Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Đạo Mộ Bút Ký
Quyển 6 - Chương 29: Một mình xuống nước


Edit:Earl Panda

*****


Mưa vẫn rất to, cứ như điên cuồng vậy. Ở Hàng Châu, mưa lớn như vậy thường không lâu đến thế.

A Quý đã không thể giúp tôi được nữa, tôi đoán là anh ta sợ tôi cũng sẽ biến mất giống như hai người kia, anh ta không chịu nổi thêm một cú sốc như thế nữa. Tôi kể anh ta nghe chuyện Bàn Mã dẫn tôi tới, bảo anh ta phải cẩn thận, tuy tôi nghĩ lúc này Bàn Mã có lẽ cũng đã suy sụp lắm rồi. Anh ta muốn đi dọn dẹp những bộ hài cốt kia, tôi bảo không nên, có chúng ở đấy, ít nhất cũng đề phòng được nếu Bàn Mã quay về. Xem ra khó lòng có thể nói lý gì với lão ta được nữa. Tôi thật không ngờ người này lại có thể hung ác đến mức này.

Vừa đúng lúc có thể dùng đồ đạc vừa mua về, không biết bây giờ Bàn Mã vẫn còn ở trong rừng hay không, nếu đụng phải lão ta thì phiền to.

Không lo nghĩ được nhiều thế, từ lúc hai người kia xuống nước đến giờ đã lâu quá rồi, tôi thực sự lòng như lửa đốt, nếu lỡ có sự cố gì xảy ra chẳng lẽ tôi lại cứ thế đi về. A Quý vẫn còn mơ mơ màng màng, miệng lẩm bẩm cái gì đó, người cứ run lên bần bật, có lẽ do mấy ngày nay bị kích thích quá đà, cộng thêm trời mưa liên miên nữa, nên anh ta bắt đầu phát sốt rồi.

Bên ngoài mưa vẫn đang rơi, xem chừng vẫn chưa thể tạnh ngay được, tôi nhìn quanh một lượt, không thấy lão Bàn Mã, bèn chuẩn bị tháo dỡ trang bị chạy đến bên hồ, bỗng nhiên từ trên đầu có cái gì đó nhỏ lách tách xuống. Tôi chỉ có cảm giác chất lỏng này không giống với nước mưa cho lắm mà thôi, lại lẫn với mùi tanh tanh của máu tươi, vì mùi rất nồng, cho nên tôi ngước lên nhìn xem. Không nhìn thì thôi, mà vừa ngẩng đầu lên, tôi lập tức khiếp sợ đến nghẹn cả thở, toàn thân cứ như thể bị rút cạn nước đi…

Nếu như trên đời này có cái gì giết nổi lão Bàn Mã, tôi tin ngoại trừ tai nạn ra thì chỉ có thể là quái vật khủng khiếp nào đó. Cứ như thế, lão Bàn Mã bị thứ gì đó trông như cái dùi, trực tiếp xuyên thẳng qua thân thể mà chết, trông cứ như nguyên một xiên thịt dê nướng vậy. Lại còn bị treo ngay trên tán cây trên đầu tôi. Chết kiểu này kinh khủng đến mức nào cơ chứ, tôi thực sự không thể chịu được, ụa một cái nôn thốc ra đầy đất. Lão ta bị vướng phải bẫy có sẵn mà chết, cái bẫy này là do ai đặt? Nếu lần đó là tôi chạy đến chỗ này, chuyện sau đó tôi không dám tưởng tượng nữa.

Quay về bên con la, tôi dỡ bộ đồ lặn trong đống hành lý xuống, vội vã đến bên bờ hồ. Tôi không thể chờ thêm một phút nào nữa, tôi phải đi kiểm chứng ngay.

Mặc nguyên bộ đồ vào, hồi ở Hải Nam tôi đã quen với việc lặn, lúc này không căng thẳng chút gì, đội mưa gió, thúc bè gỗ chèo ra giữa hồ.

Đeo chân vịt vào, chả mấy tôi đã bơi ra đến trung tâm hồ. Mưa xối xả rơi xuống mặt hồ. Vô vàn những hạt mưa đập xuống mặt nước vang lên những âm thanh đinh tai nhiếc óc, thứ âm thanh khó lòng miêu tả nổi ấy khiến lòng tôi bình tĩnh hơn một chút. Tôi nhìn quanh tìm kiếm xem có dấu vết gì do hai người kia để lại lúc trước không, nhưng trong tình cảnh này thì chẳng thể tìm kiếm nổi cái gì, đành chọn đại khái một hướng, sau đó đeo kính lặn, lặn xuống nước.

Có kinh nghiệm của lần trước, lần này tôi ung dung hơn một chút, biết cứ lặn kiểu này chắc chắn sẽ không xuống được tận dưới đáy, bèn quyết định lơ lửng ở đó một lúc, quan sát đại khái tình hình.

Đến vị trí lần trước lặn xuống, tôi lại cắt dây thừng, thở hết không khí ra khỏi phổi, như vậy sẽ không bị nổi lên quá nhanh, đồng thời vung vẩy tay chân để bản thân giữ nguyên ở độ sâu hiện tại.

Có kính lặn, quanh cảnh dưới nước trở nên rõ ràng hơn, tiếc là lúc này ánh sáng lại u ám hơn trước nhiều. Tôi vừa khua chân để giữ thăng bằng, vừa cố gắng chìm xuống sâu hơn một chút, một tay khua đèn, bắt đầu chiếu vào chỗ sâu hơn.

Không lâu sau, cả một thế giới dưới đáy hồ màu xanh xám với các đường nét rõ ràng dần dần xuất hiện trước mắt tôi.

Tôi đạp hai chân, bơi về phía trước. Đèn pin chỉ chiếu sáng được từng phần một, không thấy rõ toàn cảnh được, chỉ có thể dựa vào trí nhớ mà tưởng tượng chắp nối các mảnh nhỏ lại. Cũng may tôi học kiến trúc, có một cách ghi nhớ đặc biệt đủ để tôi ghép các bộ phận nhỏ được ghi nhớ trong đầu thành một chỉnh thể.

Đây là một thế giới đơn sắc, toàn bộ chỉ một màu xanh đậm của nước hồ. Bơi về phía trước một đoạn ngắn, tôi phát hiện quả đúng như tôi nghĩ, lối vào kéo dài đến tận đáy lòng chảo tối mịt, cả một sường dốc phủ đầy trầm tích gỗ. Đáy hồ không hoàn toàn bằng phẳng mà là cả một thung lũng gồ ghề lại rất sâu dưới mặt nước, hàng rào được dựng men theo sườn núi, ở phía nam thung lũng.

Quãng thời gian kế tiếp, tôi không ngừng nổi lên lại chìm xuống, liên tục thay đổi vị trí của mình. Trong một phút ngắn ngủi, tôi quan sát hết tình hình dưới đáy nước.

Càng ngày càng nhiều chi tiết xuất hiện trước mặt, làng cổ dưới nước âm u này có quy mô cũng phải tương đương với bản làng người Dao chúng tôi tới, tổng cộng khoảng chừng năm, sáu mươi hộ gia đình, đa phần là nhà sàn. Xem mức độ bào mòn thì có thể thấy những ngôi nhà cổ này không phải xây từ thời cận đại, phong cách quá đỗi cổ xưa, những chi tiết đặc thù của dân tộc Dao vô cùng rõ nét, không giống nhà sàn thời nay Tây chả ra Tây Ta chả ra Ta.

Vị trí chúng tôi lặn xuống trước kia tôi vẫn còn chút ấn tượng, Bàn Tử cũng từng nhắc đến khu vực hàng rào tre. Tôi sục tìm cả một quãng đó, chả mấy chốc thấy một cái phao đánh dấu rất nhỏ, đồng thời cũng nhìn thấy dãy hàng rào tre.

Tôi lập tức lặn xuống, nhưng dưới nước chẳng có gì cả, không có chút dấu vết nào chứng tỏ bọn họ từng tới đây, cũng không có bất kỳ khác thường gì.
 
Quyển 6 - Chương 30: Cổ thụ


Edit: Earl Panda

*****

Bàn Tử và Muộn Du Bình chắc hẳn phải gặp chuyện gì đó ở chỗ này, vì một lý do nào đó mà tôi không biết, tháo dây thừng, sau đó biến mất dưới đáy hồ sâu hơn mười mét.

Không có đồ lặn, bọn họ ở dưới nước chỉ có thể chịu được khoảng một phút, trong một phút họ có thể đi đâu được chứ? Tôi không muốn tin vào mấy thứ quỷ quái như là bị ma nướcăn thịt gì đó. Dựa theo thực tế mà suy đoán, khi ở dưới nước, tối đa cũng chỉ bơi ra xa được khoảng hai mươi ba mét, nói cách khác, trừ phi lúc đó có một con tàu ngầm đến tiếp ứng cho bọn họ, bằng không thì chẳng làm gì được cả, cũng không thể đi đâu hơn được nữa. Chắc chắn bọn họ chỉ ở quanh đây thôi.

Thế nhưng, khắp bốn phía chẳng có gì cả, dưới đáy hồ tĩnh lặng trống không.

Điều kỳ quái nhất trong chuyện này đó là hai chi tiết: phải cởi mũ lặn và tháo dây thừng.

Đội mũ lặn này vào rất phiền phức, nó có khóa kéo ở phía sau, hơn nữa lại rất dài, muốn cởi ra phải mất chừng mười đến hai mươi giây, lại phải tháo dây thừng, nhanh nhất cũng đã mất thêm năm giây rồi. Hai mươi lăm giây này là đối với Muộn Du Bình, còn với thể chất và tố chất tâm lý của Bàn Tử, e là phải lâu hơn một chút nữa.

Ngoài ra, mũ lặn này không làm ảnh hưởng đến hành động của họ, khi bị tấn công còn có thể dùng làm công cụ phòng thủ, dù là về tình hay lý thì cũng không cần thiết phải cởi nó ra làm gì.

Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, lại khiến bọn họ buộc lòng phải cởi mũ?

Bởi vì ngay đến cả Muộn Du Bình cũng phải cởi mũ ra, như vậy chắc chắn không phải ý tưởng đột nhiên nghĩ ra, người này tính cách của hắn đáng tin hơn Bàn Tử nhiều, cởi mũ chắc chắn phải là một hành động cần thiết.

Nếu bọn họ đã có thể ung dung cởi mũ lặn ra, thì có lẽ không phải gặp sự cố gì cấp bách như bị động vật tấn công chẳng hạn. Có lẽ bọn họ đã gặp phải chuyện gì kỳ quái, nhưng là một chuyện kỳ quái cho phép bọn họ có thể ung dung suy nghĩ, rồi đưa ra phán đoán “có thể cởi mũ lặn, sẽ không gặp nguy hiểm” hoặc “có thể cởi mũ lặn, nguy hiểm đã ở trong phạm vi khống chế”.

Có thể xác định một điều rằng, chắc chắn chuyện này xảy ra ở xung quanh đây thôi.

Cứ thế phân tích từng bước từng bước làm tôi dần dần bình tĩnh lại, liếc nhìn ngôi làng cổ dưới sườn dốc sâu thẳm nơi đáy nước, bỗng nhiên cảm thấy một sự lạnh lẽo quỷ dị từ dưới đống hoang tàn này. Phải chăng bọn họ ở bên trong làng cổ dưới đáy hồ này?

Nhưng sao có thể bơi từ đây đến làng cổ trong một phút được. Điên rồi mới cởi dây bơi vào đó, khác gì tự sát đâu.

Tôi thử tưởng tượng lại tình huống lúc đó, nhìn khắp xung quanh lại không thấy có chỗ nào phải cởi dây mới đi qua, hay phải cởi mũ lặn xuống mới chui qua được.

Xung quanh toàn là bãi đá sạch sẽ, tôi chậm rãi bơi, thấy tình hình xung quanh quá đơn giản. Nhờ ánh đèn cường lực và kính lặn, tầm nhìn của tôi rất rõ ràng. Chỉ có một khả năng duy nhất, đó là khu vực bên dưới sườn dốc đá này, gần dãy hàng rào tre, ở đó còn có mấy khúc gỗ mục cực lớn chìm dưới đáy.

Mấy khúc gỗ mục khổng lồ này nhất định là cây đại thụ ngoài cổng làng năm xưa, bây giờ tất cả cành non và lá cây đều mục nát thành bùn rồi, chỉ còn thân cây là chưa rữa nát hết.

Vô số cành cây rơi vãi chất thành đống xung quanh thân cây, tạo thành những đống cành cây to tướng trông như bụi rậm héo rũ vậy, đan xen khắp nơi, bị chất vôi có trong nước phủ một lớp trắng lên trông như đá tảng.

Nếu Bàn Tử phát hiện vật gì ở trong đó, rất có thể anh ta sẽ cởi dây mà chui vào, bởi vì dây thừng rất dễ bị mắc kẹt trong đống cành cây, cùng với mũ lặn nặng nề, anh ta sẽ không thể thò đầu vào xem được.

Nghĩ đến đây, tôi thoáng rùng mình, trong đầu nảy ra một ý tưởng hết sức kinh khủng: Có lẽ nào, Bàn Tử phát hiện ra cái gì trong đống cành cây đó, bèn cởi mũ lặn và dây thừng ra để xem, kết quả là bị kẹt ở trong đó. Sau đó, Muộn Du Bình vì cứu Bàn Tử, cũng cởi mũ lặn và dây thừng, kết quả cũng lại kẹt ở trong, thế là hai người đều cùng chết chìm, thi thể cũng không thấy đâu nữa.

Nếu quả thực như vậy, tôi sẽ phải đối mặt với một cảnh tượng cực kỳ khủng khiếp: trong đống cành cây này là thi thể bị ngâm nước suốt hai tuần của hai người bọn họ.

Tôi không dám bơi qua đó, nhưng lập tức ép buộc bản thân mình phải khua chân vịt, hiện giờ không thể trốn chạy được.

Giữ một khoảng cách, tôi bơi lên phía trên đống gỗ mục này, soi đèn xuống chiếu xem. Thấy phía dưới đó là một khu vực rộng khoảng một sân bóng rổ, toàn là những cành cây trắng ởn, đan cài vào nhau suốt một quãng trông như lưới sắt vậy. Ánh sáng chiếu xuyên qua kẽ hở các cành cây mà xuống, hết lớp này đến lớp nọ, nếu mắc kẹt ở trong này thì có là Đại La thần tiên cũng không thoát ra nổi.

Giữa các cành cây đan xen quả thực có một vài chỗ hổng khá lớn, hình như là do có người xô mạnh vào mà thành, nhưng trong đó không có thi thể của Bàn Tử và Muộn Du Bình.

Tôi tìm kiếm một lượt, quả thực không có, bấy giờ mới thở phào một hơi, cắn răng lặng xuống, đến gần một đống cành cây.

Tiến sát lại gần, tôi nín thở ngó vào nhìn, lập tức nhận ra mình đã lầm rồi, những đống cành cây này không thể khiến người ta bị kẹt mà chết được. Nhiều cành bị gãy chưa nói, bên trong còn rữa nát như bột phấn, đưa tay ra gõ một cái đã gãy lia lịa. Chẳng qua chúng có thể giữ nguyên hiện trạng là nhờ một lớp chất vôi mỏng bao phủ bên ngoài gắn kết mà thôi, thứ này không chịu được lực, cho dù có bị rơi xuống đây, thì giãy dụa vài cái là thoát ra được rồi.

Trong những lỗ hổng nọ quả thực có vô số mảnh vôi vỡ vụn và những “cành cây vôi” đứt gãy chất hàng đống lộn xộn ở khắp nơi, có lẽ là do Bàn Tử đã sục sạo vào đây để tìm hài cốt. Dí đèn pin lại gần để chiếu xuống dưới, cũng không thấy gì khác thường, chứng tỏ bọn họ không tìm thấy gì dưới này.

Tôi không khỏi cười khổ, nếu không phải vì lý do này, vậy rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra? Vì sao đang yên đang lành tự dưng lại biến mất dưới đáy hồ? Chẳng nhẽ lại đúng như lời A Quý nói, dưới hồ có ma quỷ quấy phá chăng?

Trong đúng khoảnh khắc ấy, tôi thậm chí đã nảy ra một ý nghĩ, cởi hết đồ lặn ra, để xem rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì, vất vả lắm mới nhịn được, không làm cái chuyện hoang đường này.

Bên dưới những cây gỗ mục này là ngôi làng cổ, tôi dõi mắt nhìn bao quát xuống phía dưới, thấy toàn là những mái ngói lớp lớp, không thấy bên trong. Chỉnh nấc đèn pin đến cường độ cao nhất cũng vô ích, không có tia sáng nào chiếu ra được cái gì, ngược lại càng khiến ngôi làng trở nên sâu thẳm tĩnh mịch.

Tôi bình tĩnh lại, chuẩn bị tiếp tục tìm kiếm, khua đèn một cái. Không ngờ ngay trong lúc quay đầu đi, tôi đột nhiên cảm thấy bên trong làng cổ kia có gì đó thay đổi.

Vội vàng quay đầu lại xem, chỉ thấy ở nơi sâu thẳm bên trong ngôi làng, chẳng biết từ khi nào xuất hiện một điểm sáng màu lục cực kỳ quái gở, cứ như thể một ngọn đèn cô độc lạnh lẽo được thắp sáng giữa màn đêm tối tăm.

Dưới làn nước sâu, quầng sáng xanh lạnh lẽo nom cứ như ánh lửa ma trơi từ cõi u minh vọng lại, trong mờ mờ ảo ảo, đầu óc tôi tức thì trống rỗng, cứng đơ ra như bị bóng đè, tim đập bình bịch, lồng ngực tắc nghẹn đến không thở nổi.

Cái đệt! Thế là thế nào? Đấy là ánh sáng gì? Lẽ nào trong làng cổ có người??

Lẽ nào Muộn Du Bình và Bàn Tử đang ở trong làng cổ này, không những còn sống, mà còn đang hoạt động?

Nhưng đây là dưới đáy hồ sâu những mấy chục mét, trong một ngôi làng cổ ẩn mình suốt mấy ngàn năm, bọn họ không có oxy, làm sao có thể sống được ở dưới nước trong một thời gian dài như vậy?

Cứ coi như là đèn pin đi, thì trải qua hai tuần lễ cũng đủ hết sạch pin rồi, hơn nữa, thứ ánh sáng này có cảm giác quỷ dị đến mức không diễn tả nổi, chắc chắn không phải phát ra từ đèn pin, càng không thể là ánh lửa. Cảm giác khó thở ngày càng mãnh liệt, chẳng lẽ là oan hồn năm xưa chết dưới đáy hồ, không thành Phật mà thành ma, vẫn lởn vởn mãi trong đống phế tích hoang tàn này? Phải chăng đây chính là ngọn đèn năm xưa của người Dao, vượt qua ranh giới giữa chốn âm tỳ địa ngục và nhân gian, để chỉ đường dẫn lối cho những âm hồn vong linh quay trở về quỷ vực?

Ở ngay giữa bóng tối sâu thẳm lạnh lẽo nơi đáy hồ, một cảm giác quái gở không rõ dần dần dâng lên, khiến tôi không kìm được mà muốn bơi về phía ánh đèn nọ, cứ như người đi lạc trong núi nhìn thấy ánh lửa vậy. Trong nháy mắt đó, một linh cảm lóe lên trong đầu: phải chăng chính vì nhìn thấy đốm sáng này, cho nên Bàn Tử với Muộn Du Bình mới biến mất?

Chẳng lẽ mấu chốt chính là ở đây? Tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì?

Tôi không kịp bình tĩnh lại, quan sát khắp bốn phía, chỉ sọ có gì đột ngột ập đến đầu mình. Nhưng nhìn khắp xung quanh một lượt, vẫn chỉ có sự tĩnh lặng tột cùng, chiếu đèn pin xuống, vẫn không thấy gì khác thường.

Quay đầu nhìn lại, ánh đèn xanh biếc lẻ loi nọ càng ngày càng tối đi.

Một cảm giác hoảng loạn không biết từ đâu bắt đầu dâng lên trong lòng tôi.
 
Quyển 6 - Chương 31: Ánh đèn dưới đáy nước


Edit: Earl Panda

*****

Ánh đèn lẻ loi trong làng cổ dưới đáy hồ, không biết nằm ở chính xác vị trí nào. Là ở chỗ sâu tít dưới đáy kia, hay từ một ô cửa sổ nào đó trong ngôi làng?

Màu sắc của ánh đèn thực sự khó lòng miêu tả nổi, rất đục, như thể bị người ta chụp lên một lớp vải bọc màu xanh sẫm vậy, mờ mờ ảo ảo, không giống ánh đèn dầu của nhân gian.

Cái hồ nước quỷ dị này đã khiến tôi phải kinh ngạc quá nhiều lần, dưới vẻ đẹp tĩnh mịch thanh tịnh kia lại ẩn giấu quá nhiều bí ẩn. Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra ở đây, lại khiến tất cả mọi thứ như thể bị nguyền rủa?

Trong cảnh u ám như thế, tôi một mình lặn xuống đáy hồ, không có bất kỳ trợ giúp nào, lần đầu tiên tôi cảm thấy hoảng loạn và cô độc vô cùng.

Cái cảm giác tuyệt vọng mà bất lực đó còn khiến tôi sợ hãi hơn cả cái chết.

Trong một chốc, tôi đã nghĩ đến loài cá xấu xí phát ra ánh sáng để dụ dỗ con mồi dưới đáy biển sâu. Ngôi làng cổ này như thể một sinh vật khổng lồ đang sử dụng ánh sáng của nó để dụ dỗ con mồi tự chui đầu vào lưới.

Liếc nhìn đồng hồ dưỡng khí, khi sợ hãi, tim đập mạnh khiến dưỡng khí tiêu hao rất nhanh, nhưng từ đầu đến cuối vẫn không thể nào thoát khỏi cơn ác mộng sởn tóc gáy này.

Tôi kiềm chế nỗi sợ hãi của mình, trong lòng tự nhủ: “Nếu muốn biết rõ chân tướng, e rằng mình phải mạo hiểm một phen. Nếu Bàn Tử và Muộn Du Bình còn sống, như vậy bọn họ chắc chắn đang ở trong một tình huống cực kỳ quỷ dị, mà mình là hy vọng duy nhất của họ. Nếu mình đã đến đây rồi, căn bản là không có đường lui, ánh đèn xanh lét này, dù là hung hay là cát, thì cũng là đèn chỉ đường cho mình.”

Cứ như đang thôi miên chính mình vậy, nhưng trong hoàn cảnh lúc này, tôi thực sự không biết phải lấy đâu ra dũng khí để đi sâu xuống đó nữa. Lẩm nhẩm đến lần thứ ba, cảm giác hoảng loạn dần vơi bớt một chút, vì vậy tôi bèn rút lưỡi lê ra, cầm chắc trong tay, thực ra tôi không biết thứ này có thể đối phó gì được với ma quỷ không, tóm lại là cứ liều đi.

Tôi khua khoắng tay chân, lặn sát xuống bãi đá dần tiến về phía ngôi làng cổ. Lặn xuống không được bao lâu, ánh đèn âm u nó dần dần bị các ngôi nhà cổ che khuất mất, không nhìn thấy nữa, bóng tối dần lan tràn trở lại, một lần nữa, ngôi làng nọ lại quay về với bóng tối âm u.

Tôi dần bình tĩnh lại, như một kỳ tích, nỗi sợ hãi dần dần lui bước, xem ra nỗi sợ đó hoàn toàn đến từ ánh đèn xanh âm u nọ, tôi không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Với tính cách của tôi, nếu ánh đèn nọ mà từ từ tiến lại gần, thế nào tôi cũng bị dọa đến phát điên lên mất.

Vị trí hiện nay của tôi cách biên giới ngôi làng không xa lắm, từ từ tới gần, phát hiện dốc đá sát biên giới ngôi làng cũng có rất nhiều gỗ mục, có thanh còn đứng thẳng, có thanh đã sập, vắt ngang dưới đáy hồ, chứng tỏ trước khi ngôi làng này bị nước nhấn chìm, xung quanh nó là một rừng cây rậm rạp, bốn bề đại thụ san sát, phong thủy quá tốt.

Lặn xuống không được bao lâu đã đến làng cổ, mái nhà sàn gần nhất chỉ cách tôi có hai, ba mét.

Do trượt từ trên dốc xuống, độ sâu có lẽ đã vượt quá bảy mươi mét, tức thời tôi chưa kịp thích ứng với áp suất nước. Đúng là “Chẳng rõ Lư Sơn hình dáng thật/ Bởi thân đang đứng ở chốn này”(*), đứng ở đây rồi, chẳng nhìn thấy toàn cảnh ngôi làng nữa, chỉ thấy tầng tầng lớp lớp những ngôi nhà san sát, mà ánh sáng xanh âm u ở cách đó không xa.

(*) trích bài “Đề Tây lâm bích” của Tô Thức.

Cùng với đó, tôi còn nhìn thấy dưới chân mình, ngay sát mép làng, có rất nhiều tấm bia đá dựng thẳng, trông như những bia mộ.

Tôi liền lặn xuống một tí, dùng đèn pin soi thử xem, thấy trong thành phần của bia đá này có chất vôi, bị hòa tan bớt trong nước, khiến cả tấm bia nham nham nhở nhở. Không nhìn rõ chữ trên bia, nhưng chắc chắn không phải bia mộ, là một loại bia đá đặc thù của người Dao người Mèo.

Người Dao cổ có truyền thống ghi lại luật lệ trên bia đá, khi trong làng có những việc cần đến tập thể giải quyết, họ sẽ mở một cuộc họp bia đá, thống nhất lập một bia đá trong làng, gọi là “bia đá luật”. Có thể coi nó như luật điển của dân Dao vậy, tất cả mọi người, kể cả Vua Dao cũng đều phải tuân thủ.

Người Dao gọi tấm bia đá dạng này là “A Thường”.

Loại pháp lệnh này thiêng liêng hơn tưởng tượng của người Hán nhiều, người Dao quan niệm “bia đá nặng hơn trời”, thời cổ đại không ít lần người Dao người Hán xung đột với nhau, chẳng qua cũng là bởi người Hán muốn động đến bia đá luật mà ra. Mỗi tấm bia đá đều có một người trông coi, gọi là “người đứng đầu bia đá”, quyền hành rất lớn.

Ở đây có rất nhiều bia đá, nếu là loại bia đá luật, bên trên chắc chắn ghi chép lại những sự kiện quan trọng, đáng tiếc chữ viết đã mòn vẹt đi không đọc rõ được nữa. Mặt khác, nhiều tấm bia đá luật do nội dung có liên quan đến những bí mật nội bộ sâu xa khó hiểu từ thời xa xưa, cho nên bia không có chữ, đương sự năm xưa hoàn toàn tự giác mà tuân theo luật lệ đã định.

Dù thế nào đi nữa, nếu có thể đọc được chữ trên bia đá, ít nhiều cũng biết được ngôi làng cổ này rốt cục đã gặp phải chuyện gì.

Lướt qua các tấm bia, một lần nữa tôi lại nổi lên phía trên ngôi làng. Khoảng cách rất gần, những ngôi nhà sàn hoang tàn cùng những con đường nhỏ dần trở nên rõ ràng hơn. Ánh đèn xanh âm u lại hiện ra, không nhìn thấy nguồn sáng, nhưng quầng sáng mờ mờ ảo ảo đã ở ngay phía trước.

Da gà da vịt tôi nổi hết cả lên, tim càng đập bình bịch, cảm giác hoảng loạn sợ hãi gần như không giảm bớt tí nào, chỉ loáng đã tràn ra khắp các giác quan. Cùng lúc đó, tôi cũng cảm thấy nỗi sợ hãi này có gì đó vô cùng khác thường, như thể đến từ nơi ký ức sâu thẳm nhất, nguyên thủy nhất trong tôi, không cách nào miêu tả được, càng không tài nào xua tan được.

Rốt cuộc tôi đang sợ cái gì?

Từ độ cao này nhìn xuống một ngôi làng cổ ngàn năm, trên thế giới này người có trải nghiệm giống như tôi đây chỉ e không quá trăm người. Ngay phía dưới đây, buông tay một cái là chạm đến được mái nhà sàn bằng gỗ mục nát, cứ như thể đang dạo chơi lơ lửng giữa không trung của con đường mòn cổ xưa hoang vắng. Trong đầu không khỏi tưởng tượng lại khung cảnh của hàng ngàn năm về trước, nhưng ngay lập tức lại bị dòng nước cuốn trở về hiện thực, cái cảm giác đan xen này khiến người ta cảm thấy mọi thứ rất không thật.

