Cập nhật mới

Dịch Full Các Anh Hùng Của Đỉnh Olympus Tập 3: Dấu Hiệu Athena

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Annabeth


CUỘC NỘI CHIẾN MỚI đã BẮT ĐẦU.

Leo, bằng cách nào đó, đã thoát khỏi cú rơi mà không hề hấn gì. Annabeth nhìn thấy cậu tránh né từ mái hiên này sang mái hiên khác[1], cho nổ mìn vào những con đại bàng khổng lồ sà xuống chỗ cậu. Các á thần La mã cố gắng đuổi theo nhưng vấp phải đống đạn của súng thần công và phải luồn lách qua đám khách du lịch, những người đang la hét và chạy theo vòng tròn.

Hướng dẫn viên tiếp tục gào lên, “Đó chỉ là tái hiện!” Mặc dù họ có vẻ không chắc lắm. Màn Sương Mù chỉ có thể làm thay đổi những gì mà người thường nhìn thấy.

Ở giữa sân, một con voi trưởng thành – có thể là Frank? – giận dữ ruổi quanh cột cờ, rượt các chiến binh La Mã chạy tán loạn. Jason đứng cách đó khoảng năm mươi mét, đấu kiếm với một sĩ quan trông chắc nịch, môi son màu đỏ anh đào, như máu. Có thể là một con ma cà rồng, hoặc một con quái vật Kool-Aid[2]?

Khi Annabeth trông thấy, Jason hét lên, “Xin lỗi chuyện này, Dakota!”

Cậu nhảy thẳng qua đầu cậu sĩ quan như một diễn viên nhào lộn và nện cán kiếm vào đầu cậu La Mã. Dakota ngã gục.

“Jason!” Annabeth gọi.

Cậu nhìn một lượt chiến trường trước khi nhìn cô.

cô chỉ vào nơi tàu Argo II neo đậu. “Đưa những người khác lên tàu! Rút lui!”

“Còn cậu thì sao?” cậu hỏi.

“Đừng đợi tớ!”

Annabeth lao đi trước khi cậu lên tiếng phản đối.

cô gặp khó khăn lúc đi qua đám đông khách du lịch. Tại sao có nhiều người muốn xem Đồn Sumter vào mùa hè nóng nực thế này cơ chứ? Nhưng Annabeth nhanh chóng nhận ra đám đông đang cứu mạng cô. Nếu không có sự hỗn loạn của những người đang sợ hãi này, người La Mã chắc đã bao vây hết bọn côrồi.

Annabeth chạy vào căn phòng nhỏ, chắc chắn là một phần của các đơn vị đồn trú. cô cố ổn định hơi thở. cô tưởng tượng mình là một người lính Liên Minh trên hòn đảo này vào năm 1861. Bị bao vây bởi kẻ địch. Cạn kiệt lương thực và quân nhu, không có tiếp viện.

một số quân Liên Minh là con Athena. Họ đã giấu tấm bảng đồ quan trọng ở đây – thứ gì đó mà họ không muốn để rơi vào tay kẻ thù. Nếu Annabeth là một trong số những á thần đó, cô sẽ để nó nơi nào?

Đột nhiên các bức tưởng trở lấp lánh. không khí trở nên ấm áp. Annabeth tự hỏi liệu cô có đang gặp ảo giác hay không. cô sắp sửa chạy đến lối ra ngay khi cánh cửa đóng sầm lại. Vữa giữa nhưng phiến đá phồng lên. Bong bóng nổ lốp bốp và hàng ngàn con nhện nhỏ trồi lên.

Annabeth không thể di chuyển. Tim cô như ngừng đập. Những con nhện bao trùm các bức tường, bò lên nhau, dàn ra khắp sàn nhà và từ từ bao vây lấy cô. không thể nào. Điều này không phải là thật.

Nỗi sợ nhấn chìm cô vào kí ức. Đó là khi cô lên bảy, ở một mình trong phòng ngủ ở Richmond, Virginia. Những con nhện đến vào ban đêm. Chúng bò từng lớp từ tủ quần áo của cô và chờ trong bóng tối. côhét gọi cha cô, nhưng ông ấy đã đi công tác. Ông ấy dường như luôn luôn đi công tác.

Thay vào đó, mẹ kế của cô bước vào.

Em không ngại làm một mật thám xấu xa, bà đã một lần nói với cha cô, khi bà nghĩ Annabeth khôngnghe thấy.

Nó chỉ là tưởng tưởng của con, mẹ kế của cô nói về những con nhện. Con đang làm các em trai sợ đấy.

Chúng không phải các em, Annabeth cãi lại, điều đó làm biểu hiện của mẹ kế trở nên gay gắt. Đôi mắt của bà gần như trở nên đáng sợ như những con nhện.

đi ngủ ngay, mẹ kế của cô nhấn mạnh. không la hét nữa.

Những con nhện quay trở lại ngay khi mẹ kế của cô ra khỏi phòng. Annabeth cố gắng trốn dưới chăn, nhưng không khả thi lắm. Cuối cùng cô ngủ thiếp đi vì kiệt sức. cô thức dậy vào buổi sáng, phủ đầy những vết cắn, mạng nhện bao quanh mắt, mũi, miệng cô.

Những vết cắn biến mất khi cô thay quần áo, cho nên cô không có gì cho mẹ kế cô thấy ngoại trừ mạng nhện, nhưng bà nghĩ chúng là trò đùa tinh quái.

không được nói về nhện nữa, mẹ cô cứng rắn nói. Con đã lớn rồi.

Đêm thứ hai, bọn nhện lại đến. Mẹ kế của cô tiếp tục làm tên mật thám xấu xa. Annabeth không được phép gọi cho cha cô và làm phiền ông bởi những điều vớ vẫn. không, ông ấy sẽ không về nhà sớm.

Đêm thứ ba, Annabeth trốn khỏi nhà.

Sau đó, ở trại Con Lai, cô biết được tất cả những đứa con của Athena đều sợ nhện. Rất lâu về trước, Athena dạy cho một thợ dệt người thường là Arachne một bài học nặng nề – nguyền rủa bà ta vì thói kiêu ngạo bằng cách biến bà ta thành con nhện. Từ đó, bọn nhện ghét con cái Athena.

Nhưng điều đó không làm cô vượt qua nỗi sợ dễ dàng hơn khi đối mặt với chúng. một lần, cô đã suýt giết chết Connor Stoll ở trại vì bỏ một con Tarantula[3] vào giường cô. Nhiều năm sau, cô gặp phải mộtcuộc tấn công kinh hoàng ở công viên nước ở Denver, khi Percy và cô bị tấn công bởi con nhện máy. Và vài tuần sau đó, Annabeth vẫn mơ thấy những con nhện đấy hằng đêm – bò khắp người cô, làm cô ngạt thở, quấn cô trong đống mạng nhện.

Bây giờ, cô đang đứng trong doanh trại ở Đồn Sumter, cô bị bao vây. Cơn ác mộng đã trở sự thật.

một giọng nói ngái ngủ thì thầm trong đầu cô: sẽ sớm thôi, con gái. Ngươi sẽ gặp người thợ dệt đó sớm thôi.

“Gaea?” Annabeth thì thầm. cô sợ câu trả lời, nhưng vẫn hỏi: “Ai – người thợ dệt nào?”

Lũ nhện trở nên phấn khích, bò ngập trên tường, xoáy quanh chân của Annabeth như một xoáy nước màu đen lấp lánh. Annabeth chỉ hy vọng nó là ảo ảnh để giữ cô thoát khỏi nỗi sợ.

Ta hy vọng ngươi sống sót, cô gái, giọng người phụ nữ nói. Ta thích ngươi làm tế vật cho ta hơn. Nhưng chúng ta phải để người thợ dệt trả thù…

Giọng của Gaea mờ đi. trên tường, ở trung tâm đám nhện, một biểu tượng đỏ rực: hình con cú như cái trên đồng bạc drachma, nhìn thẳng vào Annabeth. Sau đó, cứ như trong cơn ác mộng của cô, Dấu hiệu của Athena cháy trên tường, thiêu rụi lũ nhện cho đến khi căn phòng trống rỗng, ngoại trừ mùi tro ngột ngạt.

đi đi, một giọng nói khác – giọng của mẹ Annabeth. Trả thù cho ta. Lần theo Dấu hiệu.

Biểu tượng con cú sáng rực mờ dần. Cánh cửa đồn trú mở bật ra. Annabeth đứng sững sờ ở giữa phòng, không chắc là cô đã nhìn thấy thứ gì đó thật, hay chỉ là ảo ảnh.

một vụ nổ làm rung chuyển tòa nhà. Annabeth nhớ lại các bạn cô đang gặp nguy hiểm. cô đã ở đây quá lâu.

cô buộc bản thân phải di chuyển. Vẫn còn run rẩy, cô nhìn ra ngoài. Đại dương giúp cô thoải mái hơn. cô liếc về cái sân – qua những người khách du lịch đang hoảng sợ và những á thần đang đánh nhau – đến rìa chiến trường, nơi một cây súng cối lớn đang chỉ ra ngoài biển.

Có thể Annabeth tưởng tượng, nhưng khẩu pháo cũ có màu đỏ rực. cô chạy về hướng đó. một con đại bàng tấn công cô, nhưng cô cúi nhanh xuống và tiếp tục chạy. không thứ gì làm cô sợ hãi bằng những con nhện.

Các á thần La Mã lập hàng ngũ và đang tiến về phía tàu Argo II, nhưng một cơn bão nhỏ đã tụ lại trênđầu họ. Mặc bầu trời vẫn quang đãng quanh họ, sấm sét ầm ầm, chớp lóe lên phía trên đám người La Mã. Mưa gió cản họ lại.

Annabeth không dừng lại để nghĩ về nó.

cô đến được cái súng cối và để tay lên mũi nó. trên cái chốt đóng mở, Dấu hiện Athena sáng lấp lánh – đường viền màu đỏ xung quanh con cú.

“trên cái súng cối,” cô nói. “Dĩ nhiên rồi.”

cô gỡ các chốt. không may. Khốn thật, cô rút con dao găm của mình. Ngay khi Đồng Thiên Thai chạm vào cái chốt, nó co lại và nới lỏng. Annabeth kéo nó ra và xọc ngón tay vào trong ống pháo.

Ngón tay cô chạm vào thứ gì đó lạnh ngắt, láng mịn và làm bằng kim loại. cô lấy ra một cái đĩa nhỏbằng đồng có kích thước bằng một đĩa trà, được khắc chữ tinh tế và có hình minh họa. cô quyết định xem xét nó sau. cô để nó trong ba lô của mình và quay lại.

“đang vội sao?” Reyna hỏi.

Vị pháp quan đứng cách đó khoảng ba mét, chiến giáp đầy đủ, tay cầm lao vàng. Hai con chó săn kim loại gầm gừ nhìn về phía cô.

Annabeth quan sát xung quanh. Họ dường như đơn độc. Trận chiến đã dời đến bến cảng. Hy vọng các bạn của cô xử việc ngon lành trên tàu, nhưng họ phải lên đường ngay lập tức hoặc có nguy cơ bị bắt. Annabeth phải nhanh lên.

“Reyna,” cô nói, “những điều xảy ra với trại Jupiter đều là lỗi của Gaea. Eidolon, lũ ám hồn_”

“Tiết kiệm lời giải thích của cậu đi,” Reyna nói. “Cậu sẽ cần nó cho vụ xét xử.”

Những con chó gầm gừ và tiến về phía trước. Khi đó, vấn đề Annabeth nói thật có vẻ chẳng hề quan trọng với họ. cô cố gắng suy nghĩ một kế hoạch đào thoát. cô tự hỏi mình có thể đấu với Reyna một-chọi-một không. Nhưng với lũ con chó kim loại, cô chẳng có cơ hội nào.

“Nếu cậu muốn để Gaea chia tách hai trại,” Annabeth nói, “bọn khổng lồ sẽ chiến thắng. Chúng sẽ hủy diệt Lã Mã, Hy Lạp, các vị thần, toàn bộ thế giới loài người.”

“Cậu không nghĩ là tôi biết điều đó sao?” Giọng Reyna cứng như sắt. “Cậu sẽ cho tôi được lựa chọn nào kia chứ? Octavian rất khát máu. Cậu ta điên cuồng thu phục các quân đoàn và tôi không thể ngăn chặn được. Đầu hàng đi. Tôi sẽ đưa các cậu về Rome Mới xét xử. sẽ không công bằng. Các cậu sẽ bị xử phạt đau đớn. Nhưng đủ để ngăn chặn bạo lực. Octivian sẽ không hài lòng, tất nhiên, nhưng tôi nghĩ tôi có thể thuyết phục những người khác rút lui.”

“Đó không phải tại tôi!”

“không quan trọng!” Reyna ngắt lời. “Ai đó phải trả giá cho những chuyện đã xảy ra. Cứ để người đó là cậu. Lựa chọn thế sẽ tốt hơn.”

Da Annabeth râm ran. “Tốt hơn cái gì?”

“Sử dụng trí tuệ của cậu,” Reyna nói. “Nếu cậu trốn thoát được trong hôm nay, chúng tôi sẽ không đuổi bắt nữa. Tôi nói cho cậu nghe – thậm chí ngay cả một kẻ điên cũng sẽ không vượt biển để đến vùng đất cổ xưa. Nếu Octavian không thể trả thù tàu cậu, cậu ta sẽ hướng đến Trại Con Lai. Các binh đoàn sẽkhởi quân trên vùng đất của cậu. Chúng tôi sẽ san bằng nó.”

Giết bọn người La Mã, cô nghe được tiếng của mẹ cô thúc giục. Chúng không bao giờ là đồng minh của con.

Annabeth muốn khóc. Trại Con Lai thực sự là ngôi nhà duy nhất cô từng được biết đến và để trả giá cho tình bạn, cô đã nói cho Reyna biết chính xác nơi để tìm nó. cô không thể để trại rơi vào quyền kiểm soát của người La Mã và đi xa cách nửa vòng thế giới.

Nhưng nhiệm vụ của họ và mọi thứ cô đã trải qua để mang Percy trở lại…nếu cô không đến vùng đất cổ xưa đó, sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. không những thế, Dấu hiện Athena không phải dẫn đến phục thù.

Nếu ta có thể tìm được đường về nhà, mẹ cô đã từng nói, con đường về nhà…

Con sẽ sử dụng món quà của mình như thế nào? Aphrodite đã từng hỏi. Vì chiến tranh hay hòa bình?

Đây là câu trả lời. Dấu hiệu Athena có thể dẫn cô đến đó – nếu cô sống sót.

“Tớ sẽ,” cô nói với Reyna. “Tớ sẽ lần theo Dấu hiệu Athena đến Rome.”

Vị pháp quan lắc đầu. “Cậu không biết chuyện gì đang đợi cậu đâu.”

“Có, tớ biết,” Annabeth nói. “Mối hận thù giữa hai trại…tớ có thể hàn gắn nó.”

“Ác cảm đó đã có từ hàng ngàn năm qua. Làm sao một người có thể hàn gắn nó?”

Annabeth ước gì cô có thể đưa ra một câu trả lời thuyết phục, cho Reyna thấy chương trình 3-D hay là một sơ đồ thông minh, nhưng cô không thể. cô chỉ biết cô phải thử. cô nhớ đến ánh mắt hoang mang trên khuôn mặt mẹ cô: Ta phải về nhà.

“Nhiệm vụ phải thành công,” cô nói. “Cậu có thể thử ngăn chặn tớ, trong trường hợp đó bọn tớ sẽ chiến đấu đến cùng. Hoặc cậu có thể để tớ đi và tớ sẽ cố gắng cứu cả hai trại. Nếu các cậu phải khởi quân ở Trại Con Lai, ít nhất hãy thử trì hoãn nó. Làm chậm bước đi của Octivian.”

Mắt của Reyna nheo lại. “Là một cô con gái của nữ thần chiến tranh khác, tớ tôn trọng sự táo bạo của cậu. Nhưng nếu cậu rời khỏi bây giờ, cậu đã đẩy trại của cậu tới bước diệt vong.”

“Đừng quá xem thường Trại Con Lai,” Annabeth cảnh báo.

“Cậu chưa bao giờ thấy binh đoàn trong các trận chiến,” Reyna phản đối.

Ngoài bến cảng, một giọng nói quen thuộc hét lên trong gió: “Giết chúng! Giết hết chúng đi!”

Octivian đã sống sót và đang bơi trong cảng. Cậu ta núp phía sau vệ sĩ của mình, la hét cỗ vũ những á thần La Mã tấn công con tàu, giữ chặt khiên của họ để làm lệch hướng các cơn bão dữ dội xung quanh mình.

trên boong tàu Argo II, Percy và Jason đứng cạnh nhau, kiếm họ giao nhau. Annabeth cảm nhận sự náo nức lan đến cột sống của cô khi cô nhận ra hai chàng trai đang làm việc như một, triệu hồi bầu trời và biển cả thực hiện mệnh lệnh của mình. Nước và gió khuấy vào nhau. Sóng trào dâng đánh vào thành lũy và chớp lóe lên. Những con đại bàng khổng lồ bị đánh bật khỏi bầu trời. Đống đổ nát của chiếc phi xa cháy trong nước và HLV Hedge đung đưa một cái nỏ, thực hiện mấy cú bắn bừa vào những con chim La Mã khi chúng bay trên trời.

“Cậu thấy chưa?” Reyna nói một cách cay đắng. “Ngọn giáo đã được phóng đi. Chúng ta đang có chiến tranh.”

“sẽ không nếu tớ thành công,” Annabeth nói.

Biểu hiện của Reyna giống khi ở trại Jupiter, khi cô nhận thấy Jason đã có cô gái khác. Vị pháp quan quá cô độc, quá cay đắng và bị phụ lòng tin rằng mọi thứ có thể đúng đắn với cô một lần nữa. Annabeth chờ cô tấn công.

Thay vào đó, Reyna búng tay. Hai con chó kim loại lùi lại. “Annabeth Chase,” cô nói, “lần sau chúng ta gặp lại, sẽ là kẻ thù trên chiến trường.”

Vị pháp quan quay người và bước ngang qua thành lũy, những con chó săn theo sau cô.

Annabeth lo sợ đó là một trò đùa, nhưng cô không có thời gian để nghi ngờ. cô chạy đến chỗ con tàu.

Những cơn gió đập vào người La Mã dường như không ảnh hưởng đến cô.

Annabeth chạy nước rút về phía họ. Octivian hét lên, “Ngăn cô ta lại!”

một cây giáo bay ngang tai cô. Tàu Argo II đã chuẩn bị rời cảng. Piper đứng ở ván cầu, tay cô vươn ra.

Annabeth nhảy lên và nắm lấy tay Piper. Cái ván cầu rơi xuống biển, hai cô gái đổ nhào lên boong.

“đi!” Annabeth la lên. “đi, đi, đi thôi!”

Động cơ ầm ầm phía dưới cô. Các mái chèo khuấy động. Jason đổi hướng gió và Percy gọi một cơn sóng khổng lồ nâng con tàu lên cao hơn cả bức tường pháo đài rồi đẩy họ ra biển. Ngay khi tàu Argo II đạt vận tốc tối đa, Fort Sumter chỉ còn là một vệt mờ phía xa xa và họ đang chạy đua trên những con sóng đến vùng đất cổ xưa.

[1] Mái hiên (từ tiếng Ý) là một cổng vòm dẫn đến lối vào của một tòa nhà, hoặc mở rộng như mộthàng cột, với một cấu trúc mái nhà trên một lối đi, được hỗ trợ bởi các cột hoặc được bao bọc bởi những bức tường. Ý tưởng này đã được sử dụng rộng rãi trong Hy Lạp cổ đại và có ảnh hưởng đến nhiều nền văn hóa, bao gồm cả các nền văn hóa phương Tây.

[2] Kool-Aid là một nhãn hiệu thức uống sỡ hữu bởi Kraft Foods.

[3] Nhện tarantula được coi là một trong những loài nhện lớn và lông lá nhất thế giới. Chúng có thể đạt đến độ dài trên 10cm khi trưởng thành. Tên của nhện tarantula dựa trên một điệu nhảy tarantella của người da đỏ vùng Amazon. Sở dĩ nó có tên như vậy là vì khi bị nó cắn, người ta đau đớn phát điên lên và nhảy chồm chồm như lên cơn dại để quên đi sự đau buốt mà dường như giảm được rất nhiều khi cộng thêm với sức nóng của đống lửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Leo


SAU KHI LÙNG SỤC một BẢO TÀNG ĐẦY NHÓC NHỮNG HỒN MA PHE LIÊN MINH, Leo không nghĩ ngày hôm đó có thể tệ hơn được nữa. Cậu đã nhầm.

Họ chẳng tìm thấy gì trong chiếc tàu ngầm thời Nội Chiến hay trong bảo tàng; chỉ có vài du khách già cả, một ông bảo vệ gà gật, và – khi họ cố khám nghiệm mấy hiện vật–cả một tiểu đoàn những anh chàng thây ma phát sáng trong quân phục màu xám.

Còn cái ý tưởng rằng Frank sẽ điều khiển được đám hồn ma? Ờ…cái đó khá là thất bại. Lúc Piper gửi tin nhắn Iris cảnh báo về vụ tấn công của đám người La Mã, họ đã về tàu được nửa đường rồi, đang bị một đám xác chết quân Liên Minh giận dữ rượt khắp phố chính Charleston.

Rồi–ố, mèn ơi!–Leo phải làm một chuyến bay với Chàng Đại Bàng Thân Thiện Frank, để họ có thể đấu với một đám người La Mã. Hẳn là cái tin đồn rằng Leo là người đã nổ súng vào thành phố bé nhỏ của họ đã được lan truyền rộng rãi, bởi vì đám người La Mã kia có vẻ đặc biệt sốt sắng muốn giết cậu.

Nhưng hãy khoan! Vẫn còn nữa! HLV Hedge bắn họ rớt khỏi không trung; Frank đánh rơi cậu (không phải do sơ suất đâu ạ); và họ hạ cánh khẩn cấp xuống đồn Sumter.

Lúc này, trong khi tàu Argo II đang lao băng băng trên những ngọn sóng, Leo phải vận dụng hết kĩ năng của mình chỉ để giữ cho con tàu được nguyên vẹn. Percy và Jason hơi quá giỏi trong việc chế biến những cơn bão khổng lồ.

một lúc, Annabeth đứng cạnh cậu, gào lên đua với tiếng rít gào của gió: “Percy bảo cậu ấy đã nói chuyện với một Nereid ở bến cảng Charleston!”

“Tốt cho cậu chàng!” Leo gào lên đáp.

“cô Nereid đó nói bọn mình nên tìm sự trợ giúp chỗ các anh em của Chiron[0].”

“Vậy nghĩa là sao? Các bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng à?” Leo chưa gặp đám họ hàng nhân mã điên khùng của Chiron, nhưng cậu đã từng nghe đồn về những trận đấu kiếm Nerf[1], những cuộc thi nốc bia rễ cây[2], và súng phun nước Super Soaker[3] được nạp đầy kem tươi nén.

“không chắc nữa,” Annabeth đáp. “Nhưng mình có tọa độ đây. Cậu có nhập được kinh độ và vĩ độ vào thứ này không?”

“Nếu cậu muốn, mình có thể nhập bản đồ chòm sao và gọi cho cậu một cốc sinh tố. Dĩ nhiên là mình biết nhập kinh độ và vĩ độ rồi!”

Annabeth liến láu đọc dãy số ra. Leo xoay sở cách nào đó mà nhập được dãy số đó vào trong khi cầm bánh lái bằng một tay. một chấm đỏ hiện ra trên màn hình biểu thị bằng đồng.

“Vị trí đó nằm ở giữa Đại Tây Dương,” cậu nói. “Mấy bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng này có du thuyền à?”

Annabeth bất lực nhún vai. “Cứ giữ cho con tàu được nguyên vẹn cho tới khi bọn mình đi xa khỏi Charleston hơn nhé. Percy và Jason sẽ cho mấy trận gió tiếp nữa đấy!”

“Giờ chơi vui vẻ nhé!”

Cứ như cả tỉ năm đã trôi qua, nhưng cuối cùng thì biển cũng lặng và gió cũng ngừng.

“Valdez,” HLV Hedge gọi, bằng giọng dịu dàng đến đáng ngạc nhiên. “Để ta cầm lái cho. Trò đã cầm lái suốt hai tiếng rồi.”

“Hai tiếng ạ?”

“Ừ, đưa bánh lái cho ta nào.”

“Huấn luyện viên?”

“Gì thế, nhóc?”

“Em không nhả tay ra được.”

thật sự là thế. Ngón tay của Leo có cảm giác như đã hóa đá vậy. Mắt cậu rát vì nhìn quá lâu về phía chân trời. Đầu gối cậu nhũn như kẹo dẻo. HLV Hedge xoay xở cậy được cậu ra khỏi bánh lái.

Leo nhìn bảng điều khiển một cái cuối cùng, nghe tiếng Festus thì thầm kẽo kẹt báo cáo trạng thái. Leo có cảm giác cậu đã quên một chuyện gì đó. Cậu nhìn chằm chằm mấy nút điều khiển, cố gắng suy nghĩ, nhưng chẳng ích gì. Mắt cậu khó mà tập trung được. “Thầy phải coi chừng bọn quái vật,” cậu bảo vị huấn luyện viên. “Và cẩn thận với bộ thăng bằng bị hỏng. Và–”

“Ta xử lí được,” HLV Hedge hứa. “Giờ thì, đi đi!”

Leo mệt mỏi gật đầu. Cậu lảo đảo băng qua boong tàu đi về phía các bạn cậu.

Percy và Jason ngồi dựa vào cột buồm, đầu hai người gục xuống vì kiệt sức. Annabeth và Piper đang cố cho họ uống ít nước.

Hazel và Frank đứng ngoài tầm nghe, đang có một cuộc tranh luận với rất nhiều cái vung tay và lắc đầu. Lẽ ra Leo không nên cảm thấy hài lòng vì điều đó, nhưng một phần trong cậu lại có cảm giác ấy. Phần còn lại trong cậu cảm thấy tồi tệ vì cậu thấy hài lòng.

Cuộc tranh luận đột ngột dừng lại khi Hazel nhìn thấy Leo. Mọi người tụ tập lại chỗ cột buồm.

Frank nhíu mày như thể cậu ta đang cố biến thành một con chó bun[4]. “không có dấu hiệu của sự truy đuổi,” cậu nói.

“Hay đất liền.” Hazel bổ sung. Trông cô hơi xanh xao, dù Leo không chắc đó là do sự lắc lư của con tàu hay do trận tranh cãi lúc nãy.

Leo quét mắt nhìn về phía chân trời. không có gì ngoài mặt biển bao vây bốn phía. Điều đó lẽ ra không nên khiến cậu ngạc nhiên mới phải. Cậu đã mất công sức sáu tháng trời để dựng nên một con tàu mà cậu biết là sẽ vượt Đai Tây Dương. Nhưng mãi cho tới tận hôm nay, việc bọn họ dấn thân vào một hành trình tới những vùng đất cổ xưa vẫn chẳng có vẻ gì là chân thực cả. Trước đó, Leo chưa từng ra khỏi nước Mỹ, ngoại trừ một chuyến bay ngắn cưỡi rồng đến Québec. Giờ họ đang ở giữa biển khơi rộng lớn, hoàn toàn cô độc, dong buồm về phía Mare Nostrum, quê hương của tất cả những quái vật đáng sợ và những tên khổng lồ xấu xa. Có thể, đám người La Mã không bám theo họ được thật, nhưng họ cũng không thể nhờ cậy vào sự trợ giúp của Trại Con Lai được.

Leo vỗ vỗ thắt lưng để chắc chắn rằng cái đai dụng cụ của cậu vẫn còn đấy. Rủi thay, làm vậy chỉ khiến cậu nhớ đến cái bánh quy may mắn của Nemesis, được nhét vào một ngăn túi.

Cậu sẽ luôn là kẻ ngoài cuộc. Giọng nói của nữ thần vẫn len lỏi trong đầu cậu. Bánh xe thứ bảy.

Quên bà ta đi, Leo tự nhủ. Tập trung vào những thứ mày có thể sửa chữa.

Cậu quay sang Annabeth. “Cậu đã thấy tấm bản đồ cậu muốn tìm chưa?”

cô gật đầu, dù trông cô tái nhợt. Leo thắc mắc không biết cô đã nhìn thấy gì ở đồn Sumter mà lại có thể khiến cô bị rung động mạnh đến thế.

“Mình sẽ phải nghiên cứu nó,” cô nói, như thể chủ đề này chấm dứt ở đó. “Bọn mình còn cách mấy tọa độ đó bao xa?”

“đi với tốc độ tối đa thì còn một giờ.” Leo đáp. “Có ý tưởng gì về thứ bọn mình đang tìm không?”

“không.” cô thừa nhận. “Percy?”

Percy ngẩng đầu, cặp mắt xanh của cậu đầy tia máu và díu lại. “cô Nereid đó nói những người anh em của Chiron ở đó, và họ muốn nghe về khu thủy cung ở Atlanta kia. Mình không biết cô ấy có ý gì, nhưng…” Cậu dừng lại, như thể cậu đã vét hết năng lượng để nói bấy nhiêu. “cô ấy cũng cảnh báo mình phải cẩn thận. Keto, bà nữ thần ở khu thủy cung: Bà ta là mẹ của các thủy quái. Có thể bà ta bị kẹt ở Atlanta, nhưng bà ta vẫn có thể phái đám con cái của bà ta đuổi theo chúng ta. Những Nereid nói rằng chúng ta nên đề phòng một cuộc tấn công.”

“Tuyệt vời,” Frank lầm bầm.

Jason cố đứng dậy, chẳng phải một ý hay. Piper túm lấy cậu để cậu khỏi lộn nhào, và cậu trượt xuống trở lại chỗ cột buồm.

“Bọn mình có cho con tàu cất cánh được không?” Cậu hỏi. “Nếu bọn mình có thể bay–”

“Được thế thì còn gì bằng,” Leo nói. “Chỉ trừ mỗi chuyện Festus bảo với mình rằng bộ thăng bằng trên không đã bị nghiền thành cám lúc con tàu quẹt vào cầu cảng ở đồn Sumter.”

“Lúc đó bọn mình đang khẩn trương mà,” Annabeth nói. “đang cố cứu cậu.”

“Và cứu mình là một lý do vô cùng cao cả,” Leo đồng ý. “Mình chỉ nói là, sẽ phải mất ít thời gian để sửa nó. Cho tới lúc đó, bọn mình không có bay bổng gì cả.”

Percy vươn vai và nhăn mặt. “Với mình thì ổn. Biển cũng tốt.”

“Đấy là với anh thôi.” Hazel nhìn vầng thái dương buổi chiều đang sắp xuống tới đường chân trời. “Bọn mình phải đi nhanh. Ta đã tiêu thêm một ngày nữa và Nico chỉ còn có ba ngày.”

“Bọn mình sẽ làm được mà.” Leo hứa. Cậu hy vọng Hazel đã tha thứ cho cậu vì đã không tin tưởng em trai cô (này, với Leo thì đó có vẻ là một sự nghi ngờ hợp lý mà), nhưng cậu không muốn rạch lại vết thương cũ đó. “Bọn mình có thể đến được Rome trong vòng ba ngày–giả như, em biết đấy, không có chuyện gì đột ngột xảy ra.”

Frank cười gằn. Trông cậu ta như thể cậu ta vẫn đang cố thực hiện vụ biến thành chó bun đó. “Có tin gì tốt không?”

“thật ra thì, có đấy” Leo đáp. “Theo như Festus thông báo, chiếc bàn bay của chúng ta, Buford, đã trở lại an toàn lúc chúng ta còn ở Charleston, vậy là đám đại bàng kia không tóm được cậu chàng. không may là, anh chàng đã làm mất túi đồ giặt với mấy cái quần của cậu rồi.”

“Quỷ tha ma bắt nó chứ!” Frank rống lên, Leo nhận thấy đó có lẽ là một lời văng tục nặng nề đối với cậu ta.

không nghi ngờ gì là Frank có thể đã chửi thề thêm ít nữa–tuôn ra những trời đất quỷ thần với trời đánh thánh vật–nhưng Percy đã cắt ngang bằng cách gập đôi người và rên rỉ.

“Thế giới vừa lộn ngược à?” cậu hỏi.

“Ừ, nó lại còn quay mòng mòng nữa chứ. Mọi thứ đều vàng khè. Nó phải là màu vàng hả?”

Annabeth và Piper trao đổi một cái nhìn lo lắng.

“Triệu tập cơn bão đó thực sự đã vắt kiệt sức lực của hai cậu rồi,” Piper bảo hai cậu bạn.”Các cậu cần phải nghỉ ngơi.”

Annabeth gật đầu đồng ý. “Frank, cậu giúp bọn mình đưa hai cậu ấy xuống khoang được không?”

Frank liếc Leo, không nghi ngờ gì là đang chần chừ không muốn để cậu lại với Hazel một mình.

“Ổn mà, ông bạn,” Leo nói. “Chỉ cần cố gắng đừng đánh rơi họ trên đường đi xuống là được.”

Lúc mọi người đã xuống khoang hết rồi, Hazel và Leo lúng túng nhìn nhau. Họ hoàn toàn chỉ có một mình với nhau, nếu không tính HLV Hedge, ông thầy đang đứng ở boong lái hát bài hát nhạc phim Pokémon[5]. Ông thầy đã đổi lời bài hát thành Phải giết sạch bọn chúng[6] và Leo thực sự không muốn biết tại sao.

Bài hát không có vẻ giúp được gì cho chứng nôn nao của Hazel.

“Ui…” cô chúi người về phía trước và ôm sườn. cô có mái tóc rất đẹp–xoăn xoăn màu nâu sáng như những cuộn vỏ quế. Tóc của cô làm cậu nhớ đến một chỗ làm bánh quẩychurros[7] cực ngon ở Houston. Ý nghĩ ấy khiến cậu thấy đói.

“Đừng cúi về phía trước,” cậu khuyên. “Đừng nhắm mắt lại, làm thế chỉ càng làm cơn buồn nôn tệ hơn.”

“Vậy hả? anh cũng bị say sóng à?”

“không phải say sóng. Nhưng ô tô làm anh thấy nôn nao, cả…”

Cậu ngăn mình lại. Cậu định nói cả nói chuyện với con gái nữa, nhưng cậu quyết định giữ câu đó lại cho chính mình.

“Ô tô á?” Hazel chật vật ngồi thẳng dậy. “anh có thể lái một con tàu hay cưỡi một con rồng, nhưng lại say xe?”

“anh biết, kì cục nhỉ?” Leo nhún vai. “anh đặc biệt kiểu vậy đấy. Nghe này, giữ cho tầm mắt em ở đường chân trời. Đó là một điểm cố định. sẽ có ích đấy.”

Hazel hít một hơi và nhìn ra xa. Mắt cô có màu vàng rực rỡ, như những bánh răng bằng đồng vàng bên trong cái đầu cơ khí của Festus.

“Đỡ hơn tí nào chưa?” Cậu hỏi.

“Có lẽ có một chút đỉnh.” Giọng cô nghe như thể cô chỉ cố tỏ ra lịch sự. cô giữ tầm mắt nhìn vào đường chân trời, nhưng Leo có cảm giác cô đang đo lường tâm trạng của cậu, cân nhắc xem nên nói gì.

“Frank không cố tình đánh rơi anh đâu,” cô nói. “anh ấy không phải kiểu người như thế, anh ấy chỉ thỉnh thoảng hơi vụng về thôi.”

“Úi,” Leo nói, bằng giọng giống Frank Trương nhất của cậu. “Đánh rơi Leo vào giữa một tiểu đội địch mất rồi. Khỉ thật.“

Hazel cố nín cười. Leo thấy cười còn đỡ hơn là nôn mửa.

“Dễ dãi với anh ấy một chút đi,” Hazel nói, “anh với mấy quả cầu lửa của anh khiến anh ấy lo lắng.”

“anh chàng đó có thể biến thành một con voi, thế mà anh lại khiến cậu ta thấy lo lắng á?”

Hazel tiếp tục nhìn đường chân trời. Trông cô không còn quá nôn nao nữa, bất chấp chuyện HLV Hedge vẫn tiếp tục nghêu ngao bài hát Pokémon của ông ở khoang bánh lái.

“Leo,” cô nói. “Về chuyện xảy ra ở Hồ Muối Lớn…”

Đến rồi đây, Leo nghĩ.

Cậu nghĩ đến cuộc gặp gỡ của họ với nữ thần báo thù Nemesis. Cái bánh quy may mắn trong cái đai dụng cụ của cậu dường như nặng thêm. Tối qua, khi họ bay khỏi Atlanta, Leo nằm trong cabin của cậu và nghĩ đến chuyện cậu đã làm Hazel tức giận đến mức nào. Cậu đã suy nghĩ xem làm cách nào để sửa chữa.

Cậu sẽ sớm phải đối mặt với một vấn đề cậu không thể giải quyết, Nemesis đã nói như vậy, Tuy nhiên, ta có thể giúp cậu…với một cái giá.

Leo đã lôi cái bánh quy may mắn đó ra khỏi cái đai dụng cụ của cậu và lật lật nó giữa các ngón tay, tự hỏi cậu sẽ phải trả cái giá gì nếu cậu bóp nó ra.

Có lẽ đây là lúc làm vậy.

“anh rất sẵn lòng,” cậu bảo Hazel, “anh có thể dùng cái bánh quy may mắn để tìm em trai em.”

Trông Hazel có vẻ sững sờ. “Gì cơ? không! Ý em là…không đời nào em lại yêu cầu anh làm thế. không phải sau khi Nemesis nói về cái giá khủng khiếp. Bọn mình thậm chí còn chẳng biết nhau mấy.”

Lời bình chẳng biết nhau mấy khá đau, dù Leo biết đấy là sự thật.

“Thế…đấy không phải chuyện em định nói à? Cậu hỏi. “Ờ, có phải em muốn nói về khoảnh khắc nắm-tay-trên-tảng-đá không? Bởi vì–”

“không” cô nói nhanh, quạt quạt mặt mình theo cái cách dễ thương mà cô vẫn hay làm mỗi khi bối rối. “không, em chỉ đang nghĩ đến cách anh lừa Narcissus và mấy thần nữ đó…”

“Ờ, phải rồi.” Leo bối rối nhìn vào cánh tay cậu, hình xăm HÀNG NÓNG vẫn chưa phai hẳn. “Có vẻ là một ý hay vào lúc đó.”

“Lúc đó anh thật đáng kinh ngạc,” Hazel nói, “Em cứ nghĩ đi nghĩ lại, anh làm em nhớ đến–”

“Sammy,” Leo đoán. “anh ước gì em nói cho anh biết cậu ta là ai.”

“Từng là,” Hazel đính chính. không khí buổi tối ấm áp, nhưng cô lại rùng mình. “Em vẫn nghĩ…em có thể chỉ cho anh thấy.”

“Ý em là như kiểu một bức ảnh á?”

“không. Có một kiểu hồi tưởng xảy đến với em. Lâu rồi em chưa thấy nó, và em chưa từng cố ý làm nó xảy ra. Nhưng em từng chia sẻ một hồi tưởng với Frank, nên em nghĩ…”

Hazel khóa tầm mắt với cậu. Leo bắt đầu cảm thấy chộn rộn, như thể cậu bị tiêm cà phê. Nếu cái hồi tưởng này là thứ Frank từng chia sẻ với Hazel thì…chà, hoặc Leo không muốn mẩu nào của nó, hoặc cậu dứt khoát muốn thử nó. Cậu cũng không chắc là cái nào.

“Em nói là hồi tưởng…” Cậu nuốt nước bọt. “Chính xác thì ta đang nói đến cái gì? Nó có an toàn không?”

Hazel chìa tay ra. “Em không muốn yêu cầu anh làm việc này đâu, nhưng em chắc chắn là nó quan trọng. Việc bọn mình gặp nhau không thể là ngẫu nhiên. Nếu chuyện này thành công, có lẽ cuối cùng bọn mình cũng sẽ biết được bọn mình có liên hệ với nhau như thế nào.”

Leo nhìn lại boong lái. Cậu vẫn có một cảm giác ngờ ngợ bừng bực rằng cậu đã quên chuyện gì đó, nhưng HLV Hedge có vẻ đang làm khá ổn. Bầu trời phía trước quang đãng. không có dấu hiệu gì của rắc rối.

Hơn nữa, một hồi tưởng nghe có vẻ là một thứ khá chóng vánh. Để HLV Hedge phụ trách trong vài phút cũng chẳng chết ai, đúng không?

“Được rồi,” cậu động lòng. “Chỉ cho anh xem nào.”

Cậu nắm lấy tay Hazel, và thế giới tan biến.

[0] Chiron, Nhân mã Chiron – thầy dạy của Achilles – đã bị Hercules, trong một lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay làm rơi mũi tên trúng chân Chiron, những mũi tên này đều tẩm kịch độc từ máu của Hydra (quái vật rắn nhiều đầu Hercules đã giết trước đó) nên bị chết. Hối hận vì hành động nông nổi Hercules đã đưa Chiron lên thành một chòm sao trên trời. Chiron là một nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đã đào tạo nhiều anh hùng trong thần thoại Hi Lạp, ông không những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có kỹ năng chiến đấu tuyệt vời, đặc biệt là khả năng sử dụng cung tên. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã đang giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ.

[1] kiếm Nerf: kiếm nhựa do hãng đồ chơi Nerf-một hãng đồ chơi của Mỹ-sản xuất.

[2] root beer: một loại đồ uống ngọt của Mĩ, thường được làm từ rễ hoặc vỏ của cây de vàng (sassafra-một loại cây mọc ở Bắc Mỹ, thuộc họ nguyệt quế, vỏ và rễ có vị ngọt, lá có mùi thơm), có hai loại bia rễ cây là loại có cồn (lượng cồn rất thấp) và loại ngọt.

[3] Super Soakers: một loại súng phun nước cũng của hãng đồ chơi Nerf.

[4] bull dog: một giống chó chắc người, mặt có nhiều nếp nhăn, khá dữ dằn.

[5] Pokémon-Pokémon (ポケモン) là một trò chơi điện tử của hãng Nintendo Nhật Bản được phát triển bởi Tajiri Satoshi phát hành vào năm 1996. hiện đã trở thành một thương hiệu đang thịnh hành ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, đã được chuyển thể thành các bộ anime, truyện tranh,… nhiều tập. Hoạt hình Pokémon đã được chiếu ở Việt Nam.

[6] Nhạc phim Pokémon tên là Gotta catch ‘em all (phải bắt được tất cả bọn chúng), nhưng HLV Hedge lại hát thành Gotta kill ‘em all (phải giết sạch bọn chúng).

[7]churros: một loại bánh rán như quẩy của mình, ăn với đường trộn bột quế hoặc chấm chocolat.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Leo 2


HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA một KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu một tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm thì khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá đang rán. trên đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.

Khoảnh sân lớn cỡ một sân bóng rổ. một quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc một góc, dưới chân một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.

Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng một cách kì quái. Cậu không thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa không khí, có nghĩa là bên trong chắc phải nóng đến cả nghìn độ.

“Bọn mình đang ở chỗ nào đây?” Cậu hỏi.

“Trường cũ của em,” Hazel đứng bên cạnh cậu nói. “Học viện Thánh Agnes Cho Trẻ Em Da Màu Và Da Đỏ.”

“Tên kiểu gì–?”

Cậu quay sang Hazel và giật mình kêu lên. cô là một bóng ma–chỉ là một cái bóng mờ sương trong không khí ẩm thấp. Leo nhìn xuống và nhận ra thân thể của chính cậu cũng biến thành sương khói.

Mọi thứ chung quanh cậu đều có vẻ rõ nét và rất thật, nhưng cậu lại là một linh hồn. Sau vụ bị eidolon nhập ba ngày trước, cậu không khoái cái cảm giác này tẹo nào.

Trước khi cậu kịp thắc mắc thêm, một hồi chuông vang lên từ bên trong: không phải tiếng chuông điện hiện đại, mà là âm thanh kiểu xưa của một chiếc búa gõ lên kim loại.

“Đây là một kí ức,” Hazel nói, “vậy nên sẽ không có ai trông thấy bọn mình cả. Nhìn kìa, bọn em đến rồi.”

“Bọn em á?”

Từ khắp các cánh cửa, từng tá từng tá học sinh ùa ra sân, hò hét và xô đẩy nhau. Hầu hết trong số chúng mang dòng máu Mĩ-Phi, với một nhúm rải rác những đứa trông như trẻ con Mĩ-Latin, bé bằng trẻ con mẫu giáo cũng có mà lớn cỡ học sinh cấp ba cũng có. Leo có thể nhận ra đây là quá khứ, vì tất cả đám con gái đều mặc váy và đi giày da cài khóa[1]. Đám con trai thì mặc áo sơ-mi trắng có cổ và quần tây có dây đeo. Nhiều đứa đội mũ lưỡi trai giống mũ của mấy tay đua ngựa[2]. Vài đứa mang theo đồ ăn trưa. Nhiều đứa khác thì không. Quần áo của bọn chúng sạch sẽ, nhưng sờn rách và bạc màu. Vài đứa có chỗ rách ở quần chỗ đầu gối hay giày bị há mõm.

Vài đứa con gái bắt đầu chơi nhảy dây bằng một đoạn dây phơi quần áo. Mấy đứa lớn hơn thì chuyền qua chuyền lại một quả bóng chày cũ mèm. Những đứa mang đồ ăn trưa thì ngồi túm tụm vừa ăn vừa tán dóc.

Chẳng ai để ý thấy Ma Hazel hay Ma Leo.

Rồi Hazel – Hazel của quá khứ – xuống sân. Leo nhận ra cô chẳng khó khăn gì, dù trông cô trẻ hơn bây giờ khoảng hai tuổi. Tóc cô được kẹp lại thành một túm. Đôi mắt vàng của cô bồn chồn đảo quanh khoảnh sân. cô mặc một chiếc váy tối màu, không giống những đứa con gái khác mặc váy vải bông trắng hay màu nhạt in hoa, vì vậy cô nổi bật như một người khóc than giữa một đám cưới vậy.

cô cầm một túi đựng đồ ăn trưa bằng vải bạt và đi men theo bức tường, như đang cố hết sức để không bị chú ý.

Cách đó không hiệu quả. một thằng con trai kêu lên, “Đồ phù thủy!” Nó ì ạch đi đến chỗ cô, dồn cô vào một góc. Đứa con trai có lẽ mười bốn hay mười chín tuổi. Khó mà nói rõ được vì nó cực kì đô con, dễ chừng là đứa to xác nhất trong sân. Leo nhận thấy nó đã bị cản lại mấy lần. Đứa con trai mặc một cái áo sơ mi bẩn thỉu có màu của một cái giẻ lau dầu máy, quần sợi len mòn xơ (với cái nóng như thế này thì chẳng dễ chịu gì), và chẳng giày tất gì sất. Có lẽ các giáo viên quá kinh hãi để mà bắt thằng này đi giày, hay có lẽ nó chẳng có đôi giày nào.

“Đấy là Rufus,” Ma Hazel nói đầy vẻ chán ghét.

“Nghiêm túc đó hả? không đời nào mà thằng đó lại tên là Rufus.” Leo nói.

“đi nào,” Ma Hazel nói. cô lướt về phía cuộc đối đầu. Leo lướt theo. Cậu không quen lướt đi, nhưng cậu từng đi xe Segway[3] một lần và nó cũng tương tự như vậy.

Thằng nhóc đô con Rufus có một khuôn mặt bèn bẹt, như thể nó dành phần lớn thời gian cắm mặt hôn vỉa hè. Tóc trên đỉnh đầu nó cũng được cắt bằng, đến nỗi máy bay mini có thể dùng chỏm đầu nó làm đường băng hạ cánh.

Rufus chìa tay ra. “Bữa trưa.”

Hazel trong quá khứ không nói gì. cô đưa cái túi vải bạt ra như thể đó là chuyện cơm bữa hàng ngày.

Mấy đứa con gái lớn xúm đến xem trò vui. một đứa cười khúc khích với Rufus. “Mày không muốn ăn thứ đấy đâu,” con bé cảnh báo. “Dám có độc trong đó lắm.”

“Mày nói đúng,” Rufus nói. “Con mẹ phù thủy của mày làm cái này hả, Levesque?”

“Mẹ không phải phù thủy,” Hazel lẩm bẩm.

Rufus ném cái túi xuống đất và dẫm lên nó, nghiền nát các thứ bên trong bằng bàn chân trần của nó. “Trả mày đấy. Nhưng tao muốn một viên kim cương. Tao nghe nói mẹ yêu của mày biến được ra mấy thứ đó từ không khí. Đưa tao một viên kim cương.”

“Tôi không có kim cương,” Hazel nói. “Cút đi.”

Rufus co tay lại thành nắm đấm. Leo đã ở nhiều trường học và nhà nhận nuôi khắc nghiệt đủ để nhận biết khi nào chuyện sắp thành ra tồi tệ. Cậu muốn bước tới và giúp Hazel, nhưng cậu là một bóng ma. Hơn nữa, tất cả những chuyện này đã xảy ra từ vài chục năm trước rồi.

Rồi một đứa khác loạng choạng bước ra dưới ánh mặt trời.

Leo hít sâu một hơi. Cậu nhóc đó trông y chang cậu.

“anh thấy chưa?” Bóng Ma Hazel hỏi.

Leo Dỏm có chiều cao bằng Leo thật – có nghĩa là lùn. Cậu ta cũng có cùng kiểu năng lượng bồn chồn đó – gõ gõ ngón tay lên quần mình, phủi phủi áo sơ mi, chỉnh chỉnh cái mũ lưỡi trai kỵ sĩ trên mái tóc nâu xoăn xoăn của mình. (thật tình, Leo nghĩ, người thấp bé không nên đội mũ cưỡi ngựa, trừ phi họ là tay đua ngựa.) Leo Dỏm có nụ cười tinh quái tương tự như nụ cười vẫn cười với Leo thật mỗi lần cậu nhìn vào gương — một vẻ mặt khiến các thầy cô giáo phải lập tức quát lên, “Đừng có hòng mà nghĩ đến chuyện đấy!” và xách cổ cậu lên hàng đầu.

Có vẻ như Leo Dỏm vừa bị một thầy cô nào đấy quở mắng. Cậu ta đang cầm một cái mũ lừa[4] – một cái mũ lừa hàng-thật-giá-thật bằng bìa cứng có viết chữ ĐẦN ĐỘN trên mặt. Leo cứ tưởng mấy thứ này chỉ có trong hoạt hình thôi chứ.

Leo có thể hiểu tại sao Leo Dỏm không đội cái mũ đó. Trông giống một tay đua ngựa là đã đủ tệ lắm rồi. Cái mũ đó mà ngồi trên đầu cậu ta thì cậu ta sẽ trông như một thần lùn giữ của[5] mất.

Vài đứa lùi lại khi Leo Dỏm nhảy vào hiện trường. Những đứa khác thì huých nhau chạy về phía cậu ta như đang mong chờ một màn hay.

Trong lúc đó, Rufus Đầu Bẹt vẫn đang cố moi một viên kim cương từ Hazel, mù tịt về sự xuất hiện của Leo Dỏm.

“Nào, cô gái.” Rufus gườm gườm nhìn Hazel, nắm đấm siết chặt. “Đưa nó đây!”

Hazel nép sát vào bức tường phía sau. Đột nhiên mặt đất dưới chân cô kêu tạch một tiếng, như tiếng một nhánh cây gãy. một viên kim cương hoàn hảo to cỡ hạt dẻ cười lấp lánh nằm giữa hai bàn chân cô.

“Ha!” Rufus rống lên khi nhìn thấy nó. Nó bắt đầu cúi xuống, nhưng Hazel kêu lên, “Làm ơn, đừng!” như thể cô đang lo lắng cho thằng đần to xác.

Đó cũng là lúc Leo Dỏm nhởn nha đi tới.

Đến rồi đây, Leo nghĩ. Leo Dỏm sẽ tung ra mấy đòn nhu thuật[6] kiểu HLV Hedge và lập chiến công.

Thay vì vậy, Leo Dỏm đưa chóp của cái mũ lừa lên trước miệng mình như một cái loa và gào lên, “CẮT!”

Cậu ta nói câu đó với đầy quyền uy đến nỗi tất cả đám nhóc còn lại đứng hình trong giây lát. Ngay cả Rufus cũng đứng thẳng dậy và hoang mang lùi lại.

một đứa con trai bé khúc khích cười thầm: “Hammy Sammy.”

Sammy… Leo rùng mình. Tên này là đứa quái quỷ nào vậy?

Sammy/Leo Dỏm lao tới chỗ Rufus với cái mũ lừa trên tay, vẻ mặt giận dữ. “không, không, không!” cậu ta phán, điên cuồng vẫy cái tay rảnh với những đứa khác đang xúm vào xem trò vui.

Sammy quay về phía Hazel. “Tiểu thư Lamarr, lời thoại của cô phải là…” Sammy bực dọc nhìn chung quanh. “Kịch bản đâu! Lời thoại của Hedy Lamarr là gì?”

“‘không, làm ơn, đồ xấu xa’” một đứa con trai đáp.

“Cám ơn!” Sammy nói. “cô Lamarr, cô phải nói, không, làm ơn, đồ xấu xa! Còn cậu, Clark Gable – “[7]

Cả sân chơi phá ra cười. Leo chỉ biết lơ mơ rằng Clark Gable là một diễn viên thời xưa, còn lại thì cậu mù tịt. Dù vậy, có vẻ như cái ý rưởng Rufus Đầu Bẹt có thể là Clark Gable là cực kì khôi hài với đám nhóc ở đây.

“Ngài Gable–”

“không!” một đứa con gái kêu lên. “Cho nó làm Gary Cooper[8] đi!”

Thêm nhiều tiếng cười nữa. Rufus trông như thể đang sắp nổi khùng. Nó siết chặt nắm đấm như muốn đánh ai đó, nhưng nó không thể tấn công cả trường được. rõ ràng là nó ghét bị cười nhạo, nhưng đầu óc bé nhỏ chậm chạp của nó lại không thể ngộ ra Sammy đang định làm gì.

Leo gật đầu tán thưởng. Sammy đúng là rất giống cậu. Cậu đã làm những trò tương tự với đám ưa bắt nạt hàng nhiều năm trời.

“Rồi!” Sammy hống hách kêu lên. “Cậu Cooper, cậu nói, Ồ, nhưng viên kim cương này là của tôi, cô em gian trá của tôi ạ! Rồi cậu hãy lượm lấy viên kim cương như thế này này!”

“Sammy, đừng!” Hazel kêu lên, nhưng Sammy đã lượm viên đá lên và nhét nó vào túi cậu ta bằng một cử động mượt mà.

Cậu xoay về phía Rufus. “Tôi muốn cảm xúc! Tôi muốn các nữ khán giả ngất xỉu! Các quý cô, vừa rồi Ngài Cooper đã khiến các cô ngất xỉu chưa?”

“Chưa,” vài đứa con gái đáp lại.

“Đấy, cậu thấy chưa?” Sammy gào lên. “Nào, bắt đầu lại từ đầu!” cậu ta gào vào cái mũ lừa trên tay. “Diễn!”

Rufus vừa bước ra khỏi trạng thái mù mờ. Nó bước về phía Sammy và nói, “Valdez, tao sẽ –”

Chuông kêu. Đám học sinh ùa về phía các cánh cửa. Sammy kéo Hazel tránh sang một bên trong khi những đứa bé – hành xử như thể bọn chúng có tên trong danh sách trả lương của Sammy – lùa Rufus đi cùng bọn chúng, khiến nó bị lôi vào trong bởi một cơn thủy triều toàn trẻ con mẫu giáo.

Chẳng mấy chốc, Sammy và Hazel chỉ còn lại một mình với nhau, không tính hai bóng ma.

Sammy lượm bữa trưa bẹp nát của Hazel lên, trình diễn động tác phủi bụi cho cái túi vải bạt của Hazel, rồi đưa nó cho cô với một cái cúi mình trịnh trọng, như thể đó là vương miện của cô. “Tiểu thư Lamarr.”

Hazel trong quá khứ nhận lấy túi đồ ăn trưa bị hỏng của cô. Trông cô giống như thể cô sắp khóc, nhưng Leo không đoán được đó là vì nhẹ nhõm hay khổ sở hay ngưỡng mộ. “Sammy…Rufus sẽ giết cậu mất.”

“À, nó đủ khôn để mà không chọc tới mình.” Sammy thả cái mũ lừa lên trên cái mũ cưỡi ngựa của cậu ta. Cậu đứng thẳng và ưỡn tấm ngực gầy gò. Cái mũ lừa rớt xuống.

Hazel cười. “Trông cậu thật lố bịch.”

“Ồ, cảm ơn, Tiểu thư Lamarr.”

“Có gì đâu, anh chàng xảo trá của tôi.“

Nụ cười của Sammy nao núng. không khí trở nên trầm mặc một cách khó chịu. Hazel nìn chăm chăm xuống mặt đất. “Lẽ ra cậu không nên nhặt viên kim cương đó. Nó rất nguy hiểm.”

“A, thôi nào,” Sammy nói. “không phải với mình!”

Hazel thận trọng quan sát cậu ta, như thể cô muốn tin điều đó. “Những chuyện xấu có thể xảy ra. Cậu không nên–”

“Mình sẽ không bán nó đâu,” Sammy nói. “Mình hứa đấy! Mình sẽ chỉ giữ nó làm bằng chứng cho mùi vị (flavor) của cậu thôi!”

Hazel nặn ra một nụ cười. “Mình nghĩ ý cậu là một bằng chứng cho tình cảm quý mến(favor) của mình.“

“Đấy đấy! Bọn mình nên đi thôi. Đến giờ cho cảnh tiếp theo của chúng ta: Hedy Lamar suýt chết vì chán trong lớp học Tiếng anh rồi.”

Sammy đưa khuỷu tay ra như một quý ông lịch thiệp, nhưng Hazel tinh nghịch đẩy cậu ra. “Cảm ơn cậu vì đã ở đó, Sammy.”

“Tiểu thư Lamarr, tôi sẽ luôn ở bên cô khi cô cần!” cậu tươi tỉnh nói. Hai người bọn họ chạy nhanh vào lớp.

Leo cảm thấy giống một hồn ma hơn bao giờ hết. Có lẽ cậu vẫn đã là một hồn ma eidolon suốt cả đời mình, bởi vì cậu nhóc cậu vừa thấy hẳn phải là Leo xịn. Cậu ta thông minh hơn, ngầu hơn và hài hước hơn. Cậu ta giỡn hớt với Hazel tài đến nỗi hiển nhiên cậu ta đã trộm được trái tim của cô.

Chẳng trách Hazel lại nhìn Leo theo cách kì lạ như thế lúc họ mới gặp lần đầu. Chẳng trách mà cô lại gọi cái tên Sammy với nhiều cảm xúc đến vậy. Nhưng Leo không phải là Sammy, cũng y như Rufus Đầu Bẹt không phải là Clark Gable vậy.

“Hazel,” Cậu nói. “anh – anh không — “

Sân trường nhòa đi thành một khung cảnh khác.

Hazel và Leo vẫn là những bóng ma, nhưng giờ họ lại đứng trước một ngôi nhà cũ nát bên một con mương mọc đầy cỏ dại. một bụi chuối mọc ủ rũ trên khoảng sân. trên bậc thang đặt một cái radio kiểu cổ đang phát nhạc conjunto[9], và trên hàng hiên râm mát, ngồi trên một cái ghế bập bênh, một ông già gầy gò đang nhìn về phía chân trời.

“Bọn mình ở đâu thế này?” Hazel hỏi. cô vẫn đang ở thể hơi, nhưng giọng nói của cô đầy hoảng hốt. “Cái này không có trong cuộc đời em!”

Leo cảm thấy như thể bóng ma của mình đang chắc lại, trở nên thật hơn. Nơi này có vẻ quen thuộc một cách kỳ lạ.

“Chỗ này là Houston,” cậu nhận ra. “anh biết khung cảnh này. Con mương đó…Đây là chỗ ở cũ của mẹ anh, nơi mẹ lớn lên. Đằng kia là Sân bay Hobby.”

“Đây là kí ức của anh á?” Hazel nói. “Em không hiểu! Làm thế nào–?”

“Em hỏi anh á?” Leo vặn lại.

Bỗng ông lão lẩm bẩm, “A, Hazel…”

Cảm giác sững sờ chạy dọc xương sống Leo. Đôi mắt của ông lão vẫn nhìn đăm đăm về phía chân trời. Sao ông lại biết họ ở đây được?

“Mình đoán chúng ta đã hết thời gian rồi,” ông lão mơ màng nói tiếp. “Chà…”

Ông không nói nốt ý nghĩ đó ra.

Hazel và Leo đứng im như tượng. Ông lão không tỏ thêm dấu hiệu nào rằng ông nghe thấy hay nhìn thấy họ. Leo hiểu ra là ông lão chỉ đang nói chuyện một mình. Vậy thì sao ông lại gọi tên Hazel?

Ông lão có làn da nhăn nheo, tóc xoăn bạc trắng và đôi bàn tay sần sùi, như thể ông đã dành cả đời làm việc trong một xưởng cơ khí. Ông mặc một cái áo sơ mi màu vàng nhạt, sạch sẽ không một vết bẩn với quần tây xám có quai đeo và giày đen được đánh kĩ.

Bất chấp tuổi tác, đôi mắt ông vẫn tinh tường và sáng trong. Ông ngồi với một phong thái nghiêm trang tĩnh lặng. Trông ông rất thanh thản–thậm chí là khoái chí, như thể ông đang nghĩ, Bố khỉ, mình sống lâu đến ngần này cơ á? Oách thật!

Leo khá là chắc là mình chưa từng nhìn thấy ông lão này. Vậy mà sao ông lại có vẻ quen quen? Rồi cậu nhận ra ông lão đang gõ gõ ngón tay lên tay vịn chiếc ghế mà ông đang ngồi, nhưng không phải gõ linh tinh. Ông đang dùng mã Morse[10], hệt như cách mẹ Leo thường làm với cậu…và ông lão đang gõ đi gõ lại một thông điệp: anh yêu em.

Cánh cửa chớp mở ra. một người phụ nữ trẻ bước ra. cô mặc quần jeans và một cái áo cánh màu xanh ngọc. Mái tóc đen của cô được cắt ngắn thành những lọn lỉa chỉa. Trông cô xinh xắn, nhưng không hề mong manh. cô có hai cánh tay rắn chắc và đôi bàn tay chai sạn. Cặp mắt nâu của cô, giống như đôi mắt của ông lão, lấp lánh niềm vui thích. Trong tay cô ôm một đứa bé, được bọc trong một cái chăn màu xanh dương.

“Nhìn này, mijo[11],” cô nói với đứa bé. “Đây là bisabuelo của con đấy. Bisabuelo, ông có muốn bế bé không?”

Khi Leo nghe thấy giọng nói của người phụ nữ trẻ, cậu thổn thức.

Đó là mẹ cậu– trẻ hơn cậu nhớ, nhưng thực sự còn sống. Điều đó có nghĩa là đứa bé trong tay bà…

Ông lão nhe răng cười toe toét. Ông có những cái răng hoàn hảo, trắng tinh y như tóc ông vậy. Mặt ông đầy những nếp nhăn vì cười. “một đứa bé trai! Mi bebito[12], Leo!”

“Leo?” Hazel thì thào. “Đấy– đấy là anh? Bisabuelo là gì?”

Leo không thể tìm được giọng nói của mình. Là ông cố [13], Leo muốn trả lời như vậy.

Ông lão đón lấy bé Leo, cười khùng khục thích thú và cù cù cái cằm của thằng bé – và cuối cùng thì Bóng Ma Leo cũng nhận ra cái mà mình đang nhìn thấy.

Bằng cách nào đó, khả năng về thăm lại quá khứ của Hazel đã tìm được sự kiên duy nhất kết nối cuộc đời hai bọn họ – nơi dòng thời gian của Leo và Hazel gặp nhau.

Người đàn ông này…

“Ôi…” Hazel có vẻ như cũng nhận ra ông là ai cùng thời điểm đó. Giọng của cô trở nên lí nhí, chực bật khóc. “Ôi, Sammy, không…”

“A, Leo bé bỏng,” Sammy Valdez, đã hơn bảy mươi tuổi, nói. “Cháu sẽ là diễn viên đóng thế của ta, hử? Người ta gọi thế thì phải, ta nghĩ vậy. nói với cô ấy giùm ta. Ta hi vọng ta có thể sống tiếp, nhưng, ây, lời nguyền không cho ta làm vậy!”

Hazel nức nở. “Gaea…Gaea nói với em rằng cậu ấy chết vì đau tim, vào những năm 60. Nhưng đây không phải – đây không thể là…”

Sammy Valdez vẫn không ngừng nói chuyện với đứa bé, trong khi mẹ của Leo, Esperanza, nhìn họ với một nụ cười đau buồn – có lẽ là hơi lo lắng rằng bisabuelo của Leo đang lan man, hơi buồn vì ông đang nói lẩn thẩn.

“Quý cô đó, Doña Callida, đã cảnh báo ta.” Sammy buồn bã lắc đầu. “cô ta nói mối hiểm nguy lớn với Hazel không xảy đến lúc ta sống. Nhưng ta đã hứa ta sẽ ở bên cô ấy. Cháu phải nói với cô ấy rằng ta xin lỗi, Leo ạ. Hãy giúp cô ấy nếu cháu có thể.”

“Bisabuelo,” Esperanza nói, “chắc ông mệt rồi.”

Bà giang tay ra định đón thằng bé, nhưng ông cụ ôm nó thêm một lúc nữa. Leo Bé có vẻ hoàn toàn ổn với điều đó.

“nói với cô ấy là ta xin lỗi vì đã bán viên kim cương đi, nhé?” Sammy nói. “Ta đã thất hứa. Lúc cô ấy biến mất ở Alaska…à, đã lâu lắm rồi, cuối cùng ta cũng dùng viên kim cương đó, chuyển đến Texas như ta vẫn từng mơ. Ta mở xưởng cơ khí của ta. Tạo dựng gia đình của ta! một cuộc đời tốt đẹp, nhưng Hazel đã đúng. Viên kim cương mang một lời nguyền. Ta không bao giờ được trông thấy cô ấy nữa.”

“Ôi, Sammy,” Hazel nói. “không, lời nguyền không phải thứ ngăn trở mình. Mình đãmuốn quay trở lại. Mình đã chết!”

Ông lão chẳng có vẻ gì là đã nghe thấy. Ông cười với đứa bé, và hôn đầu thằng bé. “Ta chúc phúc cho cháu, Leo. Chắt trai lớn! Ta có cảm giác cháu là đứa bé đặc biệt, giống như Hazel. Cháu còn hơn cả một đứa bé bình thường, nhỉ? Cháu sẽ bước tiếp thay ta. Cháu sẽ gặp cô ấy một ngày nào đó. nói xin chào với cô ấy hộ ta nhé.”

“Bisabuelo,” Esperanza nói, hơi dứt khoát hơn.

“Ừ, ừ.” Sammy cười khùng khục. “El viejo loco[14] lảm nhảm suốt ngày. Ông mệt rồi, Esperanza. Cháu nói đúng. Nhưng ông sẽ nghỉ ngơi sớm thôi. một cuộc đời tốt đẹp. Hãy nuôi dạy thằng bé cho tốt, nieta[15].”

Khung cảnh mờ đi.

Leo lại đang đứng trên boong tàu Argo III, nắm tay Hazel. Mặt trời đã lặn, và con tàu chỉ được thắp sáng bởi những lồng đèn bằng đồng. Mắt Hazel sưng húp vì khóc.

Những gì họ đã thấy là quá nhiều. Đại dương nhấp nhô bên đưới họ và lúc này, lần đầu tiên trong đời Leo cảm thấy họ như đang hoàn toàn lênh đênh.

“Xin chào, Hazel Levesque.” cậu nói, giọng khàn khàn.

Cằm cô run rẩy. cô quay đi và mở miệng muốn nói nhưng trước khi cô kịp làm vậy thì con tàu đã tròng trành nghiêng sang một bên.

“Leo!” HLV Hedge gào lên.

Festus kêu ù ù báo động và phun lửa vào bầu trời đêm. Chuông trên tàu rung lên.

“Đám quái vật mà trò lo sẽ đụng phải ấy mà?” Hedge hét lên. “một con trong đám đấy tìm thấy chúng ta rồi!”

[1] buckled leather shoes

[2] mũ lưỡi trai kỵ sĩ.

[3] Segway PT (viết tắt của Segway Personal Transporter – Xe cá nhân Segway), thường được gọi tắt là Segway là một phương tiện giao thông cá nhân có hai bánh, hoạt động trên cơ chế tự cân bằng do Dean Kamen phát minh. Loại xe này được sản xuất bởi công ty Segway Inc. ở bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Từ “Segway” phát âm gần giống với “segue” (một từ gốc tiếng Ý có nghĩa “di chuyển nhẹ nhàng”)

[4] dunce cone: mũ làm bằng giấy đội vào đầu những học sinh học dốt hoặc có những hành vi không tốt như một hình phạt.

[5] gnome: các bức tượng lùn thường để trước cửa hoặc trong vườn để giữ nhà giữ vườn

[6] jujitsu: Nhu Thuật (柔術; Jujitsu, Jiu-Jitsu) là một danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. Nhu Thuật xuất nguồn từ giai cấp võ sĩ samurai xưa ở Nhật Bản dùng tay không để tự vệ và chống cự lại đối thủ có võ trang hay không võ trang. Vì các samurai nhận thấy rằng phương pháp đấm đá của các bộ môn võ khác không có hiệu nghiệm khi chống lại địch thủ mặc áo giáp, họ phát minh ra phương pháp dùng quật ngã, đè, siết cổ, khóa tay, khóa chân,… để kháng cự địch thủ. Những phương pháp này nói chung là dựa trên lý thuyết dùng sức công của đối phương để kềm chế địch thủ, thay vì chống trả trực tiếp.

[7] Hedy Lamarr và Clark Gable: hai diễn viên chính trong phim Comrade X (1940), bộ phim từng được đề cử giải Hàn Lâm cho Kịch Bản Xuất Sắc Nhất.

[8] Gary Cooper: là một nam diễn viên điện ảnh Mỹ. Ông nổi tiếng với phong cách diễn nhẹ nhàng, trầm lặng và khả năng tự chủ, kiềm chế cảm xúc nên được coi là hình mẫu hoàn hảo cho thể loại phim câm, nhưng bên cạnh đó, ông vẫn có thể thể hiện cá tính mạnh mẽ như trong một số bộ phim miền Tây ông tham gia. sự nghiệp của Cooper kéo dài từ năm 1925 cho đến tận khi ông sắp qua đời, bao gồm hơn một trăm bộ phim.

[9] conjunto: một thể loại nhạc bắt nguồn từ phía Nam Texas từ cuối thế kỉ XIX, thường có đàn bajo sexto (ghi-ta của Tây Ban Nha) và đàn accordion là nhạc cụ chính.

[10] Mã Morse hay mã Moóc-xơ, được phát minh vào năm 1835 bởi Samuel Morse, là một loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morse dùng một chuỗi đã được chuẩn hóa gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp. Các phần từ ngắn và dài có thể được thể hiện bằng âm thanh, các dấu hay gạch, hoặc các xung, hoặc các kí hiệu tường được gọi là “chấm” và “gạch” hay “dot” và “dash” trong tiếng anh.

[11] Tiếng Tây Ban Nha, ghép từ ‘mi’(của tôi) và ‘hijo’(con trai) thành ‘mijo’ là ‘con tai của tôi’

[12] Tiếng Tây Ban Nha, ‘mi bebito’ tương tự ‘my baby’ trong tiếng anh, là ‘bé của tôi’

[13] Được dịch nguyên văn theo bản gốc. Thực ra từ Bisabuelo có nghĩa là ông thôi, còn từ tatarabuelo mới có nghĩa là ông cố. không biết tại sao lại có nhầm lẫm như vậy, có lẽ tại tác giả. Đây không phải lỗi của dịch giả ))))

[14] Tiếng Tây Ban Nha: ‘El viejo loco’ có nghĩa là ‘già rồi lẩm cẩm’

[15] Tiếng Tây Ban Nha: ‘nieta’ là ‘cháu gái’
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Leo 3


LEO XỨNG ĐÁNG NHẬN một CÁI MŨ LỪA.

Nếu cậu minh mẫn, thì cậu đã chuyển hệ thống dò tìm của tàu từ rađa sang siêu âm ngay khi họ rời cảng Charleston rồi. Đó là thứ mà cậu đã quên. Cậu thiết kế thân tàu để cộng hưởng mỗi giây, truyền sóng qua Màn Sương Mù và cảnh báo Fetus về bất cứ con quái vật nào đang ở gần, nhưng nó chỉ hoạt động ở một chế độ trong cùng thời điểm: trên mặt nước hoặc trên không.

Cậu đã cuống lên vì bọn người La Mã, sau đó là cơn bão, rồi thì Hazel, khiến cậu hoàn toàn quên khuấy mất đi. Bây giờ, con quái vật đang ở ngay bên dưới họ.

Con tàu nghiêng về mạn phải. Hazel nắm chặt dây treo. Hedge hét lên “Valdez, cái nút nào thổi bay lũ quái? Điều khiển bánh lái đi!”

Leo trèo lên boong tàu nghiêng ngả và chộp được lan can mạn trái. Cậu bắt đầu trèo ngang đến bánh lái, nhưng khi cậu nhìn thấy mặt con quái vật, cậu quên luôn cả cách di chuyển.

Cái thứ đó dài như con tàu của họ. Dưới ánh trăng, nó trông như thứ lai tạp giữa con tôm khổng lồ và một con gián với lớp vỏ kitin màu hồng, một cái đuôi tôm càng bằng phẳng và mớ chân của loài động vật nhiều chân nhấp nhô một cách thôi miên khi con quái vật cào lên thân tàu Argo II.

Cuối cùng đầu của nó cũng nổi lên trên mặt nước – khuôn mặt hồng nhầy nhụa của loài cá da trơn khổng lồ với đôi mắt đục ngầu vô hồn, há hốc cái mồm không răng và một rừng xúc tu mọc ra từ lỗ mũi, loại mũi rậm râu nhất mà Leo không muốn nhìn thấy.

Leo nhớ bữa ăn tối thứ Sáu đặc biệt mà cậu và mẹ cùng thưởng thức ở nhà hàng hải sản địa phương Houston. Họ ăn tôm và cá da trơn. Ý nghĩ đó bây giờ khiến cậu muốn nôn.

“Nhanh lên, Valdez!” Hedge gào lên. “Cầm lái đi để ta còn đi lấy cây gậy bóng chày của ta!”

“Cây gậy không giúp được gì đâu.” Leo nói, nhưng cậu vẫn hướng đến bánh lái.

Phía sau cậu, những người còn lại trượt chân ở cầu thang.

Percy hét lên “Cái gì – Á! Con quái-tôm!”

Frank chạy đến bên Hazel. cô nắm chặt dây treo, vẫn còn choáng váng vì đoạn hồi tưởng của mình, nhưng cô ra hiệu cô vẫn ổn.

Con quái vật đâm sầm vào con tàu lần nữa. Thân tàu kẽo kẹt. Annabeth, Piper và Jason ngã nhào xuống mạn phải và gần như lăn xuống biển.

Leo đến được khoang bánh lái. Tay cậu lướt trên bảng điều khiển. trên hệ thống liên lạc, Fetus cót két cọt kẹt báo cáo rò rỉ ở khoang dưới, nhưng con tàu dường như không có nguy cơ chìm – ít nhất là chưa.

Leo cột chốt vào mái chèo. Chúng có thể biến thành giáo, đủ để đánh đuổi sinh vật kia đi. không may là chúng bị kẹt. Quái-tôm chắc đã đập chúng xiên xẹo đi rồi và con quái vật đang ở trong tầm bắn, điều đó có nghĩa là Leo không thể sử dụng nỏ phóng tiễn mà không đốt cháy tàu Argo II.

“Làm thế nào nó đến gần vậy được?” Annabeth hét lên, né mình lại sau cái khiên chắn.

“Ta không biết!” Hegde gầm lên. Ông nhìn quanh kiếm cây cây gậy bóng chày của mình, nó đã lăn qua sân lái.

“Mình thật ngu ngốc!” Leo mắng mình. “Ngu ngốc, ngu ngốc! Mình đã quên hệ thống siêu âm!”

Con tàu nghiêng hơn về mạn phải. Hoặc là con quái vật đang cố gắng để ôm họ, hoặc là nó đang lật úp con tàu.

“Hệ thống siêu âm?” Hedge hỏi. “Sáo thần Pan ơi, Valdez! Nếu trò không nhìn chằm chằm vào mắt Hazel, nắm tay quá lâu–”

“Cái gì?” Frank hét lên.

“không phải như thế!” Hazel phản đối.

“Chuyện đó không quan trọng!” Piper nói. “Jason, cậu có thể gọi sấm sét không?”

Jason cố gắng đứng thẳng. “Mình–” Cậu chỉ lắc đầu. Lần triệu hồi cơn bão trước đã rút sạch năng lượng của cậu. Leo ngờ rằng anh chàng tội nghiệp này sẽ thình lình phóng ra mấy tia lửa điện đánh trúng bản thân mất.

“Percy!” Annabeth nói. “Cậu có thể nói chuyện với cái thứ đó không? Cậu biết nó là cái gì không?”

Con trai thần biển lắc đầu, rõ ràng là đang hoang mang. “Có thể nó chỉ hiếu kì với con tàu. Có lẽ–”

Tua của con quái vật giáng xuống boong tàu nhanh đến nỗi Leo thậm chí không có thời gian để hét lên, Coi chừng!

một cái tua đập vào ngực Percy và ném cậu đâm sầm xuống cầu thang. Cái khác quấn quanh chân Piper và kéo cô lê lết, la hét, tiến về phía lan can. Hàng tá xúc tu quấn quanh cột buồm, bao quanh mấy cái nỏ và kéo toạc mấy sợi dây treo.

“Lông mũi tấn công!” Hedge vồ lấy cây gậy bóng chày và nhảy xổ ra hành động nhưng những cú đánh của ông chỉ bật ra khỏi những cái xúc tu một cách vô hại.

Jason vung kiếm. Cậu cố gắng giải cứu Piper, nhưng cậu vẫn còn yếu. Lưỡi kiếm vàng chém ngang qua những cái xúc tu mà không gặp trở ngại nào, nhưng cậu chém đứt chúng rồi thì nhiều cái khác mọc ra thay thế còn nhanh hơn.

Annabeth rút dao găm ra. cô chạy qua một rừng xúc tu, né tránh và đâm vào bất cứ mục tiêu nào mà cô thấy. Frank kéo cung. Cậu bắn vào sườn bên mình con vật, bắn tên vào những khe nứt trên lớp vỏ của nó; nhưng việc đó chỉ chọc giận con quái vật. Nó gầm lên và khiến con tàu rung chuyển. Cột buồm kêu cót két như sắp gãy.

Họ cần nhiều hỏa lực hơn, nhưng họ không thể sử dụng đạn. Họ cần ném mìn mà không phải tàn phá con tàu. Nhưng bằng cách nào…?

Đôi mắt của Leo dán vào thùng gỗ dự trữ cạnh chân Hazel.

“Hazel!” Cậu hét. “Cái thùng đó! Mở nó ra!”

cô do dự, sau đó nhìn vào cái thùng cậu nói đến. trên thùng ghi CHÚ Ý. không ĐƯỢC MỞ.

“Mở nó ra!” Leo hét lên lần nữa. “Huấn luyện viên, thầy cầm lái đi! Hướng chúng ta đến con quái vật không thì chúng ta sẽ bị lật mất.”

Hedge nhảy qua mấy cái xúc tu với bộ móng dê nhanh nhẹn của mình, thích thú lao tới. Ông nhảy đến tay lái và điều khiển.

“Hy vọng trò có kế hoạch!” Ông hét.

“Hạ sách.” Leo chạy về phía cột buồm.

Con quái vật đẩy mạnh vào tàu Argo II. Boong tàu lắc lư đến bốn mươi lăm độ. Bất chấp nỗ lực của tất cả mọi người, có quá nhiều xúc tu phải đánh. Chúng dường như có thể kéo dài như ý. Ngay sau đó, tàu Argo II hoàn toàn thành một mớ rối nùi. Percy ở dưới chẳng thấy xuất hiện. Những người còn lại đang đấu trối chết với đám lông mũi.

“Frank!” Leo hô khi cậu chạy đến chỗ Hazel. “Kiếm cho tụi mình chút ít thời gian! Cậu có thể biến thành cá mập hoặc cái gì đó không?”

Frank liếc nhìn qua, cau có; và trong khoảnh khắc đó một xúc tu đập vào cậu trai to lớn, đánh cậu văng đến mạn tàu.

Hazel hét lên. cô mở thùng dự trữ và gần như làm rơi hai cái lọ thủy tinh cô đang cầm.

Leo bắt được chúng. Mỗi cái có kích thước bằng một quả táo và thứ chất lỏng bên trong phát ra một màu xanh lá cây kịch độc. Cái lọ ấm áp khi chạm vào. Ngực Leo cảm thấy như sắp nổ tung bởi cảm giác tội lỗi. Cậu vừa làm Frank phân tâm và có thể khiến cậu ấy bị giết, nhưng cậu không thể nghĩ đến việc đó nữa. Cậu phải cứu lấy con tàu.

“đi nào!” Cậu đưa cho Hazel một lọ. “Chúng ta có thể giết con quái vật – và cứu Frank!”

Cậu hy vọng mình không nói dối. Đến được hàng rào bên mạn trái giống leo núi hơn là đi bộ, nhưng cuối cùng họ đã làm được.

“Cái thứ đó là gì vậy?” Hazel thở gấp, cầm lấy lọ thủy tinh của cô.

“Lửa Hy Lạp!”

Mắt cô mở to. “anh điên sao? Nếu những cái lọ bi vỡ, chúng sẽ thiêu rụi cả con tàu!”

“Miệng của nó!” Leo nói. “Chỉ cần ném nó xuống–”

Đột nhiên Leo bị đẩy ngược vào Hazel và cả thế giới như bị lật về một bên. Khi họ bị nhấc bổng lên không trung, cậu nhận ra họ bị quấn lại với nhau bằng một cái xúc tu. Cánh tay của Leo không bị kiềm kẹp, nhưn tất cả những gì cậu có thể làm là giữ lấy lọ lửa Hy Lạp. Hazel đang cố gắng vùng vẫy. Cánh tay của cô bị ghìm chặt, điều đó có nghĩa là bất cứ lúc nào cái lọ bị kẹt giữa họ cũng có thể bị vỡ…và nó vô cùng có hại cho sức khỏe của họ.

Họ bị nhấc dần lên cao phía trên con quái vật tầm mười, hai mươi, ba mươi bộ. Leo thoáng thấy bạn bè của cậu đang thua trận, la hét và chém vào lông mũi của con quái vật. Cậu nhìn thấy HLV Hedge đang cố gắng để giữ con tàu không bị lật úp. Biển đen ngòm, nhưng trong ánh trăng cậu nghĩ cậu đã nhìn thấy một vật lấp lánh đang trôi nổi gần con quái vật – có thể là thân hình bất tỉnh của Frank Trương.

“Leo,” Hazel thở hổn hển, “Em không thể – tay em – ”

“Hazel,” cậu nói. “Em có tin anh không?”

“không!”

“anh cũng thế,” Leo thừa nhận. “Khi cái thứ này thả chúng ta xuống, nín thở. Bất kể em làm gì, cố gắng ném cái lọ ra xa con tàu hết sức có thể.”

“Tại sao – tại sao nó sẽ thả chúng ta xuống?”

Leo nhìn xuống đầu con quái vật. Đây sẽ là cú ném khá khó khăn, nhưng cậu không còn sự lựa chọn. Cậu giơ cái lọ trong bàn tay trái. Cậu ấn tay phải vào xúc tu và triệu hồi lửa ở lòng bàn tay – một tia lửa cô đọng, nóng trắng.

Điều đó gây sự chú ý với con vật. một cơn run rẩy lan đi khắp xúc tu của con quái vật khi thịt của nó phồng rộp lên vì bị Leo chạm phải. Con quái vật ngửa mồm lên, rống lên đau đớn và Leo ném lửa Hy Lạp thẳng xuống cuống họng của nó.

Sau đó, mọi thứ trở nên mờ nhạt. Leo cảm thấy cái xúc tu thả họ ra. Họ rơi xuống. Cậu nghe thấy tiếng nổ bóp nghẹt và nhìn thấy ánh sáng xanh lá lóe lên trong cái chụp đèn màu hồng khổng lồ của cơ thể con quái vật. Nước tạt vào mặt Leo như một viên gạch bọc trong giấy nhám và cậu chìm vào bóng tối. Cậu mím chặt miệng, cố gắng không thở, nhưng cậu có thể cảm thấy bản thân dần dần mất đi ý thức.

Qua làn nước biển mặn chát, cậu nghĩ cậu nhìn thấy hình bóng lờ mờ của thân tàu phía trên – một hình bầu dục tối mịt bao quanh bởi một quầng lửa màu xanh lá cây, nhưng cậu không thể phân biệt được có phải con tàu thật sự đang cháy hay không.

Bị giết bởi một con tôm khổng lồ, Leo cay đắng nghĩ. Ít nhất hãy để tàu Argo II thoát nạn. Để các bạn tôi được bình an.

Tầm nhìn của cậu bắt đầu mờ dần. Phổi của cậu như bị thiêu cháy.

Ngay khi cậu sắp bỏ cuộc, một khuôn mặt xa lạ lờn vờn qua cậu – người đàn ông trông giống bác Chiron, thầy dạy họ ở Trại Con Lai. Ông có cùng một kiểu tóc xoăn, râu rậm và đôi mắt thông minh – cái nhìn đâu đó pha giữa kiểu hippie[1] hoang dại và một người giáo sư hiền hậu như cha, trừ việc da của người đàn ông này có màu sắc của đậu lima[2]. Người đàn ông lặng lẽ giơ lên một con dao găm. Vẻ mặt của ông ảm đạm và trách móc, như muốn nói: Giờ, ở yên đó, không thì ta không thể giết cậu cho tử tế được.

Leo ngất đi.

Khi Leo tỉnh dậy, cậu tự hỏi liệu cậu có phải là một bóng ma trong một hồi ức khác, vì cậu đang trôi không trọng lượng. Đôi mắt của cậu dần điều chỉnh với ánh sáng mờ.

“Vừa đúng lúc.” Giọng của Frank có quá nhiều tiếng vang, như cậu đang nói chuyện qua nhiều lớp nhựa.

Leo ngồi dậy…hay trôi thẳng dậy thì đúng hơn. Cậu đang ở dưới nước, trong một cái hang có kích thước của hai cái ga-ra. Rêu lân quang bao phủ trần nhà, căn phòng tắm trong ánh sáng xanh biển và xanh lá. Sàn nhà là một tấm thảm toàn nhím biển, sẽ chẳng thoải mái gì nếu đi trên đó, vì thế Leo mừng là cậu đang nổi. Cậu không hiểu làm cách nào mà cậu có thể thở mà không có không khí.

Frank bay lên trong tư thế tọa thiền. Với khuôn mặt mũm mĩm và vẻ mặt gắt gỏng, cậu nhìn giống như một vị Phật đã đạt được giác ngộ và không hề xúc động vì chuyện đó.

Lối ra duy nhất của hang động bị chặn bởi vỏ của một con bào ngư rất lớn – bề mặt của nó lấp lánh ngọc trai, hoa hồng và mai rùa. Nếu cái hang này là nhà tù thì ít nhất nó có một cánh cửa tuyệt vời.

“Chúng ta đang ở đâu?” Leo hỏi. “Mọi người khác đâu?”

“Mọi người?” Frank càu nhàu. “Mình không biết. Theo như những gì mình biết thì cậu và mình và Hazel đang ở dưới này. Những gã ngựa-cá đưa Hazel đi gần một giờ đồng hồ trước, để mình ở đây với cậu.”

Giọng của Frank cho thấy rõ ràng rằng cậu không chấp nhận sự sắp xếp đó. Cậu trông không bị thương, nhưng Leo nhận ra cậu không còn cây cung và bao đựng tên. Trong cơn hoang mang, Leo vỗ nhẹ vào eo mình. Thắt lưng của cậu đã mất.

“Họ tìm thấy chúng ta,” Frank nói. “Lấy đi bất cứ thứ gì có thể làm vũ khí.”

“Ai?” Leo hỏi gặng, “Ai là những gã ngựa-cá–?”

“Những gã ngựa-cá,” Frank giải thích, chẳng rõ ràng cho lắm. “Họ bắt lấy chúng ta khi chúng ta rơi xuống biển và kéo chúng ta…đến cái nơi này.”

Leo nhớ điều cuối cùng cậu nhìn thấy trước khi cậu bất tỉnh – người đàn ông râu ria có khuôn mặt màu-đậu-lima với con dao găm. “Con quái-tôm. Tàu Argo II – nó vẫn ổn chứ?”

“Mình không biết,” Frank buồn rầu nói. “Những người khác có thể đang gặp rắc rối hoặc bị thương, hoặc – hoặc tệ hơn. Nhưng mình đoán cậu quan tâm con tàu nhiều hơn bạn của cậu.”

Leo cảm thấy mặt của cậu bị tạt nước một lần nữa. “Cái điều ngu ngốc–”

Sau đó cậu nhận ra tại sao Frank lại giận dữ: đoạn hồi tưởng. Mọi thứ diễn ra quá nhanh với cuộc tấn công của con quái vật, Leo đã suýt quên mất. HLV Hedge đã đưa ra lời bình luận ngu ngốc về việc Leo và Hazel nắm tay và nhìn vào mắt nhau. Việc Leo đã khiến Frank bị đánh bay xuống biển ngay sau đó chẳng giúp thêm được gì.

Đột nhiên Leo thấy khá khó khăn để đáp lại ánh mắt của Frank.

“Nghe này, anh bạn…Mình xin lỗi vì đã đẩy bọn mình vào mớ rắc rối này. Mình làm rối tung mọi thứ.” Cậu hít sâu, cảm thấy bình thường một cách ngạc nhiên, xét tình trạng cậu đang ở dưới nước. “Mình và Hazel nắm tay…không phải như những gì cậu nghĩ. cô ấy chỉ đang cho mình xem một hồi tưởng từ quá khứ, cố gắng tìm ra sự liên kết giữa mình và Sammy.”

Vẻ mặt tức giận của Frank bắt đầu giãn dần, thay thế bởi sự tò mò. “cô ấy…cô ấy đã tìm ra chưa?”

“Rồi,” Leo nói. “À, phần nào đó. Bọn mình không có cơ hội nói chuyện về nó sau đó bởi vì con quái-tôm, nhưng Sammy là ông cố của mình.”

Cậu nói với Frank những gì cậu đã nhìn thấy. Những điều kì lạ đã không hoàn toàn lộ ra hết, nhưng bây giờ, cố gắng để giải thích rõ ràng, Leo khó thể tin được. Hazel đã từng phải lòng ông cố của cậu, người mà đã chết khi Leo còn là đứa bé. Leo chưa từng trải nghiệm các liên kết trước đó, nhưng cậu có một kí ức mơ hồ về việc các thành viên lớn tuổi trong gia đình gọi ông nội cậu là Sam con. Có nghĩa là Sam bố là Sammy, ông cố của Leo. Về một mặt nào đó, Tía Callida – đúng hơn là Hera – đã nói chuyện với Sammy, an ủi ông và cho ông cái nhìn mơ hồ về tương lai, có nghĩa là Hera đã định hướng các thế hệ cuộc đời Leo trước khi cậu sinh ra. Nếu Hazel đã sống ở thập niên năm 1940, nếu cô cưới Sammy, Leo có thể là chắt của cô.

“Ôi trời ơi,” Leo nói ngay khi cậu hoàn tất câu chuyện. “Mình cảm thấy không ổn. Nhưng mình thề với sông Styx, đó là những gì mình đã thấy.”

Frank có biểu hiện như con quái vật đầu cá da trơn – đôi mắt trong suốt mở to và cái miệng ngoác ra. “Hazel…Hazel thích ông cố của cậu? Đó là lý do tại sao cô ấy thích cậu?”

“Frank, mình biết điều này rất kì. Tin mình đi. Nhưng mình không thích Hazel – không phải như vậy. Mình không định cướp cô gái của cậu gì hết.”

Frank chau mày lại. “không hả?”

Leo hy vọng cậu không đỏ mặt. thật ra, cậu không biết cậu có cảm giác thế nào với Hazel. cô thật tuyệt và dễ thương, và các cô gái xinh xắn là điểm yếu của Leo. Nhưng cái hồi tưởng đã làm rối tung cảm xúc của cậu.

Hơn nữa, con tàu của cậu đang gặp rắc rối.

Mình đoán cậu vẫn quan tâm đến con tàu nhiều hơn bạn bè, Frank đã nói.

Điều đó có đúng không? Cha của Leo, Hephaestus, đã thừa nhận một điều rằng ông không thoải mái với dạng sống hữu cơ. Và, đúng, Leo luôn cảm thấy thoải mái với máy móc hơn là với con người. Nhưng cậu đã quan tâm tới bạn bè. Piper và Jason…cậu biết họ lâu hơn, nhưng những người khác cũng quan trọng với cậu. Kể cả Frank. Họ giống như một gia đình.

Vấn đề là, đã quá lâu rồi kể từ khi Leo có một gia đình, cậu thậm chí không thể nhớ cảm giác đó thế nào. Chắc chắn mùa đông trước cậu trở thành cố vấn cao cấp trong cabin của Hephaetus; nhưng phần lớn thời gian cậu sử dụng để xây dựng con tàu. Cậu thích những người bạn trong cabin. Cậu biết cách làm việc với họ – nhưng liệu cậu có thực sự hiểu họ?

Nếu Leo có gia đình thì đó là các á thần trên tàu Argo II – và có lẽ cả HLV Hedge, cái này thì Leo không bao giờ thừa nhận ra miệng.

Cậu sẽ luôn là kẻ ngoài cuộc, giọng Nemesis cảnh báo; nhưng Leo cố gắng đẩy ý nghĩ đó sang một bên.

“Được rồi, vậy là…” Cậu nhìn xung quanh. “Bọn mình cần một kế hoạch. Bọn mình thở bằng cách nào? Nếu đang ở dưới đại dương, không phải bọn mình nên bị nghiền nát bởi sức ép của nước sao?”

Frank nhún vai. “Phép màu ngựa-cá, mình đoán vậy. Mình nhớ là gã người xanh chạm vào đầu mình bằng mũi nhọn của con dao găm. Sau đó mình thở được.”

Leo nghiên cứu cánh cửa bào ngư. “Cậu có thể phá nó không? Biến thành cá mập đầu búa hay thứ gì đó?”

Frank lắc đầu rầu rĩ. “Phép biến hình của mình không có tác dụng. Mình không biết tại sao. Có lẽ họ đã yểm bùa mình, hoặc có lẽ mình quá rối trí nên không thể tập trung.”

“Hazel có thể đang gặp nguy hiểm,” Leo nói. “Chúng ta cần phải ra khỏi đây.”

Cậu bơi đến cánh cửa và lướt mấy ngón tay dọc theo con bào ngư. Cậu không thể cảm thấy loại chốt hay cơ quan nào khác. Hoặc là cánh cửa chỉ có thể mở bằng phép thuật hoặc cần đến sức mạnh thuần túy– chẳng có cái nào là chuyên môn của Leo.

“Mình đã thử,” Frank nói. “Cho dù chúng ta ra được, chúng ta cũng không có vũ khí.”

“Hmm…” Leo giơ tay lên. “Mình tự hỏi.”

Cậu tập trung và lửa chập chờn trên các ngón tay cậu. Trong một thoáng, Leo phấn khích, bởi vì cậu đã không mong đợi nó hoạt động được dưới nước. Sau đó kế hoạch của cậu bắt đầu hơi quá có tác dụng. Lửa chạy lên cánh tay cậu và khắp cơ thể cho đến khi cậu hoàn toàn bị bao phủ trong tấm màn lửa mỏng. Cậu cố gắng thở, nhưng cậu hít vào toàn là hơi nóng.

“Leo!” Frank bật ra sau như ngã khỏi ghế ở quầy rượu. Thay vì nhanh chóng giúp đỡ Leo, cậu ôm lấy bức tường để tránh ra xa nhất có thể.

Leo ép bản thân phải giữ bình tĩnh. Cậu hiểu điều gì đang xảy ra. Ngọn lửa không thể hại đến cậu. Cậu ra lệnh cho ngọn lửa tắt và đếm đến năm. Cậu hít một hơi thật sâu. Cậu lấy lại được oxy.

Frank ngừng nỗ lực hợp nhất với thành cái hang. “Cậu…cậu ổn chứ?”

“Ừ,” Leo càu nhàu. “Cám ơn vì đã giúp đỡ.”

“Mình – mình xin lỗi.” Frank trông có vẻ kinh hãi và xấu hổ, Leo thật khó mà giận dữ với cậu được. “Mình chỉ…chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Phép thuật khôn khéo,” Leo nói. “Có một lớp oxy mỏng quanh chúng ta, như một lớp da phụ. Hẳn là tự tái sinh. Đó là cách chúng ta thở và khô ráo. Oxy cung cấp nhiên liệu cho ngọn lửa – ngoại trừ việc ngọn lửa cũng làm mình nghẹt thở.”

“Mình thật sự không…” Frank nuốt nước bọt. “Mình không thích việc cậu triệu hồi lửa đâu.” Cậu bắt đầu thân mật với bức tường lần nữa.

Leo không cố ý, nhưng cậu không thể nhịn cười. “anh bạn, mình không có ý định tấn công cậu.”

“Lửa,” Frank lặp lại, như thể một từ đó giải thích mọi thứ.

Leo nhớ chuyện Hazel từng nói – rằng lửa của cậu làm Frank căng thẳng. Cậu từng nhìn thấy vẻ không thoải mái trên nét mặt của Frank trước đó, nhưng Leo đã không tiếp thu chuyện đó một cách nghiêm túc. Frank có vẻ mạnh và đáng sợ hơn Leo nhiều.

Giờ cậu mới nhớ ra là Frank từng có một trải nghiệm tồi tệ với lửa. Mẹ của Leo đã chết trong vụ cháy cửa hàng máy móc. Leo đã bị đổ lỗi gây ra chuyện đó. Cậu lớn lên với tên gọi quái vật, kẻ chuyên đốt phá, bởi vì bất cứ lúc nào cậu tức giận, mọi thứ đều bốc cháy.

“Xin lỗi vì đã cười,” cậu nói, và cậu thực sự có ý đó. “Mẹ mình đã chết trong một đám cháy. Mình hiểu nỗi sợ đó. đã, ờ…đã có chuyện như thế xảy ra với cậu sao?”

Frank dường như đang cân nhắc xem nên nói bao nhiêu. “Nhà mình…nơi ở của bà ngoại. Nó bị đốt cháy. Nhưng còn hơn thế nữa…” Cậu nhìn chằm chằm vào đám nhím biển trên sàn. “Annabeth nói mình có thể tin nhóm chúng ta. Kể cả cậu.”

“Kể cả mình, hử?” Leo tự hỏi làm thế nào mà chuyện đó được đưa vào cuộc trò chuyện. “Wow, đánh giá cao quá nhỉ.”

“Điểm yếu của mình…” Frank bắt đầu, như thể lời nói cắt vào miệng cậu. “Có một mảnh củi–”

Cánh cửa bào ngư mở ra.

Leo quay lại và nhận ra cậu đang mặt-đối-mặt với Người đàn ông Đậu Lima, thực ra không thực sự là người. Bây giờ Leo có thể nhìn gã kia rõ ràng hơn, ông ta là sinh vật kì lạ nhất mà cậu từng gặp, và điều đó nói lên rất nhiều.

Từ thắt lưng trở lên, ông ta khá giống con người – một gã để ngực trần gầy gò với dao găm đeo trên thắt lưng và một dải vỏ sò đeo trước ngực như dây buộc súng. Da ông ta màu xanh lá cây, râu màu nâu cứng đờ và mái tóc dài được buộc lại sau bằng cái khăn rằn rong biển. một cặp vuốt tôm hùm nhô ra từ đầu của ông ta như những cái sừng, thỉnh thoảng lại quay và quất vun vút.

Leo cho rằng gã này không giống bác Chiron lắm. Trông ông ta giống tấm áp phích mẹ Leo đã từng giữ ở chỗ làm việc của bà – tên cướp già người Mexico, Pancho Villa, ngoại trừ đống vỏ sò và cặp sừng tôm hùm.

Từ thắt lưng trở xuống, ông ta phức tạp hơn. Ông ta có chân trước của một con ngựa lục-lam, gần giống như nhân mã, nhưng ở phía sau, thân ngựa của ông biến thành đuôi cá dài khoảng mười bộ, với màu cầu vồng, vây đuôi hình chữ V.

Bây giờ Leo hiểu được ý của Frank về những gã ngựa-cá.

“Ta là Bythos[3],” người đàn ông da xanh lá nói. “Ta sẽ thẩm vấn Frank Trương.”

Giọng của ông ta bình tĩnh và kiên quyết, không chừa chổ cho tranh luận.

“Tại sao ông bắt chúng tôi?” Leo hỏi. “Hazel đâu?”

Bythos nheo mắt. Vẻ mặt của ông ta dường như muốn nói: Sinh vật nhỏ bé này vừa nói chuyện với ta đấy hả? “Cậu, Leo Valdez, sẽ đi cùng với anh trai ta.”

“anh trai ông?”

Leo nhận ra một bóng dáng lớn hơn đang hiện ra lù lù sau lưng Bythos, với một cái bóng lớn, lấp đầy toàn bộ hang động.

“Đúng,” Bythos nói với một cái cười nhạt. “Cố gắng đừng chọc giận Aphros[3].”

[1] Hippie: Là thời trang thập niên 1960. Phong cách Hippie bao gồm: Họa tiết hoa hòe, quần ống loe, nhẫn to, giải băng đeo trên đầu, ống quần viền tua, hạt bẹt nhiều màu sắc bằng nhựa, tóc dài, chuông lục lạc đeo ở cổ chân, lông chim, và các kiểu mũ rộng vành…

[2] Đậu lima màu trắng kem hoặc xanh nhạt, hạt nhỏ, hình trái thận. Đậu này thường dùng để nấu súp, làm xà lách, hoặc hầm với thịt gà.

[3] Bythos và Aphros là một cặp thần biển thủy nhân mã (Ichthyocentaur), thân thể phía trên là người, dưới là ngựa, đuôi là cá. Hai ông là anh em cùng cha khác mẹ với nhân mã trí tuệ Chiron, Bythos nghĩa là Chiều sâu của biển và Aphros có nghĩa là Bọt biển, như Chiron, 2 ông đều được coi là những người thầy thông thái. Hai vị thần bắt nguồn từ thần cá của Syria đã đưa Ashtarte vào bờ sau khi cô sinh ra trên biển. Chòm sao Song Ngư là biểu trưng cho 2 vị thần biển này. (chỗ này lược dịch, chưa hẳn đúng hết)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Leo 4


APHROS TRÔNG GIỐNG EM TRAI, trừ làn da xanh lam thay vì xanh lá và to con hơn rất, rất nhiều. Ông có cơ bụng và cánh tay hệt Arnold đóng trong Kẻ hủy diệt[1]cùng một cái đầu vuông cục súc. một thanh gươm chuẩn-Conan[2] đeo ngang lưng. Ngay cả mái tóc ông ta cũng to hơn – một trái cầu lớn đầy mấy sợi tóc xanh-đen xoăn cứng dầy cộm khiến cái sừng càng tôm hùm có vẻ như chết ngập cứ cố bơi bơi để lên được bề mặt.

“Có phải vì thế nên tên ông là Aphros không?” Leo hỏi khi họ qua khỏi hang lướt xuống đường mòn. “Bởi vì kiểu tóc Afro[3] kia ấy?”

Aphros cau mày. “Cậu có ý gì hả?”

“không gì cả,” Leo nhanh nhảu nói. Ít ra cậu đỡ mất công nhớ gã cá này với gã cá nọ là ai. “Vậy chính xác các ông là giống gì?”

“Thủy nhân mã[4],” Aphros nói, như thể ông trả lời câu hỏi đó phát mệt ra rồi.

“Ừm, thúi[5] gì cơ?”

“Ngư mã. Chúng ta là anh em cùng mẹ khác cha của Chiron[6].”

“Ồ, bác ấy là bạn tôi đấy.”

Aphros nheo nheo mắt. “Cái cô tên Hazel nói với chúng ta rồi nhưng chúng ta sẽ xét rõ sự thật. Nào.”

Leo không thích cái điệu xét rõ sự thật. Nó khiến cậu nghĩ tới phản tra tấn và dấu sắt nung đỏ lửa[7].

Cậu đi theo gã ngư mã qua một rừng tảo bẹ khổng lồ. Leo có thể dễ dàng lao sang bên và lạc trong mớ cây cối này nhưng cậu không thử. Có một điều, cậu nhận thấy Aphros có thể di chuyển trong nước nhanh hơn rất nhiều và ông ta có thể làm tiêu biến cái phép thuật đang khiến cậu di chuyển và thở được. Trong hay ngoài động thì Leo cũng là tù nhân cả thôi.

Với lại Leo cũng chả có manh mối nào về nơi mình đang ở.

Họ dạt qua giữa những hàng tảo bẹ cao như nhà chung cư. Mấy thứ cây xanh-vàng đong đưa không trọng lực như những cột bóng bay bơm heli. Phía trên cao, Leo thấy một chấm sáng có khi là mặt trời.

Cậu đoán thế nghĩa là họ đã ở đây qua đêm. Tàu Argo II có ổn không? Nó có phải đã đi mà không có họ hay là các bạn họ vẫn đang còn tiếp tục tìm kiếm?

Leo thậm chí còn không chắc họ ở sâu độ nào. Thực vật mọc được ở đây – tức là không sâu lắm, nhỉ? Tuy thế thì cậu vẫn biết mình không thể bơi lên tới mặt nước. cậu từng nghe kể có những người bơi lên quá nhanh và trong máu họ xuất hiện bong bóng nitơ. Leo muốn tránh cho máu mình có khí ga.

Họ cứ thế trôi tiếp tầm nửa dặm. Leo định hỏi Aphros đang định dưa mình đi đâu nhưng thanh gươm to đoàng đeo trên lưng ông ta kiểu như không ủng hộ chuyện trò.

Cuối cùng rừng tảo cũng mở ra. Leo thở hổn hển. Họ đang đứng (bơi, thế nào cũng được) trên đỉnh một quả đồi dưới nước. Phía dưới họ trải ra cả một thị trấn toàn những tòa nhà kiểu Hy Lạp dưới đáy biển.

Những mái nhà được lát bằng ngọc trai to tổ tướng[8]. Vườn tược đầy san hô với hải quỳ. Ngựa cá ngựa được chăn thả trên một đồng rong biển. một đội Cyclops đang đặt mái vòm trên một tòa đền mới, dùng cá voi xanh làm cần cẩu. Và đang bơi xuyên các con phố, chơi đùa trong các khoảng sân trong, tập luyện chiến đấu bằng đinh ba và gươm trong đấu trường và hàng tá ngư nam và ngư nữ – những ngư nhân[9] hàng-thật-giá-thật.

Leo từng thấy nhiều thứ điên điên lắm rồi nhưng cậu đã luôn nghĩ rằng ngư nhân là những sinh vật hư cấu ngớ ngẩn như Xì-Trum hay Muppet[10].

Chẳng có cái gì gọi là ngớ ngẩn hay dễ thương về những ngư nhân này cả. Dù là từ phía xa, trông họ vẫn rất dữ tợn và chẳng giống người gì sất. Mắt họ rực vàng. Họ có răng như răng cá mập và lớp da như da thuộc có màu từ đỏ san hô tới đen như mực.

“một trại huấn luyện hở,” Leo nhận ra. Cậu nhìn Aphros kinh ngạc. “Ông huấn luyện các anh hùng giống như Chiron vậy hả?”

Aphros gật đầu, một tia tự hào lóe lên trong mắt. “Chúng ta huấn luyện tất cả cá ngư hùng nổi tiếng! Kể tên một ngư hùng thử xem, đều do tụi tôi huấn luyện cả!”

“Ồ, chắc thế rồi,” Leo nói. “Như là…ừm, Nàng Tiên Cá[11]?”

Aphros nhíu mày. “Ai cơ? không! Như là Triton, Glaucus, Weissmuller và Bill[11a]!”

“Ồ,” Leo mù tịt chả biết mấy người kia là ai. “Ông huấn luyện Bill hả? Ấn tượng đấy.”

“Tất nhiên!” Aphros vỗ ngực. “Ta tự mình huấn luyện Bill đấy. một ngư nam tuyệt vời.”

“Ông dạy chiến đấu hả, phải không.”

Aphros xua tay bực tức. “Sao ai ai cũng đoán thế kia chứ?”

Leo liếc nhìn thanh gươm tổ chảng đeo sau lưng gã-cá. “Ừm, tôi không có biết.”

“Ta dạy âm nhạc và thơ ca!” Aphros bảo. “Kỹ năng sống! Nội trợ! Chúng rất quan trọng đối với các anh hùng.”

“Cực kì ấy chứ.” Leo cố giữ mặt mình nghiêm túc. “Khâu vá? Làm bánh nữa hả?”

“Phải. thật vui cậu đã hiểu cho. Có khi sau này nếu ta không phải giết cậu, ta sẽ cho cậu công thức làm bánh sôcôla[12] của mình.” Aphros khinh bỉ chỉ ra sau. “Em trai ta Bythos ấy – nó dạy chiến đấu.”

Leo không chắc là mình thấy nhẹ nhóm hay bị sỉ nhục khi HLV chiến đấu đang thẩm vấn Frank trong khi Leo vớ phải giáo viên dạy kinh tế gia đình. “Thế, tuyệt thật. Đây là Trại…các ông gọi nó là gì? Trại Con Cá hở?”

Aphros cau mày. “Ta hy vọng đấy chỉ là đùa thôi. Đây là trại ___________.” Ông phát ra âm thanh nghe như một chuối các siêu âm vù vèo rin rít.

“Tôi ngốc quá,” Leo nói. “Và ông biết không, tôi thực sự có thể thử vài cái trong số bánh sôcôla kia đấy! Thế ta phải làm gì để tới bước không giết tôi nào?”

“Kể tôi nghe chuyện của cậu,” Aphros bảo.

Leo do dự nhưng không lâu lắm. Thế nào mà cậu lại cảm thấy mình nên nói sự thật. Cậu bắt đầu từ đầu câu chuyện – Hera đã là bảo mẫu của cậu như thế nào và tôi cậu trong lửa đỏ ra sao; sao mẹ cậu lại chết bởi tay Gaea, kẻ đã xác định cậu là một kẻ thù trong tương lai. Cậu kể mình đã dành cả tuổi thơ chạy qua chạy lại các nhà tình thương thế nào cho tới khi cậu, Piper và Jason được đưa đến Trại Con Lai. Cậu giải thích Lời Tiên Tri Nhóm Bảy, việc dựng tàu Argo II và nhiệm vụ của họ là phải tới Hy Lạp đánh bại lũ khổng lồ trước khi Gaea tỉnh lại.

Khi cậu nói, Aphros rút ra mấy cái gai kim loại trông nguy hiểm từ thắt lưng. Leo sợ cậu đã nói gì sai nhưng Aphros lại lấy ra mấy sợi rong biển từ túi và bắt đầu đan. “Tiếp đi,” ông giục, “Đừng có dừng.”

Lúc cậu kể về đám eidolon, vấn đề với người La Mã và tất cả những rắc rối tàu Argo IIgặp phải khi vượt qua nước Mỹ và lên tàu ở Charleston thì Aphros đã đan xong một chiếc mũ sơ sinh hoàn chỉnh.

Leo đợi người ngư mã cất món đồ của mình đi. Sừng càng tôm hùng của Aphros cứ bơi lòng vòng giữa món tóc dày của ông và Leo phải cưỡng lại mong muốn giải cứu cho chúng.

“Rất hay,” Aphros. “Ta tin cậu.”

“Đơn giản thế thôi hả?”

“Ta khá giỏi nhận diện lời dối trá. Ta không nghe thấy lời dối trá nào từ cậu cả. Câu chuyện của cậu khớp với cậu chuyện Hazel Lavesque đã kể với bọn ta.”

“cô ấy có–?”

“Tất nhiên,” Aphros nói. “cô bé ấy ổn.” Ông đưa ngón tay lên miệng huýt sáo, nghe dưới nước nó cứ kì kì – như cá heo đang rít vậy. “Người của ta sẽ đưa cô bé tới đây nhanh thôi. Cậu phải hiểu…chỗ bọn ta ở là một bí mật được bảo vệ nghiêm cẩn. Cậu cùng bạn mình xuất hiện trên một tàu chiến, bị một trong những đứa quái vật biển của mụ Keto đuổi bắt. Bọn ta không biết các cậu về phe nào.”

“Con tàu ổn chứ?”

“Hư hại,” Aphros bảo, “nhưng không nghiêm trọng. Con Skolopendra[13] rút lui sau khi nhồi một mồm đầy lửa. Ném chuẩn đấy.”

“Cảm ơn. Mà Skolopendra hả? Chưa nghe bao giờ.”

“Cứ coi như cậu may mắn đi. Chúng là những sinh vật khó chịu. Chắc Keto ghét các cậu lắm. Dù sao thì bọn ta cũng đã giải cứu cậu với hai người bạn nữa khỏi xúc tu của con vật đó khi nó định rút lui xuống biển sâu. Các bạn cậu vẫn ở trên kia tìm kiếm nhưng chúng ta phải che khuất tầm nhìn của họ. Bọn ta phải chắc chắn rằng các cậu không phải là mối đe dọa. Nếu không, chúng ta sẽ phải … có biện pháp.”

Leo nuốt nước bọt. Cậu khá chắc có biện pháp không phải là làm thêm bánh sôcôla. Và nếu những người này mạnh tới mức có thể làm ẩn khu trại giấu Percy, người có được mọi sức mạnh với nước của Poseidon thì cũng chả phải mấy chàng cá dễ chọc vào. “Thế là…tụi tôi đi được rồi?”

“Sớm thôi,” Aphros hứa hẹn. “Ta phải kiểm tra lại với Bythos. Khi nó nói xong với bạn cậu Gank __”

“Frank.”

“Frank. Khi nào xong chúng ta sẽ tiễn các cậu về tàu. Và có lẽ chúng tôi có vài lời cảnh báo cho các cậu.”

“Cảnh báo?”

“A.” Aphros chỉ chỉ. Hazel xuất hiện từ trong rừng tảo, được hộ tống bởi hai ngư nữ trông-hung-dữ đang nhe răng và rít rừ rừ. Leo nghĩ Hazel có thể đang gặp nguy hiểm. Rồi cậu thấy cô hoàn toàn thoải mái, cười toe nói chuyện với hai người hộ tống mình và Leo nhận ra hai ngư nữ đang cười lớn.

“Leo!” Hazel bơi tới chỗ cậu. “Chỗ này tuyệt quá phải không?”

Họ bị bỏ lại một mình bên sườn đồi, có nghĩa là Aphros thực sự tin tưởng họ. Khi ngư mã và mấy ngư nữ rời đi để đón Frank lại, Leo với Hazel trôi thả trên đồi và nhìn xuống khu trại dưới nước.

Hazel nói với cậu các ngư nữ đã kết bạn với cô ngay lập tức. Aphros với Bythos bị câu chuyện của cô cuốn hút bởi họ chưa từng gặp một đứa con Pluto bao giờ. trên hết, họ đã nghe rất nhiều truyền thuyết về chú ngựa Arion và rất ngạc nhiên vì Hazel kết bạn được với nó.

Hazel đã hứa sẽ quay lại thăm họ cùng Arion. Các ngư nữ đã viết số điện thoại di động bằng mực chống thấm nước lên tay Hazel để cô có thể giữ liên lạc. Leo thậm chí còn không hỏi sao mấy ngư nữ bắt được sóng điện thoại giữa lòng Đại Tây Dương.

Khi Hazel nói chuyện, tóc cô trôi bồng bềnh quanh khuôn mặt như một áng mây – như đất nâu cùng bụi vàng trong một chiếc chảo của thợ mỏ. cô trông rất tự tin và đẹp nữa – không giống cô gái nhút nhát, căng thẳng ở sân trường vùng New Orleans với túi vải đựng đồ ăn trưa nát bươm dưới chân.

“Chúng ta đã không có dịp nói chuyện,” Leo nói. Cậu miễn cưỡng mới nêu ra được vấn đề nhưng cũng biết đó có lẽ là cơ hội duy nhất họ được ở riêng. “Ý anh là về Sammy ấy.”

Nụ cười của cô héo đi. “Em biết…chỉ là em cần thời gian để việc đó dịu đi. thật lạ khi nghĩ tới anh và anh ấy…”

cô không cần hoàn chỉnh ý nghĩ ấy. Leo đã biết nó lạ tới mức nào.

“Em không chắc mình giải thích được chuyện này với Frank,” cô nói thêm. “Việc anh và em nắm tay nhau đó.”

cô không nhìn vào mắt Leo. Phía dưới thung lũng, toán nhân công Cyclops đang ăn mừng khi mái đền được đặt vào đúng chỗ.

“anh nói với cậu ấy rồi,” Leo bảo. “anh bảo cậu ấy là anh không cố… em biết đấy. Gây rắc rối giữa hai người.

“Ồ. Hay đấy.”

Giọng cô nghe có vẻ thất vọng đấy à? Leo không chắc và cậu cũng không chắc mình có muốn biết hay không.

“Frank, ừm, có vẻ khá hãi khi anh triệu hồi lửa.” Leo giải thích việc xảy ra trong động.

Hazel choáng váng. “Ôi không. Thế anh ấy sẽ kinh lắm.”

Tay cô với tới túi áo khoác bò như đang kiểm tra gì đó trong túi. cô luôn mặc chiếc áo khoác đó hay một loại sơ mi khoác ngoài nào đó kể cả khi trời rất nóng đi chăng nữa. Leo cho rằng cô làm thế là thùy mị nết na hay vì như thế cưỡi ngựa thì tốt hơn, như kiểu áo khoác xe máy vậy. Giờ cậu lại bắt đầu băn khoăn.

Não cậu chuyển sang hoạt động tần số cao. Cậu nhớ điều Frank đã nói về điểm yếu của cậu ấy…một mẩu củi cháy. Cậu nghĩ sao tên nhóc này lại sợ lửa và sao Hazel lại cũng thế. Leo nghĩ tới vài câu chuyện mình nghe kể ở Trại Con Lai. Vì những lý do hiển nhiên, cậu hướng sự chú ý của mình tới những truyền thuyết về lửa. Giờ cậu đã nhớ ra một chuyện mình đã nghĩ tới cả mấy tháng nay.

“Có một truyền thuyết cổ về người anh hùng,” cậu nhớ lại. “sự sống anh ta gắn liền với một que củi trong lò sưởi, khi mẩu gỗ đó cháy hết…[14] ”

Vẻ mặt Hazel tối sầm lại. Leo biết cậu đoán đúng sự thật rồi.

“Frank cũng thế phải không,” cậu đoán. “Và mẩu gỗ cháy …” Cậu chỉ vào áo khoác của Hazel. “Cậu ấy đưa em để giữ an toàn?”

“Leo, em xin anh đừng… Em không thể nói về việc đó.”

Bản năng thợ cơ khí của Leo trỗi dậy. Cậu bắt đầu nghĩ về các thuộc tính của gỗ và sự ăn mòn của nước mặn. “Mẩu gỗ cháy vẫn ổn trong lòng đại dương thế này chứ? Lớp khí quanh người em có bảo vệ được nó không?”

“Nó ổn,” Hazel nói. “Mẩu gỗ chưa từng bị ướt. Hơn nữa nó được gói nhiều lớp vải với giấy bóng và–” cô thất vọng cắn môi. “Và em không được nói về nó! Leo, quan trọng là nếu Frank có vẻ sợ anh hay không thoải mái, anh phải thông cảm…”

Leo thấy mừng vì mình đang trôi nổi bởi nếu không có lẽ cậu sẽ chóng mặt đến mức không đứng nổi mất. Cậu tưởng tượng mình ở vị trí Frank, đời cậu sẽ thật mong manh xiết bao và thực sự bất cứ lúc nào cũng có thể cháy rụi. Cậu có thể tưởng tượng sẽ cần tới bao nhiêu niềm tin mới có thể trao cuộc đười mình – số phận bản thân – vào tay người khác.

Frank đã chọn Hazel, hiển nhiên là thế. Vậy nên khi thấy Leo – một tên có thể triệu hồi lửa bằng ý chí – tiếp cận bạn gái cậu…

Leo rùng mình. Chả nghi ngờ gì khi Frank không thích cậu. Và đột nhiên khả năng biến thành một mớ động vật khác nhau của Frank có vẻ không tuyệt lắm – không tuyệt nếu đi kèm với một trói buộc lớn đến vậy.

Leo nghĩ tới câu yêu thích nhất của mình trong Lời tiên tri Nhóm Bảy: Thế giới phải sụp đổ trước bão táp hay lửa đỏ. Sau một thời gian dài, cậu hiểu Jason hay Percy tượng trưng cho bão – có thể là cả hai. Leo là lửa. không ai nói thế nhưng đã khá rõ ràng. Leo là một trong những lá bài úp[15]. Nếu cậu làm điều gì sai thế giới sẽ sụp đổ. không … nó phải sụp đổ. Leo tự hỏi Frank và mẩu gỗ của cậu có liên quan gì tới câu đó không. Leo đã có mấy sai lầm rõ hoành tráng. Cậu cũng sẽ rất dễ vô tình đốt rụi Frank Trương trong lửa đỏ.

“Các cô cậu đây rồi!” Giọng Bythos khiến Leo giật mình.

Bythos và Aphros lướt qua cùng Frank ở giữa, trông xanh xao nhưng vẫn ổn. Frank nhìn kĩ Hazel và Leo như đang cố đọc xem họ đã nói gì với nhau.

“Các cô cậu được tự do đi rồi đấy!” Bythos nói. Ông mở chiếc túi đeo xe[16] và trả lại những món họ bị tịch thu. Leo chưa bao giờ đeo thắt lưng quanh mình mà thấy vui đến thế.

“Bảo Percy Jackson đừng lo,” Aphros nói. “Bọn ta hiểu câu chuyện về những sinh vật biển bị nhốt ở Atlanta của các cô cậu. Keto với Phorcys phải bị ngăn chặn. Chúng ta sẽ cử ngư nhân đi thực hiện nhiệm vụ và giải phóng những tù nhân bị chúng giam. Có khi Cyrus đi?”

“Hay Bill,” Bythos đề nghị.

“Phải! Bill hoàn hảo nhất,” Aphros tán đồng. “Dù sao chúng ta cũng biết ơn vì Percy đã nhắc nhở chúng ta việc này.”

“Ông nên đích thân nói với cậu ấy,” Leo gợi ý. “Ý tôi là cậu ấy là con trai Poseidon rồi đủ thứ.”

Hai ngư mã trịnh trọng lắc đầu. “Đôi khi tốt nhất không nên dính tới con cái Poseidon,” Aphros nói. “Chúng ta rất thân thiện với thần biển nhưng chính trị của các thần linh dưới biển rất … phức tạp. Và bọn ta coi trọng sự độc lập của bản thân. Tuy thế bảo Percy ta cảm ơn. Chúng ta sẽ làm những gì có thể để đưa các cô cậu nhanh qua Đại Tây Dương mà không bị bọn quái vật của Keto quấy nhiễu gì thêm nữa, nhưng cảnh giác: tại vùng biển cổ xưa, Mare Nostrum[17], vẫn còn nhiều nguy hiểm chờ đón đấy.”

Frank thở dài. “Tất nhiên là thế.”

Bythos vỗ vai anh chàng to xác. “Cậu sẽ ổn thôi Frank Trương. Cứ tập luyện biến thành các sinh vật biển đi. Cá chép gấm[18] cũng được nhưng thử biến thành sứa độc coi[19]. Nhớ cái ta đã cho cậu xem. Đều ở hơi thở cả thôi.”

Frank trông xấu hổ cực kì. Leo bặm môi quyết không cười.

“Và cô nữa Hazel,” Aphros bảo, “lại chơi nhé, mang cả chú ngựa đó nữa! Ta biết cô lo lắng về khoảng thời gian vừa mất vì phải dành cả đêm ở vương quốc tụi ta. cô lo cho em trai Nico…”

Hazel nắm chặt thanh gươm kỵ sĩ. “Nó – ông có biết nó ở đâu không?”

Aphros lắc đầu. “không hẳn. Nhưng khi tới gần hơn cô hẳn có thể cảm nhận được sự hiện diện của cậu ấy. Đừng có sợ! Các cô cậu phải tới Rome ngày kia nếu muốn cứu cậu ấy nhưng vẫn còn thời gian đó. Và cô phải cứu bằng được cậu ấy.”

“Đúng thế,” Bythos tán thành. “Cậu ấy sẽ rất cần thiết cho hành trình của các cô cậu. Ta không biết thế nào nhưng lại linh cảm đó là sự thật.”

Aphros đặt tay lên vai Leo. “Về phần cậu Leo Valdez, bám sát Hazel và Frank khi tới Rome. Tôi linh cảm họ sẽ gặp phải … à, khó khăn về máy móc mà chỉ cậu mới vượt qua nổi.

“Khó khăn về máy móc à?” Leo hỏi lại.

Aphros cười như thể tin đó hay lắm không bằng. “Và ta có quà cho cậu, hoa tiêu dũng cảm của tàu Argo II!”

“Tôi thích nghĩ mình là thuyền trưởng hơn,” Leo bảo. “Hay tổng tư lệnh cũng được.”

“Bánh sôcôla!” Aphros tự hào nói, đẩy một giỏ picnic lỗi thời vào vòng tay Leo. Nó được bao một bong bóng khí, Leo hi vọng nó giúp giữ bánh khỏi biến thành kẹo bùn nước mặn. “Cậu sẽ thấy cả công thức trong giỏ nữa. không cho quá nhiều bơ! Mẹo đấy. Và ta cũng cho các cô cậu một bức thư giới thiệu với Tibernus[20], thần sông Tiber. một khi đến Rome, bạn các cô cậu là con gái Athena sẽ cần tới nó.”

“Annabeth…” Leo nói. “Được rồi, nhưng tại sao thế?”

Bythos cười to. “cô bé ấy lần theo dấu vết Athena phải không hả? Tiberinus có thể chỉ dẫn cho cô bé nhiệm vụ này. Lão là một vị thần cổ xưa cao ngạo có thể rất … khó tính, nhưng mấy bức thư giới thiệu là tất cả đối với một vị thần La Mã. Cái này sẽ thuyết phục Tiberinus giúp cô bé. Mong là thế.”

“Mong là thế,” Leo nhắc lại.

Bythos lấy ra ba viên ngọc trai hồng từ túi đeo xe của mình. “Và giờ, đi nhé các á thần! Chúc thuận buồm xuôi gió!”

Ông lần lượt ném từng hạt ngọc vào mỗi người họ và ba bong bóng năng lượng màu hồng lấp lánh hình thành quanh họ.

Họ bắt đầu trồi lên qua làn nước. Leo chỉ đủ thời gian để nghĩ: một cái thang máy bóng chuột hamster[21]? Rồi cậu tăng tốc hết mức và lao vọt về phía luồng ánh sáng mặt trời xa xôi phía trên.

[1] Kẻ hủy diệt Kẻ hủy diệt là tên của loạt phim khoa học viễn tưởng và các sản phẩm ăn theo như sách, truyện tranh,… xoay quanh cuộc chiến giữa các người máy sát thủ, được tạo ra bởi một siêu máy tính (Skynet) trong tương lai nhằm tận diệt loài người, và Quân kháng chiến của John Connor.

với các diễn viên Arnold Schwarzenegger, Linda Hamilton và Michael Biehn.

Arnold Schwarzenegger: Arnold Alois Schwarzenegger (phát âm theo tiếng Đức: [aɐnɔlt aloʏs ʃvaɐtsənɛgɐ]; theo tiếng anh: [ɑ˞nɔld ʃwɔ˞tsənegɚ], giống như “Ác-nôn Sơ-oát-sơ-nê-gơ”; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1947) là vận động viên thể dục thể hình, diễn viên điện ảnh và cũng là chính khách Cộng hòa người Mỹ gốc Áo làm Thống đốc California thứ 38.

[2] Conan: một bộ phim anh hùng, phiêu lưu kể về một người hung nô tên là Conan cũng do Arnold thủ vai chính.

Gươm của nhân vật Conan trong phim

[3] Afro: là kiểu tóc xù như trái bóng, rất thịnh hành những năm 70(thường thấy ở các vũ trường disco ngày trước)

[4] Ichthyocentaurs:trong thời kì sau của thần thoại Hy Lạp, đây là một cặp thần biển nhân mã với phần trên là người, thân là ngựa, đuôi là cá, đầu có sừng càng tôm hùm. Họ là anh em cùng cha khác mẹ với nhân mã thông thái Chiron, con của Poseidon và Amphitrite.

[5] Icho: dịch là ‘thúi’ gần âm với ‘thủy’ cho đúng dụng ý chơi chữ của tác giả

[6] Nhân mã Chiron – thầy dạy của Achilles – đã bị Hercules, trong một lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay làm rơi mũi tên trúng chân Chiron, những mũi tên này đều tẩm kịch độc từ máu của Hydra (quái vật rắn nhiều đầu Hercules đã giết trước đó) nên bị chết. Hối hận vì hành động nông nổi Hercules đã đưa Chiron lên thành một chòm sao trên trời. Chiron là một nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đã đào tạo nhiều anh hùng trong thần thoại Hi Lạp, ông không những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có kỹ năng chiến đấu tuyệt vời, đặc biệt là khả năng sử dụng cung tên. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã đang giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ.

[7] dấu sắt nung dùng nung đỏ lửa rồi dí lên da của phạm nhân cho bỏng để đánh dấu hay tra tấn.

[8] mother-of-pearl

[9] để tiên cá thì ai cũng nghĩ là nàng tiên cá nên để thế này cho hay

[10] Xì-trum (tiếng Pháp: Les Schtroumpfs) là tên một chủng tộc tí hon màu xanh hư cấu bởi hoạ sĩ Peyo xuất hiện lần đầu trong truyện Johan et Pirlouit và trở thành tên loạt truyện tranh độc lập bắt đầu phát hành vào năm 1958 và sau đó có hoạt hình, phim ảnh và các sản phẩm thương mại ăn theo.

Muppet là hình tượng những con rối tay diễn kịch, có rất nhiều sản phẩm hoạt hình, show, phim về muppet

[11] Nàng tiên cá (Tiếng anh: The Little Mermaid;Tiếng Đan Mạch: Den lille havfrue) là truyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn, nhà thơ người Đan Mạch Hans Christian Andersen, kể về một nàng tiên cá nhỏ mong muốn từ bỏ cuộc sống dưới đáy biển và thân phận người cá của nàng để có được một linh hồn của con người và tình yêu cùa chàng hoàng tử loài người.

Ban đầu được sáng tác cho một vở balê, truyện được xuất bản lần đầu vào năm 1873 và đã được chuyển thể thành nhiều thể loại bao gồm nhạc kịch và phim hoạt hình.

[11a] Triton, 1 vị thần, người đưa tin dưới biển, con của Poseidon và Amphitrite, thân thể là người cá.

Glaucus(Γλαῦκος, gen: Γλαύκου), là một người phàm, biến thành thần sau khi ăn một loại cỏ ma thuật, thường cứu các thủy thủ và dân chài trên biển vì trước đây ông cũng từng là một dân chài.

Weissmuller, theo wiki thì là một vận động viên bơi lội từng đoạt huy chương vàng Olympic, diễn viên nổi tiếng với vai Tarzan nhất. không biết có đúng ý tác giả là anh này không vì ảnh có phải người cá đâu.

[12] brownie, loại bánh sô cô la có thể có thêm hạnh nhân, hạt điều,… rất phổ biến ở châu âu, mỹ

[13] Skolopendra: loại rết lớn nhiều chân, ở đây là tên con quái tôm

[14] Truyền thuyết về Meleager, con trai của vua Oeneus xứ Calydon và Althaea. Bảy ngày sau khi sinh, 3 Nữ thần vận mệnh đã báo trước tương lai của cậu. Clotho và Lachesis dự đoán cậu sẽ rất ưu tú và gan dạ. Atropos cảnh báo rằng cậu sẽ chết khi một thanh củi trong lò sưởi cháy kiệt. Nghe lời, mẹ cậu Althaea đã rút thanh củi ra, dập lửa và giấu ở nơi an toàn.

Thời trẻ, khả năng của cậu được coi là chỉ đứng thứ 2 ngày sau Heracles. Cậu là người trẻ nhất trong thủy thủ đoàn Argo cùng một số người khác giết chết kẻ thù lớn nhất của đoàn là vua Aeetes xứ Colchis.

Trở về từ hành trình này, anh lấy Cleopatra và có con gái là Polydora. sự bình yên ở đất nước anh chấm dứt khi Artemis thả con lợn lòi đáng sợ vào đất nước. anh đương nhiên giữ vai trò chủ chốt trong việc giết con lợn lòi được gọi là Cuộc Săn Lợn của người Calydon, cũng là việc dẫn tới cái chết cho mình.

Có hai phiên bản về cái chết của anh đều bắt nguồn từ việc tranh cãi giành chiến lợi phẩm là bộ da lợn lòi. Mẹ anh là Althaea cưới Oeneus để giải quyết mối huyết thù qua nhiều thế hệ. Khi cậu anh tới giúp anh giết con lợn lòi thì vẫn còn rất nhiều căng thẳng giữa người Calydon và anh em của Althaea. Và nó cũng không được giải quyết bởi việc chọn Atlanta, một nữ thợ săn từng mong muốn gia nhập thủy thủ đoàn Argo, vào cuộc đi săn.

Phiên bản đầu: việc tranh chấp dẫn tới một cuộc chiến mới giữa Calydon và Curetes. sự việc đặt Meleager, người có quan hệ huyết thống với cả hai bên vào tình huống khó xử. không có sự dẫn dắt, người Calydon trên bờ vực thất bại. Vợ anh kêu gọi ông cứu lấy thành phố. Trong khi dẫn dắt Calydon, anh đã giết cậu mình. Do đó, mẹ anh nguyền rủa anh, đốt cháy thanh củi dạo 3 nữ thần Vận Mệnh thăm viếng. Dù có bị nguyền hay không thì anh vẫn bị các Erinys, các nữ thần báo thù giết chết vì đã giết người có chung huyết thống.

Phiên bản hai: lãng mạn hơn là Meleager quyết định tặng tấm da cho Atlanta vì cô đã lập công đầu, bắn trúng phát tên đầu tiên vào con thú. Trao chiến lợi phẩm cho một phụ nữ khiến tất cả mọi người còn lại trong hội săn tức giận nhưng phần lớn vẫn giữ yên lặng. Tuy thế, cậu của anh lại cho rằng mình có quyền bảo ông phải làm gì. Tranh cãi nổ ra khi Meleager giết cậu mình. Nghe tin anh mình chết bởi tay con, mẹ anh đốt thanh củi. Như lời tiên tri, anh chết. Mẹ anh sau đó hối hận tự tử. Vợ anh cũng chết trong đau buồn.

[15] wild card: lá bài bất ngờ, bài úp

[16] saddlebag: loại túi đeo trên người khi cưỡi ngựa hoặc đeo trên xe máy khi đi, thường là hai túi gắn vào một dải ra rộng nối liền để treo hai bên xe hay treo một rúi trước ngực, 1 túi sau lưng trên vai.

[17] Mare Nostrum (Biển của chúng ta theo tiếng Latin) là một cái tên của người La Mã đặt cho biển Địa Trung Hải. Sau khi nước Ý thống nhất vào năm 1861, thuật ngữ này được những phần tử dân tộc chủ nghĩa Ý sử dụng lại với niềm tin rằng nước Ý là quốc gia thừa kế đế chế La Mã,[1] và cần phải tìm cách kiểm soát những vùng lãnh thổ cũ của La Mã trước kia tại vùng Địa Trung Hải.

[18] koi fish: loại cá chép có tên bắt nguồn từ tiếng nhật, mình có hoa văn thành mảng rất đẹp, nhiều màu sắc

[19] Portuguese man o’ war: tạm dịch là sứa độc, thường bị nhầm lẫn với con sứa, Portuguese man-of-war thực chất là một cụm các sinh vật đi cùng nhau. Các xúc tu của nó có thể duỗi thẳng ra đến 165 feet (50m) dưới bề mặt, dù vậy, chiều dài trung bình của những xúc tu này chưa đến 30 feet (10m).

[20] Tibernus, thần sông Tiber ở La Mã

[21] loại chuột nhỏ, xinh xắn, dùng để nuôi cảnh, lồng nuôi thường có bóng nhựa cho nó chạy
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Piper


PIPER CÓ một MỤC MỚI trong danh sách top mười Dịp Piper Cảm thấy không khỏe.

Chiến đấu với con Quái-tôm bằng dao găm và giọng nói mê hoặc? không hiệu quả. Rồi con quái vật chìm xuống biển và biến mất với ba người bạn của cô, và cô đã bất lực không thể giúp họ.

Sau đó, Annabeth, HLV Hedge và cái bàn Buford tất bật quanh việc sửa chữa mọi thứ để con tàu không bị chìm. Percy, mặc dù cảm thấy choáng váng, vẫn đang tìm kiếm những người bạn mất tích dưới biển. Jason, cũng kiệt sức, nhưng vẫn bay xung quanh các dây treo như Peter Pan tóc vàng hoe, để dập tắt mấy ngọn lửa từ vụ nổ xanh lục thứ hai đã thắp sáng bầu trời ngay phía trên cột buồm.

Còn Piper, tất cả những gì cô có thể làm là nhìn chằm chằm vào con dao Katoptris, cố gắng xác định vị trí của Leo, Hazel và Frank. Hình ảnh duy nhất đến với cô là điều cô không muốn thấy: ba chiếc SUV từ Charleston đi đến phương bắc, chật ních á thần La Mã, Reyna ngồi ở vị trí tay lái của xe dẫn đầu. Những con đại bàng khổng lồ hộ tống họ từ trên cao. Thỉnh thoảng, những linh hồn màu tím rực rỡ trong xe ngựa ma quái xuất hiện ngoài vùng nông thôn và đi ngay phía sau họ, ầm ầm trên đường cao tốc liên bang[1] hướng giao nhau giữa New York và Trại Con Lai.

Piper tập trung hơn. cô thấy hình ảnh trong cơn ác mộng mà cô từng thấy trước đây: con bò đầu-người trồi lên từ mặt nước, sau đó là căn phòng tối ngập nước đen mà Jason, Percy và cô cố gắng để nổi lên.

cô tra Katoptris vào bao, tự hỏi làm thế nào Helen thành Troy có thể thoải mái trong suốt cuộc chiến thành Troy nếu lưỡi dao là nguồn tin duy nhất của cô. Sau đó cô nhớ tất cả mọi người xung quanh Helen đều bị giết bởi quân xâm lược Hy Lạp. Có lẽ cô đã không thoải mái.

Cho đến khi mặt trời mọc, không một ai chợp mắt. Percy lùng sục dưới đáy biển và không tìm được gì. Tàu Argo II không còn nguy cơ bị chìm, dù rằng vì không có Leo, họ không thể sửa mọi thứ. Con tàu có thể chèo đi, nhưng không ai đề nghị rời khỏi vùng này – không nếu thiếu những người bạn mất tích của họ.

Piper và Annabeth gửi một cảnh mộng đến Trại Con Lai, cảnh báo bác Chiron về việc đụng độ với người La Mã ở Đồn Sumter. Annabeth giải thích cuộc đối thoại giữa cô với Reyna. Piper nói lại cảnh mà cô thấy trên con dao về mấy chiếc SUV đi đến phía bắc. Khuôn mặt nhân mã có vẻ già thêm ba mươi tuổi trong suốt cuộc trò chuyện của họ, nhưng ông đảm bảo ông đã lo liệu việc phòng thủ ở trại. Tyson, cô O’Leary và Ella đã đến nơi an toàn. Nếu cần thiết, Tyson có thể triệu tập quân đội Cyclopes đến trại để phòng thủ và Ella với Rachel Dare đang so sánh những lời tiên tri, cố gắng nghiên cứu thêm về những chuyện xảy ra trong tương lai. Việc của bảy á thần trên tàu Argo II, bác Chiron nhắc nhở họ, là hoàn thành nhiệm vụ và trở về an toàn.

Sau thông điệp Iris, các á thần đi tới đi lui trên boong trong im lặng, nhìn chằm chằm vào nước và hy vọng phép lạ xảy ra.

Cuối cùng nó cũng xảy ra – ba bong bóng màu hồng khổng lồ vỡ tung trên mũi tàu mạn phải, đẩy Frank, Hazel và Leo ra – Piper đã hành động có chút điên rồ. cô thét lên một tiếng nhẹ nhõm và lao thẳng xuống nước.

cô đang nghĩ cái gì vậy chứ? cô không có lấy một sợi dây thừng hay một cái áo phao hoặc bất cứ thứ gì. Nhưng hiện giờ, cô quá vui mừng đến nổi lội nước đến gần Leo và hôn vào má cậu, điều đó làm cậu ngạc nhiên.

“Nhớ mình à?” Leo cười.

Piper đột nhiên giận dữ. “Các cậu đã ở đâu? Làm sao các cậu còn sống?”

“Chuyện dài lắm,” cậu nói. một cái giỏ dã ngoại nhấp nhô bập bềnh trên mặt nước cạnh cậu. “Có muốn bánh sôcôla hạnh nhân không?”

Họ lên tàu và thay quần áo khô (Frank đáng thương phải mượn cái quần quá-nhỏ của Jason) cả nhóm tập trung trên sân lái để ăn sáng – ngoại trừ HLV Hedge, người đã càu nhàu rằng bầu không khí trở nên quá âu yếm và đi xuống dưới để tìm kiếm mấy vết lõm ở thân tàu. Trong khi Leo lao ngay về phía boong lái thì Hazel và Frank thuật lại câu chuyện về ngư-mã và trại huấn luyện của họ.

“không thể tin được,” Jason nói. “Mấy cái bánh sôcôla hạnh nhân này ngon tuyệt.”

“Đó là ý kiến duy nhất của cậu sao?” Piper hỏi.

Cậu trông ngạc nhiên. “Gì nào? Mình có nghe câu chuyện. Ngư-mã. Ngư nhân. Thư giới thiệu với thần sông Tiber. Hiểu rồi. Nhưng mấy cái bánh sôcôla hạnh nhân này–”

“Mình biết,” Frank nói, miệng cậu đầy ắp. “Thử ăn với mứt đào của Esther coi.”

“Thế thật,” Hazel nói, “vô cùng kinh tởm.”

“Đưa tớ cái lọ nào, cu,” Jason nói.

Hazel và Piper trao đổi một cái nhìn bực tức. Bọn con trai.

Percy, về phần cậu, muốn nghe từng chi tiết về trại huấn luyện dưới biển. Cậu cứ lẩn quẩn quanh một vấn đề: “Họ không muốn gặp mặt mình à?”

“không phải vậy,” Hazel nói. “Chỉ là…chính trị dưới biển, em đoán vậy. Ngư nhân rất coi trọng lãnh thổ. Tin tốt là họ đang lo vụ thủy cung ở Atlanta. Và họ sẽ giúp bảo vệ tàu Argo II khi chúng ta vượt qua Đại Tây Dương.”

Percy gật đầu lơ đãng. “Nhưng họ không muốn gặp anh sao?”

Annabeth đánh nhẹ vào tay cậu. “Thôi nào, Óc Tảo Biển! Chúng ta có vấn đề khác cần phải lo hơn đấy.”

“Chị ấy nói đúng,” Hazel nói. “Sau ngày hôm nay, Nico chỉ còn chưa đến hai ngày. Các ngư-mã nói chúng ta phải giải cứu nó. không biết thế nào nhưng thằng bé rất hữu ích cho nhiệm vụ này.”

cô nhìn quanh vẻ đề phòng, như đang chờ đợi ai đó phản đối. Chả có ai. Piper cố gắng tưởng tượng Nico di Angelo đang cảm thấy thế nào, bị mắc kẹt trong cái hạp chỉ với hai hạt lựu để kéo dài mạng sống bản thân và không biết liệu mình có được giải cứu hay không. Điều đó làm Piper cảm thấy lo lắng khi đến Rome, mặc dù cô có linh cảm rất tệ rằng cô đang đi thuyền đến nhà tù cho riêng mình – căn phòng tối chứa nước.

“Nico chắc chắn đang có thông tin về các Cửa Tử,” Piper nói. “Chúng ta phải cứu cậu ấy, Hazel. Chúng ta có thể tới kịp thời hạn. Phải không, Leo?”

“Gì cơ?” Leo rời mắt khỏi bảng điều khiển. “À, phải. Chúng ta sẽ đến Địa Trung Hải vào sáng mai. Sau đó mất nửa ngày đi thuyền đến Rome, hoặc bay, nếu mình có thể sửa bộ phận thăng bằng…”

Jason đột nhiên trông như thể cái bánh sôcôla hạnh nhân với mứt đào của cậu không còn ngon miệng nữa. “Cách này sẽ đưa chúng ta tới Rome vào ngày cuối cùng của Nico. Hai mươi bốn giờ để tìm cậu ấy – là nhiều nhất.”

Percy bắt chéo chân. “Và đó mới là một phần của vấn đề. Còn cả Dấu hiệu của Athena nữa.”

Annabeth dường như không hài lòng với sự thay đổi chủ đề. cô đặt tay lên ba lô, từ khi họ rời Charleston, cô dường như luôn mang nó theo bên mình.

cô mở ba lô và lấy ra một đĩa đồng mỏng đường kính cỡ một cái bánh rán vòng. “Đây là bản đồ mình tìm thấy ở Đồn Sumter. Nó…”

cô khựng lại, nhìn chằm chằm vào bề mặt đồng trơn tru. “Nó trống trơn!”

Percy cầm lấy nó và nghiên cứu cả hai mặt. “Trước đó nó không phải thế này à?”

“không! Mình đã quan sát nó trong cabin và…” Annabeth thì thầm bằng. “Nó chắc chắn là Dấu hiệu của Athena. Mình chỉ có thể nhìn thấy nó khi có một mình. Nó không để các á thần khác xem.”

Frank lỉnh ra phía sau như thể cái đĩa sẽ phát nổ. Cậu có hàng ria nước cam và vụn bánh sôcôla hạnh nhân khiến Piper muốn đưa cậu một cái khăn ăn.

“Có cái gì trên đó?” Frank lo lắng hỏi. “Và Dấu hiệu của Athena là cái gì? Mình vẫn không hiểu.”

Annabeth lấy cái đĩa từ Percy. cô để nó dưới ánh nắng, nhưng nó vẫn trống không. “Bản đồ rất khó đọc, nhưng nó cho thấy một vị trí trên Sông Tiber ở Rome. Mình nghĩ đó là nơi cuộc tìm kiếm bắt đầu…con đường mình phải đi để truy tìm theo Dấu hiệu.”

“Có lẽ đó là nơi cậu gặp thần sông Tiberinus,” Piper nói. “Nhưng Dấu hiệu là cái gì?”

“Đồng xu,” Annabeth thì thầm.

Percy cau mày, “Đồng xu gì?”

Annabeth thọc vào túi của cô và lấy ra một đồng bạc drachma. “Tớ đã luôn mang theo nó từ khi tớ nhìn thấy mẹ ở Khu Trung Tâm. Đó là đồng xu Athens[2].”

cô chuyền nó cho mọi người. Trong khi từng á thần quan sát nó, Piper nhớ đến một kỉ niệm buồn cười trong hoạt động thể hiện-và-trình bày[3] ở trường tiểu học.

“Con cú,” Leo lưu ý. “À, có ý nghĩa đấy. Mình đoán cành cây này là nhành ô liu? Nhưng những dòng chữ này, ΑΘΕ – khu vực chịu ảnh hưởng (area of efect)?”

“Nó là anfa, theta, epxilon[4],” Annabeth nói. “Ở Hy Lạp nó có nghĩa là Toàn Dân Athens…hoặc cậu có thể hiểu nó như là con cái của Athena. Nó gần như là khẩu hiệu của người Athens.”

“Giống như SPQR của người La Mã,” Piper đoán.

Annabeth gật đầu. “Dù sao đi nữa, Dấu hiệu của Athena là một con cú, giống như cái này. Nó xuất hiện trong ngọn lửa màu đỏ. Mình đã thấy nó trong giấc mơ. Rồi thì hai lần ở Đồn Sumter.”

cô thuật lại chuyện xảy ra ở đồn – giọng nói của Gaea, những con nhện trong đồn trú, Dấu Hiệu thiêu trụi chúng. Piper có thể nói rằng chả dễ dàng gì mà cô ấy nói về chuyện ấy được.

Percy nắm tay Annabeth. “Mình nên ở đó với cậu mới phải.”

“Nhưng vấn đề là,” Annabeth nói. “không ai có thể ở đó vì mình. Khi mình đến Rome, tự mình sẽ phải tách ta tìm. Nếu không, Dấu hiệu sẽ không xuất hiện. Mình phải lần theo nó đến…đến tận nguồn căn.”

Frank lấy đồng xu từ Leo. Cậu nhìn chằm chằm con cú. “Tai ương của lũ khổng lồ vẫn quý báu và nhợt nhạt, Vượt lên nỗi đau từ một nhà giam được đan dệt.” Cậu nhìn lên Annabeth. “Nó là cái gì…cái thứ ở nguồn căn ấy?”

Trước khi Annabeth có thể trả lời, Jason lên tiếng.

“một bức tượng,” cậu nói. “một bức tượng của Athena. Ít ra…mình đoán là vậy.”

Piper cau mày. “Cậu từng nói cậu không biết.”

“Mình không biết. Nhưng mình càng nghĩ đến nó…chỉ có một thứ đồ tạo tạc[5] có thể khớp với truyền thuyết.” Cậu quay sang Annabeth. “Mình xin lỗi. Mình nên nói với cậu mọi chuyện mình biết sớm hơn. Nhưng thú thật, mình lo sợ. Nếu truyền thuyết đó là thật–”

“Mình biết,” Annabeth nói. “Mình đã tìm hiểu nó, Jason. Mình không trách cậu. Nhưng nếu chúng ta cố gắng để cứu lấy bức tượng, Hy Lạp và La Mã cùng nhau…cậu hiểu không? Nó có thể hàn gắn mối quan hệ rạn nứt.”

“Khoan đã.” Percy ra hiệu hội ý. “Bức tượng nào?”

Annabeth lấy lại đồng xu bạc và cho vô túi. “Athena Parthenos[6],” cô nói. “Bức tượng Hy Lạp nổi tiếng nhất mọi thời đại. Nó cao bốn mươi bộ, phủ ngà voi và vàng. Nó được đặt chính giữa đền Parthenon ở Athens.”

Con tàu trở nên im lặng, ngoại trừ tiếng những con sóng vỗ vào thân tàu.

“Được rồi, mình sẽ hỏi,” cuối cùng Leo nói. “Chuyện gì đã xảy với nó?”

“Nó biến mất,” Annabeth nói.

Leo tư lự. “Làm sao mà bức tượng cao bốn mươi bộ ở ngay chính giữa đền Parthenon cứ thế biến mất được?”

“Hỏi hay đấy,” Annabeth nói. “Nó là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử. một số người nghĩ rằng bức tượng bị nấu chảy để lấy vàng, hoặc bị phá hủy bởi quân xâm lược. Athens đã bị cướp phá nhiều lần. một số khác nghĩ bức tượng bị đem đi–”

“Bởi người La Mã,” Jason hoàn thành câu nói. “Ít ra, nó là một giả thiết và nó khớp với truyền thuyết mình đã nghe ở Trại Jupiter. Để đập tan tinh thần người Hy Lạp, người La Mã đã đem Athena Parthenos đi khi họ chiếm được thành phố Athens. Họ giấu nó trong đền thờ dưới lòng đất ở Rome. Á thần La Mã thề rằng nó sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày. Họ đánh cắp Athena theo nghĩa đen, để bà ấy không còn là biểu tượng sức mạnh quân sự của Hy Lạp được nữa. Bà trở thành Minerva, một nữ thần thuần tính hơn nhiều.”

“Và những đứa con của Athena đã luôn tìm kiếm bức tượng kể từ đó,” Annabeth nói. “Phần lớn không biết về truyền thuyết đó, nhưng cứ mỗi thế hệ, một vài người lại được nữ thần chọn lựa. Họ được trao cho một đồng xu như của mình. Họ lần theo Dấu hiệu của Athena…một dấu vết ma thuật liên kết họ với bức tượng…hy vọng tìm ra nơi an nghỉ của Athena Parthenos và giành lại bức tượng.”

Piper nhìn hai người họ – Annabeth và Jason – thầm kinh ngạc. Họ nói như một đội, không hề có bất cứ sự thù địch hay trách móc nào. Hai người họ chưa bao giờ thật sự tin tưởng nhau. Piper đủ gần gũi với cả hai để biết điều đó. Nhưng bây giờ…nếu họ có thể thảo luận một vấn đề to tát bình tĩnh đến vậy – nguồn gốc sự thù địch của Hy Lạp/ La Mã – có thể cuối cùng cả hai trại vẫn còn hy vọng chăng.

Percy dường như có cùng suy nghĩ, xét từ vẻ ngạc nhiên của cậu. “Vậy, nếu chúng ta – ý mình là cậu – tìm ra bức tượng…chúng ta sẽ làm gì với nó? Liệu chúng ta có thể di chuyển nó được không?”

“Mình không chắc,” Annabeth thừa nhận. “Nhưng nếu chúng ta có thể giải cứu nó bằng cách nào đó, nó có thể gắn kết hai trại. Nó có thể cứu mẹ mình khỏi sự hận thù đã chia bà ra thành hai nửa. Và có lẽ…có lẽ bức tượng có một loại sức mạnh nào đó có thể giúp chúng ta chống lại bọn khổng lồ.”

Piper nhìn chằm chằm vào Annabeth với sự kính sợ, bắt đầu đánh giá cao trách nhiệm to lớn mà bạn cô phải gánh vác. Và Annabeth định làm điều đó một mình.

“Việc này có thể thay đổi mọi thứ,” Piper nói. “Nó có thể kết thúc sự thù hằn hàng ngàn năm qua. Nó có thể là chìa khóa để đánh bại Gaea. Nhưng nếu bọn mình không giúp cậu…”

cô không kết thúc câu hỏi, nhưng nó dường như đã rành rành ra đó: Liệu có thể giải cứu bức tượng?

Annabeth thẳng vai lên. Piper biết trong lòng cô đang sợ hãi, nhưng cô giấu điều đó rất kĩ.

“Mình phải thành công,” Annabeth nói đơn giản. “sự mạo hiểm có giá trị của nó.”

Hazel trầm ngâm xoắn xoắn mái tóc mình. “Em không thích cái ý chị phải mạo hiểm với mạng sống một mình, nhưng chị đúng. Chúng ta thấy những điều mà những con đại bàng vàng vừa tìm lại giúp ích cho quân đoàn La Mã. Nếu bức tượng là biểu tượng quyền năng nhất của Athena từng được tạo ra–”

“Nó có thể là một chiến lợi phẩm ra trò,” Leo ướm lời.

Hazel cau mày. “Đó không phải là ý mà em nói tới, nhưng cũng đúng đấy.”

“Ngoại trừ việc…” Percy nắm tay Annabeth một lần nữa. “không đứa con nào của Athena đã từng tìm thấy nó. Annabeth, có cái gì ở dưới đó? Những gì đang bảo vệ nó? Nếu đó là nhện–”

“Vượt lên nỗi đau từ một nhà giam được đan dệt,” Frank gợi lại. “Đan dệt, như mạng nhện chẳng hạn?”

Mặt Annabeth hóa trắng như giấy in. Piper nghi ngờ không biết Annabeth có biết thứ gì đang đợi mình…hoặc ít nhất cô có một ý tưởng cực kỳ hay ho nào đó. cô đang cố gắng kiềm nén cơn sóng lòng hoang mang và lo sợ.

“Chúng ta sẽ giải quyết việc đó khi đến Rome,” Piper đề nghị, sử dụng chút lời nói mê hoặc vào giọng mình để làm dịu thần kinh của bạn bè. “Mọi chuyện sẽ đâu vào đó cả mà. Annabeth cũng sẽ giành được chiến lợi phẩm quan trọng đó thôi. Rồi các cậu sẽ thấy.”

“Phải,” Percy nói. “Mình đã học được điều này từ rất lâu: Đừng bao giờ chống lại Annabeth.”

Annabeth nhìn họ biết ơn.

Xét từ bữa ăn sáng dang dở của họ, những người khác đều cảm thấy không thoải mái; nhưng Leo xoay sở để khiến họ bớt lo. Cậu nhấn nút và một luồng hơi dày đặc phụt ra từ miệng của Fetus, làm mọi người nhảy dựng cả lên.

“À!” cậu nói. “Khôi phục tinh thần sảng khoái nào, nhưng vẫn còn cả tấn thứ trên tàu cần phải sửa trước khi chúng ta đến Địa Trung Hải. Vui lòng báo cáo lại cho Tư lệnh Tối cao Leo về danh sách công việc siêu vui vẻ!”

Piper và Jason phụ trách vệ sinh tầng dưới, nơi đã rơi vào tình trạng hỗn độn sau cuộc tấn công của con quái vật. Bố trí lại bệnh xá và lót ván sàn kho mất hết một ngày của họ, nhưng Piper không để tâm. Bởi một điều, cô đã có nhiều thời gian ở cùng Jason. một điều khác là vụ nổ đêm hôm qua đã khiến Piper có một niềm kính sợ lành mạnh với lửa Hy Lạp. cô không muốn bất cứ cái lọ lỏng lẻo nào chứa thứ đó lăn ra giữa hành lang vào lúc nửa đêm.

Khi họ sửa chữa chuồng ngựa, Piper nghĩ về đêm Annabeth và Percy đã tình cờ trải qua ở dưới này. Piper ước cô có thể trò chuyện với Jason suốt đêm – chỉ nằm cuộn lại trên sàn và tận hưởng cảm giác ở cùng cậu. Tại sao họ không phá vỡ các quy tắc?

Nhưng Jason không thích thế. Cậu được giáo dục nghiêm khắc để trở thành một nhà lãnh đạo và là một tấm gương tốt. Phá vỡ các quy tắc đối với cậu không được tự nhiên cho lắm.

không nghi ngờ gì khi Reyna ngưỡng mộ cậu. Piper đã từng như vậy…gần như là thế.

một lần cô thuyết phục cậu trở thành kẻ nổi loạn ở trường học Hoang Dã, khi họ leo lên mái nhà vào ban đêm để xem sao băng. Đó là nơi họ có nụ hôn đầu.

thật không may, ký ức đó là cú lừa của Màn Sương Mù, một lời nói dối ma thuật được Hera ghi vào đầu cô. Piper và Jason bây giờ đang ở cùng nhau, trong đời thực, nhưng mối quan hệ của họ có được bằng một ảo ảnh. Nếu Piper cố gắng để làm cho Jason thậtlẻn ra ngoài vào ban đêm, liệu cậu có làm không?

cô quét đám cỏ khô thành đống. Jason sửa cánh cửa bị hỏng của một trong số mấy chuồng ngựa. Cửa hầm bằng kính lấp lánh hắt sáng từ đại dương bên dưới – một màn ánh sáng xanh lục và bóng tối dường như đi xuống mãi. Piper cứ đưa mắt nhìn qua, cô lo sợ sẽ thấy mặt một con quái vật ló ra, hoặc kẻ ăn thịt người dưới nước trong những câu chuyện cũ của ông nội cô; nhưng tất cả những gì cô thi thoảng nhìn thấy chỉ là một đàn cá trích.

Khi cô nhìn Jason làm việc, cô ngưỡng mộ cách cậu làm mỗi công việc một cách dễ dàng, cho dù là sửa một cái cửa hay tẩm dầu vào yên ngựa. không chỉ nhờ vào cánh tay cứng cáp và bàn tay điêu luyên của cậu, mặc dù Piper thích cả hai, mà cách cậu làm việc rất nhịp nhàng và tự tin. Cậu làm những việc cần làm mà không phàn nàn. Cậu hài hước, mặc dù sự thật là anh chàng rất mệt mỏi sau một đêm không ngủ. Piper không thể trách Reyna vì đã có tình cảm với cậu. Khi phải làm việc và nhiệm vụ, Jason là một người La Mã thực thụ.

Piper nghĩ về bữa tiệc trà với mẹ cô ở Charleston. cô tự hỏi nữ thần đã nói gì với Reyna một năm trước và tại sao nó thay đổi cách Reyna đối xử với Jason. Aphrodite đã khuyến khích hay phản đối việc cô thích Jason?

Piper không chắc, nhưng cô ước mẹ cô không xuất hiện ở Charleston. Bà mẹ bình thường đã đủ làm cô lúng túng. Bà mẹ thần thánh quyến rũ lại mời bạn bè cô dùng trà và nói về các chàng trai – việc đó thật xấu hổ.

Aphrodite chú ý nhiều đến Annabeth và Hazel, chuyện đó khiến Piper không thoải mái. Khi mẹ cô hứng thú với đời sống tình cảm của người khác, thường là dấu hiệu không tốt. Có nghĩa là rắc rối đang đến. Hoặc như Aphrodite đã nói, ngoắt ngoéo.

Nhưng Piper cũng thầm bị tổn thương khi không có mẹ mình cho riêng mình. Aphrodite hầu như không nhìn cô. Bà không nhắc một từ về Jason. Bà không thèm bận tâm giải thích cuộc trò chuyện với Reyna gì hết.

Cứ như thể Aphrodite không cảm thấy thú vị với Piper nữa vậy. Piper đã có chàng trai của riêng mình. Bây giờ cô phải dựa vào mình làm mọi thứ và Aphrodite đã lại tiếp tục tung ra mấy tin đồn mới toanh dễ như quăng đi một tờ tạp chí lá cải vậy.

Cả ba người đều là những câu chuyện xuất sắc, Aphrodite đã nói. Ý ta là, các cô gái xuất sắc.

Piper không đánh giá cao điều đó, nhưng một phần trong cô đã nghĩ: Tốt thôi. Con không muốn thành một câu chuyện. Con muốn một cuộc sống ổn định tốt đẹp với một chàng trai chín chắn tử tế.

Giá mà cô biết nhiều hơn về cách làm các mối quan hệ tiến triển. cô được coi là một chuyên gia, là cố vấn trưởng nhà Aphrodite. Những trại viên khác ở Trại Con Lai đến tìm cô xin ý kiến suốt. Piper đã cố làm hết sức mình, nhưng với bạn trai của chính mình, cô lại hoàn toàn mù mờ. cô liên tục dò đoán, nghiên cứu quá nhiều về biểu hiện của Jason, tâm trạng, ý kiến tức thì của cậu. Tại sao chuyện đó lại quá khó khăn đến vậy? Tại sao không thể lúc nào cũng có cảm giác đi-dưới-ánh-hoàng-hôn hạnh-phúc-mãi-mãi-về-sau?

“Cậu đang nghĩ gì vậy?” Jason hỏi.

Piper nhận ra cô đang ra vẻ cáu kỉnh. Qua hình phản chiếu trên khoang cửa kính, cô trông như vừa nuốt một muỗng muối.

“không có gì,” cô nói. “Ý mình là…cả đống chuyện. Kiểu như tất cả dồn vô một lúc.”

Jason cười. Vết sẹo trên môi gần như biến mất khi cậu cười. Nghĩ đến mọi chuyện cậu vừa trải qua, thật ngạc nhiên khi cậu có tâm trạng tốt đến thế.

“Mọi chuyện sẽ đâu ra đấy thôi,” cậu hứa. “Chính cậu nói vậy mà.”

“Phải,” Piper đồng ý. “Trừ việc mình chỉ nói vậy để Annabeth cảm thấy tốt hơn.”

Jason nhún vai. “Nó vẫn là thật mà. Chúng ta sắp đến vùng đất cổ xưa. Bỏ lại người La Mã phía sau.”

“Và bây giờ bọn họ đang trên đường đến Trại Con Lai để tấn công bạn bè chúng ta.”

Jason ngập ngừng, như thể thật khó cho cậu khi diễn tả trạng thái lạc quan về chuyện đó. “Bác Chiron sẽ có cách để ngăn bọn họ. Người La Mã phải mất nhiều tuần để thực sự tìm thấy trại và lên kế hoạch tấn công. Hơn nữa, Reyna sẽ làm mọi thứ có thể làm để trì hoãn. cô ấy vẫn còn về phe chúng ta. Mình biết như thế.”

“Cậu tin cô ấy,” Giọng Piper nghe thật trống rỗng, ngay cả với bản thân cô.

“Nghe này, Pipes. Mình đã nói với cậu, cậu không cần gì phải ghen tỵ.”

“cô ấy xinh đẹp. cô ấy đầy quyền năng. cô ấy rất…La Mã.”

Jason đặt búa xuống. Cậu nắm tay cô, cảm giác rộn ràng lan khắp cánh tay cô. Cha của Piper từng đưa cô đến Thủy cung Thái Bình Dương và chỉ cho cô một con lươn điện. Ông nói với cô con lươn truyền đi xung điện gây sốc và làm tê liệt con mồi. Mỗi khi Jason nhìn cô hay chạm vào tay cô, Piper cảm thấy như thế.

“Cậu xinh đẹp, đầy quyền năng,” cậu nói. “Và mình không muốn cậu là người La Mã. Mình muốn cậu là Piper. Hơn nữa, chúng ta là một cặp, cậu và mình.”

cô muốn tin cậu. Họ đã ở bên nhau, thật sự, trong nhiều tháng nay. Tuy nhiên, cô không thể tống khứ mọi ngờ vực, cũng như Jason không thể loại bỏ hình xăm SPQR ấn sắt nung trên cánh tay cậu.

Phía trên họ, chuông tàu báo bữa tối vang lên.

Jason cười. “Tốt hơn bọn mình nên lên trên đó. Bọn mình không muốn để HLV Hedge buộc chuông quanh cổ mình đâu.”

Piper rùng mình. HLV Hedge đã đe dọa sẽ làm vậy sau vụ bê bối của Percy/Annabeth, để ông biết được nếu có ai đó lẻn ra ngoài vào ban đêm.

“Phải,” cô nuối tiếc nói, nhìn xuống cửa kính dưới chân họ. “Mình đoán ta cần phải ăn tối…và đánh một giấc ngon lành.”

[1] Interstate 95 (I-95) là đường cao tốc chính trên bờ biển phía Đông của Hoa Kỳ, chạy song song với bờ biển Đại Tây Dương phục vụ khu vực giữa Florida và New England. I-95 phục vụ các thành phố lớn như New York, Philadelphia, Baltimore và Washington DC trong khu vực phía Bắc và bãi biển như các ngân hàng ngoài và Miami Beach ở phía nam.

[2] đồng xu cổ được dùng giao thương chính thức ở thành Athens, Hy Lạp, thành phố được đặt dưới sự bảo trợ của Athena

[3] Thể hiện và trình bày là một hoạt động trong lớp của khối tiểu học ở Bắc Mỹ và Úc. Hoạt động dạy học sinh về kỹ năng nói trước công chúng.

[4] 3 chữ cái trong bảng chữ cái Hy Lạp

[5] Đồ tạo tạc do người tiền sử tạo ra, phân biệt với những đồ vật có sẳn trong tự nhiên.

[6] Athena Parthenos (Trinh nữ Athena) là tên của bức tượng to lớn bằng ngà voi và vàng, điêu khắc nữ thần chiến tranh Hy Lạp Athena, được làm bởi Phidias và trợ lý của ông. Bức tượng được đặt ở đền Pathenon, Athens.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Piper 2


SÁNG HÔM SAU PIPER BỊ ĐÁNH THỨC bởi một tiếng còi tàu khác – tiếng kèn ầm ĩ tới nỗi nó thực sự xốc Piper rơi khỏi giường theo nghĩa đen.

cô tự hỏi không biết Leo đang bày thêm trò gì nữa đây. Rồi tiếng còi rú lên phát nữa. nghe như ở từ cách đó vài trăm thước – từ một tàu khác vậy.

cô vội vội vàng vàng mặc quần áo. Ngay khi cô lên tới boong trên, những người khác đã tụ tập lại cả rồi – ai cũng áo quần xộc xệch trừ HLV Hedge, người nhận nhiệm vụ trách canh đêm.

Chiếc áo phông Thế vận hội Mùa đông Vancouver của Frank thì lộn trái. Percy thì mặc quần ngủ và giáp che ngực bằng đồng, một tuyên bố thời trang thú vị hết sức. Mái tóc màu hạt dẻ của Hazel bạt cả sang một bên như thể cô mới vừa đi xuyên một cơn lốc xoáy; và Leo vô tình tự thiêu chính mình. Áo phông của cậu đang cháy vụn. Cánh tay cậu bốc khói nghi ngút.

Cách cảng tầm trăm thước, một tàu du lịch đồ sộ lướt qua. Các hành khách vẫy tay với họ từ khoảng mười lăm, mười sáu dãy ban công. Vài người tươi cười chụp ảnh. Chẳng một ai trông có vẻ bất ngờ khi thấy một thuyền ba tầng chèo Hy Lạp Cổ. Có khi Màn Sương Mù khiến nó trông như một thuyền đánh cá hoặc có lẽ các du khách nghĩ tàyArgo II là một chiêu hút khách chẳng hạn.

Tàu du lịch thổi còi lần nữa và tàu Argo II rung lên một đợt.

HLV Hedge nút tai lại. “Họ có cần thổi to thế không?”

“Họ chỉ đang nói xin chào mà thôi,” Frank suy đoán.

“HẢ?” Hedge đáp trả.

Con tàu vượt qua họ, hướng thẳng ra biển. du khách vẫn còn vẫy tay. Nếu họ lấy làm lạ là tàu Argo II toàn lũ con nít đít ranh mắt nhắm mắt mở mặc đồ ngủ cùng áo giáp với một người đàn ông chân dê thì đã chẳng làm thế.

“Tạm biệt!” Leo gọi, giơ lên cánh bay bóc khói nghi ngút.

“Thầy ra chỗ nỏ phóng tiễn nhé?” Hedge hỏi.

“không,” Leo nói với một nụ cười cố nén.

Hazel dụi mắt và nhìn qua mặt nước lấp lánh ánh xanh lục. “Bọn mình đang ở – ồ … wow.”

Piper nhìn theo ánh mắt Hazel và thở gấp. không còn tàu du lịch chắn tầm nhìn, cô thấy một ngọn núi nhô ra từ biển cách họ chưa đến nửa dặm về phía bắc. Piper từng thấy nhiều vách đá ngoạn mục trước đây rồi. cô từng lái xe theo Quốc Lộ 1 dọc bờ biển California. Thậm chí cô từng ngã khỏi Hẻm Núi Lớn cùng Jason và rồi bay ngược trở lên. Nhưng chẳng có cái nào lại tuyệt diệu như cái nắm tay đá khổng lồ trắng lóa mắt chĩa thẳng lên trời này. Ở một bên, các vách đá vôi gần như thẳng đứng hoàn toàn, trượt thẳng xuống biển cả ngàn bộ phía dưới, gần hế mức Piper có thể hình dung. Mặt bên kia, núi dốc thành tầng, rừng xanh bao phủ, tất cả gợi cho Piper nhớ tới một con nhân sư khổng lồ, bị mài mòn qua hàng triệu năm với cái đầu và bộ ngực tổ tướng màu trắng, sau lưng khoác áo xanh.

“Núi đá Gibraltar[1],” Annabeth kinh hãi nói. “Ở mũi đất Tây Ban Nha. Và đằng đó –” cô chỉ phía nam, một ngọn đồi mang sắc đỏ và vàng nâu phía xa hơn. “Đó hẳn là châu Phi. Chúng ta đang ở ngay cửa biển Địa Trung Hải[2].”

Sớm mai ấm áp là thế mà Piper lại rùng mình. Dù biển đang trải rộng ngay trước mặt họ, cô lại cảm thấy như đang đứng trước một rào chắn không thể nào vượt qua. một khi đã đến Địa Trung Hải – Mare Nostrum – là họ đã tới vùng đất cổ xưa. Nếu truyền thuyết có thật, cuộc hành trình của họ sẽ nguy hiểm gấp mười.

“Giờ thì sao đây?” cô hỏi. “Cứ thế này mà dong buồm vô à?”

“Sao không?” Leo bảo. “Đây là một con kênh vận tải lớn. Thuyền bè cứ đi ra đi vô luôn mà.”

Nhưng không phải mấy cái thuyền ba tầng chèo lóc nhóc á thần, Piper nghĩ.

Annabeth chăm chăm nhìn núi đá Gibraltar. Piper nhận ra được biểu hiện trầm ngâm trên mặt bạn mình. Nó gần như luôn có nghĩa là cô dự kiến sẽ gặp khó khăn.

“Thuở xưa,” Annabeth nói, “người ta gọi chỗ này là những trụ đá Hercules. Ngọn Núi Đá được cho là một trong hai trụ đá. Trụ đá còn lại là một ngọn núi châu Phi. không ai chắc là núi nào nữa.”

“Hercules hả?” Percy cau mày. “Gã đó như là Starbucks của Hy Lạp Cổ vậy. đi đâu cũng thấy.”

một tiếng bùm vang như sấm rung chuyển tàu Argo II, dù Piper không chắc lần này nó tới từ đâu. cô không thấy bất kì con tàu nào khác và trời thì vẫn sáng trong.

Miệng cô đột nhiên thấy khô khốc. “Thế…những trụ đá Hercules này. Có nguy hiểm không?”

Annabeth vẫn tập trung vào vách đá trắng như thể đang đợi Dấu hiệu Athena cháy sáng xuất hiện. “Với người Hy Lạp, những trụ đá đánh dấu điểm kết thế giới họ biết đến. Người La Mã nói những trụ đá có khắc một lời cảnh báo tiếng latin –”

“Non plus ultra,” Percy nói.

Annabeth trông choáng váng. “Phải. không Gì Vượt Xa Thêm Nữa. Sao cậu biết?”

Percy chỉ. “Vì mình đang nhìn vào nó mà.”

Ngay phía trước họ, giữa eo biển, một hòn đảo lập lòe hiện ra. Piper chắc chắn là không có hòn đảo nào ở đấy trước lúc đó. Đó là một mô đất đầy các dãy đồi, bao phủ bởi rừng xanh và bao quanh là những bãi biển trắng muốt. So với Gibraltar thì không mấy ấn tượng, nhưng ngay trước hòn đảo, nhô ra khỏi lớp sóng khoảng trăm mét ngoài khơi là hai trụ đá trắng Hy Lạp cao cỡ cột buồm tàu Argo. Giữa hai cột trụ, một dòng chữ bạc vô cùng lớn lấp lánh dưới mặt nước – có thể chỉ là ảo giác hoặc cũng có thể là khảm trên cát: NON PLUS ULTRA.

“Các cậu, ta rẽ hướng được chưa hả?” Leo lo lắng hỏi. “Hay là..”

Chẳng ai đáp lời – có lẽ bởi giống như Piper, họ đã thấy thứ đang đứng trên bãi biển. Khi con tàu tiếp cận cái cột, cô thấy một người đàn ông tóc đen, áo choàng tím, khoanh tay chăm chú nhìn tàu như thể đang chờ họ đến. Piper không thể nói gì nhiều về anh ta từ khoảng cách này, nhưng xét theo tư thế thì anh ta chả vui vẻ gì cho cam.

Frank hít thật mạnh. “Đó hẳn là–?”

“Hercules,” Jason nói. “Á thần mạnh nhất mọi thời đại.”

Giờ tàu Argo II chỉ còn cách mấy cái trụ tầm vài trăm thước.

“Cần câu trả lời đấy,” Leo gấp gáp bảo. “Mình có thể rẽ hay là cất cánh đây. Bộ phận ổn định đang làm việc trở lại rồi. Nhưng mình cần nhanh chóng biết là–”

“Ta phải đi tiếp,” Annabeth bảo. “Mình nghĩ anh ta đang canh gác eo biển này. Nếu đó đúng là Hercules thì có chèo hay là bay cũng chả giúp ích được gì. anh ta sẽ muốn nói chuyện với bọn mình.”

Piper kiềm chế bản thân không dùng lời nói mê hoặc. cô muốn hét lên với Leo: Bay lên đi! Đưa chúng ta rời khỏi đây! không may, cô có cảm giác Annabeth nói đúng. Nếu họ muốn vào Địa Trung Hải thì không thể tránh cuộc chạm mặt này được.

“Hercules sẽ không ở phía bọn mình chứ?” cô tràn đầy hy vọng hỏi. “Ý mình là…anh ta ở bên phe bọn mình, phải không?”

Jason càu nhàu. “anh ta là con thần Zeus nhưng khi chết lại thành thần. Cậu chẳng chác chắn được gì với các vị thần cả đâu.”

Piper nhớ tới cuộc gặp giữa họ với Bacchus ở Kansas – một vị thần khác từng là á thần. Ông ta chính xác chẳng giúp ích được gì nhiều cho lắm.

“Tuyệt,” Percy nói. “Bảy chúng ta đánh lại Hercules.”

“Và một thần rừng nữa!” thầy Hedge thêm vô. “Chúng ta xử được gã đó mà.”

“Mình có ý hay hơn,” Annabeth bảo. “Ta gửi đại sứ lên bờ. một nhóm nhỏ– nhiều nhất một hay hai người. Cố nói chuyện với anh ta.”

“Mình đi,” Jason nói. “anh ta là con Zeus. Mình là con Jupiter. Có lẽ anh ta sẽ thân thiện với mình cũng nên.”

“Hoặc sẽ ghét cay ghét đắng cậu,” Percy gợi ý. “anh em cùng cha khác mẹ thường không hòa thuận lắm.”

Jason cau mày. “Cảm ơn, Ngài Lạc Quan ạ.”

“Đáng thử một phen đấy,” Annabeth bảo. “Ít ra Jason với Hercules có điểm chung. Và ta cần nhà ngoại giao tốt nhất mình có. Ai đó giỏi ăn nói.”

Mọi con mắt đổ dồn vô Piper.

cô gắng tránh không la hét và nhảy sang một bên. một linh cảm chẳng lành cào cấu trong bụng cô. Nhưng nếu Jason sắp lên bờ thì cô muốn đi với cậu. Có khi vị thần vô cùng mạnh này rút cuộc lại có ích. Ít ra họ cũng phải gặp may lấy một lần chớ, phải không?

“Được,” cô nói. “Để mình thay đồ cái đã.”

một khi Leo đã neo tàu Argo II giữa hai trụ đá, Jason sẽ triệu hồi gió đưa cậu và Piper vào bờ.

Người đàn ông áo tím đang đợi họ.

Piper từng nghe cả đống chuyện về Hercules. cô từng xem vài bộ phim và hoạt hình sến súa. Trước ngày hôm nay, nếu cô có từng nghĩ tới anh ta, cô chỉ đảo mắt và tưởng tượng ra anh chàng lông lá ngu ngốc nào đó với bộ ngực vạm vỡ và bộ râu hippie gớm guốc, khoác tấm da sư tử qua đầu và cầm một cái chày tổ tướng, như người tối cổ ấy. cô tưởng tượng anh ta sẽ bốc mùi hôi hám, ợ chua, gãi ngứa liên tục và hầu như chỉ lẩm bẩm lầm bầm suốt.

cô chả mong chờ việc này tí nào.

anh ta để chân trần, bị phủ trong cát trắng. Chiếc áo khiến anh ta trông như giáo sĩ dù Piper chẳng nhớ nổi giáo sĩ cấp bậc nào lại mặc áo chùng tím. Là hồng y? Giám mục? Và phải chăng áo chùng tím thì có nghĩa anh ta là bản thể La Mã của Hercules chớ không phải là Hercules Hy Lạp? Râu anh ta lởm chởm rất hợp thời trang, như cha Piper và những ông bạn diễn viên của ông vậy – trông kiểu như Tôi quên không cạo râu hai ngày mà coi vẫn bảnh.

anh ta tráng kiện nhưng không quá to. Mái tóc đen như mun cắt sát, kiểu La Mã. anh ta có đôi mắt xanh đến đáng ngạc nhiên hệt Jason nhưng da lại màu đồng, như thể đã dành cả đời mình nằm trên bàn thuộc da vậy. Đáng ngạc nhiên hơn cả: anh ta trông cỡ hai mươi tuổi. Chắc chắn không già hơn. anh ta đẹp trai kiểu góc cạnh nhưng không-giống-người-tối-cổ-chút-nào.

anh ta đúng là có một cái chày đang nằm trên cát ngay cạnh đó, nhưng trông nó giống một cây gậy bóng chày quá khổ hơn – một khúc gỗ gụ hình trụ dài năm bộ bóng loáng với tay nắm bằng đồng lót da. HLV Hedge chắc ghen tị lắm lắm.

Jason và Piper đáp xuống ngay bờ sóng. Họ chậm rãi tiếp cận, cẩn thận không để lộ ra chút động thái đe dọa nào. Hercules quan sát họ chẳng hé ra chút cảm xúc đặc biệt nào như thể họ là một loại chim biển nào đó mà anh ta chưa từng thèm để ý đến trước đây.

“Xin chào,” Piper nói. Luôn có một khởi đầu tốt đẹp.

“Gì thế?” Hercules bảo. Giọng anh ta trầm nhưng rất giản dị, hiện đại. Như đang chào họ trong phòng thay đồ trung học ấy.

“À, không có gì nhiều.” Piper nhăn mặt. “Ừm, thực ra, cũng nhiều đấy. Tôi là Piper. Đây là Jason. Bọn tôi–”

“Bộ da sư tử của anh đâu?” Jason cắt ngang.

Piper muốn thúc cho Jason một cái nhưng Hercules trông thích thú hơn là khó chịu.

“Ở đây 32 độ đấy[3],” anh ta bảo. “Sao tôi lại khoác da sư tử được? Cậu có mặc áo khoác lông thú ra biển bao giờ không?”

“Tôi đoán thế cũng đúng.” Jason nghe có vẻ thất vọng. “Chỉ là mấy bức tranh luôn vẽ anh khoác da sư tử trên mình.”

Hercules chăm chăm nhìn trời vẻ cáo buộc như thể muốn nói gì đó với cha anh ta là Zeus. “Đừng có tin mọi điều họ nói về tôi như thế chứ. Nổi tiếng không vui như cậu nghĩ đâu.”

“Còn phải nói,” Piper thở dài.

Hercules đưa đôi mắt xanh rực rỡ sang nhìn cô. “cô có nổi tiếng không vậy?”

“Cha tôi…ông ấy đóng phim.”

Hercules cằn nhằn. “Đừng khiến tôi phải bắt đầu với mấy cái phim. Thần thánh trên đỉnh Olympus ạ, mấy thứ đó chả bao giờ có cái quái gì là đúng hết trơn. cô đã xem phim nào mà tôi trông giống tôi chưa?”

Piper phải ngưỡng mộ anh ta ở một điểm. “Tôi thấy bất ngờ là trông anh trẻ thế cơ đấy.”

“Ha! Bất tử là thế đấy. Nhưng, phải, tôi cũng không quá già lúc chết đâu. không như tiêu chuẩn hiện nay. Tôi đã làm rất nhiều việc suốt những năm còn là anh hùng …quá nhiều việc, thật ra là vậy.” Ánh mắt anh chuyển sang Jason. “Con trai Zeus hả?”

“Jupiter,” Jason nói.

“Cũng chả khác mấy,” Hercules càu nhàu. “Cha thế nào thì cũng khó chịu cả. Còn tôi hả? Tôi từng được gọi là Heracles. Rồi người La Mã đến và gọi tôi là Hercules. Tôi thực sự không thay đổi nhiều lắm dù cho gần đây cứ nghĩ tới việc đó lại khiến đầu tôi đau muốn nứt ra …”

Mặt trái anh ta co giật. Áo choàng lung linh sáng lên, chuyển sang màu trắng trong khoảnh khắc rồi lại thành màu tím.

“Dù sao chăng nữa,” Hercules bảo “nếu cậu là con của Jupiter, cậu có lẽ hiểu được. Áp lực lắm. Đủ là chả bao giờ đủ cả. Cuối cùng nó có thể khiến một chàng trai nổ tanh bành ra.”

anh ta quay sang Piper. cô cảm thấy như cả ngàn con kiến đang bò trên lưng. Có một sự pha trộn giữa nỗi buồn và sự tăm tối trong mắt anh ta, trông có vẻ không sáng suốt cho lắm và chắc chắn là cũng chẳng an toàn.

“Còn cô, cô bạn thân mến à,” Hercules nói. “cẩn thận. Những đứa con trai của Zeus có thể…ừm, thôi kệ đi.”

Piper không dám chắc thế nghĩa là gì. Đột nhiên cô muốn cách vị thần này ra càng xa càng tốt, nhưng cô cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, lịch sự.

“Thế, Ngài Hercules,” cô nói, “chúng tôi đang thực hiện nhiệm vụ. Chúng tôi xin được phép vào vùng Địa Trung Hải.”

Hercules nhún vai. “Vì thế tôi mới ở đây. Sau khi tôi chết, Cha biến tôi thành người giữ cửa cho Olympus. Tôi bảo, Tuyệt! Nhiệm vụ trong cung điện! Tiệc tùng liên miên!Nhưng ông ấy lại chả đề cập gì đến việc tôi phải canh giữ cửa tới vùng đất cổ, bị kẹt ngay trên hòn đảo này suốt phần đời vĩnh cửu còn lại. Vui chết đi được.”

anh ta chỉ vô hai cây trụ đá nhô lên từ sóng. “Mấy cái cột ngu ngốc. Có người cho rằng tôi đã tạo ra toàn bộ Eo biển Gibraltar bằng cách xô mấy trái núi nhô ra ngoài biển. Có người bảo mấy trái núi là cột nữa chớ. Đúng là mớ cứt đái Augeas[4]. Cột trụ là cộttrụ.”

“Phải,” Piper nói. “Tất nhiên là thế. Thế…bọn tôi vào được không?”

Vị thần gái gãi bộ râu thời trang của mình. “Ừm, tôi phải đưa cho các cô cậu cảnh báo chuẩn mực về độ nguy hiểm của vùng đất cổ xưa. không phải bất cứ á thần nào cũng sống sót mà qua nổi Mare Nostrum đâu. Do đó, tôi phải giao cho các cô cậu một nhiệm vụ để mà hoàn tất. Chứng minh giá trị bản thân, blah, blah, blah. Thành thật mà nói tôi cũng chả xem trọng lắm đâu. Thường thì tôi bảo á thần làm cái gì gì đó đơn giản như đi mua sắm hay hát một bài tếu táo thôi, đại loại kiểu thế. Sau mấy vụ cực nhọc tôi phải hoàn tất dùm thằng anh họ độc ác Eurystheus[4a], ừm…tôi không muốn làm gã đó đâu, cô cậu biết đấy?”

“Tôi đánh giá cao điều đó,” Jason bảo.

“Ừ, không có gì.” Hercules nghe thoải mái dễ chịu nhưng anh ta vẫn khiến Piper lo lo. Tia ám muội đó trong mắt anh ta nhăc cô nhớ tới than củi ngâm trong dầu hỏa, sẵn sàng bùng lên trong chốc lát.

“Vậy tóm lại,” Hercules nói. “nhiệm vụ của mọi người là gì thế?”

“Lũ khổng lồ,” Jason nói. “Chúng tôi phải đến Hy Lạp để ngăn bọn chúng đánh thức Gaea.”

“Khổng lồ à,” Hercules lẩm bẩm. “Tôi ghét mấy thằng đó. Hồi tôi còn là một á thần anh hùng … à, kệ đi. Thế thần nào giao nhiệm vụ này cho mấy người thế – Cha? Athena? Có khi là Aphrodite?” anh ta nhướn một bên mày với với Piper. “Xinh như cô thì tôi đoán chắc đấy là mẹ cô nhỉ.”

Piper đáng ra phải nghĩ tới sớm hơn chứ, nhưng Hercules khiến cô bất an. Quá muộn rồi, cô nhận ra cuộc đối thoại đã thành ra bãi mìn.

“Hera cử chúng tôi đi,” Jason bảo. “Bà ta đưa bọn tôi đến với nhau để–”

“Hera.” Đột nhiên nét mặt Hercules trông như vách đá Gibraltar – một phiến đá rắn đanh, không khoan nhượng.

“Bọn tôi cũng ghét bà ta lắm,” Piper nhanh nhảu nói. Trời ạ, sao việc này lại xảy đến với cô kia chứ? Hera là kẻ tử thù của Hercules. “Bọn tôi cũng chả muốn giúp bà ta làm gì. Bà ta không cho bọn tôi nhiều chọn lựa nhưng –”

“Nhưng các cô cậu lại ở đây,” Hercules bảo, sự thân thiện đã biến mất tăm. “Xin lỗi hai người. Tôi không quan tâm nhiệm vụ hai người đáng giá bậc nào. Tôi không làm bất cứ việc gì Hera muốn. không bao giờ.”

Jason trông hoang mang. “Nhưng tôi nghĩ anh đã làm hòa với bà ta lúc lên làm thần rồi chứ.”

“Tôi nói rồi đó,” Hercules gầm gừ, “đừng có tin tất cả mọi thứ cậu nghe. Nếu muốn vào Địa Trung Hải, tôi e là phải giao cho mọi người nhiệm vụ khó hơn mức bình thường.”

“Nhưng chúng ta cũng như là anh em mà,” Jason phản đối. “Hera cũng làm rối tung rối mù đời tôi lên. Tôi hiểu–”

“Cậu cóc hiểu gì sất,” Hercules lạnh lùng đáp. “Gia đình đầu tiên của tôi: chết. Đời tôi phí phạm vào những nhiệm vụ ngớ nga ngớ ngẩn. Người vợ thứ hai của tôi chết sau khi bị lừa đầu độc tôi và bỏ tôi chết trong đau đớn quằn quại. Và đền bù? Tôi trở thành một vị thần xíu xiu. Bất tử, nên tôi chả bao giờ quên được nỗi đau. Kẹt ở đây làm tên gác cổng, một thằng gác cửa, một … một gã quản gia cho đám thần thánh trên Olympus. không, cậu thì hiểu được gì. Vị thần duy nhất hiểu tôi dù chỉ chút chút là Dionysus. Và ít nhất anh ta cũng tạo ra cái gì đó hữu dụng. Còn tôi chả có gì để khoe ngoại trừ mấy thước phim chuyển thể tồi tệ.”

Piper dùng lời nói mê hoặc. “thật đáng buồn thay Ngài Hercules. Nhưng làm ơn đừng gây khó dễ bọn tôi. Bọn tôi đâu phải kẻ xấu.”

cô nghĩ cô thành công rồi. Hercules do dự. Rồi anh ta cắn chặt quai hàm và lắc lắc đầu. “Phía bên kia hòn đảo, qua mấy quả đồi, hai người sẽ tìm tìm thấy một con sông. Gã thần sông già nua Achelous sống ngay giữa dòng.”

Hercules đợi chờ như thể tin này phải khiến họ chuồn luôn mới đúng.

“Và…?” Jason hỏi.

“Và,” Hercules bảo. “Tôi muốn hai người bẻ gãy cái sừng kia của gã mang về cho tôi chớ sao.”

“Ông ta có sừng hả,” Jason nói. “Đợi chút…cái sừng kia của ông ta ư? Cái gì–?”

“Tự tìm hiểu lấy,” vị thần chua cay đáp. “Đây, cái này có thể giúp ích.”

anh ta nói từ giúp như thể nó có nghĩa là giết[5] vậy. Từ dưới áo chùng, Hercules lôi ra một cuốn sách nhỏ và thảy nó cho Piper. cô suýt không bắt được nó.

Bìa sách bóng loáng có hình bức ảnh các ngôi đền Hy Lạp với mấy con quái vật tươi cười. Con Minotaur[6] đang giơ ngón cái. Tựa sách ghi: Cẩm nang hướng dẫn của Hercules về Mare Nostrum.

“Mang cái sừng đó về cho tôi trước khi mặt trười lặn,” Hercules bảo. “Chỉ hai cô cậu thôi nhé. Đừng liên lạc với bạn bè làm chi. Con tàu của hai người sẽ ở nguyên vị trí. Nếu hai người thành công, thì tất cả có thể vào Địa Trung Hải.”

“Nếu không thì sao?” Piper hỏi, khá chắc rằng cô không muốn nghe câu trả lời.

“Ừm, thì Achelous giết hai người, tất nhiên là thế,” Hercules nói. “Và tôi sẽ tay không đập thuyền của hai người làm đôi rồi cho bạn hai người xuống mồ sớm.”

Jason di di chân. “Bọn tôi hát lấy một bài vui vui không được sao?”

“Tôi sẽ làm thật đấy,” Hercules lạnh lùng nói. “Mặt trời lặn. không thì bạn cô cậu bỏ mạng cái chắc.”

[1] Gibraltar là núi đá nằm ở eo biển Gibraltar, cửa biển từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải

[2] Địa Trung Hải là một phần của Đại Tây Dương được vây quanh bởi đất liền – phía bắc bởi châu Âu, phía nam bởi châu Phi và phía đông bởi châu Á. Địa Trung Hải có diện tích 2.509.000 km² (969.000 dặm vuông anh) tới 2.510.000 km² (970.000 dặm vuông anh). Chiều dài đông-tây là 4.000 km và chiều rộng trung bình là 800 km, nhưng tại chỗ thông với Đại Tây Dương (eo biển Gibraltar) chỉ rộng 13 km (8 dặm anh) và bề rộng tối đa đạt 1.600 km. Nhìn chung biển này nông, với độ sâu trung bình khoảng 1.500 m, độ sâu tối đa khoảng 4.900 m tới 5.150 m, tại khu vực phía nam bờ biển Hy Lạp.

[3] nguyên văn là độ Fa-ren-hai, đổi sang độ C là 32 độ

[4] Augeas(hay Augeias, /ɔːˈdʒiːəs/, Ancient Greek: Αὐγείας), có nghĩ là ‘sáng’, vua của Elis, cha của Epicaste. Người có chuồng giá súc lớn nhất nước và không bao giờ được dọn dẹp cho tới khi có được Heracles tới giúp.

[4a] Eurystheus (/jʊrɪsˈθiəs/, Εὐρυσθεύς), vua của Tyrins, 1 trong những cháu trai của Perseus(Percy được đặt tên theo anh này), người được quyền sai khiến Heracles làm 12 việc, lập nên 12 công lao khi xưa.

[5] nguyên văn là ‘help’-giúp và ‘hurt’-đau nhưng tác giả chơi vần nên để như thế đọc thuận hơn

[6] Minotaur hay nhân ngưu là một quái vật nửa người nửa bò trong thần thoại Hi Lạp. Mọi chuyện bắt đầu khi Minos muốn làm vua xứ Crete nên ông cầu xin thần biển Poseidon. Poseidon đã cho ông một con bò trắng đẹp tuyệt trần để ông chứng tỏ lòng thành của mình. Nhưng mê mẩn trước vẻ đẹp của con bò, Minos đã đem một con bò giả để thế. Tức giận, thần Poseidon đã trừng phạt Minos bằng cách hóa phép cho hoàng hậu của Minos, Pasiphaë, yêu con bò đó. Hoàng hậu đã ra lệnh kiến trúc sư Daedalus làm một con bò cái bằng gỗ cho bà chui vào để giao phối với con bò đó và kết quả là sự ra đời của.

Minotaur đã gieo rắc kinh hoàng cho toàn đảo Crete nên vua Minos ra lệnh cho Daedalus làm một một mê cung để nhốt nó lại. Mỗi năm, ông đem 7 người con trai và 7 người con gái từ Athena vào cho Minotaur ăn thịt.

Minotaur đã bị tiêu diệt bởi anh hùng Theseus sau khi chàng nghe việc làm tàn ác của vua Minos. anh đã giết được Minotaur nhờ sự giúp đỡ của Ariadne, con gái vua Minos. Nhờ cuộn chỉ của cô đưa mà anh đã tìm đường thoát được khỏi mê cung.

k tìm được hình to của con này, ai tìm được gửi mình với, hình to vẽ cho riêng truyện ấy
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Piper 3


CUỐN CẨM NANG HƯỚNG DẪN CỦA HERCULES VỀ MARE NOSTRUMCHẲNG GIÚP ĐƯỢC MẤY TRONG VỤ RẮN RẾT VỚI MUỖI MÒNG.

“Nếu đây là một hòn đảo phép thuật,” Piper gầm gừ, “thì sao nó không thể là một hòn đảo phép thuật tử tế chứ?”

Họ khó nhọc trèo qua một quả đồi và đi xuống một thung lũng cây cối rậm rạp, cẩn thận né tránh đám rắn có sọc-đen-và-đỏ đang sưởi nắng trên mấy tảng đá. Muỗi bay thành bầy bên trên mấy cái ao tù ở những chỗ trũng nhất. Cây cối chủ yếu là đám ô liu còi cọc, bách và thông. Tiếng kêu rả rích của lũ ve sầu cùng với cái nóng ngột ngạt khiến Piper nhớ đến vùng đất riêng của người da đỏ ở Oklahoma vào mùa hè.

Cho tới lúc này thì họ vẫn chưa thấy con sông nào.

“Bọn mình có thể bay,” Jason đề nghị thêm lần nữa.

“Bọn mình có thể bỏ sót thứ gì đó mất,” Piper nói. “Hơn nữa, mình cũng không chắc mình muốn ghé thăm một vị thần không thân thiện đâu. Tên ông ta là gì ấy nhỉ? Etch-a-Sketch à?

“Achelous[1].” Jason đang cố đọc quyển hướng dẫn trong khi đi, thành ra cậu liên tục đâm vào cây và vấp phải đá. “Trong này nói ông ta là một Hà Bá[2].“

“Ông ta là một con hà mã á?”

“không. Hà Bá. một thần sông. Theo cái thứ này thì, ông ta là linh hồn của con sông nào đó ở Hy Lạp.”

“Vì chỗ bọn mình đang đứng không phải Hy Lạp, nên cứ cho là ông ta đã chuyển nhà đi,” Piper nói. “Cái đó chẳng báo trước được quyển sách này có ích đến đâu. Còn gì nữa không?”

“Nó còn nói Hercules từng đấu với ông ta một lần,” Jason ướm lời.

“Hercules đấu với chín mươi chín phần trăm tất cả những gì thuộc Hy Lạp cổ.”

“Ờ. Để xem nào. Những cây Cột Đá của Hercules…” Jason lật một trang giấy. “Trong này nói là hòn đảo này không có khách sạn, không nhà hàng, không có phương tiện giao thông. Điểm thu hút khác du lịch: Hercules và hai cây Cột Đá. Hử, cái này thú vị đây. Người ta tin rằng kí hiệu đồng đô la – cậu biết đấy, hình chữ S với hai sọc ấy mà?-cái đó có nguồn gốc từ quốc huy Tây Ban Nha[3], có hình hai cây Cột Đá của Hercules với một dải băng rôn uốn lượn giữa hai cây cột đó.”

Tuyệt, Piper nghĩ. Cuối cùng thì Jason cũng hòa thuận được với Annabeth, và xu hướng thiên tài của cô đang lây sang cậu.

“Có gì có ích không?” cô hỏi.

“Chờ đã. Có một dòng ghi chú nhỏ xíu về Achelous: Vị thần sông này từng đấu với Hercules để giành quyền lấy nàng Deianira xinh đẹp. Trong trận quần thảo, Hercules đã bẻ gẫy một bên sừng của vị thần sông này, và nó trở thành chiếc sừng sung túc[4] đầu tiên.”

“Sung gì cơ?”

“Là thứ đồ trang trí trong Lễ Tạ Ơn ấy,” Jason nói. “Cái sừng với đủ loại đồ ngọt tràn cả ra ngoài ấy mà? Bọn mình cũng có mấy cái trong nhà ăn ở trại Jupiter. Mình không biết cái nguyên bản lại thực sự là sừng của gã nào đó.”

“Và nếu bọn mình phải lấy cái còn lại này,” Piper nói. “Mình đoán là sẽ chẳng dễ dàng gì. Deianira là ai thế?”

“Hercules từng cưới cô ta,” Jason nói. “Mình nghĩ…trong này không nói. Nhưng mình nghĩ có chuyện tồi tệ đã xảy ra với cô ta.”

Piper nhớ chuyện Hercules đã kể với họ: gia đình đầu tiên của anh ta đã chết hết, người vợ thứ hai của anh ta chết sau khi bị lừa gạt mà đầu độc anh ta. Càng ngày cô càng không thích cái thử thách này.

Họ lê bước qua một dải đất hẹp giữa hai ngọn đồi, cố gắng tìm chỗ có bóng râm mà đi, nhưng Piper vẫn ướt sũng mồ hôi. Đám muỗi để lại vết cắn trên đầu gối, cánh tay, và cổ cô, nên chắc giờ trông cô giống một nạn nhân bệnh đậu mùa.

Cuối cùng thì cô cũng được ở riêng với Jason một lúc, vậy mà họ lại sử dụng khoảng thời gian đó thế này đây.

cô bực mình Jason vì đã nhắc đến Hera, nhưng cô biết là cô không nên trách cậu. Có lẽ cô chỉ đang bực mình với cậu nói chung. Kể từ hồi ở Trại Jupiter, cô đã phải mang cả đống lo lắng và bất an.

cô tự hỏi Hercules muốn nói gì với cô về những người con trai của thần Zeus. không thể tin tưởng họ? Họ phải chịu quá nhiều áp lực? Piper cố tưởng tượng cảnh Jason biến thành thần sau khi chết, đứng trên một bãi biển nào đó, canh gác cổng vào một đại dương sau khi Piper và tất cả những người cậu biết trong kiếp sống phàm trần của cậu đều đã chết hết từ lâu.

cô tự hỏi liệu Hercules có bao giờ lạc quan như Jason không–sôi nổi hơn, tự tin hơn và dễ an ủi hơn. Khó mà hình dung được điều đó.

Trong lúc họ đi xuống thung lũng tiếp theo, Piper tự hỏi chuyện gì đang xảy ra trên tàu Argo II. cô bị cái ý tưởng gửi một thông điệp Iris cám dỗ, nhưng Hercules đã cảnh cáo bọn họ không được liên lạc với nhóm bạn. cô hi vọng Annabeth có thể đoán ra chuyện gì đang xảy ra và không cố đưa thêm một nhóm nữa lên bờ. Piper không dám chắc Hercules sẽ làm gì nếu anh ta bị làm phiền thêm nữa. cô tưởng tượng cảnh HLV Hedge mất kiên nhẫn và nhắm cái nỏ bắn đá về phía người đàn ông mặc đồ tím, hay đám eidolon nhập vào thủy thủ đoàn và bắt họ tự-sát-bằng-Hercules.

Piper rùng mình. cô không biết lúc này là mấy giờ rồi, nhưng mặt trời đã bắt đầu xuống núi. Thế nào mà ngày lại trôi qua nhanh như thế? Lẽ ra cô có thể đã hoan nghênh mặt trời lặn xuống để dịu bớt cái nóng đi, nếu không phải lúc đó chính là thời hạn cuối cùng của bọn họ. Làn gió đêm mát mẻ chẳng có ích mấy nếu bọn họ đã chết. Hơn nữa, ngày mai là mùng một tháng bảy, Ngày Kalends Tháng Bảy[5]. Nếu thông tin của họ là chính xác, thì đó sẽ là ngày cuối cùng Nico di Angelo còn sống, và cũng là ngày thành Rome bị phá hủy.

“Dừng lại.” Jason nói.

Piper không rõ có chuyện gì không ổn. Rồi cô nhận ra cô có thể nghe thấy tiếng nước chảy ở phía trước. Họ luồn lách qua đám cây và thấy mình đứng bên bờ một con sông. Nó rộng khoảng khoảng 12m, nhưng lại chỉ sâu có vài inch, làn nước bạc chảy băng băng trên thảm đá cuội bằng phẳng. Cách đó vài thước về phía hạ lưu, dòng nước siết đổ xuống một cái vụng sâu xanh thẳm.

Có gì đó về con sông này khiến cô lo lắng. Đám ve sầu trên cây đã im bặt. không có tiếng chim hót nào. Cứ như thể dòng nước đang giảng bài và chỉ cho phép tiếng nói của một mình nó vang lên.

Nhưng Piper càng nghe lâu, dòng sông lại càng có vẻ cuốn hút mời mọc. cô muốn làm một hớp nước. Có lẽ cô nên cởi giày ra. cô thật sự muốn ngâm chân trong nước. Và cái vũng nước sâu kia…sẽ thật tuyệt nếu được nhảy xuống cùng Jason và thư giãn dưới bóng cây, bồng bềnh trong làn nước mát rượi. thật lãng mạn.

Piper lắc đầu tự cảnh tỉnh. Những ý nghĩ đó không phải của cô. Có điều gì đó không đúng. cô có cảm giác như thể dòng sông đang dùng âm thanh ma thuật để quyến rũ vậy.

Jason ngồi trên một tảng đá và bắt đầu tháo giày. Cậu nhe răng cười với vụng nước như thể cậu không thể chờ để nhảy xuống đó.

“Thôi ngay đi!” Piper quát lên với con sông.

Jason giật mình. “Thôi cái gì cơ?”

“không phải cậu,” Piper nói. “Mà là ông ta.”

cô cảm thấy ngớ ngẩn khi chỉ tay vào dòng nước, nhưng cô chắc chắn là nó đang giở trò ma thuật kiểu gì đấy, điều khiển cảm xúc của họ.

Đúng lúc cô nghĩ rằng cô đã thua và Jason sẽ bảo cô như thế, thì dòng sông lên tiếng:Thứ lỗi cho ta. Hát là một trong những thú vui ít ỏi mà ta còn có được.

một bóng hình nổi lên từ vụng nước như đang đi lên bằng thang máy.

Hai vai Piper căng lên. Đó là sinh vật cô đã thấy trên lưỡi dao của cô, con bò có mặt người. Làn da của ông ta xanh như màu nước. Bốn móng của ông ta nổi trên mặt nước. trên cái cổ bò của ông ta là cái đầu của một người đàn ông với mái tóc đen cắt ngắn, một bộ râu loăn xoăn theo kiểu Hy Lạp cổ, một đôi mắt sâu thẳm, đau buồn sau cặp kính hai tròng, và một cái miệng có vẻ như mang một cái bĩu môi vĩnh cửu. Mọc bên trái đầu ông ta là một cái sừng bò duy nhất – một cái sừng cong màu trắng-và-đen như cái những chiến binh vẫn hay dùng làm cốc uống rượu. sự mất cân bằng khiến cái đầu của ông ta nghiêng sang bên trái, thành ra trông ông ta cứ như là đang dốc nước ra khỏi tai.

“Chào,” ông ta rầu rĩ nói. “Hẳn là các cô cậu đến để giết ta.”

Jason đi lại giày vào và chậm chạp đứng dậy. “Ờm, thì–”

“không!” Piper chen vào, “Tôi xin lỗi. Xấu hổ thật. Bọn tôi không muốn làm phiền đến ông đâu, nhưng Hercules bảo chúng tôi đến đây.”

“Hercules!” Gã người-bò thở dài. Móng của ông ta cào cào lên mặt nước như sẵn sàng tấn công. “Với ta thì gã sẽ luôn là Heracles. Đó là tên tiếng Hy Lạp của gã, cô cậu biết đấy: vinh quang của Hera.“

“Tên buồn cười thật,” Jason nói. “anh ta ghét cay ghét đắng bà ta.”

“Đúng vậy,” người-bò nói. “Có lẽ đó chính là lí do vì sao gã không phản đối khi người La Mã đặt tên cho gã là Hercules. Tất nhiên, đó là cái tên mà phần lớn mọi người biết khi nhắc đến gã…nhãn hiệu của gã, nếu cô cậu muốn gọi vậy. Hercules sẽ chẳng là gì nếu không có ý thức về hình tượng bản thân.”

Người-bò nói với giọng cay đắng nhưng thân thiết, như thể Hercules là một người bạn cũ đã lạc lối.

“Ông là Achelous?” Piper hỏi.

Người-bò khuỵu hai chân trước và cúi đầu xuống thành một cái cúi chào mà Piper thấy vừa dễ thương vừa đượm buồn. “Sẵn lòng phục vụ quý cô. Thần sông siêu phàm. Từng là linh hồn của con sông hùng vĩ nhất Hy Lạp. Giờ bị kết án phải chịu giam cầm tại nơi đây, ở một bên của hòn đảo, đối diện với kẻ thù cũ của ta. Ôi, các vị thần thật ác độc! Nhưng họ làm vậy là để trừng phạt ta hay Hercules, thì ta chưa bao giờ biết chắc được.”

Piper không rõ ông ta có ý gì, nhưng âm thanh nền của con sông lại xâm lược đầu óc cô một lần nữa – nó nhắc cô rằng cô khát tới mức nào, rằng một cuộc lặn ngụp sẽ dễ chịu đến đâu. cô cố tập trung.

“Tôi là Piper.” cô nói. “Đây là Jason. Chúng tôi không muốn đánh nhau. Chỉ là Heracles – Hercules – dù là người nào đi chăng nữa, nổi điên với bọn tôi và bắt bọn tôi tới đây.”

cô giải thích về nhiệm vụ tới vùng đất cổ xưa để ngăn đám khổng lồ đánh thức Gaea. cô miêu tả làm thế nào mà một đội gồm cả người Hy Lạp và người La Mã của bọn họ đã tập hợp lại, và Hercules đã trút cơn thịnh nộ như thế nào khi anh ta biết Hera đứng sau chuyện này.

Achelous cứ nghiêng đầu sang bên trái từ đầu đến cuối, nên Piper không chắc ông ta đang để hồn vía trên mây hay đang đối phó với cơn mệt mỏi một-sừng.

Khi cô dứt lời, Achelous nhìn cô như thể cô đang nổi một đống phát ban đáng tiếc. “Ah, cô gái thân mến của ta…những truyền thuyết là có thật, cô biết đấy. Những tinh linh, những kẻ ăn thịt dưới nước.”

Piper phải cố ngăn lại một tiếng thút thít rên rỉ. cô đã không nói một tẹo gì về chuyện đó với Achelous. “L-Làm thế nào—?”

“Các thần sông biết rất nhiều chuyện,” ông ta nói. “Alas, các cô cậu đang tập trung vào nhầm chuyện rồi. Nếu các cô cậu đã tới được Rome, câu chuyện về trận lụt sẽ hợp với các cô cậu hơn.”

“Piper?” Jason hỏi. “Ông ta đang nói về cái gì vậy?”

Suy nghĩ của cô bỗng rối tung rối mù như mớ bòng bong. Câu chuyện về trận lụt…Nếu các cô cậu đã tới được Rome.

“Mình – mình cũng không rõ nữa, “cô nói, dù câu chuyện về trận lụt mang đến cảm giác ngờ ngợ. “Achelous, tôi không hiểu-”

“Ừ, cô không hiểu thật.” vị thần sông tỏ vẻ thông cảm. “cô gái tội nghiệp. Lại một cô gái nữa dính vào con trai của Zeus.”

“Đợi đã,” Jason nói. “Là Jupiter chứ. Và sao điều đó lại khiến cô ấy thành một cô gái tội nghiệp?”

Achelous phớt lờ cậu. “cô gái của ta, cô có biết nguyên nhân gây ra cuộc chiến của ta với Hercules không?”

“Để giành một người phụ nữ,” Piper nhớ lại. “Deianira?”

“Phải.” Achelous thở dài đánh thượt. “Và cô có biết chuyện gì đã xảy ra với nàng ta không?”

“Ờ…” Piper liếc Jason.

Cậu lấy cuốn sách hướng dẫn ra và bắt đầu lật lật giở giở. “Nó không thực sự–”

Achelous khịt mũi khinh bỉ. “Cái thứ gì thế kia?”

Jason chớp mắt. “Chỉ là…Cẩm Nang Hướng Dẫn Của Hercules Về Mare Nostrum thôi mà. anh ta đưa cho bọn tôi quyển sách hướng dẫn này, nên-”

“Đấy chẳng phải sách siếc gì sất,” Achelous khăng khăng. “Gã đưa cho mấy người thứ đấy chỉ để làm ta lộn ruột thôi, phải không? Gã biết ta ghét cay ghét đắng mấy thứ này mà.”

“Ông ghét…sách á?”

“Bah!” Mặt Achelous đỏ tía lên, biến màu da xanh của ông ta thành màu cà tím. “Thứ đấy không phải là sách.”

Ông ta gõ móng lên mặt nước. một cuộn giấy vọt lên từ lòng sông như một đầu tên lửa cỡ nhỏ và đáp xuống trước mặt ông ta. Ông ta lấy móng đẩy cho nó mở ra. Cuộn giấy đã ố vàng vì năm tháng, được phủ kín chữ viết tay tiếng Latin đã phai màu và những bức tranh vẽ tay tỉ mỉ.

“Đây mới là sách!” Achelous nói. “Ôi, cái mùi hương của da cừu! Cái cảm giác tao nhã của cuộn giấy mở ra rưới móng ta. Đơn giản là các cô cậu không thể sao chép cái cảm giác đó lên một thứ thế kia.”

Ông thần hất đầu khinh bỉ về phía cuốn sách hướng dẫn trên tay Jason. “Đám người trẻ tuổi như các cô cậu ngày nay và mấy thứ đồ mới nổi của các cô cậu. Giấy đóng thành quyển. Những miếng vuông chật ních chữ không hề thân-thiện-với-móng-guốc. Đấy là một cuốn sách bìa cứng, một cuốn sách-cứng, nếu các cô cậu thích gọi vậy. Nhưng nó vẫn không phải là một cuốn sách truyền thống. Nó sẽ không bao giờ thay thế được những cuộn giấy tốt kiểu cổ điển!”

“Ừm, tôi cất nó đi ngay đây.” Jason nhét quyển sách hướng dẫn vào túi sau của cậu theo cái cách cậu có thể nhét một món vũ khí nguy hiểm vào bao.

Achelous có vẻ dịu xuống một chút, làm Piper thấy nhẹ cả người. cô không muốn bị một con bò một sừng bị ám ảnh về giấy da cuộn xéo phải.

“Giờ thì,” Achelous nói, gõ gõ lên một bức hình trên cuộn giấy da của ông ta. “Đây là Deianira.”

Piper quỳ gối xuống để nhìn. Bức chân dung vẽ tay rất nhỏ, nhưng cô có thể thấy được rằng người phụ nữ đó rất đẹp, với mái tóc dài sẫm màu, đôi mắt sẫm màu, và một nụ cười tinh nghịch hẳn có thể khiến cho đám đàn ông điên cuồng.

“Công chúa nước Calydon,” thần sông ảm đạm nói. “Nàng đã được hứa hôn với ta, cho tới khi Hercules nhảy vào. Gã khăng khăng đòi đọ sức.”

“Và anh ta bẻ gãy cái sừng của ông?” Jason đoán.

“Phải,” Achelous đáp. “Ta không bao giờ có thể tha thứ cho gã vì điều đó. Khó chịu khủng khiếp, chỉ có mỗi một sừng ấy. Nhưng với Deianira, chuyện còn tồi tệ hơn. Lẽ ra nàng đã có thể có một cuộc đời dài hạnh phúc nếu lấy ta.”

“một con bò đầu người,” Piper nói, “sống trong một con sông.”

“Chính xác,” Achelous đồng ý. “Việc nàng từ chối có vẻ là điều không thể, hén? Thế mà nàng lại bỏ đi với Hercules. Nàng đã chọn gã anh hùng bảnh chọe, khoe mẽ thay vì người chồng tốt bụng, chung thủy lẽ ra có thể đã đối tốt với nàng. Chuyện gì xảy ra tiếp theo ấy hả? Chà, lẽ ra nàng nên biết. Hercules bị quá nhiều rắc rối của riêng hắn quấn lấy nên không thể làm chồng cho tốt được. Hera đã nguyền rủa gã, nên gã mất trí và giết sạch gia đình mình. Chuyện khủng khiếp. Thế nên hắn mới phải lập mười hai chiến công[6] đó để sám hối.”

Piper thấy choáng váng. “Khoan đã…Hera khiến anh ta bị điên, và Hercules phải sám hối á?”

Achelous nhún vai. “Đám thần trên đỉnh Olympus có vẻ như chẳng bao giờ phải trả giá cho tội ác của mình. Và Hera luôn ghét con trai của Zeus…hay Jupiter.” Ông ta liếc Jason vẻ không hoài nghi. “Tóm lại, Deianira đáng thương của ta đã có một kết cục bi thảm. Nàng trở nên ghen tị với nhiều cuộc ngoại tình của Hercules. Gã đi hoang khắp thế giới, cô cậu biết đấy, chẳng khác gì Zeus cha hắn, lăng nhăng với bất kì người đàn bà nào hắn gặp. Cuối cùng thì Deianira trở nên tuyệt vọng đến nỗi nàng nghe cả những lời xúi giục. một tên nhân mã nham hiểm tên là Nessus[7]nói với nàng rằng nếu nàng muốn Hercules chung thủy với nàng mãi mãi, thì nàng nên bôi máu nhân mã vào mặt trong của chiếc áo yêu thích của Hercules. Deianira nghe theo lời xúi giục của hắn, nhưng thay vì biến Hercules thành một người chồng chung thủy-”

“Máu nhân mã giống như a-xít vậy,” Jason nói.

“Đúng vậy,” Achelous nói. “Hercules chết một cách đau đớn. Khi Deianira nhận ra những gì mình đã làm, nàng ta…” thần sông kéo một đường ngang qua cổ.

“Chuyện đó thật kinh khủng,” Piper nói.

“Và bài học là gì nào, cô gái thân mến?” Achelous nói. “Hãy coi chừng đám con trai của Zeus.”

Piper không dám nhìn bạn trai cô. cô không dám chắc cô có thể che giấu nỗi bất an trong mắt mình. Jason sẽ chẳng bao giờ là Hercules. Nhưng câu chuyện lại đánh đúng vào nỗi sợ của cô. Hera đã nhào nặn nên mối quan hệ của bọn họ, cũng hệt như cách bà ta thao túng Hercules. Piper muốn tin rằng Jason sẽ không đời nào nổi một cơn cuồng loạn giết người như Hercules. Thế nhưng, mới cách đây bốn ngày, cậu đã bị một hồn ma eidolon điều khiển và suýt nữa thì giết Percy Jackson đấy thôi.

“Giờ Hercules đã thành thần rồi,” Achelous nói. “Gã kết hôn với Hebe, nữ thần tuổi trẻ, nhưng gã vẫn hiếm khi ở nhà. Gã vùi đầu trên hòn đảo này, canh hai cái cột ngu ngốc đó. Gã nói Zeus bắt gã làm vậy, nhưng ta nghĩ gã thích ở đây hơn là ở trên ngọn Olympus, chăm sóc nỗi cay đắng trong gã và khóc than cho cuộc đời bất tử của gã. sự có mặt của ta nhắc gã nhớ đến những thất bại của gã – đặc biệt là người phụ nữ mà đến cuối cùng lại giết hắn. Và sự hiện diện của hắn nhắc ta nhớ đến Deianira, người mà lẽ ra đã là vợ của ta.”

Người-bò gõ gõ cuộn giấy da, nó tự cuộn lại và chìm lại xuống nước.

“Hercules muốn cái sừng khác của ta để nhục mạ ta,” Achelous nói. “Có lẽ biết rằng ta cũng khốn khổ khiến gã thấy khá hơn. Hơn nữa, cái sừng có thể biến thành một chiếc sừng sung túc. Đồ ăn và thức uống hảo hạng sẽ tuôn ra từ cái sừng đó, cũng giống như sức mạnh của ta khiến con sông này chảy vậy. không nghi ngờ gì là Hercules sẽ giữ cái sừng đó lại cho riêng gã. Đó sẽ là một bi kịch và cả hoang phí nữa.”

Piper nghi rằng âm thanh của dòng sông và giọng nói mơ màng của Achelous vẫn ảnh hưởng đến suy nghĩ của cô, nhưng cô không thể không đồng ý với ông thần sông. cô bắt đầu thấy ghét Hercules. Người-bò tội nghiệp này có vẻ thật buồn và cô đơn.

Jason ngọ nguậy. “Xin lỗi, Achelous. thật sự thì, ông đã gặp phải chuyện rất khó chịu. Nhưng có lẽ…chà, nếu không có cái sừng còn lại kia, ông sẽ không bị ngoẹo cổ như vậy nữa. Có thể ông sẽ thấy dễ chịu hơn.”

“Jason!” Piper gắt.

Jason giơ hai tay lên. “Chỉ là một ý nghĩ thôi mà. Hơn nữa, mình không thấy bọn mình có mấy lựa chọn. Nếu Hercules không có cái sừng đó, gã sẽ giết cả hai đứa mình và cả các bạn của bọn mình nữa.”

“Cậu đây nói đúng đấy,” Achelous nói. “Hai người không có lựa chọn nào. Tôi hi vọng quý vị thứ lỗi cho tôi vì điều đó.”

Piper cau mày. Vị thần sông nghe có vẻ thật đau lòng, cô muốn vỗ vỗ đầu ông ta. “Thứ lỗi vì cái gì cơ?”

“Ta cũng không có lựa chọn nào cả,” Achelous nói. “Ta phải ngăn cô cậu lại.”

Con sông nổ tung, và một bức tường nước ập xuống đầu Piper.

[1] Achelous: Theo truyền thuyết Hy Lạp, Achelous (Ἀχελῷος Achelōos) là vị thần bảo vệ dòng sông “xoáy bạc” Achelous-dòng sông lớn nhất Hy Lạp, và vì vậy, là thủ lĩnh của tất cả các thần bảo hộ sông suối ở Hy Lạp.

[2] potamus hay potamos, tiếng Hy Lạp (ποταμός) có nghĩa là sông hay suối. Ở đây có nghĩa là thần sông.

[3] Quốc Huy Tây Ban Nha:

[4] cornucopia (tiếng Latin: cornu copiae): Chiếc sừng của sự dồi dào no đủ, thường có hình dạng một chiếc sừng lớn chứa đầy các loại hoa quả, bánh kẹo, hạt, hoa và các thứ đồ ăn hoặc một vài thứ đồ quý. Ở vùng Bắc Mỹ, chiếc sừng này còn được bày trong lễ Tạ Ơn. Theo truyền thuyết thì chiếc sừng này được tạo ra khi Hercules đấu với Achelous và bẻ gãy sừng ông ta.

Vì từ cornucopia bắt đầu bằng “corn” nên Piper mới hỏi “what corn” tức ‘ngô gì?’, chuyển lại thành sung cho nó thuận ý chơi chữ của tác giả

[5] Kalends of July: Kalend (hay Calend) là ngày đầu tiên trong tháng, ngày đầu tiên của tuần trăng trong lịch La Mã. Từ này cũng là nguồn gốc của từ calender (lịch) trong tiếng anh. Kalends Of July là những ngày đầu tháng Bảy. Ngày trong tháng được đếm từ các ngày trước đó đến các ngày Kalend (ngày trăng non đầu tháng), Nonae (ngày trăng bán nguyệt, khoảng ngày thứ 5-7 của tuần trăng) và Idus, ides (ngày trăng tròn).

Kalend chỉ có trong lịch Latin chứ không có trong lịch của người Hy Lạp, nên cụm từ “ad Kalendas Graecas” (đến ngày Kalend Hy Lạp) còn có nghĩa là ‘trì hoãn đến mãi mãi’, hoặc ‘không bao giờ’. Cụm từ này vẫn được dùng trong tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và nhiều ngôn ngữ hệ latin khác.

[6] Mười hai kỳ công của Hercules: Theo lời nhà tiên tri tại Delphi, Heracles-Hercules bị buộc phải làm nô lệ cho Eurystheus và thực hiện mười nhiệm vụ kỳ quái do Eurystheus yêu cầu, nhằm chuộc lại lỗi đã giết vợ con của mình – một hành động là kết quả của một cơn điên do Hera gây nên. Sau khi thực hiện xong,Eurystheus lật lọng và không thừa nhận công dọn chuồng ngựa của Augeas vì chàng đã đòi Augeas trả công, và đánh bại con rắn Hydra vì chàng đã thực hiện việc đó với sự giúp sức của Iolaus. hắn bắt chàng thực hiện thêm hai công việc nữa, vì thế đời sau thường gọi 12 kỳ công đó là 10 kỳ công của Heracles. 12 kỳ công đó gồm:

Giết con sư tử ở Nemea

Giết quái vật nhiều đầu Hydra

Bắt con nai ở núi Cerynaea

Bắt con lợn rừng ở núi Erymanthus

Dọn chuồng ngựa của Augeas

Giết đàn chim ở hồ Stymphale

Bắt con bò mộng ở đảo Crete

Bắt đàn ngựa cái của Diomede

Lấy chiếc đai lưng của Hippolyte

Đánh cắp đàn vịt của Geryon

Trộm những quả táo vàng của các nàng Hesperides

Và Bắt con chó Ceberus

[7] Khi rước vợ về, phải qua 1 con sông, Hercules đã nhờ nhân mã này cõng nàng sang sông. Thấy nàng xinh đẹp, nhân mã nổi ý gian định bắt cóc nhưng bị Hercules dùng tên tẩm máu độc Hydra bắn chết. hắn bảo Deianira hứng lấy máu chảy ra từ vết thương, dùng khi nào chồng nàng ngoại tình. Sau này Hercules hạ thành trì bắt được 1 nàng công chúa, Deianira ghen nên lấy máu nhân mã có thêm máu độc Hydra thấm vô lễ phục khiến da Hercules cong ra từng mảng, trơ thịt. Đau đớn không chịu nổi, chàng cho người lập đàn hỏa thiêu. Ngay khi chết, Zeus cử cỗ xe ngựa vàng xuống đón linh hồn chàng lên Olympus, phong làm thần, lấy nữ thần thanh xuân Hebe.

Cảnh nhân mã bắt nàng Deianira
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Piper 4


DÒNG NƯỚC TÚM LẤY cô NHƯ NẮM ĐẤM và cuốn cô xuống đáy sâu của dòng sông. Đấu tranh là vô ích. cô ngậm chặt miệng, ép bản thân không được hít thở, nhưng cô chỉ có thể ngăn mình không hoảng loạn. cô không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ đám bong bóng. cô chỉ nghe thấy tiếng dồn dập và tiếng gầm ầm ĩ của thác ghềnh.

cô chỉ vừa chắc mẩm đây là cách mình chết: chết đuối trong một cái vụng nước trên một hòn đảo không tồn tại. thì, cũng đột ngột như lúc bị kéo xuống, cô bị đẩy mạnh lên mặt nước. cô nhận ra mình đang ở trung tâm xoáy nước, có thể thở nhưng không thể thoát ra.

Cách đó vài mét, Jason trồi lên khỏi mặt nước và thở gấp, một tay cầm kiếm. Cậu vùng vẫy dữ dội, nhưng không có gì để tấn công.

Cách hai mươi bộ về phía bên phải của Piper, Achelous nổi lên từ mặt nước. “Ta thật sự xin lỗi về chuyện này,” ông ta nói.

Jason lao về phía ông ta, triệu hồi gió để nâng cậu lên khỏi dòng sông, nhưng Achelous nhanh hơn và mạnh hơn. một xoáy nước phóng thẳng vào Jason và ném cậu xuống lần nữa.

“Dừng lại!” Piper hét lên.

Sử dụng giọng nói mê hoặc không dễ dàng khi cô lúng túng trong xoáy nước, nhưng cô đã thu hút sự chú ý của Achelous.

“Ta e là không thể,” vị thần sông nói. “Ta không thể để Hercules có chiếc sừng khác của ta. Nó sẽ làm ta mất hết cả thể diện.”

“Vẫn còn cách khác!” Piper nói. “Ông không cần phải giết chúng tôi.”

Jason ngoi lên mặt nước lần nữa theo cách của cậu. một đám mây bão nhỏ hình thành trên đầu cậu. Sấm sét đùng đoàng.

“không phải thứ đó, con trai Jupiter,” Achelous quở trách. “Nếu cậu gọi sét, cậu chỉ làm điện giật bạn gái cậu.”

Dòng nước kéo Jason xuống lần nữa.

“Thả cậu ấy ra!” Piper đặt hết sức thuyết phục mà cô hội tụ được vào giọng nói. “Tôi hứa tôi sẽ không để Hercules lấy cái sừng!”

Achelous do dự. Ông ta chạy nước kiệu nhỏ về phía cô, đầu ông nghiêng sang bên trái. “Ta tin cô có ý đó.”

“Tôi có!” Piper hứa. “Hercules thật đáng khinh. Nhưng, làm ơn, hãy thả bạn tôi ra trước đã.”

Nước cuộn xoáy quanh chỗ Jason chìm xuống. Piper muốn hét lên. Cậu có thể nhịn thở được bao lâu nữa?

Achelous nhìn xuống cô qua hai tròng kiếng của mình. Vẻ mặt của ông ta dịu lại. “Ta hiểu rồi. cô sẽ là Deianira của ta. cô sẽ là cô dâu bù đắp những mất mát của ta.”

“Cái gì?” Piper không chắc mình có nghe lầm hay không. Xoáy nước thật sự làm đầu cô choáng váng. “Ừm, thực ra tôi đang nghĩ–”

“À, ta hiểu,” Achelous nói. “cô quá ngượng ngùng khi đề nghị điều này trước mặt bạn trai cô. cô đúng, tất nhiên. Ta sẽ đối xử với cô tốt hơn một gã con trai của Zeus. Sau ngần ấy thế kỉ, ta có thể làm mọi việc đúng như ý muốn. Ta không thể cứu Deianira, nhưng ta có thể cứu cô.”

đã qua ba mươi giây? một phút? Jason không thể cầm cự lâu hơn nữa.

“cô sẽ để bạn bè cô hy sinh,” Achelous tiếp tục. “Hercules sẽ tức giận, nhưng ta có thể bảo vệ cô khỏi hắn. Chúng ta có thể sống khá hạnh phúc cùng nhau. Hãy bắt đầu bằng việc để anh chàng Jason này chết đuối, được không?”

Piper khó có thể cố thêm nữa, nhưng cô phải tập trung. cô che giấu nỗi sợ hãi và tức giận. cô là con gái của Aphrodite. cô phải sử dụng món quà được ban cho.

cô mỉm cười ngọt ngào hết sức có thể và giơ tay lên. “Đỡ tôi dậy, làm ơn.”

Khuôn mặt Achelous sáng lên. Ông ta chộp lấy tay Piper và kéo cô khỏi xoáy nước.

cô chưa bao giờ cưỡi một con bò trước đây, nhưng cô đã luyện tập cưỡi pegasus không cần yên ngựa ở Trại Con Lai, cô nhớ điều cần phải làm. cô lấy đà, đu một chân lên lưng Achelous. Sau đó cô kẹp chặt mắt cá chân quanh cổ ông ta, quấn một tay quanh họng ông và tay còn lại rút con dao ra. cô ấn lưỡi dao dưới cằm của thần sông.

“Thả – Jason – ra.” cô trút hết sức mạnh vào mệnh lệnh. “Ngay bây giờ!”

Piper nhận ra có quá nhiều sai sót trong kế hoạch của cô. Vị thần sông có thể dễ dàng tan biến vào trong nước. Hoặc ông ta có thể kéo cô xuống và dìm cô chết đuối. Nhưng hình như là lời nói mê hoặc của cô đã có tác dụng. Hay có lẽ Achelous quá ngạc nhiên để hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ông ta chắc không quen với chuyện các cô gái xinh xắn đe dọa sẽ cắt cổ họng mình.

Jason bị bắn ra khỏi dòng nước như một quả đạn người[0]. Cậu phang gãy mấy nhành cây ô-liu và ngã nhào xuống đám cỏ. Cái đó hẳn là chẳng dễ chịu gì, nhưng cậu cố gắng đứng dậy, thở hổn hển và ho khan. Cậu giương kiếm lên, những đám mây đen tụ lại dày đặc trên dòng sông.

Piper ném cho cậu cái nhìn cảnh báo: Chưa được. cô vẫn phải ra khỏi dòng sông mà không bị chết đuối hay điện giật.

Achelous cong lưng xuống như đang mưu tính thủ đoạn nào đó. Piper ấn mạnh con dao vào cổ ông.

“Hãy là một con bò ngoan,” cô cảnh báo.

“cô đã hứa,” Achelous nói qua kẽ răng. “cô hứa sẽ không để Hercules lấy sừng của ta.”

“Và anh ta sẽ không làm thế,” Piper nói. “Nhưng tôi sẽ làm.”

cô giơ con dao và chém cái sừng của vị thần. Đồng Thiên Thai cắt ngang qua gốc như thể nó là đất sét ẩm. Achelous rống lên trong cơn thịnh nộ. Trước khi ông ta kịp hồi hồn, Piper đứng lên trên lưng ông ta. Với cái sừng trong một tay và con dao găm trong tay còn lại, cô nhảy vào bờ.

“Jason!” cô hét lên.

Tạ ơn thần thánh, cậu hiểu. một cơn gió mạnh bắt lấy cô và đưa cô vào bờ an toàn. Piper ngã xuống đất, lăn tròn khiến lông trên cổ cô dựng lên. Mùi kim loại tràn ngập trong không khí. cô quay về hướng dòng sông đúng lúc khiến mắt cô lòa đi.

BÙM! Sét khuấy vào nước thành một cái vạc đang sôi, bốc hơi và kêu xì xì với dòng điện. Piper chớp chớp mắt để các đốm vàng biến khỏi mắt cô khi thần Achelous rên rĩ và hòa tan dưới mặt nước. Vẻ mặt kinh hoàng của ông ta như đang muốn hỏi: Sao cô có thể?

“Jason, chạy!” cô vẫn còn chóng mặt và buồn nôn vì nỗi sợ hãi, nhưng cô và Jason đã vượt qua nguy hiểm.

Khi cô trèo lên ngọn đồi, siết chặt cái sừng bò trong ngực cô, Piper nhận ra cô đang khóc nức nở – mặc dù cô không rõ là do sợ hãi, hay nhẹ nhõm, hay là xấu hổ về những việc cô đã làm với vị thần sông. Họ không trì hoãn lấy một giây cho đến khi họ lên đến đỉnh ngọn đồi.

Piper cảm thấy ngớ ngẩn, nhưng cô cứ tiếp tục khóc khi cô nói với Jason những điều đã xảy ra lúc cậu đang vùng vẫy dưới nước.

“Piper, cậu không có sự lựa chọn.” Cậu đặt tay lên vai cô. “Cậu đã cứu mình.”

cô lau nước mắt và cố gắng kiểm soát bản thân. Mặt trời đã đến gần đường chân trời. Họ phải nhanh chóng quay lại chỗ Hercules, nếu không bạn họ sẽ chết.

“Achelous ép buộc cậu,” Jason tiếp. “Hơn nữa, mình nghi ngờ việc tia sét giết được ông ta. Ông ta là vị thần cổ xưa. Cậu phải hủy diệt dòng sông nếu muốn giết ông ta. Và ông ta có thể sống mà không cần sừng. Nếu cậu phải nói dối về việc không đưa nó cho Hercules, chuyện đó–”

“Mình không nói dối.”

Jason nhìn cô chằm chằm. “Pipes…chúng ta không có sự lựa chọn. Hercules sẽ giết–”

“Hercules không xứng đáng có thứ này.” Piper không chắc sự tức giận đến từ đâu, nhưng cô chưa từng cảm thấy bất cứ điều gì chắc chắn hơn điều này trong đời mình.

Hercules đúng là một kẻ ngu ngốc, ích kỷ. hắn tổn thương quá nhiều người và hắn muốn tiếp tục tổn thương họ. Có lẽ hắn đã có vài vận xui. Có lẽ các vị thần đối xử không tốt với hắn. Nhưng chuyện đó không thể bào chữa cho hắn. Người anh hùng không thể điều khiển các vị thần, nhưng có thể kiểm soát bản thân mình.

Jason sẽ không bao giờ như thế. Cậu sẽ không bao giờ đổ lỗi cho người khác vì vấn đề của cậu hoặc cho rằng hận thù quan trọng hơn những điều đúng đắn.

Piper không nhắc đến câu chuyện về Deianira. cô sẽ không tiếp tục làm những điều Hercules muốn chỉ vì hắn ta đẹp trai, mạnh mẽ và đáng sợ. Lần này, hắn sẽ không thể làm theo cách của mình nữa – không phải sau khi hắn đe dọa sẽ giết họ và bắt họ đến đây để làm cho Achelous khốn khổ vì mục đích lăng mạ Hera. Hercules không xứng đáng có chiếc sừng sung túc. Piper phải đưa hắn trở về đúng vị trí của mình.

“Mình có một kế hoạch,” cô nói.

cô nói với Jason việc phải làm. cô thậm chí không nhận ra cô đang sử dụng lời nói mê hoặc cho đến khi mắt cậu đờ đẫn đi.

“Bất cứ điều gì cậu nói,” cậu hứa. Sau đó chớp mắt vài lần. “Chúng ta sẽ phải chết, nhưng mình tham gia.”

Hercules đang đợi ngay nơi họ bỏ đi. Gã nhìn chằm chằm vào tàu Argo II, đã cập bến giữa những cột đá khi mặt trời lặn xuống phía sau. Con tàu trông vẫn ổn, nhưng cô bắt đầu cảm thấy kế hoạch của cô có chút điên rồ.

Quá muộn để xem xét lại. cô đã gửi thông điệp Iris cho Leo. Jason đã chuẩn bị. Và, khi nhìn thấy Hercules lần nữa, cô cảm thấy chắc chắn hơn bao giờ hết rằng cô không thể đưa hắn thứ hắn muốn.

Hercules không thực sự vui mừng khi nhìn thấy Piper mang theo cái sừng bò, nhưng nét cau có của hắn giảm đi.

“Tốt,” hắn nói. “cô đã có nó. Trong trường hợp này, cô có thể đi.”

Piper liếc nhìn Jason. “Cậu nghe không. anh ta đã cho phép chúng ta.” cô quay lại vị thần. “Có nghĩa là tàu của chúng tôi có thể đi vào Địa Trung Hải?”

“Đúng, đúng.” Hercules búng tay. “Còn bây giờ, đưa cái sừng đây.”

“không,” Piper nói.

Vị thần cau mày. “Gì cơ?”

cô nâng lên chiếc sừng sung túc. Từ khi cô cắt nó khỏi đầu của Achelous, cái sừng vốn rỗng tuếch, trở nên mịn màng và tối đen ở bên trong. Ma thuật không xuất hiện, nhưng Piper vẫn tin vào sức mạnh của nó.

“Achelous đã đúng,” cô nói. “anh là tai ương của ông ta cũng như ông ta là tai ương của anh. anh hùng như anh quả là một sai lầm đáng tiếc.”

Hercules nhìn chằm chằm cô như thể cô đang nói bằng tiếng Nhật. “cô hiểu rõ ta có thể giết cô chỉ bằng cái búng tay,” gã nói. “Ta có thể ném cây gậy của ta lên thuyền của mấy người và cắt ngang thân tàu. Ta có thể–”

“anh có thể câm miệng lại,” Jason nói. Cậu rút kiếm ra. “Có lẽ Zeus đúng là khác với Jupiter. Bởi vì tôi không chịu đựng được việc có người anh em hành xử như anh.”

Các đường gân trên cổ Hercules trở nên tím ngắt như màu áo choàng của anh ta. “Cậu không phải á thần đầu tiên ta giết đâu.”

“Jason giỏi hơn anh,” Piper nói. “Nhưng đừng quá lo lắng. Chúng tôi không có ý định đánh nhau với anh. Chúng tôi sẽ rời khỏi hòn đảo với chiếc sừng. anh không xứng đáng có món quà như nó. Tôi sẽ giữ nó, để nhắc nhở là một á thần thì không được hành động thế nào và để nhắc nhở mình về Achelous và Deianira đáng thương.”

Mũi của vị thần phồng lên. “Đừng nhắc tới cái tên đó! cô đừng nên nghiêm túc cho là ta lo lắng về gã bạn trai bé nhỏ của cô. không ai mạnh hơn ta.”

“Tôi không nói mạnh hơn,” Piper sửa lại. “Tôi nói cậu ấy giỏi hơn.”

Piper chĩa lỗ hổng của chiếc sừng về phía Hercules. cô bỏ qua sự oán hận, nghi ngờ và giận dữ mà cô đã nuôi dưỡng từ khi ở trại Jupiter. cô tập trung về tất cả những điều tốt đẹp cô đã chia sẻ cùng Jason Grace: bay lên từ hẻm núi Grand Canyon, đi dạo trên bãi biển ở Trại Con Lai, nắm tay cùng nhau hát và ngắm sao, cùng nhau ngồi trên cánh đồng dâu tây vào những buổi chiều lười nhác và nghe thần rừng thổi sáo.

cô nghĩ tới tương lai khi mà bọn khổng lồ đã bị tiêu diệt, Gaea vẫn chìm trong giấc ngủ và họ sống hạnh phúc cùng nhau – không có đố kỵ, không có quái vật để chiến đấu. cô lấp đầy tâm hồn mình với những ý nghĩ đó, và cô cảm thấy chiếc sừng sung túc ấm lên.

Chiếc sừng phun ra dòng lũ thức ăn mạnh mẽ như dòng sông của Achelous. một tràng trái cây tươi, bánh nướng và giăm bông hun khói hoàn toàn nhấn chìm Hercules. Piper không hiểu bằng cách nào mà tất cả thứ đó có thể lọt qua lổ hổng của cái sừng, nhưng cô nghĩ giăm bông thì đặc biệt vừa vặn.

Khi nó tuôn ra đủ các thứ để lấp đầy cả một căn nhà, cái sừng đóng lại. Piper nghe tiếng Hercules rít lên và vật lộn ở đâu đó bên dưới. rõ ràng thậm chí cả vị thần mạnh nhất thế giới cũng có thể mất cảnh giác khi bị chôn vùi dưới những món hàng tươi mới.

“đi!” cô nói với Jason, người đã quên mất vai trò của mình trong kế hoạch và kinh ngạc nhìn chằm chằm vào đống trái cây. “đi thôi!”

Cậu ôm lấy eo của Piper và triệu hồi những cơn gió. Họ bay khỏi hòn đảo rất nhanh, Piper gần như bị vẹo cổ, nhưng như thế thì không quá sớm dù chỉ hơn một giây.

Khi hòn đảo lui khỏi tầm nhìn, đầu Hercules trồi lên trên đống hàng hóa. Nửa trái dừa mắc trên đầu gã như mũ sắt. “Giết!” hắn gầm lên, như thể hắn ta đã luyện tập nói câu này rất nhiều lần.

Jason đáp xuống boong tàu Argo II. Rất may, Leo đã hoàn thành nhiệm vụ của cậu. Mái chèo của tàu đã được thiết lập ở chế độ trên không. Neo được kéo lên. Jason triệu hồi cơn bão rất mạnh, nó đẩy họ lên trời, trong khi Percy truyền cơn sóng cao-mười-bộ-anh vào bờ, đánh ngã Hercules lần thứ hai, trong một thác nước biển và dứa.

Lúc vị thần lấy lại thăng bằng và bắt đầu ném mấy trái dừa về phía họ từ rất xa bên dưới, tàu Argo II đã chèo xuyên qua những đám mây phía trên Địa Trung Hải.

[0] Đạn người/ Human cannonball là màn trình diễn một người được bắn ra từ khẩu pháo được thiết kế đặc biệt. Động cơ cung cấp không phải bằng thuốc súng, mà nhờ vào dòng không khí nén.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Percy 5


PERCY đang không CẢM NHẬN ĐƯỢC TÌNH yêu.

Trốn chạy khỏi Atlanta vì mấy tên ác thần thần biển cả đã đủ tệ rồi. Sau lại thất bại không ngăn được con tôm khổng lồ tấn công tàu Argo II. Rồi mấy thủy nhân mã, anh em của Chiron thậm chí còn chả muốn gặp cậu.

Sau tất cả mấy vụ đó, họ tới chỗ Trụ đá Hercules và Percy phải ở lại trên tàu trong khi Ông Lớn Jason thăm nom người anh cùng cha khác mẹ. Hercules, á thần lừng danh nhất mọi thời đại và Percy cũng chả được gặp luôn.

Thôi được, chắc chắn là từ những điều Piper đã nói sau đấy, Hercules là một gã khốn, nhưng … Percy chán ở trên tàu, đi tới đi lui trên boong lắm rồi.

Ngoài khơi được cho là lãnh địa của cậu. Percy đáng ra phải bước lên phía trước, chịu trách nhiệm và giữ an toàn cho mọi người. Thay vào đó, cả đường qua Đại Tây Dương, cậu gần như chả làm gì ngoài nói chuyện chun chút với cá mập và nghe HLV Hedge hát mấy ca khúc chủ đề trên TV.

Để khiến mọi việc tệ hơn nữa, Annabeth rất xa cách từ khi họ rời Charleston. cô dành phần lớn thời gian trong khoang của mình, nghiên cứu tấm bản đồ đồng lấy được ở đồn Sumter hay tìm kiếm thông tin trong máy tính xách tay của Deadalus.

Mỗi khi Percy ghé lại gặp cô, cô chìm trong suy tư tới nỗi cuộc đối thoại thành ra thế này:

Percy: “Này, mọi chuyện thế nào rồi?”

Annabeth: “Ưm, chả sao cả, cảm ơn.”

Percy: “Tốt thôi…hôm nay cậu có ăn gì chưa?”

Annabeth: “Mình nghĩ Leo đang trực đấy. Hỏi cậu ấy coi.”

Percy: “Thế là cậu chả thèm nghe mình nói gì hả[1].”

Annabeth: “Được rồi. Tí thôi.”

Thỉnh thoảng cô lại như thế. một trong những thử thách khi hẹn hò với con gái Athena. Percy vẫn băn khoăn không biết phải làm gì khiến cô chú ý đây. Cậu rất lo cho cô sau khi cô chạm trán lũ nhện ở đồn Sumter và cậu chả biết giúp cô thế nào cho phải, nhất là nếu cô cứ chặn lời cậu thế này.

Sau khi rời Trụ Đá Hercules – không tổn hại gì ngoài bị vài trái dừa đập vô thân tàu mạ đồng – con tàu đã bay trên không đến vài trăm dặm.

Percy mong vùng đất cổ xưa không tệ như họ nghe kể. Nhưng nó gần như một quảng cáo: Các bạn sẽ thấy sự khác biệt ngay thôi!

Vài lần một giờ lại có cái gì đó tấn công con tàu. một đàn chim ăn thịt sống Stymphalian sà xuống từ bầu trời đêm và Festus thiêu trụi chúng. Mấy tinh linh bão xoay quanh cột buồm, Jason dùng sét đánh chúng nổ tung. Khi HLV Hedge đang dùng bữa tối ở đầu tàu, một con ngựa pegasus hoang chả biết từ đâu ra dẫm loạn xạ lên món enchidalas[2] của ông rồi lại bay mất, để lại dấu móng pho mát khắp cả boong.

“Làm thế làm cái quái gì chớ?” HLV hỏi gặng.

Nhìn con Pegasus khiến Percy ước gì Blackjack ở đây. Cậu cũng chẳng thấy bạn mình nhiều ngày nay rồi. Tempest với Arion cũng chẳng thấy xuất hiện. có lẽ chúng không dám mạo hiểm vô Địa Trung Hải. Nếu vậy, Percy cũng chả trách gì chúng được.

Cuối cùng tới tầm nửa đêm, sau khoảng chín mười cuộc tấn công trên không, Jason quay qua nhìn cậu. “Có lẽ cậu nên đi ngủ thì hơn. Tớ sẽ tiếp thục thổi bay cái tụi này ra khỏi bầu trời lâu nhất có thể. Rồi ta có thể đi đường biển một thời gian và để cậu nhận gác.

Percy không chắc cậu có ngủ được không khi con thuyền cứ lắc la lắc lư giữa những đám mây vì bị lũ tinh linh gió phẫn nộ rung qua lắc lại, nhưng ý của Jason cũng hay. Cậu xuống khoang dưới và đổ ập xuống giường.

Những cơn ác mộng của cậu, tất nhiên, trừ thư thái thì gì cũng có. Cậu mơ mình đang ở một cái hang tối. Chỉ thấy được vài bộ trước mặt nhưng không gian hẳn rộng lớn lắm. Nước nhỏ giọt đâu đó gần đấy và tiếng động vang dội vào tường hang. Cái cách không khí lưu thông khiến Percy cho rằng trần hang ở xa, rất xa phía trên.

Cậu nghe tiếng bước chân nặng nề và hai gã khổng lồ sinh đôi Ephialtes với Otis lê bước ra từ bóng tối. Percy chỉ phân biệt được hai gã nhờ đầu tóc – Ephialtes có các bím tóc xanh lục kết các đồng xu vàng và bạc; Otis thì tóc tết đuôi ngựa với … phải pháo không nhỉ?

Mặt khác, chúng còn ăn mặc giống nhau và trang phục thì đúng là từ trong một cơn ác mộng. Chúng cùng mặc quần âu trắng và áo sơ mi cướp biển vàng kim với cổ chữ V để hở quá nhiều lông ngực. Cả tá dao găm có vỏ bọc xếp hàng trên thắt lưng đính hột cườm của chúng. Giày chúng là xăng đan hở ngón, chứng minh rằng – phải, thực sự – chân chúng là lũ rắn. Dây dép quấn quanh cổ tụi rắn. Đầu chúng ngóc lên ở chỗ nên là những ngón chân mới đúng. Tụi rắn hào hứng lè lưỡi và đảo đôi mắt vàng kim về mọi hướng, như mấy con chó nhìn qua cửa kính ô tô vậy. Có lẽ lâu rồi chúng mới được đi dép có chỗ nhìn.

Lũ khổng lồ đứng ngay trước mặt Percy nhưng chả thèm chú ý gì tới cậu. Thay vào đó, chúng chăm chú nhìn vô bóng tối.

“Bọn tôi ở đây,” Ephialtes thông báo. Bất kể giọng nói ầm ầm của hắn, lời hắn nói tiêu tán trong hang động, tới khi dội lại đã chỉ còn rất nhỏ và không đáng kể.

Xa xa phía trên, thứ gì đó đáp, “Ừ. Ta thấy rồi. Quần áo thế thì khó mà không thấy lắm.”

Giọng nói khiến dạ dày Percy sa xuống tận sáu inch. Nghe mơ hồ là nữ, nhưng không giống người mảy may. Mỗi từ là một tiếng rít méo mó đa âm bậc như một đàn ong sát thủ Châu Phi đồng loạt nói tiếng anh.

không phải Gaea. Percy đoan chắc. Nhưng nó có là gì chăng nữa cũng khiến hai tên khổng lồ sinh đôi trở nên căng thẳng. Chúng đổi chỗ và khẽ gật đầu chào khúm núm.

“Tất nhiên rồi, thưa Lệnh Bà,” Ephialtes nói. “Chúng tôi mang tin mới–”

“Sao các người ăn vận kiểu đó?” thứ trong bóng tối hỏi. Bà ta có vẻ không tới gần thêm nữa, cũng ổn với Percy.

Ephialtes ném cho em trai một cái nhìn bực tức. “Lẽ ra thằng em tôi phải mặc cái khác. thật không may–”

“Mày bảo tao là người phóng dao hôm nay mà,” Otis cự lại.

“Tao bảo tao là người phóng dao hôm nay! Mày sẽ là ảo thuật gia! A, thứ lỗi cho tôi thưa Lệnh Bà. Bà không muốn nghe bọn tôi gây gổ đâu nhỉ. Chúng tôi đến như bà yêu cầu, mang tin mới đến cho bà. Con tàu đang tiến gần.”

Lệnh Bà, dù bà ta là thứ gì đi nữa, làm một tràng rít dữ dội như chiếc lốp xe bị rạch liên tục. Rùng mình một cái, Percy nhận ra bà ta đang cười.

“Bao lâu nữa?” bà ta hỏi.

“Chúng sẽ đáp xuống Rome ngay sau bình minh, tôi nghĩ thế,” Ephialtes nói. “Tất nhiên, chúng phải qua ải gã trai vàng cái đã.”

Gã chế nhạo như thể gã trai vàng không phải kẻ hắn thích gì cho cam.

“Ta mong chúng đến nơi an toàn,” Phu Nhân bảo. “sẽ mất cả vui nếu bắt được chúng quá sớm. Các người chuẩn bị xong chưa?”

“Rồi, thưa Lệnh Bà.” Otis bước tới trước và cái hang rung lên. một vết nứt xuất hiện dưới con rắn bên trái Otis.

“Cẩn thận, thằng ngu!” Lệnh Bà gầm gừ. “Ngươi có muốn về lại Tartarus luôn không hả?”

Otis trườn lại, mặt hắn đờ ra kinh hãi. Percy nhận thấy sàn hang trông như đá rắn rõ giống sông băng cậu từng đi ở Alaska – có chỗ rắn, chỗ khác…không rắn mấy. Cậu rất mừng vì mình vô tọng lượng trong mơ.

“Còn lại rất ít thứ gắn kết nơi này với nhau,” Lệnh Bà cảnh báo. “Ngoại trừ, đương nhiên, kỹ năng của riêng ta. Cơn thịnh nộ hàng thế kỷ của Athena được giữ tốt đến thế này là cùng, và Mẹ Đất Vĩ Đại đang chìm trong giấc ngủ ngay dưới chúng ta. Giữa hai áp lực đó, nên…tổ của ta mòn dần. Chúng ta phải hy vọng đứa con này của Athena tỏ ra là một nạn nhân xứng đáng. Ả có thể là món đồ chơi cuối cùng của ta.”

Ephialtes nuốt nước bọt. Mắt hắn nhìn vào các vệt nứt trên sàn. “không lâu nữa nó sẽ chả còn quan trọng nữa rồi, thưa Lệnh Bà. Gaea sẽ trỗi dậy và tất cả chúng ta sẽ được thưởng công. Bà sẽ không còn phải canh giữ nơi này hay giấu giếm công trình của mình nữa.”

“Có lẽ thế,” giọng nói trong bóng tối đáp. “Nhưng ta sẽ bỏ lỡ vị ngọt của sự báo thù. Chúng ta đã cộng tác tốt với nhau hàng thế kỷ rồi, phải chứ?”

Cặp sinh đôi cúi đầu. Những đồng xu lấp lánh trên tóc Ephialtes, và Percy ghê tởm nhận ra chắc chắn một số là đồng bạc drachma, y hệt đồng Annabeth nhận từ mẹ cô.

Annabeth nói với cậu, mỗi thế hệ, vài đứa con của Athena lại phải thực hiện nhiệm vụ thu hồi bức tượng Parthenon. Chưa từng có người thành công.

Chúng ta đã cộng tác tốt với nhau hàng thế kỷ rồi…

Gã khổng lồ Ephialtes có những đồng xu trị giá hàng thế kỷ trên bím tóc – hàng trăm chiến lợi phẩm. Percy tưởng thấy Annabeth đơn độc đứng ở nơi tăm tối này đây. Cậu tưởng tượng thấy gã khổng lồ kia lấy đồng xu cô mang theo và thêm vào bộ sưu tập của hắn. Percy muốn rút gươm và cắt phăng tóc gã từ cổ, nhưng cậu bất lực. Cậu chỉ có thể đứng xem.

“A, Lệnh Bà.” Ephialtes lo lắng nói. “Tôi muốn nhắc bà là Gaea muốn đứa con gái bị bắt sống. Bà có thể hành hạ nó. Khiến nó phát điên. Tất nhiên, bất kì điều gì bà muốn. Nhưng máu của nó phải đổ trên những khối đá cổ xưa.”

Lệnh Bà rít lên. “Những đứa khác dùng thế cũng được cơ mà.”

“P-Phải,” Ephialtes nói. “Nhưng đứa này được ưa thích hơn. Và thằng nhóc – con trai Poseidon. Bà hiểu được tại sao hai đứa nó lại phù hợp với việc này mà.”

Percy không chắc điều đó có nghĩa là gì, nhưng cậu muốn đập nát sàn hang và cho cặp song sinh áo vàng ngu độn kia xuống địa ngục tức thì. Cậu sẽ không bao giờ để Gaea tế máu cậu làm bất cứ cái gì – và không không đời nào cậu để bất cứ kẻ nào làm tổn thương Annabeth.

“Cứ để coi,” Lệnh Bà gầm gừ. “đi đi. đi lo việc chuẩn bị của tụi bay đi. Tụi bay sẽ có màn trình diễn của mình. Và ta…ta sẽ làm việc trong bóng tối.”

Giấc mơ tan biến và Percy tỉnh mộng[3].

Jason đang gõ vô cánh cửa mở khoang cậu.

“Chúng ta vừa hạ xuống nước,” cậu nói, trông hoàn toàn kiệt sức. “Đến lượt cậu đấy.”

Percy không muốn, nhưng cậu đánh thức Annabeth. Cậu nghĩ ngay cả HLV Hedge cũng sẽ chả bận tâm việc họ nói chuyện sau giờ giới nghiêm nếu đó là việc cung cấp thông tin có thể cứu mạng cô.

Họ đứng trên boong, một mình ngoại trừ Leo, người đang trông coi bánh lái. Cậu chàng chắc kiệt sức lắm rồi nhưng vẫn từ chối đi ngủ.

“Mình không muốn thêm vụ bất ngờ Quái Tôm nào nữa,” cậu khăng khăng.

Họ đã cố thuyết phục Leo rằng vụ con skolopendra tấn công không hoàn toàn là lỗi ở cậu, nhưng cậu không nghe. Percy biết cảm giác của cậu. không tha thứ lỗi lầm bản thân là một trong những tài năng lớn nhất của Percy.

Khoảng bốn giờ sáng. Thời tiết tồi tệ. Sương quá dày, Percy không thể thấy Festus chỗ cuối mũi tàu, và mưa phùn âm ấm giăng giữa tầng không như tấm rèm hạt. Khi họ chèo vào những sóng cao hai mươi foot, biển nhộn nhạo bên dưới họ, Percy có thể nghe thấy Hazel đáng thương dưới khoang của mình…cũng đang nhộn nhạo.

Dù thế, Percy vẫn rất cảm kích được trở lại trên mặt nước. Cậu thích thế nay hơn là bay qua mây bão, bị tấn công bởi bọn chim ăn thịt người và tụi Pegasus chà đạp enchilada.

Cậu đứng cùng Annabeth ở lan can phía trước mũi tàu khi kể cô nghe giấc mơ của mình.

Percy không chắc cô sẽ tiếp nhận tin này thế nào. Phản ứng của cô thậm chí còn đáng lo ngại hơn cậu dự đoán: cô chẳng có vẻ gì ngạc nhiên cả.

cô chăm chú nhìn màn sương mù. “Percy, cậu phải hứa với mình một điều. Đừng kể cho những người khác về giấc mơ này.”

“Đừng gì cơ? Annabeth–”

“Những điều cậu đã thấy là về Dấu hiệu Athena,” cô bảo. “Những người khác biết sẽ chả ích gì. Nó chỉ khiến họ thêm lo và khiến mình khó một mình khởi hành hơn.”

“Annabeth, cậu không nói nghiêm túc đó chứ. Thứ trong bóng tối đấy, căn phòng lớn với sàn phòng đổ nát–”

“Mình biết.” Mặt cô nhợt nhạt thiếu tự nhiên và Percy ngờ rằng đó không chỉ là tại sương mù mà thôi. “Nhưng mình phải làm một mình.”

Percy nuốt xuống cơn giận. Cậu chẳng rõ mình đang nổi điên nổi đóa với Annabeth, giấc mơ của bản thân hay là cả thế giới Hy Lạp/La Mã đã tồn tại và định hình lịch sử nhân loại tận năm nghìn năm với một mục tiêu duy nhất: khiến đời cái thằng Percy Jackson càng khốn càng hay.

“Cậu biết có gì trong cái hang đó,” cậu đoán. “Có phải liên quan đến nhện không?”

“Phải,” cô nhỏ giọng đáp.

“Thế sao cậu lại có thể…?” Cậu tự ép mình phải dừng.

một khi Annabeth đã quyết định thì tranh cãi với cô cũng chả ích gì. Cậu nhớ cái đêm ba năm rưỡi trước, khi họ cứu Nico và Bianca di Angelo ở Maine. Annabeth đã bị Titan Atlas bắt. có lúc Percy không chắc cô còn sống hay đã chết. Cậu băng qua cả đất nước để cứu cô khỏi tay tên Titan. Đó là những ngày khó khăn nhất đời cậu – không chỉ bởi lũ quái vật hay phải chiến đấu, mà còn vì nỗi lo.

Sao cậu có thể cố ý để cô đi lúc này khi biết cô đang đâm đầu vào nơi thậm chí nguy hiểm gấp bội?

Sau đó cậu chợt nhận ra: cảm xúc của cậu trước đó, trong mấy ngày ấy, có lẽ cũng là cảm xúc của Annabeth trong sáu tháng cậu mất tích và mất trí nhớ.

Việc đó khiến cậu thấy tội lỗi và hơi chút ích kỷ mà đứng đây cãi vã với cô. cô phảithực hiện nhiệm vụ này. Số phận thế giới có lẽ phụ thuộc vào điều này. Nhưng một phần trong cậu muốn bảo: Quên quách thế giới đi. Cậu không muốn sống thiếu cô.

Percy chăm chăm ngó màn sương. Cậu không thấy được bất cứ thứ gì quanh họ nhưng lại có mối liên hệ hoàn hảo với biển. Cậu biết chính xác vĩ độ và kinh độ chỗ họ. cậu biết chính xác độ sâu của biển và hướng chảy hải lưu. Cậu biết tốc độ con tàu và cảm ứng được không có bất kỳ mỏm đá, bãi cát hay những mối hiểm nguy tự nhiên nào trên đường đi. Dù thế, bị mù vẫn đáng lo ngại.

Họ vẫn chưa bị tấn công từ khi hạ thủy nhưng biển lại cứ khang khác. Percy từng ở Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, kể cả Vịnh Alaska, nhưng biển này mang lại cảm giác cổ xưa và quyền năng hơn. Percy cảm ứng được các tầng nước xoáy cuộn phía dưới. Mọi người hùng Hy Lạp hay La Mã đều đã từng chèo qua đây – từ Hercules tới Aeneas[4]. Quái vật vẫn cư ngụ dưới đáy sâu, bị bao bọc thật sâu trong Màn Sương Mù nên ngủ suốt, nhưng Percy thấy chúng cựa quậy, phản ứng với thân tàu bằng đồng Thiên Thai của thuyền cổ ba tầng chèo Hy Lạp và sự hiện diện của máu á thần.

Chúng trở lại rồi, lũ quái dường như nói. Cuối cùng cũng có máu tươi.

“Chúng ta không còn xa bờ biển Ý nữa đâu,” Percy nói, gần như để phá tan im lặng. “Khoảng một trăm hải lý nữa là tới cửa sông Tiber.”

“Tốt,” Annabeth bảo. “Trước bình minh, ta nên–”

“Dừng lại.” Da Percy như nhúng qua nước đá. “Ta phải dừng lại.”

“Tại sao?” Annabeth hỏi.

“Leo, dừng ngay!” cậu hét.

Quá muộn. một con tàu khác hiện ra từ màn sương và đâm đầu vào họ. Giây lát ấy, Percy nắm bắt được vài chi tiết ngẫu nhiên: một tuyền ba tầng chèo khác; buồm sơn đen vẽ đầu một ả tóc rắn, lũ chiến binh thô kệch, không giống người lắm, tụ tập trước thuyền trong giáp phục Hy Lạp, gươm giáo sẵn sàng; một rầm đồng ngang mực nước, đâm sầm vô thân tàu Argo II.

Annabeth với Percy gần như bị ném văng khỏi tàu.

Festus phun lửa, tống cả tá chiến binh vô cùng bất ngờ la hét lặn xuống biển, nhưng còn nhiều tên khác bu lấy tàu Argo II. Móc dây quanh lan can và cột buồm, cắm móng sắt vô thân ván tàu.

Lúc Percy khôi phục thần trí, địch đã rải khắp nơi. Cậu không thể nhìn rõ qua sương mù và bóng tối, nhưng những tay xâm lược có vẻ là lũ cá heo giống người hay người giống cá heo. Mấy tên có mõm xám. Những tên khác cầm gươm bằng tay chèo[5]. Vài thằng lạch bạch trên đôi chân phần nào dính lại với nhau trong khi những kẻ khác có chân chèo thay vì bàn chân khiến Percy nhớ đến đôi giày hề.

Leo rung chuông cảnh báo. Cậu nhào tới chiếc nỏ phóng tiễn gần nhất nhưng bị đè dưới cả đống chiến binh cá heo quàng quạc.

Annabeth với Percy đứng lưng kề lưng như từng làm nhiều lần trước đây, rút vũ khí ra. Percy cố triệu hồi sóng biển, mong rằng đẩy được hai tàu tách nhau ra hay thậm chí là đánh lật tàu địch, nhưng chả có gì xảy ra. Gần như cảm thấy có gì đó đẩy ngược lại ý cậu, giành lại biển khơi từ quyền kiểm soát của cậu.

Câu giương cao thanh Thủy Triều, sẵn sàng chiến đấu, nhưng họ bị áp đảo tới mức tuyệt vọng. Vài tá chiến binh cá heo hạ giáo và vây thành vòng quanh họ, khôn ngoan giữ khoảng cách xa tầm tấn công của thanh kiếm của Percy. Lũ người cá heo há mõm tạo ra những tiếng huýt gió và lốp bốp ầm ĩ. Percy chưa từng nghĩ răng cá heo ghê tới mức nào.

Cậu cố suy nghĩ. Có khi cậu có thể phá vây thoát ra và tiêu diệt vài kẻ xâm lăng, nhưng đó là không có những tên khác xiên thịt cậu và Annabeth.

Ít ra tụi chiến binh không có vẻ thích thú giết cậu ngay. Chúng giữ Percy và Annabeth bị vây ở trong khi thêm nhiều đồng bọn nữa của chúng ào xuống khoang dưới và canh giữ thân tàu. Percy có thể nghe chúng đang đập vỡ cửa các khoang, xô xát với bạn bè mình. Dù cho các á thần khác không ngủ say chăng nữa, thì cũng chả có lấy chút cơ hội nào phản kháng nhiều tên đến vậy.

Leo bị kéo qua boong tàu, nửa mê nửa tỉnh, rên rỉ và bị ném vào giữa đống dây thừng. Phía dưới, tiếng đánh nhau giảm dần. Hoặc những người khác đã bị khuất phục hoặc…hoặc Percy từ chối nghĩ về điều đó.

một bên vòng vây bằng giáo, lũ chiến binh cá heo tách ra cho ai đó qua. Gã có vẻ hoàn toàn là người, nhưng nhìn cái cách lũ cá heo lùi lại trước gã, rõ ràng gã là thủ lĩnh rồi. Gã vận chiến giáp Hy Lạp – xăng đan, váy, giáp ống chân và giáp che ngực trang trí một mẫu quái vật biển tinh vi – mọi thứ gã vận là vàng. Kể cả gươm, một lưỡi gươm Hy Lạp như Thủy Triều, nhưng bằng vàng thay vì đồng.

Gã trai vàng, Percy nghĩ, nhớ tới giấc mơ. Chúng phải qua ải gã trai vàng cái đã.

Cái thực sự khiến Percy lo lắng là mũ bảo hiểm của gã kia. Tấm che mặt của hắn là tấm mặt nạ cả mặt tạo hình một chiếc đầu gorgon – nanh cong, nét mặt khủng khiếp ép lại thành mớ rùm beng và mái tóc rắn vàng cuốn quanh khuôn mặt. Percy từng gặp gorgon trước đây. Miêu tả rất sát – hơi quá sát với khẩu vị của cậu.

Annabeth quay lại thành ra vai kề vai Percy. Cậu muốn ôm choàng lấy cô mà che chở, nhưng cậu ngờ cô chả đánh giá cao hành đó tí nào, và cậu không muốn cho gã trai vàng thấy bất cứ dấu hiệu nào rằng Annabeth là bạn gái cậu. Chả tội gì cho kẻ thù nhiều điểm lợi dụng hơn những gì chúng sẵn có.

“Các người là ai?” Percy gặng hỏi. “Các người muốn gì hả?”

Gã chiến binh vàng cười khúc khích. Bằng một cú vụt nhẹ lưỡi gươm, nhanh hơn mức Percy theo kịp, gã thảy Thủy Triều khỏi tay Percy và hất văng nó xuống biển.

Có lẽ gã cũng vừa quẳng luôn phổi Percy xuống biển, bởi đột nhiên Percy không thở nổi. Cậu chưa từng bị tước vũ khí dễ dàng đến thế.

“Chào, người anh em.” Giọng gã chiến binh vàng trầm ấm mượt mà với âm nhấn nhá kỳ lạ – Trung Đông, có lẽ vậy – mà có vẻ hơi quen thuộc. “Luôn rất vui được cướp một thằng cũng con trai của Poseidon. Tên tao là Chrysaor, Gươm Vàng. Và những gì tao muốn…” Gã quay chiếc mặt nạ vàng sang Annabeth. “Ồ, dễ thôi. Tao muốn mọi thứ mày có.”

[1] my hair is on fire: thành ngữ, nói khi người khác k chịu nghe mình nói, thaái độ bực mình

[2] enchilada: Món ăn Mexico và Tex-Mex cuốn thịt gà hay gà tây và phó mát, đậu… trong bánh tortilla bằng bắp, xốt cà chua, ớt, hoặc sô-cô-la, rồi nướng lên.

[3]wake with a start: tỉnh lại sau 1 giấc ngủ toàn mộng mị, k ngủ sâu

[4]Trong thần thoại Hy Lạp, Aeneas (tiếng Hy Lạp: Αἰνείας, Aineías; phát âm như I-ni-át) là một anh hùng của thành Troia, là con trai của Anchises và nữ thần tình yêu Aphrodite (Venus trong thần thoại La Mã). Cha của ông là anh em họ của vua Priam của thành Troia. Cuộc hành trình của Aeneas từ Troia, (do Aphrodite chỉ dẫn) điều đã dẫn đến sự thành lập Roma, được đề cập đến trong sách Aeneid của Virgil. Đồng thời Aeneas cũng là nhân vật trong truyện Iliad của Homer và trong một vở kịch Troilus and Cressida của William Shakespeare.

[5]loại chân chèo hay thấy ở rùa, cá heo, cá voi, ở đây cầm kiếm nên để tay chèo cho hợp
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Percy 6


TIM PERCY NHẢY TƯNG TƯNG trong khi Chrysaor đi tới đi lui, đánh giá họ như những chiến lợi phẩm. Khoảng một tá chiến binh nửa người nửa cá heo đứng thành vòng tròn xung quanh, mũi giáo chĩa vào ngực Percy, trong khi khoảng hơn một tá khác lục soát con tàu, gây ra những tiếng ầm ĩ dưới boong.

một tên ôm một hộp bánh thánh bước lên cầu thang. một tên khác ôm một thùng Lửa Hy Lạp trong tay.

“Cẩn thận với thứ đó!” Annabeth cảnh báo. “Nó sẽ làm nổ tung cả hai con tàu đấy.”

“Ha!” Chrysaor nói. “Bọn ta biết tất cả về Lửa Hy Lạp, cô gái. Đừng lo lắng. Bọn ta đã cướp tàu ở Địa Trung Hải nhiều niên kỷ rồi.”

“Giọng anh nghe quen lắm,” Percy nói. “Chúng ta từng gặp nhau chưa nhỉ?”

“Tao đã không có được hân hạnh đó.” Chrysaor gầm gừ với cậu qua lớp mặt nạ nữ thần đầu rắn bằng vàng mặc dù không thấy được biểu hiện thật sự của hắn bên dưới nó. “Nhưng tao đã nghe nói rất nhiều về mày, Percy Jackson. Ồ, đúng, chàng trai trẻ, người giải cứu Olympus. Và người phụ tá trung thành của mình, Annabeth Chase.”

“Tôi không phải là phụ tá của ai cả,” Annabeth gầm gừ. “Và, Percy, giọng hắn có vẻ quen thuộc bởi vì nó giống với giọng nói của mẹ hắn. Chúng ta đã giết bà ta ở New Jersey.”

Percy cau mày. “Mình khá chắc rằng đây không phải là giọng New Jersey. Ai là…? Ồ.”

Tất cả đều trùng khớp. Chợ Vườn Thần Lùn dì Em–hang ổ của Medusa. Bà ta đã nói cùng một chất giọng đó, ít nhất là cho đến khi Percy cắt đầu bà ta.

“Medusa là mẹ của anh á?” Cậu hỏi. “Tiếc cho anh quá, anh bạn.”

Xét theo những âm thanh từ cổ họng Chrysaor, có lẽ hắn lại gầm gừ lần nữa qua lớp mặt nạ.

“Mày đúng là kiêu ngạo hệt như tên Perseus đầu tiên,” Chrysaor nói. “ Nhưng, đúng, Percy Jackson. Poseidon là cha tao. Medusa là mẹ tao. Sau đó Medusa đã bị biến thành quái vật bởi kẻ được gọi là nữ thần trí tuệ…” Cái mặt nạ vàng quay phắt sang Annabeth. “Đó chính là mẹ của mày. Ta tin rằng…hai đứa con của Medusa vẫn còn mắc kẹt bên trong bà, chưa được sinh ra. Khi tên Perseus đầu tiên cắt đầu của Medusa–”

“Hai đứa trẻ đã nhảy ra,” Annabeth nhớ lại. “Pegasus và anh.”

Percy chớp mắt. “Vậy ra anh trai anh là một con ngựa có cánh. Nhưng anh là anh em cùng cha khác mẹ với tôi, có nghĩa là tất cả những con ngựa bay trên thế giới là…anh biết không? Quên đi.”

Cậu đã học được từ vài năm trước đây rằng không nên chú tâm quá nhiều vào những mối quan hệ của thần thánh. Sau khi Cyclop Tyson đã nhận cậu là anh trai, Percy quyết định xem đó như việc mở rộng phạm vi gia đình.

“Nhưng nếu anh là con của Medusa,” cậu nói, “tại sao tôi chưa bao giờ nghe nói đến anh?”

Chrysaor thở dài trong giận dữ. “Khi anh trai mày là Pegasus, mày sẽ dễ dàng bị lãng quên. Ồ, nhìn kìa, một con ngựa có cánh! Có ai quan tâm đến tao không? không!” hắn nâng mũi kiếm lên ngang đôi mắt Percy. “Nhưng đừng đánh giá thấp tao. Tên của tao là Gươm Vàng cũng là có lý do.”

“Vàng Hoàng Gia?” Percy đoán.

“Hừ! Vàng Tiên Thuật, phải. Sau đó, người La Mã gọi nó là Vàng Hoàng Gia, nhưng tao là người đầu tiên sử dụng môt thanh kiếm như vậy. Lẽ ra tao đã trở thành vị anh hùng nổi tiếng nhất mọi thời đại! Từ khi những kẻ-kể-chuyện-thần-thoại đó phớt lờ tao, tao lại trở thành một kẻ phản diện. Tao quyết định sẽ sử dụng những gì tao được thừa hưởng. Là con trai của Medusa, tao sẽ gieo rắc sự kinh hoàng. Là con trai của Poseidon, tao sẽ cai trị các vùng biển!”

“anh đã trở thành cướp biển,” Annabeth kết luận.

Chrysaor dang tay, điều đó thật tốt với Percy, nó khiến mũi kiếm cách xa mắt cậu.

“Tên cướp biển giỏi nhất,” Chrysaor nói. “Tao đã tung hoành trong vùng biển này trong nhiều thế kỷ, cướp bóc những tên á thần ngu ngốc đi thăm dò về Địa Trung Hải. Bây giờ đây là lãnh thổ của tao. Và tất cả những gì của tụi bay là của tao.”

một trong những tên chiến binh nửa người nửa cá heo lôi HLV Hedge từ dưới hầm tàu lên.

“Thả ta ra, đồ cá ngừ!” Hedge gầm lên. Ông cố gắng để đá tên chiến binh, nhưng cái móng chỉ làm bộ áo giáp phát ra tiếng kêu leng keng. Xét từ các dấu móng in trên áo giáp và mũ sắt của tên chiến binh nửa người nửa cá heo, có thể thấy huấn luyện viên đã rất cố gắng.

“À, một thần rừng.” Chrysaor trầm ngâm. “Còn trẻ và dẻo dai, đám Cyclopes sẽ trả tiền cho mẩu thức ăn như ngươi. Trói hắn lại.”

“Ta không phải là thịt dê!” Hedge phản đối.

“Tốt hơn là bịt miệng hắn lại,” Chrysaor quyết định.

“Đồ nhóc con mạ vàng nhà ngươi–” lời sỉ nhục của Hedge bị cắt ngang khi tên cá heo nhét một nùi vải nhờn vào miệng ông. Ngay sau đó huấn luyện viên bị trói gô như một con bê và ném sang chỗ khác–nơi để những cái thùng đựng thức ăn, vũ khí bổ sung, cả những rương nước đá ma thuật từ nhà ăn.

“Mấy người không thể làm như vậy!” Annabeth hét lên.

Tiếng cười của Chrysaor vang dội từ trong cái mặt nạ vàng của hắn. Percy tự hỏi liệu khuôn mặt dưới lớp mặt nạ có bị biến dạng khủng khiếp, hoặc liệu ánh mắt của hắn ta có thể hóa đá người khác như cách mà mẹ hắn có thể làm.

“Ta có thể làm bất cứ điều gì ta muốn,” Chrysaor nói. “những chiến binh của ta đã được huấn luyện hoàn hảo. Chúng xấu xa, tàn bạo–”

“Những con cá heo,” Percy lưu ý.

Chrysaor nhún vai. “Đúng. Vậy thì sao? Chúng đã không gặp may vài thiên niên kỷ trước, bắt cóc sai người. một vài người trong thủy thủ đoàn đã hoàn toàn biến thành cá heo. một số khác thì trở nên điên loạn. Những…những kẻ tồn tại như những sinh vật lai. Khi tao tìm thấy chúng ở dưới biển và cho chúng một cuộc sống mới, chúng đã trở thành thủy thủ đoàn trung thành của tao. Chúng không sợ gì cả!”

một trong những tên chiến binh tỏ ra lo lắng.

“Đúng, đúng.” Chrysaor gầm gừ. “Chúng sợ một thứ, nhưng điều đó không quan trọng. hắn ta đâu có ở đây.”

một ý tưởng xẹt qua trong óc Percy. Trước khi cậu kịp đuổi theo nó, những tên chiến binh cá heo đã leo lên cầu thang, lôi những người bạn còn lại của cậu lên. Jason đã bất tỉnh. Xét từ những vết bầm tím trên mặt cậu, có thể thấy cậu đã cố gắng để chiến đấu. Hazel và Piper bị trói cả tay và chân. Piper bị nhét một nùi vải trong miệng, như vậy rõ ràng là những tên cá heo này đã phát hiện ra cô có thể quyến rũ bằng giọng nói. Frank là người duy nhất mất tích, mặc dù hai trong số những tên cá heo có đầy vết ong chích trên mặt.

Frank thật sự có thể biến thành một đàn ong? Percy hy vọng như vậy. Nếu cậu ấy đang được tự do ở nơi nào đó trên tàu, có thể đó là một sự thuận lợi, giả như Percy có thể tìm được cách giao tiếp với cậu chẳng hạn.

“Tuyệt vời!” Chrysaor hả hê. hắn chỉ đạo mấy tên chiến binh ném Jason xuống sàn tàu cạnh những chiếc nỏ. Sau đó hắn xem xét các cô gái như thể họ là quà Giáng sinh, điều đó khiến Percy giận đến nghiến răng.

“Thằng nhóc đó không hữu dụng với ta,” Chrysaor nói. “Nhưng chúng ta biết mụ phù thủy Circe. Mụ ta sẽ mua phụ nữ–làm nô lệ hoặc học viên, tùy thuộc vào khả năng của họ. Nhưng không phải cô, Annabeth đáng yêu.”

Annabeth lùi lại. “Mi không thể đưa ta đi bất cứ đâu.”

Tay của Percy len lỏi vào túi của mình. Cây bút của cậu đã xuất hiện trở lại trong chiếc quần jeans. Cậu có một chút bối rối khi rút thanh kiếm ra. Có lẽ nếu cậu có thể hạ gục Chrysaor một cách nhanh chóng, thủy thủ đoàn của hắn sẽ hoảng loạn.

Cậu ước gì mình có thể biết điều gì đó về điểm yếu của Chrysaor. Thường thì Annabeth là người cung cấp cho cậu những thông tin như vậy, nhưng rõ ràng là Chrysaor không có bất kỳ huyền thoại nào, vì vậy tất cả đều ở trong bóng tối.

Tên chiến binh vàng tặc lưỡi. “Ồ, thật đáng buồn, Annabeth, cô sẽ không ở lại đây với ta. Ta rất muốn. Nhưng cô và bạn cô Percy cũng đã rõ. một nữ thần đã trả một số tiền thưởng rất cao để bắt cô–còn sống, nếu có thể, mặc dù không nói là cô phải nguyên vẹn gì.”

Đúng lúc đó, Piper gây ra sự nhiễu loạn mà họ đang cần. cô kêu gào ầm ĩ đến mức có thể nghe thấy được qua nùi vải. Sau đó, cô ngất đi, tựa người vào tên lính canh gần nhất, đẩy hắn ta sang một bên. Hazel hiểu ý và sụp xuống sàn tàu, đá chân lung tung và phối hợp một cách hoàn hảo.

Percy rút thanh Thủy Triều ra và tấn công. Lưỡi kiếm tiến thẳng đến cổ của Chrysaor, nhưng không ngờ tên chiến binh vàng đã nhanh hơn.

hắn né tránh và đỡ đòn trong khi những tên chiến binh cá heo lui lại, canh gác những người bị bắt khác trong khi chỉ huy của chúng chiến đấu. Chúng kêu gào, rít thé và cổ vũ hắn, Percy nghi ngờ rằng thủy thủ đoàn đã quen với trò giải trí kiểu này. Chúng không hề cảm thấy thủ lĩnh của mình đang gặp bất cứ nguy hiểm gì.

Percy đã lâu không đọ gươm với một đối thủ như thế này từ khi…phải, từ khi cậu đấu với thần chiến tranh Ares. Chrysaor cũng giỏi hệt thế. Rất nhiều quyền năng của Percy đã trở nên mạnh hơn qua mấy năm nay, nhưng bây giờ, quá muộn, Percy nhận thấy kiếm thuật của cậu chẳng phải một trong số những quyền năng ấy.

Cậu khá tệ–ít nhất là đối với một đối thủ như Chrysaor.

Họ đã chiến đấu và tiến gần, đẩy mạnh rồi tránh né. Vô tình, Percy nghe thấy giọng của Luke Castellan, người thầy dạy đấu kiếm đầu tiên của cậu ở Trại Con Lai, gạt hết suy tư. Nhưng nó không giúp ích được gì.

Cái mặt nạ nữ hoàng đầu rắn bằng vàng đã rất khó chịu. Sương mù ấm nóng, sàn tàu trơn trượt, những tiếng huyên náo của lũ chiến binh–chả thứ gì có ích hết trơn. Và qua khóe mắt của mình, Percy có thể thấy một trong số chiến binh cá heo cầm một con dao kề vào cổ họng Annabeth để phòng trường hợp cô cố giở trò gì đó.

Cậu nhử và đâm vào bụng Chrysaor, nhưng Chrysaor đã đoán được. hắn gạt thanh kiếm của Percy ra khỏi tay cậu và thanh Thủy Triều một lần nữa rơi xuống biển.

Chrysaor cười như nắc nẻ. hắn thậm chí không thở được nữa. hắn ấn mũi kiếm vàng của hắn xuống ức Percy.

“Nỗ lực khá đấy,” tên cướp biển nói. “Nhưng bây giờ mày sẽ được trói lại và giao cho lũ tay sai của Gaea. Chúng khá háo hức hiến tế máu của mày và đánh thức nữ thần đó.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Percy


CÁI KHÓ LÓ CÁI KHÔN.

Khi Percy đứng đấy, bị tước vũ khí và bị áp đảo, kế hoạch hình thành trong đầu cậu. Cậu quá quen với việc được Annabeth cung cấp trông tin về truyền thuyết Hy Lạp nên rất bỡ ngỡ với việc thực sự phải nhớ ra cái gì hữu ích, nhưng cậu phải hành động thật nhanh. Cậu khổng thể mặc cho bất cứ chuyện gì xảy ra với bạn bè mình. Cậu sẽ không để mất Annabeth-không mất cô lần nữa.

Chrysaor không thể bị đánh bại. Ít ra không phải là đấu tay đôi. Nhưng khi không có thủy thủ đoàn của hắn…có khi lúc ấy hắn sẽ bị áp đảo nếu có đủ á thần tấn công hắn cùng lúc.

Giải quyết thủy thủ đoàn của Chrysaor thế nào đây? Percy suy luận: tên cướp biển đã bị biến thành người-cá-heo hàng thiên niên kỷ trước khi bắt cóc nhầm người. Percybiết câu chuyện đó. Chết tiệt, người bị bắt nhầm trong trường hợp đó đã đe dọa biếnhắn thành cá heo. Và khi Chrysaor bảo thủy thủ đoàn không sợ bất cứ thứ gì, một trong những con cá heo đã lo lắng sửa lại. Phải, Chrysaor bảo. Nhưng hắn ta đâu có ở đây.

Percy liếc về phía đôi tàu và phát hiện ra Frank, trong hình dáng con người, đang nhìn trộm ra từ phía sau một chiếc nỏ phóng tiễn, đợi. Percy gượng cố không cười. Cậu chàng to con bị coi là vụng về vô dụng nhưng lại luôn ở ngay đúng chỗ khi Percy cần tới.

Các cô gái…Frank…thùng nước đá.

Đó là một ý tưởng điên rồ. Nhưng, như thường lệ, đó là tất cả những gì mà Percy có.

“Được thôi!” Percy hét tướng, to tới nỗi ai cũng chú ý tới cậu. “Cứ đưa tụi ta đi nếu thuyền trưởng của tụi ta cho phép.”

Chrysaor quay cái mặt nạ vàng lại. “Thuyền trưởng nào? Người của tao đã lục soát hết con tàu. Chả còn ai khác nữa.”

Percy điệu nghệ giương tay lên. “Vị thần chỉ xuất hiện khi nào ngài muốn. Nhưng ngài là thủ lĩnh của tụi này. Ông ấy điều hành trại á thần của tụi ta. Phải không, Annabeth?”

Annabeth nhanh nhảu. “Phải!” cô hào hứng gật đầu. “Ngài D! Thần Dionysus Vĩ Đại!”

một làn sóng bồn chồn lan qua lũ người-cá-heo. một tên đánh rơi gươm.

“Vào hàng ngay!” Chrysaor gầm lên. “Đếch có thần thánh nào trên tàu sất. Bọn nó đang cố dọa tụi bay đó.”

“Tụi bay nên sợ đi là hơn!” Percy nhìn đoàn cướp biển vẻ thông cảm. “Dionysus sẽ cáu tụi bay vì làm chậm hành trình của tụi tao lắm. Ổng sẽ trừng trị cả lũ ở đây. Tụi mày đã thấy mấy cô gái phải chịu cơn điên của thần rượu chưa?”

Hazel với Piper ngừng run rẩy từng cơn. Họ ngồi trên boong, chằm chằm ngó Percy, nhưng khi cậu trừng trừng nhìn thẳng vào họ, họ lại run lên lần nữa, run bần bật rồi quẫy trườn như cá. Bọn người-cá-heo ngã đè lên nhau, cố tránh tù nhân của chúng càng xa càng tốt.

“Điêu!” Chrysaor gầm gào. “Câm ngay, Percy Jackson. Giám đốc trại tụi bay đâu có ở đây. Lão ta bị gọi về Olympus rồi. Việc này ai mà chả biết.”

“Thế mày thừa nhận Dionysus là giám đốc tụi tao đấy nhá!” Percy đáp.

“Lão từng là,” Chrysaor chữa lại. “Ai ai chả biết.”

Percy ra hiệu về phía gã chiến binh vàng như thể gã mới vừa tự phản bội chính mình. “Thấy chưa? Tới số cả lũ rồi. Nếu không tin lời tụi tao thì coi cái thùng nước đá kìa!”

Percy xộc tới bộ phận tản nhiệt ma thuật. không ai cố ngăn cậu lại. Cậu gõ bật nắp và lục lọi trong thùng nước đá. Phải có lấy một cái chớ. Làm ơn đi. Cậu được thưởng một can soda đỏ-bạc. Cậu khua nó trước mặt lũ chiến binh cá heo như đang xịt thuốc chống côn trùng.

“Coi này!” Percy hét lên. “Thứ nước giải khát ngài chọn. Hãy run sợ trước sự kinh hoàng của Coca ăn kiêng[1].”

Lũ người-cá-heo bắt đầu hoảng loạn. Bọn chúng toan rút lui. Percy cảm thấy thế.

“Thần sẽ tước đi con tàu của bọn bay,” Percy cảnh báo. “Ngài sẽ biến tụi bay thành cá heo hoàn toàn hay khiến tụi bay điên loạn hoặc biến tụi bay thành cá heo điên! Hi vọng duy nhất của tụi bay là lặn càng xa càng tốt, mau đi!”

“Lố bịch!” Chrysaor trở nên chói tai. Gã không chắc nên chĩa gươm của mình vô đâu – vô Percy hay thủy thủ đoàn của mình.

“Tự cứu lấy mình đi!” Percy cảnh cáo. “Với bọn ta thì quá muộn rồi!”

Rồi cậu thở hổn hển và chỉ vào chỗ Frank đang trốn. “Ôi, không! Frank đang biến thành cá heo điên!”

Chả có gì xảy ra.

“Tớ bảo,” Percy nhắc lại, “Frank đang biến thành cá heo điên!”

Frank vấp váp xuất hiện, tay nắm cổ họng diễn như thật. “Ôi, không,” cậu kêu lên như thể đang đọc ra từ một cái máy phóng đại chữ. “Tôi đang biến thành cá heo điên.”

Cậu bắt đầu biến đổi, mũi kéo dài thành mõm, da biến trơn xám xịt, đuôi đạp mạnh vô ván thuyền.

Đoàn cướp biển kinh hãi tan rã, run lẩy bẩy và răng đánh lập cập buông vũ khí, quên hết cả tù nhân, lờ luôn lệnh của Chrysaor và nhảy ra khỏi tàu. Trong lúc hỗn loạn, Annabeth nhanh chóng đi tới cắt xiềng xích cho Hazel, Piper với HLV Hedge.

Trong vài giây, Chrysaor chỉ còn lại có một mình và bị bao vậy. Percy với bạn mình chả có vũ khí gì ngoài con dao của Annabeth và vó của HLV Hedge, nhưng ánh nhìn giết người của họ rõ ràng đã thuyết phục được gã chiến binh vàng là gã tới số rồi.

Gã lui lại chỗ lan can.

“Chưa xong đâu, Jackson,” Chrysaor gầm gừ. “Tao sẽ báo thù–”

Lời gã nói bị cắt ngang bởi Frank, người lại vừa biến hình lần nữa. một con gấu xám Bắc Mỹ tám trăm pound chắc chắn có thể khiến cuộc đối thoại tan tành. Cậu kéo Chrysaor lại và tát cái mặt nạ vàng rời khỏi mũ giáp. Chrysaor hét thảm, lập tức lấy tay che mặt nhào xuống nước.

Họ chạy tới chỗ lan can. Chrysaor đã lặn mất tiêu. Percy nghĩ tới việc rượt đuổi gã nhưng cậu không hiểu nước ở đây, cậu cũng không muốn một mình đối đầu gã thêm lần nữa.

“Giỏi lắm!” Annabeth hôn cậu, khiến cậu thấy tốt hơn chút ít.

“Tại tuyệt vọng quá đấy thôi,” Percy chữa lời. “Và ta cần xử lí cái thuyền ba tầng chèo này đi.”

“Đốt?” Annabeth hỏi.

Percy nhìn can Coca ăn kiêng trong tay. “Mình có ý hay hơn đó.”

Mất nhiều thời gian hơn Percy muốn. Khi họ làm, cậu cứ liếc qua liếc lại mặt biển, đợi Chrysaor với lũ cá heo cướp biển của hắn trở lại, nhưng chúng không làm thế.

Leo đã bình thường trở lại, nhờ có rượu tiên. Piper chăm sóc vết thương của Jason nhưng cậu không bị thương nặng như vẻ ngoài. Chủ yếu là cậu xấu hổ vì lại bị chế ngự lần nữa, chắc có liên quan tới Percy lắm đây.

Họ đặt lại các món đồ dự trữ vào nơi thích hợp và dọn dẹp lại tàn tích từ cuộc xâm lăng trong khi HLV Hedge tới thực địa trên tàu địch, phá tanh bành mọi thứ ông thấy bằng cây gậy bóng chày.

Khi ông thầy làm xong, Percy thu hết vũ khí của địch trên tàu cướp biển lại. Kho của chúng chật ních châu báu nhưng Percy kiên quyết không chạm vào một góc.

“Em có thể cảm thấy có số vàng trị giá khoảng sáu triệu đô la trên tàu,” Hazel nói. “Thêm cả kim cương, hồng ngọc–”

“Sáu tr-triệu?” Frank lắp bắp, “Đô la Canada hay Mỹ?”

“Kệ đi,” Percy bảo. “Đó là một phần cống phẩm.”

“Cống phẩm?” Hazel hỏi.

“Ồ,” Piper gật đầu. “Kansas”

Jason cười toe. Cậu cũng đã ở đó khi họ gặp thần rượu. “Điên thật. Nhưng mình thích.”

Cuối cùng Percy lên tàu cướp biển và mở van xả lũ. Cậu còn bảo Leo đục thêm vài lỗ nữa ở đáy thân tàu bằng mấy công cụ đắc lực của mình và Leo rất hạnh phúc được gia ơn.

Thủy thủ đoàn Argo II lắp lại mấy chấn song lan can và cắt hết dây neo. Piper mang cái sừng sung túc mới cóng của mình ra, chĩa về phía Percy, muốn nó phun ra Coca ăn kiêng, thứ giải khát tuôn ra với sức mạnh của vòi cứu hỏa, ào lên boong tàu địch. Percy nghĩ có khi mất tới vài giờ nhưng con tàu chìm nhanh rõ rệt, ngập tràn Coca ăn kiêng và nước biển.

“Dionysus,” Percy kêu gọi, giơ cao mặt nạ vàng của Chrysaor. “Hay Bacchus-gì cũng được. Ngài đã khiến cho chiến thắng này khả thi dù không có mặt ở đây chăng nữa. Kẻ thù ngài run sợ trước thanh danh của ngài…hoặc món Coca ăn kiêng của ngài hay gì gì đó. Vì vậy, vâng, tạ ơn ngài.”

Những lời rất khó để thốt ra nhưng Percy đã xoay sở để mình không ngậm miệng như hến. “Chúng tôi dâng chiếc tàu này tới người làm cống phẩm. Mong ngài yêu thích.”

“Sáu triệu vàng,” Leo lẩm bẩm. “Ông ấy nên thích nó thì hơn.”

“Xììì,” Hazel gắt. “Kim loại quý không phải đều tuyệt cả đâu. Tin em đi.”

Percy ném chiếc mặt nạ vàng lên tàu, giờ nó còn đang chìm nhanh hơn, chất lỏng có ga màu nâu phun ra từ khe cắm chèo của thuyền ba tầng chèo và sủi bọt ra từ khoang hàng hóa, khiến mặt biển sủi bọt nâu.

Percy triệu hồi sóng biển và tàu địch ngập lút. Leo đưa tàu Argo II đi xa khi con tàu cướp biển biến mất dưới làn nước.

“Thế có ô nhiễm môi trường không đó?” Piper hỏi.

“Mình sẽ chả lo đâu,” Jason bảo cô. “Nếu Bacchus thích, con tàu sẽ biến mất thôi.”

Piper không biết việc đó có xảy ra hay không, nhưng cậu thấy mình đã làm hết sức có thể. Cậu không tin rằng Dionysus sẽ nghe họ hay quan tâm tới họ, hay thậm chí là giúp họ đánh lại hai gã khổng lồ sinh đôi còn ít khả năng hơn, nhưng cậu phải thử.

Khi tàu Argo II hướng về phía đông đi vào màn sương mù, Percy quyết định rằng ít ra có một điều tốt rút ra từ cuộc đấu kiếm của cậu với Chrysaor. Cậu thấy mình khiêm tốn – đủ khiếm tốn để hiến tế cho Gã thần rượu nho.

Sau cuộc chiến với lũ cướp biển, họ quyết định bay hết quãng đường còn lại tới Rome. Jason khăng khăng mình đã đủ khỏe để thực hiện nghĩa vụ canh gác cùng với HLV Hedge, vẫn đang đầy adrenaline [2] đến nỗi mỗi khi con tàu gặp sóng, ông thầy lại vung gậy lên mà hét, “Chết đi!”

Họ còn vài giờ nữa trước hừng đông nên Jason khuyên Percy nên cố ngủ lấy ít tiếng nữa.

“Ổn thôi mà, anh bạn,” Jason bảo. “Cho người khác cơ hội cứu con tàu lấy một lần chớ, hử?”

Percy đồng tình, dù vào khoang của mình là cậu lại khó ngủ.

Cậu cứ chăm chăm nhìn chiếc đèn lồng bằng đồng lắc lư trên trần nhà và nghĩ tới việc Chrysaor đã dễ dàng đánh bại cậu ra sao trong cuộc đọ kiếm. Tên chiến binh vàng đã có thể giết cậu mà chẳng tốn một giọt mồ hôi. hắn chỉ giữ Percy sống sót vì người ta trả tiền lấy quyền giết cậu sau này mà thôi.

Percy cảm thấy như có mũi tên lọt qua khe giáp trên mình – như thể cậu vẫn còn phước ban của Achilles và ai đó đã tìm ra điểm yếu của cậu. Càng lớn, cậu càng sống sót lâu hơn với thân phận á thần, càng nhiều bè bạn ngưỡng mộ cậu. Họ phụ thuộc vào cậu, trông cậy vào quyền năng của cậu. Kể cả người La Mã cũng dùng khiên tung hứng và bầu cậu làm Pháp Quan dù cậu mới biết họ có vài tuần.

Nhưng Percy không cảm thấy mình quyền năng. Càng làm nhiều việc anh hùng cậu càng cảm thấy mình thật hạn chế. Cậu thấy mình như một kẻ lừa đảo. Mình không tuyệt như các cậu nghĩ đâu, cậu muốn bảo bạn mình như thế. Thất bại của cậu, như đêm nay chẳng hạn, có vẻ đã chứng minh điều đó. Có lẽ đó là lý do cậu bắt đầu lo mình bị nghẹt thở. không phải hoàn toàn là chìm ở trong đất liền hay ngoài biển khơi mà là cảm giác chìm trong quá nhiều kỳ vọng, nghĩa là đảm nhận quá nhiều trách nhiệm.

Wow…khi cậu bắt đầu có mấy ý nghĩ kiểu thế, cậu biết mình đã dành quá nhiều thời gian bên Annabeth.

Athena từng nói với Percy sai lầm chết người của cậu: cậu được cho là quá trung thành với bạn bè. Cậu không thể có cái nhìn bao quát. Cậu sẽ cứu lấy bạn mình dù việc đó cõ nghĩa là hủy diệt cả thế giới.

Lúc đó, Percy chỉ nhún vai gạt sang một bên. Sao mà trung thành lại là xấu được? Hơn nữa, việc chống lại Titan diễn ra tốt đẹp. Cậu đã cứu được bạn mình và đánh bại Kronos.

Dù thế, giờ cậu lại băn khoăn. Cậu sẽ rất sẵn lòng lao đầu vô bất cứ con quái vật, thần thánh hay tên khổng lồ nào để bảo vệ bạn bè khỏi bị thương tổn. Nhưng nếu không phải là cậu làm nhiệm vụ thì sao? Nếu một ai đó khác phải làm thì sẽ như thế nào? Điều đó thật khó thừa nhận. Cậu thậm chí còn lo lắng với việc đơn giản như để Jason nhận lượt gác của mình. Cậu không muốn trông chờ ai bảo vệ bản thân mình cả, ai đó có thể phải chịu tổn thương để bảo hộ cậu.

Mẹ Percy từng làm vậy. Bà sống rất khổ với một gã người phàm phì nộn bởi nghĩ rằng như thế sẽ giúp Percy tránh lũ quái vật. Grover, bạn thân nhất của cậu đã bảo vệ cậu tới gần một năm thậm chí trước cả khi Percy nhận ra mình là á thần, Grover còn suýt bị con Minotaur sát hại.

Percy không còn là trẻ nít nữa. cậu không muốn bất cứ ai mình yêu mến lại phải mạo hiểm vì mình. Cậu phải đủ mạnh mẽ để bảo vệ chính mình. Nhưng giờ cậu lại định để Annabeth đơn độc xuất phát, lần theo Dấu hiệu Athena dầu biết rằng cô có thể mất mạng. Nếu việc này dẫn tới chọn lựa – cứu Annabeth hay để nhiệm vụ thành công – Percy thực sự có thể chọn nhiệm vụ sao?

Mệt mỏi cuối cùng đánh thắng cậu. Cậu thiếp đi, trong cơn ác mộng, tiếng sấm sét ầm ì biến thành tiếng cười của nữ thần đất Gaea.

Percy mơ thấy mình đang đứng tại hiên trước Nhà Lớn ở Trại Con Lai. Khuôn mặt ngái ngủ của Gaea ở phía đồi Con Lai – nét mặt khổng lồ của bà ta hình thành từ bóng râm trên bãi cỏ dốc. Môi bà ta chẳng động nhưng giọn nói lại vang vọng khắp thung lũng.

Ra đây là nhà mi ư, Gaea thầm thì. Nhìn nó lần cuối đi Percy Jackson. Lẽ ra ngươi nên quay trở về đây. Ít ra ngươi có thể chết cùng chiến hữu mình khi người La Mã xâm chiếm. Giờ máu ngươi sẽ đổ cách xa quê nhà chôn rau cắt rốn, trên những khối đá cổ xưa, và ta sẽ trỗi dậy.

Mặt đất rung chuyển. trên đỉnh đồi Con Lai, cây thông Thalia bùng cháy. Chấn động lan khắp thung lũng – cỏ biến thành cát bụi, rừng hóa ra tro. Dòng sông với hồ khô cạn. Các cabin và Nhà Lớn tan tành mây khói. Khi cơn chấn động chấm dứt, Trại Con Lai trông như khu đất hoang sau vụ xả bom nguyên tử. Thứ duy nhất còn lại là mái hiên nơi Percy đang đứng.

Bên cạnh cậu, tro bụi xoáy vòng và cố định lại thành khuôn mặt một người đàn bà. Mắt bà ta nhắm nghiền như thể mộng du. Áo choàng bà ta là rừng xanh, lốm đốm trắng vàng như tia nắng mặt trời xuyên qua các cành cây. Tóc bà ta đen như đất canh tác. Mặt bà rất đẹp, nhưng dù mang nụ cười mơ mộng trên môi thì vẫn quá lạnh lùng xa cách. Piper cảm giác bà ta có thể thấy được các á thần đang chết đi và các thành phố đang cháy rụi mà nụ cười ấy chả chút lung lay.

“Khi ta giành lại trái đất,” Gaea nói, “Ta sẽ để cho nơi này mãi mãi cằn cỗi, để nhắc bản thân về giống loài của ngươi và nỗi tuyệt vọng cùng cực của chúng khi cố ngăn ta. Ngươi ngã xuống khi nào không quan trọng, con tốt bé bỏng của ta – vào tay Phorcys, Chrysaor hay hai đứa song sinh của ta cũng thế cả. Ngươi sẽ ngã xuống và ta sẽ ở đó ăn tươi nuốt sống nươi. Lựa chọn duy nhất của ngươi hiện giờ…là đơn độc ngã xuống ư? Tự nguyện đến với ta; đưa đứa con gái theo nữa. Có lẽ ta sẽ tha cho nơi mà ngươi yêu quý này. Nếu không…”

Gaea mở mắt. Chúng xoắn quyện xanh lục cùng đen thẳm, sâu như lớp vỏ trái đất. Gaea thấy mọi thứ. Tính kiên nhẫn của bà ta là vô hạn. Mất rất lâu mới đánh thức nổi bà ta, nhưng một khi bà ta tái xuất, sức mạnh ấy không gì ngăn nổi.

Da Percy râm ran. Tay cậu tê cứng. Cậu nhìn xuống và thấy mình đang tan thành cát bụi, như mọi con quái vật cậu từng đánh bại.

“Tận hưởng Tartarus đi, con tốt nhỏ bé ạ,” Gaea thầm thì.

Tiếng kim loại kêu KENG-KENG-KENG kéo Percy tỉnh mộng. Đôi mắt cậu bật mở. Cậu nhận thấy tiếng bộ phận đáp được hạ xuống.

Có tiếng gõ cửa phòng cậu và Jason ló đầu vô. Vết bầm tím trên mặt cậu đã mờ đi. Đôi mắt xanh lấp lánh đầy phấn khích.

“Này ông bạn,” cậu hô. “Chúng ta đang hạ cánh xuống Rome. Cậu thực sự nên coi cái này.”

Bầu trời xanh rực rỡ như thể giông bão chưa từng xảy ra vậy. Mặt trời mọc trên những ngọn đồi xa xa khiến mọi thứ phía dưới họ tỏa sáng lấp lánh như thể cả thành phố mới ra khỏi tiệm rửa xe.

Percy từng thấy các thành phố lớn trước đây. nói sao thì cậu cũng đến từ New York. nhưng sự bao la tuyệt đối của Rome như chộp lấy cổ họng cậu và khiến cậu khó thở. Cả thành phố có vẻ như chả liên quan gì tới giới hạn địa lý. Nó trải dài qua các con đồi, thung lũng, nhảy qua sông Tiber bằng cả tá các cây cầu và cứ lan mãi đến tận chân trời. Đường phố rồi ngõ hẻm cứ dích dắc không theo trật tự gì xuyên qua các vùng dân cư. Các tòa nhà kính công sở ngay bên địa điểm khai quật. một nhà thờ ngay bên hàng cột La Mã, hàng cột La Mã lại sát cạnh một sân vận động bóng đá hiện đại. Ở vài khu phố, biệt thự xây vữa cổ mái lợp ngói đỏ chen chúc bên con đường lát đá cuội, thành ra nếu Percy chỉ tập trung vào mấy khu ấy, cậu có thể tưởng tượng mình quay về thời cổ đại. Nhìn đâu cậu cũng thấy những quảng trường rộng lớn và đường phố tắc nghẹt xe cộ. Công viên cắt ngang thành phố với một bộ sưu tập điên khùng nào cọ, thông, bách xù[3] rồi cả oliu nữa, như thể Rome không quyết định được mình thuộc phần nào của thế giới – hoặc có khi lại tin rằng cả thế giới vẫn thuộc về mình chăng.

Cứ như thể thành phố này biết giấc mơ của Percy về Gaea. Nó biết rằng nữ thần đất định cướp phá các nền văn mình nhân loại và thành phố này, đã tồn tại hàng ngàn năm nay đang đáp lại bà ta: Muốn san phẳng thành phố này ư, Mặt Bụi? Cứ thử coi.

nói cách khác, đó là HLV Hedge ở dạng một thành phố phàm tục – chỉ là cao hơn thôi.

“Chúng ta đang đỗ xuống công viên đó,” Leo thông báo, chỉ xuống một khu đất xanh rì rộng lớn điểm vài cây cọ. “Hãy hy vọng là Màn Sương Mù khiến chúng ta trông giống một con chim bồ câu tổ chảng hay gì gì đó đại loại thế.”

Percy ước gì chị của Jason là Thalia ở đây. cô luôn có cách uốn Màn Sương Mù để khiến người ta nhìn thấy cái cô muốn họ thấy. Percy chưa bao giờ giỏi khoản đó hết. Cậu lúc nào cũng nghĩ: Đừng nhìn tôi, và hy vọng người La Mã ở phía dưới sẽ không nhận ra một cái thuyền đồng ba tầng chèo khổng lồ đang hạ cánh xuống thành phố của mình ngay giữa giờ cao điểm ban sáng.

Có vẻ có tác dụng. Percy không hề thấy chiếc ô tô nào chệch khỏi lòng đường hay người La Mã nào chỉ lên trời hét toáng, “Người ngoài hành tinh!” Tàu Argo II hạ cánh trên đồng cỏ và thu chèo lại.

Tiếng ồn xe cộ bao quanh họ nhưng công viên lại thanh bình và vắng vẻ. Bên trái họ, một bãi cỏ xanh dốc thoải về phía một hàng cây. một biệt thự cổ nép mình trong bóng mấy cây thông kỳ quặc thân mỏng cong queo tầm ba mươi, bốn mươi bộ rồi đâm chồi nảy lá thành từng tán rậm rạm. chúng nhắc Percy nhớ đến những cái cây trong sách của Dr. Seuss mà mẹ thường đọc cho mình nghe lúc bé.

Bên phải họ, ngoằn ngoèo dọc theo đỉnh đồi là một bức tường gạch đỏ rất dài với các rãnh khía trên cùng cho cung thủ – có thể là một tuyến phòng thủ thời trung cổ, có khi là La Mã Cổ. Percy không chắc lắm.

Phía bắc, cách tầm một dặm qua các khúc quanh của thành phố, chóp của Đại Hí Trường vươn cao trên mọi mái nhà, trông hệt như trong các bức hình du lịch. Đấy là khi chân Percy bắt đầu run run. Cậu thực sự ở đây. Cậu nghĩ chuyến đi của mình tới Alaska đã khá ngoại lai rồi, nhưng giờ cậu đang ở trung tâm của Đế Chế La Mã cổ xưa, lãnh địa của địch đối với một á thần Hy Lạp. Theo một cách nào đó, nơi này định hình cuộc sống của cậu giống như New York vậy.

Jason chỉ vào chân bức tường cung thủ, nơi bậc thang dẫn xuống một kiểu đường hầm nào đấy.

“Mình nghĩ mình biết cả bọn đang ở chỗ nào,” cậu nói. “Là Hầm Mộ Scipios[4].”

Percy cau mày. “Scipio…con pegasus của Reyna?”

“không,” Annabeth thêm vô. “Họ là một gia đình quý tộc La Mã và … wow, nơi này tuyệt thật.”

Jason gật đầu. “Mình từng nghiên cứu bản đồ Rome trước đây. Mình luôn muốn tới đây nhưng…”

Chẳng ai buồn hoàn thành câu đó. Nhìn mặt bạn mình, Percy có thể nói được họ cũng kinh ngạc như cậu vậy. Họ đã làm được. Họ đã hạ cánh xuống Rome – Thành Rome.

“Kế hoạch?” Hazel hỏi. “Nico còn được tới hoàng hôn – là nhiều nhất. Và cả thành phố này có khi sẽ bị hủy diệt ngay hôm nay.”

Percy tự thức tỉnh khỏi cơn bàng hoàng. “Em nói phải. Annabeth…cậu đã xác định được điểm cần tới trên bản đồ bằng đồng của mình chưa?”

Đôi mắt xám của cô chuyển thành màu tối đậm hơn cả giông bão, Percy có thể giải thích đủ hiểu là: Nhớ coi mình đã nói gì, anh bạn. Cứ tự đi mà mơ lấy đi.

“Có,” cô thận trọng bảo. “Ở sông Tiber. Mình nghĩ mình tìm thấy được nhưng mình nên–”

“Đưa mình đi cùng,” Percy kết câu. “Phải, cậu nói đúng.”

Annabeth trừng mắt sắc như dao nhìn cậu. “Như thế không–”

“An toàn,” cậu thêm vào. “một á thần loanh quanh ở Rome một mình. Mình sẽ đi với cậu đến sông Tiber. Ta có thể dùng lá thư giới thiệu đó, mong rằng sẽ gặp được thần sông Tiberinus. Có khi mình lại giúp hay đưa ra được vài lời khuyên thì sao. Rồi từ chỗ đó cậu có thể đi lấy một mình.”

Họ đọ mắt trong yên lặng, nhưng Percy không lùi bước. Khi cậu với Annabeth bắt đầu hẹn hò, mẹ cậu đã nhồi điều này vào đầu cậu: Phải tiễn bạn hẹn tới tận cửa mới là cử chỉ lịch thiệp. Nếu điều đấy là đúng, thì cùng cô bắt đầu nhiệm vụ độc hành chết chóc hoàng tráng của mình hẳn phải là một cử chỉ lịch thiệp.

“Thôi được,” Annabeth lầm bầm. “Hazel, giờ ta ở Rome rồi, em có nghĩ rằng mình xác định được vị trí Nico không?”

Hazel chớp mắt như thể bị thôi miên khi coi Chương trình Percy/Annabeth. “Ừm…mong là được, nếu em đến đủ gần. Em sẽ phải đi quanh thành phố. Frank, anh đi với em nhé?”

Frank cười rạng rỡ. “Chắc chắn rồi.”

“Và,…Leo,” Hazel thêm vô. “anh đi cùng nữa càng hay. Các ngư mã bảo bọn em cần anh giúp vấn đề máy móc gì ấy.”

“Ờ,” Leo bảo, “không thành vấn đề.”

Nụ cười của Frank biến thành thứ trông còn giống mặt nạ của Chrysaor hơn.

Percy không phải thiên tài trong mấy mối quan hệ nhưng ngay cả cậu cũng cảm thấy sự căng thẳng giữa ba người này. Từ khi đến Đại Tây Dương, họ không còn hành xử giống trước nữa. không chỉ là hai người tranh giành Hazel. Nó như kiểu ba người họ bị khóa chặt vô nhau, hành động như gây án giết người bí ẩn, nhưng họ vẫn chưa phát hiện ra ai trong số ấy là nạn nhân cả.

Piper rút dao ra và đặt lên lan can. “Giờ mình với Jason trông chừng con tàu. Mình sẽ xem thanh Katoptris có thể cho mình thấy cái gì. Nhưng Hazel, nếu bọn em xác định được chỗ Nico, đừng tới đó một mình. Quay lại đón tụi này đi cùng. Phải cần tới tất cả chúng ta mới đánh lại lũ khổng lồ.”

cô không nói ra điều hiển nhiên: dù cho tất cả họ cùng nhau cũng chả đủ, trừ phi họ có một vị thần về phe mình. Percy quyết định không nêu vấn đề đó ra.

“Ý hay đấy,” Percy nói. “Còn hẹn gặp lại ở đây lúc…nào?”

“Ba giờ chiều?” Jason gợi ý. “Đó là giờ sát nhất ta có thể hẹn mà vẫn có hy vọng đánh lại lũ khổng lồ và cứu Nico, cố gửi thông điệp Iris nhé.”

Những người khác gật đầu tán thưởng nhưng Percy nhận thấy vài người trong số họ liếc nhìn Annabeth. một điều nữa không ai muốn nói: Annabeth sẽ có một thời gian biểu khác. cô có thể quay về vào lúc ba giờ, có khi muộn hơn nhiều hay là chẳng bao giờ nữa. Những cô sẽ đi một mình, tìm bức Athena Parthenos.

HLV Hedge lầm bầm. “Thế là ta có thời giờ ăn dừa rồi – ý ta là bứng dừa ra khỏi thân tàu. Percy, Annabeth…ta không thích cô cậu cùng đi riêng với nhau đâu. Nhớ lấy: phải phép. Nếu ta còn nghe được mấy trò chộn rộn thì ta sẽ cấm túc hai trò tới ngày sông Styx đóng băng bằng hết thì thôi.”

Ý nghĩ bị cấm túc khi họ sắp mạo hiểm mạng sống rõ là ngớ ngẩn, Percy không thể nín cười.

“Bọn em sẽ trở về sớm thôi,” cậu hứa. Cậu nhìn quanh bạn bè mình, cố không cảm thấy như đây là lần cuối họ được bên nhau. “Chúc may mắn, mọi người.”

Leo hạ ván cầu, Percy với Annabeth khởi hành đầu tiên

[1]Diet Coke là một loại đồ uống cho người ăn kiêng của hãng Coca Cola ra đời năm 1985. Tuy nhiên, việc sản phẩm này ra đời lại là một sai lầm nghiêm trọng trong việc phát triển của hãng. Khi Diet Coke xuất hiện, hãng Coca Cola đã họp báo và thông báo rằng: từ giờ trở đi sẽ không còn sản phẩm Coke truyền thống nữa. Thay vào đó là một sản phẩm Coke ngọt hơn và nhẹ nhàng hơn. Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ khi họp báo vào ngày 23 tháng 4 năm 1985, 81% dân số nước Mỹ đã biết thông tin không còn sản phẩm Coke truyền thống nữa. Tuần tiếp theo, 40.000 lá thư bay tới trụ sở của Coca Cola, mỗi ngày có tới 1.000 cú điện thoại phàn nàn về chất lượng sản phẩm mới. Giá cổ phiếu của Coca Cola đã tụt giảm thảm hại, tới 13,6% – một con số tồi tệ nhất trong lịch sử phát triển của hãng. 87 ngày sau khi Diet Coke xuất hiện, công thức cổ điển của Pemberton – Cha đẻ của Coca Cola đã trở lại trên giá bán tại các cửa hàng, siêu thị trong dạng chai cổ điển. Và nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay

[2] adrenaline là hóc-môn tuyến thượng thận, được tiết ra khi sợ hãi hay hưng phấn, có tác dụng làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết áp, giãn khí quản.

[3] Bách xù

[4] Hầm Mộ Scipios, hầm mộ của dòng họ cùng tên ở La Mã
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Percy 2


XÉT THEO NHIỀU MẶT KHÁC NHAU, thì việc lang thang quanh Rome với Annabeth có thể đã khá tuyệt vời. Họ nắm tay khi tìm đường qua những con phố quanh co, tránh ô tô và đám lái xe vespa điên cuồng, len lỏi qua từng đoàn khách du lịch và lội qua từng biển bồ câu. Ngày nóng lên nhanh chóng. Khi họ đã đi xa khỏi đám khói xăng trên đường chính, không khí có mùi bánh mì nướng và hoa mới cắt.

Họ đi về phía Đại Hí Trường[1] vì đó là cột mốc dễ tìm nhất, nhưng đến được đấy hóa ra lại khó hơn Percy dự đoán. Nhìn từ trên cao, thành phố này đã lớn và lộn xộn rồi, nhưng ở trên mặt đất nó còn rối rắm và mênh mông hơn. Có vài lần, họ đi lạc vào các ngõ cụt. Họ vô tình tìm thấy mấy đài phun nước tuyệt đẹp và những bức tượng khổng lồ.

Annabeth bình phẩm về kiến trúc, nhưng Percy lại để mắt chú ý đến những thứ khác. Có một lần cậu phát hiện thấy một bóng ma màu tím phát sáng—một Thần giữ nhà La Mã[2]—lườm họ từ cửa sổ một tòa chung cư. một lần khác, cậu thấy một người phụ nữ mặc áo chùng trắng—có lẽ là một thần nữ[3] hay một nữ thần—lăm lăm một con dao trông rất gớm ghiếc, lẩn khuất giữa đám cột đổ nát trong một công viên. không có thứ gì tấn công họ, nhưng Percy có càm giác như họ đang bị theo dõi, và những kẻ theo dõi họ chẳng thân thiện gì.

Cuối cùng thì họ cũng đến được khu hí trường, nơi hàng tá những gã mặc trang phục đấu sĩ đang ẩu đả với đám cảnh sát—kiếm nhựa đấu với dùi cui. Percy không rõ vụ đó là sao, nhưng cậu với Annabeth quyết định đi tiếp. Có đôi khi người thường còn quái hơn cả đám quái vật. Họ đi về phía tây, cứ một chốc lại dừng lại hỏi đường đi tới con sông. Percy đã không nghĩ tới vụ đó—duh— ở Ý người ta nói tiếng Ý, mà cậu thì không. Dù vậy, chuyện đó hóa ra lại không phải là vấn đề gì to tát. Vài lần hiếm hoi có người đi trên phố đi về phía hai người và hỏi câu gì đó, Percy chỉ nhìn họ đầy hoang mang và họ đổi sang nói tiếng anh.

Khám phá tiếp theo: người Ý dùng đồng Euro và Percy chả có đồng nào lọai đó. Cậu đã thấy tiếc hùi hụi vì việc này ngay khi cậu thấy một cửa hàng cho khách du lịch bán sô-đa. Lúc đấy đã sắp trưa rồi, trời cực kì nóng và Percy đã bắt đầu ước cậu có một cái tàu chiến đầy Coca ăn kiêng.

Annabeth đã xử lí vấn đề đó. cô lục lọi cái ba lô, lôi cái máy tính xách tay của Daedalus ra, và nhập vào một vài lệnh. một cái thẻ bằng nhựa chui ra từ một cái khe bên cạnh.

Annabeth vung vẩy nó đầy thắng lợi. “Thẻ tín dụng quốc tế. Cho trường hợp khẩn cấp.”

Percy nhìn cô kinh ngạc. “Cậu làm thế nào mà–? Mà thôi. Mình không muốn biết. Cứ tiếp tục tuyệt vời như vậy đi.”

Mấy lon sô-đa có ích, nhưng đến lúc tới được dòng sông Tiber, họ vẫn thấy nóng và mệt. Bờ sông được bao bởi đường kè bằng đá. một đám lộn xộn những kho hàng, căn hộ, cửa hàng và quán cà phê mọc chen chúc nhìn ra mặt sông.

Con sông Tiber thì rộng lớn, uể oải và có màu caramen. một vài cây bách cao lớn rủ bóng xuống hai bên bờ sông. Cây cầu gần đấy nhất trông khá mới, nhưng ngay cạnh nó là một vòng cung đá đổ nát bị đứt đoạn ngay nửa đường nối hai bờ sông—đống phế tích đó hẳn phải được lưu lại từ thời Caesar.

“Nó đây.” Annabeth chỉ cây cầu đá cũ nát. “Mình nhận ra nó trong bản đồ. Nhưng bọn mình làm gì bây giờ?”

Percy mừng là cô đã nói bọn mình. Cậu vẫn chưa muốn phải tách ra với cô. Thực ra, cậu không chắc cậu có thể bắt mình làm vậy khi thời điểm đến. Những câu chữ của Gaea lại vọng lại trong đầu cậu: Ngươi sẽ đơn độc ngã xuống ư?

Cậu đăm chiêu nhìn dòng sông, tự hỏi làm cách nào họ mới bắt liên lạc được với Tiberinus. Cậu không thực sự muốn nhảy xuống sông lắm. Trông con sông Tiber này không sạch sẽ hơn bao nhiêu so với Sông Đông ở quê nhà, nơi cậu từng có quá nhiều lần chạm trán với đám tinh linh cáu kỉnh.

Cậu làm dấu ra hiệu về phía một quán cà phê gần đấy có bàn nhìn ra mặt sông. “Đến giờ ăn trưa rồi. Bọn mình thử cái thẻ tín dụng của cậu lần nữa thì sao nhỉ?”

Dù đang là giữa trưa, chỗ này vẫn vắng teo. Họ chọn một bàn ngoài trời bên bờ sông, và một người bồi bàn vội vàng đi tới. Trông anh ta hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người—đặc biệt là khi họ nói muốn ăn trưa.

“Người Mỹ hả?” anh ta hỏi, với một nụ cười đau khổ.

“Vâng.” Annabeth đáp.

“Và tôi muốn một cái pizza,” Percy nói.

anh chàng phục vụ trông như đang cố nuốt một đồng xu euro. “Tất nhiên là vậy rồi,signor. Và để tôi đoán nhé: một cốc Coca-Cola? Có đá?”

“Tuyệt,” Percy nói. Cậu không hiểu tại sao anh chàng lại chìa bộ mặt chua chát ra với cậu như thế. Có phải cậu vừa gọi một cốc Coke xanh đâu chứ.

Annabeth gọi một cái bánh mì kẹp và nước có ga. Sau khi người bồi bàn rời đi, cô cười với Percy. “Mình nghĩ người Ý ăn muộn hơn nhiều. Họ không bỏ đá vào đồ uống. Và họ chỉ làm pizza cho khách du lịch.”

“Ồ.” Percy nhún vai. “Món ngon nhất trong những món Ý, và họ thậm chí không thèm ăn nó?”

“Mình sẽ không nói vậy trước mặt người bồi bàn đâu.”

Họ nắm tay nhau ngang qua bàn. Chỉ nhìn Annabeth trong ánh mặt trời, Percy đã thấy mãn nguyện. Ánh nắng luôn khiến cô trông ấm áp và rực rỡ. Mắt cô nhuộm màu của bầu trời và màu đá cuội lát đường, lần lượt thay đổi giữa hai màu nâu và xanh da trời.

Cậu tự hỏi liệu cậu có nên kể cho Annabeth nghe giấc mơ về Gaea phá hủy Trại Con Lai hay không. Cậu quyết định không làm vậy. cô không cần thêm bất cứ điều gì để mà lo lắng nữa—không phải với những gì cô đang phải đối mặt.

Nhưng nó khiến cậu tự hỏi…chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ không dọa cho đám hải tặc của Chrysaor chạy mất? Percy và Annabeth có thể đã bị xích lại và đưa đến chỗ đám tay sai của Gaea. Máu của hai người sẽ đổ trên những khối đá cổ xưa. Percy đoán thế có nghĩa là Annabeth và cậu sẽ bị áp giải đến Hy Lạp làm vật hiến tế trong một lễ hiến tế lớn kinh khủng nào đó. Nhưng Annabeth và cậu đã từng cùng trải qua kha khá tình huống tồi tệ rồi. Có lẽ họ sẽ nghĩ được ra một kế hoạch tẩu thoát, lập chiến công…và Annabeth sẽ không phải đương đầu với thử thách đơn độc ở Rome này.

Ngươi ngã xuống khi nào không quan trọng, Gaea đã nói vậy.

Percy biết đấy là một điều ước tồi tệ, nhưng cậu gần như tiếc nuối là họ đã không bị bắt trên biển. Ít nhất thì Annabeth và cậu sẽ có thể ở bên nhau.

“Cậu không nên thấy xấu hổ,” Annabeth nói. “Cậu đang nghĩ đến Chrysaor, phải không? Đao kiếm không thể giải quyết mọi vấn đề. Cuối cùng cậu cũng đã cứu được bọn mình đấy thôi.”

Bất chấp bản thân, Percy mỉm cười. “Cậu làm thế nào thế? Lúc nào cậu cũng biết mình đang nghĩ gì.”

“Mình hiểu cậu mà,” cô nói.

Thế mà cậu vẫn thích mình á? Percy muốn hỏi vậy, nhưng cậu kìm lại.

“Percy,” cô nói, “cậu không thể gánh hết gánh nặng của cả nhiệm vụ được. Chuyện đó là không thể. Thế cho nên bọn mình mới có tận bảy người. Và cậu sẽ phải để mình tự đi tìm bức tượng Athena Parthenos một mình.”

“Mình đã rất nhớ cậu,” cậu thú nhận. “Suốt nhiều tháng ròng. một mảnh lớn của đời bọn mình bị lấy mất. Nếu mình lại mất cậu lần nữa–”

Bữa trưa được mang đến. Người bồi bàn trông đã bình tĩnh hơn nhiều. đã chấp nhận thực tế rằng họ là những người Mỹ vô vọng, có vẻ như anh ta đã quyết định tha thứ cho họ và đối đãi lịch sự với họ.

“Cảnh đẹp lắm đấy,” anh ta nói, hất đầu về phía dòng sông. “Mời hai người cứ tận hưởng.”

Khi anh ta đã rời đi, họ ăn trong im lặng. Cái bánh pizza là một miếng hình vuông nhão nhão nhạt hoét chẳng có nhiều phô mai lắm. Có lẽ, Percy nghĩ, đấy chính là lí do vì sao người La Mã không ăn thứ này. Người La Mã tội nghiệp.

“Cậu phải tin mình,” Annabeth nói. Percy suýt nữa thì nghĩ rằng cô đang nói với miếng bánh sandwich, vì cô không nhìn vào mắt cậu. “Cậu phải tin rằng mình sẽ quay về.”

Cậu nuốt thêm một miếng bánh nữa. “Mình tin cậu. Đấy không phải là vấn đề. Nhưng quay về từ đâu chứ?”

Tiếng một chiếc Vespa cắt ngang hai người. Percy nhìn dọc bờ sông và không tin được vào mắt mình. Chiếc xe máy là một mẫu xe cổ: to và có màu xanh da trời nhạt. Người lái xe là một gã bận một bộ vest xám bóng bẩy. Ngồi đằng sau anh ta là một cô gái choàng khăn trùm đầu, hai tay cô ta vòng quanh eo người đàn ông. Họ lách qua mấy cái bàn cà phê, tà tà đi đến rồi đỗ lại bên cạnh Percy và Annabeth.

“Ồ, xin chào,” người đàn ông nói. Giọng anh ta trầm, gần như khàn khàn, như giọng một diễn viên điện ảnh. Tóc anh ta ngắn và được vuốt keo ngược ra đằng sau khuôn mặt góc cạnh của anh ta. anh ta đẹp trai theo kiểu bố-trên-tv của những năm 50. Ngay cả quần áo của anh ta cũng có vẻ cổ điển. Khi anh ta xuống xe, cạp chiếc quần của anh ta cao hơn bình thường rất nhiều, nhưng bằng cách nào đó, trông anh ta vẫn nam tính và phong cách chứ không hề giống một tên đần. Percy không tài nào đoán nổi tuổi anh ta—có lẽ khoảng ba mươi mấy, dù cách ăn mặc và hành xử của anh ta có vẻ hơi giống ông nội.

cô gái bước xuống xe. “Bọn ta đã có buổi sáng đáng yêu nhất trần đời,” cô ta hụt hơi nói.

Trông cô gái khoảng hai mươi mốt tuổi, cũng ăn mặc theo phong cách cổ điển. Chiếc váy in hoa cúc vạn thọ dài tới mắt cá chân và chiếc áo cánh trắng của cô ta được bó vào với nhau bằng một chiếc thắt lưng da lớn, khiến cô ta có vòng eo nhỏ nhất mà Percy từng thấy. Khi cô ta tháo cái khăn trùm đầu ra, mái tóc đen ngắn bồng bềnh của cô ta cuộn thành hình dáng hoàn hảo. cô ta có đôi mắt sẫm màu tinh nghịch và một nụ cười chói lọi. Percy từng gặp những thần nữ còn ít giống yêu tinh hơn cô gái này.

Miếng sandwich của Annabeth rớt khỏi tay cô. “Ôi, thánh thần ơi. Làm—làm thế nào…?”

Trông cô có vẻ sững sờ đến mức Percy thấy cậu nên biết hai người này mới phải.

“Trông hai người đúng là quen thật đấy,” cậu quyết định. Cậu nghĩ cậu đã nhìn thấy họ trên ti vi. Trông có vẻ như họ diễn trong một chương trình cũ ngày trước, nhưng chuyện đó không thể nào đúng được. Họ không hề già đi tẹo nào. Dù vậy, cậu chỉ vào người đàn ông và đoán thử. “anh có phải cái gã trong phim Những Kẻ Điên[4] đó không?”

“Percy!” Annabeth trông có vẻ kinh hãi.

“Gì nào?” cậu vặc. “Mình có xem ti-vi mấy đâu.”

“Đấy là Gregory Peck đấy!” Mắt Annabeth mở lớn, và miệng cô há hốc suốt. “Và…ôithánh thần ơi! Audrey Hepburn! Mình biết bộ phim này. Kỳ nghỉ ở Rome[5]. Nhưng bộ phim đấy có từ những năm 1950. Làm thế nào—?”

“Ồ, cưng à!” cô gái xoay một vòng như một tinh linh của không trung và ngồi xuống bàn của họ. “Ta e rằng em đã nhầm ta với người khác rồi! Tên ta là Rhea Silvia[6]. Ta là mẹ của Remus và Romulus, từ hàng ngàn năm trước kia. Nhưng em thật tốt bụng khi nghĩ rằng trông ta trẻ như thập niên 50. Còn đây là chồng ta…”

“Tiberinus,” Gregory Peck nói, chìa tay ra với Percy một cách đầy nam tính. “Thần Sông Tiber.”

Percy bắt tay anh ta. Người đàn ông có mùi nước hoa cạo râu. Dĩ nhiên, nếu Percy mà là con sông Tiber, thì cậu cũng muốn át cái mùi đi bằng nước hoa cô-lô-nhơ.

“Ơ, chào,” Percy nói. “Lúc nào trông hai người cũng giống diễn viên điện ảnh Mỹ thế à?”

“Vậy sao?” Tiberinus nhíu mày và nghiên cứu quần áo của mình. “Thực ra thì, ta cũng không rõ nữa. Con đường du nhập của văn hóa phương Tây có hai chiều, cậu biết đấy. Rome tác động đến thế giới, nhưng thế giới cũng ảnh hưởng tới Rome. Đúng là dạo này văn hóa Mĩ có vẻ ảnh hưởng khá nhiều. Ta cũng hơi bị loạn trong vài thế kỉ qua.”

“Được rồi,” Percy nói. “Nhưng…hai người đến đây để giúp ạ?”

“Các cô thần nước[7] của ta nói với ta hai người ở đây.” Tiberinus đưa mắt nhìn sang Annabeth. “cô có bản đồ rồi chứ, cô gái thân mến? Cả thư giới thiệu nữa?”

“Ờ…” Annabeth đưa cho anh ta lá thư và chiếc đĩa đồng. cô nhìn chằm chằm vị thần sông chăm chú đến nỗi Percy bắt đầu cảm thấy ghen.

“Th-thế…” cô lắp bắp, “ngài từng giúp những người con khác của Athena trong thử thách này ạ?”

“Ôi, cưng ơi!” cô gái xinh đẹp, Rhea Silvia, đặt tay lên vai Annabeth. “Tiberinus lúc nào cũng giúp ích ấy chứ. anh ấy đã cứu hai đứa con trai Romulus và Remus của ta, và mang hai đứa đến chỗ nữ thần sói Lupa. Sau đấy, khi lão vua Numen đó cố giết ta, Tiberinus đã thương cảm cho ta và lấy ta làm vợ. Kể từ đấy ta đã cùng anh ấy cai trị vương quốc dưới sông. anh ấy thì chỉ mơ màng suốt thôi!”

“Cám ơn em, em yêu,” Tiberinus nói với một nụ cười nhăn nhở, “Và, phải, Annabeth Chase ạ, ta từng giúp đỡ nhiều anh chị em khác của cô…ít nhất là giúp họ bắt đầu hành trình của họ được an toàn. thật tiếc là sau đó họ lại phải chết đau đớn. Rồi, giấy tờ của cô có vẻ hợp lệ. Chúng ta nên đi thôi. Dấu Hiệu Athena đang chờ ở phía trước!”

Percy nắm chặt tay Annabeth—có lẽ hơi chặt quá. “Tiberinus, để cho tôi đi với cô ấy được không. Chỉ một đoạn nữa thôi.”

Rhea Silvia cười ngọt ngào. “Nhưng không được đâu, cậu bé ngốc ạ. Em phải quay lại thuyền của các em và tập hợp các bạn khác của em lại. Đương đầu với bọn khổng lồ ấy! Đường đi sẽ hiện ra trên con dao của cô bạn Piper của em. Annabeth có một con đường khác. cô bé phải đi một mình.”

“Đúng vậy,” Tiberinus nói. “Annabeth phải một mình đối mặt với người canh gác điện thờ. Đó là cách duy nhất. Và Percy Jackson, cậu có ít thời gian hơn cậu thấy để giải cứu người bạn bị nhốt trong cái hạp của cậu. Cậu phải nhanh chân lên.”

Chỗ pizza Percy ăn có cảm giác như xi-măng cục trong dạ dày cậu. “Nhưng–”

“không sao đâu, Percy.” Annabeth siết chặt tay cậu. “Mình cần phải làm chuyện này.”

Cậu mở miệng định lên tiếng. Vẻ mặt của cô đã ngăn cậu lại. cô khiếp sợ, nhưng vẫn cố gắng hết sức để che giấu nỗi sợ đó—vì cậu. Nếu cậu còn cố tranh cãi nữa, cậu sẽ chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn với cô. Hay tệ hơn, cậu có thể sẽ thuyết phục được cô ở lại. Rồi cô sẽ phải sống với cái ý thức rằng cô đã lùi bước trước thử thách lớn nhất đời mình…giả như họ có sống sót, khi mà Rome sắp bị san bằng và Gaea sắp sửa trỗi dậy rồi phá hủy cả thế giới. Bức tượng Athena chứa đựng chiếc chìa khóa để đánh bại đám khổng lồ. Percy không biết tại sao hay làm thế nào, nhưng Annabeth là người duy nhất có thể tìm được nó.

“Cậu nói đúng,” cậu nói. “Giữ mình an toàn nhé.”

Rhea cười khúc khích như thể đấy là một ý kiến lố bịch. “An toàn á? không có đâu! Nhưng cũng cần thiết. đi nào, Annabeth, cưng. Bọn ta sẽ chỉ cho em chỗ con đường của em bắt đầu. Sau đó, em chỉ còn có một mình thôi.”

Annabeth hôn Percy. cô ngập ngừng, như đang tự hỏi còn gì để nói nữa không. Rồi cô khoác ba lô lên vai và leo lên yên sau chiếc xe máy.

Percy ghét chuyện này. Cậu thà đấu với bất kì con quái vật nào trên đời còn hơn. Cậu thà đấu với Chrysaor lần nữa. Nhưng cậu buộc mình ngồi yên trên ghế và nhìn Annabeth ngồi xe máy đi khuất trên những con phố của Rome, cùng với Gregory Peck và Audrey Hepburn.

[1] Coloseum: Đấu trường La Mã (hay Đại hý trường La Mã) được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Rome. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50.000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu thi đấu và trình diễn trước công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70 và 72 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian.

[2] Lar: là thần bảo hộ trong tôn giáo La Mã. Họ có thể là một vị tổ tiên anh hùng hoặc một vị thần coi sóc mùa màng trong vùng lãmh thổ nào đó. Người ta tin rằng các thần Lar trông coi và điều khiển mọi việc xảy ra trong vùng lãnh thổ mà họ cai quản. Những bức tượng thần Lar thường được đặt trên bàn trong các bữa ăn. sự hiện diện của họ là không thể thiếu trong các sự kiện lớn của gia đình La Mã.

[3] nymph: các nữ thần nhỏ gắn với một địa danh hay vùng đất cụ thể nào đó, thường có hình tượng là những cô gái xinh đẹp mang lại sức sống cho cỏ cây hay thiên nhiên của một vùng đất; khác với nữ thần-godess.

[4] Mad Men: một chương trình phim truyền hình dài tập, công chiếu lần đầu vào tháng 7 năm 2007, trên kênh AMC của Mỹ, được sản xuất bởi hãng Lionsgate Television. Phim lấy bối cảnh những năm 1960, trong một công ty quảng cáo không có thật tên là Stirling Cooper, sau là tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce, trên Đại lộ Madison. Trong phim thì “những kẻ điên” là cái tên xuất hiện vào thập niên 50, do chính những người làm quảng cáo trên Đại Lộ Madison tự đặt cho mình. Bộ phim nói về công việc và cuộc sống của Don Draper, giám đốc sáng tạo của Stirling Cooper và người bạn đồng sáng lập tập đoàn Stirling Cooper Draper Pryce của anh ta.

[5] Roman Holiday là một bộ phim hài lãng mạn năm 1953, được đạo diễn và sản xuất bởi William Wyler, biên kịch John Dighton và Dalton Trumbo. Bộ phim này đã giới thiệu hình ảnh của huyền thoại điện ảnh gốc Bỉ Audrey Hepburn (đến với khán giả Mỹ, và bà đã giành được Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn công chúa Ann trong phim này. Hai vai nam chính trong phim do Gregory Peck và Eddie Albert thủ vai.

[6] Rhea Silvia (cũng được viết là Rea Silvia), cũng được gọi là Ilia, là người mẹ huyền thoại của hai anh em sinh đôi Romulus và Remus, những người sáng lập ra thành phố Roma.

Theo truyền thuyết về thành Roma, vị vua Numitor đã bị người em trai của mình đoạt ngôi và con gái của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để không thể sinh con. Nhưng Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi hai đứa bé bị phát hiện, công chúa bị giam vào tù và kết án tử hình, còn lũ trẻ thì bị bỏ trong giỏ trôi trên dòng sông Tiber. May mắn là 2 anh em đã cập bờ sống sót và được một con sói cái (là nữ thần sói Lupa) cho bú cho đến khi chúng được một người chăn cừu cưu mang. Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2 anh em đã giết kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng một thành phố. Hình ảnh 2 đứa trẻ trần truồng ngửa mặt bú sữa từ một con sói cái đã trở thành chủ đề xuyên suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất hiện tại các bảo tàng trong khu vực.

[7] Nữ thần nước hay Naiads là một trong các thần nữ trong thần thoại Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ναϊάδες là từ ghép giữa từ νάειν có nghĩa “dòng chảy”, và νᾶμα có nghĩa là “nước”) đây là vị thần thường ngự trên đài phun nước, giếng, khe và suối. Họ khác với các thần sông thường sống ở vùng nước tĩnh lặng của hồ đầm lầy, ao và đầm phá. Bản thể của Naiad giống hình thù của một con nhộng nước, vì vậy nếu cơ thể bị khô héo thì họ sẽ phải chết. Naiad phản ánh khát vọng của người Hy Lạp cổ về sự cần thiết của yếu tố nước. Các Naiad có thể trở nên khá nguy hiểm đối với những người bộ hành và những người đi lạc, những cô Naiad sẽ xuất hiện và quyến rũ những khách bộ hành này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Annabeth


ANNABETH BIẾT MỌI CHUYỆN CÓ THỂ TỒI TỆ HƠN. Nếu cô phải một mình tiếp tục làm nhiệm vụ kinh hoàng, ít nhất cô đã được ăn trưa với Percy trên bờ sông Tiber trước. Còn bây giờ cô được đi xe tay ga với Gregory Peck.

cô biết về bộ phim đó từ cha cô. Trong vài năm qua, từ khi hai người họ làm hòa, họ dành nhiều thời gian cùng nhau, cô phát hiện ở khía cạnh nào đó ông là người khá ngốc nghếch. Chắc chắn rằng ông thích lịch sử quân đội, vũ khí và máy bay hai tầng cánh, nhưng ông cũng yêu thích những bộ phim cũ, đặc biệt là phim hài lãng mạn từ những năm 1940 đến 1950. Kỳ nghỉ ở Rome là một trong số những bộ phim yêu thích của ông. Ông đã buộc Annabeth xem nó.

cô nghĩ nội dung khá ngớ ngẩn – một cô công chúa trốn khỏi người giám sát và phải lòng nhà báo người Mĩ ở Rome – nhưng cô nghi ngờ cha cô thích nó bởi vì nó gợi ông nhớ đến mối tình lãng mạn của ông và nữ thần Athena: một cặp đôi bất khả thi không thể có một kết thúc hạnh phúc. Cha cô không giống Gregory Peck. Athena chắc chắn không có gì giống Audrey Hepburn. Nhưng Annabeth biết mọi người nhìn thấy những gì họ muốn thấy. Họ không cần Màn Sương Mù bẻ cong nhận thức của họ.

Khi chiếc xe tay ga màu xanh lơ chạy vèo qua những con đường ở Rome, nữ thần Rhea Silvia cho Annabeth một bài luận trực tiếp về việc thành phố đã thay đổi như thế nào nhiều thế kỉ qua.

“Cầu Sublician ở đó,” cô nói, chỉ vào một khúc cong trên sông Tiber. “Em có biết, nơi Horatius và hai người bạn bảo vệ thành phố khỏi quân xâm lược không? Chà, đó làmột người La Mã dũng cảm!”

“Nhìn kìa, em yêu,” Tiberinus chen vào, “đó là nơi Romulus và Remus giạt vào bờ.”

anh ta dường như đang nói đến một chổ mà bầy vịt làm tổ trong mớ túi nhựa bị rách và giấy gói kẹo bên bờ sông.

“À, phải,” Rhea Silvia thở dài hạnh phúc. “anh đã rất tốt với lũ trẻ và cuốn những đứa con của em vào bờ để lũ sói tìm thấy chúng.”

“không có gì,” Tiberinus nói.

Annabeth cảm thấy choáng váng. Thần sông đang nói về điều gì đó đã xảy ra hàng ngàn năm trước, khi nơi này không có gì ngoài những đầm lầy và những ngôi lều. Tiberinus cứu hai đứa trẻ, một trong số chúng đã sáng lập ra đế chế vĩ đại nhất thế giới. không có gì.

Rhea Silvia chỉ vào tòa nhà chung cư rộng lớn, hiện đại. “Nơi đó đã từng là đền thờ Venus. Sau đó nó thành nhà thờ. Kế tiếp là lâu đài. Rồi thì là một tòa nhà chung cư. Nó bị thiêu hủy ba lần. Bây giờ nó lại là một tòa nhà chung cư. Và ngay chỗ kia–”

“Làm ơn,” Annabeth nói. “Người đang làm tôi choáng váng.”

Rhea Silvia bật cười. “Ta xin lỗi, cưng. Tầng tầng lớp lớp lịch sử ở đây, nhưng không thứ gì có thể so sánh với Hy Lạp. Athena đã già khi Rome chỉ có những căn nhà trát bùn. Em sẽ thấy, nếu em sống sót.”

“Chẳng giúp ích được gì,” Annabeth lầm bầm.

“Đến nơi rồi,” Tiberinus thông báo. anh ta hướng đến tòa nhà bằng đá cẩm thạch rộng lớn, mặt tiền được bao phủ bởi lớp bụi nhưng vẫn đẹp. Đường bao mái[1] được trang trí bằng những vị thần La Mã chạm khắc công phu. Lối vào rộng lớn được chặn bởi cổng sắt, được khóa móc nặng nề.

“Tôi phải đi vào trong?” Annabeth ước gì cô đã mang Leo theo cùng, hoặc ít nhất cô đã mượn máy cắt dây từ thắt lưng công cụ của cậu.

Rhea Silvia che miệng và cười khúc khích. “không, cưng. không phải trong đó. Dướiđó.”

Tiberius chỉ vào chổ những bậc thang đá ở một bên của tòa nhà – thứ gì đó dẫn đến một căn hộ ở tầng hầm nếu nơi đây là Manhattan.

“Rome là một nơi hỗn loạn,” Tiberinus nói, “nhưng không thứ gì có thể so sánh với tầng đất bên dưới. cô phải đi vào thành phố bị chôn vùi, Annabeth Chase. Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Những thất bại của kẻ tiền nhiệm sẽ chỉ dẫn cô. Sau đó…ta không biết.”

Ba lô của Annabeth dường như nặng nề hơn trên vai cô. cô đã nghiên cứu bản đồ đồng trong những ngày này, lùng sục thông tin trong máy tính của Daedalus. không may là những thứ ít ỏi mà cô đã biết khiến nhiệm vụ càng trở nên không thể thực hiện được. “anh chị em tôi…không một ai trong số họ tìm được đường đến đền thờ, họ đã không làm được.”

Tiberinus lắc đầu. “Nhưng cô biết những phần thưởng dành cho cô, nếu cô có thể giải thoát nó.”

“Vâng,” Annabeth nói.

“Nó có thể mang lại hòa bình cho những đứa trẻ Hy Lạp và La Mã,” Rhea Silvia nói. “Nó có thể thay đổi cuộc chiếc tranh sắp tới.”

“Nếu tôi còn sống,” Annabeth nói.

Tiberinus gật đầu buồn bã. “Bởi vì cô cũng nhận thức được những kẻ canh giữ mà cô phải đối mặt?”

Annabeth nhớ tới đám nhện ở Đồn Sumter và giấc mơ mà Percy đã diễn tả – giọng nói rít lên từ bóng tối. “Vâng.”

Rhea Silvia nhìn chồng cô. “Em ấy rất dũng cảm. Có lẽ em ấy còn mạnh hơn những người khác.”

“Ta hy vọng là vậy,” vị thần sông nói. “Tạm biệt, Annabeth Chase. Và chúc may mắn.”

Rhea Silvia rạng rỡ. “Chúng ta sẽ lên kế hoạch cho một buổi chiều thú vị! đi mua sắm!”

Gregory Peck và Audrey Hepburn phóng lên chiếc mô tô màu xanh lơ của họ. Sau đó Annabeth quay lại và đi xuống những bậc thang một mình. cô đã ở dưới lòng đất khá nhiều lần.

Nhưng đi xuống được nửa chừng, cô nhận ra không biết đã bao lâu kể từ khi cô phiêu lưu một mình. cô cảm thấy tê liệt.

Thánh thần ơi…cô đã không làm điều gì đó như thế này kể từ khi cô còn là một đứa trẻ. Sau khi trốn khỏi nhà, cô phải tự cứu sống mình trong một vài tuần, sống trong ngõ hẻm và lẩn tránh lũ quái vật cho đến khi Thalia và Luke bảo trợ cô. Rồi thì cô đến Trại Con Lai, cô đã sống ở đó đến năm mười hai tuổi. Sau đó, mọi nhiệm vụ của cô đều thực hiện cùng Percy hoặc những người bạn khác của cô.

Lần cuối cùng cô cảm thấy sợ hãi và cô độc là năm cô bảy tuổi. cô nhớ ngày Thalia, Luke và cô lạc vào hang ổ của Cyclopes ở Brooklyn. Thalia và Luke bị bắt và Annabeth đã giải cứu họ. cô vẫn nhớ mình ngồi run rẫy trong một góc tối của căn biệt thự đổ nát, nghe thấy tiếng Cyclopes bắt chước giọng nói của các bạn cô, cố gắng lừa cô bước ra.

Nhỡ đây cũng là một cái bẫy thì sao? cô tự hỏi. Ngộ nhỡ những đứa con khác của Athena chết bởi vì Tiberinus và Rhea Silvia đưa họ đến một cái bẫy? Liệu Gregory Peck và Audrey Hepburn có làm điều gì đó giống như vậy?

cô buộc mình phải đi tiếp. cô không có sự lựa chọn. Nếu bức tượng Athena Parthenos thật sự ở dưới đây, nó có thể quyết định số phận của cuộc chiến tranh. Quan trọng hơn, nó có thể giúp mẹ cô. Athena cần cô.

Ở bậc thang cuối cùng cô thấy một cánh cửa gỗ với một vòng kéo sắt. trên vòng kéo là một tấm kim loại với một lỗ khóa. Annabeth bắt đầu xem xét nhiều cách để cạy cái khóa, nhưng ngay khi cô chạm vào vòng kéo, một ngọn lửa cháy lên giữa cánh cửa: hình chiếu con cú của Athena. Khói túa ra từ lỗ khóa. Cánh cửa bật vào trong.

Annabeth nhìn lên lần cuối cùng. Ở đầu cầu thang, bầu trời là một mảng vuông màu xanh rực rỡ. Những người phàm sẽ tận hưởng một buổi chiều ấm áp. Các cặp đôi sẽ nắm tay nhau trong các quán café. Du khách nhộn nhịp đi qua các cửa hàng và viện bảo tàng. Những người La Mã bình thường sẽ làm công việc hằng ngày của họ, không quan tâm đến lịch sử hàng ngàn năm dưới chân họ và chắc chắn không biết đến các linh hồn, thần thánh và lũ quái vật vẫn còn cư ngụ ở đây, hoặc sự thật rằng thành phố của họ sẽ bị phá hủy ngay hôm nay nếu nhóm á thần không thành công trong việc ngăn chặn bọn khổng lồ.

Annabeth bước qua ngưỡng cửa.

cô nhận ra mình đang ở trong một tầng hầm với kiến trúc cyborg[2]. Những bức tường gạch cổ xưa được đặt chéo nhau với những sợi cáp điện hiện đại và hệ thống ống nước. Trần được chống đỡ bởi sự kết hợp giữa giàn giáo thép và các cột đá La Mã cổ bằng đá hoa cương.

Nửa phần trước của tầng hầm, các thùng chứa được xếp thành chồng. Vì tò mò, Annabeth mở một vài thùng. một số chứa đầy những cuộn dây nhiều màu sắc – dành cho những con diều hay tác phẩm nghệ thuật và các công trình thủ công. Những thùng khác thì đầy ắp những thanh kiếm đấu sĩ bằng nhựa rẻ tiền. Có lẽ đây từng là khu lưu trữ của một cửa hàng du lịch.

Ở phần sau của tầng hầm, sàn đã được khai quật, để lộ ra những bậc thang – bằng đá trắng – dẫn vào nơi sâu hơn trong lòng đất.

Annabeth đi rón rén đến mép bậc thang. Ngay cả với ánh sáng từ con dao găm của cô, bên dưới vẫn quá tối. cô đặt tay lên tường và tìm kiếm công tắc đèn.

cô bật nó. Bóng đèn huỳnh quang trắng rọi sáng cầu thang. Phía dưới, cô nhìn thấy sàn kiểu khảm được trang trí hình nai và thần nông – có thể là căn phòng của một biệt thự La Mã cổ, được giấu bên dưới tầng hầm hiện đại với đống thùng chứa dây và kiếm nhựa.

cô leo xuống. Căn phòng khoảng sáu mét vuông. Các bức tường đã từng được sơn để trông cho tươi sáng, nhưng hầu hết bích họa[3] đều bị bong tróc hoặc bị mờ. Lối thoát duy nhất là cái lỗ được đào ở một góc sàn nhà nơi mà các bức tranh khảm bị kéo lên. Annabeth cúi xuống bên cạnh cái lỗ. Nó dẫn thẳng xuống một cái hang lớn, nhưng Annabeth không thể nhìn thấy đáy.

cô nghe tiếng nước chảy có lẽ là chín hay mười hai mét bên dưới. không khí không có mùi của cống nước thải – chỉ hơi cũ và mốc, hơi ngọt, giống như hoa bị phân hủy. Có thể là dòng nước từ cống thoát. không có cách nào để xuống đó.

“Mình sẽ không nhảy xuống đó,” cô lầm bầm một mình.

Như trả lời cô, thứ gì đó phát sáng trong bóng tối. Dấu hiện Athena sáng rực dưới đáy hang động, để lộ hàng gạch lấp lánh dọc theo đường ống ngầm mười hai mét bên dưới. Con cú trong ngọn lửa dường như trêu chọc cô: Này, đây là lối đi, nhóc à. Vì thế cô nên suy nghĩ đi.

Annabeth cân nhắc các lựa chọn cho mình. Nhảy xuống thì quá nguy hiểm. không có thang hay dây thừng. cô nghĩ đến việc mượn giàn giáo kim loại ở trên kia để sử dụng làm trụ chống, nhưng nó được cố định tại chổ. Bên cạnh đó, cô không muốn làm tòa nhà sụp lên đầu mình.

sự thất bại đục khoét cô như một quân đoàn mối. cô đã dành cả đời mình nhìn các á thần khác đạt được những sức mạnh tuyệt vời. Percy có thể điều khiển nước. Nếu cậu ở đây, cậu có thể dâng cao mực nước và dễ dàng trôi xuống. Hazel, từ những điều cô nói, có thể tìm thấy hướng đi dưới lòng đất với độ chính xác hoàn hảo và thậm chí tạo ra hoặc thay đổi hướng đi của đường hầm. cô có thể dễ dàng tạo một con đường mới. Leo sẽ lấy công cụ thích hợp từ thắt lưng của cậu và dựng nên thứ gì đó để làm việc. Frank có thể hóa thành chim. Jason có thể dễ dàng điều khiển gió và đi xuống bên dưới. Ngay cả Piper với lời nói mê hoặc…cô có thể thuyết phục Tiberinus và Rhea Silvia giúp đỡ nhiều hơn.

Annabeth có gì? một con dao bằng đồng không có gì đặc biệt và một đồng xu bạc bị nguyền rủa. cô còn có ba lô chứa máy tính của Daedalus, một chai nước, một ít thức ăn thần thánh cho trường hợp khẩn cấp và một hộp diêm – có thể là vô dụng, nhưng cha cô đã gieo vào đầu cô việc nên luôn mang theo một thứ gì đó tạo ra lửa.

cô không có sức mạnh nào đáng kinh ngạc. Thậm chí món đồ phép thuật duy nhất của cô, chiếc mũ Yankees New York làm tàng hình, đã không còn hoạt động và vẫn còn ở trong cabin của cô trên tàu Argo II.

cô có trí tuệ của cô, một giọng nói vang lên. Annabeth tự hỏi liệu có phải Athena đang nói chuyện với cô, nhưng đó có lẽ chỉ là mơ tưởng.

Trí tuệ…giống như người hùng yêu thích của Athena, Odysseus. Ông thắng Cuộc chiến thành Troy bằng trí thông minh, không phải bằng sức mạnh. Ông đã vượt qua mọi loài quái vật và khó khăn bằng mưu trí của mình. Đó là giá trị của Athena.

Con gái của trí tuệ đi một mình.

Điều đó không có nghĩa là không có ai khác, Annabeth nhận ra. Nó có nghĩa là không có bất cứ sức mạnh đặc biệt nào.

Được rồi…vậy là cách nào xuống đó an toàn và chắc chắn rằng cô có một lối thoát ra ngoài khi cần thiết?

cô leo trở lại tầng hầm và nhìn chằm chằm vào mấy thùng chứa đang mở. Dây diều và kiếm nhựa. Ý tưởng đó thật ngớ ngẩn, cô gần như đã bật cười; nhưng có còn hơn không.

cô bắt đầu làm việc. Tay cô dường như biết chính xác việc phải làm. Đôi khi điều đó xảy ra, như khi cô giúp Leo với máy móc trên tàu hoặc vẽ những công trình kiến trúc trên máy tính. cô chưa từng làm bất cứ thứ gì bằng dây diều và kiếm nhựa, nhưng mọi chuyện khá dễ dàng, tự nhiên. Trong vài phút cô đã sử dụng một tá mấy cuộn dây và một thùng các thanh kiếm để tạo ra một cái thang dây tạm thời – các sợi dây được bện, kết lại để vừa bền vừa không quá dày, những thanh kiếm gắn vào với khoảng cách hai bước chân để làm chổ vịn tay chân được vững chắc.

Để thử, cô gắn một đầu xung quanh cột chống và dựa vào dây thừng với tất cả trọng lượng cơ thể. Mấy thanh kiếm nhựa cong lại bên dưới cô, chúng khiến các nút thắt trên dây chặt hơn, như vậy ít ra cô có thể nắm chặt hơn.

Cái thang sẽ không giành được bất cứ giải thưởng thiết kế nào, nhưng nó có thể đưa cô đến đáy hang một cách an toàn. Đầu tiên, cô nhét mấy cuộn dây còn lại vào ba lô. cô không chắc lý do tại sao, như thế thì thêm một nguồn cung cấp và cũng không quá nặng nề.

cô quay lại cái lỗ trên sàn khảm. cô cố định một đầu của cái thang vào phần gần nhất của giàn giáo, hạ dây thừng xuống hang động và leo xuống.

[1] Đường bao mái được sử dụng để mô tả các bảng nổi trên tường, mặt trần, ván diềm và lớp bao phủ tạo thành mặt tiền ngay dưới mái nhà và mái hiên của hầu hết các căn nhà. Có thể làm từ gỗ, nhưng cũng có thể được làm bằng nhựa.

[2] Sinh vật cơ khí hóa, công trình thực hiện mang tính kiểu máy móc, công nghệ số, siêu thực và hình học nhiều hơn, có rất nhiều các đường uốn lượn, đường nối như sân vận động tổ chim ở Bắc Kinh chẳng hạn, tương tự như sinh vật nửa người nửa máy với rất nhiều cơ quan, dây nhợ, máy móc chằng chịt.

[3] Bích họa nghĩa là tranh vẽ lên trên tường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Annabeth


KHI ANNABETH LỦNG LẲNG trên không, tay nọ tiếp tay kia lần xuống trên cái thang đung đưa dữ dội, cô biết ơn Chiron vì bao năm huấn luyện leo trèo ở Trại Con Lai. cô từng hay to tiếng phàn nàn rằng leo dây sẽ chả bao giờ giúp mình đánh bại được lấy một con quái vật nào cả. Chiron đã chỉ mỉm cười, như thể biết ngày này sẽ tới.

Cuối cùng Annabeth cũng xuống được tới đáy. cô trượt khỏi rìa gạch và đáp xuống con rạch, nhưng nó hóa ra lại chỉ sâu có vài icnh. Nước lạnh cóng xộc vô giày của cô.

cô giơ cao con dao phát sáng. Con rạch cạn chạy xuống giữa một đường hầm bằng gạch. Cứ vài thước lại có những ống nước bằng gốm nhô ra từ tường. cô đoán chúng là ống thoát nước, một phần của hệ thống dẫn nước La Mã cổ đại, dù thế, cô thấy thật tuyệt khi một đường hầm thế này còn tồn tại dày đặc dưới lòng đất với những đường ống, tầng hầm và cống rãnh trị giá hàng thế kỷ.

một ý nghĩ đột ngột khiến cô ớn lạnh hơn cả nước. Vài năm trước, Percy cùng cô từng thực hiện một nhiệm vụ ở mê cung Daedalus-một mạng lưới ngầm các đường hầm và phòng ốc, mê hoặc mạnh mẽ và đầy cạm bẫy, chạy khắp dưới lòng tất cả các thành phố của Mỹ.

Khi Daedalus chết trong Trận chiến chốn Mê cung, toàn bộ mê cung đã sụp đổ – hoặc Annabeth tin thế. Những giả sử đó chỉ là ở Mỹ thôi thì sao? Gỉa như đây là phiên bản cổ hơn của mê cung thì sao? Daedalus từng bảo cô là mê cung của ông ta có một cuộc sống riêng. Nó không ngừng thay đổi và phát triển. Có lẽ mê cung có thể tái tạo, như quái vật chẳng hạn. Có thể lắm. Đó là một thế lực nguyên thủy, như Chiron từng nói – những thứ không bao giờ có thể thực sự chết đi.

Nếu đây là một phần của mê cung…

Annabeth quyết định nghĩ tới nó nữa, nhưng cô quyết định không cho rằng hướng đi của mình là đúng. Mê cung khiến khoảng cách trở nên vô nghĩa. Nếu cô không cẩn thận, cô có thể đi chệch hướng hai mươi bộ và thành ra tới Ba Lan.

Để an toàn, cô buộc một cuộn dây mới vào phần cuối cái thang dây. cô có thể gỡ nó ra sau khi tìm hiểu xong. Mánh cũ mà hay.

cô cân nhắc nên đi hướng nào. Đường hần trông hệt nhau về cả hai phía. Rồi, khoảng năm mươi bộ về phía trái cô, dấu hiệu Athena lại bùng cháy trên bức tường. Annabeth thề là nó đang chằm chằm nhìn cô bằng đôi mắt to rực lửa, kiểu bảo, cô bị gì thế hả? Mau lên chứ!

cô bắt đầu thực sự ghét con cú.

Ngay khi cô tới được chỗ đó, hình đấy mờ đi và cuộn dây đầu tiên đã hết.

Khi buộc thêm cuộn dây mới, cô liếc về phía bên kia đường hầm. Có một phần đổ vỡ trên tường gạch, như thể có cái búa tạ đã dục một lỗ trên tường. cô tiến tới nhìn cho kỹ. thò dao qua lỗ hổng cho sáng, Annabeth có thể thấy một căn phòng thấp hơn, dài và hẹp, sàn phòng đá khảm, bích họa và các băng ghế chạy xuống hai bên. Căn phòng tạo hình như một toa xe điện ngầm.

cô chui đầu vào lỗ, hi vọng không có cái gì cắn đứt đầu. Đầu phòng gần đấy là một cánh cửa giả. Đầu phòng phía xa có một cái bàn bằng đá, hay án thờ cũng nên.

Hmm…Đường hầm dẫn nước vẫn còn chạy tiếp, nhưng Annabeth chắc chắn đây là lối chuẩn. cô nhớ Tiberinus đã nói: Tìm kiếm án thờ của vị thần ngoại quốc. Dường như không có bất kỳ lối nào khỏi phòng thờ, nhưng chỉ có một quãng ngắn tới chiếc ghế phía dưới. cô có thể lại trèo lên được không vấn đề gì.

Vẫn giữ sợi dây, cô hạ dần xuống.

Trần phòng hình thùng[1] với những mái vòm bằng gạch, nhưng Annabeth không thích hình dạng các cột chống. Ngay trên đầu cô, trên mái vòm gần nhất với cánh cửa chắn gạch, tấm đá bị nứt làm đôi. Khe nứt căng lực chạy ngang trần phòng. Nơi này có lẽ đã giữ được nguyên vẹn tầm hai ngàn năm, nhưng cô quyết định không muốn dành nhiều thời gian ở đây. Với vận may của cô, nó sẽ sụp trong vòng hai phút mất.

Sàn nhà là một bức khảm hẹp dài với bảy bức tranh một hàng, như dòng thời gian. Ở ngay chân Annabeth là một con quạ. Canh đấy là con sư tử. Vài cái khác trông như những chiến binh La Mã với vũ khí đủ loại. Phần còn lại hư hại quá mức hoặc phủ bụi quá dày để Annabeth nhìn chi tiết cho được. Hai băng ghế hai bên rải rác các mảnh gốm vỡ. Các bức tường vẽ cảnh các bữa yến tiệc: một người đàn ông mặc áo chùng với một chiếc mũ vành cong như thìa xúc kem[2], ngồi cạnh là một gã to con hơn, người tỏa ra tia nắng. Ngồi quanh họ là những người cầm đuốc, người hầu và đủ loài động vật khác nhau như quạ, sư tử thẩn thơ làm nền. Annabeth không chắc bức tranh diễn tả cái gì, nhưng nó không gợi cô nhớ tới bất kỳ truyền thuyết Hy Lạp nào mà cô biết.

Đầu phía kia căn phòng, án thờ được chạm trổ công phu với bức phù điêu khắc một người đàn ông đội chiếc mũ-thìa-kem đang dí dao vô cổ bò mộng. trên án thờ đặt tượng người đàn ông bằng đá bị ngập trong đá tới tận gối, một con dao găm và một ngọn đuốc trên hai tay giương cao. Thêm lần nữa, Annabeth không biết những hình ảnh đó có ghĩa gì.

cô bước một bước về phía án thờ. Chân cô đánh RẮC một tiếng. cô nhìn xuống và nhận thấy mình đã xỏ giầy qua một khung xương sườn của con người.

Annabeth nuốt lại tiếng hét vô bụng. Cái đó từ đâu mà có? cô mới nhìn xuống khoảnh khắc trước và có thấy cái xương nào đâu. Giờ thì sàn phòng rải đầy những sương là xương. Khung xương sườn chắc xưa lắm rồi. Nó tan thành tro bụi ngay khi cô bỏ chân ra. Gần đó đặt một con dao găm bằng đồng rất giống con của cô. Hoặc là vũ khí người chết mang theo, hoặc là vũ khí đã giết chết người này.

cô giơ con dao của mình ra xa để thấy được phía trước. Xa hơn một chút dưới lối đi khảm đá, một bộ xương hoàn chỉnh hơn nằm dài trên phần còn lại của chiếc áo chẽn thêu màu đỏ, như một người thời kỳ phục hưng. Cổ áo xếp nếp và hộp sọ của anh ta bị cháy rất nặng, như thể anh chàng đã quyết định gội đầu bằng một cây đèn hàn.

Tuyệt, Annabeth nghĩ. cô ngước mắt lên nhìn bức tượng trên bàn thờ đang cầm con dao và ngọn đuốc.

một kiểu kiểm tra gì đó, Annabeth đoán định. Hai người này đã thất bại. Đính chính: không phải chỉ hai người. Còn nhiều xương và mảnh áo quần rải rác trên khắp lối đi đến án thờ. cô không thể đoán có bao nhiêu bộ xương hiện diện, nhưng cô sẵn sàng cá rằng họ đều là á thần trước kia, con của Athena thực hiện cùng một nhiệm vụ.

“Tôi sẽ không thành một bộ xương nữa trên sàn phòng của ông đâu,” cô nói với bức tượng, hi vọng tiếng mình nghe có vẻ dũng cảm.

một con bé, một giọng nhạt nhẽo cất lên, vang vọng khắp phòng. Đàn bà con gái không được chấp nhận.

một nữ á thần, giọng thứ hai bảo. không thể tha thứ được.

Căn phòng rung ầm ầm. Bụi rơi xuống từ trần nhà bị nứt. Annabeth phóng về cái lỗ cô đã chui qua, nhưng nó đã biến mất. Dây của cô bị cắt đứt. cô trèo lên băng ghế và đập vô bức tường nơi từng có cái lỗ, mong rằng sự vắng mặt của nó chỉ là ảo ảnh, nhưng bức tường rất rắn.

cô bị bẫy.

Dọc những băng ghế, một tá các bóng ma lung linh hiện ra – những người đàn ông ánh tím mặc áo chùng La Mã, như các thần Lar cô từng thấy ở trại Jupiter. Họ nhìn cô chằm chằm như thể cô phá đám cuộc họp của mình vậy.

cô làm điều duy nhất có thể. cô bước xuống khỏi băng ghế và quay lưng lại lối vào bít gạch. cô cố tỏ ra tự tin dù những bóng ma màu tím cau có và các bộ xương á thần dưới chân khiến cô chỉ muốn rụt cổ vào trong chiếc áo phông của mình mà hét.

“Tôi là một đứa con của Athena,” cô nói, mạnh dạn hết mức có thể.

“một đứa Hy Lạp,” một trong những bóng ma ghê tởm nói. “Còn tồi tệ hơn nữa.”

Ở đầu kia căn phòng, một bóng ma trông già nua khó nhọc đứng dậy (ma có bị viêm khớp không nhỉ?) và đứng cạnh án thờ, đôi mắt đen nhìn chăm chăm Annabeth. Ý nghĩ đầu tiên của cô là trông ổng như Đức Giáo Hoàng. Ổng có áo choàng lấp lánh, mũ nhọn và cây trượng mục sư.

“Đây là hang động của Mithras,” bóng ma già nói. “cô đã quấy rầy nghi lễ thiêng liêng của bọn ta. cô không thể biết được bí mật của chúng ta mà vẫn sống sót được.”

“Tôi đâu có muốn biết bí mật của các ông cơ chứ,” Annabeth trấn an ông ta. “Tôi đang lần theo Dấu hiệu Athena. Chỉ tôi lối ra và tôi sẽ tự đi đường mình.”

Giọng cô bình tĩnh tới mức làm chính mình ngạc nhiên. cô không biết làm sao ra được khỏi đây nhưng cô biết mình phải thành công ở nơi anh chị em mình đã thất bại. Con đường của cô đã dẫn đi xa hơn – sâu hơn vào các tầng đất dưới lòng Rome.

Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm sẽ chỉ dẫn cô. Sau đó…ta không biết.

Các bóng ma thì thầm với nhau bằng tiếng latin. Annabeth chộp được vài lời không hay về nữ á thần và Athena.

Cuối cùng, bóng ma đội mũ Giáo Hoàng gõ cây trượng mục sư của mình lên sàn phòng. Những thần Lar khác rơi vào im lặng.

“Nữ thần Hy Lạp của cô bất lực ở đây,” giáo hoàng bảo. “Mithras là vị thần của các chiến binh La Mã! Ngài là vị thần của quân đoàn, vị thần của đế chế!”

“Ổng còn chả phải người La Mã nữa,” Annabeth phản đối. “Phải không hả, kiểu như người Ba Tư hay gì gì đó?”

“Phạm thánh!” lão già hét lên, đập cây gậy của mình lên sàn phòng vài lần nữa. “Mithras bảo vệ chúng ta! Ta là pater của hội huynh đệ này–”

“Người cha,” Annabeth dịch ra.

“Đừng có cắt ngang! Là pater, ta phải bảo vệ bí mật của chúng ta.”

“Bí mật nào?” Annabeth hỏi. “một tá người chết mặc toga ngồi quanh cái động hở?”

Các bóng ma làm bầm với phàn nàn tới khi pater đưa họ về dưới sự kiểm soát bằng một tiếng huýt gọi taxi. Lão già có bộ phổi tốt thật. “cô là một kẻ vô tín. Như những tên khác, cô phải chết.”

Những tên khác. Annabeth gắng không nhìn những bộ xương.

Tâm trí cô làm việc điên cuồng, nắm bắt bất cứ điều gì cô biết về Mithras. Ông ta có một giáo phái bí mật cho các chiến binh. Ông ta rất nổi tiếng trong quân đoàn. Ông ta là một vị thần, người đã thay thế Athena làm thần chiến tranh. Aphrodite đã nhắc tới ông ta trong bữa trà tán gẫu của họ ở Charleston. Ngoài ra, Annabeth chả biết gì nữa. Mithras không phải là một trong những vị thần họ nói tới ở Trại Con Lai. cô nghi ngờ các bóng ma sẽ chẳng đợi cô rút máy tính xách tay của Daedalus ra rồi tìm một phát đâu.

cô lướt nhìn sàn phòng khảm đá – bảy bức tranh một hàng. cô nghiên cứu các bóng ma và nhận thấy tất cả đều đeo cùng một vài loại huy hiệu trên áo toga – một con quạ, ngọn đuốc hay cây cung.

“Các ông có các nghi lễ thông hành,” cô buột miệng. “Bảy cấp bậc thành viên. Và cấp cao nhất là pater.”

Các bóng ma hít vô tập thể. Rồi họ bắt đầu la lớn cùng lúc.

“Làm sao cô ta biết được?” một người gặng hỏi.

“Con nhóc đã soi ra bí mật của tụi ta!”

“Im lặng! vị pater ra lệnh.

“Nhưng cô ta có thể biết về các thử thách!” một người khác thét.

“Các thử thách!” Annabeth bảo. “Tôi biết về chúng!”

một màn há miệng hoài nghi nữa.

“Vớ va vớ vẩn!” Vị pater hắng lên. “Con nhóc nói dối! Con gái Athena, chọn cách chết đi. Nếu cô không chọn, thần sẽ chọn cho cô!”

“Lửa hoặc dao hả,” Annabeth đoán.

Cả vị pater trông cũng kinh hoàng. Chắc chắn lão ta không biết là có các nạn nhân bị trừng trị trước đây nằm dưới sàn.

“Làm – làm sao cô…?” Lão nuốt khan. “cô là ai?”

“một đứa con của Athena,” Annabeth lại nói. “Nhưng không phải một đứa bất kỳ. Tôi là…à, mater hội tỷ muội của tôi. Thực ra là Magna mater. Chẳng có gì là bí mật đối với tôi. Mithras chẳng che giấu được gì khỏi tầm mắt của tôi.”

“Magna mater!” một bóng ra rền rĩ tuyệt vọng. “Mẹ cả!”

“Giết nó!” một trong những bóng ma tấn công, tay gã giơ ra bóp cổ cô nhưng lại xuyên thẳng qua người cô.

“Ông chết rồi,” Annabeth nhắc gã nhớ. “Ngồi xuống đi thôi.”

Bóng ma trông bối rối quay lại chỗ ngồi.

“Chúng ta không tự tay giết cô,” vị pater càu nhàu. “Mithras sẽ thay bọn ta làm điều đó!”

Bức tượng trên án thờ bắt đầu sáng lên.

Annabeth tì tay vào lối đi bít gạch sau lưng. Đó phải là lối ra. Vữa đang nát ra, nhưng không đủ yếu để cô phá ra bằng sức mạnh tay chân.

cô tuyệt vọng nhìn quanh phòng – trần nhà nứt toác, sàn khảm, bích họa và án thờ chạm trổ. cô bắt đầu nói, giải trừ các suy diễn đặt lên mình.

“không ích gì đâu,” cô bảo. “Tôi biết tất. Các ông kiểm tra các đồng đạo nhập môn của mình bằng lửa bởi đuốc là biểu tượng của Mithras. một biểu tượng khác của ngài ấy là dao găm, đấy là lý do tại sao các ông lại có thể được kiểm tra bằng dao. Các ông muốn giết tôi…a, như Mithras kết kiễu con bò thiêng chứ gì.”

Toàn là đoán cả, nhưng án thờ khắc hình Mithras giết con bò mộng nên Annabeth phát hiện ra nó rất quan trọng. Các bóng ma rền rĩ và bịt tai lại. một số tự vả vô mặt như mới tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng.

“Mẹ cả biết đấy!” một kẻ nói. “không thể nào!”

Trừ phi ông nhìn quanh phòng, Annabeth nghĩ, tự tin dâng lên.

cô chằm chằm nhòn bóng ma mới nói. Ông ta đeo huy hiệu quạ trên toga – cùng biểu tượng với sàn phòng dưới chân cô.

“Ông chỉ ở cấp quạ thôi,” cô mắng. “Đấy là cấp thấp nhất. Im đi và để ta nói với patercủa ông.”

Bóng ma rùng mình. “Chao ôi! Chao ôi!”

Phía trước căn phòng, vị pater run lên – hoặc giận hoặc sợ, Annabeth không chắc là tại cái nào. Mũ giáo hoàng nghiêng về một bên như một máy đo khí giảm dần tới mức chân không. “Qủa nhiên, cô biết rất nhiều, mẹ cả à. Trí khôn của cô rất tuyệt, nhưng đó là tất cả lý do tại sao cô không thể rời đi được. Người thợ dệt đã cảnh báo chúng tôi cô sẽ tới.”

“Người thợ dệt…” Annabeth cảm thấy nôn nao nhận ra điều vị pater đang nói: thứ trong bóng tối từ giấc mơ của Percy, kẻ canh giữ ngôi đền. Đây là lần duy nhất cô mong sao mình đừng biết câu trả lời, nhưng cô cố duy trì sự bình tĩnh. “Mụ thợ dệt sợ tôi. Bà ta không muốn tôi lần theo Dấu hiệu Athena. Nhưng các ông sẽ để tôi qua.”

“cô phải chọn một thử thách!” vị pater khăng khắng. “Dao hay lửa! Sống sót qua một thử thách, và rồi, có khi được!”

Annabeth nhìn xuống những khúc xương của anh em mình. Những thất bại của các kẻ tiền nhiệm sẽ chỉ dẫn cô.

Họ đều đã chọn cái này hoặc cái kia: lửa hay dao. Có lẽ họ đã nghĩ mình có thể vượt qua thử thách. Nhưng họ đều chết cả. Annabeth cần lựa chọn thứ ba.

cô nhìn bức tượng trên án thờ đang sáng hơn qua từng giây. cô có thể cảm nhận sức nóng của nó từ bên kia phòng. Bản năng của cô là tập trung vào con dao hoặc ngọn đuốc, nhưng thay vào đấy, cô lại tập trung vào cơ sở bức tượng. cô tự hỏi sao chân nó lại kẹt trong đá. Rồi ý nghĩ nảy ra trong cô: có lẽ bức tượng nhỏ của Mithras không bịmắc kẹt trong đá. Có lẽ ông ta đang trồi lên từ đá.

“không phải đuốc hay dao,” Annabeth chắc chắn nói. “Có một bài kiểm tra thứ ba, bài mà tôi sẽ vượt qua.”

“một bài kiểm tra thứ ba?” vị pater hỏi gặng.

“Mithras sinh ra từ đá,” Annabeth nói, hy vọng mình đúng. “Ngài ấy sinh ra và lớn lên hoàn toàn từ đá, cầm trong tay đuốc và dao.”

Tiếng la hét và rền rĩ mách cô biết mình đã đoán đúng.

“Mẹ cả biết tất!” một bóng ma thét lớn. “Đó là bí mật được bảo vệ chặt chẽ nhất của chúng ta!”

Rồi có khi các ông không nên đặt một bức tượng về nó ngay án thờ, Annabeth nghĩ. Nhưng cô rất biết ơn những bóng ma nam ngu ngốc này. Nếu họ chấp nhận nữ chiến binh vào giáo phái, có khi lại học được chút tri thức thông dụng.

Annabeth đột ngột chỉ bức tường chỗ cô vừa đi qua. “Tôi sinh ra từ đá, như Mithras vậy! Do đó, tôi đã vượt qua thử thách của các ông rồi!”

“Phì!” vị pater nhổ nước bọt. “cô đến từ một cái lỗ trên tường! không giống nhau gì sất.”

Được thôi. Thế rõ ràng là vị pater này không đần hoàn toàn, nhưng Annabeth vẫn giữ tự tin. cô ngước nhìn trần nhà, một ý tưởng khác đến với cô – tất cả các chi tiết khớp vào nhau.

“Tôi từng điều khiển rất nhiều đá.” cô giương tay lên. “Tôi sẽ chứng minh sức mạnh của mình vượt trên cả Mithras. Bằng một cú duy nhất, tôi sẽ đánh sập căn phòng này.”

Các bóng ma rền rĩ và run run nhìn lên trần nhà, nhưng Annabeth biết họ không thấy cái cô thấy. những bóng ma này là chiến binh, không phải kỹ sư. Con cái Athena có rất nhiều kỹ năng và không chỉ trong chiến đấu mà thôi. Annabeth đã học kiến trúc trong nhiều năm. cô biết căn phòng cổ này trên bờ đổ sập đến nơi. cô nhận thấy những khe nứt căng lực trên trần rất tệ, tất cả bắt nguồn từ một điểm duy nhất – đỉnh vòm đá ngay phía trên mình. Phần đá đỉnh sắp sụp và khi điều đó xảu ra, nếu cô có thể căn chuẩn thời gian…

“Bất khả thi!” vị pater hét. “Người thợ dệt trả chúng ta rất nhiều cống phẩm để tiêu diệt bất cứ đứa con nào của Athena dám vào điện thờ của chúng ta. Bọn ta chưa bao giờ khiến bà ấy thất vọng. Bọn ta không cho cô qua được.”

“Các ông sợ sức mạnh của tôi!” Annabeth bảo. “Ông thừa nhận rằng tôi có thể hủy căn phòng thiêng liêng của các người!”

Vị pater cau mày. Lão khó khăn vuốt thẳng chiếc mũ của mình. Annabeth biết cô đã đặt lão vào một tình huống tiến thoái lưỡng nan. Lão không thể lùi bước mà không tỏ ra hèn nhát.

“Làm tệ hết sức đi, con gái Athena,” lão quyết định. “không một kẻ nào có thể đánh sập hang động của Mithras, đặc biệt chỉ với một cú đập. Đặc biệt không phải là một con nhóc!”

Annabeth giơ cao con dao. Trần rất thấp. cô có thể với tới viên đá đỉnh dễ dàng, nhưng cô phải tính toán vừa một cú thôi.

Lối vào phái sau cô đã bị bít, nhưng theo lý thuyết, nếu căn phòng sụp, nếu căn phòng bắt đầu sập, những viên gach đó sẽ yếu đi và sụp đổ. cô sẽ có thể phá lấy đường ra trước khi toàn bộ trần nhà sụp xuống – giả như thế, tất nhiên là thế, có cái gì phía sau bức tường gạch, không chỉ là đất cứng; và giả như Annabeth phải đủ nhanh, mạnh và may mắn. Nếu không, cô sẽ thành bánh kếp á thần[3].

“Này, các cậu trai,” cô bảo. “Có vẻ các người đã chọn nhầm thần chiến tranh rồi.”

cô tấn công phần đỉnh. Lưỡi dao đồng Thiên Thai phá vỡ nó như một viên đường. trong khoảnh khắc, chả có gì xảy ra.

“Ha!” vị pater hả hê. “Thấy chưa? Athena chả có sức mạnh quái gì ở đây sất!”

Căn phòng rung lắc. một vết nứt chạy ngang chiều dài của trần phòng và phía bên kia hàng động sụp đổ, chôn vùi bàn thờ và cả vị pater. Các vết nứt rộng thêm. Gạch rơi xuống từ mái vòm. Các bóng ma la hét chạy loạn nhưng họ có vẻ như không xuyên qua được tường. rõ ràng họ bị ràng buộc với căn phòng này kể cả khi đã chết.

Annabeth quay đi. cô đập mạnh vô lối vào bị bít hết sức có thể và gạch rời ra. Khi hang động của Mithras nổ sập phía sau cô, cô lao vào bóng tối và thấy mình đang rơi.

[1] Có 2 loại như mình search ra, 1 loại ‘thùng đứng’ 1 loại ‘thùng ngang’, nhưng nếu nói căn phòng dài và hẹp thì chắc loại dài hẹp đúng hơn rồi

[2] nó cong thía lày

[3] bánh kếp làm bằng bơ, bột mì, trứng là chủ yếu

Tượng ai đó sinh ra từ đá, định để đầu bài nhưng hơi bất nhã cho xuống đây vậy
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: Annabeth


ANNABETH NGHĨ RẰNG cô đã BIẾT ĐAU ĐỚN LÀ GÌ.

cô đã từng rơi khỏi bức tường nham thạch tại Trại Con Lai. cô từng bị đâm vào cánh tay bằng một lưỡi kiếm tẩm độc trên cầu Williamsburg. cô thậm chí đã từng phải giữ sức nặng của bầu trời trên vai mình.

Nhưng tất cả chẳng là gì so với việc tiếp đất khó khăn bằng mắt cá chân.

cô ngay lập tức biết nó bị vỡ. Đau đớn giống như một sợi dây thép nóng đâm xuyên vào chân cô lên đến tận hông. Thế giới thu hẹp lại chỉ còn cô, mắt cá chân và cơn đau.

cô gần như ngất đi. Đầu óc quay cuồng. Hơi thở của cô trở nên gấp gáp.

không, cô tự nhủ. Mi không thể bị choáng được.

cô cố gắng thở chậm hơn. cô vẫn nằm đó cho đến khi cơn đau giảm dần từ sự tra tấn tuyệt đối đến chỉ còn những cơn đau nhói.

một phần trong cô muốn hét lên rằng thế giới thật bất công. Suốt ngần ấy quãng đường, chỉ để bị thứ vặt vãnh như cái mắt cá chân bị thương cản lại sao?

cô ép cảm xúc của mình xuống. Tại trại, cô đã được đào tạo để tồn tại trong tất cả các tình huống xấu nhất, bao gồm cả những chấn thương như thế này.

cô nhìn xung quanh mình. Con dao găm của cô đã văng ra cách cô vài bộ. Trong ánh sáng lờ mờ, cô có thể thấy được các đặc điểm của căn phòng. cô đang nằm trên sàn nhà lạnh được làm từ các khối đá sa thạch. Trần nhà cao khoảng hai tầng. Cánh cửa mà cô đã rơi qua cách mặt đất khoảng ba mét, bây giờ đã hoàn toàn bị chặn bởi các mảnh vỡ đổ xuống như thác vào trong phòng, gây nên một trận lở đá. Rải rác xung quanh cô là những mảnh gỗ cũ–một số bị nứt và khô, số khác đã được dùng làm mồi lửa.

Ngu ngốc, cô tự mắng chính mình. cô đã lao tới cánh cửa, nghĩ rằng sẽ có một hành lang hoặc một căn phòng khác. Chuyện sẽ bị rơi vào khoảng không chưa từng được cô lường tới. Đám gỗ vụn hẳn là một cái cầu thang bằng gỗ đã sụp đổ từ lâu.

cô kiểm tra mắt cá chân của mình. Chân cô không xuất hiện dấu hiệu bất thường nào. cô có thể cảm thấy các ngón chân của mình. cô cũng không thấy máu. Tất cả vẫn tốt.

cô với tay lấy một mảnh gỗ. Chỉ cử động nhẹ thế thôi đã khiến cô phải kêu lên.

Tấm ván vỡ vụn trong tay cô. Có thể mảnh gỗ đã có từ hàng thế kỷ, thậm chí là hàng thiên niên kỷ. cô không biết liệu căn phòng này có cũ hơn đền thờ của Mithras không, hay–giống như mê cung–căn phòng là một mớ hỗn tạp từ nhiều thời đại bị ngẫu nhiên thảy chung lại với nhau.

“Được rồi,” cô nói thật to, chỉ để nghe được giọng nói của mình. “Suy nghĩ đi nào, Annabeth. Ưu tiên”.

cô nhớ lại một khoá học sống sót nơi hoang dã ngớ ngẩn Grover đã dạy cô khi ở trại. Ít nhất là nó đã có vẻ ngớ ngẩn vào thời điểm đó. Bước đầu tiên: Kiểm tra thật kỹ các mối đe dọa từ môi trường xung quanh.

Căn phòng này không có vẻ có nguy cơ bị sụp đổ. Trận lở đá đã dừng lại. Bức tường được ghép từ những khối đá vững chắc không có vết nứt lớn nào mà cô thấy được. Trần nhà cũng không bị sụt xuống. Tốt.

Lối thoát duy nhất ở trên bức tường phía xa–một cánh cửa hình vòm dẫn vào bóng tối.

Giữa cô và cánh cửa, một cái rãnh nhỏ bằng đá cắt ngang sàn nhà, cho phép dòng nước chảy từ phía trái căn phòng sang phía bên phải. Có thể đường ống dẫn nước này có từ thời La Mã? Nếu nước này có thể uống được thì tốt.

một số bình gốm được chất đống trong góc đã vỡ, tràn ra những khối màu nâu nhăn nheo có lẽ từng là trái cây. Kinh. Trong góc khác có một số thùng gỗ trông còn khá nguyên vẹn và một vài chiếc hộp đan bằng liễu gai với dây quai bằng da.

“Vậy là, không có gì nguy hiểm,” cô tự nhủ. “Trừ khi có thứ gì đó xông ra từ phía đường hầm tối tăm kia”.

cô nhìn chằm chằm vào cánh cửa, gần như thách thức vận may của mình tệ thêm hơn nữa. không có gì xảy ra.

“Được rồi,” cô nói. “Bước tiếp theo: Kiểm kê”.

cô có thể sử dụng những thứ gì? cô đã có chai đựng nước, và thêm nhiều nước từ rãnh nước kia nếu cô với được đến chỗ đó. cô đã thấy con dao của mình. Ba lô của cô chứa đầy những sợi dây bện đầy màu sắc, máy tính xách tay, một cái bản đồ bằng đồng, một vài que diêm và một ít bánh thánh dùng cho trường hơp khẩn cấp.

À…rồi. Tất cả đã đủ cho một trường hợp khẩn cấp. cô lấy bánh thánh ra khỏi ba lô của mình và nhai ngấu nghiến. Như thường lệ, nó có mùi vị hệt như những ký ức dễ chịu. Lần này là bỏng ngô với bơ–cùng xem phim buổi tối với cha cô ở chỗ ông tại San Francisco, không có mẹ kế, không em trai cùng cha khác mẹ, chỉ có Annabeth và cha cô cuộn tròn trên ghế sofa xem một bộ phim hài ngốc nghếch xưa cũ.

Bánh thánh làm cả cơ thể cô ấm lên. Cơn đau ở chân chỉ còn âm ỉ. Annabeth biết rằng cô vẫn còn đang gặp rắc rối lớn. Bánh thánh không thể chữa lành chỗ xương bị gãy ngay lập tức. Nó chỉ có thể đẩy nhanh tốc độ của quá trình đó, trong tình huống tốt nhất, cô sẽ không thể dồn trọng lượng lên chân của mình trong một hoặc vài ngày.

cô cố gắng với tới con dao, nhưng nó quá xa. cô nhích từng chút một về phía đó. Cơn đau lại bùng lên lần nữa, hệt như những cái móng vuốt đâm xuyên qua chân cô. Mặt cô lấm tấm mồ hôi, nhưng sau một cú nhích nữa, cô đã với tới con dao găm.

cô cảm thấy khá hơn khi cầm nó–không chỉ bởi ánh sáng hay sự bảo vệ, mà còn vì nó rất quen thuộc.

Tiếp theo là gì? Lớp học sinh tồn của Grover đã nhắc đến điều gì đó như là ở yên tại chỗ và chờ đợi cứu hộ, nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra. Ngay cả khi Percy, lần được theo vết tích của cô bằng cách nào đó, thì hang động Mithras cũng đã sụp đổ.

cô có thể thử liên lạc với một người nào đó bằng máy tính xách tay của Daedalus, nhưng cô nghi rằng sẽ chả bắt được bất kỳ tín hiệu kết nối nào ở dưới này. Hơn nữa, cô sẽ gọi cho ai đây? cô không thể gửi tin nhắn đến bất cứ ai đủ gần để giúp đỡ. Các á thần không bao giờ mang theo điện thoại di động, bởi vì tín hiệu của mấy thứ này sẽ thu hút nhiều sự chú ý, và không ai trong số bạn bè cô sẽ ngồi kiểm tra e-mail của mình.

một thông điệp Iris? cô có nước, nhưng cô không nghĩ rằng cô có đủ ánh sáng để tạo thành một cái cầu vồng. Đồng xu duy nhất mà cô có là một đồng bạc drachma, chả phải một cống vật tốt gì cho lắm.

Có một vấn đề khác với việc kêu gọi giúp đỡ: đây được coi là một nhiệm vụ đơn độc. Nếu Annabeth được giải cứu, cô sẽ phải chấp nhận sự thất bại. Có gì đó nói với cô rằng Dấu hiệu Athena không còn chỉ dẫn cho cô nữa. cô có thể phải lang thang dưới này mãi mãi, và cô sẽ không bao giờ tìm thấy bức tượng Athena Parthenos.

Vậy là…không thể ở lại đây và chờ đợi sự giúp đỡ. Điều đó đồng nghĩa với việc cô phải tìm cách để tiếp tục một mình.

cô mở chai nước của mình và uống. cô đã không nhận ra mình khát đến mức nào. Khi cái chai trống rỗng, cô bò đến rãnh nước và đổ đầy nước vào chai.

Nước lạnh và chảy nhanh–dấu hiệu tốt cho thấy nó có thể uống được. cô đổ đầy cái chai, sau đó vốc một ít nước lên mặt. Ngay lập tức cô cảm thấy tỉnh táo hơn. cô rửa sạch những vết trầy xước của mình một cách tốt nhất có thể.

Annabeth ngồi dậy và nhìn chằm chằm vào mắt cá chân.

“Mày phải vỡ hả,” cô mắng nó.

Cái mắt cá chân không trả lời.

cô sẽ phải cố định lại nó. Đó là cách duy nhất để cô có thể di chuyển.

Hừm…

cô giơ con dao găm của mình lên và kiểm tra căn phòng một lần nữa dưới ánh sáng màu đồng của nó. Bây giờ cô đã gần hơn với cánh cửa mở, cô không thích nó lắm. Nó dẫn vào một hành lang im lìm tối đen. không khí tỏa ra mùi ngai ngái tởm lợm và có vẻ gì đó xấu xa. thật không may, Annabeth không tìm thấy bất kỳ lối nào khác để rời khỏi nơi này.

Với nhiều lần thở dốc và chớp mắt ngăn nước mắt tràn ra, cô bò qua đống đổ nát của cái cầu thang. cô tìm thấy hai tấm ván có hình dạng khá tốt và đủ dài để làm một cái nẹp. Sau đó, cô nhích từng chút một tới mấy cái hộp đan bằng liễu gai và sử dụng con dao của mình để cắt đứt các sợi dây da.

Trong khi đang cố định mắt cá chân, cô nhìn thấy vài từ đã bị mờ trên một trong những cái thùng gỗ: DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT NHANH HERMES.

Annabeth nhích người một cách hào hứng về phía chiếc hộp.

cô không biết tại sao chúng lại ở đây, nhưng Hermes cung cấp tất cả các công cụ hữu ích cho các vị thần, yêu tinh và thậm chí là các á thần. Có lẽ ông ấy đã để những cái thùng này ở đây để giúp các á thần như cô trong nhiệm vụ này.

cô cạy nắp thùng ra và lấy vài cái túi xốp hơi, nhưng chẳng có thứ gì khác ở bên trong nữa.

“Hermes!” cô phàn nàn.

cô ủ rũ nhìn chằm chằm vào những cái túi xốp hơi. Suy nghĩ của cô thay đổi bất ngờ và cô nhận ra những cái túi này là một món quà. “Ồ…tuyệt!”

Annabeth bao phủ mắt cá chân bị thương của cô trong những cái túi xốp hơi. cô đặt các nẹp gỗ vào và buộc tất cả lại bằng dây da.

Trước đây, trong lần thực hành sơ cứu, cô từng nẹp một cái chân gãy giả cho một người bạn khác trong trại, nhưng cô không bao giờ tưởng tượng được sẽ phải làm một cái nẹp cho chính mình.

Đó là một công việc khó khăn, đau đớn, nhưng cuối cùng cô cũng hoàn thành nó. cô tìm kiếm trong đống cầu thang đổ nát cho đến khi tìm thấy một phần của cái lan can–một tấm ván hẹp dài khoảng bốn bộ có thể dùng như một cái nạng. cô dựa lưng vào tường, cái chân lành của cô đã sẵn sàng, và cô nâng mình lên.

“Whoa.” Mắt cô nổ đom đóm, nhưng cô vẫn cố đứng thẳng.

“Lần tới,” cô thì thầm với căn phòng tối, “cứ cho tôi chiến đấu với một con quái vật. Dễ dàng hơn nhiều.”

Phía trên cánh cửa, Dấu hiệu của Athena sáng rực sống động trên các khung vòm.

một con cú lửa dường như đang nhìn cô chờ đợi, như thể muốn nói: “Vừa đúng lúc. Ồ, cô muốn những con quái vật? Vậy thì ngay lối này!”

Annabeth tự hỏi liệu có phải cái dấu hiệu bằng lửa kia được phỏng theo một con cú thiêng thật không. Nếu vậy, khi cô sống sót, cô sẽ tìm con cú đó và đấm vào mặt nó.

Suy nghĩ đó đã vực dậy tinh thần của cô. cô vượt qua cái rãnh nước và khập khiễng tiến vào hành lang.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: Annabeth


ĐƯỜNG HẦM CHẠY THẲNG VÀ PHẲNG, nhưng sau khi ngã, Annabeth quyết định không nên liều. cô bám vô tường và dùng nạng gõ lên sàn hầm trước mặt để chắc chắn là không có bẫy gì cả.

Khi đi, thứ mùi tanh nhẹ càng lúc càng đậm hơn và khiến cô căng thẳng. Tiếng nước chảy nhỏ dần phía sau cô. Tay vào đó là một điệp khúc khô khan những tiếng thầm thì như cả triệu tiếng nói nhỏ li ti. Chúng có vẻ như tới từ những trong bức tường và đang to dần lên.

Annabeth cố tăng tốc nhưng cô không thể đi nhanh hơn mà không mất thăng bằng hay đụng đến cái mắt cá chân. cô lại khập khiễng đi, bị thuyết phục rằng có gì đó phía sau mình. Những giọng nói nho nhỏ ấy vang lên đồng loạt, tới gần hơn.

cô chạm vào tường và tay cô dính đầy mạng nhện.

cô la lên rồi lại tự nguyền rủa vì đã gây tiếng động.

Chỉ là cái mạng nhện thôi, cô tự nhủ. Nhưng làm thế không ngăn được tiếng gào thét trong tai cô.

cô đã đoán là nhện. cô biết thứ gì ở phía trước: Người thợ dệt. Lệnh bà. Giọng nói từ trong bóng tối. Nhưng mạng nhện khiến cô nhận ra bà ta ở gần tới mức nào.

cô lau tay lên mặt đá mà nó cứ run run. cô đã nghĩ gì thế kia chứ? cô không thể thực hiện nhiệm vụ này đơn độc được.

Quá muộn rồi, cô tự nhủ. Phải đi tiếp thôi.

cô đi từng bước đau đớn xuống hành lang. Tiếng thầm thì to hơn ở phía sau tới khi nghe chỉ còn như hàng triệu chiếc lá khô xoay vòng trong gió. Mạng nhện dày đặc hơn, phủ kín đường hầm. Chẳng mấy chốc, cô đã phải gỡ mạng ra khỏi mặt, xé những cái rèm mỏng như sương đang quấn lấy cô như Dây Nhợ Ngớ Ngẩn vậy.

Tim cô muốn nhảy khỏi ngực mà chuồn đi. cô liều lĩnh hơn, loạng choạng đi tới trước, cố lờ đi cái đau ở mắt cá chân.

Cuối cùng hành lang kết thúc ở một ô cửa đầy gỗ xẻ cao ngang thắt lưng. Có vẻ như ai đó đã cố chặn lối vào. Đó chả phải điềm lành, nhưng Annabeth dùng nạng đẩy mấy tấm ván ra xa hết mức có thể. cô bò qua cái đống còn lại, dính phải cả tá dằm gỗ bên bàn tay rảnh của mình.

Bên kia rào chắn là một căn phòng rộng cỡ sân bóng rổ. Sàn phòng là tranh khảm kiểu La Mã. Phần còn lại của mấy bức thảm trang trí rủ xuống trên các bức tường. Hai ngọn đuốc không châm ngự trên hai chân đèn treo tường hai bên lối vào, cả hai phủ đầy mạng nhện.

Xa xa phía cuối căn phòng, Dấu hiệu Athena cháy lên ở một lối vào khác. không may, chắn giữa Annabeth với lối vào ấy là một vực thẳm rộng năm mươi bộ cắt ngang sàn phòng. Bắc qua miệng hầm là hai dầm gỗ song song, quá xa nhau để đặt cả hai chân nhưng mỗi cái lại quá hẹp để bước lên được, trừ phi Annabeth là diễn viên xiếc, mà cô lại không phải, còn cái mắt cá chân vỡ thì cô lại có.

Hành lang cô mới qua toàn những tiếng rít réo. Mạng nhện rung lên và nhảy múa khi con nhện đầu tiên xuất hiện: không lớn hơn viên kẹo dẻo nhưng tròn trĩnh đen sì, chạy mau trên những bức tường và sàn phòng.

Loài nhện gì thế nhỉ? Annabeth không biết. cô chỉ biết chúng đến vì cô và cô chỉ có vài giây để lập ra một kế hoạch.

Annabeth muốn khóc. cô muốn một ai đó, ai cũng được, ở đây vì cô. cô muốn có Leo với kỹ năng điều khiển lửa, hay Jason có tia chớp, Hazel làm sập căn hầm cũng được. trên hết là cô muốn có Percy. cô luôn thấy mình dũng cảm hơn khi có Percy bên cạnh.

Mình sẽ không chết ở đây, cô tự nhủ. Mình sẽ gặp lại Percy.

Những con nhện đầu tiên đã gần tới cửa. sau chúng là một đội quân số lượng lớn-một biển đen toàn loài chân bò gớm ghiếc.

Annabeth khập khiễng tới chỗ một chân đèn treo tường và tóm lấy ngọn đuốc. Đầu đuốc được phủ hắc ín cho dễ cháy. Ngón tay cô nặng như chì nhưng cô lục lọi ba lô mình và tìm thấy được mấy que diêm. cô quẹt diêm và thắp cháy đuốc.

cô thọc đuốc vào chỗ chướng ngại vật. Củi khô cũ bắt lửa ngay tức thì. Lửa bén lên mạng nhện và bùng mạnh ra hành lang cháy sáng, nướng chín cả ngàn con nhện.

Annabeth lùi xa khỏi đống lửa. cô đã mua giờ được chút ít, nhưng cô không biết mình đã giết hết được đám nhện chưa. Chúng sẽ hợp lại và tụ bầy ngay khi lửa tắt.

cô bước đến mép vực.

cô soi đuốc xuống vực, không thấy đáy. Nhảy qua là tự sát. cô có thể cố lấy tay bám vào những thanh dầm mà sang, nhưng cô không tin tưởng vào sức mạnh cánh tay mình và cô cũng không thấy cách nào có thể kéo mình lên với một ba lô đầy ụ và cái mắt cá chân vỡ khi đã sang được bờ bên kia.

cô cúi xuống nghiên cứu hai cái dầm. mỗi cái đều có một bộ móc sắt tròn dọc phía bên trong, khoảng cách các móc là một bàn chân. Có lẽ hai thanh dầm từng là hai bên mặt một cây cầu, còn phần ván ở giữa đã bị bỏ hay phá mất rồi. Còn móc sắt? không phải để giữ ván. Giống như…

cô liếc nhìn những bức tường. Cùng một loại móc được dùng để teo các tấm thảm đã nát vụn.

cô nhận ra hai cái dầm không phải là cầu. Đó là một loại khung dệt.

Annabeth ném ngọn đuốc sang bên kia vực. cô không có niềm tin rằng kế hoạch của mình sẽ thành công nhưng cô lấy dây từ ba lô ra và bắt đầu bện vô hai thanh dầm, bện kiểu chơi dây tới tới lui lui từ móc này sang móc khác, tăng gấp đôi gấp ba đường dây.

Tay cô chuyển động với tốc độ đáng kinh ngạc. cô ngừng nghĩ về nhiệm vụ và chỉ làm thôi, vòng và buộc dây, dần dần mở rộng thêm cái mạng dệt của mình trên miệng vực.

cô quên đi cái đau ở chân và rào lửa đang cháy hừng hực sau lưng. cô nhích thêm ra miệng vực. Tấm dệt đỡ sức nặng của cô. Trước khi cô biết được điều đó thì đã đi được nửa đường.

Sao cô lại học được cách làm thế?

Là Athena, cô tự nhủ. Kỹ năng làm đồ thủ công của mẹ mình. Đan dệt chưa bao giờ có vẻ đặc biệt hữu ích với Annabeth–cho tới lúc này.

cô liếc về phía sau. Rào chắn rực lửa đang tắt dần. vài con nhện đã bò tới quanh ngưỡng cửa.

Tuyệt vọng, cô tiếp tục dệt và cuối cùng cũng dệt qua hết miệng vực. cô tóm lấy ngọn đuốc và dí vô cây cầu dệt. Lửa bén dọc đường dây. Ngay cả hai thanh dầm cũng bắt lửa như thể được ngâm trước trong dầu.

Thoáng cái, cây cầu cháy thành hình rất rõ – một hàng những con cú cháy rực. Phải chăng Annabeth đã dệt thành một chuỗi hay thành một loại phép thuật nào đó? cô không biết, nhưng khi những con nhện bắt đầu vượt qua, hai thanh dầm cháy vụn và sụt xuống vực.

Annabeth nín thở. cô không hiểu lý do tại sao những con nhện không thể tiến lại chỗ cô bằng cách trèo lên tường hay trần nhà. Nếu chúng bắt đầu làm vậy thì cô phải chạy cho mau và khá chắc là mình không thể di chuyển đủ nhanh được.

Vì lý do nào đó, lũ nhện không đuổi theo cô. Chúng dồn đống ở miệng vực – một tấm thảm đen sì sục sôi toàn loài chân bò. Rồi chúng phân tán, ào trở lại hành lang cháy rụi, như thể Annabeth đã chẳng còn tí gì thú vị nữa.

“Hoặc mình đã qua được một bài kiểm tra,” cô nói lớn.

Ngọn đuốc lách tách tắt đi, để lại mình cô chỉ với ánh sáng từ con dao găm. cô nhận ra rằng mình đã vứt cái nạng tạm bợ của mình bên kia vực thẳm.

cô cảm thấy kiệt sức và hết xí quách nhưng tâm trí cô thì rất tỉnh táo. Mỗi hoảng loạn của cô dường như cũng cháy rụi cùng cây cầu dệt đó rồi.

Người thợ dệt, cô nghĩ. Mình phải tới gần. Ít ra mình biết cái gì ở phía trước.

cô đi xuống hành lang tiếp theo, cố gắng không dồn lực xuống bên chân đau.

cô không phải đi xa.

Sau hai sáu mét, đường hầm mở vào một cái hang rộng bằng một điện thờ, hùng vĩ tới mức Annabeth khó có thể xử lý mọi thứ mà cô nhìn thấy. cô đoán đây là căn phòng trong giấc mơ của Percy, nhưng nó không tối. Lò than đồng tỏa ánh sáng ma thuật hệt như những cái mà các vị thần dùng trên Đỉnh Olympus, phát sáng quanh chu vi căn phòng, xen với những tấm thảm trang trí tuyệt đẹp. Sàn phòng bằng đá có vết nứt như một mảng băng. Trần nhà cao quá mức, thất tung trong bóng tối và tầng tầng lớp lớp mạng nhện.

Những sợi tơ dày như những cây cột chạy từ trần nhà tới khắp cả phòng, neo vô các bức tường và sàn như cáp cầu treo.

Mạng nhện cũng bao quanh trung tâm điện thờ, trông nó đáng sợ tới nỗi Annabeth khó mà ngước mắt nhìn nó được. Lờ mờ phía trên cô là bức tượng Athena cao bốn mươi bộ với lớp da ngà phát sáng và váy bằng vàng. trên đôi tay giang rộng, Athena giữ bức tượng Nike, nữ thần thắng lợi có cánh – một bức tượng mà nhìn từ đây có vẻ nhỏ xíu, nhưng có khi cao bằng người thật. tay kia Athena tựa trên một tấm khiên to bằng một biển quảng cáo với một con rắn được khắc ló trộm ra từ phía sau như thể Athena đang bảo hộ nó.

Khuôn mặt nữ thần thanh thản, ân cần…và trông giống Athena. Annabeth từng thấy nhiều tượng trước đây mà chẳng giống mẹ cô chút nào, nhưng bản khổng lồ này, được làm từ hàng ngàn năm trước, khiến cô nghĩ rằng người nghệ sĩ hẳn đã gặp Athena bằng xương bằng thịt. Ông đã tái hiện bà một cách hoàn hảo.

“Athena Parthenos,” Annabeth lầm bầm. “Nó thực sự ở đây rồi.”

Suốt đời mình, cô đã muốn đến thăm Parthenon. Giờ cô đang thấy điểm thu hút chính của ngôi đền từng nằm ở đó – và cô là đứa con đầu tiên của Athena làm được thế hàng thiên niên kỷ nay.

cô thấy mồm mình há hốc ra. cô ép bản thân nuốt xuống. Annabeth lẽ ra đã đứng đây cả ngày mà nhìn bức tượng, nhưng cô mới thực hiện được có nửa nhiệm vụ. cô đã tìm thấy bức Athena Parthenos. Giờ làm sao cô có thể cứu nó ra khỏi cái hang đây?

Tơ nhện cuốn lấy nó như một cái lều bằng băng gạc. Annabeth ngờ rằng nếu không có tấm mạng, bức tượng đã đổ xuyên qua sàn phòng suy yếu này từ lâu rồi. Khi bước vô phòng, cô có thể thấy các vết nứt bên dưới rộng đến nỗi cô có thể lọt chân vô đó. Dưới các vết nứt, cô chả thấy gì ngoài bóng tối hun hút.

một cơn ớn lạnh lướt qua cô. Kẻ canh giữ đâu? Làm sao Annabeth có thể giải phóng bức tượng mà không làm sụt sàn phòng đây? cô không thể đẩy bức Athena Parthenos xuống hành lang cô mới vào được.

cô nhìn lướt căn phòng, hy vọng thấy được cái gì hữu ích. Mắt cô lướt qua những tấm thảm đẹp tới mức đau tim. một bức là cảnh chăn nuôi rất ba chiều[1], có khi đó là cửa sổ cũng nên. một tấm khác là các vị thần đang chiến đấu với người khổng lồ. Annabeth thấy một cảnh ở Địa Ngục. Cạnh đó là đường chân trời của Rome hiện đại. Và tấm thảm bên trái cô…

cô nín thở. Đó là một bức chân dung hai á thần hôn nhau dưới nước: Annabeth và Percy, ngày bạn bè họ ném họ xuống hồ ca nô ở trại. Nó sống động tới nỗi cô băn khoăn không biết có phải người thợ dệt đã ở đó, ẩn mình trong hồ với một chiếc máy ảnh chống thấm nước không.

“Sao có thể thế được?” cô lẩm nhẩm.

Phía trên cô sâu trong bóng tối, một giọng nói cất lên. “Từ lâu rồi ta đã biết là ngươi sẽ đến, cưng ạ.”

Annabeth rùng mình. Đột nhiên cô lại bảy tuổi một lần nữa, núp vô chỗ trú ẩn, đợi những con nhện tấn công mình trong đêm. Giọng nói hệt như Percy mô tả: một tiếng réo rít giận dữ đa âm vực, của giống cái nhưng không phải con người.

Trong những tấm mạng phía trên bức tượng, thứ gì đó chuyển động – thứ gì đó hắc ám và to lớn.

“Ta từng gặp mi trong mơ,” giọng nói bảo, tanh hôi và quỷ quái như cái mùi trong đường hầm. “Ta phải đảm bảo rằng ngươi đáng giá, đứa con duy nhất của Athena đủ thông minh qua được những bài kiểm tra của ta và sống sót tới nơi này. thật vậy, ngươi là đứa con tài năng nhất của mụ. Thế này khiến cái chết của ngươi sẽ càng đau đớn hơn đối với kẻ cựu thù của ta khi người thất bại hoàn toàn.

Cái đau ở mắt cá chân Annabeth chẳng là gì so với nỗi chua xót băng giá đang tràn ngập mạch máu cô bây giờ. cô muốn chạy. cô muốn nài xin thêm chút xót thương. Nhưng cô không thể tỏ ra yếu đuối – không phải lúc này.

“Bà là Arachne[2],” cô kêu lên. “Người thợ dệt đã biến thành con nhện.”

Vật thể đó hạ xuống, rõ hơn và kinh khủng hơn. “Bị mẹ ngươi nguyền rủa,” bà ta bảo. “Bị tất cả khinh miệt và bị biến thành một thứ xấu xa…bởi ta là một thợ dệt giỏi hơn.”

“Nhưng bà đã thua trong cuộc thi,” Annabeth bảo.

“Đó là câu chuyện viết nên bởi kẻ thắng cuộc!” Arachne thét lên. “Nhìn tác phẩm của ta mà coi! Tự nhìn coi!”

Annabeth chẳng cần nhìn. Những tấm thảm là những tấm đẹp nhất cô từng thấy – tốt hơn của phù thủy Circe và, phải, tốt hơn vài tấm cô thấy trên Đỉnh Olympus. cô tự hỏi không biết thực ra có phải mẹ mình đã thua không – nếu bà giấu Arachne đi và viết lại sự thật. Nhưng giờ đã chẳng quan trọng nữa.

“Bà đã canh giữ bức tượng này từ thời cổ xưa,” Annabeth đoán. “Nhưng nó không thuộc về nơi này. Tôi sẽ đưa nó về.”

“Ha.” Arachne nói.

Kể cả Annabeth cũng phải thừa nhận lời đe dọa của mình quá lố bịch. Làm sao một cô gái trong vai mắt cá Túi Bóng Xốp có thể đưa bức tượng khổng lồ đi khỏi căn hầm ngầm chứa nó được kia chứ?

“Ta e rằng ngươi phải đánh bại ta trước, cưng ạ,” Arachne bảo. “Và than ôi, điều đó là bất khả thi đó.”

Sinh vật xuất hiện từ những tấm màn tơ và Annabeth nhận ra rằng nhiệm vụ của mình thật vô vọng. cô sắp chết.

Arachne có phần thân là một con nhện góa phụ đen[3] khổng lồ với dấu đồng hồ cát đỏ lông lá ở mặt dưới của bụng và một đôi lỗ nhả tơ rỉ nhầy. Tám chân khẳng khiu của mụ ta có các ngạnh cong lớn bằng dao găm của Annabeth. Con nhện mà tới gần thêm tí nào nữa thôi, chỉ mùi tanh của nó đã đủ khiến Annabeth ngất đi rồi. nhưng phần đáng sợ nhất là khuôn mặt méo mó của mụ.

Mụ ta hẳn từng là một phụ nữ đẹp. Giờ đây hàm trên đen đúa nhô ra từ miệng mụ như những cái ngà. Những chiếc răng khác đã thành những cây kim trắng mảnh. Ria mép sắc nhọn tối màu điểm trên má. Mắt mụ to, không có mi và đen huyền với hai mắt nhỏ hơn nhô ra từ thái dương.

Sinh vật phát ra những âm thanh dữ dội rip-rip-rip hẳn là tiếng cười.

“Giờ ta sẽ thưởng thức ngươi, cưng ơi,” Arachne bảo. “Nhưng đừng có sợ làm chi. Ta sẽ dệt một tấm thảm tuyệt đẹp mô tả cái chết của ngươi.”

[1] Trong hình học và giải tích toán học, đối tượng hoặc cơ thể ba chiều, có ba kích thước. Tức là mỗi điểm của nó có thể được đặt bằng cách xác định ba số trong một phạm vi nhất định. Ví dụ, chiều rộng, chiều dài và chiều sâu.

không gian xung quanh chúng ta là ba chiều bằng mắt thường, nhưng thực sự có kích thước hơn, do đó, nó cũng có thể được coi là một không gian bốn chiều nếu chúng tôi bao gồm thời gian là một chiều thứ tư. theo lý thuyết Kaluza-Klein ban đầu không-thời gian được công nhận là một năm chiều (do đó, không gian bốn chiều, một trong số đó là kích thước nhỏ gọn hoặc kính hiển vi), lý thuyết dây có ý tưởng này và đề xuất bởi các phiên bản khác nhau không gian vật lý có thể có 9 hoặc 10 chiều.

[2] Arachne là tên một cô thợ dệt tài hoa trong thần thoại Hy Lạp – La Mã. Quá kiêu ngạo với tài năng của mình, cô khoe khoang rằng tài năng của mình lớn hơn cả nữ thần trí tuệ, và phủ nhận khi những bạn dệt nói rằng tài năng của mình một phần là sự ban ân của thần linh. Nữ thần đã đến thăm cô trong hình dạng một bà lão để khuyên nhủ, bị xúc phạm bởi cô gái, nữ thần quyết định mở một cuộc thi đấu giữa hai thợ dệt. Theo Ovid,[1] Athena đã rất ghen tị với những tấm thảm tuyệt đẹp của cô thợ dệt, và có lẽ vì sự khinh nhờn mà cô gái thể hiện khi đưa tình yêu và tội lỗi của chư thần lên mặt thảm, nữ thần đã xé rách tấm thảm và ném vào mặt cô gái. cô bị biến thành một con vật xấu xí, phải dệt vải đời đời. (Arachne trong tiếng Hy Lạp: “ἀράχνη” có nghĩa là con nhện)

[3]: Nhện góa phụ đen: một loài nhện độc thuộc chi latrodectus, sống ở nhiều nơi trên thế giới. Sở dĩ có tên này là vì con cái của loài nhện này ăn thịt con đực ngay sau khi giao phối. Nhện góa phụ đen có màu đen với một vệt hình đồng hồ cát màu đỏ dưới bụng. Chất độc latrotoxin từ vết cắn của loài này là chất đầu độc thần kinh tương đối mạnh, có hại đối với con người vì tuyến nọc độc lớn bất thường, tuy nhiên, cú cắn của loài nhện này hiếm khi giết chết con người nếu vết cắn được chữa trị.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: Leo


LEO ƯỚC GÌ MÌNH không GIỎI THẾ.

thật sự, nhiều khi như thế rõ xấu hổ. Nếu cậu không rành về đồ cơ khí đến vậy, có lẽ họ sẽ chả bao giờ tìm thấy đường trượt bí mật và bị mấy gã kim loại tấn công. Nhưng cậu không thể ngăn mình đựợc.

một phần là lỗi của Hazel. Là cô gái với siêu giác quan về lòng đất, cô chẳng giúp được mấy ở Rome. cô cứ dẫn họ đi vòng vòng rồi vòng vòng quanh thành phố, chóng hết cả mặt và vòng về tới hai lần.

“Xin lỗi,” cô bảo. “Chỉ là … ở đây nhiều lòng đất quá, quá nhiều lớp, làm em thấy choáng váng. Như kiểu đang đứng ngay chính giữa một dàn nhạc và cố chỉ tập trung vào đúng một nhạc cụ thôi ấy. Em bị điếc mất.”

Kết quả là họ có một tua du lịch thành Rome. Frank có vẻ hạnh phúc lê theo như một chú chó chăn cừu bự con (hmm, Leo tự hỏi cậu ấy có thể biến thành một con không, hay thậm chí tốt hơn: một con ngựa để Leo cưỡi được). Nhưng Leo bắt đầu mất kiên nhẫn. Chân cậu đau, trời thì nắng nóng và mấy con phố thì đông nghẹt du khách.

Quảng trường trông cũng được, nhưng chủ yếu toàn là phế tích mọc đầy lùm bụi và cây cối um tùm. Cần nhiều trí tưởng tượng lắm mới có thể thấy nó là trung tâm sầm uất của Rome Cổ. Leo chỉ xoay sở làm được vì cậu từng thấy Rome mới ở California.

Họ đi qua những nhà thờ lớn, những mái vòm đứng bơ vơ, cửa hàng quần áo và cả những hàng ăn nhanh. một bức tượng của một gã La Mã Cổ Đại nào đó có vẻ như đang chỉ vào một hàng McDonald gần đấy.

Ở những đường phố lớn hơn, đám xe cộ hoàn toàn phát rồ–mèn đét ơi, Leo cứ nghĩ người ở Houston mới phóng xe như điên chớ– nhưng họ dành phần lớn thời gian lướt qua những con hẻm nhỏ, ngang qua các đài phun nước và các quán cà phê nơi Leo không được phép nghỉ chân.

“Em chưa từng nghĩ mình sẽ được nhìn thấy Rome,” Hazel nói. “khi em còn sống, ý em là lần đầu ấy, Mussolini[1] nắm quyền. Bọn em đang có chiến tranh.”

“Mussolini?” Leo cau mày. “Ổng có phải BFF (best friend forever-bạn thân mãi mãi) với Hitler không?”

Hazel chăm chăm nhìn cậu như thể cậu là người ngoài hành tinh. “BFF?”

“Đừng bận tâm.”

“Em muốn xem Đài phun nước Trevi[2],” cô nói.

“Mỗi dãy nhà đều có một đài phun nước,” Leo càu nhàu.

“Hay Bậc thang Tây Ban Nha,” Hazel bảo.

“Sao em lại đến Ý để coi Bậc thang Tây Ban Nha hử?” Leo hỏi. “Thế khác gì đến Trung Quốc mà ăn đồ Mexico, phải không?”

“anh thật vô vọng,” Hazel phàn nàn.

“đã nghe câu đó.”

cô quay sang Frank và nắm tay cậu như thể Leo không tồn tại nữa ấy. “đi nào. Em nghĩ mình nên đi đường này.”

Frank tặng Leo một nụ cười bối rối – như thể không quyết định được nên hả hê hay cảm ơn Leo đã làm một thằng đần – nhưng cậu ta hớn hở để Hazel kéo mình đi.

Sau khi đi bộ cả mấy kiếp, Hazel dừng trước một nhà thờ. Ít nhất, Leo cho rằng đó là một nhà thờ. Khu vực chính có một mái vòm lớn. Lối vào có mái nhà hình tam giác, cột La Mã điển hình và một dòng chữ vắt ngang trên đỉnh: M.AGRIPPA[3] gì gì đó.

“Tiếng latin của Bình tĩnh đi hở?” Leo suy đoán.

“Đây là ván cược tốt nhất của tụi mình.” Hazel nghe có vẻ chắc chắn hơn so với cả ngày nay. “Hẳn là có lối đi bí mật đâu đó bên trong.”

Các nhóm du lịch túm tụm quanh các bậc thang. Hướng dẫn viên giơ lên các áp phích in màu với các con số khác nhau và giảng bằng hàng tá ngôn ngữ như thể đang chơi một kiểu bingo quốc tế vậy.

Leo nghe các hướng dẫn viên du lịch Tây Ban Nha vài giây rồi nói lại với bạn mình, “Đây là Pantheon. Ban đầu nó được xây dựng bởi Marcus Agrippa làm một ngôi đền thờ các vị thần. Sau trận hỏa hoạn, Hoàng đế Hadrian xây lại nó, và nó đã tồn tại hai ngàn năm nay. một trong những công trình La Mã được bảo tồn tốt nhất trên thế giới.”

Frank và Hazel chằm chằm nhìn cậu.

“Làm sao anh biết?” Hazel hỏi.

“anh sinh ra đã giỏi.”

“Điêu vừa thôi,” Frank nói. “Cậu ấy vừa nghe lén một nhóm khách du lịch đó.”

Leo cười toe. “Có khi là thế. Nào. đi tìm cái lối đi bí mật ấy thôi. Mong là chỗ này có điều hòa.”

Tất nhiên, không ĐH[4].

Mặt tích cực, không xếp hàng và không mất phí vô cửa nên họ chỉ việc chen lấy đường qua những nhóm du lịch và đi vô.

Bên trong khá ấn tượng, xét theo việc nó đã được xây từ hai ngàn năm trước. Sàn đá cẩm thạch trang trí hình vuông và tròn như một ván tic-tac-toe La Mã. không gian chính là một căn phòng khổng lồ với một mái vòm cầu, như kiểu tòa nhà Quốc hội ở Mỹ. Dọc theo bức tường là các điện thờ, tượng, mộ và các thứ khác nhau. Nhưng cái thực sự bắt mắt là mái vòm phía trên. Tất cả ánh sáng trong công trình này là từ một lỗ mở tròn ngay trên đỉnh. một chùm ánh mặt trời chiếu chếch vô mái vòm và tỏa sáng trên sàn nhà như thể Zeus trên kia cầm cái kính lúp và cố rán giòn những con người bé nhỏ.

Leo không phải kiến trúc sư như Annabeth nhưng cậu có thể đánh giá đúng phần kỹ thuật. Người La Mã đã xây mái vòm từ các tấm đá lớn nhưng lại khoét rỗng thành một hình vuông trong hình vuông. Trông thật tuyệt. Leo hiểu nó làm cho mái vòm nhẹ hơn và dễ đỡ hơn.

Cậu không đề cập điều đó với bạn mình. Cậu ngờ rằng họ sẽ không quan tâm, nhưng nếu Annabeth ở đây, cô sẽ dành ra cả ngày nói về nó. Nghĩ tới việc ấy khiến Leo tự hỏi không biết vụ thám hiểm Dấu hiệu Athena cô tiến hành tới đâu rồi. Leo chưa từng nghĩ mình sẽ cảm thấy thế này, nhưng cậu lo cho cô gái tóc vàng đáng sợ đó.

Hazel dừng ở giữa phòng và quay tròn. “Tuyệt thật. Ngày xưa, những đứa con của Vulcan[5] sẽ bí mật tới đây để thánh hiến những món vũ khí á thần. Đây là nơi vàng Hoàng gia được ban phép.”

Leo tự hỏi việc đó diễn ra thế nào. Cậu tưởng tượng một mớ á thần mặc áo choàng màu tối, cố im lặng lăn một chiếc nỏ phóng tiễn cỡ nhỏ qua ngưỡng cửa trước.

“Nhưng ta ở đây không phải vì cái đó,” cậu đoán.

“không,” Hazel bảo. “Có một lối vào – một đường hầm sẽ dẫn ta tới chỗ Nico. Em linh cảm thấy nó ở rất gần. Em không chắc ở đâu.”

Frank càu nhàu. “Nếu công trình này hai ngàn năm tuổi, rất có thể có một kiểu lối đi mật còn lại từ thời La Mã.”

Đó là khi Leo mắc sai lầm vì đơn giản là quá giỏi.

Cậu nhìn quanh nội thất ngôi đền và nghĩ: Nếu mình thiết kế một lối đi bí mật, mình sẽ đặt ở đâu?”

Đôi khi cậu có thể tìm hiểu cách một chiếc máy hoạt động bằng cách đặt tay lên mình nó. Cậu cũng học được cách điều khiển máy bay như thế. Cậu đã sửa rồng Festus bằng cách đó (trước khi Festus bị rơi và thiêu cháy). Có lần cậu thậm chí còn lập trình lại biển quảng cáo điện tử ở Quảng trường Thời Đại thành: QUÝ BÀ NÀO CŨNG THÍCH LEO…tất nhiên là, vô tình thôi.

Giờ cậu cố cảm nhận cách vận hành của công trình cổ xưa này. Cậu quay tới phía một thứ trông như án thờ bằng đá cẩm thạch đỏ với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh Mary phía trên. “Ở đó,” cậu nói.

Cậu tự tin tiến tới điện thờ. Nó được tạo hình như kiểu lò sưởi với một hốc vòm dưới đáy. Lò sưởi được khắc tên hệt một nấm mộ.

“Lối đi đâu đó quanh đây,” cậu bào. “Nơi an nghỉ cuối cùng của ông này nằm ngay trên đường. Raphael[6] là ông nào?”

“một danh họa, em nghĩ thế,” Hazel nói.

Leo nhún vai. Cậu có một đứa em họ tên Raphael và cậu cũng chả nghĩ đến cái tên nhiều làm chi. Cậu băn khoăn mình có thể tạo ra một thỏi thuốc nổ từ cái thắt lưng dụng cụ và tạo một vụ nổ kín đáo không, nhưng cậu nhận thấy những người trông nom nơi này có lẽ không chấp thuận đâu.

“Đứng yên…” Leo ngó quanh để đảm bảo họ không bị theo dõi.

Hầu hết các nhóm du lịch đang trố mắt nhìn mái vòm, nhưng một bộ ba khiến Leo khó chịu. Cách đó năm mươi bộ, vài gã trung tuổi thừa cân giọng Mỹ nói chuyện to tiếng, phàn nàn với nhau về cái nóng. Trông họ như lợn biển[7] bị nhét vô đồ đi biển – xăng đan, quần đùi đi bộ, áo phông và mũ rộng vành. Chân họ to tướng, nhão nhoẹt toàn vân nhện[8]. Mấy gã tỏ ra vô cùng buồn chán và Leo tự hỏi tại sao họ lại ở đó.

Họ không quan sát cậu. Leo không chắc tại sao họ lại khiến mình căng thẳng. Có khi tại cậu không thích heo biển.

Quên đi, Leo tự nhủ.

Cậu lướt quanh ngôi mộ. Cậu vuốt tay dọc xuống mặt sau một cây cột La Mã, thẳng xuống tận chân đế. Ngay dưới đế, một loạt các dòng chữ được khắc vào đá cẩm thạch – các chữ số La Mã.

“Hê,” Leo nói. “không trang nhã cho lắm, nhưng hiệu quả.”

“Cái gì cơ?” Frank hỏi.

“Mật mã cho một ổ khóa.” Cậu sờ hết mặt sau của cái cột thêm chút và phát hiện ra một cái lỗ vuông cỡ cái ổ cắm điện. “Mặt khóa đã bị tách ra – có lẽ bị đập phá vài lần mấy thế kỷ nay. Nhưng mình sẽ có thể kiểm soát được cơ chế bên trong, nếu được…”

Leo đặt tay lên sàn đá cẩm thạch. Cậu có thể cảm thấy những bánh răng đồng cũ dưới mặt đá. Đồng thông thường sẽ bị ăn mòn và không sử dụng được từ lâu rồi, nhưng đây là đồng Thiên thai – tác phẩm của một á thần. Với một chút trí lực, Leo thúc chúng chuyển động, sử dụng những con số La Mã làm chỉ dẫn. Các xi lanh quay – kích, kích, kích. Rồi kích, kích.

trên sàn đá cạnh bức tường, một phiến đá cẩm thạch trượt xuống dưới một phần khác, để lộ một lỗ vuông tối thui, chỉ đủ để luồn vô.

“Người La Mã xưa chắc nhỏ lắm.” Leo nhìn Frank thẩm định. “Cậu sẽ cần biến thành cái gì đó nhỏ hơn để qua được đây.”

“không hay đâu!” Hazel mắng.

“Gì? nói thui mà–”

“Đừng lo cái đó,” Frank lẩm bẩm. “Ta phải đi đón những người khác trước khi dò xét. Piper nói thế mà.”

“Họ cách cả nửa thành phố,” Leo nhắc cậu ta. “Hơn nữa, ờ, mình không chắc mở lại cửa sập này lần nữa được đâu. Bánh răng khá cũ rồi.”

“Tuyệt,” Frank bảo. “Sao ta biết dưới đó an toàn hay không chứ?”

Hazel quỳ xuống. cô thò tay qua cái lỗ như thể đang kiểm tra nhiệt độ. “không có thứ gì còn sống…ít nhất là trong vòng vài trăm bộ. Đường hầm dốc xuống rồi lại lên cao hơn và đi về phía nam, đại loại thế. Em không cảm nhận được có cái bẫy nào cả…”

“Sao em biết được tất mấy thứ đó?” Leo hỏi.

cô nhún vai. “Y hệt cái cách anh nạy mấy ổ khóa chỗ sàn đá cẩm thạch thôi, em đoán thế. thật vui là anh không đi cướp ngân hàng.”

“Ố…kho tiền ngân hàng hử,” Leo nói. “Chưa từng nghĩ tới vụ đó.”

“Quên bất cứ cái gì em nói đi.” Hazel thở dài. “Coi này, vẫn chưa đến ba giờ. Ít ra ta có thể khám phá một chút, cố xác định vị trí của Nico trước khi liên lạc với những người khác. Hai anh ở đây cho tới khi em gọi. Em muốn kiểm tra mọi thứ, đảm bảo đường hầm có kết cấu vững chắc. Em sẽ biết được nhiều hơn một khi đã ở dưới lòng đất.”

Frank cau mày. “Bọn anh không thể để em đi một mình được. Có thể em sẽ bị thương đó.”

“Frank, em tự coi sóc bản thân được mà,” cô nói. “Dưới lòng đất là chuyên địa của em. sẽ là an toàn nhất cho cả lũ tụi mình nếu em đi đầu.”

“Trừ phi Frank muốn biến thành một con chuột chũi,” Leo gợi ý. “Hay một con chó đồng cỏ. Mấy con đó hay lắm ế.”

“Im ngay,” Frank lầm bầm.

“Hay một con lửng.”

Frank chỉ tay vào mặt Leo. “Valdez, tôi thề–”

“Cả hai người im đi,” Hazel mắng. “Em sẽ quay lại sớm. Cho em mười phút. Nếu không nghe thấy em lúc ấy…thây kệ. Em sẽ ổn thôi. Cố đừng có mà giết nhau lúc em ở dưới đó đấy.”

cô tuột xuống hố. Leo với Frank che chắn cho cô tốt nhất có thể. Họ đứng vai kề vai, cố để trông bình thường như thể hai thằng nhóc choai choai loanh quanh trong lăng mộ Raphael là hoàn toàn tự nhiên.

Hai nhóm du lịch đến rồi đi. Phần lớn phớt lờ Leo với Frank. Vài người nhìn họ vẻ dè chừng rồi đi tiếp. Có lẽ mấy du khách nghĩ họ sẽ đòi tiền boa. Vì lí do nào đấy, Leo có thể khiến họ thoái chí khi cậu cười toe cười toét.

Ba gã lợn biển Mỹ vẫn đang loanh quanh chỗ giữa phòng. một trong số đó mặc cái áo phông ghi ROMA như thể sẽ quên mất gã đang ở thành phố nào nếu không mặc nó. Chốc chốc gã lại liếc nhìn Leo với Frank như thể gã thấy sự hiện diện của họ khó chịu lắm không bằng.

Cái gì đó ở gã kia khiến Leo thấy bực. cậu mong Hazel nhanh nhanh lên.

“cô ấy đã nói chuyện với mình lúc trước,” Frank đột ngột lên tiếng. “Hazel bảo cậu đã tìm hiểu ra được về mệnh căn của mình.”

Leo giật mình. Cậu gần như quên khuấy mất Frank đang đứng ngay cạnh mình.

“Mệnh căn của cậu … ồ, thanh củi cháy. Phải.” Leo gắng nén lại thôi thúc muốn bung lửa ra tay và hét: Há ha ha! Ý tưởng cũng vui vui đấy chứ, nhưng cậu không ác tới mức đó.

“Nghe này, anh bạn,” cậu bảo. “Ổn mà. Mình chưa bao giờ làm gì đặt cậu vào nguy hiểm hết. Chúng ta cùng hội cùng thuyền cơ mà.”

Frank nghịch vơ vơ vẩn vẩn cái huy hiệu bách thống tướng[9] của mình. “Mình luôn biết lửa có thể giết chết mình, nhưng từ khi biệt thự của bà cháy rụi ở Vancouver … việc đó có vẻ thật hơn nhiều.”

Leo gật đầu. Cậu thấy thông cảm với Frank nhưng, cậu chàng không thoải mái khi nói về căn biệt thự của gia đình. Kiểu như bảo, Tôi đâm nát cái Lamborghini[10] mất rồivà đợi người ta đến nói, Ôi, tội nghiệp cưng!

Tất nhiên Leo không nói thế với cậu ta. “Bà cậu – mất trong vụ hỏa hoạn đấy sao? Cậu vẫn chưa nói.”

“Mình – mình không biết nữa. Bà ốm và khá già rồi. Bà bảo bà sẽ chết vào thời điểm của riêng mình, bằng cách riêng của mình. Nhưng mình nghĩ bà đã thoát khỏi được vụ cháy. Mình thấy con chim bay lên từ lửa đỏ.”

Leo nghĩ ngợi về vụ đó. “Thế cả gia đình cậu biết biến hình à?”

“Mình đoán thế,” Frank bảo. “Mẹ biết. Bà nghĩ việc ấy khiến mẹ mất ở Afghanistan, trong trận chiến. Mẹ cố giúp vài người bạn và…Mình không biết chính xác chuyện gì xảy ra nữa. Có một quả bom nổ.”

Leo nhăn mặt cảm thông. “Thế là hai ta đều mất mẹ vì lửa.”

Cậu không định làm thế, nhưng lại kể với Frank toàn bộ câu chuyện đêm ở xưởng khi Gaea hiện ra với cậu và mẹ cậu mất.

Mắt Frank rưng rưng. “Mình chưa từng thích khi người ta bảo, Rất tiếc chuyện của mẹ cậu.”

“không hề có cảm giác thật lòng chút nào,” Leo tán thành.

“Nhưng mình rất tiếc chuyện của mẹ cậu.”

“Cảm ơn.”

không có dấu hiệu gì của Hazel. Mấy du khách người Mỹ vẫn quanh quẩn trong đền Pantheon. Họ có vẻ đang lượn tới gần hơn, dường như lén lẩn tới gần mộ Raphael mà không chú ý vậy.

“Lúc ở trại Jupiter,” Frank nói, “Thần giữ nhà của bọn mình, Reticulus, bảo mình có nhiều quyền năng hơn phần lớn các á thần, con trai của Mars, thêm khả năng biến hình bên mẹ nữa. Ổng bảo đó là lý do mệnh căn đời mình lại bị trói chặt vô một thanh củi cháy. một điểm yếu cực lớn để cân bằng tất cả.”

Leo nhớ cuộc nói chuyện với nữ thần báo thù Nemesis ở Hồ Muối Lớn. Bà ta nói gì đó tương tự về việc muốn cán cân được công bằng. May mắn là giả dối. Thành công thực sự đòi hỏi phải hi sinh.

Cái bánh nướng may mắn của bà ta vẫn ở trong thắt lưng dụng cụ của Leo, đợi được mở ra. Cậu sẽ sớm phải đối mặt với một vẫn đề mà mình không giải quyết nổi, dù thế ta có thể giúp cậu…với một cái giá.

Leo ước gì mình có thể bứt ký ức đó ra khỏi đầu và tống nó vô thắt lưng công cụ. nó đang chiếm quá nhiều không gian. “Chúng ta đều có điểm yếu,” cậu nói. “Ngay mình này. Mình hài hước và đẹp trai tới mức bi kịch.”

Frank khịt mũi. “Có thể cậu có điểm yếu. Nhưng đời cậu không phụ thuộc vào một mảnh củi cháy.”

“không,” Leo thừa nhận. Cậu bắt đầu nghĩ: nếu vấn đề của Frank là của mình, cậu sẽ giải quyết thế nào đây? Phần lớn mọi lỗ hổng trong thiết kế đều sửa được. “Mình tự hỏi…”

Cậu nhìn khắp phòng ấp a ấp úng. Ba gã du khách Mỹ đang tới chỗ họ, không còn lượn lờ hay lén lút nữa. Họ đang tới thẳng mộ Raphael và cả ba nhìn Leo chằm chằm.

“Ờ, Frank?” Leo hỏi. “Được mười phút chưa thế?”

Frank nhìn theo ánh mắt cậu. Những khuôn mặt Mỹ giận dữ và lúng túng, như đang mộng du với cơn ác mộng cực khó chịu.

“Leo Valdez,” gã mặc áo phông ROMA gọi. Giọng gã đổi khác. Nó trống rỗng và sặc mùi kim khí. Gã nói Tiếng anh như nói một thứ ngoại ngữ. “Ta lại gặp nhau nhỉ.”

Cả ba gã du khách chớp mắt và mắt họ chuyển thành vàng đặc.

Frank la lên. “Eidolon!”

Ba gã lợn biển xiết chặt nắm tay lực lưỡng. Thường thì Leo sẽ chả lo bị giết bởi mấy gã thừa cân đội nón rộng vành, nhưng cậu ngờ là tụi eidolon vẫn rất nguy hiểm dù có nhập vô mấy cái xác kia chăng nữa, đặc biệt bởi lũ ám hồn không thèm bận tâm vật chủ của chúng sống chết thế nào cả.

“Bọn chúng không lọt vừa cái lỗ đâu,” Leo nói.

“Phải,” Frank nói. “Dưới lòng đất giờ nghe có vẻ tốt.”

Cậu biến thành một con rắn trườn qua mép lỗ. Leo nhảy vô ngay sau cậu khi lũ ám hồn bắt đầu rên thét phía trên, “Valdez! Giết Valdez!”

[1]Benito Amilcare Andrea Mussolini (29 tháng 7, 1883 – 28 tháng 4, 1945) là thủ tướng độc tài cai trị phát xít Ý với một thể chế quốc gia, quân phiệt và chống Cộng sản dựa trên hệ thống tuyên truyền và kềm kẹp khắc nghiệt. Mussolini đưa Ý vào liên minh khối Trục của Adolf Hitler chống lại quân Đồng Minh trong đệ nhị thế chiến. Khi khối Trục thua trận, Mussolini toan bỏ trốn sang Thụy Sĩ nhưng ông và vợ bị quân cộng sản kháng chiến Ý bắt giết tại hồ Como.

[2]Đài phun nước Trevi là 1 công trình ở quận Trevi của Rome, đài phun nước phong cách Ba-rốc lớn nhất thành phố và một trong những đài phun nước nổi tiếng nhất thế giới. Nơi đây nổi tiếng với việc người ta tung đồng xu xuống nước và ước nguyện sẽ thành thực.

[3]M•AGRIPPA•L•F•COS•TERTIVM•FECIT viết trước đền Pantheon(Ngôi đền của mọi vị thần, khác với Parthenon chỉ thờ Athena). Dòng chữ có nghĩa là: Marcus Agrippa, con trai Lucius, chấp chính lần thứ ba,dựng nên đền này.

[4] ĐH= Điều Hòa

[5]Vulcan là tên La Mã của Hephaestus(tiếng Hy Lạp: Ἥφαιστος, còn gọi là Hephaestus) là vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Ông là vị thần của kỹ nghệ, bao gồm nghề rèn, thủ công, điêu khắc, kim loại và luyện kim, và lửa. Thần được thờ phụng trong khắp các trung tâm chế tạo và công nghiệp ở Hy Lạp, đặc biệt ở Athena.

[6]Raffaello ( 6 tháng 4 hoặc 28 tháng 3 năm 1483 – 6 tháng 4 năm 1520) [1] là họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý.

Mộ Raphael ở Pantheon

Toàn cảnh Pantheon và mộ Raphael trong phim Thiên thần và Ác quỷ

(do phim nên quay đẹp hơn bình thường nhiều)

[7]Lợn biển (họ Lợn biển Trichechidae, chi Trichechus) là loài động vật có vú lớn, sống trong nước biển. Có 3 loài lợn biển còn tồn tại, cùng với cá cúi (Dugong dugong, họ Bò biển Dugongidae) tạo thành bộ Bò biển (Sirenia). Đuôi của nó giống cái giầm, còn đuôi của cá cúi chia hai phần. Phần nhiều thời gian nó tiêu tốn vào việc ăn cỏ trong nước nông.

[8]Đại loại 1 loại bệnh gì đó xảy ra với mạch máu, khiến các vân mạch nổi rõ trên da, xanh xanh đỏ đỏ chằng chịt như rễ cây.

[9]Bách thống tướng là người chỉ huy 100 người dưới trướng trong quân đoàn La Mã

[10]Automobili Lamborghini S.p.A., thường gọi tắt là Lamborghini, là nhà sản xuất xe hơi thể thao cao cấp (siêu xe hơi) của Ý, có trụ sở tại Sant’Agata Bolognese, gần Bologna. Ngày nay Lamborghini trở thành của nhà sản xuất xe hơi Đức Volkswagen. Lamborghini cũng sát cánh với Ferrari trong công nghiệp xe hơi thể thao của Ý. Công ty được doanh nhân Ý Ferruccio Lamborghini thành lập năm 1963, ông đã từng sở hữu nhà máy máy kéo khá thành công, Lamborghini Trattori S.p.A.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: Leo 2


một VẤN ĐỀ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT: cửa hầm phía trên họ tự động đóng lại, cắt đuôi những kẻ đeo bám. Nó cũng ngắt đi ánh sáng, nhưng Leo và Frank có thể xoay sở được. Leo chỉ hy vọng họ không cần phải đi ra bằng lối đi đó. Cậu không chắc liệu cậu có thể dỡ được lớp gạch từ bên dưới hay không.

Ít ra mấy gã lợn biển bị ám đang ở bên kia. trên đầu Leo, sàn đá cẩm thạch rung lên, như thể chân của đám du khách đang gõ lên nó.

Frank hẳn đã quay trở lại hình dáng con người. Leo có thể nghe tiếng cậu thở khò khè trong bóng tối.

“Giờ thì sao?” Frank hỏi.

“Được rồi, đừng sợ,” Leo nói. “Mình sẽ triệu hồi một chút lửa, chỉ như thế chúng ta mới có thể nhìn thấy.”

“Cám ơn đã báo trước.”

Ngón trỏ của Leo rực cháy lên như cây nến sinh nhật. Trước mặt họ là đường hầm đá dài hun hút với trần rất thấp. Cũng như Hazel đã đoán, nó dốc xuống, sau đó bằng phẳng trở lại và dẫn về hướng nam.

“À,” Leo nói. “Nó chỉ đi theo một hướng thôi.”

“Tìm Hazel nào,” Frank nói.

Leo không tranh luận gì về đề nghị đó. Họ tìm đường đi xuống hành lang, Leo đi trước với ngọn lửa. Cậu vui mừng khi có Frank ở phía sau, to lớn, mạnh mẽ và có thể hóa thành những con vật đáng sợ trong trường hợp lũ du khách bị ám, bằng cách nào đó, phá vỡ cửa hầm, chen vào trong và đuổi theo họ. Cậu tự hỏi liệu lũ eidolon có thể bỏ lại cái xác, xuyên vào lòng đất và chiếm lấy một trong số họ thay thế không.

Ồ, quả là ý nghĩ hay ho cho ngày hôm nay! Leo tự mắng mình.

Sau khoảng ba mươi mét hoặc hơn, họ rẽ vào một góc và tìm thấy Hazel. Trong ánh sáng màu vàng của thanh kiếm kỵ binh, cô đang kiểm tra một cánh cửa. cô đang mãi mê với công việc, cho nên không nhận ra sự có mặt của họ cho đến khi Leo nói, “Chào.”

Hazel quay lại, toan vung thanh spatha[1] của cô. May mắn cho mặt của Leo, lưỡi kiếm quá dài để sử dụng trong hành lang.

“Các anh làm gì ở đây?” Hazel hỏi.

Leo nuốt nước bọt. “Xin lỗi. Bọn anh đụng phải mấy du khách hung dữ.” Cậu kể cho cô mọi chuyện đã xảy ra.

cô rít lên trong sự thất vọng. “Em ghét tụi eidolon. Em tưởng Piper khiến chúng hứa sẽ tránh xa chúng ta.”

“Ồ…” Frank nói, như như thể cậu vừa có ý nghĩ vui vẻ thường ngày nào đó. “Piper bắt chúng hứa sẽ tránh xa con thuyền và không chiếm giữ bất cứ ai trong chúng ta. Nhưng nếu chúng đi theo chúng ta và sử dụng các thân xác khác để tấn công chúng ta, thế là chúng hoàn toàn không phá vỡ lời thề…”

“Tuyệt,” Leo lẩm bẩm. “Eidolon cũng là đám lách luật. Bây giờ anh thật sự muốn giết chúng.”

“Được rồi, giờ thì quên chúng đi,” Hazel nói. “Cánh cửa này đã dễ dàng chiến thắng em. Leo, anh có thể dùng kĩ năng của anh để mở khóa không?”

Leo bẻ các đốt ngón tay. “Vui lòng đứng sang một bên nhường đường cho sư phụ.”

Cánh cửa thật thú vị, phức tạp hơn cả cái khóa kết hợp chữ số La Mã trên kia. Toàn bộ cánh cửa được phủ một lớp vàng Hoàng Gia. một khối cầu máy có kích thước gần bằng trái bowling được gắn vào trung tâm cánh cửa. Khối cầu được cấu tạo từ năm vòng tròn đồng tâm, mỗi cái được khắc những biểu tượng hoàng đạo – bò đực, bò cạp, vân vân – và có những con số và kí tự ngẫu nhiên.

“Mấy chữ này là tiếng Hy Lạp,” Leo nói trong kinh ngạc.

“À, khá nhiều người La Mã nói tiếng Hy Lạp,” Hazel nói.

“anh đoán là vậy,” Leo nói. “Nhưng tay nghề này…không có ý xúc phạm đến Trại Jupiter các cậu, nhưng nó quá phức tạp đối với người La Mã.”

Frank khịt mũi. “Ngược lại người Hy Lạp các cậu chỉ thích làm mọi thứ trở nên phức tạp.”

“Này,” Leo phản đối. “Mình chỉ đang nói là thiết bị này rất tinh vi, rất công phu. Nó làm mình nhớ đến…” Leo nhìn chằm chằm vào khối cầu, cố gắng nhớ lại nơi mà cậu đã đọc hay nghe qua về loại máy móc cổ xưa tương tự. “Nó là một loại khóa tân tiến,” cậu giải thích. “Cậu phải sắp xếp các biểu tượng trên các vòng tròn khác nhau theo thứ tự đúng và cánh cửa sẽ mở.”

“Nhưng thứ tự đúng là thế nào?” Hazel hỏi.

“Câu hỏi hay đấy. Khối cầu Hy Lạp…thiên văn học, hình học…” Leo cảm thấy ấm áp trong lòng. “À, không thể nào. Mình tự hỏi…giá trị số pi là bao nhiêu?”

Frank nhíu mày. “Loại bánh pie nào?”

“Ý anh ấy là những con số,” Hazel đoán. “Em học chúng một lần trong lớp học toán, nhưng –”

“Nó dùng để đo vòng tròn,” Leo nói. “Khối cầu này, nếu nó được làm bởi người mà mình đang nghĩ đến…”

Hazel và Frank ngây người nhìn chằm chằm vào cậu.

“Đừng bận tâm,” Leo nói. “Mình khá chắc chắn số pi là, uh, 3.1415 blah blah blah. Những con số cứ tiếp tục mãi, nhưng khối cầu này chỉ có năm vòng tròn, như thế là đủ, nếu mình đúng.”

“Vậy nếu cậu sai?” Frank hỏi.

“À, sau đó, Leo suy sụp, rồi nổ tung. Hãy tìm hiểu đã!”

Cậu quay cái vòng, bắt đầu từ bên ngoài vào trong. Cậu bỏ qua những dấu hiệu hoàng đạo và chữ cái, sắp xếp những con số chính xác để họ có được số pi.

không có gì xảy ra.

“Mình thật ngu ngốc,” Leo lầm bầm. “Số pi phải khai triển ra ngoài, bởi vì nó vô hạn.”

Cậu đảo ngược thứ tự các con số, bắt đầu từ tâm và điều chỉnh tới rìa. Khi cậu xếp vòng tròn cuối cùng, thứ gì đó bên trong khối cầu kêu lách cách. Cánh cửa bật ra.

Leo tươi cười với các bạn. “Các bạn, đó là cách chúng ta làm mọi thứ trong Thế Giới Leo. Vào trong thôi!”

“Mình ghét Thế Giới Leo,” Frank thì thầm.

Hazel bật cười.

Bên trong có những thứ đủ hay ho để giữ Leo bận rộn trong nhiều năm. Căn phòng có kích thước bằng xưởng rèn ở Trại Con Lai, với bàn làm việc có chóp đồng dọc theo các bức tường và các giỏ đầy ắp các công cụ làm việc cổ xưa. Hàng tá khối cầu đồng và vàng như mấy quả bóng rổ theo phong cách steampunk[1a] ở nhiều công đoạn tháo dỡ khác nhau đặt quanh. Bánh răng lỏng lẻo và dây điện rải rác trên sàn. Cáp kim loại dày chạy từ mỗi bàn đến phía sau phòng, nơi có một gác xép khép kín như buồng âm thanh nhà hát. Cầu thang ở hai bên dẫn lên cabin. Tất cả các dây cáp dường như chạy vào trong đó. Cạnh cầu thang bên trái, một dãy ngăn nhỏ chứa đầy cọc hình trụ bọc da – có thể là ống quyển chứa các cuộn giấy cổ.

Leo sắp đi tới cái bàn khi cậu nhìn sang bên trái và gần như nhảy khỏi chỗ mình đang đứng. Đứng ở cửa là hai mô hình cơ thể người bọc sắt – giống như bù nhìn xương được làm từ ống đồng, trang bị đầy đủ áo giáp La Mã, khiên và kiếm.

“anh bạn.” Leo bước lại gần một cái. “Chúng sẽ thật tuyệt vời nếu hoạt động.”

Frank dịch ra xa mô hình cơ thể người. “Những thứ đó sắp sống dậy và tấn công chúng ta, phải không?”

Leo bật cười. “Đâu ra. Chúng chưa hoàn chỉnh.” Cậu gõ nhẹ vào cổ của mô hình gần nhất, nơi dây đồng lỏng lẻo thò ra từ bên dưới giáp che ngực. “Nhìn xem, dây điện trên đầu đã bị ngắt kết nối. Và đây, ở khuỷu tay, hệ thống ròng rọc ở khớp bị lệch. Suy đoán của mình hả? Người La Mã đã cố gắng sao chép một mẫu thiết kế của Hy Lạp, nhưng họ không có kỹ năng.”

Hazel hơi rướn lông mày. “Em cho là người La Mã không đủ giỏi về khoản phức tạp.”

“Hoặc tinh vi,” Frank thêm vào. “Hoặc công phu.”

“Này, mình chỉ nói những gì mình nhìn thấy thôi mà.” Leo rung nhẹ đầu của mô hình, làm nó gật gù như thể nó đang đồng ý với cậu. “Tuy nhiên…đây vẫn là một sự cố gắng khá ấn tượng. Mình nghe nói về truyền thuyết người La Mã tịch thu các bản văn của Archimedes[2], nhưng–”

“Archimedes?” Hazel có vẻ bối rối. “Có phải ông ta là nhà toán học cổ đại hay gì gì đó không?”

Leo bật cười. “Ông ấy còn hơn thế nữa. Ông ấy là con trai nổi tiếng duy nhất của Hephaetus từng sống.”

Frank gãi tai. “Mình đã từng nghe cái tên đó trước đây, nhưng làm thế nào mà cậu chắc chắn mô hình này là thiết kế của ông ta?”

“Đó hẳn là của ông ấy!” Leo nói. “Nghe này, mình đã từng đọc tất cả về Archimedes. Ông ấy là người hùng của Nhà số Chín. Ông ấy là người Hy Lạp, đúng không? Ông ấy sống trên một trong những thuộc địa của Hy Lạp ở miền nam nước Ý, trước khi Rome chiếm đóng và cai quản. Cuối cùng người La Mã đến và phá hủy thành phố của ông ấy. Tướng La Mã muốn tha cho Archimedes, vì ông ấy rất giá trị — kiểu như Einstein thời cổ đại – nhưng một vài tên lính La Mã ngu ngốc đã giết chết ông.”

“anh lại nữa,” Hazel lầm bầm. “Ngu ngốc và La Mã đừng luôn luôn đi chung như thế, Leo.”

Frank cằn nhằn tán thành. “Thế nào cũng được, làm thế nào cậu biết tất cả về ông ấy?” cậu hỏi. “Có hướng dẫn viên Tây Ban Nha nào quanh đây không?”

“không, anh bạn,” Leo nói. “Cậu không thể là một á thần trong nghề xây dựng mà không biết gì về Archimedes. Ông ấy thật sự kiệt xuất. Ông tính ra giá trị số pi. Ông ấy làm nên tất cả các công cụ tính toán mà chúng ta dùng trong công trình. Ông ấy phát minh ra đinh ốc thủy lực[3] có thể vận chuyển nước qua đường ống.”

Hazel cau mày. “Đinh ốc thủy lực. Thứ lỗi cho em khi không biết thành tựu tuyệt vờiđó.”

“Ông ấy còn tạo nên tia chết-chóc từ những tấm gương có thể thiêu cháy thuyền của kẻ địch,” Leo nói “Có phải đã đủ tuyệt vời cho các cậu rồi không?”

“Mình đã xem thứ gì đại loại như thế trên TV,” Frank thừa nhận. “Họ đã chứng minh nó chẳng làm được gì.”

“À, đó chỉ là vì người phàm hiện đại không biết cách sử dụng đồng Thiên Thai,” Leo nói. “Đó là chìa khóa. Archimedes cũng phát minh cỗ máy to lớn có thể đu lên cần trục và nhổ bật tàu đối phương ra khỏi mặt nước.”

“Phải, đúng là rất tuyệt,” Frank thừa nhận. “Mình thích trò cánh-tay-tước-đoạt.”

“À, cứ cho là vậy đi,” Leo nói. “Dù sao đi nữa, tất cả phát minh của ông ấy là không đủ. Người La Mã phá hủy thành phố của ông. Archimedes bị giết. Theo như truyền thuyết, tướng La Mã là fan cuồng các công trình của ông, vì thế ông ta đã lục soát phân xưởng của Archimedes và lấy một mớ đồ lưu niệm đem về Rome. Chúng biến mất khỏi lịch sử, ngoại trừ…” Leo vẫy tay chỉ vào những thứ trên bàn. “Những thứ này.”

“Những quả bóng rổ kim loại sao?” Hazel hỏi.

Leo không thể tin được họ không đánh giá cao những thứ họ đang nhìn thấy, nhưng cậu cố gắng kiềm lại sự tức giận. “Các cậu, Archimedes tạo ra các khối cầu. Người La Mã không thể hiểu được chúng. Họ nghĩ chúng chỉ cho biết thời gian hoặc mô phỏng các chòm sao, vì chúng được bao phủ bởi những bức tranh về các vì sao và hành tinh. Nhưng việc đó giống như kiểu tìm thấy một khẩu súng trường và nghĩ rằng nó chỉ là cây gậy đi bộ.”

“Leo, người La Mã là những kỹ sư hàng đầu,” Hazel nhắc nhở cậu. “Họ xây dựng cống dẫn nước, những con đường–”

“Vũ khí vây thành[4],” Frank thêm vào. “Hệ thống vệ sinh cộng đồng.”

“Ừ, được thôi,” Leo nói. “Nhưng Archimedes một mình một đẳng cấp. Khối cầu của ông ấy có thể làm tất cả mọi thứ, chỉ là không ai chắc chắn…”

Bỗng nhiên Leo có một ý tưởng phi thường đến nỗi mũi của cậu bùng cháy. Cậu dập tắt nó nhanh hết mức có thể. Ôi trời, thật xấu hổ khi điều đó xảy ra.

Cậu chạy đến dãy ngăn nhỏ và xem xét các dấu hiệu trên ống quyển[5]. “Ôi, thánh thần ơi. Chính là nó!”

Cậu cẩn thận lấy một cuộn trong số đó ra. Cậu không giỏi môn Hy Lap Cổ Đại, nhưng cậu có thể nói dòng chữ trên cái hộp ghi là Các Khối Cầu Máy.

“Các cậu, đây là quyển sách thất lạc!” Tay cậu run run. “Archimedes đã viết nó, mô tả các biện pháp thi công, nhưng tất cả bản sao chép đều bị mất vào thời cổ đại. Nếu mình có thể dịch nó…”

Các tiềm năng là vô tận. Đối với Leo, nhiệm vụ bây giờ đã hoàn toàn được đưa sang một chiều hướng mới. Leo phải đưa các khối cầu và cuộn giấy ra khỏi đây an toàn. Cậu phải bảo vệ những thứ này cho đến khi cậu có thể đưa chúng trở lại Boong-ke 9 và nghiên cứu chúng.

“Bí mật của Archimedes,” cậu thì thầm. “Các cậu, cái này còn quan trọng hơn máy tính của Daedalus. Nếu người La Mã tấn công Trại Con Lai, những bí mật này có thể giải cứu trại. Thậm chí chúng có thể cung cấp cho chúng ta lợi thế để chiến thắng Gaea và bọn khổng lồ!”

Hazel và Frank nhìn nhau một cách nghi ngờ.

“Được rồi,” Hazel nói. “Chúng ta không đến đây vì một cuộn giấy, nhưng em đoán chúng ta có thể đem nó theo cùng.”

“Tôi cho rằng,” Frank chen vào, “cậu không ngại chia sẻ bí mật đó với những người La Mã ngu ngốc đơn giản bọn tôi.”

“Cái gì?” Leo ngây người nhìn cậu. “không. Nghe này, mình không có ý xúc phạm – A, đừng bận tâm. Quan trọng là đây là tin tốt!”

Lần đầu tiên sau bao ngày, Leo cảm thấy tràn trề hy vọng.

Đương nhiên, đó là khi mọi chuyện trở nên tồi tệ.

trên bàn cạnh Hazel và Frank, một trong những khối cầu kêu lách cách và vo vo. một hàng chân khẳng khiu duỗi ra từ xích đạo của nó. Khối cầu đứng dậy và hai dây cáp bằng đồng bắn ra từ đỉnh đầu, quất vào Hazel và Frank như dây súng phóng điện. Cả hai người bạn của Leo đổ gục xuống sàn.

Leo lao đến giúp họ, nhưng hai mô hình bọc sắt không thể chuyển động đã xê dịch. Chúng rút kiếm và bước về phía Leo.

Tên bên trái nghếch chiếc mũ giáp cong cong, hình dạng như một cái đầu sói. Bất chấp thực tế là nó không có mặt và miệng, một giọng nói trống rỗng quen thuộc phát ra từ mặt nạ của nó.

“Ngươi không thể thoát khỏi bọn ta, Leo Valdez,” nó nói. “Bọn ta không thích ám vô những cỗ máy, nhưng chúng tốt hơn đám du khách. Ngươi sẽ chẳng còn mạng mà rời khỏi đây.”

[1] Spatha: Loại kiếm dài và thẳng, tầm 0.75 đến 1m, được sử dụng trong thiên niên kỷ đầu sau Công Nguyên ở châu Âu và ở lãnh thổ Đế chế La Mã đến năm 600 sau công nguyên. Chúng được dùng trong chiến trận và các trận giác đấu

[1a] Steampunk là phong cách cổ điển của thế kỷ 19, là sự giao thoa của công nghệ và sự lãng mạn. Sử dụng những chi tiết máy móc để tạo những thứ văn hoa, bay bướm.

[2] Archimedes của Syracuse (tiếng Hy Lạp: Ἀρχιμήδης) phiên âm tiếng Việt là Ác-si-mét; khoảng (287 trước Công Nguyên – khoảng 212 trước Công Nguyên) là một nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh, và một nhà thiên văn học người Hy Lạp. Dù ít chi tiết về cuộc đời ông được biết, ông được coi là một trong những nhà khoa học hàng đầu của thời kỳ cổ đại. Trong số các cải tiến vật lý của ông có các nền tảng của thuỷ tĩnh, tĩnh học và một sự giải thích nguyên lý đòn bẩy. Ông được coi là người thiết kế những cỗ máy cải tiến, gồm các máy vây thành và bơm xoắn ốc mang tên ông. Các thực nghiệm hiện đại đã kiểm nghiệm các tuyên bố rằng các cỗ máy của Archimedes thiết kế có khả năng nhấc bổng những chiếc tàu chiến và đốt cháy tàu bằng cách sử dụng một mạng lưới gương.

[3] Còn được gọi là ốc vít Archimedes – một cổ máy hình ốc vít hay ốc vít thủy lực dâng nước lên từ thấp đến mực độ cao hơn.

[4] Các loại vũ khí như nỏ phóng tiễn, súng bắn đá, thang tháp chở binh, máy phá cổng,…

[5] Cái ống để bảo quản giấy cuộn-sách cuộn hay sách thẻ tre ngày xưa ấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
616,463
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: Leo 3


LEO ĐỒNG Ý VỚI NEMESIS VỀ một THỨ: may mắn chỉ là trò hề. Ít ra là khi nó đến với vận may của Leo.

Mùa đông năm ngoái cậu khiếp sợ quan sát gia đình Cyclops chuẩn bị nướng Jason và Piper với sốt nóng. Cậu đã lên kế hoạch để thoát khỏi đó và cứu các bạn bằng cách của mình, nhưng ít ra cậu có thời gian để suy nghĩ.

Còn bây giờ thì không nhiều lắm. Hazel và Frank đã bị đánh gục bởi dây tua của quả bóng bowling kiểu steampunk bị ám. Hai bộ giáp thái độ cực xấu định giết cậu.

Leo không thể tiêu diệt chúng bằng lửa. Các bộ giáp sẽ không tổn thương bởi lửa. Hơn nữa, Hazel và Frank ở quá gần. Cậu không muốn thiêu cháy họ, hoặc vô tình va phải mảnh củi nắm giữ sinh mệnh Frank.

Bên phải Leo, bộ áo giáp đội mũ sắt hình đầu sư tử kêu cót két với cái cổ bằng dây kim loại của nó và nhìn chăm chú vào Hazel với Frank vẫn còn nằm bất tỉnh.

“một nam và một nữ á thần,” Đầu Sư Tử nói. “Bọn này sẽ dùng được nếu những đứa kia chết.” Mặt nạ rỗng tuếch của nó quay lại nhìn Leo. “Bọn ta không cần ngươi, Leo Valdez.”

“Ồ, này!” Leo cố gắng nở một nụ cười chiến thắng. “Tụi bay luôn cần Leo Valdez!”

Cậu xòe bàn tay, hy vọng cậu trông tự tin và hữu ích, không phải là tuyệt vọng và khiếp sợ. Cậu tự hỏi liệu có quá trễ để viết chữ ĐỘI LEO lên áo thun không.

Đáng buồn là bộ áo giáp không dễ bị ảnh hưởng như Hội Fan Narcissus.

một tên đội mũ sắt hình đầu-sói gầm gừ, “Ta đã từng ở trong tâm trí của mi, Leo. Ta giúp mi khơi mào chiến tranh.”

Nụ cười của Leo tắt dần. Cậu lùi một bước. “Là mày hả?”

Bây giờ cậu đã hiểu tại sao lũ du khách kia khiến cậu thấy phiền ngay tắp lự và tại sao giọng nói này rất quen thuộc. Cậu từng nghe nó nói trong đầu mình.

“Mày khiến tao khai hỏa nỏ phóng tiễn?” Leo hỏi. “Mày gọi đó là giúp đỡ sao?”

“Ta biết mi suy nghĩ thế nào,” Đầu Sói nói. “Ta biết những hạn chế của mi. Mi bé nhỏ và đơn độc. Mi cần bạn bè bảo vệ. không có chúng, mi không thể chống lại ta. Ta đã thề là không ám mi lần nữa, nhưng ta vẫn có thể giết mi.”

Mấy gã mặc giáp bước lên phía trước. Mũi kiếm của chúng lơ lửng vài inch trước mặt Leo.

Nỗi sợ của Leo đột nhiên nhường chỗ cho nỗi tức giận. Gã eidolon vận mũ sắt hình sói đã giả làm cậu, điều khiển cậu và khiến cậu tấn công Rome Mới. Nó gây nguy hiểm cho các bạn cậu và làm hỏng cuộc tìm kiếm của họ.

Leo liếc nhìn khối cầu im lìm trên bàn làm việc. Cậu xem xét thắt lưng dụng cụ. Cậu nghĩ đến gác xép phía sau – khu vực trông như buồng âm thanh. Â lê hấp: Chiến dịch Hỏa Thiêu Phế liệu ra đời.

“Thứ nhất: mày không hiểu tao,” cậu nói với gã Đầu Sói. “Và thứ hai: Tạm biệt.”

Cậu lao tới cầu thang và nhảy lên đỉnh thang. Những bộ giáp thật đáng sợ, nhưng không nhanh nhẹn. Như Leo nghi ngờ, gác xép có cửa ở cả hai phía – cửa xếp kim loại. Các thợ máy muốn có biện pháp tự vệ trong trường hợp các sản phẩm của họ trở nên mất kiểm soát…như bây giờ. Leo đóng sầm cả hai cửa và triệu hồi lửa trong hai tay mình, nấu chảy khóa cửa.

Những bộ giáp tới gần cánh cửa ở cả hai phía. Chúng lắc cửa, chém cửa bằng kiếm của chúng.

“thật ngu ngốc,” Đầu Sư Tử nói. “Mi chỉ trì hoãn cái chết của mình thôi.”

“Trì hoãn chết chóc là một trong những sở thích của tao.” Leo nhìn sơ ngôi nhà mới của cậu. Nhìn qua, phân xưởng chỉ có một cái bàn giống như bảng điều khiển. Nó đầy rác, nhưng hầu hết Leo bỏ qua ngay lập tức: một biểu đồ cho cái máy ném người sẽ chả bao giờ hoạt động, một thanh kiếm đen là lạ (Leo không giỏi về kiếm); một tấm gương đồng lớn (Ảnh phản chiếu Leo trông thật khủng khiếp) và một bộ công cụ mà ai đó đã phá vỡ, hoặc vì thất vọng hoặc do vụng về.

Cậu tập trung vào kế hoạch chính. Ở chính giữa cái bàn, ai đó đã tháo rời một khối cầu Archimedes. Bánh răng, lò xo, đòn bẩy và que rải rác xung quanh nó. Tất cả cáp đồng đến căn phòng bên dưới được kết nối vào một cái đĩa kim loại dưới khối cầu. Leo có thể cảm nhận được đồng Thiên Thai chạy suốt phân xưởng như động mạch từ tim – sẵn sàng để dẫn loại năng lượng kỳ diệu từ chỗ này đi.

“một quả bóng loại bỏ tất cả bọn chúng,” Leo lầm bầm.

Khối cầu này là máy chủ điều hành. Cậu đang đứng ở Trung tâm điều khiển La Mã Cổ đại.

“Leo Valdez!” ám hồn tru lên. “Mở cửa ngay không thôi ta sẽ giết mi!”

“Quả là lời đề nghị thật công bằng và hào phóng ha!” Leo nói, mắt cậu vẫn đặt trên khối cầu. “Để tao hoàn thành cái này đã. Nhiệm vụ cuối cùng, được không?”

Điều đó có lẽ đã làm bọn ám hồn bối rối, bởi vì chúng ngừng chém vào các thanh cửa trong giây lát.

Tay Leo lướt trên khối cầu, lắp ghép mảnh còn thiếu. Tại sao người La Mã ngu ngốc phải tháo gỡ một cái máy xinh đẹp như thế này chứ? Họ đã giết Archimedes, đánh cắp những phát minh của ông, sau đó phá tung các mảnh của thiết bị mà họ không bao giờ có thể hiểu được. Mặt khác, ít ra họ có biết cất giữ cẩn thận nó trong hai ngàn năm để Leo có thể tìm lại được nó.

Lũ eidolon bắt đầu đập thình thịch vào cửa lần nữa.

“Ai đấy?” Leo gọi.

“Valdez!” Đầu Sói gầm lên.

“Valdez nào?” Leo hỏi.

Cuối cùng lũ eidolon nhận ra chúng không thể vào trong. Thực ra, nếu tên Đầu Sói thật sự biết được suy nghĩ của Leo, hắn sẽ quyết định dùng những cách khác để ép buộc cậu hợp tác. Leo phải nhanh tay lên.

Cậu ghép nối những bánh răng, có một chổ sai và phải bắt đầu lại. Lựu đạn Cầm tay của Hephaestus, điều này thật khó khăn!

Cuối cùng cậu lắp lò xo cuối cùng vào chổ. Người La Mã vụng về đã gần như hủy hoại máy điều áp, nhưng Leo kéo một công cụ làm đồng hồ từ thắt lưng và đo chút hiệu chuẩn cuối cùng. Archimedes là một thiên tài – nếu như thứ này thật sự được việc.

Cậu chạm đến cuộn dây khởi động. Các bánh răng bắt đầu chuyển động. Leo đóng đỉnh khối cầu lại và nghiên cứu các vòng tròn đồng tâm của nó – tương tự cái trên cửa phân xưởng.

“Valdez!” Đầu Sói đập cửa. “Bằng hữu thứ ba của bọn ta sẽ giết lũ bạn của mi!”

Leo thì thầm nguyền rủa. Bằng hữu thứ ba của bọn ta. Cậu liếc xuống quả bóng điện chân khẳng khiu đã đánh gục Hazel và Frank. Cậu hiểu ra tên eidolon thứ ba đang trốn trong thứ đó. Nhưng Leo vẫn phải suy ra được chuỗi mã đúng để kích hoạt khối cầu điều khiển.

“Ừ, được,” cậu gọi. “Hãy cho tao…chỉ…chỉ một giây thôi.”

“không một giây nào nữa!” Đầu Sói hét lên “Mở cửa ra ngay lập tức, không thì chúng sẽ chết.”

Quả bóng điện bị ám quất tua của nó và truyền thêm một cú sốc điện nữa vào Hazel và Frank. Cơ thể bất tỉnh của họ động đậy. Loại điện này có thể khiến tim họ ngừng đập.

Leo kiềm lại nước mắt. Việc này quá khó khăn. Cậu không thể làm được.

Cậu nhìn chằm chằm vào mặt khối cầu – bảy vòng, mỗi vòng được phủ bởi những kí tự Hy Lạp tí hon, chữ số và biểu tượng hoàng đạo. Câu trả lời không phải là số pi. Archimedes không bao giờ làm điều tương tự lần hai. Ngoài ra, chỉ bằng việc đặt tay lên khối cầu Leo có thể cảm nhận rằng chuỗi ký tự đó được tạo ra một cách ngẫu nhiên. Nó là thứ gì đó mà chỉ có Archimedes mới biết.

Giả sử là, những lời cuối cùng mà Archimedes: Đừng làm hỏng những vòng tròn của ta.

không một ai biết điều đó có nghĩa là gì, nhưng Leo có thể áp dụng nó lên khối cầu. Cái khóa rất phức tạp. Có lẽ nếu Leo có vài năm, cậu có thể giải mã các dấu hiệu và tìm ra tổ hợp đúng đắn, nhưng cậu thậm chí còn không có được một vài giây.

Cậu hết thời gian rồi. Vận may cũng hết. Và bạn cậu sắp chết.

một vấn đề ngươi không thể giải quyết, một giọng nói vang lên trong tâm trí cậu.

Nemesis…bà ta đã nói cậu mong chờ khoảnh khắc này. Leo đưa tay vào túi và lấy ra chiếc bánh nướng may mắn. Nữ thần cảnh báo cậu về cái giá đắt phải trả cho sự giúp đỡ của bà ta – đắt như việc mất đi một con mắt. Nhưng nếu cậu không thử, bạn cậu sẽ chết.

“Tôi cần mã truy cập vào khối cần này,” cậu nói.

Cậu bẻ cái bánh quy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom