Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,258
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Ban khoa học hành vi, 25 tháng 2

Vincent Clarisso là Albert.

Kẻ vừa mới rời nhà tù chưa đầy hai tháng, sau thời gian bóc lịch vì phạm tội cướp có vũ trang.

Sau khi ra tù, hắn đã bắt đầu kế hoạch của mình.

Không có tiền án hình sự. Không có dấu hiệu bệnh thần kinh. Không có gì khiến người ta nghĩ hắn là một kẻ có khả năng trở thành một tên giết người hàng loạt.

Vụ cướp có vũ trang là một “tai nạn” theo như các luật sư bào chữa cho hắn tại tòa. Sự ngớ ngẩn của một thanh niên nghiện ma túy nặng. Clarisso xuất thân từ một gia đình khá giả, bố là luật sư và mẹ là giáo viên. Hắn đã học xong và có bằng y tá. Trong một thời gian, hắn đã làm công việc chuẩn bị dụng cụ mổ tại một bệnh viện. Có thể đó là nơi hắn đã học được các kiến thức cần thiết để duy trì sự sống cho Sandra sau khi đã cắt một bên tay của cô bé.

Giả thiết của nhóm điều tra cho rằng Albert là bác sĩ hóa ra không quá sai biệt.

Vincent Clarisso đã cho tất cả những kinh nghiệm đó ngủ yên sau một lớp kén, trong con người mình, trước khi lột xác thành một con quỷ.

Nhưng Mila không tin chuyện này.

Không phải hắn, cô thầm lặp đi lặp lại trong chiếc taxi chở cô đến trụ sở cảnh sát liên bang.

Sau khi biết tin qua truyền hình, Goran đã nói chuyện trong khoảng hai chục phút với Stern và được anh cập nhật các sự kiện vừa diễn ra. Nhà tội phạm học đi qua đi lại trong căn buồng khách sạn dưới ánh mắt lo ngại của Mila. Sau đó hai người chia tay. Goran gọi cho bà Runa để bảo bà ở lại với Tommy đêm nay, rồi ông nhanh chóng đến địa điểm mà Sandra được tìm thấy. Mila cũng muốn đi theo, nhưng sự hiện diện của cô là không cần thiết. Do vậy hai người hẹn gặp nhau sau đó tại ban khoa học hành vi.

Đã quá nửa đêm, nhưng thành phố vẫn bị tắc đường nghiêm trọng. Mọi người ra khỏi nhà, mặc kệ cơn mưa, để ăn mừng sự kết thúc của cơn ác mộng. Tưởng như đây là đêm giao thừa, với những tiếng còi xe inh ỏi trong khi mọi người ôm hôn nhau thật chặt. Tình hình giao thông càng phức tạp hơn do các chốt kiểm soát được dựng lên để chặn đường những kẻ đồng lõa của Clarisso nếu có, đồng thời để ngăn không cho những người hiếu kỳ kéo đến hiện trường kết thúc của vụ việc.

Trong xe taxi đang nhích từng mét một, Mila nghe được một báo cáo mới trên đài. Terence Mosca đã trở thành người hùng. Vụ án được giải quyết nhờ may mắn. Nhưng như thường khi, kẻ duy nhất hưởng lợi là người đứng đầu chiến dịch hành động.

Mệt mỏi vì phải chờ đợi hàng xe hơi nối đuôi nhau, Mila quyết định xuống xe, đương đầu với cơn mưa nặng hạt. Tòa nhà của trụ sở cảnh sát liên bang chỉ còn cách đó hai khối nhà. Cô trùm chiếc mũ áo khoác lên đầu và bước đi, chìm trong suy nghĩ.

Con người Vincent Clarisso không khớp với chân dung của Albert được Gavila vẽ nên.

Theo nhà tội phạm học, đối tượng của họ đã sử dụng thi thể của các nạn nhân như những dấu mốc. Gã đặt chúng tại những địa điểm đặc biệt, để hé lộ những tội ác kinh khủng mà gã biết. Họ đã cho rằng hắn là kẻ cộng tác ẩn mặt của những thủ phạm kia, và tất cả đều đã gặp mặt gã trong đời.

“Đó là những con sói. Bọn sói thường đi săn theo bầy đàn. Mỗi đàn có một con thủ lĩnh. Đây là điều mà Albert muốn nói với chúng: gã chính là con sói đầu đàn”, Goran từng khẳng định như thế.

Mila càng tin rằng, Vincent không phải là Albert khi căn cứ vào tuổi của hắn: ba mươi. Quá trẻ để biết đến một Ronald Dermis ở cô nhi viện ngày xưa, cũng như Joseph B. Rockford. Quả vậy, nhóm điều tra đã rút ra kết luận rằng, Albert phải ở tầm từ năm mươi đến sáu mươi tuổi. Ngoài ra, Vincent cũng không giống với các mô tả của bà Nicla chút nào.

Trong khi đi bộ dưới trời mưa, Mila tìm thấy một lý do nữa để củng cố sự ngờ vực của mình: Clarisso đã ở trong tù khi Feldher thảm sát gia đình bà Yvonne trong ngôi biệt thư của Capo Alto, như vậy làm sao gã có mặt chứng kiến việc đó và để lại hình dáng của mình giữa đám máu bắn trên tường?

Không phải hắn. Họ đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Nhưng chắc Goran cũng đã nhận ra điều đó và đang giải thích với họ.

Lúc đến trụ sở cảnh sát, Mila nhận ra không khí sảng khoái đang tràn ngập khắp các hành lang. Các cảnh sát vỗ vào lưng nhau, nhiều người vừa từ hiện trường về, trên người vẫn đang mặc trang phục chống đạn, và đang kể cho nhau nghe những thông tin mới nhất. Tin tức sau đó được truyền khẩu và thêm thắt những chi tiết mới.

Mila được một nữ cảnh sát thông báo là Roche muốn gặp cô khẩn cấp.

- Tôi á? - Cô ngạc nhiên hỏi lại.

- Phải, ông ấy đang đợi cô ở trong văn phòng.

Trong lúc leo lên cầu thang, Mila tự nhủ Roche cho gọi mình bởi ông ta đã nhận ra có điều gì đó không ăn khớp. Có lẽ không khí vui mừng sẽ sớm bị giải tỏa và lắng xuống.

Tại ban khoa học hành vi, chỉ có vài đặc vụ trong bộ đồng phục, và không ai ăn mừng. Bầu không khí giống như một ngày làm việc bình thường, trừ việc đang là ban đêm mà mọi người vẫn làm nhiệm vụ.

Cô đợi một lúc lâu trước khi thư ký của Roche đưa cô vào văn phòng của ông ta. Lúc đứng bên ngoài, Mila đã nghe thấy tiếng của ngài chánh thanh tra, có lẽ ông đang trao đổi qua điện thoại. Nhưng khi bước qua ngưỡng cửa, cô bất ngờ nhận thấy ông ta không ở một mình. Goran Gavila cũng đang có mặt tại đó.

- Vào đi, đặc vụ Vasquez.

Roche mời cô ngồi. Goran và ông đang đứng ở đầu kia của chiếc bàn làm việc.

Cô tiến lại gần Gavila. Ông chỉ khẽ nghiêng người về phía cô, gật nhẹ đầu. Sự thân mật trước đó một giờ đồng hồ đã hoàn toàn biến mất

- Tôi vừa mới nói với Goran là tôi muốn cả hai người có mặt tại buổi họp báo sẽ diễn ra sáng mai. Đại úy Mosca cũng đồng ý với tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ tìm ra được thủ phạm nếu không có sự giúp đỡ của cô. Chúng tôi rất muốn cảm ơn cô.

Mila không giấu nổi sự ngỡ ngàng. Đến lượt Roche bối rối trước phản ứng của cô.

- Thưa ngài, với tất cả sự kính trọng của tôi… Tôi nghĩ chúng ta đang phạm phải một sai lầm nghiêm trọng.

Roche nói với Goran:

- Nhưng cô nàng này đang nói cái quái gì thế?

- Mila, mọi thứ đều ổn. - Nhà tội phạm học nói một cách điềm tĩnh.

- Không, không hề ổn chút nào. Gã này không phải là Albert, có quá nhiều điểm không phù hợp, tôi thấy…

- Cô sẽ không nói những lời lẽ như thế ở cuộc họp báo chứ? - Ngài chánh thanh tra bác bỏ. - Nếu không, sự tham dự của cô sẽ được miễn trừ.

- Stern sẽ đồng ý với tôi.

Thanh tra Roche vẫy một tờ giấy nãy giờ đang nằm trên bàn ông.

- Đặc vụ Stern vừa mới nộp đơn xin thôi việc có hiệu lực tức thời.

- Cái gì? Chuyện gì đang diễn ra thế này? - Mila hỏi, không tin ở tai mình. - Tay Vincent này không hề trùng khớp với mô tả về thủ phạm.

Goran cố gắng giải thích cho cô nghe, và trong một thoáng cô thấy lại sự dịu dàng trong mắt ông khi ông hôn lên những vết sẹo của cô.

- Hàng chục bằng chứng đã khẳng định rằng đó là đối tượng chúng ta đang truy lùng. Các cuốn sổ đầy những ghi chú về những vụ bắt cóc các cô bé, và cách thức sắp đặt các thi thể, bản sao của sơ đồ hệ thống camera an ninh khu Capo Alto, sơ đồ trường nội trú mà Debby Gordon theo học, cùng với những cuốn sách về điện tử và thông tin mà Clarisso đã bắt đầu nghiên cứu lúc ở trong tù...

- Và mọi người cũng đã tìm thấy tất cả những mối liên hệ giữa hắn với Alexander Bermann, Ronald Dermis, Feldher, Rockford lẫn Boris sao? - Mila nổi đóa.

- Một nhóm điều tra đang làm việc trong căn nhà đó, và chúng tôi đang tiếp tục thu thập các chứng cứ. Rồi cô sẽ thấy những bằng chứng về các mối liên hệ.

- Nhưng như thế không đủ, tôi tin là...

- Sandra đã nhận diện hắn. - Goran ngắt lời cô. - Con bé nói với chúng tôi chính hắn là kẻ đã bắt cóc mình.

Mila đã nguôi đi đôi chút.

- Con bé thế nào rồi?

- Các bác sĩ tỏ ra lạc quan.

- Giờ thì cô hài lòng rồi chứ? - Thanh tra Roche xen vào. - Nếu cô có ý định gây rắc rối nữa thì tốt hơn cô nên về nhà.

Đúng lúc đó, cô thư ký thông báo với Roche qua điện thoại là ngài thị trưởng muốn gặp ông ngay, và ông cần phải khẩn trương lên.

Roche cầm lấy áo comlê treo ở lưng ghế và cảnh báo Goran:

- Hãy giải thích cho cô ấy nghe đây là kết luận chính thức. Hoặc cô ấy chấp thuận, hoặc là biến đi cho khuất mắt!

Nói rồi ông đi ra, sập cửa lại sau lưng.

Mila cứ tưởng khi chỉ còn hai người, Goran sẽ nói điều gì khác. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh:

- Đáng tiếc thay, chính chúng ta là người đã phạm sai lầm.

- Sao anh có thể nói như thế được kia chứ?

- Đây là một thất bại hoàn toàn, Mila à. Chúng ta đã dựng nên một hướng điều tra sai lầm và mù quáng, đi theo nó. Và anh chính là kẻ chịu trách nhiệm chính: tất cả những phỏng đoán theo hướng đó đều là của anh.

- Tại sao anh không tự hỏi làm thế nào Vincent Clarisso biết được tất cả những người kia? Chính hắn là kẻ đã giúp chúng ta bắt họ!

- Đó không phải là vấn đề... Vấn đề nằm ở chỗ, chính chúng ta đã mất quá nhiều thời gian để phát hiện ra họ.

- Em thấy anh hiện giờ không đủ khách quan, em không biết tại sao. Hồi xảy ra vụ Wilson Pickett, Roche đã cứu vớt danh tiếng của anh, và giúp anh duy trì nhóm điều tra, trong khi cấp trên của ông ta muốn giải tán bọn anh. Bây giờ, anh trả ơn ông ta bằng một điều tương tự: nếu anh chấp thuận kết luận điều tra này, anh sẽ hạ thấp đôi chút uy tín của Terence Mosca, và Roche sẽ giữ được cái ghế của mình!

- Đủ rồi đấy! - Goran gầm lên.

Trong vài giây, hai người không nói một lời. Sau đó nhà tội phạm học tiến ra cửa.

- Anh hãy cho em biết một chuyện... Boris đã thú nhận rồi hay sao? - Mila chỉ kịp hỏi ông có thế.

- Chưa. - Ông đáp mà không buồn quay lại.

Mila bị bỏ lại một mình, cô chống hai tay vào hông, tự nguyền rủa mình. Mắt cô nhìn xuống tờ đơn từ chức của Stern. Cô cầm nó lên đọc. Mấy dòng đầu tiên chẳng đả động gì đến nguyên nhân xin thôi việc. Nhưng với cô, rõ ràng là Stern đã cảm thấy bị phản bội, trước hết bởi Boris, sau đó là bởi Goran.

Đặt tờ giấy xuống bàn, cô trông thấy một danh sách các cuộc gọi, trên đó có tên của Vincent Clarisso. Roche có lẽ đã yêu cầu kiểm tra xem trong số những kẻ quen biết hắn, có người nào cần phải được che giấu hay không. Vụ án đã dính líu đến cả những người tầm cỡ như Joseph B. Rockford, nên ai mà biết được.

Nhưng tên giết người hàng loạt không có nhiều mối quan hệ xã hội, vì chỉ có một cú điện thoại duy nhất trong danh sách. Cuộc gọi diễn ra vào ngày hôm qua.

Nhìn số điện thoại, Mila thấy nó quen một cách lạ lùng.

Cô rút di động ra, bấm thử số điện thoại. Một cái tên xuất hiện trên màn hình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,258
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Điện thoại đổ chuông, nhưng không ai nhấc máy.

Thức dậy đi nào, trời ơi!

Bốn bánh xe taxi hất văng chỗ nước đọng trên mặt đường nhựa, nhưng may thay mưa đã ngừng rơi. Con đường lấp lánh như trong bối cảnh của một vở nhạc kịch, tưởng như những vũ công mặc trang phụ dạ hội, mái tóc vuốt gel láng mượt có thể xuất hiện vào bất kỳ lúc nào.

Điện thoại reo mãi cũng ngừng. Mila lại bấm số. Đây đã là lần thử thứ ba của cô. Ở hồi chuông thứ năm, có người nhấc máy.

- Ai gọi đó? Có biết mấy giờ rồi không hả?

Giọng nói của Cinthia nghe rất ngái ngủ.

- Tôi là Mila Vasquez. Cô còn nhớ chứ? Chúng ta đã gặp nhau ngày hôm kia...

- À, tôi nhớ ra chị rồi... Nhưng chuyện này để mai được không? Chị biết đấy, tôi vừa mới uống một liều thuốc ngủ.

Không có gì ngạc nhiên khi một người sống sót qua tay một tên sát nhân hàng loạt, cộng thêm tác hại của rượu, lại phải cần đến thuốc men để có được giấc ngủ. Nhưng Mila không thể chờ thêm được một giây nào nữa. Cô cần có ngay câu trả lời cho những thắc mắc của mình.

- Không. Tôi xin lỗi cô, nhưng tôi cần gặp cô ngay lúc này. Không mất nhiều thời gian đâu.

- Thôi được.

- Hôm qua, vào buổi sáng, cô đã nhận một cuộc gọi...

- Phải, lúc tôi rời nhà đi làm. Tại anh ta mà tôi bị sếp mắng cho vì cái tội đi muộn.

- Ai đã gọi cho cô thế?

- Anh ta bảo là đang điều tra cho bên bảo hiểm. Cô biết đấy, tôi đã yêu cầu được bồi thường, vì những chuyện đã xảy ra…

- Anh ta có cho cô biết tên không?

- Spencer thì phải. Đáng lẽ tôi phải ghi lại.

Vô ích thôi: Vincent Clarisso đã lấy tên giả và tạo cớ để cho Cinthia không nghi ngờ gì. Mila tiếp tục:

- Không sao. Anh ta muốn gì vậy?

- Muốn tôi kể lại vụ việc qua điện thoại. Tôi đã kể cho anh ta nghe về Benjamin Gorka.

Mila ngỡ ngàng. Tại sao Vincent Clarisso lại muốn tìm hiểu về vụ Wilson Pickett? Hắn là người đã đặt thi thể số năm tại studio để tiết lộ rằng chính Boris chứ không phải Benjamin Gorka mới là người đã giết chết Rebecca Springher kia mà?

- Anh ta cần biết chuyện của cô để làm gì?

- Để hoàn thành bản báo cáo, anh ta bảo thế. Bọn bảo hiểm ấy mà, tỉ mỉ lắm.

- Anh ta còn hỏi cô chuyện gì khác hay không?

Cinthia không đáp ngay. Mila đã sợ cô nàng ngủ thiếp đi mất, nhưng thật ra Cinthia đang nhớ lại.

- Không, không có gì nữa. Anh ta rất dễ thương. Cuối cuộc gọi, anh ta bảo tôi là hồ sơ của tôi đang tiến triển. Có thể tôi sẽ được nhận tiền đấy, chị biết không?

- Tôi thấy mừng cho cô. Xin lỗi vì đã quấy quả cô vào giờ khuya khoắt như thế này.

- Nếu những gì tôi nói có thể giúp cho các chị tìm ra được cô bé nạn nhân đang mất tích kia, thì tôi không thấy phiền gì cả.

- Thật ra, cô bé đã được tìm ra rồi.

- Sao cơ? Thật chứ?

- Cô không xem ti vi à?

- Tối nay tôi đi ngủ từ lúc chín giờ.

Cinthia muốn nghe thêm, nhưng Mila không có thời gian. Cô vờ như có một cuộc gọi khác đang chờ mình, rồi gác máy.

Trước khi nói chuyện với Cinthia, cô đã nhận ra một điều.

Có thể Boris đã bị gài bẫy.

- Đến chỗ này là tôi không đi tiếp được nữa đâu. - Người tài xế quay lại nói với cô.

- Không sao, tôi đến nơi rồi.

Cô thanh toán tiền rồi xuống xe. Trước mặt cô là một hàng rào cảnh sát và hàng chục chiếc xe nháy đèn xanh đỏ. Mấy chiếc xe kỹ thuật của các đài truyền hình nối đuôi nhau thành hàng dài trên đường. Cánh quay phim đã đặt thiết bị sao cho luôn thấy được hình ảnh ngôi nhà ở hậu cảnh.

Mila đã đến nơi mọi chuyện bắt đầu. Hiện trường được đánh số 0.

Ngôi nhà của Vincent Clarisso.

Cô thậm chí còn chưa biết mình sẽ qua được hàng rào an ninh bằng cách nào. Cô chỉ biết lấy thẻ ra đeo vào cổ, với hy vọng không ai nhận ra cô là kẻ đột nhập.

Trong khi tiến lên, Mila nhận ra những khuôn mặt những người đông nghiệp mà cô đã từng thấy trong hành lang của trụ sở cảnh sát. Một số người tụ họp nhau quanh cốp một chiếc xe hơi. Số khác nghỉ giải lao ăn uống tí chút. Cô cũng nhận ra chiếc xe của bác sĩ pháp y: Chang đang ngồi bệt ở bậc cửa xe viết báo cáo. Anh chỉ ngước mắt lên nhìn khi cô đi qua trước mặt mình.

- Ê, cô đi đâu đấy?

Mila quay lại và trông thấy một cảnh sát to béo đang cố bắt kịp mình, hơi thở phì phò. Cô chưa kịp chuẩn bị lý do. Đáng lẽ cô phải làm từ trước, nhưng cô đã không làm, và bây giờ thì có lẽ đã quá muộn.

- Cô ấy đi cùng tôi.

Krepp đang tiến đến chỗ họ. Ông có một miếng băng ngay cổ, nơi cái đầu và mấy chiếc gai của một con rồng có cánh ló ra, chắc đó là hình xăm mới nhất. Ông nói với tay cảnh sát:

- Để cho cô ấy qua, cô ấy được cho phép rồi.

Tay cảnh sát tin ngay và lập tức quay gót.

Mila nhìn Krepp, không biết phải nói gì. Ông nháy mắt với cô, rồi đi tiếp. Thật ra ông ấy giúp cô cũng không có gì là lạ, Mila nghĩ thế. Cả hai người đều có một phần câu chuyện riêng của mình khắc trên da thịt, dù là bằng những cách khác nhau.

Lối đi lên nhà dốc thoai thoải. Trên lớp đá lát, người ta vẫn còn nhìn thấy vỏ đạn của các phát súng đã hạ gục Vincent Clarisso. Cánh cửa ngôi nhà đã được gỡ ra khỏi bản lề để tiện cho việc ra vào.

Ngay khi bước chân vào bên trong, Mila thấy rợn người vì mùi thuốc tẩy trùng nồng nặc.

Đồ đạc trong nhà làm bằng formica, kiểu dáng thập niên sáu mươi. Một chiếc trường kỷ có hoa văn Ả Rập vẫn còn được bọc ni lông. Lò sưởi với ngọn lửa giả. Một quầy bar có cùng tông màu với tấm thảm vàng. Giấy dán tường trang trí những bông hoa cách điệu to tướng màu nâu giống như hoa mõm chó.

Thay cho những ngọn đèn halogen thường thấy là những bóng đèn có chụp. Một dấu hiệu khác của phong cách được Terence Mosca áp đặt. Đối với ông đại úy thì không có khái niệm “hiện trường”. Tất cả phải được thực hiện một cách vừa mức. Phong cách của cảnh sát thời trước, Mila nghĩ bụng. Vừa lúc đó cô nhận ra Mosca đang ở trong bếp và có một cuộc họp nhỏ với những người thân cận. Cô tránh đi hướng khác: cần phải không để cho ai chú ý đến cô, trong chừng mực có thể.

Mọi người đều đeo túi bảo vệ cho giày và găng tay cao su. Mila đeo chúng vào rồi quan sát quanh mình, trà trộn vào đám đông những người có mặt.

Một cảnh sát đang bận lôi tất cả những cuốn sách trong thư viện ra. Từng cuốn một. Ông lật nhanh chúng rồi đặt xuống đất. Một người khác lục lọi mấy ngăn kéo tủ commốt. Một người nữa đang phân loại các món đồ trang trí. Những nơi mà các đồ vật còn chưa bị xê dịch và kiểm tra có vẻ cực kỳ ngăn nắp, đến mức gần như bệnh hoạn.

Không có lấy một hạt bụi. Chỉ cần nhìn là đã phân loại được mọi thứ, như mọi món đồ đều được sắp vào đúng chỗ của nó. Tưởng như cô đang đứng trước một bức tranh ghép hình đã hoàn thành.

Mila không biết phải tìm gì. Cô đến đây vì đương nhiên nó là điểm xuất phát. Cô càng có thêm động lực sau khi biết thông tin về cú điện thoại mà Vincent Clarisso đã gọi cho Cinthia Pearl. Nếu hắn muốn được nghe kể lại vụ việc từ nhân chứng sống sót duy nhất, thì có thể hắn không biết Benjamin Gorka là ai, và nếu như vậy, có thể cái xác đặt trong studio không phải dành cho Boris.

Lập luận này không đủ để minh oan cho anh chàng đồng nghiệp của cô, vì dẫu sao cũng đang có một vật chứng nặng ký chống lại Boris: chiếc quần lót của Rebecca Springher, được tìm thấy khi lục soát căn hộ của anh.

Nhưng dù sao thì cũng có điều gì đó không khớp.

Mila nhận ra mùi thuốc tẩy trùng phát ra từ căn phòng nằm ở cuối hành lang.

Không khí rất sạch sẽ, giống như một giường bệnh đặt trong lồng oxy. Có rất nhiều thuốc men, áo blu và thiết bị y tế. Đây là phòng phẫu thuật mà Vincent đã sử dụng để chặt cánh tay các nạn nhân nhỏ tuổi và sau đó biến nó thành phòng bệnh cho Sandra.

Khi bước sang một căn phòng khác, Mila nhận thấy một cảnh sát đang quan sát một màn hình ti vi plasma nối với chiếc camera kỹ thuật số. Trước màn hình có đặt một ghế bành, chung quanh là hệ thống loa âm thanh vòm. Hai bên cạnh của chiếc ti vi là một bức tường đầy băng hình, sắp xếp theo ngày tháng. Viên cảnh sát nhét từng chiếc băng vào trong camera để xem nội dung.

Hiện tại trên màn hình hiện lên những hình ảnh của một sân chơi. Những tiếng cười trẻ thơ vang lên dưới ánh mặt trời mùa đông. Mila nhận ra Caroline, cô bé cuối cùng bị Albert bắt cóc và giết chết.

Vincent Clarisso đã nghiên cứu rất tỉ mỉ các nạn nhân của mình.

- Ê, có ai đến giúp tôi một tay với mấy thứ này không? Đồ điện tử thì tôi mù tịt! - Tay cảnh sát nói to trong lúc cố gắng cho đoạn phim ngừng lại.

Khi nhận thấy sự hiện diện của Mila trên ngưỡng cửa, anh ta thoáng mừng rỡ vì tưởng có người đến hỗ trợ, nhưng rồi nhận ra mình chưa bao giờ nhìn thấy cô gái này. Trước khi anh ta kịp lên tiếng thì Mila đã đi tiếp.

Căn phòng thứ ba quan trọng nhất.

Trong phòng, có một cái bàn bằng thép cao chân. Các vách tường phủ kín những tấm bảng gắn các mảnh giấy ghi chú đủ màu sắc và các giấy tờ khác. Tưởng như cô đang ở trong Phòng suy tưởng. Tất cả các kế hoạch của Vincent Clarisso được phơi bày đến từng chi tiết. Những tấm bản đồ đường bộ, thời gian biểu và lịch trình di chuyển. Sơ đồ trường nội trú của Debby Gordon, cũng như của cô nhi viện. Có cả bảng số xe của Alexander Bermann, cùng lịch trình công tác của hắn. Những bức ảnh chụp bà Yvonne Gress với các con, và một tấm ảnh chụp bãi phế liệu của Feldher. Các bài báo nói về Joseph B. Rockford.

Và đương nhiên có cả những tấm ảnh chụp các nạn nhân nhỏ tuổi.

Trên chiếc bàn thép là những sơ đồ khác với nhiều ghi chú lung tung, giống như thể công việc đã bị gián đoạn một cách bất ngờ. Được giấu trong mớ giấy tờ này, có thể là mãi mãi, có kế hoạch cho màn kết thúc của tên giết người hàng loạt.

Mila quay lại và lạnh người. Bức tường mà nãy giờ cô chưa nhìn thấy được dán kín những tấm ảnh chụp các thành viên của nhóm điều tra hình sự trong lúc làm nhiệm vụ. Có cả ảnh của cô.

Vậy là mình đang thực sự ở trong bụng con quái vật rồi.

Vincent đã theo dõi mọi động tĩnh của họ. Nhưng ở đây không có gì gợi liên tưởng đến vụ Wilson Pickett và Boris.

- Mẹ kiếp! Có ai đến giúp tôi không vậy? - Tay cảnh sát ở phòng bên cạnh kêu lên.

- Có chuyện gì vậy Fred?

Cuối cùng cũng có ai đó đến giúp anh chàng.

- Tôi phải làm thế nào để biết mình đang xem cái gì? Hơn nữa, tôi sắp xếp chúng như thế nào, nếu chẳng biết đây là cái quái gì?

- Để tôi xem nào...

Mila thôi nhìn bức tường đầy hình chụp và chuẩn bị ra khỏi căn phòng. Cô thấy hài lòng, nhưng chủ yếu vì cái mình không nhìn thấy, hơn là những gì đã nhìn thấy nãy giờ.

Không hề có Benjamin Gorka. Lẫn Boris. Như vậy là đủ với cô.

Lần phát hiện thi thể nạn nhân số năm, họ đã bị lừa. Hoặc có thể đó là trò đánh lạc hướng. Bằng chứng là Vincent Clarisso đã gọi cho Cinthia Pearl để tìm hiểu thêm khi nhận ra cuộc điều tra đang đi theo hướng khác với dự tính của hắn.

Mila đang nghĩ đến việc cung cấp manh mối này cho thanh tra Roche. Cô tin chắc ông chánh thanh tra sẽ có cách để khai thác thông tin này và gỡ tội cho Boris, đồng thời triệt bớt vinh quang của Terence Mosca.

Lúc đi ngang qua căn phòng để ti vi, cô nhận ra một hình ảnh trên màn hình. Đó là địa điểm mà Fred và người đồng nghiệp không tài nào xác định được.

- Đây là một căn hộ, chứ còn gì nữa?

- Ừ, nhưng tôi ghi thế nào trong báo cáo đây?

- Cứ ghi là địa điểm không xác định.

- Anh chắc chứ?

- Chắc. Một người khác sẽ phụ trách việc tìm ra nó.

Nhưng Mila biết căn hộ đó nằm ở đâu.

Nhận ra sự có mặt của cô, hai cảnh sát quay lại và thấy cô không thể nào rời mắt khỏi màn hình ti vi.

- Chúng tôi giúp gì được cho cô?

Mila không đáp, chỉ lảng đi. Vừa bước vội qua phòng khách, cô vừa rút di động ra khỏi túi và tìm số điện thoại của Goran trong danh bạ.

Khi ông nghe máy thì cô đã ở ngoài đường.

- Có chuyện gì vậy?

- Anh đang ở đâu?

Giọng cô đầy kích động. Nhưng ông không nhận ra.

- Anh còn đang ở văn phòng. Anh đang cố thu xếp cho Sarah Rosa đến thăm con gái tại bệnh viện.

- Hiện nay ai đang ở nhà anh?

Goran bắt đầu trở nên lo lắng.

- Bà Runa và Tommy. Tại sao?

- Anh phải về đó ngay lập tức!

- Tại sao? - Ông hỏi lại, giọng lo ngại.

- Vincent có một cuốn phim quay căn hộ của anh.

- Chuyện này là thế nào? Phim gì?

- Hắn đã có những thước phim để xác định địa điểm... Nếu hắn có đồng lõa thì sao?

Goran im lặng một lúc.

- Em vẫn còn đang ở hiện trường à?

- Phải.

- Vậy thì em ở gần nhà hơn anh. Hãy bảo Mosca phái hai cảnh sát đi cùng em đến nhà anh. Trong lúc đó, anh sẽ gọi cho bà Runa để bảo bà ấy khóa chặt cửa nẻo.

- Đồng ý.

Mila gác máy, rồi quay ngược trở vào trong nhà để nói chuyện với Mosca.

Hy vọng ông ta không đặt quá nhiều câu hỏi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,258
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


- Mila, bà Runa không trả lời điện thoại!

Bình minh đang dần ló rạng.

- Anh đừng lo, bọn em sắp đến nơi rồi.

- Anh đang trên đường đi. Anh sẽ gặp em sau vài phút nữa.

Lái xe phanh kít chiếc xe cảnh sát trên con đường nhỏ vắng lặng của một khu nhà xinh xắn. Hàng xóm vẫn đang còn ngủ say. Chỉ có lũ chim hót chào bình minh trên các nhánh cây và gờ tường.

Mila chạy vội đến cửa tòa nhà. Cô bấm chuông gọi nhiều lần, nhưng không ai trả lời. Cô thử một nhà khác.

- Ai đó?

- Thưa ông, chúng tôi là cảnh sát. Xin ông vui lòng mở cửa ngay.

Cánh cửa bật mở. Mila chạy bổ lên tầng ba, theo sau là hai cảnh sát đi cùng. Họ không sử dụng thang máy chuyển hàng mà leo cầu thang bộ cho nhanh.

Hy vọng không có chuyện gì xảy ra... cầu trời cho thằng bé bình an vô sự...

Mila đang cầu xin một đấng tối cao mà cô đã ngừng tin từ lâu, mặc dù cũng chính Chúa trời là người đã giải thoát cô khỏi tên đao phủ thông qua bà Nicla Papakidis. Chẳng qua vì cô đã gặp quá thường xuyên những đứa trẻ kém may mắn hơn mình nhiều, đến nỗi cô không thể giữ nguyên lòng tin của mình với Chúa nữa.

Cầu trời chuyện này không xảy ra lần nữa, cầu trời nó không xảy ra lần này...

Khi họ lên đến nơi, Mila gõ mạnh vào cánh cửa đóng kín.

Chắc bà Runa ngủ quá say, cô nghĩ bụng. Bà ấy sẽ ra mở cửa ngay thôi mà, mọi thứ sẽ ổn thôi...

Nhưng không ai mở cửa.

Một trong hai cảnh sát tiến lại gần Mila.

- Cô muốn chúng tôi phá cửa không?

Không nói nổi nên lời, Mila chỉ biết gật đầu. Cô nhìn họ lấy đà rồi cùng đá vào cánh cửa.

Cửa căn hộ bật mở.

Im lặng như tờ. Nhưng không phải là một sự im lặng bình thường. Mà là một sự im lặng trống rỗng và nặng nề. Một sự im lặng chết chóc.

Mila rút súng ra, đi theo hai viên cảnh sát.

- Bà Runa!

Tiếng gọi của cô vang dội trong các căn phòng, nhưng không có ai đáp lại. Cô ra hiệu cho hai viên cảnh sát thủ thế, rồi từ từ tiến đến phòng ngủ.

Cô cảm thấy bàn tay phải cầm súng của mình đang run lên. Đôi chân cô nặng trĩu, các cơ mặt co cứng và đôi mắt cô nóng ran.

Cô đã đến căn buồng nhỏ của Tommy. Cánh cửa chỉ khép hờ. Cô dùng tay mở nó ra đủ rộng để quan sát bên trong. Các cửa chớp đang đóng kín, ngọn đèn hình chú hề trên bàn ngủ hắt lên tường hình ảnh của những con thú làm xiếc. Trên chiếc giường kê sát tường có thể nhìn thấy một hình hài bé nhỏ nằm bên dưới các lớp chăn.

Thằng bé nằm co quắp trong tư thế bào thai. Mila rón rén đến gần.

- Tommy. - Cô khẽ gọi. - Tommy, dậy đi con...

Nhưng thằng bé không nhúc nhích.

Khi đến bên giường, Mila đặt khẩu súng xuống cạnh ngọn đèn. Cô thấy nôn nao khó chịu. Cô không muốn giở tấm chăn lên. Cô không muốn khám phá điều cô đã biết. Cô chỉ muốn buông xuôi và ra khỏi căn phòng này. Không thể nào chịu nổi chuyện này, và tất cả những gì đã qua! Bởi lẽ cô đã chứng kiến quá nhiều lần, và giờ thì lần nào cô cũng sợ rằng mọi việc sẽ diễn ra như thế.

Nhưng cô buộc mình vươn tay đến mép tấm chăn. Cô giật mạnh nó.

Cô sững người một lúc với tấm chăn trong tay, mắt nhìn trừng trừng vào đôi mắt của một con gấu bông đang mỉm cười hạnh phúc và nằm bất động.

- Tôi xin lỗi...

Mila giật nảy người. Hai viên cảnh sát đang đứng ở cửa phòng quan sát cô.

- Ở đằng này có một căn phòng bị khóa trái.

Mila đang định ra hiệu cho họ phá cửa thì nghe thấy tiếng Goran vừa bước vào căn hộ vừa gọi cậu con trai:

- Tommy! Tommy ơi!

Cô bước ra gặp ông.

- Thằng bé không có trong phòng.

Goran tỏ ra tuyệt vọng.

- Sao lại thế? Nó không ở trong phòng thì ở đâu mới được?

- Có một cánh cửa đóng kín ở đằng kia, như vậy có bình thường không?

Đang rối trí và lo lắng, Goran không hiểu ra ngay.

- Cái gì chứ?

- Căn phòng bị khóa trái…

Nhà tội phạm học dừng lại.

- Em có nghe thấy không?

- Nghe thấy gì?

- Nó đấy!

Mila không hiểu gì cả. Goran bước vội vào trong phòng làm việc.

Khi nhìn thấy con trai mình nấp dưới chiếc bàn làm việc bằng gỗ gụ, ông không thể cầm được nước mắt. Ông cúi xuống ôm con, siết chặt thằng bé vào lòng.

- Bố ơi, con sợ...

- Ừ, bố biết, cục cưng của bố. Nhưng giờ thì hết rồi.

- Bà Runa về rồi. Khi con dậy thì bà ấy không còn ở đây nữa…

- Nhưng có bố ở đây rồi, con ơi.

Mila vẫn đứng trên ngưỡng cửa, khẩu súng đã nhét lại vào trong bao. Cô yên lòng khi nghe thấy những lời Goran nói trong lúc ông quỳ sau bàn làm việc.

- Bố cho con ăn sáng nhé. Con muốn ăn gì nào? Bánh rán nhé?

Mila mỉm cười. Mối sợ hãi đã trôi qua.

Goran nói tiếp:

- Để bố bế con lên nào.

Cô nhìn thấy ông chui ra khỏi gầm bàn, hơi vất cả một chút để đứng lên.

Nhưng trong tay ông không có đứa bé nào cả.

- Bố giới thiệu với con một người bạn của bố. Cô ấy tên là Mila...

Goran hy vọng con trai ông sẽ thích Mila. Thường thì thằng bé hơi nhát người lạ. Tommy không nói gì và giơ tay chỉ vào khuôn mặt cô cảnh sát. Goran nhìn theo. Ông thấy Mila nước mắt giàn giụa.

Những giọt nước mắt cứ thế tuôn tràn, không hề báo trước. Nhưng lần này, nỗi đau đã dẫn đến nó không mang tính chất máy móc. Vết thương mở toác ra không nằm trong da thịt của cô.

- Có chuyện gì vậy? Chuyện gì đang xảy ra vậy? - Goran hỏi cô. Ông vẫn hành động như thể có một vật nặng trên tay mình.

Cô không biết phải nói thế nào. Có vẻ như ông không giả vờ. Goran thực sự nghĩ là đang ôm con trai mình trong tay.

Hai cảnh sát viên vừa bước đến nhìn họ kinh ngạc. Cả hai chuẩn bị tư thế để can thiệp. Mila ra hiệu cho họ không được động thủ.

- Các anh đợi tôi dưới nhà.

- Nhưng...

- Đi xuống dưới đó và báo về trụ sở. Bảo họ cử đặc vụ Stern đến đây. Nếu anh nghe thấy tiếng súng thì đừng lo: đó là do tôi bắn.

Hai cảnh sát viên miễn cưỡng chấp thuận.

- Có chuyện gì vậy, Mila?

Giọng nói của Goran nghe có vẻ tuyệt vọng. Có vẻ như ông đang hốt hoảng đến mức không thể phản ứng được nữa.

- Tại sao em muốn Stern đến đây?

Mila giơ một ngón tay lên môi, ra hiệu cho ông giữ im lặng.

Rồi cô quay ra hành lang. Cô tiến về phía căn phòng khóa trái. Cô bắn một phát vào ổ khóa làm nó vỡ tung. Cô đẩy cửa.

Căn phòng tối mò. Mùi thối rữa xộc lên. Trên chiếc giường lớn có hai thi thể.

Một lớn, một nhỏ.

Hai bộ xương đen thui bọc trong phần còn lại của lớp da đã rũ xuống như vải mục đang quấn lấy nhau trong một cái ôm ghì thật chặt.

Goran bước vào trong phòng. Ông ngửi thấy mùi xú uế. Và trông thấy hai thi thể.

- Lạy Chúa tôi… - Ông nói, không nhận ra hai cái xác là của ai.

Ông quay về phía hành lang để ngăn không cho Tommy bước vào... nhưng ông không thấy thằng bé đâu cả.

Ông lại nhìn chiếc giường. Thi thể bé nhỏ kia. Sự thật tàn nhẫn đổ ập xuống ông. Và ông đã nhớ ra mọi chuyện.

Mila tìm thấy Goran đang đứng cạnh cửa sổ. Ông đang nhìn ra ngoài. Sau bao nhiêu ngày mưa tuyết, mặt trời đã chiếu sáng trở lại.

- Vậy ra đây là điều Albert muốn nói với chúng ta, thông qua thi thể bé gái số năm.

Goran không đáp.

- Và anh đã lái cuộc điều tra vào Boris. Anh chỉ cần gợi ý cho Terence Mosca hướng đi: chính anh đã đưa cho ông ta tập hồ sơ vụ Wilson Pickett mà em nhìn thấy trong chiếc túi của ông ta... Và cũng chính anh là người có quyền tiếp cận các bằng chứng của vụ Gorka, nên anh đã lấy chiếc quần lót của Rebecca Springher khỏi kho tang vật và đưa đến nhà Boris trước khi diễn ra cuộc khám xét.

Goran gật đầu.

Từng hơi thở của cô nghe giống như tiếng thủy tinh vỡ, khi cô cố sức đẩy nó lên từ trong buồng phổi.

- Tại sao? - Mila nói, cổ họng nghẹn lại.

- Bởi vì, sau khi bỏ đi, bà ấy đã quay lại căn nhà này. Bởi vì bà ấy không quay về để ở lại. Bởi vì bà ấy muốn lấy đi của anh thứ duy nhất còn sót lại để mà yêu thương. Và bởi vì thằng bé, nó muốn ra đi cùng mẹ nó.

- Tại sao? - Mila lặp lại, nước mắt rơi lã chã.

- Một sáng nọ, anh thức dậy và nghe thấy tiếng Tommy gọi từ trong nhà bếp. Anh vào trong đó và thấy thằng bé đang ngồi ở vị trí thường lệ. Nó đòi anh dọn bữa sáng. Anh thì mừng đến nỗi quên mất là nó không còn nữa…

- Tại sao? - Mila khẩn khoản.

Lần này, ông nghĩ thật kỹ trước khi trả lời.

- Vì anh yêu cả hai mẹ con họ.

Trước khi cô kịp ngăn lại, ông đã mở toang cửa sổ và ném mình vào khoảng không mênh mông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,258
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Trước đây cô luôn muốn có một con ngựa lùn.

Cô còn nhớ mình đã làm tình làm tội bố mẹ để được mua cho một con. Nơi họ ở thậm chí còn chẳng có chỗ để giữ con ngựa. Sân sau quá bé, bên cạnh nhà để xe thì chỉ có một rẻo đất để ông cô trồng rau. Nhưng cô cứ nằng nặc vòi vĩnh. Bố mẹ cô cứ tưởng cô sẽ quên yêu sách phi lý đó đi, nhưng cứ đến dịp sinh nhật hay viết thư cho ông già Noel là cô lại chỉ đòi mỗi con ngựa.

Khi Mila rời khỏi bụng con quái vật về nhà sau hai mươi mốt ngày giam cầm và ba tháng nằm viện, một con ngựa lùn màu trắng và nâu đã đợi cô trong sân.

Mong ước của cô đã được đáp ứng. Nhưng cô không tài nào thấy thích nó được.

Bố cô đã phải kỳ kèo, cầu cạnh những người ít ỏi mà ông quen biết để có được con ngựa với giá rẻ. Gia đình cô chẳng khá giả gì, và chính lý do kinh tế là điều đã khiến cô mãi là cô con gái độc nhất của bố mẹ.

Hai người không thể cho cô một đứa em gái hay em trai, nhưng bù lại họ đã mua cho cô con ngựa. Nhưng cô lại không cảm thấy sung sướng vì điều đó.

Đã nhiều lần cô mơ ước có được món quà này. Cô nói về nó suốt, tưởng tượng mình sẽ chăm sóc nó, cột những cái nơ đủ màu sắc lên bờm nó, chải chuốt lông mượt mà cho nó. Cô thường xuyên bắt con mèo phải chịu đựng những trò chăm sóc đó. Có lẽ cũng vì thế mà Houdini không ưa cô và luôn giữ khoảng cách với cô.

Còn một lý do nữa khiến loài ngựa lùn làm bọn trẻ thích mê mệt. Chúng bé mãi và không bao giờ lớn. Một điều thật đáng ghen tỵ.

Thế nhưng sau khi được tự do trở lại, Mila chỉ mơ được lớn lên để tạo một khoảng cách giữa cô và những gì cô đã trải qua. Nếu cộng thêm một chút may mắn nữa, có lẽ cô sẽ hoàn toàn quên được nó.

Con ngựa lùn không có cơ hội lớn thêm đối với cô tựa như một giao kèo không thể chấp nhận được với thời gian.

Khi cô được đưa ra khỏi căn hầm thối tha của Steve, một cuộc đời mới đã bắt đầu với cô. Sau ba tháng nằm viện để phục hồi cánh tay trái, cô đã phải lấy lại niềm tin vào mọi thứ trên đời, không chỉ với cuộc sống thường nhật ở nhà, mà kể cả với những cảm xúc của bản thân.

Graciela, cô bạn thân thiết mà cô đã từng cắt máu ăn thề trước khi mất tích, giờ cư xử với cô như người xa lạ. Graciela không còn là cô bạn mà cô chia sẻ đến miếng kẹo cao su cuối cùng và vô tư đi vệ sinh cùng, không còn là người cô trao một nụ hôn “kiểu Pháp” để luyện tập trước khi thử với bọn con trai. Không, Graciela giờ đã khác. Graciela nói chuyện với cô cùng một nụ cười giả lả thường trực trên khuôn mặt, đến nỗi Mila đâm sợ là nếu cô bạn mình cứ tiếp tục như thế thì sẽ bị đau hai bên má. Graciela cố ép mình tỏ ra tử tế, thậm chí không dám nói tục nữa, trong khi cho đến trước đó chưa lâu, cô bé không bao giờ gọi cô bằng tên thật, mà toàn bằng những biệt danh đại loại như “bò cái”, hoặc “heo con tàn nhang”.

Hai cô bé đã chích đầu ngón tay bằng một chiếc đinh gỉ để kết nghĩa trọn đời, để không thằng con trai nào có thể chia lìa cả hai. Nhưng trên thực tế, chỉ cần vài tuần là đủ để đào một cái hố không ai san lấp nổi giữa hai đứa.

Nghĩ cho cùng, mũi chích đầu ngón tay đó là vết thương đầu tiên của Mila. Nhưng nó khiến cô còn đau hơn sau khi đã lành hoàn toàn.

“Đừng có cư xử như thể tôi vừa từ trên cung trăng quay về nữa!” Cô chỉ muốn hét to như thế với mọi người, trước biểu hiện trên gương mặt của họ. Cô không thể chịu được chuyện đó. Cái kiểu nghiêng đầu, bặm môi đó. Ngay cả khi ở trường, nơi cô chưa bao giờ có điểm số xuất sắc, các sai sót của cô bây giờ đều được thoải mái cho qua.

Cô phát mệt vì sự chiều chuộng của những người khác. Cô thấy như mình đang ở trong một bộ phim đen trắng, giống như thứ mà người ta phát trên ti vi ban đêm, trong đó các cư dân của trái đất bị thay thế bằng bọn người hỏa tinh vô tính, và cô là người còn sót lại duy nhất vì bị mắc kẹt trong cái sào huyệt ấy.

Như vậy là có hai khả năng: hoặc cả thế giới đã thay đổi, hoặc là sau hai mươi mốt ngày thai nghén trong bụng con quái vật, một Mila mới đã ra đời.

Xung quanh cô, không ai nói về những gì đã xảy ra. Họ bắt cô sống trong một quả cầu, như thể cô được làm bằng thủy tinh và có thể vỡ bất cứ lúc nào. Họ không hiểu điều cô muốn là một chút thành thật, sau tất cả những gian dối mà cô phải chịu.

Mười một tháng sau, phiên tòa xử Steve bắt đầu.

Cô đã đợi khoảnh khắc đó từ rất lâu. Báo chí và truyền hình đều đưa tin, mặc dù bố mẹ không cho cô xem - họ nói là để bảo vệ cô. Nhưng cô vẫn lén lút cập nhật tin tức những khi có thể.

Linda và cô sẽ phải làm chứng. Công tố viên chủ yếu dựa vào cô nhiều hơn, vì Linda vẫn tiếp tục khăng khăng bảo vệ tên bắt cóc. Cô bé cứ muốn mọi người gọi mình là Gloria. Các bác sĩ cho rằng Linda bị tổn thương nặng nề về thần kinh. Vậy là chỉ mình Mila đương đầu với Steve.

Trong những tháng sau khi bị bắt giữ, Steve đã làm tất cả để được miễn trách nhiệm hình sự. Hắn đã vẽ ra những câu chuyện đầy phi lý về những kẻ đồng lõa giả định mà hắn buộc phải nghe lời. Hắn cũng cố dựa vào câu chuyện về Frankie, gã cộng sự độc ác mà hắn đã kể với Linda. Nhưng nó đã bị bác bỏ khi một cảnh sát phát hiện ra đó là tên con rùa hắn nuôi hồi nhỏ.

Tuy thế, nhiều người vẫn muốn tin vào câu chuyện đó. Steve quá “bình thường” để là một con quái vật. Quá giống với họ. Nghịch lý thay, việc tin rằng còn một ai khác đứng sau hắn, một kẻ bí ẩn hơn nhiều, một con quái vật thật sự, lại khiến họ an tâm.

Mila đến phiên tòa với dự định sẽ buộc Steve phải gánh chịu mọi tội lỗi hắn đã gây ra, cũng như một phần sự đau đớn mà hắn đã bắt cô phải chịu. Hắn sẽ vào tù, và vì điều đó, cô sẵn sàng đóng vai nạn nhân tội nghiệp mà cho đến lúc đó cô vẫn cương quyết từ chối.

Cô ngồi trên ghế nhân chứng, đối mặt với cái chuồng mà Steve bị còng tay bên trong, với dự định kể tất cả mà không rời mắt khỏi hắn.

Nhưng khi nhìn thấy hắn - chiếc áo sơmi xanh lá gài nút đến tận cằm quá rộng vì hắn chỉ còn da bọc xương, đôi bàn tay run rẩy khi hắn cố gắng ghi chép, mái tóc xéo lệch mà hắn đã tự cắt, cô cảm thấy một điều mà cô không ngờ tới: cô vừa thấy thương hắn, lại vừa căm giận kẻ đáng thương đó, bởi hắn đã khiến cô mủi lòng thương.

Đó là lần cuối cùng Mila cảm thấy thấu cảm một ai đó.

Khi cô phát hiện ra bí mật của Goran, cô đã bật khóc.

Tại sao?

Một hồi ức nằm đâu đó trong cô mách bảo cô rằng đó là những giọt nước mắt của sự thấu cảm.

Đột nhiên một con đập bị vỡ ở đâu đó, giải phóng một lượng xúc cảm bất ngờ. Giờ đây cô thậm chí còn có cảm giác như mình hiểu được những gì người khác đang cảm thấy.

Khi Roche đến nơi, cô nhận ra ông ta đã hiểu giờ của mình sắp điểm, bởi lẽ người giỏi nhất của Roche, “mũi khoan kim cương” của ông ta, đã cho ông ta ăn thứ bả độc nhất.

Còn về Terence Mosca, ông đại úy có vẻ như bị kẹt giữa niềm vui của sự thăng tiến và nỗi khó xử gần với nguyên nhân của sự thăng tiến đó.

Cô cảm nhận rõ ràng thái độ bối rối và buồn bã của Stern khi anh bước qua ngưỡng cửa căn hộ. Cô hiểu ra ngay anh sẽ bắt tay vào giải quyết vụ việc kinh khủng này.

Sự thấu cảm.

Cô chỉ không cảm thấy gì đối với một người. Người đó là Goran.

Không như Linda, cô đã không bị rơi vào cái bẫy của Steve: cô chưa bao giờ tin vào sự tồn tại của Frankie. Ngược lại, cô đã tin là có một đứa trẻ thực sự sống trong căn hộ này. Cô đã nghe kể về thằng bé. Cô đã chứng kiến những cú điện thoại của bố nó gọi cho bà giúp việc, để bảo đảm nó vẫn ổn và ra các chỉ thị cho bà. Thậm chí cô có cảm tưởng như đã nhìn thấy nó lúc Goran cho nó đi ngủ. Cô không tài nào tha thứ được cho ông tất cả những điều này, vì chúng biến cô thành một con ngốc.

Goran Gavila đã sống sót sau cú ngã từ độ cao mười hai mét. Hiện ông đang thoi thóp trên giường chăm sóc đặc biệt.

Căn hộ của ông được theo dõi, nhưng chỉ từ bên ngoài. Ở bên trong, chỉ có hai nhân viên điều tra làm việc. Đặc vụ Stern, người đã tạm hoãn quyết định nghỉ việc của mình, và Mila.

Họ không tìm gì, chỉ cố sắp xếp các sự kiện theo trình tự thời gian và tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi. Vào thời điểm nào một con người cân bằng và điềm tĩnh như Goran Gavila thực hiện kế hoạch giết người? Tư tưởng trả thù của ông ta đã xuất hiện khi nào? Ông ta biến thù hận thành kế hoạch từ lúc nào?

Mila đang ở trong phòng làm việc. Cô nghe thấy tiếng của Stern đang lục soát trong căn phòng bên cạnh. Trong đời cảnh sát của mình, cô đã nhiều lần khám xét nhà người khác. Cô thấy tất cả những gì mình có thể khám phá về cuộc đời của kẻ khác thật khó tin.

Trong khi kiểm tra nơi ẩn mình của Goran, cô đã suy nghĩ và cố gắng giữ thái độ dửng dưng, ghi lại các chi tiết, những thói quen nhỏ có thể vô tình tiết lộ manh mối quan trọng.

Goran cất những cái ghim kẹp giấy trong gạt tàn. Ông trực tiếp gọt bút chì trên miệng sọt rác. Và ông để một khung ảnh trống trên bàn.

Chiếc khung ảnh trống đó giống như ô cửa sổ nhìn xuống vực thẳm của người đàn ông mà Mila đã tưởng mình có thể yêu thương.

Cô nhìn vội đi chỗ khác, như thể sợ mình sẽ bị nuốt chửng vào đó. Tiếp theo cô mở một ngăn kéo tủ. Bên trong, chỉ có một tập hồ sơ duy nhất. Cô lấy nó ra và đặt lên chồng hồ sơ đã xem xét xong. Tập hồ sơ này có sự khác biệt, vì căn cứ theo ngày tháng thì nó là vụ án cuối cùng của Goran trước khi xảy ra vụ các bé gái.

Ngoài các giấy tờ, trong tập hồ sơ còn có một loạt băng ghi âm.

Cô đọc chỗ giấy tờ. Cô sẽ nghe băng nếu thấy cần.

Giấy tờ bao gồm các công văn liên hệ giữa một giám đốc nhà tù - một ông Alphonse Bérenger nào đấy - và văn phòng công tố. Chúng đề cập đến hành vi khác thường của một phạm nhân chỉ được nhắc đến qua số hiệu tù.

RK-357/9.

Đối tượng đã được tìm thấy vài tháng trước đó bởi hai cảnh sát khi hắn đi lang thang một mình giữa đêm trong tình trạng không mảnh vải che thân, ở một vùng thôn quê. Hắn đã từ chối khai báo danh tính của mình. Kết quả kiểm tra dấu vân tay cho thấy hắn chưa từng có tiền án. Nhưng một chánh án đã buộc tội hắn cản trở pháp luật.

Hắn vẫn đang trong thời hạn án tù.

Mila cầm một cuốn băng lên xem. Trên nhãn của nó chỉ ghi ngày giờ. Cô gọi Stern và tóm tắt nhanh cho anh những gì mình vừa đọc.

- Anh nghe tay giám đốc nhà tù miêu tả này... “Kể từ khi vào tù, phạm nhân RK-357/9 chưa bao giờ tỏ ra vô kỷ luật và luôn tuân thủ các quy định của nhà tù. Thêm vào đó, hắn ta có bản tính cô độc và ít hòa đồng... Có lẽ cũng vì lý do này mà không ai để ý đến hành vi lạ lùng của hắn, cho đến gần đây, khi nó bị một trong các quản giáo của chúng tôi nhận ra. Phạm nhân RK-357/9 lau chùi mọi đồ vật mà hắn tiếp xúc bằng một miếng dạ, nhặt tất cả lông và tóc rụng hàng ngày của mình, rửa kỹ lưỡng các đồ dùng ăn uống và vệ sinh sau mỗi lần sử dụng”. Anh thấy thế nào?

- Tôi không biết. Vợ tôi cũng bị ám ảnh bởi việc lau dọn như thế.

- Anh nghe tiếp này: “Như vậy chúng ta đang gặp phải hoặc là một tay cuồng sạch sẽ, hoặc rất có thể là một kẻ muốn bằng mọi giá tránh để lại các ‘dấu vết sinh học’. Do đó, chúng tôi rất nghi ngờ rằng phạm nhân số hiệu RK-357/9 đã gây ra một tội ác cực kỳ nghiêm trọng, và muốn ngăn cản chúng ta thu được mẫu ADN của hắn đem xác định danh tính...” Anh nghĩ sao?

Stern cầm tờ giấy lên tay và đọc.

- Chuyện xảy ra vào tháng Mười một... Nhưng không thấy ghi rõ liệu cuối cùng họ có tìm được gì về ADN của hắn không.

- Có vẻ như họ không thể buộc hắn làm test kiểm tra hoặc tùy tiện lẫy mẫu, vì nó vi phạm quyền hiến pháp của hắn...

- Vậy họ đã làm gì?

- Họ đã cố tìm một cọng lông, hoặc một sợi tóc bằng cách đột ngột ập vào xà lim của hắn.

- Hắn bị biệt giam à?

Mila lướt mắt qua tờ giấy để tìm đọc đoạn mà cô vừa nói.

- Đây này, ở đây tay giám đốc có viết: “Cho đến hôm nay, đối tượng được giam cùng phòng với một tù nhân khác, kẻ chắc chắn đã giúp hắn tiêu hủy các dấu vết sinh học. Tuy nhiên, xin thông báo để ông được biết, biện pháp xử lý đầu tiên của chúng tôi là đưa đối tượng ra khỏi buồng giam chung và biệt giam hắn”.

- Vậy họ có lấy mẫu ADN của hắn được hay không?

- Có vẻ như nghi phạm khôn ranh hơn họ, họ luôn thấy một buồng giam sạch bóng. Nhưng họ cũng nhận ra hắn luôn nói chuyện một mình và đã cho cài một micro để tìm hiểu những gì hắn nói…

- Có liên quan gì với Gavila không?

- Chắc hẳn họ đã xin ý kiến của Goran, tôi không biết...

Stern ngẫm nghĩ một lát.

- Chúng ta cần phải nghe mấy cái băng này.

Họ tìm thấy một máy ghi âm cũ trên một cái tủ, có lẽ từng được Goran dùng để ghi lại các nhận xét của mình. Mila đưa cuộn băng cho Stern. Anh bước đến gần cái máy, nhét cuộn băng vào trong hộc và giơ tay định ấn nút chạy.

- Đợi đã.

Bị bất ngờ, Stern quay lại nhìn Mila. Mặt cô tái xanh.

- Chết rồi!

- Có chuyện gì thế?

- Cái tên.

- Tên nào?

- Tên của tù nhân từng ở cùng xà lim với hắn trước khi hắn bị biệt giam ấy...

- Thì sao chứ?

- Anh ta tên là Vincent… Vincent Clarisso.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,258
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Alphonse Bérenger là một ông già sáu mốt với sắc diện như một đứa trẻ.

Khuôn mặt hồng hào của ông trông như được gắn bằng một mạng lưới mao mạch chằng chịt. Khi cười, đôi mắt ông nheo lại thành hai đường chỉ. Ông đã lãnh đạo nhà tù từ hai mươi lăm năm nay, và chỉ còn vài tháng nữa là về hưu. Ông rất thích câu cá. Một cần câu cùng một hộp mồi và lưỡi câu nằm trong một góc văn phòng của ông. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ là mối quan tâm duy nhất trong cuộc sống của ông.

Bérenger được nhìn nhận là một người tốt. Trong những năm tháng dưới quyền lãnh đạo của ông, nhà tù đã chưa từng nếm mùi kỷ luật sắt. Ông rất tử tế với các tù nhân, và các quản tù của ông cũng hiếm khi cậy nhờ đến vũ lực.

Alphonse Bérenger đọc Kinh thánh và theo chủ nghĩa vô thần. Nhưng ông tin vào cơ hội thứ hai. Ông cho rằng mỗi cá nhân nếu muốn đều đáng được ân xá. Bất luận anh ta đã phạm tội ác gì. Ông nổi tiếng là một người chính trực và luôn hòa nhã với mọi người. Tuy nhiên, thời gian gần đây, ông không tài nào ngủ được. Vợ ông bảo với ông nguyên nhân là do ông sắp về hưu, nhưng không phải thế. Điều quấy rầy ông trong cơn buồn ngủ là việc phải trả lại tự do cho phạm nhân mang số hiệu RK-357/9 mà không hề biết hắn là ai và liệu hắn có từng gây tội ác tày đình nào hay không.

- Gã này rất… quái gở. - Ông nói với Mila trong khi hai người bước qua cổng kiểm soát để tiến vào khu biệt giam.

- Quái gở thế nào ạ?

- Hắn hoàn toàn điềm tĩnh. Chúng tôi đã cắt nước, với hy vọng hắn sẽ thôi cọ rửa mọi thứ. Hắn tiếp tục lau chùi bằng giẻ. Chúng tôi tước luôn giẻ. Hắn chuyển sang dùng quần áo tù. Chúng tôi ép hắn phải dùng muỗng nĩa của nhà giam. Thế là hắn ngừng ăn.

- Vậy các ông làm thế nào?

- Đương nhiên chúng tôi không thể để hắn chết đói được! Tất cả mọi ý đồ của chúng tôi đều vấp phải một sự cứng đầu vô phương tháo gỡ... hoặc một sự đấu tranh trong ôn hòa, tùy cô nhìn nhận.

- Thế còn cảnh sát khoa học?

- Họ đã dành ba ngày xem xét xà lim của hắn nhưng không thể tìm được thứ gì cho phép phân tích mẫu ADN của hắn. Tôi cứ tự hỏi làm sao có thể thế được? Chúng ta mất hàng ngàn tế bào mỗi ngày, dưới dạng lông tóc, hoặc mảnh da chết...

Bérenger đã chứng tỏ toàn bộ sức kiên nhẫn của một người câu cá tội nghiệp, với hy vọng như thế là đủ. Nhưng vẫn không đủ. Lần thử sức sau cùng của ông là cô cảnh sát bất ngờ xuất hiện sáng hôm nay, với câu chuyện khó tin nhưng có thật của mình.

Họ đi theo hành lang dài đến một cánh cửa kim loại sơn màu trắng. Đó là buồng biệt giam số mười lăm.

Ông giám đốc nhà tù nhìn Mila.

- Cô chắc chắn chứ?

- Trong ba ngày nữa, gã ta sẽ ra tù, và tôi có cảm giác ta sẽ không bao giờ thấy lại gã nữa. Thế nên, tôi tuyệt đối chắc chắn.

Cánh cửa nặng nề mở ra rồi lập tức đóng lại sau lưng Mila. Cô bước vào trong thế giới của nghi phạm số hiệu RK-357/9. Gã trông khá khác với những hình dung của cô dựa trên chân dung được dựng lại bởi bà Nicla Papakidis, sau khi bà chui sâu vào trong đầu của Joseph B. Rockford. Ngoại trừ một chi tiết. Đôi mắt xám.

Gã có vóc người nhỏ, đôi vai hẹp, xương đòn nhô ra. Bộ đồng phục tù nhân màu cam tỏ ra quá rộng so với gã, tới mức gã phải xắn tay áo và gấu quần lên. Tóc gã ít và chỉ tập trung ở hai bên đầu.

Gã đang ngồi trên giường, một cái tô sắt đặt trên đầu gối. Gã lau nó bằng một miếng giẻ màu vàng nhạt. Trên giường, bên cạnh gã, có mấy bộ muỗng nĩa, bàn chải đánh răng và một cái lược nhựa. Có lẽ gã vừa mới chùi chúng xong. Gã chỉ hơi ngước mắt lên nhìn Mila, trong lúc tay vẫn không ngừng lau chùi.

Mila có cảm giác chắc chắn là gã biết lý do cô đến đây.

- Chào ông. - Cô nói. - Tôi ngồi xuống được chứ?

Gã lễ độ gật đầu, tay chỉ cái ghế đẩu kê sát tường. Mila ngồi xuống đó.

Tiếng cọ xát đều đặn của miếng giẻ trên kim loại là âm thanh duy nhất trong căn buồng. Những âm thanh đặc trưng của nhà tù hoàn toàn vắng bóng trong khu biệt giam, nhằm làm nặng nề thêm sự cô độc về mặt tinh thần. Nhưng hình như nó chẳng mảy may ảnh hưởng tới nghi phạm RK-357/9.

- Ở đây tất cả đều tự hỏi ông là ai. - Mila mở lời. - Thắc mắc đó đã gần như trở thành một nỗi ám ảnh, tôi nghĩ thế. Ít ra là đối với ông giám đốc nhà tù. Và cả với văn phòng công tố nữa. Các phạm nhân khác truyền tai nhau câu chuyện của ông.

Gã tiếp tục nhìn cô trơ trơ.

- Tôi thì không thắc mắc điều đó. Tôi biết câu trả lời. Ông là kẻ mà chúng tôi gọi là Albert. Đối tượng chúng tôi đang truy lùng.

Gã không phản ứng gì.

- Ông đã ngồi trên chiếc ghế bành của Alexander Bermann trong hang ổ khiêu dâm của hắn. Ông đã gặp Ronald Dermis ở cô nhi viện, khi hắn còn là một đứa trẻ. Ông đã có mặt trong biệt thự của bà Yvonne Gress trong lúc Feldher thảm sát bà ta và hai đứa con. Hình dáng ông rõ rành rành trên chỗ máu bắn lên tường. Ông đã ở cùng với Joseph B. Rockford khi hắn lần đầu tiên giết người trong cái lán bỏ không... Bọn họ là đồ đệ của ông. Ông đã xúi bẩy phần con người hèn hạ trong họ, khơi gợi sự độc ác trong họ, và luôn ẩn mình trong bóng tối…

Gã đàn ông tiếp tục lau chùi không mảy may suy suyển.

- Cách đây hơn bốn tháng, ông đã quyết định để cho mình bị bắt. Ông đã cố tình làm điều đó, tôi tin chắc như vậy. Trong tù, ông đã gặp Vincent Clarisso, bạn tù cùng xà lim của ông. Ông có gần một tháng để huấn luyện hắn, trước khi hắn ra tù. Sau đó, ngay khi được trả lại tự do, Clarisso đã thực thi kế hoạch của ông: bắt cóc sáu bé gái, cắt đi cánh tay trái của chúng, sắp đặt tử thi của chúng để tiết lộ tất cả những tội ác kinh hoàng chưa từng bị phát hiện... Trong khi Vincent hoàn thành công việc thì ông ngồi đây. Như vậy là không ai có thể buộc tội ông được. Bốn bức tường này là bằng chứng ngoại phạm quá lý tưởng… Nhưng kiệt tác của ông là Goran Gavila.

Mila rút từ trong túi ra một cuộn băng ghi âm tìm thấy trong văn phòng của nhà tội phạm học rồi quẳng nó lên giường. Gã đàn ông quan sát quỹ đạo parabol mà nó vạch ra trước khi đáp xuống cạnh chân trái của mình. Gã không nhúc nhích, thậm chí chẳng buồn tránh.

- Giáo sư Gavila chưa bao giờ nhìn thấy ông, ông ta cũng không biết ông. Nhưng ông thì biết ông ta.

Tim Mila bắt đầu đập mạnh. Đó là do cơn giận, nỗi đau xót, và cả một thứ khác nữa.

- Ông đã tìm ra cách tiếp cận ông ta trong khi vẫn ngồi trong này. Ông thật tài tình: khi người ta biệt giam ông, ông bắt đầu lảm nhảm một mình như thằng điên, thừa biết người ta sẽ cài micro để sau đó đưa các đoạn băng ghi âm cho một chuyên gia nghe. Không phải bất kỳ người nào, mà chính là người giỏi nhất trong lĩnh vực này...

Mila chỉ cuộn băng.

- Tôi đã nghe tất cả, ông biết không? Hàng giờ ghi âm... Những thông điệp này không phải để ném vào khoảng không. Tất cả là dành cho Goran... “Giết, giết, giết”... Ông ta đã nghe lời ông và giết hại vợ con mình. Đó là một công trình dài hơi tác động lên tinh thần của ông ta. Nhưng hãy nói cho tôi nghe một chuyện: ông làm điều đó như thế nào? Làm sao ông thành công được? Ông giỏi lắm.

Gã đàn ông không đáp lại câu mỉa mai, hoặc là không biểu hiện ra. Nhưng gã có vẻ tò mò muốn nghe phần tiếp theo của câu chuyện, vì gã không rời mắt khỏi cô.

- Nhưng ông không phải là kẻ duy nhất biết chui sâu vào trong đầu người khác... Gần đây tôi đã tìm hiểu rất nhiều về những tên sát nhân hàng loạt. Tôi đã biết chúng được chia làm bốn loại: mộng tưởng; hành đạo, khát quyền và tầm lạc... Nhưng còn một loại thứ năm nữa. Người ta gọi chúng là những tên sát nhân hàng loạt trong tiềm thức.

Cô lục trong túi và lôi ra một tờ giấy gấp tư. Cô mở nó ra.

- Kẻ nổi tiếng nhất là Charles Manson, người đã xúi giục các thành viên trong “Gia đình” của mình thực hiện cuộc thảm sát ở đường Cielo. Nhưng tôi tin có hai trường hợp còn điển hình hơn. (Cô đọc tờ giấy.) “Vào năm 2005, một gã người Nhật tên là Fujimatzu đã thuyết phục thành công mười tám người ở nhiều nơi trên thế giới mà hắn gặp qua chat, để khiến họ tự tử vào đúng ngày lễ Tình nhân. Tuổi tác, giới tính, tình hình tài chính và nguồn gốc xã hội của họ khác nhau. Họ là những người đàn ông và phụ nữ hoàn toàn bình thường, và có vẻ như không hề có vấn đề gì”. (Cô ngước mắt lên nhìn nghi phạm). Làm thế nào hắn thuyết phục được họ, điều này cho đến giờ vẫn là một bí mật... Nhưng ông nghe nhé, đây là những vụ tôi thích nhất: “Năm 1999, Rocher Glest ở Akron, bang Ohio, đã giết sáu phụ nữ. Lúc bị bắt, hắn bảo với các điều tra viên là hắn đã được ‘nhắc tuồng’ bởi một gã Rudolf Migby nào đó. Chánh án và bồi thẩm đoàn cho rằng hắn tìm cách giả điên. Họ tuyên án tử hình hắn bằng biện pháp tiêm thuốc độc. Vào năm 2002, tại New Zealand, một công nhân mù chữ tên là Jerry Hoover đã giết hại bốn phụ nữ, sau đó khai với cảnh sát là một tay Rudolf Migby đã ‘nhắc tuồng’ mình. Bác sĩ tâm thần của bên công tố nhớ lại vụ việc năm 1999 - vụ án mà rất khó có khả năng Hoover biết được - và phát hiện ra một đồng nghiệp của can phạm quả thực tên là Rudolf Migby và hồi năm 1999, hắn đã lưu trú tại Akron, Ohio”. Ông thấy sao? Ông thấy sự giống nhau ở đây chứ?

Gã đàn ông không nói gì. Cái tô của gã sáng bóng, nhưng có vẻ như gã vẫn chưa hài lòng về kết quả này.

- Một tên “sát nhân trong tiềm thức” không thực sự gây án. Hắn không thể bị quy trách nhiệm và bị trừng phạt. Để xét xử Charles Manson, người ta đã phải dùng đến tiểu xảo tố tụng, ngoài ra án tử hình của hắn đã được giảm xuống thành nhiều án chung thân... Một số nhà tâm thần học gọi các ông là “những kẻ dụ dỗ”, vì khả năng tác động lên những nhân cách yếu đuối nhất. Còn tôi, tôi thích gọi các ông là “những con sói”… Lũ sói hành động theo bầy đàn. Mỗi bầy có một con thủ lĩnh, và thường thì những con khác săn mồi cho nó.

Nghi phạm RK-357/9 đã lau xong cái tô và đặt nó xuống bên cạnh mình. Gã để tay lên đầu gối và chờ nghe đoạn tiếp theo.

- Nhưng ông, ông là kẻ giỏi nhất... (Mila bật cười). Không gì có thể chứng minh sự liên đới của ông trong các vụ án do bọn đồ đệ của ông gây ra. Không có bằng chứng chống lại, nên ông sẽ lại sớm được làm người tự do... Mà không ai có thể làm gì được.

Mila thở một hơi rất dài. Hai người nhìn thẳng vào mắt nhau.

- Tiếc quá: giá như chúng tôi biết được danh tính thật sự của ông thì ông sẽ trở nên nổi tiếng và đi vào sử sách, ông tin tôi đi.

Cô chồm người về phía gã đàn ông, đổi giọng đe dọa:

- Dù sao đi nữa, tôi sẽ khám phá ra được ông là ai.

Cô đứng dậy, phủi một hạt bụi vô hình khỏi tay mình rồi dợm bước ra ngoài. Nhưng trước đó cô muốn dành thêm vài giây cho gã đàn ông.

- Đồ đệ cuối cùng của ông đã thất bại rồi: Vincent Clarisso đã không hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé gái số sáu vẫn còn sống... Điều đó có nghĩa là ông cũng đã thất bại.

Cô dò xét phản ứng của đối tượng. Trong một tích tắc, cô có cảm tưởng như một điều gì đó đã đổi khác trên gương mặt từ nãy đến giờ không hề lay chuyển của gã.

- Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở bên ngoài!

Cô chìa tay về phía gã. Gã hơi bất ngờ, như thể gã không chờ đợi cử chỉ này. Gã quan sát cô một lúc. Rồi gã nhè nhẹ giơ một cánh tay lên bắt tay cô. Khi chạm vào những ngón tay mềm mại, Mila cảm thấy thật ghê tởm.

Hắn để tay mình trượt khỏi tay cô.

Cô quay gót, tiến đến cánh cửa sắt. Cô gõ ba tiếng và chờ đợi, ý thức được cái nhìn của gã đàn ông vẫn đang găm vào một điểm nằm giữa hai bả vai mình. Ở bên ngoài, một người nào đó mở chốt cửa. Trước khi cánh cửa kịp mở ra, nghi phạm RK-357/9 lần đầu tiên cất tiếng:

- Nó là con gái.

Mila quay lại nhìn gã, ngỡ mình nghe lầm. Gã đã lại cầm giẻ lên và tỉ mỉ lau chùi một cái tô khác, cô bước ra để cánh cửa sắt khép lại sau lưng. Bérenger tiến đến chỗ cô. Krepp đi cùng ông ta.

- Thế nào... cô thành công chứ?

Mila gật đầu. Cô chìa bàn tay vừa bắt tay nghi phạm ra. Krepp cầm lấy một cái kẹp và cẩn thận gỡ từ lòng bàn tay cô một lớp chất liệu mỏng mà ông đã gắn vào để lưu giữ các tế bào biểu bì của gã đàn ông. Để bảo quản nó, ông lập tức đặt nó vào trong một dung dịch kiềm.

- Bây giờ ta sẽ xem gã con hoang này là ai.

Ngày 5 tháng 9

Bầu trời điểm xuyết vài cụm mây trắng, chúng càng làm nổi bật màu xanh thuần khiết. Nếu co cụm lại, có lẽ chúng đã che được mặt trời. Nhưng chúng chỉ để mặc cho cơn gió cuốn mình đi.

Mùa hè năm nay rất dài. Mùa đông đã nhường chỗ cho mùa hè mà không có bước chuyển tiếp nào cả. Trời vẫn còn ấm.

Mila đã quay hết kính xe xuống trong lúc lái, để tận hưởng gió trời trên mái tóc. Cô nuôi tóc dài, nhưng đó chỉ là một trong những thay đổi nhỏ của cô thời gian vừa rồi. Một sự mới mẻ nữa là trang phục của cô. Cô đã thay chiếc quần jean bằng một cái váy hoa.

Trên ghế ngồi cạnh cô là một chiếc hộp thắt ruy băng màu đỏ. Cô đã chọn quà ngay không suy nghĩ nhiều, bởi từ giờ trở đi cô đặt niềm tin vào bản năng của mình.

Cô đã khám phá ra tính chất không thể đoán định trước của cuộc sống.

Sự mới mẻ trong cách nhìn nhận mọi thứ làm cô hài lòng. Nhưng vấn đề hiện tại là cảm xúc thất thường của cô. Đôi khi cô có thể ngừng lại ngay giữa cuộc đối thoại, hoặc giữa lúc đang bận rộn, chỉ để khóc. Vô duyên vô cớ, một hoài niệm lạ lùng và dễ chịu xâm chiếm lấy cô.

Trong một thời gian dài cô tự hỏi, những cảm xúc đều đặn trùm lên mình như những đợt sóng đó đến từ đâu. Giờ thì cô đã hiểu ra. Nhưng thậm chí cô không muốn biết giới tính của đứa trẻ.

“Nó là con gái”.

Mila tránh nghĩ đến điều đó. Cô cố quên chuyện đó đi. Cô còn những ưu tiên khác. Những cơn đói thường xuyên xâm chiếm lấy cô không báo trước và đã trả lại cho cô một chút dáng vóc nữ tính. Rồi thì, những cơn buồn tiểu tiện bất ngờ và khẩn cấp. Cuối cùng là những cú đạp nhẹ trong bụng mà cô cảm thấy đã được một thời gian.

Nhờ vào tất cả những điều đó, cô đã học được cách chỉ nhìn về phía trước. Thế nhưng, một điều không thể tránh khỏi, ký ức về những chuyện vừa qua thỉnh thoảng lại xâm chiếm lấy đầu óc cô.

Phạm nhân RK-357/9 đã ra khỏi tù vào một ngày thứ Ba trong tháng Ba. Gã vẫn vô danh.

Tuy vậy tiểu xảo của Mila đã thành công.

Krepp đã trích được ADN từ các tế bào biểu bì của gã và đưa vào tất cả những kho dữ liệu hiện có. Ông thậm chí đã tìm cách khớp chúng với những dữ liệu chưa định được danh tính trong các vụ án tồn đọng.

Nhưng ông không tìm được gì.

Có lẽ chúng ta vẫn chưa khám phá được toàn bộ mưu đồ của gã. Mila tự nhủ. Ý nghĩ đó khiến cô thấy sợ.

Khi gã được thả tự do, lúc đầu các cảnh sát liên tục theo dõi gã. Gã sống trong một ngôi nhà được cơ quan bảo trợ xã hội cung cấp, và mỉa mai thay, gã làm công việc quét dọn trong một trung tâm thương mại lớn. Gã không để lộ bất kỳ điều gì về mình, ngoại trừ những gì đã được biết. Dần dần, công tác theo dõi của cảnh sát được gỡ bỏ. Cấp trên của họ không thể trả thêm tiền làm ngoài giờ được nữa, và các chuyến theo dõi tình nguyện cũng chỉ kéo dài thêm được vài tuần.

Mila cũng tiếp tục giám sát gã, nhưng rồi ngay cả với cô, chuyện đó cũng trở nên ngày một mệt mỏi hơn. Sau khi biết mình có mang, mức độ kiểm soát của cô với gã thưa dần.

Rồi một hôm, khoảng giữa tháng Năm, gã biến mất.

Gã không để lại bất kỳ dấu vết nào, cũng không có gì tiết lộ về điểm đến của gã. Lúc đầu Mila đùng đùng nổi giận, nhưng rồi cô chợt nhận ra mình nhẹ nhõm một cách kỳ lạ.

Suy cho cùng, cô cảnh sát chuyên đi tìm người mất tích chỉ muốn gã ta mất tích hẳn.

Bảng chỉ đường cho thấy cô phải rẽ để vào khu dân cư. Cô làm theo. Đó là một khu khá đẹp. Những con đường hai bên toàn cây xanh phủ xuống những cái bóng y hệt nhau, như thể không muốn làm hại ai. Những ngôi biệt thự nhỏ tương tự nằm gần nhau, mỗi cái có một khu vườn xinh xắn phía trước.

Các chỉ dẫn trên tờ giấy mà Stern đưa kết thúc ở ngã ba trước mặt Mila.

- Stern, anh đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? - Cô nói vào điện thoại. Trước khi anh kịp trả lời, cô đã nhận ra anh đang cầm di động ra hiệu cho cô ở phía xa.

Cô đậu xe ở chỗ anh chỉ rồi bước xuống.

- Cô khỏe không?

- Ngoại trừ những cơn buồn nôn, đôi chân phù nề và những lần chạy vội vào nhà vệ sinh thì... tôi khỏe.

Anh vòng tay ôm lấy vai cô.

- Đi nào, mọi người đang ở sân sau.

Thật buồn cười khi nhìn thấy Stern không càvạt lẫn comlê, thay vào đó là chiếc quần đùi màu xanh và áo sơmi hoa hòe phanh ngực. Nếu không có viên kẹo bạc hà bất ly thân trong miệng thì không thể nào nhận ra anh.

Mila để mình được dắt vào vườn, ở đó vợ của người cựu cảnh sát đang bày muỗng nĩa. Cô chạy đến ôm hôn chị.

- Chào chị Marie, trông chị đẹp lắm.

- Phải thế chứ, chị cô có tôi ở nhà cả ngày mà! - Stern vừa cười vừa nói.

Marie đấm vào lưng chồng.

- Anh đi lo đồ ăn đi.

Trong khi Stern tiến lại lò nướng để nướng xúc xích và bắp ngô, Boris bước lại gần, chai bia cạn nửa trong tay. Anh ôm chầm lấy Mila bằng đôi cánh tay vạm vỡ và nhấc bổng cô lên.

- Cô lên cân nhiều quá đấy!

- Lên cái mồm anh ấy!

- Mà, cô mất bao lâu mới đến được đây?

- Anh lo cho tôi cơ à?

- Không, chẳng qua vì tôi đói quá thôi.

Họ cùng cười. Boris vẫn luôn chú ý đến cô, không phải chỉ bởi cô là người đã tránh cho anh khỏi phải vào tù. Dạo gần đây anh chàng có hơi lên cân do cuộc sống ru rú ở nhà sau khi được Terence Mosca cất nhắc. Ông chánh thanh tra mới đã ngay lập tức sửa chữa “sai sót” nhỏ của mình, và cho anh một đề nghị không thể nào từ chối được. Roche đã từ chức ngay sau khi cuộc điều tra chính thức khép lại, không quên thu xếp với ban điều tra một lộ trình hạ cánh bao gồm một buổi lễ trao huy chương và một bài diễn văn long trọng. Nghe nói ông ta đã nghĩ đến việc chuyển sang làm chính trị.

- Ôi tôi ngu quá mất thôi. Tôi để quên cái hộp quà trong xe rồi! - Mila sực nhớ. - Anh đi lấy nó giúp tôi được không?

- Tất nhiên rồi, tôi đi ngay đây.

Khi thân hình vạm vỡ của Boris rời đi, cô mới nhận thấy những người khác.

Sandra đang ngồi trong chiếc xe lăn dưới tán một cây anh đào. Con bé không thể bước đi được. Việc này xảy ra một tháng sau khi Sandra rời bệnh viện. Các bác sĩ cho rằng sự tắc nghẽn thần kinh của nó có liên quan đến chấn động tinh thần. Con bé phải theo một chương trình phục hồi chức năng rất nghiêm ngặt.

Một cánh tay giả đã được lắp vào bên tay bị mất của Sandra.

Đứng bên cạnh Sandra là Mike, bố con bé. Mila biết anh khi đến thăm Sandra và thấy anh là người tử tế. Mặc dù hai vợ chồng ly thân, anh vẫn tiếp tục chăm sóc vợ con một cách tận tụy và trìu mến. Sarah đang ở bên hai bố con. Cô đã thay đổi rất nhiều. Cô sụt cân trong khi ở tù và mái tóc đã bạc trắng chỉ trong một thời gian ngắn. Án phạt dành cho cô khá nặng: bảy năm tù và bị sa thải khỏi ngành do phạm lỗi nghiêm trọng và mất luôn chế độ hưu trí. Cô được ở đây là nhờ một lệnh cho phép đặc biệt. Mila nhìn thấy cách đó không xa là Doris, người quản giáo đi kèm Sarah. Chị gật đầu chào cô.

Sarah Rosa đứng dậy đi đến chỗ Mila. Cô cố gắng mỉm cười.

- Cô khỏe không? Đứa bé ổn chứ?

- Điều bất tiện nhất là quần áo: tôi liên tục thay đổi kích cỡ, nhưng lại không đủ tiền để mua quần áo thường xuyên. Một ngày nào đó tôi sẽ quấn áo choàng tắm để ra đường!

- Tin tôi đi, hãy tận hưởng thời gian này, vì điều tồi tệ nhất còn chưa đến đâu. Trong ba năm đầu đời, Sandra đã không cho chúng tôi chợp mắt. Phải không Mike?

Mike gật đầu.

Dạo này mọi người đã từng gặp nhau trong một số dịp khác, nhưng không người nào hỏi Mila bố đứa bé là ai. Họ sẽ phản ứng thế nào khi biết cô đang mang trong mình đứa con của Goran?

Nhà tội phạm học vẫn đang chìm trong hôn mê.

Mila đã đến thăm ông một lần. Cô nhìn thấy ông qua một tấm kính, nhưng chỉ chịu nổi vài giây là bỏ chạy.

Điều cuối cùng ông nói với cô trước khi gieo mình xuống đất là ông đã giết vợ con bởi vì ông yêu họ. Đó là thứ lôgíc không thể chối cãi của việc yêu nhau lắm cắn nhau đau. Mà Mila thì không thể chấp nhận chuyện đó.

Một lần Goran đã khẳng định với cô: “Có những người ta tưởng đã hiểu cặn kẽ, nhưng thật ra chẳng biết gì về bọn họ...”

Cô đã nghĩ ông nói về vợ mình, và cô xem câu nói đó như một sự thật tầm thường, không là gì đối với đầu óc của ông. Cho đến khi cô thấy điều ông nói vận vào chính bản thân cô. Lẽ ra cô phải hiểu ra từ trước đó. Cô từng nói với Goran: “Vì em từ bóng tối chui ra. Và thỉnh thoảng, em phải quay lại với bóng tối”.

Goran cũng từng thường xuyên lặn xuống bóng tối sâu thẳm ấy. Nhưng một ngày, khi ông chui ra khỏi bóng tối, một thứ gì đó đã bám theo ông. Và nó không buông tha ông nữa.

Boris quay lại cùng với món quà.

- Anh đi lâu thế.

- Tôi không tài nào đóng cửa chiếc xe đồng nát của cô được. Cô nên thưởng cho mình một chiếc mới đi là vừa.

Mila cầm lấy món quà và đưa cho Sandra.

- Mừng sinh nhật cháu!

Cô cúi xuống ôm hôn con bé. Sandra luôn vui mừng mỗi khi gặp cô.

- Bố mẹ đã tặng cháu một cái iPod.

Con bé giơ món quà ra khoe. Mila đáp:

- Đỉnh thật! Phải nạp thật nhiều nhạc rock vào nhé.

Mike không đồng tình:

- Tôi thích nhạc Mozart hơn.

- Con thích Coldplay cơ. - Sandra nói.

Họ cùng nhau mở gói quà của Mila. Đó là một chiếc áo khoác nhung, với những chiếc đinh tán và họa tiết trang trí đủ kiểu.

- Wow! - Sandra thốt lên khi nhận ra nhãn hiệu của một nhà thiết kế nổi tiếng.

- Chữ “wow” này có nghĩa là cháu thích phải không?

Con bé gật đầu, miệng nhoẻn cười, mắt không rời khỏi chiếc áo khoác

- Ta ăn thôi! - Stern tuyên bố.

Họ cùng ngồi vào bàn dưới bóng của một cái chòi nhỏ. Mila nhận thấy Stern và vợ thường xuyên tìm nhau và đụng chạm nhau như một đôi tình nhân trẻ. Cô thấy phát ghen với họ. Sarah Rosa và Mike sắm vai một cặp bố mẹ tốt trước mặt cô con gái. Nhưng Mike cũng rất quan tâm tới Sarah. Boris thì luôn miệng pha trò khiến họ cười nhiều tới mức Doris bị mắc nghẹn. Hôm nay là một ngày thật dễ chịu và vô lo. Sandra chắc đã tạm quên đi tình trạng của mình. Con bé nhận được rất nhiều quà và thổi mười ba ngọn nến cắm trên chiếc bánh sôcôla dừa.

Khi họ ăn trưa xong thì đã quá ba giờ. Một cơn gió nhẹ thổi đến, mời gọi họ ngồi xuống bãi cỏ đánh giấc. Cánh phụ nữ dọn dẹp bàn, nhưng vợ Stern không cho Mila tham gia vì bụng cô đã khá lớn. Cô nhân cơ hội ở lại cùng Sandra dưới bóng cây anh đào. Cô xoay xở ngồi bệt xuống đất bên cạnh chiếc xe lăn.

- Ở đây đẹp quá. - Con bé vừa nói vừa nhìn mẹ dọn dẹp bàn ăn. - Cháu chỉ muốn ngày hôm nay kéo dài mãi. Cháu từng nhớ mẹ lắm... - Sandra mỉm cười nói thêm.

Chữ “từng” mà Sandra sử dụng cho thấy Sandra muốn nói đến một cảm giác nhớ nhung khác với điều mà nó cảm thấy khi mẹ ở tù. Nó đang muốn nhắc đến sự kiện đã xảy ra với mình.

Mila hiểu đó là một phần nỗ lực nhằm sắp xếp lại quá khứ của con bé. Sandra phải điều chỉnh lại các cảm xúc của mình, và chấp nhận một nỗi sợ dù đã trôi qua nhưng sẽ còn rình rập cô bé trong những năm tháng phía trước.

Một ngày nào đó, hai cô cháu sẽ nói về những chuyện đã diễn ra. Mila nghĩ đến việc kể cho con bé nghe chuyện của mình trước. Có lẽ điều này sẽ giúp ích cho nó. Hai cô cháu có rất nhiều điểm chung.

Đầu tiên hãy tìm từ ngữ để nói ra, cháu ạ, chúng ta có nhiều thời gian lắm...

Mila cảm thấy rất quý mến Sandra. Trong một tiếng đồng hồ tới, Sarah Rosa sẽ phải quay về trại giam. Lần nào cô cũng cảm thấy sự chia tay rất khó khăn đối với hai mẹ con.

- Cô đã quyết định chia sẻ với cháu một bí mật. - Mila nói với con bé để quên ý nghĩ vừa rồi đi. - Cô sẽ chỉ nói với mình cháu thôi... Cô muốn cho cháu biết ai là bố đứa trẻ cô đang mang trong bụng.

Sandra buột miệng cười.

- Mọi người biết rồi cô ơi.

Mila sững người vì bất ngờ, rồi cả hai cô cháu cùng cười. Boris đứng từ xa nhìn họ, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

- Phụ nữ ấy mà. - Anh chàng nói với Stern.

Khi đã thôi cười, Mila cảm thấy khá hơn hẳn. Một lần nữa, cô đã đánh giá thấp những người quý mến mình, và tự tạo nên những rắc rối không cần thiết. Thật ra mọi chuyện thường đơn giản vô cùng.

- Hắn đã đợi một người... - Sandra nói một cách nghiêm túc.

- Cô biết. - Mila đáp.

- Kẻ đó lẽ ra đã đến nhập bọn với hắn.

- Gã bị ngồi tù. Nhưng bọn cô không hay biết. Bọn cô thậm chí còn đặt cho gã một cái tên, cháu biết không? Bọn cô gọi gã là Albert.

- Không, Vincent không gọi kẻ đó như vậy...

Cơn gió nhẹ khẽ lay động những chiếc lá của cây anh đào, nhưng nó không khỏi khiến Mila đột nhiên thấy một cơn ớn lạnh dọc theo sống lưng. Cô chầm chậm quay sang Sandra và bắt gặp đôi mắt to của con bé đang nhìn mình, hoàn toàn không ý thức được những điều mà nó sắp nói ra sẽ có sức nặng như thế nào.

- Không. - Sandra điềm tĩnh nói. - Hắn gọi tên kẻ đó là Frankie...

Nắng đang rực rỡ giữa một buổi chiều đẹp trời. Lũ chim hót trong đám cây cối, không khí đượm mùi thơm và phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì đang mời mọc. Mila sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc này, khi mà cô khám phá ra giữa cô và Sandra có nhiều điểm chung hơn cô tưởng. Vậy mà chúng vẫn luôn ở đó, sờ sờ ngay trước mắt cô.

Gã chỉ chọn các bé gái, không chọn các bé trai.

Steve cũng thích bọn con gái.

Gã lựa chọn các gia đình.

Cô cũng giống như Sandra, là đứa con gái độc nhất trong nhà.

Gã cắt cánh tay trái của nạn nhân.

Cô đã bị gãy tay trái khi ngã xuống cầu thang nhà Steve.

Hai nạn nhân đầu tiên là chị em kết nghĩa.

Sandra và Debby. Cũng giống như cô và Graciela trước đây nhiều năm.

“Bọn giết người hàng loạt, qua hành động của chúng, muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện”, Goran đã từng nói như vậy.

Và câu chuyện ở đây chính là chuyện của cô.

Tất cả mọi chi tiết đều nhắc cô nhớ đến chuyện ngày xưa và buộc cô phải nhìn thẳng vào sự thật khủng khiếp.

“Đồ đệ cuối cùng của ông đã thất bại rồi: Vincent Clarisso đã không hoàn thành kế hoạch của ông, bởi vì bé gái số sáu vẫn còn sống... Điều đó có nghĩa là ông cũng đã thất bại”.

Thật ra không có gì là ngẫu nhiên cả. Chính đó mới là hồi kết thực sự mà Frankie sắp đặt.

Tất cả tấn tuồng này là để dành cho cô.

Một cú quặn trong bụng khiến cô phải ngửa người ra sau. Mila cụp mắt xuống nhìn bụng mình. Cô cố không tự đặt câu hỏi liệu điều này có nằm trong kế hoạch của Frankie hay không.

Chúa trời im lặng, cô thầm nghĩ. Quỷ dữ thì thầm...

Thật ra, nắng vẫn tiếp tục rực rỡ trong buổi chiều đẹp trời. Lũ chim vẫn hót không mệt mỏi trong đám cây cối, và không khí vẫn nồng đượm mùi thơm cùng với phấn hoa. Thảm cỏ xanh rì vẫn luôn mời gọi.

Quanh cô, ở khắp mọi nơi, vạn vật có cùng một thông điệp.

Rằng tất cả đều giống như trước.

Tất cả.

Kể cả Frankie.

Kẻ đã quay lại, để rồi lại biến mất một lần nữa trong bóng tối sâu thẳm mênh mông.

Lời tác giả

Văn học trinh thám bắt đầu nhắc tới “những kẻ nhắc tuồng” khi trào lưu của các giáo phái nổi lên, nhưng gặp nhiều khó khăn khi phải tìm một định nghĩa của “kẻ nhắc tuồng” khả dĩ chấp nhận được trong các phiên tòa, bởi rất khó có thể chứng minh cái gọi là “sự nhắc tuồng” ấy.

Khi không có mối liên hệ nhân quả giữa bị cáo và kẻ nhắc tuồng, chúng ta không thể hình dung ra loại tội ác nào mà kiểu tội phạm này có thể bị cáo buộc. “Xúi giục hành động phạm tội” thường không đủ mạnh để cấu thành tội trạng. Bởi lẽ trong trường hợp của những kẻ nhắc tuồng, sự việc không đơn giản chỉ là ra lệnh và tuân lệnh. Những tên tội phạm này sử dụng phương thức giao tiếp bằng tiềm thức, và không “nhồi” ý đồ phạm tội trong đầu thủ phạm, mà “khơi dậy” mặt tối vốn dĩ tồn tại trong mỗi chúng ta. Chính điều này dẫn thủ phạm đến việc gây ra một hay nhiều tội ác.

Vụ Offelbeck năm 1986 thường được nhắc tới như một trường hợp điển hình: một bà nội trợ đã nhận được hàng loạt cú điện thoại nặc danh để rồi một ngày nọ, bỗng dưng đầu độc cả gia đình mình bằng cách bỏ thuốc diệt chuột vào món súp.

Cần nói thêm là tác giả của những vụ án tàn bạo thường có khuynh hướng chia sẻ trách nhiệm với một giọng nói, một ảo ảnh, hoặc những nhân vật tưởng tượng. Do đó rất khó có thể kết luận được hành vi phạm tội chỉ là kết quả của bệnh lý tâm thần hay là tác phẩm của một kẻ nhắc tuồng.

Trong số các nguồn tư liệu được sử dụng trong tiểu thuyết này, ngoài các sách giáo khoa về tội phạm học, về môn giám định tâm thần và các văn bản pháp y, tôi còn dẫn ra một số vụ điều tra của FBI, tổ chức đã có công tập hợp một kho dữ liệu đáng giá về những kẻ giết người hàng loạt và phạm tội ác nghiêm trọng.

Nhiều vụ trong số những tội ác được nêu trong truyện đã thực sự xảy ra ngoài đời. Tên và địa điểm của chúng đã được thay đổi vì đa phần các cuộc điều tra vẫn chưa kết thúc và việc xét xử còn chưa diễn ra.

Các biện pháp điều tra và giám định mô tả trong tiểu thuyết này là hoàn toàn có thật, dù trong một số trường hợp, tôi đã biến đổi chúng cho phù hợp với yêu cầu nội dung của câu chuyện.

Lời cảm ơn

Nhiều người nghĩ rằng viết lách là một cuộc phiêu lưu cô độc. Thật ra có rất nhiều người đã đóng góp vào sự ra đời của một câu chuyện, dù họ không nhận ra. Họ là những người đã nuôi ý tưởng, hỗ trợ và khuyến khích tôi trong suốt những tháng thai nghén nên cuốn tiểu thuyết này và là một phần cuộc đời của tôi, bằng cách này hay cách khác.

Với hy vọng họ sẽ ở bên cạnh tôi trong cả một tương lai dài phía trước, tôi muốn gửi lời cảm ơn tới họ.

Cảm ơn Luigi và Daniela Bernabò vì thời gian và sự tận tâm mà họ đã dành cho câu chuyện này cũng như tác giả của nó. Vì những lời khuyên đáng giá đã cho phép tôi trưởng thành hơn trong tư cách một nhà văn, giúp tôi định hình phong cách và tính hiệu quả của những trang viết này. Và vì đã đặt cả trái tim họ vào đó. Nếu bạn đọc được những dòng chữ này, thì phần lớn là nhờ ở công lao của họ. Xin cám ơn, cám ơn rất nhiều.

Cảm ơn Stefano và Cristina Mauri, những người đã đầu tư tên tuổi vào tôi và tin tưởng vào điều đó cho đến tận cùng.

Cảm ơn Fabrizio, “người nhắc tuồng” của tôi, vì những lời khuyên tàn nhẫn của anh, vì thái độ cứng rắn đầy tử tế của anh, vì tình yêu anh dành cho từng trang viết, từng câu chữ của tôi.

Cảm ơn Ottavio, người bạn mà ai cũng muốn có bên cạnh mình suốt đời. Cảm ơn Valentina, một người thật sự đặc biệt. Cảm ơn hai bé Clara và Gaia vì sự yêu thương chúng đã dành cho tôi.

Cảm ơn Gianmauro và Michela, với hy vọng tôi được ở bên họ những khi thực sự cần. Và cảm ơn Claudia, nguồn sáng của tôi.

Cảm ơn Massimo và Roberta vì sự ủng hộ và tình bạn chân thành của họ.

Cảm ơn Michele. Người bạn đầu tiên và thân thiết nhất của tôi. Cần phải nói là anh luôn có mặt mỗi khi tôi cần. Và anh biết tôi cũng sẽ luôn ở đó.

Cảm ơn Luisa, vì nụ cười dễ tiêm nhiễm và những bài hát vang mãi trong xe hơi trên những phố phường Roma.

Cảm ơn Daria và định mệnh cô đã dành cho tôi. Vì cách cô nhìn nhận thế giới và khiến tôi nhìn nó qua đôi mắt cô.

Cảm ơn Maria De Bellis, người đã canh chừng cho những giấc mơ trẻ con của tôi. Việc tôi trở thành nhà văn cũng là nhờ ở bà.

Cảm ơn Uski, “cộng sự” có một không hai của tôi.

Cảm ơn Alfredo, bạn đồng hành sôi nổi trong hàng ngàn chuyến phiêu lưu.

Cảm ơn Achille, người không có ở đó... nhưng luôn hiện diện.

Cảm ơn Pietro Valsecchi và Camilla Nesbit, và toàn bộ hãng phim Taodue.

Cảm ơn mọi người ở Bernabò Agency, những người đã dõi theo từng bước phát triển của cuốn tiểu thuyết này. Cùng với những người bạn đã đọc câu chuyện này ngay từ ban đầu và giúp tôi hoàn thiện nó qua những đóng góp xác đáng.

Cảm ơn gia đình lớn của tôi. Những người đã, đang và sẽ góp mặt vào đó.

Cảm ơn Vito, em trai tôi. Người đầu tiên được đọc câu chuyện này, và nhiều câu chuyện khác, sẽ luôn là như thế. Ngay cả khi bạn không thể nghe thấy, âm nhạc trong những trang viết này thuộc về cậu ấy. Và cảm ơn Barbara, người đã làm cho cậu ấy hạnh phúc.

Cảm ơn bố mẹ tôi. Vì những điều họ đã dạy dỗ tôi và những gì họ để cho tôi tự tìm hiểu. Vì con người hiện tại và trong tương lai của tôi.

Cảm ơn em gái tôi, Chiara. Người luôn tin vào các giấc mơ của cô ấy và của tôi. Không có cô ấy, cuộc sống của tôi sẽ trống trải kinh khủng.

Cảm ơn tất cả những ai đã đọc đến hết những trang sách này. Với hy vọng là tôi đã mang lại cảm xúc cho các bạn.

Donato CARRISI

* * *

[1] Cytofix: tên thương mại của một loại hóa chất dùng để tạo ra các lỗ thấm trên màng tế bào, cho phép thuốc nhuộm vào được bên trong tế bào.

[2] Một loại bệnh lệch lạc tình dục, đàn ông mắc bệnh này thích quan hệ tình dục với trẻ nhỏ chưa hoặc mới dậy thì.

[3] Tiếng Ý trong nguyên bản.

[4] Tiếng Pháp: Chúc ngon miệng.

[5] Thành phần cấu tạo của hồng cầu.

[6] Sự liên tưởng.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom