Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60: Bí mật chôn dưới gốc xoài


Ra đến ngoài vườn, đứng trước gốc xoài, ông Vọng chỉ xuống đất, chỗ con Vàng đêm qua đào bới mà ông đã thấy trong mơ rồi nói:

- - Là...là chỗ này thầy ạ....?

Thầy Lương gật đầu, Sửu hỏi:

- - Vậy là đào chỗ bác Vọng vừa chỉ phải không ạ, chuyện đào bới bác Vọng với thầy Lương cứ để cho em.

Nói đoạn Sửu toan dùng cuốc bổ thẳng xuống đất, thầy Lương ngăn Sửu lại rồi khẽ nói:

- - Khoan đã, đồ vật chôn dưới gốc xoài có thể là đồ dễ vỡ, cần phải đào nhẹ nhàng. Trước mắt cứ dùng xẻng đào nhẹ lớp đất mặt đi đã. Rồi xuống đến đâu, dùng bay đào tiếp tới đấy.

Sửu vâng dạ rồi từ từ đào, vừa đào Sửu vừa hỏi:

- - Ủa mà dưới này có chôn cái gì vậy bác Vọng...? Đừng nói với em là các cụ nhà bác để lại của đấy nhé....Hì hì.

Ông Vọng đáp:

- - Của cải gì đâu, thực ra thì tôi cũng đâu biết dưới này chôn thứ gì. Nằm mơ nằm mộng nên đào thử xem giấc mơ có ứng nghiệm hay không thôi. Chứ mà có của thì các cụ nói từ lâu rồi.

Đất trong vườn đều là đất thịt nên khá dễ đào, vừa nhìn Sửu hất lên từng mảng đất, ông Vọng lại càng hồi hộp, ông cũng lo lắng không biết liệu thực sự dưới gốc xoài có chôn thứ gì hay không...? Cái hố có bán kính khoảng 60cm đã được Sửu đào sâu xuống độ 30cm nhưng vẫn chưa thấy gì cả. Thầy Lương bảo Sửu dùng xẻng đào nhẹ thôi, nếu như chạm phải vật gì cứng thì lập tức dừng lại.

Đào sâu thêm 50cm nữa là độ sâu của cái hố cũng đã gần 1m, ông Vọng thở dài khẽ nói:

- - Chẳng lẽ không có gì thật sao...?

Sửu hỏi:

- - Sắp được 1m rồi đấy bác ạ...? Có cần đào sâu xuống nữa không...? Bập cả vào rễ cây rồi đây này.

Chưa thấy ai trả lời, Sửu tặc lưỡi rồi ấn cái xẻng xuống định đào thêm một lớp nữa thì......

" Cục "

Lưỡi xẻng mới chỉ được ấn xuống thêm tầm 10cm thì chạm trúng thứ gì đó cứng như đá. Sửu cười lớn:

- - Ha ha ha....Hình....hình như là....thấy rồi thì phải.....Bác Vọng ơi...

Nói rồi Sửu rút xẻng lên, xong lại từ từ ấn xuống....

" Cục "

Thêm một lần nữa, khi lưỡi xẻng chạm vào vật cứng thì phát ra âm thanh va đập. Sửu không dùng xẻng nữa mà lấy bay tiếp tục đào bới. Ông Vọng và thầy Lương đứng chờ đợi bởi cái hố không quá to, một mình Sửu ngồi xuống đào bới là kín rồi. Một lúc sau, khi đất được đào bớt đi, dưới hố từ từ hiện ra thứ cứng cứng mà lưỡi xẻng chạm vào khi nãy. Nó không phải đá, thứ này có bề mặt nhẵn, càng đào rộng ra xung quanh thì càng lộ ra đó chính là một cái bình bằng gốm nằm hơi nghiêng, rễ của cây xoài lan rộng ra xung quanh nhưng tuyệt nhiên không có cái rễ nào làm tổn hại đến cái bình cả.

Ông Vọng vừa mừng vừa hồi hộp, vậy là cái bình mà bố ông nói trước khi mất đã được tìm thấy. Nhưng ông hồi hộp bởi không biết trong bình có chứa thứ gì. Để cho cẩn thận, thầy Lương kêu ông Vọng đi lấy một thùng nước, Sửu vừa dùng tay hớt đất vừa khẽ tưới nước vào cho dễ đào. Chỉ một lúc sau nữa, dưới hố hiện rõ ra đó là một cái bình bằng gốm đỏ, dài độ 40cm, cổ rộng, miệng bình đã bị đất vườn bịt kín bởi đây là loại bình không có nắp.

Đào được cái bình khá nguyên vẹn nhưng trải qua một khoảng thời gian quá lâu nên thân bình cũng đã xuất hiện một vài vết nứt, có chỗ còn bị sứt mẻ, Sửu ôm chặt rồi bê cái bình lên cười lớn:

- - Ui...ui...khá là nặng đấy bác Vọng ạ.

Thầy Lương cười rồi đáp:

- - Nặng vậy sao...? Nhưng chắc có lẽ là do đất nén chặt hết vào trong bình thôi. Nhìn miệng bình bị đất bít kín rồi kìa.

Nhìn sang ông Vọng thầy Lương nói tiếp:

- - Cuối cùng thì cũng đã tìm thấy cái bình, nhưng không biết đồ vật trong bình liệu có nguyên vẹn như cái bình hay không...? Bình này không có nắp đậy, bao năm qua đất đã lấp kín miệng bình. Nếu không phải kim loại thì e là đã mục nát hết.

Thầy Lương nói làm cho ông Vọng cũng lo, bởi nếu bố mẹ ông chôn bình thì chắc chắn là khoảng thời gian sau này. Bởi năm ông 10 tuổi cây xoài mới được trồng, giả dụ khi cây xoài trồng được 5-10 năm sau, lúc đó bố mẹ ông Vọng mới chôn cái bình này xuống thì tính đến nay ít nhất cũng phải 30 năm rồi. Nhưng mấy chục năm trôi qua, cái bình vẫn nguyên vẹn, ông Vọng cầu mong thứ gì đó được đặt trong bình cũng như vậy.

Đất đã lấp kín cả miệng bình, chắc chắn bên trong bình cũng bị đất phủ đầy. Giờ muốn lấy được đồ vật ra không phải đơn giản. Thầy Lương dùng nước rửa sạch bề ngoài thân bình. Ông xem xét thật kỹ lưỡng rồi nói:

- - Đây chỉ là loại gốm đỏ bình thường. Cái bình này không phải bình quý, chỉ là loại bình thường mà thôi. Giờ muốn lấy đồ trong bình ra thì bắt buộc phải dùng nước rửa trôi hết đất bùn lẫn bên trong bình ra. Như vậy chỉ sợ càng làm hư hại đến đồ bên trong nếu có.

Ông Vọng hỏi:

- - Vậy phải làm cách nào hả thầy..?

Sửu nhanh nhảu:

- - Nếu như cái bình này chỉ là bình bình thường, chi bằng ta đập vỡ nó ra, như vậy không phải dùng nước mà nếu có đồ bên trong lấy nó cũng dễ.

Thầy Lương khẽ gật đầu:

- - Đúng là tôi cũng đang nghĩ giống như cậu Sửu, nhưng dù sao đây cũng là đồ vật được hai cụ chôn cất, bác trưởng làng tính thế nào...?

Ông Vọng có chút tiếc nuối, đúng là cái bình sau khi được rửa sạch thì nó cũng giống như loại bình mà ông Vọng có trong nhà. Ông Vọng không mơ tưởng gì sẽ đào được vật quý giá, nhưng đúng như thầy Lương nói, cái bình là thứ mà bố mẹ ông chôn giấu. Ông cũng hiểu, muốn giữ cả cái bình, mà lại muốn lấy đồ bên trong không hư hại là điều không dễ. Hơn nữa cái bình cũng đã nứt vỡ ít nhiều.

Ông Vọng nói:

- - Vậy thì hãy để tôi đập vỡ cái bình.

Bê cái bình vào trong nhà, trải lớp bạt bên dưới nền, cả thầy Lương, Sửu, ông Vọng đều hồi hộp chờ xem bên trong bình có chứa thứ gì.

" Cốp....Cốp....Cốp "

Ông Vọng dùng búa đập lực vừa đủ vào thân bình, sau vài nhát đập, vỏ bình vỡ ra từng mảng. Đúng như lời thầy Lương, mặc dù đã đập vỡ bình, vậy mà kể cả khi những mảng gốm đỏ bị vỡ ra, đất trong bình vẫn giữ nguyên hình dạng của cái bình. Do bình được chôn dưới đất mấy chục năm, lại không có nắp đậy nên đất két cứng cả bình cũng không phải chuyện lạ.

Lúc này thầy Lương nói:

- - Được rồi, giờ để tôi.

Nói rồi, thầy Lương lấy một con dao nhỏ, ông tỉ mỉ, nhẹ nhàng tách từng mảng đất cho đến khi phía sau lớp đất ấy lộ ra một thứ gì đó. Khẽ chạm vào, thầy Lương mỉm cười:

- - Ra là giấy dầu, nếu được bọc giấy dầu thì đồ vật bên trong này không lo bị phân hủy nữa rồi.

Dựa theo lớp giấy dầu, thầy Lương dần dần loại bỏ lớp đất phủ kín bí mật mà bố mẹ ông Vọng đã giấu kín suốt mấy chục năm qua. Rốt cuộc thì họ đã che giấu bí mật gì mà dù kể cả khi gần đất xa trời, họ vẫn nhất mực không nói.

Ông Vọng, Sửu hồi hộp nhìn theo tay thầy Lương mà không dám thở mạnh, bởi họ sợ chỉ một làn hơi thổi qua thôi cũng khiến cho mọi thứ biến mất.

Khẽ đặt bọc giấy dầu lên trên bàn, thầy Lương nhìn ông Vọng nói:

- - Có lẽ trong này chứa đựng tất cả những gì mà hai cụ suốt mấy chục năm qua không thể nói. Hoặc họ đã từng muốn nói nhưng rồi lại thôi. Tôi không biết liệu rằng chúng ta, những người ở đây khi đào thứ này lên là phúc hay họa. Nhưng đối với bác trưởng làng chắc chắn sẽ là một sự thay đổi lớn cả về vận mệnh lẫn cuộc sống về sau.

Ông Vọng run run giọng:

- - Thầy....thầy.....mở....nó ra đi.....

Trong khoảng khắc hồi hộp đến tột cùng ấy, Sửu nghe nãy giờ cũng chưa hiểu ý của thầy Lương là gì bởi chuyện ông Vọng là máu mủ của họ Cao cho đến nay chỉ có thầy Lương biết. Nhưng nghe qua thì Sửu thấy chắc chắn thứ được bọc sau lớp giấy dầu này cực kỳ quan trọng. Nó khiến Sửu nhớ tới tấm phổ truyền đào được ngoài Bãi Hoang. Tất cả đang hồi hộp nhìn thầy Lương tách bỏ từng lớp giấy dầu thì bên ngoài cổng nhà ông Vọng có tiếng phụ nữ gọi ầm ỹ:

- - Bớ anh Sửu ơi.....Sửu ơi, anh có ở trong đó không đấy......Sửu ơi.

Sửu nhìn thầy Lương với ông Vọng bằng vẻ mặt tiu ngỉu:

- - Thôi chết rồi, con vợ em nó gọi.....Em bảo nó sang biếu thầy với bác hai con chim cu xong về ngay mà quên béng mất. Giờ nó đi tìm đấy......Thôi, thôi....em về đây....Kẻo để nó đứng ngoài gọi lại ảnh hưởng đến thầy với bác Vọng.

Nói rồi Sửu vội đứng dậy, nhưng vẫn ra chiều tiếc nuối bởi chưa được nhìn thấy bên trong đó có thứ gì. Nhưng tính Sửu là vậy, không tham lam, sân si......Sửu chạy ra sân rồi cười hềnh hệch:

- - Đây, tôi đây.....Bu nó đợi tí tôi về ngay ấy mà....Hề hề hề....

Bầu không khí nặng trĩu, hồi hộp đột nhiên bị phá vỡ bởi hai vợ chồng Sửu.....Cả thầy Lương cùng ông Vọng khẽ lắc đầu rồi khẽ cười. Như vậy cũng khiến cho ông Vọng thấy thoải mái hơn......Trong nhà chỉ còn 2 người, thầy Lương bóc lớp giấy dầu, khi đồ vật bên trong lộ ra, thầy Lương khẽ nói:

- - Tất cả những thứ này là dành cho bác trưởng làng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61: Quá khứ bi thương


Run run đôi bàn tay, ông Vọng đưa lên trên mặt bàn, sau khi thầy Lương bóc tách hết những lớp giấy dầu được bọc rất kỹ lưỡng. Trải ra mặt bàn lúc này là những đồ vật được chôn giấu: một tấm lụa màu vàng, một bộ quần áo trẻ nhỏ màu đỏ, một sợi dây chuyền bằng vàng ròng với mặt đá hồng ngọc hình vuông quanh viền cũng được bọc vàng.....và một bức thư viết tay, bên ngoài phong thư ghi rõ " Gửi Vọng, con trai của bố mẹ ".

Ông Vọng khẽ chạm vào tấm lụa vàng, tấm lụa rất mịn, mềm mại, sờ vào có cảm giác ấm áp, nhẹ nhàng, bay bay. Tiếp đó ông Vọng cầm bộ quần áo trẻ nhỏ lên, chất liệu của bộ quần áo cũng tương tự như tấm lụa vàng, có điều hơi dày hơn một chút xíu, từ đường may, mũi chỉ, họa tiết, tất cả đều được thêu thùa bằng tay. Trên ngực trái của áo có hai chữ Trung Quốc.

Ông Vọng chưa kịp hỏi thì thầy Lương đã nói:

- - Hai chữ đó là "高轮" chính là Cao Luân, tên của bác trưởng làng. Loại lụa mà bác đang cầm trên tay chính là lụa Hàng Châu, lụa được dệt bằng tơ " tự nhiên " loại tơ này được tạo ra bởi một loại sâu bướm, sống trong tự nhiên chứ không phải được nuôi như dâu tằm. Nói cách khác, đó là một loại lụa quý hiếm, là một thứ đồ xa xỉ chỉ dành cho vua chúa, những người cực kỳ giàu và có địa vị xã hội từ thời xa xưa. Chỉ nhìn vào tấm lụa và bộ quần áo đó thôi, đủ biết Cao Gia lúc còn tồn tại có cuộc sống không khác gì những thân thích, hoàng tộc, họ có một cuộc sống phú quý, giàu sang.

Tiếp đến là sợi dây chuyền bằng vàng, thầy Lương tiếp:

- - Sợi dây chuyền này từ kiểu cách cho đến hình dáng, mặt ngọc thì đây là trang sức dành cho người đàn ông. Có lẽ đây chính là kỉ vật mà Cao Lãm, cha của bác trưởng làng đã để lại.

Còn lại thứ cuối cùng là bức thư, trong số những đồ vật này, bức thư chính là vật quan trọng nhất. Nét chữ viết bên ngoài ông Vọng nhìn thấy rất quen, chính là nét chữ của mẹ ông. Ngày còn nhỏ, ông được mẹ dạy viết, dạy đọc, ông nhớ mẹ ông là người viết chữ rất đẹp, đó cũng là điều mà ông được thừa hưởng từ mẹ, và là điều ông tự hào mãi cho đến tận sau này, khi ông đi học, rồi cả khi đi lính nữa. Mỗi khi có ai đó muốn viết gì họ đều tìm đến ông Vọng, những năm chiến tranh, không phải ai cũng có điều kiện được đi học, nhưng bố mẹ ông Vọng thì cố gắng lo cho ông Vọng đến từng con chữ. Chính xác đây là nét chữ của mẹ ông.

Ông Vọng khẽ cầm bức thư lên rồi hỏi:

- - Tôi....tôi mở nó...ra để....đọc được chứ....?

Thầy Lương gật đầu:

- - Tất nhiên là được rồi.....Bức thư được viết, nhưng hai ông bà lại đem chôn, chắc hẳn quãng thời gian mấy chục năm qua họ đã phải khổ tâm, dằn vặt lắm. Dù sao đây cũng là duyên số, cũng là ý trời. Vật đã đào lên, bác trưởng làng nên đọc.

Nhờ những lớp giấy dầu bọc kín kẽ, lại thêm việc chôn bình không quá sâu nên mọi thứ đều gần như được bảo quản nguyên vẹn. Mở phong thư, ông Vọng cẩn thận lấy bức thư viết tay bên trong ra rồi khẽ đọc:

" Vọng, con trai của bố mẹ, hôm nay là ngày con nhập ngũ, cũng chính là ngày bố mẹ nhận con từ tay ân nhân, chính là mẹ ruột của con. Mới đó mà đã thấm thoát 18 năm rồi. Khi ấy con chỉ là một đứa trẻ đỏ hỏn còn đang khóc đói đòi sữa. n nhân của chúng ta khi ấy ôm con trong một tấm vải màu trắng, cuộn tròn lại chỉ để hở ra một chút phần đầu, tấm vải trắng đó nhuốm đầy máu của ân nhân. Ngày hôm đó là ngày đen tối, độc ác nhất của những người dân làng Văn Thái, nhưng cũng là ngày mà chúng ta được gặp con, được trả ơn ân nhân bằng một cách đau đớn nhất, nhìn ân nhân liều mình bảo vệ con cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, hình ảnh đó bao năm qua vẫn luôn hiện rõ trong tâm trí chúng ta. Khi ấy con khóc nhiều lắm, ân nhân sợ rằng nếu nghe thấy tiếng khóc họ sẽ giết cả con, vậy mà khi mẹ bế con trên tay, may mắn làm sao con đã ngừng khóc. Tình hình quá cấp bách, cả hai bố mẹ đều muốn chôn cất ân nhân sao cho thật tử tế, muốn đưa thi thể ân nhân đi nhưng không được. Dưới bão lửa, dưới cái hung bạo, dưới sự uất hận dồn nén bao năm qua của dân làng Văn Thái đối với Cao Gia, bố mẹ chỉ có thể đưa một mình con đi. Đó cũng là một ký ức ám ảnh, dằn vặt với bố mẹ cũng như người dân làng Văn Thái. Vọng, 18 năm qua, nuôi con khôn lớn, nhìn thấy con trưởng thành từng ngày, nhiều lúc mẹ không cầm lòng nổi, mẹ muốn kể cho con nghe về quá khứ, xuất thân của con. Nhưng lý trí của cả hai bố mẹ không thể làm như vậy, bởi con là tài sản quý giá, là báu vật của bố mẹ, là máu mủ của ân nhân giao cho bố mẹ. Bố mẹ không muốn con gặp nguy hiểm, điều quan trọng nhất của một con người là được sống. Sẽ ra sao nếu như dân làng biết giọt máu của Cao Gia vẫn còn, và bố mẹ là người giấu diếm bí mật này. Lòng thù hận của dân làng Văn Thái đối với Cao Gia sâu như biển lớn, đen tựa trời đêm. Quá khứ kinh hoàng ấy cũng là do Cao Gia tự chuốc lấy, người họ Cao coi dân làng Văn Thái như loài chó lợn, coi sinh mạng của người dân như con sâu, cái kiến.....Họ đã giết không biết bao nhiêu phụ nữ, rất nhiều trẻ em, những cô gái được Cao Gia tuyển chọn đều mất tích. Suốt nhiều năm, cuối cùng bộ mặt thật của Cao Gia đã bị phanh phui. Cao Gia đã tắm máu của người dân làng Văn Thái suốt bấy lâu. Phụ nữ, trẻ em đều chết dưới tay của Cao Gia, mẹ không biết tại sao Cao Gia lại làm những chuyện trời không dung, đất không tha như vậy. Và cuối cùng, nợ máu phải trả bằng máu, điều gì đến đã đến, sự uất hận trong lòng người dân làng Văn Thái, trong lòng những người có người thân bị Cao Gia giết bùng phát. Toàn bộ dân làng Văn Thái khi ấy đều một lòng muốn giết sạch Cao Gia. Sự điên cuồng, độc ác đến mức họ muốn xóa sổ toàn bộ người họ Cao, kể cả những người làm sống trong phủ Cao Gia. Diệt cỏ phải diệt tận gốc, trẻ con sống trong phủ cũng không ngoại lệ. Có lẽ thù hận đã che mờ lý trí của dân làng bởi Cao Gia cũng giết trẻ con. Nhưng không phải người nào sống trong Cao phủ cũng đều là người xấu. Vẫn có người tốt, thậm chí là rất tốt. Đó chính là mẹ ruột của con, Lâm Thư phu nhân, phu nhân chính là ân nhân của cha con. Trước đó 3 năm, bố con bị mắc bạo bệnh, gia cảnh nhà chúng ta không còn gì cả, dù đã vái tứ phương nhưng bệnh của bố con không hề thuyên giảm. Chắc có lẽ mạng số bố con chưa tận, bố con nằm trên chiếc xe bò, còn mẹ thì vừa khóc, vừa đẩy khi thầy lang nói bố con không sống được bao lâu nữa. Lúc đó, mẹ đã gặp Lâm Thư phu nhân, một người phụ nữ tôn quý, xinh đẹp, là vợ của Cao Lãm đại thiếu gia, là con dâu của Cao lão gia danh tiếng bậc nhất vùng này. Một người tôn quý như vậy mà khi nhìn thấy bố mẹ, phu nhân không những không khinh miệt mà còn dừng lại hỏi han. Mẹ òa khóc như một đứa trẻ bởi đau thương dồn nén suốt quãng đường dài. Mẹ hoảng sợ khi Lâm Thư phu nhân đưa tay bắt mạch cho bố con dù cho thị tỳ đi cùng cố gắng ngăn lại. Sinh mạng của bố con đã được mở ra một lần nữa, Lâm Thư phu nhân vốn là con của một đại phu nổi tiếng, căn bệnh quái ác của bố con được phu nhân chữa trị, nhưng căn bệnh đó cũng khiến cho bố con không thể sinh con được nữa. Nhưng như mẹ đã nói, được sống mới là điều quan trọng nhất. Lâm Thư phu nhân như ban cho bố con một mạng sống mới. Sau đó vì thương xót cho hoàn cảnh của chúng ta, phu nhân còn giúp đỡ tiền bạc, giúp cho chúng ta có kế sinh nhai. Thật đau đớn khi ba năm sau, chúng ta lại phải nhìn thấy cảnh tượng đau lòng ấy. Phu nhân đã liều mình để đưa con thoát khỏi sự giết chóc tàn bạo của những con người đang chất đầy lửa thù hận. Bản thân phu nhân cũng không qua khỏi. Lúc trao con cho chúng ta, mẹ còn nhớ, phu nhân đã mỉm cười rồi khẽ nói lời sau cuối:

" Đúng là ý trời, hãy thay ta chăm sóc, nuôi nấng thằng bé. Từ hôm nay nó là con của hai người. "

Vọng, con không chỉ là con của phu nhân, con còn là con của bố mẹ nữa. Cả đời bố mẹ, thứ quý giá nhất chính là con. Vậy nên, chỉ cần con được sống, bí mật về thân thế của con dù có chết, bố mẹ cũng không nói với ai. Nhưng mẹ thương con rất nhiều, ai cũng có quyền biết về thân phận thật sự của mình. Con cũng vậy, con cũng cần biết gốc gác, cha mẹ đẻ của mình là ai......Chính vì vậy, mẹ dằn vặt mỗi đêm, mỗi ngày nhìn con một lớn khôn, sự dằn vặt ấy lại càng khiến mẹ muốn nói ra tất cả. Nhưng mẹ chỉ dám viết tất cả vào đây mà thôi, đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng mẹ bộc bạch hết những vương vấn trong lòng suốt 18 năm qua. Mẹ và bố sẽ chôn chặt sự thật này dưới lòng đất, sẽ không ai có thể biết về xuất thân của con, hãy tha thứ cho bố mẹ. Bố mẹ làm tất cả cũng chỉ vì muốn cho con có được một cuộc sống trọn vẹn nhất. Dù con có là ai, xuất thân như thế nào, con vẫn mãi mãi là con trai của bố mẹ.......Mẹ tin, đây cũng là điều mà Lâm Thư phu nhân mong muốn, bố mẹ yêu con. "

" Tách....Tách "

Những giọt nước mắt của ông Vọng rơi xuống thấm vào lá thư, ông Vọng không cầm được nước mắt sau khi đọc những dòng thư viết tay mà mẹ ông để lại. Thầy Lương cũng khẽ nhắm mắt, ông cúi đầu như một hành động thương cảm gửi đến những người đã khuất. Quả đúng như thầy Lương dự đoán, bố mẹ ông Vọng cố gắng che giấu sự thật về thân thế của ông Vọng là vì muốn bảo vệ cho ông Vọng. Thời điểm hai ông bà còn sống là khoảng thời gian những hương thân phụ lão, những con người tham gia vào sự việc giết chết toàn bộ Cao Gia vẫn đang tại vị. Bí mật giết sạch Cao Gia được giữ kín đến mức tuyệt đối. Cao Gia tàn ác, nhưng việc giết toàn bộ họ Cao, không, phải là toàn bộ những người sống trong Cao phủ là một vết nhơ có dùng nước sông Hoàng Hà gột rửa cũng không thể hết tội đối với người dân làng Văn Thái thời bấy giờ. Do đó, nếu để lộ ra máu mủ Cao Gia vẫn còn thì chắc chắn ông Vọng cũng như bố mẹ ông Vọng sẽ bị giết chết.

Ông Vọng khẽ gấp bức thư ngay ngắn lại rồi cho vào phong thư, ông Vọng lau nước mắt nói:

- - Giờ thì tôi đã rõ tất cả, tôi đã biết về mẹ ruột của mình. Chỉ tiếc rằng, bà chết mà không được chôn cất tử tế. Thầy nói đúng, chuyện này dường như đã thay đổi cuộc sống của một lão già như tôi.

Thầy Lương khẽ đáp:

- - Như mẹ bác trưởng làng đã viết trong thư, ai cũng có quyền được biết về thân phận cũng như gốc gác của mình. Về một điểm nào đó thì cả tôi và bác Vọng có chút giống nhau. Chúng ta sinh ra là người gốc Hoa, nhưng lại dành gần như cả đời sống trên đất nước này. Cao Gia dù đã gây ra những tội lỗi gì thì giờ đây, bác chính là người tháo gỡ những khúc mắc, những hận thù trong quá khứ ấy. Oan oan tương báo bao giờ mới kết thúc nếu như con người vẫn nuôi dưỡng lòng thù hận. Như tôi từng nói, ông trời để cho bác Vọng sống ắt phải có nguyên do. Giờ sự thật đã được giải đáp, tôi nhận thấy, bác trưởng không chỉ sống cho mình, mà còn cho rất rất nhiều người khác nữa. Đến thời điểm này, bác trưởng làng đã sống đúng với một cuộc sống đầy ý nghĩa. Chắc chắn Lâm Thư phu nhân hay bố mẹ nuôi của bác ở trên trời cao đang cảm thấy ấm áp lắm.

Ông Vọng cúi đầu cảm tạ thầy Lương, giờ chỉ còn sợi dây chuyền là ông Vọng vẫn chưa động vào. Theo lời thầy Lương thì đây có thể là di vật của cha ông, Cao Lãm. Tất cả những thứ này đã được trao cho bố mẹ ông Vọng trước khi Lâm Thư phu nhân qua đời. Trong lúc ông Vọng cầm sợi dây chuyền mặt hồng ngọc lên nhìn ngắm thì thầy Lương suy nghĩ:

" Sự giàu có của Cao Gia là điều không cần bàn cãi, nhưng nếu so với những thứ quý giá khác thì sợi dây chuyền này quá nhỏ bé. Giả dụ muốn đem theo vàng bạc, châu báu thì Lâm Thư phu nhân có thể lấy những thứ giá trị hơn, lớn hơn. Đằng này bà ấy chỉ đem theo cậu con trai cùng sợi dây chuyền. Bố mẹ ông Vọng không phải người hám vật chất, họ sống có đức, coi nguời từng cứu mình là ân nhân, từng lời trong bức thư đều toát lên sự kính trọng. Nếu họ có lòng tham thì đã bán sợi dây chuyền này đi rồi, tuy nói giá trị không lớn, nhưng đó là so với tài sản của Cao Gia mà thôi. Còn với người nghèo như bố mẹ ông Vọng đây thì đó là cả một gia tài. Liệu rằng sợi dây chuyền này còn có ý nghĩa nào khác...? "

Nghĩ rồi thầy Lương nhìn về phía ông Vọng, nhìn vào sợi dây chuyền, thầy Lương nói:

- - Bác trưởng làng, có thể cho tôi xem qua sợi dây chuyền đó một chút được không..? 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62: Siêu thoát - Diệt trừ - Phong ấn


Ông Vọng đưa sợi dây chuyền sang cho thầy Lương. Cầm sợi dây chuyền trên tay, thầy Lương chỉ chú ý đến mặt đá hồng ngọc, viên đá hình vuông nhỏ được bọc viền bằng vàng ròng. Nhưng so với kích viên đá thì thầy Lương cảm nhận thấy có vẻ trọng lượng của nó hơi nhẹ một chút.

Thầy Lương lấy một cây kim rồi khẽ gõ nhẹ vào mặt trước, mặt sau của đá, phần mặt sau đá vang lên tiếng động khác, mà mặt trước tiếng động cũng khác. Cứ như vậy thầy Lương nghe đi nghe lại nhiều lần rồi ông nói:

- - Kết cấu của viên đá quý này có gì đó hơi lạ lạ. Nếu tôi không nhầm thì bên trong viên đá này có chỗ bị rỗng. Do vậy mà so với kích cỡ thì nó có phần hơi nhẹ. m thanh phát ra khi kim gõ vào cũng có chút khác biệt.

Ông Vọng hốt hoảng:

- - ́y chết, đây....đây là đồ vật mà cha mẹ đẻ tôi để lại.....Thầy....thầy đừng đập...vỡ nó nhé.

Thầy Lương mỉm cười:

- - Bác đừng lo, tôi không có ý đó....Sao có thể đập vỡ được, đây là đá hồng ngọc, mà viên đá to như thế này là cực phẩm hiếm có, Tôi đâu có điên đến độ đập nát nó ra, ý tôi đang nói ở đây là tôi nghi ngờ bên trong viên đá có ẩn giấu một thứ gì đó. Đây cũng là một cách làm của người xưa, muốn cất giấu một thứ gì đó quan trọng nhưng lại sợ kẻ gian lấy mất, người xưa thường hay đặt thứ quan trọng đó vào mặt dây chuyền để lúc nào cũng đem theo bên mình. Tuy nhiên nếu như vậy thì ít nhất cũng phải có một dấu hiệu nào đó để có thể mở. Đằng này xem xét rất kỹ lưỡng từ nãy đến giờ mà tôi vẫn chưa thể tìm ra được thứ gì tương tự như vậy.

Trả lại sợi dây chuyền cho ông Vọng, thầy Lương nói tiếp:

- - Trước mắt bác trưởng làng nên giữ gìn thứ này cẩn thận. Tốt nhất bác nên đem theo bên mình, ngoài việc sợi dây chuyền là vật gia bảo mà cha mẹ ruột của bác để lại và nó cực kỳ có giá trị ra thì tôi vẫn nghĩ sợi dây chuyền này còn mang một ý nghĩa to lớn khác. Giờ đây thân phận của bác trưởng làng đã rõ, bác cũng đã biết về mẹ ruột của mình, biết hết tâm tư mấy chục năm qua của cha mẹ nuôi. Tôi cho rằng bác nên đốt bỏ lá thư đó đi. Có thể giờ đây thế hệ trước, những người ra tay giết chết toàn bộ Cao Gia cũng đã về với tổ tiên nhưng không thể chắc chắn được điều gì cả. Bố mẹ bác trưởng làng cũng chính vì điều này mà quyết định giữ bí mật cho đến khi qua đời. Tội lỗi của Cao Gia đã phải trả giá bằng chính mạng sống của họ, cũng là người họ Cao nhưng bác lại có một tấm lòng lương thiện giống như Lâm Thư phu nhân, chắc hẳn lúc còn sống, Lâm Thư phu nhân là người có lòng bồ tát từ bi, số phận của mỗi con người ngay từ khi sinh ra đã được sắp đặt. Cao Gia mạt vận nhưng may mắn cho họ Cao vẫn còn có người giữ lại cho họ Cao giọt máu cuối cùng, đó chính là mẹ ruột của bác trưởng làng, Lâm Thư phu nhân. Nghe bác trưởng làng đọc xong bức thư tôi thấy nhân duyên trong kiếp con người thực hữu hạn. Quả thực nhân quả báo ứng luôn diễn ra trong kiếp này, thậm chí là cả tiền kiếp cho tới kiếp sau. Việc Lâm Thư phu nhân cứu sống cha nuôi bác trưởng làng lại chính là mở ra cho dòng họ Cao con đường tránh khỏi tuyệt hậu. Rồi tiếp đến việc cha mẹ nuôi bác trưởng làng nuôi nấng, chăm sóc bác cho tới khôn lớn, mặc dù đó là trái lại với toàn bộ dân làng Văn Thái cũng lại mở ra cho hậu thế của làng Văn Thái tránh khỏi tai kiếp về sau. Mọi thứ diễn ra đều có nhân, có quả.....Trời xanh thực có đức hiếu sinh.

Đưa tay ra bấm bấm, miệng lẩm nhẩm, thầy Lương gật đầu rồi nói:

- - Tính ra thì tôi cũng đã nán lại đây cũng khá lâu rồi nhỉ, mới đó mà đã qua rằm tháng 7. Nay dương đang là tháng 9, vậy là cũng gần đến Trung Thu rồi.

Ông Vọng vội hỏi:

- - Không phải thầy tính rời khỏi đây đấy chứ..? Những ngày qua thầy đã giúp đỡ dân làng chúng tôi rất nhiều. Có thể mọi người không biết thì không sao, nhưng bản thân tôi được chứng kiến những gì mà thầy đã làm cho làng Văn Thái, giờ mà thầy bỏ đi đột ngột như vậy sao được. Mới hôm qua thầy còn ốm ngủ li bì suốt một ngày, thầy phải ở lại đây đến khi nào sức khỏe bình phục mới được đi. Tôi là tôi không cho thầy đi đâu.

Thầy Lương khẽ mỉm cười:

- - Tạm thời tôi chưa rời khỏi làng ngay đâu, chuyện đại sự quan trọng nhất là vấn đề hóa giải trấn yểm của Cao Côn đối với long mạch đã xong, qua những gì đã diễn ra vô tình lại giúp cho bác trưởng làng biết về thân phận thật sự của mình. Tai kiếp của làng Văn Thái tạm thời đã qua đi nhưng chưa hết. Tôi trước nay làm việc gì là phải làm cho xong thì mới yên tâm mà rời đi được. Vẫn còn đó đám Tiểu Quỷ chưa rõ lý do mà chúng tồn tại là gì....? Tuy có thể đám tiểu yêu đó không phải là họa sát thân với dân làng nhưng ma quỷ mà tồn tại trong dương gian ắt hẳn không phải điều tốt. Để tránh sau này chúng gây họa, nếu không thể khiến cho chúng chấp nhận siêu sinh, đầu thai, chuyển kiếp thì buộc phải diệt trừ hoặc ít nhất phải phong bế chúng lại. Nếu muốn giúp chúng siêu thoát thì phải tìm được nguyên nhân và mục đích tại sao Cao Côn lại tạo ra đám Tiểu Quỷ này. Từ đó tháo gỡ uẩn khúc, để cho chúng từ bỏ ngã quỷ, tiễu trừ tâm ma, quay đầu hướng thiện thì mới có cơ hội để đầu thai. Cách này muốn thực hiện vô cùng khó, bởi dù chúng ta muốn tốt cho chúng nhưng bản chất của chúng vẫn là quỷ, chưa kể đến chúng được tạo ra bởi giao kèo của chủ nhân, chính là Cao Côn, Cao Côn đã chết gần 100 năm mà chúng vẫn tồn tại, điều này chứng tỏ giao ước ấy vẫn tồn tại mặc dù chủ nhân của chúng đã chết. Còn nếu để tiêu diệt bọn chúng tôi e bản thân tôi không đủ khả năng, Cao Côn kia tài phép phải sánh ngang, thậm chí là vượt trội hơn cả sư phụ của tôi lúc người còn sống. Bởi những thầy bùa sử dụng tà thuật cấm đều rất đáng sợ. Nếu không phải có bác trưởng làng là cháu nội của Cao Côn giúp sức thì đừng nói hóa giải long mạch, để nhìn thấy được bùa yểm của Cao Côn với tôi cũng là quá sức mình rồi. Tôi đã từng giao chiến với lũ quỷ khi cố gắng cứu lấy linh hồn cô bé Mị. Đêm hôm đó, nếu không nhờ sự giúp đỡ từ cây lộc vừng, có lẽ mạng tôi cũng khó mà giữ được.

Ông Vọng nuốt nước bọt, chẳng trách lúc đưa thầy Lương từ nơi chôn cất gia đình Xoan về, ông Vọng thấy thầy Lương gần như là đã kiệt sức. Đêm hôm đó ông luôn thắc mắc thầy Lương đi đâu, giờ thì ông đã biết, thầy Lương đi cứu lấy hồn phách của con bé Mị. Càng biết thêm về những việc thầy Lương làm, ông Vọng lại càng kính phục thầy Lương hơn. Thực sự cho tới bây giờ, ông cũng như dân làng Văn Thái chưa đền ơn cho thầy được điều gì, thậm chí người trong làng ngoài Sửu ra có lẽ cũng chẳng ai biết những gì mà thầy Lương mạo hiểm cả mạnh sống để đem lại sự yên bình cho họ.

Ông Vọng khẽ hỏi:

- - Vậy là chỉ còn cách thứ 3 phải không thầy...? Liệu cách này có thực hiện được không...?

Thầy Lương đáp:

- - Cách này có thể làm được, Tiểu Quỷ xuất hiện trong làng là sự thật, nhưng chúng từ đâu đến thì tôi vẫn chưa biết. Muốn phong bế chúng lại thì cần phải biết vị trí mà chúng xuất hiện. Cũng gần tương tự như Cao Côn trấn yểm long mạch, cần phải xác định được long mạch nằm ở đâu thì mới có thể trấn yểm. Do vậy việc tìm ra được xuất xứ của đám tiểu yêu ấy rất quan trọng. Khi xác định được nơi yêu ma cư ngụ, khi đó tôi sẽ tìm cách phong bế chúng. Nhưng đây là hạ sách sau cùng, bởi có giữ được chúng lại trong kết giới đi chăng nữa thì sự thật là chúng vẫn tồn tại. 50 năm hay 100 năm sau, khi kết giới hết hiệu lực ma quỷ sẽ tiếp tục hoành hành, thậm chí còn trở nên hung ác, quỷ tính bộc phát còn cao hơn khoảng thời gian bị phong bế trước đó. Cách này chỉ tránh được trong một thời gian nhất định chứ không triệt để. Tôi lại lấy ví dụ cho trưởng làng dễ hiểu, vẫn là long mạch, như tôi đã nói trước đây, vượng khí của vùng đất này là cực thịnh, địa mạch vượng phát, chính vì thế Cao Côn mới nảy sinh lòng tham muốn độc chiếm để dòng họ Cao mãi mãi phồn thịnh đến tận đời đời sau. Nhưng Cao Côn đã thất bại, mặc dù trấn được long mạch tuy nhiên sức của Cao Côn không thể áp đảo được vượng khí của địa mạch nơi đây lúc bấy giờ. Kết quả họ Cao suýt chút nữa tuyệt hậu, dẫu vậy cũng không thể nói là Cao Côn thất bại hoàn toàn, dù ông ta chết nhưng trấn yểm của ông ta thực sự khiến cho địa mạch nơi đây bị tổn hại. Nói nôm na, Cao Côn muốn thu phục rồng nhưng không đủ sức, tuy nhiên vết thương mà Cao Côn gây ra cho rồng cũng là vết thương chí mạng. Vết thương đó từ từ giết chết rồng trong nhiều năm sau, nếu không có người cứu chữa, con rồng đó sẽ chết. Trong khoảng thời gian long mạch bị trấn yểm đó, vượng khí của rồng vẫn còn, và điều này vẫn giúp cho người dân làng Văn Thái được sống yên bình suốt gần 100 năm. Đó là lý do vì sao chỉ tới tận bây giờ tai ương mới xảy ra, đó là vì rồng đã không còn sức để bảo vệ cho vùng đất này nữa. Linh khí từ địa mạch cạn kiệt, chướng khí tích tụ bao năm qua bộc phát, sinh sôi, ma quỷ hiện hữu ngay trong cuộc sống của con người....Tất cả, tất cả những thứ đó sẽ còn khủng khiếp hơn nếu như trấn yểm của long mạch không được hóa giải. Bác trưởng làng hãy tưởng tượng, đoạn xương sườn của Cao Côn chính là chất kịch độc găm sâu vào cơ thể rồng. May mắn thay cho làng Văn Thái, bác trưởng làng lại chính là liều thuốc giải độc duy nhất cứu giúp cho long mạch nơi đây. Việc phong bế kia cũng tương tự như vậy, cho dù trận đồ, pháp tắc của tôi có giữ được chúng lâu nhất có thể thì chúng vẫn sẽ thoát ra khi kết giới phong ấn bị phá vỡ. Thường thì khi phong ấn những loại ma quỷ có thể gây hại cho dương gian, các đạo sĩ, các thầy bùa, thầy pháp cần phải nhờ đến hậu thế của mình để tiếp tục duy trì kết giới. Bởi vậy mới xuất hiện những dòng họ cả đời chỉ ẩn cư để giữ cho phong ấn không bị phá bỏ. Về điều này thì tôi không làm được, bởi tôi lại không có con cái hay đệ tử nào cả. Nhưng nếu thực sự hết cách thì đành phải làm như vậy thôi, tôi sẽ cố gắng hết sức mình, dù có thể là đánh đổi cả mạng sống này để phong ấn chúng lâu nhất có thể.

Ông Vọng lắc đầu, ông Vọng vội đáp:

- - Không....thầy không thể làm như vậy được.....Chắc chắn là sẽ có cách, nếu phải đánh đổi mạng sống để phong ấn đám Tiểu Quỷ đó, hãy để tôi làm....Dù sao người tạo ra chúng cũng là Cao Côn, ông nội của tôi.....Chắc chắn nếu phải chết thì tôi chết sẽ có ích hơn.

Thầy Lương cười rồi nhẹ nhàng nói:

- - Tôi biết đức độ cũng như tấm lòng của bác trưởng làng. Bác là người mà tôi rất nể phục, bác từng xả thân hi sinh để hóa giải trấn yểm cứu lấy dân làng một lần rồi. Mạng sống của bác quan trọng hơn tôi rất nhiều, bác vẫn còn người thân, vẫn còn những người dân cần đến bác.......Hơn nữa phải là người có khả năng mới có thể phong ấn được ma quỷ. Bác trưởng làng tuy là cháu nội của Cao Côn, nhưng bác cũng chỉ là một con người bình thường mà thôi. Còn tôi, dẫu sao cũng chỉ là một người bốc mộ lang thang nay đây, mai đó. Tôi không có gia đình, cũng chẳng vợ con, tôi là trẻ mồ côi từ nhỏ, bị vứt bỏ nơi đầu đường xó chợ, phải ngồi bên cầu, bên vệ đường xin ăn qua ngày. May mắn sao tôi lại được sư phụ thương xót đem về nuôi nấng, truyền lại tất cả những tinh hoa mà sư phụ biết với hi vọng khi trưởng thành, tôi sẽ đem những gì mà mình học được cứu đời, hoặc chí ít cũng trở thành một thầy lang tốt.....Nhưng rồi, tôi cũng phụ lại sự niềm tin của sư phụ, tôi không nghe lời sư phụ để rồi gây ra nghiệp chướng cho bản thân.........Sẽ tốt hơn nếu như mạng sống của tôi mất đi mà có thể đánh đổi được sự bình yên cho nhiều người khác. Khi ấy, chẳng phải bản thân tôi cũng phần nào được an ủi hay sao......Ha ha ha, ha ha ha....Bỗng nhiên tôi lại cảm thấy có vẻ như vùng đất này đang cho tôi một cơ hội lớn. Tôi phải cảm ơn bác trưởng làng và mọi người mới đúng.

Nụ cười của thầy Lương rất hào sảng, ông Vọng không biết ý nghĩa trong những câu nói của thầy Lương là gì, nhưng thực lòng ông Vọng mong, nếu phải đánh đổi mạng sống của ai đó thì sẽ chính là ông.

Thầy Lương nhìn ông Vọng, thầy nói:

- - Khoan hãy nói đến chuyện sống chết, trước mắt cần phải xác định xem nơi mà bọn tiểu yêu đó cư ngụ đã. Về chuyện này trong đầu tôi cũng đã có một vài suy đoán. Nhưng vẫn là tự mình đi tìm hiểu thì hay hơn. Giờ tôi phải đi đến nơi này một chút, bác trưởng làng đừng lo cho tôi. Nhân ngày hôm nay tìm được những di vật của cha mẹ ruột cũng như cha mẹ nuôi của bác Vọng, chúng ta phải ăn mừng chứ. Bác ở nhà lo cơm nước, tôi đi đến chiều sẽ về.....Hi vọng chuyến đi này sẽ đúng với những gì mà tôi dự đoán. Nếu thật sự là thế thì năm nay tôi sẽ ở lại đây đón tết Trung Thu với mọi người.....Ha ha ha....Ha ha ha.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63: Miếu hoang...


Thầy Lương rời khỏi nhà ông Vọng, làng Văn Thái sau sự việc nước giếng bị nhiễm độc đã phần nào yên bình trở lại, mấy ngày trước cả làng còn xôn xao về cái chết của hai mẹ con Xoan thì nay, sau khi mẹ con họ được chôn cất tử tế họ cũng an tâm hơn. Khác hẳn với thời điểm nước giếng có độc, gia súc, gia cầm trúng độc chết, rồi khủng khiếp hơn việc Mão ngã giếng chết một cách đáng sợ, khi ấy bà con ai cũng sợ, họ hạn chế ra ngoài dù ban ngày hay ban đêm. Có người còn sợ đến nỗi bỏ làng mà ra đi. Tuy nhiên hôm nay, thầy Lương đã gặp một vài bà con đi ra đồng làm việc. Đường làng bớt vắng vẻ, hiu quạnh đi bao nhiêu.

Có người thấy thầy Lương thì cúi đầu chào:

- - Chào bác, bác là người nhà của bác Vọng phải không ạ...? Bác đi đâu thế..?

Họ chào vậy là bởi mấy lần thầy Lương đi cùng ông Vọng, khi ấy ông Vọng cũng nói với người trong làng thầy Lương là bà con xa của mình. Việc thầy Lương làm nghề bốc mộ, biết xem phong thủy thì hình như chỉ có ông Vọng, Sửu và Lực là biết.

Thầy Lương khẽ mỉm cười rồi cúi đầu đáp:

- - Dạ đúng rồi, chào cô.....Hôm nay nhà ta ra đồng làm việc rồi đấy ạ...?

Người phụ nữ trả lời:

- - Vâng thưa bác, dù sao cũng phải làm thì mới có ăn, mới sống được chứ. Vụ mùa vừa rồi tan nát hết cả, nhưng không thể buồn mãi được. Hôm nay tôi ra đồng dọn cỏ, sắp tới còn gieo trồng. Mà bác đi đâu vậy ạ...? Có cần tôi chỉ đường cho không..?

Thầy Lương nói:

- - À, tôi định đi ra đầu làng, chỗ gốc đa có bà bán hàng nước ấy....Tôi muốn cảm ơn bà ấy một câu.

Người phụ nữ chỉ tay về hướng đằng sau lưng rồi cười:

- - Nếu vậy thì bác cứ đi thẳng là tới, thế bác đi nhé, tôi đi làm đây....Chào bác ạ.

Thầy Lương cũng cúi đầu chào đáp lại, lúc này thầy Lương đi gần tới gốc cây lộc vừng, ở đó cũng đang có hai người đàn ông là dân trong làng đứng nhìn rồi lắc đầu ra chiều tiếc nuối:

- - Hầy, không biết con cái nhà nào nghịch ngợm lại dám trèo lên cây lộc vừng bẻ cành, bẻ lá gãy rụng hết thế này. Bắt được cứ lọc ra đánh bỏ mẹ chúng nó đi.

Hai người đàn ông nhìn cây lộc vừng thở dài thêm lần nữa rồi bỏ đi, thầy Lương bước tới gốc cây, đêm hôm trước nếu không nhờ có linh tinh ngụ trong cây lộc vừng cũng coi như hồn phách của cây lu luyện gần 100 năm mới có được giúp đỡ thì chỉ e là mọi chuyện có thể sẽ tồi tệ hơn rất nhiều. Đối với người thường thì cây lộc vừng chỉ là một cái cây vô tri vô giác, nhưng với thầy Lương cây còn có linh hồn. Nhờ vào vượng khí khi được mọc lên ngay trên long mạch nên hồn cây qua đó cũng tu luyện trở thành tinh linh. Nhìn những cành cây bị đám Tiểu Quỷ bẻ gãy đêm hôm trước, thầy Lương khẽ chạm tay vào gốc cây, ông cúi đầu cảm ơn cây lộc vừng vì đã giúp mình, giúp cho linh hồn cô bé Mị được giải thoát. So với đám Tiểu Quỷ đó thì cây lộc vừng chỉ là một tinh linh nhỏ bé, để cứu lấy hồn phách của Mị, cây lộc vừng đã dùng chính linh hồn tu luyện gần 100 năm của mình để ngăn cản đám Tiểu Quỷ. Nhờ vậy thời gian mới được kéo dài thêm một chút, và khi tiếng gà gáy đầu tiên trong ngày cất lên, đám Tiểu Quỷ mới bị xua đuổi. Nhưng những cành cây bị bẻ gãy, những dây hoa bị giật đứt cũng như linh hồn nhỏ bé của cây bị xé tan thành nhiều phần.

Thầy Lương nhắm mắt khẽ nói:

- - Cảm ơn ngươi nhiều lắm, ơn cứu mạng này của ngươi ta biết phải đền đáp sao đây....?

Thầy Lương vừa nói xong thì có một cơn gió nhẹ khẽ thổi qua khiến cho lá cây rung rinh. Chưa hết, bàn tay thầy Lương đang áp vào cây bỗng thấy ấm áp lạ thường. Lúc này thầy Lương nhìn xuống dưới gốc cây lộc vừng nơi hốc khô, thật lạ lùng thay, từ hốc cây khô vừa xuất hiện một chồi xanh nhỏ xíu.

Thầy Lương mỉm cười, đuôi mắt ông có chút ngấn lệ, thầy Lương nói tiếp:

- - Vậy sao....? Thật là may mắn quá, hồn phách của ngươi vẫn chưa tan biến. Nhưng chắc có lẽ sẽ phải rất rất lâu nữa ngươi mới lại có thể trở lại được con đường tu luyện. Nếu mai sau có thể tu thành chánh quả, hi vọng ngươi sẽ tiếp tục bảo vệ, che chở cho người dân làng Văn Thái.

Một chiếc lá từ trên cây khẽ rơi xuống, thầy Lương bất giác đưa bàn tay ra, chiếc lá hạ đúng giữ lòng bàn tay của thầy Lương. Ông gật đầu mỉm cười rồi lấy từ trong tay nải ra một vật gì đó nhìn giống giống ngọc trai, nhưng nó có màu xanh lục. Chôn viên ngọc xuống đất bên trong hốc cây. Chôn xong, thầy Lương đứng dậy rồi tiếp tục đi tiếp. Ông đi đến cây đa đầu làng, dân làng bắt đầu làm việc trở lại thì bà hàng nước cũng tiếp tục công việc quen thuộc của mình, lần đầu tiên đến nhà ông Vọng, thầy Lương có nhắc tới người phụ nữ bán nước ở gốc đa đã chỉ mình tìm nhà trưởng làng, khi ấy ông Vọng có nói người phụ nữ bán nước ấy tên là Miên nên giờ thầy Lương vẫn nhớ.

Khác với ngày đầu tiên đặt chân vào làng, hôm ấy trời mưa lớn, sấm chớp bão bùng, cơn mưa to đến nỗi cảm tưởng như gió sắp giật bay cả cái quán lá dựng bằng tre tạm bợ. Hôm nay trời quang, mây cao xanh vời vợi, có nắng nhưng không gay gắt. Ngồi trong quán lá, bà Miên đang cầm cái quạt phẩy phẩy đuổi mấy con ruồi đang vo ve, với tay xếp lai mấy cái chén mà chắc khi nãy khách vừa uống nước, đang làm thì bà Miên nghe thấy tiếng nói:

- - Bà chủ cho tôi xin chén nước chè với cái bánh gai.

Bà Miên lau lau vội cái bàn rồi đáp:

- - Bác, bác ngồi đi....

Nói xong mà Miên mới nhìn thầy Lương rồi nhận ra chính là người đã hỏi đường vào làng tìm nhà trọ dạo trước. Bà Miên cười rồi hỏi:

- - Ơ, là bác à....? Từ hổm đến giờ cũng phải mươi mười mấy ngày rồi đấy nhỉ....? Không ngờ bác còn ở đây....

Thầy Lương mỉm cười đáp:

- - Chào bà chủ quán, tôi vẫn ở trong làng từ hôm đó. Cũng nhờ bà chủ quán chỉ đường tìm đến nhà bác Vọng trưởng làng nên mới có chỗ ăn ở tránh được cơn mưa lớn dài ngày. Cũng muốn đến cảm ơn bà chủ quán từ lâu mà hôm nay mới có dịp.

Thấy bà Miên hỏi như vậy, thầy Lương cũng đoán chắc bà Miên dạo gần đây không tham gia vào việc làng, bởi nếu có thì bà Miên sẽ nhìn thấy thầy Lương đi với ông Vọng vài ba lần. Quả nhiên không sai, thầy Lương vừa nói xong thì bà Miên thở dài, đặt chén nước lên trên bàn, bà Miên nói:

- - Ôi dào ơi, sau ngày hôm đó, chẳng hiểu mưa gió cảm lạnh hay thế nào mà tôi ốm một trận nặng nhất từ trước đến nay. Ốm mà ốm liệt giường luôn mới chết chứ, cũng chỉ mới khỏe lại cách đây 2 hôm thôi. Nghe con cái nó cũng kể đợt rồi làng xảy ra nhiều chuyện đáng sợ lắm mà tôi nào có biết gì đâu. Khỏe khỏe người là lại bày hàng ra quán bán đây này.

Lấy cho thầy Lương cái bánh gai, bà Miên như sực nhớ ra điều gì, bà Miên tiếp:

- - À mà này, tôi là tôi phải cảm ơn bác mới đúng.

Thầy Lương ngạc nhiên hỏi:

- - Sao lại như vậy..?

Bà Miên trả lời:

- - Thì đó, bác nhớ cái hôm mà bác chạy vào đây trú mưa không...? Lúc đó bác có nói trời sẽ mưa 5 ngày mới dứt, mà còn là mưa lớn. Khi đó bác còn khuyên tôi nếu nhà có đồng ruộng, hoa màu gì thì cần tháo nước sớm đấy thôi. Mà tài, lúc bác nói xong thì trời tạnh mưa, lại còn hửng nắng, thề nói điêu sét đánh tôi chết, tôi còn nghĩ bụng bảo bác phán vớ va vớ vẩn. ́y nhưng mà buổi chiều trở về nhà, trong lòng cứ thấy bất an, đúng là trời thì nắng, nhưng tự nhiên tôi lại nhìn thấy cả một đàn kiến nối đuôi nhau tha mồi về tổ. Nhớ đến lời khuyên của bác, tôi mới bảo đứa con mở hết các đường thoát nước ở ruộng, còn chỗ trồng rau củ thì tôi lấy bạt phủ hết các luống rau lại. Loại nào thu hoạch được thì thu hoạch luôn chứ không đợi nữa. Ôi, phúc đức cho nhà tôi, đến nửa đêm hôm đó thì trời mưa to, mưa to thông 3 hôm liền. Đứa con tôi lúc tôi bảo phủ bạt, tháo nước, thu hoạch sớm nó còn bảo tôi bị điên. Sau hôm đó mới trắng mắt ra, cũng có thiệt hại nhưng so với những nhà khác thì tôi may mắn hơn nhiều. Thế thì tôi chẳng phải cảm ơn bác là gì.

Ra là vậy, nhắc đến chuyện này thầy Lương lại thấy buồn. Hôm đó thầy cũng đã cảnh báo cho ông Vọng ngay khi gặp mặt, nhưng ông Vọng ban đầu cũng nghĩ như bà hàng nước, thấy trời nắng nên chủ quan, lại nghĩ ruộng nắng hạn lâu ngày, nay mong mưa không được ai lại đi tháo nước tưới tiêu. Nếu lúc đó ông Vọng tin lời thầy Lương thì giờ đây dân làng cũng đỡ khó khăn đi rất nhiều. Nhưng ý trời đã vậy thì có tránh cũng không được.

Bà Miên cười nói tiếp:

- - Bây giờ hạt giống với rau củ trong làng không có mà bán, may gặp lại bác ở đây để tôi nói lời cảm ơn. Bác đúng là quý nhân phù trợ gia đình tôi. Mà bác ơi, tôi có chuyện này muốn hỏi thăm ý kiến của bác có được không...?

Thầy Lương gật đầu:

- - Có gì bà chủ quán cứ hỏi, nếu tôi trả lời được, tôi sẽ nói.

Nhìn trước ngó sau xem có ai không, dáo dác một lúc, bà Miên mới khẽ nói thì thầm:

- - Lần trước nghe bác nói, chắc chắn ít nhiều bác cũng phải biết về phong thủy, ma quỷ hay tâm linh. Chuyện này thực ra cũng chẳng có gì, nhưng bao năm qua chưa bao giờ chỗ đó lại như vậy cả. Nay thấy nó thay đổi tôi cũng hơi lo lo, nếu được thì nhờ bác xem xem có gì đáng ngại hay không....?

Nhấp ngụm nước, thầy Lương chờ đợi bà Miên kể tiếp. Rót thêm nước chè cho thầy Lương, bà Miên tiếp tục:

- - Nhà tôi tuy cũng thuộc làng Văn Thái nhưng lại cũng như tách biệt, như bác thấy đấy, từ đây mà đi vào làng cũng phải một quãng đường xa nữa mới tới khu dân cư sinh sống. Từ kia hắt vào đây rồi cho tới trước mặt bác thấy toàn là đồng với ruộng. Nhà tôi nằm ở hướng kia, đấy bác nhìn thấy con đường đất nhỏ kia không..?

Thầy Lương nhìn theo hướng tay bà hàng nước rồi khẽ gật đầu, nhưng vẫn chưa hiểu bà ấy muốn nói gì. Bà Miên tiếp tục:

- - Đấy bình thường là dọn hàng ra đây là tôi đi con đường ấy. Nhưng đợt rồi đường nó bị sụt lún, thanh niên nó chân khỏe nhảy qua còn được chứ tôi già cả, lại còn đồ nọ đồ kia nên chịu phải đi đường vòng. Bình thường con đường ấy có ai đi đâu, vắng tanh, vắng hoe vì nó xa, mà xa cũng không phải là vấn đề. Mà người ta sợ.......

Thầy Lương hỏi:

- - Sao lại sợ, bộ ở đó có gì hay sao...?

Bà Miên mặt hơi tái, bà ta gật đầu lia lịa rồi trả lời:

- - Sợ chứ, chỗ đó cũng là đồng không mông quạnh thôi, ngày xưa á, chỗ ấy là nơi đẹp nhất làng đấy. Chẳng ai trồng hoa ở đó mà tài hoa cứ nở quanh năm, tất cả đều là hoa dại nhưng đủ màu sắc. Tầm tuổi tôi ngày còn trẻ rất thích ra đó chơi đùa. Nhưng kể từ ngày có người chết ở đấy thì khu đất ấy như bị ma ám. Hoa hoét chết dần chết mòn theo năm tháng, giờ chỉ còn có cỏ là mọc được. Vậy mà sáng nay tôi đi qua thì thấy trên mặt đất mọc lên những cây hoa màu vàng ươm, mà nhiều lắm, hoa vàng mọc xen lẫn cỏ xung quanh miếu luôn....? Phải đến mấy chục năm nay tôi mới lại thấy hoa mọc ở chỗ đó......Liệu chuyện này là tốt hay xấu hả bác...?

Thầy Lương khẽ nheo mày:

- - Nơi bà chủ quán đang nói là nơi nào vậy...?

Bà Miên trả lời:

- - À, quên không nói......Chỗ tôi vừa nói chính là cái miếu hoang đã bỏ không tính ra đến nay cũng phải chục năm nay rồi. Miếu thì đã xây từ 20 năm trước, nhưng khoảng chục năm qua, chỗ đó xuất hiện nhiều thứ đáng sợ nên dần dần người ta chẳng dám bén mảng ra đấy nữa, rồi thành miếu hoang luôn.

Thầy Lương khẽ đặt chén nước xuống bàn, thầy nói:

- - Miếu hoang sao......?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64: 20 năm trước - Người chết bị lột da mặt


Nghe thấy chuyện lạ, một khu đất vuông vắn, ngày xưa từng là nơi hoa nở quanh năm, nhưng sau khi có người chết thì lại trở nên hoang tàn, u ám. Đã 20 năm trôi qua giờ đây bỗng dưng hoa vàng mọc lên, phủ kín quanh miếu. Rõ ràng chuyện này xảy ra ngay trong thời điểm làng Văn Thái đang gặp nhiều biến chuyển, ắt phải mang một ý nghĩa hay điềm báo gì đó.

Nhận thấy trong câu chuyện của bà Miên hãy còn nhiều vấn đề, thầy Lương hỏi:

- - Khoan, khoan đã....Bà chủ có thể nói từ từ cho tôi nghe từng chi tiết được không..? Bắt đầu từ đoạn bà chủ nói sau khi có người chết ở đó thì hoa không mọc được nữa. Ai..? Ai đã chết ở đó vậy...?

Bà Miên tiếp tục nhìn trước ngó sau rồi khẽ đáp:

- - Không phải chỉ 1 người chết đâu, mà tận 2 người lận.....1 nam, 1 nữ, kể ra thì dài dòng lắm. Nhưng tôi sẽ tóm tắt cho bác nghe, cách đây 20 năm về trước, trước hôm đó trời cũng nắng to, nhưng chẳng hiểu sao đến nửa đêm thì đổ mưa lớn, sấm chớp đùng đùng, chỉ có điều không to bằng trận mưa đợt vừa rồi thôi. Sáng hôm sau, trên đường ra đồng, đi ngang qua khu đất đó, người ta phát hiện ra có người chết. Hai người đó cũng.....phải.....

Đang nói thì Miên dừng lại bởi giọng nói của hai người đàn ông vừa đi đến:

- - Bà chủ, cho xin hai chén nước.

Bà Miên cười chào khách rồi đáp:

- - Vâng, 2 chú ngồi đi.....Mà nhìn 2 chú không phải người làng này thì phải...?

Một trong hai người gật đầu đáp:

- - Bà chủ quán tinh ý nhỉ..? Đúng rồi, chúng tôi là người trên huyện trên, đến đây tìm nhà lang Phan có chút chuyện.

Bà Miên nói:

- - Bảo sao, nghe giọng lạ tôi nhận ra ngay, mà hơn nữa làng này ai ra ai vào mà tôi chẳng nhớ mặt.

Quay sang phía thầy Lương, bà Miện cười cười:

- - Đúng không bác nhỉ...Hề hề...

Có người lạ đến nên thầy Lương cũng không tiện hỏi chuyện nữa, lúc bà Miên quay sang nhìn thì thầy Lương đã đứng dậy, ông đặt tiền nước và tiền cái bánh gai xuống mặt bàn rồi bỏ đi được vài bước.

Thấy vậy bà Miên vội vàng nhặt lấy tiền rồi chạy theo gọi với:

- - Ơ kìa bác, bác gì ơi....Đợi tôi một chút.

Túm lấy áo thầy Lương, bà Miên đặt tiền vào tay thầy Lương rồi nói:

- - Kìa bác, tôi đã nói là mời bác mà.....Nhờ ơn của bác tôi cảm ơn còn không hết, sao dám lấy tiền của bác có chén nước với cái bánh. Bác làm thế phải tội tôi chết.

Thầy Lương mỉm cười:

- - Cũng đâu có nhiều nhặn gì, bà chủ quán cứ cầm lấy, không sao đâu.

Bà Miên lắc đầu:

- - Không được, không được....Chậc, đang tính kể tiếp cho bác nghe thì lại có khách, chuyện trong làng nói ra cho người ngoài biết không hay, mất công họ đàm tếu. Thấy bác phúc hậu, lại có lòng tốt giúp người nên tôi mới bạo gan kể cho bác nghe. Nhưng thật sự khu đất đó nó có gì khiến tôi không được yên tâm cho lắm.

Đang nói thì bà Miên sực nhớ ra điều gì, bà Miên cười rồi vội tiếp:

- - À mà bác đang ở nhà ông Vọng trưởng làng phải không..? Đúng rồi, thế mà tôi quên mất.....Giờ nếu bác muốn hỏi gì bác cứ về hỏi ông Vọng là rõ nhất, gì chứ chuyện năm đó tôi còn không rõ bằng ông Vọng đâu, bởi chính ông Vọng là người dẫn đầu đám thanh niên trong làng khi ấy chôn cất 2 người chết đó mà. Thôi, tôi quay lại bán hàng đây, nếu bác còn ở đây thì hôm nào mời bác đến nhà tôi dùng bữa cơm, cho gia đình tôi được khoản đãi bác chu đáo.

Phía hàng nước, hai người đàn ông kia đang gọi ầm ỹ:

- - Này bà chủ, bánh này bán như nào đấy....?

Bà Miên cúi đầu chào thầy Lương rồi vội chạy về bán hàng, thầy Lương nghe bà Miên nói xong cũng không lấy gì làm lạ, bởi ông Vọng là trưởng làng, chắc chắn chuyện về ngôi miếu hoang đó, ông Vọng cũng biết. Khi nãy qua lời kể của bà Miên thì ngôi miếu ấy nằm chếch về hướng Nam. Thầy Lương tính sẽ đi đến đó xem rốt cuộc thì ngôi miếu cùng khu đất ấy có hình thù như thế nào. Nhưng rồi, thầy Lương nghĩ lại, trước khi đến đó, ông cần biết được nguyên nhân dân làng Văn Thái lại xây miếu thờ, và hai người chết ở đó là ai...? Tại sao họ lại chết...?

Tất cả những điều này có thể trưởng làng Văn Thái sẽ nói cho thầy Lương biết. Thầy Lương quyết định quay về nhà ông Vọng.

Lúc này ông Vọng đang ngồi trong nhà, ông bỏ sợi dây chuyền ra rồi ngắm nhìn viên hồng ngọc. Qua bức di thư của mẹ ông để lại thì ông đã biết mẹ ruột của mình, Lâm Thư phu nhân là người đức độ, có tấm lòng nhân hậu, nhưng còn về bố ruột của ông, Cao Lãm thì ông lại không biết một chút gì cả. Khi nãy thầy Lương có nói đây là sợi dây chuyền của đàn ông, nên ông Vọng tin rằng sợi dây chuyền chính là tìn vật cuối cùng mà bố ông để lại. Sống quá nửa đời người, đến tận bây giờ ông Vọng mới thực sự tìm hiểu được về gốc gác, nguồn cội của mình. Đang suy nghĩ mông lung, ông Vọng giật mình bởi ông vừa nghe thấy có tiếng mở cổng.

Vội cất sợi dây chuyền vào trong túi, ông Vọng đi ra hiên nhà rồi ngó đầu ra ngoài nhìn, ông khẽ thở phào vì người đang mở cổng chính là thầy Lương. Bước ra sân, ông Vọng đón thầy Lương rồi hỏi:

- - Thầy đã về rồi ạ, tôi cứ tưởng thầy nói phải đi đến đầu giờ chiều chứ...?

Thầy Lương đáp:

- - Đúng là vậy, nhưng trên đường đi, tôi tình cờ nghe được một chuyện lạ nên lập tức quay về. Bác trưởng làng vào nhà đi, tôi có vài điều muốn hỏi.

Thấy thầy Lương có chút gấp gáp, ông Vọng nghĩ chắc hẳn chuyện thầy Lương định hỏi phải rất quan trọng. Ngồi xuống ghế, trong lúc ông Vọng rót nước thì thầy Lương hỏi luôn:

- - Bác trưởng làng này, trong làng mình có tồn tại một ngôi miếu đã bỏ hoang lâu nay có phải không...?

Ông Vọng rót nước xong thì chợt dừng lại, ông Vọng đáp:

- - Đúng rồi thầy, mà sao thầy lại biết...?

Thầy Lương tiếp:

- - Là bà Miên hàng nước tình cờ kể cho tôi nghe. Bà ấy nói ngôi miếu ấy gần đây có sự thay đổi. Bao năm qua cỏ cây xác xơ, hoang tàn, thế mà hôm trước bà ấy đi qua thì thấy hoa vàng mọc lên phủ kín quanh miếu. Chẳng là lần trước khi đến đây, trước khi vào làng tôi có cảnh báo cho bà ấy về trận mưa lớn, may mắn sao bà ấy lại nghe lời tôi mà làm theo nên giữ lại được chút ít hoa màu. Nên hôm nay gặp, bà ấy kể tôi nghe chuyện này để xem xem tôi có giải thích được điềm lành, điềm dữ gì không..?

Ông Vọng đáp:

- - Ra là vậy, cái miếu đó cũng phải bỏ hoang cả chục năm nay rồi. Hôm nay thầy mà không nhắc thì tôi cũng chẳng nhớ đến nó đâu. Cũng bởi chỗ đó nằm ở khu vực ít dân cư sinh sống, đâu đó chỉ có 2-3 hộ gia đình mà thôi. Còn lại toàn đất ruộng nên tôi cũng ít khi đến đó. Mà nhiều năm trước dân làng cũng đồn thổi chuyện ma quỷ quanh cái miếu ấy suốt, sau này bẵng đi cũng chẳng ai nhắc đến nữa. Hiện tại thì tôi không rõ, chứ ngày tôi còn là thanh niên, khu vực đó phải nói là đẹp vô cùng. Cây cối xanh tốt, mà hoa nở quanh năm, mùa nào cũng có hoa. Nhưng phải đến 10 năm nay thì đến cỏ còn chẳng mọc được.

Thầy Lương tiếp ;

- - Có phải mọi thứ ở đó thay đổi từ khi dân làng phát hiện ra hai người chết ở đó phải không...?

Ông Vọng giật mình, nghĩ bà Miên đã kể hết cho thầy Lương nghe nên ông Vọng chỉ gật đầu rồi trả lời:

- - Đúng....đúng là như thế.....Nhưng cũng không hẳn là từ khi hai người đó chết đâu. Miếu xây xong, mấy năm sau đó hoa vẫn nở rộ, mà còn có lúc dân làng đến đó thờ cúng rất đông là đằng khác....Chỉ...chỉ khoảng 10 năm nay trở lại đây thì không hiểu sao đất đai khô cằn, hoa cỏ không mọc được nữa. Và rồi người ta đồn người chết ở đó đã hóa ma quỷ nguyền rủa khu đất đó. Từ đó đến nay, không ai dám bén mảng đến cái miếu đó nữa. Nó trở thành miếu hoang, hay có khi nào nơi ấy cũng có liên quan đến long mạch của làng không hả thầy...? Giống như việc trấn yểm được hóa giải nên hoa cỏ bắt đầu sinh sôi trở lại..?

Thầy Lương cũng đã nghĩ đến điều này, sinh khí của làng cũng có thể nói như đang dần hồi phục từ sau khi trấn yểm của Cao Côn được chính cháu nội của mình là ông Vọng gỡ bỏ. Nhưng trước mắt thầy Lương muốn tìm hiểu về nguyên nhân cái chết của hai người tại khu đất hoa cỏ nở quanh năm ấy là gì...?

Thầy Lương hỏi:

- - Tôi nghe nói hai người chết ở đó là 1 nam, 1 nữ......Bà Miên cũng có nói ngày đó khu đất ấy là nơi thanh niên, trai gái trong làng hẹn hò....Nãy đang kể thì bà ấy có khách nên tôi không dám hỏi nhiều, nay bác trưởng làng cho tôi hỏi, 1 nam, 1 nữ chết đó là thanh niên trong làng phải không...?

Ông Vọng lắc đầu, ông Vọng nói:

- - Không phải, hai người họ không phải người làng......Và cũng không phải thanh niên. Tự nhiên hôm nay nhắc tới cái chết của họ tôi lại thấy rùng mình. Đây cũng chính là lý do mà tại sao dân làng trước kia đã nói họ hóa thành quỷ, đó là bởi vì lúc người ta phát hiện ra xác của hai người họ thì khuôn mặt của cả hai đều đã bị lột sạch da. Căn cứ vào mái tóc đã bạc thì khi ấy dân làng nói họ khoảng độ từ 45-50 tuổi. Nhưng chắc chắn không phải người trong làng. Ngày trước người ta gọi nơi đó là Miếu " Ông Bà ".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65: Người Hoa.....?


Thầy Lương ngạc nhiên hỏi tiếp:

- - Bác trưởng làng có thể kể rõ cho tôi nguyên nhân cái chết của hai người họ được không..? Tôi đồ rằng, cái chết của hai người này chắc chắn còn ẩn chứa bí mật gì đó. Nếu không phải người làng thì tại sao họ lại đến đó để rồi phải chết, chưa kể đến việc da mặt bị lột sạch. Tôi nghe bà Miên nói lại rằng, chính bác trưởng làng khi ấy là một trong những thanh niên làng chôn cất hai người họ...?

Ông Vọng gật đầu:

- - Đúng rồi thầy, năm đó tôi 31 tuổi, quả thực vụ việc đó khiến dân làng xôn xao suốt một thời gian dài. Không phải người làng, nhưng cũng không xác định được họ là người ở đâu. Tôi nhớ đợt đó, cán bộ với dân quân còn đi khắp các làng xã lân cận để hỏi thăm tung tích cũng như tìm người thân của họ nhưng không thấy. Chẳng biết phải đưa về đâu nên cuối cùng dân làng quyết định chôn họ ngay tại nơi họ chết. Thanh niên trai tráng trong làng chung tay đào huyệt, các cụ trong làng đưa ra ý kiến lập miếu thờ. Cũng bởi vì lúc phát hiện ra xác của hai người họ, ai cũng kinh sợ. Nếu tính đến nay thì cái miếu đó cũng phải ở đó được 20 năm rồi. Chỉ có điều khoảng chục, hơn chục năm nay thì chẳng ai lai vãng nữa.

Thầy Lương tiếp:

- - Nói như vậy trước đó dân làng vẫn qua lại thờ cúng có đúng không..?

Ông Vọng đáp:

- - Đúng vậy, tôi còn nhớ trong khoảng 5-7 năm đầu lúc miếu được lập lên. Phong cảnh nơi đó vẫn rất đẹp, trước đó hoa cỏ đua sắc mọc quanh năm. Sau có thêm cái miếu, nói là sợ nhưng dần dà bà con cũng quen. Nhất là đám thanh niên trai gái trong làng khi ấy, chúng nó ra đó hẹn hò, tình cảm rồi cầu duyên trước miếu Ông Bà. Nghe nói miếu thiêng nên cầu được lắm, không chỉ người làng mà cả người làng khác cũng tìm đến. Thời đó ngoài cái tên miếu Ông Bà, thiên hạ còn gọi vui là miếu Tình Duyên. Họ kháo nhau do hai người chết ở đó là cặp vợ chồng nên sau khi chết đi phù hộ độ trì cho những ai yêu nhau, đến được với nhau. Chậc, thời đó tôi nghe cũng thấy buồn cười, nghĩ bụng bảo đôi trẻ đã đành, đây hai người đã tuổi trung niên, gì mà tình với duyên. Nhưng cũng kệ, dân ta tín mà, cũng chẳng ảnh hưởng gì, ngôi miếu cũng được nhang khói đầy đủ âu cũng hợp tình, hợp lý. Nhưng rồi, trong vài năm tiếp theo, chẳng hiểu tại sao khu đất đó dần trở nên khô cằn. Hoa lụi tàn theo năm tháng, thời gian trôi qua, hoa mọc ít dần đi rồi cũng đến lúc nơi ấy không còn mọc được hoa nữa. Những câu chuyện ma mị xung quanh ngôi miếu ấy bắt đầu xuất hiện. Có người kể lại rằng buổi tối cho tới tầm đêm, khi đi ngang qua khu vực ấy họ nghe thấy tiếng cười khúc khích, nhưng tuyệt nhiên nhìn quanh, soi đèn thì chẳng thấy ai cả. Rồi thì là chẳng biết thật giả mà họ thêu dệt lên, cứ mỗi khi trăng tròn, dưới ánh trăng lại pha xuống bóng hai người 1 nam, 1 nữ ngồi trên miếu dựa vào nhau tình cảm. Nếu lỡ như có ai nhìn thấy thì hai cái bóng đó sẽ quay lại nhìn thẳng vào mắt họ rồi cười man dại, người nhìn thấy sẽ bị ma ám, trở về nhà ốm nặng liệt giường, nhưng hễ mở mắt là lại cười, cứ như vậy cho tới khi rụng tóc mà chết. Thiên hạ cứ thế đồn thổi, cộng thêm việc đất đai khô cằn, thực vật chết dần, chết mòn, thành thử ra mấy câu chuyện ma quỷ kia lại càng khiến người ta tin là có cơ sở. Thế là đang từ một ngôi miếu cầu duyên trở thành miếu hoang. Những lớp người như tôi thì cũng quên bẵng đi vì thời gian quá lâu, còn lớp trẻ bây giờ cũng chẳng ai hỏi hay biết gì về ngôi miếu đó nữa. Kỳ thực tôi cũng không còn nhớ đến nơi đó, chứ không đợt vừa rồi, lúc thầy nói trong làng có nơi nào bị động không tôi đã nói. Cũng bởi lời đồn là thế nhưng suốt bao năm qua có xảy ra chuyện gì đâu.

Thầy Lương trầm ngâm suy nghĩ, cũng có thể do địa mạch nơi đây chuyển mình, long mạch phá bỏ được trấn yểm cho nên cây cỏ sinh sôi, tiếp tục phát triển, trả lại cảnh quan như trước đây. Cũng giống như huyệt mắt rồng, sau khi gỡ bỏ được bùa yểm của Cao Côn, đất nơi đó đã phát, chuyển thành huyệt tốt. Khu vực miếu hoang đó rất có thể cũng là trường hợp tương tự. Ngay từ khi bước chân vào làng, thầy Lương đã cảm nhận được vượng khí nơi đây rất thịnh, trong làng xuất hiện long mạch, tất nhiên đi cùng với long mạch sẽ là những thế đất đặc trưng, những nơi tiềm tàng phong thủy. Chẳng vậy mà Cao Côn sống chết muốn độc giữ nơi này cho dòng họ. Một người như Cao Côn, chắc hẳn ông ta đã nhìn thấu đáo toàn bộ địa thế nơi đây. Nhưng qua lời kể của cả bà Miên lẫn ông Vọng thì dường như cái chết của hai người kia vẫn không rõ nguyên nhân là vì đâu. Không thể nào tự nhiên hai người họ lại ra đó để rồi chết cả.

Thầy Lương hỏi tiếp:

- - Bác trưởng làng hãy cố nhớ lại xem lúc phát hiện ra xác của họ còn có gì khác hay không...? Ví dụ như quần áo, hay họ có làm gì tại khu vực đó không...? Bởi trước đêm đó trời mưa to, chẳng lẽ họ hẹn hò nhau vào giữa đêm trời mưa hay sao..? Còn chi tiết da mặt họ bị lột sạch nữa....Có quá nhiều những chi tiết bí ẩn.

Ông Vọng trả lời:

- - Thì chính vì vậy nên mọi người mới sợ hãi bàn tán xôn xao, ban đầu chúng tôi đều cho rằng họ bị giết rồi đem xác quăng ở đó, nhưng tuyệt nhiên không thể tìm được dấu vết của hung thủ. Trong khi đó thân thế của hai người họ cũng không rõ rằng, không muốn nói là chẳng ai biết gì về họ cả, ngày ấy chưa như bây giờ, lo ăn từng bữa còn khó khăn. Chiến tranh, bom đạn, người chết ngày nào cũng có, chỉ đáng sợ ở chỗ da mặt của họ bị lột mà thôi.

Vừa nói, vừa nghĩ, đột nhiên ông Vọng nhìn thầy Lương nói:

- - À, tôi nhớ rồi, còn một lý do mà khi đó chúng tôi nói họ không phải người làng đó là bộ quần áo hai người họ mặc có chút khác biệt, không giống với quần áo của người dân ở đây lắm, họ mặc đồ gì mà như áo dài, có hoa văn họa tiết. Lúc đó có người nói họ mặc đồ của người Hoa. Mà hình như trước khi chết họ đang đào bới gì đó thì phải, bởi ngay cạnh xác họ có xẻng, nhưng dấu vết đào bới thì không mấy rõ ràng. Ở đó thì có gì mà đào cơ chứ...?

Thầy Lương khẽ nhăn mặt, có thể ông Vọng không nhận ra, nhưng nếu đúng những gì ông Vọng nhớ là thật thì điều mà thầy Lương suy nghĩ 2 ngày hôm nay thực sự có cơ sở. Cao Côn chắc chắn còn giấu một thứ gì đó, và thứ này có liên quan đến bọn Tiểu Quỷ. Có thể với khả năng của mình, Cao Côn đã biết trước một chút kết cục của Cao Gia và trước khi chết, Cao Côn đã tạo ra đám Tiểu Quỷ ấy. Vẫn chưa thể khẳng định việc Cao Côn để bọn Tiểu Quỷ trong làng để làm gì nhưng rõ ràng, nếu một ai đó thuộc dòng dõi Cao Côn có thể điều khiển bọn Tiểu Quỷ, làm chủ nhân của chúng thì thực sự là điều khủng khiếp. Hiện nay, theo như thầy Lương dự đoán, đám Tiểu Quỷ đó vẫn đang vô chủ, chúng tồn tại cho tới thời điểm bây giờ là do ràng buộc khế ước với Cao Côn. Cao Côn chết đi mà chúng vẫn còn thì chắc chắn khế ước đó vẫn chưa hoàn thành. Đám Tiểu Quỷ đó là một loại bùa ngải ma quỷ cực kỳ tàn độc, bản thân thầy Lương hiểu rõ điều này hơn ai hết, suýt chút nữa ông đã phải bỏ mạng khi đối đầu với chúng. Thầy Lương không dám tưởng tượng được sẽ ra sao nếu có người điều khiển được chúng. Liệu rằng, bí mật kinh khủng này chính là thứ cuối cùng Cao Côn còn chôn giấu.

Đáng sợ, tuy nhiên nếu đúng như thầy Lương dự đoán thì việc diệt trừ bọn Tiểu Quỷ ấy lại lại mở ra một cơ hội. Bởi nếu có người điều khiển được chúng thì người đó cũng sẽ siêu độ được cho chúng, giải thoát được cho chúng. Nhưng đó vẫn chỉ là suy nghĩ dựa trên giả thuyết mà thôi. Nếu không đúng như vậy, cái chết cho nhưng kẻ dám xâm phạm lời nguyền đang hiển hiện trước mắt.

Tạm thời gác qua những chuyện xảy ra trong quá khứ, lúc này đã gần giữa trưa, thầy Lương nói với ông Vọng:

- - Bác Vọng có thể dẫn tôi ra chỗ ngôi miếu được không..? Tôi muốn xem địa thế khu vực đó, cũng như muốn nhìn qua xem ngôi miếu đó có gì đặc biệt.

Ông Vọng gật đầu rồi đứng dậy đi luôn, đúng như lời bà Miên nói, con đường dẫn đến ngôi miếu gần như không có ai qua lại, bao quanh là đồng không mông quạnh. Chỗ này lại nằm ngoài khu dân cư sinh sống nên chẳng trách chục năm qua không ai thăm viếng. Nhưng ngay khi đến nơi, đập vào mắt ông Vọng và thầy Lương quả đúng như lời bà Miên nói, hoa vàng mọc lên trên nền đất vốn dĩ đã khô cằn, hoang tàn bấy lâu nay. Ngôi miếu vẫn ở đó tiêu điều, bước đến trước miếu, thầy Lương xem xét kỹ lưỡng, ngôi miếu không có gì đặc biệt, bát hương đã vỡ sau nhiều năm, cảnh tượng rất điêu tàn nếu không có lớp hoa vàng mới mọc gần đây thì thực sự nhìn thôi cũng khiến người ta cũng phải lắc đầu.

Ông Vọng định đưa tay nhổ đi một vài bụi cỏ mọc quanh miếu, nhưng thầy Lương ngăn lại:

- - Đừng động chạm vào bất cứ thứ gì ở đây cả. Tạm thời nơi này có chút gì đó bí hiểm, tốt nhất trước khi biết rõ nguyên do, chúng ta không nên làm gì kinh động. Thật không ngờ đất nơi đây lại vuông vắn đến vậy, cứ như thể người ta dùng một con dao khổng lồ xắn đến mức vuông thành, sắc cạnh. Tuy nhiên.......

Dạo quanh một lượt khu đất bao quanh miếu, đang định nói gì đó thì thầy Lương dừng lại. Thầy Lương nhìn ông Vọng khẽ gật đầu:

- - Thôi được rồi, chúng ta về thôi.

[......]

Quay trở về nhà, ông Vọng hỏi thầy Lương:

- - Khi nãy ở miếu, thầy có nói đến gì đó nhưng lại thôi.....Rốt cuộc thầy có phát hiện được gì không ạ...?

Thầy Lương gật đầu trả lời:

- - Có chứ, lại thêm một mảnh đất tốt. Làng này quả thực khiến tôi phải bất ngờ, bình thường trong một vùng đất chỉ tồn tại 1 thế đất đẹp mà thôi. Vậy mà từ khi đến đây, ngoài long mạch ra còn phát huyệt mắt rồng, rồi giờ đây cả mảnh đất vuông có ngôi miếu ngự trên ấy cũng là đất tốt. Không chỉ vậy, căn cứ vào những gì bác trưởng làng kể lại, 20 năm trước hoa cỏ nở bốn mùa, có thể nói khu đất ấy là nơi linh khí tụ hội. Chỉ có điều.......ở đó có mùi tử khí, không chỉ vậy, chướng khí cũng dày đặc. Bác trưởng làng, tôi đã tìm ra nơi Cao Côn chôn bọn Tiểu Quỷ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đám Tiểu Quỷ ấy chắc chắn đang cư ngụ ở nơi linh khí tích tụ. Điều này không có gì lạ, bởi Cao Côn là một bậc thầy tinh thông phong thủy. Việc ông ta để đám Tiểu Quỷ ở mảnh đất sinh linh khí ấy chắc chắn có lý do. Còn là lý do gì thì chúng ta sẽ chờ đợi ở chap sau......... 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66: Tiếng gọi lúc trời tối


Chiều hôm đó, trong lúc thầy Lương ngồi trong nhà đọc sách thì ông Vọng ở dưới bếp chuẩn bị thịt con gà. Dù sao thì theo như dự tính, bữa cơm chiều nay ông Vọng sẽ mời Sửu sang nhà làm vài chén rượu, vừa là để ăn mừng việc ông Vọng tìm được "cái bình". Đang nhổ lông gà thì có tiếng Sửu gọi bên ngoài:

- - Bác Vọng ơi, bác có nhà không đấy..?

Ông Vọng nói với ra:

- - Có đây, có đây....Đẩy cổng mà vào, tôi đang dở tay một chút.

Sửu bước vào trong, đi ngang qua nhà trên, Sửu cúi đầu chào thầy Lương rồi xắn tay áo lao xuống bếp phụ ông Vọng làm cơm luôn. Sửu cười hềnh hệch, Sửu hỏi:

- - À mà cuối cùng thì sáng nay trong cái bình đó có gì vậy bác Vọng..? Em đang tính xem nốt thì còn sư tử nhà em nó gọi, bực thế không biết.

Ông Vọng trả lời:

- - À, cũng không có gì, một vài đồ vật của tôi lúc nhỏ hai cụ đem chôn, cùng với 1-2 món trang sức ấy mà. Tôi để trên nhà, lát nữa lấy cho cậu xem.

Điều này ông Vọng cũng nói theo sự sắp xếp của thầy Lương, bởi danh tính của ông Vọng tuyệt nhiên không được để cho người khác biết, sợi dây chuyền bằng vàng ròng có mặt đá hồng ngọc kia lại càng phải giấu kín. Do vậy biết Sửu khi đến sẽ hỏi nên thầy Lương kêu ông Vọng trả lời như vậy. Để cho hợp lý, thầy Lương đã bỏ ra 2 món đồ trang sức trong tay nải của ông đưa cho ông Vọng có gì lát nữa dễ bề nói chuyện.

Sửu cười chúc mừng:

- - Ôi vậy cũng là tốt rồi, ít nhất là còn có đồ của các cụ để lại. Nói mới nhớ các cụ ngày xưa hay chôn đồ thật, như nhà em, em nhớ hồi ông nội em còn sống cũng chôn một cái hũ gì đó, sau ông mất, bố em mới đào lên thì là hũ rượu. Cơ mà phải nói rượu hạ thổ lâu năm uống nó sướng lắm bác ạ. Hồi sáng em còn tưởng có khi là bình rượu thì lại mất uống vì bình nó bị nứt rồi. Hề hề hề, may không phải rượu.

Đến khoảng chập tối thì cơm nước được dọn xong xuôi, trước khi vào mâm uống rượu. Như đã hứa, ông Vọng lấy đồ ra cho Sửu xem. Đặt trên bàn là một tấm vải nhung mềm, khẽ mở lớp vải ra, Sửu háo hức chờ đợi. Bên trong tấm vải là hai chiếc vòng đeo tay bằng đá cẩm thạch, có bọc một lớp vàng mỏng. Đôi vòng này thực chất là của thầy Lương.

Sửu nhìn ngắm rồi trầm trồ:

- - Em thì không biết giá trị của đồ trang sức, nhưng của bà các cụ để lại thì chắc chắn là quý rồi. Chúc mừng bác Vọng nhé, nhìn hai cái vòng đẹp thật đấy.

Thầy Lương nói:

- - Đôi vòng này được làm bằng đá cẩm thạch xanh, độ trong cũng chưa đạt đến mức hoàn hảo, nhưng người xưa có câu: vàng thời có giá, ngọc thời vô giá. Câu này mang ý nghĩa nếu định giá của ngọc thì nó rất vô vàn, bởi ngọc còn mang lại nhiều giá trị về mặt phong thủy. Ví như đôi vòng cẩm thạch này, nếu đeo lên tay sẽ giúp người đeo điều hòa khí huyết, giảm được đau đầu, tránh được đột quỵ....Ngoài ra đá cẩm thạch theo quan niệm dân gian còn có thể bài trừ những năng lượng tiêu cực tích tụ bên trong cơ thể con người. Nói tóm lại với thời các cụ thì đôi vòng cẩm thạch này cũng là một tài sản lớn rồi.

Nghe thầy Lương giải thích, Sửu như được mở mang thêm kiến thức, nhưng khổ cái Sửu xưa nay là người đơn giản, tuềnh toàng, đôi vòng ngọc đó đẹp thì đẹp thật nhưng cũng không hấp dẫn bằng 3 quả bầu hồ lô đựng rượu bên dưới mâm cơm.

Sửu nói:

- - Thôi, xem thế đủ rồi....Giờ mời thầy, mời bác Vọng ngồi xuống mâm mình cùng nâng chén. Lúc dưới bếp nghe bác Vọng giới thiệu 3 bình rượu này là được người ta tặng năm ngoái mà chưa uống, em có mở ra ngửi thử thì công nhận thơm. Thầy với bác ngồi xuống đi không đồ ăn nguội hết cả.

Thầy Lương và ông Vọng nhìn nhau khẽ lắc đầu rồi mỉm cười, bao ngày qua vất vả, tốn bao công sức, hao tâm tổn trí, có lúc còn phải đối mặt với nguy hiểm tính mạng. Lâu lắm rồi những người này mới có cơ hội để ngồi uống chén rượu. Tạm thời bỏ qua những bí ẩn chưa được giải đáp lại phía sau, thầy Lương, ông Vọng nâng chén chúc mừng, cả Sửu cũng vậy. Không biết rượu trong hồ lô là rượu gì mà mới chỉ uống được 2 bầu, cả ba ai cũng ngà ngà. Trong đó thì Sửu với ông Vọng là say hơn cả, thầy Lương tuy chưa say nhưng cũng bắt đầu thấy ngâm ngấm.

Rượu vào lời ra, ông Vọng lúc này mới hỏi:

- - Thưa....thưa....thầy....Câu chuyện mà....mà thầy nói lúc trưa ấy....Tôi cứ...cứ thắc...mắc suốt....không biết là Cao Côn...để bọn ma quỷ đó...ở chỗ miếu hoang làm...cái giề....nhỉ...? Hức....hức.

Sửu hóng hớt:

- - Bác Vọng nói sao...? Sao lại có cái gì mà miếu hoang ở đây..?

Ông Vọng trả lời Sửu:

- - Thì đó....là cái miếu hoang ở làng ta....bao năm nay không ai dám đến gần đó.... ́y mà nhé, trưa nay...tôi theo thầy Lương ra ngoài đó xem.....Cậu biết gì không...? Hoa...hoa....hoa đã mọc trở lại trên khu đất...hức....đó rồi.....Toàn hoa.....vàng...ơi...là vàng. Mà năm đó cậu....hãy còn nhỏ, đâu mới có mười mấy tuổi thì chắc không nhớ gì rồi....

Sửu đáp lại:

- - Bác cứ đùa....Sao em...không nhớ.....Chỗ đó...là chỗ mà em với....con sư tử nhà em ra đó.....cầu duyên mà lại. Mà sau này người ta đồn ở đó có ma.....thế là em không dám ra nữa. Mọc hoa...thật...thật hả bác.

Ông Vọng chỉ về phía thầy Lương nói:

- - Thật mà....không tin cậu cứ hỏi....thầy Lương thì là biết. Thầy Lương nhỉ...? Mà thầy còn bảo, chỗ ấy là chỗ mà cái bọn Tiểu Quỷ gì đó cư ngụ.....Nhưng tại sao lại chôn đám ma quỷ ở đó thì thầy Lương lại không nói.

Đúng là khi say con người thường mất kiểm soát, hai người họ cứ thế hỏi dồn thầy Lương. Cũng có chút men trong người, hơn nữa để nói cho họ yên lòng mà ngừng làm loạn, thầy Lương khẽ đáp:

- - Chậc, thôi được rồi....Nếu như hai người đã có thắc mắc thì tôi cũng không muốn giấu. Nhưng tôi nói trước, chuyện này mọi người nghe thì để trong bụng thôi, chưa chắc chắn được gì cả. Cũng đừng làm gì mà không suy nghĩ, thực ra thì trong suy nghĩ của tôi, đám Tiểu Quỷ được chôn trên khu đất ấy là để canh giữ.....

Sửu vội hỏi:

- - Canh giữ cái gì vậy hả thầy...?

Cả ông Vọng lẫn Sửu đều tập trung chờ đợi câu trả lời của thầy Lương. Nhấp một ngụm rượu, đặt chén xuống, thầy Lương nhìn hai người họ mỉm cười rồi đáp:

- - Canh giữ của cải.....Ha ha ha....Ha ha ha.

Nói xong thầy Lương ngẩng mặt lên trần nhà cười lớn. Ông Vọng với Sửu quay sang nhìn nhau rồi cũng phá lên cười, ông Vọng vừa cười vừa nói:

- - Thầy cứ đùa.....Nếu như mà chỗ đó có của cải.....Thế lúc tôi cùng mọi người đào huyệt chôn cất hai người đó chẳng phải cũng tìm thấy rồi sao. Ha ha ha.

Thầy Lương định nói thêm điều gì nhưng thấy cả hai đều đã say nên thầy chỉ mỉm cười nhẹ nhàng. Ông Vọng và Sửu tiếp tục rót rượu mời nhau, sau câu trả lời của thầy Lương thì cũng chẳng ai hỏi thêm gì về chuyện ma quỷ nữa.

8h tối, sau khi uống hết cả 3 bầu rượu thì ông Vọng chính thức say không biết trời đất đâu. Sửu khá hơn một chút vì có sức khỏe, nhưng để bước đi thì Sửu cũng xiêu vẹo lắm rồi. Rượu ngon nhưng phải nói là cực kỳ nặng, uống thì mềm môi mà say lúc nào không hay. Thầy Lương cũng say chứ không phải không, nhưng do ông Vọng đã say bất tỉnh nhân sự nên thầy đứng dậy tiễn Sửu ra về còn đóng cổng.

Sửu chân nọ đá chân kia ra đến cổng, Sửu vừa cười vừa nói:

- - Thôi.....thầy vào nhà đi....kẻo lạnh.....Tôi về đây....Hức....cảm ơn...ơn thầy...và bác....Vọng....hức.....hề hề.

Một mực khuyên Sửu ở lại nhưng Sửu không nghe, Sửu nói đi uống rượu mà không về thì con vợ nó nhiếc cho điếc lỗ tai. Thôi thì cũng đành chịu, cũng mới chỉ 8h tối nên không có gì đáng lo.

Thầy Lương quay trở lại trong nhà, Sửu thì cố gắng giữ tỉnh táo để đi về. Cũng may nhà Sửu cách nhà ông Vọng không mấy xa nên dù say nhưng Sửu vẫn về được đến cổng nhà, đứng bên ngoài Sửu gọi lớn:

- - Bu nó ơi, bu nó....Mở cửa cho tôi.

Vợ Sửu cũng đang đợi chồng, biết hôm nay chồng đi nhậu bên nhà trưởng làng nên không dám ý kiến. Đi ra thấy chồng say khướt khượt, mở cổng, dìu chồng vào trong giường, đang lấy khăn lau mặt mũi, tay chân cho chồng thì vợ Sửu nghe bên ngoài có tiếng người gọi:

- - Anh chị Sửu có nhà không đấy...?

Đã hơn 8h tối, nhưng nghe giọng quen quen nên vợ Sửu tặc lưỡi lại mở cửa đi ra, miệng lẩm bẩm:

- - Tối muộn rồi còn gọi gặm cái gì không biết.....Mệt hết cả người.

Nhưng khi đi ra đến ngoài cổng thì vợ Sửu lại không thấy ai cả. Bên ngoài gió lạnh thổi hiu hiu, rõ ràng vừa có tiếng người gọi mà giờ chẳng thấy bóng ai. Chỉ có tiếng ếch nhái đang kêu râm ran, toan mở cổng ngó ra ngoài xem thì vợ Sửu giật mình hét toáng lên:

- - Ối giời ôi......Ma....Ma...... 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67: 10 lượng vàng...?


Từ phía mép tường cổng, một bóng đen nhảy xồ ra:

- - HÙ....Ú....ÒA...

- - Ma...Ma....Cứu....Cứu...với...- Vợ Sửu hoảng hồn ngồi bệt luôn xuống sân, mắt nhắm tịt, miệng gào lên kêu cứu.

Nhưng đáp lại vợ Sửu, " con ma " ngoài cổng lại cười phá lên:

- - Ha ha ha....Em đây, là em đây mà.

Nói rồi " con ma " tháo cái mặt nạ quỷ ra rồi cứ thế cười khoái trí, vợ Sửu he hé mắt thì lúc này mới phát hiện, chẳng có con ma nào cả, chỉ có thằng em trai của mình giả ma dọa người mà thôi. Đó chính là Lực, em vợ của Sửu.

Lực nói:

- - Có thế thôi mà cũng sợ, thường ngày em thấy chị quát ông Sửu ghê lắm cơ mà. Hề hề hề.

Định thần lại, vợ Sửu chỉ mặt em chửi bới:

- - Thằng chó chết, mày dọa chết tao rồi....Thằng trời đánh thánh đâm, tối đêm mày không có việc gì làm mò sang nhà tao làm gì thế hả.....?

Lực gãi đầu gãi tai:

- - Em xin lỗi, mở cổng cho em vào với. Anh Sửu vẫn thức chứ chị...? Em sang có chuyện này muốn thưa với anh chị. Nhanh lên, ngoài này lắm muỗi lắm.

Vợ Sửu mở cổng cho em, nhưng vẫn làu bàu chửi, cũng phải thôi, vừa nãy thị chỉ thiếu nước là đái ra quần. Lực bước vào nhà, thấy Sửu đang nằm thở phì phò, trong nhà nồng nặc mùi rượu, nhưng Sửu cũng đang cố cựa mình dậy, Sửu nói:

- - Nước, cho xin cốc nước.

Vợ Sửu chỉ tay về phía chồng rồi nói với Lực:

- - Đấy, anh mày tối nay sang bên nhà ông Vọng ăn cơm, chẳng hiểu uống bao nhiêu mà về nằm vật ra. Khổ cái thân tao, mà mày sang đây có chuyện gì, để mai không được à...?

Lực thở dài:

- - Mai thì cũng được, nhưng tính em chị biết rồi, muốn làm gì mà cứ phải chờ đợi em khó chịu lắm. Mà anh như này không biết nói ra có giải quyết được gì không...?

Vợ Sửu đưa nước cho chồng, Sửu tu ừng ực một hơi cạn cả cốc nước to, lấy tay quệt ngang miệng, Sửu lờ đờ mở mắt rồi khẽ lắc lắc đầu cho tỉnh táo bởi ngoài vợ mình ra, Sửu còn thấy ai đó. Nhìn một lúc rõ ràng, Sửu cười rồi nói:

- - Ơ, Lực đấy à...? Đến lâu chưa...?

Lực vội đáp:

- - Vâng, em Lực đây....Anh có tỉnh táo không đấy, em vừa mới đến. Khiếp, bình thường anh uống rượu khỏe lắm mà sao hôm nay lại say thế...?

Sửu cười cười:

- - Ăn....thua...thua gì....Anh mày còn đi về...được....Chứ....như bác Vọng...nằm bết luôn....Hê hê hê.....Đúng rượu ông ấy thửa, uống đã thật chớ. Mà có chuyện gì cứ nói, anh....vẫn còn....tỉnh lắm.

Vợ Sửu đế thêm vào:

- - Ừ đấy, mà mày có chuyện gì thì nói đi. Nhanh tao còn đi ngủ, cũng muộn lắm rồi.

Sửu cũng cố bước ra đến bàn uống nước, Lực đợi cho hai anh chị ngồi xuống rồi bắt đầu thưa chuyện:

- - Là như này...Anh chị cũng biết em thích con Út nhà bà Điều lâu rồi phải không..?

Vợ Sửu ậm ờ:

- - Thì biết, nhưng mà sao...? Nhà đấy nó có ưa mày đâu.

Lực cãi:

- - Chị nói thế là sai....Chỉ có bà Điều bà ấy cấm thôi, chứ Út nó cũng thương em lắm.

Vợ Sửu tiếp:

- - Thì đấy, mẹ nó không đồng ý thì nó cũng chẳng làm gì được. Mà tự nhiên mày nói chuyện đó làm gì...?

Lực cười khúc khích:

- - Hí hí, thì phải có gì em mới nói được chứ....Đúng là trước đây bà ấy không ưa em, nhưng đợt rồi bà ấy chịu rồi chị ạ. Nhân cơ hội này em mới đánh tiếng hỏi cưới luôn cái Út.....Nhưng...nhưng mà....

Thấy Lực ấp úng, Sửu hỏi:

- - Nhưng sao...? Bà ấy lại không chịu phải không..? Nói gì nói nhà con mụ Điều ấy cũng thuộc dạng giàu có trong cái làng này, nhà mình thì nghèo....sao mụ ta chịu.

Lực đáp:

- - Không, bà ấy chịu....Chỉ có điều, bà ấy thách cưới 10 lượng vàng, với sính lễ phải đầy đủ, em phải có đất riêng..

" Phụt "

Nghe đến đây thì vợ Sửu đang uống nước cũng phải phun ra, vợ Sửu giật mình, run run giọng, thị hỏi lại:

- - Cái...cái gì...cơ...cơ....? Mày nói...lại tao...nghe.....Bao nhiêu vàng...cơ....?

Lực nhắc lại:

- - Dạ, 10 lượng.

Đến lúc này không chỉ vợ Sửu mà cả Sửu cũng nuốt nước bọt ừng ực, vợ Sửu rồ lên:

- - Lực ơi là Lực, mày ngu thì cũng phải chừa cái ngu cho người khác với chứ...? Gia đình mình, bố mẹ mình là nông dân, năm được mùa thì cũng có chút đỉnh, nhưng cả họ nhà mình đào đâu ra được 2 lượng bây giờ, chứ đừng nói là 10 lượng. Ừ thì sính lễ đầy đủ cũng có thể lo được, rồi nhà đất cho mày ở riêng bố mẹ cũng có thể cắt đất ruộng ra cho mày được...Nhưng đấy là tất cả những gì nhà ta có, còn 10 lượng vàng.....Lấy đâu ra hả Lực.....Con mụ ấy nó thách cưới như vậy là ngầm ý không cho mày cưới con bé Út rồi. Hiểu chưa hả...?

Sửu cũng đồng tình với vợ, 10 lượng vàng là quá lớn, không muốn nói là không tưởng so với gia cảnh của nhà vợ Sửu. Mà cả cái làng này trước nay cũng chẳng ai thách cưới một sính lễ lớn như vậy cả. Mục đích của mụ Điều chính là không muốn gả con gái cho Lực.

Nhưng Lực vẫn ngoan cố:

- - Thì con gái người ta xinh đẹp nhất cái làng này, thách vậy cũng đâu có sao...?

Vợ Sửu lắc đầu, thị đứng lên bỏ ra ngoài sân do quá bực bội, thị nói:

- - Mày đừng điên nữa, không cưới đứa này thì cưới đứa khác....Mày u mê quá rồi.

Thấy vợ bỏ đi, Sửu tặc lưỡi, câu chuyện của Lực khiến Sửu nghe xong cũng phải choáng váng mà tỉnh rượu, chẳng biết do buột miệng hay do ma xui quỷ khiến thế nào mà Sửu lại nói:

- - Muốn có 10 lượng vàng thì giờ may ra chỉ có đi đào cái miếu ấy lên thì có.

Ai dè Lực lại gặng hỏi:

- - Là sao ạ...? Đào miếu, anh nói rõ hơn được không..? Miếu nào...? Ờ đâu...?

Sửu thoáng giật mình, Sửu cười cười:

- - Chậc, anh cũng chỉ nói vui vậy thôi, chứ lấy đâu ra......Chắc lúc ấy thầy Lương cũng nói đùa mà thôi.

Nhắc tới thầy Lương thì Lực cũng biết, chính Lực đã từng đi với Sửu đào bới ngoài Bãi Hoang. Tận mắt chứng kiến những gì mà thầy Lương phán đoán chính xác. Khác với Sửu, Lực lại suy nghĩ sâu xa hơn, Lực nghĩ rất khó để thầy Lương đùa, mỗi câu nói, mỗi việc làm của thầy Lương đều có nguyên nhân, lý do.

Lực cố hỏi anh rể:

- - Đùa cũng dược, anh cứ nói cho em nghe xem nào. Vui thì em cũng nghe vui vậy thôi.

Hơi men vẫn còn, mà tính Sửu không phải kẻ biết giấu diếm chuyện gì, Sửu nói:

- - À thì hôm nay anh sang bên nhà bác Vọng uống rượu, lúc đó có loáng thoáng nghe thầy Lương nói khu đất có cái miếu hoang ở làng ta. Chỗ mà ngày xưa hoa cỏ mọc quanh năm ấy......Sau này có người chết nên đất đai khô cằn, thầy Lương nói ở đó có của. Mà mới sáng nay, bác Vọng cũng đào được đồ gia bảo bố mẹ để lại....Đào ngoài vườn, chắc cũng nhờ thầy Lương mách nước....Nhưng chuyện ngoài miếu thì chắc chỉ là....đùa....thôi.....Ơ kìa....đi đâu đấy...

Sửu vừa nói hết câu thì Lực đứng dậy, Lực đi vội lắm.....Ra đến sân, thấy chị đang đứng đó tức tối, Lực cũng chỉ chào nhanh 1 câu rồi mở cổng ra về.

Vợ Sửu bước vào nhà, chắc ngồi uống nước, gió lạnh lùa vào nên Sửu tự nhiên thấy buồn nôn. Chẳng nói chẳng rằng, Sửu nôn thốc nôn tháo luôn tại bàn uống nước. Vợ Sửu thì bù lu bù loa, vất vả lắm vợ Sửu mới dìu được chồng lên giường, bôi vôi vào lòng bàn tay, lòng bàn chân, lấy cao day hai thái dương.......Thị vừa than đất kêu trời, đang đau đầu với chuyện của thằng em trai lụy tình thì lại đến chồng nôn mửa.

Đến khoảng 9h hơn thì vợ Sửu dọn dẹp xong, Sửu lúc này cũng đã ngủ say, tắt đèn, cả nhà Sửu chìm trong giấc ngủ.......Cho đến sáng ngày hôm sau, một lần nữa, bên ngoài cổng lại có tiếng người gọi thất thanh....Vẫn là giọng quen thuộc, chỉ có điều lần này là Sửu ra mở cổng chứ không phải vợ Sửu.......Nhưng người gọi cũng không phải là Lực. 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68: Người chết ngoài miếu


- - Nhàn ơi, Sửu ơi......Đi đâu cả rồi....?

Sửu chạy vội ra sân, lúc này mới chỉ hơn 6h sáng. Vừa ngáp vừa dụi mắt, Sửu nói vọng về phía cổng:

- - Dạ đây ạ.

Từ trong nhà là Sửu đã nhận ra giọng người đang gọi bên ngoài chính là giọng của mẹ vợ ( bà Nhâm). Mở cổng, Sửu chào mẹ rồi mời bà vào trong:

- - Mẹ đấy ạ, sao có chuyện gì mà mẹ sang gọi chúng con sớm thế. Vợ con nó hãy còn ngủ, khổ chắc tại hôm qua con say rượu nên thức đến quá đêm dọn dẹp. Mẹ vào nhà đi ạ.

Bà Nhâm tháo cái nón rồi hối hả bước vào trong, vừa đi bà vừa nhìn xung quanh, xong bà quay lại hỏi Sửu:

- - Thế tối qua thằng Lực nó có ở đây uống rượu với anh không...?

Sửu lắc đầu:

- - Dạ không ạ, hôm qua con uống rượu bên nhà bác Vọng. À mà mẹ hỏi thằng Lực hả...? Đúng là tối qua lúc con say rượu về nó có sang đây.

Đi vào trong nhà, lúc này vợ Sửu cũng đã tỉnh giấc, nhìn thấy mẹ, Nhàn chào rồi hỏi:

- - Con chào mẹ, mẹ đi đâu mà sang sớm vậy...?

Bà Nhâm đáp:

- - Mẹ chạy qua đây tìm thằng Lực, hôm qua đã dặn nó là sáng nay dậy sớm xới cho mẹ mảnh vườn mà nó đi từ đêm qua không về. Lúc tối nó bảo đi sang nhà anh chị nên mẹ tạt qua đây xem có nó ở đây không gọi về. Thế nó không ở đây hả Nhàn...?

Nhàn nhìn chồng rồi nói:

- - Tối qua nói chuyện xong nó đi về luôn anh nhỉ..?

Sửu gật đầu:

- - Đúng rồi, xong cái nó về luôn. Lúc đó cũng muộn rồi còn gì. Mà hôm qua nó sang đây nói chuyện gì thế nhỉ..? Anh cứ nhớ nhớ quên quên, lúc đó say quá, ngủ dậy còn đau hết cả đầu.

Nhàn thở dài, nghĩ vừa mệt vì cả đêm qua dọn dẹp bãi nôn mửa cho chồng, xong giờ lại nhớ đến chuyện thằng em trai tối qua sang bàn việc sính lễ cưới vợ mà Nhàn nhão hết cả ruột, Nhàn đáp:

- - Vầng, ông thì có nhớ cái gì, thế mà lúc ấy cũng nói như thật. Nó sang bàn chuyện cưới vợ, nhưng nhà gái người ta thách tận 10 lượng vàng thì lấy đâu ra. Có giết hết cả nhà cũng chẳng đào đâu được từng đó vàng.

Đoạn quay sang Nhàn trách mẹ:

- - Mà cả bố mẹ nữa, kiểu gì nó chẳng nói với bố mẹ. Vậy mà bố mẹ không khuyên nhủ nó một câu. Thằng này nó điên rồi.

Bà Nhâm sượng sùng đáp:

- - Ừ thì bố mẹ cũng biết, cũng có nói, nhưng nó không nghe....Mày cũng biết tính nó còn gì. Cơ mà sao cái nhà bà Điều thách gì mà thách giữ vậy, sính lễ đất đai thôi thì cố cũng còn được, đằng này tận 10 lượng vàng. Nhưng khổ tội, cái thằng Lực nó lại chỉ yêu con Út nhà đó. Nó đòi sống đòi chết nên bố mẹ cũng không dám cản.

Nhàn chép miệng:

- - Con lạ gì hai ông bà, lúc nào cũng bài ca chỉ có mình nó là con trai. Chỉ sợ không đúng ý nó rồi nó bỏ làng đi, nhưng việc này phía nhà mụ Điều rõ ràng là không muốn gả. Sao thằng này nó ngu thế nhỉ, mà nó không có ở đây đâu ạ, tối qua nó về rồi. Đi qua con nó còn chỉ chào lí nhí vì sợ con chửi. Nếu vườn tược gì hay là mẹ cứ về trước, lát chồng con rửa mặt mũi xong sẽ sang đó giúp hai ông bà.

Tối qua đi nhậu say, về nhà nôn mửa hành vợ, Sửu biết thân biết phận nên không dám ý kiến, Sửu nói với mẹ vợ:

- - Vậy mẹ đợi con chút, con rửa ù cái mặt rồi đi sang đó giúp bố mẹ luôn.

Bà Nhâm có phần hơi ngại:

- - Thế....liệu có...được không..?

Nhàn đáp luôn:

- - Có gì mà không được, ăn nhậu chán chê rồi thì phải làm việc đi chứ. Mẹ cứ để anh ấy sang làm, còn thằng Lực nó cứ về nhà đi rồi con sang nói chuyện với cả nó lẫn bố mẹ, phải chửi cho thằng này nó tỉnh ra, bằng đấy tuổi đầu rồi mà càng ngày càng ngu.

Bà Nhâm cũng phải hãi với độ đanh đá của con gái, bà vội tảng lờ đi:

- - Thế anh Sửu rửa mặt đi, tôi đợi ngoài này. Sang đó tôi có nồi khoai luộc, anh ăn cùng rồi giúp bố mẹ một tay.

Sửu vâng dạ rồi đi cùng mẹ vợ ra ngoài sân, vừa đi, bà Nhâm vừa khẽ ngoái lại đằng sau nhìn rồi thì thầm với con rể:

- - Cái con này nó gớm nhỉ...? May có mày chịu được nó.

Sửu gãi đầu, gãi tai cười trừ:

- - Vầng, mồm nói ác thế thôi chứ bụng dạ tốt lắm. Vợ con con biết chứ.

Xong xuôi, Sửu đi cùng bà Nhâm sang bên nhà để phụ giúp công việc. Vậy mà cũng đã 7h sáng. Lúc đi qua nhà ông Vọng, Sửu có ngó ngó vào trong xem cả thầy Lương với ông Vọng đã dậy chưa, nhác thấy ông Vọng loay hoay rửa rửa cái gì ở cầu ao, Sửu định vào chào một câu nhưng đang đi cùng mẹ vợ nên lại thôi.

Đi được thêm một đoạn đường thì Sửu thấy từ hướng ngược lại có người đang chạy hối hả, gần thêm chút nữa thì Sửu nhận ra đó chính là bà Miên, bà bán hàng nước dưới gốc đa đầu làng. Nhìn bà Miên mặt mũi tái nhợt,tóc tai thì rũ rượi, bê bết mồ hôi, vừa chạy bà Miên vừa thở hồng hộc, thi thoảng lại ngó về sau nhìn nhìn giống như đang sợ hãi thứ gì đó.

Bà Miên với bà Nhâm cũng tầm tầm tuổi nhau, chẳng biết có chuyện gì nhưng bà Nhâm vẫn gọi khi bà Miên chạy qua:

- - Ơ này, chạy đi đâu mà như ma đuổi thế.....Bình tĩnh xem nào.

Chắc có lẽ bà Miên đã phải chạy cả một quãng đường xa, nay thấy có người gọi tên, bà Miên mới chú ý nhìn sang, mặt cắt không còn một giọt máu, bà Miên nói như sắp đứt hơi:

- - Bà Nhâm....đấy...đấy...à....? Còn....hơn...hơn...ma đuổi.....Chết...rồi.....Kinh...lắm.....Sợ...lắm.

Sửu nói:

- - Có chuyện gì bác cứ bình tĩnh nói xem nào, nói thế ai mà hiểu cho được. Mà bác chạy đi đâu đây...?

Bà Miên vừa thở vừa tiếp tục nói:

- - Tôi....tôi chạy...đi tìm....ông Vọng trưởng....làng. Có....có người chết....ở ngoài...ngoài miếu ấy.

Nghe đến Miếu đột nhiên Sửu giật mình nổi da gà, Sửu hỏi lại:

- - Có người chết ở miếu, bác nói thật chứ...? Mà ai chết...?

Lúc này bà Miên đã bình tĩnh lại được một chút, bà Miên trả lời:

- - Thật, tôi đùa với nhà cậu làm gì.....Chết thật rồi, còn ai thì không biết....Vì....vì.....mà thôi, tôi phải báo cho trưởng làng ngay. Đứng đây với hai người từ nãy mất thời gian quá.

Nói xong bà Miên lại chạy thục mạng, nhà ông Vọng cũng cách đó có một đoạn. Sửu cùng bà Nhâm đứng đó nhìn theo, Sửu thấy bà Miên bám tay vào cổng gọi tên ông Vọng rất to. Đột nhiên Sửu có linh cảm không lành, mà không chỉ Sửu, cả bà Nhâm cũng thấy thế. Lý do là bởi vì cả đêm qua Lực không về nhà, bây giờ lại nghe tin ngoài Miếu có người chết.

Bà Nhâm thì còn mông lung, bán tín, bán nghi chứ Sửu thì thực sự đang rùng mình lạnh hết sống lưng. Bởi dù say, nhưng tối qua trong lúc nói chuyện với Lực, Sửu nhớ mang máng hình như khi đó Sửu cũng có nhắc đến cái miếu.

Sửu nói với mẹ vợ:

- - Mẹ....mẹ....hay là giờ mẹ...cứ về nhà trước đi....Con đi xem sao rồi con sang ngay mẹ nhé.

Bà Nhâm vội vàng gật đầu:

- - Ừ...ừ.....con đi đi rồi có gì sang nhà sau. Mà này Sửu ơi, sao tự nhiên mẹ thấy bất an lắm. Có khi nào....có khi nào....là....thằng Lực...không hả con.......Chưa biết là thật hay giả, hay là ai chết nhưng.....sao nước mắt mẹ cứ trực chảy thế này.

Bà Nhâm không nói điêu, chẳng hiểu vì sao đang nói chuyện với Sửu mà bà Nhâm cứ chảy nước mắt.

Sửu trấn an mẹ:

- - Không....không thể nào đâu mẹ.....Thằng Lực nó đi đâu thôi, chứ nó ra miếu đó làm gì.

Bà Nhâm cũng mong là như vậy, tuy nhiên con bà bà biết, như khi nãy vợ Sửu có nói, vợ chồng bà rất cưng chiều con trai, mặc dù nhà nghèo nhưng có gì hai ông bà cũng dành cho con cả, tính khí Lực thế nào bà Nhâm là người rõ nhất. Năm nay Lực cũng đã 27-28 tuổi, chưa bao giờ Lực đi qua đêm mà không về nhà.

Sửu chạy vội về phía nhà ông Vọng, lúc này bà Miên cũng đã đi vào bên trong. Chạy đến cổng thì Sửu nghe thấy bà Miên nói với ông Vọng bằng một giọng đầy hoảng sợ:

- - Trưởng làng, trưởng làng ơi.......Ngoài miếu hoang có người chết.....Chết....rồi....mà cũng...bị lột sạch da mặt....Mà mà......

Sửu chạy vào trong sân, lúc này cả thầy Lương cũng đi ra, ông Vọng thì đang bàng hoàng trước tin dữ mà bà Miên đem tới, nhìn thấy thầy Lương, bà Miên vội nói tiếp:

- - Bác vẫn ở đây à....? Bác ơi, cái miếu, cái miếu mà hôm qua tôi kể với bác.....Ở đó lại có người chết rồi.....Sợ....sợ lắm.....Mà.....mà.....

Cứ đến đoạn " mà " thì bà Miên lại lắp không nói tiếp được. Chắc bà ta đã nhìn thấy thứ gì đó cực kỳ kinh khủng nên mới hoảng hốt đến vậy.

Thầy Lương khẽ nói:

- - Bình tĩnh lại, thở đều, thở đều rồi nói lại chậm rãi sự việc cho tôi nghe.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 69: Danh tính của người chết


" Phù....Phù....Phù "

Bà Miên đặt tay lên ngực cố gắng điều hòa lại hơi thở, sau khi đã thực sự bình tĩnh, mà Miên nhìn ông Vọng và thầy Lương nói, lần này không một chút vấp váp:

- - Ngoài miếu có người chết....Mà không phải 1 người, là hai người....Vẫn là 1 nam, 1 nữ. Cả hai đều...đều bị lột da mặt. Đáng....đáng sợ lắm.

Sửu không giữ được bình tĩnh nữa, Sửu kéo tay bà Miên lại hỏi dồn dập:

- - Hai người, có thật không...? Hai người đó là ai...? Bà có biết không..? Hả...Hả...?

Bà Miên lắc đầu lia lịa:

- - Làm sao tôi biết được là ai.....Không nghe thấy tôi nói họ bị lột hết da mặt à...? Trên mặt toàn máu là máu, mắt mũi trợn lòi ra, lưỡi lè vắt sang một bên. Nhìn qua thôi cũng đủ thất kinh hồn vía, chính vì không biết là ai nên tôi mới chạy hộc tốc đến đây để báo với trưởng làng đây này.

Ông Vọng nhìn thầy Lương như chờ đợi ý kiến cũng như lời nói của thầy, lúc này thầy Lương đang suy nghĩ, lại xảy ra chết người, không chỉ vậy, theo như những gì mà bà Miên vừa nói thì sự việc này giống y như những gì đã xảy ra cách đây 20 năm trước. Nhưng muốn chắc chắn thì phải đến tận nơi để xem, bà Miên đã phát hiện ra 2 người chết ở đó, chắc chắn phải đến gần thì bà Miên mới biết họ bị lột da mặt. Từ miếu hoang bà Miên chạy đến đây vẫn bình an vô sự, hơn nữa, mới hôm qua thầy Lương và ông Vọng đã đặt chân lên khu đấy ấy cũng đâu có chuyện gì xảy ra. Điều mà thầy Lương đang nghi ngơ, nguyên nhân xảy đến cho cả 4 người chết có thể là từ đêm ngày hôm trước. Khu đất ấy cũng chính là nơi đám Tiểu Quỷ do Cao Côn tạo ra cư ngụ. Thầy Lương biết bọn Tiểu Quỷ chỉ xuất hiện vào lúc 12h đêm trở đi cho tới khi tiếng gà gáy đầu tiên của ngày mới cất lên..Phải chăng những người đã chết kia là do xâm phạm vào lãnh địa của ma quỷ giữa đêm nên phải chịu hậu quả rợn người.

20 năm trước cặp đôi được cho là người Hoa kia đã chết ở đó không rõ nguyên nhân. Vậy 20 năm sau, lý do gì khu vực ấy lại tiếp tục có thêm 2 người chết, vẫn là 1 nam, 1 nữ. Nhiều năm trước người ta còn ra đó vì cảnh đẹp, nhưng như trưởng làng nói, đã chục năm nay nơi đó không có ai dám bén mảng qua lại nữa. Ngay cả như bà Miên, nếu con đường bà hay đi không bị sụt lở thì cũng chẳng dại gì mà bà Miên đi con đường vòng ngang qua cái miếu ấy. Chuyện bất thường ở miếu như hoa mọc tươi tốt chỉ có vài con người ở đây là biết. Nếu nói tò mò thì phải là bốn con người đang đứng đây tò mò ra đó tìm hiểu mới đúng. Vậy hai người chết ngoài miếu hoang kia rốt cuộc là ai...?

Thầy Lương nói:

- - Mọi người bình tĩnh lại đã, trước mắt cần phải ra khu đất ấy xem xét ra sao...? Xác định xem ai là người chết, người chết có phải người trong làng hay không..? Và lý do, tại sao họ lại ra ngoài miếu hoang để làm gì...? Thời gian vừa qua trong làng đã xảy ra nhiều chuyện khiến người dân hoang mang, lo sợ. Trước khi xác định được sự thật, đừng làm kinh động đến bà con.

Nhìn bà Miên, thầy Lương hỏi:

- - Thế lúc chạy đến đây, không biết bà chủ quán đã nói tin này cho ai nghe hay chưa...?

Bà Miên chỉ tay vào Sửu rồi đáp:

- - Dạ dạ.....Lúc chạy đến gần nhà trưởng làng, tôi có gặp bà Nhâm với cậu Sửu đây, họ kéo giật tôi lại hỏi han nên tôi có lỡ mồm nói ngoài miếu có người chết....Còn ngoài ra trên đường tôi chỉ cắm đầu, cắm cổ chạy, không nói gì với ai cả.....Hơn nữa đường làng hôm nay cũng vắng, có thấy ai qua lại đâu.

Thầy Lương nói:

- - Vậy giờ tôi sẽ đi cùng bác trưởng làng ra ngoài miếu.

Sửu vội thưa:

- - Thầy, cho tôi đi với.....Tôi....tôi cũng....muốn xem xem....người chết ngoài đó là ai...?

Thấy sắc mặt của Sửu có gì đó không được ổn, nhưng cũng không muốn chần chừ mãi ở đây nên thầy Lương cũng đồng ý luôn. Dẫu sao trước giờ nhiều công việc cũng nhờ Sửu mới xong xuôi, có Sửu đi cùng có gì cũng dễ bề liệu sự.

Cả 4 người bước ra khỏi nhà ông Vọng, trên đường đi ai cũng có một nỗi lo riêng biệt. Bà Miên thì vẫn còn hoang mang, không biết hai người chết mà bà nhìn thấy là ai, ông Vọng thì bàng hoàng bởi chỉ mới qua được vài ngày sau khi chôn cất 2 mẹ con Xoan thì nay trong làng lại tiếp tục có tin người chết, không chỉ 1 mà tận 2 người. Thầy Lương thì bộn bề bao ngổn ngang, vấn đề cũ chưa có cách giải quyết đã xảy ra chuyện mới, không chỉ vậy nếu có người chết thật thì điều này là vô cùng nguy hiểm. Nhưng người thực sự sợ hãi mặc dù chưa ra đến miếu chính là Sửu, mặc dù bà Miên chưa đặc tả được gì về ngoại hình của cả hai người chết kia, nhưng cuộc nói chuyện tối ngày hôm qua của Sửu với Lực, cộng thêm việc cả đêm Lực không về nhà, tất cả những điều này khiến Sửu sợ, Sửu sợ rằng, một trong hai người chết ngoài miếu kia chính là em trai vợ của Sửu, là Lực.

Tất cả dừng lại trước khu đất có ngôi miếu hoang, bà Miên run run ngón tay chỉ về trước mặt:

- - Đi...đi vào thêm...một...một chút nữa...là...là thấy.....Sáng tôi đi ngang...qua đây....họ...nằm....kia...kìa.

Bước thêm một đoạn, bà Miên không hề nói sai, nằm ngay trên mặt hoa vàng là hai cái xác người. Chỉ cần đi qua đường cũng thấy, bởi hàng chục năm nay đất đai ở đây khô cằn, cỏ mọc còn không nổi nên xung quanh trơ trọi, loài hoa dại màu vàng thân thảo kia chỉ vừa mới mọc lên được 2 ngày hôm nay, trên thảm hoa màu vàng ấy, chính xác là có hai thi thể đang nằm bất động.

Bà Miên không dám đi vào tận nơi nữa, bà đứng ngoài nhìn thầy Lương, nhìn ông Vọng và Sửu đang bước sang bên ngôi miếu. Vẫn như hôm qua, ban ngày tới đây, thầy Lương không hề cảm nhận được sự nguy hiểm, duy chỉ có mùi tử khí đã nồng nặc hơn, bởi trên khu đất này đã có thêm 2 người chết.

Ông Vọng đứng chôn chân một chỗ ngay khi nhìn thấy cận mặt hai cái xác, giờ thì ông đã hiểu tại sao bà Miên lại chạy bán sống, bán chết, tại sao bà Miên lại sợ đến mức nói không thành lời như vậy. Đó là vì, bản thân ông lúc này cũng gần như cấm khẩu, trước mắt ông, hai cái xác nằm ngửa cạnh nhau, cơ thể nguyên vẹn, quần áo đầy đủ, duy chỉ có khuôn mặt là kinh dị nhất. Từ cổ trở lên, da của họ bị lột sạch, máu trên mặt họ đã khô, nhưng khi bộ da bị lột ra, ông Vọng có thể nhìn rõ từng thớ thịt đỏ au, trên từng góc cạnh của gương mặt, bốn con mắt trắng ởn lồi sâu ra ngoài hốc mắt vẫn đang trợn trừng nhìn thẳng lên trời cùng hàm răng đang nhe ra với cái lưỡi lè vắt sang một bên.

" Ụa....Ụa...."

Ông Vọng không chịu nổi nữa, ông nôn thốc nôn tháo ngay tại vị trí. Với thầy Lương, bao năm qua làm công việc bốc mộ, còn chứng kiến những cảnh tượng ghê rợn hơn như thế này nhiều nên thầy Lương khá bình thản, nói vậy không có nghĩa là thầy Lương bình thản trước cái chết của hai người đang nằm dưới đất. Câu chuyện xảy ra ngay tại ngôi miếu này đã bắt đầu đi quá sự tưởng tượng của con người. Nếu như 20 năm trước, dân làng cho rằng cặp nam nữ trung niên người Hoa kia bị giết, kẻ sát nhân sau khi giết họ đã lột da mặt rồi bỏ trốn thì 20 năm sau, lại có hai người chết, vẫn là 1 nam, 1 nữ, vẫn là hai bộ da mặt bị lột sạch. Chỉ có điều, với thầy Lương, không phải tên sát nhân man rợ nào làm ra chuyện này cả. Chỉ có ma quỷ, hay nói chính xác, hai người này đã bị đám Tiểu Quỷ giết chết, và 20 năm trước, tại khu đất này, chính chúng cũng đã làm điều tương tự với cặp đôi người Hoa kia.

Đột nhiên, trong lúc ông Vọng đang nôn mửa thì Sửu quỵ hai chân xuống đất, Sửu ôm đầu hét lớn, tiếng hét của Sửu thảm thiết, kèm theo đó là những giọt nước mắt rơi không ngừng:

- - KHÔNG....KHÔNG THỂ NÀO.....LỰC ƠI.....LỰC.

Thầy Lương, ông Vọng đều ngỡ ngàng khi không bỗng nhiên Sửu gọi tên Lực ở đây. Cả bà Miên đứng cách đó một khoảng cũng phải giật mình. Sửu lồm cồm bò tới bên thi thể người nam, Sửu khóc nấc lên:

- - Hức.....Lỗi tại anh......Lực ơi....Sao em lại....chết tức tưởi....thế này.....Anh xin lỗi....

Cả ông Vọng lẫn thầy Lương chưa thực sự hiểu chuyện gì thì quanh đó vang lên tiếng người bàn tán:

- - Kìa....kìa....là chỗ kia...

- - Ừ, thấy bảo ngoài miếu có người chết...

- - Hình như có ai ở đó rồi thì phải.

Là tiếng người dân đang xôn xao, câu chuyện có người chết bên ngoài miếu hoang bằng một cách nào đó đã đồn đến tai nhiều người, và bây giờ, với bản tính hiếu kỳ, tò mò, dân làng đang kéo nhau đến miếu để xem xét thực hư ra sao.

Trong số những người đang đi tới, có hai người chạy hối hả nhất, đó chính là bố mẹ vợ của Sửu. Bà Nhâm, bà Nhâm nhìn thấy bà Miên thì vội hỏi bằng giọng run run:

- - Bà Miên.....Ai....ai chết...ở đây vậy...?

Bà Miên lắc lắc đầu, nhưng rồi bà ta chỉ tay về phía miếu, chỉ tay về phía Sửu đang quỳ phủ phục bên cạnh hai thi thể người chết khóc lóc, bà Miên nói:

- - Tôi cũng không dám chắc......Nhưng.....nhưng vừa thấy thằng Sửu...nó....kêu tên.....thằng Lực......Mà....mà con trai chị tên Lực....phải không...?

Nghe đến đây bà Nhâm xịu người đi, bà lảo đảo rồi ngã nhoài ra đất, chồng bà Nhâm vội đỡ lấy vợ, hướng mắt về phía trước ngôi miếu, cả hai ông bà đều nghe rõ giọng cậu con rể đang gào khóc:

- - Lực ơi......Lực ơi....Sao em lại chết......Lực ơi.....Cho anh xin lỗi.

Như vậy, một trong hai người chết đã được xác nhận là người trong làng, căn cứ vào bộ quần áo tối hôm qua Lực mặc, và lúc này thầy Lương mới biết, tại sao Sửu lại nhận ra ngay đó chính là Lực, bởi vì, lúc Sửu quỵ xuống đất cùng là lúc Sửu nhặt được sợi dây chỉ đỏ xuyên qua hạt tràng nằm trong thảm hoa vàng. Đó là một trong hai sợi dây mà thầy Lương đã đưa cho hai anh em Sửu trong lần đào bới ngoài bãi Hoang dạo trước.

Vậy thi thể người nữ còn lại là ai....? Có vẻ như thầy Lương và ông Vọng cũng đã biết được người chết bên cạnh Lực là ai. Nhưng để rõ ràng hơn thì cần phải xác nhận lại thật kỹ.

[........]

Tại giếng làng, cách đó một đoạn hướng về phía con đường dẫn ra gốc đa. Nhàn cũng đang hối hả bước vội thì thấy phía trước có bóng dáng ai đó quen quen. Rảo chân nhanh hơn để đuổi kịp, Nhàn gọi:

- - Này...này.....đợi chị với.

Người đang đi trước nhàn vài bước chính là bé Út, con gái của bà Điều, Út quay lại mặt thất thần vội chào Nhàn:

- - Em...em chào chị....

Nhàn hỏi:

- - Em đi đâu mà vội thế...? Có phải đang tính ra ngoài miếu không..? Chị nghe loáng thoáng người ta kháo nhau ngoài đó có người chết. Vừa dắt cháu sang bên ông bà ngoại xem xem bố nó làm gì mà nhà chẳng thấy ai, nghe hàng xóm bảo vậy nên chị gửi cháu rồi đi vội ra đó xem sao.

Út gật đầu lia lịa, mắt Út ướt nhòe, Út nói:

- - Vâng.....vâng....em cũng nghe nói vậy.....Hu hu hu....Chị ơi, có khi nào là u em không hả chị...?

Thực ra lúc này Nhàn đang cố gắng che giấu nỗi lo, bởi khi nghe tin, ngay lập tức Nhàn đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất, bởi theo như bà Nhâm nói thì cả đêm qua Lực không về. Đó là lý do Nhàn vội gửi con rồi chạy đi ngay. Giờ thấy bé Út nói vậy, Nhàn ấp úng hỏi lại:

- - Sao...sao em lại....nói thế....?

Bé Út trả lời một câu mà khiến Nhàn gần như chết đứng:

- - Hu hu hu....Chị ơi.....Tối...tối qua anh Lực có đến gọi cửa nhà em.....Không biết anh ấy và u em đã nói chuyện gì.....Nhưng đến gần lửa đêm thì cả hai bỏ đi đâu đó....U em đi đến sáng nay vẫn chưa thấy về......Em....em sợ lắm...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 70: " Quỷ " giữ cửa


Miếu hoang, lúc này đang là 8h sáng.......Tiếng khóc than thảm thiết vẫn tiếp tục vang lên, lúc này không chỉ có mình Sửu, bố mẹ vợ của Sửu cũng đang khóc nấc lên từng hồi. Nhàn và Út sau khi ra tận nơi, chưa kịp nhìn cận mặt hai thi thể, mới chỉ nhìn thấy bà Nhâm ngất lên, ngất xuống, Nhàn biết, mọi lo lắng, linh tính của cô trên đường đến đây đã trở thành sự thật. Còn với bé Út, sau khi nhìn thấy xác mẹ, nhìn thấy khuôn mặt bị lột sạch da của mẹ mình, quá hoảng loạn, quá đau buồn, Út đã ngất ngay tại chỗ.

Danh tính của 2 thi thể đã được xác nhận, xác người nam là Lực, xác người phụ nữ còn lại chính là bà Điều, thầy cúng hành nghề trong làng Văn Thái. Đám đông hiếu kỳ, nhiều kẻ tò mò đi sát lại gần để xem thực hư cái chết của hai người họ ra sao, kẻ yếu bóng vía thì bỏ chạy trối chết, kẻ nào can đảm hơn cũng không dám ở lại lâu. Chỉ một lúc sau, chẳng ai dám ở lại đó nữa, ngoại trừ người thân của các nạn nhân. Sau khi nhận được tin báo, trên xã cũng cử người xuống xem xét, điều tra. Nhưng hiện trường lúc này ít nhiều đã bị xáo trộn do người dân hiếu kỳ kéo đến xem lúc mới phát hiện ra xác chết khá đông.

Cuối cùng, xác của Lực và bà Điều được đưa về nhà để lo hậu sự. Trong ngày hôm đó những tin đồn về ma quỷ bắt nguồn từ ngôi miếu, một lần nữa được truyền tai nhau. Chỉ khác với hàng chục năm về trước, lần này mức độ khủng khiếp, đáng sợ trong lời kể của mọi người càng tăng lên gấp bội. Bởi vì, hai cái chết ngay tại miếu mới đây cũng giống y như hai cái chết của cặp đôi người Hoa 20 năm về trước. Ngay đến cả những người không bao giờ tin vào ma quỷ cũng phải chột dạ, bởi nếu như lần trước nhiều thứ vẫn còn mơ hồ, nghi vấn thì lần này, người chết đã là người trong làng, lại còn là bà thầy cúng mà mọi người trong làng luôn cho rằng có thể sai khiến âm binh, biết về bùa chú, diệt ma, trừ yêu thì nay bà Điều lại chết phơi xác, không chỉ vậy, khuôn mặt còn bị lột sạch da. Bởi thế, người ta càng tin rằng khu đất đó tồn tại ma quỷ là sự thật.

Thêm một lần nữa, dân làng Văn Thái tiếp tục sống trong nỗi hoang mang, hoảng loạn và sự sợ hãi tột cùng. Chỉ trong khoảng nửa tháng hơn trở lại đây, làng Văn Thái đã liên tiếp xảy ra những cái chết cực kỳ khó hiểu, đáng khiếp sợ. Mới tuần trước thôi, cả làng rúng động về việc Xoan bị giết chết, cái chết của Xoan cũng kinh dị không kém hai người chết ở miếu. Gương mặt Xoan bị đâm nát bét, hung thủ được cho rằng chính là con bé mù, con gái ruột của Xoan. Nhưng khi mọi chuyện vẫn còn chưa rõ ràng thì sáng hôm sau nhà Xoan bị cháy, sau khi đám cháy tàn, ngoài thi thể Xoan, người ta phát hiện ra cả con bé Mị cũng chết trong đám cháy đó, mặc dù trước ấy không ai tìm thấy nó ở đâu cả.

Chưa hết, dân làng Văn Thái cũng vẫn còn nhớ như in cái chết của Mão, tuy hầu như tất cả người dân không được chứng kiến cảnh tượng thi thể Mão sau khi được vớt lên trương phềnh rồi bất ngờ nổ tung, lục phủ, ngũ tạng bên trong đã biến thành bùn đen nhão nhoét, nhưng việc Mão chết đuối dưới giếng vẫn mang một màu sắc ma quái, kinh dị.......Rồi trước đó là việc lang Phan treo cổ tự tử trên cành cây nhãn trước sân nhà, mặc dù theo lời vợ của lang Phan thì tối ngày trước đó, ông ta vẫn ăn nhậu, thậm chí mây mưa với vợ cho tới tận nửa đêm. Cái chết của lang Phan bắt đầu cho hàng loạt những cái chết đáng sợ, gieo rắc nỗi bàng hoàng đến cho người dân làng Văn Thái sau này.

Trong thâm tâm người dân, xuyên suốt chiều dài lịch sử trăm năm của làng, chưa bao giờ xảy ra nhiều chuyện khủng khiếp liên tiếp đến như vậy. Thực ra đó là suy nghĩ của những người còn sống, còn trên thực tế, làng Văn Thái từng tạo nên một cuộc thảm sát, chỉ có điều người chết không phải người dân trong làng, mà là một dòng họ gốc Hoa, Cao gia. Sự việc này chỉ có ông Vọng, cháu đích tôn của Cao Côn và thầy Lương được biết. Còn những người chứng kiến, hay tham gia trực tiếp vào vụ thảm sát đó đã chết hết. Nếu như họ còn sống, liệu rằng họ có nghĩ rằng, đây chính là sự trả thù của Cao gia.

[.......]

Đầu giờ chiều, tại nhà ông Vọng.......Cả buổi sáng nay, với tư cách là trưởng làng Văn Thái, ông Vọng phải đi theo hỗ trợ cho cán bộ xã về việc điều tra nguyên nhân cái chết của Lực và bà Điều. Nhưng xem ra, mọi thứ cũng giống như 20 năm về trước, ngoài hai cái xác, không phát hiện được gì khả nghi. Những điểm trùng hợp đó là, số lượng thi thể, đều là 1 nam, 1 nữ, thời điểm các nạn nhân được cho là đã chết vào khoảng đêm ngày hôm trước. Qua lời xác nhận của bé Út, con gái bà Điều, hôm qua, vào khoảng 9h tối, Lực có sang nhà bà Điều gọi cửa ầm ỹ. Sau khi vào nhà, không biết Lực đã nói chuyện gì với bà Điều, chỉ biết tầm hơn 11h thì hai người họ rời đi. Trước khi đi, bà Điều còn dặn con gái khóa trái cửa nẻo cẩn thận. Khi đi, họ mang theo 1 cuốc, 1 xẻng. Hai dụng cụ này cũng đã được tìm thấy ngay tại hiện trường phát hiện thi thể nạn nhân. Điều đáng nói, khu đất quanh miếu chỉ có đúng một dấu vết đào bới, hay nói cách khác, dường như hai người họ chỉ mới xúc lên được 1 xẻng đất đầu tiên. Đất bám trên xẻng cũng hoàn toàn trùng khớp với điều này.

Qua lời kể của ông Vọng, hai công an viên cũng bắt đầu cảm thấy lạnh người. Sau một hồi bàn bạc, họ biện lý do cần quay về để tổng hợp lại toàn bộ những chi tiết, lời khai để tiến hành điều tra tiếp. Nhìn sắc mặt của họ, ông Vọng hiểu, họ cũng như đa phần những người dân ở đây, đang sợ hãi một thứ gì đó không thể lý giải nổi.

Trong lúc công an làm việc thì thầy Lương không nói gì cả, bởi thầy biết nếu nói điều gì đó vào lúc này sẽ gây hoang mang. Cái chết của Lực và bà Điều nhuốm màu rùng rợn, ai cũng nghĩ là do ma quỷ, lời nguyền gây ra....Nhưng lại chẳng ai có thể khẳng định được điều này. Bản thân ông Vọng đang có rất nhiều nỗi hoài nghi cần được giải đáp, hai công an viên vừa đi thì một lúc sau Sửu đến.

Khuôn mặt thất thần toát lên vẻ sợ hãi, kèm theo đó là ánh mắt đau buồn, Sửu đến nhà ông Vọng để thú nhận tội lỗi của mình, điều mà Sửu không dám nói cho vợ cũng như bố mẹ vợ biết. Chính Sửu đã gián tiếp đưa Lực vào con đường chết.

Nhìn thấy Sửu, ông Vọng buồn rầu nói:

- - Chia buồn với gia đình cậu, nếu cần giúp đỡ gì, tôi sẽ giúp.

Sửu bước vào trong nhà, nhìn thấy thầy Lương ngồi đó, Sửu quỳ xuống rồi bật khóc:

- - Là do tôi.....Chính tôi đã hại chết thằng Lực.

Ông Vọng có phần bất ngờ trước lời nói của Sửu, từ sáng đến giờ mọi chuyện rối ren, ông cũng chưa nói chuyện với Sửu được câu nào, nay bỗng dưng Sửu nói do mình hại chết Lực.....Mất vài giây, ông Vọng mới ngỡ ngàng, lúc này thầy Lương cũng mới mở lời, thầy Lương nói:

- - Vậy ra đúng là do cậu, tôi đoán không sai.

Ông Vọng ấp úng nói tiếp:

- - Vậy.....vậy là.....chính cậu....đã nói gì...đó với Lực....khiến cho Lực.....Trời đất ơi....Tại sao lại...như vậy.

Sửu mếu máo kể lại tất cả những gì xảy ra vào tối ngày hôm qua:

- - Là tôi, do tôi.....Tối qua sau khi uống rượu ở đây về, tôi say quá, lúc thằng Lực sang đề bạt chuyện cưới vợ, nó nói bà Điều thách cưới tận 10 lượng vàng. Nó sang xem vợ chồng tôi có giúp được nó hay không.....Mà bác biết đấy, nhà tôi cũng đâu dư giả gì. Vợ tôi hết lời khuyên can, nhưng nó không nghe....Thằng Lực nó yêu con Út thật lòng, nhưng 10 lượng vàng là điều không tưởng. Lúc ấy quá say, chẳng hiểu sao tôi lại buột ra câu " giờ muốn có 10 lượng thì chỉ có ra miếu mà đào ". Câu nói của tôi chỉ mang tính bông đùa thôi, bởi trong bữa rượu khi nghe thầy Lương nói ở đó có của, tôi cho đó là lời nói đùa.......Thằng Lực hỏi ai bảo vậy, tôi cũng chẳng suy nghĩ gì nói luôn thầy Lương bảo. Nghe xong nó chào tôi đi về, sáng nay tỉnh rượu tôi cũng chẳng còn nhớ chính xác tối qua mình đã nói gì với nó. Chỉ khi nghe tin bên ngoài miếu có người chết tôi mới hoảng sợ, ra đến nơi, nhìn bộ quần áo của xác người nam, bộ quần áo đó là do tôi mua cho thằng Lực....Hu hu hu, chính tôi....chính tôi đã là người giết chết nó. Nếu như tôi không nói mấy lời đó thì nó đâu phải chết. Thầy ơi, bác trưởng làng ơi, tôi phải làm sao đây.....Tôi không dám nhìn mặt vợ, không dám nhìn mặt bố mẹ vợ, không dám thú nhận tội lỗi của mình. Tôi muốn chết quách đi cho xong.

Ông Vọng cũng thẫn thờ, nếu nói như vậy thì nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ bữa rượu tối qua và ông cũng có lỗi.

Thầy Lương khẽ lắc đầu, thầy đi lại gần đỡ Sửu dậy rồi khẽ nói:

- - Chuyện này cũng không phải là lỗi của cậu. Là do tôi, thiên cơ bất khả lộ, nhưng chính tôi lại nói ra những lời đó dẫn đến cái chết oan uổng cho hai con người. Nếu trách thì hãy trách tôi, đừng tự dằn vặt bản thân. Thử nghĩ xem, giờ đây cậu là người cần phải mạnh mẽ nhất, nếu như cậu có những suy nghĩ buông xuôi, vậy những người ở lại cần cậu chăm sóc sẽ ra sao. Nên nhớ, khi Lực chết đi, đồng nghĩa gánh nặng của cậu sẽ tăng lên gấp mấy lần. Bình tĩnh nghe tôi nói, người đã chết không thể sống lại, nhưng qua cái chết của hai người họ, bí ẩn về khu đất ấy, về ngôi miếu hoang ấy, tôi đã có lời giải đáp. Cả về đám Tiểu Quỷ mà Cao Côn đã tạo ra, lý do chúng tồn tại đến tận bây giờ là gì...? Tôi đã luận ra được rồi.

Ông Vọng run giọng hỏi:

- - Thật....Thật vậy sao thầy.....? Rốt cuộc thì ở miếu hoang ẩn chứa bí mật gì...?

Trước khi trả lời câu hỏi của ông Vọng, thầy Lương nói với Sửu:

- - Đối với một người không có lòng tham như cậu và bác trưởng làng, khi nghe tôi nói ngoài đó có của thì cậu và bác trưởng làng đều cho rằng đó là lời nói đùa. Nhưng sự thật, ở đó không những có của, mà còn là rất rất nhiều của.....Hay nói một cách khác, nơi đó chôn giấu tài sản của Cao Côn. Chỉ có điều, xâm phạm vào nơi đó sẽ bị Thần Giữ Của giết chết nếu như không giải được lời nguyền.

Ông Vọng tròn mắt:

- - Thần Giữ Của.....Có thật sao...?

Thầy Lương trả lời:

- - Cậu Sửu và tôi đã nhìn thấy chúng.....Thần Giữ Của ở đây chính là đám Tiểu Quỷ, những con quỷ nhi được tạo ra để canh giữ, không cho ai xâm phạm vào của cải của chủ nhân. Mà không, phải gọi chúng là Quỷ Giữ Của thì mới đúng.

Thầy Lương lấy trong tay nải của mình ra giấy bút, nghiên mực, nhìn ông Vọng và Sửu thầy Lương hỏi:

- - Trong hai người có ai biết mài mực không...? Những gì tôi sắp nói sau đây, là phúc hay họa còn phụ thuộc vào ý trời. Nhưng đã đến nước này thì chúng ta đành phải liều một phen vậy........ 
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 71: Bản đ�? " Sao "


Ông Vọng mài xong mực, Sửu thì dọn dẹp cái bàn uống nước. Xong xuôi, cả hai lại tiếp tục hồi hộp chờ đợi xem thầy Lương sẽ làm gì tiếp theo. Thầy Lương đặt tay nải của mình lên bàn, tiếp đó ông lấy ra tấm bản đồ vẽ địa hình làng Văn Thái, đó chính là tấm bản đồ được cụ Cẩn giao cho con trai là ông Cung đưa cho ông Vọng cùng với quyển trục ghi chép lại một phần quá khứ thảm khốc của ngôi làng từ lúc Cao gia vẫn còn tồn tại.

Ông Vọng đã biết về tấm bản đồ, cũng chính nhờ tấm bản đồ này mà thầy Lương mới có thể xác định được vị trí long mạch trong làng, qua đó giúp dân làng thoát được tai kiếp, thanh tẩy được chất độc nơi mạch nước ngầm, phá bỏ được trấn yểm của Cao Côn.

Sửu thì có phần lạ lẫm, bởi Sửu chưa từng được thấy tấm bản đồ này bao giờ, Sửu ấp úng:

- - Đây là...?

Thầy Lương đáp:

- - Là bản vẽ rất chi tiết địa hình, cùng các vị trí trọng yếu trong làng này. Nhờ tấm bản đồ này mà chuyện nước giếng bị nhiễm độc mới được giải quyết.

Ông Vọng cũng hỏi:

- - Thầy không lấy ra tôi cũng quên bẵng đi mất.

Thầy Lương mỉm cười:

- - Trưởng làng yên tâm, sau khi dùng xong tôi sẽ trả lại tất cả mọi thứ cho làng. Không giấu gì hai người, mấy ngày nay tôi đã ngờ ngợ về chuyện đâu đó trong làng này vẫn còn ẩn giấu một bí mật của Cao Côn. Nhưng vì chưa chắc chắn nên tôi chưa dám nói ra. Cả đêm hôm qua tôi đã xem xét tấm bản đồ này rất kỹ, cuối cùng tôi cũng phát hiện một điều, một điều cực kỳ quan trọng. Đang định sáng nay sẽ đi xem lại tất cả các địa điểm một lần nữa thì làng bất ngờ xảy ra chuyện đáng tiếc. Nói có gì không phải mong hai người bỏ quá, nhưng cũng chính nhờ vào việc cậu Lực cùng bà thầy cúng chết ngoài miếu mà tôi càng chắc chắn rằng, khu đất nơi có ngôi miếu hoang đó có của, và đó là gia tài mà Cao Côn bí mật chôn giấu.

Ông Vọng và Sửu vẫn đang chăm chú lắng nghe, trải tấm bản đồ lên mặt bàn, thầy Lương đặt lên trên đó 1 tờ giấy trắng, dùng bút lông chấm mực Tàu, thầy Lương bắt đầu chấm lên tờ giấy trắng đó những nốt mực đầu tiên. Vừa chấm, thầy Lương vừa nói:

- - Cây đa, giếng nước, sân đình, cây lộc vừng, huyệt mắt rồng, bãi hoang......và đây chính là vị trí của miếu hoang.

Sau khi đã chấm lên tờ giấy trắng 7 điểm mực Tàu, Sửu đứng một bên, ông Vọng đứng một bên nhìn vào tờ giấy với những chấm mực ấy vẫn không hiểu gì cả. Ông Vọng thắc mắc:

- - Cái này là gì vậy thầy....?

Thầy Lương trả lời:

- - Đây là 7 vị trí được cho là quan trọng nhất trong ngôi làng này, 7 điểm liên kết địa mạch của làng Văn Thái......Không phải tự nhiên mà tấm bản đồ này lại lưu ý cặn kẽ, thậm chí là vẽ chi tiết từng chút về 7 thứ này. Vì không thể làm tổn hại đến tấm bản đồ, cũng như muốn hai người hình dung rõ hơn nên tôi chấm những điểm chấm tương tự với những ghi chú quan trọng trong bản đồ ra tờ giấy này cho hai người nhìn.

Sửu nhăn trán suy nghĩ, nhưng quả thực, nhìn vào tờ giấy với 7 cái chấm đen này, Sửu chẳng thể luận ra được điều gì cả. Càng nhìn lại càng không hiểu, phía bên này của thầy Lương, ông Vọng cũng không khá hơn là mấy, ông Vọng còn cúi sát xuống để nhìn tờ giấy cho kỹ hơn, nhưng kết quả cũng chỉ là cái lắc đầu ngao ngán.

Cả hai người đồng thanh hỏi:

- - Rốt cuộc thì mấy cái chấm này có ý nghĩa gì vậy thầy....?

Lúc này thầy Lương mới tiếp tục dùng bút lông, thầy Lương nối những điểm chấm đó lại với nhau, đột nhiên ông Vọng như nhận ra được điều gì đó, ông Vọng nói:

- - Nhìn rất quen, nhưng có gì đó không đúng lắm.....Sao lại thế được nhỉ..?

Sửu hỏi ông Vọng:

- - Bác thấy quen ở chỗ nào vậy....? Sao em nhìn đi nhìn lại vẫn không hiểu rốt cuộc thì đây là cái gì...?

Thầy Lương nói với ông Vọng:

- - Trưởng làng nhìn thấy quen thật sao...?

Ông Vọng không dám chắc chắn, nhưng ông đáp:

- - Tôi cũng không rõ, cứ mang máng nó là hình gì đó nhưng nhìn kỹ lại thì không phải.

Thầy Lương cười:

- - Vậy bác trưởng làng hãy thử đi sang đối diện bên kia bàn rồi nhìn lại một lần nữa xem sao.

Ông Vọng nghe theo lời thầy Lương, ông đi qua bên kia bàn, đứng đối diện với thầy Lương và Sửu, mặt Sửu lúc này vẫn ngơ ngác không hiểu điều gì, thầy Lương nói:

- - Đứng đó được rồi, giờ bác trưởng làng nhìn vào tờ giấy này xem bác thấy gì...?

Ông Vọng nuốt nước bọt, ông nhìn xuống tờ giấy trên bàn, trong đầu còn đang nghĩ không hiểu nếu đứng sang bên phía này nhìn thì liệu có gì khác hay không, bởi cơ bản trên tờ giấy đó vẫn là 7 điểm chấm được nối liền lại với nhau mà thôi, đâu có thêm thứ gì khác......Nhưng không, khác với đứng bên kia, sau khi đi sang phía đối diện, lúc này nhìn xuống, hình vẽ thực sự đã khác. Điều mà ông Vọng cảm thấy quen quen khi nãy giờ đây không chỉ là mang máng nữa, ông Vọng thốt lên:

- - Là....là....sao....Bắc Đẩu......Chính là sao Bắc Đẩu.

Thầy Lương cười lớn:

- - Ha ha ha....Ha ha ha....Đúng vậy, đúng vậy.....Vậy là bác trưởng làng cũng đã nhìn ra. Chính xác, khi 7 điểm được liên kết lại với nhau, ta sẽ có hình dạng của Bắc Đẩu Thất Tinh. Chỉ có điều phải nhìn từ hướng ngược lại mới nhận ra điều này. Đó là lý do vì sao khi đứng bên này, bác thấy nó quen nhưng không đúng, bởi vì trưởng làng đã nhìn ngược.

Ông Vọng có phần ngỡ ngàng, quả đúng là như vậy, chẳng trách tại sao ông Vọng đã ngờ ngợ khi 7 điểm trên giấy được nối lại với nhau. Sao Bắc Đẩu, chòm sao luôn nằm ở phía Bắc. Nhắc đến sao Bắc Đẩu, ông Vọng lại nhớ đến bố ( nuôi) của mình. Ngày ông còn bé, những buổi tối trời cao thanh mát, ông hay ngồi vào lòng bố, trong lúc chờ đợi mẹ nướng vài củ khoai, ông Vọng hay nhìn lên bầu trời rồi chỉ tay về phía những vì sao đang lấp lánh. Như bao đứa trẻ khác, ông Vọng hỏi bố những câu hỏi ngô nghê như tại sao chỉ nhìn thấy sao vào ban đêm, tại sao những ngôi sao đó lại sáng......Ông nhớ lúc ấy bố ông nói, mỗi ngôi sao trên trời tượng trưng cho 1 người đã mất, khi con người ta chết đi, linh hồn của họ sẽ biến thành những vì sao lấp lánh, những vì sao đó sẽ dõi theo những người thân đang sống và phù hộ cho họ. Buổi tối sao mới sáng là bởi vì những người thân đã khuất của chúng ta sẽ bảo vệ ta trong cả từng giấc ngủ. Và rồi theo ngón tay của bố, ông Vọng được bố chỉ cho vị trí của sao Bắc Đẩu, 7 ngôi sao nhỏ nối lại với nhau sẽ ra hình dáng của một cái đấu, và nó luôn luôn nằm ở hướng Bắc. Ký ức tuổi thơ về sao Bắc Đẩu vẫn theo ông Vọng cho tới tận bây giờ, nhiều năm qua, mỗi khi nhớ đến bố mẹ, ngoài cây xoài bên ngoài vườn thì thi thoảng, ông Vọng vẫn nhìn lên bầu trời đêm để tìm sao Bắc Đẩu, như một lời tưởng tớ đến bậc sinh thành. Ông vẫn tin như ngày còn nhỏ, bố mẹ ông là hai ngôi sao đang lấp lánh ở đâu đó trong số muôn vạn vì sao trên bầu trời đêm lung linh, huyền ảo.

Nhìn ra những chấm vẽ trên giấy là sao Bắc Đẩu nhưng ông Vọng vẫn chưa hiểu, cuối cùng thì sao Bắc Đẩu có ý nghĩa gì...? Và thầy Lương đang muốn nói đến điều gì...?

Không để ông Vọng với Sửu phải chờ đợi thêm, thầy Lương dùng bút lông bắt đầu viết lên giấy, ngay bên dưới từng điểm chấm mực Tàu, vừa viết thầy Lương vừa nói:

- - Bắc Đẩu Thất Tinh là nhóm sao bao gồm 7 ngôi sao với những cái tên riêng biệt. Hai người hãy nghe kỹ những gì tôi sắp nói sau đây. Theo như từng vị trí thì từng điểm sẽ tương ứng với tên của một ngôi sao trong Bắc Đẩu Thất Tinh. Bãi Hoang sẽ là Phá Quân, Huyệt Mắt Rồng sẽ là Vũ Khúc, Cây Lộc Vừng tương ứng với Liêm Trinh, Giếng Làng chính là sao Văn Khúc, cứ như vậy tiếp theo chếch xuống dưới, Đình Làng sẽ là Lộc Tồn, kế đến Miếu Hoang chính là Cự Môn, và cuối cùng Cây Đa đầu làng tượng trưng cho sao Tham Lang. Từng vị trí, từng địa điểm được đánh dấu trên bản đồ, khi nối chúng lại với nhau.......Chính là Bắc Đẩu Thất Tinh. Tấm bản đồ này không chỉ xác định Long Mạch của làng, mà nó còn liên kết toàn bộ các vị trí trọng yếu, liên kết địa mạch của làng lại thành một tấm bản đồ nhỏ khác. Quả thực càng biết về Cao Côn, tôi càng cảm thấy con người này là một thầy phong thủy đại tài, khả năng của ông ta vô cùng đáng sợ, chẳng trách tham vọng của ông ấy chính là độc giữ Long Mạch cho gia tộc họ Cao. Chỉ tiếc rằng, con người dù có bản lãnh lớn đến đâu, để có thể nghịch thiên vẫn là điều mộng tưởng. Bắc Đẩu Thất Tinh chính là bản đồ cất giấu kho báu của Cao Côn. ̉n ngay bên trong tấm bản đồ lớn, không thể ngờ được còn có một tấm bản đồ nhỏ. Như tôi đã nói với bác trưởng làng trước đây, tấm bản đồ này chắc chắn phải được một người cực kỳ tinh thông về địa lý, phong thủy vẽ ra. Nếu xét toàn bộ quá khứ của làng Văn Thái, không ai có thể vẽ được thứ này ngoài Cao Côn. Tôi đồ rằng, các cụ thời xưa, những người cùng thời với Cao Côn hẳn cũng đã nhận ra được điều gì đó cho nên họ mới truyền đời giữ tấm bản đồ, coi nó như một vật báu. Nhưng xem ra chưa có ai giải được bí mật giấu trong bản đồ. Dù đó không phải là của cải, kho báu thì di vật mà Cao Côn hao tâm tổn trí cất giữ cũng sẽ là kho tàng vô cùng quan trọng dành cho hậu thế, dành cho dòng máu của Cao gia.

Nói đến đây, thầy Lương khẽ nhìn sang phía ông Vọng, ông Vọng lúc này cũng đang đổ mồ hôi lạnh. Thầy Lương nói đến đâu, ông Vọng bất giác rùng mình đến đó. Sửu cũng đã dần hiểu ra được một chút vấn đề.

" Uỳnh "

Bên ngoài trời đã nổi giông, mây đen kéo đến, một tiếng sấm khan nổ lớn vang động, rung chuyển cả đất trời. Nhưng tiếng sấm động cũng không khiến cho những con người đang có mặt trong ngôi nhà này thấy bàng hoàng bằng những phân tích, lý giải của thầy Lương.

Ông Vọng đưa tay lau mồ hôi đang chảy trên trán, ông Vọng run run nói:

- - Là....kho....báu....thật sao....?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 72: Quyết định của thầy Lương


" Rào....Rào....Rào "

Trời đã bắt đầu đổ mưa, bên trong nhà, ông Vọng cùng Sửu vẫn đang chờ đợi thầy Lương trả lời câu hỏi. Chỉ tay lên tấm bản đồ, thầy Lương nói:

- - Là của cải hay là một thứ gì đó thì chỉ khi đào được lên chúng ta mới biết chắc chắn được. Lý do tôi đoán rằng ở đó có chôn của là bởi vì những nguyên nhân sau. Thứ nhất, Cao Côn là người gốc Hoa, không chỉ là một bậc thầy về phong thủy, Cao Côn còn là một người cực kỳ giàu có. Chúng ta sau khi đào bới tại Bãi Hoang, phát hiện được nền móng xây dựng bằng những phiến đá vân mây, thử nghĩ mà xem, cách đây gần trăm năm trước, muốn xây dựng được một công trình như vậy chỉ có thể là vua chúa, dòng dõi hoàng tộc. Qua những ghi chép trong quyển trục mà cụ Cẩn để lại, điều này cũng đã được khẳng định. Cao gia khi còn tồn tại, có thể nói là một thế gia vương giả. Tuy nhiên trong quyển trục lại không hề nhắc đến gia tài, cũng như của cải của Cao Côn. Có thể họ không muốn ghi chép về điều này, hoặc cũng có thể, họ không lấy được gì của Cao gia cả. Tôi nói vậy là bởi vì, chỉ cần sở hữu dù là phân nửa gia tài của Cao Côn thôi cũng đủ cho làng Văn Thái trở nên giàu có. Tuy nhiên làng này suốt gần 100 năm qua, đa số người dân vẫn nghèo, vẫn phải lao động lam lũ. Trên bia công đức của làng cũng không có dòng họ nào nổi bật về độ giàu có. Khoảng tầm 40 năm trở lại đây mới xuất hiện một vài gia đình tạm gọi là khá giả mà thôi. Ta sẽ đặt ngược lại 1 câu hỏi, vậy gia tài, vàng bạc, châu báu của Cao Gia đã biến đi đâu...? Nguyên nhân thứ 2 sẽ giải đáp cho câu hỏi vừa rồi, Cao gia cực kỳ thịnh vượng, nhưng bên cạnh đó, chúng ta đừng quên, Cao Côn là một bậc thầy về phong thủy, bùa phép. Từ xa xưa, việc chôn giấu của cải cũng được coi như là một đặc thù của những gia tộc, thế gia giàu sang. Họ luôn cẩn thận, lo xa, hoặc cũng có thể họ có quá nhiều của cải không dùng đến, và họ chọn cách chôn dưới đất để giấu đi. Ngay như trên đất nước này, có rất nhiều nơi vàng bạc được giấu dưới đất, nhiều người vô tình đi làm ruộng cũng đào được hũ vàng, hũ bạc. Kết cục của những người đó đa phần đều là vong mạng, thậm chí đào được của nhưng tán gia bại sản, không thể dùng được. Bởi vì những của cải đó khi chôn luôn đi kèm lời nguyền, thậm chí là có thần canh giữ. Tôi đồ rằng, người như Cao Côn cũng không phải trường hợp ngoại lệ, dường như ông ta tiên đoán được một phần vận số của gia tộc trước khi qua đời, hoặc cũng có thể Cao Côn lo xa nên đem của cải giấu đi phòng cho con cháu đời sau, hoặc cũng có thể, ông ta không muốn bất cứ ai, kể cả là người mang dòng máu của mình được phép động chạm đến của cải của ông ấy. Thêm nữa, nguyên nhân cuối cùng chính là, nếu như Cao Côn muốn trấn yểm địa mạch của làng thì hoa cỏ nơi đó không thể nào nở rộ quanh năm được.

Ông Vọng hỏi:

- - Nhưng chẳng phải đã chục năm nay đất đai nơi đó khô cằn, cỏ không mọc nổi, hoa cũng chẳng dám nở hay sao....?

Thầy Lương đáp:

- - Điều đó chỉ xảy ra khi bắt đầu có người chết ở đó mà thôi. Hãy nhớ lại xem, theo như tấm phổ truyền thì Cao Côn đã chết cách đây 80 năm. Nhưng 20 năm trước khu đất ấy vẫn là nơi đẹp nhất của làng, hoa nở bốn mùa, cỏ cây xanh tốt. Như vậy có nghĩa trước khoảng thời gian có người chết tại chỗ ấy, mọi thứ vẫn diễn ra bình thường, không có gì xảy ra cả.

Sửu hỏi:

- - Nhưng tại sao lại như vậy....thưa thầy...?

Thầy Lương trả lời:

- - Nhiều khả năng, sau khi hai người được cho là người Hoa kia đào bới chỗ đó lên đã vô tình kinh động đến lời nguyền do Cao Côn để lại, cái chết của hai người bọn họ như một hệ quả của việc xâm phạm vào vùng đất cấm.

Ông Vọng thấy thầy Lương giải thích như vậy là không hợp lý, bởi việc chôn cất 2 người Hoa ấy, rồi việc xây miếu cũng là chính tay ông Vọng cùng người trong làng chung tay làm. Ông Vọng nói:

- - Nếu nói như thầy, ai đào bới khu đất ấy cũng chết thì chẳng phải tôi cũng đã chết rồi sao. Bởi vì tôi cũng góp sức đào huyệt để chôn cả hai người bọn họ.

Sửu gật gù đồng ý với điều mà ông Vọng vừa nói, nhưng thầy Lương chỉ khẽ mỉm cười rồi lắc đầu đáp:

- - Nhưng khi bác đào huyệt chôn cất hai người họ, trong đầu bác có nghĩ đến việc tìm thấy của, hay nghĩ mình đang đi đào của cải hay không...?

Ông Vọng trả lời:

- - Không...Tất nhiên là tôi không nghĩ thế rồi...?

Thầy Lương nói tiếp:

- - Đó chính là lý do mà bác và những người đào huyệt đó vẫn còn sống.

Sửu ấp úng:

- - Ý....ý thầy là.....?

Thầy Lương mỉm cười:

- - Đúng vậy, đó là khu đất được Quỷ canh giữ, nhưng bọn quỷ chỉ ám thị lời nguyền, ra tay giết chết những ai có ý định đào bới của cải ở đó mà thôi. Nói cách khác, nếu như đến mảnh đất ấy chỉ để ngắm hoa, vãn cảnh, thậm chí là đào huyệt mộ nhưng không có suy nghĩ đào của, tham lợi thì sẽ không sao. Nhưng nếu người có lòng tham, đến đó đào bới để tìm vàng, tìm bạc thì sẽ bị quỷ giữ của giết chết.

Ông Vọng nuốt nước bọt, ông Vọng nói:

- - Nhưng sao thầy lại chắc chắn như vậy được...?

Thầy Lương trả lời:

- - Tại vì xưa nay khi yểm chôn giấu của cải, để tránh xảy ra những điều bất thường, hạn chế sự dòm ngó của người đời. Các thầy phù thủy đa phần đều lựa chọn những mảnh đất đẹp, tuy họ để thần giữ của ở đó nhưng không phải ai đặt chân vào mảnh đất chôn của đều phải chết. Bởi nếu để lộ ra khu đất đó có vấn đề, khi con người ta tò mò thì bí mật sớm muộn cũng sẽ bị phanh phui. Nhiều khả năng lời nguyền sẽ bị phá giải. Hai người có thể không biết, có người trấn yểm, thì cũng sẽ có những người giải yểm. Không phải cứ chôn thần giữ của là sẽ giữ được của. Đối với dân thường, người thường lời nguyền có tác dụng, tuy nhiên nếu gặp phải những thầy phù thủy, thầy bùa cao tay hơn, họ sẽ phá giải được lời nguyền, như vậy đồng nghĩa với việc, của cải chôn cất đó sẽ mất vào tay người khác. Trên đời này không thiếu những thầy địa lý, thầy phong thủy dành tâm huyết cả đời chỉ để đi tìm của cải được chôn dưới lòng đất. Do vậy, để tránh sự dòm ngó, thần giữ của chỉ giết chết những ai có ý định xâm phạm mà thôi. Nếu không có ý định chiếm của thì dù có đào sâu đến đâu, cũng chẳng thể thấy được gì.

Ông Vọng sửng sốt:

- - Thật không thể ngờ, trên đời này lại có nhiều chuyện lạ lùng, đáng sợ đến như vậy. Nhưng thực sự, nghe thầy nói tôi mới được mở mang tầm hiểu biết.

Thầy Lương lắc đầu:

- - Chưa đâu, bản thân tôi cũng có thể giải được lời nguyền từ thần giữ của. Nhưng đó là khi ta đang nói đến " thần " còn ở ngôi miếu hoang kia, chúng không phải thần giữ của, chúng là quỷ giữ của........Một loại bùa chú đáng sợ hơn rất nhiều, thường thì lời nguyền ám lên nhưng kẻ có lòng tham sẽ không giết được họ ngay, có kẻ còn đào được của sau đó mới phải chết. Đằng này, chỉ với 1 xẻng đất được xúc lên, Lực và bà Điều lập tức bị giết chết. Đó là sự kinh khủng của thứ được gọi là " Quỷ Giữ Của ". Thần giữ của chỉ được phép xuất hiện trong địa giới khu vực chôn của, còn đám Tiểu Quỷ kia vẫn có thể rong chơi trong một khoảng thời gian nhất định. Bởi chúng ngay khi sinh ra đã được nuôi bằng máu nên quỷ tính của chúng vô cùng lớn. Thêm vào đó là lời nguyền của chủ nhân ếm lên chúng, ngoài việc canh giữ của cải, chúng còn có thể hại người. Khả năng của tôi so với Cao Côn còn kém xa, cho tới bây giờ, tôi cũng chỉ nghĩ được một cách đó là phong ấn chúng lại trong một khoảng thời gian nhất định mà thôi, tôi không thể tiêu diệt được bọn chúng.

Sửu thất thần ngồi xuống ghế, bản thân Sửu cũng đã suýt chút nữa bị bọn Tiểu Quỷ giết chết. Nghĩ lại thôi mà cảm giác cái chết như đang một lần nữa đến gần, Sửu lạnh người, rùng mình, ôm đầu Sửu nói trong sợ hãi:

- - Nếu...nếu vậy chẳng phải sau này dân làng sẽ phải sống trong sự sợ hãi hay sao....? Đến cuối cùng thì làng Văn Thái vẫn không thể thoát khỏi tai kiếp.

Ông Vọng đã nghe thầy Lương nói điều này từ trước, bản thân ông cũng từng muốn đánh đổi mạng sống của mình để phong ấn lũ Tiểu Quỷ nhưng thầy Lương nói ông không phù hợp. Giờ trong làng đã có thêm 2 người chết vì chúng, đúng như Sửu nói, tai kiếp của làng Văn Thái vẫn chưa dừng lại. Thân là cháu nội của Cao Côn, cũng là một người được dân làng Văn Thái nuôi nấng, vậy mà giờ đây ông Vọng gần như bất lực trước những cái chết liên tiếp xảy ra.

Nhưng một lần nữa, thầy Lương lại gieo đến cho hai người họ một tia hi vọng, thầy Lương khẽ nói:

- - Khi bắt đầu nói điều này cho 2 người, tôi đã bảo chúng ta phải liều một phen phải không....?

Ông Vọng cùng Sửu gật đầu vâng dạ, thầy Lương tiếp:

- - Đó là vì vẫn còn một cách, nhưng có thể, da mặt chúng ta cũng sẽ bị lột sạch như những người đã chết tại miếu trước đây.

Sửu run giọng nói không thành lời:

- - Chẳng....chẳng lẽ thầy.....muốn....muốn....đến đó...đào bới....?

Ánh mắt thầy Lương khẽ cau lại, thầy Lương nhìn thẳng vào mắt Sửu cũng như ông Vọng, giọng thầy Lương trầm xuống, thầy nói:

- - Đúng vậy.....Tôi sẽ đào bí mật mà Cao Côn đã chôn ở đó lên.....Nhưng tôi không thể làm được việc này 1 mình, tôi cần 1 người nữa....Đó là.....
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 73: Huyết thống Cao gia - Sự thật động trời


Sửu vội vàng cướp lời thầy Lương:

- - Tôi.....Thầy hãy để tôi đi cùng thầy đến đó.....Xin thầy....

Nghe thầy Lương nói vậy, ông Vọng cũng đã hiểu người đó là ai, ông Vọng nói với Sửu:

- - Thầy Lương và tôi đã bàn đến chuyện này rồi, tôi là người sẽ đi cùng thầy Lương đến khu đất ngoài miếu hoang. Khi nãy thầy Lương cũng đã nói, cậu còn rất nhiều gánh nặng trên vai. Cậu còn vợ con, rồi cả bố mẹ Lực nữa, Lực chết đi thì cậu phải thay nó gánh vác trách nhiệm này. Còn tôi, tôi cũng đã sống quá nửa đời người rồi, tôi lại còn là trưởng làng, được mọi người tin tưởng, giao trọng trách nhiều năm qua, há chẳng phải đây chính là trách nhiệm mà tôi phải làm hay sao...? Có như vậy mới xứng đáng với hai từ " trưởng làng " mà mọi người gọi tôi chứ. Đừng lo, có thầy Lương dự liệu, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.

Thầy Lương nhìn Sửu khẽ gật đầu:

- - Trưởng làng nói đúng đấy, dù rất muốn chọn cậu, nhưng cậu lại không hợp để làm việc này. Những vấn đề liên quan đến tâm linh, ma quỷ không phải chọn ai cũng được. Còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như hợp mệnh hay xung khắc. Bác trưởng làng sẽ đi cùng tôi. Nói vậy không phải không cần nhờ đến cậu, tôi vẫn sẽ phải nhờ cậu sau này, nhưng là trong trường hợp chúng tôi bình an vô sự. Yên tâm đi, mọi sự muốn làm đều phải suy tính cặn kẽ, tạm thời tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ, biết đâu sẽ phát hiện được bí mật gì đó tiếp theo. Còn cậu, cậu cũng có việc cần phải làm. Hiện nay gia đình cậu đang có tang, người thân trong gia đình rất cần cậu ở bên cạnh. Những gì cần nói tôi cũng đã nói cho cậu nghe hết rồi, giờ cậu hãy quay về lo ma chay cho Lực. Với Lực, tôi cũng từng có duyên gặp mặt, nếu mọi chuyện êm xuôi, tôi hứa sẽ làm lễ cầu siêu cho linh hồn Lực sớm được thanh thản nơi hoàng tuyền.

Lời của thầy Lương giúp Sửu hiểu ra vấn đề, đúng vậy, nếu bây giờ Sửu còn suy sụp tinh thần thì chẳng phải tất cả người thân của Sửu càng không có nơi bấu víu, nương tựa hay sao. Lực ra đi đột ngột đã là một nỗi mất mát lớn đối với gia đình, càng trong những lúc như thế này, Sửu càng phải mạnh mẽ hơn.

Sửu lau vội đi hai hàng nươc mắt, Sửu cúi đầu khẽ nói:

- - Tôi hiểu rồi, cảm ơn thầy Lương, cảm ơn trưởng làng, cảm ơn hai người đã khuyên nhủ. Có thể đúng như lời thầy Lương nói, tôi hiện giờ chưa thể giúp được gì nhưng chỉ cần thầy và trưởng làng gọi, tôi nhất định không ngại khó khăn. Hiện tại gia đình đang có tang, tôi cũng đã ở đây khá lâu, tôi xin phép được ra về. Chỉ mong thầy và trưởng làng luôn được bình an vô sự. Cảm tạ ân đức của thầy.

Sửu kính cẩn cúi đầu chào thầy Lương và ông Vọng rồi bước ra khỏi nhà, nhìn theo bóng Sửu đang chạy dưới cơn mưa, ông Vọng lắc đầu buồn bã:

- - Chắc cậu ta phải chịu dằn vặt lớn lắm, trông thế thôi nhưng Sửu là người sống tình cảm, xưa nay trong làng cậu ta luôn giúp đỡ mọi người, tâm tính rất tốt.....Vậy mà không may buột miệng dẫn đến cái chết của người em vợ. Mong cậu ấy sớm vượt qua được nỗi đau này.

Chỉ còn 2 người, thầy Lương bây giờ mới nói:

- - Bác trưởng làng có tin vào nhân quả, báo ứng không....? Mỗi con người chúng ta đều mang một số mệnh được ông trời sắp đặt. Về bà Điều, tôi cũng từng nói với bác trưởng làng rằng xung quanh bà ấy xuất hiện một vầng khói đen báo hiệu điềm hung. Thậm chí vì bà ta còn có ý định hại tôi và trưởng làng, bao năm qua bà Điều lợi dụng thần thánh, lừa dối dân làng, thu lợi cá nhân đã tích nghiệp không ít. Nhưng bên cạnh đó bà ta không biết tu tâm dưỡng tính, càng ngày lại càng tham lam đến mờ mắt. Trục lợi ngay trên cả nỗi thống khổ của bà con trong làng, lẽ ra trong lúc làng Văn Thái gặp chuyện, là người có tiếng nói, được tin tưởng, lại khá giả, thay vì góp phần làm yên lòng bà con thì bà ta lại dựng chuyện bịa đặt về thần thánh, muốn nhân cơ hội thu lợi bất chính từ việc xây dựng, cúng kiếng, lập đàn. Long mạch cạn kiệt linh khí, địa mạch theo đó cũng suy yếu dần, tạo cơ hội cho chướng khí, ác linh xuất hiện. Những người có tâm địa xấu, có lòng tham như bà Điều lại càng lấn sâu vào bùn hơn. Chỉ tiếc rằng, bà ấy không gánh họa một mình mà còn liên lụy đến cậu Lực. Nhưng suy cho cùng cũng vì tham lam, vì dục vọng, nếu trong làng này ai cũng như bác trưởng làng, như cậu Sửu, thì ma quỷ có đáng sợ đến đâu cũng khó lòng có thể làm hại được, tâm sáng thì sợ chi ma quỷ, tà vong. Thật đáng tiếc thay.

Ông Vọng ngẫm lại những gì mà thầy Lương vừa nói, quả đúng như vậy, chính vì biết bà Điều có tâm địa xấu, không ưa thầy Lương cũng như ông Vọng bởi những gì mà bà ta yêu cầu, ông Vọng đều gạt đi bởi làng Văn Thái thời gian qua đã chịu nhiều bi thương lắm rồi.

Thầy Lương nói ông Vọng đóng cửa nhà lại, xong xuôi, đợi ông Vọng ngồi xuống, thầy Lương nhìn ông Vọng khẽ gật đầu:

- - Bác trưởng làng ngồi đó đi, thực ra tôi còn điều cực kỳ quan trọng muốn nói riêng với bác. Do vậy khi nãy tôi mới có ý nói cậu Sửu ra về. Có thể không hoàn toàn chính xác, nhưng suốt đêm hôm qua, khi ngồi xem tấm bản đồ, tôi đã nghĩ đến một khả năng, mà kỳ thực ngoài khả năng này ra, không còn gì có thể giải thích hợp lý hơn.

Ông Vọng hồi hộp hỏi:

- - Là chuyện...gì vậy thưa thầy....?

Thầy Lương tiếp:

- - Trước tiên tôi phải nói thật cho bác biết, nếu bác và tôi đến đó đào bới. Cho dù bác có là cháu nội của Cao Côn đi nữa, rất có thể bác vẫn bị đám Tiểu Quỷ đó giết hại. Mặc dù tôi đoán, Cao Côn chôn gia tài hoặc thứ gì đó quan trọng bên dưới lòng đất là để dành cho hậu thế về sau, nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là suy đoán. Cũng còn khả năng " kho tàng " ấy không dành cho ai cả........Hoặc cũng có thể, " kho tàng " ấy có thời hạn nhất định, kèm theo người lấy được cũng phải là người được chỉ định.

Ông Vọng nghe nhưng có phần hơi rối, ông Vọng nói:

- - Thầy có thể nói rõ hơn một chút được không...?

Thầy Lương gật đầu giải thích:

- - Thứ nhất, nếu của cải được để dành cho hậu thế đời sau thì đến đời Cao Lãm, Cao Kiệt, hai người con trai của Cao Côn sẽ lấy được, chỉ cần biết cách giải lời nguyền. Thứ hai, Cao Côn là người độc đoán, ông ta dù chết đi cũng không muốn để lại gia tài cho ai nên cho dù có là con cháu của Cao Côn cũng không thể nào xâm phạm. Trường hợp tiếp theo, Cao Côn chôn của cải, nhưng đi kèm với đó là một giao kèo gắn liền với lời nguyền, thường cách này cũng được các thầy bùa sử dụng. Có nghĩa là của chôn dưới đất muốn đào lên phải đợi đủ thời hạn, nếu Cao Côn giao ước 100 năm sau mới được đào thì chưa đủ 100 năm, có đào cũng không thấy. Và cuối cùng, người được chỉ định, người được chỉ định chính là người duy nhất có thể đào được của. Ví dụ Cao Côn muốn để lại của cải cho cha của trưởng làng là Cao Lãm, thì chỉ có Cao Lãm mới có thể phá giải lời nguyền, mới có thể chạm vào thứ mà Cao Côn chôn dưới đất.

Nói đến đây thầy Lương chợt dừng lại, thầy nhìn thẳng vào mắt ông Vọng rồi thốt ra một lời có thể nói như khiến ông Vọng phải bàng hoàng:

- - Hai người Hoa bị lột da mặt rồi chết tại khu đất ấy 20 năm trước rất có thể chính là người thân của bác trưởng làng, hay nói cách khác, chính là dòng dõi của Cao gia.

" Ầm...Ầm "

Sấm bên ngoài nổ rền trời, cảm tưởng như tiếng sấm làm cho ngôi nhà bị chao đảo. Ông Vọng choáng váng đến mức mồ hôi lạnh túa ra như tắm. Ông tròn mắt, tay chân run rẩy, miệng lắp bắp, ông Vọng nói:

- - Chuyện...này....chuyện...này là....thật sao.....Nhưng....nhưng chẳng phải toàn bộ Cao gia đã bị giết sạch rồi hay sao....? Nói...nói như vậy.....hai người họ...là ai....?

Thầy Lương đáp:

- - Đúng, trong ghi chép của các cụ thời xưa thì Cao gia đã bị giết sạch, nhưng chẳng phải giọt máu của Cao gia vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay hay sao...? Bác trưởng làng còn sống cũng có nghĩa, Cao gia có thể cũng có người khác sống sót. Bởi lẽ biết được vị trí của " Cự Môn ", biết ở đó có chôn giấu của cải, thực tình ngoài dòng dõi Cao gia ra tôi không nghĩ được ai có thể biết được chuẩn xác vị trí đó đến như vậy.

Ông Vọng ấp úng:

- - Liệu.....liệu...đó có phải....là...là cha....tôi......không...?

Thầy Lương khẽ lắc đầu:

- - Quả thực nếu nghĩ thì chỉ có thể nghĩ đến hai người con trai của Cao Côn là Cao Lãm, cha của bác trưởng làng và người còn lại chính là Cao Kiệt. Tuy nhiên, cả đêm qua khi nghiên cứu kỹ tấm phổ truyền, căn cứ vào độ tuổi mà dân làng xác nhận về hai người Hoa đã chết kia, tôi cho rằng nhiều khả năng người còn sống ngoài bác trưởng làng trong vụ thảm sát ấy chính là Cao Kiệt, gọi theo cách gọi của người Việt Nam thì đó là chú của bác trưởng làng. Hơn nữa, trong bức di thư, Lâm Thư phu nhân có nói, cha trưởng làng đã dùng tính mạng để Lâm Thư phu nhân bế trưởng làng chạy thoát, di vật cuối cùng mà ông ta để lại chính là sợi dây chuyền mặt đá hồng ngọc. Chắc chắn Cao Lãm biết bí mật về sợi dây chuyền, do vậy không quản mạng sống, ông ta dặn vợ giữ sợi dây chuyền cho cẩn thận, cũng ngụ ý truyền lại cho con trai của mình, chính là bác đó, bác trưởng làng. Vậy cho nên, nếu là Cao Lãm, ông ấy sẽ không phạm vào lời nguyền để rồi bị chết tức tưởi như vậy đâu. Tôi không biết lối sống của Cao gia ra sao, nhưng từ đời Cao Côn cho đến đời hai người con trai, tất cả đàn ông mang họ Cao, chỉ lấy 1 vợ. Có thể không hoàn toàn đúng, tuy nhiên tổng hợp lại thì không thể nào là Cao Lãm, cha của bác trưởng làng được. Do vậy, người còn lại khả năng cao chính là Cao Kiệt và người phụ nữ chết cùng ông ta cũng chính là vợ của ông ấy. Tóm lại, trong vụ thảm sát ấy, bằng một cách nào đó mà Cao Kiệt cùng phu nhân của mình đã thoát chết. Bởi là con của Cao Côn nên ít nhiều Cao Kiệt cũng sẽ manh nha tìm hiểu về của cải, gia tài của người cha quyền lực. Nhưng Cao Côn lại chỉ giao bí mật cho người con cả, là Cao Lãm, đây cũng là điều khiến tôi thắc mắc. Nhưng người như Cao Côn làm như vậy ắt hẳn phải có lý do. Sau khi rời khỏi làng tránh họa sát thân, vợ chồng Cao Kiệt có lẽ đã phải sống rất cực khổ và vất vả. Và rồi Cao Kiệt do biết đến vị trí của " Cự Môn " nên đã quay lại đây đào bới. Chỉ tiếc rằng, việc đào của không đơn giản như vậy. Vô hình chung vợ chồng Cao Kiệt đã bị chính lời nguyền, bị chính đám Tiểu Quỷ mà cha mình phong ấn giữ của giết chết. Đó là lý do vì sao khi nãy tôi mới nói, chưa chắc mang trong mình huyết thống Cao gia mà đã an toàn. Chỉ cần giải sai một vấn đề, chúng ta sẽ chết.

Ông Vọng nuốt nước bọt, từ bàng hoàng về khả năng người của Cao gia vẫn còn sống thì giờ đây ông Vọng chuyển sang thán phục, ông ngỡ ngàng về khả năng suy luận của thầy Lương. Mọi chi tiết, mọi điều mà thầy Lương vừa nói đều cực kỳ hợp lý. Còn chưa biết phải nói gì thì thầy Lương tiếp:

- - Vậy cho nên, để giải được lời nguyền của Cao Côn, chúng ta phải biết được một bí mật trước đã.

Ông Vọng khẽ hỏi:

- - Là bí mật gì thưa thầy....?

Thầy Lương đáp:

- - Chính là sợi dây chuyền mà trưởng làng đang giữ. Tôi chắc chắn rằng sợi dây chuyền phải mang một ý nghĩa nhất định, có khi nó còn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng như chiếc chìa khóa để mở ra kho tàng Cao Côn chôn cất.....Nhưng khả năng của tôi không thể sánh với ông ấy, nên đến giờ vẫn đành phải chịu......
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 74: Bí ẩn hiển hiện trước mắt


Trời mưa đến chập tối thì tạnh, không khí thoáng đãng, dễ chịu, cơn mưa rào bất chợt đến nhanh mà đi cũng vội. Mới lúc trước sấm chớp còn nổ động trời, vậy mà nay tạnh mưa, cảnh vật tĩnh lặng, ếch nhái cũng chẳng buồn kêu. Thầy Lương và ông Vọng cũng vừa dùng bữa xong. Có lẽ bao nhiêu giông gió đã bị trận mưa vừa rồi đem hết đi nên không gian hơi ngột ngạt. Bắc hai chiếc ghế ra bên ngoài hiên, ông Vọng khẽ đưa cho thầy Lương cái quạt nan rồi nói:

- - Mới mưa xong mà oi quá thầy nhỉ, thầy cầm tạm cái quạt, quạt cho mát. Tôi vào kê thêm cái bàn nữa rồi đem ấm trà ra đây ta cùng uống.

Thầy Lương gật đầu đồng ý, kê bàn, bưng trà ra hiên, ông Vọng còn đặt thêm một bộ xe điếu cùng cái hộp nhỏ đựng thuốc lào xuống bàn rồi nhìn thầy Lương hỏi:

- - Không biết thầy có rít được món này không....?

Thầy Lương mỉm cười:

- - Bác trưởng làng coi thường tôi rồi, tuy tôi cũng là người Hoa, nhưng tính tới nay đã hơn phân nửa cuộc đời, tôi sống tại Việt Nam. In dấu chân lên không biết bao con đường từ miền xuôi lên miền ngược. Món này tôi thích.....Ha ha ha....Ha ha ha. Bác trưởng làng cứ dùng trước đi.

Nghe thầy Lương nói, ông Vọng cũng cười phá lên, khẽ vê vê một bi thuốc lào, cắm ống điếu, châm đóm, ông Vọng kéo một hơi khá là dài, hút xong, ông khẽ ngửa mặt lên trời rồi nhả khói. Sau cơn mưa, trời quang, lúc này đang là 7h tối, trên bầu trời lấp lánh muôn vàn vì sao. Ngắm bầu trời sao lúc này, khóe mắt ông Vọng khẽ cay cay nhớ lại quãng thời gian ông còn nhỏ, lúc ấy còn cha, còn mẹ, thật hạnh phúc và ấm áp biết bao.

Tiếng xe điếu khiến ông Vọng quay sang bên thầy Lương nhìn, thầy Lương cũng vừa làm một mồi thuốc lào, thầy đang nhả khói, nhấp ngụm nước chè, thở nhẹ vài hơi, thầy Lương tấm tắc:

- - Thuốc lào ngon, mà bình thường bác hút bằng điếu cày, sao hôm nay lại có cái xe điếu cầu kỳ thế....?

Ông Vọng mỉm cười rồi đáp:

- - Chẳng giấu gì thầy, xe điếu này là của bố tôi. Mấy hôm trước trong lúc tìm cái bình, tôi tìm thấy nó, nhìn xe điếu lại nhớ ngày xưa, cứ ăn cơm tối xong, ông lại kê ghế ra hiên ngồi như thế này rồi hút thuốc lào. Ngày ấy tôi còn nhỏ, vậy mà giờ đây đầu cũng đã bạc trắng cả rồi. Thời gian trôi qua nhanh thật, không biết như ông cụ nói thì giờ ông cụ đang ở đâu đó trong vô vàn những vì sao kia để nhìn tôi, ông có cười tôi không nhỉ...? Ha ha ha.

Thầy Lương hiểu, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, ông Vọng đã phải tiếp nhận quá nhiều những sự thật không thể tưởng tượng được. Ngoài việc biết bố mẹ chăm sóc ông từ nhỏ không phải bố mẹ ruột, ông Vọng còn phải chịu đựng nỗi đau khi Cao gia bị thảm sát. Kèm theo đó là hàng loạt những tai ương, kiếp nạn giáng xuống đầu ngôi làng của ông, khiến cho những người dân phải khốn đốn. Ông Vọng là người có tâm sáng, hết lòng vì mọi người. Thân mang danh trưởng làng, chứng kiến người dân trong làng cho dù họ chết vì lý do gì đi nữa, lương tâm ông cũng thấy đau xót, cảm thương vô cùng. Cao gia đã gây ra những tội ác tày trời, cũng chính vì vậy mà người của Cao gia mới bị dân làng Văn Thái tận diệt. Thân là cháu đích tôn của Cao Côn, nhưng cũng lại là người may mắn sống sót và được chính người dân làng Văn Thái nuôi dưỡng. Người đàn ông với mái tóc bạc trắng vì phải đánh đổi mạng sống để cứu cho ngôi làng thoát khỏi tai ương kia mới chính là người đáng thương nhất.

Thầy Lương đáp:

- - Có chứ, chắc chắn họ sẽ cười mừng rỡ vì họ rất tự hào về bác trưởng làng. Có lúc tôi nghĩ, khi tôi nói cho bác trưởng làng biết về thân phận thật sự của mình, liệu tôi đúng hay sai...? Nhưng trên đời này, tất cả mọi chuyện xảy ra đều có nguyên nhân của nó. Quá khứ là thứ đã qua, hiện tại và tương lai mới là điều quan trọng nhất. Bác trưởng làng chớ nên tự dằn vặt, tự đau khổ. Cao gia mắc tội lớn, nhưng dân làng Văn Thái ngày ấy cũng phạm phải tội tày trời. Chính vì vậy mà cả Cao gia cũng như người dân làng này, thế hệ sau này phải gánh chịu nghiệp báo, hậu quả do chính họ gây ra. Nếu như không có bác trưởng làng, há chẳng phải hậu quả sẽ càng khôn lường hay sao...? Giọt máu cuối cùng của Cao gia lại được chính người dân làng Văn Thái nuôi nấng. Nói cách khác, ân oán, hận thù của ngôi làng này, ngoài bác trưởng làng không ai có thể hóa giải. Theo tôi, đó chính là ý trời, mà đã là ý trời thì hãy cứ để thuận theo ông trời sắp đặt. Trách cứ bản thân, dằn vặt quá khứ chỉ khiến bác trưởng làng thêm bận lòng mà thôi. Đời người, đâu phải ai cũng có được những khoảnh khắc thư thái bên xe điếu thuốc lào, ngắm bầu trời sao, nhâm nhi chén trà nóng như thế này chứ. Cảm ơn trưởng làng đã cho tôi khoảng thời gian quý báu này.

Ông Vọng vội xua tay:

- - ́y chết, thầy đừng nói như vậy. Tôi và người dân làng này lẽ ra phải dập đầu cảm ơn thầy mới đúng. Những gì mà thầy làm cho làng này có trả ơn cả đời cũng không hết. Còn việc thân thế của tôi, nhờ có thầy tôi mới biết gốc gác của mình, biết về cha mẹ ruột của mình. Đội ơn thầy lắm lắm.....

Thầy Lương nhấp thêm ngụm trà rồi mỉm cười nói:

- - Do duyên số mà thôi, duyên dẫn tôi đến đây, rồi duyên lại cho tôi gặp bác trưởng làng. Dẫu sao cả hai chúng ta cũng như đồng niên, bản thân tôi cũng rất cảm phục tấm lòng độ lượng của trưởng làng. Tôi đi rất nhiều nơi, gặp vô số người, nhưng những người như bác trưởng làng chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Người sống tốt ắt có phúc phần, trưởng làng hãy coi như những gì tôi làm là để báo đáp phúc đức của trưởng làng mà thôi. Đừng khách sáo, hơn nữa, giúp người cũng chính là tôi đang tự giúp bản thân mình.

Ánh mắt thầy Lương đượm buồn, ông chợt ngước lên bầu trời, trăng đã lên. Gió đã bắt đầu hiu hiu thổi, nhìn trăng, thầy nói:

- - Trăng sáng quá, vậy là chỉ còn 2 ngày nữa đến rằm trung thu rồi.

Ông Vọng thoáng giật mình, như sực nhớ ra chuyện gì đó, ông Vọng hỏi lại:

- - 2 ngày nữa là trung thu rồi sao thầy...? Chết thật, nhiều chuyện xảy ra quá nên tôi quên bẵng đi mất.

Thầy Lương hỏi:

- - Chẳng hay trưởng làng quên điều gì..?

Ông Vọng đáp:

- - Thường thì cứ mỗi năm, đến rằm trung thu, dân làng sẽ tổ chức đón trung thu cho toàn bộ trẻ con trong làng. Chúng tôi sẽ mua bánh kẹo rồi đưa bọn trẻ ra sân đình rước đèn, ngắm trăng. Năm nào tôi cũng đứng ra tổ chức cho bà con, vậy mà tôi lại quên có chết không chứ.

Nói xong, gương mặt ông Vọng bỗng xịu xuống, ông thở dài:

- - Nhưng cũng không được, vừa qua làng xảy ra biết bao nhiêu chuyện, ngoài đình, tượng thờ thần Thành Hoàng đã đổ nát, sân đình sau lần xây bể hút nước giếng độc cũng hoang tàn, mùa màng mất sạch, chưa kể đến liên tiếp là những cái chết của người dân trong làng.......Liệu ai còn tâm trạng nào mà đón trung thu cơ chứ. Chắc năm nay đành phải hoãn lại tất cả mà thôi.

Ông Vọng nói đúng, liên tiếp trong làng xảy ra nhiều việc đáng sợ, giờ đi ra đường ai cũng nơm nớp lo lắng chứ đừng nói nghĩ gì đến trung thu. Trăng càng lúc càng lên cao, ánh trăng sáng vằng vặc soi sáng cả khoảng sân gạch trước hiên nhà.

Rót thêm nước trà vào chén cho thầy Lương, ông Vọng buột miệng hỏi:

- - Mà chiều nay thầy nói cần phải tìm hiểu về bí mật gì đó ở sợi dây chuyền. Nhưng chỉ xem một lúc thầy đã trả lại tôi. Không biết thầy có luận ra đươc thêm điều gì hay không...?

Thầy Lương khẽ lắc đầu:

- - Vẫn chưa, nhìn kiểu gì cũng không ra. Tuy nhiên tôi có dự cảm, chắc chắn sợi dây chuyền này phải có liên quan đến bí mật mà đám Tiểu Quỷ kia canh giữ. Có thể nó như một lá bùa hộ thân giúp cho người đeo có thê đào được của mà không bị ma quỷ ám lời nguyền.....Nhưng điều này tôi cũng không chắc chắn, nếu không suy tính kỹ lưỡng, chỉ e làm bừa sẽ phải trả giá bằng mạng sống.

Ông Vọng lấy trong túi ra sợi dây duyền mặt đá hồng ngọc, ngắm nghía sợi dây chuyền, ông Vọng nói:

- - Đến thầy Lương còn không luận ra được thì xem ra họa lần này không tránh khỏi rồi.

Thầy Lương đáp:

- - Tài của Cao Côn cao tựa núi, còn tôi chỉ như một ngọn cỏ ven đường mà thôi. Tôi không thể nào sánh được với ông ta. Chỉ tiếc rằng, ông ấy lại sử dụng khả năng của mình làm chuyện ác. Mà trưởng làng luôn giữ sợi dây chuyền bên người à...?

Ông Vọng khẽ cười:

- - Dạ đúng thưa thầy, không tìm thấy không sao. Giờ biết đây là di vật của bố mẹ để lại, tôi không dám để lung tung. Cũng chẳng biết giấu đâu, nên thôi giữ trong người cho nó cẩn thận.

Vừa nói, ông Vọng vừa giơ sợi dây chuyền lên cao ngang tầm mắt. Trên bầu trời đầy sao, ánh trăng vừa bị che khuất bởi một đám mây, lúc này mây đã rời đi để lộ vầng trăng sáng tiếp tục soi xuống khoảng sân, ánh trăng hắt cả vào trong hiên nhà nơi thầy Lương và ông Vọng vẫn đang đàm đạo.

Đột nhiên ông Vọng ấp úng, tay vẫn cầm sợi dây chuyền, mắt nhìn thẳng vào mặt đá hồng ngọc, ông Vọng nói:

- - Thầy....thầy Lương ơi......Tôi.....tôi nhìn thấy....gì thế....này....?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 75: Chong đèn dưới ánh trăng


Thầy Lương ngạc nhiên quay sang nhìn ông Vọng:

- - Hửm, có chuyện gì sao...? Tuy chưa biết ý nghĩa của sợi dây chuyền là gì, nhưng hiện tại nó là cả một gia tài đó. Bac trưởng làng giữ cẩn thận vào nhé. Để kẻ gian nhìn thấy sẽ nảy sinh lòng tham.

Bên này, ông Vọng vẫn đang chăm chú nhìn vào mặt đá hồng ngọc, ấp úng nhắc lại một lần nữa, lần này ông Vọng nói rõ hơn:

- - Không, không phải chuyện đó.....Thầy Lương, tôi nhìn thấy trong mặt đá này có những chữ đang hiện ra, lạ lắm. Sao.....sao lại thế này...?

Thầy Lương giật mình, đứng vội dậy, đi sang bên phía ông Vọng, thầy Lương hỏi:

- - Có thật không...? Chữ sao...? Chữ hiện ở đâu..? Mà là chữ gì...?

Ông Vọng lắc đầu, đặt sợi dây chuyền xuống bàn, ông Vọng chỉ tay vào mặt đá rồi đáp:

- - Chữ xuất hiện bên trong mặt đá này, nó phát ra ánh màu vàng, là chữ Trung Quốc giống như trong quyển trục thì phải. Ơ nhưng giờ lại không thấy nữa.

Thầy Lương nhìn ông Vọng bằng ánh mắt nghi hoặc rồi cầm sợi dây chuyền lên nhìn kỹ lại một lần nữa, mặc dù trước đó và cả chiều nay, thầy Lương đã xem kỹ mặt đá hồng ngọc đến từng chi tiết nhỏ. Đâu có một chữ hay một ký tự nào đâu, thầy Lương cầm sợi dây chuyền rồi đưa ra ngoài sân để nhờ ánh trăng soi mà nhìn rõ hơn. Nhưng vẫn như trước đây, chẳng có chữ nào giống như lời ông Vọng vừa nói cả.

Khi thầy Lương đang cầm sợi dây chuyền thì ông Vọng một lần nữa lên tiếng:

- - Kìa....chữ bên trong mặt đá lại hiện lên rồi.....Chữ màu vàng, thầy Lương, thầy nhìn mà xem.

Ngó lên, nhìn xuống, thầy Lương thực sự vẫn không nhìn thấy gì. Trong mặt đá có chữ...? Sao thầy Lương lại không thể nhìn ra, trước mắt thầy Lương, mặt đá hồng ngọc tuyệt nhiên không hề có gì thay đổi.

Bất giác thầy Lương nghĩ trong đầu:

" Chẳng lẽ thuốc lào hút bằng xe điếu lại ghê gớm vậy sao...? "

Lúc này ông Vọng cũng đứng dậy bước ra sân, chắc có lẽ ông Vọng biết thầy Lương có vẻ không tin những gì mà ông nói. Ánh mắt thầy Lương nhìn ông có chút ngờ vực.

Cầm sợi dây chuyền, đưa lên cao ngang tầm mắt, ông Vọng nói:

- - Thầy phải tin tôi, đây này....Bên trong mặt đá này có những chữ màu vàng hiện lên, nhưng tôi không đọc được loại chữ này....Cứ 2 chữ 1 cột, có tổng cộng 7 cột, phía dưới là một hàng chữ viết liền.

Thầy Lương như hiểu ra điều gì đó, cầm sợi dây chuyền đi vào trong hiên, thầy Lương hỏi:

- - Giờ trưởng làng còn nhìn thấy chữ trong mặt đá nữa không..?

Bên trong hiên nhà ngay cửa ra vào, ông Vọng nheo mắt, ông nhìn kỹ mặt đá thì lạ thay lúc này những chữ kia đã biến đi đằng nào.

Ông Vọng ấp úng:

- - Sao lại thế này...? Giờ tôi không thấy gì nữa....Rõ ràng mới đây còn thấy mà...?

Thầy Lương không trả lời, đi ra mép hiên, cầm sợi dây chuyền đưa ra nơi có ánh trăng chiếu vào, thầy Lương hỏi lại:

- - Giờ thì sao...? Bác có nhìn thấy chữ gì không...?

Không mất thời gian suy nghĩ quá lâu, ông Vọng gật đầu lia lịa:

- - Có...có.....Chữ nó lại hiện ra rồi....Lấp lánh vàng óng bên trong mặt đá luôn.

Thầy Lương mừng rỡ hỏi:

- - Những chữ đó vẫn ở vị trí cũ, vẫn sắp xếp theo như trưởng làng nhìn thấy trước đó chứ..?

Ông Vọng đáp:

- - Đúng rồi thầy, vẫn như vậy......Nhưng sao tôi lúc nhìn thấy, lúc lại không nhìn thấy là sao nhỉ...? Hay là do tôi hoa mắt...?

Thầy Lương thu sợi dây chuyền lại rồi nói với ông Vọng:

- - Không, bác không hoa mắt, tôi cũng không hoa mắt.....Mà là do sợi dây chuyền này ẩn chứa điều bí ẩn. Chẳng trách có tìm đủ mọi cách, có luận đủ các quẻ....tôi cũng không thể hiểu được ý nghĩa của nó. Cao Côn một lần nữa lại khiến cho tôi phải nghiêng người kính trọng. Bác trưởng làng, sợi dây chuyền này chỉ dành cho người mang dòng máu của Cao gia mà thôi. Đó là lý do tại sao bác có thể nhìn thấy chữ ẩn hiện bên trong mặt đá, còn tôi thì không. Đối với người thường, sở hữu sợi dây chuyền này, bất quá cũng chỉ là một món đồ đắt tiền. Còn đối với dòng dõi của Cao Côn, sợi dây chuyền mang một ý nghĩa đặc biệt và lớn lao hơn thế gấp nhiều lần.

Ông Vọng khẽ hỏi:

- - Nhưng....nhưng bản thân tôi lúc nhìn thấy, lúc cũng không nhìn thấy...? Như vậy là sao thưa thầy...?

Bước xuống sân, thầy Lương chỉ tay về phía mặt trăng, thầy Lương mỉm cười giải thích:

- - Đó là bởi vì, chỉ khi nào có ánh trăng chiếu vào, mặt đá hồng ngọc này mới hiện chữ. Nói nôm na, ta hãy tưởng tượng viên hồng ngọc này là một tờ giấy, còn ánh sáng của trăng như một cây bút. Khi cả hai kết hợp lại với nhau, chữ mới hiện ra. Đó chính là lý do tại sao ban ngày, hoặc nơi không có ánh trăng, trưởng làng cũng không thể nhìn thấy chữ ở bên trong viên hồng ngọc này. Nhưng chữ trong này trưởng làng nhìn thấy rõ thật chứ...?

Ông Vọng đưa sợi dây chuyền lên phía mặt trăng, ông Vọng đáp:

- - Rất rõ là đằng khác thầy ạ.....Những chữ này cứ như đang hiện ra ngay trước mắt tôi vậy. Thật là kỳ lạ, sao lại có thể như vậy được chứ....? Đẹp quá, thầy nói đúng, ánh trăng càng sáng thì chữ trong này lại càng lung linh hơn, càng rõ hơn. Tôi thực sự không nghĩ trên đời lại có những chuyện lạ lùng đến thế.

Thầy Lương cười rồi nói:

- - Ha ha ha, quả thực rất kỳ lạ, nhưng nghĩ lại, đối với Cao Côn, một người biết sử dụng thuật " Giấu Long Mạch " thì điều này không là gì so với khả năng của ông ta cả. Chỉ có điều, như trưởng làng nói, chữ trong mặt đá đó là chữ Trung Quốc, nhưng nay chỉ có một mình trưởng làng là nhìn thấy. Tôi không thấy thì cũng không thể biết được ý nghĩa của những chữ đó là gì...? Bây giờ phải làm sao đây...?

Ông Vọng nghe xong mặt buồn thiu, đúng như thầy Lương nói. Nhìn được chữ nhưng lại không đọc được, không hiểu được thì cũng bằng không...? Ông Vọng than thở:

- - Thật trớ trêu, người đọc được thì lại không nhìn thấy đươc, người không hiểu gì thì lại thấy rõ. Ông trời quả thực biết cách đùa giỡn con người ta mà.

Suy nghĩ một hồi, thầy Lương nảy ra một ý, thầy Lương nói:

- - Giờ tôi có cách này, hi vọng sẽ thành công. Tuy nhiên để làm được việc này thì người đóng vai trò quan trọng nhất vẫn phải là trưởng làng. Bởi chỉ cần sai đi một chút thôi, rất có thể ý nghĩa truyền đạt lại sẽ thay đổi. Để làm được điều này nhất định trưởng làng phải tỉ mỉ và tập trung cao độ.

Ông Vọng vội đáp:

- - Thầy cứ nói, tôi sẽ cố gắng. Bây giờ tôi phải làm gì...?

Thầy Lương gật đầu, thầy đi vào trong nhà lấy ra giấy trắng, một cây bút chì nhỏ. Kêu ông Vọng bỏ bộ ấm chén cùng xe điếu trên bàn xuống, thầy Lương ra dấu cho ông Vọng bê cái bàn ra giữa sân, đặt giấy với bút xuống mặt bàn, thầy Lương nói với ông Vọng:

- - Giờ như thế này, trưởng làng nhìn vào trong viên đá hồng ngọc, sau đó trưởng làng cẩn thận, tỉ mỉ viết lại từng chữ, từng nét mà trưởng làng nhìn thấy trong đó vào tờ giấy này. Tôi sẽ ngồi kế bên, mỗi khi trưởng làng viết xong 1 chữ, tôi sẽ dựa vào đó mà viết lại những chữ giống nhất, có nghĩa nhất để trưởng làng so lại xem có giống với chữ trong viên hồng ngọc hay không. Cứ như thế, chúng ta sẽ chép lại được toàn bộ chữ bên trong viên đá. Sau khi chép xong, tôi sẽ luận xem, rốt cuộc ý nghĩa bên trong viên hồng ngọc này là gì. Trưởng làng làm được chứ...?

Ông Vọng trả lời:

- - Được thưa thầy.....Tôi sẽ cố gắng, nếu chỉ là " vẽ " lại những chữ trong đây, tôi nghĩ là tôi làm được.

Nói đoạn, ông Vọng toan vẽ luôn, dưới ánh trăng, khi nhìn vào viên đá hồng ngọc, những chữ Trung Quốc kia hiện lên rõ hơn bao giờ hết. Thấy ông Vọng hơi nóng vội, thầy Lương nói:

- - Khoan đã, nãy tôi đã nói, việc này cần sự tỉ mỉ, chi tiết.....Chữ Trung Quốc có rất nhiều nét, cách viết có quy định, quy tắc riêng. Chỉ cần sai nét, thiếu nét, hoặc sai vị trí các nét thôi nghĩa của chữ đó sẽ thay đổi. Điều này cực kỳ nguy hiểm, bởi chỉ cần sai một chữ thôi, chúng ta sẽ phải trả giá. Chậm mà chắc, nét nào ra nét đấy, vị trí từng chữ cũng phải được bảo đảm đúng với cách sắp xếp mà trưởng làng nhìn thấy bên trong viên hồng ngọc. Đèn điện không chiếu sáng được ra tới sân, để tôi vào thắp cây đèn dầu để cạnh đây để trưởng làng nhìn cho rõ. Do chữ chỉ hiện ra dưới ánh trăng nên chúng ta phải tận dụng khoảng thời gian này. Trưởng làng uống ngụm nước rồi thở đều, nhớ lời tôi dặn, chậm rãi, chắc chắn và chính xác, tỉ mỉ.

Trời đang chuyển dần về đêm, càng lúc không gian lại càng thanh vắng, tĩnh lặng. Ngồi giữa sân nhà, hai người đàn ông tuổi ngoài ngũ tuần vẫn đang chong đèn dầu viết lại tỉ mỉ từng con chữ bên trong viên đá hồng ngọc.

Hai chữ đầu tiên đã được ông Vọng " vẽ " lại xong.......Ngồi ngay bên cạnh, thầy Lương cũng đang nhìn lại thật kỹ hai chữ mà ông Vọng vừa viết ra giấy. Khẽ gật đầu, thầy Lương dùng bút lông viết lại hai chữ kia theo đúng với nguyên bản, cũng như đúng với quy tắc các nét của Hán tự.

Viết xong, thầy Lương đưa lại cho ông Vọng nhìn rồi hỏi:

- - Giờ trưởng làng nhìn chữ tôi vừa viết và so với chữ trong viên hồng ngọc xem có giống nhau không...?

Ông Vọng nhìn đi nhìn lại cho thật chắc chắn, ông Vọng mừng rỡ nói vội vàng:

- - Đúng....đúng rồi thầy ơi.....Giống y hệt luôn.....Vậy để tôi viết tiếp nhé.....Mà hai chữ này là chữ gì vậy thầy.......?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 76: Văn tự trong viên Hồng ngọc


Thầy Lương nhìn vào hai chữ mình vừa viết trên tờ giấy rồi trả lời ông Vọng:

- - Đây là "天枢" đọc là " Thiên Xu " là tên gọi theo tiếng Trung của tinh quân Tham Lang. Một ngôi sao trong Thất Tinh Bắc Đẩu.

Ông Vọng đang tịnh tiếp tục viết thì thầy Lương ngăn lại, ông Vọng thắc mắc:

- - Sao vậy thầy...? Sao không để tôi tiếp tục...?

Thầy Lương suy nghĩ vài giây, nhìn ông Vọng thầy Lương nói:

- - Khoan đã, tôi có ý này.....Trưởng làng khoan hãy viết tiếp, đợi tôi một chút.

Ông Vọng dừng tay đặt bút xuống, thầy Lương hỏi:

- - Có phải trưởng làng nói chữ bên trong viên hồng ngọc có tất cả 7 cột, mỗi cột là hai chữ như thế này phải không...?

Ông Vọng gật đầu đáp:

- - Dạ đúng rồi thầy, cứ 2 chữ trên dưới xong cách 1 khoảng lại là 2 chữ khác. Cứ như vậy có tổng cộng 7 cột. Cuối cùng bên dưới là một hàng chữ viết liền nhau.

Thầy Lương lấy bút, lấy giấy, thầy tiếp tục viết tiếp mà không cần ông Vọng vẽ lại nữa.

天 天 天 天 玉 開 摇.

枢 璇 玑 权 衡 陽 光.

Viết xong, thầy Lương đặt tờ giấy trước mặt ông Vọng rồi khẽ nói:

- - Trưởng làng nhìn xem, có phải những chữ hiện ra trong viên hồng ngọc được sắp xếp như này, và các chữ trong đó đều giống như tôi vừa viết hay không...?

Ông Vọng tuy không biết chữ Trung Quốc, nhưng nhìn đi nhìn lại để viết ra giấy từ nãy đến giờ, ít nhiều ông Vọng cũng dần quen thuộc với những chữ đang hiện ra trong viên hồng ngọc mà chỉ có mình ông nhìn thấy. Nhưng để cho chắc ăn, ông Vọng cầm viên hồng ngọc đưa lên phía mặt trăng, ông cẩn thận nhìn thật kỹ từng chữ, từng chữ một......Nhìn xuống tờ giấy mà thầy Lương vừa viết, ông Vọng há hốc mồm ngạc nhiên, bởi những gì mà thầy Lương mới viết ra kia hoàn toàn trùng khớp với những chữ mà ông nhìn thấy bên trong viên hồng ngọc.

Ông Vọng thảng thốt:

- - Không sai một chữ.....Cách viết, cách sắp xếp đúng y như những gì mà tôi nhìn thấy...Nhưng....nhưng tại sao thầy lại viết được thế này...? Chẳng phải thầy nói thầy không nhìn thấy chữ bên trong viên hồng ngọc hay sao...?

Thầy Lương giải thích:

- - Đúng là tôi không thể nhìn thấy những gì đang hiện ra bên trong nhưng qua hai chữ đầu tiên cùng với những mô tả của trưởng làng, tôi mới thử viết ra xem có đúng hay không...? Thật không ngờ lại chính xác....Ha ha ha...Ha ha ha.

Nhìn ông Vọng vẫn còn đang ngơ ngác chưa hiểu hết ngụ ý của mình, thầy Lương tiếp:

- - Hai chữ đầu tiên mà trưởng làng vẽ lại là tên Trung Quốc của một trong Thất Tinh Bắc Đẩu. Trước đó trưởng làng có nói, trong viên hồng ngọc hiện lên 7 cột chữ, mỗi cột là hai chữ.

Chỉ tay vào tờ giấy trên mặt bàn, thầy Lương mỉm cười:

" Thiên Thiên Thiên Thiên Ngọc Khai Dao.

Xu Tuyền Cơ Quyền Hành Dương Quang. "

- - Đứng đầu là Thiên Xu, tiếp đến là Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang......Đây là tên gọi Hán Việt của 7 ngôi sao trong Thất Tinh Bắc Đẩu. Còn theo cách gọi của mỗi tinh quân thì lần lượt Thiên Xu chính là Tham Lang, Thiên Tuyền (Cự Môn), Thiên Cơ (Lộc Tồn), Thiên Quyền (Văn Khúc), Ngọc Hành (Liêm Trinh), Khai Dương (Vũ Khúc), Dao Quang (Phá Quân). Khi hai chữ đầu tiên viết ra là tên của tinh quân Tham Lang, cộng với việc trên tấm bản đồ của Cao gia có đánh dấu những vị trí liên kết địa mạch làng Văn Thái, hình thành lên Thất Tinh Bắc Đẩu, tôi nghĩ ngay đến việc, 7 cột chữ mà trưởng làng nhìn thấy bên trong viên hồng ngọc chính là tên Trung Quốc của 7 ngôi sao trong Thất Tinh Bắc Đẩu.

Ông Vọng tròn mắt thán phục, chỉ với hai chữ đầu tiên mà thầy Lương lai có thể luận ra được nhiều điều đến như vậy, ông Vọng nói:

- - Thầy quả thực khiến người khác phải kinh ngạc. Chỉ với gợi ý nhỏ như vậy mà thầy nắm bắt được gần như toàn bộ những gì hiện ra bên trong viên hồng ngọc. Mặc dù thầy không nhìn thấy trong đó có gì, đáng khâm phục.

Thầy Lương xua tay đáp:

- - Không dám, không dám....Nói như vậy là trưởng làng coi trọng tôi quá rồi. Nếu không có gợi ý của trưởng làng thì cho dù có đến 10 tôi đi chăng nữa cũng chịu bó tay. Gợi ý nhỏ nhưng lại vô cùng quan trọng. Vậy là hai chúng ta đã giải được một nửa bài toán của Cao Côn. Việc tiếp theo mà tôi và trưởng làng phải làm chính là giải mã dòng chữ cuối cùng phía dưới tên của Thất Tinh Bắc Đẩu.

Ông Vọng gật đầu, nhưng có chút tò mò, ông Vọng hỏi:

- - Thầy cho tôi hỏi, tên của 7 ngôi sao trong viên đá hồng ngọc có ý nghĩa gì...?

Thầy Lương nói:

- - Đừng vội, vẫn còn thứ chúng ta chưa biết. Để sau khi hoàn chỉnh những gì Cao Côn để lại trong viên đá, khi ấy tôi sẽ nói cho trưởng làng biết. Dục tốc bất đạt, nóng vội sẽ dẫn đến hỏng chuyện. Mọi thứ chắc chắn phải có nguyên nhân của nó. Tranh thủ khi ánh trăng vẫn còn sáng chúng ta nên tập trung vào việc ghi chép thì hơn.

Trời đã chuyển dần về đêm, ánh trăng càng lúc lại càng sáng rõ. Ông Vọng tỉ mỉ vẽ lại từng nét chữ mà ông nhìn thấy bên trong mặt đá hồng ngọc. Chữ nào ông Vọng vẽ xong, thầy Lương lại viết lại chữ đó để ông Vọng so sánh xem có đúng hay không. Cứ như vậy, họ tập trung cao độ, trời đêm hơi lạnh, nhưng trên trán ông Vọng đang lấm tấm mồ hôi. Cũng bởi ông đang cố gắng hết khả năng của mình, ánh đèn dầu leo lắt, không gian ban đêm tĩnh lặng, thi thoảng mặt trăng lại bị mây đen che khuất khiến cho công việc bị gián đoạn......Nhưng cuối cùng thì họ cũng đã làm xong.

2h sáng, ông Vọng buông cây bút xuống, ông ngồi dựa vào ghế, thả lỏng cơ thể, khẽ nhắm mắt lại thở hắt ra, ông Vọng nói:

- - Cuối cùng thì cũng viết hết....Thực sự giờ tôi mới thấy cầm bút còn vất vả hơn cả làm ruộng.

Nhìn sang bên thầy Lương, ông Vọng thấy thầy Lương cũng đã viết xong bản hoàn chỉnh. Thầy Lương nói:

- - Giờ trưởng làng hãy so lại một lần nữa cho thật kỹ, những gì tôi viết ra đây có giống với chữ bên trong viên hồng ngọc hay không nhé. Nhưng tôi nghĩ, chúng ta đã đi đúng hướng rồi.....Bởi đây thực sự chính là văn tự Cao Côn để lại cho hậu thế của mình. Chỉ có điều.....

Thầy Lương dừng lại, ông Vọng sau khi xem xét kỹ lưỡng một lần cuối, ông Vọng nói:

- - Hoàn toàn trùng khớp, những chữ này có nghĩa là gì vậy thầy...?

Thầy Lương trả lời:

- - "高家的血统,北斗七星, 我放在天璇,中秋节午夜, 全部给王 " - Cao Gia Huyết Thống - Bắc Đẩu Thất Tinh - Để Ở Thiên Tuyền (Cự Môn) - Trung Thu Nửa Đêm - Cho Vương Tất Cả.

Để cho ông Vọng hiểu được cặn kẽ hơn, thầy Lương tiếp tục giải thích:

- - Dòng chữ Trung Quốc cuối cùng chính là văn tự Cao Côn truyền lại cho con cháu mình. Đại nghĩa, chỉ có người mang dòng máu của Cao gia mới có thể nhìn thấy bí ẩn bên trong viên hồng ngọc. Đúng như tôi nghĩ, Thất Tinh Bắc Đẩu đóng một vai trò quan trọng. Theo như những gì chúng ta viết ra thì Cao Côn để thứ gì đó ở vị trí của Thiên Tuyền hay còn gọi là Cự Môn, cũng chính là khu đất có ngôi miếu hoang. Cuối cùng ông ta viết, vào nửa đêm ngày rằm trung thu, cho Vương tất cả. Tôi tạm hiểu, Cao Côn muốn để lại thứ gì đó cho " Vương ". Những gì hiện ra trong viên hồng ngọc chính là lời chỉ dẫn để tìm thấy thứ này.

" Vù....ù...ù..."

Trời đang tĩnh lặng, bỗng đâu một cơn gió lạnh thổi qua khiến cây đèn dầu tắt ngúm, trên bầu trời, mặt trăng cũng đã bị che khuất bởi một đám mây đen.

" Vù....ù...ù..."

" Lạch...cạch....lạch....cạch..."

Gió thổi mỗi lúc một lớn hơn khiến cho cánh cửa nhà của ông Vọng va đập vào nhau tạo nên những âm thanh gai người. Giấy bút trên bàn bị gió thổi bay tung tóe, trong lúc thầy Lương đang cố nhặt lại những giấy tờ ghi chép thì ông Vọng đứng sững như trời trồng, mồ hôi lạnh túa ra như tắm, sắc mặt của ông Vọng nhợt nhạt một cách bất thường.

" Vù....vù....vù..."

Gió vẫn thổi. thầy Lương kéo tay ông Vọng gọi lớn:

- - Trưởng làng, thu dọn đồ vào trong nhà thôi....Gió lớn quá.....

Nhưng ông Vọng cứ như người mất hồn, chắc có lẽ ông Vọng đã vị trúng gió. Mặt mũi hoang mang, ông Vọng loạng choạng bước những bước chân nặng nhọc vào trong nhà.

Đóng cửa lại, đỡ ông Vọng ngồi xuống ghế, thầy Lương khẽ hỏi:

- - Kìa, bác trưởng làng....Bác không sao chứ....? Hình như bác bị cảm lạnh rồi, cơn gió vừa rồi mang theo phong hàn bất thường. Sức khỏe của trưởng làng gần đây không được tốt. Đợi tôi một chút, tôi lấy thuốc cho trưởng làng uống.

Nhưng khi thầy Lương đem thuốc quay lại cho ông Vọng uống thì ông Vọng đã ngất xỉu. Đưa tay vội bắt mạch cho ông Vọng, thầy Lương vừa lắc đầu vừa nói:

- - Không ổn rồi.......Mạch của trường làng đang yếu dần đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 77: " Vương "


[.....]

" Ò....ó.....o.....o...."

Ông Vọng từ từ mở mắt, bên trong nhà vẫn sáng ánh đèn dầu, nhìn về phía cửa chính, qua khe cửa, ông Vọng nhận thấy trời mới chỉ tờ mờ sáng.

Khẽ gượng dậy, toàn thân nhức mỏi, ông Vọng nói:

- - Đau đầu quá.....Không biết mấy giờ rồi.

Ngồi ở ghế nơi bàn uống nước, thầy Lương trả lời:

- - Trưởng làng tỉnh rồi à...? Đừng vội dậy, hãy còn sớm, vẫn chưa tới 6h sáng đâu. Trưởng làng cứ nằm nghỉ ngơi thêm chút nữa.

Nghe giọng thầy Lương, lúc này ông Vọng mới nhìn về phía bàn uống nước chè, thầy Lương đang ngồi ở ghế quay lưng lại với hướng giường ông Vọng nằm, dưới ánh đèn dầu đặt ngay bên cạnh, hình như thầy Lương đang lật mở, xem xét thứ gì đó.

Ông Vọng nói:

- - Tôi đã ngủ thiếp đi phải không thầy....?

Thầy Lương đáp:

- - Không, bác bị trúng phong hàn, cơn gió lạnh đêm qua là gió độc. Tưởng chừng không có gì xảy ra nhưng thực tế, suýt chút nữa khiến trưởng làng rơi vào tình trạng nguy hiểm. Cho tôi xin lỗi, tôi đã quên đi rằng tuổi thọ của trưởng làng đã bị rút ngắn trong lần phá giải trấn yểm của Cao Côn. Đêm hôm bắt trưởng làng ngồi giữa trời khuya thực sự là điều không nên. Cũng may sau khi uống thuốc, châm cứu, chích máu độc do phong hàn gây ra, tình trạng sức khỏe của trưởng làng đã ổn định. Chỉ cần tịnh dưỡng 2 ngày là khỏe lại. Nhưng từ nay về sau, trưởng làng hãy nhớ, bây giờ trưởng làng không còn ở tuổi 50 nữa, làm gì cũng không nên quá sức.

Vẫn cố gượng bước xuống giường, ông Vọng tiến lại gần chỗ thầy Lương đang ngồi. Quả thực, thầy Lương đang xem lại tấm phổ truyền đào được tại Bãi Hoang, bên cạnh đó còn có cả tấm bản đồ và quyển trục ghi chép từ các hương thân, phụ lão đã qua đời của làng Văn Thái.

Ông Vọng hỏi:

- - Cả đêm hôm qua thầy không ngủ sao...?

Thầy Lương gật đầu:

- - Ngủ sao được chứ...? Tuy đã tìm ra bí mật trong sợi dây chuyền, nhưng vẫn còn đó những khúc mắc chưa được giải đáp. Hơn nữa, đêm mai chính là đêm rằm trung thu rồi, nếu không nhanh chóng luận được ý nghĩa trong câu nói của Cao Côn, tôi e sẽ không còn cơ hội. Bởi vì tôi không thể ở lại đây đến thời điểm trung thu năm sau được.

Ông Vọng đáp:

- - Nếu chỉ là chỗ ăn chỗ ở thì thầy đừng lo. Thầy cứ ở đây đến khi nào thầy không muốn ở nữa cũng được.

Thầy Lương mỉm cười:

- - Tấm lòng của bác trưởng làng tôi rất trân trọng và kính phục. Nhưng tôi vẫn còn công việc riêng của mình. Tôi vẫn còn những nơi cần phải đến, hơn nữa hôm nay tôi ở đây, nhưng có thể ngày mai tôi rời đi, sau đó tôi sẽ không còn trên cõi đời này nữa. Thế cho nên tôi không dám hứa 1 năm sau có thể quay lại đây được hay không. Nhưng trưởng làng đừng lo, tôi vẫn sẽ giữ đúng lời hứa của mình. Nếu thực sự không còn cách nào để hóa giải bùa yểm mà Cao Côn để lại, tôi sẽ dùng toàn bộ khả năng của mình, tuy không tiêu diệt được đám Tiểu Quỷ. Nhưng tôi đảm bảo sẽ có thể phong ấn chúng tại mảnh đất đó trong vòng 50 năm tới. Chuyện của sau này thì đành chờ đợi người hữu duyên xuất hiện ra tay cứu giúp dân làng vậy. Đằng nào trưởng làng cũng dậy rồi thì ngồi xuống đây, tôi sẽ nói rõ tất cả những gì mà chúng ta trong thời gian qua đã tìm hiểu được.

Ông Vọng ngồi xuống ghế bên cạnh, thầy Lương trải tấm bản đồ, mở tấm phổ truyền của dòng họ Cao ra rồi bắt đầu:

- - Cao Côn, một thầy phong thủy người Trung Quốc đã đến mảnh đất này, tại đây ông ta phát hiện ra địa mạch nơi đây vô cùng vượng phát, long mạch sinh linh khí, bao quanh long mạch là những thế đất vô cùng đẹp. Và từ đó Cao Côn muốn độc chiếm lấy long mạch riêng cho bản thân mình. Có thể nói sự tồn tại của Cao gia cũng chính là một phần lịch sử của làng Văn Thái. Chỉ có điều, Cao Côn có tài nhưng lại quá độc ác. Không chỉ muốn độc chiếm long mạch, ông ta còn gây ra những tội ác tày trời, áp bức người dân. Nhưng cũng vì quá tham lam, ích kỷ, độc đoán....Chính bản thân Cao Côn đã phải trả giá khi bị chính tà thuật của mình rút ngắn tuổi thọ. Một mình Cao Côn không thể nghịch thiên, không thể khiến trời đất đảo lộn, càn khôn rung chuyển. Việc " Giấu Long Mạch " đối với Cao Côn mà nói đã thất bại. Cao Côn chết, Cao gia lúc đó như rắn mất đầu. Người dân làng Văn Thái bị chèn ép, đè nén, sau quá nhiều nỗi đau mất mát, họ quyết định giết chết toàn bộ người của Cao gia. Điều này trong quyển trục đã được người xưa ghi lại rõ ràng. May mắn thay, tưởng chừng như Cao gia đã bị giết sạch thì Lâm Thư phu nhân, là mẹ của trưởng làng đã liều mạng sống cứu trưởng làng ra khỏi biển máu, nhờ có ơn cứu mạng bố mẹ nuôi của trưởng làng, như một sự sắp đặt của ông trời, bố mẹ nuôi của trưởng làng đã gặp lại ân nhân trước khi bà hấp hối. Giây phút cuối đời, Lâm Thư phu nhân đã giao con trai mình tức Cao Luân cũng là trưởng làng sau này cho họ với tâm nguyện cuối cùng, mong sao họ cứu lấy trưởng làng, cũng chính là giọt máu cuối cùng của Cao gia. Cao gia bị diệt vong, mọi thứ về Cao gia bị đốt sạch, phá sạch, những con người của làng Văn Thái tham gia vào vụ thảm sát ấy đều thống nhất với nhau đi đến một quyết định. Dù có chết cũng không ai được nhắc đến bất cứ điều gì có liên quan đến dòng họ Cao nữa. Và sau này họ đã thực hiện đúng với lời thề, sống để bụng, chết mang theo. Đó cũng là vết nhơ không thể gột rửa của làng Văn Thái. n oán trăm năm qua tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, bởi đời sau của người làng Văn Thái không ai còn biết gì về một Cao gia từng hưng thịnh như bậc vua chúa tại ngôi làng này cả. Ngôi làng này nhìn thì yên bình, cảnh vật hữu tình nên thơ.....nhưng ít ai biết, trong quá khứ, nơi đây máu đã đổ nhuộm đỏ đất ruộng, chướng khi cũng như ân oán sâu tựa sông, cao tựa núi.

Khẽ dừng lại, thầy Lương chỉ tay vào vị trí của giếng làng rồi nói tiếp:

- - Cao Côn chết, trải qua khoảng 80 năm sau, mọi thứ tưởng sẽ êm đềm, nhưng không....? Những gì mà Cao Côn gây ra lúc ông ta còn sống bây giờ mới bắt đầu đem lại tai họa cho toàn bộ dân làng Văn Thái. Giống như đó là một sự trả thù của người chết. Trấn yểm nơi Long Mạch đã giết dần " Con Rồng " ngự tại làng Văn Thái, khiến cho linh khí sau gần 100 năm cạn kiệt, Long Mạch chết dần, thần bảo hộ cho làng cũng tan biến, nguồn nước ngầm bị nhiễm độc, suýt chút nữa đã biến mảnh đất này thành một vùng đất chết nếu như không có trưởng làng, người mang dòng máu của Cao gia ra tay cứu giúp. Đó là vấn đề thứ nhất, tuy Long Mạch đã được giải phóng khỏi trấn yểm, nhưng cũng như sức sống của một con người, khi đã bị tổn thương thì cần phải có thời gian phục hồi. Hiện tại linh khí của làng đã cạn, nhưng rất có thể, 100 năm sau hoặc lâu hơn, khi Long Mạch ổn định lại, vượng khí sẽ tiếp tục sinh sôi, làng Văn Thái sẽ được hưởng yên bình. Có thể nói, trưởng làng lần này không chỉ cứu lấy toàn bộ dân làng mà còn là cứu cả những khu vực lân cận. Chính vì điều này, công đức, tâm sáng của trưởng làng đã thấu động trời xanh, do vậy thiên kiếp giáng xuống đã không giết chết trưởng làng. Tuy nhiên, sau vấn đề Long Mạch, chúng ta lại gặp phải kiếp nạn thứ 2, gọi là kiếp nạn cũng chưa đúng lắm, bởi trên thực tế, đám Tiểu Quỷ ấy chỉ giết những người có ý định xâm phạm vào nơi chúng cư ngụ. Nhưng qua sự việc cô bé Mị đã bán linh hồn, lập giao kèo với đám Tiểu Quỷ, qua đó mượn sức mạnh tà ác của chúng để giết người, báo oán.....Tôi e rằng, nếu không có cách ngăn chúng lại, qua thời gian, quỷ tính của chúng càng lúc càng mạnh và rồi chúng cũng sẽ trở thành một mối họa cho dân làng về sau. Bởi trong thời điểm này, Long Mạch bị tổn hại, thần bảo hộ của làng cũng không còn, âm thịnh, dương suy....Linh khí chưa thể khôi phục cũng đồng nghĩa với việc tà khí dễ dàng xâm lấn. Đám Tiểu Quỷ kia nếu chúng được hấp thụ tà khí qua mỗi ngày, chúng không chỉ còn là đám quỷ canh của nữa. Bằng chứng đó là sau khi Long Mạch nơi đây suy yếu, bọn Tiểu Quỷ đã có thể rời khỏi khu đất chúng bị yểm lời nguyền. Mặc dù thời gian hiện tại của chúng chỉ từ 12h đêm cho tới khi tiếng gà gáy đầu tiên vang lên. Nhưng không ai có thể đảm bảo sau này chúng sẽ hoành hành bất kể ngày đêm. Trớ trêu thay, người " giấu long mạch " chính là Cao Côn, và người tạo ra đám " quỷ giữ của " ấy cũng lại chính là Cao Côn. Với việc tạo ra " quỷ giữ của " bằng chứng ghi chép trong quyển trục nói về tội ác của Cao gia lại càng thêm phần chắc chắn. Bởi muốn tạo ra " quỷ giữ của ", Cao Côn ắt hẳn phải giết rất nhiều phụ nữ và trẻ em trong quá trình chọn lọc. Đổi lại, ông ta dù đã chết nhưng vẫn để lại cho ngôi làng này 4 con quỷ đáng sợ.

Ông Vọng chăm chú lắng nghe không sót một chữ, nghe đến đâu, ông toát mồ hôi, nuốt nước bọt đến đó. Hôm nay, ông đã thấu hiểu toàn bộ sự việc xuyên suốt 100 năm của làng Văn Thái qua những đúc kết sâu sắc, tỉ mỉ, chi tiết của thầy Lương.

Thầy Lương để tờ giấy họa Thất Tinh Bắc Đẩu lên mặt bàn rồi nói tiếp:

- - Qua nhiều sự việc xảy ra trong hiện tại cũng như quá khứ, tôi không nghĩ Cao Côn yểm đám Tiểu Quỷ ở đó để hãm hại dân làng. Bởi vì, trước khi xảy ra việc hai người Hoa, một nam, một nữ bị lột da mặt rồi chết tại khu đất ấy, trong làng chưa từng xảy ra việc tương tự. Ngược lại khu đất ấy trong quá khứ vẫn là nơi cảnh sắc đẹp nhất làng. Chỉ khi có người chết, phong thủy nơi đó mới bắt đầu thay đổi. Dựa vào việc địa mạch được liên kết thành hình của Thất Tinh Bắc Đẩu, vị trí của Cự Môn nơi đám Tiểu Quỷ được trấn yểm, cộng thêm tới nay tổng cộng đã có 4 người chết khi đào bới tại miếu hoang. Tôi đồ rằng, Cao Côn đã chôn giấu một thứ gì đó rất có thể là của cải, vàng bạc châu báu, gia tài của Cao gia ngay tại nơi ấy. Và may mắn, suy nghĩ của tôi đã đúng, nhờ vào sợi dây chuyền di vật của cha mẹ ruột trưởng làng để lại. Chúng ta đã tìm được văn tự Cao Côn truyền đời cho hậu thế sau này.

" Cao Gia Huyết Thống - Bắc Đẩu Thất Tinh - Để Ở Cự Môn - Nửa Đêm Trung Thu - Cho Vương Tất Cả. "

Chỉ tay vào vị trí Cự Môn, cũng chính là nơi mà ngôi miếu hoang đang ngự, thầy Lương khẽ cau mày lại, ông nói:

- - Ở 4 câu đầu, có thể luận ra được rằng, Cao Côn đã để lại thứ gì đó ngay tại khu đất này. Và để tránh người đời dòm ngó, tránh bị kẻ gian lấy mất, ông ta đã yểm đám Tiểu Q ủy chính tại nơi ấy. Chúng ta gọi chúng là " quỷ giữ của ", chỉ cần ai có lòng tư lợi, tham lam, mục đích đến Cự Môn đào của.....Đều sẽ bị quỷ nhi canh của giết chết, lột da mặt như một lời nguyền cho những kẻ xâm phạm. Do đó, mặc dù chúng ta gần như đã giải được hết bài toán của Cao Côn. Nhưng nếu chúng ta vẫn cố chấp đến đó đào bới thì chỉ có một kết cục dành cho chúng ta, đó là cái chết.

Ông Vọng ấp úng hỏi:

- - Tại....tại...sao lại vậy.....?

Thầy Lương khẽ thở dài:

- - Bởi " Tất Cả Cho Vương ", Cao Côn đã nói rõ ràng như vậy. " Vương ", chỉ có " Vương " mới có thể lấy được........Nhưng xem đi xem lại không biết bao nhiêu lần tấm phổ truyền, tôi vẫn không tài nào tìm ra " Vương " rốt cuộc là ai và có liên quan gì đến huyết thống Cao gia hay không...? Hoàn toàn không có, thực sự bế tắc.

Ông Vọng chợt tái mặt đi, mồ hôi chảy xuống ướt đẫm khuôn mặt, đây cũng chính là biểu hiện gần sáng nay ông Vọng bị trúng gió. Lúc đó, khi nghe lời sấm của Cao Côn ông Vọng chợt lạnh sống lưng, và bây giờ cũng vậy......Ông Vọng run run nói:

- - Thầy....thầy không tìm được....trong...trong đó đâu....Bởi....bởi vì...nó không ở đó...

Thầy Lương nhìn ông Vọng hoang mang, trong cách nói của ông Vọng thì hình như ông Vọng biết gì đó về " Vương ", thầy Lương hỏi:

- - Trưởng làng....? Trưởng làng biết gì về " Vương " sao...?

Ông Vọng nuốt nước bọt rồi gật đầu:

- - Vương......là.....là....tên.....con trai tôi....
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 78: Ý trời đã định


Nghe ông Vọng nói xong, đến lượt thầy Lương ấp úng, thầy Lương hỏi lại:

- - Trưởng....trưởng làng...nói thật...chứ...?

Ông Vọng gật đầu quả quyết:

- - Tôi sao dám nói dối thầy....Hơn nữa tên con trai tôi, chẳng lẽ tôi lại không nhớ hay sao. Tôi tên Vọng, gọi cho nó vần nên đặt tên con là Vương. Mà cái tên này là do mẹ nó đặt, bà ấy bảo Vương trong " Vương Gia " rồi Vương còn có nghĩa là " Vua ", ngụ ý mong muốn con mình sau này sẽ có cuộc sống sung sướng. Tôi thì không nghĩ nhiều như vậy, đọc thấy cái tên Vương cũng hay, bố tên Vọng, con tên Vương, nó cứ vần vần nên đồng ý luôn. Nhưng có khi nào chỉ là sự trùng hợp thôi không hả thầy..? Cao Côn, ông nội tôi sau khi chết thì Cao gia mới diệt vong, đến tôi ông ấy còn chưa nhìn thấy mặt thì làm sao có thể biết được con tôi tên gì mà lưu lại văn tự nhắc nhở...?

Thầy Lương cười lớn, có vẻ như thầy Lương đang rất khoái chí:

- - Ha ha ha.....Về điều này thì tôi cũng có thể giải thích. Không nhầm đâu, Cao Côn không hề nhầm, đích thị văn tự truyền lại bên trong viên hồng ngọc là dành cho Vương, nói cách khác, thứ mà Cao Côn chôn cất cho tới tận bây giờ là dành cho con trai của trưởng làng, cũng chính là chắt nội của Cao Côn. Còn tại sao Cao Côn lại nói là " dành cho Vương " trong khi vào thời điểm đó, đến trưởng làng còn chưa chào đời chứ đừng nói tới con trai trưởng làng. Nhưng, chuyện này không phải chuyện gì quá lạ lẫm. Trên thực tế đã có những lời sấm truyền của các bậc thầy phong thủy đại tài, những lời tiên tri cho tới hàng trăm năm, thậm chí là vài trăm năm sau. Nói vu vơ thì hơi trừu tượng, để tôi lấy cho trưởng làng một ví dụ về lời sấm tiên đoán, đó cũng chính là một nhân vật lịch sử của Việt Nam, Trạng Trình - Nguyễn Bình Khiêm. Người đời gọi những lời tiên tri của ông ấy là Sấm Trạng Trình. Và trên thực tế, trong suốt khoảng hơn 450 năm, khá nhiều điều xảy ra sau này tương ứng với lời Sấm của Trạng Trình. Ông ta từng tiên đoán về quốc hiệu của Việt Nam, tức tên gọi bây giờ của đất nước này vào cái thời mà ông ta sống, quốc hiệu đất nước vẫn là Đại Việt. Có thể có nhiều người không tin và cho rằng đó chỉ là sự trùng hợp, nhưng trên đời này luôn luôn xuất hiện những bậc hiền nhân, kỳ tài, mang trong mình thiên phú trời ban, có thể nắm được vận mệnh không chỉ của bản thân mà còn là của người khác, thậm chí họ còn nhìn thấu được quá khứ vị lai trong một mức độ nhất định. Những điều mà họ nói ra không ứng nghiệm ngay nhưng qua hàng trăm năm, khi ngẫm lại người đời phải cúi đầu cảm phục. Nói thế để trưởng làng hiểu, việc Cao Côn có thể biết được tên chắt của mình hoàn toàn nằm trong khả năng của ông ta. Đừng quên, Cao Côn là người dám nghịch thiên, dám chống lại ý trời, có ý định độc giữ Long Mạch. Với những di sản mà ông ta để lại, chỉ riêng tấm bản đồ này thôi tôi đã chắc chắn khẳng định rằng, khả năng của Cao Côn về phong thủy, tâm linh cực kỳ bác đại tinh thông. Nếu chỉ trong khoảng 100 năm thì không ngạc nhiên khả năng ông ta trước khi chết đã biết trước kết cục của Cao gia, và tất nhiên việc ông ta biết tên chắt của mình hoàn toàn có thể hiểu được. Trưởng làng nghĩ xem, không tự nhiên mộ của Cao Côn lại được đặt tận bên Trung Quốc. Có lẽ trước khi chết, ông ta đã tiên đoán được kết cục của Cao gia, nhưng không thể xoay chuyển vận mệnh, ông ta biết vị trí huyệt mắt rồng nhưng lại không chôn mình ở đó. Vì, ông ta biết, Cao gia bị diệt vong thì mộ phần của ông ta cũng sẽ bị đào bới. Mộ phần của Cao Côn còn, cũng có nghĩa, vận số Cao gia chưa tận. Bằng chứng rõ ràng nhất chính là trưởng làng vẫn còn sống.

Ông Vọng nghe đến đâu rùng mình đến đó, dẫn chứng sắc bén, lập luận chi tiết, chính xác đến từng vấn đề nhỏ. Nhưng ông Vọng vẫn còn thắc mắc, ông Vọng nói:

- - Nếu nói như thầy thì Cao Côn biết trước kết cục của Cao gia, vậy tại sao ông ấy không cảnh báo cho mọi người, như vậy sẽ không ai phải chết...và...cha mẹ tôi...cũng....

Thầy Lương lắc đầu trả lời:

- - Có những thứ biết nhưng không thể tránh khỏi, cứ cho rằng Cao Côn dự được số phận của Cao gia. Nhưng việc mà Cao Côn đã làm là nghịch đạo, là chống lại thiên ý, giết người vô số, nghiệp chướng tích tụ dài cả mấy kiếp. Như ngay từ đầu tôi đã nói, khi Cao Côn " giấu long mạch ", thành công, họ Cao sau này xưng nghiệp, xưng bá, sống vương giả phú quý tận đời đời sau. Nhưng thất bại, không chỉ Cao Côn mà cả con cháu ông ta cũng sẽ phải trả giá. Nói cách khác, kết cục của Cao gia là không thể tránh khỏi. Cho dù có tránh được dân làng Văn Thái thì những người có liên quan đến Cao Côn cũng vẫn sẽ phải chết mà thôi. Có thể Cao Côn chấp nhận kết quả này là bởi vì chết ở nơi đây, máu mủ Cao gia không bị tận diệt. Chuyện này hợp lý, Lâm Thư phu nhân đã cứu mạng bố nuôi của trưởng làng, qua đó cũng đã tích đức giúp cho trưởng làng sống sót. Vậy tôi hỏi thử trưởng làng, trốn đi để rồi lãnh chịu nghiệp báo, gia tộc vẫn phải chết, thậm chí là chết sạch và ở lại đền nghiệp, nhưng dòng dõi Cao gia vẫn còn.......Trưởng làng sẽ chọn cách nào.....? Đối với Cao Côn, ông ta đã chấp nhận kết cục của Cao gia, chỉ cần dòng dõi của ông ta được sống. Tôi cho rằng đây là một sự lựa chọn đúng.

Ông Vọng buồn rầu nói tiếp:

- - Cho dù có là như thế thì tôi cũng không thể nào tha thứ được cho ông ta vì những điều ông ta đã làm, giết phụ nữ, giết trẻ con chỉ để tạo ra thứ bùa ngải ma quỷ, làm hại dân lành. Rồi thì giờ ông ta để lại thứ gì mà chỉ dành cho con trai của tôi chứ...? Cho tới nay, những thứ ông ta làm ra đều khiến sinh linh lầm than, cho tới tận lúc chết, ông ấy vẫn vô cùng đáng sợ. Có chắc chắn thứ để lại cho thằng Vương không phải là một thứ gì đó khủng khiếp. Tôi chợt nghĩ, liệu rằng tôi với con trai tôi có phải là quân cờ trong tay Cao Côn hay không..? Tôi sợ rằng, nếu con trai tôi đào thứ đó lên, tai họa sẽ ập xuống, mọi chuyện sẽ tồi tệ hơn bao giờ hết.

Lời của ông Vọng không sai, thực chất, hiện tại thầy Lương cũng chỉ dự đoán Cao Côn chôn giấu của cải. Nhưng không hoàn toàn chắc chắn, phải chi thứ được chôn cất ấy chỉ dành cho người mang huyết thông Cao gia thì lại khác, khả năng cao chính là của cải. Nhưng đằng này, thứ mà Cao Côn chôn giấu, đặt cả đám Quỷ Giữ Của ở đó canh chừng lại chỉ đích danh " Cho Vương Tất Cả ". Nếu đó không phải của cải mà là một thứ gì khác, một thứ bùa phép tà thuật thì thực sự là một mối họa. Không phải ngẫu nhiên Cao Côn để lại cho Vương, con trai ông Vọng....Hẳn ông ta có lý do, giống như việc Cao Côn chỉ truyền lại sợi dây chuyền gia bảo cho Cao Lãm mà không phải Cao Kiệt, cho dù cả hai đều là con trai Cao Côn.

Thâm ý của Cao Côn, thầy Lương không tài nào đoán được. Nói thẳng ra, cho tới lúc này, nếu không nhờ ông Vọng, cháu nội Cao Côn giúp đỡ, thầy Lương không thể nào hóa giải được những bùa phép, trấn yểm mà Cao Côn để lại. Câu nói của thầy Lương ví von khả năng của Cao Côn cao tựa núi hoàn toàn là sự thật. Nó còn đáng sợ hơn bởi Cao Côn đi theo con đường tà đạo, tu luyện những tà thuật đã thất truyền và bị cấm.

Miễn cưỡng đào thứ bị chôn dưới lòng đất lên sợ rằng lại vô tình mở ra một con đường dẫn tới địa ngục. Đối với Cao Côn, đừng bao giờ coi thường bất cứ một suy nghĩ nào của ông ta. Hậu quả để lại cho dân làng Văn Thái về sau chính là bài học đáng sợ mà Cao Côn muốn nhắn gửi người đời. Dù ông ta đã chết, nhưng ác mộng, ám ảnh về ông ta sẽ vẫn còn đeo đẳng, dai dẳng tới tận về sau.

Thầy Lương nói:

- - Nhưng cũng chỉ có con trai trưởng làng mới là người nắm giữ chìa khóa để có thể xử lý đám Tiểu Quỷ kia mà thôi. Cao Côn để lại tất cả cho Vương, có nghĩa là đám tiểu quỷ đó tồn tại cho tới bây giờ mặc dù Cao Côn đã chết bởi vì chúng đang đợi người được chỉ định đến nhận đồ vật mà chủ nhân giao phó. Và khi khế ước được hoàn thành, rất có thể bọn Tiểu Quỷ sẽ biến mất. Như vậy, làng Văn Thái sau này không còn bị chúng quấy nhiễu nữa. Nhưng tôi cũng cần phải nói rõ cho trưởng làng điều này, đó là trường hợp thứ nhất, ngoài ra vẫn còn 1 khả năng nữa. Trong văn tự của Cao Côn có nói " Cho Vương Tất Cả ", tôi e không chỉ là đồ vật được chôn bên dưới Cự Môn, mà ngay cả đám Tiểu Quỷ kia cũng sẽ nghe theo lời của Vương, con trai trưởng làng. Chưa biết Cao Côn chôn gì dưới lòng đất, nhưng thực sự chỉ cần một ai đó điều khiển được bọn Tiểu Quỷ đối với chúng ta mà nói đã là một mối hiểm họa. Hiện tại, bọn Tiểu Quỷ ấy ít nhiều vẫn chịu lời nguyền từ Cao Côn, chúng không được tự do hoành hành, chúng phải ở đó để trông chừng di vật Cao Côn chôn giữ. Nhưng sẽ ra sao nếu có người đến lấy đồ, đồng nghĩa phong ấn của chúng được hóa giải. Chúng tan biến thì đó là chuyện tốt, còn nếu chúng không biến mất, hay vì một lý do nào đó chúng chịu sự sai khiến của chủ nhân mới, khi ấy chúng sẽ là những con quỷ thực sự. Tôi từng đối mặt với chúng khi cứu linh hồn cô bé Mị, lần đó may mắn và nhờ vào sự giúp đỡ của linh tinh ngụ trong cây lộc vừng tôi mới có thể thành công. Tuy nhiên, đó không phải đất của chúng, cũng như chúng đang bị phong ấn bởi lời nguyền. Còn một khi xâm phạm vào Cự Môn, mọi thứ hoàn toàn thay đổi. Hãy nhớ lại cái chết của Lực và bà thầy cúng là biết, bọn Tiểu Quỷ đáng sợ đến mức nào. Nói tóm lại, phúc hay họa đều dựa hết tất cả vào Vương, con trai trưởng làng.

Ông Vọng mặt tái nhợt đi, khi nãy khi nhắc tới tên con trai ông, ông sợ con mình sẽ gặp nguy hiểm. Nhưng giờ, nghe thầy Lương lý giải ông Vọng lại càng hoang mang hơn. Thầy Lương nói đúng, phúc hay họa đều nằm trong tay con trai ông. Nếu không tới đó hóa giải bùa phép của Cao Côn, làng Văn Thái sau này sẽ còn đối mặt với tà ma quỷ quái. Nhưng sợ tới đó rồi, phúc chưa tới, họa đã vội ập xuống. Đào hay không đào, trong đời mình, chưa bao giờ ông Vọng phải đưa ra lựa chọn khó khăn đến như vậy.

Nhìn ông Vọng thầy Lương nói:

- - Tôi nghĩ như này, dẫu sao đây cũng chính là chuyện riêng của Cao gia. Hai chúng ta làm tới đây coi như là đã tận tâm hết sức mình. Vấn đề còn lại đành để cho lớp trẻ quyết định. Cao Côn để lại cho Vương, lấy hay không lấy, hãy để cho Vương tự làm chủ. Trưởng làng nên gọi cậu nhà về, xong kể hết tường tận tất cả mọi chuyện. Cậu ta cũng như trưởng làng, cần phải biết về gốc gác cha ông, tiên tổ của mình. Rồi việc lấy hay không lấy, đào hay không đào sẽ do cậu ta quyết định. Như vậy trưởng làng thấy ổn chứ....? Tuy nhiên tôi chỉ sợ, ngày mai là đến rằm Trung Thu, giờ mới đi đánh điện e không kịp.

Ông Vọng trả lời:

- - Không....không cần đánh điện đâu......Bởi sớm thì trong ngày hôm nay, muộn thì ngày mai....Nó sẽ về..

Thầy Lương ngạc nhiên, thầy khẽ hỏi:

- - Sao trưởng làng lại chắc chắn như vậy....? Không lẽ trưởng làng cũng có thể dự đoán được tương lai sắp xảy ra...?

Ông Vọng đáp:

- - Bởi vì, rằm Trung Thu cũng chính là ngày sinh nhật của nó.....Mấy năm nay nó đi làm xa, chỉ về nhà vào đúng 2 dịp, đó là Tết....Dịp còn lại là rằm Trung Thu, người khác thì tính lịch dương, nhưng thằng Vương nó lại muốn nó sinh nhật vào đúng rằm Trung Thu....Nó nói như vậy vừa ý nghĩa mà lại vui, bởi từ nhỏ, mẹ nó đã nói tết Trung Thu cũng chính là ngày mọi người vui vẻ chúc mừng sinh nhật của con. Chẳng lẽ đây chính là ý trời......?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 79: Hồi ức đau thương


Thầy Lương vô cùng kinh ngạc trước điều này, mọi thứ diễn ra thực sự cứ như đang được sắp xếp một cách trình tự. Thầy Lương nói:

- - Mai là sinh thần của cậu nhà, đúng là ý trời....Ha ha ha...Đã là ý trời thì hãy cứ để thuận theo.

Ông Vọng tiếp:

- - Tôi vẫn còn nhớ như in, sang canh đúng hôm rằm thì vợ tôi hạ sinh nó. Trước đó trời mưa tầm tã, sinh nó ra hôm sau trời quang mây tạnh, trăng tròn sáng vằng vặc....Và....và hôm nó được sinh ra đời, cũng chính là ngày mà người ta phát hiện ra ngoài khu đất hoa nở quanh năm ấy có hai xác người bị chết. Tính đến nay, ngôi miếu đó đã được 20 năm thì con trai tôi cũng tròn 20 tuổi. Từ đó cho tới nay, đón tết Trung Thu cũng là mừng ngày sinh thần của nó. Ngày nhỏ mỗi khi đưa nó ra đình, tôi và mẹ nó đều nói dối nó rằng sinh nhật nó được cả làng chúc mừng, được tất cả trẻ con trong làng rước đèn, nó vui lắm......Sau này lớn lên, dù đã hiểu ra nhưng nó vẫn chọn ngày Trung Thu là ngày sinh nhật. Cũng đã hơn nửa năm nay tôi không gặp nó rồi, hôm qua lúc tôi nhắc đến tết Trung Thu cũng là đang nhớ đến nó ấy chứ. Cái thằng, thân làm tội đời....Không biết nó về, kể cho nó nghe chuyện này, nó sẽ phản ứng thế nào đây.

Nghe ông Vọng nói, thầy Lương cũng khá tò mò về cậu con trai của ông Vọng. Lần đầu tới nhà ông Vọng, được nghe ông Vọng nói sống có 1 mình vì vợ đã mất lâu nay, còn cậu con trai đi làm ăn xa ít khi về nhà. Tính nán lại ít hôm nên chuyện gia đình ông Vọng, thầy Lương không tiện hỏi nhiều. Bẵng đi một thời gian, trong làng liên tiếp xảy ra những chuyện kỳ dị. Bản thân thầy Lương và ông Vọng phải căng sức ra giải quyết bao chuyện của làng, thậm chí suýt chút nữa ông Vọng phải mất mạng. Quả thực thầy Lương cũng quên bẵng đi cậu con trai của ông Vọng. Tuy nhiên, thầy Lương không thể ngờ được rằng, con trai ông Vọng tên Vương, đúng với những gì mà Cao Côn truyền lại ở văn tự hiện trong viên hồng ngọc.

Nhắc tới cái chết của hai người Hoa bên ngoài vị trí Cự Môn, có vẻ như ông Vọng đang thêm phần lo lắng, thầy Lương bèn nói:

- - Có phải trưởng làng đang sợ rằng nếu chẳng may cậu nhà tới miếu hoang sẽ gặp phải nguy hiểm tính mạng như những người trước đó phải không..?

Ông Vọng khẽ gật đầu:

- - Thật không giấu được thầy điều gì. Vợ chồng tôi cũng chỉ có nó là mụn con duy nhất. Thà như tôi, già rồi, sống đủ rồi, có làm sao thì cũng còn đỡ. Đằng này nó vẫn đang tuổi thanh niên, mẹ mất sớm, cuộc sống của nó cũng không dễ dàng....Tôi...tôi lo lắm.

Thầy Lương hiểu điều mà ông Vọng đang nói, cha mẹ nào chẳng lo lắng cho con cái. Nhất là tính cho tới nay, ngoài khu đất ấy đã có 4 người chết, tất cả đều bị lột sạch da mặt, đều là những cái chết đáng sợ. Dù cho con trai ông Vọng có quyết định ra sao thì người suy nghĩ nhất vẫn chính là ông Vọng.

Thầy Lương trấn an:

- - Trưởng làng đừng sợ, nếu trưởng làng tin tôi thì nghe tôi nói thêm đôi lời. Thứ nhất chúng ta bàn về hai người chết cách đây 20 năm trước. Vừa rồi trưởng làng có nói, họ chết cũng trùng khớp vào ngày trung thu. Điều này lại càng khiến tôi tin rằng, hai người Hoa ấy chính là Cao Kiệt và phu nhân của ông ta. Bởi vì sao...? Bởi vì không chỉ biết chính xác vị trí giấu của nằm ở Cự Môn. Ngay như bản thân tôi và trưởng làng, phải mất rất nhiều công sức chúng ta mới phán đoán được vị trí Cự Môn là nơi chôn cất đồ vật của Cao Côn. Không thể nào một người không biết chút gì lại đến ngay khu đất ấy đào bới, tìm của cải cả. Trừ khi, người này phải có hiểu biết về một vài chi tiết có liên quan. Ngoài con cháu Cao gia, tôi không thể đoán được là ai khác. Nhưng chính vì không thông hiểu được toàn bộ lời giải nên họ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Ví dụ như tôi nhắc đến Cao Lãm, cha ruột của trưởng làng, chắc chắn ông ấy biết về bí mật bên trong viên hồng ngọc, nhưng không phải dành cho ông ta nên ông ta giữ sợi dây chuyền như một bảo bối gia truyền, dù chết cũng phải để lại cho con cháu đời sau. Vì Cao Côn giao sợi dây chuyền cho Cao Lãm là có nguyên nhân. Con thứ Cao Kiệt, dường như cũng nghe phong thanh được chuyện tín vật mà cha để lại, bằng một cách nào đó có thể Cao Kiệt cũng biết được văn tự bên trong viên hồng ngọc. Nhưng biết chưa đủ, Cao Kiệt chỉ biết Cao Côn để lại thứ gì đó ở Cự Môn, nếu là người của Cao gia, sở hữu tấm bản đồ kia thì không khó để họ hiểu về Thất Tinh Bắc Đẩu, biết về 7 vị trí liên kết địa mạch trong làng. Chi tiết họ đào bới vào ngày trung thu đã khẳng định điều này. Và như vậy, Cao Kiệt biết Cự Môn nằm ở đâu. Sau khi Cao Côn chết, Cao gia lâm nạn diệt thân. Cao Lãm, cha trưởng làng chết, Lâm Thư phu nhân may mắn đưa được trưởng làng ra khỏi cảnh thảm sát, nhưng bà cũng không qua khỏi. Việc Lâm Thư phu nhân cứu được trưởng làng, cộng với khi đào bới tại Bãi Hoang, tôi nhận ra Cao gia trước kia khi xây dựng thủ phủ ắt hẳn phải có những cơ quan bí mật. Nền móng của họ có thể sánh với những kỳ quan, công trình của vua chúa thời bấy giờ, thậm chí là tinh vi hơn bởi Cao Côn xuất thân gốc gác Trung Quốc. Lại còn là một bậc kỳ tài về phong thủy, trấn yểm....Việc nơi ở của ông ta có cơ quan là điều không mấy ngạc nhiên. Và nhờ cơ quan, đường hầm, Lâm Thư phu nhân cũng như vợ chồng Cao Kiệt đã thoát được ra khỏi khu vực Bãi Hoang. Chỉ có điều, Lâm Thư phu nhân, mẹ của trưởng làng lại không thể qua khỏi do đã bị thương nặng trước đó. Ôm theo bí mật truyền đời, vợ chồng Cao Kiệt hẳn đã phải sống khổ sở, và khi không còn cách nào, họ nhớ tới văn tự của cha, họ quay lại đây đào bới với mong muốn tìm được của cải, khôi phục lại sự hưng vượng của Cao gia. Tuy nhiên, đồ vật chôn ở đó, không phải dành cho Cao Kiệt, cũng không dành cho Cao Lãm, hay bác trưởng làng....Mà là dành cho Vương, người đã được Cao Côn lựa chọn, ngoài Vương, bất cứ ai xâm phạm, đều phải chết.

Ông Vọng ấp úng:

- - Cũng chính vì tin rằng hai người hoa đó là vợ chồng Cao Kiệt nên tôi mới sợ rằng, dù có mang huyết thống Cao gia, thằng Vương cũng chịu chung nghịch cảnh ấy.

Thầy Lương mỉm cười:

- - Tôi hiểu, nhưng những người đã chết và cậu nhà không giống nhau. Thứ nhất, 4 người kia không ai luận hết được văn tự bên trong viên hồng ngọc. Thứ 2, họ không phải người được lựa chọn. Còn cậu nhà lại có cả 2 thứ trên, thêm vào đó còn có tôi ở đây nữa. Tôi đã hiểu hết ngụ ý trong văn tự của Cao Côn. Hơn nữa, không phải cứ muốn đào là đào, muốn lấy là lấy. Trưởng làng nghi ngờ là có nguyên do, nhưng hãy tạm gác những suy nghĩ đó lại. Hãy cứ chờ đợi cậu nhà quay về đã. Ha ha ha, tôi cũng đang rất háo hức, mong chờ xem xem, liệu con trai của trưởng làng sẽ là người như thế nào đây. Đến lúc đó tôi mới đưa ra quyết định của mình.

Bên ngoài sân, ánh nắng mặt trời đã bắt đầu chiếu sáng cả một khoảng vườn. Vậy là lại thêm một đêm, thầy Lương thức trắng không hề chợp mắt. Nhưng lần này thầy Lương không thấy mệt, giải mã được bí ẩn được Cao Côn giấu trong viên đá hồng ngọc đối với thầy Lương mà nói đã là một thành công lớn. Nhắc tới Cao Côn, thầy Lương bồi hồi nhớ đến sư phụ của mình. Thầy Lương vẫn nhớ như in lần nói chuyện lúc thầy Lương đã trưởng thành.

[......]

- - Sư phụ, người thật là phi thường, con thấy không có thứ gì trên đời này mà người không biết cả. Chẳng hay đến khi nào con mới có thể học hết những hiểu biết của người được đây.

Vị đạo sĩ mỉm cười hiền từ, ông khẽ nói:

- - Thế giới này rộng lớn lắm, ngoài ta ra vẫn còn rất nhiều bậc kỳ nhân, hiền sỹ. Trời đất mênh mông, không ai trên đời này có thể khẳng định mình biết tất cả. Con còn trẻ, tương lai của con còn ở phía trước, khi con rời khỏi nơi này, đi đến những vùng đất khác, gặp gỡ muôn vàn những người khác.....Con sẽ hiểu lời ta nói, khi ấy có lẽ am hiểu của con đã vượt qua ta, và con nhận ra rằng, sự hiểu biết của ta hay con cũng giống như một hạt cát giữa hoang mạc bao la mà thôi. Con là người có thiên phú, chỉ cần tu luyện tốt, chăm chỉ, không bị cám dỗ bởi dục vọng là ta yên tâm rồi.

Khi ấy thầy Lương vâng dạ, chắp tay cúi đầu cảm ơn sư phụ. Đối với thầy Lương, vị đạo sĩ ấy vừa chính là ân nhân, cũng chính là người thân mà thầy Lương coi như cha, như mẹ. Nhờ có sư phụ cưu mang, cứu giúp, đưa về nuôi nấng khi thầy Lương còn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, phải lang thang, vật vờ ngồi bên đường, bên cầu xin ăn qua ngày. Rồi cũng chính vị sư phụ ấy truyền dạy cho thầy Lương những kiến thức về y dược, rồi cả những hiểu biết về phong thủy, về thần cơ, diệu toán.......Chỉ tiếc rằng, thầy Lương đã phụ lại sự mong mỏi, kỳ vọng của sư phụ. Thầy đã không vượt qua được cám dỗ để rồi bỏ ngoài tai lời cảnh báo của sư phụ, dẫn đến tình cảnh đau thương, hại mình, hại người......Nhận ra sự nguy hiểm của thầy Mo người Việt cũng là lúc thầy Lương mất tất cả. Những lời mà sư phụ ông nói năm xưa là hoàn toàn đúng. Trên đời này, còn có rất nhiều những thứ vượt quá tầm hiểu biết của ông.

Bước ra ngoài hiên, nhìn lên bầu trời hảnh nắng sớm, thầy Lương khẽ nói thầm trong miệng:

- - Sư phụ, cảm ơn người vì tất cả......Có thể đồ nhi không được như sự mong mỏi kỳ vọng của sư phụ. Nhưng đồ nhi hứa, nếu có thể cứu được 1 mạng sống, cho dù phải hi sinh bản thân mình, đồ nhi cũng sẽ chấp nhận. Chỉ mong sao, sau khi được giải thoát, nếu có gặp được người nơi suối vàng, người sẽ lại chấp nhận đồ nhi như lúc thầy trò ta gặp nhau lần đầu.

Khóe mắt thầy Lương khẽ rưng rưng, cả cuộc đời lang bạt, hành thiện giúp người. Nhưng nỗi khổ sâu thẳm trong tâm can của ông lại không có ai có thể giúp ông gỡ bỏ. Bao năm qua, chưa lúc nào thầy Lương thôi khắc khoải về chuyện mà mình đã làm, cho dù đó có là sự hãm hại của lão Mo ác hiểm, nhưng sự thật vẫn hiển hiện, chính tay thầy Lương đã giết vợ con mình, bàn tay nhuốm máu cầm trái tim con gái nhai sống trong ánh mắt điên dại ấy vẫn ám ảnh người đàn ông khốn khổ này mỗi khi ông nhắm mắt lại.

Thật đau đớn thay.......
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom