Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: hồi thứ năm: đáy biển


Hồi thứ năm: Đáy biển



Mấy năm ở đội du kích Bắc Miến, dường như ngày nào Tư Mã Khôi cũng phải nếm trải những thời khắc lăn lộn nơi đầu súng ngọn giáo, nên hiểu sâu sắc luật lệ của rừng già là lấy thịt đè người, mạnh sống yếu chết; chỉ cần tỏ ra nương tay hay do dự một chút, chắc chắn sẽ chết mà chẳng có đất chôn thây. Lúc này, đột nhiên anh phát hiện có kẻ kề súng ngay sau gáy, không kịp nghĩ ngợi lâu la, liền lập tức thi triển chiêu: "Túm đầu quật ngửa". Anh đột ngột cúi mạnh người về phía trước, đồng thời vai phải ngửa ra sau phản đòn. Rồi không đợi kẻ tấn công lén kịp rơi xuống đất, anh nhanh chóng kẹp chặt cánh tay cầm súng của đối phương.



Vết thương ở vai trái của Tư Mã Khôi vẫn chưa lành, nên không thể phát huy tối đa sức mạnh, anh chỉ đành gắng gượng thuận thế thúc một cùi chỏ như trời giáng từ trán xuôi xuống dưới, trúng ngay lá mía trên sống mũi, chỉ nghe tiếng xương mũi gẫy rủn, phát ra một tiếng kêu nhỏ, vụn xương đâm ngược vào trong não, tên đó chẳng kịp ư hử nửa lời đã mềm nhèo nhẹo đổ rạp xuống đất.



Trong lúc cấp bách, Tư Mã Khôi thân thủ nhanh như cắt, ra tay tàn độc gọn gàng, nhưng giờ đây, sau khi hạ gục kẻ địch, anh không còn đủ sức thu thế nên cũng đổ nhào xuống theo. Điều anh lo sợ là chúng không chỉ có một tên, nên vội vàng lăn sang một bên, thuận đà cuộn một vòng giơ tay túm lấy khẩu súng trường SMLE, đang định chạy lên phía trước hô hoán hội La Đại Hải mau tìm chỗ ẩn nấp thì thấy hai mươi mấy tên lính Miến Điện được vũ trang đầy đủ thình lình từ rừng rậm chui ra.



Đám lính mới xuất hiện phần đông đều vận y phục đen, đầu chít khăn rằn, trong tay lăm lăm khẩu súng xung phong MP.18, họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào hội ba người La Đại Hải ở phía trước. Xem tình hình này, chỉ cần Tư Mã Khôi dám manh động một chút, họ sẽ lập tức bị bắn tan xác.



Tư Mã Khôi tự biết không thể phản kháng nổi, đành buông vũ khí đầu hàng, chịu trận để người ta trói gô lại, siết chặt như bó giò. Tư Mã Khôi tự than khổ trong bụng, chẳng ngờ vào đến tận rừng sâu rồi mà vẫn còn gặp kẻ địch, nhưng nhìn trang phục và vũ khí của nhóm người này có vẻ rất hỗn tạp, không giống với quân đội chính phủ. Nơi ma quỷ hung hiểm dị thường ở núi Dã Nhân này, có lẽ chỉ những hạng người chạy tháo mạng như "đội du kích, phạm nhân giết người cướp của hoặc buôn bán thuốc phiện" mới dám lui tới.



Tư Mã Khôi không đoán nổi nhóm người này rốt cục muốn làm gì, nhưng trong lòng cũng ngầm hiểu mình đã giết chết một đồng bọn của đối phương, nay lại rơi vào tay chúng, đừng nói có viễn cảnh tốt đẹp gì chờ đợi phía trước mà ngay cả tính mạng chắc cũng khó có thể bảo toàn.



Đúng lúc này, từ phía sau đám lính vũ trang Miến Điện lại có sáu người nữa bước ra, già có, trẻ có, trong đó còn có một thằng tây cao to lực lưỡng. Có điều, không ngờ kẻ cầm đầu lại là một cô gái trẻ măng, mặt mày xinh xắn, thanh tú, xem ra cũng chỉ tầm hai mươi mấy tuổi là cùng, đầu đội chiếc mũ chiến đấu có lắp kính chắn gió, trên người mặc bộ trang phục của thợ săn; trông cô ta toát lên vẻ sáng láng, anh dũng, tinh tường, từng trải hơn người.




Đám lính vũ trang Miến Điện lục soát hội bốn người Tư Mã Khôi từ ngoài vào trong rất kỹ càng, rồi đem mấy vật phẩm vụn vặt cùng cuốn nhật ký của Karaweik tất cả giao nộp cho nữ thủ lĩnh xem xét.



Cô ả mặt không biến sắc, cầm từng món lên xem, đến khi lật đến cuốn nhật ký của ông Từ Bình An thì một chút biểu hiện kinh ngạc khẽ thoảng qua gương mặt. Cô ả lập tức gấp cuốn nhật ký lại, cúi đầu nhìn xác chết của đồng bọn đổ rạp trên mặt đất, rồi đi đến trước mặt Tư Mã Khôi, chăm chú nhìn từ đầu xuống chân như ngầm đánh giá, cuối cùng cũng mở miệng hỏi: "Các anh là người Trung Quốc hử? Sao lại mặc quân phục của quân đội nhân dân Miến Điện? Các anh đến khu rừng già trong vùng núi sâu Bắc Miến này để làm gì?"



Trong mắt Tư Mã Khôi, cô ả trông rất giống với các nhân vật nữ chính bước ra từ phim cổ trang, chẳng biết gốc gác lai lịch ra sao, nhưng nghe đối phương hỏi như thể hoàn toàn không biết việc quân đội nhân dân Miến Điện Cộng hòa có hàng vạn người Trung Quốc, thì liền suy đoán có lẽ họ mới từ nước ngoài đến đây. Anh lại thấy cô gái phát âm tiếng Trung nghe rất trong và chuẩn, không giống với người lớn lên mới học, lại đoán chắc cô ả là người Trung Quốc, hoặc chí ít cũng từng là người Trung Quốc. Tư Mã Khôi cũng tự biết người Trung Quốc mà trà trộn giữa đám người Miến Điện, chỉ liếc mắt một cái là nhận ra ngay, nên thấy chẳng cần thiết phải giấu giếm làm gì, trong lòng thầm nghĩ: "Xem chừng việc này quá nửa là có đất xoay chuyển tình thế", nhưng trước mắt vẫn chưa rõ đám người này và quân đội chính phủ liệu có liên quan gì đến nhau không, nên không trả lời, mà chỉ gật đầu một cái.



Cô ả mỉm cười ra vẻ thân thiện rồi hỏi: "Sao anh không dám nói, hay tại sợ quá?" Đầu óc Tư Mã Khôi lúc ấy không ngừng hoạt động để tìm kế thoát thân, nhưng miệng vẫn giảo hoạt mập mờ: "Quả là tôi đang vô cùng hoảng sợ."



Nào ngờ, nghe xong cô ả lập tức đanh mặt lại, cái nhìn lạnh băng như nước đá, khẽ hừ lên một tiếng trong cổ họng: "Đừng giở trò cợt nhả với tôi! Khi nãy thuộc hạ của tôi vừa dùng họng súng kề ngay sau gáy, mà anh vẫn đủ thời gian giơ tay thúc chân giết hắn ngay tức thì, không những thế, còn giết vô cùng nhanh gọn tàn nhẫn, chẳng hề do dự một giây. Anh giết người mà không thèm chớp mắt; có được thân thủ nhanh nhẹn và tố chất tâm lý kiệt xuất như vậy mà còn dám mở miệng kêu lo lắng, hoảng sợ vào lúc này sao?"



Tư Mã Khôi nhìn ánh mắt sắc như dao của cô ả thì biết cô nàng này không phải tay dễ đối phó, nhưng miệng vẫn lem lẻm: "Sở dĩ tôi cảm thấy lo lắng là vì cô ở gần tôi quá, nếu cô đứng cách xa tôi khoảng mười bước thì còn tạm được, nhưng nếu vượt quá khoảng cách này là tôi lại cảm thấy không an toàn."



Cô ả lạnh lùng trợn mắt nhìn Tư Mã Khôi một cái: "Tôi hỏi gì, tốt nhất anh hãy thành thực mà trả lời. Chẳng qua niệm tình các anh là người Trung Quốc, nên tôi đã không hạ lệnh bắt sống mang về. Nếu bây giờ tôi giao nộp các anh cho bọn người Miến Điện, chắc chắn các anh sẽ bị họ lột da ăn sống ngay trên cọc. Tôi nghĩ chắc anh hiểu rõ, bọn họ có nhiều chiêu đày ải thể xác người khác như thế nào."



Tư Mã Khôi hoàn toàn phớt lờ lời đe dọa của cô ả, hùng hồn nói: "La Đại Hải tôi xin hoan nghênh các vị đến làm, ai làm tốt sẽ được trọng thưởng."



La Đại Hải đang bị người ta trói nghiến, ấn nằm xuống đất, từ đầu đến giờ chẳng kêu rên nổi tiếng nào, bây giờ nghe thấy Tư Mã Khôi mạo nhận mình nói nhăng nói cuội, lập tức giãy giụa, ngoác miệng mắng lớn: "Tiên sư thằng Khôi, sao cậu mất dạy thế hả? Cậu có chú không hử? Tớ ị vào chú cậu!"



Cô ả thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải căn bản không coi mình ra gì, hơn nữa hai người đều là dạng mồm mép giảo hoạt, hỏi cả ngày mà chẳng thăm dò được nửa câu tử tế từ miệng họ, bởi rõ ràng hỏi đông, họ lại đi trả lời tây.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Lửa giận không biết từ đâu bốc lên ngùn ngụt, ý niệm giết người vụt lóe lên trong đầu, cô ả giật mạnh tóc của Tuyệt ngược ra sau, liền sau đó rút "xoẹt" con dao săn ra, ánh thép lạnh băng. Cô ả gí lưỡi dao xuống dưới cằm Tuyệt, mắt nhìn chằm chằm vào Tư Mã Khôi, hằn giọng đe dọa: "Nếu anh còn nói năng bậy bạ nữa, tôi sẽ cắt đứt cổ họng con bé này."



Nhưng Tuyệt không hề sợ sệt, điềm nhiên nói: "Tôi muốn chết từ lâu rồi, có giỏi thì cứ cho tôi một cái chết thật sảng khoái xem nào!" sau đó cô liền nhắm mắt chờ đợi, Karaweik ở bên cạnh cuống quýt gào thét, nhưng bị một người Miến Điện đạp ngã vật ra đất, cầm súng chọc mấy cái liên tiếp vào đầu, trong phút chốc, máu chảy lênh láng khắp mặt cậu bé.



La Đại Hải nhìn thấy cảnh tượng ấy, không dằn lòng được liền luôn miệng chửi mắng. Tư Mã Khôi cố nuốt giận vào trong, mặt không biến sắc, tuy bề ngoài vẫn tiếp tục hời hợt ứng khẩu, nhưng trong lòng thì âm thầm tìm cơ hội thoát thân, cướp súng khống chế lại kẻ địch. Khi đưa mắt nhìn tứ phía, anh đột nhiên phát hiện: ngoại trừ hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện ra thì mấy người do cô ả cầm đầu còn cõng theo ống kim loại dài ở sau lưng.



Tư Mã Khôi nhận ra loại vũ khí này, nó có tên tuổi đàng hoàng, gọi là "Giáo mỏ vịt". Cây giáo rỗng ruột, được làm bằng ngũ kim, thân to bằng quả trứng ngỗng, cán dài bằng vai người, bên trong chứa ba khúc ngầm, có thể kéo dài hoặc thu lại tùy ý, phía trước mũi còn có hình đầu thú há miệng, từ trong khe miệng nhả ra ngọn giáo giống hình đầu gậy, mũi giáo bằng, dẹt và sắc lẻm, hơi giống với cây thiền trượng ngũ hành mà các tăng nhân du phương vẫn thường sử dụng, nhưng tinh tế và nhanh nhạy hơn nhiều, lại rất tiện mang theo. Nó chính là công cụ độc môn để phán đoán điều kiện địa chất mà Kim Điển tiên sinh thường dùng khi vẫn còn treo biển hành nghề năm xưa. Loại công cụ này có thể đào núi lấy đất, ngay cả tầng nham thạch cứng rắn, dày đến mấy tấc cũng vẫn đào được. Không những thế, nếu lỡ trong núi hoang rừng thẳm chẳng may gặp phải bất trắc, còn có thể sử dụng như như món binh khí phòng thân. Nghe nói, bọn trộm mộ ở khu vực Lĩnh Nam và Quan Đông trước đây vẫn thường dùng nó để đào huyệt mộ, bật nắp quan tài.



Tư Mã Khôi nhìn không sai vào đâu được, trong lòng bèn sinh nghi: "Xem ra nhóm người này không phải lính truy sát do quân đội chính phủ phái đến. Nhưng từ trước đến nay nước giếng chẳng phạm tới nước sông, vậy hà cớ gì họ cứ nhất định phải tranh chấp với bọn ta nhỉ? Hơn nữa, núi Dã Nhân thần bí khó lường này có thể nói là góc tối nguy hiểm nhất trên thế giới, vậy rốt cục trong núi ẩn chứa những bí mật gì đáng để bọn trộm mộ bất chấp tất cả, mạo hiểm tính mạng tìm đến đây?"




Bên cạnh cô ả còn có một lão già chừng ngoài năm mươi tuổi, thân hình trung bình, hơi gầy một chút, dưới cằm còn để một nhúm râu dê, đầu trọc lốc, bóng lộn, giống với dáng vẻ của một "học giả". Lão ta nhìn thấy không khí lúc này đã căng thẳng đến cực độ, dường như sắp xảy ra nguy cơ tàn sát đẫm máu đến nơi, liền vội vàng chạy ra dàn hòa. Trước tiên, lão ta giải thích đầu đuôi sự việc cho Tư Mã Khôi nghe, lão tự giới thiệu mình họ Khương, quê ở Thiệu Hưng, Chiết Giang, xuất thân là một "nhà thư pháp", đoạn quay sang giới thiệu cô nàng thủ lĩnh, thì ra cô ả họ Thắng, tên Ngọc, mọi người thường gọi là Ngọc Phi Yến.



Khương sư phụ thanh minh rằng bọn họ là đội thám hiểm khảo sát địa lý, muốn vào sâu trong lòng núi Dã Nhân để tìm dấu tích con đường Stilwell năm xưa. Đầu tiên họ phải bỏ rất nhiều tiền để thuê một đội quân phiệt rất có thanh thế ở vùng tam giác Bắc Miến, sau đó mới tìm cơ hội tiến vào núi. Nhưng khổ nỗi, chẳng ai trong số họ thông thuộc môi trường trong rừng rậm, lại không có người dẫn đường, nên cứ loanh quanh mãi trong núi suốt mười mấy ngày trời mà chẳng có kết quả gì.



Khi nãy đội thám hiểm nghe thấy tiếng súng trong rừng, lập tức tỏa ra tứ phía ẩn trốn, sau đó phát hiện hội mấy người Tư Mã Khôi, trên mình ai nấy đều khoác súng trường, hơn nữa lại có vẻ giống người Hoa, chỉ sợ xảy ra nhầm lẫn tạo thành xung đột không đáng có, nên mới sử dụng hạ sách tấn công lén. Kỳ thực chẳng qua họ chỉ muốn sau khi giải trừ vũ khí của đối phương, sẽ ngồi xuống thương lượng chính sự, nào ngờ Tư Mã Khôi hạ thủ quá tàn độc, khiến tình hình vượt ra ngoài dự liệu ban đầu, chẳng những hai bên chẳng khống chế được cục diện mà phía họ còn tổn thất một người anh em.



Khương sư phụ là một tay lọc lõi già đời, vừa nhìn là biết loại người như Tư Mã Khôi không thể dùng biện pháp cứng rắn mà chỉ ưa mềm dẻo, nên liền khuyên giải: "Trông các hạ râu hùm hàm én, rõ ràng là tướng vương hầu, không những thế thân thủ lại vô cùng phi phàm, chắc chắn không phải hạng người chơi không ngồi rỗi, khiến tôi bội phần khâm phục. Trộm nghĩ, hôm nay chúng ta bèo nước tương phùng, trước đây đã chẳng gây thù, thì bây giờ cũng đừng nên kết oán, mất một tên lâu la đâu có đáng gì? Nhưng chớ vì một việc nhỏ mà làm tổn thương hòa khí. Chúng tôi chỉ muốn hỏi một việc, cậu có biết chuyện gì liên quan đến con đường U Linh không?"



Nhưng lão đã phỏng đoán nhầm, Tư Mã Khôi là loại người rượu mời không uống, rượu phạt lại càng không, dầu mỡ chi cũng chẳng ưa, thì làm gì có chuyện anh dễ dàng tin vào mấy lời đường mật khéo léo ấy. Không đợi Khương sư phụ nói hết câu, anh liền đột ngột mở miệng chen vào: "Bọn hối tử[19] trộm mộ các ông muốn tìm con đường Stilwell trong núi Dã Nhân để làm gì?" Anh suy đoán nhóm người Ngọc Phi Yến rất có khả năng là dân trộm mộ, nhưng không rõ mục đích cụ thể của cô ả, cho nên mới mang câu này ra làm mồi nhử, hỏi xem đối phương có phải là "hối tử" thật hay không.



Lời vừa dứt khỏi miệng, Ngọc Phi Yến và Khương sư phụ đã trợn mắt ngạc nhiên, không ngờ Tư Mã Khôi lại có thể nhận ra lai lịch của cả bọn, nên trong lòng không khỏi kinh ngạc, chẳng kìm được đã bất giác buột miệng hỏi: "Sao cậu biết?"



Tư Mã Khôi quan sát phản ứng của đối phương liền biết phán đoán của mình hoàn toàn chính xác, bèn dùng ánh mắt hướng về phía cây giáo mỏ vịt mà bọn họ đeo sau lưng, rồi cười nhạt hì hì lên mấy tiếng: "Võ Đại Lang nuôi rùa - người nào của nấy thôi mà."



Ngọc Phi Yến và Khương sư phụ nghe xong, miệng không khép lại nổi, hai người liếc mắt ngầm trao đổi, sau đó Khương sư phụ lại gần cởi trói cho Tư Mã Khôi, nhưng ba người còn lại thì vẫn không được thả. Bọn họ chỉ mời một mình Tư Mã Khôi đến nói chuyện cụ thể.



Trước mắt, hai bên cùng có rất nhiều chuyện muốn hỏi đối phương, nhưng chẳng ai chịu mở lòng trước, bởi vì hệ lụy để lại rất lớn. Dường như mọi việc liên quan đến họ đều là những việc mờ ám trong bóng tối, hơn nữa lại không biết đối phương rốt cục là người như thế nào, nên chẳng ai dám dễ dàng hở miệng nửa câu. Trong giới lục lâm có quy tắc "Ba nói, ba không nói". Nếu lỡ gặp phải tình huống như bây giờ có thể vận dụng phương thức quen dùng của các hành bang, hai thủ lĩnh của mỗi bên cùng nhau ngồi xuống mặt đối mặt - "Gạn đáy biển". Đây là cách sử dụng ám ngữ trong "Mắt đáy biển giang hồ" của thế giới ngầm để thăm dò, gạn hỏi lẫn nhau. Sau khi đôi bên đều hiểu rõ gốc rễ ngọn ngành, mới dám đem những việc cơ mật ra bàn bạc chi tiết.



Khương sư phụ tìm thấy một phiến đá dài phủ đầy rêu xanh ở gần đấy, sau đó sai bọn lâu la lấy mười tám chiếc nắp ấm trà quân dụng để thay thế "bát trà", lại đổ đầy nước lọc vào trong, rồi lần lượt bày bố mười tám chiếc nắp ấm ở phía phải theo trận pháp đáy biển. Mọi việc xong đâu đấy, lão bèn mời Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến ngồi vào hai phía đối diện của phiến đá.



Ngọc Phi Yến là chủ, lẽ đương nhiên phải mở màn trước, cô ả đẩy hai chiếc nắp trong thế trận ra phía trước, tay trái giơ ba ngón nhè nhẹ ấn vào một nắp, tay phải lại xòe ra bốn ngón chỉ chiếc nắp còn lại, nhếch mép cười: "Hành bang các phái, lấy nghĩa khí làm trọng, tam nhất bất nhị, lá rễ như nhau. Tư Mã huynh, mời anh uống trà trước."



Vết thương trên vai Tư Mã Khôi lại ngâm ngẩm đau, trong đầu dường như có hàng ngàn con bọ đang ngọ nguậy, nhưng đã đến cơ sự này cũng đành đâm lao thì phải theo lao, anh vắt kiệt sức lấy lại tinh thần, nhìn hai chiếc nắp ấm bên trái và bên phải, biết rằng nếu tùy tiện uống sẽ bị đối phương đánh giá mình là kẻ ngoại đạo không hiểu phép tắc. Nghĩ vậy, anh liền lắc đầu nói: "Tại hạ đã không phải tam lão gia, cũng chẳng phải tứ thiếu gia, đâu dám mạo muội trước mặt quý lão gia."



Ngọc Phi Yến thấy anh am hiểu luật lệ, liền nhè nhẹ gật đầu, rút hai chén trà về, rồi bày lại thế trận "Nhất tự trường xà", xếp mười tám chiếc nắp thành một đường dài ngoằn ngoèo như rắn lượn, đoạn gạn hỏi: "Xin hỏi huynh đài, thế trận treo biển gì, trên biển viết chữ gì?"



Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến đang muốn hỏi lai lịch và xuất thân của mình, bèn trả lời: "Ở nhà chẳng dám cãi cha, ra ngoài chẳng dám cãi thầy, quý lão đại đã hỏi, thật chẳng dám giấu. Thế trận treo biển chữ, trên biển viết chữ đổ biển dốc sông, tại hạ họ Tây, đầu đội bảy mươi mốt, lưng cõng bảy mươi hai, chân giẫm bảy mươi ba."



Ngọc Phi Yến vừa nghe liền hiểu ngay, thì ra Tư Mã Khôi là truyền nhân của Kim Điển tiên sinh, nhưng thấy đối phương tuổi đời còn trẻ, khó lòng tin ngay được, nên lại tiếp tục dò hỏi xem bản lĩnh của anh lớn cỡ nào, được truyền thụ những bí kíp gì. Nghĩ vậy, cô ả bèn hắng giọng: "Tại hạ còn muốn thỉnh giáo huynh đài, trên người mang theo hàng gì?"




Tư Mã Khôi trả lời: "Trên người chẳng có hàng gì đặc biệt, chỉ mang theo nửa bộ Kinh Kim Cương lừng danh năm hồ bốn bể, nhưng tại hạ chỉ là chân trong chân ngoài, nếu có chỗ nói không đúng, chỉ mong lão thiếu gia bỏ quá cho."



Anh nói xong, trong bụng thầm nghĩ: "Làm gì có chuyện hỏi tôi mãi thế, tôi cũng phải hỏi cô mới được", đoạn liền thay đổi thế trận chén trà đáy biển ban đầu thành thế trận "Nhị long xuất thủy", xếp mười tám chiếc nắp thành hai hàng, mỗi hàng chín chiếc song song nhau, rồi quay sang gạn hỏi Ngọc Phi Yến: "Dám hỏi quý lão đại, trong tay có bao nhiêu thuyền?" Vì khi nãy Tư Mã Khôi đã biết hội Ngọc Phi Yến là dân trộm mộ, cho nên cứ trực tiếp hỏi thẳng cô ả xem rốt cục đã tìm thấy bao nhiêu minh khí được tùy táng trong mộ cổ.



Ngọc Phi Yến cũng không chịu lép vế, liền đáp: "Hỏi hay lắm, trong tay tại hạ thuyền không nhiều cũng chẳng ít, chỉ có khoảng chín ngàn chín trăm chín mươi chín chiếc." Nói một cách tóm tắt, ý của cô ả là: "Quá nhiều, chẳng thể nhớ nổi."



Tư Mã Khôi thấy thủ đoạn của cô ả lợi hại, không mấy đáng tin nên hỏi tiếp: "Trên thuyền treo cờ hiệu gì?" Sở dĩ anh hỏi vậy vì bọn "hối tử" trộm mộ trong dân gian, thủ pháp không giống nhau, do chịu sự hạn chế của nhân tố môi trường địa lý và kinh nghiệm kỹ thuật, nên đa số đều phân khu vực để hành sự, dân Hà Nam không xâm phạm đến lãnh địa của dân Thiểm Tây, dân Quan Ngoại không vào Quan Nội. Câu hỏi khi nãy của Tư Mã Khôi đại ý là: "Nhóm người các cô thường đào mộ ở khu vực nào? Sử dụng loại kỹ thuật gì?"



Ngọc Phi Yến lập tức đối đáp: "Trên núi treo cờ thắng lợi, dưới núi treo cờ vàng đất, mùng một, hôm rằm treo cờ long phụng, đầu thuyền treo cờ vuông khẩu hiệu lớn, cuối thuyền treo cờ chín mặt uy phong!" Trong lời cô ả ẩn chứa hàm ý sâu xa, muốn nói nơi nào cũng đều đi cả. Những ngôi mộ cổ từ các triều đại xa xưa, tuy rằng đâu đâu cũng có, nhưng các ngôi mộ chôn ở nơi bình nguyên rộng rãi thường dễ đào dễ lấy nhưng đồ kiếm được lại thường không đáng tiền, cố sống cố chết, tim đập chân run, liều mạng một phen cuối cùng lại lấy được mấy thứ dưa chẳng ra dưa, táo chẳng ra táo, thật chẳng đáng chút nào. Ngược lại những ngôi mộ trong núi sâu toàn chôn những bậc đế vương, hầu tướng, minh khí bảo vật muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu. Nhưng những ngôi mộ đó địa cung mộ đạo, tường đá nắp sắt, chôn giấu rất nhiều ám khí, cài đặt vô số cơ quan ngầm, kiên cố khó phá, vừa không dễ tìm thấy, lại không dễ khai quật. Ngọc Phi Yến luôn tự nhận mình là dân trộm mộ cao siêu, mộ thường không chê ít, lăng tẩm vua chúa trong núi sâu cũng không ngại khó, chỉ cần cô ả trúng ý thì chẳng có ngôi mộ nào không thể khai quật.



Tư Mã Khôi nghe mấy lời tự cao tự đại này, quả không thể lĩnh giáo nổi: "Tôi hỏi trên thuyền cô có bao nhiêu ván? Mỗi ván đóng bao nhiêu đinh?" Ý anh muốn hỏi: "Bản lĩnh của cô lớn cỡ nào mà dám khoác lác thế hử? Cẩn thận gió to bay mất lưỡi đấy!"



Thần sắc Ngọc Phi Yến điềm nhiên như không, bình thản trả lời: "Mỗi thuyền có bảy mươi hai ván, tương tự bảy mươi hai phép địa sát, trên ván có ba mươi sáu đinh, giống như ba mươi sáu phép thiên canh." Ý cô ả muốn nói: "Thuộc hạ của tôi vừa là cao nhân hiểu bí thuật phong thủy lại là chuyên gia tinh thông địa lý, am tường thuốc nổ, dưới vòm trời này chẳng nơi nào chúng tôi không thể kiếm ăn được."



Tư Mã Khôi cảm thấy khó chịu trong lòng, lạnh lùng hừ một tiếng, lại hỏi: "Ván có lỗ mà không có đinh là loại ván gì? Ván có đinh mà không có lỗ lại là loại ván gì?"



Ngọc Phi Yến đối đáp trơn tru: "Loại có đinh mà không có lỗ là ván nhảy, loại có lỗ mà không có đinh là ván gió." Trả lời xong, cô nàng lập tức quay sang hỏi lại: "Anh bảo trên trời có bao nhiêu ngôi sao?"



Tư Mã Khôi nghe xong liền không phục, thầm chửi: "Dựa vào mấy món vặt vãnh nhà cô mà dám hỏi thân thủ của tôi sao?" nghĩ vậy anh liền thể hiện thái độ bất cần: "Sao trên trời, đếm không hết, tiền nhân nói có ba vạn sáu mươi sáu, còn cô có mấy sợi gân trên người?"



Ngọc Phi Yến thấy ban đầu đối phương còn khá tuân thủ luật lệ, nhưng càng ngày càng trở nên vô phép tắc, không nhịn nổi cơn giận thoáng qua, liền nhướng mày đáp: "Trên người có bảy sợi gân, cứ việc xẻ thịt lột da mà tìm. Thế anh có biết một con dao có mấy lỗ không?"



Tư Mã Khôi không thèm khách khí đáp: "Một dao hai lỗ, cô có mấy quả tim, cho tôi mượn một quả mang ra nhắm rượu chơi!"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: hồi thứ sáu: máy bay tiêm kích


Hồi thứ sáu: Máy bay tiêm kích



Sắc trời càng lúc càng tối mịt, cả dãy núi Dã Nhân dần dần chìm vào màn đêm im lìm như cõi chết. Đây cũng là thời khắc chìm lắng ngắn ngủi báo hiệu cơn giông bão cuồng nộ sắp ập tới.



Vậy mà không khí đông cứng giữa bốn thành viên còn lại của đội du kích cộng sản Miến Điện và nhóm người của Ngọc Phi Yến vẫn ngày một căng thẳng hơn.



Tư Mã Khôi tự biết phe mình đang bị đối phương khống chế, nếu câu nói có chút tỏ ra sợ sệt sẽ lập tức càng bị lấn át hơn, bởi vậy anh không hề nhượng bộ nửa bước khi thương lượng, ngược lại còn dụng tâm chọn những lời hổ báo khích tướng Ngọc Phi Yến, khiến mặt cô ả biến sắc, lúc xanh lúc đỏ.



Khương sư phụ đứng bên cạnh là tay cáo già lọc lõi, bươn trải giang hồ đã nhiều năm, lão nhận thấy bọn họ người tám lạng kẻ nửa cân, chẳng ai chịu nhường ai, càng nói càng khiến không khí trở nên căng thẳng, chỉ còn thiếu nước "đâm vào dao trắng, rút ra dao đỏ" mà thôi. Thế là lão vội vàng đứng bên cạnh ho lên một tiếng, như ngầm cảnh báo câu chuyện của hai người nên chấm dứt ở đây, rồi thay nước trà trong chiếc nắp bày trận. Theo tiền lệ cổ xưa, lúc này nên dùng "hồng trà đặc" - một loại trà rất đậm đặc, chỉ cần uống một ngụm là sốc lên tận đỉnh đầu, nhưng điều kiện trong rừng nguyên sinh không có hồng trà nên chỉ còn cách thay bằng chén nước lọc khác, rồi bày lại thế trận thành "Tam dương khai thái", xếp mười tám chiếc nắp thành ba hàng, mỗi hàng sáu chiếc.



Chén trà đáy biển bắt đầu bằng việc tự xưng gia môn với thế trận "Nhất tự trường xà", sau đó bọn họ thay đổi trận pháp thành "Nhị long xuất thủy" để dò hỏi lẫn nhau. Trong "Gạn đáy biển" vẫn còn các thế trận khác như: "Tam dương khai thái, tứ môn đấu để, ngũ hổ quần dương, lục đinh lục giáp, thất tinh bắc đẩu, bát quái vạn tượng, cửu tử liên hoàn", cho đến trận pháp cuối cùng là "thập diện mai phục". Đôi bên phải tuân thủ quy tắc theo từng tầng thứ để dò hỏi đối phương, đợi khi hỏi ra gốc rễ, thì mỗi bên sẽ biết rõ đầu đuôi sự tình.




Thông qua cuộc nói chuyện, song phương đều hiểu hết ngọn nguồn của nhau, không có xung đột ghê gớm theo đúng nghĩa, càng không cần lo lắng bị thoát gió, lọt nước, sót mất thông tin. Câu chuyện của Tư Mã Khôi tương đối đơn giản, anh có thể dõng dạc kể với đối phương mà không cảm thấy tự hổ thẹn với lương tâm, nghĩ lại lúc đầu tư lệnh Tư Mã Khôi một tay quét cả Miến Điện, trăm trận trăm thắng, giết người vô số, tôi giậm chân một cái cả dải đất Bắc Miến rung chuyển từng đợt, chẳng qua giờ đây quân đội nhân dân rớt đài, bọn tôi chẳng muốn uống chung dòng nước đục, nên dự định vòng qua núi Dã Nhân, chạy về phía bắc trốn sang biên giới.



Hội của Ngọc Phi Yến, tổ tiên mấy đời đều hành nghề trộm mộ ở Quan Đông, bọn họ kết bè kết đảng, lấy hiệu là "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn", cũng vì từng gây ra một vài vụ trọng án vào thời Dân quốc, nên đành chạy đến Đông Dương tránh họa, họ buôn lậu ở gần khu vực eo biển Malacca suốt một thời gian dài, đồng thời câu kết với bọn hải phỉ vớt tàu thuyền thời cổ đại, hoặc là đến vùng biên giới Thái Lan, Campuchia để đào mồ quật mả và tìm kiếm các di tích trong Phật tháp ở các chùa chiền miếu mạo. Nghề mưu sinh chủ yếu của bọn họ là buôn lậu văn vật cổ.



Trong văn hóa truyền thống dân gian Trung Quốc, từ đầu chí cuối đều tồn tại hai chữ "giang hồ". Trên giang hồ có rất nhiều ngành nghề đặc thù, kẻ ăn mày ven đường dọc phố gọi là "Hoa tử", kẻ trộm mộ gọi là "Hối tử", ngoài ra còn có "Ngựa vang" nghĩa là dân trộm cướp, "Quải tử" là bọn cướp đường, "Nha tử" là dân đánh cá, "Phi tặc" ám chỉ những kẻ mở khóa phá cửa ăn trộm của nả của thường dân, "Tiên sinh" ám chỉ kẻ hành nghề bói toán, "Mộ sư" ám chỉ thầy coi tướng số phong thủy. Tuy rằng thủ đoạn hành nghề, mưu sinh của mỗi ngành nghề không giống nhau, nhưng đều phải thông văn tỏ võ và mang một chút màu sắc mê tín nhất định. Nếu trong đó có nhân vật am hiểu về ngũ hành bát quái, bí thuật phong thủy mà trình độ văn hóa lại tương đối cao, thì kẻ đó sẽ được giới giang hồ vô cùng trọng vọng. Từ đó có thể luận ra một cách tương đối là: "nghề hối tử" chẳng qua chỉ là tên gọi chung dành cho những kẻ trộm mộ dân gian, còn kết cấu thành viên chi tiết thì vô cùng phức tạp.



Sau khi cha của Ngọc Phi Yến qua đời, cô ả được thừa kế tổ nghiệp, dẫn theo những thành viên cơ bản trong tổ chức cũ lập thành "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" và tự mình làm thủ lĩnh. Dưới trướng cô ả cũng có mấy trợ thủ đắc lực, ngoài Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, Hải Đông Thanh ra thì còn có một tên lưu vong người Liên Xô rất am tường về thuốc nổ, mọi người gọi hắn là "Gấu trắng".



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.



Vị Khương sư phụ là tay trộm mộ lõi đời, không những vậy còn là bậc cha chú của Ngọc Phi Yến, cũng có thể coi lão là thầy cô ả. Bởi thế Ngọc Phi Yến vô cùng kính trọng, gọi lão là "lão Khương" và luôn răm rắp nghe lời.



Ngọc Phi Yến từng được thụ hưởng nền giáo dục cao cấp, mấy năm gần đây đã cải tiến hoàn thiện kỹ nghệ gia truyền của tổ tiên lên rất nhiều. Dưới sự dẫn dắt lãnh đạo của cô ả, "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" dần dần gây dựng thanh thế, cuối cùng tiếng tăm đã vang dội khắp khu vực phía nam. Lần này, bọn họ mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân là do chịu sự ủy thác của một khách hàng lớn, phải đi đến tận cùng con đường U Linh để tìm kiếm một vật vô cùng quan trọng. Công việc lần này không phải khai quật mộ cổ mà là "công việc đánh cược mạng sống", đó là công việc gian khổ mạo hiểm khác thường, có thể mất mạng bất cứ lúc nào.



Sau khi nghe xong câu chuyện, Tư Mã Khôi liền nói rằng hai bên chẳng có gì liên quan đến nhau, nay đường rộng thênh thang, ai đi đường nấy. Giờ đây cuốn nhật ký cũng rơi vào tay cô, còn muốn gì ở bọn tôi nữa? Chi bằng nhân lúc còn sớm, hãy thả ba người đồng chí của tôi ra, khi nãy tôi đánh chết một tên thủ hạ của cô, thì chỉ cần một mình tôi ở lại là được, ông đây dám làm dám chịu, muốn chém muốn giết gì, tôi cũng nghe theo hết.



Sau khi nắm rõ được gốc rễ của Tư Mã Khôi, ngữ khí của Ngọc Phi Yến cũng khách khí, dịu dàng hơn trước nhiều, nhưng cô ả vẫn nhất định không chịu thả người, bởi vì lúc "gạn đáy biển" khi nãy, thuộc hạ của cô ả cũng đã thẩm vấn Karaweik - cậu bé mang theo cuốn nhật ký bên mình. Cậu thiếu niên mới mười mấy tuổi đầu, lại ở vùng núi Bắc Miến thì làm sao có thể là đối thủ của mấy gã giang hồ lõi đời. Quả nhiên vừa mới hỏi dăm ba câu, cậu đã khai tuốt tuột sự tình. Cuốn nhật ký không mô tả tấm bản đồ chi tiết của con đường U Linh, bây giờ người duy nhất có thể tìm thấy nó, e rằng chỉ có một mình Karaweik. Cậu bé chính là cơ hội mà ông trời trao tặng cho Ngọc Phi Yến, làm gì có chuyện cô ả chịu bỏ qua. Bởi thế bất luận thế nào, đoàn thám hiểm cũng nhất định sẽ bắt Karaweik theo cùng để dẫn đường.



Nhưng Ngọc Phi Yến cũng không muốn hành sự tuyệt tình quá đáng, nên lúc nói rõ ý đồ của mình cũng đưa ra hai phương án cho đối phương lựa chọn. Trước mắt có thể để Tư Mã Khôi lựa chọn, chỉ có hai con đường: thứ nhất là để lại Karaweik rồi cả hội rời đi, thứ hai là gia nhập đội thám hiểm và cùng tiến sâu vào núi. Ngoài ra, Ngọc Phi Yến cũng hiểu rõ tình cảnh mà hội bốn người Tư Mã Khôi đang phải đối mặt, nên hứa hẹn nếu việc lần này thành công, cô ả sẽ sắp xếp cho bốn người bọn họ rời khỏi Miến Điện, có thể đến Hồng Kông, Thái Lan hoặc thoát hẳn châu Á, cao chạy xa bay, tất cả sẽ do cô ả lo liệu hoàn toàn.



Ngọc Phi Yến cần tăng cường lực lượng gấp, cô ả thấy thân thủ Tư Mã Khôi không tệ, lòng gan dạ, kiến thức cũng hơn người, hơn nữa lại từng là thành viên trong đội du kích cộng sản Miến Điện, chắc chắn sẽ thông thuộc tình hình trong núi, bèn nảy ý định lôi kéo anh vào đoàn, cô ả đề nghị với giọng vô cùng khẩn thiết.




Tư Mã Khôi liếc mắt nhìn trộm ba người bạn đồng hành bị trói trên cọc, thấy Tuyệt và La Đại Hải khẽ gật đầu, tỏ ý không muốn bỏ rơi Karaweik nên cũng đồng ý cùng đội thám hiểm vào sâu trong lòng núi Dã Nhân. Chuyến đi này tuy rằng nguy hiểm vạn phần, nhưng cũng chưa hẳn là tuyệt đường sống. Cả hội đã sớm đặt mình ra ngoài vòng sinh tử, thì còn nơi nào không dám lao vào nữa? Thế là Tư Mã Khôi quyết định gật đầu chấp nhận lời thỉnh cầu của Ngọc Phi Yến, đồng ý gia nhập đội thám hiểm.



Hai bên liền thắp hương lập lời thề, thể hiện mãi mãi không bao giờ hối hận. Sau đó Ngọc Phi Yến lệnh cho thủ hạ cởi trói cho ba người La Đại Hải, lại cung cấp thuốc men cho Tư Mã Khôi chữa thương. Cả đoàn hạ trại tại chỗ, đợi sáng hôm sau mới bắt đầu khởi hành.



Tuyệt rất tinh thông y lý, cô nhanh chóng làm sạch mủ trên vai Tư Mã Khôi, sau đó đắp thuốc và băng bó lại như cũ, nỗi lo trong lòng từ đầu đến giờ mới tiêu tan, nếu như không gặp đội thám hiểm trong rừng rậm, vết thương của anh chắc chắn sẽ bị nhiễm trùng càng ngày càng nghiêm trọng, e rằng chẳng đợi được đến ngày ra khỏi núi Dã Nhân.



Ngọc Phi Yến thấy thủ pháp xử lý vết thương của Tuyệt nhanh nhẹn, gọn gàng, lại hiểu biết dược tính, có thể sánh ngang với bậc danh y chân chính, nên trong lòng không khỏi ngầm khâm phục, càng cảm thấy mình lôi kéo được bốn người bọn họ nhập hội đúng là trời giúp sức, hi vọng như được thắp sáng trở lại.



Ngược lại, Tư Mã Khôi chẳng thèm bận tâm xem Ngọc Phi Yến nghĩ gì, anh để mặc cho Tuyệt băng bó vết thương, cầm lấy mấy túi thức ăn dã chiến mà La Đại Hải và Karaweik vừa mới đưa cho, đút từng miếng to vào miệng, nhai nhồm nhoàm. Trong thùng thức ăn dã chiến cỡ số sáu này, thứ gì cũng có, không chỉ có cà phê, thuốc lá thơm, diêm mà còn có cả sô cô la. Karaweik đói hoa cả mắt, chẳng quan tâm chúng là gì đều nhặt lên đút cả vào bụng, miệng cậu đầy thức ăn, đầu không ngớt gật gù với Tư Mã Khôi tỏ ý đồ ăn rất ngon.



Tư Mã Khôi lại cảm thấy loại thức ăn này thật khó nuốt, liền lắc đầu: "Chủ Nhật! Thật chẳng ra dáng nam nhi gì cả, đồ ăn nhai đi nhai lại chẳng có chút mùi vị nào, ngọt chẳng ra ngọt, mặn chẳng ra mặn, sao cậu có thể ăn ngon như thể đang được thưởng thức sơn hào hải vị thế hử?"



La Đại Hải cũng chung cảm nhận như vậy, anh nhổ đám thức ăn mới nhai nhộm nhoạm được một nửa từ trong miệng ra bàn tay, nhìn nhìn rồi nói: "Đúng là không khác gì nhai sáp nến, chẳng lẽ đội thám hiểm ngày nào cũng phải ăn thứ này?"



Tư Mã Khôi giải thích, đã là thức ăn dã chiến thì chắc đều để ăn những lúc tác chiến nơi hoang dã, ở đó làm gì có điều kiện, nên phải ăn như thế này là điều có thể lý giải được, hơn nữa nếu phơi khô lương thực thì có thể bảo quản được lâu hơn.



La Đại Hải bấy giờ mới tỉnh ngộ: "Thì ra là được hong khô, mẹ tiên sư, chẳng trách tớ ăn mà như nhai giấy, có điều họ cũng hong khô quá mức thì phải." Nói xong, anh lại đút đám thức ăn vừa nhổ ra tay cho vào miệng nhai lại.



Ngọc Phi Yến trợn tròn mắt ngạc nhiên, không nhịn nổi liền đi đến hỏi: "Anh nghĩ cái thứ các anh đang ăn là gì hả? Nó chính là giấy đấy!"



Lúc bấy giờ Tư Mã Khôi và La Đại Hải mới biết mình lấy nhầm, đồ ăn không lấy lại lấy túi giấy ăn có thể tích lớn hơn - được bọc kín trong thùng đựng thức ăn dã chiến, rồi cầm lên đút cả vào miệng mà nhai. Hai người biết được sự thật trớ trêu đều tròn mắt há miệng, nhưng họ là những kẻ rất cứng đầu, tất nhiên có chết cũng chẳng chịu nhận sai, cùng lắm đã nhầm thì nhầm cho trót. Họ thanh minh các ông đây đều là người có văn hóa, thường ngày thích ăn sách, vở, giấy, bút, đừng nói hai cuộn giấy nhà cô mà ngay cả cặp rắn trong tranh của Tề Bạch Thạch, bọn ông cũng ăn cả hai cân, vừa nói vừa cố tình đút nốt toàn bộ số giấy ăn trong hộp cơm dã chiến vào miệng nhai nát vụn rồi nuốt xuống bụng, xong đâu đấy mới ăn các thứ khác.



Ngọc Phi Yến không thèm đôi co với hai người. Nhân lúc này, cô ả giới thiệu với hội Tư Mã Khôi thành viên trong đoàn thám hiểm. Gọi là thành viên "đội thám hiểm" cho oai, chứ về thực chất, bọn họ vẫn chẳng thoát xác khỏi "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" của tổ chức "Ngựa vang" truyền thống. Tất cả mọi việc đều do "thủ lĩnh" quyết định, nhưng tâm của kẻ cầm đầu phải ngay, nếu không ngay sẽ bất thành đại sự




Thứ đến là "nhà học giả", còn gọi là tiên sinh, đó chính là lão tặc có kinh nghiệm phong phú nhất trong đoàn; lão là tham mưu trưởng, có chức năng quân sư cho nhóm. Bên dưới còn có mấy huynh đệ như Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, họ đều là tâm phúc đắc lực của Ngọc Phi Yến.



Ngoài ra còn có hai mươi mấy tên lính vũ trang Miến Điện làm chân bốc vác. Chúng đều là những kẻ cảm tử được chiêu mộ từ lực lượng vũ trang quân phiệt Bắc Miến, vì tiền họ sẵn sàng làm mọi việc.



Hội bốn người Tư Mã Khôi bị đẩy lên đầu "tuyến lửa" làm nhiệm vụ dẫn đường, chịu trách nhiệm giúp đội thám hiểm tìm ra con đường U Linh trong núi Dã Nhân.



Tuy cơn bão nhiệt đới "Buddha" sắp tấn công Bắc Miến đang tràn vào dãy núi với tốc độ kinh khủng, dự tính trong hai ngày tới sẽ cập núi Dã Nhân, nhưng quyết tâm của Ngọc Phi Yến dường như còn lớn hơn. Cho dù phải đối mặt với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, cô ả vẫn sẵn sàng không ngại trả giá đắt để hoàn thành phi vụ làm ăn lần này, bởi cục diện quân sự khu vực Bắc Miến vô cùng bất ổn, nếu đợi cơ hội lần sau mới vào núi thì không biết còn phải đợi đến tháng nào năm nào.



Tư Mã Khôi suy tính: Ngọc Phi Yến và đám lâu la thuộc hạ của cô ả đều là bọn "hối tử" chuyên đào bới khai quật mồ mả, buôn lậu cổ vật, nhưng từ trước đến giờ chưa thấy ai nói trong núi Dã Nhân có cổ mộ, huống hồ có thể mua hẳn một đội quân vũ trang địa phương vào núi, chắc chắn cũng phải chi ra một số tiền không nhỏ, số tiền đó hẳn không phải chỉ đào bới vài ngôi mộ vớ vẩn trong núi là có thể bù đắp được. Rốt cục ai dám bỏ ra số tiền lớn như thế và họ muốn tìm vật gì?



Tư Mã Khôi rất muốn biết rõ nội tình, liền hỏi Ngọc Phi Yến tận cùng con đường U Linh ẩn giấu bí mật gì?



Ngọc Phi Yến lấy một chiếc túi chống thấm, thò tay lôi ra một vật từ bên trong, đó là vài tập văn bản mỏng, ngoài ra còn có một bức ảnh, cô ả nói với hội Tư Mã Khôi: "Đây chính là mục tiêu duy nhất bọn tôi muốn tìm kiếm."



Tư Mã Khôi và La Đại Hải chụm đầu nhìn kỹ chiếc máy bay trong bức ảnh, địa điểm chụp có vẻ giống với sân bay quân dụng ở một nơi nào đó, hơn nữa tất cả các tấm ảnh đều chụp hình một chiếc máy bay vận tải. Chiếc máy bay này kiểu cổ, hình thù kỳ quái, phần thân và cánh đều khắc biểu tượng rắn độc ngóc đầu đớp mồi, trông rất đặc biệt



Hai người đều thấy quen mắt, hình như họ đã từng nhìn thấy nó ở đâu đó. Xem ra, loại máy bay này không phải kiểu máy bay hiện đại, chắc là diện phải đưa vào viện bảo tàng quân đội từ đời thuở nào. Nghĩ đến đây, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đột nhiên nhớ ra những điều mắt thấy tai nghe trong lúc tác chiến trong núi trước đây, cả hai giật mình thốt lên: "Đây chẳng phải máy bay tiêm kích vận tải[20] của không quân hoàng gia Anh hay sao?"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: hồi thứ bảy: tháp thông thiên


Hồi thứ bảy: Tháp thông thiên



Quân đội cộng sản Miến Điện từng ở gần Lashio, tấn công chiếm đóng sân bay quân dụng do người Anh xây dựng, trong nhà kho không quân còn bảo lưu rất nhiều máy bay chiến đấu kiểu cũ bị hỏng hóc từ những năm trước, trong đó có một chiếc máy bay kiểu dáng giống với chiếc máy bay trong ảnh, mà hình thù quái dị của nó khiến người ta chỉ nhìn qua một lần là không thể quên được. Tàn tích của loại máy bay này rơi xuống lòng núi, bọn họ cũng trông thấy không ít lần.



Bởi thế Tư Mã Khôi và La Đại Hải có thể phân biệt rõ ràng và nhận ra chiếc máy bay có hình thù kỳ quái này. Có lẽ đó là loại máy bay tiêm kích vận tải do người Anh chế tạo. Máy bay tiêm kích của không quân Hoàng gia Anh được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, số hiệu và chủng loại rất nhiều, ví dụ như máy bay tiêm kích chiến đấu, máy bay phản tiêm kích ngư lôi, máy bay tiêm kích ném bom hạng nhẹ, máy bay tiêm kích thám thính, máy bay tiêm kích vận tải... Loại hình máy bay này vừa linh hoạt vừa tốc độ, vô cùng thích hợp để phi hành ở những khu vực nhiệt đới khí hậu phức tạp, dễ thay đổi. Trước đây, hàng loạt máy bay tiêm kích phục vụ liên tục trên bầu trời Miến Điện, nhưng chủ yếu là loại tiêm kích hạng nhẹ và tiêm kích trinh sát, còn loại vận tải đã được cải tiến như trong ảnh thì hiếm khi nhìn thấy.



Tư Mã Khôi nói với Ngọc Phi Yến loại máy bay cổ lỗ sĩ này đã sớm rút khỏi vũ đài lịch sử từ đời thuở nào, vậy mà các cô còn mạo hiểm và sẵn sàng trả giá đắt như vậy để đi tìm, e rằng chẳng phải chỉ vì bản thân chiếc phi cơ. Chắc chắn bên trong khoang chứa còn cất giấu bảo vật gì vô cùng quan trọng. Nhưng vì sao nó lại ở trong núi Dã Nhân? Và vì sao có người không tiếc tiền bạc thuê đội thám hiểm đi tìm kiếm nó? Trộm nghĩ trong đó chắc chắn phải ẩn chứa một nguyên do bí mật không thể tiết lộ.



Ngọc Phi Yến gật đầu thừa nhận phán đoán của Tư Mã Khôi là đúng, có điều cũng chẳng có nguyên do gì không thể tiết lộ. Thì ra sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, trước thềm các nước Miến Điện, Ấn Độ... sắp thoát khỏi ách thống trị của chế độ thuộc địa thực dân Anh, người Anh đã phái không quân đến chuyên chở hàng loạt bảo vật quý hiếm cướp bóc được ở Miến Điện, chuẩn bị đưa ra cảng biển lên thuyền vận chuyển về Bảo tàng đế quốc Anh ở bản địa.



Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận chuyển bí mật này, một chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh, vì gặp phải thời tiết xấu, đã buộc phải đi lệch tuyến đường phi hành, rơi xuống lòng núi Dã Nhân.



Thông qua báo cáo của các phi hành viên trên máy bay chiến đấu đi hộ tống, thông tin cuối cùng họ nhận được từ chiếc tiêm kích vận tải là: "Chúng tôi bị rơi vào sương mù..." điểm rơi là một khe núi lớn trong rừng nguyên sinh. Có lẽ do ảnh hưởng của dòng không khí lưu thông trong khe núi và kết cấu chiếc phi cơ tương đối nhẹ, nên nó không bị đâm vào núi rơi tan xác ngay lập tức.



Có điều, nơi sâu thẳm trong khe núi khổng lồ đó sương mù dày đặc, đã khiến tầm nhìn từ trên không bị cản trở. Sau khi chiếc tiêm kích rơi vào màn sương bí hiểm mênh mang chẳng bao lâu, lập tức vang lên những tiếng gào thét tuyệt vọng kinh hoàng của các thành viên phi hành đoàn, rồi tất cả rơi vào im lặng và hoàn toàn đoạn tuyệt mọi thông tin với thế giới bên ngoài.




Sau khi thông tin được truyền đến phía quân đội, họ lập tức điều động nhân viên, tổ chức thành các phân đội cứu viện, chia thành nhiều ngả tiến vào núi Dã Nhân để tìm kiếm tung tích chiếc máy bay. Thậm chí còn không ngại sự ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt, họ đã phái rất nhiều phi cơ trinh sát tiến hành lùng sục ở tất cả những khu lân cận.



Nhưng những phân đội tìm kiếm cứu nạn tiến vào núi, nếu khồng trở về công cốc vì không tìm thấy đường thì cũng mất tích một cách bí hiểm sau khi tiến vào khu rừng nguyên sinh. Chẳng biết sau nhiều năm tìm kiếm, số lượng máy bay và con người bị mất tích trong núi đã lên con số bao nhiêu, bởi hoàn cảnh và lai lịch của họ rất đa dạng phong phú, ngoài những phần tử đầu cơ và các nhà thám hiểm muốn tìm kiếm bảo vật ra, thì còn có vô số kẻ chạy nạn, phạm nhân buôn lậu, thổ phỉ và những binh sĩ các nước đi lạc vào núi Dã Nhân qua nhiều thời kỳ chiến tranh. Nhưng bất luận là thời kỳ thực dân Anh thống trị hay thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng, tất cả những vụ mất tích xảy ra trong núi Dã Nhân đều bị giới quan chức các nước né tránh không đả động đến, và từ trước đến nay cũng không có ghi chép công khai nào tường thuật về quá trình cứu nạn.



Rừng rậm nguyên sinh quanh năm không nhìn thấy mặt trời và sương mù dày đặc ngàn năm chẳng thể tiêu tán dưới lòng đất, đều trở thành bức bình phong thị giác của thiên nhiên. Thêm vào đó, môi trường tự nhiên khắc nghiệt đã khiến núi Dã Nhân cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mà đến tận bây giờ vẫn chưa một ai có thể sống sót đi ra từ núi sâu.



Chiếc máy bay mất tích không lâu sau thì Miến Điện tuyên bố độc lập, người Anh hoàn toàn rút lui khỏi lãnh thổ đất nước, vụ án quân sự liên quan đến chiếc máy bay mất tích dưới khe núi lớn trong lòng núi Dã Nhân tưởng như cũng khép lại vĩnh viễn. Thế nhưng rất nhiều người lại tâm tâm niệm niệm chẳng thể quên "bí mật" vận tải trong khoang hàng của chiếc phi cơ, để đến tận giờ vẫn không ngừng kiếm tìm chiếc tiêm kích bị mất tích khi xưa. "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" của Ngọc Phi Yến chính là đối tượng được người ta thuê để đi tìm chiếc máy bay khắc biểu tượng rắn đen và mang "hàng" trong khoang trở về.



Đầu mối trong tay Ngọc Phi Yến, ngoại trừ bức ảnh mấy chiếc máy bay vận tải ra, thì chỉ có một vài tin tức tình báo còn sót lại của phân đội cứu nạn không quân Anh năm xưa mà thôi, nhưng chừng đó cũng đủ để đoán biết vị trí mất tích của chiếc tiêm kích, đại khái nằm ở khe núi khổng lồ nơi trung tâm núi Dã Nhân. Có điều, sương mù dưới lòng đất từ trong khe sâu phun lên mù mịt, càng lúc càng dày lên theo năm tháng, đã gần như che phủ tất cả các khu vực lân cận.



Nếu đội thám hiểm trực tiếp tiến vào khu rừng rậm nguyên sinh bị sương mù bủa vây, họ sẽ dễ giẫm phải vết xe đổ của người đi trước. Bởi thế sau khi bàn bạc, Ngọc Phi Yến và Khương sư phụ quyết định trước tiên là cần tìm ra con đường Stilwell do quân Mỹ xây dựng, vì nghe nói nơi tận cùng của con đường nằm rất gần vành đai ven khe núi. Năm đó đoàn bộ đội công binh tác chiến độc lập số 6 muốn xây dựng con đường phía rìa sườn để tránh đám sương mù kỳ quái dưới lòng đất phun trào, nhưng lúc đào đường hầm xuyên núi, cả đoàn lại vô tình khiến đất đá sụt lở, chỗ sụt lở lộ ra một huyệt động, rồi sương khí từ bên trong phun ra dữ dội, những nhân viên đi vào trinh sát đều chết bất thình lình, bởi thế họ mới buộc phải từ bỏ kế hoạch làm đường thông qua núi Dã Nhân.



Khổ nỗi, đội thám hiểm lại không có bản đồ, cũng chẳng có người dẫn đường, nên muốn tìm một con đường bị lãng quên hoang phế mấy chục năm đâu phải chuyện dễ dàng. May mà bọn họ gặp được hội Tư Mã Khôi cùng cậu bé Karaweik. Tuy Karaweik cũng chưa từng đi vào trục đường 206B của con đường U Linh, nhưng chí ít cậu bé cũng có kinh nghiệm, biết rốt cục phải đi đâu để tìm nó, đồng thời hiểu cách làm sao để tránh khu vực bom mìn rộng lớn, mà nhiều thời kỳ chiến tranh trong lịch sử còn để lại.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Bởi chỉ cần tìm thấy vị trí đường hầm nơi tận cùng trục đường B, là họ có thể tìm cách đi từ chỗ bị sụt lở xuyên qua động huyệt dưới lòng đất, vào khe núi khổng lồ, tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích.



Sau khi Ngọc Phi Yến kể xong toàn bộ đầu đuôi câu chuyện, cô ta liền quay sang nói với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Bất kể các anh có tin vào số mệnh hay không, chí ít tôi cũng cho rằng giữa con người với con người luôn tồn tại một loại lực hấp dẫn nào đó. Hôm nay chúng ta tương ngộ trong núi Dã Nhân, cuối cùng lại trở thành bạn đồng hành, e rằng đó cũng là sự an bài của số phận. Kể từ nay trở về sau, chúng ta nhất định phải đồng tâm hiệp lực."



Tư Mã Khôi biết Ngọc Phi Yến không muốn tiết lộ thông tin liên quan đến "hàng" và "khách hàng", nhưng anh cũng biết những vật trong khoang máy bay chắc chắn không phải loại tầm thường, đã là "phi vụ đánh cược mạng sống" thì không thể dễ dàng thành công, nói không chừng lại rơi vào thảm cảnh bị tiêu diệt hoàn toàn. Nghĩ vậy, anh liền cảnh báo Ngọc Phi Yến: "Cô đã nói phải tin vào số mệnh, vậy thì việc thành hay bại còn phải xem ý trời, nếu chuyến đi này không thành công, thì cô cũng đừng miễn cưỡng quá."



Ngọc Phi Yến khẽ cau đôi mày thanh tú, lời nói có phần trách móc: "Anh đừng lay động quyết tâm của người khác, chỉ cần chúng ta đồng tâm hiệp lực, thì làm gì có chuyện đại sự không thành?"



Tư Mã Khôi bảo: "Chẳng phải tôi muốn giội gáo nước lạnh vào cô, nhưng tôi thấy đội ngũ của chúng ta thế này khó mà đồng tâm hiệp lực nổi. Tôi còn nhớ trước đây, khi còn ở gần khu vực Midzu, đã từng nghe người ta kể một truyền thuyết tôn giáo phương Tây như thế này:



Vào thời viễn cổ, con người trên trái đất phải sống một cuộc sống vô cùng khốn khó, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại chịu sự uy hiếp của lũ lụt, mãnh thú đe dọa sự sinh tồn. Khi đó, loài người nghe đồn trên thiên đình cuộc sống rất sung sướng, quanh năm lúc nào cũng ấm áp như mùa xuân, bốn mùa hoa lá đua nhau khoe sắc, quanh năm cỏ xanh tươi non mơn mởn, sản vật vô cùng phong phú, không bao giờ phải lo lắng về chuyện ăn mặc, càng chẳng bao giờ phải chịu đựng sự giày vò của bệnh tật. Chỉ có điều, nơi đó rất xa xôi, độ cao của nó vượt xa tầm tưởng tượng của con người, những người bình thường sống trên mặt đất không có cách gì lên trên đó được.



Kết quả, mọi người cùng chụm đầu nghĩ kế, rồi quyết định phải bắc một chiếc tháp thông thiên cao vút lên tận trời, như vậy già trẻ gái trai đều có thể lên đó và trở thành thần tiên, không cần chịu đựng khổ ải nơi trần thế này nữa. Thế là con người bắt tay vào công việc, mọi người đồng tâm hiệp lực, nên tiến độ xây dựng vô cùng nhanh chóng.



Nhìn thấy đỉnh tháp cao đến tận chân mây, càng xây lại càng cao hơn, Thiên đế ở thiên đình bắt đầu lo lắng, đứng ngồi không yên, bụng thầm nghĩ: Trên trời chỉ có một mình ta thoải mái biết bao, bây giờ đám con cháu dưới mặt đất ăn no rửng mỡ, đều muốn lên đây gây sự. Không được, phải mau mau nghĩ cách!




Kết quả, Thiên đế cũng nghĩ ra một hạ kế, đó là phân chia con người trên mặt đất thành các dân tộc khác nhau, bắt họ phải nói những ngôn ngữ khác nhau, khiến các bên không thể tiến hành giao tiếp được nữa.



Biện pháp này phát huy tác dụng tức thì, bất đồng ngôn ngữ và bối cảnh văn hóa chủng tộc đã trở thành rào cản lớn khó lòng vượt qua, con người trên mặt đất vì không thể giao tiếp với nhau nên không còn đồng tâm hiệp lực, cùng hướng về một mục tiêu như trước được nữa. Cuối cùng, họ không thể xây dựng hoàn thành tháp thông thiên, và mãi cho đến tận bây giờ, các bên vẫn không ngừng chỉ trích đối phương, rồi chiến tranh, bạo loạn liên tiếp nổ ra hết lần này đến lần khác."



Ngọc Phi Yến cố gắng kiên nhẫn nghe hết câu chuyện nhăng cuội của Tư Mã Khôi, cuối cùng cau mày hỏi: "Rốt cục anh muốn ám chỉ điều gì?"



Tư Mã Khôi thản nhiên đáp: "Điều tôi muốn nhắc nhở là, trong đoàn chúng ta, vừa có người Liên Xô, vừa có người Miến Điện, người Campuchia và cả người Trung Quốc nữa, thậm chí còn có cả những người chẳng biết mình thuộc quốc tịch nào, nên việc giao tiếp giữa các bên đã rất khó khăn thì làm gì dám nói đến việc đồng tâm hiệp lực? Chúng ta chỉ đơn thuần là đám quân ô hợp miễn cưỡng lắp ghép lại trong chốc lát, tuyệt đối không thể làm nên đại sự. Bởi vậy, tôi thấy việc tìm chiếc tiêm kích mất tích đã nhiều năm trong núi Dã Nhân không phải điều dễ dàng trong tầm tay, chúng ta chỉ có thể cố gắng hết sức, còn ngộ nhỡ bị thất thủ, thì cô phải đồng ý với tôi, khi bọn cô rút lui, ít nhất phải mang Karaweik theo cùng, đồng thời sắp xếp cho cậu bé rời khỏi Miến Điện."



Ngọc Phi Yến chẳng cần nghĩ ngợi đã lập tức bảo Tư Mã Khôi cứ yên tâm, "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" chẳng phải cũng đã từng làm công việc đánh cược mạng sống như thế này, mà cũng đừng thấy đội ngũ thành phần tạp chủng, thực ra anh đâu cần phải giao tiếp, giao lưu gì, bởi vì đã có Ngọc Phi Yến tôi là "thủ lĩnh", tất cả chỉ cần một mình tôi nói là xong.



Tư Mã Khôi chẳng coi mấy lời của cô ả là gì, trong lòng thầm nghĩ: "Ngọc Phi Yến, cô chẳng phải cũng chỉ là thủ lĩnh một đội trộm mộ thôi sao? Ông đây ở Miến Điện còn chặt đầu không biết bao nhiêu người, nhiều gấp mấy lần số đầu người mà suốt đời cô có thể khai quật trong các ngôi mộ. Ranh con nhà cô có bản lĩnh gì mà dám chỉ huy ông chứ?"



Nhưng anh cũng không muốn đôi co vì việc nhỏ, nên buông xuôi cho câu chuyện tạm dừng ở đây. Anh chỉ nói gọn lỏn: "Hy vọng được như thế," rồi chuồn ra chỗ khác cho nhẹ nợ.



Lúc này La Đại Hải nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Nghe nói trong bảo tàng thực dân Anh đúng là có thu thập sưu tầm rất nhiều văn vật cổ đại, nhưng người bản địa Miến Điện nghèo khổ, vất vả như thế, ngay cả một ngôi nhà cho ra hồn cũng chẳng dựng được, thì hàng hóa trong chiếc tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh có thể tốt đến mức nào được nhỉ? Tớ thấy quá nửa chỉ là hư danh, bây giờ cơn bão nhiệt đới mang thiên tai sắp tràn về, hội người này mạo hiểm cả tính mạng như thế liệu có đáng không?"



Tư Mã Khôi lập tức phản đối: "Đồ Hải ngọng nhà cậu chả hiểu biết gì cả, cậu đừng thấy dân bản địa nghèo khổ mà coi thường; ở đây từng là vương triều cổ đại hưng thịnh hiển hách nhất trong quá khứ, trầm tích lịch sử rất thâm hậu; người bản địa vô cùng sùng bái tín ngưỡng, nên những ngôi chùa lớn danh tiếng đều được xây dựng tường vàng vách ngọc, lộng lẫy huy hoàng. Hơn nữa, nơi đây được mệnh danh là đất nước hoàng kim, phỉ thúy cũng không phải hư danh đâu; nói cái khác có thể cậu không hiểu, tớ chỉ lấy một ví dụ thực tế trực quan nhất, cậu có biết nữ hoàng Anh là ai không?"



La Đại Hải bị hỏi như vậy chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, liền vặn lại: "Xem thường tớ đấy hử? Tớ còn lạ gì nữ hoàng Anh, ai chẳng biết trước đây Miến Điện là thuộc địa của thực dân Anh, bây giờ tượng bà ta vẫn còn khắp đất nước Miến Điện. Chúng ta đánh nhau bao nhiêu năm ở đây, tuy chưa nhìn thấy người thật nhưng tượng điêu khắc thì khối ra đấy, ít nhất cũng chạm mặt đến phát quen, bà ta chẳng phải vợ của Tổng thống Anh hay sao? Có điều chuyện tớ vừa hỏi thì liên quan gì đến bà ta?"



Tư Mã Khôi giải thích: "Cậu nhìn tượng điêu khắc thì biết, trên đỉnh vương miện của Nữ hoàng Anh có gắn một viên hồng ngọc to như quả trứng ngỗng, màu sắc tươi đỏ như máu, toàn thế giới chỉ độc nhất vô nhị một viên ấy thôi. Viên ngọc đó được đội thám hiểm của quân Anh vô tình đào được ở núi Dã Nhân Bắc Miến, trong một trận chiến giữa Anh và Miến Điện, sau đó mang về nước, dâng tặng lên nữ hoàng điện hạ đấy!"



La Đại Hải như sực tỉnh, gật đầu lia lịa: "Thì ra là vậy, xem ra hàng trong chiếc tiêm kích vận tải chắc chắn không phải hạng trâu bò bình thường, nếu tìm thấy nó thật, thì chúng ta đúng là chó ngáp phải ruồi trúng quả lớn rồi còn gì."



Tuyệt nghe ý của La Đại Hải dường như muốn chiếm lấy những đồ vật trong chiếc máy bay mất tích làm của riêng, liền bảo anh đừng có nằm mơ giữa ban ngày, cố gắng sống sót ra khỏi núi Dã Nhân mới là điều quan trọng. Anh chưa nghe nói những đoàn thám hiểm trước đây vào trong núi sâu, chưa ai có thể sống sót mà ra được hay sao? Nếu chúng ta cũng chẳng thoát nổi thì biết làm thế nào?



La Đại Hải cười lớn: "Đừng dọa tôi, cô không biết chứ, Hải ngọng tôi đây là kẻ cực kỳ nhát gan, chỉ dám ăn gan hùm, cóc tía thôi."



Ba người bàn luận một hồi, ai nấy đều cho rằng chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nhưng nếu quả thực có thể giữ được mạng sống trở về, thì không rõ số phận nào sẽ chờ đợi họ ở phía trước? Trong lúc ngẫm nghĩ về cái được và cái mất, họ cảm thấy tiền đồ thật khó đoán trước, từng dòng suy nghĩ ùa về, rồi tất cả đều dần dần chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị.




Ngày hôm sau, khi trời còn chưa sáng rõ, cả đoàn đã bị Khương sư phụ gọi dậy, mọi người nai nịt gọn gàng để chuẩn bị lên đường. Họ đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, leo lên một mỏm núi. Từ trên cao nhìn ra bốn phía xung quanh, giữa những dãy núi dài miên man, phủ mờ sương khói là cả không gian tĩnh lặng như tờ, màn sương sớm vẫn chưa tan hết, dõi mắt ra phía xa, thấy nền trời đỏ au au như máu, đó chính là điềm báo cơn cuồng phong nhiệt đới sắp tiến sát gần.



Khi thời tiết khắc nghiệt mang theo thiên tai tràn về, trong vòng vài ngày liên tiếp, cuồng phong bạo vũ chắc hẳn không thể nào suy yếu. Lúc đó lũ lớn sẽ tràn đến, đất đá sụt lở cuốn theo dòng nước, thậm chí địa hình của núi Dã Nhân cũng có thể vì nguyên nhân này mà biến dạng. Bởi thế thời gian dành cho đội thám hiểm chẳng còn bao lâu, mọi người bắt buộc phải tìm thấy khe núi khổng lồ - nơi có chiếc máy bay bị mất tích - càng sớm càng tốt.



Karaweik đi trước dẫn đường, cả đoàn xuyên qua một khe núi, đi vòng tránh mấy bãi mìn, rồi tìm thấy ngã rẽ hình chữ Y ở khúc quanh gần vực thẳm, quân Mỹ gọi nơi này là "nút Kansas". Bên tay trái họ là tuyến đường A khúc khuỷu vòng vèo, bên tay phải là đường hầm xuyên núi, thông trực tiếp đến khu vực nguy hiểm bị mây mù che phủ bủa vây.



Trước đây, Karaweik cũng chỉ đến "nút Kansas" là cùng nên tiếp sau đó cả đoàn đành phải tự mò mẫm tìm kiếm tuyến đường B của con đường U Linh. Con đường bị bỏ hoang nhiều năm, bề mặt đều bị thảm thực vật che phủ hoặc sụt lở, đứt gẫy, đã chẳng còn hình dạng gì nữa. Móng đường được xây dựng bằng sự trợ giúp cơ giới hóa bây giờ cũng bị những lùm cây bụi ngoan cường xâm nhập, rễ cây đâm xuyên qua khe nứt, đan cài nhằng nhịt vào nhau che kín mặt đường, khiến người ta không thể nhận ra diện mạo của nó. Thế nhưng chỉ cần nắm vững quy luật lối đi, cũng không khó tìm được dấu tích của con đường bị đất đá và cây cối phủ lấp, từ đó lần hồi dò dẫm, việc xác định vị trí của tuyến đường 206B cũng sẽ không mấy khó khăn.



Chẳng ngờ con đường U Linh chỉ trông thấy đầu mà chẳng tìm thấy đuôi. Tổng chiều dài nửa đoạn đầu đường áng chừng ba mươi cây số, chạy sâu vào núi khoảng gần ba cây số, toàn bộ được xây dựng trong lòng núi. Nó là một con đường cụt, tất cả có mười tám khúc quanh, nửa đoạn sau của con đường đã bị lũ lớn cuốn sập, chẳng để lại dấu vết nhỏ. Đội thám hiểm mất vật tham chiếu, trước mắt chỉ thấy một dải vực thăm thẳm nhấp nhô, dài tít tắp trong rừng rậm. Vực thẳm chắn ngang lối đi khiến mọi người không có cách gì tiến đến lối ra của con đường hầm. Vực sâu lại kéo dài tới cả ngàn mét, thêm vào đó mỗi bước trong rừng rậm nguyên sinh đều vô cùng khó khăn, nếu dò dẫm từng tí một, e rằng phải mất đứt ba đến năm ngày thì may ra mới tìm thấy cổng đường hầm.



Đúng lúc mọi người đang bó tay bất lực thì Karaweik lại tiết lộ một đầu mối. Cậu nhớ trước đây lúc cha cậu còn sống, từng nói: Năm ấy, ông vào rừng hái thuốc, khi đến mép vực gần lối ra con đường hầm, đã tận mắt nhìn thấy một "kỳ quan" khiến người khác không khỏi bàng hoàng, đó chính là "rắn thiêng hiện thân" trong truyền thuyết cổ xưa của người Miến Điện. Ông bị chấn động đến mức gần như hồn lìa khỏi xác, liền cuống quýt chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng nguyên sinh. Chẳng ngờ, ông vừa xuống tới chân núi, thì sau lưng mưa lớn đã kéo về, nhấn chìm và hủy hoại nhiều nơi trong núi Dã Nhân. Chỉ cần ông chậm chân một bước, thì đã sớm bỏ mạng trong núi rồi. Bởi vậy ông một mực cho rằng "rắn thiêng" đã hiện thân hiển linh ứng cứu, giúp ông đoán biết được điềm báo nguy hiểm, nhờ đó mới tha nổi mạng sống về nhà.



Căn cứ vào truyền thuyết này, có thể suy đoán: "rắn thiêng hiện thân" là dấu hiệu đặc thù ở gần đường hầm 206, nhưng trong những ghi chép về quá trình xây dựng con đường của quân đội Mỹ thì không thấy nhắc đến hiện tượng kỳ dị ấy. Từ đó có thể thấy, hiện tượng này không phải bất cứ lúc nào cũng gặp được, hơn nữa, đến tận giờ vẫn chưa ai hiểu rõ "rắn thiêng hiện thân" rốt cục muốn ám chỉ điều gì? Chỉ đành tạm thời suy đoán, càng vào những thời điểm khí hậu khắc nghiệt, càng có nhiều khả năng gặp phải "kỳ quan độc đáo" này.



Dãy núi Dã Nhân sâu hút ở phía Bắc Miến Điện là nơi thâm sơn tuyệt cốc ở tận cùng của mạch núi Himalaya. Những khu vực nằm dưới mực nước biển phần lớn đều bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, bốn phía núi cao vực sâu trùng điệp, hàng trăm khe sông, khe suối chảy qua, khí hậu quanh năm không đổi. Ngoại trừ cơn bão nhiệt đới có quy mô lớn mạnh khủng khiếp ra thì trong núi sâu rất ít khi chịu sự công kích của mưa gió sấm chớp, có lẽ mười mấy năm trở lại đây đều không có cơ duyên gặp phải thời tiết khắc nghiệt kích thích dòng hồng thủy trong núi nổi giận cuồn cuộn như thế này.



Mọi người chỉ có thể suy đoán, về truyền thuyết "rắn thiêng hiện thân" đại khái tồn tại hai khả năng. Khả năng thứ nhất là mượn để chỉ một loại "hiện tượng thiên nhiên" nào đó, bởi vì người Trung Quốc cổ đại cũng từng lấy các con vật đặt tên cho các điềm báo thiên nhiên. Có điều, từ trước đến nay trong lịch sử chưa hề thấy ghi chép về thuật ngữ "rắn thiêng hiện thân", mà thể hệ tôn giáo ở Miến Điện đều được lưu truyền từ Ấn Độ cổ đại. Có lẽ chính sự khác biệt tồn tại trong bối cảnh văn hóa đã tạo ra những ám thị mà con người hiện đại khó lòng giải thích.



Khả năng thứ hai có vẻ đúng đắn hơn, trong núi Dã Nhân có rất nhiều loại mãng xà khổng lồ, thậm chí truyền thuyết còn kể về con quái xà dài đến hàng chục mét. Nó biết nhả khói trắng mịt mùng, hình thành lớp mây mù dày đặc ngàn năm không thể tiêu tán nơi sâu thẳm trong quần thể núi, che phủ khắp mấy dặm xung quanh. Người hoặc gia súc mà tiến vào màn sương mù, sẽ lập tức bị nó làm cho tan chảy rồi nuốt vào bụng. Thế còn thuật ngữ "rắn thiêng hiện thân", nhiều phần để chỉ những con quái xà trốn trong lòng núi bị kinh động vì ảnh hưởng của khí hậu khác thường, nên lũ lượt kéo nhau hiện thân ra khỏi màn sương mù.



Lúc này, khí áp trong núi càng ngày càng xuống thấp, không khí oi nồng dường như sắp cô kết đặc quánh, xung quanh yên ắng tịnh không tiếng động, khiến người ta cảm thấy thấp thỏm bất an đến ngộp thở. Tư Mã Khôi phán đoán: "Chắc giông bão và mưa lớn sắp sửa tràn về, nếu không tìm thấy lối ra của đường hầm, thì chúng ta phải lập tức trèo lên chỗ cao ngay."



Đang định tự mình tìm đường leo lên mỏm núi thì trong khoảnh khắc ngẩng đầu ngước nhìn về sườn núi trọc phía đối diện, Tư Mã Khôi đột nhiên thấy một con mãng xà đen sì sì dài khoảng hai ba mươi mét, thân hình mờ ảo như sương khói, ẩn hiện chập chờn. Điều lạ lùng nhất là con hắc xà lại treo mình trên vách đá dựng đứng, án binh bất động, trông nó giống như một bức thạch họa thần bí và cổ xưa. Dán mắt nhìn một hồi lâu, anh phát hiện trên vách vực thẳm rõ ràng hoàn toàn trống trơn, chẳng có vật gì bám víu, làm sao đột nhiên lại xuất hiện cảnh tượng kỳ dị dường vậy?



Tư Mã Khôi còn cho rằng mình bị hoa mắt liền vội vàng gọi, mọi người cùng ngẩng đầu lên, mấy chục cặp mắt đổ dồn về đó kinh ngạc nhìn chằm chằm một hồi lâu, hầu như người nào cũng không dám tin vào mắt mình, bởi vì vật hiện lên trên vách đá đích thực là hình một con hắc xà nằm im lìm bất động. Nhưng nó không phải là bức tranh đá điêu khắc hình con quái xà, càng không phải một sinh vật đã chết. Chẳng ai có thể tưởng tượng nổi "rắn thiêng hiện thân" chỉ tồn tại trong truyền thuyết cổ xưa của Miến Điện lại là bức phù họa thần bí đầy sức sống như thế, ly kỳ đến mức khiến người ta khó có thể tin đó là thật.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: hồi thứ tám: rắn thiêng hiện thân


Hồi thứ tám: Rắn thiêng hiện thân



Đúng lúc đoàn thám hiểm bị vực sâu cản đường, trong lúc tưởng chừng sự việc giậm chân tại chỗ thì đột nhiên phát hiện trên vách núi xuất hiện hình thù con hắc xà khổng lồ, dài ngoằn ngoèo cả mấy chục mét. Trên vách đá phủ đầy rêu xanh và các loại thực vật khác nhau, dưới sự phản chiếu của màu xanh lục đậm, con rắn càng trở nên mờ ảo, quái dị như thể vong hồn u uất. Vì khoảng cách ở quá xa, nên mọi người cũng không phân biệt rõ nó là rắn hay trăn.



Đám lính vũ trang Miến Điện nhìn thấy cảnh tượng ấy đều kinh hãi quỳ rạp xuống đất, miệng không ngừng lẩm bẩm tụng niệm Phật hiệu, hướng về phía vực núi dập đầu liên tiếp.



Ngọc Phi Yến cũng không khỏi kinh ngạc, cô ả cầm ống nhòm, nghé mắt nhìn kỹ, một hồi sau mới bàng hoàng tỉnh ngộ, đoạn nói với mọi người rằng không cần hoảng sợ, bóng đen hình con rắn treo trên vách đá thực ra chẳng phải mãng xà gì hết, chẳng qua chỉ là một bầy kiến đỏ đang di chuyển mà thôi.



Thì ra địa thế núi Dã Nhân là một vòng tròn khép kín, tứ bề núi cao trập trùng nhấp nhô, đa phần đều là sản vật từ quá trình tạo sơn của dãy Himalaya thời cổ đại; khí hậu quanh năm ổn định bất biến, gió bão nhiệt đới thông thường cũng khó lòng chạm tới ảnh hưởng đến đất này. Nhưng năm nay, lại là cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương có cường độ mạnh khủng khiếp mà mấy chục năm hiếm gặp. Sự biến đổi khí tượng khắc nghiệt này, từ sau khi được dự báo đến nay đã thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo nhân dân các khu vực trên khắp thế giới, còn theo phân tích của khí tượng, vùng núi Dã Nhân ở miền bắc Miến Điện cũng chịu sự công kích mãnh liệt của cơn bão. Giờ đây, cơn bão nhiệt đới mang mưa lớn sắp tiến đến gần, khiến các con sông con suối vốn hiền hòa nằm im lìm dưới các khe núi thấp bỗng chốc trở nên hung dữ, dòng hồng thủy cuồn cuộn chảy xiết.




Dường như các sinh vật trong rừng già núi sâu đều cảm nhận được cái oi bức khác thường của khí hậu, hàng ngàn vạn con kiến đỏ buộc phải di chuyển lên chỗ cao hơn để tránh nguy cơ chẳng may tổ kiến bị lũ quét, số lượng kiến đỏ trong rừng rậm nguyên sinh nhiều đến khiếp người. Tuy gọi là kiến đỏ nhưng toàn thân nó đen sì sì, chỉ có một chút ở phần đuôi là điểm màu đỏ thẫm, con to nhất phải gần bằng ngón tay người, con bé cũng cỡ hạt gạo, chúng lúc nhúc tụ tập thành từng đoàn bò dọc vách đá hướng dần lên trên. Người đứng ở nơi xa nhìn vào sẽ thấy chúng chẳng khác nào một con rắn dài. Có lẽ từ hàng triệu năm trước từng có người tận mắt nhìn thấy hiện tượng tự nhiên thần bí này, nên mới lưu lại truyền thuyết ly kỳ khiến người ta khó lòng tin nổi.



Tuy Ngọc Phi Yến đã nói bóng đen ngoằn ngoèo trên vách đá không phải mãng xà, nhưng nhóm người Miến Điện, bao gồm cả Karaweik, vẫn không thể lý giải được làm sao kiến đỏ trong rừng rậm lại biết chủ động leo lên chỗ cao tránh mưa bão, nên họ cứ một mực cho rằng rắn thiêng mượn xác bầy kiến để hiện thân, rồi ai nấy mặt vàng như nghệ, miệng không ngớt lầm rầm tụng niệm.



Ngọc Phi Yến giải thích với mọi người, kiến đỏ sinh tồn trong rừng rậm nhiệt đới còn gọi là kiến vống, chúng biết nhả ra "chất tín hiệu chỉ đường" khi nhai nuốt thức ăn trên những nơi mà chúng đã hành quân qua. Bởi vậy mỗi lần di chuyến ở khoảng cách xa, chúng đều bò theo một tuyến đường nhất định cùng nhau, đợi khi thời tiết ổn định, thì sẽ quay lại đường cũ để trở về đáy vực, cùng nhau xây dựng lại chiếc tổ đã bị mưa gió cuốn trôi. Nhìn số lượng khổng lồ của đàn kiến đang tụ tập trên vách đá thật khiến người ta khiếp hãi, và có thể đoán định nội trong mười mấy dặm xung quanh chắc không còn đàn kiến nào có quy mô vĩ đại như thế. Đã có người từng tận mắt nhìn thấy kỳ quan sinh vật của giới tự nhiên ở gần cổng đường hầm của con đường U Linh, thì đường hầm xuyên núi đó chắc hẳn cũng chỉ ở đâu đây mà thôi.



Ngọc Phi Yến móc một sợi dây chuyền vàng trong người ra bảo phiên dịch nói với mọi người: "Ai tìm được lối vào núi, sợi dây chuyền vàng trên tay tôi sẽ thuộc về người đó."



Tư Mã Khôi vốn còn cho rằng cô ả Ngọc Phi Yến có chiêu thức đặc biệt làm lung lạc lòng người, hóa ra cũng chỉ là hạng mang tiền ra nhử mồi câu, không có gì mới mẻ cả. Có điều, người ta vẫn thường nói: "Mang tiền trọng thưởng, tất có dũng phu", mấy người Miến Điện này tuy khiếp sợ núi Dã Nhân đến tận xương tận tủy, nhưng hơn hết, bọn chúng là lũ thổ phỉ hung hãn nên chỉ cần tiền, chẳng cần mạng. Dưới sự dụ dỗ của cái lợi to lớn trước mắt, ban đầu chúng còn hoảng loạn mất một lúc nhưng sau đó dưới lệnh của thủ lĩnh trong đội, chúng lần lượt leo xuống vực sâu tìm kiếm lối ra của con đường hầm.



Đội thám hiểm lùng sục theo hình thức đan rào một hồi, cuối cùng cũng phát hiện thấy cổng đường hầm của con đường U Linh, nhưng phần chóp cổng đã bị sụt lở hoàn toàn, một lượng đất đá lớn đã sụp xuống bịt kín lối ra, dường như nó bị con người dùng thuốc nổ phá hủy. Có lẽ quân Mỹ trước khi rút khỏi đường hầm tuyến đường B, muốn phong tỏa vĩnh viễn khu vực nguy hiểm này nên đã tiến hành kích nổ nhiều lần, khiến lối ra hoàn toàn đổ sụp, không thể tiếp tục đi về phía trước được nữa.



Có điều, vẫn là đám lính vũ trang Miến Điện giàu kinh nghiệm đã tìm thấy một khe núi bí ẩn bị thảm thực vật um tùm che phủ, nằm ở mặt bên của vực thẳm, nơi lũ kiến vống đang bò. Trên tầng nham thạch nhẵn nhụi ở cổng vào khe núi vẫn còn lưu giữ những bức tranh đá nguyên thủy mô tả cảnh tượng chết chóc của một bầy voi rừng lớn.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Lòng sơn cốc thâm u, khúc khuỷu, không gian tĩnh mịch, nặng nề, hai bên mọc đầy cây cổ thụ tán lá rộng rợp trời, đan kết, xen cài vào nhau, khiến mặt trời không thể chiếu sáng khoảng không trên đầu, mà chỉ có những tia nắng yếu ớt lọt qua kẽ lá âm u rậm rạp.



Cuốn sổ ghi chép của cố nội Karaweik không chỉ mô tả địa hình trong lòng "Tượng môn" hoàn toàn trùng khớp với bức bản đồ cổ, mà còn ghi chép rất nhiều sự kiện liên quan. Nghe nói, trong thời kỳ chiến tranh Anh - Miến, từng có một viên thượng úy người Anh chỉ huy lính tác chiến ở gần khu vực núi Dã Nhân. Do quân Anh được trang bị vũ khí đầy đủ, tinh nhuệ nên đã dễ dàng đánh bại kẻ địch. Trong quá trình truy sát tàn quân, viên thượng úy đó đã gặp một con voi rừng già nua đang chuẩn bị lên đường gặp tổ tiên ở rừng rậm nguyên sinh. Một binh sĩ người Ấn Độ, là thuộc hạ của anh ta vì ham muốn chiếc ngà voi rừng, định dùng súng bắn hạ sát con voi già, nhưng viên thượng úy đã hoạt động nhiều năm ở Ấn Độ, Miến Điện... biết rõ tập tính của bầy voi rừng, nên ngăn không cho người binh sĩ nọ nổ súng làm kinh động đến nó, mà lặng lẽ dẫn quân đi sát theo sau. Điều anh ta muốn biết là rốt cục con voi đến chỗ nào để chờ chết.



Thì ra voi rừng Miến Điện có một tập tính đó là khi một con voi già yếu sắp chết, nó thường linh cảm được sự tắt rụi của số mệnh, bèn một mình rời khỏi đàn voi, đơn độc tiến vào rừng sâu. Nó đi mãi cho đến huyệt động đá, nơi tổ tiên mình vùi xương từ hàng ngàn năm, sau đó nằm phủ phục bên cạnh đống xương voi chồng chất, không ăn không uống, lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón.



Tương truyền, huyệt mộ voi rừng Miến Điện, cổ xưa nhất dễ có lịch sử hàng vạn năm nên xương voi, ngà voi trong động chất đầy như núi. số lượng di hài bầy voi rốt cục có bao nhiêu, chẳng ai đếm được chính xác, cũng là do niên đại quá xa xôi, thậm chí có những chiếc ngà voi quá cổ xưa đã hóa thạch nằm dưới tầng đáy của huyệt động.




Những sản phẩm thủ công mỹ nghệ tinh xảo chế tạo từ ngà voi được giới quý tộc châu Âu rất ưa chuộng, nên giá trị vô cùng cao. Viên thượng úy Anh biết rằng, chỉ cần bám theo tung tích con voi già, rất có khả năng sẽ tìm thấy miền đất vùi xương của tổ tiên nó, điều đó cũng có nghĩa là sẽ tìm ra một kho báu vô giá, chứ không chỉ đơn giản dừng lại ở hai chiếc ngà voi.



Khi đó, viên thượng úy Anh vì bị lòng tham làm mờ lý trí nên đã bỏ qua một điều vô cùng quan trọng, đó là ý thức bầy đàn của voi rừng Miến Điện vô cùng mạnh mẽ, chúng không ngại trả mọi giá để bảo vệ bí mật về miền đất vùi xương của tổ tiên. Không những thế, dường như bầy voi cũng biết được, từ trước đến nay, sở dĩ chúng bị loài người săn bắn, hạ sát, căn nguyên chính là vì đôi ngà quý giá, bởi vậy huyệt mộ mà chúng lựa chọn thường nằm giữa khu vực nguy hiểm nhất trong núi sâu, rừng già, đủ để khép chặt lối về của bất kỳ kẻ bám sát nào.



Kết quả, viên thượng úy chỉ huy hơn hai trăm tinh binh Ấn Độ, bám sát dấu chân con voi già, tiến sâu vào khe núi ẩn khuất. Vượt qua bao gian khổ hiểm nguy, cuối cùng họ cũng nhìn thấy vô số động huyệt thiên nhiên bị màn rễ của cây si buông rủ phủ kín, nằm sâu trong khe núi. Đó đều là những huyệt động thiên nhiên được hình thành do quá trình nước mưa xâm nhập vào lòng núi đá vôi, làm tan chảy phần nham thạch mềm xốp, trải qua hàng chục triệu, thậm chí hàng trăm triệu năm dần dần điêu khắc mà thành. Gió lạnh trong động thổi vù vù, huyệt động âm u huyền bí bốn phía thông thoáng, hình thành một mạng lưới địa hình Karst - kiểu địa hình phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn - dày đặc, miên man. Những huyệt động này không chỉ khoáng đạt, rộng rãi khác thường mà còn chứa đựng tầng tầng lớp lớp di hài của loài voi rừng.



Viên thượng úy người Anh kinh ngạc cực độ, chỉ có thể dùng bốn chữ "huyệt động ma mút" để hình dung cảnh tượng đang hiện ra trước mắt. Mặc dù trong đống di hài voi rừng cao ngất tuyệt đối không có xương của loài mãnh thú thời kỷ nguyên băng hà, nhưng chỉ có thể hình khổng lồ của chúng mới đủ sức mô tả huyệt động hùng vĩ như một kỳ tích này. Ngoài ra, bọn họ còn phát hiện, nơi tận cùng huyệt động ma mút ăn thông với một khe núi khổng lồ có độ sâu khó lường, với màn sương mù ào ra từ lòng đất đặc quánh đến nỗi tưởng như không thể rẽ ra nổi, lúc đó chẳng ai dám bước chân tới thăm dò.



Tuy viên thượng úy không dám tiến sâu vào khe cốc, nhưng núi sâu hiểm nguy mai phục tứ bề, ngoại trừ rắn độc, ác thú ra, thì còn vô số lời nguyền cổ xưa, nên cuối cùng cả đoàn quân đều bị tiêu diệt gần như sạch trơn. Viên thượng úy nọ cũng nằm trong số những kẻ phải bỏ mạng, chỉ có vài người may mắn sống sót, nhưng chẳng ai mang nổi nửa cái ngà voi ra khỏi rừng. Sau đó, rất nhiều nhà thám hiểm và những kẻ đầu cơ cũng thử vào đây tìm vận may, nhưng chẳng có ai thoát chết trở về. Bởi thế khe núi này bị coi là vùng đất cấm.



Khương sư phụ phán đoán, khe cốc này có lẽ chính là "Tượng môn" mà tấm bản đồ cổ đã mô tả, hướng đi của con đường Stilwell về cơ bản cũng có nhiều nét tương đồng. Trong quá trình tiến hành thi công đường hầm, quân đội Mỹ đã vô tình xuyên thủng rìa khe cốc khiến sương khí trong lòng đất trào ra, rồi bao nhiêu nhân viên bị bỏ mạng hoặc mất tích cũng từ đây. Bởi vậy, quân đội Mỹ đành từ bỏ tuyến đường 206B. Nơi tận cùng của "Tượng môn" có lẽ cũng nối liền trực tiếp với lòng núi Dã Nhân. Đường đến khe động trong núi sâu có lẽ cũng không chỉ có một lối, nhưng "mọi ngả đường đều dẫn về La Mã", chẳng có nơi nào là không nguy hiểm.



Nếu bây giờ dùng thuốc nổ để mở lối ra của đường hầm 206 thì chắc chắn không chỉ một hai lần mà có thể thành công ngay được. Khương sư phụ tự lượng đội thám hiểm đều được vũ trang đầy đủ, hơn nữa kinh nghiệm lại rất phong phú, nếu cứ quanh quẩn mãi ở con đường U Linh tương đối an toàn thì chi bằng mạo hiểm xông vào huyệt động ma mút. Lão ta cũng là kẻ toan tính lọc lõi, nên lão bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải hai người đi trước dò đường, đồng thời còn sắp xếp Xuyên Sơn Giáp đi theo giám sát. Ngọc Phi Yến cũng đồng ý với cách sắp xếp này, bèn vẫy tay gọi ba người lại, rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa hai con dao săn cho hội Tư Mã Khôi dùng để phòng thân, ngoài ra còn phát thêm hai chiếc đèn pin và pháo sáng tín hiệu.



Xuyên Sơn Giáp là gã người Quan Đông, khoảng hơn bốn mươi tuổi, trên mặt hằn một vết sẹo do dao chém, tứ chi ngắn ngủn, thô ráp, thân hình thấp lùn, săn chắc, tính tình trầm lặng ít nói, dễ nóng nảy cáu bẳn, bản mặt lúc nào cũng gằm gằm. Gã tự biết đi trước dẫn đường rất nguy hiểm, nhưng thủ lĩnh đã phát lệnh thì không dám trái lời, bèn gắt gỏng thúc giục Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Hai thằng ôn nghe cho rõ đây, đi đằng trước, da mặt phải căng ra một chút, cố gắng mà tỉnh táo cho ông mày đấy!"



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ định cố tình tụt lại phía sau, nhưng nghe Ngọc Phi Yến bố trí thì thầm nghĩ: "Thành viên trong đội thám hiểm của cô, người nào cũng được vũ trang đến tận răng, còn có cả Thảo Thượng Phi, Xuyên Sơn Giáp, thế mà lại bắt tàn binh bại tướng bọn tôi mạo hiểm tính mạng đi trước dò đường mà không biết ngượng mặt à?" nhưng rồi lại tính: "Chúng ta làm sao phải cúi đầu trước gã lùn tịt thế kia? Đã biết chắc mình sẽ trở thành xác pháo khi đi dò địa lôi cho bọn họ, mà cơ sự đến nước này muốn không đi cũng không được, nên tốt nhất chả nên lèm bèm làm gì, kẻo chỉ khiến người ta thêm khinh thường." Thế là người nào người nấy làm theo gã lùn, uể oải đứng dậy, bước từng bước chậm chạp.



Càng đi sâu vào trong sơn cốc, địa thế càng trở nên rộng rãi, thoáng đạt, nhưng những thân cây cổ thụ cũng cao lớn lừng lững hơn, tưởng như muốn chọc thủng trời, tán lá của chúng um tùm, đan cài, kết chặt vào nhau, tạo thành tấm màn màu xanh khổng lồ giăng mắc giữa không trung, hoàn toàn che kín vòm trời. Trên mặt đất, cây bụi cỏ dại mọc rậm rạp, chồng chéo chen lấn lẫn nhau, rất nhiều chỗ phải lần mò từng bước. Do nơi đây quanh năm không có ánh mặt trời, nên những vũng nước tù đọng chỗ trũng cũng bốc lên một mùi hôi thối, tanh tưởi, xộc nhức sống mũi.




Phần đáy rừng rậm hoàn toàn bị lớp sương mờ khói tỏa bủa vây. Sương khí thông thường được chia ra làm mấy loại như: sương mù gió, sương mù núi, sương mù hơi, sương mù bức xạ. Tại những nơi rừng sâu núi thẳm hoặc những khu vực có vũng tù nước đọng, còn xuất hiện chướng khí, sương mù mang theo độc tố. Thế nhưng, đến tận bây giờ vẫn chưa ai có thể giải thích, màn sương mù trong khe cốc khổng lồ của núi Dã Nhân cuối cùng thuộc thể loại sương mù gì, và được hình thành như thế nào. Thông qua kiểm tra, người ta đã xác định loại sương mù này hoàn toàn không có độc, cũng không có tác dụng khiến người ta hôn mê hay hoang tưởng. Vậy rốt cục nó được sinh ra bởi khí ẩm trong lòng núi, hay từ dưới lòng đất trào ngược lên. Nhưng bất luận thế nào, sự xuất hiện của "sương mù" là dấu hiệu đã bước vào lãnh địa của khu vực nguy hiểm thực sự.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải cố nhịn thở, rẽ đám gai bụi phía trước, xuyên qua rừng rậm um tùm dưới sơn cốc, từ từ tiến sâu vào trong. La Đại Hải ngoái đầu nhìn Xuyên Sơn Giáp bám sát phía sau, cách họ chừng mười mấy mét, hằn học nói: "Con tặc nữ Ngọc Phi Yến lòng dạ đen tối thật, bây giờ bọn mình bị rơi vào tay nó, mẹ kiếp, khác nào Võ Đại Lang gặp Phan Kim Liên - đúng là lành ít dữ nhiều."



Tư Mã Khôi điềm nhiên bảo: "Chí ít Võ Đại Lang còn có huynh đệ là Võ Tòng giúp ông ta trả thù huyết hận, còn tớ thấy nếu chẳng may bọn mình phải xuống điểm danh với Diêm Vương thì cũng chả có ma nào thèm đến đây giúp dọn xác đắp mộ đâu. Có điều, việc đến nước này, cậu nên nghĩ thoáng một chút, miếu nào mà chẳng có vài oan hồn, ai bảo số bọn mình đen đủi."



Hải ngọng từ đầu đã thấy ngứa mắt với đám người trong đội thám hiểm, anh chửi đổng một hồi, sau đó ngoái lại phía sau nhìn Xuyên Sơn Giáp, thấy đối phương cách mình không quá gần, chắc chẳng nghe thấy gì, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Khôi này, cậu thử ngắm vị đi đằng sau chúng ta xem, sao tớ thấy gã ngứa mắt thế nhỉ! Cậu bảo hai đứa bọn mình tham gia ngần ấy năm trong quân đội cộng sản Miến Điện, giết bao nhiêu người, nổ bao nhiêu vụ, ngay cả bản thân cũng chẳng nhớ xuể, vậy tại sao cứ phải cố nén chịu cảnh này? Cậu nhìn gã kia đi, chẳng qua chỉ là thằng trộm mộ quèn, chẳng làm được trò trống gì ngoài việc lén lén lút lút đào bới mấy ngôi mộ vô chủ, nhân tiện bắt nạt luôn người chết nằm trong quan tài, gã có bản lĩnh gì mà dám ra vẻ thâm trầm thế nhỉ?"



Tư Mã Khôi cũng liếc mắt nhìn về phía sau một cái, anh bảo La Đại Hải: "Cậu chớ đảo lưỡi nói bừa, gã Xuyên Sơn Giáp đó tuyệt đối không phải hạng tầm thường đâu. Cậu ngắm hai cánh tay vừa ngắn vừa thô của gã mà xem, chắc chắn được rèn luyện lâu năm từ công việc bới huyệt, đào lỗ, chui ống khói, còn đôi chân vòng kiềng nữa chứ, dài như cái lò xo, vừa nhảy vào động huyệt, chỉ cần chiu một cái là có thể bắn xa hơn mười trượng. Còn thân thể nung núc những thịt kia, tớ đoán nếu bị ngâm trong mộ cổ không ăn không uống nửa tháng, gã cũng chẳng thể chết vì đói đâu. Gã Xuyên lão gia này chắc chán là bậc kỳ tài cái thế, được sinh ra chuyên để khai quật mồ mả đấy!"



La Đại Hải chẳng mấy tin, liền vặn lại: "Cậu bảo gã là người hay cái cào đất?" vừa nói anh vừa ngoái đầu liếc mắt ra sau. Nhưng vừa nhìn anh đã giật nảy mình, vội vàng hét gọi Tư Mã Khôi. Lúc hai người quay đầu lại, chỉ thấy đằng sau vắng tanh không một bóng người, gã Xuyên Sơn Giáp luôn bám sát sau lưng đột ngột biến mất chẳng còn tung tích.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vô cùng kinh ngạc, vì nếu khi nãy Xuyên Sơn Giáp vô ý rơi vào đầm lầy trong hốc cây thì chắc phải nghe thấy chút động tĩnh gì đó mới phải, đằng này chỉ trong nháy mắt, hai người đều chẳng phát hiện được Xuyên Sơn Giáp vẫn bám ngay phía sau đã biến đi đâu mất.



Đúng lúc đó, hai người nghe thấy dường như có một con vật rất to lớn động đậy trên vòm cây, liền lập tức ngẩng đầu lên nhìn, đồng thời bật sáng đèn pin, chiếu thẳng vào nơi phát ra âm thanh, nhìn qua nhìn lại tìm kiếm thì thấy thân thể của Xuyên Sơn Giáp đang chơi vơi giữa không trung âm u, nét mặt khó coi đến cực độ, ngũ quan biến dạng, dường như miệng không thể nói, chỉ thấy tứ chi vừa ngắn vừa thô, cố sức giãy giụa, giằng co.



Thì ra ở trên cao cách chỗ họ mười mấy bước, có một con mãng xà đen, thân hình to như thùng nước. Con mãng xà vắt vẻo trên một thân cây cổ thụ, cuộn thành mấy vòng. Nó thả người từ trên cao xuống, há cái miệng rộng ngoác như cái đấu gạo, đỏ lòm lòm như máu không ngừng hít khí, khi Xuyên Sơn Giáp đi đúng tầm thì bị nó hút ngược từ dưới gốc cây lên giữa không trung rồi nuốt sống vào bụng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: bão nhiệt đới buddha - hồi thứ nhất: xẻ bụng


Chương 3: Bão nhiệt đới Buddha - Hồi thứ nhất: Xẻ bụng



Trong rừng già núi sâu ở Miến Điện, mãng xà đen và rắn độc là loài sinh vật vô cùng phổ biến, nhưng chẳng thể ngờ được con ô xà náu mình trên tán cây um tùm âm u này lại có khả năng hút một thân thể to béo, vạm vỡ như Xuyên Sơn Giáp lên giữa không trung trong lúc mở miệng hít thở. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, trong lòng vô cùng khiếp đảm, sống lưng lạnh buốt như bị nước đá giội vào. Hai người lại chẳng thể ra tay ứng cứu vì trên người chẳng có súng, lại không thể dùng dao săn vì khoảng cách quá xa. Họ chỉ biết chôn chân đứng nhìn con mãng xà đen bóng há miệng hút ngược Xuyên Sơn Giáp lên, rồi thò đầu xuống nuốt cả người gã vào bụng. Cơ thể con mãng xà phút chốc lồi lên hình dạng một con người.



Tuy Xuyên Sơn Giáp có mang theo súng máy tự động, nhưng sự việc diễn ra quá đột ngột, nên gã chẳng kịp phòng bị gì, đến khi nhận ra thì đã bị cuốn vào một cơn lốc tanh tưởi.



Có câu: "Lực bắt nguồn từ đất", giờ đây hai chân của Xuyên Sơn Giáp lại rời khỏi mặt đất, cả cơ thể chơi vơi giữa không trung, trên đầu dưới chân, chẳng chỗ nào có thể bám víu để phản kháng cả, thế là gã lập tức bị nuốt sống vào bụng con mãng xà.



Xuyên Sơn Giáp là tên đạo tặc đào mồ trộm mả chuyên nghiệp. Vì thường xuyên phải làm những công việc liều mạng nên cũng giúp gã có được một thân thủ phi phàm hiếm có, thủ thuật cũng không phải hạng vừa. Gã bị con mãng xà khổng lồ nuốt chửng vào bụng, chỉ cảm thấy một mùi tanh tưởi ghê tởm xộc vào tận óc, cả cơ thể dường như bị rơi vào nồi canh sôi sùng sục, toàn thân bỏng rát không thể chịu đựng nổi, may mà thần trí vẫn chưa bị nhiễu loạn, đầu óc hãy còn tỉnh táo. Gã vươn cánh tay ngắn ngủn trong phút chốc thi triển công phu, móc cây giáo mỏ vịt luôn mang theo bên người, cắm phập lưỡi dao sắc lẻm xuống phía bên dưới, rạch mạnh một đường. Mũi dao rạch bụng con mãng xà nghe "soạt" một tiếng như rạch vào tấm da mủn nát. Thấy vậy, gã lại cố sức rạch thêm vài nhát nữa, bụng con ô xà bị xẻ dọc từ trong ra ngoài.



Con mãng xà khổng lồ Miến Điện lúc đầu còn chưa phát hiện bụng mình đã bị rạch lòi cả ruột gan, nên mãi cho đến khi Xuyên Sơn Giáp xẻ một đường dài mười mấy mét dưới đáy bụng, thì nó mới hay tình thế nguy to. Nhưng sự thể đã muộn, nó quằn quại, giãy giụa trên thân cây cổ thụ một hồi mới chết hẳn.



Tất cả những sự việc trên chỉ xảy ra trong thời gian nháy mắt. Không đợi Tư Mã Khôi và La Đại Hải kịp định thần lại, Xuyên Sơn Giáp đã từ vết rạch trên bụng con mãng xà rơi tõm xuống đất, trông gã chẳng khác nào một củ cải đỏ lòm, từ đầu đến chân dính nhầy nhụa chất dịch vị trong dạ dày con quái thú.




Tư Mã Khôi và La Đại Hải thấy thân hình phì nộn của Xuyên Sơn Giáp rơi từ không trung xuống, thì cùng đồng thanh hét lên hoảng hốt, rồi định chìa tay ra đón, nhưng hai người bọn họ làm sao có thể đỡ nổi. Một người sống nặng gần chín mươi cân, lại rơi vèo vèo từ trên cao xuống, trọng lực có khác chi bom dội. Thế là Xuyên Sơn Giáp lao uỳnh xuống người bọn họ, tất cả ngã nhào ra đất, cuốn cả vào nhau, lăn liền mấy vòng.



Con mãng xà treo mình trên cành cây cổ thụ đã chết vì bị rách bụng, mất máu quá nhiều. Xác nó từ cây cao trôi tuột xuống, Tư Mã Khôi lăn sang một bên tránh con rắn chết. Quay sang Xuyên Sơn Giáp, anh phát hiện gã bị thương không nhẹ, hơn nữa chất axít tiết ra từ dịch vị tiêu hóa trong dạ dày con mãng xà rất đậm đặc, cho dù thân thể gã to khỏe, lại thoát thân thần tốc nhưng da thịt vẫn bị phân hủy nhiều phần, ngũ quan trên mặt cũng chẳng còn toàn vẹn.



La Đại Hải vô cùng thán phục chiêu xẻ bụng mãng xà, tự mình chui ra khi nãy của Xuyên Sơn Giáp, giờ nhìn thấy bộ dạng gã thảm hại như vậy, anh không để ý bản thân cũng đang đau ê ẩm khắp mình mẩy, vội vàng đỡ gã dậy, ân cần hỏi: "Anh bạn Xuyên Sơn Giáp, anh vẫn bình an vô sự đấy chứ?"



Tư Mã Khôi quan sát các tổn thương trên người Xuyên Sơn Giáp, rồi lấy tay khẽ ấn lên bề mặt da, thấy tất cả đều mềm nhũn như quả dưa thối, tóc tai rụng sạch, mũi chạm một cái là rớt xuống, bèn lắc đầu nói: "Đã thành bộ dạng này rồi, còn bình an vô sự được sao?"



Anh tìm mọi cách để gọi mọi người đến một cách nhanh nhất, biết đâu nếu được Tuyệt cấp cứu kịp thời, Xuyên Sơn Giáp lại sẽ giữ được cái mạng. Thế là anh lập tức huơ huơ pháo sáng tín hiệu, giơ cao tay gắng ném nó đi thật xa.



Ai ngờ, ánh lửa màu đỏ của pháo hoa vừa lóe lên, trong phút chốc toàn bộ khu vực phụ cận đều rực sáng. Tư Mã Khôi và La Đại Hải kinh hoàng phát hiện dưới màn bụi bay mù mịt như sương khói, trong những hốc cây hoặc động đá, hàng ngàn con mãng xà Miến Điện đang giương cặp mắt sáng quắc như điện xẹt, miệng thò thụt chiếc lưỡi đỏ lòm, thân con nào con nấy to lừng lững như cái đấu đong gạo, dài chẳng biết bao nhiêu mét, lũ lượt thò đầu ra khỏi hang, vắt vẻo đu mình, rồi ngoằn ngoèo bò xuống đất.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải than thầm trong bụng, vừa tận mắt chứng kiến Xuyên Sơn Giáp bị con mãng xà nuốt vào bụng, thân hình biến dạng thảm hại thế nào, nên giờ đâu dám chần chừ nửa giây, cả hai đồng thanh hét lên một tiếng, rồi vội vã quay đầu bỏ chạy thục mạng. Liền ngay đó, mấy chục con mãng xà Miến Điện lập tức phóng mình đuổi theo.



Tuy trong thâm cốc rừng già, cây cối um tùm, địa hình phức tạp khiến tốc độ di chuyển của lũ rắn giảm đi đáng kể, nhưng con người cũng vì thế mà chẳng thể chạy nhanh.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tư Mã Khôi và La Đại Hải chạy cuống cuồng ra khỏi chỗ cũ chừng mấy trăm bước. Trong lúc hoảng loạn, họ chẳng kịp nhìn kỹ đường, chỉ thấy chỗ nào có thể dung thân là lập tức lao vào ẩn trốn. Quần áo trên người họ bị móc rách không biết bao nhiêu chỗ, tốc độ di chuyển cũng buộc phải chậm lại. Họ chỉ nghe lũ mãng xà rượt đuổi phía sau lao vù vù như gió cuốn, tiếng thân mình chúng va chạm vào cành khô, bùn đất nghe "rào rào", khoảng cách đôi bên càng lúc càng bị rút ngắn.



Tư Mã Khôi nhận thấy tình thế khó bề thoát thân, nên đành dừng lại cùng La Đại Hải, mỗi người nắm chặt trong tay con dao săn, lưng dựa sát vào một thân cây cổ thụ, chuẩn bị quyết chiến sống mái với chúng một phen. Đúng lúc nguy cấp ngàn cân treo sợi tóc, thì hai người đột nhiên thấy hai lưỡi lửa bỏng rát vù vù lao ra từ sau thân cây. Lưỡi lửa rừng rực, sóng này nối tiếp sóng khác. Cây cối xung quanh đổ rạp như gặp phải thần quỷ, để mặc chúng ra sức thể hiện sự hung tợn và cuồng bạo của mình. Những nơi lưỡi lửa liếm đến, ngay cả không khí và bùn đất đều bị bốc cháy, khí quyển khô nóng đến mức khiến người ta phải cảm thấy ngột ngạt.



Tư Mã Khôi trấn tĩnh nhìn lại, thì ra hội Ngọc Phi Yến bám ngay phía sau, nhìn thấy ánh sáng của pháo phát tín hiệu liền nhanh chóng đuổi theo tiếp ứng, rồi khi gần đến nơi, phát hiện phía trước có mãng xà lai vãng, bèn dùng bình phun lửa mang theo tấn công chúng. Mãng xà Miến Điện tuy da dày thịt cứng nhưng cũng chẳng phải mình đồng da sắt gì, nên làm sao chúng chịu nổi sự thiêu đốt của ngọn lửa cuồng bạo. Con nào không bị cháy thành tro ngay tại trận thì cũng thục mạng luồn lách mất tăm mất dạng.



Ngọc Phi Yến phát hiện ba người đi trước dẫn đường giờ chỉ còn hai, liền đoán biết bọn họ đã gặp phải chuyện chẳng lành. Cô ả không hỏi han gì nhiều, lập tức huýt sáo gọi đám lính vũ trang người Miến Điện đến, dùng bình phun lửa mở đường, tỏa ra thành hình nan quạt tiến sâu vào khe núi. Đi chẳng bao lâu, cả hội đã tìm thấy thi thể nằm thẳng đuỗi trên đất của Xuyên Sơn Giáp.



Mọi người nhìn thấy tư thế chết thảm thương của Xuyên Sơn Giáp, lại nghe Tư Mã Khôi và La Đại Hải thuật lại đầu đuôi sự việc, đều cảm thấy không lạnh mà sởn gai ốc. Ngọc Phi Yến thầm nghĩ: "Lần này Khương sư phụ đã tính sai một bước, việc chưa đến đâu mà khiến một huynh đệ phải bỏ mạng".




Cô ả dẫn mọi người đến trước thi thể của Xuyên Sơn Giáp bái lạy: "Toàn huynh cứ an tâm lên đường, tất cả già trẻ gái trai trong nhà đã có mọi người thay mặt huynh chăm sóc. Sau khi trở về, chúng tôi sẽ đến chùa Kim Bồ Đề lập bia trường sinh, nếu huynh ở dưới cửu tuyền có hay, thì hồn thiêng hãy bay đến đó mà thọ hưởng hương hỏa." Sau đó, Thắng Ngọc lệnh cho thuộc hạ cắt một ít tóc của Xuyên Sơn Giáp mang về an táng, phần thi thể còn lại được đốt thành tro, rồi đào một nấm mồ chôn cất tro cốt rất cẩn thận.



Ngọc Phi Yến gọi Xuyên Sơn Giáp là Toàn huynh, kỳ thực Xuyên Sơn Giáp không mang họ Toàn, chẳng qua hành quy của bọn hối tử trộm mộ có rất nhiều điều cấm kỵ, về cơ bản, chúng khá tương đồng với đạo lục lâm.



Theo giới luật của dân giang hồ Quan Đông, điều húy kỵ nhất ở mỗi ngành nghề, chính là trong tên có nhắc đến các số "hai, bốn, sáu, tám, chín", bạn có thể gọi họ là tam ca, ngũ ca, nhưng không được gọi họ là nhị ca, tứ ca. Xuyên Sơn Giáp là con thứ tư trong gia đình, cho nên Ngọc Phi Yến dùng chữ Toàn để thay thế.



Việc này nếu nghiên cứu kỹ lưỡng thì rất sâu xa, nếu nói đơn giàn dễ hiểu một chút thì đại khái là do: "tam giáo cửu lưu, thiên môn vạn đạo" - tất cả bọn họ đều tôn kính Quan Đế Thánh Quân, mà Quan Đế là nhị ca trong ba anh em Lưu Bị kết nghĩa vườn đào, đương nhiên chẳng ai dám bằng vai phải lứa với Quan Nhị Gia. Hơn nữa, thời Bắc Tống có tên Dương Tứ Lang hàng địch theo Liêu, thời Tùy Đường có Lão Lục La nuốt lời thề, phản bội huynh đệ. Họ đều là những điển hình phản diện, cho nên giới giang hồ mới cố tình tránh né để cảnh báo đời sau.



Dân giang hồ còn tuyệt đối tuân thủ luật lệ: "Ba nói, ba không nói, ba lộ, ba bất lộ". Ba nói, ý muốn ám chỉ những phi vụ của đạo tặc lục lâm, được phép nói với người cùng nghề, được phép nói ở điện đốt hương, được phép nói lúc ra tay trộm được đồ ăn cắp. Ba không nói là, không được nói với đông đảo mọi người ở sân đình, không được nói ở miếu điện - cũng có nghĩa là không được ăn nói tùy tiện trước mặt quan viên cùng nghề và không được nói lúc uống rượu trụy lạc. Ba lộ là: được phép tiết lộ lúc bản thân gặp tai nạn, được phép tiết lộ khi có việc gấp, được phép tiết lộ khi gặp đạo tặc. Ba bất lộ là không được tiết lộ cho người gặp trên đường, không được tiết lộ cho người nhà, không được tiết lộ cho kẻ thù. Không được tiết lộ cho người nhà tức là "trên không nói cho cha mẹ, dưới không nói với con cái", truyền nhân trong gia tộc đương nhiên không tính vào đây. Rốt cục những giới luật và húy kỵ trong quan gia giới đạo không chỉ giúp họ bảo vệ được bí mật trong nghề ở mức độ nào đó, mà còn giúp họ gặp lành, tránh dữ.



Hội trộm mộ trong "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" đều là những kẻ tin tưởng, khiếp nhược thần linh, nghiêm khắc tuân thủ hành quy xưa cũ. Sau khi đã xử lý hoàn tất thi thể của Xuyên Sơn Giáp, thấy sắc trời đã mỗi lúc một âm u hơn, dưới sự uy hiếp đang ngày càng kề cận của cơn bão nhiệt đới Buddha, mọi người không dám lưu lại lâu hơn, vội vã khởi hành vào sâu trong khe núi.



Vì thời gian gấp gáp, nếu quay trở về đường cũ thì chắc chắn cũng bị nước lũ và dòng bùn đất do cuồng phong bạo vũ mang đến nuốt chửng, bởi vậy, Ngọc Phi Yến không cắt cử người đi trước dẫn đường nữa, mà tất cả mọi người cùng tiến vào khu rừng bí ẩn.



Đường nhánh ở khe sâu trong khe núi mỗi lúc một nhiều hơn, mạch núi nhấp nhô, dài miên man đều bị che phủ bởi rừng rậm nguyên sinh. Các loài thực vật sinh trưởng ở đây đều có tính xâm lấn rất mạnh đã khiến địa tầng trong lòng núi bị nứt toác, tạo thành rất nhiều khe sâu, chúng giao thoa ngang dọc lằng nhằng, phân bố chằng chịt như mạng nhện. Trong lòng cốc mọc đầy các loài thực vật khí sinh và thực vật bì sinh[21], cộng thêm vô số những huyệt động lớn nhỏ, nên trông chúng chẳng khác gì một mê cung màu xanh nhiều tầng lớp. Lòng núi yếu xốp có thể sụt lở bất cứ lúc nào, cho dù trong tay có bản đồ chi tiết, thì người đi vào nơi sâu vẫn rất dễ bị lạc đường.



Đi như vậy một hồi cũng chẳng biết có đúng phương hướng hay không, Khương sư phụ bèn bảo mọi người dừng lại. Lão giải thích rằng nếu cứ đi mãi thế này, chỉ sợ lạc đường, tốt nhất nên bày trận "Tiên thiên tốc trưởng, ngũ hành bát quái", để xác định xem phương hướng đội thám hiểm đang đi là đúng hay sai. Hội Ngọc Phi Yến đều biết lão ta dày dạn kinh nghiệm, tinh tường lọc lõi thuật quan sát phân tích thời thế, đoán biết sự biến đổi của tình hình lại rất inh, nên đều rất tin phục.



Khương sư phụ lập tức lấy ra một đồng tiền xu, úp ngược lên chiếc quạt giấy xòe rộng, rồi lật đi lật lại nhiều lần, hai mắt lão dán chặt vào mặt đồng xu, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm:



Sửu bất Nam hành, Dậu bất Đông, cầu tài trộm mộ chỉ hư không,



Dần Thìn về Tây, chủ đại hung, trong quan gặp quỷ, tà hại tại,



Hợi Tý phương Bắc, người mất của, đi lại chẳng thành, cách núi sông,




Tỵ Mùi Đông Bắc gặp tai nạn, tam sơn cản lối, chẳng hanh thông,



Ngọ Thân chớ đi Tây Nam lộ, xuống ngựa cửa mả, nạn chất chồng,



Gặp Tuất đừng đi dưới đường hầm, đụng độ yêu ma mạng mất không,



Mão lên Tây Bắc tai họa giáng, ưng khuyển tác quái, há uổng công.



Khương sư phụ tính xong, lại dùng la bàn xác định cho rõ thêm, lão ngắm chuẩn một khe núi sâu, rồi vội vội vàng vàng đi tuột vào bên trong. Ngọc Phi Yến cũng cuống quýt dẫn mọi người bám sát theo sau. Ngược lại với thái độ tin tưởng tuyệt đối của cô ả, Tư Mã Khôi lại đem lòng sinh nghi. Anh không mảy may nghi ngờ huyền thuật suy đoán phong thủy địa lý của dân trộm mộ, nhưng không hiểu sao lại lờ mờ cảm thấy dường như Khương sư phụ thay đổi cả con người vậy, trên mình lão tỏa ra một mùi khác thường khó có thể hình dung cụ thể, chẳng biết lão định dẫn mọi người đến nơi nào.



Cả đoàn đi theo Khương sư phụ, lòng vòng quanh co trong rừng rậm một hồi khá lâu. Một tên lính Miến Điện phát hiện trong vũng nước tù màu xanh đen lộ ra một cánh tay người chết. Tên đó chắc hẳn phải là tay già đời chốn sa trường, nên nhìn thấy xác chết liền lập tức khám xét một hồi, xem trên thi thể nạn nhân có vật gì đáng giá đại loại như đồng hồ, dây chuyền hay không. Thế là hắn liền đi lên phía trước, gắng sức lôi cái xác lên, hì hục một hồi cuối cùng cũng vớt được cái tử thi nước ướt ròng ròng lên. Cái xác bị lật úp xuống đất, sau khi lật lên, một khuôn mặt đen sì sì lộ ra trước mắt. Dưới ánh đèn halogen, mọi người có thể nhìn thấy da thịt trên gương mặt đã hoàn toàn bị khô đét, lõm sâu, màu da đen quánh như xì dầu đặc, trông chẳng khác gì một cái xác khô bị bay hết hơi nước trên sa mạc. Không những vậy, miệng tử thi còn mở rộng, hốc mắt lõm sâu, vẫn giữ nguyên nét mặt đau đớn trước khi chết, quần áo xung quanh đều mủn như mùn, chẳng rõ đã chết được bao lâu, cũng không thể đoán biết thân phận lai lịch của anh ta.



Lúc này mọi người đều lũ lượt dừng bước theo Khương sư phụ, Tư Mã Khôi nhìn thấy xung quanh có nhiều vết tích cháy đen, do bị bình phun lửa hun đốt khi nãy, trong lòng càng dấy lên nghi ngờ: "Sao lão giặc đất họ Khương cầm cái quạt rách, mông chẳng quạt, lại đi quạt mặt, mà dẫn cả hội trở về sào huyệt mãng xà thế nhỉ?" Anh lén sang thì thấy mặt Khương sư phụ trắng bệch như tờ giấy, thần sắc hoảng hốt, mắt khô vàng như sáp nến, gương mặt trông gầy đi rất nhiều so với trước. Anh đứng bên cạnh bình tĩnh quan sát tiếp thì thấy lão có vài nét khá tương đồng với cái xác chết khô trong vũng nước, cả hai đều giống với loài ác quỷ bò ra từ "thành hàm oan".



Hải Đông Thanh trong "Sơn lâm đội thiếu lão đoàn" là người có ánh mắt rất sắc bén, gã cũng phát giác con đường đang đi là quay trở về xuất phát điểm ban đầu, lại nhìn thấy Khương sư phụ có vẻ khác thường, liền đi lên phía trước hỏi: "Sư gia, người làm sao vậy?" nhưng chỉ nghe miệng Khương sư phụ lẩm bẩm câu gì chẳng rõ tiếng. Hải Đông Thanh không nghe được, lại cho rằng lão có chuyện cơ mật, bèn ghé sát tai vào, thì thầm: "Sao ạ? Người hãy nói rõ hơn một chút..."



Tư Mã Khôi dự cảm thấy có chuyện chẳng lành sắp xảy đến, anh muốn ngăn cản Hải Đông Thanh nhưng lại chậm mất nửa bước. Hải Đông Thanh chưa kịp dứt lời thì thấy phần miệng của Khương sư phụ đột nhiên rách toạc ra làm tư từ trên xuống dưới, từ trái sang phải.



Tư Mã Khôi biết thời Thanh có một loại ám khí, gọi là "Huyết trích tử", đó là quả cầu kim loại rỗng ruột gắn dây thừng dài, to gần bằng sọ người, bên trong giấu lưỡi dao sắc bén và dung dịch hóa cốt - loại dung dịch chỉ cần rắc lên thân thể người chết, sẽ lập tức xảy ra phản ứng hóa học, trong phút chốc thi thể hoàn toàn tiêu tán, chỉ để lại chút tạp chất khó lòng phân biệt là thứ gì. Thích khách sử dụng loại vũ khí này thường ẩn mình trên xà nhà, nhìn thấy mục tiêu ở phía dưới, thì ngắm chuẩn đầu người đó và quăng "huyết trích tử". "Huyết trích tử" hễ chạm đầu người sẽ lập tức phân thành nhiều cánh tỏa xuống phía dưới, ôm chặt lấy sọ người. Thích khách lại vẩy tay giật dây thừng lên, "huyết trích tử" liền tự động cắt đứt đầu người, dưới đất còn mỗi xác chết không đầu đứng sừng sững; thủ cấp trong "huyết trích tử" cũng sớm bị dung dịch hóa cốt giải quyết nhanh gọn, chỉ sót một giọt máu tươi dính trên đó, bởi vậy nó mới có tên "huyết trích tử".



Tư Mã Khôi cảm thấy đầu của Khương sư phụ giờ đây chẳng khác nào một quả "huyết trích tử", từ phần miệng rách toạc, nở ra vô số cánh, càng phình càng dài, những chiếc cánh phóng vù về phía trước, nhanh như chớp trùm gọn lấy đầu Hải Đông Thanh rồi lôi vào trong, sau đó liền thu các cánh đang tỏa ra lại và khép chặt. Sự việc xảy ra quá đột ngột, khiến mọi người ai nấy đều kinh hoàng, đứng im như phỗng. Sau thời khắc thất thần, Hải Đông Thanh cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim thép chọc thẳng vào óc, đau đến nỗi tứ chi co rút, trong phút giằng co giãy chết, khẩu súng trên tay gã bị cướp cò, một loạt đạn quét dọc theo đường di chuyển, đốn ngã mấy đồng bọn trong nháy mắt, một viên trong số đó đâm xuyên qua ngực một tên lính Miến Điện, đánh trúng thùng nhiên liệu của bình phun lửa mà hắn đang cõng trên lưng. Chiếc thùng lập tức phát nổ, chỉ nghe "ầm" một tiếng vang trời, quả cầu lửa bùng lên nuốt chửng những kẻ không kịp chạy đang đứng xung quanh, ngọn lửa rừng rực biến tất cả thành tro bụi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: hồi thứ hai: đỉa campuchia ăn thịt người


Hồi thứ hai: Đỉa campuchia ăn thịt người



Thùng nhiên liệu của bình phun lửa phát nổ, lập tức nuốt chửng mấy tên lính vũ trang người Miến Điện đứng gần đó, cả Hải Đông Thanh và Khương sư phụ cũng bị bùng cháy như hai quả cầu lửa. Khả năng cháy nổ của nguyên liệu chất đốt quân dụng vô cùng mạnh mẽ, chỉ cần nó bùng lên, thì không biện pháp gì có thể dập tắt được. Hơn nữa, ai bị ngọn lửa bủa vây, kẻ đó sẽ nhất định sẽ chết trong tiếng thét gào thảm thiết và ra sức giãy giụa quằn quại.



Ngọc Phi Yến bị chấn động tinh thần một cách mạnh mẽ, chỉ biết đứng chôn chân tại chỗ bởi biến cố xảy ra quá bất ngờ. Cô nàng biết rõ sự lợi hại của bình phun lửa, cho dù cố dập lửa cứu sống hai kẻ may mắn mà "diện tích vết bỏng toàn thân lên đến chín mươi chín phần trăm" thì rừng rậm nguyên sinh cách xa bệnh viện thế này cũng đâu làm được gì, ngoài việc khiến họ phải sống trong đau đớn suốt đời. Điều duy nhất có thể làm bây giờ là lập tức nổ súng, giúp họ sớm kết thúc sự đau đớn do bị ngọn lửa hung tàn hun cháy da thịt. Ngọc Phi Yến từ trước đến nay hành sự rất quyết đoán, nhưng đối với anh em thuộc hạ đã theo mình nhiều năm thì rốt cục vẫn không nỡ nhẫn tâm, cô ta đành ra dấu nhờ Gấu trắng - kẻ lưu vong người Liên Xô - giúp mình kết liễu họ.



"Gấu trắng" tên thật là Ciglovski, là chuyên gia về bộc phá được Ngọc Phi Yến thuê về. Trước đây hắn từng chịu cực hình, lưỡi bị người ta cắt mất quá nửa, giờ đây gã có miệng mà khó nói thành lời, nhưng kinh nghiệm sử dụng thuốc nổ của gã thì cực kỳ phong phú, chỉ cần dự tính đại khái về số lượng thuốc nổ và phương hướng phát nổ là có thể làm gần như chính xác so với thực tế. Gã người Nga này có những nét điển hình người vùng Kavkaz, cao khoảng một mét chín mươi, thân hình to lớn vạm vỡ, tâm địa đen tối, hạ thủ tàn độc.



Năm đó, khi làm cố vấn quân sự viện trợ Việt Nam, gã đã lén trốn ra nước ngoài. Sau khi gã chạy trốn, toàn bộ già trẻ gái trai trong nhà gã đều bị KGB bắt giữ xử bắn, bởi vậy gã mang lòng hận thù bức màn sắt Nga - Xô Viết đến tận xương tủy, và có lẽ những trải nghiệm lưu vong khốn khó đã khiến gã hình thành tính cách khát máu tàn nhẫn như tên đồ tể. Gã giương súng, nhằm thẳng vào mấy thân hình đang bốc cháy rừng rực như cây đuốc sống, từ từ hạ gục từng người một, mỗi phát súng đều bắn xuyên não. Trong cả quá trình giết người, gã chẳng hề chần chừ nửa giây, ra tay vừa tàn bạo, vừa chuẩn xác. Với gương mặt tỉnh khô không chút biểu cảm, trông gã chẳng khác gì một cỗ máy hạng nặng do Liên Xô chế tạo - lạnh lùng và tàn khốc.




Hội Tư Mã Khôi và La Đại Hải trố mắt lên nhìn mà từng cơn gai lạnh cứ trườn qua sống lưng, nhưng đặt mình vào vị trí của cô ả mà xét, thì có lẽ Ngọc Phi Yến cũng chẳng qua vạn bất đắc dĩ mà thôi, còn nếu là mình, liệu có đủ nhẫn tâm ra lệnh cho tay người Nga kia hạ thủ bạn bè như thế không.



Sau một hồi súng vang lên, cánh rừng rậm thăm thẳm lại trở về vẻ yên ắng như lúc ban đầu. Ngọc Phi Yến vẫn chưa thể hoàn hồn, tim đập liên hồi, chân tay run lẩy bẩy, cô ta đăm đăm nhìn bảy tám cái xác, chết chẳng toàn thây, cháy rụi, nằm co quắp trên mặt đất. Có ai ngờ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cô ta lại mất Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp, Hải Đông Thanh, những người đều là tam xà tứ trụ trong "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn", là hai cánh tay trái phải của cô. Từ khi bước chân vào giang hồ đến nay, cô ta chưa bao giờ bị mất mát, hao tổn và gặp trắc trở gập ghềnh đến thế, có lẽ vậy nên trong phút chốc cô ta không thể chấp nhận sự thật và thích ứng với nó.



Lúc này chỉ còn lại mười mấy tên lính vũ trang người Miến Điện và hội bốn người Tư Mã Khôi đi lên phía trước xắn tay áo, đào hố chôn mấy cái xác bị thiêu cháy thành tro. Một người trong đoàn chợt nhìn thấy có thi thể nằm dưới khe nước nông, cứ nghĩ đó là tử thi của đồng bọn, trong lúc giãy chết đã lăn xuống đó, nên định tiến đến trước vớt cái xác lên.



Nào ngờ, lại gần mới phát hiện thấy thi thể phảng phất hình người ấy không hề bị lửa thiêu cháy, mặt mũi cũng chẳng thể nhận diện, tảo nước bám đầy thân thể, nhiều chỗ lòi cả khúc xương trắng ởn, chắc đó là thi thể bị chìm dưới nước đã nhiều năm. Xác chết này có rất nhiều điểm tương đồng với cái xác tìm thấy ở ven vũng nước khi nãy. Những chỗ trũng địa thế thấp trong thâm cốc tồn tại vô số vũng, nước tù, lâu ngày tạo thành đầm hồ, hơn nữa người mất tích ở núi Dã Nhân lại nhiều không kể xiết, bởi thế phát hiện mấy cái xác trong vũng nước cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ.



Nhưng khi mọi người quan sát kỹ cái xác, thì không nén nổi một tiếng kêu kinh hãi, khắp mình mẩy xác chết trương phình nổi lềnh bềnh trên mặt nước chi chít những giác hút. Thật không thể tưởng tượng nổi, vật lộ ra khỏi đám rong rêu không phải xương trắng của người chết mà là một con đỉa đang ngọ ngoạy vô số mao nhu động. Nói chính xác hơn, đó là một con đỉa Campuchia ăn thịt người ẩn náu trong cái xác bị tảo xanh bám đầy.



Tư Mã Khôi ở Miến Điện đã nhiều năm, anh biết loài "đỉa Campuchia ăn thịt người", còn có tên là "đỉa nước nữ hoàng" hay "đỉa chúa", chỉ sống ở những dòng nước tăm tối trong rừng rậm nhiệt đới ẩm thấp, sinh tồn nhiều nhất ở lãnh thổ Campuchia.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Chúng có tập tính ký sinh trong thi thể mục rữa hoặc xác cá chết. Lúc đầu đỉa chúa sống ký sinh trong một cơ thể sống rồi phát triển theo kích cỡ của cơ thể sống đó. Phần lớn đỉa con ra đời đều là những con đỉa bình thường, chỉ những con ký sinh trong cơ thể động vật máu nóng mới trở thành đỉa chúa. Bản thân đỉa chúa không ăn thịt người, mà chỉ hút sạch máu từ đầu xuống chân, và điểm khác biệt so với đồng loại là nó có thể hút cạn máu của một con trâu hoặc voi rừng trong nháy mắt. Ở những vùng hoang dã phía tây nam có rất nhiều loài đỉa này xuất hiện hãm hại con người, nên dân gian mới gọi nó bằng cái tên "đỉa ăn thịt người".



Những người Miến Điện đều biết sự lợi hại của nó; tuy chẳng ai dám dùng tay sờ vào "đỉa Campuchia ăn thịt người" nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ để họ kinh hồn bạt vía. Bởi vậy, chẳng ai đợi thủ lĩnh ra lệnh, người nào người nấy đều giương súng chĩa thẳng vào mục tiêu, rồi sau trận càn quét của súng đạn, con đỉa chúa to lớn dị thường đã bị bắn tan xác pháo.



Ai ngờ, trong cơ thể đỉa chúa toàn là những con đỉa con to khoảng năm sáu centimet, chui ra từ vết rách do bị súng bắn trên cơ thể mẹ, bò loằng ngoằng xuống nước, gặp da thịt người sống lập tức cuống cuồng xuyên bừa vào. Mọi người hoảng hốt, ai lo thân người nấy, mau chóng tháo chạy. Tư Mã Khôi nhanh tay tinh mắt, liền vớ lấy bình phun lửa còn sót lại ở trên bờ, ngắm thẳng vào lũ đỉa ăn thịt người phun mạnh, luồng lửa hung bạo lao ra quét một đường, trong phút chốc vô số đỉa con và xác đỉa chúa đều bị chết cháy dưới nước.



Tư Mã Khôi giơ cao đèn halogen. Dưới ánh sáng mạnh của chiếc đèn, anh có thể quan sát tất cả mọi nơi gần đầm nước, chỉ thấy trên mặt nước nổi lềnh bềnh cơ man nào là đỉa Campuchia ăn thịt người, còn thân hình chủ thể ký sinh thì phình to khác thường, trên lưng có những vệt vàng trông như mắt người, phần bụng màu tựa lá khô, trên đó có vô số giác hút. Mọi người được tận mắt chứng kiến cảnh tưởng hãi hùng như vậy thì gan ruột tự nhiên như bị teo rúm lại, da đầu căng cứng, trong lòng chỉ có mỗi hai từ "khiếp đảm". Số lượng loài đỉa này trong rừng rậm nhiều vô kể, hơn nữa sức sống của nó lại rất dai dẳng, bền bỉ, trừ bình phun lửa ra thì dao súng bình thường khó lòng giết chết được nó, nhưng chỉ cần không lại gần mặt nước thì sẽ an toàn hơn nhiều.




Lúc này, đám tàn binh vũ trang Miến Điện chỉ còn lại mười mấy người, họ không chịu nghe theo mệnh lệnh của Ngọc Phi Yến nữa. Bọn họ vốn dĩ cũng chỉ là đám quân ô hợp, tất cả đều vì tiền mà bán mạng, tuy hô khẩu hiệu cần tiền, bất cần mạng, nhưng nếu vứt bỏ mạng sống thì tiền kiếm được còn có nghĩa lý gì nữa? Bọn họ thấy trước mắt vẫn chưa tiếp cận được với khe núi, nơi chiếc tiêm kích vận tải mất tích, mà đã thiệt hại bao nhiêu huynh đệ, rồi xem bộ dạng khi nãy của Khương sư phụ - chẳng phải trúng tà thuật thì cũng bị quỷ ác nơi rừng già núi sâu nhập tràng, giờ còn tiếp tục tiến vào sâu hơn, không khéo chẳng ai giữ được mạng mà trở về.



Hơn nữa, thủ lĩnh đội thám hiểm căn bản chẳng coi họ là con người, chết một mạng mà thờ ơ như chết một con sâu cái kiến, nên nếu còn ở lại chẳng sớm thì muộn cũng bị biến thành "tro pháo" chết thay người ta. Thế là, dưới sự lãnh đạo của một tên, bọn họ cướp tất cả vũ khí lương thực, rồi nhất loạt quay đầu về đường cũ tháo chạy.



Đám lính Miến Điện, tên nào tên nấy đều được vũ trang đầy đủ, khi bị đẩy đến bước đường cùng và phản kháng lại thì họ trở nên cực kỳ nguy hiểm. Hơn nữa, đội thám hiểm chỉ còn lại vài người, không thể khống chế nổi cục diện, nếu đối đầu thì chắc chắn hai bên sẽ cùng thương vong thiệt mạng, vậy nên Ngọc Phi Yến chẳng biết làm gì khác ngoài việc đứng trân trân nhìn bóng họ dần khuất xa, răng nghiến vào nhau nghe ken két. Quay đầu lại nhìn hội Tư Mã Khôi, cô ả gằn giọng hỏi: "Sao các anh không biến nốt đi?"



Tư Mã Khôi nhìn những người ở lại, ngoại trừ bản thân, La Đại Hải, Tuyệt, Karaweik ra thì đoàn thám hiểm chỉ còn Ngọc Phi Yến, Thảo Thượng Phi và anh bạn người Nga Ciglovski, tất cả bảy người. Thoáng suy nghĩ một chút, anh cảm thấy tiền nhân hậu quả đều thật khó lường trước được, hơn nữa cơn bão nhiệt đới có thể ập đến bất cứ lúc nào, mưa to gió lớn sẽ kèm theo lũ lụt, lở núi nghiêm trọng, những khu vực ở địa thế thấp chắc chắn sẽ bị nhấn chìm, và đám lính vũ trang Miến Điện chạy trốn theo con đường cũ, e rằng chẳng khác nào tự mình đâm đầu vào chỗ chết. Bởi vậy, không thèm để ý đến mấy lời châm chọc của Ngọc Phi Yến, anh chỉ hỏi: "Rốt cục chuyện gì đã xảy ra với Khương sư phụ thế nhỉ?"



Đối với những sự việc xảy ra trước khi Khương sư phụ bị lửa thiêu chết, Ngọc Phi Yến vẫn chưa hết tim đập chân run. Cô ta vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần người khác gật đầu một cái là lập tức hiểu họ muốn nói gì, nghe Tư Mã Khôi nói, cô lờ mờ cảm thấy không ổn, thầm nghĩ: "Chẳng lẽ đúng là bị trúng tà..."



Tư Mã Khôi không đợi Ngọc Phi Yến trả lời, liền tiếp lời luôn: "Tôi đoán có khả năng Khương sư phụ bị trúng bùa ngải trong núi Dã Nhân."



Nghe nói, để bảo vệ bí mật của núi Dã Nhân, người cổ đại đã cài đặt rất nhiều lời nguyền độc địa và các cạm bẫy cơ quan hiểm ác. Theo tin tình báo nắm được hiện nay, quân đoàn lính công binh tác chiến độc lập số sáu của quân Mỹ và vô số những nhà thám hiểm bước chân vào núi này trước đây, đều phát hiện rất nhiều di tích và văn vật cổ xưa, nhưng vì chúng bị hư hại nghiêm trọng nên khó có thể phân biệt rốt cục là di tích của thời kỳ, triều đại nào.



Từ đấy có thể suy đoán, những truyền thuyết ly kỳ tưởng như hoang đường kia biết đâu lại là sự thật, muốn vào núi Dã Nhân tìm kiếm chiếc tiêm kích vận tải bị mất tích từ nhiều năm, ngoại trừ phải đối mặt với điều kiện khí hậu và môi trường tự nhiên khắc nghiệt phức tạp ra, thì còn phải đối phó với những tà thuật và cạm bẫy mà người cổ đại đã để lại. Còn về việc trong núi Dã Nhân rốt cục ẩn chứa bí mật gì, và ai đã yểm những loại phù chú bùa ngải lấy mạng người này, nếu chỉ dựa vào thông tin hạn hẹp mà bọn họ có trong tay giờ đây thì căn bản không thể mò mẫm ra nổi đầu mối.



Vài năm nay, mấy người Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Tuyệt... theo chân quân đội cộng sản Miến Điện chiến đấu trong rừng sâu, từng chứng kiến một số người bị yểm bùa ngải, còn Karaweik là dân bản địa chính gốc, sinh ra và lớn lên ở vùng núi này, nên càng rõ tình hình hơn ai hết. Nếu người nào xuất hiện những triệu chứng giống như Khương sư phụ, thì chắc chắn chẳng có nguyên nhân gì khác, mà chắc chắn là bị trúng ngải. Nếu chẳng may gặp loại tà thuật này, ngoài việc trước khi phát tác phải ăn thịt người luyện ngải hoặc yểm "vó ngựa", thì tuyệt đối chẳng có biện pháp gì giải cứu nổi; có điều tùy vào thể trạng của mỗi người khác nhau, nên cũng có kẻ may mắn thoát nạn, nhưng con số này chỉ chiếm một phần trăm.



Tương truyền, ở Trung Quốc có một phương thuốc, đó là dùng "vó ngựa" để khắc chế bùa ngải, phương pháp dân gian này khởi nguồn từ Vân Nam. Nghe nói, thời xưa phong tục tập quán ở Vân Nam hãy còn mang nặng màu sắc mê tín, nếu ai chẳng may mắc bệnh hiểm nghèo, họ thường không mời lang trung đến khám chữa, mà lại mời pháp sư đến để xua đuổi tà ma, nghênh đón thần tiên, còn nếu lỡ gặp chuyện quái dị thì lập tức dùng vó ngựa. Vậy "vó ngựa" là gì? Đó không phải là da ở chân con ngựa mà người ta vẫn hay dùng để đóng giày, cũng không phải là lớp đế sừng cuối chân ngựa. Khu vực miền Nam có tục gọi là "vó ngựa", còn ở miền Bắc lại gọi "chân gà", cũng đều chính là chân của con gà trống được cắt ra lúc nó vẫn còn sống. Tương truyền, vật này có thể giúp xua đuổi tà ma, tránh điều hung dữ, nó và "móng lừa đen, bánh đả cẩu" được truyền tụng là ba linh vật. Tuy ở miền Bắc không thường xuất hiện "vó ngựa" lắm, nhưng nó lại được truyền bá rộng rãi ở những nước thuộc khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Malaysia v.v... Thời cổ xưa cũng từng có người dùng nó để đối phó với một số loại bùa ngải, có điều cái ảo diệu, bí mật ẩn chứa trong đó đã sớm thất truyền từ hàng trăm năm trước.




Giờ đây, điều duy nhất có thể xác định được là "ngải" ở núi Dã Nhân, được người cổ đại yểm từ hàng trăm ngàn năm trước, nhưng e rằng bây giờ ngay cả nắm xương của người luyện ngải cũng đã hóa thành tro bụi, chứ nói gì đến thịt, biết đến nơi nào để tìm mà ăn? Bởi vậy ai bị chơi ngải, kẻ đó coi như gặp vận rủi, chắc chắn vô phương cứu chữa; hơn nữa, khi chết đi, đừng nói có thể luân hồi sang kiếp khác, mà ngay cả làm quỷ cũng chẳng thành.



Bùa thuật trong núi sâu ở Bắc Miến vô cùng đặc biệt, những kẻ trúng tà đều xuất hiện một vệt đen rất rõ nét ở con ngươi phía đáy đồng tử, hình dạng giống như phân tằm. Nếu xung quanh bạn có ai xuất hiện dấu hiệu ấy, thì chắc chắn họ đã bị yểm bùa chơi ngải, tuyệt đối không sai lệch vào đâu được. Hội Tư Mã Khôi cũng hiểu sơ sơ về bùa và ngải ở Miến Điện, biết được là hễ kẻ nào bị trúng ngải, đúng thực trong đáy mắt họ đều có cùng một đặc trưng này, nhưng chẳng ai hiểu rõ nguyên lý sâu xa của nó.



Cũng chỉ là từng nghe người ta nói, ở Vân Nam, Quý Châu, bọn man di rất giỏi luyện ngải và độc trùng, còn ở Đông Dương, Thái Lan lại là đất bùa chú. Miến Điện vừa vặn nằm lọt giữa hai khu vực đó, bởi vậy tà thuật "bùa" và "ngải" hòa quyện, hợp nhất với nhau thành một thể, cái ảo diệu bên trong của nó vô cùng ly kỳ, quái dị mà người thường không thể lý giải nổi bằng lý lẽ phổ biến, cũng không thể dò dẫm được bằng biện pháp thông thường. Nếu bạn ở Miến Điện mà nhìn thấy gia đình nào phía trong nhà không hề có mạng nhện hoặc đất bụi, thì có thể đoán định nhà đó đang nuôi ngải. Còn nói về các chủng loại ngải, thì nhiều vô số kể, chẳng rõ chính xác là bao nhiêu, có ngải tôm cá, ngải da trâu, ngải tử thi, ngải độc trùng, ngải rắn, ngải chó, ngải vải, ngải ếch v.v...



Ngọc Phi Yến vẫn bán tín bán nghi, liền hỏi Tư Mã Khôi: "Giờ đây thi thể của Khương sư phụ đã bị bình phun lửa thiêu cháy thành tro bụi, những gì anh nói cũng chẳng qua chỉ là phỏng đoán mà thôi, làm sao có thể khẳng định chắc chắn Khương sư phụ bị trúng ngải?"



Trong lúc hai người đang to nhỏ bàn bạc, thì Thảo Thượng Phi đứng bên cạnh bỗng nhiên ho lớn từng cơn, miệng liên tiếp khạc ra mấy ngụm nước đen, rồi khi gã ngẩng đầu lên thì trong mắt đã xuất hiện một vạch vàng mang tia máu, trông gã lúc này chẳng khác gì bộ dạng của Khương sư phụ khi trước. Thảo Thượng Phi là gã có thân hình nhỏ thó, đầu gián mắt chuột, tính tình cẩn thận lanh lợi, chắc bởi gã có tài khinh công đi nhanh như lướt, nên mới được đặt cho biệt danh Thảo Thượng Phi - bay trên cỏ. Tuy cũng là loại giặc đất trộm mộ, nhưng gã này bé gan nhỏ mật, nên vừa nãy nhìn thấy đồng bọn rơi vào tình cảnh thê thảm như thế thì đã sợ mất vía, mặt vàng như đất, tâm thần hỗn loạn.



Tư Mã Khôi trông bộ dạng của gã, bất giác như có một luồng khí lạnh buốt xộc thẳng vào óc. Anh vội vàng đi đến đỡ Thảo Thượng Phi, rồi lật mí mắt dưới của gã ra xem, thì thấy dưới đáy hai con mắt đều xuất hiện một vệt đen kéo dài qua hai đồng tử, tiếp đó anh lần lượt xem mắt của những người còn lại.



Mọi người nhìn hành động của Tư Mã Khôi, đều dự cảm thấy một tai nạn lớn sắp giáng xuống đầu, chỉ mỗi Hải ngọng là vô tư hồn nhiên, vì hoàn toàn không biết gì cả, còn hỏi Tư Mã Khôi: "Cậu xem cặp mắt của La Đại Hải tớ, có phải tám mươi mấy năm rồi không nhỏ giọt mưa nào, tình cảm tràn trề quá chăng?"



Tư Mã Khôi không để ý đến lời nói bông đùa của La Đại Hải, bởi vì anh phát hiện tất cả mọi người, có lẽ bao gồm cả đám lính vũ trang Miến Điện vừa tháo chạy khi nãy, người nào người nấy đều có một vạch đen rất rõ nét ở dưới đáy mắt. Giờ đây tính mạng của mọi người chỉ được tính bằng giờ, không, có lẽ chỉ còn từng phút nữa thôi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: hồi thứ ba: bùa ngải


Hồi thứ ba: Bùa ngải



Chết chỉ là một đoạn đường mà ai cũng phải đi qua trong cuộc đời. Bản thân cái chết có lẽ không đáng sợ, mà điều đáng sợ là khoảnh khắc thấp thỏm, dày vò khi chờ đợi chiếc bóng của thần chết sắp sửa giáng xuống đầu.



Ngọc Phi Yến biết mình cũng bị trúng ngải, trong lòng cảm thấy chán nản, buông xuôi đến cùng cực. Cô ả kề khẩu súng ngắn đã lên nòng vào ngực, chuẩn bị cho thời khắc cuối cùng sẵn sàng nã một đạn vào huyệt thái dương của chính mình.



Gã Gấu trắng người Nga tuy là một tín đồ cảm tử, một kẻ điên cuồng mất hết lý trí, nhưng khi thật sự đến lượt mình phải đối mặt với cái chết thì các cơ trên mặt cũng không khỏi thi nhau co quắp lại. Gấu trắng lẳng lặng ngồi một mình dưới gốc cây, chẳng ai đoán được trong đầu gã đang nghĩ gì.



Đối lập với cảm giác bàng hoàng của đội thám hiểm, lúc này mấy kẻ may mắn sống sót trong đội du kích Miến Điện lại không hề bất ngờ một chút nào, bởi họ đã sớm quen với việc chịu đựng và đối mặt với cái chết, thậm chí Hải ngọng còn thoáng có thái độ kiểu như "cười vui trước nỗi đau của người khác". Tâm trạng của anh giờ đây chẳng khác gì bệnh nhân mang mầm bệnh nan y, vô phương cứu chữa, đang nằm dài chờ chết, đột nhiên biết được mấy vị láng giềng bên cạnh cũng mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo y như mình, trong lòng bất giác cảm thấy vô cùng yên ổn, an tâm.




Chỉ duy có Tuyệt là đang bình tĩnh suy xét tỉ mỉ từng sự việc, cô nhìn bộ dạng Khương sư phụ trước khi chết gầy héo như một cái xác khô, liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi: nếu tất cả mọi người đều đã bị trúng tà thì tại sao lại không phát tác cùng một lúc? Hay là trong đó tồn tại một quy luật hoặc thứ tự nào đó? Trước đây, khi đoàn lính công trình Mỹ xây dựng con đường hầm này, từng xảy ra sự việc hàng loạt nhân viên trong đoàn bị mất tích. Phải chăng bọn họ cũng chết bởi loại ngải thuật thâm hiểm, quái dị kia? Khái niệm về bùa và ngải quả thực quá đỗi mơ hồ để có thể tìm ra căn nguyên, hoặc giả còn có cách giải cứu.



Tư Mã Khôi phán đoán: "Tôi đoán, phàm những người trúng tà đều căn cứ vào thể trạng và sức đề kháng không giống nhau để rồi lần lượt chết theo một quy luật nhất định. Khương sư phụ tuy rằng thể trạng không tồi, đến tuổi này mà vẫn còn có thể vượt núi băng rừng, nhưng rốt cục lão vẫn thuộc dạng tuổi cao sức yếu, mắt mờ chân chậm, khí huyết không thể thông thuận như lúc trai trẻ, bởi vậy lão ta là kẻ bị phát tác trước tiên; tiếp theo đó là lão nhị Thảo Thượng Phi của đội thám hiểm, bởi gã lớn tuổi thứ hai sau Khương sư phụ. Nếu tôi đoán không nhầm thì người kế đến phải chết sẽ là gã ngoại quốc người Nga, còn người bị chết sau cùng sẽ là Karaweik."



Tư Mã Khôi nói đến đây thì ngoảnh đầu lại nhìn Karaweik, chỉ thấy cậu bé dùng cả hai tay ôm chặt lấy đầu, trên khuôn mặt toát lên thần sắc tuyệt vọng đến cực độ. Ở Miến Điện, những người từng làm hòa thượng đều không sợ chết, vì trong quan niệm của họ, chết chẳng qua chỉ là sự bắt đầu của một kiếp luân hồi khác, nhưng đa số người bản địa đều vô cùng khiếp sợ tà thuật. Họ cho rằng, con bọ ngải luồn vào trong não sẽ dần dần gặm nhấm hết linh hồn trú ngụ trong thể xác của người sống, bởi thế Karaweik cứ mãi ôm đầu, miệng không ngừng lẩm nhẩm chỉ một chữ duy nhất.



Tư Mã Khôi nghe được từ mà Karaweik không ngừng lẩm nhẩm dường như là "trùng", nên lòng thầm cảm thấy kỳ quái: "Trong đầu lấy đâu ra trùng bọ nhỉ?" nhưng sau đó anh liền nghĩ ra: những người sống trong rừng rậm núi cao, nhiều kẻ thường nuôi trùng độc và xem chúng là vật môi giới cho các loại tà thuật như bùa hay ngải, bởi vì đặc tính của trùng phức tạp, khó có thể lý giải, nên sẽ khiến những câu chuyện về bùa ngải càng trở nên huyền bí, đáng sợ hơn.



Người ta thường nói: "Người nói vô tâm, kẻ nghe hữu ý", câu nói của Karaweik khiến Tư Mã Khôi và Tuyệt đột nhiên cảm thấy hiểm họa chí mạng mà đội thám hiểm đang gặp phải, rất có khả năng là do trùng trứng của loài "đỉa Campuchia ăn thịt người" đã ký sinh vào cơ thể họ trong lúc không ai ngờ đến.



Nghe nói, đỉa Campuchia ăn thịt người có một tập tính rất đặc biệt: trên một cơ thể chủ chỉ có một con đỉa chúa ký sinh, nếu như trước khi đỉa chúa thành hình mà cơ thể chủ chết đi, thì tự nhiên nó cũng theo đó mà hóa thành hòn máu đặc. Chẳng những vậy, chúng không thể ký sinh trong cơ thể bọ máu lạnh, bằng không cái trứng sẽ chỉ nở ra một con đỉa bình thường. Đội thám hiểm từ lối cổng ra đổ nát của con đường U Linh, tiến sâu vào sào huyệt trong thâm cốc thì gặp sự công kích của bầy đỉa. Con đỉa chúa khổng lồ bị bình phun lửa thiêu cháy khi ấy, cơ thể phình to ngang với thân hình một con người. Hơn thế nữa, ở đầm nước trong chỗ trũng gần đó còn tụ tập vô số đồng loại của nó, nên nếu không có thi thể người chết với số lượng tương ứng, thì làm sao chúng có thể sinh trưởng đông đúc đến vậy? Có lẽ con đỉa nữ hoàng mà chúng ta gặp ngày hôm nay, cũng chính là một trong những kẻ gặp nạn từng mất tích ở núi Dã Nhân bao nhiêu năm về trước.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.



Bộ dạng khô quắt sau khi trúng ngải của Khương sư phụ cũng giống như bị một con đỉa Campuchia ăn thịt người chui vào cơ thể, dần dần hút cạn toàn bộ tinh huyết và óc tủy quanh người, đến cuối cùng con đỉa thành hình mượn xác chết thay hình đổi cốt. Lúc này, Khương sư phụ trở thành cơ thể chủ cho đỉa chúa trú ngụ, hay nói cách khác, thi hài lão trở thành sào huyệt của nó ở nơi vũng tù này. Lúc phần sọ đột nhiên nở bung ra, cũng chính là lúc đỉa nước nữ hoàng đã chui vào não.



Tuy rằng Tuyệt đã sớm chẳng hề để tâm đến sự sống chết, nhưng cứ nghĩ bên trong cơ thể mình có một con đỉa Campuchia ăn thịt người ký sinh thì lại thấy cách chết này quả thực quá sức ghê tởm và kinh dị. Mặt cô không khỏi biến sắc khó coi, thất kinh hỏi: "Từ khi tôi vào núi Dã Nhân đến nay, trước sau chưa từng chạm vào vũng nước tù có lũ đỉa đang sinh sống, tại sao lại bị loài đỉa nước này bám vào người vậy?"



Ngọc Phi Yến ngồi bên cạnh nghe thấy đoạn hội thoại giữa Tư Mã Khôi và Tuyệt, cô ả dường như vừa tóm được một tia hy vọng sống, liền nói chen vào: "Nếu anh biết vì sao cơ thể bị loài đỉa ký sinh thì cũng không đến nỗi phải trúng loại tà thuật này. Môi trường ẩm ướt, oi bức trong núi Dã Nhân khiến chướng khí tràn lan khắp nơi, thực vật, thủy lưu, không khí, bùn đất, mây mù, đầm lầy đều trở nên bội phần nguy hiểm. Đỉa Campuchia ăn thịt người, thậm chí có thể luồn xuyên qua quần áo, giày tất và da thịt, nói cách khác chẳng lỗ nào chúng không thể thâm nhập, nên chẳng biện pháp nào đủ đảm bảo an toàn tuyệt đối. Nhưng nếu cái được gọi là ngải độc trùng chỉ là đỉa chúa chui vào trong cơ thể hút hết huyết khí, tinh tủy, thì phải chăng vẫn còn có thể nghĩ ra cách giải cứu?"



Tuyệt am hiểu rất sâu sắc về y lý, khi còn ở trong đội du kích cộng sản Miến Điện, cô đã từng nhiều lần chữa thương cho người bị đỉa hút máu, nhưng giờ đây cũng chỉ biết lắc đầu nói: "Nếu đỉa bám ở vùng ngoài da thì còn dùng khói trực tiếp làm nóng nó hoặc đốt giấy cỏ hun chết, tóm lại có rất nhiều cách để đối phó; nhưng một khi nó đã bò vào trong bụng hoặc trong hộp sọ, thì ngoại trừ phẫu thuật lấy nó ra, tuyệt đối chẳng còn biện pháp nào khác. Theo hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, tính mệnh chỉ còn tính bằng từng khắc, đừng nói đến việc chẳng thể phẫu thuật, mà cho dù có được đưa đến một bệnh viện hiện đại, với đầy đủ máy móc tối tân, để cấp cứu ngay tức khắc thì cũng chẳng kịp nữa rồi."




Ngọc Phi Yến liên tiếp đưa ra mấy phương pháp nhưng chẳng cách nào hữu hiệu, ví dụ tự mình nuốt độc dược, như vậy sẽ khiến con đỉa trong cơ thể cũng bị nhiễm độc mà chết, nhưng cách này chẳng khác nào tự sát. Toàn thân đỉa Campuchia ăn thịt người toàn là giác hút, những giác hút đó sẽ giúp nó bám chắc như keo trong cơ thể sống, không một loài trùng ký sinh nào có thể bì kịp với nó, cho dù bạn nôn thốc nôn tháo hết cả gan xanh mật vàng, thì cũng chẳng thể nôn ra nổi con đỉa đang bám chặt trong bụng.



Tư Mã Khôi thấy mọi người xung quanh thần sắc đầy vẻ tuyệt vọng cũng không khỏi chấn động tinh thần, tuy anh chẳng sợ chết, nhưng cũng không cam tâm bị đỉa hút cạn huyết tủy mà khô quăn queo, sau đó thi thể còn chìm trong nước và trở thành sào huyệt đẻ trứng của đỉa chúa. Nhìn thân xác đỉa Campuchia ăn thịt người chi chít những giác hút, bỗng dưng trong óc anh lại thấp thoáng hiện lên hình ảnh kỳ dị của con rết, liền sau đó lại liên tưởng đến việc Triệu Lão Biệt tìm thấy viên ngọc Định Phong cạnh cái xác con rết trong chiếc bàn mục nát năm xưa. Đến tận bây giờ, anh vẫn còn nhớ như in hình ảnh Triệu Lão Biệt với kỳ thuật uyên thâm, khả năng nhận thức vạn vật muôn loài trên thế giới bội phần cao siêu. Nếu giờ đây lão chưa chết, nói không chừng có thể giúp anh nghĩ ra cách hay nào đó, giải quyết con đỉa nước nữ hoàng đang ký sinh trong cơ thể mọi người.



Theo lý, sau khi Tư Mã Khôi mang dòng tộc lục lâm, anh được mật truyền toàn bộ bí kíp "Kim bất hoán". "Văn Võ sư phụ" anh bái làm thầy lúc còn ở nhà, được mệnh danh là "Ma men Trương Cửu Y", có người gọi ông là "Trương bọ cạp" hoặc "Lão bách khoa toàn thư". Ngoại trừ chiêu tủ là "Bọ cạp đảo đầu bò tường" ra, ông còn rất giỏi đàm đạo về phương thuật, chỉ điểm cát hung. "Mật truyền Kim điểm" mà tổ tiên họ Trương lưu lại, chính là gốc rễ khởi nghiệp của gia tộc, được chia thành ba phần "Thiên, Địa, Nhân", từ trước đến nay chỉ truyền cho người trong tộc, không truyền cho người ngoài. Đến thời Trương Cửu Y, cả cuộc đời chỉ dạy dỗ cho hai truyền nhân trực hệ trong gia tộc, người thứ nhất là cháu đích tôn của dòng họ, có điều gã này tính tình thuần phác, ù ì, ông Trưởng Cửu Y chẳng mấy xem trọng hắn ta, nên không truyền thụ thuật suy diễn biến hóa, chỉ truyền ột số khẩu quyết xem bói, rồi khéo léo đuổi hắn về quê nhà làm nông.



Truyền nhân mà Trương Cửu Y xem trọng lại chính là Tư Mã Khôi, bởi anh nhanh nhạy, thông minh, cốt cách thanh thoát, tướng mạo thân hình đều có thể "trấn áp" được kẻ khác, lại giỏi ăn nói, giảo biện, từ ngữ sắc bén, biết đối nhân xử thế. Theo cách nói của giới lục lâm, người như thế có thể vượt qua phong ba bão táp, bảo vệ được bí mật gia truyền, gặp lúc thất thủ cũng không bán đứng đồng bọn và thế tộc, vì vậy ông mang tất cả tuyệt kỹ nhét tận đáy hòm nhà họ Trương truyền thụ tuốt tuột cho Tư Mã Khôi.



Chỉ có điều, lúc đó Tư Mã Khôi tuổi hãy còn quá nhỏ, đến khi bước được chân ra ngoài xã hội bươn chải thì lại không gặp thời, khiến bản lĩnh gia truyền bị xao nhãng, bỏ quên trong nhiều năm. Lúc này, anh bất chợt nghĩ đến sự việc gặp Triệu Lão Biệt năm xưa, lại liên tưởng đến cuộc đời tà môn ngoại đạo của lão, thấy rằng lão có những khả năng mà người thường khó lòng vươn tới được. "Mật truyền Kim điển" mà tổ tiên mình để lại là bộ cổ thuật "tỏ tường mọi ngách, lừng danh bốn bể", vậy sao mình lại phải chịu thua kém người ta? Nhưng rốt cục làm sao mới có thể dùng lý lẽ "tướng vật" trong "Kim bất hoán" để trục xuất con đỉa chúa đang ký sinh ra khỏi cơ thể?



Ý niệm này tuy rằng chỉ lóe lên trong khoảnh khắc, nhưng anh cũng đã lờ mờ hiểu, cái gọi là "vật cực nhi phản, số cùng tắc biến", rốt cục có ý là trời chẳng bao giờ nỡ tuyệt đường sống của con người. Anh cho rằng, chỉ cần tìm ra nhược điểm của đỉa Campuchia ăn thịt người trong thời gian cực ngắn, thì có thể những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm sẽ có cơ hội thoát khỏi bàn tay tử thần.



Trong lúc Tư Mã Khôi đang vắt óc suy nghĩ, ánh mắt anh chợt chạm phải Thảo Thượng Phi. Gã đang ngước đầu lên, nhìn chằm chằm vào một thân cây cổ thụ với thần sắc hoảng hốt, thất thần. Lúc này, Thảo Thượng Phi gầy héo như bị thoát xác, hốc mắt lõm sâu hoắm vào trong, miệng ú ớ chẳng nói thành lời. Ngọc Phi Yến lo lỡ đâu gã đột ngột ra tay làm người khác bị thương, nên lấy dây thừng trói gã lại. Tư Mã Khôi cũng ngẩng đầu dõi mắt theo hướng nhìn của Thảo Thượng Phi, chỉ thấy trên đó tối hù hù, chẳng nhận thấy có điều gì khác lạ.



Lúc đó, Ngọc Phi Yến nói với mọi người: "Mọi người đằng nào cũng sẽ chết, chi bằng nhân lúc thần trí vẫn còn minh mẫn, hãy mau chóng tránh xa sào huyệt tập trung của lũ đỉa chúa."



Tư Mã Khôi lại nói: "Thủ lĩnh, cô thử nói xem vì sao Khương sư phụ lại dẫn đội thám hiểm trở về sào huyệt của đỉa Campuchia ăn thịt người?"



Ngọc Phi Yến đáp: "Chẳng phải anh nói Khương sư phụ bị trúng tà sao? Người chết giống như ngọn đèn đã tắt, bây giờ anh lại trách cứ người ta, phỏng có ý nghĩa gì?"




Tư Mã Khôi nói: "Tôi đoán, chắc ở gần chỗ này ẩn giấu một vật gì đó, vật ấy dụ dỗ Khương sư phụ, hoặc giả dụ dỗ con vật ký sinh trong cơ thể ông ấy trở về đây. Có lẽ là mệnh chúng ta chưa hẳn đã tuyệt, bởi không chừng vẫn sẽ tìm thấy một con đường sống cũng nên."



Ngọc Phi Yến cảm thấy việc này cũng rất đỗi kỳ lạ, đáng nghi. Trong dải rừng rậm âm u chẳng bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời này, môi trường ẩm ướt ô uế, tuy khiến người ta cảm thấy ngột ngạt, bức bối nhưng không biết vì nguyên do gì mà trong không gian dường như phảng phất một mùi hương vô cùng quái dị, chẳng rõ đó là mùi thơm của xạ hương hay của trầm hương, không những vậy càng ở nơi cao thì mùi thơm càng nồng đượm. Cô nhìn những cây cổ thụ cao ngút ngàn đến tận trời, trong lòng tự thấy bất lực - tay không làm sao mà leo tới đó được? Trong lúc đang định tìm loại công cụ leo núi nào đó để trợ giúp thì chẳng ngờ đã thấy Tư Mã Khôi buộc đèn halogen lên người, rồi liền đó thi triển tuyệt kỹ "Bọ cạp đảo đầu bò tường" bám thân cây leo ngược lên. Tuy vết thương trên vai anh chưa lành hẳn nhưng thân thủ vẫn nhanh thoăn thoắt như gió cuốn, khiến những kẻ ở dưới đất nhìn lên chỉ biết trợn mắt há miệng mà kinh ngạc và thán phục, người nào người nấy nhìn chằm chằm không rời mắt, chẳng dám phát ra tiếng động, ngay cả hơi thở cũng cố gắng thật khẽ khàng.



Tuy vậy, Tư Mã Khôi rốt cục vẫn đang bị thương, nên khi bò lên tới tán lá thì hai vai đã cảm thấy tê cứng, đau buốt, anh nhìn thấy trong hốc cây cổ thụ có một cái hố giống như hang động vật, trong hố phủ đầy rêu xanh, không khí âm u, lành lạnh thấu cả xương, lấy đèn soi vào, chỉ thấy bên trong cất giấu những quả trứng mãng xà, quả nào quả nấy to như nắm đấm, thì ra đây là sào huyệt của con ô xà Miến Điện bị bình phun lửa thiêu cháy lúc trước. Anh thò tay ra sờ ba quả trứng trắng đục, cất chúng vào trong lòng, rồi nhẹ nhàng chuồn xuống dưới.



Trong lúc còn chưa rõ sống chết ra sao, lại thấy Tư Mã Khôi lẻn lên cây lấy cắp mấy quả trứng mãng xà, hội Ngọc Phi Yến cảm thấy tên này chắc là đang sắp phát điên.



Tư Mã Khôi nhìn thấy ba quả trứng trong lòng bình an vô sự thì mới trút được tiếng thở mạnh. Anh cẩn thận nâng niu từng quả trứng, bày chúng lên mặt đất, nhìn sắc mặt mơ hồ khó hiểu của mọi người, anh đành phải giải thích: "Muốn trục xuất con đỉa chúa đang sống kí sinh ra khỏi cơ thể, chỉ có thể kỳ vọng vào vật cứu mạng này thôi."



Gã Gấu trắng người Nga thấy vẫn còn cơ hội sống, tinh thần phấn chấn lại ngay tức thì, nhưng trước mắt chỉ có ba quả trứng mãng xà, mà những kẻ sống sót còn những bảy người, cháo ít vãi nhiều, chẳng thể nào chia đủ, chắc chắn bốn người trong số họ phải chết. Vậy làm gì có chuyện gã để tâm đến những kẻ xung quanh, nên lập tức thò tay ra cướp, định bụng sẽ nuốt chửng một quả vào bụng.



Nhưng phản ứng của Tư Mã Khôi còn lanh lẹ gấp bội, chẳng để gã Gấu trắng người Nga kịp đến gần, anh đã nhanh nhẹn ra chiêu "Phu tử tam củng thủ", đẩy lùi bàn tay to phàm phạp như chiếc quạt ba tiêu của gã, nhưng trong thời khắc gấp gáp, giành giật từng giây giữa sự sống và cái chết, Tư Mã Khôi không muốn quyết một trận sống mái với gã, mà chỉ xua tay, ra hiệu cho đối phương đừng hòng tiến lại gần, rồi lại làm động tác vuốt cổ, ngầm nói với mọi người tuyệt đối không được ăn "trứng mãng xà", nếu không sẽ càng chết nhanh hơn.



Gã Gấu trắng người Nga bình sinh sức khỏe vô địch, giết người chẳng khác chi giết một con gà, hắn cứ nghĩ chỉ cần thò tay ra là cướp được trứng rắn, nào ngờ lại lấy hụt, trong lòng cũng không khỏi cảm thấy bất ngờ, chẳng biết gã phương Đông này sử dụng tà thuật gì, gã trợn cặp mắt hung tợn gườm gườm nhìn Tư Mã Khôi, nhưng chẳng dám manh động thêm nữa.



Những người còn lại đều biết rõ tập tính của mãng xà Miến Điện, con cái mỗi năm phải sinh ra hàng trăm trứng, ba quả trứng mà Tư Mã Khôi vừa lấy từ trên ổ rắn xuống sờ vỏ ngoài nhẵn nhụi trắng mịn như ngọc, xem ra chúng chỉ là những trái trứng bình thường, chưa được thụ tinh. Tư Mã Khôi nói chúng có khả năng giúp họ trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người ra khỏi cơ thể, nhưng lại nói không được đập vỡ hay nuốt chửng, chẳng lẽ vật này dùng để xoa đắp ngoài da?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: hồi thứ năm: stupa


Hồi thứ năm: Stupa



Sấm vang chớp giật, chấn động cả vùng núi hoang dã, mây đen dày đặc vần vũ khắp bầu trời, đột nhiên xuất hiện chiếc tiêm kích vận tải lặng lẽ như chiếc bóng u linh, nó lượn qua đỉnh đầu mọi người, rồi phút chốc biến mất trong màn đêm thăm thẳm.



Nhiều lần có người từng nhìn thấy bóng dáng những "con tàu ma" lảng vảng trong khu vực tam giác quỷ Bermuda, rồi cũng có những quả ngư lôi được phóng ra từ tàu ngầm mấy chục năm về trước, đến nay vẫn lởn vởn ngao du trên mặt biển, nhưng từ trước đến nay chưa hề nghe ai nói, trên bầu trời sẽ xuất hiện một chiếc "máy bay ma" đã mất tích từ hơn hai mươi năm trước.



Trên mỏm núi, đội thám hiểm ai nấy đều tròn mắt kinh ngạc nhìn chăm chú, quả thực khó mà tin được những gì vừa nhìn thấy, lẽ nào chiếc máy bay vừa lượn sát mặt đất khi nãy lại đúng là chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Anh bị mất tích trong khe sâu khổng lồ ở núi Dã Nhân? Rốt cục nó là thực thể hay u hồn? Hay chỉ là hình ảnh còn lưu lại từ mấy chục năm trước được truyền dẫn qua sóng điện mây mù, giống như chiếc bóng ảo ảnh xuất hiện bởi hiện tượng khúc xạ ánh sáng?



Ngọc Phi Yến thầm hoang mang trong lòng, giờ đây lại không có Khương sư phụ kinh nghiệm lọc lõi ở bên cạnh nên cô ta càng cảm thấy đơn thương độc mã hơn bao giờ hết. Không kìm nổi cô ta liền quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Anh nghĩ vật chúng ta vừa nhìn thấy là vật gì vậy?"




Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: "Cô là thủ lĩnh, lại là dân hối tử trộm mộ, chuyện người sống cô hiểu rõ hơn tôi, chuyện người chết cô cũng thông thạo hơn tôi, bây giờ đến cô còn chả biết thì tôi biết thế quái nào được?"



Ngọc Phi Yến hận Tư Mã Khôi đến nỗi nghiến răng ken két, nhưng cũng không biết phải làm sao đành vớt vát: "Bây giờ tôi cũng chẳng có cách gì giải thích, nhưng tôi thấy chiếc máy bay tiêm kích bay trên trời hình như hướng về mỏm núi phía đối diện, chúng ta đành đến đó xem rốt cục nó là gì, rồi phân tích phán đoán sau cũng chưa muộn."



Tuy chưa đến lúc mặt trời lặn, nhưng dưới ảnh hưởng của cơn bão nhiệt đới cuồng bạo, trên đầu mây đen bủa vây, cả vòm trời đen thui như đít nồi, nên cho dù hai người đứng gần nhau mặt đối mặt, thì vẫn chẳng thể nhìn rõ đối phương, còn những dụng cụ chiếu sáng mang theo người giờ đây gần như không thể phát huy tác dụng. Đội thám hiểm chỉ còn biết mượn ánh sáng lóe lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi của những tia sét rạch ngang bầu trời để lần mò qua cánh rừng rậm um tùm, truy lùng theo phương hướng mất hút của chiếc bóng máy bay quái dị, khó nhọc tiến từng bước về phía trước.



Cơn cuồng phong ù ù gầm rít thét gào, cuốn cả cánh rừng nguyên sinh trong núi Dã Nhân vào vòng xoáy của nó, tiếng sấm réo ùng ùng ngầm dự báo cơn mưa dữ dội như trút nước sắp tràn về. Dưới sự công kích của cơn bão nhiệt đới hung bạo, gần như tất cả khu vực trong rừng đều trở nên nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có khả năng xảy ra lũ lụt, lở đất trượt đá.



Thế nhưng căn cứ theo ghi chép của không quân Anh để lại thì khe núi khổng lồ nằm ở phần bụng núi Dã Nhân là một nơi có dải địa hình tương đối hiếm có. Nó vốn là hẻm núi được hình thành do lòng núi khô cạn bửa ra làm đôi. Nếu dùng cách miêu tả trực quan hơn, thì khe núi khổng lồ này chính là một tòa huyệt động nằm ẩn sâu dưới lòng đất. Có thể suy đoán, nó được hình thành bởi những mạch nước không ngừng lõm xuống từ hàng triệu năm trước, độ sâu lên đến hàng ngàn mét, hướng chạy của sơn động gần như vuông góc với mặt đất, cửa động tương đối nhỏ hẹp, càng vào trong càng rộng rãi hơn. Đây là một hiện tượng địa chất vô cùng đặc biệt, nó không dễ bị lũ lụt từ những nơi thấp đổ về. Đối với đội thám hiểm mà nói, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt như hiện nay, chỉ cần nghĩ cách tránh không để đất đá trong lòng núi sụt lở rơi trúng người, thì vào sâu trong lòng động lại là biện pháp an toàn hơn cả.



Ở nơi sâu trong khe núi khổng lồ, quanh năm sương khí mịt mù, chẳng ai rõ rốt cục đám sương mù dày đặc đó là thứ gì, càng không rõ căn nguyên xuất hiện của nó. Mấy chục năm trước, chiếc tiêm kích vận tải của quân đội hoàng gia Anh rơi xuống núi, lại vừa vặn mất tích trong biển sương mênh mông.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Khi ấy, do ảnh hưởng của việc thay đổi thời tiết, vị trí của mây mù xuống tương đối thấp, có thể thấp thoáng nhìn thấy cửa động sâu hun hút của khe núi, vậy mà trải qua một quãng thời gian dài, lượng sương mù từ nơi sâu trong khe núi đã trào ra, phủ kín khắp phạm vi mấy chục cây số vuông, thành ra rất khó phán đoán vị trí của nó một cách chuẩn xác.



Đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, vốn định thông qua con đường Stilwell để tiếp cận khe núi, như vậy sẽ tránh được những trở ngại do các nhân tố tự nhiên bao vây phía ngoài núi Dã Nhân gây nên, rồi từ huyệt động dưới lòng đất tìm kiếm lối ra bị sương mù che khuất.




Kế hoạch là vậy, nhưng trong thời gian thực hiện lại có quá nhiều biến cố xảy ra, giờ đây khí hậu thay đổi dữ dội, trong biển cây cối xanh mênh mông, lại càng khó phán đoán chính xác phương hướng. Cả đội đành phải hành sự theo diễn biến tình hình thực tế, tỏa ra truy lùng cái bóng bí ẩn của chiếc phi cơ ma quỷ biến mất sau mỏm núi. Đây là đầu mối duy nhất hiện có trong tay, đồng thời cũng là tia hi vọng sống còn của cả đội.



Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải lần mò từng bước trong rừng rậm đi trước mở đường. Tất cả những gì tầm mắt họ có thể nhìn thấy chỉ là tàn tích của những bức tường thành tan hoang sụp vỡ, trải qua bao bãi bể nương dâu, bị gió mưa xâm thực phá hủy. Tháp cổ đổ nát khắp nơi, chỉ còn lại mỗi cái móng trơ gan cùng tuế nguyệt. Thấp thoáng ẩn hiện dưới bức màn thảm thực vật um tùm dày kín, là một bức tượng điêu khắc hình đầu người to lớn khác thường nằm đổ ngang trên mặt đất, từ sau những rễ cây cổ thụ đan kết ngoằn ngoèo chồng chéo lên nhau, đôi mắt tượng chiếu ánh nhìn đăm đăm khiến người ta không khỏi cảm thấy rợn tóc gáy.



Càng đi vào sâu, vết tích càng nhiều. Rõ ràng trong những năm tháng xa xưa, đã trôi vào dĩ vãng từ rất lâu, núi Dã Nhân quả thực từng có một thời đoạn lịch sử rất đỗi huy hoàng, nhưng rốt cục đó là nền văn minh hiển hách như thế nào? Vì sao lại không hề có bất kỳ tài liệu ghi chép liên quan nào? Và ai, xuất phát vì mục đích gì đã cố tình hủy hoại tất cả những vết tích cổ xưa vốn có thể vén bức màn bí mật che đậy gương mặt thật của nó?



Dân gian Miến Điện còn lưu truyền một thuyết pháp: "Để bảo vệ bí mật chôn vùi trong núi Dã Nhân, người xưa đã cài đặt trùng điệp những cạm bẫy và trở ngại, làm cho bất kỳ kẻ nào có ý đồ rình trộm bí mật này, đều dính lời nguyền tà ác, cho dù chết đi cũng khó lòng giải thoát". Bởi vậy mà người bản địa sợ núi Dã Nhân hơn cả sợ quỷ, không ai dám lại gần nó nửa bước.



Rất lâu trước đây, Tư Mã Khôi đã sớm nghe đồn về những truyền thuyết này, lúc đó anh còn không tin lắm, nhưng giờ đây khi bản thân cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự, thì mới hiểu trong núi Dã Nhân quả thực ẩn chứa quá nhiều bí mật. Tuy anh tham gia quân đội nhân dân cộng sản Miến Điện gần chục năm, nhưng lại không biết rõ lắm về lịch sử cổ đại của Miến Điện, Campuchia. Anh vừa đi vừa hỏi Ngọc Phi Yến ở phía sau: "Theo cô, trong núi có mộ cổ không?"



Ngọc Phi Yến trả lời: "Tôi chưa bao giờ nghe nói trong núi Dã Nhân có huyệt mộ gì cả. Những nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam v.v... đều bị nền văn minh Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại ảnh hưởng sâu sắc, nên lăng tẩm các đế vương quý tộc trong lịch sử vô cùng chú trọng đến vấn đề thành phủ thâm u. Tất cả những di tích mà chúng ta vừa gặp trên đường tuy rằng cổ quái, nhưng không giống với hình dáng những loại tồn tại trong mộ táng, về điểm này, tôi khẳng định không thể nhìn lầm."



Tư Mã Khôi phán đoán: "Nhưng ngọn núi sâu này lại có vẻ còn thần bí hơn cả thành phủ trong mộ cổ; xem ra việc tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích của quân Anh còn khó khăn gấp nhiều lần so với dự tính. Theo tôi đoán, khe núi khổng lồ ở núi Dã Nhân quá nửa là tồn tại một vật gì đó mà chúng ta khó lòng tưởng tượng nổi."



Ngọc Phi Yến cũng có cùng linh cảm như vậy, cô gật đầu nói: "Đúng là một cõi u mê tăm tối, nghe vô thanh, nhìn vô ảnh, thần quỷ khó lường..." đang nói nửa chừng, bất chợt cuồng phong mang theo vô số những giọt mưa to như hạt đậu nành từ giữa không trung xối xả giội xuống, đánh rát cả mặt, làm mọi người không thể ngẩng mặt lên nổi, Ngọc Phi Yến hạ kính chắn gió trên mũ dã chiến xuống, sau đó đưa mắt nhìn lên nơi cao, thúc giục hội Tư Mã Khôi: "Trận mở màn của Stupa đã bắt đầu, nếu các anh không muốn mất mạng, thì phải đi nhanh hơn mới được."



Tư Mã Khôi biết, trong tiếng Miến Điện, "Stupa" là phiên âm của từ "Buddha". Nghe nói từ này bắt nguồn từ Ấn Độ, nước lân bang phía tây Miến Điện, chính xác hơn thì đó là tiếng Phạn của người Ấn Độ cổ, nghĩa gốc của nó vốn để chỉ tháp cổ, còn có nghĩa là ngôi mộ hình vuông hoặc hình tròn, bởi vì tháp ở Ấn Độ đều là những mộ phần để an táng thi hài các bậc thánh tăng hoặc nơi cất đặt xá lị Phật tổ. Bởi vậy từ Buddha, ngoại trừ chỉ tháp Phật ra, còn ngầm có một tầng ẩn ý ám chỉ việc "mai táng".




Chẳng rõ ai đã đặt tên cho cơn bão nhiệt đới đến từ Ấn Độ Dương, di chuyển với tốc độ 140 km/h này là Stupa. Nhưng theo thông lệ từ trước đến nay, phàm những cơn bão có tên hiệu liên quan đến thần phật, thì cấp độ đều không thể là loại nhỏ, nó chắc chắn sẽ mang theo thiên tai với quy mô nhất định. Những nơi bão quét qua đều khiến nhà đổ cửa sập, ngay cả cây cổ thụ ngàn năm tuổi cũng bị nhổ bật gốc rễ, bởi sức tàn phá của nó giống như sức mạnh vô biên của Phật tổ, tát bể dời non, khiến chúng sinh chốn trần gian khốn đốn, không thể chống cự.



Miền Trung và miền Nam Miến Điện là khu vực đồng bằng bình nguyên, thuộc dải khí hậu nhiệt đới gió mùa mang theo mưa lớn, nhưng sang miền Bắc, địa hình bắt đầu thay đổi với hệ thống đồi núi phức tạp, càng ngược về Bắc càng xuất hiện nhiều núi cao vực thẳm, rừng rậm hang sâu. Còn về khu vực núi Dã Nhân, thì hẳn là nơi đường xa núi hiểm, từ xưa đến nay trước sau đều rơi vào trạng thái tuyệt đối kín bưng. Cơn bão nhiệt đới từ vùng ven biển cập vào đất liền, sau khi xuyên qua vùng bình nguyên rộng lớn ở miền Trung, thì lại gặp sự cản trở của vùng sơn địa, khiến sức gió dần dần giảm xuống, bởi thế nếu là những cơn bão có quy mô nhỏ thì rất khó chạm tới núi Dã Nhân. Nhưng giờ đây, cơn bão nhiệt đới Buddha thực sự đang cuồng bạo, dữ dội chẳng khác chi Stupa, nên núi Dã Nhân Bắc Miến mới đành thúc thủ chịu sự khảo nghiệm hà khắc của trời đất. Thảm thực vật sinh sôi nảy nở um tùm rậm rạp ở đây, cùng với vô số huyệt động nông sâu khác nhau đều là những tác nhân khiến địa tầng và lòng núi trở nên yếu ớt khác thường, nên nếu không tìm được nơi ẩn nấp an toàn thích hợp, thì dãy núi cao trập trùng bị rừng nguyên sinh che phủ này sẽ thực sự trở thành mộ địa chôn thây tất cả các thành viên của đội thám hiểm.



Tư Mã Khôi tự biết cân đối thiệt hơn, hiểu rằng không thể lề mề chậm chạp. Anh và Hải ngọng, hai người đội mưa to gió lớn liều mạng phạt đứt những lùm cây bụi dây leo rậm rịt cản đường, gắng sức leo lên các mỏm núi phía trên cao. Tư Mã Khôi cũng liệu định trước, nơi sâu trong khe cốc ở núi Dã Nhân chắc chắn tiềm ẩn vô số hiểm nguy ghê gớm. Trước đây, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm và đội cứu nạn đặc phái của quân đội đều bỏ mạng ở trong này. Quân Anh, quân Mỹ hoàn toàn bó tay bất lực với nó. So với đội quân được trang bị vũ khí khoa học tối tân đặc biệt, thì mấy kẻ sống sót vừa may mắn bước ra từ lãnh địa của thần chết như hội anh có thể tìm thấy món hời gì ở nơi đây? Nhưng tình thế ép người ta làm liều, biết rõ đã đi là chẳng còn đường về, nhưng cũng không thể không hô quyết tâm mà ngẩng đầu ưỡn ngực lao vào.



Đội thám hiểm dò dẫm đi từng bước nơi gần đường gờ của mỏm núi. Trong cơn mưa như trút giăng mắc mịt mùng khắp cánh rừng, mượn ánh sáng của sấm chớp, mọi người nhìn thấy lòng núi dưới chân gồ đội lên như hình nón, Trong khi chóp nón giống như bị ai đó phạt đứt, lộ ra một hẻm núi khổng lồ, rộng rãi, sâu hun hút. Vết nứt không theo quy tắc vươn dài ra hai đầu Nam Bắc, dài đến mười mấy cây số, chỗ hẹp nhất cũng rộng không dưới mấy trăm mét, giống như một cái miệng rộng ngoác, đen ngòm đang há to trên bề mặt núi, giống như cánh cửa thông với địa ngục đang mở ra ngay trước mắt.



Phần lộ ra trong lòng núi là những tầng nham thạch màu xanh đen, treo lủng liểng vô số loài dây leo, khiến nó trông càng sặc sỡ và quái dị hơn. Mưa gió từng cơn liên tục nối tiếp, đã khiến màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất bị tiêu tan hoàn toàn, nhưng ở nơi sâu trong khe núi khổng lồ của núi Dã Nhân vẫn miên man mây mù, u tối mênh mông, chẳng thể nhìn thấy đáy.



Trước đây, mọi người không chỉ một lần thử tưởng tượng xem khe núi khổng lồ trong núi Dã Nhân, nơi chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích, rốt cục trông như thế nào, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì chẳng qua cũng chỉ hình dung nó là một hẻm núi sâu trong lòng núi, chắc chắn không thể hùng vĩ nguyên thủy như hẻm núi Grand Canyon ở Mỹ, cũng không thể khí nuốt vạn tượng như thung lũng Great Rift ở châu Phi, chỉ có điều nó là một huyệt động nằm sâu dưới lòng đất và hướng chạy dựng đứng mà thôi.



Thế nhưng đến tận thời khắc này, khi mọi người mạo hiểm băng qua làn mưa như thác đổ, đứng trên mép vực của khe núi, họ mới thực sự cảm nhận một cách sâu sắc về địa thế đáng sợ, nguy hiểm tột cùng của nó. Những người từng tận mắt chứng kiến, đều không thể không kinh hoàng, bởi đứng trước nó sẽ khiến bạn vô thức nảy sinh ảo giác như thể đang đứng trước vực thẳm sâu vạn trượng, và chỉ cần nhìn lâu một chút sẽ lập tức hoa mắt chóng mặt, dường như dưới lòng đất có một thế lực khủng khiếp vô hình nào đó đang tồn tại, khiến người ta lạnh thấu tim phổi. Đó là cảm giác chấn động bàng hoàng khó có thể diễn tả bằng lời, là sự trống rỗng từ một nơi xa xôi, sâu thẳm nào đó trong linh hồn, là nội hàm to lớn không thể đo lường.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: hồi thứ sáu: ánh sáng chói lóa


Hồi thứ sáu: Ánh sáng chói lóa



Cùng với sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha, mưa gió càng ngày càng trở nên hung bạo. Quần thể thực vật trong rừng rậm nguyên sinh phân bố cao thấp, giao hòa vào nhau, một số thân cây có rễ ăn nông trên mặt đất, độ bảo vệ và bám víu không được chắc chắn lắm, liền bị cuồng phong thổi bật gốc, hoặc nếu không cũng bị phạt đứt ngang thân, một số thực vật khác to lớn lực lưỡng, sức sống bền bỉ dẻo dai hơn thì cũng bị cuồng phong quật nghiêng ngả theo luồng gió cuốn. Giông tố cuồng phong và sấm vang chớp giật gầm réo khắp không trung, nuốt chửng tất cả âm thanh dưới vòm trời.



Hội Tư Mã Khôi đứng trên mép hẻm núi, tay bấu chặt lấy mấy thân cây cổ thụ to đến một vòng ôm không xuể trên mỏm núi, nằm rạp người đưa mắt ngó xuống đáy hẻm núi, thì cảm thấy mưa gió mỗi lúc một mạnh hơn. Trận mưa này đúng chẳng khác nào đổ nước biển Đông, trút sông Ngân Hà, mỏm núi giờ không còn là chỗ có thể trú chân an toàn được nữa. Nhờ vào ánh sét sáng trắng rạch ngang bầu trời, họ có thể nhìn thấy dây leo bám chằng chịt vào bức tường cổ trong lòng hẻm núi, vách treo dựng đứng, hướng đi gần như vuông góc với mặt đất, nơi sâu nhất mây mù dày đặc mênh mang, hoàn toàn che khuất tầm nhìn. Dây thừng đội thám hiểm mang theo chỉ có hạn, mà cho dù buộc tất cả dây thừng lại với nhau, rồi thả xuống lòng huyệt động sâu không thể lường này, thì chắc chắn cũng chẳng thể vươn tới đáy.



Đang đợi tìm một chỗ có thể trèo xuống, nào ngờ chiếc cáng mà Tuyệt và Karaweik đang khênh không chịu nổi sức gió, vừa bị cuồng phong tạt một cái, phút chốc đã căng như cánh buồm. Thảo Thượng Phi đang nằm trong cáng, người gầy khô chỉ còn lại nắm da bọc xương, chẳng địch lại nổi, nên một trận cuồng phong quét qua đã khiến cả người lẫn cáng đều bị cuốn vào không trung, nhẹ như cánh hoa bay theo chiều gió.



Tư Mã Khôi phát hiện chiếc cáng tuột ra khỏi tay Tuyệt, ngay sau đó nhìn thấy một bóng người vụt qua trước mắt, liền vội vàng giơ tay định bắt, nhưng lại tóm hụt. Trong cơn cuồng phong giông tố mà cơn bão nhiệt đới Buddha mang tới, trước mắt anh chỉ nhìn thấy một màn đêm đen đặc, trong chớp mắt đã chẳng nhìn thấy thân thể Thảo Thượng Phi rơi về phương nào. Tư Mã Khôi khẽ thở dài, lòng thầm nghĩ: nếu có trách thì chỉ biết trách cái tên Thảo Thượng Phi đặt không hay, kiếp sau có lẽ nên đổi là "Chùy Ngàn Cân" mới thỏa đáng.



Lúc này, khu vực gần mép núi đã chẳng thể trú chân được nữa, may mà còn nhìn rõ địa hình, nên mọi người đang định đội mưa gió rút lui xuống sườn núi để tìm một nơi nhỏ hẹp bằng phẳng hơn tiến xuống đáy hẻm núi. Nhưng dưới áp lực của gió bão hung dữ, ngay bước chân cũng không di chuyển nổi, cả cây cổ thụ đang bám víu cũng bị gió thổi ngả nghiêng như muốn đổ gục, thì tình thế giờ đây đúng là tiến thoái lưỡng nan.



Ngọc Phi Yến nhận thấy ở trên núi quá nguy hiểm liền vội vàng huých Tư Mã Khôi, ra hiệu ọi người phải tức khắc mạo hiểm bò xuống dưới khe núi. Tư Mã Khôi cũng biết đây là kế sách duy nhất có thể thực hiện trong lúc này, liền nắm lấy tay Karaweik, bảo cậu bé hãy theo sát mình, rồi tóm lấy một sợi rễ cây cổ thụ to như cánh tay người, từ từ tụt xuống dưới.




Lòng khe núi tuy cũng chịu ảnh hưởng bởi cơn bão nhiệt đới, nhưng dưới tác động của địa hình đặc biệt, ở nơi sâu có những dòng khí đối lưu quanh năm lượn vòng khiến mưa gió khó lòng xâm nhập vào bên trong. Từ vách đá bò xuống mấy chục mét, anh đã không còn cảm thấy tiếng gió thổi ù ù trên mặt đất, lượng mưa cũng giảm đi khá nhiều.



Tư Mã Khôi xuống đến độ sâu ngoài trăm mét thì nhìn thấy sương khí dưới chân đặc quánh ngưng tụ, nên nếu còn xuống sâu hơn, thì sẽ lọt vào đám sương dày mênh mông. Loại sương mù dày đặc này lai lịch bất minh, tuy bản thân sương mù hoàn toàn vô hại đối với cơ thể con người, nhưng nó cũng khiến những chất ô nhiễm trong không khí không dễ thoát đi, nên rất có khả năng sẽ trở thành "sương mù sát nhân" khiến con người tử nạn.



Tuy cơn bão nhiệt đới Buddha khiến khí hậu thay đổi theo chiều hướng xấu, thổi tan tác đám sương mù trào ra từ lòng đất ở núi Dã Nhân, sương mù trong khe núi khổng lồ cũng chịu sự áp chế của cơn giông tố, dần dần hạ thấp xuống với tốc độ chậm chạp, nhưng trong huyệt động vẫn hoàn toàn bị mây mù che phủ kín mít, nông sâu khó lường. Trong màn sương bí ẩn ngưng tụ không thể tiêu tán, tử khí bốc lên nặng nề, không rõ ẩn chứa những hung hiểm gì. Cho dù chiếc tiêm kích vận tải đúng thật rơi xuống chỗ này, nhưng nếu đội thám hiểm phải đi vào màn sương mù hạn chế tầm nhìn đến cực độ, tiến hành tìm kiếm khắp khu vực rộng lớn, sâu hút như vậy, thì cũng chẳng khác nào mò kim đáy biển, cơ hội thành công quá đỗi mờ mịt, mong manh. Không những vậy, suốt chặng đường mệt muốn đứt hơi, mọi người đi đến đây đều sức cùng lực kiệt, đều cảm thấy khó có thể gắng gượng thêm được nữa.



Ngọc Phi Yến thấy đội thám hiểm đã thoát khỏi sự tấn công của cơn bão nhiệt, vào đến lòng khe núi, và theo tình hình lúc này thì nên dừng chân hạ trại, không nên gấp gáp quá, kẻo cuối cùng lại hóa công cốc. Nghĩ vậy, cô ả bèn bảo mọi người ngừng chân nghỉ ngơi, đợi khi đám sương bí ẩn kia xuống thấp hơn nữa mới tiếp tục hành động.



Ở giữa hai vách đá trong lòng sơn cốc, mọi người tìm thấy một cái động lõm bị dây leo rừng phủ đầy, độ nông sâu rộng hẹp vừa đủ để mấy người bọn họ chen chúc chui vào nhóm một đống lửa, hong khô quần áo vừa ướt sũng nước mưa, đồng thời lấy lương khô ra ăn lót dạ. Bên tai họ vẫn nghe thấy tiếng mưa rơi lào rào, trong những khe đá sát bên cạnh vẫn vọng lại tiếng gió càn quét ù ù. Cả đội trú chân ở nơi hiểm dữ "đầu không chạm trời, chân không chạm đất", trong lòng không khỏi thót tim quặn bụng, làm sao có thể yên tâm nghỉ ngơi.



Trong thời gian một ngày ngắn ngủi Ngọc Phi Yến liên tục bị tổn thất mấy thuộc hạ đắc lực, đau đớn như bị chặt mất tay trái tay phải, nên trong lòng đương nhiên không tránh khỏi cảm giác đau buồn, hoảng loạn, cô ả ngẫm nghĩ thấy giờ đây bên mình chỉ còn lại mỗi gã Gấu trắng người Nga, mà người này vì tránh né sự thống trị của bức màn sắt Nga - Xô Viết, mới chạy lưu vong sang dải đất Đông Nam Á. Gã từng ở địa phận vô chính phủ giữa ba nước Miến Điện, Campuchia, Thái Lan - bán mạng cho quỷ dữ để trồng anh túc. Việc giết người đối với gã đã trở thành bản tính, bởi một khi thú tính trỗi dậy sẽ lập tức trở mặt không còn là người. Sau đó do gây ra đại họa, bị người ta cắt mất nửa cái lưỡi, gã mới đành tháo chạy xuống eo biển Malacca, cuối cùng chuyển đến đầu quân làm thuộc hạ của Ngọc Phi Yến, nhưng tính tình vẫn hung tàn, lạnh lùng, tâm địa khó dò, không đáng tin cậy.



Lúc này, người mà Ngọc Phi Yến có thể gửi gắm niềm tin và hi vọng, chỉ có bốn thành viên trong đội du kích cộng sản Miến Điện mà thôi.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Lúc đầu cô ả chỉ định dẫn theo Karaweik - cậu bé có thể tìm thấy con đường U Linh và thông thạo khu vực chôn vùi địa lôi ngầm, nhưng giờ đây, khi ngoái đầu nhìn lại chặng đường đã qua, cũng may nhờ lôi kéo Tư Mã Khôi vào nhập hội, nếu không hậu quả thực chẳng dám nghĩ đến. Ngọc Phi Yến dự định sau khi mọi việc thành công, sẽ lôi kéo, mua chuộc mấy người này gia nhập băng đảng của mình. Cái cô tinh thông y thuật, giỏi nắn xương tên là Tuyệt gì đó, còn có vẻ dễ thuyết phục, chứ hai gã Tư Mã Khôi và La Đại Hải tính tình quái đản, cứng mềm đều chẳng ưa, phải nói thế nào mới khiến họ động lòng đây? Từ trước đến nay, Ngọc Phi Yến là người đa mưu túc trí, rất giỏi lung lạc lòng người, chỉ cần động não một chút, liền nghĩ ngay ra kế sách, nên nhân thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi, liền tìm đầu mối nơi Karaweik trước tiên.



Ngọc Phi Yến phát hiện cậu bé cực kỳ nhát gan, từ khi vào trong khe núi đến giờ vẫn cứ sợ hãi đến nỗi hai hàm răng liên tục đánh cầm cập vào nhau, chẳng mở miệng nói nổi nửa lời, liền rút một miếng ngọc phỉ thúy hình ống ở trong người ra. Tổ tiên cô ả từng là giai cấp quý tộc giàu có hiển hách, miếng ngọc phỉ thúy này là một trong những báu vật gia truyền của tổ tiên, nếu bỏ nó vào chậu thau đồng đựng đầy nước sạch, nó sẽ phát ra ánh sáng xanh biếc sóng sánh ngập chậu. Miếng ngọc quả thực là vật khác thường, vì nó còn có khả năng giúp chủ nhân tránh tà chặn nạn.



Ngọc Phi Yến cầm miếng ngọc bội, luồn sợi chỉ đỏ vào, rồi đeo lên cổ Karaweik, đồng thời nói cho cậu bé rõ tác dụng thần kỳ của nó.



Tuyệt thấy Karaweik có vẻ ngơ ngác không hiểu gì, thì nói với cậu vật này vô cùng quý giá, bảo cậu phải mau cảm ơn Ngọc Phi Yến.



Ngọc Phi Yến thầm đắc ý trong lòng, đang định nhận Karaweik là đồng hương, rồi nhân cơ hội này khiến hội Tư Mã Khôi thu nạp mình vào nhóm.



Ai ngờ, Tư Mã Khôi nhìn cũng chẳng thèm nhìn miếng ngọc phỉ thúy gia truyền của cô ả lấy nửa lần, quay ngoắt sang hỏi Ngọc Phi Yến: "Không có công lao mà nhận bổng lộc, e rằng ăn không ngon, ngủ không yên rồi. Thằng nhóc Chủ Nhật này là anh em của tôi và La Đại Hải, cô tặng cho nó vật quý giá như vậy, thì bọn tôi cũng phải tặng lại cô một vật mới phải đạo chứ."




Ngọc Phi Yến biết thái độ này của Tư Mã Khôi tức là anh không chịu nhận lễ, đang ngầm tỏ ra bất cần, liền thầm nghĩ: "Gã tiểu tử này trên người có vật gì đáng đem ra so sánh với miếng ngọc gia truyền của tổ tiên nhà mình, mà dám mặt dày mang ra đáp lễ?"



Tư Mã Khôi đọc được ý nghĩ của cô ả, liền bảo: "Đừng coi thường người ta quá đáng như thế, chớ quên thuyền rách cũng còn có ba ngàn cái đinh, gia tộc họ Thắng nhà cô có món đồ chơi gia truyền thì chúng tôi cũng có vật ông bà cụ kị để lại chứ," nói xong liền quay sang La Đại Hải liếc mắt ra dấu, ý bảo hãy lôi vật nhà mình ra cho Ngọc Phi Yến được mở rộng tầm nhìn.



Từ trước đến nay La Đại Hải và Tư Mã Khôi làm việc rất ăn ý nên Đại Hải vừa nghe đã gật đầu tỏ ra hiểu việc, rồi lộn toàn bộ các túi trái phải trước sau trên người, cuối cùng cũng lôi ra được một cây móc ngoáy tai bằng đồng có khắc hoa văn, xem ra có vẻ như là sản phẩm thủ công bản địa của người Miến Điện. Vật đó tuy nhìn khá tinh xảo, màu sắc có vẻ cũng đã lâu năm, nhưng ngắm thế nào thì cũng vẫn là loại hàng chợ, nếu mang ra đặt ngang hàng với báu vật hiếm có khác thường của Ngọc Phi Yến, quả thực trông rõ rẻ tiền, kém phẩm chất. Vậy vật này thì có giá trị gì? Nếu lỡ rơi trên đường, sợ rằng cũng chẳng có ai thèm nhặt.



Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến nhìn chiếc ngoáy tai bằng đồng với con mắt đầy vẻ khinh thường miệt thị, thì vờ cười nhạt một tiếng, nói với cô ả: "Thủ lĩnh! Chắc cô không hiểu về hàng họ lắm thì phải. Có phải cô cho rằng vật trong tay anh em bọn tôi chẳng đáng hai hào mua cái phao câu gà không? Tạm thời chưa vội luận bàn đến việc đắt rẻ, nó thực sự không phải vật tầm thường đâu. Cũng bởi vì cô không biết đấy thôi, chứ lúc cuối đời Thanh đầu những năm Dân quốc, nó được mang ra từ đại nội hoàng cung đấy. Bao nhiêu năm qua, nó là bảo vật nhét đáy hòm nhà Hải ngọng, nếu chẳng phải đem tặng cho nhân vật có thân phận cao quý như cô, thì chúng tôi có sống chết gì cũng chả chịu mang ra đâu."



La Đại Hải ở bên cạnh cũng giúp đánh trống gõ mõ, hai khóe mắt hoe hoe đỏ như thể đang xúc động dạt dào, nuốt nước mắt khuyên can Tư Mã Khôi: "Người anh em! Tớ suy đi tính lại vẫn thấy không nỡ xa rời nó, chúng ta làm như vậy thực sự... thực sự rất có lỗi với tổ tông đó," nói đoạn liền định lấy vật đang ở trong tay Tư Mã Khôi mang đi.



Ngọc Phi Yến vốn dĩ cho rằng Tư Mã Khôi đang định giở trò với mình, nhưng nhìn sắc mặt trịnh trọng của bọn họ, quả không phải giả vờ, chẳng lẽ mình lại nhìn lầm thật, nhưng xét cả tình và lý thì đều nói không thông, chỉ đành hỏi lại: "Làm sao trong hoàng cung lại có loại hàng chợ này?"



Tư Mã Khôi cố tình ra vẻ bất lực nói: "Chúng tôi biết đến đâu thì nói đến đấy; hôm nay tôi kể lai lịch gốc gác của nó cho cô biết cũng chẳng hề gì, nhưng cô tuyệt đối không được loan truyền ra ngoài, vì đây chẳng phải chuyện gì vẻ vang cho lắm."



Ngọc Phi Yến càng cảm thấy khó hiểu hơn, bên trong còn có thể ẩn chứa chuyện gì không rõ ràng nữa đây? Rồi nhìn thấy Tư Mã Khôi thò tay chỉ La Đại Hải, và trầm giọng nói với cô: "Chẳng giấu gì cô, cô đừng thấy Hải ngọng nói giọng Đông Bắc mà cho rằng cậu ta là người Đông Bắc, kỳ thực tổ tông mấy đời nhà Hải ngọng đều là người Bắc Kinh đấy, mà dưới gốc rễ hoàng thành Bắc Kinh từ trước đến nay đều là nơi ngọa hổ tàng long, loại cao nhân nào mà chẳng có? Ông nội nhà Hải ngọng cũng không phải nhân vật tầm thường, mà là vị đại thái giám cuối cùng của vương triều Mãn Thanh, tên là Tiểu Đức Trương. Còn về vật này thì lai lịch càng không phải bàn, đó là vật ông nội Tiểu Đức Trương thuận tay dắt bò - tiện cầm luôn ra ngoài, lúc theo hoàng đế Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành đấy."



La Đại Hải nghe xong suýt nữa thì ngất xỉu, chửi thầm trong bụng: "Tiên sư thằng Khôi, cậu đúng là đồ bụng đầy nước bẩn, thấy lời là chiếm, tớ đếch thấy ai thất đức hơn cậu, có ông nội nhà cậu mới là thái giám ấy!"



Nghĩ là nghĩ vậy, chứ đến nước này thì anh cũng đành tiếp tục nhăn mặt, thở dài than vãn với Ngọc Phi Yến: "Cô nghe người ta nói thế cũng chẳng sao, nhưng đã nghe thì phải nghe cho rõ đầu cua tai nheo, thực ra nội tôi, ông già chẳng phải hạng trộm cắp tiện tay lấy đồ của người đâu, chỉ là muốn lưu lại chút kỷ niệm, cái này gọi là làm người không được quên gốc gác. Sau khi nước Đại Thanh của chúng ta không còn, ông già ngày nào cũng lôi cái ngoáy ráy tai này ra lạy đủ ba lạy, khấu đầu đủ chín cái. Ông già vào cung từ lúc sáu tuổi, hầu hạ thái hậu và hoàng thượng quá nửa đời người, mãi đến lúc chết vẫn chưa quên tận trung với chủ đấy..." nói đến câu cuối cùng, dường như hoài niệm lại chuyện cũ, cảm xúc dâng trào đến nỗi giọng cậu nghẹn lại chẳng nói thành lời.



Tư Mã Khôi liền vội vàng cất lời an ủi: "Nô tài mà làm được đến như vậy, thì cũng coi là chẳng còn gì phải hổ thẹn với chủ nữa rồi."



Ngọc Phi Yến nghe đến đây thì càng sinh nghi: "Ông Tiểu Đức Trương đã là thái giám trong Tử Cấm Thành, hơn nữa lại tịnh thân, vào làm quan lúc mới sáu tuổi, thì làm gì còn sinh con đẻ cháu được nữa?"



Tư Mã Khôi vội vàng che đậy hộ Hải ngọng: "Sau khi công công Tiểu Đức Trương xuất cung, chẳng phải ông ấy vẫn phải thành gia sống nốt quãng đời còn lại sao? Kết quả là ông ấy lấy một cung nữ già làm vợ, rồi nhận nuôi một đứa con trai lúc tuổi già xế bóng, để còn giúp mình dưỡng già đưa ma; tuy không phải cha đẻ, nhưng tình cảm cha con thân thiết chẳng chê vào đâu được, cái đó gọi là không phải ruột thịt, mà còn hơn ruột thịt. Đây chính là điểm khiến người ta cảm động nhất trong gia đình nhà La Đại Hải đấy cô biết không?"



Ngọc Phi Yến khẽ gật đầu, nhưng trong lòng vẫn còn rất nhiều nghi hoặc không giải đáp được, bèn hỏi: "Vị công công Tiểu Đức Trương đã định lấy một vật trong cung ra ngoài, sao chẳng lấy vàng bạc ngọc ngà, hoặc chí ít cũng là tranh chữ, đồ cổ, mà lại lấy cái móc ngoáy tai mang về giấu dưới đáy hòm?"




Tư Mã Khôi lại khua môi múa mép bịa một hồi, nói: "Cô đừng coi thường cái móc ngoáy tai bằng đồng chính hiệu này nhé, nó thực tế không hổ danh là quốc bảo đâu, vì sao ư? Bởi vì nhìn một vật cổ, cô không thể phán đoán nó sang hèn dựa vào chất liệu, mà trước tiên phải xem giá trị lịch sử, thứ đến mới là giá trị nghệ thuật của nó."



Nghe nói từ thời Đại Minh, Hồng Vũ Đế nổi dậy, tắm máu trăm trận, cuối cùng cũng đẩy lùi nhà Nguyên về phía bắc sa mạc Gobi, phục hồi sơn hà Đại Hán chúng ta; sau loạn Yến Vương dẫn quân tạo phản, Hán Chiêu Đế giành được ngôi báu rồi dựng đô ở Bắc Kinh, chăm lo trị quốc, nhờ thế đất nước được hưởng thái bình. Trải qua bao nhật nguyệt vần vũ, vật đổi sao dời, việc này gọi là "hoa thơm không thường nở, cảnh đẹp chẳng thường thấy". Đến những năm cuối triều đại nhà Minh, triều đình thất thế, trong nhiễu ngoài loạn, dân chúng không thể yên ổn sinh sống. Đầu tiên là Đại Thuận hoàng đế Lý Tự Thành lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh, bức tử hoàng đế Sùng Trinh ở núi Môi Sơn, đổi quốc hiệu là Đại Thuận. Thiên hạ bách tính cứ ngỡ từ nay lại được an cư lạc nghiệp, đâu ngờ lại xuất hiện tên Tổng binh Ngô Tam Quế nổi giận vì bị cướp mất hồng nhan tri kỷ, đã mở cửa Sơn Hải Quan cho quân Thanh tràn vào. Đội quân giáp sắt giương cao bát kỳ hành quân như gió cuốn tiến về phía nam, đi đến đâu thắng như chẻ tre đến đó, cứ thế hùng cứ Trung Nguyên, nhưng nước Đại Thanh vẫn dựng đô ở Bắc Kinh, cô có biết vì sao không? Chỉ bởi vì vị hoàng đế Mãn Thanh đó cũng nhìn trúng ý địa hình Bắc Kinh của chúng ta, rõ ràng không phải vùng tầm thường, đất này phía bắc có núi Yến Sơn, phía tây tiếp giáp dãy núi Thái Hành Sơn, phía đông vươn ra biển Bột Hải, phía nam trấn áp núi Hoa Hạ. Quả thật có thể gọi đây là "kim phủ thiên thành", là nền móng không thể lung lay của vạn cổ ngàn năm.



Từ khi Mãn Thanh làm chủ Bắc Kinh đến nay, liên tiếp mấy đời minh quân thánh chủ, trọng dụng hiền tài, dân no nước mạnh, trọng thị canh nông, bình định mọi cuộc phản loạn, cuối cùng cũng khiến bốn biển thống nhất, muôn dân quy thuận.



Nào ngờ, sau thời Khang Hy, Càn Long trị vì đất nước, lại chẳng ngăn cản nổi sự luân chuyển thịnh suy, thế sự biến đổi, cuối cùng cương triều bại hoại, đại cục hỗn loạn đến nỗi không thể chỉnh đốn nổi nữa. Mắt nhìn liên quân tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hy thái hậu buộc phải bỏ kinh chạy trốn, trên đường khênh kiệu tháo chạy, thời tiết hanh khô, nước non thiếu thốn, mặt trời chói chang xuyên suốt tầng không, tịnh chẳng bóng mây, lão Phật gia trong người bốc hỏa, tai ù mắt mỏi, nỗi khổ chẳng thể nói thành lời, ngự y chữa trị bằng nhiều phương pháp nhưng vẫn vô hiệu. Đúng lúc sắp sửa hấp hối lìa đời, may mà có một vị cung sử theo hầu dâng lên thái hậu một cái móc ngoáy tai lung linh tinh xảo - mà nước Xiêm từng cống tặng trước đây. Sau khi được chính tay tổng quản thái giám Lý Liên Anh ngoáy tai lấy ráy ra, mang cục ráy đặt lên bàn cân, thấy nặng hơn hai hoa, Từ Hy thái hậu hạ được nội hỏa trong người, phút chốc cảm thấy tinh thần sảng khoái, tai thông mắt rõ, bởi vậy mà sống lại, trở về Bắc Kinh chủ trương nghị hòa với bọn giặc Tây, ký kết hiệp ước Tân Sửu.



Có thể nói, nếu lúc đó Từ Hy thái hậu không được ngoáy tai, thì bà ta đã chẳng thể bảo toàn tính mạng trở về kinh thành. Nếu bà ta không trở về, thì công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất của hoàng đế Quang Tự rất có thể đã thành công, còn ông cũng không cần uất ức đến phát bệnh, để rồi cuối cùng rơi vào thảm cảnh nuốt hận lìa đời. Có ai ngờ, chỉ mỗi chiếc móc ngoáy tai bé tí tẹo, lại trở thành vật chứng lịch sử chứng kiến sự thay đổi biến hóa của phong vân và tình cảnh những năm cuối của thời Thanh bị tước quyền đoạt nước. Chẳng trách sau đó Lý Hồng Chương đại nhân lại cảm thán: "Nhọc nhằn thân ngựa đóng yên cương. Đại sự chưa thành chết còn vương. Ba trăm năm nước nhà suy bại. Chồng chất xác dân rải dọc đường. Thu phong bảo kiếm thầm rơi lệ. Tà dương rọi bóng bức thành tường. Ngoáy tai móc đồng, một báu vật (Nguyên tác vốn là: Phiêu du bốn bể lòng trĩu nặng). Đồng bào ơi hỡi, hãy lên đường."



Đến lúc này Ngọc Phi Yến cuối cùng cũng hiểu, thì ra Tư Mã Khôi nói nhiều như thế, chẳng qua chỉ là muốn thể hiện món đồ chơi rách của anh ta có giá trị phi thường, đủ sức ngang hàng với mảnh ngọc bội phỉ thúy mà mình vừa mang tặng Karaweik. Tấm chân tình sâu nặng, toàn tâm toàn ý phơi ra lại bị gã tạt một gáo nước lạnh, đúng là minh châu bảo ngọc rơi vào tay kẻ mù, lòng tốt bị coi là lòng lang dạ sói. Càng nghĩ, cô ả càng tức lộn ruột, không nhịn nổi, đôi hàng lông mày thanh tú dựng đứng lên: "Anh coi thường tôi thế cơ à?"



Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bị mình chọc tức đến nỗi gò má chuyển màu trắng bệch, nước mắt ầng ậng chực trào ra khỏi mi, trong lòng anh cũng không khỏi cảm thấy ái ngại, liền nói thẳng với cô cho rõ chuyện, rồi phân trần: "Cô cứ nhận lấy đi, tuy vật này không thể sánh với những vật cô từng nhìn thấy dưới mộ cổ, nhưng châu chấu đã nhảy vào chảo mỡ, ít nhiều gì thì cũng thành thức ăn mặn. Hơn nữa, cô cũng đừng tổn công phí sức lôi kéo bọn tôi nhập hội làm gì, bao nhiêu năm nay, chưa có người nào sống sót thoát ra khỏi khe núi trong núi Dã Nhân. Lùi một vạn bước mà nói, cho dù chúng ta thực sự may mắn giữ được cái mạng mà ra được, tôi cũng chỉ hi vọng cô hãy thực hiện lời hứa lúc trước, dẫn Karaweik cao chạy xa bay, còn về chuyện ba người bọn tôi, cô đừng can thiệp vào nữa."



Thì ra ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt trước khi gặp nạn "đỉa Campuchia" ăn thịt người, đã suy nghĩ rất kỹ, cho dù ba người mình may mắn mang được mạng sống rời khỏi núi Dã Nhân, thì cũng không định trốn ra nước ngoài. Bởi vì sang đó, bản thân chẳng có sở trường, cũng khó kiếm nổi nghề gì nuôi thân, vì kế sinh nhai, chắc chắn sẽ bị người khác khống chế, sớm muộn gì cũng lại theo Ngọc Phi Yến trở thành dân "hối tử" trộm mộ.



Nghĩ đến kết cục mà hội Khương sư phụ, Xuyên Sơn Giáp phải nhận, có thể thấy: đúng thực "Người chết vì của, chim chết vì mồi", bọn họ đều là những kẻ được người ta bỏ nhiều tiền ra thuê, kết quả bị chết oan uổng, bất minh trong cánh rừng nguyên sinh, đoạt tuyệt với thế giới bên ngoài. Làm những phi vụ mang tính mạng của mình đặt trong túi tiền của thiên hạ như vậy, ai dám đảm bảo một ngày nào đó chẳng gặp vận rủi, rơi vào tay Ma Vương quỷ phủ mà đền luôn tính mệnh. Nếu phải bán mạng cho bọn tài phiệt vì chút tiền bạc, để đến cuối cùng chết nhục nhã chẳng khác nào một con chó, thì chẳng thà cứ vượt biển trở về đất nước, đáng bị bắn thì chịu bắn, đáng bị ngồi nhà đá thì ngồi nhà đá, như vậy còn thoải mái, dễ chịu hơn nhiều.



Ngọc Phi Yến nghe mấy lời của Tư Mã Khôi, cơn thịnh nộ trong lòng cũng nguôi ngoai đi chút ít, nhưng vẫn còn chưa hết giận, đang lúc định nói với anh câu gì, đột nhiên một âm thanh cực mạnh từ đáy khe núi dội lên, mọi người biết chắc có chuyện chẳng lành xảy ra, liền vội vàng nhoài người xuống nhìn. Họ chỉ thấy trong lớp sương mù bí ẩn dày đặc phía dưới sâu, phát ra mấy luồng sáng cực mạnh, vô cùng chói mắt.



Ánh sáng cực mạnh chói lóa, xuyên qua từng tầng sương dày, nhấp nháy, dao động liên tục khiến mọi người hoa hết cả mắt, cùng với đó là âm thanh quái dị cứ "răng rắc răng rắc" như tiếng thân cây cổ thụ mục nát đang bị đổ sụp gãy gập, nghe mà sởn gai ốc. Anh ngẫm nghĩ: "Mấy luồng sáng trong sương dày trông chói sáng lóa mắt thế kia, có khi phải mạnh gấp mười lần ánh sáng của đèn chiếu halogen, chắc chắn không thể là ánh sáng của sinh vật. Lại còn âm thanh giống như tiếng cành cây gãy, rung lên từng đợt dưới khe núi, đang di chuyển đi lên với tốc độ chóng mặt nữa chứ, rốt cục là vật thể gì phát ra tiếng động đó đây?"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: hồi thứ bảy: lao xuống


Hồi thứ bảy: Lao xuống



Ở nơi sâu khoảng hai ba trăm mét dưới khe núi, bỗng xuất hiện mấy luồng sáng chói mắt phát ra từ đám sương mù dày đặc. Ánh sáng mạnh trong bóng tối dao động bất định, đồng thời dưới lòng đất còn dội lại âm thanh khác thường nghe "răng rắc" như tiếng cành khô gãy vụn, xem động tĩnh thì dường như có một vật gì bên dưới vực sâu đang bò lên với vận tốc rất nhanh.



Tư Mã Khôi đoán định nguồn ánh sáng xuất hiện trong sương mù dày đặc chắc chắn không phải ánh sáng sinh học, bởi những loại ánh sáng do sinh vật hoặc quặng đá phát ra đều thuộc loại ánh sáng lạnh hóa học, thời gian chiếu sáng kéo dài, không tỏa nhiệt. Đối với con người mà nói, đó là nguồn ánh sáng lý tưởng nhất, vậy mà tia sáng dao động trong lớp sương mù mịt kia lại vô cùng chói mắt, những loại đèn chiếu sáng thông thường không thể nào bì được, dường như nó được sinh ra từ nguồn nhiệt quang điện cực lớn. Lẽ nào trong khe núi dưới lòng đất âm u không nhìn thấy mặt trời, hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này, lại ẩn giấu loại "thiết bị chiếu sáng cực mạnh" có thể hoạt động tốt cho đến tận bây giờ?



Chiếc tiêm kích mất tích gần ba mươi năm. Trong môi trường ẩm ướt, lạnh lẽo thế này, nó cũng sớm bị ăn mòn, hoen rỉ, rách nát chẳng còn hình dạng. Hơn nữa, trên thân máy bay chắc chắn không lắp đặt loại đèn chiếu sáng cực mạnh, bởi thế nguồn sáng phát ra từ màn sương dày đặc, cũng không thể đến từ chiếc máy bay bị rơi vỡ cách đây nhiều năm.



Mọi người kinh hãi tới mức không thốt được thành lời, chẳng ai biết được cái gì sẽ xuất hiện trong đám sương mù. Họ nín thở tập trung nghe ngóng một hồi lâu, chỉ thấy mấy chùm sáng bỗng dưng vụt tắt, đáy khe núi một lần nữa lại trở về trạng thái yên ắng không một tiếng động, như thể chưa từng xảy ra bất cứ việc gì trước đó.




Sở dĩ một việc trở thành nguy hiểm, xét ở một mức độ nào đó là do con người không thể dự đoán trước được chân tướng của nó. Tư Mã Khôi cũng biết gặp những việc đại loại như thế này, chỉ dựa vào phán đoán thì chưa đủ, mà còn phải tận mắt xác thực. Anh và mọi người bàn bạc một hồi, rồi quyết định mình và Ngọc Phi Yến sẽ xuống chỗ sương mù mịt mùng dưới kia làm rõ xem rốt cục đó là cái gì. Hai người mang theo vũ khí, trên người buộc đèn led dã ngoại chiếu sáng bằng điốt phát quang hai cực, lại cầm thêm chiếc đèn pin tụ quang siêu sáng, tay bám rễ cây từ từ tụt xuống. Càng đến gần chỗ sương khí trào ra, họ càng lờ mờ nhìn thấy một bóng đen to lớn ẩn hiện trong màn sương mù mênh mang mờ mịt.



Do sự xâm lấn của cơn bão nhiệt đới Buddha càng ngày càng gia tăng, nên sương khí trong lòng khe núi cũng dần dần giảm xuống thấp, lúc hai người đến gần thì sương mù không còn quá dày đặc nữa. Nhờ ánh sáng của đèn pin, Tư Mã Khôi có thể nhìn kỹ bóng đen to lớn đó, không ngờ nó lại là một chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, bị vô số rễ cây buộc chặt. Chiếc máy bay có phần đầu tù tròn, phần thân hình e líp dọc, hai cánh phân bố theo hình thang, trước hẹp sau rộng, điểm khác biệt so với các máy bay cùng loại là: từ đầu đến đuôi đều sử dụng kết cấu gỗ ván ép.



Trên thân chiếc máy bay tiêm kích còn có biểu tượng Rắn đen rất bắt mắt. Chiếc máy bay này hoàn toàn giống với chiếc máy bay chụp ở sân bay không quân trong ảnh, không những vậy, kết cấu cũng hoàn toàn đồng nhất với chiếc tiêm kích số hiệu Rắn đen bị mất tích của không quân Anh. Do chiếc máy bay mang số hiệu Rắn đen thuộc loại máy bay tiêm kích cải tiến, nên căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ, nó đã được đặc biệt nới rộng dung tích chuyên chở hàng hóa, phần thân cũng được cải tiến gần như toàn bộ, so với những chiếc máy bay tiêm kích hạng nhẹ thông thường thì trông nó rất khác biệt, bởi thế, so sánh với ảnh chụp, đoàn thám hiểm không khó đoán ra "thân phận" của nó. Ghi chép năm đó còn cho thấy: sau khi chiếc máy bay bị rơi xuống khe núi, giọng liên lạc chập chờn khi được khi mất phát ra qua sóng điện, lúc các thành viên của đoàn bay gắng sức kêu cứu, cũng đã xác nhận chiếc Rắn đen bị rơi vào sương mù, sau đó thì hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài.



Nhưng giờ đây, Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến tận mắt chứng kiến, mới biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó không hề rơi xuống nơi sâu nhất dưới đáy cốc, mà bị rễ cây cổ thụ treo níu giữ lơ lửng giữa không trung. Máy bay tiêm kích khác với các loại máy bay quân dụng khác, nó hoàn toàn sử dụng gỗ Balsa - một loại gỗ rất nhẹ để xây dựng kết cấu. Động cơ Piston tản nhiệt của nó mang lại hiệu suất cực cao, tốc độ bay nhanh, thời gian bay có thể kéo dài liên tục, nhưng khả năng tải trọng vẫn không vì thế mà giảm xuống. Chẳng những vậy, khả năng thích ứng của nó lại rất cao, có thể thích hợp mọi nhu cầu nhiệm vụ gian nan. Dưới điều kiện khí hậu biến đổi phức tạp ở vùng núi Miến Điện, nó càng phát huy tính năng ưu việt vượt trội. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải cải tiến số hiệu Rắn đen khi bị mất lái rơi xuống sơn cốc, đã chịu sự tác dụng của dòng khí lưu thông trong khe núi.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Dòng khí đối lưu này đã khiến thân máy bay được bảo toàn nguyên dạng, xem ra chẳng có hư hại gì nghiêm trọng.



Đội thám hiểm liều mạng xông vào núi Dã Nhân là để tìm chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lấy "hàng" trong khoang máy bay về. Thế mà lúc này, chiếc máy bay mất tích mà cả hội đang săn lùng, lại bất ngờ hiện ra ngay trước mắt. Nó bị đám rễ cây bám nhằng nhịt quanh thân, treo lủng lẳng giữa không trung. Như vậy, cũng có nghĩa cả đội không cần xuống dưới đáy động sâu hút, nơi sương khí bủa vây hiểm nguy mai phục tứ bề nữa. Không thể không thừa nhận đây là niềm vui ngoài ý muốn, nhưng chẳng hiểu sao Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến không hề cảm thấy may mắn, mà ngược lại còn lờ mờ có dự cảm không lành.



Ngọc Phi Yến nhìn bên trong khoang máy bay tối mò mò, yên ắng rợn người, liền nhỏ giọng hỏi Tư Mã Khôi: "Anh có cảm thấy chiếc máy bay vận tải này có điểm gì bất thường không?"



Tư Mã Khôi bám vào rễ cây rủ xuống từ vách đá dựng đứng, nhìn đăm đăm một hồi vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Anh đã sớm nhận ra vài điểm khác thường, bèn đáp ngay: "Cũng hơi bất thường, trông nó mới quá... dường như chỉ vừa bị rơi xuống chưa lâu." Trên thực tế, chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống huyệt động trong khe núi có lẽ đã gần ba mươi năm. Vậy mà thời gian và quá trình xâm thực của môi trường khắc nghiệt dưới lòng đất lại không để lại chút dấu tích nào trên thân mình nó, lớp sơn vẫn mới toanh như lúc ban đầu, có lẽ ngay cả động cơ cũng hãy còn nóng.



Nghĩ lại việc ở ngoài khe núi lúc trước, mọi người từng nhìn thấy bóng chiếc máy bay u linh bay sát đầu rồi lượn vèo qua, khi ấy trong khoang máy bay không hề có chút ánh sáng nào, cánh quạt cũng đã ngừng quay, khiến đội thám hiểm đuổi theo quỹ đạo phi hành của nó đến tận đây. Theo lý mà suy đoán, chiếc máy bay vận tải vừa bay lượn giữa tầng mây, cũng chính là chiếc Rắn đen đang bị rễ cây cổ thụ buộc chặt dưới khe núi. Thế nhưng sao mỗi lúc xuất hiện nó lại có những đặc điểm khác nhau như hai chiếc hoàn toàn riêng rẽ vậy? Trong khi, chiếc máy bay vận tải số hiệu Rắn đen thực hiện nhiệm vụ chuyên chở đặc biệt của quân đội hoàng gia Anh, chỉ có một chiếc duy nhất đã mất tích hơn hai mươi năm trước trong núi Dã Nhân mà thôi.



Ngọc Phi Yến không nén nổi sự hoài nghi trỗi dậy trong lòng: "Lẽ nào chiếc khi nãy nhìn thấy chỉ là ảo giác? Bởi vì mọi vết tích đều cho thấy chiếc máy bay đang hiện hữu ngay trước mắt, quả thực đúng là mới rớt xuống đây chưa lâu. Rốt cục, chiếc máy bay số hiệu Rắn đen mất tích nhiều năm đã gặp phải chuyện gì? Trong điều kiện không hề có động lực, làm sao nó có thể bay lượn giữa không trung?" Thế rồi cô ta lại nghĩ: hay là thời gian và không gian - những năng lượng hằng định bất biến này đều bị bẻ cong quay vòng trùng lặp trong đám sương mù dưới lòng đất, mới có thể khiến chiếc máy bay vận tải số hiệu Rắn đen xuất hiện theo phương thức quái dị không thể tưởng tượng nổi giống như loài ma quỷ? Ngoài ra, những phi công trong khoang máy bay đều đi đâu cả rồi? Còn nữa, mấy luồng sáng chói mắt dội ra từ đám sương mù và âm thanh dị thường kêu "răng rắc răng rắc" không ngớt phát ra từ nơi sâu dưới lòng đất, rốt cục là thứ gì vậy?




Tuy rằng Ngọc Phi Yến đi nhiều hiểu rộng, nhưng tình hình lúc này cũng chẳng khác chi sa vào đám sương mù mịt trải dài năm dặm, không thể phân biệt nổi phương hướng; bởi vì những việc này hoàn toàn khác xa với những phi vụ trộm mộ mà cô ta từng thông thuộc; hơn nữa tình hình đang phải đối mặt hiện tại dường như thuộc về phạm trù "hiện tượng siêu nhiên" mà các kiến thức khoa học thông thường và định luật vật lý đều khó lòng giải thích thỏa đáng. Trong đầu cô ta liên tiếp lóe lên vài ý nghĩ, nhưng rất nhanh sau đó đều bị chính mình phản bác, cuối cùng cô đành một lần nữa quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Trong thực tế sao lại xuất hiện tình huống như vậy được nhỉ? Hay chúng ta đang gặp ác mộng chăng?"



Tư Mã Khôi cũng thầm ước những việc trải qua trong mấy ngày nay chỉ là một cơn ác mộng, nhưng vết thương đang ngâm ngẩm đau trên vai cứ không ngừng nhắc nhở anh: "Những việc trước mắt tuy rằng quái dị ngoài sức tưởng tượng, nhưng lại hoàn toàn là sự thật, sự thật không thể chối cãi."



Lúc này, nghe Ngọc Phi Yến nói, anh trầm tư một lúc rồi mới trả lời: "Chắc chắn chẳng phải ác mộng đâu."



Miệng thì đáp như vậy, nhưng trong lòng Tư Mã Khôi lại ngẫm nghĩ: "Lời này cũng có hai cách hiểu, từ cổ xưa đã có bốn giấc mộng: Hồ Điệp, Hàm Đan, Nam Kha, Hoàng Lương, sau này còn có thêm Hồng Lâu Mộng, tất cả như ngầm ẩn dụ vạn vật trên thế gian đều hư vô như giấc mộng, đời người vốn dĩ cũng chỉ là một giấc mộng dài, đang sống nghĩa là đang nằm mơ. Nghĩ kỹ lại, câu nói này đúng là cũng có lý lẽ nhất định, khoảng cách giữa giấc mơ và hiện thực vốn rất mong manh, mơ hồ, chỉ có điều những gì cuộc đời mình gặp phải... toàn là ác mộng."



Từ trước đến nay, Tư Mã Khôi vẫn được coi là to gan lớn mật, anh quyết định vào trong khoang máy bay để nhìn xem thực hư ra sao rồi mới nói. Tư Mã Khôi đã thi triển chiêu "Tiên nhân treo tranh", dùng hai chân quắp lấy rễ cây, thân mình nhoài ra chúc đầu xuống nhòm vào bên trong, hai tay nhẹ nhàng chạm vào phần đầu khoang lái của chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen, sau đó dùng đèn pin tụ quang mang theo bên mình soi vào bên trong, rồi ghé mắt quan sát tình hình. Trong phạm vi ánh sáng của đèn pin, anh chỉ thấy khoang lái trống toang hoang, ngoại trừ một vài chỗ bị ngấm nước do va chạm nứt toác ra, thì ngay cả nửa bóng ma cũng chẳng thấy đâu.



Chiếc máy bay bị rễ cây buộc chặt cứng, treo lơ lửng giữa tầng không dưới lòng sơn cốc. Những loài thực vật dây leo thả mình từ trên vách đá dựng đứng xuống dưới, thân to như các cột trụ trong đền chùa, miếu điện, tuy rất dai chắc nhưng rốt cục cũng đâu phải sắt thép, sức chịu đựng cũng đã gần sát mức giới hạn. Hai tay Tư Mã Khôi vừa chạm nhẹ vào phần đầu khoang lái, lập tức phát hiện chiếc máy bay khẽ rung rung như muốn rơi, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tuột khỏi sự níu buộc của đám rễ cây và dây leo để tiếp tục lao xuống nơi sâu hơn.



Tư Mã Khôi cũng không dám liều mạng hơn, anh chỉ sợ sẽ nhào theo chiếc máy bay rớt xuống đáy khe núi có sương mù bủa vây và rơi vào thảm cảnh vật tan người nát. Chẳng tìm thấy bất cứ đầu mối nào trong khoang máy bay, anh bèn chuyển đèn pin tụ quang chiếu sáng hai cánh trên thân máy bay.



Nhưng đúng lúc này, từ trên cao dội xuống hàng loạt tiếng động rung trời chuyển đất; thì ra cơn cuồng phong giông tố do bão nhiệt đới Buddha mang tới quá sức dữ đội, kết cấu đất đá men bờ cốc lại xốp yếu, không chịu nổi sự công kích của mưa bão, nên đã xảy ra hiện tượng sụt lở trên diện rộng, một lượng lớn bùn đất, sỏi đá từ trên cao ùn ùn đổ xuống, không ngừng chảy về nơi sâu. Hội La Đại Hải đợi bên trên chờ tiếp ứng, nhìn thấy cảnh tượng nguy hiểm xảy ra giữa hai vách núi, thì biết nơi này chẳng thể dung thân lâu thêm được nữa, đành phải bám vào rễ cây tụt xuống dưới chạy trốn.



La Đại Hải hướng xuống dưới chỗ Tư Mã Khôi đang đứng rồi hét lên: "Tránh ra mau!"



Tư Mã Khôi hai chân hãy còn quặp lấy rễ cây, nghe tiếng hét thất thanh, liền vội vàng thu chân cong người ngước lên trên, chỉ thấy một luồng gió nhẹ ập vào mặt, trong bóng tối cũng chẳng nhận ra rốt cục là vật gì rơi xuống. Anh vội vàng dùng tay ẩy mạnh thân máy bay, mượn lực đàn hồi đẩy cơ thể bắn ra xa. Một đoạn rễ cây lớn lao uỳnh xuống chiếc máy bay, cùng với đó là sự công kích liên tiếp của dòng đất đá, bùn nước, khiến chiếc máy bay bị va đập mạnh, phần đầu vỡ toác một miếng lớn, cùng lúc đó nó lao mạnh xuống dưới một đoạn, vài sợi rễ cây bám trên thân máy bay cũng bị đứt theo.



Trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Ngọc Phi Yến thấy tình hình không ổn: hai vách đá dựng đứng cheo leo, một khi trên cao sụt lở rơi xuống, nếu còn lảng vảng ở chỗ rễ cây cổ thụ, thì chắc chắn sẽ không có đường mà di chuyển, né tránh; còn nếu bám vách mà trốn xuống phía dưới, cho dù không bị ngã thịt nát xương tan, thì cũng bị đất đá sụt lở rơi trúng, vỡ đầu mà chết.




Thấy chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen cũng đang có chiều hướng muốn rơi xuống nơi sâu, cô ta liền lập tức hét gọi mọi người mau chóng trốn vào trong khoang máy, chí ít như thế vẫn còn có thể mượn vỏ máy bay tạm thời tránh khỏi công kích, hơn nữa "hàng" trong khoang máy bay cũng phải thu về tay, nếu không bao nhiêu mạng người của "Sơn lâm đội lão thiếu đoàn" đều hi sinh vô nghĩa cả hay sao.



Trên đầu máy bay vốn bị thủng lỗ, bốn người bọn họ trong lúc sốt vó lo chạy trốn, chẳng thèm suy nghĩ lâu, kẻ trước người sau thi nhau chui vào trong khoang. Hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến trốn gần khoang lái, chưa kịp đóng nắp máy bay lại, thì mấy đoạn rễ cây treo phần đầu máy bay đứt thêm hai cái nữa. Đầu máy gần như chúi xuống dưới, mọi người ngồi bên trong cũng lao mạnh theo đà, ai nấy đều bất giác hét toáng lên, tưởng như tim gan phèo phổi đều vọt ra khỏi miệng, hoảng hốt chụp vội lấy dây an toàn dùng để buộc hàng trong máy bay.



Ngọc Phi Yến chui tọt vào trong khoang lái. Cô ả cũng chưa kịp hoàn hồn trở lại. Nhờ chút ánh sáng phát ra từ đèn tụ quang, cô ta quan sát bốn phía xung quanh, phát hiện tuy chiếc máy bay mất tích hơn hai mươi năm, nhưng thiết bị điều khiển và đồng hồ các loại thì vẫn còn như mới, chẳng hề bị han rỉ hay bám bụi. Lúc này trong lòng cô ta chỉ sót lại duy nhất một ý niệm: "Sao có thể như vậy được... rốt cục giờ đây đang là năm nào?"



Tư Mã Khôi nhìn thấy Ngọc Phi Yến ngồi vào vị trí phi công điều khiển, khuôn mặt tư lự đăm chiêu, liền hỏi: "Cô biết lái máy bay tiêm kích sao?"



Ngọc Phi Yến từng lái máy bay trực thăng cứu hộ trên mặt nước, dạng Martin đơn giản, chứ chưa từng chạm vào chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh bao giờ, nên lắc đầu đáp: "Tôi không biết, đây lại không phải máy bay trực thăng, nếu không có đường băng thì sao có đà bay lên được đây?"



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Dù sao trước sau gì cũng chết, nhưng mình đã sống hai mươi mấy năm trời, mà đến tận giờ vẫn chưa hề được lái máy bay, thôi thì trước khi chết cũng phải lái một phen cho sướng đời mới được". Thế là anh vội đáp: "Không biết lái mà cô còn dám chiếm vị trí này à?" nói xong chẳng cần để ý gì, liền xô Ngọc Phi Yến sang một bên, luồn người chui vào, tranh chiếc ghế phi công, nắm chắc cần điều khiển rồi kéo mạnh một cái về phía sau.



Lúc này, Hải ngọng ở phía sau cũng thò nửa người ra trước, anh không muốn bị rơi tan xác chút nào, tuy nói mọi vật từ xưa đến nay đều phải chết một lần, nhưng cách chết do máy bay rơi lại chẳng đẹp đẽ cho lắm. Đại khái trước đây anh từng mấy lần được mục sở thị cảnh người ta tập lái máy bay, nên tự phong ình chức phi công bán chuyên nghiệp: "Thực ra cái này cũng chẳng có gì khó, cậu cứ buộc cục xương vào cái cần điều khiển thì cả chó cũng biết lái ấy chứ." Hải ngọng vừa đứng một bên chỉ chỉ trỏ trỏ Tư Mã Khôi thao tác như thế nào, vừa thò tay ra ấn loạn xạ tất cả các nút trên bàn điều khiển một hồi.



Ngọc Phi Yến thấy mấy gã liều mạng này rõ là đang nghịch lung tung, liền hoảng hốt quát: "Các anh muốn chết hả?" lời còn chưa dứt thì một trận bùn đất cát đá bị sụt lở từ bến trên rào rào đổ xuống, phút chốc đã vùi lấp nửa thân máy bay, hàng loạt sợi rễ lần lượt đứt phừn phựt, chiếc tiêm kích vận tải của không quân Anh lúc này hoàn toàn rơi vào tình trạng đầu chúc xuống, đuôi chổng lên. Trong tiếng kêu gào hoảng loạn như tuyệt mệnh của đội thám hiểm, chiếc máy bay cứ thế chúc đầu lao vun vút xuống vực sâu mù mịt sương khói.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: hồi thứ tư: cuồng phong giông tố


Hồi thứ tư: Cuồng phong giông tố



Tư Mã Khôi tự biết mạng sống của mọi người giờ đây mong manh tựa ngàn cân treo sợi tóc, nên cũng không dám giải thích dài dòng, chỉ cầm một quả trứng mãng xà đặt xuống phía trước, lần lượt huơ huơ trước mũi hội La Đại Hải, Tuyệt, Ngọc Phi Yến. Trong giây lát, mọi người đều ngửi thấy một luồng khí thanh thoát thơm nồng quyện vào tận tim phổi, không thể tả hết cảm giác dễ chịu thoải mái, ai nấy không nhịn nổi càng kỳ lạ thắc mắc: "Trứng mãng xà Miến Điện sao lại có mùi thơm kỳ diệu đến thế nhỉ?"



Chẳng kịp đợi mọi người hiểu rõ, Tư Mã Khôi liền đập vỡ từng quả, đùn thành một đống nhầy nhụa trên mặt đất. Một mùi hương kỳ lạ, đậm đặc lập tức lan tỏa khắp không gian, khiến ai nấy không cưỡng nổi, định bò xuống đất liếm đám lòng trứng. May mà nhận thức của Tư Mã Khôi còn vô cùng tỉnh táo, anh là người đã được luyện khí công, nên khả năng định thần hơn hẳn người khác. Anh đứng bên ngăn cản hành vi của mọi người, không để bọn họ tiếp cận đám trứng vỡ.



Khoảng nửa phút sau, mọi người đều cảm thấy có một vật lạ ngọ ngoạy nhúc nhích trong cổ họng, buồn buồn ngứa ngứa không thể chịu nổi. Gã Gấu trắng người Nga và Thảo Thượng Phi khô quắt, vàng vọt như xác khô là hai kẻ không chịu nổi trước tiên, bọn họ cùng lúc "ọe" lên một tiếng, rồi mỗi người đều nôn ra một con đỉa ký sinh, dài gần hai mươi mấy centimet, thân thể trong suốt, vằn vện những vệt đỏ au au, to như cánh tay trẻ con, toàn thân chi chít giác hút rỏ máu ròng ròng, bọn chúng nhào xuống đám dịch lỏng dấp dính, thân đỉa cuộn lại quét một đường đã hút hết một nửa lòng trứng trên mặt đất.



Mấy người còn lại kẻ trước người sau đều nôn ra con đỉa ăn thịt người ký sinh trong cơ thể, rồi chỉ thấy sau khi đỉa chúa hút sạch đám trứng mãng xà trên mặt đất chẳng bao lâu thì chúng trở nên cứng đờ, nằm im bất động và hóa thành một đống máu đặc. Lúc này, mọi người lại ngửi đám vỏ trứng còn sót lại trên mặt đất, chỉ cần hơi lại gần một chút là một mùi khí tanh nồng xộc vào tận óc, ghê tởm, khó ngửi vô cùng, chẳng còn cảm giác thanh ngọt, thơm ngon như lúc trước nữa.



Sống sót sau kiếp nạn, mọi người ai nấy mặt đều trắng bệnh như tờ giấy, thở dốc một hồi lâu, rồi các giác quan dần dần khôi phục, càng nghĩ càng cảm thấy rùng rợn. Cả đội vốn nghĩ phen này chắc chết không còn nghi ngờ, may mà Tư Mã Khôi nhanh trí nghĩ ra cách giải quyết thần kỳ trong lúc nguy cấp, mới cứu được mạng sống trở về, nếu chỉ chậm trễ thêm vài phút nữa, để con đỉa trong cơ thể kịp thành hình, thì e rằng bây giờ tất cả đã rũ áo về trời.



Lúc đầu, Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng giờ đây nhìn kế sách cứu mạng quả đúng đã thành công thì trong lòng cảm thấy bội phần may mắn. Anh còn muốn cứu những tên lính vũ trang Miến Điện tháo chạy khi trước, bèn kéo Karaweik chạy ngược về sau đuổi theo. Chỉ cần men theo khe núi tìm kiếm khoảng mấy cây, đã phát hiện mười mấy tên lính vũ trang Miến Điện đang bị lạc đường bởi mùi hương của rừng sâu. Không những vậy, bọn họ chạy chẳng được bao xa, thì cũng moi ra mấy quả trứng mãng xà trong huyệt đá, hốc cây gần đó. Sau khi bọn họ nuốt chửng trứng vào bụng, đỉa chúa trong cơ thể càng lớn nhanh gấp bội, chẳng bao lâu đã hút hết não tủy và tinh huyết quanh người.




Tư Mã Khôi nhìn thấy xác chết của mấy tên Miến Điện, thực sự cảm thấy thất kinh khiếp đảm. Núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, tuy rằng bản thân đã thoát khỏi kiếp nạn này, nhưng cũng không biết còn có bao nhiêu hung hiểm đang chờ đợi ở phía trước. Anh lo lỡ lạc mất mấy kẻ sống sót trong đội thám hiểm, nên chẳng thể bận tâm đến mấy xác chết ấy thêm nữa, liền vội vã quay đầu trở lại tìm hội Tuyệt và La Đại Hải, đồng thời thuật lại bi kịch của đám lính Miến Điện cho Ngọc Phi Yến nghe.



Ngọc Phi Yến đã liệu định trước, sau khi mấy người Miến Điện kia bị trúng ngải đỉa, chắc chắn không thể sống mà chạy thoát khỏi núi Dã Nhân, nên chẳng hề ngạc nhiên trước kết cục này. Có điều cô ả vẫn rất cố chấp, tự đánh giá mình rất cao, không bao giờ chịu gục ngã, giờ đây đã chấp nhận phi vụ mạo hiểm này, thì cho dù có gặp sóng gió nguy hiểm lớn hơn nữa cũng vẫn vọng đồ tiếp tục dấn thân vào sâu trong khe núi khổng lồ của núi Dã Nhân.



Ngọc Phi Yến vẫn nhớ, khi nhìn thấy bức màn sương mù mỏng tang ở nơi sâu trong khe núi, cũng chính là khi có thể bắt gặp di hài voi rừng bất cứ lúc nào, bởi chỉ cần đi theo dấu tích ấy mà tìm "huyệt động ma mút", cũng sẽ đồng nghĩa với việc tiếp cận khu vực nơi chiếc máy bay vận tải không quân Anh bị mất tích. Giờ đây đã giải trừ được hiểm họa đỉa Campuchia ăn thịt người, thì làm gì có chuyện cô ả chịu đứt gánh giữa đường.



Có điều, tuy rằng thuộc hạ Thảo Thượng Phi của Ngọc Phi Yến bảo toàn được tính mạng nhưng giờ đây đã trở thành phế nhân; đội thám hiểm trước mắt ngoài thủ lĩnh là cô ả ra thì chỉ còn lại một mình gã Gấu trắng người Nga kia mà thôi, nhưng tay ngoại quốc này lạnh lùng tàn nhẫn, trở mặt thất thường, không đáng tin cậy chút nào. Ngọc Phi Yến đã chứng kiến bản lĩnh của Tư Mã Khôi, cảm thấy con người này quả thực tuyệt luân vô song, nhiều điểm hơn người, nên nếu có thể biến anh ta thành người của mình, thì "hàng" trong chiếc tiêm kích vận tải kia coi như đã nằm trong tầm tay. Nghĩ đến đây, cô ả liền quay sang ngọt nhạt với Tư Mã Khôi: "Ơn cứu mạng, tôi không dám nói bằng lời..."



Chưa nghe xong, Tư Mã Khôi đã vội vàng từ chối: "Tàu hỏa có chạy nhanh cũng là do đầu tàu kéo. Cô là thủ lĩnh của chúng tôi, tôi cứu cô là lẽ đương nhiên, không cần phải cám ơn. Cho dù cô tình nguyện mang thân ra đáp đền, tôi đây cũng chẳng dám nhận."



Ngọc Phi Yến đang định mở lời, thì lại bị Tư Mã Khôi chặn họng làm cho ê mặt, cô ả không nén được cảm giác vừa thẹn vừa giận, liền nạt nộ: "Anh muốn chết hả?" Nhưng rồi cô ta lại nghĩ lại: "Gã này đối xử với ai mà chẳng ngang ngược, vô lại như thế. Bây giờ là lúc mình đang cần dùng người gấp, thôi thì cứ tạm thời nén giận mà bỏ qua cho hắn".



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Thế là cô ả cố gắng áp chế lửa giận, hạ giọng nói: "Anh đã coi tôi là thủ lĩnh, vậy hẹn ước ban đầu của chúng ta, anh còn giữ lời hay không?"



Tư Mã Khôi nghe mấy lời này thì biết Ngọc Phi Yến chưa chịu nhụt chí từ bỏ, mà vẫn muốn tìm tông tích của chiếc máy bay tiêm kích, trong lòng thầm nghĩ: "Tôi cứ tưởng mình chính là một kẻ liều mạng, ai ngờ cô còn bất cần mạng hơn cả tôi. Phi vụ này nguy hiểm quá lớn, chi bằng nhân lúc sớm nhận ra tử khí u ám, mình nhanh chóng xù nợ cho xong".



Thế nhưng Tư Mã Khôi lại nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, quả thực chẳng còn đường lui mà thoát thân, do tình thế thúc ép, cũng đành chui vào đường chết, chỉ hi vọng Ngọc Phi Yến có thể mang theo Karaweik rời khỏi biên giới Miến Điện. Nếu được như vậy, thì bất luận đối phương tiến hay lùi, anh cũng cam tâm tình nguyện dùng tính mạng đền đáp, có điều anh vẫn có ý muốn bàn bạc kỹ lại với hội La Đại Hải rồi mới quyết định.



Tư Mã Khôi dứt lời, liền đi xem tình hình phía La Đại Hải và Tuyệt, hai người bọn họ cũng giống anh, đều chẳng gặp trở ngại gì lớn lắm, chỉ là mất chút máu, cảm thấy tinh thần kiệt quệ, trên người dường như không còn sức lực.



La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi đi đến, thì than thở: "Hôm qua tớ còn hoài niệm mãi về món trứng xốt cà chua ở quán cơm Lục Quốc chỗ mình, nhưng bây giờ nghĩ đã thấy tởm, chắc suốt quãng đời còn lại, tớ chẳng dám động đến cái món đó nữa."



Tư Mã Khôi cũng xoa đầu an ủi bạn: "Thực ra tớ thấy món trứng cũng chẳng có gì ngon bổ, chẳng qua nó chỉ là vật mà gà mẹ bị sảy thai tọt ra mà thôi, từ trước đến nay tớ chả bao giờ thèm động đũa."




Lúc này, Tuyệt vẫn chưa hồi tâm định thần nổi, cô run giọng nói: "Phen này may mà có Tư Mã Khôi. Tôi còn nhớ trong một cuốn sách y học có nói: Ăn lông uống máu vốn là phong tục của người thượng cổ. Giờ đây, người hiện đại chúng ta đã quen với việc ăn chín uống sôi, nếu không trong bụng tất sẽ nảy sinh giun sán, nhẹ thì tổn hao huyết khí, nặng thì mất cả tính mạng. Hai năm trước, khi tôi theo nhóm đặc vụ hành nghề ở Mandalay, từng chữa trị ột thiếu niên mười mấy tuổi người bản địa. Thiếu niên đó thân hình gầy như que củi, chỉ có hộp sọ và bụng là phình to khác thường. Khi cậu bé bước đến trước mặt tôi thì đột nhiên đi hơi gấp một chút, rồi đầu cậu bé tự dưng từ cổ lăn lông lốc xuống đất, điều kỳ lạ là chẳng hề thấy máu chảy ra. Tôi lại gần kiểm tra thi thể, thì mới phát hiện trong cổ họng cậu bé bò lổm ngổm cơ man nào là đỉa, phần bụng và sọ não còn nhiều hơn. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, sau đó dò hỏi mọi người xung quanh mới hay, thì ra cậu bé thường ăn ốc vớt được dưới sông, nhưng do nấu không kỹ, cho nên đỉa ký sinh trong con ốc đều chui vào cơ thể cậu bé. Giả sử lúc đầu liều mạng mà cho cậu bé uống chút thuốc độc vừa phải, may ra còn có thể cứu chữa, nhưng chỉ cần đỉa chui vào não hoặc thành hình trong bụng, thì cho dù ngay cả Hoa Đà có tái thế, cũng đành bó tay."



Tư Mã Khôi không đề cập đến việc mình sử dụng huyền thuật "tướng vật" của tổ tiên truyền lại, mà chỉ nói: "Tôi đây chẳng qua là hạng gà mờ, tay chiêu, còn những loại tà thuật cài đặt khắp nơi ở Thái, Lào, Campuchia v.v... tuy rằng đồn đại nghe có vẻ vô cùng quái dị, kinh khủng nhưng chỉ cần lật tẩy căn nguyên, tìm được cách khắc chế đối phó thì trong đó chẳng còn gì đáng gọi là bí mật nữa."



Tuyệt nghe xong, vẫn thán phục không ngớt, cô hiểu tập tính ký sinh của loài đỉa hút máu, nên nói với Tư Mã Khôi: "Những người từng bị đỉa chúa ký sinh trong cơ thể, khí huyết suy tổn nặng nề, nhưng cũng chỉ cần trục xuất con đỉa Campuchia ăn thịt người đang ký sinh ra ngoài, thì nội trong mấy ngày gần đây, không cần lo sợ trong bụng lại nở ra đỉa. Giờ đây, những vũng tù trong rừng rậm không còn uy hiếp chúng ta được nữa nhưng cơn bão nhiệt đới Buddha có thể ập đến bất cứ lúc nào, nên nếu còn chần chừ ở lại trong núi thì sớm muộn cũng bị nước lũ nuốt chửng. Vậy tiếp sau đây nên đi đâu về đâu, chúng ta phải mau chóng quyết định mới được."



Tư Mã Khôi gật đầu nói, tiêu trừ được đỉa Campuchia ăn thịt người chẳng qua là tạm thời khắc chế một trong số vô vàn nguy hiểm tiềm ẩn ở núi Dã Nhân. Chỉ riêng hiểm họa này cũng đã đủ khiến hơn tám mươi phần trăm thành viên của đội thám hiểm phải bỏ mạng, nên nếu tiếp tục truy lùng tông tích chiếc máy bay không quân Anh dưới vực sâu khổng lồ, e rằng sẽ còn phải trả giá đắt hơn. Thế nhưng hiện nay thời tiết chuyển biến ác nghiệt, môi trường cũng càng ngày càng trở nên phức tạp, cho dù có quay về theo đường cũ thì cũng không chắc an toàn thoát thân, nên chỉ còn cách chặt đứt đường lui, quyết tâm tiến lên phía trước, liều mạng sống chết một phen, may ra mới có cơ hội thành công.



La Đại Hải cũng thêm vào: "Mấy năm ở Miến Điện, chỉ toàn làm mấy việc thất đức đốt nhà, giết người, chưa từng chính thức giúp đỡ bất cứ ai, bây giờ gặp cơ hội hiếm có, Hải ngọng tôi đây đương nhiên chẳng còn lời nào phải bàn thêm."



Sau khi ba người đã quyết định đâu vào đấy, Tư Mã Khôi liền đi đến nói với Ngọc Phi Yến: "Bốn người bọn tôi đều là những kẻ một thân một mình, chẳng có ai phiền lụy, níu kéo, thôi thì cứ theo cô đi một hơi đến tối cho xong."



Ngọc Phi Yến liền cất lời cảm tạ: "Cám ơn các vị không chê cười và cũng cảm ơn tấm thịnh tình sâu sắc của quý vị, chỉ có điều hi vọng các vị quân tử nhất ngôn về sau không được thay đổi, trở mặt. Từ giờ phút này, chúng ta là những kẻ cùng hội cùng thuyền, hoạn nạn có nhau."



Cô ả thấy con đường phía trước ngập tràn chông gai, gian nan, nên không dám lơ là, đoạn lệnh ọi người mau chóng chỉnh đốn hành lý còn sót lại. Khi đi vào núi, đội thám hiểm mang theo lượng lớn trang thiết bị, nhưng trong lúc hỗn loạn, tan rã đã làm thất lạc không ít, điện đài cũng bị bình phun lửa thiêu hỏng. Giờ đây sắp xếp lại hành lý, vì chẳng còn mấy chân khuân vác người Miến Điện, nên mọi người đành cố gắng mang càng gọn nhẹ càng tốt, những gì có thể bỏ lại đều bỏ lại hết.



Gã Gấu trắng người Nga tự chất lên vai một túi to, nhét đầy "dây dẫn, ngòi nổ, thuốc nổ, khoan hơi". Tư Mã Khôi cảm thấy dưới lòng đất trong khe núi sâu có sương khí che chắn tầm nhìn, những thiết bị chiếu sáng là vật không thể thiếu, nên nhặt thêm mấy cái đèn halogen, đèn pin tụ quang, pin đèn, pháo tín hiệu, pháo sáng v.v... nhét vào túi, những người còn lại đều chỉ mang những loại vũ khí cần thiết và lương khô dạng bánh.



Ngọc Phi Yến bảo La Đại Hải mang nốt chiếc bình phun lửa còn lại để đề phòng bất trắc, nhưng La Đại Hải một mực không chịu, nói: "Bọn tôi lúc đánh Lashio, khi xuống Lalaung, đột phá vòng vây ở Ayeyanvady, tắm máu Mandalay, có trận đánh lớn nào chưa từng trải qua? Trong rừng sâu tuy đầy nguy hiểm, nhưng chỉ cần dựa vào bản lĩnh chính mình và dao súng trong tay, cũng đủ để đối phó với chúng, chứ cần gì đến bình phun lửa. Hơn nữa, nếu lỡ ra món đồ chơi ấy mà phát nổ, thì Hải ngọng tôi chẳng phải số xui tận mạng hay sao? Cô cứ nhìn mấy vị bị nó thiêu sống thành tro lúc nãy mà xem, đến hình hài cũng chẳng nguyên vẹn, e rằng xuống tới âm tào địa phủ, ngay cả Diêm Vương cũng chẳng thể nhận ra họ là ai. Nếu cô còn cứ khăng khăng bắt tôi vác nó, thì chẳng thà cứ cho đạn lên nòng pằng một cái là xong. Bắn vài phát cùng lắm trên người cũng chỉ mọc thêm vài cái lỗ, chết như vậy tôi còn thấy nhanh gọn hơn nhiều."



Ngọc Phi Yến không ngờ mới nói đã bị đáp trả một thôi một hồi như thế, đành phải gạt bỏ ý định ấy đi.



Lúc này Thảo Thượng Phi nằm trên mặt đất đã khôi phục lại một chút thần trí, sau khi hỏi rõ tình hình, gã biết nếu bị bỏ rơi một mình ở nơi rừng sâu núi thẳm này thì khó mà tránh khỏi cái chết. Gã lật bật cầu xin van nài thủ lĩnh, gắng sức vắt ra vài chữ từ kẽ hai hàm răng: "Cầu xin thủ lĩnh mở lòng từ bi, cho tôi bảo toàn cái mạng già này..."



Tuyệt không nỡ bỏ rơi Thảo Thượng Phi, mặc kệ gã tự sinh tự diệt, nên không đợi Ngọc Phi Yến đưa ra quyết định, cô đã tự mình dùng dao cắt hai đoạn dây rừng, tận dụng áo mưa và dây thừng, chế thành chiếc cáng tạm thời. Cô cùng Karaweik, hai người khiêng hai đầu cáng nhấc bổng Thảo Thượng Phi lên, xong xuôi mọi việc mới chịu khởi hành.




Mọi người tiếp tục tiến về con đường ngoằn ngoèo tựa mê cung ở phía trước khe núi. Từ xưa đến nay, không biết bao nhiêu con voi rừng Miến Điện từng in dấu chân qua nơi này để bước vào huyệt động vùi xương của tổ tiên, trong đó có nhiều con vì năm dài sức yếu, hoặc bị hại trong rừng nên đã gục ngã giữa đường. Những hóa thạch xương cốt còn sót lại đó, chính là những tấm biển chỉ đường liên tục cho đội thám hiểm lần mò đến vị trí huyệt động ma mút.



Hội Tư Mã Khôi lần theo dấu vết của hài cốt voi rừng, đi khá sâu vào trong khe núi, đột nhiên từng cơn gió núi âm u lạnh buốt thổi đến. Ngọc Phi Yến tự lẩm bẩm trong miệng: "Bão nhiệt đới đến rồi..." và chỉ thấy màn sương mờ trong khe núi vén ra một nửa, khiến tầm nhìn trở nên khoáng đạt hơn nhiều. Mọi người dừng bước thăm dò tứ phía, thấy trong lòng núi có rất nhiều huyệt động liên thông với nhau, trong động chất chồng cơ man nào là xương voi, chúng đè lên nhau tầng tầng lớp lớp. Đống xương voi đó đã tích tụ từ bao đời, cao ngất ngưởng như những ngọn đồi, xương và ngà đan cài, xen kẽ lẫn lộn.



Nơi sâu nhất trong huyệt động ẩn chứa cửa đá, địa đạo, mặt đá được mài nhẵn nhụi, bằng phẳng như loại đá vùng Đại Lý, gần như tất cả mọi nơi đều trang trí bằng những bức phù điêu, tạo ra từ những vết tích dây leo và rễ cây xâm thực vào khe nứt của bức tường, có thể thấy nó đã có từ hàng ngàn năm trước, nhưng không rõ vì nguyên do gì mà tất cả những bức phù điêu đó đều bị cố ý phá hủy hoàn toàn, chẳng hề lưu lại chút thông tin nào cho hậu thế đọc hiểu. Những bộ phận bị cố ý phá hoại dường như là một bức bình phong dày dạn chắc chắn, gạt không đi, không sạch, ngầm che giấu những "bí mật" vô cùng vô tận của núi Dã Nhân.



Con đường địa đạo ăn thông ra ngoài núi, tận cùng là một cánh cửa bằng đá đã bị sụp mất một nửa, phía ngoài mọc đầy cây cối um tùm. Những cây cổ thụ không hoa không trái cao to lừng lững một vòng tay ôm không xuể, tán lá rủ xuống đất. Tứ phía sương khí quánh đặc bay là là, khiến tầm nhìn bị hạn chế chỉ quan sát được xung quanh trong vòng mười bước. Đứng giữa mê cung thiên nhiên này, bạn dễ nảy sinh cảm giác không biết mình đang ở chốn nào. Nghe tiếng sấm rền nổ ì ùng giao hòa lẫn nhau, thì biết cơn bão nhiệt đới Buddha đã bắt đầu những đợt tấn công đầu tiên.



Màn sương mù dày đặc bao trùm khắp núi Dã Nhân cũng bị cơn cuồng phong thổi cho tan tác, không gian xung quanh liền chìm vào màn đêm đen thui như ngày tận cùng của thế giới. Tuy những rặng núi nhấp nhô cuối cùng cũng phải tạm thời trút bỏ tấm mạng trắng huyền bí ra khỏi gương mặt, nhưng thay vào đó lại bị mảnh vải đen dày bì nặng nề che phủ kín mít.



Mọi người đành phải giơ tay ra quờ quạng trong bóng tối, dò dẫm từng bước tìm lên chỗ cao hơn. Đúng lúc họ đang leo lên chỗ cao hơn để nhìn xuống xác định vị trí khe núi khổng lồ trong núi Dã Nhân, thì đột nhiên "xoẹt" một tiếng, rồi một dải trắng sáng như băng tuyết, một lằn chớp ngoằn ngoèo như rắn lượn vụt lóe lên phía đường chân trời.



Mọi người đều bị giật mình bởi tia sét, bất giác ngẩng đầu nhìn lên, không ngờ lại thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải đang lơ lửng ngay sát khoảng không trên đỉnh đầu. Khoang máy tối mò mò, không một tia sáng, động cơ ở cánh máy bay đã ngừng hoạt động, cả chiếc máy bay giống như một bóng đen im hơi tịnh tiếng. Trong cơn cuồng phong vần vũ dưới tầng mây đen, chiếc máy bay vẫn ngang nhiên bay lượn với độ cao rất thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa.



Đây quả thực là cảnh tượng ngoài sức tưởng tượng. Dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt như vậy, tuyệt đối không thể có tay phi công nào đủ gan dạ để lái máy bay qua khu vực này, ngoài ra chiếc phi cơ từ trong ra ngoài chẳng hề có ánh sáng, ngay cả tiếng quay của động cơ cũng hoàn toàn ngưng bặt, tất cả đều đen thui, im lìm như thể bên trong khoang chẳng hề có người sống.



Chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi như điện giật, trong ánh sáng chói lòa, trắng lóa của những đường chớp, mọi người thấp thoáng nhìn thấy biểu tượng rắn đen trên thân máy bay. Sấm chớp vụt qua vòm trời cũng chỉ trong thời gian nháy mắt, nên cho dù muốn phân biệt rõ ràng hơn chút nữa, thì xung quanh lại một lần nữa chìm vào màn đêm đen như mực. Chiếc máy bay ma quỷ giống như oan hồn kia cũng vụt biến mất vào bóng tối mênh mông.



Mọi người quá bàng hoàng trước những gì vừa nhìn thấy. Ai nấy đều kinh ngạc đến mức miệng không khép lại được, nửa phút sau mới có thể định thần trở lại, rồi chẳng ai hẹn mà người nào người ấy đều đưa tay dụi mắt, còn cho rằng lúc trước chắc mình bị hoa mắt. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải vừa lượn vèo qua đầu khi nãy, trên thân có khắc biểu tượng con rắn đen với hình thù quái dị, rõ ràng hoàn toàn trùng khớp với chiếc máy bay trong ảnh. Nếu phán đoán theo lẽ thường, thì chiếc tiêm kích vận tải rắn đen của không quân Hoàng gia Anh, áng chừng đã mất tích ở núi Dã Nhân vào năm 1948, cách biệt một khoảng thời gian hai mươi mấy năm, làm sao nó có thể tiếp tục bay lượn giữa không trung trong khu vực núi cho đến tận hôm nay?



Khu vực lân cận phần đa đều là những vùng sơn địa thấp nhấp nhô, bị rừng rậm che phủ. Với độ cao khi nãy của chiếc máy bay, thì có lẽ nó phải bị va quệt vào những đỉnh núi, sau đó rơi xuống rừng rậm mới đúng. Thế nhưng nhìn chăm chú một hồi lâu, phía trước vẫn chỉ là màn đêm u tịch, chẳng thấy xuất hiện âm thanh vang trời và ánh lửa ngùn ngụt bốc cháy do chiếc máy bay rơi phát nổ, nó như thể chưa từng thực sự tồn tại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng sấm kinh thiên động địa, rền vang khắp núi Dã Nhân.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: hồi thứ tám: hẻm núi khổng lồ


Hồi thứ tám: Hẻm núi khổng lồ



Dưới sự tấn công dữ dội của hết cơn giông tố này đến đợt cuồng phong khác, lòng núi Dã Nhân đồi rung núi chuyển, trời sụp đất vỡ. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải lao vù vù với tốc độ kinh người xuống đáy khe núi, cùng với vô vàn đất bùn cát đá sụt lở. Tư Mã Khôi quay cuồng nhào lộn trong khoang máy bay, chỉ thấy bên ngoài cửa sổ bóng tối hun hút bao trùm khắp nơi. Anh thấy trời xoay đất chuyển, hoa mắt chóng mặt, tiếng gió ù ù vang lên bên tai, nhưng một hồi lâu vẫn chưa thấy máy bay phát nổ do đâm phải lòng đất. Bốn xung quanh anh chỉ có màn sương đen bủa vây mù mịt, khiến người ta không thể cảm nhận được sự tồn tại của không gian và phương vị, như thể đang bị rơi xuống động không đáy vậy.



Trong lúc hỗn loạn, cũng chẳng biết có phải mình đã chạm vào nút gì hay không, chỉ thấy một chiếc đèn màu đỏ ở mặt đồng hồ trên bàn điều khiển đột nhiên sáng lên, Tư Mã Khôi thấy ánh đèn nhấp nháy bất định, trong lòng khẽ kích động, nhớ lại loại đèn này dường như là đèn tín hiệu cảnh báo, có lẽ chỉ phát ra khi máy bay bị mất lái hoặc sắp hạ cánh. Tư Mã Khôi than thầm, sương khí dưới lòng khe núi núi Dã Nhân dày không thể lường, mênh mông như trời đất, vô hạn tựa tạo hóa, chỉ thần quỷ mới rõ khi nào chiếc máy bay vận tải này mới hạ cánh tiếp đất, bây giờ chỉ sợ muốn chết ngay cũng chẳng được nữa rồi.



Chiếc máy bay tiêm kích vận tải đặc biệt số hiệu Rắn đen, lao vù vù xuống dưới với tốc độ rất nhanh, nhưng khi chưa kịp đâm sầm vào mặt đất áy tan người nát, thì thân máy bay đột nhiên ngả dần ra. Thì ra, nửa trên của khe núi mạch chạy bất quy tắc, gần như hoàn toàn là vách treo dựng đứng, nhưng đến dưới đáy vực thì không gian lại rộng rãi thoáng đãng hơn rất nhiều. Hẻm núi này miệng hẹp, bụng rộng, bề mặt cắt ngang của nó tạo thành hình "kim tự tháp", càng xuống sâu càng khoáng đạt, hơn thế, nữa địa lại thế vô cùng độc đáo, địa khí từ dưới bốc lên, dòng nhiệt khí đối lưu mạnh mẽ không ngừng lưu chuyển ngùn ngụt, nhờ đó mà tự nhiên đỡ được chiếc máy bay, khiến tốc độ rơi tự do của nó từ từ giảm dần.




Kết cấu ván gỗ ép của chiếc máy bay tiêm kích vận tải, từ trước đã được mệnh danh là "chất gỗ kỳ tích", trong hoàn cảnh đặc biệt gần tương tự với "hiệu ứng ống khói" sẽ phát huy tính ưu việt to lớn; nó giống như cánh diều đứt dây, nhào lộn giữa không trung mấy vòng, cuối cùng ngả ngả nghiêng nghiêng đáp xuống giữa dòng nước lặng. Lúc tiếp đất, cánh trái máy bay bị gãy nát hoàn toàn, cánh quạt trên động cơ cũng bị đâm gãy; dưới tác dụng của quán tính, thân máy bay lật nghiêng, trượt dài một đường trên trăm mét mới dừng lại hẳn.



Tư Mã Khôi trong khoang máy bay cảm thấy ba hồn bảy vía như lao ra khỏi xác, khó khăn lắm mới ép nó về đúng chỗ, toàn thân trăm xương không chỗ nào không đau nhức. Trong khi thần trí còn hoang mang bất định, anh vẫn nhận thức được cuối cùng máy bay cũng đã tiếp đất, chắc là mệnh mình chưa đến lúc tuyệt. Rơi từ độ cao hàng ngàn mét xuống mà không hề bị tan xương nát thịt ngay tại chỗ, điều này hoàn toàn có thể nói là một kỳ tích; nhưng giờ đây hoàn cảnh chưa rõ trắng đen, anh cũng không thể dùng những câu đại loại như "đại nạn không chết, tất có phúc dày" để đánh lừa bản thân, mà chỉ thấy trong lòng không thể không thầm thốt lên một câu: "Xem ra máy bay tiêm kích do người Anh chế tạo đúng là danh bất hư truyền, quả nhiên tỷ lệ sống sót cao đến kinh ngạc!"



Tư Mã Khôi giãy đạp cố gắng đứng dậy, sờ thấy chiếc đèn pin tụ quang trên người, cầm nó chiếu sáng tứ phía, mắt bị chấn động hoa hết cả lên, nhìn cái gì cũng thấy nhập nhèm. Anh lờ mờ thấy các thành viên khác trong đội vẫn tạm bình thường, may mà các thiết bị trong khoang máy rất gọn gàng ngăn nắp và mọi người đều thắt dây an toàn, tuy không tránh khỏi việc sứt đầu mẻ trán nhưng điều đáng mừng là chí ít chẳng ai bị gãy tay lìa chân. Người bị thương nghiêm trọng nhất là Karaweik, trong lúc điên đảo quay cuồng, cậu bị rách một đường dài trên đầu, mặt đầm đìa máu, Tuyệt ở cạnh đang giúp cậu băng bó vết thương. La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga đều ngã sưng mày tím mặt, nhưng cũng chẳng có gì đáng ngại lắm, chỉ là vẫn hoa mắt chóng mặt, nằm vật trong khoang máy bay mãi chẳng bò dậy nổi.



Tư Mã Khôi dùng đèn pin tụ quang chiếu sang Ngọc Phi Yến, tuy rằng cô ả mặt mày trắng bệnh như giấy sáp nhưng vẫn cố xua tay tỏ ý không sao. Hai người họ đầu óc quay cuồng, tư duy có chút đình trệ, cùng nhìn ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy phóng tầm mắt đến chỗ nào, chỗ ấy đều tối như hũ nút, chỉ duy trên đỉnh đầu là có một sợi sáng mỏng lờ mờ ẩn hiện, nên nghĩ chắc đó chính là miệng khe núi lộ ra ngoài núi Dã Nhân, lúc sáng lúc tối trong tiếng sấm rền chớp giật.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Từ dưới đáy ngước nhìn lên trên, miệng hẻm núi rộng lớn khác thường ấy, lại chỉ mong manh như một đường chỉ, thực sự khó có thể tưởng tượng là rốt cục bản thân đang ở độ sâu bao nhiêu mét trong lòng núi.



Ngọc Phi Yến thầm kinh ngạc, cô không ngờ huyệt động trong lòng hẻm núi, có hướng thẳng đứng này, lại sâu đến dường vậy. Nếu như gần đây không có lối nào khác đi ra khỏi núi, thì giữa không gian đáy động thâm u khó lường này, với độ cao không thể trèo lên như thế, quả thực đã trở thành "cơn ác mộng" mà đội thám hiểm khó có thể vượt qua. Cô ta ra dấu tay, bảo Tư Mã Khôi ra bên ngoài xem xét tình hình.



Tư Mã Khôi khắp mình mẩy đau như thể gẫy lìa từng đoạn, đến nỗi phải hít ngược mấy hơi thở lạnh vào trong, rồi gắng sức đẩy nắp trên của máy bay ra, một cảm giác đơn độc cách biệt bất chợt ùa đến. Lúc này, anh mới nhìn thấy màn sương khí dày đặc che phủ khắp nơi sâu trong huyệt động đều đã tiêu tan chẳng thấy đâu, chỉ có một lượng lớn nước ngưng đọng khắp vách núi, hình thành nên làn mưa bụi mênh mông không ngừng lất phất bay xuống.



Anh suy đoán: có khả năng do diện tích sụt lở ở ven miệng hẻm núi quá lớn, đã làm thay đổi vòng tuần hoàn khí đối lưu dưới đáy động; ngoài ra, cuồng phong giông tố khiến nước đọng dưới tầng đất đá trong lòng núi nhanh chóng gia tăng, tràn vào những nơi sâu trong khe núi, trên không trung đang mưa ào ạt, dưới lòng động cũng ảnh hưởng mưa theo, nhờ vậy mới xua tan được đám sương khí mịt mù. Xem ra, trước khi cơn bão nhiệt đới Buddha qua đi, lớp sương mù dày đặc dị thường này tạm thời sẽ không xuất hiện nữa.




Ngọc Phi Yến mau chóng chiếu sáng mọi chỗ. Cô ta lấy súng phát tín hiệu trong ba lô của Tư Mã Khôi, bắn lên hai chuỗi pháo sáng về hai hướng; hai chuỗi pháo phát ánh sáng chói lòa, trắng bạc, lần lượt vạch một đường rơi dài ở phương xa. Do khu vực lân cận đều không bị sương mù dày đặc che phủ nữa, nên có thể mượn ánh sáng xanh mờ ảo, nhìn thấy thấp thoáng khoảng cách giữa đáy động với đỉnh khe núi, thực sự không thể đoán nổi; còn nếu chỉ dựa vào trực giác phán đoán độ cao thẳng đứng đó có lẽ phải trên ngàn mét. Vách đá trong huyệt động hình kim tự tháp đều dựng đứng xiên lệch ra ngoài, nhìn nguy hiểm vô cùng, không có chỗ để con người có thể leo lên nổi, cho dù Tư Mã Khôi có giỏi thể hiện tuyệt kỹ "Bọ cạp đảo đầu bò tường" đi nữa thì cũng bó tay đầu hàng. Đây dường như là một cái bẫy của tự nhiên, đã vào thì khó lòng ra. Những kẻ gặp nạn rơi vào nơi này, đúng thực "Xẻ ngang đất rộng không móng sắc, uốn lượn tầng không thiếu cánh bay".



Đáy khe núi thoai thoải, bốn phía đồng không mông quạnh, nhìn chẳng thấy bờ, tất cả đều là đầm lầy mênh mang do nước dưới lòng đất ngưng tụ lại mà thành; ở nơi xa tít còn có luồng sương khí mông lung chưa kịp tan, khói mờ nước rộng, sương tỏa núi sâu khiến người ta không thể nhìn rõ thực hư. Khu vực đáy động lẽ ra phải là một cái hồ dưới lòng đất, nằm ở nơi sâu nhất của núi Dã Nhân, nhưng do hệ thực vật ở đây um tùm rậm rạp, nên hầu hết nước tụ chưa kịp thẩm thấu xuống tầng đất đã bị rễ cây hút cạn veo, khiến cả lòng hồ dưới đất sâu biến thành đầm lầy. Thêm vào đó, hàng chục triệu năm nay, vô số thực vật và bùn đất bị mưa gió quét từ trên đỉnh cốc xuống, dần dần tích tụ dưới đầm lầy, tạo thành một bờ đê dài miên man. Lớp đất ẩm ướt trên bề mặt phủ đầy tầng tầng lớp lớp rêu xanh dày, đây đó thỉnh thoảng lại lóe lên những tia sáng lân tinh yếu ớt do sinh vật mục nát hóa thánh, ngước mắt ra xa, chỉ thấy mặt nước bập bềnh lên xuống, thật giả khó phân.



Huyệt động thâm u dưới lòng đất, từ trước đã là miền đất bí mật mà thế nhân khó lòng nhòm ngó. Tuy rằng hội Tư Mã Khôi có thể sống sót lọt xuống đáy cốc, lại có thể nhân lúc sương mù dày đặc tiêu tan, lợi dụng ánh sáng của pháo phát tín hiệu, đại thể đã nhìn rõ địa hình xung quanh, nhưng trong lòng ai nấy không những đều cảm thấy việc hãy chưa xong, mà ngược lại, một linh cảm bất an còn không ngừng trỗi dậy: "Những gì nhìn thấy trước mắt chỉ là một góc phía trên của tảng băng trôi, không biết còn bao nhiêu bí mật kinh thiên động địa nữa vẫn bị niêm phong kín trong thế giới dưới lòng đất quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời này".



Ngọc Phi Yến tai mắt tinh nhanh, nên lúc pháo tín hiệu phát sáng lướt qua bầu trời, cô đã phát hiện xung quanh đầm nước và mặt đất ẩm ướt, dường như có vật gì đó đang bò rất nhanh phía ngoài chiếc máy bay vận tải, nhưng tốc độ di chuyển quả thực nhanh đến nỗi chưa kịp nhìn rõ rốt cục là thứ gì, thì bóng dáng của nó đã biến mất khỏi tầm mắt. Cô ngẫm nghĩ: "Trong khu vực đầm lầy âm u, ẩm ướt này, phần nhiều thường ẩn náu những sinh vật có tính tấn công rất cao như cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện; mạo hiểm rời khỏi máy bay lúc này đúng là không được thỏa đáng cho lắm". Thế là cô liền thay đổi chủ ý, nhắc nhở mọi người coi chừng động tĩnh bốn phía xung quanh, tạm thời không nên rời khỏi chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nói xong, cô ta lại bắn thêm ba chuỗi pháo sáng phát tín hiệu lên cao, chiếu sáng toàn bộ tầm nhìn lân cận, đồng thời kéo nòng khẩu súng tự động Uzi trong tay lên đạn sẵn sàng, đề phòng lỡ đột ngột xảy ra biến cố gì.



Tư Mã Khôi thấy ánh sáng phát ra từ mấy chuỗi pháo gần chiếc máy bay vận tải, trong huyệt động dưới lòng đất thâm u, yếu ớt chẳng khác chi ánh sáng đom đóm; rồi sau khi pháo sáng tắt lịm, bốn bề một lần nữa lại chìm vào sự tĩnh lặng yên ắng, sâu thẳm vô bờ bến.



Trước đây, không biết bao nhiêu lần anh từng tự hỏi, trong khe núi quanh năm bị sương mù che phủ rốt cục tồn tại thứ gì, nhưng trước sau đều không tìm ra nổi manh mối. Lúc này, thân sa vào đây, anh càng cảm thấy khe động núi Dã Nhân quả thực hiểm ác phi thường. Trải qua bao nhiêu tuế nguyệt mờ ảo như sương khói là bấy nhiêu năm tháng nó phải chịu cảnh mưa gọt gió bào, mãi cho đến tận ngày nay, vẫn mãi là góc chết mà tầm mắt loài người khó có thể nhận thức được. Không chỉ có vậy, trong dải bóng tối mênh mông này chắc chắn còn ẩn chứa một bí mật sâu xa nào đó khó có thể vạch trần. Anh càng nghĩ càng cảm thấy phức tạp, tư duy chìm đắm miên man, không khỏi có đôi chút bần thần. Anh tư lự mãi một hồi lâu chẳng nói câu gì.



Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi cũng có lúc không biết nói gì, lại cảm thấy có vài phần bất ngờ, bèn đưa khẩu súng đang cầm trong tay cho anh, nhắc anh hãy chú ý quan sát tình hình xung quanh chiếc tiêm kích vận tải. Sau đó cô liền khom lưng lần ra phía sau khoang, lần lượt kiểm tra hàng hóa sắp đặt trong khoang, tìm kiếm vật phẩm mà khách hàng ủy thác, khi đã lấy được sẽ lập tức nghĩ cách tìm lối ra, rút lui khỏi núi Dã Nhân.



Ba mươi mấy thành viên của đội thám hiểm, bây giờ chỉ còn sáu kẻ may mắn sống sót, đồng thời lại bị rơi xuống nơi sâu nhất của khe núi núi Dã Nhân cùng với chiếc máy bay vận tải đã mất tích nhiều năm. Nhưng tước bỏ hết những yếu tố ly kỳ khó có thể giải thích mà mọi người đã gặp phải sang một bên, thì sự việc tiến triển vẫn quá đỗi bất ngờ, đầu tiên là vô tình tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải Rắn đen ngay trong khoảnh khắc đầu tiên, rồi sự xâm nhập của cơn bão nhiệt đới khiến cho sương mù trào ra từ lòng đất bị suy giảm đi rất nhiều, và điều quan trọng nhất là "hàng" trong khoang máy bay không ngờ lại vẫn còn nguyên.




Chiếc máy bay tiêm kích vận tải cải tiến thịnh hành trong chiến tranh thế giới thứ hai này, thuộc loại máy bay hạng trung. Khoang máy bay rộng rãi, chia làm ba phần, xuyên suốt từ đầu đến cuối, không hề có bức ngăn nào ở giữa. Phần đầu là khoang lái, phần giữa và phần sau là khoảng không gian cần thiết để chuyên chở người và hàng hóa.



Phần sau của máy bay buộc chặt bốn chiếc hòm gỗ hình chữ nhật, đã được niêm phong kín, phía ngoài còn bọc bằng lớp áo mưa dày nặng. Hai chiếc hòm buộc thành một cọc, khóa lại rất chắc chắn, nên trong suốt quá trình rung lắc, động chạm dữ dội khi nãy mà nó không hề có vết tích bị lỏng lẻo hay xô lệch gì, nhưng trên mặt hòm, ngoại trừ một vài con số đánh ký hiệu ra, thì chẳng hề có bất kỳ biểu tượng gì khác.



Ngọc Phi Yến bảo Tuyệt cầm đèn halogen, giúp mình chiếu sáng bên trong khoang máy bay, lại lệnh cho gã Gấu trắng người Nga dùng giáo mỏ vịt cạy nắp hòm hàng. Đang đợi bắt tay vào làm, đột nhiên họ lại nghe thấy dường như có người đang nói gì đó ở góc tối trong khoang máy bay. Tư Mã Khôi nghe âm thanh tuy hơi yếu ớt, nhưng rõ ràng là phát ra ngay phía sau. Máy điện đàm không dây của máy bay đã hoàn toàn hỏng hóc, không thể tiếp nhận bất kỳ thông tin liên lạc nào. Tuy rằng, tình hình trong hòm hàng tạm thời vẫn chưa nhìn thấy, nhưng từ đầu đến giờ đều bị niêm phong kín mít, cho dù thực sự có người sống trốn bên trong, thì cũng chết ngạt từ bao giờ. Hơn nữa, vị trí phát ra giọng nói này có lẽ đến từ khoang giữa máy bay, phía nhóm mấy người La Đại Hải đang đứng; bây giờ đội thám hiểm chỉ còn sót lại mấy kẻ may mắn thoát chết. Ngoại trừ gã Gấu trắng người Nga coi như nửa câm ra, thì mấy người còn lại có nói gì, Tư Mã Khôi tự khắc hiểu rất rõ, nhưng giọng nói vừa vọng đến khi nãy nghe vô cùng cổ quái, rõ ràng còn có người khác nữa.



Tư Mã Khôi lập tức đề cao cảnh giác: "Trong khoang máy bay chắc chắn có kẻ lạ!" Đang lúc anh định dỏng tai lên nghe lại, thì chẳng thấy tiếng gì phát ra nữa.



Tư Mã Khôi còn cho rằng chắc tại mình căng thẳng thần kinh, nên nảy sinh ra ảo thanh, anh bèn quay đầu lại hỏi Ngọc Phi Yến - người cách anh gần nhất: "Khi nãy cô có nghe thấy gì không?"



Ngọc Phi Yến cũng phát hiện thấy sự thể khác thường. Cô ta từng nhiều lần giao tiếp với khách hàng Âu Mỹ, có thể nghe ra người vừa nói lúc nãy mang khẩu âm Anh rất rõ rệt, liền trả lời Tư Mã Khôi: "Dường như có một người Anh, ông ta nói hàng trong khoang máy bay... rất nguy hiểm."



Trong huyệt động dưới lòng đất sâu như vực thẳm, vốn dĩ chỉ có bóng tối âm u bao trùm, trong khoang máy bay bị rò nước mưa nhỏ hẹp này chỉ có một ngọn đèn halogen, mọi người tuy ở gần nhau, nhưng ngay cả mặt mũi và bóng hình của đối phương cũng nhìn chẳng rõ. Có điều, cũng chính vì không gian chật chội, hơn nữa khoảng cách lại cực gần, cho nên qua hơi thở tồn tại trên cơ thể người sống, mọi người vẫn có thể cảm nhận được. Tư Mã Khôi có thể khẳng định, bao gồm cả chính mình, thì trong khoang máy bay chỉ có sáu người, làm sao có thể đột nhiên lại nhiều thêm một người được? Trừ khi người Anh mà Ngọc Phi Yến vừa nói đến... là "vong hồn" của phi công không quân Hoàng gia Anh.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: hồi thứ chin: giọng nói


Hồi thứ chin: Giọng nói



Tư Mã Khôi đột nhiên nghe thấy bên cạnh có người nói, nhưng trong khoang máy bay rõ ràng không có người còn sống nào khác. Chiếc máy bay tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen, trong khoang từ đầu đến cuối đều thông suốt, tuy rằng tối mò mò, nhưng cầm đèn halogen lên soi, thì có thể soi trực tiếp rõ từ đầu này đến tận đầu kia. Tất cả khoảng không gian chỉ rộng một nắm tay, thì làm gì còn nơi nào để cho người có thể lẩn trốn. Hay chăng, ngoại trừ sáu thành viên may mắn sống sót của đoàn thám hiểm ra, trong chiếc máy bay tiêm kích bị mất tích nhiều năm này, còn có một vong linh của viên phi công người Anh đang ẩn náu?



Thông tin giống như lời cảnh báo kia, dường như đến từ một thế giới khác, không chỉ có hai người Ngọc Phi Yến và Tư Mã Khôi nghe thấy, mà gã Gấu trắng người Nga đang ngồi ở khoang giữa cũng nghe thấy rõ mồn một. Gã theo đoàn thám hiểm thâm nhập vào lòng núi Dã Nhân, chẳng qua cũng chỉ vì món thù lao khổng lồ. Có điều, gã hoàn toàn chẳng thể ngờ, sẽ gặp bao nhiêu tình huống phức tạp ngoài sức tưởng tượng ở trong núi đến thế, hơn nữa càng lún càng sâu, đến khi gã muốn phủi tay không làm, thì phát hiện đã chẳng thể thoát thân, nên đành phải tiếp tục đồng hành cùng những kẻ sống sót còn lại.



Sau khi chiếc máy bay tiêm kích vận tải rơi xuống đáy khe núi, gã Gấu trắng tuy rằng chẳng gặp thương tích gì nghiêm trọng, nhưng tâm thần lại bị chấn động không nhẹ, đầu óc mụ mẫm "nam bắc khó phân, đông tây khó định", tuy rằng thân thể đã chạm đất, nhưng lục phủ ngũ tạng hãy còn treo lơ lửng giữa tầng không, chưa chịu chui vào vị trí cũ. Gã chẳng theo tín ngưỡng nào, tâm tính lạnh lùng tàn nhẫn, từ trước đến giờ chẳng biết sợ sệt thứ gì. Trong quá trình chiếc máy bay bị rơi xuống, khoang máy bay hoàn toàn tối om, bên ngoài càng âm âm u u, mù mù mịt mịt. Gấu trắng ngồi trên ghế nệm, mình thắt dây an toàn, tay nắm chặt sợi dây thừng, trong cơn rung lắc dữ dội, thân thể bị quăng đi quật lại theo quán tính. Gã đã từng đi rất nhiều loại máy bay khác nhau, thậm chí còn bị lửa pháo phòng không trên mặt đất bắn trúng, nhưng cũng chưa từng hoảng hốt mất phương hướng, bởi vì gã biết gặp những tình huống như thế, sợ cũng vô tác dụng, nên chỉ còn biết tuân theo mệnh trời mà thôi.



Nhưng giờ đây, trong khoang máy bay chật chội âm u này, gã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh tiếng nói của một người Anh, việc này hoàn toàn vượt ra khỏi nhận thức thông thường của gã. Trước đây, khi còn là lính đánh thuê, gã từng tiếp xúc với một vài người Anh, khẩu âm Anh nằng nặng không thể trộn lẫn vào đâu được. Thế nhưng trước mắt trong chiếc Rắn đen này căn bản chẳng có người Anh nào, thiết bị liên lạc ở khoang lái rõ ràng cũng đã bị hư hại, thì vì sao lại có tiếng thì thầm của người Anh? Ngoài ra, chiếc máy bay vận tải đã mất tích hơn hai mươi năm, vì sao mãi đến tận giờ này phút này, vẫn có thể bảo dưỡng y nguyên như mới? Và vì sao trước khi vào khe núi núi Dã Nhân, lại nhìn thấy chiếc bóng đen sì sì của nó bay lượn là là trên đỉnh đầu?




Tổng hợp tất cả những hiện tượng khó giải thích này lại, chỉ làm rõ ột vấn đề, đó là chiếc máy bay vận tải này đang "gặp ma", hơn nữa trong máy bay còn lẩn khuất một vong hồn của phi công không quân hoàng gia, cho nên mới nghe thấy giọng nói của vong hồn.



Tuy gã Gấu trắng không nghe rõ được hết toàn bộ nội dung, nhưng vẫn có một vài từ chập chờn lọt vào tai, vong hồn của viên phi công không quân Anh dường như muốn cảnh báo đội thám hiểm: "Hàng trong khoang máy bay vận tải - cực kỳ nguy hiểm!"



Gấu trắng chẳng tin bất cứ ai, nhưng lại vô cùng tin tưởng vào đôi tai của chính mình, gã ra hiệu bằng tay với Ngọc Phi Yến: "Chiếc máy bay này quả thực quá bất thường, trước khi điều tra rõ ràng toàn bộ sự việc, tốt nhất không nên động chạm bừa bãi vào bất kỳ vật gì, nếu không rất có thể sẽ dính họa sát thân."



Ngọc Phi Yến luôn lo lắng khe động núi Dã Nhân sẽ liên tục sụt lở do sự công kích của bão nhiệt đới, mà nếu huyệt động hình kim tự tháp này sụp xuống hoàn toàn, mọi người sẽ đều bị chôn sống dưới đáy; vậy nên việc cần làm trước mắt chính là mau chóng lấy được "hàng" trong khoang máy bay, sau đó lập tức tìm kiếm lối ra, đợi khi cơn bão Buddha suy yếu thì cả hội sẽ tháo chạy ra khỏi núi Dã Nhân.



Nhưng đến đúng khớp này thì xảy ra sự bất ngờ, trước khi chiếc máy bay vận tải rơi xuống đáy cốc, cô ta hoàn toàn chưa kịp quan sát kỹ tình hình bên trong khoang; nhưng lúc này, cô ta lấy đèn halogen chiếu sáng trước sau trái phải một hồi, thì cũng làm gì có tên người Anh nào trốn trong khoang? Theo tư liệu ghi chép của quân Anh, mà cô nắm giữa trong tay, chiếc máy bay tiêm kích số hiệu Rắn đen trong lúc chấp hành nhiệm vụ ở Miến Điện và mất tích tại nơi sâu nhất trong đám sương mù dày đặc dưới lòng khe núi núi Dã Nhân, khi đó, bao gồm cả phi công, trong khoang máy bay có tất cả ba thành viên. Chẳng lẽ vong hồn của họ đều hãy còn lởn vởn quanh nơi này? Họ không chịu để người khác động chạm vào "hàng" trong khoang máy bay?



Trong lúc mọi người đang rối như tơ vò vì sự việc ly kỳ diễn ra trước mắt, thì thấy Karaweik đầu băng bó trắng toát, tay cầm một vật màu đen đưa ra trước mặt Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: "Đây là cái gì thế?" Karaweik tỏ ra luống cuống, cậu hoa chân múa tay nói một hồi lâu, may mà có Tuyệt đứng bên cạnh phiên dịch giúp, nên mọi người cuối cùng cũng hiểu rõ.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Thì ra, sau khi chui vào khoang máy bay trốn, chiếc máy bay vận tải lập tức bắt đầu rơi tự do với tốc độ kinh khủng, cậu đột nhiên cảm thấy có một vật đập vào người. Trong lúc hoảng hốt, chẳng nhìn rõ là vật gì, cậu liền thuận tay bắt lấy. Lúc ấy cũng không hiểu ấn vào chỗ nào, tự dưng thấy có tiếng nói chuyện phát ra từ bên trong, khiến Karaweik giật nảy người, sau đó chiếc máy bay va chạm vào dòng khí lưu thông lượn vòng dưới khe núi. Trong lúc thân máy bay rung lắc điên đảo, đầu cậu bị đập mạnh, rách một miếng to, rồi từ đó mất hết cảm giác. Khi tỉnh lại, cậu thấy mình vẫn nắm vật ấy trong tay, ấn một cái lại thấy có tiếng nói phát ra nên Karaweik cảm thấy rất thích thú.



Theo luật lệ bất thành văn của đội du kích cộng sản Miến Điện, trên chiến trường, những vật vô chủ và những vật trên cơ thể người chết, ai nhặt được thì coi như của người ấy, còn ở đây chẳng có ba mục kỷ luật, tám điều quy định gì cả, cũng chẳng hề có khái niệm "tất cả đều phải xung công", thế là cậu liền nhặt bỏ vào túi, định giữ làm của riêng. Thế rồi đợi khi nhìn thấy năm người còn lại chẳng ai nói câu gì, Karaweik mới mang vật đó đưa cho Tư Mã Khôi xem, muốn nhờ anh chỉ cho cậu cách sử dụng như thế nào.



Nhóm mấy người quan sát vật mà Karaweik nhặt được, thì ra là đó là chiếc máy thu âm loại nhỏ, kiểu cầm tay giống như máy dùng để phỏng vấn, mặt ngang còn cắm chiếc micro có dây. Lúc này mọi người mới vỡ lẽ, tiếng nói của người Anh nghe được lúc trong khoang máy bay đều từ đây mà ra. Tư Mã Khôi đúng là lắc đầu bất lực với cái kiểu ngờ nghệch, dạy mãi không khôn của người Miến Điện, nhưng sợi thần kinh đang căng như dây đàn cuối cùng cũng chùng xuống một đoạn.




La Đại Hải giơ tay gõ đầu Karaweik một cái: "Ranh con nhà cậu, suýt chút nữa khiến hồn vía bọn anh dạt nhà bỏ đi rồi đấy!"



Karaweik ú ớ chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác.



Ngọc Phi Yến thấy cả hội chỉ là sợ bóng sợ gió, nhưng cuốn băng trong máy ghi âm dường như có nhắc đến thông tin gì đó có liên quan đến "hàng" nên trong lòng cô cũng đang có rất nhiều nghi hoặc khó lòng giải thích. Gấp gáp muốn tìm đáp án từ trong cuốn băng, cô bèn quyết định sẽ nghe lại từ đầu đến cuối, rồi sau đó căn cứ theo tình hình thực tế để lấy hàng trong khoang. Nghĩ vậy, cô liền khuyên can: "Dù sao sai một chút và sai một trăm chút cũng chẳng khác nhau là bao, các anh đừng trách cứ người anh em nhỏ tuổi này nữa, cậu ta thì hiểu được gì chứ?" Nói xong, cô lập tức tua lại cuốn băng, rồi cẩn thận nghe lại từ đầu, phát hiện giọng nói ghi âm trong cuốn băng quả nhiên là của một người Anh. Trừ Tư Mã Khôi và La Đại Hải ra, thì những người còn lại đều ít nhiều hiểu tiếng Anh, nhưng hai người này làm gì có chuyện ngồi yên một bên mà giương mắt nghe như vịt nghe sấm. Ngọc Phi Yến cũng chẳng biết làm sao, đành phải nghe một đoạn, lại dịch một đoạn cho họ.



Không ngờ sự việc nghe được sau đó lại khiến mọi người cảm thấy kinh ngạc, đầu óc như muốn nổ tung, vì nội dung ghi lại trong cuốn băng còn đáng sợ gấp nhiều lần việc gặp phải vong hồn phi công không quân Anh dưới lòng đất như họ nghĩ.



Người ghi âm là một chuyên gia thám hiểm hang động người Anh, tên là Wilson. Anh đã tự mình ghi âm cuốn băng dựa theo thời gian thực tế, bắt đầu từ thời khắc chiếc máy bay vận tải cất cánh tại sân bay, đồng thời nói rằng nếu như có người phát hiện ra cuốn băng này, thì có nghĩa là anh ta đã lâm nạn. Trên đường phi hành, Wilson hồi tưởng ngắn gọn những điều mình đã trải qua, tự nhận đội của anh là phân đội tinh nhuệ có kinh nghiệm phong phú, bao gồm những phi hành viên ưu tú nhất, có chuyên gia nghiên cứu về lịch sử tôn giáo và hiện tượng siêu nhiên, cũng có quân nhân phục viên từ binh chủng không quân, họ không thuộc tổ chức chính trị nào mà chỉ làm việc vì tiền. Lần này, nhận đơn hàng từ một khách hàng không lộ diện, mục tiêu là tìm kiếm chiếc máy bay tiêm kích vận tải mất tích dưới khe núi núi Dã Nhân, nghe nói trong khoang vận tải chất đầy châu ngọc quý hiếm mà bọn thực dân Anh đã cướp đoạt từ Miến Điện, có điều cụ thể là hàng gì thì tuyệt đối cơ mật, nên ngoại trừ đội trưởng ra, các thành viên khác hoàn toàn không hề hay biết.



Qua nhiều lần thăm dò và trinh sát trên không, bước đầu đã xác minh được kết cấu địa hình trong lòng khe núi: đây là một huyệt động khổng lồ mặt cắt hình kim tự tháp, sâu rộng không thể lường, bề ngang tương đối hẹp. Căn cứ vào thông tin liên lạc qua bộ máy điện đàm không dây của phi công lái chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, thì có lẽ nó đã rơi xuống sườn nam.



Đội thám hiểm đồng thời cũng phát hiện: bất luận trên mặt đất hay dưới lòng đất, đường bộ hay đường thủy, đều không có con đường nào tuyệt đối an toàn để đi xuyên vào núi. Ngoại trừ màn sương mù dày đặc trào ra từ lòng đất, núi Dã Nhân còn tồn tại một lượng lớn các di tích cổ đại: có điều, phần lớn trong số chúng đều bị hủy hoại nghiêm trọng, nên không thể phán đoán hay khảo nghiệm bối cảnh văn hóa và cội nguồn lịch sử của nó, vì dường như người cổ đại muốn che đậy một bí mật nào đó, đồng thời họ cài đặt trùng điệp cạm bẫy để bảo vệ nó. Trong khi ấy, chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở bảo vật cổ đại Miến Điện lại rơi đúng xuống núi Dã Nhân, tất cả những việc đó phải chăng là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Wilson cho rằng có thể mình chỉ quá đa nghi mà thôi, nhưng những ai càng nghiên cứu sâu về luật logic thì càng nên coi trọng sự trùng hợp đó.



Thật không may, tất cả những đội thám hiểm trước đây định vào núi đều không rõ tông tích, và gần như chẳng có kẻ may mắn nào sống sót trở về. Đối với những nhà thám hiểm chuyên nghiệp được trang bị tinh nhuệ, có kinh nghiệm phong phú, rèn luyện qua các lớp đào tạo cao cấp và vũ trang đến tận răng, thì địa hình ngoại vi núi Dã Nhân phức tạp và các loài mãng xà, độc trùng chẳng phải trở ngại tuyệt đối. Hiểm họa thực sự là đến từ màn sương bí ẩn quanh năm không tiêu tan ở sâu trong núi, sương khí mù mịt bao trùm cả cánh rừng nguyên sinh xung quanh khe núi, đã khiến người ngoài khó lòng nhìn thấu những bí mật bên trong của nó.



Đội thám hiểm Anh của Wilson đã nghĩ ra một kế hoạch gần như là điên cuồng, họ cho rằng chiếc máy bay tiêm kích của không quân hoàng gia năm đó, sở dĩ có thể hạ cánh xuống vùng sương mù ở nơi sâu trong khe núi, là do có hai điểm thuận lợi, thứ nhất là kết cấu chất liệu đặc biệt của loại máy bay tiêm kích, thứ hai là tác dụng của dòng khí lưu thông mà địa hình đặc biệt trong khe núi sản sinh ra; nhưng nếu giả dụ thay vào chiếc máy bay khác, chắc chắn là sẽ bị quá nhẹ hoặc quá nặng, không thể vừa vặn như chiếc tiêm kích. Ngoài ra, điều kiện thời tiết cũng có khả năng là một trong những nhân tố quyết định, vào ngày chiếc tiêm kích vận tải số hiệu Rắn đen mất tích, cũng là ngày cơn bão nhiệt đới di chuyển về hướng bắc, khiến phần lớn vành đai địa hình khe núi núi Dã Nhân bị lộ ra khỏi lớp sương mù dày đặc.




Nếu bây giờ muốn vào sâu trong khe núi, chỉ có đợi đến khi cơn bão nhiệt đới lại đến một lần nữa, đồng thời còn phải sử dụng chiếc máy bay tiêm kích cùng số hiệu với chiếc đã mất tích, thì mới hi vọng đạt được mục đích. Nơi sâu trong núi Dã Nhân có khu vực bom mìn, sương mù, độc trùng và các loại tà thuật, khiến người phương Tây khó lòng lý giải, cho nên bọn họ dự định đáp chiếc máy bay tiêm kích giống nhau, nhân lúc thời tiết thay đổi, mạo hiểm tiến vào nơi sâu nhất dưới khe núi, rồi sau khi thành công sẽ nghĩ cách đáp khinh khí cầu rút lui. Mãi cho đến cuối những năm sáu mươi, vẫn có thể tìm thấy bóng dáng máy bay tiêm kích ở những khu vực tương đối lạc hậu. Họ đã vất vả ngược xuôi một phen, cuối cùng cũng tìm được chiếc máy bay tiêm kích cải tiến, có cùng số hiệu với chiếc Rắn đen, ở một nơi nào đó thuộc khu vực Đông Nam Á.



Gần núi Dã Nhân tồn tại rất nhiều tô tem[22] mãng xà, chiếc máy bay rơi xuống vùng sương mù mang số hiệu Rắn đen, mạch chạy của khe núi ngoằn ngoèo như rắn lượn, thậm chí ngay cả con đường U Linh mà liên quân Trung - Mỹ đã xây dựng cũng dài như hình rắn. Đội thám hiểm Anh phán đoán: có lẽ "rắn" là chiếc chìa khóa liên kết toàn bộ bí mật trong núi Dã Nhân. Thế là họ liền tìm một chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó tiến hành cải tiến, làm mới từ trong ra ngoài, bao gồm cả nước sơn, tất cả đều hoàn toàn giống như đúc với chiếc máy bay bị mất tích, rồi đặt tên cho nó là Rắn đen II với hi vọng nó có thể đem lại may mắn cho đoàn thám hiểm.



Đội thám hiểm Anh mua đứt một sân bay kín đáo, do lực lượng vũ trang địa phương khống chế, ở khu vực phi chính phủ giáp ranh Cam Miến, rồi nhân lúc cơn bão nhiệt đới Buddha xâm nhập, họ đáp chiếc Rắn đen II bay vào núi Dã Nhân. Kế hoạch này vô cùng mạo hiểm, thiên thời địa lợi nhân hòa, dũng khí kỹ thuật, chỉ cần thiếu bất kỳ nhân tố nhỏ nào cũng đều có khả năng ảnh hưởng đến vận mệnh cuối cùng, vì sự thay đổi bất thường luôn mang lại những khó khăn không thể tưởng tượng. Nhưng đối mặt với món thù lao khổng lồ và cảm giác sứ mệnh to lớn vô hình nào đó đã khiến đội thám hiểm dưới sự thôi thúc của tâm lý đầu cơ, vẫn quyết định lao vào dù biết rõ khó khăn.



Wilson thẳng thắn thừa nhận: "Tính nguy hiểm của nhiệm vụ lần này vô cùng lớn, có khả năng không còn đường trở về, nhưng hi vọng những gì chúng tôi làm là có giá trị."



Sau khi chiếc máy bay vận tải Rắn đen II cất cánh, nó bay lượn rất lâu trên bầu trời vùng núi, không ngờ thời tiết biến đổi càng lúc càng khắc nghiệt, đằng xa bắt đầu xuất hiện tiếng sấm rền vang dội, sương mù dày đặc gần khe núi cũng không hạ xuống đến mức thấp như dự tính ban đầu. Mọi việc đều không hội tụ đủ điều kiện giống trong kế hoạch, bởi vậy phi công đành đề nghị từ bỏ chuyến hành động này. Nhưng giữa khoảnh khắc cả đoàn đang bay là là vượt qua khe núi, thì đột nhiên xuất hiện chiếc máy bay tiêm kích vận tải u linh như một bóng ma từ trong dải mây mù ngưng tụ không tan biến lừ lừ bay ra.



Wilson nói: "Đó chính là chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm trước của không quân Hoàng gia Anh, nó lao thẳng vào chúng tôi mà không phát ra một tiếng động nhỏ, đến khi phi công phát hiện thấy nó, đồng thời định chuyển hướng né tránh, thì mọi sự đã quá muộn. Chiếc Rắn đen II của chúng tôi đâm trúng chiếc máy bay xuất hiện từ đám sương mù. Lạ một điều, tuy rằng đột ngột xảy ra va chạm giữa không trung, nhưng lại chẳng hề khiến chiếc Rắn đen II phát nổ ngay lập tức, mà cảm giác giống như đâm vào một màn sương dày đặc, nhìn không rõ, sờ không thấy, còn chiếc máy bay vận tải đối diện dường như vốn dĩ chỉ là ảo ảnh không hề tồn tại. Nhưng điều khiến mọi người khó hiểu nhất là: trong khoảnh khắc va chạm với chiếc máy bay u linh kia, hai động cơ của chiếc Rắn đen II liền ngừng hoạt động, các thiết bị khác cũng hoàn toàn không thể điều khiển nổi, khoang máy bay phút chốc trở nên tối mù, rồi rơi thẳng xuống khe núi trong tình trạng mất lái.



May nhờ thượng đế che chở, nên chiếc Rắn đen II thoát khỏi họa máy tan người nát. Nó bị vướng vào các rễ cây cổ thụ, treo lơ lửng giữa không trung. Đợi khi các thành viên lần lượt tỉnh lại khỏi hôn mê, phát hiện sương mù hoàn toàn che khuất tầm nhìn phía ngoài khoang, chẳng rõ mình bị rơi xuống phương nào, để duy trì tầm nhìn với khoảng cách nhất định trong sương mù, đội thám hiểm Anh liền bật sáng mấy ngọn đèn halogen cường quang đã chuẩn bị từ trước, vì nó có thể xuyên thấu những tạp chất trong sương mù với hạn độ lớn nhất. Sau đó mọi người mở cửa máy bay ra ngoài, dùng đèn halogen nhiều bóng soi chiếu địa hình gần điểm rơi. Lúc này đội trưởng đội thám hiểm lại nhắc nhở mọi người thêm lần nữa: nếu tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trước khi có sự cho phép của anh ấy, tuyệt đối không ai được mở hòm hàng, bởi vì hàng chở trong máy bay cực kỳ nguy hiểm."



Có điều, lúc này vận đen của đội thám hiểm Anh chỉ vừa mới bắt đầu, ánh sáng cực mạnh phát ra bởi đèn chiếu trên máy bay không ngờ lại dẫn dụ một vật thể to lớn dị thường từ nơi sâu trong đám sương mù đi ra - Wilson miêu tả vật thể đó là "vật thể sống" với giọng kinh hoàng tột độ, nó nuốt chửng cả chiếc Rắn đen II, tiếp sau đó là một loạt tạp âm hỗn loạn điếc tai cùng tiếng gào thét hoảng loạn, rồi băng ghi âm ngừng lại ở đây.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: động không đáy kinh hoàng - hồi thứ nhất: súng săn


Chương 4: Động không đáy kinh hoàng - Hồi thứ nhất: Súng săn



Dường như tất cả các đội thám hiểm vào núi Dã Nhân đều suy xét kỹ lưỡng đến những trở ngại và nguy hiểm có thể gặp phải, nhưng hiểm họa khó lòng dự tính nhất lại đến từ màn sương khí không ngừng trào ra dưới lòng đất. Ngoại trừ những kẻ mất tích vĩnh viễn bị nhốt trong đám sương mù bí ẩn, thì e rằng trên thế giới chẳng còn người nào khác có thể giải đáp xem rốt cục họ đã gặp phải điều gì trong đám sương mù, cũng không biết cội nguồn của nó xuất phát từ đâu. Nếu phán đoán theo lý lẽ thông thường, sương mù có khả năng khiến con người nảy sinh ảo giác, hoặc giả sương mù có hàm chứa độc tố, nhưng dựa vào kinh nghiệm phong phú, vũ khí tiên tiến hiện đại, cộng thêm một chút vận may không thể thiếu, thì lẽ ra họ cũng phải có cơ hội để rút lui an toàn khỏi núi mới phải.



Không chỉ có hai người Tư Mã Khôi và Ngọc Phi Yến nghĩ như vậy, mà ngay cả đội thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II cũng ôm hi vọng về sự may mắn đó. Để đối phó với màn sương mù ngàn năm nằm sâu trong khe động khổng lồ, họ đã làm rất nhiều công việc chuẩn bị cần thiết, bao gồm các loại biện pháp phòng độc cùng nhiều thiết bị chiếu sáng cường quang sử dụng trong sương mù. Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, bao trùm dưới màn sương mù dày đặc ấy lại tồn tại một thứ gì đó khiến con người hoàn toàn không thể tưởng tượng nổi.



Cuộn băng ghi âm mà Wilson để lại khiến mọi người nghe xong đều thất sắc, im lặng mãi một hồi lâu. Nội dung mà cuốn băng nhắc đến đã hoàn toàn đảo lộn toàn bộ nhận thức về các sự việc của họ trước đây. Ngọc Phi Yến biết rất rõ trong lòng, hội của cô và đoàn thám hiểm Anh lái chiếc Rắn đen II, chắc chắn đều có cùng một "khách hàng" ngồi phía sau màn diễn. Theo thông lệ quốc tế, nếu khách hàng đã thuê một nhóm người truy tìm tông tích chiếc máy bay vận tải bị mất tích, thì trước khi nhóm người đó thất thủ hoặc từ bỏ, sẽ không cho phép người khác nhúng tay vào. Nếu biết trước cơ sự như vậy, bọn cô ta đã chẳng thèm lao vào để uống ngụm nước đục này.



Ngọc Phi Yến lại nghĩ đến lúc cùng Tư Mã Khôi phát hiện ra chiếc máy bay tiêm kích vận tải, khi ấy sương mù trong khe núi đã hạ xuống mức thấp và chiếc Rắn đen II cũng không có biểu hiện gì bất thường, trong khoang chẳng thấy vết tích thể người Anh nào. Căn cứ vào đó có thể suy đoán: "vật thể sống" mà cuộn băng ghi âm nhắc đến, chỉ hoạt động trong phạm vi sương mù bao phủ, hơn nữa, chính "ánh đèn" đã dẫn dụ nó ra khỏi đám sương mù.



Lúc này Tư Mã Khôi đã cậy được nắp hòm hàng trong khoang máy bay, vừa nhìn quả nhiên bên trong chứa toàn trang thiết bị và vật dụng mà đội thám hiểm Anh mang theo, chứ không phải "báu vật Miến Điện" mà Ngọc Phi Yến đang mất công tìm kiếm.



Anh thấy thần sắc mọi người đều vô cùng nặng nề, như thể đại nạn đang sắp sửa giáng xuống đầu, liền tìm một lý do an ủi: "Chí ít cuốn băng ghi âm cũng giúp chúng ta giải thích một việc, đó là chiếc máy bay chúng ta gặp trong khe núi là chiếc Rắn đen II, chứ không phải oan hồn mấy chục năm trước vẫn lởn vởn trong sương mù còn gì!"




Ngọc Phi Yến liếc Tư Mã Khôi một cái rồi nói: "Anh việc gì phải lừa người rồi tự lừa mình như thế. Chiếc máy bay mà chúng ta gặp quả đúng là chiếc Rắn đen II, nhưng rốt cục nó đã đâm phải cái gì trong đám sương mù ấy?"



Tư Mã Khôi nói, chiếc Rắn đen II đã đâm chính diện vào chiếc máy bay tiêm kích vận tải, nhưng lại không hề xảy ra cháy nổ, tôi nghĩ chắc là do "sương mù". Nghe nói trên đời thường xuất hiện ảo ảnh "thành phố trên mặt nước, thành phố trong núi", buổi tối ở những khu nghĩa địa hoang vắng còn có "thành ma". Vật đột ngột xuất hiện từ trong lớp sương mù, quá nửa chỉ là hình ảnh mấy chục năm trước còn lưu lại của chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích mà thôi.



Cuối thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ có một trung đội máy bay chiến đấu Mustang P-51. Trong khi đang chấp hành nhiệm vụ tuần tra ở khu vực Thái Bình Dương, đột nhiên họ phát hiện không phận phía đối diện xuất hiện hàng loạt máy bay chiến đấu Mitsubishi A6M Zero của quân Nhật, trong khi hạm đội liên hợp Nhật Bản lúc đó đã hoàn toàn không còn tồn tại, không quân và hải quân đều đã bị đánh cho tan tác, và đã sớm mất quyền khống chế trên khu vực từ lâu. Vậy thì làm sao còn có thể xuất hiện cả đội quân với quy mô cực lớn và chỉnh tề như vậy? Trong lúc phi công máy bay chiến đấu Mỹ định phát đòn công kích, thì toàn bộ quân địch đột nhiên biến mất chẳng còn tông tích, trước mất họ chỉ còn lại mặt biển mênh mông nối liền đường chân trời dài tít tắp, xanh biêng biếc ngút cả tầm nhìn. Thông qua liên lạc họ được biết: sóng ra-đa hải quân tuần tra ở khu vực lân cận trước sau không hề xuất hiện bất kỳ phản ứng bất thường nào. Khi đó toàn bộ thành viên phi hành của trung đội bay chiến đấu Mustang đều tròn mắt ngạc nhiên, chẳng ai rõ cảnh tượng họ tận mắt chứng kiến khi nãy rốt cục là chuyện gì.



Sau này, hiện tượng đã được giải thích: đó chỉ là do khúc xạ ánh sáng của hơi nước, và còn có rất nhiều người tận mắt nhìn thấy chiến trường cổ đại rực rỡ huy hoàng trên biển hoặc thấp thoáng hiện lên phía tận cùng đường chân trời trong sa mạc. Có điều, các nhà khoa học đến tận bây giờ vẫn chưa giải thích nổi vì sao những ảo ảnh hình thành trên mặt nước hoặc trong tầng mây, mãi bao nhiêu năm sau này mới xuất hiện.



Đây là những điều Tư Mã Khôi nghe được lúc còn ở trong đội du kích cộng sản Miến Điện. Bản thân anh cũng không biết nó là thật hay giả, sở dĩ giờ đây lôi ra nhắc lại vì thấy cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong núi Dã Nhân có vài phần tương tự với các hiện tượng ly kỳ xuất hiện nơi biển rộng cát dài kia.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Giải thích như vậy nghe có vẻ thông suốt lý lẽ hơn cả.



Thế mà Ngọc Phi Yến lại không công nhận suy đoán này. Nếu nói đó chỉ là hiện tượng giả được hình thành do sương mù, vậy thì tại sao vào khoảnh khắc chiếc Rắn đen II đâm phải nó, lại giống như chạm vào bức từ trường cực mạnh, khiến toàn bộ động cơ, thiết bị đều ngừng hoạt động? Ngoài ra, sau khi nó rơi xuống khe cốc, "vật thể sống" bị đèn halogen cực mạnh dẫn dụ ra khỏi đám sương mù là thứ gì? Các thành viên đội thám hiểm Anh đã gặp phải nạn gì? Và vì sao ngay cả thi thể cùng vết máu đều chẳng lưu lại chút nào tại hiện trường?



Tuyệt cũng có cùng cảm giác nghi hoặc sâu sắc như vậy. Không kìm được, cô liền mở miệng hỏi Tư Mã Khôi: "Vì sao người Anh lại hình dung vật xuất hiện trong sương mù dày đặc là vật thể sống?"



Tư Mã Khôi đáp: "Cái từ này đúng là dễ hù dọa người thật. Kỳ thực, nói trắng ra, đó chẳng qua là một vật sống nào đó tồn tại trong đám sương mù trào ra từ lòng đất hay sao?"



Tuyệt lắc đầu phủ nhận: "Chỉ sợ chẳng hề đơn giản như thế, từ này phạm vi bao trùm quá rộng lớn, anh có thể nói cái cây ngọn cỏ là vật thể sống, thậm chí cũng có thể nói cả cõi trời đất này đều là một vật thể sống. Chỉ đến khi chúng ta tận mắt chứng kiến vật xuất hiện trong sương mù ấy, thì mới có thể miêu tả chuẩn xác về nó. Rốt cục trời đất mênh mang, những điều con người biết chỉ vô cùng hữu hạn, nhưng một điểm có thể khẳng định chắc chắn, vật bị đèn halogen dẫn dụ ra khỏi sương mù, tuyệt đối nguy hiểm khác thường, chúng ta không gặp phải nó thì hơn."



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: "Có thể làm rõ chân tướng vật ẩn nấp trong sương mù được, cũng chính là vấn đề then chốt giúp đội thám hiểm đào thoát khỏi núi Dã Nhân".



Nhưng khi bị mọi người liên tiếp đặt câu hỏi như nã đạn pháo, thì anh cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, và trong lòng nghĩ: "Tôi còn đang hoang mang đây này, sao các cô toàn nhằm tôi mà hỏi mãi thế?" nên đành phải lảng đi: "Nhìn không hết là việc bình thường dưới trời, hiểu không thấu là chuyện bình thường trên đất. Mọi việc diễn ra trước mắt quả thực vượt xa khỏi dự liệu, dường như chẳng có chút logic nào, nên nếu có là ai thì cũng chẳng thể giải đáp nổi. Với tình hình này, chúng ta chỉ có thể cố gắng dùng tư duy đàn hồi để giải quyết thôi."



Ngọc Phi Yến và Tuyệt đều ngơ ngác không hiểu, nên thắc mắc: "Tư duy đàn hồi có nghĩa là gì vậy?"




Hải ngọng nói thay Tư Mã Khôi: "Cái từ này đúng là dễ dọa người thật. Kỳ thực nói trắng ra, hiện giờ cậu ta chẳng còn kế sách gì nữa cả, đành phải cố biến vấn đề phức tạp thành đơn giản, biến nó từ lạ thành bình thường. Chúng ta cần gì phải tự làm khó bản thân thế chứ, chẳng may nghĩ quá hóa cuồng thì người chịu thiệt thòi rủi ro là chính mình chứ ai?"



Ngọc Phi Yến gật đầu đồng tình: "Nói cũng có lý. Giờ đây bên ngoài núi mưa to như tháo cống, nước mưa không ngừng thấm qua kẽ đất đá, lòng sơn động bị màn mưa che phủ, khiến sương mù dày đặc dưới khe cốc bị tiêu tan hoàn toàn. Chúng ta nhờ thế mà tranh thủ được thiên thời, nếu bây giờ buông tay từ bỏ thì có khác gì mang công đổ bể. Chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Anh, từng xác nhận thông tin thông qua liên lạc điện đàm không dây rằng: đã hạ cánh vào màn sương mù, chứ không chìm xuống đầm lầy. Ở dưới lòng đất có bao nhiêu là đầm lầy, nên nơi cho phép chiếc tiêm kích vận tải hạ cánh chỉ có mỗi dải đất ẩm ướt dài hẹp và sâu hút này thôi. Nếu chúng ta tiếp tục lần mò về phía nam, thì biết đâu vẫn còn cơ hội tìm thấy hàng chứa trong khoang máy bay."



Trước đây Ngọc Phi Yến thường tự do hành sự theo ý mình, chẳng bao giờ cần giải thích gì với thuộc hạ, nhưng đối với mấy người mới hội Tư Mã Khôi (bọn họ quả thật có thể buông tay giãy cẳng giữa đường, mà mình chẳng làm gì được), nên cô đành xuống nước, thương lượng đầu cuối với họ, rồi dặn dò mọi người: "Dụng binh hay ở chỗ thần tốc, bây giờ chúng ta không thể nấn ná thêm được nữa, phải nhanh chóng bắt tay hành động. Bởi không chừng cơn bão nhiệt đới chẳng kéo dài thêm bao lâu, lỡ mà nó chuyển hướng giữa chừng hoặc đột ngột suy yếu thì sự việc sẽ phiền phức to, lúc đó đám sương mù chắc chắn sẽ xuất hiện trở lại. Trước khi xuất phát, mọi người cố gắng mang theo những vật dụng cần thiết mà đội thám hiểm Anh để lại, đặc biệt là lương thực và vũ khí phòng thân, cùng với thiết bị chiếu sáng. Nếu trên đường bất ngờ gặp sương mù, thì phải tắt ngay đèn pin cường quang và đèn chiếu halogen đi. Trong tình huống bất đắc dĩ, cũng có thể đổi sang dùng đèn hàn quang hóa học không tỏa nhiệt." Nói xong, cô bắt đầu tìm kiếm vật dụng cần thiết trong hòm hàng của đội thám hiểm Anh.



Ngọc Phi Yến bất ngờ phát hiện một chiếc máy bộ đàm dạng đeo vai, bèn hỏi hội Tư Mã Khôi xem có ai biết sử dụng không?



Tuyệt xem xong bảo: "Đây là máy điện đàm không dây chiến thuật quân dụng hiệu PRS25/77 mà. Cái này do Mỹ sản xuất, tôi hiểu một chút về thông tin, chắc có thể sử dụng được nó, nhưng bây giờ trong huyệt động dưới lòng đất chẳng có kẻ sống sót nào khác ngoài chúng ta, thì cần nó để liên lạc với ai?" Ngọc Phi Yến nói: "Sau khi lấy được hàng, chúng ta sẽ tìm cách rút lui khỏi khe núi, nhưng nếu ra được ngoài núi Dã Nhân mà không có ai tiếp ứng thì cũng chẳng nên cơm cháo gì được, mang theo nó chẳng nguy hại gì, ngược lại biết đâu sẽ có lúc phải dùng đến."



Tư Mã Khôi thấy Ngọc Phi Yến bố trí mọi việc khá hợp lý, có bài có bản hẳn hoi, nếu là mình thì cũng chẳng thể nghĩ ra sách lược gì hay hơn, nên anh chỉ ngồi im lặng, chẳng nói thêm gì.



Những người còn lại cũng không có ý kiến gì khác, người nào người nấy cắm cúi bắt tay chuẩn bị, chỉ mỗi mình La Đại Hải cả đời chưa từng bị con gái chỉ huy bao giờ, tuy chẳng nói ra miệng, nhưng trong lòng khó tránh khỏi có chút khó chịu. Anh vô tình phát hiện dưới đáy hòm có một hộp gỗ dài, mở ra nhìn thì thấy bên trong đựng một khẩu súng săn bốn nòng kiểu cũ bị tháo rời từng bộ phận, kèm theo hai loại thuốc súng đặc chế. La Đại Hải trong chốc lát đã lắp ráp xong và thấy khẩu súng săn này đúng là to ngoại hạng, hơn nữa chất liệu thân súng rất được chú trọng, công nghệ vô cùng tinh xảo, bốn nòng súng xếp thành hình chữ thập, hai nòng trái phải lắp đạn ghém, hai nòng trên dưới là những đường xẻ rãnh dành cho loại họng súng cỡ lớn. Anh từng nghe người bản địa nói, đây là kiểu súng mà dân quý tộc Anh trước đây thường sử dụng khi đi săn voi rừng hoặc tê giác ở Miến Điện hay Ấn Độ. Lớp sừng bên ngoài của tê giác cứng đanh như thép nguội, đủ để phòng vệ trước nhiều loại đạn, chỉ mỗi khẩu "săn voi rừng" với đường kính họng súng ngoại cỡ này là nó không thể địch lại nổi mà thôi.



La Đại Hải hớn hở ra mặt, nói với Tư Mã Khôi: "Khẩu súng này chẳng khác nào khẩu pháo, có nó bên mình, tớ cũng cảm thấy vững dạ hơn nhiều."



Tư Mã Khôi nhắc nhở: "Tiên sư Hải ngọng, cậu định mang nó đi bắn cả xe tăng đấy hả? Tớ bảo à biết, sử dụng súng săn nòng ngoại cỡ đó cũng đáng ngại ra phết, tuy rằng uy lực nó lớn thật, nhưng vì được sản xuất từ lâu rồi nên cấu tạo thiết kế có khá nhiều điểm lạc hậu, khuyết điểm vô số, rất dễ cướp cò, đặc biệt lực đẩy về sau mạnh đến kinh người, kẻ nào thể lực yếu ớt, khi nổ súng không khéo còn nảy ra sau ngã chổng vó đấy."



La Đại Hải tự thấy mình cao to lực lưỡng, thể lực tráng kiện, tay vai chắc chắn nên chẳng coi mấy lời của Tư Mã Khôi vào đâu: "Bọn khọm Anh đấy chẳng phải cũng chỉ uống nước máy, ăn mỳ trắng thôi sao? Đâu phải hạng ba đầu sáu tay gì. Bọn ấy mà đã sử dụng được thì chúng ta cũng có thể chơi cho sướng tay chứ." Nói xong, anh khoác băng đạn của khẩu săn voi lên người, sau đó quay sang dặn dò Karaweik: "Ranh con nhà cậu nhớ bám đuôi cho sát vào nhé, nếu dám rớt lại phía sau, coi chừng anh bắn tuốt xác ra đấy."



Karaweik cũng biết hoàn cảnh trước mắt vô cùng nguy hiểm, mặt mày hoảng hốt, miệng ngậm chặt chẳng dám ho he câu nào.



Sau khi mọi người đã nai nịt gọn gàng đâu vào đấy, họ mới lần lượt chui ra khỏi khoang Rắn đen II. Người nào người nấy đều lăm lăm khẩu súng tự động trong tay, dùng đèn chiếu halogen mở đường, dò dẫm về phía cực nam của khe núi truy lùng mục tiêu. Vùng nước đọng thấm qua kẽ nứt đất đá bị dòng khí lưu thông ở nơi cao trong khe núi cuốn ngược lên, đã tạo thành màn mưa bụi dày đặc giăng mắc mịt mùng khắp không gian, khiến tầm nhìn cũng bị ảnh hưởng, mọi vật trở nên mơ hồ không còn rõ ràng nữa.



Đáy khe núi toàn là những vùng đất ẩm ướt hoang phế, trong đó có một dải khá rộng, trải dài theo chiều dọc, tạo hình giống như con mãng xà khổng lồ. Trên mặt nước xung quanh lại mọc đầy cỏ răng cưa thân dày lá rậm và lau sậy um tùm, chúng cao đến ngang thân người, khiến đầm lầy trông chi chít ngang dọc chẳng khác nào bàn cờ.




Tuyệt thấy kỳ lạ liền thắc mắc: "Không gian dưới lòng đất rộng lớn, sâu hút, quanh năm bị sương mù dày đặc phong tỏa như thế này, ánh mặt trời chẳng bao giờ lọt xuống tới nơi thì lẽ ra không thể xảy ra hiện tượng quang hợp được mới phải, vậy mà sao hệ thực vật ở đầm lầy lại có thể mọc um tùm, phong phú dường này nhỉ?"



Tư Mã Khôi cũng đồng cảm: "Điều bất thường nhất là ở đây quả thực quá rộng rãi, trống trải, mà độ sâu của huyệt động không dưới hai ngàn mét. Tôi vốn dĩ cho rằng dưới lòng đất phải có vật gì đó ẩn nấp, nhưng trong này ngoại trừ sương mù ra, thì dường như chẳng có thứ gì." Trong lúc nói, dưới chùm sáng của đèn chiếu halogen, anh nhìn thấy ở mặt nước lân cận nổi lềnh bềnh mấy khúc trông như củi khô, trong lòng biết chắc, đó chính là cá sấu.



Bốn xung quanh hẻm núi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Những loài động thực vật từ trên cao rơi xuống đáy động, chỉ có thể sinh sôi nảy nở ở môi trường gần như khép kín. Bởi vậy, trong đàm lầy dưới lòng đất, xuất hiện các loài sinh vật bò sát như cá sấu hay mãng xà Miến Điện thì cũng chẳng phải điều gì kỳ lạ. Nhưng "vật thể sống" xuất hiện từ đám sương mù và tấn công chiếc Rắn đen II rốt cục là thứ gì? Hình dạng của nó chắc chắn không thể nhỏ được, hơn nữa, nó có thể mượn sự trợ giúp của sương mù nhanh chóng di chuyển lên nơi cao, nên chắc chắn không thể là cá sấu hoặc mãng xà Miến Điện.



Tư Mã Khôi chẳng lần tìm được đầu mối, nên mặc kệ không buồn nghĩ nhiều nữa. Anh ngẩng đầu nhìn lên cao, trước đây anh chẳng có chút cảm xúc nào với cơn bão nhiệt đới Buddha, chỉ thấy khí hậu khắc nghiệt là mối hiểm họa chí mạng, nhưng giờ đây lại ngàn vạn lần mong rằng cơn giông tố xua tan mây mù này đừng có dừng lại.



Trong lúc bước đi với đầu óc trỗng rỗng, đột nhiên anh nhìn thấy phía trước có một con cá sấu khổng lồ dài mười mấy mét, nặng tới vài tấn, há miệng lộ ra hàm răng sắc nhọn lởm chởm. Nó nằm vắt ngang đường, án binh bất động, bất ngờ bị kinh động bởi ánh sáng đèn halogen và tiếng bước chân, nhưng nó chẳng hề tấn công mà chỉ chậm chạp nhúc nhích thân hình nặng trịch phát ra mấy tiếng "ì oạp ì oạp" rồi cứ thế trườn sâu vào đám lau sậy, nghe âm thanh dường như đã bò đi khá xa.



Ngọc Phi Yến vội nhắc nhở mọi người, tuyệt đối không được đi gần chỗ cỏ lau sậy mọc, để tránh bị cá sấu mai phục ngoạm một ngoạm mà lôi xuống đầm lầy.



Lúc này gã Gấu trắng người Nga đột ngột dừng bước, làm một nhúm đất nơi con cá sấu khổng lồ vừa trườn qua làm vỡ cả tầng gỗ mục, dưới lớp rêu xanh và bùn đất dày lộ ra một khoảng đất rộng màu vàng như gan chó. Gã liên tiếp móc mấy chỗ khác nữa trên mặt đất, tất cả đều giống như vậy, xem ra nó kéo dài một mạch xuống tận nơi sâu dưới đáy đầm. Gã Gấu trắng người Nga dường như cảm thấy việc này rất đỗi bất thường, gương mặt vốn dĩ lạnh như băng của gã giờ đã phủ thêm một làn mây u ám.



Tuy rằng Tư Mã Khôi không hiểu gã khọm người Nga kia đang làm trò gì, nhưng nơi này cực kỳ nguy hiểm, đâu thể tự tiện dừng lại như thế, bèn hỏi: "Bác chuyên gia nhát chết cho em hỏi, bác đang đào bom đấy à?"



Gã Gấu trắng người Nga nghe thấy tiếng nói liền ngẩng đầu lên, mặt lạnh tanh hướng thẳng về phía Tư Mã Khôi mà há to miệng, bên trong lộ ra mỗi cái cuống lưỡi, ngầm ra hiệu mình không thể nói, sau đó liền dùng dao găm vạch vài chữ trên mặt đất.



Mọi người chiếu đèn nhìn xuống, chỉ thấy bốn chữ cái tiếng Anh "MOHO", ai nấy đều cảm thấy kỳ lạ khó hiểu: "Đây là tên người à?"



Ngọc Phi Yến biết một số kinh nghiệm mà chuyên gia bom mìn Gấu trắng này từng trải qua, nhìn thấy mấy chữ cái tiếng Anh trên mặt đất, thì liền hiểu ra điều mà gã muốn nói với mọi người, cô ta kinh ngạc hỏi lại: "Có phải anh muốn nói chúng ta bị rơi vào trong ống kính viễn vọng rồi không?"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: hồi thứ hai: kế hoạch kính viễn vọng địa cầu


Hồi thứ hai: Kế hoạch kính viễn vọng địa cầu



Gã Gấu trắng người Nga dùng dao găm vạch bốn chữ "MOHO" trên mặt đất, chỉ có Ngọc Phi Yến hiểu rõ ý gã. Đây là một sự thật khiến người ta không thể nào chấp nhận nổi: đáy động dưới khe núi khổng lồ ở vùng núi Dã Nhân được cấu thành bởi vật chất thạch quyển[23], sáu kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm không rõ vì sao lại rơi vào "điểm gián đoạn Moho" ở giữa lớp vỏ địa chất và quyển Manti của trái đất.



Nếu phải giải thích sự việc này, thì phải bắt đầu nói từ thời kỳ đầu những năm 50, khi đó hai trận địa đối địch là hai cường quốc Liên Xô và Mỹ thường chịu sự chi phối bởi tư duy chiến tranh lạnh. Họ đổ một lượng lớn tài sản vật chất vào cuộc chiến tranh không bao giờ chấm dứt, nghiên cứu khoa học quân sự cũng phát triển đột biến với tốc độ gần như là thần kỳ, hai bên đều vắt kiệt sức để khai phá mọi nguồn tài nguyên chiến lược.



Liên Xô khi đó có một dự án bí mật, đặt biệt danh là "Kính viễn vọng địa cầu". Vùng phía đông và phía nam trên lãnh thổ Liên Xô rất rộng lớn trống trải, uốn vòng theo dải đồi núi, hang động thiên nhiên và các mỏ khoáng nhiều vô kể. Vì muốn nắm giữ được nguồn tài nguyên phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất, đồng thời chạm tay vào thế giới chưa từng được biết đến của nhân loại sớm hơn nước Mỹ, người Liên Xô đã dùng thiết bị máy móc khoan sâu hạng nặng, bí mật tiến hành đào bới ở độ sâu chưa bao giờ từng có trước đây, dưới một hang động khô trong bồn địa thiên nhiên.



Công trình này tiêu tốn khoảng thời gian gần hai mươi năm, huyệt động mà họ đào được nằm dựng đứng với độ sâu đạt tới mười ba ngàn mét, là huyệt động sâu nhất trên thế giới được biết đến. Bởi vì việc này liên quan đến những cơ mật quân sự ở mức độ tối cao, cho nên dự án "Kính viễn vọng địa cầu" từ đầu chí cuối tuyệt đối được tiến hành trong trạng thái tuyệt mật, bên ngoài rất ít người biết đến nội tình sau bức màn.



Gấu trắng Ciglovski nghiên cứu tinh thông về chất nổ và khoan xuyên địa chất. Vào thời kỳ cuối của công trình "Kính viễn vọng địa cầu", gã từng tham gia vào dự án và có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều bí mật có liên quan. Nhân loại đã chế tạo ra kính thiên văn, có thể dùng mắt thường để thăm dò mọi bí mật của không trung vũ trụ, nhưng mắt người lại không thể nhìn xuyên thấu lòng đất, cho nên họ mới đặt tên cho vực sâu năm xuyên qua địa tầng trái đất là "Kính viễn vọng địa cầu" với mong muốn có thể thông qua nó để trực tiếp quan trắc vật chất dưới lòng đất.



Tại các độ sâu khác nhau trong lòng đất, kết cấu của vật chất cũng hoàn toàn khác nhau, không phải tất cả từ trên xuống dưới đều là bùn cát đất đá lẫn lộn. Nói một cách khái quát, đại thể có thể phân chia trái đất thành ba tầng khu vực, phần ngoài cùng gọi là lớp vỏ địa chất, phần sâu hơn là tầng quyển manti trung gian, hay còn gọi là lớp phủ, bên trong lớp phủ là phần lõi. Phía ngoài và phía trong tầng quyển manti, chỗ ranh giới của loại các vật chất khác nhau gọi là điểm gián đoạn, chỗ giáp ranh giữa lớp vỏ và lớp phủ được gọi là điểm gián đoạn Moho, chỗ giáp ranh giữa lớp phủ và lớp lõi được gọi là điểm gián đoạn Gutenberg.




Năm đó, người Liên Xô đã đào tới độ sâu hơn mười ngàn mét dưới lòng đất, lấy được mẫu vật từ tầng quyển manti bên trong "điểm gián đoạn Moho", phát hiện dưới lòng đất hàm chứa loại vật chất có tính phóng xạ rất lớn, khiến vật chất tầng thạch quyển hình thành giống như sáp parafin, nó không phải đá cũng không phải cát, có lẽ bên trong chứa vi sinh vật, nên mới hiện lên những vết vằn màu gan chó hiếm gặp ấy, hoàn toàn không giống với cấu tạo địa chất thường thấy trong các hang động khác ở núi Dã Nhân. Gấu trắng từng nhìn thấy mẫu vật này ở Liên Xô, đồng thời hiểu rằng vạch ranh giới loại vật chất dưới lòng đất này mang tính toàn cầu, nhưng tùy vào khu vực bề mặt khác nhau thì độ sâu của điểm gián đoạn Moho cũng thay đổi; nếu ở núi Dã Nhân Miến Điện, chí ít phải nằm sâu dưới lòng đất khoảng mấy chục nghìn mét thì mới có thể xuất hiện loại vật chất đặc thù này.



Ngọc Phi Yến ngước đầu lên nhìn khe nứt của miệng vực ở mãi trên cao qua lớp mưa bụi, trong lòng trào lên cảm giác khác lạ khó nói thành lời. Lúc này, bên ngoài núi mưa to như trút, sấm sét giao hòa, không thể dùng mắt thường phán đoán dựa theo tia sáng của ánh chớp, mà chỉ có thể nhìn con số hiển thị vị trí so với mực nước biển trên đồng hồ đeo tay, khoảng cách theo chiều thẳng đứng giữa đáy động và miệng vực áng chừng khoảng hai nghìn mét. Hơn nữa, đỉnh khe núi, bản thân lại nằm trong núi Dã Nhân, nơi có vị trí tương đối cao so với mực nước biển, trừ đi độ cao của ngọn núi, thì từ mặt đất xuống dưới này không thể vượt quá một nghìn mét. Độ sâu ấy đương nhiên không thể gọi là nông, nhưng sự biến hóa của vật chất địa tầng cho thấy rõ ràng mọi người đang ở độ sâu mười nghìn mét dưới lòng đất, chứ không phải một nghìn. Việc đó cũng có nghĩa là độ sâu mà bản thân tự cảm giác thấy còn kém độ sâu thực tế một số không. Trong lòng khe núi thăm thẳm như vực sâu vạn trượng này, dường như mọi logic và kiến thức thông thường đều mất hết ý nghĩa, khiến người ta hoàn toàn khó lòng phán đoán được rốt cục bản thân đang gặp phải tình huống gì.



Ngọc Phi Yến trong lòng hỗn độn một mớ, cô ta tóm tắt nội dung tình hình mà gã Gấu trắng phát hiện với những người còn lại. Hội Tư Mã Khôi trình độ văn hóa có hạn, nên chẳng thể nào hiểu được "điểm gián đoạn Moho" và "kính viễn vọng địa cầu" rốt cục là chỉ thứ gì? Nếu như diễn đạt nôm na có khi họ lại hiểu được chút ít.



Hải ngọng tặc lưỡi: "Bây giờ dù sao chân đã chạm tới đáy rồi, còn lo nó sâu bao nhiêu làm chi? Tôi thực sự chả hiểu chuyện này có gì đáng để quan tâm. Rơi xuống từ một ngàn mét cũng chết, mà rơi xuống từ mười ngàn mét chẳng phải cũng chết sao? Kiểu gì thì vẫn một kết cục thịt nát xương tan vung vãi tứ phía, dù sao có thành bộ dạng gì thì bản thân cũng chả nhìn thấy; bởi vậy, căn bản chẳng cần suy nghĩ về độ nông sâu của huyệt động dưới lòng đất này làm gì ệt óc."



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: "Chắc là vẫn hơi khác một chút đấy, rơi từ hai ngàn mét thì chỉ cần gào lên một tiếng thảm thiết, chẳng kịp đau buồn gì đã ra đi rồi. Nhưng nếu rơi từ nơi ười ngàn mét, cứ mặc thân thể rơi tự do xuống dưới, trước tiên cậu phải gào mất vài tiếng, sau đó móc một điếu thuốc ra hút, rồi lôi giấy bút ra viết di chúc, dặn dò hậu sự xong đâu đấy, lại hồi tưởng quãng đời chinh chiến trên lưng ngựa ở cánh rừng rậm nhiệt đới này hết mấy lượt, cúi đầu nhìn xuống, thì ô hay, vẫn còn nửa đoạn đường nữa mới rơi được tới đáy kia."



Ngọc Phi Yến thấy hai người bọn họ căn bản chẳng hiểu chuyện gì, bèn nói: "Bất kể do địa chất trong lòng núi Dã Nhân biến dị hay do cảm giác về không gian của bản thân bị nhiễu loạn, đều là những vấn đề sau này mới cần để tâm đến.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Giờ phải cân nhắc việc nào quan trọng việc không. Hiện giờ quan trọng nhất là đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích."



Cô thấy đầm lầy dưới lòng đất mênh mang vô bờ bến, lớp phủ thực vật và bóng tối lại cản trở công cuộc tìm kiếm, nên với tình hình này, muốn tìm thấy mục tiêu, gần như là mò kim đáy bể, thật khiến người ta chẳng biết bắt đầu từ đâu. Tất cả mọi chiêu phép đào mồ quật mả trong núi trước đây đều chẳng có tác dụng gì ở nơi này, đầu óc cô trống rỗng không nghĩ ra nổi một kế sách nào.



Tư Mã Khôi theo đoàn thám hiểm vào núi sâu, thấy hội trộm mộ Ngọc Phi Yến đúng là có chút bản lĩnh, nhưng kinh nghiệm và kỹ thuật truyền thống của bọn họ, dường như hoàn toàn không thích hợp trong rừng rậm nhiệt đới Miến Điện. Ngay từ đầu, Khương sư phụ quyết định tiến vào thâm cốc theo con đường "tượng môn" là đã phạm vào điều đại kỵ.



Tư Mã Khôi lăn lộn trong đội du kích cộng sản Miến Điện đã nhiều năm, ngoài việc phóng hỏa giết người, thì kinh nghiệm về những phương diện như tác chiến trong rừng rậm, mưu cầu sinh tồn ở nơi hoang dã, tìm kiếm cứu viện hay phân biệt phương hướng v.v... anh đều nắm rõ như lòng bàn tay. Anh quay sang nói với Ngọc Phi Yến: "Địa hình vùng núi Miến Điện cực kỳ phức tạp, muốn đảm bảo an toàn, thì phải cố gắng thực hiện theo phương châm - đi chỗ cao, chớ đi chỗ thấp, đi đường rộng, chớ đi đường hẹp, đi dọc chớ đi ngang, băng rừng chớ lội cỏ."



Thế mà bây giờ đội thám hiểm ở đáy khe núi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải bị mất tích, trong bốn điều cấm kỵ, họ đã phạm phải ba. Thứ nhất, đi xuyên vào trong huyệt động, tức là đi nơi thấp, thứ hai sự hạn chế của địa hình và môi trường, khiến tầm nhìn trở nên vô cùng hạn hẹp, tức là đi nơi hẹp, thứ ba dưới lòng đất toàn là đầm lầy, cỏ răng cưa và lau sậy mọc um tùm rậm rạp, rất dễ bị cá sấu lén tấn công. Có thể nói, cảnh ngộ họ gặp phải bây giờ hiểm ác đến cực điểm.



Nghe Tư Mã Khôi nhắc đến cá sấu mai phục dưới đầm lầy, mặt mày ai nấy đều tự dưng biến sắc. Nhớ năm đó ở Miến Điện, đội quân hơn hai ngàn tên, được vũ trang đầy đủ đến tận răng lạc bước vào đầm lầy, do binh sỹ bị thương quá nhiều, mùi máu tanh bốc lên nồng nặc, kết quả là dẫn dụ vô số cá sấu trườn ra khỏi đầm. Chưa đầy nửa tiếng sau, hơn hai ngàn con người gần như đều trở thành miếng mồi sống nuôi cá sấu. Căn cứ vào tập tính của loài này là, sau khi phát hiện ra con mồi, nó không lập tức tấn công ngay, mà trước tiên sẽ quan sát kỹ một hồi, nhưng khi có con nhào lên trước, thì đồng loại sẽ thi nhau phi lên tranh mồi. Lúc đó kết cục như thế nào, đương nhiên chẳng cần nói thì ai cũng tự rõ.




Tư Mã Khôi lại nói: "Trước mắt chỉ biết chiếc máy bay vận tải đại khái hạ cánh ở cực nam khe núi, nhưng huyệt động dưới lòng đất thênh thang thâm u như thế này, dựa vào mấy khẩu súng của chúng ta, mạo hiểm đội mưa dò dẫm đi tìm trong đầm lầy, thì biết đến bao giờ mới thấy?"



Ngọc Phi Yến bị Tư Mã Khôi vặn lại thì máu quyết tâm đã nguội đi quá nửa, lặng lẽ hỏi: "Theo như anh nói, chẳng lẽ chúng ta không còn cơ hội nào tìm thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó sao?"



Tư Mã Khôi đáp: "Hoàn cảnh càng nghiệt ngã thì cơ hội càng nhiều hơn. Lúc đầu tôi cũng chẳng có cách gì hết, có điều từ khi đi vào đầm lầy, tôi lại đột nhiên nghĩ ra một cách, không chừng lại dùng được."



Chủ nghĩa thực dân Anh thống trị Miến Điện gần trăm năm, trong thời kỳ đại chiến thế giới lần thứ hai, quân đội Anh đánh nhau với quân Nhật ở Miến Điện, quy mô phải tới hơn một triệu người. Đương nhiên, phần lớn lính tráng lúc đó đều đến từ những nước thuộc địa, tuy nói rằng họ chiến đấu vì nước Anh vĩ đại, nhưng rất nhiều người cả đời chưa hề đặt nửa bước chân lên lãnh thổ nước Anh, thậm chí cũng chẳng rõ nước Anh nằm ở đâu trên bản đồ.



Giữa các nước thuộc địa rải rác khắp thế giới, người Anh coi trọng nhất Ấn Độ đất rộng người đông, trong khi Miến Điện lại là bức bình phong chiến lược tự nhiên của Ấn Độ. Năm đó, họ xây dựng Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn Độ. Bởi thế người Anh đặc biệt chú ý phát triển Miến Điện trong suốt nhiều năm, biến nó trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Đông Nam Á. Thời kỳ này, chế độ thống trị thực dân đã có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với Miến Điện. Cho đến ngày nay, lãnh thổ Miến Điện còn rất nhiều đường bộ, đường sắt, sân bay do người Anh xây dựng, đặc biệt có vô số vũ khí chiến tranh nằm rải rác khắp nơi trên đất nước, bao gồm cả pháo hạng nặng, xe tăng, máy bay chiến đấu.



Tư Mã Khôi cho dù không thông thạo tình hình nước Anh lắm, nhưng anh tham gia quân đội nhân dân cộng sản Miến Điện đã bao nhiêu năm, nên nắm rất rõ những loại vũ khí do người Anh chế tạo. Chiếc máy bay tiêm kích, anh cũng từng nhìn thấy không ít lần. Trước đây, cùng đồng đội hành quân trong núi sâu rừng thẳm, đôi lúc anh cũng gặp vài xác máy bay ném bom bị rơi xuống núi, và cả những quả bom hạng nặng ném xuống nhưng không phát nổ. Binh lính bản địa của quân đội nhân dân cộng sản nhìn thấy vỏ ngoài chiếc máy bay, liền dỡ nó ra mang về, những phần tương đối hoàn chỉnh họ còn có thể mang ra chợ bán lấy tiền, hay đổi lấy vật dụng có giá trị tương ứng. Bởi vì loại gỗ ván ép sử dụng áy bay tương đối nhẹ, nguyên liệu hoàn toàn dùng gỗ Balsa, một loại gỗ khá giống với họ gỗ hông (Paulownia) ở châu Á. Loại gỗ này không nứt không cong, dễ gia công, khả năng chịu chấn động tốt, không dễ bị biến dạng và không dễ cháy, nên nó rất thích hợp để làm đồ gia dụng hoặc sửa chữa nhà cửa. Nếu nhìn thấy trong nhà người bản địa, có những đồ gia dụng đơn giản do mấy tấm gỗ ván ép cũ kỹ lắp ghép thành, thì chẳng cần hỏi cũng biết, nguyên liệu chắc chắn được lấy từ chiếc tiêm kích của quân đội Hoàng gia Anh.



Những điều này đều là điều ai cũng biết, bình thường đến mức không thể bình thường hơn nữa, làm gì có chỗ nào đặc biệt? Nhưng Tư Mã Khôi từng được truyền thụ Kim điển, hiểu được cái lý "tướng vật", đó là căn bản khởi nghiệp của tổ tiên, giờ đây trên thế giới, ngoại trừ anh ra, thì chẳng còn người thứ hai có được bản lĩnh này nữa.



Vậy thế nào là "tướng vật"? Thời xưa thường có các thuật sĩ xem tướng số cho người sống, dựa vào ngũ quan diện mạo và khí sắc để phán đoán cát hung phúc họa cho họ, ngoài ra còn có thầy địa lý xem "tướng đất", nghĩa là thông qua bố cục địa hình phong thủy để phán đoán sông núi địa lý. Bên cạnh đó còn có rất nhiều hạng mục tạp nham như tướng mèo, tướng bò, tướng ngựa v.v... Thế nhưng tất cả quy nạp lại, cổ pháp đó toàn bộ đều thuộc về đạo "tướng vật".



Thời xưa, đạo chỉ "tướng vật" nhìn tên mà biết nghĩa, "tướng" tức là chỉ vật có thể dùng mắt nhìn thấy, còn về hàm ý của "vật" bao trùm phạm vi vô cùng rộng lớn, vạn vật trong cõi trời đất, bất kể sống chết gì, đều được coi là "vật". Là vật tất phải có thuộc tính, chẳng có cái gì không hợp lẽ âm dương sinh khắc.



Người xưa giải thích về nguyên lý "tướng vật" như sau: "Thiên địa vốn vô vi, thuộc tính vạn vật vốn dĩ đã có, muốn miêu tả vạn vật, hãy xem tạo hóa nhỏ bé của nó, mà phân biệt thời số vận hạn, sẽ linh ứng như thần phán."



Lời này hàm ý quá sâu xa, nếu nói đơn giản, rõ ràng hơn một chút, thì ta có thể lấy một ví dụ tương đối trực quan để hình dung: "Bỏ một giọt nước mắt vào ống rồi mang vào phòng thí nghiệm, từ đó ta rất dễ phân tích mọi thành phần hóa học, để biết giọt nước mắt do những phân tử nào cấu thành. Nhưng lý do gì khiến giọt nước mắt có thể trào ra khỏi cơ thể? Rốt cục do đau buồn hay do mừng vui? Cho dù áp dụng các phương pháp khoa học tiên tiến hơn nữa, thì cũng không thể phân biệt được nguyên nhân phát sinh ra nó. Cái này nghĩa là biết hình mà không biết tính. Nhìn rõ, sờ thấy bao giờ cũng dễ phân biệt, còn những khí chất vô hình vô ảnh thì rất khó phán đoán, chỉ có thể thông qua cổ pháp tướng vật để quan sát phân tích, điều ấy gọi là: nhìn hình, biết tính - biết tính mới có thể biết tường tận nguyên lý và nhờ đó cuối cùng sẽ tìm thấy con đường giải quyết.



Tuy Tư Mã Khôi lĩnh hội bản lĩnh gia truyền này không sâu lắm, chẳng qua thủ thân được một chút lông da bên ngoài, tới được trình độ nông cạn "nhìn hình, biết tính". Có điều, khi ở gần đầm lầy dưới lòng đất, anh đã tiến hành phân tích tỉ mỉ mọi vật xung quanh, không khỏi giật mình trước một số điều mình đã thấy.



Anh biết chất liệu chế tạo nên chiếc máy bay tiêm kích vận tải, còn có một đặc tính: nếu gỗ ván ép Balsa bị ngâm lâu trong môi trường ẩm ướt, không có ánh sáng mặt trời, thời gian càng lâu thì tính gỗ càng nặng nề âm khí. Nếu chiếc máy bay vận tải hạ cánh xuống khe cốc sâu mấy chục năm, thì cũng tức là trong rừng rậm dưới lòng đất đang vùi chôn một thân gỗ âm khí cực mạnh.




Cỏ răng cưa và lau sậy trong đầm lầy cũng đều hợp theo lẽ chuyển biến của tạo hóa. Nếu ở môi trường bình thường, cùng một đám lau sậy, nhưng khóm ở mặt bắc sẽ um tùm rậm rạp vì ở gần mặt trời hơn, còn khóm ở mặt nam sẽ khô cằn hơn một chút. Nhưng ở dưới khe núi quanh năm bị mây mù che phủ không chút ánh sáng này, quy luật sinh trưởng của lớp phủ thực vật chắc là sẽ không phân biệt nam bắc. Thế nhưng, chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã mất tích mấy chục năm nay, chắc chắn đang tỏa âm khí nặng nề ở nơi nó nằm, nói cách khác, nơi nó nằm gọi là "cực âm", bởi vậy đám lau sậy mọc gần vị trí chiếc máy bay sẽ cằn cỗi hơn. Nếu tiến hành quan sát phân tích tỉ mỉ, thì sẽ không khó xác định phương hướng chính xác của nó.



Nếu Tư Mã Khôi không cùng đội du kích cộng sản Miến Điện lăn lộn bao nhiêu năm nơi rừng già núi sâu, và không hiểu được đôi chút về bí thuật tướng vật, thì cũng khó có thể nắm vững được kinh nghiệm đặc thù này. Trong đầu anh nảy ra một kế sách, chỉ sợ để lâu sinh biến, nên liền đi trước dẫn đường và nói với hội Ngọc Phi Yến: "Mọi người chỉ cần đi theo tôi, trong ngày hôm nay chắc chắn sẽ có kết quả," rồi lại dặn dò: "Đi lại trong đầm lầy, mọi người hãy đi theo hàng dọc, khoảng cách giữa người trước và người sau không được vượt quá một cánh tay, đồng thời phải bước nhẹ, đứng chắc, nai nịt các vật dụng tùy thân như súng, ba lô, bình nước đều phải gọn gàng, ép sát vào người, những vật cao quá đầu, rộng quá vai đều vứt hết, như vậy khi xảy ra tình huống đột biến như bị ngã hay thụt chân, mới có thể đảm bảo những vật dụng mang theo không rơi vãi, mất mát, cũng có thể tránh va chạm vào bụi cỏ phát ra tiếng động lớn dẫn dụ bọn cá sấu đến, làm như vậy sẽ giúp hành động được nhanh chóng hơn."



Tư Mã Khôi nói xong, lập tức dùng dao săn phạt một đoạn cành khô, cắm xuống bùn dưới đầm để dò đường. Anh lần mò theo khu vực tỏa ra âm khí nặng nề tối tăm nhất trong đầm lầy, chậm chạp tiến từng bước. Những người còn lại bám sát phía sau, xuyên qua bụi cỏ răng cưa um tùm và bóng tối mênh mang, rồi chẳng biết họ đã đi được bao nhiêu cây số thì nhìn thấy ở nơi sâu phía bãi cỏ hoang, đột nhiên có một vật gì rất to lớn nằm chắn ngang.



Nhờ vào chùm sáng phát ra bởi đèn chiếu halogen, họ nhìn kỹ vào vật thể ấy, thấy thấp thoáng như hình của chiếc máy bay tiêm kích vận tải. Nó nằm bất động chìm sâu vào giấc ngủ im lìm ở nơi đây liền một hơi đã hai mươi mấy năm, nửa thân dưới của nó đã bị lún dưới đầm lầy, gần đó nhấp nhô lồi lõm đầy những vật trông như sáp nến, bao phủ kín mít chẳng chừa chỗ nào, đồng thời trên bề mặt đất ẩm ướt còn lộ ra rất nhiều măng đá[24], kết dính lằng nhằng bởi chất keo giống như thảm rêu, nhìn vào chẳng khác nào loại dầu nến, người Miến Điện gọi nó là "nến nước", kỳ thực đó là sào huyệt một loài bướm đêm có tên gọi là "ngài mắt kính".



Mọi người vừa đến gần, thì lũ côn trùng bị kinh động hoảng hốt bay tứ tán khắp nơi. Dưới làn mưa bụi mịt mùng, chúng túa ra từ lùm lau sậy gần đó, không ít con bị nước mưa đánh ướt sũng, nhìn thấy chùm sáng lay động trong bóng tối, liền ngờ nghệch đâm đầu bổ nhào vào đèn chiếu halogen, trên cánh ngài có những vệt vằn màu trắng, trong suốt như mắt kính, chúng đều là loại sinh vật sinh sôi nảy nở ở những nơi ẩm ướt quanh năm. "Nến nước" là loại hợp chất do bụi phấn trên cơ thể bướm đêm ngưng tụ đông đặc lại mà thành, và cho dù dưới làn mưa sương tăm tối, nó vẫn có thể tỏa ra thứ ánh sáng lành lạnh, nhưng trong môi trường đặc biệt này, rất khó có thể nhìn thấy từ phía xa, mà phải lại gần ở khoảng cách mấy chục mét mới có thể phát hiện được. Chiếc máy bay tiêm kích ngủ yên dưới lòng đất đã bao nhiêu năm, chất gỗ Balsa tuy rằng đã qua gia công, nhưng do ngâm lâu dưới lòng đất quá mức nóng ẩm nên rất dễ bị mục nát; giờ đây xung quanh nó đã sớm trở thành sào huyệt tụ tập của loài bướm đêm.



Hội Tư Mã Khôi mặc kệ chẳng buồn giơ tay xua bọn bướm đêm đang bám đầy người, đội mưa xách đèn đi tới chiếc máy bay. Tuy rằng toàn thân nó phủ đầy rêu xanh và rễ cây, nhưng dùng giáo mỏ vịt xới tung lớp phủ thực vật bên ngoài, thì đã lộ ra cửa khoang máy bay bị đóng kín mít. Họ kiểm tra mọi dấu hiệu đặc trưng, thấy đây chính là chiếc máy bay tiêm kích mà đội thám hiểm cần tìm. Đến phút giây này, tim ai nấy đều bất giác đập loạn xạ cả lên.



Ngọc Phi Yến giơ tay sờ vào thân máy bay ướt lạnh, trơn nhầy, xem ra bề mặt cũng kết đầy tổ ngài. Tuy rằng việc này hoàn toàn nằm trong dự liệu, nhưng cô dường như càng ngày lại càng lún sâu hơn vào bể nghi hoặc: "Chiếc máy bay tiêm kích thực sự, quả đúng đã rơi xuống khe núi hai mươi mấy năm. Vậy thì lẽ nào vật mà chiếc Rắn đen II đâm phải trong đám sương mù lại là một bóng ma?" Cô nóng lòng muốn xem hàng trong khoang còn nguyên lành không, bèn giục Hải ngọng đi cậy cánh máy bay.



Hải ngọng đành trao khẩu súng săn cho Tư Mã Khôi, cầm lấy cây giáo mỏ vịt chọc vào khe cánh máy bay. Cùng với âm thanh cọ xát nghe trầm đục rồi lại kèn kẹt do han gỉ, cánh cửa máy bay bị anh nậy ra một đường rãnh to, luồng khí ẩm mốc lập tức xộc thẳng vào mũi, chùm sáng của đèn halogen như bị bóng tối nuốt chửng, chẳng thể nhìn thấy tình hình bên trong khoang.



Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng mờ mịt, bèn ngăn Hải ngọng lại, không để bạn tùy tiện trèo vào, rồi tự mình lẹ làng tiến sát, anh muốn cố gắng quan sát rõ tình hình trong khoang trước đã. Tư Mã Khôi giơ cao ngọn đèn, ghé mắt nhòm, chỉ thấy trong khoang tối mịt, im lìm, chẳng thể nhìn rõ nơi xa, còn nơi gần cũng không thấy điều gì bất thường. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một vật đang bò phía trước, nhưng ánh sáng của ngọn đèn trong tay ảm đạm như sắp tắt, nên căn bản chẳng thể nhìn thấy rõ nó là cái gì.



Tư Mã Khôi trong lòng lờ mờ cảm thấy không ổn, liền định thu người lùi bước, ai ngờ từ trong khoang máy bay ào ra một vật đen ngòm, anh chưa kịp tránh thì toàn thân đã bị nó khóa chặt ngắc, chỉ cảm thấy luồng khí lạnh xuyên thấu tận xương, đầu óc tối tăm, cảm giác ngột ngạt tựa ngộp thở, trong khi cả người dường như bị một sức mạnh khủng khiếp nào đó đè nén bóp nghẹt, rồi bất giác kéo sâu vào trong khoang. Anh vội vã giơ tay ngăn lại, không ngờ tay vừa đẩy ra, thì chạm vào một khoảng không hư vô trống rỗng, chỉ có sương mù dày đặc bủa vây trước mắt mà thôi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: hồi thứ ba: hàng nguy hiểm


Hồi thứ ba: Hàng nguy hiểm



Tư Mã Khôi hoảng hốt phát hiện trước mắt là một dải hư không, vật đang bóp nghẹt cơ thể mình dường như chỉ có đám sương khí hữu hình vô chất này thôi. Ngực anh đau tức, thân thể không thể cử động, miệng cũng không thể thốt thành lời, bất giác bị kéo tụt vào trong quầng sương. Lúc đó anh lại cũng đang đứng quay lưng về phía mấy người cùng hội ở ngoài máy bay, khiến tầm nhìn của mọi người bị cản trở, nên chẳng ai có thể phát hiện cảnh ngộ bất ngờ mà anh gặp phải.



Nửa thân trên của Tư Mã Khôi bị kéo về trước, đầu ngón chân vẫn cố bám trụ trên mặt đất nhưng chẳng thể gồng mình lên được, cánh tay trái cầm đèn cũng bị sương mù khống chế, khí lạnh xuyên thấu đến tận xương tủy, mắt nhìn tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Anh thầm oán thán trong lòng và giữa lúc tình thế cấp bách, tay phải anh gạt nòng khẩu "súng săn voi" lên.



Khẩu súng săn nòng cực đại nổ "đoàng" một tiếng thật lớn, khiến toàn thân Tư Mã Khôi bị bắn ngược về phía sau, đập mông một nhát rất mạnh xuống bùn. Trên nóc chiếc máy bay tiêm kích cũng bị đạn xuyên thủng một lỗ lớn, gió hoang mưa lạnh liền ùa vào, phút chốc màn sương mù mịt mùng trong khoang bị thổi tan tác.



Hội Hải ngọng nghe thấy tiếng súng mới biết xảy ra biến cố, cả bọn vội vàng chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy, chỉ thấy trên người anh toàn là vết thâm tím, mặt trắng bệch như sáp nến.




La Đại Hải và Tuyệt hiểu rất rõ tính cách can trường của Tư Mã Khôi. Khí phách gan dạ, cái thứ này có thể chia ra làm nhiều loại: một vài kẻ có gan cợt nhả phụ nữ, nhưng không có gan sống mái một phen với kẻ thù, một số người khác không sợ tuốt thịt lột da, nhưng lại sợ bị bác sĩ tiêm, có kẻ dám ăn trộm ví tiền nhưng không dám chặn đường cướp của. Đương nhiên, cũng có người văn võ song toàn, như Tư Mã Khôi chẳng hạn, bẩm sinh đã là một kẻ liều mạng, trước giờ luôn điềm tĩnh ung dung trước mọi hoàn cảnh, lâm nguy cũng chẳng mảy may run sợ. Nhưng lúc này, nhìn thần sắc cũng thấy rõ là anh vừa bị chấn động không nhỏ; vậy rốt cục Tư Mã Khôi đã nhìn thấy vật gì mà khiến anh sợ tới mức như vậy?



Mãi một lúc sau, Tư Mã Khôi mới định thần lại được, sờ những vết bầm trên cơ thể, vẫn thấy đau đến tận xương tủy. Anh cũng không thể xác định rốt cục mình đã gặp phải cái gì giữa khoảnh khắc đó, chỉ có thể hình dung mọi cảm giác sợ hãi dường như đều cộng gộp cả vào lúc ấy, nên lòng thầm nghĩ "Chẳng lẽ trong đám sương mù kia lại có ma?" nhưng suy ngẫm một lát, lại thấy không giống, có lẽ đội thám hiểm Anh trên chiếc Rắn đen II cũng gặp phải cảnh ngộ giống mình, cuối cùng ngay cả một cái xác cũng chẳng thấy đâu, tất cả đều bị đám sương mù dưới lòng đất núi Dã Nhân phân hủy hòa tan, hay là bị lôi đến nơi nào khác?



Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: "Lúc lăn lộn trên chiến trường năm đó, tình hình chiến sự trên không thảm khốc ác liệt như thế, xác người chết lấp đầy cả rãnh núi, hai đứa bọn mình mò mẫm giữa đêm tối trong rừng sâu, tìm đạn trên thân thể người chết, lúc đó tớ cũng chẳng thấy cậu nhíu mày một cái, thế mà bây giờ sao lại thế hả?"



Tư Mã Khôi lắc đầu, trả cho Hải ngọng khẩu súng săn, khi nãy chẳng hiểu ma sai quỷ khiến thế nào, tự nhiên anh lại cầm món đồ chơi này trong tay, nếu không có nó thì kết cục thật chẳng dám nghĩ tới. Tuy rằng Tư Mã Khôi đã sớm mặc kệ sự sống chết, nhưng anh vẫn không thể giải thích rõ ràng rốt cục khi nãy mình sợ điều gì. Có lẽ cảm giác này gần giống với cảm giác lần đầu tiên nghe người ta kể chuyện "Tây Du Ký", tuy nhiều lần ăn thịt lợn, cũng nhìn thấy lợn chạy tới chạy lui, nhưng không thể nào tưởng tượng nổi làm sao lợn lại mặc được quần áo, nói được tiếng người, mà lúc đó cứ tin là thật, nên tự nhiên cũng thấy khiếp đảm. Có lẽ đối với những hiện tượng chưa biết, vượt ra ngoài phạm trù nhận thức của mình, con người chắc hẳn đều ôm tâm lý hoảng sợ hình thành từ phút đầu tiên, và trước sau không thể khắc phục được nhược điểm này.



Tư Mã Khôi không muốn thuật lại chuyện vừa gặp ọi người nghe, để tránh nảy sinh áp lực tinh thần và hoảng sợ không cần thiết, nên chỉ nói sương mù ở huyệt động này không ổn lắm, chiếc máy bay tiêm kích lại bị niêm phong nhiều năm dưới lòng đất, sương khí bên trong chưa chịu ảnh hưởng bởi mưa gió, nhưng bây giờ trên nóc đã bị xuyên thủng một lỗ hổng lớn, sương khí trong khoang sẽ nhanh chóng tan hết, giờ chắc đã an toàn rồi, mọi người mau vào lấy "hàng", rồi nhanh chóng chuồn khỏi nơi quỷ quái chết tiệt này cho xong.



Ngọc Phi Yến thấy Tư Mã Khôi không hề có biểu hiện gì khác thường, thì tạm yên tâm trở lại.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Rút kinh nghiệm lần trước, cô xách khẩu súng xung phong Uzi quét một lượt đạn vào khoang, khiến nóc máy bay bị thủng lỗ chỗ, nước mưa lại càng tràn xuống nhiều hơn, quả nhiên không thấy xuất hiện điều gì bất thường nữa; thế là cô bảo Tuyệt và Karaweik cùng mình đi vào tìm "hàng", còn Tư Mã Khôi, La Đại Hải và gã Gấu trắng người Nga ở lại bên ngoài cảnh giới.



Tư Mã Khôi cũng rất muốn biết vị khách hàng thuê đội thám hiểm rốt cục muốn tìm kiếm "hàng" gì. Người và máy bay mất tích trong rừng rậm Miến Điện suốt thời kỳ chiến tranh nhiều không kể xiết, vậy sao họ lại quan tâm duy nhất đến chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh? Chỉ riêng những gì Tư Mã Khôi tận mắt chứng kiến: để truy lùng chiếc máy bay giữa núi Dã Nhân hiểm nguy mai phục tứ bề, họ phải trả giá bằng mấy chục sinh mạng, thì không biết trong những năm gần đây đã có bao nhiêu kẻ phải thiệt thân vì nó nữa.



Thường nói thế gian có báu vật vô giá, nhưng đó chẳng qua chỉ là một cách hình dung mà thôi, phải trả một cái giá quá đắt như vậy, chỉ để kiếm tìm một vài món đồ cổ moi ra từ lòng đất Miến Điện thôi sao? Tư Mã Khôi không thể lý giải: vị khách sai khiến tất cả đứng đằng sau tấm màn này có tâm địa gì, cũng chẳng rõ "hàng" trong khoang máy bay có điểm gì đặc biệt, mà khiến người ta huy động nhiều sức người sức của như vậy. Anh chỉ cảm thấy: "Trong con mắt của những kẻ lắm tiền nhiều của kia, mạng sống con người chẳng qua chỉ là thứ rơm rác, đối với họ, nó chẳng có giá trị gì".



Giữa lúc ấy, đột nhiên lại nghe được tiếng "soạt soạt" từ trong bụi cỏ răng cưa dưới đầm sâu vọng lại, dường như có vật gì đang bò lên với tốc độ cực nhanh. Trước đây, khi ở ngoài khoang chiếc Rắn đen II, anh đã phát hiện có tiếng động tương tự như vậy, lúc này lại thấy nó xuất hiện, anh lập tức đề cao tinh thần cảnh giác. Hải ngọng và gã Gấu trắng ở bên cạnh cũng đều nhất loạt giương súng lên, sẵn sàng ngắm bắn.




Ba người bọn họ đều là những kẻ từng trải, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nên trước khi nhìn thấy mục tiêu, họ tuyệt đối không nổ súng mù quáng. Ba người giơ cao ngọn đèn chăm chăm quan sát, chỉ thấy từ nơi sâu trong bụi cỏ xuất hiện một con thằn lằn màu xanh ngọc, to như nắm tay, từ đầu đến chân thon dài, xanh mỡ màng như ngọc phỉ thúy, cặp mắt lồi ra trông như hai ngọn đèn đỏ, miệng không ngừng thè chiếc lưỡi dài, đớp những con ngài mắt kính bị nước mưa đánh rụng trên mặt đất, động tác cực kỳ mau lẹ, thần tốc.



Con thằn lằn cỏ không tránh người, bò một mạch đến trước mặt bọn họ. Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều biết đây là loại thằn lằn thường xuất hiện trong rừng rậm, con có kích thước nhỏ gọi là thằn lằn, còn con có kích thước lớn gọi là rồng Komodo. Lúc bình thường nó nằm im như chết, nhưng khi trườn bắt mồi thì nhanh như cắt. Nó sinh trưởng rất chậm, nghe nói ở miền núi Miến Điện, từng có người bắt được con rồng Komodo hơn một trăm tám mươi tuổi, thân mình to lớn ngang ngửa với một con trâu đực.



Hải ngọng thấy vậy, lập tức hạ bớt cảnh giác. Anh đã hành quân nhiều năm trong rừng già núi sâu, cũng rất giỏi bắt thằn lằn, liền khoác súng lên vai, nhân lúc con thằn lằn không để ý, chộp nhanh lấy nó từ phía sau, bóp chặt đuôi nó, rồi nói với Tư Mã Khôi: "Chả ngờ trong đầm lầy mà tớ còn tìm được món đồ chơi này."



Tư Mã Khôi nhíu mày bảo: "Bốn chân của nó có máu độc đấy, dính một tẹo cũng đủ cậu toi đời, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến sức khỏe quãng đời còn lại, mau ném nó xuống đất, di cho nó một nhát cho xong."



Hải ngọng nói: "Lớn bé gì thì cũng coi là một sinh mạng, giẫm chết như thế thì phí quá..." Anh vốn định giở trò đùa ác, toan ném con thằn lằn lên người gã Gấu trắng, nhưng lời còn chưa dứt, đã nghe trong lùm cỏ dài gần đầm lầy phát ra những tiếng động loạn xạ, chẳng ngờ vô số con thằn lằn không ngừng ùn ùn chui ra. Chúng bị bọn bướm đêm thu hút đến, trườn lên với vận tốc cực nhanh, giống như gió cuốn mây tàn, phút chốc đã nuốt sạch bay bọn bướm đêm vào bụng. Bọn bướm đêm tuy có cánh, nhưng lại chẳng thể bay được dưới trời mưa, nên đành trở thành bữa ăn thịnh soạn cho lũ thằn lằn cỏ. Lũ thằn lằn bò ra từ đầm lầy càng lúc càng nhiều, những con tranh mồi chậm hơn đồng loại một chút, bèn nóng nảy kêu "chít chít" loạn cả lên, chúng bò loằn ngoằn trên mặt đất, thể hiện sự lo lắng bất an.



Ba người thấy bầy thằn lằn xuất hiện với số lượng kinh người, con nào con nấy xù vẩy khắp mình mẩy, liền bất giác lùi về sau mấy bước. Con thằn lằn bị La Đại Hải bóp chặt trong tay cũng giãy giụa dữ dội. Toàn thân nó đều là những chiếc vẩy nhỏ, sắc như dao cạo, trong lúc quằn quại, lớp vẩy của nó cứa cả vào hai tay Hải ngọng, phút chốc máu chảy đầm đìa.



Hải ngọng nổi cơn thịnh nộ, xé tay áo băng vết thương, chửi tục một hồi, rồi định cầm súng săn bắn chết con thằn lằn đó cho hả giận, nhưng thấy bầy thằn lằn từ đầm lầy bò lên nhiều không kể xiết, chúng lũ lượt ùn ùn kéo đến, nên đừng nói một khẩu súng, mà cho dù có bình phun lửa, cũng chưa chắc đã ngăn cản nổi bọn chúng.



Tư Mã Khôi thấy tình thế bất lợi, liền ra hiệu bằng mắt với La Đại Hải, cả hai người lập tức chui vào trong khoang máy bay, gã Gấu trắng người Nga cũng không dám chậm trễ, chui tọt vào theo. Ba người vội vã đóng chặt cánh cửa, tìm vật chặn các lỗ hổng và khe hở, đề phòng bọn thằn lằn lọt vào trong tấn công.



Ngọc Phi Yến đang dẫn Tuyệt và Karaweik bật đèn pin siêu sáng đi tìm "hàng". Tư Mã Khôi thuật lại tình hình bên ngoài cho cô ta nghe, rồi bảo trước mắt trong vòng một tiếng chắc không thể nào ra ngoài được, mà phải đợi đến khi bọn thằn lằn ăn hết sạch lũ bướm đêm rồi mới tính tiếp. Thằn lằn cỏ ở rừng rậm nguyên sinh Miến Điện có tập tính rất kỳ lạ, ngay cả những người bản địa giàu kinh nghiệm nhất cũng không dám kinh động đến chúng.



Theo lẽ thường mà nói, có rất ít loài thằn lằn mang nọc độc, còn những loại thằn lằn sinh tồn trong rừng rậm Miến Điện đều không có túi độc, thế mà rất nhiều người vẫn chết vì chất kịch độc của nó. Nghe nói rồng Komodo Miến Điện bản thân không hề có độc, chỉ khi máu tươi của nó từ cơ thể trào ra bên ngoài mới trở thành dịch độc, hơn nữa còn là loại dịch mang độc tính cực mạnh, vô phương cứu chữa. Đến ngày nay, người ta vẫn không thể điều tra rõ, máu độc dẫn đến chết người của chúng chứa thành phần gì. Năm đó cũng từng có nhà khoa học tiến hành những nghiên cứu có liên quan, nhưng chẳng thu được kết quả gì, cuối cùng chỉ có thể giải thích theo cách lý luận của một nhà tôn giáo người Nhật Bản: sinh vật bản thân chúng vốn dĩ không có độc, chỉ khi chúng tích lũy đủ cảm giác giận dữ, thì mới tấn công vào cái hư vô trong tinh thần của con người mà thôi.




Mọi người biết rõ điểm đáng sợ của thằn lằn cỏ, nhưng rốt cục chúng vẫn chỉ là loài sinh vật bò sát đầu óc đần độn, đội thám hiểm lại có máy bay che chắn, bởi thế chúng chẳng thể tạo ra hiểm họa gì lớn lắm. Chỉ có điều không biết cơn mưa trong khe núi sẽ kéo dài được bao lâu nữa, bởi vì so với thằn lằn, thì điều đáng sợ hơn gấp nhiều lần chính là đám sương mù giết người bủa vây khắp đáy động.



Khi nãy Tư Mã Khôi suýt chút nữa thì hiến tặng cả tính mạng cho đám sương mù, nên đến giờ anh vẫn còn cảm thấy tim đập chân run. Nơi sâu trong đám sương mù dày đặc dường như chẳng tồn tại bất kỳ thứ gì, khoang máy bay cũng không tìm thấy thi thể của thành viên phi hành đoàn, có lẽ họ và đội thám hiểm Anh trong chiếc Rắn đen II đều vĩnh viễn "tan biến" trong sương mù. Anh nói với hội Ngọc Phi Yến tuyệt đối không được chạm vào màn sương mù bí ẩn trào ra từ lòng đất, sương khí càng đậm đặc thì càng nguy hiểm. Tuy rằng cơn bão nhiệt đới Buddha bội phần hung tàn dữ dội, nhưng nó lại mang đến cho chúng ta cơ hội vô cùng hiếm hoi để thoát khỏi bàn tay thần chết, đồng thời có khả năng sẽ lấy được "hàng" ra khỏi núi Dã Nhân.



Thế nhưng Ngọc Phi Yến vì đang nhìn chăm chăm vào khoang hàng như kẻ mất hồn, nên cô không hề để ý đến mấy lời của Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi thấy thần sắc Ngọc Phi Yến khác thường, đang định hỏi xem rốt cục có chuyện gì, thì nghe Tuyệt ở bên cạnh nói với mình: "Anh không nhớ sao, trong cuốn băng ghi âm mà chuyên gia hang động người Anh đó để lại, từng nhắc đến một việc, anh ta nói hàng chứa trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải... cực kỳ nguy hiểm."



Tư Mã Khôi nghe xong mới chợt nhớ ra khi nãy quên bẵng mất việc này, sinh vật bò sát máu lạnh trong đầm lầy dưới lòng đất, cơn cuồng phong giông tố vần vũ ngoài núi, và đám sương mù có thể xuất hiện trở lại bất cứ lúc nào, đều đang là mối hiểm họa tiềm ẩn, trong khi "hàng" ở khoang máy bay lại gần ngay gang tấc. Xem ra, trước mắt ngay cả khoang chiếc máy bay vận tải cũng chẳng thể an toàn tuyệt đối. Nhưng "nguy hiểm" mà người Anh kia muốn ám chỉ là thứ gì? Nó "nguy hiểm" đến mức độ nào? Chẳng lẽ chạm cũng không được chạm, xem cũng không được xem hay sao?



Tuyệt vừa cùng Ngọc Phi Yến lục soát kỹ lưỡng toàn bộ khoang hàng máy bay, cô hạ giọng nói với Tư Mã Khôi: "Chiếc máy bay vận tải này căn bản chẳng chuyên chở bất kỳ loại hàng nào cả, chúng ta bị mắc lừa rồi."



Lúc Tư Mã Khôi vừa chui vào khoang, thì nhìn thấy phía sau máy bay có chứa một thùng hàng giống chiếc thùng phuy khổng lồ, dường như cả khoang hàng đều bị nó chiếm hết chỗ, nhưng đến tận giờ, anh vẫn chưa biết bên trong nó đựng thứ gì. Anh chỉ mong mau chóng lấy được hàng, rồi kết thúc nhiệm vụ thót tim này, nhưng lúc này nghe Tuyệt nói trong máy bay chẳng hề có "hàng", anh không khỏi ngạc nhiên hỏi lại: "Khoang hàng máy bay chỉ có mỗi cái vỏ rỗng thôi sao?"



Căn cứ vào những thông tin mà hội Tư Mã Khôi được biết trước mắt, chiếc máy bay tiêm kích vận tải thuộc về không quân Hoàng gia Anh, lúc đang thực hiện nhiệm vụ, thì gặp thời tiết khắc nghiệt, mất tích trong hẻm núi Dã Nhân, khoang hàng chở rất nhiều bảo vật Miến Điện, giá trị không thể ước lượng nổi; còn đội thám hiểm do Ngọc Phi Yến dẫn đầu, lại được một nhà tài phiệt nào đó thuê tìm kiếm "hàng" trong chiếc máy bay với bất kỳ giá nào. Giờ đây, mọi người đã tìm thấy chiếc máy bay, nhưng tung tích của "hàng" thì vẫn chưa thấy, cùng lắm cũng chỉ là một phen vồ hụt, chứ sao có thể nói là "bị mắc lừa"?



Tư Mã Khôi biết rõ Tuyệt không phải hạng người nói sai sự thật, nên trong lòng anh cảm thấy có điều gì uẩn khúc. Anh không hỏi thêm gì nữa, mà vội vàng cùng Hải ngọng đẩy nắp thùng hàng sang một bên để nhìn cho rõ. Hai người cầm đèn chiếu halogen nhòm vào, khi nhìn rõ tình hình bên trong, thì cả hai đều rùng mình một cái, đồng thanh kêu lên thất kinh: "Thằng cha này được, một quả bom to tổ bố!"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: hồi thứ tư: bom địa chấn


Hồi thứ tư: Bom địa chấn



Thì ra chiếc thùng hàng bằng nhôm giống như thùng phuy kia lại là thùng chứa bom ngoại cỡ, bên trong đựng một trái "bom địa chấn" hạng nặng. Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoàng gia Anh từng trang bị hàng loạt bom chấn động cỡ lớn, quả nặng nhất phải lên tới chục tấn, được gọi là "Grand Slam"[25], sức hủy diệt vô cùng đáng sợ.



Loại bom cỡ lớn này, đa số đều do máy bay ném bom Lancaster từ không trung thả xuống, chuyên dùng để phá hủy vật chắn kiên cố dưới lòng đất được đúc bởi bê tông cốt thép. Do bom rơi xuống với vận tốc cực nhanh, nên sóng xung chấn hình thành sau khi phát nổ sẽ khuếch tán rộng ra tứ phía, dẫn đến hiệu quả gần giống với hiện tượng động đất, bởi vậy nó còn có tên là "bom địa chấn". Nhưng tuyệt đối không thể coi thường sóng xung chân sinh ra do quá trình phát nổ mạnh, vì nó có khả năng sát thương rất cao đối với quân địch đang lẩn trốn trong đường hào giao thông hoặc trong hầm phòng không.



Hội Tư Mã Khôi đều đã từng trải qua chiến dịch Kunlong ở giai đoạn ác liệt thảm khốc nhất. Lúc đó quân chính phủ muốn khai thông phòng tuyến sông Irrawaddy, nên đã điều động rất nhiều loại pháo hạng nặng, quần thảo đánh phá khắp trận địa kiên cố của quân đội cộng sản. Tuy rằng trước đó quân cộng sản đã thực hiện công tác chuẩn bị rất chu toàn, đào nhiều hầm ẩn trú và chiến hào sâu, sẵn sàng tư thế chiến đấu, nhưng dưới làn pháo lửa dữ dội, họ vẫn gánh chịu hậu quả thương vong rất nặng nề. Trong số những binh sĩ hi sinh, có chín mươi phần trăm không phải chết trực tiếp do bom nổ, mà do pháo hạng nặng gây chấn động làm chết đứng ngay trong chiến hào. Sau chiến dịch này, nguyên khí quân cộng sản bị hao hụt thảm hại, không còn khả năng chiến đấu trực diện với quân đội chính phủ nên đành phải rút lui vào núi thực hiện chiến thuật đánh du kích.



Bởi vậy bọn họ hiểu rõ hơn ai hết, đừng thấy hàng trong khoang máy bay là kiểu bom đời cũ mà coi thường, bởi cho dù quả bom gây chấn động nặng cả tấn này còn lại đến tận ngày nay, thì nó vẫn là loại vũ khí khủng khiếp nhất. Một khi nó đã nổ, cho dù ai may mắn không bị tan xác ngay tại hiện trường, thì lục phủ ngũ tạng của họ cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát.




Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng rất nhanh, nhưng cũng không thể ngờ nổi bảo vật Miến Điện trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải lại là một quả bom địa chấn lạnh tanh thế này. Vật lù lù như một đống thiếc xám sắt nguội kia chắc phải nặng đến cả tấn, nếu chỉ dựa vào sức của sáu kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm thì làm sao có thể xoay vần nổi nó? Huống hồ, trên đời này sao lại có chuyện phi lý như thế, làm gì có kẻ ăn no rỗi hơi, thuê bao nhiêu đoàn thám hiểm đến núi Dã Nhân chỉ để tìm một quả bom ngàn cân như vậy?



Lúc này Tư Mã Khôi mới cảm nhận một cách sâu sắc về chuỗi sự kiện liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải, chỉ e nó phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà giờ đây anh được biết, vốn dĩ con đường của hội anh và Ngọc Phi Yến đã khác nhau, hai bên lại chẳng hề có gì liên can; nhưng theo lời hứa lúc trước, hội anh cũng chỉ cần trợ giúp đội thám hiểm tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải trong khe núi núi Dã Nhân, sau đó mang "hàng" ra ngoài. Bây giờ tình hình chuyển biến đột ngột thế này, anh không thể không hỏi đối phương xem rốt cục thế nào.



Hải ngọng cũng chẳng nể nang gì, quay sang chất vấn Ngọc Phi Yến: "Nói thật cho cô biết, Hải ngọng tôi vài bữa nay chưa giết đứa nào, chân tay cũng ngứa ngáy khó chịu lắm rồi đây, nếu như cô không giải thích lý do nghe cho lọt cái lỗ tai, thì đừng trách bọn ông cho nếm tí mùi."



Kỳ thực sau khi nhìn thấy hàng trong khoang máy bay, Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy rất bất ngờ, nhưng trong lòng cô ta đúng thực cũng có vài điều giấu giếm hội Tư Mã Khôi. Đang lúc cô ta định nói cho Tư Mã Khôi biết, thì nghe La Đại Hải giở giọng uy hiếp, nên chẳng khách khí nữa, đốp luôn: "Anh bạn họ La đúng là kẻ nhiều lời; tôi cũng nói thật cho anh biết, trong khoang chỉ có mỗi quả bom địa chấn này thôi, nó chính là hàng mà đội thám hiểm cần tìm đấy. Có điều chúng ta chẳng cần phải mang nó ra khỏi núi, mà chỉ cần làm nó phát nổ là được. Những việc khác các anh không cần hỏi nhiều, chỉ cần làm theo lời tôi nói là được."



La Đại Hải nghe vậy chế nhạo: "Cô nói thế thì khác gì không nói, định dọa ma bọn này đấy à? Để cô tự nói ra là Hải ngọng tôi đã chừa lại cho chút sĩ diện rồi mà còn chưa biết? Đừng biến mình thành kẻ được cho liêm sỉ mà vẫn không biết liêm sỉ là gì."



Ngọc Phi Yến làm gì có chuyện nuốt trôi mấy lời này, cô ta cười nhạt đáp: "Ba tờ giấy dán thành một cái đầu lừa, mặt của anh cũng to thật đấy."



La Đại Hải càng nghe càng ức chế, anh nạt nộ: "Hải ngọng ta gặp bọn cắp vặt các cô, đúng là cáo hoa nằm ấp ổ gà, nói lý không được, đành phải dùng nắm đấm hỏi chuyện vậy..."



Tư Mã Khôi thấy hai người này như thể ăn nhầm phải gan hùm, nói chuyện hung hăng, bất cần, căn bản chẳng giải quyết nổi vấn đề gì, đành phải ra mặt khuyên giải.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Anh nói với Ngọc Phi Yến: "Nói thế dễ làm tổn thương người khác lắm đấy! Đại trượng phu thân chết, tiếng vẫn còn, nếu cô tự tiện chà đạp danh dự người khác như thế, tôi cũng chỉ còn cách tạ lỗi cáo từ tại đây để cất bước về cố hương thôi." Nói xong anh gọi ba người còn lại đến, quay lưng như thể định bỏ đi thật.



Ngọc Phi Yến lạnh lùng hừ lên một tiếng, trợn mắt nói với Tư Mã Khôi: "Nhìn bộ dạng của anh kìa, vừa nhắc đến về nước là hí ha hí hửng, trong suốt hai ngày tôi quen anh, chẳng bao giờ thấy anh hào hứng như thế, hay là ở trong nước có bóng hồng nào đang chờ?"




Tư Mã Khôi nghe cô ả nói thế, cũng không tránh khỏi có chút bực mình: "Nhà cô bán dấm đấy à, sao nói gì mà chua ngoa thế?" Ba người chẳng hợp lời, càng nói càng căng thẳng, trong khi gã Gấu trắng người Nga thì từ đầu chí cuối mặt đều lạnh như tiền. Gã đang chăm chú quan sát kết cấu của quả bom địa chấn, hoàn toàn vô cảm với tất cả những việc khác, còn Karaweik lại trễ miệng ngoác ra nụ cười ngờ nghệch, mọi người chẳng coi lời của cậu vào đâu, may mà nhờ Tuyệt khuyên giải, cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.



Ngọc Phi Yến bình tĩnh trở lại, tự biết hiện giờ mình là kẻ thân cô thế yếu, nếu làm hội Tư Mã Khôi điên tiết lên, thì khó mà thu dọn nổi chiến trường. Thế là, cô ta đành nói rõ toàn bộ quá trình sự việc cho hội Tư Mã Khôi nghe. Nhóm người của cô ta quả thực được "khách hàng" thuê để đi tìm chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Hoàng gia Anh; nhưng cô ta cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thực sự của khách hàng, chỉ biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở cổ vật Miến Điện chuẩn bị được bí mật đưa vào viện bảo tàng đế quốc Anh, nên nhiệm vụ của đội thám hiểm là vào khe núi dưới lòng đất, tìm "hàng" trong khoang máy bay. Trước đó, đội thám hiểm được thông báo: "hàng" trong khoang máy bay vô cùng nguy hiểm. Trước khi xuất phát, cả đội lại nhận được một bức mật hàm niêm phong dấu đỏ, kèm theo chỉ thị, chỉ khi nào tìm thấy chiếc tiêm kích bị mất tích, đồng thời xác định chính xác số hiệu hàng hóa, mới được phép mở bức mật hàm và giải quyết "hàng" theo phương thức nói trong thư. Thông tin trong bức mật hàm được viết bằng chất dịch của cá mực, vết chữ sau khi gặp không khí sẽ lập tức bốc hơi biến mất, không để lại chút dấu tích nào.



Ngọc Phi Yến tìm thấy khoang hàng, xem rõ chỉ thị trong mật hàm, mới biết mục đích của chuyến mạo hiểm này là phải dẫn nổ quả bom địa chấn, còn về chuyện bảo vật Miến Điện chứa trong máy bay tiêm kích, chẳng qua chỉ là cái bóng nhằm che đậy chân tướng sự thật mà thôi.



Về tình hình "khách hàng", Ngọc Phi Yến chỉ biết đó là một vị tài phiệt trong thế giới ngầm, được gọi bằng biệt danh Nấm mồ xanh. Tiền thân của tổ chức này có thể truy ngược về những năm thế kỷ mười sáu, nó được thành lập bắt đầu từ Công ty Britain - Đông Ấn. Công ty Đông Ấn tiến hành các hoạt động thương mại viễn dương ở Nam Á, chuyên buôn bán nha phiến, buôn lậu thuốc lá, thỏa sức cướp đoạt tài nguyên kinh tế, tiến hành khuếch trương chủ nghĩa thực dân cho đế quốc Anh, đồng thời âm mưu chiếm nguồn lợi nhuận khổng lồ. Chính phủ Anh ủy quyền cho công ty Đông Ấn tất cả mọi quyền lực, như quyền lũng đoạn thị trường, quyền huấn luyện quân đội, quyền tuyên chiến - giảng hòa, quyền lập tòa án phán quyết cư dân các nước thuộc địa và bản quốc, nên nó dường như trở thành đại diện chính thức ở nước ngoài của chính phủ Anh.



Thế nhưng quy luật ở đời: cực thịnh tất sẽ suy, cùng với sự phát triển rực rỡ của nền tư bản công nghiệp, công ty Đông Ấn vốn dựa vào sự lũng đoạn của nền tư bản thương mại, cuối cùng cũng không tránh khỏi vận mệnh phá sản giải thể. Nhưng sự biến mất về thể xác chẳng qua chỉ là lớp vỏ ngoài của công ty Đông Ấn, còn kẻ thao túng đích thực đứng sau lưng thì ngược lại có thể nhờ đó mà gỡ bỏ được cái xác ung nhọt nặng nề, rồi lợi dụng mạng lưới quan hệ mà công ty Đông Ấn để lại, ngấm ngầm cấu thành một thế lực mới. Thế lực này đồng thời buôn bán tin tình báo, vũ khí và thuốc phiện, rồi dựa vào cơ hội chiến tranh để gặt hái tiền của, khống chế rất nhiều đội quân phụng mệnh như con rối. Thế lực của nó bám rễ sâu rộng ở khắp nơi, nhưng hành sự vô cùng kín tiếng bí mật, nên thế giới bên ngoài phần lớn đều không biết đến sự tồn tại của nó.



Tuy rằng những điều Ngọc Phi Yến biết chỉ giới hạn đến đây, nhưng cô ta nhìn kí hiệu đặc thù trên thân quả bom nặng cả tấn thì cũng không khó khi suy đoán tiền nhân hậu quả của toàn bộ sự việc: chiếc máy bay tiêm kích vận tải và quả bom địa chấn chứa bên trong, quá nửa đều thuộc về kẻ có biệt danh là Nấm mồ xanh. Địa thế khe sâu núi Dã Nhân rất đặc biệt, dưới lòng đất không chỉ có sương mù che khuất tầm nhìn, mà còn có dòng khí lưu thông cực mạnh, nếu lợi dụng loại máy bay chiến đấu đến thả bom từ trên không, thì căn bản không thể phán đoán được độ sâu thẳng đứng của huyệt động, từ đó khó lòng phá nổ chính xác, mà nếu lỡ khe núi bị sụt lở, thì sự việc càng trở nên dở hơn mà thôi. Phương tiện duy nhất có thể đi vào khe núi sâu hút là chiếc máy bay tiêm kích vận tải với thiết kế độc đáo. Bởi vậy Nấm mồ xanh mới phái người lái chiếc "tiêm kích", mang theo quả bom địa chấn vào lòng khe núi, nhưng có lẽ họ không ngờ được mối hiểm họa đến từ đám sương mù, nên khi phi hành đoàn trên chiếc máy bay chưa kịp kích nổ quả bom, thì đã gặp tai nạn bất trắc, thế là họ lại phải lợi dụng các đội cảm tử khác, tiếp tục hoàn thành kế hoạch ban đầu, chỉ có điều không rõ trong đó còn ẩn chứa nguyên do gì chưa thể tiết lộ nữa không.



Sau khi Ngọc Phi Yến kể lại toàn bộ câu chuyện, cô ta lại lần nữa nhấn mạnh với hội Tư Mã Khôi: dù sao chuyến này vào núi thực hiện "phi vụ liều mạng" là lấy tiền của người, thay người chịu nạn, nên cho dù hàng trong khoang là bảo vật Miến Điện, thì cũng không đến tay chúng ta, giờ đây lâm vào tình cảnh này, đương nhiên không thể ra về tay không, chỉ đành tiếp tục hành sự theo chỉ thị, kích nổ quả bom địa chấn.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, cơn bão nhiệt đới Buddha với cấp độ và sức mạnh hiếm có, mấy chục năm mới xuất hiện, nếu không nhờ cơ duyên này, đội thám hiểm chắc cũng không thể né tránh khỏi màn sương mù đoạt mệnh mà an toàn xâm nhập vào khe núi, giờ đây phải kích nổ quả bom địa chấn nặng ngàn cân, thì cũng dễ như trở bàn tay. Có điều, chuyện này vẫn có nhiều uẩn khúc đáng ngờ. Tuy rằng chiếc máy bay tiêm kích vận tải nhờ vào kết cấu đặc biệt của nó, có thể thâm nhập nơi sâu nhất dưới khe núi, nhưng cụ thể hạ cánh xuống khu vực nào thì khó lòng phán đoán trước được. Còn quả bom địa chấn trong khoang cũng không thể dịch chuyển sang chỗ khác một lần nữa, mà với khoảng không gian mênh mông vô bờ bến dưới lòng đất này, thì cho dù sức công phá của nó có mạnh hơn nữa, rốt cục vẫn rất khó bao trùm toàn bộ khe núi. Kết quả của kế hoạch này căn bản sẽ không thể thực hiện đúng như dự tính, vậy thì tại sao lại có người chủ định cho nổ tung mạch núi Dã Nhân? Trộm nghĩ căn nguyên gốc rễ của việc này chắn hẳn không hề đơn giản, chỉ e hệ lụy khôn lường.



Tư Mã Khôi lại suy nghĩ: vậy kẻ có biệt danh là Nấm mồ xanh rốt cục muốn làm gì, nên có liên quan đến bí mật cổ xưa vùi chôn dưới lòng núi Dã Nhân không? Việc này rốt cục đâu có liên quan đến bốn thành viên của đội du kích, sao mình phải nghĩ nhiều? Anh quan sát xung quanh, thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến dường như chẳng còn điều gì giấu giếm đối phương, hơn nữa theo quy tắc trong giới, việc này vốn dĩ không được nói ra, nên bây giờ cũng chẳng còn gì để truy hỏi thêm nữa.




Hội La Đại Hải cũng nghĩ như Tư Mã Khôi, chẳng buồn điều tra gốc gác, cũng không muốn hỏi nhiều nữa, chỉ mong nhanh chóng hoàn thành phi vụ này, sau đó nghĩ cách thoát ra khỏi núi, trước mắt chỉ còn đợi thời cơ đến là bảo gã Gấu trắng người Nga kích hoạt ngòi nổ quả bom.



Nào ngờ giữa lúc ấy lại xuất hiện một biến cố ngoài dự liệu, gã Gấu trắng sau khi quan sát tỉ mỉ quả bom địa chấn, lấy tay ra hiệu bảo mọi người: "Quả bom này có cài đặt thiết bị hẹn giờ, muốn kích nổ nó cũng rất đơn giản. Nhưng có lẽ do ảnh hưởng của quá trình rung lắc dữ dội nên thiết bị kích nổ đã bị hư hại, không thể phục hồi, cho nên sau khi kích hoạt, mọi người chỉ còn khoảng thời gian mấy chục phút để di dời. Uy lực trái bom này lại quá lớn, phạm vi sóng xung chấn bao phủ rất rộng, nên bây giờ chỉ còn cách để một người lại phụ trách kích nổ, những người khác phải rời đi trước, nếu không tất cả sẽ cùng chết chung một hố; thế nhưng người ở lại sau cùng kích hoạt trái bom, chắc chắn sẽ không còn đường thoát thân."



Sự thực tàn khốc này, giống như một gáo nước lạnh đột ngột hắt thẳng vào mặt mọi người. Mạng sống của ai cũng chẳng phải từ trên trời tự nhiên rơi xuống, làm gì có người nào chịu ở lại làm xác pháo thế mạng? Tư Mã Khôi càng biết rõ hơn nữa uy lực của bom địa chấn, bây giờ trên lãnh thổ Miến Điện vẫn còn rất nhiều hố bom rộng không gì sánh nổi, mà đa phần đều do máy bay ném bom của Anh năm đó để lại khi phá hủy lá chắn của quân Nhật. Những hố bom đó thật chẳng khác chi hố nham thạch, được hình thành do mảnh thiên thạch từ trên trời rơi xuống, vì lớp bề mặt trong hố hình thành các quầng sóng khuếch tán thành từng vòng tròn, bao nhiêu năm sau vẫn chẳng có cọng cỏ nào mọc lên nổi. Những nơi sóng địa chấn lan đến, đất đá bị nung nóng bỏng, chạm vào là chết, dính vào là tử.



Tư Mã Khôi thầm tính toán trong lòng, thấy chẳng ai đáng phải chết cả, liền nói với Ngọc Phi Yến: "Vật cố định, còn con người phải chuyển động, người sống cần biết biến hóa ứng phó. Nếu thực sự không xong, thì chúng ta hãy mặc kệ quả bom đó. Sau khi trở về, cô cứ nói là đã cố gắng phụng mệnh hết sức, kích nổ trái bom địa chấn, nhưng tiếc thay quả bom xịt này chẳng thèm phát nổ, hoặc có thể đổ lỗi rằng: đã kích nổ, nhưng uy lực của nó chưa đủ, nên không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Dù sao thì chỉ cần da môi trên chạm da môi dưới một chút thôi mà, tùy cô muốn nói thế nào chẳng được. Sau khi cơn bão nhiệt đới qua đi, lòng đất lại bị sương mù bủa vây, lẽ nào họ lại dám xuống đây để tiến hành điều tra hiện trường chắc?"



Ngọc Phi Yến lập tức lắc đầu: "Tuyệt đối không được, anh không biết gì về Nấm mồ xanh đâu, mấy ngón ma thổi đèn như bọt khói này thì giấu nổi ai chứ?"



Tư Mã Khôi vẫn điềm nhiên như không: "Trong thời đại này, người nào càng nghiêm túc thì càng dễ trở thành kẻ ngốc. Làm người không nên thật thà quá, đừng quên trên thế giới chẳng bao giờ tồn tại loại mắt nhìn xa vạn dặm, tai nghe xa vạn lý, người ngoài làm sao biết chuyện gì đã xảy ra trong khe núi núi Dã Nhân? Chúng ta ở đây có sáu người, tôi, La Đại Hải và Tuyệt sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ bơi qua sông Mungkoe trở về Trung Quốc, cả đời này có lẽ chẳng còn cơ hội gặp lại nhau. Gã người Nga thì là câm dở, hơn nữa gã cũng chẳng sợ chết quá đi chứ? Hay lẽ nào cô sợ thằng oắt con không hiểu chuyện như Karaweik lỡ lời nói ra? Tôi thấy chỉ cần cô không tiết lộ, thì tuyệt đối thần không hay, quỷ không biết."



Hải ngọng cũng nói, không có quy tắc, chẳng thành vuông tròn, nhưng quy tắc đều do con người đặt ra, cho nên chúng ta làm người thì không thể cứ ngồi ôm mãi một quy tắc cứng nhắc, mà phải biết tránh nặng đón nhẹ. Chỉ cần thằng cha địa chấn này phát nổ, trời rung đất chuyển vẫn là nhẹ, đầm lầy bùn nhão như thế, dựa vào hai cái cẳng, chắc chắn chẳng kịp trốn chạy, thế chẳng phải tất cả chúng ta tự dưng đều khỏe re mãi mãi dưới âm tào địa phủ sao?



Ngọc Phi Yến nghe mọi người khuyên giải, cũng bắt đầu động lòng, đang định đồng ý, thì chợt nghe thấy một giọng nói lạnh băng, trầm đục từ sau lưng vọng tới: "I staring at you!"


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: hồi thứ năm: con mắt ngoài khoang lái


Hồi thứ năm: Con mắt ngoài khoang lái



Tư Mã Khôi cũng nghe thấy vô cùng chính xác. Âm thanh đó vừa rất đỗi xa lạ, lại vừa có vài phần quen tai, anh và những người còn lại đều ngầm cảm thấy rùng rợn trong lòng, đồng thời quay đầu lại nhìn.



Trong khoang máy bay tối mù mù, làm gì có bóng người nào thừa ra, chỉ có chiếc máy ghi âm cầm tay vừa phát hiện được trong chiếc Rắn đen II khi nãy là vẫn ngang nhiên nằm trên mặt đất, thì ra đây chính là nguyên nhân khiến mọi người đều cảm thấy âm thanh nghe quen tai.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: đây đúng là gặp ma thật, anh vẫn nhớ lúc ở trong chiếc Rắn đen II, không nghe thấy đoạn ghi âm vừa rồi, hơn nữa âm thanh lúc này khàn đục, trầm thấp, hoàn toàn khác với giọng của Wilson trong đội thám hiểm Anh. Có thể khẳng định, giọng nói này vô cùng xa lạ, không biết ai đã nhấn nút bật của chiếc máy ghi âm nhỉ? Khi nãy sự chú ý của tất cả mọi người đều tập trung vào trái bom địa chấn, nên không ai để ý đến tình tiết này.




Ngọc Phi Yến nhặt chiếc máy ghi âm lên xem lại, phát hiện nội dung ghi âm ban đầu đều bị xóa sạch, tua đi tua lại mấy lần, đều chỉ có duy nhất một câu: "Im staring at you..." nghe mãi đến cuối cùng pin yếu, âm thanh càng lúc càng kéo dài, nghe rất quái dị. Hải ngọng hỏi: "Câu nói đó có nghĩa gì vậy?" Tuyệt dịch lại cho anh: "Có nghĩa là "Ta đang nhìn các người". Hải ngọng cảm thấy vô cùng kỳ quái, nhìn trước nhìn sau rồi nói: "Ai đang nhìn chúng ta hả?"



Lúc rời khỏi chiếc Rắn đen II, mọi người khá vội vàng, chẳng ai còn nhớ sau khi nghe xong cuộn băng ghi âm, ai là người cuối cùng cầm nó, nhưng trong khoang máy bay, ngoại trừ sáu người sống ra, thì chẳng còn kẻ may mắn nào sống sót nữa cả. Vậy thì ai là kẻ đã xóa trộm nội dung trước đây trong băng rồi để lại lời cảnh cáo này?



Mọi người thì vậy, nhưng Ngọc Phi Yến lại cực kỳ quen thuộc với âm thanh này. Tuy từ trước đến giờ, nhóm của cô ta đều liên lạc thông qua người phụ trách trung gian, nhưng cô ta cũng từng vài lần nói chuyện công việc chi tiết bằng điện thoại với kẻ đầu não phía sau của tổ chức mang tên Nấm mồ xanh, biết giọng đối phương khàn đục, sống sượng, nghe rất khác người bình thường, nên chỉ cần nghe qua một lần thì sẽ không thể quên được. Bởi vậy, nghe thấy âm thanh vọng ra từ băng ghi âm, cô ta lập tức biết đây chính là Nấm mồ xanh - người đã phân công nhiệm vụ cho đội thám hiểm. Cũng vì ngoại trừ giọng nói của người này ra, thì tên tuổi, tướng mạo, thân phận v.v... cô ta đều không biết chút nào, do đó mà cô ta đành phải gọi hắn bằng cái tên Nấm mồ xanh.



Ngọc Phi Yến ngẫm kỹ lại việc này, càng nghĩ càng thấy lạnh sống lưng, sự việc đúng là quá đỗi kỳ quái khiến người ta khó lòng định liệu. Rốt cục ai là kẻ đã mở cuốn băng ghi âm? Lời ghi âm trong đó vốn dĩ không hề tồn tại, chắc chắn nó không thể nào tự nhiên xuất hiện, lẽ nào Nấm mồ xanh thực sự có khả năng xử lý sự việc cách xa ngàn dặm bằng cảm giác? Trộm nghĩ trên thế giới này không thể có loại tà thuật nào kỳ dị đến thế.



Ngọc Phi Yến cầm máy ghi âm nhìn đi nhìn lại, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi, nếu trên thế giới quả thực không có mắt nhìn vạn dặm, tai nghe vạn lý, thì chỉ có một khả năng: đó là vào thời khắc này, Nấm mồ xanh đang ẩn trốn trong chiếc tiêm kích vận tải, có thể một trong sáu kẻ may mắn sống sót chúng ta, có một kẻ là "quỷ biển", nên nhất cử nhất động của đội thám hiểm trong khe núi đều không thoát khỏi tầm mắt của Nấm mồ xanh.



Lời này thốt ra đã khiến mọi người đều cảm thấy dường như có một bóng đen âm u vụt lướt qua tim. Khi nãy, mọi người còn đang bàn bạc từ bỏ kế hoạch hành động, thì đột nhiên từ máy ghi âm lại vọng ra một câu nói, sự thật hiện ra trước mắt hết sức rõ ràng: Nấm mồ xanh đang muốn cảnh cáo đội thám hiểm: "Đừng hòng ôm bất kỳ mơ tưởng, ảo vọng nào, phải mau chóng kích nổ bom địa chấn."



"Quỷ biển" mà Ngọc Phi Yến nhắc đến, cũng là một cách gọi trong ngôn ngữ cũ của giới lục lâm, bây giờ từ này được dùng để chỉ "tai mắt", "gián điệp". "Biển" ý muốn chỉ bí mật, "quỷ" có nghĩa là ngầm theo dõi, cách xưng hô này cũng có lai lịch hẳn hoi. Trước đây, những ám ngữ mà giới lục lâm thường dùng, được gọi chung là "Mắt giang hồ đáy biển", tương truyền hàng ngàn năm trước, có một người đánh cá trên biển, nhưng anh ta liên tục quăng ba mẻ lưới, đều chẳng thu được gì, mẻ lưới cuối cùng lại vớt phải một chiếc hộp sắt, trong hộp sắt đựng một phần của tập sách cổ.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Người ngư dân đó liền mang ra chợ ọi người xem, những người có học vấn cao đều đọc được tất cả các chữ trong cuốn sách, nhưng câu từ lắp ghép lại thì đầy ẩn ý và rất khó lý giải, đọc xong như hiểu mà lại như không, chẳng ai biết rõ rốt cục nó ghi chép nội dung gì. Sau đó, cuốn tàn thư đã rơi vào tay một sư phụ lục lâm, ông ta đã đặt tên cho nó là "Đáy biển", mượn nguyên tác đồng thời cộng thêm đôi chút sửa chữa thêm thắt, dần dần đã biến thành ám ngữ ngầm được giới giang hồ sử dụng rộng rãi sau này. Cuốn tàn thư được mệnh danh là cuốn "Kinh kim cương" lừng danh khắp năm hồ bốn bể. Đây chính là lai lịch của "mắt giang hồ đáy bể".




Tư Mã Khôi nhận ra câu nói vừa rồi của Ngọc Phi Yến, là lời đồng âm đa nghĩa, cô ta đang muốn ám chỉ ình biết tên "quỷ biển" kia ẩn thân rất kỹ, chẳng có tung tích nào mà tìm kiếm. Nấm mồ xanh để lại lời cảnh cáo trong cuốn băng ghi âm, cũng chưa chắc là "người", bởi vì nếu là người, thì sao lại vô hình vô ảnh, mà có thể nói rõ ràng rạch ròi đến thế? Đối phương đã nắm rõ mọi tình hình, thì khoảng cách tất phải ở gần ngay trước mắt mọi người, ngoài ra, khoang máy bay nhỏ hẹp, kín mít, làm gì có chỗ nào ẩn giấu người được?



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, bất luận Nấm mồ xanh là người hay là ma, đối phương chắc chắn đang trốn trong khoang máy bay, nhưng trong khoang tất cả chỉ có sáu người mà thôi. Anh biết rõ bản thân mình hoàn toàn không liên quan đến Nấm mồ xanh, còn năm người còn lại, giơ bàn tay ra đếm cũng có thể đếm rất rõ ràng: La Đại Hải và Tuyệt đương nhiên không cần nói, Karaweik tuy là người Miến Điện bản địa, nhưng một cậu thiếu niên vùng sơn cước mới mười mấy tuổi đầu thì làm được được trò trống gì? Sao có thể là đầu não tổ chức thương mại lớn nhất trong thế giới ngầm ở Đông Nam Á. Huống hồ, thời gian Karaweik theo chân đội du kích cộng sản Miến Điện cũng không phải là ngắn, trong khi việc gặp đội thám hiểm ở núi Dã Nhân là việc mới chỉ xảy ra khoảng, hai, ba ngày, bởi thế chắc chắn cậu bé cũng chẳng liên can gì đến Nấm mồ xanh.



Lại nghĩ Ngọc Phi Yến là thủ lĩnh đội thám hiểm, nếu cô ta quả thực không cần biết đến hậu quả, mà cho kích nổ quả bom địa chấn trong khoang máy bay, thì những người còn lại cũng không cố sống cố chết ngăn cản làm chi, mà việc gì cô phải giả thần giả quỷ với chính mình, bởi thế Ngọc Phi Yến cũng có thể loại trừ ra ngoài.



Theo lý mà nói, nếu thực sự có một gã "quỷ biển" ngấm ngầm theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, thì đó phải là kẻ ẩn mình dưới lớp vỏ thuộc hạ của Ngọc Phi Yến; nhưng từ khi đội thám hiểm vào núi đến giờ, các thành viên gần như đều bị chết hết, chỉ có hai người may mắn sống sót là Ngọc Phi Yến và gã Ciglovaski người Nga.



Tư Mã Khôi cảm thấy gã khọm người Nga tuy tính tình lạnh lùng, tàn nhẫn, giết người không ghê tay, tuyệt đối không phải hạng lương thiện gì, nhưng vẫn có một điểm không thể bỏ qua: gã mũi to này là chuyên gia bom mìn, chất nổ, nên đối với quả bom địa chấn hạng nặng trong khoang máy bay, chắc chắn chẳng ai có thể hiểu về nó hơn gã. Nếu không phải là gã đã chỉ ra thời hạn kích nổ quả bom, thì những người xung quanh nào biết nguy hiểm ẩn chứa bên trong. Bởi vậy, qua chi tiết này cũng có thể thấy Ciglovaski không phải là kẻ có biệt danh Nấm mồ xanh.



Tư Mã Khôi suy đoán loạn xạ một hồi, đầu óc mau lẹ sắp xếp mọi người thành hàng dọc, xem xét liền mấy lượt, về cơ bản, anh phủ định phán đoán trong sáu người có một kẻ là Nấm mồ xanh. Thế nhưng kẻ được gọi là Nấm mồ xanh chắc chắn vẫn đang trốn trong khoang, chỉ có điều hắn trốn ở "góc chết" mà mọi người không ai nhìn thấy được. Mà cũng không hẳn đó là "góc chết" về mặt thị giác, bởi rất có khả năng là "góc chết" trên trường nghĩa tâm lý, nghĩa là "góc chết" mà người ta không thể tưởng tượng được bằng tư duy thông thường.



Những người còn lại đều giống như Tư Mã Khôi, xoay vần sự việc mấy lượt trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy kinh hoàng bất an, nhưng giờ khắc này, chẳng ai dám mở lời bàn bạc. Bởi vì lời càng nhiều họ càng dễ lỡ miệng, biết rõ trong khoang có một Nấm mồ xanh giống như vong hồn đang đứng cạnh ngầm theo dõi, nó đã có thể sử dụng máy ghi âm để phát lời cảnh cáo trong lúc mọi người không hề phát hiện ra, nên nếu như nó ngấm ngầm ám hại thì cũng đủ khiến người ta có đề phòng cũng như không. Hải ngọng đột nhiên nảy ra suy một nghĩ kỳ lạ: nói cuốn băng ghi âm này xuất hiện một cách kỳ quái, không khéo bên trong có ma, thì nhân lúc sớm sủa, mau chân giẫm nát nó cho xong, tránh khỏi sau này món đồ chơi kia lại tự mình giở trò quái quỷ nào đó, khiến chúng ta ở nơi tối lửa tắt đèn này màn còn phải nơm nớp đề phòng nó. Nghĩ đi nghĩ lại có khi đây chẳng qua là tâm bệnh. Nói xong, anh liền ném nó xuống đất, dùng cán súng gõ đập không thương tiếc. Chiếc máy ghi âm của đội thám hiểm Anh để lại, vỡ vụn thành từng mảnh, cuộn băng bên trong cũng vỡ hỏng hoàn toàn.



Mọi người nhất thời im lặng, chẳng ai nói với ai lời nào. Tư Mã Khôi thấy dường như khó có thể nhìn thấy dấu tích gì từ vẻ bề ngoài, nên cũng không muốn rút dây động rừng. Để tiết kiệm nhiến liệu, anh liền tắt đèn halogen đang cầm trên tay, chỉ dùng chút ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn pin. Loại ánh sáng này vô cùng ảm đạm, nhưng năng lượng tiêu hao tương đối nhỏ, có thể duy trì chiếu sáng trong thời gian rất lâu. Khoang máy bay phút chốc chập chờn bóng sáng, người hay ma khó mà phân biệt nổi.




Tư Mã Khôi quanh năm lảng vảng ở nơi đầu súng mũi gươm, xem sự sống cái chết đều nhẹ tựa lông hồng, thêm vào đó lại có tâm lý phản nghịch thiên bẩm rất mạnh, thì làm gì có chuyện chịu để yên mặc cho người khác xoay vần? Tuy anh không biết tình hình cụ thể về kẻ được gọi là Nấm mồ xanh, nhưng thấy kiểu hành sự của hắn đầy bí hiểm, quái dị, thì đoán ngay tên này chắc chắn thuộc loại tà môn ngoại đạo, việc gì mình phải bán mạng cho những hạng người như thế? Ông mày bảo không làm là không làm, đứa nào làm gì được ông? Nghĩ đến đây, anh một lần nữa lại gọi mấy anh em trong đội du kích cộng sản Miến Điện đến, chuẩn bị "phủi đít ra về".



Nhưng Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy cái đầu băng bó trắng xóa của Karaweik thì lập tức lại nhớ ra: "Lúc đội du kích cộng sản Miến Điện tan rã, Karaweik đã không quản nguy hiểm, dẫn bọn mình từ con đường U Linh đi xuyên qua núi Dã Nhân, giờ đây làm sao mình có thể mặc kệ sự sống chết của cậu bé?" Có điều, hoàn cảnh trước mắt của hội Tư Mã Khôi ngay cả cái mạng của bản thân cũng khó bảo toàn, còn người có thể dẫn Karaweik chạy trốn khỏi Miến Điện chỉ có một mình Ngọc Phi Yến, nên anh lại đành ghìm lòng lại, hỏi Ngọc Phi Yến bây giờ dự định làm thế nào, hay là phải để một người ở lại kích hoạt quả bom địa chấn?



Ngọc Phi Yến trong lòng rõ hơn ai hết, người nào ở lại người đấy sẽ cầm chắc lệnh bài tử hình. Thực ra cô ta chẳng buồn bận tâm đến điều này, bởi vì trong mắt cô ta, sinh mệnh và giá trị sinh mệnh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bởi thế cô ta cũng dễ dàng đưa ra quyết định về cái được cái mất. Trong lòng Ngọc Phi Yến sớm đã có sự tính toán so sánh thiệt hơn, liền nói với mọi người: "Bây giờ chúng ta sẽ rút thăm phán định sống chết, ai rút phải quân bài đen sẽ phải ở lại kích nổ quả bom, kẻ ở lại sống hay chết đành phải tuân theo mệnh trời vậy..."



Tư Mã Khôi nghe xong, trong lòng ngầm phán đoán: "Tổ tiên Ngọc Phi Yến xuất thân là dân trộm mộ Quan Đông, kỹ thuật ngửa bài này chắc chẳng ai thắng nổi cô ả, vì xem ra mọi người có vẻ đều bình đẳng như nhau, nhưng trên thực tế, tất cả quyền định đoạt đều do cô ả ngầm nắm giữ". Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, đang định lên tiếng vạch trần thủ đoạn, nhưng lời chưa kịp thốt ra khỏi miệng thì đã nghe Tuyệt nói trước với Ngọc Phi Yến: thời gian hẹn giờ của quả bom địa chấn chỉ có hạn, trong khi Nấm mồ xanh khi nãy vừa lợi dụng máy ghi âm để cảnh cáo mọi người, mà hắn lại thật sự đang ẩn nấp giữa chúng ta, vậy thì hắn cũng có khả năng rút phải quân bài đen, bị bom nổ thịt nát xương tan, nói không chừng thời gian mấy chục phút đó cũng chẳng đủ để hắn chạy thoát. Ngọc Phi Yến cúi đầu đáp: "Cũng mong như vậy."



Tư Mã Khôi và La Đại Hải ngược lại không thể nào chấp nhận suy đoán này. Tuy ngoài miệng chẳng nói gì, nhưng trong lòng họ đều nghĩ: "Trên thế giới này, kẻ điên nào mà không có chứ? Có thể đúng là chúng ta gặp phải tên không sợ chết, huống hồ đối phương trốn trong chỗ tối, u hồn tựa bóng ma vô hình vô ảnh, hắn có phải người sống hay không còn khó nói nữa là".



Tư Mã Khôi nghe thấy âm thanh bò trườn của bọn thằn lằn cỏ bên ngoài khoang cửa đã có phần suy yếu, cùng lúc Hải ngọng lại ngồi khuyên can Ngọc Phi Yến, bào cô hãy từ bỏ ý niệm kích nổ quả bom: "Xem ra cô cũng không có vẻ là người cứng nhắc, bảo thủ. Cô cứ nghĩ kỹ lại mà xem, thằng cha địa lôi này đủ sức phá nổ cả dãy núi Dã Nhân khiến trời rung đất chuyển. Hơn nữa ở khu vực sâu hút dưới đáy này, sương mù vẫn chưa tan hết, cho dù chỉ để lại một người kích nổ thì biết đâu là sau khi bom nổ, sương mù dày đặc lại đột nhiên từ dưới lòng đất ùn ùn trào lên, khi đó ngay cả những người đã tháo chạy trước đó cũng tuyệt đường sống luôn. Hơn nữa, lúc chúng ta phát hiện ra cuốn băng ghi âm trong chiếc Rắn đen II, quả thực cũng bị nó làm ất hồn mất vía, sau đó mới biết chẳng qua chỉ là sợ bóng sợ gió vớ vẩn. Có khả năng lời cảnh cáo vừa rồi xuất hiện trong máy ghi âm cũng chỉ do mọi người nhất thời hoảng loạn, không thể phân biệt rõ chân tướng thật sự mà thôi, hết nghi thần nghi quỷ, lại nghi người, cứ ngồi đó nghi nghi hoặc hoặc mà tự mình giết mình..."



Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều tự tìm những lý do mà ngay cả bản thân mình cũng khó tin nổi, hòng đánh tan ý niệm của Ngọc Phi Yến. Nhưng lúc lời mới nói được một nửa, thì đã thấy sắc mặt Ngọc Phi Yến trở nên vô cùng khó coi. Họ phát hiện hướng nhìn của cô là nhằm vào vị trí khoang lái ở ngay sau lưng mình, nên trong phút chốc đều cảm thấy khí lạnh xâm chiếm da thịt, vội vàng quay người xem rốt cục là thứ gì. Vừa mới ngoảnh đầu lại thì thấy trong bóng tối có một con mắt khổng lồ ám đầy ma khí, ánh mắt nhấp nháy như ánh nến, đang im lặng bất động nhìn chằm chằm vào những người ở trong khoang.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: hồi thứ sáu: kinh hoàng


Hồi thứ sáu: Kinh hoàng



Tư Mã Khôi thấy hiện tượng lạ, không kịp đi tìm đèn halogen, trong lúc hấp tấp, đành vội xách đèn pin, mượn ánh sáng yếu ớt của nó nhìn về phía trước, chỉ thấy bên ngoài khoang lái có một con mắt khổng lồ nhìn chằm chằm không rời. Mắt to như cái bánh xe, hai mí mắt chầm chậm khép mở, thần sắc vô định, dường như nó đang nhìn xuyên thấu qua ô cửa sổ khoang lái, bám dính vào sáu người sống đứng bên trong.



Sau khi quan sát rõ ràng, Tư Mã Khôi biết đây là mắt của một con rồng Komodo to lớn khác thường. Do quanh năm sống ở nơi huyệt động tối tăm ẩm ướt, thường xuyên bắt các loại côn trùng có lân quang làm thức ăn, nên phần mắt của nó không những không bị lớp vẩy che mờ, mà ngược lại thị lực càng được tiến hóa hơn, hai mắt lồi hẳn ra phía ngoài. Không tính cái đuôi, thân thể của nó vẫn dài đến năm, sáu mét, da cứng thịt dày; bình thường nó có thể nằm im bất động như tượng gỗ hàng mấy tháng ròng, nhưng lúc này nó bị ánh đèn trong chiếc tiêm kích vận tải dẫn dụ đến.



Tuy rằng trên người ai nấy đều có súng và dao săn, nhưng rồng Komodo sống trong núi sâu Miến Điện, bất phân lớn nhỏ, trên mình đều mang chất kịch độc, có thể dùng mắt khống chế người trong vòng trăm bước, rất khó phòng bị, nên chẳng ai dám chọc giận chúng. Một khi rồng Komodo triển khai tấn công, nó sẽ trở nên đáng sợ hơn cả cá sấu đầm lầy.



Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, vội vàng tắt đèn pin đang cầm trong tay, nhỏ giọng nói với mọi người: "Đừng động đậy!"



Hội Ngọc Phi Yến không ai không biết rồng Komodo có thị giác linh động với mọi trạng thái, nó vô cùng nhạy cảm với vật thể di động và ánh sáng, nên chẳng ai dám cử động dù rất nhỏ. Tai họ nghe thấy trên nóc máy bay như có vật thể gì rất nặng chậm chạp ngọ ngoạy, đoán chắc đó là một con rồng Komodo khác, đang bò lồm ngồm trên nóc, mọi người liền lập tức tắt hết mọi nguồn ánh sáng bên mình.



Cả khoang máy bay trong khoảnh khắc đã trở nên đen quánh như sơn, chỉ có vảy lân quang lấp lánh cứ chập chờn nhấp nháy, đó là vảy lân quang của những con bướm đêm bị ánh đèn thu hút đâm loạn xạ vào người lúc ở lùm cỏ - trước khi đội thám hiểm vào trong máy bay. Tuy đi dưới màn mưa, nhưng họ vẫn bị khá nhiều bụi lân quang bám dính, đồng thời còn có không ít con bướm đêm theo chân bay vào bên trong.




Tư Mã Khôi thầm nghĩ, mấy con rồng Komodo vẫn còn luẩn quẩn ở đây chưa chịu bỏ đi, nguyên nhân chắc là do đám bướm đêm còn lại này, anh đang định phủi sạch bụi lân quang trên mình, thì đột nhiên thấy nóc máy bay phát ra âm thanh kêu "răng rắc".



Chiếc máy bay ngủ im trong đầm lầy dưới lòng đất suốt một thời gian dài, kết cấu chất gỗ đã sớm bị mối mọt mục nát bởi không khí ẩm ướt xâm hại thì làm sao có thể chịu được thân thể khổng lồ nặng nề của rồng Komodo, chỗ lúc trước bị súng săn voi bắn thủng, bây giờ đều bị ép xuống đến nứt toác.



Chi sau của con rồng Komodo khổng lồ thụt xuống khe nứt. Trong lúc khẩn thiết khó lòng thoát thân, nó vắt kiệt sức dùng đuôi quẫy đạp, khiến chiếc máy bay bị rung lắc gần như tan ra thành từng mảnh. Hằng hà sa số những con thằn lằn nhỏ nhân cơ hội này đã lẻn chui vào bên trong qua các kẽ nứt.



Mọi người đứng trong bóng tối, hai mắt không nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy lũ thằn lằn bò từ chân lần ngược lên người, nhưng ai nấy không thể không giơ tay hay đạp chân để giãy chúng ra.



Đúng lúc này, đột nhiên từ quả bom địa chấn bỗng vang lên một tiếng "kịch", âm thanh tuy không lớn, nhưng hai tai Tư Mã Khôi rất nhạy cảm nên từ vị trí đang đứng anh phán đoán: hình như nút kích hoạt của quả bom địa chấn đã được mở. Trong lòng anh bỗng chốc buốt lạnh, biết chắc Nấm mồ xanh đang trốn trong khoang máy bay đã giở trò quỷ, phen này rắc rối to rồi, quả bom địa chấn hạng nặng với uy lực vô biên sắp phát nổ trong vòng vài phút nữa, mà hậu quả thật không dám nghĩ tới.



Tư Mã Khôi nóng lòng muốn biết, gã Nấm mồ xanh kia rốt cục đã dùng cách gì để trốn dưới con mắt của mọi người mà không hề bị phát hiện. Anh chẳng còn bận tâm đến mấy con rồng khổng lồ Komodo đang lởn vởn ngoài khoang lái, lập tức huơ huơ chiếc đèn pin trong tay, quét một đường: ngoại trừ sáu kẻ may mắn sống sót ra thì làm gì còn người nào thừa, thế nhưng nút kích hoạt ở phần đuôi quả bom địa chấn đúng thực là đã bị "người" trong bóng tối âm thầm khởi động.



Hội Ngọc Phi Yến thấy tình hình khác lạ, ai nấy đều kinh ngạc không thốt nên lời, biết chắc chuyến này sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa. Quả bom chứa trong chiếc tiêm kích số hiệu Rắn đen, tuy không thể sánh với quả "Grand Slam" đã san phẳng cả dãy núi, nhưng khối lượng của nó cũng đủ để người ta khiếp vía, vì gần như vượt qua cả cực giới hạn tải trọng của chiếc tiêm kích vận tải. Giờ phút này, cho dù mọi người có mọc thêm vài cái chân, cũng không thể chạy trốn khỏi phạm vi bao trùm nguy hiểm của sóng xung chấn phát nổ trong thời gian ngắn như vậy.



Đám sương mù bí ẩn ngàn năm không tan ở núi Dã Nhân, cơn bão nhiệt đới Buddha hoành hành, khe sâu không đáy giống như kính viễn vọng địa cầu, rồng Komodo, cá sấu, mãng xà Miến Điện mai phục dưới đầm lầy, quả bom địa chấn hạng nặng chứa trong khoang hàng chiếc Rắn đen, và cả Nấm mồ xanh ẩn trốn giữa bóng tối đang ngấm ngầm theo dõi hành động của mọi người kia nữa, vòng sóng nguy hiểm này nối tiếp vòng sóng nguy hiểm khác, vô số ẩn số khó lòng giải thích không ngừng xuất hiện, khiến thể xác và thần kinh của mấy kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm, đều bị đẩy đến gần mép vực suy sụp.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om.



Mọi người biết giờ đây chỉ có đường chết không còn đường sống nên nhất thời đều như bị đông cứng, ai nấy ngẩn người bất động, nhưng sau giây phút ngắn ngủi đó, trong đầu không hẹn mà cùng xuất hiện một ý niệm: "Chạy! Có thể chạy bao xa thì chạy!" Tâm lý này được gọi là "chó cùng dứt dậu", ngồi đây đợi chết, cùng chiếc máy bay nổ tan xác thành khói bụi tro tàn thì chi bằng hãy cố gắng chạy trốn đi thật xa, không chừng vẫn còn bảo toàn được thi thể.



Tư Mã Khôi hét lên với những người còn lại: "Đừng ngẩn tò te ra nữa, mau rút thôi!"



Ngọc Phi Yến nhắc nhở: "Vùng đất ẩm ướt phía nam, cỏ mọc um tùm, có thể làm giảm sóng xung chấn của vụ nổ, sau khi rời khỏi máy bay, mọi người hãy cùng chạy về phía đó nhé!"




Mắt nhìn thời gian trôi chảy từng giây từng phút, mọi người chỉ mong rời khỏi trái bom địa chấn càng xa càng tốt; nhưng muốn rời khỏi chiếc máy bay, trước hết phải giải quyết xong hai con rồng Komodo khổng lồ đang quần đảo ngoài khoang lái, lúc này không thể không hạ quyết tâm lao ra chiến đấu trực diện với nó.



Hải ngọng xung phong mở màn, anh giương khẩu súng săn bốn nòng, chĩa lên lỗ hổng trên nóc máy bay, ngắm chuẩn vào bụng con rồng Komodo đang nằm ệp ở ngoài, rồi bắn một phát. Khẩu súng săn này tuy không bằng súng bắn tỉa công phá, nhưng nếu hạ gục mục tiêu gần, thì uy lực của nó lại không loại vũ khí nào có thể sánh kịp. Chỉ nghe "đoàng" một tiếng rồi khói trắng tỏa ra mù mịt như sương mây, con rồng Komodo khổng lồ thoáng chốc đã ngã vật ra đất, bụng thủng ruột lòi, máu chảy lênh láng.



Cùng lúc này, con rồng Komodo ở ngoài khoang lái, cũng bị gã Gấu trắng người Nga ném quả lựu đạn tan thành hai mảnh. Nó tuy chết mà không phục, hai mắt vẫn đỏ au au tựa máu nhìn trừng trừng như muốn lồi hẳn ra ngoài, rồi mí mắt lộn mạnh một cái, một tia máu từ hốc mắt bắn vọt ra, xuyên phụt qua khe nứt máy bay.



Rồng Komodo rất giỏi ngụy trang, bình thường nó có thể nằm im bất động giống như phiến đá hoặc thân cây khô, đợi khi con mồi đến gần mới bất ngờ vùng dậy, phun máu độc từ hốc mắt tấn công đối thủ. Chất dịch máu trong nang mắt của nó kịch độc không gì sánh nổi, hơn nữa tốc độ lại nhanh thần kỳ, khiến người ta khó lòng tránh được.



Gã Gấu trắng người Nga không ngờ con rồng bị tan xác thành hai mảnh, mà vẫn có thể lén tấn công, nên cho dù phản ứng của gã rất đỗi nhanh nhạy, nhưng vẫn bị máu độc bắn vào mắt trái. Gã đau đớn gào rú thảm thiết như một con mãnh thú bị chọc tiết. Tuy thể xác đau đớn bội phần nhưng đầu óc hãy còn tỉnh táo, gã biết rằng một khi bị chất độc từ mắt chạy vào não, thì coi như hoàn toàn xong đời, hết thuốc cứu chữa; dưới sự thôi thúc của khao khát sinh tồn mãnh liệt, gã cố nén cơn đau thấu đến tận tim, gắng gượng móc con mắt bên trái của mình ra.



Phần dịch độc mà gã người Nga tránh được, đều bắn vào thân thể mấy người ở phía sau. Khoang máy bay chứa một quả bom khổng lồ, sáu người còn lại phải chen chúc nhau trong một khoảng không gian nhỏ hẹp còn lại. Mọi người chỉ còn cách đứng nghiêng, vì ngay cả xoay người cũng rất khó khăn, làm sao có thể né tránh nổi, kết quả người nào cũng bị máu độc bắn vào.



May mà chất độc chỉ bám vào ba lô hoặc quần áo, không tiếp xúc với da thịt, nhưng gã Ciglovski cao to ngoại cỡ kia lăn lộn giãy giụa, dùng sức quá mạnh, nên chạm cả vào Tuyệt đứng ngay sau lưng. Tuyệt bị gã xô đẩy, gáy đập vào vỏ sắt cứng đanh của quả bom địa chấn, phút chốc máu tươi chảy ra đầm đìa, trong lúc hoảng loạn, cũng chẳng rõ vết thương nặng nhẹ thế nào.



Mọi người chưa kịp rời khỏi chiếc tiêm kích vận tải thì trong thời gian chớp mắt, liên tiếp hai thành viên nữa lại bị trọng thương, có điều vì nguy cơ cấp bách trước mắt, không cho phép trù trừ nấn ná lâu thêm, nên chẳng ai dám chậm trễ. Ngọc Phi Yến giơ chân đạp tung cánh cửa, giương khẩu súng xung phong Uzi đi trước mở đường. Hải ngọng cõng Tuyệt trên lưng, Tư Mã Khôi gọi Karaweik cùng xách nách dìu gã Gấu trắng mặt đầm đìa máu, mỗi người cầm một cây nến tín hiệu, bám sát sau lưng Ngọc Phi Yến. Không quản đường dưới chân gập ghềnh lồi lõm, họ liều mạng băng băng tháo chạy về phía đầm lầy um tùm cây cối.



Gã Gấu trắng tuy thân thể khỏe như bò mộng, nhưng vừa bị mất một mắt, vết thương quả không nhẹ, lại bị vài phần chất độc ngấm vào não nên thần trí bắt đầu nhiễu loạn, phút chốc mất hết lý trí như kẻ điên dại, rồi thú tính khát máu chợt trỗi dậy, trong lòng chỉ muốn giết người. Gã phát hiện hai cánh tay đều bị người khác kẹp chặt, liền thuận thế cuốn một vòng, hai bàn tay to phàm phạp như hai cánh quạt, định bóp chặt yết hầu của Tư Mã Khôi và Karaweik.



Tư Mã Khôi và Karaweik xả thân lôi gã tháo chạy khỏi chiếc tiêm kích vận tải, còn thần kinh mạch mệnh đều đổ dồn về quả bom hạng nặng ở phía sau, thì làm sao kịp đề phòng biến cố xảy ra ngay bên cạnh. Thế nhưng Tư Mã Khôi do suốt ngày lăn lộn nơi đường biên sống chết, từ trước đến giờ vẫn vô cùng nhanh nhạy, còn Karaweik tuy rằng tuổi còn nhỏ, nhưng vì cả ngày trèo cây xuyên núi nên thân thủ cũng lanh lẹ như khỉ, hai người đều ứng biến thần tốc, phát hiện thấy bàn tay to lớn của gã người Nga như hai gọng kìm đang nhằm vào cổ họng mình, liền vội vã lùi người lại, né sang một bên.



Ciglovaski thấy mình vồ trượt, liền lập tức rút dao săn ra, quay người lại chém. Tư Mã Khôi không kịp đứng dậy, vội lăn mấy vòng trên mặt đất, tránh đường dao chém. Anh thấy mặt gã Gấu trắng máu thịt hỗn độn, chỉ lộ ra mỗi con mắt hung quang sáng quắc, liền biết gã này đã mất hết lý trí, giống như một con chó dại, một khi nó đã lên cơn, thì chắc chắn sẽ không chịu buông tha, bèn hét lớn bảo Karaweik mau mau tháo chạy, tuyệt đối không được dừng lại.



Karaweik nhìn thấy gã khọm người Nga đột nhiên trở nên hung tợn như ác quỷ, đã sớm kinh hồn thất tán, toàn thân mềm nhèo nhẹo, không biết phải làm thế nào, mãi đến lúc nghe tiếng hét của Tư Mã Khôi, mới giật mình bừng tỉnh, thục mạng lao về phía hội La Đại Hải.



Ai ngờ gã Ciglovaski tuy rằng thần trí đang hoảng loạn, nhưng bình sinh giết người như giết rận, chẳng khác nào cỗ máy giết người do Liên Xô chế tạo, thủ đoạn giết người dường như trở thành bản năng, phát hiện có người chạy trốn, gã không thèm đuổi theo, mà "hừ" lên một tiếng rồi ra sức ném con dao săn trong tay về phía đó.




Con dao săn quân dụng hình vòng cung mà đội thám hiểm sử dụng trong rừng rậm, còn gọi là "dao mở núi", sống dao dày, nhưng lưỡi rất mỏng và sắc, cán ngắn, thân dài, trước rộng sau hẹp, được làm bằng thép lò xo, là loại dao cực kỳ sắc bén. Con dao săn từ tay Ciglovaski phóng đi, gấp như sấm đánh, nhanh như chớp giật, chỉ thấy tiếng u u của kim loại vọng lại, nó lượn vòng trên không trung, rồi tiện ngang cổ Karaweik, nghe sắc lẻm, cái đầu người lập tức bị cắt ngang rời ra khỏi thân. Thế bay của con dao vẫn không hề suy yếu, tiếp tục lượn tiếp vài mét nữa mới chịu rơi xuống đất.



Karaweik đang chạy điên loạn về phía trước, đột nhiên bị con dao sắc từ phía sau cắt một đường vừa nhanh vừa mạnh, tuy đầu đã lìa khỏi thân, nhưng theo quán tính, chân vẫn không dừng lại ngay được, mà tiếp tục chạy thêm dăm ba bước nữa thì thi thể không đầu mới đổ rầm xuống đất.



Màn thảm kịch đột ngột xảy đến quả thực quá nhanh. Tư Mã Khôi thấy Karaweik chết đứng dưới lưỡi dao của gã Gấu trắng, bản thân lại không kịp đến ứng cứu, tuy nói sinh tử vô thường, chẳng ai đoán trước được, nhưng anh vẫn không thể kìm chế nổi cơn thịnh nộ bốc cháy phừng phừng trong lòng, làm ánh mắt xung huyết đỏ lòm. Trong lòng dội lên ý niệm giết người, anh ngẩng đầu nhìn gã Gấu trắng cũng đang quay người nhào đến, thầm nghĩ: "Hôm nay không phải tao chết thì mày phải chết", rồi lập tức tránh sang một bên thủ thế, hai tay nắm chặt hai cán con dao săn.



Tuy trong lòng Tư Mã Khôi vừa giận vừa hận, nhưng đối mặt với cường địch, anh vẫn không hề mất bình tĩnh. Tư Mã Khôi biết gã người Nga cao lớn tay dài, chẳng khác nào loài dã thú, hơn nữa gã từng phục vụ trong quân đội Xô Viết nhiều năm, xem tư thế vung tay đá chân của gã thì biết chắc chắn gã này giỏi đấm bốc. Nên cho dù trên vai anh không bị thương, mà trực diện bổ nhào vào đối phương, thì e rằng cũng không chiếm được nửa phần lợi thế, huống hồ quyết đấu sinh tử, cần phải tốc chiến tốc thắng.



Trong lòng Tư Mã Khôi ngầm định giới hạn, nên anh không giằng co chính diện với gã người Nga, mà chỉ bắn một phát đạn hú họa, rồi tránh sang bên trái đối phương. Gã Gấu trắng nhào lên không trúng, bèn quay người lại tóm, nào ngờ bước chân Tư Mã Khôi di chuyển nhanh như sóc, tuyệt đối không tiếp xúc mặt đối mặt với gã, anh lui lại, quay người lẻn sang phía phải đối phương. Gã Gấu trắng thân hình to lớn lực lưỡng, nên khi phải liên tục xoay chuyển hết bên trái lại sang bên phải, tất có đôi chút lóng ngóng, mới chạy được hai ba vòng, bước chân đã bắt đầu loạng choạng, trọng tâm không vững, Tư Mã Khôi nhanh như cắt chớp cơ hội, vật ngửa gã ra đất.



Tuy gã người Nga bị ngã mạnh, nhưng vẫn kịp đạp Tư Mã Khôi một cái. Tư Mã Khôi không ngờ đối phương ra tay nhanh như vậy, bị đạp loạng choạng, anh cũng ngã nhào xuống đất theo gã. Tự biết mình phải chạm trán với kẻ thù hiểm ác nhất từ trước đến nay, nhưng lòng quyêt tâm báo thù còn mạnh hơn nên anh chẳng hề có ý sợ hãi rút lui. Vừa ngã, anh liền lập tức đứng bật dậy, tiếp tục cầm con dao săn nhào lên.



Không ngờ, lúc đó mùi máu tanh nồng nặc bốc ra từ cơ thể gã Gấu trắng đã dẫn dụ một con cá sấu đang nằm mai phục dưới đầm lầy. Nó há to cái miệng đỏ lòm rộng ngoác ngoạm mạnh vào hai chân Ciglovaski, chậm chạp kéo gã về phía sau. Hàm cá sấu chi chít những chiếc răng nhọn hoắt như lưỡi cưa, lực ngoạm lại rất lớn, nên quá nửa thân người của gã Gấu trắng bị nó nuốt chửng. Gã bất giác cảm thấy đau buốt đến tận xương tủy, gã cố giãy giụa nhưng không thể thoát ra nổi.



Dưới cơn đau dữ dội, cổ họng gã phát ra những tiếng nghe "khặc khặc". Rồi thần trí cuối cùng cũng minh mẫn trở lại, gã tự biết thân rơi vào cảnh ngộ này, chắc chắn chẳng còn đường sống, lại sợ bị cá sấu lôi xuống đầm lầy, phải chịu cái đau đớn do bị xé xác nuốt chửng, bèn tự mình kết liễu cuộc đời. Gã sờ cuộn thuốc nổ mang theo bên mình, rồi giật mạnh dây dẫn lửa.



Cùng với tiếng nổ lớn vang khắp đầm lầy là xương thịt máu me bay ra tứ phía. Tư Mã Khôi vội vàng tránh qua một bên, tuy anh từng chứng kiến tận mất vô số cái chết trên chiến trường Miến Điện, nhưng nhìn cảnh tượng này, anh vẫn thấy bàng hoàng sững sờ, lòng cảm nhận sâu sắc sự bi thảm của thế gian, dường như cũng chỉ đến thế là cùng. Anh ngẩng đầu lên nhìn, thấy phía trước pháo tín hiệu vụt lóe sáng. Thì ra La Đại Hải cõng Tuyệt bị thương ở đầu, gấp gáp chạy theo Ngọc Phi Yến vào đồng cỏ sâu nên không hề biết biến cố xảy ra phía sau. Mãi cho đến khi nghe thấy tiếng nổ do gã Gấu trắng tự kết liễu đời mình, mới biết có chuyện chẳng lành, anh liền bước chậm lại, ngoái đầu nghe ngóng.



Tư Mã Khôi tự hỏi: "Không biết thời gian đã qua bao lâu, dường như vượt cả thời hạn ấn định, sao trái bom địa chấn trên chiếc tiêm kích đến bây giờ vẫn chưa phát nổ?" Nhưng không kịp nghĩ nhiều, anh vội vàng đuổi theo hội La Đại Hải. Ngọc Phi Yến và La Đại Hải chỉ thấy có một mình anh đi đến, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi nguyên do, nhưng lời còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, bỗng nhiên nghe thấy một tiếng nổ long trời lở đất, đáy khe núi Dã Nhân sâu vạn trượng đột nhiên xảy ra vụ nổ dữ dội, đúng chẳng khác gì "tinh cầu tương kích, càn khôn vỡ vụn".


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,834
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: hồi thứ bảy: kén


Hồi thứ bảy: Kén



Quả bom địa chấn nặng ngàn cân trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải, cuối cùng cũng phát nổ, năng lượng giải phóng do khí nén cao áp giãn nở đúng là rung trời chuyển đất, đổ biển trút sông. Tiếng vang lớn chấn động cả khe núi sâu hút. Sóng xung chấn và sức ép dữ dội từ trung tâm nổ lan truyền ra, mạnh như cơn lốc, nhanh chóng phủ khắp đầm lầy dưới lòng đất.



Bốn kẻ may mắn tháo chạy khỏi bàn tay thần chết là Tư Mã Khôi, La Đại Hải, Ngọc Phi Yến và Tuyệt, vừa mới bỏ trốn chẳng bao xa, thì đã bị cơn bão sóng xung chấn cuốn vào vòng xoáy của nó. Do vụ nổ xảy ra quá nhanh, sấm nổ bịt tai còn không kịp thì làm gì có thời gian để tìm chỗ ẩn náu, khiến thân thể dường như bị một bức tường xi măng dày nặng đột ngột đâm sầm vào với vận tốc khủng khiếp, nên họ chẳng khác nào cánh hạc giấy bị đứt dây, lật nhào xuống bùn đất.



Trước mắt Tư Mã Khôi là một khoảng đỏ đen lẫn lộn, hai tai anh bị chấn động không nghe thấy gì ngoài tiếng "ong ong", còn trong đầu chỉ là một dải hỗn loạn, sau đó liền mất toàn bộ ý thức.



Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, những giọt nước mưa lạnh buốt tận xương không ngừng tạt vào mặt làm Tư Mã Khôi dần dần tỉnh lại. Anh chỉ cảm thấy đầu đau như muốn vỡ tung, mọi thứ trước mắt mờ ảo dập dềnh, không hề nhìn thấy một chút ánh sáng nào. Trọng lòng anh còn lờ mờ nhớ lúc trước trái bom địa chấn vừa phát nổ, quả bom địa chấn do Anh chế tạo tuy rằng vẫn thuộc phạm trù vũ khí thông thường, không thể so sánh với bom hạt nhân, nhưng sức phá hoại khủng khiếp của nó đúng là có thể dời núi lấp biển.



Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe người bản địa nói, năm đó lúc phản công Miến Điện, tình hình chiến sự vô cùng ác liệt, chỉ cần ban ngày, ngẩng đầu nhìn lên trời, sẽ thấy máy bay quân Đồng minh quần thảo hết phi đội này đến phi đội khác, nghìn nghịt như chim én, rồi ném những quả bom còn to hơn cái nhà, quả nọ tiếp quả kia, phạt đứt bay cả đỉnh núi. Kích thước loại bom địa chấn thuộc hàng khủng, trọng lượng cũng nặng khác thường, nếu là cấp Grand Slam, thì nhất loạt đều phải do máy bay Lancaster thả xuống. Quả bom với cấu tạo hình giọt nước với bề mặt tuyệt đối nhẵn nhụi không nếp gấp này, lúc thả xuống sẽ xoay vòng với tốc độ cao giữa không trung, khi tiếp đất nó có thể xuyên thấu hố công sự với độ sâu rất lớn, rồi hủy diệt vụn nát mọi mục tiêu chiến lược.




Có điều, nhìn tổng quan cả quá trình lịch sử chiến tranh thế giới thứ hai, toàn bộ số bom Grand Slam mà quân Anh sử dụng còn chưa đến một trăm quả, hơn nữa tuyệt đại đa số đều dùng ở các chiến trường châu Âu. Trong thời kỳ chiến đấu với quân Nhật ở Miến Điện, bom địa chấn quân Anh sử dụng tuy thể tích nhỏ hơn một chút, nhưng bên trong lại nhồi loại thuốc pháo tiên tiến có độ phát nổ rất cao nên so với Grand Slam, uy lực của nó cũng khủng khiếp không kém, thậm chí có thể nói còn ngang ngửa về mọi điểm.



Bom địa chấn trong vực sâu núi Dã Nhân được đặt trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải, đồng thời lại không có sóng xung chấn tốc độ cao được sản sinh ra khi thả từ không trung xuống, một khi kích hoạt kíp nổ tại chỗ, tuy không thể đâm sâu, nhưng vẫn có thể hình thành hố bom với đường kính gần trăm mét; hơn nữa, phạm vi bao phủ của sóng địa chấn, có tác dụng hủy diệt, còn trải rộng hơn. Môi trường trong đầm lầy dưới lòng đất rất khắc nghiệt, chỉ dựa vào đôi chân, thì chạy nổi bao xa, bởi thế hội Tư Mã Khôi đã liệu định trước là trong thời gian có hạn, căn bản không thể chạy đến được khu vực an toàn. Mọi người còn cho rằng chắc chắn là sẽ chết chứ không thể khác được. Lúc này, Tư Mã Khôi đã bắt đầu tỉnh lại, tâm thần hoảng loạn, anh cảm thấy cơ thể như bị vụn nát thành từng mảnh, nhưng đột nhiên thấy cuống họng có vị ngọt, liền ộc ra một ngụm máu đen, liền sau đó thấy tứ chi, trăm xương đều đau buốt, mới biết mình vẫn còn sống.



Tư Mã Khôi thoát khỏi đại nạn, hai kiếp vẫn được làm người, nhưng trong lòng lại không hề cảm thấy may mắn chút nào, mà ngược lại còn thấy rất đỗi hoang mang: cho dù anh có mệnh lớn phúc dày, đoạt quyền tạo hóa, thì vẫn chỉ là người trần mắt thịt, dẫu không thịt nát xương tan ngay tại chỗ, thì cũng sẽ bị sóng xung chấn ép cho dập nát tất cả lục phủ ngũ tạng mà chết, vậy mà không hiểu sao vẫn có thể sống đến tận bây giờ?



Anh thấy rằng mọi hiện tượng kỳ dị trong khe núi Dã Nhân đều không thể giải thích nổi. Tư Mã Khôi bị sóng xung chấn quả bom làm cho chấn động đến nỗi khí huyết đảo lộn cả lên, tai trái không nghe thấy gì, tai phải không ngớt ù ù, sau gáy ùa gió lạnh, thị giác, thính giác đều hỏng cả, dường như chỉ còn mỗi hồn phách là vẫn chưa lìa khỏi thể xác mà thôi. Anh nằm vật trên đất trăm mối không thể giải thích thấu đáo, cũng không rõ ba người còn lại sống chết ra sao, trong lòng vừa tuyệt vọng, vừa bất an, khi thấy mình mẩy chân tay mềm nhũn, không thể động đậy nổi.



Tư Mã Khôi lúc mơ lúc tỉnh, cứ như vậy chập chờn không biết bao lâu trong đêm tối. Cuối cùng khí huyết như thủy triều dềnh lên tụt xuống trong lồng ngực anh cũng dần dần bình lặng, tay chân đã có thể tự do cử động, anh hít sâu một hơi, giãy đạp giữa đám cỏ hoang bùn lầy rồi mãi mới nhổm người đứng dậy được. May mà lúc chạy trốn khỏi máy bay tiêm kích, chiếc ba lô chất đầy các thiết bị chiếu sáng không bị rơi mất, nên khi sờ thấy nến tín hiệu, anh quăng nó ra xa. Rồi qua màn ánh sáng, anh nhìn thấy hội La Đại Hải đang nằm vật trong đám cỏ răng cưa, cách mình chẳng bao xa. Họ cũng bị sóng xung chấn làm chấn động ngất đi, tai, mũi, họng đều rỉ máu, nhưng chẳng ai bị thương ngoài da cả.



Tư Mã Khôi bước tới, lần lượt gọi ba người kia dậy. Mọi người giành giật được sự sống sau kiếp nạn, trên mặt, trên người họ toàn là máu và bùn. Ai nấy tự kiểm tra vết thương của mình, nội tạng bên trong dường như không có gì đáng ngại lắm, chỉ có điều tinh thần vẫn đang bị hoảng loạn, chưa thể ổn định ngay được, màng nhĩ cũng bị rung động mạnh, mãi lâu sau mới có thể nghe được chút âm thanh.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.



Vết thương sau đầu của Tuyệt tương đối nặng, sau khi thay băng khác vẫn không ngừng chảy máu, cô chợt nhớ đến tung tích của Karaweik, liền nóng lòng gạn hỏi Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi cũng chẳng giấu giếm, kể lại toàn bộ câu chuyện cho Tuyệt nghe, thi thể của Karaweik và gã Gấu trắng người Nga, một người mất đầu, một kẻ tan xác thành trăm mảnh, sau khi bom địa chấn phát nổ, lại càng chẳng biết chỗ nào mà lượm nhặt nữa.



Tuyệt và La Đại Hải nghe tin dữ, thần sắc u ám ảm đạm, im lặng mãi một hồi lâu. Ngọc Phi Yến cũng lặng lẽ không nói; bất kể do chủ động hay bị động, giờ đây quả bom địa chấn cũng đã bị kích hoạt phát nổ theo chỉ thị của Nấm mồ xanh. Hội ba người Tư Mã Khôi đã sớm dự tính, tiếp theo đây đương nhiên là sẽ vượt biên giới trở về đất nước, không còn liên quan gì đến đội thám hiểm nữa. Nhưng núi Dã Nhân vô cùng hiểm trở, cơn bão nhiệt đới Buddha lại vẫn chưa lắng xuống, giờ đây muốn đi đến được vùng trời của sự sống, tất phải nương tựa vào nhau.



Lúc này bốn người sức cùng lực kiệt, tuy biết rõ nguy hiểm mai phục tứ bề dưới đầm lầy, nhưng cũng không thể mau chóng rời khỏi đây, đành phải đến một chỗ khô ráo hơn ở gần đó, tạm thời nghỉ ngơi, chỉnh đốn hành lý.



Ngọc Phi Yến gắng hết sức trấn tĩnh tâm thần đang hoản loạn cực độ, quan sát tứ phía, nhưng càng nhìn càng cảm thấy bất an. Từ lúc tận mắt nhìn thấy hàng trong máy bay tiêm kích, đến khi Nấm mồ xanh hiện thân theo dõi hành động của đội thám hiểm trong bóng tối, rồi cuối cùng là kích nổ quả bom hạng nặng... tất cả đều xảy ra quá nhanh, chẳng để lại chút thời gian nào cho người ta suy nghĩ. Bây giờ ngẫm kỹ lại, trong toàn bộ sự việc, quả thực có quá nhiều điểm quái dị.




Mọi người vốn dĩ cho rằng Nấm mồ xanh muốn lợi dụng bom địa chấn để phá hủy mạch đất trong khe núi Dã Nhân, áp chế sương mù đậm đặc bên trong. Thế nhưng lòng huyệt động rộng rãi thênh thang thế này, mà chỉ dựa vào một trái bom hạng nặng đời cũ, thì căn bản không thể phát huy tác dụng mang tính quyết định, hơn nữa bốn kẻ may mắn sống sót đều không chạy thoát khỏi phạm vi sóng xung chấn bao phủ, nhưng tại sao lại vẫn có thể bảo toàn tính mạng? Ngoài ra, lũ cá sấu, mãng xà dưới đầm lầy nhiều như thế, trong lúc bốn người bọn họ hôn mê bất tỉnh, sao chúng chẳng hề đến tấn công?



Trong lúc Ngọc Phi Yến còn đang mơ hồ kỳ lạ, thì đột nhiên Tư Mã Khôi ngửi thấy thoang thoảng một mùi khí rất khác lạ từ làn không khí âm u, ẩm ướt dưới lòng đất bốc ra. Nó có vài phần giống mùi long não, lại tựa như một chất hóa học nào đó đang xảy ra phản ứng kịch liệt. Nhìn sang đám cỏ răng cưa vốn mọc um tùm xung quanh, anh không ngờ thấy chúng đều đã chết rụi cả, mà chẳng biết chết từ lúc nào.



Tư Mã Khôi cũng cảm thấy trên da thịt dường như có cảm giác hơi ran rát như bị bỏng, trong lòng anh chợt bừng tỉnh ngộ, anh nói với Ngọc Phi Yến: "Cô không cần suy đoán loạn lên thế, chúng ta chưa bị quả bom địa chấn nổ cho tan xác, tuyệt đối chẳng phải kỳ tích gì. Hàng trong máy bay tiêm kích vận tải, đã sớm bị người ta cải tiến lại rồi, rất có khả năng nó là một quả bom nguyên tử thể lỏng."



Ngọc Phi Yến chưa từng nghe thấy mấy chữ: "bom nguyên tử thể lỏng", nên cho rằng Tư Mã Khôi cố tình khoác lác để người khác phải kinh ngạc, liền cau mày nói: "Lúc này là lúc nào rồi mà anh còn lòng dạ nói nhăng cuội, núi Dã Nhân làm sao có bom hạt nhân được?"



La Đại Hải và Tuyệt năm đó đều là chiến hữu cùng Tư Mã Khôi nam tiến chiến đấu ở Miến Điện, nên họ hiểu rất rõ điểm đáng sợ của thứ vũ khí hạt nhân thể lỏng. Cả hai đều thất kinh hỏi lại: "Vũ khí hạt nhân thể lỏng? Ý cậu muốn nói trong quả bom địa chấn đó có chứa chất độc màu da cam gây rụng lá sao?"



Thì ra mấy năm trước, khi hội Tư Mã khôi từng theo anh Thiết Đông sang xin gia nhập quân đội ở Việt Nam trên đường tiến về phía Nam, đến biên giới Bắc Việt, do lúc đó không trung bị tấn công không ngớt, nên mọi người đành phải hành quân theo con đường nhỏ, những gì họ thấy ven đường, là rất nhiều những quả núi trọc lốc, mặt đất chẳng mọc nổi một ngọn cỏ, lớp phủ thực vật suốt một dải rộng lớn đều bị chết hết. Trước đây mọi người chưa từng nhìn thấy hiện tượng kỳ lạ này, nên ai nấy trống ngực cứ đánh thình thịch.



Trong đoàn người bọn họ, kiến thức quân sự của Hạ Thiết Đông phong phú nhất, anh nói với mọi người: rừng rậm Việt Nam, đại bộ phận khu vực đều được bao phủ bởi rừng cây nhiệt đới xanh quanh năm và rừng cây rụng lá bán nhiệt đới. Thực vật đã trở thành một tầng bình phong thiên nhiên trên mặt đất, giúp bộ đội hành quân mà không lo bị kẻ địch phát hiện. Không quân Mỹ vì muốn mục tiêu quân sự bí mật của Bắc Việt không còn nơi nào ẩn giấu được, đồng thời cắt đứt tuyến đường mòn bí mật Hồ Chí Minh, nên đã áy bay thả một lượng lớn chất độc màu da cam xuống khu vực chiến lược quan trọng và hậu phương Bắc Việt. Chất độc này được lấy từ các chất lỏng công nghiệp đặc thù, nó có tác dụng diệt cỏ và gây rụng lá.



Loại vũ khí hóa học đó có khả năng làm tất cả thực vật đều khô héo, chết rũ chỉ trong thời gian một đêm, tất cả các loài thực vật sinh sống trên trái đất, chỉ cần tiếp xúc với nó đều không thể sống sót. Chất độc màu da cam chuyên được sử dụng để phá hủy hệ thực vật tự nhiên và sự cân bằng sinh thái, ở nhiều vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, người dân bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng, nên thường gọi nó là bom nguyên tử thể lỏng, ai ai cũng biết.



Đó là lần đầu tiên hội Tư Mã Khôi được lĩnh giáo sự đáng sợ và tàn khốc của chiến tranh hiện đại. Đến Miến Điện, mọi người cũng nghe nói tới loại vũ khí hóa học này, mà tổ chức đầu tiên phát minh ra nó là Đức Quốc Xã, rồi quân đồng minh Anh, Mỹ tiếp tục sáng chế, đồng thời bí mật vận chuyển một lượng lớn bom mìn chứa chất độc màu da cam đến các chiến trường Thái Bình Dương chiến đấu với quân Nhật. Chất hóa học trong chất độc màu da cam, không chỉ có khả năng giết chết thực vật, mà còn có khả năng giết chết con người. Có điều, người bị nhiễm chất độc màu da cam tại thời điểm ấy không hề thấy xuất hiện biểu hiện gì khác thường, mà mãi nhiều năm sau mới phát bệnh, nguy hại trực tiếp hoặc gián tiếp của nó quả là vô cùng vô tận. May mà khi ấy việc quân Nhật tan rã thảm bại đã được dự đoán trước, cho nên quân đồng minh không có cơ hội sử dụng nó trên diện rộng.



Tư Mã Khôi phát hiện, sau khi bom địa chấn phát nổ, hệ thực vật trong đầm lầy bắt đầu trở nên dị thường, bầy cá sấu và thằn lằn ở gần đó cũng chạy trốn mất tăm; lúc này anh mới kinh hoàng nhớ ra loại chất độc mà chỉ nghe tên, chứ chưa bao giờ tự mình trải nghiệm. Quả bom địa chấn trong chiếc máy bay tiêm kích vận tải đã được cải tiến đến chín phần, bên trong lõi bom có chứa một lượng lớn các hợp chất hóa học kịch độc, còn mục đích thực sự của nó không phải nhằm phá hủy mạch đất trong khe núi Dã Nhân, mà là hủy hoại triệt để hệ thực vật dưới đáy động.



Ngọc Phi Yến cũng là người nhanh mắt sáng dạ, khi nghe Tư Mã Khôi nói ra bí mật của quả bom địa chấn, cô ta liền lập tức kết nối mọi sự kiện và có ngay lời giải. Trong lòng khe núi quanh năm không thấy mặt trời, phần đáy lại bị hệ thực vật um tùm che phủ, nên chắc chắn đó không phải là hệ thực vật thông thường dưới lòng đất. Ngoài ra, lòng đất không ngừng phun trào một lượng lớn sương mù dày đặc, những việc này chắc chắn có liên quan đến nhau. Quả bom địa chấn trong chiếc tiêm kích vận tải, được cài đặt loại chất độc gây rụng lá cực kỳ đặc biệt nào đó, có thể chuyên dùng để hủy diệt thực vật dưới lòng đất, bởi vậy Nấm mồ xanh mới không ngừng phái người liều chết thâm nhập vào khe núi kích hoạt quả bom, nhưng không hiểu hắn ta hành động như vậy, rốt cục là nhằm mục đích gì?



Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Tuyệt từ lâu đã sớm không màng đến sự sống chết của bản thân. Sau khi phát hiện trong bom địa chấn có chứa chất độc màu da cam, lúc đầu ai nấy đều khó tránh khỏi cảm giác hoảng loạn, nhưng về sau nghĩ kỹ lại, họ thấy rằng thế cũng chẳng sao. Tuy nói di chứng hậu họa của loại vũ khí hóa học này là vô cùng vô tận, lúc đó ở tại hiện trường phát nổ, thì cho dù có đeo mặt nạ phòng độc, nhưng với tình trạng không mặc loại trang phục đặc biệt phòng chống hóa chất, e rằng cũng khó mà được bảo vệ hoàn toàn. Nhưng dù sao thì chất độc cũng chẳng phát tác ngay tức thì, vì thời kỳ ủ bệnh có thể kéo dài năm ba năm, cũng có thể bảy tám năm, thậm chí có thể kéo dài hơn nữa, ai mà nói chính xác được. Lúc này Karaweik đã chết, trong lòng mọi người đều đau buồn, nên chẳng muốn có bất kỳ liên can gì với núi Dã Nhân này nữa, họ chỉ mong cơn giông tố tạm ngớt là lập tức lên đường.




Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến thần trí bất định, cho rằng cô ta đang sợ di chứng để lại do chất độc màu da cam đáng sợ mang đến, liền nói: "Việc này đúng là rất khó chấp nhận, chúng ta chắc chẳng ai cảm thấy dễ chịu cả, nhưng dù sao việc cũng xảy ra rồi, cô nghĩ nhiều cũng vô ích thôi."



La Đại Hải trong lòng đang sẵn bực mình, thấy Ngọc Phi Yến cau mày thiểu não, thì càng được thể cười vui trước nỗi đau của kẻ khác: "Gặp phải chuyện đen đủi này, với cô có thể nó là địa ngục, nhưng với chúng tôi, nó chẳng qua chỉ như cơm bữa thường ngày mà thôi."



Tuyệt đẩy Hải ngọng sang một bên, lại tiếp tục khuyên giải Ngọc Phi Yến: "Từ khi đội thám hiểm vào núi đến nay, trên đường bị tổn thất thương vong rất nặng nề, thoát khỏi thiên la, lại rơi vào địa võng, những hung hiểm trong núi Dã Nhân dường như vô cùng vô tận, chỉ sợ là rơi vào cái hố không đáy, chớp mắt vô tình, còn quay đầu là sẽ có kế sách, hay là cô cùng chúng tôi trốn ra khỏi núi cho xong?"



Kỳ thực sau khi hội Xuyên Sơn Giáp gặp phải bất trắc, Ngọc Phi Yến cũng đã suy tính đến việc rút tay không làm nữa, nhưng tâm trạng của cô lúc đó chẳng khác nào tâm trạng của kẻ đang đánh bạc. Vì phi vụ làm ăn này mà bọn cô đã bỏ ra bao nhiêu tiền của, nếu giờ đây đứt gánh giữa đường, chẳng phải tất cả công sức đều đổ xuống sông xuống bể cả hay sao? Cuối cùng càng lún, càng sâu, càng lúc càng thua đậm, đến khi thực sự muốn dừng chân, thì tất cả đã quá muộn.



Lúc này Ngọc Phi Yến nghe Tuyệt nói, thực đúng như người mù được chữa sáng mắt, lời nói đã khiến cô giác ngộ triệt để. Cô ngẫm lại thấy quả không sai, sau khi quả bom địa chấn phát nổ, núi Dã Nhân không biết còn xảy ra những hiểm họa gì nữa, thế là cô liền gật đầu chấp nhận cùng ba người sống sót của đội du kích, nghĩ cách tháo chạy khỏi núi Dã Nhân.



Ai ngờ đúng lúc đó, mặt đất dưới chân rạn nứt sụt lở dữ dội làm mọi người cuống quýt. Cho rằng chắc sóng địa chấn chưa hoàn toàn dứt hẳn, người nào người nấy hấp tấp gắng sức đứng lên, thi nhau lùi ra sau né tránh. Đến khi giẫm chân lên được chỗ đất rắn chắc, rồi dùng đèn halogen chiếu sáng bốn phía xung quanh, họ chỉ thấy cả khu vực đầm lầy trước mắt đang lặng lẽ sụt xuống với tốc độ nhanh đến chóng mặt. Quầng sáng của đèn chiếu tuy rằng không thể rọi đến nơi xa, nhưng cũng có thể đoán được tình hình sụt đất này chắc là do điểm trung tâm phát nổ đang khuếch tán rộng ra ngoài.



Tại khu vực bị sụt xuống, đầu tiên là mặt nước không ngừng bốc bọt khí, sau đó hiện ra một vũng xoáy trôn ốc, nước tù bùn lầy trong đầm dường như liên tiếp bị hút xuống phía dưới, cuối cùng cũng lộ ra một đường vực thẳm, cúi đầu xuống nhìn, chỉ thấy phía dưới tối mịt, chẳng rõ đáy sâu bao nhiêu. Thì ra dưới vùng đầm lầy trong khe núi Dã Nhân còn tồn tại một khu vực sâu hút không thể lường được như vậy.



Ngọc Phi Yến thấy sự việc này ẩn chứa quá nhiều uẩn khúc kỳ bí, bất giác nghĩ đến tầng đất lúc trước nhìn thấy dưới đáy động: chúng đều là hợp chất Silicat, màu vàng như gan chó, trông rất khác thường. Lúc đó gã Gấu trắng từng giải thích loại vật chất này tiềm tàng ở tầng giữa lớp vỏ địa chất và quyển manti, chỉ có nơi vực thẳm dựng đứng với độ sâu trên chục ngàn mét mới xuất hiện mà thôi, nhưng độ sâu của khe núi Dã Nhân chắc chỉ vào khoảng hơn hai ngàn mét, nên căn bản không thể chạm tới điểm gián đoạn Moho.



Giờ đây xem ra sự thực không phải như vậy, gã người Liên Xô đó quá nửa là hoa mắt nhìn nhầm, vật chất đặc biệt dưới đầm lầy chắc là do một loại thực vật bào tử[26] nào đó sinh tồn trong lòng đất, hình thành một tầng "kén" dày bì giữa lòng khe núi. Trải qua năm dài tháng rộng, kén trầm tích thành vũng bùn, lúc này tầng kén đã bị chất độc màu da cam trong quả bom địa chấn phá hủy, nên đang nhanh chóng héo rụng, chết rũ.



Mọi người hít ngược một hơi khí lạnh vào phổi, nếu cả khu vực đáy sơn cốc đều như vậy, thì quả thực không thể tưởng tượng thực vật bào tử, giống hình chiếc ô kia, rốt cục có thể sinh trưởng to lớn cỡ nào; chỉ thấy vực sâu không đáy, vốn bị kén niêm phong kín mít từ hàng chục triệu năm nay, đột nhiên bửa đôi ra. Đường nứt sâu hút đột ngột xuất hiện trước mắt mọi người, dường như là đường hầm đi xuyên vào tâm trái đất, nó vừa sặc sỡ quái dị, vừa mờ mịt, thần bí, vươn dài xuống lòng đất vô cùng vô tận. Nó mang đến cho người ta cảm giác âm u, ghê rợn, bởi vì bên trong đó tràn ngập bóng tối chưa hề được biết đến; thứ bóng tối mà mắt thường và tâm linh con người vĩnh viễn không thể nào nhìn thấu được, mà nơi tận cùng của bóng tối lại càng là điều bí ẩn nhất trong những điều bí ẩn.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom