Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] [Đạo Mộ Bút Ký] Lão Cửu Môn

[Đạo Mộ Bút Ký] Lão Cửu Môn
Tác giả: Nam Phái Tam Thúc
Tình trạng: Đang cập nhật




Lão Cửu Môn
老九门
Chuyển ngữ: Matcha, Earl Grey

Năm 1903, ông Otani Kozui, người Nhật Bản, vào nội địa Trung Quốc dưới danh nghĩa khảo sát tôn giáo, tiến hành công tác thăm dò và khảo sát địa lý. Trên đường đến Trường Sa, một nhóm nhỏ thuộc đội khảo sát của ông do thương nhân người Nhật Hatoyama Miyuki dẫn đầu đã dừng chân suốt gần 3 tháng ở một thị trấn trên núi cách thành Bắc Trường Sa 160 km, đến khi rời đi, đội khảo sát chỉ còn lại 6 người. Một tuần sau, Hatoyama Miyuki thông qua Viện nghiên cứu thương mại Nhật – Thanh trình lên Bộ Ngoại giao Nhật Bản một bản báo cáo dài 16 trang, lịch sử gọi là báo cáo Hatoyama. Trong bản báo cáo có nhắc đến “thứ” được chôn giấu bên dưới thị trấn vùng núi này.

Ngày mùng 4 tháng 8 năm 1949, Trình Tiềm – chủ tịch tỉnh Hồ Nam, chủ nhiệm Sở bình định Trường Sa thuộc Quốc Dân Đảng cùng tư lệnh Binh đoàn số 1 Trần Minh Nhân khởi nghĩa ở Trường Sa, Trường Sa Hồ Nam hòa bình giải phóng. Ngày thứ hai, Dã chiến quân thứ 4 tiến vào Trường Sa, với tư cách là Trưởng phòng Cơ quan đặc vụ trung ương Trung Quốc khu vực Trường Sa, vào nửa đêm, tôi khẩn cấp mời đến một cụ già, bàn luận suốt 3 tiếng đồng hồ.

Cụ già này tên là Cố Khánh Phong, từ năm 23 tuổi đã trông coi trạm xe lửa cũ của Trường Sa. Tôi hỏi cụ về sự việc lạ thường xảy ra ở trạm xe lửa Trường Sa vào 10 năm về trước. Theo lời kể của cụ, tôi dần dần thấy được mở đầu của sự kiện quỷ dị đã từng lan truyền rất rộng vào những năm đó.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Chuyến tàu ma quỷ


Trong hồi ức của cụ già, ngày hôm đó Trường Sa vừa mới vào đầu đông, tiết trời đã hết sức lạnh giá. Gót giày của quân Nhật đã giày xéo đến gần Trường Sa, thành phố vô cùng tiêu điều, ai hễ có thân thích ở vùng Tây Nam đều chạy đến nhờ nương tựa người thân cả, nhưng sức vận chuyển có hạn, vào mùa đông, đường đến Tây Nam núi non đều sạt lở, rất nhiều người đã đi, gặp núi lở, lại phải vòng về.

Năm đó, Cố Khánh Phong hẵng còn trung tuổi, trực ban ở phòng bán vé, đêm hôm đó, khi chuyến tàu màu đen số 076 tiến vào ga là đúng là ông đang trong ca trực. Vào giờ ấy, đáng lý ra không có xe lửa nào vào ga cả. Ông cũng không nhận được bất kỳ thông báo nào trước đó.

Vào thời kỳ đó, để chuẩn bị cho chiến sự nên hay có các chuyến tàu chở hàng của quân đội đột xuất đến, đây cũng là chuyện bình thường. Nhưng thông thường sẽ có thông báo gửi đến trước, hơn nữa, thủ tục cho tàu vận tải quân đội thường do quân đội xử lý, nên vào những lúc này, trên sân ga phải đầy lính cảnh giới chuẩn bị nhận hàng mới đúng.

Nhưng ông thấy sân ga vắng tanh không một bóng người, chiếc xe lửa cứ thế trờ tới. Nếu không phải vật này quá khổng lồ không tránh khỏi tạo ra tiếng động quá lớn, có lẽ ông còn không phát hiện ra.

Cố Khánh Phong châm đèn bão, khoác thêm một lớp áo bành tô bước ra sân ga, dưới ánh đèn mờ tối, chiếc xe lửa màu đen như một con rồng khổng lồ, nằm vắt ngang một bên sân ga, trên thân đầy vết rỉ sét và bùn khô, như những mảnh vảy rồng rữa nát được đào lên từ dưới lòng đất. Ông cạy lấy một ít bùn khô, vô cùng nghi hoặc.

“Xe lửa từ đâu đến nhỉ?”

Ông trùm kín mình trong chiếc áo khoác, đến gần chiếc xe lửa hơn một chút, kinh ngạc nhận ra tất cả các toa tàu, bao gồm cả đầu tàu nữa, tất cả đều là sắt tây đã hàn kín, những mối hàn xấu xí to tướng nổi đầy bọt khí, chứng tỏ lúc hàn đòi hỏi trình độ rất cao. Ông dùng khuỷu tay gạt lớp bùn khô phủ trên thân tàu xuống, nhìn thấy hình sơn và kiểu chữ 076 trên đầu máy xe lửa, ông mới nhận ra, đây là một chiếc tàu vận tải quân đội của Nhật Bản.

Tàu vận tải quân đội loại này do Nhật Bản chế tạo ở Đông Bắc sau khi xâm lược Trung Hoa, có dạo cho chạy đến tận Tây Bắc, về sau chiếm được không ít, bây giờ đều đã sơn phết lại và tái sử dụng dưới sự quản lý của chính phủ Quốc Dân Đảng. Thế nhưng, chỉ riêng chiếc xe lửa này, hình quân kỳ Nhật Bản vẫn còn được khắc ở hai bên đầu máy xe. Các bộ phận ở thân tàu phần lớn đều đã rỉ sét và phủ đầy bùn đất, quả thực trông như thể là đã từng bị chôn ở dưới đây, mãi đến gần đây mới được đào lên.

Tuyến đường sắt đến hướng Đông Bắc đã bị nổ đứt từ lâu, bây giờ không nối đến Trường Sa nữa, chỉ còn mấy cái đường ray Tây Nam đều đã được quân đội trưng dụng hết rồi. Nhưng xem hướng của đầu máy xe lửa này, quả thực đúng là từ Đông Bắc mà đến, chiếc xe lửa này làm sao mà bay qua được cả cây cầu đường ray đã bị nổ tan tành?

“Khốn kiếp, trên tàu có cái của nợ gì thế?” Cố Khánh Phong gõ gõ lên toa xe, gào lên: “Chớ có dừng ở đây, tàu sau đến rồi, đít tàu sẽ bị đâm đấy. Đằng trước có đường ray, tiến lên thêm chút đi.”

Trên tàu không có một tiếng động nào, cũng không thấy ai lên xuống tàu cả. Ông đi tới đầu tàu, bám lấy trèo lên, kinh ngạc nhận ra cửa ở đầu tàu cũng đã bị hàn chết. Xung quanh ống thoát hơi nước vẫn còn nóng rẫy. Nhiệt độ thay đổi làm ngưng tụ hơi nước, thân tàu rất ướt, đưa tay quệt một cái tay toàn nước rỉ sắt đỏ quạch, như thể rỉ máu vậy.

Cố Khánh Phong có hơi sợ hãi, trông coi trạm xe lửa này nhiều năm đến vậy nhưng hiếm khi gặp phải chuyện nào kỳ quái như thế. Gần đây ông có nghe người Tây Bắc kể chuyện, ở trạm xe lửa vào nửa đêm hay có những chuyến tàu không người, xem xét thì đó toàn là những chiếc xe lửa đã bị người Nhật cho nổ tung, nhưng trên tàu chẳng có lấy một bóng người. Nghe nói đấy là tàu ma, chuyên chở những người bị nổ chết, trước khi chở họ đến âm tào địa phủ thì cho họ về thăm quê nhà. Khi đến sáng sớm, chiếc xe lửa liền biến mất như chưa bao giờ xuất hiện.

Rất nhiều chuyến xe lửa đã bị chôn vùi trong các đèo núi khi núi bị nổ sụt, thảo nào trên thân tàu lại nhiều bùn đất đến vậy.

Ông hét toáng lên định gọi lính canh gác dậy, nhưng đột nhiên, ông nghe thấy trong đầu tàu có tiếng thịch thích. Cửa sổ ở đầu tàu đã bị nước bùn dán kín, ông cố sức lau sạch bùn đất, giơ đèn bão lên nhìn. Ngay lập tức, ông lờ mờ nhìn thấy bên trong ô cửa sổ thủy tinh đục ngầu có thứ gì đó, trông như da lợn trắng ơn ởn, bị kéo căng ra dán trước ô cửa thủy tinh, che kín hết mọi thứ bên trong con tàu.

Phía trên tấm da lợn có một vết rách rất nhỏ, dài khoảng một gan bàn tay, Cố Khánh Phong cố gắng kề sát vào vết rách, muốn nhìn qua vết rách xem có cái gì bên trong tàu.

Chiếc đèn bão không ngừng va đập vào lớp thủy tinh, khiến đất bùn khô rơi xuống lả tả, rỉ sắt và bùn đất tanh tưởi khiến ông phát buồn nôn, ông nhận thấy khe rách kia có chút kỳ lạ.

Ông nheo mắt lại nhìn kỹ, có lẽ do đèn bão va đập vào ô cửa thủy tinh nên tấm “da” ở trong bị lỏng ra, loáng cái liền rơi xuống. Ngay lập tức, ông nhìn thấy trong toa đầu tàu có một người đang bị treo lơ lửng trên không trung. Lại nhìn một lần nữa, ông mới nhận ra, đó là một người chết, một người chết mặc đồng phục công nhân bình thường bị treo lơ lửng ở trên trần tàu, cái xác đang lạnh lùng nhìn ông chòng chọc. Trong đôi mắt đục ngầu đó, đôi con ngươi cực nhỏ, nhỏ như hạt đậu tương vậy, còn lại đều một màu trắng ởn.

Đập vào mắt Cố Khánh Phong đầu tiên chính là đôi mắt khiến người ta sởn da gà đó, ông hét lên một tiếng, xoay người nhảy xuống khỏi xe lửa, ngã dúi dụi dưới sân ga. Ông lồm cồm bò dậy, rồi chạy về phía phòng bảo vệ. Trong đầu ông chỉ có một suy nghĩ duy nhất: Đây là con tàu ma, nó đến Trường Sa để bắt người.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Tề Thiết Chủy


Tề Thiết Chủy nhoài người ra ngoài cửa sổ. Tàu đã đến ngoài trạm xe lửa Trường Sa, hắn nhìn thấy bên ngoài quân cảnh dàn thành từng vòng tròn, quần chúng hóng chuyện còn chưa kịp túm tụm lại đã bị xua đi. Trong bụng mới nghĩ thầm, mới sáng sớm canh năm, Phật Gia đã sai người đến lôi hắn ra khỏi cửa hàng, không xong không xong, Phật Gia là người từng trải, không có chuyện gì mà không đợi được đến khi trời sáng hẵng nói cả. Thế mà giờ hắn còn chưa kịp rửa mặt, mới gặm được có một cây củ cải đã bị gọi đi, chứng tỏ Phật Gia cần gặp hắn gấp. Đến cả Phật Gia mà cũng phải quýnh cả đít lên như thế, bát hương nhỏ này của hắn lại chẳng đổ nghiêng đổ ngả à.

Tề Thiết Chủy nhìn ra bên ngoài, định tìm cớ gì đó đặng chuồn đi. Tàu đã vào khu vực kiểm soát, cửa vừa mở, sĩ quan phụ tá của Phật Gia đã vào đón.

Viên sĩ quan này cũng mang họ Trương, thường ngày trầm tính ít nói, nghe đâu Phật Gia đưa anh ta về từ Đông Bắc rồi cứ thế giữ bên mình luôn, không thể đắc tội được. Phật Gia phái anh ta đi đón người cũng thực là hiếm thấy, Tề Thiết Chủy vừa xuống tàu liền gật đầu, viên sĩ quan phụ tá kính cẩn nói: “Bát Gia, Phật Gia mời ngài mau chóng đến nơi, nghe nói ngài còn chưa dùng bữa sáng, chúng ta tạm thời nhịn một chút, trong nhà đã ninh sẵn một nồi chân giò hầm củ sen, xong việc rồi quay về xin hầu ngài một bữa cơm chắc dạ.”

“Rốt cuộc thế này là thế nào? Bữa sáng mà ăn chân giò hầm củ sen? Không ngấy à? Phật Gia dạo này thua Mã điếu nhiều quá đến hồ đồ rồi à?” Tề Thiết Chủy oán trách một câu, trong lòng đã rõ ràng rồi, Phật Gia là người nghiêm khắc với bản thân, nồi chân giò hầm củ sen này, vốn không phải điểm tâm sáng, mà chỉ e là bữa tối thôi. Phật Gia liệu định rằng, việc này chắc phải đến tận tối mới xong.

Rốt cuộc là việc gì thế nhỉ? Hắn lau mồ hôi trên trán, cùng sĩ quan phụ tá đi thẳng qua căn phòng chờ của trạm xe lửa, thấy trong phòng toàn là quân binh, nhiều kho hàng bị khóa kín, mấy người quân binh đang bàn vài chuyện giao thương, xì xà xì xào. Ra đến sân ga, vừa ngước mắt lên nhìn, hai chân Tề Thiết Chủy lập tức nhũn ra, suýt chút nữa là ngã bổ chửng.

Hắn nhìn thấy một chiếc xe lửa kiểu cũ màu đen, phủ đầy rỉ sắt và nước bùn, đang dừng trên đường ray. Cả đoàn tàu trông như vừa bị đào lên từ dưới đất, rất giống những quan tài cũ kỹ bị đất đá rửa trôi bề mặt mà hắn vô cùng quen thuộc.

Tề Thiết Chủy là thầy tướng số nổi danh nhất thành Trường Sa, tinh thông phong thủy và xem bói đoán mệnh, nhưng có ba thứ là hắn không xem. Người nước ngoài không xem. Người có hình xăm kỳ lân không xem. Và chuyện lạ không xem. Còn lại, không kiêng kỵ gì.

Lý do rất đơn giản, người nước ngoài có xem cũng không hiểu, cũng không thuộc quản lý của thần phật Trung Quốc. Chuyện lạ không xem, bởi đằng sau những chuyện lạ thường có nhiều mưu cao kế sâu, dễ chọc phải thị phi. Người có hình xăm kỳ lân không xem, đấy là quy củ của tổ tiên để lại, nghe nói sau khi tổ tiên mấy đời gặp phải một chuyện kỳ lạ liền lập ra quy tắc thép này.

Đoàn tàu sắt này có thể coi như là chuyện lạ, Tề Thiết Chủy vừa nhìn là biết là điềm xấu, bèn cuống quít kêu toáng lên: “Sợ chết khiếp rồi, sợ chết khiếp rồi, Trương Đại Phật Gia ông biết quy tắc của tôi mà, cái xe lửa này quá dọa người. Tôi về đây! Tôi về đây.”

“Về? Ông định về đâu?” Giọng của Trương Khải Sơn vọng lên từ bên dưới đường ray. “Phụ tá, lão thầy bói dám bước ra khỏi trạm xe lửa này một bước, cứ một phát súng bắn chết luôn cho ta!”

Viên sĩ quan phụ tá liếc mắt nhìn Tề Thiết Chủy, Tề Thiết Chủy cũng nhìn anh ta, anh ta bèn nói: “Bát Gia, chết như vậy khó coi lắm. Chớ.”

Tề Thiết Chủy biết Trương Khải Sơn chưa bao giờ thích nói giỡn, đặc biệt là trong tình huống này, bèn tức giận giậm chân một cái, chạy đến sân ga, chỉ thấy Trương Khải Sơn ở dưới đường ray, nhìn vết đâm ở đầu tàu.

“Phật Gia, chuyện gì xảy ra thế?”

Trương Khải Sơn chỉ vào một chỗ trên đầu tàu: “Ông xem đây là cái gì?”

Tề Thiết Chủy quay đầu nhìn, chỉ thấy trên đầu tàu có một cái gương, đó là một cái gương đồng cổ, đã mục nát hết cả. Trương Khải Sơn nói hay là dùng bội đao cậy ra, Tề Thiết Chủy bèn la lên: “Ấy chớ!”

Khiến Trương Khải Sơn giật mình, Trương Khải Sơn tức giận trợn mắt với hắn, Tề Thiết Chủy đầu đầy mồ hôi lạnh, hắn chợt nhớ lại một chuyện cách đây rất lâu mà hắn suýt quên mất. Hắn quay đầu hỏi viên sĩ quan phụ tá: “Xe lửa từ đâu mà đến thế?”

Viên sĩ quan lắc đầu, Tề Thiết Chủy lôi đồng hồ quả quýt ra xem.

“Ông thấy sao?” Trương Khải Sơn vươn tay lên, viên sĩ quan nọ liền kéo ông ta lên khỏi đường ray. Ông ta cởi chiếc găng tay quân đội của mình, nhìn về phía Tề Thiết Chủy. Tề Thiết Chủy nói: “Đầu treo gương đồng, đây là điển cố, là có cao nhân báo tin.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Giáp đông tứ mộ


Tề Thiết Chủy nói với Trương Khải Sơn, Tề gia nhất phái, thời cổ biết phân Âm Dương, định Càn Khôn, ban ngày giúp người ta tính Bát tự, chọn Âm trạch, tìm Long mạch, khóa thi quan; ban đêm xem núi xem sao, hành nghề trộm mộ. Cho đến đời cha của hắn có thể xem là tư chất kém nhất, đạo hạnh nông nhất, mà bản thân hắn thì lại càng kém nữa, chỉ học được tí chút sơ sơ của cha, thế mà đã là lão Bát của Cửu Môn Trường Sa, chứng tỏ học thức và năng lực của tổ tiên Tề gia thâm sâu khó bề lường được.

Riêng phái này có lắm quy củ, nghe nói bởi lén xem trộm quá nhiều thiên cơ, cho nên phải khóa mồm khóa miệng mà về ở ẩn. Trong đó có rất nhiều chuyện thú vị, cho đến đời Tề Bát, tất cả đã trở thành những câu chuyện cũ kỹ kể bên giường rồi. Cha hắn trước lúc lâm chung, mơ mơ màng màng nói ra mấy câu khó hiểu tối nghĩa. Trong đó có một quy củ, rằng cao thủ Tề gia khi tiến vào những nơi vô cùng hung hiểm, nếu rơi vào cảnh không có cửa cầu sinh, bèn treo một chiếc gương đồng lên đầu thớt ngựa của mình cùng với một bức pháp đồ đặc biệt, cho ngựa chạy ra ngoài, để đời sau còn biết mình đã chết ở đâu, và chết vì nguyên nhân gì.

Trương Khải Sơn nghe xong, nhìn chiếc xe lửa đằng sau lưng, thốt ra một câu tiếng Trường Sa: “Mụ nội nhà nó, giờ không phải ngựa, mà nguyên cái xe lửa, cao nhân này chả biết đi đâu tìm chết, làm lớn quá.”

Tề gia sở truyền không nhiều, nghĩ đến việc người cùng họ có kẻ chết oan, trong lòng Tề Thiết Chủy có đôi chút muộn phiền. Lại nghĩ đến sở truyền nhà mình, chỉ e lại đứt thêm mấy phần, đời sau vĩnh viễn không biết đến. Nhưng đồng thời, trong lòng hắn cũng dâng lên một nỗi hiếu kỳ, xe lửa này chẳng hay từ đâu mà đến, người treo gương đồng lên đầu xe, không biết đã gặp phải chuyện gì?

Ở một bên, có chiếc xe quân đội trực tiếp lái thẳng vào sân ga, có không ít công binh bước xuống xe, Tề Thiết Chủy đếm xem, càng đếm càng thấy nhiều binh lính, hắn biết phen này mình chắc chắn không chuồn nổi rồi, chi bằng để lại cho mình chút mặt mũi. Thế là hắn bèn hỏi Trương Khải Sơn đầu đuôi câu chuyện là thế nào. Trước cứ làm tham mưu cố vấn cái đã rồi hẵng tính sau.

Viên sĩ quan phụ tá đứng bên bèn kể lại một lượt chuyện xảy ra đêm qua, rồi nói: “Người lái xe treo cổ chết ở đầu tàu, chắc là sau khi tiến vào địa phận Trường Sa thì giảm tốc độ chậm lại, tính toán khoảng cách rồi sau đó mới treo cổ tự sát. Không có người thêm than, nước lạnh dần, xe lửa cứ thế chạy về phía trước, đầu tàu trượt vào ga, đâm thẳng vào ba mươi mấy đống bao cát mới dừng lại được.”

Tất cả các cửa lên xuống tàu đều bị sắt tây hàn chết rồi, công binh sau khi xuống xe bắt đầu ra đầu tàu và toa tàu dùng lửa hơi cắt sắt, xẻ lớp sắt bọc bên ngoài tàu.

“Lái xe hẳn là một tay lão luyện, chứ không thì không thể tính chuẩn đến thế, xe lửa cũng không thể dừng ngay đúng trạm được.” Trương Khải Sơn nói, “Người này nói là treo cổ chết, nhưng tử trạng có chút kỳ quặc.” Tề Thiết Chủy trèo lên đầu tàu, nhìn vào trong qua ô cửa sổ đã được lau sạch sẽ, thấy thi thể thắt cổ vẫn đang treo lủng lẳng ở đó. Điểm kỳ quặc mà Trương Khải Sơn nói, đó là hai con mắt của người này. Con người bên trong chỉ nhỏ bằng hột đậu tương, trông cứ như con chồn vàng. Đây không phải là đôi mắt của con người.

Toàn bộ đoàn tàu đều bị hàn chết, phong kín lại cứ như cái thùng sắt, không biết đại tiện tiểu tiện thì xử lý ra làm sao, thật là kỳ quái.

Hắn và Trương Khải Sơn đều là người có trực giác rất mạnh. Chỉ trong giây lát, lớp vỏ sắt bên ngoài toa tàu đã được cắt ra, lá sắt tây rơi xuống, vang lên tiếng loảng xoảng dưới nền sân ga, để lộ ra một cái lỗ to tướng. Trương Khải Sơn thoáng phất tay, toàn bộ lính cảnh vệ ở bên cạnh đã giương tiểu liên lên.

Trong không khí tràn ngập khói mù mịt do máy cắt hơi, do tất cả các cửa sổ và khe hở trên toa xe đều đã bị phong kín nên bên trong toa xe chỉ có bóng tối đen kịt. Chỉ có thể nhìn thấy ở miệng vết cắt có ánh sáng từ ngoài chiếu vào.

Tề Thiết Chủy che kín mũi miệng khỏi khí thải từ máy cắt, viên sĩ quan phụ tá cầm ba chiếc đèn bão, đưa cho hắn một chiếc, rồi nhảy lên tàu trước, vươn tay ra định kéo hắn lên.

Nhưng Tề Thiết Chủy lắc đầu. Hắn đưa đèn bão cho một anh cảnh vệ đứng bên, anh cảnh vệ không nhận, hắn bèn treo chiếc đèn lên nòng khẩu súng liên thanh của anh ta, sau đó mới quay đầu giơ tay ra hiệu “Nhờ cả vào anh” với viên sĩ quan phụ tá, ý rằng tôi không lên đâu. Hắn nghĩ thầm, tôi đây làm quân sư đã là tốt lắm rồi, Trương Khải Sơn ông còn muốn tôi làm tiên phong mở đường ấy hả, nằm mơ đi.

Viên sĩ quan thở dài, xoay người đi vào trong toa tàu, bấy giờ Tề Thiết Chủy mới thở phào nhẹ nhõm. Trương Khải Sơn bên cạnh gỡ chiếc đèn bão ra khỏi nòng súng anh cảnh vệ, một tay xách hai chiếc đèn bão giơ lên cao, tay còn lại túm lấy tay Tề Thiết Chủy.

“Sợ cái gì? Đã vào địa phận Trường Sa, thì còn gì hung hơn ta nữa.”

Nói rồi kéo Tề Thiết Chủy nhảy lên tàu. Vừa bước vào, bên ngoài sáng bên trong tối, mắt Tề Thiết Chủy đột ngột mù tạm thời, hắn đưa tay dụi vài cái mới thích ứng lại được, vừa mở mắt, liền ngây người.