Lần đầu tiên nhìn thấy ngôi làng cổ dưới đáy hồ này, tôi cảm thấy làng cổ này có phần rất giống Ba Nãi, nhà sàn bằng gỗ cứ san sát, dày đặc, giữa những ngôi nhà sàn hai đến ba tầng thi thoảng lại xen kẽ những bậc thềm đá và con đường mòn lát đá rộng đủ ba người cùng sánh bước. Tất cả những ngôi nhà sàn đều mục nát, trông như thể sẽ sụp xuống bất cứ lúc nào vậy, có phần mái của nhà này lại đổ nghiêng lên tường của nhà khác, tạo thành hình chữ “môn” (门).

Tôi bơi lửng lơ ngay phía trên những chữ “môn” ấy, nhìn những bọt khí do chính mình thở ra, không kìm được mà vươn ra chụp lấy nó. Bơi vào trong làng rồi, chỉ cần có gì bất ngờ xảy đến, những ngôi nhà gỗ này sẽ đổ sụp, chạy không kịp là bị chôn sống. Một khi đã bị chôn sống dưới đáy nước, tức nghĩa là đừng mong chờ một cơ hội được cứu sống nào.

Bơi lướt qua mấy ngôi nhà sát đổ nát tan hoang, ánh đèn càng ngày càng gần lại, tim càng ngày càng đập mạnh, cảm giác ngộp thở ngày càng tăng.

Từ góc này mà đoán, có lẽ ánh sáng đến từ một ngôi nhà cổ nào đó quanh đây, có thể là chiếu từ cửa sổ ra ngoài.

Đang định nghiến răng kiên trì lặn tiếp, bỗng xung quanh tối sầm lại, ánh sáng biến mất.

Tinh thần đang ở trạng thái căng thẳng, sự việc đột ngột này khiến tôi suýt thì ngất xỉu tại chỗ, ống hít thở tuột ra khỏi miệng. Nhưng trong nháy mắt đó, tôi đã nhìn thấy chỗ ánh sáng phát ra. Đó là một ngôi nhà sàn hình tháp khổng lồ sừng sững, được ghép lại từ mấy ngôi nhà sàn, có lẽ là lầu tháp của gia tộc lớn ở đây. Thường thì gia tộc nào lớn giàu có nhất làng sẽ tập hợp lại xây dựng kiến trúc như thế này. Nhưng trong nháy mắt đó quá nhanh, chưa kịp nhìn rõ ánh đèn phát ra từ ô cửa sổ nào.

Tôi từ từ lặn xuống, bật đèn pin lên soi, lập tức ngẩn ra vì sửng sốt.

Trời ạ! Đây là tòa nhà gì?

Tòa lầu tháp này bên ngoài kết cấu lại bằng đá, hơn nữa, mái ngói diềm cong, lối kiến trúc kiểu An Huy.

Đây không phải là lầu tháp của dân tộc Dao, mà là kiến trúc của người Hán.

Thế là thế nào? Trong ngôi làng cổ của người Dao, sao lại có kiến trúc của người Hán?
 
Quyển 6 - Chương 32: Đại viện Dao gia


Edit: Earl Panda

*****

Mèo Dao với nhà Hán xưa nay ở thế không đội trời chung, chia nhau ra mà sống, rất khắt khe với huyết thống và sự riêng tư của mình, đặc biệt là khu vực phía Nam, vốn là nơi xảy ra nhiều xung đột giữa các dân tộc thiểu số nhất từ xưa đến nay. Thời cổ đại có cuộc chiến loạn Tam Miêu(*), hồi trước Giải Phóng vẫn còn cổng thôn của người Hẹ. Hồi đó chỉ vì một cái giếng nước, một con kênh con rạch ở giữa hai tộc Hán Mèo, thậm chí giữa hai bản làng người Dao, đều có thể biến thành một trận giết chóc thảm liệt vô cùng, trực tiếp thúc đẩy cho sự ra đời của cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc.

(*) Thời vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, bộ lạc Hoa Hạ cùng liên minh bộ lạc Mèo Man tranh đoạt vùng Trung Nguyên, chiến tranh liên tục hơn mười năm, cuối cùng Hoa Hạ chiếm ưu thế, từ đó dung hợp Mèo Man cả về văn hóa lẫn huyết thống. Mèo Man là một thuật ngữ, nghĩa rộng để chỉ liên minh bộ lạc Mèo Man – một cộng đồng người rất thịnh vượng phát triển vào thời đó, nghĩa hẹp để chỉ một nhánh nhỏ của cộng đồng người này đã xảy ra chiến tranh với Nghiêu Thuấn Vũ. Khu vực sinh sống của họ ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phàn Dương, ranh giới phía Bắc ở chân núi phía nam của Phục Ngưu sơn, bao gồm toàn bộ khu vực bồn địa Nam Dương.

Có thể nói, trong quá khứ, giữa các dân tộc tồn tại những mối hiềm nghi và ngăn cách, xung đột như nước với lửa, cho nên Hán Dao ở cùng nhau hoàn toàn là chuyện không thể xảy ra. Dù người Dao có chịu cho người Hán định cư trong bản làng của mình đi nữa, người Hán cũng chỉ được phép ở trong nhà người Dao thôi, chắc chắn không lý nào Vua Dao lại cho phép người Hán xây dựng thứ lầu gác to lớn diễu võ giương oai cỡ này ở trong làng của người Dao.

Tôi hoàn toàn không tài nào hiểu được, đây quả thực cứ như thể phát hiện một trái dưa hấu trong ruộng cao lương vậy!

Từ từ lặn xuống, lẳng lặng nhìn tòa lầu cổ này, lại phát hiện thêm nhiều điểm kỳ quặc hơn nữa: tòa lầu cổ kiểu Hán này hoàn toàn bị bao bọc bên trong những ngôi nhà sàn xếp chồng chất lên nhau, hơn nữa, màu sắc mái ngóc trên đỉnh lầu cũng giống nhau y đúc, cứ như thể những ngôi nhà sàn này cố ý bảo vệ tòa lầu gác bên trong vậy. Thoạt nhìn từ bên ngoài thì không thể phát hiện được tòa lầu cổ ở bên trong.

Xem quy mô tòa lầu tháp kiểu Hán thì quái lạ cực kỳ, cấu trúc tòa nhà có dạng hình chữ “khẩu” (口), ở trung tâm chữ “khẩu” này là giếng trời, bốn phía là ba tầng lầu gác có mái hiên, bệ đỡ và tường bao toàn bộ đều tu tạc từ đá tảng, ai học kiến trúc liếc mắt một cái là nhìn ra, đây chính là phong cách của những tòa đại trạch của danh gia vọng tộc tọa lạc dọc các con phố ở phương Nam thời Minh Thanh. Thông thường, danh gia vọng tộc địa phương xây dựng sân viện của dòng họ, thường khá sâu, phía sau còn có nhiều tòa nhà và sân vườn hơn nữa, còn tường bao đá tảng thật lớn là dùng để phòng chống bọn giặc cướp, loại công trình kiến trúc chắc chắn như thế này có thể bảo vệ cho cuộc sống tự bế của hàng trăm con người ở bên trong.

Nói cách khác, tòa lầu cổ này có lẽ chỉ là mặt tiền của một tòa đại trạch tĩnh mịch nào đó, cổng đối diện với chính giữa con đường, bên ngoài có tường cao bao quanh toàn bộ khu nhà, bốn phía có cửa lớn, cửa nhỏ, tường bình phong, lại có một số cửa con để hạ nhân ra vào, lại có một số cửa mở ra mặt đường có lẽ để làm cửa hàng cửa hiệu. Bước vào cổng chính, thấy đường hành lang gấp khúc thông ra phía sau tòa nhà. Ví dụ điển hình là “hồ thanh ngư thảng”(**) ở Hàng Châu.

(**) chả hiểu sao… không thấy ở Hàng Châu có cái địa danh nào như thế…

Nhưng mà ở đây chỉ có duy nhất một tòa lầu như vậy, hình như toàn bộ bộ phận phía sau bị đứt gay mất, toàn bộ đại trạch cổ chỉ còn một cái đầu.

Tôi chậm rãi bơi vòng quanh một vòng, quả thực là thế, phía sau là con đường lát đá xanh, bốn phía là nhà sàn của người Dao, không còn bất kỳ toàn kiến trúc nào kiểu Hán nữa, thật không thể tưởng tượng nổi.

Cảnh tượng tương tự không phải chưa từng gặp qua. Sau Giải Phóng, một số tòa đại trạch được phân cho người nghèo, một tòa lầu ở được đến mười hộ gia đình, con đường thông ra sân sau bị bịt kín, vốn cùng thuộc một tòa trạch viện, cuối cùng lại biến thành nhiều căn nhà nhỏ độc lập như vậy. Nhưng tình huống ở đây lại hoàn toàn khác.

Tôi đọc nhiều sách đến thế, có ấn tượng rất sâu với kiến trúc cổ điển Trung Hoa, trong đầu liền hiện lên vô số khái niệm, nhưng vẫn không tìm được cái gì có khả năng giải thích được cảnh tượng trước mắt tôi đây. Người ngoài nghề có thể sẽ nghĩ đúng là chuyện bé xé ra to, nhưng với tôi mà nói, lại như cục nghẹn ở cổ họng, mẹ kiếp cái nhà này rốt cục là ai xây? Vì sao lại xây thành cái dạng này?

Ánh đèn xanh âm u đến từ bên trong tòa lầu cổ kiểu Hán này, khi tôi vừa tới nơi thì tắt phụt, chẳng lẽ “người” bên trong tòa nhà này phát hiện ra vị khách không mời là tôi đây? Hay kẻ đó muốn nói cho tôi biết, đây chính là đích đến của tôi? Thậm chí tôi còn nghĩ, đây là một tòa nhà kiểu Hán, hồn ma trong đó chắc cũng là người Hán, biết đâu người ta còn nể tình đồng bào mà tha cho tôi một mạng.

Bất kể thế nào, tôi vẫn phải vào trong tòa lầu cổ này tìm hiểu đến tận cùng, mối nghi hoặc vô tận thậm chí còn khiến tôi bớt sợ hãi nữa.

Nổi lên phía trên giếng trời, phía dưới cứ như một miệng giếng khổng lồ sâu hoắm tối thui, bật đèn pin sáng tối đa, chiếu xuống xem thử, lại không nhìn thấy thứ gì có thể phát sáng, cũng không có đồ đạc linh tinh gì.

Tôi không để mình có thời gian mà hoảng loạn và tưởng tượng linh tinh nữa, cố gắng lấy lại bình tĩnh, lộn người lại, đầu hướng xuống dưới, tay chân khua khoắng, lặn xuống dưới giếng trời.

Không gian thu hẹp lại, ánh sáng bừng lên, tôi nhanh chóng điều chỉnh cường độ ánh sáng để mắt có thể thích ứng, xong xuôi, người đã đáp xuống dưới đáy giếng trời trong tòa lầu.

Cảm giác lại có chút khác biệt, khắp xung quanh toàn những hạt gì màu trắng trôi bồng bềnh, do tôi lặn xuống khuấy dòng nước nên chúng nổi hết lên, bên dưới quả thực toàn bàn ghế bằng đá cùng chất lắng đọng. Soi đèn pin chiếu xung quanh, bốn góc giếng trời đều có các cây cột lớn, ở trung tâm hai bên có hai cây cột, tổng cộng mười hai cây, kế tiếp là đường hành lang gỗ đá thông vào bên trong, đi đến cuối gặp một gian nhà, song cửa sổ khắc hoa đã mục nát, bị phủ một lớp màu trắng, trông cũ kỹ hoang toàn vô cùng.

Cửa gỗ song gỗ mục nát đến sụp hết cả, nhưng thật là một kỳ tích, kết cấu của gian nhà vẫn tương đối hoàn chỉnh, có lẽ năm xưa được xây bằng vật liệu gỗ thượng đẳng.

Tiếp tục soi đèn, bốn mặt tường đều có cửa, phía trước thông đến cổng sau của tiền đường, phía sau thông đến sân giữa, hai bên thông đến hai bên chái nhà. Trên các cây cột trước cửa có treo câu đối, chất gỗ để khắc câu đối không tốt bằng cây cột, đã móp méo và mọc đầy nấm bên trên. Trong đó có hai câu đối bị rữa nát đến nỗi rơi mất một nửa, chỉ có câu đối ở cửa thông ra cổng sau tiền đường là còn được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh.

Khua chân vịt, tôi lau qua hai câu đối ở cửa thông ra tiền đường, đó là hai câu như thế này:

“Yến Nhiên đã tạc, cất cao khúc khải hoàn,

Khúc Phụ còn nhớ, khẽ ngâm nga vần thơ.”(giải thích bên dưới)

Đây là câu đối rất thông thường, nhưng kết hợp ý nghĩa hai câu lại, xem ra chủ nhân tòa lầu này có quân công gì đó. Chủ nhân tòa lầu này từng phục vụ trong quân ngũ ư? Hơn nữa, xem quy mô thì phải là sĩ quan hẳn hoi.

Cổng sau của tiền đường đã sụp thành một đống bùn nát, khung cửa sổ vỡ ra thành mấy cái lỗ to tướng, vừa chạm tay vào liền nát thành bột mịn, cuồn cuộn bốc lên trong nước như sương khói, cứ như thể có thể tiêu tan thành mây khói bất cứ lúc nào vậy. Nhét đèn pin vào trong khe hở mà chiếu, bên trong bừa bộn vô cùng, toàn là xà nhà gỗ sụp xuống và một số đồ đạc không hình dung nổi là cái gì, có thể thấy mức độ hư hại ở bên trong hết sức nặng nề.

Lờ mờ thấy ở giữa có một bình phong, đó là một mặt tường dựng đứng ở ngay giữa phòng. Trong phong thủy, khí xông vào từ cửa trước, không thể để nó cứ thế xông ra ngoài thẳng qua cửa sau, ở giữa phải có một bức bình phong ngăn cách, gọi là đi đường vòng, khiến khí không đi quá nhanh mà nấn ná trong nhà một vòng. Còn có cách nói khác, làm vậy khiến cửa sau từ hướng Nam Bắc đổi thành hướng Đông Tây, càng thuận lợi cho tài vị.

Điều này thật ra rất có lý, ngộ nhỡ anh đang tiến hành âm mưu gì mà bị phát hiện, trốn không kịp, ít ra cũng có bức bình phong, có không gian để chạy lòng vòng một phen. Thậm chí lỡ có cướp xông vào nhà, ít nhiều cũng có chỗ mà nấp một chút.

Tôi rón rén bơi vào trong. Sở dĩ phải vào tiền đường trước, bởi vì câu đối nọ khiến tôi nhớ đến một sự kiện… Tiền đường của các thế gia vọng tộc ở Quảng Tây, Quảng Đông đa phần đều có lầu gác treo hoành phi và linh vị. Hoành phi treo ở đó tất nhiên phải có liên quan đến thân phận của chủ nhà, cho nên tôi quyết định đi xem trước, tìm đầu mối.

Tiến vào bên trong, vừa liếc nhìn, liền choáng váng.

Vừa chiếu đèn xem xung quanh, phát hiện toàn bộ trong tiền đường đã hư hỏng hết cả, sàn gỗ đều sụp hết, ngẩng lên nhìn cũng không thấy trần nhà đâu, trực tiếp thấy luôn gác mái cao nhất, chỉ có vài bộ phận bằng đá và một số xà nhà lớn là chưa mục rữa. Một lượng lớn đồ đạc linh tinh rơi xuống đất, đổ vỡ lộn xộn. Toàn bộ không gian bên trong gian nhà này trông như cứ mấy ngôi nhà cũ bị đem đi giải tỏa, chỉ còn thừa lại chút khung kết cấu vậy, hoặc trông như một giàn giáo thật lớn.

Tôi bơi lơ lửng, chiếu đèn pin lên gác trần trên bình phong, cơ bản tất cả đều nát vụn chả còn gì, phía trên chỉ còn một bức hoành phi, cũng hư hại rất nặng. Tôi bơi tới, cẩn thận chùi sạch chất bẩn bám trên hoành phi đi, màu sắc bên dưới đã bạc hết sạch, chỉ còn lại đường nét màu vàng đất gờ lên, lờ mờ đọc ra bốn chữ:Phàn thiên tử bao.

Chả hiểu là ý gì, nhưng lạc khoản lại khiến tôi phải giật mình nheo mắt một cái: là… Trương gia lâu chủ. Phía dưới là ngày tháng năm và ấn ký.

Loại hoành phi này có thể là do người khác tặng, nếu người khác không tặng, chủ nhân lại vốn là một vị đại Nho hoặc văn nhân nhã sĩ nào đó, có thể chủ nhân sẽ tự tay viết. Trong bản làng của người Dao này, chuyện có người Dao biết viết chữ Hán là không có khả năng cho lắm, huống hồ lại còn viết chữ bằng bút lông đẹp đến thế. Đây là chữ sấu Kim thể cực đẹp, tôi làm bản rập nhiều năm, có thể nhìn ra được bút pháp của người này cực kỳ điêu luyện. Vị Trương gia lâu chủ này, rất có thể là chủ nhân của tòa lầu cổ này.

“Trương gia lâu chủ…” Tôi thầm lẩm bẩm, “Trương gia?”

Trương Khởi Linh, Trương Trương Trương Trương, lẽ nào là trùng hợp ư?

Trong đầu tôi hồi tưởng lại tất cả mọi thứ trước khi mọi việc xảy ra, ở đây tìm được rất nhiều đầu mối, mà hình như mọi đầu mối đều có một mối liên quan mập mập mờ mờ nào đó với Muộn Du Bình, chẳng lẽ hắn thật sự có liên quan?

Có lý! Kẻ trâu bò làm việc trâu bò, tòa lầu tháp kỳ quái này, phải chăng chính là nhà cũ của Muộn Du Bình? Còn vị Trương gia lâu chủ này là lão tổ tông của hắn? Ngẫm lại thì cũng có khả năng lắm chứ.

Vị Trương gia lâu chủ này xây một đại trạch lớn như thế ở trong núi, chứng tỏ của cải dồi dào, lại khéo tay viết thư pháo, nội dung câu đối cũng văn nghệ văn gừng cực kỳ, thấy thế nào cũng cùng trường phái với cái loại Nho Thương như Hồ Tuyết Nham, kiểu người như vậy, cớ sao lại chạy đến một bản làng người Dao xa xôi, xây dựng một tòa lầu cổ quái như thế? Vì bị người hãm hại bèn chạy đến đây ẩn cư, hay còn mưu đồ gì khác?

Tôi bỗng dưng có chút hưng phấn, nghĩ trong tòa lầu cổ này chắc chắn đã xảy ra sự kiện gì lớn rồi, nếu quả thực có liên quan đến Muộn Du Bình, chuyến này vào đây cũng đáng giá. Đáng tiếc đến đây thì không còn gì đáng xem nữa, bên trong tiền đường có lẽ vẫn còn bừa bộn nhiều sách vở, đến giờ chắc chắn đã nát thành cám hết rồi, nếu có nhiều văn tự hơn thì tốt quá. Xem ra chỉ có thể xem từng gian nhà một, tìm hết tất cả các manh mối.

.

——

Hai câu đối: “Dĩ lặc Yến Nhiên cao tấu khải/ Do tư Khúc Phụ đề ngâm thi”.

“Yến Nhiên dĩ lặc”, điển cố này xuất phát từ tướng quân Đậu Hiếnthời Hán. Năm xưa Đậu Hiến truy kích quân Hung Nô đến tận núi Yến Nhiên, bèn tạc bia đá ghi công. “Do tư Khúc Phụ”, Khúc Phụ thời cổ thuộc nước Lỗ. Tây Chu Vũ vương phạt Trụ diệt Thương, phong đất Yểm xưa cho người em ruột là Chu Công Đán, lập quốc gọi là “Lỗ”.

Dịch nôm cả hai câu này là: Tuy rằng đã đánh bại man di, ca vang khúc khải hoàn, nhưng vừa nhớ đến cố hương Khúc Phụ, không khỏi khẽ ngâm câu thơ nhớ quê.
 
Quyển 6 - Chương 33: Ánh sáng xanh lục


Edit:Earl Panda

*****

Nhìn đồng hồ dưỡng khí, còn phân nửa, cần tận dụng thời gian. Tôi trước tiên chuẩn bị lùi về chỗ giếng trời, rồi nghĩ xem tiếp theo nên đến gian phòng nào là thích hợp nhất.

Đang định đạp chân vịt, đột nhiên phía sau lóe lên một cái, một vầng sáng màu lục âm u lóe lên sau lưng tôi.

Gần như theo phản xạ, tôi quay phắt lại đằng sau. Qua cánh cổng sau của tiền đường, tôi lại nhìn thấy vầng sáng xanh lục quỷ dị đó lập lờ ở khoảng giếng trời trước hậu đường. Ánh sáng soi chiếu những song cửa chạm trổ hoa văn, dần “loang ra” trong làn nước mờ mờ ảo ảo.

Ánh sáng lục này quái quỷ dị, vẫn không khác trước là mấy. Bây giờ, với khoảng cách gần hơn, tôi thậm chí để ý thấy vầng sáng này có hơi rung rung khẽ đến mức khó có thể phát hiện ra. Nhịp điệu rung rung này khiến cả khoảng giếng trời xanh thẫm âm u, quỷ khí ngập tràn, cảm giác như đã tiến vào một không gian hoàn toàn khác.

Tôi nuốt một miếng nước bọt, toàn thân rét buốt, nỗi sợ hãi trong lòng khó mà miêu tả được, ngay cả đầu óc cũng có chút mất kiểm soát. Nên tới ắt vẫn phải tới, muốn tránh cũng không tránh được!

Tôi cố gắng bình tĩnh lại, vừa từ từ tới gần hậu đường, vừa tự nhủ, nếu đã đến đây thì cũng có thể đoán trước được tình huống này sẽ xảy ra. Tình cảnh tượng tự tôi cũng đã gặp phải không ít rồi, chẳng phải sau đó vẫn bình an vô sự đấy thôi? Tôi không tin lần này có gì còn đáng sợ hơn những lần trước.

Từ tiền đường lại đi qua cửa chính, qua giếng trời, cuối cùng đến hậu đường, còn chưa đến hai mươi bước chân, nhưng không biết là do người tôi cứng ngắc hay là do cảm giác thời gian bị sai lệch, mà tôi phải bơi mất năm phút mới đến nơi.

Cửa hậu đường đóng chặt, cửa sổ có mấy chấn song đã gãy mất, bên trong ánh sáng xanh lục tràn ngập, nhưng không nhìn rõ cái gì. Rón ra rón rén chiếu đèn vào trong một cái, ánh sáng vừa lướt qua một cái, liền chiếu ra một cái bóng gì đó, khiến tim tôi đang đập bình bịch mà suýt ngừng đập luôn.

Vốn tưởng rằng sẽ có một bộ mặt phụ nữ xanh lè thò ra ngoài, kết quả lại chỉ là một cái bóng.

Bên trong hậu đường cũng giống như trong tiền đường, ngoài đống đồ đạc hư hỏng vỡ nát chồng chất trên mặt đất, còn lại hầu như trống rỗng. Ở giữa hậu đường cũng có một bức bình phong, ánh sáng xanh lành lạnh lập lòe lúc ẩn lúc hiện phía sau bình phong.

Cảnh tượng này rất giống tình tiết trong truyện liêu trai, một ngôi nhà cổ hoang tàn, anh chàng thư sinh chăng đèn đọc sách giữa đêm khuya, nàng ma nữ bèn nhẹ nhàng lướt tới, rướn người nhìn vào ngọn đèn trong nhà. Chẳng qua bây giờ có thay đổi tình tiết tí xíu, thư sinh đứng ngoài ngó vào ánh lửa trong nhà, còn ở trong nhà có khi đúng là một ma nữ chết đuối.

Tôi quan sát khắp hậu đường một lượt để xem rõ kết cấu cơ bản của nó, nhỡ đâu xảy ra xung đột gì còn có thể co cẳng mà chạy cho nhanh. Đang chuẩn bị chui qua cửa sổ mà vào, vầng sáng xanh lạnh lẽo kia đột nhiên nhanh chóng mờ đi, rồi tắt phụt.

Tôi căng cứng cả người, cứ như thể bị ai bắt thóp lấy gáy, tức thì nín thở.

Nó nhìn thấy tôi?

Trong đầu tôi hiện lên rất nhiều hình ảnh, tưởng tượng cảnh tượng sau bức bình phong là cái gì. Nếu con “ma nước” kia đã phát hiện ra tôi, vậy nhất định sẽ lẩn trốn đâu đó, chuẩn bị tấn công bất ngờ.

Không đúng! Bản thân hoàn toàn không có tí phần thắng nào, nếu cứ bơi qua đó, ngộ nhỡ là ma nước thật, vậy chẳng phải là tôi chết toi luôn sao?

Hiện giờ tôi chỉ có một thân một mình, không ai biết tôi ở đây, đừng nói đằng sau khung cửa này là ma nước, chỉ cần tự dưng bị kẹt chân, hoặc là hao hết dưỡng khí, là tôi chết chắc ở đây luôn, thậm chí mấy trăm năm sau cũng không tìm thấy xác. Vậy có nên cứ đánh liều tiếp không? Hay nên suy nghĩ cẩn thận lại một chút?

Tôi lập tức nản chí, dũng khí mới vừa rồi tiêu tan thành mây khói, chẳng dám chui vào nữa.

Phải chăng mình bị dọa sợ đến nỗi mê muội cả ra rồi?

Hiện giờ, trong tình huống này, có nên lui về trước tìm cứu viện?

Nhưng mà, nếu làm thế, vậy tất cả những thứ tôi làm trước đó đều phí hoài cả. Muộn Du Bình và Bàn Tử thì hoàn toàn chẳng thấy tí dấu vết gì, bọn họ cứ thế biến mất dưới đáy hồ này, bây giờ nếu mà lùi bước, phải bao lâu nữa mới có thể xuống nước được lần nữa? Cho dù có quay về, tôi liệu còn dũng khí trải qua hết toàn bộ những quá trình vừa rồi? E là không. Như vậy, Muộn Du Bình với Bàn Tử thực sự biến mất khỏi cuộc đời tôi rồi.

Lúc này tôi không kìm được mà nhớ đến Phan Tử, nếu anh ấy ở đây thì sẽ là động lực lớn cho tôi đến nhường nào! Đúng là tôi vẫn khác với những người bọn họ. Vốn cứ tưởng mình kinh nghiệm đã đủ phong phú, nhưng thứ gọi là dũng khí, dường như không mấy liên quan đến kinh nghiệm.

Tôi đang ở giữa giếng trời, chỉ cần lùi vài bước, quẫy đạp hai chân, đi lên, chả mất mấy phút là ra khỏi tòa lầu cổ quái gở dưới đáy hồ này, không phải bận tâm tất cả những thứ trước mắt này nữa. Nhưng tôi vẫn cứng đờ ở đó, do dự, bởi trong lòng tôi biết rõ, cho dù là thối lui hay tiến lên, chỉ cần bước một bước, từ nay không bao giờ dừng lại được nữa.

Lúc này, liếc mắt một cái chợt nhìn thấy một thứ, một dấu tay cực rõ ràng.

Dấu tay ấn trên khung cửa sổ, bởi vì vừa nãy quá căng thẳng, nên tôi không phát hiện ra.

Ở đây đâu đâu cũng toàn chất lắng đọng, dấu tay này rõ ràng như thế, chứng tỏ mới có người sờ vào đây cách đây không lâu thôi. Là của tôi ư? Ướm tay vào đo thử, thấy dấu tay có hai ngón tay đặc biệt dài, đây là dấu tay của Muộn Du Bình.

Tôi sửng sốt, sau đó theo dấu tay thử bắt chước lại, đây đúng là động tác đẩy khung cửa ra – Muộn Du Bình đã từng ở đây, đẩy khung cửa sổ này ra?

Từ chỗ tôi ban đầu xuống nước cho đến tận đây phải cách đến mấy trăm mét, hắn cởi bỏ mũ lặn, không có bất kỳ công cụ hỗ trợ nào, sao có thể nín thở trong thời gian dài như vậy? Lẽ nào hắn cũng biến thành ma nước rồi?

Nỗi kinh ngạc trong lòng càng ngày càng lớn, nhưng cứ nghĩ đến Muộn Du Bình, tâm trạng tôi bỗng nhiên lại trấn tĩnh hẳn. Không phải tôi đã bằng lòng giúp hắn sao? Nếu hắn biến thành ma nước rồi, cùng lắm tôi chết rồi cũng biến thành ma nước, tổ hợp ba con ma nước bọn tôi cũng sẽ không quá cô quạnh. Nếu không nhờ vài lần hắn cứu mạng tôi, tôi đã sớm chết từ lâu, hôm nay vì hắn mà mạo hiểm một tí, có gì là không được? Mạng của tôi thế là đáng giá rồi.

Tôi miễn cưỡng bình tĩnh lại. Nói thật, nói thì nói vậy chứ sợ hãi cũng chả giảm được tẹo nào, thậm chí còn sợ hơn, toàn thân run lên bần bật không kiềm chế nổi, nhưng niềm tin trong lòng này lại quá mạnh mẽ, khiến tôi đã chui luôn vào trong hậu đường trước khi kịp sợ cứng người tiếp.

Vừa chui vào, tôi lại nghĩ, như thế có phải hơi bất lịch sự rồi không? Có nên gõ cửa trước không? Làm thế ít ra người ta cũng nể tình tôi có tri thức lại hiểu lễ nghĩa mà thả tôi một con đường sống chứ. Nghĩ xong tôi lập tức tát cho mình một cú, để trấn định lại một chút.

Bên trong hậu đường chẳng khác gì ở tiền đường, tôi rón rén đi vòng qua bức bình phong, ánh sáng xanh lục không sáng lên lần nữa. Mắt thấy sắp phải nhìn thấy cảnh tượng đằng sau bình phong rồi, tôi lại hơi ngập ngừng, bởi vì tay run đến nỗi không cầm chắc nổi đèn pin nữa.

Run rẩy không kìm được, ánh đèn pin cũng run rẩy theo, khiến bức bình phong trước mặt trông như sắp đổ luôn, tôi đành dùng tay kia hỗ trợ, cố gắng lùi ra sau vài bước.

Trong nháy mắt đó, thần kinh tôi căng lên như dây đàn, trong lòng chuẩn bị sẵn tinh thần nếu gặp phải bất kỳ cảnh tượng khủng bố nào, khi cảnh tượng đằng sau bức bình phong thực sự hiện lên đập vào mắt, tôi thậm chí cảm giác các mạch máu trong não như đứt phựt luôn.

Nhưng ánh đèn chiếu vào, chỉ thấy một đống đồ đạc màu trắng đổ sụp, chẳng còn gì khác.

Mẹ kiếp! Tôi có cảm giác cứ như bị đùa giỡn vậy, tinh thần đang trong tình trạng căng thẳng cực độ, cũng không buông lỏng ra chút nào dù chẳng nhìn thấy gì khủng bố, ngược lại vẫn liên tục duy trì trạng thái căng thẳng.

Nhìn khắp xung quanh, phát hiện toàn bộ bên trong hậu đường hoàn toàn kín mít, khu vực phía sau này lại trống không, chắc hẳn chỉ có duy nhất một cánh cổng chính dẫn ra sân sau.

Nếu như cái gì đó phát ánh sáng xanh lục vừa ở đây, bây giờ chắc chắn là vẫn còn, nhất định là ẩn nấp đâu đó thôi.

Tôi nín thở bơi qua, duy trì động tác phòng thủ, nhìn bên dưới đống đồ đạc bị sụp xuống, xem có đè lên cái gì không. Nhưng mà do quá bừa bộn nên cũng không nhìn rõ lắm. Nhìn một chút, đột nhiên liếc thấy một thứ gì đó đứng thẳng tắp, ở một góc đằng sau bức tường bình phong, lại có một tấm bình phong nữa.

Không biết tấm bình phong này được làm từ cái gì mà lại không bị hư thối, nhưng các mối chốt đã không chống đỡ được nữa, tấm bình phong được dựng nghiêng nghiêng vẹo vẹo chứ không vuông vắn thẳng thớm.

Chiếu đèn pin vào, da gà da vịt tôi lần lượt nổi hết cả lên.

Đằng sau tấm bình phong, hiện lên một bóng người cổ quái.
 
Quyển 6 - Chương 34: Trở thành sự thật


Edit:Earl Panda

*****

Tôi lập tức chết đứng tại chỗ, hai chân như nhũn ra, cả người như mất hết sức lực, không dám động đậy tí gì, mắt cũng không dám rời sang chỗ khác, ánh đèn pin vẫn chiếu về hướng kia. Dưới ánh đèn cường độ cao, bóng người nọ hiện lên tương đối rõ ràng. Điều rợn gai ốc chính là tư thế của cái bóng đó, tư thế quái dị cực kỳ, người thẳng đứng nhưng hai vai lại lõm xuống. Cảm giác đầu tiên của tôi là người này cũng đang bơi lửng lơ trong nước giống tôi, nhưng dường như cái bóng lại chẳng cử động một tí gì, vậy chỉ có xác chết mới như thế. Lúc đó cảm giác ngộp thở đã lên đến cực hạn, có lẽ tôi hiện giờ đang gặp phải chuyện quái dị nhất ở đây rồi, nếu là ở trên mặt đất thì vẫn còn có vô số cách giải thích, nhưng đây là dưới hồ nước, dưới đáy một hồ nước sâu đến sáu mươi bảy mươi mét, mà cái bóng này lại thong thả đứng đó, không động một ly, tuyệt đối không thể là thợ lặn khác được. Đây rốt cuộc là cái gì? Chả lẽ ma nước ư? Không ai sống được ở dưới nước nếu không có bình dưỡng khí, mà cũng không ai có thể đứng thẳng tắp như thế ở dưới nước.

Tôi thầm khiếp đảm trong bụng, mẹ kiếp lần này đúng là xúi quẩy to, có khi A Quý lại nói đúng rồi, chỉ e đích thực là có ma nước thôi, thế mà tôi còn không tin. Nghĩ đến ma nước, tôi lập tức nhớ lại những bộ xương người chúng tôi từng vớt lên lúc trước. Chả lẽ đây là bánh tông thi hóa từ những người trong đội khảo cổ năm đó bị giết chết? Hay là vong linh trong làng này sau khi ngôi làng bị chìm dưới nước? Muộn Du Bình và Bàn Tử biến mất, là bởi vì trúng bẫy của những thứ này rồi?

Nếu là bánh tông thì còn dễ xử lý, tôi thân đầy trang bị như này dù thế nào cũng không thể chạy chậm hơn nó được. Nếu là ma nước, chỉ e lần này tôi phải chết thay chúng nó rồi. Nếu bọn Bàn Tử gặp nạn, cũng không biết có ra giúp tôi không nữa. Tôi hoàn toàn không biết phải làm sao, không dám tiến tới càng không dám quay đầu, chỉ sợ tôi vừa quay đi cái thứ này liền nhào tới. Tôi thà bị nó giết chết quách luôn còn hơn là cứ có cảm giác ghê rợn ở sau lưng.

Tôi chỉ có thể nhìn chằm chằm cái bóng kia. Nhưng chỉ nhìn một lát, tôi phát hiện cái bóng kia vẫn không động đậy tí gì, sự bất động này quá kỳ quái, cứ như thể là một bức tượng đá, ngay cả một chút rập rờn theo làn nước cũng không có. Đồng thời, tôi cứ có cảm giác là lạ, cái bóng này hình như tôi đã từng nhìn thấy ở chỗ quái nào rồi ấy.

Cái cảm giác này càng ngày càng mãnh liệt, cứ như là đang chỉ dẫn tôi. Tôi lấy lại dũng khí, cái bóng đằng sau tấm bình phong kia lại dần dần biến đổi. Mồ hôi lạnh tứa ra như tắm, tôi nhìn cái bóng kia biến đổi, cảm giác quen thuộc ngày càng tăng, thậm chí lấn át cả nỗi sợ hãi của tôi. Bơi đến khoảng bảy mét, cảm giác quen thuộc liền lên đến cực điểm, ngay trong chớp mắt đó, tôi lập tức nhớ ra. Trời ơi, cái bóng này, tấm bình phong này, không phải chính là cảnh tượng trong tấm ảnh chụp của Sở ca đó sao?

Trước khi đến Ba Nãi, tôi nhận được một tấm ảnh do Sở ca – bạn cũ của chú Ba – gửi cho tôi. Trong ảnh là quang cảnh bên trong một tòa kiến trúc cổ xưa, ở đó có một tấm bình phong, đằng sau tấm bình phong, là một cái bóng. Nhớ lại, cái bóng người trong hình, giống y đúc cái bóng tôi đang nhìn thấy bây giờ.

Do đằng sau tấm ảnh có dòng ghi chú là “Nhà ma Cách Nhĩ Mộc”, lúc đó tôi đoán bức ảnh được chụp trong tòa nhà ma ở Cách Nhĩ Mộc, hiện giờ xem ra tôi sai rồi, lẽ nào dòng ghi chú đó vốn không phải là của bản thân tấm ảnh, tấm ảnh đó thực ra vốn được chụp ở đây?

Nhưng tấm ảnh đó lại không có dấu vết gì là cảnh dưới nước, nói cách khác, nếu ảnh đó được chụp ở đây, thì phải là chụp lúc ngôi làng này chưa chìm trong nước.

Kiểu ảnh chụp này sớm nhất cũng phải khoảng thập niên ba mươi bốn mươi, lẽ nào khoảng thời gian ngôi làng này chìm dưới nước kỳ thực không xa xôi như tôi tưởng? Ảnh chụp… cái bóng… đáy nước… Lẽ nào tấm ảnh Sở ca gửi tôi còn có một ý nghĩa sâu xa gì đó mà tôi không biết, mà tôi lại chỉ coi nó đơn giản như một tờ giấy viết thư? Sở ca gửi tôi tấm ảnh, là muốn tôi tìm cái bóng trong ảnh ư? Đầu óc tôi lập tức tỉnh táo hẳn ra, sau đó lại bị vô số suy nghĩ quỷ dị lấp đầy.

Khiến tôi đau đầu nhất là cái bóng kia. Trong tấm ảnh nọ, tư thế của cái bóng cũng rất quái dị, hầu như không chút khác biệt nào so với cái bóng trước mặt tôi đây.

Nếu như bức ảnh được chụp ở đây, chứng tỏ sau khi chụp ảnh xong, cái bóng cũng không di chuyển một tí gì, vẫn chỉ đứng đó thôi? Vậy thì cái bóng không thể là ma nước được, bởi lúc chụp ảnh làm gì có nước, cái bóng này phải là một vật chết.

Tôi ngẩn ra ở đó một lúc, cuối cùng cũng tìm được dũng khí, nhặt một cục gạch lên, quẫy chân vịt, lập tức bơi về phía tấm bình phong. Vừa đến gần tấm bình phong, tôi lập tức giơ cục gạch lên phang một cú, thầm nghĩ “chết mẹ mày đi”. Nhưng còn chưa nghĩ xong, tôi liền hối hận.

Bình phong bị ngấm nước quá lâu, căn bản không chịu được lực tác động vào. Cục gạch vừa nện xuống, tấm bình phong lập tức sụp xuống luôn, các chất mục ruỗng bắn vào mặt tôi như hoa tuyết. Tôi lập tức lùi về phía sau, cầm đèn pin chiếu, nhưng toàn nhìn thấy những chất bẩn trôi lờ nhờ. Tôi gạt hết ra, chiếu đèn pin về phía trước, trong lúc hỗn loạn, từ trong đống chất bẩn đó có một thứ gì đó bắn ra, bổ nhào về phía tôi.

Trong đầu tôi như “ầm” một tiếng, vùng vẫy lùi về phía sau, tay cầm dao găm đâm chém loạn xạ, đâm được hơn mười nhát mà chả đâm trúng cái gì, ống thở trong miệng lại còn rớt ra ngoài.

Tôi luống cuống túm lấy lại ống thở, những chất cặn bẩn bị dòng nước xô đẩy tán ra, trước mắt tôi hiện ra một khúc gỗ nổi màu trắng. Tôi chửi thề một tiếng, đạp khúc gỗ ra, dùng đèn pin chiếu về phía vị trí cái bóng.

Cái bóng kia vẫn đứng đó, các chất cặn bẩn dần dần lại lắng xuống, mặt mũi thực của cái bóng ít nhiều đã lộ ra. Đó là một sinh vật hình dáng kỳ quái, có đầu, có tay, có chân, đứng im lìm ở đó. Toàn thân bám đầy những chất cặn màu trắng, động tác thì cứng còng, như người chết hóa cương thi rồi bị treo lên, không thể nào thối rữa ra được, cả cái xác bị bao bọc lại. Lại trông có phần giống tượng đá, rất khó miêu tả. Mặt nó hoàn toàn bị che mất, không biết mặt mũi có vẻ gì, nhưng đây đúng là vật chết, bởi nếu nó có thể cử động thì trên người nó sẽ không bị bám đầy cặn như vậy.

Đây là cái của nợ gì nhỉ? Mối ngờ vực trong lòng tôi ngày càng sâu.
 
Quyển 6 - Chương 35: Bộ mặt thật của cái bóng


Edit:Earl Panda

*****

Tôi nhìn bóng người nọ, da gà da vịt rớt đầy đất.

Cảm giác đầu tiên khi nhìn vào thì đó là một bức tượng đá, nhưng tôi lập tức ý thức được điều đó không có khả năng, bởi hình dáng quá mức giống thật, cứ như thể một cái xác treo cổ bị đông cứng lại ấy vậy. Vào thời kỳ đó, dù có người muốn chạm khắc cái thể loại tượng đá kinh hãi thế tục cũng sẽ không tả thực đến thế. Khu vực Nam Man mặc dù có nhiều Tà thần, nhưng đa phần miêu tả kiểu phóng đại cường điệu hóa, chứ không theo lối tả thực.

Suốt một đường mà bao nhiêu chuyện kỳ quái xảy ra, tôi không dám coi thường, có lẽ thứ phát ra ánh sáng xanh lục nọ chính là thứ này đi, vị trí cũng khá hợp lý.

Cẩn thận bơi tới gần hình người nọ, lúc tới gần, cảm giác xác chết bị hóa sáp lại càng thêm rõ ràng, mặt khác, tôi phát hiện cổ tay phải của nó bị đứt lìa, hoàn toàn mất bàn tay. Không phải ngay từ đầu đã vậy, mà là bị chặt mất.

Có mà đồ hàng nhái! Muốn học tượng Vệ nữ mà học chưa đến nơi đến chốn! Tôi chần chừ một chút, cẩn thận dùng lưỡi lê cạo sạch chất cặn màu trắng bám trên đó, muốn thử xem màu sắc ban đầu của nó là gì.

Vừa cạo một miếng để nhìn, tôi lấy làm kinh hãi, thứ này vốn có màu đen đỏ lốm đốm, nhưng không quá sặc sỡ, màu sắc xỉn xỉn nhòe vào nhau. Cứ như bị lên nấm mốc vậy. Lại tiếp tục cạo, lại phát hiện hóa ra những đốm đen đen đỏ đỏ loang lổ này là rỉ sắt, thứ này hóa ra là sắt.

Không thể nào! Là tượng người sắt? Tôi lấy can đảm đưa tay lên bóp một cái, quả thực là sắt, có vài chỗ có lẽ là do tôi luyện tốt nên vẫn chưa mục nát, thậm chí còn nhìn thấy những hoa văn chạm trổ tinh xảo bên trên. Những chỗ khác đều rỉ sét hết cả, toàn là màu xỉn xỉn loang lổ.

Tôi dần dần nhận ra được điều gì, lập tức cạo tất cả chất cặn bám trên người nó xuống, một tượng người bằng sắt có tạo hình vô cùng đặc biệt chả mấy chốc xuất hiện trước mặt tôi.

Tôi không khỏi sửng sốt đến ngẩn người, bởi vì thoạt trông thứ này có hình dáng rất giống thật nhưng bề mặt chạm khắc đơn giản, nhưng giờ nhìn lại lần nữa, hóa ra bề mặt nó còn được mài nhẵn và đánh bóng, mặc dù bây giờ đã rỉ sét hết cả, nhưng vẫn có thể xác định được trước đây nó vô cùng tinh xảo, toàn thân phủ đầy những hoa văn duyên dáng, quả là một tác phẩm nghệ thuật. Đưa tay lên sờ thử, cảm thấy những hoa văn này giống như những hoa văn trên cục sắt tìm thấy dưới gậm giường Muộn Du Bình.

Tôi hiểu rồi! Thứ mà đội khảo cổ vớt từ dưới nước lên, chính là cái này! Những cục sắt đó, chính là những mảnh nhỏ của loại tượng sắt này.

Thứ này là văn vật ư? Có giá trị khảo cổ không?

Lại nhớ Muộn Du Bình từng nói những cục sắt này vô cùng nguy hiểm, tôi không dám đụng vào nữa mà giữ một khoảng cách, quan sát kỹ càng.

Tôi không hiểu rõ lắm về đồ sắt, nhưng lại có kiến thức khá sâu về các món đồ đồng mạ vàng nguyên chất. Ở chợ đồ cổ từng nhìn thấy tượng sắt rồi, thuộc hợp kim sắt là thép, toàn là những món nhỏ lặt vặt, tôi chưa từng gặp món nào to như này. Thứ nhất, thời cổ đại sắt rất quý, tượng người sắt lớn đến thế này, chưa nói những cái khác, chỉ một bức tượng thôi đã tốn nguyên liệu đến kinh người. Thứ hai, đồ sắt không dễ bảo quản, dễ bị rỉ sét, nhiều tượng Phật bằng sắt thời Minh thực ra toàn rỗng ở trong.

Nếu như toàn bộ bức tượng này cũng được chế tác giống như cục sắt của Muộn Du Bình, vậy thì ruột đặc, bên trong có lẽ có thứ gì đó, nhưng cũng không quá trống, có lẽ rất nặng. Nặng như thế, chẳng lẽ là pháp khí bằng sắt của Phật giáo, dùng để giam yêu quái gì đó?

Tôi suy nghĩ miên man, nhưng cũng biết có nghĩ thế nào cũng không ra nguyên cớ đâu, tất cả mọi chuyện đều không có manh mối dẫn dắt, có suy nghĩ thế nào cũng vô dụng.

Vốn là muốn nhìn một chút hoa văn trên tượng sắt, nhưng rỉ sét quá nhiều, không thể thấy toàn thể hoa văn như thế nào, những chỗ khác cũng không nhìn ra được cái gì. Bàn Mã từng nói có rất nhiều cục sắt, lẽ nào ở đây không chỉ có một tượng sắt?

Nhưng bốn phía đều trống huếch trống hoác, chả có gì cả, loại vật này lại lớn đến thế, cũng không có khả năng bị vùi lấp bởi đống đồ đạc bị sụp xuống này được. Những cục sắt đội khảo cổ mang đi là vớt lên từ đâu?

Chẳng lẽ trong ngôi làng này chỗ nào cũng có tượng sắt giống vậy, phân bố khắp nơi nơi trong làng? Hay là, nó được giấu chỗ nào khác trong tòa lầu cổ này?

Vô thức quay đầu lại, thấy cánh cửa chính ở một bên.

Nhớ lại tấm ảnh nọ, ở một bên bức bình phong có một cái hành lang, tôi điều chỉnh vị trí đứng, phát hiện chỗ hành lang trong hình chính là cổng sau của hậu đường.

Theo cấu trúc các ngôi nhà cổ thông thường, cánh cửa này hẳn sẽ dẫn đến một khoảnh sân rộng, mà ở đây chỉ có dãy nhà mặt tiền, cho nên cánh cửa này sẽ dẫn ra ngoài đường lát đá của ngôi làng, chứ không thể nào là hành lang được.

Nhưng trong trí nhớ, khung cửa trong tấm ảnh chụp cũng giống ở đây y như đúng, không nghi ngờ gì, địa điểm trong tấm ảnh chính là nơi này. Tại sao lại có sự chênh lệch này nhỉ? Lẽ nào, khi chụp ảnh thì nơi này vẫn có đường hành lang, mà sau này lại bị hủy đi mất?

Ý thức về thời gian của tôi hoàn toàn rối loạn, xem ra, thời gian chụp tấm ảnh, thời gian làng cổ bị chìm dưới nước, tất cả đều phải cân nhắc lại.

Bơi lại gần nhìn xem, cánh cửa chạm trổ hoa văn hoàn toàn không có dấu hiệu mục nát, kéo một cái, hóa ra nó bề ngoài sơn giả gỗ, nhưng thật ra là cửa sắt. Lại dùng đèn pin soi thử, nhất thời ngẩn ra, không thấy con đường lát đá bên ngoài, mà phía sau cánh cửa này, quả đúng là một đường hành lang.

Đường hành lang không phẳng, mà nghiêng xuống, thông xuống một nơi nào đó sâu dưới lòng đất. Xem ra tình cảnh đã giống y đúc trong ảnh rồi. Tôi giật mình, thầm nghĩ, không thể nào đâu?

Theo kết cấu một tòa cổ trạch, cửa sau của hậu đường đến hành lang, hành lang thông đến… Lẽ nào nơi này thật sự xây một tòa cổ trạch đúng quy cách, có hậu viện thật, nhưng là xây ở dưới lòng đất?
 
Quyển 6 - Chương 36: Dưới lòng đất


Edit: Earl Panda

*****

Mọi khái niệm trong tôi đều bị đảo lộn hết cả, tòa lầu cổ này không chỉ vị trí không đúng, mà ngay cả kết cấu cũng quỷ dị, đi qua cửa thông ra đằng sau là đến một đoạn hành lang ngầm dưới lòng đất.

Chẳng lẽ phần còn lại của tòa đại trạch đều xây dựng dưới lòng đất?

Người thiết kế chắc chắn đã tận lực động tay động chân gì đó, có lẽ chiều dài thực tế của hậu đường khác với chiều dài nhìn thấy bên trong gian phòng. Người ta bước vào trong, thấy cánh cửa này liền tưởng là cửa sau, thực ra nó còn cách cửa sau thực sự một đoạn hành lang bí mật nữa.

Cổng chính ở trên mặt đất, phần còn lại ở dưới lòng đất, đây mà là nhà ư? Có mà là hang chuột thì có. Người thiết kế ra thứ này đúng là giàu trí tưởng tượng.

Bỗng nhớ lại một câu nói, một câu mà chú Ba đã nói với tôi từ rất lâu về trước, tự dưng xây biệt thự ở nơi thâm sơn cùng cốc, không phải Hoa kiều thì cũng là trộm mộ tặc. Đây cũng đủ tính là thâm sơn cùng cốc rồi nhỉ? Nguyên một tòa cổ trạch trong núi sâu, chẳng lẽ là lầu các của trộm mộ tặc? Giống như thường nghe người ta hay xây chuồng lợn phía trên cổ mộ để che giấu tòa cổ mộ đó vậy.

Nhìn bề ngoài thì có vẻ cách giải thích này khá hợp lý, đi theo đoạn hành lang xuống dưới, có khả năng chính là tòa cổ mộ bọn họ đang khai quật, những tượng người sắt này chính là vật bồi táng đào lên từ trong cổ mộ.

Nhưng nghĩ kỹ lại thì tính cách trộm mộ tặc không như tôi nghĩ như vậy, cho dù có là trộm mộ tặc có thực lực nhất, tính cách cổ quái nhất, cũng không thể xây một đường hành lang chắc chắn như vậy chỉ để đi trộm mộ! Nhìn là biết hành lang đá này có độ bền vĩnh cửu do những người thợ dày dạn kinh nghiệm nhất xây nên, chứ không phải nổi lòng tham nhất thời.

Huống hồ, vì sao lại xây lầu gác kiểu Hán trong một ngôi làng của người Dao? Giả như tòa lầu này xây nên là để che giấu hoạt động trộm mộ, nhưng xây một tòa lầu kiểu Hán trong làng người Dao, vậy khác nào lạy ông tôi ở bụi này?

Nếu theo cách nghĩ này, phương pháp tốt nhất, hữu hiệu nhất, có lẽ là xây một ngôi nhà sàn kiểu dân tộc Dao ở đây, sau đó nửa đêm trực tiếp đào một hang động xuống dưới, chứ xây dựng tòa cổ lâu kiểu Hán to như vậy, thời gian và tiền bạc hao phí có khi còn hao phí hơn cả giá trị của một tòa cổ mộ, làm vậy thì cũng quá khoa trương rồi, hoàn toàn không cần phải…

Giả thuyết này không được, vậy chỉ còn một khả năng, đó là thứ gì đó bên dưới này có giá trị lớn đến kinh người, hơn nữa rất khó tiến vào, có thể phải mất đến hai mươi năm, ba mươi năm trở lên để tiến hành. Nhưng tôi cơ bản có thể xác định, thứ dưới này không thể là cổ mộ quy mô lớn, bởi đất này đúng ở vị trí trũng nhất của cả vùng núi này, toàn bộ nước ngầm đều đổ dồn xuống đây, không thể xây dựng mộ táng quy mô lớn được.

Từ một số kiến thức ngành kiến trúc của tôi, hoàn toàn có thể xác định được một việc: tòa kiến trúc này dường như được xây dựng để phục vụ một mục đích đặc biết nào đó, tất cả mọi chi tiết đều để phục vụ mục đích này, nhưng hiện nay tạm thời chưa rõ mục đích này là gì, cho nên chưa thể phán đoán được. Nhưng phần cốt lõi của mục đích này có lẽ nằm ở dưới đất.

Nhìn đồng hồ dưỡng khí, không còn dư bao nhiêu nữa, kiên trì được tối đa mười lăm phút nữa thôi, không có thời gian để phung phí thêm nữa, nhìn đoạn hành lang này, hình như cũng không sâu lắm, sau vài chục bước mới dần dần bằng phẳng lại, bên dưới là mặt đất lát gạch xanh.

Ánh sáng màu xanh lục không thấy đâu nữa, cũng không có dấu hiệu gì nguy hiểm. Tôi nghĩ, cho dù là ma nước, nhưng hình như cũng không có ác ý gì, ngược lại còn đang cố gắng chỉ dẫn tôi tiến đến bước này. Nếu quả thực muốn lấy mạng tôi, chỉ e tôi đã ngoẻo từ lâu rồi.

Những trải nghiệm trước kia làm tôi có cảm giác mình thật bất lực. Vì vậy, tôi lấy lại bình tĩnh, rón rén mở cánh cửa kia, bơi về phía bóng tối đen đặc.

Đến tận dưới đáy, bật đèn pin lên xem, tôi lập tức lạnh cả người.

Phía dưới là một gian hầm ngầm xây bằng gạch, không lớn, hẹp dài, cực kỳ dài, tôi đứng đây không nhìn thấy phía đầu cùng bên kia ở đâu.

Hai bên tường gạch bày rất nhiều giá bằng sắt, trên từng tầng giá sắt bày vô số tượng người sắt nằm ngang.

Tượng sắt hai bên cứ như đồ sứ vừa nung, bày la liệt ra, dưới ánh đèn pin ngả vàng trông cứ như những xác chết, có cảm giác như đang ở tầng hầm của nhà thờ lớn ở nước ngoài vậy. Ước tính một chút, phải có ít nhất là sáu trăm bức tượng.

Chẳng lẽ trước kia nơi đây là một xưởng nung người sắt?

Ở đây có rất nhiều cặn lắng đọng, vô số rỉ sắt loang lổ, trông như thể những xác chết đen sì đang thối rữa.

Đi một quãng, tôi phát hiện động tác của các tượng sắt không giống nhau, quỷ dị hơn là, tất cả các tượng sắt đều không có bàn tay phải, tất cả các bàn tay phải đều bị chém đứt, vết chém không theo quy tắc gì, hình như là người làm.

Khủng hoảng cực độ lúc trước đã làm tôi tê dại, cảnh giác khắp bốn phía, lại tiếp tục đi về phía trước. Mãi cho đến cuối gian phòng, cũng không thấy đình viện ngầm trong tưởng tượng đâu, mà lại là một mặt tường kín mít, trên mặt đất là một miệng giếng xây bằng gạch.

Đào một miệng giếng trong tầng hầm dưới mặt đất, hơn nữa lại còn đang ở đất Quảng Tây nguồn nước dồi dào, đúng là đầu óc hỏng rồi mới làm thế. Bên thành giếng còn xây các gờ thang để dễ dàng trèo lên xuống, tôi lập tức hiểu ra đây là gì.

Lúc này, phán đoán lúc trước của tôi bắt đầu lung lay. Quả thực đây rất giống một tòa lầu giả để che giấu hoạt động trộm mộ! Chẳng lẽ bên dưới quả thực là một cổ mộ, biết đâu trên đời này lại có một lão thủ lĩnh giang hồ tính cách cổ quái như thế thật, thích vung cả đống tiền để xây dựng nguyên căn biệt thự xa hoa ngay phía trên khu vực mình trộm mộ, thậm chí còn xa hoa hơn cả giá trị của mộ cổ nữa chứ, lại còn cố tình xây cho thật quái gở cực kỳ khác người thường, để người ta càng chú ý đến càng tốt ấy.

Chẳng lẽ lại có cái hoàng lăng nào xây dựng bên dưới khu vực mà mạch nước ngầm cực phong phú, mẹ nó đến mộ dưới biển còn có người xây rồi! Dựa vào cái gì mà không cho phép người ta đi ngâm nước chứ?

Tôi chiếu đèn pin xuống giếng, nếu đây là một hang trộm, kết cấu như vậy có thể xác định, cổ mộ này cực kỳ khó vào, cần phải xây dựng một cái hành lang, để có thể sử dụng máy móc cỡ lớn cùng nhiều người làm việc, mộ chắc ở bên dưới nền nhà của người khác, cho nên bọn họ đành phải dùng cách vòng vo Tam Quốc này chứ không đào thẳng quách xuống cho xong. Như vậy, nhóm người này chắc chắn không hoàn toàn là trộm mộ tặc chuyên nghiệp, mà có khả năng là một đội ngũ rất đông người mà còn vàng thau lẫn lộn nữa, nghĩ như thế, có vẻ rất giống tác phong của quân phiệt trộm mộ trong quá khứ.

Thế lực của quân phiệt ở địa phương rất lớn, muốn xây dựng một cái nhà ở trong làng người Dao thì có ai dám ý kiến. Đồng thời, quan hệ giữa các dân tộc vốn căng thẳng, ngộ nhỡ người Dao biết bọn họ đang trộm mộ trong làng, khó tránh mâu thuẫn lại càng thêm gay gắt.

Vừa phải làm nhanh, mà vừa phải giấu giếm, nếu phần mộ dưới lòng đất quy mô quá lớn, để tiết kiệm thời gian, quả thực có khả năng phải xây dựng một hành lang thật kiên cố, để người ra vào dễ dàng. Lại đối chiếu với câu đối ở trên, gia chủ của tòa lầu này có quân công, đích thực là có khả năng này.

Nghĩ vậy cảm giác mình thật lợi hại, lại nhìn xuống dưới giếng sâu tối om, chả thấy manh mối nào, lưng đeo bình dưỡng khí, không thể xuống dưới được, tôi liền chuẩn bị rút lui.

Lúc này, dưới giếng lại lóe lên ánh sáng xanh lục.

Tôi giật thót mình, lại tới rồi! Lúc này có thể thấy ánh sáng cách miệng giếng rất gần, chỉ khoảng hai ba mét thôi. Định dùng đèn pin chiếu, không ngờ chưa kịp làm gì, ánh sáng lục kia đã động trước, lập tức xồ về phía tôi.

Tôi lập tức giơ dao găm lên, nghĩ bụng mẹ kiếp nó chuyển động thật! Nhưng ánh sáng lục kia tới quá nhanh, vọt một cái đã sượt qua tai tôi cứ như sao băng vậy.

Trong một chớp lóe lên, không thấy gì cả, nhưng tôi tức khắc khẳng định được đây không phải ma nước gì sất, mà giống một loài động vật nào đó phát ra ánh sáng xanh hơn.

Vội vàng quay lại, chỉ thấy quầng sáng xanh lóe lên bên cạnh một giá sắt, rồi lập tức tắt phụt. Dùng đèn pin chiếu, ánh sáng lại lóe lên, cứ như ăn khớp với đèn pin trên tay tôi vậy.

Rốt cục tôi cũng nhìn thấy chân thân của thứ kia.

Đó là một thứ màu xám trông cứ như một con thằn lằn cực kỳ béo mập vậy, nó dài cỡ một cánh tay tôi, đang nằm sấp trên đầu một tượng sắt, trên mình hình như bị buộc một cái gì đó. Tôi tập trung nhìn kỹ, đó là một cái đèn pin, đang phát ra ánh sáng xanh lục âm u.
 
Quyển 6 - Chương 37: Bàn Tử khôn vặt


Edit: Earl Panda

*****

Tôi không biết đây là loài động vật gì, hình như là một loại kỳ nhông cỡ lớn, hồi xưa tôi từng ăn kỳ nhông ở dưới quê rồi, nhưng chưa thấy con nào to như này, trông phát khiếp. Về phần chiếc đèn pin nọ, tôi vừa nhìn thấy liền giật mình, đây chính là chiếc đèn pin màu vàng cũ kỹ mà bọn tôi dùng khi trần truồng lặn xuống lần đầu đây mà.

Đây nhất định là do Bàn Tử mang xuống, xem sợi dây buộc trên mình kỳ nhông, chắc chắn là do có người buộc vào, chẳng lẽ là kiệt tác của bọn Bàn Tử?

Tôi suy nghĩ một chốc, liền hiểu ngay. Không ai tự dưng mà làm một việc như thế, rất có thể Bàn Tử muốn người khác phải chú ý đến con kỳ nhông này.

Lẽ nào bọn họ đang mắc kẹt trong một nơi nào đó, mà chỉ có duy nhất cách này để cầu cứu với bên ngoài?

Có đánh chết tôi cũng không thể ngờ được, ánh sáng xanh lục là từ thứ này phát ra. Cứt thật, ánh đèn pin thế quái nào mà lại biến thành màu xanh lè được nhỉ?

Tôi liền trấn tĩnh lại, toàn thân tức thì thả lỏng, xụi lơ ra. Xem ra tôi đoán không sai, bọn họ thực sự gặp kỳ ngộ ở dưới nước, hiện giờ rất có thể vẫn còn sống, chỉ là đang bị kẹt ở một nơi, phải dùng đến cách này để cầu cứu. Rất có thể nơi đó vẫn có không khí, chỉ là không biết vì sao lại thế thôi.

Tuy không biết Bàn Tử với Muộn Du Bình đã trải qua chuyện gì ở dưới nước, rồi làm sao mà lại đến được rồi kẹt lại ở chỗ kia, nhưng rất có khả năng bọn họ vẫn còn sống, thật tốt quá!

Với cái tính ranh như ma của Bàn Tử, trên mình con kỳ nhông kia chắc hẳn còn có manh mối nào đó liên quan đến tình trạng hiện giờ của bọn họ, xem ra phải bắt nó mới được. Nhưng ở dưới nước tay chân không linh hoạt, hơn nữa nhìn tốc độ bơi của con vật kia, chỉ e không bắt nổi.

Kỳ nhông là trùm dưới nước, cắn người rất kinh, chưa kể con này to quá, nó cắn cho một phát chỉ e đi tong luôn cả ngón tay của tôi.

Kệ! Có thế nào cũng phải thử xem đã.

Tôi giơ dao găm lên, chậm rãi bơi qua, cố gắng bơi chậm hết cỡ, nhưng chỉ đến gần được hơn một mét, vèo một cái, con vật kia quẫy đuôi thật mạnh một cái, ngay lập tức đã bắn đi đến sáu bảy mét nhanh như chớp vậy, rồi dừng lại ở đống gạch đá bên kia.

Khốn khiếp thật! Cái thứ này, cho dù tôi có ngồi trên bờ cầm xiên cá xọc xuống có khi cũng chẳng xiên trúng được, huống hồ hiện giờ tôi còn ở dưới nước, bắt bằng tay không. Cũng may trông nó có vẻ hiền hiền, không có ý định tấn công.

Tôi còn muốn thử tiếp, tiếp tục chầm chậm bơi tới. Lúc này đã đến rất sát nó rồi, nhưng ngay trong chớp mắt khi tôi chìa tay ra thì nó đã nhanh chóng vọt đến chỗ khác.

Tôi lập tức nhận ra, ở dưới nước tôi không có khả năng bắt được con vật này. Phần đuôi của nó chuyển động tạo ra luồng nước có lực đẩy rất mạnh, không khó tưởng tượng được sức bật lớn đến mức nào, cho dù có chộp trúng được, thì với sức của tôi, cũng chẳng bắt nó lại nổi.

Đèn dưỡng khí nháy lên cảnh báo, tôi liền luống cuống soi đèn pin khắp xung quanh, tìm xem có công cụ gì có thể sử dụng được không. Nhưng xung quanh chẳng có gì cả, tượng sắt kia thì nặng muốn chết, dù có dùng được tôi cũng chẳng khênh đi được.

Vừa suy nghĩ, lập tức nhớ ra con dao găm trong tay mình. Có thể nói nó chính là trụ cột tinh thần của tôi, tuy rằng cho tới giờ vẫn chưa dùng lần nào.

Tôi thực sự không muốn làm con kỳ nhông bị thương, dù thế nào cũng là một sinh mạng. Nhưng đến lúc này, đã gấp quá rồi, không quan tâm được nhiều thế. Một khi tính ác trong con người đã nổi lên, thì tất cả những cái gì mà thương xót cảm thông đều hóa lời nói suông cả.

Tôi lại bơi đến lần nữa, giơ dao găm lên như muốn xiên chết nó, cho dù xiên một cái không chết, thì cũng làm nó bị thương, không bơi nhanh được nữa.

Nó dừng lại dưới chân tượng sắt, nằm sấp trên nền gạch xanh. Tôi nín thở, từ từ bơi qua như xác chết trôi vậy, tới gần từng tí từng tí một. Mắt thấy chỉ cách nó có nửa cánh tay, tôi giơ dao găm lên cực kỳ chậm, như một cảnh quay slow motion trong phim vậy, giơ đến một vị trí khá tốt, lập tức đâm xuống thật mạnh.

Có thể do con kỳ nhông cảm nhận được sát ý của tôi, nó vọt lên phía trước mấy centimet, nhưng cũng đúng lúc ấy, trong tôi nổi cơn hung đồ, dao găm xuống một nhát, găm trúng đuôi nó.

Con vật kia đuôi toàn thịt, đau đến cuộn cả mình mẩy lại. Sức nó rất lớn, dao găm suýt tuột khỏi tay tôi. Tôi đuổi theo, túm lấy cái đèn pin phía trên, nhưng lực cản dưới nước lớn quá, tay túm không trúng, con kỳ nhông trực tiếp giằng đứt đuôi mình, bơi ra xa khoảng sáu bảy mét nhanh như bay, không dừng lại nữa mà bỏ chạy đến đầu bên kia của căn hầm gạch.

Không có đuôi, tốc độ của nó chậm lại rõ ràng.

Tôi khua chân vịt đuổi theo, mấy lần suýt bắt được nó. Nhưng ở dưới nước, thật sự rất khó để nhắm chính xác được, lúc nào nó cũng thoát khỏi tay tôi vào đúng những khi tôi chắc mẩm có thể đắc thủ nhất. Cứ đuổi bắt như thế suốt mấy chục mét, tôi trước đấy đã lặn dưới nước một lúc lâu, thể lực không đủ để bắt kịp/

Tôi nghiến chặt ống thở, tay kéo giựt lấy giá sắt, mượn lực mà đẩy mình lên, miễn cưỡng đuổi theo. Ánh sáng xanh đột nhiên ngoặt một cái, tôi cũng bổ nhào theo, chỉ thấy trên nền gạch xanh của vách tường có một cái hang, thò tay vào, lập tức mò đúng được cái đèn pin, nhưng rút mãi mà không ra được.

Con kỳ nhông nhất định là đã bám chặt bên trong tường gạch này rồi.

Tôi đạp cả hai chân lên hai bên vách tường mà kéo ra, dùng toàn bộ sức nặng cơ thể mà kéo thật mạnh. Bỗng nhiên hẫng một cái, đèn pin bị rút ra. Cả người tôi bắn ra ngoài, đập vào giá sắt đằng sau.

Vất vả lắm mới đứng vững lại được, nhìn vật cầm trong tay, hóa ra sợi thừng buộc đèn pin là sợi thừng nilon trong ba lô hành lý của Bàn Tử, sợi dây không chịu được lực mạnh, nên đã đứt rồi.

Lại dùng đèn pin chiếu vào trong hang, con kỳ nhông vẫn rúc ở bên trong, xem ra không chịu thò mặt ra ngoài nữa rồi, tôi cũng không buồn quan tâm nữa, vội vàng soi chiếc đèn pin dưới ánh đèn, để xem Bàn Tử có động tay động chân cái gì nữa không.

Bên trên quả nhiên có khắc vài chữ: “SOS, đi theo ống siphon.”

Lật mặt sau, còn một hàng chữ nhỏ nữa, nhưng không nhìn rõ được.
 
Quyển 6 - Chương 38: Đi theo ống siphon


Edit: Earl Panda

Để cho dễ hiểu, các bạn cứ tưởng tượng, mình bị ném vào bồn cầu, sau đó giật nước xả…...

*****

Mấy chữ này khắc rất cẩu thả, nét chữ nguệch ngoạc, nhưng do người khắc dùng sức quá mạnh, đèn pin bị khắc đến mức biến dạng, có lẽ đây là lý do vì sao nó cứ chập chờn lúc sáng lúc tối.

Trên chụp đèn có dán một lớp băng dính chống thấm màu xanh lá cây, mẹ kiếp thảo nào ánh sáng lại xanh lè như thế! Tôi không khỏi chửi thầm, Bàn Tử chết bầm dọa tôi suýt vãi cả hồn vía, nếu có đội tìm kiếm nào nhìn thấy có khi cũng hồn vía lên mây luôn.

Ý nghĩa của mấy chữ này rất rõ ràng, chính là báo cho tôi biết, bọn họ vẫn còn sống, nhưng cần cứu viện, đầu mối duy nhất để tìm bọn họ chính là thủy triều siphon nọ.

Lượng pin của loại đèn này nhiều nhất cũng chỉ sử dụng được hơn mười tiếng đồng hồ là cùng, thế mà giờ vẫn còn phát sáng được, mà lại còn sáng trưng đến thế, vậy chắc hẳn đèn được buộc lên mình kỳ nhông cũng chưa lâu, bọn họ chắc chắn vẫn còn sống tốt.

Tên mập này đúng là gớm thật! Con kỳ nhông đến giờ mới xuất hiện, chứng tỏ anh ta đã đoán được tôi chắc chắn sẽ xuống nước vào tầm này. Nhưng, nơi này cách nơi họ mất tích bét cũng phải hơn một ngàn mét, bọn họ làm thế nào mà đến được tận cái giếng này mà không cần bình dưỡng khí?

Quên đi, tôi không muốn nghĩ ngợi gì nữa, chỉ cảm thấy trấn tĩnh hẳn lại, cục đá đè nặng cuối cùng cũng buông xuống được rồi. Chỉ cần biết bọn họ vẫn còn sống, những cái khác không quan trọng nữa.

Bây giờ quan trọng nhất là làm sao để cứu người ra.

Lúc trước ở trên bờ, khi thấy hiện tượng siphon là có thể đoán hồ này có đường thông với mạch nước ngầm ở đâu đó. Bây giờ xem lại, suy đoán là chính xác, mà nơi bọn họ mắc kẹt ở ngay gần khu vực lỗ thông.

Bàn Tử nói đi theo dòng nước, nhưng thủy triều còn chưa bắt đầu, làm thế nào để đi theo dòng nước?

Tôi vứt cái đèn pin cũ kỹ đi, thử dùng tay để cảm nhận dòng nước xung quanh. Nước hồ lạnh lẽo quanh tôi vẫn tĩnh lặng, cảm nhận thứ gì sần sùi thô ráp còn được, chứ cảm nhận dòng nước thì hoàn toàn không được, với cả, bây giờ nhìn bằng mắt cũng thấy nước đang lặng.

Suy nghĩ một chút, có một biện pháp, nhón một nhúm chất lắng đọng trên mình tượng sắt, để xem chúng trôi trong nước như thế nào.

Dưới ánh sáng đèn pin, những hạt nhỏ trắng trắng bồng bềnh trong nước rồi khuếch tán ra, tôi nhìn kỹ, mới đầu chúng dần dần lắng xuống trong làn nước, sau đó bắt đầu trôi về phía miệng giếng cực kỳ chậm.

Quả nhiên! Ở đây có một dòng nước cưc chậm, hướng về phía đáy giếng.

Đúng là có ống siphon ở đây, chỉ là quá yếu nên không thể phát hiện bằng mắt thường. Hơn nữa, xem phương hướng, có lẽ do áp suất không khí ở bên kia rất thấp, khiến nước ở đây bắt đầu bị hút ngược trở lại.

Nhìn đồng hồ dưỡng khí, chỉ còn một tẹo thời gian, tôi chỉ mang theo đúng một bộ thiết bị dưỡng khí, nếu lúc này không tìm được người, có lẽ phải chờ A Quý chuyển bộ thiết bị nữa đến mới có cơ hội thứ hai, cũng phải mất hai đến ba ngày, tôi phải xác nhận xem bọn họ có thể chịu đựng được thêm nhiều ngày như thế nữa không. Nếu có thể, tôi hy vọng có thể đưa bọn họ ra ngoài luôn một lượt.

Ước lượng thời gian, khi kim đồng hồ dưỡng khí chỉ về số 0, khí nén bên trong còn đủ dùng trong hai mươi phút. Chỉ cần khống chế thời gian quay về trong khoảng mười phút, vậy thời gian dò tìm của tôi ít nhất là mười phút.

Không thể chậm trễ thêm nữa! Tôi tháo bình dưỡng khí trên người ra thả xuống giếng trước, sau đó mới chui đầu vào.

Giếng rất chật hẹp, cũng may là đào thẳng, tôi lặn thẳng xuống, nhìn áp kế, áp suất chả mấy chốc đã vượt 7 atm, độ sâu sắp đạt đến 90 mét.

Đầu chúc xuống dưới, cảm giác khó chịu lên đến cực hạn, lúc trước do quá căng thẳng nên không cảm nhận được, bây giờ hơi thả lỏng một tí, áp suất đè nén không thể thở nổi khiến cơn buồn nôn dâng lên tận cổ họng.

Lúc này không thể nôn được. Các cơ quan nội tạng trong cơ thể tôi có không khí, do áp suất, tôi mà ọe một phát là tất cả bãi nôn sẽ trôi ngược vào khí quản ngay, tôi chỉ có thể dùng hết sức bình sinh mà nín, cố gắng dời sự chú ý đến những nơi ánh đèn pin chiếu loang loáng.

Không lâu sau đó, gạch xanh biến mất, thay vào đó là bề mặt đất đá, chứng tỏ công trình người ta làm chỉ đến đây thôi, bên dưới là đào khoét đơn thuần. Cũng tại nơi này, tôi bắt đầu cảm thấy không ổn, nghe thấy một tiếng động kỳ quái phát ra từ sâu trong đáy giếng, tốc độ dòng nước ngày một tăng nhanh.

Càng nghe càng thấy không ổn, hình như là tiếng nước chảy xiết, đang định dừng lại nghe cho rõ, bình dưỡng khí bên dưới bỗng bị một sức mạnh nào đó kéo giựt lấy, bắt đầu rung rung.

Tôi nghiến răng cắn chặt ống thở, mắc ống thở vào bình dưỡng khí, vốn rất tốn sức, bỗng lại rung lên bần bật một cái, tức thì ống thở trong miệng tuột ra ngoài, văng về phía dưới sâu.

Tôi lập tức nhào lên tóm lại, cũng may có biện pháp phòng hờ trước rồi, có sợi dây lưng ngoắc với bình dưỡng khí tôi buộc trên cổ, liền định dùng dây lưng đất kéo bình dưỡng khí lên. Nào ngờ bình dưỡng khí vừa chìm xuống chưa đến một mét, lập tức trôi tuột đi đâu mất, vượt ra khỏi tầm nhìn của tôi.

Trong nháy mắt đó, tôi đã nhìn thấy đáy giếng. Hóa ra bên dưới đáy giếng là một đường nước khác vuông góc với đường giếng, dòng nước chảy xiết cực kỳ, loáng cái đã hút bình dưỡng khí đi mất. Vừa định chửi thề, bình dưỡng khí cùng sợi dây lưng bị kéo một phát liền căng lên, một lực lớn vô cùng, suýt nữa thì kéo gãy luôn cổ tôi.

Mắt thấy mình sắp bị kéo tuột vào dòng nước xiết, tôi nghiến răng, định dùng hết sức bình sinh kéo lại bình dưỡng khí lên, nhưng cố gắng được vài giây là biết mình chịu chết rồi, với cả các mạch máu ở cổ bị siết chặt quá, máu bắt đầu không cung cấp đủ cho não.

Tôi thầm chửi mắn Bàn Tử thậm tệ, thế quái nào lại viết cái thứ gợi ý như thế chứ? Tôi lại định cởi dây lưng ra khỏi cổ, nhưng cởi mãi không được. Lúc này tôi đã chẳng suy nghĩ được gì nữa, cứ dứt khoát thả lỏng tay chân, chìm thì cho chìm, cứ thuận theo dòng nước xem thế nào, dù sao Bàn Tử cũng dặn tôi đi theo ống siphon này mà.

Tôi chưa kịp có cảm giác gì, toàn thân đã bị một sức mạnh cực lớn lôi tuột xuống, nửa giây sau, đã bị ném vào trong đường nước, xoay vòng vòng vài cái rồi bị cuốn theo luôn. Muốn giữ vững tư thế cơ thể, bả vai bị đập vào vách đá xung quanh liên tiếp mấy cú. Cũng may đường nước này rộng đủ cho hai ba người chui vào, hơn nữa quanh năm bị nước xối vào nên bốn bề nhẵn nhụi, bằng không nếu có góc cạnh nào, chắc chắn là tôi da tróc thịt bong.

Cũng khéo làm sao, bình dưỡng khí bị cuốn theo dòng nước xoay mấy vòng, cuối cùng lại bị cuốn đến bên cạnh tôi, rồi chầm chậm đụng vào tôi một cái. Lúc này tôi đã hụt hơi lắm rồi, hầu như không nhịn nổi nữa, nhưng vẫn phải bất chấp tất cả mà níu lấy nó.

Vất vả lắm mới tìm được ống thở trong dòng nước xiết, tôi vội vàng nhét nó vào miệng. Còn chưa kịp hít một hơi không khí, đã lại bị dòng nước ném xuống một sườn dốc nữa, tôi bị cuốn đi mấy vòng, cái đầu tôi cứ như viên bi trong bàn pinball, bị hất một cái văng vào vách đá rồi rơi tuột xuống.

Một cú ngã này làm tôi mê man luôn, mãi hồi lâu vẫn không biết chuyện gì xảy ra, theo bản năng cắn chặt ống thở, cũng không bị cuốn về phía trước bao lâu nữa, bỗng nghe một tiếng vang thật lớn, bình dưỡng khí trước mặt bị đập trúng phải vật gì đó trong đường nước.

Tôi giật mình tỉnh táo lại, định ôm lấy đầu bảo vệ nhưng chưa kịp làm gì thì đã tông trúng vật kia, một tiếng trầm đục vang lên, tôi chóng hết cả mặt mày. Tôi không có tính đàn hồi như cái bình dưỡng khí kia, lúc va chạm chỉ có thể bị dòng nước xô vào vách dính dẹp lép trên ấy. Tôi gờ tay lên sờ một cái. Hóa ra là một lưới sắt, tôi dùng hết sức bình sinh quay người lần mò, không có chỗ hổng nào chui vừa.

Chẳng lẽ đến đây là hết đường rồi? Ngẩng đầu nhìn lên, bốn phía không có bất kỳ lối đi nào nữa, toàn là vách đá rắn chắc. Ngõ cụt.

Tôi không tin, điều chỉnh lại tư thế, dùng đèn pin soi thật kỹ. Quả thực không có.

Khốn kiếp! Thật kỳ quái! Bàn Tử nói cứ theo ống siphon là có thể tìm bọn họ, thế quái nào bây giờ là ngõ cụt?

Vừa nghĩ đến, tức thì mồ hôi lạnh tứa ra, nghĩ bụng, toi rồi, chẳng lẽ Bàn Tử đang ở đoạn nào đó giữa quãng đường nước lúc nãy? Vừa rồi tôi bị va đập đến ngu người ra, nên đã bỏ lỡ?

Vừa rồi tốc độ bị cuốn đi quá nhanh, tôi không muốn quay lại tìm nữa, hơn nữa, với tốc độ trôi nhanh như thế, tôi không thể kịp phản ứng lại, tìm lối rẽ sau đó chui vào được. Cũng may, tôi cảm giác mình bị ngã xuống đây cũng không lâu lắm, nếu lối rẽ kia quả thực nằm trong đường nước này, có lẽ cách cũng không xa.

Nơi này tương đối rộng rãi, tôi đeo bình dưỡng khí trên lưng, bắt đầu thử bám lấy vách đá mà đi ngược dòng nước. Mới đi được hai bước, liền nhận ra tiêu rồi, dòng nước này quá xiết! Ngay cả có kiếm được chỗ nào để bám tay vào thì cũng phải dùng hết sức bình sinh mới di chuyển được một tí, huống hồ vách đá này còn nhẵn thín, trơn tuồn tuột.

Tôi dùng đủ mọi cách, thử đủ mọi góc, kết quả vẫn thất bại. Duy có một lần thành công nhất là rời được khỏi lưới sắt khoảng mười bước, nhưng trượt chân một cái, lập tức bị hất văng về chỗ cũ, cuối cùng kiệt sức.

Bị dòng nước xiết đè ép, tôi càng ngày càng thấy không ổn.

Nơi này trông có vẻ bình thường, nhưng chắc chắn là đường cùng, tôi không khác nào bị kẹt ở một nơi không có lồng giam. Sao Bàn Tử đếch viết lại chi tiết này?

Nếu thật sự không thoát được, lần này tôi bị anh ta hại chết rồi!

Nhìn đồng hồ dưỡng khí, không hiển thị con số nào nữa, tức là bất cứ lúc nào cũng có thể hết sạch không khí. Tôi hoảng hốt, cố sức rung lắc lưới sắt, thử xem có thể tháo được nó ra không, nhưng lại phát hiện lưới này là dùng sắt nóng chảy rưới thẳng vào đá mà vá lại, rắn chắc muốn chết luôn.

Bên kia lưới sắt tối đen, chiếu đèn vào, chỉ thấy đường nước càng dốc, nước càng xiết. Có lẽ chính vì thế mà mới xây lưới sắt ở đây, đề phòng có người bị cuốn xuống đường nước còn chật hẹp hơn.

Nhất thời, tôi thực sự hoảng loạn, ngay đến ống thở cũng không cắn chắc. Tôi vội vàng hít sâu, cố gắng bình tĩnh.

Trước đây, lúc nào cũng thế, hễ cứ khi tôi bị nhốt là sẽ nghĩ ra biện pháp gì đó ngay, bởi con người là loài sinh vật chỉ cần một tia hy vọng là có thể phát huy tiềm năng vô hạn của mình. Tôi bắt đầu nhanh chóng suy nghĩ, đồng thời không ngừng xem xét xung quanh, không ngừng sờ nắn, tìm một tia linh cảm.

Mới đầu tôi còn tràn đầy lòng tin, cho rằng trời xanh không tuyệt đường người, nhưng điều khiến tôi tuyệt vọng là, cho dù đây không phải không gian khép kín, nhưng mọi thứ xung quanh lại quá đơn giản, mò mẫm nửa ngày cũng chỉ có thể xác nhận mình không có khả năng chiến thắng dòng nước quá xiết này, cũng không có khả năng tháo dỡ lưới sắt này.

Mặc dù vẫn tiếp tục nghĩ cách, nhưng trong đầu tôi đã bắt đầu mơ hồ hiện lên một suy nghĩ: lần này không thoát được rồi!

Chắc chắn phải chết rồi.

Mấy phút tiếp theo, cả đời này tôi không thể quên được.

Trong đường nước tối đen, không có bất kỳ quái vật nào, cũng không có bất kỳ thứ gì kinh khủng. Tuy đầu óc tôi không muốn thừa nhận, nhưng tiềm thức đã rất rõ ràng: chỉ một thời gian rất ngắn nữa thôi là tôi sẽ chết, chết thực sự, lần này không thể thoát nổi.

Cảm giác này thực sự rất đáng sợ, ngôn ngữ không thể miêu tả nổi.

Tôi bỗng cảm thấy hối hận trước tất cả mọi quyết định trước đây của mình, cùng lúc đó lại muốn tự nhắc nhở rằng mình không thể bỏ cuộc, phải cố gắng đến giây cuối cùng. Nhưng trong lòng tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng, đầu óc không kìm chế được mà suy nghĩ đủ thứ linh tinh. Sau đó tôi bắt đầu thất thần, nghĩ nếu như lúc trước tôi cứ nổi lên mặt nước thì sẽ thế nào? Rồi lại nghĩ nếu như tôi chết, người thân của tôi sẽ phản ứng thế nào? Hối hận và sợ hãi khiến đầu óc tôi rối tung lên như tơ vò.

Đồng hồ dưỡng khí đã không hiển thị số nữa, không thể xác định được lúc nào tôi sẽ ngạt thở, chỉ có thể vừa cố gắng tiết kiệm hơi thở đến phút cuối cùng, vừa chờ đợi khoảnh khắc cái chết ập đến.
 
Quyển 6 - Chương 39: Hang động kỳ lạ


Edit: Earl Panda

*****

Đến phút cuối cùng, tôi gần như chỉ còn chờ đợi giây phút ngạt thở dần dần ập đến. Dưỡng khí hít vào ngày càng ít, tất cả như kéo dài ra. Nỗi sợ hãi khiến tôi nước mắt nước mũi ròng ròng, không tài nào bình tĩnh nổi, chỉ còn duy nhất một suy nghĩ đọng lại trong đầu: Tôi sắp chết.

Rất nhanh, dưỡng khí đã hao hết, tôi vẫn không ngừng hít ống thở, nhưng chẳng hít được gì. Nín thở một hơi cuối cùng, nín đến cực hạn, trong cơn đau đớn dữ dội, tôi theo bản năng hít thở qua miệng, một cảm giác chua rát sặc vào phổi, tôi co quắp cả mình mẩy.

Đang ở dưới nước, tôi không hít được hơi nào mà sặc hết nước trong phổi ra, sặc một lúc, cảm giác vừa chua vừa rát liền tràn ra khắp phổi, chỉ thấy ngực mình như sắp nổ tung.

Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác sau đó nữa, tôi cũng không biết mình đã vùng vẫy giãy giụa được bao lâu. Dần dần, mọi cảm giác đều tan biến hết, bốn phía dần lặng như tờ, ánh sáng trước mắt dần tối đi, bên tai lại vang lên một số tiếng động kỳ quái, vừa giống tiếng người nói, lại vừa giống tiếng nước chảy.

Một giây tiếp theo, tất cả tối sầm lại.

Khoảnh khắc ấy, tôi cứ ngỡ mình đã chết, không còn bất kỳ cơ hội nào lật lại tình thế nữa. Không phải chết vì bánh tông, mà lại chết đuối. Ông nội nói thật đúng, gặp bánh tông cũng chết, chết đuối cũng là chết, vì sao lại sợ bánh tông mà không sợ nước? Con người đúng là loài động vật nực cười.

Cũng may, cảm giác bình lặng sau cùng không tệ lắm. Nếu ai chết đi cũng được bình thản như vậy, vậy thì chẳng cần sợ hãi bản thân cái chết nữa, mà đoạn thời gian trước cái chết mới thật sự là gian nan.

Đến khi tỉnh lại, ban đầu tôi cảm thấy kinh ngạc vô cùng, nhưng mất một lúc lâu không thể suy nghĩ được gì, cho nên tôi không tài nào hiểu được sự kinh ngạc này, lại càng không hiểu điều này tượng trưng cho cái gì.

Dần dần, dần dần, ý thức tôi mới hồi phục lại.

Cảm giác đầu tiên là đau đớn, đau đớn dữ dội bắt đầu ở tay, sau đó dần dần lan rộng ra, cuối cùng đến phổi. Trong phổi cứ như bị kẹt một tấm lưới sắt, mỗi lần hít thở đều khó chịu muốn chết.

Tất cả sức lực của tôi đều dồn cả vào để chống đỡ cơn đau, không biết bao lâu sau, tôi mới phát hiện ra mình dần thích ứng được. Sau đó, các cảm giác khác dần hồi phục.

Tất cả những gì đã trải qua lại bắt đầu hiện lên trong đầu tôi, trở về từ cảng Phòng Thành, xuống nước, ánh sáng xanh lè kỳ quái dưới ngôi làng cổ đáy hồ, tòa đại trạch kiểu Hán kỳ quái, tượng người sắt, dưới đáy giếng, cuối cùng là ngộp thở… vân vân, mọi chi tiết dần dần quay trở lại. Tôi lập tức lấy làm lạ vô cùng, nếu vậy mình chắc hẳn phải chết rồi chứ, sao lại tỉnh lại?

Trong nháy mắt, cứ có cảm giác như thể tất cả là một giấc mộng, không chừng tôi vẫn luôn nằm ngủ ở đây, chết đuối chỉ là cơn ác mộng mà thôi. Nhưng toàn thân tôi đau nhức khủng khiếp, tôi biết điều đó là không có khả năng, có lẽ bởi nguyên nhân nào đó mà mình đã được cứu sống.

Thử cử động một chút, lại cực kỳ khó khăn. Có thể cảm thấy xung quanh rất ẩm ứt, hình như là một tảng đá ướt, hai tai và mắt bắt đầu có phản ứng, tiếng động xung quanh dần dần trở nên rõ ràng, có người đang ngâm nga cái gì đó, còn có…

Là tiếng của Bàn Tử!

Tiếng hát nghe dở cực kỳ, nhưng đủ làm tôi kích động. Tôi lập tức muốn quay đầu nhìn, kết quả lại đau đến kêu oai oái.

Tiếng hát lập tức dừng bặt lại. Bàn Tử kêu lên: “Tỉnh tỉnh!” Sau đó, trước mắt tôi sáng bừng lên, một bộ mặt béo phì râu ria nham nhở xuất hiện trước mặt tôi. Cùng lúc đó, tôi nhìn thấy Muộn Du Bình, hắn đang đứng sau lưng Bàn Tử, tay giơ đuốc.

Tôi nhìn hai tên đầu heo này, mới đầu còn không thể tin vào mắt mình. Bàn Tử bắt đầu nói nói, đầu óc tôi vẫn còn lờ mờ chưa hiểu rõ hắn đang nói gì, nhưng tôi có thể cảm nhận rõ ràng một điều, rằng đây không phải ảo giác, tôi thực sự đang nhìn thấy bọn họ! Cảm xúc lẫn lộn đan xen, những sợ hãi, lo lắng, hy vọng, đủ các loại cảm xúc lúc trước cuối cùng cũng buông lỏng được, tôi không biết phải giãi bày thế nào, chỉ biết nước mắt chảy xuống ròng ròng, nhưng lại không kìm được mà bật cười ha hả.

Một người đã trải qua quá nhiều chuyện vậy, nỗi sợ hãi hoang mang trong cái cảnh cô độc khủng khiếp, sự tuyệt vọng khi vừa lướt qua vạt áo thần chết, lại cuối cùng nhận ra mình vẫn bình yên vô sự, cái cảm giác vui mừng khôn xiết này khiến người ta muốn phát điên lên. Nhưng trăm mối cảm xúc ngổn ngang trong tôi lại không phải vì thế, mà là vì tôi nghĩ: bất kể đang trong tình huống nào, cuối cùng cũng được ở bên hai người bọn họ, cuối cùng cũng không phải ở một mình nữa, cảm giác này thật tốt quá!

Vừa co giật vừa cười khùng khục nhất định là trông rất quái gở, Bàn Tử hiển nhiên tưởng tôi bị điên rồi, lập tức đỡ tôi dậy, không nói hai lời giáng cho tôi hai phát tát. Anh ta đập lưng tôi bôm bốp, nói: “Hít thở! Hít thở! Hít sâu vào!”

Anh ta ra tay rất nặng, não tôi nghe bùm một tiếng, cảm xúc ngổn ngang mất không chế đã bị anh ta đánh bay rồi, lại còn bị đấm bôm bốp vào lưng nữa, làm tôi đột nhiên cảm thấy buồn nôn vô cùng, bắt đầu ọe ra nôn mửa rồi ho khan, không biết đã nôn ra cái gì.

Nôn xong, tôi khó khăn quay đầu lại nhìn bọn họ, tầm mắt ngày càng rõ ràng, đủ các loại tiếng động vang lên trở nên có trình tự hơn.

“Thế nào? Còn khó chịu không?” Tôi nghe Bàn Tử hỏi.

Tôi sợ anh ta đấm tôi tiếp, lập tức xua tay, nhưng không nói nên lời.

Anh ta thở phào nhẹ nhõm, bảo: “Cảm tạ trời đất, cậu đã tỉnh lại rồi. Mẹ kiếp, ông đây còn tưởng cậu lần này thành người thực vật con mẹ nó luôn rồi, vậy ông đây có lỗi quá rồi.”

“Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra? Sao tôi không chết?” Tôi bất giác hỏi.

“Cái đó cậu phải đi hỏi Diêm Vương ấy.” Bàn Tử nói, rồi đỡ tôi ngồi dậy tựa vào vách đá, bảo tôi thả lỏng.

Tôi đã tỉnh táo lại, nhìn bọn họ. Đã mấy tuần không gặp họ, hai người này trông cứ như vừa đi làm công nhân ở lò than về ấy, chỉ mặc độc cái quần lót, chật vật vô cùng, mặt mũi nham nhở râu ria, lại gầy sọp đi không ít. Tôi thở phào một hơn, tuy trông họ có vẻ vất vả, nhưng khí sắc không tệ, chứng tỏ không ai bị thương.

Quay đầu xem xét xung quanh, ở phía xa xa có đống lửa nho nhỏ, không biết được dựng lên bằng cái gì, đống lửa đã soi sáng cảnh vật xung quanh. Nơi này là một cái hang bằng phẳng do sức người khai tạc nên, rộng chừng ba mươi mét vuông, đứng thẳng lên có thể chạm đến trần hang, bốn bề nước rỉ ra, cứ như là trời mưa, mặt đất cũng đều ẩm ướt. Vách đá có màu xanh lục nham nhở, trông khá đẹp dưới ánh đèn pin. Bên kia còn có một cửa hang cao khoảng nửa người, nhưng lại rất hẹp, như là một vết đao chọc vào, không biết dẫn đến đâu.

“Khốn nạn! Đây là chỗ nào? Hai người gặp phải chuyện gì? Làm tôi lo gần chết, còn tưởng hai người tiêu rồi.”

Bàn Tử toét miệng bảo: “Nói ra rất dài, còn lo cậu không tìm được tụi này chớ. Sao? Có phải chú em nhìn thấy thông tín viên của tôi nên mới tìm đến được đây phải không?”

Nhắc đến cái con “thông tín viên” kia tôi lại giận điên lên, hận không thể cắn chết Bàn Tử chết bầm luôn, nhưng có lòng lại không có sức, tôi đành mắng: “Cái tên thông tin viên của anh quá không chuyên nghiệp,  mẹ nó suýt thì hại tôi chết toi!”

“Đệt! Ở đây có thể tìm được cái thứ đó đã là tốt lắm rồi.” Bàn Tử hỏi, “Thôi nói mau đi, làm sao mà cậu đến được đây?”

Tôi nghe xong liền tức giận, nghĩ bụng anh hỏi tôi sao tôi biết được? “Tôi không biết, không phải hai người cứu tôi lên à?”

Bàn Tử vốn hưng phấn bừng bừng, vừa nghe lời tôi nói, sắc mặt liền cứng đờ lại. “Tụi này cứu cậu á?”

“Chứ còn gì!” Tôi bèn kể lại một lượt quá trình từ lúc tìm được con kỳ nhông, cho đến lúc xuống giếng.

Bàn Tử nghe xong, vẻ mặt rất kỳ quái, anh ta quay đầu nhìn Muộn Du Bình, Muộn Du Bình đang ngồi trên tảng đá phía sau, sắc mặt cũng âm u không rõ.

Tôi lấy làm lạ, hỏi: “Sao? Có vấn đề gì? Chả lẽ không phải hai người cứu tôi à?”

Bàn Tử từ tốn lắc đầu nói: “Làm sao cậu đến được đây, chả nhẽ cậu hoàn toàn không biết?”

Tôi chẳng hiểu gì cả: “Biết cái gì?” Lại nhìn vẻ mặt bọn họ, bỗng cảm thấy không ổn, lập tức hỏi: “Rốt cuộc là làm sao? Tôi đã gặp phải chuyện gì?”

Bàn Tử ngán ngẩm ngồi phệt dưới đất, thở dài bảo: “Cậu không biết, tụi này càng không biết.”

Tôi không khỏi nổi giận, mắng: “Rốt cuộc là thế nào? Anh chơi trò bí hiểm cái mẹ gì? Mau nói đi xem nào.”

Bàn Tử ra dấu, bảo tôi đi mà hỏi Muộn Du Bình. Tôi nhìn hắn, chợt nghe hắn nói: “Khoảng năm tiếng trước, cậu xuất hiện ở nơi cậu đang nằm bây giờ, hôn mê sâu, hầu như không còn tri giác. Bọn tôi sơ cứu cho cậu, sau đó, năm tiếng sau, cậu tỉnh.”

Tôi chờ Muộn Du Bình nói tiếp, hắn lại ngậm miệng.

“Hết rồi?” Tôi vô cùng kinh ngạc hỏi.

“Hết rồi.”

“Anh còn chưa nói làm thế nào hai người cứu được tôi.” Tôi nói.

Bàn Tử nhìn tôi. “Cậu vẫn chưa hiểu rõ vấn đề à, tụi này căn bản không cứu được cậu. Năm tiếng trước, cậu xuất hiện ở đúng nơi cậu đang nằm bây giờ.” Anh ta nhấn mạnh từng từ, “Xuất hiện, nói cách khác, vốn chỗ đó chẳng có gì cả, đột nhiên cậu nằm ở đó.”

Tôi nhíu mày, một lúc sau mới hiểu ý anh ta, hỏi: “Ý anh là, tôi đột nhiên xuất hiện ở đây?”

Bàn Tử gật đầu: “Tôi với Tiểu Ca vẫn ở trong cái hang khác suốt, ở đấy tương đối khô ráo, nhưng cứ cách một lúc tôi sẽ tới đây lấy nước. Lúc phát hiện cái hang này tự dưng thêm một người, tôi sợ gần chết, nhưng ông Béo nhà cậu vừa nhìn đã nhận ra cậu luôn, bèn gọi Tiểu Ca tới, mới cứu cậu về đấy. Lúc đấy cậu ngừng thở rồi cơ, đúng ra phải tìm anh hùng đến cứu mạng rồi đấy, cũng may ông Béo đây có tư cách diễn vai anh hùng. Sau lại sợ người cậu gãy xương chỗ nào, mới không dám di chuyển, chờ cậu tỉnh lại đã.”

Tôi nhìn ánh mắt Bàn Tử, biết anh ta không nói giỡn, nhất thời lâm vào trầm tư.

Tình huống này thật không thể ngờ được, tôi vốn tưởng sau khi hôn mê đã gặp kỳ ngộ gì, được Bàn Tử với Muộn Du Bình phát hiện kịp lúc, sau đó được cứu, bây giờ hóa ra lại không phải thế. Nhưng không thể có chuyện trong lúc hôn mê tôi lại tức bơi đết đây được, cũng không có khả năng di chuyển đến đây trong nháy mắt. Rốt cuộc là sao?

Lẽ nào, người cứu tôi là người khác? Có người ở ngoài cứu tôi lên, rồi tống tôi vào đây?

Đó là một đường giếng hoang dưới đáy hồ, không thể có người đi ngang qua được, nói cách khác, có người đã theo dõi tôi.

Tôi nói cho Bàn Tử suy nghĩ của mình, hỏi anh ta xem liệu có dấu vết gì chứng minh khả năng đấy không, nhưng anh ta lẫn Muộn Du Bình đều không có phản ứng gì, tựa hồ không đồng tình.

Bàn Tử cười khổ, vỗ vỗ tôi, to tiếng trút hết ra: “Mẹ kiếp, không thể có chuyện đó được! Nếu có người có thể đưa cậu đến đây, như vậy kẻ đó nhất định đếch phải ‘người’.”

“Vì sao?” Tôi hỏi.

Anh ta cười khổ sở: “Cậu đứng lên được không? Tôi đưa cậu đi một vòng trong hang này, tự cậu xem đi, là biết vấn đề ở đâu thôi.”
 
Quyển 6 - Chương 40: Vấn đề trong hang động


Edit: Earl Panda

*****

Bàn Tử cứ tỏ vẻ bí hiểm, mà Muộn Du Bình ở bên cạnh thì chẳng nói năng gì.

Tôi không biết rốt cuộc Bàn Tử đang giở trò gì nữa, nhưng thái độ của Muộn Du Bình cho tôi biết, hắn cũng không hề phản đối lời nói của Bàn Tử. Nỗi ngờ vực trong tôi đã lên đến đỉnh điểm, tôi quyết định không tính toán với hai tên này nữa, đi xem xem sao đã.

Nghĩ thì nghĩ thế, có lòng nhưng không có sức, tôi được Bàn Tử dìu lấy, toàn thân run rẩy lẩy bẩy, phải bấu chặt lấy cổ anh ta mới không ngã dúi dụi xuống.

Hang động này rộng khoảng ba mươi mét vuông, thực ra cũng chẳng có gì đáng xem, chiếu đuốc nhìn một vòng cũng chỉ thấy toàn là dấu vết do con người đục đẽo khai tạc, còn lại chẳng có gì. Thứ duy nhất đặc biệt là dấu vết đen như mực ở trên trần, chẳng biết trong lớp đá này có hàm chứa khoáng chất gì nữa.

Tôi khom lưng lội nước đi theo anh ta, đi qua lối đi như bị dao chém nọ, vào trong hang động bên kia.

Nơi này là một hang động khác phải rộng ít nhất gấp đôi hang động tôi ở lúc đầu, bên trong chất đầy đồ đạc, toàn là những công cụ đã rỉ sét hết, những khung gỗ của các sọt đeo lưng, còn có cả đống gạch xanh chất thành đống, xung quanh còn rải rác những đồ lặt vặt gì đó bằng đá mài mà tôi không biết.

Đáng kinh ngạc là, trong góc hàng còn bày mấy cái giá cao chạm trần hang, trên giá đặt mấy tượng người sắt nằm ngang. Trần hàng và vách tường đầy những hoa văn màu xanh lục sẫm, dưới ánh đèn lại càng nổi lên rõ ràng, lấp lánh như ngọc lưu ly.

Ở chính giữa hang động còn có một cái vò lộn ngược, bên trên đặt một bức tượng thần, chẳng biết là thần thánh phương nào, phía trước có đặt một lư hương đã cắm mấy nén nhang, rất đơn sơ.

“Rốt cuộc đây là chỗ mẹ nào thế?” Tôi ngạc nhiên kêu lên, nhìn thì có vẻ như là một gian phòng đá vẫn đang được khai tạc, mới làm được phân nửa, hộp dụng cụ với nguyên liệu vẫn còn chất hàng đống.

“Theo suy đoán của bọn tôi, đây chắc là một hầm mỏ.” Bàn Tử nói.

“Hầm mỏ?” Tôi nhìn quanh quất. “Hầm mỏ gì?” Rồi lại nhìn các tượng người sắt trên giá, hỏi: “Chẳng lẽ là mỏ sắt?”

Bàn Tử lắc đầu: “Mẹ kiếp còn giá trị hơn cả mỏ sắt ấy! Cậu nhìn mà xem.” Anh ta chỉ về phía mấy hoa văn màu lục sẫm. “Cậu sờ mà coi đấy là đá gì? Nghĩ mà xem, xung quanh đây cái gì là nhiều nhất?”

Tôi vẫn không hiểu lời anh ta cho lắm, sờ sờ mấy đường hoa văn kia, cảm giác ôn nhuận lại nhẵn bóng lạ thường, cứ như da mặt của con gái. Anh ta không nói bừa, quả thực không bình thường. Nghĩ một lúc, trong đầu hiện lên một ý tưởng. “Cái đệt! Lẽ nào đá này là… ngọc bích?”

Bàn Tử gật đầu: “Tôi không phải người trong nghề, nhưng mà tôi thấy, dù đây không phải ngọc bích thì cũng là ngọc thạch gì đó không kém cạnh. Cho nên, đây là một quặng ngọc cực kỳ lớn.”

Tôi a lên một tiếng, mới giật mình nhớ ra những hiện tượng kỳ quái mình từng nhìn thấy trong làng cổ dưới đáy hồ lúc trước.

Xem ra hang động này cũng là một phần của tòa lầu cổ kỳ quái nọ, trước giờ vẫn hoài nghi trong lòng núi có gì đó, cảm giác khả năng lớn là cổ mộ, không ngờ lại là quặng ngọc.

Đúng thực là bất ngờ, nhưng điều này âu cũng hợp lý.

Nơi này có một quặng ngọc bí mật, logic cũng gần giống với cổ mộ vậy, chỉ khác cái là giá trị của cổ mộ không thể so sánh với quặng ngọc được. Hoàng kim có giá, ngọc thạch vô giá, có được một quặng ngọc, phú khả địch quốc.

Bởi vậy, bên trên mới bố trí kín đáo như thế, cuối cùng thì mọi thứ cũng đã hợp lý cả rồi: nếu như là vì để lén khai thác một quặng ngọc, đừng nói là xây một tòa lầu, xây cả một tòa thành cũng chẳng lỗ.

Xây một tòa lầu cổ ở nơi này, thậm chí có khả năng là Vua Dao cũng có góp phần nữa, dùng đặc quyền của mình để bảo vệ quặng này. Quặng ngọc giá trị cực lớn, không một cơ quan chính quyền nào có thể bỏ qua được sự mê hoặc cỡ này.

Về phần tại sao phải giấu giếm ư? Rất đơn giản, nếu thế lực ở các địa phương khác biết được, chắc chắn sẽ đem quân đến đánh. Đem ngọc đổi ra tiền, có thể mua được bao nhiêu là nha phiến, bao nhiêu là thuốc lá chứ!

“Sự việc xảy ra ở đây, tôi thấy chỉ e đều có liên quan đến quặng ngọc này. Chỉ vì thứ này mà bày ra bao nhiêu là âm mưu quỷ dị khủng khiếp cũng không lạ lùng gì, thứ này giá trị quá lớn rồi.” Bàn Tử nói.

“Thế những vật này thì sao?” Tôi nhìn giá sắt cùng mấy chục tượng sắt ở góc hang, hỏi. “Lẽ nào những thứ này cũng là công cụ? Tại đốc công quá hà khắc, nên bọn họ sửa cuốc chim thành hình dạng đốc công, ngày ngày đánh đập cho bõ ghét à?”

Bàn Tử nửa cười nửa không, như thể không có hơi sức đâu mà đùa giỡn nữa, nói: “Tôi không rõ lắm, có điều cậu xem mấy thứ này đi, đều công cụ đúc bằng gang, bên cạnh còn có đế sắt, tôi nghĩ những tượng sắt này cũng giống như khi tụi mình đi đánh chuyến hàng lớn ấy, chỉ dùng để chuyển đồ thôi. Khai thác khoáng thạch xong, liền phong kín vào trong tượng sắt để vận chuyển, chuyển đến nơi rồi mới nấu chảy lớp sắt bên ngoài. Ngày xưa chiến tranh loạn lạc, làm vậy thứ nhất là để phòng ngừa bể vỡ ngọc nếu gặp bất trắc trên đường vận chuyển, thứ hai là trên này có khắc hoa văn chống gỉ, dùng xong có thể đập nát, rồi đem luyện thép, làm đạn dược.”

“A!” Tôi hít sâu một hơi, hóa ra là thế.

Rắn có đường rắn, chuột có đường chuộc, cùng hạng người như nhau nhìn cái là biết ngay. Lúc trước tôi còn thấy buồn bực, không khỏi có chút thất vọng, còn tưởng đằng sau những tượng sắt này còn có câu chuyện gì sâu hơn nữa chứ.

Nghĩ một lúc, lại thấy có gì không đúng. Lẽ nào đội khảo cổ trục vớt những cục sắt là vì ngọc thạch bên trong đó?

Không có khả năng cho lắm. Ngọc thạch giá trị dù lớn, nhưng quốc lực thời đó, cũng không nghèo đến nỗi cần đội khảo cổ đi vớt ngọc chứ, lẽ nào thứ này còn có tác dụng gì khác?

Bàn Tử chỉ cười, vẻ mặt cũng không quá thoải mái. Men theo vách hang động đi một vòng, tôi tiếp tục nói: “Có điều, xem quy mô hầm mỏ này, hình như bọn họ cũng không khai thác được gì nhiều, độ rộng của hang không lớn lắm.”

“Quy mô quặng ngọc vốn không lớn, nhưng đây không phải vấn đề mấu chốt.” Anh ta dìu tôi đứng thẳng một chút, “Đây không phải thứ mà ông Béo nhà cậu muốn cho cậu xem.”

Tôi quay đầu tiếp tục nhìn khắp bốn phía, nhưng chẳng gì đáng chú ý cả. Liền hỏi: “Anh muốn tôi xem cái gì cơ?”

Bàn Tử giơ đuốc lên hỏi: “Cậu không phát hiện ra à? Ở đây không có bất kỳ lối ra nào.”

Tôi bỗng giật thót mình, một giây trước còn chưa hiểu đầu cua tai nheo gì, một giây sau đã hoàn toàn rõ ràng. Vội vàng nhìn khắp hang động, càng nhìn, mồ hôi lạnh càng tứa ra.

Quả thực, hai cái hang động này không rộng, nhưng vừa xem hết một lượt, lại không thấy bất kỳ lối nào có thể ra ngoài.

Cái hang nhỏ rộng ba mươi mét vuông sát vách kia quá đơn sơ, chắc chắn không có lối ra rồi. Hang này rộng hơn chút, nhưng cũng không có bất kỳ cửa hang nào khác.

Đầu óc tôi hơi loạn, lập tức xoay người, Bàn Tử đỡ tôi đi khắp một vòng hang động này một lần nữa. Lúc này tôi chỉ hoàn toàn tập trung vào việc tìm lối ra, sau khi xem xong, chỉ thấy toàn thân lạnh lẽo, không nói được gì.

Bàn Tử nói đúng, ở đây không có bất kỳ lối ra nào. Toàn bộ vách hang động đều là đá tảng nguyên khối, ngay cả một khe hở cũng không có.

“Thế là thế nào?” Tôi nhìn anh ta. “Sao lại có thể như thế?”

Anh ta vẻ mặt khổ sở, không nói gì.

Tôi vô thức nhìn lên trần hang, vách hang không có gì, vậy có thể ở trên đỉnh.

Trần hang rất thấp, vươn tay ra là sờ được. Nhìn xung quanh một vòng, cũng chẳng khác gì vách hang, không có gì cả, hoàn toàn là đá nguyên khối.

Bàn Tử thở dài, phất tay nói: “Thôi đừng nhìn nữa! Trong này từ trong ra ngoài từ trên xuống dưới, bọn tôi đều tìm khắp từng tấc đất rồi, hai cái hang động này hoàn toàn khép kín.”

Tôi không tài nào tiếp thu được sự thật này: “Sao có thể?”

Bàn Tử thở dài bảo: “Tôi không biết, nhưng đây đúng là sự thực. Hang động này, hình như…” Anh ta ngập ngừng một chút, giọng nói có hơi do dự: “Hoàn toàn khép kín, như thể bị đào khoét từ trong ra ngoài.”

Tôi ngơ ngẩn, lắc đầu nói: “Tuyệt đối không thể được. Nếu như vậy, chúng mình vào đây bằng cách nào?”

Anh ta để tôi tựa vào vách đá, nhìn Muộn Du Bình đi theo sau, lắc đầu nói: “Không biết.”
 
Quyển 6 - Chương 41: Không gian khép kín


Edit: Earl Panda

Hiện tượng siphon hoạt động theo nguyên lý bình thông nhau thôi, vật lý lớp mấy học rồi ấy nhỉ? Minh không nhớ đã giải thích chưa, thôi cứ ghi chú lại. Não ngày càng cá vàng.

Bản raw của mình phần 6 khá loạn, nhiều khi giữa các đoạn văn không có logic liền mạch, mình không những vừa dịch lại còn kiêm biên tập nữa, khổ không sao kể hết. Cho đến chương này có một đoạn khá kỳ lạ, nên lên trang daomubiji so lại, thì y như rằng đoạn kỳ lạ đó đã được cắt bỏ. Thôi từ nay mình chẳng tin tưởng vào bản raw của mình nữa, lên trang online dịch trực tiếp vậy. Bản raw của mình cũng khá cũ rồi, down từ cách đây 4, 5 năm gì đó. Nếu ai đọc không hiểu chỗ nào, cứ comment ở dưới mình sẽ cố gắng giải thích, chứ bây giờ mình không có hơi sức đâu mà rà soát, kiểm tra và beta lại được nữa.

Từ giờ đến ít nhất là đầu tháng 10 mình bận chạy deadline, từ giờ đến lúc đó post chương sẽ chậm.

*****

Tôi nhìn Muộn Du Bình nãy giờ im lặng, biểu hiện của hắn đã khác lúc trước, có chút cổ quái, tuy vẫn không động đậy cũng không nói năng gì, nhưng hình như hắn không còn chú ý đến chỗ tôi nữa.

Tôi hỏi hắn: “Thế anh nghĩ sao? Anh có ấn tượng gì với nơi này không?”

Muộn Du Bình ngồi tựa trong góc, quay đầu nhìn tôi, từ tốn nói một câu: “Tôi không có ấn tượng gì, nhưng tôi biết, sự việc mới chỉ là bắt đầu.”

Trong bầu không khí kỳ dị vô cùng này, Bàn Tử và Muộn Du Bình kể lại những gì họ đã trải qua, tôi vốn tưởng sẽ được nghe một câu chuyện phức tạp cỡ nào, thật không ngờ, câu chuyện của bọn họ lại cực kỳ đơn giản.

Sau khi tôi rời đi, hành động của bọn họ không khác những gì tôi đoán là bao, bắt đầu sử dụng những dụng cụ thô sơ do A Quý mang tới để tiến hành trục vớt. Những bộ hài cốt trên tảng đá vốn tìm được trong đống cành cây khô, phỏng đoán có lẽ là do hiện tượng siphon, phần lớn hài cốt đều mắc kẹt trong các cành cây, còn đống trang bị bị ném xuống nước lại ở nơi khác, kẹt ở khu vực hàng rào.

Lần cuối cùng xuống nước trước khi mất tích, Bàn Tử là người đầu tiên. Lúc đó anh ta đã định nổi lên rồi, nhưng lại thấy cái gì lóe lên trong phạm vi chiếu sáng của đèn pin, hình như là kim loại gì đó.

Lặn xuống nước là để vớt đồ, đương nhiên là anh ta lập tức bị thu hút, bèn bơi tới gần, nhưng lại không thấy gì hết, chỉ có một vài tảng đá lớn.

Dưỡng khí trong mũ lặn đã không còn bao nhiêu nữa, anh ta không thể xem xét kỹ lưỡng những tảng đá này được, cứ tưởng ánh sáng lóe lên vừa nãy là kim loại hoặc thủy tinh gì đó, nên không để ý nữa, chuẩn bị bơi lên trên.

Đúng lúc này, bỗng cảm giác “có cái gì cắn phải mình”, bàn tay lập tức tê rần, rồi ngay lập tức cơn tê dại lan ra khắp toàn thân. Anh ta thầm nghĩ không xong rồi, muốn xông lên trên mặt nước, nhưng đã không kịp nữa. Trong chớp mắt tiếp theo, anh ta ngất đi, đến khi tỉnh lại, đã nằm trong hang động này rồi.

Tình huống của Muộn Du Bình phức tạp hơn anh ta một chút, nhưng cũng gần tương đương. Hắn vốn là đi tìm Bàn Tử, cho nên lặn xuống rất gấp, chưa xuống nước được bao lâu, đột nhiên cảm thấy không ổn, định quay đầu lại thì đã muộn rồi, ở dưới nước, thân thủ của hắn dù tốt mấy thì cũng có giới hạn.

Nguyên văn câu hắn nói là: ‘Tôi cảm thấy phía sau có cái gì động đậy, định quay đầu lại thì đã muộn, đến lúc tỉnh lại thì cũng đã ở đây rồi.”

Tôi nghĩ bụng, quái lạ, sao lại có thể có chuyện này?

Loáng cái đã mất đi tri giác, sau đó tỉnh lại, liền phát hiện mình đã ở một nơi khác, nghe cứ như là chuyện người ngoài hành tinh ấy. Chẳng lẽ nơi này là bên trong đĩa bay à?

Tôi lại nhìn về phía hang đá một lần nữa, khắp bốn phía chỉ toàn đá, nếu quả thực là đĩa bay, thì cũng là đĩa bay thời kỳ đồ đá.

Tôi cảm thấy sự việc này càng ngày càng không đáng tin, mẹ kiếp! Bàn Tử với Muộn Du Bình bị cái gì đó “cắn” một cái, liền mất đi tri giác, nếu như là trúng độc của sinh vật nào đó thì đã chết đuối luôn rồi. Nhưng trái lại, bọn họ lại xuất hiện ở đây, nghĩ thế nào cũng không thấy giống hiện tượng bí ẩn gì, mà giống như là có người làm thì đúng hơn, như thể có người nào đó đã đánh ngất bọn họ rồi đưa đến đây.

Nhưng mà, nếu là con người, thì biết giải thích tình cảnh hiện tại như thế nào đây? Đây là một hang động hoàn toàn khép kín, người nào có thể đưa chúng tôi đi xuyên qua núi đá mà nhét vào trong này? Lưu Khiêm à?

(*Lưu Khiêm là một ảo thuật gia nổi tiếng người Đài Loan.)

Bàn Tử nhớ lại tình huống lúc đó, vẫn còn ngờ vực: “Tôi thật không nghĩ ra, lúc đó ở dưới nước tầm nhìn cũng khá tốt, sau khi bị châm vào tay vẫn còn tỉnh táo một lúc rồi mới ngất, lúc ấy tôi đã kịp nhìn khắp xung quanh một lượt rồi, mà chẳng thấy gì cả.”

“Hay đó là một loài sâu bọ hoặc cá gì đó tương đối nhỏ, chỉ cần dính vào lưng anh là anh không phát hiện được gì rồi. Thế vết thương trên người anh đâu?” Tôi hỏi, không thể nào vô duyên vô cớ lại bị đau buốt, nếu là bị cái gì châm vào, nhất định là có dấu vết.

“Ngay sau khi tỉnh lại tôi đã kiểm tra rồi, chẳng có dấu vết gì cả.” Bàn Tử chìa tay ra cho tôi xem chỗ anh ta bị châm, quả thực là chẳng có gì. “Tôi không nghĩ là sâu bọ gì. Cậu xem, ngay cả Tiểu Ca cũng trúng chiêu, sâu bọ nào dám cắn cậu ta chứ?”

Tôi chậc một tiếng, thật là tà môn, nghĩ mãi không hiểu! Tất cả mọi chi tiết đều không hợp lý, hoàn toàn không giống việc mà “con người” có thể làm được. Chẳng lẽ có Hà bá đang đùa giỡn bọn tôi à?

Bàn Tử tiếp tục nói, nơi duy nhất có thể ra vào ở đây là một cái khe nứt nhỏ trên đỉnh hang động bên ngoài, khe nứt này chỉ nhỏ bằng cổ tay thôi. Anh ta phát hiện ra con kỳ nhông kia ở đó. Đa phần nước rỉ xuống đây cũng là từ cái khe nứt đó. Hai người họ đã không được ăn gì suốt hai tuần rồi, chỉ dựa vào uống nước mà sống, anh ta gầy xọp đi mất sáu ký, da dẻ nhão nhoét cả ra. Để không tiêu tốn thể lực vô ích, đa số thời gian đều ngồi yên bất động.

Ở một phía khác bên ngoài vẫn còn một số giá gỗ chất đồ còn thừa lại trong lúc khai tác hang động, có thể dùng để nhóm lửa. Mỗi ngày lại nhóm một ít, cũng may dưỡng khí không thành vấn đề.

Lúc trước khi tôi đột nhiên xuất hiện, bọn họ cứ tưởng tôi phát hiện được ký hiệu trên mình con kỳ nhông mà đi tìm, đồng thời đã biết cách ra vào. Không ngờ ngay cả tôi cũng không biết mình vào bằng cách nào, hại Bàn Tử buồn bực mãi.

Tôi hít sâu một hơi, chợt nhớ ra một việc, hỏi: “Hai người nếu đã tự dưng hôn mê, sao lại bảo tôi đi theo ống siphon mà vào? Làm sao hai người biết cứ đi theo dòng nước là có thể xuống đây?”

Bàn Tử nói: “Là tiếng động. Tôi không biết vị trí nơi này ở đâu, nhưng biết chắc nó ở gần lỗ thoát của ống siphon, bởi mỗi khi đến tối, nước rỉ bên ngoài sẽ rút bớt đi theo quy luật, tiếng động vang lên rất rõ ràng, cứ như tiếng hít thở ấy. Chỉ có thể ở rất gần ống siphon mới có biên độ dao động lớn như thế. Nếu cậu phát hiện ra kỳ nhông, được dẫn tới gần lỗ thoát của ống siphon, rất có thể sẽ phát hiện được khe hở thông với nơi này.”

Tôi không khỏi thầm chửi mắng, hóa ra là như thế, quá là chủ nghĩa lý tưởng rồi!

Ý tưởng của Bàn Tử hoàn toàn không có căn cứ gì, sự thực chứng minh, nếu đi theo ống siphon thì chỉ có một con đường chết. Nhưng tôi chưa chết, nên cũng không muốn giận dỗi gì nữa.

Sau khi nghe xong, tôi run lên bần bật. Tuy tuyệt đối tin tưởng Bàn Tử, nhưng trong lòng bị thôi thúc mãnh liệt phải kiểm tra hang động này một lượt nữa, phải xem xét những vách đá này tỉ mỉ hơn nữa.

Bàn Tử nhìn mà thở dài, lắc đầu bảo: “Đừng phí sức nữa. Thiên Chân, cậu nghĩ mà xem, tôi với Tiểu Ca bị nhốt ở đây suốt hai tuần con mẹ nó rồi. Hai tuần cơ đấy, tụi này có thể làm gì trong hai tuần? Lúc đầu ông Béo đây cũng chả thèm tin đâu, vẫn nghĩ có thể có đường ngầm gì đó cơ đấy, tìm mãi, tìm suốt, tìm từng tí một. Cậu biết cảm giác nhìn chằm chằm một tảng đá đến một nghìn lần nó như thế nào không? Tôi nhìn mà đến cuối cùng suýt thì phát ói ra, nhưng mà, không có vẫn là không có.”

Vẻ mặt anh ta đau khổ vô cùng, tôi có thể tưởng tượng ra cái cảm giác này, nhưng chưa tự mình kiểm tra, trong lòng cứ thấy trống trống thế nào ấy, nên tôi bảo anh ta cứ kệ tôi.

Cố sức bám vào vách đá mà đi một vòng, lần này xem xét rất kỹ càng, nhưng Bàn Tử quả thực không sai tý nào, vách đá này đúng là một chỉnh thể hoàn toàn, thỉnh thoảng có vài vết nứt nho nhỏ cũng là do tự nhiên hình thành, ngay cả lưỡi dao cũng không chen lọt vào được. Vết nứt lớn nhất chính là ở trên đỉnh hang động bên ngoài, nhưng cũng chỉ to bằng một cánh tay, nước từ bên trên cứ ào ào chảy xuống, dưới mặt đất toàn là nước đọng thành vũng, những vũng nước lớn này lại chảy xuống các vết nứt trên mặt đá dưới đất.

Vị trí hang động này ở đâu? Có phải ở gần vị trí tôi suýt chết đuối hay không? Nhìn những dấu vết đục đẽo, rất giống những dấu vết trên vách đá dưới đáy giếng, nhất định là do cùng một nhóm thợ đục ra.

Như vậy, chúng tôi đang ở tầng đá núi dưới đáy hồ. Suy cho cùng tôi cũng không học thăm dò địa chất thực sự, mà chỉ có một chút kiến thức thông thường về cơ học mà thôi. Những thứ khác tôi chẳng biết gì mấy.

Gõ gõ vách đá, tiếng gõ vang lên rất trầm đục, có vẻ như không có khả năng là đường ngầm. Hơn nữa, có Muộn Du Bình ở đây, nếu quả thực có đường ngầm, hắn đã phát hiện ra từ lâu rồi.

Rồi lại liếc nhìn đống đồ chồng chất ở một bên. Vừa nãy nhìn thoáng qua có thấy mấy thứ trông như là đá mài, đến gần nhìn kỹ, thì có vẻ như là bếp lò bằng gang, bên trong còn có cặn sắt. Bên cạnh là rất nhiều giá để dụng cụ, vẫn rất vững chắc.

Ngoài ra còn có những bức tượng thần bằng đất sét chỉ nhỏ cỡ chai bia, là Quan Công, còn cả Bồ Tát, và một số nhân vật chưa từng thấy bao giờ, có lẽ là thần linh của dân tộc thiểu số.

Tôi thử cử động bàn tay, nhưng không biết là do cơ thể tôi vẫn mệt mỏi hay là do tôi quá nặng, mà chẳng cử động được tí gì. Bàn Tử nói anh ta đã thử di chuyển chúng rồi, bên dưới không có đường ngầm nào.

Quay về chỗ Bàn Tử, cuối cùng xác định anh ta nói không sai, lúc trước tuy cũng tin anh ta, nhưng lần này là xác định hẳn rồi. Trong lòng dâng lên một chút lo âu, đây là phản ứng của con người với không gian khép kín.
 
Quyển 6 - Chương 42: Giả thiết


Edit: Earl Panda

Xin chào, mình lại trồi lên đây ( ´ ▽ ` )ノ Nhưng việc mình vẫn chưa xong, deadline vẫn lầy, tình trạng tinh thần không tốt và còn đang giả nợ môn cuối cùng mà trước lười quá chưa đi học (个_个)

Nhưng hết tháng này chắc xong thôi, có lẽ lúc đó sẽ nhiều thời gian rỗi hơn. Chương này trộm dịch trong giờ a hi hi ( ≧Д≦)

*****

Tôi cởi đồ lặn ra để một bên, muốn mau chóng hồi phục lại thể lực. Rồi tôi hỏi Bàn Tử, hai người ở đây lâu như thế, có phán đoán gì chưa?

Anh ta lắc đầu: “Tôi thấy phán đoán đáng tin cậy nhất, đó chính là cả đám tụi mình đều đã chết sạch, linh hồn bèn đi xuyên qua đá núi mà vào trong hang động này.”

Tôi cười khổ. Lời này tôi hiểu rõ ý, cũng không phải thực sự cho rằng chúng tôi đã chết sạch cả, ý anh ta là, các phán đoán khác còn chẳng đáng tin bằng thứ mê tín dị đoan này. Đây là một sự việc không có tiền căn hậu quả. Muốn phán đoán, phải có đầu mối. Nhưng bây giờ không có bất kỳ đầu mối nào, tất cả chỉ có thể là giả thiết.

Bàn Tử nói: “Nếu như có gì đó quấy phá, thì mục đích của nó cũng không phải là giết tụi mình. Cho nên, bất kể sau này có chuyện gì xảy ra, chúng mình cũng không đến mức toi mạng đâu! Nếu muốn giết, hà tất phải đổi sang chỗ này làm chi?”

Tôi cười khổ, không toi mạng, thì sẽ là gì? Chẳng lẽ ở đây sẽ tự dưng xuất hiện một gã đàn ông cao to vạm vỡ đè ngửa cả đám ra cưỡng bức à? Tôi lắc đầu bảo: “Chưa chắc, hiện giờ còn sống sờ sờ ra đấy cũng chưa chắc đã là chuyện tốt. Tôm ngâm rượu không phải cũng là tôm sống đấy ư?”

(*Tôm ngâm rượu hay醉虾 là đặc sản Thượng Hải với Ninh Ba, điểm đặc biệt là món ăn này là không sơ chế hay nấu chín tôm, mà trực tiếp bỏ tôm sống vào ngâm trong rượu Thiệu Hưng cho đến khi tôm không giãy giụa gì nữa, sau đó ăn sống kèm với nước chấm pha chế từ rượu, dấm, ớt, tỏi và các gia vị khác.)

Bàn Tử lạnh cả người, đúng là nghĩ mà thấy phát sợ, lại có chút buồn bực, mắng: “Ông đây ghét nhất là những thứ quái quái gở gở chả hiểu đầu cua tai nheo gì như này! Cậu xem có phải ba đứa tụi mình bát tự xung khắc gì không mà cứ suốt ngày đâm đầu vào những thứ quỷ quái không vậy! Mẹ kiếp đúng là ma chướng mà! Cả A Quý cũng thật là, chẳng biết cái cóc khô gì cả, chứ không đã nhắc trước tụi mình một tí, tụi mình còn đề phòng được chút.”

Tôi hơi cau mày, Bàn Tử nói cũng đúng, sở dĩ chuyện này không có chút manh mối nào, thậm chí còn chẳng biết dựa vào đâu mà phán đoán, cũng bởi vì lẽ vậy, bây giờ tự dưng rơi vào cảnh ngộ như này, chắc chắn là có điểm mấu chốt quan trọng nào đó mà chúng tôi đã bỏ qua mất.

Bắt đầu tra lại sự việc từ khi ở trong thôn làng, sau đó dần dần phát triển từng chút một, tất cả tin tức đã có đều từ phía trên đưa xuống, bây giờ đã biết các cục sắt đều từ các tượng sắt này mà ra, đã biết Văn Cẩm từng đến hồ nước này, cũng đã xác định rõ đội khảo cổ từng bị đánh tráo, cũng đã biết một số bí mật trong ngôi làng cổ dưới đáy hồ, tuy những đầu mối trong đó vẫn chưa hoàn toàn liên kết với nhau (ví dụ như những tượng sắt này rốt cục là để làm gì chả hạn), nhưng vẫn phải tiếp tục tra xét, chỉ cần cứ tiếp tục điều tra, tôi tin là mọi thứ sẽ liền mạch logic.

Thế nhưng, tình cảnh hiện nay, lại chẳng có liên quan gì đến những thông tin đã biết, chứng tỏ, trong số vô vàn những đầu mối chúng tôi đã tra ra ở trong làng, một mảnh ghép nào đó đã bị khuyết thiếu mất.

Là để sót mất ở đâu nhỉ?

Lúc nãy tôi hỏi xem Bàn Tử có phán đoán gì, mới phát hiện ra tình huống đang diễn ra hiện nay vốn không cách nào dự đoán trước được, không có bất kỳ một yếu tố nào có thể cảnh báo trước. Nghĩ vậy, tôi nói với hai người kia: “Chúng ta thử liệt kê lại một lượt tất cả những gì mình đã biết ra, nơi này chắc chắn là có liên quan gì đó đến toàn bộ sự việc, mình liệt kê hết lại từ đầu đến cuối, không chừng có thể tìm được gợi ý nào đó.”

Bàn Tử thổi thổi, rồi trỏ xuống mặt đất. Trên đó có mấy dấu chữ anh ta dùng đá khắc xuống: “Lúc trước tôi có thử làm rồi, thực sự vẫn không nghĩ ra. Cậu cứ thử làm lại đi cũng được, cậu đọc sách nhiều, chắc chắn là giỏi hơn tôi, chứ tôi càng nghĩ đầu lại càng đau.”

Tôi nhìn những chữ kia, quả đúng là phương pháp liệt kê quen thuộc của anh ta, vạch ra tất cả các khả năng có thể xảy ra cùng với tất cả các đầu mối, sau đó tìm mối liên hệ giữa chúng.

Tôi nói: “Lần này không giống những lần trước, tất cả các tin tức lẫn manh mối đều chỉ là mảnh vụn, anh viết như thế, chỉ càng viết càng loạn. Bây giờ tôi sắp xếp lại một chút, sau đó chúng ta bắt đầu từ đầu, xem có thể sắp xếp lại cho hoàn chỉnh như trò chơi xếp hình hay không.”

Tôi lượm một tảng đá, vạch mấy từ khóa then chốt trên mặt đất. Từ khi bắt đầu vào thôn làng, những đồ vật lần lượt được phát hiện, kế tiếp là toàn bộ những sự việc nối tiếp sau đó.

Cục sắt – mảnh vỡ của tượng sắt – ngôi làng cổ dưới đáy hồ – không biết có tác dụng gì – ở đâu cũng có – có vẻ nguy hiểm – có mùi kỳ quái.

Ảnh chụp – thiêu hủy.

Lời kể của Bàn Mã – đội khảo cổ bị đánh tráo – tìm được thi thể – vớt cục sắt – mục đích?

Ngôi làng cổ dưới nước – tòa lầu cổ kiểu Hán – đường hầm ngầm – tượng sắt số lượng lớn – mỏ ngọc?

Hầm mỏ khép kín – tượng sắt – vết đục đẽo tương tự.

A, B – đau nhói – hôn mê.

C – ngạt thở – hôn mê.

Viết xong, nhóm riêng ra những thông tin đã xác định, bảng biểu liền trở thành:

Không biết có tác dụng gì – ở đâu cũng có – có vẻ nguy hiểm – có mùi kỳ quái – mục đích?

Tượng sắt số lượng lớn – mỏ ngọc?

Hầm mỏ khép kín – tượng sắt – vết đục đẽo tương tự.

A, B – đau nhói – hôn mê.

C – ngạt thở – hôn mê.

Cứ thế, chúng tôi đã gom toàn bộ những yếu tố đã xác định và những yếu tố không thể xác định nhóm riêng ra thành hai nhóm.

Sau đó, chúng tôi bắt đầu nối một vài yếu tố vào nhau, tôi nói: “Đầu tiên, chúng ta có thể khẳng định, chủ nhân của tòa lầu cổ kiểu Hán này họ Trương, tạm thời gọi người này là Trương gia lâu chủ.” Tôi liếc Muộn Du Bình một cái, “Người này có quân công, hơn nữa còn là một bậc thầy về cổ học, có thể là quân phiệt địa phương, hoặc có thể có thân phận khác, chuyện này không quá liên quan tới vấn đề của chúng ta.”

“Vào một ngày nào đó năm nào đó, nhân vật Trương gia lâu chủ này, bởi một nguyên nhân nào đó – nguyên nhân này chúng ta cũng không cần biết – phát hiện ra một mỏ ngọc bên dưới ngôi làng này. Bị tiền tài lợi ích khổng lồ mê hoặc, ông ta cùng với Vua Dao ở đây hợp tác cùng khai thác, xây dựng một tòa lầu kiểu Hán vững chãi kiên cố trong làng người Dao, cho bọn thuộc hạ sử dụng. Tòa lâu kiên cố như thế, chứng tỏ bọn họ đã khai thác nơi này một thời gian rất dài rồi, thậm chí có thể chuẩn bị cho mấy đời sau khai thác tiếp.”

“Hang động nơi chúng ta bị kẹt bây giờ, xem vết tích đục đẽo thì có lẽ chính là hầm mỏ mà bọn họ đào lúc đó, chí ít thì cũng là một trong số đó.”

Nói xong, tôi nhìn Bàn Tử, hỏi anh ta có muốn bổ sung thêm gì không? Anh ta lắc đầu, tôi lại nói: “Được, cho đến đây thì mọi việc vẫn rất bình thường, cũng hợp logic, nhưng lại mâu thuẫn với tình cảnh của chúng ta hiện giờ. Rõ ràng hầm mỏ này hoàn toàn khép kín, tôi phải nói như thế, bởi từ lúc mọi việc vẫn bình thường cho đến tình cảnh của ta hiện giờ, ở đoạn giữa đó, chắc chắn đã xảy ra một sự việc gì khiến hầm mỏ này xảy ra một sự biến đổi không thể nào giải thích được.”

Bàn Tử gật đầu bảo: “Mẹ, đừng có nói kiểu học thức thế, đơn giản là cái hang động này có vấn đề thôi.”

Ban đầu đây chỉ là giả thiết, cũng tương đối chính xác, tôi bèn gạch đầu dòng mới rồi viết xuống, sau đó viết một dấu chấm hỏi bên cạnh. “Ở đây đã xảy ra chuyện gì? Chắc chắn không thể đột nhiên bịt kín được, bởi nếu thế, nhất định sẽ có người bị nhốt đến chết.”

“Không hẳn thế, cậu nghĩ xem, ngay cả chúng ta vào đây như thế nào cũng không giải thích nổi, không chừng bọn họ sau này tìm được cách ra ngoài.” Bàn Tử nói.

Tôi lắc đầu. Thợ mỏ trong những năm đó có trình độ văn hóa cỡ nào chứ? Biện pháp mà bọn họ nghĩ ra, làm gì có chuyện tôi không nghĩ ra được? Hơn nữa, cho dù có nghĩa ra, thì cũng không thể quá nhanh, như vậy, với những dụng cụ và thể lực mà họ có, chắc chắn họ phải đục đẽo các kiểu để tìm cách thoát thân, tất yếu phải để lại vô số dấu vết và đá vụn trên mặt đất.

Nhưng mà, dù sao tôi cũng không ở hiện trường lúc đó, không thể khẳng định chắn chắn một suy luận được, tôi cũng không phản bác Bàn Tử. Chúng tôi cắn môi, bắt đầu suy nghĩ đủ các loại giả thiết.

Còn chưa suy nghĩ được bao lâu, Muộn Du Bình bất chợt lên tiếng, thản nhiên nói: “Tượng thần trong hầm mỏ, là thần Lôi Vương của dân tộc Dao, là hung thần, bình thường không thờ cúng công khai, trừ phi có chuyện gì quá đáng sợ xảy ra.”

Chúng tôi đều sửng sốt, Bàn Tử nói: “Cái đệt! Sao cậu hiểu được cái thứ của nợ này vậy?”

Muộn Du Bình không đáp, mà tiếp tục nói: “Trong đây có đặt thứ này, chứng tỏ sự việc không phải đột nhiên mà xảy ra, hơn nữa, sau khi xảy ra, lại còn có thể đem bức tượng từ ngoài vào trong này để thờ cúng, chứng tỏ sự việc này tuy rất đáng sợ, nhưng không đến mức dọa bọn họ chạy hết.”

Tôi ngẫm nghĩ, thấy cũng có lý: “Đặt tượng thần ở đây, chứng tỏ bọn họ vẫn muốn tiếp tục đào khoét xuống dưới, cho nên mới dùng tượng thần để trấn áp thứ gì đó. Sự việc tuy đáng sợ, nhưng chỉ là nỗi sợ hãi trong lòng, chứ không đe dọa đến tính mạng. Bây giờ chúng ta ngẫm lại, tự đặt mình trong hoàn cảnh đó, nếu chúng mình là thợ mỏ, thì trong tình huống này, tụi mình phải làm gì?”

Bàn Tử lạnh cả người: “Sao câu này nghe cứ quen tai? Lẽ nào, bọn họ đào được cái gì xui xẻo ở chỗ này?”

Tôi cũng gật đầu, đồng thời trong đầu suy nghĩ đến đủ thứ. Hồi xưa ở dưới quê hay nghe đủ loại đồn đại, có nhà máy nào đó khởi công, kết quả vừa đào một cái đã đào trúng xương người chết bị loạn táng, thế là bèn bày tượng Quan Công để trấn.”

“Chỗ này là tầng đá, ở cái chỗ chó má này thì đào được cái gì?” Bàn Tử nói, “Chả lẽ là hóa thành khủng long bạo chúa?” Nói xong anh ta thở dài sườn sượt, cảm thấy giả thuyết của mình rất có khả năng, “Cậu nghĩ mà xem, bọn họ cứ đào đào đào, đột nhiên đào ra quái vật thời tiền sử, chắc chắn là sợ chết khiếp, tưởng đào được xương của yêu quái.”

Tôi vỗ vỗ anh ta: “Đồng chí, lúc nào rảnh rỗi nhớ đọc nhiều sách vào một chút, niên đại của hóa thạch khủng long kém niên đại của ngọc đến vài trăm triệu năm, ở đây mà đào ra hóa thạch khủng long, cũng chả khác gì đào ra một lố KFC dâu.”

“Vậy cậu nói là cái gì?” Bàn Tử không phục, nói.

Bọn tôi suy nghĩ mãi, cuối cùng vẫn đều lắc đầu, kỳ thực chẳng còn có gì mà nghĩ nữa cả, trong tầng đá cứng này thì còn có cái gì có thể khiến người thời đó cho là điềm gở đây? Tôi thật sự nghĩ mãi không ra. Thứ hợp lý nhất ở đây chỉ có thể là đá, chẳng lẽ lại là một tảng đá mà bọn họ cho là điềm gở? Nếu giả thiết này mà còn bảo không hợp lý, thì cái gì cũng có khả năng cả.

Bàn Tử đến trước bức tượng, hỏi Muộn Du Bình: “Tiểu Ca, cái ông thần này hung đến mức độ nào? Có giống thần Chung Quỳ của mình không, chuyên đi bắt quỷ ấy?”

Muộn Du Bình lắc đầu: “Lôi Vương, chuyên khắc chế Tà thần.”

Thần thoại của người dân tộc Dao Mèo khác với thần thoại của người Hán, trong đó nhiều thần tà ác cũng được coi là thần, ngang vai ngang vế với những vị thần chánh nghĩa, những vị thần bình thường không thể làm gì được.

Bàn Tử chậc một tiếng: “Nói cách khác, Chung Quỳ chỉ là công an, còn Lôi Vương này là bí thư chi bộ.” Sau đó anh ta rút ra hai thanh củi nhỏ trong đống lửa, cắm vào lư hương, lạy mấy lạy. “Bí thư Lôi, thật ngại quá, tụi chúng em lúc trước có mắt như mù, không nhận ra là anh. Ít của này tuy chẳng ra cái gì, nhưng cũng có chút hình thức, coi như là hóa đơn tạm, bao giờ tụi em ra được ngoài nhất định sẽ bù đắp thêm hương đèn. Tụi em biết anh làm bí thư chi bộ, nhiều thứ không tiện nhận, cho nên anh cứ cho tụi em số điện thoại của quý phu nhân, chúng em sẽ liên hệ với phu nhân…”

Tôi nghĩ thầm, cái tên này chẳng đáng tin cậy gì cả, nói: “Anh cũng đâu phải người Dao, người ta phù hộ anh thế nào được? Đừng lãng phí củi nữa, huống hồ chỉ có cấp trên xuất hóa đơn tạm cho cấp dưới, làm gì có chuyện ngược lại?”

Bàn Tử bảo: “Chú thì biết cái gì! Cậu ở Hàng Châu nộp thuế, đi Bắc Kinh không phải nộp thuế à? Đây tôi không gọi là hóa đơn tạm, mà là quyền chọn tài chính. Tụi mình đây là đang chào hỏi trước, kẻo sau lại hối hận.”

Nói đoạn anh ta quay lại, sợ mấy thanh củi đầu nặng gốc nhẹ sẽ làm đổ cả bát hương mất, anh ta bèn rút ra để xoay ngược thanh củi, làm hương tro rơi đổ hết cả ra.

Bàn Tử lập tức đỡ lấy, tôi cười bảo: “Đấy anh xem, người ta thanh chánh liêm minh, không nhận.”

Bàn Tử lại chậc một tiếng, chẻ đôi thanh củi nhỏ đi một nửa, rồi cắm lại, sau đó dùng chân san phẳng đống tro hương đã rơi xuống đất, chà vài cái. Hương tro quét lên mặt đất, tôi bỗng nhìn thấy, trên mặt đá dưới chân Bàn Tử xuất hiện một vài đường nét kỳ quái.
 
Quyển 6 - Chương 43: Đào lên được thứ gì?


Edit: Earl Panda

Mình vẫn chưa được giải thoát arrgggggg =__=

*****

Tôi lấy làm lạ, lập tức mò lại gần, gạt chân Bàn Tử ra để nhìn cho kỹ. Quả nhiên, có một phần tro hương rơi xuống những đường kẽ hở nhỏ xíu trên mặt đá, tạo thành một số đường cong rõ nét. Hơn nữa, những đường nét này rất mượt, không phải kẽ nứt tự nhiên của đá tảng.

Tôi thường xuyên làm bản rập, biết đây cũng là một loại tương tự với bản rập vậy. Phương pháp dùng bột phấn mịn để làm nổi rõ những dấu vết trên mặt đất, cũng giống phương pháp dùng bút chì tô lên giấy để nhìn thấy vết hằn của trang trước thường thấy trong phim gián điệp vậy. Tức là hiển nhiên trước đây từng có người khắc cái gì đó trên bề mặt đá trước bàn thờ này.

Tôi phấn khởi hẳn lên, lập tức cầm lư hương đổ hết tro bụi xuống đất, rồi dùng hai tay bôi gạt ra khắp mặt đất. Chả mấy chốc. trên mặt đất và cả vách đá bắt đầu xuất hiện vô số đường nét nhỏ xíu.

“Đây là…” Bàn Tử cũng nhận ra điều khác thường.

“Đây chắc là do công nhân đào hang khắc xuống.” Tôi nói.

“Nhìn xem, chưa chi bí thư Lôi đã hiển linh rồi kìa!” Bàn Tử reo lên, “Hiệu suất còn nhanh hơn chúng ta nữa!”

“Đừng vội mừng sớm như vậy.” Tôi bảo, dàn đều tro hương ra khắp mặt đất.

Bàn Tử cũng ngồi xổm xuống hỗ trợ, Muộn Du Bình cũng xông đến giúp một tay, chúng tôi dàn đều tro hương ra cả một khoảng rất lớn. Chả mấy chốc, một hàng chữ xiên xiên xẹo xẹo dần dần hiện lên trước mặt chúng tôi.

Hàng chữ này mỗi chữ đều to cỡ cái bàn cờ vua, toàn bộ là dạng phồn thể, nét chữ cực ngoáy, lại có một số nét mờ mờ không rõ, nhưng số lượng rất nhiều, phải đến ba mươi bốn mươi chữ, to to nhỏ nhỏ đầy mặt đất.

Nhìn nét chữ thì có lẽ là cùng một người khắc.

Đều là chữ Hán, nhưng có một số chữ tôi chưa từng thấy bao giờ, chắc là phát âm của tiếng địa phương.

Bàn Tử ngờ vực hỏi: “Chẳng lẽ các công nhân hồi xưa cũng giống tụi mình bây giờ, cũng viết chữ dưới đất để thảo luận vấn đề à?”

Tôi lắc đầu nói không phải, hàng chữ này rất liền mạch, chứng tỏ người khắc đã viết cả một đoạn văn hẳn hoi, có điều vết khắc rất nông, có lẽ cũng giống chúng tôi, dùng cục đá viết viết vẽ vẽ qua quýt lên vách đá thôi, không cần dùng đến đồ nghề chạm khắc.

Là một người như thế nào, có mục đích gì, lại viết xuống hàng chữ này trước bức tượng thần nhỉ? Không nghĩ ra nổi, nhưng mấu chốt vấn đề có lẽ nằm ở hàng chữ này.

Tôi thử đọc, chữ viết theo hàng dọc, nhìn sơ chẳng hiểu gì, tôi phải đọc kỹ từng chữ từng chữ một rồi dùng một cục đá viết lại sang bên cạnh.

Là một đoạn văn rất đơn giản.

Ngày mùng bảy tháng mười một.

Tường đông, bên trái bảy thước, có mười sáu.

Tường tây, bên trái ba thước, có bảy.

Tường bắc, bên trái năm thước, có mười.

Tường nam, bên trái sáu thước, có bốn.

Đếm kỹ, nội trong ba ngày đào ra rồi làm lại.

“Đây là… ghi chép số liệu để khai thác quặng?” Tôi ngờ vực nói.

Xem ngữ cảm toàn bộ đoạn văn, hình như là một lời nhắn, một lời nhắc nhở của một ông quản đốc cho những người khác trước khi rời đi. Hơn nữa còn có một lời dặn dò: Đếm kỹ. Nghe giống lời của cấp trên dành cho cấp dưới.

“Đông tây nam bắc?” Bàn Tử nhìn quanh một lượt, “Đây là ghi chép phân bố của mỏ ngọc à?”

Tôi lắc đầu, phương hướng của mỏ ngọc hoàn toàn là do tự nhiên hình thành, không có bất cứ quy luật gì cả, chỉ dựa vào một mặt cắt rồi định ra bên trái mấy thước gì đó hoàn toàn không có tác dụng gì sất. “Có mười sáu”, “có bảy”, “có mười”, “có bốn”, nghe giống như một loại ký hiệu đo lường gì đó, như thể đang đêm cái gì đó trên tường.

Lại nhìn mặt tường phía đông, trên tường chẳng có gì cả, chỉ có bề mặt sần sùi tự nhiên của mỏ ngọc xen lẫn đá núi, đường nét các vết sậm màu của ngọc rất phức tạp, cứ như những mạch máu của đá núi vậy, căn bẳn không thể dùng những con số nhỏ bé như “mười sáu” để thể hiện. Hơn nữa còn có một câu cuối cùng: nội trong ba ngày đào ra rồi làm lại, hình như ý nói “mười sáu”, “bảy” là vật gì đó cản trở đến quá trình khai thác mỏ.

Là cái gì nhỉ? Chẳng lẽ lại là yêu tinh đá Pech(*) cứng chắc không gì sánh dược? Nhưng mà Pech cứng muốn chết, lại nặng đến hàng trăm tấn, làm sao có thể đào ra trong vòng ba ngày được?

(*) Một loại yêu tinh(?) trong thần thoại Scottland, ngoại hình rất giống Gnome nhưng cực kỳ khỏe và là những thợ mỏ, thợ điêu khắc đá tuyệt vời. Có mặt trong game Dungeons and Dragons.

Cả ba chúng tôi cùng đứng lên, đi sang đầu bên trái của vách hang phía đông, dùng ngón tay ước lượng cự ly sáu thước để xem có gì không.

Cách sáu thương, vẫn là bề mặt đá cùng vô số dấu vết ngọc thạch màu lục sẫm, ngoài ra chẳng có gì cả.

Tôi với Bàn Tử nhìn nhau, kỳ thực, tất cả các vách đá ở đây bọn tôi đã kiểm tra kỹ lắm rồi, nhìn thêm nữa cũng chẳng được gì.

“Cái thứ gì đó người kia vết, phải chăng đã bị đào ra rồi?”

Cũng có khả năng này, nhưng suy nghĩ kỹ một chút, trong đầu tôi lại nảy lên một suy nghĩ rất kỳ quái.

Tôi quay trở lại trước bàn thờ, gom hết tro hương dưới đất lại, bỏ vào lư hương. Sau đó cầm lư hương đến trước vách đá kia, bôi tro đầy lên đó.

Vốn trên vách đá chẳng có gì cả, nhưng sau khi tôi quét vài lượt tro hương lên đó, quả nhiên, trên bề mặt đá dần dần xuất hiện vài đường cong, hình như là đường viền của cái gì đó.

“A?” Bàn Tử kinh ngạc kêu lên, “Sao cậu biết?”

“Lời nhắn này quá mơ hồ, là kiểu lời tổng kết cuối cùng ấy, cho nên chắc chắn trên vách đá cũng còn những lời nhắn khác nữa.” Tôi nói, tiếp tục bôi tro lên tường.

Chẳng mấy chốc, vô số đường nét bất quy tắc xuất hiện trên vách đá. Tôi tháo đèn pin cường lực xuống, bật lên. Đường nét rất rõ ràng, giống như nét vẽ phác thảo vậy, trước dùng những đường thẳng ngắn để phác họa sơ lại hình dáng vật thể.

Nhưng mà, chúng tôi chẳng nhìn ra được cái gì liên quan giữa các đường nét này với những đường mạch ngọc trên vách đá cả. Cứ như thể là những nét vẽ phác thảo, dùng để tham khảo khi muốn cắt xẻ vật gì vậy.

Cho dù như vậy, tôi vẫn cảm thấy toàn thân mình run lên bần bật, rất nhiều mảnh ghép nhỏ bắt đầu dần dần ghép lại thành các tổ hợp trong đầu tôi, tôi biết, bên trong vách đá này chắc chắn có cái gì đó, bằng không người ta đã không khắc những đường vẽ này ở đây. Bọn họ muốn đào thứ đó ra, nên mới đánh dấu như thế.

Vì sao lại không nhìn thấy gì nhỉ? Chẳng lẽ vẫn sai phương pháp rồi?

Nghĩ đoạn, tôi hỏi: “Hai người có ai biết, trong quá trình khai thác mỏ ngọc thì có bước nào đặc biệt không?”

Bàn Tử lắc đầu bảo: “Không phải cứ dùng thuốc nổ là xong à?”

Muộn Du Bình lại nói: “Trước tiên dùng lửa đốt, sau hắt nước lạnh lên, đá tảng tự nhiên sẽ nứt ra.”

“Hắt nước lên? Đi! Đi múc nước!” Tôi lập tức kêu lên, cũng không biết mình rốt cuộc đang muốn chứng minh cái gì nữa, nhưng tôi có linh cảm rất mạnh, là mình đã đụng đến điểm mấu chốt rồi!

Tôi vọt vào trong hang động bên kia, thắt nút ống quần bộ đồ lặn của tôi, múc nước, rồi quay trở lại, cùng Bàn Tử hắt nước lên vách đá.

Cứ như vậy, hắt được khoảng chục lần, màu sắc vách đá do bị ngâm nước mà bắt đầu đổi màu sẫm dần.

Lui ra sau vài bước để nhìn, do đã hắt nước lên, các đường mạch ngọc trở nên mờ đi không thấy rõ nữa, những phần đá khác cũng trở nên trơn trượt, bóng loáng. Hóa ra đá này cũng là ngọc thạch, chẳng qua hàm lượng khác biệt một chút, so với những dấu vân phỉ thúy màu lục kia thì chúng chẳng khác gì đá núi bình thường.

Cùng lúc đó, chúng tôi nhìn thấy, trong vách đá kia dường như có cái bóng ẩn hiện.

Là bóng người.
 
Quyển 6 - Chương 44: Người trong đá


Trong chớp mắt vừa thấy còn tưởng đó là bóng của mình, giật thót một cái, lại phát hiện bóng đen kia không hề di động theo mình.

Ba người chúng tôi như tiến vào trong khe nứt, nhìn bóng người giữa ngọc mạch kia, đứng cũng không thẳng được.

“Đó là cái quỷ gì vậy? Tôi nhẹ giọng hỏi.

“Có trời biết!” Bàn Tử cũng dùng giọng điệu đó đáp lại, ngừng một lát, “hình như… Hình như là người?”

“Sao có thể là người được? Nếu là người, hắn sao có thể chui vào trong vách đá này chứ?” tôi vặn lại.

Bàn Tử nhìn tôi một cái, run rẩy hỏi:” cậu từng nghe người ta kể lại truyền thuyết cá trong đá chưa?”

Anh ta vừa nói xong, toàn thân tôi bất giác nổi gai ốc.

Thạch trung ngư (cá trong đá) là một truyền thuyết ma quái có từ thời ngày xưa, kể về có một tảng đá nguyên vẹn sau khi bị người ta phá ra, phát hiện bên trong rỗng, chẳng những có nước, mà trong nước lại còn có một con cá vẫn còn sống nữa.

Không ai biết con cá này làm sao đi vào trong tảng đá đó được, cúng không ai biết sao nó có thể sống sót, trong tảng đá nào có thức ăn.

Hiện tượng đó được xem như là do thần linh tạo ra, trong đá có cá, nếu không phải từ bên ngoài bơi vào, thì chính là do bản thân tảng đá sinh ra. Tương truyền là ai ăn được con cá đó có thể trường sinh bất lão, nhưng cũng có người nói ăn nó lập tức sẽ mất mạng.

Truyền thuyết trong đá có cá được lưu truyền rộng rãi, nơi nào cũng có, dường như không phải là chuyện hư cấu, Bàn Tử giờ đột nhiên nhắc tới nó, tôi hiểu anh ta muốn ám chỉ điều gì. Nhưng cũng biết là thực sự thì không thể dùng cách đó để lý giái chuyện này.

“Không thể nào đâu.” tôi nói.

“Nếu trong đá có thể có cá thì tại sao không thể có người chứ?”

Tôi hít một ngụm khí lạnh, nhìn cái bóng người trong vách đá kia, vẫn lắc đầu, “không thể nào, đây nhất định chỉ là bóng đen giống hình người thôi.”

“Có đúng hay không, tiếp tục hắt nước là biết. Những chữ viết trên mặt đất kia, nói thứ này không chỉ có một.” Bàn Tử nói.

Chúng tôi lập tức tiến hành tiếp, rất nhanh sau đó đem vách đá bốn phía té đầy nước.

Trên những vách tường bị thấm nước, tôi kinh người phát hiện ra trong đá chung quanh đây có rất nhiều bóng người ẩn hiện, với đủ mọi động tác khác nhau.

Trong vách đá, nhìn như chỗ nào cũng có người.

Đếm qua một lượt thấy số lượng cũng gần giống như được ghi lại trên mặt đất.

“Thực sự đây là quỷ!” Bàn Tử lại ngồi xuống, “thảo nào phải để Lôi bí thư ra tay, con mẹ nó chứ, chuyện quái gì đây?”

“Chẳng lẽ là thai Côn Luân?” tôi nhớ tới trước đây từng nghe qua hoàn cảnh này, chẳng lẽ đây là một bảo huyệt ( có long mạch chạy qua), cẩm thạch ở đây có khả năng hóa thành người?

Bàn Tử lắc đầu:” thai Côn Luân rốt cuộc cũng chỉ là truyền thuyết, hơn nữa nghe nói phải là núi vô cùng lớn, nhìn bóng dáng quỷ dị thế này, tôi thấy chẳng phải cái gì hay ho, hơn nữa …” anh ta nhìn về phía giá sắt bên kia, ” tôi vừa rồi chắc đã đoán nhầm, cậu xem động tác của những cái bóng kia, có phải rất giống những tượng sắt này không?”

Tôi kinh ngạc không thốt lên lời, tiếp theo Bàn Tử tái mặt nói:” tôi biết chuyện này thực kinh khủng, có điều tôi thấy những công cụ nơi này đều là đồ đúc, bỗng nhiên lại nghĩ tới khả năng đó.”

Tôi nhìn những bóng người kia, “ý anh là, những tượng sắt kia không phải phương tiện chuyên chở mà dùng để niêm phong những bóng đen này khi họ đào ra ư?

“Chỉ sợ là không đơn giản như vậy.” Bàn Tử  cải chính, “những tượng sắt này chắc đã qua xử lý, có thể là trên mặt đá người ta khoan một cái lỗ rồi từ bên ngoài đổ sắt nóng vào trong, khiến cho người bên trong đông lại thành một khối rồi đập đá mang ra.”

Tôi nghĩ trong tầng hầm ở nhà cổ có vô số những tượng sắt này, cả người nhất loạt nổi da gà, nếu như thế thật thì nơi này chẳng biết phải đào ra được bao nhiêu thứ như vậy? Bật cười nói:” đây chỉ là suy đoán của chúng ta mà thôi.”

Bàn Tử sắc mặt vẫn tái nhợt, rõ ràng cũng cảm thấy suy nghĩ của mình thực kinh khủng, lại nói:” kỳ thật có một cách là đập tảng đá này ra, xem hình dáng bên trong kia thực ra là cái gì.” nói rồi chỉ chỉ về một cái chùy đá.

Tôi vuốt bề mặt đá, vô cùng dày, không phải dễ mà có thể đánh nứt nó được. Chợt nhớ tới trước kia có cái truyền thuyết trấn yêu, cổ nhân chẳng phải thường nói là, ông trời trấn yêu thường đem yêu quái yểm vào dưới chân núi sao?

Chết cmnr! Chẳng lẽ những cái bóng đen này chính là yêu quái?

Nếu như vậy, bọn họ mà thả chúng nó ra, chắc chắn chỉ còn đường chết?

Tôi vô cùng tò mò, nhưng cũng rất sợ hãi, đồng thời lắc đầu:” trước kia công nhân dùng cách vô cùng hao tổn công sức để xử lý, rõ ràng là những bóng người này khiến cho người ta thấy sợ hãi và coi như là điềm xấu, thậm chí vô cùng nguy hiểm, nhưng nó vẫn tuyệt đối bất động.”

Bàn Tử nghe tôi nói vậy, quay đầu nhìn Muộn Du Bình, tính trưng cầu dân ý.

Muộn Du Bình vẫn dán mắt nhìn chắm chắm những bóng đen kia, không trả lời anh ta, sau mới nhìn chúng tôi nói:” chúng ta và những bóng đen kia, … Thực ra là giống nhau.”
 
Quyển 6 - Chương 45: Tảng đá nơi đây


“Vì sao lại nói vậy?” tôi buồn bực hỏi, nhưng vừa hỏi xong liền hiểu được ý của Muộn Du Bình là gì.

Theo một cách nào đó thì chúng tôi và những người trong vách đá này có hoàn cảnh giống nhau, chỉ là không gian của bọn họ nhỏ hơn, là bị giam hãm trong vách đá, kiểu như là con quái ngư sống trong đá kia, có điều chắc chắn là nếu vài năm sau mới có người phát hiện ra chúng tôi thì tuyệt đối không phải chuyện vui vẻ gì.

Nghĩ vậy lòng tôi chợt lạnh đi, nói:” có thế nào thì cũng không giống, ít nhất là chúng ta hiện giờ vẫn còn không gian để hoạt động, hơn nữa cũng vẫn còn sống. Còn sống thì còn nghĩ ra nhiều cách.”

Muộn Du Bình thản nhiên nói:” tôi không có ý đó.”

Tôi thốt lên một tiếng bất ngờ. Trước vẫn nghĩ rằng mình và hai người bọn họ tương đối hiểu ý nhau, nhưng giờ tôi theo không kịp suy nghĩ của anh ta nữa rồi. Muộn Du Bình vẫn nhạy bén hơn tôi nhiều.

Tôi hỏi:” anh có ý gì? Nói thẳng ra xem nào!”

Muộn Du Bình nhìn tôi, “các cậu có nghĩ là nếu như nơi đây không có cái hầm này thì chúng ta hiện đang trong tình trạng gì không?”

Tôi ngẫm những gì Muộn Du Bình nói, cảm giác đầu óc hơi trì trệ, vẫn không hiểu được ý của anh ta, nhưng thấy mặt Bàn Tử lập tức trắng bệch ra, mắng một tiếng:” chết tiệt!”

Lập tức ngay sau đó tôi cũng vỡ ra được, da đầu tê rân rân.

Nếu nơi này không có hầm mỏ, vậy chúng tôi sẽ như thế nào?

Đây là vách đá, trong lòng một dãy núi lớn. Nếu như chúng tôi bằng một cách nào đó bị mang tới đây, như vậy hiện giờ sẽ có thể là bị nhét vào trong vách đá, giống y như những bóng đen kia.

Tôi kinh thần sợ hãi. Đây là thứ cảm giác gì? Nếu như tôi tỉnh lại thấy mình bị vây hãm trong vách tường sâu giữa núi, không thể động đậy cho tới tận lúc chết, thật sự quá khủng khiếp.

Muộn Du Bình nói:” ngược lại với chuyện này, chúng ta giờ vẫn còn sống, hoàn toàn không phải là do trùng hợp.”

Tôi yên lặng gật đầu. Chuyện lạ này có lẽ là một hiện tượng thần bí diễn ra trong núi, khả năng đây cũng không phải lần đầu phát sinh. Cho dù trước đây chưa từng có ai ở trong này đào hầm, sự việc như thế vẫn sẽ xảy ra, mà tình cảnh của chúng tôi bây giờ càng khó có thể tưởng tượng.

Bàn Tử nuốt một ngụm nước miếng, nhìn những bóng người kia, nói :” như vậy thì những ngời này chính là tiền bối của chúng ta? Là những người bị hại trước đây ư?”

“Đây chỉ là một khả năng thôi.” Muộn Du Bình nói, “có điều là tôi lại tin là như thế.”

Tôi hiểu ý của anh ta, nếu đây là một hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên, hẳn là những suy luận lúc trước của chúng tôi đã sai lầm, nhưng bất luận chúng ta có rơi vào tình cảnh khó khắn thế nào thì tạm thời vẫn được an toàn.

Bàn Tử lại hỏi:” Thiên Chân, cậu đọc nhiều sách vậy thử đoán xem, sao lại có chuyện này? Nếu đúng như Tiểu Ca nói, thì đây là có thể là tình huống gì?”

Tôi bật cười nói:” gặp phải chuyện này thì đọc sách cũng vô dụng thôi, anh muốn dùng những kiến thức trong sách để giải thích, chỉ có thể là khái niệm vật lý, chúng ta khả năng tiến vào hai không gian giữa một kẽ nứt, từ một nơi nào đó bị nhét vào đây. Có điều là trong thực tế, điều đó không thể xảy ra, cho dù thực sự anh có thể vào được không gian trong kẽ nứt đó, nhưng đầu ra sẽ là một không gian khác, để xuất hiện trong cùng một nơi thì khả năng gần như bằng không.”

Trên thế giới có rất nhiều truyền thuyết như vậy, ở một vài nơi địa chất vô cùng đặc biệt, ví như Bermuda* mới có hiện tượng này. Nhưng tôi không tin vào chuyện đó, quá trình Bàn Tử và Muộn Du Bình mất đi ý thức ở đáy hồ hoàn toàn không giống như là bị “hiện tượng tự nhiên” tác động, giống như là có người dùng âm mưu thực hiện. Do đó, tôi rất đồng ý với quan điểm của Muộn Du Bình: lực lượng đã mang chúng tôi tới nơi này tuyệt đối là có chủ đích.

Bàn Tử lại không cùng quan điểm, anh ta nói:” có khả năng gần như bằng không, thì cũng vẫn có thể.”

Tôi nói:” dùng khoa học để giải thích thì chỉ có mỗi cách đó thôi. Nếu như không phải như vậy, chúng ta đang đối mặt với một tình huống thuộc phạm trù khác.”

Bàn Tử rơi vào trầm tư, lẩm bẩm:” cụ kỵ của chúng ta có lưu lại truyền thuyết nào như thế này không nhỉ?”

Tôi suy nghĩ một lát, trong những ghi chép từng được đọc chưa thấy nhắc đến trong vách đá có bóng người kiểu này, chắc là do mình hiểu biết chưa đủ rộng.

Bàn Tử lại nói tiếp:” trong truyền thuyết ở ngọn núi bên cạnh mộ Lưu Bá Ôn*, có người chỉ trong một ngày đã đi ra khỏi khu vực núi những hơn một trăm km, như là trong vài giây bị đưa tới một nơi khác. Bọn họ gọi cái hiệu tượng đó là “sơn quỷ bối”, cho là mình bị quỷ núi vác đi, do đó không biết đi tới tận đâu. Cũng có người gọi là ” núi chạy”, nghĩa là núi cũng biệt di chuyển, cậu thử nói xem, có thể ở đây cũng có hiện tượng như vậy không, chỉ có điều hướng di chuyển không giống nhau?”

Tôi lắc đầu, cách nói này không có cơ sở. Bọn họ ở ngoài núi, chúng ta ở trong núi, không phải là núi vác hay núi chạy, mà là bị núi nuốt.

Hơn nữa, việc này có vài chỗ rất kỳ quái, đặc biệt khó giải thích là mỏ ngọc này khép kín, bốn phía không có dấu hiệu sụp đổ, cũng không có cửa vào, vào bằng đường nào? Cho dù gặp phải ” sơn bối quỷ” hay là “núi chạy” khả năng là hiện tượng tự nhiên đặc biệt, không có chuyện tự nhiên biến mất cửa ra vào được.

Chuyện xảy ra tại đây không chỉ phức tạp hơn mà còn có vẻ rất kỳ quái nữa.

Nghĩ tới đây, tôi liền nhớ Bàn Mã từng nói, ông ta bảo trong hồ này có quỷ, tôi giờ lại có cảm giác tin như thế. Dường như chỉ có ma quỷ mới có khả năng làm những chuyện khó tin thế này. Cho dù không có quỷ thì tôi thấy hoặc là núi hoặc là hồ, tóm lại là có cái gì đó không bình thường ở đây.

Nước dần dần bốc hơi hết, bóng đen mờ đi, rất nhanh sau đó liền không còn thấy nữa, tôi dùng chân vẽ lại những tượng sắt lúc trước lên mặt đất. Sau đó lại suy nghĩ một hồi lâu, nhưng kết quả vẫn không nghĩ ra cái gì.

Vách đá khôi phục nguyên dạng, cảm giác của chúng tôi lại thay đổi, biết là sâu trong vách tường này năm sáu sải tay có thứ gì đó bị khảm lại, tôi có linh cảm như bị ai đó nhìn chằm chằm vào mình, khiến cho tâm thần bất an. Cảm giác này vừa rồi không hề có, rõ ràng là do ảnh hưởng tâm lý, nhưng không cách nào xóa bỏ được.

Ba người cùng suy nghĩ, không ai nói câu nào, thỉnh thoảng Bàn Tử lại nghĩ ra một ý tưởng nhưng đều bị tôi bác bỏ hết.

Tôi nghĩ tới rất nhiều khả năng, nhưng cũng hoàn toàn không khả thi. Cuối cùng, tôi bắt đầu lôi những chuyện vừa rồi nghĩ ra cân nhắc lại một lượt, bao gồm tất cả những chi tiết, xem xem có thể nghĩ ra thêm được cái gì không.

Như Bàn Tử nói, những tượng sắt này có tác dụng bọc những bóng đen kia, vậy thì động cơ của đội khảo cổ đã có thể giải thích, bọn họ muốn tìn cái gì, chẳng phải là từng mảnh của những thi thể trong vách đa kia, không biết chúng có lợi gì đối với bọn họ.

Lúc những công nhân khai thác ngọc đào được những bóng người này, có thể khẳng định là việc khai thác không bị gián đoạn. Đối với khát vọng ngọc thạch thì họ chỉ cần vừa lễ bái Lôi vương vừa tiếp tục khai thác là được.

Sau đó, tới một ngày kia, có một người đã để lại lời nhắn trước tượng thần Lôi vương.

Xem nội dung lời nhắn và tình hình người trong vách đá kia rõ ràng là lời nhắn của họ không được thi hành, khả năng sau khi họ rời đi, khai thác liền ngừng hẳn. Làm cho bọn họ ngừng khai thác thì có rất nhiều khả năng, có thể là do chiến tranh, do tai họa hoặc cũng có thể do cửa vào của mỏ ngọc này tự nhiên biến mất, thậm chí là những thợ mọ này gặp phải tình hình như chúng tôi- nơi này biết đâu không chỉ có một mỏ ngọc, bọn họ bị nhốt ở những nơi khác nữa. Có thể là bất kỳ một khả năng nào, duy chỉ khẳng định được một điều là chuyện khai thác mỏ ngọc tới đây đã kết thúc.

Sau đó là chuyện chúng tôi.

Vừa nhìn lại chợt thấy vô cùng rõ ràng và hợp lý, nhưng nếu cẩn thận cân nhắc, sẽ thấy trong đó có một mâu thuẫn rất khó phát hiện. Mâu thuẫn đến từ tư duy đối lập, nếu nói là toàn bộ hoạt động khai thác ngọc này không hề xảy ra, vậy nơi này sẽ phát sinh chuyện quái dị gì? Không ai khai thác ngọc, thì sẽ không có hầm mỏ, vậy Bàn Tử và Muộn Du Bình ở dưới nước có gặp phải chuyện như vậy không?

Nếu không có chuyện khai thác ngọc, vậy vị trí hiện tại mà bọn tôi đang ở chẳng phải là vách đá sao, nếu lực lượng đưa chúng tôi tới nơi này là một hiện tượng tự nhiê, như vậy cho dù nơi này là vách đá thì vẫn sẽ có chuyện như vậy xảy ra, vì lực lượng bí ẩn đó là do tự nhiên sinh ra, chúng tôi chính là nạn nhân của hiện tượng kỳ quái ấy.

Nhưng mặt khác, nếu không phải là hiện tượng tự nhiên thì sao? Nếu mỏ ngọc này không tồn tại, chuyện này có thể sẽ không xảy ra không?

Tôi cảm thấy có thể sẽ không xảy ra, vì Muộn Du Bình và tôi đều cho rằng đằng sau chuyện này có một mục đích, khẳng định là không phải giết chết chúng tôi. Để đưa chúng tôi tới đây tất nhiên điều tiện tiên quyết chính là phải có cái hầm này. Chúng tôi bị nhốt tới chết hay là việc bị giết chết, không hề có ý nghĩa gì với “nó”. Căn cứ vào những suy luận trên, phân tích sự tình ra đầu tiên có thể nói là, nó biết nơi này tồn tại một mỏ ngọc. Về phương diện khác, mỏ ngọc xuất hiện ở đây hoàn toàn nằm trong kế hoạch, chứng minh được là mục đích của lực lượng thần bí kia xuất hiện sau khi có cái hầm mỏ này. Trước tiên phải có mỏ ngọc, sau đó mới phát sinh mục đích. Như vậy, sự tình lại rất khó thuyết phục, giải thích không thông suốt.

Giả thiết là lực lượng đó coi như là ma quỷ, đang đi dạo vào một ngày nào đó, đột nhiên phát hiện ra tại đây có cái hầm, sau khi cân nhắc thấy có thể dùng được, liền hứng lên nghĩ ra một âm mưu, tiếp theo bằng một thủ đoạn nào đó mang chúng tôi nhét vào đây, giam hãm trong cái nơi này, để thực hiện âm mưu đó….

Nếu quá trình là như vậy thì mục đích của hắn nhìn thế nào cũng không phải chuyện gì đứng đắn, hơn nữa hành vi như vậy từ lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc có bàn bản hẳn hoi, mục đích và hành động đều rất táo bạo, quả thục giống như tư duy của con người. Tôi cũng không loại từ trường hợp trên đời này có khả năng tồn tại một lực lượng hần bí nào đó, nhưng tôi thấy nó chắc chắn là lực lượng siêu nhiên, không thể vì cái lợi ích và hiệu quả kém cỏi đó.

Nhưng nếu như lực lượng đó không phải là ma quỷ, mà là một người, vậy thì sẽ khác.

Có một người biết nơi đây có một cái hầm, phát hiện nó có thể lợi dụng được, liền sắp xếp một âm mưu, dùng thủ đoạn để đánh hôn mê Bàn Tử và Muộn Du Bình rồi cũng bằng một cách vô cùng xảo diệu nào đó đưa họ tới nơi này, để thực hiện kế hoạch của hắn. Nghe thế rất hợp lý, chúng tôi không cảm thấy người đó không khả thi, còn có thể cảm giác được là hắn dùng trăm phương ngàn kế, thậm chí là đằng sau còn có âm mưu lớn hơn nữa.

Có một nhà hiền triết từng nói: sau khi loại bỏ hết tất cả những khả năng không thể xảy ra, khả năng bất khả thi nhất cũng có thể xảy ra. Vì thế mà tôi vẫn luôn cảm thấy nguyên nhân chuyện này rất kỳ quái. Trong toàn bộ sự việc, tôi cảm giác được mùi “âm mưu” dày đặc.

Nói cách khác, làm không tốt, chúng tôi đã nằm trong kế hoạch của “người” thiết kế âm mưu. Chỉ là âm mưu này quá  khéo léo, tơi mức không thể lý giải nổi. Tôi nhìn về phía Muộn Du Bình, anh ta nhất định đã sớm ý thực được điều này. Cho nên cơ bản là không tham gia vào giả thiết của chúng tôi, nhưng Muộn Du Bình cũng không hề hành động thêm một bước nào, vì chúng quy vẫn còn cảm giác không thể nào chứng thực được.

Chú thích:

Bermuda*: tên chính thức, Quần đảo Bermuda hoặc Đảo Somers) là một lãnh thôi hải ngoại của Anh nằm trong Bắc Đại Tây Dương. Nằm về phía bờ đông Hoa Kỳ, cách khoảng 1770 km về phía đông bắc của Miami và Florida và 1350 km (840 mi) về phía nam của Halifax, Nova Scotia. Cách Bermuda gần nhất (đất liền) là Cape Hatteras, Bắc Carolina  khoảng 1030 km (640 mi) về phía tây-tây bắc. Nó là lãnh thổ hải ngoại còn lại của Anh lâu đời nhất và đông dân cư nhất, được  Anh Quốc định cư một thế kỷ trước khi có Đạo luật liên minh tạo nên Vương quốc Anh.

Tam giác Bermuda, còn gọi là Tam giác Quỷ, là một vùng biển nằm về phía tây Đại Tây Dương và đã trở thành nổi tiếng nhờ vào nhiều vụ việc được coi là bí ẩn mà trong đó tàu thủy, máy bay hay thủy thủ đoàn được cho là biến mất không có dấu tích. Cho đến ngày nay vẫn còn có một số biến cố chưa được giải thích dứt khoát và vì thế đã trở thành cơ sở cho nhiều tác phẩm văn học và phim ảnh.
 
Quyển 6 - Chương 46: Dị biến


Mấy ngày tiếp theo, tất cả mọi chuyện đều không có gì thay đổi. Ban đầu tôi không thể nào thích ứng được, đói tới tối tăm mặt mũi, nhưng sau đó ba ngày cơ thể tự nhiên chuyển sang tiêu hao năng lượng dự trữ, tình hình cũng dần trở lên bình tĩnh hơn.

Không có chuyện gì phát sinh, thời gian như ngưng lại. Như trong tiểu thuyết võ hiệp có rất nhiều nam nữ si tình đều bị nhốt trong cảnh tuyệt vọng, cho tới khi bọn họ ra được bên ngoài khi vô tình nhớ lại quãng thời gian đó, thường thấy là thời gian trong tuyệt cảnh mới là hạnh phúc và an bình nhất.

Nhưng tình hình thực tế lại hoàn toàn không phải vậy, đống lửa để liu riu, xung quanh chỉ thấy tiếng nước chảy không ngừng, dưới ánh lửa vách đá hiện lên một màu vàng ảm đạm. Ở trong sơn động bao nhiêu cảm xúc đều bị khóa chặt, thực khiến con người ta luôn cảm thấy bất an. Tôi phải học theo Muộn Du Bình, hằng ngày ngồi thiền mới có thể chịu đựng được, nếu không dễ đã phát điên.

Bàn Tử là kiểu người thiếu kiên nhẫn, tôi cũng không biết hai người bọn họ trong hai tuần vừa rồi làm thế nào mà nhịn được, nhưng hình như anh ta mỗi ngày đều nghĩ ra những trò đùa mới để giải khuây.

Mặt khác, mỗi ngày chúng tôi ở đây đều dùng tàn hương bôi lên thạch bích một lần, hi vọng tìm ra vài dấu vết khác.

Quả thật là trên mặt đất có rất nhiều hình vẽ, xem ra trước kia người ta nghỉ ngơi thường vẽ xuống một vài thứ. Chúng tôi thấy có bàn cờ đơn sơ, có rất nhiều chữ, nhưng chúng đều không có giá trị, chỉ có một thứ làm tôi cảm thấy là có chút ý nghĩa, đó là trong những vết khắc trên vách đá, đại khái là có một thợ mỏ khi nghỉ ngơi khắc lại, hình như là cái tên người, là Triệu Thúy tỷ, hình như là người trong mộng. Nhìn đó tôi lại nhớ tới A Quý trên kia, phỏng chừng anh ta sẽ nguy mất.

Đến ngày thứ ba, tôi không tự chủ được suy nghĩ của mình đâm ra nghi ngờ, nghĩ không biết còn phải đợi trong bao lâu nữa, lẽ nào lại không có chuyện gì xảy ra sao? Hay là con quỷ kia quên mất chúng tôi ở đây rồi?

Muộn Du Bình vẫn như cũ, dao găm của tôi bị anh ta cầm, dắt ở ngang hông. Người bất động, cả ngày dựa bên đống lửa, không nhìn ra có chút lo âu nào.

Tuy rằng trước kia vẫn thường thấy bộ dạng này, nhưng tôi cảm giác giờ anh ta bình tĩnh quá mức, có khi còn cảm giác như anh ta biết sắp có chuyện gì xảy ra.

Tình hình cứ như vậy tới nửa đêm ngày thứ năm- hẳn là nửa đêm, nếu đồng hồ của tôi còn chạy đúng, bỗng nhiên có biến cố xảy ra.

Tôi dậy đi tiểu, đang phê, đột nhiên phát hiện Muộn Du Bình không còn ở vị trí cũ, kinh ngạc một chút, theo bảo năng nhìn ra chung quanh, bỗng thấy anh ta đứng trước vách đá, đang nhìn cái gì đó.

Bàn Tử vẫn còn ngáy ngủ, tôi thấy tình hình không ổn, nhìn đồng hồ một cái rồi tới đá anh ta ta dậy, hai người cùng đi tới xem.

Tới trước vách đá vừa ngó vào, chúng tôi cùng kinh thần sửng sốt, bóng người kia lại xuất hiện.

Lòng tôi thầm nhủ, Muộn Du Bình nửa đêm nhìn cái này làm gì? Nhìn lại lần nữa, phát hiện vách đá không hề có dấu hiệu bị thấm nước, hơn nữa bóng người quỷ dị kia nhìn có chút khác với lúc trước.

Cầm đèn pin lên soi vào vách đá, trong tích tắc tôi lập tức hít một ngụm khí lạnh, trong vách đá toàn là những bóng đen, giờ có thể thấy rất rõ ràng. Dưới anh sáng mạnh, những bóng người đó cách bề mặt vách đá một khoảng gần hơn trước rất nhiều.

“Cái cmn! Chuyện gì xảy ra đây?” tôi mắng.

Muộn Du Bình nói:” chúng đang di chuyển tới chỗ chúng ta.”
 
Quyển 6 - Chương 47: Quái vật


Đúng là bóng người trong vách đá đang tiến gần tới chỗ chúng tôi, hơn nữa động tác liên tục thay đổi rất kỳ quái, cái đầu quỷ dị đưa ra đằng trước, nhìn như là đang cố gắng lao ra khỏi vách đá vậy.

“Di chuyển sao?” Bàn Tử vẫn còn ngái ngủ, không rõ mô tê gì.

“Lúc trước chúng bị chôn trong vách tường cách ba thước, giờ chỉ còn chưa tới một thước.” Muộn Du Bình nói xong liền ra hiệu, “năm ngày, chúng tiến gần được hai thước, vậy còn lại một ngày rưỡi nữa….”

Anh ta dừng một lát rồi không nói thêm.

Tôi hiểu anh ấy muốn nói gì, chỉ còn một ngày rưỡi nữa, những bóng đen này sẽ đi ra từ trong vách đa kia.

“Chẳng lẽ chúng còn sống sao?” tôi không khỏi rùng mình sợ hãi.

Muộn Du Bình lắc đầu, chỉ nhìn chằm chặp vào những bóng đen đó, động tác đó nhìn như đang đối diện với bọn chúng vậy.

Trong tích tắc cơn buồn ngủ của tôi liền biến mất, tay cầm đèn pin soi một vòng, thấy bốn phía tất cả đều là những bóng người, toàn thân da gà nhất loạt nổi lên. Bọn chúng rốt cuộc là cái quái gì vậy? Nếu chui ra khỏi vách tường kia…chỉ nghĩ thôi da đầu tôi đã tê dại đi rồi.

Đi quanh một vòng, tôi đột nhiên ý thức được điều gì đó, lập tức mắng:” thế quái nào! Chẳng lẽ đây chính là mục đích kia?”

“Mục đích gì chứ?” Bàn Tử vẫn mơ mơ màng màng.

“Tôi không rõ lắm, nhưng có lẽ là một nghi thức hiến tế, chúng ta là tế phẩm, hoặc đây là một kiểu chăn nuôi động vật, mà chúng ta là thức ăn, cũng có thể là một cuộc đi săn, chúng ta là con mồi… Nói chung chúng ta được chuẩn bị cho những bóng đen này.”

Bàn Tử nhíu mày một cái, cuối cùng cũng tỉnh ngộ, ngơ ngơ vài giây mới mở miệng mắng một tiếng:” cái con mợ nó! Không thể nào!”

Tôi nói cái gì không thể chư? Nhìn những bóng đen hình hài quỷ dị này mà xem, chắc chắn không phải là cái dạng mỹ nữ gì, mà bọn chúng lại bị chúng ta thu hút, tuyệt đối không phải là chuyện gì hay ho.

Lòng tôi lúc đó loạn lên thành một mớ, không biết phải làm gì, nhìn về phía Muộn Du Bình, thấy anh ta đang nhập tâm suy nghĩ, không biết tính toán điều gì.

Bàn Tử đột nhiên bới ra trong đống công cụ một cái búa đục đá, vứt cho tôi.

“Để làm gì chứ?” tôi hỏi.

“Ra tay trước chiếm tiện nghi.” Bàn Tử trầm giọng nói, “đánh cho ngay cả mẹ chúng nó cùng không nhận ra luôn.” nói rồi chuẩn bị đi đập đá.

Tôi giữ anh ta lại, ” những thứ này không biết là cái gì, anh đập mấy cái mà nó không chết, ngược lại còn giúp chúng nó từ bên trong ra ngoài, đến lúc đó xem anh xử lý thế nào!”

Bàn Tử mắng:” tôi thật không chịu nổi tên ngốc nhà cậu! Cậu không muốn đục một cái lỗ ra xem trước bên trong kia có gì à?”

Tôi trước sau vẫn cảm thấy không ổn, nhìn sang Muộn Du Bình, anh ta lại lờ chúng tôi đi như cũ.

Bàn Tử nghĩ là anh ta cũng tán thành, lập tức giơ búa đá lên, bổ vài nhát xuống phía có bóng đen kia.

Mấy chục ngày trời chưa được hạt cơm nào vào bụng, thể lực chịu không nổi, bổ một nhát chỉ đục được ra một cái lỗ con con, nhưng đá ở đây cũng vô cùng giòn, vài nhát sau đá nứt ra thành một cái khe hở hẹp.

Bàn Tử suýt xoa vài tiếng, tiếp túc kiên trì bổ xuống, bề mặt ngọc thạch bị khoét một hố tương đối sâu.

Trong vài giây, một mùi đặc biệt nặng từ trong kẽ đá tỏa ra, gần như khiến người ta không thể thở nổi, chúng tôi bất giác lui về sau mấy bước.

Bàn Tử còn muốn đập tiếp, lần này tôi lập tức ngăn anh ta lại vì theo như tôi thấy từ sâu trong khe hở này có cái gì đó đã hiện ra.

Chúng tôi bịt mũi, chờ cho thứ mùi kia tản bớt ra rồi mới tiến lại gần quan sát.

Bàn Tử cầm đèn pin, soi vào trong khe hở.

Thoạt tiên chỉ thấy một màu xanh xanh, giống như là màu đá, chẳng rõ là bộ phận nào của cái bóng người kia. Vốn cũng không quá sợ hãi, nhưng phải ghé sát để nhòm, cái thứ bên trong bỗng chuyển động khiến tôi bị giật mình, tiếp theo, có hai tròng mắt trắng dã từ sau khe hở hiện ra, trừng trừng nhìn về phía tôi.

Trong tích tắc đó, tôi gần như ngừng thở.

Cặp mắt kia không ẩn chứa chút cảm xúc gì, cũng không nhìn về bất kỳ một phương hướng nhất định nào, nhưng nếu là bạn thì bạn biết nó đang nhìn về phía mình, hé mắt qua cái khe trừng trừng quan sát, tình hình quả thực rất là quỷ dị!

Tôi và Bàn Tử không khỏi cùng hít một ngụm khí lạnh, hai người đều giật nảy, đồng thời ngay lập tức xác nhận, thứ này không phải là người!

Không dám nhìn nữa, tôi ép buộc bản thân phải dời đi chỗ khác, Bàn Tử cũng không biết làm gì lúc này cho phải.

Tôi nhìn anh ta, thầm nghĩ không phải anh to mồm muốn đánh cho ngay cả mẹ nó cũng không nhận ra được sao? Bàn Tử lại lắc lắc đầu.

Vừa định nói vài câu, đột nhiên từ trong khe nứt truyền ra một tiếng nghe như tiếng trẻ con hét, rất chói tai, đồng thời là có hai móng vuốt cực nhỏ với ra ngoài, tóm lấy cổ tôi.

Tốc độ nhanh kinh người, tôi phản ứng không kịp, bị nó kéo về phía kẽ hở, đập đánh rầm một cái vào vách đá.

Muộn Du Bình phản ứng nhanh hơn so với Bàn Tử rất nhiều, trong tích tắc đã nhào tới túm được tôi, tay còn lại vung dao găm chọc vào bên trong khe hở, đâm trúng cổ tay của nó, đâm hai ba nhát nó mới chịu thả tay ra.

Tôi vừa ngã xuống đã thấy Bàn Tử với tay kéo đi.

Hai móng kia lập tức lại duỗi ra, chới với trong khoảng không. Bàn Tử vác búa lên đập cho nó mấy cái, cũng không biết có trúng không, hai ngón tay liền rụt lại vào trong.

Chúng tôi còn chưa hoàn hồn, chống tay đầu gối thở hồng hộc nửa ngày. Bàn Tử nói:” chết cnm tiệt! Con bà nó chứ, kia hẳn là quái vật!”

Bên kia Muộn Du Bình đã thấy quay đầu về bên đống lửa, một tay cầm cái rổ, tay còn lại xúc vào một vốc than đang cháy, nói:

“Hỗ trợ!”
 
Quyển 6 - Chương 48: Củi lửa


Tôi vừa nhìn liền hiểu ngay ra ý định của Muộn Du Bình, không cần phải nghĩ nhiều nữa, anh ta lập tức đem rổ củi đang cháy kia hất vào trong khe hở.

Vật bên trong còn cách một khoảng, Bàn Tử theo sau vừa hất xong rổ củi cháy thì lập tức đẩy nó vào bên trong.

Ngay sau đó trong khe đá vang lên từng đợt gào thét, như tiếng trẻ sơ sinh kêu khóc, chói tai kinh người, thê lương khủng khiếp.

Theo lý mà nói, giết chết loài động vật quái dị này sẽ chẳng có quá nhiều áp lực tâm lý, nhưng khi tôi nghe thấy tiếng thét đó, trong lòng đột nhiên có cảm giác nhói lên, thực sự không nỡ, như là nó giờ hoàn toàn bị yếu thế, chỉ có thể mặc cho người ta áp bức.

Muộn Du Bình mặt lạnh như băng sương, không chút do dự vẫn tiếp tục đổ than cháy vào.

Trong không khí tràn ngập thứ mùi quái đản, đối với tôi mùi này hết sức quen thuộc, đó là “mùi người chết” toả ra từ trong khối sắt, không ngờ nó thực sự là hiện thân cho cái chết. Bóng đen trong vách đá không ngừng run rầy, từ từ dừng lại, tiếng thét thê lương cũng trở lên mơ hồ không nghe rõ nữa.

Bản thân tôi đã có chút mềm lòng, tuy là vừa rồi thiếu chút nữa là bị nó tóm được, nhưng như thế này rõ ràng là giết đi một sinh linh, trong lòng vẫn vô cùng bức bối.

Bàn Tử không yếu lòng như tôi, tuy cũng có lẩm bẩm gì đó, nhưng không làm ra mặt, chỉ gượng cười nói mấy tiếng:” kiếp sau đầu thai làm người, đừng đầu thai nhầm chỗ nữa.”

Sau cùng, bóng đen kia không còn cử động, chỉ thấy từ trong khe hở trên vách đá bốc lên một làn khói xanh.

Tôi chản nản ngồi xuống đất, thởi dài đánh thượt, vừa định nghỉ ngơi một chút, Muộn Du Bình lại nói:” chưa xong đâu.”

Tôi ngẩn đầu nhìn lên liền vỡ ra ý anh ấy là gì, trên vách đá bên kia, còn có ba bóng đen chỉ còn cách bên ngoài vô cùng gần.

“Chúng ta phải làm sao đây?” tôi vội hỏi.

Muộn Du Bình không trả lời, nhìn sang Bàn Tử. Anh ta gật đầu một cái, lập tức giơ búa và đục lên, tiến về phía một bóng người khác, tôi không muốn nhìn lại cảnh đó, đành ngồi im không nhúc nhích ở nguyên vị trí. Bàn Tử niệm vài tiếng A di đà Phật, vừa xuống tay đập đá, rất nhanh sau đó cảnh tượng lúc trước lại tái hiện.

Tới người thứ ba, Bàn Tử cũng không chịu nổi, đầu đầy mồ hôi lạnh, đứng trước bóng đen kia thật lâu, lát sau mới quay lại hỏi Muộn Du Bình:” Tiểu Ca à, hay là mình nghỉ một chút đã?”

Muộn Du Bình lắc đầu, nhìn xung quanh rồi lạnh lùng nói:” nghỉ sẽ không còn thời gian nữa.”

Quay đầu nhìn lại, ngay lập tức tôi phát run lên, không biết từ khi nào mà những bóng đen đã hiện ra trên bề mặt vách đá, liếc qua cũng có thể thấy rất rõ ràng là nhiều hơi cả dự tính mười con ban đầu, hơn nữa nhìn bằng mắt thường cũng thấy được.

Chúng đang từ từ di chuyển ra bên ngoài vách đá.

Đây là chuyện quái gì? Chẳng lẽ chúng nhận ra ý đồ của bọn tôi nên tăng tốc?

Tôi đứng lên, Muộn Du Bình rút dao găm của tôi ra nắm trong tay trái, Bàn Tử vác một cái búa đập đá lên, tôi tay không tấc sắt, nhìn quanh một lúc, nhặt dưới đất một cây gậy sắt, ba người đứng tựa lưng chú tâm quan sát bốn phía.

Bàn Tử đã nổi hứng, người như anh ta thật sự rất hợp với loạn đả, không quan trọng kia là người hay là yêu quái. Chợt nghe Bàn Tử mắng vài tiếng, nói:”chó má thật! Cũng được, con mẹ nó chứ tôi thật không thể ở lại nơi khỉ gió này nữa, nếu phải chết đói thì thà tôi chết trong vinh quang còn hơn, chúng ta đại khai sát giới một trận!” nói xong hình như là nhớ ra cái gì đó, một cước đá bay tượng thần, “con mẹ nó chứ, không nể mặt nhau gì cả, lão tử bái lạy ngươi chẳng khác gì bái lạy một “con gà con” ”

Lòng tôi nhảy dựng lên, bất giác run run nhưng bất ngờ là không phải do sợ, nhìn Bàn Tử nói:” chết như vậy có gì là vinh quang chứ? Con mẹ nó ai biết được anh chết thế nào đâu?”

Vừa mới nói xong, đột nhiên sau gáy lạnh toát, như có cái gì vừa rơi xuống cổ tôi, tôi giật mình vội nhảy lùi lại rồi cho tay lên sờ thử. Vừa nhìn thì ra là một vài mảnh đá vụn.

Chợt nghĩ, thế quái nào, vừa rồi quên mất trên đầu mình cũng là vách đá, ngầng đầu lên lập tức thấy trên trần chỉ cách chưa tới hai gang tay có một vết nứt, từ trong đó có một thứ toàn thân xanh biếc ló ra.

Chúng tôi lập tức né tránh, cùng lúc đá trên trần cũng nứt ra, một đống màu xanh thòng từ trên xuống, sau đó là tiếng thét thảm thiết vang lên.

Dưới ánh sáng leo lét của đèn pin, tôi cơ bản không thể thấy rõ được toàn bộ diện mạo của thứ đó, chỉ biết có một cái bóng vừa rời xuống, trong nửa giây bị ánh sáng chiếu tới liền lập tức né tránh, va vào ngay trên đống lửa.

Lửa bị gạt văng ra tứ phía, tia lửa và tàn lửa cũng vung vãi khắp nơi, ánh sáng lớn nhất đã bị đá tung, bốn phía lập tức rơi vào bóng tối đen kịt, chỉ có thể nhìn thấy rất nhiều chấm lửa li ti trên nền đất.

Biến cố này tôi không kịp chuẩn bị, dùng đèn pin đuổi theo thứ kia, nhưng chỉ thấy được tàn ảnh của nó.

Bàn Tử phản ứng nhanh nhất, nhặt ngay một thanh củi vẫn còn đang cháy, nhưng vừa mới cầm lên thì nó lụi ngay lập tức, chỉ còn lại một đầu tàn lửa hồng hồng.

“Chó má!-” Bàn Tử mắng to, “cái-” một chữ vẫn chưa nói xong liền hóa thành tiếng kêu đau đớn, người như bị thứ gì quật ngã xuống đất, tiếp theo là liên tiếp những tiếng đấu đá thùm thụp.

Vội soi đèn về phía phát ra âm thanh, thấy Bàn Tử và một con gì đó đang vật lộn, lại soi qua chỗ khác theo Muộn Du Bình, đèn vừa chuyển lại không thấy anh ta đâu nữa, chỉ thấy trước ánh đèn là một khuôn mặt dữ tợn vô cùng.

Tôi lia đèn pin theo quán tính, do đó khuôn mặt kia chỉ hiện lên trong nháy mắt, vậy không đáng sợ bằng phải tận mắt chừng kiến nó. Tôi nhất thời bị dọa cho sợ chết khiếp, phản xạ tự nhiên là lùi về phía sau, thốt lên:

“Lại một con nữa chui ra!”

Sợ thì sợ, gậy sắt trên tay tôi lập tức vung về phía trước vài đường, trúng phải cái gì đó phát ra tiếng trầm trầm, nhưng không dùng sức. Gậy bằng sắt, vô cùng nặng, tôi thấy bằng tay không thì chẳng thể vung được nổi hai cái, đành phải thu chiêu, lại dùng đèn pin soi.

Còn chưa soi thấy cái gì sau lưng đã bị va mạnh, cả người bị hất ngã úp mặt xuống đất. Đèn pin rơi khỏi tay, không biết bay đi đâu nữa.

Tôi ngóc đầu dậy liền biết không xong rồi, chẳng thấy cái mù nào cả, thật sự rất phiều toái. Lúc này chợt nghe thấy Muộn Du Bình hô to một tiếng:” nằm giáp xuống đất, không được cử động!” tiếp theo lại nghe thấy một tràng gào thét thê lương, có cái gì đó ngã vật ra bên cạnh người tôi.

Tôi ôm đầu lùi sang một bên, cách thân vài gang tay có tiếng kêu khàn khàn, sau đó từ trong bóng tối nghe thấy “răng rắc, răng rắc” tiếng xương khớp bị bẻ gãy, tiếng kêu thảm ngừng bặt.

Bên kia, Bàn Tử vẫn còn chưa dừng vật lộn, nghe thấy có tiếng búa giáng xuống, “Chết cmm đi! Dám đánh trộm Bàn gia ông mày à! Này thì ôm trộm ông mày này!” Tiếng búa giáng kèm theo một giọng thét xé lòng, sau đó búa vẫn giã đều đều nhưng không còn nghe thấy động tĩnh gì nữa. Bàn Tử nhổ một cái xuống đất.

Không biết rõ tình hình bên đó thế nào, quanh tôi thoáng chốc liền lặng đi.

Tôi hỏi:” giải quyết hết rồi à?”

Muộn Du Bình bên cạnh lạnh lùng nói:” đừng nói gì cả, chỉ nghe thôi!”

Tôi lập tức nín thở, lắng tai nghe trong bóng tôi truyền tới tiếng bò sàn sạt, không thể đoán được là thứ gì.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top