Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện !

Xin vui lòng Đăng ký hoặc Đăng nhập mới có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn. Việc Đăng ký hoàn toàn miễn phí!

Đăng ký ngay!
Dịch Full Đạo Mộ Bút Ký
Quyển 6 - Chương 9-2: Lão Bàn Mã


Editot: Nguyễn Nam

Beta: Thanh Du

*****

Ông lão gầy gò, so với con linh miêu vác trên vai nom càng thêm quắt queo, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy những bắp thịt đã khô quắt trên thân thể ông lão vẫn rắn rỏi như sắt thép, có thể mường tượng ra những bắp thịt này vào thời trai trẻ đã từng tráng kiện đến thế nào. Dưới ánh trăng, ánh mắt lão ngời sáng có thần, gây cho người một cảm giác khó nói thành lời.

Ông lão tra thanh đao vào vỏ trên thắt lưng, lại ngắm nghía tôi một chặp, chuyển con linh miêu sang vai bên kia, sau đó dùng giọng địa phương bảo tôi đi cùng.

Cây cỏ bốn bề vẫn còn lay động nhưng ông lão chẳng thèm để mắt, cứ vác con linh miêu bước phăm phăm về phía trước, chẳng bao lâu tiếng động xung quanh cũng dần dần lùi xa, chỉ nghe trong cánh rừng sâu thẳm truyền đến tiếng gừ gừ của một đàn thú khác. Đàn linh miêu chỉ tập hợp trong thời gian ngắn để săn mồi, đây có thể là con khỏe nhất trong đám, phụ trách ra đòn chí mạng cuối cùng; con này vừa chết, cả đàn cũng tan luôn. Bản tính linh miêu cực kỳ thận trọng, tuyệt đối sẽ không mạo hiểm đến lần thứ hai.

Ông lão vừa quát tháo, vừa hướng về ngôi mộ cổ. Có ánh đèn pin phát ra từ phía bên kia nhưng thủy chung vẫn dừng lại từ trên núi. Rõ ràng tay A Quý này cũng chẳng phải người tốt, không chịu xuống dưới cứu tôi.

Chỉ có một cái đèn pin ném về hướng này, chúng tôi bắt lấy, rồi thấy Muộn Du Bình đi về phía chúng tôi với dáng vẻ hoảng hốt hiếm có. Thấy tôi không sao hắn mới thở phào nhẹ nhõm, rồi lại nhìn sang ông lão kia.

Cánh tay Muộn Du Bình đẫm máu, ông lão trở tay nắm lấy đao săn. Hai người liếc nhau một cái, Muộn Du Bình thấy hình xăm kia thì ngây người, nhưng ông lão hình như không hề để ý đến hắn, bước thẳng qua bên cạnh hắn.

Tôi thầm nghĩ ôi cái đệt, ông lão này quá siêu phàm, lại mang đầy phong thái của Muộn Du Bình, lẽ nào chính là cha hắn?

Muộn Du Bình muốn bước lên hỏi, nhưng tôi ngăn hắn lại. Ông lão này không phải hạng hồ đồ, vả lại ngôn ngữ bất đồng, có hỏi cũng vô ích, ta cứ về đã rồi tính sau.

Đi ngang qua chỗ tôi ngã xuống, thấy trên mặt đất cũng có xác một con linh miêu cổ bị vặn gãy, hiển nhiên là kiệt tác của Muộn Du Bình. Ông lão ra hiệu cho chúng tôi khiêng nó lên, Muộn Du Bình liền vác xác nó trên vai rồi leo lên triền núi. Người bên trên lập tức chạy tới, nhìn thấy ông lão đều tỏ ra hết sức kinh ngạc.

Ông lão và bọn họ bắn ra một tràng tiếng địa phương, tôi nghe ù ù cạc cạc, liền lén hỏi Vân Thái xem ông lão này là ai.

Vân Thái đáp: “Còn ai vào đây nữa, ông ấy chính là lão Bàn Mã mà các anh muốn tìm.”

“Ông ấy chính là Bàn Mã?” Tôi thoáng giật mình, nhưng đúng là trước kia tôi cũng từng nghĩ đến chuyện này rồi. Ai cũng bảo lão Bàn Mã là thợ săn cừ khôi nhất, ngoài lão ra còn ai đủ sức tay không giết chết một con linh miêu lớn cỡ này ở tuổi xế bóng cơ chứ. Phải biết rằng một con linh miêu có thể săn được cả sói Tạng đi riêng lẻ, họ mèo là họ động vật ăn thịt có vú đã tiến hóa đến đỉnh cao, nếu không phải là người cực kỳ am hiểu tập tính của nó thì không thể nào hạ thủ được.

Vừa rồi Lão Bàn Mã nhất định đã bị linh miêu tấn công, sau đó dây dưa với đàn linh miêu đến tận nơi này thì nghỉ ngơi chờ đợi thời cơ. Mẹ kiếp, cái đòn tất sát cuối cùng kia tôi thấy ngay cả Muộn Du Bình cũng không thể ra tay dứt khoát đến vậy, chỉ chậm một giây thôi là tôi hoặc lão nhất định sẽ phải chết .

A Quý quan sát vết thương của tôi, xong giới thiệu đôi bên cho nhau. Lão Bàn Mã hình như không có hứng với chúng tôi, chỉ chào hỏi lấy lệ rồi bắt đầu lau rửa những vết bẩn trên người.

Lau đi vết máu trên người, tôi mới nhận ra hình xăm của lão và Muộn Du Bình na ná như nhau. Sau xương sống lão có một vết thương sâu đến ghê người, có thể là do bị linh miêu tập kích bất ngờ mà ra.

Có vài người quây thành tốp, xì xào kể về về hành trình vào núi. Tôi nửa đoán nửa suy luận, lại nhờ Vân Thái phiên dịch nên cũng hiểu được lờ mờ. Nửa đầu câu chuyện cũng gần giống như tôi phán đoán, đúng là lão vì chuyện của con trai mới vào núi, không ngờ lại chạm trán cái giống kia ở đây. Cũng may những khi vào núi lão có thói quen buộc một cành cây trên lưng, trước hết có thể làm gậy chống, ở nơi đất bằng lại có thể đề phòng điểm yếu phía sau bị đánh úp. Đây là quy tắc lưu truyền từ thời xa xưa khi dã thú hoành hành, cả đời chẳng có ích gì, ai ngờ lần này lại cứu được một mạng. Tuy quần áo bị xé nát, nhưng gáy không bị cắn đứt, đúng là nguy hiểm khôn cùng.

Bao nhiêu năm trời không gặp linh miêu, giờ bỗng dưng xuất hiện ở vùng này, có thể là do mấy hôm trước trời mưa to, trong núi sâu xảy ra chuyện bất thường buộc chúng phải chạy ra. Chỗ này có người ở nên chuột cũng lắm, chúng mới bị con mồi thu hút đến đây.

Thấy lão tỏ ra rất phấn chấn, như thể tìm lại được cảm giác của một thời oanh liệt đã qua, tôi cảm thấy giờ không thích hợp để hỏi những chuyện khác. A Quý liền gọi đoàn quay về, nói giờ này người trong thôn chắc là đang rất sốt ruột. Vết thương của tôi và lão Bàn Mã đều sâu, phải về còn xử lý.

Vài người đem đốt hai cái xác linh miêu, trời cũng dần sáng, không còn sớm nữa, đã qua cả một đêm rồi, nên họ dập tắt đống lửa rồi lập tức lên đường.

Bộ da linh miêu rất có giá, cứ thế đốt đi thật là uổng phí. Nhưng A Quý nói không thể để ai khác biết ở đây xuất hiện linh miêu, bằng không thì chưa đến một tuần đám săn trộm đã ùn ùn kéo đến. Những tên này tham lam vô độ, dù không bắt được linh miêu thì cũng chuyển sang những loài thú khác, nơi này nhất định sẽ sạch bách chẳng còn gì.

Dọc đường đi không ai nói thêm lời nào, về đến thôn thì trời đã sáng. Những cán bộ trong thôn cũng thức trắng cả đêm, đang dẫn theo vài người chuẩn bị vào núi đi tìm, đến sơn khẩu thì gặp chúng tôi.

Chúng tôi ăn sáng trong trụ sở thôn, có bánh rán (1) và cháo trứng, tôi đói quá làm luôn hai bát to. Trong thôn vui như tết, liên tiếp có người đến hỏi han.

Bả vai tôi gần như bị cắn thủng, phải sát trùng rồi tiêm một mũi phòng uốn ván, còn đắp thêm cả thảo dược. Lưng lão Bàn Mã khâu mười mấy mũi, tay y tá thôn kia thật chẳng biết nương tay là gì, khâu vết thương mà cứ như khâu chăn đệm, khâu dăm ba nhát đã xong. Trong khi lão Bàn Mã vẫn yên lặng không nói lời nào thì mấy người trông như cán bộ thôn kia lại cứ thao thao bất tuyệt.

Tạm thời bỏ qua những chuyện lặt vặt, xử lý xong vết thương chúng tôi định về nghỉ ngơi, chờ sức khỏe phục hồi sẽ đến thăm lão Bàn Mã sau. Ai ngờ trước khi đi, lão lại bảo chúng tôi cùng về nhà mình.

Tôi và Muộn Du Bình liếc nhau, nghĩ bụng ông lão này tính tình cũng thật cổ quái, rồi vội vã đi theo. Đi chưa nổi hai bước, lão đã chỉ chỉ Muộn Du Bình nói cái gì đó.

Chúng tôi không hiểu, nhìn sang A Quý đi cùng. Nét mặt A Quý nom cũng rất kỳ quái, nói với lão Bàn Mã vài câu, lão lại dùng giọng điệu cương quyết đáp lại, nói rồi đi thẳng.

Tôi ngơ ngác nhìn A Quý, hỏi ổng nói cái gì vậy? Anh ta có vẻ lúng túng đáp: “Muốn biết hãy đến một mình, người kia không thể đi theo.”

Tôi nhíu mày nhìn Muộn Du Bình, thầm nghĩ lão nói vậy có ý gì chứ? A Quý lại tiếp “Ông ấy còn nói…”

“Nói gì nữa?”

“Nói nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.”


—————————————–

(1) Nguyên văn là 烙饼
 
Quyển 6 - Chương 10-2: Ngồi xuống bàn bạc


Editor: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Nghe những lời này, tôi có hơi sửng sốt. Lão Bàn Mã không dưng nói ra một câu không đầu không cuối, thật khiến người ta không kịp phản ứng, nhưng đầu óc cũng đồng thời căng thẳng, cảm thấy câu nói vừa rồi nghe có hơi rợn người.

Còn chưa kịp suy nghĩ tường tận, Muộn Du Bình đã đuổi đến trước mặt lão Bàn Mã, giữ chặt lão lại hỏi: “Nói vậy, tức là ông biết tôi?”

Lão Bàn Mã ngẩng đầu nhìn hắn bằng gương mặt vô cảm, cũng không đáp lời. Muộn Du Bình lập tức lột áo, lộ ra nửa thân trên, “Ông nhìn đi, ông có biết tôi là ai không?”

Hình xăm màu đen rõ mồn một, tựa như hai con kỳ lân ở hai phía đang lao vào nhau, mà ánh mắt hai người nhìn nhau cũng hết sức kỳ lạ.

Giằng co một hồi, lão Bàn Mã vẫn lặng thinh không nói, chỉ âm thầm đi qua bên cạnh Muộn Du Bình, hoàn toàn phớt lờ hắn, nét mặt cũng không hề biến đổi.

Tôi không tài nào diễn tả được cảm giác khi đó, thật kỳ lạ, nếu bắt buộc phải diễn đạt thành lời, tôi chỉ có thể nói rằng dường như tôi đã thấy đến hai Muộn Du Bình của hai thời điểm khác nhau, nhập lại rồi tách rời ra trong tích tắc.

“Muộn Du Bình cuối cùng cũng gặp phải đối thủ.” Lúc ấy trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ kỳ cục, nếu không phải rơi vào thời điểm không thích hợp thì tôi còn có cảm giác hả hê. Xưa nay tôi vẫn tưởng trên đời không ai khó trị hơn hắn, thì ra không phải vậy, quả nhiên nhiều lúc phải lấy độc trị độc, lấy muộn trị muộn.(=)))

Muộn Du Bình không đuổi theo nữa, hắn lẳng lặng nhìn lão Bàn Mã nghênh ngang bỏ đi, ngẩn ngơ mất vài giây, mọi thứ lại tan thành mây khói.

A Quý không biết phải làm sao, hết nhìn tôi rồi nhìn theo lão bàn Mã đã đi xa, lại nhìn đến Muộn Du Bình, sắc mặt có vẻ ngán ngẩm, hiển nhiên anh ta không hiểu nổi mấy câu nói úp mở làm màu vừa rồi. Tôi sợ A Quý chán nản, vội vỗ vai anh ta vài cái rồi đến bên Muộn Du Bình khuyên hắn về đi, đừng sốt ruột. Lão Bàn Mã bảo tôi đi thì tôi cứ đi đã, hỏi lão xong sẽ lập tức quay về kể lại cho anh biết.

Muộn Du Bình chẳng ừ hữ gì, chỉ gật đầu, ánh mắt vẫn dõi theo lão Bàn Mã đằng xa, không biết đang nghĩ gì.

Không hiểu vì sao, đúng lúc này, tôi cảm thấy ánh mắt hắn đột ngột biến đổi, giống như đã thiếu đi điều gì, đồng thời cũng cho tôi cảm giác hình như mình từng gặp ánh mắt này ở đâu đó.

Vừa rồi khi bốn mắt họ giao nhau chắc chắn đã gửi đi tín hiệu gì đó, thái độ của lão Bàn Mã là một sự gợi ý rất rõ ràng. Lão nhất định đã biết một vài chuyện, hơn nữa lão chắc chắn phải biết Muộn Du Bình là ai, thậm chí còn có khúc mắc sâu xa gì đó với hắn. Mà nhìn thái độ của lão, thì đảm bảo cái khúc mắc này cũng chả vui vẻ gì.

Tôi gấp gáp đuổi theo.

Một lần nữa theo A Quý vào ngồi trong phòng ăn nhà Bàn Mã, tâm trí tôi cứ không ngừng nghĩ ngợi xem những lời lão Bàn Mã nói có ý gì? Và phải trao đổi với lão bằng cách nào mới hiệu quả.

Nếu hai người còn đi chung với nhau, sớm muộn gì cũng có ngày một người bị người kia hại chết.

Lão Bàn Mã đột ngột nói ra một câu kỳ lạ như thế, nếu lão thực sự không biết gì, thì một thợ săn miền núi như lão cũng chẳng lý gì lại vô duyên vô cớ bày trò dắt mũi tôi. Nhưng thái độ của lão lại rất quái gở, hơn nữa rõ ràng lão không ưa Muộn Du Bình.

Tôi thật sự không luận ra những mối liên hệ trong đó. Đây có thể chỉ là một câu nói hết sức bình thường, cũng có thể ẩn chứa điều gì đó. Tôi vẫn luôn tự nhắc nhở bản thân đừng nghĩ ngợi quá nhiều, có lẽ ý của lão Bàn Mã chỉ là bản lĩnh của Muộn Du Bình rất cao cường, nhưng của tôi lại quá cùi bắp, nên sẽ có ngày tôi vạ lây đến hắn. Nhưng trực giác mách bảo cho tôi biết, nếu xem xét những lời này một cách có đầu có đuôi, thì người bị cảnh cáo dường như lại chính là tôi.

Nhưng Muộn Du Bình làm sao hại chết được tôi chứ? Nếu không có hắn, tôi đã thành bánh tông thứ thiệt vài lần rồi; cho dù hắn muốn hại chết tôi thì tôi cũng chỉ biết bó tay chịu chết, nói kiểu gì cũng không thấy hợp lý. Mà với tính tình lập dị của hắn, người khác cũng rất khó kết thân.

Con trai lão Bàn Mã xách nước đến cho chúng tôi tắm rửa, do vết thương sau lưng nên lão để con làm thay, còn mình thì lấy loại thuốc lá riêng của người Dao cho vào điếu cày (1) hút.

Tôi ngửi mùi này thấy giống mùi thảo dược của Muộn Du Bình, xem ra trong loại thảo dược đó cũng có thành phần thuốc lá. Vốn định mượn chi tiết này nói vài câu xoa dịu bầu không khí, lại không tìm được chủ đề nào.

Sắc trời mỗi lúc một âm u, hình như lại muốn mưa, Quảng Tây đúng là đất mưa nhiều. Cô con dâu lão Bàn Mã đóng cửa sổ lại rồi ngồi xuống chiếu, gió lùa qua khe hở thổi vào làm bầu không khí nhanh chóng dịu đi. Lúc này lão mới làm một động tác giống hành lễ kiểu địa phương với tôi, tôi cũng dựa theo đó mà đáp lại.

Lúc này tôi mới có điều kiện quan sát kỹ càng vẻ ngoài lão Bàn Mã. Ngũ quan rõ ràng, gương mặt đầy những vết nhăn ngăm đen như bao người miền núi khác, tướng mạo hết sức bình thường. Nhìn ông lão bây giờ rất khó tưởng tượng được dáng vẻ của ông tiên này lúc trước, đúng là không thể trông mặt bắt hình dong. Mặt mũi như này thì chắc chắn không thể có họ hàng gì với Muộn Du Bình được, nghĩ đến đó tôi mới hơi yên tâm.*Gián tiếp khen Bình đợp trai kìa =))*

A Quý ngồi bên cạnh kể qua một lượt về mục đích đến của tôi, nhắc lại tôi là cán bộ chính phủ. Lão Bàn Mã liền nhìn tôi nói một câu, A Quý phiên dịch: “Lão nói, cậu thật ra là ai lão cũng đoán được lờ mờ, từ lâu lão đã đoán trước đến một ngày sẽ có người hỏi chuyện này. Cậu muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi, hỏi xong thì mau cút, đừng đến quấy rầy lão nữa.”

Tôi lại ngây ra mất một lúc, cảm thấy lời lão đều mang ẩn ý gì đó, cứ như lão hiểu lầm tôi là một người nào khác.

Nhưng tôi lại không thể cảm nhận một cách rõ ràng nguyên nhân của sự hiểu lầm này. Nghĩ đến đây tôi liền phản ứng, biết lúc này căn bản không nên nghĩ nhiều, cứ coi như mình không phát hiện ra là tốt nhất, chờ có thêm manh mối rồi nói cho rõ ràng cũng chưa muộn.

Tôi nghiêm mặt, chỉnh đốn lại tâm tư rồi bảo lão: “Cháu chỉ muốn hỏi thăm ông vài chuyện về đội khảo sát ngày trước, mong ông có thể kể sơ sơ một lượt cho cháu nghe tình hình năm đó. Nhưng trước đó, cháu cũng muốn biết câu nói vừa rồi của ông là có ý gì?”

Lão Bàn Mã rít một hơi thuốc dài, tôi còn chưa nói xong lão đã lắc đầu cười, nói mấy câu, A Quý ngây ra một lúc mới dịch lại: “Ông ấy nói cậu nghĩ sai rồi, đó không phải đội khảo sát.”

Tôi liếc qua A Quý, anh ta phiên dịch xong cũng hết sức kinh ngạc, “Vậy họ là ai?”

Lão đáp: “Bọn họ là lính.” Lão nói bằng tiếng địa phương nhưng tôi cũng miễn cưỡng nghe ra.

Ban đầu tôi còn tưởng mình nghe lầm, A Quý phiên dịch lại, tôi mới khẳng định là không lầm.

Cân nhắc một lát, tôi cảm thấy lão Bàn Mã hẳn đã nhầm. Lúc đó bọn họ đều mặc đồ lục quân nên lão mới tưởng họ là binh lính.

“Tình hình khi ấy rất căng thẳng. Có rất nhiều binh lính đến đây, đều đeo súng tự động sau lưng, nói mình muốn đến núi Dương Giác rồi nhờ tìm người dẫn đường. Vậy là cha A Quý đến tìm ta, ta mới đưa bọn họ vào núi.” Lão nói với tôi.

(Đoạn đối thoại kế tiếp đều nhờ A Quý làm phiên dịch, để cho thuận tiện, sẽ không nhắc lại nữa.)

Tôi nhíu mày, chợt nhớ ra hồi đó đang có tranh chấp biên giới với Việt Nam. Những năm 70 nơi này chỉ có giặc cỏ, tôi không nghĩ ra thời ấy nó chính là chiến khu, vậy thì tình hình khi đó lại càng thêm phức tạp.

Tình huống này tôi thật sự không ngờ tới, thoáng chốc đã rơi vào trầm tư, vô vàn suy nghĩ hiện lên trong đầu.

Trong hoàn cảnh lúc ấy, chắc chắn không có đội khảo sát nào tới đây làm nhiệm vụ, chuyện này thật kỳ lạ… Nhóm Văn Cẩm đúng là thần thông quảng đại. Chẳng lẽ hạng mục cần khảo sát cũng là hạng mục do quốc gia cắt cử, có cả súng ống chứng tỏ có sự bảo vệ của quân đội rồi.

Phải là hạng mục nào mới đủ khiến quốc gia cử một đội khảo sát đến chiến khu? Lẽ nào trong núi Dương Giác thực sự tồn tại một cổ mộ có giá trị rất lớn?

“Những kẻ đó đều là quái vật…” câu nói của chú Ba chợt vang lên trong đầu khiến tôi rùng mình.

Lão Bàn Mã nói tiếp: “Cậu không biết vị bằng hữu kia của cậu là hạng người nào đâu, đi cùng hắn cậu chắc chắn sẽ không có kết cục tốt.”

“Ông biết hắn?” Tôi hỏi, “Vì sao lại nói vậy?”

Lão Bàn Mã nhìn tôi: “Tuy không biết mặt, nhưng ta nhận ra được mùi vị chết chóc trên người họ.”

———————————————

(1) Thực ra nguyên văn 水烟袋 chỉ có nghĩa là cái ống hút thuốc có nước, search hình thì ra ít nhất hai loại, mình không biết trong truyện nhắc đến loại nào nên cứ để là điếu cày cho dân dã,
 
Quyển 6 - Chương 11-2: Mùi vị


Editor: Béo Bụng Bự

Beta: Thanh Du

*****

Tôi không hiểu lão Bàn Mã đang nói gì, “mùi vị chết chóc” là sao? Mùi xác thối?

Lão Bàn Mã không nói thẳng ra, chỉ bảo mùi vị chết chóc chính là mùi người chết.

Xem ra trong lòng lão Bàn Mã chắc chắn còn giấu nhiều chuyện, tuy không thể hiện ra ngoài, nhưng không câu nói nào không ngầm ám chỉ với tôi rằng lão biết rất nhiều chuyện. Nhưng dường như lão lại muốn che che đậy đậy, thái độ rất mâu thuẫn; từ thái độ bình thản khi đối mặt với Muộn Du Bình, có thể thấy lão già này nhất định là một người từng trải.

Đầu óc tôi cứ quay mòng mòng, đặt mình vào địa vị người khác mà nghĩ xem, một người sẽ tỏ thái độ này vào lúc nào?

Một là khi đang muốn bán đồ với giá cao, trước kia tôi đã tiếp xúc với một vài tay lái buôn, cũng có cái kiểu nói năng nhát gừng như thế. Khổ nỗi lão quỷ này lại không giống cho lắm.

Hai là trong lòng ẩn giấu một bí mật, tuyệt đối không thể tiết lộ, nhưng anh ta lại chứng kiến một chuyện nào đó xảy ra có liên quan đến bí mật của mình; nếu không chịu tiết lộ, có thể sẽ gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Trong tình cảnh mâu thuẫn này, anh ta chỉ có thể nói một câu lập lờ nước đôi. Ví dụ như có một đặc vụ đã bị nghi ngờ, lúc này anh ta thấy một thằng nhóc đang nghịch một khối tròn bằng sắt; anh ta biết khối tròn đó chính là mìn, nhưng nếu nói ra điều này với thằng nhóc thì thân phận đặc vụ của anh ta có thể bại lộ. Nên anh ta mới bảo thằng nhóc kia: “Cháu nghịch món đồ này, sớm muộn gì cũng bị nó hại chết.”

Tôi cảm thấy khả năng này rất lớn. Khi mới tới nơi này tôi chỉ muốn biết chút ít về tình hình và thời gian nhóm Văn Cẩm vào núi; nhưng sau khi lão trông thấy Muộn Du Bình, lại tỏ thái độ khiến tôi buộc phải để ý. Nói cách khác, theo lý mà suy thì lão cho rằng Muộn Du Bình chính là quả mìn có thể nổ chết tôi. Trong lòng lão chứa một bí mật cho lão biết Muộn Du Bình chính là quả mìn đó, nhưng bí mật này lão lại không muốn nói ra.

Sau đó tôi ngồi nói chuyện với lão Bàn Mã suýt soát ba tiếng đồng hồ, cố gắng dò xét bí mật này.

Tôi biết nếu từ đầu đã để lộ ý định dò xét của mình thì sẽ khiến lão cảnh giác ngay, nên tôi quyết định trước hết phải tỏ ra bình tĩnh, bắt đầu dò hỏi từ hành trình Văn Cẩm vào núi.

Nội dung cuộc trò chuyện hết sức rời rạc, lão Bàn Mã nói phải có A Quý phiên dịch, có khi còn phải giải thích khái niệm với nhau, rất tốn thời gian. Hơn nữa lão cũng thường trả lời không đúng trọng tâm, mà có lẽ A Quý phiên dịch cũng sai lêch đi chút ít. Cho nên trò chuyện xong, đầu óc tôi hoàn toàn bị chia ra làm những mảnh rời rạc.

Đội khảo cổ của Văn Cẩm vào núi đại khái là năm 1976, lão không thể nói ra thời gian chính xác.

Đội trưởng lúc ấy hẳn là Văn Cẩm, nhưng khi tôi lấy bức ảnh chụp chung ở Tây Sa ra cho lão xem thì lão lại không phân biệt nổi những người khác. Thời gian đã quá lâu, mà người cũng nhiều, trong hoàn cảnh lúc ấy, tóc tai quần áo mọi người đều như nhau, lão chỉ nhớ duy nhất người đội trưởng cũng rất hợp lý.

Ban đầu mọi chuyện diễn ra bình thường, khi ấy vùng này thường xuyên xảy ra tranh chấp biên giới, trong thôn xuất hiện quân đội cũng rất bình thường. Phải biết rằng những năm 1978 vùng Thượng Tư hầu hết đều có quân giải phóng, đường trong núi này phần lớn đều được đào vào thời điểm diễn ra chiến dịch phản kích quân Việt, bộ đội phải vào trong núi tìm người dẫn đường cũng là nhiệm vụ quân sự.

Lão Bàn Mã nhận tiền phụ cấp của bộ đội, bấy giờ lão vẫn còn là tráng niên, trong khi săn thúthường một mình lặn lội vào những nơi xa nhất, sâu nhất, dĩ nhiên tìm lão làm người dẫn đường là thích hợp nhất.

Bọn họ lên đường vào sáng sớm ngày hôm đó, nhiệm vụ của bộ đội lão không tiện hỏi nhiều, cứ thế dẫn bộ đội vào núi Dương Giác, sau đó đi cùng đoàn luôn. Tâm tư của lão đặt cả vào việc nhớ đường, núi Dương Giác là nơi không hay lui tới, lão phải đảm bảo có thể trở về.

Bọn họ đi khá lâu, nghỉ trong núi một đêm rồi đến một cái hồ trong núi.

Nơi này lão Bàn Mã mới đến có một lần vào năm ba mốt tuổi, lão cưới vợ nên muốn bắt mấy con hoẵng về biếu nhà ngoại. Năm ấy trong núi không yên ổn, dã thú đều trốn vào rừng sâu. Lão dắt chó đi một mạch vào đây, tìm được cái hồ này, nấp ven hồ một ngày thì săn được một con lợn rừng, sau đấy cũng không vào đây thêm lần nào nữa.

Những cái hồ kiểu này hiển nhiên không có tên, có lẽ ngoại trừ lão Bàn Mã thì người trong thôn cũng không ai biết nơi này có hồ. Đây là một cái hồ khép kín, không có suối chảy vào, đáy hồ có thông đến đâu hay không thì lão chịu. Bọn họ dựng lều căng bạt bên hồ, thế là nhiệm vụ của lão Bàn Mã đã xong.

Sau đó, lão nhận nhiệm vụ cứ cách vài ngày lại đi cấp dưỡng cho bộ đội. Nguồn dự trữ của bộ đội cũng rất đầy đủ, cho nên mỗi lần vào núi lão cũng chỉ mang theo chút gạo hoặc muối ăn, chuyện quái lạ mà A Quý kể cũng xảy ra trong một lần tiếp tế như thế. Trong suốt quãng thời gian đó, không ai biết đội quân kia trú đóng ở đó làm gì.

Trong quá trình tiếp tế lão Bàn Mã cũng rất hiếu kỳ, nhưng lão biết vào thời buổi này, dòm ngó những bí mật kiểu này sẽ phải trả giá rất đắt, cho nên lão cố nhịn trí tò mò của mình xuống. Sau đó, khi nhóm người nhổ trại, họ đã có thêm khoảng hơn ba mươi cái hộp, cái nào cũng to bằng cỡ hộp giày, được những người lính hết sức cẩn thận đưa ra ngoài.

Lão tò mò, cũng từng muốn cầm thử một hộp, nhưng lại bị một người lính khéo léo ngăn lại. Người lính nói trong hộp này chứa một thứ rất nguy hiểm, khi anh ta cầm nó lên, lão chỉ cảm thấy cái hộp rất nặng, không biết bên trong chứa vật gì.

Tôi nghe tới đây, trong đầu hình như cũng lờ mờ có ấn tượng. Loại hộp lớn cỡ hộp giày này, tên là “hộp thu nạp”, biệt danh là hộp đồ cổ, là dụng cụ đội khảo cổ dùng để lưu giữ những mảnh văn vật nhỏ khai quật được. Loại hộp này thường được đánh số nghiêm ngặt, lớn có nhỏ có, nhưng hầu hết đều to cỡ cái hộp giày. (Văn vật khai quật được thường khá nặng, hộp lớn cỡ hộp giày chứa được khối lượng phù hợp nhất cho việc vận chuyển)

Lão Bàn Mã rất buồn bực, vì ven hồ chẳng có chỗ nào đặc biệt, vậy thứ chứa trong những cái hộp kia rốt cuộc từ đâu mà đến? Khi ấy lão cứ đinh ninh hộp này nhất định phải chứa đá, bởi vì ven hồ kia toàn đá là đá.

Nhưng lão nhanh chóng phát hiện ra khả năng này không lớn, vì đi vào núi được một thời gian, bên trong cái hộp bắt đầu tỏa ra một thứ mùi kỳ lạ, rất khó ngửi, không biết phải miêu tả thế nào.Mùi thịt người chết đới :-ss
 
Quyển 6 - Chương 12: Hồi tưởng của lão Bàn Mã


Editor: Tống Mặt Than
Beta: thieudieututai

Sau đó, tôi và lão Bàn Mã nói qua lại hơn ba tiếng đồng hồ, tôi không ngừng đưa ra câu hỏi, đặt vấn đề; một mặt muốn lý giải xem đang có chuyện gì xảy ra, mặt khắc lại cố gắng dò xét cho ra cái bí mật ghê gớm ấy.

Nội dung cuộc nói chuyện hết sức tản mạn, ông già nói và A Quý phiên dịch, có khi còn phải hỗ trợ giải thích cho nhau để nhận thức được vài vấn đề, nói chung là vô cùng tốn thời gian. Hơn nữa ông già cũng không có thái độ hợp tác với tôi, hoặc cũng có lẽ là do A Quý phiên dịch chênh lệch ít nhiều nữa, vì vậy mà sau khi nói xong trong đầu tôi vẫn hoàn toàn là những mảnh ghép vụn vặt.

Thời gian đoàn Văn Cẩm đi vào núi không rõ lắm, đại khái là khoảng năm 1976, ông già không thể nhớ chính xác ra thời điểm đó là khi nào.

Lúc đó người dẫn đầu chính là Văn Cẩm, nhưng lúc tôi lấy ra bức ảnh chụp Tây Sa đưa cho lão già nhìn, lão cũng không phân biệt được những người khác. Thời gian đã quá lâu rồi, người lại đông nữa, với lại hoàn cảnh lúc đó tất cả mọi người đều có cùng một kiểu tóc, một trang phục. Lão chỉ nhớ duy nhất một người là trưởng đoàn, điều này kể ra cũng vô cùng hợp lý.

Tình hình lúc trước không có gì lạ, ngày đó nơi này là vùng biên giới nên thường xuyên có mâu thuẫn xảy ra, trong thôn xuất hiện người bên quân đội là điều quá bình thường. Phải biết là vào sau những năm 1978, toàn bộ khu vực này hầu như đều có quân giải phóng. Đường trên núi phần lớn đều do thời kỳ kháng chiến mở ra, bộ đội muốn vào được trong núi đều phải có người dẫn đường, với họ đó được coi là một nhiệm vụ quân sự.

Bàn Mã cầm tiền phụ cấp bộ đội, lúc đó lão vẫn đang là một người trung niên tráng kiện, khi săn thú, một mình lão có thể đi vào rất sâu trong rừng, vì vậy Bàn Mã chính là lựa chọn thích hợp nhất cho vai trò dẫn đường.

Bọn họ ở tới sáng sớm hôm sau thì xuất phát, nhiệm vụ của quân đội lão không tiện hỏi tỉ mỉ tường tận, chỉ biết là đưa những bộ đội này tới ngọn núi Dương Giác, sau đó liền theo chân bộ đội đi tiếp. Bao nhiêu tâm tư lão đều đặt hết vào từng bước chân dọc đường, núi Dương Giác lão đi cũng không nhiều, nhất định phải đảm bảo được có thể trở về an toàn.

Thời gian bọn họ đi tương đối dài, phải mất một đêm ở lại trong núi, mới tới được hồ nước.

Nơi đó Bàn Mã đã từng đến một lần, lúc đó lão ba mốt tuổi, lão cưới vợ nên muốn săn mấy con hoẵng đem về biếu ông thông gia. Năm ấy trong núi rất bất ổn, dã thú đều trốn tiệt vào sâu trong rừng. Lão mang theo một con chó săn thẳng tiến vào núi nên tìm được nơi này, thấy cái hồ liền ở bên hồ mai phục một ngày, săn trúng con lợn rừng. Sau đó lão không còn quay lại lần nào nữa.

Hồ nước tự nhiên này không hề có tên, có lẽ ngoại trừ Bàn Mã ra người trong thôn cũng không thể biết trong núi còn tồn tại một hồ nước như thế. Đây là một cái hồ chết (ao tù), không có khe suối, bên dưới có thông với nơi nào không thì không biết, người bên quân đội hạ trại ngay bên hồ, sau đó nhiệm vụ của lão Bàn Mã coi như đã hoàn thành.

Kế tiếp, lão được giao trọng trách vài ngày lại vào tiếp tế lương thực cho binh sĩ một lần, trợ cấp của bộ đội rất đầy đủ, đó là lí do khiến mỗi lần lão vào núi chỉ phải mang theo một ít gạo hoặc là muối ăn. Chuyện kỳ quái mà A Quý kể cũng diễn ra từ đây. Trong lúc đó không ai biết được tiểu đoàn đó đóng quân ở đây để nhằm mục đích gì.

Suốt quá trình đưa lương, Bàn Mã thực sự rất tò mò, nhưng lão cũng biết vào thời điểm như vậy mà rình trộm những người này thì sẽ phải trả cái giá rất đắt, đó là nguyên nhân mà lão phải nhịn lại lòng hiếu kỳ của mình. Sau đó một thời gian, đội ngũ này bắt đầu vận chuyển những chiếc rương, ước chừng hơn ba mươi cái, mỗi rương đều có kích thước nhỏ, bộ đội cẩn thận khuân nó ra ngoài.

Lão rất tò mò, từng nghĩ thó một cái đem về, nhưng bị một bộ đội khéo léo ngăn lại. Người bộ đội đó làm như vật trong rương này rất nguy hiểm, lão già tìm cơ hội để cầm ngắm một cái, chỉ thấy nhấc lên hết sức nặng, không biết bên trong là cái gì.

Tôi nghe tới đó, trong đầu cũng hình dung ra một chút ấn tượng, loại rương cỡ như vậy được gọi là “rương thu nạp“*, tên khác là rương đồ cổ, là thứ mà đội khảo cổ dùng để lưu giữ những mảnh văn vật khai quật được. Những rương như thế đều phải được đánh số vô cùng nghiêm ngặt, có lớn có nhỏ, nhưng đa số đều có cỡ nhỏ. ( Khai quật hiện vật khảo cổ thường nặng, hòm chịu được trọng lượng tương đối, hơn nữa cũng thích hợp với việc vận chuyển.)

Bàn Mã vô cùng kỳ quái, bởi vì xung quanh hồ không có nơi nào đặc biệt, vậy rương này là từ đâu tới?

Có điều là lão liền phát hiện ra điều gì đó không đúng ở đây, bởi vì tiếp tục tiến vào trong núi một thời gian, những chiếc hòm này tỏa ra một mùi rất kỳ quái, không những cực kỳ khó ngửi mà còn không thể hình dung ra được.
 
Quyển 6 - Chương 13: Tâm lý chiến


Editor: Ala Ju
Beta: Thanh Du

*****

Tôi nghĩ ngay đến mùi thịt ôi, nhưng Bàn Mã nói không phải. Người đi săn quanh năm suốt tháng tiếp xúc với thịt nên lão dễ dàng nhận ra mùi thịt ôi. Chứ còn cái mùi này, quả đúng là không tài nào mô tả nổi.*ơ không phải thịt người chẳng lẽ là hóa thạch sh*t khủng long :v*

Bình thường muốn tả mùi phải dựa vào vật, ví dụ “thơm như hoa lài” hoặc “hôi như tất thối”. Lão Bàn Mã không tài nào mô tả được, dĩ nhiên là vì lão chưa từng ngửi qua mùi này,thậm chí mùi na ná thế cũng chưa.

Tôi muốn hỏi lão mùi này có phải là “mùi người chết” hay không, nhưng rồi lại thôi. Nếu lão đã không muốn nhắc đến đề tài này thì nửa chừng thắc mắc cũng không có lợi cho tôi.

Sau đó lão Bàn Mã càng thêm hiếu kỳ, nhưng những người kia lại bắt đầu đề phòng, nên lão vẫn chưa có cơ hội tiếp xúc với những cái hộp này. Về đến thôn, nhóm người ấy nhanh chóng rời đi, từ đó về sau biệt tăm biệt tích. Chuyện này ảnh hưởng rất lớn đến lão, mỗi lần vào núi săn thú lão đều nghĩ về cánh quân kia. Bọn họ vào núi nhằm mục đích gì, đã làm gì ven hồ; vật đừng trong hộp là gì, từ đâu mà tới?

Khi ấy lão đã có linh cảm, rồi sẽ có người đến thăm dò chuyện này. Nhưng không ngờ lại đến quá muộn, gần ba mươi năm sau chúng tôi mới xuất hiện.

Tôi hỏi lão hồ nước trông như thế nào, lão bảo hồ dẹt như một thanh loan đao. Bốn phía đều là đá tảng, có những tảng rất to, to hơn thân người, mà cũng có những viên nhỏ bằng đá cuội. Hồ vẫn còn đó, nhưng vì khí hậu biển đổi nên mực nước rút xuống rất nhanh, ba năm trước lão quay lại thì thấy hồ chỉ còn một nửa so với ban đầu.

Nghe đến đó, tôi rơi vào trầm tư. Thứ được giấu trong hộp, rất có thể chính là khối sắt mà chúng tôi đã tìm thấy ở nhà Muộn Du Bình. Nếu có đến ba mươi cái rương được khuân ra ngoài thì hiển nhiên số lượng không nhỏ, rất khả năng nó là mảnh vỡ của món đồ nào đó như lời Bàn Tử nói.

Những thứ này từ đâu mà ra? Trước kia trong điều kiện thiếu thốn thông tin, Bàn Tử từng suy đoán trong núi Dương Giác có một ngôi mộ cổ. Giờ nghe chuyện lão kể, tôi lại nghĩ phải chăng những món đồ này được vớt từ đáy hồ lên?

Lẽ nào bọn họ phát hiện ra một cỗ máy bằng sắt cỡ lớn dưới đáy hồ, tháo nó ra ngay tại chỗ rồi mang từng khối ra ngoài?

Khả năng này không lớn, vì nếu thế thì thứ này khác nào sắt vụn, hơn nữa cũng không thể đựng bằng hộp nhỏ cỡ hộp giày.

Tôi không nén nổi trí tò mò, lòng đã ngầm đồng ý với giả thiết của Bàn Tử, mà dù sao đi chăng nữa cũng phải đến núi Dương Giác ngó thử một lần.

Lão Bàn Mã cũng có một khối sắt, nói là nhặt được trong núi, vả lại lão cứ đinh ninh có cực kỳ quý giá; rõ ràng là sau khi đội khảo sát rời đi, lão Bàn Mã còn động tay động chân vào nữa.

Đây chính là bí mật trong lòng lão, khối sắt và “mùi người chết” có mối liên hệ với nguy hiểm, lão nhất định đã gặp chuyện gì đó mới kết nối ba cái này lại với nhau. Trong ký ức của Muộn Du Bình, khối thép kia là một vật vô cùng nguy hiểm; mà trong hồi ức của lão Bàn Mã, người lính kia cũng bảo lão rằng khối sắt này rất nguy hiểm.

Tôi nghĩ cách cạy miệng lão ra, xét về độ gian trá, tuy tính tôi an phận thủ thường nhưng chơi với đám Phan Tử Bàn Tử đã lâu, muốn gian trá cũng có thể nặn ra một ít gian trá. Vào lúc này, tôi có thể lợi dụng việc lão không nắm rõ thân phận của tôi để lừa lão một chặp.

Bí quyết lừa người chính là để người khác lầm tưởng bạn đã biết cả rồi, cho nên về hình thức cuộc đối thoại, bạn phải biến câu hỏi thành chất vấn.

Tôi im lặng giây lát, trong đầu đã vạch ra phương án sơ lược, liền hỏi: “Vậy sau đó trở lại ven hồ, ông đã phát hiện ra khối sắt này như thế nào.”

Đó hoàn toàn là suy đoán, vì nếu khối sắt này tìm được trong núi thì rất khó có thể là nơi nào khác ngoài cái hồ. Tôi thử đánh cuộc một phen, dù sao có đoán sai cũng không mất mát gì.

Lão Bàn Mã đờ người, tôi biết ngay mình đã đoán đúng. Nhưng trừ khoảnh khắc đứng hình ấy ra, lão cũng không có biểu hiện gì khác, mà chỉ nhìn sang tôi.

Tôi biết lúc này mình phải bồi thêm một cú nữa, lại tiếp: “Ông yên tâm, tôi chỉ cần biết chuyện xảy ra khi đó, còn những chuyện khác tôi không có hứng.”

Lão Bàn Mã biến sắc, buông điếu thuốc xuống hỏi: “Thật ra cậu là ai?”

Lòng tôi thở phào, muốn toát mồ hôi lạnh. Câu tiếp theo sẽ tiếp nối thành công trong phán đoán của câu trước, mùi vị người chết, khối sắt nguy hiểm, chuyện của Muộn Du Bình. Tôi đoán lý do khiến lão giữ bí mật là vì một sự cố, sự cố này nhất định cực kỳ nguy hiểm, dễ chừng còn có người chết. Đáng ra tôi có thể hỏi: “Tôi sẽ không hỏi đến cái chết của hắn.” Nhưng tôi không biết rốt cuộc đã chết bao nhiêu người, nên đổi sang một biện pháp chắc ăn hơn.

Người có “tim đen”, trừ phi hiểu rõ về tôi, bằng không tất sẽ lộ ra sơ hở.

Tôi thầm nghĩ đây chính là lúc đổi khách thành chủ, lập tức trưng ra bộ mặt cao thâm khó dò – những khi chặt chém khách hàng tôi vẫn thường làm thế – lạnh nhạt nói: “Ông đừng hỏi gì thì hơn, chuyện này ông chỉ cần kể rõ đầu đuôi cho tôi biết là được.” Nói đoạn vuốt túi áo, lấy ra một xấp tiền vốn dành để trả phí tư liệu cho Bàn Mã. Đáng ra chỉ trả hai ba trăm, nhưng để trông có vẻ hoành tráng nên trong túi có bao nhiêu tôi lôi ra bằng hết, đập xuống trước mặt. “Tôi biết một vài chuyện nhưng không rõ ràng lắm, nên ông đừng lo gì cả, chỉ cần nói ra sự thật là được. Ông cầm tiền là xong, về sau sẽ không làm sao hết, cũng không ai biết chúng ta đã nói gì ở đây.”

Bàn Mã nhìn tôi, có vẻ thấp thỏm không yên. Tôi nhìn lão bằng ánh mắt cực kỳ bình tĩnh và tập trung, chờ lão nổi giận hoặc đầu hàng.

“Làm sao cậu biết chuyện này?” Lão hỏi. “Nói ta nghe thử xem.”

Hừ, tôi chửi thầm, nghĩ bụng lão quỷ này đúng là ngoan cố, cái này làm sao mà nói ra được. Ngoài mặt tôi không đổi sắc, nhưng tâm trí tức khắc xoay chuyển điên cuồng.

Trong một giây phản ứng, tôi gần như buột miệng hỏi: “Lẽ nào các người không biết có người đi theo mình sao?”

Lời vừa nói ra, còn chưa còn chưa kịp định thần thì đã thấy nét mặt Bàn Mã thả lỏng, tim rớt mất một nhịp, thầm nghĩ thôi tiêu rồi, mình đã bị lật tẩy.

Bàn Mã liền nhìn tôi nói: “Tuy không biết cậu là ai, nhưng ta cũng không phải lão già hồ đồ. Cậu về rồi đừng quay lại tìm ta nữa, cậu chẳng biết gì hết, ta cũng không nói cho cậu biết.” Nói đoạn liền ra ý muốn tiễn khách.

Tôi lập tức phản ứng, thầm nghĩ làm sao lão phát hiện ra được nhỉ. Vì lão có thể xác định không ai bám theo mình, hay là vì tình hình khi đó không thể bị bám theo được? Tôi cố nghĩ làm sao để vớt vát, lại phát hiện mình chẳng có cách nào hay, nhanh chóng chán nản buông xuôi.

Con trai lão mở cửa, có ý muốn mời chúng tôi ra. Cửa vừa mở ánh sáng liền ùa vào, tôi đang định đứng lên, chợt phát hiện chân lão run rẩy nhè nhẹ.

Tôi nhìn sang lão, phát hiện lão cũng đang nhìn tôi, tuy nét mặt vẫn điềm tĩnh không chút gợn sóng nhưng sắc mặt lại xấu một cách đáng sợ, rõ ràng trong lòng lão đang căng thẳng cực độ.

Tôi nhanh chóng hiểu ra, lão cũng đang lừa tôi!

Tôi lập tức biến tư thế nhổm người đứng dậy của mình thành một động tác vươn vai, sau đó ngồi trở về chỗ cũ, nói bằng ngữ điệu không thể phản bác: “Đừng cứng đầu nữa, nói thật, tôi không còn nhiều kiên nhẫn đâu.”

Bàn Mã nhìn tôi, con trai lão cũng nhìn tôi. Tôi hoàn toàn tự tin, có thể cảm nhận được vẻ mặt của bản thân vào lúc đó đúng là cực kỳ âm hiểm và khó nắm bắt.

Rất lâu sau, Bàn Mã rốt cuộc cũng cúi đầu, nháy mắt ra hiệu cho con trai. Anh con trai nói gì đó với A Quý, A Quý liền bị nửa lôi nửa kéo ra ngoài. Con lão trở lại ngồi vào chỗ của A Quý, cửa bị đóng lại lần nữa. Lão Bàn Mã hành lễ cực kỳ trịnh trọng với tôi, rồi ngẩng đầu lên nói: “Dù cậu là ai, thì cũng mong cậu nói lời giữ lời, nếu muốn tính nợ cũ thì cứ tính cả lên đầu ta. Người đều do ta giết, mấy người kia chỉ giúp ta khiêng đồ thôi.”
 
Quyển 6 - Chương 14: Đó là một hồ ma


Edit: Tử Yển

Beta: Thanh Du

*****

Tôi kinh ngạc không hiểu câu nói này có ý gì, nhưng ngay sau đó Bàn Mã đã kể đầu đuôi câu chuyện, mới nghe vài câu toàn thân tôi đã lạnh toát, nhanh chóng hiểu rõ hoàn toàn lai lịch của mùi người chết. Nhưng chuyện này thật sự quá kinh khủng, nằm ngoài dự kiến của tôi, sau khi nghe xong, cảm giác đầu tiên của tôi không phải nghi hoặc mà là ghê tởm.

Tôi thật sự không thể ngờ lại có chuyện như thế xảy ra, cũng chẳng hiểu nổi mục đích của lão khi ấy, càng không tài nào tưởng tượng được lòng người thời đó sao lại ra nông nỗi này. Nếu điều Bàn Mã nói là thật thì thứ lão đang gánh không phải bí mật gì cả, mà là nghiệp chướng nặng nề.

Quá trình trước đó hoàn toàn giống như những gì Bàn Mã đã kể, vấn đề mấu chốt nằm ở cái lần lão vào núi rồi phát hiện ra đội khảo cổ biến mất.

Bàn Mã đã nói dối, lần ấy lão lên núi, đội khảo cổ không hề biến mất; hơn nữa lão cũng không đi một mình, mà còn dẫn theo bốn người anh em nữa. Họ vác đồ đạc giúp lão, như thế trên đường về họ còn có thể đi săn.

Giao lương thực xong họ vẫn chưa về ngay, bởi vì nán lại đó đến chập tối sẽ được ăn một bữa cơm trắng. Đối với họ thì đây quả là đãi ngộ của bậc vua chúa, thế nhưng đội khảo cổ không cho ở lại trong doanh địa, họ đành đứng bên ngoài tán phét mãi đến giờ cơm chiều.

Trong khoảng thời gian này, một trong số bốn người anh em của lão khi nhìn đồ tiếp tế quân dụng của đội khảo sát, đã nảy lòng tham.

Sự nghèo khó của Thập Vạn Đại Sơn hồi ấy, người bây giờ không tưởng tượng nổi đâu. Nhiều năm liền xung đột biên giới khiến muông thú trốn hết vào núi thẳm, lũ trẻ không có thịt mà ăn, chỉ có bông lúa với rau dại, thành ra đều suy dinh dưỡng cả. Cơm trắng với họ chẳng khác nào bánh kẹo, cho nên đồ tiếp tế của bộ đội trở nên quá sức hấp dẫn, mấy bao gạo đó phải ăn được cả năm.

Để thôn dân vận chuyển giúp thì nhất định sẽ bị ăn bớt dọc đường, nên bộ đội khi nhận lương thực đều phải cân lại, nếu phát hiện thiếu cũng không truy xét gì, nhưng lần sau sẽ đổi người khác. Người anh em kia tính chờ họ cân xong đi ngủ rồi sẽ lẻn vào xúc trộm vài bát, như thế không lo mất việc mà lại có thể mang lợi lộc về nhà.

Đây vốn là một việc hết sức đơn giản, Bàn Mã không đồng ý vì tay nghề lão tốt, gia cảnh cũng tạm ổn, chưa khổ đến nỗi để con cái chết đói, nhưng ba người kia đều động tâm.

Bàn Mã đành phải để họ đi còn mình đứng chờ bên ngoài, ai mà ngờ ba người vào rồi lại sinh chuyện chứ.

Trong góc lều chứa gạo, họ xúc trộm mỗi bao ba bát, lúc ra vừa hay lại đụng phải một tiểu binh vào đó kiểm tra. Tiểu binh lập tức giương súng, nhưng cậu ta không nhìn thấy một người nấp phía sau; trong tình thế cấp bách, người này thình lình đè tiểu binh xuống, rồi cả ba chụp bao gạo lên đầu cho cậu ta chết ngạt.

Giết người rồi, bọn họ sợ đứng tim. Tội giết người, đặc biệt là giết quân nhân sẽ bị xử bắn ngay tại chỗ, nếu để người ta phát hiện chắc chắc sẽ bị bắn thẳng tay. Họ vội chạy ra kể lại cho Bàn Mã, Bàn Mã liền nghĩ bụng ôi thôi hỏng bét rồi.

Chuyện này kiểu gì cũng dây đến lão, vì đội khảo sát mời lão, còn mấy người anh em là do lão nhờ đến giúp, toàn bộ trách nhiệm lão đều không thể trốn thoát. Hơn nữa vào thời điểm nhạy cảm này, dù lão chối mình không tham dự thì cũng chẳng ma nào tin.

Lão lập tức nghĩ ra một cách, phải lôi xác tiểu binh kia ra ngoài coi như mất tích, nếu không họ nhất định sẽ bị tra ra.

Họ lén quay về trả hết gạo, sau đó lôi cái xác tiểu binh ra khỏi lều, kết quả là chưa đi được bao xa đã bị người canh gác phát hiện. Đối phương đuổi theo hỏi họ đang làm gì, bọn Bàn Mã nhất thời chột dạ, để lộ thi thể, tay lính canh lập tức giương súng; nhưng kẻ trước đó đưa ra chủ ý ăn trộm đã chuẩn bị sẵn sàng, thình lình cắt đứt cổ người kia.

Gần như không hề suy xét, bọn họ cứ như bị tẩu hỏa nhập ma mà giết hai người liền. Bàn Mã thầm nghĩ toi đời rồi, lão đề nghị trốn đi, nhưng tay giết người kia lại nổi điên nói đã giết hai người rồi, giết hai là giết mà giết sạch cũng là giết, nếu để họ trở về báo cáo lên quân đoàn thì chúng ta phải trốn trên núi cả đời. Chi bằng giết hết cho xong, rồi cứ nói là không thấy họ đâu nữa, mọi người chắc clão sẽ tưởng là người Việt Nam làm.

Đây là sự kích động bất ngờ xảy đến trong bầu không khí quỷ dị. Đội khảo sát không đông, hiện giờ phần lớn đều ngủ say không biết trời trăng gì nữa, nghĩ đến số gạo trắng và súng tiểu liên, cùng chuyện xảy ra sau đó, ngay cả Bàn Mã cũng không thể kiềm chế tạp niệm nổi lên trong lòng.

Chuyện xảy ra sau đó thật ghê tởm, họ cầm súng tiểu liên và dao găm lần lượt lẻn vào từng lều, dùng thắt lưng siết chết bằng sạch những người bên trong.

Giết người xong họ ném xác xuống hồ rồi đem giấu hết súng ống đạn dược lẫn vật tư, lén lút vác gạo và thức ăn về thôn, giấu dưới gầm giường, cùng hẹn nhau quyết giữ bí mật này đến chết.

Khi đó Bàn Mã chột dạ, tính tới tính lui rồi bắt đầu lan truyền khắp thôn câu chuyện đội khảo cổ mất tích một cách kỳ lạ, chuẩn bị sẵn đường lui. Bởi dạo đó thường xảy ra xung đột biên cảnh, nếu có một đoàn người mất tích ở biên giới Việt Nam thì thường bị đổ cho đặc công Việt Nam làm.

Mấy người họ cứ đinh ninh mình không làm gì sơ hở, ai ngờ đây lại là khởi đầu cho một cơn ác mộng.

Ba ngày sau, Bàn Mã làm bộ muốn đi đưa lương thực, nhân cơ hội quay lại ven hồ, định đến chỗ kia lục tìm mấy món đồ đáng giá. Chuyện điên khùng đêm đó khiến lão vẫn còn e ngại vùng giữa hồ, nên ban đầu chỉ dám đứng từ xa nhìn lại. Đáng sợ làm sao, lão lại trông thấy ven hồ xuất hiện một doanh địa, mà còn có người hoạt động nữa chứ.

Có một đội quân khác? Thi thể đã bị phát hiện? Lão sởn da gà, mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại, cho đến khi gắng gượng lấy dũng khí đi vào doanh địa, lão lại trố mắt đứng nhìn: đội khảo sát trước kia ấy thế mà lại xuất hiện ngay trước mặt lão.

Bàn Mã hoàn toàn không hiểu nổi cảm giác của mình lúc này, cũng không thể xác định rõ rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra. Nhìn những bóng người lướt qua trong doanh địa, lão cữ ngỡ mình đang rơi vào ảo ảnh. Họ dường như không hề hay biết trước kia đã xảy ra chuyện gì, rối rít chào hỏi lão.

Lão còn tưởng mình đang nằm mơ, tự véo mấy cái mới phát hiện ra đây là thật. Những gương mặt ấy tuy không quen lắm, nhưng đều đã gặp trong đội khảo cổ kia; thậm chí lão còn thấy mấy người bị chính tay mình siết cổ đang đứng đó chuyện trò vui vẻ.

Lão hoảng hốt chạy về thôn, hồn bay phách lạc, vội vàng kể lại mọi chuyện với mấy người kia. Cả đám quay lại xem thì thấy quả nhiên là thế, ai nấy đều hoảng sợ, suy nghĩ xem chuyện này rốt cuộc là sao. Lẽ nào đó là một hồ ma có thể hồi sinh người chết?

Nhưng bọn họ đều sống sờ sờ, không giống cương thi chút xíu nào.

Bàn Mã nghĩ mãi mà không ra. Người trong thôn rất mê tín, cứ đinh ninh đây nhất định là do sơn thần hồ quỷ tác quái, sợ đến mất vía. Bàn Mã suy tính hồi lâu mới dám lấy hết dũng khí trở lại bên hồ đưa lương thực cho họ nhân tiện ướm hỏi chuyện hôm ấy, nhưng mọi người đều nói không có việc gì, biểu cảm vẫn như bình thường.

Ngày hôm ấy giống như đã bị lật sang trang, thiên thần đã xóa bỏ mọi việc xảy ra trong ngày đó. Hoặc là, mấy kẻ thủ ác đều đã mơ cùng một giấc mơ, họ căn bản không hề giết người.

Bàn Mã không phải là người dễ chịu thua, lão không tin mình nằm mơ, nhưng nghĩ mãi mà không thông được. Sau đó lão vẫn luôn chú ý đến nhóm người này, muốn biết bọn họ rốt cuộc là người hay quỷ? Nhưng dù có quan sát kỹ lưỡng đến đâu, lão cũng không thấy mảy may sơ hở.

Điểm duy nhất khiến lão cảm thấy kỳ quặc là, lão ngửi thấy trên người họ xuất hiện một thứ mùi lạ mà trước kia không có.
 
Quyển 6 - Chương 15: Trúng tà


Edit: Nam

Beta: Thanh Du

*****

Thứ mùi đó chính là mùi mà Bàn Mã ngửi thấy trong hộp, chẳng qua mùi phát ra từ hộp nồng nặc hơn thôi.

Đối với Bàn Mã, đó hoàn toàn là mùi của người chết. Thứ mùi trên thân thể những ác ma không biết là người hay quỷ đó chắc chắn được mang ra từ địa phủ.

“Trên người cậu ta cũng có thứ mùi đó, nếu không bị mùi thảo dược át đi thì ta đã ngửi được nó từ lần đầu gặp mặt.” Bàn Mã nhìn tôi nói: “Cậu ta giống bọn họ, đều là yêu quái cả.”

Trên người Muộn Du Bình có mùi qué gì chứ ? Tôi không mẫn cảm với mùi vị cho lắm, cũng không phải thợ săn để mà có khứu giác nhạy bén hơn người, nghe lời lão nói thì nửa tin nửa ngờ. Lần sau phải lén ngửi thử xem sao.*=))))))*

Nếu chuyện đến đây là hết, có lẽ mọi việc sẽ qua đi, một thời gian sau người ta sẽ hoài nghi trí nhớ của chính mình, những sự việc không lời giải sẽ tự động chìm vào quên lãng. Nhưng tôi biết chắc chuyện vẫn chưa dừng ở đây, vì nếu chỉ đơn giản như thế thì lão Bàn Mã đã không đưa ra kết luận Muộn Du Bình sẽ hại chết tôi.

Quả nhiên lão lại nói: Chuyện xảy ra sau đó khiến cả đời lão không quên nổi thứ mùi này.

Sau khi chuyện lạ xảy ra, Bàn Mã luôn cảm thấy tinh thần mình bất ổn. Tuy đám người ấy dường như không hề thay đổi, nhưng Bàn Mã luôn cảm thấy ánh mắt vẻ mặt họ toát ra nét gì đó yêu dị, cảm giác này không dựa trên căn cứ nào mà hoàn toàn là một loại hiệu ứng tâm lý. Lão có dự cảm: trong thôn sẽ sinh chuyện.

Vài ngày sau, trong thôn xảy ra một chuyện khiến lão rợn tóc gáy.

Tham gia hành hung với lão còn có bốn người, tính ra thì bọn họ đều là họ hàng dây mơ rễ má cả, người xa người gần. Trong số đó người tên Bàng Nhị Quý nhát gan hơn cả bỗng dưng mất tích; Bàn Mã và mấy người kia trong lòng đều ôm ấp bí mật, đã thử nhắc đến chuyện này nhưng rốt cuộc không ai dám nói ra. Người trong thôn vào núi tìm suốt hai ngày, cuối cùng đám Bàn Mã quyết tâm trở lại ven hồ, nào ngờ lại phát hiện gã Bàng Nhị Quý kia đang ngồi trong doanh trại cười nói vui vẻ với người của đội khảo sát.

Bọn họ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả, đành đưa gã về. Khi Bàn Mã kéo gã, chợt ngửi thấy thứ mùi thần bí kia toát ra từ người gã.

Bàn Mã nhìn Bàng Nhị Quý mà nổi da gà giữa ban ngày ban mặt, lão bỗng nhận ra nét mặt của Bàng Nhị Quý không giống trước đây, cứ như đã biến thành con người khác.

Cảm giác sợ hãi này không thể nói rõ thành lời, lão nghĩ Bàng Nhị Quý nhất định đã bị quỷ ám rồi. Về tới thôn, lão dặn vợ Bàng Nhị Quý nếu phát hiện chồng mình có biểu hiện bất thường thì phải báo ngay cho lão.

Nhưng vợ gã không có cơ hội phát hiện ra điều gì. Ngày hôm sau, chị ta vừa tỉnh dậy đã thấy chồng mình treo cổ bên giường, cả căn phòng nồng nặc thứ mùi quỷ quái kia.

Người trong thôn cứ đinh ninh Bàng Nhị Quý nghĩ quẩn hoặc bị hồ ly tinh quyến rũ. Bàn Mã hiểu rõ sư tình, lòng thấp thỏm lo âu, lại càng thêm chắc chắn những người kia đúng là yêu quái, Bàng Nhị Quý nhất định đã trúng tà.

Vợ Bàng Nhị Quý bị dọa cho hết hồn, không dám ở lại căn nhà cũ, đành dọn về nhà mẹ đẻ, căn nhà kia trở nên hoang phế. Những người khác thì sợ chết khiếp, hai người trong số đó liền dọn ra khỏi thôn, chỉ còn Bàn Mã và một người nữa ở lại. Ban đêm hai người tuyệt nhiên không dám ngủ, phải mượn vài con chó, chỉ lo người tiếp theo sẽ là mình.

Nhưng nuôi chó cũng vô ích, một tuần sau đó, cái người ở lại thôn cùng lão cũng mất tích. Chờ thêm hai ngày, một đứa bé tìm thấy hắn treo cổ trong ngôi nhà hoang của Bàng Nhị Quý, vị trí treo cổ trùng khớp với Bàng Nhị Quý lúc trước.

Bàn Mã bản tính cứng cỏi, thuở nhỏ đã làm bạn với núi non nên hết sức kiên cường. Sau cơn sợ hãi cùng cực, lão trái lại không còn vướng bận gì nữa, vác cây súng quay lại cái hồ kia, trong lòng tự nhủ nếu đằng nào cũng chết thì mình phải chết cho mình bạch, chứ tuyệt đối không ngồi yên chờ chết. Nhưng khi lão vào núi thì vừa hay đội khảo sát cũng nhổ trại.

Bàn Mã đi được nửa đường thì gặp đội khảo sát, hình như họ không cần người dẫn đường. Bàn Mã trước khi đi đã hạ quyết tâm, nhưng vừa nhìn thấy bọn họ liền nhanh chóng dao động, khiếp hãi theo cả đội xuống núi.

Chuyện sau đó giống như Bàn Mã đã kể, đội khảo sát rời thôn mang theo những cái hòm tỏa ra mùi lạ, từ đó trở đi không quay lại đây nữa. Hai người trốn khỏi thôn cũng bình an vô sự, Bàn Mã thấp thỏm sống qua một năm mới dần dần yên tâm, đinh ninh bọn họ đã đi thật rồi.

Chuyện này giống như một cơn ác mộng cứ ám ảnh Bàn Mã không thôi, cảm giác khiếp sợ này tôi có thể hiểu được. Đội khảo sát đi được chừng nửa tháng, lão tò mò muốn biết chuyện gì đã xảy ra, bèn quay lại cái hồ. Đi một vòng quanh hồ, lão phát hiện một bộ quần áo đương thời không hiểu sao lại bị quẳng lên bờ, bọc trong bộ quần áo ấy chính là khối sắt kỳ cục kia.

Phát hiện ra khối sắt này, lão kết luận những người kia nhất định đã bò từ dưới hồ lên, vì khối sắt kia bọc trong quần áo, tuyệt đối không thể bị sóng xô lên bờ. Cái mùi tỏa ra từ khối sắt khiến lão sởn gai ốc, lão nghĩ đây không phải chuyện đùa nên vẫn luôn mang nó theo người. Trước kia thỉnh thoảng gặp cơn túng quẫn lão đã định bán đi, nay điều kiện sống đã khá giả hơn trước, nhớ tới chuyện năm đó mà hoảng, định bụng sẽ mang theo bí mật này xuống mồ.

Sau đó, chúng tôi xuất hiện. Bí mật của Bàn Mã, cuối cùng cũng chấm dứt.

Nghe xong câu chuyện, tôi rơi vào trầm tư. Lạ một nỗi tôi không cảm thấy mọi chuyện thêm mơ hồ, trái lại lần đầu tiên có cảm giác dường như mình đã tìm được một sợi xích có thể kết nối những nghi vấn trong lòng.

Những bí ẩn này giống như ống thép có ren ở hai đầu, mỗi đầu tiếp xúc đều là nghi vấn. Nhưng nếu ta nối liền hai nghi vấn lại với nhau, như thế bốn bí ẩn sẽ mất đi hai; lại nối liền tất cả các ống thép, thì vô vàn bí ẩn có lẽ chỉ còn hai cái ở hai đầu. Cho nên nối liền từng nghi vấn lại với nhau là một công việc rất thú vị.

Nếu là trước đây, tôi nhất định sẽ phát điên; nhưng bây giờ đã học được cách không chỉ nhìn vào bản thân vấn đề, tôi liền hiểu rõ chân tướng sự việc. Cái này lại phải chứng thực, nếu tôi suy luận đúng, thì vấn đề mà chú Ba – hay có thể là Giải Liên Hoàn – vẫn luôn nghi hoặc đã có câu trả lời.

Mà muốn chứng thực chuyện này, lại phải đến cái hồ kia.

Lão Bàn Mã đưa khối sắt kia cho tôi xem, quả nhiên nó giống y xì đúc khối sắt dưới gầm giường Muộn Du Bình, cũng xù xì thô ráp, bề mặt có những hoa văn cổ. Có điều khối sắt của Bàn Mã lớn hơn một chút, tôi ngửi thử, quả nhiên có mùi quái lạ nhưng chỉ thoang thoảng, hầu như không thể nhận ra. Lão nói lúc vừa phát hiện thì mùi của nó rất nồng, dần dần mới nhạt đi; đặt khối sắt này trong nhà, côn trùng sâu bọ đều không dám bén mảng.

Tôi tạm thời mất hứng với vật này, trong lòng nổi lên đủ loại suy đoán.

Bàn Mã không chịu đến cái hồ kia nữa, tôi định bảo A Quý tìm người dẫn đường khác, đưa tiền cho Bàn Mã rồi đứng dậy cáo từ.

Ra đến cửa, tôi sực nhớ ra một việc khác, bèn quay lại hỏi lão “À phải rồi, hình xăm trên người ông có lai lịch thế nào?”

Bàn Mã nhìn tôi, tỏ ra ngạc nhiên vì câu hỏi đột ngột này. Con lão giải thích: “Đây là hình xăm phòng cổ độc do một vu sư người Mèo xăm cho cha tôi hồi nhỏ. Lần đó ông ta được ông nội tôi cứu mạng, bèn xăm hình này cho cha tôi để tạ ơn. Nghe nói có hình xăm này trên người là được quyền thoải mái đi lại trong làng người Mèo mà không ai dám gây khó dễ.”
 
Quyển 6 - Chương 16: Kế hoạch


Edit: Thanh Du

*****

A Quý chờ tôi ở cửa, ngồi xổm trên đất bực dọc hút thuốc, hiển nhiên cũng không biết đám Bàn Mã đang làm cái quái gì. Nhìn thấy tôi, tôi liền bảo anh ta: Đi, chúng ta về.

Trên đường về tôi hỏi anh ta có biết cái hồ trong núi Dương Giác mà Bàn Mã nhắc đến hay không? A Quý gật đầu, bảo trước kia từng nghe nói nhưng cũng chưa đến đấy bao giờ. Tôi liền bảo mình ra giá cao, mau tìm giúp một thợ săn đưa nhóm tôi vào đó.

A Quý gật đầu lia lịa, rồi hỏi dò xem Bàn Mã rốt cuộc đã nói với tôi chuyện gì? Cơ mà A Quý hỏi rất e dè, tôi thầm nghĩ nói cho anh tức là hại anh, bèn thuận miệng đáp lấy lệ.

Vội vã trở về nhà A Quý, tôi nóng lòng muốn kể cho Muộn Du Bình nghe phát hiện của mình, nhưng trong nhà chỉ có Vân Thái đang đun bếp với em, không thấy Bàn Tử vàMuộn Du Bình đâu cả.

Tôi nghĩ bụng, quái, bèn hỏi em của Vân Thái xem họ đâu rồi? Em Vân Thái đáp cái anh lầm lì kia về đến nơi thấy anh béo chưa về mới hỏi em, em bảo anh béo đi cả đêm chưa về, anh ấy liền vội vã đi tìm.

Tôi còn đang phấn chấn, nghe tới đây liền mất hứng, thầm nghĩ Bàn Tử cả đêm chưa về?

Trong thôn không có mấy chỗ chơi bời cho hắn la cà như ở thành phố, hắn đi thâu đêm kể cũng lạ. Tôi khá hiểu Bàn Tử, nhớ lại trước kia hắn đã nói muốn đi tìm acid sunfuric, chợt có dự cảm mơ hồ.

Hẳn là Muộn Du Bình cũng như tôi,nghĩ ngay tới khả năng này, cho nên mới lập tức đi tìm.

Tôi lập tức bảo A Quý dẫn mình đến trụ sở thôn, nếu Bàn Tử gặp chuyện ngoài ý muốn, nhất định sẽ ở đó. Đi được vài bước đã thấy Bàn Tử với Muộn Du Bình quay lại, trên mặt Bàn Tử còn quấn băng, vừa đi vừa chửi um lên, hình như là bị thương.

Hỏi ra mới biết Bàn Tử đi mua acid sunfuric, trên đường về thấy một tổ ong vò vẽ, thế là bản tính lộ ra, kết quả dự đoán sai thân thủ của mình, dính chưởng nghiêm trọng, phải ngâm nước muối rồi ngủ lại cả đêm ở trụ sở thôn. Bàn Tử nói ong vò vẽ ở đây không giống ong mình hay gặp, ong vò vẽ mình gặp trước kia đều phải chọc vào tổ mới xông ra, chứ ong này mới mon men đến gần đã đột ngột vây kín, hung ác cực kỳ.

Tôi bảo anh đừng đổ tội cho khách quan, cứ thẳng thắn thừa nhận mình rút lui xem nào. Lão Bàn Tử không khoe chuyện quá khứ (*), mấy cái trò như chọc tổ ong vò vẽ từ sau anh hạn chế đi, tránh cho người khác chê cười.
(*) Chế từ câu tục ngữ “Hảo hán bất đề đương niên dũng” nghĩa là hảo hán không khoe khoang ngày xưa mình anh dũng thế nào, nói cách khác là không ngủ quên trong quá khứ.

Về phòng thay thuốc cho Bàn Tử, thay thuốc hiển nhiên là rất đau, nếu không ráng nhịn đau để chứng tỏ khí khải nam tử trước mặt Vân Thái thì hắn nhất định đã gào rống ầm ĩ như heo bị cắt tiết rồi.

Tôi tiến lên hỗ trợ, Vân Thái trái lại khá bình tĩnh, thay thuốc cho hắn nhẹ nhàng như chuồn chuồn lướt nước. Tôi phát hiện trên cằm hắn có mấy mảng thịt sưng vù nhỏ bằng móng tay, Vân Thái lấy thanh nứa cắt hết những chỗ sưng rồi bôi thuốc, quả thực chính là róc thịt sống, chẳng trách hắn đau chết ngất đi được.

Thay thuốc xong muốn ăn cơm cũng chật vật, khó khăn lắm mới ăn xong bữa, sắc trời cũng tối sầm lại. Cả đám đứng trên hành lang căn nhà sàn hóng gió, tôi thuật lại một lần tất tật những chuyện mình nghe được.

Nghe xong câu chuyện, hai người đều nhíu mày. Bàn Tử hỏi tôi: “Lại có chuyện như thế nữa à, má nó còn ghê hơn mấy chuyện ma quỷ tôi đem dọa bọn con gái hồi nhỏ. Chuyện này có thật không, cậu nói xem giả thiết của cậu là gì?”

“Tôi cho rằng, Bàn Mã tuyệt đối không bịa chuyện. Việc này chắc chắn là thật, nhưng cái “thật” của ổng không phải là “thật” theo nghĩa đen.”

“Ý cậu là sao?”

“Chúng ta đi tìm giả thiết hợp lý nhất, bỏ qua mấy cái nhảm nhí như hồ ma với chả yêu quái. Anh cảm thấy giả thiết hợp lý nhất trong trường hợpnày là gì?”

Bàn Tử lắc đầu: “Thôi đừng vòng vo nữa, não tôi bị ong chích thủng cả rồi, không đoán được cậu nghĩ gì đâu, cậu cứ xổ toẹt ra đi.”

Tôi gượng cười, khó khăn lắm mới tìm được cơ hội thể hiện chút ít mà Bàn Tử cũng không chịu phối hợp: “Được rồi, chúng ta loại bỏ hết những yếu tố không thể xảy ra, không có sống lại, không có yêu quái, nhưng câu chuyện phải logic, lời Bàn Mã nói phải đứng vững, thế thì chuyện này rõ ràng chỉ có duy nhất một khả năng.”

“Rõ ràng cái gì cơ?”

Tôi đáp: “Người chết sống lại thế quái nào được, suy ra đội khảo sát vào núi không phải đội khảo sát rời núi.”

Bàn Tử dừng một chút, lĩnh ngộ nói: “Ý cậu là, người chết không sống lại, những kẻ trở ra là một nhóm người khác?”

“Những người bị bọn Bàn Mã giết quả thực đã chết, Bàn Mã cũng không hiểu rõ về đội khảo sát kia, nếu có một nhóm người khác dịch dung, tôi nghĩ không cần phải giỏi hoá trang cũng lừa được Bàn Mã.”

“Nhưng vì sao bọn họ phải làm thế? Chẳng lẽ chỉ để đùa bỡn lão.”

“Tôi chỉ phỏng đoán thôi, thông qua tình hình của Bàn Mã và đội khảo sát kia, tôi cảm thấy chuyện này có thể có sai sót. Chúng ta đặt giả thiết đây là một âm mưu đã được tính toán từ lâu, vậy có thể trong âm mưu đó, vào cái ngày Bàn Mã giết chết cả đội thì đội khảo sát này cũng đã bị sắp đặt để biến mất. Nhưng kế hoạch này có thể xuất hiện sai sót, có lẽ sát thủ đến giết đội khảo sát đã gặp chuyện ngoài ý muốn trong rừng nên không đến nơi được, trái lại để Bàn Mã hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó đội khảo sát giả đến đây thay thế tưởng sát thủ đã hoàn thành nhiệm vụ, nên cứ dựa theo kế hoạch mà bắt đầu nhiệm vụ ngụy trang. Bàn Mã không hiểu rõ câu chuyện, mới nói nó là ‘hồ ma’.” Tôi nói: “Đây là một phỏng đoán hợp lý thôi, sự thật có thể khác hoàn toàn, nhưng nó chứng minh chuyện này có thể xảy ra.”

“Ờm, giả thiết này nghe cũng hợp lý đấy, cơ mà hình như Bàn gia đây đã từng nghe cái mô tuýp này ở đâu đó rồi?” Bàn Tử nói.”Cậu có bằng chứng không?”

“Chỉ có một vài chi tiết nhỏ, ví dụ như đội khảo cổ do Bàn Mã dẫn vào, nhưng lúc quay ra họ tự đi chứ không chờ Bàn Mã dẫn đường, chứng tỏ nhóm người sau có khả năng tìm đường ra. Chuyện xảy ra sau đó có thể là vì đội khảo sát phát hiện ra manh mối gì đó, bèn giết đám Bàng Nhị Quý diệt khẩu. Giờ tôi vẫn chưa biết đội khảo sát này có phải chính là đội đi Tây Sa không, nhưng tôi có cảm giác, dù không phải tất cả thì nhất định cũng có vài người trong số họ đi Tây Sa. Nếu là như thế thì anh nói xem, liệu có ai vì muốn vào đội khảo cổ đi Tây Sa mà tiến hành một vụ đánh tráo?” Tôi suy luận hết sức thành thục.

Bàn Tử hỏi: “Mẹ kiếp, nhưng cậu chứng minh kiểu gì được?”

“Cách trực tiếp nhất có lẽ là chúng ta đến chỗ cái hồ nằm trong núi Dương Giác xem sao. Bây giờ hồ đã thu hẹp, tôi nghĩ có thể lặn xuống nước thăm dò đáy hồ, xem liệu có những cái xác bị vứt xuống hay không.”

“Mẹ kiếp, chuyện này cũng khó nói lắm, từ đó đến giờ đã qua 40 năm, xác người lại chẳng nát bấy từ đời tám hoánh.”

“Xương cốt nhất định vẫn còn.” Tôi nói: “Đám Bàn Mã không có thuyền, chắc chắn chỉ vứt xác quanh hồ thôi, tôi nghĩ chúng ta có thể đi thử vận may.”
 
Quyển 6 - Chương 17: Dường như đã từng quen


Edit: Béo Bụng Bự

Beta: Thanh Du

*****


Bàn Tử cảm thấy giả thiết của tôi rất mơ hồ, nhưng cũng phải thừa nhận đây là khả năng hợp lý duy nhất.



Hắn ta vốn tích cực ủng hộ phương án vào chơi trong núi Dương Giác một ngày, thấy tôi nói muốn đi thì đương nhiên là đồng ý nhiệt tình. Sau đó chúng tôi bàn bạc cụ thể về công việc, vì chuyến này coi như đi du lịch, chẳng mang theo đồ nghề gì nên vấn đề trang bị cũng hơi khó nhằn. Lỡ đâuphải đào mồ quật mả cần có đồ nghề màmangtheo hai bàn tay trắng thì chỉ còn nước trơ mắt mà nhìn.

Nhưng ở những nơi thế này lại không có sẵn trang bị để mà mua, Bàn Tử nói có vài thứ cũng không khó giải quyết, chúng ta có thể mua cái khác bù vào, tuy không thuận tay cho lắm, nhưng lần này không đi xa thôn lắm nên cũng không cần đòi hỏi quá cao.

Hắn bảo, thợ săn nào mà chẳng có những vật dụng để sinh tồn nơi hoang dã, chúng ta cần gì phải vác theo nhiên liệu rắn và lò không khói. Nhưng chứng kiến độ hung hãn của dã thú rồi, tôi cảm thấy vẫn nên chuẩn bị vũ khí cho chu đáo thì hơn.

Tôi gọi A Quý tới để thương lượng về những chuyện này. Bản thân A Quý cũng đi săn, có ba khẩu súng săn đều là súng cũ không rõ tên tuổi được sửa sang lại, niên đại cũng không đồng đều. Khẩu cũ nhất được A Quý lấy ra từ chuồng gà, tuy nòng súng vẫn còn nguyên vẹn nhưng bên trong đã hoen gỉ cả rồi, chẳng ai dám xài đến, vả lại cũng không biết đào đâu ra đạn. Hai khẩu còn lại vẫn bắn được, xem ra là di vật từ thời chiến tranh.

Mấy năm trước có lệnh cấm súng, nhưng người vùng này sống bằng nghề săn thú, đã là cần câu cơm thì dễ gì giao ra. Cấp trên hiểu chuyện nên cũng mắt nhắm mắt mở cho qua, có điều bây giờ đạn là hàng hiếm, A Quý phải nhờ cán bộ thôn lên tận huyện mới mua được.

A Quý cũng chỉ là thợ săn nghiệp dư nên không giữ nhiều đạn trong nhà. Bàn Tử kiểm tra hai khẩu súng rồi nói: “Súng của A Quý tuyệt đối không có vấn đề gì, một khẩu đã lâu không đụng đến nhưng được bảo dưỡng tốt lắm, phải bắn thử một phát mới biết có xài được không.”

Chúng tôi trả cái giá cắt cổ năm mươi đồng một viên đạn, mua được bốn năm mươi viên từ mấy nhà hàng xóm của A Quý. Tôi nhìn viên đạn hình trụ bằng đồng thau, biết ngay đây hàng thủ công làm ra trong xưởng nhỏ. Cái của nợ này mà mua mất năm mươi đồng, mẹ kiếp đúng xót ruột. Bàn Tử bèn khuyên đừng có bủn xỉn như vậy, năm mươi đồng mà cứu được mạng cậu thì cũng đáng chứ.

Nhà A Quý đã có sẵn dao phát, anh ta mài lại cho sắc; những món đồ khác chúng tôi viết ra giấy rồi bảo A Quý đi quanh thôn tìm xem có vật thay thế hay không. Thiếu dây thừng leo núi thì xài dây gầu dưới giếng, thiếu đèn pin công suất lớn thì mượn mấy cái đèn pin nhỏ buộc lại, thiếu dao găm thì xài tạm lưỡi liềm.

A Quý bảo chúng tôi giờ đang vào mùa mưa, trong núi nhiều muỗi kiến độc, đặc biệt là vùng ven hồ, muỗi ở đấy to bằng con ong vò vẽ; đề nghị phải mang theo nhang muỗi và màn, quây quanh đống lửa, bằng không mấy người thành phố chúng tôi nhất định sẽ không chịu nổi. Tôi lại thầm nghĩ, có Muộn Du Bình ở đây còn lo gì nữa?

Sắp xếp ổn thỏa, A Quý liền nói mấy món đồ này sẽ phải mất một hai ngày để chuẩn bị. Dù sao thợ săn vào đó cũng chưa ai trở về, nên chuẩn bị cho chu đáo rồi hẵng xuất phát.

Trong lúc này, Bàn Tử lại hỏi có thể nghĩ cách dùng acid sunfuric mình mang về để xem trong khối sắt kia chứa vật gì không? Việc này cần những thao tác tinh vi, phải kiếm bãi đất nào khá khẩm hơn một chút.

Tôi nghĩ đến câu chuyện Bàn Mã kể, thấy không ổn cho lắm. Từ khối sắt này tản ra một thứ mùi, hơn nữa cái mùi này còn nhạt dần đi theo thời gian, cho thấy bên trong chứa một loại vật chất bay hơi, có quỷ mới biết loại vật chất này có gây hại cho cơ thể người hay không. Tôi cảm thấy vẫn chưa đến lúc dùng acid hòa tan vật này, tốt nhất là chờ đến khi tra được chút manh mối rồi mới phán đoán xem có cần thiết phải mạo hiểm như thế hay không.

Bàn Tử tò mò muốn chết đi được, nhưng lời tôi nói cũng rất có lý. Nghĩ đến chuyện có thể ảnh hưởng đến những người khác, hắn cũng chỉ còn cách từ bỏ.

Sau đó Bàn Tử tỏ ra hết sức hào hứng, thứ nhất hắn tin chắc vào giả thiết cổ mộ của mình, thứ hai hắn đã lâu không đi săn nên chân tay ngứa ngáy lắm rồi, bất chấp khuôn mặt nở toe toét như hoa loa kèn (1), cả đêm không ngừng ba hoa về chuyện mình đi săn thú hồi xưa. Tôi cũng đang cao hứng, trong đầu nảy ra một vài giả thiết; còn Muộn Du Bình vẫn ngậm hột thị, tôi thấy anh ta cứ nhìn đăm đăm vào ngôi nhà A Quý nằm kế bên, nhìn cái cửa sổ kia đến xuất thần.

Tôi nhớ lại cái bóng mình nhìn thấy trong căn nhà đó vào đêm hôm trước, nhưng bây giờ khung cửa sổ kia tối om om, chẳng nhìn thấy gì. Con trai A Quý hình như không thích gặp người, ít khi giao du. Tôi hoài nghi không biết có phải cậu ta mắc bệnh gì nên mới phải ru rú trong nhà, ở nông thôn thường có chuyện như thế.

Một đêm thức trắng, cộng thêm một ngày nghĩ ngợi căng thẳng, chẳng bao lâu đầu óc tôi đã mơ màng không nghe rõ Bàn Tử đang nói gì nữa. Muộn Du Bình thì tựa vào đâu đó ngủ gà ngủ gật, ngoài này mát mẻ hơn trong nhà nhiều, xung quanh Muộn Du Bình không có lấy một con côn trùng, chúng tôi cứ thế nằm xuống ngủ mê mệt.

Ngày thứ hai ai nấy đều tự chuẩn bị hành lý phần mình, sang ngày thứ ba mọi việc đã xong xuôi, A Quý dẫn chúng tôi lên đường.

Chuyện khiến tôi bực bội nhất là không thấy người dẫn đường trong truyền thuyết đâu cả; người đi cùng lại chính là A Quý và Vân Thái.

Tôi hỏi có chuyện gì thế, A Quý không phải anh đã nói mình chưa đến đó bao giờ sao? Cớ gì anh lại đích thân dẫn chúng tôi đi.

A Quý đáp dạo này thợ săn vào núi chẳng biết gặp phải trở ngại gì mà mấy đội đi không một ai trở lại. Những người khác đều chưa từng đến đó, anh ta đành nhờ con gái Vân Thái dẫn đi; trước kia Vân Thái từng theo ông nội vào đó vài lần nên biết rõ đường. Anh ta dẫn theo chúng tôi cộng thêm Vân Thái biết đường, vả lại còn có chó nên chắc không có vấn đề gì lớn đâu.

Tôi thầm nghĩ thôi tiêu rồi, chắc mình trả giá quá cao nên A Quý không nỡ để đống tiền lọt vào tay người khác đây mà. Bàn Tử lập tức phản đối, nói chúng tôi đi làm công chuyện, có phải trò đùa đâu mà mang theo một con bé, lỡ bị thương kẻ làm cha như ông không đau lòng thì chúng tôi cũng đau.

A Quý vẫn khăng khăng nói không sao đâu mà, con gái ở đây lên năm lên sáu đã chơi súng, vào trong núi nó còn được việc hơn các anh. Với lại nó cũng thuộc đường trong núi hơn tôi, các anh đừng lo lắng.

Nói đến đây thì Vân Thái từ trong nhà bước ra, tôi và Bàn Tử vừa nhìn đã lóa mắt. Chỉ cảm thấy Vân Thái dương như đã biến thành con người khác, cô bé mặc trang phục đi săn của người Dao, dao săn buộc sau eo, lưng đeo một khẩu súng săn ngắn. Con gái người Dao vốn có dáng vóc đẹp, khoác bộ đồ này lên lại khoe trọn bắp chân và những đường cong trên thân thể, quả là đẹp mắt.

Thêm vào đó là vẻ mặt vừa tươi tắn lại vừa mạnh mẽ tinh anh, cộng thêm khí thế khiến người ta không thể chối từ của tuổi mười bảy mười tám, loáng cái đã chinh phục được Bàn Tử.

Cô bé lại gần chúng tôi, nhìn Bàn Tử đầy khiêu khích: “Ông chủ nói vậy là có ý xem thường người ta phải không?”

“Đâu có đâu có!” Bàn Tử chối lia lịa: “Em gái à, chớ có hiểu lầm, chẳng qua anh sợ em phải chịu khổ thôi, chứ thật ra em mới đúng là lựa chọn tốt nhất.”

Tôi đá cho Bàn Tử một cú, khẽ mắng: “Sao ông anh trở mặt nhanh như chong chóng thế, ông anh đã đến tuổi này rồi còn muốn làm trâu già gặm cỏ non hay sao?”

“Đến tuổi này thì đã làm sao, tôi đây gọi là người đến tuổi tráng niên, cùng lắm thì làm tráng ngưu.”

Tôi thở dài: “Ông anh nghĩ mà xem, người ta là đêm động phòng dưới chăn uyên ương, một nhánh hoa lê áp hải đường (*). Ông anh thì hay rồi, đúng là một con heo mập áp hải đường, nếu ông anh dám làm bậy, tôi sẽ đại diện cho trai tráng cả tộc Dao bắn chết tươi.”

(*) Đây là hai câu thơ trong bài Nhất thụ lê hoa của Tô Đông Pha làm ra để trêu chọc một cặp chồng già lấy vợ trẻ. Cây lê sống lâu, vốn là biểu tượng của tuổi già; hoa lê màu trắng như mái tóc bạc phơ. Hải đường lại tươi tắn rực rỡ, tượng trưng cho cô gái trẻ. Nhưng Bàn Tử không hợp với hình tượng cành lê thanh mảnh nên đổi thành heo mập hợp hơn =))

Cười đùa một hồi, tôi cũng đành phải chấp nhận. Nhìn khí phách của Vân Thái, tôi cảm thấy A Quý nói không sai, vả lại tôi đoán chuyến đi này cũng không gặp nguy hiểm gì quá lớn.

Điều duy nhất khiến tôi bận tâm là khi chúng tôi gói ghém đồ đạc, Bàn Tử luôn trêu đùa Vân Thái, chọc Vân Thái cười khanh khách. Nhưng để ý thì thấy Vân Thái thỉnh thoảng lại len lén nhìn Muộn Du Bình, nhìn rất cẩn thận, chỉ liếc mắt một cái rồi quay đi ngay, nhưng tôi vẫn nhìn ra được chút manh mối từ đôi mắt trong veo ấy.

Chúng tôi xuất phát, đi dọc theo còn đường đi tìm lão Bàn Mã lần trước. Tôi cũng lờ mờ nhớ đường, chuyến đi này vui vẻ hơn lần đi tìm người kia nhiều. Bàn Tử quả thực đã bị mê hoặc rồi, cứ lượn lờ quanh Vân Thái suốt, chỉ thiếu điều bò bằng bốn chân làm ngựa cho cô cưỡi; mà Vân Thái cũng thật dễ thương và sôi nổi.

Cô hỏi chúng tôi rốt cuộc làm nghề gì, nhất định không phải hướng dẫn viên du lịch rồi vì làm gì có hướng dẫn viên du lịch nào lại đến cái chốn này chứ. Bàn Tử liền ra vẻ thần bí, nói tụi anh là nhân vật lớn đi làm nhiệm vụ bí mật, nếu em chịu hôn anh một cái thì anh sẽ tiết lộ cho em biết.

Tôi còn sợ Vân Thái hôn hắn ta thật, vậy cũng quá lãng phí rồi, may mà Vân Thái vẫn còn mắt thẩm mỹ, cương quyết không mắc mưu. Nhưng Muộn Du Bình vẫn dửng dưng trước bầu không khí náo nhiệt của chúng tôi, sắc mặt hắn không hề thay đổi khiến tôi cảm thấy có gì đó khác thường.

Đêm hôm ấy chúng tôi đến sơn khẩu nơi có ngôi mộ cổ, đi sâu thêm một vài km nữa rồi nghỉ ngơi, đến hửng sáng lại lên đường, đi suốt hai ngày trong núi là đến được mép hồ kia.

Tôi đứng trên triền núi, từ xa đã thấy cái hồ kia. Có lẽ là vì mấy ngày mưa to liên tiếp nên mặt hồ cũng lớn tưởng tượng của tôi một chút, dĩ nhiên bốn phía vẫn là đá tảng như lời Bàn Mã nói. Chúng tôi đi đến ven hồ, hoàn toàn không nhìn ra dấu vết có người đã từng đóng quân ở đây năm nào.

Nước hồ trong veo in bóng mây trên trời thành một cảnh tượng đẹp đẽ. Chúng tôi bỏ đồ đạc xuống, đến bên hồ rửa mặt. Nước hồ lạnh băng cho thấy đáy hồ thông với mạch nước ngầm trong đất, vào ngày tam phục (*) chạm tay vào mặt nước lạnh lẽo khiến người ta run rẩy toàn thân.

(*) Tam phục: chỉ thời kỳ nóng nhất trong năm, gồm sơ phục, trung phục mà mạt phục. Sơ phục là khoảng thời gian từ ngày thứ 21- 31 sau hạ chí; trung phục là 10 ngày nối tiếp sơ phục (trong năm nhuận thì là 20 ngày nối tiếp sơ phục); mạt phục là 10 ngày kể từ lập thu.

Rửa mặt xong, tôi ngẩng đầu nhìn lên bốn phía, nhìn mặt nước in bóng bầu trời và núi non xung quanh, chợt nhận ra nơi này dường như đã từng quen thuộc. Tôi liếc sang bên cạnh, thấy Muộn Du Bình cũng đang nhìn phong cảnh núi non bốn bề với vẻ nghi hoặc.

———————————————-

(1) Nguyên văn: 马蹄莲
 
Quyển 6 - Chương 18: Câu đố


Edit: Ala Ju

Beta: Thanh Du

*****

Trước đây đã từng xảy ra chuyện tương tự làm tôi sởn da gà, Muộn Du Bình cũng ngây ra mà nhìn với ánh mắt đầy nghi hoặc, chưa biết chừng hắn có cảm giác giống tôi.

Ở đâu nhỉ? Tôi đã từng thấy cảnh này ở đâu, hay từng thấy tình cảnh tương tự như vậy ở đâu rồi?

Tôi ra sức hồi tưởng, suy đi nghĩ lại mà vẫn không tài nào nhớ ra, chỉ biết rõ mình từng thấy cảnh tượng này cách đây không lâu, hơn nữa đi kèm với cảm giác thân thuộc còn có một loại cảm giác “không đúng”. Hiển nhiên ấn tượng trong tâm trí tôi vẫn không hoàn toàn trùng khớp với nơi này.

Bàn Tử vô tâm vô phế, cởi sạch đồ chỉ còn mỗi quần đùi rồi nhảy xuống nước bơi. A Quý cẩn thận hơn, hồ nằm trong núi vốn là điềm chẳng lành nên không có việc gì thì hạn chế bơi lội.

Trở lại bờ, chúng tôi cởi giày và quần ướt đẫm ra, Bàn Tử phụ A Quý dựng lều che mưa. A Quý đi đốn củi trở về, Vân Thái giúp nấu cơm, tôi uống nước xong mới nhớ ra mình đã gặp thế núi này ở đâu.

Hình dạng và cảm giác về ngọn núi này không ngờ lại khá tương đồng với cảnh núi chúng tôi nhìn thấy khi vọc nước ở dòng suối ven thôn, đường nét và hướng núi đều giống nhau như đúc; có khác chăng là khi đó chúng tôi ở dưới suối, còn giờ thì ở trong hồ, điều này khiến tôi phải sững sờ trong giây lát.

Khi đó tôi đã cẩn thận quan sát cảnh vật xung quanh khe nước; đừng nhìn Muộn Du Bình có vẻ mất tập trung mà nhầm, hắn chắc chắn đã thu tất cả vào trong mắt. Còn sự chú ý của Bàn Tử lại dồn hết lên những cô bé kia, hèn gì không phát hiện ra.

Thật thú vị, bàn tay tạo hóa thật diệu kỳ, không biết đây chỉ đơn thuần là trùng hợp hay do nguyên nhân địa chất nào đó mà thành hình.

Sau đó tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu đi quanh hồ để thăm dò.

Hồ cũng chỉ còn rộng khoảng hai sân đá banh, đi một lát là xong. Dưới đáy hình như toàn là đá tảng nhưng thành hồ rất dốc, xem ra lòng hồ cũng khá sâu.

Tôi luôn có cảm giác sợ hãi một cách khó hiểu đối với những hồ nước sâu. Có câu nước cạn không chứa rồng, nước sâu tất có quái, lòng nước sâu cho thấy dung tích của hồ không nhỏ như chúng ta thấy từ bề mặt, mà có thể còn chứa đựng thứ gì kỳ quái bên trong. Trên thế giới có biết bao nhiêu hồ lớn chứa thủy quái, tuy bề mặt chúng không rộng nhưng lại rất sâu. Dù không có gì kỳ quái thì chỗ nước sâu cũng dễ có cá lớn, thi thoảng vào mùa nước lên sẽ phát hiện vài con cá khổng lồ.

Không thấy vết tích xương cốt rõ ràng, song những viên đá này đều nhỏ vụn, trong hơn 40 năm mực nước nơi này lên xuống vô định, đá núi không ngừng lăn xuống, những mảnh xương này kia có thể nằm bên dưới lớp đá.

Chúng tôi phán đoán tình hình lúc đó, dựa theo lẽ thường thì có lẽ đội khảo cổ dựng trại ở bờ nam. Bờ bên kia là núi, có nguy cơ gặp đất đá bùn lầy trôi xuống, vậy thì khu vực chúng tôi muốn tìm hẳn là bờ nam.

Đây là một công việc đồ sộ, may mà còn dẫn theo vài con chó, nhưng cũng chẳng biết có tác dụng gì không. Thi thể ngâm nước chừng ấy năm nhất định đã thành xương trắng, có lẽ trông cũng từa tựa đá tảng.

Ăn cơm trưa xong, A Quý đi thăm thú xung quanh xem có món gì tốt. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm trong khu vực, Vân Thái giặt mớ quần áo đẫm mồ hôi giùm chúng tôi. Vùng ven hồ rất rộng, tôi, Bàn Tử và Muộn Du Bình chia nhau mỗi người một khoảnh mà tìm kiếm.

Lấy tay không vần từng khối từng khối đá, nơi đây đá chất thành cụm hẳn là do những tảng đá gần bờ hồ không ngừng lăn xuống. Nhưng đáy hồ lại từ từ dốc xuống, vả lại bản thân những tảng đá tích tụ lại còn có tác dụng chống nước mưa bào mòn (nước mưa không chảy thành dòng bên trên bãi đá mà sẽ ngấm qua đá, hợp thành dòng nước ngầm bên dưới.) Nơi Bàn Mã vứt thi thể năm nào chắc chắn rất gần bờ, cho đến giờ cũng đã khô hạn nhiều năm và mọc đầy cỏ nên tôi nghĩ hài cốt sẽ không bị vùi quá sâu.

Bàn Tử nói thi thể bị ném xuống đó nếu không buộc lại thì ban đầu sẽ trôi lơ lửng, sau đó chìm xuống rồi bị tôm cá rỉa, xương cốt phân tán hết, đầu ở đây cái kia có thể trôi xa hơn 100m, muốn kiếm cũng kiếm không ra. Mà nếu thi thể không được ném xuống nơi đủ sâu thì có thể còn bị thú vật tha lên bờ xé ăn.

Tôi nói dù gì đi chăng nữa cũng khó có chuyện không lưu lại chút manh mối nào. Mao chủ tịch từng nói hai chữ đáng sợ nhất trên đời là niềm tin, chúng ta cứ tìm trước đã, tìm không thấy hẵng đi phân tích nguyên nhân sau.

Cứ thế cho đến khi trời chiều đã ngả về tây, ba người vẫn tay trắng. Mấy con chó săn chạy chơi ven hồ, hoàn toàn không đếm xỉa đến chúng tôi, cũng chả thèm giúp sức. Phơi dưới ánh nắng gay gắt bên bờ hồ cả ngày khiến đỉnh đầu tôi đau rát; từ trong rừng vang lên hai tiếng súng của A Quý, rồi anh mang về một con gà rừng đem nướng, chẳng mấy chốc mùi thơm đã tỏa ra ngào ngạt làm chúng tôi thèm nhỏ rãi.

Bàn Tử không nén nổi tâm trạng ủ rũ, lúc nghỉ ngơi chúng tôi quây quần bên nhau mà hút thuốc, Bàn Tử liền nói thôi đủ rồi, cậu nhìn thử xem khu này chỗ nào nhiều khả năng có mộ cổ?

Tôi bảo chẳng phải anh cũng biết sơ sơ đó sao, anh nói xem chỗ nào ở đây có mộ? Bàn Tử liền đáp: “Tôi thấy không ổn đâu, nhìn sơ qua thế núi nơi này chẳng ra cái dáng gì cả, khó có mộ lớn lắm. Nhưng Bàn gia đây trình độ nửa vời, nên mới hỏi lại cậu xem tôi có nhìn lầm không.”

Tôi nghĩ bụng trình độ anh mà nửa vời thì trình độ tôi chắc là hạng bét, cũng chẳng còn bụng dạ đâu mà suy xét chuyện này, dù sao cũng phải nán lại vài ngày rồi mới về, từ từ khoai khắc nhừ thôi.

Hiếm khi trong lòng không vội vã, uống ít rượu gạo, chúng tôi quây quần quanh đống lửa ven hồ nghỉ ngơi hóng mát. Hồ nằm ven núi, không khí mát rười rượi. Vân Thái cũng đã thay sang một chiếc sơ mi mỏng, gội đầu xong bỗng khoác lên mình dáng dấp con gái thành phố hiện đại, sau bữa cơm còn nhảy múa cho chúng tôi xem. Vũ điệu của người Dao có rất nhiều động tác xoay tròn và đá cẳng chân, mà chân con gái Dao lại đẹp nõn nà làm Bàn Tử ngồi coi muốn rớt cằm, khăng khăng đòi học, nhưng tướng nhảy của hắn y như lên đồng làm tôi cười lăn cười bò cả ra.

Lâu rồi không cười sảng khoái đến thế, mãi mới ngưng lại được, tôi đảo mắt nhìn sang Muộn Du Bình thì đã thấy hắn dựa vào tảng đá, nét mặt không hề thoải mái, nếu nhìn lướt qua sẽ không phát hiện ra hắn đang tồn tại.

Tôi thầm nghĩ, mình tới đây truy tìm quá khứ của hắn liệu có phải sai lầm hay không? Nhưng nhìn những manh mối hiện đã thu thập được thì hiển nhiên trên lý thuyết chúng tôi đến đúng chỗ rồi. Đối với chúng tôi con đường đến đây có thể đi một cách ung dung, nhưng với hắn những thứ gặp phải trên đường luôn gợi mở cánh cửa quá khứ, muốn thả lỏng cũng khó.

Người này lại mang đặc trưng của kiểu nhân cách hướng nội, lòng ở ngoài chốn đào viên mà vẫn cười với gió xuân, chẳng để ai vào lòng. Tôi nhặt một hòn đá nhỏ ném hắn, nói: “Anh đừng cả nghĩ, nói cho anh biết, theo kinh nghiệm của tôi có nghĩ đến nát óc cũng chẳng để làm gì. Chúng ta đang chắp tranh, trước khi tìm ra tất cả mảnh ghép thì nghĩ ngợi ít thôi.” Rồi đưa rượu gạo cho hắn.

Muộn Du Bình lặng lẽ nhận lấy rồi đặt sang một bên. Tôi thở dài: “Anh không thể uống lấy một ngụm sao.”

Hắn lắc đầu, nhìn sang khoảng tối bên cạnh.

Tôi đành chuyển sự chú ý sang Bàn Tử, thấy hắn đang ra câu đố mẹo cho chúng tôi đoán, hỏi Vân Thái chiến đấu như thế nào thì gọi là “Giết địch một trăm, tự tổn ba ngàn.”

Tôi sợ Bàn Tử lấy truyện cười bậy bạ ra cho Vân Thái đoán, nhuộm đen đầu óc trong sáng của cô bé, liền la rầy hắn. Bàn Tử nói yên tâm đi, câu đố này hoàn toàn đứng đắn.

A Quý cũng nốc kha khá rồi, chỉ biết cười ngô nghê, đoán tới đoán lui vẫn trượt, cuối cùng công bố đáp án hóa ra lại là xuông đối trận với xập xám chướng, chỉ chăm chăm nã pháo, thắng nhà con một trăm lại trúng pháo thua ba mươi lần.

(Đây là những thuật ngữ chỉ các thế bài trong mạt chược. Xuông (Nguyên văn: thí hồ) là thế bài tạp không được tính điểm (phán) nào, xập xám chướng (Nguyên văn: thập tam yêu) là thế bài có đủ 13 quân nhất vạn, cửu vạn, nhất tác, cửu tác, nhất đồng, cửu đồng, đông, tây, nam, bắc, bạch, phát, trung, là thế bài đặc biệt, nã pháo chính là “ù”. Mỗi ván có một người đóng vai nhà cái, còn lại là nhà con, cách chơi của nhà cái và nhà con sẽ khác nhau đôi chút. Để tìm hiểu kĩ hơn mời vàođây)

Trò này không phổ biến trong thôn người Dao, Vân Thái chẳng hiểu mô tê gì sất, tôi mới mắng anh hỏi thế chẳng hóa bắt nạt người ta hay sao? Có câu đố mẹo nào mang tính địa phương một chút không hả?

Bàn Tử đáp có, rồi lại hỏi: “Tiếp nè, chiến đấu như thế nào thì gọi là “Giết địch một tên, tự tổn ba ngàn.”

“Ong vò vẽ!” Vân Thái lập tức giơ tay đáp.

Bàn Tử lắc đầu: “Nha đầu thúi, cố ý đâm thọt anh hả?”

Cả đám cười rộ lên, rồi tôi nói vậy chắc chắn là kỵ binh đấu với xe tăng, Bàn Tử bảo nếu đấu với xe tăng thì có tổn thất một vạn kỵ binh cũng không hạ nổi một cỗ.

Chúng tôi tiếp tục đoán, người đoán chơi bài tây, người đoán con kiến, người lại đoán là ăn bào ngư, Bàn Tử đều nói sai rồi, cái mặt vênh vênh đắc ý cứ như đang cười nhạo trí khôn của chúng tôi.

Tôi phát cáu, bảo tiên sư thế anh nói coi đó là kiểu chiến đấu gì? Đáp án mà khiên cưỡng là tôi tẩn cho đấy.

Bàn Tử đáp: “Quá dễ, hầy, Bàn gia đây đúng là thiên phú dị bẩm, hạng phàm phu tục tử các người còn kém xa. Nghe cho kỹ lời tôi nói đây, giết địch một tên tự tổn ba ngàn, là trận chiến giữa chuối tiêu và voi.”

Tôi nghe vậy lườm lườm Bàn Tử, mắng, anh nói bậy gì đó, chuối tiêu đấu với voi là cái của nợ gì, anh nói coi chuối tiêu đấu với voi kiểu gì mà giết địch một tên tự tổn ba ngàn?

Bàn Tử đáp: “Thì voi chết no chứ sao.”

Chúng tôi cười ồ lên, Vân Thái cũng cười đến suýt ngạt thở. Song cười được vài tiếng chúng tôi cũng phải từ từ ngừng lại, bởi tôi thấy trong lúc cả đám cười lăn cười bò ra thì Muộn Du Bình lại lẳng lặng đứng lên, bước tới bên hồ, rồi ngồi ra một góc xa nơi ánh lửa trại phải khó khăn lắm mới chiếu đến.

Trong mắt Vân Thái lướt qua một tia hốt hoảng, nhìn sang chúng tôi: “Chúng ta ồn quá, làm phiền anh ấy sao?”

Bàn Tử thở dài, rít một hơi thuốc lá rồi an ủi: “Không đâu, hắn đi đại tiện ấy mà.”

Tôi nhìn Muộn Du Bình, lòng âm thầm thở dài, đang định đứng lên đi xem xem có chuyện gì thì Vân Thái đã giành mất cơ hội, bước về phía hắn.
 
Quyển 6 - Chương 19: Hiệu ứng siphon


Edit: Biển

Beta: Thanh Du

*****

Vân Thái ngồi bên Muộn Du Bình, cách chúng tôi một quãng khá xa nên không biết hai người có nói chuyện không. Bàn Tử nhìn họ đăm đăm, tôi mới trêu rằng: “Thất tình hả, thôi hãy cố nén bi thương mà chấp nhận sự thật đi.”

Bàn Tử phản bác: “Tôi tin Tiểu Ca chắc chắn là người có nghĩa khí.” Nói rồi đưa rượu sang cho tôi, còn mình thì đứng dậy đi trút bầu tâm sự. Chẳng mấy chốc sau lưng đã truyền đến tiếng nước chảy tồ tồ, chảy mãi chưa dứt, không biết hắn đã phải nín bao lâu.

Tôi không nhịn nổi mà bật cười rũ rượi, cười chán chê mới nhìn về mặt hồ xa xa chìm trong ánh trăng mờ ảo, chợt cảm thấy mình đến được nơi đây có lẽ cũng là duyên số.

Chỉ nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, ai mà ngờ được năm đó đã xảy ra chuyện quỷ quái đến vậy, cũng như nghe tiếng cười phóng khoáng bề ngoài, ai mà biết thực ra trên vai chúng tôi mang theo biết bao nhiêu gánh nặng. Mọi thứ trên đời đều vô cùng đơn giản, mà con người dường như lại là thứ phức tạp nhất, kiểu phức tạp này họ vốn muốn chống đối, nhưng rồi lại không thể trốn tránh được.

Suy nghĩ viển vông, quả đúng là suy nghĩ viển vông. Tôi nhắm nghiền hai mắt, hít sâu một hơi, nhớ lại tâm tư của mình ngày trước, rồi nghĩ đến tâm trạng của bản thân lúc này, chợt thấy hình ảnh cái kẻ cứ mãi quẩn quanh giữa muôn vàn câu đố quả có hơi tức cười.

Bàn Tử giải quyết xong nỗi buồn, lập cập quay lại, thấy Vân Thái vẫn ngồi bên đó liền thắc mắc: “Con bé kia còn chưa bị đuổi về à? Cũng lì lợm dễ nể nha.”

Tôi bảo: “Đừng nói vậy, biết đâu Tiểu Ca lại thích kiểu này thì sao, có khi người ta đã trao tín vật hẹn ước luôn rồi.”

Bàn Tử đáp: “Làm gì có chuyện đó, họ ngồi cách chúng ta rõ xa, lỡ có con yêu quái nổi lên dưới hồ kéo họ đi mất thì tôi cũng không cứu kịp. Thôi tôi qua đó bảo vệ hai người ấy đây.” Dứt lời liền nhổm lên định đi.

Tôi giữ hắn lại, bảo anh đừng có quấy rối. Giờ này có lẽ Muộn Du Bình đang rất buồn bực, đầu óc chất chứa vô vàn câu hỏi, tình cảnh này tôi đã từng trải qua, cứ để hắn ngồi một mình thì hơn. Anh lắng nghe cho kỹ đi, Vân Thái không hề nói chuyện, chắc là đang ngắm trời trăng với hắn thôi.

Bàn Tử ngồi xuống dỏng tai nghe ngóng, lại nghe như Vân Thái đang hát. Tôi và Bàn Tử đều lặng đi, gió hồ hiu hiu mang theo tiếng ca trong trẻo, là một bài hát của người Dao, lời ca nhẹ bẫng lại hết sức rõ ràng.

Chẳng ai nói gì nữa, tôi thầm nhủ con bé Vân Thái kia đúng là không tệ, bèn thả lỏng người nằm xuống, ngắm bầu trời đầy sao tiếp tục lắng nghe.

Trên trời mây lững lờ trôi, lòng tôi nhanh chóng bình lặng như mặt nước hồ. Dần dần, giữa tiếng ca huyền ảo, tôi từ từ chìm vào mông lung, dường như muốn thiếp đi.

Nhưng giờ hãy còn sớm, tôi mơ mơ màng màng không biết bao lâu thì tiếng hát chợt ngừng. Tôi thoáng giật mình mở mắt, chỉ thấy Muộn Du Bình đằng kia đã đứng dậy nhìn xuống mặt hồ, bầy chó đang uể oải nằm kế bên cũng ngẩng đầu nhìn theo một hướng.

Bàn Tử còn đang nhắm mắt nghỉ ngơi, A Quý cũng cảm thấy có chuyện khác thường. Tôi lay Bàn Tử dậy, chợt nghe trong gió có tiếng “oàm oạp” truyền đến từ phía hồ, giống như có những bàn chân ngoại cỡ đang bước lên từ bãi cạn trong hồ.

Bầy chó đều đứng dậy nhìn chằm chằm đầy cảnh giác về hướng đó, những con chó săn này đều được huấn luyện nghiêm khắc, không hề sủa bậy. Tôi và Bàn Tử liếc nhìn nhau, tôi nhe răng với hắn, hắn chỉ cái đèn pin ở bên cạnh ý bảo tôi đưa sang. A Quý vừa ra hiệu cho chúng tôi trật tự ngồi xuống vừa xua tay ý nói chúng tôi đừng căng thẳng, rồi thì thào: “Không sao đâu, hình như là thú hoang đang uống nước.”

“Là con thú gì vậy, nghe tiếng động thì cái đầu nó phải bự lắm.” Bàn Tử hỏi nhỏ.

A Quý cầm chắc súng săn, ra hiệu cho chúng tôi ngồi yên đừng quậy, rồi bước chân trần dò dẫm trong bóng đêm, Vân Thái cũng theo sau. Bàn Tử không dằn lòng được liền nháy mắt ra hiệu, mà tôi cũng muốn hóng, bèn len lén bám đuôi sau vài mét.

Đi đến bên Muộn Du Bình, có thể lờ mờ thấy được một chút cảnh tượng trên mặt hồ. Chúng tôi tìm kiếm con thú hoang trong truyền thuyết nhưng không thấy gì cả, có thể con thú này uống nước thì ồn nhưng cái đầu cũng không lớn. Chúng tôi quét đèn pin qua, men theo âm thanh mà tìm kiếm, rồi nhận ra loại âm thanh này có nhịp diệu.

“Không phải thú hoang thì là tiếng gì chứ?” Bàn Tử làu bàu.

“Là tiếng thủy triều.” Muộn Du Bình đáp.

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, cái hồ nhỏ xíu này mà cũng có thủy triều? Chẳng lẽ hôm nay có siêu trăng? Ngẩng đầu nhìn lên, mặt trăng hôm nay hơi mờ.

A Quý buông súng, chúng tôi đi đến ven hồ. Tới gần mép nước, quả nhiên nước hồ đang sóng sánh nhịp nhàng như sóng biển vỗ bờ cát, có điều biên độ không lớn. Còn âm thanh giống như động vật uống nước kia là do tiếng nước vỗ vào một tảng đá vọng lại.

Tôi nhìn bãi đá dưới chân, lờ mờ nhận ra mực nước đã hạ xuống để lại một mảng ẩm ướt dưới chân. Nói cách khác trong khoảng thời gian chúng tôi chém gió ngó trăng rồi nghe Vân Thái hát hò, nước trong hồ vẫn liên tục hạ. Từ vùng đất ẩm đi đến mép nước ít ra cũng phải vài chục bước, xem ra mực nước đã vơi đi rất nhiều.

“Chuyện quái quỷ gì đây? Chẳng lẽ có hàng trăm con voi đang uống nước ở bờ bên kia?” Bàn Tử khum tay nhìn ra xa.

Tôi thông thạo địa lý, liền giải thích: “Đây là hiệu ứng siphon.”

“Hiệu ứng siphon là cái gì? Rượu Hồng Tinh ấy hả?”

(Hiệu ứng siphon nguyên văn là 虹吸效应- hóngxīxiàoyìng, có thể hiểu nôm na là nguyên lý bình thông nhau, khi được nối liền qua một ống dẫn thì mực nước trong hai bình luôn cân bằng với nhau. Bàn Tử nghe nhầm thành 红星二锅头 – hóngxīngèrguōtóu, một loại rượu trắng giá rẻ rất phổ biến ở Trung Quốc.)

“Xem ra hồ này thật sự nối liền với mạch nước ngầm trong đất, gần đây có thể còn một cái hồ lớn hơn nữa nối liền với nó. Cái hồ kia bị tác động bởi thủy triều hoặc khí áp, kéo theo hồ bên này cũng chịu chung ảnh hưởng. Nếu ví hồ lớn và hồ nhỏ là hai khối nam châm, lại giả sử hiệu ứng siphon hình thành do lực hút của mặt trăng, vậy thì bản thân mặt trăng cũng là một khối nam châm lớn. Chắc chắn lực hút tác động lên hồ lớn sẽ mạnh hơn, nên giữa hai hồ xuất hiện chênh lệch áp suất, nước trong hồ nhỏ sẽ bị hút sang bên hồ lớn, khiến mực nước trong hồ nhỏ hạ xuống.” Tôi ngẩng đầu nhìn lên trời mà giải thích, chợt nhận ra điều gì đó.

Chẳng trách chúng tôi không tìm thấy chút dấu vết nào của thi thể. Nếu ở đây tồn tại hiệu ứng siphon, hằng đêm đều xuất hiện thủy triều siphon, vậy thì thi thể năm đó có lẽ đã bị thủy triều siphon hút đến giữa hồ rồi, cái này cũng giống như nguyên lý của bồn cầu tự hoại.

Không riêng gì thi thể mà tất tật mọi thứ trong hồ đều bị hút đến giữa hồ, chẳng trách tôi cứ có cảm giác bờ hồ ngoài đá ra chẳng còn gì hết.

Đáy hồ rất dốc, một khi rơi xuống là khỏi mong sẽ được thủy triều đẩy lên. Nếu lúc đó không lấy đá neo lại, thì chắc chắn đã chìm nghỉm xuống rốn hồ rồi.

Nghĩ đến đây tôi không khỏi nản lòng, chẳng biết cái hồ này sâu bao nhiêu, chúng tôi lại không mang theo bình khí. Nếu mực nước quá sâu, thì coi như chúng tôi ra về tay trắng.

Nhưng cũng chưa hết hy vọng hoàn toàn, bởi con người có thể lặn xuống độ sâu hơn 100 mét mà không cần thiết bị gì. Tuy chúng tôi không chuyên nghiệp được tới mức đó, nhưng tôi nghĩ nếu hồ chỉ sâu độ hai ba mươi mét thì chắc không thành vấn đề, chỉ cần có người giỏi bơi lội là được. Dù gì chúng tôi cũng phải thử một lần, lặn đến giữa hồ cũng chẳng phải chuyện khó khăn gì.

Nghĩ vậy tôi bèn hỏi họ: “Các anh có thể nín thở trong bao lâu?”
 
Quyển 6 - Chương 20: Dưới đáy hồ


Edit: Hàn Giang

Beta: Thanh Du

*****

Trong nhóm thì ba người Bàn Tử, Muộn Du Bình và tôi đều bập bõm biết bơi. A Quý cũng vậy, nhưng quanh đây chỉ có mấy con suối nhỏ, anh không quen bơi đứng nên e rằng không giúp được nhiều. Ngược lại Vân Thái bơi rất giỏi, song không có áo tắm, tôi không thể để cô bé mặc độc cái áo con mà lặn xuống hồ, mà Bàn Tử chắc cũng không muốn.

Nói đến khả năng nhịn thở, Bàn Tử khoe mình phổi lớn, có thể nhịn năm phút liền. Tôi bảo làm gì có chuyện ấy, anh béo thế kia lúc lặn xuống sẽ phải chịu áp lực lớn hơn chúng tôi rất nhiều, mà người bình thường chỉ cần nhịn được ba phút cũng đã thần thánh lắm rồi. Tuyệt đối không nên khoe mẽ, đây nào phải chuyện chơi.

Bàn Tử nói thật ra mình không lo cái này, mà lo chúng tôi không đeo chân nhái, nếu lặn xuống quá chậm thì dễ chừng chưa đến đáy đã cạn khí rồi. Trước đó nên lặn thử ở vùng nước nông thì hơn.

Tôi gật đầu, thật ra lặn tự do (*) không hoàn toàn là tay không bắt giặc, mà cũng có thiết bị và phương pháp bảo hộ tương xứng, trong đó quan trọng nhất là yếu tố tâm lý. Hồi ở Tây Sa tôi đã nghe mấy người thợ lặn kể yếu tố then chốt khi lặn sâu xuống nước chính là tâm lý, vì thế tất cả thợ lặn, đặc biệt là thợ lặn tự do đều phải trải qua khóa huấn luyện ngồi thiền kiểu yoga. Dưới tầng nước sâu chỉ còn bóng đêm vô tận giống như đang lơ lửng trong vũ trụ, khiến con người bất giác sinh ra sợ hãi. Khi ấy, chỉ cần một thoáng hoang mang sẽ không thể tập trung được nữa, dễ dàng gặp chuyện bất trắc. Nếu có bình dưỡng khí thì lượng oxi tiêu thụ sẽ tăng đột biến, bằng không chỉ còn nước thở bằng niềm tin.

(*) Tức là lặn không dùng bình dưỡng khí.

Tiếc rằng vùng biển Tây Sa vừa cạn lại vừa trong xanh, tôi không có cơ hội trải nghiệm cảm giác ấy, nên cũng chẳng biết tình hình thực tế ra sao.

Nhưng được cái thiết bị lặn tự do cũng không quy củ cho lắm, hoàn toàn có thể tìm vật dụng thay thế. Ví như vấn đề của Bàn Tử, chúng tôi chỉ cần buộc thêm tảng đá để tăng tốc độ lặn là xong. Hồ này trước kia hẳn là rất sâu nhưng năm nay mực nước đã hạ, không thể sâu quá trăm mét được. Tôi đoán năm mươi mét là cùng, đương nhiên trước khi lặn chúng tôi cũng phải thăm dò độ sâu của nó.

Vùng hồ vào đêm tối đen như mực, chúng tôi cũng không thể suy xét mọi sự rõ ràng như trước, đành rút về trại nghỉ ngơi. Bàn Tử hỏi Vân Thái vừa rồi đã hát bài gì cho Muộn Du Bình nghe, có thể dạy lại cho mình không? Tôi chẳng còn bụng dạ nào mà đùa giỡn, đành nằm xuống học cách suy nghĩ như Muộn Du Bình, nghĩ tới những việc ngày mai cần làm.

Đêm đó không ai nói một lời, sáng hôm sau chúng tôi dậy từ sớm tinh mơ. Nhân lúc mặt trời còn chưa mọc, tôi tranh thủ đi thám thính quanh hồ lần cuối để khẳng định ấn tượng của mình hôm qua. Bốn bề phủ sương mờ, nhưng màn sương này chỉ lấp ló quanh quẩn ven hồ. Cha con Vân Thái đều quen dậy sớm, bữa sáng đã chuẩn bị xong xuôi từ lâu. Đó là món cháo loãng mà người như Bàn Tử có thể húp liền cả chục bát, nhưng đã là đồ Vân Thái nấu thì đời nào hắn dám chê.

Bàn Tử cũng dẫn theo một con chó đến giúp, vừa đi vừa trêu nó: tìm xương đi, tìm xương đi, tìm được xương tao cưới vợ cho mày. Con chó quay mông ra hồ uống nước đùa nghịch, hoàn toàn phớt lờ hắn.

Khi mặt trời lên cao, tôi cũng vừa dạo quanh một vòng hồ, xác định gần như không thể tìm ra. Vân Thái tò mò muốn biết chúng tôi đang tìm gì nên cũng đi sau nghe ngóng, Bàn Tử bịa chuyện hai đứa đi tìm vàng, cô bé nghe vậy thì nửa tin nửa ngờ.

Tôi bàn với họ rằng nhất định phải lặn xuống nước, nhưng cũng không thể khơi khơi mà lặn được. Cả đám phải đợi đến chiều cho nước ấm lên chút ít, lại cần chuẩn bị một sợi dây thừng thật dài, một cái bè nhỏ và vài tảng đá nặng vừa phải.

A Quý và Vân Thái giúp chúng tôi tết dây thừng cỏ, không cần quá chắc chắn, chỉ cần đủ dài để đo độ sâu là được. Bàn Tử dùng liềm cắt một đống cỏ lớn rồi rải ra phơi khô, nhưng không phải cỏ gì cũng tết được, mà đến quá nửa là đồ bỏ.

Tôi và Muộn Du Bình dùng dây thừng đánh số buộc hai bè nhỏ cỡ cái bàn bát tiên vào với nhau, rồi lại tìm tảng đá to cỡ bắp vế buộc vào đầu dây cho đầm.

Thừng cỏ tết làm ba đoạn, chỉ dài hơn mười mét, nhưng hai người mất một buổi sáng đã tết được chừng ấy cũng giỏi lắm rồi. Do chưa trải qua quá trình gia công tỉ mỉ nên vẫn còn khá thô sơ, nhưng tôi cũng chẳng câu nệ. Cần gì phải xài được đến mấy tháng, chỉ mong trụ nổi vài tiếng đồng hồ là ngon rồi.

Mặt khác lại cắt rời bao nilon của Bàn Tử, lấy dây nilon bên trong cuốn lại thành cuộn, bên trên buộc thêm hòn đá thành một cái neo nhỏ để đo độ sâu của hồ.

Chuẩn bị xong xuôi mọi thứ, chúng tôi xếp hết đồ đạc lên chiếc bè nhỏ rồi cởi sạch chỉ chừa lại cái quần đùi, chầm chậm đẩy bè vào sâu trong hồ. Quần của Muộn Du Bình là do Bàn Tử mua, bên trên in hình hai con gà con, làm Vân Thái cười đến suýt nghẹn thở.

(À vâng con gà huyền thoại của ĐMBK đã lên sàn như thế =)))))))))))

Lúc này khoảng hai giờ chiều mà mặt nước vẫn lạnh như băng, nhất định là do mạch ngầm nối liền với cái hồ kia. Nếu không có ánh nắng, chúng tôi lặn xuống không chừng còn bị chuột rút.

Bơi đứng liền một mạch, chẳng bao lâu màu nước dưới chân đã sâu hun hút khiến người ta có phần hoang mang. Những chốn sâu không thấy đáy luôn gây ra cho con người cảm giác bất an, nhưng tôi đã trải bao phen sóng gió nên thứ cảm giác ấy chỉ lướt qua như gió thoảng. Hồ cũng không rộng lắm, chúng tôi bơi một chặp đã ra đến giữa hồ.

Gió trên mặt hồ mát rượi xua tan đi nắng nóng ngày hè. Dừng lại giữa hồ, thế bơi đứng khiến chúng tôi càng phải ra sức giữ thăng bằng. Bàn Tử lấy tay vuốt mặt một cái rồi hỏi: “Thuyền trưởng, ta phải làm gì bây giờ?”

“Đo độ sâu cái đã.” Tôi đáp.

Bàn Tử cầm sợi dây nilon buộc hòn đá ném xuống nước. Hòn đá kéo theo sợi dây chìm xuống không phanh, cuộn dây trong tay Bàn Tử quay tròn không ngớt, chẳng mấy chốc hòn đá đã chìm nghỉm mất hút, chỉ còn thấy mỗi sợi dây.

Sau hơn một phút cuộn dây mới ngừng quay, Bàn Tử bứt đứt đầu sợi dây rồi từ từ kéo ngược nó lên, cuốn lại thành vòng mà đếm, kéo xong thì cũng ước lượng được hồ sâu hơn ba mươi ba mét.

Tôi rùng mình ớn lạnh, tuy kết quả này cũng gần giống suy đoán của tôi nhưng khi nghe vẫn không khỏi kinh hãi. Hơn nữa đây chưa chắc đã là rốn hồ, với kiểu hồ đá như thế này thì nơi sâu nhất không phải lúc nào cũng nằm chính giữa.

“Ba mươi ba mét, da fuck, mình phải lặn sâu hơn mười tầng lầu cơ à.”

“Hừ, sao vừa nghe đến ba mươi thước đã bó tay chịu trói?” Tôi cười nói: “Mười tầng lầu là cái đinh, mẹ kiếp anh sợ quái gì chứ”.

Dứt lời, tôi và Muộn Du Bình lập tức bịt kín hai lỗ tai, trước tiên lặn vài lượt nông nông để thích nghi với nhiệt độ dưới nước, còn Bàn Tử tạm thời cứ cho ở lại quan sát. Người béo không giỏi lặn, nếu chúng tôi lặn một chuyến mà xong việc thì khỏi phiền hắn vác xác xuống. Nói đoạn tôi buộc sợi thừng nối với tảng đá vào thắt lưng, giắt thêm cái liềm, bỏ đèn pin vào túi nhựa rồi nháy mắt ra hiệu với Muộn Du Bình.

Chúng tôi hít một hơi thật sâu, khi khí đã đầy phổi lập tức đẩy tảng đá trên bè xuống nước. Tảng đá từ từ rơi xuống kéo theo chúng tôi chìm sâu vào lòng hồ.

Ở Sudan, phu nhân tù trưởng mà đi lăng nhăng sẽ bị xử tử kiểu này. Tôi ngẩng đầu nhìn lên mặt nước, ngoài nửa thân người Bàn Tử và cái bóng của bè gỗ còn thấy sắc nắng loang loang, nhưng cảnh tượng này chớp mắt đã vụt trôi, bốn phía hoàn toàn rơi vào tĩnh mịch. Nhìn xuống lại thấy vực thẳm đen ngòm, chỉ còn ánh sáng từ ngọn đèn pin của Muộn Du Bình, đầu hắn chúc xuống dưới, động tác linh hoạt như một con dơi biển.

Tình cảnh này sẽ qua nhanh thôi, tôi tự nhủ với lòng. Ánh sáng xung quanh mờ dần đi kèm với áp lực nước tăng vọt, khiến màng nhĩ và ngực bắt đầu khó chịu cực kỳ, buộc tôi phải xả bớt không khí trong phổi ra.

Chẳng mấy chốc, đèn pin trong tay tôi đã chiếu xuống đáy nước, đó là một phiến đá mờ mờ còn cách một quãng xa. Song tôi chợt nhận ra điểm bất thường, vì tiếp tục chiếu xuống sâu hơn vẫn thấy một bóng đen; nói cách khác nơi này quả nhiên vẫn chưa phải đáy hồ, mà chỉ là một bãi đá gồ lên đó thôi. Ngoài ra tôi còn còn thấy rất nhiều vật na ná cành cây vắt ngang đáy vực, hẳn là gỗ từ những cây khô.

Cũng đúng vào lúc này, tôi bắt đầu thấy khó chịu, nhìn đồng hồ mới biết mình lặn còn chưa đầy một phút, thế mà đã cảm nhận được một luồng áp lực xộc thẳng lên mũi, khát khao được hít khí trời.

Muộn Du Bình vẫn không ngừng lặn xuống, tôi ngẩng đầu nhìn lên, trời ơi sao mà xa hun hút. Trong lòng sợ hãi thì tay chân tự nhiên cũng luống cuống, tôi rút cái liềm đeo ở thắt lưng định cắt đứt sợi thừng cỏ giữ chân mình lại. Ai ngờ thừng cỏ ngâm nước lại dai nhách ra, tôi cứa hai nhát mà thừng chỉ đứt có một nửa, nửa còn lại cò cưa mãi cũng không chịu đứt cho.

Tôi nhanh chóng rơi vào sợ hãi tột cùng, mà phản xạ tự nhiên lại mách bảo bản thân nên hít một hơi sâu lấy lại bình tĩnh. Kết quả vừa hít đã đưa một ngụm nước xộc thẳng vào phổi, làm tôi ho đến gập người.

Dây thừng truyền đến một đợt chấn động, báo hiệu tảng đá đã chìm đến đáy. Tôi cố gắng trấn tĩnh mà lặn xuống, nhận ra mình đang từ từ đậu lên một sườn dốc, bên dưới còn một cái khe đen ngòm sâu hoắm, nhưng vẫn nhìn ra một vài thứ trong đó.

Tôi nhìn theo ánh đèn pin chiếu xuống mà sợ đến đứng tim. Trong khe sâu là một căn nhà gỗ kiểu cổ cũ nát, chỉ còn lại bộ khung mờ mờ, mặt trên bị trầm tích phủ kín. Chiếu đèn pin sang nơi khác, tôi thấy càng nhiều căn lầu gỗ, thậm chí còn có mấy căn nhà ngói hoang tàn. Lần dọc xuống theo khe dốc còn thấy đủ mọi thứ như thềm đá, bờ rào… tất cả lặng lẽ chìm dưới làn nước sâu.
 
Quyển 6 - Chương 21: Nổi lên


Editor: Thanh Du

*****

Đáy hồ xanh thăm thẳm đã chắp cánh cho trí tưởng tượng của tôi bay cao bay xa, nhưng tôi không thể ngờ mình lại thấy mấy thứ này dưới đó.

Những căn nhà gỗ ấy đã bị trầm tích bao phủ hoàn toàn, rất giống một bộ phận của con thuyền chìm. Dưới ánh sáng này không thể quan sát kĩ càng, nhưng có thể khẳng định trước mắt tôi hẳn là một khu trại cổ của người Dao chìm dưới đáy hồ.

Dưới chân con dốc chìm trong bóng đêm, thấp thoáng những bóng đen nhập nhoạng, nhất định còn có thứ gì đó. Tôi đoán, có lẽ chúng đều là những căn nhà sàn gỗ kiểu này.

Đây là chuyện quái quỷ gì thế? Sao dưới đáy hồ lại có những thứ này? Lẽ nào nơi đây từng xảy ra cơn lũ quét trên diện rộng, kéo sụp dãy núi, bao phủ lên nơi đã từng là thôn làng?

Nhìn tòa cổ lâu màu xanh u ám, đầu óc tôi rối tung, quên hết mọi thứ xung quanh, chỉ biết ngắm nhìn cảnh tượng trước mắt đến ngây ngẩn.

Còn đang ngẩn người, bỗng toàn thân tôi chấn động, bắt đầu nổi lên. Đưa tay kéo sợi thừng trông như cuống rốn, lại phát hiện nó đã đứt rời. Lúc này mới cảm nhận được áp lực nước ập thẳng vào mặt khiến người ta nghẹt thở, rốt cuộc không còn tâm trí đâu mà để tâm đến tình hình trước mắt, ra sức vùng vẫy ngoi lên.

Đó là một thứ cảm giác khiến người ta rất khó diễn tả, có lực nổi giúp sức nên tôi ngoi lên rất nhanh.

Bốn bề tối om, quầng sáng bên trên dần dần rõ nét. Não tôi bắt đầu thiếu oxi, chỉ cảm thấy ánh sáng cứ mờ dần, quả thực giống như đang bơi lên thiên đường.

Cảnh tượng người chết đuối trông thấy vào thời khắc lâm chung, đại khái cũng như thế này chăng!

Trong những giây cuối cùng, oxi trong phổi tôi gần cạn kiệt, đầu óc thoáng chốc trống rỗng, trước mắt chỉ còn một mảng trắng nhờ, sau đó cảm giác cơ mặt mình thả lỏng, ánh sáng xung quanh thu hẹp lại, đồng thời nghe được tiếng nước với những âm thanh nhập nhoạng không rõ ràng, nhìn thấy mặt hồ lấp loáng.

Tôi gần như không còn sức lực hớp ngụm khí đầu tiên, nhịp thở này phải dốc sức lực toàn thân mà bạo phát ra. Đợi cho lá phổi lần thứ hai ngập tràn không khí, tôi suýt nữa đã ngất xỉu. Ôi trời! Sống mấy chục năm, chưa bao giờ tôi cảm thấy hít thở lại là chuyện khoan khoái đến vậy.

Tôi bắt đầu thở hồng hộc, gần như là ngấu nghiến thô bạo từng ngụm không khí, rồi dần dần cũng thong thả trở lại.

Đợi đến khi tỉnh táo hoàn toàn, đưa tay lên nhìn đồng hồ, thì ra từ khi lặn xuống đến lúc trồi lên mới hết hơn một phút, thế mà tôi cảm thấy như đã qua vài giờ. Tình hình dưới đáy nước và quang cảnh tận mắt chứng kiến làm tôi kinh hoàng đến độ cảm giác cũng sai lệch đi.

Thường thì tôi nín thở được lâu hơn, xem ra bể bơi và hồ nước sâu chênh nhau một trời một vực, tôi suy nghĩ quá ngây thơ rồi.

Bàn Tử và chiếc bè còn cách tôi ba mươi mét, có thể vào lần cuối cùng lao lên mặt nước tôi xuất lực không chuẩn, thành ra bị chệch hướng.

Tôi bơi về phía lắn, trở lại bên chiếc bè.

Hắn hỏi tôi, sao cậu trồi lên nhanh dữ?

Tôi muốn đáp trả lời, lại cảm thấy môi trên âm ấm, sờ thử, té ra là chảy máu cam. Kế đó toàn thân nhất là lỗ tai bắt đầu đau, đầu váng mắt hoa, suýt nữa đã tuột tay khỏi cái bè mà chìm xuống nước.

Chợt tôi có cảm giác Bàn Tử đang kéo mình lại, nghe láng máng tiếng hắn nói: “Chết tiệt, cậu trồi lên nhanh quá, vỡ hết mạch máu rồi!”

Cũng may tôi chỉ hoa mắt chóng mặt chút xíu rồi nhanh chóng bình phục. Tôi không phải thợ lặn chuyên nghiệp, xem ra thân thể này quả thực không hợp với môn lặn tự do.

Lại nằm bò lên bè, nhìn máu mũi chảy ròng ròng qua mặt xuống cằm rồi hòa vào nước, tôi không khỏi lo lắng mơ hồ, chẳng biết ruột gan phèo phổi của mình có làm sao không đây?

Bàn Tử đưa tôi cái khăn tay để bịt mũi, rồi hỏi cậu làm sao thế? Sao chưa chi đã nổi lên rồi?

Tôi ngẩng đầu lên cho máu mũi chảy ngược, đồng thời kể lại những điều mình thấy. Hắn nghe đến há hốc mồm, lại còn không tin, bảo chuyện này không thấy tận mắt thì không hiểu rõ được, nóng lòng muốn xuống xem thử. Tôi vội vàng cản hắn lại, bảo bên dưới không nông như kết quá mình đo được đâu, một mình xuống đó nguy hiểm chết bà.

Lúc này lại nghe tiếng nước ào ào, Muộn Du Bình cũng ngoi lên, hít một hơi thật sâu. Nơi hắn nổi lên chỉ cách bè có hơn hai mét, rõ ràng hắn bình tĩnh hơn tôi rất nhiều.

Ngó đồng hồ, hắn lặn lâu hơn tôi chừng một phút.

Hắn ráng sức bơi đến cạnh cái bè, vịn một tay lên đó.

Bàn Tử định hỏi tình hình rsao thì bàn tay còn lại của hắn đã đột ngột cầm một vật quẳng lên bè, lập tức kéo theo bọt nước văng tung tóe vào mặt chúng tôi.

Tôi còn chưa kịp nhìn rõ, Bàn Tử đã hét toáng lên: “Tổ sư! Đây là cái của nợ gì?”

Tiếng hét của Bàn Tử đại khái đã cảnh tỉnh tôi, làm tôi phát sợ, vội vuốt hết nước trên mặt mà nhìn. Tôi linh cảm Muộn Du Bình có thể đã tìm thấy thi thể, cũng chuẩn bị tinh thần sẵn sàng thấy một bộ xương trắng ởn.
 
Quyển 6 - Chương 22: Quái vật mò được


Editor: Béo Bụng Bự

Beta: Thanh Du

*****

Bàn Tử rất cẩn thận, dùng lưỡi liềm vén lớp da bòra. Quả nhiên, bên trong toàn là sợi bông gần như đã mục nát, là phần còn sót lại của tấm thảm ngâm nước đến mục rữa. Dùng liềm chọc ngoáy vào trong, chúng tôi nhanh chóng phát hiện ra một vài thứ bên dưới đám sợi bông.

Đáng tiếc tôi đã đoán sai rồi, thứ bị vứt lên bè hình như là xác của một con vật lớn bằng cái balo leo núi, nhìn kỹ một chút lại phát hiện ra xung quanh “xác chết chìm” còn mọc ra một “cục” tay đã thối đen, lại trương phồng vì no nước, tròn vo như một quả cầu, xem ra đã bị ngâm trong nước rất lâu.

Người đã từng thấy những xác lợn xác chó trôi nổi trong lòng hồ sau cơn lũ, nhất định đều biết loại xác này ghê tởm đến nhường nào. Tôi tức thì cảm thấy buồn nôn, vội xoay người đạp chân xuống phóng ra ngoài, cách xa khỏi cái bè kia, trong lòng tự nhủ Muộn Du Bình vớt cái của nợ này lên làm gì không biết?

Tôi bơi ra ngoài được hơn một mét, dùng nước hồ rửa sạch nước xác rữa bắn lên mặt mình, cảm thấy hơi dinh dính. Bàn Tử mở miệng mắng, “Tiểu Ca, chết tiệt! Mẹ kiếp, cậu dám ra tay thật, cái thứ buồn nôn này cậu mò lên làm gì hả!”

Muộn Du Bình lại không thèm để ý, lập tức bò lên trên bè, tay đặt thẳng lên trên cái xác rữa kia, khiến nước ngấm trong xác bị ép ra, chảy từ trên bè xuống mặt hồ.

Sau đó, hắn bắt đầu kéo cái “xúc tu” này ra khỏi xác chết, ném nó vào trong nước.

Ban đầu tôi suýt nữa thì nôn ra, nhưng ngay sau đó liền phát hiện ra có gì đó không ổn, vì không ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc. Sau đó Bàn Tử hình như đã nhận ra điều gì, bèn ngoắc tay ra hiệu cho tôi qua.

Tôi bơi qua đó, thấy cái “xúc tu” mà Muộn Du Bình ném ra vẫn còn trôi lơ lửng quanh bè, tôi nhịn cơn buồn nôn vớt lên nhìn thử thì phát hiện đây không phải xúc tua mà là một thứ rong rêu kỳ lạ nào đó. Tôi lại nhìn kỹ cái “xác chết chìm” màu đen kia, mới biết là mình đã hiểu lầm rồi.

Cái dạ dày lồi lên của “xác chết chìm” này quắt lại, thoạt nhìn không giống xác chết, mà trái lại giống một quả bóng cao su xẹp lép, còn cái xúc tu chính là vật thể kỳ quái trông giống rong rêu.

Tôi đi tới giúp Muộn Du Bình gỡ đám rong rêu bên cạnh cái “xác chết chìm” kia, cuối cùng cũng nhìn rõ vật ấy hóa ra là một cái túi da bò kiểu cũ đã mục nát và chuyển thành màu đen, da bò ngâm nước lâu ngày trở nên trong suốt, lớp vỏ đã mục rữa hết, chỉ còn lại một tầng đáy mỏng manh.

Đây là loại túi lớn trước kia dùng để đựng hành lý to, bên trong có khung sắt, cho nên mới chưa bị mủn ra, bằng không nhất định đã mục nát sạch sẽ rồi.

“Đây là…” Bàn Tử im bặt.

Muộn Du Bình nói: “Ở chỗ tôi lặn xuống có một lớp hàng rào, rất nhiều túi và tạp vật chìm xuống đáy hồ đều mắc trên đó, rải rác trên một khoảng lớn. Tôi thấy có súng trường, túi da và lều, tôi chỉ mò một cái lên thôi.”

Tôi lập tức hiểu ra đây là cái gì, “Đây nhất định là súng và trang bị cùng chìm xuống đáy hồ sau khi bọn họ giết người xong, như câu chuyện lão Bàn Mã kể. Xem ra tôi nói không sai, những thứ này quả nhiên đều bị hiệu ứng siphon hút xuống đáy hồ, chìm xuống mắc lên lớp hàng rào ấy.”

Muộn Du Bình gật đầu, hiển nhiên là đồng ý với cách giải thích của tôi.

“Hàng rào? Con mẹ nó, dưới đáy hồ này có một cái làng thật sao?” Bàn Tử vẫn chưa tin.

Đầu tôi rối như tơ vò, trong lòng tự nhủ, tôi lừa anh làm gì? Nếu không tận mắt nhìn thấy thì tôi cũng không tin nổi.

Cổ trại dưới nước xem ra có quy mô khá lớn, tình cảnh hết sức đặc biệt, cả ngôi làng nằm trọn vẹn trong lòng hồ. Đây thường là một sự hi sinh để tích nước cho công trình thủy lợi cỡ lớn, giống như khi đập Tam Hiệp tích nước đã có rất nhiều thôn xóm nằm dưới mựcnước, thậm chí cảdanh thắng và di tích cổ đều bị nhấn chìm. Cũng có thể là do động đất dẫn đến lở núi, nước từ trong hồ chảy vào khe núi, nhấn chìm cả thôn, hoặc là nền đất cả thôn sụp xuống do địa chấn, bị chôn vùi dưới đất rồi lại bị nước bao phủ.

Nhưng địa hình nơi này không giống như đã từng xảy ra động đất, cái hồ đá này cũng vô cùng quái đản, dưới đáy hồ rặt những đá vụn, không biết từ đâu mà có.

Mẹ kiếp! Thôn này nhất định có liên quan đến toàn bộ câu chuyện. Đội khảo cổ năm ấy tìm đến bên hồ để vớt khối sắt, mà khối sắt đó hiển nhiên nằm trong cổ trại dưới đáy hồ. Trong đủ thứ nhân tố, rốt cuộc nguyên cớ sâu xa là do đâu? Nơi này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Câu chuyện ẩn sâu dưới làn nước, nhất định vượt quá trí tưởng tượng của tôi.

“Trước tiên đừng động đến những thứ này, mà hãy nhìn xem trong túi có gì cái đã!”

Bàn Tử vội vàng muốn mở túi ra, nhưng túi này rất lớn, mà bè lại nhỏ, ba người chúng tôi cùng dựa vào, không dễ hành động. Hắn vừa táy máy vài cái, vẫn chưa tìm được cách mở túi mà bè hình như lại sắp lật đến nơi.

Lòng tôi rối như tơ vò, không còn tâm trí đâu mà suy xét, bèn ngăn hắn lại: “Đừng nóng vội nhất thời, nhỡ lật bè thì toi, chúng ta lên bờ trước đã.”

“Không được!” Bàn Tử đáp, “Chúng ta không biết bên trong có gì, nếu là xác chết hoặc là vật gì không thể để A Quý nhìn thấy, chẳng lẽ cậu định giết người diệt khẩu à? Chúng ta cứ xem trước ở đây đi.”

Tôi thấy hắn nói cũng đúng, để cho bọn họ biết quá nhiều chuyện chung quy cũng không phải chuyện tốt, bèn bảo hắn nhanh tay lên một chút.

Cái bao vẫn còn hình dạng hoàn chỉnh, tôi gỡ nhẹ lớp da bò mỏng manh mục nát kia thì thấy nó vẫn còn dai lắm, chất lượng sản phẩm quân sự lúc ấy quả thực khiến người ta ngưỡng mộ.

Loại túi này thông thường đều dùng sắt tây làm mép khóa, chúng tôi ngồi trên bè, hết sức cẩn thận lật ngược cái túi, tìm được mép khóa ở mặt sau, lúc lật lại cảm thấy bên trong có gì đó mềm nhũn giống như một cục bông. Loại túi này vốn hay dùng để đựng quần áo hoặc vải vóc, mở ra tuyệt đối đừng là chăn màn, không thì cũng quá nực cười.

Sau khi lật lại, chúng tôi thấy hai bên mép khóa bằng sắt tây đã gỉ đặc, không tài nào mở nổi. Bàn Tử rút liềm ra, rạch thẳng một đường lên túi, lộ ra khung sắt bên trong.

Trước kia tôi từng xem một bộ phim điện ảnh trong nước rất cũ, nói về tiễu phỉ, trong phim cũng có loại túi này, thời bấy giờ chuyên dùng để vứt xác, mở ra chắc chắn là xác bị chặt, tâm lý vẫn hơi bị ám ảnh. Bàn Tử cũng rất cẩn thận dùng lưỡi liềm rạch mở lớp da bò, quả nhiên bên trong là một mớ sợi bông gần như đã mục nát cả, là phần còn sót lại của một cái chăn bị ngâm nước đến mủn. Ra sức thò tay vào khua khoắng, chẳng mấy chốc chúng tôi đã tìm ra một vài đồ vật dưới đáy đám bông ấy. Loay hoay một lúc, Bàn Tử làm như một người khảo cổ, moi hết ra ngoài, toàn là đồ dùng hằng ngày của một phụ nữ.

Sở dĩ tôi có kết luận này, là bởi vì trong đó có ba cái lược. Đàn ông cũng mang lược, nhưng sẽ không thể mang theo những ba cái một lúc, hơn nữa trong đó một cái có răng rất lớn, nhất định là lược dùng cho tóc dài.

Ngoài lược ra, còn có hai cái cặp tóc, một huy hiệu Mao chủ tịch, một khung ảnh gỗ và một lọ kem dưỡng da Bách Tước Linh, ngoài ra còn một hộp lá trà.

Cả hộp kem Bách Tước Linh lẫn hộp trà đều làm bằng sắt, đã gỉ xanh gỉ vàng, nhưng trạng thái dưới đáy hồ khá ổn định, nên có thể thấy gỉ sắt chỉ đến một mức độ nào đó là ngừng.

Tôi cảm thấy hứng thú nhất với khung ảnh gỗ kia, bên trong có ảnh nhưng đã ngấm nước mà mủn ra, chỉ còn lại những mảng màu loang lổ. Những thứ bên trong nhất định đều đã mục nát hết, cho dù không nát, thì từ những mảng màu đó cũng không nhìn ra được hình dạng gì.

Lắc hộp trà lên cũng không nghe thấy tiếng động, hiển nhiên đã bị phong kín.

Bàn Tử muốn mở ra, những đã bị gỉ chết. Hắn không mê tín,bèn lấy lưỡi liềm làm búa đập vào đáy hộp. Nhưng bè lại không chịu nổi động tác gõ mạnh như thế, hắn buộc phải vừa bơi ngửa vừa đặt cái hộp lên ngực mình để gõ, âm thanh trong trẻo như gõ trống vang vọng trên mặt hồ, thật giống một con rái cá cỡ bự.

Tôi thấy buồn cười, nhưng đúng là rất hữu dụng, chẳng mấy chốc đáy hộp đã bị phá, hắn đổ từ bên trong ra một khối màu đen, sau đó liền hô lên kinh ngạc.

Tôi vừa nhìn thấy, trong lòng chợt lặng đi. Đó hóa ra là một khối sắt nhỏ, giống hệt khối sắt tìm thấy dưới giường của Muộn Du Bình .

Bàn Tử lầm bầm: “Lại là cái của nợ này! Xem ra cái túi này đúng là của đội khảo cổ hồi đó, lão Bàn Mã không lừa gạt chúng ta, mẹ kiếp cái món đồ chơi này rốt cuộc là gì chứ?”

Tôi nhận lấy khối sắt nhìn kỹ một chút, lắc đầu không nói, phát hiện khối sắt này so với khối sắt của Muộn Du Bình thì trông hơi bất thường.

Khối sắt này nhỏ hơn rất nhiều so với khối sắt lần trước, đại khái chỉ to bằng ngón tay cái. Điều khiến tôi bất ngờ là khối sắt này tương đối trơn nhẵn, tuy cũng bị gỉ loang lổ, nhưng vẫn sạch hơn nhiều so với khối sắt của Muộn Du Bình, hoa văn bên trên vẫn đủ rõ để nhìn ra được.
 
Quyển 6 - Chương 23: Lại thấy khối sắt


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Nam

Beta: Thanh Du

*****

Tôi từng cho rằng khối sắt dưới gầm giường của Muộn Du Bình sở dĩ có hình dạng khó coi như vậy là vì bị người ta xử lý bằng acid, bây giờ xem ra đúng là thế thật.

Hình dạng nguyên sơ của khối sắt hẳn là như thế này, chứ không phải y chang con cóc như của Muộn Du Bình. Nhìn từ những hoa văn cực kỳ tinh xảo bên trên, lại thấy nó cũng không phải một khối nguyên vẹn, mà có lẽ chỉ là mảnh vỡ của một hay một vài món đồ sắt lớn.

Tôi vừa bơi đứng, đầu óc vừa nhanh chóng vận động, cảm thấy mọi chuyện căn bản đã xâu chuỗi lại với nhau. Bây giờ vấn đề bắt đầu trở nên rõ ràng, đại khái chỉ hướng về hai điểm chính.

Suy đoán của chúng tôi là đúng hay sai? Nơi này liệu có xảy ra sự kiện đội khảo cổ bị đánh tráo? Chúng tôi phải tiếp tục lần theo dấu vết những thiết bị mà họ đã ném xuống hồ.

Những thi thể ấy rất có khả năng cũng ở quanh đây, việc này xem ra không còn là chuyện khó nữa.

Vấn đề nằm ở cổ trại dưới đáy hồ. Dưới đáy hồ nước nơi rừng xanh núi thẳm sao lại ẩn giấu một khu trại cơ chứ? Khối sắt cũng đến từ khu trại này, nó vốn là vật gì, được dùng làm gì nhỉ? Tại sao đội khảo cổ lại biết chuyện này, còn vớt nó lên nữa chứ? Mẹ kiếp, những chuyện mờ ám đằng sau có thể còn nhiều hơn! Hiện giờ tôi hoàn toàn không biết phải suy luận từ đâu, chỉ có thể nghe ngóng qua loa từ A Quý, nhưng tôi có cảm giác anh ta cũng không biết nhiều tin tức.

Đáp án cho nghi ngờ của tôi, đều nằm dưới đáy nước.

Tôi thở dài, bước tiếp theo cần làm gì đã quá rõ ràng – phải quan sát đáy hồ thật cẩn thận, còn phải vớt hết mọi thứ có thể tìm được lên bờ xem xét, xem tình hình này chắc chúng đã ngâm trong nước rất lâu rồi.

Chỉ tiếc là dây thừng tết bằng cỏ trên người đã nhũn ra không dùng được, mà tôi cũng không đủ sức lặn xuống lần nữa, bằng không chỉ muốn lặn xuống xem xét lại ngay.

Chúng tôi dùng sợi thừng nilon làm một ký hiệu qua loa, ba người leo lên bờ nghỉ ngơi trước. Vân Thái nhìn bộ dạng của tôi mà phát sợ, vội vàng giúp tôi xử lý.

Tôi nhét hai mảnh vải vào lỗ mũi, ngồi trong bụi cây thay quần áo xong xuôi, cảm thấy đầu mình dường như muốn nứt ra từ bên trong, đau đến nỗi toàn thân không còn chút sức lực nào.

Bàn Tử và Muộn Du Bình kéo cái bè trên đặt túi da bò mục nát từ dưới nước lên bờ, nâng nó lên như khiêng cáng, khiêng một mạch đến khoảnh đất khô trên bờ.

Vân Thái hết sức tò mò về vật chúng tôi vớt lên từ dưới nước, thực ra bên trong chẳng có gì đặc biệt, Bàn Tử cũng mặc cho cô xem. Vừa nhìn rõ, cô đương nhiên cảm thấy ghê tởm.

Ánh mặt trời gay gắt thế này, xem ra mấy cái quần đùi phơi trên đá chẳng mấy chốc mà khô. Chúng tôi ăn một ít quả dại để lấy chất đường,Bàn Tử vừa ăn vừa hỏi A Quý có biết gì về ngôi làng chìm dưới đáy nước không. A Quý ngơ ngác không hiểu gì, anh ta nói mình không hề biết dưới lòng hồ lại có cả một ngôi làng như thế.

Ban nãy lặn dưới lòng nước mờ đục, cảnh vật phần lớn không thể xem xét rõ ràng, nhưng dựa vào độ dày của lớp trầm tích bám trên vật này cũng có thể phán đoán ngôi làng đó đã chìm dưới đáy nước khá lâu năm. Tôi bảo A Quý hãy cố mà nhớ lại xem, trong phạm vi quanh đó có nghe nói gì về chuyện này không? Cho dù là những truyền thuyết rất xa xưa, chỉ cần có dính dáng là được.

Anh ta vẫn lắc đầu, thề thốt rằng không có chuyện đó đâu rồi nói: “ Thật ra tôi cũng cảm thấy có gì đó kỳ lạ, mọi người chúng tôi đều biết ở đây có một cái hồ, nhưng đến bây giờ nó vẫn chưa có tên, những người già cả cũng không hay nhắc đến”.

Tôi và Bàn Tử ngơ ngác nhìn nhau, tôi đoán anh ta cũng không biết nhiều, vì suy cho cùng dẫu có là truyền thuyết thì muốn lưu truyền cho đời sau cũng phải dựa vào may mắn, nhưng không ngờ anh ta lại phủ nhận tuyệt đối như thế.

Núi Dương Giác từ xưa đã là ranh giới giữa bãi săn và rừng thẳm, có truyền thuyết là hết sức bình thường. Trong núi có một hồ nước lớn nhường này, lẽ ra cũng phải có truyền thuyết, thế mà lại không hề có, cứ như bị cách biệt với thế gian, khiến tôi cảm thấy hơi lạ.

Bàn Tử nói: “Liệu đây có phải là thôn trại cổ bị đám cháy rừng lan đến mà các anh từng kể không? Ngôi làng cổ kia thật ra là bị vùi dưới đáy hồ, nên trên mặt đất mới không tìm được một dấu vết nào.”

A Quý lắc đầu: “Câu chuyện đó đã quá xưa rồi, truyền thuyết về ngôi làng cổ bị thiêu cháy có từ thời Minh kia, tôi không hiểu giữa hai chuyện có mối liên hệ gì.”

Tôi nhìn sắc mặt A Quý, biết ngay anh ta không hề nói dối, đành nằm xuống hút điếu thuốc, lấy ngón tay day day thái dương đau nhức, tự nhủ quả nhiên phải dựa vào bản thân rồi.

Bàn Tử chỉ ra vào một chỗ mà tôi đoán là nơi sâu nhất dưới đáy hồ, nói: “Đáy hồ này từ đâ mà có nhỉ? Tôi thấy nó giống như được búa đẽo ra, cậu nói xem nó được hình thành như thế nào?”

Tôi đáp: “Đây không phải là hình thành, cái địa thế này thông thường chỉ sinh ra nơi khe hẹp giữa những ngọn núi thôi. Hồ này hẳn là một đập nước cũ, có thể đã hình thành từ mấy trăm năm trước.”

“Vậy là do động đất sao ?” Vân Thái ngồi cạnh hiếu kỳ hỏi.

Tôi lắc đầu: “Ngôi làng dưới nước được giữ gìn khá nguyên vẹn, nếu là do động đất, chúng ta nhất định không thể nhìn thấy những hàng rào và đường lát đá chỉnh tề như vậy. Điều đó cho thấy thôn được nước bao phủ trong tình huống tương đối ôn hòa.”

Tôi cũng chỉ vào nơi sâu nhất dưới hồ mà Bàn Tử vừa chỉ ban nãy, rồi nói ra suy luận của mình: “Có thể là do địa chấn hoặc do nguyên nhân khác, nên mấy trăm năm trước trong sơn thể trước mặt chúng ta bất ngờ xuất hiện một con sông ngầm nối thông với hệ thống nước ngầm ở gần đây. Thôn này vừa hay nằm đúng chỗ trũng, nên đã bị một trận lũ quét bất ngờ nhấn chìm tất cả.”

Vì sao tôi lại nói là mạch nước ngầm? Vì tôi chưa từng nghe A Quý nói gần đây có một hồ nước lớn hơn, càng chưa từng nghe nói trong Thập Vạn Đại Sơn có hồ lớn. Nhưng nơi đây lại được biết đến với những mạch nước ngầm đá vôi, với khí hậu cận nhiệt, lượng mưa rất dồi dào, nhất định phải có chỗ thoát nước. Dòng nước chảy trên mặt đất, cuối cùng cũng nhập vào sông lớn chảy ngầm dưới đất thôi.

Thủy triều siphon xuất hiện tối qua, nhất định cũng do lỗ hổng này gây ra.

Bàn Tử bảo: “Xem ra tôi nói chẳng sai, thứ chúng ta muốn tìm nhất định đang nằm ở nơi sâu nhất, không thể tìm thấy đâu.”

Tôi lắc đầu: “Cũng không hẳn ! Những căn nhà gỗ đó trông giống như được lọc qua lưới, những thứ bị thủy triều siphon hút vào đáy hồ phần lớn sẽ bị kẹt lại ở hàng rào và nhà gỗ nằm bên ngoài cổ trại. Chúng ta chỉ cần đi vòng quanh rà soát một lượt, căn bản sẽ có thu hoạch. Nếu không tìm thấy gì, vậy mới thật sự tính là thất bại.”

Lặn một vòng quanh hồ nước cũng không quá sâu, ước chừng chỉ hơn hai mươi mét, chỉ cần có chút kiên nhẫn thì nhất định sẽ phát hiện ra thứ gì đó.

Bàn Tử nhìn mặt trời, bỗng dưng trở nên hăng hái: “Việc hôm nay chớ để ngày mai, chúng ta cùng xuống nước nào.”

Tôi lập tức lắc đầu, chuyện này không thể được, vừa rồi lặn xuống nước mới biết không có đồ lặn thật sự hơi khó khăn, nếu muốn ung dung nghiên cứu cổ trại dưới đáy nước thì nhất định phải có đồ lặn chuyên nghiệp. Chúng tôi chưa thể tiến hành ngay lập tức, mà trước mắt phải quay lại huyện thành, rồi dùng quan hệ nhờ người chở trang bị tới đây.

Đây là một công trình cỡ lớn, thiết bị lặn rất nặng, có khi phải thuê mười mấy người dẫn la thồ vào núi mới xong, mà làm thế lại không phù hợp với mong muốn âm thầm hành động ban đầu.Vả lại kể cả có la thì vẫn không ổn, ngoài bình dưỡng khí còn phải chuẩn bị cả thiết bị bơm bổ sung dưỡng khí, mà món đồ ấy khá cồng kềnh, có khi la cũng không kéo nổi vào đây, lấy vào được rồi lại dỡ ra rồi vận chuyển tiếp, thời gian lại càng kéo dài.

Lòng tôi nóng như lửa đốt, bắt tôi đợi thêm một thời gian nữa chỉ e sẽ tự dày vò đến chết mất.

Bàn Tử cũng không muốn quay về, nhưng hắn lý trí hơn tôi, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: “Khỏi cần nghĩ cũng biết muốn rà soát toàn bộ đáy hồ thì nhất định phải quay về lấy bình dưỡng khí. Có điều theo tình hình ban nãy, nếu chỉ lặn xuống nước xem xét qua loa thì cũng không cần đến bình dưỡng khí làm gì. Chi bằng chúng ta chia nhau ra mà làm, một người trở lại mua trang bị, hai người kia ở lại đây tiếp tục lặn xuống vớt đồ, hai việc tiến hành cùng một lúc.”

“Vậy ai quay về?” Tôi hỏi

“Theo quan hệ mà nói thì cậu đương nhiên là người thích hợp nhất, vì cậu quen biết nhiều nhất, còn tôi và Tiểu Ca sẽ ở lại vớt đồ. Cậu xem cậu quen nhiều dân trong nghề như thế, cứ tìm vài người mua đồ giúp, dặn họ mua xong thì gặp nhau, cậu làm việc này tiện hơn chúng tôi nhiều.”

Tôi quát hắn: “Về cái đầu anh! Như vậy khác nào bức tôi chết nghẹn?”

“Một người nghẹn chết vẫn còn hơn ba người cùng nghẹn chết. Với lại cậu nghĩ mà xem, để Tiểu Ca đi chắc chắn cậu ta chẳng làm ăn được gì, còn người quen của tôi đều ở Bắc Kinh, hành động khó khăn hơn cậu rất nhiều, để tôi đi mua chỉ tổ mất thời gian thôi. Ở lại đây ngắm cảnh cũng không tệ lắm, nhưng nếu ngồi chờ cả tháng thì buồn lắm đấy. Cứ nghe lời Bàn gia là chuẩn, cậu quay về mua đồ lựa chọn lý tưởng nhất.” Bàn Tử đường đường chính chính nói.

Tôi nhìn bản mặt hắn in rành rành hai chữ “thiếu đánh”, nhưng nghĩ kĩ thì lời hắn nói kể ra cũng có lý. Tôi chỉ cần gọi cho Phan Tử một cuộc điện thoại là mọi việc có thể xử lý xong xuôi chỉ trong vài ngày, còn có thể gọi Vương Minh và mấy người làm trong cửa tiệm của chú Ba đến giúp một tay. Huống hồ tay Bàn Tử này cũng không được việc cho lắm, để hắn ra ngoài làm việc chỉ tổ thêm lo lắng vào người, nên cũng đành gật đầu ưng thuận. Sau đó tôi tính toán mình không thể lề mề, sáng sớm ngày mai lập tức lên đường, cố mà tốc chiến tốc quyết.

Tôi lập tức bảo A Quý ngày mai nhờ anh ta đưa tôi về, còn Vân Thái sẽ ở lại với Bàn Tử và Muộn Du Bình.

Nghĩ lại thì chuyến này đi đi về về cũng vất vả cho A Quý, mà bây giờ lại không thể thiếu anh ta, phải biệt đãi anh ta một chút, bèn ra một cái giá thật hời.

Xong xuôi thì tôi tê liệt thật, gần như không đứng nổi nữa. Bàn Tử và Muộn Du Bình lại đi lặn thêm hai lần nữa, lại mang lên một số món đồ nhưng đều nát bét hết cả, toàn là rác rười chẳng có giá trị gì. Trong số đó có một khẩu súng Sten (*) đương thời đã nát như một que cời lò, Bàn Tử vốn rất thích súng nên tiếc ra mặt.

Bàn Tử cũng đã thấy khu trại chìm dưới nước, hắn không khỏi kinh ngạc trước quy mô của nó, lại bảo tiếc là không mang kính lặn, nếu mang thì còn nhìn rõ hơn nhiều, cũng không vơ nhầm đống rác này lên. Sau đó Bàn Tử mày mò khắp nơi tìm vật thay thế, lục tung hết mớ trang bị, cuối cùng cũng tìm được cái chao đèn pin. Nhưng món đồ này không thể bịt kín, Bàn Tử lại nổi hứng ra một quyết định cực kỳ trái khoáy: hắn gắn chao đèn pin lên mắt mình, chỗ nào hở ra thì bôi dầu trơn dán băng dính, sau đó dùng sức ép chặt, như thế có thể đảm bảo một con mắt có thể nhìn xa trong nước. Bàn Tử lặn xuống vùng nước nông để thử nghiệm, nhưng lập tức bị nước tràn vào chao đèn, hương án này coi như vứt. Không còn cách nào khác, hắn đành dặn dò tôi bao giờ trở về huyện thành với A Quý nhớ tìm đại một tiệm bán đồ thể thao nàođấy, mua trước vài món trang bị bình thường cho hắn xài.

————————–

(*) Sten là khẩu súng này:

[Diendantruyen.Com] Đạo Mộ Bút Ký
 
Quyển 6 - Chương 24: Dòng chảy


Edit:Ala Ju

Beta: Thanh Du

*****

Tóm lại là, sau khi trở về Ba Nãi, đầu tiên tôi ăn một bữa rồi không ngừng không nghỉ đi đến một huyện thành gần đó, mua vài vật dụng bơi lội và dặn A Quý mang về, sau đó lên xe khách cỡ nhỏ rời khỏi Thập Vạn Đại Sơn.

Dọc đường xóc nảy ầm ầm, trong lòng lại sốt ruột, hiển nhiên là cực kỳ khó chịu.

Trên xe tôi gặp người bà con xa của lão Bàn Mã nói rặt một giọng Bắc Kinh, xem ra có tâm sự rất nặng nề, cả đoạn đường không hề lên tiếng, chỉ đăm đăm suy nghĩ chuyện gì, cũng không nhận ra tôi nữa.

Về đến cảng Phòng Thành, chọn một khách sạn rồi tôi bắt tay xử lý công việc.

Trước đây tôi từng đặt mua đồ, cũng biết những chuyện mờ ám và khó khăn trong đó nên tôi tiến hành rất có trật tự. Trước tiên gọi điện cho Phan Tử để anh mang tới một ít trang bị vì anh quen thuộc cửa nẻo, hiệu suất cũng cao nhất; tiếp đó lại gọi Vương Minh đến hỗ trợ, tôi cần một người nằm vùng.

Phan Tử nghe nói tôi cần trang bị lại hơi lo lắng, tôi cũng đành lừa anh, bảo là người khác nhờ tôi làm anh mới chịu đồng ý.

Người và vật năm ngày sau sẽ tới, ở cảng Phòng Thành tôi thuê một chiếc xe tốt để chở đồ thẳng đến Ba Nãi. Quốc lộ Bàn Sơn cheo leo hiểm trở, mà tôi chỉ có bằng lái cấp C cho phép lái xe từ 9 chỗ ngồi trở xuống, lần này nhắm mắt lái xe to là rất liều mạng, mấy lần suýt phi xuống vực. Do cả hành trình đều lái xe nép sát vào vách núi nên hai bên đầu xe bị va quẹt đến biến dạng, đến khi xuống xe hai chân Vương Minh đã mềm nhũn.

Những con đường ở Ba Nãi đều là đường rải cát đá hỗ trợ cho hộ nghèo, đến đoạn cuối cùng không tài nào đi tiếp được. Mà trời lại đổ mưa rào, nên tôi đành leo xuống chuyển qua xe nhỏ. Trang bị từ xe lớn phải dùng ba toa xe kéo mới chở hết vào làng, đến đây hết thảy đều thuận lợi, nhưng từ ngày tôi đi đến khi trở lại thôn Ba Nãi đã mất hai tuần.

Vốn đã hẹn với A Quý ra đón ở đầu thôn, trước hết chuyển đồ đạc tới nhà anh ta, nhưng đến khi dỡ hàng ở đầu thôn lại không thấy người của anh ta đâu cả. Tôi đã mệt bở hơi tai nên cũng hơi cáu, bèn bảo Vương Minh ở lại đầu thôn rồi đích thân đến nhà tìm A Quý.

Tòa nhà vừa là phòng khách vừa là phòng ăn mà chúng tôi ở lần trước giờ đây cửa đóng then cài, gõ mãi không thèm nhúc nhích, tôi đành phải tới căn nhà gỗ anh ta ở. Cửa nhà gỗ lại đang mở, đây là nơi ở của mấy người Vân Thái. Đại sảnh cũng gần giống với căn nhà chúng tôi trọ, ở đây không có bếp nên trông sạch sẽ hơn nhiều, trong góc nhà chất đống một mớ khung màu họ bện để bán cho khách tham quan. Trên tường dán vài bức tranh tết, khuê phòng của hai chị em ở nhà trong, A Quý ở phòng bên cạnh, ngoài ra còn có một cầu thang gỗ dẫn lên lầu hai.

Người dân ở đây thành thật chất phác, cửa lớn đều không khóa, phòng bên trong cũng chỉ có rèm che. Tôi gọi vài tiếng rồi cẩn thận bước vào, phát hiện không có ai mới gọi vọng lên lầu mấy tiếng nhưng vẫn không người đáp, hình như cả nhà đều đi vắng hết.

Trong lòng tôi bắt đầu chửi rủa, mẹ kiếp A Quý làm sao vậy? Đã hẹn phái người đứng đó chờ tôi sao lại cho tôi leo cây? Chẳng lẽ anh ta vào núi rồi? Vậy thì chết toi! Ở đây tôi chỉ quen biết mỗi mình anh ta, không biết phải chờ đến đời tám hoánh nào anh ta mới về nữa! Khi ấy tâm huyết tôi dâng trào, tuyệt không mê tín, sợ có thể anh ta làm việc trên lầu không nghe thấy, bèn bước thẳng lên lầu, vừa đi vừa gân cổ lên gọi tiếp.

Giữa lầu một và lầu hai có một tấm liếp đan bằng tre trông như cánh cửa đặt trên sàn gác, tôi nhanh chóng đẩy ra rồi bò lên, bên trên là một hành lang, đoạn cuối hành lang dẫn đến một bên ban công gỗ. Tường trúc cũng đã cũ, xem ra đều thó được từ mấy căn nhà gỗ bỏ hoang. Hai bên mỗi bên có một phòng, một bên dùng để chứa đồ đạc, trong phòng toàn là khung bện và da thú được căng ra phơi khô; còn bên kia đóng chặt, gõ cửa một hồi cũng không thấy gì, giống như người bên trong đã đi vắng.

Tôi thở gấp vài hơi để bản thân tỉnh táo lại, nổi giận cũng không được gì. Lúc này đột nhiên nhớ đến lời A Quý nói, đằng sau cánh cửa này hình như là phòng của con trai anh ta.

Tôi chỉ mới nghe anh ta nhắc đến con trai chứ vẫn chưa bao giờ được gặp, có lẽ nó bị tàn tật nên không hay gặp người, sao hôm nay cũng không ở nhà chứ? Nổi máu tò mò, tôi nhòm qua khe cửa thì thấy bên trong tối mù mù, chỉ thấy trên tường treo rất nhiều đồ đạc mà không nhìn rõ là cái gì, hình như đều là giấy, nhưng quả thực không có người, hơn nữa cũng không thấy vật dụng sinh hoạt thường ngày nào, căn phòng trống huơ trống hoác.

Quái lạ, con trai anh ta ngủ trong kiểu phòng như thế này hả? Phòng này làm sao cho người ở được? Muốn đẩy cửa bước vào xem cho kỹ nhưng cửa vẫn không nhúc nhích, hình như có then cài khóa kín rồi.(bạn Tà quá liều mạng, phải mình mình xách dép chuồn ngay rồi bạn lại còn muốn xông vào nữa ORZ)

Tôi không có thời gian suy nghĩ những chuyện này, bèn nén tò mò bước xuống lầu tìm hàng xóm hỏi thăm. Họ nói lâu rồi không thấy mặt A Quý đâu, hình như hai tuần trước đi vào sau núi đến giờ vẫn chưa trở ra. Có điều họ cũng không dám chắc vì anh ta thường ra ngoài tiếp khách, mấy ngày nay mưa lớn nên con gái nhỏ của anh ta đã tới nhà ông nội ở thôn bên.

Tôi chửi thề một tiếng, hai tuần trước cũng chính là lúc tôi rời khỏi đây, xem ra anh ta vào núi lần thứ hai rồi không ra nữa, cũng có thể anh ta đã quên béng lời dặn ra đón tôi rồi.

Thật là bó tay, tôi cũng chỉ còn cách tự bỏ tiền gọi dân làng hỗ trợ. Trước tiên chuyển trang bị đến nhà A Quý để Vương Minh trông coi, sau đó nhờ người hàng xóm kia tùm giúp một người dẫn đường vào núi, rồi mang theo một số trang bị trong khả năng đi vào núi, sau đó đổi cho A Quý ra, tìm người vác trang bị vào.

Nhưng vừa hỏi thăm, tôi lập tức hiểu ra vì sao A Quý không trở ra tiếp ứng.

Thì ra sau khi tôi rời đi, trời đổ mưa tầm tã mấy ngày liền, cả ngọn toàn là bùn nhão lẫn với đất đá sạt lở, đừng nói đi bộ ra, mà dù có mang theo mười mấy người dắt la vào núi cũng có thể chầu trời trong vài giây, rất có thể họ đều bị vây trong núi.

Chuyện xảy ra quá bất ngờ, nhất thời tôi cũng không biết phải làm sao. Người hàng xóm kia bảo tôi không cần lo lắng quá, A Quý biết phải đối phó thế nào. Họ chỉ cần chờ ở ven hồ, cùng lắm chỉ phải dầm mưa, sẽ không gặp nguy hiểm gì quá lớn. Nhưng nếu tôi muốn vào trong núi thì phải chờ ít nhất một tuần, nếu mưa vẫn không tạnh thì có thể còn phải chờ lâu hơn. Thời tiết này cũng chẳng có thợ săn nào chịu giúp đỡ, vấn đề ở đây không phải là tiền.

Một tuần, tôi tính lại thì thấy không ổn. Nếu A Quý vẫn chưa về thì đã hai tuần họ không được tiếp tế, đồ ăn rất có thể đã hết sạch, dù có thể đi săn nhưng trời mưa to như thế có con mồi hay không cũng là vấn đề.

Dù họ chịu đựng được thì tôi cũng không thể trì hoãn thêm một tuần, bèn ra giá gấp ba để tìm người cần tiền không cần mạng. Cuối cùng người hàng xóm bị hỏi nhiều phát phiền, bèn bảo tôi dưới thời tiết này dám đi vào núi chỉ có một người, chính là lão Bàn Mã, hay là anh qua đó hỏi ông ta xem?
 
Quyển 6 - Chương 25: Tâm lý chiến (2)


Edit: Hoa Cúc

Beta: Thanh Du

*****

Cầm khối sắt lên, gỡ lớp giấy báo bên ngoài ra quan sát, một tia sáng chợt lóe lên trong đầu, tôi nhớ một câu khác mà ông nội đã nói. Nhìn lại khối sắt trong tay, tôi đã nghĩ ra một sách lược hoàn chỉnh, cẩn thận ngẫm lại thì thấy không chê vào đâu được.

Tôi trở lại phòng của A Quý, Vương Minh toàn thân ướt sũng, đang vắt quần áo cho bớt nước đi. Tôi cũng cởi quần áo, không thèm khách khí nữa, bước thẳng vào phòng A Quý lấy rượu ra làm mấy ngụm cho đỡ khô miệng, sau đó thì suy nghĩ xem tiếp theo mình nên làm gì.

Nói thật, tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra tình huống như thế này, gặp chuyện thì hoàn toàn trở tay không kịp. Việc này khiến tôi nhớ lại một khái niệm mà trước kia giảng viên từng nhắc tới, gọi là “Ấn tượng đầu tiên gây ra đánh giá chủ quan”. Đây là một khái niệm trong ngành vận chuyển hàng hóa, sau này được ứng dụng vào rất nhiều ngành nghề. Nghĩa là trong bất kỳ mắt xích nào cũng nhất định phải cân nhắc lại một lượt tất cả mọi điều kiện, không thể có yếu tố “chắc hẳn”. Trong ngành vận chuyển hàng hóa có rất nhiều việc cần cân nhắc, bao gồm cả thời tiết, tôn giáo, chu kỳ bãi công thông thường, mọi chi tiết đều phải được tính toán đầy đủ khi nhập vào mỗi cảng, mới có thể cam đoan mọi việc suôn sẻ.

Đối với thời tiết nơi đây, tôi bị ảnh hưởng bởi ấn tượng chủ quan, người không biết mùa mưa ở Quảng Tây đáng sợ đến nhường nào mới có thể không tính đến yếu tố khí hậu.

Chuyện hôm nay đã trở nên cực kỳ khó giải quyết. Bọn họ nói hoàn toàn không thể dự đoán khi nào trời tạnh mưa, hơn nữa cho dù tạnh thì một thời gian sau trong núi vẫn vô cùng nguy hiểm, vì vậy thời điểm có thể lên núi sớm nhất là một tuần, mà muộn nhất có thể là hơn một tháng.

Tôi chẳng thể mong chờ ông trời chiếu cố, lên núi ngay lập tức là việc đúng đắn nhất.

Nhưng bây giờ mà đi tìm lão Bàn Mã xin giúp đỡ thì khả năng thành công thật sự không lớn. Lần trước lúc lừa ông ta tôi đã nói sẽ không tới tìm ổng nữa, bây giờ lại đến nhờ vả thì sẽ không khớp với ấn tượng mình có một thế lực rất lớn chống lưng mà tôi đã để lại cho lão, lập tức lòi đuôi ngay. Mà lòi đuôi rồi, lão không đánh tôi đã là phúc, chứ đừng nói đến việc giúp tôi.

Suy đi nghĩ lại, tôi tự nhủ không thể lùi bước. Nếu đi tìm lão Bàn Mã là biện pháp duy nhất thì chỉ có thể kiên trì đến cùng, phải tìm một cách nói thật khéo léo để khiến lão mắc câu.

Bàn Mã là một con cáo già, có trí tuệ đặc hữu của thế hệ ấy, làm sao gài lão mắc câu thật sự là một việc khó khăn. Nghĩ tới nghĩ lui mà không ra cách nào ổn thỏa, mẹ kiếp việc này thật khó nhằn! Tôi đột nhiên xuất hiện, nhờ lão dẫn tôi vào núi, chuyện này bản thân nó vốn không có sức thuyết phục. Nếu như ngay cả việc lên núi tôi còn không làm nổi, thì càng không có khả năng uy hiếp lão.

Điều đầu tiên tôi phải xác định rõ chính là thái độ của tôi không thể là cầu xin, mà phải là uy hiếp hay ép buộc. Thà cứ để lão nghĩ tôi là một tên xấu xa có thế lực, chuyên lật lọng, không từ thủ đoạn để đạt được mục đích cũng không thể để lão nhận ra tôi là một cái thùng rỗng.

Tiếp theo tôi phải đánh trống lảng, không cần biết là viện lý do gì để lão dẫn tôi lên núi, thì lên núi chính là lên núi, dùng lý do này đến tìm lão khác nào bảo lão tôi không có thể làm được việc này. Một tên xấu xa thế lực mạnh có thể thất thế ở địa bàn khác, nhưng không thể không đủ sức lên núi. Tôi phải che giấu mục đích thật sự, khiến lão tưởng rằng tôi cần lão làm chuyện khác, lên núi chỉ là một việc tất yếu phải làm.

Thứ nhất, là phải ép buộc. Thứ hai, không thể lộ ra biểu hiện vô năng. Phải dùng việc gì để che giấu đây?

Cứu A Quý và Vân Thái?

Không thể được. Như thế quá lương thiện. Nếu tôi là một kẻ lạnh nhạt vô tình không từ thủ đoạn, cái phẩm chất lương thiện này không thể tồn tại được. Hơn nữa, con người lão Bàn Mã có một loại tính ác trời sinh, một khi tôi bộc lộ ra sự thiện lương, lão lập tức có thể áp đảo và uy hiếp ngược lại tôi, do đó tôi không thể bộc lộ ra nhược điểm trong tính cách.

Nói cần lão qua đó để nhận diện vật gì ngay tại chỗ?

Hình như có hơi gượng ép, không đủ sức thuyết phục đêr lão nhất định phải nghe theo. Hơn nữa nếu làm vậy, tôi muốn giả cũng không biết phải giả giọng điệu như thế nào cho giống. Mặt khác, cứ cho là lão đồng ý, thì khi thấy chỉ có mình tôi đi cùng lão sẽ khó tránh nảy sinh nghi ngờ. Bản lĩnh của tôi trong mắt lão chắc chắn là càng nhìn càng giống với phường yếu kém, không chừng gặp nguy hiểm còn phải nhờ lão cứu. Cứ tiếp tục như thế, rồi sẽ chẳng thể khống chế tình hình.

Nghĩ mãi nghĩ mãi, đầu cũng muốn to ra, tôi cảm thấy việc này không giống với mấy lời khách sáo. Lời khách sáo cũng giống như đàm phán thương vụ, bạn chỉ cần giả vờ trong lúc đàm phán là xong. Nhưng việc này đàm phán xong, tôi còn phải đi cùng lão, trên đường đi luôn phải đóng kịch trong điều kiện khắc nghiệt như thế, độ khó là quá cao.

Tôi day huyệt Thái Dương, muốn xua hết tâm địa xấu xa ra khỏi đầu. Mẹ kiếp! Thử nghĩ theo hướng khác, nếu giả vờ không được, có lẽ phải dùng đến biện pháp cực đoan hơn chăng?

Bắt cóc? Đầu óc tôi chớp động: Đánh ngất ông lão, sau đó quẳng lên xe lừa?

Nhớ tới thân thủ của Bàn Mã, nhìn lại Vương Minh và bản thân, tôi tức khắc bỏ cuộc. Đệt! Bắt cóc? Không chừng còn bị lão chém chết ngay tại trận.

Bắt cóc không được, vậy cứ trực tiếp đưa thật nhiều tiền, làm dữ một chút, cầm hai ba mươi vạn đập vào mặt lão?

Nghĩ đến gia đình Bàn Mã có phần khó khăn, lại thêm thái độ của con lão, thoáng chốc trong đầu đã nghĩ ra một kịch bản: Cứ nói tôi cần loại khối sắt này, trong vài ngày phải tìm ra, một khối bao nhiêu tiền rồi bảo lão mò lên, tôi sẽ trả một vạn cho mỗi một khối lấy được. Nếu thế, may ra bọn họ sẽ vì tiền mà lên núi.

Cảm thấy cách này có phần khả thi, tôi bắt đầu lục lọi trên người mình. Hai ba mươi vạn không phải con số lớn, nhưng tôi đâu thể mang chừng ấy theo người. Móc hết tiền mặt và mấy thứ đố linh tinh trên người ra, đếm thử thì chỉ có bốn vạn. Trong thẻ có tiền, nhưng nếu cần thì phải lên thị trấn rút.

Ngẫm lại một chút, cảm thấy đại khái đã ổn, vừa định bảo Vương Minh xuất phát, trong đầu lại lóe lên một tia sáng.

Không được! Đây không phải sách lược vẹn toàn! Tuy chắc rằng Bàn Mã rất có thể sẽ đồng ý, nhưng rốt cuộc vẫn chưa chắc chắn trăm phần trăm, lỡ đâu ông lão từ chối thì sao?

Một khi lão đã từ chối, tôi sẽ không có cơ hội thứ hai.

Ông nội từng nói, làm chuyện gì cũng có thể có thất bại, nhưng không thể thất bại khi không còn cơ hội thứ hai.

“Xác suất thành công của mỗi biện pháp có thể chưa đến 50%, thậm chí có thể chỉ là 10%, nhưng nhất định phải chừa lại đường sống, như vậy thật ra sau này vẫn còn lại vô số lần xác xuất 100%.”
 
Quyển 6 - Chương 26: Gió mặc gió, mưa mặc mưa


Edit:Earl Panda

*****

Vốn chuẩn bị rất nhiều cớ để giải thích, định bụng xoáy sâu thêm nữa vào nỗi sợ hãi của lão ta, nhưng lại hoàn toàn không cần thiết. Tôi chỉ cần nói vài câu, lão đã sợ khiếp vía rồi.

Muốn đấu với người khác, thì cứ tấn công thẳng vào điểm yếu của hắn.

Mà điểm yếu của Bàn Mã, chính là nỗi khiếp hãi trong lòng lão. Không cần phải nói gì hết, tôi hoàn toàn có thể bóp nát tâm lý lão ta.

Có điều, mọi việc cũng không suôn sẻ như tôi tưởng, bởi vì lão ta thực sự sợ quá, gần như đạp cửa mà chạy, có lẽ lão thà chết cũng không muốn đến chỗ những người đó nữa.

Tôi phải thuyết phục lão từng chút từng chút một, cuối cùng phải chốt lại cho lão một câu, nhất định phải kết thúc chuyện này thôi, bằng không con cháu lão ta sẽ phải gánh xui xẻo thay. Đến tận lúc bấy giờ mới ép được lão ưng thuận, mềm lòng một cái, mới chịu bằng lòng liều mạng dẫn tôi vào núi. Về phần vào núi làm gì? Tôi không nói, lão cũng không hỏi.

Đương nhiên, trên danh nghĩa thì là lão theo tôi vào núi, nhưng thực tế thì lại là tôi bám theo lão ta. Dù sao thì trong đường núi, tôi đi đằng trước hay đằng sau cũng chả khác biệt gì.

Nhìn dáng vẻ của lão, tôi có cảm giác tội lỗi vô cùng.

Vì lợi ích của cá nhân mình mà dọa một lão già khiếp sợ đến mức như thế, vốn đã chả phải điều gì hay ho rồi, ấy vậy mà tôi lại còn ép lão theo tôi vào trong núi đầy hiểm nguy. Hành vi này khiến tôi nghĩ mà ghê tởm, cảm thấy bên trong tôi thực sự chảy chung dòng máu với bọn chú Ba, cái thứ bản năng gian trá tàn nhẫn từ trong huyết mạch này.

Những chuyện sau đó chỉ cần nói vắn tắt lại. Chúng tôi sắp xếp đồ đạc nửa ngày rồi mới xuất phát. Mới đầu tôi còn đi phía trước, Bàn Mã phía sau, nhìn thì tưởng tôi đi dẫn đường, thực ra là tôi vốn ù ù cạc cạc chả biết gì.

Suốt đoạn đường chúng tôi đi không ngừng nghỉ, lại một cơn mưa to như trút nước ập đến, đường núi khó đi cực kỳ, cũng may lúc trước khi ở cảng Phòng Thành đã nghỉ ngơi dưỡng sức đầy đủ, cho nên tôi vẫn chịu đựng được. Dọc đường đi Bàn Mã không nói một câu, tôi cũng chẳng ừ hử gì với lão, chỉ cắm đầu mà đi.

Chỉ vài hôm là tôi đã trở lại bên cái hồ kia, vừa nhìn ra xa xa, ôi mẹ ơi! Mực nước hồ phải tăng ít nhất là năm, sáu mét, loáng cái mặt hồ đã rộng mênh mông hơn trước, hoàn toàn khác với cảnh tượng sóng nước dập dờn lúc trước. Núi Giác Dương bây giờ mưa xối ào ạt, nước bùn từ trên cao xối thẳng xuống, tung tóe khắp nơi, trông dữ tợn cực kỳ.

Lúc này người ở trên núi thì nguy hiểm quá, chúng tôi vội vàng xua la đi, lội qua nước bùn, đi men theo con đường mòn nhỏ xuống thẳng bãi đá ven hồ.

Ở trong núi, tiếng mưa tạt vào lá cây nghe đinh tai nhức óc, càng đừng nói lúc xuống đến bên hồ, mưa rào xối xả đập xuống mặt hồ, phát ra thứ âm thanh với tần suất đều tăm tắp, vang vọng khắp trời đất, khiến người ta chẳng thể nói chuyện được gì vì quá ầm ĩ.

Mấy con chó săn của Bàn Mã cứ lồng lên không yên, cũng không chịu đi theo nữa, Bàn Mã đành phải để kệ chúng nó trốn dưới tàng cây sát mép bãi đá.

Không còn tán cây che chắn phía trên, màn mưa trực tiếp dội xuống đầu, tầm nhìn hạ xuống cực thấp, chúng tôi cố kiết kéo con la đi về phía cái lán che mưa đã dựng từ trước. Trong màn mưa bất chợt trông thấy một cái bóng mờ mờ lóe lên, hình như là Bàn Tử.

Tôi biết có gọi cũng vô dùng, cho dù đứng mặt đối mặt với nhau mà gào cũng chẳng nghe thấy gì nữa là. Tôi bèn tiếp tục tiến về phía trước.

Đúng lúc này, không biết vì sao, con la bỗng nhiên khựng lại. Quay lại nhìn, hóa ra là do Bàn Mã kéo giựt lại. Rõ ràng lão ta nghĩ rằng đã đến được mục tiêu, phải đợi nghe chỉ thị của tôi.

Trải qua mấy ngày nay, tôi thấy lão ta cũng nghĩ thông rồi, không khiếp sợ như lúc trước nữa. Hơn nữa, xem ánh mắt thì hình như lão đã hạ quyết tâm gì rồi, toàn thân âm trầm cực kỳ, đến mức tôi trông mà cũng hơi sợ.

Con người chính là như vậy, một ngày hai ngày còn hù dọa cho khiếp vía được, chứ ngày nào cũng dọa liền chai lỳ ngay.

Đến đây rồi thì koong cần giả bộ nữa. Kỳ thực, chặng cuối của quãng đường tôi cũng không vờ vịt gì nữa, vì tôi quá mệt rồi, trái lại, bây giờ tôi bắt đầu suy nghĩ xem nên giải thích với Bàn Mã như thế nào về cảnh tượng lão ta sắp nhìn thấy. Nếu như nói thực cho lão biết thì chỉ sợ lão giết phứt tôi luôn mất, mà nếu tiếp tục lừa bịp nữa thì lại rất khó, cũng quá là vô nhân đạo nữa.

Tôi không biết nên nói với Bàn Mã như thế nào, mà chỉ cần bọn A Quý xuất hiện là lộ tẩy ngay. Tôi định trước thương lượng với Bàn Tử cái đã, hoặc là trốn biệt luôn, chờ lão hết cơn giận hẵng thò mặt ra. Thế là tôi bèn bảo lão đứng yên tại chỗ đừng nhúc nhích, còn tôi thì buông dây cương, đi tìm bọn Bàn Tử trước, tiện thể báo bọn họ qua đây giúp dỡ đồ nữa.

Nhưng chưa đi được mấy bước, xuyên qua màn mưa nhìn về phía trước, bóng người ban nãy lại thoáng hiện ra, nhưng hình dáng có vẻ kỳ quái.

Không để tôi kịp nhìn kỹ xem đó là ai, đột nhiên sau gáy tê rần lên, trước mắt tối sầm đi, ngã dúi dụi xuống đất, may là chưa ngất xỉu.

Tôi lăn một vòng rồi lồm cồm bò dậy, thấy Bàn Mã sắc mặt xanh mét đứng sau lưng tôi, một tay lăm lăm con dao săn đã rút ra, trong mắt toàn là sát ý.

“Ông làm cái gì đấy?” Tôi gào lên.

Lão giơ dao lên, rồi lại bổ về phía tôi.

Mẹ kiếp! Tôi cuống cả lên, lăn ngay một vòng để né. Con dao của Bàn Mã vạch một đường vòng cung tuyệt đẹp trong màn mưa, bổ thẳng về phía cổ họng tôi, tôi lảo đảo vừa kịp né một cái, ngã ngồi xuống đất, bấy giờ mới nhận ra lão ta đang ra đòn sát thủ.

Nhìn ánh mắt kia, còn cả vẻ mặt không đổi suốt dọc đường nữa, tôi nghĩ bụng toi rồi, cứt thật! Đúng là người này đã nghĩ thông suốt trên đường, nhưng mẹ kiếp lão nghĩ thông chính là muốn tiên hạ thủ vi cường, liều mạng với bọn tôi! Giết sạch cả đám chúng tôi là xong! Mẹ, đúng là phiền to!

Tôi nghĩ mà chạy, vừa chạy được vài bước, Bàn Mã đã sấn đến trước mặt tôi rồi, vung ngang dao mà chém. Tôi gào lên tôi sai rồi, tôi lừa ông đó, không có việc gì đâu, chỉ là bọn họ vẫn chưa quay về thôi, thế mà mả mẹ nó lão ta đếch thèm nghe lọt tai chữ nào.

Suốt một đường bôn ba, tôi đã không chạy nổi nữa rồi, giằng co với lão trong mưa chưa được bao lâu bèn cắm đầu cắm cổ chạy về phía cái lán, nào ngờ giẫm phải một tảng đá có cạnh sắc, ngã nhào xuống. Bàn Mã lập tức xông đến đè tôi xuống, tôi vớ bừa mấy hòn đá mà ném, nhưng lão ta đều né được cả.

Mắt thấy lưỡi dao của lão lại vung đến đây, bỗng nhiên lão khựng lại, hình như nhìn thấy cái gì đó, quay phắt về một phía khác. Tôi thừa cơ bò dậy tiếp tục chạy, nhưng lập tức nhận ra khắp xung quanh chúng tôi xuất hiện rất nhiều bóng người đứng trong màn mưa, vây chúng tôi vào giữa.
 
Quyển 6 - Chương 27: Bóng ma trong mưa


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Editor:Ala Ju

Beta: Thanh Du

*****

Mấy bóng người kia cũng đung đưa, khi thì xuất hiện, chốc chốc lại biến mất trong màn mưa. Họ nhòm ngó như những hồn ma, vừa nhìn đã biết không có ý tốt, hình như đang quan sát chúng tôi hết sức chăm chú, lay động tùy thời khiến người ta không rét mà run.

Ý niệm đầu tiên lóe lên trong tâm trí tôi chính là phỏng đoán trước đó: trong thôn có người đang lén lút ngăn cản, đến bây giờ rốt cuộc họ cũng động thủ, muốn chặn giết chúng tôi tại đây.

Loạn rồi! Một bên là Bàn Mã, một bên là đội ngũ đông đảo muốn chặn giết, chó má! Mẹ kiếp chết chắc rồi!

Tôi nhìn lướt qua một vòng, phát hiện nơi này có chừng bảy người, không biết bọn họ muốn làm gì cơ chứ? Đây gọi là mai phục ở chỗ này sao?

Tôi lau mặt một cái cho hết nước mưa, nhưng mưa lớn thoắt cái đã rơi đầy mí mắt. Những bóng người kia vẫn mơ mơ hồ hồ không thấy rõ, không biết họ mang theo vũ khí gì.

Tôi cũng không nhìn rõ vẻ mặt của Bàn Mã, bởi hai bên vẫn duy trì khoảng cách. Chỉ thấy lão khựng lại một chút, rồi đột nhiên đâm bổ vào một cái bóng trong số đó.

Mới đầu tôi sợ hết hồn, nhưng ngay sau đó đã hiểu ra lão nghĩ gì: lão coi mấy cái bóng này là những người kia!

Trong hoàn cảnh này thì dẫu là ai cũng không thể ung dung mai phục hay chặn giết người khác được, cho nên thay vì chờ cho đối phương nhìn rõ tình thế, chi bằng lập tức nhào tới. Như thế mấy người này sẽ rơi vào hoàn cảnh hỗn loạn, chỉ cần họ rối trí một chút sẽ không thể phân biệt được đâu là địch đâu là bạn, cho lão cơ hội mà lợi dụng.

Tôi không biết chuyện này với tôi là tốt hay xấu, mà hiện giờ cũng không nghĩ nhiều được như thế, lập tức chạy theo sau lão. Bọn họ vây kín chúng tôi, Bàn Mã một khi đánh nhau với bọn họ nhất sẽ có sơ hở cho tôi thừa cơ trốn thoát.

Không thể quay lại lều trú mưa, nếu những người này đã chờ ở đây từ sớm thì chẳng biết tình hình của mấy người A Quý và Muộn Du Bình ra sao rồi. Bản lĩnh của Muộn Du Bình và Bàn Tử dù có cao cường đến đâu thì mỗi người chỉ có một cây súng cũng đi đời nhà ma rồi, huống hồ còn bị A Quý và Vân Thái liên lụy.

Chạy trên bãi đá vừa trơn lại vừa lởm chởm này không khác nào diễn xiếc, mới chạy được mấy mét đầu gối đã bầm dập. Tôi bám theo Bàn Mã đang nhào vào một cái bóng phía trước, nhưng vì khoảng cách thay đổi nên những cái bóng vây quanh bốn bề đều không dễ nhìn ra, cũng không thấy rõ động tác của bọn họ.

Bàn Mã đâm thẳng vào cái bóng kia, dao trong tay cắt ngang màn mưa, không thể nhận ra động tác ấy lại là của một ông lão tám mươi tuổi.

Lạ một nỗi, cái bóng vẫn đứng trơ trơ ra, dường như không hề để ý đến đòn tấn công ác liệt ấy.

Trong chưa đầy mười giây, chúng tôi đã lao đến sát sạt cái bóng kia, mũi dao của Bàn Mã đổi chiều, chẳng những không chém lên mà còn khựng lại. Kế đó lão hét thảm một tiếng, dao rớt xuống đất, người bắt đầu điên cuồng lùi lại, rồi vấp phải tảng đá ngã sóng xoài.

Tôi từ bên cạnh bước tới nhìn, chân tướng của cái bóng hóa ra lại là một bộ xương khô đứng thẳng! Trên người bộ xương là quân trang và vũ trang đã mục nát thành những miếng vải đen, lưng đeo súng tiểu liên đã rỉ sét.

Da đầu tôi tê đi, lập tức lùi lại một bước, thầm nghĩ cái đệt! Mẹ nó đây là cái của nợ gì? Lẽ nào những người chết kia thật sự bơi từ dưới nước lên bờ?

Tôi có khả năng chịu đựng cú sốc tâm lý tốt hơn Bàn Mã rất nhiều, khi mưa đột ngột trút xuống tôi đã để ý thấy bộ xương khô kia chỉ dùng cành cây chống đỡ, sau lưng có một cái giá làm bằng củi.

Nơi này sao lại có người chết? Bọn họ tìm thấy thi thể dưới đáy hồ?

Tôi rùng mình ớn lạnh, nhìn kỹ mớ hài cốt kia thì thấy quả nhiên không sai. Phán đoán dựa vào quần áo và vũ trang bị nước ăn mòn, thì đây nhất địnhlà một người lính, xem ra giả thiết của tôi không sai.

Cái quái gì vậy? Nhát ma người ta à? Hay là Bàn Tử giở trò đùa dai?

Lão Bàn Mã khiếp sợ vô cùng, khi tôi quay đầu lại nhìn thì lão đã mất hút, chạy đến chỗ con la vẫn không thấy lão đâu cả.

Đầu tôi đau muốn chết, nhìn đến những cái bóng khác thì phát hiện chúng đều là xác chết, tổng cộng có thể tìm ra bảy khối, những nơi khác có còn không thì chưa thể khẳng định được.

Trời đổ mưa tầm tã, tôi không tài nào tìm được Bàn Mã, nên đành chuẩn bị đi hội quân với A Quý trước, báo cho họ biết nơi này còn có người khác.

Mấy con la có vẻ sợ những xác chết này, xua đuổi thế nào cũng không thèm nhúc nhích. Tôi đành phải cột chúng vào tảng đá, sau đó đi vòng qua mấy xác chết, đi thẳng về phía căn lều trú mưa trước mặt.

Lều trú mưa rõ ràng đã được gia cố, giữa cơn mưa lớn vẫn sừng sững không đổ, tôi vừa bước vào liền cảm thấy bốn bề lập tức trở nên yên tĩnh, nhìn quanh một vòng không thấy họ đâu.

Tôi lại chửi thầm trong bụng, mưa to thế này chẳng lẽ còn xuống nước? Mẹ kiếp, hay là xảy ra chuyện gì rồi?

Trong căn lều chồng chất rất nhiều đồ đạc được vớt từ dưới nước lên. Trong hai tuần tôi đi vắng, thành quả của Bàn Tử và Muộn Du Bình cũng thật ấn tượng.

Trong đống đồ này, những thứ bằng kim loại đều đã gỉ nát. Tôi thấy có ấm nước, súng trường súng lục, kính viễn vọng, chủy thủ dao bầu, đều là trang bị vũ khí thời đó, đúng là mang đậm không khí chiến tranh. Ngoài ra còn có rất nhiều đồ dùng hàng ngày như hộp bánh bích quy, cực kỳ chu đáo, cái gì cũng đủ, có lẽ nó được tìm thấy trong những vật thể lớn được vớt lên từ dưới đáy hồ.

Nghĩ đến mình không có hàng nóng phòng thân, tôi nhặt lên một lưỡi lê ba cạnh kiểu 56 (*), lưỡi lê này rất nổi tiếng nhưng thời bấy giờ thật ra cũng không hay được dùng. Dù sao cho đến những năm 1980 thì vũ khí cá nhân cũng có hỏa lực rất mạnh, bình thường chỉ thời điểm thi hành nhiệm vụ đặc thù mới dùng đến lưỡi lê. Chiến đấu trong rừng, người Việt Nam cũng sẽ không đấu lưỡi lê với anh.

Do nguyên liệu chế tạo tốt nên lưỡi lê cũng không hư hỏng quá nhiều, tôi nghe nói trên loại dao này thường tẩm độc nên rất cẩn thận trở tay cầm, nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Má! Sao lúc nào cũng phải sống chung với mưa lớn, gọi thì không nghe, nhìn cũng không rõ.

Nghĩ bụng mình ở trong lều lại trở thành mục tiêu quá lớn, không khéo Bàn Mã sẽ tìm đến truy sát, tôi lại lao vào cơn mưa, chạy đến ven hồ xem A Quý và mọi người có ở đó không.

Đi đi lại lại vài vòng, chợt thấy có người đứng gần mép nước đang kéo bè gỗ lên bờ, tôi xông tới thì nhận ra bóng lưng mỏng manh đang kéo bè đó là A Quý.

Thấy tôi xuất hiện trước mặt, anh ta ngây người, sắc mặt trắng tái thấy ghê.

“Sao chỉ có một mình anh? Mọi người đâu cả rồi?” Tôi hỏi.

Anh ta ngơ ngác đứng dại ra trong nước, cứ thế nhìn tôi chằm chằm, tôi hỏi lại lần thứ hai vẫn không hề phản ứng.

Tôi nhìn bè gỗ, vốn đinh ninh A Quý mới đi từ dưới hồ lên, chửi thầm mẹ kiếp mấy người này điên cả rồi, mưa sầm sập như thế còn ở đó mà vớt đồ! Nhưng sau đó lại thấy không ổn, nếu là như thế thì tại sao anh ta lại tự tay kéo bè trở về? Lẽ ra anh ta phải ngồi trên bờ chờ mấy người kia mới đúng chứ. Bơi trong mưa lớn rất nguy hiểm, huống chi mực nước đã dâng lên cao chừng ấy.

Mà vẻ mặt A Quý lại càng không ổn.

Tôi đến gần vài bước muốn hỏi lại cho rõ ràng, nhưng càng đến gần lại càng nhận rõ sự bất thường. Trông A Quý đờ đẫn cứ như vừa gặp chuyện gì khiến anh ta chịu kích thích cực độ, đến nỗi hồn lìa khỏi xác.

Tôi tiến lên tát cho anh ta một cái rồi gào lên: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Lần này anh ta mới phản ứng, chớp mắt lệ đã rơi đầy mặt, mếu máo nói: “Họ… bọn họ chết cả rồi!”

Chết rồi?

Đầu óc tôi ong lên, làm sao có thể?

A Quý nói xong câu đó thì hoàn toàn suy sụp, gần như loạng choạng gục xuống xuống mặt nước. Tôi đành phải đỡ anh ta lên dìu vào trong lều trước đã, rồi đến chỗ con la cầm mấy bình rượu gạo rót xuống, bấy giờ anh ta mới từ từ thả lỏng, nhưng tâm tình vẫn còn rất mụ mị, nói năng lẫn lộn.

Tôi vừa nghe vừa sắp xếp lại, cuối cùng cũng thông ở đây đã xảy ra chuyện gì.

———————————–

(*) Lưỡi lê ba cạnh là cái này, kiểu 56 tức là kiểu ra đời vào năm 1956.

[Diendantruyen.Com] Đạo Mộ Bút Ký
 
Quyển 6 - Chương 28: Hồ ma quỷ dị


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Edit: Earl Panda

*****

Sau khi tôi rời đi, A Quý cũng quay lại một chuyến, tìm vài người giúp vận chuyển lương thực và đồ đạc đến bên hồ. Thấy không có vấn đề gì, Vân Thải bèn theo họ về nhà làm việc khác, chỉ còn mình A Quý ở đây trông.

Lúc đó, Muộn Du Bình và Bàn Tử đã vớt lên được rất nhiều thứ, đồng thời phát hiện nơi có khả năng giấu kín những cái xác kia. Nhưng trời bắt đầu mưa liên miên không dứt, mực nước dần lên cao, khiến công việc trục vớt lâm vào cảnh bế tắc.

Tuy nhiên, đúng lúc này, trong quá trình sắp xếp những đồ đạc vớt được, họ tìm thấy cả một bộ trang bị bao gồm đồ lặn, dây thừng đầy đủ. Hồi xưa người ta dùng loại trang bị lặn rất nặng, để trục vớt những khối sắt dưới đáy hồ.

Bộ trang bị lặn tuy đầy đủ nhưng do ngâm nước trong thời gian dài, phần lớn là không dùng được nữa, nhưng mũ lặn được làm bằng chất liệu chống rỉ, lại được đóng gói khá kỹ trong ba lô, cho nên không bị ngấm nước, bên trong mũ vẫn còn khô ráo, chỉ có mặt ngoài là một lớp gì đó như cao su, bong tróc loang lổ.

Bàn Tử bèn nảy ra một ý, dùng cái mũ lặn này và một phần thứ giống cao su đó, làm thành một dụng cụ lặn đơn giản, không khí bên trong mũ lặn đủ để thở khoảng bảy, tám lần. Trong không khí mà con người thở ra cũng chứa một lượng lớn dưỡng khí, chút tí tẹo không khí ấy vẫn còn khá khả quan, nếu sử dụng khéo léo thì có thể tăng số thời gian lặn dưới nước lên đến năm phút đồng hồ. Trong việc lặn, dôi dư ra năm phút so với một phút đã là cách biệt một trời một vực rồi.

Thế là họ sử dụng bộ trang bị này, tìm được những hài cốt dưới nước kia.

Bọn họ sử dụng hai sợi thừng, một sợi buộc bên hông Bàn Tử. Vì mũ lặn rất nặng, cho nên chỉ đành dựa vào sức của anh ta thôi. Có thể trong quá trình nổi lên sẽ phát sinh nguy hiểm gì đó, cho nên đến lúc đấy cần có người kéo anh ta lên. Sợi thừng còn lại thì móc đầy những chiếc móc câu bằng dây sắt uốn lại, số dây sắt này dỡ ra từ khung sắt của chiếc vali da. Bàn Tử lặn xuống nước, vớt được đồ nào thì cứ móc vào đống móc sắt ấy, thế là một chuyến lặn xuống đã vớt lên được bao nhiêu là thứ.

Toàn bộ số hài cốt rải rác ở khắp nơi, sau khi vớt lên, họ dùng cành cây ghép lại để xác định số lượng người chết, nói chung quá trình rất suôn sẻ.

Sau khi vớt hết xương cốt dưới nước lên, đến khi ghép lại, bọn họ liền phát hiện ra một vấn đề – tất cả số hài cốt này đều thiếu mất bàn tay phải.

Theo phương pháp thống kê thì hộp sọ và xương chậu là căn cứ quan trọng nhất để phán đoán số lượng các bộ hài cốt, vì các loại xương khác quá lẻ tẻ, thiếu sót cái này cái kia cũng không đáng ngạc nhiên, nhưng ngay đến một bàn tay phải cũng không có thì lại quá kỳ lạ, không thể là ngẫu nhiên được.

Bàn Tử và Muộn Du Bình bắt đầu suy xét vấn đề, nguyên nhân gì đã dẫn đến tình trạng này? Trong lúc những cái xác bị ném đi, có tình huống gì đặc biệt đã xảy ra, khiến tất cả các bàn tay phải đều đứt mất, hay là bị người ta chém đứt?

Theo những gì Bàn Mã đã kể với tôi, hoàn toàn không nhắc đến chuyện chém đứt bàn tay phải của những thi thể này, mà bọn họ cũng không có lý do gì để làm vậy. Nghĩ mãi mà vẫn không có lời giải, Bàn Tử còn nghi ngờ đám người này rặt một lũ gấu chó, bị người ta chặt mất tay gấu đem làm nem công chả phượng rồi?

Cuối cùng, A Quý kết luận: Có thể những người này vốn đã không có tay phải? Tay phải của bọn họ đều giả, làm bằng gỗ, cho nên đã rữa nát hết rồi?

Nghe đến đó, tôi lại không cho là vậy. Trái lại, tôi cứ có cảm giác, trên tay phải những người này có điểm đặc biệt nào đó, thế là người ta chặt tay họ để che giấu thân phận, hoặc là đem làm chiến lợi phẩm gì đó. Nhưng Bàn Mã lại không nhắc đến việc này, lẽ nào năm đó sau khi đám người lão ta vứt xác xong, lại có người khác đến xử lý những cái xác này một lần nữa?

Nhưng phỏng đoán này của tôi ngay sau đó bị chứng minh là sai, bởi vì A Quý sau đó nói, Bàn Tử cũng nghĩ đến việc này, bèn kiểm tra xương cổ tay của các bộ hài cốt, lại không thấy vết chém, bàn tay phải cứ như thể bị bong ra một cách tự nhiên, các khớp xương cổ tay vẫn còn nguyên vẹn.

Theo lời kể của lão Bàn Mã, đội khảo cổ nọ vẫn có tay phải đầy đủ, chứng tỏ bàn tay phải chỉ bị mất sau khi chết. Bọn họ nghĩ mãi không giải thích được chuyện này, thế là lại lặn xuống nước lần nữa để tìm đầu mối.

Lặn xuống đến gần hàng rào, vẫn không tìm thấy gì nữa, Bàn Tử bắt đầu nghi ngờ các phần xương cốt còn bị cuốn vào trong phạm vi làng cổ đằng sau hàng rào nữa.

Trước khi bắt đầu lặn, bọn họ đã có ngầm thống nhất với nhau, đó là tuyệt đối không tiến vào trong làng cổ dưới đáy hồ, chỉ hoạt động trong phạm vi khá đơn giản quanh đấy. Khu vực đằng sau hàng rào sâu hơn bên ngoài đến mấy mét, hơn nữa, thám hiểm đáy hồ có mức độ nguy hiểm rất cao, chưa ai từng khảo sát qua khu vực này, nói không chừng cấu trúc ngôi làng đã quá yếu ớt, động vào phát là sụp liền, thế thì lại càng cần thêm trang thiết bị đầy đủ hơn mới được.

Nhưng mà Bàn Tử đã không đợi được nữa, anh ta nghĩ cứ qua xem một tí cũng chẳng sao đâu. Lúc này mới xảy ra một chút mâu thuẫn. Nhưng tại tôi không ở đấy, Muộn Du Bình thì chẳng bao giờ nhiều lời gì, còn A Quý thì không thể phản bác ông chủ lớn được, thế là anh ta bèn lặn xuống đó.

Đúng lúc này, lại xảy ra một biến cố không tưởng nổi.

Sợi thừng mà họ dùng lúc đó là loại thừng nilon mà A Quý mua trên huyện, bền chắc cực kỳ, lại dài hơn 300 mét, cho nên Bàn Tử không lo lắng tí gì, lặn xuống sâu hơn nữa.

Nhìn sợi dây từ từ bị kéo xuống nước, giống như lúc trước, A Quý cũng không quá lo lắng, chỉ để ý thời gian, chuẩn bị sẵn sàng đến đúng giờ thì dùng sức kéo Bàn Tử lên.

Bọn họ hẹn thời gian là bốn phút rưỡi, bốn phút rưỡi nghe thì có cảm giác lâu, nhưng ở trên bờ thì chỉ một tí là trôi qua, không lâu sau, A Quý bắt đầu kéo dây thừng, kéo được mấy cái, đột nhiên sợi thừng căng lên, kéo thế nào cũng không nhúc nhích, như là bị cái gì ở dưới đó cắn giữ lại vậy.

Suy nghĩ đầu tiên của anh ta là có lẽ bị kẹt ở chỗ hàng rào rồi, lúc trước tình huống này cũng từng xảy ra, có điều, hàng rào bị ngâm nước không biết bao nhiêu năm, xốp mềm cứ như bánh bao Vượng Tử ấy, chỉ cần kéo mạnh chút là được.

Lại dùng sức giựt mạnh vài cái, quả nhiên sợi dây lại kéo được nữa, A Quý bắt đầu thuận lợi kéo dây, nhưng lần này lại cảm thấy có gì không ổn, kéo dây lên mất ít sức hơn trước rất nhiều, cực kỳ nhẹ tay.

Cảm giác này có hơi kinh khủng, giống như khi ta câu cá, cá cắn câu, sau đó giằng co mấy giây, dây câu lại trùng, chứng tỏ mồi đã bị cắn rơi, cá thoát khỏi câu.

Hiện tại, mồi chính là Bàn Tử.

A Quý mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, càng ngày càng thấy không ổn, sợi dây cũng càng ngày càng nhẹ, dần dần có thể nhìn thấy bóng đen dưới nước, anh ta gần như ngạt thở, đợi đến khi anh ta lôi được bóng đen lên khỏi mặt nước, thì chẳng thấy Bàn Tử đâu, thứ bị kéo lên là cái mũ lặn.

Anh ta bình tĩnh lại để suy đoán, rất có thể sợi thừng bị mắc kẹt chỗ nào đó, Bàn Tử thấy tình hình không ổn, bèn cởi bỏ mũ lặn rồi tự nổi lên. Cởi xong rồi thì thì thứ gì đó mắc sợi thừng lại cũng liền lỏng ra, như thế, Bàn Tử chả mấy chốc nữa sẽ nổi lên ngay thôi.

Lúc đó, Muộn Du Bình ở trên bờ. A Quý dần dần phát hoảng, vốn là một vụ làm ăn cực tốt, bây giờ loáng cái đã xảy ra chuyện, là phải chịu trách nhiệm rồi. Tệ hơn nữa là ở những vùng rừng núi hẻo lánh, xảy ra chuyện kiểu này, có thể sẽ bị người ta đồn đại cả đời luôn.

Anh ta vừa cởi quần áo vừa quay ra phía bờ gọi to, thấy Muộn Du Bình lập tức chạy qua, anh ta bèn nhảy xuống hồ, ôm tảng đá mà lặn xuống nước. Đáng tiếc anh ta thực sự chẳng có kinh nghiệm, chìm được mấy mét tảng đá lại tuột khỏi tay, rồi lại giãy giụa nổi lên.

Đến khi Muộn Du Bình chạy tới, A Quý kể lại tình hình vừa rồi, hắn bèn đội mũ lặn lên, nhảy xuống nước.

A Quý vừa kéo thừng vừa cầu trời phù hộ, nhưng không ngờ, đợi đến năm phút sau, không chỉ chẳng thấy Bàn Tử nổi lên, ngay cả Muộn Du Bình vừa xuống cũng không có bất cứ động tĩnh gì, sợi dây cứ thế rủ xuống nước.

Anh ta bèn kéo dây, cảm giác quen thuộc lại tới từ bên kia đầu dây. Kéo được dây ra hỏi nước, tình huống vẫn như trước: chẳng thấy Muộn Du Bình đâu nữa rồi! Ở đầu bên kia của sợi thừng vẫn chỉ còn lại chiếc mũ lặn.

Tôi nghe xong mà hoang mang, trong đầu rối như tơ vò, cảm giác không thể tiếp nhận nổi, thật là phét lác, chuyện thế này làm sao mà xảy ra được? Nhưng tôi cũng biết rõ, A Quý không thể nào nói dối, vậy chuyện này đối với tôi quả thực là quá đáng sợ!

Tôi hỏi A Quý chuyện này xảy ra khi nào? Anh ta đáp, cho đến giờ là sắp hai tuần rồi. Sau lúc đó, anh ta ở trên mặt hồ đợi nguyên một ngày một đêm, nhưng không có cái gì nổi lên nữa.

Hai tuần rồi? Cho dù có là kình ngư giỏi đến đâu đi nữa mà ngâm nước suốt hai tuần thì cũng chết chắc. Thảo nào A Quý nói bọn họ đã chết, bất kể là nguyên nhân gì khiến bọn họ cởi mũ lặn ở dưới nữa kia, thì cái chết cũng là chắc chắn.

Sau ngày hôm đó, ngày nào A Quý cũng kiểm tra mặt hồ một vòng, xem có cái xác nào nổi lên không, nhưng vẫn chẳng thấy gì. Anh ta nghĩ dưới đáy hồ có quái ngư nào đó đã ăn thịt bọn họ rồi, nhưng cũng không thấy bất kỳ vết máu hay dấu vết tấn công nào trên mũ lặn.

Tôi nhìn cái mũ lặn, thấy Bàn Tử đã chỉnh sửa nó khá là thú vị, khiến nó trở nên rất khó cởi khi ở dưới nước, chuyện này đã biến thành “vấn đề sống còn” rồi.

Tôi từng lặn xuống đáy nước rồi, biết tình hình dưới đó như thế nào, mặc dù tiến vào làng cổ có những mối nguy tiềm tàng, nhưng cũng không thể khiến bọn họ tiêu tốn nhiều sức lực vào việc cởi mũ lặn.

Có phải là bệnh DCS? Lặn xuống càng sâu, tỉ lệ oxy hít vào cần phải được điều chỉnh, nếu không sẽ xảy ra tình trạng say ngứa(*). Nhưng đó cũng không phải say rượu, không thể say đến mức thoát y luôn được.

(*) DCS (decompression sickness) là căn bệnh có thể xảy ra khi lặn sâu và có khả năng gây chết người. Không khí chúng ta thở là hỗn hợp của nhiều chất khí trong đó đa phần là nito và oxy. Cả hai đều hòa tan trong máu, nhưng nito là khí trơ và bị loại bỏ khi chúng ta thở ra. Càng lặn sâu áp lực nước càng tăng, số lượng nito hấp thụ cũng tăng. Khí này vẫn hòa tan trong máu và cơ cho đến khi người lặn trở lại vùng áp suất bề mặt. Khi nổi lên, nito sẽ khuếch tán ra khỏi cơ và bị loại bỏ khi thở ra, nhưng nếu nổi lên quá nhanh, khí nito có thể bị tạo thành những bọt khí trong máu và cơ, dẫn đến các triệu chứng như: đau mỏi ở khớp và cơ, ngứa ngáy khó chịu, da phát ban do những bong bóng hơi bên trong và dưới da, nhức đầu, nôn mửa. Thậm chí có thể rách mạch máu. Hậu quả có thể nghiêm trọng hơn nếu các bong bóng khí đi vào não và tủy sống. Từ tiếng Trung gọi chung chung các triệu chứng này dưới cái tên “say ngứa” (醉痒), tui dịch gượng như vậy để khớp với vế câu còn lại.

Chắc chắn đã có chuyện gì đó xảy ra dưới nước, khiến bọn họ không thể không cởi mũ lặn. Hơn nữa, Muộn Du Bình cũng phải cởi mũ lặn, chứng tỏ điều đó không có sự lựa chọn khác. Hắn ta không hay nảy ra mấy ý tưởng linh tinh giống Bàn Tử.

Như vậy, sau khi cởi mũ lặn, vì sao bọn họ không nổi lên nữa? Lẽ nào, khi gặp phải chuyện này, cuối cùng đã dẫn đến sự cố nào đó?

Tôi lặn lội đường xa, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi, lại gặp phải tình huống khó giải quyết như vậy, quả thực có chút luống cuống, nhưng tôi tuyệt đối không thừa nhận là bọn họ đã chết. Bọn tôi đã trải qua nhiều chuyện đến thế, nhiều lần có thể chết luôn ở bất kỳ đâu rồi, nhưng đều tìm được đường sống trong chỗ chết, bọn họ làm sao có thể chết trong một hành trình nửa du lịch nửa điều tra này được?

Nói thì nói vậy, tôi suy xét thật kỹ vấn đề, tim gan vẫn còn nhức nhối, lập tức không trông mong vào số đỏ nữa. Sự cố sẽ không nói lý với anh đâu, cho dù trước đây anh có gặp nguy hiểm lớn hơn nữa, thì đến lúc anh phải chết, làm sao cũng không tránh được. Trong lịch sử có vô vàn đại anh hùng cả đời gió mưa bão táp, cuối cùng lại chết trong tay một nhân vật nhỏ bé bình thường. Lẽ nào ông Trời lại trêu ngươi tôi, hai người họ cứ như vậy liền mất?

Suy nghĩ một lúc, tôi vẫn không tài nào tiếp thu được việc này, thật là phiền não. Nghĩ thầm, lúc đó trời đang mưa, tầm nhìn trên mặt hồ chắc chắn là không rõ ràng, có lẽ bọn họ đã nổi lên rồi, nhưng cách A Quý khá xa, cho nên anh ta không nhìn thấy, sau đó vì nguyên nhân nào đó mà một mình lên bờ.

Bất kể thế nào, có chuyện thì vẫn phải làm. Bất kể bọn họ có phải là gặp sự cố gì hay không, tôi vẫn phải lặn xuống dưới xem đến cùng xem sao. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác.

Bánh bao Vượng Tử là một loại đồ ăn vặt =))

[Diendantruyen.Com] Đạo Mộ Bút Ký
[Diendantruyen.Com] Đạo Mộ Bút Ký
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại: https://hoinhieuchu.com
Back
Top