Trong toa tàu vô cùng tối tăm, nhưng vẫn chưa hoàn toàn phong kín hẳn, ánh sáng chiếu vào qua các khe hở rất nhỏ do hàn sót, soi rõ từng hạt bụi nhỏ li ti của khí thải máy cắt trong không khí, viên sĩ quan bước qua làm không khí xao động, khiến những hạt bụi nhỏ rung động dữ dội. Tề Thiết Chủy nhớ lại căn gác xép trong ngôi nhà cũ kỹ của mình, hồi còn bé hắn vẫn thường chui vào đó chơi tìm đồ, những hạt bụi trôi bồng bềnh trong ánh nắng chiếu xuyên qua từ những khe hở giữa các mảnh ngói trên trần gác xép.

Ở nơi ánh sáng không chiếu tới được, bởi sự tồn tại của các điểm ánh sáng rất nhỏ lọt xuống dưới mà chúng càng trở nên tối tăm hơn, không nhìn thấy rõ gì cả. Viên sĩ quan phụ tá dùng đèn bão chiếu sáng. Ánh sáng đèn bão ảm đạm mờ nhạt, soi rõ hai cái giá to tướng ở hai bên toa xe ẩn trong bóng tối, trên hai cái giá này, Tề Thiết Chủy nhìn thấy từng hòm quan tài quan quách bị vòng sắt cố định.

Những quan tài quan quách này bị rất nhiều bùn đất và rễ cây quấn quanh, có một số bằng gỗ, đã trương phồng bạc phếch, mục nát và rạn nứt, có một số lại bằng đá. Những thứ này đè nặng lên giá làm nó bị biến dạng. Xem bề ngoài và mức độ mục rữa thì tất cả đều là quan tài cổ. Tất cả đều bị trộm đào lên từ trong cổ mộ. Không biết vì nguyên nhân gì, ở giữa quan tài và cái giá có vô vàn mạng nhện giăng kín, giống như cả một tầng bông nhứ dính két cả giá và quan tài vào vách tường toa tàu. Có vẻ cổ xưa và thần bí.

Trên tất cả các quan tài quan quách đều có viết những con số chữ Hán bằng sơn đỏ, các con số sắp xếp không theo quy tắc gì, viết rất tùy tiện, dường như có người đang sắp xếp biên soạn lại. Liếc nhìn qua, số lớn nhất là 47, nói cách khác, ở nơi này có ít nhất là 47 chiếc quan tài. Lại nghĩ đoàn tàu này có tổng cộng bảy toa tàu, nếu trong các toa tàu phía sau cũng đều chứa những thứ này thì sao? Chỉ e tổng số quan tài phải trên trăm chiếc. Lại nhìn những chữ số bên cạnh, lại có một dòng ký hiệu “Giáp tứ phần đông thất đoạn nhị đạo”.

“Tề tiên sinh, ông xem.” Trương Khải Sơn chỉ vào những chữ này.

“Cùng nghề rồi.” Tề Thiết Chủy thầm nghĩ: “Đây là một chuyến buôn bán lớn đấy, cũng gần đuổi kịp một năm thu hoạch của cả Lão Cửu Môn rồi.” Những quan tài này vừa nhìn là biết đãi cát đào lên, để đánh dấu khu vực và phần mộ đã trộm mới đánh dấu số hiệu và chú thích này. Tề Thiết Chủy có chút nghi hoặc, bên Trường Sa này là trộm mộ Nam phái, đừng nói là rặt một lũ chả biết đọc biết viết, cho dù có là một tay tai to mặt lớn làm chuyến hàng lớn, cũng chẳng ai đánh dấu lại nơi đã trộm làm gì. Đối với bọn họ, khác biệt duy nhất của hàng đãi cát chính là giá tiền.

Bọn họ từ tốn bước đến, xem hình dáng quan tài thì thấy chúng đến từ các cổ mộ khác nhau, Trương Khải Sơn lộ vẻ nghi hoặc, nhưng không nói lời nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Toa tàu cuối cùng


“Thưa ông.” Viên sĩ quan phụ tá đi trước chỉ vào cánh cửa đi xuống toa tàu cuối cùng, cửa đã bị mạng nhện che kín, gạt hết mạng nhện ra, thấy trên cửa có sơn mấy hàng chữ kỳ quái. “Là chữ Nhật.”

“Xem hiểu không?”

“Nét móc, nét phẩy.” Viên sĩ quan liếc nhìn hàng chữ Nhật trên cửa. “Nét – nét chấm.”

“Không hiểu thì cứ nói thẳng.” Trương Khải Sơn khuyên một câu, viên sĩ quan ngượng nghịu cúi đầu kéo vành mũ xuống, rút súng ra lên đạn, rồi tiến đến mở cửa, nhưng nhận ra cửa đã bị hàn chết.

Xe lửa ở thời đại đó, các toa tàu nối với nhau bằng một sợi xích sắt to tướng, để đi từ toa này sang toa khác thì phải đi qua một đoạn ngoài trời. Trong phim “Đội du kích đường sắt” đã mô tả lại rất rõ ràng kết cấu của loại xe lửa này. Nhưng với xe lửa vũ trang của người Nhật, đoạn này cũng được bọc kín bằng sắt tây. Thậm chí còn bọc thiết giáp cả đoạn xích sắt bên dưới xe lửa nữa.

Ba người đành phải quay về đường cũ. Tề Thiết Chủy xuống khỏi xe lửa, hơi lạnh thốc vào người, nhưng hắn lại dường như đang rất nóng, lau mồ hôi lạnh đầm đìa trên đầu rồi thở dài một hơi. Vừa đúng lúc đó, lớp sắt tây bọc ngoài toa tàu tiếp theo đã bị cắt xuống. Lần này lớp sắt đổ nghiêng vào bên trong, nghe tiếng va đập loảng xoảng vang lên ở trong tàu. Phật Gia không dừng lại mà cứ bước tới. Tề Thiết Chủy thầm chửi một tiếng, lại đành phải tiếp tục bám theo sau.

Toa tàu tiếp theo đã bị cắt ra một lỗ lớn, bên trong cũng tối thui. Trương Khải Sơn rút súng lục ra, giơ đèn bão, chậm rãi bước đến. Tề Thiết Chủy nuốt nước bọt. “Phật Gia, binh lính dưới quyền ngài nhiều đến thế, cần gì phải tự mình đi tiên phong. Chúng ta xuống dưới uống trà cho rồi.”

“Hiện giờ chiến sự sắp tới, trong thành đâu đâu cũng có đặc vụ của Nhật, sĩ khí quan trọng nhất, chuyện kỳ quái không rõ này, tốt hơn hết là ít để người trong quân đội biết đến thôi.” Trương Khải Sơn khẽ nói.

Tề Thiết Chủy lập tức hiểu nỗi lo của Trương Khải Sơn. Nếu để người lan truyền ra ngoài: có một đoàn tàu ma đến Trường Sa, trên tàu chất đầy quan tài, có quỷ mới biết chuyện đó sẽ bị thêu dệt ra thành cái gì. Nếu vào lúc bình thường, thì quả thực không cần phải huy động nhân lực xử lý rầm rộ như thế, nhưng bây giờ là đêm trước đại chiến, chiến tranh ngay trước mắt thì không có gì là chuyện nhỏ cả.

Ba người nối đuôi nhau tiến vào trong toa tàu, bên trong vẫn chất đầy quan tài và mạng nhện, bới ra thấy số đánh dấu trên quan tài ngày càng nhỏ dần. Trương Khải Sơn xem xét một lượt thật kỹ càng, vẻ mặt càng ngày càng âm trầm. Cứ ra soát một lượt như thế, mãi cho đến cuối toa hai, vừa cắt lớp sắt tây bọc toa xong, tất cả mọi người liền lập tức bụm miệng lại. Đó là bởi trong toa tàu nồng nặc một mùi hết sức kỳ quái.

Leo lên toa tàu, thấy bên trong giăng đầy mạng nhện, cản đường tiến lên phía trước. Có thể thấy hai bên toa xe có hai tầng phản giường. Trên dưới các tấm phản chất đầy thứ gì đó, hoàn toàn bị mạng nhện bọc kín.

“Nhện ở đây làm gì mà hung thế?” Viên sĩ quan phụ tá khẽ giọng nói đầy nghi hoặc. Tề Thiết Chủy thấy quần áo treo trên các khung giường, còn có rất nhiều vật dụng hàng ngày, cốc chén, đũa, đều bị mạng nhện giăng kín. Trương Khải Sơn lấy nòng súng gạt đám tơ nhện xốp như ruột bông ra, tới gần bên giường từng chút một, đèn bão soi sáng chiếc giường, dưới quầng sáng, dường như nhìn thấy một người đang nằm.

Người này nằm co quắp một chỗ, không hề nhúc nhích, vừa nhìn là biết đã chết. Trương Khải Sơn đưa đèn bão cho phụ tá, trở tay vung thanh quân đao, nhìn dáng vẻ có thể thấy thanh quân đao này đối với ông ta là quá nhẹ, cứ như cầm một cành bông lau vậy. Ông ta dùng đao chọc chọc vào thi thể nằm trên giường, gạt lớp mạng nhện giăng kín mặt mũi của cái xác đi. Tề Thiết Chủy thấy người này quả nhiên là đang nằm nghiêng, khuôn mặt nghiêng lộ ra, mồm há ngoác, cằm tựa trên đầu gối.

Tề Thiết Chủy giật lùi một bước. Không phải hắn sợ một xác chết, chỉ là “khuôn mặt” này của thi thể – nếu như có thể gọi là mặt – chi chít những lỗ nhỏ như hà biển.

“Phật Gia. Đây là rữa? Hay khô?”

“Mọt khoét.” Trương Khải Sơn như suy nghĩ điều gì, nói với viên phụ tá: “Tìm người chuẩn bị một túi vải trắng, đeo mặt nạ phòng độc, gói kín thi thể này, mấy thứ đồ này cũng phải đem đốt đi. Nếu là bệnh truyền nhiễm thì gay to.”

Viên sĩ quan phụ tá gật đầu, quay về căn dặn đám người ở ngoài. Tề Thiết Chủy bất an nhìn Trương Khải Sơn: “Phật Gia, thế chúng ta không cần đeo à?”

Trương Khải Sơn nhìn hắn, nặn ra một nụ cười: “Không cần, tôi với ông đều quen thi độc rồi, chút mạo hiểm này sá gì.” Nói rồi lại cầm tay hắn kéo đi về phía trước.

Tề Thiết Chủy cười khổ, nghĩ bụng ngài yên tâm quá nhỉ, ngài thì quen rồi, tôi đâu có quen, tôi từ nhỏ đã là con độc đinh mà. Vừa nghĩ, Trương Khải Sơn vừa kéo hắn đi, nhanh chóng xem xét một lượt mười hai chiếc giường trong toa tàu. Trên các giường đều có thi thể giống như vậy, mà điều khiến Tề Thiết Chủy nghi ngờ đó là, tất cả những thi thể này đều nằm co quắp mà chết. Tất cả đều co rúm vào lồng ngực của chính mình, giống như trên lưng có vật gì đó, đè nghiến họ xuống giường.

Dáng ngủ như thế này không bình thường. Toàn bộ mười hai cái xác đều như vậy, chắc chắn là có nguyên nhân đặc biệt nào đây, chẳng lẽ đã có kẻ sắp xếp bọn họ thành thế này? Nỗi sợ hãi trong lòng hắn lúc này dần dần bị thay thế bởi lòng hiếu kỳ. Nghĩ bụng: Chẳng lẽ đây là do cao nhân kia làm, là bố cục phong thủy? Vì sao ông ta lại muốn sắp xếp các thi thể như thế?

Trương Khải Sơn trầm tư trong chốc lát, dùng thanh quân đao gạt mạng nhện dưới chân xác chết, nhìn thấy xác chết có ngón chân to cong vẹo, do mang guốc gỗ mà thành, chứng tỏ người này trước đây từng có thời gian dài đi guốc gỗ.

(Xem chân chính là phương pháp nhận diện đặc vụ Nhật ở thời đại này. Trước sự kiện cầu Lư Câu, có một số lượng lớn đặc vụ người Nhật lẻn vào Trung Quốc hoạt động, thu thập tin tình báo, có một số đã ẩn nấp suốt mấy chục năm, giọng nói và hành vi giống người Trung Quốc y như đúc, nếu không dựa vào những đặc điểm này thì rất khó để nhận diện.)

Sau khi xuống tàu, Trương Khải Sơn căn dặn vài câu với viên sĩ quan phụ tá họ Vương, viên sĩ quan này nghe xong lập tức xoay người rời đi, chắc là đến Bộ tư lệnh thông báo tin tức. Trương Khải Sơn không nói một lời, tiếp tục tiến bước. Đúng lúc này, Tề Thiết Chủy đang trầm tư suy nghĩ, đột nhiên như nhận ra được điều gì, liền ngăn cản ngay trước mặt Trương Khải Sơn.

“Phật Gia, ngài xem toa tàu cuối cùng có gì khác biệt so với các toa phía trước?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Quan tài sắt


T/N:Còn nhớ, tiếng lóng trộm mộ Bắc phái là “đổ đấu”, thì Nam phái là “đãi cát”; cổ mộ Bắc phái là “đấu” thì Nam phái là “bao cát”, “bịch cát”, “bãi cát” etc; kẻ đi “đãi cát” thì gọi là “khách đãi cát”.

Trương Khải Sơn nhìn lại, lập tức dừng bước. Vừa nãy tinh thần hơi buông lỏng, có chút lơ là, Tề Thiết Chủy vừa nhắc nhở một câu, ông ta mới nhận ra vấn đề.

Khác biệt ở ngay mặt ngoài, lớp sắt bọc ngoài toa tàu cuối cùng đã được gia cố thêm nhiều, lớp sắt dày hơn, hàn kín và nhiều hơn. Nhưng Trương Khải Sơn lại lờ mờ cảm thấy một sự khác biệt khác, nhưng nghĩ mãi mà vẫn không rõ được cái cảm giác không ổn này là gì.

“Lão thầy bói, đừng có thừa nước đục thả câu. Ông giải thích xem, nếu có lý, toa tàu cuối này không cần phải vào trong nữa.”

“Phật Gia xem thường tôi.” Tề Thiết Chủy liếc mắt nhìn Trương Khải Sơn, vừa rồi bị Trương Khải Sơn cưỡng ép lôi đi những hai lần, thật là mất mặt, cho nên hắn phải đòi lại. Thế là, hắn bèn nắm lấy tay Trương Khải Sơn, kéo đi vào trong sân ga mấy bước, rồi quay lại chỉ vào đầu tàu, giải thích từng toa từng toa một.

“Toa đầu tiên: trong toa bừa bộn toàn những quan tài cổ, có một số có quách đá, một số chỉ có mỗi áo quan, bên trên đều có đánh số.” Tề Thiết Chủy nói: “Xem những chữ đánh dấu trên đó thì thấy, những quan tài này đa phần đều đến từ cùng một ngôi mộ, không biết Phật Gia có phát hiện hay không, kích cỡ to nhỏ của những quan tài này, xét tổng thể thì không chênh nhau là mấy, cho nên, có lẽ tất cả đều là quan tài bồi táng. Xuống phía dưới nữa là toa tàu để nghỉ ngơi, tất cả những người áp tải chuyến hàng này đều ở trong toa tàu đó. Xuống dưới nữa lại là toa chứa hàng – hay chính là toa cuối cùng này.”

“Ý ông là nói, những toa tàu của chiếc xe lửa này, chính là mộ thất bồi táng, tất cả những người trên tàu canh giữ toa cuối quan trọng nhất, có lẽ là mộ thất của chủ mộ, bên trong đó, chắc là—” Trương Khải Sơn ngừng lại một chút: “Quan tài của chủ mộ?”

“Đúng thế. Phật Gia, nguyên bao cát lớn ngay gần Trường Sa, những quách lớn trong đấy to bằng cả cái nhà, ngài đến đây ít nhiều cũng đã gặp phải mấy lần rồi, ngài xem cái trong toa cuối này kích cỡ thế nào, có phải là một cỗ quan quách khổng lồ không nhỉ?”

Trương Khải Sơn quay đầu, nói với viên sĩ quan họ Trương rằng: “Tất cả những ai không phải họ Trương trong nhà ga này, đi ra ngoài hết.”

Trương sĩ quan gật đầu, đi lên bắt đầu quát, rất nhiều binh sĩ “không phải họ Trương” liền bước ra khỏi hàng, chạy bước nhỏ ra khỏi nhà ga. Cả lũ bọn họ đều thở phào một hơi, cái xe lửa này tà ma quá, không phải dân trong nghề, chả ai dám dính vào. Một tên lính đeo mặt nạ phòng độc chạy ngang qua, Trương Khải Sơn một tay túm lại, giựt mặt nạ phòng độc xuống, đưa cho Tề Thiết Chủy.

Tề Thiết Chủy lắc đầu một cái, không đời nào! “Phật Gia, ngài lại xem thường tôi, mấy toa tàu trước đâu có đeo, toa cuối này ta phải tiết kiệm thôi.”

Trương Khải Sơn phì cười, đeo mặt nạ phòng độc lên rồi đi thẳng. Tề Thiết Chủy thấy vậy thì ngớ ra, nghĩ bụng ơ Trương Khải Sơn đồ khốn nạn sao ông không giở chiêu cũ ấy. Rồi lập tức túm lại một anh lính khác, cướp lấy cái mặt nạ rồi đeo vào.

Đi theo Trương Khải Sơn đến toa tàu cuối cùng, Tề Thiết Chủy đeo mặt nạ phòng độc đi kiểm tra xem xét, trong lòng không khỏi thầm suy tính, kia trước hắn vẫn nghĩ đây là chiếc xe lửa quân dụng bọc thép của Nhật, trong tàu có hàng hóa quan trọng, sợ đội du kích cho nổ phá đường ray nên mới phải bọc sắt hàn kín, nhưng toa nghỉ ngơi lại không hoàn toàn bị tấm sắt bọc kín, mà toàn bộ người trên tàu thì lại chết bất đắc kỳ tử. Thế là thế nào, sao lại tà ma đến vậy.

Những thi thể vừa nãy có tử trạng rất khủng khiếp, chỉ e là ký sinh trùng hay bệnh truyền nhiễm gì đó, đặc vụ Nhật đẩy một toa tàu như thế vào Trường Sa, là muốn truyền ôn dịch ra khắp Trường Sa, làm tan rã ý chí chiến đấu của quân đội ư?

Nhưng vì sao trên xe lửa này lại có nhiều quan tài như vậy? Lẽ nào bệnh truyền nhiễm đến từ quan tài? Có lẽ Phật Gia đã nghĩ đến điểm này, vì vậy mới đeo mặt nạ phòng độc. Nhưng không phải là đã quá muộn rồi hay sao?

Khi lớp sắt bọc ngoài toa tàu cuối cùng được cắt ra, quả nhiên xuất hiện một quách gỗ, đúng như sở liệu của Tề Thiết Chủy. Lớp gỗ bên ngoài đã rữa mềm ra, bên trong đã vôi hóa, Trương Khải Sơn sai người dùng báng súng đập vỡ ra, tạo thành một cái lỗ lớn. Lần này Tề Thiết Chủy chui vào trong trước tiên, phát hiện bên trong quách không cao lắm, dưới đất lót đầy rơm rạ, có hai, ba cái xác lưng đeo súng đang nằm bò dưới đất. Tề Thiết Chủy cúi đầu nhìn xem, thấy dáng nằm của cái xác giống y như đúc với những thi thể nằm co quắp trên giường lúc trước, hắn liền ngẩn ra. Lại thấy đằng sau những cái xác đó là một cỗ quan tài đá to tướng, đặt ngay giữa trung tâm của toa tàu. Bởi trọng lượng quá nặng, nên nền đất dưới đáy quan tài có hơi lún xuống, trong cả cái toa tàu này chỉ đặt có một cỗ quan tài.

Trương Khải Sơn giơ đèn bão tới gần, nhìn thấy hoa văn và một vài dấu vết kỳ quái trên quan tài. Đó là những cục sắt đen được đổ lên bề mặt quan tài, bao kín khe hở giữa quan tài và nắp quan tài.

Trên lớp sắt đen có khắc rất nhiều ký hiệu trông như đạo phù gì đó, cực kỳ phức tạp, Trương Khải Sơn và Tề Thiết Chủy liếc mắt nhìn nhau.

“Quan tài bọc sắt, sắt bọc vàng, Tiêu tử quan.” Tề Thiết Chủy niệm lại một câu khẩu quyết đời trước truyền lại, hắn mới bắt đầu nhận ra đoàn tàu này quả thực đã xảy ra chuyện gì đó rồi. Toa tàu cuối cùng này chính là một căn phòng quách hoàn chỉnh, người Nhật đã đào toàn bộ phòng quách lên, sau đó bọc sắt thép bên ngoài, ngụy trang thành một toa tàu. Những cái xác đeo súng này chắc là lính cảnh vệ đang trực ban, có vẻ như đã chết ngay trong lúc đang trong phiên canh gác.”

Hành động này thực là khó bề tưởng tượng nổi. Người Nhật Bản muốn nguyên cả một căn mộ thất hoàn chỉnh để làm gì? Nếu là trộm mộ vì tài sản, vậy cứ mở quan tài lấy vàng bạc là đủ rồi. Mộ thất chỉ là một đống gỗ mục, cho dù có thích, thì chặt nhỏ ra lại càng dễ vận chuyển, hà tất phải đào toàn bộ cả mộ thất lên?

Tề Thiết Chủy nghĩ, đây nhất định có liên quan đến cỗ quan tài đá trong phòng quách này. Cỗ quan tài đã bị rưới nước sắt phong kín, đây là một mánh khóe của trộm mộ tặc thời cổ đại. Nghe nói, vào thời cổ, non nước ác liệt, rất nhiều đất lành phong thủy bị phá hủy, thi thể trong các cổ mộ dưới đất rất dễ xảy ra hiện tượng thi biến. Trộm mộ tặc thổ phu tử nếu gặp phải quan tài dưỡng thi hoặc có chứa tà khí, thì phải đào ngay tại chỗ một cái hố, đem nung binh khí, nấu thành nước sắt phong quan tài, chỉ chừa ở trên đỉnh nắp quan tài một lỗ thủng nhỏ vừa đủ một bàn tay chui lọt. Đến khi nước sắt nguội lại, mới thò một tay vào nhập quan, thăm dò đặng lấy đồ trong quan tài. Nếu trong quan tài có biến, liền lập tức chặt đứt cánh tay mình để bảo toàn cái mạng.

Do trên quan tài có một lỗ thủng, giống như một cái còi. Bởi vậy loại quan tài này mới được gọi là Tiêu tử quan. Đời sau nếu gặp phải loại quan tài này, kỳ thực là có hai khả năng: một là năm xưa Tiêu tử quan đã bị chôm sạch đồ đi rồi, chỉ còn cái vỏ rỗng không, chẳng có giá trị; hai là năm xưa Tiêu tử quan có biến gì đó, có người đã chặt tay rồi bỏ đi, đồ trong quan tài vẫn còn đó. Cho nên, đời sau đãi cát nếu đãi được Tiêu tử quan thì chưa chắc đó đã là quan tài rỗng, có lẽ đồ trong quan tài vẫn còn nguyên xi.

Nhưng thò tay vào trong, cũng phải xem Bát tự mình có đủ mạnh hay không. Khẩu quyết này của Tề Thiết Chủy, chính là từ đó mà ra.

Trên cỗ quan tài đá này có sơn một chữ số: 壱 (ichi – số 1), phía dưới là một hàng chữ: Mộ thất chính. Quan tài đè lên khiến mặt sàn lún cả xuống, chắc chắn bên trong vẫn còn đầy đồ.

“Nước sắt phong quan, trên mặt sắt có khắc chữ, những chữ này là do vị cao nhân đã treo gương lên đầu tàu khắc xuống.” Tề Thiết Chủy tháo kính ra lau rồi đeo lên, với vẻ mặt cố hữu của một lão thầy phong thủy: “Trong vòng ba bước, dưới chân tất có đinh sắt, anh sĩ quan, nơi này thuộc Tỵ, đuổi hết cả đi.”

Dứt lời liền cúi đầu, Trương Khải Sơn lùi lại mấy bước, quả nhiên, hai người nhìn thấy khắp xung quanh quan tài găm đầy đinh sắt thành một vòng tròn, vây lấy cỗ quan tài đá ở giữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Cầm thanh la


Trương Khải Sơn nhìn Tề Thiết Chủy, đúng như người ta vẫn nói đúng người đúng việc, có những người bề ngoài có vẻ yếu đuối khiếp nhược, nhưng đến khi gặp đúng lĩnh vực họ nắm rõ thì cứ như biến thành một người khác, nhìn mà trong lòng yêu thích. Cười mà không nói, muốn xem xem Tề Thiết Chủy có kiến giải gì.

Viên sĩ quan phụ tá họ Trương lúc này hơi bất an, cứ nhìn Trương Khải Sơn như muốn nói rồi lại thôi, Trương Khải Sơn không hiểu, hỏi: “Cậu căng thẳng cái gì?”

“Phật Gia, tôi tuổi Tỵ.” Viên sĩ quan nhỏ giọng nói. Trương Khải Sơn suýt thì phì cười, bèn lập tức cười nhạt nói: “Người Trương gia bát tự không cứng đều đã chết hết ở Đông Bắc rồi, đứng yên đấy cho ta, cậu còn chưa bị ta khắc chết, còn ai khắc chết nổi cậu nữa.”

“Phật Gia!” Viên sĩ quan lập tức đứng nghiêm chào, như thể dù có bị khắc chết, anh ta cũng cam lòng chịu vậy. Tề Thiết Chủy nhìn mà lắc đầu, ngồi xổm xuống bên cạnh, mân mê cây đinh dưới đất.

Những chiếc đinh này không phải là loại đinh sắt thông thường, ở đầu đinh được chạm khắc đủ các loại ký tự kỳ quái, đinh ghim thành những ba lớp dưới sàn xung quanh quan tài. Đinh ghim rất sâu vào trong thớ gỗ, Tề Thiết Chủy sờ vào một lượt, thấy tay đầy bột mực đen sì. Xem ra những chiếc đinh vốn được ngâm trong mực nước.

Người xưa khi nhập liệm không dùng đinh, mà dùng dây da buộc chặt quan tài lại, ba sợi dài, hai sợi ngắn, đan nhau thành hình chữ thập buộc chặt quan tài lại, bởi vậy mới có câu “ba dài hai ngắn” để nói khi gặp phải chuyện gì bất trắc. Về sau, đến thời đồ sắt, quan tài mới dùng đinh đóng thay cho dây da, còn được gọi là trấn đinh, hoặc là tôn tử đinh, tổng cộng có 7 cây – số 7 cát lành.

Ở vùng Quảng Đông Quảng Tây có một tập tục cũ, người chết nhập liệm, khoảng mười năm hai mươi năm sau thì bốc mộ nhặt xương, rút đinh quan tài ra, mở nắp quan, nhặt nhạnh xương cốt chuyển sang hòm áo quan mới, lại nhập liệm một lần nữa. Đinh quan tài được bảo quản cực tốt, thu nhặt lấy, rồi đánh thành vòng tay.

Loại vòng tay được làm từ đinh quan tài của tổ tiên có tác dụng trừ tà. Mà đối với những thầy phong thủy ở Quảng Đông, loại đinh quan tài này còn có nhiều tác dụng hơn nữa. Thu nhặt những thứ này, vào lúc nguy khốn có thể định phong khốn thủy, dùng để cứu mạng.

Ba tầng đinh khốn thủy ở đây đã vây khốn sát khí của quan tài vào giữa, kích cỡ những cây đinh này không đồng nhất, số đinh này chắc chắn là do vị cao nhân mấy chục năm trước kia có được bằng cách nào đó, hoặc là do tổ tiên ông ta truyền lại. Lần này là đã xài hết vốn gốc luôn rồi. Tề Thiết Chủy không biết người đó có để lại ẩn ý gì bên trong những cây đinh này hay không nữa. Ngày xưa, trước khi sử dụng đinh quan tài, phải dùng đinh đâm chết tươi mấy con gà trống, rồi đóng đinh xác gà vào xung quanh quan tài. Thế nhưng bây giờ nhìn quanh quan tài không có dấu vết của gà, không biết là trước kia đã đóng đinh thứ gì xuống mặt sàn gỗ nữa.

Một ý nghĩ mờ nhạt dần dần hiện lên trong đầu Tề Thiết Chủy, một chiếc xe lửa cũ nát tiến vào Trường Sa giữa đêm khuya khoắt, toa tàu thì bị hàn sắt tây kín mít, trên đầu tàu lại có treo một chiếc gương đồng, quan tài bị phong kín bằng sắt, căn phòng quách đóng đầy đinh quan tài.

Tề Thiết Chủy quay sang nhìn Trương Khải Sơn: “Vị cao nhân này là nhắm vào tôi với ngài rồi, Phật Gia.”

“Vì sao lại nói vậy.” Trương Khải Sơn cũng ngồi xổm xuống, nói.

“Gương đồng là truyền thống nhà họ Tề, người nhà họ Tề chu du khắp thiên hạ, hiểu biết rất rộng, mà ngài, danh tiếng Trương Đại Phật Gia ở Trường Sa, khắp vùng này ai mà không biết, song chỉ thám động của nhà họ Trương là tuyệt kỹ Bắc phái, năm xưa quy cách xử lý Tiêu tử quan cũng chính là do tổ tiên Trương gia định ra vậy. Cỗ Tiêu tử quan này nằm trong căn phòng quách bị sắt tây hàn kín, xung quanh đóng đinh những mấy mươi cây đinh quan tài, thứ đồ bên trong hiển nhiên không phải dạng thường. Vị cao nhân này tỏa khí phong quan, đưa cỗ quan tài này đến Trường Sa, chính là bởi biết ở Trường Sa có ngài. Chiếc gương đồng này, đó là để con cháu Tề gia là tôi đây báo cho ngài biết tính nghiêm trọng của sự việc này.”

Trương Khải Sơn nhìn cỗ quan tài to tướng, hỏi: “Vì sao con cháu nhà họ Tề không tự mình đến.”

Tề Thiết Chủy trong lòng đau buồn không nguôi, thầm nghĩ lúc trước khi nhìn thấy chiếc xe lửa đã phải sớm nghĩ đến điều này rồi. Tề gia gia huấn, thầy phong thủy thân đầy tuyệt kỹ cũng đã bằng nửa thần tiên, bọn họ ở giữa núi rừng mà nhìn thấy mộ hoang đất hung, tất phải phong núi mà san đất, là để nhân dân ở vùng đó tránh khỏi hoạn nạn. Vật phẩm trong mộ huyệt đó bị lấy ra để phong huyệt, thường không nỡ đem vứt, bèn đem ra chợ đổi lấy phí đi đường, thế là các ngón nghề đổ đấu đãi cát, cứ thế mà dần dần hình thành. Rất nhiều người là tổ tiên Tề gia chết ngoài vùng hoang sơn dã lĩnh, bị coi là giặc trộm mộ, thi cốt chẳng còn. Cho nên, nhà họ Tề không giống với những nhà khác trong Cửu Môn, ngoại trừ Ngũ Gia trẻ tuổi không biết trời cao rộng, còn lại những gia tộc khác đều gánh những mối thù hằn sâu sắc, nói chuyện phiếm hay đi ăn cơm với bọn họ đều cảm thấy rất áp lực.

Mà Tề gia ít có mấy đời truyền xuống, bọn họ đều bằng lòng với số mệnh của gia tộc mình, bởi thầy phong thủy nắm được thiên cơ, không phải chịu những mỏi mệt của người phàm, tự biết phúc báo, không sợ đột tử. Chỉ là cái dáng vẻ rụt rè nhát cáy của mình lúc trước khiến hắn cảm thấy mình đang bôi tro trát trấu vào mặt Tề gia.

Hắn nhìn Trương Khải Sơn, nghiêm nghị nói: “Cỗ quan tài này không thể coi thường, con cháu Tề gia không dám đến, nếu tôi đoán không lầm, cái người con cháu Tề gia này, đã chết ở đầu tàu rồi.”

Trương Khải Sơn sắc mặt thay đổi, nhíu mày, Tề Thiết Chủy tiếp tục nói: “Giờ đang là lúc chuẩn bị cho chiến tranh, tàu quân đội thường xuyên lui tới, không thể cứ để cỗ quan tài này ở đây được. Mà cỗ Tiêu tử quan này, trước khi làm nó câm hẳn, thì tuyệt đối không thể di chuyển. Phật Gia, đến lúc phải dùng đến tuyệt kỹ Trương Gia của ngài rồi.”

Những trải nghiệm từ nhỏ đến lớn của Trương Khải Sơn không giống đa số mọi người, từ khi tòng quân đến nay đã nhìn thấy quá nhiều cái chết, kỳ thực đã quá quen với sống chết rồi. Nếu là thổ phu tử không chính quy thì sẽ nói, cỗ quan tài này chẳng biết có vật gì bên trong, nhưng cứ ném một quả lựu đạn vào, bên trong dù là người hay ma thì cũng kết cục cũng như nhau cả thôi. Thế nhưng, Trương Khải Sơn biết, lúc này không đơn giản như thế.

Viên phụ tá ghé vào bên thì thầm bên tai ông ta, nhắc nhở rằng đây là cái bẫy của người Nhật Bản, tạo ra một cục diện như vậy, bên trong quan tài trang bị đầy thuốc nổ, thò tay vào trong, kích khởi ngòi nổ, loáng cái cả cái trạm xe lửa này sẽ bị nổ bay luôn, đây chính là một cái bẫy quan tài để dồn ta vào chỗ chết.

Trương Khải Sơn xua tay, cái gọi là song chỉ tham động, chính là ngón nghề chuyên phát các loại cơ quan bẫy rập thiết kế tinh vi, cho dù là bom mìn, với khả năng của người Trương gia cũng có thể dùng hai ngón tay mà phá luôn được, số thuốc nổ còn lại cứ cho thẳng ra tiền tuyến lúc nào khai chiến đi. Theo lý mà nói, Tiêu tử quan nếu như thực sự hung hiểm thì ta đã bị nướng chín ngay tại chỗ luôn rồi, sở dĩ Tiêu tử quan nguy hiểm, chủ yếu vì con người hám lợi riêng mà thôi. Người Tề gia đã đặc biệt gửi một cái đến tận Trường Sa, còn muốn đích thân ông ta ra tay, chỉ e mối kỳ hoặc đằng sau đấy không đơn giản như vậy.

Ra khỏi căn phòng sắt, cả ba người tháo mặt nạ phòng độc ra. Trương Khải Sơn nhìn trời, vẫn còn sớm so với bữa trưa, bèn thở dài nói với viên phụ tá: “Nhà ta đã bao lâu chưa động vào cây kéo đó rồi?”

“Ba năm lẻ bốn tháng rồi, Phật Gia.” Viên sĩ quan phụ tá đáp. Rồi lập tức khẽ giọng nói: “Buổi chiều có bốn chuyến tàu quân dụng vào ga, chiếc xe lửa này nhất định phải chuyển đi thôi.”

“Vậy đừng chờ nữa.” Trương Khải Sơn liếc nhìn Tề Thiết Chủy. “Lão thầy bói, ông tới giúp ta cầm thanh la.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Song chỉ thám động


Tề Thiết Chủy thấy Trương Khải Sơn nói xong liền bỏ ra ngoài trạm xe, lúc ấy mới thầm bừng tỉnh. Gõ thanh la là để làm ngựa giật mình, người nhà họ Trương mỗi khi thò hai ngón tay vào cái lỗ trên quan tài, nếu trong quan tài có dị biến, thường đi cùng với thi độc, độc xâm toàn thân, cho nên, trước khi thi triển tuyệt kĩ, họ thường đặt một cái kéo tỳ bà ở trước cái lỗ, kéo tỳ bà nối với cương ngựa, đặt một chiếc thanh la đằng sau tai ngựa bảy phân. Hễ trong quan tài có gì khác thường, lập tức gõ thanh la, ngựa giật mình lồng lên chạy. Ngựa chạy khiến kéo tỳ bà cắt phập ngay lập tức, cắt đứt lìa cánh tay, mới giữ được cái mạng.

Cầm thanh la là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nếu gõ nhầm, hoặc gõ quá muộn thì đúng là hỏng bét rồi. Trương Khải Sơn để Tề Thiết Chủy cầm thanh la, chính là đang cảnh cáo hắn, bắt hắn phải suy nghĩ thật cẩn trọng xem phán đoán của mình có chính xác hay không. Không được có nhận định gì khinh suất. Tề Thiết Chủy lập tức bình tĩnh lại. Hắn hiểu ra lời mình vừa nói sai rồi.

“Phật gia, Phật gia.” Hắn đuổi theo. Bước song song bên cạnh Trương Khải Sơn, vừa nãy mình đã quá háo hức, cứ một mực muốn Trương Khải Sơn sử dụng công phu song chỉ thám động, nhưng những người kinh nghiệm dày dạn của Trương gia từ Đông Bắc xuống đến đây, đã chết quá nhiều trên chiến trường rồi. Vốn đã thiếu thốn như vậy, người Trương gia lại máu mủ ruột rà, đều là những anh em vào sinh ra tử với nhau, thế mà mình không những bảo người Trương gia đi mạo hiểm cụt tay hoặc mất mạng, lại còn giọng điệu ngả ngớn như thế, đúng thực là không nên.

“Phật gia, lão Bát nói sai rồi, ở trước mặt anh em, chưa suy nghĩ kỹ đã lôi Trương gia vào rồi.” Tề Thiết Chủy nói. Trương Khải Sơn quay đầu, vừa đi vừa vung tay mấy lần với vị sĩ quan phụ tá dưới quyền, ra hiệu cho họ hành động, rồi hỏi Tề Thiết Chủy: “Sao? Không dám cầm thanh la nữa rồi à?”

“Lão Bát lăn lộn giang hồ đều dựa vào cái miệng này cả. Phật gia cứ xé nó, kẻo sau này lại nói sai.” Tề Thiết Chủy trong lòng thầm thẹn, chỉ đành nhận sai.

Trương Khải Sơn dừng lại nhìn Tề Thiết Chủy, ánh mắt cháy rực, nhưng lại không có lửa giận: “Lão Bát, tôi yêu cầu ông phải suy nghĩ thật kỹ càng, những gì ông nói liệu có chắc chắn hay không. Nếu ông dám chắc được sáu phần, vậy ông cứ cầm thanh la, cho dù có xảy ra bất cứ chuyện gì, Trương gia cũng không ai trách ông.”

Tề Thiết Chủy gật đầu: “Phật gia, tôi nói ra được những lời này, thực đúng là những gì nghĩ trong lòng, từng câu từng chữ đều có căn cứ.”

Trương Khải Sơn xoay người tiếp tục đi, nói với viên phụ tá: “Nghe thấy Bát gia nói chưa? Chúng ta về phủ.” Tề Thiết Chủy chạy theo đằng sau: “Phật gia, Phật gia, nhưng mà tôi hồi hộp lắm, nhớ tôi hồi hộp quá đánh rắm một cái, làm ngựa giật mình, liên lụy đến người anh em thì biết làm sao bây giờ?”

Trương sĩ quan đi đằng sau vui vẻ nói: “Bát gia, bọn tôi toàn là chiến mã, nghe tiếng súng cũng không giật mình, chỉ nghe tiếng thanh la mới động, ngài có đánh được quả rắm to như vậy không? Nếu vậy, ngài khỏi cần thanh la nữa, cứ đánh rắm là được, tôi đi chuẩn bị khoai lang cho ngài.”

“Chú thì biết cái gì, biết đâu thối quá bỏ chạy thì sao?” Tề Thiết Chủy bị trêu, lấy làm phiền muộn, rồi nhìn thấy một đoàn người mang theo đủ các loại bẩy, gậy, thừng, gỗ chạy qua. Thầm kinh ngạc. Lúc này, có ba người đã chạy qua phòng chờ, ra đến đường lớn, liền nhìn thấy một chiếc xe tải quân dụng đã mở thùng xe phía sau, bốn phía xung quanh trạm xe lửa đều được giăng bạt che kín, không để dân chúng nhìn thấy.

“Phật gia, tôi nói, quan tài này không động được, chỉ làm trên xe lửa được thôi. Thế cái xe tải này là sao, ngài đây là muốn dọn về quý phủ đấy ư? Đồ trong này, không được di chuyển.” Tề Thiết Chủy toát hết cả mồ hôi lạnh. Trương Khải Sơn đến trước chiếc xe Jeep, thở dài, vỗ vỗ Tề Thiết Chủy: “Lão thầy bói, đến xe lửa nó cũng ngồi rồi, ngồi thêm xe hơi thì có làm sao, đừng có mê tín như thế có được không.”

“Không mê tín, không mê tín ông kêu tôi tới đây làm gì!” Tề Thiết Chủy bị đẩy vào trong xe, chỉ thấy anh Trương sĩ quan không lên xe, mà xoay người cởi chiếc áo khoác ngoài của mình ra, đi vào trong trạm xe lửa. Tề Thiết Chủy hạ cửa sổ xe xuống, chỉ thấy anh sĩ quan phụ tá kia đang tháo lớp băng vải trên bàn tay mình ra. Không nhìn thấy rõ được anh ta định làm cái gì, xe đã bắt đầu chạy.

Dọc đường đi toàn là dân chúng chuẩn bị rời đi, xe lái rất chậm, đã đến nhà Trương Khải Sơn. Tề Thiết Chủy đã chịu đựng hết nổi rồi, trạng thái tinh thần từ căng thẳng cực độ đã chuyển thành hồn vía lên mây. Dùng xong cơm trưa, uống chút rượu mới trấn tĩnh lại được. Mãi cho đến khi mặt trời lặn về tây, quan tài kia mới được chuyển vào trong sân.

Dùng gỗ lăn chuyển quan tài vào trong sân, khắp bốn phía lập tức chăng bạt che phủ, đại môn đóng chặt. Trương sĩ quan đầu đầy mồ hôi, quát lính cảnh vệ trong các trạm gác phải tăng cường canh phòng.

Tề Thiết Chủy thấy trên quan tài có mấy vết máu được bôi lên dọc trên khe hở bên mép quan tài, không biết từ đâu ra. Trước khi căng bạt lên, nhìn thấy nắng chiều chiếu xuống bề mặt quan tài loang lổ sắt rỉ, trông lại càng thêm xấu xí.

Kéo tỳ bà và thanh la đã chuẩn bị xong, Trương gia là nơi của Bộ tư lệnh quân phòng thủ, Trương Khải Sơn sau khi lên làm tư lệnh quân phòng thủ thì luôn ở tại nơi này, để tiết kiệm lực lượng cảnh bị. Tề Thiết Chủy tay cầm thanh la, đến bên con ngựa, cực kỳ bối rối. Đây là lần đầu tiên hắn nhìn thấy kéo tỳ bà ở khoảng cách gần đến vậy, hồi trước hắn cứ tưởng ngựa phải chạy mất một đoạn lưỡi kéo mới cắt, kỳ thực, chỉ cần ngựa lồng lên phía trước một cái là chiếc kéo sẽ kẹp xuống ngay tức thì, cực kỳ nhạy.

“Này ngựa, tụi mình hợp tác khăng khít, hợp tác vui vẻ nhé.” Tề Thiết Chủy có hơi run run sờ cổ chú ngựa, ngựa ta bèn nóng nảy động đậy, khiến chiếc kéo tỳ bà ở phía sau rung rung.

Tề Thiết Chủy lập tức buông tay, nhìn xung quanh, thấy tất cả thân binh Trương gia đang lạnh lùng nhìn mình. Hắn lại căng thẳng lần nữa. Lại thấy một thân binh Trương gia cởi trần, đang tưới rượu trắng lên khắp cánh tay trái của mình. Trương Khải Sơn đi vài vòng quanh quan tài, dường như đang ước chừng kích cỡ của đồ vật bên trong quan tài.

Sau khi anh thân binh Trương gia tưới hết chỗ rượu trắng xong, bèn nhảy lên trên quan tài, đến gần cái lỗ trên quan tài, quay đầu liếc mắt nhìn Tề Thiết Chủy.

Tề Thiết Chủy quay lưng lại với anh ta, anh ta lại liếc nhìn Trương Khải Sơn, Trương sĩ quan bèn tiến lên phía trước: “Bát gia, quay lại, phải nhìn xem.”

“À à, tôi xem, tôi xem.” Tề Thiết Chủy lúc này mới quay người lại, đưa mắt nhìn anh thân binh. Trong lòng run rẩy, cậu trai này tuổi còn trẻ quá, phỏng chừng chỉ mới mười sáu mười bảy tuổi, Trương gia quả nhiên là nhân đinh suy tàn rồi. Phật gia ông mà không đẻ liền hai ba chục đứa vào, nguyên một thân công phu này biết truyền cho ai?

Trương Khải Sơn bước đến, cậu thân binh kia bèn rướn đầu ra để Trương Khải Sơn xoa đầu.

“Chớ có sợ, cẩn trọng một chút.” Trương Khải Sơn nói, nói đoạn ngồi xuống chỗ cậu bé kia vừa ngồi, cũng cởi áo khoác ra, để lộ ra cánh tay trần, tưới rượu trắng lên. Tề Thiết Chủy biết, hành động này là muốn nói với mọi người rằng, nếu cậu bé này thất bại, Trương Khải Sơn sẽ đích thân ra tay. Không khỏi run hết cả da đầu, mồ hôi trên tay tụ lại rơi xuống thanh la.

Cậu bé nọ nhìn Trương Khải Sơn, ánh mắt trở nên kiên định vô cùng, cậu hít sâu một hơi, từ từ thò tay vào trong cái lỗ trên quan tài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Tịch dương quỷ quan


Lúc này, Tề Thiết Chủy toàn thân lạnh toát, cảm giác thời gian như ngừng lại. Nhìn thấy cánh tay cậu bé nọ từ từ thọc vào trong cái lỗ trên Tiêu tử quan, chẳng mấy chốc, đã thò hẳn cả cánh tay vào, rượu trắng trên người bốc hơi rất nhanh do nhiệt độ cơ thể, bốc lên thành hơi nước.

Khắp xung quanh không chút tiếng động, Tề Thiết Chủy ngay cả thở mạnh cũng không dám, mồ hôi tay thấm ướt đẫm cả sợi thừng treo thanh la.

Có mấy phút mà đằng đẵng như mấy giờ, đột nhiên, khuôn mặt cậu bé biến sắc, dường như đã mò được cái gì đó. Gần như trong nháy mắt, cậu run lên bần bật, ngẩng đầu nhìn Trương Khải Sơn.

Trương Khải Sơn đứng lên, nhìn cậu bé chằm chằm, thấy một tay còn lại của cậu bắt đầu vạch mấy đường ngôn ngữ ký hiệu, Trương Khải Sơn lập tức lắc đầu. Cậu bé kia tuy rằng sắc mặt trắng bệch, có vẻ cực kỳ khiếp sợ, nhưng vẫn không hề rút tay ra.

Tề Thiết Chủy tim đập bình bịch trong ngực, trong lòng hắn vẫn thầm cầu khấn hy vọng đây chỉ là sợ bóng sợ gió mà thôi, nhưng hiện giờ xem ra, suy đoán của hắn là chính xác, trong quan tài quả thực có điều khác thường, nhưng rốt cuộc cậu bé kia đã mò phải cái gì, hắn không hiểu ngôn ngữ ký hiệu của Trương gia nên không tài nào biết được.

Hồi trước từng nghe Phật gia kể vài lần, trẻ con Trương gia, ở nhà chính ở Đông Bắc, phải chịu huấn luyện vô cùng khắc nghiệt, mọi hỉ nộ ái ố của chúng gần như đều bị tiêu diệt sạch, còn thế hệ ra đời ở Trường Sa này, tuy cũng phải chịu huấn luyện nghiêm khắc, nhưng tâm tính yếu đuối hơn nhiều.

Tề Thiết Chủy biết xem sắc mặt người khác, vừa nhìn đã biết Phật gia vẫn còn giữ lại nhiều phần không kể, nhưng những lời về lũ trẻ này, có lẽ là trong lúc cảm thán mà nói thành lời. Có điều, Tề Thiết Chủy nghĩ, trẻ con yếu đuối một tí mới tốt, con nít từ nhỏ đã lạnh lùng khác thường, chỉ e cả đời nó sẽ vô cùng thê thảm mà ngay chính nó cũng không thể hiểu được.

Người nhà họ Trương cho dù là đứa trẻ được coi là hạng “mềm yếu”, thì trên chiến trường tàn khốc vẫn tên tuổi vang dội. Cậu bé này tuy tuổi không lớn lắm, nhưng đương nhiên cũng không phải đèn cạn dầu.

Trương Khải Sơn nhìn cậu bé tiếp tục ra ký hiệu, sắc mặt tối sầm xuống, ông ta đưa tay ra hiệu, dấu hiệu này thì Tề Thiết Chủy hiểu, là ý nói cậu bé kia hãy rút tay ra. Cậu trai trẻ tuy run rẩy lẩy bẩy nhưng vẻ mặt lại quật cường vô cùng. Dường như cậu vẫn muốn tiếp tục.

Tề Thiết Chủy đầu óc nhanh nhạy, nghĩ thầm hai người rốt cuộc đang bàn bạc cái gì thế, là cậu nhóc kia đã mò ra được thứ gì sởn tóc gáy lắm phải không, khiến cậu sợ hãi vô cùng, Trương Khải Sơn bảo cậu rút tay ra để ông ta tới thay, nhưng cậu lại không muốn Phật gia đích thân đi mạo hiểm? Gần như ngay một khắc đó khi Tề Thiết Chủy suy nghĩ những điều này, cậu bé kia đột nhiên giật nảy người lên, hét lên một tiếng. Ngay sau đó, chỉ thấy cả bả vai cậu bị kéo tụt xuống cái lỗ Tiêu tử quan, giống như bị một sức mạnh khổng lồ kéo tụt xuống. Cậu dùng tay còn lại tỳ chắc vào thân quan tài, định rút tay ra. Nhưng sức mạnh trong quan tài kia quá lớn, trong nháy mắt, cả nửa bả vai bị kéo tụt vào, thậm chí còn nghe thấy tiếng xương cốt bị đè ép quá mức mà nứt toác ra nghe răng rắc.

Đau đớn khiến cậu thân binh hét toáng lên, Trương Khải Sơn bật nhảy lên trên quan tài, túm lấy cổ cậu bé, dùng sức kéo lên, mạnh đến nỗi các mạch máu trên tay cũng gồ cả lên. Khi rút được cậu bé ra khoảng nửa thước, chỉ thấy trên cánh tay cậu đầy những mẩn đỏ rực lan rộng đến bả vai. Trương Khải Sơn gầm lên: “Lão thầy bói!”

Tề Thiết Chủy hoàn toàn hoảng loạn, bị tiếng gầm lớn làm giật mình, thanh la trong tay rơi xuống đất, “choang” một tiếng đinh tai, con ngựa bên cạnh lồng lên phía trước. Chỉ trong nháy mắt, trước mắt Tề Thiết Chủy như trắng xóa, chỉ nghe thấy tiếng hai lưỡi sắt của kéo tỳ bà cọ vào nhau cùng tiếng kêu thảm thiết như xé phổi của cậu bé nọ.

Tiếng thanh la như không ngừng vọng đi vọng lại bên tai hắn, lớp màn trắng xóa trước mắt phai nhạt đi, hắn nhìn thấy chiếc quan tài be bét máu và ông quân y lao lên phía trước. Tề Thiết Chủy chớp chớp đôi mắt trắng dã, suýt chút nữa lăn ra đất ngất xỉu.

“Bát gia!” Hắn còn chưa kịp tỉnh táo lại, viên sĩ quan phụ tá đã lại nhét chiếc thanh la bằng đồng vào tay hắn, con ngựa cũng bị dắt trở về, buộc dây thắt nút lại như cũ. Trương Khải Sơn cởi phăng áo, ngổi xổm xuống trên quan tài, ngay chỗ cậu bé ban nãy vừa ngồi, tay trái từ từ thò vào giữa hai lưỡi kéo tỳ bà.

Lại nữa? Tề Thiết Chủy toàn thân run rẩy, muốn quỳ sụp xuống luôn rồi. Giọng Trương Khải Sơn vẫn vô cùng trấn tĩnh, hoàn toàn không giống tiếng quát lúc nãy: “Lão Bát, nhìn ta.”

Tề Thiết Chủy giương mắt lên, Trương Khải Sơn đã lôi cánh tay đứt lìa ra, cả cánh tay đã nhuộm đầy máu đỏ tươi. Ông ta ném cánh tay đứt cho quân y, sau đó dứt khoát thọc hẳn tay vào lỗ Tiêu tử quan. Tề Thiết Chủy đầu óc trống rỗng, mùi máu tươi ngập đầy khoang mũi làm hắn muốn nôn thốc nôn tháo ra ngay lập tức. Nhưng lại sợ tuột tay làm rơi thanh la xuống đất, hắn siết chặt lấy chiếc thanh la, cố gắng không lăn ra ngất xỉu.

Chỉ thấy Trương Khải Sơn đột nhiệt giật bắn lên một cái, hình như đã mò được cái gì, nhưng ông ta không hề có chút sợ hãi, sắc mặt âm trầm. Cũng không biết có phải ảo giác hay không, nhưng Tề Thiết Chủy nhìn thấy trên cổ và ngực ông ta có mấy đường đỏ sậm, dường như các mạch máu trong cơ thể bị hơi rượu xông, nổi hết lên. Sau đó, cả cánh tay Trương Khải Sơn trong quan tài vặn một cái thật mạnh, không ai nghe thấy bất kỳ tiếng động nào, nhưng có thể cảm nhận được một cú vặn đó có sức mạnh ghê gớm, sau đó, Trương Khải Sơn từ từ rút tay ra, trong tay cầm một vật.

Trong bàn tay ông ta là một thứ gì đó đen đúa bẩn thỉu, không biết là máu hay là thứ ô uế trong quan tài. Ông ta cầm vật đó, soi dưới ánh nắng chiều để quan sát.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Long cốt tùy táng


Khi Tề Thiết Chủy tỉnh lại, không biết là lúc nào, hắn nhận ra mình đang ngủ trong phòng cho khách của Bộ tư lệnh, đầu giường có đặt một chén nước. Ngoài ra không có vật gì khác, trong phòng ngoài một số đồ dùng cần thiết thì không có thứ gì để bày bố trang trí cả.

Còn nhớ hồi trước từng đọc qua bản sao một cuốn sách của Đàm Thái đi Tây học, trong đó có nói, phòng ngủ của vua Phổ chỉ có một chiếc giường sắt và một chậu sắt để rửa mặt chải đầu, để giữ vững truyền thống cầm quân với ý chí sắt đá, không biết phòng ngủ của Phật gia có giống thế không nữa. Nếu thực như vậy, vậy thì sự chuyên tâm thường ngày của Phật gia dễ giải thích rồi.

Chén nước này là do một ông khách thương buôn đưa tặng hồi trước khi còn ở trấn Cảnh Đức, tổng cộng có bảy mươi ba chén sứ vẽ màu, khi ở hội đường Cửu Môn liền đem nó tặng Phật gia. Thế mà giờ lại đặt bừa trong phòng cho khách, phỏng chừng Phật gia nhận được liền đưa luôn cho Bộ tư lệnh dùng làm bộ đồ ăn rồi. Xem ra, nếu muốn tặng gì cho Phật gia, phải xem xem món đó có ích gì cho tiền tuyến không đã.

Uống hết chén nước, nước lạnh lẽo trôi xuống dạ dày, Tề Thiết Chủy mới cảm thấy ngực mình thoải mái hơn một chút, hắn cũng biết, cảm giác áp lực này không phải vì ốm đau bệnh tật gì, mà là vì cảnh tượng thảm liệt mà hắn tận mắt nhìn thấy. Mà tất cả những điều đó, đều bởi vì một lời nói của mình mà thành. Người nhà họ Tề hài lòng với số mệnh mình, tuy hắn biết mình không sai, nhà Phật gia cũng không cần hắn phải đau buồn tự trách làm gì, nhưng lại nhớ đến ánh mắt của cậu bé kia, lòng hắn lại tắc nghẹn, một cánh tay, đối với một cậu trai trẻ tuổi như vậy, mất đi một cánh tay thực sự là…

Hắn khoác áo, bước ra khỏi phòng, liền thấy có lính cảnh vệ đã đứng đó sẵn chờ mình: “Bát gia, ngài đã nghỉ ngơi đủ rồi?” Biết Phật gia chắc chắn không nghỉ ngơi chút gì mà vẫn còn đang làm việc, vậy mình nhất định phải đi giúp đỡ một tay.

Tề Thiết Chủy khom lưng cúi đầu, nói với lính cảnh vệ: “Binh gia dẫn đường.”

Đi thẳng đến phòng làm việc của Trương Khải Sơn, một anh lính khác đi sượt qua vai hắn mà rời khỏi phòng, thoáng nhìn thấy mặt của anh lính này, có phần giống với thằng nhỏ thò tay thám động lúc này, có lẽ là anh ruột, tuổi lớn hơn một chút, Tề Thiết Chủy lại buồn bã trong lòng. Bây giờ Trung Quốc còn có biết bao nhiêu là trẻ con giống như thế, ngay cả mạng mình cũng không giữ được, chiến sự cận kề rồi, có lẽ lần sau gặp lại cậu bé kia chính là ở trên chiến trường.

Phòng làm việc của Trương Khải Sơn xưa kia vốn là phủ đệ của quý tộc địa phương, đất rất rộng, Trương Khải Sơn bật đèn bàn, trên bàn có đặt một cái khay, trên khay là vật ông ta lấy ra từ trong quan tài, đã được rửa sạch. Đó là một miếng mai động vật màu đen, bên trên có những hoa văn kỳ quái, hình như là một mảnh vỡ của long cốt.

Năm Quang Tự thứ hai mươi lăm, Vương Ý Vinh mắc bệnh, uống thuốc, một lần ngẫu nhiên phát hiện ra văn tự cổ đại khắc trên một miếng long cốt trong vị thuốc bắc. Vương Ý Vinh là một học giả nghiên cứu đồ đồng và bia đá cổ, đồng thời cũng là một thương nhân đồ cổ, và là quan Tế tửu ở Quốc Tử Giám, nói đến cũng khéo, quy tắc thu mua long cốt làm phương thuốc của thương nhân buôn thuốc thời xưa, đó là trên long cốt không được có khắc chữ. Bởi vậy nên khi dược nông thu thập long cốt đều phải cạo hết chữ bên trên đi rồi mới rao bán. Thuốc Vương Ý Vinh uống chắc là toàn dược liệu kém chất lượng, lý ra với thân phận của ông ta thì không thể gặp phải chuyện này mới đúng, nhưng cũng chính vì vậy mà mới đúng là trùng hợp. Từ đó ngành học về chữ Giáp Cốt mới xuất hiện. Nếu không thì, với một vị thuốc bắc “long cốt” này, chỉ e toàn bộ lịch sử thời nhà Thương Trung Quốc sẽ bị người ta nuốt hết sạch vào bụng.

Nhưng vì sao trong quan tài này lại có mảnh Giáp Cốt, là dùng thuốc bắc để chống thối rữa ư? Vị thuốc long cốt có thể dùng để hút mủ, khép miệng vết thương, nhưng phải tán nhỏ ra rồi mới dùng, cách đun thẳng miếng mai thành bã thuốc thường dùng để trị nội bệnh, trông rất không văn nhã. Nếu không phải, vậy vật bồi táng trong quan tài này lẽ nào lại là miếng Giáp Cốt? Vậy cũng có lý, dùng miếng Giáp Cốt bồi táng, lẽ nào trên miếng Giáp Cốt này có ghi chép thông tin gì không thể để người khác biết được ư?

Tề Thiết Chủy đi đến phía sau Trương Khải Sơn, cúi đầu nhìn Giáp Cốt, bởi nó chỉ là một miếng nhỏ, cho nên cũng không nhìn ra được cụ thể vấn đề gì.

Thụy Tiền từ ngoài sân bước vào phòng, rồi hỏi Phật gia cậu bé kia rốt cuộc đã mò được thứ gì mà khiếp sợ đến vậy. Hắn vẫn nhớ rõ câu trả lời của Trương Khải Sơn, cũng khiến hắn phải canh cánh trong lòng, lúc đó Trương Khải Sơn đã ngờ vực đáp: “Ta cũng không nghĩ ra, vừa mò xuống ngón tay đầu tiên, ta sờ được thi thể là nằm úp sấp.”

Tuyệt chiêu song chỉ thám động của Trương gia thần bí vô cùng, những gì Tề Thiết Chủy biết chỉ là những thứ vụn vặt, không cần phải thừa lời làm gì. Cái lỗ trên Tiêu tử quan là ở vị trí khuôn mặt của thi thể, bởi vì xác cổ thường ngậm ngọc thạch và trân châu trong miệng, thường là món trân quý nhất, trộm mộ Bắc phái vốn được truyền thừa từ Phát khâu trung lang tướng, sẽ không khoắng sạch đồ trong quan tài, cho nên song chỉ thám động là ngón nghề kinh tế nhất dùng để đối phó với những hung quan, nhón lấy châu báu từ xác cổ sau đó lập tức rút tay ra. Đây là phương thức từ thời sơ khai nhất, về sau người Trương gia phát triển thêm cho mình công phu luyện ngón tay, lực ngón tay cực khỏe, sau khi thò tay vào trong quan tài việc đầu tiên phải làm chính là dùng ngón tay nghiến nát quai hàm của xác cổ, để cái xác không thể khép miệng lại.

Nhưng nếu như thò một tay vào trong mà thi thể lại nằm sấp, như thế thực không hợp lẽ thường, lúc đó Tề Thiết Chủy liền nhớ ra, khi ở trên xe lửa, những cái xác của đặc vụ Nhật Bản cũng toàn là nằm sấp, bèn bắt đầu đào sâu suy nghĩ, đây rốt cuộc là có ý gì?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Hắc mao tất quan


Cùng lúc đó, Trương Khải Sơn cũng đang suy ngẫm ngọn nguồn vụ việc này, tâm trạng của ông ta lại càng thêm phức tạp, bởi theo trực giác của mình, năm nay quân Nhật bao vây tứ bề, tình hình nguy ngập, thế mà giờ lại xảy ra chuyện này, như vậy đằng sau chuyện này nhất định không hề đơn giản.

Trong lúc Tề Thiết Chủy vẫn đang nghỉ ngơi, quan tài và những cái xác trong xe lửa đã được chuyển hết ra ngoài, toàn bộ các cỗ quan tài thì được chuyển vào nhà kho Trương gia, những cái xác thì chuyển vào trong viện quân y. Những công việc này đều do Trương sĩ quan thu xếp lo liệu, Tề Thiết Chủy chỉ ngủ có nửa giờ mà mọi việc đều đã đâu vào đấy cả, Trương Khải Sơn cũng yên tâm hơn.

Suốt chặng đường từ Đông Bắc đến đây, lang thang khắp đầu đường xó chợ, nếu không nhờ có những người này ở bên cạnh giúp đỡ mình thì có lẽ cục diện bây giờ còn khốn quẫn hơn rất nhiều. Sinh ra ở Trương gia, vừa là may mắn, vừa là bất hạnh, tất cả đều bởi vì cái họ này.

Lúc đó, khi thò tay vào trong quan tài, phát hiện xác cổ nằm sấp trong đó, bèn vặn đầu cái xác để thăm dò, thế là còn phát hiện trong cổ họng cái xác còn găm chi chít ba mươi bảy cây kim lông trâu bằng sắt.

Song chỉ thám động là phương pháp để lấy được báu vật bồi táng trong miệng xác cổ một cách nhanh nhất trong trường hợp xác bị thi biến, tránh bị thứ gì đó trong quan tài cắn phải. Kim sắt ghim trong cổ họng, thông thường đều có bôi kịch độc. Đây là một biện pháp chuyên đề phòng trộm mộ.

Cái xác này có lẽ đã có dấu hiệu thi biến từ trước, nhưng giờ đã “khô kiệt” rồi. Khi cậu lính trẻ mò vào thi thể, ngón tay móc ngược vào trong họng cái xác, cảm giác của cậu ta bị ảnh hưởng, cứ tưởng nhầm những kim sắt này là lông đen mọc ra từ cái xác, trong lúc quá căng thẳng đã trúng phải kịch độc trên đó. Nhưng cậu lính trẻ này vẫn không chịu thừa nhận, cậu nói trong cổ họng thi thể có thứ gì đó ẩn nấp, cậu bị thứ đó cắn vào tay.

Rất hiếm khi chủ mộ sợ bị trộm mộ cướp lấy ngọc cổ trong miệng mình mà bố trí kim sắt trong cổ họng mình, đây là hành động vô cùng âm ngoan, hơn nữa còn bất kính với thi thể. Cắm kim lông trâu trong cổ họng có vẻ giống như sợ cái gì đó ở trong thực quản chui ra ngoài hơn, lời cậu lính trẻ nói khiến Trương Khải Sơn có chút lưu tâm.

Trương Khải Sơn dùng ba ngón tay chặn kim sắt, hai ngón tay còn lại móc vào sâu trong yết hầu thi thể, mò đến miếng mai nọ, miếng mai này được treo trên một cây kim ở bên trong, chứ không hề cảm thấy có cái gì biết cắn người giống trong lời cậu lính nói. Có điều, ông ta vẫn cảm thấy có điều kỳ quặc, bèn bóp nát quai hàm cái xác, bẻ gãy cổ xác, chờ đến lúc mở nắp quan tài ra hẵng xem cho kỹ càng. Hiện giờ đầu mối duy nhất, chính là miếng vảy giáp này.

Thời cổ, “vảy” và “mai” khác nhau, một bên mỏng một bên dày thì là vảy, ở giữa dày xung quanh mỏng thì là mai, thứ này một bên hơi dày, một bên rất mỏng, còn có mùi tanh rất quái lạ. Miếng mai có màu đen mang đốm trắng, trên bề mặt có hoa văn trông giống chữ Giáp Cốt, chữ Giáp Cốt rất mơ hồ, không đọc rõ được là ý nghĩa gì. Nỗi ngờ vực trong lòng lại càng sâu. Điều làm ông ta thấy quái lạ nhất, đó là miếng vảy giáp này tuy đã khô kiệt, nhưng dường như vẫn còn mới, không phải là vật hóa thạch.

Đang nghĩ ngợi, chợt thấy Tề Thiết Chủy âm thầm mò ra đằng sau mình, mình đã làm phiền cái tên này suốt một ngày trời rồi, nhưng mà tình hình cấp bách, trong Cửu Môn số người có thể giúp ông ta chỉ đếm trên đầu ngón tay, được Lão Bát tính khí ôn hòa ngoan ngoãn, tư duy lại nhanh nhạy, thôi thì cũng đành để lão ta chịu ấm ức tiếp thôi. Bèn hỏi: “Ngủ ngon không? Ngủ đủ rồi thì đến đây giúp ta xem xem, thứ này rốt cục là cái gì.”

“Mơ thấy nhiều ác mộng lắm.” Tề Thiết Chủy ăn ngay nói thật, “Chỉ e cả tháng này sẽ gặp toàn ác mộng mất thôi.” Nói rồi nhận lấy miếng mai: “Phật gia, nhãn lực của ngài tuyệt đối đứng đầu Cửu Môn, tôi mà giúp ngài nhìn xem, chẳng phải là để người ta cười nhạo ư?”

“Lời hay ý đẹp nói cho lắm, ta nhìn không ra thì chính là nhìn không ra. Bớt nói mấy lời rách nát vô dụng này đi.” Trương Khải Sơn đứng dậy, đi tới trước cửa sổ, bên dưới vải bạt vẫn bao quanh, thân binh đang khai quan, thấy tia lửa cắt hơi thỉnh thoảng lại lóe lên, nước thép đã ngấm vào từng sợi gỗ của cỗ quan tài rồi, rất bền chắc, xem ra muốn khai quan còn cần kha khá thời gian.

“Nhìn giống Giáp Cốt, hay là hoa văn tự nhiên nhỉ? Hồi xưa nghe nói trên một số mai rùa có hình Lạc thư do tự nhiên tạo thành, không rõ lai lịch. Loại vảy giáp này không phải mai rùa, cũng không phải xương thú.” Tề Thiết Chủy cầm mảnh mai nhìn kỹ hồi lâu, lắc đầu nói: “Giáp Cốt học sớm nhất là từ La Tuyết Đường ở Hoài An Giang Tô, La lão hiện giờ đang ở Mãn Châu, được khen thưởng “Tự huân hạng nhất”, đã theo quân Nhật rồi. La Tuyết Đường mở Đông Văn học xã, có một vị học sinh là Vương Quốc Duy, cũng là một bậc thầy về Giáp Cốt học, năm Dân quốc thứ mười sau đã nhảy hồ tự vẫn ở Di Hòa Viên. La lão để tang. Hiện giờ nếu muốn tìm, thì còn có một vị là Đổng Tác Tân tiên sinh, hiện giờ đang ở Trường Sa. Trước kia tôi có một ít Giáp Cốt, vừa hay là bán cho vị tiên sinh này, nhưng ông ta sắp khởi hành đi Côn Minh rồi. Có điều ông ta không thích quân binh, tôi có thể thay Phật gia đi tiếp kiến.”

“Theo quân Nhật rồi?” Trương Khải Sơn trầm ngâm trong chốc lát, “Ông không đọc được Giáp Cốt, nhưng lại thân quen với chuyên gia Giáp Cốt quá nhỉ.”

Tề Thiết Chủy nhìn chằm chằm miếng Giáp Cốt, lẩm bẩm nói: “Phật gia ngài đừng cười nhạo tôi, Giáp Cốt với bốc quẻ bói toán là một nhà, số lượng Giáp Cốt tôi thu thập cũng không ít hơn số tượng Phật nhà ngài đâu. Có điều Phật gia, hiện giờ chúng ta đừng quanh quẩn mãiđống quan tài này nữa, ngài nghĩ xem, cả một xe lửa đầy quan tài thế này, người Nhật Bản rốt cuộc là định làm gì, định trộm châu báu à?”

Trương Khải Sơn nhíu mày, đây cũng là điểm mà ông ta để ý nhất. Suốt một đường xuôi Nam, Trương Đại Phật gia đã đãi không biết bao nhiêu là bãi cát, những chuyện kỳ hoặc ông ta đã không còn lấy làm lạ lùng gì, chỉ có điều, những quan tài này đều đến từ một ngôi cổ mộ lớn, người Nhật đang hoạt động trong một ngôi cổ mộ có vấn đề, đây mới là vấn đề khiến ông ta đau đầu nhất. Quân Nhật tiến vào phía Tây Nam, vốn là để dùng chiến tranh nuôi chiến tranh, mục đích của chúng là khoáng sản ở nơi này, quân Nhật cướp bóc cũng rất hung hăng ngang ngược, nhưng những chuyện quật mả đào mộ vào lúc như thế này thì thực là trái lẽ thường, khiến người ta thầm cảm thấy chuyện này tất có ẩn tình gì đây.

Hai người ngồi trên sô pha rất lâu, Tề Thiết Chủy mấy lần muốn khuyên ông ta nghỉ ngơi, đột nhiên từ bên ngoài có báo lại, lớp sắt bọc quan tài rốt cuộc cũng đã cắt đứt, hai người bèn l ập tức ra ngoài xem.

Mấy người thân binh tiến lên, dùng bẩy thọc vào khe quan tài, cố sức bẩy lên. Nắp quan tài to tướng phát ra tiếng gỗ nứt toác.

Cảnh tượng như vậy Tề Thiết Chủy và Trương Khải Sơn đã gặp phải không biết bao nhiêu là lần rồi, nhưng lúc này hai người cũng phải nín thở, chứng kiến nắp quách dần dần bị nạy lên, chật vật đẩy sang một bên. Giằng co hơn nửa giờ, bên trong quan tài mới lộ ra. Nắp quách và nắp quan đã nát rữa dính vào nhau từ lâu, cho nên đều cùng bị bẩy ra. Khi khe hở hiện ra, tim gan Tề Thiết Chủy lại nảy lên bình bịch.

Áo quan bên trong sơn đỏ vân đen, trông như bề mặt lưỡi ngấm độc, bên trên còn có rất nhiều hình vẽ tượng người, nắp quách bị lật sang một bên, rồi rơi xuống đất nghe “rầm” một tiếng. Bụi bẩn trong quan tài xộc thẳng vào không khí.

Mọi người bịt mũi bịt miệng, viên sĩ quan phụ tá ngoắc tay, bốn bề bèn nâng đèn khí ga lên, đặt xung quanh quan tài, chiếu sáng bên trong quan tài. Nhìn hoa văn trên quan tài, Tề Thiết Chủy đã xác định đại khái, cỗ quan tài cổ này hẳn là từ thời Nam Bắc triều, bởi bên thân quan tài có tranh vẽ hai tượng người, một mặt thú một mặt người, sống động như thật, là hình trang trí thường gặp ở thời Nam Bắc triều.

Xem kích cỡ quan tài, người này nhất định là quan nhất phẩm hoặc dòng dõi quý tộc, vào thời đó chiến loạn liên miên, nghi thức mai táng như vậy có thể coi là đã tương đối xa xỉ, có lẽ địa vị người này rất cao, nhưng do tất cả phục sức đều đã rữa nát hết cả, cho nên không thể phán đoán chi tiết hơn được.

Tiêu tử quan vốn đã đục lỗ, cho nên bên trong quan tài rất khô ráo. Tề Thiết Chủy tiến tới, thấy trong quan tài toàn là mạng nhện, giống hệt như trên xe lửa vậy. Mạng nhện phủ dày trên thi thể và vật bồi táng trong quan tài cứ như đắp một lớp chăn vậy.

Trương Khải Sơn và Tề Thiết Chủy liếc nhìn nhau, cầm lấy khẩu súng trường của một anh thân binh bên cạnh, gạt lớp mạng nhện này ra. Bên dưới lớp mạng nhện toàn là những vết bẩn đen đúa khô khốc dính bết như nhựa đường, có lẽ là thi thể thoát nước và chăn bông, tơ lụa các thứ thối rữa bết vào nhau, một cái xác khô bị bọc trong những ô uế bẩn thỉu, có thể nhìn rõ cái xác đang nằm sấp, đầu ngoẹo một cách không tự nhiên, có lẽ là lúc đó bị Trương Khải Sơn vặn một cái, phần quai hàm cũng nát bét. Do không có quai hàm, vẻ mặt của cái xác trông vô cùng hung ác dữ tợn, thi thể cao lớn, trên thân mình có mọc một lớp lông tơ màu đen.

Các thân binh đã quen với việc đào móc vật bồi táng, Trương Khải Sơn sắc mặt lạnh lùng, nói: “Đừng làm gì cả, nhìn xem trong cổ họng nó có cái gì.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Nhất nguyệt hoa khai Nhị nguyệt hồng


T/N:Tháng giêng hoa nở, tháng hai hoa đỏ (vì màu máu:v), tháng hai hoa đỏ hóa con côi (vì cả nhàbị giết sạch rồi:v).

Bao nhiêu suy đoán bấy lâu nay của các chế, nào mai đỏ quân tử, nào đỗ quyên hải đường hình ảnh quen thuộc trong tuồng kịch, hóa thành mây bay hết.Nào đâu sự thực cả lò nhà cụ Hai cũng rặt một phường cùng hung cực ác cả thôi, chẳng qua là phường giang hồ có tri thức, có phẩm vị:v Thời buổi này tội phạm có văn hóa thực đáng sợ:v


Người Trương gia hiển nhiên có kinh nghiệm trong việc này, một cậu lính dùng lưỡi lê cạy yết hầu thi thể ra, Tề Thiết Chủy tiến lên quan sát, liền nhìn thấy trong cổ họng cái xác quả thực có ghim đầy kim lông trâu, mũi kim quay ngược vào trong họng, nếu trong cổ họng có bất kỳ thứ gì chui ra thì sẽ bị kẹt ngay trong đống kim lông trâu này.

Hắn chỉnh lại kính mắt, để thân binh mang kìm nhổ đinh tới, nhổ cây kim ở ngay ngoài cùng, sau đó giơ đèn khí ga lên quan sát kỹ càng.

Tấm cắm kim này chế từ sắt đỏ, tuy bên trên đã có những đốm gỉ, nhưng mũi kim vẫn vô cùng sắc bén. Thân kim không vết rỉ sét xanh lè, ắt hẳn có bôi kịch độc.

Mức độ mục rữa của đuôi kim không cao, Tề Thiết Chủy suy ngẫm một lát, cúi đầu nhìn phần yết hầu của thi thể, quả nhiên có rất nhiều vết kim châm li ti, chứng tỏ những cây kim này là do người đời sau đâm thẳng vào phần cổ thi thể từ bên ngoài, hết sức thô bạo, không giống như được bố trí sẵn từ lúc nhập liệm, mà giống hành vi khinh nhờn thi thể của những kẻ trộm mộ hơn.

Có thể năm xưa tên trộm mộ đầu tiên động đến Tiêu tử quan này đã bố trí như vậy, điều này chứng tỏ lúc đó bọn họ đã phát hiện trong thi thể có gì đó, nhưng không có cách nào xử lý thứ này, vì vậy chỉ còn cách dùng châm vây khốn.

Điều này cũng giải thích vì sao quan tài lớn như vậy mà trong miệng thi thể lại không có gì cả, có lẽ lúc đó đã bị trộm lấy mất.

Thân binh lấy từ trong bếp ra một cái rây sắt, gắn vào đầu xác cổ, sau đó dùng báng súng đập vào ngực, cổ và bụng thi thể, đập suốt cả ngày trời liền. Mọi người nhìn chằm chằm vào cổ họng cái xác, nhưng vẫn không nhìn thấy bất kỳ thứ gì chui ra từ miệng xác. Ngực và bụng xác cũng không có động đậy gì.

“Mổ bụng.” Trương Khải Sơn thoáng liếc nhìn Trương sĩ quan. Trương sĩ quan gật đầu, xoay người nhảy lên, hai chân giẫm lên hai bên thành quan tài, rút một con dao găm ngắn ra, bắt đầu cắt dọc theo sống lưng cái xác. Bề ngoài thi thể đã khô quắt, nhưng khi viên sĩ quan phụ tá xọc lưỡi dao xuống vẫn cảm thấy bên trong cái xác vẫn còn hơi nước.

Viên sĩ quan phụ tá vô cùng cẩn trọng, mổ toang từ sống lưng cho đến phần lưng dưới của thi thể, bên trong là thứ gì đó cứ như nhựa đường, chỉ còn chút hơi nước, sền sệt như cháo đặc vậy. Trương Khải Sơn nhíu mày, phát hiện tất cả các cơ quan nội tạng trong thi thể đều bị sâu mọt đục chi chít những lỗ nhỏ li ti. Cái xác cổ này nhìn bề ngoài thì rất bình thường, nhưng bên trong thì giống hệt những cái xác đặc vụ Nhật mà bọn họ nhìn thấy trên xe lửa, đầy lỗ hổng chi chít, cứ như bên trong thanh gỗ bị mối mọt đục khoét.

“Phật gia, không có vật sống.” Viên sĩ quan phụ tá dùng dao găm thăm dò cái xác cổ.

Trương Khải Sơn và Tề Thiết Chủy liếc mắt nhìn nhau, nếu như trong đó không có vật sống, vậy cậu lính trẻ trước đó đứt tay có lẽ là bởi cậu ta kinh sợ quá độ, bị kim đâm mà tưởng là bị trùng cắn. Nhưng kim sắt ở đó chứng tỏ trong thi thể chắc chắn từng có thứ gì đó, bên trong xác cổ này giống như những cái xác đặc vụ Nhật vậy, có thể là trên đường vận chuyển bằng xe lửa, do quá xóc nảy nên đã ép vật sống trong thi thể chui ra ngoài quan tài, giết sạch người trên xe lửa, đoàn tàu không còn ai điều khiển, bèn đâm vào Trường Sa. Xem trạng thái của cái xác này và tử trạng của người Nhật, vật sống trong đó có thể là một loại sâu biết nhả tơ.

Trong cổ mộ có nhiều ký sinh trùng thời cổ ký sinh trên thi thể, nhiều loại đã tuyệt chủng, trộm mộ đa số không được chết già, đó là bởi bị lây nhiễm bệnh tật hoặc ký sinh trùng thời cổ. Thiên địch của chúng cũng đều đã tuyệt chủng hết rồi, bởi vậy nếu một ngày chúng thoát ra ngoài, tất là một trận đại họa.

“Tìm người dùng súng phun lửa, phun một lượt vào toàn bộ chiếc xe lửa kia. Cẩn thận, gần trạm xe lửa có một bệnh viện, dán cáo thị, nếu có người chết vì loại bệnh này phải lập tức báo cáo lên.” Trương Khải Sơn vỗ lên quan tài: “Xử lý sạch sẽ luôn cỗ quan tài này cho ta, tất cả đồ vật, bao gồm cả quan tài, đều phải chôn trong Natri cacbonat. Thi thể bên trong cũng phải nhồi Natri cacbonat, ướp chín đã rồi hẵng nghiệm xét.” Chiến sự tới gần, nếu trong thành mà bùng phát ôn dịch, vậy cuộc chiến này khỏi cần đánh cho rồi. Quân Nhật hoạt động trong một ngôi mộ cổ có loài trùng quái dị, bọn chúng muốn làm gì, dùng đầu ngón chân cũng nghĩ ra được.

“Phật gia.” Lúc này, viên sĩ quan phụ ta không xuống dưới làm việc, mà ngồi xổm xuống, tựa như phát hiện ra điều gì: “Phật gia, ngài xem đây là cái gì.”

Nói rồi, viên sĩ quan bèn dùng dao găm móc trong xác cổ ra một cục gì đó dính bết chất nhựa đường đen đúa, thân binh bên cạnh bèn lấy vật kia ra rửa sạch dơ bẩn, rồi giao cho Trương Khải Sơn. Viên sĩ quan phụ tá nhảy xuống khỏi quan tài, cũng đến gần nhìn kỹ.

Đó là một chiếc nhẫn đã hóa đen, Tề Thiết Chủy vừa liếc nhìn đã biết đó là một chiếc nhẫn, đến lúc cầm vào tay mới nhận ra không phải, thứ này không phải là đồ trang sức, mà có giá trị thực dụng hơn, đó là một “cái đê”.

Thời cổ đại, khi thêu thùa may vá, người ta đeo cái đê vào đốt thứ hai của ngón giữa, để kim thêu không chọc rách lớp áo dày, hoặc lúc không khống chế được lực tay mà để tránh cho kim đâm phải ngón tay, thông thường nhà giàu đều có cái đê làm bằng bạc, nay đã hóa đen sì. Cái đê này có hình dáng kỳ lạ, hiển nhiên không phải do chế tác thô ráp xấu xí, đốm bạc đen sì đã rất dày, tạo thành những đốm gồ ghề xù xì, mặt trên có khắc một đóa “hoa đỗ quyên”.

Tề Thiết Chủy thầm giật mình, đây không phải đồ cổ, với phong cách và chất liệu này, mặc dù không thể đoán được cụ thể là năm bao nhiêu, nhưng từ nhỏ xuất thân trong một gia đình chơi đồ cổ, Tề Thiết Chủy đủ nhạy cảm để nhận ra, món đồ này niên đại không hề cổ xưa, tối đa cũng chỉ khoảng gần năm mươi năm. Tề Thiết Chủy lấy ra một cây kim lông trâu bằng sắt, nhìn cả đôi liền biết ngay, những cây kim và cái đê này là cùng một bộ. Thuộc về kẻ trộm mộ đầu tiên đốt chảy lớp sắt của cỗ Tiêu tử quan này.

Mà điều khiến hắn toát cả mồ hôi lạnh, đó là đóa hoa đỗ quyên khắc bên trên. Cái đê thì bình thường, nhưng hoa đỗ quyên, trong Cửu Môn Trường Sa có một vị thế không hề bình thường chút nào.

“Tháng giêng hoa nở tháng hai hồng, tháng hai hoa hồng không mẹ cha. Hoa đỗ quyên còn gọi là Nhị nguyệt hồng, đây là đồ của nhà Nhị gia mà, tại sao lại ở trong cái xác cổ này?” Trong lòng Tề Thiết Chủy có chút buồn bực, Nhị Nguyệt Hồng trong Cửu Môn đứng hàng thứ hai, nghe bài vènày là biết, gia tộc nhà Nhị Nguyệt Hồng năm xưa giết người diệt toàn gia ngang ngược hung tàn biết bao nhiêu, cho đến mấy đời gần đây mới im hơi lặng tiếng, lâu lắm rồi không nghe thấy tin tức gì. Thế nhưng tiếng tăm vẫn còn đó, người trong nghề không mấy ai muốn đụng chạm với gia tộc này. Nếu như cái đê của nhà bọn họ xuất hiện trong quan tài này, chứng tỏ kẻ đầu tiên dùng nước thép phong kín quan tài này chính là gia tộc này. Trường Sa Cửu Môn chín hướng, địa bàn phân chia rõ ràng đâu ra đấy, suốt vài chục năm chưa từng thay đổi, nếu bọn họ đã động vào quan tài thuộc về địa bàn của Nhị gia, việc này có thể lớn, mà cũng có thể nhỏ.

“Phật gia, nhà Nhị gia vốn thích đồ thời Nam Bắc triều, mấy đời nay đều là gia tộc lớn, cỗ quan tài này thuộc thời Nam triều, bây giờ cái đê này lại xuất hiện trong quan tài, vậy kim sắt phong thi có lẽ chính là một trong những ngón nghề tổ truyền của nhà Nhị gia. Việc này phỏng chừng Nhị gia cũng biết ít nhiều.”

Nhị nguyệt hồng, vốn trong hoa phổ tên là hồng thủy tiên, về sau do hồng thủy tiên quá mức đặc biệt, bị đem ra rêu rao khoác lác quá nhiều, mới đổi lại thành đỗ quyên. Trong nhà Nhị Nguyệt Hồng trồng toàn hồng thủy tiên, ngoài nhà lại có cây đỗ quyên đã trăm năm tuổi, mỗi khi hoa nở, rực rỡ tươi đẹp vô cùng. Từ thói quen này có thể thấy tính cách của gia tộc này vô cùng tinh tế, Tiêu tử quan vốn là một ngón nghề đã thất truyền, nhưng nhà Nhị Nguyệt Hồng vốn là khách đãi cát bảo thủ chân chính, rất nhiều ngón nghề tổ truyền của họ người ngoài không ai hay biết được.

Trương Khải Sơn cau mày, trong chuyện này nghi vấn trùng trùng, càng ngày càng nhiều huyền cơ. Ông ta chỉ suy nghĩ trong chốc lát, rồi mới hỏi Tề Thiết Chủy: “Nhị gia bây giờ ở đâu, ông có biết không.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Nguyệt mãn Tương giang


T/N:Cả lò tiếng xấu vang xa mà sao miêu tả cụ Hai như em Lâm muội muội tái thế thế này:v Rảnh háng ngắm cảnh thương xuân bi thu, thiếu điều đem hoa đi chôn chắc em quỳ luônggg:v


Nhị Nguyệt Hồng bước đi trong rạp hát, rạp hát ở bên này là do khách đãi cát ở Tây Bắc quyên tiền xây nên, rồi đem tặng cho anh. Cũng không biết là tháng nào năm nào, xem được một vở tuồng anh diễn, liền âm thầm cứ thế tặng nguyên cả một sân khấu tuồng. Đáng tiếc lại chẳng hiểu quy củ, sân khấu lại hướng về phía Tây. Sân khấu hướng về phía Tây còn gọi là đài Bạch Hổ, trước khi “trảm đài” không thể diễn kịch. Thế mà đây lại là quà người ta tặng, văn khế mới được gửi đến cách đây ba ngày, hôm nay nếu không khai diễn thì cũng là điềm xui xẻo.

Khuôn mặt anh có chút âu lo, nhắc nhở tiểu nhị mấy chỗ bụi bẩn, rồi bước ra sau sân khấu, quản gia đang chuyển hòm đồ diễn tối nay vào trong. Cũng lại một khuôn mặt cau có, sau khi xếp giá vũ khí dựa vào tường xong, lại vội vội vàng vàng bước lên trước châm hương. Vừa quay đầu thì thấy Nhị Nguyệt Hồng, bèn vội chạy tới đón.

“Giờ không kịp trảm đài rồi, đương gia, ngài xem có nên mời Bát gia tới giúp chúng ta nghĩ cách hay không?” Quản gia lau mồ hôi, hỏi.

Nhị Nguyệt Hồng nhận hương, đến trước bàn thờ, cung kính cắm hương, lạy ba lạy, rồi thản nhiên nói: “Cậu ta phân âm dương mà kiếm sống, chuyện sân khấu tuồng, có liệu được chăng?”

“Còn không phải vì các tiên sinh khác đều nói hết cách rồi sao.”

“Cho thêm ba đồng bạc, ai cũng có cách hết thôi.” Nhị Nguyệt Hồng thở dài nhìn ra ngoài cửa sổ. Đằng sau rạp hát là một cái sân, đằng sau cái sân là cổng sau, bên ngoài cánh cổng đó chính là bãi sông Tương. Lúc nay trăng mới ló, ánh trăng rải xuống mặt sông, có thể nhìn thấy những con thuyền chài đậu trên bãi.

Bên kia bờ sông chính là bến đò nhà mình. Lúc này bên ấy đèn đuốc sáng trưng, bóng người đi qua đi lại, đó là những người dân rời quê chạy nạn xuống Tây Nam.

Ngày trước, khắp phố phường ngõ ngách đều đồn rằng, quân Nhật không thể đánh được đến đây đâu, nào ngờ đâu, chớp mắt đã nghe thấy tiếng đại bác ầm ầm rồi. Trong lòng Nhị Nguyệt Hồng vẫn bình thản, “thay đổi”, đối với anh mà nói, đó là một loại giày vò.

Anh nghe tiếng nước sông có chút xuất thần, ngồi xuống ghế bên cửa sổ, đến khi hồi thần lại, đã nghe thấy tiếng thanh la rộn rã trước rạp hát, chứng tỏ bắt đầu có khách vào rạp rồi. Khách tuồng Trường Sa đều quen mặt cả, khách tuồng nhiều ít cũng có qua lại với nhau, vì vậy, anh bèn ổn định lại tinh thần, không suy tư gì nữa.

Quản gia nghe tiếng thanh la trước rạp mà giật mình, tuy rằng rạp hát của lão gia rất có danh tiếng, nhưng sao thanh la lại vang lên sớm như vậy, đài Bạch Hổ còn chưa trảm, thực làm ông hết cả hồn. Vén mành bước ra ngoài, chỉ thấy khách đã đến đầy bốn, năm bàn rồi, các bàn khác thì toàn khách quen. Tuy nhiên, ở loạt bàn hàng phía sau có một nhóm người mặc áo khoác lông Tây Bắc, đội mũ Thát thêu hoa văn dân tộc thiểu số, bên hông đeo roi ngựa. Trong đó có một tên cầm đầu, trong mặc áo chẽn da beo thêu chỉ vàng, trên người đeo đủ các loại dây xích linh tinh trang sức. Tên đó cũng không ngồi xuống, mà chắp tay sau lưng, đi một vòng nghiền ngẫm một lượt sân khấu tuồng, vẻ mặt rất hứng thú, nói với thuộc hạ: “Đồ phương Nam tốt thì tốt thật, nhưng trông vẫn thực là chật hẹp, keo kiệt bủn xỉn. Rõ ràng rạp hát ta tặng mà xây thành cái loại trông như kịch bóng vậy, chả trách lúc ta gởi tặng, Nhị Nguyệt Hồng cứ mấy lần từ chối, khó khăn lắm mới chịu nhận, đến lúc ta tới đây mà anh ta còn chẳng thèm đích thân ra đón.”

Đám thuộc hạ cười ồ lên xôn xao, khiến các bàn khác đều phải quay lại nhìn.

Quản gia nghe vậy, nghĩ thầm thì ra đây chính là vị khách đãi cát đã tặng rạp hát, lúc đó khi người đến xin tặng đã từ chối mấy lần, chỉ sợ loại người này quá phiền phức. Bèn lập tức sai đứa đầy tớ đến dâng trái cây. Ông cũng không hoảng sợ gì, nếu đây là loại gánh hát bình thường, gặp phải loại hào khách này bao giờ cũng phải kinh hồn bạt vía, nhưng đây là địa bàn của Trường Sa Nhị Nguyệt Hồng, cho dù là đứa đầy tớ cũng có cả ối cách xử lý.

Đứa đầy tớ bưng mâm trái cây đi tới, chắp tay hành lễ với mấy người khác, cũng không biết nó nói cái gì mà mấy gã hào khách đang ồn ào liền lập tức im bặt lại. Sau khi quay về, quản gia bèn hỏi nó đã ứng phó thế nào. Đứa đầy tớ bèn nói: “Ngài quản gia, con nói với bọn chúng, Nhị gia bây giờ phải diễn, diễn xong sẽ mời chúng bữa rượu, lúc đó sẽ hát Hoa Cổ cho bọn chúng nghe.”

Quản gia nhíu mày: “Thằng nhãi này, Nhị gia sao có thể làm việc này. Diễn xong bọn chúng lại được thể nháo một trận.”

Đứa đầy tớ bèn đáp: “Ngài quản gia, diễn xong thì mời Nhị gia đi, con liền dẫn bọn chúng ra bãi ven sông, đến phía Đông Nguyệt Mãn Giang, cứ để con hầu hạ là được.”

Quản gia thở dài: “Mày cũng không cần phải hại đến tánh mạng người ta, Nhị gia không thích đâu.”

Đứa đầy tớ liếc mắt nhìn đám hào khách một cái, lạnh lùng đáp: “Vâng, làm xong việc là con về ngay, vừa nãy chúng có nói, sân khấu này hướng Tây là vì bọn chúng đến từ phương Tây, đây là có ý Nhị gia phải cống nạp cho chúng. Một câu này, con nghe xong liền bực mình.”

Sắc mặt quản gia tối sầm lại, cũng không đáp lời lại, chỉ sai bảo một câu: “Đám người này không cần phải báo Nhị gia đâu.” Nói xong bèn quay về phía sau sân khấu.

Nhị Nguyệt Hồng đã bắt đầu hóa trang, thờ ơ hỏi: “Ông với Trần Bì ở ngoài to nhỏ cái gì đấy?” Quản gia vội vàng đáp không có gì cả, thầm nghĩ bữa này diễn trên đài Bạch Hổ, Nhị gia cứ cố gượng thế này vẫn là không ổn, bây giờ lại sắp đến giờ rồi. Chỉ e sau này lại xảy ra chuyện. Bèn vội vội vàng vàng lên thắp hương cho tổ sư gia.

Bên này, Nhị Nguyệt Hồng lên đài khai diễn, toàn bộ rạp hát ngay cả ở hành lang cũng đều chật cứng người. Khi Trương Khải Sơn đến nơi đã không còn chỗ ngồi nữa, bèn đứng ở hàng sau cùng phía xa xa. Từ xa đã nghe mùi rượu nồng nặc, thấy mấy gã khách đãi cát đứng hàng sau, lại nhìn cả sảnh đường đầy tiếng reo hò hoan hô, đã rất sốt ruột rồi. Vẫn đứng đợi cho đến khi kết thúc, các thính khách ai nấy đều chắp tay xin ra về, quản gia tiễn khách từng người từng người một. Trương Khải Sơn bấy giờ mới chen lên, tiến về phía sân khấu, nói với quản gia: “Báo với Nhị gia một tiếng.”

Quản gia vừa nhìn thấy Trương Khải Sơn, bèn thầm cả kinh nghĩ, quả nhiên là xảy ra chuyện rồi. Không chờ ông đáp lời, đột nhiên phía sau Trương Khải Sơn nghe “vút” một tiếng roi quất, quất ngay trúng mặt Trương Khải Sơn. Trương Khải Sơn hơi né ra, nhưng mặt vẫn bị sượt một chút, không khỏi nhói đau.

“Đồ con lợn, đến trước xếp trước, đến sau xếp sau, hiểu không?” Gã áo da beo chỉ vàng giơ roi lên, “Cút sang một bên cho ông ——” Nói xong lại muốn giơ roi. Trương Khải Sơn xoay người, lạnh lùng nhìn gã, Áo Da Beo vừa nhìn, lập tức vụt roi. Đám thuộc hạ đều vây kín xung quanh.


Chú thích:“trảm đài” hay còn gọi là “phá đài”, “đả đài”, một nghi lễ của các đoàn kịch trong xã hội cũ. Trước đây khi một rạp hát mới xây, đêm trước ngày khai diễn đầu tiên phải thực hiện nghi lễ “trảm đài” đã, không được để quần chúng nhìn thấy. Nói chung là mở rạp mới, mở sân khấu mới, phải làm lễ trước cầu thần tế thánh để mong may mắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Đánh Mã điếu


Hồi đó, những truyện dân gian trong Bình thoại không giống nhau, sau thời Mãn Thanh chuyện cầm roi quất người rõ ràng đã ít đi nhiều rồi, chỉ còn xuất hiện ở một số đoàn ngựa thồ vùng Tây Bắc Tây Nam. Dùng roi làm vũ khí đòi hỏi phải huấn luyện rất nhiều, chẳng bằng cầm một khẩu súng tự chế còn có ích hơn. Trương Khải Sơn vốn trong lòng có chuyện, cộng thêm chưa quá quen thuộc với roi, bởi vậy, một nhát roi quất tới, Trương Khải Sơn tuy né được, nhưng trong vòng một tấc vẫn bị sượt qua.

Một nhát roi rất mạnh tay, Trương Khải Sơn tránh sang bên cạnh, nhát roi liền quật trúng vào ghế ngồi bên cạnh, cái ghế liền vỡ vụn ra từng mảnh. Quản gia khiếp sợ đến nhảy dựng cả lên, vội kêu to: “Ối ông ơi, phá hỏng đồ đạc rồi, phá hỏng đồ đạc rồi!”. Đám thuộc hạ liền đạp ghế mà xúm lại vây xung quanh, níu lấy cổ áo lão quản gia: “Rạp này do ông mày quyên tiền mà xây, ông đây thích phá thì phá. Đúng một phường chó đẻ, ông mày nghe mà phát phiền.” Gã thuộc hạ lập tức mắng nhiếc lão quản gia: “Thôi đi, gọi Nhị Nguyệt Hồng ra đây hát Hoa Cổ.” Quản gia bèn xua tay: “Nhị gia vừa xuống đài, không thể lên đài nữa.”

Beo Đốm rõ ràng là say quắc cần câu, người sặc mùi rượu, đẩy lão quản gia một cái, lão quản gia liền ngã lăn quay ra đất, chổng cả mông lên trời. Thấy Trương Khải Sơn nhìn gã chằm chằm, cây roi gỗ dương sắp vụt xuống một lần nữa, thì đột nhiên viên sĩ quan phụ tá bên cạnh không biết từ lúc nào đã ra sau lưng Beo Đốm, nòng súng nhắm ngay thái dương gã.

Beo Đốm cũng là một nhân vật có số có má, đương nhiên là cũng phản ứng lại ngay, cây roi cứ thế khựng lại ở lên cao, không dám vụt xuống nữa. Đám thuộc hạ xung quanh cũng ngưng bặt lại, đúng là đã nốc quá nhiều rượu rồi, lúc nãy không để ý đến khẩu súng ngắn giắt bên hông viên sĩ quan.

Trương Khải Sơn xoa xoa mặt, lạnh lùng nhìn gã, trong lòng không vui, nhưng không phải vì bản thân. Giờ quân Nhật đang gầm ghè, tình thế nguy cấp, thế mà trong thành vẫn còn đầy những nhân vật như thế này, nghĩ mà thật thất vọng. Thấy Beo Đốm môi run rẩy, nghiến răng nghiến lợi, hiển nhiên là cơn hung đồ trong người vẫn không chút nào suy giảm, chẳng qua đột ngột bị một khẩu súng ngắn dọa cho tỉnh men say mà thôi. Bấy giờ gã mới nhìn rõ trang phục của Trương Khải Sơn, rành rành là người của quân đội.

Nếu như không có việc gấp thì Trương Khải Sơn có thể sẽ dạy dỗ gã một phen, nhưng lúc này ông ta không có tâm trạng đâu mà làm việc đó. Trương Khải Sơn liếc mắt nhìn viên sĩ quan phụ tá rồi đi vào phía sau sân khấu. Viên sĩ quan hiểu ý, nói với Beo Đốm: “Coi như chúng mày gặp may, cuốn xéo.”

Beo Đốm buông roi xuống, quả thực đã tỉnh rượu hơn phân nửa, nhìn thấy viên sĩ quan đã buông súng, nhưng gã lại không đi, mà giẫm lên ghế ngồi, nhổ toẹt một bãi đờm lên lớp lụa bọc ghế, nói: “Hóa ra là quân gia, chờ chút.”

Trương Khải Sơn không để ý tới gã, Beo Đốm bèn hất hàm kêu: “Ta đã nói, ai đến trước xếp trước, quân gia, Trương Đại Phật Gia Cửu Môn Trường Sa là anh em kết nghĩa thề sống thề chết với ta đây, ít nhất ngài cũng để lại cái tên chứ, để anh em còn biết là quân gia lộ nào, chúng ta có qua có lại, ngày sau còn dài, ta đây không chịu nuốt không cục tức này.”

Trương Khải Sơn lập tức dừng lại, quay đầu, chỉ thấy Beo Đốm đang trợn mắt nhìn mình hung tợn, bèn mỉm cười: “Ta nghe nói, anh em với Trương Đại Phật gia chỉ đánh quân Nhật, vị huynh đài này nếu đã coi trọng Phật gia như thế, không bằng để ta thay Phật gia lột lớp áo da kia, tống tiễn các vị ra tận tiền tuyến?”

Sắc mặt Beo Đốm thoắt cái biến đổi, thuộc hạ của gã còn chưa tỉnh rượu, liền mắng: “Mày cứ chờ đấy. Ông lớn nhà tao từng quyên cho một món lớn, Trương Đại Phật gia gì đó vốn là nợ ông tao một ân huệ, chờ đến lúc mày bị xử lý xem.” Viên sĩ quan bên cạnh đã lại giơ súng lên, Beo Đốm sầm mặt hừ một tiếng: “Mày cứ chờ đấy.” Nói rồi xoay người đi thẳng.

Quản gia thấy Trương Khải Sơn không đi thẳng vào sau đài, mà chỉ đi đến hàng ghế đầu, biết ông ta hiểu lễ nghi, bèn khom lưng cúi đầu với viên sĩ quan phụ tá: “Thưa ông, xin ông cứ hầu hạ ông lớn nhà ông trước, bên ngoài ồn ào lớn quá, chắc hẳn chủ nhân đã nghe thấy rồi, thay đồ xong chưa biết chừng sẽ đi ra thôi. Để tôi tiễn mấy tên ôn thần này đi đã, miếu nhỏ không dám đắc tội thổ địa gia, xin ông chớ trách.” Nói đoạn bèn đi tiễn nhóm khách đãi cát.

Đám người này hùng hùng hổ hổ ra khỏi rạp hát, quay đầu nhổ liền mấy bãi nước bọt. Một tên còn nói: “Ông lớn, cái tên Nhị Nguyệt Hồng khốn nạn này, cho nó nguyên cái rạp hát mà nó còn không thèm gặp chúng ta, lại còn tìm một đám lính lác đến sỉ nhục chúng ta. Mẹ kiếp không coi chúng ta ra cái gì, tưởng ta sợ chắc.”

Sắc mặt của Beo Đốm lại càng tái mét, nhưng cũng không biết phải nói gì. Chợt nhìn thấy ngoài cửa rạp hát có một tên ăn mày đang ngồi, đầu đầy dầu mỡ nhờn bóng. Quản gia đi theo ra ngoài, tay bưng mâm hoa quả đưa cho tên ăn mày, giống như lúc nãy với tụi Beo Đốm vậy. Tên ăn mày không nhìn lấy một cái, cầm quả lên ăn.

Sau đó, quản gia bước đến, cúi đầu nói với bọn chúng: “Thật ngại quá, xin thứ lỗi đã phục vụ không chu toàn, mau đi đi thôi, các ông đang cản trở ông ấy ngắm đèn đó.” Nói rồi bèn chỉ vào tên ăn mày kia.

Beo Đốm quay đầu, thấy phía sau bọn chúng có một tòa hoa lâu, không biết là đang buôn bán hay không nữa, trên hoa lâu có treo rất nhiều đèn lông đủ màu sắc. Tên ăn mày kia vừa ăn vừa ngắm nhìn nó.

“Đối xử với thằng ăn mày còn tốt hơn cả với ta.” Một tên thuộc hạ nói.

“Mẹ kiếp!” Beo Đốm càng nghĩ càng giận, cảm thấy mình đang bị sỉ nhục một cách cố tình, bèn vung roi quất tên ăn mày một nhát. Lửa giận đầy bụng, đã hạ thủ liền là sát chiêu. Một roi này nếu quất phải thân người, ngay lập tức da tróc thịt bong, không nằm nửa năm không khá lên được.

Đột nhiên lão quản gia bên cạnh thân thủ nhanh như chóp, níu lấy cây roi vẫn còn đang giơ giữa không trung. Beo Đốm liền vùng ra giựt roi lại, nhưng cố sức thế nào cũng không lay chuyển được.

Thuộc hạ của gã thấy gã chịu thiệt, vừa định nhào tới, thì quản gia cười bảo: “Thưa mấy ông, mấy ông tốt nhất là mau đi đi, mấy ông còn không đi nữa, thì là đắc tội hết với những vị không thể đắc tội nhất trong Cửu Môn rồi, đây là đánh Mã điếu trên đầu Diêm vương gia đấy, mấy ông xúi quẩy đụng trúng bài Thập tam yêu(*) rồi, thôi mau mau chạy thẳng ra cửa Đông đi thôi, những lời này coi như là Nhị gia tạ ơn mấy ông tặng rạp hát đấy.”


(*) Bài Thập tam yêu có số điểm lớn nhất, cũng là bài khó ghép nhất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Ba tiếng trống giục


Beo Đốm giựt roi lại, nhưng đầu roi kia bị quản gia nắm chặt trong tay, giựt mãi mà không nhúc nhích được nửa phân. Nếu là lúc bình thường, rất có thể gã sẽ tỏ ra kinh ngạc về công phu của lão quản gia kia, thì ra lão không phải đèn cạn dầu. Nhưng lúc này đã lỡ có vài chén rượu lót dạ, lại còn bị người sỉ nhục, lửa giận trong bụng lập tức bùng lên.

Sống giữa thời loạn, tuyệt đối không thể đắc tội người của quân đội, hiện giờ đang lúc chiến tranh, cho dù mình có quen biết ít nhiều quan lớn đi chăng nữa thì cũng chẳng bằng một khẩu súng trên tay người ta. Nhưng lão quản gia này của Nhị Nguyệt Hồng, hóa ra cũng là dạng hiếp đáp người khác như thế, cục tức này gã nuốt không trôi. Beo Đốm một tay ghìm roi, một tay lần xuống chiếc ruột tượng dưới lớp mã quái mò lấy con dao găm, hung tợn nói: “Đắc tội rồi, nếu đã là quản gia Hồng phủ, chi bằng xin tiễn thêm đoạn đường nữa, chúng tôi cơm no rượu say, lú lẫn không tìm được đường đi.”

Đám thuộc hạ thấy hành động này của Beo Đốm, biết lão đại chúng đã động sát tâm rồi, tất cả đều sa sầm mặt, đưa tay lần xuống dưới ruột tượng. Quản gia vừa liếc nhìn, lập tức buông roi xuống, tươi cười nhận lỗi: “Không dám giấu các ông, tôi đây còn phải quay về hầu. Thế này đi, tôi xin để đứa ở này tiễn đường các ông, không dám thất lễ.”

Dứt lời, Trần Bì liền bước ra vái chào. Quản gia lại nói tiếp: “Tiễn mấy ông đây ra khỏi thành, đi đường không cần vội, cứ men bờ sông mà đi, để các ông tỉnh rượu. Nhớ cho rõ, đây là các ông lớn đã tặng nhà ta rạp hát đấy, phải tiếp đãi thật chu đáo nghe chưa.” Nói đoạn, quản gia xoay người đi vào trong. Beo Đốm đâu có chịu để yên, xông tới định tóm lấy lão quản gia, đứa đầy tớ gọi là Trần Bì kia lập tức tiến đến một tay chặn Beo Đốm lại: “Thưa ông, gió đêm lạnh lắm, chúng ta mau đi thôi.” Một câu này quản gia không nghe được, ông đã vào trong nội đường rồi.

Trương Khải Sơn vẫn đứng trước sân khấu, trong lòng đang nhớ lại chuyện xảy ra ban nãy. Người trong phủ nhà Nhị Nguyệt toàn là người già, đã theo hầu đến mấy đời rồi, thân thiết như họ hàng, lại trung thành và tận tâm với Nhị Nguyệt Hồng, chỉ có điều không tránh khỏi dông dài. Vừa nghe tiếng quản gia đã quay lại, định bảo ông đi giục Nhị Nguyệt Hồng một chút, thì chợt nghe trên sâu khấu có tiếng vén màn châu lách tách. Nhị Nguyệt Hồng mặc trang phục thường ngày, hóa trang chưa tẩy, đã bước ra rồi.

“Ôi chao, khách quý đến, chẳng phải Phật gia không thích nghe tuồng đấy ư? Cớ sao lại nhớ đến vườn Lê(*) chốn này?” Nhị Nguyệt Hồng phất tay ra dấu với lão quản gia, quản gia bèn lui xuống. Đôi mắt anh quan sát Trương Khải Sơn, đôi mắt rất sáng, lại mơ hồ toát lên đầy vẻ uy nghi, người xuống đất mà lại có đôi mắt sạch sẽ đến nhường vậy, quả thực khiến Trương Khải Sơn âm thầm rung động.

“Có việc muốn nhờ.” Trương Khải Sơn ăn ngay nói thật. Đứng trước mặt người khôn ngoan, dù chỉ một chút lưỡng lự nho nhỏ cũng dễ khiến người ta đề phòng.

Nhị Nguyệt Hồng cười một tiếng, Trương Khải Sơn cũng thầm cười, ông ta mà có việc muốn nhờ, người khác cũng chẳng dám nhận bừa. Cửu Môn Trường Sa thế lực khổng lồ, quân Nhật đánh tới, bất kể là chạy hay trốn, cả đám bọn họ nhất định đều không khỏi dính líu với nhau. Vào thời điểm này mà ông ta muốn nhờ tới mình, chắc chắn mình không thoát khỏi liên quan đến vụ việc này rồi, chỉ cần nhúng tay vào, làm gì có cái gì là “chuyện nhỏ” chứ.

Vì vậy, không đợi Nhị Nguyệt Hồng hỏi gì thêm, Trương Khải Sơn đã nói thẳng một mạch toàn bộ câu chuyện ở trạm xe lửa hồi sáng. Sau đó nói tiếp: “Trong thành Trường Sa này, hàng thời Nam Bắc triều, Nhị gia là thạo nhất, cho nên đặc biệt đến đây xin chỉ giáo.”

Nghe xong, Nhị Nguyệt Hồng không chút biến sắc, lẳng lặng nhìn Trương Khải Sơn, nói: “Chỉ thế thôi? Phật gia, giao tình giữa chúng ta đâu có ít, lời nói ra không cần phải phân nặng nhẹ.”

Trương Khải Sơn vẫn nhớ Nhị Nguyệt Hồng từng nói với mình rằng, ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy cái gã người miền Bắc này, anh liền biết đằng sau con người này có rất nhiều câu chuyện, kết giao bằng hữu cũng là vì dạng người như thế rất thú vị, dù sao cũng chẳng phải người xấu. Một câu nói này khiến ông ta hết sức cảm động. Bởi vậy, sở dĩ ông ta chỉ kể có một nửa câu chuyện, là vì chuyện đằng sau cái đê thêu thùa kia không phải thứ mà Nhị Nguyệt Hồng muốn nhắc đến. Nếu như Nhị Nguyệt Hồng đã nói đến nước này, vậy mình cũng không phải suy nghĩ nhiều gì nữa.

Nói rồi bèn ném cái đê về phía Nhị Nguyệt Hồng. Nhị Nguyệt Hồng vừa ngước mắt nhìn, lông mày liền khẽ nhíu lại, tay áo che mu bàn tay, ngón tay búng một cái, bắn cái đê trở lại đúng hướng Trương Khải Sơn, Trương Khải Sơn giơ tay bắt lấy. Nhị Nguyệt Hồng nói: “Phật gia, ông biết đã lâu nay tôi không hề đụng chạm thứ gì dưới đất mà, việc này tôi không giúp được.”

“Vật này được tìm thấy ở trong quan tài, thuộc về Hồng gia, vụ giao dịch đó với người Nhật, rất có thể có liên quan đến Hồng gia.” Trương Khải Sơn nói: “Nhị gia không có hứng thú ư? Theo tôi biết, Hồng gia rất hiếm khi thất thủ, thứ này lại bị bỏ lại trong quan tài, chứng tỏ đã từng tổn thất người nào đó thuộc thế hệ gần đây trong ngôi mộ này, Nhị gia làm chủ chi này những hai đời, không thể không biết. Chỉ cần có một chút manh mối, tôi cũng không đến nỗi hoàn toàn mù tịt, bây giờ quân Nhật đang đánh đến gần, chuyện này có thể sẽ gây trở ngại đến toàn đại cục, xin Nhị gia chỉ giáo.”

Nhị Nguyệt Hồng nhìn cái đê trong tay Trương Khải Sơn, trầm mặc: “Chuyện nhà ta, chỉ sợ không giúp được Phật gia cái gì. Nếu như có gì giúp được, nhất định sẽ nói thẳng ra với ông.”

Đúng lúc này, lão quản gia ở phía sau sân khấu gõ ba tiếng trống, giục Nhị Nguyệt Hồng xuống đài. Nhị Nguyệt Hồng bình thản nói: “Phật gia, vở kịch đã đóng màn, mời ngài trở về thôi.”

Nói xong, vẻ uy nghi trong mắt không hiểu sao lại trở nên nhu hòa đi không ít, dường như là đang khẩn cầu.

Trương Khải Sơn thầm thở dài, từ lâu đã nghe nói Nhị Nguyệt Hồng vì phu nhân mà không xuống đất nữa, nhưng thật không ngờ đến cả mình mà cũng bị cự tuyệt. Lúc này, ông ta cảm thấy có chút áy náy, người trong Cửu Môn mà quyết tâm nhường này, quả thực không hề dễ dàng gì, vậy mà mình đã không giúp thì thôi, lại còn có lỗi với người ta.

Ông ta đặt cái đê lên chiếc bàn bát tiên bên cạnh, nói: “Vật này thuộc về Hồng gia, bây giờ vật về chủ cũ, tôi sẽ tự nghĩ cách vậy. Nếu như Nhị gia có nghĩ lại, vậy có thể…”

“Chuyện xuống đất, chỉ e sẽ không nghĩ lại đâu.” Nhị Nguyệt Hồng nói.

Lời đã đến nước này, Trương Khải Sơn chỉ đành hành lễ rồi xoay người rời đi, đi được hai ba bước, Nhị Nguyệt Hồng đột nhiên lên tiếng: “Phật gia, tôi xin khuyên một câu, chuyện này hung hiểm, hành sự đừng bừa bãi.”

Trương Khải Sơn quay đầu, nhìn ánh mắt Nhị Nguyệt Hồng. Nhưng Nhị Nguyệt Hồng không nhìn ông ta, mà đang nhìn cái đê đặt trên bàn.

Viên sĩ quan phụ tá định hỏi lại, nhưng bị Trương Khải Sơn ngăn lại. Ông ta kéo vành mũ quân đội của mình xuống, bước ra khỏi Lê viên. Trần Bì đã quay về, liếc mắt nhìn Trương Khải Sơn, nó không thèm hành lễ mà cứ thế đi thẳng. Quản gia ở phía sau sân khấu bèn quát: “Sao nhanh thế đã về, tiễn người ta xong chưa?”

Trở lại con phố, Trương Khải Sơn mặc kệ xe phía sau, cúi người ném một đồng bạc cho gã ăn mày ở ngoài, muốn tự mình đi bộ một chút. Viên sĩ quan họ Trương bèn nói: “Nhị gia chắc chắn biết gì đó.”

“Nếu là chuyện nhỏ, anh ta đã nói cho ta biết từ lâu rồi. Nhị Nguyệt Hồng mà không nói, chậc, chiếc xe phía sau chúng ta kia, chỉ e đích thực là chuyện lớn rồi. Ta phải suy nghĩ kỹ lại một chút.”

(*) Vườn Lê (hoặc Lê viên), thời Đường là nơi dạy âm nhạc, múa hát, hí kịch của cung đình, hết sức quy mô và bài bản, cũng là nơi ăn chơi của Huyền Tông và Dương quý phi suốt mùa đông. Lê viên còn được tôn kính gọi là thủy tổ của nghệ thuật hí kịch Trung Hoa, về sau từ “Lê viên” thường dùng để chỉ các gánh hát.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Trương Khải Sơn ngồi trầm tư trong xe. Hồi ông ta vừa đặt chân đến đất Trường Sa, phải đến bái phỏng với các ông lớn ở các địa phương, lúc đó phụ thân Nhị Nguyệt Hồng vừa qua đời, hai người uống rượu tương giao trước cỗ quan tài, về sau Trương gia lập nghiệp tại Trường Sa, được Hồng phủ nâng đỡ không ít.

Cách mạng nổ ra, tập hợp lại các lực lượng vũ trang địa phương ở Trường Sa, cũng là Hồng gia xuất lực nhiều nhất, Nhị Nguyệt Hồng chẳng phải một kẻ hồ đồ không phân đúng sai, không biết nặng nhẹ. Ngày hôm nay lại ngậm miệng chặt như thế, chắc hẳn phần nhiều là vì chuyện trong nhà rồi.

Trương Khải Sơn không khỏi nhớ lại Nhị Nguyệt Hồng năm đó, ngày ấy hai người đàn ông trên vai còn chưa gánh nợ nước nhà, một ván cờ có thể giằng co đến ba ngày ba đêm mà cũng chẳng có ai thúc giục. Những ngày tháng như thế, cuối cùng một đi không bao giờ trở lại.

Lúc này, ngoại ô thành Trường Sa đã vắng lặng đi nhiều, các cửa hàng dọc con phố đều đã tắt đèn, nhưng cũng có không ít những sạp hàng rong treo đèn dầu bày hàng, phần lớn bán đồ ăn nóng như mì cay, bánh đậu tằm, trứng gà nấu rượu ngọt…, còn có cả mấy món ăn vặt như bánh cuộn thừng nấu thịt bò, đậu hũ tam giác, cuộn tủy não, tiết canh dầu vừng… Trương Khải Sơn chỉ mới nhậm chức hồi đầu năm nay, ba tháng trước hãy còn là thư ký cấp cao tạm thời, mỗi buổi tối sau khi tan ca đều ghé qua quán bên đường ăn mấy món ăn vặt này.

Viên sĩ quan phụ tá có vẻ thận trọng, hỏi: “Phật gia, hay là tôi mua một ít đem về?”

Trương Khải Sơn lắc đầu, phất tay ra hiệu dừng xe, rồi kéo cửa sổ xe ra.

Xe dừng lại trước một sạp hàng, chủ hàng là người quen, thấy ông ta mặc quân phục ngồi trên xe ô tô mới phì cười, ngây ra một lúc: “Ôi chao, Phật gia, đã lâu không gặp, hôm ni hổng có đậu hủ đâu, hay là vẫn theo lệ cũ nhé?”

Trương Khải Sơn gật đầu, tháo găng tay, rất nhanh cô con gái chủ hàng đã bưng đến một chén bánh cuộn thừng nấu thịt bò nóng hôi hổi vào trong xe. Mấy năm không gặp, cô bé này đã mười hai mười ba tuổi rồi, nhưng vẫn không hề xa lạ gì, cô bé tì vào cửa sổ xe hỏi: “Phật gia Phật gia, ngài đã đánh bọn Nhật đi rồi?”

Trương Khải Sơn gật đầu, trả tiền, rồi đưa tay xoa đầu cô bé con. Cô bé hỏi: “Người Nhật sẽ đánh đến đây ư? Cha con bảo, nhà con phải đi Tây Bắc á, không trụ được ở Trường Sa nữa rồi. Ngài đi cùng với nhà con nhé.”

Chủ hàng rất lấy làm xấu hổ, Trương Khải Sơn bật cười: “Tiểu Nha Nhi đi theo cha, Phật gia cũng phải theo cha, con phải ngoan, không được nghịch ngợm, đánh xong người Nhật rồi, Phật gia sẽ đến Tây Bắc tìm cửa hàng nhà con.”

Cô bé gật đầu, vẫy tay với Trương Khải Sơn. Trương Khải Sơn mỉm cười, xe vừa khởi động, cửa sổ đóng lại, sắc mặt ông ta lập tức trầm hẳn xuống, đôi mắt ánh lên sự kiên nghị như bàn thạch.

Quay về phủ, uống chén trà đắng, cũng không buồn ngủ, bèn hỏi xem tiến triển đến đâu rồi, mới được biết lão Bát đã ở trong gian thái bình(*) rồi, trong lòng Trương Khải Sơn mới ấm lên một chút, uất ức lúc nãy mới dịu đi một chút.

(*) gian thái bình: gian nhà chứa xác.

Các văn kiện trong xe lửa đã được sắp xếp lại, ngâm nước thuốc, rồi đặt một bên cho khô. Trong phòng có đến mười mấy người đi đi lại lại, cả phòng phơi đầy văn kiện giấy tờ, ông ta đứng một bên kiểm tra từng tệp một, toàn là tiếng Nhật. Vì vậy bèn hỏi viên sĩ quan phụ tá, trong ban thư ký có ai biết tiếng Nhật không, có thì gọi sang đây, chọn một tập văn kiện mà xử lý. Nói xong mới đi về phía gian thái bình.

Vừa bước chân vào cửa phòng, liền nhìn thấy một chiếc bàn làm phép to tướng, hai bên đặt hai chậu than tro bụi chất thành đống. Đẩy cửa đi vào, chỉ thấy một đám quân y rúc trong góc nhà, toàn bộ các thi thể trên xe lửa đều được chuyển vào trong đây, mặt úp xuống dưới, còn tên thầy bói mặc đạo bào, ngồi vẽ mấy đường bùa chú màu trắng trên sàn nhà. Khoanh tròn cả gian nhà lại.

“Lôi ra.” Trương Khải Sơn vừa liếc mắt một cái liền nổi trận lôi đình, mấy thân binh tiến đến định kéo Tề Thiết Chủy ra ngoài, mấy đôi chân đạp văng cả mấy cục đá đã bày sẵn, bước vào trong trận đồ, Tề Thiết Chủy vội vã kêu lên: “Phật gia, hôm nay nếu ông không chịu tin tôi, về sau đừng bao giờ tin dùng tôi nữa.”

Trương Khải Sơn nghe lời này nói ra rất nặng, trong lòng nặng nề hẳn, xua tay cho mấy thân binh lùi ra. Tề Thiết Chủy phủi phủi quần áo xộc xệch, ra vẻ đúng kiểu một ông thầy địa lý: “Phật gia, lần này ông phải tin tôi, không những phải tin tôi, mà còn phải cảm ơn tôi, thiếu nợ tôi, khen thưởng tôi đấy.”

Viên sĩ quan phụ tá phì cười: “Bát gia, nếu ngài thật có phát hiện lớn gì, muốn Phật gia hôn ngài một cái cũng được luôn.”

“Có phát hiện gì?” Trương Khải Sơn tiến đến trước mặt hắn, chỉ thấy dưới hai ngọn đèn bàn là thi thể một người Nhật Bản, sau lưng bị mổ toang ra, nội tạng bên trong bị phủ một lớp sáp nóng. Sáp nóng lọt vào trong tất cả các khe hở và lỗ thủng, mới thấy rõ tất cả các cơ quan nội tạng toàn là những lỗ thủng li ti.

“Những người Nhật này cũng giống như cái xác cổ kia. Trong ngôi mộ kia có lẽ có ngài xác, trong xe lửa giăng đầy mạng nhện, toàn là tơ của ngài xác. Những người đã tiếp xúc với chúng ta, tất cả mọi người, đều phải làm theo cách của tôi, ngâm ba canh giờ, còn phải uống rượu phách thi nữa.” Tề Thiết Chủy khẽ giọng bảo. “Bằng không, chưa đến sáu bảy ngày sau, chúng ta đi tiểu cũng tiểu ra tơ luôn đó.”

Ngài xác là một loại ngài đặc biệt thường có trong cổ mộ, từ hơn chục năm về trước, hắn đã nghe người ta thường hát một khúc hát cổ của địa phương vùng Long Môn Huy Châu, gọi là “Tam thi kinh”. Khúc hát này kể một câu chuyện về một ông thầy lang chữa bệnh cho hoàng đế, trong đó có đề cập đến một loại sâu bệnh thời cổ, loài sâu bệnh này sau khi nhập liệm cùng với thi thể, con trưởng thành sẽ đẻ trứng trong quan tài, bò qua cổ họng để ra khỏi thi thể, nhưng vẫn bị mắc kẹt trong quan tài, từ đó phun tơ kết kén ở đó.

Cho nên, rất nhiều quan tài sau khi khai quan, thấy thi thể bên trong bị kén tơ trùm kín. Trên chốn giang hồ cũng có người nói rằng, trên cánh loài ngài này có nấm khuẩn, con người lỡ ăn phải trứng của loài ngài này vào bụng, trứng ngài sẽ nở ra bên trong cơ thể, khiến người sống nhiễm bệnh, sau khi chết, trên xác sẽ mọc đầy tơ.

“Nhưng ngài xác không làm người ta chết ngay lập tức, vả lại, nếu chỉ là ngài xác, cũng không đến mức Nhị gia phải đánh tiếng đe dọa như thế.” Trương Khải Sơn nhìn Tề Thiết Chủy, chỉ là ngài xác, chẳng đến mức phải khiến người này một mực tranh công như thế.

Tề Thiết Chủy hất dải mũ ra sau lưng, “Phật gia, tử thi trên xe lửa này, đa số nhìn vào thì nghĩ là chết vì ngài xác, nhưng có một người lại không phải, ông đi theo tôi một chuyến. Mấu chốt của đoàn tàu ma quỷ này, chính là nằm ở người này.”

Bọn họ đi qua mấy cỗ thi thể, đi đến chính giữa gian phòng. Ở đây có đặt một cái xác phủ vải trắng, nhìn qua thì thấy đây chính là cái xác duy nhất nằm ngửa. Tề Thiết Chủy hít sâu một hơi, đứng trước cái xác hành lễ một cái, rồi nói: “Mọi người chuẩn bị tinh thần, ta đây hành tẩu giang hồ nhiều năm đến vậy, còn chưa từng thấy thứ gì khó bề tưởng tượng nổi như thứ này.”

——Bánh đậu tằm (荷兰粉): Mài đậu tằm thành bột phấn mịn, nặn thành những viên tròn nhỏ màu trắng trong suốt, đem nấu với nước dùng từ các gia vị như dầu vừng, muối, mì chính, xì dầu, dấm thơm, bột củ cải, bột tiêu vân vân.Trứng gà nấu rượu ngọt (甜酒冲蛋): rượu ngọt là cách gọi của người Hồ Nam, vốn là rượu gạo nếp, đun sôi lên nấu với trứng gà và đường kính trắng.Bánh cuộn thừng nấu thịt bò ( 馓子煨牛肉): bánh cuộn thừng là bánh làm từ bột mạch, gạo, kê vân vân các loại ngũ cốc, đem chiên giòn, nó có hình dạng giống như búi dây thừng. Sườn bò ướp dầu mè, muối, rượu gia vị, hành, gừng, xào sơ qua, rồi đem cho vào nồi áp suất nấu với bánh cuộn thừng, cà chua, khoai tây, hành tây…Đậu hũ tam giác ( 三角豆腐): miếng đậu hũ hình chữ nhật cắt làm các hình vuông, xong từ hình vuông lại cắt làm các lát hình tam giác mỏng, sau đó phết nhân thịt lên rồi ghép các miếng tam giác vào như làm bánh sandwich ấy XD. Sau đó đem cho vào chõ hấp lên, đến khi đậu hũ ra nước, thì rưới thêm ớt xào, ít vừng, rồi dùng nóng.Cuộn tủy não (脑髓卷): dùng nửa tấm bì lợn lên men cuộn nhân thịt mỡ và đường trắng, sau đó hấp cách thủy là được. Gọi là cuộn tủy não, nhưng thực ra chỉ toàn là mỡ heo =A=Tiết canh dầu vừng ( 龙脂猪血): y như tên gọi, tiết canh heo với hạt tiêu, rau thơm và dầu vừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Tề Thiết Chủy rón ra rón rén lật tấm vải gai trùm trên mặt xác chết lên. Khuôn mặt cái xác vừa lộ ra, Trương Khải Sơn lập tức hiểu ra ngay, đây chính là người treo cổ ở đầu tàu kia. Lúc này, quần áo trên người cái xác đã bị lột bỏ hết sạch, hai mắt vẫn trợn trắng như cũ, hai con ngươi bé xíu như mắt chồn vàng nhìn chòng chọc lên trần nhà, đục ngầu.

Ngay khi Tề Thiết Chủy vừa xốc tấm vải gai lên để lộ ra khuôn mặt cái xác, đôi con ngươi này đột nhiên di chuyển, nhìn thẳng về phía bên cạnh Trương Khải Sơn.

Trương sĩ quan giật mình, lập tức lùi phắt lại rút súng ra: “Chưa chết.”

“Đã chết.” Tề Thiết Chủy sụt sịt nói. “Cái cậu này, chỉ có tí tiền đồ.”

Viên sĩ quan phụ tá lạnh lùng nhìn đôi mắt của cái xác. Lúc này Tề Thiết Chủy mới lật toàn bộ tấm vải gai lên. Thi thể từ trên xuống dưới bị đóng đến mấy chục cái đinh quan tài. Khắp xung quanh vết thương do đinh quan tài đóng vào còn vẽ rất nhiều đạo bùa.

Trương Khải Sơn đứng trước thi thể, không có bất kỳ sợ hãi nào. Ông ta đi vòng quanh cái xác này một lượt, rồi đi tới giường đặt xác bên cạnh. Đôi mắt của cái xác chỉ ngừng trong chốc lát rồi lại di chuyển về vị trí cũ.

“Vị này chính là cao nhân Tề gia đây, đưa chiếc xe lửa đến tận đây, có thể nói chính là xả thân vì nghĩa rồi.” Tề Thiết Chủy than thở. “Tổng cộng hai mươi bảy cái đinh quan tài, ghim trên người mình.”

“Có ngụ ý gì?”

“Cụ thể như nào tôi thật không biết, tôi chỉ nghe nói, vùng Đông Bắc có tục thỉnh tiên, là thỉnh bốn ông Hồ ly, Chồn vàng, Rắn và Nhím về nhập vào người, tục gọi là “lão thần tiên”. Về sau truyền vào Trung Nguyên, có trường hợp chúng nhập vào người làm chuyện xấu, cuối cùng bị thầy địa lý dùng đinh quan tài đóng vào người. Lão thần tiên vùng Đông Bắc nhập vào người tối đa chỉ một canh giờ là phải ra, vị cao nhân này có lẽ vì muốn lái chiếc xe lửa này đến đây nên mới vời Hoàng đại tiên(*) về nhập vào mình để giúp đỡ, sau đó mới đóng đinh quan tài ghim Hoàng đại tiên vào cơ thể mình. Bên trong cơ thể cao nhân chắc chắn cũng bị trúng ngài xác rồi, mới thi triển pháp thuật trong lúc hấp hối.”

(*) trong dân gian Chồn vàng còn được gọi là Hoàng đại tiên.

“Có pháp thuật thật ư?” Trương Khải Sơn hơi kinh ngạc.

“Có pháp thuật thật hay không, sau khi tôi nhổ đinh lên là biết ngay. Nhưng Phật gia ông phải giúp tôi một việc, Hoàng đại tiên này bị đóng đinh trong người, thực ra còn có một khả năng khác.” Tề Thiết Chủy nuốt một miếng nước bọt. “Chính là Hoàng đại tiên không chịu nghe lời, có thể có tà tính, cao nhân sợ thả nó ra lại hại người.”

Trương Khải Sơn vốn là người Đông Bắc, nhưng việc này ít nhiều cũng đã từng nghe nói, nhưng vẫn không cảm thấy hứng thú gì cả. Ngược lại, ông ta lại hứng thú với những đạo bùa xung quanh vết đóng đinh hơn. Những nét bùa chú này nối nhau liên tiếp, tạo thành vô số những đường nét nối liền màu đỏ sậm trên thân người.

Nhìn thì dường như không chỉ đơn giản như lời Tề Thiết Chủy nói.

“Tôi đã vẽ đến ba lớp bùa chú xung quanh thi thể này, với người Trương gia thể chất đặc biệt, chắc là không có việc gì đâu. Hoàng đại tiên đi ra rất có thể sẽ nhập vào người tôi đây, đến lúc đó, Phật gia có thể hỏi nó đầu đuôi sự việc, nếu hỏi xong mà nó không chịu đi, lại làm phiền Phật gia dùng một cây đinh quan tài đóng thẳng vào yết hầu tôi là được.”

Trương Khải Sơn nhận lấy đinh quan tài, đưa cho viên sĩ quan phụ tá, viên sĩ quan bèn ước lượng một chút. Tề Thiết Chủy cũng có hơi sờ sợ: “Phật gia, thủ hạ này của ông không nặng chẳng nhẹ, việc này ông không được nhờ ai khác làm thay đâu đấy.”

“Không cần ông nhổ đâu.” Trương Khải Sơn liếc mắt nhìn viên sĩ quan phụ tá một cái, viên sĩ quan lập tức tiến đến, xốc thi thể lên, hai ngón tay vươn ra, cẩn thận kẹp lấy phần đuôi của đinh quan tài trên thi thể, không cần bất kỳ công cụ hỗ trợ nào, cứ thế rút thẳng đinh ra từng cái một. Đinh vừa rút lên, lập tức có chất khí miệng vết thương xì ra, phát ra một tiếng nghe như tiếng đánh rắm.

Trong không khí tràn ngập một mùi tanh tưởi quái gở, Trương Khải Sơn thầm nghĩ đúng là Hoàng đại tiên. Thi thể ngày càng tái nhợt, sau khi rút toàn bộ số đinh ra, thi thể liền khô quắt lại hoàn toàn. Viên sĩ quan phụ tá quay đầu lại nhìn Trương Khải Sơn, rồi lại nhìn Tề Thiết Chủy. Chỉ thấy Tề Thiết Chủy sắc mặt trắng bệch, hai tay che miệng, nhìn khắp xung quanh cực kỳ căng thẳng.

Trong phòng tĩnh lặng suốt nửa ngày, cũng chẳng thấy Tề Thiết Chủy có hành động gì khác. Trương Khải Sơn trên trán nổi gân xanh, cúi đầu nhìn đôi mắt của thi thể, đôi mắt đúng là đã bất động.

“Hoàng đại tiên đâu?” Viên sĩ quan phụ tá nhảy xuống, hỏi: “Bát gia, có phải ngài bị người ta ghét rồi không? Người ta căn bản không thèm nhập vào ngài đâu, chỉ có mình ngài tự đa tình thôi.”

Mặt Tề Thiết Chủy đỏ bừng, hắn nhìn quanh quất, chẳng biết nên nói cái gì, bỗng nhiên có một cái xác cách đó ba cái giường bất chợt co giật một cái. Tề Thiết Chủy lập tức nhảy dựng lên kêu to: “Chớ!”. Trương Khải Sơn lập tức nhảy lên, đạp lên hai cái xác xông đến bên cái giường xác nọ, một tay giật tung lớp vải gai trùm trên mặt cái xác, liền thấy đôi mắt cái xác đã lỏng lẻo, con ngươi đục ngầu lõm cả xuống. Nhưng miệng cái xác lại há hốc ra.

Trương Khải Sơn bóp cằm cái xác một cái, khiến cả cái lưỡi thò ra. Hóa ra ở sâu trong cuống họng cái xác có giấu một vật. Ông ta lôi nó ra, thì ra đó là một mảnh Giáp Cốt đã hư thối.

Miệng cái xác nhanh chóng ẹp xuống, Trương Khải Sơn lạnh lùng nhìn mảnh Giáp Cốt trong tay, lại nhớ đến mảnh khác lúc trước tìm được trong quan tài, bỗng nhiên hiểu ra điều gì.

Ông ta túm lấy Tề Thiết Chủy vẫn đang liên tục bái lạy cảm tạ Hoàng đại tiên đã để lại tin tức, xách cổ hắn lên đi ra ngoài. Vừa đi vừa gọi Trương sĩ quan: “Mang tất cả bản đồ toàn tỉnh ra đây, tất cả làng xã nữa. Đặc biệt là những bản đồ có đánh dấu các mỏ khoáng, không được thiếu tấm nào.”

Viên sĩ quan lập tức vâng dạ rời đi. Thấy đã sắp nửa đêm, toàn bộ người trong bộ Tư lệnh đều bị gọi đến hết cả. Ở một bên khác, Nhị Nguyệt Hồng vừa đi ngang qua, xa xa thoáng thấy bộ Tư lệnh đèn đuốc sáng trưng, trong lòng như có điều suy nghĩ.

Đi thẳng vào thành cũ, trở lại căn nhà cũ của mình, quản gia đã chuẩn bị sẵn một ít mỳ và đậu phụ, anh vội vã húp vài hớp. Đến phòng tập, đạp lên mấy chiếc rương, nháy mắt đã nhảy lên xà nhà, gỡ mấy mảnh ngói trên trần nhà ra, sau đó ló đầu lên, rồi đu người nhảy hẳn lên trên.

Hóa ra trên lớp mái ngói không phải là trần nhà, mà là một gian phòng bí mật, tuy chỉ cao khoảng một người, nhưng bên trong bày đủ các loại rương hòm và sách cổ phủ đầy bụi. Kể từ khi quyết định không xuống đất nữa, đã lâu lắm rồi anh không còn vào gian phòng bí mật này. Anh lấy cái đê khâu tay mà Trương Khải Sơn đưa ra, đến trước một cái rương dài khoảng ba mét. Mở rương ra, mới thấy bên trong cũng có hàng ngàn cái đê y hệt như thế, được sắp xếp ngay ngắn gọn gàng trong các ngăn phủ đầy bụi. Ngoài ra còn có mấy ngăn bỏ trống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Tương thập cửu hương


Đê khâu tay nhà Nhị Nguyệt Hồng, tính từ khi lập gia đến nay, tổng cộng có 1027 cái, mỗi đóa hoa khắc trên đầu mỗi cái đê đều không giống nhau. Rương này có đến hàng ngàn ngăn nhỏ, đáy rương quét một lớp dầu mềm, hễ có ai xuất sư, trong nhà sẽ có người đánh riêng cho một cái đê, đem mặt khắc hoa văn trên cái đê ấn xuống đáy ngăn quét dầu mềm, đóng một con dấu ở đó. Sau khi chủ nhân cái đê chết đi, cái đê mới được trả lại về ngăn đã được đánh dấu ngày đó.

Quy củ này đặt ra là vì sợ khi những cái đê lưu lạc ngoài giang hồ, có người ngoài nhặt được lại giả mạo người họ Hồng mà hành sự, làm liên lụy đến nhiều người.

Mặc dù vậy, trên giang hồ vẫn không ít những kẻ trộm làm giả cái đê để sinh sự, chỉ mấy năm gần đây vì Trương Khải Sơn đứng lên chủ trì Cửu Môn, những chuyện như thế mới bớt dần đi. Vậy mà hôm  nay, cái đê này lại vừa khớp với hoa văn dưới đáy ngăn trong rương, đây đích thị là di vật Hồng gia rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

Tuyệt học gia truyền nhà họ Hồng, mấy đời gần đây rất ít người chết bất đắc kỳ tử, trong rương có mấy ngăn trống rỗng, thuộc về một nhóm người duy nhất đã mất tích từ mấy chục năm về trước trong một lần xuống đất. Nhóm người này cho đến nay vẫn không rõ tung tích, mà cái đê này lại xuất hiện ở đây, chứng tỏ mấy vị tổ tiên đó đã táng thân trong mộ rồi.

Nhớ năm đó ngôi cổ mộ trong núi sâu mà bọn họ đi tìm nằm ở khu vực rừng nguyên sinh cửa núi Đại Lung Lĩnh gần Tương Tây, nơi đó không có tuyến đường sắt nào nối với Trường Sa, cũng không thể lái xe mà đi, cưỡi la mà đi cũng phải ròng rã mất hai tuần mới đến được cửa núi.

Đại Lung Lĩnh kéo dài hơn một trăm kilomet, sau đó là núi lớn mênh mông ranh giới giữa hai đất Tương và Ngạc(1), toàn là rừng sâu núi thẳm. Sau khi xảy ra chuyện, phụ thân Nhị Nguyệt Hồng từng nhiều lần cố gắng tìm cách cứu viện, nhưng cổ mộ này vạn phần hung hiểm, đã vào mấy lần mà cũng đều hết cách, phải thối lui. Không biết phụ thân đã trải qua những gì trong đó, mà sau khi ra ngoài, liền thiêu hủy hết toàn bộ những tài liệu liên quan đến cổ mộ này, không cho phép con cháu trong nhà bén mảng đến gần đó nửa bước. Bây giờ, biết bao nhiêu năm đã trôi qua, cỏ cây lại mọc, núi non đổi thay, cho dù có người dẫn đường, nhưng muốn tìm ra vị trí cụ thể cũng không phải chuyện một sớm một chiều.

Cái đê của Nhị Nguyệt Hồng, phía trên khắc một đóa thủy tiên, cũng đã đặt trong rương này, thể hiện quyết tâm không xuống mộ lần nữa của anh. Anh vuốt ve cái đê một lúc, khiến tay dính đầy bụi, rồi mới quay đầu đốt ngọn đèn da cá mà treo lên xà nhà. Đèn làm từ da rái cá kéo căng, bên trong có các con rối hình cá thu xoay tròn do hơi nóng, đàn cá bơi trong ánh sáng loang loáng như nước, chiếu sáng cả một góc phòng – ở đó có một mô hình lập thể dựng bằng rơm rạ, là mô hình bên trong một cổ mộ.

Anh hít một hơi thật sâu, lẳng lặng nhìn mô hình này. Mỗi lần phụ thân trở về từ Đại Lung Lĩnh, người đều nhốt mình trong mật thất, dùng các que rơm rạ để dựng nên mô hình này, dường như muốn phục dựng lại kết cấu của ngôi mộ kia. Điều đó chứng tỏ lúc ấy phụ thân rất muốn chinh phục tòa cổ mộ này, nhưng đến lần cuối cùng trở về từ ngôi mộ đó, người lại tiêu hủy toàn bộ số tư liệu có được. Theo lời một người bạn già đồng hành cùng phụ thân lúc đó, trong lần cuối cùng, phụ thân đã một mình thâm nhập được vào nơi sâu nhất trong cổ mộ, trong lần đó, chắc chắn người đã nhìn thấy cái gì đó.

Nhị Nguyệt Hồng ngẩn người trong mật thất cho đến tận canh hai, bao nhiêu là suy nghĩ rối rắm như tơ vò, đến khi quay lại sân viện, nhìn thấy đèn trong phòng ngủ vẫn sáng, không khỏi có chút ân hận. Vội vàng tắm sơ qua rồi mới vào phòng, thấy vợ mình đang nằm nghiêng ở đầu giường đọc “Đoạn hồng linh nhạn ký” của Tô Mạn Thù, đọc đến say mê, chẳng hay biết Nhị Nguyệt Hồng đã vào từ bao giờ.

Cô nương nhỏ nhắn này, nhũ danh Nha Đầu, có thể nói chính là cô nương bị nhiều người ghen tỵ nhất Trường Sa. Có lẽ là bị người ghen ghét nhiều quá, nên sức khỏe quanh năm suy yếu.

Nhị Nguyệt Hồng từ tốn nằm xuống, Nha Đầu mới giật mình một chút, buông sách xuống, thổi tắt đèn, rồi ngả vào lòng Nhị Nguyệt Hồng.

“Sách uyên ương hồ điệp(2) có hay hay không?” Nhị Nguyệt Hồng nhẹ giọng hỏi bên tai nàng. Nha Đầu lắc đầu, nhắm hai mắt lại.

Ánh trăng từ ngoài song cửa chiếu vào, Nhị Nguyệt Hồng vẫn mở trừng trừng hai mắt, yên lặng nghe tiếng Nha Đầu hít thở. Dưới ánh trăng, tấm màn che loang loáng từng mảnh sáng vụn vỡ li ti kỳ lạ. Anh giơ tay lên, định kéo màn lại cho kín, chợt phát hiện, trên tay mình vẫn đeo cái đê từ bao giờ.

Anh sửng sốt  một chút, mới nhận ra mình vẫn theo thói quen, bất tri bất giác, đã đeo lại cái đê lên tay rồi.

Bên này hồ điệp uyên ương, bên kia Trương Khải Sơn đã nhốt mình trong phòng làm việc dán đầy các loại bản đồ Hồ Nam. Ông ta vẫn ngồi trước bàn làm việc, nhìn hơn mười mảnh Giáp Cốt trước mặt, thỉnh thoảng lại cầm một mảnh lên ngửi. Những mảnh Giáp Cốt này đều được phát hiện ở trong dạ dày các thi thể người Nhật, kích cỡ chỉ nhỏ bằng cái móng tay.

Loáng một cái đã quá nửa đêm, Tề Thiết Chủy buồn ngủ ríu cả mắt lại, pha cho mình một ấm trà thật đặc, cuối cùng lại làm đổ cả nước trà xuống thảm. Thấy viên sĩ quan phụ tá không chú ý, mới lập tức dịch cái bàn trà sang bên cạnh để che vết nước đổ. Bên cạnh có anh chàng sĩ quan tham mưu họ Thi đang ôm đống tài liệu đã dịch xong, căng thẳng đứng chờ Trương Khải Sơn cho mời vào. Tề Thiết Chủy bèn gọi anh ta lại, xem cặp tài liệu anh ta đang cầm trong tay.

Đây là những tài liệu thu được trên xe lửa, đa phần đều có liên quan đến địa điểm khai quật số quan tài và giám định sơ bộ. Những tài liệu này được ghi chép hết sức chi tiết, hầu như mỗi một cỗ quan tài đều có thể truy ra được địa điểm và thời gian khai quật.

“Lão thầy bói, lão thầy bói.” Trương Khải Sơn bỗng gọi hắn, Tề Thiết Chủy lập cập chạy tới, đến nơi liền không nhịn được mà ngáp một cái rõ to, Trương Khải Sơn lập tức ném một miếng Giáp Cốt vào miệng hắn.

Tề Thiết Chủy hết cả hồn, vội vàng nhổ ra, chỉ vào Trương Khải Sơn, ghê tởm không nói nên lời.

“Cái lưỡi ông này là nhất rồi, nếm ra được vị gì nào?” Trương Khải Sơn hỏi, Tề Thiết Chủy phun nước bọt phì phì, khạc nhổ liên tục, “Ớt dây mười chín vị, tương dầu hạt tía tô, đây là gia vị bên Động Khẩu Tương Tây à?” Nói rồi sắc mặt lại tím tái, muốn nôn mửa.

“Long cốt tùy táng, những Giáp Cốt này đều phải sắc với thuốc bắc, dùng để phòng ngừa những biến đổi bệnh lý của thi thể trong quan tài, tránh gây truyền nhiễm cho người khác trong lúc nhập liệm. Những người Nhật này sau khi mắc bệnh, cũng hy vọng thuốc ngấm trong Long cốt có thể trị được sâu bệnh trong cơ thể họ. Nhưng thằng cha nào thiếu não lại đổ Thập cửu hương và dầu tía tô vào nồi sắc thuốc? Nhất định là cao nhất nhà ông cố ý làm vậy, để báo cho chúng ta biết nơi xe lửa này hướng đến.” Trương Khải Sơn lạnh lùng nói: “Vị cao nhân này, đùa bỡn đám người Nhật phải chạy vòng vòng. Giống như ông, giả heo xơi thịt hổ.”

Tề Thiết Chủy chỉ vào Trương Khải Sơn đang tìm lá trà khắp phòng, cãi cùn: “Ta thế nào lại giả heo!”

Thi sĩ quan nghe mùi bãi nôn của Tề Thiết Chủy, sắc mặt cũng bắt đầu tím bầm. Trương Khải Sơn đi tới trước tấm bản đồ lớn, nhìn khu vực Tương Tây Tương Bắc: “Xe lửa đi từ hướng này đến, đến đất Ngạc là đường sắt bị nổ đứt rồi, xe lửa nhất định là từ vùng núi này tới, trong vùng núi này có lẽ giấu đường ray khác đây, phần nhiều là liên quan đến núi mỏ. Toàn bộ khu vực này toàn là núi mỏ, nhưng chỉ có một số gia đình nhà quê vài vùng là dùng Thập cửu hương để ăn thôi, ở đây, ở đây, và đây nữa.” Trương Khải Sơn chỉ vào mấy chỗ trên bản đồ. “Chắc chắn chiếc xe lửa đến từ đây, cứ tìm mấy tấm bản đồ chi tiết các vùng này, chúng ta tìm từng cái một là tra ra được, ngày mai lên đường.”

Tề Thiết Chủy nhìn Trương Khải Sơn, vừa súc miệng vừa lắc đầu quầy quậy: “Phật gia, tâm hồn tôi bị tổn thương, không đi.”

Trương Khải Sơn không quay đầu lại, lặng lẽ nói: “Quân phòng thủ Trường Sa quá quan trọng, tộc nhân của ông vì báo tin cho chúng ta mà ngay cả mạng cũng mất, chứng tỏ trên đường còn rất nhiều tin tức khác của Tề gia nữa, chuyến này ông tuyệt đối đừng từ chối.”

———————

(1) Tương là tên gọi khác của Hồ Nam, Ngạc là tên gọi khác của Hồ Bắc.

(2) Sách uyên ương hồ điệp: các tác phẩm theo phái “uyên ương hồ điệp”, dùng ngôn ngữ hiện đại để nói trong bối cảnh hiện đại cho dễ hiểu thì chính là truyện ngôn tình =))

Tô Mạn Thù (1884-1918) tên thật là Tử Cốc, pháp danh Mạn Thù, hiệu Nguyên Anh. Ông là nhà thơ, nhà văn, họa sĩ và là dịch giả cuối thời Thanh. Cha ông là Tô Kiệt Sinh, một Hoa kiều sống ở Nhật, mẹ ông là người Nhật. Năm 1894, ông theo cha về Trung Quốc, sau lại qua Nhật học. Ông là một nhà thơ tài năng, học thức uyên bác, từng dịch nhiều thơ Tây phương sang chữ Hán, ngoài ra còn viết một số tiểu thuyết bằng văn ngôn đơn giản, đa số là bi kịch ái tình hôn nhân, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết mang tính tự truyện “Đoạn hồng linh nhạn ký”, có ảnh hưởng trực tiếp đến phong trào “Uyên ương hồ điệp phái” sau này.

Tác phẩm này đã được nhà thơ Bùi Giáng chuyển dịch sang tiếng Việt với tựa là “Nhà sư vướng lụy”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Vào núi


Trương Khải Sơn làm việc rất nhanh, đây là chuyện mà trong quân ai ai cũng biết.

Đêm canh ba mới ngủ, ngày hôm sau trời còn chưa sáng, viên sĩ quan phụ tá đã ở dưới sân điểm danh các thân binh đi theo, tất cả đều áo quần gọn ghẽ, pạc hoọc giấu dưới yên ngựa, lấy túi nước đè lên trên, sau hông giắt lưỡi lê.

Trương Khải Sơn kiểm tra lại khẩu Colt của mình, mắt thấy mặt trời vừa lên, mới bảo mã phu dắt ngựa ra ngoại ô trước, còn bản thân với mấy thân binh thì lên xe hơi, chia nhau mà đi. Buổi sáng tám giờ, nhóm người bọn họ mới tập trung ở sườn đồi gần đường ray xe lửa ngoài ngoại ô, cả đội tổng cộng mười bốn người. Một nhóm sáu người ngụy trang thành một đội buôn đi trước 20 dặm, nhóm thứ hai bốn người ngụy trang thành lái buôn trà tản ra điều tra khắp khu vực xung quanh, còn Trương Khải Sơn, viên sĩ quan phụ tá và hai phu khuân vác đi sau cùng, dọc đường vừa thu thập tin tức, vừa sắp xếp phương hướng.

Hai nhóm người đã đi trước, chờ suốt nửa ngày trời mới thấy Tề Thiết Chủy khoan thai bước đến. Trương Khải Sơn và viên sĩ quan phụ tá ăn vận như tiểu thương bán trầu cau, còn đem theo cả một hòm thuốc lá, chỉ thấy Tề Thiết Chủy mặc áo đạo sĩ, tay dắt lừa đi tới, trông đích thị là một lão thầy bói.

Cũng may từ mấy đời nay Trường Sa vẫn luôn là đầu mối giao thông quan trọng, đâu đâu cũng toàn những kỳ nhân dị sĩ khắp trời Nam đất Bắc, nên dáng vẻ này cũng không quá hiếm lạ gì.

Nhưng vấn đề là con lừa đi quá chậm, thường cứ đi được một đoạn lại bị bỏ xa đến hai ba dặm, bọn Trương Khải Sơn phải chờ thêm nửa canh giờ nữa mới thấy chạy tới nơi, Trương Khải Sơn nhẫn nhịn suốt nửa đường, cuối cùng thở dài bảo: “Lão thầy bói, tôi bảo ông cải trang thôi, ông cưỡi một con lừa tới làm gì?”

“Phật gia, thầy bói không cưỡi lừa, lại đi cưỡi một con ngựa thật là cao to, ấy chẳng phải lạy ông tôi ở bụi này ư? Ngài tuyệt đối không được coi thường bộ đồ này của tôi nhé, càng đi vào trong núi cái mánh nhỏ này của tôi càng hữu dụng đấy.”

Từ khi vào núi đến giờ, viên sĩ quan phụ tá vẫn hết sức cảnh giác, hễ cứ có chim bay lên là anh ta cũng phải dừng ngựa lại, ngẩng lên trời nhìn ngắm cả nửa ngày, nghe Tề Thiết Chủy nói thế, hiếm một lần mới quay đầu lại nói: “Đạo sĩ vùng núi này, sớm đã nghèo kiết xác đến mức tuyệt chủng rồi, cái gọi là đạo sĩ phần nhiều là sơn phỉ lưu lạc, trốn trong đạo quán bỏ hoang nơi núi sâu mà giả thần giả quỷ, bắt cóc trẻ con dưới xóm lên núi nuôi thành trộm thành cướp. Có bộ dạng này của ông ấy, gặp người chỉ sợ là bị người ta đánh chết mất thôi.”

“Không phải không phải, bọn chúng là giặc cướp, chỉ biết cậy mạnh. Tôi đây trông thế mà là thân truyền của Hoàng Đình tổ sư, hậu nhân Tề gia đấy.” Tề Thiết Chủy nói đoạn vỗ vỗ vào cái túi bách bảo của mình: “Một trăm lẻ tám phép thần thông đều ở cả đây, đi đến đâu cũng là thần tiên sống. Chẳng thế lúc Phật gia nhét miếng Giáp Cốt vào mồm tôi, tôi đã trúng độc bỏ mình từ lâu rồi.”

“Miếng Giáp Cốt ấy đã chưng qua với máu của tôi rồi, bằng không sao dám lấy tay không mà cầm, không sợ nhiễm độc sao.” Viên sĩ quan nói với vẻ sâu xa.

Nghe nói máu người họ Trương không giống máu người thường, có thể trừ độc trị bệnh, lúc uống trà nói chuyện phiếm, Tề Thiết Chủy thường hỏi Trương Khải Sơn việc này có thể cho xem tận mắt hay chăng, mà lần nào cũng bị cười nhạo, hôm nay viên sĩ quan phụ tá mới nói thẳng ra như thế, làm hắn không khỏi bán tin bán nghi. Vừa định mở mồm truy hỏi, lại thấy vết thương quấn băng vải trên tay viên sĩ quan phụ tá, vết thương nơi lấy máu nào đã lành miệng. Lại nghĩ bụng, dùng máu mà chưng, không phải sẽ thành đậu phụ huyết à?

Trương Khải Sơn bên cạnh bèn ghìm cương ngựa, liếc nhìn Tề Thiết Chủy, như thể muốn cười chê, Tề Thiết Chủy bèn nuốt câu hỏi đang nghẹn ở cổ họng xuống.

Một đường thẳng hướng Tương Tây mà đi, cũng không phải lúc nào cũng men theo đường ray được. Sau khi vào núi, chỉ có thể đi trên triền núi, nhìn đường sắt phía xa xa mà đi theo thôi. Mấy lấy còn gặp phải đất lở, quần áo Tề Thiết Chủy liền bẩn thỉu không ra làm sao nữa, thế mà trông lại rất giống dân quê mùa hoạt động ở vùng này.

Ba ngày sau, bọn họ đến khu vực khai thác mỏ đầu tiên đã vạch ra trên bản đồ.

Tương Tây sản xuất nhiều thủy ngân, quặng mỏ ở đây có đến mười một mười hai quả núi liền, xen lẫn đủ các loại mỏ khoáng khác nhau. Thợ mỏ đều ăn ở luôn trong núi sâu, hai tháng mới xuống núi một lần, có mã phu riêng để mỗi ngày còn vận chuyển khoáng thạch. Người ở đây phần lớn là người Mèo, rồi người Động, vân vân, rải rác trong núi sâu, cơ bản đều là các khu tự cai quản, hoàn toàn là sinh sống hoang dã nơi biên cảnh Miêu Cương.

Đến khai thác mỏ quặng ngoài Cục địa chất khoáng sản ra, còn có những người Nhật, người Đức hợp tác với các lãnh đạo phía trên nữa, bây giờ người Nhật đều đã rút hết, thợ mỏ đa phần là người Hán với người dân tộc lẫn lộn tại địa phương, rất phức tạp.

Tuyến đường sắt đã cách hơn hai dặm rồi, đi đường tàu xe mệt nhọc, tạm thời không có ai báo cáo. Có mấy người vào một ngôi làng của người Động trên sườn núi, lại tìm thấy trạm dịch cổ trên tuyến đường trà mã cổ đạo ngày xưa, bây giờ trạm dịch do dân địa phương nắm giữ, phần nhiều là do các lái buôn và lữ khách ở chung, rồi cùng tiếp tế hàng hóa cho, thường xuyên tụ tập mấy trăm người một lúc, đủ các loại dân tộc, đủ các loại nhân vật.

Ngôi làng của người Động được xây trên sườn núi, trạm dịch lại được dựng lửng lơ trên đường núi sát vực đá, nguyên hàng hiên lợp cỏ rất dài chạy dọc suốt cả nửa đoạn đường, chênh vênh giữa lưng chừng núi. Bên trong là những tấm phản ghép liền nhau thật dài như một con rồng, mấy trăm người cùng ngủ trên ấy. Bên dưới gối đầu là vực sâu vạn trượng, thấy mà khiếp hãi.

Sắc mặt Tề Thiết Chủy vàng ệch như đất, lắc đầu nói: “Phật gia, thế này nhỡ nửa đêm đi tiểu, một cước đạp không, thế là thịt nát xương tan.”

Trương Khải Sơn phủi phủi bụi đất trên người, đến trước lan can của trạm dịch, nhìn ra thung lũng bao la bên ngoài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,527
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Cửu quỷ thải liên hoa


Trước kia khi Trương Khải Sơn vừa đến Hồ Nam, từng dạo qua Tương Tây một vòng, nơi này non nước trập trùng, đứng trên vách đá giữa lưng chừng núi còn có thể nghe thấy tiếng suối chảy róc rách trong khu rừng rậm rạp dưới vực núi. Trời về chiều, bầu trời ở vùng núi vẫn chưa tối hẳn, hẵng còn nhìn thấy một lớp ánh sáng lành lạnh mỏng tanh phủ lên tất cả các ngọn núi. Giữa màn sương lúc dày lúc mỏng, không nhìn rõ được bất kỳ cái gì.

Những người đến trước đã thăm dò hết mấy hướng suy đoán của ông ta, hiện giờ đang rải rác ở khắp các ngóc ngách dưới thung lũng. Chiếc xe lửa nhất định là đến từ một khu mỏ nào đó ở vùng này.

Người họ Trương sau khi vào đất Tương, đều nhất loạt tuân thủ truyền thống Trương gia, bố trí vô số tai mắt trên khắp tỉnh Hồ Nam, người họ Trương trà trộn vào ở cùng dân địa phương với đủ các ngành nghề, để rồi đến lúc Trương gia muốn xuống đất một chuyến, ở đâu cũng có người tường tận đất đai phong tục tập quán địa phương làm tiếp ứng cho mình.

Buổi tối, trong trạm dịch, các tiểu thương bắt đầu nổi lửa nấu cơm, trên thềm đá chơi vơi giữa vách núi, người nướng bánh Naan, kẻ nấu canh tiêu ớt, có thợ săn nướng thịt thú rừng, phết lên đủ loại ớt bột, gia vị, mùi thơm tỏa ra khắp khe núi. Trên dãy phản xếp thành hàng dài này còn treo đầy các loại đèn dầu đèn bão, từ xa nhìn lại, nom cứ như chợ quỷ trong tiểu thuyết liêu trai.

Trương Khải Sơn vẫn mặc nguyên áo, nằm xuống nghỉ ngơi, gió lạnh từ đáy vực bên dưới ván gỗ thốc lên. Viên sĩ quan phụ tá ở bên cạnh thổi một hơi còi dơi, đợi người Trương gia ở vùng này đáp lại. Tề Thiết Chủy bị mùi thức ăn đến từ đủ các vùng đông tây nam bắc mê hoặc đến điên đảo thần hồn, bèn xách túi tiền đi khắp nơi đòi mua, loáng cái đã ôm đủ thứ bánh nướng thịt xiên trở về.

Trương Khải Sơn mở một con mắt, liếc nhìn một cái. Tề Thiết Chủy bèn nói: “Phật gia, Phật gia, may mà đi cùng ngài đến, chẳng ngờ giữa núi rừng hoang vu quạnh quẽ này lại có cảnh tượng hưng thịnh như thế, chi bằng lại đây nếm thử mấy cái?”

Trương Khải Sơn lẳng lặng nói: “Hành tẩu giang hồ, ăn uống bậy bạ, lão Bát ông chừa phần cho người khác với chứ, đằng nào sống cũng chẳng bao lâu nữa. Tôi xem cửa hàng nhà họ Ngô bên kia, chó nhà Ngô Lão Cẩu cũng chẳng ăn mấy thứ này. Ông liệu mà sang Ngô gia học hỏi thêm đi.”

Tề Thiết Chủy nhìn thức ăn trong tay, lại nhìn các lái buôn khắp từ nam chí bắc, nhẹ giọng hỏi: “Không đến mức ấy chứ, Phật gia. Tôi thấy xứ này dân phong thuần phác, người nhà quê ai cũng đáng yêu, chứ giang hồ hiểm ác, đâu phải tôi chưa trải qua bao giờ. Người Trương gia các ông quá cẩn trọng rồi, thảo nào ế vợ.”

Đang nói chuyện, viên sĩ quan phụ tá đã quay lại, dẫn theo một người đàn ông trung tuổi nom như dân cửu vạn. Ánh mắt Trương Khải Sơn sáng lên, bèn trở mình ngồi dậy: “Lão Quán, sao rồi?”

“Vùng này là địa bàn của Hoắc gia, Tương Tây Hoắc tửu hương, gần đây lại còn có đến mấy vụ mua bán lớn, thế lực của Hoắc gia đang nổi lắm, người của Bán Tiệt Lý vẫn đang nhăm nhe kiếm cớ lọc bớt khu vực này đấy. Toàn cao thủ Hoắc gia canh giữ vùng này. Khải Sơn mọi người đều quen mặt, phải cẩn thận. Vào thôn cái là rất dễ bị nhận ra ngay.” Trương Lão Quán cúi xuống châm điếu thuốc, ngón tay lão đã bị thuốc xông đến vàng khè, nếu không phải mở miệng ra là nói tiếng Quan thoại thì khó lòng mà tin được đây là người Trương gia.

Tề Thiết Chủy ngẩn ra một lúc, lau mép dính đầy mỡ canh chua, nói: “Ai u, Phật gia, tôi còn không ngờ được đấy, nơi này là địa bàn Hoắc gia, năm đó Hoắc gia chưởng quản Cửu Môn, có một mình ông người phương Bắc, vừa xuống cái là thế thời thay đổi hoàng đế cũng đổi, Hoắc Tam Nương dễ gì đã cam lòng. Ngài hiện giờ là dựa vào Trường Sa quân p…” Lời chưa dứt đã bị viên sĩ quan phụ tá vỗ nhẹ vào cằm, khiến hắn ngắc ngứ một phen.

Tề Thiết Chủy lập tức phản ứng lại, vội vàng nhìn xung quanh một lượt, mới hạ giọng nói: “Ngài bây giờ là dựa vào họng súng, chứ nếu chỉ luận về công phu xuống đất, nhà Nhị gia với Hoắc gia đều luyện từ thuở tấm bé, Hoắc gia cũng không phục thuật phong thủy trước sau có ba trăm năm của ngài. Bây giờ chúng ta xuất hiện ở đây, lỡ Tam Nương lại nghĩ chúng ta đang giúp Bán Tiệt Lý đối phó với cô ta thì sao?”

Trương Khải Sơn tựa mình vào lan can, ngẩng đầu nhìn trăng sáng trên bầu trời, ông ta căn bản không quan tâm chuyện Hoắc gia, trên thực tế, nếu một ngày chiến tranh bảo vệ Trường Sa nổ ra, thì không còn phân biệt Cửu Môn gì nữa, trong thành chỉ có người Trung Quốc và người Nhật Bản mà thôi.

Ông ta nhìn Trương Lão Quán: “Những cái khác thì thế nào?” Trương Lão Quán nói: “Chuyện xe lửa thì không đơn giản. Ở đây địa hình núi non phức tạp, nếu có khu mỏ với đường sắt xây giấu trong rừng, ít nhất cũng phải mất mấy năm. Với cả, ở đây cây cỏ rậm rạp, bên này đang xây thì bên kia đã bị bụi cây dây leo mọc hoang che kín, phải mất một hai tháng tu sửa lại mới bắt đầu đưa vào hoạt động được. Tôi hỏi qua mấy tay gác đêm trong thôn, họ đều bảo chưa nghe thấy tiếng xe lửa chạy ở đây bao giờ, nhưng lại có mấy người nói, bọn họ đã từng nghe thấy tiếng động kỳ quái khác, loại tiếng động không thể xuất hiện ở khu vực này được.”

“Là cái gì?” Tề Thiết Chủy vội hỏi.

Trương Lão Quán nói: “Trong tháng này, một buổi đêm, trong lúc đang gác, bọn họ đều cùng lúc nghe thấy tiếng mấy trăm người cùng đập sắt vang lên từ trong khe núi. Tiếng mấy người đó nghe thấy đều là tiếng vọng lại, đều bảo nhau không biết thôn nào mà có nhiều người rèn đúc thế, cả thung lũng đều nghe thấy tiếng. Còn nghe nói trong núi có chứa một khối thiên đồng, nên thần tiên xuống đây để rèn kiếm.”

Trương Khải Sơn nhìn xuống thung lũng, Tề Thiết Chủy vừa định hỏi tiếp, ông ta bèn xua tay: “Đường ray ở dưới lòng đất, trong các dãy núi ở đây có lẽ có vài đoạn là rỗng, mạch nước ngầm khô kiệt lại không có cây cối gì, các mỏ khoáng vùng này đa phần đều là của người Nhật, bọn họ kinh doanh ở đây suốt nhiều năm, âm thầm xây một đường ray dưới lòng sông chắc cũng không quá khó. Tiếng đập sắt đó là tiếng động vang lên khi xe lửa đi qua, chèn ép lên đường sắt và lòng sông.”

“Không sai, đúng là như vậy.” Trương Lão Quán nói: “Khải Sơn, phong thủy ở đây quái lạ, tiếng vang có liên quan đến thế núi, mà chỉ có một vài nơi mới nghe thấy được tiếng động dưới lòng đất, tìm một ông thầy địa lý giỏi là có thể tính ra được phương vị của đường ray dưới đất rồi.”

Trương Khải Sơn quay đầu liền thấy Tề Thiết Chủy đang ngả lưng, “Bát gia.” Tề Thiết Chủy xua tay: “Chuyện lạ chuyện ma không xem, Phật gia ông cũng là người hiểu phong thủy, chẳng nhẽ không nhìn ra? Núi này, là quỷ thải liên hoa, phía trước có tổng cộng chín ngọn núi, cửu quỷ thải liên hoa, là quỷ môn quan của Cửu Môn Đề Đốc chúng ta đó.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom