Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 100: Hồi bảy: người sắt


Người Liên Xô dùng thiết bị thăm dò vật lý thám trắc, đã thấy hai vật thể bằng sắt nằm dưới lòng cực vực, hình dáng hao hao giống chiếc tai người, tựa hồ đang lặng lẽ lắng nghe những pháp dụ thần minh trong thế giới dưới lòng đất tĩnh lặng này.



Hai vật thể bằng sắt cổ xưa không rõ lai lịch đứng sừng sững trong biển cát sâu 16 ngàn mét như một kỳ tích. Giờ phút này, tuy mọi người đã tận tay chạm vào nó một cách xác thực, nhưng vẫn cảm thấy rất khó lý giải. Bất kỳ vật gì được nhìn dưới góc độ chủ quan đều mang tính trừu tượng, mà trừu tượng có nghĩa là không chân thực, đôi khi con người tận mắt nhìn thấy sự vật, nhưng chưa chắc đã lý giải được ý nghĩa của sự vật đó.



Mọi người đứng sững nhìn khối sắt cao hơn trăm mét một hồi lâu, người nào cũng thất sắc lặng tiếng. Vật thể khổng lồ lạnh lẽo, thô ráp kia, dường như hoàn toàn hòa quyện làm một với bóng tối, khí phách thâm trầm lấn át của nó khiến người ta hồn xiêu phách lạc. Trên bề mặt nó mang rất nhiều vết tích bị nước ăn mòn rõ nét, lớp vỏ ngoài gợn sóng trên bề mặt là tổ hợp của những lằn nứt sâu theo chiều dọc và hõm trũng theo chiều ngang, nhưng vẫn chưa bị han gỉ. Dường như mỗi dấu ấn thời gian mài mòn xâm thực trên nó, đều tồn tại một loại nhân tố thần bí khó lòng giải thích được, bề mặt lồi lõm lỗ chỗ của nó như ngầm ám thị sự trôi chảy của thời gian từ xa xưa của niên đại.



Nếu không tiếp xúc ở cự ly gần và chưa biết dưới lòng đất có đến hai vật thể bằng sắt với thể tích tương đồng, thì chắc hội Tư Mã Khôi đã nghĩ nó là cỗ tàu ngầm Z-615 bị mất tích của hải quân Liên Xô, nhưng khi đã đứng gần quan sát, mới phát hiện nó đúng là quá cổ xưa. Vả lại vật thể bằng sắt khổng lồ này không giống với bất kỳ sản phẩm nào của nền công nghiệp, cũng không phải bom hạt nhân mà Tư Mã Khôi đã dự đoán lúc trước. Nói một cách chính xác, nó đơn thuần chỉ là một khối sắt, có lẽ từ thời khắc nó xuất hiện dưới lòng cực vực đến tận bây giờ, nó vẫn tồn tại ở đó, không hề bị xê dịch, suy suyển.



Hải ngọng nhìn mà cứng lưỡi: “Nếu bảo cái này chính là tàu ngầm Z-615 lắp tên lửa ngầm, thì thể tích cũng hao hao đấy, nhưng sau khi mất tích, làm sao nó lại xuất hiện dưới hoang mạc Lopnor được nhỉ?”




Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Mắt mũi cậu kiểu gì thế hả? Cái này chắc chắn không phải tàu ngầm. Thứ nhất, nước trong cực vực đã cạn khô từ lâu, tàu ngầm không thể tự nhiên mọc ra ở đây được. Mà cậu đã bao giờ nhìn thấy con tàu ngầm nào bị mắc cạn chưa? Vả lại, vật này dường như đã cắm rễ dưới lòng đất rồi, không biết cát lún đã vùi lấp bao nhiêu phần bên dưới nữa, có lẽ từ xưa đến nay, nó chưa hề bị di dời sang chỗ khác.”



Thắng Hương Lân nói: “Chỉ có thiên thạch sắt mới không bị han gỉ, bởi vì nó là tạp chất hỗn hợp của hai nguyên tố sắt và đá, có lẽ đây chính là mảnh vụn còn sót lại sau khi thiên thạch phát nổ và hình thành không động.”



Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe Thắng Hương Lân nhắc đến việc này. Anh biết thiên thạch không phải từ trên trời rơi xuống, mà là mây băng bọc ở phần trong lớp vỏ Trái Đất khi trời đất được hình thành, mật độ cấu tạo chất rất lớn. Nó xuất hiện trong quá trình hình thành không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, có vài phần tương tự với đại kiếp nạn của trời đất được mô tả trong sách địa lý cổ thời tiền Tần. Theo quan điểm cũ, cứ cách mấy vạn mấy vạn năm, trời đất lại luân hồi kiếp số. Đợi khi mệnh cùng số tận, cả thế giới phù phiếm, vạn vật mọi cõi, hai vầng nhật nguyệt, nhất hợp càn khôn đều bị nhào trộn lại thành một thể, còn sương đen xuất hiện trong lòng cực vực chính là thứ còn sót lại sau đại kiếp lần trước. Nhưng dù vắt óc nghĩ mãi, Tư Mã Khôi vẫn khó tưởng tượng được, rốt cục giữa thiên thạch dưới lòng đất và Nấm mồ xanh thì có gì liên quan đến nhau? Nó thậm chí còn không liên quan đến toàn bộ ẩn số mà anh muốn giải đáp.



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi hỏi mọi người: “Hay là có sức mạnh tiềm tàng nào đó ẩn giấu trong khối thiên thạch, mà loài người chưa thăm dò thấy nhỉ? Vì rốt cục khi đội khảo sát liên hợp Liên Trung tiếp xúc với nó vào năm 1958, toàn đội đã gặp nạn và mất tích. Tất cả hai mươi hai thành viên không ai sống sót trở về. Nhưng bây giờ xem thì thấy: ngoại trừ nó to lớn và cổ xưa, thì không có điểm gì dị thường, bản thân vật thể chỉ là khối thiên thạch sắt, có lẽ nó không biết ăn thịt người, trừ phi tự mình đập đầu vào nó, thì đúng là đập chỗ nào thủng liền chỗ đó. ”



Tư Mã Khôi càng ngẫm càng khó lý giải, anh bảo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cùng suy nghĩ để đưa ra ý kiến của mình, mọi người tập trung suy nghĩ biết đâu lại tìm ra manh mối. Bắt đầu xuất phát từ nông trường khai hoang số 34 đến nay, cả chặng đường họ đã trải qua biết bao gian nan, nguy hiểm, hơn nữa, họ còn phải trả giá bằng tính mạng quý báu của các thành viên. Tất cả sự hi sinh ấy, không phải chỉ để tìm kiếm mỗi một khối thiên thạch sắt im lìm nằm kia.



Hải ngọng trợn mắt nhìn hồi lâu, cuối cùng cũng bất lực nói: “Từ khi tớ nghe ông bác giáo sư kể về quá trình khai quật xác ướp người phụ nữ ở Mã Vương Đôi, tớ thấy mình bị kích động cuồn cuộn, sâu thẳm tâm hồn bắt đầu nhen nhóm hạt mầm theo đuổi công tác khảo cổ. Nhưng mãi đến tận hôm nay, tớ mới phát hiện mình không có tố chất đấy. Hải ngọng tớ cho dù có mọc thêm ba cái đầu nữa thì cũng ngẫm không ra hai cục sắt to tổ bố kia, rốt cục dùng để làm gì.”



Đội trưởng Lưu Giang Hà càng không đi nhiều hiểu rộng bằng hội Tư Mã Khôi. Khi nhìn thấy hai khối sắt, ngoại trừ cảm giác chấn động mãnh liệt ra, thì anh chàng đã ôm đầy một bụng thắc mắc, nhưng thậm chí còn không biết bắt đầu hỏi từ đâu.



Bốn người bàn luận một hồi, cho rằng nếu chỉ dựa vào đèn quặng với phạm vi chiếu sáng chưa tới hai mươi mét, thì không thể thăm dò được toàn bộ quy mô khối thiên thạch. Mà phần lớn hình hài của nó còn bị chìm lấp trong bóng tối, hoặc giả ở nơi cao, biết đâu còn tồn tại thứ gì đó khác. Những vết nứt dọc ngang do bị nước biển xâm thực trên thiên thạch cực kỳ nhiều, mọi người chia thành nhiều ngả bò lên trên, xem xét tỉ mỉ mọi bí mật có khả năng ẩn chứa bên trong.



Tư Mã Khôi thân thủ nhanh nhẹn, anh bò lên đỉnh trước tiên, lờ mờ cảm nhận: tuy khối thiên thạch sắt được tạo hóa thiên nhiên đúc thành, nhưng nhìn hình dáng dường như có vết tích đục đẽo của con người. Khi lại gần phần đỉnh, cuối cùng anh đã phát hiện, thì ra đó là một người sắt khổng lồ. Hai hốc mắt của nó là hai hố rỗng đen ngòm, đủ rộng cho người chui lọt, bên trong tối om, trống trải, sâu hút không trông thấy đáy, cũng không biết điểm tận cùng của nó thông tới nơi nào.




Người sắt khổng lồ đứng sừng sững giữa biển chết, với hình thái còn cổ xưa hơn cả cổ xưa, và gương mặt vô cảm ngước nhìn những đổi thay dâu bể. Bởi vì nó trống rỗng nên càng hiện rõ đôi mắt sâu hun hút, cả ngàn vạn năm nay vẫn thủy chung dõi về cõi vĩnh hằng. Vạn vật trên đời theo dòng chảy thời gian đều không ngừng chuyển động, nhưng có lẽ chỉ duy một thứ bất biến chính là sự biến hóa của chính bản thân nó mà thôi.



Mọi người càng lục soát, cảm giác kinh ngạc càng trỗi dậy trong lòng. Ai có thể ngờ dưới lòng đất lại có thể đúc ra một người sắt khổng lồ dường này?



Tư Mã Khôi suy đoán: “Thiên thạch sắt có lẽ vẫn nằm nguyên vị trí cũ từ thời hằng cổ đến nay; tiền nhân sử dụng sáp chua để tiến hành ăn mòn và chia cắt, xem vết tích chí ít cũng phải trải qua hàng ngàn năm rồi.”



Lúc này, ba người còn lại cũng lục tục leo lên đến nơi, chỗ này tựa như đỉnh tháp cao, xuyên thủng tầng mây, gần chạm tới cõi hư không. Tuy trong bóng tối, mọi người không nhìn rõ dưới chân nông sâu thế nào, nhưng nghe tiếng dòng khí đổi lưu chuyển động ầm ù, cũng đủ khiến người ta phải rùng mình ớn lạnh.



Mọi người xách đèn quặng chiếu sáng không gian trong động, lòng động sâu hút khó lường, dường như phần bụng người sắt hoàn toàn trống rỗng, bên trong có thế cất chứa vật gì đó. Mọi người bất giác sinh nghi: “Hay dưới này nhốt yêu quái nhỉ?”



Hải ngọng xách súng thò nửa người xuống ngó, sau đó rụt cổ lại nói với mọi người: “Càng dưới sâu, không gian càng rộng, chẳng nhìn thấy đáy đâu cả.”



Tư Mã Khôi quyết định đon thương độc mã xuống dưới thăm dò. Anh thả đèn xuống trước, rồi đeo máy thở chống độc hình mang cá vào. Thắng Hương Lân chuyền cho anh khẩu súng lục K54 để phòng thân. Tư Mã Khôi cầm lấy súng, rồi cởi bỏ ba lô tụt xuống, chỉ thấy phần đáy là một động sâu hình cái nồi, không có lối ra, ngoại trừ bức tường thiên thạch lạnh lẽo, thì không còn thứ gì khác tồn tại bên trong. Nhưng vừa giơ đèn soi bốn bức tường, anh liền thất kinh, trong chớp mắt, anh cảm thấy mình dường như đang trở về căn mật thất giam giữ sóng điện u hồn dưới chân tòa thành Nhện Vàng, bởi vì chi chít khắp bốn bức tường, khắc toàn long ấn triều Hạ với những hình thù kỳ quái, không thể giải mã.



Tư Mã Khôi định thần nhìn một thoáng, thấy đèn quặng vẫn sáng trắng. Anh bèn giơ tay tháo mũ chụp phòng độc, vẫy gọi hội Hải ngọng cùng xuống dưới. Ba người còn lại xem những văn tự mật khắc đầy vách tường, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời.



Hội Tư Mã Khôi từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói: văn tự cổ nhất trong lịch sử không phải chữ giáp cốt mà chính là long ấn triều Hạ. Nó xuất hiện trước thời Ân Thương, thời Tần Hán. Người ta gọi khu vực Miến Điện ngày nay là vương quốc Diệt Hỏa, và mô tả: “Diệt Hỏa thị tộc mắt như ngọn nến, động tác như rắn, xuất quỷ nhập thần, vượt hắc thủy, sống ở địa cùng, không quen hỏa tính”. Tòa cung điện ở địa cùng này còn cổ xưa hơn cả vương triều Chăm Pa, chủ nhân sớm nhất của nó chính là Diệt Hỏa quốc, cung điện nằm dưới địa cùng được các nhà khảo cổ Pháp lưu trú tại Ấn Độ đặt tên là: “Di vật kỷ Devon”. Nó từng bị nhấn chìm dưới lòng đất bởi lũ lớn; hàng ngàn năm sau, quốc vương Chăm Pa đã xây dựng nó thành tòa thành Nhện Vàng. Bởi thế, ngoại trừ những ký tự thần bí lưu lại trong gian mật thất ra thì Diệt Hỏa quốc không hề để lại bất cứ dấu tích gì cho hậu thế đời sau. Căn cứ vào long ấn triều Hạ chỉ có thể suy đoán: Diệt Hỏa quốc từng là một nhánh của nền văn minh Trung Nguyên.




Giờ đây, mọi người lại phát hiện, trên vách tường trong người sắt nằm giữa biển cát mênh mông dưới lòng đất sâu khắc đầy long ấn triều Hạ, chẳng lẽ nó chính là di chỉ của Diệt Hỏa quốc? Tư Mã Khôi phỏng đoán: “Đây chính là Tây Vực cổ rồi. Có lẽ đây là một thần sông thần biển nào đó mà chúng ta không biết cũng nên…”



Thắng Hương Lân nói: “Chắc không đơn giản thế đâu. Những ghi chép về Diệt Hỏa quốc còn sót lại vô cùng ít ỏi, người sắt dưới cực vực lại càng không ai biết đến, chúng ta chỉ căn cứ vào những manh mối hiện có để đưa ra giả thiết mà thôi. Nền văn minh cổ đại long ấn triều Hạ đã biến mất từ lâu, từng là một mạch phân nhánh, trải qua sự dịch chuyển hàng trăm ngàn năm, cuối cùng phân bố ở Tây Vực và Miến Điện, dường như họ phải lẩn trốn thứ gì đó nên mới cư ngụ dưới lòng đất.”



Tư Mã Khôi phán đoán: “Không chừng chẳng phải lẩn trốn thứ gì, mà khả năng là để bảo vệ một bí mật cổ xưa nào đó, vì không muốn tiết lộ với người đời. Nghe nói, trong mật thất dưới thành cổ Chăm Pa có ẩn giấu một bí mật có liên quan đến thông đạo. Có lẽ tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm con đường này, bởi vì giáo sư Nông địa cầu từng tiết lộ: Nấm mồ xanh là một khu vực ẩn số nằm gần tâm Trái Đất, nó còn sâu hơn cực vực nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ này nhiều, từ trước đến nay chưa có ai đặt chân đến. Điều chúng ta cần biết bây giờ là: con đường đó nằm ở đâu? Nơi tận cùng của nó tồn tại thứ gì? Nắm được những manh mối đó, chúng ta sẽ không khó xác minh bối cảnh và động cơ của tổ chức Nấm mồ xanh. Có điều, long ấn triều Hạ bị thất truyền hàng ngàn năm, dường như là một cơn ác mộng không thể vượt qua. Giờ đây, ngoại trừ kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, thì trên thế giới không còn người thứ hai giải mã được bí mật ẩn chứa bên trong.”



Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi: “Cứ theo phân tích của cậu thì đúng là tà mị quá mất! Nếu người sắt tồn tại trong biển cát dưới lòng đất hoàn toàn không có chút ý nghĩa nào đối với đội khảo cổ chúng ta, thì hà cớ gì gã Điền Khắc Cường phải bất chấp mọi giá để ngăn cản hành động thăm dò kính Lopnor, chẳng lẽ gã ăn no rửng mỡ, nhàn cư vi bất thiện chắc?”



Đương nhiên Tư Mã Khôi cũng từng nghĩ đến điểm này, nhưng khối thiên thạch sắt sừng sững đứng giữa biển cát im lìm kia, ngoại trừ để lại những ký tự thần bí giống như câu đố trên vách tường, thì dường như không hề chứa đựng bất kỳ bí mật nào đáng nói cả.



Lúc này, Thắng Hương Lân dường như đột nhiên phát hiện thấy điều gì. Cô nhanh chóng leo lên cửa động, nhìn chằm chằm vào bóng tối mênh mông, thăm thẳm bên ngoài.



Hội Tư Mã Khôi cũng chạy ra theo, nhưng chỉ thấy bốn phía tối thui, thực không biết có gì đáng nhìn, bèn hỏi Thắng Hương Lân: “Cô đang nhìn gì vậy?”



Thắng Hương Lân nói: “Nơi này trước đây từng là vực sâu giống như hắc động, có sóng nước vỗ bờ dữ dội, ngay cả bầy cá voi cũng dễ bị lạc, không tìm thấy đường về; còn khối thiên thạch thò lên mặt biển kia, đứng sừng sững tựa ngọn hải đăng, hàng ngàn vạn năm nay, nó vẫn cứ đứng yên bất động như thế, có lẽ nó chính là cột mốc mà cổ nhân dùng để làm hoa tiêu cho thuyền xác định phương hướng dưới lòng đất”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 101: Hồi tám: kalabulan


Tư Mã Khôi ngẩn người trong chốc lát, rồi chợt hiểu ra: “Người sắt tồn tại giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất, đứng sừng sững ở đây không biết mấy vạn tỉ năm. Nếu nói: ‘thời gian trôi nhanh, như bóng câu(1) lướt qua cửa sổ’ thì cũng không đủ hình dung cho sự trôi chảy của thời gian ở đây. Nó là tọa độ cố định của tạo hóa, đúng là vừa có thể dùng để giúp tàu thuyền định vị phương hướng dưới vực sâu u tối này.”



[1] Bóng câu: có thể hiểu là bóng của con ngựa. Ví thời gian trôi đi nhanh như ngựa phi.



Hải ngọng bội phần thán phục nói với Thắng Hương Lân: “Hình như đúng là thế thật, có điều ngay cả chuyên gia khảo cổ lỗi lạc như tôi đây mà còn không nhìn ra đầu cua tai nheo gì cả, làm sao cô lại phát hiện được nhỉ?” Thắng Hương Lân nói: “Từ hơn hai ngàn năm trước, liên quân Hy Lạp viễn chinh Ba Tư từng xây một ngọn hải đăng khổng lồ màu trắng bên bờ sông Nin. Tôi thấy tượng người sắt này từ xưa đã đứng sừng sững trong nước to sóng dữ, rất giống với ngọn hải đăng. Ngoại trừ điều đó ra, nó còn có thể có tác dụng gì được nữa chứ? Bởi vậy tôi mới suy đoán đây là hoa tiêu cổ, mà cổ nhân hàng ngàn năm trước đã để lại dưới lòng đất.”



Tư Mã Khôi nói: “Nếu người sắt quả thật là tọa độ định hướng đường biển, thì cực vực dưới lòng đất không biết còn sâu bao nhiêu nữa. Pin và lương thực chúng ta mang theo chỉ có hạn, bắt đầu từ bây giờ phải dùng tiết kiệm hơn mới được, ngoài ra còn phải suy xét cẩn thận kế hoạch hành động cho các bước tiếp theo.”




Mọi người lập tức chụm đầu thảo luận: thiên thạch sắt chìm lún hàng vạn mét dưới lòng đất, rất có khả năng có công dụng làm hoa tiêu; trong lòng nó còn tồn tại những ký hiệu cổ xưa không thể giải mã; những ký tự đó có thể xác định thuộc về long ấn triều Hạ. Nhưng con đường dẫn xuống vực sâu này rốt cục có khoảng cách bao xa? Cột mốc tiếp theo liệu có phải một mảnh vụn nữa của thiên thạch sắt hay không? Tất cả những điều đó đều không có cách nào biết được. Trước mắt, chỉ có thể suy đoán nơi sâu nhất dưới cực vực ẩn giấu cội gốc của Diệt Hỏa quốc, nếu lần theo phương hướng của tọa độ chỉ hướng tiến sâu vào biển cát, sẽ đến được khu vực chưa biết đó. Nơi ấy mới thực sự là chìa khóa then chốt, giải đáp mọi ẩn số vùi chôn bấy lâu.



Hội Tư Mã Khôi đều mắc hội chứng địa áp, lại bị cách ly tuyệt đối với thế giới bên ngoài, hoàn cảnh cô lập không ai chi viện, mà khoang giảm áp trong trạm thám trắc trung tâm lại chưa thể phục hồi. Nên bây giờ có trở lại mặt đất, họ cũng chắc chắn không thoát khỏi lưỡi hái tử thần, huống hồ lúc này vẫn chưa giải quyết triệt để mối họa lớn trong lòng là Nấm mồ xanh, chỉ e sau này mãi mãi không thể sống những ngày yên ổn. Giờ đây, chỉ có một cách duy nhất là quên đi nguy hiểm và tiếp tục hành động mà thôi. Tư Mã Khôi phân tích tình hình xong, bèn nói với ba người còn lại: “Xem ra cục diện chúng ta đang phải đối mặt hiện nay cực kỳ bất lợi, dường như bất kể thế nào cũng không thoát khỏi tiếng gọi của thần chết, trừ khi các cậu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, khẳng khái tiến lên phía trước.”



Mọi người không có ý kiến gì, tất cả đều quyết tâm cao độ, sẵn sàng đi đến tận cùng, cùng lắm thì cách mạng triệt để chứ mấy, chết ở đâu mà chẳng là chết.



Thắng Hương Lân nhắc Tư Mã Khôi: “Đội khảo sát liên hợp Liên Trung thâm nhập cực vực năm 1958, chắc cũng ở dưới này, nhưng suốt dọc đường chúng ta không hề phát hiện thấy tung tích của họ; đợi chút nữa phải tiến hành lục soát lòng tượng người sắt còn lại, đồng thời còn phải nghĩ cách xác định xem người xưa rốt cục đã dùng cách gì để định hướng đường. Bởi vì ngọn hải đăng mà người Hy Lạp cổ xây dựng, sử dụng rất nhiều dầu cá voi để thắp sáng bên trong. Dầu cá voi tương đương với cao của con ly, chỉ cần bén lửa là có thể thắp sáng suốt ngày đêm không nghỉ. Sau đó họ lại lắp thêm cái gương đồng để phản chiếu ánh sáng, nên cho dù giữa đêm khuya trăng khuất sao mờ, thì ánh sáng chói lòa của nó vẫn có thể khiến không gian xung quanh sáng bừng như giữa ban ngày. Nó có khả năng giúp tàu thuyền ở cách xa khoảng 65 ngàn mét xác định phương hướng



Trong khi đó, người sắt khổng lồ trong biển cát tuy rằng hai hốc mắt trống rỗng, nhưng bên trong lại không hề có vết tích của dầu hỏa.



Tư Mã Khôi nói: “Theo tôi biết, nếu không dùng ánh lửa chiếu sáng, thì vẫn còn hai cách khác, thứ nhất là sử dụng thạch quặng tự phát sáng, thứ hai là lợi dụng kim từ. Ánh sáng dường như không đáng tin cậy lắm trong vực sâu như hắc động này, bởi vậy tôi cho rằng khả năng thứ hai có vẻ phù hợp hơn. Chúng ta có thể nhờ viên xà từ chỉ hướng, để xác định vị trí và góc độ”.



Thắng Hương Lân nói: “Nhưng không có bản đồ đường biển, căn bản không rõ các tọa độ dẫn đường khác ở chỗ nào…”, cô trầm tư suy ngẫm giây lát, bỗng nhiên hiểu ra: “Phương hướng mà nó vĩnh viễn hướng về, khả năng chính là vị trí còn lại của điểm tọa độ. Hai người sắt trong lòng đất đứng sóng đôi, có lẽ lần lượt chỉ về hai cực khác nhau.”



Tư Mã Khôi gật đầu: “Hướng mà đầu rắn chỉ là nơi có mạch sắt. Sau khi chúng ta xác định được phương hướng đại thể, trước hết phải đi ngược hướng đầu rắn chỉ, đợi sau khi vượt qua điểm giữa hai cực, xà từ tự nhiên sẽ chuyển hướng. Đến lúc đó, ta chỉ cần thuận theo hướng đầu rắn chỉ mà tiếp tục tiến về phía trước, thì sẽ đến điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo. Nếu phương pháp suy đoán này không có gì sai sót, thì thật khó tưởng tượng người cổ đại hàng ngàn năm trước, làm sao mò mẫm ra được cách này. Xem ra góc độ không gian và định vị dưới lòng đất, đúng là chuẩn xác đến mức không ngờ”.



Tuy tọa độ dẫn đường trong biển cát mênh mông chia thành hai cực đông tây, nhưng căn cứ vào biểu đồ phản hồi từ phương pháp viễn thám điện trường của Liên Xô, thì cực đông nam của không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ mới là bộ phận chủ yếu, nó sâu hút khó lường. Mọi người quyết định mạo hiểm đánh canh bạc số phận, tiếp tục đi về hướng này.




Tư Mã Khôi nhìn đồng hồ, nửa tiếng nữa là đến 12 giờ 30 phút, nếu đúng như dự đoán, thì chỉ chút nữa thôi dưới lòng đất sẽ xuất hiện sương đen, thế mà bây giờ vẫn còn chưa biết điểm tọa độ dẫn đường tiếp theo gần xa thế nào, nếu liều lĩnh xông vào e sẽ gặp phải điều bất trắc. Tương truyền, thiên thạch có chứa loại vật chất đặc biệt, có thể chống sấm sét, chi bằng chúng ta cứ ở đây nghỉ ngơi vài tiếng, đợi qua nạn sương đen sẽ tiếp tục suy xét xem bước tiếp theo nên hành động thế nào.



Suốt dọc đường, mọi người liên tục chạy thục mạng, giờ đây vừa mệt lại vừa đói, nên lấy lương khô ra chia cho nhau ăn. Chẳng bao lâu bên tai họ đã nghe tiếng sấm xa ì ùng vọng tới, thoáng chốc gió dữ bắt đầu vần vũ, cột sương bụi tựa làn khói đen cuồn cuộn cuốn theo luồng gió, cường phong và tro bụi mật độ dày đặc hòa quyện vào nhau, bao trùm bủa vây khắp không gian, giống như màn sương buông, vách ngoài của thiên thạch sắt không ngừng phát ra những âm thanh cọ sát sàn sạt.



Tư Mã Khôi lúc đầu còn lo bên trên động trống toang hoác, sương đen sẽ bay ùa vào trong, nhưng quan sát một hồi anh thấy tình hình rất lạ, và càng tin chắc rằng: khối thiên thạch sắt cổ xưa đứng sừng sững trong biển cát, ngoại trừ có thể dùng để dẫn đường cho tàu thuyền ra thì còn là nơi ẩn trú cho con người trốn tránh vật chất hắc ám. Còn tro bụi tàn lưu sau đại kiếp giữa thiên địa, rốt cục là thứ gì, thì đến giờ vẫn hoàn toàn nằm ngoài phạm vi nhận thức của anh.



Tư Mã Khôi lại phát hiện từ sau khi sương đen xuất hiện, kim đồng hồ không hề dừng lại ở thời điểm 12 giờ 30 phút, anh bất giác thở phào một cái, bởi vì chiếc Ilyushin-12 bay qua bầu trời sa mạc Kumtag vào năm 1963 cũng xảy ra sự cố vào đúng thời gian này. Cuối cùng anh cũng yên tâm bảo ba người còn lại dành thời gian chợp mắt một lát.



Đội trưởng Lưu Giang Hà luôn cảm thấy căng thẳng bất an trong không gian quá khép kín. Đám sương đen xuất hiện dưới lòng đất làm anh chàng lại nhớ đến kalabulan đáng sợ nhất trong sa mạc. Đầu anh chàng túa đầm đìa mồ hôi lạnh, thì làm sao mà chợp mắt nổi, anh chàng tự nguyện thay Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên.



Hải ngọng thắc mắc hỏi dò: “Kalabulan là cái gì vậy?”, Thắng Hương Lân giải thích: đó chính là thời khắc sau khi cơn bão đi qua. Anh vẫn cảm thấy vẫn rất khó hiểu: “Bão ở đây làm sao ghê gớm bằng bão nhiệt đới ở Miến Điện, nhưng thứ mà đội du kích Cộng sản Miến Điện bọn tôi sợ nhất không phải lốc tố mà là muỗi. Trước đây ở Quảng Đông có một câu ngạn ngữ thế này: “muỗi Quảng Châu, nhặng Huệ Châu”. Nhưng gộp cả hai thứ đó lại, vẫn không nhiều bằng muỗi trong rừng rậm Miến Điến. Vùng núi Bắc Miến có những loại cây, gốc to thù lù như những u thai, nếu không để ý mà giẫm phải, làm nó nát toét ra, thì bên trong toàn bọn bọ gậy, gặp gió một cái là mọc cánh biến thành muỗi, ngửi thấy hơi người là lập tức bám riết lấy đốt cho bằng được. Những kẻ lỡ sa chân vào tình cảnh đó, khó mà giữ nổi mạng sống.”



Thắng Hương Lân nghe Hải ngọng kể lại những cảnh ngộ giật gân như vậy, bèn nhớ lại lúc bắt rắn trắng trong biển cát, Tư Mã Khôi và Hải ngọng tự nhận mình từng được học bản lĩnh bắt rắn lão luyện, cô bèn hỏi Tư Mã Khôi: “Trong rừng rậm Miến Điện thật ra có xà vương không vậy?”



Tư Mã Khôi nói: “Chuyện này tôi vốn cũng định hỏi, nhưng sư phụ truyền thụ kỹ nghệ bắt rắn cho tôi không may tử nạn đột ngột quá, vì thế nên đến bây giờ tôi vẫn không biết đáp án. Lúc đó, quân Cộng sản Miến Điện vừa mới bị tan rã, chúng tôi phải tản đi khắp nơi, chạy đến tận lãnh thổ Campuchia. Khi ấy tôi, Hải ngọng và cả cao thủ bắt rắn trong đội du kích kia nữa, nhìn thấy phía tây có khu rừng rậm bí ẩn, bèn chui vào bắt rắn, định lấy xương rắn chế thành thuốc trị thương. Sau khi vào núi, bọn tôi vẫn như mọi lần nằm rạp trên cây nghe ngóng động tĩnh, chẳng ngờ khi còn chưa kịp đợi bọn rắn đến, thì từ trên trời tự dưng xuất hiện một thằng cha. Tôi chỉ nghe thấy ầm một tiếng thật lớn, cảm giác sắp có chuyện xảy ra, nhưng vẫn chưa kịp phân biệt đó là âm thanh gì thì trên trời hiện ra một chiếc máy bay chiến đấu F4 cánh gấp hình thù quái dị của bọn Mỹ.




Nó bay thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa, dường như chà cả vào cành lá cây rừng, phát ra làn sóng âm đinh tai nhức óc; ai chưa từng trải qua thì vĩnh viễn không thể hình dung nổi âm thanh đó đáng sợ đến mức nào, ngay cả chim rừng cũng sợ đến mức ngã bổ nhào từ trên cây xuống. Đáng tiếc, ông anh Miến Điện giỏi bắt rẳn cũng chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối mặt với tình hình này, nên khi đang ngồi trốn trên cây giật minh lộn cổ xuống từ độ cao mười mấy mét, đầu bị đập nát bét như tương, chẳng đợi để bọn tôi cứu chữa gì đã rũ áo về với đất mẹ.”



Hải ngọng nhớ lại chuyện cũ, cũng bất giác hít hà cảm thán: “Lúc đó không có bản đồ cũng không có người dẫn đường, ai biết đội du kích lại đào tẩu đến tận đường mòn Hồ Chí Minh, nếu còn tiếp tục chạy về hướng tây có khi vào cả lãnh thổ Việt Nam cũng nên. Suốt dải đó toàn là khu vực trọng điểm ném bom của không quân Mỹ.” Mọi người nói chuyện một hồi, thì lần lượt đi nghỉ, để một mình đội trưởng Lưu Giang Hà gác trực. Không hiểu sao mấy ngày nay, hễ nhắm mắt môt cái là Tư Mã Khôi lại thấy hình ảnh những đồng đội đã chết chập chờn hiện về trước mặt.



Anh nằm chưa được bao lâu, đã bị đội trưởng Lưu Giang Hà lay dậy, thấy Thắng Hương Lân cũng ngồi dậy từ bao giờ, chỉ mỗi Hải ngọng là vẫn đang ngủ say tít, anh đang định hỏi hai người: “Tôi lại nói mơ gì à?” – thì thấy Thắng Hương Lân nhỏ giọng nói trước: “Có động!” – Nói xong cô đưa tay chỉ lên cửa động trên cao. Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng bên cũng căng thẳng nắm chặt súng, hai mắt nhìn chằm chằm về hướng tiếng động phát ra trong bóng tối.



Tư Mã Khôi nghiêng tai nghe ngóng, xác định đúng là có sinh vật đang chầm chậm trườn bò, còn không ngừng phát ra tiếng thở nặng nhọc. Hiềm nỗi đèn các bua không chiếu sáng tới được cửa động, anh bèn hất mũi chân nhẹ nhàng đánh thức Hải ngọng, lấy tay ra dấu bảo cậu ta không được lên tiếng, đoạn ra hiệu nhắc mọi người sẵn sàng chuẩn bị vũ khí, nhưng không được manh động. Sau đó, anh lập tức bám vào vách tường sắt mò mẫm theo làn hơi thở phát ra. Tư Mã Khôi mau chóng rờ thấy cửa động, tuy không có ánh sáng, nhưng anh vẫn cảm nhận thấy sinh vật đó đang bò vào từ màn sương đen, dường như đó là con người.



Tư Mã Khôi cũng là tay cứng vía, anh thầm nghĩ: “Để ông xem rốt cục mày là đứa nào”. Anh nhẹ nhàng bám sát mặt tường, im lặng bất động, đợi khi nửa thân trước kẻ đó thò vào trong, thì thình lình tóm chặt lấy tay trái đối phương và quật mạnh xuống đất, chẳng ngờ đôi bên vừa trông thấy nhau đã đồng thời thất kinh.



Tư Mã Khôi hoảng hồn vì bàn tay trái của kẻ mới đến có những sáu ngón, còn đối phương khiếp sợ vì quá bất ngờ, hắn lạc giọng hỏi: “Các lão gia đây rốt cục là người hay ma thế?”



Tư Mã Khôi lạnh lùng cười đáp: “Bố mày đêm hôm trước đi qua nghĩa địa, dọa bọn ma sợ vãi đái lăn ra chết cả lũ đấy”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 102: Hồi chín: chết đi sống lại


Kẻ mới đến nghe mà vãi linh hồn, vội vàng định tháo lui ra ngoài cửa động, ngặt nỗi lại bị Tư Mã Khôi bóp cứng mạch, muốn giãy giụa thế nào cũng không thoát ra nổi.



Lúc đó sương đen giăng mù mịt, Tư Mã Khôi căn bản không nhìn rõ hình hài tướng mạo của hắn, chỉ phát hiện ra bàn tay trái đối phương có tới sáu ngón, cộng với giọng nói mang khẩu âm Quan Đông, mà ngay cả ngữ điệu cũng vô cùng quen tai; anh bèn lôi mạnh hắn đến trước mặt, rồi tóm cổ áo quẳng xuống sàn động.



Kẻ đó bị ngã đánh rầm trên nền sắt, gân cốt khắp người như muốn đứt lìa, hắn ta đau quá rên hừ hừ: “Ối trời ơi…các vị định lấy cái mạng già này của mỗ đấy à?”



Hải ngọng lên trước giẫm chân lên người hắn, xách đèn quặng soi kỹ dung mạo. Anh cũng không kiềm chế được cảm giác kinh hãi dâng trào, người này trên đầu đội một cái mũ rách tám vạt, thân mình khoác chiếc áo lông liền da cũ kỹ, thắt lưng cài cái tẩu thuốc, trên cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, rõ ràng chính là Triệu Lão Biệt đã chết từ nhiều năm trước.



Tính cả bận này, Tư Mã Khôi và Hải ngọng gặp Triệu Lão Biệt tất thảy ba lần. Lần đầu là cùng lão đi biệt bảo ở vùng ngoại ô huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, vào một đêm mùa hạ trong nghĩa địa La Sư, Triệu Lão Biệt muốn đào viên Lôi Công Mặc dưới hố huyệt nên bị âm hỏa thiêu cháy nửa gương mặt, rồi ngã xuống hố vỡ nội tạng. Trước lúc lâm chung, lão còn chỉ viên Lôi Công Mặc và di chúc lại hai câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn”, sau đó thì nhắm mắt xuôi tay rảo bước xuống hoàng tuyền, thi thể được Tư Mã Khôi tận tay chôn cất trong khu nghĩa địa hoang vụ dưới chân cầu.




Lần thứ hai gặp lão trên đường đi tìm kính viễn vọng Lopnor cách đây không lâu, đội khảo cổ phát hiện thấy một thi thể bị phong hóa ngay trước cửa Hắc Môn, nhìn các đặc điểm thì khá giống Triệu Lão Biệt. Tư Mã Khôi còn phát hiện trong lòng thi thể ôm một cuốn cổ tịch biệt bảo kỳ quái, bên trong không ngờ lại xuất hiện hai câu ám ngữ mà anh từng nghe trước lúc lão qua đời. Anh nhận định cái xác khô chính là Triệu Lâo Biệt, còn kẻ mà các anh gặp ở nghĩa địa La Sư năm đó khả năng là ma nhập tràng, thế là anh bèn phỏng hỏa thiêu rụi thi thể lão.



Nhưng đến bây giờ, Tư Mã Khôi vẫn chưa nghĩ ra Triệu Lão Biệt rốt cục muốn ám thị điều gì với mình thông qua cuốn cổ tịch biệt bảo? Các bức hình minh họa với nội dung ly kỳ quái dị, dường như ngầm mách bảo những mối nguy hiểm đang rình rập ngay bên mình, có điều nó quá mập mờ, nên trước khi sự việc xảy ra không ai lãnh hội được ý nghĩa của nó. Nếu như cuốn sách đó không dùng để giải mã trước khi sự việc phát sinh, thì nó còn bao hàm ý nghĩa gì khác nữa?



Lần thứ ba thì càng tà mị hơn, Triệu Lão Biệt đột ngột bò vào động từ trong đám sương đen. Vậy “người” trước mắt rốt cục có phải ác ma trốn khỏi thành Hàm Oan không? Hay là một loài quái vật nào khác? Tư Mã Khôi biết trên đời có đạo thuật ngũ hành, nhưng những pháp thuật đó chẳng qua chỉ là loại dời non chuyển bề mà thôi, còn dưới vòm trời này làm gì có cơ thể nào trường sinh bất diệt?



Thắng Hương Lân và đội trưởng Lưu Giang Hà nghe nói người này chính là Triệu Lão Biệt cũng vô cùng kinh ngạc. Trên đường đi, họ đã gặp cỗ thi thể đáng lẽ không thể tồn tại ở đó, cũng đủ làm họ cảm thấy kinh dị lắm rồi, giờ đây người chết – mà ngay cả xương cốt cũng hóa thành tro bụi, thì làm sao lại lần nữa xuất hiện trong màn sương đen dưới lòng đất?



Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, nhìn lão chằm chằm một hồi lâu dưới ánh sáng trắng cửa đèn quặng, trong không gian mù mờ cũng không rõ đối phương rốt cục là người hay ma.



Triệu Lão Biệt bị mọi người nhìn phát sởn gai ốc, lão nhăn nhúm mặt cố vắt ra một nụ cười cầu hòa: “Chư vị hảo hán, chúng ta trước đây không oán, bây giờ không thù, nên mong các vị giơ cao đánh khẽ cho…”



Hải ngọng giận dữ quát: “Đừng giả bộ với ông mày! Đợi chút nữa sẽ cho mi hiện nguyên hình ngay thôi. Anh chắc mẩm Triệu Lão Biệt chính là con chồn vàng trong huyệt mộ biến thành, bèn bàn với Tư Mã Khôi xem có cần dùng hình với nó không. Đội du kích Miến Điện có một phương pháp cổ truyền đề giày vò tù binh, thường gọi là “xoa lòng bàn chân”. Phương pháp đó đầu tiên phải để lưng tù binh dựa vào một cọc gỗ nằm trên mặt đất, hai cẳng chân duỗi thẳng xếp đều, trói chặt khít từ đầu đến chân, sau dó dùng một viên than đá bề mặt thô ráp dùng hết sức chà đi chà lại phần gót chân, da thịt trong phút chốc bị mài sạch trơn, tiếp tục chà sẽ chạm đến tận xương, mài đi mài lại sẽ phát ra âm thanh nghe ken két rất chói tai, khắp mặt đất vương vãi toàn máu thịt rất thê thảm.



Loại cực hình này ngay cả đến Kim Cương La Hán cũng không thể chịu đựng nổi, nhưng cũng không đến nỗi khiến người ta đau đớn phải ngất đi, mà chỉ đủ để họ gào thét thảm thiết như lợn bị chọc tiết. Đến tận bây giờ, anh vẫn chưa thấy ai có thể vượt qua được loại cực hình ấy



Chi bằng cứ áp dụng biện pháp đó để xử lý Triệu Lão Biệt, cái này gọi là không thấy quan tài không nhỏ lệ — cứ để lão nếm tí mùi xem thế nào.



Triệu Lão Biệt nghe xong, hồn vía phút chốc lên mây, lão cuống quýt van nài: “Thế này sao gọi là giả bộ giả dạng được chứ? Con người mỗ đây, tốt cũng chỉ vì thành thật, mà rủi cũng chỉ vì hai chữ thành thật mà thôi, cho dù lão gia có muốn mỗ giấu giếm, mỗ cũng không dám giấu.”




Tư Mã Khôi lại cảm thấy: giờ đây chưa thể định rõ lão là phe ta hay phe địch, nên vẫn phải duy trì công tâm, bèn ngăn Hải ngọng lại. Anh hỏi Triệu Lão Biệt: “Tôi thấy lão có chút quen mắt đấy!”



Triệu Lão Biệt thấy tình thế có vẻ hòa hoãn, vội vàng cười cầu hòa: “Thế thì tốt quá, chứng tỏ kiếp trước chúng ta từng có duyên phận với nhau…”



Tư Mã Khôi trừng mắt nhìn lão nói: “Mình lão mặc áo khoác anh hùng như ý, chân lão rào bước tiêu dao hoạt bát.”



Triệu Lão Biệt nghe xong thì mặt đột nhiên biến sắc: “Lão gia có biết núi cao bao nhiêu, biển sâu bao nhiêu, đầu đuôi khi nào mở miệng không?”



Tư Mã Khôi đáp: “Núi cao hơn trời, biển sâu hơn đất, đầu hướng về đông, đuôi ngoảnh về tây, giờ sửu mở miệng, bầy chim đồng thanh hót” – đoạn anh hỏi lại đối phương: “Lão vượt qua bao nhiêu vịnh? Băng qua bao nhiêu bãi?”



Triệu Lão Biệt lập cà lập cập trả lời: “Bát Hạ không thấy vịnh, qua vịnh này lại đến vịnh khác, sông rộng không có bãi, chuyển bãi này lại sang bãi khác”.



Hội Hải ngọng căn bản không hiểu thuật ngữ trong đáy biển giang hồ, nên không thể chen ngang được câu nào, nhưng Triệu Lão Biệt trong lòng tự biết lợi hại, nên không dám giấu giếm Tư Mã Khôi điều gì, bèn khai tuốt tuột: “Mỗ đây đúng là làm nghề biệt bảo, cả đời không tham vàng cũng không tham bạc, các lão gia hà tất phải moi cả gan ruột mỗ ra làm gì?”



Tư Mã Khôi càng thấy người này lai lịch khuất tất, bèn nói với Triệu Lão Biệt: “Tôi chỉ muốn thăm dò lão mấy chuyện, chứ cũng không cần quật cả tám đời tổ tông nhà lão lên làm gì, có điều lão phải nói trung thực rõ ràng, sau đó chúng ta đường ai nấy đi. Đương nhiên, nếu lão nói không rõ thì cũng chẳng sao, chỉ cần lão để cái thủ cấp lại là được”. Triệu Lão Biệt cau mày nhăn nhó nói: “Người trong nghề bọn ta thà mất mạng cũng không thể để lộ ngón nghề. Các lão gia đừng bức mỗ phải hủy hoại gia phong mà tổ tông sư phụ để lại.”



Tư Mã Khôi nói: “Tôi thiết gì mấy chiêu gia truyền biệt bảo nhà lão, tôi chỉ muốn hỏi hai câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn” rốt cục giải thích thế nào?”



Triệu Lão Biệt nghe xong thì thần sắc kinh hãi dị thường, đây chính là một trong những bí quyết để tìm Lôi Công Mặc, mà dân gian từ cổ chí kim đã có truyền thuyết “cửu long phân hoàng thành”. Hoàng đế Hiên Viên là một trong tam hoàng ngũ đế, ngài từng chế tạo ra xe kim chỉ nam, đại phá Xỉ Vưu trong sương mù, sau khi chết, thi thể được an táng ở đỉnh Kiều Sơn, sau này ngọn núi bị bửa làm đôi, ngài hóa thành rồng bay lên trời, còn mạch núi mai táng lăng mộ hoàng đế được gọi là hoàng thành. Khi ấy, có chín khối thiên thạch từ trên trời bỗng dưng rơi xuống, cắm sâu bốn hướng, một trong những khối đó đánh trúng đỉnh Ẩn Đài đối diện với núi Kiều Sơn, lăng mộ của hoàng đế cũng vì thế mà bị nứt vỡ.



Ngọn núi đỏ trải toàn đá vàng, hình thù lại giống như con bò đang nằm, nên còn được gọi là Hoàng Ngưu Lĩnh. Hoàng đế là địa hoàng trong tam hoàng, vì đất nứt vỡ nên ngài hóa rồng quy tiên, bởi thế mới nói “chín rồng chia hoàng thành”. Chín khối thiên thạch từ trên trời rơi xuống chín dải long mạch, loại thiên thạch này khác với những loại thiên thạch sắt thông thường khác, bởi tất cả đều đen tuyền sáng bóng, chất liệu rất giống với ngọc đen, đó là báu vật của mọi báu vật trong thiên hạ. Thời cổ có bí quyết lưu truyền lại cho đời sau ngầm ám chỉ phương hướng của chín khối thiên thạch, hai câu thơ đó chính là lời dẫn của toàn cuốn bí quyết biệt bảo, còn về sự ảo diệu bên trong của nó, thì không thể tiết lộ cho người ngoài biết được.




Nghi hoặc trong lòng Tư Mã Khôi càng lúc càng tăng lên, điều này có thể giải thích được vì sao Triệu Lão Biệt trước khi đoạn khí ở nghĩa địa La Sư vẫn còn tơ tưởng đến Lôi Công Mặc, nhưng người đang đứng trước mặt anh đây lại không hề có chút ấn tượng nào về chuyện đã từng xảy ra năm đó, vả lại cũng không liên quan gì đến những bức vẽ minh họa trong cuốn cổ tịch địa lý. Bức tranh trong cuốn cổ tịch địa lý vẽ hình một người tay dắt bò, đang đứng trên bờ vực, dõi mắt nhìn xuống khe núi vách cheo dựng đứng, dường như muốn ám thị khu vực dưới Hắc Môn vô cùng hung hiểm.



Trong bức tranh thứ hai vẽ hai căn phòng một to một nhỏ, lồng kép vào nhau, nhìn kiểu gì cũng giống với tên quái thai “Căn phòng số 86”, nếu biết trước chân tướng sự thật, có lẽ đội anh đã không đến nỗi bị rơi vào thế bị động mà chịu sự kìm kẹp của kẻ địch, còn giáo sư Tống Tuyển Nông có khả năng đã không chết. Bức tranh thứ ba vẽ một cánh tay người chết, đó chính là cánh tay gãy mà “Căn phòng số 86” đã giấu dưới ba lô của đội khảo cổ, trong cánh tay chôn viên ba bảo, kết quả đã kéo theo biết bao phiền phức cho cả đội trong biển cát, nếu mọi người không nhanh chân chạy thoát, thì không biết có còn sống đến giờ này hay không? Cả ba bức tranh minh họa đó chẳng phải đều ngầm ám chỉ rằng: dưới Hắc Môn tồn tại vô số hiểm nguy hay sao?



Triệu Lão Biệt nghe xong thấy vừa kỳ quái và vừa mông lung, trên người lão đúng là có cuốn sách đó thật, nhưng phía sau không hề có bức vẽ nào, vả lại lai lịch và công dụng của cuốn cổ tịch biệt bảo đều thuộc phạm trù bí mật, không bao giờ dễ dàng tiết lộ cho bất kỳ ai. Khi nghe Tư Mã Khôi nhắc đến Hắc Môn thì hai con mắt nhỏ ti hí của lão bất chợt lóe lên tia sáng vừa giảo hoạt vừa tham lam, lão thử dò hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng hay các vị đây đã đi qua Hắc Môn chưa? Các vị có ngắm được món kỳ châu dị bảo nào không?” – Rồi lão còn dò la tình hình cụ thể về ba bức họa trong cuốn sách.



Tư Mã Khôi bèn kể lại lần nữa, nhưng nhìn phản ứng trên mặt đối phương, anh bỗng nhiên nhớ đến một học thuyết nào đó có tên là “thuyết cái hộp”, mà giáo sư Nông địa cầu từng nhắc đến trước đây. Tư Mã Khôi đột nhiên rùng mình thất kinh: người đang đứng trước mặt anh chính là xác chết nằm ở cửa Hắc Môn. Có lẽ trước khi Triệu Lão Biệt chết, lão đã từng xâm nhập cực vực dưới lòng đất, thông qua con đường nào đấy mà không ai biết được, đồng thời bị sương đen nuốt chửng. Thời gian trong màn sương đen vĩnh viễn ngưng tụ bất động, hoặc không ngừng luân chuyển theo vòng tuần hoàn, giống như một chiếc hộp hoàn toàn cách biệt với cả thế giới, nó tồn tại độc lập bên ngoài tọa độ thời gian.



Đội khảo cổ cũng vô tình lạc vào trong chiếc hộp, bởi vậy mới gặp được Triệu Lão Biệt khi lão ta còn chưa chết. Lão nghe thấy anh nhắc đến vị trí của Hắc Môn và những bức tranh quái dị vẽ trong cổ thư biệt bảo, bèn cho rằng những bức tranh đó chính là phương pháp để phá giải Hắc Môn ngập tràn nguy hiểm. Sau khi trốn thoát khỏi chỗ này, lòng tham trỗi dậy, lão vẽ tranh vào cuốn sách, rồi câu kết với đội thám hiểm Pháp vào sa mạc tìm kiếm bảo vật, kết quả mắc hội chứng địa áp nên phải bỏ mạng ngay trước cửa Hắc Môn. Nếu Triệu Lão Biệt không gặp đội khảo cổ trong chiếc hộp thoát ly tọa độ thời gian, thì lão đã không để lại những bức vẽ kỳ quái trong cuốn cổ thư, cũng không thiệt mạng cùng bọn người Pháp và mọi người cũng vĩnh viễn không bao giờ nhìn thấy cuốn cổ thư biệt bảo khó hiểu này. Nguyên nhân kết quả của cả chuỗi sự kiện không hề phân biệt thứ tự trước sau, nó giống như một vòng tuần hoàn khép kín vĩnh viễn không thể hóa giải nổi.



Tư Mã Khôi chỉ biết căn cứ vào tình hình thực tế để đưa ra phán đoán, nhưng rốt cục sương đen là chiếc hộp hay người sắt khổng lồ dẫn đường trong biển cát mới là chiếc hộp? Vì sao Triệu Lão Biệt lại bị giam cầm trong sương đen? Và lão đã làm cách nào để cuối cùng thoát được ra ngoài? Cuốn cổ tịch biệt bảo ẩn chứa những bí mật gì không thể tiết lộ với thế nhân? Kẻ chết trong nghĩa địa La Sư năm 1968 là ai? Lẽ nào trên thế giới còn có một chiếc hộp khác? Nếu mang tất cả những “kết quả” hiện tại kể cho Triệu Lão Biệt nghe, liệu có làm thay đổi những “sự thực” vốn đã diễn ra không?



Cùng lúc giải được một ẩn số thì lại xuất hiện thêm càng nhiều ẩn số nữa, thậm chí ngay cả bản thân mình tựa hồ cũng hòa nhập làm một với các ẩn số. Tư Mã Khôi không biết những suy đoán của mình có chính xác hay không, lúc này anh cũng không chứng thực được, nhưng anh tin Triệu Lão Biệt đang sờ sờ trước mắt chắc chắn là một người còn sống, thế là anh bèn hỏi một câu quan trọng nhất: “Lão có biết Nấm mồ xanh không?”



Triệu Lão Biệt nghe đến bốn chữ Nấm mồ xanh, dường như đã biến thành người khác, sắc mặt thâm trầm hẳn xuống đầy quái lạ, lão nói: “Biết… hay không biết nhỉ? Cậu thử đoán xem!”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 103: chiếc hộp thời gian - hồi một: bí mật trong chiếc hộp


Câu này làm Hải ngọng đứng bên cạnh rồ cả người: “Chán sống rồi à? Tôi thấy lão đúng là hạng cơm sống – sống mãi nên chắc thèm chín rồi đây!” – Nói xong anh giơ tay xắn áo định xông lên trước động thủ.



Triệu Lão Biệt là người có tầm nhìn nông cạn, tâm địa hẹp hòi, lão thấy hội Tư Mã Khôi có ý dò la một số tin tình báo mật, không nhịn được định cố tình khoe khoang chút hiểu biết của mình, mãi đến lúc làm đối phương điên tiết định dùng tay chân nói chuyện thì mới nhớ ra lúc này mình vẫn bị người ta khống chế, bèn cuống quýt van xin: “Ối! Xin các vị lão gia chớ động thủ, chúng ta đều là nhân vật có vai vế trong xã hội, chuyện gì mà không giải quyết được chứ?”



Tư Mã Khôi biết Triệu Lão Biệt từ trước đến nay đều thích khoe khoang khoác lác, căn bệnh này cũng không phải chỉ phát tác trong ngày một ngày hai, thế là anh giơ tay bảo Hải ngọng đừng vội dùng bạo lực, rồi quay sang trừng mắt nhìn Triệu Lão Biệt hỏi: “Lão có biết Nấm mồ xanh hay không? Đây là lần thứ hai tôi hỏi lão, lão đừng để tôi phải hỏi đến lần thứ ba!”



Hải ngọng nói chêm vào: “Lần thứ ba chắc chắn không còn dùng miệng mà hỏi nữa đâu đấy!”



Triệu Lão Biệt giở bộ mặt đầy vẻ tội nghiệp nói: “Biết… nhưng cũng không biết, rốt cục cậu muốn mỗ nói thế nào?”




Tư Mã Khôi bắt đầu mất kiên nhẫn: “Cái gì mà biết với không biết, lão thấy nên nói thế nào thì cứ nói thế ấy!”



Hải ngọng đứng bên lại bắt đầu hăm dọa: “Nếu lão có bản lĩnh thì cứ việc không nói, tôi cũng muốn thử xem có phải lão từng ăn gan hùm uống mật gấu hay không, toàn thân trên dưới rốt cục có mấy lá gan?”



Trán Triệu Lão Biệt lấm tấm mồ hôi lạnh, lão thẳng thắn trình bày: “Các vị lão gia! Lời này cũng phải xuất phát từ hai phía, mỗ thực sự không biết Nấm mồ xanh mà các vị hỏi rốt cục là Nấm mồ xanh nào? Trước giờ chỉ thấy có cái bánh mốc mọc dài lông trắng, biến thành màu xanh, chứ chưa từng thấy ngôi mộ nào màu xanh cả. Có điều mỗ cũng đoán được tám phần thứ mà các vị muốn thăm dò là gì…”



Mọi người nghe lão nói đều ngẩn người, bây giờ tất cả chỉ biết Nấm mồ xanh là tên của một tổ chức ngầm, tổ chức này đặt tên cho một khu vực chưa biết nào đó gần tâm Trái Đất là Nấm mồ xanh, nghe nói đó là nơi mà ngay cả ánh sáng cũng không thể lọt ra ngoài được, và dường như từ trước đến nay chưa có ai dám bước chân vào bên trong. Tòa mật thất di vật kỷ Devon khắc đầy long ấn triều Hạ, ghi chép lại những bí mật có liên quan đến thông đạo và cả cổ quốc Diệt Hỏa nằm ẩn nấp hàng ngàn năm dưới lòng đất, có lẽ tất cả đều liên quan đến hắc động thông sâu đến tận tâm Trái Đất. Nhưng cho đến tận bây giờ đội khảo cổ vẫn chưa biết hàm ý đích thực của mấy chữ Nấm mồ xanh, thế là ai nấy đều chăm chú lắng nghe, hy vọng có thể hiểu được chân tướng của cả chuỗi sự kiện từ miệng Triệu Lão Biệt.



Vẻ mặt Triệu Lão Biệt thể hiện chút cổ quái: “Mỗ đoán chư vị chắc chắn muốn dò hỏi ngôi miếu thần không đáy dưới lòng đất, vì vách tường ngoài của nó có màu xanh thẫm, người không rõ nội tình mới gọi nó là Nấm mồ xanh. Không phải mỗ muốn giấu giếm gì cả, chỉ là tất cả những gì mỗ biết, chỉ gói gọn trong từng ấy thôi. Từ cổ chí kim chưa ai tìm thấy nó, cũng không ai biết nó rốt cục nằm ở đâu, huống hồ thứ tồn tại bên trong thì đúng là khiến thiên địa đất trời cũng phải mất mật, quỷ thần kinh hãi, bởi vậy mỗ khuyên các vị hãy từ bỏ quyết tâm đó đi!”



Tư Mã Khôi càng nghe càng cảm thấy kỳ quái: “Trong hắc động gần tâm Trái Đất có một ngôi miếu thần không đáy sao? Liệu có phải nó tồn tại nơi tận cùng của biển cát dưới vực sâu không? Ngôi miếu thần đó rốt cục đang giam giữ thứ khủng bố gì?”



Tiếp tục gạn hỏi thì Triệu Lão Biệt cứ ấp a ấp úng không trả lời được, chỉ thanh minh những chuyện còn lại lão ta không biết, ngay cả việc miếu thần không đáy có tồn tại thật sự dưới lòng đất hay không, thì lão cũng không dám khẳng định, đây chỉ là thuyết pháp mà dân biệt bảo lưu truyền từ xưa cho nhau mà thôi.



Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình hết sức rối rắm, bèn rút điếu thuốc đưa cho Triệu Lão Biệt hút, rồi bảo Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà trông chừng lão cẩn thận, sau đó ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân, hai người lui vào góc khác thì thầm bàn luận đối sách.



Thắng Hương Lân hỏi Tư Mã Khôi: “Triệu Lão Biệt kia có phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh không?”



Tư Mã Khôi trả lời chắc chắn: “Một trăm phần trăm là không, tên cầm đầu mà tôi từng gặp trong tòa thành Nhện Vàng tuy đeo mặt nạ da người, nhưng không hề có chút sinh khí nào, hắn chỉ là một cỗ thi thể lạnh băng, hoặc nói hắn là u hồn cũng được. Nếu hắn xuất hiện lần nữa, chắc chắn tôi sẽ phát hiện ra ngay, còn Triệu Lão Biệt có hơi thở, nhịp tim đàng hoàng, không khác gì người bỉnh thường. Tôi đoán khả năng lão là người bị rơi vào chiếc hộp thời gian, bởi thế chúng ta mới có thể gặp lão bên dưới lòng đất. Tôi nhớ giáo sư Nông địa cầu từng nói qua về một loại nguyên lý liên quan đến chiếc hộp thời gian, nhưng với tôi thì lời vào tai trái lời ra tai phải, chỉ nhớ khoảng ba phần thôi. Cô có biết tường tận về nguyên lý chiếc hộp đó không?



Thắng Hương Lân tuy thất kinh nhưng cô biết, chỉ có “chiếc hộp” mới có thể giải thích được tất cả mọi chuyện. Cô nói với Tư Mã Khôi: Làm gì có nguyên lý chiếc hộp mà chỉ có suy đoán chiếc hộp thôi. Giáo sư có một cuốn sách bằng tiếng Nga do Liên Xô xuất bản, nội dung của nó nói về phương diện mà anh vừa nêu. Cuốn sách đó sau này bị chính phủ Liên Xô nghiêm cấm, tác giả là Nikola Tesla(1) . Sau Cách mạng Văn hóa, giáo sư bị đẩy xuống nông thôn tham gia lao động cải tạo, mọi đồ đạc trong nhà đều bị vứt hết, duy chỉ có mấy cuốn sách là được bác ấy lén giấu đi, cuốn “Suy đoán chiếc hộp” là một trong số đó. Tôi cũng từng xem qua, nhưng nội dung của nó thực sự quá ảo diệu, nhiều điểm rất khó lý giải, nên tôi cũng chỉ hiểu đại khái mà thôi. Trong sách, Tesla đưa ra một vài suy luận, nếu tồn tại một áp lực và chất lượng đủ lớn, thì sẽ nảy sinh hiệu ứng chiếc hộp dưới tác dụng của trọng lực; nếu nói tọa độ thời gian là một đường thẳng thì chiếc hộp lại hoàn toàn thoát ly khỏi đường thẳng ấy, nó giống như một chiếc bình trôi nổi bị cơn sóng thời gian xô đẩy vào bờ vậy.




(1) Nikola Tesla (1856-1943): nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện tử thiên tài người Mỹ gốc Croatia. Tesla được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX. Vì tính cách lập dị và những tuyên bố kỳ lạ đến khó tin về sự phát triển của khoa học kỹ thuật, Tesla bị cô lập và bị coi là một nhà bác học điên lúc cuối đời.



Ví dụ sự việc xảy ra trong chiếc hộp đổi thành thời gian thông thường là 30 phút, bất kể bao nhiêu vật chất hoặc sinh mệnh từ bất kỳ điểm nào trên tọa độ thời gian lần lượt chui vào chiếc hộp thì đều cùng trải qua một quá trình trong khoảng thời gian 30 phút đó. Vả lại thời gian trong chiếc hộp không giống đồng hồ cát, chỉ trôi chảy không trở lại. Sau khi các sự kiện xảy ra trong vòng 30 phút, chiếc hộp sẽ tự động phân giải hoàn toàn trong hắc động. Những sinh mệnh và vật chất chui vào chiếc hộp bằng những con đường khác nhau, nếu trong vòng 30 phút mà chưa tìm được cách thoát thân thì sẽ cùng chiếc hộp biến mất vĩnh viễn, nếu lỡ bị chết hoặc bị thương trong chiếc hộp thì cũng không thể quay về hiện thực. Trong thuyết này, Tesla còn suy đoán phản biện rằng: một người vĩnh viễn không bao giờ gặp chính mình trong chiếc hộp.



Thắng Hương Lân nói: “Chỉ có vật chất hắc ám tàn dư sau vụ nổ thiên thạch dưới lòng đất, mới có khả năng hình thành chiếc hộp thời gian, có lẽ phạm vi của nó đã bao phủ khắp Lopnor, vật thể chui vào chiếc hộp đồng nghĩa với việc mất tích thần bí, còn rời khỏi chiếc hộp là xuất hiện thần bí, bây giờ kim đồng hồ của chúng ta vẫn chưa ngừng lại, đã hơn hai tiếng trồi qua – kể từ thời điểm 12 giờ 30 phút, nhưng thời gian này chưa hẳn đã phù hợp với tọa độ thời gian ngoài đời thực, có thể thời gian thực chỉ là mấy phút mà thôi, trước mắt chúng ta vẫn chưa thể xác định được độ dài của thời gian trong sương đen, nhưng một điều có thể khẳng định chắc chắn là nó đang không ngừng rút ngắn dần.”



Tư Mã Khôi thầm thấy kinh ngạc, chiếc hộp này còn nguy hiểm hơn nhiều so với những gì anh tưởng tượng, bởi vì Triệu Lão Biệt cũng chưa trải qua sự kiện bị chết trước Hắc Môn, nên lão chắc chắn có thể thoát thân khỏi chiếc hộp, trong khi tương lai và kết quả của đội khảo cổ thì vẫn chưa biết.



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Những sự kiện xảy ra trong chiếc hộp có thể nào thay đổi sự thực đã sớm diễn ra từ trước không?”



Thắng Hương Lân lắc đầu đáp: “Không thể nào, bởi vì bản thân chiếc hộp cũng là một phần của sự thực.”



Tư Mã Khôi thấy hối hận sâu sắc, khi nãy đáng ra không nên kể cho Triệu Lão Biệt nghe về nội dung những bức họa trong cuốn cổ tịch. Có điều nếu không nói với lão thì đội khảo cổ đã không nhìn thấy cuốn cổ tịch đó, càng không thể biết giờ đây mọi người đã bị lạc vào chiếc hộp thời gian, đồng thời cũng không lấy được tin tình báo về thần miếu vô đáy dưới cực vực.



Tư Mã Khôi bất giác nhớ đến thuyết số mệnh của quốc vương Chăm Pa – không phải xuất hiện nguyên nhân mới nảy sinh kết quả, mà kết quả tạo ra những nguyên nhân phức tạp. Một nguyên nhân không có kết quả sẽ không thể gọi là nguyên nhân, cũng chính vì sự tồn tại của kết quả nên mới khiến những sự kiện phát sinh từ trước trở thành nguyên nhân. Mối quan hệ giữa nhân và quả, giống như một cây cổ thụ tán lá rợp trời, trong đó kết quả được định đoạt trở thành sự thực, chính là gốc, còn nguyên nhân là tán lá sum suê rậm rạp đan cài chằng chịt với nhau. Người nắm bắt trước được kết quả sẽ mò mẫm ra quy luật của số mệnh. Quốc vương Chăm Pa đã chìm đắm vào con đường này, kết quả cứ thế đùa giỡn và đùa giỡn với cả số mệnh của chính mình.



Hai người càng nghĩ càng cảm thấy thế thái thật khó lường, không biết khi nào đám sương đen mới tiêu tan, càng không biết phải làm gì mới thoát khỏi chiếc hộp. Tư Mã Khôi bất lực đành phải hỏi Triệu Lão Biệt, lần này anh chủ yếu hỏi lão về lai lịch cuốn cổ tịch biệt bảo.



Triệu Lão Biệt không thể thoái thác, bèn nói: “Thực chẳng dám giấu, cuốn cổ thư đó thật ra không phải do tổ tông mỗ truyền lại. Từ thời nhà Tống, nó đã bị lưu lạc đến nước Chăm Pa. Trước đây không lâu, có một hội thổ tặc khai quật lăng tẩm quốc vương Chăm Pa, vô tình kiếm được cuốn sách này, kỳ thực trong lăng vua Chăm Pa ngoài chiếc quan tài ma ám ra thì chẳng có thứ hàng gì đáng tiền cả. Toàn bộ báu vật đích thực của vương triều Chăm Pa đều chôn giấu trong tòa thành Nhện Vàng. Năm đó vua Chăm Pa, khi xây thành từng ra lệnh rằng: tòa thành đó phải ‘lấy đấu đong vàng, vàng nhiều như cát’. Hì hì… đúng là huy hoàng hiển hách, cái thế vô địch mà, không biết ai có phúc phận tận mắt trông thấy tòa thành đó không?”




Hải ngọng nói: “Thế đã là gì, ông Hải ngọng còn đi một vòng trong tòa thành Nhện Vàng, rồi gặp cả âm hồn không tiêu tan của lão quốc vương Chăm Pa ấy chứ…”



Tư Mã Khôi nhớ lại sóng điện u linh trong mật thất của tòa thành cổ, rồi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ khá am tường về lai lịch tòa thành Nhện Vàng, anh bèn hỏi lão: “Thông đạo được ghi chép bằng mật mã long ấn triều Hạ có phải là con đường dẫn tới miếu thân vô đáy không?”



Triệu Lão Biệt ngơ ngác không hiểu gì, lắc đầu thể hiện rằng mình không biết việc này, tòa thành Nhện Vàng đúng là có thật, nhưng sóng điện u linh là cái gì? Còn long ấn triều Hạ là báu vật quý hiếm nào đó ư?



Mọi người lo chiếc hộp mau chóng biến mất, lại muốn biết được thêm càng nhiều tin tình báo của Triệu Lão Biệt càng tốt, nên cố gắng giản lược tình tiết, giải thích gốc gác ngọn nguồn của cả chuỗi sự kiện cho lão nghe.



Mới nói được nửa chừng, Tư Mã Khôi bỗng cảm thấy tình hình không ổn, bèn vội vàng ngăn mọi người lại. Anh từ trước đến giờ vẫn không thể nghĩ ra vì sao Nấm mồ xanh lại tường tận tất cả mọi chuyện, từ bí mật ẩn giấu trong khuôn mặt giống như thần phật của quốc vương Chăm Pa, sóng điện u linh bị giam giữ hàng ngàn năm trong mật thất, thực vật khổng lồ dưới lòng đất, rắn bay ẩn mình trong sương mù… Tất cả những điều này gần như là bí mật mà quỷ không biết thần không hay, ngay cả vua Chăm Pa cũng không thể biết hết toàn bộ.



Những việc khác thì không nói, nhưng vua Chăm Pa chắc chắn không ngờ vị thánh tăng bị ông ta chôn sống trong mật thất, lại bị từ trường dưới lòng đất hút hết trí nhớ sóng não, để trở thành sóng điện u linh vô cùng quan trọng. Sự việc cách hiện tại cả ngàn năm, sau đó còn ai biết được bí mật kinh thiên động địa này như lòng bàn tay nữa? Cho dù Nấm mồ xanh có đánh cắp cỗ quan tài vàng trong cung điện ở thành cổ Huế, thì hắn cũng không thể biết những bí mật này, trừ những người tự mình trải qua cả chuỗi sự kiện và tiết lộ bí mật ra ngoài tại chiếc hộp thời gian.



Tư Mã Khôi biết rõ Triệu Lão Biệt tuyệt đối không phải kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, nhưng rất có khả năng Nấm mồ xanh đã lấy được thông tin từ miệng lão một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, từ đó nắm được những manh mối quan trọng để tìm kiếm miếu thần không đáy. Vì đội khảo cổ mới tiết lộ một nửa bí mật, đặc biệt vẫn chưa nói hết chuyện “chỉ có rắn bay mới có thể đi vào sương mù”, nên khi ở trong khe núi Dã Nhân, Tư Mã Khôi mới cảm thấy Nấm mồ xanh chỉ chạm tới ẩn số mà không biết rõ ẩn số đó ám chỉ ý nghĩa gì.



Nhưng bây giờ, cho dù có nói rõ với Triệu Lão Biệt: “Từ giờ, lão đừng làm cái nghề thổ tặc này nữa, kẻo có ngày phải bỏ mạng dưới Hắc Môn”, thì lão thổ tặc tham lam ngu muội kia chắc gì đã nghe lời, mà có khi lại còn cho rằng mọi người định triệt đường phát tài của lão chưa biết chừng, bất kể giải thích thế nào, lão cũng không tin, mà còn truy hỏi căn nguyên gốc rễ. Nói tóm lại, kẻ gây ra kết quả như hiện tại chính là đội khảo cổ. Bây giờ ngẫm kỹ lại thấy những chuyện này đều là sự thực đã xảy ra, sự tuyệt vọng sâu sắc khiến người ta cảm thấy run rẩy như bị nằm trên băng.



Triệu Lão Biệt thấy mọi người đột nhiên trầm lặng hẳn xuống, bầu không khí vô cùng căng thẳng, thì biết nếu tiếp tục lưu lại chắc chắn sẽ xảy ra chuyện, thế là lão cười hì hì, bảo: “Các vị, mỗ làm phiền các vị quá! Chúng ta hẹn ngày tái ngộ.”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 104: Hồi hai: hải âu ngủ yên


Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt “bôi dầu nhớt dưới chân” chuẩn bị chuồn, thì nghĩ thầm: “Lão này đúng là đen tận mạng, giờ muốn treo cổ lão cũng chẳng tìm thấy dây thừng. Nếu đúng là mấy kẻ may mắn sống sót trong đội khảo cổ bọn ta vô tình tiết lộ bí mật trong chiếc hộp thời gian, khiến Nấm mồ xanh nắm bắt được manh mối then chốt tìm kiếm miếu thần dưới lòng đất, thì mình đúng là đáng chết trăm ngàn lần”.



Mạch suy nghĩ trong đầu anh rối loạn bất định. Anh biết rõ tất cả những việc này đã trở thành sự thực sờ sờ truớc mắt như ván đã đóng thuyền. Đối diện với vòng tuần hoàn khép kín do chiếc hộp thời gian tạo ra, mặc cho anh có nghĩ ra bao chủ ý, bao kể sách, thì vẫn không đủ sức xoay chuyển càn khôn. Nếu sớm biết có ngày hôm nay thì ngay từ khi đội du kích Cộng sản Miến Điện tan rã, đáng lẽ anh nên tự kết liễu đời mình trong núi sâu cho xong, chỉ cần nhắm mắt xuôi tay thì mọi chuyện lớn nhỏ trên thế gian đều chẳng cần quan tâm đến nữa.



Nhưng cõi đời này từ xưa đến nay làm gì có thứ thuốc nào gọi là hối hận, những sự thực đã xảy ra thì đều đã xảy ra rồi, tất cả chung quy chỉ tại định số, chẳng ai có thể đưa ra bất kỳ thay đổi gì. Cho dù bây giờ có muốn giết Triệu Lão Biệt e rằng cũng không được, bởi vì người này được định đoạt phải gục ngã cùng đội thám hiểm Pháp ở ngoài Hắc Môn. Điều này là sự thực sớm đã phát sinh trong vòng tuần hoàn khép kín.



Tư Mã Khôi nghĩ đến dây, đột nhiên cảm thấy không đúng, nếu Triệu Lão Biệt xuất hiện trong chiếc hộp thời gian chết ở Hắc Môn vì hội chứng địa áp, thì kẻ chết trong thành đom đóm nơi nghĩa địa La Sư là ai? Theo lý mà nói, một người tuyệt đối không thể để lại hai xác chết, xem ra trên mình Triệu Lão Biệt vẫn còn giấu giếm rất nhiều ẩn số khó giải…



Triệu Lão Biệt nhìn sắc mặt Tử Mã Khôi trầm ngâm bất định, chỉ cúi đầu không biết đang nghĩ ngợi gì, lão bất giác thấy trống ngực gõ mạnh. Không muốn lưu lại chốn này thêm một khắc nào, lão bèn cáo từ thêm lần nữa: “Trông các vị như thể thần sai phật khiến, người nào cũng phi phàm, nói đến nơi, làm đến chốn. Cho phép mỗ nói câu này, dựa vào ánh sáng ngọn nến lù mù như mỗ, mà có ngày gặp được ánh trăng rạng rỡ trên bầu trời bao la đúng là phúc phận ba đời nhà mỗ, chắc chắn là mỗ có duyên phận từ kiếp trước với các lão gia. Ở đời, núi không chuyển thì nước chuyển, nước không chuyển thì người chuyển, sau này không chừng chúng ta lại có ngày trùng phùng, bây giờ thì mỗ phải cáo từ các vị ở đây!” – Nói xong, lão quay người định đi.




Tư Mã Khôi thấy vậy nhíu mày thầm nghĩ: “Hay là mình cứ nói cho Triệu Lão Biệt biết việc kiếp số trông thấy trong sa mạc, để vẹn toàn nghĩa khí hai bên từng quen biết nhau năm đó; sau này, bất kể mỗi người gặp phải kết quả thế nào, thì mình cũng không có gì hổ thẹn với lương tâm.” – Nghĩ đoạn, anh bèn trèo lên cao. Triệu Lão Biệt chưa kịp chạy thoát khỏi cửa động đã bị giật ngược trở lại.



Triệu Lão Biệt cứ ngỡ vì mình biết quá nhiều, nên mới bị hội người này giết người diệt khẩu. Lão cuống quýt nói với Tư Mã Khôi: “Ối vị thủ lĩnh ơi, cậu có muốn đoạt cái mạng già của mỗ cũng không hề gì, nhưng phải để cho mỗ nói rõ ràng mấy câu trước khi xuống suối vàng mới được. Chúng ta bèo nước tương phùng, trước giờ không thù không oán; theo lý mà nói, thì cũng không có mắc mớ gì không thể tháo gỡ được. Mỗ chưa từng làm hại các vị, đây ứng với chữ “nhân”, lại có lòng tốt khuyên các vị đừng đi tìm miếu thần, là đắc với chữ “nghĩa”, cũng theo quy tắc vòng qua đáy biển giang hồ, vậy là trọn chữ “lễ”.



Các vị hỏi gì mỗ trả lời nấy, không có điều gì biết mà không nói, hoặc nói không hết lẽ, mỗ đem tất cả những gì mình biết nói tuốt tuột cho các vị, vì thế cũng chiếm được chữ “trí”; mỗ đem hết ruột gan phơi bày trước mặt các vị, miệng không bịa đặt hay nói khống câu nào, ấy là chữ “tín”. Mỗ đây lai lịch đường hoàng đĩnh đạc, chiếm trọn cả năm chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, người bất lương không kết giao, vật bất nghĩa không thèm lấy, điều cấm kỵ không bao giờ làm, đồ trộm cắp không bao giờ ăn, nội tứ bể có người nào mà không tán dương? Thế mà các vị lão gia đây lại thất tín bội nghĩa, nỡ tâm hạ độc thủ, nên mỗ buộc phải nói với các vị mấy câu thế này: các vị thứ nhất hoại quốc pháp, thứ nhì hoại gia quy, thứ ba hoại nhân phẩm, thứ tư hoại tâm thuật, thứ năm hoại hành chỉ, thứ sáu hoại tín nghĩa, thứ bảy hoại thanh danh, thứ tám hoại…”



Tư Mã Khôi thấy đối phương thao thao bất tuyệt, trong lòng thấy không đúng lắm, bèn chặn lời Triệu Lão Biệt: “Đừng mang mấy bài cải lương cổ lỗ sĩ ra đối phó với tôi nữa. Theo như lão nói thì cổ nhân thánh hiền đều chẳng sánh kịp lão, nếu tôi thực sự muốn hạ thủ lấy cái mạng già của lão thì làm gì có chuyện lão còn sống đến tận bây giờ? Tôi đuổi theo là để nói cho lão một việc vô cùng quan trọng…”



Trong măt Triệu Lão Biệt ánh lên một tia gian manh, hỏi: “Ơ! Thế… nhầm à?” – Lão ta lòng dạ hẹp hòi, quen nghi kỵ, căn bản không chịu tin người, phát hiện lần này không bị đối phương nắm chặt mạch, bèn nhân lúc nói chuyện đột ngột chùn vai xuống, sử dụng chiêu “co xương” giãy tay một cái đã rũ được sự kìm kẹp của Tư Mã Khôi, rồi thuận thế bò ra ngoài cửa động.



Tư Mã Khôi thấy tay trống không thì biết Triệu Lão Biệt đã chuồn, anh bừng bừng lửa giận, óc vụt lóe lên ý niệm giết người, không quan tâm đến tiền nhân hậu quả gì nữa, anh thầm nghĩ: “Lúc này trừ khử Triệu Lão Biệt, chẳng phải đầu xuôi đuôi lọt hay sao, mọi sự sẽ chấm dứt ở đây.”



Triệu Lão Biệt tuy trốn nhanh, nhưng rốt cục làm sao sánh bằng tốc độ nhanh như gió cuốn của Tư Mã Khôi. Lão tự biết mình không mò được lối ra tất sẽ bị người ta tóm cổ, thế là thuận thế sử dụng tiếp chiêu “thỏ cưỡi lưng đại bàng”, hai chân đạp ngược tung liên hoàn cước rút lui ra sau.



Tư Mã Khôi không ngờ đối phương lại biết chiêu này, đành né sang một bên tránh, thấy Triệu Lão Biệt đã bò vào màn sương đen, rồi trong chớp mắt đã mất tăm mất dạng, anh chửi lớn: “Tiên sư lão tặc! Lủi cũng nhanh ghê!”



Lúc này, ba người còn lại cũng đuổi kịp tới nơi. Tư Mã Khôi biết Triệu Lão Biệt được định đoạt sẽ đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian, sự thực đã xảy ra này rốt cục không thể nào thay đổi được, nhưng số phận đội khảo cổ lại lành dữ khó lường, cho dù không thể trừ khử Triệu Lão Biệt, cũng phải từ người này mà tìm thấy cách đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian.”



Tư Mã Khôi lòng đã quyết, anh bảo đội trưởng Lưu Giang Hà ở lại trông chừng ba lô hành lý, rồi ba người đội máy thở phòng độc hình mang cá, lần lượt chui từ hai hốc mắt của người sắt bò ra vách ngoài, nhưng chỉ thấy bốn bề sương đen vây bủa, chỗ nào cũng đều là tầng bụi dày nặng giống như tro cốt, thời gian và không gian dường như không còn tồn tại. Chùm sáng đèn quặng lắp trước mũ bấc của họ chỉ soi được khoảng cách ba đến năm bước trước mặt, còn tầm nhìn ở những khe sương khí giống như cột khói đen thì vươn xa hơn một chút, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Triệu Lão Biệt đâu.




Có điều hội Tư Mã Khôi phán đoán: trong tình hình như hiện nay, có lẽ đối phương cũng không thể trốn đi quá xa. Cả hội bèn bò ra xung quanh vách tường tìm kiếm, lục soát suốt hồi lâu thì phát hiện thấy Triệu Lão Biệt quả nhiên đang nằm rạp trốn ở cách đó không xa, ba người bèn lấy tay ra hiệu mau chóng tiếp cận.



Triệu Lão Biệt cũng phát hiện có người đến gần, lúc này lão như con chim sợ cành cong, thấy đối phương muốn động thủ thật, lòng cũng hoảng cả lên, thế là lão từ vách sắt trở người lăn lông lốc xuống dưới.



Tư Mã Khôi trừng mắt nhìn Triệu Lão Biệt rơi vào sương đen, cũng không biết trong đám sương mông lung đó có thứ gì, chỉ nghe âm thanh phát ra “rầm” một tiếng, rõ ràng lão không bị rơi tuột xuống đáy, mà bị một vật thể nào đó chặn lại. Triệu Lão Biệt đau đớn khẽ rên hừ hừ.



Tư Mã Khôi thầm thấy kinh ngạc: “Xung quanh phía ngoài khối thiên thạch sắt hoàn toàn trống không, làm gì có vật gì khác tồn tại nữa nhỉ?”. Anh vội vàng lao đến nhìn cho rõ. Tư Mã Khôi lần theo hướng âm thanh truyền tới bò vào trong sương mù, phát hiện chỗ mình đặt chân là một mảnh vỏ sắt lạnh lẽo, dường như là loại máy móc gì đó, nổi bập bềnh giữa không trung. Nhưng máy móc gì có thể bay lững lờ giữa trời như vậy được nhỉ? Nghĩ đi nghĩ lại e rằng chỉ có máy bay, nhưng sao nó lại dừng lại trong đám sương đen và hoàn toàn im lìm bất động thế nhỉ?



Lúc này, Hải ngọng và Thắng Hương Lân cũng lần theo ánh đèn đuổi kịp phía sau, ba người kinh ngạc không nói nên lời, cảm thấy phía dưới chân dường như là một chiếc máy bay, nhưng vì bị sương đen che khuất tầm nhìn, nên không xác định chính xác được.



Đúng lúc đang chần chừ chưa dám tiến lên xem rõ thực hư, thì thấy Triệu Lão Biệt nấp mình trong sương mù ngay trước mặt đang chậm chạp di chuyển, Hải ngọng lập tức giương súng và lên quy lát, tuy chưa hiểu tình hình cụ thể thế nào, nhưng anh biết ý Tư Mã Khôi định bắt sống lão, bởi thế vẫn giơ cao đánh khẽ, họng súng hơi chếch lên trên nửa phân, tiếng đạn bay nghe “chíu” một tiếng, sượt qua da đầu Triệu Lão Biệt, xuyên thủng cái mũ tám vạt của lão.



Triệu Lão Biệt thất kinh biến sắc, vừa bò vừa lăn xuống nhặt cái mũ rách và quay người chạy trốn. Lão thấy cái khoang trước mặt có một khe nứt, chẳng nghĩ ngợi gì bèn chui tọt vào trong.



Nhờ chùm sáng của đèn quặng, hội Tư Mã Khôi trông thấy bóng dáng Triệu Lão Biệt thấp thoáng vụt qua rồi mất tích trong sương mù, ba người lập tức tiến thêm vài bước và cùng trông thấy khe nứt trên khoang máy bay, hai sườn đều có cửa sổ, bên trong tối thui, không có chút ánh sáng nào, nhìn kiểu gì cũng thấy nó rõ ràng là một chiếc phi cơ.



Những gì tận mắt chứng kiến lúc này quả thực đúng là một cảnh tượng khiến người ta ngộp thở, trống ngực ba người cùng đập thình thịch, bên trong mặt nạ phòng độc hơi thở của họ trở nên nặng nề, ngắt quãng, sương mù xung quanh càng lúc càng dày đặc. Ba người liên tục đưa tay gạt lớp sương dày như tro bụi lởn vởn trước mặt, mới có thể trông thấy chùm sáng của đèn quặng, hoàn toàn không thể xác định được mình đang đứng ở đâu, nhưng cảm giác chỗ dưới chân đang giẫm lên có lẽ là phần cánh máy bay, tiếp tục xuống phía dưới chỉ còn hư vô im lìm và u tối.




Trong đầu Tư Mã Khôi bập bềnh hiện lên một ý niệm: xuất hiện trong chiếc hộp thời gian không chỉ có đội khảo cổ và Triệu Lão Biệt, mà còn có chiếc Ilyushin-12 gặp sự cố hàng không ly kỳ vào năm 1963, có điều cảm giác thấy hình thù chiếc máy bay này không giống lắm, hơn nữa nó lại hoàn toàn rơi vào trạng thái im lìm bất động, vỏ ngoài bị nứt vỡ, dường như vào khoảnh khắc trước khi rơi, thì đột ngột bị đông cứng giữa tầng không vậy, rốt cục thì chuyện gì đã xảy ra với nó? Nếu nói thời gian chỉ là tham số khi sự kiện chuyển động, thì sao nó lại đứng yên bất động?



Ba người thầm kinh hãi, chui vào trong khoang tìm kiếm tung tích Triệu Lão Biệt, soi đèn quặng ra bốn phía xung quanh; những gì nhìn thấy trước mắt càng làm họ cảm thấy hồn xiêu phách lạc, hai hàng ghế dọc theo thân máy bay lấp đầy hành khách đen kìn kịt, khoảng hai ba mươi người gì đó, nhưng những người này ngồi lặng phắc như tờ, ai nấy đều lộ vẻ mặt méo mó cứng ngắc, hơi thở và nhịp tim đã ngừng từ bao giờ, tất cả chỉ là những thi thể. Trong bóng tối mịt mùng, ba người không thể nhận ra Triệu Lão Biệt trốn chỗ nào.



Hải ngọng thấy trong khoang máy bay không có sương đen, bèn gỡ thiết bị phòng độc xuống, thở hổn hển, anh kinh ngạc thốt lên: “Chỗ này rốt cục là nơi quỷ quái nào vậy? Tớ thấy cái lão Triệu Lão Biệt chắc chắn là con chồn già chui từ huyệt mộ ra, chúng ta đều bị trúng yêu thuật che mắt của nó rồi!”



Tư Mã Khôi cũng gỡ mặt nạ phòng độc trên mặt xuống, thấy cảnh tượng bốn phía xung quanh đúng là khiến người ta tim đập chân run. Anh cũng hoài nghi hay là cả bọn quả thực đã trúng phải thuật “chướng nhãn pháp”(1) của lão, có điều chiếc máy bay này chắc chắn không phải chiếc Ilyushin-12, có lẽ nó là máy bay vận tải quân dụng Douglas-C47 do Mỹ chế tạo, còn có tên gọi khác là tàu hỏa trên không, hay Hải Âu. Trước đây, Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy nó lần đầu ở Miến Điện.



(1) Chướng nhãn pháp: là thuật che mắt đối phương hoặc thay đổi hướng nhìn của đối phương.



Chiếc tàu hỏa trên không này rốt cục từ đâu mọc ra đây? Những người ngồi bên trong đã chết như thế nào? Vì sao nó lại rơi vào trạng thái hoàn toàn tĩnh tại? Thời gian trong này có bị đông cứng hay không? Nếu thứ đông cứng không phải thời gian thì chắc hẳn một điểm nào đấy phải có vấn đề, tóm lại tình hình ở đây thực sự quá mức khác thường.



Thắng Hương Lân nhìn cảnh tượng dị thường bày ra trước mắt cũng thấy vô cùng khiếp đảm, cô cố gắng khắc chế tâm lý hoảng sợ, nhắc Tư Mã Khôi: “Nhìn ký hiệu thì có lẽ nó là chiếc máy bay Hải Âu C47 bay từ Trùng Khánh đến Urumqi vào năm 1949, đường bay từ nam hướng sang tây bắc, nhưng giữa đường lại đột ngột mất tích. Mãi mười năm sau, mới có người phát hiện tàn tích của nó rơi ở rìa sa mạc Lopnor, tất cả hành khách bên trong đều đã chết, không một người nào may mắn sống sót, cũng chẳng ai hay biết vì sao nó lại đột ngột thay đổi đường bay sang hướng chính nam.”



Tư Mã Khôi lờ mờ nhớ ra sự việc này, hình như đúng là thế thật, trong đầu anh hiện lên một nghi vấn vô cùng kinh dị: “Phải chăng Triệu Lão Biệt là một trong những hành khách đã đáp chuyến bay tử thần C47 hôm đó?”. Anh nhỏ giọng hỏi Thắng Hương Lân: “Vậy thì vì sao Tesla không giải thích hiện tượng này trong nguyên lý chiếc hộp thời gian nhỉ? Thời gian, cái thứ đó đừng nói đựng trong chiếc hộp, cho dù có nhốt nó vào quan tài, thì nó cũng… không thể ngừng lại được mới đúng chứ?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 105: Hồi ba: hành trình đến địa ngục sau một giây


Lúc này, Hải ngọng đột nhiên cảm thấy tình hình không ổn, anh nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Ai nói thời gian ngừng trôi, sao tớ có cảm giác những người chết trong khoang máy bay… cứ nhìn bọn mình chằm chằm thế nhỉ?”



Nghe Hải ngọng nói, Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân bỗng dưng cảm thấy sau gáy lạnh buốt, giống như có trận gió âm vừa quét qua vậy, cũng không rõ cảm giác đó là sợ hãi hay quái dị, hoặc có khi là cả hai cũng nên, nhưng rốt cục chưa ai trong số họ từng nghe đến việc tử thi còn có thể nhìn người sống chằm chằm.



Tư Mã Khôi lấy can đảm soi đèn sang hai bên trái phải, phát hiện trong khoang đúng là có vài người chết mở mắt trừng trừng, nhưng hai con mắt đều đã bất động, đồng tử không hề có chút phản ứng nào với ánh sáng, đó chỉ là những tử thi không còn sự sống mà thôi. Anh nhỏ giọng bảo Hải ngọng: “Khả năng chỉ là ảo giác nảy sinh do cậu quá đa nghi thôi; cậu cứ nhìn chằm chằm vào mấy thi thể đó, thì tự nhiên sẽ cảm thấy chúng cũng đang nhìn cậu.”



Hải ngọng không cho rằng đó là ảo giác: “Nếu cậu không nhìn những người chết đó, làm sao biết bây giờ họ có đang nhìn cậu hay không? Hai người cứ thử nhìn kỹ lại mà xem, tuyệt đối không được chớp mắt!”



Tư Mã Khôi trầm giọng nói nhỏ: “Cậu tưởng mình là lão rùa trợn mắt nhìn hạt đậu hay sao mà lại còn tuyệt đối không được chớp mắt? Đừng để ý đến mấy xác chết đó nữa, tìm Triệu Lão Biệt quan trọng hơn, có thể lão chỉ trốn ở đâu đó quanh đây thôi.”



Nhưng cả ba người đều phát hiện thấy khoang máy bay C47 ngập tràn không khí cổ quái, kỳ bí. Trước khi thăm dò rõ tình hình, ai dám mạo hiểm chui sâu vào trong khoang lục soát.



Lúc này, Thắng Hương Lân bạo gan thử sờ động tĩnh mạch của hai xác chết ngồi hai bên, cô hoàn toàn không phát hiện thấy bất kì phản ứng nào của sự sống, nhưng hai thi thể đó không hề cứng đờ, mà dường như chỉ mới chết chưa lâu. Cô định thần suy nghĩ, trong lòng chợt cảm thấy vô cùng hãi hùng: “Những người này tuy rằng không còn hơỉ thở và nhịp tim, nhưng dường như vẫn còn sống…”.




Hải ngọng cảm thấy lạ lùng khó hiểu: “Không còn hơi thở và nhịp tim mà lại có thể sống sao? Chẳng lẽ là thi thể sống?”



Tư Mã Khôi dường như lại hiểu ra điều gì đó, chiếc máy bay vận tải Hải Âu Douglas-C47 mất tích ở ven hoang mạc Lopnor vào năm 1949, có lẽ cũng gặp sự cố trên không nào đó giữa đường, khiến cho khoang máy bay bị nứt toác. Nó là chuyến bay tử thần sắp đáp xuống vực sâu dưới địa ngục, nhưng trong khoảnh khắc trước khi rơi xuống, nó bỗng dưng xuất hiện trong chiếc hộp với trạng thái hoàn toàn tĩnh tại.



Thời gian trong này ngưng tụ bất động, giống như đoạn băng của một bộ phim đang phát sóng thì bị kẹt vậy, thậm chí ngay cả hơi thở và nhịp tim của toàn bộ hành khách trong khoang cũng đơ luôn tại trận, bởi vậy mới khiến người ta có cảm giác tất cả hành khách đều là những tử thi hoàn toàn không có hơi thở và nhịp tim, tuy rằng giờ khắc này đã tiệm cận cái chết.



Tư Mã Khôi tự thấy mọi sự kỳ lạ trên cõi đời mà mình từng trải qua, thì đây là cảnh tượng kỳ lạ nhất. Trước đây, khái niệm về thời gian của anh vẫn còn khá mơ hồ, mãi cho đến hai ngày trước, anh mới biết nếu không có sự kiện phát sinh, thì căn bản không có sự tồn tại của thời gian. Bởi vậy thời gian không phải một loại vật chất cụ thể nào đó, cũng tuyệt đối không thể xuất hiện tình trạng thời gian tĩnh tại, trừ phi thiên địa trời đất lại quay trở về thời kỳ hỗn độn thuở ban đầu.



Vậy mà, chiếc Hải Âu C47 đột ngột xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, lại hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh tại, ngoại trừ dùng cụm từ “thời gian đông kết” để hình dung ra, thì liệu còn có nguyên lý nào đủ sức giải thích cho hiện tượng này? Nhưng nếu nói thời gian ngưng trệ, không trôi chảy nữa, thì vì sao mấy thành viên trong đội khảo cổ đây, và cả Triệu Lão Biệt đang trốn trong khoang máy bay, lại vẫn có thể hoạt động bình thường?



Nếu nói ẩn số lớn nhất của bản thân loài người là số mệnh, thì ẩn số lớn nhất trong cõi đời chính là thời gian. Từ xưa, tiền nhân đã lý giải rất sâu sắc về thời gian “Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi, có chờ đợi ai…”. Vốn dĩ Tư Mã Khôi cũng có đôi chút nhận thức về bản chất của thời gian, nhưng giờ khắc này lòng anh tràn đầy nghi hoặc, anh phát hiện mình căn bản không thể lý giải ý nghĩa đích thực của thời gian.



Hải ngọng càng lơ mơ mờ tịt hơn, anh hoàn toàn không hiểu Thắng Hương Lân nói gì, nhưng cũng vẫn hỏi một câu: “Thời gian, cái thứ ấy nhìn không thấy, sờ không được, chẳng lẽ nó có thể đứng im không trôi được sao?’’



Thắng Hương Lân vẫn kiên định với quan điểm ban đầu của mình thời gian không thể nào đứng lại, nếu thời gian không trôi nữa, thì có lẽ đó là sự ngừng hoạt động theo phương diện phân tử, thậm chí ngay cả ánh sáng cũng sẽ biến mất, cơ thể con người không thể có bất kỳ cảm xúc tri giác và tư duy nào nữa, bởi vậy chỉ cần không gian vẫn tiếp tục duy trì, thì thời gian không thể nào đông cứng.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều cảm thấy kì lạ chính ở điểm này. Theo lý thuyết, nếu thời gian không thể đứng lại, thì cảnh tượng trước mắt rốt cục phải giải thích thế nào? Dường như thời gian là thứ mà phải có vật tham chiếu mới cảm nhận được; vật tham chiếu của ba người chúng ta chính là “tôi, anh và cô ấy”, còn nếu vật tham chiếu là những người đã chết, đang ngồi bất động trong khoang máy bay, thì lúc ấy thời gian coi như bị đông cứng, hơn thế nữa nó còn tĩnh lặng thâm trầm hơn cả cái chết. Phải chăng điều này có thể lý giải là: thời gian của đội khảo cổ và Triệu Lão Biệt vẫn bình thường, chỉ có thời gian của Hải Âu C47 mới đột nhiên đứng lại mà thôi?



Thắng Hương Lân nói: “Sự giải thích hợp lý duy nhất chính là tốc độ. Bởi vì thời gian không tồn tại tiêu chuẩn duy nhất. Tương tự như vậy, cùng bị lạc trong chiếc hộp thời gian, nhưng tốc độ của đội khảo cổ và C47 hoàn toàn không giống nhau.”



Thắng Hương Lân biết rõ thuyết chiếc hộp thời gian của Tesla chỉ là một suy đoán, tất cả nguyên lý liên quan đến nó đều là giả định, mà Tesla đặt ra sau khi căn cứ vào tất cả những suy luận, định luật vật lý đã biết. Tesla suy đoán chiếc hộp hoàn toàn thoát ly khỏi tọa độ thời gian, và thời gian trong chiếc hộp đó tự mình hình thành nên một hệ độc lập. Nếu hình dung một cách chính xác hơn, thì chiếc hộp có lẽ là những sự kiện trong các điểm tọa độ thời gian đã bị một nhân tố không xác định nào đó bóp méo vào nhau. Bản thân chiếc hộp giống như chiếc đồng hồ cát không có đáy, những hạt cát bên trong trôi xuống hoàn toàn mất tính phương hướng và khả năng đảo hướng, nó tan biến như mây khói trong hắc động, vĩnh viễn không thể phục hồi tồn tại.



Bởi vậy, không phải đội khảo cổ gặp được Triệu Lão Biệt đã chết, cũng không phải Triệu Lão Biệt gặp được đội khảo cổ đến từ năm 1974, mà mọi người, cũng như chiếc Hải Ẩu C47 bị rơi, đều đang trải nghiệm “hiện tại” phát sinh trong chiếc hộp. Có điều, từng đối tượng bước vào chiếc hộp bằng các con đường khác nhau, nên trải qua tốc độ vật lý của sự kiện cũng không giống nhau. Đối với đội khảo cổ, thời gian trôi trong vài giờ, nhưng đối với Hải Ẩu C47, khoảng thời gian đó có lẽ chỉ là khoảnh khắc mấy giây trước khi họ bị rớt xuống đáy vực.




Giờ đây, chiếc hộp mà mọi người đang đúng ở bên trong, khả năng là sóng động được hình thành do lực từ cực manh dồn ép xuống không gian với vận tốc vô cùng lớn lúc xảy ra vụ nổ thiên thạch dưới lòng đất. Chúng ta chưa thể xác định những hiện tượng mất tích thần bí, thường xuyên xảy ra ở hoang mạc Lopnor liệu có phải tất cả đều liên quan đến điều này không. Nhưng căn cứ vào cả chuỗi tình huống mà chúng ta đã gặp, có thể suy đoán: việc đội khảo cổ lẩn trốn sương đen trong biển cát, việc Triệu Lão Biệt đơn thương độc mã hành động, và việc chiếc máy bay Hải Âu C47 lệch đường bay, bản thân mỗi đối tượng này đều là những sự kiện tồn tại độc lập; chúng lần lượt tương ứng với ba sự kiện “sự kiện biệt bảo”, “sự kiện khảo cổ” và “sự kiện tai nạn hàng không”.



Ba sự kiện vốn dĩ tồn tại độc lập này, bị một lực thống nhất nào đó bện thành một sự kiện có hình xoắn ốc trong chiếc hộp thời gian, bởi vậy bất kể đối tượng nào từ thiên thạch sắt nhảy xuống đều sẽ rơi vào trong chiếc máy bay Hải Âu C47 đang trong quá trình rơi này, khái niệm thông thường về không gian không còn thích hợp trong chiếc hộp nữa.



Thắng Hương Lân biết rõ, ngay trong một chốc một lát thì khó có thể giải thích cho Tư Mã Khôi và Hải ngọng hiểu rõ được khái niệm phức tạp này, vậy nên cô đành chỉ nói khái quát rằng nguyên nhân cơ bản là do tốc độ không đồng nhất tạo nên: “Tốc độ của Triệu Lão Biệt và đội khảo cổ đồng nhất hoặc gần bằng nhau, bởi vậy lão không thể là hành khách từng đáp chuyến Hải Âu C47 tử thần năm ấy.



Nhưng bây giờ, chúng ta sẽ không kịp tìm thấy Triệu Lão Biệt nữa đâu, bởi vì thời gian trong chiếc hộp sẽ chảy cạn bất cứ lúc nào, mọi sự kiện bị xoắn vào với nhau đến lúc đó sẽ phân tách ra, chiếc Hải Âu C47 chắc chắn sẽ rớt xuống ven rìa hoang mạc, toàn bộ hành khách đều chết hết, sự kiện này đã xảy ra ngay từ năm 1949, đó là một sự thực không thể nào thay đổi. Nếu chúng ta không mau chóng rời khỏi đây, thì đội khảo cổ phải đối mặt với hai kết quả, thứ nhất là chúng ta sẽ bị hắc động tiêu diệt sau khi chiếc hộp biến mất, thứ hai là trở thành những kẻ tử nạn trong sự cố rơi máy bay Hải Âu C47.”



Hải ngọng nghe mà tim ớn lạnh: “Thì ra bản phất của thời gian chính là tốc độ vật lý gì đó, không những thế tốc độ này còn không giống nhau. Chẳng trách mình vẫn nghe các cụ ở quê thường bảo ‘một ngày trên trời bằng một năm ở hạ giới’, quan điểm này đâu phải hoàn toàn là mê tín và vô căn cứ”.



Anh quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Cả hai cách chết đều thảm quá, chọn cách nào cũng đau hết cả đầu, theo Hải ngọng tớ thấy, rừng còn thì sợ gì thiếu củi đốt, chứng ta cứ mặc kệ Triệu Lão Biệt đó đi, mau rút khỏi đây thôi!”



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, trong chiếc hộp tồn tại ít nhất hai lối ra, bởi vì Triệu Lão Biệt và chiếc máy bay Hải Âu C47 cuối cùng đều không bị hắc động nuốt chửng, nhưng hai lối thoát đó, một lối sinh, còn một lối tử, trong khi tương lai của bọn họ thì lại không thể đoán trước được. Thân máy bay Hải Âu C47 đã nứt vỡ, sau khi rời khỏi chiếc hộp, nó sẽ rơi xuống tan tành. Nếu tiếp tục ở lại trong khoang, có lẽ chỉ một giây sau, cả đội sẽ bị nó mang xuống hiện trường vụ tai nạn máy bay.



Trước mắt, kẻ duy nhất có thể sống sót rời khỏi chiếc hộp thời gian là Triệu Lão Biệt, thì lại đang trốn trong khoang máy bay, nếu đội khảo cổ không thể tìm thấy lão, có nghĩa sẽ phải đối mặt với kết cục khủng khiếp không thể tưởng tượng được. Tình thế hiện, tại vô cùng căng thẳng, sinh mệnh của mỗi người đều treo trên sợi chỉ mành, rốt cục nên tiếp tục tìm Triệu Lão Biệt hay nghĩ cách tìm lối ra khác, bây giờ phải lập tức đưa ra sự lựa chọn.



Tư Mã Khôi ý thức được rằng bản thân đang ở trong vòng tuần hoàn khép kín do chiếc hộp tạo ra, không ai có thể thay đổi được sự thực đã bị tiết lộ, bởi vì quá khứ không thể thay đổi, nhưng đội khảo cổ có thể lợi dụng sự thực này. Bất kể bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, nhưng tóm lại là Triệu Lão Biệt đã tiết lộ bí mật về tòa thành Nhện Vàng cho Nấm mồ xanh, vậy thì đội khảo cổ có thể cố ý để lại một ám hiệu trong những bí mật tiết lộ cho lão, sau này, ám hiệu đó sẽ trở thành một quả bom tin tình báo, rồi từ đó vạch trần bộ mặt thật sự của kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh.



Có điều, tình huống tự dưng lại diễn biến hết sức phức tạp, Tư Mã Khôi cũng vừa mới nảy ra ý tưởng này, bởi vậy anh buộc phải tìm thấy Triệu Lão Biệt, giả vờ tiết lộ thêm một số bí mật, tạo quả bom tin tình báo, chiêu này gọi là: “đào giếng trước khi khát, sửa nhà nhân trời nắng”. Chính vì vậy, anh quyết định mạo hiểm vào sâu trong khoang máy bay Hải Âu C47 tiếp tục lục soát, đồng thời bảo Hải ngọng và Thắng Hương Lân rút lui trước, sau này sẽ gặp nhau ở chỗ đội trưởng Lưu Giang Hà, nghĩ cách tìm lối thoát ra khỏi chiếc hộp.



Hải ngọng không yên tâm bỏ Tư Mã Khôi ở lại một mình, anh chỉ sợ bạn sẽ không bao giờ trở về nữa, thế là bèn tìm lý do: “Cái lão già đó đúng là còn ma mị hơn cả bọn chồn tinh, một mình cậu chỉ e không dễ bắt sống nó đâu.”



Thắng Hương Lân cũng nói: “Chúng ta tiến cùng tiến, lui cùng lui, trước tiên cứ tìm thấy Triệu Lão Biệt rồi tính sau”.



Tư Mã Khôi phát hiện thấy trong khoang xuất hiện sự thay đổi rất nhỏ, dường như tốc độ dần dần gia tăng, có lẽ thời gian trong chiếc hộp sắp đi đển điểm tận cùng, có điều chỉ cần Triệu Lão Biệt vẫn còn ở đây, thì chiếc hộp chắc chắn sẽ không biến mất. Lúc này, anh không muốn nói thêm gì, chỉ gật đầu đồng ý, ba người đang định chia nhau lục soát trước sau khoang máy bay, thì đột nhiên nghe thấy một tiếng động nhỏ vọng lại từ bóng tối phía trước, dường như là tiếng đóng mở ván gỗ. Âm thanh đột ngột xuất hiện trong khoang máy bay im lìm như cõi chết, thật sự khiến người ta sởn gai ốc, ba người nghe rất rõ ràng, tim chùng xuống một nhịp.




Tư Mã Khôi và Hải ngọng lập tức giương súng lên, Thắng Hương Lân cũng lên quy lát khẩu K54, ba chùm sáng của đèn quặng và ba họng súng đồng thời dõi cả về hướng đó. Nhưng khoang máy bay đen kìn kịt toàn ngưòi, tầm nhìn bị che khuất, nên không thể phát hiện được nơi phát ra âm thanh ở chỗ nào, chỉ phỏng đoán: có lẽ Triệu Lão Biệt đang trốn trong khoang sâu rồi bất cẩn chạm phải thứ gì đó, mới gây ra tiếng động. Cả ba lập tức xông lên lục soát.



Tư Mã Khôi đi trước, anh phát hiện chỗ gần khoang lái có đặt một cái hòm sơn đen bằng gỗ trầm, vẻ bề ngoài của nó rất cổ xưa, có vẻ niên đại đã cách đây khá lâu, hai mặt cạnh gắn những hình trang trí cổ bằng đồng, dán bùa giấy màu vàng nhạt và dải niêm phong, lớp sơn cũ nát và bong tróc quá nửa, bề mặt còn dính vết đất, dường như mới được khai quật cách đây không lâu, hình thù khá giống với tủ kệ đặt trên giường đất ở nông thôn, nắp hòm bị cậy một khe hở rất lớn, mép niêm phong đã bị xé rách.”



Chiếc tàu hỏa trên không Douglas C47 do Mỹ chể tạo, cung cấp cho chính phủ Quốc dân Đảng theo hiệp ước cho mượn thời chiến, phía trên còn in hai chữ US và biểu tượng huy hiệu nền xanh sao trắng, nó bay từ Trùng Khánh đến Urumqi vào năm 1949, sau đó đột ngột thay đổi đường bay, rơi xuống hoang mạc Lopnor. Vào thời điểm đó, khu vực Tây Nam, Tây Bắc vẫn chưa giải phóng, chiếc Hải Âu C47 chủ yếu đảm nhận nhiệm vụ vận chuyển quân sự, chứ không phải máy bay chở khách thông thường, nên không hiểu vì nguyên cớ gì mà trong khoang lại chứa chiếc tủ kệ bằng gỗ trầm có nguồn gốc dân gian này. Hội Tư Mã Khôi chỉ suy đoán, bên trong có lẽ là đồ cổ của một vị chỉ huy cấp cao nào đó lén chở về, chắc Triệu Lão Biệt hoảng quá nên trốn bừa vào trong hòm rồi, nhưng khi xúm lại soi đèn xem, thì thấy trong hòm trống hoác.



Tư Mã Khôi thấy trong hòm gỗ trầm không có thứ gì, cũng không để ý tới nó thêm nữa, mà tiếp tục tiến thẳng vào khoang lái, lục soát đến đây vẫn không thấy tăm hơi Triệu Lão Biệt đâu cả, trừ khi lão ta có khả năng tự dưng biến mất giống như kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh mất tích trong mật thất, néu không chắc chắn lão ta đang ở khoang lái.



Ba người đi thêm mấy bước, thấy mũi máy bay bị hư hỏng nghiêm trọng, nhìn vết tích thì rõ ràng là nó đã đụng độ với nhiễu động khí, cửa sổ bênh cạnh vỡ toang, hai viên phi công máu me đầm đìa khắp mặt, phọt cả óc ra ngoài. Triệu Lão Biệt vốn trốn trong hòm gỗ trầm, phát hiện thấy mọi người bắt đầu lục soát tới đây, thì đành chạy vào khoang lái. Lão len lén đẩy một chiếc túi da lớn qua cửa sổ và định chui vào đó để ra ngoài. Vừa quay đầu lại đã thấy Tư Mã Khôi đứng lù lù sau lưng, lão sợ quá hồn vía bay hết lên mây, đạp vào xác chết của viên phi công trèo vội ra ngoài cửa sổ bên canh.



Hải ngọng hét to một tiếng, chạy lên định tóm lão, nhưng đúng lúc này khoang máy bay chợt rùng lắc dữ dội, dường như bị rơi vào trạng thái mất áp lực trên cao, mọi người chưa kịp chuẩn bị, bất giác mất thăng bằng, ngã bổ nhào ra đất, trong phút chốc không thể giằng co bật dậy ngay được.



Triệu Lão Biệt bị một lụồng khí chuyên động cực mạnh bao trùm khắp người, cuốn văng vào cửa sổ bị vỡ bên mạn, lão cảm thấy cuồng phong đang đẩy mình xuống hắc động,, bất giác mặt vàng như nghệ, vội vàng chìa bàn tay sáu ngón về hướng Tư Mã Khôi, khản giọng ra sức cầu cứu: “Các vị lão giạ, ngàn vạn lần không thể khoanh tay ngồi yên, thấy chết mà không cứu, mỗ đây còn có chuyện trọng đại chưa kịp nói, nếu bây giờ mỗ phải về chầu tổ tiên thì các vị vĩnh viễn không biết được kẻ đó đâu…”



Tư Mã Khôi gắng sức giữ thăng bằng, định thò tay ra bắt lấy tay Triệu Lão Biệt, nhưng anh vừa mới giơ tay, thì cả thân mình lão đã bị hất văng ra ngoài cửa sổ, giống như chiếc lá bị gió cuốn xuống cửu tuyền, thoáng chốc đã mất dạng trong bóng tối, giữa bầu hư không sâu thăm thẳm chỉ còn vọng lại tiếng gào thét thất thanh, sau đó không biết tung tích lão ra sao nữa.



Cùng lúc đó, khoang máy bay bắt đầu rung lắc nghiêng ngả với biên độ lớn, trong quầng mây đen và sấm sét ì ùng, chỉ nghe thấy dòng khí đối lưu kêu ù ù, thân máy bay phát ra tiếng nứt toác nặng nề của kim loại.



Ba người biết đại cục đã đến, dù có cầu khấn gì cũng không xoay chuyển được, thời gian trong chiếc hộp đã hết, họ đang bị chuyến bay tử thần an bài một đi không trở về, mang xuống hiện trường của vụ rơi máy bay mười mấy năm về trước.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 106: Hồi bốn: vòng tuần hoàn chết


Lúc này, khi chiếc Hải Âu C47 bắt đầu xuất hiện tình trạng nghiêng ngả rung lắc dữ dội, Tư Mã Khôi biết tình hình không ổn, thời gian giống như một dòng sông trôi êm đềm nhưng chỉ cần ào ra khỏi bờ, dòng nước sẽ lập tức trở thành những con sóng dữ điên cuồng gào thét ùa về biển khơi, chẳng ai dự đoán được bên trong dòng nước ngầm hung dữ kia sẽ tồn tại thứ gì, thời gian trong chiếc hộp cũng đã trôi chảy đến điểm tận cùng, mọi người sẽ theo chiếc Hải Âu bị mất tích năm 1949 từ hắc động rơi thẳng xuống sa mạc Lopnor và trở thành một phần của sự kiện tai nạn hàng không năm đó.



Hải ngọng chửi rủa: “Mẹ kiếp! Cả đời tổng cộng ngồi có hai lần máy bay thì cả hai đều bị rơi.”



Tư Mã Khôi cảm thấy thân máy bay nghiêng mạnh, nhưng quay đầu nhìn các hành khách đang ngồi sau khoang, thấy các tử thi vẫn không hề có phản ứng gì, xem ra không phải chiếc hộp biến mất mà là chiếc hộp đang trôi dần vào hắc động.



Lúc này nắp thùng gỗ trong khoang bị tuột xuống, bay thẳng vào Tư Mã Khôi, anh giơ tay đỡ, vô tình nhìn thấy mặt dưới cái nắp có khắc chìm hình vẽ các vì sao, nên nghĩ: “Có lẽ vật này không phải đồ cổ mà là một loại thiên thạch dùng để thờ cúng rồi.”



Thắng Hương Lân đứng ngay cạnh cũng nhìn rõ mồn một, cô từng căn cứ vào thuyết suy đoán chiếc hộp thời gian của Tesla, để suy đoán bốn kết quả mà đội khảo cổ có thể phải đối mặt tiếp theo. Thứ nhất là tìm được cách thoát thân từ chỗ Triệu Lão Biệt, thứ hai là trở thành kẻ tử nạn trong chiếc Hải Âu C47, thứ ba là bị động tối nuốt chửng hoàn toàn sau khi chiếc hộp tan biến, thứ tư là dựa vào năng lực chính mình, tìm thấy lối thoát trong chiếc hộp.



Nhưng giờ đây nghĩ lại, thấy trong đó còn đề cập đến nguyên tắc phản biện. Theo thuyết suy đoán của Tesla, thì một người tuyệt đối không thể gặp một phiên bản khác của chính mình. Bởi vậy hai kết quả đầu khả năng không thể trở thành hiện thực. Là những sự kiện tương đối độc lập, bị vặn vào nhau trong chiếc hộp, nhưng mỗi sự kiện đều có chất lượng và trọng lực riêng của nó, ví dụ Triệu Lão Biệt còn sống, vĩnh viễn không thể xuất hiện trong mọi tọa độ thời gian của đội khảo cổ, lão căn bản không hề nắm trước được cách thoát ra khỏi chiếc hộp, nhưng bản thân lão lại là một lối ra, cũng chính vì việc lão sống sót thoát ra ngoài là kết quả sớm đã tồn tại từ trước, cho nên tất cả logic và nguyên nhân phức tạp đều được hình thành trên nền kết quả này.



Thắng Hương Lân nghĩ đến đây, lập tức nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, phải mau chóng rời khỏi khoang máy bay, sau đó nghĩ cách tìm kiếm lối ra, nhưng cho dù có tìm thấy lối ra trong chiếc hộp, thì sau đó bị nó dẫn đến nơi nào, chúng ta căn bản cũng không thể xác đinh trước được. Có điều, Triệu Lão Biệt khả năng đã nhờ khối thiên thạch mà lão tiện tay cuỗm được trước đó, nên mới may mắn thoát chết rời khỏi đây. Đội khảo cổ ngay từ đầu đã sơ suất bỏ qua tác dụng của thiên thạch sắt, người sắt đứng sừng sững trong biển cát cả vạn tỉ năm, ngoại trừ tác dụng dẫn đường trong vực sâu tăm tối, thì nó còn là tọa độ cố định, bất biến vĩnh hằng duy nhất trong sóng triều thời gian, nếu trở về khối thiên thạch sắt sẽ không bị hắc động nuốt chửng.




Tư Mã Khôi ngẫm thấy không sai, lúc này tình thế vô cùng cấp bách, anh không nghĩ ngợi gì nữa, bèn kéo Hải ngọng đang ngã sóng soài trên sàn máy bay đứng dậy, đeo mặt nạ phòng độc, theo đường cũ rút lui về khe nứt trên thân máy bay, rồi bò ra ngoài cánh. Lúc này sương đen dày đặc đã bắt đầu tản mát, nhưng soi đèn quặng ra tứ phía xung quanh, mọi người đều cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng.



Tốc độ vật lý của chiếc Hải Âu C47 đang tò từ tiệm cận trạng thái đứng yên trong chiếc hộp, nhưng điều đó chỉ là tương đối khi xét trên hệ quy chiếu với tốc độ của hội Tư Mã Khôi mà thôi, còn trên thực tế nó vẫn đang tiếp tục vận hành, giờ lại chịu sự ảnh hưởng của dòng nhiễu động khí, cánh máy bay dần dần rời khỏi vị trí cũ. Trong không gian u tối mịt mùng, cả hội không nhìn thấy khối thiên thạch sắt nằm ở đâu nữa, bốn phía chỉ là vực sâu không đáy, bây giờ ai dám xả thân nhảy xuống dưới?



Ba người đang bó tay bất lực, đột nhiên chợt thấy trong bóng tối, nơi phần đuôi máy bay, thấp thoáng một chùm sáng yếu ớt, nhờ nhờ trắng. Tư Mã Khôi thầm nghĩ chắc đó là ánh đèn quặng của đội trưởng Lưu Giang Hà, lúc này không thể hô hoán hét gọi, anh đành dùng đèn quặng phát tín hiệu liên lạc.



Đội trưởng Lưu Giang Hà ngồi đợi mãi trong huyệt động không thấy mọi người về, trong lòng không khỏi phát hoảng. Lúc này đang thò người xuống quan sát, thấy phía dưới có ánh đèn quặng nhấp nháy, anh chàng bèn khua đèn mấy vòng tròn, biết đó là tín hiệu cấp cứu, anh chàng lập tức tìm dây thừng có móc câu tiếp ứng.



Ba người bắt được sợi dây thừng gắn móc câu, bò về huyệt động trên nóc thiên thạch sắt. Cả hội còn chưa kịp đứng vững, thì nghe phía xa có tiếng sấm đánh ùng ùng, liền sau đó sét rọi sáng lòa cả vực sâu, chiếc Hải Âu C47 đã hoàn toàn biến mất. Bóng tối mênh mông bỗng nứt toác vài đường khe, từ đó xuất hiện một dải đỏ thẫm thâm u, bên trong có hàng trăm con mắt chi chít lạnh băng và quái dị. Phía sau vòng tuần hoàn chết, dường như có tồn tại một sức mạnh kinh dị nào đó thật khó tưởng tượng, nó lẩn trong hắc động, bóp méo thời gian, khiến người ta hồn xiêu phách lạc, không dám nhìn vào.



Mọi người dựng ngược lông tóc, ba hồn bảy vía lơ lửng chín tầng mây. Không ai xác định được thứ mình vừa nhìn rốt cục là gì, chỉ có điều trong khoảnh khắc đó, dường như bị ai đó dùng búa sắt đập một nhát chí mạng vào giữa ngực, cảm giác tựa hồ ngộp thở vì tuyệt vọng, lại tựa hồ như sự khiếp sợ sâu sắc đối với bóng tối và những điều chưa biết trong tiềm thức con người.



Trải qua thời khắc đó, màn bụi giống như lốc tố dần dần tan biến theo mây khói, bốn phía lại trở về trạng thái tĩnh lặng, nhưng kim la bàn vẫn không quay về thời điểm 12 giờ 30 phút, nó vẫn tiếp diễn thời gian trong chiếc hộp và không ngừng trôi chảy. Không thể xác định tọa độ thời gian có phục hồi như cũ hay không, càng không biết vận mệnh của đội khảo cổ ngày sau có lún vào một vòng tuần hoàn chết khác lớn hơn hay không.



Bây giờ, suy tưởng lại những sự việc trước đây, mọi người đều cảm thấy u mê mê, như vừa trải qua một cơn mơ, không thể tin mình mới trải qua một đoạn thời gian căn bản không hề tồn tại, rồi gặp gỡ Triệu Lão Biệt – kẻ đáng ra đã chết cách đây nhiều năm, nhưng tất cả rõ ràng không phải ảo giác do hội chứng địa áp gây ra.



Bốn người thầm hoang mang trong lòng, đợi khi định thần hơn một chút, họ mới bò từ trên đỉnh đầu người sắt xuống biển cát, thấy tứ phía vẫn đen mù mịt không hề thay đổi. Tư Mã Khôi lại leo lên người sắt còn lại để tiến hành thăm dò, nhưng cũng không có phát hiện nào khác. Lúc quay trở lại, thấy ba người đang kiểm tra lại tư trang, dự tính nếu dựa vào lượng lương thực và nguồn pin hiện tại thi chỉ đủ duy trì thêm vài ngày nữa.



Tư Mã Khôi nói với đội trưởng Lưu Giang Hà: “Ban nãy may mà nhờ chú em tiếp ứng kịp thời, nếu không cả lũ bọn anh đã đi đời rồi còn gì. Anh ghi cho chú một công đấy!”



Hải ngọng nói: “Xem ra đồng chí đội trưởng của chúng ta cũng khá đáng tin đấy nhỉ! Đúng là đồng chí đã vượt qua thử thách. Anh dự đoán sau này trở về, chí ít chú mày cũng phải giật được cái huân chương hạng nhất, thông báo biểu dương trước toàn quân chỉ là chuyện vặt vãnh, còn huân chương anh hùng chiến đấu vẻ vang thì chú mày đừng kỳ vọng làm gì, bởi vì thứ đó không phải vinh dự dành cho người sống đâu.”



Đội trưởng Lưu Giang Hà cực kỳ xem trọng chuyện lập công trong quân ngũ, các anh em trong nông trường du mục đều đã lập công, điều đó có nghĩa là họ có cơ hội được đề bạt, từ tiểu đội trưởng trở lên thì mới coi là cán bộ, nếu được đề bạt thì có thể sẽ ở lại mãi mãi trong quân đội, chuyện tìm vợ nhờ thế cũng dễ dàng hơn nhiều. Đây chính là điều mà bao người ngày ước đêm mong, nhưng bây giờ nghe hội Tư Mã Khôi nói vậy, tuy rằng đúng là có tương lai thật, nhưng anh không dám tham vọng mình sống sót chui khỏi lòng đất mà trở về với quê hương bản quán. Không chỉ vậy, anh còn cảm nhận sâu sắc nỗi sợ hãi và sự nghi hoặc; khi nãy chỉ còn lại một mình trong động tối, anh sợ đến nỗi hai bắp chân cứ run lên bần bật, nói theo cách của đại đội trưởng Mục thì đúng là chết tiệt, xem ra ý chí cách mạng của mình vẫn chưa đủ kiên định.



Hải ngọng nói: “Đừng quên sức mạnh vô cùng vô tận của tấm gương, chỉ cần sau này chú mày chịu khó học hỏi anh nhiều hơn một tí là được. Anh Hải ngọng từ xưa đến nay rất chú trọng nuôi dưỡng phẩm chất anh hùng cá nhân, thế nào gọi là anh hùng hảo hán hả? Anh hùng hảo hán là phải một bữa ăn tám cái màn thầu, rồi mang về nhà ăn thêm hai cân thịt bò nữa…”



Tư Mã Khôi nói: “Vớ vẩn! Để tôi nói cho các cậu nghe anh hùng là cái gì, anh hùng chính là thà chịu thịt nát xương tan, cũng không được thỏa hiệp với cái thế giới thối như đống cứt chó này.”




Đội trưởng Lưu Giang Hà nghe hai vị đàn anh đàm luận cao kiến, chỉ biết đờ ra như con chim gỗ, ngẩn tò te không chêm vào đựợc câu nào.



Thắng Hương Lân nói với ba người: “Ba người tụi anh châu đầu lại mà không bàn luận được chuyện gì có ý nghĩa hơn sao?”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, từ khi đội khảo cổ bắt đầu bước chân vào Đại Sa Bản, mỗi ngày đều trải qua như thể ngày tận thế, bây giờ đã đi đến nước này, thì cũng đành gắng cố sức xoay vần đến cùng mà thôi, bởi vì vòng tuần hoàn chết trong chiếc hộp đã trở thành quá khứ, nó giống như nút thắt không thể tháo gỡ trong số mệnh, giờ đây thứ còn lưu lại ở hiện thực chỉ còn kết quả, bất kể anh có cam tâm tình nguyện hay không, thì vẫn phải chấp nhận kết quả xuất hiện trong vòng tuần hoàn chết.



Kết quả này chính là: đội khảo cổ đã vô tinh tiết lộ một phần bí mật có liên quan đến sóng điện u linh, chiếc tàu hỏa trên không Douglas rơi xuống sa mạc Lopnor vào năm 1949, Triệu Lão Biệt bất ngờ đánh cắp được tin tinh báo và thứ gì đó trong khoang máy bay, rồi câu kết với đội thám hiểm Pháp thâm nhập cực vực Lopnor, sau cùng bỏ mạng dưới Hắc Môn do chịu ảnh hưởng của hội chứng địa áp. Mãi tới những năm gần đây, người ta mới dần dần nhận thức được căn bệnh này, còn trước những năm 50, thế giới hoàn toàn chưa có khái niệm gì về nó. Bởi vì các huyệt động dưới lòng đất trước đây cùng lắm chỉ sâu mấy trăm mét, còn lâu mới đạt đến độ sâu vuợt quá phụ tải của địa áp, lúc đó phạm vi thăm dò dưới lòng đất của con người còn vô cùng có hạn. Khi Triệu Lão Biệt câu kết với người Pháp tìm kiếm báu vật trong sa mạc Lopnor, lão căn bản không hề hay biết trên thế giới lại tồn tại một hiện tượng chí mạng đến thế, bởi vậy mới không đề phòng gì.



Nhưng từ kết quả này lại nảy sinh ra hàng loạt ẩn số mới, cơ bản đều quy về ba manh mối chủ yếu: thứ nhất là, Triệu Lão Biệt đã chết ở sa mạc Tân Cương vào giữa những năm Dân quốc, vậy thì vì sao lão ta lại hiện thân lần nữa ở Trường Sa, Hồ Nam vào thời gian sau giải phóng? Cùng một người sao lại chết những hai lần? Vả lại, lúc Triệu Lão Biệt chạy thoát khỏi chiếc hộp thời gian, rõ ràng lão đã tiện tay cuỗm đi cổ vật gì đó trong khoang máy bay C47, rồi cuối cùng lão vẫn chưa nói cho đội khảo cổ một chuyện tôi quan trọng: tất cả những điều này có liên quan đến Nấm mồ xanh hay không? Và Triệu Lão Biệt đã tiết lộ tin tình báo sóng điện u linh cho Nấm mồ xanh như thế nào?



Thứ hai là, kẻ cầm đầu tổ chức ngầm mấy tháng trước đã lấy được sóng điện u linh trong mật thất ở thành Nhện Vàng, nắm được bí mật về thông đạo, thông đạo này cũng xác định là có thật trên đời. Vậy thì Nấm mồ xanh chắc chắn sẽ đi tìm miếu thần, không biết giờ này hắn đã thực hiện đến đâu rồi; ngoài ra, thân phận thực sự của kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh và cả kết cấu, quy mô của tổ chức này đều được giấu kín như bưng.



Những nghi vấn đó cho đến lúc này vẫn chưa thể giải đáp, giờ đây đội khảo cổ vào sâu trong lòng đất, cũng chỉ biết dựa vào tấm biển chỉ đường cổ xưa, tiếp tục tiến vào nơi tận cùng của biển cát, tìm ra những sự thật mà họ chưa biết. Tung tích đội khảo sát liên hợp Liên Trung biến mất năm 1958, cội gốc của long ấn triều Hạ và cổ quốc Diệt Hỏa, cỗ tàu ngầm Z-615 bị mất tích của Liên Xô, tất cả dường như đều liên quan đến nó. Có thể nói, những ẩn số không thể giải thích như những tán lá đan cài chằng chịt vào nhau, còn ngôi miếu thần ở gần tâm Trái Đất mới là gốc cây đúng nghĩa, chỉ cần đội khảo cổ nhổ được gốc cây ấy, thì toàn bộ ẩn số sẽ tự khắc được giải đáp, bởi vậy chúng ta phải loại bỏ mọi suy nghĩ không liên quan, đặt trọng tâm hành động và điểm nhìn vào tuyến đường thứ ba này.



Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi phân tích, thấy tư duy của anh rất sáng suốt, mạch lạc, sách lược cũng tương đối hợp lý, nhưng nếu đi vào hành động cụ thể thì vô cùng gian nan, có quá nhiều nhân tố không thể xác định. Vì đội khảo cổ chỉ biết ngôi miếu thần nằm ở khu vực chưa biết gần tâm Trái Đất, còn cực vực chỉ là không động nằm ở giữa lớp vỏ và lớp phủ, mà cả đội vẫn chưa thể xác định điểm tận cùng của biển cát thực sự có ngôi miếu thần hay không. Nghe Triệu Lão Biệt nói thì trong miếu thần có lẽ còn tồn tại thứ gì đó vô cùng đáng sợ, nhưng rốt cục nó là thứ gì, thì e rằng chỉ một mình kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh mới biết chân tướng.



Ngoài ra, mọi vết tích trong cực vực dưới lòng Trái Đất đều thể hiện rõ là lòng đất che giấu cội gốc của cổ quốc Diệt Hỏa, đó là nền văn minh cổ đại sinh tồn ở nơi sâu trong hang đất, bắt đầu xuất hiện vào thời kỳ ba triều đại Hạ Thương Chu, sau đó di chuyển dần xuống dưới, từ lưu vực sông Hoàng Hà. Những ghi chép lịch sử về nó hoàn toàn để trắng. Dấu tích long ấn triều Hạ kỳ lạ, cổ xưa từ hơn ngàn năm trước đã không còn ai biết đến, nghe nói ở An Huy có một tấm bia mà Văn vương dùng để trấn thần sông, mặt bia vẫn còn sót lại long ấn triều Hạ. Đồng chí Quách Mạt Nhược(1) phải mất khoảng thời gian ba năm mới đọc được ba từ trong đó, mà còn không biết đồng chí ấy có đọc chính xác hay không. Sự tồn tại của miếu thần chắc chắn liên quan đến cổ quốc nằm dưới lòng đất này.



(1) Quách Mạt Nhược: (1892 – 1978) là nhà văn, nhà biên kịch, nhà thơ, nhà sử học, nhà nghiên cứu ngôn ngữ cổ, chuyên gia thư pháp, học giả, nhà hoạt động xã hội lỗi lạc, người mở đầu cho phong trào thơ mới của Trung Quốc.



Thắng Hương Lân thậm chí còn có dự cảm không lành, trong khoảnh khắc chiếc hộp biến mất, đội khảo cổ dường như nhìn thấy một sinh vật đáng sợ mọc hàng trăm ngàn con mắt dưới vực sâu. Nó ẩn mình trong hắc động giữa các khe nứt thời gian, chẳng rõ nó có liên quan đến miếu thần không? Trong khi đó, bốn thành viên may mắn sống sót lúc này thì có hai thành viên khảo cổ với lai lịch không rõ ràng, lại không có thẻ công tác, một anh đội trưởng liên lạc thông tin không dây và một cô kỹ sư trắc họa địa chất, mà thiếu hẳn chuyên gia khảo cổ đích thực; nên nếu dựa vào năng lực và trang thiết bị hiện giờ thì cho dù có sống sót được đến lúc tìm thấy miếu thần trong lòng đất, chắc cũng không thể giải được những điều kì bí ẩn chứa bên trong.



Tư Mã Khôi thấy lời Thắng Hương Lân nói có lý, những sự việc không thể biết và cũng khó lòng đoán định đó đúng là khiến đội khảo cổ cảm thấy đuối sức. Nhưng trước khi Tư Mã Khôi theo giáo sư Nông địa cầu tham gia đội khảo cổ, anh từng là thành viên cốt cán của sư đoàn đặc vụ quân đội Cộng sản Miến Điện, nếu nói là đam mê với lịch sử hay nhiệt huyết với công tác khảo cổ, thì tất cả đều chỉ là tự gạt mình dối người, nhưng nếu luận về kinh nghiệm quân sự như giết người, phá nổ, thì anh lại vô cùng thông thuộc. Bởi vậy, anh không hề bận tâm đến việc có thể giải mã được ẩn số ngôi miếu thần dưới lòng đất hay không, cùng lắm là liều mạng hủy luôn bí mật trong ngôi miếu thần cho rồi.



Hải ngọng liên miệng khen diệu kế, cứ để con chồn tinh Nấm mồ xanh mừng hụt một phen, chỉ nghĩ đến đây cũng đã cảm thấy hả lòng hả dạ.



Thắng Hương Lân đoán: tổ tông hoặc sư phụ truyền nghề cho Tư Mã Khôi chắc cũng không phải hạng lương thiện, nếu không thì làm sao anh ta lại biết ngón tuyệt kỹ lục lâm như bọ cạp leo tường. Đó là những thủ đoạn mà chỉ bọn sơn tặc trên núi, thủy tặc ngoài hải đảo, hay bọn phóng hỏa giết người, cướp thành vây trại mới giỏi mà thôi; hơn nữa, anh lại có thói quen sử dụng phương thức cực đoan để giải quyết vấn đề. Nhưng bây giờ đúng là cũng chẳng còn đối sách gì khác, đành nghe theo lời Tư Mã Khôi mà hành sự vậy, nên nếu không thể giải mã được bí mật trong miếu thần, thì sẽ hủy hoại nó một cách triệt để tóm lại là cố gắng đi trước Nấm mồ xanh một bước, hy vọng mọi chuyện đến lúc này vẫn chưa quá muộn.




Có điều Thẳng Hương Lân vẫn dặn dò Tư Mã Khôi: “Nếu giáo sư dưới suối vàng mà biết, chắc chắn bác ấy sẽ không đồng ý đâu, bởi vậy chỉ trường hợp vạn bất đắc dĩ chúng ta mới hành động theo kế hoạch này thôi đấy!”



Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, vì nếu nói anh hoàn toàn không muốn biết bí mật của miếu thần thì cũng là dối lòng. Gần đây Tư Mã Khôi cứ ngẫm đi nghĩ lại mãi một vấn đề, rốt cục phải bí mật kinh người đến dường nào mới đáng để tổ chức ngầm – được sự hỗ trợ của thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, không tiếc mọi giá thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong? Anh trầm ngâm suy tưởng mãi mà vẫn không tìm ra lời giải, nên bất giác tự hỏi lòng: “Vì sao vách ngoài của ngôi miếu lại có màu xanh sẫm, phải chăng… nó là bưu điện?”



Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi nói vậy, chợt bừng hiểu ra: “Ơ, có lý đấy, sao tớ không nghĩ ra nhỉ?”



Thắng Hương Lân nói: “Thế mà các anh cũng nghĩ ra được, đừng có ngồi đó đoán bừa! Khí áp dưới lòng đất càng xuống sâu càng thấp, tôi thấy mây khí tượng sắp gây ra lốc tố đến nơi rồi đấy!”



Vết thương cũ trên vai Tư Mã Khôi lại bắt đầu ngâm ngẩm đau, biết khả năng lòng đất lại tụ tập mây khí tượng, anh giục mọi người mau khởi hành.



Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà phát hiện ra máy phát sóng ngắn dường như có phản ứng, chắc là trong lúc sắp xếp lại tư trang, anh chàng vô tình chạm phải nút khởi động, có điều việc máy bắt được tín hiệu dưới lòng đất thì hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.



Tư Mã Khôi thấy vậy hỏi: “Khi Che Guevara (2) tham gia Cách mạng thế giới ở châu Phi, cũng là lúc đồng chí ấy dùng máy phát sóng ngắn do Liên Xô chế tạo để liên lạc với bác Fidel ở mãi Cuba xa xôi. Nghe nói chỉ trong một giây, nó có thể tải mật mã Morse (3) lượn bảy vòng rưỡi quanh Trái Đất, nhưng nó cũng rất dễ bị nhiễu sóng bởi các nhân tố địa lý và khí tượng. Chẳng lẽ độ sâu dường này dưới lòng đất, mà vẫn có thể bắt được tín hiệu điện sóng từ thế giới bên ngoài sao?”



(2) Che Guevara: tên đầy đủ là Emesto Guevara de la Sema (1928 – 1967) sinh ra ở Argentina. Ông là nhà cách mạng theo Chủ nghĩa Mác-Lê nin vĩ đại, đồng thời ông còn là bác sĩ quân y, nhà văn, nhà lý luận, chỉ huy quân sự nổi tiếng. Ông là nhân vật hạt nhân của Cách mạng Cu ba và là nhà chinh trị quốc tế, là biểu tượng của sự đấu tranh, của tình nhân ái chống lại áp bức và nghèo đói trên toàn thế giới.



(3) Mã Morse (Moóc-xơ): là một loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morsedùng một chuỗi đã được chuẩn hóa, gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp.



Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà báo cáo: “Thủ trưởng, tôi thấy nó không phải thông tin điện báo có nội dung, mà chỉ là một tín hiệu định vị nào đó, đang ở cách đội khảo cổ chúng ta không xa lắm.” – Anh chàng vốn vụng về khoản diễn đạt, nên đành dẫn đường cho mọi người đi về phía trước.



Hội Tư Mã Khôi đều muốn biết rốt cục có chuyện gì xảy ra, bèn theo chân anh chàng đội trưởng đi về hướng Tây Nam, bốn bề chỉ thấy mênh mông cát vàng, cảnh vật vắng vẻ cô tịch khác thường. Tín hiệu định vị thần bí với lai lịch bất minh kia, có lẽ bị vùi lấp dưới tầng cát, cứ cách mấy phút nó lại xuất hiện một lần, điểm khởi nguồn chắc chỉ nằm đâu đó dưới chân mà thôi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 107: Hồi năm: máy phát sóng ngắn


Tư Mã Khôi nghĩ, nếu tín hiệu định vị xuất hiện ở dưới chân, thì điểm khởi nguồn của nó chắc chỉ tồn tai hai khả năng, thứ nhất là từ đội khảo sát liên hợp Liên Trung bị mất tích, thứ hai là từ tàu ngầm Z615 một đi không trở lại giữa biển khơi.



Bởi công dụng của máy phát sóng ngắn rất rộng lớn, thêm vào đó công suất lại cực nhỏ, chỉ cần đặt trước tần số cố định, nó có khả năng phát sóng ngắn hẹn giờ liên tục suốt nhiều năm, nên trong các hoạt động như hàng không hay hàng hải, người ta đều lắp đặt thiết bị này để tiện cho phân đội tìm kiếm cứu hộ xác định chính xác phương hướng bằng tín hiệu định vị, mỗi khi máy bay hoặc tàu thuyền gặp nạn.



Anh ngẫm nghĩ: tín hiệu định vị bên dưới tầng cát tám chín phần là của đội khảo sát liên hợp Liên Trung mất tích năm 1958; khả năng này tương đối lớn, vì rốt cục đội khảo sát phải hoạt động trong vực sâu tối om dưới lòng đất, mang theo thiết bị phát sóng ngắn cũng là điều dễ hiểu. Nhưng sau khi đội khảo sát gặp nạn, họ đã bị vùi thân trong biển cát suốt mười mấy năm, nếu bây giờ có đào lên thì chắc cũng chỉ còn những bộ xương khô mà thôi. Có điều, bây giờ đã phát hiện thấy họ, thì không thể nhắm mắt làm ngơ được, thế là cả đội khoanh vùng phạm vi rồi tiến hành đào bới hố cát để tìm kiếm di hài. Quả nhiên, đào chưa sâu đã trông thấy bên dưới tồn tại một vật thể, có điều nó không phải là hài cốt của người chết.



Khi bới hết lớp cát phủ ngoài lên, đưa đèn quặng soi vào bóng tối thì thấy bề mặt lớp vỏ của vật thể lạnh ngăn ngắt, mọi người càng cảm thấy bất ngờ hơn, dường như đó là cỗ tàu ngầm chiến đấu cấp Z, số hiệu 615, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy có vẻ không giống lắm, bởi vì vật thể tuy không nhỏ nhưng chắc chắn không thể bì được thể tích to lớn của con tàu ngầm, mà lượng thoát nước lên đến 2475 tấn.



Bây giờ chỉ có thể xác định bộ phận lộ ra bên dưới tầng cát là vỏ kim loại, hai đầu mất hút, chưa trông thấy đâu cả, bên trong có một thiết bị định vị đang không ngừng phát tín hiệu. Tuy chưa phân biệt được nó rốt cục là vật thể gì, nhưng nhìn hàng chữ Nga in ở vỏ ngoài thì biết nó chắc chắn không phải vật thể cổ xưa giống như thiên thạch.




Tim Tư Mã Khôi chợt đập mạnh, anh nhớ đến quả bom địa chấn của Anh bị kích nổ trong núi Dã Nhân, nỗi sợ hãi trong anh đến giờ vẫn chưa tan. Lúc này nhìn thấy vật thể ló ra khỏi tầng cát, chỉ e lại là một quả bom địa chấn nữa, thậm chí có thể là thứ còn khủng khiếp hơn, như bom hạt nhân chẳng hạn. Tư Mã Khôi vội dặn mọi người phải đào bới cẩn thận, ngộ nhỡ chạm phải kíp nổ của nó, thì cả đội chỉ có nước bay thẳng xuống thành Hàm Oan mà khảo sát.



Ba người còn lại nghe Tư Mã Khôi nhấn mạnh một cách đặc biệt nghiêm trọng như thế, đều không dám lơ là, người nào người nấy đều cẩn thận, khẽ khàng cào đất từng chút từng chút một, như các nhà khảo cổ khai quật văn vật vẫn làm.



Mọi người nín hơi, không dám thở mạnh, mất hơn nửa giờ sau mới từ từ làm sạch được lớp cát bám trên thân vật thể. Toàn bộ vật thể đã lộ ra ngoài, hình dáng của nó đúng là có vẻ giống một trái bom cỡ lớn, thể tích cũng không thua kém bom địa chấn trong máy bay chiến đấu của quân Anh là bao, có điều vỏ ngoài lại phủ lớp nhôm, bề ngoài trông có vẻ giống với khoang thuyền hình trụ hơn là trái bom, vả lại bên ngoài còn được buộc chặt bằng dây.



Tư Mã Khôi bây giờ mới biết mình khi nãy sợ bóng sợ gió, cái hộp nhôm cỡ lớn này chắc là khoang bổ sung, được buộc dù hạ cánh, thả từ động đạo kính viễn vọng Lopnor xuống dưới, bị dòng khí đối lưu trong động sâu hoạt động liên tục đã đẩy nó ra xa mục tiêu cần đến, trong khoang có lắp đặt thiết bị sóng ngắn định vị để đội khảo sát liên hợp dễ bề tìm kiếm.



Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khoang thuyền này được niêm phong nguyên vẹn, rõ ràng là sau khi từ trên không bay xuống đây, chưa hề bị ai động đến, túi hiệu bên trong cũng chưa xuất hiện hỏng hóc, vậy thì vì sao đội khảo sát không đến tìm nó?”



Tư Mã Khôi phỏng đoán: “Chắc là khi ở trên thả khoang vật tư bổ sung này từ động đạo xuống, thì đội khảo sát đã mất tích được nhiều giờ rồi. Sau khi trạm thám trắc dưới lòng đất mất liên lạc với đội khảo sát không lâu thì kế hoạch kính viễn vọng Lopnor lại bị gác lại, đồng thời do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác, nên buộc phải từ bỏ công tác tìm kiếm, họ đành thả khoang vật tư này xuống dưới, nếu đội khảo sát có ai may mắn sống sót, thì sẽ có cơ hội tự cứu sống mình sau khi tìm thấy nó…”



Hải ngọng không quan tâm đến vấn đề chính sự, anh chỉ nóng lòng muốn biết trong khoang đựng thứ gì, bèn nhanh tay vừa dùng dao săn rạch mép niêm phong, vừa quay sang hỏi đội trưởng: “Chú mày có biết đội khảo cổ chúng ta có đặc điểm gì không?”



Đội trưởng Lưu Giang Hà không đoán được ý Hải ngọng muốn hỏi gì, đành gãi đầu đáp: “Chúng ta khả năng là… là thiếu kinh nghiệm công tác.”



Hải ngọng nói: “Chú mày là con gà mờ thiếu kinh nghiệm thì có. Đặc điểm lớn nhất của đội khảo cổ chúng ta chỉ gói gọn trong một chữ thôi: nghèo!”. Hải ngọng miệng nói tía lia, tay cũng không ngừng bận rộn, khoang thuyền bổ sung ném từ trên cao xuống chỉ bọc mỗi cái vỏ nhôm, thì làm sao ngăn được tài tháo dỡ thoăn thoắt của Hải ngọng, nên chỉ trong chốc lát anh đã bật tung được cái nắp khoang hình trụ. Đội trưởng Lưu Giang Hà lên trước trợ giúp Hải ngọng chuyển hàng trong khoang và kiểm đếm các loại vật tư. Tư Mã Khôi thấy bên trong đúng là toàn đồ hộp, lương khô, dược phẩm, không khác những thứ mà họ phát hiện thấy trong kho chứa đồ ở trạm thám trắc dưới lòng đất là mấy, chỉ thêm mấy cuộn pháo sáng nối dài, pháo tín hiệu, kíp nổ nhanh do Liên Xô sản xuất, thậm chí còn có cả mấy khẩu súng xung phong đĩa quay PPS đã được bôi dầu, hòm đạn được nhét đầy đầu đạn vàng chóe.




Hội Tư Mã Khôi thấy trong khoang bổ sung có vũ khí thì dũng khí phút chốc tăng lên không ít. Không động dưới lòng đất được hình thành do vụ nổ thiên thạch, mật độ dưỡng khí còn cao hơn cả bề mặt Trái Đất; trong hàng vạn tỉ năm tiến hóa, chắc có biết bao nhiêu hình thái sinh mạng kỳ dị, phức tạp, đa phần đều không phải là vật trên cõi đời, mà đội khảo cổ chỉ có mỗi khẩu súng trường cổ lỗ sĩ, đạn cũng chẳng còn mấy viên. Bây giờ, đang sầu não vì không biết phải làm sao để đối phó với chuyến thám hiểm dưới lòng đất thập tử nhất sinh này, thì lại tìm thấy trang thiết bị vũ khí niêm phong nguyên vẹn, thật chẳng khác nào đang đau đầu được uống liều thuốc an thần đặc hiệu.



Hải ngọng lập tức quẳng luôn khẩu thần công đời cũ đi một cách không thương tiếc, như người ta quẳng một đôi giày đã rách nát, tiện tay giương khẩu PPS, kiểm tra toàn bộ linh kiện bên trong, thấy mọi thứ vẫn hoạt động tốt như thường, bèn khen: “Thằng cha tiểu liên PPS-43 này, không biết mình bao năm chưa gặp nó rồi!”



Tư Mã Khôi biết khẩu súng xung phong PPS-43 của quân đội Liên Xô cơ bản đã bị đào thải từ cuối những năm 50, khi đó khẩu tự động AK-47 đã xuất hiện hàng loạt trong quân đội Liên Xô, nhưng thời kỳ đầu chiến tranh giữa quân Mỹ với miền Bắc Việt Nam, loại vũ khí này vẫn được sử dụng hết sức rộng rãi. Đoàn chuyên gia Liên Xô không thể cung cấp vũ khí trực tiếp cho đội khảo sát, có lẽ loạt súng này trang bị cho bộ đội trong nước. Khẩu PPS-43 tuy rằng đời hơi cũ một chút, nhưng được cái là lượng đạn trong ổ đạn nhiều, tốc độ bắn về mặt lý thuyết khá cao, cấu tạo đơn giản nhưng lại rất bền, không lo thời tiết nóng lạnh.



Nó từng trải nghiệm qua sự khảo nghiệm tàn khốc của chiến trường phía Tây trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt trong môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất hay trong địa đạo, tính năng chiến thuật và hiệu suất công vụ của nó có thể vượt xa súng trường bán tự động, bởi vậy anh bảo đội trưởng Lưu Giang Hà cũng vứt luôn khẩu súng đang cầm đi và đổi sang khẩu PPS-43.



Nhưng khẩu súng trường bán tự động K54 của đội trưởng Lưu Giang Hà là vũ khí tiêu chuẩn được đơn vị cấp phát, nên anh chàng không chịu tùy tiện vứt bỏ, Tư Mã Khôi cũng chẳng thể ép được, đành mặc kệ anh chàng.



Sau đó, mọi người lại lục thấy một bộ ván trượt cát, có thể đặt cả ba lô lên đó, kéo lê trên cát, như vậy sẽ nhẹ hơn vác trên người mà hành quân rất nhiều, ngoài ra còn mang theo một số lương khô để tích trữ.



Mọi người cố gắng găm pháo tín hiệu, pin đèn, lương thực ép càng nhiều càng tốt, ngoài ra còn mang theo mấy băng đạn và hai cuộn thuốc nổ phòng khi cần kíp, bởi chẳng ai biết nhiệm vụ thám hiểm dưới lòng đất lần này còn phải kéo dài bao lâu, nên cứ phải “tích lương lúc no, cầm ô lúc nắng” vậy.



Hải ngọng lật tung đáy khoang, lại tìm thấy một số trang phục. Trang bị sống còn nhất khi đi dã ngoại đầu tiên phải kể đến chính là quần áo. Thời kỳ những năm 50, mối quan hệ hai nước Trung Quốc – Liên Xô còn hữu hảo, Liên Xô từng tặng phía Trung Quốc loại quần áo chiến đấu trên sa mạc kiểu mới, có điều số lượng vô cùng có hạn, chưa bao giờ phân phát rộng rãi trong quân đội cả.



Kỳ thực, loại quần áo đặc chế để chiến đấu trong sa mạc này được Liên Xô cải tiến theo chất liệu và kiểu dáng của quân phục Đức thời thế chiến thứ hai: quần áo đồng màu vàng nhạt, kẻ xiên, chất vải thô, lót lớp vải chống thấm, thoát khí, tính năng hút nhiệt, chống quang phổ năng lượng mặt trời cực mạnh, tính năng chống bám bẩn và mài mòn cũng rất tốt. Thành phẩm sau khi mài rửa gia công, chất liệu thô cứng sẽ trở nên mềm mại, tăng thêm sự thoải mái cho người mặc. Kiểu dáng khá tiện lợi, cạnh sườn đơm hàng cúc, cổ rộng, cổ áo gấp to, phía sau gắn mũ, phát huy hiệu quả chống gió và chống thấm nhất định, hai bên lại may túi chiến thuật kiểu bốn túi đối xứng, mỗi đặc điểm đều thể hiện tính năng ưu việt và ý tưởng thiết kế xuất sắc.




Có điều, lần này thứ quan trọng nhất mà cả đội thu hoạch được chính là đồng hồ đo đạc trọng lực và từ trường, mà Thắng Hương Lân tìm thấy trong khoang. Loại thiết bị này vô cùng chính xác, nó không to hơn chiếc la bàn quân dụng là bao, nhưng có thể trực tiếp thăm dò tình hình hàm lượng sắt, đá, hoặc từ trường trong không động dưới lòng đất, ngay cả khí áp và độ sâu cũng đều đo được. Có nó trong tay thì không cần dựa vào viên xà từ để định vị phương hướng nữa.



Mọi người tìm thấy vật tư quan trọng trong khoang thuyền bổ sung thì đều cảm thấy vững dạ hơn rất nhiều, từ trước đến giờ tâm lý tuyệt vọng dường như bủa vây tuyệt đối tinh thần mỗi người, giờ đây cảm giác ấy cuối cùng cũng được giải tỏa ít nhiều. Cả đội như được tiếp thêm niềm tin và dũng khí để tiếp tục chuyến hành trình xuống lòng đất sâu.



Tư Mã Khôi nhận thấy, khí áp trong lòng đất càng lúc càng xuống thấp, nhìn đồng hồ thì thấy cả hội loăng quăng một lúc mà đã mất đến hai giờ đồng hồ. Sau khi chỉnh trang thu dọn hành lý, cả đội lại tiếp tục lên đường.



Không ngờ, đúng lúc này lại xuất hiện biến cố. Thì ra đội trưởng Lưu Giang Hà đã tìm thấy thiết bị phát sóng ngắn trong khoang thuyền bổ xung, nhưng sau khi tắt nút công tắc, anh lại phát hiện dưới lòng đất vẫn tiếp tục tồn tại tín hiệu sóng ngắn, hơn nữa đoạn tín hiệu này vô cùng kì lạ, bởi vì sóng ngắn định vị thông thường, theo thông lệ chỉ sử dụng tín hiệu đơn tiết, không có nội dung cụ thể, nhưng sóng ngắn truyền đến từ nơi sâu trong biển cát lại khá kì quặc.



Tư Mã Khôi vốn là người dám mạo hiểm, bây giờ lại có vũ khí, nên anh càng bừng bừng khí thế, bởi vậy anh không mấy bận tâm đến phát hiện mới của đội trưởng Lưu Giang Hà: “Khoang thuyền bổ sung mà còn lắp thiết bị tín hiệu định vị, thì đội khảo sát liên hợp đương nhiên phải mang thiết bị thông tin phát sóng ngắn chứ. Tôi đoán nguồn tín hiệu đầu bên kia có lẽ chính là vị trí cuối cùng mà đội khảo sát đi đến, cho dù bây giờ tất cả các thành viên đều lâm nạn tử vong, nhưng tín hiệu liên lạc thì vẫn có thể tiếp tục phát sóng. Có điều, khu vực nằm giữa trạm thám trắc và cực vực tồn tại lớp mây mù dày đặc, nên lúc trong động đạo chúng ta mới không bắt được túi hiệu, bây giờ chúng ta có thể căn cứ vào tín hiệu đó để tiến hành định vị, tìm kiếm địa điểm đội khảo sát tử nạn.”



Thắng Hương Lân cảm thấy nghi hoặc, cô hỏi Lưu Giang Hà: “Khi nãy anh nói đoạn mật mã Morse có chút kỳ quặc, rốt cục là ý gì?”



Đội trưởng Lưu Giang Hà giải thích, tín hiệu định vị phổ thông thường không có nội dung cụ thể, mà chỉ là một đơn âm tiết bất kỳ “tạch” hoặc “tè”, nhưng tín hiệu nhận được từ sâu trong lòng đất lại là một tổ hợp các mật mã Morse tạo thành, nội dung của nó hết sức đơn giản va rõ ràng: ‘Tôi là 615, không được đến gần tôi”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 108: Hồi sáu: kẻ đứng đầu tiên bên trái hàng thứ hai


Tư Mã Khôi nghe đội trưởng liên lạc báo cáo nội dung mật mã Morse, thì cuối cùng cũng rõ vì sao anh chàng lại nói đoạn tín hiệu đó vô cùng kỳ quặc.



Căn cứ vào tình hình đội thám hiểm nắm bắt hiện giờ, thì ngay từ năm 1953, đội tàu ngầm thứ 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, có một chiếc tàu ngầm cấp Z chạy bằng động cơ diesel, mang theo hai quả tên lửa ra khơi, do thiết bị lái tàu mất kiểm soát nên con tàu đã mất tích giữa đại dương. Con tàu ngầm chiến thuật đó mang số hiệu 615.



Không biết khi đó người Liên Xô đã nhận được tin tình báo gì, mà lại phán đoán con tàu Z-615 xuất hiện dưới lòng đất sa mạc Lopnor. Để bảo vệ bí mật về tên lửa ngầm, họ đã thỏa thuận với phía Trung Quốc, cùng tiến hành kế hoạch kính viễn vọng Lopnor, khoan đào khu vực đó thành động đạo sâu mười ngàn mét.



Nhưng qua phương pháp viễn thám từ trường, thì trong không gian, nằm giữa điểm gián đoạn Moho, không hề tồn tại dấu tích con tàu ngầm của hải quân Liên Xô, mà thay vào đó lại bất ngờ phát hiện thấy hai vật thể bằng sắt thần bí.



Thế là, năm 1958 hai nước cử đoàn khảo sát liên hợp gồm 22 thành viên, xuống lòng đất chấp hành nhiệm vụ thám trắc thực địa, đồng thời kiêm nhiệm luôn việc tìm kiếm tàu ngầm Z-615. Sau đó đội khảo sát liên hợp cũng mất tích dưới lòng đất, và hoàn toàn mất liên lạc với trạm thám trắc trong động đạo, rồi quan hệ hai nước Trung Quốc — Liên Xô bắt đầu xuất hiện sự rạn nứt, toàn bộ kế hoạch buộc phải đóng băng. Cho đến tận bây giờ, vẫn chưa có bất kỳ ai biết rõ toàn bộ chân tướng của sự việc này.



Tín hiệu mật mã Morse mà đội khảo cổ thu được trong lòng đất, nếu đúng là phát ra đoạn mã có nội dung, lại không dùng ám ngữ bảo mật, thì chắc là đến từ con tàu ngầm Z-615 bị mất tích, nhưng nó dường như là một lời cảnh báo rất đặc biệt, chứ không phải tín hiệu cấp cứu, cũng có thể con tàu ngầm đã mất tích ở tít nơi sâu trong biển cát.




Có điều, hội Tư Mã Khôi không thể phán đoán tín hiệu định vị đó, liệu có phải là cạm bẫy hay không, bởi vì đặc vụ của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh giờ đây vẫn có thể đang ẩn trốn bên trong kính viễn vọng Lopnor. Nếu đúng là chiếc tàu ngầm Z-615 phát tín hiệu cảnh bảo, thì có nghĩa là cả đội đang sắp phải đối đầu với nguy hiểm bất ngờ không thể lường được. Biết rõ không còn con đường sống, nên trước khi tử thần đang rộng vòng tay thâu tóm tất cả sinh mạng, họ mới phát sóng ngắn để thông báo cho các phân đội cứu hộ từ bỏ công tác tìm kiếm, không nên tiếp cận họ.



Nhưng khi đã nhận được tín hiệu thần bí này dưới lòng đất, thì khó mà khiến người ta bỏ qua sự tồn tại của nó, huống hồ việc tìm kiếm cỗ tàu ngầm Z-615 mất tích, tìm kiếm đội khảo sát liên hợp lâm nạn, làm rõ cội gốc cổ quốc Diệt Hỏa, tìm lời giải cho ẩn số miếu thần dưới lòng đất, vốn dĩ đều nằm trong kế hoạch đã định của đội khảo cổ. Bởi vậy, sau khi biết tình hình này, Tư Mã Khôi lập tức hỏi cặn kẽ đội trưởng Lưu Giang Hà về phương pháp tìm kiếm tín hiệu sóng ngắn.



Lúc này đội trưởng chỉ biết vị trí đại khái của tín hiệu, khoảng cách lại không rõ ràng, nhưng điểm phát đi tín hiệu lại đồng nhất với phương hướng mà người sắt hoa tiêu mãi mãi hướng về.



Giờ đây, đội khảo cổ không thể dự đoán, thứ gì tồn tại trong bóng tối nơi tận cùng biển cát dưới lòng đất. Nhưng cho dù lúc này thực sự đã nhận được túi hiệu sóng ngắn của tàu ngầm Liên Xô, thì mọi người vẫn khó mà tin nổi nó thật sự xuất hiện ở nơi này. Bởi rốt cục kẽ hở thời gian, được tạo ra do ảnh hưởng của vụ nổ thiên thạch nằm sâu trong lục địa, dường như vẫn chưa động chạm tới khu vực bên ngoài Lopnor, nên cả đội căn bản không thể tưởng tượng nổi: tại sao con tàu Z-615 bị mất tích tận ngoài khơi Thái Bình Dương xa xôi, làm cách nào lại phiêu dạt được đến tận đây.



Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Ngay cả tổng thống Mỹ Nixon còn đến thăm Trung Quốc nữa là, thời này còn chuyện gì không thể xảy ra được cơ chứ? Còn về vị trí phát ra tín hiệu sóng ngắn, có phải đến từ con tàu ngầm mất tích hay không, thì buộc phải trinh thám trực tiếp mới rõ được. Nhưng tôi có dự cảm rất không lành, nên đến lúc đó chúng ta hành sự cần hết sức thận trọng, tuyệt đối không được lơ là đâu đấy!”



Ba người còn lại đều cho là phải, rốt cục nhiệm vụ chủ yếu của chuyến hành động này là tìm kiếm cội gốc cổ quốc Diệt Hỏa dưới lòng đất, nếu thực sự không tìm thấy con tàu Z-615, thì cũng không cần phải miễn cưỡng quá.



Mọi người lập tức tiến hành xác định phương hướng bằng thiết bị trắc họa và la bàn. Cả đội khoác khẩu tiểu liên PPS trên lưng, kéo ván trượt cát, tiếp tục xuất phát vào biển cát.



Đội khảo cổ tiến sâu vào bóng tối, xung quanh vẫn chỉ một màu đen tuyệt đối, nên cảm thấy biển cát nhấp nhô, trải dài vô tận. Bầu không gian tĩnh mịch và địa hình đơn điệu dễ khiến người ta cảm thấy tinh thần mệt mỏi mơ màng muốn ngủ.



Đội trưởng Lưu Giang Hà liên tiếp mấy ngày nay đều rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh và lo lắng quá độ, nên suốt thời gian nghỉ ngơi dường như không chợp mắt được chút nào. Lúc này anh chàng vừa đi vừa ngủ gật, lăn cả xuống sườn cát mà không hề hay biết, may mà hội Tư Mã Khôi kịp thời phát hiện, mới không bị lạc mất. Ở nơi này mà chỉ cần rớt đội thì cũng đồng nghĩa với mất mạng.



Lúc trước, cả đội đã mất khá nhiều thòi gian ở khoang thuyền bổ sung, hơn nữa dưới lòng đất nguy hiểm mai phục tứ bề, hạ trại giữa biển cát rất nguy hiểm, bởi vậy Tư Mã Khôi không dám bảo mọi người dừng bước, thậm chí phải vừa đi vừa ăn, đến khi nào chạm trán với lốc tố mới được dừng lại. Giờ đây, anh vừa phải đề phòng động tĩnh xung quanh, vừa bảo mọi người nói chuyện với đội trưởng, không lỡ anh chàng lại tụt lại sau như lần trước.



Sau khi đội khảo cổ tìm thấy trang thiết bị vật tư, tâm trạng bi quan tuyệt vọng trước đây đã có chút chuyển biến tốt, như thể nhìn thấy tia nắng mặt trời giữa màn sương đen, thậm chí còn cảm giác có cơ hội thành công để hoàn thành nhiệm vụ, sau đó sống sót trở về. Những ngày này trải qua biết bao biến cố, mỗi người đều ngầm thẩm định lại nhân sinh quan của bản thân tự trong tiềm thức, bởi vậy cả nhóm vô hình chung đã bàn luận đến vấn đề: nếu có thể sống sót trở về, thì ngày sau sẽ làm gì?



Hải ngọng cũng không có tâm nguyện gì lớn lắm, anh chỉ muốn nếu tìm thấy cỗ tàu ngầm Z-615 và ngôi miếu thần dưới lòng đất, cũng giống như những người tìm thấy xác ướp người phụ nữ ở Mã Vương Đôi, chắc chắn sẽ được thò mặt lên trang nhất của Quang Minh nhật báo, và nếu có thể bon chen vào tầng lớp viên chức, kiếm được đồng lương cấp bậc mười bảy, thì coi như anh cũng xứng đáng với ông bố La Vạn Sơn.




Cha mẹ Thắng Hương Lân đều sớm qua đời, vừa biết ở Anh có người chị họ, chưa kịp gặp mặt thì chị ấy đã không còn, cô không có gì phải vướng bận nữa cả, nếu được sống sót trở về, cô sẽ quay lại đội trắc họa làm việc như cũ, nếu không thì còn biết đi đâu bây giờ? Cô hỏi Tư Mã Khôi ngày sau định tính thế nào, hay vẫn cùng Hải ngọng tiếp tục ở lại đội khảo cổ?



Tư Mã Khôi biết rõ khả năng đội khảo cổ có thề sống sót quay về là vô cùng mờ mịt, chắc chỉ một phần vạn mà thôi, vì không có khoang giảm áp của Liên Xô, thì chỉ riêng hội chứng địa áp cũng đủ cướp đi sinh mạng của cả đội. Giờ đây ngay cả đường lui cũng hoàn toàn bị cắt đứt, huống hồ anh và Hải ngọng còn bị dính chất độc màu da cam ở khu rừng rậm Bắc Miến, e rằng có trở về cũng chẳng thể sống thêm bao lâu nữa. Bây giờ anh sống ngày nào biết ngày đó, chỉ muốn nhanh chóng tìm ra tên cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh, hoàn toàn xóa sổ món nợ này, bởi vậy anh chưa khi nào ngẫm nghĩ tới chuyện tương lai.



Có điều “hy vọng” vẫn đúng là thứ mà người ta cần nhất trong cơn tuyệt cảnh, cho dù đó có thể chỉ là thứ hy vọng căn bản không thể thực hiện được. Tư Mã Khôi cảm thấy mình sống suốt ngần ấy năm, mà vẫn chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa, nên anh cũng không biết mình rốt cục có thể làm gì trong cái xã hội này. Sau khi từ Miến Điện trở về, may mà được giáo sư Nông thu nhận, cứ ngỡ từ nay về sau sẽ có công việc đàng hoàng, nào ngờ chưa được bao lâu giáo sư đã gặp họa mà vội từ biệt cõi đời, thân phận của anh rốt cục chỉ là công nhân thời vụ, đãi ngộ chẳng khác nào nhân viên tạp vụ chuyên lo trà nước điếu đóm, ngay cả hồ sơ còn không được lưu trong sở lao động, thì sau khi trở về, đơn vị có tiếp tục thu nhận nữa hay không – cũng khó nói trước. Bởi vậy, anh cũng không ôm tham vọng gì về chuyện này.



Tư Mã Khôi càng nghĩ càng miên man, trở về rồi chẳng lẽ lại chạy sang Miến Điện tham gia đội du kích? Anh cũng không muốn nhảy lên nông trường Hắc Long Giang đẽo đất, cùng lắm chỉ có thể trở về khu Hắc ốc tiếp tục bám đường sắt mà sống qua ngày, vì ngoài điều đó ra thì còn có lựa chọn nào khác? Nếu nói điều xa xỉ nhất anh mong ước lúc này, có lẽ là tìm được một nơi yên tĩnh để sống trong vài năm.



Hải ngọng phỉ báng: “Cậu tìm một nơi yên tĩnh làm gì, định ngồi luyện đan chắc? Tớ nhớ năm đó cậu còn bày mưu định rủ Hạ Cần lên núi làm trại chủ phu nhân còn gì?”



Tư Mã Khôi nói: “Đó là chuyện từ đời thuở nào rồi, hơn nữa phó tổng tư lệnh Hạ vừa nhìn thấy tớ đã đòi móc súng, tớ còn chẳng dám đi qua cổng nhà họ nữa là. Danh tiếng của cậu ở quân khu tốt hơn tớ, nếu cậu chủ động đi cầu hôn, có khi hỉ sự này lại thành ấy chứ!”



Hải ngọng cứ tưởng thật, vội hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu thấy Tiểu Hạ người ta có ý với tớ thật à? Sao tớ không nhận ra nhỉ? Cái ông… cái ông phó tổng tư lệnh Hạ đó cũng tạm coi thanh liêm chính trực đấy nhỉ?”



Tư Mã Khôi nói: “Tớ thấy còn phải xem là chuyện gì cái đã. Cậu mà dám tay không đi bắt giặc, thì có mà đâm đầu vào bể lửa giận của ngài phó tổng tư lệnh ngay. Ông ấy lại chẳng trực tiếp bảo người xốc nách cậu đem đi bắn bể sọ ấy chứ?”



Hải ngọng cảm thấy rất khó xử: “Vấn đề là hiện nay chúng ta đang nghèo kiết xác, tớ đào đâu ra tiền mà đi hối lộ bác già ấy? Khoản đãi ngộ tiền lương mà giáo sư Nông hứa trả cho chúng ta, thì vẫn chưa đổi thành tiền mặt.



Tư Mã Khôi nói: “Thế thì khi trở về cậu phải chịu khó làm việc, kiếm được tiền rồi hẵng nói. Dù sao chuyện lấy vợ sinh con cũng đâu thể cập rập được. Tục ngữ nói rất chuẩn: Gái hay không sợ xấu già, cho dù 49 vẫn đà sinh con.”



Hải ngọng và Tư Mã Khôi tán phét vài câu, rồi nhân câu chuyện quay sang hỏi luôn đội trưởng Lưu Giang Hà: “Gà mờ nhà chú, hồi ở quê nhà, đã có đối tượng nào tương đối chưa?”



Đội trưởng Lưu Giang Hà không phải người bạo miệng như Hải ngọng, anh chỉ hy vọng có thể thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ khó khăn mà cấp trên giao phó, rồi lập công, được đề bạt, tiếp tục ở lại quân ngũ. Vì nếu không, chỉ phục vụ thêm nửa năm nữa, hết hạn đi lính là phải phục viên; còn kỹ thuật thông tin mà anh chàng học ở đơn vị liên lạc không dây, hoàn toàn không sử dụng được ở quê nhà. Nhưng Lưu Giang Hà cảm thấy nhiệm vụ anh phải chấp hành lần này hoàn toàn vượt ra ngoài phạm vi của mình. Anh nghĩ mình thường làm vướng chân vướng cẳng đội khảo cổ, không những chẳng giúp được gì, mà lại còn làm hỏng chiếc máy điện đàm quang học không dây, khiến đội khảo cổ hoàn toàn mất liên lạc với hậu phương, có thể trở về để đơn vị xử phạt là tốt lắm rồi, còn mong gì lập công, khen thưởng nữa.




Ngoài ra, anh chàng còn vô cùng khâm phục bản lĩnh của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, và nếu phải rời khỏi quân ngũ, anh chàng muốn theo chân Tư Mã Khôi để học chút kỹ thuật, cho dù chỉ làm công nhân thời vụ như chân cuốc xẻng cho đội khảo cổ cũng được, ăn cơm nhà nước bao giờ chẳng tốt hơn phải trở về khu du mục xén lông cừu.



Tư Mã Khôi thầm ca thán: “Ngay cả bản thân anh còn chưa biết nên đi đâu kiếm cơm, thì làm sao cho chú bám càng được?” – Nhưng anh không muốn làm Lưu Giang Hà cảm thấy thất vọng, bởi vậy cũng chẳng nỡ chối từ.



Tư Mã Khôi nhận thấy khí áp càng lúc càng xuống thấp, trong không khí tĩnh lặng dường như tiềm ẩn những tiếng động ồn ã đầy bất an, còn địa hình mà đội khảo cổ đang băng qua, tứ bề dựng đứng, giống như miệng núi lửa trên mặt trăng, đường kính dài đến mười mấy mét. Có lẽ nó được hình thành bởi dòng nhiệt nóng chảy hoặc dòng dung nham trồi lên từ quyển Manti từ hàng ngàn vạn năm trước; chỗ này lớp cát tương đối mỏng, có thể làm điểm tựa trốn tránh cơn giông tố ập đến bất cứ lúc nào, thế là anh bảo mọi người dừng chân, nằm bên viền hố thay nhau ngủ một lát.



Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, gió từ lòng đất thổi lên ầm ầm, cát đá bay loạn xạ, Tư Mã Khôi giật mình tỉnh giấc, anh phát hiện mây khí tượng xuất hiện dưới lòng đất còn khủng khiép hơn dự đoán rất nhiều. Anh đeo kính chắn gió, rồi bảo đội trưởng thu gọn ván trượt bên mình, sau đó nằm phục trên mặt đất đợi lốc tố đến.



Lúc này, Thắng Hương Lân rút một tấm ảnh đưa cho Tư Mã Khôi, đó là tấm ảnh tập thể của đội khảo sát liên hợp Liên Trung năm 1958, được tìm thấy trong tập tư liệu và hồ sơ dưới trạm thám trắc trung tâm.



Tư Mã Khôi cầm bức ảnh xem dưới ánh đèn quặng, bức ảnh đó đúng là hình chụp 22 thành viên của tập thể đội khảo sát, họ đứng thành ba hàng, hàng đầu tiên ngồi xổm, hàng giữa hơi cúi người, hàng cuối đứng thẳng, bối cảnh là trong sa mạc, có lẽ là lòng động đạo kính viễn vọng Lopnor.



Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Anh thử nhìn lại bức ảnh xem, kẻ đứng đầu tiên bên trái hàng thứ hai ấy!”



Tư Mã Khôi cầm bức ảnh xem kỹ, quả nhiên có điểm khác thường, cảm giác như nhìn thấy ma lúc nửa đêm vậy, anh bất giác hỏi: “Người này á?”



Đúng lúc bụng đầy nghi hoặc, thì Hải ngọng nằm rạp bên cạnh đột nhiên vỗ vai Tư Mã Khôi, anh chỉ ngón tay ra phía xa, nhắc nhở tình hình có biến.



Tư Mã Khôi phóng tầm mắt ra xa, trông thấy trong bóng tối xuất hiện một đường trắng mờ mờ, dường như là vật thể phát sáng, cự ly càng lúc càng gần lại, ánh sáng dài mảnh mờ ảo nhanh chóng trở thành một dải sáng uốn éo bất định, một u hồn màu trắng giống như con sứa khổng lồ đang bồng bềnh trôi trong đại dương bóng tối mênh mông, kéo dài đến mấy chục mét.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 109: Hồi bảy: bóng ma trong tấm ảnh


Tư Mã Khôi cực kì kinh hãi, anh hỏi: “Kia rốt cục là cái gì thế?”. Anh ra sức lau kính chắn gió, muốn trông cho rõ hơn.



Ba người còn lại cũng lặng người không biết nói gì, cố hết sức tránh lớp bão cát quất tới tấp vào mặt để bò ra ven hố tròn, tim gan ớn lạnh nhìn chằm chằm vào kỳ quan hiếm có vừa diễm lệ vừa ma quái đến cực điểm.



Vật thể phát sáng trong tầng mây di chuyển rất nhanh, nó đi đến đâu là một lượng lớn bụi băng cuốn theo gió lại lả tả rơi xuống, âm thanh như sấm dội, chuyển động như dời núi, dường như đó là mây mưa ứ đọng làm lạnh ngưng tụ dưới lòng đất, bị dòng khí đối lưu kéo theo, hình thành dải bụi băng trải dài hàng chục cây số, rồi chịu sự ma sát của địa áp, các hạt sương ánh sáng biến đổi khôn lường quấn vòng xung quanh dòng khí đối lưu, nhờ thế đã tạo ra hiện tượng cực kỳ quái dị. Mọi người chỉ cảm thấy má như bị dao cứa, chẳng ai dám tiếp tục nhìn nữa, tất cả đều buộc mình vào tấm ván trượt cát nặng trịch, ôm đầu co gọn người trong hố tròn đé tránh bụi băng. Khá lâu sau đó, dải mây khí tượng làm lanh dưới lòng đất cuối cùng cũng tiêu tan, nhiệt độ trong biển cát tăng trở lại như cũ, khiến các hạt bụi băng còn sót lại chuyển hóa thành sương mai, trắng mờ mịt giăng mắc khắp không gian.



Hội Tư Mã Khôi bị bão cát vùi lấp quá nửa thân người, chân tay lạnh buốt đến tê dại, mãi một lúc sau mới cử động được. Mọi người lục tục trèo ra cởi dây thừng, phủi sạch cát bụi trên người, thấy không ai bị thương hoặc mất tích mới thở phào nhẹ nhõm. Sau đó cả đội nằm lăn ra lòng hố nghỉ ngơi hồi lâu, đến lúc cảm giác bức bối đến ngột thở trong lồng ngực giảm nhẹ, họ mới kéo ván trượt cát ra, chuẩn bị tiếp tục lên đường.



Trước khi khởi hành, Tư Mã Khôi lại rút bức ảnh trong túi áo ra xem. Khi nãy lốc tố ập đến đột ngột, anh vẫn chưa kịp quan sát kỹ, bây giờ mới có thời gian ngắm ngía lại, thấy bức ảnh được chụp rất rõ nét, những chỗ khác đều không phát hiện có điểm gì khác thường, chỉ mỗi thành viên đứng đầu tiên ở hàng thứ hai bên trái, là xuất hiện đốm sáng mờ nhạt trên khuôn mặt, khiến ngũ quan bỗng dưng bị kéo dài, không thể phân biệt các đường nét, trông vô cùng quái dị.




Lúc này, Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng xúm lại xem. Trước đây mọi người từng nghe nói có một sổ bức ảnh chụp được cả bóng ma, bởi vì máy ảnh là thiết bị cảm quang, có thể chộp được một số thứ mà mắt thường không thể trông thấy, nhưng cả hội chưa bao giờ tận mắt trông thấy bức ảnh ma kiểu ấy, cũng không biết quan điểm đó là thật hay giả.



Nhưng nếu quả thật có loại máy ảnh nào đó chụp được u hồn, thì có lẽ nó cũng chỉ đến thế này mà thôi, đây chính là cảm giác trực quan mà tấm ảnh tập thể của đội khảo sát liên hợp năm 1958 đem lại cho hội Tư Mã Khôi.



Bởi vì, xem ra mọi thứ trong bức ảnh đều bình thường, chỉ duy gương mặt của thành viên đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai là nhòe nhoẹt. Nếu bảo do lỗi kỹ thuật hoặc máy móc hỏng hóc, thì sao không mờ mịt chỗ khác mà lại đúng ngay chỗ trên khuôn mặt?



Trước đây, Tư Mã Khôi từng xem rất nhiều bức ảnh chụp hình xác chết, anh biết, ảnh chụp xác chết không hề bị biến dạng, huống hồ lúc chụp ảnh toàn bộ thành viên đội khảo sát hãy còn sống, vậy sao gương mặt đó lại xuất hiện bóng ma?



Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Tôi cũng không biết bức ảnh có xuất hiện thứ gì đó mà mắt người không nhìn thấy được hay không, nhưng trong nhiếp ảnh đúng là có xuất hiện hai từ “ảnh ma”, gọi chung là “ảnh chụp bóng ma”. Thực ra, không phải các nhiếp ảnh gia thực sự chụp được hình u hồn, mà chỉ là một loại kỹ xảo khúc xạ vệt sáng. Trước đây, chúng ta chưa có nhiều tư liệu cụ thể về đội khảo sát liên hợp, bây giờ tuy phát hiện bức ảnh này, nhưng lại không thể xác định thân phận của một thành viên trong đội.”



Hải ngọng ra vẻ am hiểu nói: “Ảnh chụp bóng ma tức là ảnh ma chứ còn gì, bất kể thứ phản xạ đến máy ảnh là gì, thì nó cũng phải có nguồn gốc hẳn hoi chứ hả?”



Tư Mã Khôi gật đầu nói: “Tuy tôi không hiểu thế nào gọi là ảnh chụp bóng ma, nhưng cứ cảm giác bức ảnh này có vấn đề, nếu vấn đề không nằm ở ảnh, thì vấn đề phải nằm ở… bản thân thành viên bị máy ảnh xóa mờ gương mặt kia…”



Mỗi người góp một câu, thảo luận khá rôm rả, nhưng cuối cùng vẫn không ra đầu ra đũa gì cả, trước mắt tuy rằng có tấm hình, nhưng tung tích đội khảo sát vẫn là một ẩn số. Cả đội đành đánh dấu lại đầu mối này, tiếp tục chỉnh đốn hành trang chuẩn bị xuất phát về phía trước theo tín hiệu sóng điện yếu ớt phát ra từ nơi sâu trong biển cát.



Phần lớn thời gian, nhiệt độ trong dòng cát lún dưới lòng đất lên đến bốn mươi, năm mươi độ C. Dưới tác dụng của địa áp, sương mù lơ lửng giữa tầng không cứ ngưng tụ mãi không tan, thỉnh thoảng lại xuất hiện cơn mưa đá hoặc giông tố mang tính cục bộ. Để tiết kiệm pin và lương thực, đội khảo cổ chuyển sang đốt xương cá voi và mỡ rắn để lấy ánh sáng soi la bàn rồi từ từ tiến vào sâu hơn.



Lòng đất tối đen như hũ nút, thỉnh thoảng lại xuất hiện lằn sáng, báo hiệu con bão quy mô lớn hơn sắp xuất hiện. Trong hoàn cảnh này, thiết bị đo lường hoàn toàn mất tác dụng, mọi người không rõ mình đã đi bao xa trong biển cát, và cũng không rõ sau này còn phải tiếp tục đi bao xa nữa, chỉ biết lần theo các tín hiệu lúc có lúc mất, để không ngừng di chuyển về phía trước.




Đội khảo cổ chưa thể xác định không gian trong không động dưới lòng đất liệu có tồn tại điểm tận cùng hay không, mà chỉ cảm thấy mình đã thoát ra khỏi khu vực sương đen lai vãng, còn tín hiệu sóng ngắn của con tàu Z-615 thì vẫn chìm ở nơi sâu hơn trong bóng đêm.



Mọi người càng đi càng cảm thấy hoang mang. Trong không gian tăm tối, chỉ dựa vào vật tham chiếu hết sức có hạn, cả đội hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, hơn nữa hoàn cảnh hiện tại lại cách biệt với thế giới bên ngoài, mỗi người đều phải chịu đựng sức ép tâm lý đang đè nặng trong lòng. Đội khảo cổ đi mãi hồi lâu, thì thấy phía trước xuất hiện một khe sâu rất rộng rãi khoáng đạt. Thắng Hương Lân lấy đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực ra xem một hồi, cô nhận định: trong thâm cốc chắc không tồn tại bất kỳ vật chất kim loại nào, bèn hỏi Tư Mã Khôi có nên đi vòng qua khe sâu hay không.



Tư Mã Khôi thấy địa thế yếu hiểm, bên dưới lại sâu khôn lường, anh phỏng đoán nơi này trước đây từng là khe biển trong cực vực, dòng nước ngầm và hố xoáy đều ùn lên từ chỗ này. Tuy bây giờ đại dương dưới lòng đất đã khô cạn, nhưng tình hình dưới sâu vẫn không biết thế nào, đương nhiên là “thà đi xa ba bước lành còn hơn sà một bước hiểm”, anh thấy đi đường vòng vẫn ổn thỏa hơn.



Nhưng đội trưởng Lưu Giang Hà lúc này lại báo cáo: đoạn mật mã Morse yếu ớt như hồn ma kia, có lẽ được bắt nguồn từ trong khe sâu này.



Tư Mã Khôi kinh ngạc bội phần, đồng hồ thám trắc rõ ràng hiển thị không tồn tại vật thể kim loại ở đáy cốc, nhưng đội trưởng lại nhận định, tín hiệu sóng điện của tàu ngầm Z615 đến từ đáy khe, còn nếu không, thì phải là máy thám trắc hỏng, hoặc là thiết bị phát sóng ngắn có vấn đề. Anh hỏi Lưu Giang Hà xem khẳng định chắc chắn không?



Đội trưởng Lưu Giang Hà bảo là dám lấy đầu ra đảm bảo không có gì sai sót, công việc khảo cổ thám hiểm hang động thì đúng là anh chịu chết, nhưng về phương diện thông tin, thì anh tự tin mình là mũi nhọn kỹ thuật.



Tư Mã Khôi tạm tin đội trưởng Lưu Giang Hà, nhưng thể tích chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô to lớn dường ấy, đúng là chẳng khác gì con cá kình bằng thép dài cả trăm mét, thì sự tồn tại của nó chẳng khiến các chỉ số thám trắc của đồng hồ đo lường phải nhảy điên cuồng như phát rồ ấy chứ, nhưng sao nó lại im lìm không chút phản ứng như vậy nhỉ?



Mọi người nhìn nhau, ai cũng biết dưới đó chắc chắn có vấn đề, nhưng vấn đề nằm ở đâu? Theo lý mà nói, thì chiếc tàu ngầm không thể xuất hiện dưới đáy kính viễn vọng Lopnor mới là điều bình thường, nhưng nguồn gốc tín hiệu đoạn mật mã Morse là gì vậy?



Đội khảo cổ cân nhắc thiệt hơn, rồi đều cho rằng: dù có là con thiêu thân lao vào lửa thì họ cũng phải xuống dưới đó thăm dò cho rõ nhẽ. Thế là, mọi người bỏ ván trượt cát xuống, rồi từng người tự đeo ba lô hành lý và súng ống của mình, mò mẫm đi xuống khu vực chật hẹp, thoai thoải phía dưới, những chỗ cheo leo hiểm trở thì họ dùng dây thừng có móc câu, móc vào kẽ đá mà tụt xuống. Cả hội xuyên qua từng tầng sương mỏng như tấm màn che, cuối cùng cũng xuống được dưới lòng cốc sâu khoảng trăm mét.



Tư Mã Khôi soi đèn quặng, thấy tứ bề tầng tầng lớp lớp san hô hóa đá kề nhau san sát, cao đến mấy mét, ngả màu trắng xám, hình thù giống tùng bách cổ xưa, bề mặt lỗ chỗ những hố thông nhau, khiến địa hình cao thấp xen kẽ ban đầu càng trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn. Những vũng nước đọng trong lõi hóa thạch, bốc mùi hôi thối đến khó chịu.



Để đề phòng sự cố ngoài ý muốn, Tư Mã Khôi bảo mọi người phải đeo mặt nạ chống độc, sau đó mở chốt an toàn khẩu súng xung phong, rồi lấy tay ra hiệu, lệnh cho đội trưởng liên lạc xác định lại tín hiệu. Cuối cùng anh chỉ về hướng phát ra tín hiệu, bảo Hải ngọng: “Ngụy quân các ngươi đi trước, dẫn đường cho hoàng quân bọn ta nào!”




Hải ngọng rất bất bình, miệng lầu bầu trách móc câu gì đó nghe không rõ, nhung vì đang đeo mặt nạ phòng độc, nên âm thanh rất trầm và nhỏ, bởi vậy chẳng ai rõ cậu ta định nói gì. Người nọ bám sát người kia, lục soát theo chiều dọc thâm cốc.



Đoạn tín hiệu thần bí liên tục phát đi đã gần hai mươi năm, lúc này không ai nắm được vị trí khởi phát của nó ở đâu, nên càng đến gần thì trong lòng ai nấy càng thắc thỏm bất an.



Mọi người vừa nơm nớp lo sợ, vừa tiến thêm đoạn nữa, thì thấy trong khe nứt do dung nham núi lửa dưới đất tạo thành, có một bộ xương sinh vật cỡ lớn, mà nhìn xương hàm của nó thì có vẻ không giống cá voi lắm. Mọi người đi đến gần, phát hiện mình còn chưa cao đên nửa xương hàm dưới của sinh vật cổ, thì ai nấy đều bất giác rùng mình ớn lạnh, rồi phỏng đoán bên trong khe nứt chắc từng là sào huyệt của loài sinh vật đại dương cổ đại nào đó, còn lòng đại dương chết chóc trong cực vực đã sớm khô kiệt từ mấy ngàn năm trước. Nhưng liệu có phải sóng điện đến từ tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô thực sự phát ra từ nơi này hay không?



Nghe nói, thiết bị thám trắc ngoài không gian thời kỳ đầu của Liên Xô và Mỹ, từng thu được nhiều tín hiệu sóng điện thần bí, không thể giải thích được. Khi đó, có một số người đã cho rằng, vong hồn người chết đều tụ tập ở đó, thậm chí còn xuất hiện tin đồn là trong sóng điện có lời cảnh báo, bảo thế nhân tuyệt đối không được đến gần. Phải mãi mấy năm sau thì sự thật mới ba năm rõ mười, thì ra tín hiệu mà máy thám trắc thu được, chỉ là hiện tượng khúc xạ vi sóng vũ trụ sản sinh do điện từ; loại sóng điện này tồn tại ở đó ngay từ thuở hằng cổ hồng hoang. Hiện tượng nhiễu sóng trên ti vi hay tạp âm lạo xạo trong đài, cũng có nguồn gốc tương tự, đó chỉ là hiện tượng nhiễu loạn sóng điện từ không có chút ý nghĩa nào.



Tuy tín hiệu đội khảo cổ nhận được rất yếu ớt, nhưng lại không phải hiện tượng khúc xạ vi sóng thiếu nội dung thực tế. Hội Tư Mã Khôi vừa phỏng đoán nguồn gốc của tín hiệu, vừa tiếp tục mò mẫm về hướng huyệt động hóa thạch, nhưng lúc này đội trưởng Lưu Giang Hà lại báo cáo: tình hình không ổn, tín hiệu sóng ngắn đột nhiên trở nên càng lúc càng yếu, rồi cuối cùng hoàn toàn im lìm biến mất, không thể thu nhận được nữa.



Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc này vô cùng bất thường: “Tín hiệu sóng ngắn liên tục được phát ra suốt nhiều năm, sao đột nhiên lại biến mất đúng vào thời khắc then chốt thế này được nhỉ?”



Đội trưởng liên lạc đã dám dùng quân lệnh để đảm bảo không thể xảy ra sai sót, anh suy đoán tín hiệu sóng ngắn 615 không phải bị ngừng lại, mà là biến mất; nguồn tín hiệu bị biến mất, còn nguyên do xuất hiện tình huống này, e rằng chỉ có một sự giải thích hợp lý duy nhất.



Tư Mã Khôi quay đầu nhìn đội trưởng liên lạc, lúc này, qua máy thở phòng độc, anh không quan sát được sắc mặt đối phương thế nào, nhưng thấy mắt đối phương chợt lóe lên tia sáng khác lạ màu xanh âm u, trong thâm cốc tăm tối, cho dù cách mặt nạ nhưng anh vẫn phát hiện thấy. Tư Mã Khôi sinh nghi, bước lại gần hỏi: “Hai điều này có gì khác nhau? Vì sao tín hiệu lại đột nhiên biến mất?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 110: Hồi tám: bồn địa turpan


[1] Turpan: cũng được gọi là Turfan hay Tulufan thuộc khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc; trong tiếng Ngô Duy Nhĩ có nghĩa là “vùng đất thấp nhất”.



Đội trưởng Lưu Giang Hà nói với ba người còn lại: nếu tín hiệu định vị sóng ngắn mà lúc trước đội khảo cổ thu nhận được, đúng là đến từ tàu ngầm Z-615 bị mất tích, rồi dần dần suy yếu, mãi đến cuối cùng lại hoàn toàn biến mất, thì chắc chỉ tồn tại một khả năng, đó chính là con tàu ngầm vẫn tiếp tục di chuyển dưới lòng đất và đi vào vũng mù nhiễu loạn nào đó, cho nên tín hiệu sóng ngắn mới bị cách tuyệt hoàn toàn như vậy.



Hải ngọng vẫn chưa tin lắm: “Nơi này ngoài cát ra thì chỉ có mỗi hóa thạch, tàu ngầm đâu phải sinh vật sống, nếu nó có rơi xuống đây thì cũng bị vùi lấp đến nửa thân, làm gì có chuyện tiếp tục di chuyển được?”



Đội trưởng liên lạc cũng thấy chuyện này đúng là rất khó tin, ngay cả bản thân anh cũng không thể tin được, rốt cục năng lực duy trì liên tục ngoài khơi của tàu ngầm cấp Z chỉ là 11 ngàn hải lý, nó đã mất tích từ năm 1953 đến nay, sao vẫn có thể tiếp tục hoạt động ở khu vực không có nước được? Nhưng theo phân tích về mặt kỹ thuật, thì chỉ có khả năng đó mới giải thích thông suốt tình hình hiện tại.



Thắng Hương Lân cảm thấy chỉ dựa vào đoạn mật mã Morse, cũng không thể khẳng định đó chính là tàu ngầm Liên Xô bị mất tích. Không động dưới lòng đất có biết bao hiện tượng dị thường quái lạ, bao nhiêu tình huống đã xảy ra vượt qua khả năng lý giải của đội thám hiểm. Vả lại, bản thân tín hiệu sóng ngắn dự đoán đến từ tàu ngầm Z-615, lai lịch cũng rất không rõ ràng; đã không thể định vị, thì cũng rất khó truy tìm nguồn gốc, khe sâu này không ổn để ở lại lâu, phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt.




Tư Mã Khôi đứng bên không nói năng gì, anh kín đáo quan sát đội trưởng liên lạc qua mặt nạ phòng độc, lúc này không thấy ánh mắt màu xanh âm u đâu nữa, dường như nó chỉ thoáng xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất. Nhưng thị lực của Tư Mã Khôi là 2,0(2) , nên anh tự cho mình không thể nhìn lầm, lòng nghĩ thầm: Lưu Giang Hà là quân nhân trong đội khảo cổ, lai lịch địa vị rất rõ ràng, không có điểm gì đáng phải nghi ngờ, lẽ nào anh ta lại là phần tử mai phục của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh?



[2] Thị lực 2,0: Theo tiêu chuẩn đo thị lực của Trung Quốc, chỉ số trên thể hiện thị lực rất tốt, có thể nhìn thấy chữ e hàng cuối cùng trên bảng đo thị lực ở khoảng cách 2 mét, chỉ số thị lực của người bình thường là 1,0 đến 1,5.



Lúc này, Tư Mã Khôi đột nhiên thấy chấn động từ nơi xa truyền đến, dường như nó dội từ dưới lên, đến càng lúc càng mau; anh cúi đầu nhìn thì thấy một cuộn sương khói đậm đặc từ kẽ nứt hình mai rùa dưới chân đang trào lên, nó lấp lánh ánh sáng mờ mờ như ánh lửa ma trơi.



Thắng Hương Lân vội vàng kéo mạnh Tư Mã Khôi lại phía sau, chỉ thấy cột khói màu xanh càng lúc càng nhiều, lòng đất giống như một ống khói đang nhả cuồn cuộn, cột khói không ngừng dâng cao. Mọi người cảm thấy da thịt bỏng rát không chịu nổi, như thể chỉ cần ở lâu thêm chút nữa sẽ bị nó nướng chín. Người nào người nấy ra sức lùi ra phía sau, nhưng khắp lòng thâm cốc có đến hàng trăm điểm nhả khói, cột khói chỗ to chỗ nhỏ, có chỗ cao đến mấy chục mét, tất cả đều có màu xanh lục, vô cùng chói mắt.



Bây giờ Tư Mã Khôi mới biết: ánh sáng màu xanh nhìn thấy trên mặt nạ của đội trưởng Lưu Giang Hà, thì ra là được phản chiếu từ luồng hàn quang thể khí sản sinh dưới lòng đất. Anh lui lại mấy bước rồi hỏi Thắng Hương Lân: “Sao loại khói bụi này giống với mạch nước phun thế nhỉ, nói trào là trào ra ngay được!”



Thắng Hương Lân biết rõ sự lợi hại của nó, cô nói với Tư Mã Khôi: “Vật chất thể khí dưới lòng đất có màu xanh, thể hiện nồng độ axít bên trong cực mạnh, chỉ cần tiếp xúc với cơ thể con người, da thịt sẽ bị nó ăn mòn và đốt cháy tức thì. Mọi người mau ra khỏi đây, tuyệt đối không được để nó bắn vào!”



Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, phát hiện cả hội đã bị vật chất thể khí nóng rát trào ra như mạch nước phun bủa vây, anh đành gọi mọi người đi vòng để tránh từng cột khói đặc, trốn chạy thục mạng vào nơi sâu hơn.



Mọi người chạy đến điểm tận cùng của khe sâu thì mệt muốn đứt hơi, lồng ngực như bị bốc cháy, trên đường vẫn không thấy bóng dáng chiếc tàu ngầm cấp Z đâu cả, thậm chí còn không xuất hiện bất kỳ dấu tích nào.



Tư Mã Khôi nhìn những cột khói bụi dày đặc mang tính axít cực mạnh, đã dần khuất xa phía sau, mới bảo mọi người chạy chậm lại, đi xuyên qua khe sâu lại đến biển cát nhấp nhô trải dài vô cùng vô tận. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: vật tư không ngừng tiêu hao theo độ dài của lộ trình, nước và lương thực còn lại cũng vô cùng có hạn, không cần thiết phải mất thời gian quay về nhặt ván trượt cát, thế là theo sự chỉ dẫn của đồng hồ thám trắc, cả đội tiếp tục bước từng bước dài tiến về phía trước.



Sau khi đội khảo cổ băng qua nhiều triền cát dài, phía dưới dải cát bắt đầu xuất hiện kết cấu địa tầng phong thực lún xuống, dòng nhiệt đối lưu vận động dữ dội trong quyển Manti khiến tầng dung nham bị khô nứt, sự biến thiên của tự nhiên tạo nên địa mạo hiếm có, vừa hùng vĩ vừa thần bí, rốn sa mạc dưới lòng đất hình thành một nơi gọi là bồn địa Turpan.




Bồn địa Turpan rộng lớn này cũng giống với sa mạc Gobi, nó không ngừng bị cát lún nuốt chửng. Mọi người đi sâu vào biển cát mênh mông và hoang vu, không một dấu chân người, bỗng trước mặt xuất hiện một tòa thành cổ đại rất kỳ dị, quy mô to lớn, nhưng nó sớm trở thành chốn hoang phế không có người ở, xung quanh chỉ còn những bức tường đổ nát ngắt quãng còn sót lại, trong vách tường là vô số huyệt động, đá tầng tầng lớp lớp dày đặc, khe rãnh ngoằn ngoèo sâu hút, những bức tượng người bằng đá cao to lừng lững đứng cô quạnh giữa biển cát, nó bị gió và cát chia cắt thành các đường rãnh thuôn dài đầu to đuôi nhỏ dần, giống như hình cây nấm, trông vừa uy nghiêm vừa thâm trầm.



Đội khảo cổ xuyên qua biển cát mênh mông trong cực vực, đến nơi này, người nào cũng mệt mỏi nhếch nhác, bỗng nhiên lại tìm thấy một tòa thành cổ bị chôn giấu dưới lòng đất, ai nấy đều tim đập loạn xạ, tư duy rối bời, cảm tưởng mình như đang lạc vào nơi tận cùng của thế giới, chạm tới hơi thở u minh, sâu thẳm của thời viễn cổ xa xôi.



Tư Mã Khôi không dám lơ là, anh dẫn ba người leo lên tường thành vào bên trong ngó nghiêng một hồi. Ngoại trừ gió cuốn cát bụi, thì trong thành cổ chỉ là miền tĩnh lặng và bóng tối vô biên, đó là tòa thành chết, hoàn toàn không có dấu tích của sự sống.



Thắng Hương Lân bới đất cát, thấy bề mặt các phiến đá xây tường xuất hiện rất nhiều lỗ rỗng, thì biết đây chính là đá dung nham, khi núi lửa thời cổ đại phun trào rồi đông kết mà thành.



Lúc này, ở nơi xa trong tầng mây bỗng lóe lên lằn sét đánh; nhờ luồng ánh sáng yếu ớt, mọi người thấy sâu trong thành cổ có một đỉnh núi cao, đen sì sì, cả thành trì vây quanh ngọn núi đó, ngọn núi không có chóp nhọn, và dường như nó là ngọn núi lửa đang ngủ yên dưới lòng đất.



Tư Mã Khôi suy đoán: đây là ngọn núi lửa hình thành do dung nham ở tầng quyển Manti phun trào, còn tòa thành cổ trải qua hàng ngàn năm mà vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Có thể ngọn núi này chỉ là núi lửa chết, đã ngừng hoạt động từ lâu, nên cũng không cần lo lắng lắm về nó; có điều anh thực sự không thể ngờ, dải quần thể đá dung nham núi lửa dưới vực sâu lại chôn giấu một di chỉ kiến trúc hùng vĩ và quy mô dường này, lịch sử cũng không hề lưu lại bất kỳ ghi chép gì về nó, tất cả đều hoàn toàn mới mẻ.



Tóm lại, đây là cổ quốc hoang phế còn thần bí cổ xưa hơn cả thời đại vương triều Lâu Lan, kiến trúc của nó cũng kỳ dị và hùng vĩ hơn nhiều. Không biết trong lòng nó còn che giấu những bí mật kinh thiên động địa gì nữa, nhưng điều đáng để suy ngẫm kỹ nhất hiện nay chính là: vì sao người ta lại cho xây dựng tòa thành nguy nga thế này dưới lòng đất? Phải chăng nó có liên quan đến miếu thần?



Có điều, chỉ dựa vào bốn thành viên của đội khảo cổ, đối diện với di chỉ hoang phế kỳ vĩ dường vậy, thì cho dù muốn nhanh chóng tìm thấy manh mối có giá trị cũng đâu phải chuyện dễ dàng. Vì vậy mọi người đành định vị mục tiêu là ngọn núi lửa sừng sững nằm ở nơi sâu nhất trong thành cổ, mà có lẽ khu vực chính của thành nằm trong lòng núi, bởi rốt cục nó vẫn là khu vực trung tâm của cả quần thể kiến trúc.



Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà nhắc nhở hội Tư Mã Khôi, tuyệt đối không được chạm vào bất cứ thứ gì trong thành cổ, bởi vì đội lạc đà xuyên sa mạc hàng ngàn năm nay vẫn truyền tai nhau về truyền thuyết liên quan đến tòa thành ma. Nghe đồn, từ xưa đã không ai biết tòa thành ma được xây dựng ở đâu và vào thời gian nào, chỉ biết con đường đến đó vô cùng hung hiểm, nên rất khó đi tới đích, còn những người tận mắt trông thấy nó cực kỳ ít ỏi. Cho dù phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan nguy hiểm mới đến được thành cổ, thì cuối cùng cũng bị ác ma tước đoạt mất sinh mệnh. Mỗi khi trong thành có bão cát vần vũ một cách kỳ lạ, thì đó chính là điềm báo ác ma sắp xuất hiện.



Thắng Hương Lân cũng nghe kể về chuyện này, cô nói với đội trưởng thông tin: “Kỳ thực tòa thành ma không phải là di tích lịch sử, mà chỉ là dải địa mạo Nhã Đan bị xâm thực, bào mòn nằm ở phía đông bắc sa mạc Lopnor. Ở đó bão cát hoành hành dữ dội, hoang vu không có bóng dáng con người, đường đi lại rất gian nan, người xưa thường nhìn ra xa mỗi khi đi qua đó, cứ ngỡ đó là một tòa thành cổ trong sa mạc, rồi ghi vào sử sách. Người đời sau thấy nó kỳ dị, nên cũng không tìm hiểu căn nguyên cội nguồn, cứ thế truyền miệng cho nhau, càng lan truyền lại càng ly kỳ.”



Đội trưởng Lưu Giang Hà không hiểu thế nào gọi là địa mạo Nhã Đan xâm thực bào mòn, nhưng từ nhỏ anh chàng đã lớn lên cùng đội lạc đà, thường nghe người già kể những truyền thuyết cổ quái trong sa mạc Gobi, trong lòng khó tránh cảm giác rùng rợn.




Tư Mã Khôi thấy kết cấu trong thành cổ rất phức tạp, nơi sâu dựờng như phả ra hơi thở đáng sợ của cái chết và sự tuyệt vọng, bề mặt xem chừng tĩnh lặng, nhưng bên dưới lại tiềm ẩn những mối nguy hiểm to lớn, không biết nó sẽ bất ngờ xảy ra vào lúc nào. Anh cũng lo lỡ đâu đội trưởng thông tin xảy ra bất trắc gì, bèn dặn dò anh chàng phải xách đèn quặng bám sát sau lưng mình.



Đội khảo cổ băng qua bức tường đổ, tìm đường di chuyển vào nơi sâu trong thành cổ, thấy trước mắt toàn những ngọn núi đá và vách đá đứt gãy đứng sừng sững. Chúng hình thành vô số trụ đá hình măng và lùm đá hình ống khói, các động nham thạch hữu cơ nối liền nhau, tạo thành những căn phòng lớn thông với nhau, phía dưới còn có đường thông gió,chia thành nhiều tầng, sâu đến mấy chục mét, phân bố dày đặc như mạng nhện.



Kết cấu địa chất hùng vĩ khiến người ta cảm thán này, được hình thành sau khi núi lửa trong lòng đất phun trào vào thời viễn cổ, rồi trải qua quá trình phong hóa và nước bào mòn trường kỳ, phần còn sót lại trở thành những tháp đất hình chóp và các loại huyệt động khác nhau, đồng thời cũng khiến đường đi trong thành cổ trở nên ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Nếu không có bản đồ trong tay mà đi vào đây thì đúng là hoa hết cả mắt, có khi còn bị cát lún nuốt chửng lúc nào chẳng hay, bởi vậy mọi người cũng không dám mạo hiểm thâm nhập vào sâu hơn để thăm dò, mà chỉ đứng ven thành rọi đèn quan sát, nhưng thành quách bị hư hỏng biến dạng hết cả, chưa phát hiện được gì từ bên ngoài.



Khắp nơi trong thành cổ này thấy vô số tảng đá nằm lổn nhổn dưới đất với các hình thù khác nhau, nhưng khi tiến lại gần, phủi lớp cát phủ bên trên thì thấy đó là hàng ngàn tượng người bằng đá được điêu khắc thô sơ, dung mạo trầm ngâm tĩnh tại, họ nhìn chằm chằm về phía trước từ nhiều góc độ khác nhau, dường như bất kỳ thứ gì đều không thể lọt khỏi tầm mắt của họ.



Đội khảo cổ mò mẫm đến chân núi, lại có một bức tường kiên cố, một cánh cửa khổng lồ cao gần mười mét nằm trong lòng núi, hai mặt khảm tượng người bằng đồng nặng ngàn cân, một người bắt rắn, một người cưỡi rùa, khuôn mặt trông rất kỳ dị, khắp mình khắc đầy chữ triện cổ triều Hạ, nhưng đã bị gỉ sét ăn mòn, khó lòng phân biệt được chữ nào vào chữ nào.



Hải ngọng nóng lòng muốn biết thành cổ cất giấu thứ gì, bèn lên trước đẩy mạnh cửa, nhưng cho dù vận hết công lực, cánh cửa vẫn chẳng hề xê xích một ly, nó vững chãi như cột đình. Hải ngọng mệt đến nỗi mặt đỏ tía tai, gân xanh hằn trên cổ, anh nói với ba người còn lại: “Các cậu đừng có trố mắt lên mà ngó thế, mau lại đây giúp tôi một tay, nếu không thể đẩy được cánh cửa thành lũy phong kiến phản động kiên cố này, thì chúng ta đến đây chỉ uổng công thôi.”



Đội trưởng Lưu Giang Hà khoác súng ra sau lưng định thò tay giúp Hải ngọng, nhưng Tư Mã Khôi ngăn lại: “Đừng mất công vô ích! Cánh cửa đá này dày nặng lắm, tám phần là dùng rãnh trượt từ trong kéo lên, đừng nói bốn người chúng ta không đẩy được nó, mà ngay cả dùng hết toàn bộ mấy bó thuốc nổ ở đây, cũng không làm nó động đậy được đâu”.



Lúc này, Thắng Hương Lân mới nói với Tư Mã Khôi: “Cho dù có đủ thuốc nổ, cũng không thể sử dụng phương pháp này được, đội khảo cổ tác nghiệp phải biết giới hạn, nếu không thì khác gì bọn giặc đất? Ngoài ra, căn cứ vào số liệu hiện thị trên đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực, thì trong tòa thành cổ tồn tại một vật thể hình tròn bằng kim loại khổng lồ…”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 111: Hồi chín: phát hiện động trời


Tư Mã Khôi có chút bất ngờ: “Trong thành cổ dưới lòng đất còn có vật thể kim loại hình tròn cơ à? Có phải nó là mạch quặng tồn tại trong lòng núi không? Bây giờ cô đã xác định được nó cụ thể là vật gì chưa?”



Thắng Hương Lân lắc đầu: “Tôi cũng không dám chắc, chỉ suy đoán nó khả năng bằng đồng, và được cất giấu trong lòng núi”.



Hải ngọng cũng kêu lạ: “Chuyện này đúng là hi hữu! Không biết thể tích của nó lớn chừng nào? Sao lại là… hình tròn được nhỉ?”



Đồng hồ thám trắc trọng lực và từ lực của Thắng Hương Lân chỉ hiển thị một vài số liệu đại khái, phỏng đoán vật thể có đường kính dài khoảng trên dưới ba mươi mét, còn tình hình cụ thể ra sao, thì không suy đoán được.



Tuy đội khảo cổ không biết người xây dựng tòa thành cổ là ai, nhưng rất có khả năng nó được xây đựng vào thời tam đại Hạ – Thương – Chu, từ lưu vực sông Hoàng Hà di chuyển dần xuống lòng đất, ngoài điều đó ra, mọi người không biết gì hơn, các sách địa lý cổ cũng hầu như không ghi chép gì về sự kiện này. Nhất thời, mọi người không biết phải bắt tay từ đâu, đành tiếp tục thăm dò lòng huyệt động ở nơi sâu nhất trong thành cổ xem tình hình thế nào trước đã.



Tòa thành cổ này xuất hiện ở điểm tận cùng của tọa độ dẫn đường, có lẽ nó chính là chìa khóa quan trọng để mở ra các ổ khóa ẩn số, bây giờ chỉ cách đáp số một bước chân. Có điều mọi người không thể lý giải được: người xưa đã làm cách nào để chế ra vật thể bằng đồng xanh hình tròn khổng lồ cỡ này được?




Tư Mã Khôi thầm nghĩ: nơi sâu trong thành cổ đã có cánh cửa đá to nặng như thế, thì lòng núi chắc chắn phải bị đục rỗng, có lẽ giống như cái giếng khoan, thông suốt từ miệng cho đến tận đáy. Bởi vậy cả đội có thể thâm nhập vào trong bằng cách mạo hiểm tụt từ miệng núi xuống dưới. Có điều trước khi làm vậy, vẫn phải tìm xem có lối đi nào trong huyệt động hoặc có mật đạo nào nằm trong thành không đã.



Thế là anh bảo mọi người nắm bắt thời gian chuẩn bị, đầu tiên ăn uống lót dạ qua loa, sau đó thu dọn nai nịt hành lý thật gọn gàng, rồi bới một miệng động bị cát vàng vùi lấp ở gần đấy. Tư Mã Khôi xách súng xung phong và đèn cacbua cùng Hải ngọng vào trong trinh sát, huyệt động xuất hiện quá nhiều cát lún, chất lượng không khí không tốt lắm, khiến ánh đèn cứ mờ ảo chập chờn.



Thành cổ chia tầng tầng lớp lớp, điểm tiếp nối của một số khu vực vừa hẹp lại vừa thấp, địa thế dễ thủ khó công, muốn vào bên trong buộc phải cúi người chui qua, giống như chui vào tổ kiến chằng chịt ngang dọc, vết tích đục đẽo thủ công của con người ở hai bên vách rất rõ nét. Giếng thông gió xuyên suốt, sâu cả trăm mét, mỗi lối vào từng tầng động đạo đều có cửa hình tròn, vô cùng kiên cố, giống như để đề phòng kẻ địch tấn công từ bên ngoài.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng buộc dây thừng dài vào thắt lưng, xách đèn quặng dò đường, vừa đi vừa quan sát tứ phía xung quanh, thấy thành cổ dưới lòng đất có quy mô vô cùng hùng vĩ, kết cấu quái dị, trong lòng bất giác cũng tự thấy thất kinh, càng quan sát lại càng thấy không thể lý giải nổi đây rốt cục là chốn nào. Cuối cùng, hai người mò mẫm đi vòng đến phần đáy cánh cửa đồ sộ ở trong thành, trên vách đá dọc hai bên đường hầm, khắc đầy những bức vẽ chim bay cá lượn. Hai người soi đèn xem thì thấy phần lớn nội dung các bức bích họa đều mô tà về truyền thuyết vạn vật biến mất, nhưng vì nội dung quá trừu tượng, cổ xưa, nên nhất thời khó mà lĩnh hội được hàm ý của nó. Vả lại nơi tận cùng đường hầm lại là ngõ cụt, không thể tiến vào lòng núi, nên cho dù có mật đạo cũng khó mà tìm thấy, hai người bèn quay trở về theo đường cũ.



Đội khảo cổ đành mạo hiểm trèo lên cao, lúc này tầng mây dưới lòng đất đang phun trào, luồng cát điên cuồng vần vũ, đỉnh núi đỉnh bằng đứng sừng sững sâu trong thành cổ, giống như ngọn tháp khổng lồ cô độc và im lìm, hòa quyện với bóng tối thăm thẳm, nó thấp thoáng ẩn hiện giữa màn sương đen già nua và hiểm trở, cảm giác nặng nề tồn tại khiến người ta rùng mình ớn lạnh. Có lẽ thế nhân vĩnh viễn không bao giờ hiểu được nơi này rốt cục che giấu bao nhiêu bí mật cổ xưa và quái dị.



Độ dốc của ngọn núi đỉnh bằng rất hiểm trở, tầng dung nham trơ trụi không một ngọn cỏ, ngay cả bầu không khí cũng ám mùi của sự hoang lương đáng sợ; trên đỉnh là miệng núi lửa khổng lồ hình cái chậu, bốn vách phủ lớp bụi dày, ở giữa là huyệt động tròn vành vạnh, đường kính khoảng trên 50 mét.



Hội Tư Mã Khôi trèo tới đỉnh, đứng bên miệng núi lửa ngó xuống, nhận thấy gió dữ trong động rít lên từng hồi, dường như có một lực hút rất ghê gớm tồn tại trong bóng tối âm u, nó tựa hồ muốn kéo tuột người ta xuống tận đáy vực. Những người hơi non gan một chút, đừng nói dám ghé xuống nhìn, mà chỉ cần đứng cạnh miệng hố cũng đủ thấy mềm nhũn cả chân.



Hải ngọng nhìn xong phát hoảng, anh nói với Tư Mã Khôi: “Trên đời tục truyền có bốn thứ đại hắc, đó là Bao Thanh Thiên, Hô Diên Khánh(1) , đêm ba mươi và động không đáy. Tớ thấy cái bụng núi này khéo còn đen hơn cả động không đáy ấy chứ, chúng ta phải nghĩ cách xác định liệu nó sâu bao nhiêu trước đã.”



[1] Hô Diên Khánh (một số sách khác gọi là Hô Khánh): là một tướng lĩnh quân sự kiêm nhà ngoại giao tài ba thời Bắc Tống.



Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý, anh bảo Thắng Hương Lân thắp pháo tín hiệu, ném từ miệng núi xuống lòng động, nhưng ánh lửa màu đỏ sẫm, sáng đến nhức mắt, vừa quăng xuống đã mất dạng.



Mọi người đều kinh hãi, pháo tín hiệu cháy được cả dưới nước, thế mà mới rơi vào trong động, trong phút chốc đã bị dập tắt, chứng tỏ là khả năng lòng núi có hắc khôi hoặc khói bụi dày đặc chắn ngang.




Mọi người biết rõ lòng huyệt động nguy hiểm khôn lường, nhưng nhìn tứ phía đều không thấy lối nào khác dẫn vào trong. Vả lại đo độ cao lòng núi, thì thấy nếu nối tất cả dây thừng mà đội khảo cổ mang theo, có khi sẽ tới được đáy động, mà giờ cũng đâu còn cách nào khác, đành liều chết xuống đó thăm dò một chuyến xem sao. Thế là cả đội đeo máy thở hình mang cá vào, rồi nối toàn bộ dây thừng lại với nhau, một đầu móc vào khe đá, còn đầu kia thả xuống lòng động.



Vì có thân thủ nhanh nhẹn nên Tư Mã Khôi xung phong xuống trước. Anh treo đèn quặng trước ngực, mở đèn cacbua gắn trên mũ Pith Helmet, một chùm sáng như đóng băng lập tức phóng về phía trước. Trên miệng núi tập trung một lượng lớn khói bụi dày đặc bị khí đối lưu đẩy lên, bởi vậy pháo tín hiệu vứt xuống đó mới không thấy tăm hơi đâu cả, nhưng chỉ cần xuyên qua màn sương đen, sẽ thấy cuộn pháo tín hiệu nằm cách đó chừng trăm mét, ánh sáng vẫn còn le lói chưa lịm hẳn, nhưng xung quanh mịt mù, tứ bề mênh mang, không nhìn rõ bên trong có thứ gì.



Tư Mã Khôi thấy lòng núi không phải là động không đáy mới dần yên tâm trở lại. Anh bám dây thừng tụt dần xuống dưới, phát hiện dưới chân rải toàn đá sỏi bằng phẳng, trải rộng mấy mét vuông, trong các kẽ nứt mọc đầy rêu xanh hình thành từ các hợp chất, dường như lòng núi là nơi đặt cung điện thì phải. Lúc này, anh không có thời giờ quan sát kỹ, nhìn pháo tín hiệu và đèn cacbua vẫn cháy sáng bình thường, anh bèn tháo máy thở phòng độc ra, rồi đón ba người còn lại tiếp đất.



Mọi người cảm thấy độ cao nơi này lửng lơ giữa không trung, rõ ràng là rất cổ quái, nên ai cũng muốn phải tìm hiểu rõ xem rốt cục mình đang ở chỗ nào. Họ đốt thêm cuộn pháo tín hiệu nối dài, toàn bộ khu vực trong phạm vi trăm mét xung quanh đột nhiên bừng sáng. Lúc này họ mới nhìn rõ trong lòng núi có một cái bục cao được ghép bằng các phiến đá lớn, mạch ghép vừa khít không lọt một khe hở nhỏ, tất cả có bảy tầng, bốn mặt đều có bậc hình thang rộng rãi, được bao quanh bởi các pho tượng đá điêu khắc xếp tầng tầng lớp lớp rất phức tạp. Sau khi núi lửa trong động phun trào, khoáng vật bị phong hóa, hình thành lớp đất hữu cơ, tạo điều kiện thuận lợi cho một số thực vật dạng nấm dưới lòng đất, có hình thù kỳ quái, nảy nở um tùm trong các hốc lớn. Cung điện dưới lòng đất trải qua tuế nguyệt đằng đẵng hàng ngàn năm, cũng dần bị nó xâm thực, che phủ.



Mọi người càng nhìn càng thất kinh, đến khi ánh sáng pháo tín hiệu bắt đầu mờ dần, cả đội lại tiếp tục bò xuống tầng đáy của cung điện theo sự chỉ dẫn của đồng hồ thám trắc. Tư Mã Khôi phát hiện có vật thể đen sì, lặng lẽ sừng sững đứng chắn trước mặt. Anh lấy báng súng gõ gõ, thấy âm thanh phát ra nghe lạnh lẽo, thì biết vật thể hình vòng bằng kim loại – mà máy thám trắc đo được quá bán, chính là vật này, bèn vội gọi mọi người mau lại xem.



Tư Mã Khôi lau lớp bụi trên mặt đồng, thấy thể tích nó vô cùng to lớn, bụng thuôn dài, cao cỡ một người, hai bên có tai hình mình rắn, bốn trụ có chân hình chữ V úp ngược, mặt đồng bị ăn mòn loang lổ nhưng không nát, vách dày tầm 6cm, bề mặt đúc chạm toàn bọn ma vương quỷ sứ, xung quanh trang trí bằng các họa tiết rồng hổ.



Thắng Hương Lân kinh ngạc thốt lên: “Hình như là một cái đỉnh cổ…”



Tư Mã Khôi thấy hơi khó hiểu, khi trước kết quả thăm dò cho thấy, dưới lòng đất có vật thể hình tròn bằng kim loại khổng lồ, sao bây giờ lại là cái đỉnh cổ? Lẽ nào đồng hồ thám trắc bị hỏng?



Lúc này, Hải ngọng đứng bên cũng phát hiện ra vài thứ khác, Tư Mã Khôi qua xem, thì thấy lại có một cái đỉnh khổng lồ nữa, mò mẫm tìm tiếp, thì phát hiện tất cả chín cái đỉnh đồng, thể tích tương tự nhau, nhưng hình thù mỗi cái một khác, xếp theo hình vòng tròn. Xem ra vật chất bằng kim loại thám trắc được lúc trước, chính là chín cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn dị thường này.



Hải ngọng rầu hết cả người, đội khảo cổ hi sinh bao nhiêu mạng người, mới tìm thấy tòa thành cổ bị thất lạc dưới lòng đất, nào ngờ cuối cùng trong thành lại chỉ có đám đồng sắt phế liệu. Đây đúng là số mệnh chứ còn gì. Con người không bao giờ chiến thắng được số mệnh cả, cứ xem Tây Du Ký thì sẽ rõ thế nào gọi là mệnh. Thực ra khi Đường Tam Tạng chưa rời khỏi Trường An, thì số mệnh đã sớm an bài cho nhà sư phải trải đủ chín chín tám mươi mốt kiếp nạn, dù thiếu một nạn cũng không thể đến được Tây Thiên.



Tư Mã Khôi nhìn những hoa văn vô cùng kỳ quái chạm khắc trên thân đỉnh đồng cổ, thì biết nó không thể nào là đám sắt vụn, vì những chiếc đỉnh lớn luôn được coi là quốc bảo của một nước. Đỉnh đồng mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, lại có chút khác biệt với các công cụ làm bằng đồng xanh thời Thương – Chu Chiến Quốc, có lẽ là đồ từ thời thượng cổ, hơn nữa các loại hoa văn đúc trong ngoài thân đỉnh đều rất giống với các truyền thuyết thời xưa.



Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì nói với hội Hải ngọng: “Tôi cũng biết đôi chút về lai lịch của bộ đỉnh đồng cổ này”.




Thắng Hương Lân bán tín bán nghi, cô cảm thấy tuy Tư Mã Khôi đúng là có vài tài lẻ, nhưng chen chân được vào đội khảo cổ cũng chẳng phải nhờ thực tài thực học thông kim bác cổ gì. Gã này không phát biểu đỉnh đồng là cái niêu lớn là cũng đã khá lắm rồi, sao có thể biết cả lai lịch của nó được chứ?



Kỳ thực Tư Mã Khôi chỉ là tay gà mờ về lĩnh vực khảo cổ hay lịch sử, nhưng anh rốt cục vẫn là chân truyền Kim Điển, thông hiểu cổ lý tướng vật. Anh biết, vào thời vãng cổ, một ngày trên trời đột nhiên vang lên mấy tiếng âm ầm chấn động màng nhĩ, rồi tiếp theo là một lằn sét rạch trời, phương nam phụt lên một cột lửa cao vút tận trời, luồng lửa mạnh chói lòa hơn cả vầng dương, chia bầu trời ra thành hai nửa, không trung bốc cháy ngùn ngụt.



Lúc đó, mặt trời phát nổ, thiên thạch rơi xuống, lưỡi lửa chi chít tựa mưa sa điên cuồng táp xuống, bốn cực hoang phế, chín châu chia lìa, thế gian chìm vào bóng tối vĩnh hằng. Rồi trận mưa lớn cuối cùng cũng dứt, nước lớn dâng cao, sông ngòi tràn bờ, biển lớn dội ngược, thiên địa vạn vật phút chốc đều trở thành thần dân của hà bá, ác ma quỷ dữ đều nhân cơ hội lộng hành, chúng thò ra bắt người ăn thịt.



Thời kỳ xảy ra trận đại hồng thủy khủng khiếp đó chính là thời nhà Hạ. Theo truyền thuyết thì sau khi Hạ Vũ chia thiên hạ thành chín châu, chia đất trời thành bốn cực, khai sông trị thủy, cuối cùng xuyên thông Long Môn, thoát nước lũ ra biển lớn. Có thể nói, quá trình đó là lần khảo sát địa lý quy mô đầu tiên và cổ xưa nhất trong lịch sử nhân loại.



Vũ vương lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh, khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi đỉnh tượng trưng cho một châu, rồi cất giữ toàn bộ tại kinh đô nhà Hạ. Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói “Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ”.



Ngoài ra, thân đỉnh còn chạm khắc thế núi mạch sông địa hình sản vật, cây cỏ chim muông và cả những sự kiện ly kỳ lúc bấy giờ. Hậu thế gọi nó là “sơn hải đồ” – tức là bản đồ sông núi, còn tông tích của chín “đỉnh thần Vũ vương” ở đâu, thì từ lâu không còn ai biết nữa, chỉ để lại rất nhiều truyền thuyết cổ xưa như những câu đố không lời giải.



Về sau, mọi truyền thuyết xuất hiện trong các sách địa lý cổ, đều lấy nội dung này làm gốc; ngay cả rất nhiều cuốn cổ thuật như tướng vật hay biệt bảo, có nội dung đề cập đến nó, về cơ bản cũng đều dựa trên nguồn gốc này.



Tư Mã Khôi suy đoán: đỉnh đồng trong thành cổ dưới lòng đất, quá nửa chính là “đỉnh thần Vũ vương” có vẽ sơn hải đồ, nhưng không biết vì sao nó lại lưu lạc xuống tận nơi này? Có lẽ lời giải mà đội khảo cổ muốn tìm, đang được ẩn giấu bên trong. Anh quan sát tỉ mỉ, quả nhiên phát hiện họa tiết chạm ở vách ngoài của một trong chín đỉnh đồng, là ghi chép về vực sâu khổng lồ tồn tại ở điểm khởi đầu của thời gian. Tất cả nguy hiểm, kỳ tích, bí mật và cả cái thăm thẳm không thể vượt qua, đều nằm trong hắc động gần tâm Trái Đất, nơi mà con người không thể nào đặt chân đến được.



- HẾT TẬP 2 -


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 112: vô trung sinh hữu - hồi 1: tấm bia nút rắn


Thế giới lần đầu giải mã ẩn số hãi hung về vũng xoáy tử thần 300 vĩ Bắc theo một góc nhìn mới.



Khe sâu u minh ẩn dưới núi cao, bí mật huyền hoặc giấu trong biển rộng.



Biển Âm Dụ nằm ở 300 vĩ Bắc dưới lòng núi Thần Nông Giá, rốt cục che đậy sự thật kinh thiên động địa gì?



Tổ chức tà ác Nấm Mồ Xanh nâng cấp âm mưu táng tận lương tâm, điên rồ cuồng loạn, tiếp tục vấy gió tanh mưa máu.



Sa lầy nơi địa ngục sâu vạn trượng.



Kẻ nhát gan tử nạn, người nhẹ dạ thiệt thân.



Bạn đang lún chân vào vòng luân hồi sinh tử không có lối thoát.




Đối diện với vòng tròn ma quái đáng sợ, vĩnh viễn không thể hóa giải…



Tư Mã Khôi cho rằng, minh khí(1) đồng xanh khổng lồ mà đội khảo cổ phát hiện dưới lòng đất, tuy đã tồn tại cả ngàn năm nay, nhưng không hề bị ôxy hóa làm cho han gỉ, có thể trong thành phần của nó pha trộn hỗn hợp kim loại của vẫn thạch, nhìn bề ngoài thì chắc chắn là đỉnh Vũ Vương mà cổ nhân đã tạo ra ở Yên Sơn. Vì thân đỉnh có đúc Sơn Hải Đồ, nên tất cả hình họa và phù hiệu thần bí trên đó đều liên quan đến vô số thông tin quan trọng thời viễn cổ như địa lý, địa mạo, sông ngòi, đầm trạch, sa mạc, đất ngập nước và cả những thay đổi lớn lao dời non lấp bể, phân bố khoáng vật, thực vật, quá trình di cư và tuyệt diệt, biến đổi và tiến hóa của muông thú muôn loài…



[1] Minh khí: đồ bằng gốm, đồng… được làm thu nhỏ, mô phỏng theo vật thật, để thờ cúng hoặc chôn theo người chết.



Trong chín chiếc đỉnh có một chiếc đúc hình đầu trâu mặt ngựa, được xếp lớp lang theo thứ tự thời gian và độ sâu tầng đất, cổ nhân đã căn cứ vào đó để ghi lại địa hình địa mạo, các loại khoáng quặng và sinh vật cổ quái của bốn cực. Tầng sâu nhất là một hắc động giống như vực sâu không đáy, bên trong lấp ló thứ gì đó hình thù kì dị nửa ẩn nửa hiện, không rõ rốt cuộc là vật gì, vị trí và các đặc điểm của hắc động này hoàn toàn trùng khớp với miếu thần mà đội khảo cổ đang muốn tìm.



Bên cạnh mỗi bức vẽ đều được chú thích bằng chữ triện cổ rất nhỏ, Tư Mã Khôi cố gắng đọc, nhưng có lẽ đó là văn tự long ấn triều Hạ, nên anh đành bó tay bất lực, không nhận ra chữ nào. Chỉ có đỉnh Vũ Vương là cội nguồn của cổ thuật tướng vật, Tư Mã Khôi nghe đồn đã lâu, nên mới không khó phỏng đoán lai lịch của nó. Nghe nói, Sơn Hải Kinh – một cuốn cổ tịch địa lý thời Tần cũng được phỏng tác từ Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ này, có điều nội dung bên trong đã bớt đi vài phần chân thực.



Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi nói hoàn toàn hợp logic, có lẽ cũng không sai lệch so với thực tế là bao, lòng cô bất giác thất kinh. Trong các lăng tẩm của các đế vương chư hầu, vật phẩm tuẫn táng quan trọng nhất chính là đỉnh đồng. Đỉnh đồng chính là quốc bảo, nên chỉ có bậc đế vương mới đủ tư cách mang cửu đỉnh tuẫn táng theo mình, bởi nó đại diện cho chín châu. Nếu ngược dòng lịch sử tìm về cội nguồn, thì đỉnh đồng đúc ở Yên Son của Vũ Vương có thể coi là cái đỉnh ông tổ, vì vậy Vũ Vương còn gọi nó là đỉnh mẫu, Sơn Hải Đồ chạm khắc trên thân đỉnh là những bí mật kinh thiên động địa. Thế nhưng ghi chép về nguồn gốc của đỉnh đồng Vũ Vương trong lịch sử hầu như rất đại khái, không rõ ràng, vậy mà không ngờ, nó lại xuất hiện trong tòa thành cổ dưới lòng đất này.



Hải ngọng nhìn mãi mà vẫn không hiểu gì, liền sốt ruột giục: “Đâu? Bản đồ đâu? Tôi thấy mấy cái đỉnh đồng to tổ bố này chẳng có tí ý nghĩa thực tế nào với đội khảo cổ bọn ta cả. Mau rời khỏi đây thôi! Đừng mất thời gian với nó nữa!”.



Tư Mã Khôi nói: “Hải ngọng nhà cậu đúng là đồ ăn no vác nặng, trước đây suốt ngày nghe giáo sư Nông địa cầu nói cái gì mà quốc bảo “Tứ dương phương tôn” (2) , “Quách quý tử Bạch bàn” (3) , kiếm Việt Vương, gương Tần đế đấy thôi, nhưng nếu đặt trước cái đỉnh bằng đồng xanh này thì mấy thứ kia chỉ là hạng tép riu đáng hàng con cháu. Đây đúng là cơ duyên ngàn đời khó gặp, đồng thời cũng là phát hiện quan trọng nhất kể từ khi chúng ta từ Đại Sa Bản tiến vào lòng đất đến nay đấy!”.



[2] Tứ dương phương tôn: là một trong những quốc bảo đặt ở viện bảo tàng Nhân dân Bắc Kinh,đó là bình đựng rượu làm bằng đồng xanh, bốn góc gắn bốn cái đầu cừu.



[3] Quách (hoặc Quắc) Quý tử Bạch bàn: được xếp vào quốc bảo hạng nhất của Trung Quốc. Đó là chậu rửa tay của Quắc Tuyên Công, còn gọi Quắc Quý tử Bạch. Trong lòng chậu có 111 chữ triện cổ ghi lại chiến công Quắc Quý tử Bạch đại thắng quân Hung Nô ở bờ bắc Lạc Hà.



Anh nói xong thì quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem liệu cô có thể phác họa tại chỗ những họa tiết trên thân đỉnh đồng không. Những hình vẽ cổ xưa ghi lại mọi bí mật dưới lòng đất này vừa thần bí vừa phức tạp, dẫu kiếm cả một phân đội đến phác họa, e rằng cũng không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai, huống hồ đội khảo cổ có bốn người, mà lại chỉ mình Hương Lân nắm được món kỹ thuật này, còn ba người còn lại thì có nhìn bầu cũng vẽ ra dưa, không giúp được trò gì.



Thắng Hương Lân nói: “Bích họa mới phải phác họa tại chỗ, còn những hình vẽ khắc trên đỉnh đồng chỉ cần dập thác bản trực tiếp là xong, cũng không tốn thời gian lắm”. Nói xong, cô liền lẩy thác bản trong ba lô ra, dập vào mấy cụm hình trên cái đỉnh cổ, rồi vẽ các ký hiệu chú thích vị trí.




Hội Tư Mã Khôi toàn là dân ngoại đạo, không mó tay vào được, đành đứng bên hút thuốc chờ đợi, bàn tính tiếp theo sẽ đi khảo sát địa cung trong lòng núi.



Đội trưởng Lưu Giang Hà đứng ngoài cảnh giới, anh chàng tò mò hỏi Tư Mã Khôi: “Thủ trưởng Khôi, khi nãy thủ trưởng nói cái đỉnh đồng này có ý nghĩa to lớn với đội khảo cổ chúng ta. Thế rốt cuộc nó có ý nghĩa gì vậy?”



Hải ngọng bĩu môi: “Cái ngữ đấy có từ mấy ngàn năm trước thử hỏi có nổi ý nghĩa quái gì chứ? Cậu nhiễm tư tưởng mê tín phong kiến điển hình mất rồi, định quay về con đường tăm tối đấy hả? Lẽ nào cậu còn muốn lôi đội khảo cổ đi theo vết xe đổ trên lối làm việc sai lầm của chủ nghĩa xét lại.”



Đầu Tư Mã Khôi đang rối bời, anh không tìm ra manh mối nào rõ ràng nào cả, nên cũng không còn tâm trí ngồi tán nhăng tán cuội với Hải ngọng. Anh đành nói: “Thật ra mục tiêu mà đội khảo cổ và tổ chức ngầm Nấm mồ xanh muốn tìm, giờ đây hoàn toàn giống nhau, đó chính là khu vực chưa biết nằm gần tâm Trái đất, Triệu Lão Biệt gọi nó là miếu thần, có lẽ nó là một hắc động bị sụt xuống do năng lượng tầng quyển manti tập trung với mật độ lớn. Vị trí cụ thể của hắc động và những bí mật tồn tại bên trong nó đều vượt xa khả năng lý giải của chúng ta.



Manh mối xác thực duy nhất mà đội khảo cổ tìm được cho đến giờ phút này, chính là tòa thành cổ dưới lòng đất và Sơn Hải Đồ khắc trên thân chiếc đỉnh cổ Vũ Vương. Tiếc là chúng ta không thể giãi mã được những chữ triện cổ thời Hạ, chỉ dựa vào mỗi mấy hình vẽ thần bí kì quái kia thì rất khó làm rõ chân tướng của nó. Gã kỹ sư thăm dò vật lý Điền Khắc Cường của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, cũng chính là tên đặc vụ có biệt danh căn phòng số 86 quanh năm mai phục ở sa mạc Gobi ở Tân Cương để theo dõi sát sao mọi động tĩnh xảy ra trong kính viễn vọng Lopnor, điều này chứng tỏ dưới lòng đất chắc chắn phải tồn tại thứ gì đó, trực tiếp uy hiếp đến mục tiêu của tổ chức đó. Tôi đoán, những bí mật đó đang được giấu kín trong chiếc đỉnh đồng Vũ Vương này. Vì vậy, nếu đội khảo cổ chúng ta muốn tiếp cận với hắc động gần tâm Trái đất, thì bắt buộc phải phá giải được ẩn số ở đây.



Điểm tận cùng của biển cát dưới lòng đất là tòa thành cổ được xây dựng bao quanh ngọn núi lửa, lòng núi lại chứa địa cung. Văn tự chữ triện cổ thời nhà Hạ và cái đỉnh bằng đồng xanh to lớn kia, đều là chứng nhân chứng tỏ nó từ lưu vực sông Hoàng Hà di cư xuống đây. Vào thời điểm ấy, con người còn thưa thớt, thú hoang thì nhiều vô số kể, núi lở dữ dội, biển cả dậy sóng, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nshiệt, khắp nơi đều có người ở dưới động huyệt. Sự tồn tai của đỉnh đồng chứng tỏ, khi đó đã kết thúc thời đai hồng hoang, tòa thành hoang phế này có lẽ được hậu duệ các vương triều Hạ Thương để lại, bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm khắp địa cung, hi vọng sẽ tìm thấy phát hiện mới nào đó.”



Lúc này Thắng Hương Lân đã in thác bản xong, cô chỉnh sửa cho hoàn thiện rồi cất chúng vào ba lô, chỉ để lại một trang đưa cho Tư Mã Khôi xem, trang đó có ghi chép thông tin về cực vực. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư



Tư Mã Khôi đón lấy, thấy mấy bức hình đều thể hiện biển sâu sóng dữ thét gào, trong đó không thiếu “cá voi thân khổng lồ, thuồng luồng dài vạn trượng”. Tương truyền, khi xưa Vũ Vương chia chín châu, thăm dò bốn cực, đo đạc tỉ mỉ hình thế của đồi núi sông suối, mới chặn được nước chảy tự do về phía đông, hướng nước đến đại dương theo một con kênh hẹp ở núi Long Môn dọc bờ Hoàng Hà, còn đại dương đó cụ thể đó là Đông Hải hay Nam Hải thì không tài liệu nào có thể khảo chứng, chỉ biết nơi dẫn nước lũ vào gọi là Vũ khư(4) . Có lẽ, “không động” nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất chính là Vũ khư, có điều chuyện này họ cũng không thể kiểm chứng, mà chỉ đoán mò theo cảm tính cá nhân mà thôi. Tư Mã Khôỉ biết mấy hình vẽ này rất bất thường, liền bảo Thắng Hương Lân cất cẩn thận, để sau này có lúc cần dùng đến, rồi anh giục mọi người mau chóng rời khỏi đây, quay lại khu vực ven tòa địa cung. Đối diện với cánh cửa đá của thành cổ có một cửa động giống như mộ đạo, vừa cao lại rộng rãi, nhìn sâu vào trong thấy rất âm u lạnh lẽo, khác hẳn với không khí nóng bỏng ngoài bồn địa Turpan dưới sa mạc Gobi.



[4] Vũ khư: tức là dấu cũ của Vũ Vương hay di chỉ Vũ Vương.



Đội khảo cổ bật đèn quặng gắn trước mũ bấc lên, từ từ tiến vào bên trong. Đường hầm hoàn toàn trống trải, hai bên động cũng không hề có vật gì thừa ra. Tư Mã Khôi cảm thấy không khí ở đây có vẻ không ổn, liền nhắc nhở mọi người phải thận trọng hơn nữa, không ai được mạo hiểm xông vào.



Đội trưởng Lưu Giang Hà bắt đầu lạnh gáy: “Chỗ này yên ắng quá, hình như chẳng có người sống hay sao ấy!”



Hải ngọng cười nhạt: “Nếu ở đây bỗng nhiên mọc ra một thằng cha đang nhe nhởn sống mới khiếp, chứ không có người thì đâu có gì lạ; điều kì lạ là ngay cả một xác chết cũng chẳng thấy…”



Lúc này, chùm sáng của đèn quặng trên mũ Tư Mã Khôi chiếu đến một góc tường, ở đó có một cái xác, phần đầu của xác chết đó to một cách bất thường, như thể bị trương phình lên vậy, lớn gấp đôi người bình thường, so với cái đầu thì gương mặt và cái cổ khô quắt trở nên vô cùng nhỏ bé, trông rất đỗi quái dị và đáng sợ.




Đội trưởng Lưu Giang Hà chưa kịp chuẩn bị tinh thần, nên khi nhìn thấy bộ dạng kì quái của cái xác, thì bất giác giật bắn người, lùi lại phía sau, hốt hoảng kêu lên: “Ối! Người chết!”



Dưới ánh đèn quặng, Tư Mã Khôi còn phát hiện thấy sâu bên trong còn rất nhiều thi thể khác, anh cũng thất kinh, vội vàng bịt miệng Lưu Giang Hà thì thầm: “Khép cái miệng một tí, ngộ nhỡ kinh động đến các ngài, thì chúng ta có mà ăn đủ”.



Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi dọa làm đội trưởng liên lạc sợ xanh mặt, vì đến cô nghe mà còn thấy rờn rợn, liền trách móc: “Tư Mã Khôi! Anh đừng dọa người khác nữa, được không hả?”



Tư Mã Khôi nói với Thắng Hương Lân: “Tôi có dọa đâu. Mấy năm nay tôi nhìn thấy rất nhiều người chết, nhưng chưa bao giờ thấy xác chết nào lại quái dị thế này”.



Thắng Hương Lân gật đầu bảo: “Mọi người phải thật thận trọng! Tuyệt đối không được sờ vào mấy xác chết này!”



Thế là cả đội ai nấy đều cẩn thận nhìn trước ngó sau, quan sát trang phục và trang thiết bị tùy thân của những xác chết, thì biết đây chính là đội khảo sát liên hợp Trung Xô mất tích năm 1958, chẳng ngờ lại tìm thấy họ trong tòa thành cổ này, đồng thời tất cả đều gặp nạn mà chết.



Hải ngọng chỉ tay đếm, tất cả có hai mươi hai cái xác, toàn bộ thành viên đội khảo sát đều chết ở đây, bao gồm cả bóng ma trong tấm hình. Tình trạng khi chết của đội khảo sát rất quái dị, khoảng cách giữa các xác chết không xa lắm. Gần đó có một tấm bia cũ kỹ loang lổ dựa vào tường, cao tầm đầu người, hình thù giống khuôn mặt người, nhưng chỉ có hình khối, không khắc rõ đường nét ngũ quan, chỉ có dưới chân bia là chạm trổ cái miệng lớn đen ngòm ngòm, đang há rộng ngoác nuốt một con quái xà.



Tư Mã Khôi soi đèn quặng vào tấm bia “nuốt rắn” trong địa cung, bỗng thấy gai lạnh cột sống. Anh nghĩ dường như khoảnh khắc đội khảo sát chạm vào tấm bia này, thì đột nhiên họ đều gặp phải bất trắc, không một ai thoát thân. Tuy Tư Mã Khôi biết khu vực quanh đây chắc chắn đầy rẫy hiểm nguy rình rập, nhưng việc đội khảo sát mất tích năm 1958 là việc rất quan trọng, nên anh không thể qua loa cho xong chuyện, đành lấy hết can đảm tiếp tục xem xét. Anh dặn ba người còn lại, trước khi anh cho phép, không ai được tự tiện tiếp cận tấm bia nuốt rắn trong địa cung.



Mọi người lục ba lô và túi áo trên của từng thi thể và tìm thấy một số bản đồ, ảnh chụp cùng các vật phẩm khác như sổ tay công tác. Tuy xác chết đã teo quắt nhưng đường nét ngũ quan thì vẫn còn khá rõ, nên Tư Mã Khôi muốn đối chiếu từng thi thể với ảnh chụp để nhận diện họ.



Lúc này, chợt nghe phía sau có tiếng động vọng lại, gân xanh trên trán Tư Mã Khôi giật giật, anh điên tiết hét lên: “Vừa mới dặn không được tiếp cận tấm bia cổ quái kia, thế mà ngoảnh đầu đi một cái đã quên khuấy rồi à?”, nhưng khi anh quay người lại, thì thấy ba thành viên của đội khảo cổ vẫn ở cạnh bên, khiến tim anh như hẫng xuống một nhịp; anh cảm thấy từng sợi tóc của mình đang dựng đứng cả lên: “Phía sau là ai vậy?”, anh bạo gan soi đèn quặng ra sau nhìn kỹ, nhưng ngoài tấm bia đá ra thì không còn vật gì khác. Tư Mã Khôi kinh hãi thốt lên: “Chẳng lẽ cái bia cổ này sống thọ quá nên thành tinh rồi sao?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 113: Hồi 2: căn nguyên


Tư Mã Khôi thấy tấm bia nuốt rắn dựng dưới bức tường vẫn yên ắng im lìm, cũng không có biểu hiện gì khác thường, không biết âm thanh khi nãy phát ra từ đâu, nhưng hễ nhìn vào tấm bia đó, là anh lại lạnh toát sống lưng. Anh trấn tĩnh nhủ thầm, thấy vật quái mà không cho đó là quái, thì nó cũng sẽ tự khắc là bình thường, liền bạo gan soi đèn quặng lại gần, xem kỹ rốt cuộc thế nào.



Tấm bia nuốt rắn này loang lổ, cổ phác, hình thù kì quái. Gọi nó là tấm bia cũng chỉ là cách mà đội khảo cổ dựa vào hình dáng bên ngoài đặt ra, chứ thực tế không ai biết đó là thứ gì, bởi hình khối trên bề mặt như thể khuôn mặt người, nhưng không có đường nét rõ rệt, chỉ mỗi phần chân là chạm khắc cái miệng ma quái đang nuốt rắn, trông vô cùng quái dị và tàn bạo.



Tư Mã Khôi bỗng nhớ lại, ngày xưa có cuốn sách tên là “khu xà thư”, là sách ghi chép các loại bùa chú để thuần phục rắn. Nhiều đời trước, các trưởng môn cái bang thường giữ cuốn cổ thư này, để khi mở ra đọc là bầy rắn bất phân lớn nhỏ đều kéo đến nghe lệnh họ. Rồi mỗi kẻ ăn mày sẽ bắt một con trong số đó lột da, xả thịt nấu bát canh cho ấm dạ. Thế nhưng chiêu này chỉ được đem ra sử dụng vào những năm thực sự đói kém không kiếm nổi miếng ăn, nếu không sẽ phạm vào điều cấm kị. Liệu có phải tấm bia cổ này cũng có khả năng thu hút bầy rắn? Nhưng nhìn xung quanh địa cung này, ngoài hai mươi hai thi thể của thành viên đội khảo sát, thì không phát hiện thấy dấu tích của bất kì sinh vật nào khác.



Lúc này, Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thi thể của các thành viên đội khảo sát tuy rằng chưa mục nát hẳn, nhưng đầu đã biến dạng, gương mặt khô quắt nghiêm trọng, rất khó đối chiếu với dung mạo ban đầu trong bức ảnh, phải sử dụng kỹ thuật chuyên môn mới kiểm định được”.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thi thể của toàn bộ thành viên đội khảo sát đều nằm ở đây, chứng tỏ bóng ma trong tấm ảnh chỉ là hiện tượng khúc xạ quang học ngẫu nhiên. Có lẽ lúc trước mình đa nghi quá, bây giờ đã phát hiện địa điểm đội khảo sát gặp nạn, lại tìm thấy rất nhiều bản đồ và ghi chép trên các thi thể, thu hoạch cũng không nhỏ, nên phải mau chóng rời khỏi đây thì hơn”. Rồi anh bảo mọi người thu dọn tử thi, chụp ảnh bằng máy ảnh phản quang ống kính đơn K205 làm tư liệu, sau đó nhanh chóng rút lui.



Mọi người quay ra theo đường cũ, nhưng cảm giác càng đi càng thấy bất thường. Tứ phía trong địa cung đều có đường hầm, khu vực ở giữa là chính điện – có tấm bia nuốt rắn, hai bên đường hầm đều có rất nhiều gian động, lúc vào thấy đoạn đường hầm đi từ cửa đến chỗ các tử thi khoảng chừng hai ba trăm mét, nhưng khi đi ra thì không thấy cửa động đâu cả, mà chỉ có bức tường đá lạnh lẽo, sừng sững nằm ở điểm tận cùng.



Hải ngọng hoang mang: “Bọn mình đi lạc rồi, sao lại chạy vào ngõ cụt được nhỉ?”




Thắng Hương Lân nhìn kim la bàn, nghi ngờ nói: “Phương hướng không sai, chắc không phải lạc đường đâu…”



Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Đúng là ghét của nào trời trao của ấy, tòa địa cung này kì quái quá, chẳng lẽ lại có hệ thống ngầm ẩn giấu bên trong, nhốt sống những người bước chân vào đây?”. Có điều, Tư Mã Khôi cũng am hiểu sự biến hóa của hệ thống bẫy ngầm, nên không quá lo sợ, anh bảo mọi người: “Cái nơi quỷ quái này thì nhằm nhò gì, chỉ hù dọa được trẻ lên ba thôi, nếu nắm được nguyên lý tương sinh tương khắc, thì dễ như trở bàn tay ấy mà”.



Nói xong, anh lên trước lần sờ vách tường, nhưng rồi anh lập tức phát hiện sự việc không hề đơn giản như mình nghĩ. Khối đá được tạo từ tro núi lửa cứng chắc, kín bưng không một kẽ hở, ít nhất cũng dày đến bảy tám centimét, bên trong đặc, không hề có thiết bị ngầm nào, cho dù sử dụng lượng lớn thuốc nổ, cũng chưa chắc phá hủy nổi nó.



Đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà lo lắng nói: “Thủ trưởng ơi! Bên dưới tòa thành cổ này chắc có ma rồi, mấy con ma trong đội khảo sát không muốn chúng ta rời khỏi đây rồi!”



Tư Mã Khôi mắng: “Này, đừng có thần hồn nát thần tính nữa. Tôi thấy chuyện này quá nửa là liên quan đến tấm bia nuốt rắn chết tiệt kia, bây giờ có mà chạy đằng trời, chúng ta đành quay về tìm tấm bia cổ quái đó thôi!”



Đội khảo cổ đang định quay đầu trở về, thì thấy một loạt tiếng động văng vẳng bên tai, dường như có vật gì đang bò đến từ nơi sâu trong đường hầm, chúng cọ sát vào vách tường, phát ra âm thanh quái dị nghe sàn sạt, dường như có rất nhiều loài sinh vật cánh cứng. Rồi tiếng động càng lúc càng gần, không những vậy, tốc độ và sức mạnh còn dữ dội như nước triều dâng, thực sự khó lòng đoán được.



Mọi người thất kinh, không biết nơi sâu trong địa cung rốt cuộc xuất hiện thứ gì, nhưng xem chừng kẻ sắp đến không phải hạng tốt đẹp, khẩu xung phong PPS chưa chắc đã cản được bước của chúng. Cả đội đành tháo lui về gian động bên cạnh, rồi hợp lực đẩy cánh cửa đá hình tròn để nó cách biệt hoàn toàn với cửa động dẫn ra đường hầm.



Tư Mã Khôi áp người vào cánh cửa đá nghe ngóng một hồi, loáng thoáng thấy âm thanh phía ngoài đường hầm dường như đều bị chặn trước cánh cửa, anh mới thở phào một tiếng, đang định quay người, thì phát hiện ba thành viên còn lại đứng sững như trời trồng, dường như họ đã nhìn thấy thứ gì không thể tưởng tượng nổi. Tư Mã Khôi thầm nghĩ, trong gian động này thì có thứ gì được chứ? Anh ngẩng đầu nhìn lên và hồn bay phách lạc, thì ra dưới chân tường trong động thất, có một người đang ngồi lặng lẽ.



Người đó vóc dáng tiều tụy, khuôn mặt đầy nếp nhăn, tóc bạc phơ, hai mắt sáng quắc như điện, lão ta đang nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi, cách ăn mặc giống hệt với các thành viên đội khảo sát tử nạn dưới lòng đất.



Trong khoảnh khắc, Tư Mã Khôi có thể phân biệt người này chắc chắn không phải kẻ cầm đầu Nấm mồ xanh, bởi vì Nấm mồ xanh giống như u hồn hoặc xác ướp, cái mùi tử khí nặng nề quái dị đó khó có thể che đậy được, nhưng chẳng phải hai mươi hai xác chết của đội khảo sát đều nằm ngoài địa cung sao? Ông già tóc bạc này rốt cuộc là ai?



Lão tóc bạc nhìn chằm chằm hội Tư Mã Khôi như thể đang ngầm đánh giá, bỗng nhiên lạnh lùng mở miệng hỏi: “Các cậu… đến đây tìm ta sao?”



Tư Mã Khôi không đáp mà hỏi lại: “Lão có phải thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor năm 1958 không?”



Lão tóc bạc “hừ” một tiếng rồi nói: “Này hậu bối! Đây là cơ mật quốc gia, ai là lãnh đạo của các cậu? Ta muốn nói chuyện trực tiếp với lãnh đạo của các cậu”.




Hội Tư Mã Khôi nhìn nhau, ai nấy đều cảm thấy trên mình người này tỏa ra một luồng khí thần bí, khó lòng miêu tả được, người này rốt cuộc là ai? Vì sao lại xuất hiện trong địa cung? Lẽ nào cả đội đang chạm trán với u hồn của một trong những thành viên đội khảo sát? Hơn nữa, trong bức ảnh hình như không có người này, chẳng lẽ hắn chính là bóng ma đó?



Tư Mã Khôi cảm thấy tình huống lúc này thật mơ hồ, anh định thăm dò hư thực, liền phân công đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà ra gác cửa, đề phòng trong động bất ngờ xảy ra biến cố, sau đó nói với lão tóc bạc: “Tôi là thủ lĩnh của đội, trước đây còn chụp ảnh cùng chủ tịch nước và bắt tay với thủ tướng rồi đấy…”



Hải ngọng chen ngang: “Chuyện này tôi có thể làm chứng. Lãnh đạo Khôi đúng là đã từng chụp ảnh chung với chủ tịch nước, nhưng là chủ tịch nước Cộng hòa Miến Điện, còn thủ tướng mà cậu ta bắt tay là thủ tướng Lào đấy”.



Lão tóc bạc nghi ngờ hỏi: “Thế nghĩa là các cậu không biết ta là ai hả?”



Tư Mã Khôi thấy đối phương không giữ thái độ ôn hòa, nên cũng chẳng cần khách khí nói luôn: “Trông bộ dạng xui tận mạng của lão thì chắc là một chuyên gia chứ gì?”



Lão tóc bạc gật đầu nói: “Người phàm tục bình thường đều gọi ta như vậy, nghe mãi cũng quen tai!”



Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng mồm mép tép nhảy, cứ vòng vo nói đi nói lại mãi thế này, thì biết bao giờ mới có kết quả? Thế là, cô liền kể thật cho lão tóc bạc nghe toàn bộ quá tình từ khi đội khảo cổ tiến vào Đại Sa Bản, vượt địa máng và rừng rậm than đá, tìm thấy trạm thám trắc trung tâm, tiếp theo thoát khỏi sự đeo bám của căn phòng số 86, rồi đào thoát ra ngoài chiếc hộp thời gian, cuối cùng đến được thành cổ trong biển cát. Cô kể tóm tắt tất cả sự việc một lượt, mong giành được sự tin tưởng của đối phương.



Tư Mã Khôi thấy lai lịch ông già tóc bạc rất bất minh, nên sao có thể dễ dàng khai tuốt tuột toàn bộ sự thật về đội khảo cổ cho lão nghe được? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy đội khảo cổ giờ đây đã đi đến đường cùng, nên những chuyện này cũng không cần thiết phải giữ bí mật nữa, bởi vậy anh cũng không ngăn cản cô, chỉ lặng im đứng bên quan sát xem cuối cùng đối phương sẽ nói gì.



Lão tóc bạc nghe xong bán tín bán nghi, dường như lão đang tự suy đoán xem, câu chuyện Thắng Hương Lân vừa kể là thật hay giả. Trầm ngâm một hồi lâu, sau cùng, lão cũng thừa nhận mình là một trong những thành viên của đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958. Còn về việc vì sao lão lại xuất hiện ở đây và rốt cuộc, lúc đó đã xảy ra những chuyện gì, thì hầu hết đều gần với những gì Tư Mã Khôi phỏng đoán, hơn nữa mọi sự kiện đều có liên quan đến tấm bia nuốt rắn trong lòng núi.



Lão nói với hội Tư Mã Khôi:. “Tôi không dám chắc mình hiểu tất cả những chuyện liên quan đến kính viễn vọng Lopnor, tàu ngầm Liên Xô bị mất tích và bí mật của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh, nhưng chí ít cũng biết bảy tám phần, có điều những sự kiện này đan cài vào nhau rất phức tạp, phải kể từ lúc bắt đầu, đó cũng chính là ngày trời đất thành hình.



Từ năm 1543, nhà vật lý thiên văn người Ba Lan Nicolaus Copernicus đã đưa ra một phát hiện mới đầu tiên của thuyết mặt trời là trung tâm, rồi từ đó những thảo luận về sự quay quanh của các thiên thể được quy nạp vào phạm trù khoa học. Sau đó, dần dần hình thành nên các trường phái khác nhau như: thuyết tinh vân, thuyết va chạm hành tinh… Nhưng trên thực tế, những học thuyết liên quan đến khởi nguồn của vũ trụ, cho đến tận bây giờ vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn giả thiết, hoàn toàn không cỏ căn cứ chứng minh.



Trong các mẫu lõi đá mà các nhà khoa học Liên Xô sưu tầm được ở kính viễn vọng Lopnor, có một loại vật chất khoáng quặng tên là Zirconi. Đó là một kim loại chuyển tiếp màu trắng xám, bóng láng, tương tự như Titan. Suy đoán theo năm tuổi đo lường từ mẫu vật này, thì không động nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái đất, ít nhất cũng tồn tại từ cách đây 4 tỉ 600 triệu năm, khi đó, vụ nổ vẫn thạch dưới lòng đất khiến vực sâu cách bề mặt Trái đất mười nghìn mét này bắt đầu xuất hiện ôxy và nước.



Trong khi đó, khoảng thời gian hơn bốn ngàn năm về trước, cũng chính là thời đại của hồng thủy, và chính trong thời điểm này, con người đã phát hiện ra không động dưới lòng đất. Huyệt động trong núi Long Môn khi Vũ Vương đào vét lưu vực sông Hoàng Hà, đã dẫn nước lũ ra đầm lớn, nó chính là Vũ khư mà sử sách vẫn ghi chép, đồng thời cũng là cực vực mà hậu thế sau này vẫn gọi. Tương truyền, mười vạn âm binh dưới lòng đất đã ra sức đào vét sông ngầm, nhờ vậy mới dẫn được nước từ núi Long Môn chảy vào Vũ khư. Mức độ chính xác về các số liệu địa lý mà cổ nhân đo đạc, cũng như độ khó và sự hùng vĩ của các công trình đó, quả thực khiến người đời nay khó lòng tưởng tượng nổi, mà chỉ có thể quy kết là được thần quỷ phù trợ. Kì thực, vì niên đại quá xa xôi, các ghi chép thực tế trong sách cổ lại vô cùng ít ỏi, nên rất nhiều phương pháp cổ xưa đã bị thất truyền”.




Tư Mã Khôi càng nghe càng hiếu kì, tuy ông già tóc bạc này nói có đầu có cuối, nhưng sao lão ta lại hiểu rõ cặn kẽ ngọn nguồn mọi chuyện như vậy nhỉ? Có thể những bí mật này vẫn còn tồn tại trong thành cổ, nhưng từ sau thời Tống thì làm gì còn ai có thể giải mã được chữ triện cổ triều Hạ nữa, vậy lão già này rốt cuộc là người sổng hay là bóng ma trong tấm ảnh hiện thân trở về?



Lúc này, chuyên gia tóc bạc lại càng làm ra vẻ bí mật, nói úp úp mở mở với mọi người: “Niên đại chữ triện cổ triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, vì nội dung của nó quá cổ xưa và ảo diệu nên di chỉ sót lại không nhiều, hàng ngàn năm trước nó đã hoàn toàn thất truyền. Nhưng có thể nói không ngoa là thời nay chỉ mỗi mình ta hiểu được chúng, bởi vậy ta mới có thể phá giải những ẩn số kinh động trong cối đời này. Tạm thời các cậu đừng vội gạn hỏi về nguyên nhân ẩn chứa bên trong, mà trước tiên hãy nghe lão đây nói hết đã.



Trong lịch sử tồn tại truyền thuyết “Vũ Vương xiềng giao long”, tương truyền, thời nhà Hạ có con quái vật cổ, thân mình như vượn, mắt vàng răng tuyết, tên là Vô chi kì (1) . Khi Vũ Vương khơi thông sông Hoài Thủy, ông đã thu phục được nỏ, và xiềng nhốt nó trong giếng Hoài Cảnh sâu không thấy đáy. Cũng có quan điểm cho rằng Vô chi kì là con mãng xà lớn, bởi vậy mới xuất hiện truyền thuyết xiềng giao long.



[1] Vô chi kỳ: là con quái vật cổ xưa nhất xuất hiện trong truyền thuyết Trung Quốc. Nó sinh ra ở Hoa Quả Sơn, tự nhận mình là thần sông Hoài Thủy, phép thuật thần thông quảng đại. Về sau Ngô Thừa Ân lấy hình mẫu con quái vật này để xây dựng hình tượng nhân vật Tôn Ngộ Không.



Trên thực tế, thời đó, bên bờ sông Hoài Thủy có một cổ quốc tôn rắn làm thần. Người dân nước này đều sống trong các hang động dưới lòng đất, không biết sử dụng lửa. Do họ nhiều lần đào đường sông, nên dẫn đến nạn lũ lụt hoành hành. Sau khi bị vương triều nhà Hạ hàng phục, họ trờ thành nô lệ và bị đẩy xuống lòng đất đào con kênh ma quỷ. Lợi dụng kết cấu hợp lý sẵn có của các quần thể huyệt động nguyên sinh trong lớp vỏ Trái đất, nhà Hạ đã tạo ra con sông ngầm ngoằn ngoèo trải dài hàng ngàn dặm. Đồng thời, họ còn chôn giấu rất nhiều đồ vật cổ để trấn sông. Đỉnh đồng Vũ Vương cũng bị thất lạc dưới lòng đất chính vào lúc đó. Sau này, một lượng lớn bùn đất trong Hoàng Hà bị chìm lún xuống sâu, lấp kín con sông ngầm dưới lòng núi Long Môn. Mãi đến ngàn năm sau, những nô lệ tộc quỷ đã chạy trốn khỏi lòng đất, thâm nhập sa mạc Tây Vực và trở thành tổ tiên của tộc người Tochari(2) – một phân nhánh nhỏ trong tộc di cư đến Miến Điện vào thời Tần Hán, sau này chính là Diệt Hỏa quốc bị mất tích một cách thần bí dưới lòng đất.



[2] Người Tochari: phiên âm Hán Việt là người Thổ Hỏa La, có tư liệu cho rằng, đó chính là tiền thân của tộc người Nguyệt Chi. Ban đầu họ định cư ở miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày này thuộc Tân Cương, Cam Túc và Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc, sau đó di cư tới Transoxiana, Bactria (Đại Hạ) và cuối cùng là miền bắc Ắn Độ, nơi họ lập ra Vương triêu Quý Sương.



Thắng Hương Lân thấy chuyên gia tóc bạc kể chuyện lịch sử cổ xưa từ hàng ngàn năm trước mà rõ ràng như thể dọc đường chỉ lòng bàn tay, thì biết tri thức của lão vượt xa người thường. Cô bất giác vừa kinh ngạc vừa thắc mắc, không lý giải được vì sao đối phương lại am tường mọi chuyện đến thế. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà cũng tròn mắt đứng ngẩn ra nghe.



Chỉ có Tư Mã Khôi là càng lúc càng hoài nghi, anh không muốn tiếp tục nghe chuyên gia tóc bạc huênh hoang kiến thức nữa. Trước khi làm rõ thân phận của đối phương, ai dám tin mấy lời xằng bậy của lão?



Tư Mã Khôi lôi tấm ảnh chụp đội khảo cổ ra, dưới ánh đèn quặng, anh liên tục đối chiếu lão chuyên gia tóc bạc với từng người trong ảnh. Không thấy người nào có dung mạo tương tự với lão, dẫu đối phương là vong linh đã chết từ nhiều năm trước, thì cũng tuyệt đối không phải vong linh của thành viên đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958.



Hải ngọng hậm hực nói với Tư Mã Khôi: “Cậu đúng là hạng đa nghi Tào Tháo! Có bao giờ chịu tin ai chưa hả? Trong tấm ảnh chẳng phải có một bóng ma lờ mờ không rõ mặt đấy à? Sao cậu dám chắc người thứ hai mươi hai không phải lão ta chứ?”



Tư Mã Khôi nói: “Tuy khuôn mặt của bóng ma trong tấm ảnh không rõ, nhưng tớ dám chắc thằng cha đó là người Nga, còn chuyên gia tóc bạc mà chúng ta đang gặp này, căn bản không hề xuất hiện trong tấm ảnh”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 114: Hồi 3: tấm ảnh


Tuy rằng khuôn mặt của bóng ma đứng đầu tiên mé trái hàng thứ hai trong tấm ảnh có dính một vệt sáng, khiến mọi người không thể nhận diện rõ ràng, nhưng ngoài khuôn mặt ra thì mọi chi tiết khác trên cơ thể đều được chụp lại một cách rất chân thực.



Lúc này Tư Mã Khôi đã chú ý đến một chi tiết nhỏ, anh phát hiện trang phục mà hai mươi hai thành viên đội khảo sát mặc trên người không giống nhau, từ các đặc trưng trên trang phục có thể phỏng đoán, bóng ma trong bức ảnh khả năng là người Liên Xô. Bởi vậy, bất kể thân phận thực sự của bóng ma kia thế nào, thì chí ít nó cũng không phải chuyên gia tóc bạc đang trốn dưới lòng đất này.



Ba người còn lại nghe Tư Mã Khôi chỉ ra vấn đề, cũng thấy mối nghi ngờ trong lòng càng lúc càng lớn. Tuy đối phương biết rất nhiều chuyện cơ mật quan trọng, nhưng lai lịch người này rất bất minh, vậy làm sao dám tin những lời lão ta nói?



Chuyên gia tóc bạc thấy rõ tâm lý nghi kỵ của mọị người vẫn chưa giảm xuống, thì nói: “Bức ảnh đó đúng là được chụp trước khi đội khảo sát tiến xuống lòng đất, có điều, nếu như các cậu muốn biết bóng ma trong búc ảnh rốt cuộc là ai, thì buộc phải hiểu rõ bí mật hạt nhân của tổ chức Nấm mồ xanh. Tổ chức này chính thức thành lập năm 1946, kết cấu của nó giống như cái ô. Nội bộ tổ chức đặt biệt danh theo cấp bậc của các công trình kiến trúc khác nhau, chức danh cao nhất là nấm mồ, chức danh thấp nhất là căn phòng, còn kẻ cầm đầu chính là cánh tay cầm cán ô”.



Tư Mã Khôi chăm chăm suy nghĩ xem phải thoát khỏi nơi này thế nào, nên không còn tâm trạng để ý đến mấy lời hù dọa củạ lão tóc bạc, nhưng thấy đối phương bỗng nhiên nhắc đến Nấm mồ xanh, rõ ràng là lão hiểu rất rõ về tổ chức ngầm này, anh đành kiên nhẫn nghe tiếp xem rốt cuộc lão định nói gì, đồng thời ngầm quan sát và phán đoán xem thân phận thực sự của lão.




Chuyên gia tóc bạc hiển nhiên rất thấm nhuần nghệ thuật rắc thóc dụ gà. Trước tiên, lão ta dùng mấy lời để trấn an tâm lý bốn thành viên đội khảo cổ, nhưng khi mọi người đã tập trung chú ý thì lão không nhắc lại chuyện Nấm mồ xanh nữa, mà tiếp tục kể về dòng sông ngầm dưới cực vực khi nãy hãy còn nói dở. Lão kể rằng, Quỷ Nô là một trong những tổ tiên của tộc người Tochari ở Tây Vực. Trong thể hệ ngôn ngữ Ấn Âu thì Tochari có nghĩa là “huyệt động”, cũng chính bởi vậy nên tòa thành cổ bị thất lạc dưới lòng đất mới có tên là thành Tochari.



Trong thành cổ còn lưu lại khá nhiều bích họa và chữ triện cổ triều nhà Hạ, ghi lại truyền thuyết Vũ Vương thám hiểm bốn cực, đo lường đất trời. Nói theo quan điểm ngày nay thì, Vũ khư chính là không động khổng lồ được hình thành do vụ nổ vẫn thạch. Trong hố đất xung quanh nó cũng sản sinh những khe nứt sâu hun hút giống như hẻm núi. Khi đào vét huyệt động núi Long Môn, cổ nhân đã lợi dụng những khe nứt này để tạo sông ngầm, cuối cùng dẫn nước lũ từ lục địa đổ vào Vũ Khư.



Trong long triện triều Hạ còn ghi chép một sự kiện vô cùng thần bí: dưới lớp vỏ Trái đất có một hắc động sâu như vực vô đáy, nó đóng mở bất thường, không biết bên trong tồn tại vật thể gì.



Cổ nhân coi đó là điều cấm kỵ, không ai dám nhắc cũng không dám nói đến. Bởi vậy, những ghi chép mô tả về nó vô cùng ít ỏi. Dần dần, những bí mật cổ xưa này hóa thành lớp bụi trần ai của thời gian, từ mấy ngàn năm trước đã không còn ai nhắc đến nó nữa.



Thời gian vật đổi sao dời, thoáng chốc đã đến năm 1953, thời kì đầu cuộc chiến tranh lạnh, một chiếc tàu ngầm thuộc phân đội tàu ngầm độc lập số 40 của lực lượng vũ trang Liên Xô, mang biển số chiến thuật là 615 cấp Z, động cơ Diesel, mang hai trái tên lửa Sunshine xuất phát vào hải vực Thái Bình Dương, chấp hành nhiệm vụ đã định theo lệnh của cấp trên. Khi đang lặn ở độ sâu cực hạn 200 mét thì đột nhiên xảy ra tai nạn nước biển ăn mòn, từ đó con tàu mất tích.



Nhưng thực tế, sau khi mất tích, con tàu đó đã trở thành một bóng ma ngao du khắp nơi trên biển. Không quân Mỹ và đội tuần tra biển Anh, cũng đều từng nhận được tín hiệu định vị sóng ngắn của tàu Z-615 ở các địa điểm không giống nhau, nhưng nguồn tín hiệu thì đều xuất phát từ đáy biển sâu hoặc dưới lòng đất, nơi tàu thuyền căn bản không thể tới được, đồng thời con tàu liên tục di chuyển.



Các bên đều vô cùng coi trọng sự kiện này, định tranh một bước tìm thấy con tàu ma trước nhưng sau nhiều lần tiến hành thám trắc lục soát, thì kết quả vẫn không tìm thấy gì. Khi đó, có tổ chức tình báo đã cung cấp manh mối, suy đoán con tàu ngầm đã thâm nhập khu vực hắc động gần tâm Trái đất, tín hiệu liên lạc của nó không ngừng lặp đi lặp lại, xuất hiện lẫn trong bức xạ vi sóng điện từ dưới lòng đất, từ đó khúc xạ lên bề mặt Trái đất, còn thứ đang không ngừng di chuyển dưới lòng đất không phải tàu ngầm 615, mà là bản thân hắc động.



Hắc động nằm giữa lớp vỏ và lóp phủ Trái đất, cũng chính là khu vực bí ẩn bên trong Vũ khư, bởi vậy con tàu ngầm bị mất tích của hải quân Liên Xô mới xuất hiện ở cực vực bên dưới sa mạc Lopnor vào một thời điểm nhất định. Còn vì sao hắc động không ngừng di chuyển, thì đến nay vẫn chưa ai giải thích nổi.



Tổ chức cung cấp nguồn tin tình báo đó chính là Nấm mồ xanh. Tiền thân của nó là một tổ chức ngầm chuyên giao dịch các tin tình báo về buôn bán vũ khí chiến tranh và buôn lậu. Các thành viên của nó thẩm thấu đến mọi vùng miền, nhưng nội bộ từ đầu chí cuối đều duy trì phương thức liên lạc đơn tuyến, tất cả đều do kẻ cầm đầu thông qua điện đàm trực tiếp thao túng.




Vào thời kì đặc biệt đó, các phe phái quân sự trong cuộc chiến tranh lạnh không ngừng tranh chấp, và có xu hướng hâm nóng phát triển đến giai đoạn cao trào, trong đó bao gồm cả hành động thám trắc địa tâm. Liên Xô căn cứ vào tin tình báo này quyết định chuyển mục tiêu từ Kính viễn vọng địa cầu sang sa mạc Lopnor, đồng thời đạt được thỏa thuận với phía Trung Quốc là hai bên sẽ cùng nhau khai quật huyệt động nguyên sinh bị vùi sâu dưới lớp vỏ Trái đất. Thông qua phương pháp quan trắc địa ảnh viễn thám bằng điện trường, họ phát hiện dưới lòng đất có hai vật thể bằng sắt thần bí, nhưng không giống với chiếc tàu ngầm đang bị mất tích của Liên Xô. Cũng bởi vì họ đã sớm biết trước khu vực sâu mười nghìn mét dưới lớp vỏ Trái đất từng là di chỉ Vũ khư, nên năm 1958, hai phía Trung Xô đã tổ chức thành lập một phân đội khảo sát liên hợp, trong đó bao gồm các chuyên gia địa chất, khảo cổ và quan sát viên quân sự. Phân đội này thâm nhập cực vực, tiến hành các cuộc thám trắc thực địa. Mấy ngày trước khi chính thức xuất phát, cả đội cùng nhau chụp một bức ảnh tập thể, đó chính là bức ảnh xuất hiện bóng ma mà các cậu phát hiện được.



Thành viên có khuôn mặt không thể nhận diện trong bức ảnh là một tùy viên quân sự làm việc trong cục tình báo KGB(1) của Liên Xô. Sau khi bức ảnh được chụp và đem rửa, viên sĩ quan đó bỗng vô cớ lăn ra chết, kết quả khám nghiệm tử thi được liệt vào phạm trù cơ mật, tình hình cụ thể chỉ phía Liên Xô mới biết rõ.



[1] KGB: Viết tắt của ủy ban An ninh Nhà nước (tiếng Nga)



Khi đó, Nấm mồ xanh đã dần dần thoát khỏi sự kìm hãm của thế lực chiến tranh lạnh. Mục tiêu chủ yếu của tổ chức này là bằng mọi giá phải tìm bằng được bí mật ẩn giấu trong hắc động. Kế hoạch kính viễn vọng Lopnor của Liên Xô chẳng qua cũng chỉ là một trong những nguồn lực có hiệu quả mà tổ chức muốn lợi dụng. Khoảng năm 1958, các bên bắt đầu phát hiện ra chân tướng sự việc, nên quyết định loại bỏ kế hoạch kính viễn vọng Lopnor ra khỏi chiến dịch. Nước ta cũng nhiều lần tiến hành các phong trào chống phản động và truy bắt không ít phần tử mai phục, nhưng tổ chức Nấm mồ xanh lại không thuộc về bất kì thế lực nào, còn nội bộ được duy trì theo phương thức liên lạc đơn tuyến, nên các thành viên không hề quen biết nhau, bởi vậy, nếu không tóm được tên đầu sỏ thì rất khó diệt trừ nó tận gốc.



Chính vì thế, có người hoài nghi rằng, viên sĩ quan cục tình báo KGB đã bị phần tử mai phục của tổ chức này hãm hại, còn bóng ma xuất hiện trong bức ảnh cũng không phải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nếu nói theo quan điểm mê tín thì có lẽ, anh ta đã bị ma nhập, hoặc còn do nguyên nhân nào khác. Chỉ có điều, máy ảnh rốt cuộc đã chụp được thứ gì, thì chúng ta không thể đưa ra kết luận khẳng định chắc chắn, bởi thiếu chứng cứ xác thực.



Vì viên sĩ quan cục tình báo KGB bất ngờ tử vong, nên đội khảo sát bị khuyết mất một vị trí, lão tóc bạc nhận được mệnh lệnh đột xuất, cùng đoàn thâm nhập kính viễn vọng Lopnor. Nào ngờ, cả đội bị bọn trùng cát tấn công giữa đường, đường dây điện thoại thạch từ bị cắt đứt, máy phát sóng ngắn cũng xảy ra sự cố, từ đó, mất liên lạc với hậu phương, đội khảo sát không thể phân biệt được phương hướng giữa biển cát dưới lòng đất. Vì phải tránh sương đen, nên cả đội đành dựa vào biểu đồ thám trắc lực va chạm, lần theo vẫn thạch sắt chỉ đường, mò mẫm đến tòa thành cổ này, đợi đội cứu hộ đến giúp. Vậy mà có ai ngờ, địa cung trong tòa thành hoang phế tối tăm và im lìm như cõi chết này lại là huyệt ma khiến tất cả sinh mệnh lâm vào con đường một đi không trở lại.



Tư Mã Khôi nghe hồi lâu, thấy tất cả đều khớp với những gì anh và đội khảo cổ đã trải qua, cảm thấy lời của lão già này không phải là giả. Hội của anh từ trước đến nay luôn căm ghét đến tận xương tủy với những tổ chức gián điệp. Nguyên nhân chủ yếu là vì những năm 50, 60 đúng là có vô số bọn đặc vụ mai phục .Thời kì này, dân gian xuất hiện rất nhiều tin đồn, mà tin đồn nào cũng sống động như thật, như chuyện: có một cậu bé chừng năm sáu tuổi sống cùng ông nội. Trước khi đi ngủ, cậu bé no bụng đói con mắt, ăn thêm hai miếng dưa hấu nữa, nên nửa đêm mới phải bò dậy vì mót tè.



Vừa mở mắt, cậu bé đã thấy ông nội đang lén lén lút lút bày một bộ máy điện đàm, thì ra ông nội của cậu là đặc vụ. Thấy sự việc bị bại lộ, lão ta liền nhẫn tâm dùng tay bóp cổ đứa cháu cho đến chết Ngoài ra, còn có tin đồn, bom nguyên tử do đế quốc Mỹ chế tạo đều lấy nguyên liệu luyện từ các cơ quan trong cơ thể người, nam thì bị cắt tinh hoàn, nữ thì bị cắt tử cung, nếu nhà ai có người bị mất tích thì chắc chắn là bị đặc vụ quân địch bắt đi làm nguyên liệu hạt nhân.



Tuy bây giờ, mọi người đều biết tất cả những chuyện này chỉ là những tin đồn nhảm nhí, nhưng sức ảnh hưởng lan truyền ngầm của nó đối với lớp người thời các anh đúng là không nhỏ. Chỉ cần nhắc đến tổ chức đặc vụ là lập tức nghĩ ngay đến mối quan hệ đối địch nước lửa không đội trời chung. Tư Mã Khôi cho rằng, tổ chức Nấm mồ xanh không giống các tổ chắc đặc vụ ngầm bình thường khác. Mục tiêu của tổ chức bí mật này là vọng đồ thám trắc bí mật trong hắc động gần tâm Trái đất, nhưng trong đó có thể tồn tại thứ kinh động hãi hùng đến mức nào? Chẳng lẽ bọn họ muốn lật đổ chính quyền, âm mưu lấy ba trái núi đè bẹp đầu não giai cấp vô sản, khiến bách tính phải chịu cảnh lầm than thêm lần nữa, gây ra tội lỗi lần nữa?




Hay là muốn học tập gương Tần đế, Hán Vũ, phá giải ẩn số trường sinh bất tử, thoát khỏi kiếp luân hồi? Nghĩ kỹ lại, Tư Mã Khôi thấy tất cả khả năng này đều không thể tồn tại. Ngoài ra, tuy rằng bóng ma trong tấm ảnh đã chết, nhưng đội khảo sát vẫn biên chế hai mươi hai thành viên, mà toàn bộ thi thể đều đang nằm dưới lòng đất. Vậy lão tóc bạc này rốt cuộc là ai? Vì sao lão ta lại hiểu hết các bí mật trong Vũ khư? Vì sao lão lại nói thành cổ Tochari là huyệt ma? Đội khảo sát đã gặp phải thứ đáng sợ gì trong địa cung? Lẽ nào người này… là một vong hồn trốn trong chiếc hộp thời gian?



Tư Mã Khôi nghĩ, bất kể kẻ anh đang gặp là người hay ma, thì cũng phải làm rõ trắng đen mới được, lúc này có quá nhiều điểm khả nghi phải dò cho ra chân tướng thế là anh liền hỏi đối phương: “Tuy trong Vũ khư có một số bức bích họa khắc trên đá, nhưng đa số là chữ triện cổ triều Hạ, trông lúc nhúc như nòng nọc, lão thông suốt những sự việc đã xảy ra từ hàng ngàn năm trước như vậy chắc không phải là xem tranh đoán ý đấy chứ? Nếu lão không giải thích rõ nguyên nhân thì làm sao khiến người khác tin phục được”.



Lão tóc bạc liếc xéo Tư Mã Khôi một cái, đoạn nói: “Long ấn triều Hạ xuất hiện còn sớm hơn cả chữ giáp cốt, nội dung lại vô cùng thần bí ảo diệu, một ngàn năm trở lại đây không còn ai giải được nó. Đó là vì người đời ngu muội tối tăm, bởi ngay từ lúc đầu đã đi nhầm phương hướng. Nếu cậu chỉ tìm cách nhận biết từng chữ một, thì đến cả ngàn năm sau cũng chẳng nhận ra được nửa chữ. Nhưng cậu thấy đấy, giờ đây chữ giáp cốt không còn là bí mật nữa, chỉ cần tìm tấm bia đồng thời khắc cả chữ giáp cốt thời Ân Thương và long ấn Triều Hạ, rồi đối chiếu hai loại văn tự đó với nhau, thì chuyện giải mã chữ triện cổ triều Hạ há chẳng phải dễ dàng như trở bàn tay sao?”



Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không hiểu gì cả, nhưng nghe ra thì cũng không phải là không có lý.



Hương Lân thì biết đúng là có tồn tại phương pháp đối sánh giao thoa này. Một vài năm trước, một đội khảo cổ của Pháp từng lợi dụng phương pháp ấy để giải mã thành công lượng lớn các phù hiệu thần bí khắc trên các ngôi mộ cổ ở Ai Cập, trong đó có cuốn sách rất nổi tiếng, mang tên “Tử thư Ai Cập”.



Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân gật đầu biểu thị xác nhận câu trả lời, thì biết rõ không có gì phải nghi ngờ về điểm này, dù anh vẫn còn vô số ẩn số muốn tìm lời giải; nhưng lời phải nói từ từ từng câu, đòn phải đánh từ từ từng roi, cần biết cân nhắc nặng nhẹ, khoan nhặt, thế là anh liền hỏi chuyên gia tóc bạc xem có biết thân phận thực sự của Nấm mồ xanh hay không, đồng thời bí mật mà tổ chức ngầm này muốn tìm rốt cuộc là gì?



Chuyên gia tóc bạc nói: việc này rất khó dùng một đôi câu mà giải thích rõ ràng được. Theo phần ghi chép về các vị vua nổi tiếng trong kinh thánh, thì vua Solomon từng đi sâu nghiên cứu tinh hoa bộ môn thần bí học, đã cảnh báo hậu thế rằng: không được khai quật kho báu chôn giấu dưới lòng đất, bởi trong vực sâu có “kẻ địch cổ đại” đang ẩn mình ngủ đông.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 115: Hồi 4: huyệt ma


Tư Mã Khôi đều không hiểu ý của lão tóc bạc, những ghi chép thần bí trong “Thánh kinh liệt vương ký” sao có thể liên quan đến hắc động nằm gần tâm Trái đất được? Và kẻ địch cổ đại thực ra là thứ gì? Lão tóc bạc giải thích: kẻ địch cổ đại là chỉ những thứ nào đó tồn tại trong hắc động dưới lòng đất, còn khởi nguồn nền văn minh của các cổ quốc không giống nhau, mỗi nền văn minh đều tồn tại tính độc lập và giới hạn nhất định, vì vậy nhận thức về nó cũng không tương đồng.



Ấn Độ cổ gọi nó là núi Sumeru(l) , là con mắt khổng lồ có thể nhìn xuyên thấu đầu cuối thời gian, còn vương triều Babylon thì cho rằng đó là “cây sáng thế”. Những truyền thuyết cổ xưa này có thể chứng thực từ một mặt rằng: vị trí và thời gian vực sâu xuất hiện đều không thể xác định.



[1] Núi Sumeru: là một ngọn núi tưởng tượng. Theo tư duy về vũ trụ quan của Phật giáo, núi Sumeru hơn một triệu km, là nơi ở của các đấng thần linh tối cao, là trục đứng của toàn vũ trụ, là trung tâm của thế giới. Ngay từ thời vương triều Hạ Thương cai trị, vì có bia Vũ Vương chìm sâu trấn quỷ dữ, nên cổ nhân mới coi hắc động là miếu thần.



Bia Vũ Vương mà hậu thế còn lưu giữ, đều được đúc căn cứ vào các họa tiết khắc trên thân minh khí đồng xanh từ thời n Thương, Tây Chu. Trên tấm bia cũng dùng long triện triều Hạ ghi chép một đoạn thế này, đại ý là: “Dẫu có là thánh hiền tiên nhân thì cũng không thể phá giải được cửa ấy”.



Nhưng từ cổ chí kim, đếm không xuể biết bao người có ý đồ dòm ngó bí mật trong miếu thần, mà mục tiêu của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh cũng chính là nó. Cuối cùng, Tư Mã Khôi cũng hiểu ra ít manh mối, thì ra tấm bia Vũ Vương đích thực đã bị ném xuống đáy vực sâu, nhưng đoạn ghi chép khắc trên tấm bia có nghĩa là gì? Tuy chuyên gia tóc bạc đã cố gắng diễn giải những ngôn từ cổ xưa, ảo diệu, bằng lối nói thông dụng nhất, nhưng anh vẫn cảm thấy rất khó lý giải, không biết bên trong còn tiềm tàng những bí ẩn gì nữa.



Thắng Hương Lân bảo Tư Mã Khôi: “Hình như ý muốn nói từ thời hằng cổ đến nay, tuy có rất nhiều kẻ trí tuệ hơn người, tinh tường mọi điều, nhưng vẫn không ai có thể vén được tấm màn bí mật trong miếu thần”. Tư Mã Khôi càng rầu rĩ thắc mắc: “Vì sao lại thế?” Chuyên gia tóc bạc nói: “Bởi vì ai cũng muốn hỏi, nhưng nguyên nhân chính là đáp án.




Tôi không tìm thấy ghi chép rõ ràng về điều này trong thành cổ Tochari. Khi Vũ Vương thám hiểm khắp bốn cực, ông đã từng cho đẩy một phiến đá rất lớn xuống đáy cực vực, để bịt kín lối vào. Hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương, nghe nói hai mặt tấm bia khổng lồ đều khắc cổ văn, mặt chính là long ấn triều Hạ, mặt đối diện khắc chìm loại chữ triện bí ẩn, nội dung bên trong rốt cuộc ghi chép điều gì, thì hậu thế không ai biết được.



Chiếc tàu ngầm Z-615 của hải quân Liên Xô cũng bị mất tích ở khu vực gần hắc động, nếu các cậu có thể nghĩ cách tìm thấy tàn tích của nó, thì cũng có nghĩa sẽ tìm thấy lối vào”. Tư Mã Khôi biết mạch nước phun – mà cả đội gặp trong biển cát lúc trước, đại khái cũng bắt nguồn từ tầng sâu trong quyển manti, bởi vậy khi ấy ở khu vực đó mới thu nhận được tín hiệu sóng ngắn của Z-615.



Anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu nói, phía dưới quyển manti có khả năng là biển lớn cuộn trào dữ dội và tối đen như mực, mọi sinh vật chỉ cần lại gần là sẽ bị thiêu cháy thành tro bụi. Có lẽ, vực sâu giống như hắc động ấy cũng theo đó mà bập bềnh chuyển động, bởi vậy vị trí nó xuất hiện mới khó lòng xác định.



Người cổ xưa dường như đã nắm được quy luật chuyển động của nó, còn sóng điện u hồn bị giam cầm trong mật thất thành cổ Nhện Vàng, thì chính là phương vị tọa độ của hắc động. Đáng tiếc là nó đã bị Nấm mồ xanh cướp trước một bước, giờ đây đội khảo cổ làm sao tìm thấy con đường tăm tối đó?” Lão tóc bạc nghe Tư Mã Khôi thuật lại cảnh ngộ họ gặp phải lúc ở thành Nhện Vàng, lão cũng hoàn toàn tán đồng với phỏng đoán của anh, có điều, bản ghi chép liên quan đến thông đạo đó không phải bản ghi chép sớm nhất.



Trong núi Tochari còn tồn tại một bản nguyên thủy hơn, nhưng chỉ có thể giải mã được nó với điều kiện là phải giải mã được long triện triều Hạ, giờ đây những nội dung này đều được viết trong cuổn sổ của lão. Nói đoạn, lão tóc bạc móc ra một cuốn sổ giấu trong áo, giao cho Tư Mã Khôi rồi nói: “Nếu ai trong số các cậu có thể sống sót rời khỏi nơi này, thì có thể dùng cuốn sổ của ta, đi tìm thông đạo dẫn đến vực sâu gần tâm Trái đất”.



Tư Mã Khôi giơ tay ra đón lấy, anh đưa mắt liếc qua một cái, thấy bên trong toàn là cách giải mã chữ triện cổ triều Hạ, anh liền nhét cuốn sổ giải mã vào trong ba lô đeo sau lưng, cảm thấy lai lịch của lão tóc bạc quá sức thần bí và quái dị, vượt xa phạm trù nhận thức của đội khảo cổ, anh không kìm được buột miệng hỏi: “Rốt cuộc lão là ai?” Chuyên gia tóc bạc bắt đầu thấy hơi bực mình- “Ta đã bảo rồi! Ta chính là một trong những thành viên của đội khảo sát”.



Mọi người trong lòng đều sinh nghi: “Người của đội khảo sát đều đã chết hết, hai mươi hai cỗ tử thi đều nằm ngoài kia, không ai may mắn sống sót, trừ khi kẻ đang gặp là cô hồn dạ quỷ, bằng không sao có thể hiện diện ở đây?” Ánh mắt lão tóc bạc sắc lẻm, lão sớm nhận ra sự nghi ngờ của mọi người, liền hạ thấp giọng nói: “Thực ra các cậu không cần gạn hỏi mãi về thân phận của ta làm gì, điều các cậu nên hỏi là, ta bây giờ… rốt cuộc là thứ gì?” Mọi người nghe lão nói đều cảm thấy quái dị đến cực độ, câu hỏi của lão khiến người ta rùng mình ớn lạnh: “Cái gì mà gọi là rốt cuộc là thứ gì?” Tư Mã Khôi vốn đã biết rõ, từ cổ chí kim, mệnh số thành bại ngoại trừ thiên thời, địa lợi, nhân hòa ra, còn có một nhân tố then chốt là “thần trợ”, cũng chính là “vận may”.



Đội khảo cổ có thể gặp được chuyên gia tóc bạc nắm giữ rất nhiều bí mật ở địa cung trong thành cổ nơi sâu cùng của biển cát này, đồng thời có được cuốn giải mã chữ triện cổ triều Hạ từ lão, tuy cái giá phải trả vô cùng nặng nề, nhưng cuối cùng cùng tìm thấy manh mối về con đường dẫn đến tâm Trái đất.



Căn cứ vào những thông tin mà chuyên gia tóc bạc tiết lộ, hội Tư Mã Khôi không khó suy đoán nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện. Ngay từ những năm 50, tổ chức Nấm mồ xanh đã cung cấp tin tình báo cho phía Liên Xô, đồng thời thâm nhập vào bên trong kính viễn vọng Lopnor. Điều đó chứng minh, ngay từ đầu, Nấm mồ xanh đã có cơ hội cởi nút các ẩn số, nhưng tổ chức ngầm này cũng nhận thức được rằng, di tích chôn giấu trong Vũ khư, phần lớn đều là long triện triều Hạ không thể giải mã, cho dù tìm thấy đáp án thì cũng không ai hiểu nội dung đáp án nói gì.



Đồng thời, cũng vì hành tung của tên nội gián mai phục bị bại lộ, nên bọn chúng đành từ bỏ hoàn toàn kế hoạch kính viễn vọng Lopnor và chuyển mục tiêu hành động sang hẻm núi Dã Nhân ở Bắc Miến, lấy trộm sóng điện u linh trong thành cổ Nhện Vàng. Giờ đây, đội khảo cổ cũng nắm được bí mật của thông đạo.



Đúng là trời không tuyệt đường người, vận may đã đến, muốn xua cũng không đi, còn như mệnh đã không gặp thời, thì có cầu cũng chẳng được. Nhưng nguồn cội của bí mật này lại không khỏi khiến người ta nảy sinh hoài nghi. Bởi vì cho đến bây giờ, mọi người vẫn không thể xác định thân phận của chuyên gia tóc bạc, trong thành cổ lại tồn tại rất nhiều hiện tượng quái dị khiến người ta khó lòng lý giải.




Lúc đầu, cả hội còn hoài nghi mình bị rơi vào một chiếc hộp thời gian khác, nên mới gặp được người lẽ ra không thể xuất hiện ở đây. Nhưng tất cả các hiện tượng đều chứng tỏ không phải vậy, cho nên họ thực sự chưa nghĩ ra lão tóc bạc này rốt cuộc là người hay ma, hay là một thứ nào khác không tồn tại trong cõi đời? Hiện giờ không ai có thể trả lời được.



Chuyên gia tóc bạc thấy vậy, liền nói: “Vẫn còn rất nhiều chuyện nữa chưa kịp kể hết cho các cậu nghe, nhưng bây giờ tình thế gấp gáp, các cậu phải mau chóng rời khỏi nơi đây, nếu có người mang được cuốn sổ giải mã này ra ngoài, thì tôi cũng có thể an lòng nhắm mắt”. Thắng Hương Lân hỏi: “Ông không định đi cùng bọn tôi sao?” Khuôn mặt của chuyên gia tóc bạc co rút từng hồi: “Ta đã chết từ năm 1958, thì còn có thể cùng các cô cậu trốn đi đâu được nữa?” Mọi người nghe mà mặt mày biến sắc, Hải ngọng không kìm được, đứng bên lầm bầm giục Tư Mã Khôi: “Lão đồng chí này nói chí phải đấy, chúng ta không được phụ sự hi sinh của đồng chí ấy, rút được thì mau rút thôi!” Tư Mã Khôi giơ tay bảo mọi người đừng hoảng loạn.



Anh ngẫm nghĩ, nếu không làm rõ nguyên nhân khiến đội khảo cổ bị nhốt trong địa cung, e rằng không ai thoát ra khỏi đây được. Có điều, chẳng lẽ trên đời này có ma thật sao? Tư Mã Khôi gặp không ít sự lạ, nhưng chưa bao giờ thực sự nhìn thấy ma. Anh từng nghe các cụ già kể lại, con người sau khi chết đi sẽ trở thành ma với âm hồn không tiêu tán, trừ phi âm hồn nhập tràng đi lại như người thường, nếu không dưới ánh đèn, ma sẽ không có bóng.



Nhưng ở đây tường đá đen thui, anh có soi đèn quặng, cũng không thể nhìn rõ đối phương có bóng hay không, thật khó lòng phân biệt lão là người hay ma. Chuyên gia tóc bạc thấy Tư Mã Khôi chiếu đèn quặng vào mình thì giơ tay che làn ánh sáng, bảo: “Các cậu không cần sợ ta, thật ra thứ đáng sợ đích thực là tấm bia nuốt rắn nằm trong địa cung cơ…” Tim Tư Mã Khôi lại hẫng một nhịp, quả nhiên có liên quan đến tấm bia nuốt rắn.



Tấm bia cổ đó có hình khối giống như khuôn mặt người, nhưng không có mắt mũi, chỉ có một cái miệng rộng ngoác đang nuốt con quái xà, dường như nó biểu trưng cho một ám thị nào đó, không biết bản thân nó có điểm gì đáng sợ? Hải ngọng đoán mò: “Tôi thấy tấm bia đó phả ra một luồng khí rất tà mị, chắc tòa địa cung trong thành cổ này ẩn nấp quái xà, tấm bia nuốt rắn có khi ám thị chuyện này đấy…” Tư Mã Khôi biết, thời cổ đại, rắn tượng trưng cho sinh vật thần bí nguyên thủy.



Chính bởi vậy, Hán Cao Tổ đã giơ gươm chém đầu rắn để bình thiên hạ, tổ tiên người Tochari cũng tôn rắn làm thần, bởi vậy dẫu cho con rắn khổng lồ xuất hiện dưới lòng đất, thì cũng không phải điều quái lạ, nhưng phải là loại quái xà nào thì mới có hình thù giống tấm bia cổ? Chuyên gia tóc bạc lắc đầu: “Tấm bia nuốt rắn không phải quái xà hay bất kì loài sinh vật nào.



Vả lai người Tochari thờ rắn là thần, họ không bao giờ dựng tấm bia nuốt rắn đâu”. Tư Mã Khôi thấy gian thạch thất trong địa cung vừa hẹp lại vừa thấp, anh đoán phía trong chắc phân thành kết cấu lồng ghép, có lẽ trong bốn vách tường ngầm giấu cửa đá hoặc mật đạo nào đó.



Anh liền phân công đội trưởng Lưu Giang Hà xem xét cẩn thận tứ phía xung quanh. Lúc này, nghe chuyên gia tóc bạc nói tấm bia cổ không phải quái xà, anh liền hỏi: “Tấm bia nuốt rắn đã không phải quái xà, thì vì sao lão lại chết ở đây? Chẳng lẽ bây giờ lão là… vong hồn đã chết từ nhiều năm trước thật à?” Chuyên gia tóc bạc không trả lời, chỉ nói: “Căn cứ theo phán đoán của ta, tấm bia nuốt rắn muốn ám thị không gian thứ sáu, không gian giống như huyệt ma này chỉ có lối vào, không có lối ra”.



Tư Mã Khôi chợt nhớ tới khái niệm có chút liên hệ với cụm từ “không gian thứ sáu” mà chuyên gia tóc bạc vừa nhắc đến. Trong quân sự và địa lý ứng dụng, thông thường người ta chia không gian thành năm khu vực: lục địa là không gian thứ nhất, đại dương là không gian thứ hai, không trung là không gian thứ ba, vũ trụ là không gian thứ tư, không gian cách lớp vỏ Trái đất 300 mét trở xuống là không gian thứ năm.



Vì địa hình khu vực phức tạp, cộng thêm bị vật chất cản trở, độ khống chế của góc phát hiện rađa vô cùng có hạn, nên đối với rađa, không gian thứ năm luôn là cực địa và điểm mù chưa hề bị công phá. Tuy biết có năm không gian, nhưng Tư Mã Khôi không biết còn có không gian thứ sáu.



Thắng Hương Lân cũng chưa bao giờ nghe về điều này, thậm chí cô còn không thể hình dung nổi. Chẳng lẽ, toàn bộ thành viên của đội khảo sát năm 1958 đều bị huyệt ma nuốt chửng? Tư Mã Khôi đang định hỏi tiếp, thì phát hiện chuyên gia tóc bạc không có phản ứng gì nữa. Anh mon men lại gần vách tường nhìn kỹ, thì chỉ thấy ở đó là một cỗ thi thể khô quắt và cứng ngắc, xem bộ dạng thì có vẻ đã chết từ nhiều năm trước, nên tuy anh đã chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn thấy hoảng hồn, tim đâp liên hồi: “Chẳng lẽ đúng là âm hồn nhập tràng thật?” Thắng Hương Lân trống ngực gõ thình thịch, cô cố thu can đảm tiến lên trước xem xét tử thi của chuyên gia tóc bạc.




Đội trưởng Lưu Giang Hà thấy vậy cuống quýt can ngăn: “Cô đừng lại gần, nó là ma đấy!”. Thắng Hương Lân xua tay ra hiệu không sao. Sau khi xem xét kỹ xác chết, cô quay đầu hỏi Tư Mã Khôi: “Sao trong thành cổ lại có những 23 xác chết nhỉ? Còn không gian thứ sáu có nghĩa là gì?” Hải ngọng trải qua chuyện vừa rồi, anh cũng cảm thấy toàn thân trên dưới nổi hết da gà, nên quay người nói với Thắng Hương Lân: “Cô em đừng lẩn thẩn nữa, cô hồn dạ quỷ là hay dẫn đường cho người sống đi vào cõi chết lắm! Bất kể nó nói gì cũng tuyệt đối không được tin, chúng ta phải mau chóng tìm đường rời khỏi nơi quỷ quái này mới được”.



Tư Mã Khôi thầm cảm thấy việc này vô cùng bí ẩn, đội khảo cổ giờ đây bị nhốt trong địa cung, buộc phải nghĩ cách làm rõ xem u hồn mà mình vừa gặp phải rốt cuộc là thứ gì, và cả chân tướng của tấm bia nuốt rắn cùng nguyên do đội khảo sát gặp nạn năm 1958 nữa, nếu không thì đừng ai mơ còn sống mà thoát ra khỏi đây.



Anh không lý giải được thế nào gọi là không gian thứ sáu, có lẽ, quá nửa đó chỉ là phán đoán chủ quan của lão chuyên gia tóc bạc đưa ra dựa vào cảnh ngộ mà bản thân gặp phải, chứ chưa chắc đã là sự thật. Có điều, nếu liên hệ những lời của đối phương với hình thù kì dị của tấm bia nuốt rắn, thì Tư Mã Khôi dường như lại tìm thấy chút manh mối.



Lúc này, Hải ngọng phát hiện một vách tường có kết cấu tương đối lỏng lẻo, xung quanh xuất hiện các vết rạn, có lẽ là tường ngầm. Anh áp người vào tường nghe ngóng, cảm thấy phía ngoài không có hiện tượng gì lạ thường, liền vẫy tay gọi Tư Mã Khôi và đội trưởng Lưu Giang Hà lại giúp một tay.



Tư Mã Khôi cũng nóng lòng muốn tìm lối ra, liền không nghĩ ngợi nhiều, lập tức cùng hai người hiệp lực đẩy bức tường. Thấy phía sau bức tường đúng là có một mật đạo. Anh soi đèn quặng và ở trong, thấy nó im lìm, sâu hút và lặng ngắt không có bất kì động tĩnh nào, phán đoán theo vị trí thì có lẽ nó nối thông với một gian động thất khác.



Hải ngọng ngó vào trong nhìn một lát, đoạn lắc đầu bảo Tư Mã Khôi: “Xem ra mạng lưới địa đạo ở đây nối liền thành một dải hay sao ấy!”. Tư Mã Khôi gật đầu: “Kết cấu nơi đây rất phức tạp, phải cẩn thận không là lạc đường như chơi đấy…”, nói đoạn, anh quay đầu nhìn ra sau, thấy Thắng Hương Lân vẫn mải quan sát cỗ tử thi dưới chân tường, liền giục: “Âm hồn nhập tràng, người sống không nên lại gần, chúng ta phải mau chóng rời khỏi nơi này”.



Thắng Hương Lân nhìn thi thể của chuyên gia tóc bạc, tuy giống như một xác ướp đã tồn tại nhiều năm, nhưng quần áo trên người vẫn không hề bị mục nát, thì cảm thấy quái dị. Lại nghe Tư Mã Khôi bảo vậy, cô liền đuổi theo nói: “Các anh có cảm thấy điểm nào khả nghi không?” Hải ngọng nói: “Tôi thấy nơi quỷ qụái này chỗ nào mà chẳng khả nghi.



Chúng ta phải nghĩ cách gì thoát ra khỏi đây trước đã, vả lại mọi chuyện chỉ dựa vào suy đoán thì ăn thua gì, phải đi thực địa, mắt thấy tai nghe mới tin được…” Càng về sau mọi người càng cảm thấy hoang mang, họ lần theo vách tường định tiến về phía trước. Lúc này, cả nhóm chợt nghe tử thi sau lưng bỗng phát ra tràng âm thanh quái dị.



Tư Mã Khôi hít ngược một hơi lạnh, ấn đèn quặng trên đỉnh đầu xuống soi cho rõ, chùm sáng dừng lại chỗ khuôn mặt chuyên gia tóc bạc, khuôn mặt của xác chết không biết từ lúc nào đã quay về phía mọi người, cái miệng há rộng, đen ngòm hướng về phía đội khảo cổ, trong cổ họng vang lên những tiếng “cục cục! cục cục!”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 116: Hồi 5: trùng động


Đột nhiên mọi người nghe thấy tiếng động phát ra dưới lòng đất tối thui, thì ai nấy đều cảm thấy rùng rợn, chỉ muốn co cẳng chạy thật nhanh nhưng lòng bàn chân dường như bị dính nhựa đường, không nhấc nổi nửa bước. Lúc này, họ thấy phần đầu của thi thể bỗng nhiên nở to ra, mấy chục con cua móng ngựa ăn xác chết chen chúc chui ra từ thất khiếu của tử thi.



Con lớn nhất to bằng lòng bàn tay, mình ngả màu xanh thẫm, phần đầu giống như con cua móng ngựa(1) thời kỷ Devon, thân chúng mọc toàn lông gai sắc nhọn, phần đuôi có một đốt cứng hình cột sống. Chúng bò với tốc độ cực nhanh, phát ra âm thanh nghe “chít chít sàn sạt” rất chói tai.



[1] Cua móng ngựa: một loài động vật giáp xác, lớp vỏ giáp phần đầu và ngực có hình hơi giống móng ngựa, lớp vỏ giáp phần bụng có hình lục giác, đuôi giống như cấy kiếm, sống ở những vùng biển nông. Tư Mã Khôi soi đèn quặng, mắt nhìn rõ sư tình, và anh đã hiểu ra nguyên nhân.



Thì ra đội khảo sát thâm nhập kính viễn vọng Lopnor năm 1958, đều bị bọn cua móng ngựa này chui vào trong cơ thể, chúng ký sinh một thời gian rồi dần dần tiềm dưỡng thành hình. Môn tà thuật quái dị này cũng được ghi chép trong các sách cổ, hậu thế rất ít người biết đến, chỉ có kẻ không muốn ai nhòm ngó bí mật dưới lòng đất như Nấm mồ xanh, thì mới giở thủ đoạn tàn độc như vậy.



Có điều, hai mươi hai cỗ thi thể phát hiện trong địa cung lúc trước, đều đã bị loài cua móng ngựa này ăn hết não tủy, còn chuyên gia tóc bạc mà đội khảo cổ gặp khi nãy hiển nhiên chỉ vừa bị hút kiệt và trở thành cái xác rỗng không. Chuyện này thì không biết phải giải thích thế nào? Liệu có liên quan đến tấm bia nuốt rắn không? Tư Mã Khôi mới nghĩ đến đây đã cảm thấy như đang đứng giữa biển sương mênh mông, đầu óc mơ hồ, hoang mang.



Lúc này, đội trưởng Lưu Giang Hà nhìn những con bọ chui ra từ thi thể người chết sắp bò gần đến mình, mà chỉ có khẩu súng trường bán tự động trong tay thì cũng khó để tiêu diệt được chúng, anh chàng khiếp sợ đến nỗi hồn vía chu du tận ngoài biển khơi, cuống cuồng giơ chân ra sức giẫm.




Một con bị anh chàng giẫm chết, tiếng “bép” nổ rất nhẹ bên tai, bụng nó vọt ra thứ dịch dinh dính màu vàng xanh, mùi hôi thối nhức mũi xộc lên tận não, rồi ngay sau đó anh chàng cũng thét một tiếng thảm thiết, và quỳ gục xuống đất; chỗ dính chất dịch của cua móng ngựa ở đáy giày không ngờ mục thành lỗ lớn, trong chớp mắt nó đã xuyên thủng cả da thịt, vào tận xương tủy, đồng thời không ngừng khuếch tán và đâm sâu, không hề có biểu hiện dừng lại hoặc chí ít là giảm chậm tốc độ.



Thắng Hương Lân thấy đội trưởng Lưu Giang Hà gặp tình thế nguy cấp, liền vội vàng lao lên đỡ anh chàng rút lui vào góc tường. Cô soi đèn pin quan sát vết thương dưới lòng bàn chân Lưu Giang Hà, phát hiện trong cơ thể của móng ngựa chứa chất axít ăn mòn rất mạnh, chất này đậm đặc đến nỗi có thể ăn mòn cả sắt thép, nên chỉ cần dính một chút, nó sẽ khiến da thịt mục nát, máu quanh vết thương cũng theo đó biến thành axít nồng độ cao, thúc đẩy quá trình ăn mòn không ngừng gia tăng.



Dính phải thứ này, đúng là vô phương cứu chữa, vì chỉ khi nào tất cả đều nhũn nát thành một đống mủ thì nó mới dừng lại. Tuy Thắng Hương Lân thuộc dạng cứng rắn, nhưng nhìn cảnh tượng thê thảm của đội trưởng Lưu Giang Hà lành ít dữ nhiều, cô cũng bất giác thấy lạnh thấu tận tim gan.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn thấy tình hình này, cũng không dám sử dụng súng xung phong PPS, mà hai người rút nến tín hiệu cán dài, rồi đốt cháy từng con bọ ăn xác đang bò đến gần. Trong cơ thể cua móng ngựa đã chết, lại bò ra lúc nhúc những con nhộng con chưa kịp biến thành bọ, có điều số lượng bọn chúng cũng có hạn, còn hội Tư Mã Khôi lại nhanh tay nhanh mắt, nên tạm thời vẫn cầm cự được với chúng.



Hải ngọng chỉ sợ xác chết của chuyên gia tóc bạc vẫn còn bọ ăn xác chết, liền vứt nến tín hiệu chưa cháy hết vào thi thể lão. Mùi tử khí mịt mù lan tỏa trong làn khói lửa, hôi thối không thể ngửi nổi. Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng tiếp tục chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó quay người xem xét vết thương của Lưu Giang Hà.



Anh chàng đội trưởng nghiến chặt răng cố nén cơn đau thấu tim, mặt mũi tái xanh, trán lấm tấm những giọt mồ hôi to bằng hạt đỗ tương, gan bàn chân và cả đế giày bị hoại tử thành một cái lỗ lớn, nhưng không hề thấy máu từ trong chảy ra, mà chỉ có chất dịch màu vàng xanh không ngừng tuôn trào, tình hình càng lúc càng chuyển biến xấu, nếu cứ thế này, thì chỉ vài phút nữa, cả cẳng chân cũng chẳng còn.



Hải ngọng cũng quan tâm ngoái đầu lại nhìn, nhỏ giọng nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Vết thương này chẳng khác gì bị rắn năm bước trong rừng rậm Miến Điện cắn, chỉ cần nhân lúc axít vẫn chưa ăn mòn các bộ phận trên cơ thể, thì phải nghiến răng cắt phăng cái cẳng chân đi, thế còn tốt hơn mất cả tính mạng.



Bị thương ở cánh tay hoặc cẳng chân cũng là may phúc rồi, nếu phải cắt đầu hay cắt bụng thì đúng là hết thuốc chữa, nếu cậu còn không mau ra tay giúp chú em, thì e sẽ muộn mất”. Thắng Hương Lân vội ngăn lại: “Không được! Ở đây chưa đủ điều kiện phẫu thuật, nếu không có biện pháp cầm máu, thì cắt các chi cũng đồng nghĩa với việc trực tiếp kết liễu sinh mạng!” Tư Mã Khôi quan sát mọi việc rất nhanh, anh thấy vết thương bị trùng ăn xác hoại mục, không khác gì bị trúng chất độc của rắn trong rừng rậm.



Anh giữ chặt bắp chân đội trưởng Lưu Giang Hà rồi dặn: “Chú mày gắng chịu tí nhé…”, lòng tự biết tình thế cấp bách, không được phép chậm trễ, nên cùng lúc nói chuyện, anh đã gí mạnh ngọn nến tín hiệu đang cháy dở vào cái lỗ dưới gan bàn chân của Lưu Giang Hà. Ngọn nến đốt cháy hết phần thịt thối rữa từ trong ra ngoài, vết bỏng đã cản được quá trình rữa nát và cầm máu hiệu quả, sau đó anh bôi thuốc và băng bó vết thương lại.



Hội Tư Mã Khôi tất bật một hồi, rồi cuối cùng cũng tạm thời giữ được mạng sống cho anh chàng đội trưởng, nhưng từ đầu chí cuối không nghe thấy cậu ta kêu đau hay giãy giụa gì. Thật không ngờ cậu chàng này lại cứng gan đến thế, đang định khen ngợi đôi câu, thì ngẩng đầu lên mới phát hiện đội trưởng Lưu Giang Hà đã bất tỉnh nhân sự từ bao giờ.



Tư Mã Khôi thò tay thử xem hơi thở trên mũi và bắt mạch tay, mới biết anh chàng chỉ vì đau quá nên thần kinh trung ương đột ngột rơi vào trạng thái hôn mê, nên đặt anh chàng nằm thẳng ra đất, để duy trì hơi thở thông suốt. Mọi người đều hiểu rõ, dẫu cơ thể khỏe mạnh, cũng còn chưa chắc đã thoát khỏi vực sâu cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét này, huống hồ gan bàn chân lại bị đốt thủng một lỗ to như thế, chắc cậu đội trưởng khó có thể sống sót trở về.



Đang lúc lo lắng, thì nghe sau bức tường ngầm dường như có bọn bọ ăn xác đang bò. Tư Mã Khôi chĩa nến tín hiệu về phía trước, chỉ thấy trong đường hầm xuất hiện một dải đen nghịt như bóng đêm từ những tầng địa ngục, đó là dòng chảy bọ ăn xác chui từ kẽ đá vào, số lượng nhiều đến khủng khiếp.




Ba người thầm kêu khổ, nhìn thoáng qua đã biết không thể ngăn cản được chúng, liền cuống cuồng đẩy bức tường ngầm khép lại, kéo đội trưởng Lưu Giang Hà cùng lui trở về thạch thất. Tuy tạm thời an toàn nhưng môi trường tối tăm dươi lòng đất thực sự khiến người ta cảm thấy tuyệt vọng đến cùng cực.



Tư Mã Khôi cố gắng định thần, kể lại cho hai người đồng hành nghe chuyện anh vừa mới ngẫm ra. Đội khảo sát năm 1958 đều bị bọ ăn xác trong chính cơ thể mình cắn chết, nhưng vì sao lão tóc bạc trong mật thất lại không chết cùng một chỗ với các thành viên còn lại? Vong hồn lúc trước mà cả hội chạm trán, liệu có phải là âm hồn nhập tràng thật không? Thắng Hương Lân trầm tư giây lát, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Bí mật lớn nhất trong tòa thành cổ này có lẽ cũng vẫn là thời gian, hay nói chính xác hơn thì đó là linh hồn của thời gian”.



Tư Mã Khôi trố mắt hỏi Thắng Hương Lân: “Thời gian đâu phải vật sống, làm sao có hồn phách được chứ?” Thắng Hương Lân đáp: “Tôi cảm giác ở đây tồn tại một thời gian khác, nó không giống với tọa độ thời gian mà chúng ta từng biết”. Hải ngọng nghe mà đầu óc mụ mị cả, anh hỏi: “Thế theo cô, lão già tóc bạc mà chúng ta gặp khi nãy, rốt cuộc là người hay ma?” Thắng Hương Lân nhìn lại cái xác dưới chân tường, nói: “Đội khảo sát khoa học năm 1958, có lẽ cuối cùng đã có 23 thành viên thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, vị chuyên gia ấy rốt cuộc vẫn chưa nói cho chúng ta biết số người thực tế, không loại trừ khả năng tin tình báo chúng ta nắm được ban đầu có sai sót”.



Tư Mã Khôỉ nói; “Đó cũng là một khả năng, nhưng nơi này cách bề mặt Trái đất những mười nghìn mét, dưới vực sâu không hề có ánh sáng, thì mọi màu sắc đều trở nên vô nghĩa, tất cả sinh vật đều bị bạch tạng. Điều đó đủ chứng tỏ, bọ ăn xác trong cơ thể các tử thi đều được đem từ mặt đất xuống, vì vậy nguyên nhân cái chết đội khảo cổ chắc là bị Nấm mồ xanh cấy ấu trùng bọ xác chết vào trong não từ trước, mãi đến khi họ xuống đến thành cổ Tochari thì mới thiệt mạng.



Vị chuyên gia tóc bạc do gia nhập đội khảo sát sau cùng, nên phần tử mai phục của tổ chức ngầm dẫu muốn hại ông ấy, chắc chắn cũng chỉ sau khi biết ông ấy gia nhập đội khảo cổ mới có thể ra tay. Chính vị vậy, tuy rằng trong cơ thể lão tóc bạc có bọ ăn xác, nhưng lão lại không chết cùng thời điểm với các thành viên khác của đội khảo sát.



Suy đoán theo lẽ thường, thì nguyên nhân và kết quả của cả chuỗi sự kiện này đều rất rõ ràng, điều kì lạ duy nhất là lão tóc bạc ấy… vì sao mãi đến khi nãy mới đột nhiên lăn ra chết? Khoảng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Thắng Hương Lân nói: “Điều quái lạ chính là ở điểm này, Tôi cảm thấy khoảng thời gian này trong thành cổ dường như không hề tồn tại…” Tư Mã Khôi và Hải Ngọng càng lúc càng không thể tưởng tượng nổi, nếu nghĩ như vậy, thì năm 1958, hai mươi hai thành viên đội khảo sát chết trước tấm bia nuốt rắn, cho đến năm 1974 chuyên gia tóc bạc gặp gỡ đội khảo cổ, quãng thời gian kẹp giữa hai sự kiện này là một khoảng hoàn toàn trắng trơn.



Trắng trơn có nghĩa là không có gì, ngay cả thời gian cũng không tồn tại. Có điều, nếu ngẫm kỹ trước sau, thì chỉ như vậy mới giải thích thông suốt được sự việc năm 1958. Hai mươi hai thành viên đội khảo sát tử nạn cùng lúc, riêng mình chuyên gia tóc bạc là không chết ngay tại chỗ, mà ẩn mình vào gian mật thất này để trốn lũ bọ ăn xác.



Lúc đó, chắc ông ấy đã phát hiện ra trùng xác chết trong cơ thể đang dần dần thành hình, tự biết mạng sống của mình chỉ có thể kéo dài trong khoảnh khắc. Đúng lúc ấy, thời gian ở tòa thành cổ lại đột nhiên biến mất, mãi mười mấy năm sau, khi hội Tư Mã Khôi tìm thấy tấm bia nuốt rắn, thì thời gian ở đây mới bắt đầu trôi chảy trở lại.



Ba người không thể tưởng tượng ra nguyên nhân cụ thể của tình hình này, hay chí ít, thuyết suy đoán chiếc hộp của Tesla cũng không nhắc đến loại tình huống này có thể xảy ra. Mọi người đành suy đoán rằng: mọi việc đều liên quan đến tấm bia nuốt rắn cổ quái, kì dị kia, hoặc có thể trong địa cung của tòa thành này còn tồn tại một thứ gì đó mà mắt thường không nhìn thấy được.



Nếu không thể trốn thoát khỏi huyệt ma này, thì thời gian của chính đội khảo cổ cũng sẽ biến mất, điều đó có nghĩa là gì? Thắng Hương Lân suy đoán: “Sự thật khi ấy sẽ vĩnh viễn dừng lại giữa hư vô, tọa độ thời gian bình thường sẽ gia tăng tốc độ, đưa chúng ta càng lúc càng xa quỹ đạo thời gian theo hình xoắn ốc, và chúng ta vĩnh viễn không thể quay trở lại được nữa…” Hải ngọng há hốc miệng kinh hãi: “Ối giời ơi! Thế thì toi rồi! Hậu quả đúng là vượt ngoài sức tưởng tượng, mà nói gì đến vượt ngoài sức tưởng tượng, thế này đúng là làm gì còn hậu quả nữa chứ!” Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ còn để ý đến hậu quả mẹ gì nữa, chúng ta buộc phải làm rõ vì sao lại xảy ra hiện tượng kì quái này, có nghĩa là phải nghĩ cách tìm lời giải cho ẩn số trên tấm bia nuốt rắn, bằng không, thì cả hội hết đường sống”.



Ba người đang thầm thì bàn bạc, bỗng nghe thấy một tiếng động phát ra dưới đám đá vụn. Lúc này người nào người nấy như con chim sợ cành cong, tuy động tĩnh đó rất nhỏ, nhưng cũng đủ khiến cho thần kinh của họ lập tức căng thẳng. Cả ba khẩu súng xung phong PPS và ba chùm sáng của đèn quặng gắn trên mũ bấc Pith Helmet đều đồng thời chĩa về phía phát ra âm thanh.




Họ thấy dưới mặt đất xuất hiện một hố lõm, thì ra con bọ ăn xác bị đội trưởng Lưu Giang Hà giẫm chết khi nãy đã tiết ra chất axít cực mạnh từ trong cơ thể. Không ngờ, nó có thể đục thủng cả gạch đá, chỗ nứt giữa các phiến đá trên mặt đất đã bắt đầu lỏng lẻo, nếu phải chịu thêm lực tác dụng từ bên ngoài, thì nó chắc chắn sẽ sụp xuống.



Hải ngọng bấm đèn quặng soi vào đáy khe nứt, phát hiện phía dưới dường như còn có không gian khác, liền đề nghị cả hội nên xuống đó tìm lối thoát. Tuy không ai biết tình hình trong đó thế nào, nhưng bó gối chịu nhốt trong thạch thất, đợi thần chết đến rước thì cũng không phải là cách hay.



Tư Mã Khôi cũng có ý đó, sự uy hiếp đáng sợ nhất trong địa cung không phải bọ ăn xác, mà là ẩn số về thời gian bỗng dưng biến mất, vả lại nói không chừng, lại phát hiện thấy thứ gì mới bên dưới kia cũng nên. Hai người nghĩ là làm ngay, họ dùng báng súng chọc rộng phần mặt đất đang bị sụt xuống, có điều gạch đá cứng quá, hì hục một hồi, mồ hôi vã ra như tắm, họ mới nậy được một cái hố đủ để một người chui vào.



Tư Mã Khôi thấy đáy cũng không sâu lắm, nên định nhảy xuống trước thám thính, anh bảo Hải ngọng cõng Lưu Giang Hà đang bị thương trên lưng, còn Thắng Hương Lân đi sau chốt chặn đường. Nhưng đúng lúc này, Thắng Hương Lân lại nghĩ đến một số chuyện, cô vội nói với hai người: “Vẫn chưa rời khỏi đây được! Các anh thử nghĩ kỹ lại toàn bộ quá trình gặp nạn của đội khảo sát vào năm 1958 xem…” Không đợi Thắng Hương Lân nói hết câu, Tư Khôi đã sực tỉnh.



Vị chuyên gia tóc bạc kia không chết ngay tại chỗ, mà trốn trong gian thạch thất này, sau đỏ thời gian bỗng dưng biến mất một cách khó hiểu. Trước đó, dường như ông ta cũng đã phát hiện ra bí mật nào đó của tấm bia nuốt rắn ở khu vực quanh mình, cũng có nghĩa là chìa khóa then chốt mở cánh cửa ẩn số của tấm bia nuốt rắn chỉ ở trong này mà thôi.



Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì bảo Hải ngọng thả Lưu Giang Hà xuống trước đã, rồi lục soát cẩn thận khắp gian thạch thất. Hải ngọng đang rất sốt ruột, anh nói với Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Tôi nghĩ gì thì nói đấy nhé! Liệu các cậu có hơi võ đoán chủ quan không thế, làm sao xác định được sau năm 1958, khi đội khảo sát gặp nạn, thì thời gian đã bị biến mất, biết đâu chúng ta bây giờ cũng không phải ở năm 1974 thì sao? Tóm lại, nơi này tắt lửa tối đèn, vĩnh viễn không thể phân biệt được ngày đêm, lại không có điện đàm không dây để nghe đài, chỉ có quỷ mới biêt bây giờ là ngày nào tháng nào”.



Lý giải về thời gian của Thắng Hương Lân đã chịu ảnh hưởng của giáo sư Nông địa cầu rất sâu sắc, mà quan điểm của giáo sư lại bắt nguồn từ học thuyết giả tưởng chiếc hộp thời gian của Tesla. Ông ta cho rằng: thời gian là sự vận động tuyến tính, những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, vĩnh viễn không thể trở về quá khứ, mọi sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian đã trôi chảy, đều không thể phục hồi lại.



Như vậy thì mọi hiện tượng ở đây chứng tỏ, tòa thành cổ này không phải chiếc hộp, bởi vậy họ tuyệt đối không thể gặp được những kẻ may mắn sống sót từ năm 1958. Lúc này chỉ có thể nghĩ đến sự giải thích duy nhất, đó chính là: trước khi chuyên gia tóc bạc chết, thời gian trong địa cung này đã biến mất mười mấy năm.



Hải ngọng vẫn ù ù cạc cạc, anh tiếp tục gạn hỏi: “Thời gian biến mất rốt cuộc là ý gì?” Thắng Hương Lân đành giải thích đơn giản: cơ thể vị chuyên gia khảo sát bị bọn bọ ăn xác sống ký sinh, đây chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ta. Theo lý mà nói, thì ông ta phải chết từ năm 1958, đây chính là kết quả của sự việc, nhưng kết quả này lẽ ra đã phải xảy ra từ năm 1958 mới đúng, thế mà mãi hơn chục năm sau nó mới phát sinh.



Bởi vậy, chúng ta chỉ có thể đưa ra dự đoán bước đầu là, thời gian tồn tại giữa nguyên nhân và kết quả đã bị biến mất. Tư Mã Khôi biết Hải ngọng đầu óc bã đậu, nói vói cậu ta chuyện này thì khác gì đàn gảy tai trâu, nên anh mặc kệ, chỉ lo lục soát tứ phía xung quanh, nhưng bốn bức tường dựng đứng, anh không phát hiện thấy thứ gì đặc biệt, có điều dưới chân tường phía sau thi thể của chuyên gia tóc bạc có một hình tròn cực kì quái dị và thần bí, bên trong vẽ một hình người cao lớn, trên đầu mọc một cái sừng thịt, mày rậm râu xồm, hình thù rất lạ lùng, hai tay ông ta dang ngang, trước mặt ông ta là những thường dân chỉ cao bằng một nửa ông ta


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 117: Hồi 6: cái xác trong tường


ai người nghe Tư Mã Khôi gọi, liền chạy tới, vừa ngó một cái đã sững cả người. Phần chân bức tường là đá nham thạch màu xám, hình khắc trên đá không biết được sơn phết loại sắc liệu gì, mà trải qua hàng ngàn năm tuế nguyệt, bề mặt đã mọc rong rêu, hình vẽ khắc trên vách đã không còn rõ nữa, nhưng cũng vì thế mà trông nó càng quái dị và thần bí hơn.



Tư Mã Khôi soi đèn vào hình người có vóc dáng cao lớn, tuy nét vẽ đơn giản, cổ xưa nhưng vẫn có thể nhận ra trên đỉnh đầu ông ta có hai vật nhọn. Hải ngọng kinh ngạc hỏi: “Dưới vòm trời này làm gì có người nào lại mọc sừng trên đầu được chứ?” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất thần bí khó đoán.



Trước đây, anh từng nghe giáo sư Nông địa cầu kể, trong một di tích lịch sử mà đội khảo cổ tìm thấy ở sa mạc Tân Cương, phát hiện rất nhiều bích họa thần bí, mà ngay cả ông cũng không thể giải thích nội dung của nó. Một trong những bức đó mô tả cảnh tượng tiếp xúc giữa một thị tộc cổ xưa với vật thể lạ, dường như đến từ hành tinh khác.



Ông cho rằng, hình khắc trong thành cổ Tochari có lễ là một sinh vật ngoài hành tinh nào đó. Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Liệu thứ… giống như cậu nói, có thật không?” Tư Mã Khôi đáp: “Thì tớ đã gặp bao giờ đâu, nhưng chưa gặp không có nghĩa là không có. Năm đó, Tô Đông Pha đi ngang qua chùa Âm Sơn vào lúc đêm khuya thanh vắng, “đồng chí” ấy đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng đáng phải hãi hùng tâm can, mà ngay cả phần tử tri thức có học vấn uyên bác như đồng chí ấy cũng không thể giải thích hiện tượng mình nhìn thấy lúc đó rốt cuộc là gì, nên chỉ đành ghi lại bằng mấy câu thơ: “Trăng lửa lơ lửng giữa lòng sông.



Chim muông kinh hãi dáo dác trông, Về nhà bần thần lòng tự hỏi: Người ma chẳng phải, vật hư không?” Hải ngọng xưa nay chẳng biết Tô Đông Pha là đồng chí nào, liền bán tín bán nghỉ hỏi: “Sao tớ chưa nghe thấy chuyện này bao giờ nhỉ? Giáo sư Tô công tác ở đơn vị nào hả?” Thắng Hương Lân chăm chú quan sát kỹ vách tường đá, rồi lấy một thác bản trên Sơn Hải Đồ ra đối chiếu, nghe thấy Tư Mã Khôi và Hải ngọng luận đàm những việc chẳng đâu vào đâu, liền nói: “Hình thù khắc họa trên tường đích thị là người thượng cổ, chứ không phải sinh vật ngoài hành tinh nào đâu.




Tương truyền, thị tộc Thần Nông trên đầu đều có sừng thịt, nội dung bức khắc họa có lẽ liên quan đến truyền thuyết này”. Hải ngọng nói: “Cô em đừng có lòe bọn tôi! Thời cổ hình như cũng làm gì có ai mọc sừng trên đầu. Nó là người hay là dã thú thế hả?” Tư Mã Khôi từng nghe kể về chuyện này.



Tương truyền, người thượng cổ có dung mạo rất giống thú hoang, Phục Hi và Nữ Oa đều là các vị thần đầu người mình rắn, thị tộc Thần Nông có sừng, còn Xi Vưu là con gấu, có bốn mắt, sáu tay, đầu đồng, trán sắt. Tuy hình hài của họ giống như chim thú, nhưng đều là những bậc đại nhân đại đức, tính tình vô cùng thuần hậu; còn con người ngày nay, tuy dung mạo là người, nhưng một số lại lòng lang dạ sói, thâm hiểm khó lường.



Có điều, những chuyện này chỉ là truyền thuyết, người thượng cổ không thể mọc sừng trên đầu thật được, vì rốt cuộc điều đó không phù hợp với quy luật của học thuyết tiến hóa sinh vật. Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ điều này đại khái giống với tín ngưỡng tô tem thời thượng cổ, bây giờ cũng không cần truy tìm gốc gác ngọn nguồn.



Tôi thấy, nội dung khắc họa trên vách tường khả năng là một loại biểu trưng của thời gian và địa lý, ghi chép ẩn số về con đường dẫn xuống hắc động gần tâm Trái đất, những nội dung này đều được khắc trên chiếc đỉnh đồng Vũ Vương”. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, giờ đã có bản giải mã và thác bản Sơn Hải Đồ trong tay, muốn tìm ra con đường đó cũng không phải chuyện khó, mà chuyện nước sôi lửa bỏng trước mắt là, làm sao thoát khỏi mê cung không lối ra này, những việc còn lại sau này nói cũng chưa muộn.



Anh liền bảo Thắng Hương Lân mau chóng sao chép lại, rồi tiếp tục quan sát những hình khắc trên tường ở gần đó. Lát sau, anh lại phát hiện một hình vẽ rất giống hình cái túi, bên trong là các động thất tầng tầng lớp lớp, to nhỏ không giống nhau, ngang dọc thông nhau, bên mép trái lộ ra một vết mẻ, dường như chính là lối vào mà đội khảo cổ thâm nhập địa cung khi trước, lúc này nhìn tổng thể, trông nó có vài phần giống với tấm bia nuốt rắn chỉ có miệng còn không có mắt mũi.



Có lẽ là chuyên gia tóc bạc mà ba người từng biết đã phát hiện thấy bí mật nào đó ở trong này, nghĩ vậy anh liền ngó vào xem. Thắng Hương Lân đang giải mã các chữ triện cổ khắc trên vách tường theo bản giải mã, nhưng chuyện này đâu phải chốc lát có thể hoàn thành được.



Thay sắc mặt Tư Mã Khôi lúc trắng bợt, lúc tái xanh, dường như đã nhìn ra manh mối gì đó, cô liền hỏi: “Anh phát hiện thấy gì à? Tư Mã Khôi nói: “Chỉ e chúng ta phải chuẩn bị tính đến nước xấu nhất rồi. Ở đây đúng là không có lối ra đâu…” Hải ngọng nói: “Sao cậu cũng nói lời nhụt chí thế hả? Núi Dã nhân hung hiểm như vậy mà chúng ta còn sống sót trở về được nữa là!” Tư Mã Khôi lắc đầu: “Nếu đem so sánh với sự đáng sợ của tấm bia nuốt rắn này, thì việc trốn thoát khỏi núi Dã nhân chẳng qua là chuyện cỏn con”.



Hải ngọng nghe xong càng mù tịt, lòng hoang mang, anh ngó nghiêng nhìn hình khắc trên tường, rồi lẩm bẩm một mình: “Không có lối ra… cái bia nuốt rắn này rốt cuộc là cái ngữ gì thế?” Tư Mã Khôi nhất thời lơ mơ, anh biết nhãn lực và kiến thức của Thắng Hương Lân còn giỏi gấp mười lần đấng tu mi nam tử, nên anh định hỏi vài chuyện để xác nhận, chẳng ngờ mép tường ngầm từ trên xuống dưới bất ngờ nứt ra một khe hở, dòng nước dịch giống như axít đậm đặc không ngừng trào ra từ bên trong, chảy trên mặt đất, phát âm thanh nghe “xèo xèo”, nó đã ăn mòn nền sàn thành hố lõm sâu tầm một đốt ngón tay.



Ba người nghe tiếng động, lập tức soi đèn quặng về phía trước quan sát, thì ra bầy cua móng ngựa bị chặn phía sau bức tường, đang điên loạn cắn xé lẫn nhau. Loài vật này đa số sống trong các cỗ tử thi nằm dưới mộ cũ, tên thường gọi là “trùng phệ kim”, nếu không tiêu diệt triệt để thì chúng có thể một sinh mười, mười sinh trăm, trăm sinh nghìn, cứ thế sinh sôi nảy nở không bao giờ ngừng nghỉ.



Huyết dịch trong cơ thể chúng hàm chứa chất kịch độc, chỉ cần gặp không khí sẽ lập tức hóa thành axít đậm đặc đến sắt đá cũng không thể chịu nổi, bởi vậy chẳng bao lâu sau, bức tường đá đã bị xuyên thủng. Những con bọ ăn xác chết nhanh chân bò vào trước, khắp thân thể chúng đều đã bị axít xâm thực, rồi ruột gan phèo phổi lòi hết ra ngoài.



Thế nhưng sức sống của chúng vô cùng mãnh liệt, tuy chỉ còn mỗi nửa đoạn thân nhưng chúng vẫn không ngừng giãy giụa, ngọ nguậy, còn dòng bọ ăn xác bám sát phía sau, vẫn giẫm đạp lên xác của đồng loại, ùn ùn kéo vào trong. Tư Mã Khôi kinh hãi, vừa giơ khẩu PPS lên quét một luồng đạn, vừa cùng Hải ngọng khênh đội trưởng Lưu Giang Hà mau chóng lui về sau né tránh.




Lúc này, Thắng Hương Lân liền ném nến tín hiệu xuống huyệt đá dưới lòng đất, rồi ba người cùng khênh thành viên bị thương lui vào trong động. Hải ngọng đưa tay mò cuộn thuốc nổ trong ba lô đeo sau lưng, định vứt ra để phá cửa động. Tư Mã Khôi biết uy lực của thuốc nổ rất lớn, nếu nó đánh sập cả gian thạch thất này thì cả đội còn rơi vào tình thế bất lợi hơn, nên anh vội ngăn Hải ngọng lại, rồi cùng rút lui vào đường hầm từ cánh cửa đá bên cạnh.



Bên trong địa cung chia thành nhiều tầng, kết cấu đại khái tương đồng, mỗi nơi trong động thất đều chạm khắc một lượng lớn bích họa, địa hình lại hao hao giống nhau, khiến người ta nảy sinh ảo giác trùng lặp ảnh. Ba người không dám chậm trễ, nhân lúc bọn bọ ăn xác chết vẫn chưa đuổi kịp, họ gắng hết sức hợp lực đẩy cửa đá đóng kín lại.



Tư Mã Khôi kiểm tra các khe nứt giữa các bức tường một lượt, rồi nói với Hải ngọng và Thắng Hương Lân: “Với độ dày của cánh cửa đá này, thì chí ít trong vòng mấy chục phút nữa, đường hầm này vẫn tạm coi khá là an toàn”. Hải ngọng đối diện với thời khắc sinh tử, lại đâm ra trấn tĩnh hơn rất nhiều, anh nắm chặt cuộn thuốc nổ trong tay nói: “Cùng lắm là giật kíp chứ gì, chúng ta càng có dịp cùng nhau đi thăm các chiến hữu cũ”.



Thắng Hương Lân xem xét vết thương của đội trưởng Lưu Giang Hà, thấy anh chàng vẫn hôn mê bất tỉnh, môi khô nẻ, trán nóng rực, nhưng lại nghệch miệng cười một cách kì quái, khiến cô bất giác lo lắng, liền goi hai người lại xem sự thế thế nào. Tư Mã Khôi cũng thấy kì lạ: “Thằng cu gà mờ này cười cái khỉ gì thế không biết?” Hải ngọng phân tích: “Chắc cu cậu mơ thấy được ăn dưa gang ngọt lịm ở quê nhà đây mà, cũng có thể là thấy mình đang cầm nắm cơm thơm phưng phức trong tay…”.



Tư Mã Khôi thấy trên mặt Lưu Giang Hà hắc khí nặng nề, anh chợt hiểu ra: “Thằng này trúng khí độc trong quan tài rồi, phải cho cậu ta uống tiết vịt trắng thì mới giữ được mạng”. Hải ngọng than thở: “Tớ thấy sống chết có số, mỗi vật đều có tạo hóa riêng của nó, thằng ranh này là quân nhân, mình thì mặc quân phục, cu cậu phải giác ngộ tư tưởng treo sọ vào cạp quần mới được”.



Tư Mã Khôi nói: “Lính thì cũng là người chứ sao, con sâu cái kiến còn tham sống, huống hồ con người sao chẳng tiếc sinh mạng? Chỉ cần cậu ta chưa đoạn khí, chúng ta không thể bỏ cậu ta ở lại được”. Thắng Hương Lân đồng tình với Tư Mã Khôi: “Anh nói đúng lắm! Có điều, thông đạo này bất cứ lúc nào cũng xảy ra nguy hiểm, giờ tính thế nào? Phải mau chóng quyết định ngay mới kịp”.



Tư Mã Khôi cũng biết thời gian dành cho cả hội chẳng còn là bao, liền nói phán đoán của mình với hai người bạn đồng hành: “Nếu tôi đoán không sai, thì thứ mà tấm bia nuốt rắn ám thị chính là tòa địa cung này, bản thân nó là con quái vật chỉ có lối vào mà không có lối ra, thứ không biết là vật gì nằm dưới lòng đất có tên gọi là “vô”, “vạn vật thiên hạ sinh vu hữu, hữu sinh vu vô”.



Hải ngọng chưa từng nghe thấy chuyện này bao giờ, anh không hiểu ý Tư Mã Khôi muốn nói gì: “Đừng nói cái gì mà vô vô hữu hữu nữa. Bây giờ bản thân tớ đang ở đâu tớ còn không biết nữa là”. Tư Mã Khôi nói: “Cậu cứ quan sát kỹ xung quanh đi, có thấy quen không?” Hải ngọng hơi rầu rĩ: “Bị nhốt sống ở nơi quỷ quái này lâu ra phết rồi, nhưng tớ chẳng thấy xung quanh đây có mẹ gì hay ho cả”.



Anh nói rồi nhìn ngó khắp bốn phía thêm lần nữa, phát hiện đường hầm địa cung và cả trong các gian mật thất hai bên đường, khắp tường chỗ nào cũng khắc toàn phù chú thần bí như thể giun dế, chim chóc, rắn rùa. Cảnh tượng lạnh lẽo âm u này đúng là có vẻ quen quen. Trải nghiệm khủng khiếp đó chắc đến chết anh cũng không thể nào quên được, Hải ngọng bất giác hít ngược một hơi lạnh nói: “Thành cổ Nhện Vàng của vua Chăm Pa!” Thắng Hương Lân đã nghe Tư Mã Khôi kể tường tận những chuyện bọn anh gặp phải trong cánh rừng rậm nguyên sinh Miến Điện, bây giờ lại nghe Hải ngọng nhắc đến, cô mới phát hiện thấy tòa địa cung này đúng là cực kì giống tòa thành Nhện Vàng trong hẻm núi Dã Nhân.



Tư Mã Khôi nói: “Không phải là thành cổ Nhện Vàng, mà là di vật kỷ Devon, là một di vật kỷ Devon khác bị chôn vùi dưới kính viễn vọng Lopnor…”. Lúc trước, khi gặp lão tóc bạc, nghe đối phương dùng từ “không gian thứ sáu” để hình dung nơi này có lối vào mà không có đường ra, Tư Mã Khôi cho rằng đó chỉ là suy đoán chủ quan của kẻ sắp chết, thậm chí ngay cả bản thân anh cũng không thể giải thích rõ ràng ý nghĩa của nó là gì, nên khó tránh khỏi nảy sinh quan điểm phiến diện, thiếu chân thực.




Bởi vậy từ đầu chí cuối, anh thấy mình không thể không tin lời lão tóc bạc, nhưng cũng không thể tin hoàn toàn được. Tư Mã Khôi cũng hiểu biết về lý luận khoa học, tuy không thể so với các thành viên đội khảo sát, nhưng anh lại thông hiểu thuật tướng vật và biết cách nhận biết báu vật, nên anh lờ mờ cảm nhận thấy điểm kì quái nhất của cả chuỗi sự kiến chính là khoảng thời gian biến mất từ năm 1958 đến năm 1974.



Từ khi bắt đầu cùng đội khảo cổ bước chân vào kính viễn vọng Lopnor đến giờ, điều khiến Tư Mã Khôi cảm thấy đau đầu và khiếp sợ nhất cũng chính là thời gian. Nhưng vì bị tình thế bức bách, nên anh đành vắt óc suy nghĩ. Tư Mã Khôi nhìn các hình vẽ thần bí khắc trên tường trong các gian mật thất, rồi chợt nghĩ đến một thứ mà cổ thuật tướng vật có nhắc đến.



Tương truyền, rất lâu trước đây, có một vật không biết là vật gì, hình thù giống cái túi, không có ngũ quan thất khiếu, cuốn “Bác Vật Chí” gọi nó là “Đế giang” (1) , thần thoại gọi nó là quả trứng hỗn mang âm dương, trong bụng nó là “vô”, không có thời gian và không gian, tất cả chỉ là mớ hỗn độn, tối đen một màu.



Cũng có thuyết pháp cho rằng, Bàn cổ sinh ra từ bụng nó, ông nạo vét hỗn độn để khai thiên lập địa. [1] Đế giang: là một quái vật tưởng tượng trong thần thoại Trung Hoa cổ đại, thân hình vô cùng to lớn, không có đầu, có 6 chân và 4 cánh. Sau này, Tư Mã Khôi có hỏi giáo sư Nông địa cầu về chuyện liên quan đến di vật kỷ Devon, thì được biết, khả năng di vật kỷ Devon thuộc hóa thạch thủy tổ của loài ốc cú vọ , trong cơ thể nó lan tỏa “thứ vật chất mịt mù”.



Tư Mã Khôi đoán, thứ này quá nửa chính là “đế giang” mà cổ thuật tướng vật nhắc đến, chỉ có điều việc ấy chưa được chính miệng giáo sư xác nhận. Khi đó, anh cũng không đào sâu nghiên cứu thêm nữa, nên càng không biết “thứ vật chất mịt mù” kia rốt cuộc là gì. Bây giờ, anh cũng chỉ có thể mò mẫm theo cách lý giải cũ trong cổ thuật mà suy đoán, thứ vật chất mịt mù đó chính là “vô”, như vậy có thể lý giải đại khái chuỗi ẩn số.



Thắng Hương Lân không hiểu cổ thuật tướng vật, nhưng lại biết rất rõ vật mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến bởi vì câu nói “vô trung sinh hữu – thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô” (2). Nguyên bản của nó xuất hiện từ hơn hai ngàn năm trước, nó là câu danh ngôn do Lão Tử – thủy tổ của đạo gia Trung Quốc đề ra, có nghĩa là: “không” sinh ra “có” – vạn vật trong thiên hạ đều được sinh ra từ “có”, mà “có” được sinh ra từ “không”.



Thời cận đại, quan điểm này được các nhà vật lý thiên văn học phương Tây vô cùng sùng bái, lấy đó để giải thích cho cội nguồn của tạo vật thiên địa, bởi thực sự không thể tìm thấy mô tả nào chính xác hơn thế. Chuyện này từng một thời là chủ đề nóng hổi vào những năm 50, 60, cả thế giới xôn xao bàn luận, tranh cãi rôm rả, mọi người đều muốn truy hỏi: “Khoa học và tôn giáo, rốt cuộc thứ nào chân thực hơn?” [2] Vô trung sinh hữu — thiên hạ vạn vật sinh vu hữu, hữu sinh vu vô: có nghĩa là, vạn vật trong trời đất đều được sinh ra từ cơ thể mẹ, mà cơ thể mẹ đó chính là vô số vật của không vật gì.



Thắng Hương Lân từng nghe kể chuyện này ở trong nước, bởi vậy cô tin rằng phán đoán của Tư Mã Khôi tương đối phù hợp với tình hình thực tế, có điều tình thế hiện giờ nguy cấp như trứng treo trước miệng rắn, chỉ cần sai sót chút xíu thôi là toàn bộ ván cờ không thể cứu vãn được nữa.



Ba người quyết định mò mẫm theo các khe hở tìm kiếm trước đã, xác nhận xem trong bức tường đá liệu có cái xác của di vật kỷ Devon hay không, sau đó mới tính tiếp. Ba người không muốn bỏ mặc anh chàng đội trưởng đang sống dở chết dở ở lại, liền khênh cậu ta đi cùng. Vết thương ở gan bàn chân Lưu Giang Hà chạm xuống mặt đất, đau đớn đến nỗi thần trí vụt trở nên tỉnh táo, cậu ta u u mê mê không biết vì sao mình ra nông nỗi này, liền gắng gượng phều phào hỏi: “Thủ trưởng Khôi ơi! Tôi bị… sao thế này?” Hải ngọng an ủi: “Thực ra cũng không có gì nghiêm trọng lắm đâu, chỉ có điều, từ nay về sau, cậu… không thể nghe được lời hiệu triệu vĩ đại của Đảng và nhân dân nữa thôi”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 118: Hồi 7: sinh vật kinh dị


Đội trưởng Lưu Giang Hà hoang mang trong lòng, nhất thời không hiểu câu này có nghĩa gì, nhưng cậu chàng có thể cảm nhận từ lời của Hải ngọng rằng tình hình không ổn, lại phát hiện là súng và ba lô bên người đều không còn, thì đoán lần này đúng là chết tiệt thật rồi, thần sắc bất giác bàng hoàng.



Tư Mã Khôi ra hiệu bảo Hải ngọng đừng nhiều lời nữa, rồi nhắc Hương Lân dùng đồng hồ thám trắc trọng từ lực, tìm kiếm hướng đi về phía đỉnh đồng Vũ Vương, ba người khênh cậu đội trưởng, dò dẫm từng bước trong đường hầm tối tăm, tiến về phía trước. Căn cứ vào từng manh mối, mọi người suy đoán, đội khảo sát liên hợp Trung Xô năm 1958 đã bị lạc vào bụng của di vật kỷ Devon.



Lúc đó ngoài chuyên gia tóc bạc, tất cả các thành viên khác đều chết trước tấm bia nuốt rắn. Rồi sau đó, thời gian đột nhiên biến mất, mãi đến khi hội Tư Mã Khôi xuống đến đáy động, mọi sự kiện mới tiếp tục diễn ra. Điều này chứng tỏ, chỉ cần người sống từ bên ngoài bước chân vào di vật kỷ Devon, thì thời gian trong địa cung sẽ trôi chảy như bình thường.



Nguyên nhân có lẽ là do nó chịu tác dụng bởi điện trường sinh vật của cơ thể con người, nhưng cũng chỉ được vài tiếng sau, “vật chất mịt mù” sản sinh từ cơ thể di vật kỷ Devon lại sẽ nuốt chửng tất cả, rồi mọi vật đều vĩnh viễn dừng lại trong “vô”, nơi không hề tồn tại không gian và thời gian, trừ khi lại có sự kiện bên ngoài tham dự vào.



Hơn nữa, theo những ghi chép trong cổ thuật tướng vật, bất kì sinh mệnh nào đã bị “vô” nuốt chửng, thì đều không thể rời khỏi cơ thể nó, nếu không sẽ lập tức hóa thành tro bụi trong phút chốc. Bởi vậy, dẫu cơ thể chuyên gia tóc bạc không có ấu trùng bọ ăn xác, thì cuối cùng ông cũng không thể rời khỏi nơi này.




Có điều, phần lớn những điều này chỉ là những suy đoán chủ quan của họ, tòa thành Nhện Vàng, mà hội Tư Mã Khôi phát hiện khi theo đội thám hiểm đến Miến Điện, chỉ là cái xác chứa lượng lớn từ trường nhiệt lưu giữ thông tin của di vật kỷ Devon, trong khi đó, cái xác nằm dưới đáy vực sâu trong kính viễn vọng Lopnor lần này còn tồn tại nhiều hiện tượng thần bí không thể giải thích hơn.



Ngoài ra, anh cũng không rõ “thứ vật chất mịt mù” nuốt chửng thời gian rốt cuộc là thứ gì, mà chỉ cảm nhận một cách sâu sắc là hi vọng đào thoát khỏi “vô” và sống sót trở về của đội khảo cổ là vô cùng mờ mịt. Mọi người cố gắng kiềm chế cảm giác sợ hãi và tuyệt vọng đang dâng trào.



Họ men theo đường hầm sờ thấy vách tường đá nằm ở điểm tận cùng, và nghe thấy dường như trong một bức tường có âm thanh nhỏ vọng lại. Di vật kỷ Devon trong thành Nhện Vàng được cho là cái xác hóa thạch mang luồng cảm ứng từ nhiệt lưu trữ trí nhớ, nhưng vật ở dưới địa cung này dường như là một sinh vật còn sống hẳn hoi.



Mọi người vừa kinh ngạc vừa kì lạ: “Hình như nó còn sống hay sao ấy, di vật kỷ Devon…chẳng lẽ nó sống từ thời trung kì của Đại cổ Sinh đến tận ngày nay? Có điều chỉ cần có hình, có chất, nói không chừng lại có thể dùng thuốc nổ phá sập một hố được cũng nên”. Khi trước, cả nhóm không dám dùng thuốc nổ phá vách tường, chủ yếu là vì đội khảo cổ không có ai thông thạo nghiệp vụ thuốc nổ, không dự đoán được bao nhiêu thuốc nổ sẽ phá thủng được lòng tường, càng không hiểu cách lựa chọn địa điểm phá nổ, ngộ nhỡ khiến cả khu vực dưới lòng đất sụt lở thì gay to.



Nhưng lúc này, họ không còn lựa chọn nào khác, cá không chết thì lưới phải thủng. Thế là cả hội quyết liều. Họ chỉ để bốn cuộn thuốc nổ đề phòng bất trắc, số còn lại thì dùng băng dính cuốn thành khối rồi dán vào tường. Tư Mã Khôi châm lửa vào điếu thuốc thơm của Liên Xô, rít mạnh vài hơi, rồi gí đầu thuốc lá vào kíp nổ để dẫn cháy, sau đó cả hội vội vàng trốn vào trong động thất bên cạnh đường hầm, bịt chặt hai tai, đầu thầm nhẩm đếm “Một, hai, ba…” Một tiếng nổ long trời lở đất, chấn động đến nỗi chân tay người nào cũng tê dại, cổ họng toàn vị tanh mặn, trong đám khói bụi mịt mùng, bức tường đá bị phá hủy sụt vỡ một nửa, khắp nơi toàn đá vụn, sóng chấn động sản sinh sau vụ nổ lan tỏa trong thân tường, gạch đá rơi xuống rào rào, khu vực xung quanh vẫn không ngừng sụp xuống, chẳng biết chôn vùi bao thứ dưới lòng nó.



Tư Mã Khôi thầm than: “Mẹ tiên sư! Chắc là dùng thuốc nổ quá liều rồi!” Mọi người tự biết, nếu không nhân thời cơ này mau chóng chạy ra ngoài, thì chỉ cần chậm trễ mấy bước nữa thôi, có thể sẽ bị chôn sống dưới lòng đất. Họ vừa mới định hành động, thì ai nấy đều cảm thấy có một vật thể khổng lồ bò ra từ kẽ nứt trong lòng bức tường.



Tư Mã Khôi đứng gần cửa nhất, nhận thấy tình hình không ổn, liền lập tức giơ tay bảo mọi người dừng lại, anh nắm chắc khẩu súng xung phong PPS trong tay, thò nửa đầu ra khỏi động thất thám thính tình hình. Nhưng bên ngoài bóng tối bủa vây, cộng thêm khói thuốc nổ và bụi đất bay mù mịt, chùm sáng đèn quặng không thể soi sáng phía xa, mọi người đành nín thở, dựa lưng vào tường, không dám cử động mạnh.



Tuy Tư Mã Khôi đã lường trước trong bức tường chắc chắn có điều kì quái, nhưng di vật kỷ Devon rốt cuộc hình dạng thế nào, thì anh lại không hề có khái niệm. Anh kết hợp những kinh nghiệm trước đây, thì chỉ biết khoảng 4 tỷ 600 triệu năm trước, khi lớp vỏ Trái đất vừa mới bắt đầu đông kết, có thứ vật chất mịt mù tàn lưu lại từ thời kì hỗn độn, bị phong tỏa dưới lòng đất, mãi đến cuối kỷ Devon, mới xuất hiện loài ốc cổ đại nào đó lấy vật chất này làm thức ăn, cho nên sau khi chúng hóa thạch, trong vỏ chúng vẫn còn chứa một luồng từ nhiệt lớn đến tận ngày nay.



Từ đó, khu vực trong núi sâu đã hình thành nên một vùng điện từ trường, giống như vũng mù. Nhưng di vật kỷ Devon trong thành cổ Tochari thì dường như lại là một sinh vật sống, cả cơ thể nó ẩn trong bức tường kiên cố ở địa cung, nên ảnh hưởng sụt lở của vụ phá nổ hiển nhiên đã kinh động đến nó.



Thời khắc này kéo dài đằng đẵng tựa thiên thu, khi nghe âm thanh ngọ ngoạy bò trườn dần dần tiến sát gần, nhịp tim đập của mọi người cũng tăng nhanh dữ dội theo sự rút ngắn của khoảng cách. Bất chợt, một luồng gió tanh tưởi thổi thốc vào mũi, cả nhóm định thần nhìn kỹ thì thấy trong đám khói bụi có một con vật khổng lồ đang lù lù tiến đến, trông nó giống một cái tủ to lớn bằng thịt, trong đó chỉ có miệng mà không có mắt mũi, chân tay, trong đường hầm nhỏ hẹp, cũng không thể phân biệt rõ hình thù cụ thể của nó ra sao, khả năng chẳng khác bia nuốt rắn là bao, bộ phận bị đèn chiếu vào thấy toàn nếp nhăn, phô bày sự già nua và cổ xưa của thời đại hồng hoang, mặt đất nơi nó lết thân qua để lại thứ nước đen ngòm.




Mọi người kinh ngạc há hốc miệng, da đầu căng cứng, Tư Mã Khôi biết không thể đối đầu với nó, lại e rằng sẽ không thể xoay chuyển trong không gian chật chội của gian động thất, anh liền cùng Thắng Hương Lân xách nách đội trưởng Lưu Giang Hà, Hải ngọng đi sau yểm trợ, không quản nguy hiểm do đất đá sụt lở, thục mạng chạy trốn vào nơi sâu trong đường hầm.



Đội trưởng Lưu Giang Hà lết cái chân bị thương, ban đầu còn thấy đau đớn không thể chịu đựng nổi, về sau bước chạy càng lúc càng nhanh, nên chất độc trong huyết dịch mau chóng khuếch tán, cả cẳng chân hoàn toàn mất cảm giác, nếu không có người giúp đỡ, thì cậu ta đã nằm bất động ra đất, lúc định nói thì phát hiện ngay cả cuống lưỡi cũng đã tê dại.



Hải ngọng và Thắng Hương Lân đều phải đeo ba lô nặng trịch, nếu đội trưởng Lưu Giang Hà có thể tự vận động chút ít bằng sức lực chính mình, thì hai người còn gắng gượng kéo cậu ta tiếp tục chạy, nhưng lúc này thân thể của Lưu Giang Hà cứng đơ như cây chuối, nghiêng nghiêng ngả ngả chúi về đằng trước, khiến hai người không làm chủ được cũng ngã sõng xoài theo.



Tư Mã Khôi vừa chạm đất đã lăn một vòng đứng dậy ngay, anh tiện tay vứt luôn ba lô xuống đất, dưới sự hỗ trợ của Thắng Hương Lân, anh vội cõng Lưu Giang Hà lên lưng. Chỉ chậm lại một khoảng ngắn ngủi như vậy, mà di vật kỷ Devon đã kịp bò trườn đến, cách mọi người chỉ khoảng năm mét.



Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, trông tình hình đoán có lẽ không thoát thân nổi, anh liền giơ tay châm lửa kíp nổ cuộn thuốc nổ rồi vứt ra sau lưng. Vừa lúc đó Thắng Hương Lân quay đầu lại nhìn, cô hốt hoảng la thất thanh: “Chết rồi!”. Tư Mã Khôi nghe động cũng quay người lại nhìn, anh biết dây dẫn rất ngắn, khoảng cách lại quá gần, trong đường hầm nhỏ hẹp thế này, sức công phá của cả chùm bốn cuộn thuốc nổ đủ để tất cả mọi người tan xác thành từng mảnh vụn.



Nhưng giờ đây có muốn trốn cũng không kịp, anh đành cõng đội trưởng Lưu Giang Hà nằm rạp xuống đất, thuận thế trốn sau bức tường, hai người còn lại cũng vội vàng nằm úp mặt, đợi tiếng nổ dữ dội phát ra bất cứ lúc nào. Ai ngờ cuộn thuốc nổ rơi ngay bên cạnh cơ thể đang trườn bò của cái “tủ thịt”, nó liền nuốt chửng vào cái miệng đen ngòm ngòm, vào đúng thời khắc phát nổ, chỉ thấy bề mặt của di vật kỷ Devon bỗng nhiên phình to, nhưng ngay sau đấy liền trở về trạng thái như cũ, cũng không nghe thấy bất kì âm thanh hay chấn động nào nữa, nó vẫn lặng lẽ và tiếp tục trườn đến chỗ mọi người.



Cả hội hãi khiếp đảm thất sắc, cuộn thuốc nổ phát nổ ngay trong cơ thể di vật kỷ Devon, vậy mà nó vẫn không hề hấn gì, có lẽ là do bên trong cơ thể đang bò trườn kia đầy rẫy những “vô”. Khái niệm về “vô” của Tư Mã Khôi tương đối mơ hồ, anh chỉ biết đó là thứ vật chất mịt mù trước khi lớp vỏ Trái đất phình to và đông đặc.



Thời gian và không gian không ngừng vận động đều xuất hiện từ trong cơ thể nó. Lúc này, di vật kỷ Devon đã tiến gần trong gang tấc, Tư Mã Khôi thất vọng thầm kêu: “Lúc trước liệu sự không chu đáo, lẽ ra không nên mạo hiểm cho thuốc nổ phá hủy bức tường, bây giờ thì đến trời cũng không cứu nổi nữa rồi!”.



Giờ đây anh cũng không biết nên ứng phó thế nào, chỉ cùng hai người còn lại ra sức kéo đội trưởng Lưu Giang Hà rút lui vào nơi sâu trong đường hầm. Thạch điện nằm ở điểm tận cùng của đường hầm vẫn chưa bị sụt vỡ, thi thể của các thành viên đội khảo sát và tấm bia nuốt rắn ở tầng trên có thể cùng gạch đá vụn nát sập xuống bất cứ lúc nào.



Trong bóng tối mịt mùng, chỗ nào cũng toàn bụi đất hỗn tạp, chùm sáng của ánh đèn bấc không thể chiếu xa hơn hai mét, bốn phía xung quanh chỉ thấy âm thanh tường nhà đổ vỡ ầm ầm như thể đang trong cơn địa chấn. Tay chân mặt mũi các thành viên đội khảo cổ đều bị vụn đá cào rách, Hải ngọng cũng vừa bị đá rơi trúng đầu, tuy đội mũ Pith Helmet nhưng anh vẫn bị thương khá nặng, máu tươi đầm đìa khắp mặt.




Trong cơn hỗn loạn, mọi người hoàn toàn không thể phân biệt được phương hướng và tình hình xung quanh, nên lòng càng hoảng hốt gấp bội. Họ vừa mới rút vào trong điện thì bỗng nhiên cảm thấy gạch đá, đất cát chất cao như núi bỗng rung chuyển rào rào, mặt đất nứt ra một đường khe lớn, dường như có vật gì đó từ dưới đất đội cả tòa điện lên.



Dưới chân hội Tư Mã Khôi nghiêng ngả, tất cà không trụ vững được đều ngã ngửa ra sau, lòng tự biết không thể quay về đường hầm được nữa, may mà chân tay nhanh nhẹn, không thì đã bị vách tường hai bên đè nát cả xương lẫn thịt. Cả hội vừa tránh những mảnh gạch đá vụn rơi xuống, vừa di chuyển dần về phía cạnh tường.



Lúc này mọi người đều phát hiện, phía dưới điện cũng có di vật kỷ Devon, đúng như tiên liệu ban đầu, tòa địa cung Tochari này giống với thành cổ Nhện Vàng ở Miến Điện, toàn bộ toàn thành đều ẩn chứa xác của di vật kỷ Devon, chỉ có điều cái xác ở thành Nhện Vàng một nửa là hóa thạch, một nửa là sinh vật, nó đã ở trạng thái chết cứng, còn thứ trong địa cung Tochari lại là con quái vật còn sống hẳn hoi, thứ xuất hiện dưới lòng đất và trong đường hầm có lẽ là phần chân – bụng của nó.



Mọi người đã biết đến di vật kỷ Devon từ lúc nhìn thấy những bức khắc thần bí mà người Tochari để lại, cho đến khi nhìn thấy nó lần nữa trên Sơn Hải Đồ ở đỉnh đồng Vũ Vương, thấy nó có hình dáng hao hao sinh vật lớp chân bụng(1) và đặc biệt không có thất khiếu, nó sống kí sinh ở tầng giữa, kẹp trong bức tường ngoài của địa cung.



[1] Lớp chân bụng: là một lớp động vật thuộc ngành Thân mềm. Lớp chân bụng bao gồm tất cả các loại ốc với mọi kích cỡ từ nhỏ đến khá lớn. Lúc trước, chuyên gia tóc bạc đã nói với đội khảo cổ, ở đây chịu ảnh hưởng của vật chất mịt mù, các hạt li ti rơi vào trạng thái lực lượng tử tác động lẫn nhau, cả tòa địa cung đều nằm trong phạm vi bán kính độ cong của thời gian và không gian, nó không còn thuộc về không gian rộng lớn, khoáng đạt mà chúng ta từng biết, mà là một không gian bất minh khác chỉ có lối vào, không có lối ra.



Mọi sinh vật ở bên ngoài khi tiếp cận với nó, sẽ khiến không gian này xuất hiện một con đường vật chất bởi từ trường của chính mình, nhưng lúc từ bên trong đi ra thì thông đạo đã biến mất. Hình thù quái dị của tấm bia nuốt rắn, đại khái chính là sự mô tả trực quan nhất của người cổ đại về di vật kỷ Devon, quái xà ám thị sinh mệnh và thời gian, mọi thứ đều xuất hiện từ hư vô và đều có thể bị hư vô nuốt chửng hoàn toàn.



Hội Tư Mã khôi đương nhiên không thể lý giải sự việc ở chiều sâu thế này, nhưng họ cũng rõ mình đang nằm bên trong thân xác di vật kỷ Devon, nếu không thể chạy ra thì bí mật, mà họ đã phải trả giá bằng bao nhiêu mạng sống của các đồng chí để đổi lấy, đều vĩnh viễn vùi chôn dưới lòng đất này; có điều, mấy cuộn thuốc nổ và khẩu súng xung phong PPS họ mang theo mình chẳng đủ để bảo vệ chính bản thân, thì nói gì đến các đại sự khác.



Không gian trốn chạy trong địa cung càng lúc càng thu lại, đội khảo cổ dần dần bị đẩy vào góc chết, tình hình giờ đây không giống như cá sắp chết trong lưới rách để còn giãy giụa liều mạng một phen, mà lại giống như mấy con cá vàng muốn thoát khỏi cái bể cá đã bị niêm phong kín mít.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 119: Thí nghiệm philadelphia


Di vật kỷ Devon giãy giụa muốn thoát ra khỏi lòng bức tường, bốn phía xung quanh đội khảo cổ toàn là đá vụn và tường đổ nát, mọi người bò lên đến đỉnh tấm bia nuốt rắn đổ nghiêng, thì hết đường. Hải ngọng thả đội trưởng Lưu Giang Hà đang cõng trên lưng xuống, lấy tay quệt lung tung cả máu tươi và đất bụi trên mặt, thở hổn hển nói với hai người còn lại: “Bận này đúng là gặp phải ngưỡng không thể vượt qua được rồi!” Tư Mã Khôi cũng cảm thấy tuyệt vọng cùng cực: “Nếu không dùng thuốc nổ phá tường, có lẽ còn sống lâu thêm được chút, bây giờ thì hay rồi, còn biết chạy đâu bây giờ?” Thắng Hương Lân nhìn tấm bia nuốt rắn lần nữa, chợt kinh ngạc, vội nói với Tư Mã Khôi:



“Năm 1958, thời gian của đội khảo sát không hề bị biến mất…” Tư Mã Khôi không rõ Thắng Hương Lân đã nghĩ ra điều gì, nhưng tính mạng mọi người chỉ còn tính bằng giây, cho dù khoảng thời gian sau khi đội khảo sát tử nạn không bị biến mất đi chăng nữa, thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh hiện tại của họ.



Tư duy Thắng Hương Lân rất nhanh nhạy, lúc này cô đã nhận ra: sự việc không như mọi người phỏng đoán lúc ban đầu, bởi sau khi chuyên gia tóc bạc gặp đội khảo cổ thì ông ta mới chết, bởi vậy mọi người từ đầu chí cuối đều có phán đoán sai lầm là “tiên nhập vi chủ” – nghĩa là người vào trước là chủ, kẻ vào sau là khách, cho rằng thời gian từ năm 1958 đến năm 1974 bị biến mất dưới lòng đất.



Kì thực, không gian bị xác di vật kỷ Devon bao quanh, bên trong nó không hề có bất kì hiện tượng bất thường nào, mặc cho đội khảo cổ dừng lại ở địa cung bao lâu, thời gian cũng không biến mất, nếu thời gian bên cạnh chuyên gia tóc bạc đã từng biến mất, thì ông ta đã sớm bị hư vô xé nhỏ thành các hạt nguyên tử từ lâu rồi, ngay cả thi thể cũng không thể tồn tại nữa.



Điểm kì quái đích thực, có lẽ chính là cái xác di vật kỷ Devon. Năm 1943, hải quân Mỹ từng tiến hành một thí nghiệm cơ mật ở Philadelphia(1) dựa trên lý thuyết “giả thuyết về chiếc hộp thời gian” do Tesla đề ra. Hiểu một cách ngắn gọn là: lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết thì có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành vô hình.




Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”. Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7 năm 1943 và đạt được thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng, họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại rất phản đối vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân Mỹ phải ra lệnh tạm dừng.



Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28 tháng 10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ. Lần này, Eldridge không chỉ trở thành vô hình trước mắt nhân chứng, mà còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng ra đa. Lạ lùng hơn, ngay cùng thời điểm đó, căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk, bang Virginia nằm cách xa hơn 600 kilômét báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi trong vài phút, sau đó thì mất tăm – đó cũng là lúc Eldridge lại tái xuất hiện trên biển Philadelphia.



Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề, sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể một số trường hợp được ghi nhận là “mất tích không dấu vết”.



Quá hoảng hốt trước các sự việc trên, quan chức Hải quân Mỹ đã ra lệnh dừng thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói, họ còn bị tẩy não để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia năm đó.



[1] Philadelphia: một trong những thành phố lớn và cổ xưa nhất ở Mỹ. Thí nghiệm này chứng tỏ, trong giới tự nhiên quả thật tồn tại một không gian thần bí và biệt lập, xung quanh nó là thứ vật chất mịt mù không thể xuyên qua, nó chính là “vô” mà Tư Mã Khôi nhắc đến.



Chính vì cung điện nằm trong xác di vật kỷ Devon, tương đương với hộp thời gian bị “vô” bao quanh, nên chỉ có một thông đạo duy nhất tương tự như trùng động vừa rồi mới có thể xuyên qua tọa độ thời gian tuyến tính. Đội khảo sát năm 1958 và độ khảo cổ năm 1974, đều từng đi qua trùng động để tiến vào chiếc hộp thần bí này, khiến thời gian của kẻ trước người sau giao thoa lẫn nhau.



Vào thời khắc nguy cấp này, Thắng Hương Lân không kịp giải thích dài dòng với hai người, chỉ hình dung trùng động nằm trên xác di vật kỷ Devon chính là một thông đạo tồn tại khách quan. Chỉ có điều, lòng đất đặc quánh mây từ, không gian vật lý xung quanh lại bị bẻ cong, bởi vậy nếu đội khảo cổ quay trở lại theo đường cũ, sẽ không thể tìm thấy trùng động.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, hai người biết Thắng Hương Lân không bao giờ suy luận thiếu căn cứ, nếu tìm thấy trùng động phía trên cái xác di vật kỷ Devon, tức là có cơ hội chạy thoát ra ngoài; nhưng tứ bề tối đen như đêm ba mươi, chỗ nào cũng bị sụt lở, rất nhiều nơi bị gạch đá vụn lấp kín, nên mọi người chỉ còn cách cố đứng vững trên tấm bia nuốt rắn.



Tình thế bây giờ vô cùng cấp bách, không chừng chẳng kéo dài nổi dăm phút nữa, làm sao đi xa được mà tìm trùng động? Ba người không nghĩ ra kế sách gì, cũng không biết phải làm thế nào. Lúc này, họ lại nghe thấy những âm thanh “chít chít sàn sạt” từ xa đang cuốn đến gần, soi đèn xem, thì thấy bầy cua móng ngựa độc đông nghìn nghịt đang kéo bè kéo đảng từ các đường khe bị nứt vỡ sụp đổ chảy trào ra ngoài, nhanh chóng vây quanh tấm bia nuốt rắn từ bốn mặt tám hướng.



Hải ngọng không ngớt than khổ: “Sao bọn âm hồn không tan này bám dai như quần rách vướng cẳng chân thế không biết, sắp chết đến nơi rồi mà vẫn muốn ăn thịt người nữa sao?” Tư Mã Khôi vừa nhìn chằm chằm bọn bọ ăn xác đang ào đến, vừa nói với Hải ngọng: “Trại chủ Hải ngọng đúng là nói quá chuẩn! Bọn cua móng ngựa này tuy là sinh vật sinh sôi trong xác chết ở hầm mộ núi sâu, nhưng bọn nó có tư duy ý thức đàng hoàng đấy, có điều cùng một lúc chỉ nghĩ được một việc thôi, khi nãy tường đá sụp vỡ làm bọn nó kinh động, chỉ lo tìm đường thoát thân, bây giờ gặp người sống thì quên phéng mất chuyện phải tháo chạy, nên ý thức bọn nó bây giờ chỉ chăm chăm muốn gặm và hút não với nội tạng của con người.




Nếu cậu giẫm cho nó tan xác, thì nó không nghĩ ra nổi chuyện gì nữa đâu”. Hải ngọng không biết Tư Mã Khôi nói thật hay giả, nhưng cứ nghĩ đến cảnh tượng thảm thương của các thành viên đội khảo sát, thì anh bủn rủn hết cả người, bị bọn ăn xác này chui từ thất khiếu vào lục phủ ngũ tạng, rồi luồn cả vào óc tủy, chi bằng bây giờ mình tự kết liễu cuộc đời, chết cho nó thống khoái vậy.



Thế là anh liền quay sang bảo Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân: “Cuối cùng ngày hôm nay, Hải ngọng tớ cũng cách mạng triệt để rồi. Chào các cậu! Tớ đi gặp Diêm Vương trước nhé, xuống dưới đó tớ sẽ chiếm chỗ hộ các cậu …” Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều thuộc hạng bản lĩnh mồm mép cao siêu.



Trước kia, khi quân cộng sản Miến Điện bị nhốt trong rừng rậm nguyên sinh, lương hết đạn kiệt, rơi vào đường cùng, những thành viên còn lại bất cứ lúc nào cũng có thể bị quân chính phủ tóm cổ, hoàn cảnh gian nan, hiểm ác đến cực điểm như vậy, mà anh chàng vẫn tiếc không nỡ cho đầu ăn đạn, nên Tư Mã Khôi cho rằng Hải ngọng chỉ nói đùa.



Nào ngờ, đúng lúc đó bên tai vang lên tiếng súng nghe “pằng!” một cái, tiếng súng quá đột ngột khiến Tư Mã Khôi phút chốc đổ mồ hôi lạnh khắp người, anh cuống cuồng quay đầu lại nhìn, thì ra người nổ súng không phải Hải ngọng, mà là đội trưởng Lưu Giang Hà đang nằm vật trên tấm bia.



Tình trạng vết thương của cậu ta rất nặng, nửa thân dưới đã hoàn toàn tê liệt cứng đờ, nhưng não thì vẫn lờ mờ còn chút ý thức, cậu ta biết rõ mình coi như hết đường sống, vì không muốn bản thân liên lụy đến ba người còn lại, nên nhân lúc cánh tay trái vẫn còn tri giác, đội trưởng liền với lấy khẩu súng lục K54 đặt cạnh ba lô Thắng Hương Lân tự ra tay kết liễu đời mình.



Từ khi mọi người bước vào tòa thành cổ dưới lòng đất, mọi khẩu súng đều trong trạng thái lên quy lát sẵn sàng, bất cứ lúc nào cũng có thể ngắm bắn, khi nãy mọi người mải chú ý tình hình xung quanh, nên không phát hiện ra hành động của Lưu Giang Hà. Chỉ có điều lựa chọn quyết định sinh tử đâu phải chuyện dễ dàng, vào khoảnh khắc bóp cò, lòng Lưu Giang Hà lại trở nên yếu đuối, cùng lúc tiếng súng vang lên, cánh tay lại hơi run rẩy, nên kết quả đạn không xuyên qua não, mà lại bắn trúng má, xuyên thùng từ má bên này sang má bên kia, đến khi mọi người kịp nhận ra, thì đội trưởng đã lăn xuống chân tấm bia nuốt rắn theo quán tính.



Thắng Hương Lân cuống quýt giơ tay ra cứu, nhưng trong chớp mắt, bọn cua móng ngựa đã bò đen nghìn nghịt khắp thân thể cậu đội trưởng, Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhìn mà lạnh thấu tận đáy tim, vội vàng kéo Thắng Hương Lân trở lên đỉnh tấm bia. Ba người soi đèn quặng xuống, cảnh tượng phía dưới thực sự làm người ta rùng rợn khiếp đảm, đội trưởng Lưu Giang Hà khắp người đầm đìa máu tươi, lúc lăn xuống đè nát mấy con bọ, chất dịch bên trong tiếp xúc với không khí nhanh chóng biến thành axít đậm đặc, cả cơ thể một con người đang sống mà chỉ trong nháy mắt, ngay xương cốt cũng không còn, những con bọ ăn xác xung quanh vẫn cố sống cố chết bò đến ăn hôi, thì đều bị axít hóa kiếp, axít từ khe nứt trên mặt đất, thẩm thấu xuống dưới, rơi vào da thịt di vật kỷ Devon, nó tức khắc hóa thành khối nước đen.



Di vật kỷ Devon bắt đầu dần chết rục dưới sức ăn mòn của axít, lớp vỏ của nó từ trên xuống dưới nứt vỡ ra tứ phía rồi rơi xuống, hội Tư Mã Khôi thấy dưới chân sắp sụt đến nơi, đành bám vào vách tường sắp đổ, tìm đường trèo lên chỗ cao hơn, may mà đứng trong đại điện kiên cố nhất nên mới không bị gạch vỡ đá vụn đè bẹp và vùi xác phía dưới.



Lúc này, cái xác của di vật kỷ Devon chẳng còn sót lại là bao, cung điện dưới lòng đất cũng bị sụt lún mất một nửa, cả tòa điện lộ ra trong huyệt núi lửa. Hội Tư Mã Khôi không ngờ lại có kết quả này, bất kể là vô tình hay hữu ý, cơ hội tháo thân lần này đã phải đánh đổi bằng sinh mạng của đội trưởng Lưu Giang Hà, không những thế cậu ta đã chết vô cùng thảm khốc, bởi vậy không ai cảm thấy may mắn vì tai qua nạn khỏi, mà chỉ thấy dường như có tảng đá ngàn cân đang đè nặng cõi lòng, thổn thức đến độ không thở nổi.




Ba người cố gắng át chế cảm xúc bi thương, bới lật đám đất đá đổ nát chất cao như núi ở gần đó, rồi từ thông đạo trong cái xác tàn lưu của di vật kỷ Devon rời khỏi đống hoang phế của cung điện dưới lòng đất, đang định mò mẫm tìm cửa ra, thì bốn phía bỗng tối sầm lại, chùm sáng đèn quặng càng lúc càng mờ mịt, da đầu ai nấy giật lên từng hồi, cảm thấy ở nơi sâu trong bóng tối, phảng phất tồn tại một lực hút mạnh khủng khiếp, nó như muốn kéo linh hồn ra khỏi thể xác vậy.



Sắc mặt Tư Mã Khôi thay đổi đột ngột, những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ vẫn chưa thoát nạn, thể xác của di vật kỷ Devon đã chết, nhưng linh hồn của nó thì vẫn tồn tại. Thắng Hương Lân cũng ý thức thấy, tuy thể xác của di vật kỷ Devon đã bị hủy diệt nhưng “vô” trong cơ thể nó không thuộc về bất kì loại vật chất nào, nên chất ăn mòn hoàn toàn vô tác dụng với nó.



Ba người đâu ngờ đội trưởng Lưu Giang Hà chết thảm thương như vậy, mà lại không có chút ý nghĩa nào, ai nấy đều cảm thấy tiếc thay cho cậu. Lúc này, cả hội đang ở trong đáy lòng núi lửa, xung quanh toàn là sườn núi dốc đứng, vây quanh như cái thùng sắt, trừ phi mọc thêm đôi cánh, thì mới mong bay đến chỗ đoạn dây thừng thòng xuống miệng hố lúc trước.



Trong khi đó, vật chất mịt mù tàn lưu của di vật kỷ Devon đã rũ bỏ được sự trói buộc của thể xác, nó không ngừng khuếch tán một cách nhanh chóng, tựa hồ một con mãng xà khổng lồ phun nhả yêu khí đang bừng tỉnh giấc trong vực sâu tăm tối. Đầu Tư Mã Khôi ong ong, anh nhớ ra ở rìa huyệt núi lửa có cánh cửa đá, thông với tòa thành cổ quấn quanh ngọn núi.



Cánh cửa khổng lồ đó đóng theo chiều từ trong ra ngoài, hai bên đều có pho tượng đồng, từ ngoài đẩy vào nó không hề nhúc nhích, giờ đây nói không chừng chỉ có chạy đến đó rồi tìm cách đẩy từ trong ra, nếu cách này ổn thỏa thì chắc đó sẽ là con đường sống, nếu không xong thì cả hội phen này đành lượn xuống Quỷ Môn Quan vậy.



Hải ngọng cũng biết cánh cửa đó kiên cố vô cùng, trọng lượng đâu chỉ ngàn cân, trải qua năm rộng tháng dài, quanh thân nó mọc đầy rong rêu, tựa hồ nó sắp bén rễ xuống đất đến nơi, mà chỉ dựa vào sức lực ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ, thì chắc chắn không thể chuyển dịch được nó.



Nhưng điều ấy không quan trọng, cùng lắm thì đâm đầu vào đó “rầm” một cái là được chết thoải mái, chết sung sướng, còn tốt chán so với cái chết đau đớn đến từ từ khi cơ thể bị rữa nát ở nơi địa ngục quái quỷ kia. Ba người lập tức chạy về hướng cửa đá dưới chân núi, Tư Mã Khôi và Hải ngọng quyết chết, miệng đồng thanh thét lớn, đang định lên trước động thủ, thì Thắng Hương Lân bỗng nhiên cản hai người lại: “Đừng qua đó! Không được đi về hướng bên ấy nữa…” Tư Mã Khôi đâu phải không biết cân nhắc nặng nhẹ, cả tòa thành cổ trong lòng đất đều sẽ bị “vô” nuốt chửng, cho dù có chạy thoát khỏi huyệt núi lửa, e rằng cuối cùng vẫn không tránh nổi cái chết, nhưng chó cùng dứt dậu, khi chưa què chân cụt tay, lẽ nào cam tâm ngồi đây đợi chết hay sao? Thắng Hương Lân nói: “Anh nghe tôi nói xong đã, nếu chúng ta rời khỏi huyệt núi lửa, cả ba chúng ta chắc chắn sẽ chết”.



Hải ngọng nghe mà u mê hết cả đầu, bây giờ còn chưa biết có đẩy được cánh cửa đá hay không, sao lại nói rời khỏi đây thì khó tránh khỏi cái chết? Tư Mã Khôi thấy lòng chợt kinh động, anh bỗng nhận ra ngọn núi lửa đứng cô lập trong lòng đất này có vẻ gì không ổn lắm, nói đúng hơn, nó căn bản không phải núi lửa.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom