Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40: hồi thứ tám: sụt lở


Hồi thứ tám: Sụt lở



Sau khi đáy động xảy ra vụ nổ khủng khiếp, cỏ răng cưa trong đầm lầy đều bị chất độc màu da cam phá hủy, trong khi đó dưới vùng đầm lầy, còn có cả một tầng thực vật loại bào tử đặc biệt, tạo thành bức bình phong giống như kén nhộng, rồi tất cả hệ thực vật và động vật lưỡng cư bò sát đều sống kí sinh trên lớp kén đó. Tác dụng ghê gớm của chất độc hóa học đã khiến lớp kén này nhanh chóng trở nên khô héo, chết rũ, rồi tốc độ phân rã diễn ra quá nhanh, khiến vực sâu không đáy dưới sơn cốc bất ngờ lộ ra ngoài dự liệu. Cùng với sự hủy diệt của lớp phủ thực vật, sương mù dày đặc từ dưới vực sâu cũng ùn ùn phun trào, dần dần lan tỏa khắp không gian tối đen như mực.



Mọi người cúi xuống dưới nhìn, phát hiện hệ thực vật trong lòng đất núi Dã Nhân dường như chính là gốc rễ của sương mù, nhưng đầm lầy ở gần đó đang không ngừng sụt lở, không cho phép họ nán lại quan sát lâu hơn, thế là cả hội đành phải nhanh chóng rút lui ra xa.



Trải qua hàng loạt biến cố bất ngờ xảy đến, trong lòng Tư Mã Khôi đã sắp xếp được toàn bộ sự việc: đây chắc chắn là nơi sâu nhất của khe núi Dã Nhân, cũng là nơi chôn giấu một bí mật kinh người nào đó, thế nhưng lại bị đám sương mù bí ẩn không tiêu tan bủa vây cả ngàn năm, biến nơi này thành chốn cách biệt tuyệt đối với thế giới bên ngoài, hình thành nên một rào cản không thể nào phá vỡ. Vậy nên, chỉ có cách sử dụng chất hóa học đặc chế gây rụng lá, thì mới có thể hủy hoại thảm thực vật tạo ra sương mù dưới lòng đất đó. Từ hai mươi mấy năm trước, người ta đã sớm chế tạo được bom địa chấn chứa loại chất độc hóa học này, đồng thời cũng liều chết lái chiếc tiêm kích vận tải thâm nhập đáy động, thế nhưng lần hành động ấy hoàn toàn thất bại, những thành viên phi hành đoàn may mắn sống sót, sau đó đều bị tan biến trong lớp sương mù.



Nhưng lớp phủ thực vật khổng lồ sản sinh ra sương mù rốt cục là giống cây gì? Hội Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết. Động thực vật ở núi sâu rừng già Bắc Miến có đến hàng chục triệu loài, giờ đây, những loài đã phân chi phân họ được biết đến chỉ chiếm một phần mười, số còn lại, đều thuộc phạm trù thế giới chưa từng nhìn thấy, chưa từng nghe thấy.




Ngoài ra, các hiện tượng quái dị xuất hiện trong lớp sương mù, những nhà thám hiểm biến mất không tung tích, thực vật bào tử che phủ vực sâu dưới lòng đất, tất cả những ẩn số ấy rốt cục đang vùi chôn bí mật gì? Bao nhiêu nghi vấn đặt ra đấy mà chẳng thể giải thích, hơn nữa còn hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của mọi người.



Tư Mã Khôi suy ngẫm: có lẽ nên đi vào nơi sâu dưới đáy động, sẽ giải được câu đố. Với tính cách thường ngày của Tư Mã Khôi, chắc chắn anh cũng rất hiếu kỳ muốn tìm hiểu ngọn nguồn, đồng thời sẽ xuống dưới để thám thính một chuyến. Thế nhưng giờ đây anh lại chẳng có tâm trạng ấy, mấy năm ở Miến Điện, ký ức tàn khốc lưu lại trong bộ nhớ, tất cả dường như một cơn ác mộng không thể nào phai nhòa. Bây giờ, anh chỉ muốn rời khỏi chốn quỷ quái này càng xa càng tốt.



Bốn người không quản cảm giác mệt mỏi và đau đớn đang lan tỏa khắp cơ thể, cùng lôi kéo nhau đạp bùn, rẽ nước chạy về khu vực đường viền đáy khe sâu. Khe núi Dã Nhân là một huyệt động dựng đứng, trên hẹp dưới rộng, phần đáy vô cùng thênh thang khoáng đạt. Cuồng phong giông tố do cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, khiến lòng đất lênh láng nước tụ, nước mưa thuận theo khe nứt của tầng đá trong khe sâu không ngừng thẩm thấu vào trong, làm cho những nơi trong lòng núi trước đây bị cát sỏi, bùn đất chèn kín, giờ đều được xuyên thông. Bởi vậy bọn họ suy đoán: bốn phía huyệt động chắc chắn không phải bức tường thép bao vây kín mít, khi đã có một lượng lớn nước mưa nhỏ xuống thì chân núi sẽ xuất hiện rất nhiều đường nứt, giờ đây sương mù cũng đã tan hết, chỉ cần đợi mưa lớn ngớt cơn là có thể tìm cách lần mò mạch đất, rút chạy khỏi núi Dã Nhân.



Nhưng trời đã không chịu chiều lòng người thì còn biết làm sao. Bốn người đang cuống cuồng chạy trốn, chân sau đá chân trước, đi chẳng được bao xa, bỗng lại cảm thấy dưới chân hẫng xuống đột ngột làm cả hội ngã lăn ra đất, thì ra thực vật dạng kén dưới đầm lầy khô héo quá nhanh, khiến vực sâu nhanh chóng sụt lở, nuốt chửng chỗ đặt chân của mọi người.



Hội Tư Mã Khôi ngã trên mặt đất, khắp nơi đều là bùn lầy, nên cho dù tay giãy chân đạp thế nào, họ cũng không thể thoát thân ra nổi, tất cả đều theo đám bùn nát trượt xuống đáy động sâu thẳm dưới đầm lầy.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om.



Phần đáy động như thể vực sâu không đáy này, lại có cây cổ thụ chằng chịt quấn quýt đan xen vào nhau, tuy tất cả đã khô héo nhưng tàn tích lại chưa hoàn toàn mục nát, hình hài hãy còn nguyên, cành cây thậm chí vẫn giữ được những nhánh xiên nhỏ. Loại cây cổ thụ này dày đặc tầng lớp như thể một cánh rừng rậm dưới lòng đất, có lẽ mạch nước chảy xuống bào mòn từ bao nhiêu năm trước đã khiến tầng địa bì chỗ này sụt xuống.



Hội Tư Mã Khôi lực bất tòng tâm, đành thuận thế trượt đến một nơi thoai thoải. May mà chỗ nào cũng toàn bùn đất và gỗ mục, nên chẳng ai bị thương nặng. Mọi người tập hợp nhau lại, giơ đèn chiếu lên, chỉ thấy mình bị rơi vào một tán cây có hình dạng giống như cây nấm đá, phần thân dưới là một thân cây cổ thụ to cỡ mười vòng ôm, bên trong rỗng ruột, người có thể chui vào trú chân, thế là mọi người bèn đi vào bên trong khi bên tai vẫn nghe thấy tiếng bùn đất liên tiếp cuộn chảy không ngớt, còn bộ rễ của thực vật bào tử rủ xuống lòng đất cũng nối nhau trút xuống. Lúc này cho dù họ bản lĩnh có lớn bằng trời thì cũng không thể trèo lên được, nên ai nấy đều liên miệng than vãn.



Hải ngọng tức giận đá chân một cái vào hốc cây, lớn tiếng chửi: "Bận này thì đúng là mẹ nhà nó đi đời thật rồi, có biến thành chim cũng chả bay ra nổi."



Tư Mã Khôi thầm ước lượng, thể tích sụt lở của đầm lầy rất lớn, nhưng lối ra chưa hẳn đã bị dòng bùn đất bịt kín; thực vật bào tử kia tuy bị chất độc màu da cam hủy hoại, nhưng vô số rễ của nó chắc vẫn bám sâu dưới lòng đất, không chừng vẫn có thể bám vào mấy cái rễ chưa bị đứt mà trèo ngược lên trên. Có điều, anh thấy mọi người đều đã sức cùng lực kiệt, hơn nữa vết thương trên đầu Tuyệt cũng không nhẹ, nếu hành động vội quá, chỉ sợ sẽ xảy ra bất trắc, thế là anh bèn nói: "Không ngờ nơi sâu nhất dưới khe núi lại thế này. Tôi thấy nơi đây cũng có thể coi là chốn đào nguyên nho nhỏ, chi bằng cứ tạm nghỉ ngơi khoảng một vài tiếng, rồi nghĩ cách khác sau."




Ngọc Phi Yến khẽ than: "Hàng nghìn năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, hàng trăm nghìn năm chẳng có người nào lui tới, nơi đây quả nhiên là chốn đào nguyên để cô hồn dạ quỷ mai danh ẩn tích, né tránh thế sự." Nói xong cô ta rút lương khô ra, chia ọi người ăn, rồi tập hợp, kiểm đếm hành lý còn sót lại, phát hiện thấy các thiết bị chiếu sáng cùng thuốc súng bị rơi rớt nghiêm trọng, số lương thực còn lại cũng chỉ đủ duy trì cho bốn người ăn trong nửa ngày, trong lòng không khỏi lo lắng.



Vết thương trên đầu Tuyệt tuy đã khép miệng, nhưng vì mất máu quá nhiều nên khiến thân thể cô vốn đã yếu ớt, giờ lại càng không thể tiếp tục gắng gượng; cô gối đầu lên ba lô rồi mau chóng thiếp đi.



Tư Mã Khôi nhìn thấy giọt nước đọng nơi khóe mắt Tuyệt, biết là cô đang đau lòng vì cái chết đột ngột thảm thương của Karaweik, nên trong giấc ngủ mộng mị vẫn day dứt không nguôi, anh bèn dùng tay giúp cô khẽ quệt vệt nước mắt. Đến lúc tới lượt mình phải ngủ một lát, thì anh mãi vẫn không thể chợp nổi mắt.



Hải ngọng và Ngọc Phi Yến cũng vậy, thần kinh ba người bọn họ rơi vào trạng thái căng thẳng cao độ suốt một thời gian dài, huống hồ lúc này thân vẫn đang trong vòng nguy hiểm, tia hi vọng thoát hiểm để sống sót lại quá mờ mịt mong manh, bởi vậy họ rất khó đột ngột thả lỏng cơ thể, chỉ đành ngồi thức bên ngọn đèn mờ ảo.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Nếu lúc này mà bà giáo dạy toán hồi cấp một của mình có ở đây thì tốt biết mấy. Bà ấy không chỉ giỏi toán mà còn có một khả năng đặc biệt là chỉ cần giảng bài trên bục, thì học sinh trong lớp mí mắt trên sẽ dính mí mắt dưới, thần kỳ như thuật thôi miên, nói ngủ là ngủ được ngay, trời có nổi sấm sét cũng chẳng tỉnh nổi."



Anh nghĩ lung tung một hồi, rốt cục vì mệt mỏi quá sức nên mắt cũng díp lại, ý thức dần dần chập chờn mơ hồ. Đúng lúc anh đang nửa tỉnh nửa mơ, thì cảm giác bên cạnh mình dường như có điều gì khác thường. Đội thám hiểm có tất cả hơn ba mươi thành viên, những người sống sót đi vào khe núi chỉ còn sáu người. Sau khi bom địa chấn trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải phát nổ, chất độc màu da cam nhanh chóng khuếch tán, đã khiến cả vùng đầm lầy bị sụt xuống, nhốt những kẻ sống sót ở nơi này, kể cả bản thân, bây giờ chỉ có bốn người mà thôi, thế nhưng không biết tự lúc nào, dưới bóng đèn yếu ớt, thấp thoáng thừa ra một người.



Tư Mã Khôi thấy người đó ôm hai đầu gối, bất động ngồi xuống bên cạnh mình, không biết đang nhìn cái gì, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi quái dị: "Đúng là mẹ nó chứ, mình gặp ma sao? Người này là ai vậy?" Anh rất muốn gắng gượng xem rõ thân hình mặt mũi người đó, có điều ánh đèn mờ ảo đến nỗi khiến người ta dường như chẳng mở nổi mắt ra, tuy rằng khoảng cách rất gần, nhưng anh chỉ thấy hình hình bóng bóng, không thể nhìn một cách xác thực.



Tư Mã Khôi lòng đầy nghi hoặc. Anh nhớ lại lúc trong khoang máy bay tiêm kích vận tải, mọi người phát hiện Nấm mồ xanh trà trộn vào đội thám hiểm, nhưng chỉ nghe thấy tiếng, chứ không nhìn thấy hình phảng phất như một vong hồn bám đuôi dai dẳng phía sau, chẳng lẽ giờ đây "nó" quyết định hiện thân? Tư Mã Khôi chẳng nói chẳng rằng, giơ tay định bóp chặt vai người đó, để xem rõ mặt mũi đối phương ra làm sao. Chẳng ngờ người đó cũng đột ngột đứng dậy, dường như mặt kề mặt với Tư Mã Khôi, do khoảng cách quá gần, nên ngũ quan trên khuôn mặt mơ hồ đến khó phân biệt; trong thời khắc bất thần, anh chỉ thấy đôi mắt giống như một cặp hố đen.



Khi Tư Mã Khôi nhìn thấy ánh mắt đó, thì anh giống như bị một cục băng tuyết lạnh buốt ném thẳng vào ngực, rồi phút chốc từng cơn hàn khí ác nghiệt bất giác ùa đến, khiến mỗi lỗ chân lông của anh đều tê cóng thấu xương. Anh đang định rút con dao săn ra, thì ngọn đèn đặt trong hốc cây vụt tắt, mọi vật trước mắt rơi vào dải bóng tối đen ngòm, xung quanh cũng chẳng còn động tĩnh gì nữa.



Khi Tư Mã Khôi bật được chiếc đèn pin giắt theo người, thì chỉ thấy ba người bạn đồng hành vẫn đang ngủ rất say, còn gần đó cũng chẳng còn bóng dáng nào khác. Khắp người anh từ trên xuống dưới đều ướt sũng mồ hôi lạnh, trong lòng không khỏi hoài nghi chuyện gặp khi nãy phải chăng chỉ là một giấc mộng. Nghe nói mộng là sự cảm ứng của tâm niệm, tuy anh cũng không tin mấy vào những điều u minh đen tối, nhưng cũng khó tránh khỏi cảm giác tựa gai đâm vào lưng, cứ thấy sau gáy lành lạnh, rờn rợn.




Lúc đó hội Ngọc Phi Yến và Tuyệt cũng bị ánh đèn pin đánh thức dậy, Tư Mã Khôi kể lại chuyện vừa xảy ra cho bọn họ nghe, rồi cuối cùng nói: "Nếu không phải do áp lực thần kinh của tôi quá lớn, mà tự tưởng tượng ra âm hồn, thì cánh rừng già dưới lòng đất này rất quái dị, tóm lại, nơi này tuyệt đối không nên nán lại thêm."



Mọi người suy đoán: cánh rừng già này, quá nửa là tầng sâu nhất trong khe núi Dã Nhân, chắc chắn là chôn giấu rất nhiều bí mật, còn độ hung hiểm tất chẳng cần bàn, giờ đây nghe Tư Mã Khôi kể lại, ai nấy đều cảm thấy nguy hiểm, kinh sợ, không khỏi rợn hết cả tóc gáy, chẳng người nào còn muốn lưu lại lâu hơn. Sau ít phút nghỉ ngơi, họ bèn thay pin đèn, lấy lại tinh thần, rồi tiếp tục khởi hành.



Tư Mã Khôi giơ cao đèn halogen mở đường. Ngọc Phi Yến vác khẩu súng xung phong Uzi cùng Tuyệt đi ở giữa. Hải ngọng ôm khẩu săn voi ngoại cỡ đi sau cùng. Bốn người bám sát nhau, lấy la bàn để phân biệt phương hướng, họ đi xuyên qua cánh rừng rậm um tùm, lần mò tiến về vùng đất khô ráo địa thế cao hơn.



Trong rừng rậm hoang phế bị vùi sâu dưới lòng đất, chỗ nào cũng yên ắng đến khác thường, mọi người loạng choạng bước đi trong lớp sương mỏng giăng mắc mờ ảo. Đến chỗ phía trước bị một thân cây cổ thụ đổ rạp chắn ngang đường, Tư Mã Khôi tiến lên, giơ cao đèn halogen quét một đường, rồi đang định đi vòng qua nó thì bất ngờ nhìn thấy trong lùm gỗ mục khẳng khiu trơ cành, ẩn hiện một đôi mắt đỏ lòm như máu, tà khí phát ra từ ánh mắt hung ác đến rợn người.



Tư Mã Khôi lóe lên suy nghĩ: "Thì ra ở đây có mai phục!" Anh tự biết nếu hạ thủ trước chưa chắc đã là tốt, nhưng ra tay sau chắc chắn sẽ lãnh đủ hậu quả, nên không hề do dự nửa giây, anh liền băm mạnh con dao săn trong tay xuống. Chỗ dao cắm xuống chỉ nghe "keng" một tiếng, như chặt phải vật gì rất cứng, tay cầm dao bị tác động run lên bần bật.



Lúc này ba người còn lại cũng đuổi kịp đến ngay sau lưng Tư Mã Khôi, mọi người đều nắm chắc vũ khí và định thần lại rồi quan sát, chỉ thấy ánh sáng vàng lóe lên chói cả mắt, thì ra đây là tượng một con mãng xà được đúc bằng vàng. Đôi mắt của mãng xà vàng được nạm hồng ngọc bị ánh sáng chiếu vào, phát ra từng lớp sóng quái dị làm cho đôi mắt như đang không ngừng đảo qua đảo lại, thần thái giống y như thật, chẳng khác nào con rắn sống. Phạt mấy cành khô cạnh con mãng xà, họ phát hiện nó là một bức phù điêu khắc trên thỏi vàng, mà thể tích thỏi vàng lại rất lớn, khác hẳn những thỏi vàng thường thấy.



Nhìn cảnh tượng này, mọi người không khỏi kinh ngạc, và càng kỳ lạ hơn vì không hiểu sao thỏi vàng lại nằm ở đây. Tiện tay gạt mấy cành cây và bùn đất ở gần đó sang một bên, họ lại phát hiện trên dưới trái phải thỏi vàng, là vô số những thỏi vàng khác, không ngờ đó là một bức tường thành được lắp ghép bằng từng thỏi vàng.



Bức tường thành bằng vàng cao vút, đúc tầng tầng lớp lớp các bức phù điêu, mỗi bức phù điêu lại được khảm nạm những viên đá quý với màu sắc khác nhau. Tất cả sinh linh của trời đất, uy nghiêm của thần phật, truyền thuyết trong sử thi, thánh chiến vinh quang, đều được chuyển hóa bằng những dấu tích huy hoàng rực rỡ, rồi vĩnh viễn ngưng tụ lại ở bức tường. Sự diễm lệ, hùng vĩ siêu nhiên của nó đã đủ khiến trí tưởng tượng mong manh và nhợt nhạt của loài người sụp đổ nặng nề.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41: thành nhện vàng - hồi thứ nhất: tòa thành bốn triệu bảo tháp


Chương 5: Thành nhện vàng - Hồi thứ nhất: Tòa thành bốn triệu bảo tháp



"Vận may" - cái thứ ấy, có thể là bà mẹ đẻ đối với người này, nhưng lại là mụ dì ghẻ đối với kẻ khác.



Tư Mã Khôi cảm thấy mấy người của hội anh chắc đang được dì ghẻ nuôi dưỡng, bởi họ rơi vào nơi sâu nhất dưới đáy sơn cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cùng với loài thực vật dạng kén. Địa hình nơi này rất đặc biệt, không biết bao nhiêu năm trước đã từng trải quả những kiếp nạn long trời lở đất nào, mà khiến mạch nước lún sâu dường vậy, lòng núi dần dần trống hoác, từ đó cả cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn bị thụt xuống đáy động.



Lòng khe núi ngay sau đó liền phát triển loại thực vật bào tử giống hình chiếc ô, che phủ hoàn toàn cánh rừng rậm dưới lòng đất, ngày dài tháng rộng, chẳng ngờ lại tích bùn thành đầm. Huyệt động thâm u sâu hơn hai ngàn mét theo chiều dựng đứng này, mãi mãi chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời, bởi vậy tốc độ phân hủy mục nát của cây cối trong không gian ẩm ướt khép kín đã diễn ra rất chậm chạp, màu sắc nhợt nhạt, đập vào mắt chỉ thấy toàn như gấm dệt đen sì sì, nếu như không hề xảy ra biến cố gì, thì chỉ sợ thêm vài chục ngàn năm nữa, hình hài của nó vẫn giữ nguyên như cũ.



Mãi đến khi quả bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải phát nổ, chất độc màu da cam khuếch tán ra khắp nơi, hủy hoại lớp phủ thực vật dày đặc trong không gian kín mít dưới đáy cốc, rồi đầm lầy theo đó sụt lở xuống dưới, thì khu vực cấm địa này bởi vậy mới bị lộ ra ngoài.




Do điểm phát nổ không xảy ra ở nơi trung tâm sơn cốc, nên lớp phủ thực vật ở nơi xa nhất tuy cũng tận số diệt vong, nhưng mức độ hủy hoại không nghiêm trọng lắm, vẫn còn vô số những chiếc rễ đen sì, to lừng lững như cột đình đâm rủ xuống lòng đất. Bốn kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm đành lần mò trong đám tàn tích thực vật dưới lòng đất di chuyển dần xuống, hi vọng tìm thấy khu vực có thể bò ngược lên trên.



Ai ngờ, trong cánh rừng sâu dưới lòng đất thâm u, lặng ngắt một màu này lại ẩn giấu bức tường thành xếp bằng vàng. Thân tường cao vút, dựng đứng bị che phủ bởi bùn đất và rễ khô, gạt bỏ lớp bụi đất che phủ bên ngoài, liền lộ ra ánh vàng kim chói mắt. Bóng tối dày đặc và màn sương mù mỏng tang bủa vây tứ bề, khiến mọi người không thể nhìn rõ quy mô của bức tường vàng, chỉ thấy phù điêu khắc trên thỏi vàng trùng trùng điệp điệp, vô cùng vô tận, tuy dày đặc nhưng vẫn có thứ bậc, trình tự tinh ảo tuyệt luân, kỹ thuật chế tác hoàn mỹ như thể không phải vật chốn trần gian.



Hội Tư Mã Khôi giơ cao đèn chiếu halogen quan sát một hồi lâu, người nào người nấy đều tròn mắt kinh ngạc, chỉ thấy mỗi một thỏi vàng trước mắt đều được đúc thành một tầng khung tháp cổ khắc hình khuôn mặt người, bảy thỏi hợp thành một thể, quấn quanh chân tháp là mãng xà, hình thái mỗi con một khác, thiên biến vạn hóa, chẳng bức nào giống bức nào. Các bức phù điêu trong thân tháp lại vẽ trời đất bao la mênh mông, bên trên là trăng sao nhật nguyệt, bên dưới là sinh linh muông thú, tiên nữ phiêu bồng, mãng xà dữ tợn, dũng sĩ đầu người mình voi, thậm chí cả cuộc chiến tranh huy hoàng giáo vàng ngựa sắt và cả chư vị thần phật đang cúi nhìn chúng sinh chen chúc dưới phàm trần. Có thể nói, thiên địa vạn vật không gì không bao hàm trong đó.



Miến Điện chịu sự ảnh hưởng rất sâu sắc từ nền văn hóa Ấn Độ cổ, hàng ngàn năm nay, Phật pháp cực thịnh chẳng ngày suy vong, nơi nào cũng có đền đài miếu mạo nổi tiếng, nhưng thần phật trong những bức phù điêu vàng này, hình thái lại vô cùng đặc biệt, nhuốm đầy màu sắc tôn giáo ly kỳ nơi đất khách, thậm chí nó khác biệt rất lớn với hình tượng thần phật thường thấy ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới. Dường như từ bản thân những bức vẽ, người ta có thể nhìn thấy bóng dáng thần bí đã sớm biến mất của một vương triều cổ đại.



Bốn người nằm mơ cũng không thể ngờ tới trong cánh rừng già núi sâu Bắc Miến, lại có nhiều vàng thỏi đến vậy. Họ lần lượt gỡ bỏ lá cành mục nát hai bên ra, những thỏi vàng khảm đầy đá quý và phù điêu lần lượt hiện ra trước mắt. Không biết bức tường thành này rốt cục có điểm tận cùng hay không, bởi càng nhìn càng hoa mắt chóng mặt, trong khi ánh sáng của đèn chiếu chỉ soi rõ được khoảng cách trong vòng mười bước chân. Cảm giác này chẳng khác nào thầy bói mù xem voi, gần đó lại không hề có vật tham chiếu, nên hoàn toàn không thể phán đoán tình hình thực tế.



Mọi người không ngớt bàng hoàng, kinh ngạc, chỉ thấy một cảm giác chật chội, bí bách rất mãnh liệt chợt ùa giội vào mặt. Bức tường thành cao vút đúc đầy phù điêu vàng giống như một vị thần Kim Cương lạnh lùng, tàn khốc, nó im lặng điềm nhiên chấp nhận sự kinh sợ và kính nể của kẻ phàm trần. Hội Tư Mã Khôi nhìn hồi lâu, trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, xương sống gai lạnh. Sức mạnh của tôn giáo có thể khiến con người điên cuồng, rồ dại, chắc cũng chỉ có nguyên nhân này, mới tạo ra được một kỳ tích hiển hách và rạng rỡ dường vậy. Tận mắt chứng kiến sự tồn tại của những bức phù điêu bằng vàng, lập tức sẽ khiến đầu óc con người bật lên một cụm từ xuất thân từ Phật pháp: bất khả tư nghị, ý nói sự thần thông và trí tuệ của Phật tổ cao siêu huyền diệu đến mức người phàm trần không thể nào suy nghĩ bàn luận cho thấu đáo được.



Tư Mã Khôi vừa nhìn vừa đánh trống ngực vì quy mô của bức tường thành rộng lớn khó lường, nó ngang nhiên ngủ yên dưới lòng đất, dường như không thể nào đi vòng qua nổi.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Chỉ có trời mới biết người ta đã dùng bao nhiêu thỏi vàng để tạo ra nó. Móng tường nằm sâu dưới mặt đất một đoạn khá lớn, phần còn lại đều ẩn mình trong bóng tối, những gì nhìn thấy trước mắt chẳng qua chỉ là một khúc mà thôi. Thực không thể tưởng tượng được cổ nhân hàng ngàn năm trước rốt cục đã xây dựng nó bằng cách nào. Sơn cốc núi Dã Nhân bị sương mù trầm tích không tan bủa vây, nuốt chửng vô số sinh mạng, vì sao lại vùi chôn một lượng vàng nhiều đến thế? Chúng do triều đại nào để lại? Và những thỏi vàng tạc kín phù điêu ăn khớp hoàn toàn với nhau, tạo nên bức tường thành giống như một công trình kiến trúc này, rốt cục có hình dạng và quy mô như thế nào?



Trong khắp năm châu bốn bể, những điều lạ lùng kỳ quái chưa tận mắt trông thấy, chưa tận tai nghe thấy, không biết còn bao nhiêu nữa. Tuy hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt, lưu lạc ở nơi tha hương rừng già núi thẳm đã không ít năm, nhưng những hiểu biết về lịch sử và văn hóa của Miến Điện cũng chỉ có hạn, nên chẳng ai nói được nguồn gốc, lai lịch của nó.




Tuyệt nhìn đến nỗi da nổi cả gai ốc, cô quay sang nói với Tư Mã Khôi: "Những bức phù điêu dát vàng này, dường như có điểm gì không giống lắm với những vị bồ tát thường thấy trong đền chùa ở Miến Điện, chúng cứ cổ quái thế nào ấy."



Tư Mã Khôi gật đầu: "Tôi từng nghe nói Phật tổ Thích Ca Mâu Ni được hạ giáng trong một gia đình hoàng tộc, là con vua Tịnh Phạn nước Ca tì la vệ[27]. Khi mới sinh, ngài đứng trên bông sen vàng, hào quang trí tuệ tỏa sáng khắp mười phương thế giới, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, miệng nói: Trên trời dưới đất chỉ mình ta vĩ đại. Thân mình ngài màu vàng kim, ột trượng sáu, biến hóa thần thông, không gì không hiểu, không gì không thông, phổ độ chúng sinh thiên hạ, tướng ngọc trang nghiêm, diệu pháp vô biên, được người đời mệnh danh là Thiên Nhân Sư. Nhưng thần phật trên những bức phù điêu này đúng là có chút dữ tợn quái dị, tôi cảm thấy mấy hình người ngợm này nhìn chẳng phải loại lương thiện gì, chỗ nào cũng bốc mùi tà khí..."



Hải ngọng kinh ngạc nhìn khối vàng khổng lồ, không khỏi nảy sinh cảm giác thám phục, anh lấy tay vỗ bồm bộp vào mặt của một vị thần trên bức phù điêu, miệng nhắc nhở Tư Mã Khôi: "Thằng ôn nhà cậu mồm mép ý tứ một chút đi, đừng có thất đức như vậy được không hả? Dù sao thì cả đời tớ, đây là lần đầu cảm thấy vàng nó lại thường thế này, không ngờ có thể dùng làm vật liệu xây dựng, chẳng khác gì đất đá gạch ngói. Nếu chuyển số vàng này ra ngoài núi, đổi lấy vũ khí, không biết có thể trang bị cho bao nhiêu đội quân nhỉ? Đừng nói đến việc xới đất đánh chiếm lại Yangon[28] chỉ là chuyện nhỏ, mà nếu biết dùng tiết kiệm một tí, thì ngay cả phát động chiến tranh thế giới lần thứ ba chắc cũng chẳng phải vấn đề gì to tát lắm. Hải ngọng tớ bình sinh chỉ có một mong muốn, đó là trở thành bộ trưởng Bộ quốc phòng. Lúc lựa chọn mua vũ khí, tớ nhất quyết không thèm mua đồ của bọn khọm Mỹ, đồ Mỹ sản xuất tuy hiện đại thật, nhưng tần suất xảy ra sự cố rất lớn. Đồ của Tiệp Khắc, Canada và Liên Xô chế tạo vẫn da thật thịt thật hơn, cho dù dính mưa lớn hay ngâm dưới sông sâu đầm lầy cả ngày, nhưng chỉ vác lên một cái là vẫn bắn bòm bòm giòn tan như thường..."



Tuyệt khuyên La Đại Hải đừng có nổi lòng tham cạo vàng trước mặt Phật mà chuốc họa vào thân, huống hồ từ lúc mọi người chạy trốn khỏi hiện trường quả bom địa chấn phát nổ, họ đều bị chất độc màu da cam gây bỏng. Tuy rằng không biết trong trái bom đó cụ thể chứa loại chất độc hóa học gì, nhưng nhìn mức độ ô nhiễm và hủy hoại mà nó gây ra cho hệ thực vật dưới lòng đất, cũng có thể lường được cuối cùng bọn họ cũng chẳng thể gặp được kết cục gì tốt đẹp. Giờ đây, họ vừa thoát kiếp nạn để hồi sinh, đã là vạn hạnh trong mọi bất hạnh rồi, điều nên nghĩ lúc này là mau chóng tìm cách thoát khỏi núi Dã Nhân mà trở về Trung Quốc trước khi đại hạn kịp xảy ra, làm sao còn tâm tư mà động lòng tham nữa?



Tư Mã Khôi nói: "Tuyệt nói rất phải! Có điều, vàng là thứ có thể khiến người ta nhìn mà động lòng, ai ai cũng yêu thích, không chỉ mỗi người Trung Quốc chúng ta thích đâu, mà nhân dân trên toàn thế giới đều thích cả, vì nó tượng trưng cho hòa bình. Tôi thấy nếu như chúng ta vì nền hòa bình của toàn nhân loại, mà khuân hết số vàng bạc châu báu ở đây ra ngoài, cho dù Phật tổ có biết, thì người cũng cảm thấy hãnh diện mà thôi..."



Tư Mã Khôi vừa nói chuyện với Tuyệt và La Đại Hải vừa đưa mắt liếc trộm Ngọc Phi Yến, phát hiện thần sắc cô ả rất bất an, thậm chí còn có vài phần khiếp sợ, không biết là vì nguyên do gì. Từng có một vĩ nhân đã nói rất hay thế này: "Một tên trộm mộ không muốn phát tài, thì không thể coi là một tên trộm mộ đạt tiêu chuẩn". Tư Mã Khôi cảm thấy việc này hết sức khác thường, liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô nàng đã phát hiện ra chuyện gì.



Ngọc Phi Yến rốt cục vẫn là một nhân vật xuất chúng hàng đầu trong giới trộm mộ, nhìn thấy trên những bức phù điêu bằng vàng có rất nhiều tháp cổ, trong đầu đại thể đã phác họa ra nét khái quát của sự việc, chỉ có điều biết chừng ấy cũng mới chỉ như ếch ngồi đáy giếng mà chê trời bé như chiếc vung, tức thời không thể nói chính xác hoàn toàn được, nên vẫn chưa dám khẳng định chắc chắn. Thấy Tư Mã Khôi hỏi, cô ta mới định thần lại, trả lời: "Tôi thấy màu sắc của mấy thỏi vàng kia có gì đó hơi kỳ quái, không giống với vàng thật, nhưng rốt cục nó là loại vật chất gì, hiện thời tôi cũng chưa phân biệt nổi. Ngoài ra dãy phù điêu đồ sộ này không phải thành trì, cũng chẳng phải đền chùa miếu mạo, chỉ sợ nó chẳng phải bất kỳ công trình kiến trúc nào mà chúng ta có thể tưởng tượng, hơn nữa đáng lẽ nó không thể xuất hiện ở núi Dã Nhân mới phải..."



Mọi người nghe xong càng cảm thấy mơ hồ không hiểu, tuy rằng họ quanh năm chiến đấu ở khu vực vùng núi Bắc Miến, nhưng chưa hề nghe qua chuyện này, câu hỏi chứa đầy một bụng mà chẳng biết nên bắt đầu hỏi từ đâu.



Thần sắc Ngọc Phi Yến rất nghiêm trọng, cô nói: "Rất có khả năng đây chính là tòa thành Nhện Vàng do quốc vương Anagaya của Chăm Pa xây dựng, còn được gọi là tòa thành bốn triệu bảo tháp." Sau đó cô liền kể tóm tắt với mọi người đầu đuôi sự việc, thì ra cái được gọi là tòa thành Nhện Vàng là một truyền thuyết cổ xưa được lưu truyền từ hàng ngàn năm. Trước đây, Chăm Pa từng tồn tại một vương triều vô cùng cường thịnh và hiển hách, lịch sử gọi là vương triều Bagan, phạm vi lãnh thổ của nó vượt sang cả phần đất Việt Nam và phía bắc của Lào, tín ngưỡng khởi nguồn từ thể hệ tôn giáo thần thú Vệ Đà (Veda) của Ấn Độ giáo cổ đại. Họ chuyên sản xuất vàng, ngọc đẹp, ngà voi, đá quý, và đó là một vương quốc hùng mạnh, thịnh vượng nhất trong khu vực, bởi thế chư quốc xung quanh đều nhăm nhe nhòm ngó, xâm lăng nhiều lần. Thế nhưng người Chăm Pa cổ đại phía bắc đã đánh cản được các vương triều đến từ Trung Nguyên, phía nam lại dẹp tan các vương triều của Việt Nam, Lào... trước sau không bao giờ mất thế thượng phong; mãi cho đến khi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt phái đại quân chinh phạt, mới khiến đất nước Chăm Pa cổ dần dần trở nên suy yếu, hậu duệ của họ đến nay vẫn còn một bộ phận ở lại các nước Lào và Việt Nam.




Thành trì của người Chăm Pa cổ đại và lăng tẩm của các vương hầu quý tộc, đại đa số đều bị khói lửa chiến tranh hủy hoại, số ít những di tích hoang tàn còn lại, cũng sớm trở thành sào huyệt cho rắn chuột dơi cú ẩn mình. Ở Việt Nam đến nay vẫn lưu truyền một truyền thuyết liên quan đến tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa. Giờ đây, tuy các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra những di tích lịch sử kỳ vĩ như Angkor Wat ở Campuchia, Buddha Bà La Môn ở Indonexia v.v... nhưng tất cả đều kém xa, không thể so sánh với tòa thành này, chỉ có điều trước sau không thể tìm đủ chứng cứ để chứng minh nó thật sự tồn tại.



Tương truyền ở phương Tây cổ đại có tháp Thông Thiên do vua Babylon xây dựng, còn phương Đông có tòa thành Nhện Vàng đối sánh. Dưới thời kỳ vua Anagaya cai trị, ông ta đã cho đúc một tòa thành trì bằng vàng, khảm nạm các loại đá quý và ngọc phỉ thúy, các bức phù điêu trên tòa thành có vô số hình bảo tháp, bởi vậy nó mới mang tên này. Nó lộng lẫy rực rỡ tuyệt đỉnh, dường như có thể tranh ánh hào quang cùng nhật nguyệt. Có điều, công trình kiến trúc này tuy gọi là thành mà thực ra không phải thành, bởi chỉ do quy mô của nó quá lớn, mà theo quy định của người xưa: phạm vi xây dựng vượt quá mười dặm, được gọi là thành, nên mới có chữ "thành" ấy, còn về bên trong chứa đựng những gì, hoặc giả nói trong thành có tồn tại cung điện lâu đài gì hay không thì từ trước đến nay chưa ai chứng thực được.



Người Chăm Pa cổ rút kiệt ngân khố quốc gia đổ dồn vào tòa thành Nhện Vàng, và từ đó trở đi đất nước cứ dần lụi bại, không thể chấn hưng, rồi cuối cùng mang đến vận đen suy bại diệt vong cho hậu thế. Các vương triều từng xâm lăng chinh phục Chăm Pa cổ, lại đều không thể phát hiện tung tích tòa thành này, cho nên nhiều người cho rằng: "Giai đoạn lịch sử thần thoại ly kỳ, cùng tòa thành Nhện Vàng bí ẩn khó lường này, có khả năng chỉ là một truyền thuyết hoang tưởng mà thôi, chứ chưa chắc đã thực sự tồn tại trên đời".



Mãi cho đến khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ, kẻ xâm lược đã cướp bóc được một lượng lớn văn vật cổ từ Việt Nam và Lào, trong đó có cả mấy bức bích họa của nước Chăm Pa còn lưu truyền lại, nội dung bức vẽ miêu tả hình của bốn triệu tòa bảo tháp, và điều này đã cung cấp cho những nhà nghiên cứu hậu thế rất nhiều thông tin quý giá. Từ đó, người ta mới phát hiện ra tên gọi tòa thành bốn triệu bảo tháp, kỳ thực không được chuẩn xác lắm, bởi vì con số bốn triệu chỉ là con số giả tưởng, còn bảo tháp trong bức phù điêu vàng rốt cục có bao nhiêu, thì chẳng ai có thể nói chính xác. Ngoài ra, nó cũng không phải một tòa thành trì, càng chẳng phải công trình kiến trúc mang ý nghĩa thông thường như miếu thần, tường thành hay lăng tẩm.



Từ màu sắc mấy bức bích họa người ta có thể thấy hình thù kỳ quái của nó, đại thể đó là một kiến trúc hình bánh răng do nhiều thỏi vàng xếp khít vào nhau, phần giữa hình bầu dục, phía ngoài có tám chân dài ngắn khác nhau vươn ra tứ phía, cấu tạo chỉnh thể tương tự với hình dáng một con nhện. Nhận thức của các học giả cận đại về nó, phần lớn đều dựa vào bình diện bức bích họa và tài liệu cổ ghi chép, ngoài những thứ đó ra, chẳng còn khảo chứng nào khác, bởi vậy người phương Tây đều gọi nó là tòa thành Nhện Vàng. Họ cho rằng, đây chỉ là một phù hiệu hoặc tô tem cổ của vương triều Chăm Pa, chứ chưa hẳn là một vật thể có thật.



Cho dù tòa thành Nhện Vàng thực sự tồn tại trên đời, thì cũng phải nằm trong lãnh thổ phía bắc Việt Nam hoặc Lào mới đúng. Ngọc Phi Yến lúc này tận mắt nhìn thấy tháp cổ trùng trùng điệp điệp trên các bức phù điêu, mới biết đến tám chín phần mười, đây chính là tòa thành bốn triệu bảo tháp của vua Chăm Pa, không ngờ nó lại bị vùi chôn dưới sơn cốc khổng lồ của núi Dã Nhân Bắc Miến, nên chẳng trách từ trước đến nay người ta không thể tìm thấy tung tích của nó.



Nhận thức của thế giới đối với vật thể thần bí như tòa thành Nhện Vàng này, từ trước tới nay vẫn vô cùng có hạn. Chỉ biết tòa thành bốn triệu bảo tháp đã dùng vô số thỏi vàng đúc thành phù điêu xếp chồng lên nhau mà thôi. Chưa ai giải thích được vì sao người cổ xưa lại muốn xây dựng nó. Ngoài ra, thần thú Vệ Đà mà vương triều Chăm Pa cổ thờ phụng lại chẳng hề có thân thể thực, nhưng lại có vô số hình thể tượng trưng rất kỳ dị quái đản, mà mãng xà và tháp cổ chính là tượng trưng đáng sợ nhất, bởi nó dự báo sự kết thúc và cái chết.



Ngọc Phi Yến cảm thấy trên những bức phù điêu vàng kia lờ mờ tỏa ra mùi tử khí rất nặng nề. Chỉ có ma quỷ mới biết vì sao vua Anagaya lại cho xây dựng con quái vật ấy, hơn nữa Nấm mồ xanh lại bất chấp mọi giá để đi tìm vật này. Lẽ nào tất cả chỉ vì một mục đích đơn giản là vàng thôi sao? Phải chăng trong tòa thành bốn triệu tòa bảo tháp còn ẩn chứa những bí mật nào khác? Cô nói với mọi người: "Nếu như chúng ta còn muốn giữ mạng sống, thì phải rời khỏi nơi đây càng xa càng tốt..." Giữa lúc cô đang nói, thì bỗng nghe thấy ở nơi sâu hút trong bóng tối truyền lại từng chuỗi âm thanh của cành khô đang di chuyển cọ xát, nghe "ken két", lúc đầu còn cách quãng, yếu ớt, càng về sau càng gấp gáp và rõ ràng hơn, âm thanh nghe đau buốt đến tận óc.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42: hồi thứ hai: sóng điện trong động tối


Hồi thứ hai: Sóng điện trong động tối



Hội Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến truyền thuyết vua Anagaya nước Chăm Pa xây dựng tòa thành Nhện Vàng, ai nấy đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Điều khiến họ kinh ngạc là từ khi khai thiên lập địa đến nay, chưa bao giờ nghe nói trên thế giới lại có vật nào kỳ dị như vậy, kỳ dị ở chỗ thời xưa lấy đâu ra nhiều vàng đến thế, hơn nữa phần bên trong của những thỏi vàng đúc phù điêu lại có thể chồng xếp hoàn toàn ăn khớp với nhau, rung lắc thế nào cũng không đổ, mà ngay cả khi núi bị sụt lở xuống đáy động, nó cũng chẳng hề nứt vỡ. Đừng nói hơn một ngàn năm về trước, mà cho dù là người hiện đại, cũng không chắc đã có được công nghệ đúc tạo tuyệt vời như có phép thần này.



Mọi người tuy trong lòng đều thầm thán phục, nhưng chẳng ai còn lòng dạ để đào sâu tìm hiểu về nó. Lúc này thân họ vẫn đang nằm trong vòng nguy hiểm, mà trước tiên tìm đường thoát ra khỏi núi mới là việc quan trọng nhất, bởi thế họ cũng chỉ thuận miệng bàn bạc mấy câu mà thôi. Nào ngờ lời của Ngọc Phi Yến còn chưa dứt, thì lại nghe từ nơi cao truyền đến những âm thanh quái dị, nghe "ken két ken két".



Ban đầu, mọi người còn cho rằng lúc bom địa chấn phát nổ, màng nhĩ tai bị sóng địa chấn dội tới làm tổn thương, nên mới nảy sinh ảo giác. Nhưng liền sau đó cả hội thấy hình như không đúng, tai ù cũng không hề có những động tĩnh như vậy, lại phát hiện âm thanh cành khô di chuyển phát ra ở phía trên đỉnh đầu, thế là mọi người liền vội xách đèn chiếu halogen lên định xem rõ rốt cục đang xảy ra điều gì bất thường. Thế nhưng ở dưới đáy vực sâu hút này, do chịu ảnh hưởng của môi trường, nên ắc quy tiêu hao rất mau, ánh sáng nhợt nhạt tỏa ra hầu như chẳng có chút tác dụng nào, đến đâu cũng đều là một dải đen sì sì, chẳng nhìn thấy gì hết.




Mọi người nghe tiếng động càng lúc càng dồn dập, dường như có rất nhiều cây cổ thụ ngàn năm đang giãy giụa rạch đất, làm xuất hiện âm thanh the thé rất chói tai, khiến người ta cảm thấy dường như có luồng điện xẹt qua da đầu, cơ thể tê giật hết cơn này đến cơn khác.



Tư Mã Khôi nhớ lại lúc chiếc Rắn đen II bị tấn công trong đám sương mù, khi ấy cũng phát ra kiểu âm thanh này. Thông tin mà Wilson - thành viên đội thám hiểm để lại trước khi chết, cũng nói là trong đám sương mù tồn tại một "vật thể sống" rất to lớn và đáng sợ, nhưng màn sương bí ẩn trong sơn cốc đều bị mưa lớn trấn áp, nên khi xuống đầm lầy dưới lòng đất đội thám hiểm mới không gặp tình huống gì đặc biệt. Lúc đó anh suy đoán, nguồn gốc của sương mù rất có khả năng do lớp phủ thực vật trong không gian khép kín sinh ra, mãi sau này chất độc màu da cam chứa trong quả bom địa chấn mới phá hủy triệt để loài thực vật bào tử, nên cứ nghĩ từ nay mọi người không còn chịu sự uy hiếp của đám sương mù giết người nữa, vậy thì sao tình huống này lại lần nữa xuất hiện ở đây? Lẽ nào nơi sâu dưới sơn cốc lại đang bắt đầu nổi sương mù?



Khi tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải, tuy Tư Mã Khôi đã từng tiếp xúc ngắn ngủi với sương khí tàn sót trong khoang máy bay, nhưng bản thân anh cũng không thể nói rõ trong đám sương ấy rốt cục có thứ gì, mà chỉ có một điểm có thể đoán định chắc chắn là: bất kỳ người nào đi vào sương mù, đều không thể trở về.



Đèn chiếu sáng trong ba lô Tư Mã Khôi bị rơi mất, dùng đèn halogen và pháo phát sáng không thể nhìn rõ tình hình nơi xa, nhưng chỉ nghe tiếng động, họ cũng có thể biết kẻ sắp đến chắc chắn không mang theo thiện chí. Có lẽ đám sương mù giết người của núi Dã Nhân lại lần nữa xuất hiện. Nếu bám vào tường thành hoặc rễ thực vật dưới lòng đất mà leo ngược lên trên, trong thời gian ngắn, tuyệt đối không thể trở về chỗ đầm lầy sụt lở, nếu giữa đường bị đám sương mù ấy bủa vây thì lại rắc rối to. Hơn nữa sự xuất hiện của sương mù, cũng ngầm dự báo cuồng phong giông tố do cơn bão nhiệt đới Buddha mang đến đã bắt đầu suy yếu, chắc chẳng bao lâu nữa, cả sơn cốc sẽ không còn nơi trú thân an toàn.



Tư Mã Khôi hoàn toàn không biết gì về những vương triều cổ đại nhuốm đầy màu sắc tôn giáo thần bí. Ngay cả tên tuổi của vua Anagaya và tòa thành Nhện Vàng cũng lần đầu nghe thấy, đó cũng là phạm vi mà mọi người chưa nhận thức tới, nên căn bản không thể suy đoán chân tướng thật sự của nó; huống hồ cảnh ngộ trước mắt lại vô cùng nguy cấp, nên họ tất phải tìm đường tháo thân trước đã.



Hải ngọng trong lòng nơm nớp bất an, anh than trách: "Năm nay đúng là chẳng thuận ngay từ đầu năm, mùa xuân vừa đến, trận đánh mùa xuân liền thất bại, tiếp sau đó, đánh lớn bại lớn, đánh nhỏ bại nhỏ, chẳng đánh thì cũng thua.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Khó khăn lắm chúng ta mới giữ được cái mạng trở về, ma xui quỷ khiến thế nào lại nhảy bổ vào núi Dã Nhân, kết quả làm lớn rủi lớn, làm nhỏ rủi nhỏ, chẳng làm thì cũng rủi, sao trên đời bao nhiêu chuyện rủi ro cứ trút hết lên đầu chúng ta thế nhỉ?"




Tư Mã Khôi cho rằng trong lòng La Đại Hải thầm sợ, bèn nói: "Hải ngọng nhà cậu cứ việc yên tâm đi, sau mông đít nhà cậu vẫn khắc rành rành hai chữ may mắn đấy thôi, ai chết thì chết, chứ cậu chả chết nổi đâu mà sợ."



Hải ngọng vội vàng biện minh: "Tôi đây lúc đầu cũng là người trong quân đội đấy nhé, tôi sợ quái gì chứ?" Ngừng một lát, anh lại tiếp: "Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, có câu rất hay: Sóng gió gập ghềnh thường như cơm bữa, biết lùi biết tiến mới là anh hùng, rơi vào cục diện tình thế bất lợi này, không chạy thì chẳng lẽ ở lại đợi sét chẻ thành đôi mảnh à?"



Tuyệt đề nghị: "Chạy thì đúng là phải chạy rồi, nhưng khe vực núi Dã Nhân đúng là sâu quá, xuống thì dễ mà lên thì khó, sương mù dưới lòng đất xuất hiện một cái, thì nơi đây sẽ biến thành cái ống khói, tứ phía xung quanh căn bản chẳng có đường nào để đi. Tôi thấy đánh rắn phải đánh vào tận chốn tim gan, chỉ có nghĩ cách tìm ra cội rễ sản sinh đám sương mù, thì mới phá hủy được nó hoàn toàn và đảm bảo được an toàn tuyệt đối."



Tư Mã Khôi lắc đầu nói, sương mù mênh mông như muốn nuốt chửng tất cả thế này, không thể so sánh với vật có hình có khối như đỉa Campuchia ăn thịt người được, huống hồ giờ đây đã mất cơ hội tấn công trước, hoàn cảnh vô cùng bị động, sương mù càng lan tỏa, phạm vi hoạt động của chúng ta càng trở nên nhỏ hẹp. Sắp bước lên kiệu hoa về nhà chồng mới bắt đầu bấm lỗ tai, chắc chắn sẽ chẳng kịp nhận của hồi môn nữa.



Ngọc Phi Yến mắt thấy thân rơi vào đường cùng, mà hội Tư Mã Khôi thần sắc vẫn điềm nhiên như không, tư duy tỉnh táo, nên trong lòng trộm nghĩ: "Mấy tên này thật đúng là mấy kẻ liều mạng. Xem ra tinh thần thép rèn giũa từ môi trường chiến tranh bom rơi đạn lạc, quả thật đã khiến người thường không thể so sánh. Mình cũng không được lộ thái độ hoảng sợ, tránh để bọn họ chê cười xem thường". Nghĩ đến đây, cô bèn nói: "Ngại một nỗi bóng tối dưới lòng đất lại cản trở tầm nhìn, đúng là chẳng còn cách nào mà nghĩ. Nhưng để cố gắng né tránh sương mù ở bên trên, chi bằng chúng ta hãy đánh bay ý tưởng trèo ngược lên trên, mà trước tiên phải đi thăm dò tình hình xung quanh, sau đó sẽ tìm đường thoát thân ở phần đáy cùng của sơn cốc."



Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến là dân trộm mộ có hạng, người như cô ta giỏi nhất khoản đào huyệt xuyên núi; bởi vì làm cái nghề này, bắt buộc phải có "nhãn lực", nghe nói phương ngôn của bọn họ là "đạo nhãn vi thượng, pháp nhãn thứ chi". Cái gọi là "đạo nhãn" tức là dựa vào kỹ năng, kỹ xảo của chính mình, trực tiếp quan sát hình núi thế sông, còn "pháp nhãn" là dùng các phương pháp như thiên tinh, hà đồ, tử vi... để phán đoán cát hung sinh tử của địa lý. Ý của họ là trước tiên phải dựa vào chính mình, sau đó mới dựa vào các công cụ hỗ trợ. Có khi ở huyệt động dưới lòng đất cô ta lại có cơ hội thể hiện sở trường nhiều hơn là ở rừng già núi sâu trên mặt đất thì sao. Nhưng vùng đất Bắc Miến này là nơi giao thoa của rất nhiều mạch đất, cho dù Kim điển sư phụ năm đó có tái thế sống lại, thì cũng nhìn mà thấy mù mịt như không. Cái gọi là "núi hiểm nước dữ", tức ám chỉ những nơi có địa hình nhiễu loạn, thì chẳng một chương pháp nào có thể tìm ra nổi. Theo phong tục của người bản địa, sau khi người chết đi, không được trực tiếp chôn ngay xuống đất, mà phải phơi thi thể trong nhiều tháng ròng, đợi khi da thịt mục nát hết cả, chỉ còn mỗi nắm xương khô, mới cho vào chum sành chôn cất. Họ làm vậy là để đề phòng xác chết tiếp nhận khí đất mà trở thành xác ướp. Bởi vậy bản lĩnh của Ngọc Phi Yến chưa chắc đã thể hiện được ở nơi sơn cốc, nhưng do sự hạn chế của địa hình, kế hoạch cô ta vừa nêu ra cũng chính là sự lựa chọn thông minh duy nhất hiện tại, trong điều kiện gần như bó tay bất lực.



Thế là mọi người bèn điều chỉnh phương án hành động, đầu tiên phải tiếp cận vách tường bên trong khe cốc, họ đứng lại phán đoán phương hướng cơ bản, rồi suy đoán chỗ dừng chân hiện tại có lẽ gần đầu phía nam của huyệt động nhất, nên liền quay đầu trở lại tòa thành Nhện Vàng, lần mò trong bóng tối đi dần về hướng nam. Kết cấu nơi sâu nhất trong khe núi Dã Nhân tuy rằng không phức tạp lắm, nhưng những thực vật bào tử này to lớn khác thường, hình thành lớp vỏ thực vật giống như kén ở mãi trên cao, nếu nhìn từ mặt cắt, nó có kết cấu hình chữ H, phần ở giữa sinh trưởng theo chiều ngang chính là "kén", hai bên là rễ cây đâm sâu vào lòng núi, rủ xuống mặt đất. Nó bao trùm cả tòa cổ thành đúc phù điêu bốn triệu bảo tháp, liên kết thành một thể, chỉ cần rứt một sợi, sẽ chạm đến toàn thân. Bởi vậy sau khi bom địa chấn phát nổ, chất độc màu da cam hủy hoại tầng kén giống hình cây nấm đá, từ đó sự chết chóc nhanh chóng lan ra khắp một dải thực vật rộng lớn dưới sơn cốc. Giờ đây, cánh rừng rậm nguyên sinh mục nát tối tăm và rễ cây khô héo đan cài, giao kết với nhau, rồi lúc đầm lầy sụt lở, một lượng lớn bùn lầy và nước tù trút đổ xuống đáy vực, bởi thế nơi nào cũng toàn rào cản, khiến người ta muốn hành động mau lẹ cũng không được.



Những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi đều là những cây già hình nến đan cài lẫn lộn, tán lá dày rộng vô cùng, tầng tầng lớp lớp bủa vây. Tàn tích của loài thực vật dây leo khô quăn queo không chút sinh khí, giống như một con mãng xà đen nằm ngủ im lìm dưới bùn lầy. Tất cả hình thành nên vô số bức màn dày đặc, xem ra nơi nào cũng tràn ngập điều kỳ quái. Tuy chúng vẫn giữ một màu xanh im lìm, nhưng trên thực tế chúng đã hoàn toàn mục nát, chẳng thể cảm thấy một chút dấu tích của sự sống, không gian yên ắng tĩnh lặng mà vô cùng ngột ngạt.




Dưới điều kiện môi trường khắc nghiệt như vậy, mọi người vẫn gắng gượng tiến lên, chân thấp chân cao bước trong bóng tối. Họ cũng chẳng rõ đã đi được bao xa, chỉ dựa vào la bàn để phân biệt phương hướng. Giữa lúc trong lòng họ đang thấp thỏm lo sợ, thì luồng khí âm u ngột ngạt của bùn lắng trong đầm lầy đang dần dần lan tỏa khắp lòng đất, hơn nữa độ ẩm ở đây rất cao, màn sương mù mỏng tang giữa những lùm cây khô bay lất phất, dường như sương là mưa mà mưa cũng chính là sương vậy, chúng chui vào mũi, xộc lên tận óc, khiến người ta đau buốt cả đầu. Mặt nạ phòng độc mà đội thám hiểm mang theo đã bị thất lạc, may mà quân đội cộng sản Miến Điện phân phát cho bộ đội chiếc khăn quàng dệt bằng vỏ cây, chất vải này vừa mát mẻ lại vừa mềm dai, có thể phòng tránh chướng khí, thổ ngữ bản địa gọi là khăn thủy bố. Căn cứ vào các cách sử dụng khác nhau, nó có rất nhiều công dụng hỗ trợ, đó là vật không thể thiếu khi đánh trận trong rừng sâu núi thẳm, lúc thường có thể dùng để quấn cổ, khi vào rừng thì thắt cổ áo để tránh muỗi vắt côn trùng chui vào trong quần áo. Lúc này, nó tự nhiên lại phát huy tác dụng rất tốt, hội ba người Tư Mã Khôi đều lấy ra để bịt mũi.



Ngọc Phi Yến cũng muốn tìm biện pháp đề phòng hữu hiệu, nhưng trên người lại không có khăn thủy bố, nên cô ta đành tìm một chiếc khăn quàng che mặt lại, tuy vậy vẫn cảm thấy khó mà chịu đựng thêm được. Cô ta cau mày nhìn chiếc đồng hồ đo không khí đeo trên cổ tay, thấy thông số hiển thị rõ ràng trên mặt đồng hồ: lượng khí Cacbonic là 0,5; nồng độ khí Metan ở mức dưới 1%, mới tạm thời yên tâm, nhưng liền sau đó cô ta phát hiện chỉ số này lúc cao lúc thấp, chẳng biết nó bị hỏng từ lúc nào nữa.



Ngọc Phi Yến vội vàng nhìn lại chiếc la bàn, phát hiện nó cũng trong tình trạng không bình thường như vậy. Nghe nói dưới lòng đất có núi từ, bởi vậy những vật sắt trôi nổi đều tự động quay về hướng nam. Từ thời thượng cổ, Hiên Viên Hoàng Đế đã biết vận dụng nguyên lý này để tạo ra xe chỉ nam, nhờ vậy mà có thể đại phá quân Xi Vưu trong sương mù; còn loại la bàn mà đội thám hiểm sử dụng là kim chỉ bắc, kim của nó chỉ về hướng Bắc là do hướng từ bắc, hướng từ bắc và hướng bắc thật sự chênh lệch một độ nhất định, nếu có thể tính ra sai số góc lệch này, thì việc đoán định phương hướng càng chính xác hơn. Thế nhưng trong khe sâu của núi Dã Nhân, dường như đang tồn tại một loại từ trường cực mạnh, kim chỉ bắc chắc chắn bị nó gây nhiễu loạn, mới mất tác dụng như vậy. Cô ta dừng chân nói với mọi người: "Khe sâu dưới lòng đất này tối mù mù, không những thế sương khí càng ngày càng dày đặc, nếu la bàn mà nhiễu loạn, thì chẳng còn vật tham chiếu nào dẫn đường nữa, chúng ta đúng là trở thành kẻ mù thật rồi."



Chiếc máy điện đàm mà Ngọc Phi Yến đeo trên lưng vẫn chưa bị thất lạc, để xác định xem có thực sự bị từ trường nhiễu loạn hay không, cô ta bảo Tuyệt mở máy điện đàm không dây ra, chỉ nghe thấy những tạp âm "rè rè", "xẹt xẹt" phát ra, sau đó không ngờ lại có tiếng người nói lúc được lúc mất, âm thanh rất đỗi mơ hồ, cũng chẳng rõ họ muốn nói gì. Tuyệt giật nảy mình, suýt chút nữa đã ném chiếc máy xuống đất: "Ma quỷ thần ơi, sao ở đây lại bắt được tín hiệu nhỉ?"



Mọi người đều nhìn nhau kinh hãi, không hẹn mà cùng lập tức đề cao cảnh giác. Tuyệt định thần lại, cố dò tìm điều chỉnh tần sóng. Âm thanh trong bộ điện đàm không dây dần dần trở nên rõ ràng hơn. Cô nghe một hồi, rồi nhỏ giọng bảo: "Đối phương hình như muốn nói đến một tọa độ nào đó!" - ngoài y thuật gia truyền ra, cô còn có tài năng thiên bẩm về ngôn ngữ, vừa mới tới Miến Điện chưa bao lâu cô đã được điều đến sư đoàn nhiệm vụ đặc biệt - khu quân sự đông bắc của quân cộng sản Miến Điện, tham gia khóa đào tạo chuyên môn giải mã điện đàm mật, các loại máy thu phát tín hiệu có công suất nhỏ thể bán dẫn không dây, nên chẳng loại nào cô không thông thạo. Không những vậy, cô còn hiểu cách xem bản đồ quân dụng, dạng tọa độ đơn giản thế này đối với cô chỉ là chuyện nhỏ. Trong lúc đang bận ghi nhớ tín hiệu vào đầu, cô chợt thấp thoáng nghe thấy một lời nói phát ra từ chiếc máy bộ đàm không dây chiến thuật: "Tôi đang... ở trong rắn..." có thể xác định chính xác đó là dạng mã quốc tế, hơn nữa nó liên tục phát ra cùng một nội dung trùng lặp.



Tư Mã Khôi gật đầu với Tuyệt, ra hiệu cô hãy trả lời, đồng thời hỏi rõ thân phận của đối phương. Tuyệt làm theo lời anh, nhưng đoạn sóng điện đó lập tức chìm vào im lặng, sau đó nó đáp lại bằng một mật mã kỳ quái không thể giải đọc nổi: "A...A...D."


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43: hồi thứ ba: mũ sắt


Hồi thứ ba: Mũ sắt



Sau khi thông tin được truyền đến, từ nơi sâu trong bóng tối phát ra tín hiệu "A...A...D" thì nó liền đứt đoạn liên lạc. Ngọc Phi Yến ngạc nhiên hỏi: "Như vậy... có nghĩa là gì? AAD là ai nhỉ?" Tư Mã Khôi nói: "Có khả năng là một loại mật mã quốc tế được tăng thêm độ bảo mật hoặc là ám ngữ chỉ người trong quân đội mới sử dụng, chúng ta không thể biết được." Tuyệt gắng sức sục sạo trí nhớ trong đầu: "Hình như tôi... đã nghe thấy đoạn mật mã này ở đâu rồi thì phải, nhưng sao chẳng thể nhớ ra nổi..."



Trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, sâu thăm thẳm, độ ẩm của không khí rất cao, chỗ nào cũng mờ ảo mơ hồ, địa hình đặc biệt khiến nó hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài, còn hội Tư Mã Khôi thì căn bản không thể tìm cách suy đoán nguồn gốc của đoạn sóng điện khi nãy. Bởi vì, những người bị mất tích trong sơn cốc núi Dã Nhân quả thực quá nhiều, có khả năng đoạn sóng điện này được phát ra do một kẻ may mắn sống sót nào đó trong đoàn thám hiểm, cũng có thể là của tên Nấm mồ xanh lúc ẩn lúc hiện giống như vong hồn kia. Nhất thời chẳng ai có thể đoán chính xác nó là điềm lành hay điềm dữ, nhưng mọi người đều cảm thấy việc này rất mờ ám, có khả năng là trò lừa đảo, không nên tin thì hơn, chẳng những vậy, nội dung mã cũng rất khó lý giải: "Trong rắn? Chẳng lẽ một người chết bị rắn nuốt chửng vào bụng, đang liên lạc với chúng ta?"



Tư Mã Khôi nói chuyện này có chút kỳ quái, những thiết bị lẽ ra đều có thể sử dụng bình thường, đến đây thì bị hỏng hóc, còn chiếc máy điện đàm không dây lẽ ra không thể bắt được sóng điện, thì lại bất ngờ thu được tín hiệu. Chẳng lẽ tất cả những điều này đều có liên quan đến sương mù xuất hiện trong núi Dã Nhân? Phương hướng của la bàn hoàn toàn hỗn loạn, chúng ta không thể căn cứ vào phương hướng thông tin cung cấp để điều tra gốc rễ sự việc.



Trong lúc mọi người đang bàn bạc kế sách, thì Hải ngọng đứng bên cảnh giới đột nhiên phát hiện: nơi xa trong bóng tối, thấp thoáng ẩn hiện ánh sáng của một ngọn đèn lúc tỏ lúc mờ, anh vội vàng nhắc hội Tư Mã Khôi chú ý. Tư Mã Khôi chăm chú quan sát hồi lâu, thấy đó không phải lửa ma trơi, mà dường như người nào đó dùng tay che đèn làm tín hiệu, tín hiệu ánh sáng vừa lóe lên, chẳng đợi mọi người kịp phân biệt kỹ, nó đã vụt tắt không thấy đâu nữa.




Hải ngọng chẳng buồn để tâm, từ lúc vào núi đến nay, anh đã phải dằn lòng kìm nén sự ức chế tức giận của bản thân, giờ đây không chịu được nữa, anh bực tức hầm hầm nói: "Mẹ nhà nó, không biết thằng oắt con nào đang tác yêu tác quái thế không biết? Ông mày nhất định phải xem mày là người hay là ma mới được!" Nói xong, anh liền xách khẩu súng săn, lần theo phương hướng phát ra tín hiệu ánh sáng, đi về phía trước tìm kiếm. Tư Mã Khôi cũng gọi Tuyệt và Ngọc Phi Yến, bảo bọn họ hãy mau bám theo sau, xem bên đó rốt cục đang xảy ra chuyện gì.



Bốn người lấy khí thế, dàn trận thành đường quân đi theo hình nan quạt tiến lên phía trước truy lùng, trong khi bốn phía chỉ thấy một dải đêm tối đen như mực, mắt nhìn cái gì cũng nhập nhòa chập chờn, nên bước chân đành phải giảm tốc độ.



Tuyệt nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Nấm mồ xanh cứ trốn mãi trong bóng tối nhìn lén chúng ta, không biết hắn là người hay là ma, hay là một loài quái vật nào khác. Nhưng từ sau khi quả bom địa chấn phát nổ, hắn chẳng còn xuất hiện nữa, tín hiệu ánh sáng và âm thanh khi nãy lai lịch rất quái dị, hay là do hắn phát ra nhỉ?"



Tư Mã Khôi cũng cho rằng, lúc đang ở trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải, Nấm mồ xanh chắc đã ẩn trốn giữa mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm, bởi vì tình hình lúc đó rất đặc thù, khoang máy bay giống như một gian mật thất, nếu hắn không ở gần ngay trước mắt, thì tuyệt đối không thể nắm rõ tình hình xảy ra trong khoang như lòng bàn tay thế được. Nếu tín hiệu khi nãy có liên quan đến hắn, thì tuyệt đối không đáng tin, vì quá nửa là hắn muốn dẫn dụ những kẻ may mắn sống sót từng nhìn thấy tòa thành Nhện Vàng bước vào con đường chết, nhằm giết người diệt khẩu. Hơn thế nữa, Tư Mã Khôi còn suy đoán, giờ đây kẻ bám đuôi giống như u hồn kia, chắc chắn đang trốn ở một góc chết nào đó, chỉ có điều bọn họ mãi vẫn chưa tìm được cơ hội tóm cổ hắn ra mà thôi.



Tuyệt nghĩ đi nghĩ lại lời của Tư Mã Khôi, nhưng vẫn không hiểu nổi, nên đành hỏi anh: "Lúc trước anh từng nói trong tâm lý con người tồn tại góc chết, đó là điểm mù như thế nào vậy?"



Tư Mã Khôi nói, đã là góc chết trong tâm lý, thì nó chính là phạm trù rất khó tưởng tượng bằng tư duy thông thường, bởi vậy bây giờ chúng ta ngồi đây suy đoán lung tung cũng chẳng có ý nghĩa gì. Năm đó, ở vùng Tương Tây thuộc tỉnh Hồ Nam, có xảy ra một vụ án mạng rất ly kỳ uẩn khúc. Khu vực Tương Tây từ xưa đến nay là nơi nhiều núi, lắm động, vô số vũ khí súng đạn và thổ phỉ, bọn sơn tặc thổ phỉ nhiều như cỏ dại, những thương nhân đi lại trên đường, một mình dừng chân bên sườn núi nghỉ ngơi đều bị kẻ từ phía sau xô ngã xuống, rồi dùng dao cắt đầu. Năm đó có một tiệm buôn, mà ông chủ của tiệm tự mình ra ngoài lấy hàng, người nhà không yên tâm, liền tính ngày ông sắp trở về, rồi phái quản gia mang theo hai gia nhân, đến thị trấn nhỏ cách nhà khoảng mười mấy dặm đón chủ. Thị trấn đó nằm trong núi sâu heo hút, xung quanh có rất nhiều thổ phỉ, nhưng lại là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn về nhà. Trong thị trấn chỉ có một quán trọ lớn, không có phòng đơn, mà toàn bộ hai mươi mấy người nằm quay đầu vào nhau trong một gian phòng. Vị quản gia đến rất đúng lúc, ông ta dò hỏi nhà trọ, được biết ông chủ tối hôm qua đã nghỉ trọ ở quán, rồi mắt nhìn mặt trời đã lên khá cao, cũng đến lúc phải trả tiền phòng đi về, nhưng nheo mắt đếm tất cả khách trọ trong quán từ đầu chí cuối có mười tám người, chỉ duy bóng dáng của ông chủ là chẳng thấy đâu.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Vị quản gia lại vào trong phòng xem, chỉ thấy bốn bức tường trống hoang, làm gì còn ai nữa. Thầm cảm thấy việc này có gì không ổn, ông liền vội vã đi tìm chủ quán đối soát xem danh sách khách trọ ngày hôm qua, quả nhiên, giấy trắng mực đen ghi rõ: tối qua có mười chín khách trọ, nhưng qua một đêm sang bình minh ngày hôm sau, một người đang sống sờ sờ lại tự dưng bốc hơi biến mất trước mắt mọi người? Trong lúc cấp bách, vị quản gia, cố sống cố chết ngăn cản những người khách đang định ra về lại, rồi trần tình: ông chủ chúng tôi tối qua rõ ràng nghỉ trọ trong quán này, mà sao bây giờ sống chẳng thấy người, chết chẳng thấy thây, tung tích hoàn toàn bất minh như vậy? Hay là quán trọ này là quán trọ xã hội đen, ngầm mưu sát tính mạng khách để cướp tài sản. Lúc đó trên phố cũng vừa vặn có một đội tuần phủ đi tuần, thấy đám đông náo loạn ồn ào, liền bắt tất cả về phủ tra xét. Bọn họ vốn chỉ định nhân loạn kiếm tí tiền, chẳng ngờ, khi lục soát, trên mình mười tám vị khách trọ cùng phòng với người khách thương nhân kia, mỗi người đều mang theo một bao thịt người. Dưới sự bức cung tra hỏi và dùng hình, cuối cùng mấy vị khách kia đã phải cúi đầu nhận tội, đồng thời thuật lại toàn bộ quá trình sự việc. Thì ra mười tám tên này đều là thổ phỉ, trên đường nhìn thấy vị thương nhân kia xách hành lý đầy căng, liền muốn tìm nơi hoang vắng giết người đoạt tài sản, nhưng từ đầu chí cuối đều không tìm được cơ hội hạ thủ, cuối cùng, bọn chúng đành bám theo đến tận thị trấn nhỏ. Bọn thổ phỉ giả như không quen biết, đã thuê đứt cả quán trọ để được cùng chung phòng với vị khách kia. Sau khi màn đêm buông xuống, đợi lúc vị khách đó ngủ say, bọn chúng liền dùng gối bịt chặt mũi, khiến người đó ngạt thở mà chết, sau đó dùng dao phanh thây, chia thành mười tám khúc, lại dùng vôi và dầu hỏa bao kín lại, không để lộ nửa vết máu. Sau đó, mỗi tên lần lượt vác một phần xác theo người, định bụng sau khi rời quán trọ, sẽ ném xuống núi cho chim thú rỉa thịt, như vậy tuyệt đối không thể để lại bất kỳ dấu vết nào. Nhưng chắc là do bọn chúng đã giết quá nhiều người, nên cuối cùng cũng bị oan hồn của họ ngáng chân, khiến lũ thổ phỉ chưa kịp rời khỏi quán trọ, thì vị quản gia nọ đã làm loạn lên, vụ án từ đó bại lộ. Sau đó, chúng bị quan phủ trói gô lại, mang vào thành diễu phố rồi chặt đầu thị uy dân chúng. Vụ án mười tám mảnh thây xác kia đã gây chấn động không nhỏ trong xã hội lúc bấy giờ, biển người bách tính trăm họ đua nhau đổ xô ra xem cảnh xử tử lũ thổ phỉ ở pháp trường, đúng là vô cùng náo nhiệt.



Tư Mã Khôi nói với Tuyệt: "Trong Đáy biển giang hồ, giới lục lâm gọi giết người là đẩy bò, bọn thổ phỉ kia đã lợi dụng góc chết trong tâm lý con người, sau khi ngắm trúng vị khách buôn trên đường, chúng bèn ra tay giết chết ông ta trong quán trọ, phanh thây thành nhiều mảnh, dùng vôi yểm vùi, khiến máu không nhỏ ra, rồi chia mỗi người một bao mang theo. Bởi vậy lúc vào thì có mười chín khách trọ, nhưng lúc ra lại chỉ có mười tám người. Chúng ngang nhiên giết người cướp của ngay trong thị trấn mà không hề để lộ chút dấu vết nào, nếu không có sự ngẫu nhiên xảy ra, thì ai có thể vạch trần thủ đoạn đẩy bò của bọn bất nhân đó?"



Tuyệt nghe xong thì tỉnh ngộ ra, có lẽ Nấm mồ xanh đã dùng một thủ đoạn khác thường nào đó để lẩn trốn vào giữa những thành viên may mắn sống sót của đội thám hiểm, nhờ thế mà hắn có thể xuất hiện hoàn toàn vô hình trước cặp mắt của mọi người, chứ chưa hẳn là một vong hồn thật sự.




Lúc này, Hải ngọng đang lùng sục ở phía trước, anh phát hiện trong lùm tàn tích của loài cây dây leo mọc ngay bên cạnh, dường như ẩn giấu một vật gì đó. Hệ thực vật dưới lòng đất, cây nào cây nấy thân mình to lớn, hình dáng kỳ dị, tán lá dày rậm tầng tầng lớp lớp, vượt xa mọi định nghĩa diễn giải trong bất kỳ cuốn từ điển nào. Những rễ cây cổ thụ lồi lõm nhấp nhô trên mặt đất, chẳng khác nào bề mặt của mặt trăng: nghèo nàn mà thê lương, tuyệt đối không tồn tại sự sống. Trong khi ấy, giữa những thân cây cổ thụ, xuất hiện một vật nằm thù lù thành đống đen sì, thể tích rất lớn, xem ra nó hoàn toàn không ăn nhập với môi trường xung quanh, cũng chẳng giống với thân cây cổ thụ khô héo bị đổ rạp. Hải ngọng giương khẩu súng săn đâm một cái, chỉ thấy vang lên âm thanh nghe đánh "coong", như thể chạm phải vỏ sắt. Anh ngạc nhiên cực độ: "Trong cánh rừng rậm nguyên sinh chôn vùi dưới lòng đất, làm sao tự dưng lại mọc ra vật này được nhỉ?" đoạn quay đầu vội vã vẫy gọi ba người còn lại đến xem rốt cục nó là cái gì.



Tư Mã Khôi nghe tiếng gọi, liền nhanh chân chạy mấy bước, anh xách đèn halogen vừa chạy vừa quét một đường ánh sáng, chỉ thấy trong lùm cây cạnh chỗ Hải ngọng đứng, thấp thoáng một bóng đen đang quỳ, bóng đen đó đội chiếc mũ sắt M1 trên đầu, hắn đang định giằng co nhổm người dậy, dưới chiếc mũ sắt dường như là một khuôn mặt trắng bệch đến đáng sợ.



Tư Mã Khôi vô tình liếc mắt nhìn, trong phút chốc một luồng khí lạnh thổi thấu cả xương, anh giật nảy mình kinh hãi, đang đà chạy nhanh, chân không kịp thu lại, suýt chút nữa đâm bổ vào thân cây. Chẳng lẽ Tư Mã Khôi sợ ma? Anh là người bò ra từ đống thây người chết trên chiến trường. Từ khi nam tiến đến nay, ngày này qua ngày khác hành quân tác chiến nơi rừng sâu núi thẳm, nếu anh là người nhát gan một chút, thì chắc đã đứt dây thần kinh mà hóa điên, nhưng một người cho dù có gan góc, dũng cảm thế nào thì vẫn tồn tại một vài nhược điểm. Lúc này, anh nhìn thấy chiếc mũ sắt M1, mà cảm nhận được nỗi sợ dường như đang bò vào tận từng gióng xương.



Thì ra nỗi sợ của anh bắt nguồn từ sự ám ảnh khó quên trong quá khứ. Cục diện chiến trường Bắc Miến khi ấy vô cùng phức tạp, ở khu vực không nằm trong sự kiểm soát của quân đội, địa bàn chiếm cứ của các băng nhóm lực lượng vũ trang đan cài hình răng lược, trong đó có vài đội quân là cựu binh của Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, từ Trung Quốc chạy trốn sang Miến Điện, vào thời kỳ chiến tranh giải phóng, quân đội cộng sản Miến Điện gọi chúng là "bọn phỉ Tưởng". Hội người này rất cục bộ, lại giỏi xuyên núi vượt non. Hơn nữa, tất cả đều là bọn cựu binh giảo hoạt già đời, kinh nghiệm tác chiến vô cùng phong phú, súng bắn cực chuẩn xác, người ngoài bất kể dùng kế mềm hay cách cứng đều chẳng thể lung lạc được chúng, bất kể là quân đội cộng sản hay quân đội chính phủ, kẻ nào ngáng chân, chúng giết kẻ nấy. Bình thường chúng sinh sống trong núi sâu, tự cung tự cấp, đôi khi lại chạy ra ngoài làm lính đánh thuê để kiếm tí tiền; đã ẩn trốn là ẩn liền một mạch hai mươi mấy năm, nhóm người này hình thành một dạng lực lượng vũ trang rất đặc thù ở Bắc Miến. Người Trung Quốc có mặt rất nhiều trong đội ngũ quân đội cộng sản, mà đại đa số đều là thành phần thanh niên trí thức đến từ Vân Nam. Thông thường họ đều chưa học qua bất kỳ khóa huấn luyện quân sự nào, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm người cũ dạy người mới; bình thường họ chỉ cần học qua cách sử dụng vũ khí hạng nhẹ và lựu đạn cầm tay là có thể xách vũ khí xông ra mặt trận. May mà năng lực chiến đấu của quân đội chính phủ cũng chẳng cao siêu gì, nên anh em chỉ cần dựa vào bầu nhiệt huyết sôi sục cũng có thể đánh nhau ngang ngửa với chúng. Những chú lính mới vận đen, vừa giao đấu với quân địch đã chạm phải nòng súng mà tử trận thì chả nói làm gì, nhưng còn những người mệnh lớn, sống dai một chút, sẽ học được rất nhiều kinh nghiệm chiến đấu từ chiến tranh, đánh nhau nhiều thì kiến thức trận mạc cũng tự nhiên sẽ tăng lên theo từng ngày.



Tư Mã Khôi nằm trong thành phần này, nên đừng thấy anh còn trẻ tuổi mà coi thường. Anh đã đánh trận ở Miến Điện ngót nghét mấy năm, nên bảo anh là cáo già chốn sa trường thì cũng chẳng ngoa, vì chỉ nghe âm thanh pháo đạn rạch trời, là biết ngay nó có rơi xuống đầu mình hay không, lại nói lỡ gặp mai phục trong rừng, đánh cả ngày mà chẳng thấy bóng dáng của kẻ địch, nhưng chỉ cần nghe âm thanh vũ khí trên tay đối phương bắn ra, là có thể phán đoán được mình đang phải đối mặt với loại vũ khí nào. Quân đội chính phủ, súng ống tốt, pháo đạn cũng không tệ, nhưng khi bắn phá thì bừa bãi, mù quáng, chẳng thèm ngắm chính xác mục tiêu, nên sức chiến đấu cũng kém. Trong khi đó bọn phỉ Tưởng tuy số lượng không đông lắm, về cơ bản cũng chẳng có đạn pháo gì sất, súng ống cũng chỉ là loại phổ thông đời cũ, phương thức bắn phần lớn đều sử dụng kiểu bắn tỉa, đặc biệt rất giỏi trốn ở nơi tối bắn lén đối phương, vậy mà, xác suất bắn trúng lại cao đến kinh ngạc, nên chỉ cần tiếng súng vang lên thì chắc chắn nếu không phải bạn thì sẽ có đồng đội nào đó đứng cạnh bạn đổ cái rầm.



Lúc đó anh em rất rầu rĩ: "Nghĩ năm ấy quân đoàn hàng triệu người chúng ta oai hùng vượt sông lớn, ưu thế lấn lướt, tiến quân như chẻ tre, đánh bọn Quốc dân đảng tan tác như gió thu quét lá, kẻ địch chẳng dám bắn trả lấy một phát súng, sao bây giờ lũ tàn quân chạy xuống Miến Điện lại trở nên lợi hại thế nhỉ?" Về vấn đề đó họ nghĩ mãi đến tận giờ mà vẫn chưa thông, nhưng vì chịu thiệt nhiều thì kinh nghiệm chiến đấu cũng phải phong phú lên, cuối cùng họ tổng kết được một bài học: "Không gặp bọn phỉ Tưởng thì thôi, chứ lỡ gặp rồi thì không chết cũng thương nặng, chẳng mò được tí lời nào từ chúng, ta căn bản chẳng phải đối thủ của chúng." Bọn họ đúng là sợ phỉ Tưởng sợ đến tận xương tủy.



Trong ấn tượng của Tư Mã Khôi, mãi tới bây giờ hình ảnh các kiểu thành viên vũ trang ở Miến Điện vẫn hiện lên trong đầu rất sống động, nhưng dường như chẳng ai trong số họ đội kiểu mũ sắt M1 của Mỹ. Loại mũ này mấy năm gần đây chỉ có bọn phỉ Tưởng đội mà thôi, có điều cũng rất ít hàng thật, đa số chỉ là hàng Tưởng nhái Mỹ, kiểu dáng nhang nhác, nhưng nhìn kỹ mới phát hiện có rất nhiều điểm khác biệt.



Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của Tư Mã Khôi lại cứ ngỡ nó là thật: "Sợ cái gì chứ, chẳng ngờ lại gặp phải bọn phỉ Tưởng trong núi sâu này." Anh không buồn lý giải thêm nữa, tóm lấy cơ hội bất ngờ ra tay, giơ tay lao mạnh con dao săn về phía cái bóng, con dao vừa vặn cắm đúng vào cổ nó, nhưng nơi lưỡi dao sắc cứa vào lại chặt đứt một sợi dây tử đằng, còn chiếc mũ sắt rơi lăn lóc xuống đất.



Tư Mã Khôi định thần nhìn kỹ lại, thấy trên cây cổ thụ nổi cộm lên một hình khối thực vật màu trắng giống như cây họ dền, hình thù kỳ dị, nó vừa vặn mọc đúng dưới chiếc mũ sắt. Sau khi nhìn rõ, Tư Mã Khôi thầm tự xấu hổ trong lòng, không ngờ anh lại bị thứ này dọa cho đứng tim.




Lúc này Tuyệt và Ngọc Phi Yến cũng đuổi đến sau lưng, hai người đỡ Tư Mã Khôi dậy, đồng thời nhặt chiếc mũ sắt lên xem, cả hai đều rất đỗi ngạc nhiên: "Vật này ở đâu ra thế nhỉ?" Tư Mã Khôi cũng lại gần nhìn, rồi bảo: "Không phải kiểu Tưởng, chiếc mũ này là M1 chính hãng của Mỹ đấy!" Anh chợt nhớ vết thương trên đầu Tuyệt cũng khá nặng, trong không gian hoàn toàn kín mít thế này, mà chiếc mũ sắt vẫn mới nguyên, không hề có chút han gỉ, anh liền phủi bùn đất dính phía ngoài, lau sạch rồi đội lên đầu Tuyệt.



Tuyệt thấy chiếc mũ sắt M1, đột nhiên nhớ ra một chuyện, cô lập tức giở cuốn nhật ký của ông nội Karaweik ra xem lại, chỉ vào một dòng trong đó rồi nói với Tư Mã Khôi: "Thì ra ám ngữ AAD xuất hiện trong chiếc máy bộ đàm không dây chiến thuật, chính là tên mã liên lạc của đoàn tác chiến công trình độc lập thứ sáu."



Tư Mã Khôi liếc nhìn, thì quả đúng như vậy, không những thế, điều khiến người ta ngạc nhiên còn ở phía sau. Hải ngọng gọi mọi người lại xem thứ anh vừa phát hiện được, đó là một chiếc xe tải lớn loại mười bánh kiểu Dodge của Mỹ, có tải trọng khoảng sáu bảy tấn, bản thân nó cũng nặng tầm ba bốn tấn. Kiểu xe tải vận chuyển quân dụng đời cũ của Mỹ sản xuất này cũng thường thấy ở khu vực miền núi Miến Điện, năm đó, men theo đường viền của con đường Stilwell, rất nhiều chiếc xe đã bị đổ nhào xuống vực thẳm hoặc bị bom mìn phá nổ, đến nay người ta cũng không thể thống kê ra con số tổn thất chính xác.



Nhưng điều khiến hội Tư Mã Khôi cảm thấy khó lòng lý giải không phải ở bản thân chiếc xe, vì nếu suy đoán theo niên đại người Chăm Pa cổ xây dựng tòa thành bốn triệu bảo tháp, thì cánh rừng rậm nguyên sinh này ít nhất cũng phải đến hàng ngàn năm không nhìn thấy ánh mặt trời, vậy sao tự dưng lại mọc ra một chiếc xe tải đời cổ của thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai?



Mọi người giơ ngón tay tính đi tính lại, bây giờ là mùa hè năm 1974, còn quân Đồng minh tiến hành chiến dịch quy mô lớn ở Miến Điện, và những việc xảy ra sau năm 1941, chỉ cách thời điểm hiện tại một khoảng thời gian ngắn ngủi ba mươi mấy năm. Đương nhiên rất có khả năng trong ba mươi năm ấy, từng xảy ra một cơ duyên trùng hợp ngẫu nhiên nào đó, khiến nó xâm nhập vào sơn cốc núi Dã Nhân, nếu nới rộng phạm vi tư duy một chút, thì điều đó vẫn có thể giải thích được.



Những cây cổ thụ rợp trời trong cánh rừng rậm nguyên sinh, cây nào cây nấy cao to kềnh càng, cành lá xuề xòa vươn ra tứ phía, quấn quýt đan bện vào nhau, loằn ngoằn như rắn lượn. Giữa những cành cây khô là loài dây leo chằng chịt giăng mắc từ nơi này sang nơi khác, bủa vây không gian xung quanh chẳng khác gì thiên la địa võng, khiến con người đi bộ qua đó cũng cảm thấy vô cùng vất vả, đành phải tiến từng bước khó khăn, vậy thì làm sao lại có thể lái cả một chiếc xe tải, tổng trọng lượng lên tới mười tấn vào trong này được?



Ngay liền đó, mọi người còn phát hiện, phía sau chiếc xe tải kiểu Dodge khoảng vài mét, lại có một chiếc xe khác giống y như vậy, rồi men theo con đường, họ còn tìm thấy vô số xe tải Dodge trong tàn tích cánh rừng. Chúng dường như kéo dài đến vô tận, chiếc này nối tiếp chiếc khác.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44: hồi thứ tư: khoảnh khắc ngàn năm


Hồi thứ tư: Khoảnh khắc ngàn năm



La Đại Hải xoa đầu nói: "Lạ thật! Ánh sáng khi nãy đúng là xuất hiện ngay ở gần đây, không lẽ vẫn còn một kẻ may mắn sống sót khác? Nhưng xung quanh đến nửa bóng ma cũng chẳng có nữa là. Hơn nữa, mấy cái xe tải mười bánh của Mỹ này rốt cục từ đâu ra vậy nhỉ?"



Tư Mã Khôi nói: "Cậu nghĩ nhiều làm cái mẹ gì, trước tiên phải xem trong xe có gì ăn không đã, nếu là đồ hộp, có khi nó vẫn chưa bị hỏng đâu, cái nào mang được thì mau mang theo hết."



Trong lúc vẫn nói chuyện, thì hai người đã nhanh chóng dùng cả tay lẫn chân leo lên một chiếc xe, mở tấm vải bạt ra nhìn, phát hiện bên trong căn bản chẳng hề có đồ ăn, chỉ có hai khẩu súng cối gắn cả giá đỡ và bệ phóng, còn lại toàn là hòm đạn, ngoài ra còn có một ít mìn chống bộ binh và bom xăng.



Khu vực Bắc Miến nhiều năm nay chiến sự không ngớt, vũ khí đạn dược các số hiệu, chủng loại và nơi sản xuất dường như chỗ nào cũng có, nhìn đâu cũng thấy. Người dân sống ở những miền núi hoang vu như thế này, có lẽ cả đời chẳng nhìn thấy những vật dụng phổ thông hàng ngày như xà phòng, kem đánh răng, nhưng nếu hỏi đến các loại bom mìn chống bộ binh, phá xe thiết giáp, hay vũ khí của Mỹ, vũ khí của Nhật, thứ gì họ cũng có thể kể ra vanh vách.




Ngọc Phi Yến lại chẳng hề biết mấy loại vũ khí đời cổ lỗ sĩ này là gì, cô ta thấy nòng pháo súng cối to đến phát sợ, liền hỏi hội Tư Mã Khôi: "Đây là pháo gì vậy?"



Tư Mã Khôi nhìn đống bom trên xe, liền nhớ đến những chiến hữu bị bom đánh lìa cả chân, đột nhiên lại nghe Ngọc Phi Yến hỏi, bèn hững hờ trả lời: "Đây là súng cối hóa học 107 ly của bọn khọm Mỹ, đạn nổ mạnh, đạn khói, đạn phốt pho, loại nào nó cũng chơi được hết, nhất là loại đạn cháy phốt pho, nó đã cháy là lan suốt một dải rộng, khi bốc cháy phát ra âm thanh lốp bốp, có lần cũng suýt nữa tôi bị món đồ chơi này thiêu chết đấy." Nói xong, anh nhảy xuống xe, luồn vào buồng lái qua cửa kính bị vỡ ở phía trước, lưới bụi giăng kín bên trong, buồng lái trống toang hoang, ngay cả mẩu giấy vụn cũng chẳng có.



Mọi người quan sát kỹ mấy chiếc xe tải quân dụng một lượt, thấy tất cả đều không thể khởi động được, thấy các thứ còn rơi rớt lại bên trong hầu như đều gần giống nhau, phần lớn là đồ quân nhu, nhưng không hề có khẩu súng nào, cũng chẳng phát hiện thấy nửa bộ xương khô của lái xe sót lại. Cả đoàn xe dường như từ trên trời tự dưng rớt xuống vậy.



Bốn người nhìn nhau, trong đầu không hẹn mà cũng xuất hiện một ý niệm: "Phải chăng đây là nơi tận cùng của con đường U Linh 206B?"



Đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân Mỹ, lợi dụng đoạn đường cũ do quân Anh để lại từ cuộc chiến Anh - Miến lần thứ nhất, sau đó lại xây dựng tiếp đến khu vực gần sơn cốc núi Dã Nhân. Lúc đang xây dựng thì từ chỗ đường hầm sụt lở, sương mù dày đặc không ngừng phun ra, khiến nhiều thành viên trong đoàn mất tích, bởi vậy họ đành phải từ bỏ, lúc rút quân, họ đã dùng bom mìn phá sập đường hầm, vậy tại sao đội xe vận tải này lại có thể vào được nơi sâu nhất trong sơn cốc? Ngoài ra số hiệu trên xe rất mờ nhạt, không rõ ràng, khó có thể khẳng định chắc chắn là đoàn xe của quân đội.



Cho dù mọi người đã nghĩ nát óc, nhưng cũng không thể nghĩ ra đội xe vận tải này vì sao lại xuất hiện trong cánh rừng rậm dưới khe cốc, phân đội bị mất tích rốt cục đã gặp phải tai nạn gì? Lẽ nào giữa cõi u minh, thực sự có thần chết dang rộng tay đón họ vào lòng?



Hải ngọng đoán mò: "Nếu tín hiệu mà chúng ta nhìn thấy lúc trước quả thực do một trong số những thành viên bị mất tích phát ra, thì nơi này đúng là gặp ma thật rồi!"



Ngọc Phi Yến là dân trộm mộ nên rất kỵ hai tò "gặp ma", cô nàng nặng giọng nói: "Đồ nhà quê nhà anh chỉ biết mỗi chuyện gặp ma thôi à? Nếu có ma thật thì sự việc đã đơn giản hơn nhiều. Tục truyền Ma sợ súng đạn, gặp phải súng đạn, thì hình bóng gì cũng tan biến, chúng ta đều mang theo súng, vậy làm sao có thể gặp ma được? Cái gọi là lục hợp chi ngoại, tồn nhi bất luận tức mọi việc ngoài trời đất, tạm thời đừng bàn luận đến, nhưng theo ý tôi, tất cả những hiện tượng như trọng lực khác thường, ảo giác ảo thanh, hiệu ứng từ trường, không gian bốn chiều giao thoa, vật chất bóng đêm, tác dụng đĩa bay, hiện tượng mất trọng lực v.v...



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. tuốt tuột đều có khả năng tồn tại ở đây."



Hải ngọng đang định mở miệng giễu lại cô nàng thì Tư Mã Khôi đã nói trước: "Thực ra mấy lời này của cô cũng thiếu kiến thức thật đấy! Tất cả những hiện tượng thần bí lung tung mà cô vừa nói, đến tận bây giờ vẫn chưa có hiện tượng nào được người đời giải thích hoặc chứng thực cả, nói cho cùng, nó có gì khác biệt với mấy chuyện ma quỷ kia?"




Lúc này, Tuyệt gọi bọn họ: "Mọi người đừng cãi vã nữa, mau đến xem chuyện này là thế nào!"



Thì ra gần chỗ chiếc xe tải mười bánh của Mỹ, sừng sững mấy tòa kiến trúc được xếp chồng lên nhau bằng thứ vật liệu như thể đá xanh, tảng đá rất to, bề mặt lộ ra màu xanh đen u tối, bên trong còn có tượng người tượng thú bằng đá. Dường như đó là một cung điện và đền chùa chìm sâu dưới lòng đất từ hàng ngàn năm trước, có tường thành, hành lang thấp thoáng ẩn hiện dưới lùm rễ cây che khuất, tuy trong bóng tối mọi người không thể nhìn rõ nơi xa cảnh tượng trông như thế nào, nhưng chỉ căn cứ vào những tàn tích điêu khắc tinh xảo trước mắt, cũng đủ để cảm nhận được quy mô rộng lớn và thần bí của tòa thành.



Tuyệt xách cao đèn halogen, để mọi người quan sát kỹ lưỡng bức tường thành; không biết bắt đầu từ khi nào, giữa những khe đá thẩm thấu ra một tầng mỏng tang loài thực vật như thể họ dền. Trên tàn tích cánh rừng dưới lòng đất chẳng chút sinh mệnh, không ngờ lại xuất hiện dấu vết của mầm sống. Phát hiện này đã khiến mọi người không khỏi há hốc mồm ngạc nhiên, mãi hồi lâu không ngậm miệng lại nổi.



Cung điện và đền chùa ngủ yên dưới lòng đất đến cả ngàn năm nay, tuy đã sớm bị thời gian phôi pha đến già nua, cũ kỹ, hơn nữa nó lại bị loài thực vật giống như cây họ dền giăng tơ mắc sợi chằng chịt ôm trùm bên ngoài, khiến các kẽ đá rạn nứt thành những đường khe trông đến rối rắm, nhưng dù thế nó vẫn giữ nguyên vẻ yên ắng, uy nghiêm, trầm mặc kể lại cho thế nhân về một thời vàng son huy hoàng đã sớm sụp đổ trong quá khứ. Những thông tin vô cùng vô tận mà nó truyền đạt đến, như thể một cuốn sách cổ dày nặng và ly kỳ, trong khi hội Tư Mã Khôi chỉ vô tình lật giở và tìm đọc vài trang rách nát còn sót lại để hiểu sơ qua về nó, như thế thì làm sao có thể khám phá được ẩn số to lớn và bí ẩn được giấu kỹ bên trong.



Tư Mã Khôi không ngừng đánh trống ngực, anh lại gần xem xét tỉ mỉ, và phát hiện bên trong tàn tích những cây cổ thụ chết khô đều mọc ra một tầng cây họ dền. Trong rừng nguyên sinh rậm rạp, thường xảy ra hiện tượng: sau khi những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi chết đi, thân mình chúng sẽ được hồi sinh, rồi lần nữa đâm chồi nảy lộc. Nhưng ở nơi sâu nhất trong sơn cốc, dưới vực sâu quanh năm chẳng nhìn thấy mặt trời này, tình trạng đó lại xuất hiện với số lượng lớn và phạm vi rộng thì quả thực rất khác thường.



Loài thực vật giống như cây họ dền sinh trưởng với tốc độ nhanh đến kinh người, cây nào cây nấy y hệt cái cây mọc ở dưới chiếc mũ sắt M1, trước mắt chỉ thấy chúng đan kết với nhau như một đồng cỏ chăn gia súc, thân to như cổ tay trẻ em, bên trong quấn chi chít xúc tu, trông rất ma quái kỳ dị, chẳng khác gì một sinh vật có máu có thịt hẳn hoi.



Tư Mã Khôi càng nhìn càng thấy kỳ lạ, liền dùng tay thử chạm nhẹ một cái, chỉ thấy đầu ngón tay có những sợi tơ trắng như sương khói chảy thành dòng, nhìn thế nào cũng không giống với bào tử nấm sinh trưởng dưới lòng đất. Anh vội bỏ khăn thủy bố trên mặt ra, rồi gí sát mũi lại gần ngửi, trong lòng chợt dấy lên cảm giác kinh hãi khó diễn tả bằng lời: "Lẽ nào thời gian ở đây bị đông kết đứng im rồi sao?"



Ba người còn lại thấy Tư Mã Khôi như thể biết rõ về loài thực vật đặc biệt này, bèn lên tiếng dò hỏi, bảo anh nói rõ sự tình.



Tư Mã Khôi quan sát kỹ loài thực vật đang sinh sôi nảy nở ở gần đó, và cảm thấy nhất thiết phải giải thích rõ ràng mọi chuyện với những người bạn đồng hành chưa hiểu rõ chân tướng: "Tôi thấy, loài thực vật có hình dạng gần giống với cây họ dền này rất đỗi khác thường, tuy rằng thân nó tương tự như thực vật thân thịt, nhưng lại không hề giống với loài nấm thường xuất hiện dưới lòng đất. Khi mình đứng cách xa thì nó không màu không mùi, nhưng khi lại sát gần thì lại ngửi thấy một mùi nồng nặc không thể chịu nổi. Lá và xúc tu mọc trên thân cây chỉ cần chạm nhẹ là rơi rụng lả tả, như thể không có hình dạng vật chất cố định, hình dạng bề ngoài của nó gần giống với kết cấu lỏng lẻo của hoa bồ công anh. Nói theo thuyết tướng vật thì loài cây này thân như thân nấm, lá tựa hoa bồ công anh, nảy mầm sinh trưởng thần tốc, chẳng khác gì rễ thiêng cây thần. Nơi sâu nhất trong sơn cốc nặng mùi tử khí, chẳng hề có chút sinh khí nào, vậy mà lại xuất hiện loại cây đặc biệt ấy, điều này chẳng phải rất khác thường hay sao?"




Ngọc Phi Yến nói: "Rừng rậm nguyên sinh ở miền núi Miến Điện có lịch sử hàng trăm triệu năm tiến hóa, thực vật ở đây có trăm cái kỳ, ngàn cái quái, những gì con người biết hiện nay chỉ vào khoảng một hai phần trăm, nên cho dù dưới lòng đất tồn tại một loài thực vật kỳ lạ nào đó, thì cũng đâu có gì đáng phải ngạc nhiên?"



Tư Mã Khôi nói: "Sự việc đâu đơn giản như cô nghĩ, theo tôi được biết, chỉ có loài Udumbara sinh trưởng trong huyệt động núi sâu ở quốc đảo Ceylon[29], phương Tây cổ đại, mới hội tụ đủ những đặc trưng này, đó là một loài cây vô cùng cổ xưa."



Ngọc Phi Yến nghe nói thì giật mình kinh ngạc: "Ceylon vốn là tên gọi cổ xưa nhất của nước Sri Lanka, ở đó có Udumbara ư? Trong cuốn từ điển Phật giáo Nam vô diệu pháp liên hoa tâm kinh hãy còn ghi chép về nó. Udumbara hay còn gọi là Ưu Đàm, ba ngàn năm mới nở hoa một lần, thành ngữ Hoa ưu đàm chỉ có một lần cũng xuất phát từ đây mà ra. Tương truyền, hàng ngàn năm Udumbara mới xuất hiện một lần, và nó chỉ tồn tại trong một khoảng khắc rất ngắn rồi lập tức khô héo, nên thế gian vẫn mãi hoài nghi không biết loài cây không thể hiểu nổi này có thực sự tồn tại hay không?"



Tư Mã Khôi nói: "Thực ra nước Ceylon cụ thể nằm ở đâu tôi cũng không rõ, cây Udumbara được ghi chép trong kinh Phật có lẽ cũng chỉ là một hình thức ẩn dụ, nó có tồn tại hay không, đến nay mọi người vẫn đang nghiên cứu, chưa thể đưa ra lời khẳng định xác đáng. Có điều, loài thực vật gần giống với hình dáng ban đầu của nó nhất, có lẽ là linh chi nhục hay còn gọi là thị nhục hoặc thái tuế, thường xuất hiện ở dưới lòng đất khu vực phương Tây cổ đại, nó là hình thái sinh mệnh thứ tư trong giới tự nhiên, không phải thực vật, không phải động vật, cũng không phải loài nấm, nó là một niêm khuẩn thể phức hợp, không thể nhìn thấy kết cấu tế bào dưới kính hiển vi. Người cổ đại cho rằng, nó là thuốc tiên trường sinh bất lão, hậu thế cũng có người gọi nó là Udumbara. Vật này có thể sống phụ sinh trên tảng đá hoặc thân cây mục nát, phần lớn đều do âm khí xâm nhiễm tích tụ ngàn năm mà thành, nó gần giống với loài nấm được tập hợp bởi vô số con bọ siêu nhỏ, sinh mệnh vô cùng ngắn ngủi, chỉ tồn tại trong thời gian chớp mắt là tan biến vô hình vô ảnh."



Kiến thức của Tư Mã Khôi biết cũng chỉ giới hạn đến đó, nhưng anh có thể "nhìn hình mà biết tính". Anh suy đoán: có khả năng đến tám chín phần mười loài thực vật dưới lòng đất sinh trưởng ở khe núi Dã Nhân, chính là Udumbara mà sách cổ đã ghi chép, những gì nhìn thấy trước mắt có lẽ là khoảnh khắc ngắn ngủi mà hàng mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần.



Hải ngọng đứng bên cạnh nghe mà cảm thấy rất đỗi hiếu kỳ, nên không nén nổi liền chen ngang một câu: "Cuộc đời con người, chỉ vội vội vàng vàng sống được mấy chục năm, trong khi mấy cái cây ở dưới lòng đất này mấy ngàn năm mới xuất hiện một lần, sao nó lại để chúng ta đuổi kịp được nhỉ? Thế chẳng phải quá rõ ràng là chúng ta vô cùng may mắn hay sao? Không lẽ anh em chúng mình làm quá nhiều việc thiện, khiến trời đất phải cảm động, ngay cả Bồ Tát cũng phải lác mắt?"



Tư Mã Khôi chẳng hề tán đồng ý kiến của La Đại Hải: "Đồ Hải ngọng nhà cậu đừng có nằm mơ nữa. Người ta có câu thế nào nhỉ Trời đất tuy bao la nhưng chẳng nơi nào mọc nổi ngọn cỏ không rễ, cửa Phật tuy rộng lớn nhưng chẳng chỗ nào dung nạp kẻ bất lương, mấy người chúng ta đều chẳng phải thiện nam tín nữ gì, thì dựa vào đâu mà khiến Bồ Tát phải mở mắt chứng giám? Cây Udumbara ngàn năm mới thấy một lần dưới vực thẳm, khả năng chẳng phải điềm báo tốt lành gì, bởi vì sự sinh diệt của nó vốn dĩ chỉ tồn tại trong thời gian khoảnh khắc, chứ không thể sống sót dai dẳng thế này, đây là cảnh tượng mà người trần mắt thịt như chúng ta có thể gặp được ư? Chỉ sợ trong đó ẩn chứa điều kỳ quái gì đây, theo tớ suy đoán, chúng ta sắp phải đối đầu với một phiền phức rất lớn rồi đấy."



Tư Mã Khôi không muốn nhiều lời với Hải ngọng nữa, anh phân tích tình huống đang gặp phải trước mắt ọi người thấy: giờ đây đã xác định được sự tồn tại của Udumbara, thì cũng có thể từ đó mà suy đoán tình hình của huyệt động dưới lòng đất. Tuy nói Udumbara cách mấy trăm năm thậm chí hàng ngàn năm mới xuất hiện một lần trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng thân hình Udumbara ở sơn cốc núi Dã Nhân này lại to lớn khác thường, vượt xa phạm vi chúng ta có thể tưởng tượng. Hơn nữa, nó lại không ngừng sinh sôi nảy nở, gốc rễ có khi đạt tới bảy tám thước, che phủ toàn bộ huyệt động dưới vực thẳm, thật chẳng khác gì một con quái vật.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45: hồi thứ năm: lời giải không phải lời giải


Hồi thứ năm: Lời giải không phải lời giải



Vô số gốc rễ của Udumbara vươn dài ra, hòa thành một thể với cả khe núi Dã Nhân, bao gồm mọi đền đài cung điện chìm sâu dưới lòng đất, và tòa thành bốn triệu bảo tháp của quốc vương Anagaya xây dựng. Tầng kén dưới đầm lầy kỳ thực chính là quả của Udumbara. Tuy rằng chất độc màu da cam đã phá hủy loài thực vật này, nhưng bộ rễ phân bố khắp lòng núi của nó vừa sâu vừa rộng lại chưa bị hủy diệt hoàn toàn, hơn nữa còn có thể hồi sinh với tốc độ nhanh chóng đến kinh ngạc.



Tuyệt cũng từng nghe một lão tăng ở đền chùa Miến Điện có nhắc đến Udumbara, loài thực vật này không chỉ tồn tại ở Ấn Độ cổ đại hay Sri Lanka, mà ở gần khu vực đảo Bomeo và đảo Sumatra ở Indonesia cũng có dấu tích của nó, nhưng từ cổ chí kim, chưa ai có được cơ duyên hiếm hoi, tận mắt nhìn thấy Udumbara nở rộ như vậy, những gì họ thấy chỉ là thân cây khô héo mục nát từ hàng ngàn năm trước, chẳng hề có chút dấu vết của sự sống. Lúc này, cô nhìn loài thực vật rất giống với cây dền gai càng ngày càng phát triển to lớn, rồi từ trong chảy ra vô số sợi tơ như màn sương mỏng, quấn quýt, bay lượn giữa không gian, chẳng chịu tản đi. Cô phát hiện dường như sương khí ở khu vực gần đó càng lúc càng dày đặc hơn, đến lúc này cô mới biết nguồn gốc của màn sương mù thần bí ở núi Dã Nhân thì ra bắt nguồn từ cây Udumbara vùi sâu dưới lòng đất.



Sở dĩ Tư Mã Khôi biết đến Udumbara, là vì khi xưa lúc theo "Văn Võ tiên sinh" học nghệ, anh từng đọc một cuốn kỳ thư có tên là "Bác vật chí" của Trương Hoa tiên sinh đời Tấn viết, trong đó miêu tả tất cả các loài sinh vật kỳ dị trên đời, ghi chép vô số hoa cỏ chim cá, côn trùng cổ quái. Đáng tiếc bộ sách cổ này không được lưu truyền hoàn chỉnh, phần để lại cho hậu thế chỉ còn khoảng một phần mười, trong đó có một đoạn ghi chép liên quan đến Udumbara. Chỉ là khi đó, Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm không gọi nó bằng cái tên Udumbara, mà theo cách gọi cổ, thì nó tên là "Thị nhục" hay "Minh căn".



Nhưng bất kể lời của vị lão tăng trong ngôi chùa nọ hay là ghi chép của Trương Hoa tiên sinh về loài cây thần kỳ trong cuốn "Bác vật chí", thì có lẽ cũng chỉ đều là nghe người nào đó truyền lại, chứ chưa hẳn đã được tận mắt nhìn thấy vật thực, bởi vậy họ đều không thể mô tả chi tiết. Nếu hội Tư Mã Khôi không vào nơi sơn cùng cốc hẻm trong núi Dã Nhân, thì cũng không thể biết lớp sương mịt mù phun ra từ lòng đất lại do Udumbara sản sinh.



Tình hình có thể xác định trước mắt là, thân Udumbara to lớn kia ít nhất có hai nhược điểm. Thứ nhất, nó có thể bị chất độc màu da cam hủy hoại, thứ hai, nó sợ nước. Mưa lớn do cơn bão nhiệt đới Buddha mang đến khiến phần thượng tầng của Udumbara bị tan biến tận gốc, nhờ vậy khi hội Tư Mã Khôi đi vào đầm lầy tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, mới không gặp phải điều gì bất thường. Sau khi đầm lầy sụt lở, bùn đất trút đổ xuống lòng đất, khiến sương mù gần tòa thành Nhện Vàng cũng bị tản mát, nhưng lúc này, tác dụng của chất độc màu da cam đã tới cực hạn, Udumbara ẩn nấp trong đáy cốc dần dần hồi sinh, cản trở mưa gió từ trên cao xả xuống, nếu không có bùn đất và khí ẩm dưới bùn lầy lắng đọng xuống đây, thì tốc độ sinh trưởng của nó còn nhanh hơn nhiều.




Thời gian và không gian dành cho bốn kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, chẳng còn lại là bao.



Đội thám hiểm người Anh, sau khi rơi xuống sơn cốc, đã dùng đèn chiếu sáng cường quang, kết quả lại dẫn dụ một "Vật thể sống" khổng lồ từ mặt đất chồi lên, và bị nó tấn công, ngoài ra còn xuất hiện đoàn xe tải mười bánh, của Mỹ sản xuất, trong rừng rậm, tất cả những sự kiện đáng sợ chẳng thể giải thích này, dường như đều liên quan đến sương mù trong khe sâu núi Dã Nhân.



Tuy mọi người đều biết nguồn cội của sương mù là từ cây Udumbara cổ xưa, nhưng cũng chỉ biết vậy mà không biết tại sao lại như vậy. Thông qua tiếp xúc, họ nhanh chóng phát hiện loại thực vật dạng sương mù kia, ngoại trừ mùi khí có chút kỳ quái, thì nó không gây nên sự uy hiếp trực tiếp nào đối với cơ thể con người, bởi vậy họ tin chắc trong sương mù nhất định còn tồn tại một sinh vật khác, đợi khi sương mù hoàn toàn bao phủ nơi này, sẽ là lúc nó xuất hiện.



Mọi người bàn bạc mấy câu, ai nấy đều thấy chẳng có kế sách gì khả thi, trong lòng càng lúc càng tuyệt vọng; lúc này trừ khi tìm thấy một quả bom địa chấn chứa chất độc màu da cam nữa, thì chắc chắn họ chẳng thể chạy thoát khỏi núi Dã Nhân.



Tư Mã Khôi nói, bây giờ cần phải bình tĩnh suy nghĩ, nếu chạy loạn xạ giữa không gian bóng tối bủa vây tứ bề, thì chẳng khác gì tự mình đâm đầu vào đường chết. Mọi người tuyệt đối không được manh động, thử ngẫm mà xem, Udumbara sinh trưởng dưới lòng đất này vô cùng sợ nước, vừa tiếp xúc với nước mưa là lập tức tan biến mất tăm, trong khi cuồng phong giông tố mà cơn bão Buddha mang đến khiến nước lũ trong núi dâng lên đột ngột, dềnh ngập mọi khe nứt. Giờ đây, đường thủy mới là con đường an toàn nhất để tiến vào sơn cốc, vậy thì vì sao đoàn thám hiểm Anh lại liều chết lái máy bay thâm nhập từ trên không. Có phải bằng thiết bị và kinh nghiệm của họ, thì không thể tìm thấy mạch nước chăng?



Ngọc Phi Yến nghĩ một lát rồi nói: "Sơn cốc này là địa hình do núi nứt toác mà thành, mạch nước phía ngoài không ăn thông với đáy vực. Ngoài ra người Anh chắc chắn biết mọi mạng lưới sông ngòi trong rừng sâu núi Dã Nhân đều có đỉa Campuchia ăn thịt người sống ký sinh với số lượng lớn, mà nguy cơ chí mạng này rất khó đề phòng, nên mới buộc phải chọn đường hiểm mà đi."



Tư Mã Khôi gật đầu nói: "Thế thì coi như số bọn họ đen đủi, may mà chúng ta tránh được kiếp nạn đó.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Hơn nữa giờ đây khí huyết trong cơ thể không đủ, nếu có đi bằng đường thủy thì cũng chẳng cần lo bị đỉa chui vào ký sinh. Bởi vậy, bây giờ có thể xác định chính xác mục tiêu hành động, phải cố gắng tìm ra khu vực có nước ngầm, bất luận là sông ngầm hay mạch nước, chỉ cần tìm thấy nguồn nước, mới có thể tránh được sương mù."



Hải ngọng tán đồng: "Xem ra thằng quỷ nhà cậu vẫn là tên đa mưu túc trí, ruột tớ không cong, nên bó tay chẳng nuốt nổi lưỡi liềm."



Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy kế này khả thi, cho dù có chạm trán với đỉa Campuchia ăn thịt người ở trong nước, thì rốt cục lúc trước cũng đã có kinh nghiệm ứng phó, như thế vẫn còn hơn bị sinh vật đáng sợ xuất hiện trong sương mù nuốt chửng. Có điều nói thì dễ mà làm thì khó, mắt nhìn tứ bề sương khí dần dần lan tỏa, biết đi đâu để tìm mạch nước?



Tư Mã Khôi gấp gáp vạch kế hoạch: "Trong tình trạng la bàn mất tác dụng, mà mạo hiểm xông vào đám sương mù, thì đừng có nghĩ đến việc chui ra được. Tôi thấy cánh rừng dưới lòng đất, và cả cung điện đền đài của nước Chăm Pa cổ, vốn dĩ đều tồn tại trên mặt đất, rồi hàng ngàn năm trước do chịu ảnh hưởng sự lún xuống của mạch nước, nên mới sụt xuống nơi sâu nhất dưới đáy khe vực. Bởi thế dưới chân chúng ta chắc chắn có hồ nước hoặc mạch nước, cổ nhân đã dạy: người đi chỗ cao, nước chảy chỗ trũng..." Anh vừa nói vừa xách đèn halogen nhìn trái phải một vòng, thấy dòng bùn đất dưới chân đều đang chầm chậm chảy về một hướng, xem ra nơi thấp nhất chắc chắn có chỗ để nước ngầm xuống dưới.



Mọi người lần tìm theo dấu tích, dõi mắt ngước nhìn điểm rơi của quầng sáng ánh đèn, thì thấy đó chính là một bức tường đổ nát còn sót lại đứng sừng sững một mình, dưới sự bủa vây của tàn tích rễ cây khô héo, thấp thoáng ẩn hiện những tháp cổ và tượng đá cao vót, có hình thù cổ xưa, kỳ quái, vết tích hoang phế do đá tảng và thực vật tạo thành, giống như một mê cung chẳng thấy điểm tận cùng, chúng lặng lẽ nhốt chặt vô số bí mật vào bóng tối, nên ánh sáng yếu ớt của chiếc đèn trong tay Tư Mã Khôi khi so sánh với nó, thật mỏng manh đến bi thảm.




Mắt nhìn sương mù xung quanh càng lúc càng dày đặc, hội Tư Mã Khôi chẳng còn đường nào thoát thân. Nhìn vết tích chuyển động chầm chậm của dòng nước tù, cả hội đành quyết định dồn sức đánh liều một lần, mạo hiểm đi vào tìm lối thoát của mạch nước. Đúng lúc mọi người đang định khởi hành, thì ngọn đèn trong tay Hải ngọng đột nhiên tắt ngấm, anh ra sức đập mạnh tay vào đầu đèn, quầng sáng yếu ớt cuối cùng cũng dặt dẹo sáng lên, xem ra pin đã gần hết.



Lúc này Tư Mã Khôi mới nhận thức được, so với sự giới hạn về thời gian và không gian, thì trở ngại lớn nhất cản trở việc họ chạy thoát, chính là sự tiêu hao quá độ và thất lạc của các trang thiết bị. Phần lớn đạn dược, thức ăn, pin đèn tìm thấy từ chiếc máy bay của đoàn thám hiểm người Anh đều bị rơi mất lúc đầm lầy sụt lở. Giờ đây trên mình bốn người họ, chỉ còn lại nửa bao diêm chống ẩm và hai thanh pháo phát tín hiệu, đèn halogen và đèn pin cầm tay đã hoàn toàn chẳng còn nguồn nhiên liệu thay thế. Tuy nhiên vẫn còn một ngọn đèn pin loại tiết kiệm điện, nhưng trong không gian dưới lòng đất tối tăm ẩm ướt thế này, ngoại trừ đèn chiếu halogen và pháo sáng phát tín hiệu ra, thì những nguồn sáng khác hầu như chẳng có tác dụng gì.



Tư Mã Khôi biết rõ, nếu không có nguồn chiếu sáng đầy đủ, muốn mò tìm trong bóng đêm để thoát ra khỏi vực thẳm dưới lòng đất cũng đâu phải chuyện dễ dàng. Nhưng việc đã đến nước này, thì chẳng thể ngồi mà so tính thiệt hơn được nữa, đành phải đi bước nào biết bước đấy mà thôi.



Bốn người phân phát số vũ khí còn lại, may mà súng không rời tay, nên tình trạng rơi rớt thất lạc cũng hạn chế. Khẩu súng săn nòng ngoại cỡ của Hải ngọng vẫn còn, Tuyệt có khẩu súng ngắn TT30 để phòng thân, hòm cứu thương cô cõng trên lưng từ đầu chí cuối cũng không bị mất. Còn Ngọc Phi Yến, lúc trước cô đã đưa cho Tư Mã Khôi khẩu HP-35 Browning dự phòng của mình, rồi cô lại tìm thấy một khẩu súng ngắn Liên Xô trong chiếc máy bay của đoàn thám hiểm Anh, lúc này vì nhìn thấy trong tay Tư Mã Khôi chỉ có mỗi con dao săn, nên cô liền đưa nốt súng và đạn cho anh rồi dặn dò: "Chỉ còn hai băng đạn ở ổ sau, anh dùng tiết kiệm một chút đấy!"



Tư Mã Khôi giơ tay ra đón, vừa liếc mắt đã thấy nó chẳng hề xa lạ, đó là khẩu súng Stechkin kiểu APS, thân súng làm toàn bộ bằng thép, không lắp gá gỗ; so với các loại súng khác, nó nặng hơn một chút, nhưng loại APS này là loại nạp đạn tự động đơn giản, với búa nổ nằm bên ngoài và cò súng tác động kép. Nó có chốt an toàn ba nấc nằm ngay cạnh tay cầm, và có thể điều khiển được cả chế độ bắn phát một hay bắn tự động, cỡ nòng 9x18 PM, ổ đạn kép gồm 20 viên. Ngoài ra, ưu điểm rõ rệt nhất của loại vũ khí do Liên Xô sản xuất này là có thể sử dụng linh hoạt ở mọi điều kiện thời tiết khắc nghiệt, bất luận ở môi trường khô lạnh hay ẩm ướt nóng bức, đều có thể bắn nổ bất cứ lúc nào, tốt hơn rất nhiều thứ vũ khí thô sơ mà mình đang cầm trong tay, thế là anh bèn gật đầu với Ngọc Phi Yến tỏ ý cảm ơn.



Tư Mã Khôi lại tìm thấy mấy quả lựu đạn phốt pho trên chiếc xe tải Dodge, anh lần lượt phân phát cho ba người còn lại, thứ này khi đốt cháy sẽ sản sinh ra một lượng khói lớn, nhưng những lúc cấp bách, vẫn có thể lợi dụng chất đốt trong thân nó để cung cấp ánh sáng trong khoảng thời gian ngắn. Để tiết kiệm sự tiêu hao nguồn điện, mọi người chỉ sử dụng một chiếc đèn halogen để thắp sáng, rồi chẳng để ý đến bùn đất dưới chân, gạt bỏ những đoạn rễ khô chắn đường, họ đi sâu vào đám hoang phế chỗ bức tường đổ nát phía trước. Dưới ánh sáng không ngừng lay động của đèn chiếu, một hàng tượng người đá khổng lồ dần dần hiện ra. Tuy chúng đã bị đổ nát khá nghiêm trọng, nhưng vẫn thấy được quy mô hoành tráng của chúng vượt ra khỏi tầm tưởng tượng, dường như chúng là những võ sĩ bảo vệ vô số bí mật của đế quốc cổ xưa. Khuôn mặt tượng đá sống động như thật, nhưng khuôn mặt nào cũng giống khuôn mặt nào, chẳng hề có sự khác biệt, tất cả đều cùng một thần thái nghiêm trang, vừa lạnh lùng vừa điềm nhiên, khiến người ta cảm thấy dường như có một thế lực kỳ dị nào đó đang ẩn trốn trong bóng tối, chăm chú quan sát tất cả mọi vật xung quanh, thông qua con mắt lạnh băng của tượng đá.



Ngày nay, tuy khoa học kỹ thuật đã phát triển hơn xưa, nhưng ở một góc sâu xa nào đó trong nội tâm loài người, vẫn không thể thoát khỏi sự khiếp sợ và kinh hoàng đối với bóng tối. Có lẽ bởi vì chỉ có bóng tối thăm thẳm mới là sự tồn tại vĩnh hằng của vũ trụ, hoặc giả trong bóng tối thực sự có quá nhiều thứ mà loài người không thể nào nhận thức nổi. Giống như cung điện đá hoang phế, vùi chôn trong tàn tích cánh rừng mà họ đang thấy trước mặt, chẳng ai có thể đoán trước được là đằng sau vẻ im lìm chết chóc kia, rốt cục ẩn náu thứ gì.



Hội Tư Mã Khôi quan sát tình hình xung quanh, chẳng hiểu sao người nào cũng nổi da gà ớn lạnh, và trong lòng không kìm được câu hỏi: "Nơi đây rốt cục là chỗ nào?"



Hải ngọng ra vẻ hiểu biết nói: "Tớ thấy chỗ này có vẻ là cơ quan trung ương thời cổ đại, đại khái là nơi vị lãnh đạo tối cao tuyên bố lúc sáng sớm Chư vị ái khanh, có tấu thì tấu mau, không tấu thì bãi triều, bọn họ gọi nơi này là cái gì ấy nhỉ?"



Tư Mã Khôi thấy mấy tượng người đá gần đó, cái nào cũng đầu thần mặt quỷ, thì nói với Hải ngọng: "Ý của cậu là điện Thái Hòa hả? Tớ lại có cảm giác nơi đây giống như một ngôi chùa vậy."



Ngọc Phi Yến nói: "Tuy rằng những ghi chép về tòa thành Nhện Vàng gần như hoàn toàn trống trơn, nhưng hậu duệ của vương triều Chăm Pa thì đến nay vẫn còn. Di tích đô thành, cung điện năm đó đều ở đường biên giới giáp ranh giữa Việt Nam và Lào, cách chỗ này rất xa. Ngoài ra, tôn giáo thần phật ở Miến Điện phần lớn bắt nguồn từ Ấn Độ cổ, nên trên tường đá đâu đâu cũng điêu khắc những hình ảnh mang đậm màu sắc Vệ Đà[30], bởi vậy, chắc đây là một miếu thần hoặc ngôi chùa cổ. Trước khi chúng ta bước chân vào sơn cốc núi Dã Nhân, thì cũng đã nhìn thấy rất nhiều di tích Chăm Pa bị hủy hoại, đổ vỡ, mặt mũi chẳng thể phân biệt nổi, nhưng ngôi chùa cổ chìm sâu dưới lòng đất cùng với tòa thành Nhện Vàng này, lại hoàn toàn ngược lại, nó được bảo toàn gần như nguyên vẹn."



Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nói, thầm nghĩ cả đáy sơn cốc đều bị một thân cây Udumbara khổng lồ bao trùm, hình thế rất kỳ dị, khiến người ta quả thực khó lòng dùng lý lẽ thông thường mà tưởng tượng. Đây đúng là một chùa cổ bị cây cối um tùm rậm rạp che khuất, chỉ mong rằng nó cũng có một con đường nhỏ quanh co, thông với một nơi thâm u, tĩnh lặng nào đó. Nếu không nhanh chóng tìm ra được mạch nước ngầm, thì chắc chắn cả hội sẽ bị nhốt đến chết dưới lòng đất mà trở thành tượng sống. Tuy trong lòng anh tràn ngập bất an, nhưng vì địa hình gồ ghề khúc khuỷu, hơn nữa thể lực mọi người đã đến giới hạn, chỉ có thể cố gắng gượng chút sức tàn, bởi vậy tốc độ di chuyển vô cùng chậm chạp.




Lúc này, mọi người lại nhìn thấy phía trước có tòa tháp đá, móng tường đã bị sụp đổ mất một nửa, nằm nghiêng, gá mình trên một rễ cây khô to lừng lững như cái cột nhà. Do thân tháp đổ nghiêng, nên lúc đi vòng quanh mặt bên của nó, có thể thấy hình dáng tổng thể của tháp cổ, và ngay cả từng bức phù điêu được khắc vẽ tinh xảo ở bên trong cũng thu hết vào tầm mắt.



Những bức phù điêu khắc vẽ kín mít thân tháp, rất giống những bức phù điêu trên bức tường thành cổ mà họ thấy lúc trước, chúng đều có mãng xà quấn quanh chân tháp. Ban đầu, Tư Mã Khôi chẳng mấy để mắt tới, nhưng khi lại sát gần, mới thấy nó có chút cổ quái, chỉ là không thể nói rõ rốt cục chỗ nào có vấn đề, bất giác anh quan sát nó kỹ hơn một chút.



Tuyệt cũng phát hiện ra điểm bất thường, cô nói với hội Tư Mã Khôi: "Những con mãng xà này rất cổ quái, dường như nó không giống với bình thường lắm thì phải."



Tư Mã Khôi thuận miệng đáp: "Đúng là có chút khác thường, to thế này... thì là rắn hay trăn nhỉ?" Bốn hình đen thui một dải, con mãng xà đá cuốn quanh thân tháp vừa dài lại vừa to, chỉ nhìn thấy đầu mà chẳng thấy đuôi đâu, không thể tưởng tượng nổi dung mạo toàn diện của nó, thế là anh vừa đi lên trước, vừa xách đèn nhìn nó một lần nữa.



Ba người còn lại bám sát ngay sau, trong lòng ai nấy đều cảm thấy có chút dị thường. Ngọc Phi Yến thắc mắc: "Tháp cổ và mãng xà là tô tem đáng sợ trong thể hệ tôn giáo vương triều Chăm Pa, nó mang ý nghĩa chết chóc và hủy diệt. Trước đây tôi từng qua tay vài món đồ cổ, trong đó cũng có loại biểu tượng này, nên cũng không thể coi nó là vật hiếm có. Nhưng tại sao tôi lại cứ cảm thấy con mãng xà dưới lòng đất được điêu khắc có chút kỳ quái, trên thân nó... dường như thừa ra một cái gì đấy."



Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: "Trên thân rắn thừa ra cái gì? Chẳng lẽ người ta vẽ chân cho rắn, nói xong anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Cậu thấy tớ sử dụng câu thành ngữ ấy có chuẩn không?"



Tư Mã Khôi men theo tháp đá bị đổ sụp, xem xét một hồi, nghe Hải ngọng hỏi, trong lòng bất giác thầm kích động, lẩm bẩm bụng bảo dạ: "Vẽ chân cho rắn? Rắn mọc chân... thế thì nó là loài rắn bốn chân rồi. Đáy khe sâu núi Dã Nhân có rất nhiều loài thằn lằn sinh tồn, có lẽ người cổ đại coi con vật bốn chân này là rắn thật cũng nên, chúng ta rất khó dùng quan niệm của người hiện đại để suy đoán ý đồ thực sự của người cổ đại..." Vừa nói, anh vừa đi đến tận cùng của tháp đá, và phát hiện tòa tháp đá này có hình thù rất đặc biệt: thân tháp căng tròn, bụng rộng, chóp hẹp, tường bên trong xây kín mít, đó là một tòa tháp bị phong bế, không có lối ra, góc mái khắc hoa văn thô mộc cổ xưa hình chiếc lá có gai nhọn, mãng xà quấn quanh thân tháp hòa cùng một thể với tháp cổ, thân hình quái dị của nó xuất hiện ngoằn ngoèo khắp trong ngoài điện thờ, nửa ẩn nửa hiện, dường như tháp cổ là mãng xà, và mãng xà cũng là tháp cổ, rất khó phân tách thành hai thực thể riêng biệt. Điều kỳ lạ nhất là hai bên thân mãng xà còn khắc những chiếc vây ngắn hình tròn dạng xoắn ốc, chia thành nhiều cặp dọc theo thân rắn, dường như nó không giống với loài thằn lằn cỏ, thường gọi là rắn bốn chân.



Hải ngọng rầu rĩ vò đầu bứt tai: "Nhưng có phải nó chỉ có mỗi bốn cái chân đâu, tớ thấy nó có sáu cái, hay tám cái gì đấy cũng chẳng rõ, chắc không thể là rắn, mà có khi là một con rết..."



Tuyệt nói: "Rết không giống như vậy, hai hàng bên sườn nó giống vây, chứ không giống chân, chỉ có sinh vật bơi trong nước mới có vây, chẳng lẽ đó là loài cá ba sa tám chân thường xuất hiện ở sông Ayeyarwady?"



Tư Mã Khôi nghe mọi người bàn luận, trong đầu anh đảo đi đảo lại tám chín vòng. Đột nhiên một ý tưởng vụt lóe lên: "Tôi thấy tòa tháp cổ có mãng xà quấn quanh này khả năng là một ám hiệu, chính vì sự tồn tại của nó, nên mới có người lái máy bay tiêm kích vận tải liều chết đâm xuống sơn cốc."


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46: hồi thứ sáu: sương mù


Hồi thứ sáu: Sương mù



Mọi người nhất thời không kịp phản ứng, chẳng hiểu vì sao tòa tháp cổ lại có thể liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải? Ngọc Phi Yến tranh hỏi trước: "Mấy lời anh nói ngọn nguồn bắt đầu từ đâu vậy?"



Tư Mã Khôi giải thích: "Trên thân mãng xà không phải là những chiếc vây ngắn, mà khả năng rất lớn là một loại cánh. Ban đầu, tôi cũng không nghĩ ra chi tiết này, nhưng từ hình dạng kỳ quái và những hoa văn họa tiết phù điêu hoa cỏ chi chít khắp thân tháp, có thể suy đoán, hình dạng của nó chẳng khác nào Udumbara; xem ra tòa tháp phong bế trong ngoài nhất thể, dường như tượng trưng cho sương mù xuất hiện dưới lòng đất. Còn hình con rắn quái dị có những cặp vây ngắn bò xuyên qua thân tháp, đây chẳng phải đang vẽ cảnh chiếc tiêm kích vận tải mang biểu tượng Rắn đen thâm nhập vào sơn cốc ư? Có thể tất cả những điều đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng Wilson - thành viên của đoàn thám hiểm Anh gặp nạn, nói không sai: Nghiên cứu về logic càng sâu, thì càng phải trân trọng sự ngẫu nhiên. Mọi truyền thuyết cổ xưa vừa thần bí vừa đáng sợ trong núi Dã Nhân đều không tách rời hai yếu tố - mãng xà và sương mù, nên hàm ý ẩn dụ mà tòa tháp xây kín mít kia tượng trưng có lẽ là: Chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù. Đây chính là ám hiệu của vương triều Chăm Pa để lại từ hàng ngàn năm trước."



Ban đầu hội Ngọc Phi Yến nghe Tư Mã Khôi giải thích đều cảm thấy quá đỗi ly kỳ, nhưng nghe đến cuối cùng, thì lại thấy khá hợp tình hợp lý, chỉ e người cổ đại đúng thực đã để lại ám hiệu này cho hậu thế.




Tư Mã Khôi nói: "Đây chỉ là suy đoán chủ quan của bản thân tôi, vì vẫn còn rất nhiều tình tiết quan trọng không thể lý giải được. Nhưng luận điểm về chiếc tháp xây kín với ám thị tiên tri: chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù, thì có lẽ không thể sai được. Nấm mồ xanh - kẻ đã thuê đội thám hiểm mạo hiểm tiến vào sơn cốc - không rõ vì lý do gì, chắc cũng nắm được bí mật này, bởi vậy hắn mới sắp xếp kế hoạch hành động, lợi dụng máy bay tiêm kích vận tải chở bom địa chấn. Có điều, Nấm mồ xanh chắc cũng giống chúng ta, chỉ nhìn thấy ẩn số, chứ không rõ hàm ý thực sự của ẩn số đó, chính vì vậy nên hai chiếc tiêm kích vận tải bay vào sơn cốc mới lần lượt gặp phải tai nạn bất trắc."



Hội Tư Mã Khôi vẫn còn nhớ trong cuốn băng ghi âm mà Karaweik phát hiện, đã ghi âm lại màn thảm kịch khi đoàn thám hiểm gặp tai nạn. Họ đáp chiếc Rắn đen II, bay vào sơn cốc, sau khi bị rơi xuống liền sử dụng đèn chiếu cường quang đặc chế để quan sát địa hình trong sương mù, chẳng ngờ ánh sáng đèn lại dẫn dụ một "vật thể sống" to lớn khác thường, nhanh chóng bò từ dưới vực thẳm lên, rồi liền ngay sau đó là tạp âm khủng bố giống như cành cây khô bị gẫy vụn vang lên từng đợt, cuối cùng vật thể lạ đó tấn công đội thám hiểm. Hội Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến khi bám vách đá cheo leo dựng đứng bò xuống đáy sơn cốc, thì sương mù đã bị mưa lớn áp chế hạ xuống thấp, hai người bọn họ cũng chẳng phát hiện thấy ai sống sót trong chiếc phi cơ, thậm chí ngay cả mảnh vụn của thi thể cũng không còn, dường như mọi người trong khoang máy bay đều tan biến vào sương mù vậy. Trong khi đó, lúc hội Tư Mã Khôi xuống đầm lầy, và tìm thấy tàn tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích hai mươi mấy năm trước; khi bắt đầu bước chân vào cánh cửa, màn sương mù chưa bị nước mưa xua tan, vẫn còn tích tụ ở khoang máy bay, dường như trong đám sương mù ấy tồn tại một sức mạnh đáng sợ không thể ngăn cản, nên xém chút nữa Tư Mã Khôi đã bị nó lôi tuột vào bên trong. Thế nhưng lúc đó, anh lại không hề nghe thấy âm thanh tạp âm chói tai, nên mãi đến tận bây giờ anh vẫn không thể giải thích nổi: vậy giữa khoảnh khắc ngắn ngủi đó, rốt cục mình đã gặp phải chuyện gì.



Giờ đây, mọi người đang đứng giữa những tòa tháp xây kín hoang phế trong ngôi chùa cổ, phát hiện nó ẩn chứa một ám hiệu bí mật, đó là: "chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù". Chân tướng của ẩn số này rất khó phán đoán, có lẽ "rắn bay" quấn quanh thân tháp, chính là "vật thể sống" xuất hiện từ đám sương mù dày đặc và tấn công các thành viên của đội thám hiểm Anh. Sương mù bí ẩn do Udumbara sinh ra và con quái vật nằm rình mồi trong sương mù, chính là hai cánh cửa lớn khóa chặt bí mật cuối cùng của tòa thành Nhện Vàng.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om.



Mọi người căn bản không thể tưởng tượng nổi con mãng xà mang theo vây ngắn ở hai bên mình, rốt cục là thứ gì, trên thế giới này chẳng lẽ lại từng tồn tại loài mãng xà có thể bay lượn trong sương mù? Con rồng trong truyền thuyết Trung Hoa cổ đại, cũng có thể vờn mây cưỡi gió, nhưng rốt cục nó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, chứ làm gì có ai đã tận mắt nhìn thấy?



Ngọc Phi Yến nói với Tư Mã Khôi: "Con quái xà luồn ra từ tháp kín, trên mình có ít nhất sáu, bảy cặp vây ngắn, cũng chưa hẳn là nguyên hình của một loài sinh vật nào đó. Bởi vì những sinh vật có thể dang cánh bay lượn trong thế gian, bất luận là côn trùng, loài chim, hay loài dơi, đều chỉ có nhiều nhất hai cặp cánh, nghĩa là bốn chiếc cánh, đây là quy luật khách quan của quá trình tiến hóa."



Tư Mã Khôi nói, phàm chuyện gì cũng không thể tuyệt đối, lúc trước ai có thể nghĩ ở nơi sâu thẳm trong khe núi, lại sinh trưởng cây Udumbara to lớn dường vậy. Từ khi nó sinh cho đến lúc chết đi, vốn dĩ chỉ tồn tại trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng hiện tượng đang xảy ra lúc này quá sức khác thường, các quy luật và phép tắc của tự nhiên dường như đều bị bóp méo; không chừng, trong sương mù quả thật còn tồn tại một thứ vượt xa phạm trù nhận thức của con người.



Trong suốt thời gian mọi người bàn luận, đám sương mù ở sau lưng dường như đã đậm đặc đến nỗi không thể nhìn thấy gì trong đó. Tuyệt nhắc nhở mọi người: "Chúng ta buộc phải tìm nơi ẩn thân ngay lập tức, bởi vì bất kể trong sương mù tồn tại vật thể gì, thì chắc chắn nó sắp xuất hiện rồi đấy."




Tư Mã Khôi cũng nghe thấy từ nơi xa trong đám sương mù, xuất hiện một âm thanh "két két" rất chói tai, nghe như thể tiếng đóng mở của cánh cửa gỗ mục nát. Trong khi Udumbara sinh trưởng từ trong khe đá càng lúc càng nhiều, thì anh hiểu rõ thời gian chạy trốn càng lúc càng ít, nên không dám nấn ná lâu hơn, liền vội vàng hét gọi mọi người mau mau tháo chạy.



Nhưng, ở đây khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, tường đá, tháp đá đổ ngổn ngang khắp nơi, tàn tích rễ cây đan cài, quấn quýt vào nhau, hơn nữa mọi người lại ở trong hoàn cảnh tắt lửa tối đèn, sương khí mù mịt, chỉ dựa vào mỗi ngọn đèn halogen để tìm đường, thì đừng nói lúc này thời gian gấp gáp mà ngay cả trong tình huống bình thường, mò mẫm giữa đống đổ nát những cung điện đền chùa cổ này một hai ngày, cũng chưa chắc đã tìm thấy lối ra của mạch nước ngầm.



Lúc trước, Tư Mã Khôi thấy dòng nước tù ngập ngang đầu gối, từ từ hạ thấp và có xu hướng chảy về một nơi; lại thấy cổ thành và cả cánh rừng rậm nhiệt đới sau khi sụt xuống lòng đất đều được bảo tồn nguyên vẹn, liền ngẫm nghĩ gần đây chắc hẳn phải là vùng địa hình vòm cầu, mà địa tầng lòng núi sụt lở từ hơn một ngàn năm trước chính là phần mặt cầu, còn phía dưới của nó rất có khả năng là huyệt động hoặc khe nứt tương tự như hố ở dưới gầm cầu. Ở những khu vực có nước, sự sinh trưởng của Udumbara sẽ phải chịu sự hạn chế, mà nếu không có loài thực vật này, thì sẽ không xuất hiện sương mù; không có sương mù nghĩa là mọi người được an toàn. Bởi vậy anh cho rằng cần phải nhanh chóng tìm thấy lối ra của huyệt động dưới lòng đất, dẫu cho không có mạch nước, thì ít nhất cũng có thể đảm bảo trong khoảng thời gian nhất định sẽ không nguy hiểm đến tính mạng.



Chẳng ngờ, môi trường khắc nghiệt hạn chế tốc độ di chuyển, không những vậy sương khí lại lan tỏa rất nhanh, Tư Mã Khôi thấy cứ thế này thì không ổn, trong lòng biết rõ, cho dù mọi người cố gắng tranh thủ từng phút, cũng không thể kịp được. Anh nhìn địa hình xung quanh, thấy cách đó không xa có một tòa điện bằng đá, trước tường điện có một hàng cổng vòm đá, trong ngoài thông thoáng, bên trong có tượng thần bốn mặt, bốn tay, bèn giơ tay chỉ, bảo mọi người mau vào trong tránh nạn, rồi lách người vào theo. Thế nhưng, khi giơ đèn halogen lên quét một đường, thì thấy bức tường phía sau điện đã sớm sụp đổ từ bao giờ, con người căn bản chẳng thể ẩn nấp.



Bốn người không ngớt kêu ca, đang định quay đầu bước ra, đột nhiên lại nghe thấy trên bức tường vòng cung có tiếng "soạt soạt" khe khẽ. Tư Mã Khôi chiếu đèn vào trong tường đá xem xét, thì thấy một nhành Udumbara to như cổ tay đang từ khe ngói trên đỉnh đầu chui vào, và phun ra từng dòng sương khí mỏng tang. Lúc này ở phía sâu trong đám sương mù vọng lại tiếng động như thể cành khô gẫy vụn, âm thanh đó có vẻ như từ xa đang tiến lại gần. Rồi không đợi mọi người kịp phản ứng, chỉ thấy đột nhiên "soạt" một tiếng, một bóng đen rất dài từ trên không lướt vèo qua. Tuy mọi người đều chăm chú quan sát, nhưng chẳng ai thấy rõ đó là thứ gì, vì dường như nó dán vào vỏ bức tường, rồi lắc mình một cái là biến mất, còn bóng đen nhìn thấy trước mất chỉ là tàn dư của thị giác. Trên bức tường đá, nhành Udumbara cũng đã vỡ vụn thành một đám sương khí. Nói thì dài dòng, nhưng sự việc diễn ra vô cùng nhanh chóng, sao băng vụt lướt qua bầu trời, hay gió thổi điện giật có lẽ cũng không thể nhanh bằng, chỉ có thể nói nó vượt cả tốc độ của ánh sáng, nên mắt người dường như không thể theo kịp tốc độ di chuyển của nó; bởi chỉ thoáng một cái, tạp âm "cọt kẹt" kia đã cách xa đến mấy trăm mét.



Tư Mã Khôi kinh hãi đến cực độ: "Đây chính là quái vật trong sương mù rồi, có khả năng nó đang đi săn mồi, di chuyển nhanh như thể vút một cái là mất tăm dấu vết trên bầu trời; cứ cho là trên thế gian thực sự có loài mãng xà biết bay, thì chắc chắn cũng không thể bay nhanh đến vậy".



Ý nghĩa trong đầu Tư Mã Khôi vẫn chưa kịp chuyển động, thì vật vừa lướt qua đỉnh đầu lại lượn một vòng nữa ở gian điện, và trong nháy mắt đã bay đến ngay trước mặt. Anh vội vàng ném chiếc đèn halogen trong tay ra xa, hòng đánh lạc hướng nó, nhưng chiếc đèn vừa tuột khỏi tay thì ánh sáng của nó gần như bị động tối nuốt chửng, lập tức tắt lịm giữa không trung. Hải ngọng đứng bên cũng cảm thấy nguy hiểm, đang định bóp cò khẩu súng săn nòng ngoại cỡ, nhưng trong lúc lúng túng thế nào lại chẳng ngắm chuẩn mục tiêu, nên cũng không biết đạn bay đi đằng nào.



Có câu: "Tiếng đạn chữa khỏi bách bệnh", tuy mọi người đã sớm sức cùng lực kiệt, đi bộ mà hai cẳng chân gần như không thể trụ thẳng được nữa, nhưng khi thực sự đến thời khắc nguy cấp liên quan đến tính mạng, thì năng lực tiềm tàng trong tinh thần lại luôn có thể phút chốc vượt xa cực hạn chịu đựng của thể xác. Tư Mã Khôi cảm thấy tình hình không ổn, lập tức đẩy Hải ngọng đang đứng ở trong vòm cổng đá sang một bên, đồng thời cũng thuận đà nằm rạp sang bên cạnh. Động tác này hoàn thành gần như cùng lúc với thời điểm đèn chiếu tắt lịm và súng săn phát nổ, bởi sau đó mới nghe thấy tiếng đèn halogen rơi xuống mặt đất. Tuy tốc độ phản xạ của Tư Mã Khôi vô cùng thần tốc, nhưng vẫn chậm mất một bước, trong lúc Hải ngọng né tránh, thì cảm thấy có cái gì vụt quét qua hông một cái, giống như bị tảng băng lạnh buốt đâm xuyên thấu, giơ tay ra sờ thì thấy toàn là máu tươi, lúc đó anh mới cảm thấy như bị lửa thiêu đốt.




Thì ra Hải ngọng bị vật lướt nhanh như tia sét trong sương mù chạm một chút vào eo, vậy mà không ngờ ngay cả quần áo và da thịt đều bị xẻo mất một mảng, vết thương thành hình vòng cung, đều tăm táp, phút chốc máu trào ra như suối chảy.



Tuyệt và Ngọc Phi Yến đứng phía sau phát hiện đèn halogen phía trước đột nhiên vụt tắt, liền biết có chuyện xảy ra, hai cô vội rút ra hai quả lựu đạn phốt pho, loại lựu đạn này chẳng khác gì quả bom xăng, lúc nó bốc cháy, tuy rằng sản sinh ra màn khói dày đặc, nhưng trong khoảnh khắc, ánh sáng trắng của nó sẽ bốc lên chói lòa, khiến tứ phía trông như một vùng ánh tuyết.



Ngọc Phi Yến lập tức lấy bình tông đựng nước trên người xuống, rót toàn bộ chút nước sạch còn sót lại vào mấy nhánh Udumbara đang sinh sôi nảy nở trong khe đá, sau đó lại lấy thêm nước tù dưới lòng đất, tưới ướt sũng toàn bộ khu vực trong ngoài cửa điện. Đám sương khí từ đó cũng giảm dần, nhưng bên tai họ vẫn nghe âm thanh trong bóng tối di chuyển mau lẹ kinh người, nên biết rằng nó vẫn lảng vảng bay lượn đâu đấy xung quanh, nhưng không dám lại gần điện đá, nơi lượng sương mù đã trở nên yếu mỏng.



Tư Mã Khôi và Tuyệt nhờ ánh sáng nên có thể nhìn thấy Hải ngọng đang nằm vật ra đất, máu chảy lênh láng, vết thương có vẻ không nhẹ, hai người vội vàng chạy tới đỡ anh dậy. Hòm cứu thương mà Tuyệt tìm thấy trong máy bay của đội thám hiểm Anh, loại thuốc cấp cứu nào cũng có, trong đó có cả loại keo đặc cầm máu, có thể trực tiếp dán lên vết thương hở. Lúc này, chẳng thể suy tính gì thêm, cô lấy tất cả số keo trong hộp dán cả vào vết thương của Hải ngọng, lại giở băng gạc cuốn mấy vòng liền. Hì hục làm một hồi lâu, cuối cùng cô cũng đã cầm máu được cho anh.



Gương mặt La Đại Hải trắng bệch, đau đến nỗi các cơ trên mặt đều co rút, anh cúi đầu nhìn vết thương, gắng gượng nói cứng: "Vết thương bé tí này, mẹ nhà nó, chẳng khác nào gãi ngứa cho ông..." tuy nói vậy, nhưng trong lòng anh sợ đến tột cùng, thầm nghĩ: "Cái thứ chết tiệt này ít ra cũng phải xẻo của mình mất hai cân thịt, may mà Hải ngọng ta đây da cứng thịt dày, chứ không khéo ngay cả ruột cũng lòi ra ngoài chứ chẳng chơi".



Lúc này Ngọc Phi Yến phát hiện cạnh bức tường đổ nát mọc lên nhánh Udumbara, khói trắng của lựu đạn phốt pho và sương mù chạm vừa vào nhau, thì từ đó rơi ra một vật hình dạng như thể con mãng xà lớn, lúc này nhìn kỹ lại, nó rõ ràng giống như loài sinh vật nhuyễn thể ruột khoang sống ở đáy biển, to như cái thùng nước, dài khoảng hơn hai mét, không vảy, không da, toàn thân gần như trong suốt, trông nó chẳng khác gì một ống thủy tinh lớn biết chuyển động, hai bên có những cặp vây ngắn, mọc đối xứng, sắc như lưỡi dao, chẳng thể phân biệt được phần nào là đầu, phần nào là đuôi, nó ngọ nguậy uốn éo, lắc mình rũ hết bùn đất trên người, định dang cánh bay, tần suất chuyển động của những chiếc vây ngắn tựa mái chèo xoắn ốc càng lúc càng mau, phát ra thứ tạp âm ồn ào như thể gỗ mục rạn nứt.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47: hồi thứ bảy: hơi thở


Hồi thứ bảy: Hơi thở



Ngọc Phi Yến sợ đến mức mặt thất sắc. Cô giương khẩu súng xung phong Uzi, nhằm thẳng vào mục tiêu quét một loạt đạn nghe "pằng pằng pằng", nhưng tốc độ di chuyển của sinh vật đó lại nhanh như gió cuốn, điện xẹt, chỉ thấy nó thần tốc vụt lướt, nên cũng chẳng rõ là nó đã xuyên qua các luồng đạn dày đặc để thoát thân, hay trước khi khẩu Uzi kịp phát nổ nó đã bay đi mất. Đôi mắt của loài người không thể nhìn rõ quỹ đạo chuyển động của nó, nên đợi khi phản ứng lại thì đã muộn. May mà màn khói đặc do lựu đạn phốt pho sản sinh phun trào mù mịt, thêm vào đó màn sương khí cũng đã giảm nên tốc độ của loài sinh vật ấy cũng trở nên chậm chạp hơn một chút. Lúc nó định lao đến trước mặt Ngọc Phi Yến, lại bị khói lửa giữa không trung chặn đứng, chẳng kịp nhìn rõ nó quay người chuyển mình thế nào, mà ngoắt một cái thân thể đã vòng thẳng tắp về phía sau, đột ngột luồn vào trong sương, nghe âm thanh dường như đã bỏ đi khá xa.



Trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cả hội liên tiếp lâm vào một loạt cảnh hiểm nguy, chẳng còn khoảng trống cho người ta kịp thở ra một tiếng, rồi mọi người lần nữa lại thoát khỏi bàn tay tử thần, nhưng hồn vía ai nấy đều thất kinh, tim nhảy loạn xạ trong lồng ngực. Hơn nữa, mọi người cũng biết tình hình đúng như Tư Mã Khôi tiên liệu, tòa tháp chết đó quả nhiên ám chỉ Udumbara sinh ra sương mù thần bí và loài rắn bay rình mồi trong sương mù. Chỉ có điều, loài "rắn" đó thực ra không hẳn là rắn, mà là một loài sinh vật đáng sợ chưa bao giờ nhìn thấy, mà cũng chưa bao giờ nghe thấy. Tư Mã Khôi tuy thông hiểu phương thuật nhận biết tính vật, nhưng cũng không thể tưởng tượng nổi trên thế giới lại tồn tại một dị chủng như vậy.



Tương truyền, từ thuở hồng hoang sơ khai, thiên địa hỗn độn, ngũ hành sinh khắc, lúc ấy vạn vật còn chưa thành hình, mà mới chỉ như một mớ hư vô, hỗn độn. Khi hỗn độn được khai phá, những vật dương trong và nhẹ thì trở thành Thiên, những vật âm nặng và đục thì trầm mình vào trong Địa. Giữa chốn hồng hoang tồn tại một dị vật, chuyên lấy hỗn độn làm thức ăn, tên gọi là "Ly chùy", thân mình nó tròn dài, trong như tuyết ngân, chuyển động nhanh tựa ánh sáng, vô hình vô ảnh, người thượng cổ nhìn thấy nó mà như chẳng thấy gì... Tư Mã Khôi nghĩ, chắc quá nửa nó chính là loài sinh vật này rồi. Nghe động tĩnh trong sương mù, thì biết số lượng chúng không ít, nên anh lại nghĩ: chắc chắn chúng chính là thủ phạm khiến toàn bộ nạn nhân mất tích trong núi Dã Nhân đều tan biến không dấu vết, có lẽ chúng đã nuốt chửng họ, ngay cả cặn bã xương xẩu cũng chẳng để lại.




Lúc này, nước tù sót lại nơi trũng cũng chẳng còn bao nhiêu, trong khi bên ngoài tòa điện đá sương mù vẫn dày đặc như bức tường thành, chẳng thể ngăn chặn thêm được nữa. Nhờ ánh sáng trắng chói mắt đang bốc cháy, Tư Mã Khôi thấy sương mù phía sau bức tường tan hoang trong tòa điện đổ nát có vẻ khá thưa mỏng, liền dẫn ba người còn lại, đi xuyên qua chỗ hổng của tường thành ra ngoài, tạm thời thoát khỏi khu vực mịt mờ sương mù.



Ngọc Phi Yến nhìn thấy sương khí phía trước không còn dày đặc, liền lấy đèn pin ra soi, thì phát hiện phía sau điện có một thân cây cổ thụ chằng chịt những rễ dài buông thõng, bên trong ẩn chứa rất nhiều Udumbara chưa thành hình. Có điều, sương mù phía sau cứ bám riết lấy mọi người như hình với bóng, căn bản chẳng cho họ cơ hội dừng chân nghỉ ngơi hay quan sát, nên họ chỉ cắm cúi chạy loạn xạ về phía trước. Tuy chạy là vậy, nhưng trong lòng ai nấy đều biết rõ, đó chỉ là sự sai khiến của bản năng mưu cầu sinh tồn, kỳ thực giành giật chạy trốn lúc này chẳng có mấy ý nghĩa, không bao lâu nữa, tất cả sẽ bị sương mù nuốt chửng, sự khác biệt giữa việc chạy trốn và ngồi xuống bó tay đợi chết chẳng qua chỉ là vấn đề sớm hay muộn.



Đúng lúc cuống quýt chọn đường, đột nhiên họ lại thấy ánh đèn lúc ẩn lúc hiện cách đó khoảng mười mấy mét, cự ly khá gần, nhưng vẫn không thể nhìn một cách chính xác, chỉ có thể lờ mờ cảm nhận đó chính là ánh sáng của pháo tín hiệu mà họ đã trông thấy ở cạnh hàng xe tải, đồng thời chiếc máy bộ đàm không dây lúc đó cũng không ngừng phát ra tín hiệu lặp đi lặp lại cùng một nội dung: "Tôi đang... ở trong rắn... tôi đang... ở trong rắn..."



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Thông điệp bằng ánh sáng này lai lịch bất minh, chẳng biết có phải nó đang dẫn dụ chúng ta đến gần dãy xe tải Dodge hay không? Sao lúc này nó lại xuất hiện ở nơi sâu trong khu hoang phế, chỗ bức tường đổ nát, rốt cục nó có ý nghĩa gì? Không lẽ bị rắn nuốt chửng vào bụng thì an toàn chăng? Nếu thực như thế, thì thà giờ đây ông mày cứ "bòm" một phát vào huyệt thái dương, mà kết liễu cuộc đời cho sướng.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Nhưng rồi nghĩ lại, thấy đoạn tín hiệu này dường như hàm chứa ẩn ý khác, chỉ là chẳng biết ai đã phát ra nó? Nếu đối phương là hạng lương thiện, thì tại sao không chịu hiện thân ọi người biết? Chỉ sợ đó là cái bẫy, không phòng không xong. Nhưng tình hình trước măt, cũng chỉ còn đường chết mà chẳng còn đường sống thì việc gì mình phải sợ nó nhỉ? Thế là anh ôm súng vào ngực, lần theo hướng ánh sáng đi về phía trước.



Bộ dạng bốn người thê thảm đến cực độ, dường như vừa đi vừa lăn, vừa bò vừa lết, vội vàng hấp tấp tiến bước, còn bốn phía vẫn một màu đen ngòm ngòm, chẳng hề thấy nửa đốm sáng. Thế rồi trước mặt họ chợt có khối đá lớn màu xanh đen sừng sững chắn ngang, bề mặt đá nhẵn thín, không có lấy nửa cọng cỏ, phần lồi lên trên mặt đất to như cả quả đồi, hình thù chẳng khác gì chiếc bát tô úp ngược, trông rất nổi bật, phần đáy trải hàng bậc thang bằng đá đen đã vỡ nát, tận cùng là đáy động đã bị đá chặn phân nửa, cửa động được chạm khắc thành hình đầu con mãng xà. Có lẽ nó vốn dĩ là phần đáy của tòa tháp cổ sừng sững, nhưng sau khi phần đỉnh của tòa bảo tháp thứ bảy trong "tám tòa bảo tháp cát tường" được mệnh danh là "Bảo tản" (tức chiếc ô quý) bị sụp đổ, thì nó chỉ còn lại mỗi tàn tích móng tháp hình chữ thập gãy góc.



Phía sau quả đồi đá là tòa thành bốn triệu bảo tháp bị rễ cây che khuất, và nơi sâu của huyệt động tối tăm kia dường như thông thẳng với phần bên trong của tòa cổ thành đúc đầy phù điêu vàng. Mọi người có thể mãi mãi không bao giờ nhìn thấy toàn bộ dung mạo tòa thành Nhện Vàng, ngay cả khi đã lại rất gần, nhưng vẫn cảm nhận rõ ràng độ hùng vĩ đội trời đạp đất của nó. Nó giống như một chiếc tráp thần kỳ nặng hàng triệu tấn, im lìm sừng sững đứng giữa vực thẳm, tuy rằng những bức phù điêu được đúc bằng vàng trông rất xa hoa độc đáo, nhưng vẫn không thể che giấu được sự đơn độc, thê lương nổi trội của nó, và thực không biết nếu bước chân vào trong, thì sẽ còn gặp phải tình huống bất ngờ đến mức nào nữa. Nhưng sương khí bám gót rất nhanh, nên bốn người chẳng kịp nhìn rõ, cũng chẳng kịp suy nghĩ trước sau, cứ liều mạng ôm súng lẻn vào, rồi lập tức đóng chặt cánh cửa lại, cầm đèn pin lên soi, xung quanh vắng tanh không một bóng người, hai bên đều là bức tường đá lạnh lẽo, nhẵn bóng, không hề có vết nứt hay khe hở nào, nơi sâu gió lạnh thổi vi vút, dường như đó là một con đường ngầm, chẳng hiểu nó thông đến nơi nào.




Tư Mã Khôi trút tiếng thở dài, anh thấy bên trong huyệt động quá tối, đèn pin chẳng phát huy được mấy công dụng nên hoàn toàn không nhìn rõ mình đang ở đâu, hơn nữa chiếc đèn chiếu halogen cuối cùng cũng đã hết sạch nhiên liệu, không thể sử dụng được nữa, anh bèn rút một cuộn pháo phát tín hiệu, gấp hai đầu lại, rồi huơ nhẹ trên tay, ánh sáng xanh mờ vụt lóe lên.



Tư Mã Khôi cầm chặt pháo tín hiệu trong tay, mượn ánh sáng yếu ớt của nó ngẩng đầu lên nhìn. Bất chợt anh thấy một bóng đen lay lắt ở đường biên phạm vi chiếu sáng, thoáng nhìn lại tưởng là Tuyệt, bởi vì trên đầu kẻ đó cũng đội chiếc mũ sắt M1 của Mỹ, nhưng rất nhanh sau đó, anh phát hiện thấy ba người bạn đồng hành còn lại lúc này đang ở ngay sau lưng mình. Anh lập tức đề cao cảnh giác, cầm chặt khẩu súng, chăm chú quan sát kỹ, và phát hiện kẻ đó gầy guộc như một nắm xương tàn, cúi đầu ngồi cuộn tròn trong góc tối, chẳng thể nhìn rõ khuôn mặt giấu dưới chiếc mũ sắt, chỉ thấy chiếc áo sơ mi rách mủn như mùn, mình mẩy bẩn thỉu như vừa đi mò hến, trong tay hắn nắm một cuộn pháo phát tín hiệu đã tắt ngấm, bên vai khoác lệch chiếc túi vải buồm quân dụng, ngồi im bất động như khúc gỗ khô. Với sự nhạy bén cực độ của mình, Tư Mã Khôi hoàn toàn không phát hiện thấy bất kỳ dấu tích của sự sống nào trên cơ thể đối phương, nên trong lòng anh càng nghi hoặc nhiều hơn: "Chẳng lẽ người chết dùng pháo phát tín hiệu dẫn đường cho chúng ta đi vào đường ngầm?"



Tư Mã Khôi lập tức nghĩ đến việc khi nãy phát hiện thấy một hàng xe tải quân dụng Dodge của Mỹ ở cánh rừng rậm dưới lòng đất, rồi nơi sâu trong sơn cốc núi Dã Nhân đâu đâu cũng chi chít những tàn tích của thực vật, mà nếu có đi vào bên trong, thì ngay cả chỗ đặt chân cũng chẳng dễ kiếm, nên căn bản không thể có đường cho phép xe tải cỡ lớn lái vào. Thế nhưng, mười cỗ xe tải kềnh càng kia lại tự dưng mọc lên giữa cánh rừng một cách ngoài sức tưởng tượng như thể không gian ở đây đã tồn tại hiện tượng giao thoa trùng ảnh đặc biệt; điều này thật khiến người ta không thể lý giải nổi.



Mười cỗ xe tải ấy chuyên chở rất nhiều trang thiết bị quân dụng, xem ra đó là đội xe vận tải của quân Đồng minh, nhưng các nhân viên trong xe đều nhất loạt mất tích, sống không thấy người, chết không thấy xác, giống hệt đội thám hiểm người Anh trong chiếc tiêm kích Rắn đen II vậy. Tất cả bọn họ đều bặt vô âm tín, quá nửa chắc đã bị rắn "Ly chùy" lảng vảng trong sương mù nuốt chửng, nên ngay cả mảnh xương vụn cũng chẳng còn.



Hội Tư Mã Khôi luẩn quẩn mãi xung quanh tòa thành Nhện Vàng, lạc mất cả phương hướng, rồi gặp phải Udumbara sinh sôi nảy nở thần tốc, khiến sương mù tụ hợp quánh đặc. Bốn kẻ may mắn sống sót đã bị dồn vào chân tường không lối thoát, chẳng ngờ giờ đây lại bị ánh sáng đèn tín hiệu mờ mờ ảo ảo dẫn đến con đường ngầm nằm dưới chân tòa tháp cổ hoang phế.



Mãi đến lúc này, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ kẻ dùng pháo sáng tín hiệu dẫn đường bọn họ thoát hiểm, nhưng chẳng ngờ đó lại là một người chết, mà nhìn bộ dạng ăn vận, thì dường như hắn ta là quân nhân Mỹ bị mất tích trong cuộc phản công của Miến Điện. Anh suy đoán, thân phận của hắn ta có lẽ liên quan đến đoàn xe tải trong cánh rừng rậm. Sở dĩ anh đoán đối phương là người chết, là vì phàm người sống đều có hơi thở, cũng có nghĩa là phải hít vào thở ra. Con người lấy khí làm gốc, lấy hơi làm rễ, chỉ cần hít vào một cái, trăm mạch giãn nở, chỉ cần thở ra một cái, trăm mạch khép kín, khi con người hít thở, khí oxi sẽ chuyển hóa thành khí cacbonic, đồng thời khiến các lỗ chân lông dưới lớp da sản sinh một nhiệt lượng rất nhỏ, đây chính là cái mà người xưa gọi là "dương khí" hay "sinh khí". Thế nhưng trên cơ thể kẻ đang ở trước mắt, anh lại không hề cảm nhận được sự tồn tại của hơi thở, bởi nó yên ắng bất động, giống như một thi thể chết đột ngột trong bóng tối đã bao năm.



Tư Mã Khôi trong lòng cảm thấy kỳ quái, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ mình gặp ma thật sao?" rồi một tay anh lần cò súng, một tay nắm chặt thanh pháo sáng tín hiệu, rướn người lên trước, định mượn ánh sáng xanh mờ nhìn rõ khuôn mặt giấu kỹ dưới chiếc mũ sắt kia.



Chẳng ngờ, Tư Mã Khôi vừa cử động thì bóng người ở góc tường bỗng dưng đột ngột đứng bật dậy mà chẳng hề có động tĩnh nào báo trước. Tư Mã Khôi và ba người còn lại giật nảy người, đồng thanh hét lên kinh hãi, vội vã lùi lại phía sau, rồi cầm vũ khí lên, nhưng họ chưa kịp bóp cò thì bóng đen đội mũ sắt đã sớm trốn chạy vào nơi sâu trong đường hầm tự lúc nào.




Tư Mã Khôi muốn đuổi theo để làm cho rõ trắng đen, nhưng lại sợ ba người ở lại phía sau sẽ gặp bất trắc, nên đành kìm lại. Anh thấy vết thương ở hông của Hải ngọng rất nặng, di chuyển đi lại càng khiến vết thương không khỏi hở miệng nứt toác, máu tươi chảy ròng ròng từ đùi xuống chân, đi một bước, máu tươi lại in một dấu hình bàn chân, đau đến mức trán ứa mồ hôi lạnh. Lập tức Tư Mã Khôi ra hiệu bảo mọi người không nên manh động, tạm thời dừng chân tại chỗ, băng bó lại vết thương cho La Đại Hải.



Tuyệt kiểm tra và làm sạch miệng vết thương của La Đại Hải, đòng thời cũng tiêm một mũi cầm máu chống nhiễm trùng cho vết rách, sau đó quay sang nói với Tư Mã Khôi: "Hải ngọng chỉ bị vết thương ngoài da thôi, may mà thể lực cậu ta tốt, nên chẳng có gì đáng ngại." Nhưng khi Tuyệt nói thì khuôn mặt của cô lại rất đăm chiêu lo lắng, ngầm ám thị cho Tư Mã Khôi biết: vết thương của Hải ngọng không hề lạc quan chút nào, phen này cậu ta quả thật đã lãnh đủ đòn.



Tư Mã Khôi nhìn tình hình mà không khỏi lo lắng, nhưng anh cũng chẳng nghĩ ra được cách gì. Lúc này ánh sáng yếu ớt của thanh pháo tín hiệu cũng đã mờ nhạt rồi dần tắt, tuy rằng mọi người thấy sương mù không còn phun ra, nhưng bị nhốt trong bóng tối đen kịt thế này thì cũng chẳng khá hơn, thế là mọi người bèn quyết định phải tiến lên phía trước thăm dò cho rõ tình hình. Họ thay đèn halogen bằng đèn pin để soi đường, rồi thuận theo đường hầm đi sâu khoảng mấy chục mét, chỉ thấy một dãy bậc thang đi xuống, phía sâu hơn nữa là một con đường thẳng như cán bút đi xuyên sâu vào trong động đá. Không gian nơi này vô cùng bằng phẳng khoáng đạt, vòm trần cong cong vừa rộng vừa cao, nếu sắp hàng ngang mấy cỗ xe tăng ở bên trong chắc cũng không vấn đề, hơn nữa địa thế có chiều hướng thấp xuống, khiến dòng bùn đất chảy vào cứ chầm chậm trôi về nơi sâu, trong đường hầm hình thành một con sông ngầm, hai bên có xây bờ cát và bậc đá.



Họ đi dàn hàng ngang, bốn người đi vào nơi sâu trong đường hầm, nếu suy đoán theo phương vị, thì có lẽ đã bước vào tòa thành bốn triệu bảo tháp bị vùi một nửa dưới lòng đất, và lúc này mới biết bên trong nó quả nhiên tồn tại khoảng không gian. Nhìn bốn bức tường đều là những viên gạch lớn màu sắc sặc sỡ, không rõ người cổ xưa đã dùng loại sơn màu nào, mà trong môi trường ẩm thấp tối tăm thế này, nó vẫn có thể tươi sáng rực rỡ đến chói mắt. Trên những viên gạch đều khắc hình một khuôn mặt người vô cảm, hàng dãy hàng dãy nối tiếp nhau, chẳng rõ số lượng chính xác là bao nhiêu. Trước bức tường là hai hàng tượng người đá trong tư thế quỳ đứng, có khuôn mặt hoàn toàn giống nhau chẳng chút khác biệt, và dưới sự thâm nghiêm lạnh lùng đến cứng ngắc ấy, lại ẩn giấu mùi hơi thở chết chóc khiến người ta sợ hãi. Con đường hầm như phảng phất nối liền giữa thực tại và hư ảo này, dường như là một cửa động rộng lớn khác thường, mà mọi người không thể tưởng tượng điểm tận cùng của nó thông ra nơi nào, thậm chí ngay cả nó có điểm tận cùng hay không, thì cũng chẳng ai biết được.



Tư Mã Khôi vừa đi vừa để ý động tĩnh xung quanh, đồng thời quay sang dò hỏi Ngọc Phi Yến, vì sao vua Chăm Pa lại cho xây dựng "con quái vật" này dưới lòng đất? Tại sao trên mỗi viên gạch đều khắc hình một khuôn mặt người? Chẳng lẽ đó là dung mạo của vua Chăm Pa?



Kiến thức về tình hình thực tế tòa thành bốn triệu bảo tháp của Ngọc Phi Yến chỉ có hạn, nhưng cô đã từng xem qua không ít văn vật Chăm Pa cổ, nên cũng hiểu đôi chút về lịch sử có liên quan. Khi nghe Tư Mã Khôi hỏi đến việc này, cô liền bất giác nhớ đến một chuyện, nên vừa suy ngẫm vừa đáp lời anh: "Dung mạo? Dung mạo của vua Anagaya không giống thế này, ông ta vốn dĩ không phải là người..."


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48: hồi thứ tám: kẻ may mắn sống sót


Hồi thứ tám: Kẻ may mắn sống sót



Tư Mã Khôi vốn dĩ cho rằng tòa thành cổ này là lăng tẩm dưới lòng đất của vua Chăm Pa, nhưng giờ đây nghe Ngọc Phi Yến nói, lòng anh tràn đầy kinh ngạc, vua Anagaya không phải là người? Vậy chẳng lẽ vương triều cường thịnh bậc nhất thời cổ đại lại để một con khỉ lên làm chủ đất nước?



Ngọc Phi Yến lườm Tư Mã Khôi một cái, ánh mắt sắc như dao: "Tôi bảo ông ta là khỉ hồi nào? Anh đừng có xằng xiên bậy bạ, phải nghe tôi nói hết đã chứ. Vua Chăm Pa..." cô ta đang định giải thích cặn kẽ, thì nghe có tiếng khuấy động "bì bõm" trong làn nước đen ngòm từ nơi không xa lắm vọng đến, một con cá sấu xù xì như đoạn củi khô nổi lềnh bềnh trên mặt sông đang lao vào bọn họ.



Thì ra lúc đầm lầy sụt lở, vô số cá sấu không kịp tránh nạn, đã trượt xuống đáy vực, chúng đuổi theo mùi âm khí tối tăm, ẩm ướt mà lần được tới đây. Cũng chẳng rõ chúng chui vào đường hầm từ khe nứt nào, nhưng con sông ngầm này là dòng nước chết, nên chẳng tìm thấy bất kỳ loại thức ăn nào, trong khi ống quần và giày của Hải ngọng ướt đẫm máu tươi, nên phút chốc như mời gọi tất cả bầy cá sấu dưới nước đến.




Tuy bốn người đều mang theo vũ khí, nhưng lại không có thiết bị chiếu sáng, nên họ chẳng dám dựa vào đèn pin mà liều mạng đối đầu với chúng giữa đêm tối. Thấy tình hình không ổn, họ liền rút lui lên bệ đá nhỏ hẹp ngay bên sườn đường hầm.



Bệ đá chỉ rộng chừng nửa mét, cách một đoạn lại có một tượng người đá thấp lùn quỳ rạp xuống đất, trong khi hội Tư Mã Khôi đều biết, cá sấu từ trước đến nay nổi tiếng hung bạo và tham ăn, đừng thấy cơ thể nó có vẻ chậm chạp vụng về mà coi thường, vì bốn cái chân vừa thô vừa ngắn có thể đột ngột phóng vù lên mặt nước cao hàng mấy mét, đớp gọn cả cây lẫn khỉ, chứ bệ đá cao hơn đầu người này thì nhằm nhò gì? Bởi vậy mọi người đều ẩn mình nấp phía sau tượng đá, chẳng dám động cựa, tai nghe âm thanh cá sấu lê tấm thân nặng nề quẫy nước, thì biết chúng không phải chỉ có một con.



Tư Mã Khôi thò đầu khỏi lưng tượng quan sát tình hình, nhìn dòng sông ngầm dưới đáy đường hầm, anh đành nuốt mấy lời định nói khi trước vào bụng, chỉ bảo ba người còn lại: "Chúng ta đúng là vừa thoát khỏi hang cọp đã rơi vào bẫy rồng. Không biết kẻ dẫn dụ chúng ta vào con đường hầm này, lai lịch thế nào? Nếu hắn ta quả thật là binh lính quân Đồng minh mất tích ở vùng núi Bắc Miến trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, thì làm sao có thể sống sót dưới lòng đất quanh năm không có ánh mặt trời này những ba mươi mấy năm?"



Hải ngọng tuy vết thương ở hông vô cùng đau nhức, nhưng không nhịn được, liền nói chen vào: "Tớ thấy thằng cha ấy căn bản chẳng giống người sống tí nào. Theo quan điểm học thuyết tương đối, trên thế giới này có người, tất sẽ có ma, có lẽ chúng ta gặp ma thật rồi."



Tư Mã Khôi lắc đầu nói: "Ban đầu tớ cũng cho rằng vậy, nhưng lúc pháo sáng tín hiệu chiếu qua đó, tớ nhìn thấy rõ ràng hắn có bóng, những người sau lưng có bóng thì không thể nào là ma, có điều..."



Lời chưa nói dứt, thì nghe phía sau tượng đá ở con đường hầm đối diện, vọng lại những âm thanh khe khẽ. Lúc này, thiết bị chiếu sáng bên mình, ngoại trừ mấy cuộn pháo tín hiệu và lựu đạn phốt pho ra, thì chỉ còn lại hai chiếc đèn pin và một ngọn đèn tiết kiệm điện. Loại đèn tiết kiệm này chẳng khác nào đèn kéo quân thời trước, bên trong là ống phát sáng tiết kiệm điện năng, bốn phía lắp thấu kính giúp khuếch tán tia sáng, có thể chống gió, chống nước, lại có thể treo trong lều làm nguồn sáng cố định, nhưng ánh sáng của nó không mạnh lắm nên không thể soi rõ nơi xa, vì chỉ có đèn pin tụ quang mới soi được khoảng cách năm sáu mét.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Chùm sáng của đèn pin tụ quang cũng có thể điều chỉnh, quầng sáng càng tập trung thì phạm vi soi sáng càng xa, nhưng phạm vi chiếu sáng lại càng nhỏ. Tư Mã Khôi điều chỉnh quầng sáng đèn pin lên tới cực hạn, giơ cao soi về khu vực phát ra động tĩnh, ba người còn lại cũng nhẹ nhàng mở chốt an toàn khẩu súng đang cầm trên tay, bóp hờ vào lẫy, chỉ cần nhấn một cái là đạn nổ.



Quầng sáng đèn pin chỉ còn lại chu vi khoảng một nắm tay, nhưng cự ly chiếu sáng thì tăng lên không ít, qua con sông ngầm, và có thể soi rõ đầu bên kia của đường hầm, nhưng nhìn bằng mắt thường, thì vẫn cực kỳ mơ hồ, chỉ thấy trên vai bức tượng đá hình như có một người đang đứng, chiếc mũ sắt lụp sụp phía trên lúc ẩn lúc hiện, dường như là "người" lúc trước chạy trốn vào nơi sâu trong đường hầm, đang mai phục bên bờ đối diện nhìn trộm hành động của hội Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi đang định mở miệng hỏi, thì đã nghe đối phương giành nói trước: "Đừng chiếu đèn pin nữa, tôi bị nhốt lâu ngày dưới lòng đất, mắt không nhìn được ánh sáng, các anh rốt cục là ai vậy?" Giọng nói yếu ớt như chẳng còn chút sức lực nào, nếu không căng tai lên nghe kỹ, thì căn bản không thể nghe rõ được.




Mọi người nghe xong đều ngạc nhiên không thốt thành lời, nghe giọng nói thì đối phương cũng là người Trung Quốc, hơn nữa hình như là khẩu âm vùng Vân Nam, chẳng lẽ anh ta không phải quân Mỹ bị mất tích năm đó? Ngoài ra, Tư Mã Khôi cũng biết, những người sống quanh năm trong bóng tối, mắt không được phép đột ngột nhìn ánh sáng, nếu không con ngươi sẽ nổ mà mù lòa, bèn hạ quầng sáng đèn pin xuống thấp, rồi đáp lời: "Chúng tôi là đội đặc vụ chiến trường đông bắc quân đội cộng sản Miến Điện, còn anh ở đơn vị nào?"



Người đội mũ sắt bên bờ đối diện tỏ ra hơi ngạc nhiên một chút, thắc mắc: "Đội đặc vụ... quân đội cộng sản Miến Điện ư? Đội đó làm gì vậy?"



Tuy Hải ngọng đang bị thương, nhưng miệng thì không nín lại được, bèn hỏi ngược đối phương: "Hỏi làm gì? Đó là đội du kích vũ trang nguy hiểm nhất quả đất, tôn chỉ của bọn ta là giúp các ông dân nghèo ngày nào cũng được ăn tết, là đến nhà những tên giàu có nhưng bất nhân, ăn cơm của chúng, ngủ giường của chúng, rồi xem xem con vợ chúng nó trông có thuận cái lỗ mắt hay không..." Tư Mã Khôi nhỏ giọng cảnh báo Hải ngọng, bảo anh mau ngậm miệng, đừng nói năng xằng bậy, bây giờ không phải lúc uốn bảy tấc lưỡi, sau đó anh cất cao giọng hỏi đối phương: "Việc của chúng tôi tương đối phức tạp, một hai câu không thể giải thích hết được, hay anh hãy nói về mình trước, mau cho chúng tôi biết anh là ai?"



Đối phương tựa hồ cảm thấy hội Tư Mã Khôi không có ý đối đầu, bèn khai báo tên tuổi: "Tôi ở đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, đơn vị vận chuyển bổ sung hỗn hợp, ban liên lạc, tên là Tiền Bảo Sơn."



Tư Mã Khôi nhớ lại cuốn nhật ký của ông nội Karaweik để lại, có ghi chép tình hình cụ thể về việc xây dựng con đường U Linh của quân Đồng minh ở Miến Điện vào thời kỳ kháng Nhật. Đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân Mỹ, trên vai đeo huy hiệu hình đầu hổ, phụ trách việc khai thông đoạn đường qua núi Dã Nhân, mật khẩu liên lạc của đơn vị đó là "AAD". Do nhu cầu giao tiếp, thương lượng nên lúc đó, quân đội Mỹ được điều động không ít binh lính người Trung Quốc, xem ra người này là một trong số đó. Đối phương đã nhắc đến "đơn vị vận chuyển bổ sung", thì hàng xe tải mười bánh Dodge kia chắc chắn là do bọn họ lái vào đây, nhưng sao đội xe đó lại xuất hiện ở nơi sâu nhất trong sơn cốc? Làm sao họ lái được xe vào đây? Cả đơn vị vận tải sao chỉ còn sót lại một mình anh ta còn sống? Trong môi trường khắc nghiệt này, anh ta dựa vào cái gì mà tồn tại đến tận bây giờ? Chẳng lẽ suốt thời gian gần ba mươi năm dài đằng đẵng đó, từ đầu chí cuối đều không thể tìm nổi cơ hội trốn thoát ra ngoài?



Không chỉ mình Tư Mã Khôi, mà cả ba người còn lại trong lòng đều chồng chất nghi hoặc, vấn đề chủ yếu nhất là muốn nhanh chóng biết rõ: "Rốt cục có cơ hội chạy thoát khỏi núi Dã Nhân hay không?"



Tiền Bảo Sơn cũng phát hiện được nghi hoặc của bốn người, bèn than thở: "Tôi bị nhốt dưới con đường hầm này bao nhiêu năm thì bản thân cũng chẳng đếm chính xác được. Để tôi kể câu chuyện của mình cho các anh nghe, các anh sẽ tự khắc hiểu hoàn cảnh trước mắt là như thế nào."



Sau đó, Tiền Bảo Sơn liền kể đầu đuôi sự việc ọi người nghe: vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, chiến trường Trung Quốc tiếp nhận con đường viện trợ từ bên ngoài, mọi luồng viện trợ chỉ nhờ vào "tuyến đường bay bướu lạc đà". Thế nhưng nếu chỉ dựa vào lực lượng vận chuyển không quân, thì sẽ khó lòng chống đỡ nổi nhu cầu vật tư khủng khiếp của cả chiến trường Trung Quốc, mà những tuyến giao thông đường bộ khác đều đã bị quân Nhật cắt đứt, bởi vậy, muốn phản công ở Miến Điện, phải khai thông tuyến đường Trung Ấn, đó là mục tiêu chiến lược lúc đó của quân Đồng minh. Tiền Bảo Sơn quê ở Vân Nam, từng theo quân viễn chinh tiếp nhận khóa huấn luyện sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ, cuối cùng bị điều về đơn vị vận chuyển bổ sung của đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, tham gia nhiệm vụ xây dựng con đường Stilwell trong núi Dã Nhân.




Con đường núi Dã Nhân phân bố thành hình chữ Y, bên trái là tuyến đường A, bên phải là tuyến đường B, lúc đó con đường được xây dựng trước là tuyến đường B có khoảng cách chim bay ngắn hơn, vì trước khi quân Nhật xâm chiếm Miến Điện, núi Dã Nhân đã tồn tại đường hầm bí mật do thực dân Anh khai phá, nhưng trong quá trình thi công, đã xảy ra quá nhiều biến cố bất ngờ. Những trở ngại phải đối mặt vượt xa dự tính, đã khiến quân Mỹ đành phải khai phá tuyến đường A ngoằn ngoèo khúc khuỷu.



Vậy mà tuyến đường A xây dựng vòng theo ngoại vi núi Dã Nhân, vẫn chẳng thể xây dựng thuận lợi, do tàn quân Nhật lẩn trốn trong núi không kịp thời diệt sạch, nên lính công trình thường xuyên bị những tiểu đội nhỏ quân Nhật quấy nhiễu, và những cuộc chiến đấu lẻ tẻ, quy mô nhỏ dường như chẳng bao giờ dứt. Lần đó, đơn vị vận tải của Tiền Bảo Sơn lái đoàn xe tải Dodge chuyên chở một số vật tư quân nhu cần thiết cho tiền tuyến; đoàn xe nối đuôi nhau chạy đến điểm nút Kansas thì gặp mai phục, lâm vào vòng vây của quân Nhật.



Trải qua cuộc giao chiến ngắn ngủi, đoàn vận tải phát hiện đội quân Nhật này được trang bị rất nhiều xe tăng thiết giáp đời 97 do Mitsubishi thiết kế và chế tạo, mà người Trung Quốc vẫn gọi nó là "Xe mai rùa". Lúc đó do vội vàng tiếp chiến với quân địch, nên đội xe đã bị đối phương kìm kẹp trước sau, mắc kẹt trên đường, địa hình nơi ấy lại vô cùng bất lợi, nếu còn tiếp tục giằng co thì chỉ có thiệt thân. Giữa lúc tình thế cấp bách ngàn cân treo sợi tóc, chiếc xe dẫn đường phía mũi trước, đánh nhau với quân địch ở cự ly tương đối gần, liền cho nổ pháo, rồi tăng tốc đâm sầm vào chiếc xe tăng đời 97.



Chiếc xe tăng 97 của quân Nhật tuy được mệnh danh là chiến xa hạng trung, kỳ thực chỉ có thể miễn cưỡng gọi là xe tăng hạng nhẹ, vì trọng tải chiến đấu mới có 1,5 tấn, trong khi trọng tải tổng thể của xe tải Dodge nặng tới gần mười tấn, nên luận về sức mạnh hay sự đồ sộ, thì căn bản chúng không cùng đẳng cấp. Người lái xe tuyến đầu càng đánh càng hăng tiết, cộng thêm địa hình nhỏ hẹp, quanh co của con đường núi, kết quả cả xe tải và xe tăng đều lộn nhào xuống khe núi, hai bên cùng rủ nhau chầu trời.



Đội xe bị kẹt phía sau cũng xông lên đột phá vòng vây, vừa đánh vừa chạy, cuối cùng cũng thoát khỏi cuộc chiến đấu, chẳng ngờ không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào lại lái vào tuyến đường B hoang phế, lúc đó trong đội xe có một hướng dẫn viên kiêm phiên dịch người bản địa tên là Mukhan, anh ta dẫn cả đội vào một đường hầm.



Sau đó để ngăn chặn sự truy đuổi của quân Nhật ở phía sau, đội xe liền sai công binh đánh sập lối vào đường hầm, chẳng ngờ bom nổ đã khiến cả con đường hầm liên tiếp sụp đổ với quy mô lớn, nên tuy đã cắt đuôi được kẻ địch, nhưng đồng thời lại chặn đứng đường rút lui của chính mình. Bọn họ không còn cách lựa chọn nào khác, đành phải men theo con đường mới xây dựng được một nửa, tiếp tục tiến sâu vào trong núi.



Tiền Bảo Sơn là cô nhi, lớn lên trong trường giáo hội ở Vân Nam, bởi vậy anh ta là tín đồ trung thành của Thiên chúa giáo, mãi đến trước khi bước vào đường hầm tối om này, anh ta vẫn thực sự tin tưởng bản chất của thượng đế đến tận xương tủy, nên chưa bao giờ thử nghĩ xem: "Ác linh có tồn tại hay không?"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49: Hồi thứ chin: đường hầm chết


Hồi thứ chin: Đường hầm chết



Tiền Bảo Sơn nói, bản thân anh ta chưa bao giờ tin vào tà thuật, nhưng những gì gặp phải trong núi Dã Nhân, đã thực sự khiến anh ta cảm thấy dường như đã chạm tới hơi thở của ma quỷ.



Sau khi đội vận tải chạy trốn vào đường hầm, liền bị mất phương hướng, vô tình đâm xuống một hang sâu rộng lớn, thần bí. Huyệt động cổ xưa này được hình thành từ hàng trăm triệu năm về trước, đi đến đâu cũng thấy ngà và xương voi cao ngất như núi, mạng lưới huyệt động đá vôi và hành lang dưới lòng đất giao thoa chằng chịt, tuy nơi nào cũng rộng rãi bằng phẳng như đường hầm, thậm chí có chỗ còn to bằng mấy sân bóng đá gộp lại, nhưng nó thực sự là một mê cung vô cùng phức tạp, chằng chịt; không ít khu vực bị sương mù phong tỏa, nên phân đội trinh sát đi trước dò đường chẳng thấy ai trở về.



Anh Mukhan người Miến Điện đã nói với sư đoàn trưởng: chỉ e nơi này là huyệt động ma mút trong núi Dã Nhân. Anh ta còn tự nhận mình rất thông thạo tập tính của voi rừng, nên chắc chắn sẽ tìm thấy lối ra khỏi Tượng Môn, nói đoạn liền đi trước dẫn đường. Anh ta dẫn đội xe quay đầu về hướng có bức màn được kết thành bởi trùng điệp những mạng lưới đá vôi, rồi đi sâu mãi vào một huyệt động thấp lè tè, chiều cao của nó chỉ khoảng mười mấy mét, nhưng tứ phía vô cùng khoáng đạt, hình dáng tựa như vỏ sò, trên mặt đất chi chít những nếp gấp khúc, địa hình gồ ghề lồi lõm rất khó đi, hơn nữa phần phủ dưới đáy động cũng không phải lớp đất đá, mà dường như là một loài thực vật, nên đi được nửa đường thì nhiều bánh xe bắt đầu lún xuống.



Sư đoàn trưởng phát hiện tình hình không ổn, vội vàng ra lệnh cho cả đoàn vận tải bỏ xe chạy lấy người, rút trở về đường cũ, ai ngờ đáy động bị đoàn xe nặng trăm tấn đè xuống, nứt toác thành một khe hở rất rộng, rồi từ giữa kẽ nứt, sương mù trào lên mù mịt, chẳng đợi đoàn vận tải kịp hiểu ra chuyện gì, thì tất cả đã bị rơi vào sương mù.




Chiếc xe của Tiền Bảo Sơn và Mukhan rơi xuống tán lá một cây cổ thụ nằm sâu dưới lòng đất, người ngồi trong xe ngã xây xẩm mặt mày, chỗ nào cũng bê bết máu. Họ nghe có tiếng hét lớn kêu cứu vọng ra từ những chiếc xe khác, nhưng trong chớp mắt đã im bặt không một động tĩnh, cũng chẳng rõ họ đã gặp phải thảm cảnh gì. Hai người vội vàng trèo ra khỏi xe, định đến ứng cứu, nào ngờ chiếc xe tải mười bánh vắt vẻo trên một cành cây, phía dưới gốc cây là con đường sâu hút lênh láng nước tù. Tiền Bảo Sơn không phân biệt được phương hướng trong sương mù, vừa giẫm chân đã bước hụt xuống khoảng không chơi vơi, cả thân thể lập tức ngã nhào. Mukhan ở phía sau định kéo anh ta lên, kết quả Tiền Bảo Sơn lôi tuột cả hai xuống. Hai người men theo gốc cây lăn vào một huyệt động âm u, lạnh lẽo dưới lòng đất, suýt chút nữa thì sặc nước mà chết, rồi khi bọn họ giãy giụa bò được dậy, dùng đèn pin chiếu sáng, leo lên chỗ cao, thì mới phát hiện nơi rơi xuống khi nãy đã bị bánh xe lún xuống chặn đứng.



Hội Tư Mã Khôi nghe đối phương nói đến đây, mới biết dãy xe tải mười bánh xuất hiện trong cánh rừng rậm, quả nhiên từ trên cao rơi xuống, chẳng trách toàn thân xe đều vỡ nát, hư hỏng nặng nề. Quả của cây Udumbara to lớn hình thành một tầng kén hình chiếc ô che phủ toàn bộ thành cổ, giữa tầng kén tồn tại một khoảng không gian trống rỗng, không hề có sương mù. Đội vận tải bổ sung đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, vì tránh né sự truy sát của quân Nhật, đã lỡ chân lạc bước vào huyệt động ma mút giống như mê cung huyền bí, kết quả là cả đội xe đều rơi xuống đáy động, toàn bộ thành viên bị sương mù nuốt chửng, chỉ có hai người là Tiền Bảo Sơn và Mukhan may mắn sống sót, nhưng tiếp sau đó, hai người bọn họ đã gặp phải những tai ương gì? Làm sao có thể người chẳng ra người, ma chẳng ra ma, sinh tồn mấy chục năm ở nơi hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này? Anh lính Miến Điện tên Mukhan bây giờ còn sống hay đã chết?



Tiền Bảo Sơn tiếp tục kể phần còn lại của câu chuyện: anh ta và Mukhan rơi vào một huyệt động ẩm ướt, âm u, lạnh lẽo, xung quanh tử khí bốc lên ngùn ngụt, chẳng nhìn thấy nửa bóng người, kêu trời trời không thấu, gọi đất đất không hay, nên thần kinh dường như suy sụp đến tột độ. Cũng chẳng biết họ lần mò bao lâu trong đường hầm rồi vô tình chui vào một sơn động rất sâu, trong động đá ngọc cao ngất, rêu xanh phủ dày, sinh trưởng rất nhiều loại nấm đất và quả mọng, thịt quả dày, nhiều nước, vị hơi đắng, nhưng có thể ăn được.



Hai người hoảng loạn trong lòng, ăn bừa vài trái quả mọng, rồi tiếp tục đi về phía trước, đi mãi cũng đến con đường hầm rộng rãi ẩn giấu dòng sông ngầm này, càng đi vào sâu, càng thấy khí đen âm u mịt mùng, khiến họ ớn lạnh tận tim, dừng chân không dám bước tiếp.



Tiền Bảo Sơn chỉ muốn quay đầu ra ngay, nhưng lúc này Mukhan lại tiêt lộ một câu chuyện rất kỳ lạ. Anh ta nói từ hơn một ngàn năm trước, sơn cốc núi Dã Nhân từng là thần cung của một vương triều Chăm Pa hiển hách. Thần cung dùng để thờ phụng các thần linh Vệ Đà trên trời, tầm cỡ tương đương như quốc miếu vậy. Sau khi người Chăm Pa chinh phục vương quốc Thaton, những nô lệ bị bắt giữ và một lượng lớn thợ mộc lành nghề điêu luyện, đều được tập hợp lại để xây dựng tháp cổ. Trong khoảng thời gian đằng đẵng trên dưới hai trăm năm, họ đã xây dựng được mười ba ngàn tháp đá lớn nhỏ với hình thù độc đáo, phong phú, mỗi tòa một khác, rồi đem toàn bộ châu báu của vương triều Chăm Pa cổ chôn cả xuống dưới chân tháp. Khi ấy, núi cao trập trùng, quần thể tháp cổ dày đặc như cánh rừng, trèo lên bất cứ tòa tháp nào, tiện tay chỉ về đâu, hướng tay chỉ cũng sẽ có một tòa tháp khác cao to sừng sững chắn ngang tầm mắt.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Mỗi khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn đỏ au và những vầng mây đầy trời sẽ nhuộm cả rừng tháp thành một màu vàng ánh kim rực rỡ, sau đó mới dần dần chìm sau những đỉnh núi nhọn hoắt trùng điệp ở phía xa. Phàm những ai đã tận mắt trông thấy kỳ quan này, đều không khỏi trầm trồ thán phục trước vẻ uy nghiêm, lộng lẫy như cõi mộng của nó.



Có điều, tuy địa thế núi Dã Nhân kỳ lạ tột độ nhưng đó lại là một ngọn núi cát có vỏ ngoài là đá. Vì bên trong toàn bộ là đất cát, nên lòng núi rỗng ruột, đáy thần điện che phủ dải hồ rộng lớn dưới lòng đất. Sau này, do mạch nước lún xuống, lòng núi sụt vỡ, nên vô số tháp cổ cùng toàn bộ thực vật trong cánh rừng gần đó đều bị lún chìm dưới vực sâu không đáy, từ đó hình thành nên khe sâu núi Dã Nhân.



Nói khe sâu núi Dã Nhân là một vực sâu không đáy, thì cũng chẳng ngoa chút nào. Thì ra, mạch nước hồ dưới lòng đất đã sớm khô kiệt, nhưng đáy hồ vẫn sót lại bể bùn rộng lớn vô biên, thành cổ và cánh rừng sụt xuống dưới, đều bị bùn lầy sâu khôn lường và khí mêtan che đỡ, và vì nằm chêch vênh trên lớp bùn lầy, nên bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng tiếp tục sụt lún sâu hơn.



Đại nạn khủng khiếp bất ngờ đổ xuống, khiến vương triều Chăm Pa vô cùng khiếp sợ. Họ cử người xuống khe núi thăm dò, chỉ thấy tòa thành bốn triệu bảo tháp bị hư hại nghiêm trọng, bèn cho rằng đây là họa trời tru đất diệt, là thần phật nổi trận lôi đình, là điềm hung vong quốc.



Quốc vương Chăm Pa lúc bấy giờ là vua Anagaya, ông ta nghĩ kế đề phòng hậu họa về sau, liền sai người luyện vàng, đúc cảnh tượng bốn triệu tòa bảo tháp lên bức tường thành, rồi từng thỏi vàng trùng trùng điệp điệp chồng chất lên nhau, tạo thành thứ kiến trúc hình con nhện quái dị. Bởi vậy, họ đặt tên cho khối vàng thỏi này là "tòa thành bốn triệu bảo tháp", với ý định lưu lại, đợi khi nào phục hưng đất nước thì sẽ dùng tới.




Cũng chẳng ai hiểu rõ vì sao người Chăm Pa khi ấy lại có nhiều vàng đến thế. Có thuyết nói, người cổ xưa biết nuôi loài "kiến tha vàng", vàng đúc tòa thành cũng không phải là loại vàng ròng tinh khiết, mà những thỏi vàng ấy thực ra là "vàng hời", loại vàng có pha lẫn bạc, màu vàng xanh được cán mỏng như tờ giấy, bọc bên ngoài viên gạch. Công nghệ xây dựng này rất thường thấy ở Miến Điện, nên ngẩng đầu lên nhìn chỉ thấy những tòa tháp vàng cao chọc trời, mà bên ngoài chính là lớp giấy vàng, nhìn từ đằng xa lấp lánh rực rỡ, sừng sững huy hoàng. Thế nhưng, nếu muốn tính riêng số vàng và đá quý bao bọc ở bề mặt, thì cũng chẳng thể biết chính xác rốt cục người Chăm Pa đã sử dụng bao nhiêu châu báu nữa.



Sau khi mạch nước trong khe núi biến mất, lòng núi bỗng dưng mọc lên cây thần Udumbara cổ xưa, nó dần dần bao trùm kín mít toàn bộ tòa thành Nhện Vàng dưới lòng đất, rồi từ đó sương mù bủa vây khắp nơi. Người Chăm Pa lại phá hủy toàn bộ những kiến trúc cổ đại còn sót lại trên mặt đất, đồng thời để lại lời nguyền độc địa: mãng xà và tháp cổ sẽ bảo vệ vĩnh viễn những bí mật của vua Anagaya, kẻ nào có ý đồ nhòm ngó kho báu của vương triều Chăm Pa, đôi cánh tử thần sẽ giáng xuống đầu kẻ đó.



Về sau, vương triều Chăm Pa quả nhiên dần dần suy vong, có điều dân tộc cổ xưa này vẫn còn chút thế lực nhất định ở phía bắc Việt Nam và Lào, thậm chí có thể nói, mấy trăm năm trở lại đây, cả lịch sử Việt Nam chính là lịch sử giao chiến giữa người Việt và người Chăm. Mãi đến ngày nay, hậu duệ người Chăm Pa vẫn còn rơi rớt lại ở hai đất nước này. Do ngày dài tháng rộng, họ dần dần cũng quên mất cội nguồn của chính mình, chẳng thể giải mã nổi ám hiệu của tiền nhân để lại, duy có một vài truyền thuyết cổ quái ly kỳ là vẫn lưu truyền cho đến giờ. Truyền thuyết nói: "Tòa thành cổ chìm sâu dưới lòng đất, rắn bay xuyên qua, sương mù bủa vây khe núi", nhưng chẳng ai có thể giải thích rõ ràng rốt cục đó là lời tiên tri hay ám thị.



Sương mù trong khe núi Dã Nhân sinh ra bởi thực vật dưới lòng đất. Tương truyền, đài hoa dạng sương mù Udumbara tuy sợ nước, nhưng với địa hình đặc thù của sơn cốc, nếu chẳng phải mưa lớn cuồng phong khiến lũ lụt kéo về đột ngột, thì cũng rất khó có thể xua tan được đám sương mù. Trong khi đó người Chăm Pa lại đào một huyệt động hình bụng rắn ở phần đáy tòa cổ thành, đồng thời cài đặt rất nhiều hố cát ngấm nước suốt dải rừng; nước tụ thành dòng ở đáy động, hàng tượng đá dọc hai bờ sông đều há miệng rỗng bụng, tất thảy đều liên quan đến bùn cát dưới đáy thành cổ, nó có tác dụng điều chỉnh mực nước, mà những khu vực có nước tù, sương mù sẽ không xuất hiện, bởi vậy đường hầm này là nơi an toàn duy nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân.



Mukhan không phải hậu duệ của triều đại Chăm Pa còn sót lại ở Bắc Miến, sở dĩ anh ta biết những chuyện này là bởi vì trong thời kỳ thực dân Anh thống trị, anh là lính Anh quốc tịch Miến Điện, từng chuyên trợ giúp đoàn thám hiểm Anh tìm kiếm tin tình báo khắp nơi, nhưng chưa kịp đợi đến khi người Anh khai quật kho báu của quốc vương Anagaya, thì quân Nhật đã đánh chiếm toàn bộ Miến Điện.



Về sau, quân Đồng minh phản công, thu hồi phần lớn vùng đất đã mất, Mukhan trở thành phiên dịch, chẳng ngờ lần thi hành nhiệm vụ đi theo đoàn vận tải này, lại rơi vào khe sâu trong núi Dã Nhân, nơi các đoàn thám hiểm nằm mơ cũng muốn tới, đúng là kết quả vượt xa dự tính ban đầu của con người. Nhưng trong tình hình này, những người còn lại chỉ sợ đều đã gặp nạn, bởi đường hầm chẳng có lối nào thoát thân, bên ngoài sương mù che phủ khắp nơi, lại còn mất liên lạc, còn những đội quân Đồng minh khác, căn bản không hề hay biết việc đội vận tải bổ sung đã bị rơi xuống huyệt động ma mút, nên chẳng thể hi vọng bọn họ đến cứu viện.



Mukhan nói với Tiền Bảo Sơn rằng kỳ thực tòa thành bốn triệu bảo tháp vốn dĩ không phải thành trì, và bên trong chỉ có một con đường duy nhất, ngoài con đường đó ra, thì không tồn tại bất kỳ khoảng không gian nào. Trên thực tế, cả tòa thành cổ là một con đường xuyên suốt, tất cả bí mật của quốc vương Chăm Pa đều được cất giấu sau bức tường phía cuối con đường, nhưng tình hình bên trong cụ thể ra làm sao, thì anh ta không hề hay biết.



Mukhan cho rằng trước mắt chỉ có nghĩ cách thăm dò nơi sâu nhất, may chăng mới tìm được lối ra, bởi vì sau khi đất sụt, người Chăm Pa mới xuống khe núi xây dựng tòa thành cổ. Nơi này lại quá sâu, không thể trực tiếp xuống dưới được, nên chắc chắn phải còn một lối vào bí mật khác, có điều tất cả chỉ là phỏng đoán, không thể xác định chắc chắn. Anh ta lại nói: "Tương truyền bất cứ kẻ nào to gan dám nhòm ngó bí mật của vua Anagaya, thì kẻ đó sẽ bị chết bất đắc kỳ tử. Tình hình trước mắt hoàn toàn mờ mịt, nếu lỡ bên trong quả thực có ác quỷ, thì chắc phải nạp mạng cho nó, chi bằng bây giờ một người vào trong trước, nếu lỡ không may gặp phải điều gì bất trắc, thì cũng không đến nỗi cả hai đều bỏ mạng." Thế là Mukhan để Tiền Bảo Sơn đứng đợi bên ngoài, một mình xách súng bước sâu vào trong đường hầm tìm lối. Thế nhưng anh ta đã một đi không trở lại, như tượng đất chìm bể sâu, trâm bạc rơi đáy giếng, từ đó trở đi hoàn toàn bặt vô âm tín, mặc kệ Tiền Bảo Sơn ở ngoài hét khản cả cổ họng, bên trong vẫn chẳng tiếng hồi âm.



Tiền Bảo Sơn cho rằng Mukhan chắc chắn đã gặp phải ác quỷ, và ít ra là cũng đã bị nó lột da nuốt sống. Tuy anh ta cũng từng làm lính, nhưng tính tình lại yếu đuối nhát gan, chẳng bao giờ cương quyết làm nổi việc gì, nên lúc này trong lòng cũng khiếp vía, chẳng dám lại gần đường hầm nơi Mukhan mất tích nữa.




Do bản năng mưu cầu sinh tồn của loài người, anh ta đành ăn loài nấm đất sinh trưởng trong huyệt động để sống qua ngày. Gắng gượng khổ sở suốt gần ba mươi năm dưới đường hầm, ngày nào Tiền Bảo Sơn cũng phải liên tục tự nói chuyện một mình, nếu không có khi ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng quên mất. Hơn nữa, do sống lâu trong đêm tối âm u, sinh khí của người sống trên cơ thể cũng dần dần biến mất, nên bản thân anh ta cũng chẳng rõ rốt cục mình là người hay là ma, và đã sớm từ bỏ mọi hi vọng thoát thân khỏi nơi này, chỉ đợi dương thọ vừa tận, là đổ vật nằm chết mà thôi. Nhưng hôm nay đột nhiên lại nghe thấy ở bên trên dường như trời long đất lở, rồi nước tù trong đường hầm cũng theo đó dâng lên mạnh mẽ, anh ta lại cho rằng nước lũ trên núi tràn xuống, liền liều chết trèo lên để nhìn cho rõ trắng đen. Vì sống quá lâu trong bóng tối, hai mắt đã thích ứng với môi trường nơi đây, lúc nhìn thấy hội Tư Mã Khôi ẩn mình trong hốc cây nghỉ ngơi, anh ta không biết kẻ đến là loại người nào, nếu lỡ gặp phải bọn gian tặc tìm đến khai quật kho báu vua Chăm Pa, thì khó mà tránh khỏi họa giết người diệt khẩu, bởi vậy chỉ âm thầm theo dõi trong bóng tối, không dám lại gần.



Tiền Bảo Sơn quan sát rất lâu, và cảm thấy hội Tư Mã Khôi không giống bọn phỉ. Mãi đến khi Udumbara khô héo bắt đầu hồi sinh trở lại, rồi sương mù theo đó xuất hiện ngày càng dày đặc, bốn kẻ may mắn sống sót bị lạc đường giữa đám tàn tích rừng thực vật, anh ta mới dùng pháo phát tín hiệu để dẫn họ vào đường hầm bụng rắn.



Khi kể hết câu chuyện, Tiền Bảo Sơn liền dò hỏi hội Tư Mã Khôi vì sao lại đến đây. Tư Mã Khôi chỉ nói bọn họ đều là dân du kích, căn bản không hề hay biết trong núi Dã Nhân có tồn tại tòa thành Nhện vàng của vua Anagaya, rồi vì gặp phải cơn bão nhiệt đới, buộc phải nhảy vào sơn cốc tránh né, không ngờ mặt đất sụt lở, mới lạc bước đến nơi đây. Còn về những chuyện quan trọng khác như: sau khi quân Đồng minh phản công Miến Điện, tình hình thế giới thay đổi thế nào, và cả chuyện bọn họ vào núi tìm chiếc tiêm kích vận tải, kích nổ quả bom địa chấn v.v... thì anh không nhắc đến chữ nào.



Tiền Bảo Sơn cũng chẳng dò hỏi thêm về việc này nữa, mà chỉ nói chắc do trời còn thương nên khiến anh ta còn sống sót sau hàng trăm tai nạn lẽ ra phải chết, không những vậy, còn có thể gặp được đồng hương. Anh ta sống trong đường hầm chớp mắt đã mấy chục năm, hiểu rõ địa hình nơi này tựa lòng bàn tay, phát hiện phía dưới đường hầm là bãi đầm lầy không đáy, quả thực chẳng tồn tại bất kỳ lối ra nào. Hơn nữa, cơn địa chấn lúc trước đã khiến huyệt động tàn phế này xuất hiện rất nhiều chỗ sụt lở, giờ đây chỉ có đường hầm chính trong tòa cổ thành có thể tạm coi là an toàn, còn những khu vực xung quanh đều bị chặn đứng hoàn toàn, khí ôxy còn sót lại chỉ sợ không thể duy trì lâu dài. Cũng may người nhiều thế mạnh, có thể giúp đỡ lẫn nhau, biết đâu lại vững dạ dám chui vào trong thăm dò, tìm hiểu rõ trắng đen ngọn ngành thế nào, như vậy còn tốt hơn tiếp tục bị nhốt dưới lòng đất đợi ngày thần chết dang tay ra đón. Lúc đó, hai bên vẫn đứng cách nhau một dòng sông, trong nước vẫn lảng vảng lũ cá sấu hung tợn, nên họ đành phải ẩn mình sau bệ đá nói chuyện, tạm thời không thể gặp mặt.



Tư Mã Khôi từ khi mưu sinh ở khu Hắc Ốc đã sớm thấu hiểu sự nham hiểm của thế nhân, nên không thể không đề phòng kẻ khác. Càng ngẫm nghĩ câu chuyện của Tiền Bảo Sơn, anh càng thấy bên trong có gì không ổn, nên thầm nghĩ: "Gã ta tự xưng là thành viên bị mất tích của quân Đồng minh, cứ tưởng bịa chuyện ma như thể Robison Crusoe một mình giữa đảo hoang, là có thể hù dọa được ông mày sao? Trong đường hầm chẳng có ác ma thì thôi, chứ nếu quả thực có ác ma tồn tại, thì tuyệt đối cũng chính là mi, kẻ may mắn sống sót thứ năm!"



Tư Mã Khôi cẩn thận xem lại cuốn nhật ký của ông Từ Bình An, bên trong có ghi chép rất nhiều tư liệu liên quan đến quá trình xây dựng đường bộ trong núi Dã Nhân của đoàn lính công trình độc lập tác chiến thứ sáu. Anh lại phát hiện những lời kể của Tiền Bảo Sơn có lẽ nửa thực nửa hư, bên trong nhất định có phần thực, ví dụ như truyền thuyết về vua Anagaya và vương triều Chăm Pa, chuyện đoàn vận tải bị sụt xuống cánh rừng rậm dưới lòng đất coi như tương đối đáng tin; nhưng những thông tin liên quan đến thân phận và lai lịch của Tiền Bảo Sơn thì chưa hẳn là thật, rất có thể hắn mạo nhận tên tuổi ai đó.



Những nghi hoặc này đã khiến Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng bất an. Nơi sâu nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân vốn dĩ là một không gian hoàn toàn khép kín, phía dưới tòa thành cổ lại là bãi đầm lầy tràn ngập khí mêtan, nếu chẳng phải chất độc màu da cam khiến Udumbara khô héo, khiến lượng bùn nước trầm tích trên tầng kén bị sụt lở xuống lòng đất, thì không khí trong huyệt động và đường hầm căn bản không thể đủ ột người bình thường sống sót suốt thời gian dài. Ngoại trừ loài thực vật đặc biệt không chịu sự ràng buộc của môi trường như Udumbara, thì trong huyệt động chắc chắn không thể xuất hiện bất kỳ loài nấm đất nào, mà điều đáng nghi nhất là đối phương không mang theo máy bộ đàm, cho dù anh ta là lính thông tin, mang chiếc bộ đàm không dây SCR cũ rích từ thời chiến tranh thế giới thứ hai, thì trải qua khoảng thời gian dài đằng đẵng như thế, máy cũng đã sớm hỏng hóc, không thể sử dụng được nữa.



Từ tình hình trên có thể suy đoán: kẻ tự xưng là cựu binh Tiền Bảo Sơn, chắc chắn đang âm mưu che giấu ý đồ gì đó, hơn nữa lại không dám trực diện lộ mặt ọi người biết, hành tung lén lút khác thường, chẳng biết phía dưới chiếc mũ sắt M1 kia, rốt cục ẩn giấu một khuôn mặt như thế nào?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50: kẻ cận kề thiên quốc - hồi thứ nhất: đáp án thứ chín


Chương 6: Kẻ cận kề thiên quốc - Hồi thứ nhất: Đáp án thứ chín



Tiền Bảo Sơn - kẻ may mắn sống sót thứ năm nói với hội Tư Mã Khôi: "Trong đường hầm hình bụng rắn dưới chân tòa tháp cổ... tồn tại ác quỷ."



Đôi tai Tư Mã Khôi nào phải được làm bằng bông, anh đâu chịu tin mấy lời ma quỷ của hắn, cái câu: "Không được có tâm hại người, nhưng không thể không có tâm phòng người", chính là để chỉ lúc này đây. Anh xem xét địa hình trong đường hầm và khẳng định: chắc chắn không một ai có thể sinh tồn lâu dài dưới huyệt động cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, hơn nữa trên cơ thể đối phương lại toát ra mùi tử khí chết chóc không thể che giấu, càng khiến anh lập tức liên tưởng đến Nấm mồ xanh. Tuy rằng giọng nói của hai người này hoàn toàn khác biệt, nhưng giọng nói và thân phận đều có thể ngụy tạo, còn câu chuyện xây đường trong núi Dã Nhân của đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, cũng chẳng phải chuyện cơ mật tuyệt đối, nên không hẳn không ai biết tới. Giả sử Nấm mồ xanh như vong hồn kia thực sự tồn tại, sau khi hắn kích nổ bom địa chấn, nhất định cũng sẽ liều mạng tiến vào thành cổ, mà không cần để ý hậu quả, bởi nếu không, tất cả những việc hắn làm trước đây đều trở nên vô nghĩa.



Tư Mã Khôi suy đoán: không thể có thêm kẻ may mắn sống sót nào nữa, nên kẻ tự xưng là quân nhân mất tích Tiền Bảo Sơn có lẽ chính là Nấm mồ xanh, luôn luôn theo dõi hành tung của đội thám hiểm từ bóng tối. Chuyện này còn ẩn chứa rất nhiều uẩn khúc, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra biến cố. Nghĩ đến đây, một dự cảm không lành đột ngột dội lên, nhưng anh lại nghĩ theo góc độ khác: tạm thời bất luận thân phận thực sự của Tiền Bảo Sơn là gì, nếu khi nãy chẳng phải hắn ta đã sử dụng pháo tín hiệu để dẫn mọi người vào đường hầm, thì bốn người bọn ta đã sớm chết trong sương mù từ khuya rồi. Xem ra tạm thời hắn chưa muốn giết người diệt khẩu, mà chắc hẳn còn che giấu ý đồ gì khác... Thế là anh giả bộ tin tưởng, đồng cảm với Tiền Bảo Sơn, đoạn nói: "Đường đời vốn dĩ khúc khuỷu khó đi vậy đấy, huống hồ lại đi nhầm đường, bị nhốt ở nơi quái quỷ này mấy chục năm, nghĩ cũng đáng thương cho ông anh thật. Có điều, khi xưa Khương Tử Nha tám mươi tuổi vẫn ngồi bên bờ sông Vị câu cá, mãi khi tương ngộ với Tây Bá Cơ Xương, ông ta mới được đón lên xe về cung, bái làm thầy, mới dẫn binh thảo phạt nhà Thương, định ra cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu. Thế mới thấy, kỳ ngộ trong cuộc đời chẳng hề phân biệt sớm muộn đâu anh bạn ạ."



Tiền Bảo Sơn nghe xong, chỉ co người lại sau tượng đá thở dài một tiếng, mà chẳng tiếp lời, liền sau đó định dẫn mọi người đi vào đường hầm dưới thành cổ.




Tư Mã Khôi có ý thăm dò, anh vòng vo mấy câu, nhằm tìm manh mối, thấy Tiền Bảo Sơn định đứng dậy khởi hành, liền vội bảo: "Ông anh chậm bước một lát, trước khi chúng ta xuất phát, tôi muốn nhìn rõ mặt ông anh cái đã, ông anh cũng chẳng cần đa nghi làm gì, tôi làm vậy tuyệt đối chẳng có ý gì khác, chỉ là nhất thời hiếu kỳ mà thôi, bởi vì nghe nói những người quanh năm không ăn muối, toàn thân sẽ mọc lông trắng." Tư Mã Khôi nhớ lại bộ phim "Cô gái tóc bạc" từng xem khi trước, mà nguyên tác của nó dựa vào truyền thuyết dân gian: "Cô tiên tóc bạc" của khu vực Sơn Tây, Sát Ha Nhĩ, Hà Bắc, sau này được cải biên dựng thành phim. Cô gái tên là Dương Hỉ Nhi bị địa chủ bức phải trốn vào núi sâu, lấy nước suối, quả rừng và đồ cúng lễ ăn trộm trong miếu thổ địa làm thức ăn sống qua ngày, rồi ngày qua tháng lại, mái tóc xanh trên đầu dần dần trở nên trắng toát; bởi tục truyền, những người không ăn muối đều bị như vậy. Tư Mã Khôi cũng không biết điều này là thật hay giả, nhưng mặc kệ nó thế nào, anh cũng chỉ muốn mượn cớ để xem rõ khuôn mặt thật sự giấu kỹ dưới chiếc mũ sắt của Tiền Bảo Sơn mà thôi; kỳ thực chỉ cần anh ta nhắm chặt mắt lại, ở khoảng cách xa thế này, cho dù có bị đèn pin chiếu một chút thì cũng chẳng hề hấn gì.



Ba người còn lại, mỗi người đều có mối lo riêng, nếu Tiền Bảo Sơn quả thực là Nấm mồ xanh, thì lỡ nhẹ dạ tin lời đối phương, nhất định sẽ rơi vào miền đất vạn kiếp không thể siêu sinh, nhưng đối phương lại nói năng trơn tru, chẳng để sơ hở nửa lời, nên trước mắt căn bản không thể phân biệt được thật giả; lúc này nghe Tư Mã Khôi nói, đúng là đã khiến Tiền Bảo Sơn không còn đường lui mà thoái thác, nên bọn họ đều ngầm gật đầu.



Tiền Bảo Sơn dường như không ngờ đến tình tiết ấy, kết quả gã cũng chẳng tìm được cớ gì từ chối, nên phủ phục sau tượng đá im lặng hồi lâu chẳng đáp lời, rồi mãi sau mới lên tiếng thừa nhận lúc trước đúng là mình có ý che giấu, nhưng không hề mang ác ý, mà chỉ là một vài chuyện thực sự rất đáng sợ, nếu nói tuột chân tướng, có khi mọi việc sẽ càng tệ hơn...



Tư Mã Khôi đang định hỏi tiếp, đột nhiên thấy các bức tường đá xung quanh rung chuyển mãnh liệt, gan bàn chân tê rần, mọi người vội vàng trèo lên mình tượng đá. Mặt đất rung chuyển kéo dài chừng nửa phút, sau đó lại trở về bình thường, nhưng ở hướng lối vào, không ngừng vọng tới âm thanh như thể đá vỡ rơi xuống nước, ngoài ra gã Tiền Bảo Sơn trốn ở đường hầm phía đối diện cũng tự dưng bốc hơi biến mất dạng.



Mọi người đành giơ cao đèn pin lên soi, hàng tượng đá sừng sững quỳ dưới đất trong bóng tối vẫn còn đó, chỉ duy bóng dáng đội mũ sắt là chẳng thấy đâu. Vì sự hạn chế của địa hình, nên mọi người cũng không có cách nào sang bờ đối diện để truy rõ trắng đen, Tuyệt thấy lạ hỏi: "Kẻ chúng ta vừa gặp rốt cục là người hay..."



Tư Mã Khôi cau mày, nói với ba người: "Trước tiên chẳng cần quan tâm gã cựu binh đó là người hay ma, gã từng nói với chúng ta, phía dưới lòng đất là đầm lầy rộng lớn, việc này chắc là sự thật.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tuy Udumbara đã hồi sinh trở lại, nhưng bom địa chấn và chất độc màu da cam thì vẫn phá hủy kết cấu núi Dã Nhân ở một mức độ nhất định; cơn địa chấn khi nãy có lẽ là do tòa thành cổ tiếp tục lún xuống tạo ra. Nếu đường hầm bị sụt lở nghiêm trọng, bất kể sương mù hay khí mêtan trào ra, thì chúng ta cũng chẳng thể đương đầu nổi."



Hải ngọng nghe xong, kinh hãi nói: "Như thế chúng ta khác gì gà rơi vào nồi nước sôi, giãy giụa sống chết thế nào cũng chẳng nhào ra được?" Nói đoạn, anh liền lớn tiếng mắng chửi thậm tệ: "Tớ thấy cái tên họ Tiền kia chắc chắn chẳng phải tên tốt đẹp gì, làm sao có thể tin lời ma quỷ của gã? Gã tự mình biến mất lại càng hay, tục ngữ nói: Bớt một bát hương, ít một con ma, chúng ta càng đỡ phải nơm nớp đề phòng, có gã, lòng dạ chẳng được một phút yên ổn."



Tư Mã Khôi nhìn trái ngó phải, rồi nói với mọi người: "Gã này cố ý ẩn giấu chân tướng, chẳng hiểu định giở trò quỷ gì. Nhưng mọi chuyện xảy ra trong núi Dã Nhân, đều liên quan đến bí mật mà vua Chăm Pa vùi chôn ở nơi sâu nhất trong tòa thành cổ, nên chúng ta buộc phải liều chết tiến vào làm rõ sự tình, mới mong tìm ra cách giải quyết."



Mọi người đều cảm thấy lời Tư Mã Khôi nói rất phải, cả tòa thành cổ đều bị sương mù bao vây, sơn cốc núi Dã Nhân vốn dĩ chẳng hề tồn tại một nơi nào an toàn tuyệt đối, nên tiếp tục lưu lại đường hầm cũng rất nguy hiểm, chỉ còn có cách biến nguy thành an. Thế là, cả hội bèn men theo bệ đá, tiếp tục tiến sâu vào trong, đi thêm một đoạn nữa, thì gặp một dải sụt lún nằm vuông góc với đường hầm, tạo ra một không gian khoáng đạt hình chữ "T".




Hình dáng ban đầu của nó đã sớm chẳng thể nhận ra, chỉ thấy bên trong bức tường đổ nát xung quanh lộ ra từng tầng đá đen ngòm, gốc rễ của Udumbara cũng bắt đầu khởi nguồn từ đây. Những chiếc rễ còn to hơn cả thân cây, phảng phất tựa hồ vô số huyết quản, lồi hẳn lên trên bề mặt. Sự xâm thực của thực vật đã khiến tòa thành cổ đá vôi này phải chịu một tác động ngoại lực không nhỏ, tạo ra rất nhiều khe nứt và huyệt động chẳng theo quy tắc nào từ bên trong, nhưng quá nửa những khe nứt ấy đều bị tảng đá lớn sụt xuống chặn lại. Trên bức tường đối diện với đường hầm, tồn tại vô số những huyệt động lớn giống như tổ kén, đường kính khoảng trên dưới một mét, mà ánh sáng đèn pin soi không tới đáy.



Lúc này đèn đã hết sạch pin, trong tay bốn người chỉ còn ngọn đèn tiết kiệm điện sử dụng được. Tư Mã Khôi thường đặt mạng sống trên chiến mã, giáp sắt, coi dao súng là bạn, dường như ngày nào cũng "treo sọ ngang thắt lưng quần", chẳng hề bận tâm đến sự sống chết, nhưng cứ nghĩ phải lạc vào miền đất tối tăm âm u, chẳng nhìn thấy gì, thì trong lòng anh cũng khó tránh khỏi cảm giác ngộp thở đến khó chịu. Anh dự định nhân lúc còn nguồn sáng, phải mau chóng hành động, nếu không hoàn cảnh sẽ càng trở nên gian nan hơn. Lắng tai nghe ngóng, thấy gần đó hoàn toàn im ắng, anh bèn dẫn đầu đội thám hiểm, giẫm chân lên tượng đá bị đổ vượt sông, sau đó giơ đèn lên, lần lượt đón ba người còn lại sang.



Bốn người chỉ có thể dựa vào chút ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn, họ biết chỉ cần cách xa một chút là hoàn toàn rơi vào bóng tối đen ngòm, bởi vậy chẳng ai dám lơ là, người nọ bám sát người kia, nửa bước không rời. Đợi khi tất cả đều sang được bờ đối diện, họ soi đèn lên trước, chỉ thấy trong động có một hàng tượng người sơn màu, tướng mạo xấu xí, đáng sợ, vừa đen vừa béo, râu ria xồm xoàm, trang phục quái dị. Mọi người lại nhìn mấy nơi khác thì thấy chỗ nào cũng như vậy, đếm đi đếm lại thấy có tất cả chín bức tượng, được đặt trong hốc đã lõm sâu vào lõi tường.



Tư Mã Khôi phát hiện phần tường lõm vào, phía sau thân tượng sơn màu có điểm khác thường, anh liền lại gần quan sát, thì thấy ngoài riềm có vết nứt rất rõ ràng, liền thắc mắc: "Những chỗ này dường như đều là cánh cửa ngầm, hơn nữa còn được sắp xếp theo thế Cửu cung tổng nhiếp đời Hán, như vậy thì từ trái qua phải, cửa thứ bảy chắc là cửa sinh thì phải. Có điều không biết vua Chăm Pa có hiểu về lý luận thuật số này không nhỉ?"



Hải ngọng sốt ruột thúc giục: "Nghĩ lắm làm gì ệt, nói không chừng người ta cũng từng đến Trung Quốc du học rồi cũng nên, hơn nữa có khi lại còn đào sâu nghiên cứu bộ môn này ấy chứ," nói xong liền bảo Tuyệt giơ đèn lên soi, gọi Tư Mã Khôi thò tay giúp sức, bước lên định đẩy bức tượng sơn màu trong hốc đá.



Ngọc Phi Yến vội ngăn lại: "Hai kẻ liều mạng các anh chẳng muốn sống thì chớ, đừng hại chết cả tôi lẫn Tuyệt. Tôi từng thề là mình sẽ chết trong an lành, tôi không muốn nuốt lời... ít nhất không phải hôm nay." Liền sau đó cô rút cây giáo mỏ vịt sau lưng ra, vừa bấm lẫy một cái, ống ngầm bên trong bật ra. Cô ta lại tiếp lấy ngọn đèn từ tay Tuyệt, treo nó lên đầu mũi giáo như thể người ta treo đèn lồng, giơ tít lên trên cao.



Hội ba người Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Tuyệt thuận theo ánh đèn, ngước mắt nhìn, người nào người nấy đều thầm kinh ngạc trong lòng: thì ra phía trên chín cánh cửa ngầm là một bức bích họa lớn, lồi hẳn lên bề mặt tường, trong tranh là hình một con voi trắng, thân voi lấp lánh ánh hào quang phát ra từ châu báu, vàng bạc. Trên lưng voi có một người tay chân rất dài ngồi chễm chệ, người này mình khoác giáp ma, vai đeo trường đao, trang phục lộng lẫy, xung quanh điểm xuyết hoa lá cà độc dược, thần thái giống y như người thật, dường như chỉ cần gọi một cái là có thể từ trong tranh bước ra, kích thước tỷ lệ gấp đôi người thường.



Ngọc Phi Yến di chuyển chùm sáng vào đúng khuôn mặt trên bức bích họa, rồi nói với hội Tư Mã Khói: "Các anh hãy quan sát kỹ gương mặt này nhé..."



Tư Mã Khôi định thần lại, hai mắt giương to, nhìn chằm chằm hồi lâu, mà vẫn chẳng thể phát hiện ra điểm gì bất thường. So với mấy bức phù điêu đá Chăm Pa đầu thần mặt quỷ kia, thì người cưỡi trên lưng voi mặt mũi lại tròn trịa, hồng hào, toát ra nét đoan trang hiền từ, chẳng khác nào Phật Tổ chuyển thế, chỉ có điều hai mắt người này hơi lồi ra một chút, đỉnh trán rất dài, hai tai rủ xuống khá rộng, môi cực dày. Thần thái, hình ảnh của bức bích họa được điêu khắc sinh động như người sống, khóe miệng khẽ giữ nụ cười mỉm bí ẩn không dễ phát hiện, dường như nụ cười đó mang sự khoan dung vô hạn đối với những tranh chấp bon chen nơi trần thế, tuy hiện rõ nét hòa bình nhân hậu, nhưng cũng thần bí khó lường, khiến người ta chỉ cần nhìn một lần là nhớ mãi.




Tư Mã Khôi nhìn đến đây, tim bỗng nhiên đập thình thịch, thầm nghĩ: "Chẳng biết người được vẽ trên tường đá là nhân vật nào, chứ ngoài đời làm gì có ai giống thế này". Anh hỏi Ngọc Phi Yến: "Khuôn mặt người này thì có gì hay mà xem?"



Ngọc Phi Yến nói, người Chăm Pa rất coi trọng gương mặt, bởi vậy thần phật trên bức phù điêu vàng được khắc thành muôn hình vạn trạng, dung mạo mỗi bức một khác, trong khi tạo hình của tượng đá và nô lệ bên trong đường hầm thì tất cả chỉ có một tướng mạo. Điều này thể hiện sự khác biệt về thân phận và địa vị của từng tầng lớp trong xã hội thời thượng cổ. Bức bích họa còn sót lại ở lãnh thổ Lào của vương triều Chăm Pa, cũng có vẽ chân dung vua Anagaya. Tương truyền vị vua Chăm Pa này khi sinh ra tướng mạo đã khác thường, khiến người ta không dám trực diện ngước nhìn, dân gian hậu thế gọi ông ta là Bồ Tát sống, là người gần kề Thiên quốc nhất. Trong khi đó, dân chúng cùng thời với ông ta, lại căm hận gọi là mặt quỷ hoặc mặt yêu tinh. Đặc trưng nhân vật được vẽ trong bức bích họa rất rõ rệt, chắc chắn đây chính là vua Anagaya - kẻ đã xây dựng tòa thành Nhện Vàng.



La Đại Hải và Tuyệt không hiểu cách nói cũ về mấy chuyện tướng thuật, nên chẳng thể giác ngộ sâu xa, chỉ có Tư Mã Khôi am tường cổ pháp Kim điển, cổ pháp Kim điển ngoài môn tướng vật, còn bao hàm thuật tướng người. Phàm dung mạo tướng người, đều là để người ta xem số mệnh; trước tiên phải xem phần đầu, vì đầu mặt là chủ của ngũ tạng, là tôn của bách thể, nên trước hết phải xem khung xương mặt. Người ta nói: "tứ phía tám hướng phải cân đối", trong đó "tứ phía" có nghĩa, tai trái là phía đông, tai phải là phía tây, mũi là phía nam, gáy là phía bắc. Sau khi xem "tứ phía" phải xem đến "cửu cốt", cũng chính là xem tất cả hệ thống xương khớp trên cơ thể, rồi cuối cùng mới xem đến mi nhãn, ngũ quan và các thứ khác như minh độ, linh nhạc, u ẩn, tâm ẩn, hà nhạc v.v... từ đó có thể suy đoán sự hưng suy của mệnh lý. Nhưng tất cả những thuật số ma quỷ này đều của giới giang hồ, lai lịch thực ít hư nhiều, nên tuy Tư Mã Khôi cũng am hiểu một chút, nhưng chẳng bao giờ nghiên cứu kỹ lưỡng. Lúc này nghe Ngọc Phi Yến nhắc đến, anh mới phát hiện thân hình tướng mạo của vua Anagaya đúng là đặc biệt kỳ lạ, trong tướng thuật cổ, căn bản không tồn tại khuôn mặt như vậy.



Tư Mã Khôi lại nhớ đến lúc Ngọc Phi Yến bảo vua Anagaya không phải "người", bây giờ nhìn lại, anh cảm thấy nói vậy dường như cũng hơi quá lời, cùng lắm thì dung mạo vua Anagaya trên bức bích họa cũng chỉ kỳ dị một chút mà thôi. Dù sao hơn một ngàn năm trước đâu có máy ảnh, nên ai biết dung mạo thực sự của nhà vua có giống y chang bức họa hay không? Những thứ cố tình phô trương thần thoại này không thể coi là thật được. Nghĩ vậy, anh bèn nói: "Đại khái quan niệm thẩm mỹ của người Chăm Pa là thế này, tay cầm quả trứng lạc đà mà vẫn có thể bảo nó là viên thuốc đông y. Tướng mạo vua Anagaya đối với chúng ta tuy cũng kỳ dị thật, nhưng trong con mắt của người Chăm Pa, thì đó lại là tư thế của long phụng, là gương mặt của trời đất, điều này cũng chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên lắm."



Ngọc Phi Yến nói: "Tôi cũng không biết tướng mạo ngoài đời của vua Anagaya có giống với bức bích họa phù điêu hay không, nhưng anh cứ nhìn vua Anagaya vẽ trên tường mà xem, thân cưỡi chiến tượng, mình khoác giáp trụ, vai đeo trường đao, phía dưới lần lượt có chín vị tôn giả râu ria xồm xoàm quỳ mọp ra đất, chắc đó là chín vị yêu tăng. Cảnh tượng này quả thực đã từng diễn ra vào thời cổ, ngay cả sử sách Trung Hoa cũng ghi chép sự việc đó."



Theo ghi chép trong cuốn: "Chân Lạp phong thổ ký", ngày trước nước Chăm Pa vì chuyện diệt Phật mà giao đấu với kẻ địch, chém đầu vô số, đồng thời bắt được chín vị yêu tăng đến từ Thổ Phồn, dẫn đến trước kiệu vua, vua hỏi chúng tăng: "Từng nghe trình độ tu luyện của các vị đã đạt đến độ cao thâm, không biết các vị có tường tận chuyện quá khứ tương lai?" Chúng tăng đáp: "Chúng tôi khác với những kẻ phàm tục, có thể biết chuyện quá khứ, tương lai."



Vua không biến sắc mặt, liền hỏi một vị trong đó: "Đã biết chuyện tương lai, vậy chẳng hay có biết hôm nay ngài phải chết hay không?" Tăng nhân này trả lời: "Không chết." Vua Chăm Pa liền ra lệnh cho thị vệ lập tức trảm đầu ngay trước mũi voi, rồi lại hỏi vị tăng nhân thứ hai: "Hôm nay ngài phải chết hay không?" Người thứ hai cũng đáp: "Không chết," thế là cũng bị chém phăng thủ cấp. Vua lại hỏi người thứ ba, vị tăng nhân này rút ra bài học, cho rằng vua Chăm Pa cố tình khiến bọn họ đoán không trúng, nên đáp: "Hôm nay tất sẽ chết." Chẳng ngờ vua Chăm Pa lại nói: "Lời ngài rất chuẩn, vậy thì trẫm sẽ tiễn ngài về thế giới cực lạc Tây phương," kết quả vị tăng nhân đến từ Thổ Phồn cũng bị chém đầu tại trận.



Vua Anagaya lại tiếp tục hỏi lần lượt những vị còn lại cùng một câu hỏi như vậy. Vị tăng thứ tư bị ép đến chẳng biết làm thế nào, đành trả lời: "Không biết," vua cười nhạt, lập tức ra lệnh xử tử. Vị tăng nhân thứ năm hơi giảo hoạt một chút, nghĩ đi nghĩ lại, bèn trả lời: "Chết là tại phật pháp bất linh, không chết là tại vương pháp bất hành." Vua Chăm Pa nổi cơn thịnh nộ, quát lớn: "Đồ chuột thối, yêu pháp nhà mi mà dám so sánh với vương pháp của ta sao?" Rồi vua hắng giọng một tiếng ra lệnh xử trảm tức thì. Vị tăng thứ sáu ngấm ngầm thăm dò ý nhà vua, ra giọng thỏa hiệp, thưa: "Hôm nay có thể chết, cũng có thể không chết, chết hay không chết, tất cả đều do số phận." Vua Chăm Pa giận dữ mắng: "Mi đúng là hạng dao nhọn hai đầu, tội ác tày đình, lập tức phanh thây trăm mảnh," nói xong, nhà vua liền tự tay vung dao xẻ thịt. Vị tăng thứ bảy, thứ tám đã sớm thất kinh, hồn lìa khỏi xác, bị hỏi đến chẳng biết trả lời làm sao, đương nhiên không tránh khỏi họa dao chém. Đến lượt vị tăng nhân thứ chín, ông chỉ nói một câu, vậy mà lại khiến vua Chăm Pa hạ đao dừng hình.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51: hồi thứ hai: nấm mồ xanh


Hồi thứ hai: Nấm mồ xanh



Vị tăng nhân cuối cùng khoan thai, chậm rãi trả lời: "Chết là bởi uy của quân vương, không chết là bởi ân của quân vương." Vua Chăm Pa nghe xong thì bật cười ha hả, hạ đao không tiếp tục xử phạt nữa, chừa lại mạng sống cho vị tăng nhân thứ chín, lại xây tháp cho ông vùi xương, sau đó hủy đi đôi mắt, dùng xích sắt trói lại, giam cầm ông trong địa cung dưới đáy tháp.



Hội Tư Mã Khôi nghe xong đều cảm thấy cứng lưỡi vì khiếp sợ: "Vua Anagaya đúng là thủ đoạn quá tàn độc, giết người như trò chơi; trộm nghĩ người này tự cao tự phụ, trừng phạt quá dã man, lại xa hoa vô độ, chỉ e bản thân ông ta sau này sẽ chẳng gặp kết cục gì tốt đẹp!" Vừa nghĩ vừa thán phục kiến thức uyên bác của Ngọc Phi Yến, ba người cùng cảm thấy cô nàng quả thực có vài điểm hơn người.



Ngọc Phi Yến nói: "Tuy tôi không biết trong thành cổ dưới lòng đất núi Dã Nhân rốt cục cất giấu bí mật gì, nhưng bức bích họa này quả thực mô tả cảnh tượng vua Chăm Pa giết tăng diệt Phật, tám người trong đoàn chín vị tăng Thổ Phồn đều bị hại, chỉ có một người sống sót, bởi vậy trong chín cánh cửa ngầm, chắc chỉ có một cửa sinh, nếu ấn nhầm bộ phận khởi động, chắc chắn sẽ gặp rắc rối to."




Tư Mã Khôi là người cơ trí, anh ngẫm nghĩ một chút, nghe Ngọc Phi Yến kể sự tích vẽ trên bức bích họa, là hiểu ngay hàm ý của nó, liền lần mò thò tay vào sờ, quả nhiên có một tượng đá trong huyệt động ở tình trạng bị giam cầm, có điều tượng đá này quá nặng, dường như cắm rễ xuống đất vậy, không có lực khoảng mấy trăm cân thì không thể xê dịch nổi, càng không biết nên đẩy hay nên xoay. Tư Mã Khôi đắn đo suy tính kỹ lại thì phát hiện đôi mắt của tượng đá vẫn chưa bị hủy, bèn thử lấy ngón tay ấn ngược vào trong, nào ngờ chỉ khẽ chạm một cái nó đã hơi dịch chuyển, liền phát hiện con ngươi trái của tượng đá hơi thụt vào, nhưng khi bỏ tay ra, nó lại chạy về vị trí ban đầu, thì ra tượng đá rỗng ruột, phía trong có cài đặt hệ thống đóng mở. Anh lại dùng tay cùng lúc ấn vào hai bên mắt thì chỉ nghe một tiếng động "ầm ầm" vang lên, bức tường phía dưới bích họa vẽ vua Chăm Pa liền tách ra một khe hở rồi ngay sau đó lại lộ ra một cánh cửa đá kiên cố dày nặng và khá thấp.



Mọi người phát hiện vua Chăm Pa trong bức bích họa ngạo nghễ trên cao, muốn đi vào nơi sâu nhất của thành cổ, thì chỉ còn cách đi qua cánh cửa đá nhỏ hẹp lùn thấp dưới chân ông ta, hơn nữa, còn bắt buộc phải cong lưng cúi đầu như mèo thì mới chui qua được; trong lòng ai nấy đều không ngừng chửi thầm, chỉ muốn phá nát bức bích họa cho hả giận. Thế nhưng chợt nghĩ, ắc quy ngọn đèn tiết kiệm điện sắp cạn kiệt, buộc phải tìm thấy lối ra trước khi không gian xung quanh hoàn toàn chìm vào bóng tối, nên chẳng ai còn thời gian để ý tới nó làm gì. Nào ngờ, cánh cửa đá đóng mở rất kiên cố, có lẽ hàng ngàn năm chưa được mở ra, bốn người gắng sức cùng nhau đẩy thật mạnh, đẩy đến nỗi eo nhức vai tê, thì mới đẩy được nửa bức tường, vừa vặn đủ ột người chui lọt. Bên trong phía sau cánh cửa đá tối om om, dường như còn có một khoảng không gian khá lớn.



Căn cứ vào những gì mọi người được nghe thấy, nhìn thấy, thì thực sự không thể suy đoán tòa thành cổ này rốt cục tồn tại thứ gì. Vô số bích họa và phù điêu ở đây, bức nào cũng tinh xảo tuyệt luân, kỹ thuật bội phần điêu luyện, sức tưởng tượng cực kỳ phong phú, quy mô hoành tráng và kết cấu kỳ dị, đã khiến người ta không thể tin nổi. Dù trải qua hàng ngàn năm, chúng vẫn im lìm bất động dưới lòng đất, dường như tất cả chúng đều không phải là sản phẩm được tạo ra bởi bàn tay con người, nên trong mắt bọn họ, giờ đây mỗi một tảng đá đều chứa đầy ẩn số.



Ngọc Phi Yến không dám liều lĩnh xông vào, cô lấy đèn soi nhìn một hồi, nhưng trước mắt chỉ thấy một màu đen chứ nào nhìn thấy thứ gì. Nếu cả tòa thành Nhện Vàng chỉ là một con đường độc đạo, thì có lẽ tiến lên một bước, là thu ngắn khoảng cách với cái chết lại một bước.



Đúng lúc mọi người đang dồn sự chú ý tập trung vào nơi sâu sau cánh cửa đá, thì Tư Mã Khôi nghe thấy có một âm thanh rất nhỏ vọng lại từ nơi xa, dường như có vật gì đó vừa chạm vào mặt nước phẳng lặng. Anh giả vờ không hề hay biết, chỉ liếc mắt nhìn trộm qua đó, lúc này ở lâu trong môi trường thiếu ánh sáng, mắt anh đã khá quen với bóng tối, thêm vào đó dưới bùn lầy nước tù, có chứa loại khoáng vật lân tinh, nên thỉnh thoảng lại lóe lên những đốm lửa ma trơi chập chờn.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Bởi vậy, cho dù không gian đen ngòm một khối, nhưng chỉ cần không có sương mù, chẳng cần mượn ánh sáng của ngọn đèn, anh vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy hình khối của vật thể gần đó. Tư Mã Khôi lặng im quan sát, phát hiện phía sau bức tượng đá đổ nát, tựa hồ mai phục một bóng người, đầu tròn vo như thể đội vỏ dưa, không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là gã Tiền Bảo Sơn - kẻ may mắn sống sót thứ năm, đang đội chiếc mũ sắt M1.



Tư Mã Khôi suy đoán, có lẽ một mình hắn không thể đẩy được cánh cửa đá, nên mới cố tình dẫn dụ mọi người đi vào đường hầm, lúc này nhìn cửa động đã mở, liền tìm cơ hội khẽ khàng lẻn vào trong. Tiền Bảo Sơn lai lịch không rõ ràng, dường như nửa cố ý nửa vô tình giấu giấu giếm giếm điều gì, mà điểm đáng ngờ nhất là hắn không dám để lộ gương mặt thật của mình cho người khác nhìn, nên dã tâm khó lường, chỉ e chẳng phải hạng lương thiện. Cơ hội tóm cổ hồn ma này chỉ cần lơ là một chút là biến mất như chơi, nhưng Tư Mã Khôi làm gì có chuyện dễ dàng chịu bỏ qua, anh lặng lẽ không để phát ra nửa tiếng động nhỏ, nhẹ nhàng rút lui khỏi phạm vi chiếu sáng của ánh đèn, leo lên bức tường đổ nát, lui về sau tìm cách tiếp cận Tiền Bảo Sơn.




Thân thủ Tư Mã Khôi nhanh thoăn thoắt. Trong bóng tối, anh bò ngang qua những bức tường đá hình mặt người đổ nát chẳng còn thể dạng gì, vòng qua dòng nước tù trong đường hầm, lúc hành động hoàn toàn im lìm không một tiếng động. Giới gian tặc lục lâm trước thời Dân quốc, tương truyền có bốn tuyệt kỹ cái thế, bốn tuyệt kỹ đó lần lượt là: hạt tử bà thành (bọ cạp đảo đầu bò tường), khôi tinh thích đẩu (sao khuê đá đầu), bát bộ hãn thiềm (tám bước đuổi cóc) và nhị lang đảm sơn (nhị lang gánh núi). Tư Mã Khôi lại là chân truyền của món tuyệt kỹ: "hạt tử bà thành", bản lĩnh "tháo ủng ngược" này quả khiến thế tục kinh hãi, trước giờ luôn chiếm ngôi vị nhất tuyệt trong bốn môn tuyệt kỹ, vì nó được đặt tên theo tư thế di chuyển thần tốc mà quái dị. Tiền Bảo Sơn trốn sau lưng tượng đá, đang dồn toàn bộ tâm trí vào việc nhìn trộm cánh cửa đá, đột nhiên phát hiện thấy tình hình bất ổn, nên không khỏi bội phần kinh ngạc; hắn càng chẳng ngờ Tư Mã Khôi lại đến nhanh thế, khiến miệng chỉ kịp thốt lên "Á" một tiếng rất khẽ, rồi lẻn người ra sau chạy trốn.



Tư Mã Khôi vốn dĩ định sẽ ra tay tóm gọn đối phương, nhân lúc hắn không ngờ đến, để xem rốt cục hắn là quái nhân phương nào; lúc này nghe một tiếng la khẽ vọt ra từ miệng Tiền Bảo Sơn, âm thanh tuy rất nhỏ và gấp, nhưng với anh chẳng khác nào tiếng pháo nổ giữa trời đêm. Bởi vì, giọng nói của người này, hoàn toàn trùng khớp với ngữ âm bí mật phát ra từ chiếc máy ghi âm, lúc đoàn thám hiểm phát hiện bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải. Chuỗi âm thanh giống như tạp âm hình thành do điện từ nhiễu loạn, vừa cứng ngắc vừa khô gẫy, âm thanh đó đã sớm ghi sâu vào trí nhớ Tư Mã Khôi, bây giờ cuối cùng anh cũng có thể xác định: Tiền Bảo Sơn chính là Nấm mồ xanh với lai lịch ly kỳ bất minh kia.



Từ khi bắt đầu nghe băng ghi âm trong khoang máy bay, Tư Mã Khôi cứ mãi băn khoăn vì không thể xác định Nấm mồ xanh giống như vong hồn kia có tồn tại thực sự hay không, bởi vì chỉ nghe thấy âm thanh mà không thấy hình ảnh, nên khi hành động cũng chịu sự hạn chế. Chỉ khổ một nỗi vì chẳng tìm ra kế sách gì, anh đành phải nhẫn nhịn lặng im, mãi đến giờ phút này mới nước chảy đá lộ. Anh nghĩ mọi cảnh ngộ giống như cơn ác mộng, từ khi đoàn thám hiểm vào núi đến nay, cái chết thê thảm của Karaweik và gã Gấu trắng Ciglovaski, vết bỏng hóa học nghiêm trọng mà những kẻ sống sót còn lại phải mang trên mình, tất cả đều do Nấm mồ xanh mà ra. Trong lòng anh phút chốc trào lên luồng sát khí, ý muốn giết người ngùn ngụt dâng cao không thể nào cưỡng chế nổi, anh không muốn để hắn sống sót, thế là bèn chĩa súng từ trên tường cao xuống, bóp cò nổ súng liên tiếp mấy phát.



Đạn súng sớm đã được Tư Mã Khôi lên nòng, họng súng vừa giơ lên, một loạt đạn đã vun vút lao ra. Loại súng xung phong do Liên Xô chế tạo, vừa có thể làm súng ngắn, vừa có thể làm súng xung phong, nên bắn liên thanh cũng chẳng hề gì, nhưng dưới tình trạng chưa kịp chuẩn bị tư thế thì xác suất bắn trúng cũng khó lòng đảm bảo. Có điều, cự ly giữa anh và Nấm mồ xanh rất gần, từng loạt đạn bao trùm khắp đầu mặt như thế, thì chí ít cũng phải có hai ba viên bay trúng mục tiêu.



Nấm mồ xanh thấy tung tích của mình đã bị bại lộ, liền vội vàng nhanh chân chạy trốn, nhưng vẫn chậm mất nửa bước. Chiếc mũ sắt M1 lăn lông lốc xuống đất giữa lúc hoảng loạn, liền theo đó một viên đạn xuyên thẳng vào huyệt thái dương làm hắn ngã gục ngay tại trận.



Tư Mã Khôi chỉ sợ đối phương vẫn chưa chết hẳn, đang định vùng lên bắn thêm hai phát nữa, nhưng bỗng nhiên một cơn gió mang theo mùi tanh tưởi chợt ào đến. Thì ra lũ cá sấu đang săn mồi dưới đầm lầy bỗng chốc phi vụt lên, há to cái miệng đỏ lòm như máu ra đớp mồi. Anh vì mải tấn công Nấm mồ xanh mà quên mất việc đề phòng lũ cá sấu mai phục dưới đường hầm đang lặng lẽ đến gần, lúc này có tránh cũng không kịp, đành nhắm mắt chờ chết.



Ba người Hải ngọng, Tuyệt và Ngọc Phi Yến, đều không thể tưởng tượng Tư Mã Khôi nói ra tay là lập tức ra tay, đợi khi bọn họ kịp phản ứng lại, thì đã nhìn thấy Tiền Bảo Sơn đổ gục tại trận trong tiếng súng nổ, đồng thời còn nhìn thấy một con cá sấu đang lao mình lên. Ba người còn lại cũng rất nhanh tay nhanh mắt, vội vàng bắn loạn xạ một loạt đạn, khiến con cá sấu đang chơi vơi giữa không trung lập tức bị bắn tan xác pháo, xác nặng nề rơi tõm xuống nước. Tuyệt lại ném thêm hai quả lựu đạn phốt pho, khói lửa bỏng rát khiến những con cá sấu còn lại gần đó cũng vội vàng rủ nhau rút lui.



Tư Mã Khôi mải mê tránh né cá sấu, chân tay không kịp bám vào vết lõm trên bức tường đổ nát, nên rơi tõm xuống dòng nước, may mà phía dưới toàn bùn đất, nên mới không bị ngã vỡ sọ. Hội Tuyệt lo lắng sau khi khói lửa của lựu đạn phốt pho tan hết, lũ cá sấu lại kéo đến, nên vội vàng chạy tới tiếp ứng, kéo Tư Mã Khôi lên bờ.




Bốn người chưa kịp mở miệng ra nói lời nào, thì nhìn thấy một người bò ra từ màn khói dày đặc mù mịt. Ánh sáng phản chiếu chói lòa, soi rõ thân hình kẻ đó như một hồn ma, chẳng ngờ đó chính là Nấm mồ xanh vừa bị Tư Mã Khôi dùng súng bắn chết. Tư Mã Khôi cho dù là người có khả năng luôn trấn tĩnh trước mọi điều bất ngờ, mà vẫn không khỏi gai lạnh toàn thân: "Nấm mồ xanh vừa bị bắn chết, chí ít cũng bị một viên đạn xuyên qua đầu, óc não cũng chảy cả ra, mà sao hắn vẫn có thể bò dậy được? Trừ khi hắn không phải người sống, nhưng người chết thì thi thể thẳng đuỗn, cứng ngắc, làm sao có thể đi lại và nói chuyện, còn nếu hắn là vong linh thì sẽ không có bóng in dưới ánh đèn mới phải..."



Tư Mã Khôi cứng miệng chửi một câu: "Mày không nhân cơ hội này mà sớm ưỡn xác ra đi, còn lồm ngồm bò dậy làm gì?" Trong tay bốn người lúc này đều có vũ khí, họ bèn giơ súng lên, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào Nấm mồ xanh, đang định bóp cò, thì thấy đối phương từ từ ngẩng đầu lên. Lần này, nhờ có ánh sáng trắng xóa của lựu đạn phốt pho đang đốt cháy, nên mọi người có thể mặt đối mặt nhìn rõ mồn một đối phương, nhưng chỉ là vừa nhìn một cái, thì dường như cả hội đang trải qua một thời khắc khủng khiếp nhất trong cuộc đời, khiến hai hàm răng họ lập cập va vào nhau, ngón tay họ cứng lại không thể nào bóp cò, họ khiếp sợ đến nỗi toàn thân như cứng lại.



Tình hình lúc này là hội Tư Mã Khôi phục dưới đường hầm, mượn ánh sáng của lựu đạn phốt pho bốc cháy, thấy Nấm mồ xanh đột ngột bò dậy từ đám khói. Tuy khoảng cách không gần lắm, nhưng sau khi chiếc mũ sắt M1 của đối phương rơi xuống đất, cũng vừa lúc khiến khuôn mặt giấu kỹ dưới chiếc mũ lộ ra, đủ ọi người nhìn rõ đến mức không thể rõ hơn được nữa, chỉ thấy đôi mắt hắn hơi lồi ra, đỉnh trán rất dài, đôi tai rủ xuống khá rộng, môi cực dày, bị ánh sáng trắng xóa phản chiếu trông càng trắng bệch, chẳng hề có chút thần sắc của con người, trong hai hốc mắt xám xịt mơ hồ, chẳng hề có chút sinh khí mà người sống lẽ ra đều có.



Lúc này Tư Mã Khôi có thể xác định chắc chắn: người này chính là Nấm mồ xanh, nhưng không ngờ đối phương sau khi bị đạn xuyên qua não, mà thi thể vẫn có thể đi lại như thường, hơn nữa chẳng ai có thể ngờ khuôn mặt của Nấm mồ xanh lại có bộ dạng như vậy, chẳng lẽ vua Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước... lại từ quan tài hoặc từ trên bức bích họa, nhảy vọt ra?



Nghe nói vua Chăm Pa Anagaya bẩm sinh đã có tướng mạo khác thường, được hậu thế mệnh danh là Thiên Bồ Tát, đại ý chỉ tướng mạo của vua Chăm Pa khác biệt quá lớn với người thường, vì khuôn mặt ông ta cũng chẳng phải loại xấu xí, khó nhìn gì, cùng lắm chỉ là hơi quái dị, ly kỳ, phảng phất như hình thần phật trong tôn giáo cổ đại. Thần tượng vẽ trên một số bức phù điêu hay bích họa tuy rằng vẫn chỉ một mũi, hai mắt, chẳng mọc thêm thứ gì khác, nhưng vẫn nổi bật sự khác biệt so với hàng phàm phu tục tử. Trong lúc chế tác, người thợ thường tăng thêm vài nét đặc trưng thể hiện khí chất một cách khoa trương, nên nếu đột nhiên những bức tượng đó biến hóa thành người thật, sống sờ sờ hiện ra trước mắt, thì ai nhìn cũng phải lạnh người, và ngay cả dưới ánh sáng ban ngày họ cũng sợ muốn chết, huống hồ, sự việc ấy lại diễn ra trong đường hầm thành cổ tối om âm u lạnh lẽo.



Khoảnh khắc mà hội Tư Mã Khôi nhìn thấy khuôn mặt của Nấm mồ xanh, ai nấy đều cảm thấy tim mình như một khối thủy tinh vừa bị chấn động đến vỡ vụn, làm chân tay họ không nghe sai khiến, da đầu họ tê dại tựa hồ có một luồng điện kích qua; họ chỉ nghe cái xác cổ ấy phát ra những tiếng "ùng ục" trong cổ họng, rồi hắn nhặt cái mũ sắt rơi trên đất, nhanh chóng bò về phía cánh cửa đá.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52: hồi thứ ba: quốc vương chăm pa


Hồi thứ ba: Quốc vương chăm pa



Mọi người chỉ cảm thấy người lạnh buốt kinh hãi, da thịt như co rút, dưới chân như đổ nhựa đường, chẳng thể nào nhúc nhích nổi, mắt họ chằm chằm nhìn Nấm mồ xanh, hoặc có thể nói: nhìn vua Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, hắn lẻn vào cửa đá phía sau họ, rồi từ đó mất hút trong bóng tối.



Hải ngọng ra sức dụi mắt: "Chẳng lẽ, mẹ nó chứ, tớ bị hoa mắt à, các cậu có nhìn thấy gì không? Khi nãy là người cổ đại kia nhảy ra từ bức bích họa..."



Tư Mã Khôi cũng kinh hãi không thốt nên lời: "Sao Nấm mồ xanh lại trông giống y như bức vẽ vua Anagaya thế?" Con người dưới vòm trời này, đừng thấy người nào cũng hai cánh tay, hai cẳng chân, mà cho rằng họ đều giống như nhau tuốt tuột, vì họ còn có sự khác biệt của khuôn mặt, bởi mỗi người đều do cha mẹ sinh ra, mà cội nguồn huyết mạch thì đâu chỉ có ngàn dây vạn sợi, nên làm gì có chuyện giống nhau hoàn toàn? Cho dù tướng mạo xem ra có vẻ giống nhau như đúc, nhưng nếu nhìn kỹ, thì vẫn có thể phát hiện ra vài điểm khác nhau, huống hồ giữa hai thời đại, hai con người chẳng hề can hệ gì, dung mạo lại vô cùng đặc biệt, làm sao có thể giống một cách vô lý đến vậy?




Ngọn lửa do lựu đạn phốt pho sản sinh dần dần suy yếu, bóng đêm không ngừng lấn át những tia sáng còn sót lại trong đường hầm. Tư Mã Khôi thấy ngọn đèn tiết kiệm điện cùng lắm cũng chỉ dùng được khoảng một hai tiếng nữa, nếu bây giờ mà còn chút sợ sệt, khiếp hãi, thì sẽ bị nhốt đến chết dưới lòng đất tối đen này. Anh nghĩ thầm: "Dù sao sống chết gì cũng chỉ một mạng, hôm nay liều chết xông lên, cho dù thực sự có loài ác ma mượn xác hoàn hồn đi nữa, thì cũng phải nhìn cho rõ nó mới được". Lập tức, anh liền khoát tay gọi mọi người, xách súng đuổi theo sau.



Hải ngọng thấy Tuyệt sợ xanh mặt, liền lên giọng trấn an, giúp cô vững dạ: "Có gì đáng sợ chứ hả? Thằng cha trong tay chúng ta có phải cây gậy đốt lửa đâu, khẩu súng săn mà bọn khọm Anh dùng đúng là lợi hại lắm đấy, không chỉ nòng ngoại cỡ, khả năng sát thương lớn, mà bề mặt bao phủ của đạn cũng rất rộng, chỉ cần bòm một cái, ngay cả tê giác cũng chẳng chống đỡ nổi, ban nãy chỉ vì tôi chưa quét sạch ranh giới ngắm bắn, vì sợ sát thương nhầm mọi người, chứ không thì đã sớm bắn nó tan xác..." nói xong liền cùng Tuyệt kẻ trước người sau chui vào cửa đá.



Ngọc Phi Yến thấy hành động của ba kẻ liều mạng, trong lòng nghĩ chắc họ đã phát điên. Cô ta hơi do dự một chút, nhưng vì sợ một mình ở lại đường hầm tối đen như mực, biết đâu sẽ xảy ra bất trắc, thế là đành cắn răng cắn lợi, theo chân hội Tư Mã Khôi.



Mọi người đều biết phía trước tất có nguy hiểm, bởi vậy thần kinh người nào cũng căng thẳng, im tiếng nín hơi. Vừa chui qua cửa đá, họ bèn tựa lưng vào vách, rồi ai nấy giơ súng cảnh giới, chuẩn bị tâm lí sẵn sàng đối mặt với cái chết. Vậy mà trong bóng tối, tất cả vẫn yên ắng đến kỳ lạ, chỉ nghe phía xa lờ mờ có tiếng nước chảy, dường như dòng suối tồn tại ở đâu đây, ngoài ra chẳng còn thứ âm thanh gì khác. Trong khi đó, Nấm mồ xanh lẻn trốn vào đây cũng chẳng thấy xuất hiện, ánh đèn chỉ soi sáng ở khoảng cách chừng năm sáu mét, nên căn bản không thể phán đoán bản thân đang đứng ở vị trí nào.



Tư Mã Khôi lo lũ cá sấu trong đường hầm bám đuôi theo, nên đợi khi ba người còn lại vào hết, anh liền đóng cửa đá lại, và đồng thời cũng phát hiện phía sau cánh cửa có một bức phù điêu. Bức phù điêu vẽ con mãng xà trắng bập bềnh trên mặt biển sóng to gầm gào, vua Chăm Pa nằm nghiêng trên lưng rắn, dưới chân là hai nô lệ quỳ bưng hai cây nến to, ngẩng mặt lên lại có một tòa bảo tháp chín tầng.



Tư Mã Khôi chỉ đưa mắt nhìn qua bức phù điêu trên tường, nên nhất thời khó lòng giải mã được hàm ý ẩn chứa bên trong, sau đó anh liền nhờ ánh sáng yếu ớt mờ tối mà quan sát địa hình xung quanh, và chỉ thấy vách tường đá kín mít, thân tường được xếp chồng bởi vô số viên đá tạc hình mặt người, dày chi chít. Những khuôn mặt lạnh lùng, cứng nhắc ấy, càng tôn thêm vẻ thần bí và đáng sợ của vương quyền. Rất nhiều châu báu ngọc ngà rơi vãi rải rác khắp mặt đất, từ những bức thần tượng được đúc bằng vàng cho đến những tượng đầu người chạm trổ các loại đá quý, khi bị ánh đèn chiếu vào, nó đều tỏa ra thứ hào quang kỳ dị.



Mọi người đã tận mắt nhìn Nấm mồ xanh trốn vào trong thạch thất, nhưng khi bám theo hắn, thì lại chẳng thấy gì, nên có cảm giác nơi đây tựa hồ một khoảng không gian thâm u cực độ.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Tư Mã Khôi đang định xách đèn thăm dò từng nơi, thì ánh sáng trong thân đèn đột nhiên vụt tắt, gõ đập thế nào cũng không sáng lại, không hiểu vì bị hỏng hóc chỗ nào. Bốn phía phút chốc chìm vào bóng tối mênh mang, bóng đen tuyệt vọng cũng theo đó mà bủa vây tâm can, Tư Mã Khôi âm thầm than vãn, sao đúng lúc này đèn lại hỏng được nhỉ, thật chẳng khác nào gặp được gió thì thuyền lại gãy mái chèo, đến bờ vực thẳm thì ngựa đứt dây cương.




Bên người Hải ngọng còn có một quả lựu đạn phốt pho nữa, nếu lợi dụng nó để phát sáng, đại khái có thể duy trì trong vòng mười phút gì đó; nhưng chưa đến thời khắc cuối cùng thì chẳng ai dám nỡ mang nó ra sử dụng. Bốn người rơi vào bóng tối, mắt không nhìn thấy bất kỳ vật gì, họ đành liều chết dừng chân sát vách tường, thứ nhất là để nghỉ ngơi chốc lát, bàn bạc đối sách; thứ hai là để sửa đèn, ngọn đèn này không giống hết pin, rất có khả năng là đứt dây hay chạm mạch gì đó, vì các thiết bị chiếu sáng mà đội thám hiểm mang theo thường là rất bền, tuyệt đối không dễ hỏng hóc, nếu xuất hiện tình trạng thế này, chỉ cần tháo ra lắp ráp lại, là có thể chiếu sáng được như cũ. Tư Mã Khôi bảo Tuyệt mò mẫm trong bóng tối tháo đèn ra kiểm tra, xem nó có thể sáng lại được hay không.



Tư Mã Khôi vừa nắm chặt khẩu súng đề phòng bất trắc xuất hiện trong bóng tối, vừa nghĩ lại cảnh ngộ gặp phải lúc trước. Anh vốn dĩ định cài bẫy theo bẫy, tìm cơ hội lật ngược tình thế, biến khách thành chủ trong đường hầm, giải quyết dứt điểm nguy cơ chí mạng luôn luôn mai phục bên mình, vì nếu không, cục diện sẽ bị người khác khống chế mãi mãi không thể xoay chuyển được. Ai mà ngờ được Nấm mồ xanh ẩn hiện như vong hồn kia, sau khi bị súng xung phong bắn trúng, lại vẫn có thể đi lại như thường; nhưng điều khiến người ta kinh ngạc hơn là, kẻ đó trông giống vua Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, như thể móc ra từ một khuôn đúc vậy. Những biến cố bất ngờ này đã khiến bốn kẻ may mắn sống sót, một lần nữa lại rơi vào tình thế hoàn toàn bị động.



Tư Mã Khôi không thể nhịn nổi, nghiến răng mắng chửi: "Chẳng lẽ gặp phải xác ướp sống dậy hay sao? Giữa ngày tháng Sáu mà tuyết bay đầy trời, sông Hoàng Hà chín khúc chảy ngược về tây, trong núi Dã Nhân chuyện quái quỷ gì cũng có cả ư?"



Hải ngọng ngán ngẩm nói: "Đã đến nơi sơn cùng thủy tận này rồi, cậu đừng có ngồi lèm bèm làm gì. Có điều, tớ ngẫm mãi vẫn không ra... vị cổ đại trên bức bích họa, vì sao lại đột ngột sống dậy nhỉ? Chuyện này mờ ám, tà ma thế nào ấy, mẹ nó, đúng là nổi hết cả da gà. Năm kia nghe tin Undurkhaan kích gãy cát vùi, thất bại thảm hại, tớ đã cảm thấy chuyện này có chút tà tính, muốn không tin cũng không xong."



Lúc này Tư Mã Khôi mới nhớ ra, anh vẫn chưa kể cho ba người còn lại nghe việc mình đã phát hiện ra chân tướng Tiền Bảo Sơn chính là Nấm mồ xanh, thế là anh bèn tường thuật tóm tắt một lượt, đồng thời còn nói: Nấm mồ xanh rất thông thuộc tình hình mất tích của đội vận tải bổ sung, lại nắm bắt được nhiều bí mật trong sơn cốc núi Dã Nhân. Tuy rằng trước đây hắn sử dụng dị thuật để thay đổi giọng điệu, nhưng ngữ khí bản địa chính gốc thì người ngoài không dễ bắt chước được; bởi vậy trước mắt có thể chắc chắn ba điểm liên quan đến tên này: "Thứ nhất, hắn từng là thành viên quân sự lúc quân Đồng minh kháng Nhật ở Miến Điện; hơn nữa, có khả năng quê hắn ở Vân Nam. Thứ hai, hắn là kẻ đầu sỏ đứng sau tấm màn Nấm mồ xanh, thuê đội thám hiểm và vạch kế hoạch hành động. Thứ ba, tuy lai lịch của hắn bất minh bí ẩn, nhưng chắc chắn rằng không liên quan chút nào đến vương triều Chăm Pa.



Ba người còn lại trước đây đều không hiểu vì sao Tư Mã Khôi đột ngột nổ súng, thì đến lúc này mới bừng tỉnh ngộ. Nhưng đối với chuyện Nấm mồ xanh có dung mạo giống vua Anagaya như đúc, thì mọi người vẫn cảm thấy không thể lý giải nổi, bởi chỉ e việc này tuyệt đối không đơn giản là việc hai người giống nhau. Đầu tiên, Nấm mồ xanh rất am tường những bí mật của vương triều Chăm Pa chôn giấu trong núi Dã Nhân, vì nếu hắn không dùng pháo phát tín hiệu dẫn đường, thì chẳng ai có thể tìm thấy đường hầm bụng rắn. Kế đó, hắn có thể trốn trong khoang máy bay tiêm kích vận tải, ẩn thân tàng hình ngay trước mắt mọi người. Sau cùng, mọi vết tích trên cơ thể hắn, đều chẳng giống người sống chút nào. Tất cả những điểm này, đều nhằm chứng minh một điều: Nấm mồ xanh không phải hậu duệ của vua Chăm Pa, cũng không có việc trùng hợp tướng mạo hoàn toàn giữa người thời nay và người cổ đại, mà rất có khả năng bản thân Nấm mồ xanh chính là vua Chăm Pa; còn về việc hắn ta là quái vật có thể sống hàng ngàn năm, hay sau khi chết đi đã bị nhập tràng, nhảy ra khỏi quan tài mộ cổ, thì hoàn toàn không thể phán đoán chính xác. Thế nhưng, có thể chắc chắn một điểm, tòa thành bốn triệu bảo tháp ở nơi sâu nhất trong sơn cốc chính là mục tiêu thu hút hắn trở về núi Dã Nhân.



Tư Mã Khôi đầy dạ nghi hỏi: "Tòa thành bốn triệu bảo tháp do vua Chăm Pa bí mật xây dựng, bên ngoài đúc đầy những bức phù điêu vẽ cảnh trời đất, người vật, cỏ cây, chim cá, cây cao núi nhọn, thần phật quỷ quái, vô cùng vô tận, nhưng bên trong ngoại trừ đường hầm được xếp chồng bởi các thỏi đá tạc hình mặt người, thì chỉ có mỗi gian mật thất rơi vãi đầy vàng bạc châu báu này thôi. Chẳng lẽ đáy tòa thành cổ chính là lăng tẩm dưới lòng đất?" Sau đó, Tư Mã Khôi lại xoay sang hướng khác, vì nghĩ thấy không đúng lắm: "Nếu tòa thành cổ này đúng là một địa cung lăng tẩm, thì thi thể của vua Chăm Pa đáng lẽ phải ở trong quan tài mới phải, chứ không thể cùng đội thám hiểm đi từ ngoài vào." Trong lòng trăm mối khó gỡ, anh liền quay sang hỏi Ngọc Phi Yến, xem cô ta còn biết chuyện gì liên quan đến Nấm mồ xanh và vua Chăm Pa nữa không, và nơi này phải chăng là địa cung mộ cổ?



Ngọc Phi Yến tâm thần còn chưa ổn định trở lại, nói với Tư Mã Khôi: "Lúc trước tôi đã nói với anh rồi đấy thôi, chỗ này chắc chắn không phải là lăng tẩm dưới lòng đất, nếu tôi nhìn nhầm, thì cam tâm móc hai mắt ra cho anh luôn. Còn về Nấm mồ xanh, tôi chỉ biết đó là kẻ đầu não của một tổ chức tài phiệt, còn cụ thể tình tiết thế nào, thì tôi đều không rõ, có điều là, quả thực từ trước đến nay chưa một ai nhìn thấy gương mặt thật sự của hắn. Chúng ta đã vô tình phát hiện ra bí mật này, thì cho dù có giữ được mạng sống thoát khỏi núi Dã Nhân, cũng vẫn bị người ta giết người diệt khẩu, chỉ e trốn chạy đến chân trời góc biển cũng chẳng thoát nổi..." Rồi trong lòng cô ta đột nhiên nảy ra một ý niệm: Nếu có thể nghĩ cách giải quyết dứt điểm Nấm mồ xanh, lại có thể giữ được mạng sống ra khỏi đây, thì toàn bộ kho báu của vua Chăm Pa chôn vùi dưới núi Dã Nhân, chẳng phải tất cả đều về tay mình cả hay sao? Nhưng rồi cô ta lại lo lắng: đã rơi vào hoàn cảnh này rồi, có thể thoát nạn hồi sinh là đã may mắn, nếu còn tham thú tiền bạc của cải, trời xanh tự khắc không phù hộ độ trì, nếu còn có dã tâm tham lam, cuối cùng sẽ chỉ hại chết bản thân mà thôi.




Tư Mã Khôi nghe ra một vài manh mối, liền gật đầu bảo: "Thì ra Nấm mồ xanh tìm trăm phương ngàn kế để che giấu gương mặt thật của mình, là vì sợ bị mọi người biết thân phận của hắn. Nếu chẳng phải khi nãy chúng ta tận mắt chứng kiến, thì ai có thể ngờ người này lại chính là vua Chăm Pa đã chết từ hơn ngàn năm trước. Xem ra, ngoại trừ việc chúng ta phải tìm cách thoát thân, thì còn phải nhanh chóng tìm ra Nấm mồ xanh, nếu không hậu họa sẽ rất khó lường."



Tuyệt lo lắng nói: "Việc này đâu có dễ dàng thế, nếu Nấm mồ xanh là xác chết cổ đại hàng ngàn năm, thì cho dù chúng ta có tìm thấy hắn, cũng làm được gì nào? Chẳng lẽ lại giết một người đã chết từ đời thuở nào thêm một lần nữa?"



Tư Mã Khôi nghe Tuyệt nói, trong lòng đột nhiên bị kích động mạnh. Anh phát hiện phương hướng tư duy của mình khi nãy là hoàn toàn sai lệch. Anh lại hỏi Ngọc Phi Yến: "Cô có biết sau khi vua Chăm Pa chết thì xảy ra việc gì không? Hoặc giả lúc đó ông ta quả thực đã chết thật hay chưa? Những việc này có được ghi chép rõ ràng lại chăng?"



Ngọc Phi Yến nhỏ giọng nói: "Vua Anagaya đương nhiên chết thật rồi, nhìn lại từ cổ chí kim, trên đời này làm gì có người nào trường sinh bất tử? Cho dù tướng mạo kỳ dị, gần như người trời, nhưng rốt cục vẫn chỉ là một thân máu thịt, cuối cùng cũng không thể chạy thoát tiếng gọi của thần chết. Tương truyền, khi tại vị, vua Anagaya đã tàn sát quá nhiều người, rồi cuối cùng không bệnh tật gì mà đột nhiên lăn ra chết bất đắc kỳ tử; cảnh chết vô cùng khủng khiếp, lăng tẩm an táng ở khu vực đồi núi nơi biên giới giữa Việt Nam và Lào. Thời cận đại, lăng tẩm nhiều lần bị khai quật trộm, mộ chí cũng bị hủy hoại hoàn toàn, nên đến nay chẳng còn tung tích gì nữa mà tìm."



Tư Mã Khôi biết đây chính là vấn đề then chốt, liền tiếp tục gạn hỏi: "Vậy có ai phát hiện thấy xác của vua Anagaya trong mộ cổ không?"



Ngọc Phi Yến hồi tưởng lại: "Theo tôi được biết, năm đó chiếc quan tài bằng vàng liệm xác vua Anagaya, bị dân trộm mộ mang ra bán đấu giá trên tàu ở vùng biển quốc tế, sau đó được tín đồ của ông ta chuộc lại, bí mật vận chuyển về Việt Nam, đặt ở cố đô triều Nguyễn - triều đại cuối cùng ở Việt Nam, cũng chính là hoàng cung thành cổ Huế. Mãi cho đến khi chiến tranh ở Việt Nam bùng phát ác liệt thì tòa thành cổ ở Huế cũng bị ảnh hưởng bởi bom đạn tàn phá. Lúc đó, chiếc quan tài vàng của vua Chăm Pa đặt trong thành, cùng với hài cốt bên trong, đều chẳng biết biến mất đằng nào."



Hội ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt cũng nghe phong thanh về tình hình Việt Nam lúc đó, tuy không biết cụ thể, nhưng họ cũng rõ, trong cảnh hỗn loạn ấy, pháo rơi đạn lạc chẳng khác nào mưa đá từ trên trời bỗng dưng giội xuống, nên xảy ra bất kỳ biến cố gì cũng chẳng phải là điều lạ lẫm. Không chừng, chiếc quan tài đã bị bom đánh tan tành, còn xác vua Anagaya ở bên trong lại "nhập tràng" chạy mất tiêu. Nhưng sao ông ta lại trở về tòa thành cổ chôn vùi dưới lòng đất này làm gì?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53: hồi thứ tư: chân tướng


Hồi thứ tư: Chân tướng



Mọi người không hẹn mà đều có cùng một dự cảm: "Vì sao thây ma cổ đại nhảy ra khỏi quan tài lại trở về tòa thành Nhện Vàng? Đáp án rất có thể đang nằm trong bóng tối ngay trước mắt." Nhưng ở nơi này, ngay cả ánh sáng lân quang yếu ớt của khoáng vật cũng chẳng thấy đâu, cả không gian đều là đêm đen tuyệt đối, nếu không dựa vào thiết bị chiếu sáng, thì căn bản không thể nhìn thấy bất kỳ vật gì. Vì vậy, ngoại trừ trạng thái căng thẳng và đè nén khó lòng giải tỏa, thì tinh thần bất an, khiếp sợ của mọi người cũng dần dần tăng lên trong bóng tối.



Tuyệt từng nghe kể một câu chuyện rất đáng sợ, tương truyền ở một thôn quê nọ, có người đột nhiên chết bất đắc kỳ tử. Người nhà vì chưa kịp làm quan tài, liền đặt tạm thi thể ở ngoài sân cỏ, thắp ngọn nến phía đầu người chết, lại đắp một cái chăn trắng lên tử thi, rồi bắc mấy chiếc ghế làm giá để. Sau đó lại thuê một gã thanh niên gác đêm, đợi ngày hôm sau mới làm quan tài nhập liệm. Gã thanh niên gác đêm liền uống vài bình rượu cho vững dạ, kết quả là say rượu lăn ra đất ngủ như chết, anh ta mơ hồ nghe thấy tiếng chó sủa, mà phong tục bản địa kỵ nhất là bị chó đen nhìn thấy thi thể, anh ta giật mình tỉnh dậy, nhìn thấy một con chó đen to lớn đang gặm ngón chân người chết. Lúc này mây đen che kín bầu trời, một tiếng sét đột ngột vang rền, thi thể đang nằm thẳng đuỗi trên ghế gỗ, đột nhiên bật dậy, bỏ chạy thục mạng ra ngoài cổng, khiến người gác đêm sợ đến mức vãi tè ra quần, liền vội vàng hét gọi mọi người đến giúp, rồi đội mưa đi tìm, nhưng tìm khắp nơi mọi chốn mà vẫn chẳng hề thấy tung tích. Mãi rất lâu sau đó, trong thôn có một thương nhân bán đồ da làm ăn xa, đi ngang qua một nơi, nhìn thấy người chết tháo chạy năm đó, đang ghếch chân bên vệ đường mở sạp bán thịt bò. Nơi này cách quê nhà họ xa hàng ngàn dặm, thương nhân bán đồ da nọ cứ nghĩ anh bạn cùng thôn kia vẫn chưa chết, bèn tiến đến hỏi chuyện, rồi kể lại sự việc thi thể tháo chạy giữa đêm khuya năm đó, và hỏi anh ta làm sao lại lưu lạc được tới đây. Người cùng thôn nghe xong, đột nhiên ngã vật xuống đất, không ngồi dậy nổi, trong chớp mắt liền lộ ra trạng thái thi thể mục rữa; cuối cùng phải báo cho quan phủ biết, rồi thi thể được thiêu cháy tại chỗ, tro cốt gửi về quê nhà mai táng.



Việc này được thời đó gọi là "kinh hồn vạn lý", nguyên nhân đại thể do người chết lúc đầu sinh khí tàn tồn trong cơ thể vẫn chưa hoàn toàn tiêu tán, khi gặp phải tình huống đặc biệt, ví dụ như bị sét đánh trúng, hoặc bị chó đen nhìn thấy, thì xảy ra các hiện tượng quái dị như hồi hồn nhập tràng. Những xác chết này ban ngày có thể đi đứng nói chuyện chẳng khác gì người sống, chỉ khi đêm xuống mới lộ nguyên hình là một thi thể cứng đờ, đồng thời mất hết thần trí, hoàn toàn không nhớ đến những việc đã từng trải qua trong quá khứ, đến lúc được người ta kể lại nguyên nhân cái chết, mới hoảng hốt đến mức hồn đột ngột lìa khỏi xác mà lăn ra chết hẳn.




Tuy Tuyệt tham gia quân đội cộng sản đã vài năm, từng nhìn thấy không ít cảnh tượng chết chóc khiến người ta chấn động tâm kinh, nhưng dưới áp lực mà bóng tối mang đến, thần kinh cô cũng dần rơi vào trạng thái căng thẳng cực độ. Lại nghe Ngọc Phi Yến kể việc mộ cổ của vua Chăm Pa bị đào trộm, tình hình mất tích của chiếc quan tài vàng ở Huế, và những cảnh ngộ khủng khiếp mà cô vừa trải qua khi nãy trong đường hầm, đã khiến cô đột ngột nhớ đến truyền thuyết dân gian của người bản địa lúc mới bắt đầu tham gia quân ngũ. Trong lòng không khỏi ớn lạnh rùng rợn, một cảm giác không còn chút sức lực đã bất giác xâm chiếm toàn bộ cơ thể cô. Trong lúc tim đập chân run, suýt chút nữa là cô đánh rơi chiếc đèn đang lắp ráp trong tay xuống đất, rồi không kìm được, cô quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Chẳng lẽ Nấm mồ xanh đúng thật là cái xác nhảy ra từ quan tài sao?"



Tư Mã Khôi lại cho rằng hoàn cảnh mà mọi người gặp phải, tuyệt đối không đơn giản như những gì Tuyệt đang nghĩ, nhưng nếu không tìm cách khiến chân tướng sự thật phơi bày ra ánh sáng, thì cả hội sẽ phải đành ngồi đợi chết ở nơi tối tăm đến mức xòe tay trước mặt mà chẳng nhìn thấy ngón tay. Anh cảm thấy, có lẽ tung tích của chiếc quan tài và hài cốt vua Chăm Pa, chính là điểm nút quan trọng nhất giúp vạch trần chân tướng sự việc núi Dã Nhân, nên anh lại tiếp tục hỏi dồn Ngọc Phi Yến: "Từ khi lăng tẩm của vua Chăm Pa bị phá hủy đến nay, có người nào còn tận mắt nhìn thấy hài cốt đặt trong quan tài nữa không?"



Ngọc Phi Yến nhớ lại, rồi đáp: "Những hiểu biết của tôi về việc này, cũng chỉ thông qua người ta kể lại mà thôi, không rõ có thật hay không.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Nghe nói, lúc chiếc quan tài bị khai quật, những kẻ trộm mộ định hủy cái xác, nhưng tất cả đều bị chết thảm bất ngờ, bởi vậy người ta lấy đinh đóng chết chiếc quan tài lại, mãi đến trước khi nó bị mất tích trong chiến dịch Huế ở Việt Nam, thì trước đó đều bị niêm phong kín mít, chẳng ai dám to gan lớn mật mà mở ra nhìn trộm thi thể của vua Chăm Pa khâm liệm bên trong."



Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nói đến đây, cuối cùng cũng nắm bắt được một chút manh mối. Anh phân tích với mọi người: "Tôi cảm thấy, nếu nói vua Chăm Pa mà chúng ta vừa gặp trước cánh cửa đá khi nãy, là tử thi trong chiếc quan tài cũ bò ra từ mộ cổ, thì khả năng này không lớn lắm, bởi vì Nấm mồ xanh - kẻ thuê đội thám hiểm tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, tuy nắm rõ kết cấu bên trong sơn cốc như lòng bàn tay, nhưng hắn ta cũng không biết chân tướng ẩn giấu sau ám hiệu cổ xưa về rắn và tháp, nếu không thì mấy chiếc máy bay hắn phái đi đều đã chẳng phải chết cả trong sương mù. Ngoài ra, tôi thấy những bức vẽ vua Chăm Pa còn sót lại trên phù điêu và bích họa, ngoại trừ dung mạo đặc biệt ra, thì cơ thể cũng vô cùng cổ quái, tứ chi rất dài, khác xa với thân hình của kẻ đội mũ sắt kia, nếu đem so sánh tỷ lệ kích thước trong bức họa với kích thước của người thực, thì vua Chăm Pa và Nấm mồ xanh không thể là cùng một người."



Trong bóng tối, mọi người gắng hết sức chế ngự cảm giác tuyệt vọng đến suy sụp, rồi dần dần ép đầu óc minh mẫn trở lại, hồi tưởng tỉ mỉ mọi việc đã gặp trong sơn cốc núi Dã Nhân, thấy rằng quả đúng như lời Tư Mã Khôi nói: "Nấm mồ xanh rõ ràng không hề biết nguy hiểm thực sự tồn tại trong sương mù dày đặc dưới lòng đất, nhưng những ẩn số vây quanh hắn ta vẫn còn rất nhiều, sau lưng hắn rốt cục che giấu một thân phận như thế nào?" Nấm mồ xanh, là kẻ đầu não của một tập đoàn thế giới ngầm, khống chế tổ chức thương mại buôn bán vũ khí lớn nhất khu vực Đông Nam Á, có bao kẻ tình nguyện vì tiền mà sẵn sàng chết thay, thì việc gì hắn phải tự mình dấn thân vào vòng nguy hiểm, thâm nhập sơn cốc núi Dã Nhân? Vậy mục tiêu thực sự của hắn là gì? Vì sao sau khi bị đạn bắn trúng, hắn vẫn không chết? Phải chăng thật ra hắn đã sớm chết từ lâu rồi? Lúc trước trong khoang máy bay tiêm kích có chứa quả bom địa chấn, Nấm mồ xanh có lẽ đã trốn ngay trước mũi mọi người, nhưng trước sau vẫn chẳng hề để lộ tung tích. Rốt cục hắn làm được điều này bằng cách nào? Sau khi lẻn vào sau cửa đá, hắn đã trốn vào đâu? Những nghi hoặc nối tiếp nghi hoặc, đan xen chồng chéo, phức tạp không thể nào tìm ra lời giải đáp.



Tư Mã Khôi suy đoán: "Phía sau phần lớn ẩn số, đều chỉ ra một tia manh mối, manh mối đó chính là dung mạo, có lẽ khuôn mặt của vua Chăm Pa... đã bị Nấm mồ xanh lấy đi. Tôi không rõ Nấm mồ xanh thực sự có phải là một hồn ma hay không, nhưng sắc mặt của hắn tỏa ra một mùi tử khí nồng nặc dưới màu da trắng bệch, hai hốc mắt không hề có sinh khí của người sống, nghe nói chỉ những xác ướp bị chôn vùi ngàn năm trong quan tài niêm phong kín mới có sắc mặt này."




Ngọc Phi Yến nghe xong, sợ đến nỗi phải hít ngược một hơi khí lạnh, cô thắc mắc hỏi: "Ý anh nói Nấm mồ xanh đã lột khuôn mặt của tử thi ra, rồi úp đội lên đầu chính mình? Đúng là lần đầu tiên tôi nghe có người dám làm vậy đấy." Tuyệt nghe xong mà toàn thân bủn rủn lạnh ngắt: "Vì... vì sao hắn lại làm thế?"



Tư Mã Khôi nói: "Tôi cũng chỉ hiểu ngoài lề một chút về tướng thuật Kim điển, chẳng qua là do gia truyền, thầy dạy, chứ không thể gọi là tinh thông. Tôi thường cho rằng vận may là thứ rất vi diệu, khó có thể nắm bắt, người thường liệu có mấy ai lĩnh ngộ được nó? Bất luận nói phúc hay nói họa, đều không thể tin tuyệt đối được. Nhưng nghe nói, kiểu quan niệm cho rằng tướng mạo có thể điều khiển được cát hung phúc họa, thì nguồn gốc đã có từ lâu đời, tồn tại hoặc ít hoặc nhiều trong tôn giáo cổ đại, có điều phong vật mỗi nơi một khác. Còn quan niệm quái dị lấy tướng mạo phân biệt đẳng cấp sang hèn của vương triều Chăm Pa, được sinh ra bởi bối cảnh như thế nào, nó có gì khác biệt với tướng thuật cổ xưa khởi nguồn từ Trung Quốc, thì tôi lại không biết rõ. Tôi chỉ có thể áp dụng tướng thuật Kim điển mà mình am hiểu để đánh giá sơ qua về đặc trưng tướng mạo của vua Chăm Pa. Tôi thấy tướng mạo vị vua Anagaya này đúng là rất kỳ quái, chỉ có bì tướng, chứ không có cốt tướng, vậy mà lại được người cổ xưa tôn vinh là người trời thì nguyên do vì đâu? Có lẽ, theo quan niệm thời đó, những kẻ phàm trần có dung mạo giống như thần phật, thì đều là người gần kề với Thiên quốc nhất. Những người tin tưởng vào thuyết số mệnh đều cho rằng, chỉ cần sinh ra làm người, thì chẳng khác nào côn trùng bay vào lưới nhện, đến chết cũng không giải thoát khỏi sự ràng buộc của mảnh lưới vận mệnh, trong khi vận mệnh lại được phản ánh trực tiếp nhất trên khí sắc ngũ quan của khuôn mặt. Theo tướng thuật cổ xưa mô tả thì: miệng to đút lọt nắm tay, trán rộng đủ cho ngựa chạy, môi dày trĩu rủ, mắt tựa ngư long... những kẻ có khí chất thần thái như vậy, đều là tướng mạo cao siêu. Có điều, ngàn người có ngàn tướng mạo, vạn người có vạn khuôn mặt, nhưng chưa ai hội tụ được tất cả những đặc trưng này trên mặt, bởi vì đây là tướng mạo thập toàn, người bình thường không thể tồn tại vận may nhiều đến thế được. Vậy mà khuôn mặt của vua Chăm Pa đúng là lại có đủ những yếu tố ấy, lẽ nào bên trong còn ẩn chứa một loại sức mạnh có thể điều khiển thành bại, thậm chí, giải thoát khỏi lưới nhện?"



Tư Mã Khôi suy đoán: vua Chăm Pa tuy rằng đã chết gần ngàn năm, hài cốt sớm đã mục rữa từ lâu, nhưng khuôn mặt lại có thể bảo tồn nguyên lành trong quan tài đến tận ngày nay. Nấm mồ xanh lấy đi khuôn mặt của xác chết cũng có nghĩa là lấy đi "vận may" của vua Chăm Pa, bởi vậy, hắn mới to gan dấn thân vào vòng nguy hiểm bước chân xuống sơn cốc núi Dã Nhân.



Hải ngọng nghe xong một hồi, cho rằng chuyện này làm gì đến nỗi phức tạp như thế. Bởi chẳng bao giờ tin vào số mệnh, anh liền nói với Tư Mã Khôi: "Cậu cũng bắt đầu mê tín rồi đấy, vận may, cái thứ ấy có cầm nắm được không? Nó hình vuông hay hình tròn? Là đực hay cái? Bao nhiêu tiền một cân? Đã ai tận mắt nhìn thấy bao giờ chưa? Chúng ta thân là quân nhân, quăng sọ xuống đất mà đá như trái bóng, sao cậu có thể tin vào điều này được hả?"



Ngọc Phi Yến lại hoàn toàn đồng ý với lời của Tư Mã Khôi: "Anh bảo ai không tin vào vận may? Thế nhân thắp hương cầu khấn bồ tát, bái lạy sư tổ, thờ cúng tổ tiên, đeo bùa hộ mệnh, chẳng phải cũng đều chỉ là để cầu vận may thôi sao? Phàm khi thực hiện những công việc nguy hiểm, từ trước đến nay đều là mười phần chuẩn bị, chín phần ứng biến, một phần vận may, bởi nếu thiếu một phần vận may đó, thì bất luận ban đầu anh có chuẩn bị chu toàn thế nào, và có phương pháp xuất chúng đến đâu, cuối cùng cũng khó lòng thành công; cái này người ta gọi là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên đấy."



Tư Mã Khôi nói: "Lời của mọi người đều có lý của nó; rốt cục vận may, cái thứ ấy quá hư ảo, mờ mịt, nhưng tôi tin nó chắc chắn vẫn tồn tại khách quan, chỉ có điều cũng không thể dồn mọi hi vọng vào nó được."



Lúc này Tuyệt nói với Tư Mã Khôi: "Tôi nghe người bản địa nói, ở gần khu vực biên giới giữa Miến Điện và Campuchia, thường có những tà thuật như bỏ bùa, nuôi ma. Họ móc tiểu sành đựng xương cốt của thi thể chôn dưới núi sâu, sau đó âm thầm cõng về nhà nuôi dưỡng, người ta gọi việc này là chuyển mệnh, hay cõng ma, bởi vậy phía sau những người có vận may đều có ma bám theo, muốn có gì là được cái nấy, chẳng ai động được đến họ..."




Hải ngọng lên giọng oán trách: "Tuyệt ơi là Tuyệt, cùng lắm tôi có thể nhẫn nhịn kẻ điên nhưng chỉ là hai thôi nhé, nếu ngay cả cô cũng tin mấy món này, thì tôi cũng chẳng còn biết trông đợi vào đâu nữa."



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng hãy bình tĩnh lại một chút, nếu so với bóng tối mà thị giác không thể nhìn xuyên thấu, thì điểm mù tồn tại trong tâm lý, còn đáng sợ gấp bội, bởi nếu không nghĩ cách tìm ra lời giải, thì cho dù bốn phía đều thông sáng, cũng khó lòng thoát khỏi sơn cốc núi Dã Nhân sương mù dày đặc bao vây này.



Hải ngọng nói: "Dù sao cảm giác có mắt như mù này đúng là chẳng dễ chịu chút nào, cái đèn đó đã sửa xong chưa vậy? Nếu như chẳng còn trò gì nữa, thì chúng ta mau mau nghĩ ra chiêu khác mới được..." Anh vừa nói, vừa lần sờ quả lựu đạn phốt pho, định dùng chất đốt của nó để chiếu sáng, nhưng lúng túng thế nào lại trượt tay đánh rơi xuống đất, trước mắt tối mù mù, chẳng nhìn thấy vật gì, anh đành thò tay ra trước lần mò. Ai ngờ vừa sờ xuống, liền chạm phải một mảnh da thịt lạnh ngắt, anh lại sờ kỹ hình dạng của nó, thì thấy có mũi, có mắt, còn có cả miệng, nhưng lại chẳng hề thấy hơi vào, rõ ràng là cái đầu của một người chết.



Hải ngọng thầm cảm thấy kỳ quái, lúc đèn tắt, mọi người đều tựa lưng vào vách tường, đứng im tại chỗ, sao khi ấy lại chẳng hề phát hiện gần đó có thi thể người chết nhỉ? Cho dù Nấm mồ xanh có đeo khuôn mặt bóc ra từ thi thể vua Chăm Pa, thì mũi miệng vẫn phải phả hơi thở mới phải chứ? Đằng nay, xúc giác truyền đến từ đầu ngón tay hoàn toàn tĩnh lặng, cảm giác chẳng có chút hơi khí nào, rõ ràng cái đầu phía sau khuôn mặt không hề có sinh mệnh tồn tại... Nghĩ đến đây, Hải ngọng mới phản ứng trở lại, anh sợ đến nỗi vội vàng rụt phắt tay, lập tức giương khẩu súng săn đang ôm trong lòng, hoảng loạn bóp cò.



Lúc này, Tuyệt cũng vừa lắp đèn xong, cô nhẹ nhàng nhấn công tắc, ánh sáng trong thân đèn lóe lên, mọi người nhờ ánh sáng yếu ớt mờ ảo, phát hiện phía ở trước lộ ra một bóng đen sì sì. Bóng đen hơi ngẩng đầu lên, tứ chi hướng xuống đất, khuôn mặt cứng ngắc vô cùng quái dị, trên làn da trắng bệch là thần thái âm hiểm, giống như đúc với bức vẽ trên bích họa của vua Chăm Pa, thái dương còn có một lỗ hổng do đạn xuyên vào, đó chính là Nấm mồ xanh - kẻ mạo nhận thành viên bị mất tích của quân Mỹ.



Tư Mã Khôi thấy Nấm mồ xanh lộ diện trước ánh sáng đèn, vết tích lỗ đạn bắn cũng vô cùng rõ rệt, nên lòng không khỏi thầm kinh hãi. Đột nhiên anh liên tưởng đến chuyện "cõng ma" mà Tuyệt vừa kể, trong óc bất giác lóe lên một ý niệm: "Đầu là chủ thể của tư duy bát mạch, chim mất đầu không bay, người mất đầu không chạy, cho dù Nấm mồ xanh từng là người sống, đầu bị đạn xuyên thủng như thế, thì chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ, càng không thể tồn tại tư duy, ý thức, trừ khi hiện tượng khống chế thi thể hành động bây giờ là... mượn xác hoàn hồn!"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54: hồi thứ năm: kỳ tích


Hồi thứ năm: Kỳ tích



Tuy ánh đèn khiến Nấm mồ xanh đứng gần đó phải lộ diện trước mặt mọi người, nhưng chiếc đèn dường như vẫn chưa phục hồi hoàn toàn, vì điện áp không ổn định nên ánh sáng của nó cứ chập chờn, nhấp nháy, rồi đột ngột vụt tắt, bóng tối lại một lần nữa nuốt chửng tất cả trong nháy mắt.



Lúc này, Hải ngọng là người giương súng trước tiên, anh bóp cò một cái, hai loạt đạn bay ra vùn vụt, chỉ nghe "pằng pằng" mấy tiếng vang lên, kèm theo đó là khói trắng bay ra mù mịt. Ba người còn lại lần lượt định thần tỉnh khỏi cơn kinh hãi, người nào người nấy cầm chắc vũ khí ngắm bắn. Tư Mã Khôi phát hiện dưới tia lửa đạn liên thanh lóe lên, phía trước hoàn toàn trống trơn, chẳng có nửa bóng người, liền hô mọi người ngừng bắn, giữ đạn. Bốn phía xung quanh lại rơi vào trạng thái yên ắng rợn người, ai nấy tim đập điên cuồng không ngớt, chẳng biết tiếp theo đây sẽ xảy ra sự việc bất ngờ nào nữa. Hải ngọng thấy đèn tiết kiệm điện dường như hỏng hẳn, anh định bạo gan, tiếp tục mò mẫm tìm quả lựu đạn phốt pho vừa bị rơi khi nãy.



Bất chợt, cách đó mười mấy mét, một âm thanh trầm đục vang lên: "Đừng tìm nữa, quả lựu đạn đang ở chỗ ta..." Âm giọng vừa phát ra cứng ngắc và khàn đục, giống hệt với âm thanh trong cuốn băng ghi âm lúc kích nổ bom địa chấn trên máy bay, chỉ có điều, giọng nói này không sử dụng âm giả nữa.




Mọi người nghe xong vừa kinh hoàng, vừa khẩn trương, đang định tiến lên đột phá vòng vây, thì nghe đối phương cười nhạt: "Bọn mi đúng là chẳng biết trời cao đất dày là gì, đặt lông ngỗng không thấy nhẹ, đội cối đá cũng không biết nặng, nếu còn muốn giữ cái mạng thì chớ hành động ngông cuồng."



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: Nấm mồ xanh đã dám hiện thân, chắc hẳn hắn phải có chiêu bài yểm trợ gì đây. Hơn nữa, đầu hắn bị súng bắn trúng, không những không chết, mà cũng chẳng thấy máu chảy ra, lớp vỏ thể xác này tuy rằng hình bóng đều có, nhưng không biết hắn là quái vật phương nào. Thiết bị chiếu sáng của mọi người lại bị hư hỏng hết, hoàn cảnh bây giờ vạn phần bất lợi, hiện tại vẫn chưa phải thời cơ thích hợp để hành động. Thế là anh liền giơ tay, ngăn ba người lại, không vội vàng tiến bước, chỉ đứng tại chỗ hỏi: "Ngươi rốt cục là ai?"



Kẻ đó phát ra một tràng cười lạnh lùng, khô khốc: "Tất cả những lời bọn mi nói với nhau khi nãy, ta chẳng để lọt nửa chữ, đều nghe hết cả rồi. Bốn tên khốn bọn mi đúng là mọc mắt sau gáy, kiến thức và khả năng phán đoán khá lắm! Bây giờ mà ta nói mình là thành viên bị mất tích lúc quân Đồng minh phản công Miến Điện... chỉ e chẳng che đậy được nữa rồi."



Tư Mã Khôi tự biết những điều mình tiên liệu lúc trước quả nhiên không sai, một mặt anh vừa âm thầm suy nghĩ đối sách, một mặt vẫn điềm nhiên ứng khẩu: "Dựa vào ba món võ quèn, mà dám tự nhận mình có thể che đậy kín bưng không cho gió lọt, kỳ thực chẳng qua cũng chỉ rào trước chó chui, rào sau mèo luồn, chẳng chỗ nào chặt chẽ."



Kẻ náu mình trong bóng tối, nghe Tư Mã Khôi nói, liền hừ một tiếng vô cảm, đoạn nói: "Ta chỉ là một phút sơ suất, để lộ chút khe hở, chẳng may bị bọn mi nhìn thấu tung tích, nhưng rốt cục bọn mi vẫn chưa thể vượt qua ranh giới cuối cùng. Nếu không, bọn mi đã sớm chầu trời từ khuya rồi, làm sao còn có thể sống sót đến tận lúc này."



Tư Mã Khôi ngầm hiểu, "ranh giới cuối cùng" mà đối phương ám chỉ là mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm, vẫn chưa nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh. Không hiểu bên trong còn ẩn chứa những uẩn khúc gì nữa, mà hắn không dám để bất kỳ ai biết được? Kẻ nào nhìn thấy, hắn lấy mạng kẻ nấy? Trộm nghĩ, văn kiện cơ mật quốc gia có lẽ cũng chỉ bí mật đến mức đó là cùng, huống hồ, tướng mạo một người cho dù xấu xí, quái dị đến mấy, thì đâu cần thiết phải giữ bí mật cao độ dường ấy. Có điều, Tư Mã Khôi cho rằng bây giờ có gạn hỏi việc đó cũng chẳng có ý nghĩa gì, công việc cấp bách lúc này là phải nhanh chóng nắm bắt động cơ của đối phương, thế là anh nói: "Ngươi đâu phải Tây Thi, Điêu Thuyền, làm gì có ai ham ngắm dung nhan của ngươi, bây giờ ngươi xuất hiện, không phải để báo với bọn ta điều húy kỵ này đấy chứ?" Hải ngọng ở bên cạnh cũng lên tiếng dọa nạt: "Tốt nhất ngươi hãy mau chóng tìm một lý do thỏa đáng để bọn ta không xẻ ngươi ra thành bốn khoanh tám mảnh đi."



Kẻ đó chẳng thể hiện động tĩnh gì, ngữ khí càng trở nên thâm trầm: "Nguy hiểm mà bọn mi đang gặp phải, đáng sợ hơn rất nhiều với những gì có thể tưởng tượng, nếu bọn mi cứ tiếp tục duy trì quan hệ đối địch, thì với ai cũng đều bất lợi cả." Rồi hắn ta nói thẳng, đúng là có vài chuyện muốn kể ọi người nghe. Hắn không giấu giếm, thừa nhận thân phận mình chính là Nấm mồ xanh - kẻ đầu não thuê đội thám hiểm và vạch ra toàn bộ kế hoạch hành động.



Nấm mồ xanh là tổ chức thương mại buôn bán vũ khí, thuốc phiện, tin tình báo ngầm, lớn mạnh nhất toàn khu vực Đông Nam Á.




N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Do người đứng đầu đương nhiên không bao giờ lộ mặt, nên người ngoài không biết rõ lai lịch thân phận của hắn, chỉ gọi hắn theo tên gọi của tổ chức. Kỳ thực, trước đây hắn đều sử dụng biệt danh Tiền Bảo Sơn khi giao dịch bên ngoài, quê gốc ở Vân Nam, từng có quan hệ mật thiết với thực dân Anh và giới kinh doanh ở Miến Điện, Lào, Việt Nam, Campuchia.



Trước khi Tiền Bảo Sơn trở thành kẻ đầu não của tổ chức Nấm mồ xanh, thì đã biết người Anh từng nhiều lần cử các đội thám hiểm, thâm nhập sơn cốc núi Dã Nhân, mục tiêu hành động không chỉ là để tìm các thành viên mất tích, mà chủ yếu là để điều tra về tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, nhưng do núi cao rừng sâu, địa hình khúc khuỷu, môi trường phức tạp, nên chưa một lần thành công.



Trong khi đó, những tin tình báo và tư liệu của từng lần hành động mà người Anh thu thập được trong nhiều năm cuối cùng đều rơi vào tay Tiền Bảo Sơn, cộng thêm những tin tức mà hắn ta có được từ nhiều nguồn kênh bí mật, đã khiến hắn nhận thức nền văn minh Chăm Pa mang đậm màu sắc thần bí mãnh liệt, là một nhánh của Ấn Độ giáo cổ đại, chưa bị Phật giáo đồng hóa. Từ hàng ngàn năm trước đây, nơi sâu trong cánh rừng rậm nguyên sinh đã che giấu miếu thần cung phụng thần thú Vệ Đà của vương triều Chăm Pa, sau đó do mạch nước núi Dã Nhân sụt lún, khiến toàn bộ tháp cổ và điện đá trên bề mặt đất chìm sâu xuống lòng núi.



Quốc vương Chăm Pa lúc đó là vua Anagaya. Ông ta là người có dung mạo đặc biệt, tự phụ cực đoan, tôn thờ tướng mệnh, tính tình hỉ nộ bất thường, tàn nhẫn khát máu, diệt phật trừ tăng. Mỗi lần trừng phạt, ông ta đều bắt lột toàn bộ da mặt của tù binh khi họ còn đang sống sờ sờ. Những tăng lữ, nô lệ, thợ mộc bị ông ta tàn sát nhiều không thể đếm xuể. Khe sâu núi Dã Nhân bị lún sâu như vực không đáy, bị coi là điềm hung vì trời tru đất diệt những kẻ thống trị bằng thần quyền, và khiếp sợ nhất là sự sụp đổ của tín ngưỡng. Vua Chăm Pa, để diệt trừ tai họa, đã lệnh cho người xuống huyệt động sâu thẳm xây dựng lại tòa thành bốn triệu bảo tháp, rồi người phương Tây căn cứ vào hình thù đặc biệt của nó, mà đặt tên là tòa thành Nhện Vàng.



Nghe nói, vua Chăm Pa sinh ra đã có tướng mạo khác thường, ngàn năm hiếm có, được mệnh danh là người gần kề Thiên quốc nhất, nhưng rốt cục ông ta vẫn là một thân máu thịt, khoảng cách thực tế với Thiên quốc vẫn vô cùng xa vời, gần như không thể nào đi đến được. Trong khi đó, ở tòa thành Nhện Vàng dưới sơn cốc núi Dã Nhân lại chôn vùi bí mật có liên quan đến khoảng cách này, cũng tức là nói cả tòa thành Nhện Vàng chính là con đường xuyên thông tới Thiên quốc. Bởi vì sau khi núi Dã Nhân sụt xuống, có người đã phát hiện thấy tảng đá khổng lồ trọn vẹn một khối trong đám bùn lầy dưới lòng đất, nếu đem thể tích của nó so sánh một cách trực quan, thì có lẽ phải rộng bằng cả một sân bóng đá, còn bên trong thân đá có rất nhiều huyệt động thiên nhiên. Vua Chăm Pa ra lệnh cho người đục đẽo tảng đá thật gọn gàng, để thành hình tòa thành Nhện Vàng quái dị. Phần lớn huyệt động thiên nhiên ban đầu đều được đóng kín, nơi sâu nhất chỉ có một gian mật thất gọi là "thi nhãn" tức là mắt của thi thể, mà ngoại trừ vua Chăm Pa ra, thì chẳng người nào hay biết bên trong cất giấu vật gì. Cũng bắt đầu từ lúc đó, cây Udumbara kỳ lạ xuất hiện và sinh sôi nảy nở không ngừng xung quanh thành cổ rồi sương mù do nó sinh ra đã che phủ mọi con đường dẫn vào sơn cốc. Đến khi vua Chăm Pa không bệnh mà chết đột ngột, thì ông ta đã mang theo toàn bộ bí mật vào trong quan tài, chẳng để lại chút văn tự ghi chép nào cho hậu thế, tất cả đều trở thành ẩn số thiên cổ, không lời giải đáp.



Tiền Bảo Sơn chẳng bao giờ tin vào thuyết thần phật hay thiên đường địa ngục, hắn cho rằng: loài người từ vượn cổ tiến hóa đến nay, tuy rằng khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh càng lúc càng phát triển vượt bậc, nhưng bản chất con người thì trước sau vẫn không có gì thay đổi. Hàng ngàn vạn năm nay, người nào chẳng phải đi lại, đứng ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh lão bệnh tử, đẻ con nối dõi, bởi vì đây chính là hình thái của sinh mệnh loài người. Có lẽ cái được gọi là thần, đại khái là để chỉ những bậc có khả năng vượt qua hình thái sinh mệnh này, vĩnh viễn không trầm luân, là sự tồn tại mà những kẻ phàm trần đáng thương chỉ có thể sống một cuộc đời, mãi mãi không thể nào lý giải nổi. Thế nhưng từ cổ chí kim, chẳng hề có bất kỳ sinh mệnh nào thay đổi được hình thái tồn tại của chính mình.



Tiền Bảo Sơn không giống vua Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, mà thông qua các thông tin thu thập được, hắn có thể suy đoán bí mật trong "thi nhãn", nên chỉ là muốn tìm cơ hội nhìn xem chân tướng ẩn chứa bên trong. Có điều Udumbara hiếm có mọc ra từ thành cổ, đã che lấp hoàn toàn huyệt động dưới lòng đất, kèm theo đó, còn sản sinh ra một lượng lớn sương mù, ngoại trừ sinh vật bò sát máu lạnh, thì những người sống đi vào, đều bị nó nuốt chửng, chẳng ai may mắn sống sót thoát được.



Tiền Bảo Sơn hao kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm được vài cuốn bản đồ cổ đại do vua Chăm Pa để lại, mô tả kết cấu địa hình bên trong sơn cốc. Có điều, tuy hắn biết về truyền thuyết chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù, mà nghĩ mãi vẫn không ra. Để thâm nhập vào lòng đất tìm hiểu ngọn nguồn, trước tiên hắn đã thuyết phục người Anh khai thông đường hầm trong núi Dã Nhân, sau đó vì quân Nhật tràn vào Miến Điện nên kế hoạch trên đành phải từ bỏ giữa chừng. Vào thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, Tiền Bảo Sơn lại cung cấp thông tin, dẫn dụ quân Mỹ lợi dụng đường hầm bị bỏ hoang trước đây, xây tiếp con đường xuyên thông qua núi, đồng thời hắn lại cử thuộc hạ dẫn đội vận tải bổ sung hỗn hợp của đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu đi vào huyệt động ma mút. Thậm chí, trước ngày Miến Điện giành độc lập, hắn vẫn sai người mạo nhận là không quân hoàng gia, lái chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, chở bom địa chấn xâm nhập sơn cốc, chuẩn bị lợi dụng chất độc màu da cam để phá hủy hệ thực vật dưới lòng đất, nhưng kết quả hoàn toàn thất bại.




Trong những lần hành động, có một lần tiến gần thành công nhất chính là khi chiếc tiêm kích vận tải mang hiệu Rắn đen, phi hành trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, liều chết hạ cánh xuống sương mù, nhưng do sau đó liền bị mất liên lạc, nên tất cả công lao đều đổ xuống sông xuống bể. Muốn hủy diệt hoàn toàn Udumbara sản sinh sương mù, bắt buộc phải có chất độc hóa học đặc trị. Loại chất độc màu da cam này và bom địa chấn đều thuộc cấp độ quân dụng, bị quản lý rất chặt chẽ, sau khi quân Anh rút khỏi Miến Điện thì chẳng dễ kiếm được. Bởi vậy, phương án hành động hay nhất là hắn phải cử tiếp một đội cảm tử nữa, bay vào sơn cốc, kích nổ bom địa chấn trong khoang máy bay. Có điều do tình hình Miến Điện bất ổn, xung đột vũ trang không ngừng leo thang, nên hắn mãi vẫn chưa tìm được cơ hội thích hợp.



Tiền Bảo Sơn là người vô cùng cẩn trọng, chưa bao giờ để lộ tung tích trước mặt người khác, bởi vậy nhiều lần hành động chỉ đứng sau bức màn bố trí kế hoạch, chứ không dấn thân trực tiếp vào nguy hiểm. Thế nhưng hắn biết màn sương mù dày đặc trong núi Dã Nhân khó lòng xuyên qua, hơn nữa cùng với sự thay đổi của cục diện chính trị, cơ hội dành cho bọn hắn càng ngày càng ít, nên hắn đành phải nghĩ kế sách đặc biệt, ra tay từ lĩnh vực nằm ngoài phạm vi nhận thức của khoa học, đồng thời dự định tự mình vào núi, tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng.



Trước tiên, Tiền Bảo Sơn nhân lúc chiến tranh ở Việt Nam đang diễn ra ác liệt, liền lẩn vào hoàng thành Huế, ăn trộm chiếc quan tài của vua Chăm Pa, đồng thời lột lớp da mặt của người chết có tướng thập toàn từ phần đầu sọ. Bởi vì Tiền Bảo Sơn biết, hắn ta chẳng thiếu gì, chỉ thiếu duy nhất một phần "vận may" khó lòng nắm bắt.



Theo tiêu chuẩn của tòa thánh Vantican, những kẻ có thể tạo ra hai hoặc hơn hai kỳ tích sau khi chết, thì sẽ được coi là "thánh nhân". Ví dụ, sau khi chết đi, người nào đó, có thể bảo tồn được thi thể không mục không rữa, trải qua hàng trăm ngàn năm, trong điều kiện nhiệt độ môi trường bình thường, mà không thực hiện bất kỳ biện pháp xử lý đặc biệt nào... thì đó được coi là một kỳ tích. Nếu ai mắc phải bệnh hiểm nghèo không thể chữa trị, chỉ cần thành tâm khấn vái cầu nguyện, rồi tiếp xúc với thi thể, bệnh tật nan y trong người tự khắc không chữa mà khỏi, đó cũng là một kỳ tích. Chỉ khi xuất hiện hai kỳ tích, thì thi thể ấy mới được công nhận: người chết sinh thời là một vị thánh nhân. Tất cả quan niệm thuộc loại này đều là quan niệm tôn giáo của người phương Tây.



Trong khi đó, vua Chăm Pa bẩm sinh đã có tướng mạo khác thường, vận may rất mạnh mẽ, như mặt trời lúc chính ngọ. Ví dụ như, ông ta sát nghiệp rất nặng, sinh thời chắc chắn có vô số kẻ địch, ông ta thường xuyên phải đối mặt với những thủ đoạn hành thích hạ độc của kẻ khác, nhưng không hiểu âm lầm dương lạc làm sao, mà cuối cùng những kẻ đó lại chẳng lần nào thành công, mỗi khi thân lâm vào đại kiếp, ông ta đều hóa nguy thành an một cách dễ dàng. Thậm chí sau khi chết, thi thể cũng xuất hiện ít nhất ba kỳ tích: thứ nhất, tuy thi thể mục rữa, nhưng phần đầu lại không hề bị hỏng, mặt nhẵn bóng tựa chiếc bình bạc, sống động y như còn sống; thứ hai, từ khi vương lăng bắt đầu bị khai quật trộm, những người từng mở quan tài, nhìn thấy mặt vua thần thái nguyên vẹn, đều kinh hoàng khiếp sợ, không kẻ nào không ngấm ngầm lo lắng, muốn hủy hoại khuôn mặt yêu ma, nhưng tất cả chúng đều gặp phải tai nạn bất ngờ mà chết, chẳng tên nào ngoại lệ, những kẻ còn lại sợ hãi hồn bay phách tán, đành phải đóng lại quan tài, không dám nhìn mặt lần nữa; thứ ba, nghe nói âm hồn trong quan tài của vua Chăm Pa vẫn chưa tiêu tán, ai có thể lấy khuôn mặt trên xác chết thay vào đầu mình, âm hồn của vua Chăm Pa sẽ đi theo, giúp kẻ đó hóa giải mọi điềm hung thành điềm lành.



Tiền Bảo Sơn cũng am hiểu một chút về phương thuật, nhưng không tin tưởng hoàn toàn. Sở dĩ hắn dám làm như vậy, là vì đã ình uống một liều thuốc an thần, và rốt cục vận may, cái thứ đó vô hình vô ảnh, là chuyện ngày sau mới biết có tồn tại hay không, chẳng ai dám khẳng định chắc chắn. Sau đó, hắn tiếp tục bắt tay chuẩn bị, đợi chờ thời cơ. Quả nhiên, chẳng bao năm sau, do Miến Điện xảy ra loạn chiến, nên cả một khu vực rộng lớn lại rơi vào trạng thái nằm ngoài vùng kiểm soát của quân đội. Tiền Bảo Sơn mua đứt vài thế lực vũ trang địa phương, bố trí cứ điểm hành động bên ngoài núi, đồng thời không tiếc tiền bạc, chiêu mộ các chuyên gia, cao thủ đủ mọi phương diện, lập kế hoạch chia ra làm ba đội, tiến vào núi tìm kiếm tòa thành cổ dưới lòng đất.



Tuy rằng công tác chuẩn bị bội phần chu đáo, nhưng những nhân tố chưa biết vẫn còn rất nhiều, đội thám hiểm cùng lắm cũng chỉ nắm hai phần chắc chắn, nên Tiền Bảo Sơn không khỏi lo trước phòng sau, do dự khó quyết. Lúc đó, đột nhiên nghe tin, cơn bão nhiệt đới khủng khiếp mấy chục năm khó gặp không ngừng vần vũ, rất có khả năng sẽ ập đến núi Dã Nhân, rồi cuồng phong giông tố sẽ xua tan triệt để màn sương mù ngàn năm tích tụ dưới sơn cốc. Tiền Bảo Sơn không thể ngờ trở ngại lớn nhất trước mắt lại được ông trời hóa giải một cách dễ dàng như trở bàn tay. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời, hắn đã thấy được "vận may" mà chiếc mặt nạ da người của xác chết này mang lại.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55: hồi thứ sáu: lời nguyền


Hồi thứ sáu: Lời nguyền



Giống như lời của một câu tục ngữ Ả Rập: "Vận may là danh từ thay thế cho kỳ tích. Cho dù bạn ném một người đang gặp may xuống đáy đại dương, thì anh ta vẫn có thể cưỡi cá biển bơi ngược vào bờ, bởi vì trên thế giới không có sức mạnh nào đối phó nổi một kẻ may mắn".



Tiền Bảo Sơn thu thập và tìm hiểu rất nhiều truyền thống phong tục và sách cổ Chăm Pa, rồi căn cứ vào các phương pháp ghi chép trong đó, hắn ta lột hoàn chỉnh bộ da mặt trên đầu vua Chăm Pa, và đeo lên mặt mình. Từ đó về sau, xung quanh hắn luôn xảy ra những sự việc kỳ quái không thể nào giải thích, những sự việc này hư vô khó diễn tả bằng lời, cũng chẳng rõ rốt cục do hiệu ứng tâm lý hay do âm hồn vua Chăm Pa bám theo, nhưng rõ ràng là khuôn mặt khiến hắn cảm nhận được sâu sắc thế nào gọi là đổi vận.



Tiền Bảo Sơn chắc mẩm có thần quỷ trong bóng tối ngầm tương trợ, giúp hắn gạt bỏ mọi điều bất lợi, nên trước khi cơn bão nhiệt đới tấn công, hắn đã lần lượt cắt cử nhiệm vụ cho ba đội thám hiểm, chỉ nói với họ phải đến núi Dã Nhân để tìm tung tích của chiếc tiêm kích mất tích. Hắn bịa rằng hàng hóa trong khoang máy bay đều là châu báu ở Miến Điện được bí mật vận chuyển về Anh, trước khi không quân hoàng gia rút lui, đồng thời cảnh báo vật đó vô cùng nguy hiểm, để sau khi tìm thấy "hàng" thì mới tiếp tục hành sự theo chỉ dẫn, còn trước đó hắn hoàn toàn không tiết lộ cho bất kỳ ai chân tướng sự việc.



Giờ đây hắn đã có được "thiên thời", nên các phân đội phải lập tức triển khai hành động. Có điều, do nhân tố khí tượng và địa hình, nên thời gian xuất phát của mỗi đội được sắp xếp sớm muộn khác nhau. Đội thám hiểm đầu tiên đi xuồng cao su tiến vào núi bằng đường thủy từ mặt bắc, nhưng bọn họ gặp phải thời tiết bất lợi, rất nhanh sau đó liền mất liên lạc, có lẽ đã xảy ra bất trắc, đội thám hiểm thứ hai chính là hội Ngọc Phi Yến, tuy cả đội thương vong chết chóc thảm hại, nhưng lại có vài kẻ may mắn vẫn sống sót, cuối cùng còn vào được tận khe sâu trong núi Dã Nhân.



Tiền Bảo Sơn theo phân đội thám hiểm người Anh, lái chiếc Rắn đen II, bay lượn trên bầu trời, nhưng vì sự biến hóa của thời tiết vượt xa dự tính, nên khi đến gần sơn cốc thì đành phải đảo tay lái quay đầu, nào ngờ chiếc máy bay lại đâm vào một quầng mây đen. Sau cú va chạm, động cơ máy bay liền ngừng hoạt động, máy bay rơi từ không trung xuống, rồi bị rễ cây trên vách cheo leo chằng buộc. Sau khi các thành viên trên máy bay thoát khỏi cơn hôn mê, hồi tỉnh, phát hiện xung quanh toàn là sương mù, họ liền mở cửa máy bay, bật đèn cường quang để quan sát tình hình gần đó, kết quả là gặp phải sự tấn công bất ngờ. Nhưng ngay sau đó cuồng phong giông tố nhanh chóng trấn áp sương khí, Tiền Bảo Sơn một lần nữa lại may mắn thoát nạn. Lúc này hội Tư Mã Khôi đang trốn tránh đất đá sụt lở trong lòng núi, hoảng loạn không biết đi đằng nào, liền xông bừa vào trong khoang máy bay, sau đó cả người và máy đều bị rơi tõm xuống vực sâu. Chiếc máy bay tiêm kích cải tiến này là "kỳ tích sản phẩm gỗ" đời cũ do hàng không đế quốc thiết kế, nhờ vào hiệu ứng ống khói do dòng khí đối lưu trong huyệt động sinh ra, có thể an toàn hạ cánh xuống lòng cốc, đồng thời cả hội tránh khỏi nạn thịt nát xương tan.



Tiền Bảo Sơn cảm thấy vô cùng may mắn, hắn hoàn toàn tin rằng vận may đang đứng về phía mình, tin rằng từ giờ phút này trở đi cho dù có bị trời chém, thì hắn cũng chẳng hề tổn thương nửa cọng lông. Bởi vậy hắn bỏ qua việc thiết bị kích nổ hư hỏng, tiếp tục trốn trong bóng tối, dùng máy ghi âm uy hiếp mọi người phải lập tức kích nổ bom địa chấn. Sau khi sự việc thất bại, hắn liền lợi dụng hoàn cảnh tối tăm trong khoang máy bay, tự tay ấn nút kích hoạt.




Ngay sau đó, quả bom địa chấn phát nổ kinh thiên động địa, chất độc màu da cam hủy hoại lớp kén do thực vật dưới lòng đất hình thành, Tiền Bảo Sơn cuối cùng cũng vào được nơi sâu nhất trong sơn cốc, đồng thời tìm thấy đường hầm dưới tòa thành thành Nhện Vàng. Thế nhưng dựa vào sức lực của một người, thì không thể nào đẩy nổi cánh cửa đá, hắn đành phải quay trở lại cánh rừng rậm, định tìm thuốc nổ trong chiếc tiêm kích Rắn đen II, nhưng nào ngờ lại gặp được bốn kẻ may mắn sống sót còn lại của đội thám hiểm.



Tiền Bảo Sơn biết không phải hội Tư Mã Khôi mệnh lớn sống sót đến tận bây giờ, mà do thời vận của mình đã đến, muốn chặn cũng chẳng chặn nổi. Ngoài ra, hắn còn phát hiện thấy đội xe vận tải quân Đồng minh - mà khi xưa bị thuộc hạ Mukhan của mình dẫn xuống huyệt động ma mút, rồi mất tích trong núi Dã Nhân, hắn bèn nhặt một chiếc mũ sắt, thay trang phục, mạo nhận mình là cựu binh bị nhốt dưới lòng đất, mượn ánh sáng của pháo phát tín hiệu, dẫn dụ bốn kẻ may mắn sống sót đi vào đường hầm, tuy rằng giữa đường hành tung bị bại lộ, nhưng hắn vẫn có thể nắm bắt cơ hội đi vào tận đây.



Đường hầm hình bụng rắn từng là trung ương giữa thành cổ và không gian sau cánh cửa đá mà vua Chăm Pa để lại, khoảng cách giữa nó với bí mật cất giấu trong mật thất "thi nhãn" dường như có thể chạm tay với tới được. Nhưng sau khi kiểm tra, Tiền Bảo Sơn mới phát hiện: sự việc không đơn giản như hắn đã dự tính, với năng lực của mình, hắn căn bản không thể vào được "thi nhãn".



Núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, chỉ cần đi nhầm một bước sẽ rơi vào miền đất vạn kiếp không thể siêu sinh. Tiền Bảo Sơn tin tưởng sâu sắc rằng "vận may" không bỏ rơi mình, chỉ có điều thời cơ chưa chín muồi mà thôi. Hắn đang lùng sục thì hội Tư Mã Khôi bám đuổi riết phía sau khiến Tiền Bảo Sơn không dám trực tiếp lộ diện, đành mai phục trốn trong góc tường. Hắn nghe trộm hội Tư Mã Khôi nói chuyện, và không ngờ bốn người này đã bóc mẽ được nguồn gốc của hắn, nên trong lòng không tránh khỏi kinh ngạc. Hắn lặng lẽ tiếp cận, tìm cách phá hỏng đèn, rồi nhân lúc hỗn loạn lấy trộm lựu đạn phốt pho, khiến mọi người mất hết các thiết bị chiếu sáng, bị nhốt chặt trong bóng tối, không thể tiếp tục hành động. Đến lúc này, hắn mới hiện thân nói rõ nguồn cơn, đồng thời phân tích lợi hại, hi vọng hai bên có thể đạt được thỏa thuận giao dịch.



Tiền Bảo Sơn thừa nhận, trước đây đã lợi dụng đội thám hiểm, và chính vì hắn che giấu tình hình thực tế của núi Dã Nhân, nên mới gây ra thương vong cho nhiều thành viên một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Bây giờ trước mắt, tất cả những kẻ may mắn sống sót tham gia vào lần hành động này, đều bị nhốt dưới lòng đất, nên nếu hai bên trở mặt giao đấu thì cũng chỉ khiến người chết kẻ vong mà thôi, chẳng ai có lợi cả.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Bởi vậy, Tiền Bảo Sơn đảm bảo, chỉ cần hội Tư Mã Khôi không tiếp tục giữ mối quan hệ đối địch, đồng thời giúp đỡ hắn tìm ra "thi nhãn", hắn sẽ nói cho họ biết con đường rút lui an toàn ra khỏi núi Dã Nhân; sau đó, ngoại trừ món thù lao đã hứa với Ngọc Phi Yến, hắn còn trọng thưởng hậu hĩnh cho cả hội. Tiền không phải vấn đề, muốn bao nhiêu con số, các vị cứ việc mở lời yêu cầu, hắn tuyệt đối đáp ứng theo đúng con số nêu ra.



Tiền Bảo Sơn lại nhấn mạnh thêm lần nữa, phàm những chuyện có thể nói ra ọi người biết, hắn đều đã đánh bài ngửa cả, đồng thời cũng nêu ra ba điều kiện: thứ nhất, về chuyện rốt cục trong mật thất "thi nhãn" cất giấu bí mật gì; thứ hai, khuôn mặt và thân phận thực sự của Nấm mồ xanh; thứ ba, hắn làm cách nào lẩn trốn ngay trước mắt đội thám hiểm, mà không hề bị phát hiện. Tóm lại, ba điều kiện này là ranh giới mà bất kỳ ai cũng không được phép chạm tới, sau cùng hắn nói: "Nếu bọn mi cảm thấy những điều kiện trên đều có thể chấp nhận được, thì chúng ta cứ một lời mà quyết, hành sự phải nhanh chóng, không nên nấn ná chậm trễ."



Tư Mã Khôi kiên nhẫn, nghe Tiền Bảo Sơn nói một hồi, anh biết Nấm mồ xanh chẳng phải hạng người lương thiện gì, mấy lời hứa hẹn này làm sao có thể nhẹ dạ mà cả tin? Chỉ có điều Tư Mã Khôi vẫn không thể tưởng tượng được, lúc đó Nấm mồ xanh đã lẩn trốn vào giữa đội thám hiểm bằng cách nào mà không bị phát giác. Tòa thành cổ toàn bùn đất nước tù, lại rộng lớn, sâu hút, tứ bề tối đen như mực, có thể tạm thời che đậy hành tung thì chẳng nói làm gì, nhưng trong khoang máy bay tiêm kích vận tải, không gian nhỏ hẹp chật chội như thế, ngoài dưới đáy da mắt ra thì làm gì còn chỗ nào giấu nổi người? Tiền Bảo Sơn tuy rằng tự nhận mình là người sống, nhưng vì sao không bao giờ dám lộ khuôn mặt thật ọi người thấy? Huống hồ đầu hắn lại bị đạn bắn xuyên qua, suýt chút nữa thì rơi sọ, thế mà hắn vẫn có thể đi lại như thường. Hơn nữa, xung quanh tứ bề tối om om, trong tình trạng chẳng hề có chút nguồn sáng nào hỗ trợ, mà hắn vẫn có thể thông thạo tất cả. Tư Mã Khôi vừa nghe đối phương thuật lại mọi chuyện trải qua, vừa âm thầm ngẫm nghĩ các khả năng, anh thấy, trước mắt có quá nhiều nhân tố không thể xác định, nhưng lại có một điểm có thể chắc chắn: ba bí mật mà Nấm mồ xanh nêu ra, chỉ cần tìm cơ hội phá giải một điều, thì sẽ uy hiếp trực tiếp đến cả kết cấu. Nghĩ vậy, anh bèn giả vờ tin lời và ra giọng thỏa hiệp: "Bọn ta không có nguồn sáng, đi một bước trong bóng tối còn khó khăn, thì làm sao mà trợ giúp ngươi được?"



Ngọc Phi Yến cũng bán tín bán nghi hỏi Tiền Bảo Sơn: "Rốt cục lời nói gió bay, làm sao bọn tôi dám tin ông chứ?" Tuyệt ngấm ngầm cau mày, nhỏ giọng hỏi Ngọc Phi Yến: "Cô dám tin lời hắn sao?"



Hải ngọng sớm đã không giữ nổi bình tĩnh, chỉ có điều chẳng thể làm gì trong bóng tối, đành lớn tiếng mắng chửi: "Mẹ kiếp! Ai dám tin mấy lời quỷ nhà nó, khéo chết cũng chẳng biết mình chết thế nào."



Ngọc Phi Yến thầm nghĩ: rõ ràng là Tư Mã Khôi tiếp lời hắn trước, sao các anh lại quay sang trách móc tôi? Cô nàng không khỏi bực mình, cảm thấy hội Tuyệt rốt cục vẫn không phải là người cùng đường với mình, chẳng thể so với những huynh đệ sinh tử của Sơn lâm đội thiếu lão đoàn, rồi cảm giác ngăn cách vừa nổi lên, cô ta liền vô tình dịch chuyển ra xa nửa bước, chẳng ngờ, chân vừa hạ xuống liền đạp phải một vật gì đó. Ngọc Phi Yến là người cực kỳ nhạy bén, nhờ vào xúc giác, cô ta liền biết đó dường như là đinh chốt giống như lò xo ép, rồi lập tức nhớ đến hàng hóa nhìn thấy trên mấy chiếc xe tải Dodge khi trước, thân người bất giác túa mồ hôi lạnh, kinh hoàng thốt lên: "Mìn!"



Ba người còn lại nghe tiếng, đều giật nảy mình, Tư Mã Khôi biết tình thế không ổn, vội vàng hét lớn: "Không được nhúc nhích!" Nhưng lời cảnh báo thốt ra muộn mất một tích tắc, Hải ngọng đã nằm rạp xuống theo phản xạ bản năng, nào ngờ lòng bàn tay ấn đúng vào bộ phận kích hoạt của trái mìn. Anh lạc giọng thốt lên hai tiếng: "Toi rồi!" Cũng may mà trong lúc hoảng loạn anh vẫn không rụt tay lại, mà lập tức gắng sức duy trì tư thế phủ phục, giữ vững trọng tâm cơ thể, bất động không nhúc nhích.




Tuyệt khe khẽ nhấn vào vai Ngọc Phi Yến, như để an ủi: "Cô tuyệt đối không được cử động đấy!"



Ngọc Phi Yến nghĩ: vạn sự đều rụi cả thành tro, nên bất lực nói: "Tôi xong rồi, cô mau chạy đi." Tuyệt không trả lời, sờ quả mìn mà chân Ngọc Phi Yến đang giẫm lên, phân biệt hình thù và chi tiết của nó trong bóng tối, rồi sợ hãi hít ngược một hơi khí lạnh, nói với Tư Mã Khôi: "Đây là mìn chống bộ binh loại tháo nổ, chỉ cần nhấc chân... là mất cẳng."



Tư Mã Khôi biết rõ điểm lợi hại của loại mìn này, nó chuyên dùng để sát thương bộ binh, tuy không gây chết người, nhưng sẽ nổ cụt chân, khiến họ mất khả năng chiến đấu, đồng thời trở thành gánh nặng cho đồng đội. Hơn nữa, loại mìn này lại áp dụng nguyên tắc kích hoạt dạng tháo nổ, sau khi kích hoạt, chỉ cần thay đổi lực tác dụng một chút là nó lập tức phát nổ, thần tiên La hán cũng chẳng thể thoát thân, cho dù có dẫn chuyên gia tháo mìn của đơn vị lính công binh đến, thì cũng không thể tháo gỡ an toàn một cách tuyệt đối được. Có lẽ lúc xây dựng con đường Stilwell, ở khu vực núi Dã Nhân vẫn lẩn trốn rất nhiều binh lính Nhật mà quân Đồng minh chưa thể tiêu diệt hết, nên để đề phòng bọn chúng đến phá đường, hai bên đường còn cài đặt khá nhiều loại mìn chống bộ binh. Ngoài ra, cài mìn cũng là một trong những nhiệm vụ thường nhật của đoàn lính công trình, bởi vậy trên xe tải chuyên chở vật dụng vũ trang của quân đội Mỹ mới có mấy vật này. Tư Mã Khôi lo lắng, căng thẳng đến nỗi trán nổi lằn gân xanh, lòng thầm mắng Tiền Bảo Sơn thủ đoạn thâm độc, khi nãy không chỉ ăn cắp lựu đạn phốt pho, mà còn âm thầm lặng lẽ cài địa lôi ngay cạnh cả hội.



Lúc này, trước mắt mọi người bỗng nhiên bừng sáng, thì ra Tiền Bảo Sơn thắp ngọn đèn đồng lớn ở gần đó. Ngọn đèn đồng được đúc thành hình con rắn chín đầu, bên trong chín cái đầu rắn đều có mỡ người, cao người và dầu cá, được mệnh danh là hỏa diệm ngàn năm, hay lò lửa vạn kiếp, trong thân rắn giấu bấc và đường dẫn dầu, chỉ cần châm lửa vào một cái, là chín cái đầu rắn đều cùng lúc được thắp sáng. Trong nháy mắt, ánh sáng chiếu rọi cả phạm vi trải rộng trăm bước.



Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, nhờ ánh sáng mà nhìn khắp bốn phía xung quanh, anh thấy nơi mình đang đứng là một tòa điện lớn như đàn tế thần vậy, vòm điện vừa cao vừa rộng, xung quanh có năm đường hành lang xếp tầng đi xuống, mỗi tầng đều có một bức bích họa lớn màu sắc rực rỡ, diễm lệ hùng tráng chẳng khác nào sử thi. Bốn góc có nguồn suối ngầm phun trào tựa hồ không bao giờ cạn kiệt, chính giữa sừng sững một tòa tháp cổ phình bụng hình thù cổ quái, phía trong các động nhỏ xung quanh đựng đầy kim châu bảo ngọc, và hàng nghìn bức tượng nằm la liệt, tất cả như thể không phải đồ vật chốn trần gian. Một hàng phù điêu quái xà mình mọc bốn tay bốn chân, bốn tay lần lượt cầm nắm pháp loa sankha[31], sen vàng, quyền trượng[32], pháp luân[33], mình mẩy phủ đầy vẩy cứng, cuốn quanh thân tháp. Hội Tư Mã Khôi và Tuyệt đứng ngay trong một đường hành lang, ở khe đá nứt trên mặt đất, ngay sát chân, còn cài khoảng sáu, bảy trái mìn chống bộ binh nữa. Ngọc Phi Yến và La Đại Hải đen đủi mỗi người giẫm ngay phải một quả trong số đó, mồ hôi lạnh đang nhỏ xuống tong tong, thân thể chịu sự căng thẳng đến cực hạn, liền trở nên tê cứng.



Tiền Bảo Sơn ẩn mình dưới bóng đèn đồng, lạnh lùng nói: "Xem ra bọn mi còn hiểu rõ sự đáng sợ của mìn chống bộ binh hơn cả ta đấy. Chịu áp lực từ thể xác đến tinh thần, xem ra chẳng mấy ai còn có thể gắng gượng được lâu đâu." Tiền Bảo Sơn tự nhận mình từng buôn bán vũ khí chiến tranh mấy chục năm, rất giỏi gỡ mìn, giờ đây người có thể cứu Ngọc Phi Yến và Hải ngọng chỉ có hắn, nên nếu Tư Mã Khôi không muốn giương mắt nhìn các bạn bị mìn nổ máu thịt tan tác, thì buộc phải nghe theo mọi mệnh lệnh của hắn, chứ không còn lựa chọn nào khác. Tiền Bảo Sơn nói với Tư Mã Khôi: con quái xà bốn tay bốn chân kia, tương truyền là tượng phù điêu "thi thần" thời cổ đại, quái xà không có mắt, trong miệng ngậm một tráp ngọc, bên trong đặt chiếc chìa khóa mở mật thất "thi nhãn". Tiền Bảo Sơn đã nhìn thấy một bức vẽ trong quan tài vua Chăm Pa, nên hắn ta hiểu rất rõ những chân lý huyền diệu và bí ẩn cất giấu dưới bóng tối tĩnh lặng. Hắn đã từng tận mắt chứng kiến Tư Mã Khôi thi triển tuyệt kỹ bọ cạp đảo đầu bò tường trong đường hầm, liền lệnh cho anh cởi bỏ mọi vũ khí, chỉ mang theo cây giáo mỏ vịt, leo lên đỉnh tháp, tìm tráp ngọc.



Tư Mã Khôi cúi đầu liếc mắt nhìn mấy quả địa lôi chống bộ binh dưới đất. Anh hiểu rõ loại mìn đời cũ do Mỹ chế tạo là loại vô cùng tàn độc, một khi đã kích hoạt thì không có cách nào giải trừ, mà ngay cả những chuyên gia gỡ mìn công binh giàu kinh nghiệm nhất, cũng chưa chắc đảm bảo được ba phần, thì ai dám khẳng định kẻ buôn bán vũ khí đã hiểu được cách tháo mìn? Cũng giống như kẻ buôn bán thuốc phiện, có khi cả đời chưa từng tự mình trồng cây anh túc bao giờ, huống hồ Tiền Bảo Sơn hành sự nham hiểm, tàn độc, hắn ta căn bản không hề để tâm đến sự sống chết của mọi người, nên dù hứa xong chắc chắn hắn cũng sẽ nuốt lời.



Hải ngọng bò trên đất, vết thương ở hông lại bắt đầu nứt toác, máu tươi tuôn ra đầm đìa. Anh cảm thấy bản thân khó có thể gắng gượng thêm nữa, tự biết vận mình đen đủi, bèn cắn răng nghiến lợi, nói với Tư Mã Khôi: "Bận này chắc tớ toi thật rồi, nếu mắt và cánh tay đều hỏng, thì sống làm chó gì ệt? Cậu và Tuyệt mau chạy ra xa một chút, rồi cho tớ phát súng, cứ ngắm trúng đầu mà nã, để tớ được chết một cách thoải mái tí chút. Nhưng các cậu nhất định phải thay tớ băm nát tên khốn Tiền Bảo Sơn kia thành vạn mảnh, tớ dù đi trước một bước, trên đường xuống hoàng tuyền vẫn đợi hắn..."



Tư Mã Khôi nói với Hải ngọng: "Tớ mà cho cậu ăn đạn, mẹ nó chứ, cậu thì sướng rồi, nhưng cả quãng đời còn lại của tớ sẽ phải sống trong ác mộng, tuy quãng đời còn lại, có khi cũng chẳng qua được hết hôm nay."



Ngọc Phi Yến đứng bên, nghe thấy hai người đối thoại mà xót xa, lại nghĩ người khác đã chẳng dám ra tay, thì chỉ còn cách tự mình kết liễu cuộc đời vậy. Nghĩ đoạn, liền nói với Tư Mã Khôi: "Thỉnh thoảng tính khí tôi hơi nóng nảy, mong anh đừng để bụng."



Tư Mã Khôi vẫn giữ thần thái điềm nhiên, dường như hoàn toàn bỏ ngoài tai mấy lời vừa rồi của Ngọc Phi Yến, chỉ rút cây giáo mỏ vịt cô mang theo cắm sau lưng, rồi bỏ khẩu súng xung phong và con dao săn xuống, nhấc chân nhìn đáy giày, thấy phía dưới toàn đất bùn chui vào kẽ, liền dùng khăn thủy bố ra sức lau chùi, rồi tiện tay ném chiếc khăn cho Tuyệt. Sau đó anh chẳng hề ngoái lại nhìn ba người còn lại lấy một cái, mà ung dung quay người đi xuống hành lang, thi triển tuyệt kỹ "tháo ủng ngược" bò lên tòa tháp cổ.



Tòa tháp cổ và thân mãng xà đều là vách cheo leo dựng đứng. Tư Mã Khôi không dám lơ là, dang rộng tay chân, thân thủ nhanh nhẹn, chẳng thua gì khỉ vượn, một hơi leo lên mãi tít lên cao, ôm đỉnh tháp nhìn xuống dưới, thấy ba người Tuyệt, Hải ngọng và Ngọc Phi Yến bên cạnh điện, chỉ còn là một khối đen sì sì, chẳng thể phân biệt ai với ai. Anh hít một hơi thật sâu, cố gắng nén cơn đau kịch liệt đang giằng xé trên vai, rồi lại từ đỉnh tháp bò tới chỗ đầu rắn, quả nhiên thấy miệng con rắn há to, cắn chặt chiếc tráp ngọc hình mắt rắn, bên trong cất giữ một con rắn bốn chân khảm vàng nạm bạc, to gần bằng cánh tay người. Tư Mã Khôi rướn người lấy con rắn bốn chân ra, liền sau đó, cắm cây giáo mỏ vịt vào sau lưng, rồi đưa mắt từ trên đầu rắn nhìn xuống dưới: dưới ánh đèn mờ ảo, những thỏi đá to lớn lát nền điện hiện hình thành một khối đen sì sì, khó lòng phân biệt rõ, nhìn kỹ thì đó chính là hình một tòa tháp cổ, nếu không leo lên nơi cao như thế này, chắc chắn không thể phát hiện trên mặt đất cũng có hình vẽ, trong khi căn mật thất "thi nhãn" lại ẩn mình dưới chiếc bóng của đầu rắn.



Tư Mã Khôi nhìn rõ vị trí, lập tức từ tháp cổ tụt ngược xuống, lần đến chỗ thỏi đá, dùng giáo mỏ vịt cạo hết bùn đất, nậy theo đường viền của thỏi đá, quả nhiên khe hở nới rộng ra, dưới những thỏi đá lộ ra một mảnh tiền đồng đúc hình tròn, với hoa văn cổ quái, rộng khoảng một mét. Bên trên đồng tiền có con thằn lằn bốn chân nạm vàng, khảm vào hoa văn đồng tiền. Tư Mã Khôi nhấn tay vào con thằn lằn nạm vàng, quay nửa vòng ngược chiều kim đồng hồ, vào đúng ổ khóa, rắn bốn chân và nắp đồng đã kết lại thành một thể, rồi anh dùng hai tay nắm chặt và nhấc mạnh lên trên. Cửa động ầm ầm chuyển động, mở ra một địa huyệt, từ bên trong ùa ra luồng khí đen ngòm, đèn nền trong đại điện trở nên mờ tối theo sự xuất hiện của luồng khí.




Tư Mã Khôi biết rõ sự lợi hại của luồng khí độc hại này nên anh không dám lại gần quan sát tình hình trong địa huyệt, mà lánh sang một bên nói với Tiền Bảo Sơn: "Việc ngươi sai ta làm, giờ đã làm xong, còn hai quả mìn dưới kia thì tính sao đây?"



Tiền Bảo Sơn ung dung đáp lời: "Dù sao cũng đã chịu được từng ấy thời gian rồi, còn vội gì chứ? Cho dù định mau chóng biến thành ma, đầu thai sang kiếp khác, thì cũng chẳng cần phải tranh thủ từng giây như thế."



Tư Mã Khôi thầm cuống lên, lại hỏi: "Ngươi vốn dĩ không biết tháo gỡ mìn, cũng không định để bọn ta thoát khỏi núi Dã Nhân đấy hả?"



Tiền Bảo Sơn có niềm tin rất sâu sắc rằng: trên thế giới không một sức mạnh nào có thể đối kháng được "vận may", cảm giác để vượt qua mọi sợ hãi này đã khiến hắn cứ nghĩ mình đang ở Thiên quốc. Hơn nữa, toàn bộ tiến triển của sự việc vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát của hắn, bí mật trong "thi nhãn" đã gần ngay trước mắt, thì làm gì có chuyện hắn để mắt đến sinh mạng mấy người này, thế là hắn cười nhạt không đáp.



Tư Mã Khôi thấy mình đoán không sai, mắt tóe lửa, giận dữ nói: "Vậy thì đừng trách ta không khách sáo, cả đời này ta ghét nhất những kẻ nói lời rồi nuốt lời, lật lọng trở mặt, và cả những kẻ lừa mình gạt trời, buôn bán vũ khí, buôn bán thuốc phiện. Tất cả tội ác của ngươi gặp phải tay ta, có chết mười lần vẫn còn là ít."



Tiền Bảo Sơn không hề để ý, điềm nhiên bước ra từ phía sau đèn đồng, đủng đỉnh nói: "Mi cho rằng dựa vào bản lĩnh loài khỉ nhà mi, là có thể động vào ta sao?"



Tư Mã Khôi chỉ vào Tiền Bảo Sơn và nói: "Cho dù ngươi có là thần phật hạ giới, hôm nay ông mày cũng nhất quyết phải động đến cho bằng được."



Tiền Bảo Sơn tuy chẳng hề sợ hãi, như bản tính hắn lại là người cẩn thận, hay nghi kỵ, khó lòng tránh khỏi nảy sinh nghi hoặc, lỡ đâu có chuyện gì xảy ra thật thì dở, thế là hắn bèn dò hỏi: "Mi dựa vào đâu mà phát ngôn ngông cuồng như thế?"



Tư Mã Khôi nói: "Dưới vòm trời chỉ có một cách, có thể đối phó với một người đang gặp vận may đấy."



Tiền Bảo Sơn hơi sửng sốt, nói: "Tuyệt đối không thể... đó... đó là cách gì vậy?"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56: hồi thứ bảy: biến mất trong mật thất


Hồi thứ bảy: Biến mất trong mật thất



Tiền Bảo Sơn tin tưởng tuyệt đối rằng chiếc mặt nạ da người của vua Chăm Pa có thể đem lại vận may cho bản thân, mà chẳng ai lại có thể phủ nhận sự tồn tại của vận may, bởi vì cán cân hai đầu thành bại, rốt cục sẽ nghiêng về phương nào, lại thường bị sai khiến bởi những nhân tố vô cùng vi diệu, nhưng nó là thứ vô hình vô ảnh, thậm chí chẳng một tiêu chuẩn cụ thể nào có thể đo lường. Lúc này, nghe Tư Mã Khôi nói, trong lòng hắn khó tránh khỏi nghi kỵ.



Chỉ thấy Tư Mã Khôi tiếp lời: "Ngươi vẫn không tin sao, trên thế giới quả thực vẫn tồn tại một sức mạnh có thể đối phó với kẻ đang gặp vận may, đó là nghĩ cách để mình còn may mắn hơn hắn ta."



Tiền Bảo Sơn nghe xong và nghĩ là Tư Mã Khôi chỉ đang ba hoa để thu hút sự chú ý, liền yên tâm trở lại, lạnh lùng nói: "Mi cho rằng vận may của mình, có thể so sánh với vận may của vua Chăm Pa - người vĩnh viễn bắt người ta ngẩng đầu ngước nhìn hay sao?"



Tư Mã Khôi bất lực lắc đầu: "Ta chỉ là hồ tiêu xào rau, hồ tiêu rang cơm, mỗi đánh mạt chược là không hồ đồ cũng chẳng hồ tiêu, nếu thực sự có may mắn thật thì đã chẳng phải chạy sang Miến Điện tham gia đội du kích, càng chẳng phải vào núi sâu để gặp phải loại quái vật người không ra người, ma không ra ma như ngươi..."




Tiền Bảo Sơn nhếch mép cười: "Nếu như ngươi biết giữ đức cho cái miệng một chút, biết đâu tám kiếp sau sẽ được gặp may mắn cũng nên." Hắn thấy Tư Mã Khôi đang nói nhăng nói cuội, dường như muốn cố ý kéo dài thời gian, chỉ e đêm dài lắm mộng, nên phút chốc liền đề cao cảnh giác, đồng thời lẩn ra phía sau chiếc đèn đồng, ẩn mình trong góc tối dưới bóng đèn, đang định tiếp cận địa huyệt nơi cửa động, thì nghe Tư Mã Khôi sắc giọng lên tiếng: "Kỳ thực, trên mặt vua Chăm Pa, vốn dĩ không hề tồn tại vận may."



Thì ra, lúc Tư Mã Khôi bước vào đại điện của tòa thành Nhện Vàng, đã nhìn thấy sau cánh cửa đá có một bức bích họa với nội dung kỳ dị. Anh nhớ Ngọc Phi Yến từng nói, vương triều Chăm Pa áp dụng hệ thống trị thần quyền, tôn thờ thần thú Vệ Đà, lấy dung mạo con người để phân biệt sang hèn, tướng vật đáng sợ của mãng xà và tháp cổ ngầm dự báo sự kết thúc và cái chết; những bức phù điêu xung quanh thành cổ, về cơ bản đã đều lấy điều này làm gốc. Dường như đây chính là một "tòa thành chết", còn bức bích họa phía sau cánh cửa đá, tựa hồ ám thị cái chết của quốc vương, nhưng vì sao lăng tẩm của vua Chăm Pa lại không đặt ở đây?



Nếu nói khe sâu trong núi Dã Nhân hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài, hàng ngàn năm trước đã bị sương mù che phủ, cho dù trong điều kiện bình thường, dường như không ai có thể phát hiện thành cổ vùi sâu dưới lòng đất. Hơn nữa, hình thù của tòa thành Nhện Vàng, tượng trưng cho cái chết này lại rất kỳ lạ, thế gian không thể có cái thứ hai, thế mà nó lại không phải là nơi mai táng hài cốt của một đời thần vương. Vậy vua Chăm Pa hao tâm tốn của xây dựng nó rốt cục nhằm mục đích gì? Những nô lệ và thợ xây dựng thành cổ đều bị giết hết, là nhằm để che đậy bí mật gì? Vua Chăm Pa bản ngã tự tôn rất cao, được coi là người gần kề Thiên quốc nhất, nhưng dường như đối với bí mật ẩn chứa trong tòa thành Nhện Vàng, ông ta vừa kính sợ, lại vừa khiếp đảm.



Tư Mã Khôi cảm thấy có một bí mật tồn tại trong tòa thành Nhện Vàng, nhưng nó thế nào thì anh vẫn chưa rõ, anh chỉ có thể suy đoán lờ mờ về nó, mà một vài manh mối anh có được cũng đan xen phức tạp, nên vẫn chưa thể tìm ra mấu chốt. Tuy từ lúc bắt đầu phát hiện hàng trong chiếc tiêm kích, đội thám hiểm đã có cơ hội so găng với Nấm mồ xanh, nhưng trước sau đều ở thế bị động, dường như chẳng nhìn thấy bất kỳ tia hi vọng nào. Tư Mã Khôi am tường thuật Kim điển, anh hiểu vận may được quyết định bởi tinh thần nội tại của con người, đồng thời anh không tin người nào có thể thực sự khống chế vận may, huống hồ dung mạo vua Chăm Pa rất đặc biệt, có bì tướng mà không có cốt tướng, nên rõ ràng không phải khuôn mặt bẩm sinh. Chỉ có điều Tư Mã Khôi cũng cảm thấy: phía sau chiếc mặt nạ da người lấy từ xác chết vua Chăm Pa, quả thực tồn tại một thứ vô hình vô ảnh, nó có sức mạnh ngăn chặn da mặt của xác chết không bị hủy hoại, dường như đó là một ẩn số lời nguyền ngàn năm không tiêu tán. Trong khi đó, trên thân thể Nấm mồ xanh tử khí toát ra nặng nề, nên tuyệt đối chẳng phải người gần kề Thiên quốc, mà nếu phải miêu tả, thì nói "hồn ma gần kề địa ngục" mới chính xác. Nhưng không rõ vua Chăm Pa rốt cục đã bỏ lời nguyền gì vào khuôn mặt của chính mình, hay vong hồn ông ta thực sự vẫn chưa thể siêu thoát, cứ mãi quanh quẩn trong bóng tối nhìn đăm đăm vào khuôn mặt như người trời của mình.



Tư Mã Khôi biết trên mình Nấm mồ xanh có ít nhất ba bí mật: thứ nhất là thân phận và khuôn mặt thực sự của hắn; thứ hai là phương pháp lẩn trốn vào trong máy bay; thứ ba là động cơ thâm nhập thành cổ tìm kiếm mật thất "thi nhãn", và vì sao những bí mật này không thể để người ngoài biết được? Có lẽ chỉ vì một nguyên nhân mà thôi, đó chính là sự sợ hãi, bởi ba bí mật này đều có thể tạo thành sự uy hiếp trực tiếp đối với sự tồn tại của Nấm mồ xanh.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Ngoài ra, Nấm mồ xanh còn hiểu lầm một khái niệm, đó chính là vận may của vua Chăm Pa. Nếu có thể nhanh chóng giải đáp câu đố này, thì hội của anh vẫn còn khả năng xoay chuyển cục diện bị động hiện tại.



Tư Mã Khôi nhìn thấy bức bích họa xung quanh đại điện: phần lớn những bức vẽ mô tả cảnh tượng hành hình lột mặt dã man, đều là tà thuật chế bùa luyện trùng. Năm đó, những kẻ trộm mộ khai quật lăng tẩm của vua Chăm Pa, phát hiện hài cốt ông ta đã hư hại, chỉ có khuôn mặt là vẫn như còn sống. Bọn trộm mộ đương nhiên gai lạnh trong lòng, bèn tìm cách hủy hoại khuôn mặt, nhưng tất cả đều gặp phải tai nạn bất ngờ, đành phải niêm phong kín quan tài, không dám mở ra nữa. Ngoài ra, Tư Mã Khôi từng bắn trúng một phát đạn vào đầu Tiền Bảo Sơn trong đường hầm, nếu đối phương quả thực sở hữu vận may, thì đáng lẽ ra không bị đạn bắn trúng mới phải. Những tình huống đó đã khiến Tư Mã Khôi càng tin tưởng vào phán đoán của mình: khuôn mặt của vua Chăm Pa không hề có vận may, mà là chứa một loại lời nguyền nào đó. Tiền Bảo Sơn chuyển khuôn mặt của vua Chăm Pa lên đầu mình, lời nguyền cổ xưa cũng theo đó mà bám vào thân, bởi vậy, thay vì nói Tiền Bảo Sơn gặp vận may, chẳng bằng nói hắn bị nguyền rủa, vì bất kỳ kẻ nào có ý đồ trực tiếp hoặc gián tiếp hủy hoại "khuôn mặt", kẻ đó sẽ bị lời nguyền chí mạng của vua Chăm Pa hại chết, không những vậy, sức mạnh của lời nguyền còn vượt xa phạm vi này. Nấm mồ xanh nắm rõ bí mật "khuôn mặt" không thể bị làm hại, nên mới dám tự mình vào núi tìm tòa thành Nhện Vàng, đồng thời còn có thể hóa nguy thành an hết lần này đến lần khác. Bởi thế, chỉ khi tránh khuôn mặt của vua Chăm Pa, thì mới có thể đối phó được với Nấm mồ xanh.



Tiền Bảo Sơn chẳng ngờ Tư Mã Khôi có thể vạch trần chân tướng này, nên hắn không khỏi kinh hoàng. Hắn ta nhìn thấy luồng khí âm u độc hại trong huyệt đá khép kín vẫn chưa tan hết, nên chỉ cần nắm được thời cơ, sẽ lập tức lẻn vào, còn đối phương vì phải quan tâm đến đồng bọn đang đạp trúng mìn chống bộ binh, thì chắc là sẽ không truy đuổi theo, thế là hắn chẳng đáp lời nào, nhân lúc Tư Mã Khôi ở cách xa lối vào mật thất, liền định cướp súng hành động trước một bước, Ai ngờ, hắn vừa mới đứng dậy, liền bị họng súng bốn rãnh đạn chĩa thẳng vào đầu, thì ra hội Hải ngọng, Tuyệt và Ngọc Phi Yến đã đứng dậy bao vây xung quanh từ bao giờ.



Tiền Bảo Sơn kinh hãi tột độ: "Sao có thể như vậy được? Trong mấy kẻ may mắn sống sót, chẳng có ai là chuyên gia gỡ mìn hay lính công binh, thậm chí công cụ gỡ mình chuyên nghiệp cũng không có. Quả mìn chống bộ binh do Mỹ chế tạo đã bị giẫm dưới chân, cho dù là thần tiên cũng khó lòng thoát thân, không hiểu bọn họ làm cách nào mà có thể an toàn rút lui được nhỉ?"




Kỳ thực hội Tư Mã Khôi tòng quân chiến đấu ở Miến Điện đã lâu, rồi chiến hữu xung quanh bị mìn nổ chết hay bị thương, nhiều không kể xiết, nên họ rất quen thuộc với tất cả các loại mìn đời cũ thường thấy. Lúc Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng và Ngọc Phi Yến chạm phải mìn, trong lòng ngầm chết lặng, biết sự việc đã bước vào giai đoạn không thể cứu vãn, nhưng nhãn quang của anh từ trước đến nay vẫn tinh nhanh hơn người, nên phát hiện trái mìn chống địa lôi của Mỹ này có vẻ hơi bất thường. Có lẽ do đối phương cho rằng mình đã khống chế hoàn toàn cục diện, nên mới tự phụ mà hành động thiếu cẩn tắc, cũng có thể Nấm mồ xanh - tuy là kẻ đầu não khống chế tổ chức ngầm mua bán vũ khí chiến tranh, nhưng lại không thông thạo tính năng và kết cấu của loại vũ khí này, tóm lại, Tiền Bảo Sơn vẫn chưa đóng chặt chốt an toàn của quả mìn chống bộ binh.



Loại mìn M2A4 của Mỹ sản xuất trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, để đề phòng trường hợp xảy ra tai nạn bất ngờ, nên chúng được cài chốt an toàn đơn nhất, bởi vậy trước khi cài đặt sử dụng, đầu tiên là phải đóng chặt chốt an toàn trên nắp mìn, nếu không, một khi bị ai đó chạm vào kích nổ, họ chỉ cần dùng dao găm cạo bỏ lớp vỏ ngoài, sau đó cắt đứt ngòi nổ kim loại bên trong, là có thể giải trừ cháy nổ. Lúc đó Tư Mã Khôi liền lợi dụng bẫy để cài lại bẫy, mặt không hề biến sắc, lấy khăn thủy bố chùi bùn đất ở mặt giày, rồi ném cho Tuyệt, ngầm phát ám hiệu cho cô, bảo cô tìm cách gỡ mìn. Sau đó, Tư Mã Khôi hành động theo mệnh lệnh của Nấm mồ xanh, đồng thời cố tình kéo dài thời gian.



Tiền Bảo Sơn trăm lỗ kín, chỉ một lỗ hở, dồn sự chú ý lên mình Tư Mã Khôi đang tìm kiếm mật thất "thi nhãn", chẳng ngờ sau khi Tuyệt bắt được tín hiệu của Tư Mã Khôi, liền cắt đứt ống dẫn nổ của trái mìn, đợi khi hắn ta phát hiện ra, thì đã bị hội Hải ngọng bao vây ba mặt. Sự việc xảy ra quá bất ngờ, hắn chẳng còn đường lùi để xoay chuyển cục diện.



Hải ngọng lửa giận phừng phừng, chẳng nói chẳng rằng, chĩa thẳng họng súng vào đầu Tiền Bảo Sơn, dứt khoát bóp cò, nhưng không rõ do súng hỏng hay đạn bị ẩm, mà súng chẳng phát nổ. Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh vội vã cản lại: "Trước tiên hãy giữ cái mạng hắn đã, nếu không chẳng ai thoát ra khỏi đây nổi đâu."



Hải ngọng giận dữ mắng: "Giữ mạng cái bà nhà nó, ông mày chỉ biết bắn thành tám mảnh thôi!" Anh đang định vứt súng xuống, cầm dao săn ném thẳng vào Tiền Bảo Sơn, thì hắn đột ngột từ trong bóng tối quăng quả lựu đạn phốt pho vào ánh đèn, màn khói mịt mù hòa quyện với ánh lửa chói lòa nhanh chóng lan tỏa khắp nơi, chớp mắt đã hình thành một bức tường lửa trên mặt đất, mọi người gào hét, vội vã lùi người về sau.



Tư Mã Khôi đang đứng ở mặt bên của cột đèn, cùng với ba người còn lại tạo thành thế bao vây kìm kẹp Tiền Bảo Sơn. Anh không bị bức tường lửa cản trở, rút giáo ra định tiến lên trước, nào ngờ gặp khí mêtan ngấm qua khe nứt trên vách đá trong huyệt động, trào ra cửa động vẫn chưa tan hết, bắt lửa bốc cháy. Loại khí dễ cháy này, nếu nồng độ trong không khí vượt quá bảy phần trăm, cơ thể vẫn chưa cảm nhận được sự khác thường, nhưng chỉ cần gặp lửa là lập tức bốc cháy, phát nổ. Khí mêtan ở cửa động địa huyệt tương đối nặng, bắt phải tia lửa, liền nhanh chóng lan rộng khắp đáy điện.



Tư Mã Khôi thấy xung quanh địa huyệt bốc cháy ngùn ngụt như một biển lửa, nóng rát khác thường, đến gần nửa bước cũng khó khăn, nên anh đành né người tránh qua chỗ khác. Lúc này mọi người đều nhìn thấy một cảnh tượng khiến ai nấy đều chấn động tâm kinh: Tiền Bảo Sơn, mặc dù bị bức tường lửa bao vây, vẫn mặc kệ tất cả, liều mình đội khói rẽ lửa giằng co định tiếp cận địa huyệt. Nhưng cánh tay vừa mới thò ra, thì đã chạm phải lửa phốt pho đang bốc cháy dữ dội phía trước, hỏa diệm màu xanh thẫm cháy thấu qua da thịt, liếm vào tận xương, rồi trong phút chốc bàn tay của hắn cháy rụi thành cục than đỏ rực, hắn đau đớn kêu lên "Á!" một tiếng thảm thiết, biết mình không thể đi xuyên qua bức tường lửa.



Hải ngọng thấy khó có thể tiến lại gần, liền lập tức nhồi thuốc vào súng, rồi giương họng súng ngắm thẳng vào Tiền Bảo Sơn, bóp cò lần nữa. Tiền Bảo Sơn chỉ lo quay người tránh né lửa dữ, không ngờ lại đón mặt lĩnh trọn họng súng. Phen này hắn chẳng thể gặp may được nữa, trong tiếng súng chấn động màng nhĩ, chỉ thấy đầu Tiền Bảo Sơn máu thịt trộn vào nhau be bét, cả cái sọ bị bắn tan thành mảnh vụn, thân thể cũng bị đẩy bật về phía sau mạnh đến nỗi ngã vật xuống, bay qua bức tường lửa, nặng nề rơi bịch vào trong địa huyệt đang mở rộng cửa.



Tư Mã Khôi vốn dĩ định hét gọi Hải ngọng tránh "khuôn mặt" của vua Chăm Pa, nhưng chưa kịp mở miệng, thì đầu của Tiền Bảo Sơn đã bị khẩu súng săn nòng ngoại cỡ bắn tan tác. Khí metan đang bốc cháy ở gần cửa động tiêu tan rất nhanh, nhưng lựu đạn phốt pho vẫn bốc cháy một hồi lâu mới dần nhạt đi. Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc vô cùng uẩn khúc, nên đợi thể lửa suy yếu là lập tức chạy tới tìm kiếm thi thể của Tiền Bảo Sơn. Nấm mồ xanh bí ẩn quái dị khó lường, nếu không vạch trần triệt để mọi ẩn số cất giấu trên cơ thể hắn, chỉ e sau này vĩnh viễn không thể sinh sống yên ổn.




Tư Mã Khôi thấy khí đen trong địa huyệt dần dần tiêu tan, mới bảo Hải ngọng xách súng chặn cửa động. Anh phá hỏng chiếc tráp ngọc đựng viên ngọc phỉ thúy, xé mấy sợi màn che buộc vào thân gỗ, châm lửa từ chiếc đèn đồng, tạo thành vài bó đuốc, rồi dấp nước ướt khăn thủy bố, chuẩn bị cùng Tuyệt và Ngọc Phi Yến vào trong truy tìm.



Ngọc Phi Yến lấy súng xung phong quét một loạt đạn mở đường, rồi sau khi xác định bên trong an toàn, mới dám tiến vào địa huyệt. Ba người giơ cao ngọn đuốc, kiểm tra khắp nơi, âm khí tích tụ lâu ngày trong không gian đóng kín hàng ngàn năm đã khiến ánh đuốc lúc tỏ lúc mờ. Tư Mã Khôi không dám lơ là, lần lượt nhìn kỹ trước sau trái phải một lượt, chỉ thấy không gian trong địa huyệt giống như thạch thất này vô cùng nhỏ hẹp, bên trong còn ẩn chứa một huyệt động sâu chừng vài mét, phía tận cùng là tầng đá thiên nhiên, chẳng thể đi thông ra ngoài. Bên trong tầng đá đó lộ ra một vài mảnh hóa thạch đốt sống của một loài sinh vật cổ, hình thể rất lớn, khó lòng phân biệt được rốt cục đó là con gì, còn ở gian ngoài, tường đá không hề có dấu tích từng bị lửa đốt qua, nhưng chỗ nào cũng khắc đầy những phù chú với hình thù quái dị.



Địa huyệt này, ngoại trừ cửa động ăn thông với đại điện, thì bên trong dường như hoàn toàn khép kín; tuy rằng có không ít kẽ nứt nhỏ được hình thành do ngày dài năm sâu, nhưng đối với loài người mà nói, thì gian mật thất quả là chẳng một khe chui lọt, tuyệt đối không thể tàng hình, ngoại trừ trong góc, có mấy tấm bia đổ nát ra, thì chỗ nào cũng trống trơn, không những chẳng thể tìm một lối ra hay cánh cửa ngầm, mà còn không hề nhìn thấy tung tích của Nấm mồ xanh. Không biết trong địa huyệt tối đen như mực này, do âm khí tích tụ lâu ngày, hay do trên vách đá tồn tại một loại tia khúc xạ nào đó, mà khiến đầu óc người ta ngâm ngẩm đau, dường như linh hồn trong cơ thể đang bị bóng tối quét qua.



Ba người cảm thấy tình hình bất ổn, còn Nấm mồ xanh dường như đã bốc hơi giữa không gian đen tối. Hắn giống như là một vong hồn trong cơn ác mộng, căn bản không hề tồn tại ngoài đời, giống như "địa cầu quay ngược, mặt trời mọc ở đằng tây", là một trạng thái quái dị đến cực điểm.



Tư Mã Khôi nhíu mày: "Chẳng lẽ trên đời này quả thực tồn tại thuật độn thổ thật hay sao?" Anh vẫn không chịu bỏ qua, bảo Tuyệt cùng mình kiểm tra lại một lượt từng kẽ đá, đồng thời dặn Ngọc Phi Yến quan sát cẩn thận mọi vết khắc trên vách đá, vì không chừng trên đó lại ghi chép những manh mối liên quan đến lối ra bí mật của tòa thành Nhện Vàng, hoặc giả còn có thể biết vua Chăm Pa rốt cục cất giấu bí mật gì trong đó.



Ngọc Phi Yến nhờ ánh đèn của bó đuốc, xem cẩn thận một hồi, phát hiện trên vách đá địa huyệt có khắc một vài ký hiệu và phù chú, tất cả đều viết bằng một loại văn tự tượng hình thời cổ đại vô cùng độc đáo. Ngọc Phi Yến tuy trải nhiều, biết rộng, nhưng lại chẳng hề nhận ra một chữ trong này, bởi nó dường như không giống với bất kỳ thứ văn tự nào từng biết trên thế giới, nên sợ rằng chẳng ai có thể đọc hiểu nổi hàm ý bên trong.



Trong khi đó, những ghi chép khắc trên mấy tấm bia đá lại đều là văn tự của vương triều Chăm Pa, nên chủ yếu là chữ Phạn và chữ Pali. Ngọc Phi Yến tương đối quen thuộc dạng chữ này, nên đọc được bảy tám phần đối với cô cũng chẳng khó khăn gì, cô chỉ nhìn qua một cái, trong lòng đã chấn động khó định thần lại được, vội vã gọi Tư Mã Khôi: "Tòa thành Nhện Vàng quả thực cất giấu bí mật của vua Chăm Pa, nhưng bí mật này... rất có khả năng không phải một đồ vật cụ thể..."


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57: hồi thứ tám: sự thật chưa xảy ra


Hồi thứ tám: Sự thật chưa xảy ra



Tư Mã Khôi theo đội thám hiểm vào núi Dã Nhân, vô số việc mà anh từng tận mắt chứng kiến trên đường, giống như một màn sương mù bủa vây không cách nào xua tan. Anh thực sự chẳng thể nào hiểu nổi vì sao vua Chăm Pa lại sẵn sàng hao kiệt sức dân và tiền của đất nước để xây dựng tòa thành Nhện Vàng hình thù quái dị dưới lòng đất, rồi còn cài đặt vô số cạm bẫy tứ phía xung quanh, hủy hoại toàn bộ di tích cổ xưa trên mặt đất, hòng bảo vệ bí mật của tòa thành. Tô tem tháp cổ và mãng xà, bức bích họa vua Chăm Pa gặp gỡ thần chết, vô số viên đá tạc hình mặt người, đều nhằm ám thị điều gì? Vua Chăm Pa đã gọi nơi này là mật thất "thi nhãn", cất giấu nó kỹ lưỡng đến vậy, chắc hẳn phải có nguyên do gì đó? Lúc này, Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến nói bên trong mật thất quả thực cất giấu bí mật của vua Chăm Pa, nhưng anh phát hiện ở đây ngoại trừ những văn tự cổ đại và phù chú khắc chi chít trên vách đá, thì chẳng còn bất kỳ vật nào khác, vậy cái gọi là "bí mật" rốt cục để chỉ điều gì? Chẳng lẽ nó không phải một vật cụ thể hay sao?



Ngọc Phi Yến nói: "Nếu tôi giải mã không nhầm, thì bản thân gian mật thất này chính là bí mật của vua Chăm Pa." Để xác thực hơn phán đoán của mình, cô lại gắng sức phân biệt những chữ cổ còn lại trên vách đá.



Tư Mã Khôi càng cảm thấy kỳ quái hơn, bèn định hỏi lại cho rõ. Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến đang nhíu sâu đôi mày suy tư mặc tưởng rất tập trung, bèn xua tay ra hiệu cho Tư Mã Khôi đừng ở bên làm phiền. Tư Mã Khôi đành mím môi không hỏi thêm gì nữa, tiếp tục giơ cao ngọn đuốc quan sát mọi nơi trong mật thất, nhưng anh phát hiện toàn bộ khu vực xung quanh chẳng có một lối ra nào.




Ngọc Phi Yến xem kỹ một hồi lâu, mới nói với hội Tư Mã Khôi: "Trong mật thất ghi chép một số chuyện vô cùng ly kỳ, khiến người ta khó lòng lý giải, nhưng nếu kết hợp với những manh mối chúng ta đã nắm bắt được trước đây, thì có lẽ có thể suy đoán ra chân tướng mà vua Chăm Pa cất giấu trong tòa thành Nhện Vàng."



Thì ra nước Chăm Pa từ cổ xưa đã sùng bái ngũ quan, coi khuôn mặt là cao sang, coi phần đầu là tôn quý, bởi vì nghe nói khuôn mặt từng người khác nhau, thì vận may được sinh ra cũng khác biệt rất lớn. Vua Anagaya thấm nhuần đạo thuyết này, ông ta sinh thời rất giỏi nuôi bùa luyện ngải, lại không ngừng ăn dòi não người, bởi vậy thần thái và dung mạo mới khác thường đến thế, mà ngay cả màu da cũng không hề giống người bản địa. Những nước như Miến Điện, Lào gọi thuật này là "ngải mặt", đó là một loại tà thuật được coi là cấm kỵ thời cổ đại, hậu thế chẳng ai còn được truyền thụ thuật pháp này nữa. Kỳ thực vua Chăm Pa sinh ra không hề có tướng mạo dị biệt như người trời, cũng chẳng hề tìm được cái gọi là "vận may" từ tướng mạo ấy. Khuôn mặt giống như thần phật, sau một thời gian dài uống thuốc mãi mới thành kia, thực ra chỉ để ông ta duy trì sự thần bí và đáng sợ của vương quyền.



Vua Chăm Pa bản tính tàn nhẫn, khát máu sát nhân, tin tưởng tuyệt đối vào thuyết số mệnh, ý thức bản ngã tự tôn lại rất cao. Có điều, cho dù dung mạo có giống thần phật đến đâu chăng nữa, thì ông ta vẫn chỉ là một trong số chúng sinh của kiếp luân hồi, không thể giải thoát khỏi dục vọng và bon chen nơi nhân thế. Do vậy mà trong lòng ông ta đương nhiên nảy sinh nỗi khiếp sợ rùng rợn đối với hậu sự của chính mình. Từ đó, ông ta thường xuyên bị ác mộng quấy rầy, bởi vầng mặt trời của đời người cuối cùng cũng phải lịm tắt vào một ngày nào đó. Do nỗi sợ sâu sắc đối với cái chết, nên ông ta chỉ còn cách mượn cớ giết người để giải tỏa, và luôn lấy chuyện "quá khứ tương lai" hỏi kẻ bị hại, trước khi xuống tay giết chết họ.



Vì trong các tháp cổ vốn được xây trên đỉnh núi trước đây, tàng chứa rất nhiều vàng bạc châu báu từ các đời vua của vương triều Chăm Pa để lại, nên sau khi núi Dã Nhân sụt lở, lún xuống hình thành khe núi sâu thẳm khôn lường, ông ta liền sai người mở đường từ huyệt động vùi xương của bầy voi rừng vào sâu trong khe núi, chẳng ngờ vô tình tìm thấy tòa núi đá. Tòa núi này từ chân đến đỉnh đều đen bóng, giống hình con nhện tám chân, bên trong có vô số huyệt động ngang dọc thông nhau, dường như còn có vết tích loài người từng cư ngụ ở đó, lại giống như một cung điện rộng lớn dưới lòng đất. Ở trong địa cung này không chỉ ẩn chứa Udumbara khô héo, mà trong một khe huyệt động, còn có hài cốt của một loài sinh vật to lớn dị thường, và rõ ràng sự tồn tại của nó còn cổ xưa hơn cả vương triều Chăm Pa, nhưng sau này tất cả đều bị dòng nước đen nuốt chửng, chẳng hề để lại chút dấu tích nào trên lịch sử, còn giờ đây khi lòng núi bửa đôi, mạch nước khô cạn, nó lại một lần nữa lộ diện giữa thế gian.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.



Trong truyền thuyết Chăm Pa, "thi thần" hay còn gọi là "tam thi thần" hoặc "tam trùng", là ba con ác quỷ, trấn ba cửa ải để cho Thần và Khí không được giao lưu với Càn Khôn thăng giáng, khiến con người kết hợp với ma quỷ, quay lưng với cuộc sống, cận kề cái chết, cạn kiệt tinh khí. Thi thần bị giam giữ trong thân thể con người, chỉ khi con người chết đi thì thi thần mới được giải phóng. Thi thần chiếm cứ vương quốc của người chết, thân hình đen sì, hai hốc mắt đen ngòm sâu hoắm như huyệt động mọc bên trong cơ thể, trên mình có bốn tay bốn chân, hình dáng rất giống với tòa núi đá dưới lòng đất, mà khi ấy, đa số người Chăm Pa đều coi đây là điềm hung, cho rằng đại nạn sắp giáng đầu. Thế nhưng điều khiến vua Chăm Pa khiếp sợ nhất là trong tàn tích sương mù còn sót lại dưới huyệt động, ông ta đã tận mắt nhìn thấy cảnh tượng lúc chết của chính mình, khi sương bay khói tàn, thì thân hình cũng tan vụn thành trăm mảnh.



Nhiều năm trước, vua Chăm Pa từng giết hại một vị thánh tăng. Vị thánh tăng đó trước lúc bị hành hình không hề nói tiếng nào, chỉ để lại một cuộn giấy vẽ hình, mô tả cảnh tượng chết thảm thương đầu mặt rách vụn ngay trước huyệt động thi nhãn, đồng thời chỉ ngón tay giữa ra dấu. Giờ đây mọi việc đều ứng với lời tiên đoán trong tranh, bởi vậy vua Chăm Pa không hề nghi ngờ gì nữa, tự biết sớm muộn sẽ có một ngày tất phải chết ở nơi này. Tuy ông ta hiểu rõ: những chuyện đã được trời định thì không thể tránh khỏi, nhưng vẫn hy vọng và có ý đồ thay đổi sự thực. Ông ta không tiếc tiền bạc, rút kiệt nguồn lực quốc gia, mô phỏng theo hình thù cánh cổng lớn đi vào vương quốc của thần chết để xây dựng nên tòa thành Nhện Vàng, và mang tất cả huy hoàng, hiển hách mà vương triều từng có, đến hiến cho thi thần chiếm cứ nơi âm giới, sau đó lệnh giết chết tất cả nô lệ và những người thợ biết chuyện, rồi để cây Udumbara trong khe đá hồi sinh trở lại. Những bí mật cổ xưa ẩn giấu trong sơn cốc núi Dã Nhân cũng từ đó bốc hơi giữa tầng mây khói lịch sử.




Kỳ thực sự liên quan đến số mệnh thì trong cuốn sách tôn giáo cổ đại là "Kinh Bàn Đà số nghiệp" đã sớm luận giải một định luật chắc như thép, mà nếu dùng quan niệm hiện đại để giải mã ý văn uyên thâm thời xưa, thì nội dung của nó đại khái là: số mệnh của vạn vật đều là một sợi dây do vô số điểm đơn biệt tạo thành, chẳng ai biết điểm giữa sợi dây xảy ra chuyện gì, hoặc gặp phải những điều gì; có điều tất cả các sợi dây, sau cùng đều hướng về một điểm cuối, điểm cuối đó chính là cái chết, mà tuyệt đối không tồn tại trường hợp ngoại lệ, bởi bất kỳ sự việc nào xuất hiện ở điểm giữa, đều không hề ảnh hưởng đến kết quả nơi điểm cuối.



Nếu có người nhìn thấy trước điểm cuối này của cuộc đời, thì mọi chuyện sẽ ra sao? Nếu vậy thì có lẽ anh ta chính là "người gần Thiên quốc nhất", bởi vì anh ta có thể hiểu rõ số mệnh của chính mình, và nếu đủ khả năng hủy diệt đích cuối, thì có nghĩa là anh ta đã đặt chân lên lãnh địa của Thiên quốc. Vua Chăm Pa cho rằng: chỉ cần sau này không bước đến tòa thành Nhện Vàng, thì sẽ tránh được Tử thần, sinh mệnh ông ta cũng không còn tồn tại cái chết và nỗi sợ nữa, như thế sẽ vĩnh viễn trường sinh bất tử, bất trụy bất diệt; ông ta vốn dĩ đã là kẻ độc ác, nay được thể lại càng ngông cuồng, tàn nhẫn hơn. Có điều, sau trăm phương ngàn kế, hao tâm tồn trí giăng mắc thiên la địa võng, cuối cùng vua Anagaya vẫn đột ngột lìa đời. Có lẽ trước lúc lâm chung, ông ta vẫn không biết rằng: điểm cuối mà ông ta từng nhìn thấy lúc sinh thời, không phải là điểm cuối của bản thân, mà là điểm cuối của chiếc mặt nạ da người bị lột ra từ phần sọ di hài chính mình. Nếu nói mỗi cái cây ngọn cỏ trong cõi trời đất đều có vận mệnh, thì cảnh tượng vua Chăm Pa nhìn thấy lúc đó, chỉ là số mệnh của "khuôn mặt" mà thôi.



Năm đó, những nô lệ và tù binh xây dựng tòa thành Nhện Vàng, sau khi hoàn thành công trình, đều bị sát hại dã man. Trên đời này rốt cục chẳng có bí mật nào giấu được mãi, bởi vậy vua Chăm Pa đã để lại lời nguyền ở nơi này: ai dám tiếp cận bí mật trong tòa thành Nhện Vàng, thần chết sẽ mang bóng đêm khủng khiếp giáng xuống đầu kẻ đó. Trong địa huyệt thâm u tĩnh lặng, chỗ nào cũng khắc đầy những lời nguyền thâm hiểm, lạnh băng, nó tựa hồ bức phòng tuyến tinh thần cuối cùng của vua Chăm Pa, nhưng dưới con mắt người hiện đại, thì nó cũng chỉ là một thứ hư vô, nhợt nhạt.



Ngọc Phi Yến nói với Tư Mã Khôi và Tuyệt: "Ngoại trừ lời nguyền khắc trên mấy tấm bia đá thì còn lại đều là những đối thoại ma quỷ ghi chép lại cuộc nói chuyện giữa vua Chăm Pa và thần chết, mà nội dung trong đó chưa hẳn đã chính xác đáng tin, bởi rốt cục chẳng ai có thể điều tra xác minh tính chân thực của nó, nhưng vua Chăm Pa chắc chắn bàng cách nào đó, đã tận mắt nhìn thấy cảnh tượng lúc mình chết, nếu không ông ta đã không thể tin tưởng sâu sắc đến thế. Núi Dã Nhân tồn tại một nguồn từ trường rất mạnh, rất có khả năng đã xuất hiện những hiện tượng quang học hoặc dị tướng sóng điện - tương tự như cảnh thành phố bồng bềnh trên mặt biển, ngay cả chiếc tiêm kích vận tải như bóng ma chúng ta nhìn thấy khi trước, quá nửa cũng thuộc thể loại này, chỉ là không thể xác định nguồn gốc từ trường xuất phát từ sương mù trong núi sâu hay từ tầng đá trong tòa thành Nhện Vàng mà thôi."



Tư Mã Khôi và Tuyệt nghe xong, đều bừng tỉnh, thì ra chiếc mặt nạ da người chết mà Nấm mồ xanh khoe khoang, chẳng phải vận may, cũng không phải lời nguyền hay âm hồn, mà đó là số mệnh, là một "sự thực" vẫn chưa xảy ra. Bởi vì "khuôn mặt" của vua Chăm Pa được định đoạt sẽ bị hủy hoại lúc cánh cửa mật thất "thi nhãn" bắt đầu mở ra, nên trước đó không một sức mạnh nào có thể thay đổi một "sự thực" tất yếu sẽ diễn ra ấy. Thế nhưng diện mạo thật sự của Nấm mồ xanh ẩn náu dưới "khuôn mặt" ấy rốt cục trông như thế nào? Vì sao sau khi rơi vào mật thất, hắn liền mất tăm mất dạng? Hắn nắm rõ mọi điều trong tòa thành Nhện Vàng như lòng bàn tay, tựa hồ những bí mật mà hắn biết còn nhiều hơn cả vua Chăm Pa lúc còn sống, hơn nữa lại còn bố trí mọi việc rất chu toàn, thì đương nhiên hắn không thể chủ động tìm đến để tự mình đâm đầu vào đường chết, mà hiển nhiên tất cả những việc này đều nằm trong kế hoạch của hắn.



Còn về cái gọi là "chân tướng" mà Nấm mồ xanh muốn tìm kiếm, mọi người lại càng thấy khó tìm ra hơn, có lẽ hắn đến không phải vì vật báu dâng cúng cho thi thần trong tòa thành Nhện Vàng. Hơn nữa, nghe giọng điệu của hắn, thì cũng biết hắn chẳng mê tín mấy chuyện thần phật, nên tự nhiên không phải hắn vào đây để tìm kiếm mấy chuyện mê muội như trường sinh bất tử. Vì phàm những kẻ có ý niệm này, đều là hạng ham sống sợ chết, tuyệt đối không dám dấn thân mạo hiểm, thâm nhập núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề.



Nếu căn cứ vào tình hình mọi người nắm bắt được trước mắt mà suy đoán, thì phía trong tòa thành Nhện Vàng, vốn dĩ là một tòa núi đá lớn nằm sâu dưới lòng đất, người Chăm Pa đã gọt giũa tầng đá và huyệt động, niêm phong, hủy hoại phần lớn các khu vực, bên trong chắc chắn còn rất nhiều thứ chưa được biết đến, nên Nấm mồ xanh tất vì những thứ này mới mò đến đây.



Bây giờ, hội Tư Mã Khôi và Nấm mồ xanh đã trở thành những kẻ tử địch, cho nên giữa hai việc thoát thân và phá giải ẩn số về thân phận đối phương, đều không thể phân biệt nặng nhẹ, khoan gấp. Bỗng nhiên, mật thất rung chuyền từng đợt, sương khí đen ngòm trong khe đá phun ra ào ạt, Tư Mã Khôi nói: "Không hay rồi, tòa thành cổ đang tiếp tục chìm lún xuống bồn địa bùn lầy dưới lòng đất..."




Mọi người chỉ sợ khí metan bén cháy, liền vội vàng tắt rụi cây đuốc trong tay, lập tức từ bỏ ý định tiếp tục rà soát xung quanh mà bắc thang người trèo lên, Hải ngọng ở trên tiếp ứng. Mọi người từ mật thất quay trở về đại điện. Lúc này mặt đất trong tòa thành Nhện Vàng đã bắt đầu nghiêng ngả, gạch đá khảm trên vách tường rơi rào rào, một thanh xà đá từ không trung rơi xuống, đập trúng chiếc đèn đồng, khiến nó vỡ vụn thành từng mảnh, dầu "diêm hỏa ngàn năm" trong "lò lửa vạn kiếp" đổ lênh láng ra ngoài, bén cháy khắp nơi, biến chỗ nào cũng trở thành mồi lửa.



Núi Dã Nhân thuộc miền địa hình núi hạn rạn nứt, phần đáy tòa thành cổ là một hồ nước ngầm khô cạn, do mạch nước lún xuống để lại lượng bùn đất khổng lồ, sau khi những sinh vật trong hồ chết đi, thể xác tàn tích dần dần phân giải thối rữa, dồn ép kẹp giữa tầng đất và bùn lầy, hình thành vô số túi khí tương đối độc lập, to có nhỏ có, phân bố chi chít dày đặc, ở giữa có một vài khe suối ngầm ngàn năm tuôn chảy không cạn kiệt, thậm chí còn chảy thông vào phía trong tòa thành Nhện Vàng.



Hàng ngàn năm trước, cả dải bề mặt núi rộng lớn bị lún xuống - do mặt đất sụt lở, luôn luôn phải chịu trọng tải của lượng khí metan và gốc rễ thực vật, rồi một khi sự thăng bằng vi diệu này bị phá vỡ, thì đất đá sẽ hoàn toàn sụt lở, chìm xuống lớp bùn đất sâu vạn trượng phía dưới. Hệ thực vật sinh trưởng trong tòa thành Nhện Vàng do đã bị bom địa chấn phá hủy quá nửa, khiến lực chịu tải trong lòng thành xảy ra sự biến đổi mạnh mẽ, đè ép xuống túi khí metan đang đóng chặt, cuối cùng cũng vỡ ra, khí metan trào vào thành. Vì mất thăng bằng lòng đất nên cả tòa thành Nhện Vàng ngả nghiêng chìm xuống.



Khí metan thẩm thấu qua khe tường đá, lọt vào trong, bén lửa trong đại điện. Lần này khác hẳn với lần trước, dường như nó đã bùng lên thì không thể khống chế, và từng quả cầu lửa phình to nhanh chóng nhảy bật lên cao. Hội Tư Mã Khôi nhìn thấy ngọn lửa mạnh đột nhiên xuất hiện như thể nổ ra từ giữa không trung, làm da thịt quanh người tựa hồ bị dòng nhiệt lột bóc từng mảng, nên ai nấy vội vàng lăn ra mặt đất, bò thục mạng ra dòng nước ngầm trong góc điện.



Làn sóng khí bỏng rát chiếm lĩnh toàn bộ không khí gần đó, ánh lửa trong chớp mắt liền trở nên nhạt dần, xung quanh liên tiếp vọng đến những âm thanh chấn động, trong tai mọi người rặt những tiếng ầm ầm rền rĩ. Khí metan tích tụ dưới lòng đất ở mọi nơi đều dần dần bén lửa, gây ra từng đợt cháy nổ không ngừng.



Giữa khoảnh khắc mọi người gần như ngộp thở đến cực hạn, lòng thành đột nhiên nứt toác, bùn đất trên đầu rào rào đổ xuống. Xuyên qua khe hở lớn ở vết nứt nơi đỉnh điện, họ thấy trên cao thế lửa dâng lên ngùn ngụt, cây Udumbara che phủ toàn sơn cốc cũng bị bén cháy, giữa cảnh trần ai hỗn loạn, ánh lửa bay vút rạch đứt làn sương khói màu xám đen đặc quánh, tạo thành một bức tường đen mang điềm hung vươn ãi tận tầng không.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58: hồi thứ chin: không trung ngụt lửa


Hồi thứ chin: Không trung ngụt lửa



Hội Tư Mã Khôi nấp mình vào một góc điện kiên cố, ngẩng đầu lên, chỉ thấy thành cổ bị bửa đôi hình chữ V bắt đầu sụp đổ ầm ầm, rồi giữa vết nứt rộng ngoác đen ngòm lộ ra vô số thân cây ngoằn ngoèo, chằng chịt, như cái lưới nhện khổng lồ mắc lủng lẳng trên vách tường. Lúc này bộ rễ chính của Udumbara đã bén lửa bốc cháy ngùn ngụt, rồi ngọn lửa hung dữ lại nhanh chóng vươn cao, thiêu rụi toàn bộ tầng kén nằm sâu dưới huyệt động trong lòng đất. Lưới lửa chế ngự hoàn toàn tòa thành Nhện Vàng, dường như cả không trung đang rừng rực bốc cháy.



Mỗi cột trụ Udumbara - tán đội trời thân tựa đất, đều được sinh ra từ tổ kén trong tầng đá bên dưới tòa thành. Thành cổ Nhện Vàng cả thảy có tám huyệt động như những cặp mắt kép, từ đây, Udumbara đâm rễ và tán lá ra ngoài che kín toàn bộ huyệt động dưới lòng đất, vô số đài hoa của nó không ngừng tạo ra lớp sương mù dày đặc, hình thành một hệ sinh thái độc lập gần như kín bưng. Ngoại trừ loài sinh vật máu lạnh bò sát ra, nơi này dường như cách biệt hoàn toàn với cuộc sống bên ngoài, nó khiến bất cứ kẻ xâm nhập nào có ý đồ nhòm ngó bí mật của quốc vương Chăm Pa đều phải nhận kết cục bi thảm, có đường đi mà không có lối về.



Udumbara không sợ nước lửa, cho dù bị chất độc màu da cam phá hủy, nó cũng nhanh chóng phục sinh, chỉ khi nào diệt trừ được bộ rễ chính thì mới khiến nó chết hẳn, mà rễ chính lại được bức tường thành vững chãi bảo vệ. Thế nhưng vào thời khắc này, khi cây chưa kịp phục hồi nguyên dạng, thì đã lại bị lưỡi lửa hung dữ phun ra từ lòng đất bén mồi, ngọn lửa ngấu nghiến phá hủy bức bình phong tầng thực vật từ trong ra ngoài, khiến bộ rễ của Udumbara vươn dài khắp bốn phương tám hướng, từng chiếc từng chiếc dần đứt lìa khỏi thân cây khô quăn queo. Cả tòa thành ầm ầm rung chuyển, nhiều chỗ bắt đầu rạn nứt sụt lở, gạch vụn đá rơi rào rào, vương vãi khắp nơi.



Khe nứt lớn sâu hoắm trong lòng núi Dã Nhân vốn dĩ là do mạch nước trong núi khô cạn khiến mặt đất nứt toác mà thành. Ai ngờ, chỉ một dòng nước trông hiền hòa yếu ớt, mà lại đủ sức bào mòn chia cắt núi đá thành một huyệt động khoáng đạt thênh thang. Lúc này trên mưa lớn dưới lửa mạnh, Udumbara cùng lúc phải chịu sự công kích của cả nước và lửa, sương mù xung quanh dần dần tản mát, rắn bay "ly chùy" đang nằm rình mồi trong đám mây mù dày đặc cũng nháo nhác nhào ra tìm lối thoát thân. Thành Nhện Vàng ngả nghiêng nứt vỡ liên hồi, rồi từ từ chìm nghỉm xuống lớp bùn sình đen ngòm dưới vực sâu không đáy. Xem ra mọi bí mật cũng như huy hoàng một thời của vương triều Chăm Pa, sẽ mãi mãi ngủ yên trong bóng tối. Trải qua bao tuế nguyệt, đằng đẵng sau hàng ngàn năm không nhìn thấy mặt trời, giờ đây một lần nữa, thành cổ lại bị vùi chôn vĩnh viễn.



Đúng lúc này, từ kẽ nứt trên mặt đất trong đại điện, một dòng nước đen ngòm, lạnh thấu xương "ùng ục ùng ục" tuôn ra. Năm đó, sau khi nguồn nước khô cạn, trừ một vài mạch nguồn nhỏ, còn lại tất cả sông ngòi, đầm hồ, nước ngầm dưới lòng đất - kéo dài trăm dặm trong huyệt động sâu thẳm, đều bị bùn lầy và khí metan lấp kín. Bây giờ, mưa to gió lớn vần vũ bên ngoài núi khiến thủy triều nước ngầm lên xuống bất thường, cộng với khí metan sau khi bốc cháy làm bùn đất nổ tung tóe, đã kích thích dòng nước vốn nằm im bao lâu dưới lòng núi dềnh lên hẳn mặt đất. Dòng nước ngầm mênh mông vô bờ bến không ngừng dâng cao, trong nháy mắt toàn bộ đáy động đã bị chìm ngập, thế nước hung bạo cuồn cuộn trào lên, cộng hưởng với dòng khí lưu thông trong khe cốc, tạo ra những âm thanh đinh tai nhức óc.



Hội Tư Mã Khôi sớm đã sức cùng lực kiệt, lại thêm bao vết thương lớn nhỏ trên người, họ tự biết nếu trượt chân xuống dòng nước tất rơi vào bàn tay tử thần, nên buộc phải bám chặt vào những mảnh tường vỡ, gắng sức leo lên cao. Nhìn dưới chân dòng nước đen ngòm hung dữ cuồn cuộn chảy, trên đầu khói bay mù mịt, lửa cháy ngùn ngụt che kín vòm trời, hai tai họ dường như điếc đặc, đến nỗi không nghe thấy bất kỳ âm thanh gì. Thảm cảnh trời tru đất diệt trong khe động chỉ xảy ra trong một khoảnh khắc ngẳn ngủi, mà mọi người ai nấy mặt vàng như nghệ, lòng ngầm hiểu phen này cho dù có mọc thêm cánh cũng khó thoát thân.



Lúc này Tuyệt kéo tay Tư Mã Khôi, chỉ cho anh thấy phía trên đỉnh đầu. Tư Mã Khôi nhìn theo tay cô, thấy trong ánh lửa lập lòe mờ tỏ ẩn hiện một bóng đen u ám thò ra nơi góc nghiêng ở đỉnh tòa thành, hình dáng phảng phất như một còn chim lớn. Tư Mã Khôi lòng bỗng trở nên kích động mãnh liệt: "Hình như đó là chiếc máy bay."



Máy bay tiêm kích chở bom địa chấn đã bị phá hủy, ngay cả xác cũng tiêu tan không dấu vết, vì thế chiếc máy bay nhìn thấy lúc này có lẽ là máy bay vận tải số hiệu Rắn đen II của đoàn thám hiểm người Anh, và chắc nó từ kén nhộng rơi xuống thành cổ. Toàn huyệt động khắp nơi tối mù mù, nếu Udumbara không bốc cháy ngùn ngụt giữa không trung thì chắc chắn không thể phát hiện ra bóng dáng của nó.



Ai nấy đều nhớ rõ trong khoang máy bay đựng rất nhiều đồ dùng dự phòng của đoàn thám hiểm, trong đó có chiếc xuồng cứu sinh siêu tốc gắn hai mô tơ, nên nếu muốn kịp thoát thân khỏi thành cổ trước khi bị đại hồng thủy nhấn chìm, mọi người sẽ phải lấy được chiếc xuồng cao su đó ra khỏi xác máy bay. Làm như vậy, ít ra họ cũng sẽ giành giật được chút tia hi vọng sống sót trong cảnh tuyệt vọng.




Tư Mã Khôi nhanh chóng lấy lại tinh thần, tay chỉ lên trên ra dấu với ba người còn lại. Anh vừa tránh những mảnh đá vụn và dây mây rừng bén lửa rơi vào người, vừa nhanh chóng bám sát vách đá từ từ bò lên. Khi Tư Mã Khôi vào được bên trong xác chiếc máy bay nằm chênh vênh trên mép thành và tìm thấy ca nô siêu tốc trong khoang hành lý, thì Ngọc Phi Yến - bằng thân thủ nhanh như sóc, cũng đã theo sát ngay phía sau lưng; hai người tiện tay lấy cả cuộn pháo phát tín hiệu và pháo sáng, rồi gắng hết sức lôi chiếc xuồng cao su ra khỏi khoang máy bay.



Lúc này mực nước ngầm dưới lòng đất dâng lên càng lúc càng nhanh, trên cao chỉ còn sót lại cuộn khói đen kịt và đám tro tàn vần vũ giữa không trung, ở giữa có vô số những đốm lửa lập lòe bất định. Tư Mã Khôi biết Hải ngọng và Tuyệt bị tụt lại phía sau, tình thế vô cùng nguy hiểm nên không kịp nghỉ lấy hơi, anh lập tức bơm khí đầy căng chiếc xuồng cao su, rồi nhờ chút ánh sáng tỏa ra từ đèn tín hiệu mà nhìn thấy vị trí hai người đang đứng, liền cố hết sức đẩy bè cao su xuống nước.



Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến lần lượt kẻ trước người sau trèo lên xuồng cao su, kịp thời đến ứng cứu Hải ngọng và Tuyệt đang sắp sửa bị rơi xuống nước.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Cùng lúc ấy, dòng nước đen mênh mông gần như phủ kín toàn thành Nhện Vàng, chiếc máy bay vận tải của đoàn thám hiểm người Anh cũng bị dòng nước xoáy nhấn chìm, trong chớp mắt đã mất hút không sủi tăm. Chiếc xuồng cao su bị xô vào đầu con sóng của vòng nước xoáy, bốn bề chỉ là thế giới của bóng đêm, và rõ ràng ngồi trên mặt nước nhưng lại không hề nghe thấy tiếng nước chảy, cảm giác này thật vô cùng rùng rợn. Ai nấy đều biết: chỉ cần Tư Mã Khôi chậm chân nửa bước, kẻ rơi xuống trước tiên sẽ bị dòng nước xiết nuốt chửng vào vực sâu đen ngòm, vĩnh viễn không thể tìm thấy. Giờ đây, sau khi giành giật được sự sống, mọi người vẫn chưa kịp hoàn hồn, lại phải lo đến những hiểm ác đang chờ đợi ở phía trước. Ai nấy đều thở gấp, tim đập loạn xạ, để mặc chiếc xuồng cao su dập dềnh trôi theo dòng nước, còn tất cả chỉ biết ngồi nhìn một cách bất lực.



Họ trôi nổi trong màn đêm hỗn loạn không biết bao lâu, bỗng dưới chân rung chuyển từng đợt, bên tai họ chỉ nghe thấy những âm thanh ầm ầm vọng lại, dường như chiếc xuồng cao su đã bị cuốn vào một dòng nước chảy xiết. Tư Mã Khôi trong lòng biết rõ, chắc chắn đợt hồng thủy đã đẩy nó vào khe nứt ở men khe núi. Hệ thực vật sinh sống trong núi Dã Nhân năm này qua năm khác đều không ngừng sinh sôi nảy nở, bành trướng qua khe núi, cộng thêm chịu tác động của lực giãn đã khiến lòng núi nứt vờ, hình thành địa thế hiểm yếu độc nhất vô nhị. Lúc đó, tuy chưa phân biệt được phương hướng, nhưng thấy thế nước cuồn cuộn chảy xiết như thể chiếc xuồng sắp đâm vào vách đá lật nhào, rồi cả nhóm sắp bị rơi xuống nước chôn thây trong bụng cá đến nơi, Tư Mã Khôi vội vã giơ cao đèn tín hiệu hét gọi Ngọc Phi Yến cố gắng giữ yên chiếc xuồng. Ngọc Phi Yến từng theo tàu thuyền ra khơi nhiều lần, đã trải qua bao nguy hiểm lật tàu trôi bè nơi đầu sóng ngọn gió, cô ta rất thông thạo thủy tính của tàu thuyền, nên để cô điều khiển chắc cũng không đến nỗi khiến chiếc xuồng cao su bị dòng nước xiết hung tợn cuốn lật nhào tại chỗ.



Mặt bên chiếc xuồng cao su lắp cố định một ngọn đèn halogen, Hải ngọng bật công tắc đèn chiếu, hướng chùm sáng ra phía trước, thì phát hiện vách núi sừng sững hai bên huyệt động đột nhiên như bị ai nhổ bật ra, lủng lẳng chi chít những rễ cây cổ thụ to lớn, còn giữa dòng sông giăng mắc màn sương mỏng và lạnh, dòng chảy gấp gáp khác thường. Bốn người lái xuồng cao su trong màn sương và làn nước đen ngòm, liên tục tránh né những khúc cua gấp của dòng hà lưu và tàn tích thực vật trôi nổi trên sông. Không biết bao nhiêu lần họ đã thoát hiểm trong tích tắc, chiếc xuồng cao su chẳng khác nào chiếc lá trong cơn gió, xoay vần điên đảo dữ dội theo dòng nước cuốn. Ngọc Phi Yến đứng ở phía sau đang gắng gượng hết sức giữ vững trọng tâm, bỗng nhiên thấy bên mình có một bóng đen vụt lướt qua mặt nước. Nhanh như tên bắn, cô vội vàng co người né tránh, nhưng vẫn chậm mất nửa giây, quần áo của cô đã bị quệt rách mất một miếng khiến cô hốt hoảng thét lên. Giữa lúc hỗn loạn mịt mùng, cũng chẳng kịp nhìn rõ rốt cục vật gì vừa xuất hiện dưới nước, cô vội vã bảo hội Tư Mã Khôi và Hải ngọng xoay đèn chiếu về phía sau.



Mọi người vừa rọi ánh đèn vừa quay lại nhìn, chỉ thấy nhấp nhô trong dòng nước ở phía thượng nguồn, không biết có bao nhiêu hài cốt sắc nhọn như thanh kiếm Nhật đang lao ầm ầm về phía chiếc xuồng. Trong cơn kinh hãi, mặt ai nấy đều biến sắc trắng bệch. Thì ra lớp vỏ địa chất ở núi Dã Nhân rất yếu ớt, nên khí hậu quanh năm ổn định thì không sao, nhưng khi bị cuồng phong giông tố công kích, thì lòng núi đã sớm vỡ vụn từ bao lâu nay, sẽ không thể chống đỡ nổi nữa. Khe núi từ chỗ gần huyệt động vùi xương của bầy voi rừng bị dòng nước chảy xiết đi ngang qua làm xoáy đổ một dải địa tầng rộng lớn ở hai bên bờ sông, để lộ ra rất nhiều huyệt động ẩn sâu trong bụng núi, rồi bùn đá chảy ra mang theo toàn bộ hóa thạch ngà và xương voi chồng chất cao như núi, cuốn đổ ra sông.



Những bộ xương và ngà voi dài như thanh kiếm, cái nào cái nấy sắc nhọn dị thường, một khi nổi trên mặt nước, lập tức trở thành vô số lưỡi dao khổng lồ sắc nhọn, nó cũng chẳng khác nào cọc gỗ, mảnh tre vót nhọn thành chông, trôi vèo vèo về hạ lưu với tốc độ kinh người. Tốc độ cuộn chảy của đám hài cốt voi rừng vượt xa vận tốc của xuồng cao su, nên chỉ cần một chiếc ngà sắc nhọn chạm phải thân xuồng, thì lớp cao su dày chắc nhất định sẽ bị đâm thủng, không khí bơm căng bên trong nhanh chóng thoát ra ngoài làm những người ngồi bên trên rơi tõm xuống dòng sông, mà cho dù may mắn họ không chết đuối, thì cũng lao thẳng vào đám xương ngà voi, bị chúng xuyên táo chẳng khác gì kẹo hồ lô.



Mắt nhìn dòng nước cuộn chảy tựa gió cuốn, điện xẹt, tình thế vô cùng hiểm nghèo, vậy mà cả hội lại không có cách nào để dừng chiếc xuồng ca nô lại. Trong lúc cấp bách, Tư Mã Khôi đành với tay lấy khẩu súng xung phong Uzi mà Ngọc Phi Yến đang khoác trên người, ngắm chuẩn dòng nước phía sau liên tục quét đạn, thử bắn vụn đám hài cốt voi rừng ở cách đó một quãng. Hải ngọng và Tuyệt cũng lần lượt nắm lấy mái chèo gỗ dự phòng, liều chết nhoài nửa người ra khỏi xuồng, gắng sức đẩy đám xương voi đang lao đến gần.



Một mình Ngọc Phi Yến không khống chế nổi phương hướng của chiếc xuồng một cách hiệu quả, nhưng ba người còn lại cũng đang cuống quýt chân tay, chẳng ai có thể hỗ trợ được cho ai, vì đã rơi vào tình cảnh này, thì chỉ còn biết nghe theo mệnh trời sắp đặt. Lúc này địa thế càng lúc càng trở nên nhỏ hẹp, hai bên vách đá cheo leo dựng đứng, chiếc xuồng trôi giữa dòng chẳng khác gì phao tiêu, trong khi đó, trong dòng nước chảy xiết cuồn cuộn dâng trào, một bộ xương voi hoàn chỉnh và khổng lồ đang sầm sập lao tới, đôi ngà vừa dài vừa nhọn nghênh nghênh giơ ra phía trước cày nước bắn tung lên.



Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, vội vã giơ súng, quét liên tiếp mấy loạt đạn, trong khi chiếc xuồng cao xu đang xoay vần dữ dội; anh định bụng sẽ bắn nát vụn bộ xương voi khổng lồ trước khi nó kịp đâm vào chiếc xuồng. Trong màn mây mưa lạnh lẽo, từng loạt đạn lóe lên như dòng chảy đom đóm, nhưng bộ xương voi đang vùn vụt trôi theo dòng nước này lại cứng rắn khác thường, hơn nữa, chiếc xuồng cao su đang rung lắc dữ dội, khiến họng súng không thể ngắm chuẩn mục tiêu, nên hầu như chẳng phát huy được mấy tác dụng. Bộ xương voi vẫn dũng mãnh ầm ầm lao tới, tưởng như không gì trên đời có thể cản trở được bước tiến của nó.



Giữa lúc ấy, dưới chân đột nhiên rung lắc mạnh mẽ, chiếc xuồng chao đảo lúc chìm lúc nổi, thiếu chút nữa là mọi người đã bị quăng mình lên không trung, vì phần sau chiếc xuồng dường như chạm phải một loài thủy tộc to lớn nào đó, làm suýt lật nhào. Tư Mã Khôi nhìn kỹ lại, chỉ thấy phía sau chiếc xuồng, sóng nước vồng lên dữ dội, kèm theo đó là những âm thanh quẫy nước "ào ào", rồi trên mặt nước lộ ra hai con cá sấu. Bọn chúng cũng bị dòng nước lũ xoáy cả vào đây, tuy đang gắng sức quẫy đuôi lắc đầu, nhưng cuối cùng chúng vẫn phải khuất phục trước dòng nước dữ. Giãy giụa hồi lâu rồi chúng cũng ngoi đầu lên được, nhưng đen đủi thay, vị trí hiện tại của chúng vừa vặn chắn ngay phía trước bộ xương voi.



Bộ xương voi rừng này chẳng thua kém súng trường, đại kích, nó đột ngột đâm sầm vào một trong hai con cá sấu, mấy chiếc xương nhọn hoắt lồi hẳn ra trước, trong phút chốc thân thể con cá sấu bị xuyên từ bên nọ sang bên kia. Con cá sấu khổng lồ này có bộ da rất dày, thân dài vài mét, nặng đến hàng trăm cân, nhưng vừa bị xương voi đâm vào, nó uốn éo mấy cái rồi duỗi ra chết ngắc.



Tuy bộ xương voi cũng biến thành mảnh vụn sau cú va chạm khủng khiếp đó, nhưng thân mình con cá sấu, do một chiếc ngà xuyên thấu, phơi bụng nổi lên mặt nước bị vòng nước xiết cuốn trôi, thuận thế lao vào phần sau xuồng cao su, rồi chiếc ngà voi sắc nhọn, đã đâm xuyên cả thi thể cá sấu chẳng ngờ lại đâm luôn vào chiếc xuồng thành một xâu. Máu cá sấu nhuốm đỏ cả khúc sông.



Phao cao su ở phần trước, phần sau và hai bên mạn xuồng đều bơm đầy khí, được thiết kế theo dạng khép kín, chứa khí độc lập, nếu hỏng một trong những bộ phận này, thì không hề ảnh hưởng đến những bộ phận khác, nhưng vì chiếc xuồng bị ngà voi và xác con cá sấu đâm thủng một lỗ, nên tốc độ cũng giảm đi đáng kể, nó xoay xoay trên mặt nước như muốn chìm. Hội Tư Mã Khôi nằm rạp xuống sàn, chỉ thấy mặt nước nhấp nhô những mảnh trăng trắng, tất cả đều là ngà và xương voi rừng từ thượng nguồn trôi xuống, giống như vô số quả ngư lôi mang theo tên nhọn, xuyên thủng dòng nước chảy xiết, thần tốc lao tới từ phía sau xuồng cao su.



Tư Mã Khôi thấy tình hình nguy cấp, vội vã cùng Hải ngọng và Tuyệt, gắng hết sức đẩy xác con cá sấu xuống nước. Ngọc Phi Yến cũng mạo hiểm điều chỉnh mô tơ lên tới mức cực đại, quạt mô tơ quay vù vù với tốc độ cao. Dưới lực tác dụng đẩy ra từ vòng quay cánh quạt, chiếc xuồng cao su nhảy bật lên, lao vút ra xa giữa dòng nước xiết, nhanh như gió cuốn điện xẹt.



Mọi người ngồi trên chiếc xuồng cao su lướt nhanh như bay, cuối cùng cũng bỏ xa được đám xương cốt voi rừng bồng bềnh trên mặt nước một đoạn khá xa, rồi nhận thấy địa thế cũng dần dần trở nên rộng rãi, dòng chảy cũng bình ổn trở lại. Thế nhưng trạng thái thần kinh căng thẳng chưa kịp thả lỏng, thì xuồng cao su lại đâm vào màn khói dày đặc giống như sương đen, phạm vi tầm nhìn lập tức hạ xuống mức cực điểm.



Tư Mã Khôi vội vàng bảo Ngọc Phi Yến đổi hướng chiếc xuồng, mau chóng rời khỏi vùng sương mù đen đặc mênh mông. Nhưng lúc này đã muộn, chiếc xuồng cao su đã đi vào màn sương, đi mãi hồi lâu mà cảnh vật xung quanh vẫn không hề thay đổi, không gian hoàn toàn yên ắng, mặt nước tràn ngập sự im lặng chết chóc, tựa hồ cả thế giới chỉ tồn tại sự tĩnh lặng và sâu hút vô bờ bến.



Trong không gian yên ắng đến ngộp thở này, mọi người đều nảy sinh một dự cảm không lành. Lẽ nào, trong sơn cốc núi sâu âm u ma khí này, lại thực sự tồn tại lời nguyền khủng khiếp của vua Chăm Pa? Kẻ nào dám nhòm ngó bí mật trong tòa thành Nhện Vàng, bóng đen thần chết sẽ giáng xuống đầu kẻ ấy. Tư Mã Khôi nhớ ra việc này, và trong lòng không khỏi rờn rợn. Anh biết, nếu bị nhốt trong sương mù càng lâu, thì càng nguy hiểm, bèn bảo Hải ngọng di chuyển đèn chiếu, cố gắng tìm ra vật tham chiếu để xác định phương hướng, nhưng Tuyệt bỗng nhiên ngăn mọi người lại, cô nói: "Ở đây vốn dĩ không tồn tại phương hướng, chúng ta vĩnh viễn không thể thoát khỏi đây đâu!"




Ngọc Phi Yến nghi hoặc không hiểu, cô hỏi lại: "Cô vừa nói gì vậy? Vì sao không thể ra được?"



Thần sắc Tuyệt thảng thốt, cô nói: "Bởi vì, nơi này đã là... điểm cuối."



Hết tập I



[1] Hảo hán lục lâm: Chỉ những anh hùng tập hợp lực lượng ở trên núi, phản kháng lại giai cấp thống trị phong kiến. Thời xưa, cụm từ này còn để chỉ bọn thổ phỉ tụ tập cướp bóc, giết hại dân lành.



[2] Diêm đạo: một chức quan thời nhà Thanh, phụ trách quản, kiểm tra lương thực, muối, gạo...



[3] Cao phù dung: là hỗn hợp nấu thành cao của bốn loại thuốc: lá phù dung, du thục, sinh đại hoàng và đại bì tiêu, có tác dụng giải độc, chống sưng viêm, giảm đau.



[4] Thập Tam Tiết thảng địa tiên: Thế võ sử dụng vũ khí là roi 13 khúc, khi thi triển thế võ này trọng tâm thân người thường áp sát mặt đất.



[5] Trạch tiên: thần trấn tà, giữ cho gia thất được bình an.



[6] Hữu khuynh: chỉ những người có tư tưởng bảo thủ, phản động.



[7] Báo chữ to: tiếng Hán là Đại tự báo, là tờ báo dán tường để tuyên truyền thông tin cho quảng đại quần chúng, được dán khắp nơi trong thời kỳ Cách mạng văn hóa Trung Quốc.



[8] Biệt bảo: một nghề trong xã hội Trung Quốc cũ, để chỉ những người chuyên đi tìm kiếm những cổ vật, báu vật quý hiếm.



[9] Bát kỳ: Chế độ tổ chức quân sự đặc trưng của người Mãn Châu vào đời nhà Thanh, mỗi đơn vị được phân biệt bởi một màu cờ, tổng cộng có tám màu.



[10] Ngựa vang: Tiếng lóng vùng Đông Bắc ám chỉ bọn thảo khấu.



[11] Liễu Trang tướng pháp: là tác phẩm do Viên Củng, đời Minh, Trung Quốc viết trên cơ sở lựa chọn tinh hoa tướng thuật của nhiều bậc tướng pháp kỳ nhân.



[12] Hỏa hầu: Sự điều tiết vận chuyển sức nóng của lửa trong quá trình luyện đan, "hỏa hầu chưa đủ đượm" ở đây ý chỉ trình độ chưa đủ điêu luyện.



[13] Miến Điện: hay Myanmar, một số nước phương Tây thì dùng tên "Burma" để chỉ đất nước này.



[14] Phi đầu man: loại yêu quái trong truyền thuyết thường xuất hiện dưới hình hài con người, ban đêm đầu và cơ thể tách rời nhau, phần đầu đi khắp nơi săn mồi.



[15] Xà rông: trang phục của người dân một số nước Myanma, Campuchia, Malaysia... gồm một tấm vải có hoa văn quấn quanh người từ thắt lưng trở xuống.



[16] Chim Diệu sí: một loại chim thần, theo tiếng Miến Điện phát âm là Karaweik.



[17] Buddha: tiếng Phạn có nghĩa là Đức Phật.




[18] Sông Irrawaddy: là tên gọi cũ của sông Ayeyarwady, sông dài nhất chảy theo hướng Bắc - Nam của Myanma.



[19] Hối tử: Kẻ gian ác.



[20] Máy bay tiêm kích: là loại máy bay do Anh chế tạo, được sử dụng rộng rãi trong Thế chiến thứ hai, có hình dạng giống con muỗi, tên tiếng anh là Mosquito.



[21] Thực vật bì sinh: Các loài thực vật sống bám trên thân cây; thực vật khí sinh là những thực vật cổ thụ cao lớn, rễ không ăn trong đất mà lơ lửng trong không trung.



[22] Tô tem: Tôn giáo của người nguyên thủy, coi một động vật hay thực vật nào đó là tổ tiên của mình và thờ nó.



[23] Thạch quyển: Là lớp vỏ cứng ngoài cùng của các hành tinh có đất đá, bao gồm lớp vỏ và tầng trên cùng của quyển Manti.



[24] Măng đá: là một dạng trầm tích hang động phát triển từ nền hang động đá vôi lên, có hình măng, hình nón thấp nhỏ.



[25] Grand Slam: Thắng lợi trong cuộc so tài.



[26] Thực vật bào tử: là loài thực vật không ra hoa, thế hệ sau sinh ra từ bào tử của thế hệ trước, ví dụ: nấm, rêu, một số loài tảo dưới nước...



[27] Ca tì la vệ: Kapilavastu, thuộc Nepal ngày nay.



[28] Yangon (hay Rangoon): thủ đô cũ của Myanma.



[29] Ceylon: Tên gọi trước năm 1952 của Sri Lanka.



[30] Vệ Đà: Tức "Kinh Vệ Đà", chia thành bốn tạng, là cội gốc khởi nguồn của tôn giáo Ấn Độ cổ, có nội dung vô cùng thần bí phức tạp; thể loại là trường thi tự thuật, ghi chép sự ra đời, cân bằng, hủy diệt của vũ trụ và chúng sinh. Nguyên mẫu ba vị thần lợn của Ấn Độ giáo là Brahman, Visnu và Shiva cũng xuất hiện từ bộ kinh này.



[31] Pháp loa sankha: là pháp khí thường dùng trong các pháp hội của Mật Giáo, là một loại nhạc khí bằng vỏ ốc, đục ở trôn ốc để thổi.



[32] Quyền trượng: là vật dụng của các nhà sư, thường để chống khi đi đường.



[33] Pháp luân: Nghĩa là bánh xe pháp, là một loại vũ khí thời Ấn Độ cổ dùng để hàng phục mọi tà kiến, ngoại đạo.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
613,058
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59: Tóm tắt


Ma Vực Lâu Lan là tên tập 2 của bộ sách Mê Tông Chi Quốc, bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ, của tác giả được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc - Thiên Hạ Bá Xướng . Anh là tác giả của bộ truyện Ma Thổi Đèn - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.



Nhân vật chính trong Mê Tông Chi Quốc là đội thám hiểm gồm Tư Mã Khôi, Hải ngọng và những người bạn. Họ vào núi Dã Nhân, nhận nhiệm vụ tìm kiếm một bảo vật thần bí chôn sâu dưới lòng đất, và từ đó mở ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ, đầy mạo hiểm với đường ranh sinh tử vô cùng mỏng manh.



Câu chuyện bắt đầu bằng một cơn bão nhiệt đới sắp đổ bộ, một con đường u linh đã sớm bị người đời lãng quên, một chiếc bóng máy bay ma mị, một tổ chức thần bí như người tàng hình, tất cả đã hé mở cánh cửa di tích của một nền văn minh cổ đại sớm bị cát bụi khỏa lấp. Trong màn sương mù giữa núi sâu vùng Bắc Miến, nơi không một người nào bước vào mà còn sống sót trở về, ẩn náu bao sinh vật vừa đáng sợ vừa kỳ lạ chưa từng được biết đến như: thần mãng xà khổng lồ, đỉa Campuchia ăn thịt người, rồng Komodo đầy dịch độc, rắn bay nuốt chửng sinh mệnh mai phục trong sương, cổ sinh vật phun khói đặc... và cả tòa thành cổ của vương triều Chăm Pa vùi sâu dưới lòng đất với hàng loạt ẩn số lịch sử bị che đậy từ bao năm... Vào khoảnh khắc đội thám hiểm tiếp cận được bảo vật, thì một chiếc bóng bỗng dưng xuất hiện, hắn từng bước dẫn đội thám hiểm vào vùng đất cấm bị nguyền rủa ngàn năm...



Cuộc phiêu lưu thứ hai mở ra, khi đội thám hiểm của Tư Mã Khôi chấp nhận trở thành đội quân cảm tử thâm nhập lòng đất, để tìm hiểu những bí mật về kính viễn vọng Lopnor do Liên Xô đào từ năm 1958. Tại đây họ ngẫu nhiên biết được những bí mật về cực vực Lâu Lan thần bí mà các nhà khảo cổ không dám công khai. Nơi đó cơ hồ là tận cùng của thế giới, nơi thời gian ngưng tụ, người chết sống lại, người mà không phải người... Khi đội thám hiểm thoát khỏi vòng hiểm nguy thì lại sa chân vào một vòng hiểm nguy khác đáng sợ hơn. Họ rơi vào chiếc hộp thời gian, nơi đó họ gặp một người đáng lẽ đã chết từ 5 năm trước và Tư Mã Khôi đã lỡ miệng tiết lộ một thiên cơ lẽ ra không được phép tiết lộ... Họ phát hiện ra một nền văn minh còn cổ xưa hơn cả nền văn minh Chăm Pa, một đất nước còn cổ đại hơn cả Lâu Lan, một thần vật khiến người ta coi trọng hơn cả báu vật...



Bằng những câu chuyện tràn đầy sóng gió bão táp với những bí kíp cổ xưa, những di tích thần bí, bằng tình bạn cảm động giữa những người đồng đội sẵn sàng sống chết vì nhau và sự cảm nhận sinh tử vô thường, bằng ngôn ngữ hài hước tinh tế, những kiến thức dân gian phong phú nhiều màu sắc, Mê Tông Chi Quốc đã thu hút độc giả từ những chi tiết đầu tiên cho đến những dòng chữ cuối cùng. Tác giả Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới trong tác phẩm của mình, phong cách đó không chỉ làm nên điểm độc đáo cho Mê Tông Chi Quốc mà còn tạo cho tác giả một cõi giang hồ riêng biệt.Chương 1 - Nhiễu động thời trong



Hồi thứ nhất: Tá thanh hoàn hồn (1)



Xuồng cao su luẩn quẩn lượn trong sương mù mấy vòng, nhiên liệu của động cơ dần dần cạn kiệt, nhưng tứ bề vẫn mênh mông nước, mặt nước đen ngòm im lìm không chút động tĩnh, màn sương khí sâu hun hút dường như trải dài vô tận.




Trong dải sương lạnh mênh mang ấy, bốn người ngồi trên xuồng nhưng không thể nhìn thấy gương mặt đối phương mặc dù ở ngay sát cạnh. Cảm giác mất phương hướng khiến mọi người đều sợ tái mặt, đang định nghĩ cách thoát hiểm, thì Tuyệt đột nhiên nói: “Ở đây cơ bản không hề tồn tại phương hướng, bởi vì bản thân sương mù đã là điểm cuối.”



Tư Mã Khôi hiểu điểm cuối mà Tuyệt muốn ám chỉ, có lẽ mang hàm ý cái chết, nhưng sao cô lại nói vậy?



(1) Tá thanh hoàn hồn: mượn âm thanh để hoàn hồn, người chết không nhìn thấy xác mà chỉ có âm thanh vọng tới người sống.



Hay nơi sâu trong đám sương mù rộng không bờ bến này, chính là vương quốc của thần chết mà các truyền thuyết Chăm Pa đã nhiều lần nhắc đến?



Tuyệt đưa cho Tư Mã Khôi chiếc máy điện đàm không dây đang cầm trong tay, rồi nói: “Từ lúc xuồng bắt đầu đi vào sương mù, cái máy bộ đàm này lại thu được loạt tín hiệu lai lịch không rõ ràng.”



Tư Mã Khôi cầm lầy chiếc máy từ tay Tuyệt, vừa nghe cô kể lại chuyện xảy ra lúc trước, mới biết trong lúc mọi người bổ sung trang thiết bị lần thứ nhất, Ngọc Phi Yến tìm thấy một máy bộ đàm chiến thuật không dây hiệu PRS 25/77 do Mỹ sản xuất trong chiếc Rắn đen II của đội thám hiểm Anh. Tuy ở sâu trong huyệt động cách biệt với thế giới bên ngoài, thì vật này không có chút tác dụng gì, nhưng Ngọc Phi Yến lại sợ sau khi thoát khỏi núi Dã Nhân, giữa biển cây rừng ngút ngàn mênh mông, nếu không có phương liên lạc xin cứu viện, thì e rằng cả hội cũng khó lòng đi qua nổi. Bởi vậy, bất kể hoàn cảnh gian nan đến đâu, cô vẫn cương quyết giữ chiếc máy bên mình. Có điều lúc khí mêtan bốc cháy, vỏ hộp ngoài cũng bị hư hỏng khá nặng, nên nó luôn ở trong trạng thái mở và không tắt được, chẳng biết pin còn có thể duy trì được bao lâu.



Mãi đến khi mọi người trèo lên xuồng cao su, Ngọc Phi Yến mới dỡ xuống đặt bên cạnh mình. Tuyệt nghe thấy có tiếng phát ra từ chiếc máy điện đàm, hơn nữa bất kể thay đổi tần số thế nào, cũng chỉ thu được những tạp âm như thể nó được phát ra từ thế giới bên kia. Có lẽ chiếc máy điện đàm này trước đây đã bị người ta cố ý cải tiến chức năng, nó không được sử dụng để thu phát những tín hiệu thông thường, mà chỉ đặc biệt thu nhận một tần số duy nhất – tần số u hồn.



Tuyệt nhớ lại lúc mọi người bị trượt xuống đáy khe núi, bất ngờ bị sương mù dày đặc bủa vây hoàn toàn, đúng lúc nguy cấp đó thì Nấm mồ xanh dùng sóng điện và tín hiệu pháo sáng dẫn đường cho mọi người đi vào đường hầm bụng rắn, nhờ vậy cả hội mới tạm thời thoát hiểm.



Nhưng khi hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh, thì phát hiện đối phương không hề mang theo máy điện đàm, hơn nữa hắn ta cũng nói rõ chỉ sử dụng tín hiệu pháo sáng để liên lạc, giờ nghĩ lại mới thấy tình hình hiện tại vô cùng bất thường.



Tư Mã Khôi đặt ống nghe áp sát tai, chỉ nghe thấy trong đó phát ra những tạp âm “xè xè xè”, lẫn cả những tiếng nói không rõ ràng, như thể giọng của linh hồn đen tối đang lởn vởn trong sương lạnh tự lẩm bẩm một mình. Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi Tuyệt: “Cô có nghe được họ nói gì trong đó không?”



Tuyệt lo lắng bảo: “Tôi cũng không hiểu lắm, hình như đối phương muốn nói với chúng ta, trong sương mù không có phương hướng…”, cô nhíu mày nghĩ một lát, rồi nói tiếp: “Lúc không có sương mù, thì tín hiệu hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh lặng, nhưng chỉ cần xung quanh xuất hiện sương khí, thì sóng điện mang tạp âm lại dần dần trở nên rõ ràng hơn, không hiểu sao lại như vậy được?” Hải ngọng nói chen vào: “Cái máy rách này theo chân chúng ta lúc rơi lúc đập, bị hành hạ đến khổ, không chừng ốc vít hỏng hết cả, cũng có thể là do một âm hồn mất đầu nào đấy không thể siêu thoát nổi ám vào nó, dù sao nó đã muốn kêu thì cứ mặc cho nó kêu đi, chúng ta để ý làm gì. Chỉ cần trong lòng ta tự coi mình là ông nội, thì vạn sự chỉ là lũ cháu chắt cả thôi.”



Tư Mã Khôi cho rằng tuy lai lịch của tín hiệu này rất quái dị, nhưng chắc không phải do Nấm mồ xanh phát ra, bỏi vì hắn ta không mang theo máy điện đàm trên người, ngoài ra, nếu hắn có thể liên lạc với mọi người thông qua sóng điện thì chắc chắn sẽ không mạo hiểm lộ diện và phơi bày thân thế của mình. Có thể trong sương mù còn tồn tại một vật gì khác nữa, vả lại tín hiệu chưa hẳn đã phát ra từ một chiếc máy điện đàm khác.



Tư Mã Khôi không dám khinh suất. Anh bảo Hải ngọng tập trung tinh thần giương súng cảnh giới, giữ chặt đèn trước xuồng, chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó cùng Tuyệt cẩn thận nghe lại giọng nói phát ra từ chiếc máy điện đàm thêm một lần nữa.



Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh hỏi Tư Mã Khôi: “Anh bảo trong sương mù còn tồn tại một vật khác, nhưng Udumbara sản sinh ra sương mù dưới lòng đất đã bị khí mêtan thiêu cháy hoàn toàn, vả lại ở nơi có nước chăc chắn sẽ không có sương mù, vậy tại sao sương khí gân đây càng lúc lại càng dày đặc hơn? Và sóng điện trong sương mù phát ra từ đâu vậy?”




Tư Mã Khôi suy đoán: “Đây là khí ẩm phát sinh do nước tù trong lòng hồ ngầm quá sâu tạo nên, có lẽ nó không giống với sương mù do Udumbara sản sinh.”



Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe anh Thiết Đông kể lại một vài chuyện liên quan đến thông tin liên lạc, anh lại nói với Ngọc Phi Yến: “Tôi chỉ biết, trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ có sử dụng một loại máy điện đàm không dây có tính năng rất ưu việt, công suất cực cao, có thể mang theo bên mình, đồng thời còn lắp đặt hệ thống cộng hưởng băng tần kép, sử dụng được ở cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất; sau khi cải tiến ống nghe, nó không chỉ thu được tất cả tần số như địa sóng, thiên sóng, thậm chí trong một vài điều kiện đặc thù, nó còn có thể thu được… những giọng nói vốn dĩ không thuộc về thế giới này.”



Ngọc Phi Yến không xa lạ với thông tin vừa được nghe, bởi vì lòng đất có khả năng hấp thụ sóng điện từ rất mạnh, cho nên ngay từ đầu những năm năm mươi, các nhà khoa học Mỹ đã lợi dụng địa sóng để tiến hành liên lạc với vong hồn những người đã khuất, có điều sau đó có thành công hay không thì cô không được biết. Lẽ nào tạp âm mà chiếc máy điện đàm không dây thu được, lại đúng là lời thì thầm của những vong hồn trong sương mù? Tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa có phải là con đường dẫn đến vương quốc của tử thần không? Chẳng lẽ màn sương đen mênh mông này chính là chiếc bóng của đôi cánh thần chết hay sao?



Tư Mã Khôi biết vương quốc thần chết trong truyền thuyết Chăm Pa, đại khái cũng giống với thành hàm oan trong quan niệm của người Trung Quốc, nhưng chẳng ai rõ cõi u minh đó rốt cục có tồn tại hay không. Bởi vậy, nhất thời anh cũng khó lòng phán đoán tình hình hiện tại cả hội đang gặp phải là gì, chỉ có thể đặt ra giả thiết: “Nếu tín hiệu thần bí mà chiếc máy bộ đàm không dây thu nhận được, quả thực là u hồn trong sương mù mượn âm hoàn hồn, thì giờ đây chúng ta cũng chỉ còn cách tìm hiểu xem đối phương muốn truyền đạt thông tin gì, sau đó mới biết chính xác mình đang đổi đầu với ai.”



Bụng Hải ngọng rỗng tuếch khiến đầu óc anh càng thêm phần hoang mang, anh vừa soi đèn vào sâu trong đám sương mù quan sát, vừa lầu bầu khiến nước bọt bắn tung tóe cả lên: “Cái nơi khỉ ho cò gáy này, nước lặng sóng, người lặng tiếng, ngay cả hồn ma chết tiệt trong rừng sâu núi thẳm cũng ôm đầy một bụng oán hờn muốn tìm người giãi bày tâm sự. Nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, tôi phải nói vài câu mới được, người ta sống trên cõi đời, người sống chẳng phải chỉ nhiều hơn kẻ chết một hơi thở thôi sao? Chết thì đã chết rồi, có gì còn phải sợ nữa chứ? Dù sao vật chất không bao giờ mất đi, lúc đầu khi ở Miến Điện, chúng ta cũng đâu có dự định còn sống trở về. Nhưng ta đã bao nhiêu ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng rồi hả? Ngay cả gà vịt thịt cá trông thế nào tôi cũng quên mẹ nó rồi, nếu phải chết thật thì cũng không thể để bụng rỗng thế này mà chết chứ?”



Tư Mã Khôi lắc đầu bảo, thức ăn thì không đào đâu ra, nhưng tôi có cách chữa đói rất hiệu nghiệm, ở Quan Đông người ta có câu nói thế này: “Đời người như cái cối xay, lăn ra nằm ngủ hết ngay đói thèm.”



Hải ngọng uể oải đáp: “Thế thì cậu mau tìm cho tôi một cái giường. Từ khi chạy sang Miến Điện đánh nhau đến giờ, không ngày nào được ngủ một giấc cho thật đẫy, đúng lúc tôi đang buồn ngủ rũ mắt ra đây. Người xưa nói quá chuẩn “Mất mẹ từ thuở lên ba, vẫn hơn canh bốn phải ra khỏi giường…”



Lúc này, Tuyệt “suỵt” một tiếng ra dấu cho mọi người chớ ồn ào, cô áp ống nghe vào tai rồi nói: “Âm thanh phát ra từ chiếc máy điện đàm càng lúc càng rõ hơn rồi đây này…”



Ngọc Phi Yến nhắc nhở Tuyệt: “Cô phải hỏi xem đối phương là ai trước đã, vị trí cụ thể bây giờ ở đâu?”



Tuyệt đang định liên lạc với đối phương theo ý Ngọc Phi Yến, nhưng đột nhiên Tuyệt nghe thấy động tĩnh đáng sợ gì đó phát ra từ ống nghe, mặt cô lộ rõ vẻ sợ hãi, rồi cô quẳng vội ống nghe đi như thể bị điện giật. Tuyệt kinh hoàng thì thầm: “Đúng là có ma thật đấy! Nó đang ở trên xuồng, mọi lời nói của chúng ta nó đều nghe thấy hết”.



Nghe Tuyệt nói mà mọi người bủn rủn toàn thân. Trên xuồng cao su làm gì có ai ngoài mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm? Xem ra trong sương mù quả thực tồn tại vật gì không sạch sẽ rồi đây,



nhưng nó lại vô hình vô ảnh, chỉ khi sử dụng máy điện đàm mới bắt được tần số u hồn đó, nếu không, cho dù vong hồn đứng lù lù ngay trước mắt, cả hội cũng không thể nào phát hiện ra.



Tư Mã Khôi ra hiệu cho Tuyệt đừng quá sợ hãi, trước tiên phải nghe hết toàn bộ nội dung của sóng điện u hồn, sau đó mới xác định được trên xuồng có ma hay không. “Yêu ma do người tạo ra, trong đại đa số trường hợp, những việc quái dị đều do con người tự nhào nặn mà thành. Nếu cô không tin, thì nó tự khắc không còn vẻ đáng sợ nữa.”



Tuy Tuyệt là người ngoài nhu trong cương, nhưng cô lại sợ ma nhất trên đời, có điều nhìn thấy Tư Mã Khôi vẫn ung dung điềm tĩnh, hơn nữa còn có ba người ngồi ngay cạnh bên, nên cũng vững dạ hơn vài phần. Cô hít sâu một hơi, nhặt chiếc ống nghe lên, cố gắng phân biệt giọng nói trong mớ tạp âm rối loạn.




“U hồn” vô hình vô ảnh, chỉ xuất hiện thông qua tạp âm sóng điện, dường như nó muốn kể cho mọi người đầu đuôi câu chuyện: Thời kỳ thực dân Anh đặt ách thống trị ở Miến Điện, bọn họ đã bỏ mấy chục năm trời để tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, mãi đến những năm bốn mươi, mới dần dần lần mò được chút manh mối, đồng thời phát hiện thêm một thông tin quan trọng: Dưới lòng đất có sương mù dày dặc do Udumbara tạo ra, chỉ có rắn bay mới vào được bên trong. Cùng lúc ấy, Miến Điện tuyên bố độc lập, quân Anh bắt đầu lũ lượt rút quân ra khỏi lãnh địa Miến Điện, tất cả tin tình báo có liên quan đến tòa thành Nhện Vàng đều rơi vào tay Nấm mồ xanh – kẻ có quan hệ rất mật thiết với quân đội Anh.



Nấm mồ xanh liền cử người lái chiếc tiêm kích vận tải do không quân Hoàng gia Anh cung cấp, chở bom địa chấn hạng nặng chứa đầy chất độc màu da cam, mạo hiếm bay vào khe sâu núi Dã Nhân trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Bọn họ hy vọng lần ra tay này có thế hủy diệt hệ thực vật rậm rạp sinh sống trong khe núi, nhưng do chuẩn bị không kỹ lưỡng, nên chuyển hành động đó cuối cùng phải hạ màn thất bại.



Nấm mồ xanh vẫn không nản lòng, hắn lại giở thủ đoạn mềm nắn rắn buông, lợi dụng và uy hiếp, giăng lưới thâu tóm một số chuyên gia khảo cổ và sinh vật có tiếng trong giới, tổ chức thành một đội thám hiểm khoa học, nằm vùng trường kỳ ở ngoại vi đề điều tra bức màn bí mật nằm sâu trong lòng khe sâu núi Dã Nhân, cuối cùng các ẩn số cũng dần dần được hé mở. Khoảng hơn một ngàn năm trước, quần thể núi Dã Nhân đã đứng nguy nga, sừng sững ở đó, chỉ thỉnh thoảng có con đại bàng khổng lồ xé mây lượn qua đỉnh núi, khiến màn sương tản ra, khi ấy mới có thể chiêm ngưỡng toàn bộ diện mạo tòa thành Nhện Vàng.



Mãi đến khi lòng núi sụt lún, vua Chăm Pa phát hiện ở dưới khe sâu có một khối núi đá đen xì, cấu tạo bên trong chẳng khác nào địa cung của loài kiến, bề ngoài trông rất giống với con nhện tám chân. Trong truyền thuyết cổ đại của người Chăm Pa, vương quốc dưới lòng đất của tử thần có kết cấu hình tháp, chân tháp có một con rắn khổng lồ bốn tay bốn chân quấn thành vòng tròn. Sau khi người ta chết đi, thể xác bị nó nuốt chửng, còn vong hồn sẽ đi xuyên qua đường hầm bụng rắn để luân hồi sang kiếp khác, bởi vậy tô tem tháp cổ có mãng xà quấn quanh mang hàm ý rất đáng sợ, nó đại diện cho sự kết thúc và cái chết.



Trong lòng tòa núi đá dưới lòng đất còn lưu lại vêt tích cư trú của con người, niên đại tồn tại còn cổ xưa hơn vương triều Chăm Pa rất nhiều, nhưng lịch sử lại không hề có bất kỳ ghi chép nào liên quan đến điều này, nên chỉ có thể suy đoán: có lẽ đại hồng thủy tràn xuống lòng đất là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự diệt vong cuối cùng của bộ lạc. Theo quan niệm cổ xưa của người Chăm Pa: “Thành quách ỉún xuống lòng đất là hiện tượng khí âm nuốt khí dương, là trời muốn diệt người”, bởi vậy họ tin rằng lòng núi sụt lún là điềm báo chẳng lành, cộng thêm trong màn sương mù kỳ dị như thể ảo ảnh thành phố, vua Chăm Pa tận mắt chứng kiến cảnh mình bị chết ngay trước cửa động chứa thi hài cổ xưa, nên ông ta cho nhân giống Udumbara trồng rộng khắp thành cổ, định dùng sương mù dày đặc khó lòng xuyên qua, để chôn giấu hoàn toàn bí mật khủng khiếp kia.



Udumbara là loài thực vật ngàn năm mới xuất hiện một lần, sương mù mà nó tạo ra, được hình thành do hàng triệu triệu vi sinh vật tự thân tồn tại trong đó tụ hợp lại. Bình thường, người ta chỉ thấy nó trong trạng thái bị khô hóa, nhưng Udumbara trong tòa thành Nhện Vàng lại có thể đâm chồi nảy lộc hết năm này qua năm khác mà không hề ngừng nghỉ. Nguyên nhân có thể là do địa cung vua Chăm Pa phát hiện thấy không phải là một tòa núi đá bình thường, mà là một loại vật chất đặc biệt còn sót lại dưới lòng đất từ thời hậu kỷ Devon(2) cách đây hơn bốn trăm triệu năm. Nó vừa là khoáng vật vừa là sinh vật, sở hữu nguồn từ tính nhiệt thừa sinh vật cực mạnh, nguồn lực từ này xung đột với lực hút Trái Đất, khiến những vùng xung quanh hình thành rất nhiều “vũng mù” lớn nhỏ khác nhau.



Những vũng mù giống như cạm bẫy tử thần, nó không phải dòng sông ngầm không có lối ra, như định nghĩa địa chất học thông thường, mà là hố xoáy sinh ra do xung đột cực từ, tác động mạnh mẽ đến cơ thể con người.



Một khi đã bước vào vũng mù, thì la bàn, kim chỉ nam và các thiết bị định vị điện tử đều bị nhiễu sóng nghiêm trọng, cảm giác phương hướng và trực giác của con người cũng trở nên hỗn loạn, giống như người ta bị bịt kín hai mắt, nên không thể đi theo một đường thẳng, vậy chỉ khi có thể bố trí một tuyến chỉ hướng đủ dài, mới có thể đảm bảo cho nhà thám hiểm đi xuyên qua vũng mù an toàn.



(2)Kỷ Devon: là một kỷ địa chất trong đại cổ Sinh. Kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 triệu năm trước.



Đội thám hiểm khoa học gọi địa cung trong lòng tòa thành Nhện Vàng là “di vật kỷ Devon”, đồng thời trong quá trình điều tra tình hình khe núi cho Nâm mô xanh, các chuyên gia vô tình phát hiện mục đích thật sự của tổ chức này, bọn họ căn bản không hề muốn đi tìm kho báu đã bị thất lạc tung tích của vua Chăm Pa.



Nếu theo truyền thuyết cổ xưa, thì tòa thành Nhện Vàng được hình dung như một con đường nối liền giữa hiện thực và hư vô, người sống tồn tại ở cõi thực, kẻ chết rơi xuống vùng hư vô. Như vậy bí mật đích thực mà Nâm mồ xanh tham vọng chạm đén, chính là vong hồn của vị thánh tăng đã bị vua Chăm Pa giết hại lúc sinh thời, và trầm luân trong vực thẳm hư vô hàng ngàn năm về trước.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom