Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 120: Hồi 9: tầng thừa áp


Hải ngọng cuống cả lên, lo không biết có phải Tư Mã Khôi đang nói nhảm? Ngọn núi lửa này rõ ràng trông như cái ống khói, có hình có chất hẳn hoi, đứng sừng sững trong tòa thành cổ dưới lòng đất, sao vô duyên vô cớ lại nói nó không phải núi lửa? Tư Mã Khôi phát hiện thấy tình hình không hẳn như vậy.



Nếu chỉ nhìn hình thù thì ngọn núi cao lừng lững tựa ống khói kia, đúng là từ ngoài vào trong đều giống hệt núi lửa, nhưng bên trong lại không có vật chất trầm tích chứa lưu huỳnh, chẳng lẽ núi lửa này đã tắt từ hàng trăm triệu năm trước, nên vật trầm tích đó đã sớm phân giải và biến mất? Nhưng chấn động và âm hưởng kì lạ vẫn âm ỉ truyền đến từ phía dưới chân họ, chứng tỏ rõ ràng nơi sâu trong mạch núi vẫn ẩn chứa một nguồn năng lượng khổng lồ đang sôi sục không ngừng, vì không khí không có mùi lưu huỳnh, cho nên nguồn năng lượng phía dưới chắc chắn không phải dòng dung nham.



Sau khi xác di vật kỷ Devon bị hòa tan hoàn toàn, axít đậm đặc vẫn tiếp tục thẩm thấu xuống tầng đáy động huyệt. Căn cứ vào các hiện tượng xung quanh, có thể phán đoán: núi lửa bấy lâu nay chìm trong giấc ngủ đang sắp sửa phun trào, còn vì sao núi lửa này không phải núi lửa, rốt cuộc nó sẽ phun ra thứ đáng sợ gì, thì Tư Mã Khôi hoàn toàn không thể đoán được.



Trình độ lý giải cấu tạo địa chất của Thắng Hương Lân vượt xa hai người bạn đồng hành, cô biết, huyệt núi lửa không có dung nham nóng chảy, được gọi là núi lửa bùn, thường gọi là “nồi áp suất”, nó chính là sự tồn tai nguy hiểm nhất trong động huyệt dưới lòng đất, một khi đã phát nổ hoặc phóng thích năng lượng, thì hậu quả thật khôn lường.



Ban đầu, đoàn chuyên gia Liên Xô phụ trách khoan đào kính viễn vọng Lopnor cũng rất khiếp đảm “cái nồi áp suất” dưới lòng đất này, nhưng họ cũng bó tay hết cách, đành cầu nguyện cho nó tiếp tục chìm trong giấc ngủ dài, vĩnh viễn đừng thức dậy. Vì áp lực và nước ngầm xuất hiện trong không động dưới cực vực phần lớn đều tập trung và truyền dẫn xuống tầng sâu, rồi bị gia tăng áp lực và nhiệt độ ở các khe nứt của lóp vỏ và quyển manti, nên dường như mỗi giọt nước đều thẩm thấu xuống khoảng cách sâu hàng ngàn mét, thêm vào đó lại chịu sự dồn nén của trọng lực, nung luyện hàng trăm năm trong lò lửa mạnh, mới chuyển hóa thành vật chất thể khí tuần hoàn bay lên và trở thành khối mây quân tụ lưng chừng không gian của cực vực.



Quá trình này diễn ra sục sôi kịch liệt, quỷ khốc thần sầu, uy lực và sức phá hoại do nó sản sinh thật khó gì sánh nổi. Ngọn núi trong thành cổ chính là “nồi áp suất” hình thành từ hàng triệu năm trước, những nơi tương tự thế này có lẽ tồn tại rất nhiều ở nơi sâu dưới cực vực.



Hiện giờ, kết cấu địa tầng lại bị phá vỡ, chấn động dưới chân mỗi lúc càng dữ dội, rõ ràng dòng nhiệt trong mạch đất bắt đầu giãn nở. Do cánh cửa đá khổng lồ phá hủy vách núi, nên tòa cổ thành phía ngoài ngọn núi chỉ trong nháy mắt nữa thôi sẽ bị bùn đá chôn vùi. Nếu đội khảo cổ không mọc thêm đôi cánh, thì chắc chắn chỉ còn nước chết.




Ba người đứng trong đường hầm trước cánh cửa đá khổng lồ, soi đèn quặng khắp bốn phía, định tìm một nơi ẩn náu tạm thời, nhưng động huyệt trong lòng núi bị vây kín chẳng khác nào cái thùng tôn, trèo lên miệng núi ở trên cao cũng chỉ có con đường chết. Lúc này, đáy động huyệt bỗng nhiên nứt vỡ sụt lở, dòng bùn đất vô cùng vô tận bắt đầu phun trào từ dưới lên, phần xác còn sót lại của di vật kỷ Devon và cả thứ vật chất mịt mù bên trong cơ thể nó, đều biến thành một hốc xoáy như động huyệt không đáy đen ngòm, rồi bị dòng bùn đất phun trào nhấn chìm ngay sau đó.



Trong lòng núi lửa, ngoại trừ lượng lớn thực vật dạng nấm ra, còn có rất nhiều loại vi sinh vật nhỏ bé đến nỗi không thể phát hiện bằng mắt thường. Chúng có thể chịu đựng nhiệt độ cao, địa nhiệt và axít cực mạnh, thậm chí ngay cả khi nhiệt độ lên cao đến 100°C, chúng vẫn có thể tồn tại như thường.



Môi trường tàn khốc ở đây rất giống với điều kiện môi trường khi các sinh mệnh bắt đầu ra đời cách đây 3 tỉ 700 triệu năm; ngoài ra, những vi sinh vật này còn biến đổi theo dòng địa nhiệt, thể hiện các màu sắc khác nhau như vàng, cam, đỏ, nâu v.v… rực rỡ chói lòa như luồng cực quang, khiến cả không gian tối om trong lòng núi lửa bỗng chốc bừng sáng như ban ngày.



Hội Tư Mã Khôi nhân cơ hội này nhìn rõ mọi cảnh vật xung quanh, một cảm giác hãi hùng xâm chiếm khó nói thành lời. Cái tủ thịt kia đúng là vô cùng đáng sợ, dẫu thể xác đã chết hẳn, nhưng thứ vật chất mịt mù trong cơ thể nó vẫn có thể nuốt chửng không gian. Vậy mà, chỉ trong chớp mắt, nó đã bị dòng bùn đất ngấu nghiến nhấn chìm, không thể xác định nó sẽ bị đưa đến nơi nào, từ nay về sau dưới lòng đất lại có thêm một không gian đầy rẫy những “vô”, trong dòng chảy cuồn cuộn không bao giờ cạn kiệt của bùn đất nằm sâu dưới quyển manti.



Sự tồn tại của nó hoàn toàn bị hỗn độn bỏ qua, có thể cuối cùng nó sẽ lưu lạc rồi trở thành vong hồn vĩnh viễn nằm co ro giữa dòng dung nham. Ba người vẫn chưa kịp hồi phục sau nỗi kinh hoàng, thì dòng bùn đá đục ngầu cuồn cuộn chảy đã ào ào xô đến. Tư Mã Khôi bị bức đến bước đường cùng, nhìn quanh thấy gần đó có chín cái đỉnh đồng Vũ Vương, lòng sâu, chân cao, lại được luyện bằng vẫn thạch sắt, có thể chịu được sự thiêu đốt của nhiệt độ cao.



Anh không còn tính toán gì nữa, mà gọi Hải ngọng và Thắng Hương Lân cùng tung người nhảy vào lòng đỉnh đồng, vẫn chưa kịp đứng vững, thì dòng bùn đất nóng bỏng đã chảy đến gần với sức mạnh như đổ sông dốc bể, đẩy mạnh mấy cái đỉnh bằng đồng xanh lao về phía trước, chỉ nghe bên tai vang lên “rầm” một tiếng dữ dội, cánh cửa đá khổng lồ liền bật mở.



Mọi người nghiêng ngả chao đảo trong lòng đỉnh, người nào cũng ngã dúi dụi, lục phủ ngũ tạng đảo lộn hết, thần trí u u mê mê, nhưng vẫn cố gắng bám chặt lấy tai đỉnh, chỉ sợ mình bị hất văng ra ngoài. Khoảng hai phút trôi qua, cùng với tiếng thét gào ầm ĩ, mọi người lại nghe thấy có tiếng nổ kinh thiên động địa, sau đó hai tai ù đặc, không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa.



Thì ra lượng lớn bùn đất phun trào lúc đầu, chỉ là vật chất trầm tích ở tầng đáy núi lửa, nhiệt độ vẫn chưa cao lắm, còn tiếng nổ vang lên sau đó là sự phun nổ của hơi nén trong “nồi áp suất”, ba người liều mạng thò đầu ra nghiêng ngó, thì thấy trên đỉnh núi lửa xuất hiện đám mây hình nấm, bụi tro trông trắng xóa, nó vọt cao đến hơn hai trăm mét, bên trong toàn là vầng quang dạng sương nóng bỏng.



Khuôn mặt mọi người bị ánh sáng quái dị phàn chiếu, trông sắc mặt ai cũng trắng toát như người chết, Lúc này luồng gió nóng thổi bỏng rát, cảnh vật ở tầm xa trở nên mờ mịt. Thắng Hương Lân biết rõ điểm lợi hại của nó, dòng nhiệt lưu có thể biến mọi sinh vật trong cõi đời này trở thành tro bụi, cô vội ra hiệu cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng không được nhìn vào đám mây hình nấm trên đỉnh núi, tránh cho võng mạc khỏi bị đốt cháy.



Ba người không dám nhìn nữa, tất cả cúi đầu, co người nằm tròn trong đỉnh đồng, mặc cho dòng bùn đá tuôn chảy sôi sục cuốn trôi bập bềnh. Lòng đất xảy ra sự vận động dãn nở quy mô lớn, lúc đám mây hình nấm tỏa quang sương xuất hiện, cũng là lúc rất nhiều mạch nước ngầm đang sôi sục dưới lòng đất bị cuốn lên cao, giống như dòng thác treo ngược, rồi nó từ không trung dội xuống xối xả vào người vào mặt.



Liên sau đó, một lượng bùn đất nhiều không kể xiết trộn lẫn vào nhau từ động huyệt phun trào ầm ầm ra ngoài. Lòng núi của “nồi áp suất” bắt đầu rạn vỡ, cả tòa thành cổ dưới lòng đất lập tức lún vào dòng chảy cuồn cuộn, rồi vô số tảng đá bị nhiệt độ cao làm tan chảy, trôi nổi nhào lộn men theo sườn núi.



Lớp vỏ phía trên cực vực chịu tác động của khí áp, cũng sụt lở từng tảng lớn, ầm ầm từ trên cao rơi xuống dưới, cảnh tượng vô cùng kinh hãi. Tư Mã Khôi trốn trong lòng đỉnh đồng, thầm nghĩ: may nhờ Thắng Hương Lân phát hiện ra sự vận động khác thường của “nồi áp suất”, nếu mọi người cứ thế liều mạng trốn ra ngoài thành cổ, thì lúc này đã bị dòng bùn đất chôn sống thành tượng người tuẫn táng rồi.



Thế nhưng cái đỉnh đồng này cũng có thể bị nhấn chìm lộn xuống bất cứ lúc nào trong dòng bùn đất bỏng giãy, mà lại càng không biết nó sẽ đưa đẩy mình đến nơi nào, có điều việc đã đến cơ sự này, thì cũng đành nhắm mắt nghe theo sự định đoạt của số phận. Đúng lúc tinh thần mọi người đang hốt hoảng bất định, thì cái đỉnh đồng đột nhiên đâm rầm một cái vào đâu đó, ba người đặt hết kì vọng vào chiếc đỉnh, lấy nó làm chỗ dung thân, nên vội đeo kính chắn gió thò người ra quan sát, chỉ thấy trong dòng nước bùn cuồn cuộn sôi sục, thò ra một cánh tay rất lớn, dường như là cánh tay của bức tượng đồng đang nắm chặt con rắn dựng ở cánh cửa đá lúc trước, có lẽ nó cũng bị dòng bùn đất cuốn trôi đến đây, rồi đâm vào đỉnh đồng khiến thân đỉnh rạn ra vài đường khá lớn.




Ba người chết lặng, nói như lời của Hải ngọng thì lúc này đúng là muốn khóc mà không tìm đâu ra điệu kèn đám ma. Cũng đúng khi ấy, một khối đá khổng lồ đen sì sì bỗng đâu hiện ra ngay trước mặt, đỉnh đồng bị dòng nước bùn nóng bỏng sôi sục đẩy về gần nó, rồi thân đỉnh từ từ chìm xuống.



Tư Mã Khôi nhanh chân trèo vội lên tảng đá, rồi đưa tay xuống kéo hai người còn lại. Nhiệt độ của đá mắc ma tăng vùn vụt, tuy ba người đã đeo găng tay nhưng vẫn cảm thấy nóng bỏng không chịu nổi, hơi thở hổn hển, ngắt quãng, dòng nhiệt lưu sôi sục buộc họ phải không ngừng trèo lên chỗ cao hơn, vừa trèo vừa run; khối đá này cao không thể lường, có bảo nó là trái núi thì cũng không ngoa.



Khi đội khảo cổ đến bồn địa Turpan lúc trước, nó đâu tồn tại ở đây, bây giờ tựa hồ như vừa mới đột nhiên mọc ra vậy. Thắng Hương Lân thấy mặt đá màu đen này lỗ chỗ đầy lỗ khí, thì biết nó là đá Peridotit huyền vũ, một loại đá mắc ma hạt thô, gồm chủ yếu là các khoáng vật Olivin và Pyroxen.



Trong cực vực không có loại đá này, cô đoán nó vừa bị rơi xuống khi lớp vỏ Trái đất sụp vỡ, kết cấu đá huyền vũ rất tinh tế, nhưng lại xốp giòn, dễ bị nứt vỡ sụt lún, bởi vậy không thể lưu lại đây lâu. Ba người không màng đến cảm giác đau đớn do bị bỏng lửa, vẫn cắn răng bò lên tảng đá dốc nghiêng ba bốn mươi độ, điểm tận cùng của khối đá cao khoảng mấy trăm mét là một dải nứt gãy của phần đáy lớp vỏ Trái đất, có vô số vết nhăn gấp nếp như hàng ngàn tầng bánh; sự vận động giãn nở ở nơi sâu trong lòng đất khiến không động dưới cực vực được nâng đội lên cao với biên độ rất lớn.



Những mảng đá nứt gãy phía sau lưng không ngừng sụt xuống, khiến mọi người không dám dừng chân phút nào, tiếp tục bò về phía trước theo mạch đất nứt gãy. Cả ba vừa đi vừa ngã dúi dụi, gắng di chuyển đến lòng chảo mặt đất tương đối bằng phẳng, rồi cuối cùng họ cũng không còn cảm nhận thấy dòng nhiệt lưu truyền lên từ dưới vực sâu nữa.



Ba người nằm vật ra đất, tứ chi bải hoải, không chỗ nào là không đau nhức. Tinh thần và thể lực đều vượt quá sự chịu đựng, sức cùng lực kiệt, họ không thốt được lời nào; mặc kệ những vết thương la liệt khắp người, họ nằm thở hổn hển, đầu óc trống rỗng.



Tư Mã Khôi nằm sõng soài hồi lâu, cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung, nhưng ý thức hỗn loạn cũng dần dần tập trung và sáng tỏ, anh nghe âm thanh chấn động của những mảng đá đang tiếp tục sụt lún vẫn ầm ĩ bên tai, trước khi bò hẳn ra khỏi vực sâu như địa ngục này, thì chưa thể nói đến hai chữ “an toàn” được.



Thắng Hương Lân cũng cho rằng, mọi người vẫn còn ở trong tầng đáy của lớp vỏ, không chừng sẽ còn xảy ra biến cố gì cũng nên, cô liền giúp Tư Mã Khôi và Hải ngọng xử lý qua loa các vết thương, rồi định đứng dậy đi tiếp. Nhưng Hải ngọng lại nằm vật ra đất, nhắm chặt mắt, không muốn động đậy gì nữa, anh nghĩ đến hội đội trưởng Lưu Giang Hà vĩnh viễn không thể ra khỏi nơi này, lòng vô cùng buồn bã, mọi suy nghĩ đều nguội lạnh đến tận cùng, anh dứt khoát nói với hai người còn lại: “Các cậu cứ “bòm” tớ một phát cho xong, Hải ngọng tớ không thể chịu đựng sự giày vò của tội lỗi này thêm nữa đâu, huống hồ ba người còn sót lại trong đội khảo cổ chúng ta có sống trở về cũng còn mặt mũi nào mà gặp gỡ mọi người; nếu lại phải vào xưởng gạch ngói viết báo cáo, chui xuống hầm lò… hay nuôi lợn trên tàu hỏa thay cho đồng bào Hồng Kông, chi bằng chết quách ở đây cho xong, may ra còn bon chen được tí đãi ngộ liệt sĩ cách mạng…” Thắng Hương Lân chẳng ngờ vào lúc thời khắc sinh tử thế này, Hải ngọng tự dưng lại nảy nòi ra suy nghĩ đó, cô đâu thể mặc kệ anh, liền khuyên nhủ mấy câu, nhưng đối phương có vẻ không buồn nghe.



Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà đã lên cơn dở hơi thì nói lý lẽ kiểu gì cũng chỉ vô dụng, liền bảo: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu nằm đó giả chết làm cái mẹ gì, nếu bận này mà may mắn sống sót trở về được, thì ông Khôi sẽ đãi các cậu mấy món ngon trong nhà hàng tử tế”.



Hải ngọng nghe xong, không nhịn được liền mở to mắt hỏi: “Món gì… trong nhà hàng hả?” Tư Mã Khôi nói: “Mấy năm trước, chúng ta chiến đấu ở vùng núi Miến Điện, lúc về lại phải chui vào trại gạch ngói cải tạo tư tưởng, sau đó thì theo chân đội khảo cổ hành quân đến sa mạc Lopnor, nên không biết bao lâu rồi tớ và cậu chưa được ăn một bữa cho ra hồn.



Nếu bây giờ mà cậu toi mạng ở đây thì lỗ quá, tớ thấy sau khi bọn mình thoát ra khỏi chỗ này, kiểu gì cũng phải đến miếu Ngũ Tạng thắp hương một cái, rồi sau đó sẽ vào quán, vào đó đừng có gọi mấy món rau dưa lằng nhằng làm chó gì, cứ bảo bọn phục vụ mang hơn chục cân thịt bò hảo hạng lên đây cho các ông đánh chén, có bao nhiêu rượu thì mang cả ra…” Hải ngọng nói chen vào: “Cậu quên đi! Quán ăn bây giờ quanh năm suốt tháng cũng chỉ phục vụ có mấy món thôi, còn định gọi những món cao lương mỹ vị gì nữa hả? Vả lại, cậu mà ăn nói kiểu đấy với bọn phục vụ, thì bọn nó có mà vả cho cậu rơi răng.



Đầu tiên, cậu phải dạo trước câu ‘đổi đời không quên Đảng Cộng Sản, ăn thịt cảm tạ Mao Trạch Đông’, sau đó mới được đề cập đến chuyện ăn uống, riêng việc này tớ sành sỏi hơn cậu nhiều”. Tuy nói thì nói vậy, nhưng con người khi bị rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng, thì thứ họ cần nhất chính là niềm hi vọng, dẫu cho đó là cảm giác đói khát để níu kéo bản năng sinh tồn.



Vậy nên đối với Hải ngọng mà nói, hi vọng thực tế duy nhất chính là được vào quán ăn đánh chén một bữa thả cửa, thế là tinh thần anh chàng hăng hái hẳn lên, ngồi bật dậy, cùng hội Tư Mã Khôi tiếp tục đi vào nơi sâu trong dải đứt gãy địa tầng. Các số liệu thám trắc mà đoàn chuyên gia Liên Xô để lại thể hiện rõ, thành phần chủ yếu của kết cấu lớp vỏ bên dưới sa mạc Lopnor, là đá mắc ma huyền vũ, độ dày trung bình của nó chừng 8000 mét, lòng chảo mặt đất và các dải đứt gãy đoạn tầng giữa các mảng đá đan xen giao thoa lẫn nhau, nó còn phức tạp hơn cả kết cấu huyết quản của cơ thể con người.




Trong môi trường hoàn toàn khép kín, nó từng bước hợp lại, rồi lại phân tách, tiến hóa trải qua quá trình suốt ba tỷ năm, dần dần hình thành diện mạo như ngày nay. Vì lòng đất xảy ra sự vận động giãn nở, nâng cao với quy mô lớn, nên mạch kết cấu của nó mới bị lộ ra ngoài. Hội Tư Mã Khôi đều có kinh nghiệm thám hiểm hang động, di chuyển từ nơi sâu lên mặt đất dễ hơn khi xuống rất nhiều, bởi vì không phải tìm mục tiêu cụ thể, chỉ cần không xác định nhầm phương vị là ổn; thêm vào đó, chỉ cần phải tránh các khu vực sụt lở, men theo các dấu vết bị nước bào mòn trong các khe đá nứt, như vậy chắc chắn sẽ không bị lạc đường.



Ba người cẩn thận phân biệt kết cấu địa tầng ở gần đó, rồi mò mẫm tìm đường, đi dần lên trên. Cứ như vậy liên tiếp mười mấy ngày, lương thực và nước uống đã hết từ lâu, cả hội chỉ biết bắt mấy con rắn trắng trong khe đá nướng ăn, mọi gian nan vất vả không cần kể chi tiết, cuối cùng họ cũng bò lên được mặt đất từ khe nứt trong lòng chảo một con sông khô cạn.



Lúc đó, trời đã tối mịt, trước mắt chỉ thấy đại dương cát mênh mông và bầu không khí ngập tràn sự hoang lương, lặng ngắt, không khác tình hình ở dưới cực vực trong lòng đất là mấy. Chẳng bao lâu, sắc trời bắt đầu chuyển dần sang màu trắng như bụng cá, gió cuốn cát bay thành luồng, cả không gian nhuốm màu vàng kim, xung quanh nhấp nhô vô số gò đất và tháp đá, chúng đứng sừng sững và tản mát giữa trời xanh, cát vàng.



Người Tây Vực cổ lập nước trong suốt quãng thời gian ba mươi sáu năm, có cả thảy bảy mươi hai tòa thành trì lớn nhỏ, hầu hết đều bị cát vàng chôn vùi, bây giờ chỉ lác đác một vài cổ quốc được phát hiện và khảo chứng lai lịch, bởi vậy đội khảo cổ không biết miền sa mạc thần bí và quái dị mà họ đang đứng rốt cuộc là nơi nào.



Mặt mày cả ba người đen nhọ nhem, thân mình lâm lem khói lửa, bùn đất, vết máu, hai mắt đỏ lòm như thế sắp bốc khói; ở dưới lòng đất không ai chú ý đến điều này, giờ ra ngoài ánh sáng mặt trời nhìn mới thấy sao người nào trông cũng giống quỷ vậy? Chẳng ai nghĩ mình còn có thể sống sót đến ngày lại được trông thấy bầu trời, nên vô số cảm xúc bất giác đan xen lẫn nhau.



Thế nhưng chưa kịp nói câu gì, thì Hương Lân bỗng nhiên ngã vật ra giữa sa mạc, hai người đứng bên vội vàng đỡ cô dậy, họ thấy sắc mặt cô tái xanh, miệng thổ toàn máu đen. Tư Mã Khôi thấy lạnh cả người: “Suốt dọc đường liên tiếp xảy ra bao nhiêu biến cố hãi hùng, đúng là thập tử nhất sinh, nên tự dưng quên bẵng mất chuyện “hội chứng địa áp”.



Bây giờ thì kẻ đoạt mạng đã gõ cửa tìm đến nơi rồi”. Các thành viên đội khảo cổ tiến vào sa mac Lopnor trên cơ thể người nào cũng nổi mạch máu xanh lè vì chịu ảnh hưởng của địa áp, nếu trong tình trạng chưa được giảm áp mà quay trở về mặt đất, thì huyết quản sẽ bị nổ vỡ đẫn đến tử vong, nhưng vì sao trong ba thành viên sống sót đào thoát khỏi lòng đất, chỉ mình Thắng Hương Lân xảy ra chuyện? Thực ra, kết cấu địa chất của đá huyền vũ nằm sâu dưới lớp vỏ Trái đất thuộc tầng thừa áp, nói cách khác, nó là một khoang giảm áp tự nhiên, điều này có liên quan đến các lỗ khí phân bố chi chít trên bề mặt đá.



Thời xưa, tộc người thờ rắn Tochari đã lợi dụng mạch khoáng đá huyền vũ để rời khỏi vực sâu, nhưng đương nhiên những ẩn tình này các thành viên đội khảo cổ hoàn toàn không hề hay biết. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân nôn ra ngụm máu đen, cô tựa hồ bị trúng độc do không chịu được sức nóng dưới lòng đất, khí độc tích tụ ở phổi, chỉ cần nôn được ra là không có gì đáng ngại.



Thế nhưng trong sa mạc không có thuốc men và điều kiện tĩnh để chăm sóc, thì chưa chắc cô đã bảo toàn được tính mạng. Tư Mã Khôi không dám chậm trễ, liền tháo tung khẩu súng xung phong PPS ra, ngay cả đạn dược cũng vùi trong cát, chỉ giữ lại la bàn để xác định phương hướng. Anh và Hải ngọng thay nhau cõng Hương Lân đi bộ trong biển cát.



Đi khoảng ba đến năm dặm, thì họ thấy bão cát bắt đầu nổi lên phía sau lưng, rồi dấu chân và ký hiệu dọc đường sắp bị dòng cát khỏa lấp. Hải ngọng hoang mang hỏi Tư Mã Khôi: “Đi đến bao lâu nữa mới đến trạm tiếp theo hả cậu?”. Tư Mã Khôi cúi đầu nhìn la bàn, trong điều kiện khắc nghiệt và gió cát vần vũ thế này, anh cũng không dám chắc kim la bàn còn tiếp tục chỉ hướng bắc nữa hay không.



Nếu như ba thành viên sống sót của đội khảo cổ không thể thoát ra khỏi đây, thì họ cũng sẽ trở thành ba bộ xác khô vùi trong sa mạc; mà dẫu có thoát ra được, thì họ vẫn không thể rũ bỏ vòng tuần hoàn chết của số mệnh, bởi vì muốn giải phá vòng tròn khép kín đó, thì phải đi tìm quái nhân khắc trong bức bích họa dưới lòng đất, kẻ… mọc đôi sừng thịt trên đầu.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 121: núi thần nông giá - hồi 1: chuyến tàu đường dài


Ba kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ đi bộ trong sa mạc ròng rã suốt một ngày đường, cuối cùng cũng gặp được đoàn văn công Ô Lan Mục Kì(1). Sau khi hỏi thăm, mới biết nơi này là rìa đông bắc sa mạc Kumtag, cách núi Bạch Sơn không còn bao xa.



Khu vực nằm giữa sa mạc và núi Bạch Sơn là vùng thảo nguyên hoang vu, vắng bóng người, phần lớn dân du mục trong đội sản xuất ở đồng cỏ gần đó đều là người Mông cổ. [1] Ô Lan Mục Kì: tiếng Mông cổ có nghĩa là “mầm non màu đỏ”, ý để chỉ đội công tác văn hóa mặc sắc phục màu đỏ.



Đó là đội văn công lưu động được thành lập năm 1957, hoạt động sôi nổi khắp khu vực thảo nguyên Mông cổ. Hải ngọng hơi ngỡ ngàng. Anh không ngờ vừa từ lòng đất chui lên, đã đến thảo nguyên bao la của Nội Mông. Quãng đường này ngoằn ngoèo nhấp nhô, hành trình đâu chỉ vài dặm, nếu không sao có thể gọi là Ô Lan Mục Kì? Tư Mã Khôi thì biết phía tây Tân Cương kéo dài đến tận bồn địa Tarim, phía đông kéo dài đến ven sa mạc Kumtag, chỗ nào có thảo nguyên, nơi ấy sẽ là vùng đất cư trú của dân tộc Mông cổ.



Năm đó, sau khi thoát khỏi ách thống trị của sa hoàng Nga, lực lượng Torghut từ Liên Xô cũ ở lưu vực sông Volga trở về Trung Quốc, hoàng đế Càn Long triều Thanh ban bố ngự chỉ, lệnh chia khu vực này thành bốn lộ: đông, tây, nam, bắc, tất thảy mười kì, dân du mục định cư ở bồn địa Yourdusi, núi Ưng Sa, núi Bạch Sơn v.



v… bởi vậy hầu hết dân du mục ở phía tây nam Tân Cương đều là người Mông cổ; còn đoàn ô Lan Mục Kì qua đường là đội văn công lưu động tuyên truyền ở giữa những khu vực này. Bây giờ gặp được họ, coi như đội khảo cổ đã lượm được cái mạng từ tay thần chết. Tư Mã Khôi không dám nói rằng ba người họ là đội khảo cổ vừa mới rời khỏi kính viễn vọng Lopnor, mà chỉ nói là phân đội trắc họa, được cử đến sa mạc để chấp hành nhiệm vụ thám trắc.



Thẻ công tác mà Thắng Hương Lân mang theo trên người, tạm thời giúp cả hội chứng minh được mình đúng là nhân viên đội trắc họa. Họ nói dối rằng, sau khi máy điện đàm bị hỏng, cả đội lại gặp bão cát nên lạc đường, mọi người đã đi bộ trong sa mạc suốt mười mấy ngày trời.




Đoàn văn công Ô Lan Mục Kì thấy Tư Mã Khôi có vẻ nói thật lòng, lại trông thấy một thành viên bị thương cần cấp cứu gấp, nên mọi người không ai hoài nghi gì cả, lập tức dắt ngựa đến rồi dẫn ba người vào nông trường cỏ gần đó, nhờ dân du mục bản địa chăm sóc. Trong vòng mấy chục dặm vuông quanh đây, chỉ có hai túp lều của người Mông cổ.



Người dân Mông cổ từ xưa đã nổi tiếng thuần hậu, biết hội Tư Mã Khôi là phân đội trắc họa gặp nạn, họ liền nhiệt tình giúp đỡ. Tư Mã Khôi thấy tình hình sức khỏe của Thắng Hương Lân dần diễn biến theo chiều hướng ổn định, anh liền mượn dân du mục bộ trang phục chỉnh tề, thay quần áo xong liền vào huyện thành cách đó chừng trăm dặm, đánh một bức điện báo cho lão Lưu Hoại Thủy ở tận Bắc Kinh, bảo lão mau chóng đến Tân Cương tiếp ứng, đồng thời dặn dò lão tuyệt đối không được huênh hoang chuyện này với bất kì ai, sau này hội anh nhất định không quên ơn lão.



Bố của Thắng Hương Lân, là giáo sư Thắng Thiên Viễn, từng là ân nhân cứu mạng của lão Lưu Hoại Thủy, nên sau khi nhận được tin, lão vội vã thu xếp chạy đến tiếp ứng, rồi chuẩn bị đưa cả hội đến gần địa phận Cam Túc, đáp chuyến xe lửa đường dài trở về Bắc Kinh. Tư Mã Khôi muốn mang chiếc đồng hồ vàng của Pháp, mà cả hội tìm thấy trước cửa Hắc Môn ở Lâu Lan, tặng cho những người dân du mục Mông cổ để thể hiện lòng cảm ơn, nào ngờ họ một mực chối từ, anh đành lặng lẽ đặt vào trong tay nải của họ lúc sắp rời đi.



Thời kì ở khu Hắc Ốc, ăn cơm đường sắt trường kì, Tư Mã Khôi vô cùng thông thuộc chế độ của bộ phận đường sắt, ngẫm thấy vết thương trên mình mọi người vẫn chưa lành hẳn, chắc không chịu được nỗi khổ rung lắc suốt chặng đường dài, mà nếu còn phải ngồi ghế cứng hay phải đứng nữa, thì chuyến tàu về này chắc nuốt không trôi.



Thế là anh lấy thư giới thiệu và thẻ công tác của giáo sư Tống Tuyển Nông ra, sửa trộm tí chút, rồi mang ra nhà ga mua liền bốn tấm vé nằm giường mềm. Lão Lưu Hoại Thủy trố mắt ngạc nhiên, phải biết toa giường nằm đâu phải chỉ cần giơ đầu ra là tùy tiện ngồi được, người thường dẫu có tiền cũng không mua nổi ấy chứ, theo quy định chỉ có cán bộ cấp cao từ bậc 13 trở lên mới đủ tư cách đi toa giường mềm, mà giá vé cũng cao gấp đôi so với toa giường cứng.



Trước đây, lão Lưu Hoại Thủy thường đáp tàu hỏa đi lại đây đó, nhưng chưa bao giờ biết toa giường mềm trông ra sao, bây giờ được vào, thấy đúng là khác xa một trờỉ một vực, ngay cả rèm cửa sổ cũng thêu hoa tinh tế, tấm thảm trắng tinh, không bám một hạt bụi, suất ăn riêng biệt cũng ngon hơn rất nhiều cảm giác đúng là mở rộng tầm mắt.



Lão Lưu Hoại Thủy vốn đầy bụng chuyện muốn hỏi, ngặt nỗi lúc ở khu du mục lại không dám mở miệng, nên khi cánh cửa toa tàu vừa mới khép, lão đã lân la tìm cơ hội. Nhân lúc Hải ngọng chạy sang toa ăn, lão đột nhiên giơ ngón tay cái lên nịnh Tư Mã Khôi: “Quả không hổ danh là Bát Lão Gia, nếu là người khác thì chưa chắc đã trở về nổi”.



Lão dạo đầu bằng một màn nịnh hót, nói: “Cái món “bọ cạp đảo đầu leo tường’ thời xưa còn gọi là ‘Bích Long công’. Khi Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dần còn tại vị, trong thành Biện Lương(2) có vị quan quân lừng danh, hành tung xuất quỷ nhập thần, võ công cao cường. Ông ta đặc biệt rất giỏi các món khinh công như phi đảm tẩu bích(3), chân đeo ủng da, bất kể tường cao hào sâu thế nào, cũng chao người vượt qua, nhẹ nhàng như én lượn.



[2] Biện Lương: là tên gọi cũ của thành phố Khai Phong, thuộc tỉnh Hà Nam. [3] Phi đảm tẩu bích: có nghĩa là vượt rào trèo tường. Một đêm, khi Thái tổ đang quan sát khí tượng trong cung, bỗng nhiên ngài trông thấy vật gì tựa cánh chim liệng khẽ vào cung. Sang ngày hôm sau, chiếc gối khảm vàng của công chúa Đan Dương bỗng dưng không cánh mà bay.



Thái Tổ tra hỏi, mới biết trong đội quân của thành Biện Lương có một dị nhân, chui ngách vượt tường dễ dàng như trở bàn tay, còn có thể men theo trụ phật trong đại điện bò lên tận đỉnh mái nhà, lầu các có độ cao trăm thước chẳng khó khăn gì với hắn. Tất cả bảo vật trong nội phủ bị mất cắp, chắc chắn là do người này lấy trộm.



Khổ nỗi, từ trước đến giờ không tìm được chứng cớ xác thực nên không có cách gì trị tội tên đạo tặc. Hoàng đế Thái Tổ nghe tấu, cảm thấy kinh ngạc khôn xiết, liền truyền thánh chỉ, lệnh cho người này tuyệt đối không được lưu lại trong kinh thành, phải điều hắn xung quân đến vùng biên ải.



Nào ngờ, đội cấm quân chưa kịp đến vây bắt, thì không biết người đó đã sớm biến mất tăm mất dạng từ bao giờ”. Lão Lưu Hoại Thủy còn tung hô Tư Mã Khôi không chỉ học được chân truyền công phu “tháo ủng ngược Bích Long”, mà còn thông hiểu cổ thuật tướng vật, không những gốc gác tốt, mà đảm khí thao lược cũng phi phàm, khí dũng đều hơn người, xem tướng mạng lại thuộc mệnh thổ, có khi là chuyển thế đầu thai của Bạch ngũ gia Cẩm mao thử Bạch Ngọc Đường thời Bắc Tống cũng nên, sau này tiền đồ còn rộng mở, có thể an bang trị quốc nữa.




Tư Mã Khôi hiểu ra ý đồ của lão Lưu Hoại Thủy, liền chặn màn nịnh hót đang chảy thao thao bất tuyệt, anh đi thẳng vào tình hình thực tế, kể lại chuyện đội khảo cổ tiến vào sa mạc Lopnor lần này, chẳng ngờ vẫn còn giữ được mạng sống trở về, không những không chết mà còn phải xoay vần đến cùng với tổ chức Nấm mồ xanh.



Bởi vậy, ba thành viên sống sót buộc phải mai danh ấn tính, mọi hành động sau này đều phải tiến hành một cách bí mật, tuyệt đối không được hé lộ bất kì tin tức nào, nếu không sẽ không thể đảm bảo an toàn. Bởi vậy, phải coi như tất cả thành viên của đội khảo cổ đều đã chết mất xác dưới lòng đất.



Lão Lưu Hoại Thủy sớm thấy Tư Mã Khôi sẽ dự tính làm vậy, nên cũng không bất ngờ. Chỉ có điều đáng lo là hiện giờ Thắng Hương Lân đã mắc chứng trúng độc âm hàn nhiệt, máu tụ trong phổi khó tiêu tan sạch, thường xuyên thổ huyết, liên tục sốt cao không hạ nhiệt. Lão Lưu Hoại Thủy vẫn tưởng nhớ đến ân đức của giáo sư Thắng Thiên Viễn, dựa vào năng lực quan hệ xã hội hiện tại của lão, nếu muốn sắp xếp cho Thắng Hương Lân trốn vào đâu đó ở Bắc Kinh để trị bệnh thì không thành vấn đề.



Lão còn có thể mời một số bác sĩ thân quen đến nhà chữa trị cho cô, nhưng không biết hai người Tư Mã Khôi và Hải ngọng sau này dự tính thế nào? Đối với Tư Mã Khôi, mạng sống của anh vốn dĩ chỉ là may mắn giữ lại được, nên định chỉ cần lo liệu đâu vào đấy cho Thắng Hương Lân là trong lòng anh không còn điều gì vướng bận nữa.



Đội khảo cổ đã tìm thấy thác bản Sơn Hải Đồ dưới lòng đất, và cả cuốn sổ ghi cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ của chuyên gia tóc bạc. Tiếp sau đây đương nhiên là phải lần theo manh mối nàv để đi tìm con đường nối xuống tâm Trái đất. Có điều, làm bất kể việc gì cũng cần có sự nâng đỡ đầy đủ về mặt kinh phí.



Ban đầu, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nổi tiếng nhờ vụ bán áo da ngựa Xích Long, kiếm được bộn tiền, nhưng phần lớn số đó đã gửi về quê nhà Tuyệt cho ông nội Tô Lão Nghĩa của cô, phần còn lại thì vừa vặn đủ để mua mấy tấm vé tàu giường mềm. Lúc này, họ đúng là sạch bách không còn một xu, ngay cả nửa cắc cũng không, nên chẳng những không thể trả được món tiền mà anh hứa cho lão Lưu Hoại Thủy lúc gọi điện báo, mà bây giờ còn định mượn lão một món làm kinh phí hành động nữa kia.



Lão Lưu Hoại Thủy thoáng nghe đến chuyện vay tiền đã ra sức lắc đầu, vừa nói vừa nhăn nhó mặt mày: “Tôi làm sai dịch cho đội khảo cổ thì kiếm được bao nhiêu tiền chứ? Bát gia đừng thấy tôi thường ngày buôn bán tí chút trống bỏi mà nghĩ rằng tôi giàu, mấy năm nay toàn là nhập hàng, có bán ra được món nào đâu, tiền nằm hết vào hàng họ cả rồi.



Hơn nữa, cậu xem tôi đã từng này tuổi, không thể không ghém chút bạc lẻ trong người để dành mua quan tài được”. Tư Mã Khôi biết loại người như lão Lưu Hoại Thủy là loại giắt tiền vào tận xương sườn, lúc muốn lấy ra phải dùng kìm kéo mạnh, đòi tiền còn khó hơn đòi mạng lão.



Thế là anh ngọt nhạt: “Lưu sư phụ à! Bác làm gì mà sợ rúm lại thế! Bác cứ để tôi nói hết nhời cái đã, hai gia đình chúng ta giao tình bao nhiêu đời nay, tôi nỡ lòng nào lấy không tiền của bác được?” Hai con mắt lão đảo nhanh một vòng: “Chẳng lẽ trong tay Bát lão gia vẫn còn món hàng gia bảo nào ư?” Tư Mã Khôi nói: “Hàng họ thì chẳng có gì cả, dẫu tôi có muốn giở trò lôi ra đôi ba món hàng giả, cũng đâu qua nổi pháp nhãn của bác.



Có điều, chuyến đi Lopnor lần này, tôi cũng mang về vài bức thác bản, bác cứ xem qua đi! Xem nó trị giá mấy đồng bạc….” Có gì trên đời mà lão Lưu Hoại Thủy chưa từng xem qua. Lão nghĩ, mấy thể loại như thác bản hay bản mẫu thì có giá trị gì chứ, nên tỏ hết sức thờ ơ. Nhưng khi Tư Mã Khôi rút ra tập thác bản, vừa nhìn vào, hai con ngươi của lão Lưu Hoại Thủy liền bám riết lấy mặt giấy, không thể rời đi chỗ khác được nữa: “Đây là… Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương mà!” Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Lưu sư phụ! Mắt bác độc thật đấy! Đúng là người am hiểu hàng họ! Thế bác thử định giá xem vật này thế nào?” Lưu Hoại Thủy ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Nếu nói về giá trị của nó thì đúng là vô giá.



Xa xưa, khi hỗn độn còn hợp nhất, chưa phân trong đục, từ lúc Bàn Cô khai thiên lập địa, khí trong bay lên thành trời, khí đục chìm xuống thành đất, thiên địa lại hợp nhất, thai nghén và sinh thành ra vạn vật, sau đó trời xanh rách lìa, huyền thiết tan chảy, mới có sự tích Nữ Oa vá trời, Vũ Vương trị thủy đúc chín đỉnh đồng chia thành chín châu.



Có thể nói, chín chiếc đỉnh đồng này đều là bảo vật vô giá, chỉ cần xuất thế là sẽ gây chấn động cả thiên hạ. Có điều, đại đỉnh đồng xanh không phải vật phàm tục, người thường đâu dám thu nạp vào nhà, bởi vì pháp luật nhà nước sẽ không dung tha. Huống hồ người bình thường, cho dù bản mệnh gia đình có cứng đến đâu chăng nữa, e rằng cũng không đủ sức trấn giữ được loại báu vật này trong nhà.




Ngoài ra, tấm bản đồ sông núi trên đỉnh đồng của lão gia lại là thác bản chỉ cần lưu truyền ra ngoài là lập tức bị tùy ý sao chép không thể trở thành bản độc nhất được. Bởi vậy, rốt cuộc vẫn không thể coi nó là bảo vật được. Theo tôi, mấy tấm thác bản này, cùng lắm chỉ đáng giá một đồng mà thôi”.



Tư Mã Khôi bừng bừng lửa giận: “Vào mồm mấy tên buôn bán trống bỏi bọn lão, thì khắp gầm trời này làm gì có thứ gì tốt. Cho dù tôi có mang cây Phong Hỏa ở Hán cung đến, thì chắc nó cũng không đắt hơn gánh than đá là bao. Thứ mấy ngàn năm chưa từng xuất hiện trong thiên hạ, mà lão chỉ trả có một đồng thôi á? Một đồng thì làm được cái chó gì? Tôi thà trừ đi năm hào, cho nốt năm hào, tặng không lão chẳng phải còn tốt hơn sao?” Lưu Hoại Thủy hoan hỉ ra mặt, vội hỏi: “Thế thì tốt quá, lão gia nói thật không vậy?” Tư Mã Khôi đốp lại: “Thật cái con khỉ! Tôi vốn không muốn nhượng lại cho lão.



Tôi phải giữ nó lại, sau này còn có việc lớn cần dùng, bây giờ mang ra cho lão xem, cốt chỉ để lão hiểu – dưới lòng đất không chỉ có than quặng, mà còn chôn vùi vô số kì châu bảo vật vô cùng hiếm có khó tìm. Nếu lão có thể giải quyết vấn đề kinh phí giúp anh em tụi tôi, thì bận này đi kiểu gì, tôi cũng mang hàng độc về cho lão”.



Lưu Hoại Thủy động lòng. Lão cũng biết, phần lớn cổ vật đều bị chôn giấu dưới lòng đất, không phải trong mộ thì cũng ở trong hang động, nếu đi xuống càng sâu thì có càng nhiều báu vật chưa ai biết đến. Việc này không phải là giả. Chỉ có điều, lão lo hội Tư Mã Khôi không tha nổi mạng trở về, như vậy chẳng phải lão tự tay quẳng tiền của mình đi hay sao.



Sự xung đột tư tưởng đã diễn ra kịch liệt, rồi cuối cùng, tâm lý đầu cơ vẫn chiếm thế thượng phong, vậy là lão Lưu Hoại Thủy nghiến răng, đồng ý với điều kiện mà Tư Mã Khôi đưa ra. Hai người lập tức thỏa thuận ngay trong toa xe lửa, còn thề bồi trang trọng trước huy hiệu Mao chủ tịch.



Lão Lưu Hoại Thủy kính cẩn cài lại chiếc huy hiệu, rồi nói: “Đây đúng là chân mệnh thiên tử, chúng ta không được giả dối nửa câu trước mặt Người, càng không được thay lòng đổi dạ đâu đấy!”. Sau đó, lão quay sang dặn dò Tư Mã Khôi: “Thời buổi bây giờ không thể so sánh với ngày xưa được, loại hàng họ kiểu đỉnh đồng xanh quả thực rất dễ gây sự chú ý, còn đồ sứ thì dễ vỡ, mang vác trên đường đã không tiện, đem về cũng không dễ giấu.



Hàng tốt nhất chính là ngọc cổ, người xưa nói: ‘Ngọc bất trác bất thành khí’, nhưng đồ ngọc dưới lòng đất không phải cứ có niên đại càng xa thì càng có giá trị đâu, mà lão gia cần phải biết phân biệt kỹ mới được. Tôi có phương pháp bí truyền đây. Phàm là ngọc tốt, đều phải rắn chắc, sờ vào thấy nhẵn và ấm, cầm lên thấy đầm tay và mịn màng.



Ngọc nhập thổ càng lâu thì tính chất sẽ dần dần bị thay đổi. Nếu lão gia nom thấy thân ngọc lỗ chỗ, kết cấu lỏng lẻo, thì niên đại nhập thổ của nó đại khái đã 500 năm. Nếu niên đại một ngàn năm, chất ngọc sẽ trở nên giống thạch cao, hai ngàn năm sẽ giống như xương, ba ngàn năm thì nát như bùn đá, niên đại mà lâu hơn thì không còn xuất hiện trên đời, bởi vì nó đã sớm tan thành bùn đất từ lâu rồi.



Ngọc xuất hiện từ thời tam đại Hạ Thương Chu, chất lượng tuy đã mủn nát, nhưng vẫn còn giữ lại đặc tính của ngọc. Nếu là ngọc già thời Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều, thì chất lượng vẫn chưa biến đổi, nhưng đặc tính của ngọc cũng không còn chắc chắn nữa; đôi khi xuất hiện những đồ ngọc mềm cứng lẫn lộn, thì đó chính là cổ vật trong Nam Cương, nếu ai tìm thấy một vật cổ ngàn năm có hình thù giống như khúc xương khô, đỏ au như máu…” Lưu Hoại Thủy đang thao thao bất tuyệt thì bỗng nhiên nhớ ra mình vẫn chưa biết chuyến này Tư Mã Khôi định đến nơi nào, cũng chẳng hay nơi đó có ngọc cổ hay không.



Tư Mã Khôi đứng bên cạnh, nghe tai nọ lọt tai kia, anh cũng đang định hỏi Lưu Hoại Thủy vài chuyện, liền chỉ tay vào một vật vẽ trên thác bản Sơn Hải Đồ: “Lưu sư phụ! Lão là thổ tặc có thâm niên trong hội hối tử, chắc hẳn phải mắt thấy tai nghe vô số cổ vật, không biết lão có nhận ra vật này rốt cuộc là thứ gì không?” Lưu Hoại Thủy đeo kính lão, nhìn chằm chằm vào tấm thác bản, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Cổ vật phác họa trong Sơn Hải Đồ, hình như là một cỗ máy, một cỗ máy… rất to”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 122: Hồi 2: lãnh địa thần bí


Tư Mã Khôi biết vật thể kì lạ phác họa trên Sơn Hải Đồ có từ thời Thần Nông, và nếu nó là một “cỗ máy” thì chí ít cũng phải có lịch sử cả mấy ngàn năm. Anh thấy việc này quả là không thể lý giải bằng lý lẽ thường, liền thỉnh giáo Lưu Hoại Thủy: “Ông bác nói rõ ra xem nào.



Tôi muốn nghe cụ thể sự tình”. Lưu Hoại Thủy mím môi rồi nói: “Theo như tôi biết, vật đó quả thực có thật, nhưng niên đại cổ xưa quá, đừng nói một gã đánh trống con như tôi, mà ngay cả bây giờ, ông chủ Viễn dẫu tái thế thì cũng chưa chắc giải thích rõ ràng được. Tôi dốc hết kiến thức về hàng họ ra cũng chẳng sao, nhưng chuyện này thì chỉ là nghe người khác kể lại, không dám bảo đảm nó là thật hay giả, bởi thế, tôi nói thì lão gia cũng chỉ nghe để đấy thôi nhé!” Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, cuốn sổ giải mã trong tay phần đầu ghi bản dịch chữ cồ triều Hạ, hơn nửa sau vẫn còn để trắng, anh liền tiện tay lấy bút ra ghi chép tỉ mỉ những điểm quan trọng mà Lưu Hoại Thủy kể lại.



Thì ra, tập thác bản Sơn Hải Đồ mà đội khảo cổ mang về từ lòng đất chỉ là 1/9 tấm bản đồ. Những hình vẽ thần bí này ghi chép các loại địa hình địa mạo bên dưới tầng địa biểu và lượng lớn các loại sinh vật cổ đại. Ở khu vực tiệm cận điểm tận cùng, các bức vẽ mô tả một người khổng lồ mọc sừng thịt trên đầu, phía trước bày một vật thể thần bí hình tròn như cái đĩa, nó chia ra thành nhiều tầng, trông vừa giống vừa không giống tòa tháp, nhưng rất cổ quái kì dị, vì khắp thân mình nó khắc toàn những hoa văn phức tạp và thần bí, cũng không biết là kim loại hay đất đá, tứ phía có dị thú quấn quanh, phía trên là một con quái xà nuốt núi đang quây tròn mấy vòng.



Lúc hội Tư Mã Khôi ở trong thành cổ dưới lòng đất cũng nhìn thấy bức bích họa tương tự như vậy. Căn cứ vào bản giải mã chữ triện cổ triều Hạ, họ biết được, hình người mọc sừng trên đầu chính là thị tộc Thần Nông thời thượng cổ, còn vật thể hình cầu có tên là “nhật quỹ”(1), nó là chìa khóa then chốt thông xuống vực sâu ở tâm Trái đất.



[1] Nhật quỹ: là một loại đồng hồ mặt trời được dùng từ thời xa xưa, một trong những dụng cụ đo thời gian cổ xưa nhất của nhân loại. Những lời Lưu Hoại Thủy vừa nói về cơ bản khá đồng nhất với những manh mối Tư Mã Khôi đang nắm trong tay, nhưng cũng có nhiều điểm anh chưa hề biết Lưu Hoại Thủy kể rất tường tận.



Lão nói, những chuyện như “Toại Nhân tạo lửa, Hữu Sào dựng nhà, Nữ Oa vá trời, Phục Hy kết lưới, Thương Hiệt tạo chữ” đều là những sự tích về các bậc đại thánh đại đức thời thượng cổ, nếu không có họ thì đến tận ngày nay chúng ta vẫn còn ăn lông ở lỗ, ngủ vắt vẻo trên cây nữa kìa, phần đông những người thượng cổ này đều có thân hình rất cao lớn, tính tình vô cùng thuần phác, vì họ sống ở thời kì nguyên thủy xa xưa nên hình hài đều giống thú.




Hậu thế đời sau đã tô tem hóa những bậc cổ thánh tiên hiền này. Bởi vậy, nói đến Thần Nông thị, “Thuật dị ký” đã mô tả họ là đầu mọc sừng, bụng trong suốt như thủy tinh, có thể nhìn xuyên thấu cả gan ruột, bất kể họ ăn gì, đều có thể đứng ngoài trông rõ mồn một, vì thế họ mới có khả năng nếm thử bách thảo và phân biệt ngũ cốc.



Có điều, lão Lưu Hoại Thủy cũng cho rằng, vị Thần Nông phác họa trên Sơn Hải Đồ có lẽ chỉ là một tọa độ địa lý nào đó, đại khái ám thị một tòa núi lớn nằm dưới lòng đất. Nghe nói, nơi cao nhất của một ngọn núi già là Thần Nông Giá. Đó là ngọn núi cheo leo hiểm trở, cây rừng rậm rạp, từ xưa đến nay đều vắng bóng người lai vãng, vùng này nằm ở cực đông của mạch núi Đại Ba kéo dài .



Tương truyền, thị tộc Thần Nông đã gá gỗ thành giá đỡ làm nhà nên nơi này mới có tên Thần Nông Giá. Năm 1970, nước ta hợp nhất ba vùng là huyện Phòng, huyện Hưng và Ba Đông thành huyện Thần Nông Giá, cái tên này trước đây là tên núi, sau này lấy thành tên huyện. Tư Mã Khôi nghe đến đây, cảm thấy có đôi chỗ vẫn lơ mơ, anh thắc mắc: “Chỉ thông qua mấy hình vẽ trong thác bản, thì làm sao có thể dễ dàng xác định, nó chính là một tọa độ địa lý?” Lưu Hoại Thủy nói: “Sơn Hải Đồ ghi chép rõ ràng thế còn gì, có điều muốn hiểu tỉ mỉ địa hình địa thế của vùng này, thì trước hết phải xác định được thứ ngoằn ngoèo uốn lượn kia rốt quộc là thứ gì trước đã.” Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Hình như nó là con mãng xà khổng lồ ẩn mình dưới lòng đất, không những vậy thân hình nó còn to lớn dị thường, có thể nuốt trọn cả một trái núi.



Nhưng nó thì có liên quan gì đến địa hình địa thế ở đây?” Lưu Hoại Thủy nói: “Làm gì có con quái xà nuốt núi nào chứ. Lão gia thử nhìn kỹ lại đi, xem nó còn giống thứ gì khác không?” Tư Mã Khôi ngắm đi ngắm lại tấm thác bản, nếu nói nó là quái xà dưới lòng đất thì cũng chỉ là hình thù đại khái thôi, chứ không thể phân biệt nổi đâu là đầu, là đuôi.



Nhãn lực của anh rốt cuộc vẫn không thể nhận ra đây là vật thể gì. Lưu Hoại Thủy nói: “Thực ra nó là đường hầm trong lòng núi, tầng nham thạch phía trong xám ngoét, giống hệt khúc ruột lòi ra từ cỗ tử thi, bảo nó giống con mãng xà cũng chẳng saỉ. Nó chính là động huyệt quanh co do thiên nhiên tạo hóa nằm trong núi sâu, cổ nhân gọi nó là Thi Tràng động, tức là hang động ruột người chết.



Hình núi phía bên trên cũng rất đặc biệt, hóa thạch chôn giấu trong địa tầng nhiều vô kể, loại địa hình địa thế này cực kì hiếm gặp, chỉ trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mới có thôi. Nghe cắc cụ thời xưa kể lại, Thi Tràng động sâu không thấy đáy, điểm tận cùng chắc là thông với núi Âm Sơn, nơi giam hãm linh hồn con người.” Tư Mã Khôi nói: “Nó chẳng phải chính là sơn động hình rắn uốn lượn trùng điệp kia sao? Chẳng lẽ còn sâu hơn cả kính viễn vọng Lopnor nữa à? Theo ghi chép trong sách cổ, vực sâu nhất trên Trái đất chính là vực Cửu Tuyền.



Nếu tôi nhớ không nhầm, Trang Tử từng nói ‘Viên ngọc đáng giá ngàn vàng chắc hẳn được đặt dưới hàm con hắc long nằm ẩn mình dưới đáy vực sâu Cửu Tuyền’. Điều này chứng tỏ, mọi bảo vật đích thực đều năm ở nơi sâu nhất dưới lòng đất, bởi vậy địa động càng sâu càng tốt”.



Lưu Hoại Thủy gật đồng tán đồng: “Chuyến này các lão gia đi mà thành công, thì đúng là còn gì bằng, món hàng khủng của tôi coi như cũng có hi vọng gặt hái được. Nhưng lời của Trang Tử còn ám chỉ rõ nơi đó vô cùng hung hiểm. Lão gia đừng quên cổ nhân từng nói ‘dẫu có nến Thiện Chúc, cũng không soi tỏ vực sâu Cửu Tuyền”, đủ thấy dưới lòng đất có những vật tuyệt đối không được nhìn vào, cũng tuyệt đối không được phép tìm hiểu.



Tôi chỉ mong Bát lão gia ngàn vạn lần đừng một đi không trở về mới hay”. Tư Mã Khôi nghe lão nói mà trong lòng cũng thấy rờn rợn, vực sâu Cửu Tuyền mà cổ nhân dự báo, có lẽ cũng chính là nơi mà Nấm mồ xanh muốn tìm. Anh quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Vị trí cụ thể của động Thi Tràng toàn là đường núi cheo leo hiểm trở, biển rừng rậm rạp bao phủ, rất nhiều sườn núi chênh vênh dựng đứng, nếu chỉ dựa vào sức của hai người thì làm sao tìm thấy lối vào của đường hầm? Ngoài ra, cỗ máy mấy ngàn năm kia rốt cuộc là vật gì? Có chắc nó nằm ở nơi sâu nhất trong đường hầm không?” Vì món hàng hời mà Tư Mã Khôi hứa, khiến lão Lưu Hoại Thủy đương nhiên chấp nhận mà moi hết gan ruột ra nói cả cho anh biết.



Lão bảo: “Chúng ta phải nói từng chuyện một, trước tiên kể về cái gọi là ‘cỗ máy’ hay bảo nó là ‘thiết bị’ thì cũng được. Trừ mấy từ đó ra tôi cũng thực sự không thể tìm ra từ nào thích hợp hơn để hình dung về nó, cổ thư gọi nó là “nhật quỹ” – là vật dùng để đo lường đất trời, nó có khả năng tự vận hành.



Thời Xuân Thu Chiến Quốc, nó nằm ở nơi sâu trong đường hầm dưới núi Thần Nông Giá. Trên các bức bích họa và ống trúc trong mấy mộ táng Sở Quốc cổ, bị khai quật ” mấy năm gần đây, cũng có những ghi chép liên quan đến vật này, nhưng nội dung rất li kì, thần bí, người đời nay phần lớn không thể lý giải được.




Vì vùng đất này trước đây từng là biên giới của nước Sở thời xưa, nơi đó các thầy mo rất được trọng dụng. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, hơn sáu mươi vạn quân Tần ào ào kéo xuống phía nam diệt Sở, nhưng chẳng ngờ họ lại không hề tìm thấy kho báu vật hay đồng xanh trong cung của Sở Vương.



Nghe nói, năm đó tất cả của cải đều được Sở U Vương chôn giấu ở động Thi Tràng, nơi đó lảng vảng toàn bọn ma bay, người sống không ai dám bén mảng đến gần. Hơn hai ngàn năm sau đó, núi cao trở thành vực sâu, biển rộng trở thành cát dày, địa hình địa mạo phát sinh biến đổi to lớn.



Ngày nay, vị trí cụ thể của con đường hầm trong núi sâu chắc sẽ rất khó tìm, ngoài ra, địa danh động Thi Tràng có từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau này trong bản đồ của huyện hay địa phương đều không sử dụng tên này nữa. Nó sớm trở thành một lãnh địa thần bí không còn ai biết đến, bởi vậy chỉ cần trên đời này quả thực tồn tại vật đó, thì chắc chắn nó vẫn còn ở trong Thần Nông Giá”.



Tư Mã Khôi nghe lão Lưu Hoại Thủy kể một hồi vẫn không thể tưởng tượng nổi, nhật quỹ rốt cuộc là thứ gì, chắc năm dài tháng rộng, nên những truyền thuyết cổ xưa cũng đã mất đị nội dung ý nghĩa thực sự. Xem ra, chỉ có tận mắt nhìn thấy, tận tay sờ vào, phải tự mình tìm ra nó trong núi sâu, thì mới có cơ hội giải được câu đố này.



Căn cứ theo những ghi chép bằng chữ triện cổ, mà tộc người thờ rắn để lại trong mật thất dưới lòng đất, dường như “nhật quỹ” chính là con đường thông tới vực sâu. Đây cũng là manh mối duy nhất mà Tư Mã Khôi có trong tay, nên bất kể kết quả thế nào, anh cũng quyết tâm phải xuống đó thăm dò một chuyến.



Thế là, đợi sau khi Hải ngọng quay về, mọi người liền tiếp tục thì thầm họp bàn bí mật trong tòa xe. Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi nổi tiếng là người liều mạng, lại có bản lĩnh, anh dự định sửa trộm thư giới thiệu rồi cùng Hải ngọng mạo danh là thành viên đội khảo cổ, trực tiếp tiến vào núi sâu, thăm dò bí mật.



Vả lại, giờ đây hội anh cần cố gắng mai danh ẩn tính, càng ít người biết càng tốt, vì dao súng dễ tránh, ám tiễn khó phòng, lúc này không thể xác định trong nước còn phần tử mai phục của Nấm mồ xanh hay không, ngộ nhỡ để lọt phong thanh thì khó đảm bảo sau khi vào núi không xảy ra sự cố bất ngờ.



Lưu Hoại Thủy không tán thành, lão chỉ hi vọng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót trở về, và mang theo mấy món hàng độc có giá trị, nên đương nhiên phải sắp xếp mọi việc thật ổn thỏa mới được. Đại Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc, là vùng sơn cước trùng điệp núi cao rừng rậm, rừng nguyên sinh bao phủ quanh năm không thấy ánh mặt trời, tình hình trong đường hầm dưới lòng đất càng không biết thế nào.



Tuy hội Tít Mã Khôi đều có chút bản lĩnh, nhưng chỉ có hai ngươi vào đó thì có vẻ cũng hơi đơn thương độc mã, e rằng khó thành đại sự; nên chí ít cũng phải trở về Bắc Kinh tính kế lâu dài cái đã, tốt nhất là phải đi tìm mấy vị kì nhân dị sĩ tương trợ mới được. Tư Mã Khôi cũng cảm nhận sâu sắc rằng, lực lượng hiện tại quả thực vô cùng có hạn, nhưng áp lực về thời gian căn bản không cho phép anh trì hoãn thêm nữa.



Giờ đây có điều kiện cũng đi, mà không có điều kiện thì cũng phải tạo ra điều kiện mà đi. Vả lại, Tư Mã Khôi cũng không muốn để những người không liên quan bị cuốn vào chuyện này, số người chết trong hai chuyến đi trước đã quá nhiều rồi. Trước lúc lên tàu, Thắng Hương Lân còn đang truyền nước, cơ thể vẫn còn rất yếu ớt, nhưng từ đầu chí cuối cô đều lắng tai nghe hội Tư Mã Khôi bàn bạc kế hoạch tiến vào núi Đại Thần Nông Giá.



Thắng Hương Lân gắng gượng ngồi dậy, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi đã khỏe rồi. Các anh vào núi tìm nhật quỹ chuyến này là một chuyện vô cùng trọng đại, tôi cũng phải tham gia. Vả lại, trong nhóm mà thiếu thành viên hiểu về kết cấu địa chất, thì khó khăn và nguy hiểm phải đối mặt khi thám hiểm hang động còn gia tăng gấp bội.



Chúng ta đi cùng nhau ít ra còn có thể tiếp ứng cho nhau, bất kể gặp phải tình huống gì cũng có thể bàn bạc tìm cách ứng phó. Anh cứ yên tâm, tôi tuyệt đối không gây phiền phức gì cho anh đâu”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều hiểu rõ tính Thắng Hương Lân, nhìn bề ngoài có vẻ nhu mì ôn hòa, nhưng thực ra cô là người rất cá tính, những chuyện cô đã nhận định là đúng, thì không bao giờ chịu nghe người khác khuyên bảo, cho dù anh không đồng ý thì cô cũng tự mình bám theo, huống hồ để cô ở lại một mình thì đúng là cũng khó mà yên tâm được.




Lão Lưu Hoại Thủy thực lòng không muốn để Thắng Hương Lân phải mạo hiểm chuyến này, nhưng lời của lão lại càng vô ích, khuyên nhủ mãi không có kết quả, Cuối cùng, lão đành rút ra mấy trăm tiền mặt dùng để mua hàng và tem phiếu của hơn một tạ gạo, tất cả giao cho Tư Mã Khôi, dặn dò anh nhất định phải tìm cách chăm sóc cho Thắng Hương Lân thật chu đáo, còn “hàng độc” để sau nói cũng không muộn, chuyến này đi chỉ cần sống sót trở về là may rồi.



Hội Tư Mã Khôi tính toán kế hoạch xong đâu đấy thì sắc trời đã nhá nhem tối, đang định nằm xuống nghỉ ngơi thì Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Trước khi tàu về đến thành phố, nhân viên nhà ga chắc chắn sẽ đến toa giường mềm để kiểm tra, cả bốn người chúng ta cộng gộp lại cũng không bằng một cán bộ cấp 13, đến lúc đó chỉ sợ không che giấu được thân phận nữa.



Hơn nữa, ga Bắc Kinh người đông, tai mắt nhiều, nếu xét đến yếu tố an toàn và bảo mật, thì tốt nhất chúng ta nên xuống xe giữa đường, trực tiếp đi xuống Nam luôn””. Ai ngờ Hải ngọng lại kịch liệt phản đối, anh chàng lớn giọng trình bày một tràng cao kiến. Mở màn là nhắc đến chuyện tàu hỏa, vì Hải ngọng thực sự dành quá nhiều tình cảm cho nó.



Anh bỗng nhớ lại năm xưa, khi hội anh cùng anh Hạ Thiết Đông nam tiến xuống Miến Điện, khi ấy mọi người làm gì có tiền mua vé, giữa đường khó khăn lắm mới lẻn vào được một toa xe lửa. Chuyến tàu đó đừng hỏi là đã bò chậm đến mức nào, vì cứ đi một đoạn lại dừng một đoạn, chạy ì à ì ạch, đến độ sắp làm con người ta rã hết xương cốt; còn người trên tàu vừa đông lại vừa chen chúc, đến ngay cả chỗ để đặt chân xuống cũng không có, cộng thêm thời tiết oi bức, vợ kêu con khóc, nhộn nhạo cả lên, chỗ nào cũng toàn tiếng gào hét, bầu không khí đặc quánh một mùi quái lạ khiến người ta ngộp thở, cái sự đày đọa đó thật đúng là, tổ cha nó, không thể chịu nổi.



Thông thường, những chuyến tàu quá tải như vậy, đa số nhân viên nhà ga đều rất lười soát vé, vì dẫu họ có muốn tận tụy với công việc thì cũng đành bất lực, bởi vì không thể chen chân vào nổi. Có điều, chuyến tàu hôm đó vừa vặn lại do tổ nhân viên Hồng Kì phụ trách. Liên đội này liên tục mấy năm liền được vinh dự bình bầu là tập thể tiên tiến, tất cả thành viên đều là nữ, người nào cũng trẻ măng, những cô em này như được tiêm thêm tiết vịt, nên tinh thần hừng hực nhiệt tình, chẳng sợ bẩn thỉu, lộn xộn gì cả, họ chen chúc qua những khe nhỏ giữa đám đông để soát vé.



Không những vậy, họ còn giúp hành khách chuyển hành lý và mang cả nước uống cho khách, thật đúng là tấm gương sáng lóa cho người khác soi mình vào. Khổ một nỗi, hội Hải ngọng lúc đó lại chỉ sợ bị kiểm tra, rồi tống cổ xuống tàu, nhưng may nhờ anh Thiết Đông đa mưu túc trí, không biết kiếm đâu được một tờ báo rách, mặc kệ mọi người xung quanh có muốn nghe hay không, anh cứ chủ động học tập theo tinh thần của đồng chí Lôi Phong, thực hiện nghĩa vụ đọc báo cho tất 1 khách trên toa cùng nghe, để tuyên truyền tư tưởng, đường cách mạng của Mao Trạch Đông.



Khi ấy anh Thiết Đông làm bộ như rất nhập tâm, giọng đọc sang sảng, có khi còn ngang ngửa với trình độ của mấy anh phát thanh viên trên đài truyền thanh Trung ương ấy chứ. Mấy cô em soát vé thấy cảnh đó thì vô cùng cảm động, thấy câu thanh niên kia sao mà vừa cao to đẹp trai, tư tưởng lại giác ngộ, ngồi trên tàu mà còn tự giác đọc báo cho quần chúng nghe, tuyên truyền tình thế tốt đẹp trước mắt của cách mạng; người có tư tưởng giác ngộ đến mức ấy thì làm gì có chuyện đi tàu còn trốn vé? Thế là, các cô bỏ qua hội anh, không cần soát vé nữa, mọi người cũng nhờ vậy mới thoát nạn, nhưng lòng vẫn vỗ cùng tự ti, mãi đến tận bây giờ cái bóng đen năm ấy vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong tâm tưởng.



Thế rồi mọi người trốn khỏi Miến Điện trở về tổ quốc, Hải ngọng lại cùng Tư Mã Khôi lên tàu làm công việc khổ sai, và tất cả ký ức liên quan đến tàu còn lưu lại trong đầu, chẳng cái nào khiến anh muốn nhớ lại, nên bây giờ dẫu nằm mơ, anh cũng không ngờ lại có ngày mình hưởng diễm phúc đi toa giường mềm và sang toa ăn đánh chén một bữa đàng hoàng như thế, bon chen đến được tận bước này, coi như cả đời Hải ngọng cũng không sống uổng.



Thế mà bây giờ, đít còn chưa ngồi ấm chỗ, nỡ nào lại bắt anh phải xuống tàu giữa chừng cơ chứ? Hải ngọng vừa nói đến đây, lão Lưu Hoại Thủy đột nhiên đứng bật dậy: “Nghe cậu nhắc đến tàu hỏa, tôi chợt nhớ ra một chuyện quan trọng”. Hải ngọng còn đang hậm hực, bị Lưu Hoại Thủy cắt lời, liền thể hiện luôn thái độ bất mãn: “Trí nhớ của lão kiểu gì vậy ! Tôi không nói lão cũng chẳng nhớ ra, sao hễ tôi nói một cái là lão đã nhớ ra luôn thế hả? Tôi thấy Lưu sư phụ hình như hơi mắc chứng lẩn thẩn của người già thì phải, cứ đà này thì đúng là cách giai đoạn đánh trống thổi kèn chẳng mấy hồi nữa đâu, nhân lúc đầu óc còn minh mẫn, lão mau về mua hai trái bi sắt, để lúc rảnh rang nắm trong tay mà xoa đi xoa lại….” Tư Mã Khôi liếc xéo Hải ngọng một cái, ra hiệu bảo anh lát nữa hãy nói, sau đó quay sang hỏi Lưu Hoại Thủy: “Chuyện ông bác định nói, là chuyện tốt hay chuyện xấu vậy?” .


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 123: Hồi 3: chuyện quái dị trong lâm trường


Yacute; của Tư Mã Khôi là: “Chuyện tốt thì lão hãy nói, còn như chuyện xấu thì xin miễn, tôi nghe xong lại thêm đau đầu”. Lão Lưu Hoại Thủy cũng không chắc lắm: “Luận theo lẽ thường thì đó là chuyện tốt. Nói sao nhỉ? Tôi vừa nghe Hải lão gia nhắc đến tàu hỏa, liền nhớ ra mình có đứa cháu con bà chị ruột, nó họ Bạch, trước đây là bộ đội công trình.



Hồi xưa từng tham gia chiến tranh Triều Tiên, còn đội bom Mỹ, sửa cầu trên sông Áp Lục nữa đấy, sau này trở thành bộ đội chuyên nghiệp, được phân công quản lý ngành đường sắt địa phương, vì biểu hiện xuất sắc trong thời kì cách mạng văn hóa, nên được bổ nhiệm làm lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện.



Khu vực nó quản lý vừa vặn lại chính là thị trấn Thương Bách, huyện Thần Nông Giá. Tôi có thể viết phong thư bảo nó nghĩ cách quan tâm đến các lão gia một chút; có điều… có điều phần tử bất hảo như tôi, chỉ e bây giờ nó không thèm nhận người cậu ruột này nữa”. Tư Mã Khôi thấy chuyện này có còn hơn không, được thì quá tốt mà không được cũng chẳng sao.



Thế là, anh liền tìm giấy bút đưa cho Lưu Hoại Thủy, bảo lão mau viết thư, rồi kẹp vào cuốn sổ giải mã mang theo bên mình. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi trên chuyến tàu đường dài. Ngày hôm sau, cả hội từ giã lão Lưu Hoại Thủy, giữa đường chuyển tàu vào nam. Thần Nông Giá nằm ở rốn núi phía Tây tỉnh Hồ Bắc, vùng thân Âm Sơn này giao thông vô cùng lạc hậu, nên căn bản không hề có đường sắt.



Đến huyện Phòng, hội Tư Mã Khôi đành xuống tàu, rồi dừng chân nghỉ ngơi ở huyện suốt mấy ngày liền, thứ nhất là dành thời gian cho Hương Lân điều dưỡng cơ thể, phục hồi nguyên khí, thứ hai là cần phải chuẩn bị một vài thứ trước khi tiến vào núi. Lúc trước, Tư Mã Khôi sợ giữa đường có người kiểm tra, nên đã đem tất cả mấy khẩu súng xung phong Liên Xô, mang về từ kính viễn vọng Lopnor, vùi xuống sa mạc, bây giờ trên người chỉ sót lại ba con dao săn, mũ Pith Helmet, mặt nạ phòng độc hình mang cá, kính chắn gió, thảm chắn cát; ngoài ra thì cũng chỉ có mấy vật phẩm như: la bàn, diêm chống ẩm, máy ảnh, ống nhòm, nến tín hiệu, thuốc đuổi côn trùng, thiết bị lọc, băng dính, bình nước quân dụng, hòm cứu thương.



Khi ấy, mệnh sắp đoạn mà vẫn tiếc không nỡ vứt đi, bây giờ đúng là phải dùng đến chúng thật. Huyện lị thiếu thốn đủ các loại vật tư nhưng đèn cácbua thì không thiếu, đến nỗi tối muộn rồi mà người dân vẫn thắp đèn sáng trưng. Vả lại địa phương cũng có khá nhiều mỏ quặng, nên các thiết bị chiếu sáng như đèn quặng được bổ sung đầy đủ.




Để đề phòng gặp mưa trong núi, Tư Mã Khôi liền làm theo cách dân dã của đội du kích Miến Điện, lấy áo mưa tự chế thành túi chống nước rồi trùm lên ba lô. Ngoài ra, anh còn chuẩn bị một đống lương khô và thuốc lá thơm. Tư Mã Khôi ra cửa hàng bách hóa mua mấy đôi ủng và dây thừng dài, đồng thời tìm một bác thợ rèn đánh cho mấy cái móc câu nối vào dây thừng.



Thứ duy nhất không kiếm được là vũ khí, đạn dược. Hội Tư Mã Khôi vẫn chưa biết tình hình trong núi ra sao, không có súng ống thì làm sao lòng đảm và dũng khí vững vàng lên được, có điều vấn đề này lại chẳng có cách nào giải quyết, đành đến đâu hay đến đó vậy. Trước lúc xuất phát, Tư Mã Khôi dẫn Hải ngọng và Thắng Hương Lân vào phòng tắm nước nóng.



Đây là nhà tắm duy nhất trong huyện thành, còn gọi là hồ tắm Đông Phong, lấy tên từ nghĩa câu thơ “Đông phong áp đảo tây phong”. Tiệm này có từ mấy chục năm trước, lúc đó người phương Bắc đến lâm trường lao động tương đối nhiều, nên họ mới cho xây nhà tắm. Hồ tắm Đông Phong được xây dựng rất sơ sài, cũ kỹ, lâu ngày không được sửa chữa, quy mô lại khá nhỏ, bên trong đốt cái nồi hơi nho nhỏ, cả bên nam và bên nữ cộng gộp lại, diện tích cũng chỉ đủ cho mười mấy người tắm là đã chật ních.



Hồi ấy, những mục như kì cọ, ấn huyệt bàn chân trong nhà tắm, bị quy kết là loại hình phục vụ chỉ dành cho các đối tượng chuyên chính văn hóa, nên tất cả đều nhất loạt bị hủy bỏ. Nhân viên chuyên kì cọ ngày trước, bây giờ chuyển nghề thành nhân viên chuyên đốt nồi hơi, bất kể có khách hay không, bác ta đều được nhận tiền lương hàng tháng, kĩ năng xoa bóp bấm huyệt cũng sớm bị bỏ phí bao năm rồi.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng không biết bên Thắng Hương Lân tắm ra sao. Tóm lại, hai người bọn họ huyên thuyên suốt hồi lâu, tâm sự cả đống chuyện, rồi hút mất nửa bao thuốc, sau đó mới gọi sư phụ xoa bóp bấm huyệt ra để cọ lưng giúp. Hải ngọng tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, quay sang giải thích với sư phụ bấm huyệt: “Bọn con tắm táp thế này hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu công tác cách mạng đấy chứ.



Vì một chuyến đi dã ngoại chỉ ít cũng phải hút một hơi dăm bữa nửa tháng, gặp lúc điều kiện sinh hoạt gian khổ, không khéo còn chẳng rửa được mặt cơ, bởi vậy, tụi con phải làm vệ sinh cá nhân thật sạch sẽ trước khi lên đường”. Rồi anh dặn đi dặn lại vị sư phụ cọ lưng: “Bố cứ kì thật mạnh tay vào! Cọ cho bay luôn hai lớp da mới đã, tắm rửa sạch sẽ xong, bọn con lại phải nhảy vào biển lửa liền.



Lần tắm sau… con mẹ nó, còn không biết phải đợi đến bao giờ!”. Vị sư phụ thấy thân thể hai người chi chít vết dao đâm súng bắn, thì không khỏi cảm thấy vừa kì lạ vừa ngạc nhiên, tuy nghi hoặc nhưng không dám hỏi nhiều, chỉ mong hai gã này tắm táp cho thoải mái rồi mau mau cuốn xéo.



Ba người đi ra khỏi hồ tắm Đông Phong, thấy cả người nhẹ bẫng, cảm giác dường như được thay da đổi thịt. Mọi người sang vệ đường đi nhờ chuyến xe ngựa thồ gỗ. Thần Nông Giá là ngọn núi cao 3000 mét, so với mặt nước biển, hình thế nguy nga, cây rừng rậm rạp, vùng này được mệnh danh là nóc nhà Trung Hoa; con đường dẫn vào núi vô cùng gập ghềnh, rung lắc, khiến người ta liu diu muốn ngủ, nhưng vừa nhìn vào trong núi, hội Tư Mã Khôi đều trơ mắt ra.



Trước khi đến đây, nghe nói độ che phủ của rừng rậm ở núi Thần Nông Giá rất cao, rừng nguyên sinh che khuất bầu trời, nhấp nhô trải dài theo địa hình núi, những gì nhìn thấy ven đường cũng chỉ toàn núi non hùng vĩ, khe suối chảy róc rách, nhưng cũng có khá nhiều núi trọc, khu vực có cây rừng phần đa là rừng tái sinh, khắp núi rừng đâu đâu cùng thấy những gốc gỗ tròn, rõ ràng ở đây hàng năm đều bị chặt phá với quy mô lớn, địa hình địa mạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng, lòng núi dần trở nên rời rạc, vụn vỡ.



Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng vậy liền muốn hỏi dò tình hình trong núi. Anh lân la gợi chuyện bác phu xe: “Đồng chí cựu binh này! Tôi thấy cỗ xe của bác nom cũng lớn ra trò đấy nhỉ!” Người đánh xe trạc ngoại ngũ tuần, thời kì chiến tranh giải phóng từng là anh nuôi trong một đơn vị bộ đội nào đó, thời bình thì phục viên và an cư lạc nghiệp ở đây, con người trông có vẻ rất đỗi thuần phác, nhưng thực ra lại là một tay tán chuyện bẩm sinh, chỉ cần mở mồm ra là không khóa lại được.



Bác ta nói cỗ xe này thì làm được trò trống gì. Nhớ năm đó, bộ đội giải phóng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Đông, Quảng Tây, tụi tôi toàn đội mũ lông, dắt hàng loạt gia súc cỡ lớn đến kéo pháo, chẳng phải loài ngựa Đại Dương của Nhật Bản thì cũng là họ la cỡ bự của khọm Mỹ .



Bọn chúng đều được tuyển chọn từ vùng Đông Bắc đem xuống, thức ăn cho chúng thì ngon khỏi chê, mà sức kéo cũng miễn bàn luôn, đâu giống con súc sinh này, mới kéo vài khúc gỗ mà đã thở hồng hộc. Bây giờ phần lớn lâm trường đều đã đình công, nếu không thì làm gì đến lượt đời nó được hưởng phúc nhàn thế kia? Mấy năm trước, cuộc cách mạng gang thép bùng nổ, bao nhiều cây rừng bị đốn chặt, lâm trường nọ mọc san sát lâm trường kia, gỗ chở nườm nượp không ngớt.




Cũng trong mấy năm đó, không biết bao nhiêu rừng rậm nguyên sinh hóa thành núi trọc, bây giờ cây rừng trên núi toàn là loại cây tái sinh thưa lớt tha lớt thớt. Có điều, cũng may nhờ phúc chuyện này nên vùng núi mới được tu sửa đường xá, nếu không thì ngay cả chuyện ra khỏi cửa cũng không dám nghĩ đến, nên ai đến được huyện lị thì đúng là oai khỏi phải bàn, coi như là được mở mắt nhìn thế giới rộng lớn, để lúc trở về tha hồ khoác lác suốt mấy năm, còn đến được tỉnh thành coi như một lần xuất ngoại, và nếu ai mà sang được tỉnh khác, thì chắc người đó cả đời không trở về quê hương bản quán nữa, bởi ở đây có rất nhiều người từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ rời khỏi miền sơn cước này.



Tình hình có chút ngoài dự tính, Tư Mã Khôi không ngờ quy mô khai thác gỗ lại rộng lớn chừng ấy, anh hỏi bác bộ đội già: “Thế bây giờ quả núi lớn này bị đốn sạch hết rồi sao?” Ông bác cựu binh nói: “Tít sâu trong cánh rừng Thần Nông Giá vẫn còn rất nhiều nơi không thể chặt gỗ, vì có đốn đổ cây cũng không vận chuyển ra ngoài được.



Đi qua eo núi dưới chân ngọn núi chính Thần Nông Giá, khu vực phía tây bắc toàn là khe sâu vách đá cheo leo, ở đó mới đích thực là rừng sâu núi thẳm, khó tìm thấy dấu chân người. Nơi đấy có rất nhiều cây bách cổ không biết sống mấy ngàn mấy vạn năm, thân cây to hơn chục người ôm không xuể.



Trong đó thường xuất hiện nhiều loài chim quý hiếm và loài thú kì dị, như là khỉ lông vàng, thú một sừng, sói đầu lừa, rắn mào gà, còn có gấu trắng, báo, bạch xạ hương… Cậu có giơ hết cả mười đầu ngón tay lẫn mười đầu ngón chân cũng không đếm đủ đếm đâu”. Tư Mã Khôi nghe nói nơi này vẫn còn được bảo tồn trạng thái nguyên thủy trong núi sâu, nên lòng cũng yên tâm hơn rất nhiều.



Anh tiếp tục dò hỏi: “Trong rừng già có an toàn không bác?” Ông bác cựu binh lắc đầu: “Ối trời! Nguy hiểm lắm! Ngần ấy năm, tôi sống trong rừng rậm cũng đâu phải là ít, nhưng cũng chỉ vào trong đó một lần duy nhất hồi tiễu phỉ thôi. Để tôi kể cho các cậu nghe, tương truyền trong núi Thần Nông Giá có người rừng đấy, nhiều người già sống trong rừng từng nhìn thấy dấu chân của người rừng, nhưng chưa ai tận mắt nhìn thấy bóng dáng người rừng thật, chỗ chúng tôi có nơi gọi là Yến Tử Ô, đó chính là nơi người rừng thường lảng vảng.



Địa hình ở eo núi này thực sự vô cùng hiểm yếu, nhìn xuống cũng đủ khiến người ta rụng cả tim ra ngoài, chỗ hẹp nhất của vách đá cheo leo phía trước núi chỉ vừa cho một con én bay qua, trong khi phía sau núi lại là vực sâu dựng đứng, đúng là một người gác cửa, ngàn người không dám bước vào, thần quỷ trông thấy cũng phát ớn.



Nhưng nếu cậu muốn lên đỉnh núi thì chỉ có mỗi con đường eo núi ấy mới leo lên được thôi. Năm đó, quân giải phóng dồn hàng ngàn tên thổ phỉ phải rút lên núi, bọn chúng chuẩn bị trước rất nhiều nước và lương thực, đủ để duy trì suốt mấy năm, chúng còn rêu rao sẽ tử thủ ở Yến Tử Ô, và khiến tất cả quân cộng sản muốn tấn công lên núi phải phơi thây giữa đồng hoang.



Từ các triều đại cổ xưa trong lịch sử, hễ thổ phỉ bị quan binh truy bắt, chúng đều rút vào núi sâu, tử thủ ở eo núi vì người dưới chân núi không làm gì được, nên chúng mới ngang nhiên ngông cuồng như vậy”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe đến chuyện này thì vô cùng phấn khích, dẫu biết rõ quân giải phóng đã sớm tiêu diệt hết bọn thổ phỉ từ lâu; nhưng, xem ra độ khó của chuyến diệt phỉ này dường như còn ghê gớm hơn cả vụ “mưu chiếm Hoa Sơn” của đảng Cộng sản năm 1949, phải dùng chiến thuật cao siêu thế nào mới có thể công phá được địa hình hiểm yếu đó? Ông bác cựu binh nói: lũ thổ phỉ chăng qua chỉ là đám ô hợp, tưởng ràng lúc ấy hãy còn ở triều đại Thanh chắc, tụi tôi chỉ sợ bọn thổ phỉ tản ra, hợp thành nhóm dăm ba người lẩn trốn vào rừng già núi sâu thì không dễ đối phó, nhưng nếu cứ túm tụm cả toán quân ở đầu núi thì chẳng phải tự mình đào hố chôn mình sao? Lũ phỉ tưởng bọn tôi không có mưu lược gì đối phó được với bọn chúng chắc? Binh đoàn bốn đã đánh xuống tận thành Cẩm Châu và Thiên Tân, thì lũ thổ phỉ này nhằm nhò gì.



Lựu đạn 105 do Mỹ sản xuất, của pháo binh chúng ta đâu phải hạng tôm tép tầm thường, rồi ngay cả hiệu lệnh cũng không buồn hô, liền trực tiếp đặt luôn súng lên ngọn núi đối diện mà khai hỏa. Trái pháo làm ngọn núi rung chuyển, xác đạn rơi vào đám người, tên nào tên nấy đầu óc nở hoa tùm lum, rồi chưa đầy hai phút sau, đã thấy cờ trắng đầu hàng giương phất phơ trên đỉnh núi.



Lúc bộ đội tụi tôi lên trên đó lùng quét tàn quân phỉ, mấy chiến sĩ trong đội đã gặp phải người rừng ở ngay bờ vực sâu phía sau núi. Do hai bên gặp nhau quá bất ngờ, nên hai bên đều sợ hết hồn. Tên người rừng đó cao to lực lưỡng, có khi phải cao gấp rưỡi người thường, lông đen rậm kín toàn thân, cũng không rõ mặt mũi thế nào, trông nó giống vượn hơn là giống người.



Nó giơ tay tóm một chiến sĩ, trực tiếp vứt luôn xuống vực, chiến sĩ còn lại chưa kịp nổ súng đã quần thảo thành một đống với tên người rừng, rồi cả hai cùng lăn lông lốc xuống vực. Sau này, trinh sát quân ta men theo đường vòng xuống dưới lục soát, nhưng tìm kiếm suốt một ngày trời, vẫn không thấy thi thể ở đâu, có lẽ đi bị dã thú trong núi tha vào rừng ăn thịt mất rồi.




Có người phỏng đoán, tình hình lúc đó quá đột ngột nên mọi người hoa mắt nhìn chẳng rõ, chứ không chừng thứ họ gặp bên bờ vực là gấu cũng nên; thế nhưng cái ngữ ấy chân tay vụng về, thì làm sao mà trèo lên tận bờ vực cao thế này. Có người lại cho rằng, sau khi thi thể bị rớt xuống, cổ của nạn nhân bị mắc vào cành cây, chim rừng lại nhiều vô kể, nên chẳng cần tốn bao nhiêu thời gian chúng sẽ rỉa sạch cái xác thành bộ xương khung.



Tóm lại, người ta đưa ra rất nhiều cách giải thích, nhưng cho đến tận bây giờ, đó là lần bọn người rừng tiến sát núi Thần Nông Giá nhất, đáng tiếc là bọn chúng sống không bắt được người, chết không tìm thấy xác. Ông bác cựu binh nói đến đây thì hỏi Tư Mã Khôi: “Các cậu định khảo… khảo cái cổ của ai vậy? Định lên đỉnh núi để làm gì? Chẳng lẽ định tóm cổ người rừng đấy phỏng?” Tư Mã Khôi chỉ sợ lộ chân tướng, vội vàng dùng mấy từ sách vở giải thích cho qua mắt: “Định nghĩa về khảo cổ rộng lớn lắm ông bác ạ! Chỉ 1% quá khứ của nhân loại được ghi chép thành tư liệu, số còn lại vẫn là những ẩn số chưa có lời giải; phải vén bức màn bí mật đó lên, chính là bài toán mà công tác khảo cổ cần nghiên cứu.



Có điều, anh em bọn tôi đi Thần Nông Giá chuyến này không phải để tìm di tích lịch sử, mà để sưu tầm các tiêu bản hóa thạch nằm bên dưới địa tầng. Có phải hóa thạch trong cánh rừng rậm nguyên sinh đó nhiều lắm đúng không, ông bác?” Ông bác cựu binh gật đầu: “Tất nhiên là nhiều vô kể, chỉ cần nghe cậu nói là tôi biết ngay cậu là người trong ngành.



Mấy năm trước, cũng có một phần tử trí thức đến lâm trường tìm tiêu bản, nói với chúng tôi ngọn núi này là cái gì mà… mà… bản ghi nhớ của thời đại hồng hoang viễn cổ, hình như là mấy từ đấy. Nhưng bản ghi nhớ chẳng phải là văn tự ư? Sao nó lại có thể là một ngọn núi được nhỉ?” Ông bác cựu binh nói đến đây thì không gạn hỏi thêm nữa, mà bảo hội Tư Mã Khôi, dưới ngọn núi Long Cốt nằm sau đỉnh Thần Nông có rất nhiều động huyệt, bên trong có các loại hóa thạch, hình dạng kì dị cổ quái, người bản địa gọi chung tất cả những thứ đó là long cốt, nhưng cũng có một nơi khác tụ tập chi chít hóa thạch, tên gọi m Hà Cốc, mà lối vào là một khe sâu, đi mãi xuống dưới có rất nhiều ác thú, còn có độc trùng, độc thảo nữa.



Trước giải phóng, nghe nói nơi này xuất hiện cả người rừng, ngay những người hái thuốc cũng không dám mạo hiểm thò mặt xuống. Năm 1963, lâm trường chúng tôi ầm ĩ mãi vì một vụ án mạng: Khi ấy, công việc ở lâm trường rất cực nhọc, điều kiện chỗ chúng tôi lại thấp kém, ngoài bộ đội chuyên ngành thì còn lại toàn công nhân đốn gỗ ngoại tỉnh đến.



Cái hay ở đây là, chỉ cần anh chịu đến thì sẽ có cơm cho anh ăn, không ai tra xét lý lịch tổ tông tám đời nhà anh cả, bởi vậy thành phần công nhân đốn gỗ khá phức tạp, ngay cả phạm nhân hết hạn tù được phóng thích cũng có. Ở lâm trường thỉnh thoảng cũng có khi được nghỉ ngơi, những lúc đó một số công nhân thường vào núi hái nấm bẫy thỏ để cải thiện bữa ăn.



Bận ấy, bốn anh công nhân đốn gỗ vòng qua Yến Tử Ồ, trực tiếp tiến vào vùng lân cận m Hà Cốc, thấy ở khe đất dưới đáy vực sâu có sương đen bay mù mịt. Trong bốn công nhân, có một người biệt danh là ‘Khỉ Già’, gã này hiểu chút ít các phương thuật mê tín thời xã hội cũ, biết nhìn thế núi, đoán khí trời.



Gã lim dim hai mắt một hồi, rồi phán: khí đen kia là bảo khí, dưới chân núi chắc chắn có bảo vật. Ba người còn lại không tin. Nơi này núi cao rừng thẳm, từ xưa đến nay đều vắng bóng người, nếu có bảo vật thật thì chắc cũng chỉ là hà thủ ô ngàn năm mọc trên vách núi, chứ trong hốc núi thì có nổi thứ gì? Tốt nhất đừng có làm kinh động đến bọn mãnh thú, bọn nó mà ra thì tan xác! Gã Khỉ Già nói: “Các cậu thì hiểu quái gì! Đừng nghĩ ngọc chủ yếu có nguồn gốc từ Côn Luân, Hòa Điền, Miên Điện… chứ miếng ngọc bích họ Hòa, có giá trị bằng mấy tòa thành, tìm thấy thời Xuân Thu Chiến Quốc, đích thị xuất thân từ m Hà Cốc ở Thần Nông Giá chúng ta đấy.



Chỉ riêng chuyện này cũng đủ cho các cậu thấy nơi này đáng giá thế nào rồi chứ?” Nhưng ba người còn lại đều là hạng phàm phu tục tử, mù văn hóa, họ làm sao biết mảnh ngọc bích họ Hòa là thứ gì, món đồ chơi này làm bằng vàng hay bằng bạc. Khỉ Già chỉ nói: “Tóm lại, chiêu này của tôi chắc chắn không lầm đâu, dưới kia khẳng định là có thứ gì đó rất ghê gớm, ai muốn hưởng vinh hoa phú quý thì theo tôi, bất kể tìm thấy thứ gì, chúng ta cứ chia đều theo đầu người”.



Khi đó, có một gã tên Nhị Lãn Tử, nổi tiếng liều mạng, đồng ý đi cùng hắn. Hai người họ thắt dây thừng ngang lưng, để đồng bọn đứng bên ngoài rồi thòng dây xuống. Hai người mang theo khẩu súng bắn chim, đốt đuốc dầu cây tùng vào hang động. Kết quả, bọn họ đã xảy ra một chuyện quái lạ mà mãi đến tận bây giờ vẫn không thể giải thích.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 124: Hồi 4: trao đổi


Hai người đứng bên ngoài chờ đợi mãi không thấy động tĩnh gì, hét gọi cũng không nghe hồi đáp, giật dây thừng cũng yên ắng bất động. Bọn họ cho rằng đã xảy ra chuyện xấu, đang định nghĩ cách quay về báo cáo với đơn vị, thì đúng lúc này Khỉ Già trèo lên. Hắn bảo tìm thấy một vật rất quý nhưng vì nặng quá, hai người vần mãi không xong, nên nhờ những người còn lại xuống giúp sức, bây giờ Nhị Lãn Tử vẫn ở dưới đó canh chừng.



Hai người kia nghe nói vậy thì động lòng, cũng không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ hỏi một câu: “Trong động có an toàn không?” Khỉ Già nói: “Nó là cái hố có đáy khá chắc chắn, chẳng thấy bóng dáng con vật nào cả”. Hai người kia thấy tiền thì nổi máu tham, lập tức bạo gan cùng đi với hắn.



Xuống dưới đó chẳng bao lâu, thì lão Khỉ Già lấy súng bắn chim đốn ngã một tên, tên còn lại sợ đực mặt ra, chưa kịp hiểu ra chuyện gì, đã bị một dao đâm trúng tim. Thì ra, gã Khỉ Già là dân ngoại tỉnh, sớm biết trong núi Thần Nông Giá chôn giấu minh khí đồng xanh, chỉ cần tìm thấy một món rồi trốn ra nước ngoài, thì cũng đổi được khoản tiền kếch xù.



Khổ nỗi, hắn lại không thông đường thuộc lối, cộng thêm cánh rừng rậm nguyên sinh này đâu phải dễ chơi. Thế là, trước tiên hắn trà trộn vào lâm trường làm lụng một thời gian, rồi rủ hội Nhị Lãn Tử, những người dân bản địa đã thạo địa hình, dẫn hắn vào núi. Sau khi tìm thấy vật cần tìm, hắn lập tức ra tay giải quyết nhanh gọn ba gã đen đủi, tiếp theo đó vượt núi định trốn về phía nam, chẳng ngờ giữa đường thì bị tóm cổ.



Lúc ấy, hắn mới khai ra chuyện này. Nhưng, khi công an vào núi tìm kiếm thi thể người bị hại, thì nước mưa đã xói lở sườn núi, lấp kín cửa động, bởi vậy không tìm được xác. Nếu cứ vậy mà khép lại vụ án thì chẳng có gì đáng bàn. Điều đáng bàn là, địa điểm bắt được gã Khỉ Già trên tàu hỏa.




Khi đó, có hai nhân viên nhà tàu đến soát vé, thấy hành tung tên Khỉ Già lén la lén lút, trông rất khả nghi, vì hai mắt cứ láo liên, tay lại ôm khư khư một bọc rất to, nên hai anh liền lại gần hỏi hắn mấy câu, đồng thời yêu cầu cho kiểm tra hành lý. Khỉ Già có tật giật mình, lập cà lập cập mở bao hành lý ra.



Nào ngờ, hắn đột nhiên ném vụt thứ bên trong ra ngoài cửa sổ. Lúc ấy, đoàn tàu đang băng qua cầu, dưới chân cầu là dòng sông nước chảy cuồn cuộn, có vẻ rất xiết. Vật bị ném xuống có mà tìm đàng trời. Hắn nhất thời hoảng hốt, đã tiêu hủy chứng cứ, nhưng nhân viên soát vé và các hành khách xung quanh thì thấy rõ mồn một, vật Khỉ Giả ném đi là xác một đứa bé, chứ nào phải minh khí đồng xanh gì, hai thứ ấy khác nhau một trời một vực, dẫu có cận thị cũng đâu thể nhìn lầm được chứ? Có điều, mặc cho cảnh sát liên tục thẩm vấn, Khi Già chỉ nhận mình đã sát hại ba mạng, còn chuyện kia thì khăng khăng không chịu nói thật, một mực bảo mọi người trên tàu nhìn lầm.



Khi đó, cả nước đang dấy lên phong trào trấn áp, thanh trừ phản động, nên trong tình hình đó, bất kể Khỉ Già phạm phải điều luật gì, thì tội ác của hắn cũng không thể dung tha. Hắn mau chóng bị áp giải ra pháp trường xử bắn; còn chuyện Khỉ Già rốt cuộc đã tìm thấy thứ gì trong núi, có lẽ chỉ một mình hắn mới biết rõ mà thôi.



Ông bác cựu binh nói với hội Tư Mã Khôi: “Các đồng chí trong cục cảnh sát đã vào núi tìm chứng cớ, bốn năm đồng chí đội mũ bằng, tá túc ở lâm trường tụi tôi; tôi toàn nấu cơm cho các đồng chí ấy ăn. Lúc ăn cơm, nghe các đồng chí ấy kể rất nhiều tình hình, nên tôi mới biết tường tận từng chi tiết như vậy.



Tôi cũng biết gã Khỉ Già đó, hắn đáo để lắm, cũng lên bắc xuống nam suốt, biết rất nhiều chuyện trên trời dưới bể, đáng tiếc là cái bụng hắn xấu quá, có bản lĩnh nhưng không đi con đường chính đạo, cuối cùng phải đền bằng chính mạng sống của mình”. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, đều cảm thấy chuyện này quá là tà mị.



Nếu vật gã Khỉ Già ném xuống sông từ toa tàu hỏa là xác đứa trẻ, thì vì sao hắn lại không thừa nhận? Hắn đã mang trọng tội sát hại ba mạng người, thì cho dù giữa đường có hại chết thêm một đứa trẻ, hoặc là lén vận chuyển thi thể của đồng nam đồng nữ xuống phía nam, thì chung quy cũng vẫn mắc tội chết, hà cớ gì còn không chịu nói thật cơ chứ? Tư Mã Khôi nghe nói, trước đây có một cuốn du ký, kể về một nhà thám hiểm người Ý, tên là Marco Polo.



Thời Nguyên, Marco Polo theo đoàn thương nhân bộ hành vạn dặm đến Trung Quốc, ông từng diện kiến Hốt Tất Liệt. Sau khi trở về quê hương, ông đã tập hợp tất cả những chuyện kì lạ mắt thấy và tai nghe dọc đường và ghi chép lại trong cuốn du ký, những chuyện trong đó đã gây chấn động rất lớn.



Nhưng, trước lúc lâm chung, Marco Polo đã nói: những điều mình viết lại chỉ là một nửa những gì mình tận mắt nhìn thấy, còn một nửa còn lại ông thà để nó mục ruỗng trong bụng chứ không muốn để bất kì ai biết; bởi cho dù có nói ra thì cũng không ai dám tin. Chẳng lẽ gã Khỉ Già bị xử tử kia, cũng phát hiện thấy thứ gì đó trong núi sâu, thứ mà… không một người nào dám tin? Ông bác cựu binh thấy thần sắc Tư Mã Khôi hiện rõ vẻ bất an, liền nói: “Tuy bây giờ nhắc lại vẫn khiến người ta rùng mình, nhưng chuyện này rốt cuộc cũng đã trôi qua bao năm rồi, bây giờ chỉ là tào lao ngồi kể lại thôi, ai còn quan tâm ngọn nguồn gốc rễ của nó nữa chứ; vả lại chuyện quái dị trong lâm trường nhiều vô kể, sau này có thời gian tôi sẽ từ từ kể cho các cậu nghe…”, nói đến đây, ông bác hỏi Tư Mã Khôi: “Cô gái ngồi cạnh cậu, nom khí sắc có vẻ không được tốt lắm nhỉ!” Lúc này, trời đã chuyển giữa thu, không khí trong núi lành lạnh.



Cơ thể Thắng Hương Lân yếu ớt, cô che cuộn chăn len lên ngực, tựa người cạnh ba lô, mê man chìm sâu vào giấc ngủ, gương mặt trắng bệch như không còn sắc máu; cũng không rõ cô mơ thấy gì mà khi ngủ vẫn còn nhíu chặt hai mày, tình hình sức khỏe của cô trông có vẻ rất tệ. Tư Mã Khôi thở dài đáp: “Không nhắc đến thì thôi, cứ nhắc đến là tôi lại rầu hết cả ruột.



Cách đây không lâu, cô ấy bị trúng khí độc hàn nhiệt trong sa mạc, thỉnh thoảng lại thổ huyết đen, tìm thầy thuốc chữa trị mấy bận rồi, nhưng đến nay vẫn chưa thấy biến chuyển gì, nên đã bảo đừng đi theo tụi tôi vào núi, mà cô ấy cứ nhất quyết không nghe. Thực ra, cô nàng chẳng qua cũng chỉ đọc nhiều sách tí chút, mới biết Trái đất hình tròn và người tiến hóa từ vượn thôi, chưa đâu vào đâu đã không còn biết trời cao đất dày gì cả”.



Ông bác cựu binh rất nhiệt tình, quay lại bảo Tư Mã Khôi: “Đây là chứng trúng độc âm hàn nhiệt đó mà. Năm ấy, khi bộ đội vào núi tiễu phỉ, cả ngày chui luồn khắp hang hốc, khe cốc, những nơi đó đều rất ẩm thấp, âm khí nặng nề, có những khi dăm bữa nửa tháng không nhìn thấy ánh mặt trời, không khí quanh năm ứ đọng không lưu thông, lại liên tục phải truy quét bọn phỉ trong núi sâu, hành quân gấp gáp, khiến phổi muốn nổ tung, dễ khiến độc hỏa âm ỉ lặn vào tim.




Chứng bệnh này như giả vờ vậy, cơ thể lúc nóng lúc lạnh, nôn ra toàn máu đen, thể lực người nào kém một chút là mất mạng như chơi. Đồng chí chỉ huy trong đội tụi tôi cũng chết vì nó đấy”. Tư Mã Khôi nghe ông bác cựu binh kể, thấy rất giống với tình trạng của Thắng Hương Lân.



Theo cách nói của lang trung, chứng bệnh này “ngoài nóng, trong lạnh”. Anh và Hải ngọng đã sớm quen với khí hậu ẩm ướt trong rừng rậm, nên đủ khả năng miễn cưỡng ứng phó với môi trường khắc nghiệt cực độ đó, còn Thắng Hương Lân, tuy cô cũng thường xuyên theo phân đội trắc họa ra ngoài thực địa công tác, nhưng điều kiện vẫn tốt hơn nơi này rất nhiều; vả lại trong quá trình mò mẫm dưới đáy vưc sâu, áp lực và sự giày vò mà tinh thần phải chịu đựng cũng tàn khốc chẳng khác nào điều kiện môi trường, mà cô có thể chống đỡ đến tận thời điểm này thì cũng khó khăn và đáng quý lắm rồi.



Ông bác cựu binh nói: “Năm đó, vì không hợp khí hậu, cộng thêm nhiệm vụ tác chiến cấp bách, nên quân số trong đội bị giảm đáng kể, số người chết trong núi cũng không ít, may nhờ lang trung bản địa đưa cho phương thuốc dân gian, tình hình mới có chuyển biến. Giữa rừng hoang núi sâu này có bốn vật quý là: giang biên nhất uyển thủy, đầu đỉnh nhất khỏa châu, văn vương nhất căn bút, thất diệp nhất chi hoa”.



Tư Mã Khôi không biết đó là những vật gì, liền vội hỏi. Thì ra, rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá mọc rất nhiều dược thảo quý hiếm, thậm chí nước suối cũng có tính dược, mỗi khi tiếng sấm xuân nổi lên, hãy múc một bát nước suối dưới chân núi, nó có công dụng chữa trị chấn thương xương cốt, phong thấp.



Một giọt sương trên đỉnh đầu có thể trị chứng đau đầu, cán bút Văn Vương có thể trị chứng nóng ngoài, còn bông hoa bảy lá có công liệu vô cùng kì diệu, thậm chí có thể nói là “khắc tinh của nọi chứng bệnh lạ khó trị”. Thứ gọi là “Thất diệp nhất chi hoa”, là một loại thực vật giống như cái tên của nó.



Đặc trưng của loài cây này là có bảy chiếc lá, nâng một đóa hoàng liên, có thể bắt gặp nó ở bất kì đâu trong núi, có khả năng chữa trị tận gốc các chứng bệnh như trúng độc âm hàn nhiệt. Nghe nói, loài cây này là di vật lão tồ Thần Nông để lại cho hậu thế, những người nghèo không có tiền bốc thuốc, sống trong vùng núi có thể dùng nó cứu mạng.



Ồng bác cựu binh còn nhiệt tình đi vòng một đoạn đường, tự mình xuống khe núi đào hai củ thảo dược, nghiền vụn nhào cùng nước suối, rồi gọi Thắng Hương Lân dậy, bảo cô mau uống, đoạn hỉ hả bảo: “Mệnh cô còn lớn đấy, trước đây chỗ này đâu đâu cũng toàn cây thuốc, nhưng bây giờ phần lớn rừng rậm đã bị chặt phá.



Hôm nay đào được hai củ coi như trời thương người hiền rồi, bằng không các cô cậu phải vào tận trong rừng rậm nguyên sinh phía sau Yến Tử Ô mới tìm được cơ”. Giữa đường, ông bác cựu binh phải đến lâm trường số bảy, trong khi ba người hội Tư Mã Khôi lại muốn đến thị trấn Thương Bách, nên hai bên đành chia tay.



Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thảo dược, sắc mặt trông có vẻ hồng hào thấy rõ, bởi vậy anh rất cảm kích ông bác cựu binh đầy nhiệt tình, anh liền lấy tem phiếu toàn quốc, loại để mua 5 yến gạo ra để biểu thị lòng cảm ơn. Thời ấy, tem phiếu toàn quốc hoàn toàn có thể thay thế món tiền lớn, bất kể đi công tác hay đi thăm người thân, đến đâu cũng sử dụng được, nếu không có thứ này, ra ngoài nửa bước cũng thấy khó khăn, giá trị của nó còn đắt đỏ hơn nhiều so với tem phiếu địa phương, nhưng ông bác cựu binh kiên quyết không nhận, bác nói: “Lâm trường chỗ tụi tôi có lương, có gạo, không thiếu ăn cũng không thiếu uống, một tháng tiền lương trừ đầu trừ đuôi đi, vẫn đủ mua hai tút thuốc lá kinh tế, lấy chỗ tem phiếu này của các cậu làm chi? Vả lại, đem tem phiếu toàn quốc loại 5 yến ra để đổi lấy hai củ thảo dược thì nghe có vẻ cũng hơi nhiều đấy nhỉ.



Nếu như các cậu thực sự có lòng muốn cảm tạ tôi, thì để lại cho tôi thứ khác nhé!” Thứ đáng giá nhất trên người Tư Mã Khôi chính là tem phiếu toàn quốc, còn những thứ khác toàn là vật dụng cần thiết để vào núi. Anh cũng không biết ông bác cựu binh thực ra muốn lấy thứ gì.




Trên ngực Tư Mã Khôi có gắn “quân tinh”, đó là hàng xịn nhất trong các loại hàng xịn, là một “huy hiệu sao Mao chủ tịch”, được bộ chính trị cục giải phóng quân thiết kế và cấp phát. Nó chỉ nhỉnh hơn ngón tay cái một chút, cùng một bộ với huy chương “vì nhân dân phục vụ” vẫn thường thấy, viền vàng nền đỏ trông rất bắt mắt, do chỉ phát ra với số lượng vô cùng ít ỏi, nên kỹ thuật khá tinh xảo, bởi vậy trông cực kì đặc biệt, người bình thường còn chưa bao giờ nhìn thấy ấy chứ.



Lai lịch chiếc huy hiệu này của Tư Mã Khôi còn đặc biệt hơn. Thời kì đầu đại Cách mạng Văn hóa, anh cùng hội anh Thiết Đông đến Diên An tham quan quê hương cách mạng. Trên đường trở về, đột nhiên tuyết trắng rơi ngập trời như lông ngỗng, mọi người dõi mắt ra xa, chỉ thấy bầu trời mặt đất trắng xóa một màu tinh khiết, bất giác nổi hứng đồng thanh đọc to mấy câu thơ của Mao chủ tịch: “Phong cảnh phương bắc, ngàn dặm băng đóng, vạn dặm tuyết bay….”, đến câu cuối: “Đã qua hết cả, bao đời anh hùng, ngắm sao sớm ngời”, thì tên nào tên nấy xúc động đến mức những giọt nước mắt nóng hổi cứ ầng ậng khóe mắt như muốn tuôn trào, và họ không kìm được đã hô vang ba lần “Muôn năm! Muôn năm! Muôn năm!”, lúc đó đứa nào cũng cứ ngỡ mình đang trở thành “nhân vật hào kiệt thời nay” của Đường Tông, Tống Tổ cơ đấy.



Kết quả là, Tư Mã Khôi vì hơi đắc thắng quá, mà đã vô ý ngã lăn xuống sườn núi, chiếc áo khoác anh lén lấy trộm của bố bị rách một miếng to. Khi ấy, anh Thiết Đông thấy Tư Mã Khôi đau suýt khóc đến nơi, liền gỡ huy hiệu trên áo mình xuống, đeo trước ngực cho cậu, và bầu không gian phủ trắng tuyết lại càng tôn lên vẻ lấp lánh của ánh sao vàng, ai thấy cũng không khỏi ngưỡng mộ.



Cũng chính vì ý nghĩa đặc biệt này, nên Tư Mã Khôi còn quý trọng nó hơn cả tính mạng mình. Lúc thường anh không nỡ mang ra đeo. Sau đó, lúc đi Miến Điện, anh gửi nó ở nhà Hạ cần, mãi khi được thả ra khỏi xưởng gạch ngói mới lấy về; nên cái này gọi là “nhìn vật lại nhớ đến người, vì hễ nhìn chiếc huy hiệu, anh lại nghĩ đến những chiến hữu đã chết thảm ở mảnh đất Miến Điện năm xưa.



Tư Mã Khôi rất tiếc khi đem tặng nó cho người khác. Thực ra ông bác cựu binh cũng chưa chắc đã biết giá trị của chiếc huy hiệu, chỉ là thấy nó lạ mới thích mà thôi, nhưng người ta đã giúp đỡ, anh cũng không tiện chối từ, nên chẳng nói chẳng rằng, gỡ nó xuống đưa cho ông bác cựu binh.



Ông bác cựu binh có được chiếc huy hiệu thì vui mừng hớn hở ra mặt. Ông cáo biệt hội Tư Mã Khôi rồi vội vã đánh xe vào đường núi, bóng dáng dần xa khuất. Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi rất coi trọng chiếc huy hiệu, lòng vô cùng cảm động, cô nói với anh: “Hôm nay rất cảm ơn anh, sau này tôi nhất định sẽ tìm một chiếc giống hệt như vậy trả cho anh”.



Hải ngọng biết rõ nội tình, anh bảo Thắng Hương Lân: “Em gái ! Em không biết đấy thôi, đừng thấy cả nước có bao nhiêu chiếc huy hiệu Mao chủ tịch to nhỏ khác nhau, nhưng tất cả chúng cộng gộp lại cũng không đổi được chiếc huy hiệu hình sao kia của thằng Khôi đâu”. Nói xong, anh quay người hỏi Tư Mã Khôi: “Hồi xưa tớ xin cậu mấy lần liền, mà tiểu tử nhà cậu còn không nỡ cho tớ đeo mấy phút, sao hôm nay đột nhiên lại trở nên hào phóng thế hả?” Tư Mã Khôi vờ bình thản: “Vật rốt cuộc cũng chỉ là vật! Đâu đáng để mình phải bận tâm!”.



Đoạn anh vác ba lô lên lưng, đứng dậy khởi hành, miệng thì bảo vậy nhưng lòng lại ngẫm nghĩ: “Nếu sau này tìm được vật gì quý hiếm, mình sẽ tìm cách đến lâm trường, để đổi lại chiếc huy hiệu vừa cho ông bác kia.” Anh vì mải suy nghĩ miên man, mà không biết là cả hội vừa đi được một đoạn đường núi khá dài.



Thị trấn Thương Bách đã ở ngay trước mắt, nhưng đi vào trong thị trấn, cả hội mới phát hiện nơi đó trống hoác, không có một bóng người, ngay cả tiếng gà gáy chó sủa cũng không thấy, chỉ có âm thanh vi vu của những làn sóng cây tùng bách nhấp nhô trong núi sâu văng vẳng truyền lại.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 125: Hồi 5: tháp canh


Thị trấn Thương Bách là địa phận xung yếu của Thần Nông Giá, tuy quy mô của nó nhỏ hơn các thôn xóm bình thường khác, nhưng đó là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn tiến vào núi, vì bốn phía núi cao bao vây trùng điệp, tùng bách mọc um tùm rậm rạp. Từ đây đi tiếp vào Yến Tử Ô, chỗ nào cũng toàn vách cao vực sâu nguy hiểm, bị rừng rậm nguyên sinh che phủ, con đường ở đây không còn là “đường” theo nghĩa thông thường nữa.



Hội ba người Tư Mã Khôi vào núi thăm dò bí mật chuyến này, cố gắng không tiếp xúc với người ngoài, tránh để bại lộ hành tung, gây ra những phiền toái không đáng có. Thế nhưng nếu không có người bản địa dẫn đường và bản đồ chi tiết, thì muốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này cũng đâu phải chuyện dễ, bởi vậy, trước tiên cả hội phải vào thị trấn để thăm đoàn trưởng Bạch.



Đoàn trưởng Bạch là cháu ruột của lão Lưu Hoại Thủy, trước đây từng là đoàn trưởng binh đoàn đường sắt, xét theo cấp bậc hành chính mà nói, thì chức ấy cũng tương đương với cán bộ đoàn thể cấp huyện. Trước Cách mạng Văn hóa, ông phục viên rồi chuyển đến địa phương này công tác, bây giờ là thành phần cốt cán của ủy ban cách mạng huyện, nên chỉ cần ông ấy chịu ra tay giúp đỡ thì khó khăn của ba người lập tức được giải quyết.



Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi đến nơi thì cả thị trấn vắng tanh không một bóng người, nhà nào cũng cửa đóng then cài. Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều giàu kinh nghiệm trinh sát hành quân. Hai người quan sát tình hình xung quanh một hồi, thấy mặt đất hãy còn đám tro tàn, nhưng bếp lò thì đã nguội lạnh từ lâu, mọi đồ đạc có giá trị trong nhà đều được chuyển đi sạch bách.



Xem ra, toàn bộ người dân sống trong thị trấn này đã di dời đến nơi nào đó vào mấy ngày trước, còn nguyên nhân vì sao thì hội anh không đoán ra được. Lúc này sắc trời đã dần tối, ba người đành trèo tường vào một nhà dân, ôm bó củi nhóm lửa, đun siêu nước nóng, nhuộm nhoạm ăn lót dạ vài miếng lương khô, rồi chuẩn bị ngả lưng cho lại sức.



Màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ rất nhanh, toàn thị trấn vùng thâÂm Sơn chưa được mắc điện, nên chỗ nào cũng tối mò mò, mỗi lần gió núi quét qua, lại văng vẳng vọng đến âm thanh não nùng thê lương, như tiếng rên rỉ của rặng tùng bách phía ngoài thị trấn. Hội Tư Mã Khôi vì từng trải qua vô số trải nghiệm hãi hùng, nên cũng để ý đến mấy chuyện vặt vãnh ấy.




Anh thấy Thắng Hương Lân sau khi uống thuốc, khí sắc chuyển biến rất tốt, nên cũng yên tâm hơn. Ba người ngồi quanh lò lửa, vừa sưởi ấm, vừa nói chuyện. Lúc trước, Hải ngọng đã dự tính đâu vào đấy, anh còn cho rằng, nếu tìm được vị lãnh đạo địa phương, thì hội anh chí ít cũng kiếm được bữa cơm ngon canh ngọt, làm gì có chuyện không thết đãi mình nổi mấy món “canh gà hầm nấm, nham nhĩ(1) xào thịt quay, dưa cải muối om đậu phụ”, chẳng ngờ lại bị ăn quả hụt, bây giờ đành ngồi gặm lương khô, nên trong lòng thấy chán nản khỏi phải bàn.



Nhưng nghĩ cũng lạ, không hiểu người dân trong thị trấn đi đâu hết? Cả hội bàn luận ba câu sáu điều, rồi cùng cho rằng bớt một việc còn hơn thêm một việc, nên không cần thiết phải quan tâm xem thị trấn trong núi xảy ra chuyện gì, ngày mai vẫn tiến hành mọi việc theo đúng kế hoạch, tiến thẳng vào núi.



Thế là, mọi người chuyển sang bàn bạc mục tiêu chuyến đi lần này. [1] Nham nhĩ: một loài thực vật mọc ra từ các khe đá, hình thức gần giống mộc nhĩ, thường được dùng làm thức ăn. Thông qua các manh mối phát hiện dưới kính viễn vọng Lopnor, đặc biệt là cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, Tư Mã Khôi biết được có một nền văn minh cổ đại đã bị thất lạc ngoài sử sách.



Nó khởi nguồn từ bộ tộc Quỷ Nô bị Vũ Vương nhốt dưới lòng đất, rồi hậu thế của họ phân nhánh và sinh sống ở nhiều nơi, trong đó có người Tochari ở Tây Vực và nước Diệt Hỏa ở Miến Điện v.v… Đặc điểm chung của họ là đều nhuốm màu sắc thần bí cô lập đậm nét, và có thể gọi chung tất cả hậu duệ của tộc Quỷ Nô là bộ tộc Bái Xà, tức tộc người thờ rắn.



Người Bái Xà đã mang tất cả truyền thuyết li kì và thần bí của dân tộc mình, chạm khắc lên bức tường đá của gian mật thất dưới lòng đất. Theo sự lý giải của hội Tư Mã Khôi, những truyền thuyết đó có lẽ chính là bia Vũ Vương chìm xuống vực sâu dưới lòng đất, vĩnh viễn không còn lộ diện trước nhân thế, nhưng tộc người Bái Xà lại vẫn còn vọng tưởng tìm thấy nó.



Buồn thay, thiên số thì cao mà địa số thì sâu, vực thẳm mù mịt, nên người thường không có cách nào đặt chân đến đó. Căn cứ theo những ghi chép mà tộc người Bái Xà để lại, muốn đến được chỗ đặt tấm bia Vũ Vương dưới vực sâu, trước tiên bắt buộc phải tìm thấy vật thể có tên là “nhật quỹ”.



Vật thể lai lịch bất minh và quái dị này, khả năng xuất hiện từ thời Thần Nông. Thông qua sự khảo chứng chuyến đi lần trước của hội Tư Mã Khôi, thì người cuối cùng tận mắt nhìn thấy nó có lẽ chính là Sở U Vương thời Xuân Thu Chiến Quốc. Hơn hai ngàn năm từ đó về sau, ẩn số còn cổ xưa hơn cả niên đại cổ xưa, vẫn ngủ sâu trong Thần Nông Giá.



Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói đến những chuyện này thì láu táu phỏng đoán: “Lẽ nào gã Nấm mồ xanh bảy phần giống quỷ, ba phần cũng không giống người kia, là người Bái Xà cổ đại?” Tư Mã Khôi lắc đầu phủ định: “Nấm mồ xanh không có khả năng nhận biết chữ triện cổ triều Hạ, vì vậy hắn có vẻ không phải người Bái Xà bị diệt vong hàng ngàn năm về trước.



Giờ đây, khuôn mặt và thân phận thực sự của u hồn đó vẫn để lửng không lời giải, nhưng dẫu có là ma quỷ, thì hắn cũng phải có một lai lịch nhất định chứ”. Ba người đều cảm thấy chuyện này vô cùng kì quái, nhưng vì phục thù và chuộc lỗi, nên họ đành đặt mạng sống ra ngoài vòng sinh tử, tiếp tục đi tìm lời giải.



Họ đã chuẩn bị sẵn tâm lý để ứng phó với mọi biến cố. Đêm hôm đó, hội Tư Mã Khôi tá túc trong thị trấn Thương Bách. Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng, Tư Mã Khôi đã dậy, đi lòng vòng quan sát những ngôi nhà xung quanh, anh không tìm thấy súng săn, liền tiện tay lấy một ít muối và dầu cây tùng, sau đó để lại hai đồng chèn dưới bệ đèn.



Cuối cùng, anh và hai người bạn đồng hành thu xếp hành lý chỉnh tề, quấn vải vào bắp chân rồi tiến vào núi sâu. Tuy không có người dẫn đường, nhưng anh vẫn nắm được phương hướng đại khái, trước tiên phải vượt đỉnh Thần Nông Giá cao nhất so với mực nước biển, sau đó băng qua Yến Tử Ô, rồi tiến vào rừng rậm nguyên sinh; còn làm thế nào tìm thấy đường hầm trong m Hà Cốc, thì phải đợi vào núi trinh sát tỉ mỉ mới biết được.




Núi non ở Thần Nông Giá uy nghi, hiểm trở. Những dãy núi trải dài ngút tầm mắt, trông đồ sộ, nhấp nhô, trùng trùng điệp điệp nhiều tầng. Trong rừng mọc đầy lãnh sam, trúc gai và hoa đỗ quyên dại. Lúc này, tiết trời đang lúc giữa thu, cả cánh rừng nhuộm đỏ sắc hoa và xác lá khô, không những vậy, còn có vô số thác nước, dường như mỗi một sơn cốc đều có dòng suối nước trong vắt, xanh thẳm, tuôn chảy róc rách.



Đi qua thị trấn Thương Bách chính là cánh rừng nguyên sinh không bóng người, càng vào sâu, rừng rậm càng um tùm, thần bí, khe núi hun hút, đỉnh núi xanh thẫm, trùng độc rắn độc và các loài dã thú thường xuyên lai vãng. Ở Miến Điện, Tư Mã Khôi vẫn thường phải chui rúc trong các khu rừng rậm nhiệt đới, nhưng anh chưa bao giờ đi vào rừng rậm nguyên sinh giống như Thần Nông Giá.



Anh chỉ biết đỉnh Thần Nông cách mặt biển 3000 mét, là ngọn núi chính cao nhất trong quần thể núi Đại Ba. Nhưng đến khi bước chân vào, anh mới phát hiện, các ngọn núi xung quanh đều sàn sàn giống nhau, địa thế nhấp nhô đan xen, không thể phân biệt rõ ngọn núi nào là đỉnh Thần Nông.



Ngoài ra, cả dải rừng già núi thẳm này toàn là đỉnh núi cao chót vót và vực sâu chằng chịt, nhiều nơi không có đường đi, nên rõ ràng đã ngắm chuẩn hướng mà không qua nổi, đành đi đường vòng mất cả ngày trời, cuối cùng vẫn loanh quanh một chỗ. Ba người phải dựa vào kinh nghiệm trước đây, mò mẫm theo hướng chạy nhấp nhô trải dài của ngọn núi, không ngừng đi sâu vào trong.



Họ xuyên rừng suốt hai ngày, cũng không rõ đã phải quanh qua bao khúc đường vòng, thì mới thấy ở nơi sâu trong rừng cây có một ngọn núi hình dáng trông như đỉnh mái nhà, mà nhìn bao quát tứ phía xung quanh, thì dường như những ngọn núi khác đều không cao bằng nó. Mọi người đoán, có lẽ đây chính là đỉnh núi chính của Thần Nông Giá, mà cho dù có không phải, thì cũng có thể trèo lên đỉnh để bao quát địa hình.



Ngặt nỗi, trong rừng rậm không có đường, tứ phía toàn là rừng cây rậm rì rịt, dưới khe núi thấp hơn cả mực nước biển là rừng lãnh sam, còn ở trên cao là rừng trúc gai nguyên sinh đan cài mau rít. Những cây trúc cao to lực lưỡng, trên các đốt còn mọc đầy gai nhọn, đến khỉ vượn cũng phải bó tay không thể leo lên nổi.



Các loại thực vật mọc xen lấn nhau, phân tầng theo độ cao, kết bện thành một tấm lưới khổng lồ, mảnh nọ tiếp nối mảnh kia, dường như không có khe hở nào cho phép con người đi xuyên qua. Những cây bách mọc không cao lắm, có thể bám vào cành mà leo lên, còn lúc thực sự không có đường nào để đi, thì chỉ có cách bới những lùm cây hoặc bụi cỏ ở chỗ thấp mà trèo qua, nên hệ thống định vị bằng các giác quan vốn có của cơ thể con người rất dễ bị nhiễu loạn, khiến cả hội buộc phải liên tục dựa vào la bàn để định vị phương hướng, điều đó khiến tốc độ giảm đi rất nhiều.



Cứ như vậy, cả hội cũng đi được một đoạn đường rừng. Trong bụi cỏ trước mắt, đột nhiên có mấy con chim trĩ bay ra tán loạn, chúng kéo cái đuôi dài lê thê nhảy bật lên độ cao tầm ngang người. Tư Mã Khôi và Hải ngọng biết: ngữ này chạy thì cực nhanh, nếu rơi xuống bụi cây rậm rạp thì có mà trời bắt được, nhưng bay thì dở tệ, trông lóng nga lóng ngóng như quạ vào chuồng lợn.



Hai người nhanh tay nhanh mắt, ngắm chuẩn thời cơ con trĩ từ lưng chừng trời rơi xuống là lao đến vồ mỗi người một con, ném xuống bờ suối vặt lông sạch sẽ, rồi bảo Thắng Hương Lân nhóm một đống lửa, xuyên cành cây qua thân nó rồi cho chim lên nướng. Hôi Tư Mã Khôi biết làm như vây là rất dễ dẫn dụ bọn dã thú trong núi sâu chui ra, nhưng thực sự không thể ngăn được sự mê hoặc của món hương vị núi rừng này, vả lại trên người đã có nến tín hiệu, nên cho dù có gặp hổ báo hay người rừng khó đối phó nhất, thì cũng nắm chắc khả năng xua chúng rút lui.



Hải ngọng càng không đợi được, anh chàng nhìn con trĩ mà hai mắt mòng mọng muốn chảy dầu, mặc kệ bị bỏng tay, anh chàng xé luôn một miếng cả da lẫn thịt, đút vội vào mồm, kết quả lưỡi bỏng, không nhịn được định kêu ré lên. Tư Mã Khôi vẫn luôn giữ tinh thần cảnh giác rất cao độ, anh phát hiện ở nơi sâu trong rừng rậm đang có động tĩnh lạ khẽ truyền đến từng hồi, nên liền lập tức giơ tay bịt miệng Hải ngọng, không cho anh chàng kịp bật ra tiếng thét.



Cùng lúc đó, Thắng Hương Lân vun đất dập tắt đống lửa trên đất. Hải ngọng cũng nghe thấy phía sau lùm cây có tiếng chân giẫm lá lạo xạo, dường như là con dã thú nào đó ngửi thấy mùi thơm liền tìm đến. Anh vội vàng túm vạt áo, nhét nửa con trĩ đã chín vào, rồi lập tức rút con dao săn ở thát lưng ra.



Lúc này, phía sau những cây lãnh sam cao to, bỗng nhiên có hai con chó săn lưng đen tai nhọn mõm dài, thân hình to lớn, thần thái lầm lì, tinh nhuệ, lao vụt ra. Chúng không sủa tiếng nào, chúi đầu hất mõm, mắt gườm gườm nhìn hội Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi biết đây là loài chó săn được huấn luyện, liền đứng im tại chỗ, đưa mắt ra dấu với hai người còn lại.




Ba người đều không dám manh động. Liền sau đó, có ba người chạy nhanh từ sau lùm cây ra, trong đó có một cậu thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi, da đen ánh đỏ, tướng mạo dữ tợn, tay lăm lăm khẩu súng săn, thắt lưng giắt con dao đốn củi và hồ lô thuốc. Có lẽ, cậu ta là thợ săn trong núi.



Phía sau cậu ta là một cô gái trẻ mặc quân phục, xem chừng cũng chỉ ngoài đôi mươi là cùng, mắt to tròn, đen láy, trông rất có thần, lưng đeo hành lý và bình nước quân dụng, cạnh eo giắt bao vũ khí, trông gọn gàng, chỉnh tề. Đi sau cùng là một thanh niên gầy yếu, giống bộ dạng thanh niên trí thức thường thấy trong lâm trường, sống mũi gá cặp kính cận dày cộp như đít chai bia, quần áo giặt đến bạc phếch, nhằng nhịt bao nhiêu chỗ vá, cậu ta cũng cầm súng săn, sau lưng đeo một chiếc máy bộ đàm không dây đời cũ, khi nãy chạy gấp quá, bây giờ mệt đến nỗi hai tay chống đầu gối thở hổn hà hổn hển.



Cậu thiếu niên nhìn dáng dấp giống thợ săn nhíu cặp lông mày nhỏ, giọng nói rất kích động. Cậu ta giận giữ thầm đánh giá hội ba người Tư Mã Khôi một hồi, rồi quay đầu nói với cô gái mặc quân phục: “Chị! Chính bọn họ đốt lửa đấy!” Tư Mã Khôi đưa mắt ra hiệu bảo Hải ngọng nhẹ nhàng thu dao săn lại, sau đó vội vàng giải thích với đối phương: “Xin đừng hiểu lầm! Bọn tôi chỉ là người qua đường, thấy khói trong rừng bốc lên, liền vội vã đến đây dập lửa…” Cô gái mặc quân phục nhìn miệng Hải ngọng vần còn nhét miếng thịt, thì biết ngay nội tình.



Cô hỏi thẳng Tư Mã Khôi: “Các anh ở đơn vị nào? Có biết đốt lửa trong rừng nguy hiểm lắm không hả?” Tư Mã Khôi đã chuẩn bị sẵn một màn khua môi múa mép để ứng phó. Anh tự nhận mình là người của đội khảo cổ, định đến rừng rậm nguyên sinh ở núi Đại Thần Nông Giá để tìm hóa thạch sinh vật cổ.



Đồng thời, anh còn giơ thẻ công tác và hai phong thư giới thiệu ra, chứng minh mình có quen biết lãnh đạo ủy ban cách mạng huyện. Cậu thiếu niên thợ săn vẫn không thèm đếm xỉa, còn cô gái mặc quân phục thì xem qua giấy tờ của Tư Mã Khôi, vì không phát hiện thấy điểm khả nghi nên cũng không tiếp tục truy cứu chuyện đốt lửa nữa.



Cô nói: “Đây là địa phận núi trước của Thần Nông Giá, m Hà Cốc còn gọi là m Hải Cốc, nằm ở phía Tây Bắc của ngọn núi chính. Nghe nói, trong rừng sâu thường xuất hiện bọn sói đầu lừa, nó có thân hình chỉ nhỉnh hơn con lừa một chút, đầu cũng rất giống lừa, nhưng lại có bốn bộ móng vuốt sắc nhọn như loài sói, đuôi to dài, vừa có thể chạy lại vừa có thể bay, bản tính hung hãn, tàn nhẫn, những lúc không kiếm được thức ăn, chúng sát hại cả súc vật và thậm chí ăn thịt người.



Các anh không mang súng săn phòng thân, lại muốn vượt qua Yến Tử Ô đi tìm hóa thạch ở rừng rậm nguyên sinh, thì đúng là quá sức nguy hiểm. Tư Mã Khôi liên tục gật đầu cho là phải. Anh cũng hơi hiếu kì với lai lịch của hội cô gái mặc quân phục, không biết đối phương đang chấp hành nhiệm vụ gì, mà có cả thợ săn và thanh niên tri thức lâm trường bản địa đồng hành, không chừng lại đang hành động quân sự cơ mật cũng nên.



Thế là anh liền tiến lại dò hỏi, mới biết nhóm đặc biệt này có nhiệm vụ đến tháp canh ở sườn bắc của đỉnh thần Nông Giá. Tháp canh đó cao tầm 40 mét, bên trên lắp đặt trạm thông tin và quan sát cứu hỏa, đứng ở nơi cao dõi mắt nhìn ra tứ phía, rừng cây cả vạn dặm đều thu vào tầm mắt.



Đó là trạm cao nhất của cả dãy Thần Nông Giá này, nơi đó cách Yến Tử Ô phía sau núi không còn bao xa, có thể tiện đường dẫn hội Tư Mã Khôi đi cùng. Tư Mã Khôi nằm mơ cũng chẳng ngờ, đang lúc buồn ngủ lại gặp chiếu manh, anh liền bước tới hỏi cô gái mặc quân phục: “Vì sao thị trấn dưới chân núi vắng tanh không một bóng người thế hả cô?” .


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 126: Hồi 6: ngôi nhà ma trong núi sâu


Cô gái mặc quân phục biết rõ lai lịch hội Tư Mã Khôi, thì đồng ý dẫn hội anh đến tháp canh. Cô bảo: “Chúng tôi phải đến trạm nghỉ trước khi trời tối, nên không thể nấn ná lâu giữa đường, có gì muốn nói thì vừa đi vừa nói”. Thế là, mọi người khởi hành đến trạm quan sát tháp canh ở Đại Thần Nông Giá, hai con chó săn đi trước dẫn đường.



Cô gái mặc quân phục nói với Tư Mã Khôi, Thần Nông núi cao rừng thẳm, từ cổ chí kim tuy người ít thú nhiều, nhưng thành phần người sống ở đây lại vô cùng phức tạp, vì bản thân Thần Nông Giá là vùng đất tiếp giáp giữa ba tỉnh năm huyện, ở đây người Thiểm Tây, người Hồ Bắc, người Tứ Xuyên đều có cả, chủ yếu mưu sinh bằng nghề săn bắn, hái thuốc và buôn lậu sản vật núi rừng.



Sau giải phóng, các lâm trường đua nhau mọc lên như nấm, hàng loạt bộ đội chuyển ngành đều chọn nơi đây để an cư lạc nghiệp, ngoài ra còn tuyển dụng rất nhiều công nhân đốn gỗ từ các tỉnh khác đến và cả thanh niên trí thức từ thành thị xuống lâm khu cải tạo tư tưởng nữa.



Thành phần tạp nham nên cũng dễ xảy ra chuyện, cách đây không lâu, có bốn thanh niên trí thức gác đêm ở lâm trường, vừa mới đặt lưng, bỗng nghe một tiếng sấm từ giữa không trung giáng xuống, khiến thoắt chốc bốn người đều giật mình tỉnh giấc, chỉ thấy có quả cầu lửa từ kẽ hở trên mái nhà luồn vào trong, thoáng cái đã biến mất.



Dường như lằn sét khi nãy vừa đánh trúng mái nhà vậy, rồi liền sau đó tiếng sấm nổ như tiếng bom, tiếng nọ nối tiếp tiếng kia, âm thanh dội xuống gần mái, sét nhằng nhịt bủa vây ngôi nhà. Bốn người sợ xanh mặt, tất cả đều chui xuống gầm giường, không ai dám chạy ra ngoài. Gặp phải tình huống này, trong lòng khó mà không nghĩ đến những chuyện xấu, nhất là những chuyện ma quỷ, nên có người nói: “Trong bốn người chúng ta, chắc chắn có kẻ đã làm chuyện bại hoại, chỉ sợ ông trời không cho chúng ta qua nổi đêm nay đâu, hảo hán dám làm dám chịu, hãy khẳng khái mà tự mình đi ra ngoài chịu sét đánh, đừng khiến những anh em khác phải chịu liên lụy theo”.



Lúc đó, một cậu bỗng òa lên khóc, cậu ta nói: “Nhà tôi chỉ có mình tôi là con độc đinh, mẹ già lại đang bệnh nặng, quanh năm lúc nào cũng cần người ở bên chăm sóc, bởi vậy tôi mới giấu mọi người mang tặng cho bí thư chi đoàn hai tút thuốc lá Mẫu Đơn và mấy gói hạt sô cô la do xưởng thực phẩm Nghĩa Lợi sản xuất, để đồng chí ấy viết cho tôi tờ chỉ thị được trở về thành phố, tranh suất của người lẽ ra phải được xét duyệt về thành phố chuyến này”.



Có người mở đầu, ba người còn lại cũng lần lượt kể ra chuyện xấu của mình, rốt cuộc con người nào có ai hoàn hảo, nào có ai thực sự không làm chuyện áy náy lương tâm? Nhưng cuối cùng, bọn họ vẫn không thể phán đoán ra được người nào mới là kẻ đáng bị trời đánh, thế là cả hội quyết định từng người chạy ra ngoài, khi người cuối cùng vừa bước chân chạy khỏi, thì ngôi nhà bị sét đánh trúng, góc nhà sụp một vạt lớn, gạch ngói cháy đen thui, trên xà nhà có một con mãng xà to như cái chày cán bột đang nằm treo mình vắt vẻo, toàn thân nó trông ánh lên những vằn đỏ.




Trước đây, các thanh niên trí thức đến lâm trường đều nghe kể truyền thuyết về yêu vật tránh sét, lúc này họ mới hiểu thì ra mình đang gặp chuyện gì. Cả hội liền vội vàng vác xà beng đến gần chặt tới tấp vào mình con mãng xà. Nào ngờ, sau khi nó bị chặt ra thành nhiều khúc, thì lại giống như con giun, khúc nào cũng có tri giác, còn có thể tự mình bò đi, rồi lại tụ hợp thành một thể.



Bọn họ đành dùng lửa để thiêu, không ngờ gây cháy rừng, lửa gặp gió, càng cháy càng đượm, gần như cả lâm trường số ba đều bị thiêu hủy. Trong bốn thanh niên thì có hai người bị lửa thiêu chết tại chỗ, hai người còn lại bị nhốt vào đồn thẩm vấn, nhưng không ai tin chuyện họ kể.



Mọi người đều cho ràng họ bịa chuyện để chối đẩy trách nhiệm, bởi vậy hai người kia nhanh chóng bị chuyển lên cấp có thẩm quyền cao hơn, còn cụ thể họ bị ngồi tù hay xử bắn thì cô cũng không rõ. Tư Mã Khôi biết, ở chốn rừng sâu núi thẳm, có một loài gọi là ngàn cước xà, hay còn có tên khác là toái xà, hợp lại là rắn mà tách ra thì biến thành giun, người chưa bao giờ nhìn thấy sẽ không thể tự tưởng tượng ra để bịa đặt được.



Xem ra, câu chuyện mấy thanh niên trí thức kia nói, có lẽ phần lớn là sự thật, nhưng gây cháy rừng là tội rất nặng, dẫu là lý do gì thì cũng không thể chối bỏ trách nhiệm được. Nghĩ lại mới thấy bộ dạng tức giận của tay thợ săn thiếu niên khi nãy đúng là không phải vô duyên vô cớ.



Trong rừng rậm, đâu đâu cũng toàn cành khô lá mục, mầm lửa chỉ cần bén lên là không thể nào dập tắp. Người ta đời đời kiếp kiếp kiếm ăn nhờ núi rừng, nên đương nhiên họ rất coi trọng việc phòng cháy chữa cháy. Cô gái mặc quân phục lại kể tiếp tình hình trong núi, sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, ngọn lửa lan đến thị trấn Thương Bách, người già, trẻ con và phụ nữ trong thị trấn đều được di dời tạm thời sang nơi khác, còn lại toàn bộ dân binh và công nhân lâm trường thì bị huy động vào núi dập lửa.



Cô gái mặc quân phục tên là Cao Tư Dương, người Nam Kinh, hiện giờ là học viên trường quân y quân khu Vũ Hán. Học viện này liên tục triển khai các hoạt động bộ đội chi viện địa phương, ở vùng núi Thần Nông Giá trong suốt nhiều năm, mục đích của hoạt động này là ngoài việc đẩy mạnh công tác huấn luyện quân quản, thì còn thâm nhập vào những khu vực mà giao thông bị tắc nghẽn nghiêm trọng để chữa bệnh, tặng thuốc cho người dân miền sơn cước.



Tháp canh trên Đại Thần Nông Giá được lắp đặt máy điện đàm, có thể tiến hành liên lạc điện đàm không dây đơn giản, chuyên dùng để thông báo tình hình cháy rừng ở khu này; quanh năm ở đây đều có người gác trực, nhưng từ sau khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, thì tháp canh đó hoàn toàn bị mất liên lạc với thế giới bên ngoài.



Thượng cấp phát lệnh, địa phương phải sử dụng toàn bộ lực lượng đào rãnh phòng lửa, lúc này thực sự không kiếm đâu ra được người rỗi việc, vả lại chiếc bộ đàm không dây trên tháp canh là kiểu đời cũ, thường xuyên hỏng hóc, dăm bữa nửa tháng lại dở chứng, nên cũng không được mọi người coi trọng lắm.



Khi ấy, đúng lúc ở lâm trường có một thanh niên trí thức, biệt danh là “kính cận”, trước khi bị đẩy lên vùng núi anh ta từng được học chuyên ngành trắc lượng thông tin. Anh ta học hành rất chăm chỉ, nên cũng biết được chút kỹ thuật sửa chữa máy bộ đàm, nhưng khi chưa kịp tốt nghiệp thì vì vấn đề thành phần gia đình, nên bị điều đến vùng núi này đốn gỗ, người trong lâm trường quen gọi “kính cận” là “nhị học sinh”.



“Nhị học sinh” là tiếng địa phương ở vùng núi này, chỉ những người học thấp hơn sinh viên đại học một cấp, tuy không thể hiện rõ ý coi thường, nhưng ít nhiều vẫn mang hơi hướng chế giễu và động chạm. Lãnh đạo quản lý ở lâm trường thấy Kính cận thân hình yếu ớt, lẻo khẻo, lúc đào rãnh cứu hỏa trông rũ rượi ra như con chó sắp chết, thì phân công cho anh ta việc vác máy bộ đàm đi theo cậu dân binh Hổ Tử lên núi, đến tháp canh tiến hành sửa chữa hoặc thay thế thiết bị liên lạc.



Lâm trường còn tính đến mức nhân viên gác trực có khả năng bị nhiễm bệnh, hoặc bị thương, mới khiến liên lạc bị ngắt quãng giữa chừng. Thế là, lâm trường liền nhờ Cao Tư Dương ở phân đội Hán Vũ đi cùng, để lúc đó có thể thực hiện những biện pháp cấp cứu kịp thời.



Cao Tư Dương đã từng vào núi Thần Nông Giá nhiều lần, nên rất thông thuộc môi trường bản địa. Cô là người có kinh nghiệm và năng lực hoàn thành nhiệm vụ độc lập, nên được mọi người bầu làm đội trưởng lâm thời của tiểu đội. Hai con chó săn giữa đường đột nhiên đánh hơi thấy người sống, xem phương hướng thì rõ ràng hội người này bị lạc đường trong rừng rậm.



Tiểu đội lao đi đuổi theo dấu vết, cuối cùng phát hiện ra hội Tư Mã Khôi đang sử dụng lửa, liền vội vàng chạy đến ngăn cản. Cao Tư Dương nghe người dân bản địa kể, điểm đáng sợ nhất ở Thần Nông Giá chính là cánh rừng rậm nguyên sinh trong m Hải Cốc, vì cho dù có mang theo súng săn và chó săn, thì cũng rất ít người dám mạo hiểm thâm nhập vào trong, bởi vậy cô mới khuyên Tư Mã Khôi phải suy nghĩ thận trọng, chí ít cũng phải trang bị súng săn và đi cùng người dẫn đường giàu kinh nghiệm mới được.



Tư Mã Khôi biết rõ ý tốt của Cao Tư Dương, nhưng anh không thể thấy khó mà lui, đành nói: “Thực ra, bọn tôi dã chuẩn bị tư tưởng lên hỏa tuyến rồi. Trước khi lâm trận, anh em tôi còn viết sẵn di chúc và đơn xin gia nhập Đảng, nếu lỡ một đi không trở lại thì mong các đồng chí hãy trích lương tháng sau của tôi ra, thay tôi đóng khoản đảng phí đầu tiên và cũng là cuối cùng.




Cô có biết vì sao lại là lương tháng sau không? Bởi vì lương tháng này tôi đã tiêu hết nhẵn rồi”. Cao Tư Dương thầm lắc đầu, cô cảm thấy loại người như Tư Mã Khôi đai khái thuộc kiểu “chủ nghĩa lạc quan mù quáng” điển hình, trừ phi vấp phải đinh, nếu không còn khuya mới biết quay đầu.



Tư Mã Khôi hỏi rõ ngọn nguồn, anh thầm tính xem làm cách nào mượn được khẩu súng săn của Hổ Tử để phòng thân. Mọi nguy hiểm trong rừng sâu núi thẳm chủ yếu bắt nguồn từ dã thú, bất kể là sói đầu lừa hay người rừng, cũng đều có nhược điểm sợ lửa; súng săn tuy hơi lạc hậu, tính năng cũng không đáng tin cậy, nhưng nói gì thì nó cũng là thằng cha biết nhả khói, hiệu quả tâm lý mạnh hơn hiệu quả sát thương nhiều.



Nghĩ vậy, anh liền nhỏ giọng rỉ tai Hải ngọng mấy câu, bảo cậu ta trên đường cố kiếm cơ hội bắt chuyện với Hổ Tử, tránh lúc cần lại không mở nổi miệng. Tuy cái miệng của Hải ngọng không được sạch sẽ lắm, nhưng lại lợi hại hơn cả ngàn quân vạn mã. Anh lên trước vỗ vai Hổ Tử: “Này, người anh em! Anh em mình thương lượng với nhau tí nhá.



Đợi đến lúc tụi mình vào rừng rậm nguyên sinh m Hải, chú em cho anh mượn súng săn sử dụng mấy ngày, sau này có cơ hội, anh đây sẽ dẫn chú mày đi đây đó mở rộng tầm mắt. ông già nhà anh làm thiếu tướng, anh ở nhà lầu, đi “giải quyết nỗi buồn” cũng chẳng bao giờ cần ra khỏi phòng…” Hổ Tử là đứa con chính hiệu của núi rừng, tuy lớn từng này nhưng chưa bao giờ ra đến huyện thành, nên đầu óc rất đỗi đơn giản, nói dễ nghe hơn thì cậu ta là người yêu ghét phân minh, còn nói khó nghe hơn một chút thì cậu ta là hạng ruột để ngoài da ngốc nghếch.



Cậu ta vốn dĩ đã vô cùng khó chịu với hành vi đốt lửa trong khu vực rừng của hội Tư Mã Khôi, cho rằng đối phó với loại người này, không cần giải thích dài dòng, chỉ cần tóm cổ đem về là xong. Tư tưởng của cậu ta cũng ấu trĩ như loài vịt mở mắt thấy ai, người đó sẽ là mẹ, cậu ta ban đầu đã nhận định thế nào, thì sau này mãi mãi trung thành với nhận định ấy.



Chính vì thế, Hổ Tử vừa nghe Hải ngọng nói mấy câu, đã cảm thấy anh bốc phét, trong lòng càng thêm tức giận: “Trên đời này làm gì có ai ‘giải quyết nỗi buồn’ ngay trong nhà, nhà của anh đúng là còn không bằng cái ổ chó”. Hải ngọng cho rằng, mình là người từng tham gia cách mạng thế giới, là người từng trải, đi nhiều hiểu rộng, còn Hổ Tử chỉ là cậu dân binh quê mùa ở miền núi, tầm nhìn hạn hẹp, tư tưởng giác ngộ của hai người căn bản không cùng một tầng lớp, lời nói cũng không tâm đầu ý hợp, càng nghe càng không thể chịu được, nên thà không ai thèm để ý đến ai cho xong.



Nhóm người chia ra thành hai tổ, men theo con đường vượt núi, đến lúc xế chiều ngày thứ hai, cả hội mới đến được ngọn núi chính là Đại Thần Nông Giá. Trên núi, tùng trúc che khuất bầu trời, biển cây rừng mênh mông, cản trở gió và ánh sáng nguyên thủy của thế giới bên ngoài xâm nhập vào.



Một tòa tháp canh đứng sừng sững trong rừng rậm ở sườn bắc, phía dưới chân tháp có gian nhà gỗ. Đó chính là trạm thông tin cứu hỏa được lắp đặt máy bộ đàm không dây. Ngoại trừ những ngày đại hàn, tuyết lớn phong tỏa núi, còn bình thường ở đây lúc nào cũng có một nhân viên bảo vệ rừng gác trực.



Trách nhiệm của nhân viên bảo vệ rừng cũng vô cùng quan trọng, ngày xưa đều do một thợ săn cao tuổi đảm nhiệm, đồng thời người này còn phải phụ trách cả công tác tuần núi. Sau này trạm điện đàm không dây được thiết lập, mới sửa đổi quy định, nông trường cắt cử dân binh lần lượt thực hiện nhiệm vụ.



Vì giao thông trong núi sâu bị tắc nghẽn, vả lại dân binh đã qua khóa huấn luyện thông tin đơn giản cũng chẳng có mấy người, nên thông thường phải vài tháng mới thay ca một lần, điều kiện công tác và sinh hoạt ở đây còn gian khổ hơn vùng ven rừng nhiều. Lúc mọi người đến trước cửa trạm thông tin, ở nơi sâu trong rừng rậm vẫn vọng lại tiếng gió ào ào như những đợt sóng.



Phía bên trong gian nhà gỗ tối thui, không có ánh đèn, con chó săn dường như đánh hơi thấy mùi nguy hiểm, nó đột nhiên chĩa mồm về phía trạm thông tin sủa vang mấy tiếng, dường như muốn cảnh cáo chủ nhân không nên đến gần. Cậu dân binh Hổ Tử nổi tiếng liều mạng từ nhỏ, cậu ta không buồn nghĩ ngợi, xông thẳng lên đẩy cửa, nhưng phát hiện cánh cửa đã bị khóa từ bên trong.



Để phòng dã thú, tránh gió và giữ ấm, toàn bộ vật liệu xây dựng trạm thông tin đều sử dụng gỗ lãnh sam có đường kính thân cây dày nửa mét, tuy là kết cấu bằng chất liệu gỗ nhưng vô cùng kiên cố, hơn nữa phía trước chỉ có một rãnh cửa, cửa sổ đóng ván gỗ, nếu bên trong không có người thì tuyệt đối không thể khóa cửa ở bên trong.



Hổ Tử lớn tiếng cất giọng gọi tên của nhân viên gác trực, cậu ta lại dùng hết sức gõ vào cửa thật mạnh, nhưng cửa trạm thông tin vẫn đóng chặt, im ỉm lặng ngắt. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Không chừng người gác rừng đột tử trong trạm rồi cùng nên, vì thế điện đàm mới đứt liên lạc như vậy”.



Anh lập tức ghé sát mặt qua khe cửa sổ nhòm vào, lấy đèn pin soi, định nhìn xem tình hình trong phòng. Bên trong căn nhà gỗ tối om, đèn pin cũng chỉ soi được trong vòng bán kính một mét, phạm vi nhìn thấy vô cùng hạn chế. Tư Mã Khôi vừa tiến sát cửa sổ, bỗng nhiên nhìn thấy trong phòng có một gương mặt quái quỷ toàn lông đen, hai con mắt đỏ lòm lòm chứa đầy tà khí, hắn cũng đang đứng trong cửa sổ lén dòm ra ngoài.




Tư Mã Khôi giật thót tim, vội vàng nhảy bật ra sau, nhưng khi anh định thần nhìn lại, thì khuôn mặt đó đã biến mất. Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi quái lạ, liền xông đến trạm thông tin ngó nghiêng mấy cái, bên trong tối mù mù, không có thứ gì, anh hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu vừa trông thấy gì thế? Có người bên trong không?” Từ khi Tư Mã Khôi đến núi Thần Nông Giá tới nay, anh từng nghe không ít truyền thuyết bí ẩn có liên quan đến người rừng.



Thông thường, người ta cho rằng người rừng là những dân phu trốn vào núi sâu tránh nạn vào thời Tần Thủy Hoàng bắt xây Trường Thành; thế nhưng ngay từ thời kì Xuân Thu Chiến Quốc, Khuất Nguyên người nước Sở đã từng làm bài từ, mô tả người rừng trong núi Thần Nông Giá sống động như thật, và có lẽ đó chính là ghi chép sớm nhất về người rừng.



Thời cận đại, những câu chuyện tận mắt nhìn thấy người rừng càng nhiều vô kể, họ đều mô tả đó là loài sinh vật cao lớn, giống vượn cổ, thường lảng vảng trong rừng rậm nguyên sinh m Hải, và chí ít cũng phải vượt qua Yến Tử Ô mới có cơ hội gặp được, còn ở ngọn núi chính Thần Nông Giá này thì chưa thể có dấu tích của chúng.



Tư Mã Khôi hoài nghi thứ mình nhìn thấy khi này có khả năng là người rừng, nên anh nhắc nhở mọi người cần tăng cường cảnh giác, người gác rừng có lẽ đã gặp phải điều bất trắc, chúng ta cần phá cửa vào xem rốt cuộc chuyện gì xảy ra. Cao Tư Dương gật đầu đồng ý. Tuy cô biết trong cánh rừng rậm nguyên sinh cách biệt với thế giới bên ngoài này, bất kể chuyện bất ngờ nào cũng có thể xảy ra, nhưng bây giờ hội cô người nhiều thế mạnh, lại có chó săn và hai khẩu súng săn, nên dẫu có đột nhiên gặp phải dã thú nào cũng không đến nỗi mất mạng.



Mọi người xem xét và đánh giá trạm thông tin, thấy cả kết cấu kiến trúc rất kiên cố, ống khói trên mái nhà lại hẹp, nên không thể chui vào được. Tư Mã Khôi dùng sức đẩy cánh cửa gỗ hé ra một khe hẹp, rồi lấy dao chặt đứt khóa. Cậu dân binh Hổ Tử xách súng định xông vào, nhưng Tư Mã Khôi dầy dạn kinh nghiệm đã kịp nhìn tình hình và cảm thấy có điều gì đó rất bất thường, nên không muốn cậu dân binh quê mùa này hành động hồ đồ thì có thể xảy ra án mạng, thế là anh liền giơ tay túm ngược cậu ta trở lại, sau đó cầm đèn pin thò người vào trong nhìn.



Trạm thông tin dường như để hoang khá lâu, bốn bức tường lạnh lẽo, thảm nệm vẫn trải trên giường, súng săn cán dài, tù và đựng thuốc súng vẫn treo ở mép tường, rõ ràng chưa hề bị ai động đến, nhưng người gác rừng sống không thấy người, chết không thấy xác. Nếu trạm thông tin không có người, thì căn nhà gỗ khép kín này làm sao có thể bị khóa bên trong? Còn thứ mà anh vừa nhìn thấy khi nhòm qua khe cửa sổ khi nãy, thì rốt cuộc là thứ gì? Tư Mã Khôi còn lờ mờ cảm thấy trong không gian chật hẹp của căn phòng phảng phất một mùi quái dị, khiến người ta rủn lạnh hết chân tóc, nhưng anh lại không tìm thấy mùi đó phát ra từ vật gì.



Gió núi ùa vào căn nhà gỗ khiến cái mùi quái lạ kia nhanh chóng tan đi, mũi người không còn ngửi thấy gì nữa. Có điều, các thành viên phía sau Tư Mã Khôi cũng đã kịp phát hiện thấy mùi quái dị đó. Cao Tư Dương đột nhiên nói: “Đây hình như là… mùi xác chết!” Hải ngọng nói: “Người chết tôi thấy nhiều rồi, nhưng đâu có mùi gì đặc biệt.



Cô tìm một giành cá mặn phơi nắng vài giờ đồng hồ, may ra còn giống mùi người chết, vì đó là mùi hôi thối rữa nát. Nó khác hoàn toàn với mùi trong căn phòng này”. Tư Mã khôi cũng cảm thấy không giống với mùi tỏa ra từ tử thi, nhưng không rõ vì sao Cao Tư Dương lại hình dung như vậy? Thắng Hương Lân phán đoán: “Có lẽ là mùi khí hóa học nào đó, rất giống với mùi dung dịch dùng để phòng chống hoại mục”.



Thực ra, bình thường, làm gì có ai phải thường xuyên tiếp xúc với tử thi rữa nát, những tử thi mà Cao Tư Dương trước đây từng nhìn thấy trong học viện quân y, đều được ngâm trong bồn xi măng chứa đầy dung dị phoóc môn, chuyên dùng cho sinh viên tiến thành luyện tập giải phẫu, bởi vậy cô hình thành phản xạ điều kiện chỉ cần ngửi thấy mùi này, tín hiệu đầu tiên xuất hiện trong óc chính là “người chết”.



Nếu hình dung một cách chính xác hơn, thì mùi khí kích thích mũi mạnh mẽ xuất hiện trong trạm thông tin khi nãy, gần giống với mùi foman đêhít sản sinh lúc lan tỏa trong không khí, dung dịch foman đêhít chính là dung dịch phoóc môn thường sử dụng để chế tác tiêu bản tử thi. Tư Mã Khôi kể lại tình hình khi nãy anh trông thấy qua khe cửa sổ cho những người còn lại nghe, nếu không phải do anh bị hoa mắt, thì nhất định trong trạm thông tin có thứ gì đó đang lẩn trốn, vả lại nó chắc chắn là vật sống và không rõ vì sao lại xuất hiện mùi khí tiêu bản tử thi.



Hội Hải ngọng nghe xong chuyện cũng chỉ đề cao cảnh giác hơn một chút, chứ không hề cảm thấy sợ, còn mọi người lại định chuẩn bị xông vào bên trong lục soát. Duy chỉ có anh thanh niên trí thức Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử, ở lâm trường bản địa, là đồng thời lộ nét mặt khiếp sợ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 127: Hồi 7: gã hái thuốc


Đại Thần Nông Giá đất hoang rừng sâu, ngập tràn những truyền thuyết li kì kinh dị, nghe nhiều khiến người ta cũng không khỏi ớn lạnh tim gan, nên thông thường không ai dám kể truyện ma trong rừng thẳm núi sâu. Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, những người không dũng cảm không dám học y, cô lại là người duy nhất mặc quân phục, bởi vậy cô không tin những lời lẽ của chủ nghĩa duy tâm: “Tối lửa tắt đèn thế kia, không chừng nhìn lầm cũng nên, trạm thông tin làm sao có ma được?” Thắng Hương Lân cũng hỏi cậu dân binh và Nhị Học Sinh: “Tôi từng đọc một cuốn tư liệu, trong đó nói thời cô, người ta gọi người rừng là ma núi.



Ma mà các cậu nói, có phải chỉ người rừng không?” Tư Mã Khôi vừa nhìn phản ứng của hai người, thì biết chuyện này hẳn có nguyên nhân gì sâu sa bên trong. Tổ tiên nhiều đời nhà cậu dân binh Hổ Tử đều là thợ săn ở Thần Nông Giá, chưa bao giờ rời khỏi cánh rừng này; anh chàng kính cận Nhị Học Sinh biết sửa máy bộ đàm, cũng ở lâm trường cải tạo mấy năm rồi, nên có thể coi là người lai bản xứ, có lẽ bọn họ biết chuyện gì đó mà người ngoài không biết, nhưng bất luận khuôn mặt khi nãy anh vừa nhìn là ma núi hay người rừng, thì chắc chắn hắn không thể nghiễm nhiên đào thoát ngay trước mắt mọi người được.



Thế là, anh liền hỏi Nhị Học Sinh xem đầu đuôi câu chuyện thế nào, vì sao lại nhận định rằng trong căn nhà gỗ có ma? Nhị Học Sinh được hỏi, thì đem kể tuốt tuột những gì mình biết cho mọi người nghe. Từ năm 1968, cậu ta đã đến lâm trường cải tạo tư tưởng. Lúc thường, ngoại trừ sách ra, thì cậu ta cũng không có sở thích gì khác.



Vùng đất nằm ở rốn núi phía tây tỉnh Hồ Bắc này cheo leo hiểm trở, tịnh không bóng người, điều kiện vô cùng gian khổ, lạc hậu. Nhị Học Sinh nhớ lúc mới đến, thứ quý giá nhất trong lâm trường chính là chiếc đài phát thanh hiệu Xuân Phong, nút tắt mở còn bị hỏng, sau đó Nhị Học Sinh sửa được chiếc đài, vì chuyện này mà lâm trường đã mở hội, tổ chức vô cùng long trọng, trải vải đỏ phủ mặt bàn, rồi đặt chiếc đài lên đó, thậm chí phía sau còn treo tranh chân dung Mao chủ tịch và phó thống soái Lâm.



Rất nhiều dân bản xứ và công nhân lâm trường gần đó nghe tin đều kéo nhau đến xem, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến chiếc hộp màu đen biết nói. Lúc đó, tín hiệu phát sóng của chiếc radio rất tệ, mở ra chỉ thấy toàn tiếng rè, ngay cả âm thanh của nữ phát thanh viên cũng nghe không rõ, nhưng mọi người vô cùng vui mừng, nức nở khen ngợi tay nghề của Nhị Học Sinh, thật không ngờ trong đài còn có cô em nào đó, họ còn bàn bạc nhau tìm cách kéo cô ấy ra ngoài xem mặt mũi thế nào.




Nhị Học Sinh chưa bao giờ được ai xem trọng như thế, nên lòng cảm thấy rất vinh dự. Trong lúc còn đang phấn khởi, bỗng nhiên cậu ta ngửi thấy một mùi rất khác thường tỏa ra từ đám đông, giống hệt mùi trên các tiêu bản tử thi. Nhớ lúc ở phòng sinh học của trường, Nhị Học Sinh từng nhìn thấy tiêu bản của thú rừng, nó cũng có mùi dung dịch hóa học nhức mũi y như vậy, cậu ta đứng dậy nghiêng ngó xung quanh, phát hiện hàng người phía sau có một kẻ đang thò cổ vào xem.



Hắn choàng một miếng vải rách trên mặt, cố ý che gương mặt, chỉ lộ hai con ngươi lòng đen thì ít mà lòng trắng thì nhiều, trên người hắn toát ra mùi phoóc môn nồng nặc. Lúc đó, đám đông nhốn nháo, Nhị Học Sinh thấy lạ, lòng sinh nghi, nhưng cũng không dám tiếp tục tìm hiểu.



Ngày hôm sau, cậu ta hỏi thăm mấy công nhân lão thành trong lâm trường, mới biết tường tận. Thì ra, gã đó họ Dư, trước đây hành nghề hái thuốc, còn tên là gì thì không ai biết, người dân bản xứ quen gọi gã là Lão Xà. Gã khoảng 40 tuổi, vóc dáng bẩm sinh vai hùm lưng sói, vào núi săn bắn chưa bao giờ phải ra về tay không, không chỉ vậy hắn còn biết tuyệt kỹ “tiêu lộc”, tức là bắt chước tiếng hươu kêu.



Những kẻ hái thuốc trong rừng sâu núi thẳm đa số đều biết phân biệt vật tính của dược thảo, có khả năng trèo vách cheo leo dựng đứng hay vực sâu nguy hiểm, nhưng đó chỉ là những kỹ nghệ mạt đẳng nhất, vì muốn tìm thấy dược thảo quý hiếm, ngoại trừ liều mạng ra còn phải gặp vận may nữa.



Không chỉ vậy, người hái thuốc siêu đẳng phải sở hữu những bí thuật độc môn, mà “tiêu lộc” chỉ là một bản lĩnh đặc biệt đã bị thất truyền trong số đó. Rừng rậm nguyên sinh ở m Hải Cốc, từ xưa đã là nơi đàn hươu kéo đến cư ngụ. Nhu cầu giao phối của con hươu đực đầu đàn vô cùng mạnh mẽ, mỗi tiết cuối xuân đầu hạ, trong một ngày nó phải giao phối với hàng trăm con hươu cái, cuối cùng tinh lực cạn kiệt, nó gục xuống, nằm vật ra đất, dài cổ huýt gọi đồng loại, âm thanh này giống như tín hiệu cầu cứu.



Khi hươu cái trong núi sâu nghe thấy tiếng gọi, chúng sẽ lập tức ngậm linh chi đến ứng cứu, những loại linh chi ngàn năm ngay cả người hái thuốc không tìm thấy, thì bầy hươu cũng tìm thấy, con hươu đầu đàn nuốt linh chi xong, chẳng bao lâu sau nó đã khôi phục thể lực, chạy nhảy băng băng như lúc đầu.



Người giả tiếng hươu phải đội cặp sừng hươu, mình mặc áo da hươu để ngụy trang, rồi nấp trong rừng rậm nguyên sinh bắt chước tiếng hú, dẫn dụ hươu cái ngậm linh chi đến, rồi dùng gậy đánh chết hươu cái, xẻ thịt lột da, lấy linh chi trong miệng nó. Có điều, muốn học được âm thanh này phải có thiên phú, trong vạn người chưa chắc đã có một người bắt chước thành công.



Năm 60, Lão Xà vào núi tiêu lộc, khi vừa cầm cây gậy sắt định đập nát sọ con hươu cái, thì chẳng ngờ con hươu đực đầu đàn, thân mình to hơn cả con bò, từ đằng sau đột nhiên xông ra, nó có cặp sừng nhọn như đinh, chẽ ngang dọc, vô cùng rắn chắc, các con mãnh thú trong núi gặp nó cũng phải nể nang vài phần, Lão Xà bị tấn công bất ngờ, không kịp phản ứng, nên bụng đã bị đâm một lỗ thủng lớn.



Nhờ kinh nghiệm, gã biết lúc này cần chạy thục mạng ngay vào rừng rậm, vì nghe nói sừng hươu sợ nhất những nơi um tùm rậm rạp, nếu lỡ bị dây leo vướng vào thì chúng không thể động đậy gì nữa, lúc đó số phận chúng sẽ do con người tùy ý định đoạt. Thế nhưng vì chạy trốn quá gấp, không kịp phân biệt phương hướng, nên Lão Xà giẫm vào một thân cây cổ nằm đổ giữa đường, vỏ cây mục nát, bên trong có vô số loài nấm độc sinh sôi nảy nở, gã ngã dúi xuống, mặt dính đầy chất dịch nhầy nhớt nháp.



Để tránh bị độc tính thâm nhập vào não, gã nén nhịn đau dùng dao lột hết da mặt, nên cuối cùng cũng giữ được tính mạng. Lão Xà rất tinh thông đặc tính dược thảo và các phương thuốc dân gian, nên khi trở về gã đi giết chết một con khỉ lông vàng, lấy da thú đắp lên mặt, nhưng không rõ dùng loại thuốc gì, mà cái da mặt xồm xoàm lông lá đã dần dần trở thành màu đen.




Cũng từ đó, cơ thể gã lúc nào cũng nồng nặc mùi khí quái lạ, xua đuổi kiểu gì vẫn không hết, và cũng từ bấy giờ trở đi, gã không bao giờ vào rừng “tiêu lộc” nữa. Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học sinh tóm tắt câu chuyện, đều không khỏi kinh ngạc, chẳng ngờ trên đời này còn có người sói thật; không biết lúc tự mình rạch da mặt cảm giác sẽ thế nào? Từ đặc trưng ngoại hình và mùi khí, Tư Mã Khôi phán đoán, khuôn mặt quái dị mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ khi nãy, chính là gã hái thuốc tiêu lộc trong núi sâu, mà dân địa phương thường gọi bằng cái tên Lão Xà.



Không rõ gã lén la lén lút ẩn nấp trong trạm thông tin vì mục đích gì, chỉ sợ gã đang che giấu bí mật xấu xa và đáng sợ nào đó, nhưng không gian trong nhà gỗ rất chật hẹp một người còn sống sờ sờ như thế thì trốn vào đâu được chứ? Nhị Học Sinh nói với Tư Mã Khôi: “Kẻ anh nhìn thấy không phải người sống, mà là người đã chết từ lâu rồi”.



Cậu dân binh Hổ Tử chứng thực chuyện Nhị Học Sinh vừa kể hoàn toàn có thực. Cuối những năm 60, bộ đội tiến hành các hoạt động trong vùng núi Thần Nông Giá, suốt thời gian đó, lâm trường thực thi chế độ quân quản, biên chế và huấn luyện dân binh dần dần chính quy hóa.



Bộ đội còn cung cấp các thiết bị điện đàm không dây, chi viện cho địa phương xây dựng trạm thông tin phòng cháy rừng, tháp canh cũng được xây dựng vào thời điểm đó; còn căn nhà gỗ kia thì có từ thời trước giải phóng, khi ấy có người mật báo Lão Xà ăn trộm đài truyền thanh trong lâm trường, đêm nào cũng nghe lén đài địch vào lúc canh khuya, không những vậy, còn thường xuyên lảng vảng quanh trạm thông tin, đào bới lung tung, dường như muốn tìm kiếm vật gì.



Thế nhưng vì thiếu chứng cứ xác thực, nên lâm trường chỉ bắt gã về thẩm tra mấy lần, cuối cùng vẫn không có kết luận gì. Năm ngoái, Lão Xà theo mấy người dân sơn cước vào Yến Tử Ô, thòng dây thừng dài trèo giữa hai vách cheo leo để hái thuốc, chẳng ngờ bị một bầy khỉ lông vàng gặm đứt dây thừng, làm gã bị ngã thẳng cổ xuống vực sâu.



Những người hái thuốc kia đều nói, dã thú chết bởi tay Lão Xà thực sự quá nhiều, vả lại thủ đoạn của gã lại vô cùng tàn độc, thường ngày thích ăn óc khỉ, bắt được rắn liền lột da lấy mật nuốt chửng vào bụng ngay trong khoảnh khắc con rắn vẫn còn sống; tấm lông thú dán trên mặt gã cũng là của một con khỉ già.



Loài khỉ lông vàng trong núi đặc biệt thù dai, chuyện khỉ tấn công người từng xảy ra nhiều năm trước đây, giờ nhìn thấy gã, bọn chúng hận đỏ mắt, nhân cơ hội gã chưa kịp phòng bị liền xông lên báo thù. Có thể thấy, sinh vật trong rừng sâu núi thẳm đều có sự linh thiêng nhất định, không nên tùy tiện sát hại chúng.



Sau này, dân binh vớt được thi thể của gã trong đầm nước dưới vực sâu, rồi chôn cất xác gã qua loa dưới một nấm mồ nông gần lâm trường. Chuyện này rất nhiều người đã tận mắt chứng kiến, bây giờ hài cốt có lẽ đã mục nát cả rồi, đương nhiên không thể xuất hiện trong trạm thông tin được.



Trước đó, Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết nội tình, nghe cậu dân binh và Nhị Học Sinh kể xong, anh ngẫm nghĩ, gã Lão Xà này không giống những người hái thuốc bình thường, người đã chết thì không thể nào bò ra khỏi mộ mà sống lại được, nhưng khuôn mặt mà anh trông thấy lúc trước và cả mùi khí cổ quái vẫn còn vương vất trong căn phòng thì, thực ra là chuyện gì? Vì sao những chuyện quái lạ này không xảy ra sớm hơn hay muộn hơn, mà lại xảy ra vào đúng thời khắc này? Tư Mã Khôi quyết định phải tìm hiểu chuyện này đến cùng, anh thủng thẳng nói: “Ông đây bình sinh giết người như giết kiến gió, giờ còn sợ ma chắc? Đợi ông lục soát kỹ chỗ này, rồi…”, mới nói đến đây thì Hương Lân nhè nhẹ giật lưng áo anh một cái.




Tư Mã Khôi biết mình lỡ lời, vội ngậm miệng lại. Cao Tư Dương cảnh giác trừng mắt hỏi Tư Mã Khôi: “Anh vừa nói gì vậy?” Tư Mã Khôi lấp liếm ngay: “À! Tôi sợ gặp phải thứ không sạch sẽ, nên nói vài câu lên gân cho thêm vững dạ ấy mà”. Hải ngọng cũng nói đỡ: “Ấy! Chuyện này để tôi làm chứng.



Cậu ta nhìn người ta giết gà mà bắp chân còn bị chuột rút, thì làm gì có gan giết người?” Cao Tư Dương nghe Tư Mã Khôi tự nhận mình vừa bốc phét, thì không tra hỏi gì thêm nữa. Cô cũng không nghĩ trạm thông tin trong núi sâu có ma, nhưng người gác rừng vô duyên vô cớ mất tích, rất có khả năng đã gặp phải sự cố gì rồi.



Đây đâu phải chuyện nhỏ, có điều bây giờ ngoài trời đã tối mịt, không thể vào tháp canh phát tín hiệu cấp cứu được nữa. Cô là quân nhân duy nhất trong đội, đương nhiên phải đứng ra quyết định. Cao Tư Dương bảo Nhị Học Sinh điều chỉnh máy điện đàm, cố gắng liên lạc với lâm trường một cách nhanh nhất, sau đó ra lệnh cho cậu dân binh Hổ Tử dắt chó săn đến trợ giúp lục soát.



Lai lịch của Nhị Học Sinh có vấn đề nên không được mọi người tôn trọng lắm, cậu ta đã quen bị người ta sai vặt chạy chỗ này chỗ kia. Cỗ máy điện đàm không dây mà cậu ta vác trên lưng, vốn dĩ cũng không thường xuyên hoạt động, lại chỉ được dùng để thay thế linh kiện, nên giờ không sử dụng được.



Sau khi phân công, cậu ta lập tức bắt tay tất bật sửa chữa một hồi. Cậu dân binh Hổ Tử tuy liều, nhưng chung quy vẫn là dân quê chưa bao giờ bước ra khỏi lũy tre làng, nên không tránh khỏi tâm lý mê tín. Vùng núi phía tây tỉnh Hồ Bắc có phong tục, điều tối kỵ nhất là không để ma nhìn thấy chó đen, nếu không người chết sẽ sống dậy.



Chính vì vậy mà cậu ta kiên quyết không đồng ý cho chó săn vào trong phòng. Cao Tư Dương thấy không thuyết phục nổi cậu ta, liền để cậu ta tạm thời đứng gác bên ngoài, những người còn lại bật đèn pin, vào trong lục soát kỹ từng ngóc ngách trong trạm thông tin. Tư Mã Khôi đi đầu.



Anh tinh mắt phát hiện tấm ván lát nền nhà dường như có dấu tích bị xô đẩy, dường như không còn ở đúng vị trí cũ, nên thầm nghĩ: “Chẳng lẽ dưới sàn có đường ngầm?”, rồi lập tức gọi Hải ngọng đến giúp một tay nạy tấm ván lên. Trước mắt, quả nhiên lộ ra một cái hầm hình vuông, sâu như cái giếng, mùi ẩm mốc phả ra từ bên trong, vị trí cửa hầm cũng không được che đậy kín kẽ lắm, nếu không bị ván sàn che phủ, thì chỉ cần bước chân vào trong nhà là lập tức nhìn thấy.



Xem ra, có lẽ nó là hầm chứa thức ăn. Dân binh gác rừng gác một ca dài cả một, hai tháng, nơi đây lại rất cao so với mực nước biển, nên gặp lúc thời tiết nóng bức thì ở đây cũng hơi nóng một chút, bởi vậy rất cần loại hầm này để dự trữ lương thực và rau cỏ. Lòng hầm đất rất rộng rãi, nhưng độ sâu thẳng đứng chỉ khoảng hai ba mét, bên trong bốc mùi ẩm mốc, lanh lẽo; khi chiếu đèn pin ra góc phía xa, thấy có một thi hài không còn nguyên vẹn da thịt, dường như bị dã thú gặm mất, xương sườn trước lồng ngực lòi cả ra ngoài, thi thể đã bắt đầu biến sắc, nếu không phải không khí dưới hầm đất âm lạnh, thì có lẽ nó đã sớm mục ruỗng, rữa nát từ lâu.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 128: Hồi 8: hầm đất


Lòng hầm đất trong trạm thông tin có mùi tanh của đất ẩm thấp, nó lấn át hoàn toàn các mùi khác. Tư Mã Khôi chưa thể phân biệt mùi phoóc môn có bay lẫn trong không khí hay không? Nhưng gương mặt của thi thể kia vẫn còn khá hoàn chỉnh, nó không giống với khuôn mặt Lão Xà mà anh vừa nhìn thấy qua khe cửa sổ lúc trước, có lẽ tử thi đó chính là người gác rừng xấu số.



Mọi người soi đèn pin, trông thấy thảm cảnh của người gác rừng, ai nấy đều bất giác nhíu mày, chốt cài bên trong cánh cửa sổ vẫn đóng chặt, cũng không còn lối ra nào khác, chính bởi vậy mới dẫn đến cái chết của người gác rừng, còn thứ đã gặm xác tử thi, có lẽ hãy còn lẩn trốn trong hầm đất.



Cao Tư Dương cảm nhận được tính nghiêm trọng của sự việc, bên mình lại không có vũ khí, cô liền lấy khẩu súng săn mà Nhị Học Sinh mang từ lâm trường đến, định xuống hầm đất xem xét tình hình. Tư Mã Khôi sợ cô lỡ xảy ra chuyện, liền ra hiệu bảo Thắng Hương Lân và Hải ngọng ở lại chỗ cũ tiếp ứng, còn mình đội mũ Pith Helmet, bật đèn quặng trên đầu bám theo cô.



Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi đi sau, thì cảm thấy vững dạ hơn nhiều. Hai người lần lượt kiểm tra khắp nơi trong hầm đất dưới ánh sáng của đèn pin và đèn quặng. Tư Mã Khôi phát hiện dấu răng lưu trên thi thể người gác rừng rất lớn, không giống như bị chuột bọ gặm nhấm, mà giống như bị con vượn có thân hình rất to vừa cắn vừa rứt.




Lòng anh chợt dấy lên một dự cảm không lành: “Nghe nói, cương thi thành tinh trong núi sâu không chỉ hút não tủy, ăn nội tạng của con người, mà còn có thể tàng hình, xuất hiện bất thình lình ở khắp nơi. Lẽ nào, cái xác Lão Xà đã nhập thổ từ bao năm nay... giờ lại đội mồ sống dậy?” Tư Mã Khôi cảm thấy gã hái thuốc tên Lão Xà đã chết kia, lúc còn sống nhất định có rất nhiều bí mật che giấu mọi người, nói không chừng, hắn đúng là âm hồn không thể siêu thoát, biến thành cương thi chuyên lảng vảng khắp nơi vào ban đêm cũng nên.



Vả lại, nếu căn cứ vào mọi dấu vết để lại hiện trường, thì lúc này hắn vẫn chưa rời khỏi gian nhà gỗ. Có điều, nghĩa địa ở gần lâm trường cơ mà, sao hắn lại xuất hiện ở ngọn núi chính Đại Thần Nông Giá cô tịch bóng người này? Tư Mã Khôi nhớ lại lúc nghe Nhị Học Sinh kể chuyện, Lão Xà đó bị người ta nghi ngờ có liên hệ với tổ chức đặc vụ, thường nghe trộm đài địch vào đêm khuya, lại còn lén lút lẻn đến đào bới gì đó ở gần khu vực trạm thông tin, như thể muốn tìm kiếm thứ gì đó.



Trạm thông tin chẳng qua chỉ là gian nhà gỗ có người gác rừng trực, ngoại trừ cái máy bộ đàm bị hỏng và tòa tháp canh cao hơn bốn chục mét ra, thì còn có thứ gì đặc biệt khác? Cho dù gã có muốn đào mồ quật mả, trộm bảo vật thì cũng không nên ra tay ở đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này chứ.



Lúc này, Cao Tư Dương đang lục soát ở rìa hầm đất, cô phát hiện thấy có một cái giành(1) buộc dây thừng, bên trong đựng đầy đất, đẩy cái giành sang một bên, chỗ chân tường lộ ra một cửa động hơi dốc xuống dưới, bên trong tối thui, trông có vẻ sâu hút. Cô ngạc nhiên nói với Tư Mã Khôi: “Anh xem này, phía dưới có địa đạo!”.



[1] Giành: đồ đựng đan khít bằng tre nứa, đáy phẳng, thành cao. Tư Mã Khôi đi tới xem, phát hiện không khí trong động không lưu thông, liền đứng dậy bảo Hải ngọng thả đèn quặng xuống, sau đó cúi lưng, luồn người chui xuống. Địa huyệt này vừa chật chội lại vừa khúc khuỷu, độ sâu thẳng đứng ước chừng chưa tới mười mét, điểm tận cùng bị đào là một hố đất, khắp nơi còn vương vãi rất nhiều đất vụn cùng một cái xẻng sắt cán ngắn, dường như chủ nhân của nó vẫn chưa đào đến đích.



Địa huyệt chỉ đến đó, vì không khí không lưu thông, nên ánh sáng đèn quặng trở nên xanh lè và leo lét. Tư Mã Khôi lục soát tứ phía một lượt, nhưng không phát hiện thấy gì. Anh và Cao Tư Dương liền quyết định rút lui khỏi địa đạo, trèo lên chỗ hầm đất, rồi kể lại tường tận mọi chuyện cho những người còn lại cùng nghe: “Xem tình hình thì có lẽ ai đó muốn đào bới vật gì trong hầm đất, cũng bởi vậy nên người gác rừng mới bị sát hại, cái giành kia chính là công cụ vận chuyển đất”.



Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa sửa máy điện đàm xong, cô sốt ruột hỏi: “Hay là bọn đặc vụ địch tiến hành hoạt động phá hoại? Nhưng trạm thông tin nằm ở sườn bắc ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, xung quanh hoang vắng, um tùm rừng rậm, không hiểu ở đây chôn thứ gì chứ? Không hiểu kẻ đào địa huyệt kia trốn ở đâu được nhỉ?” Tư Mã Khôi nói: “Điều kì lạ chính là điểm này, ngoại trừ mấy người chúng ta ra, tôi cảm thấy trong trạm thông tin và dưới hầm đất, vẫn còn có thêm hơi thở của người khác nữa.



Lúc mới phát hiện ra địa huyệt, tôi từng hoài nghi, tên giặc đất âm mưu quật mả tìm bảo vật, nhưng đỉnh núi cao cách mặt biển xa thế này thì có lẽ không tồn tại mộ cổ, có muốn từ đây đào sâu vào tận lòng núi thì sức người không thể làm nổi, nếu động huyệt sâu quá, trước tiên sẽ không giải quyết được vấn đề cung cấp dưỡng khí, ngoài ra tôi đã quan sát kỹ lớp đất ở bề mặt địa đạo, tất cả là đất tự nhiên, chưa hề bị đào bới bao giờ”.




Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói xong, cô lấy sổ vẽ hình đỉnh núi, đại diện cho ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá, trên đỉnh núi là tháp canh, sườn bắc là trạm thông tin. Bên dưới trạm thông tin cô còn vẽ hai nét đứt với góc độ hẹp, rồi giải thích: “Kết cấu địa chất trong đỉnh núi chủ yếu là tầng đá nham thạch, ở giữa tầng nham thạch nhất định tồn tại dải đứt gãy.



Trong hầm đất dưới trạm thông tin toàn là đất, còn có thể đào một địa huyệt sâu mấy chục mét, điều đó chứng tỏ chỗ này vừa vặn giáp ranh với tầng nham thạch, sâu nhất cũng không thể quá trăm mét, nếu đào tiếp xuống dưới sẽ là nham thạch rắn chắc. Giả dụ khu vực tiếp giáp tầng nham thạch tồn tại một vật thể nào đó, thì có lẽ nó cách điểm tận cùng của địa đạo cũng không xa lắm đâu, bởi vậy hắn ta mới đào một cái hố lớn ở dưới đó”.



Cao Tư Dương thấy hội Tư Mã Khôi đều lập luận rất xác đáng và hiệu quả, lòng thầm nghĩ: may mà gặp được đội khảo cổ đi tìm hóa thạch, bằng không chỉ dựa vào ba người tổ thông tin, gặp phải tình huống này thì thật không biết xử lý thế nào. Xem ra máy điện đàm ở trạm thông tin tạm thời không thể sửa được, còn ngồi đợi lâm trường cắt cử viện binh đến, thì chí ít cũng mất hai ngày, mà thời gian càng kéo dài thì càng dễ đêm dài lắm mộng.



Cô ngẫm nghĩ giây lát, rồi quyết định nhờ đội khảo cổ tiếp tục trợ giúp, đào địa huyệt thông đêm, thăm dò bí mật dưới trạm thông tin, đồng thời nghĩ cách lùng tìm tông tích của kẻ địch. Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử gặp phải tình huống này, trong lòng hai người không tránh khỏi cảm giác hồi hộp và phấn khích, thấy sắp có cơ hội lập công đến nơi, họ liền lẩm bẩm mấy câu: “Hạ quyết tâm, không sợ hi sinh…” Tư Mã Khôi cảm thấy chuyện này rất có khả năng liên quan đến Nấm mồ xanh, nên đương nhiên anh không thể khoanh tay đứng nhìn, nhưng anh cũng hiểu rõ: nhóm Cao Tư Dương rất thiếu kinh nghiệm tiếp ứng và chuẩn bị tư tưởng cần thiết, bởi vậy anh buộc lòng phải nói trước với bọn họ: “Bất kể cuối cùng tìm thấy cái gì trong địa huyệt, thì tôi chắc chắn nó là thứ vô cùng nguy hiểm và đáng sợ, vì thế mọi người phải lên dây cót tinh thần gấp đôi bình thường, nếu không chỉ cần lơ là một chút sẽ xảy ra chuyện lớn đấy”.



Cậu dân binh Hổ Tử đinh ninh Tư Mã Khôi là trùm sò của đội khảo cổ, nên cậu ta khăng khăng không chịu tin lời anh, lại còn vặn vẹo: “Cái động này vẫn chưa đào tới đáy, anh cũng chẳng phải thần thánh gì, sao biết trong đó nhất định có thứ nguy hiểm?” Tư Mã Khôi nói: “Dân binh quê mùa nhà cậu chẳng hiểu gì về khoa học cả, thời đại nào rồi mà còn thần với chả thánh.



Tôi bảo có nguy hiểm thì chắc chắn sẽ có nguy hiểm, vì đó là định luật Murphy”. Cậu dân binh Hổ Tử tức giận phừng phừng nói: “Có khùng mới tin lời anh, chẳng lẽ mớ thùng phuy cũng là khoa học sao?” Nhị Học Sinh giải thích với cậu ta: “Không phải mớ thùng phuy, mà là Murphy, đó là một định luật về sự hỗn độn, cơ bản được chia làm ba phần.



Quỹ đạo phát triển và vận hành của sự vật là đa nguyên hóa, tồn tại vô số loại tính khả năng, bất kể anh có tiên liệu mọi việc chu đáo đến mức nào, nhưng đến khi nó xảy ra thì luôn xuất hiện những tình huống bất ngờ ngoài dự tính, điều này gọi là kế hoạch không theo kịp sự biến hóa, đó là câu tóm tắt hay nhất về định luật thứ nhất.



Định luật thứ hai là “sợ cái gì, sẽ xảy ra cái đó”, anh càng không mong muốn nó xảy ra thì xác suất nó sẽ xảy ra càng cao. Tôi lấy ví dụ thế này, có lát bánh mì, một mặt phết bơ, nhưng lại bất cẩn lỡ tay làm nó rơi xuống tấm thảm đắt tiền, kì thực xác suất mặt phết bơ hay không phết bơ sẽ rơi xuống đất là tương đương nhau, nhưng trên thực tế, bất kể lát bánh mỳ rơi bao nhiêu lần, thì mặt phết bơ toàn bị úp xuống đất, bởi vì sự việc luôn luôn phát triển theo chiều hướng mà chúng ta không mong đợi nhất, đây cũng chính là nguyên lý Murphy – trọng lực số mệnh.




Ngoài ra còn có định luật thứ ba….” Cậu dân binh Hổ Tử nhíu hai đầu mày, ngắt lời hỏi: “Chỉ bọn Nga ngố mới ăn bánh mỳ phết bơ và thịt bò xào giá đỗ, chẳng lẽ anh cũng từng ăn rồi à?” Nhị Học Sinh sợ nói lỡ miệng, liền ngượng ngùng lắc đầu: “Tôi đã ăn bao giờ đâu, vừa rồi chỉ là lấy ví dụ cho cậu dễ hiểu thôi mà…” Khi nãy, Tư Mã Khôi chỉ định đem mấy lời đao to búa lớn ra át thế, nhắc nhở mọi người không nên ôm hi vọng hão huyền, phải làm tốt công tác chuẩn bị để ứng phó với tình huống xấu nhất, nhưng nếu để anh giải thích thế nào là định luật Murphy thì có lẽ anh cũng không thể giải thích tỉ mỉ đến thế, chẳng ngờ Nhị Học Sinh cũng được đấy chứ, đúng là không uổng công chúi mũi đọc sách suốt ngày.



Cao Tư Dương nghe xong thì căn dặn Hổ Tử: “Tư Mã Khôi nói đúng đấy, em phải nghe lời anh ấy”. Cậu dân binh Hổ Tử vẫn ương ngạnh: “Chị là chị em, em chỉ nghe lời mình chị thôi”. Cao Tư Dương mắng: “Nói lung tung! Chẳng lẽ lời của Trung ương Đảng và Mao chủ tịch em cũng định không nghe nữa sao?” Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Ranh con! Mới tí tuổi đầu mà cũng bày đặt tán gái cơ đấy! Thằng nhãi ranh này tính tình ngang như cành bứa(2) , hành sự lại lỗ mãng liều lĩnh, sớm muộn gì cũng tai họa giáng đầu thôi.



Dù sao những gì cần nói thì mình đều nói cả rồi; nói là việc của mình, còn nghe hay không là việc của cậu ta, cậu ta tự đi mà lo liệu lấy.” [2] Cây bứa: một loại cây to cùng họ với măng cụt, cành mọc xoè ngang, quả màu vàng, quanh hạt có cùi ngọt ăn được. Hải ngọng châm chọc: “Này, người anh em Hổ Tử! Cậu chỉ nghe mỗi lời chị gái thôi à? Thế có định nghe lời anh rể không đấy?” Cậu dân binh Hổ Tử đỏ tía tai mặt mũi, chỉ hận không thể nhào vô vật nhau với Hải ngọng một trận.



Thắng Hương Lân thấy vậy liền nhắc nhở mọi người còn phải đào địa huyệt. Hiện giờ, hai hội đang cùng chung một con thuyền, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt dưa hành mắm muối mà đấu khẩu với nhau nữa. Lúc ấy đã hơn mười giờ khuya, mọi người ăn chút lót dạ, rồi xuống hầm đất bọc thi thể người gác rừng lại, tạm thời đặt trên tấm ván, sau đó Hải ngọng đội đèn quặng chui xuống đào hố.



Tư Mã Khôi tận dụng chiếc giành còn lại để đựng đất, đẩy về địa đạo, rồi ba người Thắng Hương Lân, Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh dùng dây thừng kéo lên, cuối cùng cậu dân binh Hổ Tử đứng ngoài trạm thông tin phụ trách xúc đất. Vì người đông nên dưỡng khí tiêu hao rất nhanh, cả hội lại không chuẩn bị thiết bị cung cấp dưỡng khí, nên đào một lúc lại phải trèo lên trên để thở.



Thế nhưng dây chuyền lao động vẫn tiến triển rất nhanh, nên chưa đầy hai tiếng sau, cái hố ở tận cùng địa huyệt đã được nới rộng mấy mét vuông, tiếp tục đào xuống sâu hơn đã là tầng nham thạch, xẻng sắt không thể đào được nữa. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Sao chưa tìm thấy thứ gì mà đã tới tầng nham thạch vậy nhỉ?” Anh lấy tay sờ tầng đá lộ ra bên dưới lớp đất.



Ngoại trừ cảm giác kiên cố và lành lạnh ra, thì anh còn có cảm giác kết cấu của nó đều tăm tắp, không giống được hình thành do tự nhiên, lần ngang bên mép, ngón tay anh chạm phải mấy cây đinh sắt. Tư Mã Khôi và Hải ngọng càng nhìn càng cảm thấy kinh ngạc, hai người xem xét tỉ mỉ cả nửa tiếng đồng hồ dưới ánh đèn cácbua, trong đầu liên tiếp hiện ra mấy dấu hỏi lớn, vật ở tận cùng địa huyệt thật ngoài sức tưởng tượng, xem ra định luật thứ nhất của Murphy đã phát huy tác dụng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 129: Hồi 9: thám hiểm hang động


Dưỡng khí tại nơi sâu trong địa huyệt rất loãng, ánh đèn cácbua còn yếu ớt hơn cả ánh lửa ma trơi trong huyệt mộ, Tư Mã Khôi sờ thấy mấy cây đinh thò ra, mỗi cây to như ngón tay người lớn, chúng rất kiên cố, tựa hồ đã bám rễ trong tầng nham thạch vậy, soi đèn lại gần, thì thấy nó đen sì sì, không có độ bóng.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn chăm chú hồi lâu, cảm thấy vật này rất quen mắt, có lẽ nó không phải là đinh, mà là đầu thép, còn tầng nham thạch bằng phẳng đào được dưới địa huyệt, là phần mái của kiến trúc đổ bê tông cốt thép, do mép tường chịu tác dụng của lực giãn nở nên bị rạn nứt, khiến cốt thép bên trong lòi cả ra ngoài, có điều ở một nơi như đỉnh núi Thần Nông Giá thì làm sao lại có một “căn phòng” như vậy được? “Căn phòng” kiên cố và quái dị kia vừa vặn nằm ngay trong khe nứt chỗ đường giáp ranh của tầng nham thạch, cách đỉnh núi cao hơn hai ngàn mét so với mặt nước biển này cả mấy chục mét sâu, trên mặt đất lại hoàn toàn không có dấu vết đào bới đất cát, mà thậm chí ngay cả dân binh địa phương cũng không hề hay biết sự tồn tại của nó; thế nhưng công trình kiến trúc bê tông cốt thép này chắc chắn cũng chỉ mới được xây dựng mấy chục năm gần đây là cùng.



Hải ngọng nói: “Trước đây, vùng Hồ Bắc, Hồ Nam đều là địa bàn chiếm cứ của thổ phỉ, hay đây là sào huyệt mà bọn chúng để lại?” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Thổ phỉ chỉ tận dụng hang động thiên nhiên có sẵn trong núi để lẩn trốn thôi, đội quân ô hợp như bọn chúng thì làm sao đủ sức tạo ra công trình kiên cố thế này?” Hải ngọng lại nói: “Nhắc đến công trình, tớ mới nhớ ra, công trình này chắc chắn là hầm phòng không đấy.



Mấy năm đó, đất nước chẳng đề ra khẩu hiệu: “Đào hầm, tích lũy lương thực, không xưng bá đạo, chuẩn bị cho chiến tranh, chuẩn bị chống hoang hóa, vì nhân dân phục vụ” là gì. Lúc đó, bộ đội công trình địa phương đào không biết bao nhiêu hầm lớn nhỏ, nghe nói tổng số khối lượng đất đá đào lên còn nhiều gấp mấy lần Vạn Lý Trường Thành cơ đấy”.



Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy không giống một căn hầm trú ẩn. Đại Thần Nông Giá dân cư thưa thớt, đi sâu tiếp vào trong đã là cánh rừng rậm nguyên sinh m Hải Cốc, mà trên núi lại có bao nhiêu hang động thiên nhiên kì dị khác nhau, thì đâu cần thiết phải đào hầm trú ẩn phòng không; huống hồ, có lý nào lại xây hầm phòng không ở nơi này, bởi chẳng lẽ hàng ngày mỗi khi còi báo động vang lên, người ta lại rủ nhau chạy hai ngày đường núi đến đây lánh nạn? Hải ngọng lầm bầm: “Thế thì con bà nó quái lạ thật! Thôi, bọn mình cứ chui xuống nhìn xem bên trong nó là cái gì vậy”.




Tư Mã Khôi thấy chỗ nứt vỡ trên khối bê tông cốt thép, có một lỗ hổng khá lớn, phần bê tông bên trên trống hoác, đủ cho một người chui lọt. Không khí trong khe nứt âm lạnh, khiến hiệu quả chiếu sáng của đèn cácbua được phục hồi, chứng tỏ không gian bên trong rất sâu.



Anh ngăn không cho Hải ngọng vội vàng chui vào trước, mà đề xuất họ nên quay về để chuẩn bị chu đáo mọi biện pháp an toàn. Hai người kẻ trước người sau chui ra khỏi địa huyệt, rồi kể lại cho bốn thành viên còn lại tình hình vừa mới phát hiện: dưới lòng đất có khối tường kết cấu bê tông cốt thép, bên trong có lẽ rất sâu, nó không giống với công sự đa dụng thường dùng trong thời kì chiến tranh và hòa bình, nên chẳng rõ được sử dụng để làm gì? Tư Mã Khôi dự định, đội khảo cổ hội anh sẽ chui xuống dưới, để đội thông tin ở bên trên tiếp ứng, vì tình hình vẫn chưa rõ thế nào, nên phải mang cả ba lô và đèn quặng xuống theo.



Cao Tư Dương biết rất rõ trách nhiệm của bản thân, cô đề nghị được đi cùng hội Tư Mã Khôi, cậu dân binh Hổ Tử cũng háo hức muốn lập công, đương nhiên không cam tâm ở lại, Nhị Học Sinh thấy gian nhà gỗ trong núi sâu tối lửa tắt đèn, mà bản thân anh ta đâu có gan ở lại canh cỗ tử thi, thế là cũng vội vàng nài nỉ xin được tham gia hành động cùng cả nhóm.



Tư Mã Khôi không thể từ khách trở thành chủ để chỉ huy đội thông tin, huống hồ ba người bọn họ cũng không chịu nghe lời anh, vả lại nghĩ đến việc trong địa huyệt và gian nhà gỗ có khả năng vẫn còn tên “cương thi vô hình” đang ẩn nấp, đối phương chưa kịp đào đến điểm tận cùng thì vội vã trốn biệt, tuy anh không phát hiện thấy xung quanh có hơi thở người sống, nhưng cũng không dám lơ là.



Nếu để hội Cao Tư Dương đi cùng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, thì hội anh chí ít cũng có thể ứng cứu, bởi vậy anh không ngăn cản nữa. Chẳng ngờ cậu dân binh Hổ Tử bỗng đột nhiên hấp tấp vác súng chui tọt vào địa huyệt, Tư Mã Khôi thấy vậy không nhịn được mắng: “Tiên sư cái thằng quê mùa! Đúng là đồ ngựa non háu đá!” Tuy Tư Mã Khôi bừng lửa giận, nhưng anh vẫn lo lỡ cậu dân binh xảy ra chuyện gì, đành vội vã vác ba lô bám sát theo sau, những người còn lại cũng lần lượt chui xuống địa huyệt, mò mẫm đến chỗ có lỗ thủng ở cuối địa huyệt, rồi cùng chui vào bên trong.



Tư Mã Khôi đuổi theo Hổ Tử, tóm lấy tay cậu ta, gằn giọng: “Tiểu tử nhà cậu chán sống hay sao mà vội chạy đi đầu thai thế hả?” Cậu dân binh giằng ra khỏi tay Tư Mã Khôi, cố chấp đáp: “Tôi chỉ muốn xem cái ‘mớ thùng phuy’ khoa học nhà anh có chính xác hay không, nhưng bên trong tối thui, có thấy cóc khô gì đâu? Nguy hiểm ở chỗ nào chứ?” Tư Mã Khôi điên tiết: “Mớ thùng phuy cái mẹ gì, là Murphy…”, vừa nói anh vừa soi đèn quặng vào trong, phát hiện phía trên là một tấm trần bê tông cốt thép, dưới nó là một tấm sàn dày nặng y như vậy, chúng nằm song song, tạo thành một tầng lửng, cao tầm mét rưỡi.



Ánh sáng đèn quặng có thể chiếu xa gần hai mươi mét, trong phạm vi này, anh thấy không gian trống hoác, không có bất cứ thứ gì, khác một trời một vực dự đoán ban đầu của anh. Tư Mã Khôi thầm cảm thấy kì quái, nửa câu sau anh không nói tiếp nữa. Lúc này, bốn người còn lại cũng xách đèn quặng chui vào, thấy phía dưới lại là khối tường bê tông cốt thép nữa, quái dị y như tấm trước.



Thắng Hương Lân nói: “Chỗ này sâu hút, rộng rãi, nhưng chiều cao lại chỉ có mét rưỡi, chắc không phải phần chính của căn phòng, hay nó có hai tầng mái? Có điều, chiều ngang của chỗ này rộng quá, kết cấu của nó không giống với một căn phòng hay pháo đài bình thường”.



Tư Mã Khôi nhớ lại lúc ở Miến Điện, anh từng nhìn thấy kho máy bay không quân Hoàng gia Anh, cái nhà kho đó cũng có kết cấu bê tông cốt thép, phần đỉnh hình mái vòm, nhưng kho máy bay cũng không có tường ngoài hai lớp thế này. Lúc này, Nhị Học Sinh quả quyết nói với mọi người, đây không đơn thuần là tường hai lớp, mà là kết cấu lõi kép, giống như bình giữ nhiệt có hai lõi vậy, nó có hiệu quả phòng ngự, chống xung kích rất tuyệt vời.




Vì thế, đây có lẽ là một tòa công sự nhân tạo, mấy năm phòng chiến tranh chống đói, các đơn vị và bộ đội đều có nhiệm vụ “ba phòng”, không được đào quá nhiều hầm hào phòng không; thế nhưng loại kết cấu đặc biệt này tương đối hiếm gặp, có lẽ chỉ có bộ đội mới đủ khả năng tạo ra, chỉ có điều vì sao nó lại được đào ở ngọn núi cao cách mặt biển chừng này nhỉ? Đây là lần đầu hội Tư Mã Khôi nghe thấy cụm từ “kết cấu lõi kép”, chẳng ngờ một Nhị Học Sinh không hề nổi trội ở lâm trường, lúc lao động cực nhọc thì rệu rã như con chó chết, mà lại biết nhiều thứ đến vậy.



Tư Mã Khôi hỏi cậu ta: “Tuy cậu là thanh niên tri thức từ thành thị đây lên vùng núi này cải tạo tư tưởng, nhưng nghe nói cậu chưa bao giờ nhập ngũ thì sao có thể hiểu rõ về các thiết bị quân sự như lòng bàn tay thế hả?” Thì ra, thành phần gia đình Nhị Học Sinh không tốt, trước giải phóng là nhà tư bản ở Thượng Hải, đến đời cậu ta thì bất kể đi học hay vào xưởng làm công nhân đều rất khó khăn, chứ đừng nói đến chuyện tòng quân.



Người anh họ khá khẩm nhất trong gia tộc cậu ta, từng tham gia binh đoàn kiến thiết và sản xuất, đến vùng hoang hóa phía Bắc làm việc, như thế đã cảm thấy vinh dự lắm rồi. Tham gia binh đoàn tuy rất gian khổ, nhưng lại được phân phát vũ khí, còn được mặc quân phục, nên những người xuất thân có vấn đề vốn dĩ đều không được phép tham gia.



Anh họ Nhị Học Sinh phải nhờ không ít mối quan hệ mới được phân vào binh đoàn, quân phục cũng không có, nhưng quả thực cũng được phát súng phát đạn như những người khác. Do mối quan hệ Trung Xô ngày một xấu đi, nên năm 1969, hai bên đã xảy ra xung đột vũ trang kịch liệt trên đảo Chân Bảo, sông Ussuri, sau đó xung đột tiếp tục diễn tiến dữ dội, phía Liên Xô bày trận, hàng triệu lính dàn trải khắp biên giới tuyến sông, Trung Quốc rơi vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp một cách toàn diện.



Đơn vị nông cụ của binh đoàn sản xuất kiến thiết, mà anh họ Nhị Học Sinn đóng quân, cách tuyến biên giới rất gần, họ có thể cảm nhận một cách chân thực đám mây đen chiến tranh đang vần vũ trên đầu. Một buổi tối, sau khi anh ta vừa huấn luyện xong và trở về nhà đi ngủ, chăn chiếu vẫn còn chưa kịp ấm, thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng còi báo động, sau đó điện đài thông báo phía Liên Xô đã xuất binh, thành phố Tề Tề Cáp Nhĩ bên dòng sông Mẫu Đơn bị ném bom dữ dội.



Nghe thấy tin ấy, ai cũng thấy vô cùng kích động, tinh thần bi tráng tột độ, họ đoán định rằng: “Bọn râu xồm toàn là bộ đội cơ giới hóa, lúc này không chừng đoàn xe tăng của chúng đã đánh đến tận Thẩm Dương rồi cũng nên, chúng ta lại bị cô lập phía sau lưng địch, chỉ có thể rút lui vào núi đánh du kích”.



Thế là, không quản băng rơi tuyết phủ kín trời kín đất, toàn bộ lực lượng vũ trang đã chạy thục mạng lên núi. Đơn vị nông cụ vượt núi suốt đêm, người nào người nấy kiệt sức mệt lả, nhưng vừa đến nơi thì nhận được thông báo rằng đó chỉ là buổi diễn tập.



Anh họ Nhị Học Sinh chỉ buông lời lầu bầu mấy câu: sao nỡ đày ải nhau thế! Chẳng ngờ lại bị người ta tóm tại trận và bắt kiểm điểm, may mà tiểu đoàn trưởng thương tình, không tiếp tục làm to chuyện, nhưng cuối cùng anh họ của Nhị Học Sinh cũng bị khai trừ khỏi binh đoàn và bị đuổi về quê nhà.



Sau khi trở về, anh ta kể cho Nhị Học Sinh tình hình tiến hành công tác “ba phòng”, trong đó có cả chuyện nhà kho hạng nặng kết cấu lõi kép, có thể ngăn chặn bom phá pháo dội. Đương nhiên, những chuyện đó cũng chẳng phải bí mật quân sự gì, bởi vì trong sổ tay huấn luyện dân binh cũng có hình vẽ, chỉ có điều, rất ít người chịu đọc kỹ mà thôi.




Hội Tư Mã Khôi cũng đều trải qua thời kì đặc biệt ấy, nên nghe những lời Nhị Học Sinh vừa nói cũng thấy đúng là khá có lý. Xem ra kho ngầm lõi kép này có lẽ được xây dựng trong những năm phòng chiến tranh chống đói, do bộ đội công trình đơn vị nào đó bí mật xây dựng trong núi sâu, nhưng vị trí của nó vẫn rất đặc biệt, không thể nghĩ ra công dụng cụ thể của nó, càng không thể đoán được bên trong rốt cuộc chứa đựng thứ gì.



Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Chúng ta chưa được phép, không thể tùy tiện xem trộm thứ bên trong đâu!”. Thắng Hương Lân phỏng đoán, cái nhà kho này có vẻ đã bị bỏ hoang nhiều năm, tuy nó tận dụng hang động tự nhiên ở chỗ tiếp giáp mạch nham thạch để xây dựng nên, nhưng kết cấu tự thân của nó lại tồn tại khiếm khuyêt lớn, cho dù được đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố, thì vẫn không thể địch lại được lực giãn nở sản sinh do các khe đá trong lòng núi gây nên, bởi vậy phần ngoài mới xuất hiện vết nứt vỡ, có lẽ bên trong chỉ là cái ruột rỗng mà thôi.



Nhưng vì sao tên Lão Xà đội mồ sống dậy kia lại nhắm cái nhà kho ngầm bị bỏ hoang dưới lòng đất này nhỉ? Vì sao hắn lại biến mất trong gian nhà gỗ giữa núi sâu bị khóa kín? Chẳng lẽ, dưới lòng đất thực sự cất giấu vật gì quan trọng sao? Tất cả những chuyện này là hoạt động phá hoại của kẻ địch, hay còn có liên quan đến những bí mật cổ xưa nào đó đang chìm lắng dưới Biển Âm Dụ? Mọi người nóng lòng muốn làm rõ sự việc, sau khi bàn bạc vài câu xong, họ lại tiếp tục soi đèn quặng và đèn pin, mò mẫm về hướng vết nứt kéo dài trên mặt đất, di chuyển từng bước giữa tầng lửng thấp lè tè.



Tư Mã Khôi quay người, khẽ nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân rằng, thành viên đội thông tin không có kinh nghiệm ứng biến, lại chỉ lắp ghép tạm thời, thiếu năng lực hợp sức cần phải có, nếu đột nhiên xảy ra sự cố, chắc chắn đội hình của họ sẽ tan vỡ, bởi vậy mọi người cần để mắt đến bọn họ nhiều hơn, tuyệt đối không được phân tán đội ngũ, chỉ cầu mong sao chuyện này mau chóng kết thúc, đừng xảy ra sai lầm gì trong quá trình hành sự mới được; đến lúc đó hai đội sẽ chia tay, ai đi đường nấy, chúng ta sẽ tiến vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá như dự kiến ban đầu.



Tư Mã Khôi vừa nói vừa bất giác nhớ đến định luật Murphy – bất kể kế hoạch chuẩn bị chu đáo đến đâu, thì khi tiến hành, chắc chắn vẫn xuất hiện những sai lầm và nhân tố bất ngờ; cuối cùng, kế hoạch có thành công hay không, còn phải xem độ nghiêm trọng của sai lầm có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hay không, cái này gọi là “người tính không bằng trời tính”.



Tư Mã Khôi càng ngẫm càng cảm thấy thế sự khó lường, cho dù tính toán vẹn toàn hết cả, nhưng đến lúc sự việc xảy ra, chưa chắc đã được như ý muốn, nên bây giờ thì chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Thế là anh lấy lại tinh thần, bám sát theo sau đội thông tin, nghe ngóng sát sao mọi động tĩnh xung quanh.



Mọi người mò mẫm một hồi, cuối cùng cũng tìm thấy khe nứt ở tầng đáy, Tư Mã Khôi ném hòn đá xuống dưới thám thính, nghe tiếng đá rơi thì biết phía dưới cũng không sâu lắm, anh liền bảo mọi người đừng vội manh động, rồi tung người nhảy xuống trước, nhưng đèn quặng do sử dụng lâu ngày, lại thêm khi nãy bị chấn động và rung lắc nên tiếp xúc kém, nó đột ngột vụt tắt.



Trước mắt chỉ còn màn đêm đen quánh, ngoại trừ hơi thở và tiếng tim đập của chính mình, thì xung quanh yên ắng đến độ một chiếc kim rơi cũng có thể nghe thấy. Tư Mã Khôi đang kiểm tra đầu đèn lỏng chặt thế nào để vặn lại cho sáng, nhưng vừa giơ tay thì anh sờ thấy một ống thép lớn lạnh tanh, nặng trịch nằm chắn ngang ngay trước mặt, không rõ đó là vật thể gì.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 130: chiếc hộ pandora - hồi 1: kho pháo quân sự lõi kép


Tư Mã Khôi sờ thấy ống thép lạnh băng trong bóng tối, dựa vào xúc giác thì dường như đó là một cỗ pháo tăng. Trong đầu anh phút chốc vụt hiện lên hình ảnh dòng máu đen chảy ra ùng ục từ thất khiếu của người chết, đó đều là thảm cảnh của những chiến hữu bị quân chính phủ bắn pháo hạng nặng gây chấn động lục phủ ngũ tạng đã ngã xuống trên đất Miến Điện.



Nghĩ đến chuyện này, tim anh lại như bị ai bóp nghẹt, nhưng nếu là pháo hạng nặng thì nòng pháo có vẻ hơi dài thì phải? Tư Mã Khôi nóng lòng muốn xem rốt cuộc là thứ gì, anh lấy tay vặn chặt thân đèn bị lỏng, chùm sáng phóng vụt ra phía trước. Tư Mã Khôi bất giác khẽ thốt lên kinh hãi: “Ối Phật tổ ơi!”, bốn phía là bốn khẩu pháo tăng to tổ bố.



Lúc này, hội Hải ngọng đợi Tư Mã Khôi ở ngoài hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, liền lục tục theo chân nhau chui vào khe nứt, nhờ ánh sáng đèn cácbua, mọi người nhìn thấy vật thể nằm chắn ngang trước mắt, khiến ai nấy đều lập tức ngẩn người ra nhìn. Thực ra, cảm giác lúc trước của Tư Mã Khôi không hề sai, đó là khẩu pháo hạng nặng họng ngoại cỡ, chỉ có điều thể tích của nó rất lớn, hình dạng cũng vô cùng đặc biệt, nhất là nòng pháo, đúng là dài khiếp người, vả lai góc độ nòng pháo gần như song song với mặt đất, trông hoàn toàn khác với những khẩu pháo dùng trên địa hình núi thường thấy.



Trong không gian hạn hẹp, chật chội, nó khiến người ta cảm thấy bị đè nén đến ngộp thở. Khẩu pháo với hình thù kì lạ này rất giống với khẩu đại bác D-20 bắn đạn trái phá 152mm do Liên Xô sản xuất mà Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy ở Việt Nam. Nó vừa có đặc tính của pháo bắn đạn trái phá và pháo bắn lựu đạn, vừa có khả năng tiến hành áp chế hỏa lực đường dài, lại vừa có khả năng trực tiếp ngắm bắn; có điều, khẩu pháo vừa phát hiện, chắc là loại D-66 của Trung Quốc nhái hàng Liên Xô, với quy cách đường kính họng pháo giống y đúc với hàng Liên Xô, thật không ngờ, nó lại được cất giấu trong kho pháo quân sự lõi kép trên ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá.



Tuy là sinh viên học viện quân y, nhưng Cao Tư Dương lại không phải bộ đội dã chiến, hơn nữa, ngay cả lính tráng cũng chưa hẳn đã nhận biết được tất cả các loại súng pháo, nên cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu đại bác bắn đạn trái phá 152mm đời D-66, thậm chí còn chưa bao giờ nghe thấy tên nó.




Lúc này, cô bất giác nảy sinh đôi chút hoài nghi về lai lịch của hội Tư Mã Khôi, vì người bình thường làm sao có thể phân biệt chính xác loại hình và họng súng các khẩu pháo một cách cụ thể như vậy được? May mà lúc trước khua môi múa mép, hội Tư Mã Khôi đã nói từng tham gia đánh du kích, Hải ngọng còn thanh minh bảo ông già nhà anh là thiếu tướng, cả gia đình ở nhà lầu trong quân khu, đi vệ sinh cũng không cần ra khỏi cửa, nên có hiểu biết tí chút về trang bị pháo binh thì cũng có gì đáng nói đâu.



Mọi người đưa mắt nhìn, phát hiện ngoài bốn khẩu pháo đó ra, xung quanh còn chất đầy hàng thùng đạn pháo, trên tường còn sơn khẩu hiệu “Xây dựng pháo binh nhân dân vững mạnh”. Quan sát kỹ kết cấu của kho pháo quân sự lỗi kép, thì thấy có vẻ như tổng thể kiến trúc của nó đều được nằm trong huyệt động ẩn giữa lòng núi, được đổ hai lớp bê tông cốt thép trong lòng động để che đậy tung tích, và lõi kép còn có hiệu quả phòng chống xung kích do bom mìn dội xuống.



Ở giữa có thông đạo nối liền, hai đầu nam bắc rộng rãi, lần lượt đặt bốn khẩu pháo đại bác D-66 án ngữ bốn cửa, nên nó có thể bắn dội từ trên cao xuống, từ cửa động hai sườn nam băc, bắn thúc ra ngoài; tầm bắn ở đây lại khoáng đạt, vị trí rất kín đáo, từ góc độ chiến thuật mà nói, thì đặt đại bác ở địa điểm này là cực kì lý tưởng.



Cuối những năm 60, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm nhận được sự uy hiếp của chiến tranh, nên bắt đầu tiến hành điều chỉnh chiến lược quy mô lớn, các vùng như Hồ Bắc, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu v.v… đều được coi là khu vực chiến lược trọng điểm. Các đơn vị và bộ đội đồn trú tại cơ sở nhận nhiệm vụ thi công những công trình và tham gia những hạng mục huấn luyện mang tính đối ứng, trong đó có rất nhiều công trình quân sự chuyên môn được bảo mật nghiêm ngặt, kho pháo quân sự lõi kép này cũng nằm trong phạm trù đó.



Có lẽ, công trình được triển khai từ lưng núi, còn mấy khẩu đại bác D-66 được tháo dỡ từng linh kiện vận chuyển vào đây, sau đó mới được lắp ghép lại, bởi vậy dân binh bản địa mới không hay biết trong núi còn có một nơi như thế này. Chính vì vậy, cửa động sườn bắc và sườn nam đều bị chặn lại, khiến kho pháo quân sự lõi kép hoàn toàn bị niêm phong trong lòng núi.



Trộm nghĩ, có lẽ do thời cuộc thay đổi, kết cấu của nó không hợp lý, đã dẫn đến tường kho rạn vỡ, nó mới bị bỏ hoang vào phút chót, nhưng khẩu đại bác lại không tiện di dời, nên khi ấy vẫn chưa dỡ ra vận chuyển, tạm thời để lại trong núi, đề phòng mai sau cần dùng. Đó là cách giải thích hợp lý duy nhất mà Tư Mã Khôi có thể nghĩ ra.



Có điều bây giờ lại nảy sinh một nghi vấn khó hiểu hơn, vì sao gã hái thuốc tên Lão Xà lại biết trong đây có công trình quân sự này? Nếu hắn muốn thực hiện hành vi phá hoại, phá nổ kho pháo, thì ở lòng núi sâu cô tịch bóng người này cũng không thể tạo ra hiệu quả lớn lắm, còn nếu như không phải vì nguyên nhân này, thì có lẽ nó có liên quan đến bản thân “sơn động”.



Mọi người đoán, kho pháo quân sự lõi kép cũng chỉ bị bỏ hoang mấy năm nay thôi, còn động huyệt bên ngoài lại có niên đại cổ xưa đến nỗi không thể truy tìÂm nguồn ngọn, mà rìa công sự lại xuất hiện nhiều vết nứt vỡ, có thể đi thông thẳng vào nơi sâu trong lòng núi.



Cả hội đang định tiếp tục lần tìm manh mối, thì bỗng nhiên ngửi thấy mùi phoóc môn lan tỏa trong làn không khí âm lạnh. Tư Mã Khôi mò theo mùi khí, ngẩng đầu lên nhìn, thì thấy ở khe nứt phía sau mấy thùng đạn có nửa thân người đang thò ra. Kẻ đó có thân hình vạm vỡ, vai rộng eo thon, gương mặt giống như loài vươn cổ bị tuyệt chủng từ thuở nào, hai con ngươi nhiều lòng trắng ít lòng đen, toàn thân lấm lem bùn đất.



Hắn ta trông như xác chết mới chui từ mộ lên vậy. Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy khuôn mặt và thân hình gã đó, liền biết đó chính là Lão Xà hành nghề hái thuốc mà cậu dân binh vừa kể. Lúc trước, có lẽ đối phương đã vùi mình dưới lớp đất trong địa huyệt, mới che giấu đưọc mùi khí quái dị toát ra từ cơ thể, đồng thời trốn thoát thành công khỏi sự truy lùng của mọi người.



Thế nhưng kẻ đó thì đã chết từ năm ngoái, vả lại người còn đang sống sờ sờ làm sao có thể tự chôn mình dưới bùn đất trong địa huyệt được? Với khứu giác nhạy cảm của Tư Mã Khôi, đối phương chỉ cần khẽ thở ra một chút, là anh sẽ lập tức phát hiện thấy, vậy mà lúc này cự li giữa hai người gần như mặt đối mặt, mà anh vẫn không cảm nhận được chút sinh khí nào tồn tại trên cơ thể gã, có điều cảm giác này lại hoàn toàn không giống với u hồn Nấm mồ xanh kia.



Những người còn lại hoàn toàn bất ngờ với sự xuất hiện đột ngột của đối phương, vả lại khi trông thấy tay Lão Xà khua khua một ngọn đèn dầu đang thắp sáng và một cuộn thuốc nổ tự chế dùng để phá núi, thì ai nấy đều giật thót mình, vì chỉ cần ngọn đèn rớt xuống đất một cái là sẽ dẫn đến hỏa hoạn cháy nổ.




Đây không phài là chuyện chỉ nổ “đoàng” một cái là xong, mà là khối lượng thuốc nổ khổng lồ trong kho quân sự cũng đủ sức biến cả ngọn núi này thành bình địa trong nháy mắt, bởi vậy mọi người đều yên lặng đứng im tại chỗ, không ai dám manh động, chỉ duy cậu dân binh Hổ Tử điếc không sợ súng là hăm hăm hở hở vác súng chĩa thẳng vào đối phương.



Lão Xà khàn giọng hăm dọa: “Thằng nhãi dân binh! Mày vác súng thì vác cho chắc đi, kẻo lỡ cướp cò bắn nhầm sang chỗ khác, thì đừng mong chạy thoát khỏi chỗ này”. Cao Tư Dương không chịu kém miếng, cô cũng giương súng lên hỏi: “Làm sao ông chạy đến được đây?” Tư Mã Khôi biết đối phương đã chuẩn bị chu đáo mới dám mò tới nơi này, liền ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân và Hải ngọng, ý bảo: “Tùy cơ ứng biến, không được mạo hiểm hành động”.



Lúc này, Lão Xà nói với Cao Tư Dương: “Một đấu sáu, thì cũng chẳng sao! Có điều chúng ta việc gì phải đánh nhau để cả hai đều chịu tổn thất?” Lão Xà nói, chuyện của gã thực ra cũng không có bí mật gì đáng giấu. Trước đây, dựa vào những tuyệt kỹ đầy mình, gã hành nghề tiêu lộc săn bắn ở cánh rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, và bất kể chim quý thú lạ hay linh chi ngàn năm, hà thủ ô hiếm có thế nào, chỉ cần gã ra tay là chưa bao giờ phải trở về tay không.



Nhưng từ khi gặp nạn, dung mạo bị hủy hoại, gã không cách nào tìm được mảnh da người, nên đành lột da khỉ đắp lên, rồi buộc phải bôi thuốc chống rữa nát. Từ đó, trên người gã lúc nào cũng mang theo mùi quái di. Ngày qua ngày, gã sống cuộc sống người không ra người, quỷ không ra quỷ, ai ai cũng sợ hãi tránh xa, còn bản thân gã cũng cảm thấy mình sống không bằng chết, đầu óc bất giác nảy sinh tà niệm, nên lúc nào cũng ngậm mối hận trong lòng với mọi người xung quanh.



Gã định tìm cơ hội giết chết vài người, rồi làm vài chuyến hàng lớn, vượt biên trốn xuống Nam Dương(1). [1] Nam Dương: cách nói xưa của người Trung Quốc chỉ khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân của cả chuỗi sự kiện phải bắt đầu kể từ đầu những năm Dân Quốc. Khi đó, có một nhà khoa học sinh vật địa chất người Mỹ, tên là Taninth.



Ông ta từng nhiều lần đến núi Thần Nông Giá để tiến hành khảo sát, và phát hiện m Hải Cốc là cánh rừng nguyên sinh hiếm có trong khu vực trung vĩ độ, là nơi ẩn mình của rất nhiều loài cổ sinh vật đã bị tuyệt diệt từ hàng trăm triệu năm trước. Ông ta tổ chức một đội thám hiểm săn bắn, vây bắt những loài dã thú quý hiếm trong núi cao rừng rậm, đồng thời sưu tầm lượng lớn tiêu bản thực vật và côn trùng.



Hồi trước giải phóng, sư phụ năm xưa của Lão Xà là lên giặc đất chuyên đi đào mộ đổ đấu, từng làm hướng đạo cho ông Taninth. Lão thổ tặc miền sơn cước là kẻ có tầm nhìn hạn hẹp, nhận thức nông cạn, thấy trên người ông Taninth có nhiều dây chuyền vàng, nên đã hạ độc thủ vào lúc cả đoàn thám hiểm vừa phát hiện ra địa huyệt dưới lòng đất, đang định trở về chuẩn bị tiến hành bước kế tiếp.



Lão ta đã giết chết tất cả thành viên trong đoàn, chiếm đoạt tổng cộng ba sợi dây chuyền to như ba ngón tay. Cuối cùng, sư phụ Lão Xà mắc bệnh nặng. Trước lúc lâm chung, lão kể hết cho đồ đệ nghe chuyện mình đã ra tay hạ độc thủ cả đoàn thám hiểm Taninth như thế nào và cả chuyện thi thể họ cùng các trang thiết bị vẫn đang được cất giấu trong lòng núi.



Có điều, lão kể những chuyện đó không phải bởi lương tâm cảm thấy hối lỗi mà bởi lão hối hận, hối hận vì khi đó tầm nhìn quá nhỏ hẹp, cứ nghĩ bạc trắng, tiền đồng mới là tiền, vả lại lúc đó ăn cắp run tay, chẳng kịp để ý đến những thứ khác mà đào bới. Lão sư phụ nói với đồ đệ: “Vi sư ta cả đời làm thổ tặc, lại biết tuyệt kỹ tiêu lộc hái thuốc, nhưng cuối cùng vẫn là tên nhà quê chưa bao giờ được trông thấy thế giới bên ngoài.



Động huyệt dưới lòng đất mà ông Taninth tìm kiếm ở ngay dưới cánh rừng nguyên sinh m Hải Cốc, nơi sâu nhất có khe thông với mạch núi Âm Sơn. Trước đây, nghe các cụ nói, người chết thành ma, nếu lúc sinh thời đức hạnh bại hoại, thì sau khi chết, vong hồn người đó sẽ bị nhốt dưới núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh, nơi nhốt âm hồn quá nửa chính là chỗ này.



Ông Taninth không tin chuyện ma quỷ. Trước khi hành sự, ông ta còn chuẩn bị rất chu toàn, từ bản đồ đến vũ khí, không thiếu một thứ gì, các thành viên trong đội thám hiểm cũng là những tay cừ khôi hạng nhất. Tiếc là, lúc đó vị sư thấy mấy sợi dây vàng, nên nhất thời nổi lòng sát sinh, không át chế được tà niệm, còn nếu đợi đến khi đội thám hiểm Taninth đào được mấy món hàng ngon dưới lòng đất lên mới ra tay giết người, rồi sau đó mang hàng đến Nam Dương tiêu thụ, thì bây giờ thử hỏi cuộc đời ta còn huy hoàng đến độ nào?” Sư phụ nói xong thì uất ức tắt thở.



Lúc đó, Lão Xà bắt đầu ghi nhớ chuyện này, nhưng mãi không tìm được cơ hội ra tay. Sau đó, gã phát hiện thấy bộ đội công trình bí mật xây dựng kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, thì thấy càng khó tiếp cận hơn. Mãi đến khi gã “tiêu lộc” thất thủ, cũng không thể tiếp tục làm ăn trong lâm trường, gã liền hạ quyết tâm phải tìm mấy món hàng lớn trốn đi Nam Dương, nên lập tức bắt tay chuẩn bị.




Đầu tiên, nhờ vào các mối quan hệ, gã mò mẫm được kết cấu kho pháo quân sự lõi kép, biết vỏ ngoài nhà kho đã bị nứt vỡ, gã liền đục lỗ chui vào đó từ chỗ giáp ranh với mạch nham thạch trên núi. Ngoài ra, gã còn dò hỏi được một số tin tức từ các thanh niên trí thức trong lâm trường.



Trong đám thanh niên, không ít người từng đến vùng duyên hải Quảng Đông, khi tham gia phong trào hồng vệ binh do học sinh sinh viên phát động. Nghe mấy người đó kể: “Vượt biển trốn sang Hồng Kông là phương thức thường thấy nhất, không cần lo lắng sóng to gió lớn gì, càng không sợ tàu nhanh của bộ đội biên phòng tuần tra đâm chết, anh chỉ cần cho ngư dân tí lợi, là họ dám đưa anh vượt biển thông đêm.



Nếu gặp thời tiết thuận lợi, dù không biết bơi cũng cứ việc ôm gối hơi mà bồng bềnh một mạch đến Hồng Kông. Mặt biển ở đó bao la, làm gì có chuyện đen đủi đến mức đụng độ với cảnh sát tuần trên biển được? Rất nhiều gia đình con em phần tử cánh hữu, không chịu nổi sự xung kích của xã hội, đều trốn sang Hồng Kông theo con đường này, họ còn nói dự định sẽ sang bên đó tổ chức vũ trang khởi nghĩa lật đổ ách thống trị thực dân, nhưng người ra đi cũng không ít mà vẫn bặt vô âm tín, tuyệt không thấy động tĩnh gì, có lẽ họ đều lẩn trốn, lặng lẽ ngồi chờ cao trào của cách mạng thế giới”.



Lão Xà đâu dám cả tin, bảo chạy sang Hồng Kông không phải chuyện khó, sao ngư dân bản địa lại không đi? Trong lâm trường, núi thì cao mà hoàng đế lại ở xa, những thanh niên trí thức đó không cần húy kỵ gì cả, nói toẹt tình hình thực tế cho hắn nghe: “Marx đã chỉ ra – bản chất của chủ nghĩa tư bản là người ăn thịt người, anh là ngư dân, qua bên đó anh vẫn chỉ là thằng ngư dân, ăn no vác nặng thì qua bên đó cũng vẫn là ăn no vác nặng, người không tiền không quyền sống ở đâu mà chẳng khó khăn; điểm khác biệt duy nhất chính là một số người qua bên đó, vận may cũng khởi phát hơn một chút, nhưng nhân dân bách tính phổ thông đi đâu mà chẳng phải kiếm cơm qua ngày? Bởi vậy, trừ khi không còn con đường nào khác, phần đông người ta vẫn chọn lựa cuộc sống an phận thủ thường”.



Lão Xà rốt cuộc vẫn là kẻ chưa bao giờ bước chân ra khỏi ngọn núi, nên lòng hoang mang vô kể. Gã nghe đồn lúc đêm khuya có thể thu sóng đài địch, nên định trước khi hành sự sẽ thử nghe ngóng tình hình bên đó, chẳng ngờ lại bị người ta phát hiện và báo cáo tổ chức, rồi tuy không có bằng chứng trực tiếp, nhưng vẫn chịu sự quản chế nghiêm ngặt.



Thế là gã giả chết để trốn vào trong núi, mãi đến khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, mọi người đều bị điều đi đào rãnh phòng hỏa, gã mới nhân cơ hội này lần mò đến trạm thông tin. Tên dân binh gác rừng trong đó trước đây từng chơi xấu gã, mối hận ấy gã ôm trong lòng đã lâu, nay hạ thủ không thương xót chút nào.



Sau đó, gã lập tức bắt tay đào địa huyệt, nhưng một người làm công việc nặng nhọc như vậy quả thực có chút lực bất tòng tâm, thời gian không tránh khỏi bị kéo dài thêm đôi chút, rồi mắt thấy sắp thành công đến nơi mà đội thông tin đến sửa máy điện đàm lại kéo đến đứng ngay trước cửa.



Gã ghé nhìn qua cửa sổ, trông thấy có người đến, nên đành tạm thời trốn trong địa huyệt, không ngờ nhóm người này đầu óc tỉnh táo, hành sự thận trọng khác thường. Thấy rằng nếu đội này còn tiếp tục lục soát, không chừng sẽ phát hiện thấy địa huyệt chôn xương cốt của đội thám hiểm Taninth bất cứ lúc nào, nên không nhịn được, gã liền thử thương lượng với đội thông tin.



Lão Xà nói rõ ràng: nếu đội thông tin không bỏ qua cho gã thì lập tức gã sẽ kích nổ đạn pháo để mọi người cùng xuống hoàng tuyền, còn nếu chịu nhắm một mắt, mở một mắt, để gã mang bản đồ của đội thám hiểm Taninth đi, còn đội thông tin lập tức rút lui theo đường cũ, thì hai bên coi như chưa ai nhìn thấy ai… Mấy lời của Lão Xà làm cậu dân binh Hổ Tử điên ruột, cậu ta ỷ thế mình xuất thân là thợ săn, kỹ thuật bắn súng cừ khôi, hạ gục không biết bao nhiêu hổ báo, nên không đợi đối phương nói hết câu, liền bất ngờ bóp cò.



Lão Xà vừa vặn đứng trong phạm vi phát nổ của khẩu súng săn, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, trong thời gian chớp giật như thế, gã làm gì có cơ hội trốn thoát. Lúc đó, Lão Xà bị đạn bay xuyên qua ngực, chiếc đèn dầu rơi chỏng chơ trên mặt thùng đạn, vỡ vụn. Mồi lửa liếm đất bùng cao đến ngang thắt lưng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 131: Hồi 2: đội thám hiểm taninth


Tư Mã Khôi lúc này không hiểu tại sao Lão Xà có thể cải tử hoàn sinh, đã thành thây ma vùi dưới đáy mộ trước mắt bao nhiêu người, mà giờ lại xuất hiện trong trạm thông tin giữa núi sâu, đồng thời còn có khả năng giấu mình trong bùn đất địa huyệt, hoàn toàn không cần thở.



Những điều này đều cho thấy, gã không phải người sống. Tư Mã Khôi cũng nhận ra: Lão Xà chẳng qua chỉ là tên giặc đất cả đời sống trong núi hoang, tuy cũng nham hiểm, tàn nhẫn như sư phụ của gã, lúc sinh thời đã giết bao nhiêu mạng người, lòng dạ hẹp hòi, nhưng lại là kẻ hữu dũng vô mưu, nên hoàn toàn có thể lựa lời trấn an, rồi sau đó ra tay khống chế cũng chưa muộn.



Nhưng Tư Mã Khôi lại chưa tính đến còn có một nhân tố không xác định nữa ở ngay bên mình. Cậu dân binh Hổ Tử là người tính tình nóng vội, giống như một quả cầu lửa rực cháy, chỉ cần một câu nói không vừa tai cũng khiến cậu ta nổi giận lôi đình, hận không thể lập tức nhào tới cắn xé đối phương cho hả giận.



Lúc này, cậu ta không nhịn được, đột nhiên giương súng bắn, Lão Xà đổ nhào xuống đất ngay tức thì, cái đèn dầu rơi vỡ tan tành, lửa bén theo dầu đang chảy tràn ra mặt đất, dẫn cháy tới thùng đạn, bên trong đựng toàn đạn pháo đại bác loại D-66, đường kính 152mm; tuy dầu trong đèn không nhiều lắm, nhưng chỉ cần bấy nhiêu đó thôi cũng đủ cấy mầm lửa khắp tứ phía xung quanh.



Cùng lúc đó, cuốn thuốc nổ tự chế trên người Lão Xà cũng rơi xuống đất, kíp nổ vừa bắt lửa thì đã lập tức bén cháy thần tốc, phát ra âm thanh nghe “xì xì” rồi tỏa ra màn khói trắng mù mịt. Tư Mã Khôi thấy tình hình trước mắt nguy cấp, vội lao người chạy tới, ôm cuộn thuốc nổ tự chế, lăn một vòng trên mặt đất tránh hướng lửa, rồi mau chóng dập tắt sợi dẫn nổ, nhìn lại thấy kíp nổ chỉ còn sót lại đúng nửa phân, trán anh bất giác đổ mồ hôi lạnh.




Nếu nơi này xảy ra cháy nổ, thì mấy trăm quả đạn pháo sẽ san phẳng quả núi này. Hội Hải ngọng vội vàng chạy ra các hướng khác nhau dập lửa, còn cậu dân binh Hổ Tử thì vẫn đang đỏ mắt bám riết Lão Xà, vừa nhìn ngực lão bị đạn bắn nát, cậu ta liền lấy chân giẫm mạnh lên cái xác, giọng khinh niiệt: “Có khùng mới tin mày…”, nhưng cùng lúc đó bỗng nhiên cậu ta cảm thấy cổ chân mình bị xiết chặt, như thể có gọng kìm sắt bóp thật mạnh, đau buốt tận xương tủy.



Không ngờ chân cậu ta đã bị cái xác năm bẹp trên đất thò tay ra nắm. Hổ Tử biết tay Lão Xà toàn chai vừa dày vừa cứng, lớp chai sần dày cả đốt ngón tay, đó là kết quả rèn rũa của núi sâu rừng già, nó rất đắc dụng trong việc giúp Lão Xà leo cây trèo núi hàng ngày; móng tay dài nhọn với lực xiết khỏe kinh hồn ấy, đủ sức bóc tuốt cả da hươu.



Hổ Tử thấy đối phương bị súng bắn gục dưới đất mới dám đến gần, nào ngờ Lão Xà đột ngột sống dậy, cậu ta sợ tái mặt, lúc này cổ chân đã bị bóp nát, cậu dân binh đau đớn gào thét thảm thiết, rồi ngã vật xuống đất. Đối phương không để Hổ Tử gục hẳn xuống đất đã chụm năm đầu ngón tay thành hình đầu rắn, nhắm thẳng vào tim cậu ta, xuyên mạnh vào trong.



Lão ra tay vun vút như gió cuốn sương lan, động tác nhanh đến khó lòng tưởng tượng, cậu dân binh Hổ Tử thoắt chốc thấy ngực như bị búa tạ đánh trúng, mặt mũi tối sầm, tiếng gào thảm thiết do bị vặn cổ chân khi nãy, giờ vụt tắc nghẹn trong cổ họng. Lão Xà thuận thế xông lên cắn một miếng vào má cậu ta, xé cả miếng thịt to như lòng bàn tay, nhầy nhụa cả da lẫn thịt, đút vào miệng nhai rau ráu, hai mép rớt ròng ròng máu tươi.



Cả chuỗi sự việc đó xảy ra đồng thời cùng lúc Tư Mã Khôi nhào tới dập tắt ngòi nổ và những người còn lại xông lên dập lửa tứ phía xung quanh, khi mọi người phát hiện ra sự việc, thì Lão Xà đã kéo lê thân hình bê bét máu của Hổ Tử, mau chóng rút lui vào trong khe nứt trên mặt đất của kho pháo quân sự.



Mọi người thấy Lão Xà không có sinh khí của người sống, sau khi bị súng bắn, vẫn có thể hành động như không hề hấn gì, thì ai nấy đều kinh hãi, không hiểu hắn là người hay yêu ma. Chuyện đã đến nước này, cũng không còn cách nào khác, cả hội đành bạo gan xông lên cứu cậu dân binh.



Ai ngờ, cậu dân binh Hổ Tử vốn dĩ đang hôn mê thì bật tỉnh lại do cơn đau dữ dội khi bị xé má, cảm giác mặt mình nhớp nháp, trước mắt tối thui, thân sau bị ai đó không ngừng lôi kéo, cậu ta sợ hãi tột độ, nhưng hoàn toàn mất khả năng kháng cự, chỉ còn biết giơ hai tay quờ quạng loạn xạ tứ phía, chẳng ngờ lại nắm được kíp hỏa của khẩu đại bác D-66 ngay bên mình.



Mọi chuyện trên đời, khi ta càng sợ thì nó lại càng dễ xảy ra, không ngờ ổ đạn khẩu đại bác D-66 lại lắp đạn thật và lên nòng sẵn sàng. Kho pháo quân sự lõi kép dưới lòng đất này được xây dựng từ cuối những năm 60, khi đó bộ đội hoàn toàn thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ trực ban, hàng ngày đều phải luyện tập tháo lắp đạn thật nhiều lần, có lẽ lúc nội bộ công sự xảy ra sụt vỡ, các nhân viên rút lui quá vội vã, nên sơ xuất không kiểm tra lại lòng đại bác, dẫn đến việc khẩu đại bác luôn túc trực trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.



Hội Tư Mã Khôi đuổi theo trong bóng tối, không ai phát hiện cậu dân binh giật kíp hỏa, bỗng nhiên một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, khẩu đại bác ở phía sau bị cướp cò. Cũng may, đạn pháo lâu ngày nằm trong không gian âm lạnh, khó tránh khỏi ẩm ướt, nên không thể phát huy tối đa sức nổ, tuy nhiên uy lực thì vẫn vô cùng kinh khủng, trong kho pháo quân sự lõi kép gần như khép kín, âm thanh nghe ầm ầm rung chuyển, chẳng khác nào động đất, mọi người không kịp phòng bị, nên ngã vật ra đất do lực đẩy của làn sóng khí, mắt nổ đom đóm, đầu óc ong ong, tê rần.



Mọi người lảo đảo bò dậy, soi đèn quặng và đèn pin về phía trước, chỉ thấy khẩu đại bác nặng ngàn cân bị vụ nổ khi nãy xoay vần, nằm đổ rạp vào tường, phía sau nổ trống hoác, xung quanh không trông thấy bóng dáng của Lão Xà và Hổ Tử đâu cả, có lẽ lúc phát nổ, cả hai đã lăn xuống khe sâu bên dưới.




Tuy kho pháo quân sự được làm bằng bê tông cốt thép, nhưng vị trí thiết kế không hợp lý, lực dãn nở tự nhiên ở chỗ tiếp giáp với mạch nham thạch không ngừng ép vào khiến lòng kho pháo phát sinh rất nhiều vết rạn vỡ, khi nãy lại bị khẩu đại bác nặng hơn năm ngàn cân đổ vào, thân bức tường vốn đã nứt liền sụp vỡ.



Hai tai Tư Mã Khôi ù đặc, nhưng vẫn nghe thấy âm thanh khác thường như thể khối bê tông cốt thép nứt vỡ, lòng thầm nghĩ: “Toi rồi! Không mau rút thì sẽ bị chôn sống trong lòng núi mất thôi”. Ý nghĩ vừa hiện lên trong đầu Tư Mã Khôi, thì bỗng nhiên anh nghe thấy một tiếng rung chuyển ầm ầm, động tĩnh đó không khác suy đoán của anh bao nhiêu, cả khối bê tông bắt đầu sụt lún.



Anh vội ra hiệu cho bốn người còn lại chui vào khe nứt cạnh khẩu đại bác trốn tạm. Một lượng lớn vôi vữa bê tông rào rào đổ xuống, trong chớp mắt, bụi tung mù mịt, lấp kín mọi khe nứt trên mặt đất. Từ lúc Hổ Tử bắn ngã Lão Xà, gây cháy cuộn thuốc nổ, cho đến lúc cậu ta vô tình giật kíp hỏa khẩu đại bác, khiến nó cướp cò, kho pháo quân sự sụp đổ, tất cả chỉ xảy ra trong vòng vài phút ngắn ngủi.



Trong khoảnh khắc đó, mọi người đã phải trải qua bao phen chết đi sống lại, khói bụi dày đặc che khuất tầm nhìn, nhưng cũng không thể dừng lại để thở, cả hội đành mò mẫm theo hai vách tường đá tiếp tục di chuyển xuống sâu hơn. Mọi người phát hiện, phía dưới kho pháo quân sự là một không gian nằm giữa tầng nham thạch, đó chính là khe sâu trong lòng núi, càng xuống dưới lại càng khoáng đạt, trong đó trầm tích rất nhiều bùn đất, thảm rêu xanh ẩm ướt phủ một tầng dày, tạo thành bệ đất nằm nằm cheo leo giữa không trung, che lấp mọi động huyệt nằm dọc hai bên đường.



Tư Mã Khôi nghe có tiếng động phát ra cách đấy không xa, liền soi đèn quặng tới đó, đúng lúc trông thấy Lão Xà đang lôi xềnh xệch cậu dân binh Hổ Tử, chưa biết sống chết thế nào, vào trong một hang động, chỉ cách chỗ mọi người đứng tầm hơn chục mét. Cao Tư Dương nóng lòng muốn cứu người, liền giương súng bắn chỉ thiên lên trời một phát, Lão Xà không ngờ hội Tư Mã Khôi đuổi kịp nhanh đến vậy, nghe tiếng súng lòng cũng hơi hoang mang, liền vội vã nấp sang một bên, chẳng ngờ chân lại đạp trúng vỏ đất rỗng nằm giữa khe đá.



Hắn và Hổ Tử cùng rơi xuống vực sâu trong lòng núi. Cả hội lặng người, cùng nhìn xuống khe nứt, chỉ nghe tiếng gió lạnh thê thiết gầm gào, vực sâu tối thẳm không nhìn thấy đáy. Ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá cách mặt biển hơn hai ngàn mét. Nếu khe nứt trong lòng núi dẫn thẳng xuống tận đáy, thì dẫu có mình đồng da sắt cũng nát vụn thành đống bùn.



Năm đó đội thám hiểm Taninth chọn địa điểm xuất phát ở đây, có lẽ nơi này thông với huyệt động dưới lòng đất cánh rừng nguyên sinh. Cao Tư Dương lòng nóng như lửa đốt, lúc đó cô định tìm đường mò xuống dưới, nhưng bốn phía xung quanh tối đen như đáy nồi, nên ngay cả phương hướng còn không phân biệt nổi.



Tư Mã Khôi thấy địa thế hiểm yếu, vội cản Cao Tư Dương: “Không phải tôi tạt gáo nước lạnh đâu, nhưng cô thử nghĩ xem, người rơi xuống đó còn sống được nữa không hả?” Hải ngọng cũng khuyên can: “Tôi thấy vậy đấy, cậu ta chắc hết cách cứu rồi…” Thắng Hương Lân nói: “Nhưng cũng không thể trố mắt nhìn được, phải nghĩ ra cách gì xuống đó tìm kiếm chứ.



Sống phải thấy người, chết phải thấy xác”. Nói xong, cô liền quay sang bàn bạc với Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh, bây giờ cửa động bên trên đã bị bịt kín bưng, không biết bao giờ lâm trường mới cắt cử người đến cứu viện? Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh cố gắng bình tĩnh suy nghĩ.



Trước mắt, cả hai phải đối mặt với thực tế vô cùng tàn khốc nhưng lại không thể né tránh, liên lạc điện đàm trong núi cho đến giờ phút này vẫn chưa thể sửa được, đợi khi lâm trường phát hiện đội thông tin bị mất tích, rồi cử người đến điều tra, cả đi lẫn về chí ít phải mất năm ngày; mà cho dù có huy động bộ đội đến cứu viện, rồi đào được đến nơi này thì cũng mất một hai tháng.




Đó là cố gắng nghĩ theo chiều hướng tốt. Thời kì Cách mạng văn hóa, các ban ngành hành chính chỉ là hữu danh vô thực, và khả năng lớn nhất là họ nghĩ luôn rằng đội thông tin đã gặp nạn trong núi, nên không áp dụng bất cứ biện pháp nào nữa. Nếu ở lại đây chờ cứu viện thì cũng chẳng khác gì ngồi đợi chết, còn khả năng tự mình tìm cách đào thoát cũng gần bằng không.



Thắng Hương Lân không muốn nhìn hai thành viên sống sót của đội thông tin phải bỏ mạng ở đây, liền bàn bạc với Tư Mã Khôi xem có thể đem hai người này cùng đội anh hành động không? Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương là học viên học viện quân y, chắc chắn có thể đảm nhiệm vai trò nhân viên y tế cho đội, bản thân cô cũng là người dũng cảm, chu đáo, hành sự quyết đoán, rất đáng tin cậy.



Anh chàng Nhị Học Sinh, tuy thể hình gầy guộc, nhưng lại hiểu biết kỹ thuật thông tin, chịu khó đọc nhiều sách, xét về trình độ lý luận sách vở thì vô cùng phong phú, nói không chừng có lúc phải dùng đến cậu ta. Cho hai người này đi cùng cũng không có gì phiền phức cả, chỉ ngặt nỗi, lượng lương thực và trang thiết bị mà ba người mang theo không nhiều lắm, chỉ đủ duy trì nhu cầu sinh tồn trong thời gian ngắn, nên có thể nói là, cho họ đi theo có cả mặt lợi và mặt hại.



Thế là, Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương: “Cô và Nhị Học Sinh ngoài việc ở lại đây chờ cứu viện, thì còn có lựa chọn khác, chính là đi cùng đội khảo cổ bọn tôi; nhưng bọn tôi, ngoài việc tiếp tục nghĩ cách tìm kiếm Lão Xà và thi thể của Hổ Tử, còn có một nhiệm vụ quan trọng hơn.



Bọn tôi phải nghĩ cách xuyên qua lòng núi, thâm nhập thế giới dưới lòng đất nằm bên dưới rừng rậm nguyên sinh m Hải Cốc. Có điều, tình hình cụ thể ở đó thế nào thì ngay cả bọn tôi cũng không rõ, hi vọng sống sót trở về cũng rất mong manh; bởi vậy, tôi phải nói rõ với cô, nếu lựa chọn con đường này, thì hai người hội cô buộc phải vứt bỏ hết mọi cảm xúc như nghi kỵ, sợ hãi ra khỏi đầu, mọi việc phải nhất nhất nghe theo sự chỉ huy của tôi, cố gắng đừng gây ra phiền phức gì.



Chỗ tôi cái gì cũng thiếu, chỉ duy phiền phức là lúc nào cũng dư thừa”. Cao Tư Dương hiểu rõ tình cảnh trước mắt, cô không thể hi vọng gì ở đội cứu viện, cậu dân binh Hổ Tử lại chín phần chết một phần sống, trong khi đó, cái gã Lão Xà kia thì thật khó dùng hai từ “sinh tử” để hình dung, nếu chỉ dựa vào sức lực của mình và Nhị Học Sinh thì chưa chắc đã đối phó được.



Nếu phải sống mòn đến lúc bó gối chịu chết trong núi, thì chi bằng cứ mạo hiểm đi theo đội khảo cổ, nhân tiện còn có thể truy lùng tung tích của tên Lão Xà. Nghĩ vậy, Cao Tư Dương liền gật đầu đồng ý, có điều cô vẫn không thích giọng điệu lạnh lùng của Tư Mã Khôi, nghe rõ vô tình vô nghĩa, cô thầm nghĩ: “Còn chưa biết ai liên lụy đến ai đâu mà đã ráo trước!” Nhị Học Sinh lại càng bạo gan hơn.



Cậu ta sớm đã không còn ôm hi vọng gì về tiền đồ của mình, giờ cảm thấy chuyện này kích thích hơn cuộc sống lao động cực nhọc trong lâm trường nhiều, huống hồ tổ trưởng đã quyết định như vậy, thì cậu ta đâu dám ho he ý kiến gì? Trong lúc mọi người nói chuyện, Hải ngọng đã bò vào hang động khi nãy Lão Xà bới ra, thám thính một chuyến, lát sau anh bò ra báo cáo tình hình: “Chẳng ngờ ngoài mười mấy cỗ xương khô của đội thám hiểm Taninth ra, trong ấy còn có một món hàng ngon lắm!”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 132: Hồi 3: chiếc hộp pandora


Pandora: Chiếc hộp trong thần thoại Hy Lạp, chứa đựng tất cả thói hư tật xấu và các tai họa, được đậy nắp kín. Sau này, do tính hiếu kỳ mà một người đàn bà đã mở nó ra, nên từ đó loài người đã phải chịu tất cả những điều xấu xa tệ hại. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội thám hiểm Taninth vừa mới tập kết ở địa điểm xuất phát thì đã bị sát hại, làm sao có món hàng khủng gì được chứ? Nhưng, bản đồ mà Lão Xà muốn tìm thì có lẽ vẫn còn giắt trong một thi thể nào đó.



Anh liền theo Hải ngọng vào trong xem xét. Không gian trong huyệt động rất chật chội, có khá nhiều chuột đá trốn chui lủi trong các khe hốc, thấy bóng người, chúng kinh động chạy tán loạn, trên mặt đất nằm ngả nghiêng hơn chục bộ xương khô, trên đầu còn đội mũ bấc mềm giống như kiểu mũ Pith Helmet.



Tư Mã Khôi biết vào những năm Dân quốc, các nhà thám hiểm từ khắp nơi trên thế giới như Anh, Mỹ, Nga v.v… thường lấy danh nghĩa khảo sát địa lý để đến Trung Quốc tìm kiếm cổ vật, và săn bắt các loại thú quý chim lạ ở khắp nơi, trong đó cũng có vô số kẻ đen đủi phải mất mạng nơi đất khách quê người.



Trong cánh rừng nguyên sinh Thần Nông Giá ẩn giấu vô số các loài động thực vật hoang dã quý hiếm, nếu may mắn bắt được người rừng, sói đầu lừa, rắn mào gà hay thú quan tài còn sống mà đem về đất nước họ, thì danh vọng phú quý song hỉ lâm môn, huy hoàng khỏi phải bàn, mà cho dù chỉ lấy vật đã chết, chế thành tiêu bản rồi bán cho viện bảo tàng, thì cũng đủ cho họ phát tài.



Chắc hội Taninth cũng là hạng người đó, chẳng ngờ lại bị tên thổ tặc dẫn đường hãm hại, bỏ mạng oan uổng trong lòng núi sâu. Hải ngọng dốc một túi vải buồm nặng trịch đặt bên cạnh một bộ xương khô xuống, thì ra “hàng khủng” mà anh nói chính là thứ này. Tư Mã Khôi thấy hình dạng và trọng lượng của túi vải buồm thì biết bên trong nó đựng súng máy.



Anh giở ra xem thì quà nhiên là một khẩu súng được bọc bằng vải dầu, ngoài ra còn có một hộp sắt lớn đựng đầy đạn. Hai người vội vã lục soát tiếp xem còn món hàng ngoại nào không, liền hấp tấp cởi sợi dây thừng buộc chống ẩm, chỉ thấy bên trong có mấy khẩu súng, hình thù rất kì quái, báng súng nom giống như súng săn, hoặc súng trường thông thường, nhưng thân súng chỉ ngắn bằng một phần ba loại đó, phía dưới chốt an toàn còn có một vòng tròn có tay cầm hình cây kéo.




Tư Mã Khôi từng bôn ba nhiều năm ở Miến Điện, đất nước được mệnh danh là “bảo tàng vũ khí mọi nhãn hiệu”, nên anh biết đây là loại súng liên thanh Winchester M-1887, bắn đạn đường kính số 12. Niên đại sản xuất loại súng này tương đối cổ, nhưng rất tiện mang theo, cấu tạo đơn giản, dễ tháo lắp, đủ khả năng thích nghi với những môi trường khắc nghiệt nhất, nó lợi dụng nguyên lý đòn bẩy để đẩy đạn lên nòng, có thể lắp đầy sáu phát đạn ghém cho súng săn nòng cỡ 12, tốc độ bắn và lực sắt thương đều rất lý tưởng.



Trong túi còn có một khẩu súng săn hai nòng cỡ lớn dùng để bắn gấu, sử dụng loại đạn cỡ 8, đây là loại súng săn hạng nặng, sản xuất ở Canada, ngoài ra còn một khẩu súng ngắn Maschinen­pistole MP-38 của Đức. Tư Mã Khôi thấy thật may mắn, đúng là trời xanh có mắt. Nếu như Lão Xà tìm thấy đống xương cốt của đội thám hiểm Taninth trước, thì bây giờ có lẽ cả hội đã trở thành những oan hồn dưới họng súng của gã rồi.



Anh nhặt hai chiếc mũ bấc, đưa cho Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đội lên đầu, bảo mọi người tự nhặt súng đạn phòng thân cho mình và nói: “Thực ra đội thám hiểm Taninth chẳng qua chỉ rặt một phường trộm cắp, chẳng khác gì bọn thổ tặc trên núi, thấy của bỏ rơi tội gì mà không nhặt đút túi, sao phải khách sáo với lũ khọm này.” Hải ngọng chọn khẩu súng săn gấu, đồng thời lấy thêm khẩu súng ngắn P38 dự bị phòng thân.



Tư Mã Khôi, Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân chỉ chọn ba khẩu súng liên thanh M-1887 gọn nhẹ. Nhị Học Sinh cũng định chọn khẩu liên thanh, Tư Mã Khôi thấy cậu ta cận nặng, cầm súng lại non tay, không khéo lúc bắn lại văng cả người đi cũng nên, liền bảo cậu ta tốt nhất cứ sử dụng khẩu súng săn mang ở lâm trường đến: “Súng chỉ để cậu vững dạ là chính, nồi bé thì bốc ít gạo thôi, phải biết tự lượng sức mình chứ, đừng bon chen với bọn tôi làm gì”.



Bên cạnh đống xương của đội thám hiểm của Taninth còn có mấy chiếc ba lô, đồ bên trong đa số đã hết hạn sử dụng. Tư Mã Khôi bới tìm một hồi, rồi bảo Cao Tư Dương xem có vật phẩm cấp cứu nào còn dùng được, thì cất vào túi khoác quân dụng của cô. Tư Mã Khôi tìm thấy mấy bó đuốc, đó đều là những thanh gỗ đã róc sẵn, chiều dài xấp xỉ bằng nhau, đầu mỗi thanh buộc giẻ tẩm sáp dầu cá, phía ngoài cố định bằng nắp cao su, lúc sử dụng chỉ cần bỏ nắp ra là có thể thắp sáng, thời gian cháy duy trì khá lâu, đồng thời cũng không cần lo đuốc bị ẩm ướt.



Nó không chỉ phát huy công dụng chiếu sáng trong huyệt động, mà còn có thể dùng để phòng thân. Nghĩ vậy, anh liền nhặt một chiếc ba lô rách, đút hết số đuốc vào, đồng thời nhét thêm mấy hộp đạn, rồi quăng cho Nhị Học Sinh, bảo cậu ta đeo. Thắng Hương Lân thấy Cao Tư Dương chỉ có một chiếc đèn pin, hơn nữa lại không có pin dự trữ, liền đưa cho cô ta thêm một ngọn đèn cácbua để chiếu sáng.



Cao Tư Dương cảm ơn, đón lấy, rồi quay sang sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Bây giờ đã có súng và đuốc, chúng ta có nên xuống khe lùng bắt Lão Xà luôn không?” Tư Mã Khôi nói: “Khoan đã! Tôi thấy gã thổ tặc đó đúng là loại cương thi thành tinh, súng liên thanh chắc gì hạ gục nổi hắn”.



Cao Tư Dương nói: “Rốt cuộc anh có phải đang làm công tác khảo cổ không thế hả? Sao đầu óc lúc nào cũng chứa toàn tư tưởng mê tín dị đoan vậy? Trên đời này làm gì có xác chết biết nói tiếng người chứ?” Tư Mã Khôi nói: “Tôi vừa mới nhớ ra, thời xưa bọn thổ tặc chuyên đào mồ quật mả có một tuyệt kỹ, gọi là công phu cương thi(2) , sau khi luyện được, chúng sẽ biến thành nửa người nửa thây, có khả năng vùi mình dưới lòng đất nhiều ngày mà không cần thở, bị chôn sống cũng có thể tự mình đội mồ bò ra, có điều, chúng chỉ được lộ diện lúc ban đêm, còn ban ngày thì phải trốn biệt.



Nghe nói, môn công phu này đã thất truyền từ hàng trăm năm trước, cũng không rõ nó có thật hay giả. Tôi ngẫm thấy cái gà Lão Xà kia trên người chứa toàn yêu thuật, vả lại tính tình gã này quái đản, thủ đoạn tàn độc, bị súng đốn ngã mà vẫn tỉnh bơ như không, nói chung là rất khác thường.



Nếu gã rơi xuống khe sâu mà không chết, thì chắc chắn sẽ tìm nơi nào đó ẩn nấp. Khe núi này sâu không thấy đáy, chúng ta tổng cộng chỉ có năm người, căn bản không có cơ hội tìm thấy tung tích của gã, huống hồ nếu chia nhau đi kiếm khắp lượt thì quá mạo hiểm, lỡ gặp phải tai họa lúc một mình tác chiến, chỉ sợ chẳng ai nhón tay được tí lợi nào.



Có điều, quyền chủ động vẫn nằm trong tay chúng ta. Lão Xà định tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm để lại, rồi xuống lòng đất móc món hàng lớn và trốn ra nước ngoài, nếu không gã cũng chỉ còn duy nhất một đường chết. Chỉ cần tấm bản đồ lọt vào tay chúng ta trước, thì cũng đồng nghĩa với việc cắt đứt con đường sống của gã, lúc đó còn lo gì gã thổ tặc không tự mình chui vào lưới.” [2] Cương thi: được biết đến như một xác chết biết đi trong văn hóa dân gian Trung Quốc, giống như ma cà rồng ở phương Tây.




Theo như truyền thuyết, ban ngày cương thi nằm trong quan tài hoặc ẩn nấp tại những nơi tối tăm như hang động, đến đêm cương thi đi lại lang thang với hai cánh tay duỗi thẳng về phía trước. Nó giết chết mọi sinh vật sống để hấp thụ khí – cái cốt lõi tạo nên sự sống. Mọi người đều cảm thấy Tư Mã Khôi phân tích có lý, vả lại trên người Lão Xà lúc nào cũng nồng nặc mùi quái dị giống như phoóc môn, đây chính là nhược điểm lớn nhất của gã, trừ phi gã vùi mình trong đất, nếu không khó mà che đậy được tung tích.



Nếu đối phương chủ động tiếp cận, sẽ càng dễ bại lộ chân tướng, đến lúc đó cả hội sẽ đồng loạt nổ súng, dẫu gã có mình đồng da sắt thì cũng phải bắn gã tơi tả thành chiếu rách. Thế là, cả hội hăng hái bới lật từng xác chết, cuối, cùng cũng tìm thấy một cuốn sổ bọc da dê to bằng hai hộp thuốc lá, sắc giấy đã ố vàng, chắc lịch sử của nó cũng khá lâu đời, trong đó vẽ đầy các hình thù sinh vật, thực vật, còn có các ký hiệu mạch núi, rừng rậm.



Hội Tư Mã Khôi xem kỹ cuốn sổ. Họ không hiểu những chú thích dài loằng ngoằng bằng tiếng Anh, nhưng xem hình vẽ có thể đoán nội dung, nên cũng hiểu được một nửa. Các hình phác họa trong cuốn sổ phần lớn là các loại dã thú và thực vật, mà đội thám hiểm phát hiện trong núi sâu, trang cuối là tấm bản đồ đơn giản, còn kẹp thêm mấy tấm ảnh đen trắng không rõ nét, có lẽ chụp mấy bức bích họa trong mộ cổ.



Bích họa trong tấm ảnh chính là căn cứ quan trọng để vẽ ra tấm bản đồ. Tấm bản đồ bắt đầu tại một ngọn núi, đường vẽ xuyên qua khe núi khúc khuỷu, sâu hun hút, cách một đoạn lại đánh dấu một chấm đen, điểm tận cùng là bồn địa được hình thành bởi các mạch đất giao nhau.



Nơi đó có lẽ chính là địa huyệt dưới lòng đất mà đội thám hiểm Taninth muốn tìm. Địa hình ở đây được mô tả hoàn toàn trùng khớp với những ghi chép trên Sơn Hải Đồ, chỉ có điều nó đã bị gột rửa bớt đi màu sắc thần bí, thay vào đó là các tọa độ thám trắc ngoại vi, khiến tấm bản đồ này càng tăng thêm tính thực dụng.



Có điều, trong tấm bản đồ có một số ký hiệu rất khó lý giải, ví như hình vẽ cái hộp đầu lâu xương chéo rất lớn, tuy chỉ phác họa đơn giản, nhưng gợi cảm giác rất ma quái, khiến người xem cũng thấy bất an. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Ký hiệu này trong bản đồ ám chỉ gì nhỉ?” Tư Mã Khôi cũng mù tịt, nhưng cứ phán bừa: “Tám phần là quan tài đựng xác chết cổ đại chứ gì”.



Thắng Hương Lân lắc đầu: “Không giống quan tài, người phương Tây thường dùng ký hiệu này để chỉ “chiếc hộp đen”, hay còn gọi “chiếc hộp Pandora”, nó ám chỉ, hễ kẻ nào mở nắp bí mật ra, tai họa và cái chết sẽ giáng xuống đầu kẻ ấy.” Tư Mã Khôi cảm thấy giả thiết về chiếc hộp Pandora khá hợp lý, các manh mối trong cuốn sổ tổng hợp cho thấy, dường như đội thám hiểm Taninth đã phát hiện thấy bích họa mà nước Sở cổ xưa để lại, sau khi chụp ảnh họ liền mang đi phân tích khảo chứng, rồi vẽ lại thành một phần bản đồ, đồng thời lấy đó làm căn cứ, để đi tìm lãnh đia thần bí chưa ai trên thế giới biết đến.



Dân gian truyền rằng nơi đó là núi Âm Sơn nhốt giữ ma quỷ, đồng thời cũng là kho báu mà Sở U Vương chôn giấu năm xưa, mà chí ít là đã hai ngàn năm không một ai bước chân xuống đó. Đội thám hiểm Taninth tự cho rằng, mình đã chuẩn bị mọi thứ rất chu toàn, nhưng vẫn cảm thấy chuyến đi này lành dữ khó lường, trong lòng khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi, chiếc hộp Pandora đánh dấu trên bản đồ có lẽ chính là một hình thức đánh giá về một nguy hiểm chưa biết nào đó.



Tư Mã Khôi vốn dĩ định vượt qua Yến Tử Ô đến m Hải Cốc, sau đó đi từ đường hầm xuyên thẳng xuống lòng đất, tìm kiếm nhật quỹ được ghi chép trên Sơn Hải Đồ, nhưng giữa đường lại xảy ra quá nhiều tình hình đột biến, cuối cùng lại bị kìm chân trong khe núi. Anh buộc phải tạm thời điều chỉnh kế hoạch, cả hội sẽ đi theo hành trình trên bản đồ của đội thám hiểm Taninth, chưa biết chừng, nhật quỹ nằm trong chiếc hộp Pandora cũng nên.



Tư Mã Khôi cất mấy tấm ảnh và cuốn sổ vào túi chống thấm, rồi đặt cùng chỗ với cuốn sổ mang từ kính viễn vọng Lopnor về. Anh suy đoán, việc Taninth có khả năng vẽ được tấm bản đồ này, đồng thời tổ chức đội thám hiểm đến Thần Nông Giá, chắc chắn không phải một sự kiện cô lập.



Có lẽ, không ít kẻ liều mạng đã tham gia cùng hội này, chỉ có điều, cuối cùng đội thám hiểm không thành công, hoặc giả trong chiếc hộp Pandora thực sự tồn tại lời nguyền, hung hiểm dọc đường không cần nghĩ cũng biết, chỉ sợ lần này hội anh lại phải lượn vòng quanh Quỷ Môn Quan một chuyến nữa rồi.




Mọi người thấy không còn gì thu hoạch nữa, mới lần mò theo khe nứt giữa tầng nham thạch chầm chậm di chuyển xuống dưới. Khe núi này sâu hút, đường đi lại bội phần hiểm trở, sương mây giăng mắc sương mây, không gian lúc chật hẹp khi khoáng đạt, tối thui, ẩm ướt, không biết nông sâu thế nào, ngay cả chỗ đặt chân xuống cũng khó tìm thấy.



Phần đáy lòng núi là một khe cốc chạy theo hướng tây bắc. Hội Tư Mã Khôi đi đến nơi này đã trọn một ngày một đêm chưa được chợp mắt, mọi người tìm kiếm suốt nửa ngày ở khu vực lân cận, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Lão Xà và thi thể Hổ Tử rơi xuống chỗ nào. Tư Mã Khôi đành bảo cả hội tạm thời tìm nơi thích hợp hạ trại, nhưng chẳng một ai ngủ yên giấc.



Lát sau, Tư Mã Khôi xác định phương hướng bằng la bàn và các vị trí vạch trên bản đồ, rồi cả hội bắt đầu lên đường. Lại một ngày đằng đẵng trôi qua. Cuối cùng, mọi người tìm thấy một khe nứt hình tam giác chật hẹp ở giữa hai vách đá nơi rìa khe núi. Không gian bên trong bị dương xỉ, rêu xanh và bùn đất lấp kín, trên mặt đất có một trụ đá nứt gãy, nằm đổ rạp, nếu không có ký hiệu trên bản đồ, thì không ai chú ý tới trong lòng núi tối như đêm ba mươi lại có một con đường thế này.



Hải ngọng đi trước phạt dương xỉ mở đường, năm người còn lại nối tiếp nhau đi xuyên qua khe nứt sâu chừng mấy trăm mét, địa thế càng đi càng thấp, sau cùng mở ra một không gian vô cùng khoáng đạt. Càng đi về phía trước, khí ẩm trong không khí càng tăng mạnh, tầng lá khô mục nát trên mặt đất vùi sâu đến bắp chân, những cành mục to như thắt lưng, nhưng chỉ cần giẫm một cái là hoàn toàn vụn nát, xung quanh um tùm rậm rạp những cây đại thụ to mười mấy, hai mấy mét, chúng thẳng tắp như mũi tên, hoàn toàn khác biệt với bất kì loại cây nào trong rừng già núi sâu, nếu đo theo đường kính, ít ra cũng cao đến gần trăm mét.



Bề ngoài, chúng rất giống với cây thông Noel ở phương Tây, lá cây hình giáo dài vừa to vừa rộng, thân cây bám đầy vết dương xỉ, trong phạm vi mười mét đổ xuôi xuống gốc cây, có rất ít cành nhánh và lá, chỉ thấy rất nhiều dây leo bám chằng chịt mọc mãi lên cao. Một vài cây đại thụ bị đổ rạp, cộng thêm rễ cây ngoằn ngoèo xù xì chạy trên mặt đất, nhấp nhô như gò đồi, một số cây vẫn um tùm lá, một số thì đã chết khô, trên thân cây mọc đầy rong rêu và các loại nấm, khiến tầng biểu bì hình thành tầng chất hữu cơ vừa dày vừa sâu, giẫm chân lên tựa hồ như đang bước trên tấm bọt biển vậy.



thỉnh thoảng lại tỏa ra ánh sáng thứ ánh sáng xanh leo lét. Cao Tư Dương kinh ngạc thốt lên: “Nơi sâu trong lòng núi đào đâu ra lắm cây cổ to lớn dường này nhỉ? Nhị Học Sinh cũng mắt tròn mắt dẹt, đờ người ra nhìn, cậu ta ở trong lâm trường suốt ngày chặt gỗ, chặt không ít cây cổ thụ sống hàng trăm ngàn năm, nhưng nếu so sánh với những gốc cây cổ đại, thì đúng là không đáng nói đến.



Đây mới đúng là bách cổ Thần Nông đích thực, thân cây to không thể tưởng tượng nổi, đứng trước nó, con người có cảm giác mình nhỏ bé tựa con ong cái kiến. Trong phạm vi soi sáng của đèn quặng, những gì nhìn thấy trước mắt chẳng qua cũng chỉ như là phần nổi của tảng băng trôi mà thôi.



Thắng Hương Lân lấy dao săn tách một miếng vỏ cây ra quan sát, cô suy đoán: “Hàng trăm triệu năm trước, Đại Thần Nông Giá vẫn chìm sâu dưới đáy biển, sau đó thạch quyển Trái đất nâng lên mới trở thành núi cao; bởi vậy hóa thạch cổ sinh vật chôn giấu trong lòng đất vô cùng phong phú.



Từ tình hình này tôi đoán, có vẻ như quần đảo rừng rậm này từng xảy ra quá trình chìm lún, khi đó khí hậu ấm áp, nên địa mạo và hệ thực vật cũng không giống như bây giờ. Các loại cây cổ thụ thời viễn cổ, đã bị tuyệt chủng hàng trăm triệu năm trước, có mật độ rất lớn, cho dù bị vùi dưới đất lâu như vậy và đã hoàn toàn ngưng trệ quá trình sinh trưởng, nhưng trong thân cây vẫn còn tồn tại hàm lượng dưỡng chất nhất định, nhờ thế mà chúng mới không khô héo, vẫn duy trì được nguyên dạng giống như xác chết vậy”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 133: Hồi 4: hóa thạch sống thời tiền sử


Cánh rừng rậm thời tiền sử được che phủ hàng trăm triệu năm dưới lòng đất, khi ấy phần lớn hệ động vật và thực vật bị tuyệt chủng vì có hình thể quá lớn, tất cả như thể đều được phóng to hàng mấy chục lần dưới kính hiển vi vậy.



Đây là lần đầu tiên Nhị Học Sinh đến một nơi như thế này, hai mắt anh chàng tựa hồ không đủ dùng nữa, lòng bất giác vừa hưng phấn vừa căng thẳng cực độ. Nghe tiếng Hải ngọng hét lớn, cậu ta cứ nghĩ sắp xảy ra tình hình nguy hiểm nào đó, thế là lập tức giương súng tỉa một vòng quanh mình.



Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy Nhị Học Sinh chĩa họng súng đen ngòm về phía mình, liền vội vàng xua tay ngăn cản, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, và khói diêm tiêu bay mù mịt, viên đạn sắt đà bắn sát sạt ngay trên đỉnh mũ Pith Helmet của anh. Mọi người thấy Tư Mã Khôi xém chút thì bị đạn lạc lấy mất mạng, nên ai nấy tim đập thình thịch.



Cũng may mà tốc độ đạn bay của khẩu súng săn khá chậm, trong khi Tư Mã Khôi lại phản ứng cực kì nhanh nhạy, nếu không thì bây giờ đầu óc đã nở hoa tóe loe cả rồi. Nhị Học Sinh thấy vậy sợ xanh mặt, anh chàng ngượng nghịu xin lỗi: “Xin lỗi! Xin lỗi! Chỗ này tối quả, cái mắt này đúng là đáng chết….” Tư Mã Khôi đánh nhau ở Miến Điện đã quen tay, thoạt nhìn là biết Nhị Học Sinh không phải nòi cầm súng, lúc này có trách cứ cậu ta cũng vô nghĩa, nên anh chỉ nói: “May mà khi nãy không cho cậu mang khẩu liên thanh M-1887, nếu không bây giờ tôi đã xuống đất làm bạn với giun rồi.



Mắt mũi kèm nhèm thì làm ơn chụp cái vòng bảo hiểm lên đầu giùm tôi, sau khi phát hiện mục tiêu, nhất định phải đếm một, hai, ba trước đã, chưa đếm đến ba thì tuyệt đối không được bóp cò, nghe chưa hả?”. Hải ngọng trêu chọc Tư Mã Khôi: “Thôi! Thôi! Đội ngũ chúng ta toàn là quần chúng nhân dân với nhau cả ấy mà, cậu chết vào tay ai mà chẳng là chết, dù sao cũng đâu lợi người ngoài”.




Tư Mã Khôi mắng: “Tiên sư Hải ngọng! Cái mồm cậu mà không toang toác ra, thì vừa nãy ông đây cũng đâu đến nồi suýt thành ma mất đầu. Mà cậu nhìn thấy cái mẹ gì vậy? Hải ngọng trợn mắt: “Đúng là chó nhà cắn chủ! Tớ có lòng tốt mới khuyên cậu mấy câu, thế mà cậu còn há miệng trách tớ.



Tớ nhìn thấy cái gì ấy à…. tớ vừa nhìn thấy cái gáy của mình đấy, sao hả?” Thắng Hương Lân soi đèn quặng về phía lưng Hải ngọng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Đừng đấu võ mồm nữa! Quanh đây đúng là có thứ gì đó….” Mọi người đổ dồn mắt về phía ánh đèn, thấy xung quanh có một phiến lá to như cái giường, gân lá lừng lững như cánh tay.



Trong đám lá khô và các loại nấm kì dị đua nhau mọc trên lá, lờ mờ ẩn hiện một vật thể đen sì sì, hao hao giống người, mà dường như lại không phải, nó cũng có mắt, có mày, có cánh, phần thân dưới còn có một con cóc to kềnh càng nằm phủ phục. Cao Tư Dương không biết vật này là thứ gì, liền hỏi: “Nó là người hay ma núi thế nhỉ?” Nhị Học Sinh cũng kinh ngạc nói: “Chưa bao giờ thấy dị vật kì lạ như vậy xuất hiện trong rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá cả”.



Hải ngọng giương súng săn, thủng thẳng bảo: “Chuyện này phải hỏi thằng Khôi, cậu ta là chuyên gia sinh vật đấy, chim thú nào mà chẳng biết, ngay cả trong côn trùng nghĩ gì cậu ta còn hiểu rõ nữa là”. Tư Mã Khôi lại gần, phủi lớp đất bùn bên ngoài đi, phát hiện đó là một pho tượng ngọc, chất ngọc giờ đã gần giống với xương khô, vẻ lung linh bên ngoài đã không còn, đường vân cũng nhạt nhòa, có lẽ nó tồn tại trên đời chí ít cũng hơn hai ngàn năm.



Anh bảo mọi người: Tôi quần quật trong đội khảo cổ suốt bao nhiêu năm, bùn đất đào dưới lưỡi xẻng đủ chất thành núi, đương nhiên phải biết vật này chứ. Nó chẳng qua là ngõa gia, tức là tượng nung ấy mà, tượng nung có nhiều loại, và cũng có thể được làm bàng ngọc, vàng, đá, đồng hoặc gỗ.



Có điều, pho tượng này hình thù cổ quái quá, không thể phân biệt được nó là người hay chim thú, nhưng có thể chắc chắn lai lịch của nó tuyệt đối không bình thường. Nghe nói, nước Sở thời Xuân Thu là nơi sùng tín mấy chuyện thầy mo và ma quỷ nhất, họ cho rằng, mọi vị thần cõi âm gian đều có hình hài đầu chim mặt người, có nhiệm vụ dẫn linh hồn của người chết xuống âm gian, những vị thần này chuyên ăn não người chết.



Thời cổ tương truyền, đáy m Hải Cốc nhốt giữ ác quỷ, bởi vậy người nước Sở mới đặt tượng ngọc xung quanh để trấn tà, không cho các âm hồn trốn thoát. Vì vậy, chúng ta phát hiện thấy tượng ngọc ở quanh đây cũng không có gì kì lạ. Càng tiến gần khu vực chiếc hộp Pandora mà đội thám hiểm Taninth đánh dấu trên bản đồ, sẽ xuất hiện càng nhiều vật này, chúng ta không cần hốt hoảng làm gì, dẫu sao nó cũng chỉ là vật chết.



Lúc này, Hải ngọng cũng đã nhìn kỹ, anh ngạc nhiên: “Ớ… Sao khi nãy tớ thấy pho tượng này… động đậy nhỉ?” Tư Mã Khôi không tin: “Cậu định viện cớ cho khỏi bẽ mặt đấy à! Khi nãy vừa mới làm cả hội sợ hết hồn một phen, giờ còn dám báo cáo láo tình hình quân cơ nữa hả?” Hải ngọng oan ức kêu lên: “Ối giời ơi! Ối lương tâm ơi! Cậu thử hỏi cả hội xem, Hải ngọng tớ là hạng người thế nào? Tớ nhìn thấy thứ đó động đậy thật mà…”, anh vừa nói vừa lấy súng săn chọc loạn xạ vào đám lá cây, thì thấy trong đám rêu mốc, lộ ra một loài thực vật hình dạng rất giống cây bồ kết, Hải ngọng nói: “Chắc tám phần nó là cây ăn thịt đấy!” Nhị Học Sinh lại gần quan sát, đoạn nói: “Đây là loài thực vật hóa thạch sống, xuất hiện từ thời tiền sử, nửa dạng nấm, nửa dạng quả, chuyên sinh trưởng trên mặt đất, trong hang núi gần lâm trường cũng có, nhưng nhỏ hơn nhiều.



Bóc vỏ ngoài đi là có thể ăn phần thịt quả bên trong, có quả hơi tanh mùi dầu cá, có quả ruột bên trong mềm mịn thanh ngọt, giống vị dưa chuột. Nhị Học Sinh nói xong thì vặt luôn một quả xuống nếm thử. Hải ngọng vừa nghe nói thứ này ăn được, liền vội vàng cướp lấy nhét vào miệng, nhai ngấu nghiến, nước quả tứa ra nhoe nhoét, đã vậy còn phê bình Nhị Học Sinh: “Chú đừng nói năng lung tung, đừng quên thời kì bài trừ “tứ cựu”, vì dưa chuột dính chữ “chuột”, nên người ta đổi thành dưa leo đấy nhé.




Anh mày nom bộ dạng chú ngô nghê thế kia, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc chỉ vì một quả dưa bé tí teo thế này mà gây ra đấu tranh giai cấp đâu nhỉ. Từ nay về sau, chú tuyệt đối không được tự tiện điều chỉnh lại từ này đâu nhá, chúng ta nhất thời hồ đồ làm phản, giờ biết sai quay đầu vẫn chưa muộn, còn nếu ngoan cổ chống đối đến cùng, thì chỉ có con đường chết thôi, nghe chưa?” Lúc này, Tư Mã Khôi cùng Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương bắt đầu soi đèn quặng vào bản đồ để phân biệt vị trí.



Ba người suy đoán, các chấm đen trong bản đồ là tuyến đường khúc khuỷu thần bí, còn điểm họ đang đứng chính là lòng đất dưới m Hải Cốc. Những cây cổ thụ cổ đại cao trăm mét, phần lớn là tổ tiên các loài thực vật hóa thạch sống thời tiền sử như thủy sam, hồng đồng, thủy tùng, ngân hạnh, thông đỏ, xuyên khung, cây áo cộc v.



v… Tán lá đan cài vào nhau tạo thành bức tường chắn trước huyệt động, không gian bên trong rộng lớn mênh mông, chỗ nào cũng bốc mùi ẩm mốc, lạnh lẽo, phía dưới những lớp lá mục tầng nọ che phủ tầng kia là những vũng nước tù, người nào lỡ chân thụt xuống thì đừng mong trèo lên.



Trong rừng rậm m Hải Cốc đến nay vẫn còn ẩn nấp rất nhiều loài sinh vật cổ đại to lớn tưởng như đã tuyệt chủng; lòng đất xem chừng im lìm, nhưng mai phục không biết bao hiểm nguy, nói không chừng giữa đường lại gặp phải thứ gì đó không ngờ cũng nên. Nếu thiếu sự chỉ dẫn của tuyến đường biểu thị bằng các chấm đen trên bản đồ, thì cả hội căn bản không thể đi xuyên qua quần thể thực vật tiền sử với quy mô khiếp người thế này.



Có điều, tấm bản đồ vẫn chưa qua kiểm nghiệm thực tế, bởi vậy cũng thiếu tính chính xác tuyệt đối, chỉ có thể dùng nó để tham khảo mà thôi. Cao Tư Dương sốt ruột hỏi Tư Mã Khôi: “Sao anh chỉ mải lo xuống sâu hơn! Thế không định truy bắt Lão Xà nữa hả?” Tư Mã Khôi nói: “Gã thổ tặc rơi xuống lòng núi, như chim lặn vào mây, mất tăm mất tích, sống không thấy người, chết không thấy xác, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Có điều nếu đối phương còn có thể hành động, thì nhất định sẽ bám riết đội khảo cổ không buông, nên sớm muộn gì cũng lộ cái đuôi chồn ra thôi, chúng ta chỉ cần đề cao cảnh giác, tùy cơ ứng biến là được”.



Tư Mã Khôi thấy đường đi gian nan, hiểm trở, càng không biết hành trình xuống lòng đất còn kéo dài bao lâu nữa mới có thể mở được chiếc hộp Pandora ra, nên trong lòng thắc thỏm bất an, anh liền gọi Hải ngọng và Nhi Học Sinh chuẩn bị khởi hành. Nhị Học Sinh liên tiếp tìm thấy mấy trái quả mọng trong đám lá khô, nhưng đều bị Hải ngọng cướp trắng.



Anh chàng không cam tâm, còn định tiếp tục tìm kiếm, bỗng nhiên nghe thấy bên cạnh có âm thanh khe khẽ, nghe như thể pho tượng ngọc đang động đậy. Nhị Học Sinh bồn chồn, đẩy gọng kính trên sống mũi, đứng dậy nhìn kỹ pho tượng ngọc. Lúc này, Tư Mã Khôi cũng phát hiện ra động tĩnh khác thường, anh thấy Nhị Học Sinh đứng mặt đối mặt ngay trước pho tượng, lòng biết thế là tiêu rồi, nhưng chưa kịp lên tiếng nhắc nhở, thì đã thấy dưới ánh đèn quặng, cái miệng pho tượng ngọc bỗng nhiên phun ra một luồng khí đen.



Nhị Học Sinh kinh hãi, hét “Á” một tiếng thất thanh, luồng khí đen chui tuột vào miệng cậu ta, nhanh như một hồn ma. Không ai kịp nhìn rõ thứ xuất hiện trong pho tượng ngọc là thứ gì. Nhị Học Sinh sợ lịm người tại chỗ, hồi lâu vẫn chưa hoàn hồn, cảm thấy mùi ẩm mốc sực lên khó chịu, liền ho liên tiếp mấy cái.



Cao Tư Dương thấy vậy, liền kéo vội anh ta tránh xa pho tượng ngọc, rồi hỏi: “Anh không sao chứ?” Nhị Học Sinh xua tay, biểu thị không thấy cơ thể có thay đổi gì khác thường. Thắng Hương Lân cũng hỏi Nhị Học Sinh: “Hình như tôi thấy có thứ gì đó chui vào miệng anh, anh có sao không? Nhị Học Sinh hơi hoảng: “Mọi người đừng dọa tôi nữa! Tôi không sao thật mà, chỉ bị sặc khói bụi của pho tượng ngọc kia tí thôi…”, nói chưa dứt câu thì anh ta thấy hai chân mềm nhũn, toàn thân run lạnh không thể chịu nổi, không tự chủ được ngã khuỵu xuống đất.




Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Nhị Học Sinh càng lúc càng trắng bệch, gân xanh nổi lên cuồn cuộn, hơi thở thoi thóp, thì biết anh ta chắc chắn đã bị dị vật chui vào bụng. Khi nãy Hải ngọng phát hiện người tượng ngọc động đậy, có lẽ là do vật này, có điều nó rốt cuộc là thứ gì thì rất khó nói, nếu không mau nghĩ cách lôi nó ra, thì tính mạng Nhị Học Sinh coi như xong.



Hải ngọng hình dung lại cảnh tượng lúc đẩy đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơ thể, nhưng dưới lòng đất m Hải Cốc hình như không có mãng xà, vả lại Nhị Học Sinh nói ngoẻo một cái là ngoẻo luôn, không giống với tình trạng mà mọi người gặp phải lúc tại núi Dã Nhân ở Miến Điện.



Anh nói: “Tôi thấy rõ ràng có vật gì đen thùi lùi chui vào miệng cậu ta, nhớ lúc ở Đông Bắc nơi đó có một loại côn trùng, gọi là rết nhà, trông nó hơi giống rết núi nhưng nhỏ hơn, ban đêm, đợi người ngủ say là chui vào tai ăn não, có lẽ con rết trong tượng ngọc đã chui vào bụng cậu ta rồi, bây giờ phải lập tức cho cậu ta uống nước đái mèo, muốn mau lấy được nước đái mèo thì phải chà xát gừng tươi vào tai nó mới được.” Tư Mã Khôi nói, chỗ này kiếm đâu ra mèo? Huống hồ, luồng khí đen trong tượng ngọc hình như có hình có chất hẳn hoi, mà lại có khả năng xuyên ngũ quan, thông thất khiếu, nhìn không giống con rết, nhưng trong khoảng thời gian ngắn sau khi dị vật chui vào cơ thể, mà kịp thời cấp cứu, thì may ra còn giữ được mạng sống.



Anh nhíu mày nghĩ cách, đoạn chẳng nói chẳng rằng, kéo Nhị Học Sinh như kéo lê một con chó chết, đi về khu vực có địa thế tương đối trũng. Cao Tư Dương không kịp ngăn cản, đành nhặt ba lô vải buồm của Nhị Học Sinh đánh rơi, nhanh chân đuổi theo phía sau. Tư Mã Khôi thấy cây cổ thụ tán rợp trời trước mặt đan cài vào nhau, mấy sợi dây leo thả mình từ thân cây xuống, liền bảo Thắng Hương Lân soi đèn giúp, rồi anh và Hải ngọng lấy dây thừng treo ngược Nhị Học Sinh lên, nút chặt tất cả cảc lỗ trên người, chỉ để hở miệng.



Cao Tư Dương thấy vậy, định chạy lại cởi dây thừng: “Ba người tổ thông tin đã mất một, các anh còn định hanh hạ người ta tiếp nữa là xảy ra án mạng đấy”. Tư Mã Khôi cản Cao Tư Dương lại, anh nói: “Mấy năm trước, tôi bị lạc đường trong nghĩa địa, nghe thấy trong ngôi mộ cũ có động tĩnh, liền bạo gan qua đó xem thử, cô thử đoán xem tôi trông thấy thứ gì? Thì ra đó một con hồ ly đang đào huyệt trên mộ.



Nó móc ra một cuốn cổ thư trong quan tài, sau đó, giở từng trang ra xem dưới ánh trăng, vừa xem nó vừa nhíu mày cười hì hì. Lúc đó, tóc tôi dựng đứng cả lên, thầm nghĩ, chẳng lẽ mình đang gặp yêu quái thật à? Nhưng thanh niên bọn ta ngủ trên lò lửa lạnh, tất cả trông cậy vào sức lửa, lửa mạnh thì gan cũng bạo, làm gì có chuyện để nó qua mặt? Thể là tôi cầm hòn đá ném con hồ ly, nó sợ chạy mất dạng, tôi nhặt cuốn sách lên, bên trong viết toàn các phương thuật kim thạch cải tử hoàn sinh, từ đó về sau tôi dùi mài tự học, rồi thành tài đấy…” Cao Tư Dương biết Tư Mã Khôi chỉ huyên thuyên, hòng kéo dài thời gian và giữ chân mình, liền hét lớn: “Bây giờ mà anh vẫn còn lòng dạ nói linh tinh nữa à? Mau thả người xuống cho tôi!”



Lúc này, Thắng Hương Lân gỡ đèn quặng trên mũ xuống, cầm trong tay, soi vào mặt Nhị Học Sinh và quan sát kỹ động tĩnh, cô gọi mọi người: “Mau lại xem! Có thứ gì đó sắp chui ra này…” Hội Tư Mã Khôi chăm chú nhìn, chỉ thấy anh chàng Nhị Học Sinh bị buộc chân tay, treo ngược trên cây, máu toàn thân dốc xuống đầu, gương mặt vốn trắng bệch giờ đỏ au au, ngực tức thở đành mở to miệng ra thở, có một vật không rõ hình thù thế nào đang chậm chạp thò ra từ cổ họng, trông nó đỏ au au đến khiếp người.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 134: Hồi 5: thế giới vi mô


DiepKhoDiepTư Mã Khôi thấy Hải ngọng trượt tay, thì thầm nghĩ hỏng to, xem ra anh chàng Nhị Học Sinh này quả thực đã hít phải dị vật vào bụng, hơn nữa nó vẫn chưa chết và tiếp tục được máu người nuôi dưỡng, còn cơ thể Nhị Học Sinh sẽ dần khô kiệt vì bị hút cạn máu.



Vả lại, cậu ta cũng bị treo ngược khá lâu rồi, vật đó một khi đã thụt vào, thì chắc chắn sẽ không chịu ra nữa, trừ khi mổ bụng, rạch ruột mới mong lấy nó ra được. Tư Mã Khôi ứng biến thần tốc, giơ tay thọc thẳng vào xương sườn Nhị Học Sinh, chỗ giữa hai xương sườn là phần da không có thịt, đồng thời cũng là khu vực nhạy cảm nhất.



Nhị Học Sinh bị bịt mắt, lại treo ngược cành cây, rồi bỗng nhiên bị ngón tay chọc vào thì quả nhiên hét to một tiếng, nôn thốc thứ vừa thụt vào cổ họng ra ngoài. Lần này Hải ngọng lấy tay kẹp chặt, nhanh tay quăng vật đó xuống đất. Tư Mã Khôi bật đèn theo bóng nó, chỉ thấy vật đó dài chừng một ngón tay, to chừng nửa đốt, thân người dẹt mỏng, hai bên có sáu cái chân ngắn, đầu các chi có giác hút, khắp người toàn máu, miệng nhả khói đen, phát ra tiếng kêu “lách tách” như tiếng cánh quạt gỗ quay, động tác vô cùng linh hoạt, luồn lách nhanh thoăn thoắt.



Sau khi rơi xuống đất, nó chạy như bay, vụt một cái đã luồn vào các kẽ lá khô, rồi biến mất dạng. Hải ngọng tưởng khi nãy đã bóp nó chết, ai dè nó vẫn còn sống, đang định lấy chân di, thì vật đó đã chuồn đi từ bao giờ. Anh thầm kinh ngạc, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Con gì thế Khôi? Tắc kè hoa à?” Tư Mã Khôi thấy không giống tắc kè hoa, vì loài này chỉ có bốn chân, thường ẩn nấp trong rừng nhiệt đới, lại không biết bay giữa không trung; còn sinh vật trong pho tượng ngọc nom hao hao giống hoàn long, một sinh vật nguyên thủy sống ở vùng đại hoang, nó có thể bay ở khoảng cách ngắn, quen sống kí sinh ở nơi ẩm ướt, âm u, con lớn nhất chỉ to bằng cái kim, nghe nói đã tuyệt chủng từ lâu, sau thời Tấn không thấy ghi chép nào liên quan đến nó nữa.



Thế nhưng con khi nãy lại to bằng cả ngón tay, có lẽ là giống cổ đại, vì thế giới dưới lòng đất ở m Hải Cốc hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, môi trường đặc biệt ấy vẫn hoàn toàn không thay đổi từ thời hằng cổ, nên không biết trong lòng nó còn ẩn chứa bao nhiêu loài sinh vật ít nghe hiếm gặp và đáng sợ khác nữa.




Cao Tư Dương thấy ngón nghề của Tư Mã Khôi tinh tuyệt, lòng cũng thầm thấy kinh ngạc, cô và Thắng Hương Lân chạy lại cởi dây trói, đỡ Nhị Học Sinh trên cây xuống cho mạch máu lưu thông trở lại. Tư Mã Khôi biết Nhị Học Sinh may mắn lắm mới giữ lại được tính mạng, tuy nguyên khí bị tổn thương nhưng không đến nỗi để lại hậu họa gì, cũng may dị vật khi nãy là con đực, chứ nếu là con cái, nó phát tán trứng trong máu, thì cho dù Hoa Đà, Biển Thước có tái thế cũng không thể tìm ra phương thuốc giải cứu.



Anh thấy Nhị Học Sinh mềm nhũn chân tay, khẩu súng săn cũng văng đâu mất, liền nhặt một cành cây tùng khá chắc chắn, lấy dao săn vót nhọn một đầu, rồi buộc dây thừng vào, giao cho Nhị Học Sinh dò đường và phòng thân, đồng thời nhắc cậu ta phải bám sát đội hình, lần sau chưa chắc đã may mắn được như vậy.



Nhìn bản đồ, cả hội không thể biết còn cách chiếc hộp Pandora bao xa, cũng không dám dừng lại lâu trong môi trường hiểm nguy mai phục tứ bề, chỉ dám chỉnh đốn hành lý trong giây lát, rồi tiếp tục tiến về phía trước theo phương hướng được đánh dấu trên bản đồ. Nhưng đi không bao xa, thì con đường phía trước lại bị chắn ngang bởi mấy cây cổ thụ quấn quýt vào nhau, xung quanh là những chiếc rễ quái dị, trông như xúc tu của những con bạch tuộc luồn xuyên qua những gốc cây khác.



Các thực vật dạng nấm với muôn hình đủ sắc tựa những chiếc ô xòe to, đan cài tầng tầng lớp lớp, chúng kéo dài triền miên từ thân cây xuống tận mặt đất, kín mít không một khe hở. Đường kính thân cây ở m Hải Cốc chí ít cũng tới hai mươi mấy mét, người đi bên dưới chẳng khác nào con kiến lơ ngơ tham quan thế giới vi mô.



Nếu cả hội đi vòng qua hai đầu, thì sẽ lệch khỏi tuyến đường, không biết sẽ dịch chuyển ra nơi nào, vả lại như vậy rất dễ rơi xuống hố bùn nằm dưới lớp lá mục. Tư Mã Khôi đành lấy tay ra hiệu, bảo mọi người dừng bước, rồi lấy la bàn đối chiếu nhiều lần với bản đồ.



Lúc này, Cao Tư Dương vội vàng gỡ khẩu súng liên thanh M-1887 trên vai xuống, cảnh báo Tư Mã Khôi: “Gần đây có người… rất nhiều người là khác…” Tư Mã Khôi không nghe thấy xung quanh có động tĩnh gì, lòng thầm nghĩ, cô nhìn thấy ma chắc? Dưới lòng đất hàng ngàn tỉ năm không nhìn thấy mặt trời, bới đâu ra nhiều người cơ chứ? Nhị Học Sinh đang bám ngay phía sau Cao Tư Dương hỏi: “Lại phát hiện thấy tượng ngọc à? Tốt nhất là tránh xa bọn ấy ra một chút, an toàn là số một mà!” Cao Tư Dương không trả lời, một tay cô giương súng, tay kia xách đèn quặng soi về phía măt đất bên cạnh mình, ý muốn bảo mọi người mau qua xem.



Hội Tư Mã Khôi xúm lại đằng trước, dõi mắt về phía ánh đèn Cao Tư Dương chiếu vào, quả nhiên họ thấy một dấu chân rất rõ ràng, đó là dấu chân trần để lại trên thảm rêu. Lòng đất trong m Hải Cốc thấm nước nghiêm trọng, hệ thực vật ký sinh trên thân cây vô cùng dày đặc, không khí oi bức, ẩm ướt và hoàn toàn không có gió, chỗ nào cũng mù mịt sương khí, trong khi đó dưới tầng lá ẩm ướt toàn là bùn đất vừa mềm vừa trơn và gỗ mục, bất luận xảy ra chuyện gì, rừng rậm cũng mau chóng phủ lâp và che đậy mọi dấu vết, bởi vậy những dấu chân này có lẽ chỉ vừa mới lưu lại mà thôi.



Mọi người biết, phát hiện thấy dấu chân dưới lòng đất cũng không phải chuyện kì quái, vì ở đây ngoài đội khảo cổ ra thì vẫn còn sự tồn tại của Lão Xà với lai lịch bất minh như xác chết; có điều, vết chân trên thảm rêu mục không chỉ có một hai dấu, giơ cao đèn quặng chiếu sáng phạm vi rộng, sẽ phát hiện xung quanh còn nhiều dấu chân hơn.



Tất cả những dấu chân đó sắp thành từng chuỗi, chuỗi thì toàn dấu chân trái, chuỗi thì toàn dấu chân phải, dấu chân nọ bám sát dấu chân kia, dường như biên độ giữa các bước chân rất nhỏ, trong khi người bình thường lúc bước đi, dấu chân để lại phải so le trái phải mới đúng.



Hải ngọng cúi đầu nhìn hai cẳng chân mình, anh thực sự ngẫm mãi không ra là rốt cuộc phải bước đi như thế nào thì mới để lại được những dấu chân như vậy. Cao Tư Dương càng không dám lơi lỏng cảnh giác: “Chắc lâm trường không thể biết chuyện xảy ra với đội thông tin nhanh như vậy, sao đột nhiên dưới lòng đất Ầm Hải Cốc lại xuất hiện nhiều dấu chân thế được nhỉ?” Thắng Hương Lân nói với các thành viên còn lại: “Mọi người xem!” – nói xong, cô liền thọc báng súng xuống đất, thảm rêu lưu dấu chân trên mặt đất kêu “kịch” một cái, rồi lập tức thụt xuống thành một cái lỗ, thì ra phía dưới lớp rêu là đoạn gỗ mục, không đủ sức chịu lực, điều đó chứng tỏ: nếu có người giẫm chân lên trên, thì trọng lượng của người đó sẽ khiến họ giẫm xuyên qua thân gỗ, chứ tuyệt đối không thể để lại dấu chân trên bề mặt.




Tư Mã Khôi quỳ trên mặt đất, quan sát kỹ: từ các ngón đến độ cong, lòng chân trước, lòng chân sau của dấu chân đều rất rõ rệt, nhưng cách phân bố lại quá quái dị, có lẽ chúng vốn dĩ không phải dấu chân của con người. Mọi người nghĩ mà ớn lạnh, không ai dám thở mạnh, chỉ mong nhân lúc sự cố chưa xảy ra, mau chóng rút lui khỏi đây càng nhanh càng tốt.



Tư Mã Khôi giở tấm bản đồ của đội thám hiểm Taninth ra, tiếp tục tìm kiếm vật tham chiếu gần đó, đồng thời cầu mong có thể nhanh chóng tìm đường rời khỏi chỗ này. Có điều, bản đồ này được vẽ căn cứ theo bích họa cổ mộ thời kì Sở U Vương, trong khi hàng trăm triệu năm trước, Thần Nông Giá đã từng là đại dương, quần thể thực vật thời tiền sử ở cánh rừng rậm rạp dưới m Hải Cốc lại từng là quần đảo bị chìm lún.



Một nơi nào đó trên đảo được ký hiệu là chiếc hộp Pandora, hội anh dự đoán, đó cũng là nơi đặt nhật quỹ, còn lịch sử cụ thể thế nào thì không thể khảo chứng được, vì bây giờ công cụ chỉ dẫn duy nhất có mỗi tấm bản đồ cổ xưa này thôi. Ngặt nỗi, môi trường dưới lòng đất phức tạp và khắc nghiệt, nếu không đi đúng tuyến đường, chỉ sợ cuối cùng sẽ bị lạc trong vực sâu chết chóc này mất, nhưng thời gian vật đổi sao dời, nấm mốc, rong rêu phát triển, đã khiến địa mạo vốn có của vùng này bị thay đổi.



Tư Mã Khôi vô cùng lo lắng, nhưng nhất thời cũng không biết phải làm thế nào, anh đành dẫn mọi người giẫm lên vòm nấm vân chi vừa to vừa mềm để trèo lên trên, giật đám dây leo và thực vật họ nho mọc loạn xạ xung quanh, cả hội cố gắng tiếp cận các địa điểm đánh dấu trên bản đồ.



Tư Mã Khôi vừa tiếp ứng cho các thành viên khác trèo lên một đoạn dây leo, bỗng nhiên anh cảm thấy từng luồng âm phong ào tới. Tư Mã Khôi bất giác rùng mình, toàn thân nổi hết da gà, lòng nghĩ thầm: không khí dưới lòng đất vừa ẩm ướt vừa oi nồng, làm gì có gió nhỉ? Anh vừa nghĩ đã biết: có lẽ một thứ gì đó trên trời đang bay xuống tìm cách tiếp cận hội anh.



Tư Mã Khôi lập tức điều chỉnh góc chiếu sáng của đèn quặng trên mũ Pith Helmet lên cao. Lòng đất tuy ẩm ướt, ngột ngạt, nhiều nơi còn có sương mù, nhưng vẫn le lói chút ánh sáng yếu ớt do tảo lục phát ra, nhờ vậy không gian cũng không đến nỗi tối đen như mực, chất lượng tia sáng cũng tạm coi là lý tưởng, phạm vi chiếu sáng của đèn quặng lên tới hơn hai mươi mét.



Tư Mã Khôi chĩa vòng sáng vào khoảng không phía sau mình, anh thấp thoáng thấy mấy phiến lá khô chao liệng. Anh thầm nghĩ, con bà nó, ma quái quá, ở đây toàn là cây cổ thụ khổng lồ, bề rộng của lá cây cũng lên tới gần một mét, luồng khí phải mạnh đến mức nào thì mới đủ sức cuốn nó lên trời? Anh phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền nhỏ giọng cảnh báo mọi người: “Chú ý!”.



Hải ngọng cũng phát hiện ra cơn gió lạ, rồi trong khoảnh khắc anh ngước mắt nhìn lên, thì mấy phiến lá đó đã bay tới chỉ cách chỗ mọi người đứng chừng mấy mét. Hải ngọng vội giương khẩu súng bắn đạn hoa cải họng ngoại cỡ lên, tay xách nách mang, cuống quýt chĩa súng vào phiến lá khô ở gần nhất và bóp cò.



Loai súng này dùng đạn cỡ 8, đạn cỡ 8 có nghĩa là viên bi sắt chế thành đạn sẽ phân tách thành tám mảnh khi đươc bắn ra, còn đạn cỡ 12 sẽ phân tách thành mười hai mảnh, cỡ đạn càng nhỏ thì lực sát thương càng lớn. Thông thường đạn cỡ 8 thuộc loại dành cho súng săn hạng nặng, lực sát thương rất ghê gớm.




Nó là dòng súng do Canada sản xuất, trên báng súng còn khắc hình đầu con gấu gườm gườm, có lẽ nó được thiết kế chuyên để săn gấu khổng lồ ở dãy núi Rockey. Lúc này, chỉ nghe súng bắn “đoàng” một tiếng, phiến lá khô thoắt chốc rơi xuống, chao đảo ngay trước mặt mọi người.



Hội Tư Mã Khôi quỳ gối xuống quan sát và phát hiện thì ra đó là loài bướm lá khô, có chiều dài hơn một mét, có lẽ là một giống bướm ma, thân mình như được choàng tấm áo khoác màu trầm tối, loang lổ, giống hệt với các khúc gỗ mục ngang dọc hỗn loạn, ngay cả màu mắt cũng hoàn toàn tương đồng, cách ngụy trang này khiến nó hoàn toàn hòa lẫn với môi trường xung quanh, chỉ khi quan sát kỹ ở cự li gần, mới có thể nhìn ra đám lá khô kia hóa ra là vật thể sống.



Con bướm rơi xuống đất khi nãy bị đạn số 8 xé tan thành hai mảnh, cơ thể nó chảy ra dịch màu vàng, nhưng vẫn ngoan cố chưa chịu chết hẳn, đôi cánh không ngừng vẫy đập, trên mình nó mọc chi chít những sợi lông mao còn sắc hơn cả đinh sắt, chỉ cần chạm nhẹ cũng đủ khiến con người toi mạng.



Hải ngọng lại vừa nổ súng giết thêm một con bướm ma nữa, những con còn lại đậu trên lùm nấm vân chi rậm rạp nên không nhìn thấy, nhưng luồng âm phong từ trên cao dội xuống, cho thấy đồng loại của chúng đang bay tới đây càng lúc càng nhiều. Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương tắt đèn quặng: “Người ta bảo ‘thiêu thân như bướm đâm đầu vào lửa’.



Tôi đoán, lũ bướm ma này chắc lao vào đây vì ánh đèn…” Nhị Học Sinh nhìn mà gai lạnh cả người, anh chàng hỏi Tư Mã Khôi: “Đồng chí tổ trưởng ơi! Anh bảo lũ quái vật này có tấn công người không?” Tư Mã Khôi cũng không dám chắc, Đại Thần Nông Giá nổi tiếng là nơi có “huyệt động kì bí, sinh vật bạch tạng, kì hoa dị thảo, chim lạ thú hiếm”, nó là cánh rừng rậm nguyên sinh còn sót lại duy nhất ở dải đất 30 độ vĩ Bắc.



Lớp phủ thực vật um tùm và dày đặc, giúp nó dự trữ được lượng nước rất đầy đủ, cánh rừng giống như một khoang cung cấp dưỡng khí nhiều tầng cỡ lớn, chính vì vậy, hàm lượng ô xi trong không khí rất cao, quần thể thực vật tiền sử trong hang động dưới lòng đất m Hải Cốc tuy đã chết thực sự, nhưng do sự ảnh hưởng của môi trường, nên chúng vẫn giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như xác chết vậy.



Điều đó khiến vô số loài nấm gỗ và nấm vân chi sinh trưởng tua tủa trong tầng chất mục nằm phủ trên bề mặt thân cây; ngoài ra, còn có một số loài sinh vật máu lạnh vẫn chưa bị tuyệt chủng, chúng trốn thoát khỏi kiếp nạn rung trời chuyển đất, rồi dần dần thích ứng với môi trường sinh tồn dưới lòng đất, đồng thời thông qua phương thức đặc biệt và thần bí nào đó, chúng vẫn duy trì được sự cân bằng yếu ớt ấy.



Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Các chủng loại thực vật cổ xưa dưới lòng đất phần lớn chưa ai từng nhìn thấy, cho dù có biết thì nó cũng chỉ là một chi hoặc một nhánh tương tự như vậy mà thôi, không thể dùng kinh nghiệm từng có để phán đoán về chúng được. Để đảm bảo an toàn, đương nhiên chúng ta thà tin là nó có, còn hơn tin là nó không có, phải cố gắng tránh tiếp xúc với nó mới được”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 135: Hồi 6: vây bắt


Mặt Tư Mã Khôi biến sắc, tiếng bước chân rầm rập, như thể mấy ngàn mấy vạn đôi chân đang hành quân thần tốc, mà lòng đất dưới m Hải Cốc cơ hồ cách tuyệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, thì đương nhiên không thể đột nhiên xuất hiện nhiều người như vậy.



Thứ gì có nhiều chân dường ấy được nhỉ? Chẳng lẽ là con rết khổng lồ nằm mai phục dưới lòng đất? Trong đầu Tư Mã Khôi bồng bềnh thoáng hiện lên hình ảnh một con rết mọc toàn chân người, nhưng anh liền mau chóng xua tan ý nghĩ gớm ghiếc đó, bởi vì sinh vật để lại dấu chân trên thảm rêu không phải chỉ có một con, có lẽ là một chủng loại nào đó thường xuất hiện theo hình thái bầy đàn.



Nếu nhìn dấu chân để phỏng đoán, thì cơ thể sinh vật này ắt hẳn không nhỏ; không chỉ vậy, mà nó còn có khả năng di chuyển nhẹ nhàng như bay, bởi vậy mới không giẫm nát khúc gỗ mục, bây giờ nghe động tĩnh vẫn còn ở xa, nhưng kẻ sắp đến chắc chắn không mang ý đồ gì tốt đẹp.



Anh đoán, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ áp sát hội anh. Mấy người còn lại cũng lần lượt nhận ra tiếng động lạ, lòng người nào người nấy đều trỗi dậy cảm giác ngộp thở đến khó hiểu. Hải ngọng sốt ruột, lấy báng súng hất con bướm ma nằm phơi xác trên vòm nấm vân chi xuống.



Anh vừa nạp đầy đạn cho khẩu súng săn hai nòng, vừa nói với Tư Mã Khôi: “Lũ bướm chết tiệt này có gì đáng xem đâu, nhìn mà phát tởm, bọn mình mau rút thôi…” Tư Mã Khôi thấy bụi nấm gỗ gần đó có hình dạng gần giống với nấm linh chi trên núi, chỉ có điều chúng mọc trên thân gỗ mục, từng quầng từng quầng nối liền san sát, trải dài mãi xa, cao thấp đan xen lẫn nhau, cây thấp nhất cũng chừng nửa mét, cây cao nhất có khi lên tới ba đến năm mét.



Quầng nấm vân chi to dày, màu sắc sặc sỡ, đủ sức cho mấy người giẫm lên cùng lúc. Tuyến đường đánh dấu trên bản đồ có lẽ cũng nằm trong thân cây cổ đại bị thảm nấm che phủ, nhưng vị trí cụ thể thế nào thì anh cũng không rõ. Nếu từ từ tìm kiếm trong đám nấm gỗ và dây leo quấn quýt chằng chịt, thì có lẽ không thể một sớm một chiều tìm thấy ngay được, huống hồ bây giờ tình thế nguy cấp, chỉ có thể tìm tạm một hốc cây nào đó ẩn nấp trước, sau đó mới nghĩ cách hành động.




Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền dẫn mọi người tìm cách trốn lũ bướm ma đang không ngừng nhào xuống, cố gắng di chuyển vào những lùm nấm rậm rạp. Độ cao giữa các cây nấm vân chi trước mặt chênh lệch rất lớn, mọi người lại đều khoác nặng trên vai, nên khó mà đi xuyên qua bụi nấm theo đường thẳng.



Tư Mã Khôi đành trèo lên trước, Hải ngọng đứng dưới làm thang, đẩy từng người lên trên. Tư Mã Khôi kéo Nhị Học Sinh lên đỉnh cây nấm, đang định cúi xuống kéo Hải ngọng lên, chẳng ngờ một con bướm ma lẳng lặng sà xuống, định đậu trên lưng Hải ngọng, mọi người ở trên cao đồng thanh hét lớn: “Cẩn thận!” Hải ngọng cảm thấy xúc tu của con bướm ma cứ muốn xuyên thẳng vào cổ mình, xua thế nào cũng không được, nên đâu dám quay đầu, mà khổ nỗi anh lại không thể gỡ khẩu súng săn xuống.



Trong lúc cấp bách, anh đành rút khẩu súng lục dự phòng P38, mở hộp trên đùi, rồi ngắm chuẩn phía sau lưng, bắn mấy phát liền, đạn như bắn vào tấm da mục vậy. Con bướm ma bị kinh động, vội vã định vẫy cánh bay, nhưng gai xúc tu dưới bụng nó lại mắc vào ba lô Hải ngọng, nên thân hình to lớn như Hải ngọng mà bị nó giật ngược ra sau, hai bên cuộn thành một đống, lăn ra rìa vành nấm.



Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng lâm vào tình thế cấp, không kịp bò dậy rút súng, liền ngã rạp xuống theo, định ra tay hỗ trợ bạn, nhưng bỗng nhiên nghe thấy sung nổ “đoàng” một tiếng, con bướm ma sau lưng Hải ngọng bị khẩu liên thanh M1887 bắn lăn lông lốc xuống đất. Hải ngọng hết hồn, rụt cổ, vội thò tay ra sờ “gáo dừa”, may mà không bị đạn cỡ 12 xuyên thủng một lỗ.



Tư Mã Khôi không kìm được cất tiếng khen ngợi. Anh biết trong tình thế khẩn cấp và hỗn loạn như vậy mà một phát bắn trúng mục tiêu, nói thì dễ chứ làm rất khó, ngoại trừ cần có kỹ thuật bắn đỉnh cao, thần kinh phản xạ nhạy bén, thì còn cần có tố chất tâm lý cực kì vững vàng.



Từ trước đến nay, Thắng Hương Lân không giỏi bắn súng, Nhị Học Sinh càng dở tệ, vậy ai có bản lĩnh này? Tư Mã Khôi ngoái đầu nhìn, anh thấy Cao Tư Dương đang lên nòng súng liên thanh, hai mắt chăm chăm bám riết mục tiêu, khẩu M-1887 là loại súng săn hạng nhẹ, thân hình con bướm lá khô lại quá to, để tránh Hải ngọng, phát đầu cô không bắn vào điểm yếu huyệt của con bướm, nên nó vẫn chưa đến nỗi mất mạng.



Trong chớp mắt, nó lại bay vút lên, lúc này Cao Tư Dương đã thần tốc lên đạn, rồi cô bóp cò cùng lúc với hành động giương súng ngắm bắn. Bụng con bướm ma bị xuyên thủng một lỗ to, nó lăn xuống chân cây nấm. Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Thắng Hương Lân kinh ngạc khôn xiết, tận mắt chứng kiến Cao Tư Dương từ lúc lên nòng, giương súng, ngắm bắn đến bóp cò, hoàn toàn không hề có động tác nào thừa thãi, hoặc chậm trễ, không những vậy kỹ thuật bắn cực kì chuẩn xác.



Mọi người thầm nghĩ, học viện quân y đâu phải bộ đội dã chiến, sao cô nàng lại có kỹ thuật bắn mau lẹ và chắc chắn được như vậy nhỉ? Thắng Hương Lân chìa tay ra kéo Hải ngọng lên, Cao Tư Dương thu súng, quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Còn không mau trèo lên, thần người ra đó làm gì? Nếu anh mà dám cả gan lừa tôi, thì phát tiếp theo tôi sẽ bắn nát cái sọ của anh đấy!” Tư Mã Khôi trèo lên vòm nấm, nghĩ thầm: “Tôi lừa cô hồi nào?”, nghĩ xong mới nhớ ra, chuyến vào núi lần này bị ảnh hưởng bởi những chuyện đột xuất xảy ra với đội thông tin, hội anh đành thay đổi lộ trình, chui xuống lòng đất vượt m Hải Cốc.



Lúc trước giữa đường gặp gã hái thuốc Lão Xà cải tử hoàn sinh, tiếp đến là kho pháo quân sự lõi kép sụp đổ, rồi phát hiện thấy di cốt của đội thám hiểm Taninth, đồng thời tìm thấy bản đồ đánh dấu ký hiệu chiếc hộp Pandora. Toàn bộ chuỗi sự kiện này đều là những biến cố ngoài ý muốn, sau đó Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh của đội thông tin bị mắc kẹt trong núi, bất luận ở lại chờ cứu viện hay tự mình tìm lối ra, thì xác suất sống sót trở về vô cùng mong manh.



Tư Mã Khôi ngẫm thấy có thể mang hai người này đồng hành cùng hội anh. Bởi vì khu vực gần huyệt động dưới lòng đất, nơi đánh ký hiệu chiếc hộp Pandora, có lẽ còn có một đường hầm ăn thông ra rừng rậm Thần Nông Giá, tuyến đường này tuy nguy hiểm, nhưng chỉ còn biết gắng gượng vượt qua, nói không chừng, đó cùng là một con đường sống.




Có điều, Cao Tư Dương thân là quân nhân, phải chịu sự ràng buộc của kỷ luật tổ chức, nếu nói thật tuốt tuột tất cả với cô nàng, thì cô nàng chắc chắn sẽ không bao giờ chịu đồng hành cùng hội Tư Mã Khôi, bởi vậy anh đành thanh minh, mình gánh vác một sứ mạng rất đặc biệt, đó là được tổ chức trực tiếp đặc phái đến rừng rậm Thân Nông Giá tìm chiếc hộp Pandora để thực hiện một nhiệm vụ vô cùng gian nan và vinh quang.



Ngay từ đầu, Cao Tư Dương đã thấy nghi ngờ chuyện này, cho nên khi nãy mới buột miệng nói ra câu ấy. Lúc này, tiếng bước chân dồn dập và dày đặc ở phía xa đã mỗi lúc một gần. Tư Mã Khôi không còn thời gian giải thích với Cao Tư Dương, nên khi Hải ngọng vừa trèo lên, anh liền vội vàng dẫn cả đội tiến về phía trước.



Nhị Học Sinh bám gót Tư Mã Khôi, anh chàng thở không ra hơi, hổn hển nói: “Cao Tư Dưong xuất thân trong gia đình quân nhân gia thế, bố cô ây được phong hàm đại tá lúc 55 tuổi. Đừng thấy cô ấy là con gái mà coi thường, cô ấy là tay súng thiên tài đấy, thường ngày vẫn ra thao trường tập bắn súng, lúc theo đoàn bộ đội đến vùng núi này, cô ấy luôn tìm cơ hội mượn súng săn vào núi săn bắn, các thợ săn quanh lâm trường, không ai bắn giỏi bằng cô ấy đâu.



Hễ nhắc đến cô ấy, là người ta lại giơ ngón tay cái ra khen ngợi đấy! Còn tôi ấy à, tôi không quen dùng súng, nhưng hai năm trước, khi tham gia khóa huấn luyện dân binh, tôi cũng từng sờ vào khẩu K-63. Anh xem, tôi còn chụp ảnh kỷ niệm đây này. Hay là anh cho tôi mượn một khẩu nhé. Tôi cũng biết tác chiến mà, không làm liên lụy đến anh đâu…”.



Nói xong, anh chàng móc tấm ảnh 4×6 trong túi áo ra. Đó là lần anh chàng về thành phố thăm gia đình, anh ta đã tìm người quen mượn một bộ quân phục, tay lăm lăm nắm khẩu súng thép, chụp ảnh lưu niệm bên bờ sông. Anh chàng giữ khư khư tấm ảnh đó bên mình, như thể nó quý giá lắm. Tư Mã Khôi không ngờ Cao Tư Dương lại có lí lịch đáng nể thế.



Anh liếc mắt nhìn bức ảnh một cái, rồi giả bộ khó xử bảo Nhị Học Sinh: “Đồng chí Nhị Học Sinh! Đồng chí nghĩ đến an toàn bản thân, đương nhiên là không sai, nhưng đồng chí cũng phải nghĩ đến an toàn của cả hội nữa chứ! Tôi thấy, đồng chí cứ dùng tạm khẩu… giáo này đi.



Sau khi La Đại Hải luyện thành La hán trở về, tôi sẽ bảo cậu ta truyền thụ mấy chiêu bắn súng phòng thân cho đồng chí nhé!”. Hải ngọng hỏi Nhị Học Sinh: “Thời Tùy Đường có cả thảy mười tám vị hảo hán, chú có biết họ La xếp thứ mấy không?” Nhị Học Sinh chưa kịp trả lời, thì nghe tiếng bước chân dồn dập đạp củi mục vang lên nghe “bục bục”, với tần suất càng lúc càng mau, gần như không có khoảng ngắt quãng, khi nãy còn thấy âm thanh cách đây chừng mấy trăm mét, thế mà loáng một cái đã bám sát gót.



Lúc này, nơi mọi người đứng chỉ còn cách mấy thân cây cổ đại bị nấm vân chi che phủ một đoạn rất gần, tầm ba đến năm bước là cùng, bỗng nhiên thấy động tĩnh không ổn, cả hội liền lập tức giương súng quay người, thì thấy một con nhện hình dáng kì dị xuất hiện trong lùm nấm vân chi.



Thân nhện to như cái chậu rửa mặt, người dẹt, trên lưng có vô số cặp mắt đơn, sáu đôi chân phụ và hàm răng không ngừng chuyển động, tám cái chân ở hai bên sườn mọc dài đến khiếp người, trông không cân đối chút nào so với thân mình, phần dưới chân dường như có bàn hẳn hoi, mọc tua tủa gai ngược và nệm thịt, giúp nó có thể mặc sức treo ngược trên không.



Nó bò nhanh như bay, cẳng chân và ngón chân dài nhỏ khiến nó dễ dàng chống đỡ cơ thể, tuy không đến mức đăng bình độ thủy vèo vèo như giống đỉa, nhưng cũng đủ giúp nó di chuyển thần tốc trên đầm trạch. Lúc này, nó đang giẫm lên cây nấm gỗ, dưới chân không ngừng phát ra âm thanh rất khẽ “lách cách lách cách”, nghe mà rùng mình theo.



Con nhện chân dài bò càng lúc càng nhanh. Nó bò trên lùm nấm gỗ cao thấp đan xen mà như bò trên đất bằng, lao ầm ầm đến chỗ mọi người đang đứng tựa mũi tên bay. Hội Tư Mã Khôi hoảng hồn, hét nhau nhất loạt giương súng bắn, khẩu súng liên thanh M1887 không thực sự có khả năng bắn liên thanh như tên gọi của nó, mà mỗi khi nhả một viên đạn đều cần sử dụng lực giật lùi để kéo búa kim hỏa lại và xoay ổ đạn một nấc, rồi sau đó mới bắn phát tiếp theo, tốc độ bắn tương đương với tốc độ các loại súng thông thường khác, nên dẫu là những tay súng thiện xạ điều khiển, thì cũng vẫn xuất hiện khoảng thời gian ngắt quãng.




Thế nhưng ba khẩu M 1887, cộng với khẩu súng bắn gấu hai nòng của Hải ngọng hỗ trợ lẫn nhau, thì có thể tạo thành tấm lưới lửa, lấp đầy khoảng trống nguy hiểm đó. Con nhện chân dài bị bắn tan nát trong phút chốc, nhưng cà cuống chết đến đít mà vẫn còn cay, bụng nó ngửa lên trời, mấy cái chân thi nhau quẫy đạp, càng răng vẫn không ngừng thò ra.



Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào hình thù kì dưới chân con nhện, cô kinh hoàng, khẽ kêu lên: “Là nhện chân quỷ!” Hải ngọng hỏi Thắng Hương Lân: “Tôi biết trong rừng rậm có một loài nhện chuyên bắt chim, món này còn cắn chết được nguyên con bò đực đấy, nhưng nhện chân quỷ là … là giống gì vậy?” Tư Mã Khôi cũng nhớ đến từng nhìn thấy một loại nhện chân dài trên Sơn Hải Đồ, bên cạnh hình vẽ còn chú thích hai chữ “chân quỷ” bằng chữ triện cổ triều Hạ, có lẽ đó là một giống quái dị nào đó, nhưng lúc đó anh không rõ nghĩa của nó, mà cứ nghĩ đó là tên gọi cổ xưa của loài nhện.



Nhìn hình vẽ thấy ngoại hình nó thân tròn mình dài, trông khá giống với loài nhện bắt chim thường xuất hiện trong rừng rậm ở Miến Điện và Việt Nam. Loài nhện bắt chim, giống như tên gọi, nó có thân hình rất to lớn, chân dài, thân ngắn, tốc độ bò nhanh tuyệt luân, có thể giăng tơ bắt chim làm thức ăn, độc tính mạnh vô cùng.



Không những vậy bản tính nó lại hung hãn, hiếu chiến, nên ngay cả những con mãng xà bá đạo chốn rừng xanh cũng phải kiêng nể nó vài phần, nhìn thấy nó là vội vàng chuồn mất dạng. Loài nhện chân quỷ dưới m Hải Cốc có lẽ là một dị chủng của loài nhện bắt chim, có điều loài này không biêt nhả tơ, cung không hành động đơn thương độc mã, nên nghe tiếng bước chân sầm sập như nước triều dâng, thì biết chúng tụ tập thành bầy đàn để dàn trận vây bắt con mồi.



Tuy trong tay mọi người đều có súng, nhưng cũng chỉ tạm thời đối phó với một, hai con là cùng, tai nghe âm thanh giẫm lên gỗ mục lách tách lách tách ở phía xa rất dồn dập, thì biết phía sau còn không biết bao nhiêu con đang ập đến bủa vây con mồi. Hội Tư Mã Khôi đâu dám dừng bước, lập tức trèo lên lùm nấm vân chi mọc trên thân cây khô, gắng trèo càng cao càng tốt, bây giờ chạy thoát được bước nào hay bước ấy.



Đúng như Tư Mã Khôi dự đoán, hàng trăm hàng ngàn con nhện chân quỷ đang bò nhanh như cắt dưới gốc nấm gỗ và tìm cách áp sát. Chúng gặp bọn bướm lá khô rơi đậu trên mặt đất thì nhào vào dùng hai càng châm tê liệt con mồi, rồi sau đó từ từ hút hết chất dịch bên trong, cho đến khi con bướm chỉ còn cái xác mỏng dính như phiến lá khô, chúng mới chịu buông tha.



Những con bướm ma bị dồn đuổi đến đây, đã sớm sức cùng lực kiệt, nên chỉ một số ít còn đủ sức giãy giụa đôi chút, còn phần lớn là hết khả năng phản kháng, để mặc cho bọn nhện tùy ý sát sinh. Điều này cũng khiến tốc độ vây bắt từ tứ phía của bọn nhện có chút giảm chậm.



Mọi người cũng nhân cơ hội này trèo lên một đài nấm tương đối cao, đó là mấy chùm nấm vân chi mọc ngang thân cây thẳng đứng. Lúc này, chỉ nghe trên dưới trái phải, chỗ nào cũng là tiếng bước chân gấp gáp như muốn đòi mạng đang áp sát đến gần. Bốn phía xung quanh đã bị nhện chân quỷ bao vây kín mít.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng thấy không còn đường thoát, họ vừa nạp đầy ổ đạn, vừa nghiến răng ken két lầu bầu oán thán: “Hai cái chân người thì địch làm sao được với tám cái chân nhện? Biết trước thế này, lúc ra khỏi cửa đã… gắn mẹ cái động cơ sau mông cho rồi”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 136: Hồi 7: quay cuồng


Hội Tư Mã Khôi nghe tiếng bước chân luồn lách giẫm đạp trên đất, thì biết bọn nhện chân quỷ đã thanh toán xong lũ bướm ma. Loài sinh vật này hung hãn, máu lạnh, một khi chưa tuyệt diệt được con mồi thì chúng sẽ không bao giờ chịu bỏ cuộc. Vì sự sinh tồn của chính bản thân và duy trì số lượng bầy đàn, chúng còn tàn sát cả đồng loại.



Không những vậy, chất độc trong hàm răng của chúng có thể coi là chất kịch độc, nên ngay cả những loài thú lớn như: hổ, báo, sư tử, gấu đen mà bị chúng cắt một nhát, là toàn thân sẽ lập tức tê dại. Đáng sợ hơn, sự tê dại này chỉ khiến cho da thịt tê cứng, còn hệ thần kinh trong cơ thể con vật trúng độc thì vẫn hoạt động bình thường, thậm chí còn trở nên mẫn cảm hơn bội phần, điều đó có nghĩa là, trong lúc đầu óc con mồi hoàn toàn tỉnh táo, thì nó phải chứng kiến cảnh mình bị nhện chân quỷ giết sống.



Nhện chân quỷ hút hết huyết dịch của con mồi, khiến cơ thể chúng dần trở thành bộ xác khô, con mồi phải chịu dày vò, đau đớn đến cùng cực trước khi chết. Nếu rơi vào bước đường này, chắc chắn con mồi khi đó sẽ rất hối hận vì đã không kịp tự kết liễu đời mình bằng một cách dễ chịu hơn.



Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hối hận cũng ích gì, ngồi đó than ngắn thở dài chi bằng tìm cách đột phá vòng vây cho xong”. Nhị Học Sinh nghe vậy, liền gật đầu liên tục, tỏ vẻ rất đồng ý, anh chàng còn đang định mở miệng nói gì đó, bỗng nhiên bị Tư Mã Khôi túm cổ áo đẩy mạnh khiến anh chàng ngã sấp mặt tại chỗ.



Nhị Học Sinh sợ khiếp vía, cứ ngỡ Tư Mã Khôi định đẩy mình xuống đài nấm, làm mồi nhử lũ nhện, giúp cả hội giải phá vòng vây, anh chàng run lập cập, gào lên oán trách Tư Mã Khôi: “Anh… anh đúng là đồ mất hết nhân tính!”. Đúng lúc này, một tiếng súng vang lên, một con nhện chân quỷ lẳng lặng tiến sát ngay sau lưng Nhị Học Sinh vừa bị đạn bắn trúng chân, làm nó mất trọng tâm, ngã lăn xuống gốc cây.



Khi đó, anh chàng mới biết Tư Mã Khôi vừa cứu sống mình trong gang tấc, lúc định ngoi dậy và trèo lên, chẳng ngờ lại bước hụt, chân tay lấn bấn thế nào mãi không bò dậy được. Lúc này, mấy con nhện chân quỷ còn lại đồng loạt bao vây tấn công, mọi người hét lớn, nghe tiếng chân nhện tiếp cận ở hướng nào, là lập tức chĩa súng về hướng đó nhả đạn.




Tiếng súng đanh giòn, nổ liên tiếp một tràng dài. Lũ nhện chân quỷ tuy bò trên thân cây gần như thẳng đứng, nhưng vẫn nhẹ nhàng như bay, tốc độ di chuyển không hề chầm lại. Mọi người đành soi đèn quặng, độc lập tác chiến, nhưng trong bóng tối, cả hội bắn trượt không ít đạn.



Khuyết điểm dung lượng ổ đạn nhỏ của loại súng liên thanh M-1887 lúc này cũng lộ rõ. Trong giờ phút giành giật lại sự sống, mạnh ai người nấy nhả đạn không ngừng, chẳng kịp suy tính gì hơn. Tư Mã Khôi áp sát lưng vào thân cây, nửa ngồi nửa quỳ, một tay lên đạn ngắm bắn, một tay túm lấy anh chàng Nhị Học Sinh vẫn bò chưa dậy được, kéo anh ta từ rìa nấm vào bên trong.



Tư Mã Khôi vô tình chạm phải ba lô đeo sau lưng Nhị Học Sinh, anh bỗng nhiên nhớ ra ngoài hai hộp đạn cỡ 12 ra, thì trong đó còn cất rất nhiều đuốc phòng bị lúc cấp thiết. Mấy bó đuốc đó là loại đặc chế của đội thám hiểm Taninth, phần đầu quết lớp diêm tiêu, chỉ cần chà xát mạnh là bùng cháy, nhiệt độ bốc cháy của dầu cá rất thấp, khả năng duy trì thời gian chiếu sáng khá lâu, lúc không cần thiết chỉ cần lấy nắp chế sẵn dập lửa, cất đi là lần sau có thể sử dụng tiếp.



Tư Mã Khôi vội vàng rút một cây ra, lấy chân đạp nắp cao su, rồi dùng hết sức chà xát đầu bó đuốc vào mũ bấc của Nhị Học Sinh, ánh lửa lập tức bùng lên, khu vực phía trước được soi sáng như ban ngày. Lúc này, một vài con nhện chân quỷ đang định bò đến gần, Tư Mã Khôi huơ tay, giơ cao bó đuốc, lao mạnh vào mắt nhện.



Trong ngũ hành, hỏa là vô tình nhất, cũng là thứ mà vạn vật có sự sống trên đời khiếp sợ nhất. Ngọn lửa ngùn ngụt, đỏ rực ấy, trên có thể đốt cháy cổng trời, dưới có thể thiêu cháy địa phủ, huống hồ lũ sinh vật máu lạnh dưới lòng đất chưa bao giời nhìn thấy ánh lửa này, chúng thoắt chốc co cụm thành một đám, rơi xuống gôc cây, mấy con nhện chân quỷ gần đó cũng tháo lui, lẩn vào bóng tối không có ánh lửa, chờ thời cơ hành động.



Tư Mã Khôi nhận thấy, tuy rằng đuốc đã tạm thời ngăn lũ nhện chân quỷ tiến gần, nhưng chúng vẫn ngoan cố bao vây, không chịu giải tán, dường như chỉ đợi thế lửa dần suy yếu là sẽ lần nữa ào lên tấn công. Anh nghĩ đến kết cục cả hội phải đối mặt sau khi lửa đuốc vụt tắt, thì dù cho có là hảo hán hào kiệt hay tên đồ tể giết người không chớp mắt, nhưng chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng đó, người ta cũng bất giác lạnh gan tái mặt.



Tư Ma Khôi rút thêm thanh đuốc nữa, châm lửa, rồi đưa cho Thắng Hương Lân để đảm bảo ánh lửa đủ duy trì an toàn cho mọi người, số còn lại anh không dám sử dụng nhiều. Thắng Hương Lân nói: “Bây giờ chúng ta đã có lửa phòng thân, nhưng cũng không thể cất lương khô chịu đói được, chúng ta phải tìm cơ hội thoát hiểm.



Nếu bản đồ đội thám hiểm Taninth để lại chính xác tuyệt đối, thì có lẽ con đường bí mật dẫn đến chiếc hộp Pandora, đang nằm ngay trong cái cây cổ đại này thôi”. Mọi người gật đầu tán thành, họ lập tức soi đèn quặng và đuốc quan sát xung quanh, tìm kiếm con đường bí mật căn cứ vào các đặc trưng đánh dấu trên bản đồ.



Đường kính các cây khô dưới lòng đất đều trên hai mươi mét, cây nào cây nấy thẳng đứng như vách tường. Nấm gỗ mọc trên thân cây tạo thành một sạn đạo(1) ngoằn ngoèo, giao thoa. Tư Mã Khôi giơ đuốc lên trước trán, phát hiện trên cao có một bóng đen, thân cây mọc đầy rêu xanh, khiến nó trông càng thâm u, khác biệt hoàn toàn với cảnh vật xung quanh, hình như đó là một vết lõm lớn, đen ngòm.



Anh leo lên cây, thì thấy đó là một hang động nằm trong thân cây, bên trong sừng sững hai pho tượng ngọc đầu chim, mình người. Anh vỡ lẽ, thì ra lúc trước cả hội tìm nhầm phương hướng, con đường mà bản đồ chỉ không nằm dưới gốc cây cổ đại, mà nằm ngay trên thân cây. [1] Sạn đạo: đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ, xếp hai bên sườn núi đá, dùng để đi qua những khu vực núi non hiểm trở.




Tư Mã Khôi kéo mấy người còn lại trèo lên hốc cây, sau đó giơ đuốc chui vào trong. Anh lấy một hộp dầu thông trong ba lô ra, đổ tất cả ngoài cửa động, rồi châm lửa đốt, hòng ngăn chặn bọn nhện chân quỷ bám theo. Khổ nỗi, môi trường trong hốc cây ẩm ướt, mục nát, dầu thông khó lòng cháy bùng lên được, nên ngọn lửa yếu ớt, mờ nhạt; có điều không gian chật hẹp, u tối và dồn nén trong hốc cây lại càng có lợi cho mọi người làm thế dựa, nên ba hồn chín vía của cả hội đang treo lơ lửng giữa tầng không, cuối cùng cũng chịu nhập trở lại xác.



Nếu họ tận dụng được môi trường ẩm ướt phức tạp trong lòng đất, tìm thấy lối ra trước khi dầu thông cháy cạn, thì có lẽ sẽ chạy thoát khỏi lũ nhện chân quỷ chuyên bắt mồi thông qua cảm nhận về sự chuyển động kia. Nhưng Nhị Học Sinh vừa đi vừa nói với Tư Mã Khôi: “Cho dù chúng ta có xuyên qua được hốc cây này, chỉ sợ cũng khó lòng giữ được mạng sống.



Trước đây, tôi từng làm tiêu bản côn trùng, cũng đọc qua về học thuyêt tiến hóa của loài vật, nên khá hiểu tập tính của mấy con vật này. Khi nãy, tôi quan sát thấy xác con nhện bị súng bắn, phát hiện trên đầu bầy nhện đều có vệt trắng, thứ này có lẽ là túi vị, chức năng của nó tương đương với thiết bị cảm ứng thông tin hóa học.



Hải ngọng thấy vô lý, anh chỉ nghe trên thế giới có thông tin vật lý, chứ làm gì có thông tin hóa học? Anh giễu: “Xem thằng quỷ con nhà cậu mắt lồi như mắt ếch, trông bộ dạng ngốc nghếch thế kia, làm sao phân biệt rõ được hai khái niệm này chứ?” Cao Tư Dương phẫn nộ, cô định chỉ trích Hải ngọng phát ngôn vô độ, nhưng cô cũng hiểu, cô mà mở miệng thì với bản lĩnh mồm mép như Hải ngọng đời nào chịu để cô yên; anh chàng này là chúa hay lải nhải mấy chuyện dưa cà mắm muối, chỉ thích công kích, chụp mũ người khác và nâng cao quan điểm.



Ai dây với anh ta thì ngang dây với đỉa đói, huống hồ bây giờ là thời khắc then chốt của sống còn, cô làm gì còn lòng dạ nào đôi co nữa, thôi thì bớt gây sự với anh ta cho xong chuyện. Nghĩ vậy, cô liền giả vờ như không nghe thấy mấy lời vừa rồi, chỉ nói: “Hẵng đừng quan tâm đến chuyện nó hợp lý hay không, cứ để Nhị Học Sinh nói hết đã nào!” Được Cao Tư Dương bật đèn xanh, Nhị Học Sinh tiếp tục giải thích với mọi người cái gọi là thông tin hóa học, thực ra là chỉ tín hiệu mùi vị, thông qua không khí để truyền dẫn, tiếp nhận, giống như sợi râu trên đầu loài kiến dùng để giao lưu với nhau vậy.



Bọn nhện chân quỷ hành động theo bầy đàn, trên đầu chúng đều có túi khí, cho phép chúng thông qua mùi khí bài tiết của bản thân tiến hành liên lạc với đồng loại, đồng thời nó cũng rất mẫn cảm với những mùi khí của các loài sinh vật khác, bởi vậy chúng mới đủ khả năng thích ứng trong môi trường sinh tồn khắc nghiệt thế này.



Trừ phi chúng ta có thể chạy mấy ki lô mét trong thời gian nháy mắt, nếu không thì sẽ vĩnh viễn không thể nào thoát khỏi sự truy kích của chúng. Đương nhiên, tôi nói mấy ki lô mét chỉ là suy đoán, còn phạm vi cảm ứng mùi vị thực sự của chúng có khả năng kéo dài bao xa, thì rất khó nói, đường kính có thể một hai cây số, cũng có thể còn xa hơn.



Có điều, với tốc độ di chuyển như hiện nay của chúng ta, bất luận cự li của nó là bao nhiêu thì xét về mặt lý luận, chúng ta vẫn không thể cắt đuôi được lũ nhện này, đợi khi đuốc cháy hết, thì ngày tận thế của chúng ta cũng tới. Thắng Hương Lân hỏi: “Có cách gì tiêu hủy hoặc tạo mùi giả được không?” Nhị Học Sinh bất lực lắc đầu: “Độ cảm ứng của côn trùng nhạy cảm hơn con người gấp trăm ngàn lần, làm sao mà thoát được?” Tư Mã Khôi vừa nhìn pho tượng ngọc dựng ở đầu hốc cây, ngẫm thấy lời của Nhị Học Sinh chắc không phải là giả, tượng ngọc mà người Sở quốc để lại dưới m Hải Cốc hoàn toàn tương ứng với tuyến đường được đánh dấu trên bản đồ.



Pho tượng ngọc trấn ma có dạng đầu chim mình người này, ngoại trừ hàm chứa ý nghĩa thần bí khó lòng giải thích nào đó, thì trong ruột tượng khả năng còn cất giữ một loại dược thạch đặc trị, có công dụng xua đuổi bọn nhện chân quỷ, khiến chúng không phá hoại con đường bí mật này, nhưng trải qua hơn hai ngàn năm, mùi khí của dược thạch đã sớm tiêu tan, tượng ngọc cũng lưu lạc trở thành huyệt động cho lũ hoàn long trú ngụ.



Chiều sâu của hốc cây chỉ tầm mấy mét, sau khi đi xuyên qua, vẫn không thể chạy thoát khỏi sự vây bắt của lũ nhện. Mạng lưới đầm trạch khó lòng vượt qua, cũng không phải là chướng ngại đối với chúng, trong khi số lượng súng đạn và đuốc mà năm người mang theo cũng chỉ có hạn, tất có lúc sẽ dùng hết.



Lúc này, Hải ngọng thấy đám lửa cháy sau lưng đang càng lúc càng yếu dần, anh liền nhắc Tư Mã Khôi mau mau di chuyển đi chỗ khác. Thắng Hương Lân giơ đuốc soi về phía trước, cô hoảng hồn nhìn thấy ở đầu hốc cây có một bóng đen đang bò với tốc độ khiếp đảm, chỉ là do sợ ánh sáng nên nó chưa dám tiếp cận mà thôi.




Mọi người biết chỉ cần rời khỏi không gian chật chội trong hốc cây, là sẽ lập tức bị bọn nhện chân quỷ bao vây, nhưng cũng không thể hi vọng đuốc phát huy công dụng mãi được, bởi đợi khi bọn chúng đã quen với ánh lửa, thì bất cứ lúc nào cũng có khả năng nhào tới xé từng người thành mảnh vụn; vậy nên trước mắt chỉ nghĩ ra được con đường là leo lên ngọn cây cổ đại.



Tư Mã Khôi sờ trên đỉnh đầu, thấy có giọt nước rớt xuống, anh dẫn bốn người còn lại, chui ra khỏi thân cây từ khe nứt nhỏ, tiếp tục trèo lên cao. Cây cổ đại này cao gần trăm mét, tán lá chồng chất tầng tầng lớp lớp, đan cài vào nhau như tấm lưới, độ chênh lệch nhấp nhô khá rõ rệt, cành nhỏ nhất chỉ khoảng vài cen ti mét, trong khi cành to có khi phải bằng cột nhà, bề mặt phủ đầy rêu xanh và nấm gỗ, khi bước đi trên đó, có cảm giác gỗ mục dưới chân đang rung rinh chực gãy, đi một bước, trơn một bước, lúc nào cũng như sắp ngã xuống đất.



Nơi cao lại có cỏ nước ngầm thấm từ đỉnh động xuống, khiến không khí càng ẩm ướt nặng nề; ánh lửa cũng trở nên yếu ớt hơn, nhìn xuống phía dưới tối om như đêm ba mươi, sương rừng kéo đến cuồn cuộn. Tuy Tư Mã Khôi là người gan dạ, thân thủ cao cường, nhưng lúc này vẫn cảm thấy chóng hết cả mặt.



Anh biết rõ, nếu trượt chân rơi xuống thì chỉ còn nước chết. Cái cây này trơn nhớp, cành lá lằng nhằng, rêu mọc dày sâu, rậm rịt, nên leo lên thậm chí còn nguy hiểm hơn cả vượt đường núi. Lúc này, hội anh lại chỉ có phương hướng đại khái, không có gì chỉ đường chính xác, không dùng dao săn phát quang thì nửa bước cũng khó tiến, nhưng điều đó lại khiến bọn nhện chân quỷ bò dọc thân cây cũng không thể tiếp cận mọi người.



Tất cả lũ nhện đang treo mình vắt vẻo ở tầng tán thấp, vẫn không chịu bỏ cuộc. Mọi người bây giờ đã ở trong tình cảnh “đói không kén ăn, hoảng không kén đường”, nên tất cả chỉ cắm đầu mạo hiểm tiến từng bước gian nan, nhưng một mặt vẫn phải đề phòng lũ nhện chân quỷ chui ra từ khe nứt bất cứ lúc nào.



Bản đồ của đội thám hiểm Taninth lấy tuyến đường xuyên qua m Hải Cốc làm trung tâm, mà hòn đảo cổ đại này vốn nằm dưới Biển Âm Dụ, từ khi địa tầng dãy Thần Nông Giá đội lên, thì hòn đảo này không còn tồn tại nữa, khi đó hệ thống biển hồ ở đây chi chít như bàn cờ, rừng rậm um tùm, là nơi cư ngụ của không biết bao loài sinh vật cổ đại.



Hàng ngàn tỉ năm đã trải qua chìm nổi, địa hình của nó vẫn duy trì diện mạo ban đầu, nhưng phần lớn khu vực ngoài tuyến đường trên bản đồ, từ cổ chí kim vẫn chưa hề được thám trắc thực tế, bởi vậy không ai có thể dự tính được bước tiếp theo họ sẽ gặp phải thứ gì.



Mọi người trèo lên cao trong tâm trạng căng thẳng lo sợ, cảm giác ấy khiến thể lực cả hội bị tiêu hao rất nhanh chóng, nên chẳng bao lâu, ai nấy đều cảm thấy hai chân mềm nhũn, tê dại, dần dần không thể chống đỡ thêm được nữa. Cả hội buộc phải dừng lại nghỉ. Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đuốc tìm đường, thấy tán cây cổ đại này rủ xuống, cây rừng xung quanh rậm rịt ngang dọc, dây leo chằng chịt, nấm gỗ phân bố khắp rừng với đủ hình thù kì dị, ở nơi sâu giăng mắc màn sương dày nặng, âm u, phía dưới không rõ là khí mục rữa của thứ gì mà cứ xộc thẳng vào tận não.



Anh ngờ rằng, chỗ này lành ít dữ nhiều, không nên mạo hiểm dừng lại, thế là, Tư Mã Khôi liền bảo mọi người cố cắn răng kiên trì đi tiếp, đợi khi tìm thấy nơi nào ổn thỏa hãy tính. Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh đã mệt rũ cả người, đi trên cành cây mà lảo đảo như say rượu, anh liền dịch người lại gàn giúp sức.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 137: Hồi 8 vành đai 30° vĩ bắc


Tư Mã Khôi cứ nghĩ mình nghe nhầm, anh ngạc nhiên liếc mắt thầm đánh giá Nhị Học Sinh. Chiếc hộp Pandora bắt nguồn từ thần thoại Hi Lạp, đại ý ám chỉ “loài người quá hiếu kì, không kiềm chế được đã mở chiếc hộp mà các vị thần để lại, kết quả đã vô tình phóng thích vô số thứ tà ác ở bên trong”. Chính vì vậy, người phương Tây dùng nó để ẩn dụ những bí mật bị nguyền rủa, còn ký hiệu được đánh dấu trong bản đồ, thì chẳng qua chỉ là tên gọi thay thế nào đó mà đội thám hiểm Taninth đã đặt cho mục tiêu. Theo những gì Tư Mã Khôi biết thì chiếc hộp Pandora không chỉ là huyệt động nằm dưới rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ, mà còn là núi Âm Sơn mà Sở U Vương nhốt giữ ma quỷ thời Xuân Thu Chiến Quốc. Các ghi chép trên Sơn Hải Đồ cho thấy, trong huyệt động dưới lòng đất này còn ẩn giấu một bí mật kinh người nào đó, tìm thấy nó cũng có nghĩa là tìm thấy lời giải đáp cuối cùng của cả chuỗi ẩn số. Bởi vậy, việc tìm kiếm chiếc hộp Pandora rất phù hợp với chuyến hành động này của hội Tư Mã Khôi, nhưng Nhị Học Sinh chẳng qua chỉ là anh chàng thanh niên trí thức bị đẩy vào lâm trường Thần Nông Giá cải tạo lao động, thì làm sao biết được thứ cất giữ bên trong chiếc hộp Pandora là gì?



Nhị Học Sinh có vẻ hơi kích động, cậu ta thở hồng hộc nói với hội Tư Mã Khôi: “Chiếc hộp Pandora nhất định có liên quan đến ẩn số 30° vĩ Bắc…”. Trước đây, cậu ta từng đọc mấy cuốn sách về địa lý ở thư viện, nên biết vành đai 30° vĩ Bắc được gọi là đường quỹ đạo thần bí nhất trên thế giới. Phạm vi chênh lệch trong vòng 5° bao quanh 30° vĩ Bắc thường xuyên xảy ra những hiện tượng quái lạ, ở đó tồn tại rất nhiều kì quan địa hình địa mạo: từ đỉnh Chomolungma – đỉnh núi cao nhất so với mặt nước biển, đến rãnh đại dương Mariana, rồi tam giác quỷ Bermuda với hố xoáy tử thần, dãy núi Thần Nông Giá, khe Hắc Trúc v.v… Vĩ độ này cũng là khu vực động đất xảy ra tập trung và liên tục nhất, là khu vực máy bay, tàu thuyền bị mất tích nhiều nhất, ngoài ra còn có rất nhiều di tích lịch sử kì bí, huyền thoại. Tất cả những chuyện lạ này chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay là định mệnh đến từ cõi u minh? Dường như trong vĩ độ này, thấp thoáng ẩn hiện một thế lực vô hình, nhưng vô cùng thần bí và mạnh mẽ nào đó. Trên thế giới có biết bao nhà thần học, nhà triết học, nhà khoa học, nhưng chưa một ai có thể giải đáp triệt để câu đố về 30° vĩ Bắc, tuy họ đã đưa ra vô số giả thiết nhưng giả thiết đâu phải là chân tướng hiện thực.



Tuy Nhị Học Sinh mới chỉ đi theo hội Tư Mã Khôi một thời gian, nhưng cậu ta đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng, những gì mình gặp dọc đường sẽ là những điều kì lạ nhất trong cuộc đời. Vĩ độ thần bí như một câu đố này tuy tồn tại rất nhiều điều kì quái và được nhiều người quan tâm, nhưng khi liệt kê danh sách các địa danh thần bí trong vĩ độ, người ta không hề nêu tên huyệt động dưới lòng đất ở Thần Nông Giá, điều đó chứng tỏ, nơi này chính là tọa độ bị thất lạc trên vành đai 30° vĩ Bắc, và nhất định trong lòng nó còn chứa đựng vô số bí mật mà người đời chưa ai từng biết đến. Cậu ta cứ đinh ninh, hội Tư Mã Khôi đến Thần Nông Giá là để tìm kiếm lời giải cho loạt ẩn số 30° vĩ Bắc, và nếu quả thực là vậy, thì những người phát hiện nhất định sẽ mãi mãi lưu tên trong sử sách, rạng danh với tô tông. Nếu được như vậy thì dẫu có phải thịt nát xương tan, cậu ta cũng thấy đáng, còn hơn là phải im hơi lặng tiếng đốn gỗ cả đời trong lâm trường, Nhị Học Sinh thà chọn lựa con đường mạo hiểm, quyết cùng Tư Mã Khôi làm việc lớn, cam tâm dẫu chết cũng không quay đầu.



Thắng Hương Lân cảm thấy lời của Nhị Học Sinh cũng khá có lý. Đại Thần Nông Giá đúng là nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc thường xảy ra nhiều sự kiện lạ lùng, ỏ đây có quá nhiều nhân tố đã biết và chưa biết, vì vậy mọi người cần chuẩn bị tốt tâm lý để đón nhận mọi việc.



Trước đây, khi Tư Mã Khôi còn ở Miến Điện, anh từng nghe vô tuyến truyền phát một dòng tin: Theo thống kê của Mỹ, trong tổng sổ tàu ngầm quân Mỹ đi xuyên qua vành đai 30° vĩ Bắc thời kì chiến tranh thế giới thứ hai, cứ năm chiếc tàu lại có hai chiếc bị mất tích do nhân tố phi chiến tranh, nguyên nhân cụ thể không ai nắm rõ, cũng không có người nào sống sót trở về để kể lại với thế giới những cảnh ngộ mà họ đã gặp phải, số liệu và tin đồn khiến người ta rùng rợn vẫn còn rất nhiều, có điều phạm vi 30° vĩ Bắc quá rộng lớn, bây giờ không thể dự đoán trước sẽ phát hiện thấy gì trong chiếc hộp Pandora. Anh bảo Nhị Học Sinh đừng đoán mò nữa, mà mau bám sát đội ngũ tiến về phía trước, bởi bây giờ cố gắng sống sót thoát khỏi đây mới là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu, chứ con người đã thổi đèn, tắt nến thì lưu danh sử sách liệu còn tác dụng gì nữa? Đang nói, bỗng nhiên anh phát hiện ở nơi sâu giữa các khe trên hàng rào cây cổ thụ bỗng lóe lên một luồng sáng trắng rất chói mắt. Đó là quầng sáng vô cùng kì dị. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư




Tư Mã Khôi không biêt ánh sáng ấy bắt nguồn từ đâu, nhưng nó âm u, trắng bệch, không giống với ánh lửa. Anh lập tức ấn lưng Nhị Học Sinh cúi xuống thấp, đồng thời nhắc nhở hội Hải ngọng chú ý.



Mọi người thấy có biến, người nào cũng giương súng đợi địch, nhưng chưa kịp ngắm chuẩn, thì quầng sáng bập bùng bất định như ánh lửa ma trơi đó đã bay đến trước mặt. Trong vầng quang sương là một loài côn trùng có cánh nguyên thủy, trông nó hao hao giống chuồn chuồn, thân dài và mảnh, gần như trong suốt, cánh trước lớn, cánh sau nhỏ, kéo theo ba cái tua đuôi hình sợi tơ, từ đôi mắt kép trên đỉnh đầu đến phần cuối tua đuôi chỉ dài khoảng nửa gang tay, nó lặng lẽ liệng qua người hội Tư Mã Khôi.



Lúc này, xung quanh đã xuất hiện vô số vầng quang sương, nó bay qua bay lại, xuyên giữa kẽ cây, tất cả đều im lìm như những tinh linh. Cả hội chưa bao giờ nhìn thấy loài chuồn chuồn cổ đại nào to như thế, vả lại số lượng lại nhiều vô kể, mọi người đều bất giác im lặng, chăm chú ngắm nhìn, tay vẫn nắm chặt cò súng, không dám nới lỏng.



Tư Mã Khôi quan sát giây lát, rồi nói: “Đừng lo, đây chỉ là phù du rừng phát sáng nguyên thủy nhất, chúng không cần ăn uống, sớm nở tối tàn.”



Cao Tư Dương chưa hiểu, hỏi lại: “Sớm nở tối tàn… là ý gì?”



Tư Mã Khôi nói: “Trên đời vốn có ngũ trùng, lần lượt là “luy, lân, mao, vũ, côn”, “luy” là loài người, “lân” là loài cá, “mao” là loài thú, “vũ” là loài chim và “côn” nghĩa là côn trùng. Phù du là sinh vật cổ đại nhất thuộc nhóm côn trùng, từ lúc sinh ra cho đến khi chết chỉ có vài giờ đồng hồ, chúng căn bản không hề hay biết trong cõi trời đất còn có biến hóa ngày đêm, bốn mùa, cũng không cần nạp năng lượng để duy trì sự sống. Có câu: “Cá bơi vui dưới nước, chim líu lo trên trời”, mỗi sinh vật tồn tại trên đời đều có mục đích sống của riêng mình, còn không biết trong sinh mệnh ngắn ngủi của mình, phù du theo đuổi thứ gì?”



Cao Tư Dương nghe xong, lòng bỗng nhiên cảm thấy buồn bã, cô ngước mắt nhìn vầng quang sương thoắt ẩn thoát hiện trong bóng tối và buông tiếng thở dài.



Tư Mã Khôi khuyên nhủ: “Cô không cần thương thay khóc mướn cho bọn phù du làm gì. Nếu chúng ta còn muốn sống lâu hơn chúng một chút, thì phải cố gắng mau chóng vượt qua quần thể thực vật tiền sử này”. Nói xong, anh phát dây leo tìm đường.



Cao Tư Dương gọi Tư Mã Khôi: “Tôi thấy cơ thể Hương Lân gầy guộc, khí sắc cũng không tốt lắm. Nhị Học Sinh lúc trước cũng bị thương, không biết có ảnh hưởng đến phủ tạng không, lưng lại cõng thuốc súng, lửa đuốc. Anh ấy cũng đã kiên trì đi bộ trong nơi nguy hiểm này khá lâu rồi, tinh thần và thể lực cũng đến cực hạn, chỗ này tuy không thể so với đất bằng, nhưng nếu không dừng chân, tôi e sẽ xảy ra chuyện mất, huống hồ ở đây tán cây rậm rạp, nhện chân quỷ cũng không đến được, cũng khá tốt để chúng ta ẩn nấp. Anh xem có thể để cả hội dừng lại nghỉ ngơi chốc lát được không?”




Tư Mã Khôi kiên quyết: “Không được! Phù du là sinh vật chết sớm, trông thấy nó là điềm gở, trước khi trở lại tuyến đường đánh dấu trên bản đồ, không ai được phép dừng chân”.



Hải ngọng cũng cảm thấy chỗ này âm khí nặng nề, tuyệt đối không nên nấn ná lâu. Những nơi có phù du tụ tập ở Miến Điện hay Campuchia, phần lớn là ao hồ, đầm trạch; những nơi đó cũng thường xuyên xuất hiện mãng xà khổng lồ, dưới nước thậm chí còn xuất hiện cá hô, những con cá hô có khi phải nặng đến bốn năm trăm ki lô gam, nghe nói, nó có thể một hơi nuốt chửng đứa trẻ bảy tám tuổi. Nhưng dưới nước làm gì có nhiều thức ăn đến thế để phục vụ cho cái dạ dày của nó? Nó đành phải bắt vô số phù du lót dạ, bởi vậy thân hình chúng mới phát triển to lớn dường vậy, phù du rừng tuy không sống ở những khu vực có nước, nhưng thân hình lại to hơn phù du nước rất nhiều, nên cũng rất khó đoán dưới lòng đất có thứ gì chuyên ăn xác bọn chúng không.



Cao Tư Dương không tán thành với luận điệu mê tín kiểu điềm này điềm kia của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, cô cũng biết hai người này rất ăn rơ với nhau, chuyên nghĩ ra những ý tưởng điên rồ, chỉ thích loan tin bóng gió, không đủ sức thuyết phục người khác, nhưng Cao Tư Dương lúc này đang trong tình trạng một con gà khó cất tiếng gáy, nên cô đành ấm ức tiếp tục cuộc hành trình vào rừng sâu cùng cả hội. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư



Lúc này đã có hàng trăm hàng ngàn con phù du, chúng bay lượn qua các kẽ cây nơi mọi người đứng, thỉnh thoảng một quầng sáng rực bỗng trở nên mờ tối, xác phù du rơi lả tả trên cành lá khô mục, rất nhanh sau đó trải thành một lớp thảm trên đất.



Tư Mã Khôi vừa trông thấy phù du đã có dự cảm không lành, anh bảo Thắng Hương Lân lấy la bàn hiệu chỉnh phương vị, giơ cao đuốc soi về phía trước tìm đường.



Cao Tư Dương nghĩ, phù du xung quanh không thể trở thành sự uy hiếp cho cả hội, cô không hiểu vì lẽ gì mà Tư Mã Khôi lại lo lắng đến thế.



Thắng Hương Lân giải thích với cô: “Khi nãy, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nói rất đúng, phù du nguyên thủy sớm nở tối tàn, thuộc tầng thấp nhất của chuỗi sinh vật, có trời mới biết sau khi chết đi, xác chúng để lại sẽ dẫn dụ con vật nào đến ăn thịt”.



Bấy giờ Cao Tư Dương mới hiểu thì ra là vậy. Lúc này, dưới chân mọi người bỗng nhiên rung chuyển rùng rùng, lớp rêu và nấm phủ dày trên bề mặt gỗ mục vừa trơn vừa ướt. Cô đứng không vững, định nhoài người vịn một nhành dây leo để giữ thăng bằng, nào ngờ sợi dây leo đó lại mủn như mùn, bị Cao Tư Dương níu một cái là đứt luôn xuống.



Thắng Hương Lân trông thấy vậy, cuống quýt đưa tay ra cứu. Tuy tốc độ phản ứng nhanh, nhưng sức cô không đủ, kết quả không những chẳng thể kéo được Cao Tư Dương trở lại, mà bản thân cô cũng theo đà rơi xuống nơi sâu trong kẽ cây.




Tư Mã Khôi và Hải ngọng cùng hét lên thất thanh: “Chết rồi!”, cả hai cúi rạp người xuống nhìn. Nhờ ánh sáng phát ra từ bầy phù du, có thể thấy Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi trúng và làm gãy hai tầng cành khô, rồi được níu lại bởi mây sợi dây leo kết bện vào



nhau, treo lơ lửng giữa không trung cách chỗ mọi người đang đứng tầm hơn mười mét. May nhờ lớp rong rêu sâu dày, nên không ai bị bong gân, trật khớp. Hai người vã mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch như trống trận, định giãy giụa đứng lên, leo về chỗ cũ, nhưng ngặt nỗi chân không tới đất, cật không tới trời, chỉ cần khẽ động đậy là sợi dây leo đã lắc la lắc lư, phát ra âm thanh “rắc rắc” như thể sắp đứt. Tình hình bây giờ nguy hiểm chẳng khác nào ngàn cân treo sợi tóc.



Nhị Học Sinh còn hoảng loạn hơn, thêm vào đó đường đi vừa hiểm trở vừa trơn ướt, nên cậu ta cũng không biết làm cách nào để cứu người. Cậu ta liền quăng sợi dây thừng xuống, nhưng cành lá ngang dọc chằng chịt, dây thừng bị mắc vào một cành nhánh chìa ra, trong lúc hấp tấp, cậu ta không sao giật lại được.



Tư Mã Khôi thấy vậy, liền đưa đuốc cho Nhị Học Sinh cầm, rồi bảo anh chàng và Hải ngọng đứng trên tiếp ứng, còn mình đeo súng bắn đạn hoa cải, rồi chúc đầu leo xuống thân cây thẳng đứng nhờ vào thân thủ nhanh nhẹn. Anh bóc lớp nấm gỗ cạnh người, tiếp cận sợi dây leo, ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đừng động đậy, tránh để dây đứt, rồi ngẩng đầu huýt sáo gọi Hải ngọng mau thả dây thừng xuống.



Hải ngọng và Tư Mã Khôi là bạn nối khố lâu năm, không cần nói nhiều cũng biết đối phương cần gì, ngặt nỗi sợi dây thừng đã vướng vào các nhánh cây. Anh không dám giật bạt mạng, mà nếu cắt đôi sợi dây ra thì chiều dài lại không đủ. Hải ngọng cuống đến nỗi mồ hôi trán vã ra đầm đìa.



Tư Mã Khôi đang định giục Hải ngọng, thì từ nơi sâu trong lùm cây lại rung rung lên từng hồi. Anh cúi đầu xuống xem, cảm thấy từng sợi tóc trên đầu mình dường như đều dựng ngược cả lên, có vật thể gì đó vô cùng to lớn, màu sắc hòa cùng màu lá khô, đang thò người nhảy ra, cái đầu ba sừng vừa dẹt vừa bằng, hai mắt tròn đục, lồi hẳn ra ngoài, to như đèn pha ô tô, nhưng trắng xám, không phát sáng. Trông hình dáng nó hơi giống cóc, hai chi trước mọc giác hút, chống chân giữa đám gỗ mục, nhảy cóc từng bước, cái miệng há rộng ngoác như chậu máu không ngừng phun sương nhả khí, bất kể xác phù du rơi trên mặt đất hay những con còn sống đang bay lượn giữa không trung, thậm chí là những con nhện chân quỷ chui ra từ khe gỗ, đều nhất loạt bị cái lưỡi dài của nó cuốn cả vào bụng.



Tư Mã Khôi thấy trên lưng nó có nhựa mủ, anh phỏng đoán có lẽ đây là con thụ thiềm, tức một loại cóc khổng lồ chuyên sống trong các hốc cây, nhựa của nó là chất bài tiết của cơ thể, mang độc tố cực mạnh, có mùi hôi thối xộc tận não, tanh không thể ngửi nổi, mà chỉ những loài động vật lưỡng cư như cóc mới có. Theo thuyết tướng vật, những con cóc dài gần hai gang tay được gọi là thiềm vương, thế mà con này đâu phải chỉ hai gang tay, nó còn dài gấp mấy ấy chứ; bụi cây rậm rạp căn bản không thể cản được bước tiến của nó, còn tục truyền: “thiềm vương có nhựa, chuyên khắc chế ngũ trùng”, xem ra lời đồn này không phải là giả. Càng răng của nhện chân quỷ không chỉ mất tác dụng với cóc cây, mà ngược lại con nhện còn bị dính độc nhựa cóc lăn ra chết; thụ thiềm chỉ chờ có thế là cuốn con mồi vào trong cái bụng không đáy của nó, những con chưa chết sợ hãi, liền tháo chạy tứ tán.



Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy con thụ thiềm đang nhảy trên gỗ mục về phía mình, thì nghĩ không khéo nó chẳng cần đến gần mấy sợi dây leo này, chỉ dùng cái lưỡi cuốn một cái cũng đủ khiến hai cô trôi tuột vào trong bụng. Hai cô định giương súng bắn, nhưng chỉ sợ giãy giụa sẽ làm sợi dây leo già bị đứt hoặc bị nhựa cóc phun vào người, vì nếu lỡ dính thứ mủ nhựa gớm ghiếc kia thì toàn bộ da thịt sẽ bị ăn mòn đến tận xương. Hai người trừng mắt nhìn con thụ thiềm tiến lại gần, họ không còn đường nào tránh né, đành nhắm mắt chờ chết.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 138: Hồi 9: kẻ săn mồi ở tâm trái đất


Lúc này, Tư Mã Khôi ngồi ngay ở cành cây phía trên con thụ thiềm, anh đã thấy rõ nó lợi hại thế nào, nên không dám nổ súng giải vây, chỉ giục Hải ngọng mau chóng thả dây thừng xuống. Hải ngọng cuống cuồng trèo lên cao, định dùng dao chặt nhánh cây làm vướng sợi dây thừng, đồng thời cúi đầu nói vọng xuống: “Sắp xong rồi! Cậu cố gắng kiên trì thêm một phút nữa thôi!” Tư Mã Khôi đỏ mắt, điên tiết hét lại: “Tiên sư Hải ngọng! Cậu đang tất bật cái chết tiệt gì thế hả? Thêm mấy giây nữa thì liệu xuống đây mà lượm xác!” Lúc này, Nhị Học Sinh cũng ép sát người nhìn xuống, thấy tình cảnh của Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân quá sức nguy cấp, anh chàng cùng cuống quýt như kiến bò chảo lửa, bỗng nhiên nhớ ra đa số sinh vật dưới lòng đất đều sợ lửa và ánh sáng, thế là anh chàng định bài cũ áp dụng lại, rút một thanh đuốc trong ba lô ra, ném về phía Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi đưa tay ra đỡ, chà sát đầu bó đuốc vào đế giày thật mạnh, ngọn lửa bùng tên rừng rực. Anh thấy thân hình to lớn của con thụ thiềm đang bò ngay phía dưới mình, liền nắm chắc ngọn đuốc, cắm thẳng xuống. Ai ngờ, con thiềm vương quanh năm ẩn náu dưới lòng đất, khắp thân mình nhầy nhụa toàn mủ nhựa, khí ẩm mốc nặng nề, vì vậy lửa đuốc vừa chạm phải đã tắt rụi, châm lại cũng không bén nổi nữa.



Con thụ thiềm khi nãy còn đang mải nuốt phù du treo mình giữa các dây leo, có lẽ đối với nó, phù du và con người chẳng khác gì nhau, lúc này mới phát hiện, sau lưng có điều khác lạ, nó liền chầm chậm quay đầu lại nhìn Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi không ngờ lửa đuốc lại bị tắt, thấy con thụ thiềm đột nhiên quay đầu lại phía mình, tim anh bất giác ớn lạnh, anh còn chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy cái miệng đỏ lòm lòm của con cóc ngoác rộng hoang hoác.



Con vật này tuy đần độn, chậm chạp, nhưng cái lưỡi quái dị đỏ au au và tanh tưởi của nó thì biến hóa khôn lường, đoạn đầu lưỡi chẻ đôi, gốc lưỡi ở ngay trước miệng, khiến tốc độ đảo ngược vào trong miệng, hay thè ra cuốn con mồi đều nhanh như chớp giật, mắt người căn bản không thể nhìn rõ nó hành động thế nào.



Tư Mã Khôi chỉ thấy vèo một cái, cơn gió tanh tưởi quét qua tai, mấy con phù du cạnh anh đều bị cuốn vào bụng con thụ thiềm. Tư Mã Khôi thấy nó lại bắt đầu há cái miệng quái dị, tim anh thót lên như bị ai bóp chặt, trước mắt chỉ còn cách gắng gượng liều mình đỡ đòn. Anh hít sâu một hơi, giở tuyệt chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, phi thân lao đi nhẹ nhàng hơn cả khỉ, nhờ thân thủ nhanh nhẹn, anh mau chóng ép sát người vòng qua các khe dây leo trên cây cao.



Tuy tốc độ thè lưỡi cuốn con mồi của thụ thiềm cực nhanh, nhưng nó lại không quay người lại được. Cú vồ hụt khi nãy khiến nó vô cùng tức giận, cổ họng phát ra tiếng “cục cục”, nó vừa há rộng miệng nhả sương khí, vừa chầm chậm quay người ra sau truy sát. Con thụ thiềm vừa động đậy thân thể một cái, cả thân cây đã rung chuyển theo.




Tư Mã Khôi cảm thấy gió độc bám riết sau lưng, lại nghe tiếng dây leo, gỗ mục rào rào đứt gãy, nhưng anh đâu dám quay đầu lại nhìn, chỉ hít mạnh một hơi, rồi liên tục di chuyển qua các cành cây khô né tránh. Khi gặp phải những vật cản như dây leo cỡ lớn, cành cây to, anh vẫn lắc người vượt qua một cách uyển chuyển, những người còn lại ở quanh đó đều hồn xiêu phách lạc, mặt mày tái mét, toát mồ hôi hột lo thay cho Tư Mã Khôi.



Chỉ duy Hải ngọng lăn lộn nhiều năm cũng Tư Mã Khôi mới biết chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường” là lấy hai đầu gối vả khuỷu tay làm trọng tâm, người luyện chiêu thức này chí ít phải mất mười năm khổ công, chính vì môn này rất khó học, nên trong hàng ngàn người chưa chắc đã có một người luyện được; nhưng sau khi đã luyện thành công, tuy chưa đạt đến trình độ khinh công én liệng tầng không hay chuồn chuồn chấm nước, thì chuyện vượt rào leo tường đối với họ cũng chỉ là chuyện nhỏ.



Có điều địa thế chỗ này hiểm trở quá, lỡ bị rơi xuống thì đúng là lặn không sủi bọt, Hải ngọng không dám chậm trễ, nhân lúc Tư Mã Khôi nhử con thụ thiểm ra xa, anh liền giật lấy giật để sợi dây thừng mắc kẹt, rồi ném xuống cho Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân đang treo mình lơ lửng trên dây leo và ra sức kéo hai người lên.



Lúc này, Tư Mã Khôi đã tránh được con thụ thiềm, anh vòng qua thân cây, bò sang chỗ khác. Bỗng nhiên anh thấy phía sau yên ắng kì lạ, liền ngoái đầu nhìn lại, thì thấy con thụ thiềm há miệng đảo lưỡi, nhắm thẳng vào hai nguời đang treo lơ lửng giữa không trung, tư thế như định nuốt.



Thân mình con thụ thiềm to lớn, da tựa vỏ cây khô, khẩu súng bắn đạn hoa cải seri M-1887 không thể hạ gục nổi nó, vả lại trên thân mình nó còn có nhựa độc, chỉ cần dính một tí vào người là cũng đủ tiêu đời, còn cái lưỡi dài ngoằng kia mà liếm được, thì hai người chắc chắn sẽ bị nó ăn tươi nuốt sống vào bụng, dễ dàng chẳng khác nào hút con phù du.



Khi nãy, Tư Mã Khôi đã vận hết công lực mới né tránh được con thụ thiềm. Liên tục di chuyển, trốn chạy khiến anh lúc này như súng hết đạn, nhưng khi thấy tình hình Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nguy cấp như đang treo trên sợi chỉ mảnh, thì anh liền vận hết sức bình sinh, hai chân nhảy bật lên cây, uyển chuyển như chim ưng cất cánh bay cao, ôm chặt hai người họ, rồi mượn lực quán tính, lượn vèo về phía trước, chỉ cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp đang ào đến từ phía sau.



Thì ra, lưỡi con thụ thiềm lại tóm hụt con mồi, nó liền bị trượt về phía trước, mấy sợi dây leo không tải được sức nặng của nó, liền đứt đánh phựt, cả thân thể con thụ thiềm đổ dốc ra trước, thấy mình mất trọng tâm, nhưng muốn thối lui cũng không kịp nữa, nên chỉ nghe nó rơi “bụp” một cái xuống đất, rồi mãi hồi lâu mới nghe tiếng vọng nặng nề, âm thanh như thể bóng đái lợn bị vỡ vậy.



Tuy Hải ngọng sức khỏe trâu bò, sợi dây thừng lại vô cùng chắc chắn, nhưng kéo một lúc ba người, lại cộng thêm ba lô, súng ống, còn ba người tựa ba qua chuông đồng hồ rung lắc điên đảo giữa không trung, nên sức nặng này đâu phải chuyện nhỏ! Vì vậy, hai tay anh rách toác, rướm máu, anh nghiến chặt răng nghe “ken két”, rồi vận hết sức mạnh, may nhờ Nhị Học Sinh chạy lại giúp sức mới chật vật kéo được cả hội lên.



Tư Mã Khôi sợ cành cây khô bị gãy, anh liền thò tay túm một sợi dây leo khác buông mình gần đó, nắm chặt lấy để giữ vững trọng tâm. Lúc này, anh mới cảm thấy mồ hôi lạnh đã thấm đẫm lưng áo. Lúc Cao Tư Dương và Thắng Hương Lân rơi xuống mấy sợi dây leo, cả hai đều bị xây xát ngoài da, Cao Tư Dương chưa kịp hoàn hồn đã bắt tay xử lý băng bó vết thương cho mọi người.



Trước đây, Nhị Học Sinh rất thích đọc tiểu thuyêt phiêu lưu mạo hiểm của nhà văn Mỹ Burroughs, khi nãy nhìn Tư Mã Khôi hành động mạo hiểm y như trong truyện, lòng anh chàng đã ngập tràn sự thán phục xen lẫn kinh ngạc, cảm thấy Tư Mã Khôi còn nhanh nhẹn hơn cả người vượn Thái Sơn.



Hải ngọng hỏi: “Sao tôi chưa bao giờ nghe thấy… ở Thái Sơn có hảo hán như vậy nhỉ?” Tư Mã Khôi giải thích, thực ra anh ta chỉ là nhân vật trong tiểu thuyết “Thủy Hử”. Truyện có một hồi kể về tráng sĩ giỏi môn đấu vật, họ Nhậm, tên Nguyên, bình sinh khỏe mạnh vô song, thân cao hơn trượng hai, mắt xếch trợn tròn, từng lập đài đấu võ dưới chân núi Thái Sơn.



Ông ta được mệnh danh là Thái Sơn Nhậm Nguyên, thế mà không ngờ có ngày lại bị Yến Thanh dùng một chưởng hạ đo ván tại chỗ, rồi bị Hắc Toàn Phong Lý Quỳ tiện tay vung luôn một búa chẻ ra làm đôi. Hắc Toàn Phong vẻ ngoài dã man thế thôi chứ đồng chí này sợ Yến Thanh một phép, trình đấu vật của Yến Thanh khiến Lý Quỳ cũng phải ngán, chứ nói gì gã Nhậm Nguyên? Đấy, chuyện chỉ vỏn vẹn có vậy, mà không ngờ mấy đồng chí này nổi danh ở Mỹ như cồn, lại còn có người chuyển thể thành sách và phong cho danh hiệu “người vượn Thái Sơn” nữa.



Nhưng tí ánh sáng lập lòe ở đít đom đóm như đồng chí ấy, thì làm sao sánh được với ánh trăng vằng vặc như tớ đây, so với Hải ngọng còn tạm”. Hải ngọng tưng tửng: “Úi xời! Khi nãy nếu không có tí sức của Hải ngọng tớ đây, thì vầng trăng vàng vặc trên trời nhà cậu đã nát bét mẹ dưới âm ti rồi”.




Nhị Học Sinh tự biết khi nãy mình lỡ miệng. Trước Cách mạng văn hóa, xem trộm tiểu thuyết Mỹ là vấn đề chính trị vô cùng nghiêm trọng, lòng anh chàng hơi hối hận, giờ nghe Tư Mã Khôi và Hải ngọng đôi co vớ vẩn, anh chàng đành ngậm tịt miệng, không ho he tham gia tiếng nào. Lúc này, Thắng Hương Lân nhắc nhở mọi nguôi, cô nói: “Xung quanh đây vô cùng nguy hiểm, bọn nhện chân quỷ tụ tập thành bầy đàn đã đủ khiến chúng ta đau đầu, chẳng ngờ bọn chúng gặp phải thụ thiềm thì không còn tấc đất phản kháng, giãy giụa.



Mấy năm trước, có đội địa chất phát hiện thấy hóa thạch của thụ thiềm vương ở Nội Mông, lúc ấy thế giới mới biết từng có một loài sinh vật đáng sợ nằm ẩn mình trong hốc cây hóa thạch dưóí lòng đất, liền đặt tên cho nó cái tên: ‘kẻ săn mồi ở tâm Trái đất’. Chúng ta đã gặp nó mà vẫn có thể sống sót rời khỏi đây, thì quả thực là vô cùng may mắn.



Nhưng nơi sâu dưới lòng đất có lẽ còn tồn tại nhiều thứ đáng sợ hơn, mọi người phải đồng tâm hiệp lực, mưu cầu sinh tồn, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà ngồi cãi vã với nhau nữa.” Tư Mã Khôi biết điều Thắng Hương Lân nói là sự thực, anh liền ngậm tịt miệng, đợi Cao Tư Dương băng bó vết thương cho Nhị Học Sinh xong, là đứng dậy dò đường.



Lúc Nhị Học Sinh kéo dây thừng cùng Hải ngọng, tay cũng bị rách toạc một miếng, nhưng vết thương không quá sâu. Mắt Tư Mã Khôi rất sắc bén, anh thấy lúc Cao Tư Dương nhìn lòng bàn tay của Nhị Học Sinh thì thần sắc cô có chút hốt hoảng. Tư Mã Khôi thấy rất kì lạ. Cao Tư Dương từng giải phẫu cả thi thể trong học viện quân y, lại rất gan dạ, nên chút vết thương ngoài da của Nhị Học Sinh thì có đáng kể gì, thế mà vì sao cô ấy lại thể hiện nét mặt sợ hãi và tuyệt vọng như vậy? Tư Mã Khôi đứng cạnh quan sát một hồi, nhưng vẫn không phát hiện cánh tay Nhị Học Sinh có điểm gì khác thường, anh liền hỏi Cao Tư Dương xem có chuyện gì? Nhị Học Sinh thấy Cao Tư Dương trầm ngâm không đáp, cậu ta thở dài: “Không sao đâu, tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi… Đây là chứng Khắc Sơn”.



Lúc này, hội Tư Mã Khôi mới nhìn thấy các khớp xương trên ngón tay Nhị Học Sinh đều bị lồi ra, đúng là khác với người bình thường, liền hỏi: “Đó là chứng bệnh gì vậy?” Cao Tư Dương quay người, nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Trong vùng núi này có hai loại bệnh hiểm nghèo nhất, đó là chứng Khắc Sơn và bệnh hoa liễu.



Bệnh này xuất hiện sớm nhất ở huyện Khắc Sơn, tỉnh Hắc Long Giang, bởi vậy người ta đặt cho nó cái tên này, về sau, bệnh này còn được phát hiện ở cả Hồ Nam, Hồ Bắc nữa. Chứng bệnh này khiến các khớp xương người ta bị sưng to, thậm chí còng lưng, hai năm sau sẽ cảm thấy tim đập đuối sức, toàn thân toát mồ hôi, nôn ra mấy ngụm nước vàng, coi như là xong.



Trong đám thanh niên trí thức ở lâm trường cũng có vài người xuất hiện dấu hiệu của bệnh này, về căn bản, chứng bệnh này không có thuốc chữa, đưa tới bệnh viện cũng vô ích, sớm muộn gì cũng chết”. Nửa năm trước, Nhị Học Sinh đã phát hiện mình mắc chứng Khắc Sơn, tuy trong lòng cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, nhưng anh vốn không ôm hi vọng gì về tiền đồ tương lai, còn điều kiện cuộc sống trong lâm trường lại gian khổ khó lòng tưởng tượng.



Việc dân bản địa sống lâu đời ở đây hãnh diện nhất là hút thuốc lá cuốn. Họ ngồi trên gốc cây, vê thuốc, thư thái lấy bật lửa bật “lách cách”, loại bật lửa này hạn chế hơn cách khoan gỗ lấy lửa nhiều, nhưng người nào có thể cả ngày ngồi hút điếu thuốc tự vê, là kẻ đó coi như có số hưởng phúc.



Nhị Học Sinh bi quan cho rằng, khe núi này quả thực quá sức nghèo khổ, nếu phải dìm cả cuộc đời trong cái ổ này, thì chi bằng chết sớm cũng là một cách giải thoát. Nghĩ đến đây, anh cảm thấy bình thản hơn nhiều, bởi vậy không còn sợ sệt cái chết, cũng không định sống sót trở về lâm trường, mà chỉ muốn cùng hội Tư Mã Khôi đi tìm chiếc hộp Pandora, tận mắt nhìn xem rốt cuộc phía dưới 30° vĩ Bắc ẩn giấu những bí mật gì? Mọi người biết việc này, lòng chợt tháy nặng trĩu, nhưng lúc này tất thảy các thành viên đầu đang nằm trong vòng nguy hiểm, nên chẳng ai nói thêm câu gì.



Bọn họ chỉ có kỹ thuật và trang thiết bị cơ bản nhất, còn bắt buộc phải di chuyển nhờ vào bản đồ và la bàn, nên không được phép đi chệch khỏi tuyến đường đã định quá xa. Thế là, mọi người quyết định leo từ cây cổ đại cao trên trăm mét xuống đường. Dưới mật đất, chỗ nào cũng lép nhép nước tù và bùn lầy, đôi lúc lại lóe lên quầng sáng yếu ớt của những con phù du bay vụt qua trước mặt.



Phạm vi hòn đảo cổ bị vùi chôn dưới lòng đất hàng trăm triệu năm thực sự vô cũng rộng lớn, nó phân bố khá nhiều chủng loại thực vật cổ đại đã tuyệt chủng từ rất lâu về trước, địa hình phức tạp, biến đổi đa dạng, quẩn thể thực vật tiền sử đổ rạp xuống, che lấp rất nhiều khe núi và huyệt động.



Những huyệt động ở đây phần lớn đều được hình thành do quá trình nước ngầm không ngừng xâm thực, bào mòn, địa hinh Krast(1), không gian trong huyệt động vô cùng rộng rãi, kết cấu kì dị, tầng tầng lớp lớp, động nọ lồng vào động kia, có cái uốn nếp như đường nước lượn sóng, sâu hun hút, có cái như trụ đá chống trời, thần bí kì ảo, ai lỡ chân rơi xuống đó thì đừng nghĩ đến chuyện trèo lên.




[1] Địa hình Krast: là hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn. Sự xói mòn không phải do cơ chế lực cơ học, mà chủ yếu là do khí cacbon điôxít (CO2) trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương của hyđrô (H+) tạo thành axít cacbonic ăn mòn đá vôi.



Sản phẩm tự nhiên của quá trình phong hóa karst là các hang động với các nhũ đá, mãng đá, sông suối ngầm… Mọi người có liều mạng đến đâu chăng nữa, thì cũng không ai dám đi lại lung tung ở nơi sâu thăm thẳm thế này. Thắng Hương Lân lấy đuốc, soi sáng la bàn để xác định phương hướng, rồi cô dẫn mọi người xuống trước một đoạn sông ngầm nước chảy êm đềm.



Nếu lấy bản đồ của đội thám hiểm Taninth làm vật tham chiếu mà suy đoán, thì chỉ cần vượt qua khu vực bị nước nhấn chìm này, là có thể trở lại tuyến đường dẫn đến chiếc hộp Pandora. Hội Tư Mã Khôi không có phương tiện vượt sông, lại không rõ mức nước nông sâu thế nào, chỉ mắt thấy mặt nước trải rộng mênh mông, xung quanh đó cũng không có đường vòng, nên mọi người đành tự đội ba lô và súng ống đạn dược lên đầu, rồi người nọ bám sát người kia lội sông.



Mọi người lội trong dòng nước ngầm lạnh buốt tận xương tủy chừng mười mét, nơi nông nhất tới đầu gối, nơi sâu nhất cũng chỉ chạm ngực. Cả hội cố gắng vượt sông, rồi tiến vào một hang cốc sâu, mọc đầy nấm gồ và nấm vân chi. Mọi người tìm một hốc cây khô ráo để ẩn trốn, bít chặt cửa hang lại, vun đống lửa hong khô quần áo, Thắng Hương Lân lấy lương khô cho mọi người ăn xong, thì lần lượt gác trực thay cho nhau ngủ.



Mọi việc diễn ra khá yên ổn. Sau khi dậy, cả hội lai tiếp tục cuộc hành trình vào nơi sâu trong hang cốc theo sự chỉ dẫn của bản đồ. Rút kinh nghiệm lần trước, hội Tư Mã Khôi cố gắng lựa chọn tuyến đường an toàn để che giấu tung tích. Hang cốc này từng là đỉnh núi trên hòn đảo cổ đại, rồi hoạt động địa chất và mưa gió xâm thực đã khiến nó biến thành vô số hòn đá cỡ lớn, vừa độc lập vừa liên kết, phân nhánh chồng chất lên nhau, nhấp nhô đan xen .



Nấm gỗ hình ống mọc ở đây còn rậm rạp hơn trong rừng, nước ngầm chảy róc rách bởi rất nhiều thác nước lớn nhỏ đổ từ trên đỉnh vách đá trong lòng núi xuống, tựa dải lụa trắng ngoằn ngoèo, trải dài vô cùng vô tận. Môi trường ẩm ướt và khép kín khiến người ta lơ mơ muốn ngủ.



Sâu trong hang cốc, sương mây vờn quanh quấn quýt, nếu không có bản đồ thì chắc chắn phải chuyển hướng khi lỡ bước chân vào đó. Mọi người cố gắng lên giây cót tinh thần, lấy dao săn mở đường. Dọc đường, Nhị Học Sinh lại hỏi Tư Mã Khôi chuyện khi nãy. Mấy tháng trước, Tư Mã Khôi từng bị bỏng chất độc màu da cam trong rừng rậm Miến Điện, bởi vậy anh hoàn toàn hiểu được suy nghĩ của Nhị Học Sinh.



Anh bảo: “Dầu sao bầu trời này là bầu trời của Xã hội chủ nghĩa, mặt đất này cũng là mặt đất của Xã hội chủ nghĩa, chết ở đâu mà chẳng giống nhau? Nếu chú em quả thật bất cần đời như thế, thì tạm thời tính thêm cho chú em nữa cũng chẳng hề gì, có điều, chú em sống được đến ngày nhìn thấy vật trong chiếc hộp Pandora hay không, bây giờ anh cũng không thể đảm bảo, tất cả còn phải chờ xem con tạo của chú em xoay vần thế nào đã.” Cao Tư Dương chưa hề giảm sự hoài nghi về lại lịch Tư Mã Khôi, thấy anh nói năng lạnh lùng như thể coi mạng người tựa cỏ rác, cô không nhịn được liền nói: “Tư Mã Khôi! Anh đúng là kẻ máu lạnh!” Tư Mã Khôi bỗng nhiên dừng bước, trầm giọng xuống: “Bây giờ không có thời gian để bàn luận ưu điểm của tôi đâu.



Ở đây dường như có thứ gì đó…”. Mọi người nghe vậy, đều đổ dồn mắt nhìn về phía trước, phát hiện trong lùm nấm có hai con rùa đá không đầu nằm vắt ngang, mỗi con nặng tới ngàn cân – nói nó là rùa đá, là vì thấy thể hình tương tự vậy thôi, chứ nó mất đầu nên cả hội cùng không rõ rốt cuộc đó là con vật gì.



Trên lưng rùa không có bia, trần trụi, mọc đầy rêu xanh, khi phạt đám nấm mọc trước mặt, thì thấy một hố sâu hình tròn dựng đứng, chạy thẳng từ lòng núi xuống, có quy mô rộng lớn khiếp người, địa thế cũng vô cùng đặc biệt và quái dị. Duới ánh sáng yếu ớt, cả hội dùng la bàn quan sát đường kính của nó, chí ít cũng phải trăm mét trở lên, bên trong mù mịt sương khí, nên không nhìn rõ tình hình dưới đáy động, còn hình trạng xung quanh rất đỗi ngăn nắp, mỗi gian phòng đều có vô số huyệt động liên thông, giống như tổ yến bám sát nhau trên vách núi vậy, vết đục đẽo chạm khắc trên cửa động vẫn còn thấp thoáng loang lổ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
604,876
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 139: biển âm dụ - hồi 1: chiếc hộp ma


Mọi người đối chiếu bản đồ một hồi, suy đoán, chỗ này chính là chiếc hộp Pandora, nhưng tình hình bên trong thì vẫn chưa ai hình dung được, phải vào trong quan sát mới biết rõ. Tư Mã Khôi bảo mọi người tạm thời nghỉ ngơi chốc lát, sau đó anh nói với Cao Tư Dương: “Từ khu vực gần cây cổ đại trèo ngược lên trên, có lẽ sẽ tìm thấy một đường hầm thông với mặt đất, nếu trong đó chưa xảy ra sụt lở, thì cô và Nhị Học Sinh có lẽ vẫn còn cơ hội trở về.” Nhị Học Sinh nguây nguẩy lắc đầu, thể hiện ý chí kiên quyết theo chân hội Tư Mã Khôi đi đến cùng, chỉ có điều trong tay cậu có mỗi cây gậy gỗ, nên cậu ta cảm thấy không vững dạ lắm.



Hải ngọng khen Nhị Học Sinh: “Chú mày trông lẻo khoẻo vậy mà có chất ra phết, nói cho chú biết, theo anh đảm bảo không thiệt đâu mà sợ. Mà chú cũng đừng coi thường cái gậy gỗ này, trước giải phóng, ở Quan Đông có hội hiệp khách sơn cước, nói trắng ra đó là bọn chuyên đào nhân sâm trên núi.



Hội này thường xuyên chui và những nơi rừng sâu núi thẳm, không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bọn chúng thà không có cuốc xẻng, chứ trong tay kiểu gì cũng phải nắm chắc một cây gậy gỗ. Bọn chúng gọi nó là ‘tố bảo côn’, bên trên tố bảo côn lại treo một đồng tiền cũ, năm tháng càng cát tường càng tốt – ví dụ như năm Khang Hy hay Càn Long lên ngôi, chỉ khi có cây ‘tố bảo côn’ trong tay, thì mọi chuyện tự khắc dữ hóa lành, nạn hóa yên ngay tức thì.” Tư Mã Khôi không rảnh ngồi nghe Hải ngọng khua môi múa mép, anh lại bảo Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh: “Nơi được đánh dấu bởi ký hiệu chiếc hộp Pandora này, rất có thể là một huyệt động nằm rất sâu dưới lòng đất, tôi cũng không biết bên trong tiềm ẩn những hiểm nguy gì, hai người may mắn sống sót trong đội thông tin bọn cô có thể sống đến ngày hôm nay là cũng coi mạng lớn lắm rồi, nhưng mỗi người chỉ có duy nhất một mạng sống, hai người phải tính toán kỹ càng rồi hãy quyết định.” Lòng Cao Tư Dương sớm đã dự tính trước, vị trí đường hầm thông lên mặt đất nằm ở đâu, trong lòng nó có xảy ra sụt lở hay không, tất cả cô đều không biết, nếu không có nhân viên trắc họa chuyên môn như Thắng Hương Lân, thì cho dù trong tay nắm la bàn và bản đồ, cô cũng không thể tìm thấy đường .



Vả lại, dẫu có quay lên được mặt đất, thì họ cũng vẫn phải loanh quanh trong cánh rừng nguyên thủy rộng vô biên bát ngát, nơi đó chim ác thú dữ gì cũng có, ai có thể sống sót thoát ra khỏi đó được? Giờ đây, hi vọng sinh tồn duy nhất chính là cùng hành động với hội Tư Mã Khôi, chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ lẫn nhau, thì cho dù có thật là sa chân xuống vực sâu vạn trượng, cũng không hẳn là không có đường về.



Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương thể hiện rõ lòng quyết tâm, đã đến bước này thì không cần giấu giếm nội tình nữa. Thế là, anh liền kể rõ sự tình cho cô nghe, từ khi anh và Hải ngọng chạy đến Miến Điện tham gia phong trào cách mạng thế giới, sau khi đội du kích tan rã, hội anh chạy trốn vào khe cốc núi Dã Nhân thì gặp Nấm mồ xanh, những người bạn đồng hành xung quanh, kẻ thì tử nạn, người bị hại chết.




Sau khi về nước, để vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh, các anh lại cùng giáo sư Tống Tuyển Nông tham gia vào đội khảo cổ, tiến vào kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào năm xưa, đồng thời dưới cực vực, hội anh đã biết được một số thông tin về tổ chức ngầm liên quốc gia Nấm mồ xanh.



Tổ chức này có tham vọng thâm nhập vào tâm Trái đất để tìm kiếm một bí mật khủng khiếp nào đó. Liên quan đến bí mật này, hàng ngàn năm trước đã tồn tại vô số giả thuyết khác nhau, có thuyết nói nó là miếu thần, có thuyết nói nó là hắc động, lại có thuyết nói nó là một kẻ địch thời cổ đại.



Nó giống như căn nguyên gây ra mọi tai nạn và sự khủng bố. Bất luận ý đồ của Nấm mồ xanh là gì, nhưng suy xét tận gốc rễ thì mọi tai họa này đều do hội Tư Mã Khôi gây nên, mạng sống của hội anh sớm đã bám riết lấy những ẩn số này, ý nghĩa duy nhất để hội anh tiếp tục sinh tồn, chính là đi tìm đáp án cuối cùng.



Lúc này, chiếc hộp Pandora nối liền với những ẩn số đang ở ngay trước mặt, nhưng đây chỉ là sự khởi đầu, bởi con đường phía trước còn đầy rẫy bí ẩn và chết chóc. Tư Mã Khôi kể vắn tắt toàn bộ ngọn nguồn câu chuyện cho hội Cao Tư Dương nghe, nhưng những nội tình có liên quan đến sóng điện u linh trong mật thất thành cổ, tàu ngầm hải quân Liên Xô bị mất tích, chiếc hộp thời gian trong cực vực và Triệu Lão Biệt với hành tung bí ẩn v.



v… thì anh không hề nhắc đến nửa chữ, vì dù sao đi nữa những chuyện này quá sức li kì, cổ quái, sự việc lại liên quan tới nó lại nghiêm trọng, nên anh không muốn dễ dàng để lộ cho người ngoài biết. Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không ngờ sự việc này lại liên lụy sâu sắc như vậy, đối phương có ý giấu giếm thì cũng hợp tình hợp lý, nhưng Cao Tư Dương vẫn không dám cả tin, Nấm mồ xanh và chiếc hộp Pandora thì có liên quan gì đến nhau chứ? Tư Mã Khôi biết việc này không nên quanh co giấu giếm thêm nữa, liền kể cho cô nghe câu chuyện bắt đầu từ trận lũ lụt lịch sử vào thời Hạ, Vũ Vương đào kênh dẫn nước lũ trong lục địa ra Vũ Khư, rồi ném tảng đá mà tộc người Bái Xà coi như thần vật xuống vực sâu nơi tâm Trái đất, hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương.



Người Bái Xà vọng tưởng sẽ đào được tấm bia đá đó, để thoát khỏi số mệnh nô dịch, bị vương triều nhà Hạ sai khiến, bởi vậy trong Vũ Khư mới tồn tại một lượng lớn những ghi chép thần bí và quái dị. Sau khi đội khảo cổ giải mã được long ấn triều Hạ, họ biết được trong động huyệt nơi núi sâu tồn tại một vật gọi là nhật quỹ, vật đó xuất hiện từ thời thị tộc Thần Nông gá gỗ làm ổ.



Tìm thấy nó, họ mới tiến xuống được vực sâu, vì họ biết nhật quỹ có khả năng nằm trong động huyệt dưới Biển Âm Dụ. Người Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc rất sùng tín chuyện cúng bái, ma quỷ, họ cho rằng, huyệt động thông với mạch đất, dưới lòng đất là núi Bội m, chuyên giam giữ ma quỷ.



Chuỗi huyệt động trùng điệp có tường bao quanh này, có lẽ đều được chạm khắc từ thời kì Sở U Vương cai trị. Những chuyện u minh kia tuy rằng khó phân biệt thực hư, nhưng chỉ cần lựa chọn đi vào chiếc hộp Pandora, thì dẫu cho không có âm hồn ác quỷ, cũng chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy khó lường, điểm cuối của sinh mệnh là cái chết, nhưng con đường này lại chưa chắc đã có điểm tận cùng.



Cao Tư Dương không hiểu những chuyện như bia Vũ Vương lắm, lúc này không cần hỏi cũng biết Tư Mã Khôi sẽ tự mình hành động, cô trầm ngâm giây lát, rồi vẫn quyết định theo mọi người thâm nhập lòng đất. Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi không còn đường quay về, huống hồ mạng sống của tôi cũng do anh cứu, vì vậy bất luận con đường phía trước chông gai thế nào, tôi cũng nguyện giúp anh một tay, mong rằng tất cả những gì anh vừa nói đều là sự thật”.




Mọi người thấy Cao Tư Dương đồng ý đi cùng, thì đều cảm thấy vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khôi lập tức bắt tay bố trí mọi việc, dặn dò các thành viên phải tự kiểm tra súng ống đạn dược, những thành viên được phân phát súng liên thanh M-1887 lúc trước mang sáu phát đạn cỡ 12, dọc đường đã sử dụng mất một nửa.



Anh liền lấy đạn dược phòng bị trong ba lô của Nhị Học Sinh ra bổ sung. Khẩu súng săn gấu của Hải ngọng nòng lớn nhưng tốc độ bắn lại chậm, lượng đạn tiêu hao ít, bốn loạt đạn cỡ 8 anh mang theo vẫn còn đủ dùng, có điều, đuốc chỉ còn hai phần ba. Tư Mã Khôi cảm thấy lượng dự trữ tiêu hao quá nhanh, liền bảo Nhị Học Sinh phụ trách gom những thanh đuốc đã cháy hết lại, nếu dọc đường phát hiện vật chất dễ cháy, thì có thể tái sử dụng, đồng thời đưa cho Nhị Học Sinh con dao săn của Thắng Hương Lân để phòng thân.



Thắng Hương Lân kiểm tra trang thiết bị vật tư một lượt, cô có vẻ lo lắng nói với Tư Mã Khôi: “Pin đèn quặng vẫn còn đủ dùng, vả lại thời gian chiếu sáng của đèn quặng lâu hơn đuốc, không những vậy, còn có thể đo được chất lượng không khí. Tôi dự đoán, số cácbua còn lại đủ duy trì chiếu sáng trong hai mươi ngày, chăn giữ ấm chỉ có ba chiếc, nếu thay phiên nhau sử dụng thì vẫn có thể tạm thời đối phó được, những chuyện này đều không thành vấn đề, vấn đề ở chỗ lượng lương thực chúng ta mang đi có hạn, chỉ đủ duy trì mấy ngày nữa thôi”.



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện này không sao, lúc cần thiết có thể hái nấm vân chi ăn tạm cũng được. Phiền phức lớn nhất bây giờ là đi đến chỗ này, thì không sử dụng bản đồ tiếp được nữa…”, nói đoạn, anh bám lấy sợi rễ cây có đường kính tới nửa mét, nhoài người ngó vào trong, bỗng nhiên anh nghe thấy dưới lòng đất vọng lên một âm thanh quái lạ, như thể tiếng rồng gầm gào.



Tư Mã Khôi nghe thấy vậy, toàn thân bỗng nổi da gà, những người còn lại còn đang bận chỉnh đốn súng đạn, khi nghe thấy tiếng ma hờn quỷ khóc, ai nấy ớn lạnh hết cả người. Hải ngọng hít ngược một hơi lạnh: “Tớ thấy tình hình này…. tám phần là ác ma bị giam cầm dưới núi Bội m rồi!” Tư Mã Khôi muốn nghe rõ hơn, nhưng cả không gian lại chìm vào im lặng vô biên.



Anh bất giác nói: “Sao tôi cảm thấy giống tiếng mèo đêm thế nhỉ?” Hải ngọng nói: “Nghe nói tiếng mèo kêu đêm và tiếng quỷ khóc giống nhau lắm! Có điều dưới lòng đất thì khả năng cỏ quỷ vượt xa khả năng có mèo nhiều, huống hồ nghe thấy tiếng mèo kêu đêm cũng không phải điềm báo tốt lành gì.



Nó đang ẩn nấp trong bóng tối để đêm lông mày của con người, đếm xong thì âm hồn sẽ nhào đến đòi mạng…” Tư Mã Khôi nói: “Cậu không dọa mọi người thì ngứa miệng à? Từ giờ trở đi, chúng ta phải kiên trì tuân theo một nguyên tắc, bất kể gặp phải sự việc quái dị nào, cũng tuyệt đối không được lấy cái mình đã biết để luận bàn thứ mình chưa biết, mọi việc phải mắt thấy tay sờ thực tế mới được”.



Thắng Hương Lân nói: “Lịch sử của huyệt động dưới lòng đất này đâu chỉ mấy vạn năm, ngay từ thời mạch núi Thần Nông Giá vẫn chưa đội từ lòng đại dương dậy nó đã tồn tại dưới hòn đảo cổ rồi. Khi ấy, đừng nói đến ma quỷ, ngay cả con người còn chưa có nữa là, bởi vậy truyền thuyết nhốt giữ ma quỷ trong núi Âm Sơn chỉ là tin đồn nhảm, có điều, những sinh vật không rõ nguồn gốc dưới lòng đất nhiều vô kể, hay là chúng ta cứ đốt lửa châm đuốc đi cho an toàn?” Mọi người nghe xong đều gật đầu tán thành.



Hải ngọng nói lái đi cho khỏi tẽn tò, anh bảo: “Nửa đời Hải ngọng tôi đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của toàn nhân loại, điều tôi theo đuổi toàn là chân lý, chuyện tôi đàm luận cũng đều là chủ nghĩa, chết còn không sợ, thì sợ gì ma?”. Nói xong, anh đưa tay nhấp ít nước bọt, quệt lên lông mày, sau đó khoác súng săn lên vai, bật đèn quặng, đi trước dẫn đường.




Tư Mã Khôi thấy vậy, liền bảo Nhị Học Sinh châm đuốc, đứng ở vị trí an toàn nhất phía giữa đội. Huyệt động này vốn dĩ là hang đá trong núi, đường kính khoảng hơn trăm mét, thế chạy hiểm trở, gần như dốc đứng, lỗ huyệt chi chít, trông giống như vách tường ngoài của đấu trường La Mã cổ.



Không những vậy, rễ của những loài thực vật tiền sử vừa dài lại vừa to, đoạn nhỏ nhất cũng phải bằng một vòng ôm, chúng thò ra từ các kẽ đá, dính thành một thể với vách tường động, quấn quanh lùm nấm gỗ mọc gân đó, tạo thành một mạng lưới trải dài miên man. Mọi người giẫm lên những rễ cây mọc xiên, chậm chạp tiến từng bước vào bên trong.



Tư Mã Khôi đi qua cửa động, dùng dao phát bớt đám nấm vân chi che chắn trước mặt, thò người vào trong quan sát. Mấy hang động này không sâu lắm, nhưng dưới lòng đất không có gió, không khí trong động cũng khó lưu thông, bởi vậy mấy bức bích họa cổ màu sắc loang lổ khắc trên vách, tuy vẫn còn có thể nhận diện một cách mờ nhạt, nhưng đa số đều thiếu mắt thiếu mũi, què chân cụt tay, không còn hình hài nguyên vẹn.



Trong động, xương trắng chất chồng, không rõ đó là xương người hay xương thú. Có một bức bích họa khắc trong lỗ huyệt đá vẫn còn bảo tồn được khá toàn diện, nó mô tả cảnh tượng ác quỷ xé thịt người ăn trong sương mù dày đặc, nạn nhân nửa thân dưới vẫn còn nguyên thân máu thịt, nhưng nửa thân trên đa bị gặm trơ xương, màu sắc bức tranh tươi rói, trông y như thật.



Tư Mã Khôi biết mấy bức tranh thời Chiến Quốc này đều lưu giữ rất nhiều thông tin quý giá, nhưng nội dung khủng khiếp, tàn nhẫn, máu me be bét trong bức tranh lại thực sự khiến người ta gai lanh sống lưng. Anh nghi hoặc trong lòng, bất giác nhìn thêm lát nữa, chợt phát hiện trong bưc tranh vẽ một chiếc hộp rất lớn, nắp hộp hé mở, bên trong lộ ra một bộ hài cốt, bốn phía quanh thân hộp chạm khắc hoa văn rồng phục, há miệng nhe răng.



Tim Tư Mã Khôi đập thình thịch, đây liệu có phải là chiếc hộp Pandora không? Những người còn lại cũng dừng chân xem xét bức tranh. Chiếc hộp Pandora là truyền thuyết phương Tây, ngầm ẩn dụ nguy hiểm gây ra do lòng hiếu kì của con người, có lẽ trên đời căn bản không hề tồn tại vật thực, càng không thể xuất hiện trong huyệt động dưới lòng đất được.



Lúc trước, mọi người còn cho rằng đội thám hiểm Taninth đánh dấu ký hiệu này trên bản đồ, chỉ là lấy chiếc hộp Pandora làm cái tên thay thế cho hành động, nhưng không ngờ rằng, trong bức tranh của cổ quốc Sở từ hơn hai ngàn năm trước, lại thực sự tồn tại một chiếc hộp thần bí thế này.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom