, chính thức mời Sách Nam Gia Thố Lạt Ma đời thứ 3 của Triết Bạng Tự tới thăm Hán địa.

Thẩm Mặc vốn đoán là lấy cái mác Phật sống mình sẽ phải ba lần đến mời, nhưng mà không ngờ được chỉ hai tháng trôi qua Sách Nam Gia Thố đã có hồi âm, nói mình đang ở Thanh Hải truyền pháp, tùy thời có thể khởi hành, mời triều đình an bài hành trình. Thấy đối phương thống khoái đáp ứng, hơn nữa khoảng cách còn không xa, Thẩm Mặc hết sức cao hứng, một mặt thượng tấu hoàng đế, một mặt phái người gặp mặt Sách Nam Gia Thố, thương thảo với hắn về việc an bài hành trình cụ thể triều kiến. Bởi vì con đường từ Thanh Hải nhập Thiểm rất gian nguy, vả lại trộm cướp hoành hành, trạm dịch cũng không hoàn bị, Thẩm Mặc đặc biệt mệnh Lan Châu Vệ phân phối 2000 tinh binh hộ tống.

Đồng thời y còn mệnh lệnh xây dựng một tòa miếu Tu Di Phúc Thọ tại Du Lâm bảo để cho Lạt Ma ở dùng để giảng kinh. Lúc trước Nặc Nhan Đạt Lạp thấy cảnh tượng hỗn loạn bên trong thành Du Lâm hơn phân nửa là vì xây dựng tòa hoàng tự này. Thậm chí vì gặp mặt đàm đạo với đối phương khỏi phải xấu hổ, ngoài công vụ, khi rỗi rãi Thẩm Mặc còn học đặc ngữ Đường cổ, nghiên cứu Tạng sử, có thể nói y dụng tâm lương khổ.

Trên đường Sách Nam Gia Thố đi, Thẩm Mặc không chỉ tại ven đường phái người tiếp đãi, hơn nữa không ngừng biểu thị quan tâm và thăm hỏi của mình, còn đích thân đi tới Cố Nguyên chờ đón. Rốt cuộc cuối tháng chạp năm Long Khánh thứ 3 gặp được đoàn người Sách Nam Gia Thố trải qua mấy nghìn dặm đường vất vả đến đây.

Được vô số tác phẩm văn sử hậu thế tô vẽ, giống như Ngưu Lang gặp Chức Nữ, lần đầu tiên hai nhân vật vĩ đại gặp mặt thật ra là ở trong băng thiên tuyết địa. Hai người thanh niên bị lạnh đến nước mũi cũng bị đóng băng, sụt sịt hỏi nhau: "Ngài chính là Thẩm các lão?" "Ngài chính là Sách Nam Lạt Ma?", đợi đối phương gật đầu rồi, hai người mới gian nan nặn ra nụ cười, hoạt động thân thể nặng trịch ôm lấy nhau.

Năm đó, Thẩm các lão 32 tuổi, Sách Nam Gia Thố còn chưa đến 30 tuổi, mặc dù thân thiết ôm lấy nhau, nhưng trong lòng hai người không khỏi nghĩ thầm, sao người này còn trẻ thế nhỉ, rốt cuộc hắn có được việc không đây?

Tuy nhiên chỉ thoáng tiếp xúc hai người liền bỏ đi nghi hoặc này, phong độ khí chất của Thẩm Mặc tự nhiên khỏi cần phải nói. Sách Nam Gia Thố trẻ hơn y 5 tuổi cũng có thể khiến người hoàn toàn quên đi tuổi tác của hắn, thay vào đó là nhìn vào cao tăng đại đức.

Điều này cũng không lạ, bởi vì người ta là chuyển thế tới. Chuyển thế tương thừa là biện pháp đặc biệt để tìm người lãnh tụ kế thừa của phái Cách Lỗ. Trước khi Lạt Ma tiền nhiệm viên tịch sẽ tiên đoán phương vị chuyển thế của mình, sau đó do cao tăng của Tam Đại tự (Cam Đan Tự, Sắc Lạp Tự, Triết Bạng Tự) tìm kiếm, sau khi nhận định linh đồng chuyển thế sẽ mang về tự dốc lòng bồi dưỡng, đợi nó thành niên rồi sẽ tiếp chưởng quyền Lạt Ma.

Lạt Ma đời thứ ba của Triết Bạng Tự sinh ra trong một gia đình nông nô vào ngày 15 tháng giêng năm Gia Tĩnh thứ 22. Khi 4 tuổi được tăng chúng của Triết Bạng Tự xác nhận là "chuyển thế linh đồng" của Lạt Ma đời thứ hai và được đón vào trong tự, do ba vị cao tăng chủ trì lấy cho pháp danh là Sách Nam Gia Thố.

Sách Nam Gia Thố đáng thương từ đó ngày qua ngày bắt đầu cuộc đời nghiên cứu kinh Phật. Có lẽ hắn thực sự là chuyển thế linh đồng, tuệ tính thâm sâu, linh dị đặc biệt, khiến mỗi một cao tăng dạy qua hắn đều cảm thấy rất khâm phục, cũng càng thêm nhận định hắn là chuyển thế của Lạt Ma.

Sau khi trải qua 18 năm khắc khổ tu luyện, Sách Nam Gia Thố đã trở thành một cao tăng rất có phong thái, học phú ngũ xa. Bắt đầu từ hơn 10 tuổi hắn đã chu du khắp đất Tạng, giảng kinh truyền pháp, cũng dùng lực ảnh hưởng của mình tích cực làm hoạt động xã hội.

Vào năm hắn 14 tuổi, Sách Nam Gia Thố liền hòa giải bất hòa giữa Đông Đệ Ba và Quỳnh Cát đại nhân, khiến hai người đình chỉ giới đấu, cuối cùng hòa hảo. Sau đó tận sức tiêu trừ xung đột chảy máu giữa các thế lực, cũng giành được cho mình danh dự cực cao. Tại vùng hậu Tạng không ai không biết, sở hữu tín đồ vô số.

Khi 22 tuổi hắn chịu Tỷ khưu giới, giành được tư cách đảm nhiệm phương trượng Triết Bạng Tự. Mấy năm sau, tăng chúng của Sắc Lạp Tự, một trong Hoàng Giáo Tam Đại Tự cũng mời hắn kiêm nhiệm cai tự phương trượng... Trước khi tới Hán địa hắn tại Thanh Hải truyền pháp ba năm, quy y mấy vạn tín đồ, xây dưng ba tòa miếu lạt ma. Thử hỏi nhân vật như vậy ngươi làm sao dùng tuổi tác đi so sánh hắn được?

Hai người thanh nhiên tuổi còn trẻ mà đã thân cư cao vị gặp mặt nhau, rất có thể sẽ khó chịu lẫn nhau. Nhưng hai người đều là người tính tình khiêm tốn, lại đều mang trong lòng mục đích rõ ràng, hết sức nguyện ý kết giao với đối phương, cho nên vừa thấy mặt liền tỏ vẻ thương tiếc nhau, sau đó lời lẽ vui vẻ, thật như hận vì gặp nhau quá trễ.

Lộ trình từ Cố Nguyên về Du Lâm hết 10 ngày, hai vị này cả ngày ngồi ở trong xe nói chuyện...Đều là người học phú ngũ xa, tài trí hơn người, tự nhiên không thiếu đề tài.

Có lẽ lúc đầu tương giao còn có tính hiệu quả và lợi ích bên trong, nhưng hiện tại, họ quả thật đã đem đối phương là tri kỉ, xưng huynh gọi đệ.

Trên đời này còn có chuyện gì khiến người kích động hơn khi hai thiên tài vĩnh viễn sẽ không sản sinh cạnh tranh phát hiện ra đối phương thì ra là đồng loại?

Đợi khi thu xếp Lạt Ma trong căn miếu mới xây rồi, Thẩm Mặc như mới nhớ cái gì nói:
- Ngày mai ta sẽ dẫn vị Nặc Nhan Tế Nông tới bái kiến Lạt Ma.

***********
Buổi trưa ngày hôm sau, Thẩm Mặc đang ở trước phòng đợi Nặc Nhan Đạt Lạp đến thì thấy còn có một thiếu nữ thanh xuân đi cùng.

Tuy Thẩm Mặc mấy năm nay tâm như chỉ thủy, sớm đã qua cái tuổi háo sắc, nhưng thấy được thiếu nữ này y vẫn không khỏi sáng mắt. Thấy nàng trong bộ trang phục quý nữ Mông Cổ, tóc bim hai vai, trường bào xanh lá mạ khảm đường viền đỏ tươi hai bên, bên hông thắt dây lưng tết dây tua màu vàng hơi đỏ, đeo thêm một viên bảo thạch ngọc lục bảo trong suốt, vòng tay xanh biếc, ánh mắt thu ba, như Lạc thần xuất thủy diễm lệ kinh người!

Thẩm Mặc nhìn nữ tử này, nữ tử cũng đang đánh giá Thẩm Mặc, thấy y còn chưa tới 30, vóc người thon gầy, không tính quá cao, mặc cũng chỉ là bộ áo dài vải bông xanh tay áo rộng Tùng Giang. Nhưng y đứng đó, cái loại khí độ, phong thái đó lại không một công tử cẩm y ngọc đái nào có thể sánh bằng. Từ trước đến nay nàng cảm thấy phụ thân của mình là một nam tử phong lưu tiêu sái, rất có mị lực, nhưng nàng cảm thấy không thể bằng được người thanh niên trước mắt.

Cũng không phải là chênh lệch trên tướng mạo, mà là khí chất, cái loại khí chất tao nhã mà lại khiến người cảm thấy thân thiết đó khiến người thoải mái như được tắm gió xuân, thật không biết mới lần đầu gặp mặt sao lại khiến người sản sinh loại cảm giác này được?

Có lẽ cũng không phải lần đầu tiên gặp mặt, một bóng hình khắc thật sâu trong lòng nàng đã hiện ra, dần dần trùng hợp hoàn toàn với bóng người trước mắt này... Ngoại trừ chòm râu, nguyên lai giống nhau như đúc.

Thẩm Mặc thì vẫn lần đầu tiên nhìn thấy có nữ tử dám đối diện với mình, y không khỏi đỏ mặt, rồi rất nhanh thu hồi ánh mắt. Mũi liền ngửi được một mùi thơm đặc biệt tự lan phi lan, tự xạ phi xạ truyền tới, y không khỏi thầm nghĩ: "Nơi biên hoang thảo nguyên không ngờ lại có nữ tử tuyệt sắc xuất chúng như vậy." Tuy nhiên chung quy y định lực siêu phàm, vẫn chưa đến mức thất thố, rất nhanh chuyển ánh mắt qua Nặc Nhan Đạt Lạp, thấy hình dạng hai người này có vài phần giống nhau, y mỉm cười nói:
- Vị tiểu thư này có phải là của nhà Tế Nông?

- Chính là tiểu nữ Ô Nạp Sở. - Nặc Nhan Đạt Lạp nói: -Ô Nạp Sở, mau mau bái kiến Thẩm đốc sư của Đại Minh đi.

Thiếu nữ liền theo lời chân thành hành lễ, nói tiếng vạn phúc với Thẩm Mặc.

- Miễn lễ miễn lễ. - Thẩm Mặc cười nói: - Nghe nói Tế Nông chỉ có một vị Chung Kim Biệt Cát, không biết có quan hệ thế nào với vị này?

- Là cùng một người. - Nặc Nhan Đạt Lạp cười giải thích: - Chung Kim là phong hào của nó, ngoại bang gọi lung tung, không vào tai của đốc sư chứ?

- Nếu là hiền điệt nữ thì phải có quà gặp mặt rồi. - Thẩm Mặc nói rồi sờ sờ trong tay áo, phát hiện trống rỗng, y có chút xấu hổ cười nói: - Nhưng không có chuẩn bị, đành phải đợi lần sau thôi.

Mình cũng thấy bó tay với mình, thế là y khẽ ho một tiếng rồi nói với Ô Nạp Sở:
- Thích cái gì cứ nói, thúc thúc sẽ kiếm tặng cho.

Chính mình cũng không biết tại sao lại nói ra lời càn rở như vậy, đúng là theo bản tính.

- Thật có thể chứ? - Chung Kim Biệt Cát Ô Nạp Sở lại không ngượng ngùng như nữ tử Hán, nháy nháy cặp mắt sáng ngời nói: - Muốn cái gì cũng được?

- Đương nhiên. - Thẩm Mặc thầm nghĩ không ổn, những lại không thể sửa lời.

- Vậy ta muốn...
Ô Nạp Sở dùng ngón tay thon thon hếch cằm nói:
- Hỏa thương, được chứ?

- Con gái con nứa, đừng có cả ngày vũ đao lộng thương. - Nặc Nhan Đạt Lạp khẽ giật giật nơi khóe miệng, ngăn cản nàng.

- Nhưng con lại không thích mấy thứ son phấn, trâm cài lăng la của nữ tử Hán. - Ô Nạp Sở chu miệng nói: - Không cho thì thôi, cũng không phải con chủ động đòi đâu.

"..."

Nặc Nhan Đạt Lạp có chút lo lắng nhìn Thẩm Mặc một cái, nhỏ giọng quát con gái:
- Đừng có mà tùy hứng, nữ nhi Hán không có như con đâu.

- Được rồi được rồi! - Thẩm Mặc mỉm cười nói: - Việc đã đáp ứng thì phải làm được, bằng không thì sau này còn gì uy tín với hậu bối nữa.

Nghe y luôn mồm tự cho mình là trưởng bối, Ô Nạp Sở liếc Thẩm Mặc một cái không nói gì.

- Đừng để quý khách phải sốt ruột chờ lâu. - Thẩm Mặc tiếp nhận áo khoác trong tay thị vệ nói: - Chúng ta xuất phát đi.

Rồi dẫn hai người rời khỏi hành dinh, đi về hướng hoàng miếu Sách Nam Gia Thố đang ở.

Miếu mà Sách Nam Gia Thố đang ở mặc dù chỉ xây trong vòng mấy tháng nhưng quá trình hết sức dụng tâm, cũng thể hiện quốc lực lớn mạnh của đế quốc Đại Minh. Tường đỏ cao vời vợi, đại môn tráng lệ, vẽ đầy các loại đồ án tôn giáo thần bí, Phạn âm như có như không từ bên trong tự truyền ra khiến người không nhịn được liền cảm thấy trang nghiêm.

Ba người theo lạt ma dẫn đường đi tới hậu điện Phật sống gặp khách, nơi đó cách chỗ ông ta ở thường ngày chỉ một bức tường. Vừa vào cửa liền thấy trên hai bên tường thờ phụng hơn 100 bức tượng phật nhỏ bằng đồng, hình thái khác nhau, tràn ngập khí tức thần bí. Vào trong nữa là đại điện rộng rãi, pháp tọa của Phật sống được đặt trên cao, một bức thảm đỏ thẩm dài từ pháp tọa trải cho đến cửa đại điện.

Lúc này, Sách Nam Gia Thố trong bộ áo cà sa màu vàng, cầm trong tay niệm châu đang mỉm cười đứng ở cửa, hướng ba vị thí chủ chắp tay trước ngực. Ba lạt ma lớn tuổi bên cạnh hắn khom người cúi đầu, hai tay dâng lên khăn ha-đa, trong miệng còn ngậm tụng lời khấn cát tường. Thẩm Mặc mỉm cười khom người hai tay hứng lấy để biểu thị kính trọng và lòng biết ơn. Lễ nghi rất hợp quy củ Tạng địa này làm cho ba vị lạt ma cao cấp tự giác hạ mình cảm thấy hưởng thụ.

Nặc Nhan Đạt Lạp và Ô Nạp Sở cũng học theo tiếp nhận khăn ha-đa rồi quàng lên cổ, sau đó mới đứng dậy theo Thẩm Mặc.

Sau khi ba vị lạt ma lui ra, Thẩm Mặc giới thiệu qua lại cho Sách Nam Gia Thố và Nặc Nhan Đạt Lạp, hai vị quý nhân Mông Tạng thi lễ với nhau lần nữa, sau đó mới theo nhau vào đại điện.

Sau khi vào điện, Sách Nam Gia Thố dẫn người tụng lời cát tường và tán hoa chúc phúc. Thẩm Mặc tại phật tượng Thích Ca Mâu Ni thay mặt hoàng đế bệ hạ Đại Minh tặng cho Phật sống đời thứ ba Kim Như Ý, Kim Thủ Trượng, trân bảo trang sức, thắt lưng tơ vàng cùng tơ lụa; Nặc Nhan Đạt Lạp cũng dâng lên dương chi ngũ hương lô, bát sứ có đồ án thất dũng sĩ. Những tặng phẩm này là Thẩm Mặc đặt mua thay. Sách Nam Gia Thố thì đáp lễ hoàng đế Đại Minh phật tượng, phật bảo, tặng cho Nặc Nhan Đạt Lạp áo cà sa. Trong bầu không khí tường hòa, chủ tân an vị, thị tăng dâng lên trà bơ.

Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói với Nặc Nhan Đạt Lạp:
- Hôm nay có thể nhìn thấy hậu nhân của Tiết Thiền Hãn, thật sự là khiến người khác vui mừng.

- Tiết Thiền Hãn...

Nặc Nhan Đạt Lạp thoáng kinh ngạc, mới nhớ tới đó là tôn hiệu của tổ hoàng đế Hốt Tất Liệt đời Nguyên, tiếp theo nhớ lại trên sách sử có nói, Hốt Tất Liệt phong lạt ma Bát Tư Ba là quốc sư, định đạo Lạt-ma là quốc giáo. Hắn không khỏi nghiêm nghị nói:
- Chẳng lẽ Phật sống là truyền nhân của Bát Tư Ba.

Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói:
- Nói phải thì phải, nói không phải cũng không phải.

- Đây là ý gì? - Nặc Nhan Đạt Lạp khó hiểu nói.

- Chúng tôi đều là đệ tử của Phật tổ, luân hồi khổ tu chỉ vì phổ độ chúng sinh. - Sách Nam Gia Thố trang nghiêm nói:
- Ngươi có thể nhìn ta là chuyển thế của Bát Tư Ba, cũng có thể nói, chúng tôi không có chút quan hệ nào.

- Ngài không phải là chuyển sinh của Phật tổ? - Nặc Nhan Đạt Lạp giật mình nói.

- Cách xưng Phật sống đúng là truyền bá sai lầm. - Sách Nam Gia Thố thản nhiên nói: - Phật Giáo Tây Tạng ta đối với tu hành có thành tựu, có thể căn cứ vào ý nguyện của mình mà chuyển thế nhân xưng là 'Chu tất cổ', dùng tiếng Mông nói chính là 'Hô tất lặc hãn'. Chữ này ý nghĩa chính là "Chuyển thế giả', hoặc gọi 'Hóa thân'

Dừng một chút hắn mới nói:
- Về phần cách xưng Phật sống chính là xưng hô tập tục của bách tính Hán địa, điều này có lẽ quan hệ với Vĩnh Lạc hoàng đế bệ hạ phong Thích Ca Mâu Ni của phái Cát Cử (Geju) khi đó là 'Tây Thiên Đại Thiện Tự Tại phật.

Rồi hắn nhìn sang Thẩm Mặc nói:
- Xin đại nhân chớ trách, ta không phải là có ý định mạo phạm, thật sự là loại phong hào và xưng hào này trên phật giáo giáo lí của ta đều nói không thông... Phật là Thích Ca Mâu Ni, những tín đồ ngồi như chúng tôi sao dám đi quá giới hạn.

- Thế thì là phật gì? - Một thanh âm êm tai vang lên, hỏi là Ô Nạp Sở.

- Chung Kim, đừng có nhiều chuyện. - Nặc Nhan Đạt Lạp chỉ sợ Sách Nam Gia Thố không thích.

- Không sao, trước mặt Phật tổ chúng sinh bình đẳng. - Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói: - Câu hỏi của nữ thí chủ rất hay, chỉ khi biết là phật gì mới có thể lý giải bản chất sở tại của phật giáo.

Thấy hắn một bên khẽ lần tràng hạt, một bên sắc mặt thánh khiết nói:
- Phật, là phật đà, nhưng không chỉ có tổ sư Thích Ca Mâu Ni của phật giáo ta, cũng chỉ tất cả người trí tuệ đại giác. Đó bởi vì phật chỉ là tên thường gọi đối với một người giác ngộ mà thôi. Tựa như người Hán có thể gọi người giáo sư là "truyền đạo, thụ nghiệp, giải hoặc" vậy... Giáo sư không chỉ một vị, người người có thể làm giáo sư, chỗ nào có thể có giáo sư. Cũng một đạo lý, phật không phải chỉ một mình Thích Ca Mâu Ni, người người có thể thành Phật, chỗ nào có thể có phật, nhân tại phật trung, tự nhiên thành phật. Cho nên nói phật chính là tự nhiên, mà tự nhiên chính là vạn vạn thiên thiên, bao gồm hoa cỏ cây cối, người quỷ cầm thú, mặc dù ngay cả ma, chỉ cần phóng hạ đồ đao, cũng có thể thành Phật.

- Vậy thành Phật có chỗ tốt gì chứ? - Ô Nạp Sở hỏi.

- Nếu như thành Phật, ngươi sẽ đạt được toàn bộ thế giới.

Sách Nam Gia Thố nhón một viên châu dầu từ trong chén vàng, dưới ánh đèn chiếu rọi, châu dầu lưu động, rực rỡ trong ngón tay của hắn:
- Biến pháp giới hư không giới ngươi hoàn toàn đạt được, chư phật Như Lai giáo dục cho chúng ta chính là cái này. Ngươi vì sao đạt được? là vì ngươi vốn đã có nó.

Thấy trong mắt hai người có chút mê hoặc, hắn lại giải thích:
- Giống như ngươi vốn là hào môn quý tộc, nhưng sinh ra đã bị thất lạc với phụ mẫu, sống bần cùng, thống khổ, căn bản không biết mình có gia nghiệp to lớn. Hiện tại có người nhận ra ngươi, biết tình hình nhà ngươi, hướng dẫn ngươi, mang ngươi về nhà, ngươi sẽ vô cùng kinh ngạc, thì ra nhà của ta là như này, ta vốn có giàu có như vậy. Phật, chính là người dẫn ngươi về nhà.

- Vậy làm sao mới có thể tìm được nhà của mình chứ? - Nặc Nhan Đạt Lạp hỏi: - Hoặc là nói làm sao thành Phật?

- Thành Phật đâu có thể dễ dàng thế.

Sách Nam Gia Thố nhẹ nhàng bắn hạt châu vào trong chậu than, tia lửa rực rỡ nhiều màu nổ bùng lên, hắn mỉm cười nói:
- Dù cho ai có thiên tài, cũng không thể nhất sinh nhất thế mà thành Phật. Bởi vì thành Phật yêu cầu tỉnh ngộ, mà tỉnh ngộ yêu cầu chuyên tâm học tập, ngươi lý giải đủ kinh thư rồi mới có khả năng đạt đến cảnh giới ngộ. Nhưng chúng ta tại thế gian này thọ mệnh quá ngắn, học cái gì cũng học không thành. Nói thật thì, học một bộ kinh cũng học không thành. Bởi vì thọ mệnh không đủ, thời gian không đủ. Cho nên học tập đồng thời chúng ta phải tu hành, chúng ta phải đến thế giới cực lạc, đổi lại một thân thể, tiếp tục học tập.

- Vì sao phải tu hành ở đó, bởi vì đó là một nơi có nhiều thứ diệu dụng. Chỗ tốt thứ nhất chính là vô lượng thọ! Ngươi có thọ mệnh vô lượng. Thọ mệnh vô lượng, vậy cả đời đương nhiên ngươi sẽ thành công, sớm muộn gì ngươi có thể chứng đắc cảnh giới phật.

Sách Nam Gia Thố nhìn Thẩm Mặc, hình như y đang nghiêm túc lắng nghe, nhưng hai mắt thanh minh, trong lòng không khỏi thầm than một tiếng. Hắn lại tiếp tục nói với hai cha con:
- Không chỉ có vô lượng thọ, còn có thể nhiều của cải. Cho dù không tiếp tục tu hành nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật nói, thế giới cực lạc phương tây lại gọi là thế giới ngọc lưu ly. Ngọc lưu ly là thứ gì? Người thế gian chúng ta nói là ngọc bích. Mặt đất ở đó là ngọc bích, phía trên lát hoàng kim, phòng ốc để ở do thất bảo tạo thành. Thất bảo là gì? Kim ngân, lưu ly, xa điệp, mã não. Ngươi muốn cái gì, muốn ăn cái gì, chỉ cần động niệm sẽ sinh ra thứ ngươi muốn. Sau khi ăn xong, không cần, lập tức sẽ không có nữa, cũng không cần rửa chén, cũng không cần thu dọn. Nó liền biến đi không còn, quy về không. Cái này gọi là đại tự tại.

- Còn có vô lượng tướng, thế gian này của chúng ta quý tướng của người có 32 loại, ba vị đều ở trong đó. Nhưng phật ở trên kinh nói cho chúng ta biết, thế giới cực lạc phương tây người có vô lượng tướng, tướng có vô lượng hảo. Cho dù tướng tốt nhất, phú quý nhất trên thế giới này của chúng ta cũng phải xếp chung với người hạ phẩm vãng sinh của thế giới cực lạc phương tây. Hắn tựa như một ăn mày, không thể so sánh! Không có dạng nào không vừa lòng đẹp ý. Đây là lợi ích của niệm Phật, chỗ tốt của vãng sinh!

- Điều này...có thật chứ? - Ô Nạp Sở hơi khó tin nói.

- Thực sự, không sai chút nào. Cả đời này ta ở trong đó tận mắt nhìn thấy, người đứng vãng sinh, người ngồi vãng sinh, ta thấy đến mười mấy người, nghe nói thì không biết có bao nhiêu.

Sách Nam Gia Thố trịnh trọng gật đầu, vẻ mặt đó khiến ngươi không tin cũng không được.

- Ta nghe nói, phật sẽ không nói dối? - Ô Nạp Sở nháy nháy mắt nói.

- Phương pháp Phật độ hóa chúng sinh rất nhiều, không cần nói dối tới độ chúng sinh. Lời nói dối có hay phật cũng không nói. Người tu hành chúng ta cũng vậy, trong suốt một đời từng nói dối qua một lần, thì lời nói của hắn sẽ không có ai tin.

Sách Nam Gia Thố gật đầu nói:
- Cho nên ta lập thệ suốt đời cũng không nói dối.

- Thế đời trước của ngươi cũng không nói dối? - Ô Nạp Sở nhìn hắn với ánh mắt trông mong.

- Không. - Sách Nam Gia Thố gật đầu nói.

- Thế đời trước nữa?

- Chúng tôi vốn là cùng một người. - Sách Nam Gia Thố nói.

- Đúng rồi, ta cũng đọc qua kinh thư, biết trong kinh điển nói cho chúng ta biết, người bình thường ba đời không nói dối thì đầu lưỡi có thể liếm đến chóp mũi của mình.

Ô Nạp Sở như con tiểu hồ ly trộm được gà, nở nụ cười giảo hoạt:
- Nếu như ngươi có thể liếm đến chóp mũi của mình thì ta sẽ tin.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 848: Sách nam gia thố


Trong phật đường đàn hương lượn lờ, Thẩm Mặc vẫn đang bưng ly trà, mỉm cười nghe Sách Nam Gia Thố thuyết pháp, thật ra y rất ước ao những người có tín ngưỡng này, bất đắc dĩ mình đã rơi vào ma đạo, đời này sợ rằng không còn cơ hội đi tìm cảnh địa cực lạc đó nữa.

Nhưng khi nghe được Ô Nạp Sở lại muốn Phật sống liếm cái mũi của mình thì y không khỏi thầm mướt mồ hôi thay Sách Nam Gia Thố... Mặc dù y không phải là tín đồ, nhưng đọc nhiều sách vở, biết [Kinh A Di Đà] có nói: 'Phàm phu lưỡi qua chóp mũi, tỏ rõ ba đời không nói dối. Phật là vô lượng kiếp tới nên chưa từng nói dối!' cho nên Sách Nam Gia Thố không thể cự tuyệt.

Thẩm Mặc đành phải khẽ ho một tiếng, nghĩ tạo ra một đường lui cho Sách Nam Gia Thố. Nhưng thấy Phật sống cười tủm tỉm nói:
- Không biết nữ thí chủ tin rồi thì đối với ta có tác dụng gì?

- Làm được rồi...thì ta sẽ quy y. - Ô Nạp Sở khéo cười nói.

- Phật của ta chỉ độ người thành tâm. - Sách Nam Gia Thố cười nói: - Không bằng như vậy đi, nữ thí chủ đáp ứng ta một việc, được không?

Ô Nạp Sở lanh lẹ gật đầu.

- Nữ thí chủ xem đây.

Sách Nam Gia Thố nói xong liền từ từ thè lưỡi ra, dưới ánh mắt chăm chú của ba người, khẽ liếm chóp mũi của mình một cái...

Nặc Nhan Đạt Lạp thè lưỡi ra thử, phát hiện cho dù có nhăn mặt thành cúc hoa cũng không thể làm được. Hắn không khỏi khâm phục:
- Thượng sư quả nhiên là đại đức.

'Cừ thật, thảo nào năng ngôn thiện biện như thế.' Thẩm Mặc không khỏi thầm líu lưỡi, đây là tiêu chuẩn của miệng lưỡi không xương, trăm đường lắt léo.

Về phần Ô Nạp Sở thì nhìn đến ngây người, thì ra trên đời này thật sự có người liếm được mũi của mình?

Sách Nam Gia Thố cố ý dừng đầu lưỡi tại trên mũi chốc lát, đợi ba người đều thấy rõ rồi mới chậm rãi thu lại, cười nói:
- Nữ thí chủ nhìn rõ chưa?

Ô Nạp Sở gật đầu, không lời nào để nói, đành phải áy náy biểu thị thất lễ.

- Thế gian này chúng ta giảng Sa Bà thế giới là thế giới ô nhiễm. Sa Bà thế giới chúng sinh kiên cường khó cảm hóa, nghiệp chướng sâu nặng. Tại Sa Bà thế giới khổ! Chúng sinh trong cái khổ này lại không biết được phương tây có một Niết bàn cực lạc, cho nên phật giới thiệu cho chúng ta. Dựa vào cái gì chúng ta có thể tin tưởng? Bằng phật không nói dối.

Sách Nam Gia Thố liền trang nghiêm nói:
- Không biết ba vị thí chủ có nguyện hao tâm tốn sức nghe ta giảng một đoạn [Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh] không?

- Rất sẵn lòng. - Ba người chắp tay lại nói.

***********

[Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh] nghe nói là Thích Ca Mâu Ni phật sau khi thành đạo trong thiền định tuyên giảng cho các Bồ Tát thượng thừa như Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát khi giải thích vô tận pháp giới, là một trong những kinh điển quan trọng nhất của đại thừa phật giáo, được đại thừa chư tông tôn sùng là 'Kinh trung chi vương' của tuyên giảng đốn giáo viên mãn, được cho rằng là bản giới thiệu về thế giới quan hoàn chỉnh nhất của phật giáo.

Đành phải thừa nhận, 4 tuổi bắt đầu học kinh, 8 tuổi lên đài giảng kinh, đến nay đã phát dương phật pháp 20 năm, Sách Nam Gia Thố quả thật có lý giải thấu triệt đối với kinh học, lại còn miệng lưỡi lưu loát, khiến người nghe không thể tự kềm chế...

Mặc dù đã nói rất thô sơ giản lược, nhưng Sách Nam Gia Thố vẫn nói hết ba ngày mới tính là đưa ba người cưỡi ngựa xem hoa xem qua [Hoa Nghiêm Kinh] một lần.

Nhưng chỉ có loại cưỡi ngựa xem hoa này cũng đã làm cho Nặc Nhan Đạt Lạp hãm sâu vào trong, đợi Sách Nam Gia Thố vừa nói, hắn liền phủ phục dưới chân thượng sư khẩn cầu quy y.

Thấy phụ thân như vậy, Ô Nạp Sở cũng chỉ quỳ xuống khẩn cầu theo.

Quy y là cơ sở nhập môn của Phật tử tu hành. Sách Nam Gia Thố nói cho tín đồ tu tập phật pháp, đầu tiên phải phát bồ đề tâm, xác lập chí hướng thành Phật. Mà khi phát bồ đề tâm lại phân hai loại, Nguyện bồ đề tâm và Hành bồ đề tâm. Cái trước là cơ sở của cái sau, có thể lý giải là nguyện vọng và hành động. Nếu như muốn làm tốt Hành bồ đề tâm thì trước tiên phải có cơ sở của Nguyện bồ đề tâm, mà cơ sở của Nguyện bồ đề tâm chính là quy y.

'Quy y' theo như lời của Phật Giáo Tây Tạng chính là đem thể xác và tinh thần của mình tất cả đều ký thác trên người đối phương, dưới sự chỉ dẫn tu luyện của đối phương đạt được mục đích siêu thoát luân hồi, đăng bỉ cực lạc. Mà trong giáo lí của Phật Giáo Tây Tạng, đối tượng quy y chỉ có thể là tam bảo.

Cái gọi là tam bảo, tức là 'Phật, pháp, tăng'. Phật đà, là dịch âm của 'Giác' trong Phạn văn. 'Giác' là 'Đoạn, lợi, trí', là nhị chướng thanh tịnh, trí tuệ đều viên mãn. Một người đại thành tựu như thế được xưng là phật; 'Pháp' chính là giáo huấn giáo pháp phật đà tuyên giảng; 'Tăng' không phải là tăng nhân bình thường, mà là thánh tăng đã thành tựu, tỷ khưu đã có lĩnh ngộ.

Nói cách khác, ngươi muốn siêu thoát luân hồi, đăng bỉ cực lạc, nhất định phải đem toàn bộ thể xác và tinh thần đều ký thác trên người 'Phật pháp tăng'. Sau khi ngươi quy y phật sẽ không thể tái quy y quỷ thần thế gian; sau khi quy y pháp sẽ không thể tái thương tổn sinh chúng khác; sau khi quy y tăng thì sẽ phải toàn tâm toàn ý bảo vệ hắn, cung phụng hắn, nghe theo giáo huấn của hắn, cẩn tuân dụ lệnh của hắn... Bởi vì hắn là người duy nhất trong tam bảo có thể đối thoại với ngươi, ý của hai người trước đều yêu cầu do hắn tới chuyển đạt, trình bày và phát huy, cho nên 'tăng' chính là người phát ngôn của phật pháp tại thế gian, địa vị của tăng tự nhiên chí cao vô thượng, mỗi một câu tăng nói tự nhiên đều tồn tại như chân lý phật pháp.

Mà thánh tăng có thành tựu là ai? Tự nhiên là Phật sống chuyển thế như Sách Nam Gia Thố rồi.

Những lời này thật sự lợi hại, có thể khiến tín đồ hoàn toàn không để ý tới chính quyền thế tục quyền... Bởi vì các quý nhân của chính quyền thế tục tự thân còn đang trong luân hồi, tự nhiên vô pháp dẫn đạo các tín đồ siêu thoát vãng sinh, chỉ có hoàn toàn nghe theo các thánh tăng tỷ khưu, mới là phương pháp duy nhất được cứu trợ.

***********

Sách Nam Gia Thố đưa tay đặt lên đỉnh đầu Nặc Nhan Đạt Lạp, quán đỉnh cho hắn, cũng sau khi trải qua Phạn âm tụng ca dùng tịnh thủy vẩy lên đầu hắn, tiếp nhận hắn quy y, cũng ban thưởng pháp danh 'Tán khắc lạp ngõa nhĩ', ý tứ là 'Nhân từ như hải'.

Nhưng khi đến Ô Nạp Sở thì Sách Nam Gia Thố lại nhắm mắt lắc đầu nói:
- Nữ thí chủ còn chưa thể quy y.

Ô Nạp Sở trừng con mắt đen lúng liếng nói:
- Vì sao chứ?

- Bởi vì đã quy y phật đà thì sẽ không thể bái chư thiên thần quỷ khác, đã quy y thánh pháp thì phải lấy giáo pháp của phật đà mà hành chỉ, nhất là không thể giết người hại mệnh; đã quy y thánh tăng thì không tin dị giáo bàng môn, cũng không lui tới cùng tội hữu.

- 'Tội hữu' là gì chứ? - Ô Nạp Sở không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của Sách Nam Gia Thố, ánh mắt đó đen kịt sâu thẳm, giống như ẩn chứa vũ trụ ảo diệu, khiến người không sinh ra được ý nghĩ nói dối.

- 'Tội hữu' chính là những người chỉ bảo, dụ dỗ chúng ta thương tổn người khác, không nghe theo nhân quả. - Sách Nam Gia Thố mỉm cười nhìn Ô Nạp Sở nói: - Nữ thí chủ có tội hữu như vậy không?

"..."

Ô Nạp Sở biến sắc vài lần, cuối cùng cúi đầu nói:
- Không có.

- Được, ta tạm tin tưởng thí chủ - Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói: - Tuy nhiên Mật tông có luật, pháp không tuỳ tiện truyền. Cơ duyên của thí chủ chưa tới, lần này ta không thể tiếp thu thí chủ quy y, nữ thí chủ còn phải chịu thêm khổ ải tại nơi hồng trần.

Nặc Nhan Đạt Lạp vừa muốn mở miệng thì thấy thượng sư giơ tay lên rồi nói với Ô Nạp Sở:
- Ta thấy nữ thí chủ tướng mạo bất phàm, tương lai có lẽ liên quan đến phúc lợi của nghìn vạn người, hy vọng thí chủ có thể tự giải quyết cho tốt, đừng rơi vào tà môn ma đạo.

Rồi hắn vươn ngón tay khẽ điểm một cái lên trán Ô Nạp Sở, nàng liền cảm thấy một cổ mát lạnh dọc theo đầu ngón tay của hắn tiến vào đầu rồi một đường xuống phía dưới, qua đầu mũi cằm rồi đến ngực, cuối cùng dừng lại tại tim. Tiếp đó nghe Sách Nam Gia Thố nhỏ nhẹ nói:
- Ta đã để lại một điểm thanh minh trong lòng thí chủ, hy vọng từ nay về sau thí chủ làm gì cũng phải suy nghĩ kĩ, để tránh khỏi hối tiếc cả đời.

Nếu như trước khi nói Ô Nạp Sở còn có thể bảo vệ cho lòng thanh minh, nhưng trải qua ông Phật sống này một phen vân vê kéo thả, nàng không khỏi thất hồn lạc phách, giống như vô hạn tâm sự nảy lên trong lòng.

- Lạp Ngõa Nhĩ, dẫn con gái của ngươi đi nghỉ ngơi trước đi. - Sách Nam Gia Thố phân phó: - Ta và đốc sư đại nhân có lời muốn nói.

- Vâng...

Nặc Nhan Đạt Lạp phủ phục hành lễ, sau đó dẫn con gái lui xuống.

Sách Nam Gia Thố cũng cho hạ nhận lui ra, trong đường chỉ còn lại hắn và Thẩm Mặc. Thẩm Mặc mỉm cười hỏi:
- Thượng sư xem ta có phật duyên không?

Phật sống đi xuống pháp tọa, ngồi ở vị trí của Nặc Nhan Đạt Lạp lúc trước rồi cười nói:
- Đương nhiên là có, thật ra bản thân đốc sư không biết, ngài cũng là một vị tỷ khưu chuyển thế của Hoàng Giáo ta.

- Hả?
Thẩm Mặc ngưng lại ly trà đang bưng trên tay, nhìn Sách Nam Gia Thố nói:
- Vì sao bản thân ta không biết?

- Chuyển thế linh đồng là cần phải có cao tăng tiếp dẫn giáo huấn, tu hành hơn 10 năm mới có thể ngộ được bản thân của mình. - Sách Nam Gia Thố thần bí cười nói: - Mà sư đệ chuyển thế tại Trung Nguyên, giáo ta tại Hán địa bất lực, vô pháp tiếp dẫn sư đệ, cho nên sư đệ vẫn xuất phát từ trạng thái lờ mờ, vô pháp hiểu kiếp trước của mình.

- Ha ha...

Thẩm Mặc đưa ly trà lên môi, chậm rãi hớp một ngụm trà bơ không quen uống lắm, tâm niệm thay đổi chốc lát mới mỉm cười nói:
- Vậy làm sao mới có thể hiểu được kiếp trước?

- Nếu là tuổi nhỏ chưa kịp vỡ lòng, chỉ cần tỷ khưu quán đỉnh là được. - Sách Nam Gia Thố nói: - Nhưng hôm nay sư đệ đã qua cái tuổi lập niên, đã sớm tâm trí thành thục, khó có thể dao động, cố quán đỉnh có thể sẽ nhiễu loạn thần chí của ngươi, không thể làm.

Thoáng dừng lại hắn mới nói:
- Cho nên ngoại trừ bản thân tu hành, không còn con đường nào khác.

"..." Thẩm Mặc gật đầu, biểu thị đã biết.

- Có lẽ sư đệ đang cho là ta đang nói dối. - Sách Nam Gia Thố cười rộ lên nói: - Nhưng ta có thể chứng minh cho sư đệ xem.

- Làm sao chứng minh? - Thẩm Mặc trầm giọng nói.

- Dùng phương pháp Mật tông của ta. - Sách Nam Gia Thố càng cười đến thần bí hơn: - Thế nhưng muốn sư đệ phải hoàn toàn cởi mở tâm linh với ta, bởi vì mặc dù sư đệ chưa từng tu luyện, nhưng dù sao cũng là tỷ khưu chuyển thế, tinh thần hết sức cường đại, trừ phi sư đệ chủ động buông ra, bằng không ta cũng không thể giúp được.

Thẩm Mặc nhíu mày một cái rồi xòe ra, tâm tình trở nên có chút phức tạp... Mặc dù y không tin quỷ thần, nhưng đối phương dù sao cũng là thánh tăng một phương của Phật Giáo Tây Tạng, mãi cho đến 500 năm sau vẫn được giáo đồ cuồng tin, thủ đoạn đạo hạnh đều tuyệt đối không thể khinh thường. Vô ý thức nghĩ muốn cự tuyệt, rồi lại mơ hồ cảm thấy đối phương sẽ không hại mình, bởi vì nó đối với hắn không có chỗ tốt gì.

Thấy y trầm ngâm, Sách Nam Gia Thố cũng không nóng nảy, chỉ đốt thêm một cây Tạng hương rồi cắm ở giữa hai người.

'Mà thôi...' Thẩm Mặc rất nhanh liền minh bạch tình cảnh, lúc này cự tuyệt là không có khả năng rồi, vậy cũng chỉ có cẩn thận ứng phó, nghìn vạn lần không thể trúng kế đối phương. Y liền gật đầu, trầm giọng nói:
- Mời.

Sách Nam Gia Thố vươn tay nói:
- Xin đưa tay phải của sư đệ cho ta.

Thẩm Mặc theo lời vươn tay, Sách Nam Gia Thố nhẹ nhàng cầm lấy, mỉm cười nói:
- Nhắm mắt lại, hít thở từ từ, nghe ta tụng một đoạn kinh văn.

Thẩm Mặc liền nhắm mắt lại, chậm rãi hít thở từ từ, nghe Sách Nam Gia Thố dùng một loại thanh âm trầm thấp dễ nghe ngâm thần bí Phạn âm.

Ban đầu Thẩm Mặc còn bảo trì cảnh giác, nhưng Phạn âm này lấy một loại tiết tấu kỳ quái truyền vào trong đầu y, lại dẫn dắt hô hấp của y từ từ chậm lại. Bất tri bất giác cả người cảm giác mơ màng, yên ả, cũng chìm vào giấc ngủ sâu, nhưng hình như lại rõ ràng minh bạch...Lại giống như trở về với trạng thái trẻ con, sinh mệnh lại bắt đầu một lần nữa. Y thấy được kiếp trước của mình, thuở nhỏ cha mẹ mất sớm, ở trong viện phúc lợi đến 16 tuổi thì thi đỗ vào trường đại học trọng điểm số một số hai toàn quốc, sau khi tốt nghiệp về quê bước vào một cơ quan Chính phủ, 10 năm rèn luyện, rốt cuộc đã đến thời gian xuất đầu, nhưng sau một lần bệnh nặng thì hôn mê, thần kỳ về tới 500 năm trước, trở thành một thiếu niên 14 tuổi tên Triều Sinh. Sau đó từ nỗi đau phụ tử gắn bó đến niềm vui động phòng hoa chúc; từ gian khổ học tập đến đắc ý kim bảng đề danh; từ thân hãm lao tù đến niên thiếu đắc chí; từ lệnh doãn một phủ Giang Nam đến tể chấp Long Khánh triều; từ tiểu tốt thời Nghiêm đảng đến nhất ngôn cửu đỉnh hậu Từ đảng; Từ chiến trường Đông Nam gian nan đến thảo nguyên Tái thượng (phương Bắc ngoài Trường Thành) hào hùng; Từ cùng chung chí hướng đến tính toán nhau trở mặt thành thù...

Từng màn lướt qua, từng đợt vui buồn trùng kích tâm linh y, khiến y khi thì lã chã rơi lệ, khi thì tự than tự vãn...

********

Loại trạng thái giằng co này không biết bao lâu, khi y mở mắt ra thì cây Tạng hương vừa mới cháy rụi. Y thấy Sách Nam Gia Thố đang mỉm cười nhìn mình. Y đưa tay xoa gương mặt mình, phát hiện hình như mình đã trở lại cái thời 18 tuổi, tâm tư thanh minh, sức sống vô cùng.

- Sư đệ đã hiểu ra chưa? - Sách Nam Gia Thố mỉm cười hỏi.

- Ngươi thôi miên ta? - Thẩm Mặc ý thức được dị thường của mình, nhưng cũng không cảm thấy tức giận cái gì.

- Ta chỉ cho sự đệ thấy rõ kiếp trước của mình thôi. - Sách Nam Gia Thố nghiêm mặt nói: - Sư đệ còn chưa rõ mình cũng là chuyển thế sống lại sao?

"..."

Thẩm Mặc đăm đăm nhìn Sách Nam Gia Thố, sau một lát y khẽ cười một tiếng nói:
- Phải thì sao? Ta cũng không làm lạt ma đâu.

- Sư đệ chấp niệm rồi.

Sách Nam Gia Thố mỉm cười nói:
- Sư đệ có thừa nhận hay không, sự thực là ở chỗ này. Trong minh minh tự có nhân quả, thúc đẩy bộ dạng của hai ta, cho nên mới có lần thiên lý gặp gỡ này...

Rồi hắn đột nhiên quát lên:
- Sư đệ, ta đến là vì tiếp dẫn cho ngươi đấy!

Trong đầu Thẩm Mặc ông một tiếng, trong nháy mắt này y cảm giác như mình đã bị nhìn thấy. Y biết Mật tông có rất nhiều pháp môn thần bí, cũng tin tưởng Phật sống chuyển thế có chỗ ảo diệu của nó. Càng quan trọng là, bí mật bản thân y thực sự là làm người hai thế hệ hình như bị đối phương vạch trần rồi... Lẽ nào phải quy y thật?

Thế nhưng, cho dù nhìn thấu thì sao? Đối với chính khách thì nói dối không chớp mắt đó là tố chất cơ bản không quan tâm không quan tâm sự thực làm sao, mình nói phải thì phải, không phải cũng phải, nói không phải là không phải, phải cũng không phải. Dù sao thì, chỉ cần không ở trước mặt mọi người bị bóp họng thì cái khác đều là phù vân.

Cho nên phục hồi tinh thần lại từ trong chấn động lúc đầu, Thẩm Mặc liền bắt đầu nhanh chóng vận chuyển đầu óc, phân tích tiền căn hậu quả của việc này... Đầu tiên mình khẳng định không phải là thánh tăng chuyển thế gì sất. Mình trước sau hai đời người, tuổi quá nửa trăm, thấy tiểu cô nương trẻ tuổi xinh đẹp còn nhịn không được nghĩ lung tung nữa mà, thánh tăng chuyển thế lẽ nào có đức hạnh này? Huống chi, cho dù mình là thánh tăng thì sao? Lẽ nào cùng hắn về miếu lạt ma quy y xuất gia thật?

Có thừa nhận hay không thì có gì khác nhau? Thẩm Mặc không khỏi cười tự giễu rồi nắm giữ tư tưởng của mình lần nữa. Cho dù đối phương nhìn thấu mình thì sao, hiện tại mình cũng nhìn thấu đối phương... Sách Nam Gia Thố, tương lai người này không chỉ là một trong ba vị cao tăng được người kính trọng, còn là một chính trị gia trác việt!

Trong đầu Thẩm Mặc nhanh chóng xẹt qua tư liệu Tạng địa mà Quân tình ti thu thập được...

Phật Giáo Tây Tạng giáo phái san sát, trước kia có bốn giáo phái chủ yếu dựa theo trang phục cùng màu sắc kiến trúc phân hồng, bạch, hoàng, hắc tứ giáo. Mà phái Cách Lỗ (Hồng giáo) do nhất đại thánh tăng Tông Khách Ba đại sư sáng chế giáo lý của nó có nguồn gốc với phái Cát Đương (Hắc giáo), nhưng nó vừa có đặc điểm rõ nét của mình, lại vừa có chế độ quản lý nghiêm mật, cho nên rất nhanh cái sau vượt cái trước, trở thành một trong những phái quan trọng của Phật Giáo Tây Tạng, xưng là tân phái Cát Đương, cũng xưng Hoàng Giáo.

Sự hưng khởi của phái Cách Lỗ không thể tránh sẽ nhận được các giáo phái khác cùng chính quyền thế tục ủng hộ họ căm thù và xa lánh. Hơn nữa phái Cách Lỗ mới thành lập bởi vì căn cơ văn hóa xã hội còn chưa vững chắc, chỉ có thể sinh tồn dưới cánh chim của Xiển Hóa Vương thống trị Lạp Tát (Lhasa). May lịch đại Xiển Hóa Vương thờ phụng phái Cách Lỗ, hơn nữa giáo phái của nó xác thực có chỗ phái của hắn không bằng, bởi vậy phát triển rất lớn mạnh, chùa miểu trải rộng khắp địa khu hậu Tạng.

(Xiển Hóa Vương: Phong tước của Minh triều đối với thủ lĩnh chính quyền Mạt Mộc Trúc Ba (gọi tắt là Mạt Trúc) - Tây Tạng. Lúc đó là một trong Tạng tộc ngũ vương.)

Nhưng mà ngày vui ngắn chẳng tầy gang, theo Xiển Hóa Vương đời thứ 8 -- Trát Ba Kiên Tán của Mạt Trúc vương tộc qua đời, nội bộ vương tộc vì tranh đoạt quyền kế thừa mà phát sinh nội chiến, thế lực của Mạt Trúc vương tộc từ thịnh mà suy. Không lâu sau Nhân Bạng Ba gia tộc lấy trọng thần và ngoại thích hai tầng thân phận can thiệp kế thừa vương vị, thay quyền chính vụ, thậm chí dùng võ lực uy hiếp vương thất. Nhân Bạng Ba gia tộc không chỉ ở trên chính trị phản bội Mạt Trúc vương tộc, trên tôn giáo cũng liên kết với Hồng giáo, bài xích, đả kích phái Cách Lỗ.

Tình cảnh của Phái Cách Lỗ chuyển biến bất ngờ, thoáng đã đến sát biên giới của sinh tử tồn vong. Dưới áp lực sinh tồn bức thiết yêu cầu một cơ cấu lãnh đạo ổn định, để toàn bộ tăng chúng của phái Cách Lỗ đoàn kết lại quanh nó, cùng đấu tranh với các thế lực đối địch. Vì vậy, phái Cách Lỗ đầu tiên áp dụng biện pháp để cho các nhân vật lãnh tụ của họ chuyển thế kế thừa nhau, do đó tránh được nguyên nhân nội bộ vì cướp đoạt quyền lãnh đạo mà gây nên tranh cãi, đạt được một tập đoàn lãnh đạo vững chắc. Hơn nữa bởi người lãnh đạo trước sau ở trên danh nghĩa là một người, quan hệ giữa người với người của hắn có thể danh chính ngôn thuận kế thừa tiếp, tư cách của hắn cũng có thể nâng lên địa vị trên quý tộc thế tục, càng dễ dàng chu toàn với các quý tộc lãnh chúa.

Sau khi chế độ 'Phật sống chuyển thế' xác lập, địa vị của phái Cách Lỗ rốt cuộc vững chắc, cũng dưới sự lãnh đạo của 'Phật sống' Căn Đôn Gia Thố có năng lực chính trị cao siêu trợ giúp Mạt Trúc vương tộc đuổi đi Nhân Bạng Ba từ Lạp Tát, cũng đạt được địa vị chủ trì Kỳ nguyện đại pháp hội. Căn Đôn Gia Thố còn tiến hành một loạt cải cách chính trị, khiến phái Cách Lỗ tổ chức càng nghiêm mật, càng có lực ảnh hưởng chính trị.

Nhưng mà lý tưởng còn chưa biến thành hiện thực thì Căn Đôn Gia Thố viên tịch, khiến giáo phái một lần nữa rơi vào nguy cơ. Điều này khiến cho thượng tầng phái Cách Lỗ quyết định tiếp tục chấp hành chế độ chuyển thế Phật sống, đem lựa chọn chuyển thế linh đồng xem như là đại sự quan hệ đến tồn vong của giáo phái. Trải qua tìm kiếm, rốt cuộc đã tìm được một đứa bé lý tưởng, hắn chính là Sách Nam Gia Thố ở trước mặt Thẩm Mặc.

Căn cứ điều tra tỉ mỉ của Quân tình ti, gia tộc thế tục của Sách Nam Gia Thố có quan hệ mật thiết với Mạt Trúc vương tộc, mà không phải là gia đình tiểu nông nô phái Cách Lỗ tuyên bố với bên ngoài...Cha ruột của hắn đảm nhiệm chức vị quan trọng trong chính quyền tại Lạp Tát, mẹ hắn còn là chi chính của Mạt Trúc vương tộc, hơn nữa hai phu thê đều là tín đồ phái Cách Lỗ.

Đến lúc này, điểm khác nhau giữa phái Cách Lỗ và các giáo phái khác đã triệt để hiển hiện -- đó chính là tính chính trị mạnh mẽ!

Khi Sách Nam Gia Thố trưởng thành, tiếp nhận chức vụ lãnh tụ phái Cách Lỗ thì tình thế lại hết sức bất lợi đối với giáo phái của hắn -- mặc dù Nhân Bạng Ba gia tộc bị đuổi xuống đài, nhưng mà chính quyền Mạt Trúc đã cực kỳ suy sụp, một gia tộc quyền thế khác là Tân Hạ Ba gia tộc nhân cơ hội nắm quyền. Gia tộc này vẫn còn ủng hộ Hồng giáo, không chỉ trả lại tư cách chủ trì Kỳ nguyện đại pháp hội cho Hồng giáo, còn cấm tăng lữ phái Cách Lỗ tham gia đại pháp hội.

Phái Cách Lỗ lần thứ hai bị biên duyên hóa tại Lạp Tát. Vì sinh tồn, bọn họ tận hết sức lực tìm kiếm người giám hộ và người ủng hộ mới trên chính trị và quân sự của mình, để thoát khỏi loại quẫn cảnh bị kỳ thị, xa lánh thậm chí chết yểu này. Thế nhưng địa khu Tây Tạng đã không có thế lực có thể đảm nhiệm được nữa.

Đúng lúc này, Yêm Đáp hãn cường thế kinh doanh Thanh Hải, thực lực nó thể hiện vượt xa bất cứ một thế lực nào tại Tạng khu, rất nhiều tăng chúng của Tạng tộc đã quy phụ hắn. Rất hiển nhiên, phái Cách Lỗ đưa ánh mắt tìm kiếm hậu đài đặt lên người hắn... Vấn đề là, mặc dù con trai của Yêm Đáp - Bính Thỏ Đài Cát đóng ở Thanh Hải đã quy y đạo Lạt-ma, Yêm Đáp cũng không bài xích loại tôn giáo này, nhưng cũng không cho phép hắn truyền bá trong dân chúng.

Căn cứ vào tình báo tin cậy, cậu của Sách Nam Gia Thố là A Hưng lạt ma đã bí mật đến Hồi Hột để cầu kiến Yêm Đáp, nội dung đàm thoại cụ thể thì không được biết, nhưng kết quả là Yêm Đáp đã tôn sùng A Hưng lạt ma là thượng khách, cũng phái con trai của mình Bính Thỏ Đài Cát mời Sách Nam Gia Thố đến Hồi Hột gặp mặt, nhưng Sách Nam Gia Thố không có đáp ứng ngay.

********

Bởi vì hầu như đồng thời, lời mời đến từ tể tướng Đại Minh cũng đặt ở trước mặt Sách Nam Gia Thố.

Mặc dù mấy năm nay Yêm Đáp hãn bị vương triều Đại Minh lấy hết mặt mũi, cũng rút ra hết tứ vệ của Minh triều tại tái ngoại Thanh Hải, chỉ còn lại một Tây Ninh Vệ. Nhưng Tạng địa dù sao vẫn cung phụng Đại Minh là chủ -- lúc trước Vĩnh Lạc hoàng đế tại Tạng địa phong tam đại pháp vương, phân lĩnh đạo Lạt-ma; phong hộ giáo ngũ vương, phân lĩnh Tạng địa, cũng cho phép họ định kỳ triều cống... Bởi vì triều đình từ trước đến nay tuân theo chính sách triều cống 'mỏng tới dày đi', thật ra đã chỉ rõ cho họ chỗ tốt, để đổi lấy họ ngoan ngoãn nghe lời. Cho nên từ Vĩnh Lạc đến nay, lãnh tụ tăng chúng Tạng địa tranh nhau triều cống, mặc dù tăng thêm gánh vác tài chính cho quốc gia, nhưng chính là bởi vì loại truyền máu này khiến cho Minh và Tạng địa vẫn gắn bó quan hệ chủ thần.

Đến cái hẹn của Yêm Đáp hay là cái hẹn của Đại Minh, nếu như là người bình thường nói chung sẽ lựa chọn người trước, dù sao lúc đó Đại Minh còn chưa biểu hiện ra ý đồ thu phục Hà Sóc, căn cứ vào tư tưởng chỉ đạo 'Huyện quan không bằng hiện quản', cũng sẽ trước tiên đặt một bên lời hẹn của Đại Minh, để tránh khỏi chọc giận Yêm Đáp.

Nhưng là một lạt ma chính trị mạnh nhất trên lịch sử, Sách Nam Gia Thố không mắc phải hồ đồ, vừa mới cử hành quân duyệt hắn liền hỏi tăng lữ trú kinh mượn hệ thống dịch truyền của Đại Minh mà đến, cũng đưa ra phán đoán Minh triều khả năng sẽ có đại động tác, cho dù không có đại động tác cũng có đại quyết tâm. Tại giờ phút quan trọng này, nếu hắn không để ý đến lời mời của tể tướng Đại Minh, đi đến cuộc hẹn với Yêm Đáp -- đại địch của Minh triều, không thể nghi ngờ sẽ cái được không bù đắp đủ cái mất... Chí ít Sách Nam Gia Thố cho là như vậy.

Vì vậy hắn lực bài chúng nghị, lập tức trả lời Đại Minh, vui vẻ khởi hành.

Trước khi xuất phát, A Hưng lạt ma, người chủ trương cùng Yêm Đáp gặp mặt có chút lo lắng hỏi:
- Bên Yêm Đáp hãn nên trả lời thế nào?

- Gia Cát Lượng còn phải ba lần đến mời cơ mà. - Sách Nam Gia Thố bác học đáp: - Vừa mời tới ngay, bản giáo bị coi nhẹ, ngày sau địa vị cũng chịu ảnh hưởng.

- Vậy, không sợ bị Đại Minh coi nhẹ sao? - A Hưng lạt ma thầm nghĩ ngươi không nghĩ đến hai phương diện sao?

- Ta đoán, lần này tể tướng Đại Minh cùng chúng ta không mưu mà hợp, chúng ta lại không dự định truyền giáo tại Hán địa, không cần thiết làm ra vẻ. - Sách Nam Gia Thố thản nhiên nói: - Huống chi quan viên của Thiên triều thượng quốc rất thích hư vinh, ngươi kính hắn một thước, hắn sẽ trả lại ngươi một trượng, chúng ta không chịu thiệt đâu.

Đến nửa đường hắn mới biết Đại Minh xuất binh Hà Sóc, cũng thuận lợi lấy được thành Đông Thắng, bắt Tế Nông Mông Cổ làm tù binh. Sách Nam Gia Thố ngoài may mắn cũng càng thêm vững tin phán đoán của mình... Đại Minh là muốn mình hoàn thành việc trên chiến trường làm không được rồi.

Sách Nam Gia Thố sẽ không cự tuyệt, bởi vì nếu có sự ủng hộ của Đại Minh, hắn truyền giáo trên thảo nguyên sẽ thành như hổ thêm cánh. Nếu như có thể thu phục người Mông Cổ, lại cùng Đại Minh làm tốt quan hệ, phái Cách Lỗ không phải vì sinh tồn mà phát sầu, mà phải suy nghĩ làm sao lãnh đạo toàn Tạng rồi.

Bất kể là phương hướng nào, là tể tướng Đại Minh, người chỉ huy cửu biên, Thẩm Mặc đều là nhân vật then chốt để Sách Nam Gia Thố thực hiện mục đích, nếu như có thể quy y người này, đại sự có thể thành!

Cho nên ngay từ đầu Sách Nam Gia Thố liền đem mục tiêu đặt ở trên người Thẩm Mặc, nhưng mà đối phương hiển nhiên không có cảm tình gì với tôn giáo, mình hao hết tâm lực, nói đến ba hoa thiên địa... Vì miêu tả phương tây cực lạc, thậm chí mượn dùng thuyết pháp của tịnh thổ tông cũng chỉ vì có thể đem y quy y. Bất đắc dĩ ba ngày liền, hai cha con kia đã bị tẩy não vài lần mà Thẩm đốc sư vẫn nghiêm túc nghe giảng này lại vẫn chỉ lấy ánh mắt thưởng thức đáp lại, trên thực tế là thờ ơ.

Đối với loại phần tử ngoan cố chỉ dựa vào miệng lưỡi vô pháp thuyết phục này Sách Nam Gia Thố đành phải xuất tuyệt chiêu. Bắt đầu một ngày hắn liền chậm rãi bố cục, đầu tiên là lợi dụng tình cảnh Nặc Nhan Đạt Lạp quy y, lại dùng mấy ngày qua quan sát lời nói và việc làm của Ô Nạp Sở cho ra kết luận, nghiêm khắc chấn động một chút tâm phòng bị của Thẩm Mặc. Thấy y vẫn là thờ ơ, đành phải dùng tới chân ngôn mật pháp, kết hợp An Hồn chi hương thôi miên đối phương, để y trong hoàn cảnh thôi miên cảm thụ thế giới cực lạc phương tây... Sau khi y phục hồi tinh thần lại, lại lấy ngôn ngữ cực giàu tính đầu độc, thậm chí lấy sư tử hống để khiến y quy y.

Nhưng mà, kết quả, thằng nhãi này không ngờ vẫn không chịu quy y, đây vẫn là lần đầu Sách Nam Gia Thố bố pháp điểm hóa mười mấy năm qua. Hắn tức giận thiếu chút nữa phạm phải sân giới.

Nhưng dù sao hắn cũng là cao tăng chuyển sinh ba đời, nét mặt không chút dị dạng nói:
- Sư đệ vốn là tỷ khưu đã có lĩnh ngộ, tự nhiên có pháp môn tu hành của mình. Xem ra đời này sư đệ đã quyết định phải tu hành trong triều rồi.

Đoạn hắn như hiểu ra cười nói:
- Cũng đúng, đang ở công môn tu hành tốt mà, sư đệ chỉ cần kiên định, nhất định tiến triển cực nhanh, thật sự khiến ta ước ao chết mất... Chỉ là phải ghi nhớ kỹ, cô gắng ít dính dáng tới nhân quả, làm việc thiện nhiều!

- Đa tạ sư huynh chỉ bảo. - Thẩm Mặc cũng thấy nên thu lại, mắc cho đối phương một bậc thang: - Ngày sau còn phải nhờ sư huynh chỉ giáo nhiều hơn.

- Chỉ giáo chưa nói tới, chỉ đem một số thứ sư đệ quên cho trả lại cho sư đệ thôi. - Sách Nam Gia Thố cười nói: - Bộ công pháp lúc nãy lát nữa ta sẽ truyền cho sư đệ. Mỗi ngày luyện một lần, có thể giúp mình bách bệnh bất xâm, thần thanh mắt sáng, bất kể tương lai sư đệ làm cái gì cũng rất có ích lợi.

- Công pháp này có thể biết được nội tâm người khác sao? - Thẩm Mặc cười hỏi.

- Đương nhiên không thể. - Sách Nam Gia Thố nhìn y một cái, cười nói: - Trái tim người có linh hồn thủ hộ, cho dù tiến nhập vào loại trạng thái huyền diệu cũng sẽ vô ý thức bảo hộ tâm linh của mình. Có lẽ có pháp thuật tà đạo có thể cưỡng mở ra được thủ hộ, nhìn được nội tâm người. Nhưng hai ta là tỷ khưu, nếu quy y phật pháp thì sao có thể nhúng chàm tà ma ngoại đạo chứ?

Hắn giới thiệu rõ ràng như thế hiển nhiên không chỉ là vì để cho Thẩm Mặc lý giải, còn có chối bỏ ý của mình:
- Pháp này chỉ có thể dẫn đạo ngươi trở lại nguyên trạng, lúc nào cũng lấy cái tâm hài đồng để tu chỉnh sai lầm trên phẩm hạnh của mình.

- Thế thì có hơi đáng tiếc. - Thẩm Mặc cười rộ lên nói: - Tuy nhiên cũng tốt, người có quyền lợi che giấu bí mật của mình.

- Đúng vậy. - Sách Nam Gia Thố gật đầu, cười nói: - Chỉ là bí mật của sư đệ có hơi nhiều đấy.

- Ha ha ha...
Thẩm Mặc cười nói:
- Lẽ nào sư huynh không có bí mật?

- Người tu hành phải có xích tử chi tâm (tấm lòng con đỏ). - Sách Nam Gia Thố lắc đầu cười nói: - Phải tri vô bất ngôn, ngôn vô bất tẫn, mới có thể nhị chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) thanh tịnh, không ngại tu hành.

Lời này không thể nghi ngờ tuyên bố đấu pháp kết thúc, tiến nhập chính đề.

- Thật chứ? - Thẩm Mặc tự nhiên nghe ra rồi, trong lòng y quả thật rất bội phục cách nắm được, bỏ được của Sách Nam Gia Thố. Y cũng không khách khí, mỉm cười nói: - Vậy ta muốn hỏi, đầu năm, A Hưng lạt ma vì sao phải đi thảo nguyên.

- Là ta phái hắn đi. - Sách Nam Gia Thố quả nhiên thẳng thắn nói: - Vì để thuyết phục Yêm Đáp tiếp thu bản giáo.

- Kết quả thì sao? - Thẩm Mặc hỏi.

- Yêm Đáp hãn đã quy y rồi. - Sách Nam Gia Thố có chút buồn bực liếc y một cái, thầm nghĩ, lạt ma dưới ta cũng có thể đối phó Yêm Đáp, hiện tại bản tọa tự thân xuất mã lại không bắt được ngươi, thật sự quá không nể tình mà. Hay là nói Phật Giáo Tây Tạng ta trời sinh không thích hợp với người Hán?

Đại khái vào 20 năm trước, Yêm Đáp suất quân thảo phạt người Ngoã Lạt tại Thanh Hải, rất nhanh đạt được thắng lợi. Trên đường hồi quân Yêm Đáp hãn đã gặp phải một nhánh đội ngũ người Tạng, thấy họ chở đầy hàng hóa thì còn ngại gì nữa? Thế là toàn bộ thương đội đã thành tù binh của hắn.

Đối với người Mông Cổ lấy chiến đấu mà sống thì lần cướp bóc này thật sự không đáng nhắc tới. Dựa theo lệ cũ, tài vật cùng tù binh sẽ được phân phối, trở thành tài sản và nô lệ của bộ hạ Yêm Đáp hãn. Nhưng trong thương đội có hơn 100 tăng nhân áo đỏ nón vàng, lạt ma dẫn đầu yêu cầu được gặp Yêm Đáp.

Xuất phát từ hiếu kỳ, cùng cảm giác thân thiết nói không rõ, Yêm Đáp đã đáp ứng. Vị phật đồ đọc đủ thứ kinh thư đó gặp được Yêm Đáp hãn liền biểu đạt với hắn lời chúc phúc của Phật tổ, cho hắn biết những tù binh trước mặt hắn không phải có thể trở thành nô lệ của hắn, bởi vì bọn họ đã hiến thân với Phật tổ vĩ đại cả rồi. Đồng thời hắn nói ra cái tên làm cho Yêm Đáp chấn động -- đại nguyên quốc sư Bát Tư Ba. Họ là đệ tử của Bát Tư Ba.

Đây là tăng lữ từ sau Nguyên triều diệt vong người Mông Cổ lần đầu tiên tiếp xúc với Phật Giáo Tây Tạng. Có lẽ là lời nói của các phật đồ làm cho Yêm Đáp hãn cảm thấy chấn động và cũng bình tĩnh lại. Có lẽ là tôn trọng đối với tôn giáo mà tổ tiên đã từng tôn sùng, Yêm Đáp hãn thả những lạt ma này ra.

Sau đó song phương liền về nhà mình, không có liên hệ gì nữa.

Thế nhưng 20 năm sau, tăng lữ năm đó thuyết phục Yêm Đáp -- A Hưng lạt ma, lại đến thăm vương thành của Yêm Đáp.

Mặc dù xa cách 20 năm nhưng Yêm Đáp hãn vẫn bị thuyết phục bởi phong độ và thành kính của tăng lữ uyên bác này, bởi vậy cũng không phản cảm đối với lạt ma. Trong nghi hoặc hắn lần thứ hai tiếp kiến A Hưng lạt ma, hỏi đối phương ý đồ đến đây.

- Hiện thế hóa thân của Bát Tư Ba đại sư đã thức tỉnh, hắn phái ta đến đây nói cho Khả Hãn, ngài chính là hóa thân của Tiết Thiền hãn kiếp này!" - A Hưng lạt ma nói rõ điểm chính.

Tiết Thiền hãn đó là Hốt Tất Liệt, năm đó Nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt sắc phong Bát Tư Ba là quốc sư để giúp đỡ chính quyền Tát Già, mà phật giáo cũng bị Hốt Tất Liệt phá vỡ truyền thống, thay đổi nguồn suối tâm linh của chế độ kế thừa hãn vị. Song phương hợp tác chặt chẽ, đã thành lập cơ chế giáo hội.

Những lời này đối với Yêm Đáp hãn như đề hồ quán đỉnh, khiến hắn giống như đã tìm ra được ngọn đèn sáng dẫn đường!

Kiếp này Yêm Đáp tiếc nuối lớn nhất là cái gì? Cũng không phải không thể cùng Minh triều thông biên hỗ thị, mà là ngôi vị đại hãn toàn Mông Cổ mà bản thân thủy chung đau khổ theo đuổi nhưng không cách nào đạt được. Hắn nỗ lực hơn nửa cuộc đời mà không thể được đền bù sở nguyện, là hắn không có đủ thực lực sao? Phóng nhãn Mông Cổ, ai có thể đánh một trận được với dũng sĩ dưới trướng của hắn? Là hắn không đủ khôn ngoan sao? Đồ Môn hãn bị đuổi đến Sát Cáp Nhĩ so sánh với hắn tựa như gà rừng và hùng ưng. Nhưng vì sao đối phương vẫn là đại hãn được Mông Cổ công nhận mà mình thì thủy chung không thể thay thế được chứ?

Nguyên nhân chỉ có một, mình xuất thân chi thứ, mà đối phương là chính thống chết tiệt. Cái chính thống chó má này mặc dù không đáng một đồng nhưng có thể làm cho anh hùng ôm nỗi hận cả đời. Tựa như phụ thân của hắn, con thứ ba của Đạt Duyên Hãn, Tế Nông Mông Cổ Ba Nhĩ Tư Bác La Đặc. Sau khi Đạt Duyên Hãn chết, đứa cháu Bác Địch tuổi nhỏ tự xưng đại hãn, nhưng dẫn tới các huynh đệ khác không phục. Đợi Bác Địch sau khi thành niên liền cùng nhau bức phụ thân của hắn thoái vị, đem Hán tặng cho chính thống.

Phần nhục nhã này khiến phụ thân của Yêm Đáp không gượng dậy nổi, rất nhanh trong một tiếng cười nhạo vội vàng qua đời. Điều này cũng kích thích Yêm Đáp khi còn nhỏ tuổi, từ đó hắn cả đời nam chinh bắc chiến, đông phạt tây thảo, liều mạng làm mình lớn mạnh, chính là nghĩ có một ngày có thể thực hiện tâm nguyện chưa toại của phụ thân, trở thành đại hãn chân chính của toàn Mông Cổ!

Mấy năm nay, thế lực của hắn từ Thượng Cốc cho đến Cam Lương trải dài nghìn dặm, trở thành thủ lĩnh tối cao trên thực tế của nam bắc đại mạc, chỉ còn kém đại hãn cái mũ miện. Muốn chân chính thay thế được đại hãn, 'vĩnh viễn đứng đầu chư bộ phương bắc', cản trở duy nhất chính là quan niệm truyền thống 'chế độ con trưởng kế thừa của Hãn thống' -- các bộ lạc Mông Cổ vẫn còn tôn hãn đình của Sát Cáp Nhĩ là chính thống, kiên quyết không muốn thay đổi địa vị. Hắn lại ngại tình máu mủ không thể hạ thủ độc ác với Đồ Môn hãn luôn tránh xa. Thế là cứ thế kéo dài, mắt thấy tóc mai đã nhiễm sương, anh hùng trì mộ, lý tưởng trong lòng vẫn khó có thể thực hiện.

Vì đạt thành nguyện vọng hắn đã thành lập quốc gia của mình tại Hồi Hột -- Kim quốc, tự xưng Kim quốc Khả Hãn. Đối với sự thành lập của chính quyền này, bất kể là Đại Minh hay là Hãn đình của Mông Cổ phản ứng đều hết sức lãnh đạm. Điều này làm cho Yêm Đáp ngoài an tâm lại cảm thấy hết sức thất vọng, thì ra họ đều coi chính quyền này như một trò cười... Đúng vậy ngay cả bản thân ta cũng không tin Kim quốc Khả Hãn này có thể thay thế đại hãn Mông Cổ đã khát vọng từ nhỏ. Lẽ nào bởi vì mình xuất thân chi thứ mà cuộc đời này đã định trước không thể trở thành chính thống sao?

Thế nhưng sự xuất hiện của A Hưng lạt ma, thuyết pháp mà hắn mang đến làm cho Yêm Đáp thoáng cái thì đã tìm được vũ khí đối phó với lực lượng truyền thống... Nếu như ta làm cho tôn giáo này truyền khắp thảo nguyên, tôn giáo mà mọi người quy y có thể chứng minh ta là hóa thân của thế tổ, tâm nguyện của mình không phải là đạt thành rồi sao?

Nghĩ tới đây, Yêm Đáp hãn niên cận cổ hi (~70t) trở nên hưng phấn, hùng tâm đang tiêu tan lại hội tụ trên người. Liên tiếp vài ngày, Yêm Đáp hãn cùng A Hưng lạt ma diện đàm, nghe hắn tường tận giải thích hàm nghĩa cụ thể của 'Tam bảo, lục đạo, bát giới' phật giáo, giới thiệu kinh điển phật giáo [Cam Châu Nhĩ] và [Đan Châu Nhĩ].

Yêm Đáp hãn bị hấp dẫn thật sâu, khi A Hưng lạt ma đi thì hắn đã quy y Hoàng Giáo, trở thành tín đồ của phái Cách Lỗ. Hắn khẩn cấp hy vọng có thể nhìn thấy Sách Nam Gia Thố, hy vọng Bát Tư Ba kiếp này có thể dành cho mình lực lượng xưng hãn. Nhưng trước khi nghênh tiếp Phật sống thì phải có chỗ ở, vì vậy Yêm Đáp hạ lệnh dốc toàn lực kiến tạo một tòa miếu lạt ma rộng lớn tại Hồi Hột.

Trên thảo nguyên thiếu thốn tài nguyên, xây dựng một tòa miếu lạt ma huy hoàng tất phải cần bóc lột đối với người Hán tại Bản Thăng, mâu thuẫn từ từ trở nên gay gắt. Nhưng vì tâm nguyện suốt đời Yêm Đáp vẫn khư khư cố chấp. Năm nay miếu lạt ma sắp sửa kiến thành, hắn liền phái đoàn đặc sứ do Bính Thỏ Đài Cát dẫn đầu mang theo rất nhiều lễ vật quý giá đi đến Tạng cung thỉnh Sách Nam Gia Thố đến Mông Cổ truyền giáo.

Thấy Yêm Đáp nhiệt liệt hưởng ứng, Sách Nam Gia Thố tự nhiên rất là mừng rỡ, ngay khi hắn suy nghĩ có khởi hành hay không thì lời mới của Thẩm Mặc đã đến.

**********

- Đây là toàn bộ gặp gỡ giữa ta và Yêm Đáp hãn.

Sách Nam Gia Thố là một người có chừng mực, phía sau tiến nhập chính đề hắn không thần bí nữa mà lấy chân thành nói:
- Về phần có tuyên bố quan hệ giữa Yêm Đáp hãn và Tiết Thiền hãn hay không thì đương nhiên còn phải nghe ý kiến của triều đình.

Trở lại chính sự, Thẩm các lão chấp chưởng càn khôn đã lại trở về, y khẽ hớp một ngụm trà bơ rồi thản nhiên nói:
- Việc đó có quan hệ rất lớn tới sự nghiệp của quý giáo sao?

Sách Nam Gia Thố gật đầu:
- Truyền giáo từ trên xuống dưới có thể làm ít công to; mà truyền giáo từ dưới lên trên không chỉ sẽ làm nhiều công ít, còn có thể bởi vì khuyết thiếu sự bảo hộ của chính quyền thế tục mà trả giá rất nhiều máu, thậm chí dẫn đến thất bại... Đây là kinh nghiệm phái ta dùng nhiều năm trắc trở để đổi lấy.

Rồi hắn thẳng thắn nhìn sang Thẩm Mặc nói:
- Nhưng chỗ hỏng từ trên xuống dưới ở chỗ thủ lĩnh của chính quyền thế tục phần lớn là người hùng tài vĩ lược, sẽ không chỉ bởi vì yêu thích của cá nhân mà cho phép truyền giáo, chỉ có đưa ra lý do khiến họ tâm động mới được.

- Yêm Đáp là chuyển thế của Nguyên thế tổ. - Thẩm Mặc khẽ cười nói: - Mặc dù ta chưa thấy qua Yêm Đáp, nhưng nghĩ đến hắn rất thích thuyết pháp này.

Sách Nam Gia Thố gật đầu nói:
- Triều đình có lo lắng bởi vậy hắn sẽ kiêu ngạo hay không?

- Cái nhìn của sư huynh thì sao? - Thẩm Mặc hỏi ngược lại.

- Không biết. - Sách Nam Gia Thố thành khẩn nói: - Ngã phật từ bi, nếu có thể hóa giải lệ khí nhất ta sẽ tận hết sức mình, khiến họ có thể kính cẩn nghe theo, bãi binh giảng hòa cùng triều đình, vĩnh viễn không vi hoạn.

- Ta tin tưởng. - Thẩm Mặc gật đầu nói: - Đây cũng là một tâm nguyện ta mời sư huynh đến đây.

Rồi y nhìn sang Sách Nam Gia Thố nói:
- Nếu sư huynh thẳng thắn tương đối, vậy ta cũng ngôn vô bất tẫn...Đối với chuyện phái Cách Lỗ truyền giáo tại Mông địa triều đình sẽ hết sức ủng hộ.

Sách Nam Gia Thố nghe xong không có lộ ra hỉ sắc nhiều lắm, hắn đang chờ câu "nhưng mà" của Thẩm Mặc.

Quả nhiên, liền nghe Thẩm Mặc dừng một chút mới nói:
- Nhưng mà, triều đình có ba kiến nghị, hy vọng sư huynh suy nghĩ.

- Sư đệ nói quá lời rồi. - Sách Nam Gia Thố nghiêm mặt nói: - Triều đình có phân phó, sư huynh sao dám không theo?

- Sẽ không khiến sư huynh khó xử đâu. - Thẩm Mặc nở nụ cười tỏa nắng: - Kiến nghị thứ nhất, đó là hy vọng có thể bình đẳng đối đãi với các bộ Mông Cổ.

Sách Nam Gia Thố gật đầu, ý bảo y nói tiếp. Thẩm Mặc liền nói:
- Kiến nghị thứ hai, hy vọng công tác phiên dịch kinh Phật từ Tạng chuyển Mông sẽ do Lễ bộ Đồng Văn quán cung cấp hỗ trợ; cái cuối cùng, mời sư huynh tại thời gian thích hợp hoà giải trận chiến tranh này, để cho giữa Hán Mông vĩnh viễn được sống trong hòa bình.

Nghe xong Thẩm Mặc nói, Sách Nam Gia Thố thật lâu không nói, ba yêu cầu này của đối phương đều có mục đích chính trị rất sâu... Thứ nhất, là muốn phòng ngừa Yêm Đáp thực sự dưới sự ủng hộ của phái Cách Lỗ trở thành đại hãn Mông Cổ nhất thống thảo nguyên; thứ hai, là muốn giáo lí truyền vào Mông Cổ có lợi với triều đình; thứ ba, là hy vọng phái Cách Lỗ trở thành cầu nối hòa bình giữa Mông Hán, mà không phải là giúp đỡ người Mông Cổ đối phó người Hán, cũng không muốn tự chui đầu vào rọ, dưỡng hổ di hoạn.

Đã hiểu mưu đồ của Thẩm Mặc, Sách Nam Gia Thố cũng có chút hiếu kỳ, muốn biết đối phương có tự tin từ đâu... Yêu cầu thứ hai còn dễ nói, về phần thứ nhất và thứ ba thì cho dù hiện tại đáp ứng, mình hoặc là người kế nhiệm bằng mặt không bằng lòng, thậm chí trợ Trụ vi ngược, thế thì triều đình có biện pháp nào chứ?

- Người ngay không nói lời mờ ám. - Nghe ra nghi vấn của đối phương, Thẩm Mặc trầm giọng nói: - Đại Minh đã hạ quyết tâm, toàn lực nâng đỡ hoạt động truyền giáo của Phật Giáo Tây Tạng tại những nơi Tạng Mông Thanh Hải, cũng thay đổi sách lược chia để trị trước kia, chỉ ủng hộ một phái Cách Lỗ.

Tuy Sách Nam Gia Thố định lực siêu nhân, nghe xong lời nói của Thẩm Mặc vẫn nhịn không được tinh thần rung lên, chắp hai tay niệm thanh phật, rồi lại cẩn thận hỏi:
- Không biết triều đình... Vì sao coi trọng phái Cách Lỗ ta, không dối gạt sư đệ, thật ra tình cảnh của phái Cách Lỗ cũng không tốt đẹp.

Thẩm Mặc thầm nghĩ, nếu ngươi đã tốt đẹp rồi thì ta tìm không được ngươi đâu. Nhưng không thể nói như vậy, y khẽ than một tiếng nói:
- Đại Minh kiến quốc 200 năm, cùng các bộ Mông Cổ cũng đánh 200 năm, kết quả ngoại trừ vô số nam nhi chết trận sa trường, bách tính lưỡng tộc nhiều lần trải qua trắc trở, quốc lực dân lực kiệt quệ, ngoài ra không có một kết quả tốt nào... Vẫn không ai làm gì được ai.

Nói đoạn y thở dài một hơi:
- Hiện tại, đã đến lúc hỏi một câu, vì sao nhất định phải ngươi chết ta sống, lẽ nào đôi bên không thể hoà thuận ở chung sao?

Sách Nam Gia Thố lại tuyên một tiếng phật hiệu, ánh mắt nóng bỏng nhìn Thẩm Mặc nói:
- Sư đệ còn nói mình không phải là tỷ khưu chuyển thế sao?

Rồi hắn nói với vẻ mặt cảm thán:
- Nếu như có thể hóa giải trường cừu hận trăm năm này, khiến Mông Hán như Tạng Hán hòa bình ở chung, phần công đức này đủ để sư đệ đại công cáo thành rồi.

- Chỉ hy vọng như thế.

Thẩm Mặc cười gượng một tiếng, nói tránh đi:
- Trải qua nhiều năm suy tư, ta ý thức được, ngoại trừ ở trên quân sự làm cho đối phương kính nể, chỉ có thể dùng kinh tế và văn hóa hai tay này để đạt được mục đích. Về phần cái trước ta sẽ tại thời gian thích hợp thúc đẩy Mông Cổ thông cống hỗ thị, cũng trợ giúp họ thoát khỏi bần cùng; cái sau thì so ra hao tổn tâm trí hơn cái trước. Trước tiên ta suy nghĩ đương nhiên là Nho học, nhưng muốn lĩnh hội tư tưởng nho gia thì ít nhất trong bụng có chút trí thức. Cái này tại Hán địa còn khó có thể phổ cập, càng đừng nói tới Mông địa.

- Vậy cũng chỉ có mượn tôn giáo. Hán địa có đạo giáo cũng có phật giáo, nhưng đều giáo lí hàm hồ, tổ chức sơ tán, không chịu nổi trọng trách, càng bởi vì thân phận người Hán của nó nên không thể đạt được người Mông Cổ tán thành.

Thẩm Mặc nhìn Sách Nam Gia Thố một cái nói:
- Trải qua một phen tìm kiếm, ta phát hiện Phật Giáo Tây Tạng từng là quốc giáo của Mông Nguyên đế quốc. Đây không thể nghi ngờ có thể khiến đám người Mông Cổ trong đầu toàn là vinh quang tổ tiên kia tiếp thu quý giáo.

Khẽ ho một tiếng, y nói tiếp:
- Về phần vì sao từ ngũ phái của quý giáo chọn ra phái Cách Lỗ. Đây là bởi vì theo ta được biết, những năm gần đây các giáo phái của Phật Giáo Tây Tạng hoành hành không hợp pháp, giới luật buông thả tăng nhân hủ hóa đi xuống, đã xuất hiện hiện tượng 'chán chường uể oải', hiển nhiên không chịu nổi trọng trách.

- Mà tân Hoàng Giáo của Tôn Khách Ba đại sư sáng chế lại xóa bỏ được bầu không khí bất lương của các giáo phái khác. Giáo quy nghiêm ngặt, ràng buộc tăng lữ, dạy người hướng thiện, dĩ hòa vi quý, rất được bách tính Tạng tộc tán thưởng và tôn sùng.

Thẩm Mặc khen:
- Mặc dù tình cảnh hiện nay còn chưa lạc quan, nhưng ta tin tưởng, tương lai của quý giáo cuối cùng sẽ huy hoàng!

Giọng điệu của Thẩm Mặc thành khẩn mà lại thành thực, khiến người rất khó không tin lời y nói. Sách Nam Gia Thố rốt cuộc nở nụ cười nói:
- Đa tạ cát ngôn của sư đệ! Ta bảo chứng với triều đình và sư đệ, phàm là nơi phật quang soi sáng sẽ không cho phép phát sinh việc tổn hại với Đại Minh!

- Sư huynh nhân đức, quả thật là may mắn của tam tộc!

*********

Song phương giờ đã tính là đạt thành nhận thức chung, Sách Nam Gia Thố hết sức thoả mãn, thái độ đối với triều đình tự nhiên càng thêm kính cẩn:
- Kế tiếp làm sao, cứ theo sư đệ phân phó.

- Tộc nhân của đồ đệ sư huynh mới thu hình như gặp phiền toái rất lớn. - Thẩm Mặc thản nhiên nói: - Trước kia ta đã đáp ứng giúp họ vượt qua cửa ải khó khăn, nhưng hiện tại ta muốn tặng nhân tình này cho sư huynh, không biết sư huynh có nguyện ý nhận nó hay không?

- Cứu 1 mạng người còn hơn xây thất cấp phù đồ. - Sách Nam Gia Thố chắp hay tay nói: - Cực kỳ nguyện ý.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 849: Phong dữ đình


Sau khi cùng triều đình đạt thành nhận thức chung, Sách Nam Gia Thố liền đi cùng với 1000 lạt ma chuẩn bị xuất phát. Nặc Nhan Đạt Lạp lo lắng cho tộc nhân của mình, nhưng chung quy cảm thấy Đại Minh không có khả năng thả mình trở về, cho nên khi Thẩm Mặc gọi hắn đến phòng Thiêm áp, hỏi hắn là có muốn tiếp tục đợi ở Du Lâm hay là đi về cùng các lạt ma, hắn có chút khó tin nói:
- Không phải là đốc sư đại nhân đang đùa ta đấy chứ?

- Ta đùa ngươi làm gì? - Thẩm Mặc khép sách lại, cười nói: - Đám lạt ma này mặc dù lòng đầy nhiệt tình, nhưng chung quy là nhân sinh địa không quen, không có người chủ nhà là ngài chiếu ứng, khẳng định từng bước khó khăn...

Nói đoạn Thẩm Mặc đứng dậy đi tới trước mặt hắn, mỉm cười nói:
- Ngài là Tế Nông của Mông Cổ, tại Hán địa giống như con hùng ưng bị buộc cánh, có thể làm được gì chứ? Cứ trở về đi, dẫn dắt tộc nhân của mình thoát khỏi khốn cảnh, bước trên con đường hòa bình hạnh phúc.

Lúc này Nặc Nhan Đạt Lạp mới xác định Thẩm Mặc thực sự không phải là nói đùa, trong lòng hắn không khỏi dâng lên cảm động, khàn giọng nói:
- Đa tạ đại nhân tín nhiệm, ta định không phụ nhờ vã.

- Sự tồn vong của tộc nhân, trọng trách hòa bình, tất cả đều đặt lên vai ngươi. Trọng trách của Tế Nông rất nặng, áp lực cũng tự nhiên rất lớn. - Thẩm Mặc nắm tay hắn: - Cần phải đứng vững trước áp lực. Chúng ta cùng nhau vì hòa bình Mông Hán mà phấn đấu!

- Ừh.

Nặc Nhan Đạt Lạp cũng cầm chặt tay Thẩm Mặc, động tình nói:
- Ta lấy danh nghĩa của Phật tổ phát thệ, đời này kiếp này quy thuận Đại Minh, tuyệt không làm bất cứ việc gì trái với đại nhân.

- Ta cũng lấy tổ tiên của mình phát thệ. - Thẩm Mặc trầm giọng nói: - Đối xử bình đẳng giữa người Mông và người Hán, toàn lực vì hòa bình vĩnh viễn của song phương, đưa người người Mông Cổ có được cuộc sống giàu có yên ổn!

Sau khi thề non hẹn biển, Thẩm Mặc đưa Nặc Nhan Đạt Lạp ra ngoài cửa, vừa thấy Ô Nạp Sở trong bộ võ sĩ phục màu đỏ tía cổ tròn, ống tay bó, đai lưng da trâu thặt chặt khiến vòng eo càng có vẻ thon nhỏ, hấp dẫn ánh mắt người. Ngày hôm nay nàng không đội loại quan mạo của Mông Cổ mà dùng cây trâm buộc mái tóc lên, trán quấn khăn khảm lục bảo thạch, nổi bật dưới cổ áo lông cừu nhung trắng mịn, đôi mắt càng sáng trong, tư thế oai hùng hiên ngang.

Trong tụ điểm quân sự thiết huyết trang nghiêm, nữ tử này tựa như một đóa tuyết liên hoa sáng rực, ngay cả Thẩm Mặc cũng nguyện ý nhìn thêm hai lần.

Thấy được ánh mắt thưởng thức của Thẩm Mặc, Nặc Nhan Đạt Lạp cười hỏi:
- Đại nhân cảm thấy con gái của thế nào?

- Rất tốt. - Thẩm Mặc mỉm cười nói: - Chung Kim Biệt Cát như vì tinh tú của thiên địa, rất có phong thái của nữ tử không thua đấng mày râu, quả thật là niềm kiêu hãnh của Tế Nông đấy.

- Đúng vậy. - Nhìn con gái, Nặc Nhan Đạt Lạp nở nụ cười kiêu ngạo: - Cả đời này điều ta kiêu ngạo nhất chính là nuôi được một đứa con gái tốt như thế.

Đang nói thì ánh mắt của hắn lại trở nên phức tạp:
- Con gái là bảo bối của ta, khối mỹ ngọc ta yêu thích nhất. Từ ngày nó trưởng thành, cả ngày ta suy nghĩ nên tìm cho con gái mình một người nam nhân thế nào thì mới có thể xứng đôi với nó.

- Ba...

Ô Nạp Sở mặc dù không sợ trời không sợ đất, nhưng chung quy là con gái, bị cha mình rao bán cũng xấu hổ đến đỏ mặt, có chút không nghe theo rồi.

"A." Nụ cười của Thẩm Mặc có hơi phức tạp, y nhìn Ô Nạp Sở nói:
- Chung Kim có lương phối chưa?

Mấy ngày này gặp mặt không ít, y và Ô Nạp Sở đã quen thuộc rồi, hỏi cái này cũng không tính thất lễ.

- Vẫn chưa. - Nặc Nhan Đạt Lạp ngạo nghễ nói: - Không phải là người làm cha này của mình mình quý, thật sự là trên thảo nguyên này, sau Yêm Đáp rất lâu đã không có anh hùng rồi, giới thanh niên không ai đáng để mắt hết.

Hắn không quản con gái đang ở bên nhéo hông mình thế nào, đăm đăm nhìn Thẩm Mặc nói:
- Lần này đến Hán địa, vốn tưởng vốn tưởng rằng mình có đến mà không có về, nhưng may mắn gặp được đại nhân, đối đãi ta như thượng khách, giúp ta như cha mẹ, phong tư khí độ, trí tuệ hàm dưỡng của đại nhân thật sự là ta bình sinh khó gặp. Ta nghĩ, đại nhân chính là người ta vẫn muốn tìm...

Thoáng dừng lại, hắn như đã hạ quyết tâm rất lớn:
- Nếu như đại nhân không chê, ta sẽ gả con gái cho đại nhân!

Lời vừa nói ra, trong viện tức thì có thể nghe được tiếng kim rơi, ngay cả các vệ sĩ huấn luyện có tố cũng không khỏi bắt đầu thất thần... Thầm nghĩ người này thật không biết thẹn, không ngờ rao bán cả con gái mình, sợ rằng ông trời cũng nguyền rủa hắn nửa đời sau làm hòa thượng thôi.

*******

- Ba...

Người thứ nhất định thần lại nhưng là Ô Nạp Sở, nàng đỏ bừng mặt, hàm răng cắn chặt môi dưới phúng phính:
- Không phải ba nói là hôn sự của con gái sẽ do bản thân làm chủ sao?

Xem ra chuyện này chưa có thương lượng qua trước, nàng tự nhiên trở tay không kịp.

- Là do con không có chủ ý nghiêm chỉnh.
Nếu nói ra rồi, Nặc Nhan Đạt Lạp đương nhiên phải giữ lập trường của mình:
- Tự nhiên ta phải giúp con quyết định rồi...

Hắn nhe răng cười nói với khuê nữ:
- Tin tưởng cha, nam nhân ưu tú hơn Thẩm đốc sư còn chưa sinh ra đâu.

- Ba thích thì tự ba gả đi. - Chung Kim cũng ngăn không nổi xấu hỗ tức tối nữa, giậm chân một cái nói: - Con sẽ không gả cho người Hán...

Nói xong không quản đến an toàn của cha mình nữa, nàng chạy đi ra ngoài mất.

- Con bé này...
Mắt thấy không thấy bóng nàng đâu nữa, Nặc Nhan Đạt Lạp xấu hổ cười nói với Thẩm Mặc:
- Thật ra nó vẫn rất có giáo dưỡng, chỉ là da mặt mỏng, xấu hổ thôi.

- Ha ha...
Thẩm Mặc lúc này mới từ trong tiết mục 'quái đại thúc chiếm đoạt tiểu la lỵ' định thần lại, cười khổ nói:
- Chẳng lẽ Tế Nông muốn chiếm tiện nghi của ta?

- Chỉ giáo cho? - Nặc Nhan Đạt Lạp khó hiểu nói.

- Vốn là hai ta lấy huynh đệ xưng hô. - Thẩm Mặc cười nói: - Sao đột nhiên muốn ta gọi ngài là nhạc phụ rồi?

- Ôi, ý ta không phải vậy...

Nặc Nhan Đạt Lạp rất sợ Thẩm Mặc sẽ hiểu lầm.

- Đương nhiên ta biết. - Thẩm Mặc nghiêm mặt nói: - Trước đây cũng chưa có giới thiệu qua với Tế Nông, thật ra trong nhà ta đã có thê thiếp, nữ nhân thành đàn...

Khóe miệng nhếch lên nụ cười tự hào lại bất đắc dĩ:
- Hai tiểu tử lớn nhất của ta qua năm tới đã 14 rồi, nếu như lớn thêm 2 tuổi nữa, không cần Tế Nông nói, ta đã sớm cầu kết thân gia với ngài rồi.

- Sao ta gánh vác được chứ.

Cũng không biết Nặc Nhan Đạt Lạp là quá thành thật, hay là rất muốn Thẩm Mặc gọi mình một tiếng cha, hắn cười ha ha nói:
- Tuổi tác chênh lệch tính cái gì? Cáp truân nhỏ nhất của ta cũng bằng tuổi Chung Kim, mà cũng rất hạnh phúc đó thôi.

Cáp truân là ý chỉ phu nhân.

- Tế Nông diễm phúc không cạn, thật khiến người ước ao đó. - Đầu óc Thẩm Mặc triệt để thoát khỏi đào sắc, khôi phục thanh tỉnh nói: - Nhưng ta thật sự không thể không cố kỵ được...

Đoạn y hạ giọng nói:
- Thẩm mỗ là thần tử, được hoàng đế bệ hạ tin cậy, tiết chế cửu biên, dưới trướng trăm vạn tinh nhuệ, tuỳ cơ ứng biến, thủ tướng tài thuế mấy tỉnh... Người Hán chúng tôi có câu, là 'Cây to đón gió, chỗ cao hút phỉ báng', nói chính là người như ta đấy.

- Lúc này ta lực chủ biến chiến tranh thành tơ lụa, đã dẫn tới nhóm Thanh Lưu Ngôn quan trong triều hết sức bất mãn.

Thẩm Mặc khẽ than một tiếng nói:
- Nếu như ta lại cưới con gái của Tế Nông, sợ rằng lập tức sẽ bị đạn chương của họ chôn sống mất. Danh dự cá nhân của ta là chuyện nhỏ, đại sự nghị hòa giữa Hán Mông bị hủy mới là chuyện tuyệt đối không nên!

- Thế thì...

Khuê nữ người ta cũng không phải không gả được, nghe Thẩm Mặc nói vậy rồi Nặc Nhan Đạt Lạp tự nhiên sẽ không cưỡng cầu nữa. Hắn có chút bất mãn nói:
- Xem ra là ta suy nghĩ không chu toàn, chỉ nghĩ tìm cho con gái một nam nhân tốt, nhưng lại quên chính sự.

- Thương thay tấm lòng cha mẹ thiên hạ. - Thẩm Mặc cười ôn hòa nói: - Mà ta quả thật không phải là lương phối gì đâu. Chung Kim có lẽ nên tìm một thanh niên tuấn ngạn tuổi tác tương đương, mà không phải là gả cho kẻ cây khô quạ chiều như ta.

- Nếu đại nhân mà là cây khô quạ chiều.
Tâm tình Nặc Nhan Đạt Lạp chuyển biến tốt rất nhanh, hắn nhìn khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn của Thẩm Mặc, cười nói:
- Thế thì thanh niên thiên hạ không còn sống nữa rồi.

Tốt xấu cũng không có làm đối phương mất mặt, Thẩm Mặc đưa Nặc Nhan Đạt Lạp ra ngoài viện. Khi quay lại trong phòng thì thấy Vương Sùng Cổ đang ngồi ở trên kháng, y lắc đầu quầy quậy nói:
- Đáng tiếc đáng tiếc...

- Đáng tiếc một đoạn nhân duyên tốt nhỉ.

Trong khoảng thời gian này sớm chiều ở chung, làm cho quan hệ giữa hai người cải thiện rất nhiều, đã đến mức độ có thể tùy ý nói đùa rồi. Vương Sùng Cổ cười nói:
- Ta thấy ngươi rất gượng ép, chắc hiện tại tim như bị đao cắt chứ gì?

- Cô nương tốt không nhiều, cứ để lại cho thanh niên đi.

Thẩm Mặc cười mắng rồi cầm lấy khăn lông ấm lau mặt, lại ngồi đối diện với Vương Sùng Cổ:
- Huống chi đóa hoa hồng này không chỉ có gai, chắc còn có độc nữa, nếu như ta trẻ đi 10 tuổi, nhất định sẽ đi tìm kích thích chơi. Hiện tại, một nam nhân tam không như ta sao còn tư cách chơi cái này?

Khi nói lời này, trong lòng y hiện lên nữ tử như hoa Mạn Đà La kia. Kết quả của trò chơi tình ái vốn tưởng là cao xa đó không chỉ thương tổn đôi bên, còn khiến những người khác lâm vào thống khổ, cuối cùng chỉ có thể tương vong thiên nhai, đã thành vết sẹo không thể tiếp xúc trong cuộc đời này của y.

Thấy Thẩm Mặc thoáng cái đã tinh thần sa sút, Vương Sùng Cổ biết y nhất định nhớ tới chuyện cũ đau lòng gì, hắn đành phải kết thúc đề tài:
- Tính ta lắm miệng, nhưng 'tam không nam nhân' là gì?

- Không thời gian không tinh lực không không gian. - Thẩm Mặc lặng lẽ cười nói: - Không nói lung tung nữa, nói chính sự đi.

- Ừm.

Vương Sùng Cổ gật đầu, thu hồi nét mặt vui cười.

- Bên Thích Kế Quang đã báo nguy lương thảo rồi, hắn đã thúc dục vài lần, yêu cầu vận chuyển lương thảo đến.

Thẩm Mặc nhìn Vương Sùng Cổ nói:
- Ta nghĩ lần này mượn cơ hội hộ tống lạt ma chuyển lương thảo qua cho họ.

- Lúc trước mang theo lương ba tháng. - Vương Sùng Cổ nhỏ nhẹ nói: - Hiện tại ít nhất còn có nửa tháng, hơn nữa ngưu dương thu được hẳn là có thể duy trì qua tháng giêng mà, cứ chờ người Mông Cổ không cầm cự nổi mà rút về Hà Bắc rồi mới tính.

- Nếu như họ vẫn không rút thì sao? - Thẩm Mặc thở dài, cầm một phong thư trên bàn rồi đưa cho Vương Sùng Cổ nói: - Đây là Quân tình ti vừa mới đưa tới, còn chưa kịp cho ngươi xem.

Vương Sùng Cổ cầm lấy xem, tức thì biến sắc nói:
- Yêm Đáp vẫn là xuất thủ rồi.

- Nếu như hắn thấy quân đội Hà Sóc vẫn còn thờ ơ, chẳng phải tâm phúc đại hoạn vài chục năm của Đại Minh ta rồi còn gì. Lần này hắn vét sạch lương thảo trợ giúp Hà Sóc, mặc dù đối với các bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư như muối bỏ biển, nhưng nếu tập trung cung cấp phù hợp thì cũng có thể duy trì một hai tháng... Cho nên chúng ta muốn chờ họ chủ động lui thì khả năng không lớn đâu." - Thẩm Mặc nói.

- Nhưng hiện tại đường đến Đông Thắng tuyết đã rơi ngập đầu gối, xe hoàn toàn không thể đi được.

Vương Sùng Cổ sắc mặt nghiêm túc nói:
- Trên vạn chiếc chiến xa truy trùng xa trong thành Đông Thắng cũng thành đồ bỏ đi; không có chiến xa kết doanh, làm sao chúng ta chống đối người Mông Cổ tập kích ban đêm? Cho dù chúng ta có trọng binh bảo hộ, họ không đi đoạt, nhưng phóng hỏa đốt chúng ta thì luôn làm được.
Rồi hắn gằn từng chữ:
- Hơn nữa ta có thể khẳng định, họ vẫn không chịu trở lại, chính là đang đợi cơ hội này.

- Nói không sai, nhưng hiện tại chúng ta có biện pháp rồi. - Thẩm Mặc cười thần bí nói: - Phật sống trong miếu An Tây pháp lực vô biên, có thể giúp chúng ta vận quân lương đến Đông Thắng.

- Mấy ngày này đại nhân chắc không phải bị lạt ma kia... Rồi chứ? - Vương Sùng Cổ không tin nói: - Hắn nói thế nào, chuẩn bị dùng xe gỗ, hay là khai đàn làm phép?

- Cũng không phải. - Thẩm Mặc cười nói: - Thật ra người ta đã sớm chuẩn bị cho tốt rồi, đừng nói với ta là ngươi không chú ý tới.

- Đại nhân là nói lạc đà đầy thành đó hả?

Thẩm Mặc vừa nói, Vương Sùng Cổ đã nghĩ tới đội lạc đà gần đây cuồn cuộn không ngừng đến Du Lâm bảo. Chủ nhân của đội lạc đà này, có người Tạng người Mông người Hán, nhưng có một điểm giống nhau đó là đều thờ phụng Hoàng Giáo... Đương nhiên, dựa theo giáo lí của người ta chính là thờ phụng vị Phật sống trong miếu An Tây đó. Vương Sùng Cổ đã hiểu ý của Thẩm Mặc:
- Đại nhân muốn dùng lạc đà vận chuyển quân lương?

- Đúng vậy.
Thẩm Mặc dùng giọng điệu tán thưởng giải thích:
- Giống lạc đà này thật sự là tạo hóa của thiên địa...Tứ chi dài, đủ dẻo dai, to bự, đặc biệt thích hợp đi trên mặt đất lầy. Ngươi nhất định biết, nó có mỹ danh con thuyền trên sa mạc, nhưng chưa hẳn biết, nó thật ra còn là cao thủ trên tuyết.

- Cái này chưa biết thật, nhưng ta biết nó đi khá chậm. Nếu không Yêm Đáp, Thổ Man, Ngột Lương Cáp đều không nuôi giống này chứ? - Vương Sùng Cổ nói.
( Ngột Lương Cáp: Cách gọi của người Minh đối với người Mông Cổ Mạc Bắc phía Đông)

Thẩm Mặc nói:
- Lạc đà đi quả thật rất chậm. Cho dù ở trên mặt tuyết cũng không thể so được với ngựa thảo nguyên chân ngắn, nhưng không bằng được khả năng chịu vất vả như nó. Lạc đà có thể dưới tình huống chở nặng 400 cân, mỗi ngày đi trên mặt tuyết 120 dặm, liên tục đi bốn ngày, vừa lúc có thể đi được một vòng vừa đi vừa về.

- Hơn nữa nó còn có chỗ tốt, một lần ăn no có thể mấy ngày không ăn. Như vậy chỉ cần khi xuất phát cho ăn no một lần, trên đường đi lại không cần cho ăn nữa, cho nên cũng không cần mang theo cỏ khô. So với la ngựa cũng một tải trọng, vật tư vận chuyển nhưng lại nhiều hơn.

- Xem ra đại nhân nghiên cứu đã lâu rồi, sao không nói sớm cho ta biết? - Vương Sùng Cổ có chút oán trách nói.

- Vẫn chưa làm rõ có được hay không thì sao dám vội vã nói ra? - Thẩm Mặc cười giải thích: - Vạn nhất nếu như không được, chẳng phải làm trò hề cho thiên hạ rồi?

- Được thôi, cuối cùng một vấn đề. - Vương Sùng Cổ hỏi: - Ứng phó thế nào với người Mông Cổ tập kích ban đêm?

- Đám súc sinh này còn có một diệu dụng hạng nhất. - Thẩm Mặc cười nói: - Trên đầu gối và trước ngực sinh ra chất sừng rất dày, rất thích hợp quỳ ngồi trên mặt đất, cho dù gặp phải cuồng phong cũng sừng sững bất động. Các thương nhân liền lợi dụng đặc tính này, khi cắm trại hoặc khi gặp phải thời tiết xấu sẽ đem lạc đà xếp thành một vòng để thủ. Hiệu quả rất tốt. Năm đó khi Mông Nguyên diệt Hoa Lạt Tử Mô (Xorazm: Quốc gia cổ đại nằm phía tây Trung Á ngày nay), diệt Kim diệt Tống đều dùng biện pháp này để cắm trại, được xưng là "Hãi thành".

Đoạn y cười nói:
- Đương nhiên ta cũng tùy miệng nói thế thôi, về phần có thể hay không thì, đội áp vận do Đông Thắng phái tới đã về Thần Mộc bảo rồi, chắc ngày mai Hồ Thủ Nhân có thể tới chỗ này, còn phải để cho họ tới ước định.

Vương Sùng Cổ gật đầu nói:
- Chuyện quan hệ trọng đại, quả thật phải ổn thỏa tốt hơn.

4 vạn Phục Sóc quân trở về từ biên ngoại thì phân nửa trước khi xuất phát nghỉ ngơi tại Định Sóc Bảo, một nửa còn lại nghỉ ngơi tại Thần Mộc bảo. Hồ Thủ Nhân và Lý Thành Lương lĩnh binh chỉ mang theo mấy trăm hộ vệ, vội vã chạy tới Du Lâm bảo bái kiến đốc sư đại nhân.

Thẩm Mặc và họ đều là quen biết đã lâu, mặc dù cách xa nhau chưa tới mấy trăm dặm, nhưng là phân tiền tuyến và hậu phương, mấy tháng không gặp nên lúc này đặc biệt thân thiết. Chuyện khác cứ đặt một bên trước, cứ phải rượu thịt mà khoản đãi bọn hắn một phen.

Đến khi cơm no rượu say rồi Thẩm Mặc mới hỏi tường tận việc tiền tuyến, mặc dù mỗi ngày y đều xem quân báo, còn có mật tấu của Quân tình ti, nhưng việc quân đội cứ phải nghe bản thân đương sự nói thì mới càng rõ ràng hơn.

- Trong thành Đông Thắng tất cả đều mạnh khỏe. - Lý Thành Lương là người đi ra từ trong phủ của Thẩm Mặc, khi nói đều có vẻ tùy ý: - Chỉ là hơi tốt quá rồi.

- Là sao? - Thẩm Mặc cười hỏi.

- Tổ tiên của Thích soái khẳng định là một thợ ngoã. - Lý Thành Lương lặng lẽ cười nói: - Cả ngày an bài các huynh đệ xây dựng thêm tường thành, xây dựng thành phòng, còn thừa dịp mùa nước khô mở rộng thêm sông hộ thành... Cừ thật, trước kia thành quách 10 dặm, hiện tại phải tới 20 dặm rồi.

- Lão lý ngươi than phiền cũng tận trời rồi, Thích soái đã giải thích qua nhiều lần rồi mà.

Hồ Thủ Nhân xuất thân Thích gia quân, nghe người ta nói xấu đại soái nhà mình, hắn đương nhiên không vui, liền phản bác:
- Làm như vậy là vì xuân tới sau khi khai chiến chúng ta sẽ có được một đại bản doanh vững chắc, thứ hai, cũng có thể làm cho các tướng sĩ bảo trì thể năng, để không sau một mùa đông tất cả đều gỉ sét hết.

- Ta tức thì cũng chỉ tức ở đây thôi. - Lý Thành Lương nghiến răng nói: - Lão Hồ ngươi lĩnh là phúc trọng binh, sửa tường thành là công tác bản chức, đương nhiên làm không biết mệt rồi. Nhưng ta dẫn là kỵ binh! Từ khi xuất biên chỉ đánh một trận như muỗi chích, sau đó đánh Đạt Nhĩ Hỗ Đặc không cần ta, công thành Đông Thắng không dính dáng đến biên... Sau khi đánh hạ thành Đông Thắng ta chủ động thỉnh chiến bao nhiêu lần, nhưng vẫn bị áp chế, cả ngày chỉ biết sử tường thành với sửa tường thành. Ta thấy Thích soái không biết có phải ta không phải là chi chính nên cho ta ra rìa hay không!

- Ngươi nói vớ vẩn gì vậy! - Hồ Thủ Nhân sầm mặt, khẽ quát: - Đừng có mà lấy dạ tiểu nhân do lòng quân tử!

- Là quân tử thì phải thẳng thắn! - Mượn rượu, Lý Thành Lương đem bất mãn tịch tụ cả mùa đông phát tiết ra.

Mới từ tiền tuyến xuống, hai người đều miệng nhạt tếch, bởi vậy bất tri bất giác đã uống hơi nhiều. Vốn còn có thể áp chế rượu mà bảo trì thanh tỉnh, nhưng nộ khí vừa dâng thì xông thẳng lên đầu, hồn nhiên đã quên thân ở đâu, đối phương là ai. Thế là cãi nhau chí chóe, bước tiếp theo liền muốn động thủ rồi.

Lại nghe một tiếng xoảng vang lên, hai người sợ giật mình nhìn lại, là đốc sư đại nhân đã ném bình rượu xuống đất.

Thị vệ lập tức dũng tiến vào trong sảnh, nhìn chằm chằm hai tướng quân đang trọng trạng thái chọi gà. Hai người mới biết việc lớn không tốt, vội vàng quỳ xuống đất thỉnh tội.

- Là ta sai, không nên cho các ngươi uống rượu. - Thẩm Mặc buồn bã thở dài nói: - Quan quân pháp ở đâu?

- Có ty chức. - Một võ tướng tứ phẩm vội vàng tiến đến.

- Chuyện ngày hôm nay nên nghiêm phạt ta thế nào? - Thẩm Mặc thản nhiên nói.

- Việc này...

Quan quân pháp mặc dù mỗi ngày đều phải đưa ra không ít quân pháp, nhưng nào dám định tội đốc sư? Hắn ấp úng nói:
- Đốc sư có tội gì?

- Say rượu trong doanh trại. - Thẩm Mặc nói.

- Đây là hành dinh của ngài, không phải là quân doanh. - Quan quân pháp nói: - Huống hồ lại là buổi tối, không có quy định không được uống rượu.

Lúc này bởi vì chuẩn bị chuyển đi vật tư, Vương Sùng Cổ vừa mới từ bên ngoài trở về biết chuyện vội vã giúp khuyên giải đốc sư đại nhân.

- Nói chung là không đúng. - Thẩm Mặc khoát tay nói: - Nếu như lúc này có quân tình khẩn cấp, chẳng phải hỏng việc rồi sao? Nếu không có quy định, thì án phân nửa tội say rượu trong doanh trại tới nghiêm phạt đi, nên bao nhiêu?

- Vâng..., - Quan quân pháp ấp a ấp úng nói: - Bốn mươi quân côn.

- Được, hành hình đi.

Thẩm Mặc đứng dậy, cởi xuống miên bào xanh trên người, lộ ra áo đơn trắng bên trong, rồi bước nhanh ra ngoài cửa.

Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân lúc này mới định thần lại, vội vàng dài bước tiến lên, mỗi người một bên kéo cánh tay y lại, quỳ xuống đất cầu xin:
- Ngài muốn chúng tôi tự sát tạ tôi sao.

- Sao lại nói thế? - Thẩm Mặc thản nhiên nói: - Mông ta ăn quân côn, có quan hệ gì với các ngươi đâu?

- Ngài cũng đừng làm chúng tôi không còn mặt mũi nào.

Đây vẫn là lần đầu Lý Thành Lương thấy có người tức giận như thế này, trong lòng lại càng sợ hãi. Y đối với bản thân đã nhẫn tâm như vậy, đối với người khác thì đừng nói:
- Côn này cứ để chúng tôi nhận đi, mỗi người 80 cái cũng được.

Hồ Thủ Nhân cũng có suy nghĩ này. Nếu như hắn để Thẩm Mặc ăn gậy, trở lại Thích Kế Quang chắc lột da hắn luôn, vì thế hắn khàn giọng nói:
- Nếu ngài không đáp ứng, mạt tướng chỉ có thể tìm sợi dây treo cổ, không dám gặp ai nữa.

Vương Sùng Cổ cũng được mở mắt, thầm nghĩ vẫn là lần đầu thấy có người tranh chịu đòn.

Thấy bọn họ trái cầu phải xin, Thẩm Mặc mới miễn cưỡng đáp ứng:
- Bỏ đi, một người chịu 20 cái cho tỉnh rượu.

Hai người liền thiên ân vạn tạ, khi xuống đường còn bắt chuyện với thân binh của Thẩm Mặc:
- Đứng đó làm gì, cầm gậy đi.

***********

Đợi tất cả mọi người lui ra rồi, Vương Sùng Cổ vươn một ngón tay cái biểu thị kính ngưỡng đối với Thẩm Mặc. Thật ra hôm nay xung đột giữa Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân mặc dù ngẫu nhiên nhưng cũng có nhân tố tất nhiên của nó. Lâu không xuất chiến dẫn đến tâm tình phiền táo, mâu thuẫn giữa các phe phái khác nhau nổi lên...các loại tâm tình tiêu cực hỗn hợp lại tùy thời cũng có thể gây nên phiền toái lớn... Ở trước mặt Thẩm Mặc cũng dám cạch nhau, điều này hầu như là nhất định.

Cho nên chuyện ngày hôm nay nếu như không xử lý hai người, một khi truyền tới thành Đông Thắng tất sẽ khiến các phương diện càng thêm mất đi ràng buộc, từ đó ấp ủ thành đại họa. Nhưng mà hai người họ dù sao cũng là công thần từ tiền tuyến xuống, đại công chưa thưởng mà đã trừng phạt, tất sẽ khiến hai người không cam lòng, truyền ra ngoài cũng sẽ khiến người khác cảm thấy y thưởng phạt bất công, quá coi trọng quyền uy của mình.

Đừng thấy sự tình không lớn, nhưng xử lý không tốt thì sẽ phiền phức thật. Nhưng ở chỗ Thẩm Mặc thì tuyệt không phải là vấn đề, y có thể khiến cho hai người cầu bị phạt, lĩnh quân côn mà cứ như chiếm được tiện nghi lắm vậy.

- Trước mặt ta mà còn vậy, có thể thấy trong thành Đông Thắng đã thành thế nào rồi.

Trên mặt Thẩm Mặc không hề có vẻ đắc ý, y nói với Vương Sùng Cổ:
- Thích Nguyên Kính mặc dù năng lực trị quân vô song, nhưng dù sao Đại Minh đã nhiều năm không có võ tướng làm thống soái, hắn lo áp lực trong triều đối với ta nên khó tránh khỏi thoải mái làm việc.

Rồi y cười khổ nói:
- Ngươi cho là Thích Nguyên Kính vì sao lại phái hai người họ trở về? Không phải là muốn ta giúp dọn dẹp một chút sao?

- Đại nhân và Thích tướng quân tin tưởng thông cảm nhau, tương lai nhất định lưu truyền thành giai thoại. - Vương Sùng Cổ cười nói.

- Đó cũng phải trước sau vẹn toàn mới được.

Thẩm Mặc buột miệng nói một câu không đầu óc, lại nghiêm mặt nói:
- Xem ra năm tới ta cần phải đến thành Đông Thắng trấn chỉnh cho hắn rồi. Không thể để cho đám kiêu binh hãn tướng làm nhiễu đại kế của chúng ta được.

- Còn bên Du Lâm bảo thì làm thế nào? - Vương Sùng Cổ cười khổ nói: - Hơn 10 vạn dân phu, thuế ruộng mấy tỉnh, còn có loạn mệnh của Bắc Kinh, yêu cầu của Đông Nam, tính toán của Sơn Tây.

Minh thương ám tiến từ bốn phương tám hướng lo không xuể, không phải một tổng đốc tam biên như ta lo được.

- Ngươi đừng vội tự coi nhẹ mình. - Thẩm Mặc cười nói: - Phần lớn rắc rối ngươi đều có thể tự xử lý được, chỉ là không muốn giành danh tiếng của ta, vẫn giấu dốt mà thôi. Ta đi Đông Thắng cũng tốt, để lại cho người sân khấu mà thi triển. Bằng không khi luận công ban thưởng ngươi vẫn chỉ xếp sau. Nếu như không thể lập được uy tín, tương lai sao ta có thể giao trọng trách kinh lược tây bắc cho ngươi được?

- Đại nhân.

Vương Sùng Cổ biết Thẩm Mặc là người nghĩ sâu tính kỹ. Hắn nhiều lời cũng vô ích, chỉ có thể nặng nề gật đầu.

Lúc này, Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân đã ăn xong quân côn đang tập tễnh đi vào. Tố chất sức khỏe của hai người quả thật rất tốt, cũng không cần người đỡ, mông chỉ không ngồi được thôi.

- Lần này các ngươi chịu đánh giúp ta. - Thẩm Mặc bảo hai người nằm lên kháng, quân y đi qua xử lý vết thương cho họ, y ngồi đối diện hai người, nghiêm mặt nói: - Nhưng ta không nhận ân tình này của các ngươi, bởi vì các ngươi làm ta thất vọng quá.

- Nếu không, đại nhân lại đánh chúng tôi một trận nữa đi. - Hai người thần sắc buồn bã nói: - Chứ ngài nói như vậy, còn khó chịu hơn cả ăn quân côn.

- Nếu có thể khai thông được cái đầu gỗ của các ngươi thì ta cũng không ngại cho thêm mấy trăm gậy. - Thẩm Mặc cười lạnh nói: - Nhưng có hữu dụng không? Lời tận tình khuyên bảo ta còn nói ít hả? Trận này có ý nghĩa thế nào, các ngươi đã quên hết rồi sao?

- Không có...

Hai người lắc đầu nói.

- Nói xem. - Thẩm Mặc hạ lệnh.

- Đối với triều đình thì trận này có thể đánh ra an bình 50 năm cho tây bắc, giúp triều đình hàng năm tiết kiệm một phần ba quân phí và lương thảo, có thể rút đi trọng binh kinh lược kế liêu, triệt để tiêu trừ uy hiếp của thiết kỵ Mông Cổ đối với Đại Minh, do đó khiến triều đình có thể buông tay phá cũ lập mới, mở ra bố cục Trung hưng.

Hai người ngươi một câu, ta một câu, thuộc lòng từng chữ đọc:
- Đối với quân nhân chúng ta thì nó càng có ý nghĩa phi phàm, thành tựu cá nhân công lao bất thế, được hưởng quan cao hiển hách, phong thê ấm tử. Cũng có thể khiến địa vị quân đội đạt được đề thăng lớn từ sau sự biến Thổ Mộc bảo. Đại nhân, chúng tôi nói có đúng không?

- Không sai lắm. - Thẩm Mặc gật đầu, hỏi: - Các ngươi có phải cảm thấy nhiêu đó còn chưa đủ phân lượng hay không?

- Đủ rồi, quá đủ rồi. - Hai người vội vàng lắc đầu, cảm thấy không đúng, lại cố gật mạnh đầu.

- Vậy vì sao không thể thu lại chút kiêu ngạo, nhỏ mọn, tật xấu đó của mình, chân thành đoàn kết, vượt qua một cửa này chứ hả?

- Đại nhân, chúng tôi chỉ là nhất thời nóng đầu, tuyệt đối không có lần sau đâu.

- Ta thấy không chỉ là nhất thời nóng đầu đâu? - Thẩm Mặc như ảo thuật cầm ra một sấp văn giản dày rồi trải trước mặt hay người nói: - Đây đều là nóng đầu hả? Ta thấy nên cần uống thuốc hạ nhiệt rồi đó.

Hai người vội vàng cầm lên xem, thấy trên mặt tường tận ghi lại mỗi một lần hai người xung đột từ khi đại quân xuất binh, cùng với phản ứng bọn họ thiên vị bao che khuyết điểm, và hậu quả dẫn tới...Nhìn hai người toát mồ hôi trán, thế mới biết Thẩm Mặc nếu muốn luận quân pháp với họ thật, đừng nói đánh mông, chém đầu cũng được rồi.

- Nội loạn trí suy, kiêu binh tất bại, đạo lý này ta không tin các ngươi không hiểu. - Thẩm Mặc thở dài nói: - Cái gọi là trống vang không cần dùng búa tạ, nếu không muốn có hậu quả gì thì tự tỉ mỉ suy nghĩ, sau này tự giải quyết cho tốt đi.

Nói xong liền đứng dậy rời khỏi.

***********

Ngày hôm sau khi ước định đội tham trú (đội xe ngựa, lạc đà), Lý Thành Lương và Hồ Thủ Nhân hai người đúng giờ mang hai vành mắt thâm quầng xuất hiện ở trên giáo trường. Thẩm Mặc thấy họ đi đứng không trở ngại, chỉ thoáng có hơi chạng chân, y gật đầu ý bảo họ đứng ở cạnh mình.

Kèm với một tiếng pháo vang, 13000 con tham trú dưới sự chỉ duy của trú thủ toàn bộ tập kết trên giáo trường, Sau một trận hỗn loạn, các tham trú đều nằm quanh đại doanh, trên lưng đều xếp rương, lại đem nỉ lông thấm nước che kín. Hỏa thương thủ xếp ở sau trận tham trú, như có vài hàng Phật Lãng Cơ và Hỏa thương thủ nghiêm trận đợi địch, xa xa nhìn lại chỉ một màu đen, như một bức tường sắt.

Sau khi liệt trận, đội kỵ binh của Lý Thành Lương bắt đầu xung phong, vì đạt được hiệu quả, còn đốt mấy trăm dây pháo để có được hiệu quả như chiến trường. Nhưng đám lạc đà đã quen nghe bão cát đại mạc không động đậy chút nào, dù cho các kỵ binh lao tới trước, vung đao trảm rớt đầu mấy con tham trú thật cũng không khiến đà trận hoảng loạn, hơn nữa trú trận là sống, các trú thủ rất nhanh điều chỉnh trận hình, ở phía sau bổ sung chỗ hở. Nếu như là thật thì đội kỵ binh xông lên đó đã sớm bị thương pháo dần nát rồi.

Tiếp theo lại dựa theo yêu cầu của Hồ Thủ Nhân tiến hành thao luyện mười mấy hạng mục, khi thấy trời gần tối đen mới kết thúc. Thẩm Mặc hỏi Hồ Thủ Nhân đã la đến khàn giọng:
- Thế nào?

- Rất tốt, ngoại trừ chỉnh thể phối hợp còn chưa quen, các phương diện rất tốt. - Hồ Thủ Nhân nói: - Thao luyện một chút là có thể giải quyết.

Rồi hắn có chút khó tin nói:
- Không ngờ đám lạc đà này nghe lời vậy. Nếu là ngựa thì đã sớm loạn lên rồi, nhưng chúng nó không nhúc nhích tí nào.

- Bằng không, thương đội trên sa mạc lấy cái gì chống cự với bọn giặc cướp hung dữ?

Thẩm Mặc cười ra tiếng:
- Phải biết rằng, ngày hôm nay đã tập hợp được mấy đội tham trú ưu tú nhất khắp đại tây bắc. Toàn bộ ta giao cho ngươi đấy!

- Nhất định không phụ đại nhân giao phó! - Hồ Thủ Nhân trịnh trọng gật đầu nói.

Thời gian không đợi người, đà đội chỉ có thể huấn luyện ở trên đường. Hai ngày sau, Thẩm Mặc liền cùng Sách Nam Gia Thố tiễn đưa đội ngũ lên đường. Bên Hoàng Giáo thì dẫn đội là A Hưng lạt ma mới vừa từ Thanh Hải dẫn theo một nhóm Tạng y và y tăng tập trung từ Hoàng Giáo. Hắn phong trần chưa tắm lại muốn lên đường, khiến Thẩm Mặc cũng không khỏi cảm thấy kính phục sự cuồng nhiệt đối với tôn giáo của hắn.

Tiễn bước đại đội lạt ma đi rồi. Ngày hôm sau, Nặc Nhan Đạt Lạp cũng muốn xuất phát, Thẩm Mặc lại đưa tiễn.

Y vốn tưởng rằng Chung Kim Biệt Cát nhất định sẽ tránh mặt mình, ai ngờ nàng bận bộ đồ cưỡi ngựa màu đỏ, cưỡi trên con ngựa trắn, như không có việc gì xuất hiện bên cạnh phụ thân, chỉ là mỗi khi ánh mắt chạm nhau, Thẩm Mặc đều có thể cảm thấy một trận lạnh ý.

Đưa ngoài thành 10 dặm, thời khắc ly biệt đã đến.

Sau khi Thẩm Mặc và Nặc Nhan Đạt Lạp nói lời chia tay liền đứng ở bên đường nhìn theo hắn lên ngựa rời đi.

Lúc này một đôi chân dài động nhân trong đôi giày da hươu kẹp lấy bụng ngựa đi đến trước mặt Thẩm Mặc.

Bởi vì y đứng trên mặt đất cho nên hình thành cục diện nữ thượng nam hạ ngửa mặt lên nhìn, điều này làm cho Thẩm Mặc có chút xấu hổ, nhìn bốn phía, các vệ sĩ cũng biết mấy ngày trước có màn cự hôn, bởi vậy đều hứng thú đứng xem kịch, không ai tiến lên ngăn cản.

- Chung Kim Biệt Cát có điều gì muốn nói với ta à?

Tầm mắt của Thẩm Mặc đối diện với vòng eo của thiếu nữ, thật sự bất nhã; y nâng tầm mắt lên nhưng lại thấy trước ngực nàng ưỡn ra, không khỏi càng xấu hổ, đành phải đưa ánh mắt ra xa, không nhìn con ngựa hoang kiêu ngạo trước mặt nữa.

Sắc mặt Ô Nạp Sở lạnh lùng, chỉ liếc nhìn Thẩm Mặc, không có ý muốn trả lời.

- Ô Nạp Sở, không được vô lễ.

Thấy đốc sư đại nhân túng quẫn, Nặc Nhan Đạt Lạp vội vàng tiến lên giảng hòa:
- Tiểu nữ sống nơi hoang dã, không hiểu lễ nghi, đốc sư đại nhân chớ trách.

- Không sao. - Thẩm Mặc cười khổ nói: - Ta không có chấp nhặt với một tiểu cô nương đâu.

- Dối trá...

Hồng y nữ tử trên bạch mã hừ một tiếng, lạnh lùng nói:
- Rõ ràng đang tức giận, nhưng sĩ diện không chịu thừa nhận?

Rồi nàng nhìn chằm chằm Thẩm Mặc nói:
- Chẳng lẽ người Hán các ngươi đều dối trá như thế?

- Cái này gọi là phong độ. - Thẩm Mặc cũng không biết nghĩ đi đâu rồi, lại thấp giọng phản bác.

- Phong độ là cái gì? Có thể cân hay bỏ vào l-on được không? - Ô Nạp Sở cười nhạo: - Mùa đông mà cũng nói phong độ cái gì, dối trá!

- Được thôi. - Thẩm Mặc cười khổ một tiếng, đành phải chịu thua: - Ta dối trá, Biệt Cát giáo huấn phải lắm.

Y thầm nghĩ đây thật là chuyện buồn cười nhất thiên hạ, đường đường tể tướng Đại Minh lại bị một nữ tử phiên bang chèn ép thành như vậy, truyền ra ngoài sợ sẽ thành trò cười.

Song cũng chả có cách nào, xưa nay nữ tử và tiểu nhân rất khó chơi, huống chi còn là một nữ tử phiên bang?

Thấy y lặng lẽ không nói, Ô Nạp Sở như được ăn mật, miệng cười như hoa đỗ quyên nở đầy núi, nàng dùng đầu ngón chân khẽ hích Thẩm Mặc một cái. Trước đó nàng ngôn ngữ bất kính, bọn thị vệ còn có thể coi như không nghe thấy, nhưng hiện tại còn có động tác thì phải khác rồi. Bọn thị vệ đồng loạt giơ súng lên, hơn mười cây Long Khánh thức đều nhắm vào cô công chúa Mông Cổ không biết trời cao đất rộng.

- Đừng khẩn trương. - Ô Nạp Sở cười, giọng như chim sơn ca nói: - Ta chỉ biểu thị một chút cảm tạ, mặc dù bộ tộc ta rơi vào tình cảnh ngày hôm nay, xét đến cùng đều là ngươi làm hại, hơn nữa lần này ngươi phái người cứu viện, tám phần mười cũng không phải hảo tâm gì. Nhưng nếu như chúng tôi có thể vượt qua cửa này, lại còn nhận cái tình đó của ngươi. Người khác nghĩ thế nào ta quản không được, nhưng chỗ ta thì sẽ xóa bỏ, không hận ngươi nữa là được.

- Vậy thì phải đa tạ Biệt Cát rồi...

Thẩm Mặc cười khổ nhéo mũi, hiện tại y chỉ trông mong cho nữ ôn thần này nhanh cút đi để kết thúc màn xã giao khiến y lúng túng này:
- Sắc trời không còn sớm nữa, nhanh lên đường thôi.

- Ngươi rất không được tự nhiên nhỉ.
Con mắt Ô Nạp Sở cong thành hai vầng trăng non, cười tủm tỉm nói:
- Xem ra là ghét ta thật, vậy ta an tâm rồi.

Nói xong nàng kẹp lấy bụng ngựa, bỏ lại một câu "Bạch nhất tư thái..." rồi đuổi theo đội ngũ rời khỏi.

Nặc Nhan Đạt Lạp vẫn ở bên cạnh lo sợ thấy sắc mặt Thẩm Mặc gần tái đi rồi, hắn nào dám dừng lại, cười gượng hai tiếng: - "Sau này còn gặp lại, sau này còn gặp lại..." rồi cũng vội vàng đánh ngựa đi.

Thẩm Mặc lặng nhìn bóng lưng hai cha con đi xa, một lúc lâu mới lấy lại tinh thần, cười khổ lắc đầu, rồi cưỡi lên con chiến mã Tiểu Lục Tử dắt qua.

- Đại nhân, "Bạch nhất tư thái" là ý gì vậy? - tiểu lục tử lấm la lấm lét hỏi.

- Gặp lại.

Thẩm Mặc thản nhiên trả lời, nhớ tới hình dạng quẫn bách lúc nãy của mình, lại cảm giác hết sức mới lạ, y liền không cảm thấy nàng kia đáng ghét nhiều nữa.

Nhưng đám người Tiểu lục tử cảm thấy rất là thất vọng, còn tưởng rằng là biểu lộ gì chứ.

Sao Thẩm đốc sư hoa gặp hoa nở, xe thấy xe chở lại để cho con bé hâm kia vứt bỏ như đôi giày rách thế nhỉ? Thực sự là khiến người không cam lòng.

Mặc dù về tới Du Lâm bảo, nhưng lòng của Thẩm Mặc lại đi theo cùng tham đội. Đội ngũ này một ngày chưa đến thành Đông Thắng an toàn, thì một ngày không thể yên lòng.

Thẩm Mặc mật thiết quan tâm đến động thái của tiền tuyến, biết đại quân tham trú mang theo hy vọng quả nhiên bị người Mông Cổ ban đêm tập kích sau 5 ngày ra khỏi Định Sóc Bảo. Nhưng quân Minh sớm có chuẩn bị, dựa vào tham trận, dùng đạn cành thông rọi sáng chiến trường, hỏa thương và Phật lãng cơ cùng khai hỏa, lang tiễn và trường thương cùng múa, cộng thêm kỵ binh của Lý Thành Lương còn bưu hãn hơn cả kỵ binh Mông Cổ bảo hộ, đã từ từ đánh lui từng đợt tiến công của địch nhân.

Đánh cả một đêm, đợi đến khi hừng đông thì tiếng la giết trên chiến trường dần dần dừng lại. Người Mông Cổ thấy rõ không có lợi nữa, đành phải bỏ lại thi thể đầy đất mà rút lui.

Nhanh chóng kiểm kê chiến quả, bởi vì là Lý Thành Lương thu dọn chiến trường cho nên không có thương binh nào, chỉ tìm thấy hơn 2000 thi thể người Mông Cổ. Mà quân Minh trả giá trận vong hơn 500 người, hơn 200 người trọng thương... Nhưng trong đó đại thể là trú thủ không có kinh nghiệm chiến đấu, mà các lão binh của Phục Sóc quân chỉ thương vong chưa tới 200 mà thôi.

Qua trận chiến này làm cho Hồ Thủ Nhân và Lý Thành Lương đều có chút hưng phấn, hiếm khi nhìn nhau một lần. Một người khen đối phương phòng thủ đủ nghiêm mật, một người khen đối phương kỵ binh đủ hung mãnh. Nhưng khi ý thức được thái độ của mình chuyển biến, hai người đều có chút ngại ngùng... Bọn họ biết, nếu không phải lửa giận của Thẩm các lão, khiến mình không dám làm việc bằng cảm tình, trận này cho dù thắng cũng không thể phối hợp tốt như vậy, tổn thất khẳng định phải lớn hơn nhiều.

Duy nhất khiến người đau lòng là tham trú kết trận đã bị người Mông Cổ chém bắn, sát thương hơn 100 con... Thật ra phần lớn còn sống, nhưng trên đường hành quân nào có điều kiện cho chúng nó trị thương nghỉ ngơi? Chỉ có thể giúp chúng nó giải trừ thống khổ thôi.

Các trú thủ đem hàng hóa trên lưng các tham trú không thể đi được nữa chuyển dời đến trên người tram trú khác, sau đó chảy lệ cho chúng nó một cái thống khoái, đại quân liền tiếp tục đi tới.

Dọc theo đường đi, Hồ Thủ Nhân, Lý Thành Lương, còn có đầu lĩnh đà đội đều nắm chặt nghiên cứu làm sao dưới tiền đề không ảnh hưởng đến uy lực của đà trận mà có thể bảo hộ đà đội với mức độ lớn nhất. Nhưng người Mông Cổ không dám xuất hiện tại ban ngày, cho nên cải tiến hiệu quả thế nào thì phải đợi ngày sau kiểm nghiệm.

Buổi tối ngày hôm sau là cơ hội cuối cùng của người Mông Cổ rồi, bằng không buổi chiều ngày mai đà đội sẽ đến Đông Thắng. Ban đêm, ông trời như không giúp, mây đen ngâp trời, đen kịt như mực, tạo thành trắc trở rất lớn cho bên phòng thủ.

Không có gì bất ngờ khi quân Mông đã tập trung đại bộ phận binh lực thực hiện tổng tiến công đối với tham trú đội của quân Minh. Vì đối phó với loại đà trận khó chơi này, họ còn lôi ra cả hai mươi mấy khẩu pháo như bảo bối thu được của quân Minh.

Chuẩn bị mà đến quả nhiên có khác, hai mươi mấy khẩu pháo rống giận lên, phi đạn mang theo khói đặc, lấp lóe ánh lửa bay về phía đà trận của quân Minh, hơn 1000 điểu thương thủ cũng ở trước trận hướng về quân Minh mãnh liệt xạ kích. Hầu như cùng lúc đó, hỏa thương thủ của quân Minh cũng triển khai đánh trả. Mặc dù họ không có đại pháo, nhưng hỏa thương tân thức trong tay hoàn mỹ hơn nhiều so với hàng buôn lậu, tước đoạt được của quân Mông, tầm bắn vừa xa lại chính xác, vả lại tập trung hỏa lực chuyên bắn pháo thủ. Khai chiến không lâu thì đã có hơn 40 pháo thủ quân Mông trúng đạn mà chết. May nhờ người Mông Cổ ít hoả pháo, mỗi khẩu pháo phân phối pháo thủ nhiều, chết bao nhiêu đều có người thay thế, vẫn bảo trì đại pháo không ngừng nghỉ.

Đêm tối trên cánh đồng tuyết, bờ sông Ô Lan Mộc Luân tiếng pháo ầm ầm, chấn mặt đất rung động kịch liệt, mấy chỗ ở doanh trại quân Minh đã bốc lửa, trong cơn gió Bắc nổ đồm độp, khói đặc cát bụi trên chiến trường xông thẳng trời cao, tiếng giết tiếng trống không dứt bên tai. Toàn cảnh khẩn trương kinh khủng... Nhưng trú trận của quân Minh cũng không bị công vỡ. Khó ở chỗ tham trú là sống, vài lần chính diện bị nổ tung, tham trú bị đánh máu thịt văng tung tóe, lập tức liền có trú thủ điều chỉnh bổ sung. Mãi đến khi người Mông Cổ tập trung toàn bộ hoả pháo công kích vào một điểm của quân Minh, điểu thương cùng cung tiễn tập trung xạ kích trú thủ, lúc này mới thấy hiệu quả.

Sau khi trả giá thảm trọng, đà trận của quân Minh rốt cuộc bị xé ra một chỗ hổng vài chục trượng, người Mông Cổ lập tức như sói thấy máu cao giọng tru lên, như thủy triều xông tới. Kèn lệnh trong doanh trại quân Minh lập tức vang lên, một vạn kỵ binh như thủy triều tuôn ra trước trận, lang nha bổng trong tay Lý Thành Lương chỉ về phía trước, điên cuồng hét lên:
- Chỉ tiến không lùi!

Các tướng sĩ đã sớm xoa tay, nóng lòng muốn thử liền cùng nhau giơ lên súng tam nhãn trong tay, đỏ mắt chờ quân Mông đến.

Bờ sông Ô Lan Mộc Luân lập tức hiện ra một trận huyết chiến dao sắc vật lộn!

Quân Mông chừng 3 vạn, đều là dũng sĩ Mông Cổ tinh tuyển từ các bộ lạc, mỗi người tinh kỵ thuật, thiện đâm chém. Lại còn thêm bị đói cả mùa đông, đã sớm bị lửa giận thúc đẩy, hóa thành đàn sói đói thảo nguyên. Quân Minh nhân số tuy ít, nhưng là quân do thiên tài tướng lĩnh Lý Thành Lương dẫn đội, dưới huấn luyện ma quỷ của hắn không chỉ kỵ thuật và võ nghệ không chỉ không thua quân Mông chút nào, hơn nữa kết trận xung phong, tiến lui có bài bản, chiến thuật tố dưỡng phải cao hơn đối thủ. Vừa bắt đầu, quân Minh liền dùng súng tam nhãn áp chế xuống sự thô bạo của người Mông Cổ, còn phá trận địa ra một lỗ hổng. Lý Thành Lương quơ lang nha bổng thúc ngựa dẫn đầu, các tướng sĩ cũng xách súng tam nhãn đầy gai theo sát xông vào trận địa địch. Song phương như hai cổ thủy triều xông vào nhau, đại pháo và điểu thương lúc này đã không còn dùng được nữa, mỗi người trên chiến trường đều như hũ máu, chỉ dùng mũ giáp hay là nón nỉ để phân biệt. Chiến mã hí dài xông qua xông lại, Mã đao và Mã đao chạm nhau, ánh lửa văng tung tóe. Đầu người bị chém rớt xuống bị chân người móng ngựa đá lăn qua lăn lại, máu me chảy dài trên đất, rất nhanh đông lại thành một màu tím đen.

Song phương huyết chiến hết quá nửa canh giờ, Lý Thành Lương suất lĩnh bộ hạ như hổ điên giết hết đợt này đến đợt khác, làm cho người Mông Cổ có loại ảo giác như Mã vương gia đích thân tới. Nhưng mà chung quy địch đông ta ít, quân Minh rõ ràng cảm thấy cật lực, lực sát thương không bằng lúc đầu, thương vong ngày càng tăng.

Lý Thành Lương cũng bị thương, tranh thủ xoa vết máu trên lông mày, ánh mắt hắn nhìn ra hướng Bắc, thấy nơi đó vẫn không có động tĩnh gì, bèn chửi ầm lên:
- Thích Kế Mỹ, ngươi muốn hại chết lão tử hả?

Không biết có phải nghe được tiếng hắn chửi hay không, từ xa truyền đến tiếng hò hét rung trời động đất! Chiến trường đang kịch chiến thoáng chốc yên tĩnh lại, song phương đang chém giết nhịn không được nhìn theo hướng tiếng la, liền thấy một nhánh kỵ binh màu trắng đang từ mặt tuyết phương Bắc đánh đến.

- Con bà nó!
Lý Thành Lương cười mắng một tiếng, lại la to:
- Viện binh đến rồi, thất xích nam nhi kiến công lập nghiệp ngay tại lúc này, bao vây!

Quân Minh nghe được tiếng hô này, tức thì năng lượng tràn đầy, như phát điên điên cuồng vung chém. Quân Mông mặc dù nhiều người, nhưng thủy chung không làm gì được một vạn kỵ binh này, còn bị Phật Lãng Cơ trong đà trận của quân Minh phản kích mạnh mẽ, từ lâu đã không còn thấy hy vọng thắng lợi. Hiện tại thấy viện binh của quân Minh lại tới, tự nhiên càng nản lòng hơn, không để ý đến đầu lĩnh, đều thúc ngựa lui lại.

- Một đám phế vật!

Hoàng Đài Cát đốc chiến ở hậu phương thấy sắp chống không lại, chỉ có thể bực mình ra lệnh - "Hồi quân", không để ý tới đường đệ Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ mặt xám như tro tàn, dẫn theo bản bộ của mình rút khỏi.

- Các đệ đệ, nhanh phân công nhau hành động, thu gom bản bộ đi thôi! - Bái Tang mặt như bụi, hắn không cảm giác được chút hy vọng thắng lợi nào rồi.

Theo quân Mông thấy thì bên Lý Thành Lương tổn hao quá lớn, đã sớm tinh bì lực tẫn, bên Thích Kế Mỹ cũng điên cuồng chạy trong tuyết hơn 10 dặm đến, đã thành nỏ mạnh hết đà, cho dù truy kích chẳng qua cũng chỉ làm bộ.

Nhưng mà họ đã đánh giá thấp hai người điên này, khó lắm mới không có Thích Kế Quang ràng buộc, đâu thể đơn giản bỏ qua dạy quân.

Hai người hạ đạt cùng mệnh lệnh, truy kích, không đến Hoàng Hà không ghìm ngựa! Ai không đủ lực thì tự động trở về, nhưng sau khi tập hợp đội ngũ bên cạnh Hoàng Hà, ngay tại chỗ luận công được thưởng thì coi như không hợp quy định.

Mệnh lệnh lưu manh này, các tướng sĩ đang mệt chết luôn mồm mắng cha chửi mẹ, nhưng đành phải cắn răng kiên trì, theo đại bộ đội mở đợt truy kích!

Đuổi, đuổi, đuổi, từ ban đêm đuổi cho tới hừng đông, từ sáng đuổi cho đến chiều. Chiến mã không chịu được, miệng sùi bọt mép bãi công, người đành phải xuống ngựa, lái xe trượt tuyết đuổi tiếp.

Người Mông Cổ nằm mơ cũng không nghĩ tới lại ăn trộm gà không được còn đụng phải hai con chó điên, một mặt vứt bỏ ngựa ôm lấy xe trượt tuyết, một mặt chỉ hận cha mẹ sinh thiếu hai cai đùi.

Cứ như vậy một đuổi một chạy, tướng sĩ hai quân ngã lăn ven đường vô số kể... Mãi cho đến gần hoàng hôn thì người Mông Cổ không trốn nữa. Bởi vì bọn họ thấy được, khắp nơi là quân Minh liệt trận trước sông, phong tỏa gắt gao con đường mà họ nhất định phải đi qua.

Lúc này, quân Minh phía sau cũng đuổi tới, hình thành thế vây kín.

- Làm, làm sao bây giờ? - Bố Dương Cổ đảo tròng mắt hỏi nhị ca.

"..."

Bái Tang ngửa mặt nằm ở trên mặt tuyết, nhắm mắt giả chết:
- Thích làm gì thì làm...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 850: Ỷ thiên


Thích Kế Quang cả mùa đông làm công trình, rất có kiểu như muốn biến chiến trường thành công trường, tiếp tục chiếm đóng lâu dài, quả nhiên tạo được ám chỉ tâm lý mạnh mẽ cho người Mông Cổ, hình như quân Minh đã xác định là co đầu rút cổ không ra.

Nhưng cái gọi là bó ngựa bắt ve, chim sẻ ở phía sau. Lợi dụng quân Mông có cái tâm nhất định phải được đối với lương thảo của quân Minh, Thích Kế Quang bày ra một cái bẫy đơn giản nhưng xảo diệu, tại trận chiến cuối cùng ở vịnh Cây ớt, thông qua bố trí mai phục trước, đánh đuổi từ xa, khiến quân địch sức cùng lực kiệt, không chiến tự bại. Cuối cùng không nả một phát súng, không uổng viên phát đạn, liền bắt trên vạn quân Mông làm tù binh, cùng với ba đệ đệ của Nặc Nhan Đạt Lạp. Lại còn thêm hơn 1000 người bị mất mạng truy kích trên đường, cùng với hơn 2000 tử thương trong lúc kịch chiến ban đêm, lực lượng cuối cùng của Ngạc Nhĩ Đa Tư bộ cũng hầu như tan rã.

Hai cha con Nặc Nhan Đạt Lạp trong Lộc trùng doanh của quân Minh mắt thấy hai quân kịch chiến, thi thể la liệt, sau đó thấy rõ toàn quá trình một chạy một đuổi. Loại tư vị bàng quan tộc nhân từ kịch chiến đến tan tác này tuyệt đối có thể khiến người hoàn toàn tan rã. Nếu như không phải quân Minh thủy chung không có thả lỏng giám thị, Ô Nạp Sở khẳng định nhịn không được phóng hỏa đốt đi Phúc trùng doanh như núi dưới chân rồi.

Khi tin tức Bái Tang, Bố Dương Cổ, Ba Đặc bị bắt truyền trở lại, Ô Nạp Sở tái mặt, cúi đầu không nói, Nặc Nhan Đạt Lạp thở dài một tiếng nói:
- Con thấy chưa? Thẩm đốc sư không có nói bậy, hắn muốn tiêu diệt chúng ta thì quả thật không phải việc khó gì hết.

Trước đó hai cha con tranh luận về Thẩm Mặc chủ động vươn cành ô-liu, mỗi lần đều vì nữ nhi kiên trì cho rằng "Đối phương là bởi vì đánh không thắng nên mới dùng cách dụ dỗ." mà kết thúc.

Nhưng hiện thực tàn bạo đã dạy cho công chúa kiêu ngạo biết, từ khi quân Minh nhập bộ tác chiến tới nay, bất kể là tao ngộ chiến, tập kích chiến, công thành chiến, trở kích chiến, hay là phòng ngự chiến, hầu như là lấy đủ các cách thức đánh bại quân Mông, hoàn toàn bóc tan lòng tự tin của dân tộc thảo nguyên.

Thật ra điều này cũng không có gì, tính tình của dân tộc thảo nguyên cởi mở, sẽ không bởi vì trên chiến trường bị đánh bại mà rơi vào thù hận, trái lại sẽ bị thuyết phục bởi cường giả đánh bại họ. Nhưng Ô Nạp Sở vừa nghĩ đến gương mặt tuấn tú ôn hòa vô hại kia nàng liền hận đến nghiến răng nghiến lợi, bởi vì đó càng tôn thêm cái thói vênh váo tự đắc của bản thân y, quả thực buồn cười mà...

"Người Hán xấu xa quá, cố ý dùng cách này để làm nhục ta." Chung Kim nắm chặt tay, hận không thể bóp chết họ Thẩm kia.

Thấy con gái thật lâu không nói, Nặc Nhan Đạt Lạp lo lắng hỏi:
- Nghĩ cái gì vậy?

- Không có gì. - Chung Kim lắc đầu, khẽ cắn môi dưới nói: - Con chỉ nghĩ, nếu có thể sử dụng vũ lực giải quyết thì cần gì phải vẽ rắn thêm chân giả mù sa mưa chứ?

- Thẩm đốc sư không phải là giả mù sa mưa đâu con. - Nặc Nhan Đạt Lạp thở dài một tiếng nói: - Mà là lòng nhân từ, ông trời giáng người này xuống làm thống soái Đại Minh, đó là cái phúc của người Hán, cũng là vận khí của người Mông ta.

- Cha chán quá...

Chung Kim quay đầu đi chỗ khác, chỉ hừ một tiếng, nhưng tìm không ra lý do cãi lại.

********

Tin tức chiến thắng truyền tới Du Lâm bảo, Thẩm Mặc thở phào một hơi dài, nói với Vương Sùng Cổ:
- Năm nay trôi qua yên tĩnh được rồi.

Nhưng mà cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, y còn chưa yên tâm thì lòng lại bị thắt lại.

Phiền phức lần này cũng không phải đến từ Tây Bắc, mà là Đông Nam. Tuần phủ Tô Tùng Hải Thụy vừa mới nhậm chức không đến ba tháng lại vén lên phong ba đêm giao thừa...

Nói đến vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay của Đại Minh thì có hai, ngoại là định biên bình Lỗ, nội là bổ sung quốc dụng quốc gia. Theo Cao Củng và Trương Cư Chính, muốn sung túc quốc dùng thì phải phổ biến Nhất điều tiên pháp, thuế nên thu thì phải thu hết, mà tiền đề muốn phổ biến Nhất điều tiên pháp là phải đo đạc ruộng đất lại, để xác định mức thuế mỗi nhà nên nộp.

Nhưng từ Chính Đức tới nay, ruộng đất Đại Minh thôn tính nghiêm trọng, phần nhiều đều tập trung đến danh nghĩa của tôn thất huân quý, quan địa chủ. Những người này ỷ vào đặc quyền giấu diếm, trốn thuế, từ đó trắng trợn mưu lợi bất chính. Triều đình muốn phổ biến đo đạc đất đai thì không phải muốn mạng của họ rồi? tự nhiên sẽ liều mạng chống lại. Bởi vậy thí điểm tại mới nơi đều rất khó khăn, nửa chừng bỏ dở, thậm chí quan viên phụ trách còn bị đánh mất chức quan. Cục diện rơi vào khốn đốn.

Trên hội nghị nội các, Trương Cư Chính đề xuất trước tiên phá hai pháo đài ngoan cố là Trác Hòa Tùng Giang, mượn cái này để phá bỏ cục diện, và đã nhận được Cao Củng cho phép. Sau đó là vấn đề nhân tuyển. Cao Củng hỏi ý Thẩm Mặc, kết quả Thẩm Mặc đề cử Lâm Nhuận đi Sơn Đông làm tuần phủ, về phần tuần phủ Tô Tùng, dưới ám chỉ của Thẩm Mặc, Cao Củng cho Hải Thụy Hải Cương Phong đang ràn nhỗi ở nhà.

Bổ nhiệm vừa ra, cả triều ồ lên, vô số người đưa ánh mắt ước ao hướng về Hải Thụy.

Vì sao hâm mộ hắn? Bởi vì tên đầy đủ của chức quan này là Đô Sát viện hữu Thiêm đô ngự sử, tổng lý lương trữ, đề đốc quân vụ, kiêm tuần phủ Tô Tùng. Chức vụ này thật sự quá chói mắt, được xưng là thiên hạ đệ nhất phủ phục vô số chức quan Minh triều, cho một tổng đốc cũng không đổi. Công việc béo bở tự nhiên cũng không nhiều. Cái gì văn tuyển, võ tuyển, vận muối, thuế sứ... Nhiều như rừng, nhưng so với tuần phủ Tô Tùng này, quả thật chỉ là đom đóm so với ánh trăng.

Đơn giản phân tích một chút chức quan này. Đầu tiên, tuần phủ Tô Tùng các nơi, tên đầy đủ của nó là tuần phủ Tô Tùng 10 phủ 1 châu, khi đó xưng là 11 phủ châu, bao gồm, Ứng Thiên, Tô Châu, Tùng Giang, Thường Châu, Trấn Giang, Thái Bình, An Khánh, Trì Châu, Quảng Đức, Ninh quốc, Huy Châu. Nói ngắn gọn, chính là ngoại trừ tuần phủ Phượng Dương, 7 phủ do Nam trực đãi quản hạt, nó là nơi phồn hoa giàu có nhất của quốc gia. Nó không chỉ là kho lương của Đại Minh, cũng là nơi phát ra phú chủ yếu của triều đình, đã chiếm 7 thành toàn bộ thuế má.

Trừ điều đó ra, còn có cái gọi là tổng lý lương trữ, Đề đốc quân vụ chính là muốn bảo đảm các địa khu kể trên cùng với Phúc Kiến, Quảng Đông, địa khu tây nam có nguồn cung ứng vật tư cuồn cuộn không ngừng đối với Bắc Kinh. Lương thực, vải vóc, tơ lụa, thiết khí cùng với các loại vật chất khác ở phía Nam, thông qua Trường Giang, kênh đào vận đến Bắc Kinh, vận đến biên cảnh phương bắc. Có thể nói là đường số mệnh của Minh triều. Chức trách cơ bản của tổng lý lương trữ chính là bảo đảm cung ứng vật chất cho đường số mệnh này.

Cuối cùng, phía trước các thuật chức kể trên còn treo một thân phận Đô Sát viện hữu Thiêm đô ngự sử. Đây là danh hiệu đại quan phong cương đều phải treo. Có danh hiệu này rồi, có thể tiến hành giám thị tất cả quan viên bên trong khu trực thuộc. Mặc dù bản thân của Thiêm đô ngự sử này chỉ là chính tứ phẩm, nhưng bởi tổng lý lương trữ, đề đốc quân vụ cộng thêm tuần phủ, đây là chức vụ tương đương với chính nhị phẩm rồi.

Lấy chỉ là cử nhân xuất thân đạt được chức quan hiển hách như vậy, Hải Thụy cũng hết sức hưng phấn. Hắn có thể cảm nhận được sự kỳ vọng của triều đình và nội các đối với bản thân cao bao nhiêu. Vì vậy âm thầm lập hạ thệ ngôn, mình sẽ tận nỗ lực để đền đáp triều đình, hoàn thành sứ mệnh của mình, không phụ phó thác của chư vị các lão.

Vì vậy hắn lĩnh văn kiện bổ nhiệm, dọn dẹp một chút đồ đạc, rồi ngựa không dừng vó, hào khí can vân Nam hạ đi nhậm chức.

Trung Quốc có câu thành ngữ gọi là tiên thanh đoạt nhân ( ra oai trước để áp chế đối phương), lại gọi là tiên thanh đoạt nhân chi khí. Từ này dùng để hình dung lần này Hải Thụy đi nhậm chức, quả thật không gì chuẩn xác hơn. Người khác còn đang trên đường thì tin tức nhậm chức đã truyền tới Tô Tùng, nơi thiên đường nhân gian ca vũ thăng bình lập tức như vỡ òa lên.

Người có tên cây có bóng, hung danh của Hải diêm vương quá thịnh, bởi sợ hãi đối với hắn phát ra từ nội tâm, đám quan lại lớn nhỏ thường ngày ăn hối lộ trái pháp luật, chuyện tốt không làm liền dự đoán rơi vào trong tay hắn không chết cũng phải lột da, thật sự không thể trêu vào, vậy chỉ có tránh thôi. Thế là không kịp viết báo cáo từ chức với triều đình, đã vội thu gom đồ đạc, mang theo tài sản vơ vét được chạy trốn, chỉ sợ chậm một bước sẽ bị Hải Thụy nhốt trong nha môn.

Những quan viên ngoại tịch có thể cuốn gói rời đi, nhưng đám hương thân phú hào thường ngày tác uy tác phúc, khoe của khoe giàu thì đi không được, chỉ có thể vội vàng thu liễm hành vi, không dám đến nơi sa hoa thanh sắc, càng không dám mang theo nô tỳ rêu rao khắp nơi nữa, cả ngày đại môn không ra, nhị môn không bước, còn tiểu thư khuê các hơn cả khuê nữ của mình. Trước kia họ thích sơn đại môn nhà mình thành màu son, vừa vui mừng, lại ý nghĩa phát đạt. Hiện tại vội vàng đổi màu son thành màu đen, cố đạt được khép mình nhất, quyết không thể để cho Hải diêm vương để mắt tới.

Thật sự không dám ra khỏi cửa, cũng không dám mặc hoa phục sang quý, đều đổi thành áo vải, áo đay, hận không thể đắp lên chút mụn vá để giả trang thành trưởng lão Cái Bang. Trước kia gặp mặt người khác đều là không ngoài ba câu thì đã so giàu, nhưng hiện tại nghe người khác nói nhà của mình có tiền thì còn khó chịu hơn cả mắng tổ tông tám đời nhà hắn.

Thậm chí ngay cả thành Nam Kinh không bị hắn quản hạt cũng bị rung động. Thái giám trấn thủ Nam Kinh là Mã Toàn, án theo quy chế hẳn là ngồi quan kiệu bốn người khiêng. Nhưng hắn ỷ vào từng là đại nội tổng quản lưỡng triều, thường ngày uy phong lẫm lẫm, ra vào đều là kiệu 8 người khiêng. Khi hắn nghe nói Hải Thụy sắp tới, không chỉ giảm thấp xuống quy cách của kiệu, ngay cả tuỳ tùng tôi tớ cũng giảm đi hơn phân nửa, chỉ sợ khi ra khỏi Nam Kinh không chú ý sẽ bị Hải Thụy tóm.

Các nơi xa hoa lãng phí nghe tiếng toàn quốc lại bởi vì sự xuất hiện của hắn mà phải thay đổi tục lệ thẩm mỹ, không thể không nói, Hải đại nhân đã đến cảnh giới tiền vô cổ nhân.

*********

Vì thế khi Hải đại nhân đến Tô Châu, hắn kinh ngạc phát hiện, tòa thành thủ phú nổi tiếng toàn quốc này không ngờ trên đường không một ai mặc y phục tơ lụa, hình như đã lùi lại mấy trăm năm so với năm hắn đi.

Đây rốt cuộc là sao? Hải Thụy ôm một bụng nghi vấn, rốt cuộc sau khi tiến vào nha môn mới mời tiền nhiệm tuần phủ Quy Hữu Quang vốn cố ý ở lại chờ hắn để giải thích nghi hoặc.

Nhìn vẻ mặt khó hiểu của hắn, Quy Hữu Quang thầm cười khổ: nguy rồi, người này còn tưởng rằng mình cai trị Tô Châu cho hoàn toàn đổi khác rồi chứ. Hắn liền thở dài nói:
- Chuyện này nói đến thì dài. Chúng ta cứ vừa ăn vừa nói đi.

Trước khi Hải Thụy mở miệng cự tuyệt thì hắn đã giải thích:
- Yên tâm, biết đại nhân không thích xã giao, chỉ có hai chúng ta thôi, hơn nữa là bản thân ta bỏ tiền, không cần quan phủ chi tiêu.

Nghe hắn nói như vậy, Hải Thụy cũng có chút xấu hổ, nặn ra nụ cười nói:
- Ta ăn là được mà.

- Vốn nên như vậy.

Thấy Hải Thụy nể tình, Quy Hữu Quang vui mừng quá đỗi, vội vàng kéo hắn đi vào, hình như rất sợ hắn chạy vậy.

Đi vào đại sảnh, thấy bên trong bài biện xa hoa, Hải Thụy cau mày không nói gì, lại nhìn bàn tiệc cũng cực kỳ xa xỉ, rất nhiều món ăn ngay cả hắn làm quan nhiều năm tại Tô Châu cũng còn chưa biết tên. Hải Thụy mấp máy môi, cuối cùng nhịn xuống.

Cùng Quy Hữu Quang đông tây chiêu mục ngồi xuống, hắn mới thở dài nói:
- Chấn Xuyên huynh không nên tốn kém như thế làm gì.

Quy Hữu Quang vẫn hứng thú nhìn phản ứng của hắn, vừa châm rượu vừa khen ngợi:
- Xem ra nhiều năm không gặp, Cương Phong huynh quả thật thay đổi rồi.
Hắn cười đến híp mắt nói:
- Ta còn tưởng rằng huynh thấy bữa tiệc này sẽ quay đầu đi ngay chứ.

- Ha ha!
Hải Thụy vuốt chòm râu đã pha sương nói:
- Trải qua nhiều chuyện như vậy, nếu như ta còn không thể chấp nhận, đó mới gọi là ngạc nhiên đấy.

- Ta còn tưởng rằng. - Quy Hữu Quang cười nói: - Cả đời này huynh không biết thay đổi chứ.

- Nên đổi thì đổi. - Hải Thụy nghiêm mặt nói: - Ngươi đã nói rõ trước đây chỉ dùng tiền của mình để mời ta ăn cơm, ta sẽ không như trước đây, chỉ lo đến cảm thụ của mình. Nhưng lần sau ngươi cũng đừng thế nữa.

- Được, nghe lời huynh. - Quy Hữu Quang nghe vậy trong lòng rất an ủi, bưng lên chung rượu nói: - Nào, cụng ly cho ngày chúng ta gặp lại.

Hải Thụy bưng lên chung rượu, uống một hơi cạn. Quy Hữu Quang tiếp thêm rượu cho hắn nhưng lại bị Hải Thụy đưa tay ngăn lại:
- Ngươi còn chưa trả lời vấn đề của ta mà.

"..."

Quy Hữu Quang suy nghĩ một chút, mới ý thức được vấn đề là gì, hắn liền đặt bình rượu xuống rồi cười dài nói:
- Không dối gạt Cương Phong huynh, Tô Tùng giàu có đã đến mức hơn bao giờ hết, như bàn tiệc ngày hôm nay chẳng qua là tiêu chuẩn của bách tính bình thường yến khách thôi.

- Vậy vì sao những gì ta thấy được lại giản dị tiêu điều như thế chứ? - Hải Thụy trầm giọng hỏi.

- Còn không phải là bởi vì huynh sao. - Quy Hữu Quang cười khổ một tiếng nói.

- Cớ là sao? - Sắc mặt Hải Thụy không tốt lắm.

- Đoạn thời gian trước, quan viên ở đây vừa nghe huynh muốn tới thì hoảng sợ gần chết. Nói khó nghe một chút đó là tin tức huynh nhậm chức giống như một đạo bùa đòi mạng, rất nhiều quan viên tự cảm giác chẳng phải sạch sẽ không kịp xin điều động đã vứt quan bỏ đi, cũng không dám đối mặt với huynh. Các phú hào đại hộ khắp thành cũng trong một đêm hết thảy sửa nước sơn đại môn từ sơn son thành màu đen. Càng buồn cười là trên đường họ không dám cưỡi ngựa ngồi kiệu, mà thành thật đi bộ, còn mặc xiêm y của nô bộc hạ đẳng.

Quy Hữu Quang chậc lưỡi tán thán nói:
- Buồn cười nữa là các gian thanh lâu sa hoa trong thành Tô Châu trong một đêm đóng cửa hết, các danh kỹ thì chạy hết đến Chiết Giang kiếm ăn... Cho nên cảm giác của huynh không sai chút nào, thành Tô Châu quả thật trong một đêm đã về tới năm Hồng Vũ rồi.

- Ha ha ha...
Hải Thụy nghe vậy cười ha ha nói:
- Tưởng là như vậy là có thể thoát khỏi bàn tay của ta sao?

Đoạn hắn cười lạnh một tiếng:
- Ngày mai ta sẽ dán thông báo, khuyến khích bách tính Tô Tùng đến đây giải oan cáo trạng, ta muốn giúp họ miễn phí lấy lại công đạo với các thổ hào thân sĩ vô đức!

- Như vậy có phải quá nhanh rồi không? - Quy Hữu Quang nghe vậy khẽ biến sắc: - Tô Tùng cũng không như các nơi khác, nơi này là trọng địa thuế má của toàn quốc, vả lại rất nhiều quan viên nhàn cư ở đây, lại còn rất nhiều nhà cường hào ác bá, rút giây động rừng, không nên gây ra rắc rối mới tốt.

- Không có thời gian đâu. - Hải Thụy rất tín nhiệm Quy Hữu Quang, liền không e dè nói ra: - Ta chính là đâm cái tổ ong vò vẽ này đấy, không đập tan thói kiêu căng của đám thân sĩ vô đức đó, thì làm sao hoàn thành phó thác của triều đình được?

- Đại Minh ta từ Chính Đức đến nay đã tam triều, náo động cả 60 năm, người cầm quyền chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, bè cánh đấu đá. Nếu có người lập ý cải cách giúp nước thì cũng bị cản trở khắp nơi, rồi bỏ dở nửa đường. Tình cảnh chúng tướng nội các có cùng chí hướng như bây giờ quả thật tam triều chưa thấy. Ngươi ta trước đây khi tán gẫu không phải là thường than vãn quan đạo hắc ám, không có cơ hôi báo quốc sao? Hiện tại rốt cuộc đợi được cơ hội thi triển hoài bão rồi đấy, chúng ta há có thể tiếc thân sợ hãi, không phụ chí hướng của mình sao?

Hải Thụy hưng phấn hai mắt tỏa sáng, lớn tiếng nói với Quy Hữu Quang:
- Một trường đại cải cách trước nay chưa từng có đã bắt đầu, lại trị, quân sự, tài thuế, các phương diện cùng tiến, đang triển khai đâu vào đấy...Mà điều cực kỳ quan trọng trong đó chính là phổ biến điều tiên pháp, nó không chỉ quan hệ đến thành bại của việc cải cách tài thuế, còn là kiểm nghiệm đối với cải cách lại trị. Trước khi phổ biến điều tiên pháp, việc đầu tiên muốn làm chính là đo đạc ruộng đất!

- Năm đó khi ta tại Tô Châu đã biết ruộng đất ở đây bị sát nhập rất mạnh, ruộng công đã chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, ta luôn căm thù đến tận xương tuỷ việc này! Nói đến tiền nhiệm thủ phụ Từ Giai đi, khi đó ta điều tra án giết người của gia nô nhà ông ta thì phát hiện nhà ông ta chỉ ở Tô Châu chúng ta thôi đã chiếm hơn 24 vạn mẫu ruộng, tá điền có mấy vạn người. Hàng năm tiền thuế đất lại một cắc một đồng cũng không nộp cho quan phủ. Đường đường quốc lão, tiền nhiệm tể tướng mà cũng ngang nhiên xâm phạm quốc thuế, không giữ hình tượng chút nào. Đại hộ thân hào còn lại còn không học theo chứ?

Nhớ tới năm đó mình vừa muốn điều ta tiếp thì bị Từ Giai điều khỏi Tô Tùng, Hải Thụy liền giận không thể nhịn, hắn vỗ bàn, chấn ly tách nhảy lên, nói:
- Không áp chế làn gió độc hại này lại, ngươi ta còn có thể diện gì để mặc bộ quan phục này nữa?

- Huynh đấy, quả nhiên vẫn là Hải Cương Phong đó.

Khi mới gặp, Quy Hữu Quang cho rằng Hải Thụy thay đổi, nhưng vừa tiếp xúc thì mới phát hiện hắn căn bản không thay đổi. Quy Hữu Quang không khỏi cười khổ nói:
- Chiều hướng trong triều kiên quyết cải cách ta lý giải, huynh có ý nghĩ nóng lòng mở cục diện ta cũng hiểu, nhưng huynh muốn bắt Từ các lão khai đao, ta cho rằng không thích hợp đâu.

- Là cớ sao? - Hải Thụy liếc hắn một cái nói.

- Thứ nhất, Từ các lão là tọa chủ của Thẩm các lão, mặc dù quan hệ giữa hai người đã sứt mẻ, nhưng dù sao không có trở mặt hẳn. Huynh lại là người Thẩm các lão tiến cử, vừa đến Tô Tùng đã đi tìm Từ các lão thì sẽ khiến triều dã nghĩ như thế nào? Có thể sẽ cho rằng là Thẩm các lão mượn đao giết người, quan báo tư thù hay không?
(tọa chủ là cách xưng của tiến sĩ đối với quan chủ khảo)
Quy Hữu Quang chậm rãi nói:
- Thứ hai, năm đó huynh bởi vì dâng sớ [Trị an] mà vào tù, là Từ các lão áp chế xuống bản án giảo hình của Lại bộ, khuyên tiên đế khoan dung với huynh, huynh mới miễn được tội chết...Điều này thiên hạ đều biết rồi. Huynh đối đãi với ân nhân cứu mạng như vậy thì thế nhân sẽ nhìn huynh thế nào?

- Tuần phủ như ta là tướng soái của triều đình, thần tử của hoàng đế, không có quan hệ gì với Thẩm các lão.
Hải Thụy dùng một loại ánh mắt kỳ quái nhìn người bạn già ngày xưa:
- Về phần Từ các lão năm đó cứu ta, và hôm nay ta muốn tra rõ ruộng đất nhà ông ta thì đây là hai chuyện khác nhau, ta không thể công tư bất phân!

Quy Hữu Quang còn muốn nói thêm nhưng bị Hải Thụy giơ tay ngăn cản:
-Ý của huynh đài ta hiểu, Hải Thụy ta cũng không phải kẻ lỗ mãng năm đó, trước khi làm việc sẽ bái kiến Từ các lão một chút là được, nói chuyện với ông ấy, nếu như ông ấy đồng ý làm gương, phối hợp với triều đình đo đạc ruộng đất, trả lại cho dân phân nửa số ruộng chiếm đoạt được, tự nhiên ta sẽ không làm ông ấy mất mặt.
Rồi hắn bưng ly rượu lên nói:
- Nhiều năm không gặp, ngày hôm nay không nói những chuyện phiền muộn này nữa, chúng ta cứ ôn chuyện đi.

Quy Hữu Quang thấy hắn không nể mặt, biết nói thêm cũng chỉ tự tìm mất mặt, hắn đành phải kìm lại và tìm một chuyện nhà nói.

Bữa tiệc đón tiếp bạn cũ gặp lại thật ra là tan rã trong không vui. Quy Hữu Quang cố tình khuyên thêm nhưng bất đắc dĩ Hải Thụy cố ý không nghe, đành phải mang theo lo lắng đi Nam Kinh nhậm chức Hộ bộ thượng thư.

***********

Ngày hôm sau, Hải Thụy liền sai người chuẩn bị lễ mọn đến Hoa Đình bái phỏng vị quốc lão Từ Tồn Trai đã từng lấy tay che trời.

Vừa vào thành phủ Tùng Giang, đập vào mắt là Nguyên Phụ phường, Trụ Quốc phường chạm trổ ngọc bên cạnh Tiếp Quan đình. Hai đền thờ này to như thế mà năm đó khi Hải Thụy tại Tô Châu còn chưa thấy, hiển nhiên là năm gần đây mới xây để khoa quan cho Từ các lão. Hắn giục ngựa đi vào bên trong thành, thấy quận ấp phồn thịnh, biệt thự chọc trời, danh viên đan xen, nhà cửa san sát. Trên đường hàng quán trải dài, thị dân qua lại tấp nập, thật là cảnh tượng thương mậu phồn vinh, an cư lạc nghiệp, cũng không thua kém Tô Châu bao nhiêu.

Đi qua cầu treo ngoài Cốc Dương môn lại thấy đền thờ đứng vững, đang muốn hỏi thì tuần phủ tham nghị Vương Tích Tước đang đi song song với hắn giới thiệu:
- Đây là Đại học sĩ phường, xây lên để kỷ niệm khi Từ thiếu sư tấn chức Đại học sĩ.

Đi qua Đại học sĩ phường lại quẹo đi thẳng về phía Nam chính là Nam Thiền tự mà Từ thị tộc cư ngụ. Hải Thụy phóng tầm mắt nhìn, thấy phủ trạch vùng này, cự trạch tương liên, lâu quỳnh điện ngọc, đẹp không hề kém cung thất. Vương Tích Tước giới thiệu cho hắn, cao môn đại viện ở chính giữa chiếm diện tích trăm mẫu, ngũ đàn lầu các uốn quanh mọc lên chính là nơi ở của Từ các lão. Sát bên Từ phủ là ba trạch viện của Từ Trắc tam đệ Từ Giai. Vùng nằm sát bên cầu Thái Bình là từng hàng tinh xá cũng tráng lệ không kém lâu viện nhiều, hơn xa gia đình tài chủ thông thường. Khi hỏi kỹ mới biết khu tinh xá này là của trưởng tử, thứ tử, tam tử của Từ Giai...do tổng quản của quý phủ xây lên. Trước Nam Thiền tự là thứ tử Từ Côn, trạch viện của tam tử Từ Anh tự nhiên là lâu quỳnh điện ngọc, rộng rãi hơn cả vương hầu.

Sau khi giới thiệu xong, Vương Tích Tước lắc đầu, thấp giọng nói:
- Hoành tráng quá...

Mặt Hải Thụy hầm hầm, hắn đã làm quan tại Tô Châu, phú hộ thấy qua đâu chỉ trăm nghìn, nhưng giàu có như Từ gia thì không có cửa. Thật sự không thể liên hệ được tất cả cảnh tượng trước mắt cùng với lão thừa tướng xưa nay lấy thanh liêm giản dị làm người.

Nếu như là 10 năm trước, hắn khẳng định quay đầu đi ngay, nhưng hiện tại, hắn có thể áp chế sự chán ghét dưới đáy lòng, tất cả lấy đại cục làm trọng.

Đi tới trước cửa Từ phủ, đội trưởng thị vệ đưa lên danh thiếp của Hải Thụy:
- Đại nhân nhà ta đến đây bái kiến Từ các lão.

- Xin lỗi, các lão nhà ta sức khỏe không tốt, gần đây không tiếp khách.
Giữ cửa mặc áo lụa cũng không cầm danh thiếp, lễ phép lãnh đạm nói:
- Vị đại nhân này vẫn là mời trở về đi.

Đùa à, Từ các lão muốn gặp là có thể gặp sao? Tưởng phượng hoàng rụng lông rồi thì không bằng gà sao?

Thị vệ đội trưởng hiểu rồi, thằng này là muốn tiền đây. Nếu đi cùng đại nhân khác, tiền này khẳng định bản thân hắn sẽ móc ra, nhưng đi theo con ma nghèo Hải Thụy này, nuôi cả nhà cũng thành vấn đề, ai lại đồng ý bỏ tiền thay hắn? Thế là quay lại nhỏ giọng bẩm báo.

Hải Thụy dù có tiền cũng không thể cho đâu, hắn lạnh lùng bảo tên giữ cửa:
- Ngươi đi thông báo một tiếng, nói là tuần phủ Tô Tùng Hải Thụy bái kiến, nếu như Từ các lão không gặp thì ta sẽ quay lại ngay, nhưng nếu ngươi dám không thông báo, ngày sau bị Từ các lão biết thì tự mà gánh lấy hậu quả!

Sau khi Từ Giai trí sĩ, lực ảnh hưởng của ông ta vẫn còn, môn sinh bạn cũ càng thân cư cao vị, nắm giữ triều chính. Các quan viên trước đây tới quý phủ bái kiến vẫn nối liền không dứt, lại còn thêm Hải Thụy tướng mạo kham khổ, tùy tùng rất ít, còn cưỡi ngựa tới, trong mắt tên giữ cửa đương nhiên là dạng tiểu quan chi ma lục đậu đến đây bái yết cầu quan rồi. Mãi đến khi nghe xong Hải Thụy nói hắn mới biết đối phương chính là kẻ đầu xỏ dẫn đến gần đây quý phủ vắng như chùa bà đanh, Hải Thụy Hải diêm vương. Hắn vội vàng đổi sắc mặt, một mặt cuống cuồng vào trong thông bẩm, một mặt mở rộng trung môn, mời tuần phủ đại nhân vào phòng dùng trà.

'Thế kinh đường', thư phòng Từ phủ là một tiểu hiên ba gian được dựng theo phong cách cổ xưa. Hiên bắc xây hồ nước đá phối hợp với mai, trúc, chuối tây tạo nên Trúc thạch tiểu cảnh. Trước mắt trúc xanh cao ngất một màu. Phía nam là bồn hoa uốn lượn, xen kẽ với các mỏm đá, dựa vào bức tường trắng làm nền làm thăng thêm ý vị, đối cảnh với 'Thế kinh đường'. Bồn hoa tây nam là một dòng thanh tuyền, nước suối dẫn qua từ trong con ao ở chủ viên, lợi dụng cấu tạo xảo diệu khiến nó như giao long nhả châu, một năm bốn mùa nước chảy róc rách. Trong suối sen xanh hạt hồng, cẩm lân bơi lội, tăng thêm phong thủy cho Thế kinh đường. Ngồi trong thư phòng thế này để đọc sách hoặc là phẩm trà, tự nhiên có cảm giác kỳ diệu 'người ở bên trong mà như ở bên ngoài', thật sự là một nơi nhân gian phúc địa được thiết kế cực kỳ khéo léo.

Từ các lão đã lâu không gặp. Ông ta trong bộ đạo bào xanh bằng gấm ngồi trên ghế trúc trong đường, đốt một lò đàn hương, vừa phẩm trà vừa thảnh thơi đọc sách. Nói đến thì từ khi trí sĩ đến nay đã hơn năm rưỡi rồi. Lão thừa tướng đương quốc nhiều năm, thể xác và tinh thần đểu mỏi mệt, về hưu hoàn tịch, thấy con cháu đầy đàn, lão mẫu tại đường, gia viên thịnh vượng, nô tỳ như mây, oán khí trong lòng cũng giảm đôi chút. Ông ta bèn ở trong 'Thích viên' các con trai dựng lên cho, bắt đầu cuộc sống nhàn cư nhẹ nhõm. Mỗi ngày ông ta hoặc đọc sách tại Thế kinh đường, hoặc chơi đùa với các cháu bên cạnh ao sen, hoặc là dự họp hội văn của danh sĩ địa phương, hoặc là cùng cao tăng đại đức đàm kinh luận thiền, cuộc sống trôi qua nhàn nhã, sức khỏe cũng tốt hơn nhiều so với lúc trước ở kinh thành. Ông thường xuyên nói với người ta: "Vất vả hết 40 năm làm nô bộc tại lưới trần, sao lại biết bốn mùa thắng cảnh ở gia hương? Thương tùng bạch hạc, sơn thủy đình uyển, hình như đang trách cứ ta trở về quá muộn."

Đương nhiên cũng không phải hoàn toàn không có chuyện phiền lòng. Thứ nhất, trong kinh thành sau khi Cao Củng ngồi ổn vị trí liền mượn khảo sát khảo quan năm ngoái và ngoại sát năm nay trắng trợn xử lý môn sinh bạn cũ của mình. Ông ta hầu như mỗi ngày đều có thể nhận được mấy phong thư kể khổ cầu xin, hình như tình huống đã đến sát biên giới tan vỡ. Nhưng Từ Giai biết, đây đều là phù vân, Cao Củng càng kiếm chuyện thì càng gần với sụp đổ. Cho nên trong thư hồi âm ông ta thường trích dẫn lời nói của cao tăng cổ đại: "Chỉ cần ngươi nhẫn hắn, nhường hắn, tùy hắn, ngừa hắn, kính hắn, đừng để ý đến hắn, đợi thêm mấy năm nữa, ngươi cứ nhìn hắn xem."

Nếu như cái trước là việc ngoại thân, nhưng cái khác lại là việc nhà mình rồi. Lúc trước khi tại Bắc Kinh, Từ Giai đã bị vài lần buộc tội nói ở quê nhà Tùng Giang của ông ta việc 'con cái phạm pháp, gia phó ngang tàng, hoành hành quê nhà'. Từ Giai cũng viết thơ hỏi qua ý mẫu thân, nhưng đều bị Cố thái phú nhân lấy lý do 'bịa đặt' cho qua. Ở xa nên không tiện hỏi, sau khi về nhà, con cái nô bộc lại hiếu kính ông hơn, cung dưỡng như tổ tông, khiến cho Từ các lão ôm tủi thân đầy người về quê được cảm thấy an ủi. Lại còn thêm trên dưới trong nhà biết ông bởi vì hặc nên ai cũng thu liễm lại, làm cho Từ Giai không thể nào phát hỏa, bởi vậy dự tính muốn nghiêm tra việc này cũng biến thành răn dạy không đến nơi đến chốn.

Nhưng Từ Giai dù sao cũng là Từ Giai, trong miệng nói cho qua nhưng trong lòng vẫn chưa từng buông, cũng thường xuyên nói bóng nói gió với thân thích bằng hữu, thăm dò con cái nô bộc có làm việc phạm pháp hay không. Tuy nhiên mọi người nể mặt ông ta, lại phần lớn đều nhận lợi ích của các con ông nên đều nói trước kia có, nhưng khi đó là do tuổi trẻ lông bông, mấy năm nay mấy vị công tử đã dụng tâm đọc sách, tu thân dưỡng tính, đã tốt hơn nhiều rồi.

Từ Giai nghe xong yên tâm không ít, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn, nhưng chung quy là 'dưỡng bất giáo phụ chi qua', cơ bản là trách nhiệm của mình, vì vậy quyết định chuyện cũ sẽ bỏ qua, và xem biểu hiện sau này thế nào. Mọi việc trôi qua một năm nửa năm như không có việc gì, người trong nhà phỏng chừng ông ta đã triệt để lơ là, vì vậy gạt bỏ lời cảnh báo, lại chứng nào tật nấy, bắt đầu hoành hành nơi quê nhà... Chỉ là lần này họ đặc biệt chú ý đến tin tức, cái gì cũng không cho ông ta biết.

Nhưng trên đời này nào có bức tường nào không lọt gió? Một hôm Từ Giai tâm huyết dâng trào, tránh người trong nhà, một mình ra bên hồ thả câu, gặp một ngư ông, khi trò truyện Từ Giai mới biết ông này là danh sĩ Trần Hằng ở Tùng Giang.. Khi ở kinh thành Từ Giai có nghe nói qua đại danh của ông này, sau khi về quê có vài lần đưa thiếp mời gặp, nhưng Trần Hằng này tính tình cao ngạo, chưa bao giờ chịu cúi đầu trước quyền quý, cho nên từ trước đến nay chưa có duyên gặp mặt.

Hai người hàn huyên vài câu, Từ Giai nghe ra đối phương quả nhiên danh bất hư truyền, là một chân quân tử. Hơn nữa đối phương cũng không nhận ra mình, vì vậy trong lòng mấp máy, hỏi ông ta cảm nghĩ thế nào về nhà Từ các lão. Trần Hằng nhìn mặt sông nhấp nhô gợn sóng, thản nhiên nói:
- Từ các lão là nhất đại danh tướng, đấu ngã Nghiêm Tung, bình loạn phản chính, là người có công với xã tắc.

- Điều này ta cũng biết. - Từ Giai hỏi: - Thế nhà ông ta ở quê thì sao?

- Từ các lão đối với gia hương vẫn rất tốt, làm nhiều việc thiện. Nhưng...

Trần Hằng nhìn Từ Giai một cái rồi ngưng không nói tiếp.

- Nhưng cái gì? - Từ Giai thản nhiên cười nói.

- Nhưng mấy đứa con của ông ấy ngang ngược làm nhiều việc phạm pháp, sớm muộn cũng sẽ mang đến cho ông ấy tai họa. - Trần Hằng nhìn Từ Giai, cười mà như không nói.

- Nói thế là sao? - Từ Giai nắm chặt tay cầm cần câu.

- Mấy huynh đệ đó ỷ vào quyền hành của cha mình, để mặc gia nô cướp đoạt ruộng đất của người khác, khi nam bá nữ, hoành hành bá đạo.

Trần Hằng cười lạnh nói:
- Buồn cười là quan viên địa phương bởi vì bọn họ là gia nhân của Từ gia mà không ngó ngàng tới tố cáo của bách tính, người Từ gia không lo ngại gì, tự nhiên làm đủ chuyện xấu rồi.

Mặc dù đều là lời thẳng thắn nhưng cũng khó nghe, Từ Giai đỏ mặt biện bạch:
- Chắc là ông nghe tin đồn thất thiệt rồi?

- Lời của ta ông tự nhiên không tin, nhưng có thể hỏi anh rể Diệp Lư Giang của Từ các lão. - Trần Hằng dựt tay, câu lên một con whitefish, nói: - Anh rể của Từ các lão cũng là một hán tử...

Từ Giai lại hỏi cớ sao, Trần Hằng liền nói cho Từ Giai một cố sự, nói rằng vào mấy tháng trước, Diệp Lư Giang đã từng đến quý phủ, nhưng vừa lúc Từ Giai ra ngoài thăm bạn, nên Từ Phan ở nhà tiếp đãi dượng.

Diệp Lư Giang liền thẳng thắn nói với Từ Phan:
- Ngươi cũng là người từng làm quan, hiển nhiên nên biết quốc pháp kỷ cương, vì sao nô bộc trong nhà hoành hành bên ngoài, bọn đệ đệ của ngươi không quản, ngươi cũng không quản sao?

Lời hắn nói coi như khách khí, không trực tiếp chỉ trích huynh đệ Hứa thị.

- Gia phó không giữ quy củ, sự việc còn có nghi hoặc...

Đối mặt với dượng chất vấn, Từ Phan cười gượng nói:
- Đợi sau khi cháu điều tra rõ, nhất định sẽ trừng phạt nghiêm khắc...

Lời còn chưa dứt, Diệp Lư Giang đã lạnh lùng cười ra tiếng:
- Còn giở giọng với ta à? Cái gì mà việc còn nghi hoặc? Căn bản là chuyện rõ mười mươi, hơn nữa không ít!

Diệp Lư Giang liền liệt kê ra các tội trạng, điều ác của người Từ gia, hắn càng nói càng bực, vỗ bàn nói:
- Nghiêm Tung bị thân bại danh liệt thế nào, còn không phải cũng bị con lão liên lụy à? Lẽ nào ngươi cũng muốn thấy cha ngươi xong đời sao?

Nói đến đây thì Từ Phan nghe không lọt tai rồi, hắn đứng dậy toan đi. Diệp Lư Giang bước nhanh tới kéo ống tay áo hắn lại, lớn tiếng nói:
- Nhưng Nghiêm Tung tối đa chỉ thân bại danh liệt, còn con lão thì phải đầu rơi xuống đất!

Kết quả hai người triệt để trở mặt, Từ Phan không cho phép gia nhân cho Diệp Lư Giang bước vào Từ gia một bước.

Trần Hằng nói rất sinh động, Từ Giai không thể không tin. Kết quả một buổi câu cá êm đẹp, cá thì câu không được con nào, chỉ có ôm về một bụng tức. Ngày hôm sau, Từ Giai vốn định mời anh rể qua phủ nói chuyện, ai ngờ Diệp Lư Giang lấy cớ có bệnh không đến. Từ Giai biết, đây là đã đắc tội với người ta. Thế là ông ta cầm theo lễ vật tự mình tới nhà tìm. Thấy ông ta đích thân đến, Diệp Lư Giang cũng nguôi giận, sai người đem ra hai hũ rượu tuyết hương nhà ủ, mấy món thức ăn, hai người vừa uống vừa nói chuyện. Dưới yêu cầu của Từ Giai, Diệp Lư Giang lần lượt kể ra từng hành vi mà mấy năm nay hắn tận mắt thấy như trên dưới Từ phủ ức hiếp người lương thiện, cấu kết du côn, cường đoạt ruộng đất người khác, lên mặt nạt người, nhục nhã quan viên. Từ Giai nghe được mà lạnh cả tay chân, cảm thấy trời đất quay cuồng từng đợt.

- Nghe được hiền đệ từng nói 'Quân tử chi học khắc kỷ nhi dĩ', nhưng con cái nhà mình lại không biết khắc kỷ là gì. Lại nghe hiền đệ tại Giang Tây ra đề thi hương là [Thánh nhân quý vị nhiên chi phòng], ta cũng cảm thấy nếu không phòng hoạn, thì sẽ muộn mất." - Diệp Lư Giang thống khoái nói ra toàn bộ những gì đã nghẹn trong lòng vài chục năm.

Trở về từ chỗ anh rể, Từ Giai gọi đứa con thứ tư tới lớn tiếng trách cứ, bảo hắn quản giáo môn hạ cho nghiêm ngặt. Mấy đứa con trai khóc lóc biểu thị hối cải. Nhưng Từ Giai biết, họ đều có thể trên dưới thông đồng, giấu diếm mình, răn dạy như vậy đâu có được tác dụng bao nhiêu đâu.

Dù sao con trai đều đã cưới vợ sinh con, mỗi người mỗi phần gia nghiệp, người làm cha như ông ta sớm không quản giáo, hiện tại muốn quản cũng có chút bất lực. Rơi vào đường cùng, ông ta bảo các con đóng cửa tự kiểm điểm hai tháng, nghiêm ngặt quản giáo tôi tớ, không được quấy rầy người trong hương nữa, còn ông ta thì đóng cửa từ chối tiếp khách, suy nghĩ biện pháp chỉnh đốn.

Ngay lúc tâm tình ông ta đang bực bội thì gia đinh đưa tới bái thiếp của Hải Thụy. Từ Giai vừa nghe liền giật cả mình, chẳng lẽ ông trời cũng không cho lão phu một cơ hội bù đắp sao? lại phái tới đây con quỷ vô thường đòi mệnh. Nhưng ông ta đã không còn là tể tướng tại vị, có thể nào chậm trễ với bản tỉnh phủ đài chứ? Thế là Vội vàng sai người thay y phục cho mình, rồi mời Hải đô đường vào đại sảnh gặp mặt.

Mặc xiêm y xong mới ý thứ được bản thân có chút khẩn trương, Từ Giai cười tự giễu, thầm nghĩ: "Sợ cái gì, cho dù hắn là diêm vương gia, ta còn là Địa Tạng Bồ Tát cơ mà." Thì ra Từ Giai nhớ lại, mấy phong thư mà Hải Thụy từng viết cho, trong đó có một lá là sau khi Hải Thụy ra khỏi lao, về Hải Nam thăm hỏi mẹ già, trên đường hưng phấn không ngớt. Từng viết thư cho Từ Giai: "Nay có thể gặp lại cao đường, ân tình sâu nặng, ngu mẫu tử cảm kích khôn nguôi." Đồng thời tán dương chiếu lên ngôi của Từ Giai nghĩ ra, thậm chí so sánh Từ Giai với Y Doãn phụ Thương diệt Hạ, Hoắc Quang phụ Hán.

Vào đầu năm nay Từ Giai lại nhận được một phong thơ của Hải Thụy, mặc dù chủ yếu là ân cần thăm hỏi theo lễ phép, nhưng trên thơ vẫn là đầy đủ khẳng định công tích của ông ta khi tại vị, nói "Nay thiên hạ cách biệt một trời so với bốn năm năm trước, tất cả đều dựa vào ngài hết."

"Có lẽ lão phu vẫn còn vài phần mặt mũi." Từ Giai thầm nghĩ thế, rồi lại không nắm chắc: "Chỉ hy vọng như thế đi..." thu lại tâm sự đầy bụng, Từ Giai được thị nữ dìu đi tới đại sảnh gặp Hải Thụy.

- Học sinh Hải Thụy bái kiến lão sư.

Từ Giai là Thiếu sư kiêm thái tử thái sư, người trước kính xưng "Thái sư", thái sư là thầy của bách quan, cho nên Hải Thụy cung kính giữ lễ là đệ tử.

Thấy hắn giữ lễ cung kính, Từ Giai trong lòng thoải mái, tiến lên đỡ lấy Hải Thụy:
- Không được, không được, hiện tại lão hủ chẳng qua là một giới thảo dân, sao có thể tiếp nhận lễ trọng như thế? Mau mời đứng dậy, mau mời đứng dậy.

Nâng Hải Thụy dậy rồi, Từ Giai lại thân thiết nói:
- Hoàng thượng phái tới thôn ta một thanh niên như Cương Phong đây, thật sự là tạo hóa một phương, cái phúc của bách tính. Lão phu tuổi già lực suy, không có từ xa nghênh đón, hy vọng thứ lỗi cho.
Rồi đưa tay nói:
- Mời.

- Mời lão thái sư.

Khi Từ Giai được thị nữ dìu ngồi xuống thì Hải Thụy đã ngồi ổn ở ghế khách, sau đó người hầu dâng lên trà mới.

- Hai năm không gặp, lão thái sư trông càng khỏe ra ấy.

Hải Thụy nhìn Từ Giai, quả thật khởi sắc hơn so với lúc ở Bắc Kinh, không còn cái vẻ gần đất xa trời như năm đó. Xem ra cuộc sống về hưu còn rất tốt.

- Nhờ phúc, nhờ phúc. - Từ Giai cười dài nói: - May mà hàm răng còn tốt, có thể ăn có thể uống, cũng là một bị cơm tốt.
Rồi thân thiết hỏi:
- Quý quyến của Cương Phong chắc là cùng đi nhậm chức luôn chứ?

- Gia mẫu tuổi tác đã cao, không thích hợp rời khỏi cố hương, chuyết kinh thì đã bệnh chết. - Hải Thụy có chút buồn bã nói.

- Thì ra là thế, lệnh phu nhân không có phúc khí rồi. - Từ Giai thở dài một tiếng, liền phân phó: - Cương Phong đã là phủ đài một tỉnh, bên người sao không có ai chăm sóc được chứ? Người đâu, chọn ra mười nha đầu tôi tớ giỏi giang bên cạnh ta, đi theo Hải đại nhân trở lại nghe sai bảo.

- Không được không được. - Hải Thụy cảm giác hoang đường, đây không phải là ngang nhiên đút lót sao? Hắn vội vàng gọi lại gia đinh kia: - Nhà ta nghèo, nuôi không nổi nhân khẩu dư thừa đâu.

- Cương Phong không cần đa tâm. - Từ Giai cười nói: - Lão phu biết ngươi là đại thanh quan, nhưng ngươi cũng phải biết rằng, bản thân không thể so với lúc trước, hiện tại ngươi là phong cương một tỉnh, phải khai phủ thiết nha, quan phủ có chi tiêu riêng cho ngươi nuôi mã phu, thị vệ, sư gia, nô tỳ, đây đều là hợp tình hợp lý, không ai nói ngươi cái gì đâu, không cần đa tâm.

- Nhưng...

Hải Thụy khẽ than một tiếng:
- Đó cũng không hợp pháp.

- Ha ha, ngươi nói như vậy cũng không sai. - Từ Giai xấu hổ cười nói: - Nhưng này Cương Phong, nếu ngươi gọi ta lão sư thì ta phải nói ngươi hai câu, ta biết ngươi theo đuổi lý tưởng xã hội công bằng, đâu đâu cũng lấy pháp luật tổ tông làm khuôn vàng thước ngọc. Nhưng mà ngươi cũng phải biết rằng, thời đại 200 năm trước đã khác hiện tại, Thái tổ hoàng đế anh minh thần võ cũng không thể dự liệu được biến hóa đến bây giờ.

Chung quy đã không ở quan trường, Từ Giai nói cũng tự do không ít.

- Mượn tuần phủ ngươi mà nói, thời Thái tổ hoàng đế, triệt hành tỉnh, lập tam ti phân quyền, vốn không có thiết lập tuần phủ.

Từ Giai chỉ dẫn từng bước:
- Nhưng sau đó dần dần phát hiện, tam ti cản tay lẫn nhau, chính lệnh không đồng nhất, một khi có việc, khó có thể tòng quyền. Vậy nên mỗi khi có đại sự yêu cầu tập quyền, triều đình chỉ có thể phái ra quan lớn làm khâm sai, lúc này mới có thiết lập tuần phủ, sau đó dần dần trở thành định chế. Nếu như thật muốn mọi chuyện thuận theo tổ huấn, Cương Phong, cái chức tuần phủ này há chẳng phải danh bất chính ngôn bất thuận rồi sao?

Hải Thụy nói không lại Từ Giai, nhưng con người hắn chỉ nói bản tâm, cũng không có khả năng bị lừa, hắn thản nhiên nói:
- Lão thái sư giáo huấn rất phải, chi tiêu cần thiết liên quan đến hành chính trị dân ta sẽ không tiết kiệm. Nhưng cá nhân học sinh có tay có chân, không cần hầu hạ, không cần lãng phí tiền của triều đình mới tốt.

Thấy mình phí lời, Từ Giai có chút phiền muộn nâng chung trà lên, cười nói:
- Như vậy thì thôi, Cương Phong đừng ngại lão phu đa sự.

- Sao dám, sao dám. - Hải Thụy liền nói.

- Cương Phong hôm nay quang cố đến đây, không biết có gì chỉ bảo? - Đặt trà xuống, Từ Giai hỏi.

- Đặc biết đến bái kiến lão thái sư vạn phúc, thứ hai, cũng muốn lãnh giáo lão thái sư một phen. - Hải Thụy nhỏ nhẹ nói.

- Đa tạ Cương Phong nhớ đến. - Từ Giai khẽ cười nói: - Lão phu như có biết điều gì, tự nhiên hết lòng phụng cáo.

- Lão thái sư trọng thần triều đình, điệt lão địa phương, nhất định biết rõ lợi và hại trong chính trị Ngô Trung. Hạ quan mới tới, vi chính nên lấy người nào làm đầu, mong rằng chỉ giáo. - Hải Thụy chắp tay hỏi.

- Ha ha, Cương Phong, ngươi quá khiêm tốn rồi. - Từ Giai cười nói: - Nếu lão phu không nhớ lầm thì ngươi từng đảm nhiệm tri huyện Trường Châu phải không.

- Một tỉnh một huyện, một trời một vực. - Hải Thụy khiêm tốn nói: - Học sinh thận trọng như bươc 1 trên băng mỏng.

- Nếu muốn lão phu nói một chút, lão phu cũng mạo muội nói thẳng với ngươi vậy. - Từ Giai liền vê râu nói: - Ngô Hạ ở đây cũng tính trù phú, hiện tại lại không có giặc Oa, cái gì cũng dễ nói, chỉ có một việc là nơi đây rất nhiều điêu dân chơi bời lêu lổng, không nghề nghiệp, những người này tính tình hung tàn, rất thích cáo quan kiện tụng, vậy nên nha môn bình thường án tồn đọng như núi. Cho nên muốn làm tốt quan phụ mẫu một phương, lão phu lại tặng thêm hai câu nữa... Hình thanh chính giản tu đại đảm, chấp pháp trì bình tề thì gian!

- Hay cho một câu 'Hình thanh chính giản, chấp pháp trì bình', học sinh đã được thọ giáo rồi!
Hải Thụy vui mừng nói:
- Chỉ là không biết, nếu như quan thân phạm pháp, ức hiếp lương dân, vậy cũng nên như vậy hay không?

- Cương Phong, ngươi đối với tiên đế đều tận ngôn can gián. - Từ Giai lên tiếng cười nói: - Huống chi chỉ là hương hoạn?

- Đa tạ lão thái sư chỉ giáo. - Hải Thụy nói tiếp: - Hạ quan còn có một chuyện thỉnh giáo.

- Mời nói. - Từ Giai nâng chung trà lên.

- Hạ quan đã tra duyệt phần thuế ruộng các phủ bao năm qua của Tô Tùng. - Hải Thụy trầm giọng nói: - Phát hiện thuế ruộng gần 10 năm, bình quân chỉ có ba thành của năm Hồng Vũ thứ 21, năm thành của năm Thành Hoá thứ 3, bảy thành của năm Chính Đức thứ 5, sau đó hàng năm đều giảm thiểu, cho đến cái mức như hiện tại... Lẽ ra lúc trước thiên hạ mới được ổn định, chính là thời gian 'nghìn dặm không tiếng gà gáy, ruộng hoang thẳng cánh cò bay', sau đó hơn 100 năm Đông Nam thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp, cần phải là thuế ruộng dần dần tăng mới đúng, vì sao lại trái ngược chứ? Xin hỏi thái sư, việc lạ như vậy, tới cùng là thế nào?

- A...
Từ Giai thình lình nghe hắn tung ra vấn đề này, tức thì không thể nào trả lời, cười gượng hai tiếng nói:
- Đúng vậy, chuyện này là sao?

- Đang muốn thỉnh giáo thái sư. - Hải Thụy đăm đăm nhìn Từ các lão, gằn từng chữ.

- Có thể...
Từ Giai nâng chung trà lên che đậy, ý nghĩ nhanh chóng xoay chuyển:
- Có lẽ... Hình như... Cần phải là có chuyện như vậy... Ngươi hẳn là biết, Thái tổ hoàng đế bình định thiên hạ, đối thủ lớn nhất không phải là Mông Nguyên, mà là Trương Sĩ Thành và Trần Hữu Lượng. Trương Sĩ Thành tự hiệu 'Ngô Vương', đô thành lớn nhất của hắn tại Tô Tùng, Trần Hữu Lượng hiệu 'Hán Vương', địa bàn của hắn tại Giang Tây. Sau khi Thái tổ hoàng đế bình định thiên hạ, rất hận dân chúng hai địa phương này đã ủng hộ hai người họ, vì trừng trị những kẻ bướng bỉnh đã lấy thuế nặng tại hai nơi. Nói đến thì lúc đó nam nhi đều dưới trướng Ngô Vương, sau khi chính quyền bị diệt, phần lớn ruộng đất của họ bị sung công, cho nên ruộng công Ngô địa rất nhiều, bản thân ruộng công tất nhiên thuế nặng. Cho nên vào thời Hồng Vũ thuế ruộng rất nặng, dân sinh bỏ đi nhiều.

- Sau đó thì sao? - Hải Thụy thản nhiên hỏi.

- Sau đó Vĩnh Lạc hoàng đế nắm chính quyền, vì tranh thủ dân tâm, nhiều lần giảm thuế cho Ngô Trung, sau đó lại dời đô đến Bắc Kinh, lương thực phải từ Đại Vận Hà đi 2000 dặm mới có thể vận đến kinh thành, trên đường một thạch phải tổn hao ba đấu, cho nên gạo đưa về Thái Thương càng ngày càng ít đi.

Từ Giai nói xong móc ra khăn tay sát lau mồ hôi, thầm nghĩ lão phu thực sự là thanh bảo đao chưa cùn.

- Thì ra là thế. - Hải Thụy nghe vậy hình như hiểu ra, rồi lại như lơ đãng hỏi: - Lúc nãy lão thái sư nói đến ruộng công, học sinh tra duyệt hoàng sách, phát hiện sổ sách không phù hợp nghiêm trọng mà.

- Cái này à..
Từ Giai cười nói:
- Lúc đó Ngô Trung là tội dân, ruộng đất đều bị kê biên và sung công. Nhưng đến triều Vĩnh Lạc, Thành tổ gia liền đặc xá cho Ngô địa, chia ra vài lần trả lại đất, ruộng công tự nhiên giảm đi.

- Chia ra mấy lần, trả về bao nhiêu, còn thừa lại bao nhiêu? - Hải Thụy trầm giọng hỏi.

- Cái này lão phu cũng không biết. - Từ Giai lắc đầu, cười khổ nói: - Phải bản thân Cương Phong đi điều tra thôi.

- Học sinh hiểu rồi, trở lại nhất định phải điều tra rõ. - Hải Thụy gật đầu nói: - Nếu như có người ngầm chiếm ruộng công phi pháp thì nên làm thế nào?

- Nếu có tội chứng, đương nhiên y pháp xử lý rồi. - Từ Giai cười gượng nói.

- Học sinh hiểu rồi, nhất định phải y pháp xử lý. - Nói xong Hải Thụy liền đứng dậy thi lễ: - Đã như vậy, hạ quan cáo từ thôi.

- Ài, hiếm khi đến một lần, nhất định phải ở lại ăn một bữa cơm. - Từ Giai giữ lại.

- Công vụ bận rộn. - Hải Thụy khéo cự tuyệt: - Để lần sau đi.

Từ Giai giữ lại không được, chỉ có thể đưa Hải Thụy ra ngoài.

Đợi đoàn người đi xa rồi, Từ Giai chao đảo, nếu không phải có người bên cạnh đỡ, nhất định ông ta đã ngồi phệt ra đất.

Đừng thấy lúc nãy lão già hiên ngang lẫm liệt, thật ra đã sớm bị Hải Thụy từng bước ép sát, khiến cho mất hồn mất vía rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 851: Đối quyết


Ba ngày sau, đại đường nha môn tuần phủ Tô Châu.

Hải Thủy mặc hồng bào ngồi ngay ngắn, nha dịch xếp hàng hai bên.

Phía dưới là các vị trí phủ, bọn họ vì nghênh tiếp Hải Thủy, đặc biệt đến sớm vài ngày, nhưng Hải Thụy không nể mặt, mặc thường phục vào thành, tránh bọn họ tới thẳng nha môn.
Không thấy tuần phủ đại nhân, các vị tri phủ cũng đâu thể về, đành kiên nhẫn chờ đợi, một mặt phái người do thám hành tung.
Lúc nghe thấy Hải Thụy tới Tùng Giang tới Từ các lão, lúc nghe thấy đóng cửa không ra ngoài, nói chung là không gặp mặt bọn họ.

Đang thấp thỏm bất an thì chập tối hôm qua cuối cùng có người truyền lời, nói tuần phủ đại nhân hôm nay thăng đường, mời các vị phủ doãn tới báo danh đúng giờ.

Vì thế các quan viên không dám chậm trễ, đúng giờ tới nha môn tuần phủ, cuối cùng cũng gặp được Hải Diêm Vương trong truyền thuyết.

Mọi người đồng loạt hành lễ:
- Quan viên Tô Tùng tham kiến đại nhân, đại nhân tới nhậm chức, ti chức nghênh đón sơ xuất, mong được thứ tội.

Hải Thụy nói ngắn gọn:
- Không cần đa lễ, sau này còn làm việc với nhau, mời ngẩng đầu gặp mặt, mời ngồi xuống, có việc thì nói.

Các quan viên dựa theo phẩm cấp ngồi xuống hai bên, tri phủ Tô Châu Trần Thọ Niên chắp tay hỏi:
- Trung thừa đại nhân, ti chức lớn gan hỏi, ngày nào khai ấn?
Nói rồi lấy trong ống tay áo ra một tờ giấy vàng:
- Trong này có mấy ngày lành trong tháng, mong trung thừa định đoạt.

- Cần gì chọn ngày, hôm nay khai ấn là được.
Hải Thụy không nhận, lệnh:
- Quan kỳ bài, đem cáo thị ta soạn cho các vị ấy xem.

Quan kỳ bài tuân lệnh, các tri phủ nhận lấy mở ra đọc, bên trên viết ( đốc phủ điều ước ), tổng cộng có 35 điều, nhưng khác hẳn cáo thị nhậm chức trước kia, không phải yêu cầu bách tính ra sao, mà là pháp quy, chế độ Hải Thụy định ra cho hạ quan cấp dưới.
Một, cấm chỉ hạ quan tiếp đãi thượng quan bày vẽ đưa đón xa hoa lãng phí. Như quy định bản thân tới các phủ, châu, huyện, "quan lại không được rời thành đón tiếp " , "không được dùng lễ nhạc" ,"không được giăng đèn kết hoa" ..v..v..v..

Hai, phản đối xa xỉ, quy định bản thân tới châu huyện chỉ được ở trong nơi cư ngụ vốn có, không cho phép "tu sửa", đồ dùng "không cho phép làm mới". Bản thân tới các nơi ăn cơm, không được quá 3 đồng mỗi bữa, các nơi vật giá thấp chỉ dùng 2 đồng, còn bao gồm cả chi phí dầu củi.

Ba, phản đối tham ô biến của công thành tài sản riêng, quy định "không phải vì công vì dân, quyết không được dùng", mời khách tặng lễ, chỉ có thể dùng lương bổng của mình, nếu "không phân công tư, chi dùng lẫn lộn", định luận là tham ô.

Bốn, phản đối hối lộ, quy định không cho phép tặng quà quan trên, vì tránh thư lại nhận hối lộ, yêu cầu soát người thư lại, nếu phát hiện ra thì phải nghiêm trừng.

Năm, dùng biện pháp kinh tế trừng phạt quan viên thất trách, như quy định quan quân không lĩnh được lương tháng đúng hạn, quan phủ châu huyện cũng không được lĩnh lương, hoặc phải đem bạc, gạo của phủ châu huyện phát cho quan quân.

Rất nhiều quy định, kín kẽ chu đáo, là kinh nghiệm chấp chính nhiều năm tại địa phương của Hải Thụy.

Những quy định này làm đám quan viên cảm thấy khó tiếp nhận ... Không cho đưa đón nghênh tiếp, chẳng phải làm bọn ta mất hết các mối quan hệ sao?
Thậm chí ngay cả giấy dùng viết công văn cũng "chỉ được dùng giấy mỏng, không được dùng giấy dầy, càng không cho phép dùng phong bì lụa", con mẹ nó chứ, muốn người ta cười bọn ta thối mũi sao?

Vì đối phương là Hải Diêm Vương, các vị tri phủ không dám ý kiến ở các điều khác, chỉ tóm lấy điều này thận trọng nói:
- Thế này tựa hồ quản quá chi tiết một chút.

Hải Thụy trầm giọng nói:
- Đại Minh ta từ thời Gia Tĩnh tới nay, tài chính cực độ khó khăn, khẩu hiệu "đơn giản, tiết kiệm" đã hô hào mười mấy năm rồi, nhưng chỉ dừng ở miệng mà thôi. Nếu không có nội dung cụ thể, phản đối lãng phí, thực hành tiết kiệm chỉ là lời chót lưỡi đầu môi.

Lại triển khai tranh chấp ở vài điều nữa, thấy các tri phủ mặt mày nhợt nhạt, Hải Thủy hoàn hoãn nói:
- Các vị yên tâm, ta cũng từng làm tri phủ, biết chỗ nào nên tiết kiệm, chỗ nào không nên. Ví dụ chi tiêu thuê thư bạn, sai dịch, ta sẽ nới lỏng, các vị nếu như cần mẫn một chút, còn có thể có dư thừa.
Ý tứ là, không phải ta không cho các ngươi cơ hội kiếm tiền, nhưng phải xem hiệu suất của các ngươi.

Gặp phải quan trên thông thạo chính vụ tới mức mức làm người ta phát run, yêu cầu hà khắc cũng tới mức làm người ta phát run này, các vị tri phủ đại nhân muốn nói không mở được miệng, muốn khóc mà không có nước mắt ...

Con mẹ nó, thế này thì làm quan còn thú vị chó gì nữa? Chẳng trách đám người thông minh kia vừa nghe nói Hải Thụy tới, liền bỏ chỗ béo bở chạy mất, té ra người ta biết trước rồi.

- Các vị không nói, vậy tức là không có ý kiến gì?
Hải Thụy hỏi:

- ....
Các vị tri phủ có trăm cái ý kiến, nhưng bảo bọn họ phản đối Hải Diêm Vương ngay trước mặt thì bọn họ không có gan.

- Được rồi, truyền lệnh khai ấn phóng cáo thị.
Hải Thụy gõ đường mộc, quan kỳ bài đem công văn chính thức chuẩn bị trước đó dán ở cửa các nha môn, Hải Thụy cũng bắt đầu chính thức lần đầu giáo huấn sau khi nhậm chức:
- Các vị đại nhân.

Các quan viên vội khôi phục lại từ ủ rũ, đứng dậy đáp:
- Trung đường đại nhân.

- Các vị làm quan thế nào?

- Chúng ti chức làm quan thanh bạch, cẩn thận chu đáo, trên thay triều đình làm việc, dưới chia sẻ lo lắng cho lê dân...
Các vị tri phủ như đọc thuộc lòng.

- Đúng là "trên thay triều đình làm việc, dưới chia sẻ lo lắng cho lê dân" chứ?
Hải Thụy mỉm cười hỏi.

- Đúng thế.
Các quan viên thầm nghĩ :" Chẳng lẽ dám nói không phải?"

- Vậy thì qua tốt rồi.
Hải Thụy không khách khí nữa:
- Ta đang có một đại sự "vì triều đình, vì lê dân" cần các vị giúp đỡ đây.

- Mong trung thừa đại nhân sai bảo ...
Các vị tri phủ tim vọt lên tận cổ rồi.
- Bản quan tra duyệt hồ sơ ruộng đất của Tô Tùng, phát hiện ra bất kể là ruộng quan hay ruộng tư đều vô cùng hỗn loạn, rất nhiều ruộng vốn thuộc về triều đình lại phát hiện nằm trong tay cá nhân, cùng một mảnh ruộng lại có hai chủ; cùng với hiện tượng ruộng miễn thuế vượt giới hạn nghiêm trọng, tạo thành tổn thất lớn thuế má cho triều đình, với bách tính một khi phát sinh tranh chấp quyền sở hữu, quan phủ cũng không thể phân rõ đúng sai.
Hải Thụy nghiêm giọng nói:
- Vì thế bản quan quyết định, tận dụng nửa năm trước khi thu thuế vụ xuân, tiến hành đo đặc đăng ký lại toàn bộ số ruộng đất, sau này bách tính dựa vào đó nộp thuế.

Nếu như nói (điều ước đốc phủ) chết tiệt kia, các tri phủ còn chịu được, thì quyết định đo đạc ruộng đất này làm bọn họ bùng nổ tức thì, đua nhau nói:
- Ngàn vạn lần không thể, sẽ gây dân biến đấy.

- Đúng thế rất nhiều người dân bán ruộng đất không tới quan phủ đăng ký, một khi đo đạc đăng ký lại, chắc chắn có tên điêu dân thừa cơ chiếm đất của người khác.

- Hơn nữa Ngô Trung là đất văn, khắp nơi toàn quan hoạn, nếu đo đạc, những tẫn thân này khẳng định không đồng ý. Cường long không áp được địa đầu xa, trung đường hãy cân nhắc.

*** Ngô Trung vùng phía nam Tô Châu.

- Vì sao tấn thân không đồng ý?
Hải Thụy hỏi dồn tới.

- Vì...
Đám tri phủ uất ức, đúng là làm ơn mắc oán, đành giải thích:
- Triều đình quy định, người có công danh có thể miễn trừ thuế ruộng nhất định, các phủ huyện cũng có ưu đãi riêng, ví dụ ở Thường Châu, trúng cử nhân miễn thuế 400 mẫu ruộng, trung tiến sĩ miễn thuế 2000 mẫu, lên tới quan nhị phẩm thì miễn thuế 10000 mẫu. Nhưng chuyện đọc sách làm quan này, khó biết vị tổ tiên nào sẽ linh thiêng phù hộ, rất nhiều sĩ tử bần hàn đỗ cao, không dùng tới ưu đãi này. Vì thế một số người đem ruộng của mình đeo dưới tên người đó, mỗi năm chia một phần thù lao từ tiền miễn thuế.

- Tình hình hai bên cùng có lợi này trải khắp cả nước, chủ đất vẫn là chủ đất cũ, người có công danh chỉ có danh nghĩa mà thôi, cho nên khế ước mua bán của bọn họ không tới quan phủ đăng ký.

- Nếu đo đạc ruộng đất đăng ký lại, chủ đất sẽ không chịu, nhà quan viên sẽ mất đi chỗ thu nhập này ... Đại nhân, ngài là thanh quan, trong mắt ngài chúng tôi đều không phải là quan thanh liêm, nhưng có số bạc này, chúng tôi không phải tham ô, cũng có thể nuôi được già trẻ, giữ được thể diện cần thiết, trong mắt người dân, thế đều là thanh quan rồi.

Hải Thụy kiên nhẫn nghe bọn họ nói xong lạnh nhạt nói:
- Nếu là ưu đãi do triều đình quy định, có thể theo đó chấp hành, nhưng tiêu chuẩn miễn thuế của các phủ huyện do hộ bộ định đoạt, không có quyền tự quyết.
Nói rồi lạnh lùng liếc nhìn đám tri phủ rất không cam lòng.
- Nói đi nói lại kỳ thực là một ý, thiệt quốc gia, thiệt bách tính, không thể thiệt đại hộ. Ta muốn hỏi các ngươi, cái mũ ô sa rốt cuộc do ai cấp cho các ngươi, các ngươi là quan phụ mẫu của ai.
Thấy cả đám im lặng, Hải Thụy quát:
- Nói mau.

- Đại nhân giáo huấn phải lắm.
Đám tri phủ ấp úng không đối đáp nổi, đành phân bua:
- Nhưng chúng tôi không thể chặn tiền tài của người khác, làm thế không chỉ quan viên hộ tịch Tô Tùng hận chúng tôi, mà quan viên toàn thiên hạ cũng không tha cho chúng tôi ...
- Đúng vậy, nếu trung đường quyết định kiên trì làm như thế, chúng tôi đành từ quan thôi ...
Lời này tức thì được không ít kẻ phụ họa.

- Làm quan không làm chủ vì dân, triều đình giữ lại các ngươi có tác dụng gì?
Hải Thụy đập đường mộc:
- Cho các ngươi biết, trước khi ta tới, triều đình đã dự liệu được sẽ có kẻ bỏ gánh, cho nên ta đã chuẩn bị một ban bệ hoàn toàn mới. Đại Minh có thể thiếu rất nhiều, nhưng không thiếu mấy kẻ làm quan, không muốn làm có thể bỏ mũ cuốn xéo. Sau này cũng có thể bỏ đi bất kỳ lúc nào, nhưng kẻ nào dám ngoài nghe trong chống, câu kết phá hoại, mặc dù ta không có cẩu đầu đao của Bao Thanh Thiên, nhưng vẫn có thể lấy được cái đầu chó của các ngươi.

~~~~~~o0o~~~~~~

Mấy ngày trước Hải Thụy tới bái phỏng Từ Giai, Từ Giai nói, Ngô Trung có nhiều điêu dân, tính tình hung hãn thích kiện tụng, nha môn thường xuyên tích án như núi. Cho nên quan viên chấp chính đơn giản, công bằng vô tư.

Nói trắng ra là đừng để ý tới đám điêu dân đó, bớt nhận tố tụng đi, quan trọng nhất là đừng để ảnh hưởng tới cuộc sống người dân ...
Lời này thực ra không hoàn toàn là vì lòng riêng, dải Tô Tùng đúng là có tồn tại vấn đề tương tự, một là vì 10 năm kháng Oa, bách tính gần như tập võ rèn luyện sức khỏe, có võ nghệ tất nhiên không sợ chuyện; hai là kinh tế Tô Tùng phát triển tới mức độ nhát định xuất hiện vô số lưu manh du thử du thực, đám người này cả ngày rảnh rỗi đi gây hấn gây sự, tất nhiên làm hỏng dân phong.

Nhưng Hải Thụy cho rằng, dân phong Giang Nam không tốt là do quan viên không tận chức, đám quan phụ mẫu đều suy nghĩ thêm một việc chẳng bằng bớt một việc, thậm chí ăn của đút thì làm sao có thể làm chủ vì dân? Người dân cùng khổ không dựa vào quan lại được, đành tự tìm cách.

Một nguyên nhân khác nữa là đám tụng côn, Hải Thụy cho rằng, nhiều kiện cáo là do quan phủ không tiếp nhận lời khởi tố bằng miệng, nên sinh ra loại người viết đơn kiện kiếm sống, đám tụng côn này vì kiện cáo kiếm tiền, nên đem chuyện đơn giản biến thành phức tạp, vốn chuyện có thể hòa giải, nhưng bọn chúng xúi bẩy đẩy cao mâu thuẫn, cho nên thành kiện tụng không ngớt, làm hại dân phong.

*** Tụng côn: Thầy dùi, cách gọi mang hàm ý thiếu tôn trọng với trạng sư.

Vì thế trực tiếp chấp nhận lời khởi tố bằng miệng của người dân là điều quan trọng xoay chuyển cục diện hỗn loạn này, Hải Thụy liền ra thông cáo: Phàm người không thể tự viết thư tố cáo, cho phép dùng miệng trần thuật.

Pháp lệnh này đưa ra tức thì được bánh tính các phủ hưởng ứng nhiệt liệt, các nha môn đông như trảy hội, bách tính ra vào không ngớt, náo nhiệt hơn cả năm mới ...

Đương nhiên nếu đổi lại là bất kỳ ai khác làm tuần phủ cũng sẽ không có được hiệu quả này, nhưng hiện giờ ngồi ở công đường là Hải Thanh Thiên làm chủ vì dân, Hải Diêm Vương không sợ cường quyền, bách tính còn cố kỵ gì nữa?

Tối ngày hôm đó tính lại, không ngờ thu được hơn ba nghìn cáo trạng cả bằng miệng lẫn bằng thư, Vương Tích Tước cười khổ:
- Một ngày thu cáo trạng bằng cả một năm, thế này chúng ta không làm chính sự nữa à?

- Ha ha ha, đây là chính sự mà.
Hải Thụy từ cái bàn chất đống giấy tờ thò mặt ra:
- Phân loạn những vụ án đó ra rồi hẵng xem.
Nói xong lại tiếp tục viết lách tính toán.

Đêm hôm đó, Hải Thụy lần đầu tiên thắp mười chiếc đèn mỡ trâu, chiếu cả đường óc sáng như ban ngày, bởi vì lúc này không chỉ có hai người bọn họ làm việc, còn có 60 vị kiểm toán mời tới từ Hối Liên, công phá hồ sơ đăng ký nhiều năm tích chật cả phòng ...

Mặc dù chuẩn bị đo đạc lại, nhưng nếu có thể đại khái nắm được quyền sở hữu ruộng đất, tất nhiên có thể giảm đi rất nhiều khó khăn khi đo đạc.

Công việc này đối với các trướng phòng bình thường mà nói khẳng định chẳng khác gì kiến gặm voi, nhưng với các kiểm toán tiên sinh quen với sổ sách ngồn ngộn của Hối Liên mà nói chì là việc tầm thường.

Công tác nhanh chóng chuẩn xác hiệu quả cao của bọn họ tất nhiên làm Hải Thụy hài lòng 9 phần, 1 phần còn lại không hài lòng là giá thuê quá cao, mỗi người 3 lượng bạc một ngày, nghe nói đó còn là giá ưu đãi. Cho nên so với số thù lao kia, chút tiền dầu này chẳng đáng là gì ...

May mà đắt sắt ra miếng, tới nửa đêm là các kiểm toán tiên sinh đã hoàn thành nhiệm vụ Hải Thụy bố trí, vị đứng đầu tổng kết lại đưa cho Hải Thụy, những người khác về ngủ.

Hải Thụy dụi mắt nhận lấy báo cáo, tuy chuẩn bị tâm lý rồi nhưng vẫn nhảy dựng dậy la bải hoải:
- Sao nhiều thế?

Tiếng kêu này làm Vương Tích Tước quay sang, Hải Thụy đưa báo cáo cho hắn. Vương Tích Tước mang tới dưới ánh đèn xem cho kỹ, bên trên đó liệt kê tỉ mỉ tổng lương thuế lương, tổng số ruộng đất các huyện ở Tùng Giang; đồng thời đối chiếu với tổng lượng thuế lương, số ruộng đất sau khi khai quốc 20 năm...
Vì thời kỳ này dân sinh an cư lạc nghiệp, khai hoang cơ bản kết thúc, con số thống kê tương đối có giá trị tham khảo.

Năm Hồng Vũ thứ 24, trong đăng ký tộng cộng có 476 vạn mẫu, thuế lương là 138 vạn thạch. Năm Long Khánh thứ hai, ruộng đất đăng ký 430 vạn, thuế lương là 103 thạch. Đất đai thu hẹp 46 vạn mẫu, lương thuế giảm 35 vạn thạch. Con số này đã đã đẹp lắm rồi, điều này nói rõ các tuần phủ trước đó là Thẩm Mặc, Quy Hữu Quang, Đường Nhữ tiếp đã làm rất tốt.

Bất kể đất đai vì sao thu hẹp, chưa hỏi tới gần 100 vạn mẫu đất sau khi khai thông sông Ngô Tùng, khai phá bến Thượng Hải đi đâu. Chỉ nói riêng thuế má thu hẹp một nửa, các tiên sinh kiểm toán đưa ra con số tương quan: Năm Hồng Vũ thứ 24, ruộng quan là 300 vạn mẫu, trong đó 3 vạn mẫu miễn thuế.

Nhưng tới năm Gia Tĩnh thứ 20, ruộng quan chỉ còn lại 170 vạn mẫu, số còn lại bị quan phủ dùng đủ moại hình thức bán cho dân gian, thành ruộng dân, mà số miễn thuế đã tới 90 vạn mẫu.
Tới năm Long Khánh thứ hai, ruộng quan là 110 vạn mẫu, số ruộng miễn thuế là 117 vạn mẫu, hơn cả số ruộng quan.

Từ năm Gia Tĩnh thứ 20 tới năm Long Khánh thứ 2, chỉ gần 30 năm, số lượng đất canh tác ngày càng đi xuống, nhưng tiền thuế lại tăng lên, Hải Thụy biết đó là do hiệu ích kinh tế cao khi người dân chuyền sang trồng bông, nhưng hắn cho rằng nó không thể che đi hậu quả do thôn tính đất đai mang lại, vì ruộng không nộp thuế vẫn không nộp thế, chẳng qua là ép thêm nhiều mỡ từ trên người bách tính mà thôi.

Trong một loạt con số thống kê đó, còn có con số nữa, số lượng đất đai của nhà họ Từ tại Tùng giang tổng cộng 46 vạn mẫu.

Từ các lão con cháu đầy đàn thật khiến người ta hâm mộ, 40 năm qua, chi trưởng họ Từ có thêm 11 con cháu, đều đã thành hôn. Con thứ Từ Côn cho têm 7 đứa cháu, con thứ ba Từ Anh thêm cho 5 người, con út Từ Kha cũng có hai con.
Thêm vào đệ đệ của ông ta, gia tộc họ Từ có hơn 100 nam đinh, là đại tộc của Tùng Giang, điền sản của họ tất nhiên có con số kinh người.

Triều đình luôn truyền rằng Từ gia có 20 vạn mẫu đất canh, nhưng hiện giờ xem ra vẫn đánh giá thấp họ, mặc dù tránh cây to gió lớn, Từ gia đem điền sản phân tán tới thành viên trong gia tộc, nhưng không che được mắt các tiên sinh kiểm toán của Hối Liên. Bọn họ chỉ tính số ruộng đất dưới tên trực hệ hai huynh đệ họ Từ đã lên tới con số khủng bố 46 vạn mẫu rồi, chẳng trách ngay Hải Thụy cũng phải la lên.

Các tiên sinh kiểm toán nói với Hải Thụy, đây là còn chưa tính tới ruộng đất dưới tên nô bộc của Từ gia, vả lại họ Từ dựa vào uy thế Từ các lão, đâu chỉ hoành hành ở mỗi Tùng Giang? Tô Châu, Thường Châu, thậm chí Hồ Châu, Hàng Châu ở tỉnh bên cũng có vô số ruộng đất.
Hơn nữa họ Từ ở nghành bông, ngành lụa đều có thương nhân cung ứng nguyên liệu, lũng đoạn thị trường, kiếm lợi kếch sù.

- Nếu muốn tra rõ sản nghiệp nhà họ Từ, cho dù bằng vào số người chúng tôi, cũng phải mất một tháng.
Kiểm toán tiên sinh nói:

Hải Thụy đúng là hết hồn, hắn không ngờ mình đang đối mặt với con quái thú khổng lồ như thế.

Đợi vị kiểm toán tiên sinh kia đi, Vương Tích Tước nói nhỏ:
- Làm sao đây, hay là tạm thời bỏ qua Tùng Giang đã?
Mặc dù hắn biết đạo lý bắt giặc bắt vua trước, nhưng Từ gia có thực lực như thế, không phải ai cũng có thể đối phó được, dù Hải Thụy cũng thế.

"Có lẽ chỉ có Cao các lão hoặc Thẩm các lão đích thân tới mới trị được Từ các lão." Vương Tích Tước suy nghĩ, tiếc rằng hắn cũng biết với thân phận hai người đó không thể trực tiếp nhúng tay vào chuyện này.

Vương Tích Tước xưa nay lạc quan kiên quyết, đối diện với kẻ địch sức mạnh vô cùng, cũng không khỏi sờn lòng.

Hải Thụy nhìn tên hậu bối mà hắn rất tán thưởng này, bình đạm nói:
- Sư phụ ngươi bảo ngươi bảo ngươi theo ta học tập, nhưng ngươi xuất thân tam đỉnh giáp, lại làm ti trị lang nhiều năm, bất kể là sinh sử hay quốc sách, đều hơn xa ta.

Vương Tích Tước định khiêm tôn thì Hải Thụy khoát tay nói:
- Để ta nói hết đã, ta nghĩ đi nghĩ lại, thứ duy nhất ta có thể dạy ngươi là 2 chữ.

- Xin nghe trung đường nói.

- Hai chữ này, nói dễ nghe là "khí phách", nói khó nghe một chút là "liều mạng".
Hải Thụy đứng dậy, thổi tắt từng chiếc đèn hao tiền, chỉ để lại một cái:
- Nếu như ngươi muốn làm một tên quan liêu hợp cách thì hiện giờ về ngủ luôn đi, khỏi phải nghe những lời thừa thãi của ta. Nếu như ngươi theo đuổi cao hơn, muốn thành hiền thần thực sự thì phải học cách "liều mạng".

Vương Tích Tước không lên tiếng, nghiêm chỉnh nghe Hải Thụy nói:
- Người đời có câu "tà không thắng được chính", nhưng sự thực đa số trường hợp là "đạo cao một thước, ma cao một trượng", chính thường không thắng được tà, thậm chí bị tà tiêu diệt. Sau đó đám đạo học vô sỉ luôn có lý luận đổi trắng thay đen, đem chúng nói thành chính, người khác thành tà. Khi ấy ngay cả chút danh dự cuối cùng của ngươi cũng không còn.

Nếu chẳng phải chính tai nghe, Vương Tích Tước sẽ không tin những lời tiêu cực này lại phát ra từ đệ nhất đấu sĩ của Đại Minh. Hắn còn tưởng trong mắt Hải Diêm Vương, không có kẻ thù nào là không thể đánh bại.

- Vậy chúng ta phải lựa chọn ra sao? Cùng một giuộc với chúng, bo bo giữ mình, hay biết rõ không địch nổi vẫn xông tới?
Hải Thụy nhìn vào người trẻ tuổi tiền đồ rộng mở, nói từng chữ một:
- Đừng trước ba ngã rẽ này, ngươi lựa chọn thế nào, quyết định tương lai ngươi là người ra sao.

- Sư phụ thường dạy hạ quan.
Vương Tích Tước suy nghĩ một lúc rồi đáp:
- Kiên trì là còn hi vọng, kích động không tự lượng sức là bỏ cuộc vô trách nhiệm.

- Ngươi còn chưa hiểu sư phụ của ngươi.
Hải Thụy lắc đầu:
- Kỳ thực trong lòng y có một ngọn lửa, vào lúc cần chết, y sẽ không chút do dự. Nhưng trên đời này, có lẽ không việc gì đáng cho y phải hi sinh nữa, vì có những người như chúng ta làm thay y.

- Làm thế có ý nghĩa gì?

- Vì đạo nghĩa.
Hải Thụy trầm giọng nói:
- Khi còn trẻ, ta có rằng đạo nghĩa là cao vời, là thần thánh, là lời thánh nhân. Nhưng hiện giờ ta dần hiểu ra, đạo nghĩa chính là việc mình cho là chính xác ... Cho nên đạo nghĩa cả mỗi người mỗi khác, nhưng giống nhau một điểm, là xem ngươi có khí phách kiên trì đạo nghĩa của mình không. Nếu ngươi cho rằng việc mình làm là phù hợp với đạo nghĩa thì phải kiên trì mà làm, cho dù có vì thế mà thân bại danh liệt cũng có hề gì.
Ánh đèn kéo bóng của Hải Thụy thật dài, giọng hắn như tiếng chuông Đại Lữ dội vào lòng người:
- Năm nay ta đã 55 tuổi rồi, có một vấn đề quấy nhiễu ta hơn 40 năm, đó là quốc gia có chuyện gì? Thiên triều rộng lớn, sản vật phong phú, vì sao hòa bình trăm năm mà dân không thể nào an cư lạc nhiệp, rốt cuộc vì sao? Ta đã tìm rất nhiều nguyên nhân, Nghiêm đảng làm loạn? Bắc Lỗ nam Oa? Hay vì quan trường vô dụng, thậm chí chĩa mũi giáo vào hoàng đế, dâng lên bản tấu không hợp thời, hại chết tiên đế, nhưng kết quả thế nào?

- Nghiêm đảng đổ rồi, giặc Oa dẹp rồi, Thát Lỗ không còn như trước, lề thói đổi mới, tuy không nói thanh liêm, nhưng hiện tượng tham ô phạm pháp, bỏ rơi nhiệm vụ không còn nhiều nữa, vậy tại sao quốc gia không khởi sắc, bách tính vẫn cứ sống trong dầu sôi lửa bỏng? Ta tìm đi tìm lại, mục tiêu còn lại cuối cùng nghiệm chứng suy đoán của ta. Không biết ngươi cảm tưởng thế nào, chứ ta nhìn thấy con số kia chỉ có kinh hoàng.
Hải Thụy càng nói càng phẫn nộ:
- Chỉ một mình Từ gia ở phủ Tùng Giang đã như thế, nếu tra tiếp không biết sẽ có con số thế nào, đâu mỗi Từ gia, cả Tùng Giang có hơn 400 cử nhân, hơn 200 tiến sĩ, mười mấy người làm tới thượng thư thị lang, bọn họ và Từ phủ đều cùng một giuộc, chẳng qua khác nhau ít hay nhiều mà thôi.

- Đâu chỉ Tùng Giang, mười phù Tô Tùng! Mà cả hai kinh mười ba tỉnh, ở đâu không có những việc thế này? Lại thêm vào hoàng thất tông thân, người trong cung cấm ... Đó là đám ký sinh trùng.
Hải Thụy siết chặt nắm đấm, hai mắt phun lửa:
- Vô sỉ hơn nữa là, đám quan hoạn sĩ thân xưa nay đều coi mình là người đạo đức cao thượng, đẩy trách nhiệm cho người khác, hô hào hạn chế tông phiên, nhưng không soi gương nhìn lại bản thân, đám tham lam nhất là ai? Là chính bọn chúng.

- Hoàng thất tông phiên và cửu biên chỉ là một góc tảng băng chìm thôi. Nguy hại lớn nhất kỳ thực là lũ sĩ đại phu vô sỉ, bọn chúng một mặt ra sức chiếm đoạt, vơ vét của dân, một mặt ra vẻ môn đồ thánh nhân, nắm chính quyền, dẫn dắt dư luận. Hóa trang cho mình thật bóng bẩy, đẩy hết xấu xa lên người kẻ khác. Đám người này không trừ, lê dân bách tính vĩnh viễn sống trong đói khổ.
Hải Thụy nhìn xoáy vào Vương Tích Tước nói từng chữ một:
- Bọn chúng đúng là mạnh tới không tưởng, nhưng không phải lý do từ bỏ đấu tranh, nếu không triều Đại Minh này coi như xong rồi. Thật may còn những vị quan lo nước lo dân như Cao các lão, Thẩm các lão, Trương các lão , không bị thất bại làm sợ hãi, quyết tâm tử chiến với bọn chúng. Đây là cuộc chiến chênh lệch lực lượng, kéo dài, ta chẳng qua chỉ là con tốt thôi, muốn dựa vào một con cờ mà thắng lợi thì căn bản là không thể.

- Hạ quan sẽ luôn đứng bên cạnh đại nhân.
Vương Tích Tước bị chính khí ngời ngời của Hải Thụy cảm nhiễm.

- Ngu xuẩn, nếu các cả ngươi vào thì tương lai chúng ta cũng thua rồi.
Hải Thụy lắc đầu:
- Lần này ngươi chỉ cần đứng một bên mà xem, có thể nhìn ra cái thế giới trắng đen đảo lộn, cái bộ mặt tởm lợm của đám nhân nghĩa đạo đức, là hoàn thành nhiệm vụ rồi. Nếu sau này ngươi còn chưa mất lòng tin, thì chuẩn bị gánh lấy trọng trách này.
Hắn vỗ vai Vương Tích Tước:
- Mai phân loại vụ án, giờ thì về ngủ đi.
Nói xong chậm rãi đi ra ngoài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 852: Hương nguyện


Đứng im tại chỗ rất lâu, Vương Tích Tước mới thổi tắt đèn ra ngoài, sân tĩnh mịch, chỉ có một mình hắn, ngẩng đầu lên, hôm nay trời không trăng, chỉ có sao sáng đầy trời.

Sáng hôm sau, Vương Tích Tước dùng hiệu suất tối cao phân chia các loại cáo trạng, báo kết quả cho Hải Thụy:
- Trong ba nghìn đơn cáo trạng, trên 90 phần trăm là cáo trạng hương quan đoạt gia sản.
Nhớ tới câu "đây là chính sự" của Hải Thụy, Vương Tích Tước ngoài khâm phục cũng hết sức tò mò, vì sao Hải Thụy dự đoán được kết quả ngày.

- Hai mươi năm qua, mỗi khi có bách tính kiện quan thân cướp đoạt tài sản, là một lần tiểu dân thua kiện. Vì thế việc chiếm đoạt ngày càng một dữ dội, dân chúng nghèo dần, quan thân giàu lên. Về sau quan phủ thậm chí không tiếp nhận vụ án tương tự nữa, dân cũng không dám kiện cáo nữa, cho nên mới có ngày hôm nay.
Hải Thụy nói:

- Nghe nói các sĩ đại phu trước kia, làm quan mười năm mà túi trống trơn, quan nhị phẩm nghỉ hưu, gia sản cũng chỉ được coi là trung lưu, vì sao sao chỉ mấy chục năm, đã có thay đổi lớn như thế?
Vương Tích Tước lắc đầu thở dài.

- Thói đời biến hóa quá nhanh, người người sùng bái đồng tiền, sĩ đại phu không còn vui với nhạc đạo nữa, mà chìm đắt trong đám mỹ tỳ, tuy cầu hưởng thụ xa xỉ, sao lại chẳng lợi dụng đặc quyền, xà xẻo người dân?
Hải Thụy cười lạnh, đem báo cáo của Vương Tích Tước cùng kết quả kiểm toán tối qua cho vào phong thư, dán sĩ lên, đóng dấu vào, lệnh thư bạn:
- Lập tức gửi cho nội các.

Làm xong hắn bảo Vương Tích Tước:
- Thu dọn đi, hôm nay tới Tùng Giang.

- Vậy ba nghìn cáo trạng kia phải làm sao?

Hải Thụy lạnh nhạt nói:
- Không giải quyết vấn đề ở Tùng Giang, không giải quyết được kiện cáo ở nơi này. Còn vấn đề ở Tùng Giang giải quyết rồi, tố tụng ở Tô Châu cũng theo đó được giải quyết.

Buổi chiều này hôm đó, Hải Thụy di giá tới Tùng Giang, ngày hôm sau dán cáo thụ, tiếp nhận tố cáo của người dâng, đồng thời thanh lý vụ án cũ.

Tùng Giang và Tô Châu tuy gần nhau, nhưng bách tính Tùng Giang chưa được lĩnh giáo uy đức của Hải Thanh Thiên, ban đầu người dân không tin lắm, chỉ có người mang oan ức cực lớn mới dám cáo trạng...
Những vụ án đó kỳ thực không khó, sở dĩ không thể kết án vì bị cáo tiền nhiều thế mạnh, quan phủ căn bản không xử nổi.

Bị cáo ở ngay đó, chỉ xem đại lão gia có dám bắt hay không. Đối với Hải Diêm Vương mà nói, tất hiển nhiên không phải là vấn đề, hắn lập tức hạ lệnh bắt bị cáo tới, vì tránh quan viên và thương thân câu kết tự ý thả bị cáo, đi bắt người đều là thân binh của nha môn tuần phủ.

Phàm là vụ án sự thực rõ ràng, chứng cứ xác đáng, dù ngươi là con của thượng thư, hay cháu tổng đốc, Hải Thụy tuyên án ngay trong ngay, bắt giam phạm nhân.

Thấy vụ án được xử lý nhanh chóng, Hải đại nhân quả nhiên không sợ cường quyền, bách tính lớn gan hơn, lũ lượt tới cáo trạng, trong một ngày tiếp nhận hơn 2000 vụ án.
Buổi tối, đối diện với cáo trạng chất cao như núi, nhiều vụ án như thế, căn bản không thể thong thả điều tra chứng cứ, nếu xử từng vụ một hiển nhiên không thể, càng không thể "nhận mà không xử" như ở Tô Châu?

Làm sao đây? Hải Thụy sớm đã có kế, hắn viết mấy nguyên tắc thẩm án, lệnh Vương Tích Tước chấp hành. Chỉ thấy Hải Thụy viết: Phàm thấy kẻ tố tụng khả nghi, thà oan huynh, không oan đệ; thà oan thúc bá, không oan cháu; so oan người nghèo, thả để người giàu oan; so để oan ngu dốt ngay thẳng, thà để oan kẻ điêu ngoa. Chuyện tranh giành của cải, so để oan tiểu dân, thà để oan quan thân, cứu lấy kẻ khó. Nếu tranh chấp ngôn mạo, so oan hương thân, thà để oan tiểu dân, để giữ thể thống.

Hải Thụy không biết rằng, nguyên tắc mình đưa ra trở thành môn học đầu tiên lịch sử pháp chế Trung Quốc, được gọi là định lý Hải Thụy.

Một vị lịch sử gia da vàng ruột trắng, dùng nó chứng minh truyền thống Trung Quốc là lấy văn nhân trị nông dân, giải thích và chấp hành pháp luật đều lấy luân lý nho gia làm chuẩn mực, thiếu truyền thống quản lý con số, vì thế Trung Quốc không đi lên con đường Tư bản chủ nghĩa v..v..v..

Một số nhà kinh tế học cũng một số nhà khoa học khác một một dạo trích dẫn những lời này, làm chứng cứ "Trung Quốc không chú ý bảo vệ tài sản cá nhân."

Tổng kết lịch sử rồi đưa ra kết luận tất nhiên là không sai, nhưng dùng định lý Hải Thụy mà chứng minh lại là có vấn đề, vì nó thoát ly ngữ cảnh, phạm vào cái tật xấu văn chương chủ nghĩa.

Thôi, tạm thời không lan man nữa, Hải Thụy tất nhiên không biết lý luận tư pháp của mình được hậu nhân coi là định lý. Nhưng không ảnh hưởng việc hắn ứng dụng thành thạo lý luận này, Hải Thụy chuyến này tới Tô Tùng là mong dùng nó phá vỡ cục diện.

"Hoàng quyền không xuống nông thôn", "dựa vào hương thân quản lý thôn trấn", đó là sách lược thống trị kéo dài nghìn năm của Trung Quốc, vì vậy nới nông dân mà nói, bọn họ còn cách quan phụ mẫu mọt tầng, có thể sai bọn họ trực tiếp nghe lệnh, vẫn là hương thân.

Mà thế lực hương thân ở Tô Tùng cực mạnh, bọn chúng lợi dụng đặc quyền thống trị, bất kỳ chính lệnh nào gây hại cho bọn chúng sẽ bị bọn chúng điên cuồng chống trả, trước tiên là kích động điêu dân làm loạn, cản trở phá hoại, làm chính lệnh không thể chấp hành, tiếp đó lợi dụng nguồn lực chính trị, từ thượng cấp gây áp lực với quan hành chính.

Tất nhiên tới tầng cấp như Hải Thụy thì phải dựa vào ngự sử ở hai kinh, cái gì mà "tân pháp khiến dân loạn, dân khổ không kể siết, dân sinh điêu đứng v..v..v.." Ép triều đình tạm hoãn chấp hành tân pháp, cuối cùng thế là xong.

Trò này dùng hơn nghìn năm vẫn có tác dụng, vì hoàng đế và cái đại thần lo lắng nhất là dân loạn, chỉ cần tin vảo hiện tượng giả đó, chính sách có tốt đến mấy cũng không dám chấp hành.

Đám hương thân tóm lấy nhược điểm này, nên dùng lần nào cũng thành công, đối với vùng Tô Tùng tiến sĩ nhiều như lông trâu, dùng nó càng uy lực vô cùng.
Tuyệt đối đó không phải đùa, một khi làm um sùm lên, bọn chúng chắc chắn sẽ liều mạng kháng cự, tới khi đó cho dù là nội các cũng chẳng dám cố chết bảo vệ con tốt như Hải Thụy.

Hải Thụy biết nếu như mình công khai đề xuất "đo đạc ruộng đất", ngày hôm sau nha môn tuần phủ bị người dân bao vây ngay, hơn nữa tám phần là không có ai tới giải cứu, ép mình không còn mặt mũi nào ở lại.
Sau một phen châm chước, hắn quyết định không công bố đo đạc ruộng đất, mà dùng tư pháp đánh vu hồi, tóm được tên nào xử tên nấy, không cho đám hương thân cơ hội giở trò.

Vì thanh lý án củ là việc tất yếu của tân quan thượng nhiệm, với tuần phủ mà nói, ngồi nha môn hay tới các phủ nhận tố tụng, cũng không ai có thể nói được gì.

Khi Vương Tích Tước cẩn thận đề xuất:
- Làm thế liệu có khiến cho một số hương thân bị oan ức không?

Nhưng Hải Thụy phất tay:
- So với oan ức người dân phải chịu thì có đáng kể gì.

Vương Tích Tước không khỏi cười khổ, té ra Hải Cương Phong đi báo thù cho người dân.

Có tiêu chuẩn phán xử của Hải Thụy, tất cả vụ án đều có thể kết án trong ngày, trong một tháng, không ngờ hai người thu nhận được gần 1 vạn vụ án...
Trừ vụ án hình sự nghiêm trọng ra, cơ bản đều đã phán xử xong, đồng thời kết quả không có gì bất ngờ, đại đa số là người dân thắng kiện.

Vì thế người dân không ai không vỗ tay vui sướng hô to "Hải Thanh Thiên", tất nhiên là cao hứng vô cùng rồi.
Nhưng có người cao hứng thì sẽ có người không cao hứng. Phú hộ hương thân không cao hứng, trước kia gặp phải những vụ án dân kiện quan, bọn chúng đánh đâu thắng đó, cho nên mới chiếm đoạt được gia nghiệp ngày nay. Nhưng họ Hải kia chẳng thèm hỏi chúng có lý hay không đã phán trả ruộng, trả bạc.

Cùng với thời gian trôi đi, hương thân phú hộ bị đả kích ngày một nhiều, nếu đổi lại là người khác làm tuần phủ, bọn chúng sớm đã làm loạn rồi, nhưng đối phương là Hải Diêm Vương mặt sắt tim sắt, ai dám tìm hắn kêu ca? Hải Thụy cũng chẳng trị bọn chúng, chỉ là phán án bất công...
Nhưng trong mắt người dân thì lại là quá công bằng, không cách nào kích động kiếm chuyện được, làm bọn chúng đánh tìm tri phủ Tùng Giang oán trách.

Thế là nha môn tri phủ Tùng Giang mỗi ngày phải an ủi bao nhiêu hương thân bụng đầy oán hận, Trung Trinh Cát là học sinh thành thực nhất của Từ Giai, trước kia bị phái tới Tùng Giang, là có ý chiếu có cuộc sống tuổi già của sư phụ, tất nhiên không muốn thấy cục diện này.
Nhưng hắn và Hải Thụy cùng là chính tứ phẩm, lại là Hải Diêm Vương, đấu sĩ có sức chiến đấu nhất Đại Minh, cho hắn hai cái gan cũng chẳng dám chống lại.

Trung Trinh Cát chỉ biết nói ngon ngọt an ủi hương thân, nhưng tới lúc không vỗ về nồi, bọn chúng tuy không dám làm loạn, nhưng luôn có cách hả giận.

Vì thế hôm đó, Hải Thụy đang làm việc nha dịch trình lên một thư cáo trạng nặc danh được lấy trên cửa nha môn phủ Tùng Giang.
Vương Tích Tước nhận lấy xem, mặt tức thì biến sắc.

Hải Thụy nhìn hắn một cái rồi cúi đầu tiếp tục xem hồ sơ, bình thản nói:
- Đọc.

Vương Tích Tước khó xử nói:
- Hay không đọc thì hơn.

Hải Thụy không để ý tới hắn, tiếp tục đọc hồ sơ, Vương Tích Tước đành đọc:
- Người cáo trạng Liễu Hạ Chích, cáo trạng hai huynh đệ Bá Di Thúc Tề, ỷ vào quyền thế, khai quật phần mộ Hứa Du, hai huynh đệ đó do hối lộ nên được Tỷ Can miễn tội. một buổi tối, bọn chúng sai ác huynh Liễu Hạ Huệ, bắt giam vào thủy lao, ngày đêm dùng cực hình, bắt dâng lên 300 mẫu đất, gõ trống tố cáo...

Lá thư nặc danh này cực kỳ buồn cười, vì Liễu Hạ Chích chính là Đạo Chích, đại ác nhân trứ danh thời cổ đại, Bá Di Thúc Tề là đại thiện nhân nổi danh lịch sử, bị trộm mộ là hiền nhân Hứa Du, bảo vệ bị cáo là hiền thần Tỷ Can, tòng phạm tham dự bức hại nguyên cáo là Liễu Hạ Huệ quân tử giữ mình..
.
Nội dung cực kỳ hoang đường, ý nhạo báng rõ rệt, nói kẻ ác bịa đắt vu cáo người tốt, mưu đoạt ruộng đất của người tốt, nhất là Đạo Chích lại tố cáo với Hải Thụy, rõ ràng là gây sự với Hải Thụy.

Đọc xong Vương Tích Tước mày dựng ngược, đùng đùng nổi giận nói:
- Điêu dân to gan, phải tra rõ nghiêm trừng.

- Không cần tra.
Hải Thụy sắc mặt chẳng hề chuyển biến, nhưng tay cầm bút gân xanh nổi cả lên, làm bại lộ tâm tình:
- Điêu dân không viết nổi lời này, có tra từng nhà từng hộ cũng không ra kết quả.

- Vâng, đây rõ ràng là việc làm của đám phú thương hương thân.
Vương Tích Tước nhanh chóng bình tĩnh lại:
- Bọn chúng không dám công khai, dùng cách này để châm chọc chúng ta.

- Hừ, vậy hãy quyết một phen thư hùng với chúng.

~~~0o0~~~~~

Trước Nam Thiện tự, trong hào trạch của Từ Anh tam tử của Từ Giai, một văn sĩ mặc nho bào màu xanh, cầm giấy cáo trạng, giọng trầm bổng:
- Người cáo trạng Liễu Hạ Chính... ngày đêm dùng cực hình, bắt dâng lên 300 mẫu đất, gõ trống tố cáo...

- Ha ha ha.
Nghe giọng điệu mỉa mai châm chích của hắn, người trong sảnh đường cười phá lên, cứ như đang nhìn thấy Hải Diêm Vương vểnh râu trợn mắt tức giận, có tên ôm bụng cười chảy nước mắt.

Cười đủ rồi, Từ Kha con út Từ Giai lau nước mắt chỉ tên văn sĩ:
- Nam Ngạc, ngươi đúng là tên quỷ lắm trò, cáo trạng thâm thù đại hận của Xương Hà tiên sinh bị ngươi biến thành trò hề.

- Không sao, không sao, vốn để Hải đại nhân thành trò cười cho thiên hạ mà..
Kẻ được gọi là Xương Hà tên sinh là Đồng Kỳ, một tên văn sĩ thi trượt, làm quân sư cho đám Từ Anh, kẻ này đầy một bụng mưu hèn kế bẩn, không biết giúp Từ Anh đoạt được bao nhiêu điền sản, cho nên rất được Từ Anh coi trọng, có chuyện gì cũng tìm hắn xin kế.

Lần này Hải Thụy tới Tùng Giang gây mưa gây gió, Từ gia cây cao gió lớn, lá dày hứng mưa, tất nhiên đứng mũi chịu sào. Mặc dù Hải Thụy còn chú ý bảo vệ danh dự của cha con Từ Giai, nhưng đám gia đinh gia nô của nhà họ Từ liên tục bị quan phủ yêu cầu trả ruộng đất chiếm đoạt.

Đám gia nô suốt ngày khóc lóc tố cáo, nói bị chiếm đoạt bao nhiêu điền sản, hương thân thân thuộc cũng liên tục tới phủ cầu khẩn, một mặt thăm dò thái độ của Từ Giai, một mặt kích động hai tên hoàn khổ dằn mặt Hải Diêm Vương.

Trong bốn đứa con của Từ Giai, Từ Phan từng làm quan tới thị lang, Từ Côn chủ trì gia vụ, cho nên tính cách trầm ổn, không thể làm kẻ ra mặt chịu trận.
Nhưng hai đứa con trai khác là Từ Anh và Từ Kha từ lúc hiểu chuyện thì phụ thân đã là quan lớn triều đình, nhà lại giàu trùm một phương, thêm vào từ nhỏ sống với tổ mẫu, được cưng chiều, thiếu giáo dưỡng, cho nên kiêu căng ngang ngược. Trong mắt bọn chúng, ở Tùng Giang, Từ gia là chúa tể, sao cho phép họ Hải giương oai?

Cường long không áp nổi địa đầu xa cơ mà, vì thế hai huynh đệ bị một đám bạn xấu khích bác, quyết định cho Hải Thụy một bài học, còn về trọng trách hiến kế tất nhiên rơi trên người Đổng kỳ.

Đáng lý dân đấu với quan, nhất là đấu với Hải Diêm Vương là chuyện cực nguy hiểm, người thường tránh còn chẳng kịp, nhưng tên Đổng Kỳ này cho rằng mình có tài không được dùng, chỉ mong cơ hội chứng minh, vì thế viết ra thư nặc danh khắc bạc kia, sau đó thừa lúc tối trời sai người dán khắp đường lớn ngõ nhỏ Tùng Gian, để Hải Thụy bẽ mặt.

Nghe nội dung cáo trạng, huynh đệ họ Từ quả nhiên cảm thấy cực đã, cười xong lại cảm thấy chưa đủ, Từ Kha nheo mắt nói:
- Cách làm này tất nhiên hả giận, nhưng chọc giận tên Hải điên, hắn càng giúp cho đám chân bùn, hình như chẳng có tác dụng gì.

- Chỉ cần làm Hải Thụy nổi khùng thôi.
Đổng Kỳ vân vê mấy sợi râu chuột thưa thớt, nheo con mắt cá vàng nói:
- Hắn chắc chắn đoán ra là tấn thân làm nhưng không thể biết được là ai làm, đành đem phẫn hận phát tiết lên vụ án. Hắn sẽ nghĩ, cho các ngươi châm chọc ta, lão tử phán thêm vài vụ án, đòi lại thêm điền sản cho đám chân bùn, đó là sự báo thù tốt nhất.

- Nhưng thế thì có lợi gì cho chúng ta?
Từ Kha trợn mắt:

- Tứ công tử nói thế là sai rồi.
Đổng Kỳ lắc đầu:
- Phải biết rằng không nỡ bỏ con không bẫy được sói.

- Xương Hà tiên sinh đừng làm hồi hộp nữa.
Từ Anh ngán cái bộ dạng của Đổng Kỳ, nhưng ai bảo mình cần hắn chứ? Cười khan nói:
- Đem bước tiếp theo của chúng ta nói cho lão Tứ đi.

Cả đám nhao nhao phụ họa:
- Đúng đấy, Xương Hà tiên sinh mau nói đi.

- Tuân lệnh.
Đổng Kỳ ôm quyền một vòng, mặt đầy vẻ đắc ý:
- Kỳ thực học sinh viết thư nặc danh này không phải đơn giản là cho hả giận, mà để đổ thêm dầu vào lửa, để Hải Thụy hận chúng ta thấu xương, không phân biệt phải trái trắng đen, thiên vị đám chân bùn.
Hắn dừng lại vuốt râu cười lạnh:
- Nghe họ Hải nói với cấp dưới "tranh tài sản, so với oan tiểu dân, thà oan hương thân", hành vi võ đoán thiên vị nhường nào? Sao không có chuyện kết án oan? Án oan nhiều lên, bên trên sao có thể để yên cho hắn?

- Nói không sai.
Một tên hương thân nói:
- Nhưng thanh danh của hắn quá tốt, chỗ dựa quá mạnh, phán xử sai bình thường chẳng sao.

- Vậy cho hắn thêm chút loạn.
Đổng Kỳ "xoạch" một phát, xòe quạt ra phe phẩy:
- Phải biết rằng Tùng Giang này không đơn giản như bề ngoài, từ nông dân điền hộ, còn có vô số du thủ du thực, con nghiện cờ bạc, lừa đảo giang hồ... Đám này có chung một đặc điểm, không có sản nghiệp, trong mắt Hải đại nhân là "người nghèo" tiêu chuẩn.

- Đám điêu dân này tham lam xảo trá, thấy Hải Thụy phán án khuynh hướng ngả về tiểu dân, sớm đã có ý thừa nước đục thả câu rồi. Chúng ta thuận nước đẩy thuyền, để bọn chúng bịa đặt chứng cứ, đi chiếm đoạt gia sản phú hộ.

- Chủ ý chó má gì thế?
Từ Kha mất kiên nhẫn:
- Nói đi nói lại không nói vào điểm mấu chốt, chẳng cả đời không thi đỗ.
Làm Đổng Kỷ mặt đỏ dừ.

- Kỳ thực đám điêu dân sớm đã làm thế rồi, chẳng qua phú hộ tử thủ, nên kẻ thành công rất ít.
Từ Anh đành tiếp lời:
- Nhưng nếu như chúng ta cố ý bảo người mình không đem điền khế ra, thì là chuyện khác.

- Nếu đều không lấy ra đủ chứng cứ, thì họ Hải tất nhiên đem điền sản phán cho điêu dân.
Cả đám lúc này mới vỡ lẽ.

- Đúng.
Đồng Kỷ nghĩ rõ ràng là kế của mình, không thể để kẻ khác cướp mất hào quang, nên vội nói:
- Vụ án như vậy nhiều lên, chúng ta có thể xúi địa chủ bị tước đoạt tafi sản tới Nam Kinh, thậm chí Bắc Kinh làm rùm beng lên.. Đám ngự sử hướng về chúng ta nhất định không bỏ qua, cho Hải Thụy biết mặt.

- Kế hay.
Cả đám hiểu ra, tức thì phấn chấn nói:
- Cứ làm như thế.

- Giỏi đaasy.
Từ Kha cũng đổi thái độ, cười híp mắt vỗ vai Đổng Kỳ:
- Quả nhiên không hổ là Tử Phòng của chúng ta.

*** Trương Lương, Trương Tử Phòng: Nhân vật không cần chú thích.

- Không dám, không dám...
Đổng Kỳ nở mày nở mặt, vì thế lên mặt phân phối nhiệm vụ cho Hải Thụy một bài học.

"Cường long không áp được địa đầu xà", câu này rất có đạo lý, dù ngươi là tỉnh trưởng, dù ngươi là Hải Thụy, nhưng đám địa đầu xà muốn giở trò, ngươi sẽ không đề phòng hết.

Kỳ thực Hải Thụy luôn rất tỉnh táo, hắn quy định, dựa vào "Đại Minh luật", kẻ nào vu cáo, đánh 20 gậy, đem thị chúng 8 ngày. Vì thế ngoài nha môn mỗi ngày có bảy tám tên bị đánh tét đít, đeo gông cùm mang đi thị chúng, nhưng vẫn không cản trở được đám điêu dân.

Vì thế trên đường phố Tùng Giang, thi thoảng lại có tin đồn " có điêu dân vu cáo phú hộ nào đó thành công, kiếm được 500 mẫu ruộng ", "có con bạc vốn nghèo rớt, nhưng nhờ phúc Hải đại nhân, qua một đêm từ nghèo hóa giàu".

Còn mấy quy củ vốn là bí mật bất truyền của Hải đại nhân cũng thành bí mật ai ai cũng biết, vì thế dân gian lưu truyền "danh ngôn": Trồng ruộng không bằng cáo trạng. Một số tên vô lại ôm mộng tượng đổi đời hô hào nhau bịa chứng cứ, ùn ùn kéo tới cáo trạng phú hộ hương thân.

Đám điêu dân này không nhiều, nhưng bốn năm chục tên tụ tập với nhau, quần áo rách rưới, đi dọc phố hò hét khẩu hiệu, tạo thành ảnh hưởng cực xấu, rất nhiều ngu dân vô tri bị kích động, người cáo trạng nhiều không kể siết, cục diện đã có chút mất khống chế.

Ngay Vương Tích Tước cũng cảm thấy áp lực nặng nề, đừng nói Hải Thụy đứng đầu chịu trận, nhưng Hải Thụy không hề dừng tay như người bên cạnh kiến nghị, vẫn cứ xử lý tốc độ cao, mỗi ngày 200 - 300 vụ án.

Hải Thụy còn bình tĩnh được, bên Trung Trinh Cát đã cuống cả lên, một ngày ba lượt tới tìm hắn mong hắn chú ý tình thế, tránh tới mức không thể vãn hồi:
- Tùng Giang là trọng địa thuế lương của của triều đình, xưa nay luôn lấy ổn định đặt lên hàng đầu, nhưng giờ điêu dân kích động làm loạn, đại hộ đóng cửa trốn trong nhà, để lâu như thế sẽ gây họa.

- Bách tính bất mãn là vì oán hận tích lâu ngày.
Hải Thụy lạnh lùng nói:
- Nếu quan phủ chịu giúp bách tính chủ trì công đạo, tất nhiên không có ai làm loạn.
Vì thế chẳng những không dừng tay càng tập trung phá án phán quyết.

Nhưng án được phán ngày càng nhiều, nhưng tới giờ vẫn chưa được chấp hành. Vì đám phú hộ nào chịu trả đất cho tiểu dân, bọn chúng đều hi vọng hướng gió thay đổi để thoát kiếp nạn này, cho nên đang cố chống đỡ.

Bên phía Hải Thụy cũng tạm thời không cưỡng chế chấp hành, làm những người dân thắng kiện, hết sức bứt rứt khó chịu.

Hắn làm thế có ba nguyên nhân, một tập trung tinh lực phá án, sau đó mới tập trung chấp hành, như thế mới có thể biến hành vi cá nhân thành hành động tập thế. Hai nữa là giảm nhiệt người dân đang kích động, tới nay chưa ai lấy được đất, cho nên lời đồn giàu lên trong một đêm không giải thích cũng tự tan, người hùa theo sẽ ít đi. Cuối cùng là đợi câu trả lời của nội các...

Ngày cuối cùng của tháng 11, cách ngày sổ sách kiểm toán được đưa lên kinh thành đã hơn một tháng, thư trả lời của nội các mãi mới tới, chấp bút là Trương Cư Chính.
Trong thư Trương Cư Chính đại biểu nội các ủng hộ công tác của hắn, bảo hắn cứ việc làm, gần cuối thư mới uyển chuyển đề xuất, phải chiếu cố lão thủ phụ, không nên ép quá đáng, làm mất thể diện lão thủ phụ.v..v..v..

Hải Thụy coi như không nhìn thấy đoạn cuối, cười với Vương Tích Tước:
- Ngày mai cuối cùng cũng có thể vào việc chính rồi.

~~~~~~~~~~~~~~~

Sáng sớm ngày hôm sau, binh lính nha môn tuần phủ tới cầu Thái Bình, yêu cầu hai quản gia của Từ phủ là Từ Thành và Từ Viễn về nha môn trả lời vụ án cưỡng đoạt đất đai người dân.

Hai tên trấn an quan sai, mượn cớ thay y phục, rồi trốn theo cửa sau, nấp vào phủ Từ Kha.

Đám quan sai không bắt được người, đành ủ rũ trở về, Hải Thụy không thủ tiêu thẩm phán, dưới tình huống bị cáo vắng mặt, vẫn thăng đường xét xử, hơn 400 người bị hai tên đó cướp đoạt gia sản tới công đường tố cáo, nhiều người có vật chứng nhân chứng đầy đủ, không cần hai tên đó tới vẫn xét xử được.

Tội ác của Từ Thành và Từ Viễn bị vạch trần ngày một nhiều, nhưng chúng ỷ vào sự bảo vệ của Từ phủ, ngang nhiên trốn xét xử. Hành vi ngu xuẩn cỡ này không khác gì đẩy cả chúng và Từ phủ lên giàn thiêu, thành đối tượng phát tiết của dân chúng Tùng Giang đang kích động.

Vì vụ án quá mức phức tạp, cho nên Hải Thụy không tuyên án ngay tại chỗ, nhưng tiếp theo sự thể phát triển vượt ngoài dự liệu tất cả mọi người...

Bách tính Tùng Giang phẫn nộ bao vây ba phủ đệ của Từ gia, có người yêu cầu Từ gia giao ra hai tên ác ôn, có người yêu cầu Từ gia trả tiền, còn lại đa phần góp vui, muốn thử tư vị ức hiếp tể tướng nó như thế nào.

Từ Giai tất nhiên phải giữ phong độ thân sĩ, cấm con cháu nô bộc phát sinh xung đột, tổn hại bách tính. Nhưng tư vị trong lòng thế nào từ mấy bài thơ ông ta làm có thể thấy được:
Ngày xưa thiên tử đều gọi khanh.
Ngày nay vua phiền chửi thẳng danh.
Kiệu son lầu tía đều là ảo.
Hoa vàng rượu trắng trốn sự đời.

Sự chua chát mất mác tiết lộ hoàn toàn trong bài thơ.

Ông ta tưởng rằng bách tính náo loạn vài ngày, chuyện qua là xong, ai ngờ dân tình Tùng Giang được các phương diện cả trong tối ngoài sáng xúi bẩy, đã tới mức sôi trào. Liên tiếp vài ngày đều như thế, làm người Từ phủ không ra ngoài được nửa bước, ngay sinh hoạt cũng đã thành vấn đề.

Từ Giai không thể trốn sự đời nữa, ông ta lệnh Từ Phan tìm Trung Trinh Cát, hi vọng tri phủ Tùng Giang khôi phục trật tự, bảo vệ cuộc sống bình thường của nhà mình.
Trung Trinh Cát cười khổ trả lời:
- Thật không giám giấu, hiện phủ Tùng Giang đã hoàn toàn bị nha môn tuần phủ khống chế, ta đây chỉ là đồ trưng bày mà thôi.

Vì thế Từ các lão không chịu nổi phiền nhiễu, sai Từ Phan giao ra hai tên ác nô.

Từ Giai giao ra hai tên quản gia, vốn là định nhân nhượng cho khỏi phiền, ai ngờ chuyện Từ Thành Từ Viễn khinh hiếp hương dân có chứng cứ xác thực, tra một cái là lôi ra cả đống, cưỡng chiếm phụ nữ, giết người cướp của, cái gì cũng có, còn lôi cả Từ Anh và Từ Kha vào vụ án...
Hai tên nô tài vô dụng khai báo, tất cả chuyện chúng làm do hai vị công tử sai khiến.

Thấy nhi tử của Từ các lão bị cuốn vào, Vương Tích Tước không tự tin nữa, nói với Hải Thụy:
- Từ các lão dù sao cũng là tướng quốc tiền nhiệm, tra xét nô tài cũng được, nếu đụng tới nhi tử ông ta, sẽ khiến dư luận xôn xao.

- Vương tử phạm pháp tội như thứ dân.
Hải Thụy không thèm nghe:
- Huống hổ chính bởi vì chúng là nhi tử của Từ các lão cho nên phải tra cho rõ, trả lại thanh bạch cho Từ các lão.

- Đại nhân, ngài biết làm thế hậu quả là gì không?

- Chẳng qua là trở mặt mà thôi.
Hải Thụy lạnh lùng nói, liền lệnh quan sai đem trát tòa tới tới phủ Từ Giai. Làm xong hết tất cả, hắn nhìn Vương Tích Tước mặt đầy lo lắng, thản nhiên nói:
- Nếu Từ các lão còn cần thể diện, ta tất nhiên giữ lại vài phần thể diện cho ông ấy...

- Đại nhân hãy chú ý chừng mực...
Lo lắng trên mặt Vương Tích Tước vẫn khó tan hết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 853: Ta không đồng ý


Phủ Từ Giai.

Nhìn thấy trát gọi của Hải Thụy, Từ các lão mấy ngày qua tâm tình luôn sa sút, sắc mặt càng trở nên âm trầm, hỏi Từ Phan bên cạnh:
- Bọn chúng muốn bắt người?

- Không phải...
Từ Phan nhỏ giọng đáp:
- Chỉ thông báo cho chúng ta đưa hai đứa bọn chúng tới đúng giờ. Xem ra Hải tuần phủ không phải hoàn toàn không hiểu chừng mực.

- Hiểu chừng mực?
Từ Giai nghe vậy cười khổ:
- Hắn đúng là hiểu chừng mực, ép dần từng bước một, muốn kéo cả nhà chúng ta xuống bùn. Gọi hai tên súc sinh kia lại đây, ta muốn hỏi cho rõ.

Từ Giai biết "súc sinh" là hai tên đệ đệ của mình, trong lòng không khỏi nảy ra suy nghĩ quái dị, vậy chẳng phải ta cũng thành súc sinh? Vậy thì lão gia ngài là cái gì?

Một lúc sau hắn dẫn hai tên "súc sinh" thấp thỏm đi tới.

- Cha cho gọi hài nhi tới có chuyện gì sai bảo ạ?
Trên đường đi, Từ Anh và Từ Kha đã biết nguồn cơn, cho nên tỏ ra cực kỳ ngoan ngoãn.

Từ Giai mở mắt ra, nhìn hai đứa nhi tử có chút xa lạ, bao năm qua ông ta làm quan bên ngoài, ít gặp hai đứa con sinh muộn này, nhất là sau khi chúng trưởng thành gần như chưa từng gặp qua, càng chẳng nói tới dạy dỗ.

Năm xưa Từ Giai nhìn hành vi của Nghiêm Thế Phiên, liệu định hắn cuối cùng sẽ kéo cả Nghiêm Tung chết trùm, tránh con mình cũng đi vào con đường nó, trừ trưởng tử bên cạnh, ông ta không cho ba đứa còn lại làm quan...
Cho dù là Từ Phan cũng luôn bị ông ta ngăn ngoài trung tâm quyền lực, về sau Từ Phan vừa lên làm thị lang, liền lệnh hắn từ quan về quê.

Cũng chính vì điều này Từ Giai rất áy náy với đám nhi tử, luôn có lòng bồi thường. Trong mắt ông ta, mấy đứa con mình ở địa phương phá phách tới đâu cũng không thể bằng Nghiêm Thế Phiên. Huống chi mình cả đời cần mẫn, coi như lập được công lao, chẳng lẽ không bảo vệ được nhi tử của mình?

Nhưng hiện giờ xem ra mình sai rồi, rời khỏi chiếc ghế quyền lực là mất đi quyền chủ động, mặc dù sức ảnh hưởng vẫn còn lớn, nhưng Cao Củng hận không thể băm mình thành tám mảnh, còn Hải Thụy đã kề đao lên cổ mình.

Xem ra bọn chúng đã quyết đột phá từ trên người con trai mình, đáng cười mình còn hi vọng nhân nhượng cho qua, đúng là già tới hồ đồ rồi. Có thể thấy hơn một năm nhàn nhã làm trình độ của mình tụt xuống quá nhiều...

Đám nhi tử cũng nhìn phụ thân, nhìn ông ta vốn mặt mày mỏi mệt, dần dần nổi lên đấu chí, nhất là đôi mắt mờ đục lúc này sáng ánh lên, tựa hồ vị tể tướng hô phong hoán vũ đã trở lại, bọn chúng càng yên tâm, càng thêm ngoan ngoãn.

- Có người tố cáo hai đứa các ngươi dung túng gia nô cướp đoạt tài sản, giết người, cưỡng đoạt dân nữ.
Từ Giai phá vỡ im lặng, nhìn nhi tử hỏi:
- Thực sự có chuyện này sao? Đừng có giấu ta.

Hai đứa nhi tử ấp a ấp úng:
- Chuyện này, chuyện này... Có người cáo trạng, nhưng đã kết án rồi.

- Ở đâu kết án?

- Huyện Hoa Đình.

- Kết án thế nào?

Hai tên định nói dối, nhưng nhìn dáng vẻ của cha tức thì hiểu ra ngay, đây là người duy nhất trên đời có thể giúp được mình, quỳ sụp xuống trước mặt Từ Giai, cố nặn ra nước mắt:
- Là Hầu huyện lệnh tiền nhiệm giúp chúng con, bảo chúng con ra ngoài du học một thời gian, ông ấy bắt mấy tên gia nô vào ngục, sau đó một thời gian báo bệnh chết, rồi len lén thả chúng ra. Cuối cùng trong nhà bồi thường chút tiền mai táng, coi như kết án.

- Ôi, nghiệt tử, vậy mà ta còn cười Nghiêm Tung, giờ xem ra chẳng qua là chó chê mèo lắm lông.
Từ Giai chỉ trích yếu ớt:
- Hẳn lần này khổ chủ gặp được Hải Thụy, lại nổi lòng báo thù. Đáng hận trên Hải Thụy này thiết diện vô tư, nếu hắn phán xử theo luật, mạng các ngươi khó giữ được...

Nghe phụ thân nói thế, hai đứa nhi tử sợ hãi khóc thật:
- Hài nhi biết sai rồi, cha cứu mạng...

- Hiện giờ mời biết thì muộn rồi.
Từ Giai hừ lạnh một tiếng:
- Người đâu, trói hai tên nghịch tử này lại, đưa tới...

- Cha, tuyệt không thể đưa bọn chúng tối nha môn...
Từ Phan và Từ Côn vừa chạy tới cùng quỳ xuống, khóc lóc:
- Tên Hải Thụy đó là đồ điên, hai đệ ấy mà rơi vào tay hắn liệu còn sống nổi không?
Từ Anh và Từ Kha càng khóc lóc thảm thiết, cứ như sắp bị áp giải lên pháp trường vậy.

- Ai bảo đưa bọn chúng tới nha môn?
Từ Giai nói một câu chặn ngay đám con khóc lóc lại:
- Nhốt chúng vào Từ đường, mỗi ngày chép gia huấn 500 lần.

Từ Anh và Từ Kha như được đại xá, đương nhiên... Nếu không có câu cuối càng tốt.

Đợi hai đứa đệ đệ bị đưa đi, Từ Côn lo lắng hỏi:
- Vậy phải trả lời với Hải Thụy ra sao?

- Tên này không nể tình chút nào, đúng là một vấn đề.
Từ Phan bực bội nói:
- Phụ thân năm xưa cứu hắn một mạng, còn tưởng hắn là quân tử chí thành, có ân báo ân, không ngờ lòng lang dạ sói như thế.

- Đừng bi quan.
Từ Giai chậm rãi nói:
- Đừng tưởng thanh quan không có nhược điểm, thanh quan cũng tham, chẳng qua tham danh mà thôi. Ta có ân với Hải Thụy, điều này ai cũng biết, nếu bỏ thể diện đi cầu xin, thách hắn cũng không dám trở mặt. Tính mạng hai tên nghiệt súc kia còn có thể cứu được.

Nói thì nói như thế, nhưng nghĩ tới mình về già lại phải hạ mình cầu người, tâm tình của Từ Giai rất tệ, đám nhi tử cũng thấy đau khổ, muốn khuyên ông ta đừng đi, nhưng Từ Giai xua tay:
- Ài không nghĩ nhiều nữa, đành đâm lao phải theo lao thôi, xem hắn ứng phó thế nào mới an bài.

Nếu đã quyết định tìm Hải Thụy cầu xin, tất nhiên không thể chần chừ, nếu để xử xong mới đi còn ý nghĩa gì nữa?

Vì thế sáng ngày hôm sau, Từ Giai mặc quan phục nhất phẩm, ngồi kiệu tám người khiêng rời cửa, nhưng tới cầu Thái Bình, nghĩ không ổn, với tính thối của Hải Thụy, chắc chắn là thích mềm không thích cứng, nên hạ mình đi gặp hắn vậy.

Từ Giai lệnh người quay về, đổi thường phục, kiệu bốn người khiêng, tới chỗ Hải Thụy.

Nghe nói lão thủ phụ tới, Hải Thụy vội bỏ công việc đó, tới cửa nghênh tiếp.

Từ Giai dừng kiệu ở cửa, Hải Thụy đi nhanh tới, chắp tay nói:
- Thái sư, mới sáng sớm sao ngài đích thân tới rồi?

Từ Giai thấy hắn dùng lễ vãn bối, lòng dễ chịu hơn, mỉm cười nói:
- Cương Phong tới Tùng Giang hơn một tháng, nhưng chưa tới nhà ta ăn cơm, ta đành đích thân tới vậy.

Hải Thụy nhớ ra lần trước tới bái phỏng, vì chối từ giữ lại ăn cơm nên nói "lần sau hãy ăn", mặc dù biết Từ Giai tới vì việc khác, nhưng quân tử đường hoàng như hắn, vẫn cảm thấy hơi xấu hổ:
- Công vụ bận rộn quá, mong lão thái sư tha thứ.

Từ Giai cười khà khà:
- Cương Phong không định mời ta vào hay sao?

- Đâu có, đâu có..
Hải Thụy tránh người ra.

Khi đi vào trong, Từ Giai cuối cùng nói rõ ý định:
- Kỳ thực trong lòng ta có chuyện, muốn tìm ngươi tâm sự.

- Ngài có chuyện, có thể gọi hạ quan tới mà.
Hải Thụy biết Từ Giai cậy già lên mặt, nhưng đối phương đúng là có tư cách đó.

Từ Giai lắc đầu, giọng chua chát:
- Ta đã không còn là thủ phụ nữa, ngươi lại là tuần phủ của ta, sao có thể cậy già phá hỏng quy củ triều đình.

Trong lúc nói chuyện, hai người đã tới thiêm áp phòng, uống vài ngụm trà xong, Từ Giai muốn nói chuyện hai đứa nhi tử, nhưng nghĩ tới mình phải cầu khẩn thuộc hạ xưa kia, thực khó nói lên lời, trong lòng hối hận vì dễ đàng từ bỏ quyền bính, hiện giờ tự chuốc nhục vào thân.

Thấy ông ta cứ ấp a ấp úng, Hải Thụy còn muốn thăng đường, đâu có thời gian lằng nhằng, chủ động nói:
- Lão thái sư chẳng phải có chuyện muốn tìm hạ quan sao? Ngài cứ nói tự nhiên.

- Đúng là có chuyện, Cương Phong à...
Từ Gia mặt mày hổ thẹn:
- Chuyện tới nước này rồi, giữ thể diện gì nữa, hôm qua nhận được trát gọi của ngươi, ta gọi hai đứa nghịch tử lại, kết quả chúng khai đúng là có chuyện ấy, nhưng không phải chúng tự sai bảo, mà là hai tên ác nô tự chủ trương, lấy danh nghĩa của chúng giết người cướp đất, gây ra đại họa.
Rồi rơi nước mắt:
- Nhưng nô bộc hành hung, chủ nhân có trách nhiệm, bất kể thế nào tội danh quản giáo không ngiêm, bao che tội phạm là không tránh được.

- Thì ra là thế.
Hải Thụy thầm cười lạnh, công phu tránh nặng tìm nhẹ của Từ các lão đúng là số một, liền an ủi:
- Nếu đúng là thế, chỉ cần hai vị công tử tới, hạ quan xử nhẹ là được.

- Ài, ta vốn định đưa hai đứa nghiệt súc tới thỉnh tội, nhưng mẹ già 86 tuổi nghe nói ta định đưa tôn tử lên quan, lấy cái chết đe dọa, nói chỉ cần ta đưa chúng ra khỏi cửa một bước sẽ lấy giây thừng treo cổ cho ta xem.
Từ Giai lấy ống tay áo che miệng, khóc sụt sùi:
- Từ Giai ta cả đời thận trọng, không ngờ về già, thể diện bị hai đứa nghịch tử hại mất sạch.

- Lão thái sư nặng lời rồi.
Dù sao Từ Giai là thủ phụ tiền nhiệm, vô sỉ đến độ khóc lóc lôi cả mẹ già ra, dù là Hải Thụy cũng đau đầu:
- Hạ quan đường đột, kinh động thái phu nhân, thực áy náy.

- Ngươi không sai.
Từ Giai lau nước mắt, ngại ngùng nói:
- Làm Cương Phong chê cười rồi, là mẹ già của ta hồ đồ, nhưng người già cố chấp, khuyên không nghe..
Rồi giọng như muỗi kêu:
- Ta đành mặt dầy tới cầu xin Cương Phong giơ cao đánh khẽ, tha cho hai đứa chúng, sau này khẳng định nghiêm gia giáo, không cho chúng sinh sự thị phi nữa... Mong Cương Phong niệm tình cũ cứu tính mạng cả nhà ta, ta cắn răng bỏ sản nghiệp, toàn bộ xin nghe Cương Phong.

- Thái sư.
Hải Thụy nhíu chặt mày:
- Ngài làm khó hạ quan rồi, hôm nay nếu hạ quan tha cho hai vị công tử thì còn mặt mũi nào thăng đường nữa?

- Hải đại nhân, mẹ ta tuổi cao sức yếu, chẳng may có mệnh hệ nào, ta làm con cũng chẳng thể sống nổi.
Từ Giai vái thật sâu:
- Mong Hải đại nhân thương xót, ân đức này cả đời không quên.

Nói tới nước này dù người sắt cũng phải động lòng, Hải Thụy bất lực nói:
- Thái sư thương con, thương mẹ, nhưng có biết mẹ người bị hại ở đâu không? Con cái ở đâu không? Hơn nữa không chỉ một nhà, còn có rất nhiều cô nhi quả phụ, chẳng lẽ bọn họ không có phụ mẫu, không có nhi nữ sao? Chẳng lẽ "phạm pháp không luận sang hèn, vương tử như thứ dân", chỉ là câu nói xuông.

- Hải đại nhân nói không sai, chỉ là năm xưa Hải đại nhân ngồi thiên lao, lão phu từng nói giúp trước mặt tiên hoàng, mong Hải đại nhân niệm tình này.
Từ Giai đã nhìn ra Hải Thụy đang dao động, liền tung ra chiêu sát thủ, ý tứ là năm xưa ngươi ngỗ nhịch hoàng đế, nhục mạ quân phụ, đó là tội chu di cửu tộc, không có ta ngươi đâu có ngày hôm nay.

- Thái sư nói lời sai rồi.
Ông ta không nói cái này thì thôi, vừa nói tới Hải Thụy liền nghiêm mặt lại:
- Năm xưa Hải Thụy làm tiên hoàng tức giận, đúng là nhờ thái sư giải cứu. Nhưng khi đó hạ quan dâng tấu nói thẳng, trung quân ái quốc, có phạm tội gì? Hai vị công tử sai hạ nhân đánh chết người, hối lộ quan huyện thoát tội, hai chuyện này rõ ràng khác nhau, sao có thể gộp chung?

- Hải đại nhân giáo huấn phải lắm...
Từ Giai cười thảm, vịn bàn đứng dậy:
- Sinh mà không dạy là lỗi của cha, lão phu làm quan bên ngoài nhiều năm, thiếu quản giáo nhịch tử, mới có ngày hôm nay. Nếu nói tới tội, thì đều là tội của ta, để kẻ làm cha này cùng nhận tội đi.
Nói xong quỳ xuống trước mặt Hải Thụy.

May là Hải Thụy nhanh tay đỡ lấy trước khi ông ta kịp quỳ xuống, dìu ngồi xuống ghế, bùi ngùi than:
- Sớm biết ngày hôm nay, thì khi xưa đã đừng...

- Đúng thế, lão phu hối không kịp nữa rồi, Hải đại nhân, ta cũng không làm ngài khó xử...
Từ Giai ngập ngừng:
- Hay là như này, Đại Minh luật có ghi, phạm nhân chỉ chỉ cần không phải tử tội, người thân có thể nộp tiền chuộc tội, lão phu tình nguyện nộp một phần điền sản chuộc tội cho hai đứa nhi tử. Như vậy vừa cứu người vừa giữ pháp luật, đại nhân thấy sao?

Hải Thụy im lặng, hắn biết Từ Giai khẳng định hiểu rõ mục đích cuối cùng của mình, cho nên mới nói thế:
- Luật pháp đúng là có điều này, nhưng hai vị công tử còn chưa định tội, có thích hợp dùng điều khoản này hay không thì chưa chắc.

- Cương Phong...
Từ Giai đau khổ nói:
- Chẳng lẽ lão phu cầu khẩn mọi cách mà không có chút tác dụng nào sao.

Hải Thụy nhíu chặt mày rất lâu mới nói:
- Thôi vậy, thái sư đã cầu khẩn như thế, nếu Hải Thụy không thông cảm chút nào thì quá bất nhân rồi... Hạ quan có ba điều kiện, nếu thái sư đồng ý, vụ án của hai vị công tử có thể không truy cứu nữa.

- Mời Cương Phong nói.
Từ Giai một mực tỏ ra bi thương.

- Chuyện thứ nhất, Ngô Trung năm nay xảy ra nạn đói, quan phủ cần mua lương thực ở tỉnh gần bên chẩn tai, để vượt qua vụ xuân. Nhưng vì phương bắc đánh trận, quốc khố trống rỗng, đành quyên góp từ phú thương, mong thái sư đi đầu hưởng ứng.

- Điều này rất nên.
Từ Giai gật đầu.

- Thứ hai, hạ quan nghe nói gia nhân Từ phủ hơn nghìn, nghênh ngang bên ngoài, ảnh hưởng cực xấu tới thanh danh thái sư, kiến nghị ngài chủ động tước hộ tịch những kẻ mượn danh kia, để chúng không dựa thanh thể ngài làm càn làm bậy được nữa.

Từ Giai trầm mặc chốc lát:
- Chuyện này rất lớn, không thể nhận lời ngay được.

- Chuyện này không vội, để hạ quan nói hết đã...
Hải Thụy gật đầu, biểu thị lý giải:
- Theo tra xét xác nhận, số điền sản của phủ thái sư thực sự lớn kinh người, ảnh hưởng rất không tốt.

- Chuyện nay cho lão phu nói một lời.
Từ Giai vội nói:
- Lão phu quanh năm ở ngoài, khi về cũng không hỏi tới chuyện lặt vặt, cho nên với số điền trạch của tệ gia không rõ lắm, nhưng cũng biết đại đa số điền sản không thuộc về tệ gia, mà là người thân ký gửi, đây là lệ cũ, từ chối không nổi. Kỳ thực tệ gia chẳng được lợi lộc gì, còn chuốc lấy tiếng xấu. Chính đang định dựa cơ hội này bỏ đi khối tâm bệnh ấy.

- Được thế thì tốt quá.
Hải Thụy gật đầu:
- Vậy đi, hạ quan cho thái sư ba ngày, ba ngày sau ngài cho một câu trả lời rõ ràng, được không?

- Cám ơn Cương Phong thông cảm.
Từ Giai chậm rãi đứng dậy, phảng phất thoáng chốc già đi rất nhiều.

Hải Thụy đỡ Từ Giai lên kiệu, nhưng không nhìn thấy khi rèm kiệu hạ xuống, đôi mắt mờ đục của Từ Giai dần dần trở nên sắc bén như dao.

Kiệu trở về Từ phủ, hai đứa nhi tử đi tới đỡ Từ Giai, nhưng bị ông ta đẩy mạnh ra, thảng thốt nhìn cha hầm hầm đi vào thư phòng, bước đi như rồng như hổ, đâu có cái vẻ gần đất xa trời như ở nha môn tuần phủ.

- Té ra là đóng kịch.
Từ Côn lẩm bẩm:

- Giờ đệ mới biết à?
Từ Phan bĩu môi, hắn theo Từ Giai lâu năm, tất nhiên chẳng lạ gì kỹ năng biểu diễn của cha.

Hai tên đi vào thư phòng, thấy Từ Giai chắp tay sau lưng, đứng trước cửa sổ.

Dè dặt gọi một tiếng "cha", đợi rất lâu mới nghe thấy Từ Giai nói:
- Các ngươi rốt cuộc có bao nhiêu ruộng?
"Không ngờ Hải Thụy nói nhà mình sản nghiệp kinh người, xem ra con số không phải là bình thường."

- Chuyện này...
Hai đứa nhi tử nhìn nhau, lúng ba lúng búng.

Từ Giai lạnh lùng nói:
- Tới nước này rồi còn muốn giấu ta à?

- Cha hiểu lầm rồi.
Từ Côn nói nhỏ:
- Chủ yếu là các phòng đều có một quyển sổ, chưa bao giờ cộng gộp lại, cho nên nhất thời không ai nói rõ được.

- Vậy thì đi tra đi.
Từ Giai tuy không phát tác, nhưng giọng lạnh tới mức làm người ta rợn người.

Hai đứa nhi tử vội đưa người tới các phòng lấy sổ, đây vốn là trái cấm của các phòng, tuyệt đối không cho người khác xem, nhưng lúc này thời kỳ phi thường, lão tam lão tứ đều bị nhốt vào từ đường, ngay cả lão gia tử cũng phải đích thân đi cầu xin, hiển nhiên nguy cơ lớn nhất của Từ phủ đã ở ngay trước mắt. Vì thể ngoan ngoan nộp sổ sách, sau đó đưa tới thư phòng của Từ Giai.

Vì đây là tuyệt mật của Từ phủ, cho nên không thể dùng trướng phòng trong phủ, chỉ đành do đích thân Từ Phan và Từ Côn ra trận, thêm vào tâm phúc của Từ Giai là Lý tiên sinh và Lữ tiên sinh, bốn người lạch cạch tính toán từ trưa cho tới tận tối.

Bọn họ tính toán ở gian trong, Từ Giai đợi ở gian ngoài, ông ta vốn định xem sách, nhưng nghe thấy tiếng lách cách, lòng phiền loạn không sao xem nỏi, đành khép mắt lại.
Trong đầu chẳng biết vì sao nhớ tới sự kiện Cảnh vương trả ruộng năm năm trước.....

Mùa xuân năm Gia Tĩnh thứ 44, Cảnh vương Chu Tái Quyến hoăng, không con trai, đất phong bị phế trừ, mấy vạn mẫu ruộng bị thân thích chiếm đoạt.
Số ruộng này vốn thuộc về sở hữu của bách tính, bởi thế dân phẫn nộ, gần như tạo thành biến loạn. Về sau Từ Giai tấu xin trả ruộng cho dân, khiến cho lòng dân mừng rỡ, tới nay vẫn cảm tạ ơn đức của ông ta.

Năm năm trước, mình lệnh Cảnh vương phủ trả ruộng, giờ tới lượt Hải Thụy lệnh mình trả ruộng...
Từ Giai cười tự trào, cười xong thở dài, dần dần nhắm mắt lại đi vào cõi tiên, như trở về Bắc Kinh, vẫn là thủ phụ hô phong hoán vũ, một đạo chỉ dụ là cách trức ngay tên Hải Thụy không hiểu chuyện.

Cho tới khi hai đứa nhi tử gọi tỉnh, Từ Giai mới nói lời tạm biệt vinh quang ngày xưa, quay về hiện thực:
- Tra rõ chưa?

- Có con số đại khái rồi.
Từ Phan nơm nớp lo sợ đưa danh sách dâng lên:
- Phụ thân ngàn vạn lần đừng giận.

...
Từ Giai nhìn hắn, im lặng nhận lấy, liếc tới con số cuối cùng, hai mắt trợn trừng trừng, nhìn lại lần nữa, xác định không nhầm lẫn, mắt tối xầm lại, dựa vào ghế mãi không nói lên lời.

Từ Phan vội đi tới hết đấm lưng lại vuốt ngực, Từ Giai dần dần tỉnh lại, nhìn Từ Côn với vẻ không sao tin nổi:
- Ngươi làm thế để làm gì? Muốn chết cũng không cần dùng cách này.

- Cha bớt giận.
Từ Côn vội vàng quỳ xuống, hoảng sợ nói:
- Người xa quê nhiều năm, không biết nay khác xưa rồi, bách tính Tùng Giang không còn lấy nông nghiệp kiếm sống nữa, rất nhiều nhà phu thê tới công trường làm việc, đem đất đai gửi vào đại hộ, mỗi năm chỉ cần một phần lương thực. Sau đó đại hộ thuê người phương bắc trồng ruộng, bởi thể điền sản tất nhiên tập trung vào vài nhà. Từ gia chúng ta giữ vững quy củ, nhân nghĩa vang xa, tất nhiên thành một trong số đó... Nếu không có chúng ta, Tô Tùng chắc biết có bao nhiêu đất hoang.

- Té ra các ngươi là công thần cơ đấy.
Mặc dù Từ Côn nói rất chân thành, nhưng Từ Giai là ai, có kẻ nào lừa nổi ông ta không? Nghe vậy cười lạnh liên hồi:
- Sao người ta tự dưng lên cơn điên tố cáo chúng ta cưỡng đoạt.

- Chuyện ấy có lẽ là cũng có, nhưng nhìn chung là giống như hài nhi đã nói.
Từ Côn giọng lí nhí.

- Giỏi, giỏi, năm xưa ta nên đưa ngươi tới Bắc Kinh, bằng cái bản lĩnh nói láo không ngượng mồm này, chắc chắn làm quan lớn hơn đại ca ngươi nhiều.

Từ Côn cúi đầu xuống không dám nói lời nào.

- Đông ông bớt giận, hiện giờ không phải lúc truy cứu trách nhiệm, quan trọng là ứng phó với cửa ải trước mắt ra sao.
Thấy tình thế căng thẳng, Lý tiên sinh vội đẩy sang chuyện khác.

- Ừ..
Từ Giai thở hắt ra một hơi:
- Tiên sinh có cao kiến gì?

- Kỳ thực chúng ta đều biết Hải Thụy tới Tùng Giang làm gì, "trà ruộng có thể miễn tội" là thật, nhưng lòng tham của hắn tuyệt không nhỏ. Chúng ta gia nghiệp lớn, ngay quản gia cũng có vài vạn mẫu ruộng, muốn thỏa mãn hắn không thành vấn đề. Nhưng nếu chúng ta trả quá nhiều ruộng, ngược lại thành chứng thực lời tố cáo của Hải Thụy, làm người ta cho rằng Từ gia chiếm đoạt ruộng dân thực thì sao?

- Đúng thế, tiến thoái lưỡng nan.
Từ Giai gật đầu:
- Hải Thụy còn bảo ta quyên góp, cũng như vậy, ta quyên ít hắn sẽ bất mãn, nhưng nếu quyên vài vạn lượng, Thanh Lưu khắp triều sẽ nhìn ta ra sao?

- Đúng, không thể thỏa hiệp.
Từ Phan lên tiếng:
- Chút gia nghiệp hiện nay bọn con kinh doanh hơn 20 năm mới có, trong đó có lẽ có "chiếm đoạt", nhưng tuyệt đại đa số là thu được chính đáng, sao có thể bằng một câu nói của hắn là chắp tay dâng lên?

- Vậy phải làm sao đây?
Từ Giai lạnh lùng nói.

- Theo hài nhi thấy, Hải Thụy ngang ngượng làm càn, nhưng chúng ta phải làm việc đúng pháp luật.
Nhà họ Từ quả thực tố chất rất khác người, Từ Côn nói:
- Đại Minh luật quy định, phàm ruộng đất mua trên 5 năm không được truy tố. Cho nên điền sản dưới tên chúng ta có trên 5 năm không được đụng vào, thống kế số ruộng mới ra, kiếm kẻ nghèo khó, có tranh cãi trả lại, dù Hải Thụy không hài lòng, chúng ta cũng không cần sợ hắn, dẫu thế nào cũng không thể đem sản nghiệp chúng ta có được một cách chính đáng tặng người khác chứ?

- Đúng, ý của Nhị công tử rất hay.
Lý tiên sinh gật đầu:
- Hải Thụy chẳng thể nói được gì.

- Đi thống kê đi, số ruộng vào sổ sách năm năm qua, chiếm đoạt cũng được, không chiếm đoạt cũng được, trả hết cho ta... Hải Thụy muốn ta làm gương, ta cấp cho hắn cái thể diện này.
Từ Giai mệt mỏi nhắm mắt lại.

- Cha..
Hai đứa con đau lòng kêu lên.

- Các ngươi muốn bức tử ta hay sao?
Từ Giai mở choàng mắt, cầm lấy chén chà ném vỡ choang xuống đất:
- Lão phu cả đời thanh liêm, bị các ngươi hủy hết rồi.

Hai tên hoảng sợ xéo vào trong tiếp tục tính toán sổ sách.

Lý tiên sinh đuổi lui hạ nhân, đích thân quét dọn mặt đất, mang cho Từ Giai một chén trà mới, định lui xuống, nhưng bị Từ Giai gọi lại:
- Ông nói xem, hôm nay ta quỳ xuống, có thể làm Hải Thụy nhân nhượng không?

-....
Lý tiên sinh suy nghĩ chốc lát, nói thực:
- Vốn là có thể, trên đời ngoại từ hoàng đế và thái phu nhân, không ai nhận được cái lậy này của người. Nhưng, một thủ phụ là Cao Củng, ông ta nhất định không động lòng; hai, chỗ dựa của Hải Thụy, nói trắng ra là Thẩm Mặc sẽ không động lòng; ba là đám ngôn quan bị chỉnh chết đi sống lại, chỉ sợ có liên quan tới chúng ta, e không dám lên tiếng cho đông ông.

Từ Giai thở dài:
- Sớm biết thế này năm xưa ta đã chẳng thiên vị...

Lý Tường biết ông ta nói tới Thẩm Mặc, an ủi:
- Con người đâu có thể nhìn được tương lai, ai ngờ kẻ hậu sinh này hung mãnh như thế.

- Thôi, không nhắc tới điều này nữa...
Từ Giai khoát tay:
- Ông nói không sai, chỉ cần còn Cao Củng, ai nói giúp ta cũng vô dụng, cho nên chúng ta phải dẫn họa đi, không thể để một mình Từ gia gặp tai ương, phải để cả Tùng Giang, không, cả mười phủ Tô Tùng đều phải gặp tai ương...
Nói tới đó cười lạnh:
- Lũ khốn kiếp, thường ngày nịnh bợ xun xoe, giờ Từ Giai ta gặp nạn, tên nào tên nấy đều giả câm, ta muốn xem xem, khi đồ đao của Hải Thụy chém lên đầu các ngươi, các ngươi còn im lặng được hay không.

Ba ngày sau, Từ Giai trả lời ba yêu cầu của Hải Thụy: Thứ nhất, quyên 5000 lượng bạc chẩn tai; thứ hai, gia nô ở Từ phủ nhiều năm, tình cảm sâu nặng, không thể cưỡng ép đuổi đi, chỉ đành để tự nguyện; thứ ba, nguyện trả lại tất cả điền sản mua trong 5 năm qua, tổng cộng 4 vạn mẫu, đã lệnh đám nhi tử lên danh sách trả ruộng, đợi chủ tới nhận về.

Từ Phan, Từ Côn mặc dù rất không muốn, nhưng lệnh cha khó cãi, đành nghe theo. Từ Giai viết một lá thư nói rõ nguồn cơn, đưa lên nha môn tuần phủ.

Nhìn thư của Từ Giai, khuôn mặt mệt mỏi của Vương Tích Tước hiện lên nụ cười hưng phấn:
- Chúc mừng đại nhân, Từ các lão cuối cùng cũng chịu trả ruộng rồi.

Hải Thụy tâm tình cũng rất rất, Từ gia chịu trả ruộng, khẳng định các Tấn thân ở Tùng Giang không dám chống nữa, e 10 phủ Tô Châu cũng sẽ lui theo.

Nhưng đôi mày vừa giãn ra lại co vào, sao chỉ trả chưa tới 1 phần 10? So với hơn 40 vạn mẫu còn lại, 4 mẫu này có đáng gì? Nếu như các hương thân học theo, thì hành động trả ruộng này còn có ý nghĩa gì nữa?

Suy nghĩ mãi, Hải Thụy cầm bút viết thư cho Từ Giai, mở đầu là khen ngợi vài cau, tiếp đó thái độ xoay chuyển, nói rõ con số -- Yêu cầu trả một nửa.

Trong mắt Hải Thụy, cho dù có trả một nửa, nhà họ Từ vẫn còn hơn 20 vạn mẫu ruộng, vẫn là Tùng Giang đệ nhất tài chủ, còn muốn gì nữa? Nếu chẳng phải lo ép Từ Giai chó cùng giứt giậu, ảnh hượng tới đại kế đo ruộng, với tính khí của Hải Thụy làm sao chấp nhận được.

Có lẽ cảm thấy quá lợi cho nhà họ Từ, ngữ khí của Hải Thụy trở nên khắc bạc, cuối cùng không ngờ viết:" Tích xưa sửa cái sai của cha, vàng chất bảy phòng đem giải tán hết, công lấy danh cha sửa sai cho con có gì không thể."

Nhận được thư trả lời của Hải Thụy, Từ Giai cười, nhưng cười đầy sát khí, hai nắm đấm siết chặt, mày dựng lên...

Tên Hải man mọi này không biết điều, dám được nước lấn tới, dám đòi trả một nửa, còn lên tiếng dạy dỗ ta, dù không trực tiếp nhắm vào mình, nhưng chẳng phải chỉ nhi tử của mình chiếm đoạt quá nhiều, bảo mình giải tán hết gia tài, sửa cái sai của con sao?

Từ Giai không thể lùi được nữa.

Trước đó lùi là vì rút lui chiến lược vì thắng lợi cuối cùng, hiện giờ nếu tiếp tục lùi, người thiên hạ sẽ cười rụng răng, Từ Giai không chịu nổi mất mặt, quyết không lui nữa, lập tức viết thư cho Hải Thụy, nói mình không hỏi nguyên ủy, trả hết ruộng mua 5 năm qua, không biết còn cáo bao nhiêu ruộng đất thuộc về "chiếm đoạt", đành nhờ quan phủ tới tra, nếu có chứng cứ, nhất định sẽ trả.

Từ Giai thường ngày có thể nhẫn nhịn đủ điều, cuối cùng tới mức không thể nhẫn nhịn nữa.

Thái độ cứng rắn của Từ Giai là có chỗ dựa, vì Đại Minh luật không hạn chế cá nhân sở hữn ruộng, chỉ nghiêm cấm che giấu con số, ảnh hưởng tới thu nhập phú thuế mới bị đả kích. Hơn nữa bất kể là nguyên nhân gì, mua bán trên 5 năm, hai bên đều không bị truy tố.

Hiện Từ Giai trả số ruộng mua trong 5 năm qua, từ pháp luật đứng ở thế bất bại, Từ Giai không có gì phải sợ hãi.

Mặt khác, ông ta liên tục viết thư cho môn sinh cố hữu, muốn bọn họ vào lúc thích hợp, cho Hải Thụy chút giáo huấn....

Bên kia cùng lúc Hải Thụy viết thư trả lời Từ Giai, liền phát ra Thối Điền lệnh, yêu cầu tất cả những người bị phán trả ruộng, phải trả lại ruộng chiếm đoạt trái phép trước năm mới.
Sau ngày 15 tháng giêng năm Long Khánh thứ 4, đăng ký hồ sơ lại, lúc đó nhà nào còn chưa trả ruộng, sẽ nghiêm trừng không tha.

Một cơn bão tái phân phối ruộng đất đã hình thành, đại hộ phủ Tùng Giang chấn động, lần này bị người ta kề dao vào tận cổ rồi.

Vì thế bọn chúng không kiêng dè gì nữa, lũ lượt kéo tới nhà Từ Giai, xin ông ta chủ trì công đạo. Từ Giai nói với chúng, lần này ông ta bị Cao Củng nhắm vào rồi, lời nói không có tác dụng, còn gây hiệu quả trái ngược, nên đành im lặng chịu đựng... các vị chỉ có thể dựa vào bản thân.

Không hi vọng vào Từ Giai được nữa, đám hương thân đành thông qua mối quan hệ của mình trong triều, phản ánh việc làm của Hải Thụy như "kích động điêu dân cáo trạng, khiến dân gian náo loạn", " so với oan tiểu dân, thà oan hương thân, chấp pháp bất công", "không cần biết có chiếm đoạt hay không, cưỡng ép hương thân trả ruộng" v..v...v...

Vì thế gần cuối năm, lời bàn tán về việc làm của Hải Thụy ở Tùng Giang dần nổi lên..
Kỳ thực trước đó không ngừng có người công kích Hải Thụy, nhưng bị nội các áp xuống. Nhưng càng lúc người cáo trạng càng nhiều, nội các không thể trấn áp được hết.
May Cao Củng trượng nghĩa, khi áp lực với Hải Thụy tăng lên, công khai khen ngợi thành tích và thái độ làm việc của Hải Thụy, chỉ phê bình phương pháp làm việc, cho rằng hắn nên suy nghĩ chu toàn hơn.

Nhưng cuối năm, một tấu sớ đàn hặc từ Tô Từng tuần án Đới Phượng Tượng làm Cao Củng không bảo vệ nổi nữa:" Người ta nói Hải Thụy là thanh quan trung thành, nhưng thần phát hiện hắn mua danh chuốc tiếng, đại gian vờ trung, tham cái danh, loạn luật pháp, hoàn toàn không hiểu đạo làm quan. Mặc cho điêu dân tố cáo hương thân, vô lý tước đoạt tài sản hợp pháp của người khác, làm dân gian có lời tựa như 'trồng ruộng không bằng đi kiện'.
Lại còn nói Hải Thụy "câu kết với giặc Oa", " vây hãm thành trì", " cướp kho chém quan" khiến cho "khói lửa không ngừng", đúng là thánh kinh của kẻ vu khống biến không thành có.

Nhưng hắn là tuần án Tô Tùng, tất nhiên có tiếng nói về hành vi của Hải Thụy, huống hồ hắn có thanh quan không tệ. Quan trọng hơn nữa, hắn tố cáo không phải hoàn toàn vô chứng cứ, ít nhất "Mặc cho điêu dân tố cáo hương thân, vô lý tước đoạt tài sản hợp pháp của người khác" có đầy đủ nhân chứng vật chứng...

Kỳ thực chứng cứ là do đám môn khách của Từ Anh bày ra... Trước tiên là sai điêu dân cáo trạng, tiếp đó để địa chủ cố ý bị đoạt tài sản, sau đó sai đi khóc lóc tố cáo, Đới Phượng Tường liền tin..
Vì sao? Hắn vốn khó chịu vì Hải Thụy tới Phượng Tường che hết hào quang của hắn, trong lòng đầy thiên kiến. Hiện giờ thấy họ Hải phán án tùy tiện, làm người vô tội tổn thất, Đới tuần án sao chẳng đàn hặc?

Uy lực của cáo trạng này quá lớn, ngay Cao Củng cũng nghi ngờ, vì gần đây tin đồn Hải Thụy hãm hại Từ các lão truyền khắp triều đình.

Trong lời đồn, Hải Thụy bị nói thành kẻ man mọi không biết biến báo, không hiểu chừng mực. Còn Từ Giai được miêu tả thành ông già gần đất xa trời, đáng thương khi từ bỏ quyền lực, quy ẩn điền biên bị hãm hại vô tình...

Càng làm Cao Củng uất ức hơn là tất cả đều cho rằng kỳ thực Hải Thụy chỉ là một thanh đao của họ Cao nào đó dùng chỉnh trị Từ Giai.

Ngay cả Long Khánh vốn không hỏi tới chính vụ cũng uyển chuyển nói với Cao Củng cống hiến năm xưa của Từ các lão, ý tứ rõ ràng, tha cho lão thủ phụ đi.

Cao Củng có miệng khó cãi, bị dồn ép hết sức bị động.

Đúng lúc đó tấu chương của Đới Phượng Tượng tới, Cao Củng sao dám bảo vệ Hải Thụy nữa? Đành nói, xem Hải Thụy tự biện hộ thế nào.

Mấy ngày sau, tấu chương của Hải Thụy đưa lên, vẫn đầy đấu chí đúng phong cách họ Hải:" Vi thần chỉ căn cứ quyền lực quan viên mà hoàng thượng ban cho để làm việc, căn bản không có gì sai. Chỉ càn có được ủng hộ, trong vòng một tháng, thần có thể làm cục diện triệt để thay đổi, nhưng hiện giờ sự chưa thành.. vi phần phụ quốc gia, Đới Phượng Tường khi quân, không thể dung thứ cả hai" xin hoàng đế đồng thời cách chức cả hắn lẫn Đới Phượng Tường.

Thấy Hải Thụy nhất định không nhận sai, đám ngự sự im lặng đã lâu rốt cuộc không kìm chế nổi nữa, bắt đầu nổ pháo, từ các góc độ luận chứng Hải Thụy tài hèn chí lớn, tính tình hẹp hỏi. Loại người này không thể đứng đầu một phương, nên cho tới Nam Kinh hưởng chức nhàn, không để làm hại cách tính nữa.

Ngự sử hai kinh hưởng ứng lẫn nhau, tấu sớ đàn hặc đổ xuống như tuyết, Hải Thụy đành theo thông lệ đình chức ngừng xử lý, việc trả ruộng bị đình trệ, đám đại hộ vốn đình trả ruộng cũng chuyển sang nghe ngóng, đợi ngày Hải Thụy bị rớt đài.
Bọn chúng ngông cuồng quát tháo tiểu dân dám cướp thức ăn trong miệng hổ:
- Họ Hải không chống nổi tới năm sau đâu, đợi hắn xéo rồi, sẽ khiến các ngươi phải trả cả vốn lẫn lãi.

Bách tính thất vọng tột độ, một số kẻ nhát gan bắt đầu cầu xin tha thứ, thậm chí hẹn bị cáo cùng tới quan phủ, hi vọng sửa lại điền khế.

Vương Tích Tước nổi giận mắng:
- Tưởng là trò đùa à, đừng mơ.
Rồi hầm hầm trở về hậu đường, thấy Hải Thụy vẫn đang vùi đầu chỉnh lý sổ sách đo đạc ruộng năm sau.

- Đại nhân thật trấn tĩnh.
Vương Tích Tước cười khổ:
- Nếu là hạ quan, dù cưỡng ép bản thân cũng không làm được chuyện cần tỉ mỉ như thế.

Hải Thụy không hề ngẩng đầu lên:
- Người đình chức, nhưng thời gian không nghỉ, đo đạc ruộng chỉ còn chưa tới 20 ngày, việc phải làm rất nhiều, không tranh thủ sao được, đừng nói thừa nữa, làm việc đi.

Vương Tích Tước ngồi xuống bàn, nhưng đúng như hắn nói, thật không sao làm việc được, đành hỏi:
- Đại nhân không lo triều đình cách chức ngài sao?

- Lo làm gì? Cái chức này vốn ở trên trời rơi xuống, mất cũng chẳng sao.
Hải Thụy đột nhiên thở dài:
- Nói không lo là giả, nhưng lo chúng ta quên ăn quên ngủ mấy tháng, cuối cùng cũng khoét được vào chỗ đột phá, nếu lúc này triều đình đổi tuần phủ, liệu chuyện có quay về như cũ, cùng một giuộc với đám đại hộ không?

- Không đâu.
Nói tới chuyện Bắc Kinh thì Vương Tích Tước nhạy ben hơn nhiều:
- Nếu nội các còn do ba vị Cao Thẩm Trương định đoạt, vậy cải cách tài thuế sẽ là một quốc sách, đo đạc ruộng đất là cơ sở của nó, dù khó khăn cũng phải đi tiếp... Dù có đổi tuần phủ cũng phải đi tiếp trên con đường của ngài, vì ngài đã lập nên một con đường tốt nhất.

- Ngươi nói thế làm ta có tự tin rồi.
Cùng với thời gian trôi đi, Hải Thụy càng tin tưởng vào Vương Tích Tước, người này phán đoán thời cuộc và nhân tâm hơn mình một bậc, cười nói:
- Vậy càng có lý do tranh thủ công tác, dù kết quả có tệ, coi như người trước trồng cây, người sau hưởng bóng mát...

Tử cấm thành Bắc Kinh, nội các.

Đối diện với tấu chương đàn hặc đổ xuống ùn ùn, Trương Cư Chính đề xuất, hay là nên điều Hải Thụy đi một thời gian, giảm bớt áp lực cho bản thân hắn.

Cao Củng trầm ngâm, ông ta cũng sắp không chống đỡ nổi nữa.. Đại nghiệp cải cách mới bắt đầu, mọi thứ còn đang hỗn loạn, cần các phương diện đoàn kết chặt chẽ, bất kỳ mẫu thuẫn nào cũng có thể ảnh hưởng tới cải cách.

Thực ra Trương Cư Chính đang đợi Cao Củng có ý thỏa hiệp mới đề xuất kiến nghị kia...
Dù sao hắn cũng là chưởng môn nhân hiện nhiệm của Từ đảng. Phải thừa nhận thủ đoạn đấu tranh chính trị của hắn ngày càng thuần thục, chọn thời cơ đúng lúc, vừa không khiến Cao Củng phản cảm, càng đổ thêm dầu vào lửa, để Cao Củng hạ quyết tâm. Xong việc còn có thể về khoe khoang, nhìn đi, đó đều là công lao của ta đấy...

Nếu như không có người kia, hắn khẳng định đã thành công. Tiếc là trên đời này không có nếu như...

Cao Củng trầm ngâm rất lâu mới nói:
- Ngươi viết thư hỏi ý kiến Giang Nam ra sao.

- Chuyện này.
Khóe miệng Trương Cư Chính giật giật, nghĩ ông không quên y đi được à, nhưng không dám lộ ra chút nào, vội đáp:
- Vâng.

- Thôi.
Cao Củng lại nói, Trương Cư Chính mừng thầm, đúng thế, y đang xuất chinh, ông cần gì làm chuyện thừa thãi.

- Để ta đích thân viết thư vậy.
Cao Củng nói tiếp.

Trương Cư Chính thiếu điều nổi điên, chửi thầm:" Ông nói liền một mạch thì đứt hơi chết à?"

~~~~o0o~~~~~~~

Thẩm Mặc nhận được thư của Cao Củng vào ngày 27 tháng 12, thực ra trước đó đã nhận được rất nhiều lời nhờ cậy từ đại hộ đông nam. Trong đó đại đa số không có xung đột trực tiếp với Hải Thụy, nhưng đại hộ quan hệ rối rắm. Bọn họ chỉ sợ làn sóng trả ruộng này lan ra khắp đông nam, đành liều viết thư cho Thẩm Mặc, xin y khuyên Hải Thụy, đừng làm chuyện quá cương.

Đau đầu hơn nữa, tới tết lại thu được thư của Từ Giai, dù quan hệ hai người bằng mặt không bằng lòng, nhưng đều là người có thân phận, nên bề ngoài biểu hiện phải có, vì thế trước tết viết cho Từ Giai một bức thư hỏi thăm đầy nhiệt tình, mang kèm với hàng chuẩn bị năm mới.

Từ Giai lần này bị Hải Thụy hành cho chết đi sống lại, vừa vặn trả lời thư tố khổ, nhưng không thể mở đề nói ngay, vi sư bị người ta ép đến thảm.

Trước tiên Từ Giai bày tỏ vui mừng, ta về 2 năm rồi, Chuyết Ngôn còn nhớ tới, lòng già rất an ủi, nhưng lại cảm thấy hổ thẹn? Vì sao, vì sau khi trở về, nhớ lại việc làm năm xưa, thật có chỗ không phải với ngươi, vi sư suy tính vì mình quá nhiều, nghĩ cho ngươi quá ít. Hiện giờ về rồi, kẻ nịnh bợ năm xưa đều tránh xa, hiện giờ bị người ta ức hiếp mà không tìm được ai bày tỏ.

Càng cảm nhận được thói đời bạc bẽo, ta càng thấy Chuyết Ngôn đáng quý, càng thấy hổ thẹn, hiện giờ tất cả những điều ta gặp phải coi là báo ứng, trong lòng mới dễ chịu hơn một chút.

- Vị sư tôn của ta đúng là biết có biết duỗi.

Đối tượng Thẩm Mặc nói là một nam tử trung niên mặc áo bông xanh, kiểu quan sự, không lên tiếng căn bản không nhìn ra sự bất phàm của ông ta:
- Từ Giai hiện tình cảnh khó khăn, không thể không hạ mình, xin đại nhân tha cho một đường sống. Nhưng thái độ lại còn uy hiếp đại nhân, nếu không đáp ứng sẽ nói ngài ám thị Hải Thụy, trả thù sư phụ.
Không ngờ là Dư Dần, mất tích đã hai năm.

Hai năm trước vì chuyện Hồ Tôn Hiến, Dư Dần cảm thấy không thể đối diện với Thẩm Minh Thần và Vương Dần nữa, sự nghiệp Thẩm Mặc ngày càng lớn, càng cần có người thay y làm những việc không thể lộ ra...
Mặc dù có Cẩm Y vệ, nhưng bọn họ là ưng khuyển của triều đình, chẳng ai biết tới ngày nào đó hoàng đế nổi hứng xào bài lại, thì quá bị động.

Cho nên thấy Thẩm Mặc ỷ lại vào Cẩm Y vệ, Dư Dần khuyên can nhiều lần, nói không phải thứ của mình, sẽ có lúc không thể dựa vào, nên kiến lực lực lượng ngầm của bản thân, ít nhất có thể bảo vệ mình dưới tình huống xấu nhất.
Thẩm Mặc do dự rất lâu, cuối cùng qua vụ án Hồ Tôn Hiến, đồng ý với kiến nghị này, là người đề xuất, Dư Dần tự gánh lấy trọng trách.

Làm người ta vui mừng là Thẩm Mặc âm thầm phát triển mười mấy năm, thực lực ẩn chứa quá mạnh, làm Dư Dần như hổ thêm cánh, vừa bắt tay đã có hơn trăm tinh anh cốt cán đầu quân...
Những người này đều là con cháu thị vệ cũ của Thẩm Mặc, tuyệt đối trung thành, nhiều năm trước được Thẩm Mặc an bài vào trấn phủ ti, do Chu Thập Tam trui rèn, ai cũng là cao thủ đặc vụ.

Để che giấu tai mắt người khác, Dư Dần đăng ký một tiêu cục tên Vĩnh Hòa, một có thể khoác lớp ngoài lên cho những phần tử nguy hiểm này. Hai, Dư Dần nhìn ra, công thương nghiệp phát triển, thúc đẩy hàng hóa qua lại giữa các thành phố, nghề bảo tiêu đã tới mùa xuân phồn thịnh. Vĩnh Hòa có thể nhờ trận gió đông này trải phân hiệu khắp toàn quốc mà không khiến quan phủ hoài nghi.

Lần này Dư Dần tới là áp tiêu một xe lễ vật Từ các lão gửi cho Thẩm Mặc, ông ta tận dụng cơ hội hiếm có này để gặp đông gia.

Nói ra từ lần gặp nhau ở Thông Châu, hai người không gặp lại nữa, tuy vẫn giữ liên hệ, nhưng lúc trùng phùng vẫn cảm xúc dào dạt.

- Không ngờ gặp nhau một lần lại khó khăn như thế.
Thẩm Mặc áy náy nói:
- Ngay cả cơ hội mời tiên sinh một bữa cơm cũng không có, tiên sinh đừng trách.

- Hiện giờ không biết có bao nhiêu cặp mắt nhìn vào đại nhân mà.
Dư Dần rất hiểu tình cảnh của Thẩm Mặc:
- Đông xưởng, lại cả mật thám của Sơn Tây bang, đại nhân nếu không cẩn thận mới làm thuộc hạ lo lắng.

- Đúng thế, chỗ nhìn có vẻ phong quang, luôn mang nguy hiểm vô hạn.
Thẩm Mặc vừa pha trà vừa nói:
- Tới ngay cả Cao các lão cũng trở nên cẩn thận rồi.

Dư Dần đã xem qua thư của Cao Củng, mặt lạnh tanh nói:
- Tâm tư cả vị thủ phụ này không hề thô hào như vẻ bề ngoài, ông ta muốn đại nhân ủng hộ quyết định thay Hải Thụy phải không?

Thẩm Mặc gật đầu:
- Bình thường thôi, làm thủ phụ có ai đơn giản? Chẳng qua lão Cao không thèm dùng mưu mô, nên mới thấy thô hào một chút. Giờ ông ta là tể tướng một nước, vai gánh trọng trách cải cách, không thể bất chấp tất cả như trước kia được nữa.

- Vậy ý đại nhân ra sao? Nếu đồng ý với Cao Củng, khó tránh khỏi làm người ta thất vọng.

- Tiên sinh tưởng rằng Cao Túc Khanh muốn thay đổi thật sao?
Thẩm Mặc cười lạnh:
- Cải cách là mộng tưởng cả đời của ông ta, việc Hải Thụy làm là điều ông ta luôn muốn làm, sao có thể vì chút trở lực mà ngừng lại?

- Đại nhân phán đoán quả nhiên nhạy bén, đây là điều thuộc hạ muốn bẩm báo.
Dư Dần nói rồi lấy từ trong ống tay áo ra một phong thư, nở nụ cười hiếm có.

Thẩm Mặc nhận lấy xem, đó là thư Hàn Ấp môn sinh của Cao Củng viết cho Thái Quốc Hi.
Thẩm Mặc có chút ấn tượng về người này, hắn là môn sinh của Từ Giai, năm xưa làm binh bị phó sứ Tô Tùng xảy ra xung đột với nhi tử của Từ Giai. Nghe nói quan thuyền của hắn gặp quan thuyền của huynh đệ Từ gia trên sông, không ai nhường ai, kết quả bị đám ác nô của Từ gia xông lên thuyền lột quan phục ném xuống sông, đánh bị thương tùy tùng rồi nghênh ngang bỏ đi.

Thái Quốc Hi bị sỉ nhục lớn, tất nhiên tới phủ Tùng Giang cáo trạng, nhưng Trung Trinh Cát khuyên nhẫn nhịn. Không chịu nổi, hắn cáo trạng lên cả tỉnh, thậm chí Bắc Kinh, nhưng không ai thụ lý.
Cuối cùng huynh đệ Từ gia tuyên bố, nếu còn dám tố cáo, sẽ triệt để lột quan phục của hắn, Thái Quốc Hi không chịu được nhục, từ quan bỏ đi... Nói ra đã 5 năm rồi.

" Sao Hàn Tiếp lại nhớ tới vị này?" Thẩm Mặc vừa suy nghĩ vừa lấy thư ra đọc, thì ra hai người họ là đồng hương, quan hệ không tệ.
Từ khi Cao Củng nắm quyền, Hàn Tiếp luôn mưu cầu phục xuất cho đồng hương, cuối cùng đã được toại nguyện, cho nên vội vàng viết thư khoe công. Trong thư nói, Cao Củng đồng ý cho hắn phục nguyên chức, còn nói sau khi Hải Thụy lùi xuống, chức tuần phủ nhất định thuộc về hắn.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom