Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Những Vụ Án Trên Thế Giới

Chương 260: Xác chết lõa thể của các cô gái trẻ trên khu đồi vắng (p2)


Ra tay liên tiếp

Thành phố Los Angeles đón tuần lễ Tạ ơn với liên tiếp những vụ giết người. Một cô gái mại dâm tên là Yolanda Washington chết trong tình trạng khỏa thân, bị hiếp dâm và bóp cổ cho đến chết được tìm thấy gần khu nghĩa trang Forest Lawn.

Gần hai tuần sau, lại thêm một vụ giết người khác. Xác cô gái trẻ được tìm thấy bên lề đường của một khu dân cư. Có nhiều vết bầm tím trên cổ nạn nhân. Tay chân nạn nhân bị trói. Trên mí mắt của nạn nhân có một sợi lông mỏng. Các điều tra viên đã gửi nó tới bộ phận giám định pháp y. Thi thể được đặt một cách có chủ ý, cảnh sát nhận định có vẻ hung thủ cố ý đặt cái xác ở đây để cảnh sát có thể tìm thấy nhanh chóng.

Nạn nhân là Judy Miller, bị cưỡng hiếp và bóp cổ. Cô đã chết khoảng 6 tiếng trước khi được tìm thấy và dường như không phải bị giết ở đây, giả thuyết là cô được chở bằng ô tô từ nơi khác đến và có ít nhất hai người liên quan.

Liên tiếp những nạn nhân khác nữa được tìm thấy trong sự bất lực của tổ điều tra đặc biệt suốt hai năm trời.

Tuy cảnh sát có trong tay manh mối về nghi phạm nhưng điều đó không giúp ích được nhiều, nhất là ở một thành phố rộng lớn như Los Angeles. Đã gần hai năm kể từ thi thể đầu tiên được tìm thấy, cơ quan chức năng gần như đã bất lực thì bất ngờ nghi phạm lộ diện.

Cái chết của hai nữ sinh

Vào ngày 12/1/1979, cảnh sát nhận được thông báo rằng hai nữ sinh đại học là Karen Mandic và Diane Wilder mất tích đã vài ngày. Người quen của Karen cho biết cô vừa được người bạn bảo vệ ở một công ty an ninh giới thiệu cho công việc dọn dẹp bán thời gian tại ngôi nhà trong khu phố giàu có Bayside. Đây là một trong những khách hàng của công ty anh. Ngày Karen mất tích cũng là ngày cô bắt đầu công việc của mình.

Khi các thám tử tới căn phòng mà hai cô gái đang thuê cùng nhau, họ thấy một con mèo dường như đã bị bỏ đói trong nhiều. Ngoài ra, họ cũng tìm thấy địa chỉ ngôi nhà ở Bayside và hồ sơ của công ty an ninh cùng tên nhân viên bảo vệ đã giới thiệu. Đó là Kenneth Bianchi.

Cảnh sát đã liên lạc với công ty an ninh này và tìm ra nhân viên bảo vệ này. Khi được hỏi về vệc này, Kenneth nói rằng anh không biết gì chuyện đó và không hề có quen biết hai nữ sinh mất tích. Vào ngày hai nữ sinh biến mất, Kenneth đang làm nhiệm vụ tại một khu bảo tồn.

Nhưng rồi, cảnh sát phát hiện ra rằng Kenneth không hề có mặt tại đó như anh ta nói. Ngoài ra, cảnh sát biết rằng nhân viên bảo vệ này đã sử dụng một chiếc xe tải của công ty vào đêm mà hai nạn nhân biến mất với lý do mang nó đi sửa chữa.

Các thám tử ngày càng lo ngại về sự an toàn của hai nữ sinh mất tích. Họ cho rằng nhiều khả năng đây là một vụ bắt cóc và có thể là giết người. Những đội tuần tra thường xuyên kiểm tra các địa điểm có thể là nơi phi tang xác chết hoặc vứt bỏ một cái xe.

Trong khi đó, chân dung nạn nhân và chiếc xe của cô được thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông. Ngay lập tức, một người phụ nữ đã gọi cho cảnh sát nói về một chiếc ô tô như môt tả đã bị bỏ lại trong một khu vực rậm rạp gần nhà cô.

Tới nơi, dù đã chuẩn bị tâm lý nhưng những người chứng kiến vẫn không khỏi bàng hoàng. Karen Mandic và Diane Wilder được tìm thấy đã chết trong chính chiếc xe của mình. Nhân viên bảo vệ Kenneth Bianchi nhanh chóng được gọi tới thẩm vấn.

Nghi can bất ngờ

Ngay sau khi chân dung nạn nhân Karen Mandic và Diane Wilder cùng chiếc xe của họ được thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, cảnh sát đã nhận được thông báo rằng có một chiếc ô tô như mô tả bị bỏ lại trong một khu vực rậm rạp.

Tới nơi, dù đã chuẩn bị tâm lý nhưng những người chứng kiến vẫn không khỏi bàng hoàng. Karen Mandic và Diane Wilder được tìm thấy đã chết bên trong. Như những nạn nhân khác, họ bị trói, bị hãm hiếp và bóp cổ cho đến chết.

Trong khi hai thi thể được gửi đến nhà xác, nhân viên bảo vệ Kenneth Bianchi nhanh chóng được gọi tới thẩm vấn.

Kenneth Bianchi là người đàn ông điển trai, có mái tóc dày màu đen và để ria mép. Theo đánh giá của những người quen biết, Kenneth khá thân thiện. Người này sống cùng với bạn gái tên là Kelli Boyd và cậu con trai mới sinh. Không ai có thể tin được rằng người nhẹ nhàng như Kenneth lại có thể là nghi can của hàng loạt vụ giết người.

Kiểm tra nhà Kenneth, cảnh sát tìm thấy nhiều đồ vật tại nơi Kenneth làm việc được thông báo mất cắp trước đó. Đặc biệt, nhiều món đồ trang sức nữ giới cũng được tìm thấy tại đây. Người thân của các nạn nhân đã xác nhận đây là những thứ mà con em họ đã đeo trước khi mất tích.

Cảnh sát sau đó cũng tìm tới nhân chứng Beulah Stofer. Beulah khẳng định Kenneth chính là một trong hai kẻ đã bắt cóc nạn nhân Lauren Wagner hai năm trước.

Gã đàn ông dối trá

Kenneth Bianchi sinh ngày 22/5/1951 tại Rochester, New York. Mẹ ruột Kenneth là gái mại dâm và nghiện rượu nặng, không có khả năng nuôi con. Ba tháng sau khi Kenneth chào đời, Frances Bianchi và chồng mình là một công nhân đóng giày đã nhận nuôi Kenneth.

Khi 1,5 tuổi, Kenneth bị ốm nặng, hôn mê và bị co giật. Tuy qua khỏi nhưng nó đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cậu. Năm Kenneth 13 tuổi, bố nuôi qua đời đột ngột vì một cơn đau tim. Bà Frances tuy rất vất vả nhưng vẫn cố lo cho Kenneth.

Năm 1971, ngay khi vừa tốt nghiệp trung học, Kenneth đã kết hôn với một cô gái cũng chỉ mới 18 tuổi. Cả hai chưa đủ trưởng thành để duy trì cuộc hôn nhân này. Tám tháng sau đó, người vợ bỏ đi. Kenneth cảm thấy mình bị phản bội.

Sau đó, Kenneth bắt đầu học đại học nhưng rồi bỏ giữa chừng. Khó khăn trong việc xin một công việc, Kenneth buộc phải làm nhân viên bảo vệ. Tuy nhiên vì có tính trộm cắp, Kenneth thay đổi chỗ làm liên tục.

Năm 1975, khi 26 tuổi, Kenneth rời quê nhà để tới Los Angeles. Thời điểm này, Kenneth sống với anh họ mình là Angelo Buono.

Khi có công việc ổn định, Kenneth dành tiền lương của mình mua được một căn hộ. Một thời gian sau, Kenneth quen Kelli Boy tại nơi làm việc. Tháng 5/1977, Kelli thông báo cô đã có thai.

Kenneth thuê một văn phòng nhỏ và bắt đầu nhận mình là nhà tâm lý học để tư vấn. Điều này làm Kelli cảm thấy khó chịu vì cô không thích người dối trá. Dần dần, mối quan hệ giữa Kelli và Kenneth bắt đầu có mâu thuẫn khiến cô muốn chia tay. Để níu kéo, Kenneth lại nói dối rằng mình bị ung thư phổi nhưng cũng không cải thiện được tình hình. Đó là cú sốc với Kenneth.

Tuy tình cảm mâu thuẫn nhưng Kelli vẫn thấy vô cùng bất ngờ khi cảnh sát tới nhà điều tra việc Kenneth có liên quan đến những vụ giết người hàng loạt.

Với các bằng chứng có được, các thám tử đã xác định Kenneth Bianchi là nghi phạm chính gây nên nỗi sợ hãi bên những sườn đồi vắng. Tuy nhiên, họ cũng biết chắc chắn rằng hung thủ không chỉ có một mình Kenneth Bianchi.
 
Chương 261: Xác chết lõa thể của các cô gái trẻ trên khu đồi vắng (p3)


Lộ diện

Sau khi bắt giữ Kenneth Bianchi, cảnh sát Los Angeles đã công bố hình ảnh của nghi phạm này trên các phương tiện truyền thông và lập tức nhận được cuộc gọi từ một luật sư tên là David Wood. Wood cho biết ông đã từng giải cứu hai cô gái trẻ Becky Spears và Sabra Hannan từ Bianchi và anh họ của anh ta là Angelo Buono khi đe dọa và ép buộc họ hành nghề mại dâm. Cả hai gần như bị giam giữ hoàn toàn tại cửa hàng của Angelo. Sau khi David Wood giúp họ trốn thoát, ông đã bị Angelo cảnh cáo rất nhiều lần.

Một nhóm điều tra lập tức lên đường tới gặp Angelo Buono. Đó là một người đàn ông ở độ tuổi bốn mươi với mái tóc nhuộm đen, mũi to. Angelo Buono không chỉ xấu xí về ngoại hình mà còn cả tính cách, một con người thô lỗ, ích kỷ và tàn bạo. Các thám tử có linh cảm mạnh mẽ rằng người đàn ông này là tên sát nhân thứ hai.

Angelo Buono sinh ngày 5/10/1934 tại Rochester, New York. Cha mẹ ly hôn từ khi Angelo còn bé. Hắn sống với mẹ và chị gái ở phía Nam Glendale, California. Mới 14 tuổi, Angelo đã có những suy nghĩ lệch lạc về tình dục và sở thích làm tổn thương phụ nữ. Angelo thường khoe khoang với bạn bè về những cô gái bị mình hãm hiếp và sàm sỡ. Không ngạc nhiên khi Angelo dính đến pháp luật, hắn bị kết án vì tội trộm cắp ô tô

Angelo có một chiếc xe ô tô màu đỏ, hắn thích lái xe lên những ngọn đồi ở Los Angeles để dạo mát cùng với những cô gái mại dâm.

Gã đàn ông xấu xí

Angelo Buono từng kết hôn vài lần và có nhiều con. Nhưng những đứa con bất hạnh này đều bị Angelo lạm dụng.

Năm 1955, Angelo kết hôn với một nữ sinh trung học tên là Geraldine Vinal. Nhưng chưa được một tuần, hắn đã bỏ cô vợ trẻ một mình. Năm 1956, Geraldine sinh một cậu con trai. Angelo không nhận đứa bé là con mình và từ chối cung cấp bất kì khoản hỗ trợ nào cho hai mẹ con.

Năm 1957, Angelo cưới Mary Castillo và có thêm 4 đứa con. Tuy thường xuyên phải chịu đựng tính vũ phu của chồng nhưng cũng phải đến năm 1964, sau một trận đòn khủng khiếp từ Angelo, Mary mới quyết định đệ đơn xin ly hôn, lý do còn là vì lối sống buông thả trong tình dục của Angelo.

Sau nhiều lần đắn đo, Mary có ý định quay lại, nhưng khi đến gặp Angelo, hắn đã còng tay cô lại, dí súng vào bụng cô và đe dọa sẽ giết cô. Đó là lần cuối cùng Mary nghĩ đến chuyện quay lại với Angelo. Angelo không hề chu cấp hàng tháng cho 4 đứa con của mình.

Năm 1965, Angelo bắt đầu sống với bà mẹ trẻ 2 con Nanette Campina, 25 tuổi. Họ có với nhau thêm 2 đứa con nữa. Nanette cũng bị Angelo đối xử như với Mary nhưng Nanette không dám ly dị. Tới năm 1971, khi phát hiện Angelo lạm dụng cô con gái 14 tuổi của mình rồi còn khoe khoang với bạn, Nanette đã quyết tâm rời bỏ người chồng nguy hiểm này.

Năm 1972, Angelo sống như vợ chồng với một người phụ nữ khác tên là Beborah Taylor nhưng không kết hôn.

Năm 1975, hắn mua một cửa hàng và sống một mình tại đó. Thời điểm này, người em họ Kenneth rời quê nhà tới Los Angeles và sống cùng Angelo. Tại đây, Angelo đã tận tình chỉ cho cậu em mình cách tiếp cận và lợi dụng tình dục những cô gái trẻ. Cũng từ đây, hành trình phạm tội của hai anh em bắt đầu.

Hành trình tội ác

Năm 1975, Kenneth Bianchi rời quê nhà tới Los Angeles và sống cùng anh họ Angelo Buono. Tại đây, Angelo đã tận tình chỉ cho cậu em mình cách tiếp cận và lợi dụng tình dục những cô gái trẻ một cách miễn phí bằng cách giả danh cảnh sát.

Khi Kenneth thiếu tiền, Angelo đã nảy ra ý tưởng ép các cô gái trẻ làm gái mại dâm để thu lợi riêng cho mình. Nạn nhân đầu tiên là Sabra Hannan và Baecky Spears. Cả hai gần như bị giam giữ hoàn toàn tại cửa hàng của Angelo. Luật sư David Wood biết chuyện đã giúp hai nạn nhân trốn thoát và sau này đứng ra tố cáo hai anh em Kenneth. Nhờ đó, cảnh sát đã xác định được nghi phạm thứ hai.

Sau khi lọt mất Sabra Hannan và Baecky Spears, hai anh em Angelo tiếp tục tìm cho mình những nạn nhân khác. Dựa vào mối quan hệ với Deborah Noble, một gái mại dâm lâu năm, Angelo đã được Deborah bán cho danh sách những khách hàng thường xuyên của cô để mở rộng việc “kinh doanh”.

Tuy nhiên, Angelo và Kenny sau đó đã phát hiện ra rằng Deborah lừa mình về danh sách này, cả hai quyết định trút cơn thịnh nộ lên người bạn thân của Deborah là Yolanda Washington vì chúng không tìm thấy Deborah Noble. Yolanda chính là nạn nhân đầu tiên của anh em Angelo và Kenneth. Cả hai đã tra tấn cô gái tội nghiệp trước khi giết cô một cách thích thú. Kể từ đó, hành trình giết người của “cặp bài trùng” này bắt đầu.

Văn phòng công tố Los Angeles đã đưa ra một đề nghị đáng cân nhắc với Kenneth. Theo đó, nếu Kenneth khai nhận việc giết hại Yolanda và liên quan đến các vụ giết người khác, hắn sẽ nhận được những khoan hồng đặc biệt từ phía pháp luật và chịu án tại nhà tù California, đây được coi là một trong số những nhà tù nhân đạo.

Sau một hồi suy nghĩ, Kenneth đã đồng ý cung cấp những lời khai đáng tin cậy liên quan đến Angelo.

Những lời khai mập mờ

Kenneth đã miêu tả lại cách hắn và Angelo tự tạo phù hiệu giả của cảnh sát để thuận lợi cho việc ra tay. Với những nạn nhân là gái mại dâm, thật dễ dàng để yêu cầu họ lên xe. Những cô gái "nhà lành" khó hơn thì hai tên tội phạm liền sử dụng chiêu thức bắt cóc.

Kenneth cũng khai nhận mình đã giết nhiều người bằng những phương thức khác nhau. Hắn đã sử dụng loại bọt công nghiệp tại cửa hàng của Angelo để bịt mắt Judy Miller hay tra tấn Kristina Weckler bằng khí ngạt. Những vụ giết người khác cũng được Kenny mô tả một cách chi tiết mà không hề có chút hối hận.

Nơi phi tang các xác chết luôn là khu vực sườn đồi vì những nơi đó ít người qua lại trong khi Angelo lại rất quen thuộc với địa hình nơi này.

Angelo bị bắt ngày 22/10/1979 sau khi cảnh sát có được lời khai của Kenneth Bianchi. Trong ví của Angelo lúc đó vẫn còn chiếc thẻ cảnh sát giả mà hắn chuyên dùng để đi lừa các cô gái.

Thời điểm đó ở California, không thể kết án một ai đó dựa trên lời khai của kẻ được coi là đồng lõa. Tuy nhiên, nếu cảnh sát tìm được những bằng chứng xác nhận lời khai này thì lời khai của Kenneth hoàn toàn có thể được sử dụng trong việc kết tội Angelo.

Tuy nhiên, khi Angelo bị bắt giữ và điều tra thì Kenneth lại bất ngờ thay đổi lời khai. Hắn rất mập mờ trong những lời khai lên quan đến Angelo khiến cảnh sát khó định tội Angelo có phạm tội đồng lõa hay không. Trước nguy cơ không thể định tội được tên sát nhân, người dân đã vô cùng lo lắng.

Những bằng chứng thuyết phục

Sau khi bị bắt giữ, Angelo Buono đứng trước mức án chung thân không có khả năng ân xá. Tuy nhiên trong suốt thời gian Angelo bị điều tra, Kenneth Bianchi bất ngờ thay đổi lời khai. Hắn rất mập mờ trong những lời khai liên quan đến Angelo khiến cảnh sát khó xác định tội Angelo có đồng lõa hay không.

Các nhà điều tra ở Los Angeles đã nỗ lực rất lớn trong việc tìm kiếm thêm bằng chứng để có thể khẳng định Angelo Buono và Kenneth Bianchi đã cùng nhau thực hiện nhiều tội ác nghiêm trọng.

Sợi lông được tìm thấy trên mí mắt Judy Miller và trên tay Lauren Wagner được xác định là có ở cửa hàng bọc da mà Angelo làm chủ. Ngoài ra, các điều tra viên còn tìm thấy những sợi lông khác trên tay nạn nhân Lauren. Kết quả phân tích sau đó cho thấy đó chính là lông thỏ. Trùng hợp là Angelo nuôi nhiều thỏ tại cửa hàng của mình.

Một số nhân chứng sau khi xem ảnh của Angelo cũng đã xác định Angelo chính là đối tượng khả nghi họ nhìn thấy gần các hiện trường.

Ngày 6/7/1981, phiên tòa xét xử Kenneth Bianchi diễn ra. Người chịu trách nhiệm trong phiên tòa xét xử Angelo là thẩm phán Ronald M.Geogre. Hai luật sư được chỉ định trong việc bảo vệ Angelo đều là những luật sư giỏi - Katherine Mader và Gerald Chaleff.

Tại đây, Kenneth liên tục tỏ ra không hợp tác. Kenneth cũng cho biết không thể sử dụng lời khai của mình để chống lại Angelo bởi hắn đã làm chứng giả và những gì đã nói trước đây được thực hiện trong trạng thái không bình thường. Kenneth thậm chí còn nghĩ rằng mình không tham gia bất kỳ vụ giết người nào. Để chứng minh cho lời nói của thân chủ mình, hai luật sư của Kenneth đã đưa ra những đặc điểm cho thấy Kenneth mắc chứng rối loạn nhân cách.

Phán quyết gây tranh cãi

Sau lời khai của Kenneth tại tòa, công tố viên Roger Kelly đã loại bỏ 10 vụ án giết người từng được cho là liên quan đến Angelo. Hai tuần sau đó, ngày 21/7/1981, thẩm phán Geogre đã đồng ý bác bỏ các cáo buộc chống lại Angelo.

Phán quyết này đã gây nên nhiều tranh cãi. Người dân liên tục biểu tình phản đối khiến hai công tố viên dày dặn kinh nghiệm là Michael Nash và Roger Boren được điều tới để đánh giá lại các bằng chứng. Hơn 250 nhân chứng cho các vụ giết người và rất nhiều bằng chứng liên quan đã đủ để họ truy tố Angelo Buono.

Kenneth vẫn không có thái độ hợp tác. Điều này có nghĩa là Kenneth đã vi phạm những thỏa thuận của việc nhận tội và sẽ bị gửi trả lại nhà tù trước đây ở Washington để chịu án, thay vì một nhà tù nhân đạo như thống nhất trước đó.

Ngày 31/10/1983, đoàn bồi thẩm bắt đầu đưa ra những phán quyết cuối cùng. Angelo bị buộc tội gây nên cái chết của Lauren Wagner, Judy Miller và liên quan tới một số vụ án mạng khác.

Cuối cùng, hai tên “sát nhân bên sườn đồi” bị tuyên án chung thân không có khả năng phóng thích sau rất nhiều những tranh cãi.

Ở trong tù, cả Angelo Buono và Kenneth Bianchi đều bị các tù nhân khác gây khó dễ và liên tiếp tấn công. Ngày 21/9/2002, Angelo Buono đã chết trong tù do bệnh tim tái phát ở tuổi 67.
 
Chương 262: Bí mật trong chiếc vali nhỏ máu và tội ác của hai mẹ con (p1)


Hiện trường của tội ác

Ngôi biệt thự xa hoa bằng đá vôi màu xám ở số 20 đường 65 thành phố New York có kiến trúc rất đặc biệt để xua đuổi tà ác.

Cánh cửa chính của căn biệt thự được chạm khắc hình ảnh một vị thần với đôi cánh mọc trên đầu, miệng mở to như gầm gừ đe dọa những ai đi ngang qua. Người ta nói rằng, ban đêm, vị thần đó sẽ bay đi nơi khác để nghỉ ngơi, vị thần sẽ quay về lúc bình minh để bảo vệ cuộc sống của những người sống bên trong căn biệt thự đó.

Nhưng sáng sớm ngày 5/7/1998, vị thần đó đã không thực hiện được công việc của mình. Ngày hôm đó, đường Đông 65 của thành phố New York khá yên ắng. Đêm qua, người dân ở đây vừa ăn mừng một lễ hội lớn và giờ đây họ đang chìm vào giấc ngủ.

Lúc này, trên sảnh căn biệt thự, một người phụ nữ trung niên kéo theo một chiếc vali lớn, một chàng trai trẻ khoảng 20 tuổi cao lớn và vạm vỡ, khá điển trai với mái tóc gợn sóng đang cố giằng lấy chiếc vali. Họ vừa to tiếng với nhau bên trong căn biệt thự. Người phụ nữ lúc này vẫn nói rất to trong khi đôi mắt nam thanh niên hiện rõ sự tức giận.

Cả hai vội vã tiến về phía chiếc xe Lincoln Town màu xanh lá cây. Từ chiếc vali, một vài chấm đỏ nhỏ xuống nền đất. Nhìn kỹ hơn, đó chính là những giọt máu. Chiếc xe nhanh chóng lao đi.

Cũng kể từ ngày đó, không ai còn nhìn thấy bà Irene Silverman, 83 tuổi, chủ nhân căn biệt thự này. Những gì còn lại chỉ là vết máu bên trong ngôi biệt thự mà cảnh sát cho rằng cũng chính là hiện trường của một vụ án.

Người phụ nữ giàu có

Irene Silverman sinh năm 1916, là con gái duy nhất trong một gia đình không mấy khá giả. Tuy nhiên, cha của Irene đặc biệt thích múa ba lê và muốn con gái mình giống như Carlotta Zambelli, một nghệ sĩ ba lê nổi tiếng của thế kỷ 20. Ông đã vất vả kiếm tiền để trả học phí đắt đỏ khi cho con gái mình theo học môn nghệ thuật này.

Năm 1932, khi nước Mỹ đang trải qua cuộc khủng hoảng, Irene được mẹ đưa đến New York. Mang theo giấc mơ trở thành một nữ diễn viên ba lê nổi tiếng, Irene theo học một biên đạo múa nổi tiếng. Mẹ Irene nhận thêm việc may trang phục vào ban đêm để có tiền đóng học cho con.

Irene không thích múa nhưng vẫn cố học để làm vui lòng cha mẹ. Tuy nhiên, dù có vóc dáng quá bé so với tiêu chuẩn của một diễn viên múa, sau 8 năm cố gắng, Irene đã thành công. Cô đã trở thành một diễn viên múa nổi tiếng.

Trong một buổi biểu diễn, Irene gặp Samuel Silverman, một ông trùm bất động sản nổi tiếng thời điểm đó. Samuel hơn Irene chục tuổi, anh hoàn toàn bị thu hút bởi những màn biểu diễn của cô diễn viên múa nhỏ nhắn. Ông đánh giá Irene là một cô gái thông minh, sự thông minh của cô khiến Samuel quyết định cưới cô làm vợ.

Năm 1941, cuộc hôn nhân giữa hai người nhanh chóng được diễn ra. Sau hôn nhân, việc kinh doanh của Samuel rất thuận lợi nhưng cái tên Irene dần dần ít được nhắc đến.

Năm 1973, Samuel bất ngờ qua đời vì bệnh ung thư. Hơn một năm sau đó, mẹ Irene cũng mất. Irene sống một mình với căn biệt thự xa hoa và số tài sản khổng lồ. Căn biệt thự của vợ chồng Irene được chia thành từng dãy, sửa sang thành những căn phòng sang trọng nhất để cho thuê với giá 6000 USD/tháng.

Sau khi bà Irene mất tích, cảnh sát lập tức tiến hành điều tra.

Hai mẹ con nghi phạm

Sau khi chồng qua đời, bà Irene Silverman chia căn biệt thự của mình ra thành từng dãy, sửa sang thành những căn phòng sang trọng để cho thuê. Bà không cần tiền nhưng bà thích kinh doanh. Một số nhân vật nổi tiếng cũng cùng sống trong căn biệt thự này với giá 6000 USD/tháng.

Trước kì nghỉ, căn biệt thự đã được dọn dẹp lại. Những vị khách thuê nhà đã về với gia đình. Bà Irene Silverman cũng cho tất cả những người làm của mình được nghỉ lễ, căn biệt thự rộng lớn trở nên vắng vẻ.

Cảnh sát đã nhanh chóng vào cuộc điều tra và không khó để phát hiện rằng vào ngày bà Irene Silverman biến mất, chỉ còn lại hai mẹ con cũng là khách thuê trong ngôi biệt thự. Đó là Sante Kimes cùng con trai Kenny Kimes. Cảnh sát nhận định đây hai nghi phạm chính của vụ mất tích. Vì là khách thuê nên cả hai thông thuộc từng ngóc ngách ở đây và dễ dàng tiếp cận với nạn nhân.

Tập trung điều tra, các thám tử biết được một vài ngày trước khi bà Irene biến mất, hai mẹ con Sante đã gặp người bạn cũ là Stan Patterson tại Las Vegas. Stan Patterson đã bán cho Sante một khẩu súng.

Ngoài ra, cảnh sát cũng phát hiện rất nhiều bằng chứng liên quan khi họ tới kiểm tra tại nhà riêng của Sante bao gồm: Giấy tờ sở hữu căn biệt thự và một số giấy tờ sở hữu bất động sản khác mang tên Irene, một khẩu súng Glock 0,9 và một khẩu súng Beretta 0,22. Không những vậy, một tờ giấy chuyến nhượng bất động sản ký tên Irene Silverman được Sante làm sẵn. Ngay lập tức, hai mẹ con Sante bị bắt giữ.

Người phụ nữ ba đời chồng

Sante Kimes sinh ngày 24/7/1934 tại Oklahoma, là con thứ ba của một gia đình bốn người con. Cha cô là người Ấn Độ, mẹ là người Ailen. Cha mẹ Sante di cư đến miền Nam California khi mới 30 tuổi. Cuộc sống quá khó khăn khiến mẹ Sante trở thành gái mại dâm ở Los Angeles, bỏ mặc con cái lang thang.

Cuối cùng, một cặp vợ chồng trẻ là Kelly và Dorothy Seligman sở hữu những cửa hàng lớn trên những con phố chính của Los Angeles đã nhận nuôi Sante.

Sante sở hữu gương mặt xinh đẹp. Khi còn đi học, cô bé tóc đen gốc Ấn này luôn dành được thứ hạng cao. Tuy nhiên, hành vi ăn cắp vặt của Sante cũng dần hình thành. Sante đã nhiều lần lấy thẻ tín dụng của cha nuôi đi mua sắm ở những trung tâm lớn.

Vào ngày tốt nghiệp trung học của mình, tháng 6/1952, Sante tuyên bố sẽ theo học đại học để trở thành một nhà báo. Nhưng thay vào đó, chỉ 3 tháng sau, cô kết hôn với một người bạn trai thời trung học, nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài trong vài tháng.

Năm 1956, cô gặp lại bạn cũ Edward Walker. Họ kết hôn và có một người con trai là Kenneth Kimes. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân thứ hai này cũng sớm kết thúc khi Edward phát hiện vợ mình thường xuyên trộm cắp.

Sau khi ly hôn, Sante quay lại Los Angeles và trở thành gái mại dâm. Theo hồ sơ của cảnh sát, cô bị bắt thêm nhiều lần sau đó cũng vì tội trộm cắp.

Thời gian làm gái mại dâm, Sante đã nuôi ý định “săn” một đại gia và cuối cùng, người lọt vào “mắt xanh” của cô là triệu phú Kenneth Kimes. Thời điểm gặp Sante, Kenneth sở hữu số tài sản lên đến 10 triệu đôla Mỹ.

Tuy nhiên sau hôn nhân, Sante mới phát hiện chồng mình là một người kiểm soát tài chính rất khắt khe. Số tiền Sante nhận được như một khoản trợ cấp cho những việc Sante phục vụ Kenneth hàng ngày. Theo Sante, Kenneth là một người chồng lăng nhăng và coi tiền là tất cả.

Sante đệ đơn xin ly dị vào năm 1963 và không nhận được nhiều sao đó. Cuộc hôn nhân sớm kết thúc không như mong đợi của Sante nhưng cậu con trai riêng của Sante đã học được khá nhiều từ Kenneth, đó là những thủ thuật, chiêu trò kinh doanh. Cũng từ đây cùng với sự hỗ trợ của con trai mình, Sante trở thành một tội phạm giết người nổi tiếng.
 
Chương 263: Bí mật trong chiếc vali nhỏ máu và tội ác của hai mẹ con (p2)


Người đàn bà đáng sợ

Trong nhiều năm, Sante thường đi du lịch đến Mexico và thuyết phục các cô gái nghèo tới giúp việc cho mình với lời hứa về một mức lương hậu hĩnh và một cuộc sống tốt hơn. Tuy nhiên sau đó, họ không những không nhận được đồng tiền công nào mà còn bị coi như nô lệ và ra sức hành hạ.

Một số người từng làm việc cho gia đình này cho biết, căn nhà luôn được khóa chặt và không ai được ra ngoài khi không có sự cho phép của Sante. Mọi người làm phải đi chân đất khi phục vụ Sante. Thường xuyên có tiếng la hét xuất hiện bên trong căn nhà.

Một ngày, cảnh sát bất ngờ đột nhập vào nhà Sante ở California và chứng kiến cảnh Sante hành hạ người giúp việc. Tại tòa, những người giúp việc đã khai tất cả mọi chuyện. Họ từng bị bà chủ dùng súng dọa bắn, dí bàn là nóng vào người hay bắt tắm bằng nước sôi, nhốt họ trong tủ quần áo cả đêm.… Những lời khai đã gây choáng váng cho những người tham dự. Sau nhiều lần phạm tội, lần đầu tiến Sante phải ngồi tù với thời hạn 5 năm.

Năm 1989, khi bước ra khỏi cánh cửa nhà tù, tội ác của Sante mới thực sự bắt đầu, nhất là giờ đây người đàn bà này không chỉ có một mình. Từ năm 1988, Kenny bỏ học và khi mẹ ra tù thì hành trình phạm tội của cậu bắt đầu. Người ta cho rằng khi những ký ức đầu tiên của một đứa trẻ là hình ảnh cảnh sát liên tục xuất hiện tại nhà mình để hỏi về những lần phạm tội của mẹ thì một cuộc sống bình thường là điều mà Kenny sẽ khó có được

Những cái chết bí ẩn

Năm 1990, Elmer Holmgren, luật sư của gia đình Kimes, tiết lộ với một số người rằng Sante đã đốt một trong số ngôi nhà của cô và chồng cũ Kenneth để có được số tiền bảo hiểm lớn. Hãng bảo hiểm sau đó biết được và đã có cuộc nói chuyện với Elmer Holmgren. Ông đồng ý cung cấp thông tin. Tuy nhiên, khi họ còn chưa kịp xác minh thì Sante đã mời Elmer cùng gia đình đi nghỉ ở Costa Rica. Sau chuyến đi, không ai còn nhìn thấy Elmer. Nhiều nghi ngờ rằng Sante đã thủ tiêu Elmer nhưng xác Elmer không bao giờ được tìm thấy

Ngày 28/3/1994, người chồng cũ Kenneth bất ngờ qua đời do một cơn đau tim. Tuy đã ly hôn nhưng hai người vẫn thường xuyên qua lại với nhau. Và Sante đã tạo nên một câu chuyện hợp lý về cái chết của chồng cũ.

Sau này, cảnh sát đã điều tra lại cái chết của Kenneth và cho rằng người đàn ông này chính là nạn nhân của Sante. Kenneth khi còn sống không bao giờ có ý định để lại bất cứ tài sản nào cho Sante và cậu con trai riêng của cô. Sante biết điều đó nên đã làm giấy đăng ký kết hôn giả để phân chia tài sản. Tờ giấy này đã mang về cho Sante và con trai số tài sản lên đến 12 triệu đôla Mỹ.

Sau khi Kenneth chết, Sante cũng bắt đầu tranh thủ sự giúp đỡ của những người bạn thân thiết trước kia của Kenneth. Họ đều là những ông trùm trong kinh doanh bất động sản. Một trong số đó là David Kazdin. Một vài phi vụ làm ăn đã được thực hiện sau cuộc gặp giữa Sante và Kazdin, trong số đó có việc Kazdin mua lại bất động sản của gia đình Kimes.

Nhưng Sante Kimes đã quá tham lam khi giả mạo chữ ký của Kazdin trong đơn xin vay 280.000 USD, với tài sản thế chấp chính là ngôi nhà này. Kazdin sau đó đã phát hiện ra sự giả mạo và đe dọa sẽ vạch trần Sante. Đó chính là một sai lầm. Thi thể của Kazdin được tìm thấy trong một bãi rác gần sân bay Los Angeles vào tháng 3/1998. Anh đã bị bắn chết.

Sau đó không lâu, Sante tình cờ nghe được câu chuyện về một người phụ nữ lớn tuổi ở thành phố New York sở hữu một ngôi biệt thự xa hoa cho thuê. Ngay lập tức, cả hai cùng lên đường với một kế hoạch độc ác đã được vạch sẵn.

Màn kịch vô nhân tính

Hai mẹ con Sante và Kenny thường xuyên lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản. Năm 1998, Sante tình cờ nghe được câu chuyện về một người phụ nữ lớn tuổi ở thành phố New York sở hữu một ngôi biệt thự xa hoa. Ngay lập tức, bà mẹ độc ác cùng đứa con trai Kenny Kimes lên đường. Cả hai sẵn sàng bỏ ra 6.000 USD để thuê một căn phòng trong biệt thự với một kế hoạch độc ác đã được vạch sẵn.

Thời điểm đó vào gần dịp lễ, Sante tới ở chưa lâu thì căn biệt thự đã được dọn dẹp lại. Sau đó người chủ tốt bụng đã cho tất cả những người làm của mình nghỉ lễ. Các khách thuê cũng lần lượt trở về nhà, chỉ còn lại hai mẹ con Sante và Kenny. Và tất nhiên, họ biết rằng chủ nhân của ngôi biệt thự chỉ có một mình.

Hai mẹ con Sante muốn sở hữu căn biệt thự này. Họ dự định sẽ nói với mọi người làm rằng mình đã mua lại căn biệt thự, và bà Irene đã tới châu Âu để nghỉ lễ. Nhưng trước tiên, họ phải giết chết chủ nhân của nó. Bà Irene Silverman đã bị Sante bắn vào đầu rồi bị bọc bởi chiếc khăn tắm và nhét vào vali. Xong xuôi, Kenny lái xe đưa mẹ mình cùng chiếc vali đến một vùng ngoại ô New Jersey, đó là một công trường xây dựng bị bỏ hoang.

Cả hai sau đó nhanh chóng quay lại New York để thực hiện phần còn lại của kế hoạch mà không nghĩ rằng tội ác của mình sẽ bị phát giác..

Một vài ngày trước khi giết Irene, Sante và Kenny đã gặp người bạn cũ của Sante là Stan Patterson tại Las Vegas. Stan Patterson đã bán cho Sante khẩu súng dùng để sát hại Irene. Để tránh mọi chuyện bị bại lộ, Sante lên kế hoạch thủ tiêu Patterson. Tuy nhiên, cuộc điện thoại giữa Sante và Patterson đã bị cảnh sát phát hiện. Cuộc điện thoại thậm chí cũng nhắc đến cả cái chết của nạn nhân David Kazdin.

Kiểm tra tại nhà riêng của Sante, cảnh sát phát hiện ra rất nhiều bằng chứng buộc tội khác bao gồm: Giấy tờ sở hữu căn biệt thự và một số giấy tờ sở hữu bất động sản khác mang tên Irene, một khẩu súng Glock 0,9 và một khẩu súng Beretta 0,22, thậm chí, có cả giấy chuyến nhượng bất động sản ký tên Irene được Sante làm sẵn.

Kết án

Mùa xuân năm 2000, phiên tòa xét xử Sante và Kenny được mở. Sau nhiều tháng điều tra, tòa tuyên bố Sante bị kết án 120 năm tù giam, còn Kenny là 125 năm. Tuy nhiên, Sante quyết liệt phản đối bản án đó, Sante cho rằng bản án quá nghiêm khắc với mình.

Vài tháng sau, Kenny đã cố gắng trốn thoát bằng cách giữ một phóng viên làm con tin. Sau ba tiếng đồng hồ khống chế nạn nhân, Kenny đã bị bắt lại.

Kenny và Sante bị dẫn độ về Los Angeles để hầu tòa về tội giết hại David Kazdin. Trong suốt phiên tòa diễn ra vào tháng 6-2004, Sante và Kenny luôn đối mặt với án tử hình. Lúc này, Kenny đã thay đổi lời khai và đổ tội cho mẹ mình bằng cách nói rằng cô ta mới chính là chủ mưu.

Ngoài ra, Kenny cũng thú nhận cả hai còn từng giết chết nhân viên ngân hàng tên là Syed Bilal Ahmed bằng cách đánh thuốc mê và sau đó dìm nạn nhân vào bồn tắm. Cuối cùng, hai mẹ con vứt xác Syed Bilal Ahmed xuống biển.

Dù vậy, tòa cũng không thể buộc tội mẹ con nhà Sante với tội danh giết Syed Bilal Ahmed khi không thể tìm ra xác của các nạn nhân. Kết thúc phiên tòa, án chung thân được tuyên cho hai mẹ con Sante và Kenny.
 
Chương 264: Thi thể khỏa thân của cô hoa hậu xinh đẹp (p1)


Ngày chủ nhật định mệnh

Thảm kịch gây chấn động Australia bắt đầu vào 22h chủ nhật ngày 2/2/1986. Buổi tối hôm đó, Anita Lorraine Cobby (26 tuổi) đi ăn tối với hai đồng nghiệp của mình là Lyn Bradshaw và Elaine Bray tại một nhà hàng ở Redfern – vùng ngoại ô thành phố Sydney sau khi kết thúc ca làm việc.

21h12, Lyn chở Anita đến nhà ga xe lửa trung tâm để trở về nhà bố mẹ đẻ, nơi Anita đang sống sau khi ly thân với chồng. Và đó là thời điểm cuối cùng người ta nhìn thấy Anita Cobby còn sống.

Khi đến ga Blacktown vào 22h, như thường lệ Anita đã đi tìm bốt điện thoại công cộng để gọi cho bố mình là ông Gary Lynch đi ô tô ra đón. Tuy nhiên điện thoại đã không hoạt động, vì vậy Anita quyết định đi bộ về nhà.

Khi Anita đang lững thững đi, một chiếc xe hiệu HT Holden Kingswood từ từ chạy chậm và dừng lại bên cạnh. Một lúc sau, chiếc xe cùng với Anita lao đi vun vút trong đêm.

Vào buổi trưa hôm sau, khi một đồng nghiệp gọi điện tới gia đình Anita hỏi tại sao cô lại không đi làm, ông Garry bắt đầu lo lắng. Thông thường, khi phải làm việc trễ buổi tối, cô thường điện thoại cho cha đến đón tại trạm xe lửa Blacktown. Và bất kể giờ nào, ông Garry Lynch cũng sẵn sàng đi đón con gái.

Tối hôm trước, khi không thấy con gái gọi điện, ông Garry Lynch cũng chẳng lo lắng gì vì ông biết con gái mình vốn là người rất cẩn thận. Hơn nữa, cô thường làm việc rất khuya và thỉnh thoảng ở lại qua đêm với các đồng nghiệp trong thành phố. Ông Garry đã gọi điện đi khắp nơi nhưng không có kết quả. Đến chiều tối, ông quyết định báo cảnh sát Blacktown về việc con gái bị mất tích.

Thi thể trong trang trại

Thứ ba ngày 4/2/1986, ông John Reen kinh hoàng phát hiện thi thể khỏa thân của một cô gái trẻ nằm trên bãi cỏ trong nông trại của mình ở Prospect, cách Blacktown không xa. Xác chết trong tư thế nằm sấp, đè lên cánh tay trái. Đôi mắt cô mở to và trống rỗng. Bằng mắt thường ông John Reen cũng có thể đoán rằng nạn nhân đã trải qua cái chết vô cùng đau đớn. Quanh cô là một vũng máu lớn.

Ngay sau đó, cảnh sát nhanh chóng tới hiện trường và lập tức nghi ngờ đây là Anita Lorraine Cobby, người được gia đình thông báo mất tích 1 ngày trước đó.

Họ đã đưa ông Gary Lynch đến nhà xác để nhận dạng. Khi tấm chăn trắng vừa được kéo xuống rồi gương mặt đầy những vết bầm tím và máu hiện ra, toàn thân ông Gary run lên. Phải mất một lúc, ông mới khẽ gật đầu rồi gần như khuỵu xuống. Đó chính là đứa con gái mà ông hết mực thương yêu.

Sau khi khám nghiệm tử thi, các nhà điều tra cho biết Anita Cobby bị hãm hiếp nhiều lần và bị đánh đập vô cùng dã man với những vết cắt ở cổ, toàn thân thâm tím với vô số vết thương khác trên đầu, ngực, mặt, vai, bụng, đùi và hai chân. Nạn nhân dường như đã bị kéo qua một hàng rào kẽm gai.

Điều duy nhất mà cảnh sát có thể xác định một cách chính xác ngay thời điểm khám nghiệm là có nhiều hơn một người, có thể là một nhóm đã thực hiện tội ác ghê rợn này.

Cái chết thương tâm của Anita liên tục xuất hiện trên trang nhất các tờ báo. Những chi tiết về sự tàn bạo của hung thủ đã gây phẫn nộ trong công chúng. Họ kêu gọi cơ quan chức năng nhanh chóng tìm ra kẻ giết người để đòi lại công lý cho nạn nhân. Cảnh sát đã thành lập đội đặc nhiệm gồm nhiều nhân viên điều tra giỏi, giàu kinh nghiệm để tìm kiếm hung thủ trong thời gian sớm nhất.

Hoa hậu thân thiện

Anita Lorraine Cobby sinh ngày 2/11/1959, là y tá tại bệnh viện Sydney. Anita sống với cha mẹ - ông bà Garry và Grace Lynch cùng cô em gái Kathryn trong một căn nhà nhỏ giản dị của gia đình ở Blacktown.

Khi còn thơ ấu, Anita là một học sinh xuất sắc và được nhiều bạn bè yêu mến. 20 tuổi, cô tham dự một cuộc thi sắc đẹp quy mô để gây quỹ cho trung tâm trẻ em khuyết tật. Trong cuộc thi, Anita gây ấn tượng với khuôn mặt xinh đẹp, nụ cười tỏa sáng, mái tóc xoăn màu nâu và đoạt giải Hoa hậu thân thiện. Tuy nhiên, cùng với sự ủng hộ của gia đình, Anita không theo con đường trở thành người mẫu chuyên nghiệp mà lựa chọn công việc y tá giống như người mẹ của mình.

Tại bệnh viện nơi cô làm việc, Anita đã đem lòng yêu say đắm một chàng thanh niên điển trai có tên là John Cobby. Tình yêu nhanh chóng đơm hoa kết trái và hai người về chung một nhà sau đám cưới diễn ra vào tháng 3/1982.

Tưởng rằng hạnh phúc sẽ mãi ở bên cô gái xinh đẹp nhưng rồi cuộc sống gia đình không mấy suôn sẻ, giữa họ bắt đầu xuất hiện mâu thuẫn. Năm 1985, họ quyết định ly thân và Anita tạm thời trở về sống với cha mẹ. Tuy vậy, ngay cả chồng của cô cũng khẳng định Anita là một người phụ nữ dễ mến và không hề có kẻ thù.

Chiếc xe đáng ngờ

Cảnh sát đã lục soát toàn bộ nông trại - hiện trường phát hiện ra thi thể của Anita. Dù không bỏ sót chi tiết nào dù là nhỏ nhất nhưng họ vẫn chẳng thu được kết quả. Đội đặc nhiệm cũng kiểm tra hàng trăm kẻ tội phạm trong khu vực, đặc biệt chú ý đến những kẻ phạm tội tình dục tuy nhiên không có manh mối nào khả quan khiến vụ án rơi vào ngõ cụt. Cuối cùng, các điều tra viên quyết định cung cấp thông tin để đăng tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông.

Và tia hy vọng đầu tiên đã xuất hiện khi cảnh sát nhận được cuộc gọi của một người đàn ông tên là John McGaughey. Anh cho biết có vẻ mình đã chứng kiến vụ bắt cóc Anita. Theo đó, vào khoảng 21h50 ngày 2/2, khi đang trở về nhà gần trạm xe lửa Blacktown, John McGaughey cùng em gái nghe thấy một tiếng hét rất lớn. Nhìn theo hướng phát ra âm thanh đó, họ thấy một phụ nữ có mái tóc màu sẫm đang bị kéo vào chiếc xe đậu bên cạnh và không bật đèn. Cô gái lúc đó đã cố vùng vẫy, la hét dữ dội. John McGaughey vội chạy lại nhưng không kịp, chiếc xe lao vút đi.

Trở về nhà, John McGaughey kể lại những gì vừa chứng kiến cho anh trai mình - Paul. Paul sau đó quyết định lái xe đi lòng vòng để xem có tìm được chiếc xe theo như John mô tả hay không. Tới một con đường vắng vẻ, anh bỗng nhìn thấy một chiếc xe đậu bên lề đường có vẻ giống với mô tả của John. Tuy nhiên đến gần, chiếc xe không có ai bên trong. Kiểm tra kỹ hơn, Paul cảm thấy nó không giống với mẫu xe mà John nói.

Sau khi đứng lại nghe ngóng một lúc nhưng không thấy động tĩnh gì, Paul quyết định lái xe đi mà không hề biết rằng đó chính là chiếc xe anh đang tìm và cách đó không xa, Anita đã bị hãm hiếp và giết chết.

Những thông tin về thời gian, địa điểm và đặc điểm của nạn nhân hoàn toàn phù hợp với vụ án. Cảnh sát cho rằng rất có thể Anita Cobby đã đón một chiếc taxi và bị người lái xe giết. Lập tức, các lái xe taxi trong khu vực đã được kiểm tra nhưng cũng không tìm ra thủ phạm.

Chính quyền địa phương quyết định treo giải thưởng trị giá 50.000 USD cho những ai cung cấp thông tin giúp bắt giữ những kẻ giết cô gái. Và ngày 11/2, cảnh sát nhận được cuộc gọi của một người đàn ông nói có tin tức về kẻ giết người nhưng không dám trình báo vì sợ bị trả thù.
 
Chương 265: Thi thể khỏa thân của cô hoa hậu xinh đẹp (p2)


Chiếc xe bị mất cắp

Đó là John Raymond Travers, một thanh niên mới 19 tuổi. Vài ngày trước khi xảy ra vụ giết người, John Raymond Travers và 2 tên khác trong nhóm là Mick Murdoch và Les Murphy đã lấy cắp một chiếc xe ôtô nhãn hiệu HT Holden Kingswood và sơn chiếc xe này thành màu xám. Cảnh sát cho biết những thông tin mà người đàn ông này cung cấp đều phù hợp với lời khai của nhân chứng John McGaughey.

Theo thông tin được cung cấp, ngày 21/2/1986, cảnh sát đã đột kích vào một ngôi nhà mà chú của John Travers đang sở hữu, họ tìm thấy John Travers và Michael Murdoch (19 tuổi) ngủ bên trong. Khi được hỏi, cả hai thản nhiên thừa nhận đã ăn cắp chiếc xe nhưng phủ nhận việc giết hại Anita Cobby.

Cùng thời gian đó, cảnh sát cũng bắt giữ Les Murphy (24 tuổi) trong một căn nhà cách đó không xa. Cũng như hai người bạn của mình, Murphy thú nhận đã tham gia vụ trộm chiếc xe nhưng khẳng định mình không liên quan đến cái chết của Anita Cobby.

Không tìm được thêm bằng chứng, cảnh sát chỉ có thể kết tội Les Murphy và Michael Murdoch ăn cắp xe rồi cho cả hai tại ngoại. Tuy nhiên, nhận định sự việc không đơn giản như vậy, cảnh sát vẫn cắt cử người bí mật theo dõi 24/24.

Trong khi đó, John Travers bị giam giữ vì bị tình nghi gây ra nhiều vụ xâm hại tình dục trong khu vực. Đây cũng được coi là kẻ cầm đầu một nhóm côn đồ có tiếng trong vùng.

Tên tội phạm có hình xăm giọt nước

John Raymond Travers sinh ngày 27/2/1967. Là anh cả trong một gia đình có 8 người con, John Travers lớn lên tại Mount Druitt, vùng ngoại ô thuộc miền tây Sydney. Ngay từ nhỏ, John Travers gần như không có sự dạy dỗ, kiểm soát của cha mẹ.

13 tuổi, John Travers lần đầu vào tù vì tội sử dụng cần sa và 14 tuổi thì nghiện rượu. Trên người John Travers lúc nào cũng có một con dao. Một trong những điều ác độc mà John Travers thể hiện ngày từ khi còn là một đứa trẻ là rất thích giết thú vật.

Năm 1981, cha của John Travers bỏ đi và Travers trở thành trụ cột gia đình trong khi người mẹ giành phần lớn thời gian là ở trong bệnh viện. Phải chăm lo cả cho các em, John Travers ngày càng sa vào việc ăn cắp để có tiền. Liên tiếp những lần phạm tội trong thời niên thiếu đã khiến John Travers quá quen thuộc với cảnh sát và tòa án.

Cơ thể của John Travers gần như phủ kín các hình xăm, kể cả dương v*t của hắn. Hình xăm dễ nhận thấy nhất là giọt nước ngay dưới mắt trái. Dù chỉ mới 18 tuổi nhưng John Travers được coi là tên đầu đảng của nhóm những kẻ thường đánh đập, hãm hiếp phụ nữ và những người đồng tính tại trạm xe lửa hay các nhà vệ sinh công cộng. Các nạn nhân sau đó thường không dám báo cảnh sát vì sợ bị trả thù. Mặc dù chỉ mới 19 tuổi, cảnh sát tin rằng John Travers chịu trách nhiệm cho ít nhất 10 vụ hãm hiếp, quấy rối tình dục.

Vào giữa năm 1985, Travers và nhóm của hắn đã đánh đập và hãm hiếp một cô gái tại Toongabbie, một nơi cách nhà hắn vài km và nạn nhân đã cung cấp cho cảnh sát chi tiết người đàn ông có hình xăm giọt nước bên dưới mắt trái. Khi Travers biết cảnh sát tìm mình, hắn cùng với đồng bọn bỏ trốn tới phía tây Australia cho đến khi vụ này lắng xuống. Nhưng vừa mới trở về, nhóm côn đồ này lại tiếp tục trở thành nghi phạm gây ra cái chết kinh hoàng cho Anita Cobby.

Lúc này, việc mà các thám tử cần làm là tìm cách để nghi phạm phải tự thú.

Giăng bẫy

Suốt thời gian bị giam giữ, ngoài những vụ hãm hiếp trước đây, John Travers cũng bị cảnh sát tra hỏi về án của Anita Cobby nhưng hắn không nhận bất cứ điều gì. Cuối cùng, cơ hội của các điều tra viên cũng tới khi Travers yêu cầu có một người thăm nuôi.

Hắn trao cho cảnh sát số điện thoại của người phụ nữ gọi là Miss X với yêu cầu mang thuốc lá vào cho mình. Nhận thấy đây có thể là người biết được điều gì đó về nghi phạm, cảnh sát đã làm việc với Miss X để tìm kiếm thông tin.

Mặc dù rất sợ Travers nhưng trước sự tàn bạo của người bạn này, sau một lúc suy nghĩ, Miss X đã đồng ý giúp đỡ điều tra. Cho rằng Miss X rất ngưỡng mộ mình nên Travers nhiều lần kể cho cô nghe về những vụ hãm hiếp do hắn gây ra một cách rất tự hào. Mỗi lúc như vậy, Miss X phải luôn miệng giả vờ nói rất thích nghe các câu chuyện hấp dẫn của hắn.

Trong hai vụ gần đây, Travers đều nhắc đến việc dùng con dao cứa trên thân thể của các nạn nhân, tương tự như cách mà hung thủ đã làm với Anita Cobby. Tuy ghê tởm với những hành vi ấy nhưng Miss X không bao giờ tiết lộ cho bất cứ ai vì sợ sẽ bị John Travers giết chết nếu hắn biết được. Cuối cùng, cô đã đồng ý giúp cảnh sát gài bẫy Travers.

Buổi sáng hôm sau, Miss X mang đến một số gói thuốc lá cho Travers và đã được nói chuyện riêng với tù nhân trong nửa tiếng. Khi trở về, mặt mày phụ nữ này run lên vì sợ. Cô bật khóc và cho cảnh sát biết Travers vừa kể rằng chính hắn đã giết chết Anita Cobby.

Lần thăm thứ hai, Miss X được gắn một máy ghi âm trong người. Travers đã kể tất cả. Hắn đã khoe cách mà cả nhóm bắt cóc Anita Cobby, hãm hiếp, đánh đập và cuối cùng Travers đã cắt cổ nạn nhân như thế nào.

Những kẻ nguy hiểm

Trước những chứng cớ không thể chối cãi, Travers sau đó đã phải viết bản thú tội, trong đó không phủ nhận mình là người trực tiếp giết chết Anita Cobby. Ngoài ra, hắn còn nêu đích danh 4 kẻ đồng phạm gồm Michael Murdoch, Les Murphy đã được thả ra trước đó và hai tên khác là Michael Murphy (33 tuổi) và Gary Murphy (28 tuổi). Cảnh sát đã không gặp khó khăn khi bắt giữ 4 tên này.

Một trong những đàn em trung thành của Travers là Michael (Mick) James Murdoch. Mick rất ngưỡng phục Travers. Mẹ của hắn, bà Rose Murdoch, rất ghét sự ảnh hưởng của Travers đối với đứa con trai và bà đã khuyến cáo Mick nhiều lần rằng Travers sẽ làm hắn vào tù.

Michael Murdoch rất ngưỡng mộ và trung thành với Travers. Cả hai cùng tuổi và luôn bên nhau không rời ngay từ khi còn nhỏ, thường để tóc và mặc quần áo giống nhau. Cũng giống Travers, Michael Murdoch lớn lên trong một gia đình tan vỡ. Lần phạm tội đầu tiên của hắn là năm 12 tuổi, khi hút cần sa với Travers.

Michael Murphy nổi tiếng là một tên côn đồ hung dữ ở khắp các vùng ngoại ô phía tây Sydney. Hắn bắt đầu phạm tội trong những năm đầu của tuổi thiếu niên và kể từ đó cuộc sống gắn liền với nhà tù. 33 tuổi nhưng hắn cũng có tới 33 lần bị kết án và thời điểm này đang bị truy nã vì vượt ngục. Thế nhưng, trong thời gian trốn chạy, tên tội phạm lại tiếp tục tham gia vào vụ bắt cóc, hãm hiếp và giết hại Anita Cobby.

Hai em trai của Michael Murphy là Les Murphy và Gary Murphy cũng là thành viên của nhóm. Như người anh của mình, cả hai đều hung dữ và có một hồ sơ phạm tội rất dài.
 
Chương 266: Thi thể khỏa thân của cô hoa hậu xinh đẹp (p3)


Buổi tối định mệnh

Sau khi cả nhóm hung thủ bị bắt giữ và cúi đầu nhận tội, những tình tiết cụ thể trong buổi tối xảy ra án mạng vào ngày 2/2/1986 đã được làm rõ.

Theo lời khai của những kẻ tội phạm với cảnh sát, buổi tối chủ nhật ngày 2/2/1986, cả 5 tên đã ngà ngà say sau nhiều tiếng đồng hồ cùng nhau uống rượu. Sau đó, tất cả leo lên chiếc xe mà John Travers lấy cắp một tuần trước đó cùng lang thang đi chơi. Tuy nhiên, lượng xăng trong xe lúc này đã sắp hết. Travers lập tức nêu ý tưởng với cả nhóm và quyết định đi tìm con mồi để cướp tiền đổ xăng. Lúc đó không còn sớm nên chúng phải đi một lúc khá lâu mới tìm được nạn nhân lý tưởng. Đó là Anita Cobby. Cô đang đi bộ một mình trên đường với chiếc túi xách đeo lủng lẳng ở vai.

Nhìn xung quanh không có ai, cả nhóm quyết định dừng xe ngay bên cạnh Anita Cobby. Khi nạn nhân còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì Travers và Mick Murdoch lao ra khỏi xe và chạy nhanh tới kéo nạn nhân vào trong. Anita hét lên đầy sợ hãi nhưng không một ai nghe thấy tiếng cô. Tới khi nhân chứng John McGaughey nhìn thấy và chạy lại thì chiếc xe đã lao vút đi.

Chỉ vài giây sau khi bị kéo vào chiếc xe, Anita bị lột hết quần áo dù cô liên tục van xin và nói rằng mình đã có gia đình. Tuy nhiên, càng van xin, cô càng bị những tên côn đồ đánh đấm thậm tệ. Anita đã chống cự mãnh liệt nhưng không có tác dụng. Chúng giữ nạn nhân nằm trần truồng trên sàn xe ở băng sau trong khi ghé vào trạm đổ xăng và trả tiền lấy từ chiếc ví của Anita.

Ác quỷ đội lốt người

Rời khỏi trạm xăng, Travers và Mick Murphy đã thay phiên hãm hiếp Anita ở hàng ghế sau trong khi những tên còn lại lục tung túi nạn nhân.

Tới gần một nông trại, chúng dừng xe và kéo nạn nhân qua hàng rào kẽm gai. Đúng lúc này, nhân chứng Paul sau khi nghe em trai kể về chiếc xe lạ đã tìm đến đây nhưng không thấy ai. Một lúc không thấy động tĩnh gì, anh liền bỏ đi mà không biết rằng năm tên tội phạm cùng với nạn nhân đang trốn trong một lùm cỏ gần đó.

Anita lại bị những tên tội phạm lần lượt hãm hiếp và đánh đấm cho tới khi cô nằm bất động. Sau khi thỏa mãn cơn thú tính, chúng để mặc cô gái thoi thóp trên bãi cỏ.

Tuy nhiên, sự tàn ác của nhóm sát nhân không dừng lại ở đó. Trở lại chiếc xe, Travers tỏ ra bứt rứt. Hắn lăn tăn rằng Anita có thể sẽ may mắn sống sót. Nếu vậy, việc cô đã nhận diện được tất cả và nghe chúng gọi tên lẫn nhau sẽ gây bất lợi. Do đó, hắn phải chắc chắn rằng cô đã chết để bịt đầu mối.

Được sự hưởng ứng của những tên đồng phạm, Travers đã quay trở lại chỗ Anita nằm, dùng con dao hắn vẫn mang theo bên người giết chết người phụ nữ đáng thương. Xong xuôi, Travers mới hài lòng bỏ đi, để mặc nạn nhân nằm trần truồng, chảy máu cho tới chết.

Khoảng thời gian kinh hoàng mà Anita đã phải trải qua kéo dài trong hai giờ đồng hồ.

Sự căm phẫn của dư luận

Chưa đầy 1 tháng kể từ sau vụ án mạng kinh hoàng, cảnh sát thông báo với truyền thông rằng năm đối tượng đã bị buộc tội bắt cóc và giết hại Anita Cobby. Nhiều đoàn người đã tập trung tại đồn cảnh sát để bày tỏ sự phẫn nộ và đòi hỏi công lý phải được thực thi.

Cuối cùng, phiên tòa đầu tiên xét xử 5 đối tượng liên quan đến vụ án mạng Anita Cobby cũng được diễn ra vào ngày 16/3/1987. Các dãy ghế trong phòng xử án đều chật kín. Giới truyền thông gọi đây là phiên tòa thế kỷ.

Một thành viên trong bồi thẩm đoàn đã mô tả chi tiết sự khủng khiếp mà Anita Cobby đã phải chịu đựng trước khi chết. Phiên tòa nhiều lần phải dừng lại bởi những dòng cáo trạng được đọc lên liên tục khiến những người có mặt la ó vì mức độ dã man, tàn ác của nhóm hung thủ.

Theo lời khai của những kẻ sát nhân, sau khi giết người, cả nhóm quay lại nhà của mẹ Travers để tắm rửa, vứt bỏ quần áo đang mặc. Michael Murdoch mang toàn bộ đồ đạc của Cobby ra khoảng sân phía sau nhà để đốt phi tang vật chứng. Cẩn thận hơn, chúng cũng đem chiếc xe ăn trộm đến một khu vực bỏ hoang và đốt cháy nó.

Tuy nhiên, tại tòa, các bị cáo đều hạn chế tối thiểu sự dính líu của mình đến thời khắc cuối cùng của Anita Cobby. Chúng loanh quanh đổ lỗi cho nhau, tố cáo cảnh sát đã bức cung. Murdoch và Murphy thậm chí còn khóc lóc sợ hãi.

Vài phút trước khi phiên tranh luận bắt đầu, John Travers đã thừa nhận mình chính là kẻ đã trực tiếp giết chết nạn nhân và chấp nhận mọi phán quyết của tòa án. Và khi Travers nhận tội, những tên còn lại đều tranh nhau đổ hết tội lỗi cho John Travers. Chúng nói rằng John Travers chính là chủ mưu còn mình chỉ bị lôi kéo và không liên quan nhiều đến cái chết của Anita. Song thẩm phán tuyên bố đó là lời dối trá trắng trợn, đây là vụ tấn công tình dục ghê rợn và có âm mưu từ trước.

Hình phạt cho những tên sát nhân

Ngày 10/6/1987, với các bằng chứng có được, bồi thẩm đoàn đã đưa ra phán quyết có tội đối với tất cả bị cáo sau 9 giờ thảo luận. Trong thời gian chờ tòa đưa ra phán quyết cuối cùng, từng đối tượng trong băng nhóm của Travers còn bị những tù nhân khác tấn công vì quá tức giận.

Phiên tòa cuối cùng diễn ra vào ngày 16/6. Hàng trăm người đã đứng xếp hàng nhiều tiếng đồng hồ ở bên ngoài và chặn cả xe chở nghi phạm. Họ cùng hô to yêu cầu mức án cao nhất cho những tên sát nhân.

Tuy nhiên, do luật của bang New South Wales không áp dụng án tử hình, nên cuối cùng John Travers và 4 bị cáo còn lại bị Thẩm phán Tòa án Tối cao tuyên án chung thân, nhưng trong hồ sơ của chúng được đóng thêm dòng chữ “không bao giờ được phóng thích”.

Vụ án mạng của Anita Cobby đã làm công chúng vô cùng giận dữ. Các bản yêu cầu với hàng chục ngàn chữ ký ủng hộ việc tái áp dụng án tử hình đã được trao cho chính quyền bang New South Wales. Họ cho rằng những kẻ phạm tội ác tàn bạo này vẫn còn được sống là điều không thể chấp nhận được.

Sau cái chết của con gái, cha mẹ Anita đã dành cả cuộc đời còn lại để giúp đỡ cho những nạn nhân bị xâm hại. Trong khi đó, John Travers, Michael Murdoch, Les Murphy, Michael Murphy và Gary Murphy hiện đều bị giam giữ tại những nhà tù với an ninh nghiêm ngặt của bang New South Wales và tất cả đều sẽ kết thúc cuộc đời trong tù.
 
Chương 267: Tên sát nhân quỷ quyệt Futoshi


Sinh ngày 29/4/1961 tại thành phố yên bình Yanagawa, tỉnh Fukuoka, Nhật Bản, trong một gia đình thương nhân, từ nhỏ luôn được nhận xét là một đứa trẻ dễ mến, là học sinh chăm ngoan, nhưng cuộc đời Futoshi Matsunaga đã hoàn toàn rẽ sang hướng khác sau cuộc hôn nhân vội vã năm 19 tuổi vì lỡ “ăn trái cấm” với một nữ sinh trung học.

Sau khi lấy vợ, Futoshi không chịu chuyên tâm lập nghiệp mà liên tục qua lại với 10 người phụ nữ khác. Trong đó có một người phụ nữ hơn y 2 tuổi tên Ogata Junko (sinh ra ở Kurume, tỉnh Fukuoka, Nhật), người sau này trở thành đồng phạm với Futoshi trong hàng loạt vụ giết người man rợ.

Gần 2 thập kỷ lừa tình, lừa tiền và đoạt mạng người vô tội

Trước khi gặp Futoshi vào tháng 10/1982, Junko được biết đến là một giáo viên mầm non hiền dịu xuất thân trong một gia đình giàu có. Mặc dù bị Futoshi ngược đãi, đánh đập vì ghen tuông vô cớ nhưng Junko vẫn bằng lòng ở bên hắn.

Năm 1984, sau khi Futoshi hứa hẹn sẽ cưới Junko trong khi chưa hề ly dị vợ, gia đình Junko đã kịch liệt phản đối. Đặc biệt mẹ của Junko cho rằng Futoshi đang lạm dụng con gái mình. Chính vì điều này, Futoshi đã không ngần ngại cưỡng hiếp bà.

Đến năm 1985, lần đầu tiên Futoshi sử dụng chiêu thức tẩy não bí hiểm của mình khiến Junko nghĩ rằng gia đình ghét bỏ cô, từ đó cô kiên quyết bỏ nhà đi, sống như vợ chồng với Futoshi mặc sự can ngăn của gia đình.

Sau đó, năm 1986, Futoshi thành lập một công ty kinh doanh bất động sản tên World và cùng cô “vợ hờ” Junko tổ chức lừa đảo để chiếm đoạt gần 200 triệu Yên của nhiều khách hàng. Khi một số nhân viên của công ty do sợ bị liên lụy, đã tìm cách ngăn cản việc làm của Futoshi, hắn liền bắt họ lại, hành hạ, đánh đập và toan giết người diệt khẩu bằng cách chích điện.

Lo sợ bị bại lộ, năm 1992, Futoshi dẫn Junko bỏ trốn, bị cảnh sát phát lệnh truy nã toàn quốc.

Trong khi trốn lệnh truy nã tại thành phố Kitakyushu, nói dối Junko là em gái, Futoshi giở trò quyến rũ một phụ nữ giàu có đã ly dị tên Aya Hakushu để lừa lấy của bà này tổng cộng 11,8 triệu Yên. Kinh hoàng hơn, với sự giúp đỡ của Junko, Futoshi đã sát hại quý bà này và vứt xác xuống sông Kita-Ku phi tang, mở đầu chuỗi án mạng kinh hoàng.

Tiếp tục lẩn trốn tại thành phố Kitakyushu, Futoshi làm thân với một người đàn ông tên Kumio Toraya và biết được Kumio thực ra là một tên tội phạm đến từ thành phố Kyoto. Nắm ngay lấy cơ hội, Futoshi tống tiền Kumio bằng sự thật trên nhằm chiếm đoạt 4,5 triệu Yên. Không dừng lại ở đó, Futoshi ngày ngày ép Kumio uống say và giam cầm luôn Kumio cùng cô con gái 10 tuổi của anh này. Hắn còn dùng điện tra tấn Kumio khiến Kumio suy tim mà chết vào tháng 2/1996. Sau đó, Futoshi đã chặt xác Kumio, đem ném xuống biển trong khi tiếp tục giam cầm và thuyết phục con gái nạn nhân rằng cô bé mới chính là kẻ giết cha mình.

Cuối năm 1996, Futoshi một lần nữa dẫn “vợ hờ” Junko bỏ trốn đến thành phố Kyoto và tìm đến nhà của một người thân của Kumio tên Shizumi, người sau này đã bị Futoshi quyến rũ và lấy tổng cộng 5,6 triệu Yên. Lần này, Futoshi cũng định ra tay sát hại nạn nhân bịt đầu mối nhưng bà Shizumi đã may mắn thoát chết vào tháng 3/1997 và được đưa vào bệnh viện tâm thần.

Bằng số tiền chiếm đoạt trên, Futoshi mở một công ty xuất khẩu nhỏ ở thành phố Kyoto và kêu gọi góp vốn đầu tư. Chỉ từ tháng 12/1997 đến tháng 1/2000, Matsunaga đã lừa đảo chiếm đoạt số tiền lên đến 163 triệu Yên. Phát hiện ra hành vi lừa đảo của Futoshi, nhiều người không những không đòi được tiền mà còn bị hăm dọa. Đặc biệt, hai nạn nhân Rieko Sato và Katsuya Richo đã lần lượt bị Futoshi sát hại vào năm 1998 và 1999.

Đưa tình nhân biến thái về nhà sát hại cả gia đình

Năm 1997, Junko từng bỏ trốn khỏi Futoshi nhưng tất nhiên hắn không thể để “vợ hờ” bỏ đi dễ dàng như thế. Hắn lập tức gọi điện đe dọa và tống tiền gia đình Junko, thậm chí còn giả vờ tự tử nhằm dụ Junko quay về. Cũng từ đây, hắn chuyển mục tiêu về gia đình Junko.

Không rõ bằng cách nào, Futoshi “tẩy não”, khống chế và tra tấn cả gia đình “vợ hờ”. Quá sợ hãi, gia đình Junko đã đưa cho Futoshi 63 triệu Yên để mong được giải thoát nhưng Futoshi đã thực sự biến thành con quỷ khát máu. Không những không buông tha, hắn còn ra lệnh cho các thành viên trong gia đình Junko giết hại lẫn nhau và điều kỳ lạ là họ răm rắp nghe theo tên sát nhân quỷ quyệt này.

Đầu tiên, Futoshi chích điện tra tấn mẹ và em gái Junko. Ngày 21/12/1997, hắn ra lệnh cho Junko giật điện cha cô khiến ông tử vong. Kinh hoàng hơn, hắn ra lệnh cho em rể và em gái của Junko cùng sát hại mẹ cô, sau đó cưỡng hiếp em gái Junko rồi lệnh cho chồng cô này tự tay giết chết chính vợ mình.

Sau khi giết chết mẹ vợ và vợ, em rể Junko tiếp tục bị Futoshi không chế, hành hạ tinh thần và tử vong do suy tim vào ngày 13/4/1998 khi mới 38 tuổi.

Futoshi cũng không tha cho 2 đứa cháu của Junko khi hắn khiến Junko và cháu gái sát hại cháu trai mới 5 tuổi của cô. Sau đó, cô cháu gái cũng bị Futoshi và con gái Kumio trói lại, chích điện đến tử vong.

Ngày 30/1/2002, con gái của Kumio bỏ trốn nhưng bị Futoshi bắt lại. Đến ngày 6/3/2002, cô cố tìm cách thoát khỏi Futoshi lần nữa và lần này cô đã đến được đồn cảnh sát để cầu cứu. Ngay sau đó, Futoshi và “vợ hờ” Junko đã bị bắt.

Ngay cả khi bị bắt, Junko vẫn chịu sự khống chế vô hình của người tình Futoshi. Trong khi, Futoshi một mực không nhận tội, đổ hết tội lỗi lên Junko thì cô này chỉ im lặng. Mãi đến nửa năm sau, khi không còn bị Futoshi khống chế, Junko mới nói: “Tôi đã sẵn sàng chấp nhận án tử hình”.

Đến ngày 29/9/2005, Tòa án thành phố Kyoto đã tuyên phạt cả Futoshi và Junko tử hình bằng cách treo cổ vì tội lừa đảo, giết người và bắt cóc tống tiền.

Sau đó, do có đơn kháng án của Junko nên vào ngày 26/9/2007, Tòa án phúc thẩm ở thủ đô Tokyo đã giảm hình phạt dành cho Junko xuống còn chung thân. Riêng Futoshi vẫn y án tử hình và tên này đã nhận bản án tử hình vào ngày 12/12/2011.

Trước thắc mắc không hề nhỏ rằng: Tại sao gia đình Junko lại một mực nghe theo lệnh của Futoshi mà không hề chống cự?, Junko chỉ cho biết rất khó để miêu tả trạng thái tâm lý dị thường lúc đó, có thể do bị tra tấn bằng điện liên tục khiến tâm lý bị ảnh hưởng.
 
Chương 268: Sát nhân ảo tưởng Uematsu


Tại khu phố với những ngôi nhà gỗ lớn bao quanh bởi vườn cây ăn quả, cư dân vẫn chưa hết bàng hoàng khi biết Uematsu giết chết những người tàn tật tại chính nơi y đã từng làm việc.

Đối với những người hàng xóm, Uematsu luôn tỏ ra là một chàng trai lịch thiệp với nụ cười tươi và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Nhưng sau khi Uematsu gây ra vụ thảm sát kinh hoàng nhất trên đất nước Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, ít ai ngờ rằng y là một kẻ sát nhân máu lạnh như vậy. Thậm chí, y từng có một giấc mơ tàn bạo hơn những gì đã xảy ra.

Khoảng 2 giờ sáng, kẻ sát nhân 26 tuổi lái xe từ nhà tới trung tâm chăm sóc y tế dành cho người khuyết tật Tsukui Yamayuri En. Y dùng búa đập cửa, đột nhập vào bên trong, dùng dao giết hại 9 người đàn ông, 10 phụ nữ và khiến 25 người khác bị thương. Sau đó, Uematsu thản nhiên quay về xe ô tô và tới đồn cảnh sát gần nhất để đầu thú.

“Tôi đã làm điều đó”, y nói tại sở cảnh sát lúc 3 giờ sáng. “Tốt hơn hết là những người khuyết tật nên biến mất”, nghi phạm lạnh lùng tuyên bố.

Trong xe ô tô của Uematsu, cảnh sát tìm thấy một chiếc túi với nhiều con dao và những dụng cụ sắc nhọn. Trên vô lăng và ghế ngồi ô tô vẫn còn dính nhiều vết máu.

Akihiro Hasegawa (73 tuổi), một người hàng xóm cho hay Uematsu không hề có biểu hện nào cho thấy y có thể thực hiện hành vi giết người ghê rợn tới như vậy đối với những người vốn đã chịu nhiều thiệt thòi và tổn thương trong xã hội.

“Có thể bạn đang mong chờ tôi nói rằng anh ta có biểu hiện gì lạ lùng hay đã từng làm điều gì đó xấu xa, nhưng không, Uematsu là một chàng trai thân thiện, lịch thiệp và luôn chào hỏi khi chúng tôi gặp nhau trên phố. Tôi chắc chắn rằng những người hàng xóm khác cũng sẽ nói như tôi”, ông Hasegawa nói.

Ông cho biết thêm, người ta dễ nhận ra Uematsu bởi mái tóc nhuộm sáng màu và hình xăm kiểu Yakuza trên ngực và cánh tay. Tuy nhiên, Uematsu không phải thành viên của một tổ chức tội phạm nào.

Sau khi cha mẹ chuyển tới ngoại ô Tokyo khoảng 5 năm trước, Uematsu sống một mình trong ngôi nhà nhỏ màu kem cách nơi đã diễn ra vụ thảm sát chỉ vài phút đi bộ. Những hình ảnh khiến hàng xóm nhớ về y là một người thích nuôi mèo, chăm sóc vườn tược, cây cối. Y đã từng mơ ước được làm giáo viên mỹ thuật giống như cha mình.

Thực tế, Uematsu đã có những dấu hiệu khả nghi từ cách đây 5 tháng. Y đã gửi một bức thư tới chủ tịch hạ viện Nhật Bản và đe dọa sẽ tự mình giết chết những người khuyết tật, giải thoát cho họ. Thậm chí, y còn mô tả rõ ràng và chi tiết cách thức giết người trong lá thư ấy.

Uematsu nói y có thể “giết chết 470 người khuyết tật” ở hai trung tâm dành cho người tàn tật khác nhau chỉ trong một đêm, “khi lực lượng nhân viên bảo vệ không chú ý”.

“Việc đó sẽ diễn ra nhanh chóng và không gây tổn hại tới nhân viên nào tại trung tâm. Sau khi giết khoảng 260 người tại hai trung tâm, tôi sẽ tự đầu thú”, Uematsu viết trong lá thư.

Nhà chức trách cho biết, ngay sau khi gửi đi lá thư này, Uematsu đã “tự nguyện” nhập viện vào ngày 19/2. Y được chẩn đoán mắc bệnh hoang tưởng cũng như lệ thuộc vào ma túy. Nhưng tới ngày 2/3, Uematsu đã được xuất viện sau khi bác sĩ cho rằng tình hình sức khỏe của y đã cải thiện.

“Tôi cảm thấy rất đau đớn. Với quyết định lúc ấy, chúng tôi cho rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra”, Eiji Yagi, một cán bộ phụ trách phúc lợi sức khỏe tâm thần của thành phố Sagamihara nói.

Ông Yuji Kuroiwa, Thống đốc tỉnh Kanagawa cho rằng dù Uematsu đã có những dấu hiệu ban đầu nhưng rất khó để ngăn chặn hành vi của y.

“Đó không phải hành vi phạm tội bộc phát. Trong đêm tối, y lặng lẽ đi, mở cửa từng phòng và dùng dao tấn công từng người trong lúc họ đang ngủ. Tôi không thể tin được mức độ tàn bạo của vụ việc. Chúng ta cần phải ngăn chặn những tội ác tương tự có thể tiếp diễn”, ông Yuji Kuroiwa nói.

Thảm kịch mà Uematsu đã gây ra khiến dư luận Nhật Bản đặt ra câu hỏi rằng cảnh sát và chính quyền địa phương đã đánh giá mức độ nguy hiểm của Uematsu như thế nào, vụ việc xảy ra có phải một lỗ hổng của an ninh Nhật Bản, ở một đất nước có tỷ lệ tội phạm thấp nhất nhì thế giới? Và nhân viên của trung tâm chăm sóc người khuyết tật có biết bức thư mà Uematsu đã mô tả chi tiết hành vi giết người hay không?

Giải thích về động cơ gây ra hành vi vô cùng tàn bạo này, Uematsu viết trong lá thư cho biết y đã ước mơ về “một thế giới mà ở đó những người tàn tật chịu nhiều khó khăn và thiệt thòi trong xã hội sẽ được chết một cách nhân đạo, hòa bình”.

Yasuyuki Deguchi, một nhà tội phạm học cho biết hành động của Uematsu là điển hình của kiểu người luôn mang trong mình mối hận thù, căm ghét và luôn tìm cách để trả thù, bởi y đã lên kế hoạch tấn công vô cùng chi tiết và nghĩ tới chuyện tự ra đầu thú.

“Hoàn thành mục tiêu đã đặt ra là tất cả những gì y muốn”, ông Deguchi nói.
 
Chương 269: Nữ sát nhân ám ảnh về sự chung tình - Vera Renczi


Vera Renczi (được mệnh danh là Góa phụ đen hay Chatelaine của Berkerekul), người Romania hay Hungary, đã thú nhận đã đầu độc 35 cá nhân, bao gồm hai người chồng, nhiều người tình và con trai của cô ta bằng arsenic trong những năm 1920.

Báo cáo sớm nhất được công bố tại Hoa Kỳ là vào tháng 5 năm 1925. Câu chuyện đã nổi lên nhiều lần, nhưng không có các chi tiết có thể theo dõi như ngày sinh cụ thể của cô, kết hôn, bắt giữ, kết án, tống giam hoặc chết.

Hầu hết các nguồn tin đặt các vụ giết người tại Berkerekul, Nam Tư (Serbia ngày nay) hoặc Bečkerek, đã đổi tên thành Zrenjanin vào năm 1946.

Đầu đời

Theo một số tài khoản, Vera Renczi được sinh ra ở Bucharest vào năm 1903, nhưng theo quan điểm về những tội ác được cho là của cô, một ngày vào cuối thế kỷ 19 sẽ phù hợp hơn. Các tài khoản của cuộc đời cô đang thiếu bằng chứng tài liệu có thể kiểm chứng.

Mẹ cô qua đời khi cô 13 tuổi và cô cùng cha chuyển đến Berc Richecul Mare, ngày nay Zrenjanin, Vojvodina, Bắc Nam Tư nơi cô theo học một trường nội trú.

Đến năm mười lăm tuổi, cô ngày càng trở nên khó kiểm soát bởi cha mẹ và thường xuyên bỏ nhà đi với vô số bạn trai, nhiều người trong số họ già hơn cô rất nhiều.

Những người bạn thời thơ ấu mô tả Vera Renczi có một mong muốn gần như bệnh hoạn về việc đồng hành nam liên tục và sở hữu một bản chất rất hay ghen tuông và nghi ngờ.

Không lâu trước tuổi hai mươi, cuộc hôn nhân đầu tiên của cô là một nhân viên ngân hàng người Áo giàu có tên là Karl Schick, nhiều năm hơn cô.

Cô sinh cho anh ta một đứa con trai tên Lorenzo. Sau đó, khi bị bỏ lại ở nhà hàng ngày trong khi chồng đi làm, cô đã bắt đầu nghi ngờ rằng chồng mình không chung thủy.

Một buổi tối, trong cơn thịnh nộ ghen tuông, Renczi đã đầu độc rượu ăn tối bằng thạch tín và bắt đầu nói với gia đình, bạn bè và hàng xóm rằng anh ta đã bỏ rơi cô và con trai của họ.

Sau khoảng một năm, Renczi tuyên bố rằng cô đã nghe được thông tin về người chồng mà được cho là đã bỏ rơi cô trong một tai nạn xe hơi.

Những vụ giết người sau đó

Không lâu sau khi được cho là nghe tin tức về người chồng đầu tiên của mình, Vera Renczi đã tái hôn, lần này là một người đàn ông gần bằng tuổi cô. Tuy nhiên, mối quan hệ là một mối quan hệ hỗn độn và Renczi một lần nữa bị bối rối bởi sự nghi ngờ rằng chồng mới của cô có liên quan đến các vấn đề ngoại tình sau lưng cô. Chỉ sau vài tháng kết hôn, người đàn ông đã biến mất và Vera Renczi sau đó nói với bạn bè và gia đình rằng anh ta đã bỏ rơi cô.

Sau một năm trôi qua, cô tuyên bố đã nhận được một lá thư từ chồng tuyên bố ý định rời xa cô mãi mãi. Đây sẽ là cuộc hôn nhân cuối cùng của cô. Mặc dù Renczi không tái hôn, cô đã dành vài năm tiếp theo để thực hiện một số công việc, một số bí mật với những người đàn ông đã có vợ và những người khác công khai.

Những người đàn ông đến từ một loạt các nền tảng và vị trí xã hội. Tất cả sẽ tan biến trong vòng vài tháng, vài tuần và trong một số trường hợp, thậm chí vài ngày sau khi có mối quan hệ tình cảm với cô ấy.

Khi nói về những người đàn ông mà cô ấy công khai ngoại tình, cô ấy sẽ luôn luôn dựng lên những câu chuyện về họ là những người không chung thủy và đã bỏ rơi cô ấy.

Sau khi vợ của một trong những người yêu Renczi, theo anh ta đến nhà của Renczi - một người đàn ông đến nhà cô ta vào một buổi tối và người đàn ông đó đã không bao giờ trở về nhà.

Cảnh sát sau đó đã được gọi để điều tra vụ mất tích của anh ta. Khi cảnh sát tìm kiếm tại hầm rượu của Renczi, họ đã phát hiện ra 32 chiếc quan tài được lót bằng kẽm.

Mỗi cái quan tài đều chứa một xác chết mang giới tính nam và đang trong các giai đoạn phân hủy khác nhau. Renczi đã bị bắt và bị cảnh sát giam giữ tại đồn cảnh sát - nơi cô thú nhận đã đầu độc 32 người đàn ông bằng thạch tín khi cô nghi ngờ họ không chung thủy với cô hoặc khi cô tin rằng sự quan tâm của họ đối với cô đã suy yếu.

Cô cũng thú nhận với cảnh sát rằng cô thích ngồi trên ghế bành giữa những chiếc quan tài, được bao quanh bởi tất cả những người cầu hôn trước đây. Vera Renczi cũng thú nhận đã giết hai người chồng và con trai của cô là Lorenzo. Cô nói với cảnh sát rằng một ngày nọ, khi con trai cô đến thăm cô, anh đã vô tình phát hiện ra những chiếc quan tài trong hầm rượu của cô và đe dọa sẽ tống tiền cô và sau đó cô đã đầu độc anh ta và vứt xác anh ta. Cô bị kết án tù chung thân bởi 35 vụ giết người và sau đó cô đã chết.

THNT: về nữ sát nhân này thì mình chỉ có thể tổng hợp bao nhiêu đây, mong mọi người có thể yêu thích, bởi vụ án này không có tài liệu nhiều để tìm kiếm, cám ơn mọi người!!!
 
Chương 270: Ngôi làng góa phụ và sự thật kinh hoàng phía sau


Chuyện xảy ra ở vùng đất Hungary cách đây gần một thế kỷ, khi những người vợ trở nên tham lam không muốn chịu cảnh núp dưới bóng chồng, thì sự việc bị chồng bạo lực giống như giọt nước tràn ly “thôi thúc” họ trở thành những con sói tàn độc, hãm hại chồng mình bằng thạch tín.

Hành trình tội ác được bắt nguồn từ một người phụ nữ có tên là Julia Fazekas, năm 1911 sự xuất hiện của cô tại ngôi làng nhỏ Nagyrev ở Hungary đã khiến cuộc sống tại đây đảo lộn. Những bí ẩn kì lạ xoay quanh người phụ nữ này khiến người ta nghi ngờ trong 2 cái chết liên tiếp của chồng Julia Fazekas, nhất là khi cô được thừa hưởng tất cả số tài sản của người chồng thứ 2 và trở thành người góa phụ giàu có nhất trong làng, khiến nhiều phụ nữ ganh tỵ. Thế nhưng, những điều thị phi và ác độc lại bắt đầu từ người đàn bà đầy quyền lực này.

Sự kiện châm ngòi nổ cho tội ác của Julia và những người vợ là khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, các ông chồng buộc phải nhập ngũ thực hiện trách nhiệm công dân của mình. Khi đó, Julia lại là một hộ sinh đầu tiên trong làng, vì là người giàu có nên rất được các bà vợ tại đây tin tưởng và tôn trọng. Trong hoàn cảnh không có chồng làm cho các bà vợ thấy khó khăn, đối mặt với nhiều áp lực, đói khổ nên họ coi Julia như một hình mẫu lý tưởng, ước mong, khát khao được như bà và nghe mọi lời sai khiến từ người góa phụ này.

Những cám dỗ cuộc đời khiến các bà vợ không thể giữ sự trong sạch của mình, tự tìm đến sự buông thả bản thân và những mối quan hệ ngoài luồng trong lúc các tù binh bị mắc kẹt tại đây. Họ dùng thân xác của mình để làm món hàng trao đổi, nhờ cậy sự giúp đỡ, để kiếm lấy những lợi ích cho mình và sống một cách phóng đãng không kiểm soát.

Rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các ông chồng trở lại ngôi làng. Nhưng họ đủ tỉnh táo để nhận ra sự thay đổi của những người vợ, về cách sống ở ngôi làng ngày xưa, rất nhiều gia đình mâu thuẫn, khắc khẩu có khi hãm hại nhau và mâu thuẫn ngày càng tăng lên cấp số nhân. Rồi họ ngày một chán nản, sinh ra bạo lực và có khi hành hạ vợ mình, nhiều bà vợ chịu sự đánh đập, sỉ nhục mà không thể lên tiếng.

Sự thay đổi của ngôi làng sau chiến tranh thế giới thứ nhất khiến cuộc sống nơi đây trở nên tồi tệ.

Khi được cảnh sát hỏi về nguyên nhân đầu độc chồng thì những người vợ này cho biết họ không thể ly hôn và không được quyền ly hôn. Mà trước khi chồng về, những người phụ nữ khẳng định cuộc sống của họ tươi đẹp hơn, không phải chịu những cảnh bạo hành vô cớ như vậy. Họ được tự do, không bị kiểm soát bởi chồng.

Khi không thể tìm ra lối thoát cho bản thân, những người phụ nữ này tụ họp lại và nhờ Julia giúp đỡ để cuộc sống của họ được giống như trước đây. Tuy nhiên, người góa phụ độc ác này đã bày cách cho những người vợ đầu độc chồng bằng thạch tín và thu lợi nhuận từ những việc ghê sợ này.

Julia bày cách cho những người phụ nữ trong làng giết chồng rồi thu 20 USD cho một lần thành công.

Rất nhanh, người chồng đáng thương đầu tiên bị độc chết. Sau đó, ngày càng nhiều những ông chồng qua đời trong sự im lặng chết chóc. Tuy nhiên, sau khi mất chồng, những góa phụ này cũng không tỉnh ngộ. Để lấy được tự do và nhiều hơn nữa là tiền tài danh vọng, họ lại tiếp tục nghe lời Julia xúi giục, họ đầu độc những người thân yêu của mình, ngay cả con, cả cháu họ. Từ đó trong ngôi làng góa phụ, nhiều chàng trai, thậm chí là cả trẻ con đều chết một cách bí ẩn.

Ả Julia đã dùng quyền lực của mình chôn giấu bí mật và dọn dẹp vết tích, bà ta thu tiền từ việc cung cấp thạch tín cho các bà vợ đầu độc chồng với giá 20 đô la một người chồng sau khi thực hiện thành công. Julia đã đe dọa những người vợ này không được tiết lộ chuyện cho bất kì ai. Nhưng sau nhiều tội ác liên tiếp, cuối cùng bí mật cũng bị một người vợ phanh phui, tự thú vì cảm thấy việc làm của bản thân độc ác và man rợ.

Khi bắt đầu đưa vụ án vào cuộc, cảnh sát không đủ bằng chứng để kết tội người góa phụ độc ác này nên buộc phải thả tự do cho Julia. Thời gian trôi qua không lâu, tội ác của Julia lộ diện khi ả thực hiện trao đổi thuốc cấm thạch tín cho “khách hàng” thì bị bắt quả tang. Từ đó, tất cả tội ác man rợ của người góa phụ này bị đưa ra ánh sáng, chịu hình phạt thích đáng.

Trước nhiều cuộc điều tra vào năm 1929, giới cảnh sát cho biết: Tại ngôi làng Nagyrev xảy ra 300 vụ án giết người bởi thạch tín, tuy nhiên những người góa phụ đen này chỉ bị nhận mức án sát hại 100 cái chết. Bên cạnh đó, báo cáo vụ án cũng đưa ra mức án cho 2 người phụ nữ trong 38 tội phạm bị bắt, sau khi kết tội thì Julia Fazekas đã tự tử, còn Susannah Olah, cộng sự đắc lực của Julia bị kết án tử hình
 
Chương 271: Vụ án góa phụ thích hành hạ nô lệ tội nghiệp


Ẩn dưới vẻ ngoài sang trọng quý phái là một con quỷ thực sự, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, người phụ nữ mang tên Delphine LaLaurie đã giết hại, tra tấn rất nhiều người da đen vô tội nhưng cuối cùng bà lại trốn thoát trước sự trừng phạt từ chính quyền...

Người đàn bà "sát chồng"

Delphine LaLaurie sinh vào khoảng năm 1775, một trong năm người con của Barthelmy Louis Macarty, là một thương gia người Ireland. Mẹ Delphine LaLaurie là Marie Jeann - một người đã từng có tới hai đời chồng trước khi cưới ông Barthelmy. Cả gia đình chuyển qua định cư tại New Orleans khi tình hình kinh tế ở Ireland trở nên khó khăn.

Ngày 11/6/1800, Delphine LaLaurie kết hôn với Don Ramon Lopez de y Angullo - một sĩ quan cấp cao trong quân đội Tây Ban Nha đang cư trú ở New Orleans. Ngay sau kết hôn, sự nghiệp của Don Ramon lên như diều gặp gió, ông được bổ nhiệm làm đại sứ của Tây Ban Nha tại Mỹ và hưởng mức lương vô cùng cao lúc bấy giờ.

Từ đây, cuộc sống của Delphine ngày càng sung túc, sung sướng, dựa vào tiếng tăm và tiền tài của chồng, bà mua về nhiều bất động sản, đồn điền, nô lệ. Giới thượng lưu trong vùng kính nể và khâm phục tài năng kinh doanh, cùng sắc đẹp của Delphine. Nhưng năm 1804, người chồng Ramon bỗng mắc một căn bệnh lạ lùng và chết ở Tây Ban Nha, để lại cho Delphine một khoản tiền thừa kế khổng lồ và cô con gái nhỏ.

Năm 1808, Delphine kết hôn với Jean Blanque - một chủ ngân hàng nổi tiếng. Delphine cùng ông Jean sinh được bốn người con nhưng sau đó, người chồng này cũng chết bất đắc kỳ tử vào năm 1816.

Tưởng chừng bà sẽ ở góa suốt đời thì chỉ ít lâu sau, Delphine đã cưới một bác sĩ tên Leonard Louis Nicolas LaLaurie. Leonard trẻ hơn Delphine rất nhiều và có nhiều tin đồn cho rằng, ông ta cưới bà chỉ vì thèm khát đống tài sản kếch xù mà người vợ đang có. Năm 1832, Delphine quyết định mua một biệt thự tại số 1140 phố Royal và tại đây, cơn ác mộng thật sự với nhiều nô lệ vô tội bắt đầu.

Sự tàn bạo với nô lệ da đen

Khu biệt thự của Delphine có tất cả 3 tầng và bà thuê rất nhiều người giúp việc là các nô lệ da đen. Bên ngoài, bà luôn thể hiện là một quý tộc đức độ, giàu lòng bác ái, khi mua nô lệ với giá cao và đều đặn hàng năm, bà tổ chức trả tự do cho nhiều người lao động tích cực.

Nhưng sự thật bên trong lại hoàn toàn khác. Trong một lần viếng thăm, một người khách vô cùng sợ hãi trước vẻ ngoài hốc hác như những bộ xương của nô lệ dưới quyền Delphine.

Không những thế, trên thân thể của họ còn đầy vết thương mưng mủ, hôi hám. Quá lo sợ, người khách này liền báo cho chính quyền địa phương, một luật sư được cử tới để quan sát và thu thập bằng chứng. Điều kỳ lạ là tất cả nô lệ khi ông ta quan sát đều khỏe mạnh và không có một chút vết thương nào trên cơ thể.

Nhiều hàng xóm của Delphine từng nhìn thấy một vài nô lệ bị treo lên và đánh đập thậm tệ chỉ vì vài lỗi vặt như làm rơi đồ. Một cậu bé sống đối diện căn biệt thự của Delphine từng kể lại với ba mẹ đã nhìn thấy một bàn tay người rụng rời khi chơi trong nhà của Delphine nhưng tất cả mọi người đều không tin.

Một cô bé nô lệ 12 tuổi tên là Lia đã phải nhảy lầu tự sát trước sự dã man và tàn bạo của Delphine nhưng mọi người chỉ cho rằng, đó là do cô nhỏ quá bất cẩn mà thôi.

Nhưng sự thật của câu chuyện được những người hầu kể lại cho dân cư xung quanh như sau: Khi Lia đang làm tóc cho Delphine, cô vô tình làm rụng một vài sợi tóc đen của bà chủ. Không để cho người hầu có cơ hội thanh minh, Delphine liền vớ lấy cây roi và đánh vào mặt Lia.

Quá hoảng sợ cô nhóc chạy lên tầng lầu, Delphine liền đi theo và dùng nhiều lời lẽ hăm dọa cay độc. Lia tội nghiệp không còn giữ được bình tĩnh nên đã nhảy xuống từ tầng 3 và chết ngay tức khắc.Vụ việc này tới tai thẩm phán của địa phương và ông quyết định trừng phạt Delphine bằng cách phạt tiền và ép bà phải giải phóng cho 9 nô lệ dưới quyền.

Các con gái của bà cũng bị bạo hành, Delphine trong một lần phát hiện những đứa con thân yêu lén cho nô lệ đồ ăn và quần áo nên đã thẳng tay đánh đập dã man. Hai người con của bà vì không chịu nổi đã bỏ nhà đi biệt tăm.

Người chồng trẻ cũng chán nản trước sự độc ác của bà vợ già nên dọn ra sống riêng với một nhân tình trẻ đẹp. Điều này càng làm cho Delphine ngày một trở nên điên rồ.

Bí mật trong căn biệt thự

Vào ngày 10/4/1834, một đám cháy xảy ra tại biệt thự của Delphine. Khi lực lượng cảnh sát tới nơi để kiểm soát đám cháy, họ phát hiện ra ngọn lửa xuất phát từ bếp nên nhanh chóng tiến vào trong để dập tắt.

Tại đây, trước mắt họ là cảnh một nữ nô lệ da đen đang được treo ngược lên trên không, đáng sợ hơn, sợi xích luồn, xuyên mắt cá chân của người đàn bà tội nghiệp. Cô hoảng hốt nói với cảnh sát rằng, chính mình đã làm ngọn lửa trong bếp lò lan ra ngoài để có người tới cứu mình.

Sau khi dập tắt đám cháy, cảnh sát lục soát khắp căn nhà và tìm thấy vô số thứ kinh dị đến rợn người. Tại gác mái, rất nhiều nô lệ thương tật đầy mình đang bị xích vào các bức tường hoặc trên sàn.

Môi của họ bị khâu chặt lại, một số khác bị cắt lưỡi nên không thể nào kêu cứu được. Nhiều nạn nhân còn bị khoét mắt, bẻ tay, bẻ chân. Không ít nô lệ đã chết và thân thể họ được tạo hình lại như con cua, con bướm hay một người đàn ông là nạn nhân của cuộc phẫu thuật giới tính kì lạ.

Delphine còn cất giữ nhiều chiếc hộp trong đó chứa đầy tai, mắt người. Khi đào sâu xuống lớp đất trong vườn, nhiều phần thi thể nô lệ được tìm thấy, trong đó có một cái xác nguyên vẹn là trẻ em.

Nhiều người đồn rằng, bà ta đã giết nô lệ và lấy thịt để chế biến thức ăn khi tiếp đãi giới quý tộc New Orleans. Các nạn nhân còn sống được đưa tới bệnh viện ngay lập tức nhưng sau đó cũng chết dần vì vết thương nhiễm trùng quá trầm trọng.

Cũng trong đêm đó, người dân New Orleans phẫn nộ vô cùng, họ kéo tới nhà của Delphine quyết tâm trừng phạt con quỷ đội lốt người. Cảnh sát phải ra tay can thiệp nên cuộc xô xát hỗn loạn đã xảy ra. Tận dụng cơ hội này, Delphine nhanh chóng trốn thoát.

Sau đó, dù đã tổ chức tìm kiếm trên cả nước nhưng mọi người đều bất lực trong việc tìm ra người đàn bà ác quỷ này. Có người cho rằng, bà ta đã tới sống sung sướng ở Paris - nơi thời bấy giờ không thực thi lệnh dẫn độ phạm nhân tới các nước khác.

Một số khác tin rằng, Delphine trên đường trốn chạy đã rơi vào tay của những nô lệ da đen và họ đã trừng trị bà một cách đích đáng nhất. Nhưng dù là giả thuyết gì thì cho tới tận bây giờ kết cục của Delphine và động cơ giết người của Delphine vẫn là một bí ẩn của nhân loại.
 
Chương 272: Cái chết đáng tiếc của nam idol đời đầu k-pop


Xuất hiện trên chương trình KBS Entertainment Weekly phát sóng gần đây, Kim Sung Wook - anh trai của nam thần tượng tài hoa mà bạc mệnh Kim Sung Jae cho biết: "Tôi không hiểu quyết định của tòa án, chúng tôi không muốn trừng phạt bất kì ai nhưng sự thật cần phải được phơi bày."

Suốt 24 năm qua, người đàn ông này vẫn luôn đau đáu về cái chết đột ngột của em trai. Kim Sung Wook chia sẻ: "Tâm nguyện lớn nhất của mẹ tôi là biết được lý do vì sao con trai bà qua đời".

Trước đây, chương trình Unanswered Questions của SBS cũng đã thực hiện một phóng sự đặc biệt, hé lộ phần nào những bí mật xung quanh cái chết của Kim Sung Jae. Tuy nhiên tập phim đó đã bị cấm phát sóng theo lệnh của tòa án.

Tháng 11/1995, một nam ca sĩ thần tượng đột ngột qua đời. Anh ta là thành viên nhóm nhạc nổi tiếng Deux. Khi mà "Seo Taeji And Boys" phủ sóng khắp cả nước thì Deux cũng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ với tầng lớp thanh thiếu niên tại Seoul. Người ta thường bàn tán về doanh số bán album cũng như gu thời trang tuyệt vời của Deux.

Kim Sung Jae - thành viên của Deux đã có màn debut solo thành công trên sân khấu SBS Gayo 20. Sau khi biểu diễn xong, anh trở về khách sạn để nghỉ ngơi cùng các vũ công phụ họa cũng như bạn gái của mình - cô Kim.

Ngay ngày tiếp theo, người ta tìm thấy Kim Sung Jae đã chết trong khách sạn. Khi cảnh sát kiểm tra thi thể, họ phát hiện 28 vết kim tiêm trên cánh tay phải của nam idol. Nguyên nhân dẫn đến cái chết của Kim Sung Jae là do chất tiletamine-zolazepam (chất gây mê dành cho động vật).

Đáng chú ý là anh ta mặc áo sơ mi dài tay, tuy nhiên mẹ của Sung Jae cho biết anh thường cởi trần hoặc mặc áo ngắn tay khi đi ngủ. Đây có phải là một vụ tự sát hay ai đó đã tiêm chất độc vào cơ thể Kim Sung Jae sau đó cố che giấu tội ác.

Cũng có suy đoán rằng Kim Sung Jae đã sử dụng ma túy. Song nó bị bác bỏ ngay lập tức vì không mấy ai tin chuyện này. Nam idol có mối quan hệ tốt với gia đình, bạn bè và fan. Trên khuôn mặt Kim Sung Jae chưa từng có biểu hiện mệt mỏi vì ma túy, hơn nữa anh đang rất vui vẻ với màn solo đầy thành công.

Chi tiết cuối cùng khiến nhiều người chắc mẩm Kim Sung Jae bị giết đó là vì anh ta thuận tay phải và các vết tiêm cũng nằm trên tay phải. Theo tự nhiên, nếu nam idol tự sát thì đáng lí dấu vết phải nằm ở bên tay trái.

Nghi phạm chính trong vụ này là cô bạn gái họ Kim. Các vũ công đã chỉ ra rằng khi Kim Sung Jae ngủ ở phòng khác và Kim cũng đã xuất hiện ở đó. Kim có một sự ám ảnh vô cùng lớn với bạn trai, cô nàng không thích bạn trai tiếp xúc với người hâm mộ của anh.

Dưới đây là những điều thái quá mà Kim từng làm:

- Cô ta từng trói Kim Sung Jae lại khi anh đang ngủ. Vụ việc khiến anh không thể đi kí hợp đồng.

- Cô ta bắn anh bằng súng hơi.

- Cô ta luôn làm phiền bạn bè Kim Sung Jae và muốn kiểm soát xem anh đang làm gì.

- Khi ở Mỹ, cô ta đã liên tục gọi cho Kim Sung Jae khiến anh bực mình đến độ không muốn nghe máy.

- Kim từng phát hiện bạn trai qua lại với người khác, điều này khiến cô ta nổi điên.

Một vũ công tiết lộ anh ta có nghe thấy tiếng máy giặt hoạt động vào đêm hôm đó và khi tỉnh dậy, anh thấy Kim đang làm gì đó. Lời khai từ nhân chứng là một dược sĩ cũng cho hay: "Kim từng mua chất kích thích dành cho động vật ở cửa hàng của tôi. Khi được hỏi thì Kim nói mua cho thú cưng." Kim cũng yêu cầu dược sĩ phải giữ bí mật.

Kim từng cố gắng đút tiền cho cảnh sát để họ không tiến hành khám nghiệm tử thi Kim Sung Jae. Trong phiên tòa đầu tiên, Kim đã bị kết tội giết người và phải nhận mức án tử hình. Trong tù, Kim liên tục chối tội và ở phiên tòa thứ hai, mức án đã giảm xuống thành tù chung thân.

Cục diện đã hoàn toàn thay đổi trong phiên tòa thứ ba hoàn toàn thay đổi. Các nhân chứng nói rằng họ không nhớ gì cả và đổi lại toàn bộ lời khai, thậm chí còn nói lời bênh vực cho Kim. Kết quả là cô trắng án. Tòa tuyên bố lượng thuốc mà Kim từng mua không đủ để giết hại Kim Sung Jae.

Tòa cũng tin rằng không có lý do nào để Kim ra tay với bạn trai vì quan hệ của cặp đôi vẫn bình thường. Nói chung vì "thiếu bằng chứng" nên công tố không thể kháng cáo, Kim không bị kết tội và tiếp tục cuộc sống bình thường.

Thời điểm ấy, người hâm mộ Deux đã vô cùng phẫn nộ. Tuy nhiên họ chẳng thể làm gì khác ngoài đứng nhìn vụ án về cái chết của idol mình đi vào ngõ cụt. Suốt 24 năm qua, cái chết của Kim Sung Jae vẫn được coi là bí ẩn và bị thời gian bỏ quên.

Được biết, gia đình của Kim rất giàu có. Họ sở hữu 10 nhà thuốc lớn và 1 trong số những người thân của Kim là chính trị gia. Công chúng ngầm hiểu rằng Kim thắng vụ kiện này nhờ vào gia thế khủng. Bản thân Kim là một sinh viên y khoa, hiện đang là nha sĩ. Cô nàng đã phẫu thuật thẩm mỹ và tiếp tục sống sung sướng như chưa hề có chuyện gì xảy ra.
 
Chương 273: Vụ án nữ tiếp viên hàng không bị sát hại trong bồn tắm


Vào năm 1989, có một nữ tiếp viên hàng không của hãng Cathay Pacific tên Huỳnh Tử Quân, 28 tuổi được mệnh danh là một trong những tiếp viên xinh đẹp và có khí chất nhất của hãng. Thời điểm đó, có rất nhiều người đàn ông theo đuổi cô nhưng Tử Quân không hề động lòng trước một ai bởi vì cô đã trao trọn con tim cho người bạn trai tên Huỳnh Đại Vỹ.

Đáng lẽ ra có một người bạn gái như Huỳnh Tử Quân, Đại Vỹ phải cảm thấy may mắn nhưng hắn lại là người trăng hoa, luôn tranh thủ những lúc Tử Quân đi bay xa để qua lại với nhiều cô gái khác. Tử Quân biết được sự việc nhưng mắt nhắm mắt mở cho qua vì cô quá yêu bạn trai mình.

Vào ngày 6/5/1989, Tử Quân chuẩn bị đi làm thì nhận được cuộc điện thoại của một người phụ nữ tên là Du Linh, cô nhận là bạn gái mới của Đại Vỹ. Từ lúc đó trở đi, không ai biết Tử Quân đi đâu và làm gì.

Những người đồng nghiệp cũng không thể liên lạc được với cô. Hai ngày sau, vào ngày 8/5/1989, phía cảnh sát Hong Kong nhận được thông báo tại một căn nhà 3 tầng nằm ở vùng nông thôn khu Sa Điền bốc lên một mùi hôi thối rất khó chịu.

Ngay sau khi tiếp nhận tin tức, cảnh sát đã cho lực lượng đến hiện trường để điều tra thì phát hiện mùi hôi thối được bốc ra từ phòng tắm trong tầng 3 của ngôi nhà. Theo đó, có một xác chết nằm trong bồn tắm của phòng tắm đã bị hóa chất ăn mòn nghiêm trọng, khi cảnh sát phát hiện thì chỉ còn xương và hộp sọ.

Lực lượng cảnh sát khu Sa Điền kết hợp với cảnh sát Hong Kong nhanh chóng khẳng định đây là một vụ án giết người dã man và sau đó bắt được cặp đôi nam nữ Huỳnh Đại Vỹ và Du Linh.

Trong quá trình điều tra, cảnh sát đã thu thập nhiều lời khai của những người sống gần ngôi nhà ấy. Họ cho biết, vào ngày 6/5 đã nghe thấy tiếng cãi vã lớn của hai phụ nữ, dường như hai người này rất căm ghét nhau.

Sau đó, họ còn nghe được giọng một người đàn ông bênh vực một trong hai người phụ nữ ấy. Cuộc cãi vã kéo dài khoảng 10 phút rồi sau đó kết thúc đột ngột. Sau một thời gian dài thẩm vấn liên tục, cuối cùng Huỳnh Đại Vỹ và Du Linh đã thừa nhận rằng đã giết Huỳnh Tử Quân.

Theo lời khai của cặp đôi, Huỳnh Tử Quân không muốn rút lui sau khi biết sự tồn tại của Du Linh nên đã cãi nhau dữ dội. Đại Vỹ đứng về phía Du Linh nên càng khiến Tử Quân phẫn nộ và có cảm xúc điên cuồng hơn.

Cuối cùng, cặp đôi đã quyết định giết Tử Quân để cô không thể chen vào chuyện tình của họ. Để phi tang xác chết, cả hai đã bàn bạc và để thi thể Tử Quân vào bồn tắm rồi sau đó đổ hóa chất ăn mòn vào với mong muốn cái xác biến mất sau một vài ngày.

Tuy nhiên, lưới trời lồng lộng, sự tỉ mỉ của họ không thể qua mắt được cảnh sát và cuối cùng cả hai đều đã bị cảnh sát bắt.

Tháng 8/1990, Huỳnh Đại Vỹ và Du Linh bị kết án tử hình vì tội giết người và phi tang xác chết. Tuy nhiên, cả hai bị cáo đều bày tỏ sự không hài lòng và quyết định kháng cáo. Tháng 8/1992, tình hình vụ án bất ngờ bị đảo ngược khi Du Linh bất ngờ lật đổ mọi lời thú tội trước đó và nhận hết trách nhiệm về mình.

Cô khai rằng, toàn bộ quá trình giết người đều do một mình mình gây nên, không liên quan đến Huỳnh Đại Vỹ. Phía Huỳnh Đại Vỹ cũng nói rằng mình vô tội và mọi thứ đều do Du Linh chủ mưu.

Bằng cách nào đó, những bằng chứng kháng cáo đều rất thuyết phục khiến tòa án tin rằng lời khai của Du Linh là thật, Huỳnh Đại Vỹ không liên quan đến vụ giết người này, hắn chỉ bị buộc tội về việc phi tang xác chết.

Trước đó tái thẩm, Huỳnh Đại Vỹ đã thụ án được 2 năm, sau khi tòa tuyên bố Đại Vỹ tội giết người không thành lập đã được hưởng án treo và được tại ngoại. Du Linh từ bản án mưu sát được thay đổi thành ngộ sát, cô ngồi tù được 2 năm và được tại ngoại vào năm 1994.

Điều đáng nói, Huỳnh Đại Vỹ - người đàn ông sau khi làm bao nhiêu chuyện xấu xa đã không bị trừng phạt mà còn có được một tình yêu đẹp đối với nhân viên quản giáo trong tù tên Sally.

Được biết, trong phiên tòa phúc thẩm, Sally đã cầu xin bồi thẩm đoàn giảm mức án thấp nhất cho Huỳnh Đại Vỹ và gây ra luồng tranh cãi gay gắt trong xã hội lúc đó. Nhưng cuối cùng, Đại Vỹ và Sally đã không thể sống chung với nhau đến bạc đầu, họ chính thức ly hôn vào năm 1998.

Vụ án này khiến người dân Hong Kong vô cùng phẫn nộ trước sự phán quyết lỏng lẻo của tòa án đã để Huỳnh Đại Vỹ thoát tội một cách dễ dàng. Cho đến nay, chân tướng của vụ án vẫn còn là một ẩn số mà nhiều người không thể lý giải được.
 
Chương 274: Vụ án đứa trẻ 3 tuổi chứng kiến mẹ bị giết hại


Vào ngày 7 tháng 1 năm 1993, cảnh sát đã được gọi đến một khách sạn gần sân bay quốc tế Jacksonville ở bang Florida (Mỹ) khi nhân viên khách sạn phát hiện ra một chiếc ví có thẻ tín dụng, thẻ căn cước công dân mang tên Bonnie Haim (23 tuổi) và hàng trăm USD tiền mặt trong thùng rác.

Sau đêm đó, cảnh sát tiếp tục phát hiện chiếc Toyota Camry màu rượu sâm banh của cô Bonnie trong bãi đậu xe gần sân bay.

Chồng của cô Bonnie, Michael Haim, nói với cảnh sát rằng vợ mình đã bỏ đi vào đêm hôm trước sau một cuộc cãi vã về vấn đề xoay quanh cuộc hôn nhân của họ. Anh ta cũng nói rằng anh ta đã đi tìm vợ nhưng điều khiến người ta nghi ngờ là tại sao thấy vợ mất tích, anh ta lại không thông báo cho cảnh sát.

Mọi thứ có thể sẽ bị bưng bít nếu nhân viên khách sạn không tìm thấy chiếc ví của Bonnie trong thùng rác. Michael trở thành nghi phạm hàng đầu trong vụ án kỳ lạ này nhưng cảnh sát không đủ bằng chứng để bắt giữ anh ta.

Thời điểm đó, cậu con trai 3 tuổi của hai người, Aaron Fraser, đã cố gắng nói với cảnh sát rằng "cha đã làm tổn thương mẹ", vậy nhưng lời nói của một đứa con nít làm sao mà tin được.

Ngay cả các thành viên trong gia đình bên ngoại cũng không tin cậu bé.

Cho đến tận năm 2010, trong một tập phim của loạt phim truyền hình tội phạm "Những bí ẩn chưa được làm sáng tỏ", ông ngoại của cậu bé, ông Robert Pasciuto, vẫn nói rằng: "Sự đáng tin của một đứa trẻ là điều bạn phải cân nhắc".

Thực tế, chính Aaron Fraser là người chứng kiến toàn bộ sự việc từ đầu đến cuối. Cậu bé thấy cảnh bố giết hại mẹ dã man ngay tại ngôi nhà của họ ở Bắc Jacksonville nhưng thời điểm đó Aaron còn quá nhỏ để nhận thức được mức độ nghiêm trọng của vụ việc.

Thời gian trôi đi, ký ức mờ nhạt ấy vẫn không biến mất trong đầu Aaron mặc dù anh đã được cặp vợ chồng Jeanie và Ronnie Fraser nhận nuôi.

Nhiều năm sau, Aaron giành được quyền sở hữu ngôi nhà anh từng sống một thời ở Bắc Jacksonville. Vào ngày 14 tháng 12 năm 2014, Aaron bắt đầu cùng anh rể phá bể bơi trong sân sau của ngôi nhà và họ đã phát hiện ra một điều khủng khiếp.

Trong quá trình phá dỡ bể bơi, họ phát hiện một tấm bê tông khá dày và phải dùng đến máy xúc rồi cả búa tạ để đập vỡ. Sau đó, Aaron bất ngờ tìm thấy một chiếc túi, anh dùng xẻng phá hủy nó và phát hiện ra một "vật thể lạ".

Ban đầu anh còn tưởng đó là một quả dừa già rất cứng nhưng sau đó phát hoảng khi nhận ra chiếc đầu lâu.

Anh kể: "Nó trông giống như vỏ quả dừa. Tôi nhấc nó lên mà nhìn kỹ lại thì phát hiện vài chiếc răng người. Tôi có thể nhìn rõ hai hốc mắt và phần đỉnh đầu".

Vậy là cha đẻ của Aaron, ông Michael Haim, chính thức bị bắt vào năm 2015 sau khi nhà chức trách xác nhận rằng hộp sọ mà anh tìm thấy thuộc về Bonnie.

Các xét nghiệm DNA xác nhận hài cốt là của Bonnie Haim và một giám định y khoa kết luận cô đã chết vì bị giết "bằng các phương tiện không xác định".

Theo lời khai sau khi bị bắt, Michael Haim nói rằng hắn đã ngược đãi vợ và cô Bonnie đã phải lên kế hoạch đưa con trai chuyển đến một căn hộ khác khi Michael đi công tác xa. Nhưng kế hoạch của Bonnie chưa kịp thực hiện thì đã bị hắn phát hiện.

Bên cạnh đó, để đề phòng chồng, Bonnie đã bí mật mở một tài khoản ngân hàng nhưng cũng lại bị Michael thấy, cô chuyển sang đưa tiền cho một người bạn đáng tin cậy giữ hộ.

Ngay từ ban đầu, Michael Haim, hiện 52 tuổi, đã là nghi phạm chính trong vụ án nhưng suốt hơn 20 năm hắn vẫn không bị buộc tội. Dự kiến sắp tới đây, tòa án sẽ mở phiên tòa xét xử định tội người đàn ông này và người làm chứng không ai khác chính là con trai ông ta.

"Chúng tôi sẽ giữ suy nghĩ tích cực, hy vọng bồi thẩm đoàn sẽ nhìn thấu được sự thật và sẽ có phán quyết công bằng nhất được đưa ra", gia đình viết trên trang Facebook tưởng nhớ Bonnie hôm 8/4 mới đây.
 
Chương 275: Vụ án 7 túi rác đựng thi thể của cô gái nói dối


Gary Chu, 28 tuổi, là một võ sĩ nghiệp dư đồng thời là huấn luyện viên boxing tại một trung tâm ở quận Bản Kiều, thành phố Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc).

Người đàn ông này bị nghi ngờ đã giết hại và chặt xác phi tang bạn gái của mình là Yee-min Huang, 27 tuổi.

Theo đó, từ ngày 19/5, gia đình đã không thể liên lạc được với Yee-min. Nghi có chuyện chẳng lành, Francis Huang, anh trai của Yee-min đã báo cảnh sát đồng thời đăng bài lên các trang mạng xã hội vào ngày 26/5 để nhờ mọi người hỗ trợ, giúp đỡ tìm kiếm.

Anh Francis nghi ngờ Yee-min bị bạn trai của cô là Chu bắt cóc và giam giữ. Tuy nhiên, khi cảnh sát tới khám xét nhà Chu thì không phát hiện thấy sự có mặt của Yee-min. Tối cùng ngày hôm đó, Chu viết lên trang Facebook cá nhân của mình rằng anh "không bao giờ làm tổn thương và hạn chế sự tự do của cô ấy". Cô gái được nhắc đến ở đây không ai khác chính là Yee-min, người đã tìm cách níu kéo tình cảm của Chu trong khi anh đang cố gắng chia tay cô.

Ngoài ra trong bài viết, Chu cũng tiết lộ rằng: "Sau khi chúng tôi quen nhau trên ứng dụng mai mối Tinder, cô ấy nói với tôi rằng vẫn còn là một trinh nữ. Tuy nhiên, tôi đã vô cùng thất vọng và cảm thấy bị phản bội khi phát hiện ra cô ấy đang nói dối tôi cùng những người đàn ông khác".

Ngay sau khi đọc được bài viết của Chu, anh trai Yee-min đã nhanh chóng liên lạc với cảnh sát. Họ ngay lập tức tới khu dân cư nơi Chu đang sinh sống và kiểm tra camera an ninh. Hình ảnh cuối cùng của Yee-min được camera ghi lại là vào ngày 20/5, khi cô theo Chu bước lên cầu thang, đi tới căn hộ của anh ta. Hai ngày sau đó, khoảng vào lúc 1 giờ sáng, từ đoạn CCTV họ cũng thấy Chu mang theo 7 túi rác từ căn hộ ném vào vườn hoa của khu chung cư.

Vào ngày 27/5, cảnh sát cho biết họ đã tìm thấy thi thể không nguyên vẹn của Yee-min trong vườn hoa. Trong khi đó, vào khoảng 5 giờ sáng cùng ngày, Chu cũng được phát hiện là đã treo cổ tự tử. Cạnh hiện trường, cảnh sát tìm thấy một mẩu giấy ghi: "Cô ấy khiến tôi cảm thấy bị xúc phạm".
 
Chương 276: Kẻ sát nhân máu lạnh cùng người yêu tra tấn tình dục và giết hại hơn 50 cô gái bằng...


Nạn nhân cuối cùng chạy thoát, tố cáo tội ác kinh hoàng của đôi nam nữ

Ngày 19 tháng 3 năm 1999, cô gái bán hoa tên Cynthia Vigil (22 tuổi) đang đứng đón khách trong một bãi đậu xe ở Albuquerque, bang New Mexico (Mỹ), thì một người đàn ông tiến đến, đề nghị Cynthia quan hệ trong chiếc ô tô Toyota RV của ông ta với giá 20USD.

Khi cô đồng ý thì người đàn ông tự xưng là cảnh sát ngầm rồi nói với Cynthia rằng cô bị bắt vì tội mua bán tình dục và đưa cô vào phía sau xe của anh ta. Cô gái trẻ vẫn ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra thì chỉ trong tích tắc đã bị tống lên chiếc xe, phía sau có một người phụ nữ ngồi đợi sẵn.

Người đàn ông đó không phải cảnh sát thật mà chính là David Parker Ray. Hắn mang Cynthia đến một chiếc xe móc đã được cách âm ở gần khu vực đó - hắn gọi căn phòng là "hộp đồ chơi". Hắn xích Cynthia vào cái "ghế phụ khoa" ở ngay giữa căn phòng.

Trong 3 ngày tiếp theo đó, hắn tra tấn và hãm hiếp Cynthia một cách dã man với sự trợ giúp của Cindy Hendy, bạn gái và cũng là đồng phạm trong các phi vụ bắt cóc, hiếp dâm, tra tấn rồi giết hại các cô gái trẻ.

Tên biến thái đó cùng người tình dùng roi da, dụng cụ y tế, máy sốc điện, và dụng cụ tình dục để tra tấn Cynthia. Nhưng trước khi làm những việc đó, chúng cho cô nghe một đoạn băng ghi âm nói tường tận tất cả những gì cô sắp phải trải qua, và cả những nguyên tắc mà cô buộc phải phục tùng.

Nội dụng đoạn băng ghi âm khá dài và chứa đựng những lời lẽ thô tục, bẩn thỉu do chính tên Ray nói ra và ghi lại. Cứ mỗi lần bắt được "con mồi" mới, hắn sẽ cho họ nghe đoạn băng để biết những phương thức tra tấn hắn sắp sửa thực hành với mình. Trong đoạn băng ghi âm, hắn "ra lệnh" cho nạn nhân phải gọi hắn là "chủ nhân" và ả đàn bà ở cùng hắn là "bà chủ" đồng thời không hé răng nửa lời, trừ khi có sự cho phép.

Cynthia kể lại trong một cuộc phỏng vấn khi đã trốn thoát khỏi địa ngục đó: "Cách mà ông ta nói chuyện khiến tôi cảm thấy rằng đó không phải là lần đầu tiên của ông ta. Ông ta hành động như thể đó là thói quen. Ông ta nói với tôi rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp lại gia đình nữa, rồi còn dọa sẽ giết tôi giống như đã giết những người khác".

Chạy trốn khỏi "địa ngục"

Ngày 22 tháng 3 năm 1999, ngày thứ 3 sau khi bị bắt nhốt trong "hộp đồ chơi" đó, Cynthia đã phải chịu đựng những cú sốc điện, bị đánh đập, bị hành hạ bằng đồ chơi tình dục.

Cô bị treo lên tường và bị tên Ray cưỡng hiếp nhiều lần. Cynthia đau đớn, tuyệt vọng cho rằng mình sắp bị giết. Trong khi tên Ray đi ra khỏi nhà, ả người tình Hendy rời căn phòng và để lại chìa khóa ở trên bàn gần ngay chỗ Cynthia bị xích.

Nắm bắt cơ hội đó, Cynthia cố gắng với lấy chìa khóa để mở khóa ở cổ tay. Ả Hendy phát hiện ra và cầm một cái đèn ngủ đập lên đầu Cynthia. May mắn Cynthia vớ được một cây ghim nhọn và đâm vào cổ của ả.

Cynthia mở khóa và chạy ra khỏi cái xe móc trong tình trạng không một mảnh vải che thân, chỉ có một vòng khóa cổ xích trên người.

Buổi chiểu muộn hôm đó, giữa một vùng đất rộng mênh mông, hoang vắng, cô gái không một mảnh vải che thân, người dính đầy máu, cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng trên con đường đất để tìm cách thoát thân.

Mặc dù thấy những ngôi nhà nhỏ bên đường nhưng Cynthia không dám dừng lại gõ cửa vì sợ chúng đuổi theo phía sau.

Sau đó, cô nhìn thấy một ngôi nhà lưu động và chạy vào cầu xin sự giúp đỡ, chủ nhà thấy cảnh tượng cô gái đáng thương liền lập tức báo cảnh sát.

Cảnh sát đã nhanh chóng vào cuộc, bắt giữ David Parker Ray, 59 tuổi và bạn gái của hắn Cindy Lea Hendy, 39 tuổi.

Tuổi thơ bất hạnh của tên biến thái máu lạnh

David Ray Parker (được biết đến với biệt danh "Toy box killer" (kẻ sát nhân hộp đồ chơi) sinh ra tại Belen, New Mexico vào ngày 6 tháng 11 năm 1939.

Bố mẹ hắn là Cecil và Nettie Ray đều rất nghèo. Gia đình hắn sống chung với bố mẹ của Nettie ở một nông trại nhỏ.

Bố của hắn, ông Cecil là một tay nghiện rượu nặng và thường xuyên đánh đập vợ con. Khi tên Ray mới được 10 tuổi, ông Cecil đã ly dị vợ và bỏ nhà đi nơi khác sống.

Tên Ray và em gái Peggy của hắn chuyển đến sống với ông bà nội trong một trang trại thuộc vùng nông thôn Mountainair, bang New Mexico. Kể từ đó, cuộc sống của hai anh em hắn chìm trong sợ hãi.

Ông nội của hắn Ethan Ray, đã gần 70 tuổi, là môt người cục tính và đưa ra những luật lệ bắt các cháu phải răm rắp nghe theo. Nếu không vâng lời thì kết cục sẽ là trận đòi roi thừa sống thiếu chết.

Ở trường, tên Ray dù có thân hình cao lớn nhưng rất nhút nhát, hay sợ sệt và bị các bạn bắt nạt, hắn còn rất "nhát gái".

Sau này người ta cho rằng chính vì những chuyện đã trải qua ở trường đã khiến hắn có những hành động man rợ như vậy.

Khi đến tuổi dậy thì, Ray"chìm đắm" rượu chè và lạm dụng chất kích thích. Cũng trong khoảng thời gian này, hắn bắt đầu phát triển những ý nghĩ và hứng thú về các hành động dâm dục.

Hắn tưởng tượng mình đóng vai kẻ hiếp dâm, tra tấn phụ nữ và giết chết họ. Cô em gái Peggy từng phát hiện ra những bức ảnh khiêu trong phòng riêng của hắn.

Sau khi học xong cấp 3, Ray học nghề sửa xe ô tô, sau đó vào quân đội, rồi trở về hắn tiếp tục công việc thợ sửa xe.

Tên Ray đã từng có bốn đời vợ và có hai đứa con, một trong số đó là con gái Glenda Jean "Jesse" Ray.

Gã có lần thú nhận với người vợ đầu tiên (khi chưa cưới) của mình rằng nạn nhân đầu tiên của hắn là một người phụ nữ, hắn đã cột chặt cô ta vào một cái cây, sau đó tra tấn và giết chết người phụ nữ đó.

Bên trong "hộp đồ chơi"

Khi bị bắt và tra hỏi, gã đàn ông biến thái đó cùng người tình còn khai rằng Cynthia là một người nghiện heroin và họ đang cố giúp cô cai nghiện.

Thế nhưng, khi lục soát ngôi nhà cùng chiếc xe móc mà hắn gọi là "hộp đồ chơi", cảnh sát lại phát hiện những điều rùng rợn khác.

Khám xét nơi ở của chúng, cảnh sát tìm thấy một khẩu súng, chiếc đèn bị vỡ và cuộn băng ghi âm, trùng khớp với lời khai của Cynthia.

Không chỉ vậy, cảnh sát còn phát hiện phù hiệu cảnh sát giả của tên Ray, quần áo Cynthia mặc hôm bị bắt cóc và rất nhiều vật dụng tra tấn khác như roi da, ròng rọc, dây đai, kẹp, cưa máy, còng tay, máy sốc điện và hàng tá món "đồ chơi tình dục" khác.

Hắn còn lưu trữ những tài liệu hướng dẫn tra tấn để đem lại sự thỏa mãn cao nhất.

Kinh hoàng nhất, hắn lắp đặt một chiếc ghế chuyên dụng dùng trong khám phụ khoa, nơi nạn nhân bị cột chặt. Hắn đóng một cái gương lớn trên trần nhà để các nạn nhân phải chứng kiến toàn bộ quá trình tra tấn.

Cảnh sát cũng phát hiện một băng video từ năm 1996, cho thấy một người phụ nữ sợ hãi khi bị cưỡng hiếp và tra tấn bởi tên Ray và người tình của hắn.

Bí ẩn con số nạn nhân và dấu vết của họ

Sau khi vụ án gây phẫn nộ trên khắp nước Mỹ, một người phụ nữ tên Angelica Montano đến khai báo với đã từng bị Ray hãm hiếp một cách tương tự.

Angelica Montano kể rằng cô là người quen của Ray, cô tới nhà hắn ta để xin một ít bột làm bánh. Hắn nảy sinh ý định rồi bỏ thuốc khiến Angelica bất tỉnh. Sau đó hắn hiếp dâm, tra tấn Angelica và vứt cô ở bên cạnh một đường cao tốc trên sa mạc.

Ray thường pha thuốc chứa Natri Pentothal và Phenobarbital cho nạn nhân uống vào để gây mất trí nhớ, từ đó họ sẽ quên đi việc mình từng bị hãm hiếp. Angelica được cảnh sát tìm thấy nhưng không có cuộc điều tra nào diễn ra.

Khi đã có tới hai nhân chứng quan trọng, cảnh sát đã ép được Hendy khai báo tất cả những gì cô ta biết về những vụ giết người.

Những lời khai của cô ta giúp các nhà điều tra xác minh hai người đồng phạm nữa là Glenda "Jesse" Ray, con gái ruột của David Parker Ray, và Dennis Roy Yancy, một người bạn của hắn.

Các nhà điều tra xác định danh tính người phụ nữ trong băng video nhờ hình xăm trên mắt cá chân là Kelly Garrett. Kelly chỉ mới kết hôn được vài ngày trước khi bị tên Ray và con gái Jesse Ray bắt giam giữ. Jessee Ray là bạn của Kelly.

Ả đã đưa cô đến một quán bar và uống rượu. Khi Kelly cố gắng rời khỏi quán bar, tên Ray đánh vào đầu cô từ đằng sau.

Cô bị tra tấn và hãm hiếp trong ba ngày, sau đó bị cho uống thuốc gây mất trí nhớ và bỏ lại bên lề đường gần nhà của cô.

Con số nạn nhân của tên Ray chưa được xác định rõ ràng và thời gian hắn bắt đầu gây ra những vụ bắt cóc hàng loạt cũng không cụ thể.

Năm 2011, cảnh sát phát hiện những tài liệu viết tay của tên Ray, trong đó mô tả chi tiết về những cuộc tra tấn tình dục và cách chôn cất nạn nhân như thế nào.

Ngay lập tức, những vụ án của tên tội phạm khét tiếng này được lật lại, nhằm truy tìm xác của hơn 50 nạn nhân được mô tả trong các tài liệu.

Cảnh sát vùng Albuquerque kết hợp với nhân viên Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) và cảnh sát bang New Mexico đã tìm kiếm quanh khu vực hồ Elephant Butte và các hang động gần đó, nhằm tìm kiếm những nạn nhân xấu số bị tên David Parker Ray hãm hại.

Kết án

Cindy Hendy đã bị kết án 36 năm tù vì đứng ra làm chứng tố cáo những tội ác của người tình. Jesse Ray bị kết tội bắt cóc phụ nữ, tra tấn tình dục và bị kết án 9 năm tù giam.

Dennis Roy Yancy bị kết án 30 năm tù giam. Còn David Parker Ray phải chịu hình phạt là 224 năm tù giam.

Vào ngày 28 tháng 5 năm 2002, tên phạm nhân khét tiếng David Parker Ray đột tử vì một cơn đau tim khi đang trên đường chuyển sang nhà tù Lea County, lúc đó hắn 62 tuổi.
 
Chương 277: Vụ án chiếc đồng hồ Định mệnh


Tuổi thơ bị mẹ ruột và bố dượng bạo hành, lớn lên rơi vào lưới tình với gái bán hoa

Jonaris Badlishah (23 tuổi vào năm 1998) - còn được đồng nghiệp gọi với cái tên thân mật là Joe - là một chàng trợ lý quay phim bán thời gian và một người trợ lý đạo cụ.

Jonaris có mẹ là bà Elizabeth Seet, người Singapore, có bố là người Malaysia nhưng cả hai đã ly hôn từ khi Jonaris còn nhỏ. Bà quay trở lại Singapore khi Jonaris được 2 tuổi và sau đó tái hôn.

Cả gia đình họ sống trong một ngôi nhà chung vách với ngôi nhà khác trong khu dân cư Seletar Hills đắt đỏ. Dù vậy, khi lớn lên, Jonaris thường rơi vào nợ nần và cần phải vay mượn tiền để sinh sống.

Jonaris luôn cho rằng mình có một tuổi thơ bất hạnh và lớn lên trong địa ngục. Hắn ta nói khi bé thường xuyên bị mẹ ruột và bố dượng bạo hành.

Họ ép Jonaris quỳ gối nhiều giờ, dùng kẹp quần áo kẹp lên tai, tay, lưỡi và môi Jonaris, bắt Jonaris nhai ớt sống và đứng trước gương nhiều giờ liền.

Hắn ta bảo mình đã quá quen với việc bị mẹ dùng thắt lưng để xử phạt khi hắn đã "nhờn mặt" với những phương thức bạo hành trên.

Được biết, bà Seet có 2 con trai với người chồng trước và 2 con nữa với người chồng sau tên Robert Seah.

Jonaris khẳng định mẹ và bố dượng chỉ thương 2 đứa con sau và đối xử với anh em hắn ta như người ngoài.

Thậm chí, theo lời Jonaris khai với tòa án, bà Seet hay nói với mọi người khi ở nơi công cộng rằng Jonaris là cháu chứ không phải con trai bà.

Chính bà Seet cũng thừa nhận rằng bà thường xuyên phạt Jonaris từ khi con được 3 tuổi đến khoảng 14 hoặc 15 tuổi.

Bà nói rằng mẹ của chồng sau không thích 2 đứa con trai riêng của mình. Bà mẹ chồng đã tẩy não anh em Jonaris bằng cách nói với anh em họ rằng cả hai chỉ là cháu của Seet.

Tuy nhiên, Saifon Ngammoo - người phụ nữ Jonaris gặp lần đầu tiên vào tháng 10/1997 - lại không đối xử với hắn ta như thế.

Ngammoo là một người phụ nữ có 1 đứa con 3 tuổi sống ở Thái Lan, là một người thực sự thấu hiểu Jonaris, theo lời hắn ta khai ở tòa.

Cô này là thường xuyên tâm sự về cuộc đời mình với Jonaris cũng như con đường nào khiến cô ta phải trở thành gái mại dâm để kiếm tiền sinh sống.

Cả hai đồng cảm và hiểu nhau đến nỗi khi Ngammoo cho Jonaris mượn 7.000 USD để giải quyết vấn đề tài chính của hắn ta, cô cũng chẳng ép anh phải trả lại số tiền này.

Cô thậm chí còn trả tiền cho Jonaris để hắn ta chịu ở bên cạnh cô. Cũng chính vì những điều đó, Jonaris thầm nhủ rằng hắn ta phải kiếm nhiều hơn để có thể chăm sóc cho mẹ con Ngammoo.

Chiếc đồng hồ Rolex và 10 nhát búa oan nghiệt

Ngammoo đã từng kể với Jonaris về chiếc đồng hồ Rolex đã được chồng cũ tặng. Đó là chiếc đồng hồ cô rất thích nhưng đã phải mang đi cầm cố để lấy tiền giúp bạn vào năm 1995.

“Cô ấy nhớ chiếc đồng hồ và nó rất có ý nghĩa với cô ấy”, Jonaris khai với tòa án. Kể từ đó, những suy nghĩ và hình ảnh về chiếc đồng hồ Rolex đã chiếm hết tâm trí của hắn ta.

Chiếc đồng hồ đó thậm chí còn xuất hiện trong giấc mơ của hắn ta nữa. Cuối cùng, vào ngày dịp sinh nhật lần thứ 31 của bạn gái, Jonaris đã tặng cho cô chiếc đồng hồ Rolex vàng đính kim cương trị giá 7.500 USD.

Khi nhận chiếc đồng hồ từ tay bạn trai, Ngammoo dù vui nhưng vẫn nhận ra nó là chiếc đồng hồ cũ, đã qua sử dụng.

Nhưng những gì cô không biết là sáng ngày hôm đó, chiếc đồng hồ vẫn còn trên cổ tay chuyên viên trang điểm Sally Phó Mã Hoàng - mẹ của 2 đứa con đã trưởng thành.

Đầu giờ sáng ngày 20/4/1998, Jonaris đã ra tay, vung búa đập vào đầu Phó Mã Hoàng 10 nhát bằng cây búa với mục đích duy nhất là để lấy chiếc đồng hồ.

Vài tuần trước khi Jonaris ra tay giết người, hắn ta định lấy chiếc đồng hồ Rolex của một phụ nữ khác nhưng lại không đủ can đảm để thực hiện.

Thế nhưng khi thấy đồng hồ trên tay Sally Phó Mã Hoàng, hắn ta bỗng cảm thấy rằng mình phải lấy bằng được nó.

Đáng chú ý, hắn ta chỉ gặp Phó Mã Hoàng chỉ 2 ngày trước khi gây án qua một dự án phim và đã chú ý ngay đến chiếc đồng hồ trên tay cô.

“Nó khiến tôi chú ý”, Jonaris thừa nhận. Hắn ta nghĩ rằng, đó chắc chắn là món quà hoàn hảo tặng cho bạn gái Ngammoo.

“Tôi biết rằng tôi không thể mua một chiếc đồng hồ đắt tiền như thế cho cô ấy. Điều tiếp theo xuất hiện trong tâm trí tôi là tôi phải cướp đồng hồ của Phó Mã Hoàng”, Jonaris khai.

“Thậm chí nếu cô ấy đeo chiếc nhẫn kim cương 5 carat trên tay hay có 10.000 USD trong ví, tôi cũng sẽ không đụng vào. Tôi không hiểu vì sao nữa”, Jonaris khai.

Hắn ta nói rằng hắn ta khá bối rối và không biết liệu có nên cướp đồng hồ của Phó Mã Hoàng ngay lần đầu tiên gặp hay không.

“Trong đầu tôi luôn có tiếng nói ngăn không cho tôi làm như vậy. Tôi đối mặt với vấn đề tương tự như thế vào ngày hôm sau”, Jonaris giải thích.

Ngày 19/4, Jonaris gọi điện thoại cho Phó Mã Hoàng, tự xưng mình là Nigel và nói rằng sẽ trả 1.000 USD để cô đến một buổi chụp ảnh của hắn. Đây là cái giá gấp đôi so với thù lao bình thường của cô.

Hắn ta yêu cầu cô có mặt tại trạm xe buýt Marina South đối diện với Superbowl Golf và Country Club vào khoảng 6 giờ 30 phút sáng.

Sáng ngày 20/4, Phó Mã Hoàng lái xe đến trạm xe buýt như được yêu cầu. Jonaris sau đó đã xuất hiện và nói rằng mình là Nigel, những người còn lại trong nhóm sẽ đến sau.

Phó Mã Hoàng đã đỗ xe và ngồi đợi ở trạm xe buýt cùng hắn ta. Lúc đó, Jonaris lấy búa ra, đập vào đầu Phó Mã Hoàng rồi kéo cô đến bụi cây cách trạm dừng xe buýt 10m.

Lúc này đây, Phó Mã Hoàng đã tỉnh lại và cố gắng đứng dậy. Nhưng Jonaris đã không buông tha, hắn ta tấn công vào phía sau đầu cô hơn 10 lần cho đến khi cô gục ngã một lần nữa.

Hắn ta cắt cổ tay nạn nhân, lấy chiếc đồng hồ rồi rời khỏi hiện trường. Jonaris nói hắn ta không thể kiểm soát chính mình, “giống như xem một bộ phim mà đang đeo nút bịt lỗ tai”, thấy miệng của Phó Mã Hoàng cử động như thể cô đang nói gì đó nhưng hắn ta không nghe được gì.

Hắn ta nói khi đó hắn cảm thấy “hạnh phúc và nhẹ nhõm”, cảm giác mà hắn chưa bao giờ có được. “Màu nước, màu trời, những chú chim, tất cả thật mới mẻ. Tôi cảm thấy tự do, phấn khích, như một khởi đầu mới. Mọi thứ thật quang đãng, nó trông như một ngày hết sức tuyệt vời”, Jonaris nhớ lại.

Gây án xong, Jonaris quay về nhà ngủ và thức dậy sau đó, nghĩ rằng mình đã gặp một cơn ác mộng. Hắn nói: “Nhưng khi tôi thấy chiếc đồng hồ trong ngăn kéo, tôi biết đó không phải là mơ mà là sự thật”.

Cuối ngày hôm đó, hắn ta mua một bó hồng đỏ, một ổ bánh và chai rượu whiskey đến nhà chứa Lorong 18 ở Geylang để cùng bạn gái mừng sinh nhật.

Hắn ta và Ngammoo đã tổ chức sinh nhật của cô ở đây cùng vài cô gái khác. Sau đó, Jonaris đưa người yêu chiếc đồng hồ.

Không khó để Ngammoo nhận ra đó không phải là chiếc đồng hồ mới. “Tôi hỏi nhưng anh ta trở nên giận dữ”, Ngammoo làm chứng trong phiên tòa. “Tôi nói tôi chỉ đùa thôi và cảm ơn anh ấy”.

Cái giá phải trả cho lòng tham của kẻ khoác lác, bốc phét

Không khó để cảnh sát phát hiện ra nghi phạm. Chồng của Phó Mã Hoàng là Lý Bàn Hưởng - một giáo viên 47 tuổi - đã nghe được vợ trao đổi qua điện thoại với ai đó vào một ngày trước vụ án mạng.

Anh nói với cảnh sát rằng anh đã nghe vợ nói đến một cái tên có vẻ như là Lai Joe, trong khi tên đúng là Nigel.

Trong khi đó, Jonaris lại bị bạn bè đặt biệt danh “Liar Joe” (Joe nói dối) bởi bản tính thích khoe khoang, khoác lác khi khoe với bạn bè rằng hắn ta đang hẹn hò một người điều hành hãng hàng không có mức lương 10.000 USD mỗi tháng, sống trong một căn hộ, dù sự thật là bạn gái của hắn ta kiếm tiền bằng cách quan hệ tình dục với 20 người đàn ông một ngày.

Hắn ta bảo được bạn gái tặng chiếc bật lửa trị giá 2.000 USD trong khi nó chỉ đáng giá 700 USD mà thôi. Hắn ta mượn tiền và chưa bao giờ trả mặc dù khi mượn luôn hứa sẽ hoàn trả sớm nhất.

Mỗi tháng, Jonaris chỉ kiếm được 2.000 USD nhưng hắn ta sẽ chi tiêu đến 4.000 USD, thăm bạn gái 4 lần / tuần. Lúc Jonaris còn sống ở nhà mẹ và bố dượng, hắn ta vẫn hay khoe khoang rằng mình giàu có, sống trong bungalow có hồ bơi.

Để chạy theo những gì mình bốc phét, hắn ta luôn chìm trong nợ nần, điều này đã dẫn đến hành vi phạm tội của mình, thẩm phán cho biết.

Bằng các biện pháp nghiệp vụ, cảnh sát đã khoanh vùng và xác đinh Jonaris chính là nghi can chính của vụ án giết người cướp đồng hồ này.

Hắn ta bị bắt vào ngày 23/4 tại nhà riêng. Suốt thời gian xét xử, Jonaris vẫn luôn xuất hiện với vẻ ngoài bảnh bao, mặc chiếc áo vest đen, khuy măng sét vàng và đôi giày đen láng bóng.

Luật sư biện hộ của Jonaris đưa ra lý do hắn ta gặp vấn đề tâm thần vào lúc sát hại Phó Mã Hoàng. Vị luật sư khẳng định Jonaris đã sử dụng cần sa liều cao, bị trầm cảm và ám ảnh về chiếc đồng hồ Rolex.

Tuy nhiên, công tố viên đã triệu tập bác sĩ tâm thần Chan Khim Yew và lời khai “tiếng nói trong đầu và ảo giác suốt lúc ra tay sát hại nạn nhân” đã bị bác bỏ.

Bác sĩ Chan Khim Yew nói rằng Jonaris có thể mô tả chi tiết diễn biến sự việc thì chắc chắn hắn ta không bị ảo giác.

Thậm chí, khi được hỏi đã nghĩ gì trước khi sát hại nạn nhân, Jonaris khai: “Tôi thấy sợ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ta lái xe đến báo cảnh sát rằng tôi đã cướp của. Nhưng tôi đã đi quá xa”.

Dù mẹ của Jonaris đã sử dụng chi tiết hắn ta bị bạo hành từ khi Jonaris còn bé, bác sĩ Chan Khim Yew nói rằng nó không tự động dẫn đến bất kì rối loạn tâm thần nào.

Ông cho biết, 6 tháng trước khi ra tay tàn ác, Jonaris thường xuyên đến thăm bạn gái, mua thức ăn cho bữa tối và cả hai cùng thưởng thức. Mỗi tuần 2 lần, Jonaris lại đến chỗ của bạn gái để quan hệ tình dục.

Hắn ta cũng khai với bác sĩ rằng hắn ta đã làm việc rất vất vả trong dự án phim cuối cùng của mình. Bác sĩ nhấn mạnh, nếu ai đó đang gặp vấn đề tâm lý nghiêm trọng, người đó không thể quan hệ tình dục và làm việc hăng say như thế.

Ngoài ra, theo bác sĩ, mặc dù luôn nghĩ về đồng hồ Rolex nhưng Jonaris không bị bất kì rối loạn tâm thần nào.

Ông nói rằng một người bị rối loạn ám ảnh sẽ không nghĩ đến việc làm thế nào để sở hữu thứ gì đó mà thay vào đó lại trải qua “những suy nghĩ kinh hoàng và vô nghĩa”.

Phó ủy viên công tố Jasbendar Kaur phát biểu với Tòa án Tối cao rằng kế hoạch phạm tội đã được vạch ra một cách cẩn thận và hắn ta còn đặt cho mình một cái tên giả để gọi cho nạn nhân.

Trong cuộc kiểm tra chéo, bà Kaur nhận thấy rằng Jonaris có ý định sát hại Phó Mã Hoàng sau khi cướp đồng hồ bởi không muốn nạn nhân báo với cảnh sát.

Đó là lý do vì sao Jonaris phải cắt cổ tay nạn nhân bằng dao rọc giấy để nạn nhân bị chảy máu đến chết.

Thêm vào đó, sau khi gây án, Jonaris đã quay lại nơi làm việc của mình vào khoảng 2 giờ 30 phút chiều, bình tĩnh điền đơn nhận tiền mặt và có được 600 USD.

Theo chuyên gia pháp y Triệu Tự Thành, phần trái hộp sọ của Phó Mã Hoàng đã bị gãy. Vết nứt dài nhất trên đầu nạn nhân dài khoảng 13cm.

Ông cho biết, cho dù lúc đó nhân viên y tế có mặt ở hiện trường ngay, họ vẫn không thể nào cứu sống nạn nhân được.

Ngày 8/12/1998, tòa tuyên án Jonaris phạm có tội và kết án tử hình bằng phương pháp treo cổ.

Với tất cả những hành vi phạm tội được tính toán một cách kỹ lưỡng, như lời thẩm phán nhận định “là hành động nhanh và có quá trình suy nghĩ”, cho thấy Jonaris kiểm soát được bản thân mình vào thời điểm gây án.
 
Chương 278: Vụ bắt cóc con trai phi công Lindbergh (p1)


Mất tích bí ẩn

Vào một buổi tối mưa lạnh ngày 1/3/1932 tại nước Mỹ, khi đó là khoảng 20h, Betty Gow – nữ y tá của gia đình Lindbergh bế cậu bé 20 tháng tuổi Charles lên phòng ngủ. Cô nhẹ nhàng đặt cậu bé vào trong nôi. Một lúc sau khi Charles ngủ say, nữ y tá yên tâm rời khỏi phòng.

Khoảng 21h30, Charles Lindbergh đang ngồi trong phòng đọc sách thì nghe thấy tiếng động lạ. Tuy nhiên, anh nghĩ rằng có đồ vật gì đó bị rơi trong nhà bếp nên đã không đi kiểm tra.

Hơn 22h, nữ y tá Betty Gow trở lại căn phòng để kiểm tra thì phát hiện cậu bé không còn nằm trong nôi và đã biến mất. Vội chạy đi hỏi Anne Lindbergh – mẹ của Charles thì được biết cô chỉ vừa mới bước ra khỏi phòng tắm.

Và rồi, ngài đại tá Lindbergh bất ngờ nghe thấy tiếng hét thất thanh của vợ. Charles Lindbergh ngay lập tức chạy lên phòng con trai và nhanh chóng hiểu ra mọi chuyện. Tìm kiếm khắp căn phòng, anh thấy một chiếc phong bì màu trắng trên bệ cửa sổ nhưng khi đó trong đầu vị đại tá chỉ nghĩ đến mục tiêu duy nhất là tìm con trai và chỉ kịp bỏ chiếc phong bì vào ngăn kéo rồi lấy súng và đi khắp nhà để tìm kẻ xâm nhập.

Gia đình Lindbergh sống trong một ngôi biệt thự ở Englewood, New Jersey, ngày cuối tuần, họ thường tới thị trấn Hopewell để nghỉ ngơi. Như mọi lần, họ sẽ rời Hopewell vào buổi sáng thứ 2. Nhưng hôm đó, cậu con trai nhỏ của họ bị cảm lạnh, cả hai quyết định ở lại đây thêm vài ngày thì sự việc xảy ra.

Cảnh sát vào cuộc

22h25, người quản gia vội vàng gọi điện cho cảnh sát thị trấn Hopewell và cả cảnh sát bang New Jersey. 20 phút sau, lực lượng cảnh sát do đại tá Norman Schwarzkopf dẫn đầu đã có mặt tại khu nhà để chỉ huy việc tìm kiếm. Khi họ tới nơi, Đại tá Lindbergh vẫn đang tay cầm khẩu súng trường lục soát khắp ngôi nhà.

Nhưng ngoài cảnh sát, các phương tiện truyền thông cũng kéo tới ngày một đông. Vì nó liên quan đến một người nổi tiếng nên lại càng thu hút nhiều sự chú ý của giới báo chí và truyền thông. Trước đó, do bị quan tâm quá mức nên để tránh bị làm phiền, Lindbergh đã xây một khu nhà trên một triền đồi xa xôi ở New Jersey, thuộc thị trấn nhỏ Hopewell.

Đại tá Norman Schwarzkopf vốn là một sĩ quan quân đội trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Với tài năng của mình, Ở tuổi 26, Norman đã được bổ nhiệm là người đứng đầu của cảnh sát bang New Jersey khi đó. Lindbergh hoàn toàn đặt niềm tin vào người đồng nghiệp Norman Schwarzkopf trong việc tìm kiếm con trai mình.

Cảnh sát điều tra khu vực bên ngoài ngôi nhà. Họ tìm thấy ba mảnh thang được thiết kế thô sơ nhưng khá thông minh bị vứt trong một bụi cây gần một con đường đất nhỏ dẫn tới khu nhà, bên cạnh có vết lốp xe. Vì thời điểm này, thời tiết mưa và ẩm ướt nên cảnh sát có thể dễ dàng nhận ra có chiếc xe nào đó đã dừng lại bên bụi cây một lúc.

Nhiều dấu chân cũng được phát hiện trên nền đất ẩm ướt bên dưới cửa sổ. Cảnh sát nhận định có thể hung thủ đã dùng thang để tiếp cận với phòng ngủ của cậu bé.

Sau đó, rất đông lực lượng cảnh sát tìm kiếm xung quanh. Nhưng do hung thủ đã chuẩn bị khá kỹ càng nên không hề để lại dấu vết. Cảnh sát chỉ tìm thấy dấu vân tay của vợ chồng Lindbergh, đứa bé 20 tháng tuổi và nữ y tá Betty Gow, gây khó khăn cho cơ quan điều tra.

Lúc này, Lindbergh chợt nhớ đến chiếc phong bì màu trắng mà anh tìm thấy bên cửa sổ phòng con trai. Lập tức Lindbergh mở ngăn kéo và xé phong bì. Bên trong, một bức thư với những dòng chữ nguệch ngoạc hiện ra. Càng đọc, Lindbergh càng nhận ra cậu con trai của mình thực sự đang gặp nguy hiểm.

Vụ bắt cóc manh động

Trước khi chiếc phong bì được mở, cảnh sát đã cẩn thận lấy dấu vân tay để lại trên đó. Cẩn thận cắt chiếc phong bì, bên trong dần hiện ra tờ giấy nhỏ được viết mực xanh. Bức thư đòi tiền chuộc bằng tiếng Anh, có nhiều lỗi chính tả, thậm chí sai cả về cấu trúc ngữ pháp với nội dung như sau:

"Thưa ngài đại tá! Hãy chuẩn bị 50.000 USD, 25.000 USD loại tiền 20 USD, 15.000 USD loại tiền 10 USD và 10.000 USD loại tiền 5 USD. Sau 2 đến 4 ngày, chúng tôi sẽ thông báo cho ông địa điểm giấu thằng bé. Chúng tôi cảnh báo trước rằng, bất cứ thông báo nào với cảnh sát cũng sẽ khiến con trai ông gặp nguy hiểm."

Ở góc phía dưới, góc bên phải bức thư có vẽ hai hình tròn được lồng vào nhau. Giữa hai vòng tròn được tô màu đỏ, có ba lỗ bấm trên bức thư. Cảnh sát không hề tìm thấy bất kỳ dấu vân tay trên phong thư đòi tiền chuộc. Họ tin rằng tên bắt cóc đã đeo găng tay và bọc đế giày, nhằm tránh để lại manh mối. Ngoài ra, theo nhận định của cảnh sát, bức thư này được viết bởi một người gốc Đức.

Lúc này, vợ chồng vị đại tá thực sự hoảng loạn. Tuy muốn cảnh sát bí mật điều tra để tránh "rút dây động rừng" nhưng mọi việc lại không như Lindbergh mong đợi bởi sự nổi tiếng của mình. Ngay trong đêm đó, các đài phát thanh và cả các tờ báo địa phương đã dồn dập đưa tin về vụ bắt cóc. Các tờ báo thậm chí còn đặt cả trung tâm tạm thời ngay tại một khách sạn nhỏ ở Hopewell để theo dõi diễn biến cuộc điều tra. Dư luận khắp nơi đều bàn tán về vụ bắt cóc manh động này.

Những giả thuyết đầu tiên

Vì mức độ nghiêm trọng của sự việc và vụ án có liên quan tới người anh hùng dân tộc nước Mỹ nên Tổng thống Herbert Hoover lúc đó còn đích thân đến thăm hỏi tình hình. Cục Điều tra Liên bang (tiền thân của lực lượng FBI) được ủy quyền để điều tra vụ án.

Có nhiều giả thuyết được đưa ra. Thứ nhất, những kẻ bắt cóc là những kẻ chuyên nghiệp. Thứ hai, những kẻ bắt cóc khá quen với ngôi nhà, vị trí căn phòng nơi cậu bé ngủ. Đại tá Schwarzkopf lại cho rằng những kẻ bắt cóc này không chuyên và có thể là băng nhóm tội phạm địa phương. Số tiền chúng yêu cầu khá khiêm tốn so với gia đình Lindbergh.

Song song với việc điều tra, các quan chức ở New Jersey đã công bố treo thưởng trị giá 25.000 USD, gia đình Lindbergh cũng treo giải thưởng trị giá 50.000 USD, nếu tìm thấy manh mối của vụ án.

Ngày 4/3, bức thư đòi tiền chuộc lần thứ hai được gửi đến. Lindbergh bị cảnh cáo về sự tham gia của cảnh sát trong vụ này, và thông báo rằng vì cảnh sát đã nhúng tay vào vụ này nên số tiền chuộc đã được nâng lên mức 70.000 USD. Trên bức thư này vẫn có biểu tượng những vòng tròn được lồng vào nhau. Những ngày sau đó, những lá thư vô danh cứ lần lượt được gửi đến nhà Lindbergh.

Trong khi Lindbergh và những đồng nghiệp của mình đang gấp rút điều tra thì đại tá Lindbergh có những hành động riêng của mình bởi quá sốt ruột về sự biến mất của cậu con trai.

Lúc này, ông John F. Condon - một giáo viên 72 tuổi đã nghỉ hưu ở New York cũng là một trong những người rất quan tâm đến vụ án của cậu bé Lindbergh. Ông đã viết một lá thư cho một tờ báo địa phương rằng ông muốn tình nguyện làm trung gian giữa bọn bắt cóc với gia đình vị đại tá.

Đáng ngạc nhiên là chỉ 3 ngày sau đó, ông Condon nhận được một lá thư từ những người tự xưng là kẻ bắt cóc, yêu cầu ông giữ vị trí trung gian giữa họ và gia đình Lindbergh.

Cuộc gặp tại nghĩa trang

Ngay khi được yêu cầu làm trung gian, John F. Condon đã đăng một tin quảng cáo thông báo cho nhưng kẻ bắt cóc biết số tiền đã được chuẩn bị và ông cũng đã sẵn sàng..

Ngày 12/3/1932, Condon nhận được một lá thư chỉ dẫn được viết tay do một người lái taxi gửi đến. Condon đã sắp xếp một cuộc gặp với một trong những kẻ bắt cóc tại nghĩa trang Woodlawn, Bronx.

Tại cuộc gặp, vì trời quá tối nên ông không thể nhìn rõ mặt nghi phạm mà chỉ biết rằng tên bắt cóc nói giọng Đức. Condon cho biết hắn tự xưng là "John" và tuyên bố mình là thành viên của một băng đảng người Scandinavia. Hắn nói rằng đứa trẻ đang ở trên một chiếc thuyền và sẽ trả lại nó khi lấy được tiền chuộc.

Tuy nhiên Condon tỏ ý nghi ngờ và yêu cầu được nhìn thấy cậu bé trước khi giao tiền. Tên bắt cóc hứa sẽ gửi cho Condon bức ảnh chụp cậu bé đang ngủ.

Vài ngày sau, đúng như lời hứa, Condon đã nhận được bức ảnh chụp cậu bé Charles đang ngủ và bộ đồ ngủ của cậu được gửi qua đường bưu điện. Vợ chồng vị đại tá khẳng định đó là đồ của con trai mình. Ngay sau đó, Condon liền đăng tin lên báo: "Hiện tại tiền đã sẵn sàng. Sẽ không có cảnh sát đi theo. Tôi sẽ đến một mình như lần trước".
 
Chương 279: Vụ bắt cóc con trai phi công Lindbergh (p2)


Phi vụ lừa đảo

Gia đình Lindbergh và cảnh sát đã ủy quyền cho Condon dàn xếp khoản tiền chuộc. Khoản tiền chuộc được đặt trong một chiếc hộp được thiết kế đặc biệt để có thể dễ dàng nhận diện trong tương lai. Số sê-ri của mỗi tờ tiền cũng đều đã được ghi lại để tiện theo dõi sau này.

Đêm 2/4/1932, Lindbergh lái xe đưa Condon đến vị trí đã hẹn, cũng vẫn là một nghĩa trang. Condo một mình vào khu nghĩa trang trong khi Lindbergh đợi trong xe với một khẩu súng lục.

Đi một vòng quanh khu nghĩa trang, không thấy ai xuất hiện như đã hẹn, Codon quay lại cổng nghĩa trang nơi đại tá Lindbergh đang đợi thì bất ngờ có một giọng nói vang lên, cả Condon và đại tá Lindbergh đều nghe thấy. “Này ông kia, hãy qua bên này.”

Condon quay lại phía trong nghĩa trang nhưng không có ai mà chỉ có một tờ giấy hướng dẫn. Condon làm theo hướng dẫn đi sâu vào nghĩa trang. Một người đàn ông đang đứng sẵn ở đó.

Condon cùng người đàn ông lạ mặt trao đổi với nhau về khoản tiền chuộc. Condon quay lại xe để lấy tiền và trao cho hắn đủ số tiền yêu cầu để nhận được một tờ giấy hướng dẫn đến nơi giữ cậu bé. Theo đó, họ biết được cậu bé Lindbergh đang trên một con thuyền có tên là Nelly. Nghi phạm thông báo rằng cậu bé đang được hai người phụ nữ chăm sóc cẩn thận và không cung cấp thêm thông tin nào khác.

Người đàn ông lạ biến mất khỏi nghĩa trang. Condon quay trở lại xe của đại tá Lindbergh rồi cả hai lao xe đi trong đêm, sau khi đã thông báo cho cảnh sát. Tuy nhiên, khi đến nơi, chẳng có con thuyền nào như chúng đã nói và cậu bé Charles cũng không thấy đâu. Họ nhận ra rằng đây chỉ là một trò lừa đảo.

Trong khi vụ án rơi vào vô vọng thì ngày 12/5, một tài xế vô tình phát hiện thi thể một bé trai. Kết quả khám nghiệm cho thấy đó chính là cậu bé Lindbergh. Thi thể được tìm thấy tại khu rừng ngoại ô thành phố Trenton, bang New Jersey, cách nhà đại tá Lindbergh khoảng 20 km.

Kết quả bất ngờ

Sau khi tìm thấy thi thể của con trai vị đại tá, các chuyên gia lập tức bắt tay vào khám nghiệm tử thi. Kết quả đã gây bất ngờ với nhiều người. Theo đó, nạn nhân đã chết được khoảng 2 tháng, nghĩa là chỉ vài ngày sau khi vụ bắt cóc xảy ra.

Cậu bé bị đánh mạnh vào đầu, hộp sọ có một lỗ thủng lớn và một số bộ phận cơ thể không còn nguyên vẹn. Bác sĩ kết luận nguyên nhân tử vong là do cú đánh vào đầu. Không có bất cứ dấu vết nào liên quan đến hung thủ được tìm thấy tại hiện trường nên cảnh sát nhận định nạn nhân đã chết trước khi bị mang đến đây.

Tổng hợp lại tất cả thông tin, cảnh sát đặt ra giả thiết hung thủ có thể rất quen với gia đình Lindbergh, biết rõ thói quen của họ, thậm chí còn biết rằng tuần đó họ sẽ không trở về vào ngày 1/3 do con trai bị ốm. Ngoài ra, chúng lại còn biết chính xác phòng của nạn nhân.

Từ đó, mọi nghi ngờ tập trung vào Violet Sharpe - người giúp việc của gia đình Morrow – ông bà ngoại của nạn nhân. Violet là một trong những người biết rõ việc thay đổi trong kế hoạch của gia đình Lindbergh. Ngoài ra, Violet cũng có một số hành động bất thường vào ngày xảy ra vụ bắt cóc. Người phụ nữ này tỏ ra lo lắng và đặc biệt tối hôm đó, Violet có ra ngoài cùng với một người đàn ông. Nhưng khi được hỏi, cô lại không thể nói được đó là ai.

Bị điều tra trong gần 2 tháng sau đó, Violet có những dấu hiệu bất thường về tâm lý. Một ngày, khi các thám tử cho biết sẽ tới gia đình Morrow hỏi Violet một số thông tin khác, Violet nói với những người khác rằng không thể chịu thêm áp lực này và một lúc sau, gia đình Morrow phát hiện Violet đã chết trong phòng do uống thuốc tự tử.

Cái chết của Violet khiến nhiều người nghĩ rằng đây chính là một trong những thành viên trong băng nhóm bắt cóc và sát hại con trai nhà Lindbergh. Tuy nhiên, một số nhân chứng sau đó xác nhận cho bằng chứng ngoại phạm của cô vào hôm xảy ra vụ việc.

Lộ diện nghi phạm

Không còn manh mối nào khác, cảnh sát bắt đầu theo dõi số sê-ri của những đồng tiền chuộc mà Condon đã giao cho kẻ bắt cóc. Một cuốn sách nhỏ có chứa các số sê-ri trên các đồng tiền đã được cung cấp cho các doanh nghiệp và ngân hàng.

Không mất nhiều thời gian, cảnh sát nhận thấy các đồng tiền bắt đầu xuất hiện rải rác. Trong khoảng thời gian 30 tháng, cảnh sát nhận thấy rằng nhiều đồng tiền trong khoản tiền chuộc xuất hiện với tần suất dày đặc ở phía đông của Manhattan. Đặc biệt hơn nữa, chúng đã được chi tiêu dọc theo tuyến đường tàu điện ngầm Lexington Avenue.

Ngày 15/9/1934, một người bán hàng tại trạm xăng đã nhận được tờ 10USD có số sê-ri được lưu ý. Vị khách hàng sau đó lái xe đi nhưng người bán xăng đã cẩn thận ghi lại biển số xe.

Cuối cùng, sau nhiều ngày tìm kiếm, cảnh sát đã biết được người khách hàng tên là Bruno Richard Hauptmann, một người nhập cư trái phép tới sống ở vùng Bronx được hơn 10 năm và hiện làm nghề thợ mộc. Điều đặc biệt, người đàn ông này nói giọng Đức.

Khi cảnh sát tiếp cận, trong ví Hauptmann vẫn còn một tờ giấy bạc 20 USD cũng có số sê-ri nằm trong khoản tiền chuộc. Hauptmann lập tức bị bắt và thẩm vấn nhưng một mực khẳng định mình không có bất kỳ liên quan nào tới vụ bắt cóc và sát hại nạn nhân nhỏ tuổi.

Vật chứng khó chối cãi

Tại nhà của nghi phạm, các điều tra viên đã không mất nhiều thời gian để tìm thấy hơn 14.000 USD tiền mặt giấu trong gara có số seri trùng với số tiền mà đại tá Lindbergh đã giao cho tên bắt cóc.

Ngoài ra, nhiều chứng cứ khác cũng được thu lại bao gồm số điện thoại và địa chỉ nhà ông John F. Condon được viết lên tường bằng bút chì, một cuốn sổ tay có bản vẽ phác thảo chiếc thang mà sau khi so sánh, cảnh sát nhận thấy nó tương tự như chiếc thang mà hung thủ để lại hiện trường nhà đại tá Lindbergh.

Khám xét kỹ hơn, cảnh sát cũng thu được trong xưởng gỗ của Hauptmann một vài thanh gỗ cùng loại với chiếc thang ấy, kèm theo đó là một đôi găng tay, hai cái túi lớn bằng vải có dính đất mà theo nhận định nghi phạm đã sử dụng để bọc vào giày nhằm xóa dấu vết.

Lục lại hồ sơ của nghi phạm, các nhà điều tra nhận thấy Hauptmann nhập cư bất hợp pháp vào Mỹ năm 1923 khi 23 tuổi. Trước đó, năm 17 tuổi, nghi phạm này từng tham gia Thế chiến thứ nhất. Sau chiến tranh, Hauptmann đã có thời gian đi tù vì trộm cắp tài sản. Trong phi vụ trộm cắp của mình, Hauptmann sử dụng một chiếc thang và cũng để lại hiện trường. Sau khi nhập cư vào Mỹ, năm 1925 Hauptmann kết hôn với một người hầu bàn và làm nghề thợ mộc.

Những lời khai mâu thuẫn

Khi bị bắt để thẩm vấn, Hauptmann liên tục phủ nhận những cáo buộc dành cho mình. Nghi phạm này khai rằng số tiền đó mình nhận từ một đối tác thân thiết tên là Isador Fisch, nhưng Fisch đã quay lại Đức vào tháng 12/1933 và đã chết vì bệnh lao sau đó vài tháng. Căn nhà mà Hauptmann đang ở là nhà của Isidor Fisch từng thuê sau đó để Hauptmann tiếp tục thuê lại và khi Hauptmann dọn về thì tất cả những thứ cảnh sát tìm thấy đã có sẵn ở đó.

Giải thích về địa chỉ nhà của ông Condon, Hauptmann cho biết: “Khi vụ bắt cóc xảy ra, tôi có đọc thông tin trên báo và cũng giống như nhiều người dân khác, tôi quan tâm đến nó nên đã ghi lại địa chỉ của ông Condon”. Tuy nhiên, điều Hauptmann không lý giải được là tại sao lại có số điện thoại của Condon vì báo chí không hề công khai số máy này. Về bản phác thảo chiếc thang trong cuốn sổ tay, Hauptmann giải thích: “Có thể một đứa trẻ của nhà Isidor Fisch đã vẽ nó. Khi ông Fisch về Đức, họ vứt nó lại”.

Ngoài ra, dù đã hơn hai năm kể từ lần nghe thấy giọng nói của tên tống tiền ở nghĩa trang, nhưng cả đại tá Lindbergh và ông Condon đều vẫn nhớ và xác nhận giọng nói của Hauptmann chính là giọng nói mà mình đã từng nghe.

Cuối cùng, Hauptmann được yêu cầu lấy mẫu chữ viết tay. Với những bức thư đòi tiền chuộc, 8 chuyên gia về chữ viết tay được mời giám định và cả 8 người đều kết luận: “Do cùng một người viết ra”.

Với tất cả những bằng chứng này, thẩm phán đã quyết định Hauptmann sẽ bị dẫn độ về New Jersey, phải đối mặt với việc bị kết án bắt cóc và giết cậu bé Lindbergh. Thời điểm dẫn độ là gần nửa đêm nhưng trên suốt quãng đường ấy, những tiếng la ó của rất nhiều người dân đứng hai bên đường gần như không dứt.

~_~_~_~_~_~_~_~

XIN THÔNG BÁO: Nếu bạn là người đã theo dõi "Những vụ án trên thế giới" từ những ngày đầu thì mình xin phép sửa lại 1 số phần. Như sau:

- bài đăng số: "53.Tên sát nhân điển trai- Ted Bundy(p5)" đã được sửa lại thành "53.Bát súp vạch trần tội ác giết chồng của nữ y tá và nhân tình".

- bài đăng số: "92.Vụ bát có nổi tiếng trên thế giới" đã được chuyển thành "92.Góa phụ bên chiếc khăn đỏ".

Nếu bạn nào đã từng đọc hai chương này thì sẽ biết để đọc lại, về bài số 53 là do mình đã đăng thừa nên mình xóa và bổ sung bằng bài khác. Về bài số 92 thì mình sửa lại để bổ sung vì bị thiếu tình tiết, hiện bài này là bài đăng số 278 và 279.

Mong mình nói dễ hiểu ạ, xin lỗi vì đã làm phiền và cám ơn vì bạn đã theo dõi
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom