Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Anh bạn Albert của tôi hôm nay có vẻ phấn khích lạ thường nhỉ”, Seagraves lên tiếng trong lúc ngồi nhấm nháp cà phê trong văn phòng của Trent tại điện Capitol.

“Thị trường chứng khoán có một cú ngoạn mục hôm qua, kỳ này quỹ hưu trí1 của tôi có vẻ ấm hơn rồi”.

Seagraves thảy một tập hồ sơ lên bàn, “Tin tốt đấy. Còn đây là thông tin mới nhất từ CIA. Chúng ta có hai cấp cao hơn, đưa ra bản hướng dẫn chi tiết hơn. Các anh phải mất cả tuần nhai bản báo cáo đấy, rồi chúng ta sẽ lên kế hoạch gặp mặt trực tiếp sau”.

Trent nhìn vào xấp giấy và gật đầu, “Tôi sẽ kiểm tra thời gian biểu của các thành viên và báo anh biết ngày giờ cụ thể. Có gì đáng kể trong đây không?”

“Anh tự đọc lấy đi”.

“Không phải lo đâu, tôi lúc nào cũng tự làm đấy thôi”.

Trent sẽ mang những tờ giấy này về nhà, và một thời gian sau hắn ta sẽ có những thông tin mật cần thiết đã đánh cắp được từ NSA chuyển qua bước kế tiếp.

Phía bên ngoài, Seagraves nhảy xuống từng bậc tam cấp của điện Capitol, cứ suy nghĩ rằng những tay gián điệp nếu chỉ quẳng đồ trong công viên và đến nhận tiền mặt hoặc ngay tại vị trí giao hàng, hoặc tại một hộp thư bưu điện, thì cả hai nơi đều dễ dàng bị tóm gọn như chơi. Seagraves lắc đầu. Không bao giờ mình để bị rơi vào trường hợp của gã điệp viên nhị trùng Aldrich Ames2 cả, kết thúc bi thảm nơi bốn vách tường của CIA, cũng như vài gã bù nhìn với tư cách là điệp viên. Là một sát thủ của chính phủ, hắn sâu sát từng chi tiết nhỏ, còn khi là điệp viên, hắn chẳng thấy có lý do gì mà lại phải thay đổi M.O. của mình cả.

Hiện tại Seagraves đang điên đầu với một chi tiết nhỏ. Gián điệp nhị trùng của hắn tại Công ty Cứu hỏa vừa thông báo vài tin chẳng có vẻ khả quan lắm. Đó là thông tin về hai gã nào đó bị bắt quả tang khi đang do thám gần khu vực kho hàng tối qua, và hai gã cớm ngu ngơ đã giao chúng cho FBI. Chỉ có điều khi Seagraves kiểm tra vài tay thân quen làm việc trong FBI về thông tin này thì họ cho biết không hề có vụ bắt bớ nào. Ngoài ra, người báo tin của hắn cũng cho biết việc đám cớm có nhìn thấy một gã đang cố thoát khỏi hiện trường, là mảnh sân tại công ty. Tên này sau đó được báo là nhảy lên một chiếc xe cũ kỹ, hiệu Nova. Việc miêu tả cả người lái lẫn chiếc xe khiến Seagraves hình dung ra ngay một khuôn mặt, cho dù hắn chưa gặp người này lần nào. Hắn quyết định ngay lập tức rằng, đây là lúc tốt nhất để khắc phục tình hình. Trong thế giới tìm hiểu sự việc của hắn, chẳng ai có thể đoán được rằng liệu mặt đối mặt có trở nên hữu dụng sau này hay không.

Caleb đến chỗ làm sớm và thấy Kevin Philips, tay giám đốc, đang mở cửa phòng đọc. Họ thảo luận đôi chút về Jonathon và những dự án đang được triển khai tại thư viện. Caleb hỏi Philips liệu ông ta có biết thông tin nào về những hệ thống chữa cháy được lắp đặt mới hay không, nhưng Philips có vẻ không biết chuyện này. “Tôi không chắc ông bạn Jonathon biết chuyện này đâu”, Philips nhận xét, “Tôi còn nghi ngờ rằng có khi ông ta không biết khí gas nào đang sắp được sử dụng đấy”.

“Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến này”, Caleb thì thầm.

Sau khi Philips rời khỏi, và trước khi có người khác xuất hiện, Caleb đi nhanh đến bàn làm việc của mình và lấy ra một cái tua-vít và đèn pin nhỏ xíu. Quay lưng về phía camera theo dõi, ông bỏ những thứ trên vào túi và đi vào phòng sách. Nhanh chóng đến tầng thượng, ông dừng lại ngay lỗ thông gió, ông tránh không nhìn lại nơi đồng nghiệp bị sát hại. Ông dùng tua-vít mở lỗ thông gió, cảm thấy có chút hào hứng khi những con ốc được tháo bung ra một cách dễ dàng, cứ như là đã có ai từng tháo chúng ra trước đó vậy. Ông đặt cái thông gió xuống gần kệ sách, và chiếu đèn vào khoảng trống bên trong. Lúc đầu, ông chẳng thấy điều gì bất thường cả, nhưng khi chiếu đèn xung quanh lần thứ ba, ông chợt phát hiện ra một lỗ ốc vít ngay phần tường phía sau ống dẫn. Chắc đó là nơi chiếc camera quan sát được gắn vào. Ông đỡ tấm thông gió lên và ghé mắt nhìn qua nó, quả thật từ vị trí gắn ốc và phần lưới sắt bị bẻ cong, camera có một góc quan sát rõ vị trí của căn phòng.

Caleb gắn tấm lưới đậy lỗ thông gió lại và ra khỏi phòng, ông gọi điện thoại cho Stone và kể lại những điều mình đã thấy. Ngay khi ông chuẩn bị làm việc thì có người tiến vào.

“Chào Monty, ông mang theo gì thế?”

Monty Chambers, chuyên gia bảo quản sách kỳ cựu nhất của thư viện đang đứng trước bàn làm việc, mang theo vài thứ. Ông ta vẫn đeo chiếc tạp dề màu xanh lá cây quen thuộc, còn tay áo thì được xắn cao.

“Quyển Giáo lý (Doctrina) và quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân (Constable’s Pocket-book)”, ông ngắn gọn.

“Chắc ông đang bận rộn lắm nhỉ. Tôi chẳng biết tí gì về việc quyển Giáo lý được mang ra bảo quản đấy. Quyển Giáo lý do Đức giám mục của Mê-hi-cô, tên là Juan de Zumárraga viết và được phát hành năm 1544, luôn được đánh giá là quyển sách hoàn chỉnh nhất trời Âu vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Còn quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân được xuất bản vào năm 1710 nhỉ”.

“Kevin Philips đặt sách đấy”, Chambers trả lời, “cách đây ba tháng, quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân cũng thế, chuyện nhỏ ấy mà, tôi lại thêm khối việc để làm đây. Thế anh vào phòng sách hay là tôi?”

“Sao cơ? À, để tôi mang vào cho. Cám ơn nhé!”, Caleb cẩn thận nhận lấy những quyển sách đã được gói kỹ lưỡng từ người đồng nghiệp và để chúng lên bàn làm việc. Ông ráng không nghĩ đến việc ông đang giữ trong tay hai quyển sách có đáng giá cả gia tài trong lịch sử thế giới.

“Tôi sẽ chăm chút mấy quyển của tác giả Faulkner anh đã nhờ ngay thôi. Hơi khó khăn chút, vì bị dính nước”.

“Vâng, cám ơn ông, ah, Monty này”, Caleb lên tiếng khi thấy Chambers dợm bước đi.

Chambers quay lại, giọng mất kiên nhẫn, “Có việc à?”

“Thế ông đã kiểm tra những bản sao của quyển Thánh ca chưa?”, Caleb đã bị ác mộng mỗi khi nghĩ đến việc mình đã chiếm đoạt những quyển sách hiếm đó khỏi tay Chambers, và ý nghĩ đó đã biến thành câu hỏi hơi vụng về trên.

Chambers có vẻ nghi ngại, “Quyển Thánh ca à? Sao anh lại hỏi vậy? Có chuyện gì sao?”

“Không, nào có, chỉ vì lâu tôi cũng không thấy. Hàng năm trời đấy”.

“Tôi cũng thế. Anh đâu thể nào bước vào phòng và kiểm tra quyển đó được đâu. Nó nằm trong những giá lưu trữ đặc biệt của khu gọi là Tài sản Quốc gia mà”.

Caleb gật đầu, ông có quyền xem xét bất kỳ quyển sách nào trong thư viện, nhưng những quyển đại loại như quyển Thánh ca trên được xem là “tài sản quốc gia”, và là phần sở hữu quan trọng nhất của thư viện, cho nên chúng được đánh số và cất giữ trong những khu đặc biệt. Trong trường hợp chiến tranh, hay thiên tai, chúng sẽ nhanh chóng được di rời đến những nơi an toàn để đời sau có thể tiếp tục được chiêm ngưỡng.

Chambers vẫn huyên thuyên, “Tôi đã bảo họ từ rất lâu rằng chúng ta phải sửa cái bìa, cải thiện gáy sách - dĩ nhiên là có thể trả lại tình trạng ban đầu - nhưng mà họ chẳng nói năng gì. Cũng chẳng hiểu tại sao, nhưng nếu họ không làm gì, có khi mấy quyển đấy chẳng tồn tại được bao lâu nữa. Sao anh không báo cho họ biết?”

“Tôi sẽ báo, cám ơn Monty”. Sau khi Chambers đi khỏi, Caleb ngồi thừ ra và tự hỏi bước kế tiếp sẽ làm gì. Lỡ như quyển Thánh ca ấy đã biến mất? Lạy Chúa, điều đó không thể xảy ra. Ông chẳng nhìn thấy quyển sách ấy ít nhất là ba năm. Và chắc chắn nó giống một trong số những quyển trong bộ sưu tập của Jonathon quá cố. Sáu trong số mười một bản quyển Thánh ca vẫn còn dang dở và trong tình trạng hủy hoại khác nhau. Và bộ sưu tập của Jonathan lại là bộ hoàn chỉnh, cho dù cũng trong tình trạng hư hại không kém gì của thư viện. Cách duy nhất để kiểm chứng đó là trực tiếp kiểm tra bộ sách Thánh ca tại thư viện. Kevin Philips có thể sẽ cho anh làm điều đó, anh sẽ tìm ra vài lý do chính đáng, có thể là nêu ra quan điểm Monty đã phàn nàn. Chắc sẽ được.

Ông để những quyển sách mà Monty đã mang đến lên kệ đúng vị trí của chúng sau khi đã quét vào hệ thống, rồi gọi điện cho Philips. Cho dù giọng ông ta có vẻ bối rối, ông ta vẫn cho phép ông tiến hành kiểm tra. Vì lý do an toàn, và tránh bị buộc tội góp phần hủy hoại thêm những quyển sách quý đó, Caleb đi cùng một nhân viên khác trong thư viện. Sau khi đã kiểm tra sách, Caleb có thể chứng thực rằng những gì Chambers nói là đúng. Có vẻ như người ta chưa động đến việc bảo quản nó gì cả. Tuy vậy, ông không thể khẳng định liệu đó có phải là quyển ông đã từng thấy ba năm về trước, vì sự giống nhau tương tự như quyển sách trong bộ sưu tập của Jonathan. Giả dụ như bằng cách nào đó Jonathan đã tráo đổi quyển sách quý bằng một quyển giả mạo, thì ắt hẳn quyển ông từng thấy ba năm về trước cũng không phải là quyển thật.

Đợi đã, ngốc thật. Caleb nghĩ bụng. Thư viện sử dụng mật mã đối với những quyển sách quý như vầy, và chúng nằm trên cùng một trang cho phép thể hiện sở hữu của thư viện. Ông lật đến trang đó và quét qua máy. Đúng là có ký hiệu thật! Nhưng ông thở phào khi biết rằng ký hiệu chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn mà thôi. Có thể nó cũng bị làm giả, nhất là khi vào tay một người giống Jonathan. Thế còn quyển Thánh ca trong bộ sưu tập của Jonathan, liệu cũng có ký hiệu tương tự? Ông phải kiểm tra mới được. Và nếu đó là sự thật, liệu có chứng minh rằng Jonathan đã ăn cắp sách khỏi thư viện. Và lúc đó ông sẽ làm gì? Ông nguyền rủa cái ngày mà ông đã chọn Jonathan làm người phụ trách tác phẩm chưa in. Tôi tưởng ông thích tôi chứ, Jonathan.

Ông dành thời gian suốt buổi chiều với vài lời yêu cầu của những nhà học giả, một nhà sưu tập và nghe vài cú điện thoại quốc tế từ các trường đại học ở Anh và Thụy Sỹ cũng như giúp đỡ những bạn đọc trung thành của thư viện.

Cả bà lão Jewell English và ông Norman Janklow đều đến thư viện ngày hôm đó. Dù họ trạc tuổi nhau và đều có sở thích sưu tập sách, họ chẳng bao giờ trò chuyện với nhau, mà thậm chí họ còn tránh gặp nhau. Caleb biết được nguyên nhân của sự thù hằn này, và đó cũng là một kỷ niệm buồn trong sự nghiệp của ông. Số là có một lần English thể hiện niềm đam mê của mình về những tiểu thuyết rẻ tiền của Beadle cho Janklow nghe. Và thái độ của ông lão, theo cách nào đó, chẳng có vẻ được mong đợi, theo như những gì Caleb còn nhớ lại, “Beadle là tên khác gì tên bán dạo, rẻ tiền, và nói chuyện chỉ rác rưởi cho đám cặn bã, ngu xuẩn cùng địa vị như hắn”.

Và hoàn toàn dễ hiểu với cách bà lão Jewell English tiếp nhận lời chỉ trích niềm đam mê của cuộc đời mình, bà lão cũng không vừa gì, thế là, bà trả đũa bằng cách tấn công tác giả yêu thích nhất của cụ Janklow. Theo bà, tác giả Hemingway, cho dù có cố gắng hết mức đi chăng nữa cũng chỉ một nhà viết văn hạng xoàng với ngôn ngữ văn chương đơn điệu của mình. Bà lão còn nhấn mạnh rằng việc một tác giả như vậy mà đạt giải Nobel văn chương chỉ làm hạ thấp giá trị của chính giải thưởng trong lòng bà. Cay cú hơn, bà còn khăng khăng rằng văn Hemingway chẳng hay bằng F.Scott Fitzgerald3 và bà còn bồi thêm phần nhận xét của mình khi cho rằng người thợ săn và ngư ông Earnest Hermingway đầy nam tính kia chỉ là vỏ bọc cho bản chất mê trai trẻ, càng trẻ càng tốt của nhà văn.

Caleb vẫn còn nhớ như in khuôn mặt đỏ như gấc vì giận dữ của cụ ông Janklow, và ngay tại lúc đó, ông cứ nghĩ ông lão sắp đứt gân máu tại chỗ. Và đó cũng là lần đầu tiên và duy nhất trong sự nghiệp của mình Caleb phải xông vào can thiệp hai khách tại phòng đọc, cho dù cả hai đều ở tuổi thất thập. Lần đó, có thể dễ dàng nhận thấy hai ông bà từ đấu khẩu sắp sửa lao vào đấu tay chân, đến nỗi Caleb phải nhanh chóng dọn sạch đám sách quý trên bàn đọc, tránh để chúng bị xem là vũ khí. Ông nhắc cho họ nhớ về cách cư xử lịch sự trong phòng đọc và thậm chí còn đe sẽ hủy bỏ quyền lợi thành viên của họ nếu họ không biết kềm chế. Cụ ông Janklow lúc đó cố gắng thoát khỏi cánh tay của ông, nhưng ông vẫn “vững như thạch”, rõ ràng là ông hoàn toàn có thể khống chế ông cụ già xọm kia.

Trở lại với hiện tại, lâu lâu ông lại ngẩng đầu lên quan sát phòng đọc để chắc chắn rằng cuộc đấu khẩu như lần trước sẽ không xảy ra nữa. Không như những gì ông đang suy nghĩ, cụ ông Janklow vẫn đang chăm chú đọc sách, bên cạnh là quyển sổ ghi chú và cây bút chì nhỏ, thi thoảng ông cụ lại ngừng đọc để tháo mắt kính dầy cộm ra và lau cho rõ. Còn bà lão Jewell English dán chặt mắt vào quyển sách của mình, thình lình, bà ngẩng lên và bắt gặp ánh mắt của ông, bà đóng quyển sách lại và ra hiệu cho ông đến gần.

Khi ông ngồi xuống bên cạnh bà, bà thì thầm, “Anh vẫn còn nhớ quyển sách của Beadle bữa trước tôi có kể anh nghe chứ?”

“Vâng , có phải quyển hay số một không?”

“Tôi đã mua được rồi”, bà ta khẽ vỗ tay reo mừng.

“Chúc mừng bà, tuyệt quá. Sách vẫn còn trong tình trạng tốt phải không ạ?”

“Cũng may là thế, nếu không tôi đã nhờ anh rồi. Ý tôi là, dù sao anh cũng là chuyên gia mà”.

“Cám ơn”, Caleb khiêm tốn. Bàn tay xương xẩu của bà chợt nắm tay ông, cái nắm chặt đến kinh ngạc.

“Thế anh có muốn lúc nào đó đến xem sách không?”

Ông khéo léo vươn người ra khỏi cái nắm tay của bà, nhưng bà vẫn không buông ra, “Dạ, tôi phải xem lại lịch làm việc. Tôi sẽ báo cho bà biết khi bà đến thư viện lần tới, bà cứ hẹn ngày nào cụ thể, tôi sẽ sắp xếp!”

Giọng bà mời gọi, “Caleb à, lúc nào mà tôi chẳng rảnh”. Bà chớp chớp đôi lông mi giả về phía Caleb.

“Điều đó thật tuyệt”, ông lại cố vặn tay mình ra khỏi tay bà lão, nhưng bà vẫn nắm chặt.

“Vậy bây giờ mình hẹn ngày luôn nhé”, giọng bà ta nhẹ nhàng.

Trong lúc khó xử, ông nhìn về phía cụ ông Janklow, lúc này cũng bắt đầu quan sát họ. Chính ông ấy và bà cụ Jewell này cũng đang giành giật thời gian của Caleb giống như hai con sói đang dành miếng thịt bò béo bở. Đáng lý giờ này ông phải đến bên cạnh trò chuyện với ông cụ, nếu không muốn ông ấy phàn nàn hàng tuần về điều đó. Và cũng chính vì điều đó, Caleb chợt nảy ra một ý.

“Bà Jewell này, tôi tin rằng, nếu bà hỏi ông Norman, có khi ông ấy cũng thích đàm đạo về quyển sách mới của Beadle lắm đấy. Chắc giờ ông ấy cũng đã hối hận về việc chỉ trích lúc trước lắm rồi”.

Bà ta lập tức buông tay ông ra, giọng gắt gỏng, “Tôi chẳng có thời gian nói chuyện với bọn người nguyên thủy mọi rợ đó”, rồi mở túi xách cho ông kiểm tra trước khi rời phòng.

Caleb mỉm cười nhẹ nhõm, xoa tay và dành chút thời gian còn lại với Janklow, thầm cảm ơn ông ta vì đã giúp tạo điều kiện rời khỏi bà cụ. Sau đó ông quay lại bàn làm việc.

Tuy vậy, đầu óc ông vẫn lan man nghĩ ngợi đến những chuyện đã xảy ra, từ quyển sách Thánh ca bí mật, cái chết của Jonathan, cái chết của Chủ tịch Hạ viện, “Bob” Bradley, và cuối cùng là Cornelius, tên tài phiệt giàu có, mà rõ ràng gã ám sát chính người hàng xóm của mình.

Và cuối cùng ý nghĩ của ông đã quay trở lại với bản thân, trở thành thủ thư chỉ vì ông ghét áp lực, nhưng biết đâu ông lại thích hợp làm cho CIA hơn chăng, nhất là những lúc rảnh trong giờ làm việc chẳng hạn.

Chú thích

1.Quỹ hưu trí 401(k) là một hình thức bù đắp công lao của người lao động khi chủ hãng mở một quỹ hưu mang tên người lao động và đều đặn bỏ vào quỹ một phần lương chưa đóng thuế của người này. Với chương trình trợ giúp hưu trí 401 (k), người công nhân không phải đóng thuế tạm thu trên phần lương bỏ vào quỹ vì số tiền này không ghi trên bảng lương, nhưng họ phải đóng thuế An Sinh Xã Hội (FICA) và Y Tế trên nguồn lợi tức trích bỏ vào quỹ hưu 401(k).

2.Aldrich Ames: Điệp viên làm việc cho cả CIA và KGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia Nga). (Bị bắt ngày 21/2/1994).

3.Francis Scott Key Fitzgerald (24 tháng 9 năm 1896 - 21 tháng 12 năm 1940) là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "Thời đại nhạc Jazz"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Annabelle gọi món ăn trong khách sạn, tắm táp, quấn mình trong chiếc khăn tắm to và ngồi trước gương chải tóc. Trong lúc làm những công việc trên, cô ả suy nghĩ miên man. Vậy là ngày thứ tư cũng đã đến và tên Jerry Bagger ắt hẳn đã nhận ra rằng hắn đã mất đi bốn mươi triệu đôla. Đáng lý cô ả đã cách xa hắn ít nhất là sáu nghìn dặm rồi, nhưng thực sự cô ta chỉ ngồi một chuyến bay về miền nam. Cô ta chưa bao giờ thất bại trong kế hoạch tẩu thoát, và sự thật thì cô ta cũng chưa bao giờ có một vụ chồng cũ bị giết hại như vậy cả.

Cô ta bị Oliver và Milton gây tò mò và thích thú, dù ông bạn Caleb có vẻ hơi đặc biệt chút xíu và anh chàng Reuben thì lại ngồ ngộ với tính cách nồng nhiệt của mình. Và sâu xa trong lòng, Annabelle phải thừa nhận rằng cô ta thích giao du với những người có tính cách là lạ như vậy. Cho dù bản tính thích một mình, cô ta vẫn là một phần của nhóm, và cô ta cần điều đó. Từ thưở ấu thơ, cho đến lúc trưởng thành cô ta đã luôn thành lập những nhóm riêng của mình. Oliver và những người bạn của ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đó dù theo một cách khác. Nhưng mà, cô ta cũng không nên có mặt ở đây.

Cô ta ngừng chải tóc, trút khăn tắm và chui người vào một cái áo sơ mi dài tay. Cô ta đến bên khung cửa sổ, nhìn xuống những con đường tấp nập bên dưới. Dòng xe cộ đông đúc, nối đuôi nhau, dòng người hối hả xuôi ngược trên phố, cô ta hồi tưởng lại những hành động của mình: đóng vai một nhà biên tập, trợ giúp Oliver thám thính Thư viện Quốc hội, phạm tội nghiêm trọng khi dám giả danh FBI, và bây giờ cô ta đang sắp sửa tìm ra kế hay giúp Caleb lấy được những đoạn phim theo dõi để tìm ra sự thật về cái chết của Jonathan. Và nếu những gì Oliver suy đoán là đúng, thì một kẻ nào đó, còn nguy hiểm hơn cả Jerry Bagger đang chống lại họ.

Cô ta rời cửa sổ, ngồi xuống giường và bắt đầu thoa kem dưỡng da lên chân. “Mày bị điên rồi Annabelle ạ”, cô ta tự nhủ. “Tay Bagger sẽ lật tung cả thế giới này để tìm ra mày, vậy mà bây giờ mày vẫn ngồi đây, ung dung tồn tại trong cái đất nước quỷ quái này”. Nhưng cô ta đã hứa sẽ giúp họ, và cô khăng khăng bào chữa với chính mình, rằng cô ta phải là một phần của kế hoạch. “Mình có nên lộ diện mà tin tưởng rằng vệ tinh của Bagger không tìm ra mình ở thủ đô D.C này không?”, cô nói to. Có kẻ nào đó đã giết hại Jonathan, và cô ta muốn trả thù, chỉ vì cô ta tức giận khi thấy kẻ nào đó đã can thiệp vào cuộc đời ông, kết thúc nó, trước khi nó chấm dứt.

Cô ta chợt nghĩ ra một chuyện và nhìn đồng hồ. Cô ta không biết múi thời gian hiện tại của gã, và cô ta cần phải biết. Cô ta chạy vội đến chiếc bàn ngay góc phòng, tóm lấy điện thoại, nhấn số và đợi tiếng reo của nó một cách thiếu kiên nhẫn. Cô ta đã đưa số này cho gã ta và cả điện thoại gọi quốc tế để họ có thể liên lạc với nhau chút ít sau trò bịp đó. Bất cứ ai nghe ngóng được tin tức của Jerry sẽ báo cho người còn lại biết.

Cuối cùng Leo cũng trả lời. “Chào em”.

“Chào anh thì có. Tôi cứ nghĩ anh chẳng bắt máy”.

“Anh đang ở hồ bơi”.

“Hay nhỉ, thế chỗ nào trong hồ bơi?”

“Đáy hồ”.

“Không phải, ý tôi là anh đang trú ở đâu đấy?”

“Không thể cho biết. Giả dụ như Bagger đang đứng tại đây thì sao?”

“Tôi hiểu rồi. Anh còn nghe được ai khác không?”

“Chẳng có tin gì?”

“Thế còn Bagger thì sao?”

“Không, mà anh cũng bỏ tên hắn ra khỏi sổ địa chỉ rồi”, giọng gã khô khốc.

“Ý tôi là anh có nghe ngóng được tình hình ra sao không?”

“Chỉ vài tin đồn. Mà cũng không muốn tìm ra sự thật lắm, em biết tính cách giết chóc của hắn rồi đấy”.

“Anh cũng hiểu rằng hắn sẽ chẳng buông tha chúng ta cho đến tận hơi thở cuối cùng”.

“Vậy thì chúng ta cùng cầu nguyện cho cơn đau tim này, anh chẳng muốn hắn phải chịu đựng quá lâu”. Leo ngưng lại một chút và tiếp, “Có chuyện anh cần báo với em đó Annabelle, mà em đừng nổi giận nhé”.

Cô ta ngồi thẳng lại, “Anh đã gây ra chuyện à?”

“Anh lỡ tiết lộ với Freddy một chút xíu về tiểu sử của em”.

Cô ta đứng dậy, “Ít hay nhiều vậy?”

“Họ của em, và những chuyện giữa em và Paddy”.

Cô ta gào vào điện thoại, “Anh bị mất trí rồi à?”

“Anh biết, anh biết, mình thật là ngu ngốc. Chỉ là tự nhiên bật ra, và anh cũng chỉ muốn cho hắn thấy em chẳng giống bố em tí nào cả. Nhưng anh không có kể cho Tony biết, anh không phải kẻ khờ khạo”.

“Cám ơn anh, anh Leo, cám ơn hàng vạn lần”.

Cô ta ngắt ngang cuộc điện thoại và đứng giữa phòng, nếu Freddy biết được họ của cô ta và biết được cha cô ta là Paddy Conroy, kẻ thù truyền kiếp của Jerry Bagger, và nếu như Jerry mò đến hắn, thì hắn sẽ khai hết. Cô ta sẽ bị tóm gọn, cô ta có thể hình dung ra số phận của mình. Tên Jerry đó sẽ xé xác cô ra, từng chút từng chút một.

Cô ta bắt đầu thu dọn hành lý. Xin lỗi anh nhé, anh Jonathan.

Khi Caleb trở về căn hộ của mình vào buổi tối, ông đã thấy có người đang chờ sẵn ở chỗ sân đậu xe.

“Chào ông Pearl, ông làm gì ở đây vào giờ này?”

Vincent Pearl nhìn không giống giáo sư Dumbledore1 với chiếc áo thụng thường thấy. Thay vào đó, ông ta mặc một bộ đồ vest lịch sự, sơ mi cổ cao, giày sáng bóng, râu và tóc chải chuốt cẩn thận. Ông ta nhìn có vẻ gầy hơn trong bộ y phục trang trọng, và cũng chính vì điều đó Caleb phốp pháp tự nhủ với lòng rằng ông sẽ không bao giờ mặc áo thụng cả. Mắt kính của Pearl trễ xuống sống mũi, ông ta chăm chú nhìn Caleb, cái nhìn có vẻ van nài và người thủ thư cảm thấy chột dạ.

“Vâng ông cứ nói tiếp đi”, cuối cùng ông phải lên tiếng.

Bằng giọng trầm và có vẻ thiểu não, Pearl phân trần, “Anh chẳng nghe điện thoại, cho nên tôi nghĩ mình phải xuất hiện bằng xương bằng thịt để anh thấy tôi thật sự quan tâm đến quyển Thánh ca ấy”.

“Vâng, tôi hiểu”.

Pearl nhìn xung quanh, “Có điều chỗ đậu xe như vậy chẳng thích hợp lắm cho câu chuyện về một trong những quyển sách quý giá nhất trên thế giới”.

Caleb thở dài, “Đúng vậy, thôi mình lên nhà đi”.

Họ cùng vào thang máy và lên trên căn hộ của Caleb, rồi cả hai cùng yên vị ngồi đối diện nhau trong căn phòng khách nhỏ.

“Tôi cứ sợ anh đã đề cập chuyện quyển Thánh ca đó với hai nhà đấu giá danh tiếng Sotheby và Christie rồi đấy”.

“Không, vấn đề không phải vậy, chỉ là tôi vẫn chưa quay trở lại căn nhà từ lúc gặp ông ở đó. Tôi cũng chưa gọi cho ông vì tôi vẫn đang cân nhắc”.

Pearl có vẻ thoải mái hơn khi nghe xong câu trả lời, “Ít ra trong thời gian này chúng tôi cũng có trách nhiệm kiểm tra quyển sách ấy. Tôi có quen vài công ty có danh tiếng tốt và có thể đảm trách việc này, mà tôi thấy chúng ta cũng chẳng cần phải đợi lâu thêm nữa”.

Caleb ngần ngừ, “Nhưng mà...”

“Anh càng trì hoãn lâu chừng nào thì anh lại càng không kiểm soát được dư luận biết về sự tồn tại của quyển Thánh ca thứ mười hai này”.

“Ý ông là sao?”, Caleb nghiêm túc ngồi thẳng dậy.

“Tôi không biết anh có nhận thức rõ ràng việc quyển sách được phát giác hay không?”

“Hoàn toàn ngược lại là khác, tôi biết được tầm quan trọng của nó chứ”.

“Nhưng tôi sợ thông tin sẽ bị tiết lộ”.

“Sao lại thế? Tôi đâu kể cho ai biết”.

“Bạn của ông thì sao?”

“Họ hoàn toàn đáng tin cậy”.

“Tôi hiểu, nhưng xin thứ lỗi nếu tôi không được tự tin như anh, bởi vì chỉ cần một ít thông tin tiết lộ ra thôi, mọi người lại bắt đầu xôn xao bàn tán, và danh tiếng của anh bạn Jonathan thế là tiêu tan”.

“Họ bàn tán điều gì?”

“Có trời mới biết, nhưng tôi có thể tưởng tượng ra họ sẽ nói như vầy: quyển sách là vật ăn cắp chẳng hạn”.

Caleb chợt liên tưởng đến giả thuyết của mình rằng quyển Thánh ca đang nằm trong thư viện là giả mạo. Tuy vậy, ông lại cố tạo ra vẻ ngây thơ, “Ăn cắp à? Ai lại tin điều đó nhỉ?”

Pearl thở ra, “Chẳng có ai sở hữu một trong những của quý trong lịch sử sưu tập sách lại có thể giữ bí mật lâu như thế, cho đến thời điểm này đấy”.

“Và ông cho rằng đó là bởi vì Jonathan đánh cắp nó ư? Điều đó hoàn toàn phi lý. Ông ta ăn cắp chắc tôi cũng ăn trộm mất rồi”. Làm ơn, làm ơn đó không phải là sự thật đi.

“Nhưng cũng có khả năng ông ta đã mua quyển sách đó từ một tay trộm nào đó, vô thức hay cố tình. Dẫu sao chuyện của ông ta cũng rất đáng ngờ, đó cũng phần nào lý giải cho việc anh ta cố tình giữ bí mật về quyển sách”.

“Thế ông có nghĩ quyển sách được lấy trộm từ đâu không? Ông bảo ông đã kiểm tra những nơi sở hữu loại sách như vậy”.

Pearl phản ứng, “Thế anh nghĩ rằng họ sẽ nói cái quái gì? Anh có nghĩ họ sẽ thừa nhận việc họ làm mất quyển sách Thánh ca ấy? Mà có khi họ cũng chẳng biết đâu. Còn thêm giả thuyết rằng, có một quyển sách giả mạo giống y như thật đang nằm ngay trên kệ, và họ cũng chẳng bỏ công kiểm tra mỗi ngày xem liệu có đúng quyển sách thật hay không”. Ông ta ngừng một chút rồi tiếp tục, “Vậy anh có tìm ra giấy tờ tài liệu nào liên quan đến quyển sách hay không? Giấy tờ mua bán gì đó? Chứng minh nó từ đâu đến?”

“Tôi không thấy”, Caleb thừa nhận, ông cảm thấy chùng lòng. “Nhưng có điều tôi vẫn chưa lục đống giấy của cá nhân Jonathan nữa, vì tôi chỉ có bổn phận kiểm tra bộ sưu tập sách mà thôi”.

“Không phải như vậy, anh có nhiệm vụ kiểm tra cho được bằng chứng sở hữu sách của ông ta. Anh có nghĩ rằng những nhà đấu giá Christie và Sotheby sẽ trưng bày quyển sách Thánh ca ấy tại phiên đấu giá mà chẳng hay biết gì về tính xác thực và sự hợp pháp hóa do DeHaven đứng tên à?”

“Dĩ nhiên rồi, tôi cũng biết họ sẽ quan tâm đến điều đó”.

“Chính vì vậy, anh Shaw ạ, nếu tôi là anh, tôi sẽ bắt tay vào việc tìm ra bằng chứng ấy. Nếu anh không tìm ra, ắt hẳn cũng là lúc chúng ta có thể đi đến kết luận rằng việc Jonathan sỡ hữu nó thông qua những hình thức chẳng rõ ràng cho lắm, trong thế giới sách hiếm của chúng ta, điều đó đồng nghĩa với sự thừa nhận rằng Jonathan đã chính tay lấy cắp, hay cố ý mua lại thứ người khác đã lấy cắp”.

“Tôi nghĩ nếu tôi hỏi qua ý kiến luật sư của ông ta, thì tôi sẽ có thể tìm bằng chứng trong đống hồ sơ để lại. Hay họ cũng có thể làm điều đó thay tôi, nếu tôi báo họ biết tôi đang cần gì”.

“Nếu anh làm theo cách đó, họ sẽ thắc mắc, và nếu trong trường hợp anh kể cho họ nghe, anh sẽ gần như không làm chủ được tình hình nữa”.

“Vậy ý ông muốn tôi tự kiếm bằng chứng sao?”

“Dĩ nhiên là vậy, anh là người phụ trách của ông ta mà, đó là cớ để hành động”.

“Nếu là vậy thì tôi chẳng quan tâm nếu lỡ bị người ta nói”, Caleb bắt đầu nổi nóng.

“Anh có được trích phần trăm trên số tiền bán đấu giá sách không?”

“Xin cho phép tôi không trả lời câu này”, Caleb thẳng thừng từ chối.

“Cứ xem như là có, vậy thì nếu anh cứ tiến hành buổi đấu giá mà không tìm ra bằng chứng gì cho thấy Jonathan đã sỡ hữu nó một cách quang minh chính đại, thì nếu sự việc vỡ lở ra, tất cả danh tiếng của Jonathan sẽ bị xóa sạch? Khi một sự việc dính dáng đến số tiền kếch xù thì cũng là lúc người ta nghĩ ra đủ thứ xấu xa liên quan đến nó”.

Caleb cứng họng vì sự thật là thế. Cho dù lời nhận xét của Pearl hoàn toàn là chẳng lọt lỗ tai, ông ta ít nhiều cũng có lý. Caleb không chịu nổi ý nghĩ rằng danh tiếng của người bạn quá cố của mình sẽ tiêu tan và Caleb hiển nhiên cũng chẳng muốn chìm sâu xuống đáy chung với nó.

“Tôi nghĩ tôi có thể xem xét lại đồ đạc trong nhà của Jonathan”. Ông biết Oliver và những người khác đã lục soát khắp nhà nhưng họ không tìm mấy tài liệu chứng nhận sở hữu bộ sưu tập sách.

“Tối nay anh sẽ đi chứ?”

“Giờ đã trễ rồi”. Và ông cũng đã đưa chìa khóa cho Reuben.

“Vậy thì ngày mai nhé?”

“Vâng, ngày mai vậy”.

“Cho tôi biết anh tìm thấy và không thấy những gì nhé”.

Sau khi Pearl ra về, Caleb tự rót cho mình một ít rượu chát, nhấm nháp nó cùng với một tô đầy khoai tây chiên, món ăn khoái khẩu của mình. Bây giờ ông căng thẳng đến nỗi không chắc có thể tiếp tục chế độ ăn kiêng nữa không. Sau khi ăn uống xong, ông nhìn vào bộ sưu tập sách của mình và nhủ thầm:

Ai mà lại nghĩ là sưu tập sách lại rắc rối đến thế cơ chứ?

Chú thích

1.Dumbledore là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn J. K. Rowling
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


áng sớm hôm sau, Reuben báo cáo cho Stone nghe rằng không có động tĩnh gì từ nhà của DeHaven cả cũng giống như đêm hôm trước.

“Không có gì à?”, giọng Stone nghi ngờ.

“Không có động tĩnh gì trong phòng ngủ nếu đó là những gì anh muốn biết. Tôi có thấy Behan và vợ hắn về nhà lúc nửa đêm nhưng mà rõ ràng đèn phòng không sáng, và họ cũng không dùng phòng đó, chắc nó chỉ dành cho mấy cô em xinh đẹp mà thôi”.

“Anh có nhìn thấy gì khác không? Xe tải màu trắng chẳng hạn”.

“Không, tôi ra vào căn nhà này mà có ai biết gì đâu. Có một hàng rào cao cả mười feet1 che phủ cả sân sau, chuông báo động ngay phía cửa hông sau, thế là cũng nhiều thứ lắm rồi”.

“Anh có chắc là anh không quan sát ra thứ gì có thể giúp chúng ta sao?”

Reuben nhìn có vẻ không chắc lắm, “có vẻ như là thế, nhưng vào khoảng 1 giờ sáng sớm tôi thấy ánh sáng nhá lên từ cửa sổ căn nhà đối diện”.

“Có khi là chủ nhà đang ở trong ấy”.

“Vấn đề là ở chỗ đó, nhìn chẳng giống như nhà có chủ. Chẳng thấy xe hơi lẫn thùng rác trước cửa nhà, và hôm nay cũng là ngày đổ rác vì những nhà khác đã để sẵn rác ra ngoài từ tối hôm qua”.

Stone nhìn Reuben chăm chú, “Điều này hay nhỉ. Có khi nào ánh sáng ấy xuất phát từ cái gì đó có dính dáng đến kính”.

“Chắc không phải liên quan đến súng đâu, nhưng có thể là một cặp ống nhòm”.

“Vậy thì cứ để ý chỗ đó kỹ vào. Vậy còn việc gọi cảnh sát thì sao?”

“Tôi gọi điện thoại thẻ giống như anh nói, nhưng chuyện không vui vẻ gì mấy khi có một người phụ nữ bảo tôi ngừng ngay việc quay số đến cảnh sát liên tục như vậy”.

“Thôi được rồi, gọi và báo cho tôi biết công việc của anh vào sáng mai”.

“Tốt, nhưng thế thì khi nào tôi mới được ngủ đây, Oliver? Tôi phải chuẩn bị đến khu bốc dỡ hàng, và chắc là bận cả tối”.

“Khi nào anh hết ca?”

“Hai giờ sáng”. “Vậy thì đi ngủ đi. Phải tới 10 giờ hơn tôi mới cần anh có mặt tại nhà của Jonathan”.

“Cám ơn nhiều. Ít ra tôi cũng có thể dùng tạm thức ăn của ông ta nhé?”

“Cũng được, miễn anh thêm thức ăn mới vào chỗ cũ là được”.

Reuben bực bội, “Này anh bạn, đừng tưởng cứ sống trong lâu đài là sung sướng nhé”.

“Nhưng mà, anh đâu có thiếu thứ gì đâu”.

“Vậy trong lúc tôi cực khổ ngoài này, Bệ hạ sẽ làm gì ạ?”

“Bệ hạ sẽ suy nghĩ”.

“Thế anh có tin gì của Susan không?”, Reuben háo hức.

“Chẳng có một tí gì cả”.

Nửa giờ sau trong lúc Stone đang làm việc ngoài khuôn viên nghĩa trang thì một chiếc tắc-xi dừng phía cổng, Milton bước xuống. Stone đứng lên, phủi tay và cả hai cùng vào nhà. Trong lúc Stone lấy nước chanh uống thì Milton tranh thủ mở máy tính xách tay và lấy ra một xấp tài liệu ông ta mang theo.

“Tôi tìm ra được nhiều điều hay về hai gã Cornelius Behan và Robert Bradley”, Milton giải thích, “Chỉ có điều không biết liệu có hữu ích hay không”.

Stone ngồi xuống bàn và kéo xấp tài liệu về phía mình, hai mươi phút sau ông ngẩng lên và nói, “Có vẻ như hai gã này chẳng phải bạn bè gì nhỉ”.

“Chính xác hơn phải gọi là kẻ thù mới đúng. Mặc dù công ty của Behan đã chiếm được hai hợp đồng của chính phủ, nhưng Bradley lại là kẻ phá bĩnh cản trở ba hợp đồng khác, bằng cách phao tin rằng Behan đã mua chuộc chính quyền. Tôi có được thông tin này từ một số tay nhân viên của điện Capitol đấy. Họ cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, chỉ là họ tiết lộ rằng lúc sau này chính Bradley đã thẳng thừng công kích Behan, nói gã là một tay tham ô xấu xa. Mà sự việc xảy ra cũng không cho chúng ta thấy liệu họ có nằm trong một tổ chức gián điệp nào không”.

“Dĩ nhiên là thế, trừ phi chỉ là màn đánh lừa. Nhưng tôi đồng ý với tay Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng quá cố rằng tên Behan đó đã tham ô. Nhưng liệu gã có phải là tên xấu xa đã ra tay giết người? Chuyện của Jonathan là một bằng chứng rõ ràng nhất”.

“Vậy cũng có thể suy đoán rằng Behan cũng đã sai người giết Bradley bởi vì hắn có động lực mạnh mẽ nếu như gã kia đang cố phá chuyện làm ăn của hắn”.

Stone nói tiếp, “Chúng ta đặt giả thuyết rằng Jonathan bị đầu độc bằng khí cacbonnic, và cái thứ khí gây chết người kia thuộc về một trong số công ty của Behan. Hôm qua Caleb vừa gọi cho tôi, báo cáo tình hình điều tra của anh ta, về việc anh ta vào phòng sách và kiểm tra phía sau lỗ thông gió bị bẻ cong. Có một lỗ đinh ốc ở phía vách ống dẫn, nơi bị nghi ngờ là từng gắn máy quay phim. Anh ta còn cho biết những con ốc phía tấm lưới sắt bên ngoài cũng dễ tháo ra cứ như đã từng có người làm điều đó trước đấy. Nhưng vẫn chưa đủ bằng chứng xác thực rằng máy quay phim thật sự đã được gắn ở đấy”.

“Vậy nếu như chúng không là đồng bọn với nhau, Jonathan cũng chẳng thể gặp chúng ở nhà gã Behan. Vậy sao vẫn giết hại ông ta nhỉ?”

Stone lắc đầu, “Tôi cũng chẳng biết, Milton ạ”.

Sau khi Milton đi rồi, Stone trở lại với công việc tại nghĩa trang. Ông kéo chiếc máy cắt cỏ ra khỏi kho, nổ máy và làm việc trên khoảnh sân phía bên trái căn nhà. Khi xong việc, ông tạm ngưng máy, quay lưng lại và thấy Annabelle đã ở đó, quan sát ông. Cô ta đội một chiếc mũ rộng vành, đeo kính râm và khoác áo khoác bằng da dài màu nâu phủ kín váy ngắn bên trong, phía sau cô ta là một chiếc xe hơi thuê chờ sẵn ngoài cổng.

Ông dùng khăn lau mặt, đẩy máy cắt cỏ vào khoảnh sân phía trước nhà nơi Annabelle đang đứng. Cô ta đẩy cặp kính râm lên và hỏi.

“Mọi việc thế nào rồi anh Oliver?”

Ông im lặng trong một lúc rồi mới cất lời, “Nhìn cô có vẻ giống như chuẩn bị đi đâu à?”.

“Vâng, đó là lý do tôi đến đây để báo cho anh về sự thay đổi trong kế hoạch. Vài giờ nữa tôi cất cánh rồi, và sẽ không quay lại”.

“Thật vậy ư?”

“Đúng vậy”, giọng cô ta cương quyết.

“Vâng, tôi chẳng trách cô đâu, chuyện đang dần nguy hiểm hơn”.

Cô ta nhìn thẳng vào mặt ông, “Nếu anh nghĩ điều đó là nguyên nhân khiến tôi bỏ đi, thì anh không phải là người thông minh như tôi tưởng”.

Ông nhìn cô ta một lát rồi chống chế, “Vậy thì kẻ nào đang tìm cô chắc cũng phải nguy hiểm không kém”.

“Anh cứ xem tôi là một người cũng phải có kẻ thù đi”.

“Tôi không đi tìm kẻ thù, chỉ là họ quyết tâm tìm ra tôi mà thôi”.

“Ước gì tôi có thể kể ra, tôi lại có xu hướng tạo kẻ thù đấy”.

“Vậy cô có tính nói cho những người kia biết không?”

Cô lắc đầu, “Tôi hy vọng anh sẽ giúp tôi làm điều đó”.

“Chắc bọn họ sẽ buồn lắm đấy, nhất là Reuben, còn về phần Milton thì tôi chưa bao giờ thấy anh ta vui vẻ như vậy trong thời gian cô đến đây. Anh bạn Caleb tuy bề ngoài có hơi lạnh lùng chút, nhưng anh ta sẽ cũng chẳng vui gì hơn”.

“Thế còn anh thì sao?”, cô ta hỏi, mặt cúi gằm.

Ông dùng mũi giày bốt gạt đám cỏ khỏi bánh xe máy cắt cỏ, “Cô cũng có vài tài lẻ đáng ngạc nhiên đấy”.

“Ý anh đang nhắc đến chuyện tôi móc túi anh à. Mà chuyện đó cũng chỉ xảy ra từ hồi nảo hồi nao rồi, từ lúc tôi lên tám đấy”, cô ta nhìn ông với ánh mắt dò xét.

“Tôi chắc cô lúc đó là một bé gái khôn lanh lắm nhỉ”.

Cô ta nở một nụ cười mỉm, “Dù sao thì lúc đó cũng là thời gian vui vẻ. Các anh bảo trọng nhé, giống như anh từng nói, kẻ thù luôn tìm các anh mà”.

Cô ta quay lưng, rảo bước.

“Susan, nếu chúng tôi tìm ra được lời giải đáp, liệu cô có muốn chúng tôi liên lạc với cô, cho cô biết về vụ của Jonathan không?”

Cô ta quay lại và nhìn ông, “Tôi nghĩ tôi nên để quá khứ ngủ yên”.

“Còn tôi lại nghĩ cô muốn biết, vì mất đi vị hôn phu theo cách như vậy không dễ quên đâu”.

“Anh có vẻ từng trải quá nhỉ?”

“Tôi cũng từng có vợ mà. Nhưng cũng lâu lắm rồi”.

“Anh chị ly dị à?”

“Không phải”.

“Nhưng chuyện của tôi và Jonathan lại khác. Chính ông ấy đã quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân, còn tôi cũng chẳng biết sao mình đang ở đây”.

“Tôi hiểu. Vậy thì liệu tôi có thể nhận lại tấm hình không?”

“Sao cơ?”, cô ta giật mình.

“Hình Jonathan. Tôi muốn trả hình về nhà ông ta”.

“À... tôi không có mang theo đây”.

“Vậy thì khi cô đến nơi đâu, nếu tiện, cô gửi trả lại cũng được”.

“Anh có vẻ tin người quá đáng đấy, Oliver. Chẳng có gì có thể khiến tôi trả tấm hình lại cả”.

“Vâng, đúng thế. Không có gì”.

Cô ta tò mò nhìn ông, “Anh là một trong số những người kỳ lạ mà tôi từng gặp, và điều đó cũng nói lên chút gì đó”.

“Cô phải lên đường thôi, chắc cô không muốn lỡ chuyến bay đâu nhỉ”.

Cô ta liếc nhìn những ngôi mộ xung quanh, “Anh không thấy mình đang bị vây quanh bởi sự chết chóc ư. Cảm giác thật u ám. Đã đến lúc anh cần tìm một công việc khác rồi đấy”.

“Cô cảm nhận được cái chết và nỗi buồn dưới lớp đất lạnh kia, còn tôi, tôi lại thấy cuộc đời đã toàn vẹn, và những gì thế hệ đi trước đã làm có ảnh hưởng sâu sắc đến lớp trẻ tương lai”.

“Triết lý vị tha quá, tôi không thấu hiểu nổi đâu”.

“Tôi cũng từng nghĩ vậy”.

“Chúc may mắn”, cô ta bắt đầu quay đi.

“Nếu cô cần một người bạn, cô biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.

Bờ vai cô ta hơi sững lại trong chốc lát khi nghe ông nói lời này. Rồi cô ta đi mất. Về phần mình, Stone cất máy cắt cỏ vào kho, sau đó ra ngồi phía ngoài hè, lặng ngắm những nấm mồ xung quanh ông trong cái lành lạnh của cơn gió ngang qua.

Chú thích

1. Đơn vị đo độ dài (1feet = 0,3048 m)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Caleb đứng dậy chào người đàn ông vừa bước vào phòng đọc.

“Tôi có thể giúp gì anh ạ?”

Roger Seagraves chìa cho Caleb xem tấm thẻ thư viện mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng có được từ tòa nhà Madison phía đối diện chỉ bằng cách xuất trình bằng lái xe hay hộ chiếu, dù là thật hay giả. Cái tên trên thẻ là William Foxworth, tấm hình trên thẻ cũng là khuôn mặt của hắn, cả thông tin trên hệ thống máy tính của thư viện cũng tương tự.

Seagraves đưa mắt liếc nhìn xung quanh phòng đọc, chỉ có vài người đang ngồi, và nói, “Tôi đang tìm một vài loại sách”, rồi hắn đọc tên sách cần tìm.

“Được thôi. Anh có sự yêu thích cụ thể nào về kỷ nguyên đó không?”

“Tôi thích nhiều thứ”, Seagraves trả lời, “đó chỉ là một trong số sở thích của tôi mà thôi”. Hắn quan sát Caleb một lúc, làm ra vẻ như đang suy nghĩ ra điều gì để nói. Thật ra, đoạn đối thoại đã được hắn chuẩn bị kỹ lưỡng, và hắn cũng thuộc nằm lòng những chi tiết về Caleb Shaw. “Tôi cũng là người sưu tập sách, có điều mới vào nghề thôi. Tôi vừa mua vài quyển văn học Anh đang tính nhờ người kiểm tra giùm xem. Đáng lý tôi phải làm điều này trước khi mua chúng, nhưng như anh đã biết, tôi chỉ vừa vào nghề. Tôi kiếm được một chút vốn, và cũng có người mẹ làm tại thư viện trong vài năm. Lúc nào tôi cũng yêu thích sách cả, có điều sưu tập sách là một cuộc chơi mới với tôi”.

“Tôi hoàn toàn đồng ý, và có khi cũng hơi khốc liệt đấy”, Caleb nhận xét, và rồi châm chước, “Theo cách chính thống thôi. Mà nói gì thì nói, lĩnh vực chuyên ngành của tôi là văn chương Anh thế kỷ thứ mười tám đấy”.

“Hay quá”, Seagraves thốt lên, “Quả là một ngày may mắn”.

“Thế anh có sách gì vậy, anh Foxworth?”

“Cứ gọi tôi là Bill, nguyên tác của tác giả Defoe”.

“Quyển Robinson Crusoe hay là Moll Flanders?"

“Moll Flanders”, Seagraves trả lời.

“Tốt quá. Thế còn gì nữa?”

“Tác phẩm của Goldsmith - Cuộc đời của Richard Nash. Và một quyển của Horace Walpole”.

“Ý anh là tiểu thuyết Lâu đài Otranto à, xuất bản năm 1765?”

“Đúng thế. Vẫn còn trong tình trạng tốt”.

“Anh vẫn chưa quen với việc nhìn nhận chúng. Tôi rất sẵn lòng giúp anh vì anh biết đấy, có rất nhiều dị bản đấy. Người nào mua sách cũng suy nghĩ đơn giản rằng họ đang mua đúng nguyên tác, nhưng có khi chỉ là bị gạt thôi, mà chuyện như vậy cũng xảy ra với cả người sành sỏi nhất”, và tiếp tục nói thêm, “Nhưng không phải là cố ý đâu”.

“Tôi sẽ mang theo sách khi tôi đến đây lần tới nhé”.

“Tôi không chắc anh sẽ làm được điều đó, nhất là khi anh mang chúng ngang qua phòng bảo vệ, trừ phi anh đã thỏa thuận trước đó. Vì họ có thể nghĩ rằng anh đã ăn cắp sách, còn anh thì cũng đâu muốn bị bắt đúng không nhỉ”.

Seagraves vờ tái mặt, “Đúng rồi, tôi cũng chưa nghĩ đến chuyện đó nữa. Ôi Trời, cảnh sát, trước giờ tôi còn chưa nhận thẻ phạt xe đậu trái phép nữa là”.

“Cứ bình tĩnh, mọi việc đâu còn có đó”, giọng Caleb đầy tự hào, “Thế giới sách quý hiếm, theo tôi, rất phức tạp, có pha chút mạo hiểm. Nhưng nếu anh nghiêm túc về việc sưu tập sách của thế kỷ mười tám, anh cần phải quan tâm đến một số tác giả tiêu biểu của thời kỳ này. Tôi có thể gợi ý cho anh vài người, như là Jonathan Swift và Alexander Pope, hai nhà văn được xem là bậc thầy của nửa đầu thế kỷ. Ngoài ra, còn có tác phẩm Tom Jones của Henry Fielding, rồi nhà văn Tobias Smollett, Edward Gibbon, Fanny Burney, Ann Radcliffe và Edmund Burke nữa, đó cũng không hẳn là một niềm đam mê tốn kém lắm đâu”.

“Tôi sẽ cố gắng tìm hiểu”, Seagraves cất giọng ủ rũ.

“Việc này không giống như thu thập nắp chai nhỉ?”, Caleb bật cười vì lời ví von của mình, “À, mà anh cũng đừng quên cây đại thụ của kỷ nguyên đấy, bậc thầy văn chương của nửa sau thế kỷ, ngài Samuel Johnson. Tuy danh sách tôi kể ra vẫn chưa đủ, nhưng cũng là khởi đầu tốt đấy”.

“Anh quả là uyên bác về lĩnh vực văn học thế kỷ mười tám nhỉ”.

“Hẳn là thế, vì tôi làm tiến sỹ về đề tài này mà. Còn về chuyện đánh giá sách, chúng ta cũng có thể gặp nhau ở đâu đó, cứ báo tôi biết thôi”. Ông thò tay vào túi, và đưa cho Seagraves một tấm danh thiếp với số điện thoại văn phòng của ông trên đó. Ông nhiệt tình vỗ mạnh vai của Seagraves và tiếp lời, “Giờ anh lấy sách nhé”.

Khi Caleb mang sách ra cho hắn, ông còn dặn với theo, “Chúc anh đọc sách vui nhé”.

Hắn liếc nhìn Caleb và cười thật tươi. Chắc chắn rồi, anh Caleb ạ.

Như đã hẹn trước, Caleb gặp Reuben rồi cả hai cùng đến nhà của Jonathan sau khi Caleb tan sở. Họ tìm kiếm trong hai giờ đồng hồ nhưng chỉ tìm thấy hóa đơn mua bán sách các loại trong ngăn bàn nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy giấy chứng nhận sở hữu Thánh ca của Kinh Cựu ước của tay quản thư.

Kế đến Caleb vào phòng sách, ông cần phải kiểm tra mã thư viện trên sách vì điều đó có thể chứng minh xem liệu Jonathan có đánh cắp nó không, nhưng ông không tự tin bước vào. Lỡ như có mã thư viện trên sách thì sao? Ông không hình dung mình sẽ như thế nào nếu đó là sự thật. Cuối cùng, Caleb đã quyết định hành động theo bản chất của mình: trốn tránh sự việc, và tự an ủi rằng quyển sách vẫn còn đó.

Ông bảo Reuben, “Tôi thật không hiểu, Jonathan là người chân thật mà”.

Reuben nhún vai, “Đúng thế, nhưng anh vẫn bảo người ta hay thích sưu tập mà, và vì quyển sách quý giá đó, biết đâu ông ấy lại làm điều xấu, và cũng là lý do ông ta giữ bí mật”.

Caleb chống chế, “Nhưng cuối cùng rồi cũng bị phát giác thôi, ông ấy cũng phải chết mà”.

“Nhưng không phải đột ngột như vậy, có thể ông ta đã lên kế hoạch mà không có cơ hội thực hiện”.

“Vậy tôi làm sao có thể bán đấu giá một quyển sách mà không có giấy tờ chứng nhận sở hữu?”

“Caleb, tôi biết ông ấy là bạn anh nhưng cũng có lúc sự thật phải được phơi bày”, Reuben nói nhỏ.

“Sẽ có xì-căng-đan mất”.

“Tôi không biết anh giải quyết vụ việc ra sao, miễn đừng vướng vào nó thôi”.

“Tôi nghĩ anh có lý. Cám ơn nhé, anh có ở lại đêm nay không?”

Reuben nhìn đồng hồ, “Vẫn còn khá sớm, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ đi với anh rồi quay lại sau. Ít ra tôi có thể ngủ một lúc chiều nay”.

Cả hai rời khỏi nhà. Ba giờ sau, trước khi đồng hồ điểm 11 giờ, Reuben lọt vào nhà qua cửa sau. Ông ta chuẩn bị món ăn nhẹ trong bếp rồi lên tầng. Ngoài hướng thông qua căn phòng “tình yêu” của Cornelius Behan, căn gác cũng cho phép nhìn ra toàn cảnh đường Good Fellow qua cửa sổ bán nguyệt. Reuben luân phiên quan sát cả nơi trú ngụ của Behan lẫn căn nhà đối diện bằng ống nhòm mang theo.

Khi chiếc xe hơi Cadillac màu xanh lá đỗ xịch trước nhà Behan vào lúc một giờ sáng, Reuben quan sát thấy gã ta, và một phụ nữ trẻ trong chiếc áo khoác da dài màu đen và vài tên cận vệ của gã bước ra. Tất cả cùng vào nhà. Chắc là quý phu nhân lại đi vắng, Reuben thầm nghĩ và di chuyển đến hướng cửa sổ nhìn sang nhà Behan. Ông chẳng phải đợi lâu vì chỉ một lát sau, đèn trong phòng ngủ bật sáng và nhà tài phiệt giàu có cùng cô gái mỹ miều bước vào.

Behan ngồi xuống ghế, vỗ tay và ngay lập tức, cô gái bắt đầu hành động. Cô ta cởi từng nút áo một, và trong lúc cô ta làm điều này, Reuben từ xa tuy thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra vẫn nín thở theo dõi qua ống nhòm: đôi tất lưới dài, chiếc áo ngực cùng hàng nút bấm, và chiếc quần nhỏ xíu. Ông thở ra một hơi dài, để cảm giác đỡ căng thẳng.

Trong lúc Reuben đang quan sát, thì thình lình ông nhận thấy một vầng lửa đỏ lóe lên từ cửa sổ căn nhà nhìn ra ngoài đường. Ông ngẩng lên, nhưng không để tâm lắm vì nghĩ đó là ánh sáng từ chân thắng xe hơi vừa vút ngang, ông nhún vai, và lại tiếp tục quan sát qua ống nhòm. Lúc này, cô gái đã cởi bỏ xiêm y, và để chúng rơi tự do trên sàn, cô nàng đang ngồi xuống ghế và chậm rãi cởi đôi tất chân, thân hình hiện dưới ánh đèn.

Không nên được voi đòi tiên nhé, Reuben tự an ủi bản thân trước những cảnh tượng nóng bỏng kia và lại buông tiếng thở dài. Ông liếc mắt về phía cửa sổ căn nhà đối diện, và lần này ông thấy rõ ánh sáng đỏ quạch kia. Đó chẳng phải là xe hơi, ông chạy đến bên cửa sổ và nhìn chăm chăm vào nó. Có cháy nhà chắc. Ông chăm chú lắng nghe, liệu có phải đó là tiếng còi hụ của xe chữa cháy? Liệu có ai báo cảnh sát chưa?

Ông không kịp tìm ra câu trả lời bởi vì một cú đánh mạnh từ phía sau gáy hạ ông gục xuống sàn. Roger Seagraves bước vòng qua thân thể bất động của Reuben và tiến về phía cửa sổ nhìn sang nhà Behan, nơi hắn có thể chắc mẩm như in, dù không hề nhìn qua ống nhòm thì cô gái xinh đẹp kia đã trút bỏ toàn bộ xiêm y, và đang ở trước mặt anh chàng cực kỳ hạnh phúc mang tên Cornelius Behan.

Và đó cũng chẳng phải là điều cuối cùng.

Khi Reuben tỉnh lại, mở mắt ra, ông không nhận biết mình đang ở đâu. Ông chậm rãi ngồi dậy và căn phòng hiện ra rõ hơn, ông vẫn còn trên gác. Ông run rẩy đứng dậy và lần nhớ lại chuyện gì đã xảy ra. Ông vớ lấy một tấm ván nằm trên sàn làm vũ khí và ông đảo mắt xung quanh gác, nhưng không thấy ai khác. Reuben hoàn toàn ở một mình, nhưng chắc hẳn có kẻ nào đó đã ở trong phòng này, và đã dùng sức mạnh đánh ông bất tỉnh.

Tiếng động phía dưới đường làm ông quan tâm. Ông nhìn xuống cửa sổ, và thấy hàng đoàn xe cứu hỏa đang xếp hàng, chữa cháy cho căn nhà phía đối diện, và cả xe cảnh sát cũng có mặt tại hiện trường.

Vội xoa xoa đầu vì ê ẩm, ông liếc nhìn hướng nhà của Behan. Tất cả đèn đã bật sáng, và việc cảnh sát đang tràn ngập trong nhà hắn làm Reuben cảm thấy bồn chồn. Ông đi đi lại lại trong phòng và rồi lại quan sát qua ống nhòm. Đèn phòng ngủ vẫn sáng, chỉ có điều là không khí và khung cảnh hoàn toàn khác mà thôi.

Tên Cornelius Behan đang nằm úp mặt trên sàn, trên người vẫn là bộ quần áo lúc trước. Tóc của gã đỏ sậm hơn lúc nãy vì một lỗ hỗng khá lớn sau đỉnh đầu. Cô gái đang ngồi trên giường, và theo như những gì Reuben có thể quan sát được, cô ta cũng loang lổ máu me đầy người, có vẻ như cô ta cũng bị sát hại ngay ở phần đầu. Cảnh sát mặc sắc phục và một số nhân vật khác đang khám nghiệm trong phòng. Mình đã bất tỉnh bao lâu rồi? Ông bắt đầu kết nối sự kiện lại với nhau. Ông nhìn thấy hai lỗ đạn trong cửa sổ phòng ngủ và hướng thẳng vào cửa sổ phòng ông đang đứng. “Chết tiệt thật!”, Reuben thốt lên và chạy về phía cửa, ông vấp phải cái gì đó và ngã lăn ra sàn. Ông vươn tay với vội thứ gì đó và chạm tay vào một thứ. Khi hoàn hồn đứng dậy, ông thấy mình đang nắm chặt một khẩu súng trường, hung khí chắc chắn đã gây ra cái chết cho hai nạn nhân bên kia. Ông lập tức buông súng, và bước vội ra khỏi phòng, khi đi ngang qua nhà bếp, ông chợt thấy phần thức ăn thừa vẫn dang dở và ông nhận ra rằng có thể dấu vân tay mình vẫn ở khắp mọi nơi. Có điều là ông không còn thời gian để suy nghĩ về vấn đề này nữa, ông hướng về phía cửa sau của căn nhà. Ánh sáng chói nhòa ngay mặt ông, khiến ông phải đưa tay che mặt và giọng của viên cảnh sát vang lên, “Đứng yên, cảnh sát đây!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Tôi đã tìm cho anh ấy một người luật sư đấy”, Caleb mở lời, “Anh chàng này cũng còn trẻ mà lại không đắt tiền như những tay lão luyện khác, nên cũng không chắc kết quả có khả quan không. Nhưng phần nào đó tôi cũng giúp cho Reuben khi nói dối với đám cảnh sát rằng Reuben ở tại hiện trường theo yêu cầu của tôi, để kiểm kê số sách thu thập và đó là lý do anh ta có chìa khóa và mã số mở cửa. Tôi cũng bổ sung thông tin tên tuổi của luật sư của Jonathan trong trường hợp họ biết chức danh của tôi là người phụ trách bản thảo của ông ta”.

Milton và Caleb đang ngồi trong nhà của Stone, cái tin Reuben bị bắt vì phạm tội giết hại Cornelius và cô ả bạn gái của gã đã làm khuôn mặt mọi người lo lắng.

“Anh ta có được tại ngoại không?”, Milton hỏi.

Stone lắc đầu, “Họ có rất nhiều nghi vấn xung quanh việc anh ta đang có mặt tại hiện trường cũng như tình tiết vụ việc. Chỉ hy vọng thông tin mà Caleb đưa ra sẽ giúp họ giảm nhẹ mức án mà thôi”.

Caleb nói thêm, “Sáng nay tôi có gặp Reuben một lúc. Anh ta kể rằng anh ta đang quan sát nhà của Behan thì tự nhiên phát giác ra đám cháy và sau đó bị đánh vào đầu bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, anh thấy Behan và bạn tình của hắn đã chết. Rồi khi anh ta ráng thoát ra khỏi rắc rối thì lại bị cảnh sát bắt”.

“Những tờ báo đưa dòng tít lớn rằng ngài tài phiệt của chúng ta đã bị ám hại chung với cô nhân tình lõa thể, trong khi quý phu nhân thì lại đang chu du ở New York tối qua”, Milton thêm vào.

Stone hỏi, “Chúng ta cần phải tìm ra sát thủ thật sự”.

Milton thắc mắc, “Liệu bằng cách nào đây?”

“Bằng cách tiếp tục cuộc điều tra của mình”. Ông nhìn thẳng Caleb và tiếp, “Chúng ta cần phải xem qua những đoạn băng của máy quay phim tại thư viện”.

“Susan có bảo sẽ hỗ trợ tôi phần này mà tới giờ cũng chưa thấy cô ấy có động tĩnh gì”.

“Tôi e là anh phải tự thân vận động thôi”.

Caleb có vẻ ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi lại Stone. Stone tiếp tục trình bày, “ Vậy là bây giờ chúng ta cứ kết luận rằng Behan và Bradley không phải là bạn, lúc trước tôi từng nghĩ rằng Behan đã nhờ người ám sát Bradley, và giả thuyết đó vẫn đúng, chỉ có điều là ai đã giết Behan và tại sao lại làm vậy?”

Milton đặt giả thuyết, “Hay là trả thù cho cái chết của Bradley?”

“Nếu vậy, chúng ta phải truy tìm đầu mối bằng mọi cách, tôi cần biết về tên tuổi nhân viên của Bradley, cộng sự, bạn bè trong quân đội hay lĩnh vực tình báo, đó là những người có khả năng và cả phương tiện để hành động”.

Milton tán thành, “Có một thứ gọi là Thư mục không trúng cử có thể hữu ích cho chuyện này. Có điều đụng đến người quân đội, hay tình báo cũng mất khá nhiều thời gian đấy”.

“Kẻ nào đã giết hại Behan chắc chắn biết đến sự có mặt của Reuben ở đó, và gài bẫy anh ta, đồng nghĩa với việc chúng cũng đang theo dõi căn nhà”.

“Ý anh là những kẻ ở căn nhà đối diện mà Reuben đề cập phải không?”, Caleb đánh bạo nêu ý kiến.

Stone lắc đầu phủ nhận, “Không phải vậy. Vụ hỏa hoạn sẽ do đồng bọn của tên sát thủ dựng ra, bọn chúng thừa biết vụ theo dõi đang diễn biến ra sao, và việc phóng hỏa chỉ là chiêu đánh lừa và tạo cơ hội cho chúng vào nhà, giết Behan và tẩu thoát”.

“Kế hoạch hay nhỉ”, Caleb ca tụng.

Stone trả lời, “Bây giờ tôi vào thành phố thăm Reuben đây”.

“Họ có hỏi căn cước hay gì không, Oliver?”, Milton hỏi.

“Họ có hỏi, nhưng lần trước khi tôi bị kiểm tra, cho dù không có cũng không gán là có tội”.

“Tôi tin là Susan có thể tìm cho anh một thẻ căn cước đấy”, Milton lên tiếng, “Cô ta có vài thứ đồ của dân FBI nhìn cứ như thật”.

Caleb hùa theo, “Mà cô bạn đồng nghiệp gan dạ của chúng ta đâu rồi nhỉ?”

“Cô ấy có vài kế hoạch khác rồi”, Stone trả lời.

Jerry Bagger ngồi trong phòng làm việc với vẻ ủ rũ thất bại hiếm có đối với một người như hắn. Những tấm hình của Annabelle và Leo đã được thận trọng gửi đi vào thế giới ngầm và tới giờ vẫn chưa có ai nói ra được hành tung của họ. Điều đáng ngạc nhiên ở đây không phải là chuyện không có một bức hình rõ ràng nào của hai kẻ đó, mà là việc có cảm giác họ biết chỗ nào có gắn máy theo dõi vậy. Hiện tại, cho dù người của hắn đã làm hết sức để ngăn chặn thông tin những tên lừa bịp đã tìm đến ngài Bagger đáng kính thì nó vẫn ít nhiều bị lộ ra, và điều đó có khi lại càng gây bất lợi hơn cả sự thật, bởi vì nó tạo điều kiện cho suy đoán và lời đồn nhảm. Tóm lại, hắn hiện là tâm điểm của những lời đùa cợt, và việc đó chỉ khiến gã thêm điên tiết, quyết tâm phải tìm được cặp nam nữ kia, xẻ thịt họ qua máy cưa trong lúc hắn điềm nhiên ngồi quay hình lại cảnh tượng rùng rợn nhất trên đời này.

Phòng của họ đã bị lục soát kỹ lưỡng, tuy vậy không tài nào tìm ra một vết vân tay nhỏ, thậm chí ngay cả ly uống nước của họ cũng được lau sạch dấu vết. Còn cái điện thoại di động mà Annabelle ném bay vào tường đã nằm gọn trong sọt rác và bây giờ đang chu du đến khu đổ rác nào đó của bang Jersey cả cái cửa sổ trong bốn ngày cũng che dấu hành tung của họ. Bagger vò đầu, hắn chính là kẻ đã quyết định tăng thêm thời gian, và cũng chính hắn đã tự đưa mình vào tròng.

Con quỷ cái đó đã lên hết những kế hoạch như vậy, nó đưa cho mình cái thòng lọng, còn mình tự xiết dây.

Hắn đứng dậy và tiến về phía cửa sổ. Hắn luôn tự hào mình là kẻ đánh hơi ra những mưu mô như vậy trước khi có kẻ thực hiện nó và gây hại cho hắn. Nhưng hắn phải tự nhận đây là lần đầu tiên chính hắn là đối tượng của vụ lừa gạt, trong khi tất cả những lần khác đối tượng lại là sòng bạc của hắn. Đó chỉ là những mưu mô ngắn hạn, nhằm lừa tiền từ những bàn xì-phé, ru-lét của hắn mà thôi. Lần này thì khác, chỉ huy vụ bịp lần này là một phụ nữ biết chính xác muốn gì, và sử dụng tất cả những mánh khóe mà ả có, ngay cả cái thứ xưa như trái đất là tình dục.

Nhưng hắn phải công nhận ả nhập vai rất tốt, hắn vẫn còn nhớ như in những câu chuyện ả bịa ra, việc ả ngắt và mở hệ thống nghe trộm đúng lúc, ngay cả việc ả đã làm cho hắn tin tưởng ả là gián điệp chuyên nghiệp làm việc cho chính phủ. Chính những tiểu tiết như vậy đã góp phần làm cho hắn tin cả câu chuyện bịa to lớn hơn đằng sau.

Hắn liếc ra ngoài cửa sổ, trí óc liên tưởng đến cú điện thoại, cái cú điện thoại hẹn gặp gã sau khi cô ả giả vờ khám phá ra đám cận vệ của hắn đang bám theo. Hắn đã nói dối ả rằng hắn đã ra rời văn phòng, trên đường ra khỏi thành phố, còn ả thẳng thừng chỉ rõ hắn đang ở trong chính văn phòng. Chính từ lời nhận xét đó đã làm cho hắn tin tưởng ả hơn, rằng đám người nào đó đang theo dõi hắn. Theo dõi ư?

Hắn nhìn vào cái khách sạn cao hai mươi ba tầng trên đường Boardwalk, tương tự như tòa nhà của hắn, nơi dãy cửa sổ trông thẳng qua văn phòng của hắn. Đồ khốn nạn! Thế là đủ rồi! Hắn gào lên với tên vệ sĩ.

Sau vài thứ thủ tục, chất vấn phiền hà và cả cú điện thoại cho luật sư của Reuben, cuối cùng Oliver cũng được vào thăm bạn trong tù. Khi cánh cửa nhà tù đóng lại phía sau lưng ông, Stone hơi giật mình. Trước đây, dù gì ông cũng từng ở tù, cho dù không phải là nhà tù Mỹ. Không, cũng không hẳn, ông tự bào chữa, vì lần chất vấn gần đây nhất của ông là do những người Mỹ đồng hương thực hiện ngay chính trên đất Mỹ mà.

Cho rằng căn phòng thăm thân nhân được theo dõi chặt chẽ, Stone và Reuben nói nhỏ vừa đủ nghe, và chỉ sử dụng những từ ngữ vừa đủ, thậm chí Stone cũng bắt đầu gõ nhịp chân xuống sàn.

Reuben suy đoán, “Anh cho rằng âm thanh có thể làm rối thiết bị nghe trộm điện tử à?”

“Cũng không hẳn thế, nhưng điều đó làm tôi thấy thoải mái hơn”.

Reuben mỉm cười và cũng bắt đầu nhịp chân, “Vụ hỏa hoạn?”, ông thì thầm.

“Vâng, tôi biết”, Stone trấn an, “Anh ổn chứ?”

“Chỉ bị một cú vào đầu, luật sư của tôi sẽ xem đó là một lời biện hộ cho vụ này”.

“Thế còn dấu vân tay trên súng thì sao?”

“Không cố ý chạm phải”.

“Caleb có lý giải với đám cảnh sát rằng anh đang ở đó canh sách thôi”, Reuben gật đầu, “Còn gì khác không?”

Reuben lắc đầu, “Tôi chỉ quan tâm tới vụ điều tra của chúng ta, mà thấy sự việc có vẻ lắng xuống”.

“Vẫn đang tiến triển, tình hình là vậy”.

“Giữ liên lạc với nhau phải không?”

Stone gật nhẹ, “Anh còn cần gì thêm không?”

“Có, phải chi có Johnnie Cochran1 ở đây. Nhưng đáng tiếc là ông ta lại đang trong phòng xử án trên trời rồi”. Ông ngừng lại một chút, “Thế còn Susan thì sao?”

Stone ngần ngừ, “Cô ấy bận rồi”.

Khi Stone rời chỗ đó, ông thấy có hai người đàn ông, chắc hẳn là nhân viên cảnh sát, đang theo dõi từ một vị trí cố định. “Anh sẽ cho mấy chú em tung tăng một lúc”, ông lẩm bẩm và trong đầu hình dung ra người kế tiếp ông cần gặp.

Chú thích

1.Johnnie Cochran - luật sư nổi tiếng của Mỹ (mất vào tháng 3 năm 2005 vì u não, thọ 67 tuổi).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Roger Seagraves đọc tin trên mạng trong giờ làm việc, kẻ bị tình nghi là hung thủ đã được nhận dạng là Reuben Rhodes, có tật xấu là nghiện rượu, từng phục vụ trong quân đội và Cơ quan Tình báo Quốc phòng, là người đốt sạch nhiều cây cầu trong những năm còn đương chức. Hiện kẻ tình nghi này đang làm việc ở một kho bốc dỡ hàng tại thủ đô Washington và sống ẩn dật trong một căn nhà tồi tàn ở ngoại ô phía bắc bang Virginia. Tờ báo còn cố ý nhấn mạnh rằng, hung thủ là một tay chế tạo mìn hẹn giờ tài tình, và chính người này, với sự chán ghét chiến tranh đã từng thủ tiêu một tay chuyên làm giàu bằng cách cung cấp thứ vũ khí chết người cho những nơi cần chúng để tạo ra chiến tranh. Câu chuyện hay đến đáng ngờ.

Khi Seagraves nhìn thấy gã đàn ông to lớn bước vào nhà từ cánh cửa sau, hắn không biết phải xử lý thế nào. Liệu đó có phải là kẻ trộm, nhưng rõ ràng là chuông báo động không vang lên, và sáng sớm hôm sau, gã ra khỏi nhà tay không. Đêm hôm sau nữa, Seagraves đã tìm ra một cơ hội vàng để tạo ra vở kịch hay cho đám cảnh sát.

Hắn đã dành thời gian cho chính phủ, và tốn giờ cho liên bang, và bây giờ là lúc dành riêng cho hắn, hắn cần phải nhận một chút gì đó. Tuy hành động này chẳng có vẻ gì là thư giãn như với cô nàng ở Cơ quan An ninh Quốc gia, nhưng mà công việc thì phải có lúc này lúc khác. Điều quan trọng là phải giữ cho những mối làm ăn với hắn vui vẻ và theo guồng, đồng thời không bị nghi ngờ. Cũng may, nhờ vào vị trí của mình ở CIA, hắn có thể được tiết lộ vài thông tin quan trọng về những cuộc điều tra dành cho đám nhân viên tình báo nội bộ. Hơn thế, FBI có nhúng tay và giữ nhiều trọng trách quan trọng đi nữa, với mối quan hệ của mình, hắn có thể tìm hiểu xem kẻ nào được hân hạnh “trong danh sách tình nghi”.

Tài năng của hắn đã được chứng minh qua việc mũi tên tình nghi không bao giờ chĩa về hắn cả. Có vẻ như CIA không thể tin rằng một trong những tay ám sát kỳ cựu như hắn lại giở trò. Liệu chúng có ngây thơ nghĩ về điều đó một cách giản đơn như vậy? Nếu sự thật là thế, hắn thật sợ cho một viễn cảnh an ninh quốc gia suy yếu chỉ vì những kẻ cầm đầu đám tình báo lại dễ bị xỏ mũi đến vậy. Nhưng cũng còn tên Alderich Ames là bằng chứng được phanh phui đấy chứ, có điều Seagraves này khôn ngoan hơn gã đó nhiều lắm.

Seagraves nhận lệnh giết người từ chính phủ, do vậy, nguyên tắc cam kết, trong ngữ cảnh này pháp luật và mệnh lệnh không được áp dụng với hắn. Hắn giống như một vận động viên chuyên nghiệp, khéo léo xử lý tình huống khi làm chủ được sàn đấu. Những tay như vậy bộc lộ những nét hấp dẫn khán giả ngay trên sân thi đấu, và cũng chính những tính cách đặc trưng ấy làm họ trở nên nguy hiểm hơn. Nếu như Seagraves có thể không bị vướng vào những vụ giết người bao năm qua, thì hắn tin rằng không có gì mà hắn không thể làm cả. Thậm chí cho dù hắn có xem sát thủ là nghề của mình, hắn cũng không muốn làm việc cho ai cả. Hắn tự thân vận động, cho dù là ở Trung Đông hay Viễn Đông, hay bất cứ nơi nào người ta muốn hắn đến và kết liễu đời kẻ nào đó. Hắn vẫn là kẻ thích một mình, đã được chứng nhận về tâm lý, và đó cũng là lý do ngay từ đầu hắn được đào tạo làm tay sát thủ.

Hắn đánh xe đến một khu thể thao tại McLean, bang Virginia, cách đầu não của CIA một đoạn không xa, chạy theo đường Chain Bridge. Hôm nay hắn sẽ chơi quần vợt với tay trưởng ban, một gã lúc nào cũng tự phụ về lòng yêu nước, yêu công việc và cả cú sở trường đánh xoáy bóng bằng tay trái.

Họ hòa nhau trong hai ván đầu, và Seagraves phải đấu tranh với bản thân xem liệu có nên cho ông sếp của mình thắng ván thứ ba hay không. Nhưng cuối cùng, tinh thần thể thao không nhân nhượng của hắn đã chiến thắng dù hắn cũng giả bộ sắp thua tới nơi. Dẫu sao thì hắn cũng trẻ hơn ông ta mười lăm tuổi mà.

“Tôi thua rồi, Roger”, gã sếp than thở.

“Có lẽ tối nay tôi chơi hăng thôi, nhưng mà cũng chẳng phải dễ dàng gì đâu, nếu chúng ta trạc tuổi nhau, chắc gì tôi có thể đánh bại ông”.

Theo đánh giá của người sếp, hắn là một tay đã trụ vững ở tổng hành dinh của CIA tại Langley, Virginia trong một thời gian dài, và sự đối mặt với nguy hiểm bao nhiêu lại càng khiến hắn thích thú bấy nhiêu. Tay sếp này biết rất ít về những hoạt động trong quá khứ của hắn cho Cục, vì rõ ràng câu lạc bộ ba số sáu của hắn được bưng bít thông tin gần như tuyệt đối, điều dễ hiểu thôi. Tuy vậy, gã lại biết rất rõ việc Seagraves đã làm việc nhiều năm cho lĩnh vực tình báo, và được Cục cho leo lên hàng “đỉnh”. Cũng vì những lý do đó, Seagraves nhận được nhiều sự kính trọng hơn mấy tay ngang hàng với hắn.

Trở lại khu giữ đồ, trong lúc đợi tay sếp tắm táp, Seagraves mở hộc tủ và lấy khăn tắm ra. Hắn lau mặt và lau khô tóc. Rồi cả hai cùng lái xe đến trung tâm Reston và dùng bữa tối tại nhà hàng Clyde, cùng ngồi thưởng thức các món ngon gần lò sưởi trong không khí ấm cúng của nhà hàng. Sau đó, cả hai tạm biệt nhau, và mỗi người đi mỗi ngả. Seagraves đợi tay sếp lái xe chạy đi, rồi thong dong tản bộ xuống khu đường chính của trung tâm, hắn dừng trước một rạp hát.

Rạp hát, công viên và những nơi công cộng đại loại như vậy là nơi cung cấp tài liệu và nhận tiền của đám tình báo trước đây. Seagraves có thể hình dung ra cảnh trao tay một gói bắp rang, mà bên trong chắc chắn chứa những thứ quan trọng hơn chỉ là bơ, tuy tế nhị, nhưng hoạt động tình báo kiểu vậy có vẻ vụng về. Rõ ràng là hắn đã thực hiện việc trao đổi với tay trưởng ban mà chắc hẳn kẻ nào cho dù có quan sát cũng không nhìn ra được. Đám CIA hầu như chưa bao giờ thực hiện những màn theo dõi hai nhân viên gặp gỡ, đặc biệt là chơi vài ván quần vợt và ăn tối với nhau. Khái niệm về những tay đặc vụ truyền thống cho rằng đó là hành động một mình, nên đó cũng là lý do hắn mời tay sếp ngây thơ làm tấm bình phong cho mình.

Hắn lái xe về nhà, cầm chiếc khăn tắm mang theo từ tủ đồ, bước vào một gian phòng nhỏ ở tầng hầm, ẩn sau vách tường ngụy trang. Đó là một dạng “két sắt” của hắn, nơi không ai được phép dòm ngó. Hắn để khăn tắm lên bàn và với tay lấy chiếc bàn ủi hơi nước. Biểu tượng của trung tâm thể thao được may thẳng vào bề mặt khăn, có điều nếu khăn này là khăn của khu trung tâm đó. Bản sao cũng tạm chấp nhận, có điều cái lô-gô chỉ dính hờ lên trên nền vải, kiểu mấy miếng dán được là lên quần áo của trẻ nhỏ. Miếng lô-gô nhanh chóng bị tróc ra và mặt sau của nó là thứ mà Seagraves phải trầy trật đổ mồ hôi sau 3 ván quần vợt mới có được: đoạn băng ghi âm dài đúng 4 inch.

Sử dụng một dụng cụ phóng đại khá tinh vi, mà chỉ có những người giữ chức vụ quan trọng mới được sở hữu, hắn bắt đầu đọc và giải mã thông tin trên đoạn băng ghi âm. Sau đó hắn lại mật mã hóa đoạn băng, sắp xếp thành hình thức thích hợp và gửi cho Albert Trent. Hắn mày mò làm đến tận khuya, nhưng có hề gì, khi đóng vai là sát thủ, hắn thường phải làm việc lúc khuya như vậy, và những thói quen cũ khó mà bỏ được.

Hắn còn một việc nữa để làm trước khi ngày kết thúc. Hắn đến ngăn tủ đặc biệt của mình, mở khóa, tắt hệ thống bảo vệ và bước vào trong. Mỗi ngày hắn đến đây một lần để nhìn bộ sưu tập của mình. Tối nay, hắn đã tìm thêm một thứ nữa, dù hắn thấy hơi bực mình khi chỉ có một cái, đáng lý phải là một cặp. Hắn lôi thứ đó ra khỏi túi áo khoác. Đó là khuy áo măng-sét của Cornelius Behan mà một cộng sự của hắn hiện đang làm việc cho Công ty Cứu hỏa đã đưa cho hắn. Chắc là Behan đã làm rơi nó khi đi thăm khu nhà kho, một cuộc viếng thăm đã dẫn đến cái chết của hắn. Behan đã có thể phần nào đoán ra cái chết của Jonathan và hắn không được phép tiết lộ thông tin cho bất cứ ai.

Seagraves đặt khuy áo măng-sét lên một cái kệ nhỏ trong phòng cạnh một cái yếm của trẻ em. Hắn vẫn chưa có thứ gì của cô gái hắn đã bắn, nhưng hắn sẽ tìm ra được tông tích của cô ta và lấy thứ gì đó. Hắn đã bắn Behan đầu tiên, gã nằm quỵ xuống sàn, và chừa một khoảng trống để hắn dễ xử lý luôn cô ả. Hắn vẫn còn nhớ rõ lúc đó, cô ả vẫn đang quỳ gần cửa sổ và nhìn ra phía viên đạn đầu tiên được bắn ra. Seagraves không biết liệu cô ả có thấy hắn hay không, nhưng điều đó không quan trọng nữa. Hắn cũng chẳng cho ả có cơ hội rên la, vì viên đạn bay thẳng vào khuôn mặt xinh đẹp của ả. Đám tang với quan tài đậy kín sẽ dành cho cả hai vì vết thương ra lúc nào cũng nặng hơn vết thương vào cả.

Khi hắn nhìn đến khoảng trống kế bên cái khuy măng-sét, hắn tự hứa với lòng sẽ tìm cho ra một vật của ả ta và như vậy bộ sưu tập của hắn sẽ luôn được cập nhật mới hoàn toàn. Và hắn thích thế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


Phải mất một ít sức lực Stone mới cắt được hai cái đuôi theo sau. Sau đó, ông lập tức vào trong một ngôi nhà bỏ hoang, ông gọi đó là nơi ẩn nấp an toàn, ông thay đổi trang phục và quay trở lại phố Good Fellow. Ông đi ngang qua nhà của DeHaven rồi đến nhà của Behan. Đám phóng viên đã đứng lố nhố phía bên ngoài chờ đợi sự xuất hiện của người góa phụ xấu số và bị qua mặt. Căn nhà bị hỏa hoạn phía đối diện đường lần trước vẫn hoang tàn.

Từ góc đường ông giả vờ dừng lại xem bản đồ và bí mật quan sát ngôi nhà của Behan thì một chiếc xe tải chở đồ đạc dừng trước cửa nhà, có hai gã lực lưỡng bước xuống xe. Một cô hầu gái bước ra mở cửa và cả đám phóng viên nhộn nhạo hẳn lên. Đám thợ vào trong nhà, vài phút sau họ khệ nệ khiêng ra một rương gỗ lớn. Rõ ràng đám thợ rất khoẻ nhưng cũng phải dùng hết sức bình sinh để khiêng cái rương, và cũng như đám phóng viên, Stone có chung ý nghĩ: Bà quả phụ đang nấp trong rương để thoát khỏi đám phóng viên. Thế nào đó cũng lại là một tin sốt dẻo cho mà xem!

Một vài tiếng chuông điện thoại reo vang, và đám phóng viên nhảy vào xe, theo đuôi chiếc xe tải. Hai chiếc xe hơi đang bám trụ tại phía sau nhà xuất hiện và chạy theo. Tuy nhiên, còn vài tay phóng viên ở lại, có lẽ họ cũng cảm nhận được chút mánh khóe gì đó. Họ giả vờ như chạy theo về phía cuối đường, nhưng lại đậu xe ở một góc khuất nào đó và tiếp tục quan sát. Một phút sau, cửa trước nhà mở toang, và lần này một phụ nữ trong trang phục người làm xuất hiện cùng chiếc mũ rộng vành. Người phụ nữ leo lên một chiếc xe đậu sẵn phía trước sân và lái đi.

Stone lại cảm nhận ý nghĩ hiện tại của đám phóng viên còn lại, theo đó chiếc xe tải chở hàng chỉ là kế ngụy trang, và bà quả phụ hóa trang thành cô hầu gái. Lần này những tay phóng viên còn lại chạy theo chiếc xe của cô người hầu. Có sự tham gia của hai chiếc xe khác từ góc đường kế bên, hòa chung sự nhộn nhịp của những người cùng ngành.

Stone nhanh chóng đi vòng ra cuối góc phố và đến dãy nhà kế tiếp, tiếp giáp với phía hông sau nhà của Behan. Ở đó có một hẻm nhỏ, ông kiên nhẫn đợi tại bờ tường rào khu đó. Ông chẳng phải đợi lâu vì vài phút sau, một phụ nữ trong trang phục quần tây, áo khoác đen dài và đội mũ rộng vành lụp xụp xuất hiện. Đó chính là Marilyn Behan, vợ của người quá cố. Khi đi đến cuối hẻm, bà ta dừng lại và nhìn xung quanh.

Lúc này, Stone bước ra khỏi bờ tường và cất tiếng, “Bà có phải là bà Behan không ạ?”

Bà ta giật mình và nhìn ông.

“Anh là ai? Lại là tay phóng viên dai như đỉa nữa chứ gì?”

“Không, tôi là bạn của Caleb Shaw, người hiện đang làm việc tại Thư viện Quốc hội. Chúng ta từng gặp nhau tại đám tang của Jonathan DeHaven”.

Bà ta có vẻ đang lục lọi trí nhớ, với thái độ của bà ta, có vẻ như bà ta đang say, dù không thấy mùi rượu trong hơi thở. Liệu có phải do bà ta say thuốc không?

“Ah, tôi nhớ rồi. Tôi còn nhớ mình đã đưa ra lời châm biếm về cách hiểu của CB về đột tử nữa kìa”. Bà ta thình lình ho khan và lúi húi lôi ra một mảnh khăn giấy trong giỏ.

“Tôi xin chia buồn cùng bà”, Stone thành khẩn, dù hy vọng bà ta sẽ không nhớ ra chuyện Reuben, kẻ đã bị buộc tội giết chồng bà ta, cũng nằm trong nhóm của họ.

“Cám ơn anh”, đoạn bà ta nhìn về phía cuối hẻm và nói tiếp, “Tôi nghĩ đứng đây có vẻ hơi kỳ nhỉ”.

“Tôi có nhìn thấy đám phóng viên thưa bà. Tôi hiểu đây quả là một giai đoạn khó khăn của bà, nhưng bà đã lừa được họ. Điều này chẳng dễ chút nào cả”.

“Nếu anh lấy một tay giàu có, người lúc nào cũng là tâm điểm của sự chú ý, chắc hẳn anh sẽ biết cách đánh lừa giới báo chí mà”.

“Tôi có thể nói chuyện với bà một chút không? Hay dùng một cốc cà phê nhé”.

Bà ta bối rối, “Tôi không biết nữa, lúc này quả là khó khăn”. Mặt bà ta đanh lại, “Tôi lại vừa mất chồng, mẹ kiếp!”

Giọng Stone vẫn thản nhiên, “Việc này có liên quan đến cái chết của chồng bà đấy. Tôi muốn hỏi bà về những gì ông ta đã nói tại đám tang”.

Bà ta đột ngột ngưng lại, giọng cảnh giác. “Anh biết về cái chết của chồng tôi à?”

“Cũng không hẳn là nhiều, có điều tôi nghĩ nó phần nào liên quan đến cái chết của Jonathan, cũng có vẻ mờ ám, và cả hai người lại là hàng xóm, cả hai đều chết rất lạ”.

Đột nhiên bà ta tỉnh táo hẳn, “Anh cũng không nghĩ là Jonathan cũng chết vì bị nhồi máu cơ tim phải không?”

Cũng? “Bà Behan, bà có thể dành ra vài phút không, chuyện rất quan trọng đấy”.

Họ cùng ngồi nhấm nháp cà phê tại một nhà hàng nhỏ. Stone lên tiếng trước, “Chồng của bà có nhắc với bà vì cái chết của DeHaven à?”

Bà ta nhấp một ngụm cà phê, kéo mũ thấp xuống và nói nhỏ, “Tôi có thể khẳng định với anh rằng CB không nghĩ là anh ta bị đau tim mà chết đâu”.

“Sao lại không? Ông ta biết điều gì?”

“Tôi không rõ, anh ấy chẳng trực tiếp nói gì cho tôi biết cả”.

“Vậy làm sao bà biết ông ấy không tin?”

Marilyn Behan ngần ngừ, “Sao tôi lại phải cho ông biết chuyện này nhỉ?”

“Vậy để tôi thể hiện sự thành thật của mình, và hi vọng bà sẽ đáp trả”. Rồi ông kể cho bà ta nghe chuyện của Reuben và tại sao anh ta lại vào nhà tù dù Stone khéo léo không đề cập vụ ống nhòm. “Anh ta chẳng giết chồng của bà đâu, anh ta ở đó vì tôi bảo anh ta trông nom căn nhà thôi. Có nhiều chuyện lạ đang xảy ra gần đây ở khu vực này”.

“Giống như chuyện gì?”

“Giống như kẻ ở căn nhà đối diện”.

Giọng bà ta căng thẳng, “Tôi chẳng biết tí gì về điều này cả, mà CB cũng chẳng bao giờ nhắc chuyện này. Tôi biết rằng anh ấy luôn có cảm giác người ta theo dõi mình, giống như bọn FBI, lúc nào cũng dò xét bới móc công việc của anh ấy. Việc xấu có thể có, có thể không, nhưng anh ấy có nhiều kẻ thù”.

“Bà bảo rằng ông ta chẳng nói trực tiếp với bà về cái chết của Jonathan nhưng tại đám tang, có vẻ như ông ta muốn có sự chắc chắn rằng đó chính là vì nhồi máu cơ tim. Ông ta còn cho rằng có khi việc khám nghiệm tử thi cũng không chính xác”.

Bà ta đặt cốc cà phê xuống, bối rối đưa tay chùi vệt son dính trên miệng cốc. “Ngày nọ, tôi có loáng thoáng nghe một cuộc điện thoại của CB, tôi chẳng phải cố tình nghe trộm hay ra sao cả”, bà ta nhanh chóng phân bua, “chỉ là vì lúc đó tôi đang tìm một quyển sách và anh ấy cũng có mặt trong thư viện và gọi điện, còn cửa thì chỉ khép hờ”.

“Tôi nghĩ bà không cố tình”, Stone trấn an.

“Tôi nghe thấy anh ấy nói chuyện với ai đó, rằng DeHaven vừa kiểm tra tim mạch và mọi thứ đều bình thường. Anh ta còn tiết lộ thêm rằng, sau vài cuộc nói chuyện với đám cảnh sát ở D.C anh ta biết thêm kết quả khám nghiệm tử thi của DeHaven có khi chẳng làm người ta vui đâu. Có điều họ chẳng nói ra thôi. Giọng anh ta có vẻ lo lắng và anh ta muốn tự mình sẽ tìm ra sự thật”.

“Liệu ông ta có làm điều đó?”

“Tôi chẳng có thói quen hỏi xem anh ta sẽ đi đâu và làm gì, và anh ấy cũng lịch sự như vậy với tôi. Ý tôi là, nguyên nhân cái chết của anh ấy đã chứng thực sự lầm lạc của mình. Lúc đó, tôi bay sang New York hơi vội cho nên tôi cũng không biết liệu mình có nhạy cảm, vì ánh mắt của anh ấy lúc đó làm tôi phải hỏi anh ấy đi đâu và có chuyện gì không. Mà nói thật, tôi còn không biết anh ấy đang sở hữu cái công ty quỷ quái đó nữa”.

“Công ty à, công ty gì?”

“Công ty Cứu hoả, tôi nghĩ thế. Hay đại loại thế”.

“Vậy là ông ta đến công ty?”

“Vâng”

“Có nói cho bà biết tại sao không?”

“Chỉ nói sơ rằng anh ta muốn kiểm tra thứ gì đó. À, anh ấy có nói về thư viện, hay là cái nơi nào đó mà Jonathan đang làm việc đấy, cả chuyện công ty anh ấy ký kết hợp đồng với thư viện để lắp đặt hệ thống chữa cháy này nọ. Và chuyện anh ấy biết rằng có một số xilanh bị tráo, và nhận xét rằng có vẻ như có sự lộn xộn kiểm kê gì đó”.

“Bà biết rằng ông ấy đã tìm ra điều gì à?”

“Không, tôi đã nói rằng tôi đi New York mà. Anh ấy chẳng gọi báo tôi, mà lúc tôi gọi thì anh ấy chẳng nhắc đến, tôi quên béng”.

“Giọng ông ấy có bực bội khi bà hỏi không?”

“Không, cũng như thường lệ”, bà ta ngừng một chút. “À, tôi nhớ rồi, anh ấy bảo chắc phải kiểm tra lại hệ thống ống dẫn trong nhà, tôi đang nghĩ anh ta nói đùa”.

“Hệ thống ống dẫn à? Ông ta nói đến ống nào?”

“Tôi không rõ. Tôi nghĩ đó là hệ thống khí gas, có thể bị rò rỉ và dễ gây nổ”.

Trong đầu Stone liên tưởng đến những gì đã xảy ra với ngài Bob Bradley, Chủ tịch Hạ viện. Nhưng sau đó, nghĩ đến chuyện khác làm ông hỏi ngay.

“Bà Behan này, trong nhà bà có hệ thống phun nước chữa lửa không?”

“Không, không thể. Chúng tôi có một bộ sưu tập tranh khá lớn, và không dùng nước được. Nhưng CB cũng sợ hỏa hoạn lắm, cứ nhìn những gì xảy ra phía căn nhà đối diện là anh cũng hiểu. Anh ấy cho lắp đặt một hệ thống có thể dập tắt lửa mà không dùng nước đấy. Tôi chẳng biết nó hoạt động ra sao cả”.

“Tôi hiểu rồi”.

“Vậy là anh tin rằng kẻ nào đã giết Jonathan cũng sát hại CB luôn à?”

Stone gật đầu, “Tôi tin vậy. Và nếu tôi là bà, tôi sẽ đến ở chỗ khác, tránh xa chỗ này càng sớm càng tốt”.

Bà ta mở to mắt, “Anh nghĩ tôi đang gặp nguy hiểm ư?”

“E là vậy”.

“Vậy tôi sẽ quay về New York trong chiều nay”.

“Hoàn toàn là quyết định sáng suốt”.

“Tôi mong là cảnh sát sẽ cho phép, vì tôi phải trình hộ chiếu cho họ xem. Tôi cũng thuộc diện tình nghi nữa. Dẫu sao tôi cũng là vợ, tuy tôi có chứng cớ ngoại phạm hoàn toàn thuyết phục, nhưng biết đâu họ lại chẳng nghĩ tôi sẽ mướn người khác làm”.

Stone thẳng thắn, “Chuyện này đã từng xảy ra”.

Họ cùng im lặng trong vài giây, rồi bà ta tiếp, “Anh biết đấy, CB rất yêu tôi”.

“Tôi cũng nghĩ thế”, Stone lịch sự trả lời.

“Không đâu, tôi hiểu những gì anh đang nghĩ. Nhưng đúng là anh ấy yêu tôi, những phụ nữ khác chỉ là chơi qua đường, họ đến và đi. Tôi là người duy nhất cùng anh ấy làm lễ ở nhà thờ, anh ấy để lại cho tôi mọi thứ”.

Bà ta nhấp thêm một ngụm cà phê nữa rồi nói tiếp, “Anh biết không, một điều nghịch lý là anh ấy làm giàu bằng việc buôn bán vũ khí, nhưng bản thân CB lại ghét súng ống, và chẳng có lấy một khẩu ở nhà. Anh ấy xuất thân từ kỹ sư và rất giỏi, anh ấy lại làm việc rất siêng năng”. Bà ta ngưng một chút, “Anh ấy yêu tôi, bằng bản năng của người phụ nữ, tôi cảm nhận điều đó. Tôi cũng rất yêu anh ấy, cho dù anh ấy phạm nhiều sai lầm. Tôi mãi vẫn không tin được anh ấy đã ra đi, và một phần tâm hồn tôi cũng chết theo anh ấy”. Bà ta lau vội nước mắt.

“Thưa bà Behan, tại sao bà lại nói dối tôi”.

“Sao cơ ạ?”

“Bà đã nói dối tôi? Bà vẫn không biết tôi là ai, sao lại nói dối?”

“Anh đang nói cái quái gì vậy? Tôi không nói dối. Tôi rất yêu anh ấy”.

“Nếu bà thật sự yêu ông ta thì bà đâu có thuê thám tử tư theo dõi ông ta từ căn nhà đối diện. Liệu hắn có phải là người chụp mấy tấm hình của những cô nàng trẻ trung hay ra vào nhà bà?”

“Sao anh dám nói vậy! Tôi chẳng có liên quan gì việc này cả. Biết đâu đó là người của FBI đang theo dõi CB”.

“Không đâu, đám nhân viên FBI đủ khôn ngoan để lập thành trạm ở đó, ít nhất cũng có một nam một nữ, và sẽ sống như gia đình bình thường ở đó. Họ cũng biết cách hòa nhập cuộc sống, như bỏ rác, và những công việc lặt vặt thường ngày, mà chẳng để cho ai phát hiện ra họ cả. Mà tại sao FBI lại phải quan sát nhà của bà nhỉ? Liệu họ có tin vào một lý lẽ kém thuyết phục rằng chồng bà sẽ gặp gỡ vài tên đồng bọn ở đó? FBI cũng không hẳn là có nhiều kinh phí để bám tại những nơi cần canh giữ, mặc cho chúng đáng ngờ cỡ nào”. Ông lắc đầu, “Tôi hy vọng bà không trả cho công ty đó nhiều tiền, vì họ chẳng được việc tí nào”.

Bà ta nhổm người dậy và nói to, “Đồ chết tiệt!”

“Bà đã nên ly dị ông ta, rồi ôm nửa gia tài, trở thành một phụ nữ tự do”.

“Sau khi hắn đã bôi nhọ tôi như thế ư? Kéo cả ổ điếm vào nhà của tôi? Tôi muốn hắn phải trả giá. Anh nói đúng: tôi đã thuê thám tử tư và sắp đặt cho anh ta trong căn nhà đó. Vậy thì sao nào? Ngay cả hình của lão chồng tôi và đám quỷ cái đó nữa? Với những thứ đó, tôi bắt lão phải trả bằng máu và ép lão phải đưa mọi thứ cho tôi. Nếu không, mọi thứ sẽ bị phanh phui hết, rõ ràng chính quyền liên bang không thích chuyện những nhà thầu tiến hành thỏa hiệp. Còn lão CB lại có rất nhiều cái gọi là sự dàn xếp tối mật. Lão sẽ chẳng làm ăn suôn sẻ nếu như chính phủ biết lão đang có âm mưu bất chính và bị đe dọa tống tiền. Sau khi hắn đã ký nhận sẽ chuyển mọi thứ cho tôi, tôi sẽ bỏ rơi lão. Lão không phải là người duy nhất lăng nhăng, tôi cũng có, và tôi sẽ chọn người mình tin tưởng cho bản thân để cùng sống chung. Nhưng giờ thì tôi có mọi thứ mà không cần phải tống tiền. Quả là một sự trả thù hoàn hảo”.

“Bà nên hạ giọng một chút, vì như bà cũng có nói, cảnh sát vẫn nghĩ bà trong diện tình nghi. Và cũng không nên làm tăng thêm sự nghi ngờ đó”.

Marilyn Behan nhìn xung quanh, mọi ánh mắt đang đổ dồn về phía bà ta. Bà tái mặt và ngồi xuống ghế.

Giờ thì đến lượt Stone đứng dậy, “Cám ơn vì đã dành thời gian cho tôi. Thông tin của bà thật hữu ích”. Và ông nghiêm mặt, “Một lần nữa chia buồn vì sự mất mát của bà”.

Giọng bà ta rít lên, “Hãy xuống địa ngục đi”.

“Nếu là tôi, tôi chắc rằng mình sẽ không đi một mình đâu”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Annabelle đang ngồi đợi chuyến bay nối tiếp chở cô ta ra khỏi bang Atlanta. Khi quan sát chặng đi mới của mình, cô ta chợt liên tưởng đến hành động ngu ngốc của Leo. Sao mà anh ta có thể làm điều đó nhỉ? Nếu cô ta muốn nói cho Freddy biết cô ta là ai, cô ta đã tự làm điều đó rồi.

Người phát thanh đã đọc tên chuyến bay, nhưng cô ta nán lại đợi dòng người xếp hàng trước. Dù cô ta đáp chuyến bay hạng nhất, và hoàn toàn có thể là người lên đầu tiên, nhưng theo thói quen, cô ta vẫn thích nhìn đám hành khách sẽ đi chung. Khi hàng người mỗi lúc một thưa đi là lúc cô ta chuẩn bị kéo túi xách bước vào trong. Cô ta không mang theo nhiều hành lý, chúng bị bỏ lại hầu hết ở D.C bởi vì cô ta không muốn người ta sẽ kiểm tra túi xách của mình, lỡ lại xoi mói việc của cô ta. Dù sao thì khi đến một nơi mới cô ta có thể mua nhiều thứ khác.

Trong lúc di chuyển về hướng sân bay, Annabelle tình cờ liếc nhìn màn hình chiếc ti-vi đặt tại sân bay, hiện đang chiếu thời sự của kênh CNN, cô ta đứng lại và nhanh chóng đến sát màn hình, đọc những dòng chữ phụ đề trên đó. Quân nhân từng tham dự chiến tranh Việt Nam, tên là Reuben Rhodes đã bị bắt. Tin tức về nhà tài phiệt Cornelius Behan và bạn tình bị bắn chết từ cửa sổ nhà bên. Rhodes đang bị tạm giam...

“Trời ơi”, Annabelle nhủ thầm.

Loa phóng thanh vang lên, “Chúng tôi xin thông báo chuyến bay suốt số hiệu 3457 đến Honolulu chuẩn bị cất cánh. Chúng tôi xin mời hành khách lên máy bay”.

Annabelle nhìn về hướng cổng sân bay, họ chuẩn bị đóng cổng, và cô ta quay lại màn hình. Bị bắn từ cửa sổ nhà gần bên à? Vậy là Behan đã chết, còn Reuben bị bắt. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế này, cô ta phải tìm ra thôi.

Suy nghĩ của Annabelle thình lình chuyển hướng. Đây không phải là chuyện của mày, Annabelle ạ. Tên Jerry Bagger sắp mò đến rồi đấy. Hãy để cho những người kia tự lo liệu cho bản thân họ. Không thể nào Reuben đã giết hại Behan cả, và họ sẽ biết tìm cách, mà cho dù không có cách đi nữa, cũng không mắc mớ gì mày hết. Không thể.

Cô ta vẫn không nhấc chân lên nổi, lần đầu tiên trong đời cô ta do dự.

“Chúng tôi xin nhắc hành khách lên máy bay, chúng tôi sắp đóng cửa chuyến bay 3457”.

Cô ta yếu ớt thúc giục bản thân, “Đi thôi nào Annabelle, đi thôi. Mày đâu cần phải biết chuyện này, cũng chẳng gì phải đấu tranh cho nó cả, mày đâu mắc nợ ai đâu. Mày cũng chẳng nợ nần gì Jonathan cả”.

Cô ta nhìn cánh cửa cùng chuyến bay giúp cô ta chạy trốn khỏi gã Jerry Bagger đóng sập lại và cả người soát vé cũng bỏ đi về hướng khác. Mười phút sau đó, chiếc Boeing 777 từ từ cất cánh vào bầu trời, đúng theo thời gian biểu, trong lúc Annabelle mua một vé máy bay khác về hướng bắc, nơi cô chắc chắn mình sẽ nằm trong tầm kiểm soát của Jerry Bagger và máy chém của hắn. Cô ta không biết tại sao mình lại quyết định như vậy, nhưng tận sâu trong lòng, cô nghĩ mình có câu trả lời.

Albert Trent đang cố hoàn thành công việc ở văn phòng tại gia. Hắn bắt đầu công việc hơi trễ do tối qua phải thức khuya. Những nhiệm vụ hắn phải hoàn thành liên quan đến vị trí là một thành viên trong đội đặc nhiệm cao cấp của Ủy ban Tình báo, một vị trí hắn nắm giữ trong nhiều năm, và đã đào tạo hắn thuần thục gần như tất cả những vấn đề liên quan đến tình báo, hay ít nhất là những phần tổ chức chia sẻ với những người cầm đầu Quốc hội. Hắn vuốt vài lọn tóc, uống xong cốc cà phê, thu dọn cặp táp và vài phút sau đã sẵn sàng trong chiếc xe hơi hiệu Honda 2 cửa. Chỉ trong năm năm nữa thôi, hắn có thể lái một chiếc xe sang trọng hơn ở Azgentina chẳng hạn, hay là vùng Nam Thái bình dương, nơi hắn nghe nói là thiên đường.

Tài khoản bí mật của hắn hiện đang có tiền triệu, và hắn có thể nhân đôi số tiền ấy trong nửa thập niên tới. Những bí mật mà Seagraves bán cho hắn đáng giá cao nhất trong khung tiền thưởng. Điều này không giống như thời kỳ chiến tranh lạnh lúc người ta trao thông tin chỉ để đổi lại hai chục nghìn đôla. Những kẻ giao dịch với Seagraves toàn sử dụng con số bảy chữ số mà thôi, nhưng đổi lại bọn họ lại đòi hỏi rất nhiều thứ. Trent chưa bao giờ dò hỏi xem liệu Seagraves lấy mối từ những nguồn nào, hay hắn ta gặp ai. Chắc chắn rằng hắn chẳng bao giờ kể mà Trent cũng chẳng muốn hỏi. Nhiệm vụ duy nhất, nhưng lại khá quan trọng của Trent là tiếp nhận thông tin từ Seagraves để chuyển tiếp lên một cấp mới. Những thủ thuật hắn sử dụng hoàn toàn độc đáo và dễ qua mặt người khác, thậm chí có thể nói đó là những chiêu mà ngay cả bọn nhân viên của Cơ quan Tình báo Mỹ vẫn còn lóng ngóng.

Có rất nhiều tay gián điệp đầy kinh nghiệm và tâm huyết với việc điều tra bí mật bị lấy trộm và bán cho kẻ thù. Tuy vậy, đối với Trent, trong giới hạn làm việc của mình, hắn lại khéo léo luồn lách ra khỏi những sự rắc rối đó. Những kẻ điệp viên nói chuyện với hắn không thể nào ngờ rằng một nhân viên bình thường, với mái tóc có vẻ kỳ dị, chạy một chiếc xe cũ kỹ, sống trong căn nhà tồi tàn, mỗi tháng chi tiêu vừa đủ trên số tiền lương còm lại là một tay kỳ cựu trong một tổ chức đang phá hoại danh tiếng của Cơ quan Tình báo Mỹ.

Đối với chính quyền cao cấp, điều này hoàn toàn có thể dễ hiểu từ một nguyên nhân sâu xa. Với hoạt động của một tổ chức tình báo, ngốn hơn năm mươi tỷ đôla một năm, hơn 120 nghìn nhân viên, khối lượng công việc thật khổng lồ, và chẳng ai lại chú ý đến những chuyện nhỏ nhoi cả. Tuy vậy, Trent lại nhận thấy tay đồng nghiệp của mình, Roger Seagraves hoạt động hiệu quả và chưa bao giờ bỏ qua chi tiết nào, dù là nhỏ nhất.

Trent cố tìm ra vài thông tin về gã khi họ bắt đầu quen biết nhau, nhưng chẳng được gì, cho nên, một người đầy kinh nghiệm như hắn thừa hiểu rằng gã Seagraves hoàn toàn là một tay biết cách che dấu khéo léo và đầy kinh nghiệm, và cũng vì thế không nên xâm phạm gã làm gì. Mà Trent cũng không muốn điều đó, hắn thà chết già và giàu có ở một nơi khác hơn.

Ngồi trong xe, hắn suy nghĩ về cuộc đời mới của mình, chắc sẽ khác bây giờ nhiều, dĩ nhiên là vậy. Có điều hắn chưa bao giờ nghĩ đến sinh mạng của bao nhiêu kẻ đã bị cướp đi vì lòng tham vô đáy của hắn. Những kẻ bán nước như hắn làm gì có cái gọi là lương tâm.

Stone vừa về đến nhà sau cuộc gặp gỡ với Marilyn Behan thì có tiếng gõ cửa. Ông ghé mắt ra nhìn thì gặp Annabelle, “Chào Oliver”.

Ông chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên mấy trước sự xuất hiện của cô ta, ra hiệu cho cô ta vào nhà, rồi họ cùng ngồi trước lò sưởi trên hai cái ghế cũ.

Giọng ông vui vẻ, “Chuyến đi của cô thế nào?”

“Thôi nào, tôi không đi đâu cả”.

“Thật vậy sao?”

“Ông có kể cho những người khác biết tôi đi không?”

“Không”.

“Sao lại không?”

“Vì tôi biết cô sẽ quay lại”.

Giọng cô ta bực bội, “Chuyện này làm tôi khó chịu đấy, ông chẳng hiểu cái quái gì về tôi cả”.

“Có chứ, vì giờ này cô đã ở đây”.

Cô ta giương mắt nhìn ông, lắc đầu, “Ông là tay trông nghĩa trang lạ lùng nhất mà tôi từng biết”.

“Cô đã gặp nhiều người rồi à?”

“Tôi có biết chuyện đã xảy ra với Reuben”.

“Đám cảnh sát đã sai lầm cũng chỉ vì bọn họ không biết rõ sự việc”.

“Chúng ta phải cứu anh ấy ra khỏi ngục”.

“Chúng tôi đang cố gắng, và tôi nghĩ Reuben sẽ ổn thôi. Tôi không nghĩ có kẻ nào dám làm phiền anh ta, vì có lần tôi còn thấy anh ta hạ gục năm tên trong quán bar. Ngoài sức mạnh lực sỹ của mình, anh ta là một trong những tay đánh đấm ác ôn và mạnh bạo nhất mà tôi từng quen, và tôi rất ngưỡng mộ điều đấy”.

“Có kẻ đã đỗ lỗi cho anh ta tại nhà Jonathan à?”

“Đúng vậy”.

“Sao lại làm điều đó nhỉ? Sao lại giết Behan?”

“Vì hắn tình cờ biết tại sao Jonathan chết, chỉ thế thôi”. Rồi Stone kể cho Annabelle về câu chuyện với bà góa phụ Marilyn Behan.

“Vậy là chúng thủ tiêu Behan và đổ cho Reuben bởi vì anh ta tự nhiên xuất hiện thật đúng lúc nhỉ?”

“Có lẽ bọn chúng thấy anh ta đi ra đi vào căn nhà đó, và cả vị trí bắn từ phía căn gác nên mới bắt đầu thực thi kế hoạch. Chúng cũng biết cả việc Behan dẫn cô gái về nhà và cùng ở trong căn phòng đó”.

“Có vẻ như chúng ta gặp đối thủ đáng gờm rồi đây, vậy giờ chúng ta cần làm gì?”

“Bắt đầu từ đoạn phim của máy quay phim theo dõi trong phòng đọc”.

“Trên đường quay trở về đây, tôi đã tìm ra kế hoạch hành động”.

“Tôi cũng nghĩ cô sẽ làm được”. Ông ngừng lại một chút, rồi tiếp, “ Nếu không có cô, chúng tôi chẳng thể hoàn thành công việc”.

“Ông đừng nịnh tôi nhé, chúng ta còn chưa bắt đầu mà”.

Cả hai cùng ngồi im lặng suy nghĩ trong một lúc.

Annabelle nhìn ra ngoài cửa sổ, “Ông biết đấy, cảnh vật ở đây rất thanh bình”.

“Với thây ma ư? Tôi lại cảm thấy có vẻ u ám rồi đây”.

Cô nàng mỉm cười, đứng dậy, “Để tôi gọi cho Caleb và bàn kế hoạch”.

Stone cũng đứng dậy, vươn vai, “Tôi e rằng tôi đã đến tuổi già, khi mà những công việc dù chỉ đơn giản là cắt cỏ cũng làm gân cốt mỏi nhừ”.

“Uống thuốc Advil1 ấy. Tôi sẽ gọi cho ông sau, khi tôi đã sắp xếp công việc ổn thỏa”.

Khi đi ngang qua Stone hướng ra cửa, cô ta nghe ông nói nhỏ, “Tôi rất vui vì cô đã quay lại”.

Annabelle không phản ứng gì cả, Stone nhìn theo bóng cô ta cùng chiếc xe mất hút.

Chú thích

1.Loại thuốc kháng viêm, giảm đau, hạ sốt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Sau khi nhớ ra chuyện, Jerry Bagger nhanh chóng gọi tên giám đốc khách sạn ngay bên đường đến văn phòng của hắn và yêu cầu tên ấy kể chi tiết về bất kỳ người khách nào đã đến đăng ký phòng trên tầng thứ hai mươi ba, đối diện tòa nhà của hắn trong ngày đó. Và ở thành phố Atlantic này, khi Jerry yêu cầu bạn đến, bạn phải đến, và như thường lệ lúc nào cũng có vài tên vệ sĩ hung tợn đứng vây quanh.

Giám đốc khách sạn là một thanh niên trẻ, khá điển trai, với sự tham vọng và nhiệt huyết trong công việc, khăng khăng không cho tay chủ sòng bài biết điều gì cả.

“Nói cho chú em mày biết nhé, nếu chú mày không hé răng, chú mày chết chắc”, Bagger đe dọa.

Tay giám đốc do dự, “Ông đe dọa tôi sao?”

“Không, việc đe dọa chỉ xảy ra khi cơ hội không còn, còn trong trường hợp này, chúng ta gọi là thương lượng đấy chứ”.

Tay giám đốc tái mặt nhưng vẫn cương quyết, “Thông tin ông yêu cầu hoàn toàn là bảo mật, nên tôi không thể đưa cho ông. Khách hàng của chúng tôi luôn cần được tôn trọng quyền riêng tư và chúng tôi đảm bảo cao nhất quyền...”

Bagger cắt ngang, “Đúng thế, đúng thế, nhìn này, ông anh chỉ chú em mày đi đường dễ nhé, chú em muốn bao nhiêu?”

“Ông tính hối lộ tôi ư?”

“Đúng đường rồi đấy”.

“Ông không đùa đấy chứ?”

“Một trăm... nghìn”.

“Một trăm nghìn đôla à!”

Bagger nhìn đám cận vệ, “Này mấy đứa, gã này nhanh đấy, tao phải thuê hắn vào làm mới được. Đúng thế, một trăm nghìn nhanh chóng chuyển vào tài khoản của chú mày nếu chú mày cho tao xem qua bảng danh sách”. Tay giám đốc tính toán trong giây lát, nhưng lần này chính Bagger mất kiên nhẫn, “Mà nếu chú mày không chịu, thì tao nói thật, tao giết luôn. Tao sẽ bẻ từng đốt xương của chú mày, trở thành bại liệt để chú mày chẳng còn dịp kể cho ai nghe, thế là chú mày phải dành quãng đời còn lại nằm trên giường, tiêu tiểu tại chỗ trong khi người khác phải phục vụ. Đối với ông anh đây, sự việc không còn là lựa chọn nữa, chỉ là tao cũng biết lý lẽ, nên cho chú mày thời gian, năm giây nhé!”

Một giờ sau, Bagger đã có trong tay danh sách hắn cần, và nhanh chóng dò ra những kẻ tình nghi, sau đó hắn lại tiếp tục tra hỏi thông tin về những người này. Hắn chẳng tốn mấy thời gian vì một trong số những kẻ tình nghi đã sử dụng dịch vụ cộng thêm tại khách sạn trong lúc y ở đó.

“Đúng rồi, tôi có mát-xa cho anh ta”, người phụ nữ trẻ với cái tên Cindy thừa nhận. Cô ta có thân hình nhỏ nhắn, với những đường cong hấp dẫn, tóc đen sẫm và khuôn mặt khả ái, thái độ có vẻ lịch lãm. Cô ta thổi kẹo cao su lốp bốp và mân mê vài lọn tóc trong lúc nói chuyện với Bagger tại phòng riêng của khu nghĩ dưỡng rộng lớn của khách sạn.

Hắn nhìn cô ả chăm chăm, “Cô em biết anh là ai không?”

Cindy gật đầu, “Ông là Jerry Bagger, mẹ em tên là Dolores hiện đang làm việc tại bàn gieo súc sắc của sòng bạc Pompeii mà”.

“Rồi, anh nhớ rồi, còn tại sao em lại thích cái chỗ khỉ gió này?”

---diendanlequydon.com---

“Lương thì tệ, được cái tiền boa cao. Mấy lão già khoái có mấy em trẻ trung sờ mó, vài gã còn có vẻ hứng chí khi em phục vụ đấy chứ. Em ghét mấy lão già tám mươi lắm, nhưng được cái rộng rãi tiền bạc”.

“Thế còn gã này thì sao?”. Bagger liếc về phía cái tên đã viết sẵn, “Tên Robby Thomas, kể cho anh nghe về hắn, trước tiên là hắn nhìn ra sao nhỉ?”

Cindy miêu tả nhân dạng của người đàn ông, “Điển trai, nhưng cộc cằn. Hắn chỉ biết nghĩ cho hắn, em chẳng thích loại người này tí nào cả, ngoài ra hắn gầy giơ xương mà lại đẹp trai, ông hiểu ý em rồi đó, nếu có thi đấu vật chắc em thắng hắn mất. Tóm lại là em thích mấy tay đô con và vạm vỡ”.

“Anh cũng nghĩ thế. Thế còn anh chàng này, em chỉ mát-xa thôi, hay còn làm gì khác?”

Cindy khoanh tay và ngừng thổi kẹo cao su, “Thưa ngài Bagger, em là một người chuyên nghiệp có bằng cấp nhé”.

Để đáp lại, hắn lôi mười tờ một trăm đôla ra khỏi ví, “Thế như vầy có đủ mua bằng của em không?”

Cindy nhìn mấy tờ tiền, “Em cho rằng những gì mình làm là chuyện riêng của mình”.

“Đúng thế ”, hắn chìa tiền ra, “Vậy kể cho anh nghe về hắn nhé”.

Nhưng cô ta lại ngần ngừ khi nhận tiền, “Nếu kể cho ông nghe, có khi em lại mất việc...”

“Này cô em Cindy, anh chẳng trả cái quái gì cả nếu cô em chỉ toàn kể chuyện tào lao nhé”. Rồi hắn đẩy mấy tờ tiền vào sâu trong áo cô ta, “Kể cho anh nghe đi, không được nói dối vì nói dối là sẽ tệ hơn đấy”.

Cô ả bắt đầu nói nhanh, “Em sẽ kể giống như hắn đang tồn tại ở đây nhé. Em đang mát-xa cho hắn thì thấy bàn tay hắn ngọ nguậy dưới chân rồi đến chỗ cần đến”.

“Đúng là con thú nhỉ. Rồi sao nữa?”

“Hắn bắt đầu đòi hỏi nhiều hơn, mới đầu em từ chối, nhưng sau đó hắn bắt đầu phô trương khoác lác rằng hắn sắp vớ được vài cú bở và tốt nhất em phải chiều hắn”.

“Cú bở à? Tiếp đi nào...”

“Hắn rút tiền ra, và bảo còn nhiều hơn nữa. Sau khi em làm việc xong, hắn đợi em, rồi đi làm vài ly rượu, em hơi say, em chẳng giỏi uống bia rượu tí nào”.

“Được rồi, tiếp đi nào Cindy”, Bagger mất kiên nhẫn, “Anh có hội chứng không thể chờ lâu được”.

Cô ả nhanh nhảu, “Cuối cùng thì cũng về phòng gã, em chưa biết rõ gã, em cũng muốn gã được vui đôi chút nên em có mát-xa cho gã, gã say quá, còn em thấy hơi bực mình, sau đó gã khóc như đứa trẻ và đưa em một trăm đôla. Một trăm đôla chẳng đâu vào đâu! Rồi gã vào phòng tắm, nôn mửa gần mười phút. Sau đó đi ra, bảo em rằng, sức khoẻ của gã tệ quá, không còn được như trước nữa. Cứ như là em vô dụng lắm!”

“Một tên ngốc, thế rồi sao nữa?”

“Chỉ thế thôi, sau đó em đi về nhà, vì em và hắn đâu phải hẹn hò gì với nhau đâu”.

“Hắn chẳng nói gì thêm à? Hắn đi đâu, về đâu, chuyện vớ bở là sao?”. Cô ả lắc đầu. Jerry nhìn cô ả một lúc rồi bảo, “Em cũng biết kinh doanh đấy, thế chắc cũng lục lọi ví hắn xem có vớ được đồng nào không trong lúc hắn đang hành sự trong toilet chứ?”

Ả giận dữ, “Em không phải mấy hạng gái điếm tầm thường! Sao ông lại có quyền nói những lời xúc phạm vậy?”

“Vậy thì bây giờ chúng ta quay lại thực tế chút nhé, Cin”. Hắn vỗ ngực, “Anh là Jerry Bagger, còn em là kẻ hèn mọn, làm những việc quan hệ đại loại vì những đồng tiền lẻ, và bây giờ anh sẽ hỏi một lần nữa: em có lục ví hắn để lấy thêm phần mà em thiếu không?”

“Em không biết, có thể có, mà giờ em cũng chẳng muốn

kể nữa”.

Bagger tiến đến nâng cằm cô ả, quay mặt ả về phía mình, mắt nhìn nhau, “Thế bà già của em có kể cho em nghe về anh không nhỉ?”

Cô nàng Cindy lúc này đã sợ chết khiếp, “Bà ấy chỉ bảo ông là một người sếp giỏi thôi ạ”.

“Còn gì khác?”

“Rằng ai mà làm ông giận kể như tiêu đời”.

“Đúng thế, mẹ của em cũng hay đấy”. Hắn xiết mạnh cằm cô ả, “Nếu em muốn gặp mẹ mình, thở sâu vào và nói cho anh biết em nhìn thấy gì trong cái ví của gã điển trai đó mau”.

“Dạ vâng, dạ vâng. Cũng lạ là hắn có vài thẻ căn cước ạ”.

“Và..?”

“Tên hắn giới thiệu em biết là Robby Thomas từ bang Michigan, còn bằng lái xe lại từ bang California”.

“Tên gì?”, Bagger bình tĩnh.

“Tony. Tony Wallace”.

Bagger buông ả ra, “Thấy chưa, nào có khó khăn gì, còn bây giờ sao em không quay về với công việc xoa bóp mấy lão già nhỉ?”

Ả run rẩy đứng dậy. Khi ả ra tới cửa, hắn gọi với theo, “Này Cindy, em có quên gì không nhỉ?”

Ả ngần ngừ quay lại, căng thẳng, “Vâng thưa ông Bagger?”

“Anh trả cho em một nghìn đôla, gã kia chỉ cho em một trăm đôla thôi mà còn được em phục vụ chu đáo thế, em chưa hỏi anh xem anh có muốn gì không. Vậy là không tốt nhé, Cindy. Anh nhớ dai lắm”, hắn ngừng lại, chờ ả trả lời.

Ả run giọng, “Vậy ông có muốn em làm việc gì đó không, thưa ông? Em rất sẵn lòng”.

“Không”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Annabelle và Caleb cùng bước vào sảnh tòa nhà Jefferson. Cô ta diện một bộ váy đỏ ngang gối, áo khoác đen và áo sơ mi màu be bên trong. Cách thể hiện của cô ta hoàn toàn chuyên nghiệp, duyên dáng và đáng thuyết phục, trong khi Caleb lại có vẻ bối rối và rụt rè.

Cô ta căn dặn, “Anh chỉ cần tỏ vẻ buồn bã và chán đời nhé”.

“Cái đó dễ mà, lúc nào mà tôi không buồn bã và chán đời”.

Trước khi họ bước vào phòng bảo vệ của thư viện, Annabelle dừng lại, đeo cặp kính có dây quàng ngay cổ lên.

Caleb rên rỉ, “Liệu điều này có hiệu quả không?”, ông cảm thấy hơi căng thẳng.

“Anh chẳng biết liệu điều đó có thành công không cho đến lúc anh thực hiện nó chứ”, Annabelle trả lời.

“Vâng, đúng vậy”.

Vài phút sau, họ đã an tọa trong văn phòng bảo vệ. Caleb cúi gằm mặt, nhìn đôi giày của mình để Annabelle tự do phô diễn tài.

“Vậy là như những gì tôi đã giải thích, anh Caleb đây giao cho tôi trọng trách là giáo sư tâm lý để giúp anh ấy vượt qua giai đoạn căng thẳng này”.

Người tổ trưởng có vẻ lúng túng, “Cô bảo ông ấy có vấn đề khi làm việc tại phòng sách ư?”

“Vâng, đúng thế. Anh biết rồi đấy, anh ấy là người phát hiện ra xác chết của bạn thân cũng là đồng nghiệp của mình. Phòng sách là nơi anh Caleb yêu mến, và cũng dành phần lớn cuộc đời ở đó”. Cô ta liếc về phía Caleb, người diễn rất tự nhiên khi tự động thở dài và chấm khăn lên mắt.

“Nhưng giờ đây, nơi anh ấy yêu mến và có nhiều kỷ niệm đẹp lại chỉ tạo cho anh ấy cảm giác u buồn và cả sợ hãi”.

Tay tổ trưởng thông cảm, “Vâng, tôi nghĩ ông cũng thấy không thoải mái, thưa ông Shaw”.

Hai tay Caleb run lẩy bẩy đến nỗi Annabelle phải nắm lấy một cái.

“Cứ gọi anh ấy là Caleb, chúng ta là bạn với nhau mà”, giọng Annabelle khuyến khích, nhìn tay tổ trưởng ra hiệu, đồng thời xiết nhẹ tay Caleb.

“Vâng, đúng thế, chúng ta là bạn, hẳn vậy rồi”, gã có vẻ ngượng nghịu, “Nhưng tôi có liên quan gì ở đây?”

“Kế hoạch của tôi là để cho Caleb xem lại đoạn ghi hình của phòng đọc, nơi có người ra vào từ phòng sách, cứ để mọi thứ tự nhiên, như hàng ngày, cách này có thể tạo thêm động lực cho anh ấy, khuyến khích anh ấy vượt qua thời kỳ khủng hoảng tâm lý này, cũng như xây dựng lại hình ảnh tích cực của phòng đọc và phòng sách cho anh ấy”.

“Tôi cũng không rõ chuyện cho cô xem băng ghi hình đó ra sao, vì đây là những lời yêu cầu rất kỳ lạ”.

Caleb dợm đứng lên và đầu hàng, nhưng tia nhìn nghiêm nghị của Annabelle đã làm cho ông phải ngưng lại giữa chừng. Cô ta cương quyết, “Tôi hiểu đây là một lời yêu cầu đặc biệt, nhưng tôi hy vọng anh có thể bằng mọi cách trong khả năng của mình tìm cách giúp cho người anh em này thành công trong việc trở lại với tâm trạng tích cực hơn”.

“Chắc rồi, nhưng...”

“Vậy bây giờ là lúc chúng ta có thể cùng xem đoạn băng phải không?”, Cô ta hướng tia nhìn giận dữ về phía Caleb, người đang ngồi trên nửa ghế, “Ý tôi là anh có thể nhìn thấy anh ta đang khổ sở ra sao”.

Caleb thụp người xuống ghế, ôm đầu.

Annabelle quay lại nhìn tay tổ trưởng, và hướng về phía bảng tên, “Dale, tôi có thể gọi anh là Dale được không?”

“Vâng, được ạ”.

“Dale, anh có nhìn thấy bộ quần áo tôi đang mặc không?”

Gã nhìn thân hình hấp dẫn của cô ta rồi buông thõng, “Vâng, có”.

“Anh sẽ nhìn thấy màu váy của tôi là màu đỏ, đó là màu của quyền lực và màu tích cực, nhưng màu áo khoác của tôi, màu đen, một màu u ám, còn áo sơ mi lại màu be, màu trung tính. Điều đó thể hiện tôi đang đạt đến nửa đường trong việc tìm ra cách giúp người đàn ông đáng thương này trở lại trạng thái khỏe mạnh, yêu đời. Anh cũng có thể giúp mà Dale, tôi muốn mình sẽ đem đến màu đỏ cho anh Caleb, anh sẽ giúp tôi chứ, chúng ta cùng làm nhé Dale”. Cô ta hướng ánh mắt mong chờ vào gã, “Tôi có thể hiểu được anh sẽ ủng hộ tôi mà”.

Dale nhìn về hướng Caleb thiểu não rồi đồng ý, “Thôi được rồi, tôi sẽ lấy cuộn băng cho cô”.

Sau khi gã ra khỏi phòng, Caleb lên tiếng, “Cô xử lý công việc rất chuyên nghiệp đấy”.

“Cám ơn”, cô ta không phủ nhận.

Khi thấy cô ta không nói gì thêm, ông tiếp, “Mà tôi cũng không tệ chứ?”

Cô ta nhìn Caleb với ánh mắt nghi ngờ, “Vậy sao?”

Vài giờ sau, Annabelle và Caleb cùng ngồi xem lại đoạn băng ghi hình những người ra vào trước và sau khi xảy ra cái chết của DeHaven.

“Chỉ những người bình thường, giống mọi ngày thôi”, Caleb nói.

Annabelle chạy lại đoạn băng và hỏi, “Thế ai đây?”

“Kevin Philips, hiện là quản lý sau cái chết của Jonathan, anh ta đến hỏi tôi về cái chết của ông ấy. Và kia là Oliver, trong trang phục học giả người Đức”.

“Hay quá, ông ta diễn xuất cũng đạt lắm”, Annabelle ngưỡng mộ.

Họ xem qua một số đoạn khác, Caleb chỉ vào một cảnh, “Đó là lúc tôi nhận tin trở thành người quản lý sách của Jonathan”. Ông nhìn vào màn hình gần hơn, “Mà tôi mập vậy ư?”, Ông xoa tay vào bụng.

“Ai cho anh biết điều đó?”

“Cũng là Kevin Philips”.

Annabelle tiếp tục xem đoạn băng trong lúc Caleb lúng túng làm gãy mắt kính.

“Tôi có bao giờ vụng về thế này đâu, mà tôi cũng chẳng thấy được gì hết nếu bà lão Jewell English không cho mượn kính đấy”.

“Đúng vậy, nhưng sao bà ta lại tráo kính nhỉ?”

“Sao cơ?”

“Bà ta lấy cặp kính đang đeo xuống, rồi lấy cặp khác từ trong túi ra”. Annabelle tua lại băng, “Thấy chưa? Có vẻ rất nhanh. Cứ như máy... ý tôi là, tay bà ta rất lanh lẹ”.

Caleb sững người nhìn vào máy và thấy bà Jewell English lau nhanh cặp mắt kính bà ta đang đeo và rút ra một cặp mắt kính khác từ trong túi xách ra. Sau đó, bà ta đưa cặp kính đó cho Caleb.

“Tôi cũng không rõ, có khi đó là một cặp mắt kính đặc biệt. Kính mà bà ta đưa cho tôi cũng rõ lắm, vì tôi đọc tốt mà”.

“Bà Jewell English này là ai thế?”

“Là một bà lão yêu thích sách và hay lui tới phòng đọc”.

“Đồng thời cũng có đôi tay lanh lẹ giống như những tay chia bài ở sòng bài Las Vegas nhỉ”, Annabelle thêm vào, đầy suy tư.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Stone đang ngồi trong nhà suy nghĩ về cuộc nói chuyện với Marilyn Behan. Nếu những gì bà ta nói là sự thật, mà cũng chẳng có lý do gì mà bà ta nói dối cả, vậy thì những suy đoán của ông là sai. Cornelius không phải là kẻ đã giết Jonathan hay Bradley. Nhưng có vẻ như gã đã tình cờ tìm ra phương pháp sát hại người quản thư xấu số, và cũng vì vậy, gã phải bị thủ tiêu. Vậy kẻ nào hưởng lợi từ cái chết của Jonathan đây? Hay cả vụ Bradley? Ông cần thứ gì đó để liên kết sự kiện với nhau.

“Oliver?”

Ông ngước lên, Milton đang đứng ngay cửa ra vào.

Milton phân bua, “Tôi có gõ cửa, nhưng mãi không thấy ai mở cả”.

“Xin lỗi nhé, tôi mải suy nghĩ”.

Milton mang theo một máy tính xách tay và một cặp táp nhỏ như thường lệ. Ông ta để cả hai thứ đó xuống bàn, rồi lôi ra một tập hồ sơ, “Đây là những gì tôi moi ra từ đám nhân viên của Bradley”.

Stone nhận hồ sơ, và chăm chú đọc, “Có hàng tá tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Bradley, ngay cả việc làm Chủ tịch Ủy ban Tình báo trong vài năm”.

Milton nhận xét, “Bradley là một nhà chính trị có tài, và có một số cải cách quan trọng trong lĩnh vực tình báo”.

Stone thêm vào, “Cũng có thể vì đó mà bị giết, hình thức khen thưởng hay nhỉ”.

Sau đó, Stone bắt đầu xem xét qua nguồn gốc và hình ảnh của nhân viên trong Quốc hội thuộc quyền quản lý của Bradley, và cả những cấp dưới của ông ta trong đội điệp vụ. Khi ông vừa xong việc, thì Annabelle và Caleb về tới, Stone lại kể cho tất cả mọi người nghe về cuộc gặp gỡ với góa phụ Marilyn Behan.

Caleb cất tiếng, “Vậy là giả thuyết Behan có liên quan đến cái chết của Jonathan đi tong rồi”.

“Có vẻ thế”, Stone phụ họa, “Thế còn hai người hôm nay thu hoạch được kết quả ra sao với cuộc băng ghi hình?”

“Chúng tôi chẳng tìm ra ai tình nghi ra vào thư viện như suy nghĩ ban đầu, nhưng có thứ khác cũng quan trọng không kém”. Annabelle giải thích về cách đánh tráo của bà lão Jewell English.

“Cô chắc về điều đó chứ?”, Stone hỏi dù vẫn còn nghi ngại.

“Tin tôi đi, tôi thấy như vậy cả triệu lần rồi”.

Và cũng làm như thế cả triệu lần, Stone nghĩ bụng. Ông quay sang Caleb, “Anh biết gì về bà ta?”

“Chỉ biết rằng bà ta là một góa phụ luống tuổi, thích đọc sách cũ, rất tốt bụng, nhiệt tình và...”, Ông đỏ mặt.

“Và sao nữa?”, Stone hỏi.

“Và bà ta luôn có ý với tôi”, Caleb hạ giọng, bối rối.

Annabelle cố nén cười.

Stone nói tiếp, “Nhưng những gì anh biết về bà ta chủ yếu là qua lời bà ta nói thôi, không có kiểm chứng chứ gì”.

Caleb thừa nhận, “Đúng vậy”.

“Vậy còn vụ đổi mắt kính thì sao?”

“Oliver ơi, tôi nghĩ bà ta cố tình không đưa cho tôi đôi kia vì có lý do đặc biệt nào đó, bà ta cho tôi mượn đôi khác và tôi cũng chẳng muốn bới móc chuyện đó ra làm gì”.

“Tôi cũng chẳng muốn đâu, Caleb ạ, có điều suy cho cùng, chúng ta phải để ý đến chuyện một bà lão thường đến phòng đọc sách lại có ngón nghề quá điêu luyện như vậy. Nếu bà ta không muốn anh đeo kính đó, sao không nói và chỉ đưa đôi còn dư thôi?”

Caleb tính lên tiếng tranh cãi, nhưng rồi lại thôi, “Tôi không có câu trả lời nào cả”.

“Tôi cũng không, nhưng tôi nghĩ chúng ta phải tìm ra câu trả lời nếu muốn biết nguyên nhân cái chết của DeHaven”.

“Anh không thể nào cứ khăng khăng rằng bà lão dễ thương ấy lại có liên quan đến vụ sát hại Jonathan”, Caleb vẫn bênh vực.

“Chúng ta không loại trừ bất cứ trường hợp nào, cũng như chuyện Behan bị giết hại vì đã tìm ra lý do DeHaven chết. Tôi nghĩ bằng cách nào đó, hắn ta khám phá ra chuyện ống gas trong thư viện lại bị cố tình dán nhãn sai, và cũng là lý do hắn ta quay trở lại phòng đọc, chất vấn và muốn xem xét. Hắn cũng đang tìm ra manh mối vụ án mạng của DeHaven. Anh hãy nhớ rằng hắn đã muốn biết xem liệu DeHaven có được lòng mọi người trong thư viện hay không. Hắn chẳng muốn gán tội giết người cho ai cả, chỉ là muốn biết liệu DeHaven có kẻ thù nào không thôi”.

“Tóm lại, cột mốc chính không phải là Behan mà lại là DeHaven và thứ gì đó trong thư viện”, Annabelle kết luận.

“Có thể vậy”, Stone đồng tình, “hoặc là thứ gì đó trong cuộc sống ông ta”.

Caleb cảm thấy chùng lòng khi nghe lời này, nhưng ông vẫn giữ im lặng.

“Nhưng chuyện Bradley bị sát hại có liên quan đến khúc nào của câu chuyện? Anh vẫn bảo chúng có liên quan đến nhau mà”, Annabelle vẫn thắc mắc.

“Tất cả chúng ta đều biết rằng Bradley bị một viên đạn xuyên qua từ cửa sổ của căn nhà đối diện, Behan cũng chết theo cách tương tự. Chuyện đó không thể là tình cờ được. Thật ra, có thể đoán được cả hai chuyện đều do một sát thủ gây ra. Những sát thủ chuyên nghiệp luôn sử dụng cùng phương pháp giết chóc bởi vì họ đã quá quen việc đó, và cũng giảm đi cơ hội gây ra lỗi lầm khi thực hiện nhiệm vụ”.

“Ông có vẻ rành những chuyện này quá nhỉ”, Annabelle thốt lên.

Ông cười, vẻ ngây thơ, “Thế nào Caleb cũng kể cho cô nghe rằng tôi là một độc giả trung thành của thể loại truyện trinh thám, chúng vừa cung cấp đủ thông tin lại vừa giải trí tốt”. Rồi quay sang Caleb, ông tiếp, “Có cách nào nhìn kính của người phụ nữ ấy mà bà ta không biết không?”

Caleb châm biếm, “Có chứ, đột nhập vào nhà bà ta trong đêm và ăn trộm chúng”.

Stone tiếp lời, “Cách hay đấy, anh có thể tìm ra bà ta sống ở đâu không?”

Caleb lắp bắp, “Oliver, anh không đùa đấy chứ?”

“Tôi có cách hay hơn”, Annabelle đành lên tiếng ngắt ngang, mọi người nhìn cô ta, “Bà ta có đến thư viện theo một lịch cụ thể không?”

“Cũng khá thường xuyên”.

“Nếu theo lịch ấy, thì lần kế tiếp là khi nào?”

Caleb trả lời nhanh, “Ngày mai”.

“Được rồi, ngày mai tôi sẽ đến thư viện cùng anh, anh cứ chỉ bà ta là ai cho tôi và để tôi tự xử trí”.

Caleb hỏi, “Cô định làm gì?”

Annabelle đứng lên, “Cho bà ta nếm mùi đồng loại”.

Sau khi Annabelle đi khỏi, Caleb mới giải thích, “Tôi không tiện nói ra trước mặt cô ấy, nhưng Oliver này, liệu những gì đang xảy ra có liên quan gì đến quyển Thánh ca - cuốn sách đầu tiên ở Bắc Mỹ không? Nó thật là vô giá, và đến giờ chúng ta vẫn chưa biết tại sao Jonathan lại sở hữu nó cả. Có khi nó bị trộm và có kẻ cần nó, nên chúng giết Jonathan để đoạt lấy”.

“Nhưng chúng đâu có lấy đâu, Caleb”, Stone phân trần, “Kẻ đánh gục Reuben đã ở hẳn trong nhà, và nếu muốn, đã đột nhập vào phòng sách và cuỗm đi mất rồi. Vậy sao lại giết Cornelius Behan làm gì? Cả Bradley nữa? Có thể chẳng có liên quan gì đến quyển Thánh ca cả, mà Behan còn không biết DeHaven có sưu tập sách nữa đấy, còn rõ ràng là Bradley đâu có quen biết gì ông bạn đồng nghiệp của anh”.

Sau khi Caleb sầu đời và vẫn còn đầy dấu chấm hỏi ra về, Milton và Stone ngồi lại thảo luận, trong khi Stone lật qua tập hồ sơ về những nhân viên của Bradley. Thi thoảng Stone đọc to, “Michael Avery học tại Đại học tư Yale, làm thư ký cho Tòa án Tối cao, cống hiến vài năm cho Hội đồng Tình báo Quốc gia trước khi đầu quân về làm nhân viên tình báo. Người này cũng theo chân Bradley khi ông ta trở thành Chủ tịch Hạ viện”. Ông nhìn vào thêm vài tấm hình, và những tờ tiểu sử rồi nói tiếp, “Dennis Warren, cũng tốt nghiệp đại học Yale, vài năm đầu làm ở Sở tư pháp, người này là trưởng ban và giữ vị trí này cho đến lúc Bradley trở thành nhà Chủ tịch Hạ viện chính thức. Kế đến là Albert Trent, cũng là nhân viên kỳ cựu của Bradley, luật sư tốt nghiệp từ trường đại học Havard, từng làm cho CIA. Tất cả bọn họ đều trực thuộc Liên đoàn Ivy1 tất cả đều dày dạn kinh nghiệm. Có vẻ như Bradley có một đội ngũ tinh nhuệ đây”.

“Vẫn có câu rằng một người đại biểu quốc hội chỉ giỏi như nhân viên là cùng”.

Stone suy tư, “Anh biết đấy, một điều chúng ta không để tâm đến tới giờ là hoàn cảnh vụ án Bradley”.

“Vậy chúng ta khắc phục bằng cách nào?”, Milton hỏi.

“Cô bạn của chúng ta vẫn luôn đóng giả vai rất hay mà”.

“Lúc nào cũng nhất cả”.

“Thế anh có muốn cùng tôi thực hiện vụ này không?”

“Tôi lúc nào cũng phục tùng anh mà”.

Chú thích

1.Liên đoàn Ivy: nhóm 8 trường đại học lâu đời có hệ thống, triết lý giáo dục và chất lượng đào tạo hàng đầu của Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Albert Trent và Roger Seagraves gặp nhau tại văn phòng của Trent tại điện Capitol. Seagraves đưa cho Trent một tập tin và tóm tắt hướng dẫn, sau đó Trent sẽ sao y tập tin và lưu vào hệ thống nhận dữ liệu của tổ chức. Kèm theo tập tin gốc là những bí mật quan trọng về việc Lầu Năm Góc miêu tả chi tiết những chiến thuật quân sự của Mỹ tại Afghanistan, I-rắc và Iran. Trent tiếp tục dùng một hệ thống giải mã theo thỏa thuận để lấy những thông tin từ những trang cần thiết. Xem như việc giao dịch đã xong, và Seagraves lên tiếng, “Anh có rảnh không?”

Họ tản bộ qua vài khoảng sân rộng ở điện Capitol, “Này anh có vẻ may mắn với vụ Behan nhỉ, gã nào đó lại thế mạng cho anh”, Trent lên tiếng.

“Albert, anh nhớ dùm tôi điều này: chẳng có gì tôi làm có liên quan đến vận may cả, tôi thấy cơ hội và chớp thời cơ thôi”.

“Được rồi, được rồi, tôi không cố ý xúc phạm anh. Thế còn bản án thì sao?”

“Cũng không chắc lắm, tôi không biết tại sao hắn ở đó, nhưng rõ ràng hắn đang theo dõi nhà Behan, hắn lại là đồng bọn của tên Caleb Shaw tại phòng đọc, hơn hết là gã Oliver Stone, tôi từng tóm được và “hỏi thăm” lại cùng chung với nhóm này”.

“Shaw là người quản lý bộ sưu tập của DeHaven, đó là lý do hắn có thể vào nhà được”.

Seagraves khinh khỉnh nhìn tay đồng nghiệp, “Tôi thừa biết điều đó, Albert. Thậm chí tôi còn chạm mặt Shaw trong trường hợp tôi cần ra tay lúc cần thiết. Bọn chúng không chỉ nghĩ đến sách vở đâu, nhất là cái gã tôi từng tra hỏi, cũng có thời gian làm ở CIA, năng lực đặc biệt đấy”.

Trent thốt lên, “Anh chẳng bảo cho tôi biết điều đó”.

“Anh không cần biết điều đó, Albert, giờ thì lại cần”.

“Sao lại là bây giờ”.

“Bởi vì tôi muốn thế”, Seagraves hướng mắt về phía tòa nhà Jefferson, nơi có phòng đọc của dòng sách hiếm. “Những gã này cũng do thám Công ty Cứu hỏa. Nhân viên của tôi ở đó bảo rằng vết sơn trên một trong số xilanh khí bị chùi đi, như vậy rất có khả năng chúng biết về khí cacbon rồi đấy”.

Trent tái mặt, “Sự việc có chiều hướng xấu đi nhỉ”.

“Đừng quá lo sợ, tôi đã có kế hoạch, tôi luôn như thế, chúng ta đã nhận được khoản thanh toán cuối. Bao lâu anh có thể chuyển thông tin mới đi?”

Hắn kiểm tra đồng hồ, “Ngày mai là sớm nhất, nhưng hơi khó khăn đây”.

“Phải làm được”.

“Roger này, liệu chúng ta có nên dừng việc này lại một ít lâu”.

“Chúng ta có nhiều khách hàng để chăm sóc lắm, làm vậy không tốt cho việc giao dịch đâu”.

“Đi tù vì tội bán nước cũng đâu hay ho gì”.

“Anh Albert ạ, tôi không vào tù đâu”.

“Anh làm sao biết chắc điều đó chứ”.

“Có chứ, đâu ai để xác chết ở tù bao giờ”.

“Rồi, vậy chúng ta sẽ quyết định không chọn cách đó, nhưng có lẽ nên nới sự việc ra một chút, đợi lắng dịu ít lâu”.

“Làm gì có chuyện việc sẽ lắng dịu khi mới nóng lên hả anh. Chúng ta cứ giữ nguyên những gì chúng ta đang làm, và giống như tôi nói, tôi có kế hoạch mà”.

“Có thể cho tôi biết được không?”

Seagraves phớt lờ câu hỏi, “Tối nay tôi lại nhận hàng đấy, có thể đạt đến con số mười triệu nếu tôi không lầm, nhưng nhớ cảnh giác nhé, nếu có chuyện gì xảy ra, anh biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.

“Thế anh có nghĩ anh sắp ra tay giết người nữa không?”

“Một phần trong tôi tin chắc điều đó”, rồi hắn bước đi.

Tối hôm đó, Seagraves lái xe đến trung tâm Kennedy để tham dự một buổi biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng Quốc gia. Tọa lạc trên bờ sông Potomac, với khối kiến trúc không cầu kỳ, trung tâm Kennedy được xem là một trong những đài tưởng niệm có ý nghĩa nhất của vị tổng thống quá cố. Seagraves không quan tâm đến lối kiến trúc thẩm mỹ của nó, cũng chẳng quan tâm dàn nhạc. Vẻ điển trai và thân hình lý tưởng của hắn, ngược lại, đã thu hút nhiều ánh mắt của phụ nữ khi hắn đi ngang, và hướng về phía khán phòng nơi chỉ chốc lát nữa thôi dàn nhạc sẽ bắt đầu. Hắn chẳng quan tâm chuyện đó, tối nay là một tối công việc.

Lúc sau, thời gian nghỉ giải lao, Seagraves cùng một số người tham dự ra phía ngoài trung tâm để làm vài ly và tham khảo vài bảng chiến tích đang được bày bán, hắn cũng tranh thủ dùng nhà vệ sinh. Sau đó, đèn bắt đầu mờ đi, báo hiệu phần cuối của chương trình sắp bắt đầu. Hắn vội quay trở lại nhà hát trong dòng người chen chúc.

Một giờ sau, hắn lại ngồi ở quầy rượu của một quán bar mở khuya đối diện trung tâm Kennedy. Hắn kéo tờ chương trình ra khỏi túi bên sườn và bắt đầu xem xét. Đó không phải là tờ chương trình của hắn, chính xác là có kẻ đã bỏ vào túi hắn giữa lúc đám đông xô đẩy nhau quay vào nhà hát. Chẳng ai thấy điều đó cả, những tay điệp viên càng né đám đông càng dễ bị tóm. Cũng vì lý do đó, Seagraves luôn biết cách sử dụng đám đông để làm công cụ che chắn hữu hiệu nhất.

Trở về nhà, ngồi trong văn phòng, hắn lại mày mò những bí mật từ “chương trình”, định dạng lại cho đúng để gửi lại cho Trent khi hắn gặp tên này lần tới. Hắn mỉm cười hài lòng, vì những gì hắn đang nắm trong tay là những thông tin cuối cùng hắn cần để làm khóa giải mã cho những vụ ngoại giao cao cấp của liên bang gửi đến những văn phòng ở nước ngoài. Hắn cho rằng mười triệu đôla vẫn còn quá rẻ, có thể là hai mươi, và cuối cùng hắn quyết định con số hai mươi lăm sẽ là khởi đầu. Hắn bắt đầu việc thương lượng trên một số trang nói chuyện trực tuyến đã cài sẵn. Thông tin mật chỉ được chuyển đi khi số tiền đã được chuyển vào tài khoản của hắn. Hắn biết cách phòng thân trong việc không quá tin tưởng vào ai khi mình giao dịch cùng, tuy vậy, hắn cũng thành thật với bản thân khi biết cách giữ vững hiệu quả công việc ở thị trường tự do. Nếu hắn lấy tiền mà không giao hàng cũng là lúc hắn bị sa thải, mà cũng có khi là chết.

Thứ duy nhất đang cản trở kế hoạch là sự xuất hiện của vài lão già, rình mò người khác. Nếu chỉ có tên thủ thư thôi, thì cũng không nhằm nhò gì. Nhưng trong đám hỗn tạp đó, có ‘666’, một tên đáng gờm. Seagraves cảm nhận được cơn bão ngầm, cũng vì lý do đó, khi hắn bắt cóc và tra tấn Stone, hắn đã lấy đi một cái áo sơ mi từ nhà ông ấy, để thêm vào bộ sưu tập lúc cần.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


Stone và Milton cùng đến câu lạc bộ Federalist1 lúc 10 giờ sáng hôm sau. Họ nói lý do đến và được dẫn vào văn phòng người quản lý. Ông ta nhìn và nhìn có vẻ rất chuyên nghiệp vào thẻ căn cước mới cứng mà mới tối hôm trước Milton vừa in ra.

“Vậy hai anh là nhân viên do gia đình Bradley từ Kansas thuê để điều tra về vụ án mạng à? Nhưng ở đây cũng có cảnh sát đang đảm trách mà, còn FBI nữa. Mọi người tập trung về đây, rất nhiều lần”, giọng ông ta có vẻ bực bội.

“Gia đình muốn có đại diện riêng, ông cũng hiểu rồi đó”, Stone trả lời. Ông và Milton trong trang phục áo sơ mi, quần tây đen, thắt ca-vát chỉnh tề. Mái tóc dài của Milton được dấu gọn dưới một chiếc mũ mềm vì ông không chịu cắt ngắn, “Gia đình họ cảm thấy cuộc điều tra chưa đến đâu cả”.

“Rõ ràng đám cảnh sát chưa bắt ai thật, tôi không có lý do nào để biện hộ cả”.

Stone nhấn mạnh, “Ông có thể gọi cho họ để xác định thêm danh tính của chúng tôi, nhưng hiện tại bà Bradley đang ở nước ngoài, cho nên ông có thể gọi thẳng cho luật sư của bà ấy ở Maryland”. Trên tấm danh thiếp là số điện thoại của Milton, trước đó, ông đã lưu lại lời chào tương tự như ở văn phòng luật sư trong trường hợp tay quản lý gọi kiểm tra.

“Không cần đâu. Thế hai anh muốn biết điều gì?”

“Sao ngài Bradley lại có mặt ở đây vào tối hôm đó?”

“Cuộc ăn mừng cá nhân vì ông ta được bầu làm Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng đấy”.

“Tôi hiểu. Ai tổ chức?”

“Tôi nghĩ là nhân viên của ông ta”.

“Có ai đặc biệt không?”

“Tôi không nhớ rõ, chúng tôi nhận đơn đặt tiệc bằng fax cho nên có thể bữa tiệc là một sự ngạc nhiên cho ông ấy”.

“Ông ta bị giết ngay trong phòng sinh hoạt chung phía trước à?”

“Chúng tôi gọi đó là phòng James Madison, anh cũng biết về cái gọi ‘Luận cương Liên bang’ rồi đó, nếu muốn tôi có thể dẫn các anh đến xem”.

Ông ta dẫn họ đến căn phòng rộng ngay gần mặt đường chính, Stone nhìn về hướng cửa sổ của một tầng lầu phía trên tòa nhà đối diện, với con mắt nhà nghề của mình, với đường đạn đi như vậy thể hiện trình độ tình báo không chỉ cao cấp mà còn là bản lĩnh khác người của tên bắn tỉa.

Ông hỏi tiếp, “Sao ông ta lại vào đây?”

Tay quản lý đang lau vội lớp bụi khỏi mặt lò sưởi cẩm thạch, và phàn nàn, “Chỉ để chúc mừng ông ta thôi”. Rồi ông ta rùng mình, “Thật kinh khủng làm sao, thượng nghị sỹ Pierce vừa kết thúc bài nói thì tới ngài Bradley bị bắn, cảnh tượng thật khiếp đảm, máu me khắp nơi. Chúng tôi xem như mất toi một cái thảm Ba Tư đắt tiền, máu còn bắn cả vào trong gỗ, cho dù muốn làm sạch cũng tốn bộn tiền. Cảnh sát mới vừa cho chúng tôi dọn dẹp đấy. Chúng tôi cũng chẳng được che lại vì sợ làm sai lạc bằng chứng. Thế là ai đến đây cũng có cơ hội chiêm ngưỡng và thật tình là người đến đăng ký làm thành viên ngày càng giảm”.

Milton thắc mắc, “Ai đang làm chủ tòa nhà đối diện nhỉ?”

“Tôi chẳng biết, có thể chính quyền vẫn đang điều tra. Trước đây là nhà riêng, rồi làm phòng tranh, nó tồn tại ở đó cả năm năm rồi, đúng là ngứa con mắt nhưng làm gì được bây giờ? Tôi cũng nghe tin đồn rằng nó sắp được cải tạo lại để thành khu nhà ở. Có điều họ vẫn chưa bắt đầu”.

“Vậy là mọi người mời ngài Bradley vào để nâng ly chúc mừng à?”, Stone hỏi tiếp.

Tay quản lý suy nghĩ một lúc, “Lúc đó ở đây nhiều người lắm, nên tôi cũng không chắc. Tôi đâu có tham dự phần tiệc tùng đó. Tôi đang đứng ngay cửa sổ thì viên đạn bay tới. Tôi còn nhớ cảm giác nó rít bên tai, nhớ lại còn cảm thấy sợ bao nhiêu ngày sau”.

“Hẳn rồi, có điều là còn ai có thể cho chúng tôi biết thêm chuyện không?”

“Chắc một trong số người phục vụ, và tay pha chế chứng kiến vào sự kiện đó. Họ cũng có thể ở đây nếu các anh cần”.

Tay pha chế không biết gì cả, nhưng người phục vụ tên Tom tiết lộ, “Một trong số những nhân viên của ông ta đã kêu gọi mọi người cùng nâng ly. Đó là những gì tôi nhớ lại. Tôi giúp gọi mọi người tụ tập ở đây, rồi họ đi tìm ông đại biểu Bradley”.

“Anh có nhớ người nhân viên đó là ai không?”

“Không ạ, có nhiều người ở đó, tôi cũng chẳng nhớ ra liệu ông ta có nói tên là gì không nữa”.

“Vậy đó là người đàn ông à?”, Tom gật đầu, ngay lập tức Stone chìa ra mấy tấm hình nhân viên của Bradley. “Anh có nhận ra đó là ai trong số những tấm hình này? Người này ư?”, ông chỉ tay vào hình của Dennis Warren. “Đây là trưởng ban cho nên có lý lắm vì ông ta đã tụ họp mọi người ở đây”.

“Không phải ông ta”.

“Hay người này?”, Stone vẫn kiên nhẫn, chỉ tay vào hình của Albert Trent, “Ông ta cũng là nhân viên cao cấp đấy”.

“Vẫn không phải”. Người phục vụ liếc nhìn mấy tấm hình từ trên xuống dưới và dừng lại, “Đó là người này, tôi nhớ rồi, chính xác là ông ta”.

Stone nhìn chăm chăm vào tấm hình của Micheal Avery, người phục vụ trong tổ chức tình báo của Bradley.

Khi ra khỏi câu lạc bộ Federalist, Milton thắc mắc, “Bây giờ mình phải làm gì đây?”

“Nói chuyện với vài tay phụng sự cho ngài Bradley”.

“Chứ không phải Avery sao? Để cho hắn biết”.

“Không đâu, chỉ nói chuyện với Trent hay Warren thôi”.

“Nhưng chúng ta đâu có thể nói với họ chúng ta điều tra cái chết của ông Bradley theo yêu cầu của gia đình, họ thừa biết chúng ta nói dối”.

“Chúng ta sẽ nói sự thật”.

“Sao cơ?”

“Rằng chúng ta đang điều tra cái chết của Jonathan DeHaven”.

Dennis Warren đang ở nhà riêng khi Stone gọi, sau khi đã kiểm tra danh tính của ông trên danh bạ, ông ta đồng ý gặp họ. Cũng qua điện thoại ông ta bảo rằng ông ta có biết về cái chết của DeHaven, có điều ông ta chẳng biết người này, thậm chí ông ta còn thổ lộ rằng, “Tôi còn không có thẻ thư viện nữa là, đáng xấu hổ làm sao”.

Milton và Stone bắt xe điện ngầm để đến thành phố Falls Church, bang Virginia, nơi gia đình Warren đang ở. Đó là một căn nhà khá giản dị trong một vùng dân cư không sôi động gì mấy. Rõ ràng rằng Warren không thuộc tuýp người tháo vát hay là thích ngoài trời vì mảnh sân nhà ông ta đầy cỏ dại, còn căn nhà cần phải sơn sửa lại gấp.

Tuy vậy, trái với vẻ ngoài xập xệ, không khí bên trong căn nhà lại ấm cúng và tiện nghi, và cho dù Warren đã khẳng định rằng mình không có thẻ thư viện nào, sách lại chất đầy kệ. Ngoài ra, trong nhà là hàng tá đôi giày thể thao, áo đồng phục của trường học và đồ đạc của một cậu thanh thiếu niên nào đấy tiết lộ vai trò làm cha của Warren.

Warren là một người cao lớn, bệ vệ với mái tóc nâu sẫm và khuôn mặt rỗ, to bè. Nước da tái nhàn nhạt của ông ta càng nhấn mạnh thêm cho những năm tận tụy làm việc cho quốc gia dưới ánh đèn huỳnh quang. Ông ta dẫn họ đi theo hành lang đến phòng khách.

“Đừng để ý đến sự bừa bãi ở đây nhé”, Warren phân bua, “Làm cha của ba đứa con trai tuổi từ mười bốn đến mười tám đồng nghĩa với việc gia đình và cuộc sống không còn là của riêng mình nữa. Tôi có thể dễ dàng đứng giữa một cuộc họp, hào hứng thuyết trình về những chiến lược tình báo thuộc lĩnh vực chính trị phức tạp nhất cho tổng tham mưu trưởng hay bộ trưởng bộ quốc phòng, nhưng tôi thật không thể buộc lũ con tôi đi tắm đúng giờ hay ăn gì khác hơn ngoài món bánh mì pho-mát”.

“Tôi biết ông từng tham gia vào làm nhân viên tình báo”, Stone đi thẳng vào đề.

“Đúng vậy, tôi đã theo chân ngài Bradley khi ông ta làm Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng. Hiện tại, tôi thất nghiệp”.

“Bởi vì ông ấy qua đời à?”, Milton thắc mắc.

Warren gật đầu, “Tôi thích làm việc với ông ấy, và thích phục vụ cho ông ấy. Ông ấy là một người vĩ đại, một người thật cần thiết cho thời đại này với tính cách bộc trực, thẳng thắn và chân thật”.

“Ông không thể ở lại vị trí tình báo?”

“Không có sự lựa chọn. Vì ngài Bradley muốn tôi đi theo, nên tôi phải đi, mà tôi cũng muốn đi nữa. Chỉ có một Chủ tịch Hạ viện và cũng chỉ có một trưởng ban mà thôi. Công việc liên tục và người ta phải trả lời điện thoại của anh, thêm vào đó, tay Chủ tịch của Ủy ban Tình báo cũng có nhân viên riêng của hắn, và hắn cũng muốn tiến lên nữa. Đó là cách người ta đấu đá nhau ở điện Capitol. Anh gắn liền với phe cánh của anh, và khi phe cánh đó tan rã anh phải ở nhà. Cũng may vợ tôi là luật sư nếu không chúng tôi cũng gặp rắc rối về tài chính trong thời gian này mất. Thật ra tôi cũng đang dần hồi phục sau cú sốc về những chuyện xảy ra và cũng chưa tìm việc mới”. Ông ta ngưng lại rồi nhìn họ, “Nhưng các anh bảo các anh đang điều tra cái chết của DeHaven mà? Liệu có liên quan gì đến ngài Bradley chứ?”

“Có thể có mà cũng có thể không”, Stone mơ hồ, “Ông có biết về vụ án mạng của Cornelius Behan không?”

“Ai mà lại không biết, chắc bà vợ bối rối lắm nhỉ?”

“Vâng, nhà DeHaven sát bên nhà Behan, và tên sát thủ lợi dụng nó để thực hiện mưu sát”.

“Chết tiệt, tôi không biết chuyện này và vẫn chưa hiểu chuyện liên quan ở đây lắm”. Stone thừa nhận, “Tôi đang cố gắng kết nối sự kiện, vậy ông có mặt tại câu lạc bộ Federalist tối đó không?”

Warren chậm rãi gật đầu, “Bữa tiệc là nhằm để chúc tụng, và cuối cùng biến thành thảm họa”.

“Ông có nhìn thấy những gì xảy ra?”, Milton hỏi thêm.

“Tôi xem đó là vận đen, vì tôi đang đứng gần Mike, Mike Avery, thượng nghị sỹ Pierce vừa nâng ly chúc mừng thì bùm..., tiếng nổ vang lên từ đâu đó. Chuyện xảy ra thình lình đến nỗi, tôi vừa chỉ mới kề ly lên môi thì giật mình làm đổ hết ra ngoài. Thật kinh khủng, tôi cảm thấy chóng mặt và ai ở đó cũng thế cả”.

“Ông biết rõ Avery chứ?”

“Hẳn rồi, chúng tôi làm việc như hình và bóng cùng nhau trong mười năm mà”.

“Bây giờ ông ta ở đâu?”

“Cùng tôi chuyển đi khi ngài Bradley làm Chủ tịch Hạ viện. Giờ anh ta cũng thất nghiệp”. “Chúng tôi nghe kể rằng ông ta là người đã lên kế hoạch cho bữa tiệc tại Câu lạc bộ cũng như nâng cốc chúc mừng”.

“Không phải, cả Mike và tôi cùng lái xe đến đó, chúng tôi chỉ là khách mời trong danh sách mà thôi”.

“Chúng tôi được nghe kể lại rằng ông ta tụ họp mọi người vào chung phòng để nâng ly chúc mừng”.

“Tôi cũng thế, chúng tôi chỉ giúp việc thôi”.

“Ông giúp ai?”

“Albert, Albert Trent. Anh ta là người đã nghĩ ra việc nâng cốc chúc mừng này. Albert luôn bày trò như thế, tôi làm gì có đủ tài lẻ như anh ta”.

“Albert Trent à? Nhưng có phải anh ta là người tổ chức không?”

“Không rõ. Nhưng bữa đó thấy anh ta cũng tháo vát lắm”.

“Thế giờ anh ta có thất nghiệp không?”

“Không đâu, Albert ở lại Ủy ban Tình báo”.

“Nhưng tôi nhớ ông bảo các ông đi theo ngài đại biểu Quốc hội mà?”

“Thường là vậy, nhưng Albert không muốn đi, ngài Bradley chẳng hài lòng về điều này tí nào. Albert đã mò ra vài cách thỏa thuận với tay Chủ tịch mới, anh ta luôn biết cách giữ cho mình là người quan trọng. Công việc tại văn phòng của Chủ tịch Hạ viện cực kỳ nhiều, và không có Albert, chúng tôi cũng lúng túng. Tôi chẳng phải phóng đại sự việc lên làm gì, vì ai mà chẳng biết điều đó”.

“Thế còn ngài Bradley không có ý kiến gì sao?”

Warren mỉm cười, “Anh không hiểu rõ về ngài Bradley đâu, ông ta là người trang nhã, lịch thiệp, chân thật, chăm chỉ, nhưng rõ ràng để đạt vị trí của mình, ông ta đã phải trải qua nhiều năm rèn luyện và thử thách. Thật ra ngài không muốn có một tay cấp dưới như vậy. Mà chẳng sớm thì muộn, Albert cũng tự động quay về với chúng tôi thôi”.

“Nhưng cái chết của ông Bradley đã thay đổi điều đó nhỉ?”

“Dĩ nhiên là thế, tôi và Mike cố gắng hành động đúng, và chúng tôi thất nghiệp, trong khi Albert bất tuân mệnh lệnh và giờ thì ghế của anh ta vẫn vững vàng. Tôi còn đỡ, Mike phải nuôi bốn đứa con và bà vợ ở nhà. Trent thì vẫn độc thân. Điều đó thật trớ trêu”.

Sau khi họ ra về, Milton nhận xét, “Tôi có thể hiểu được rằng những gì chúng ta cần là từ tay Albert Trent này”.

Stone tán thành, “Mọi thứ”.

“Rõ ràng động cơ giết người khá rõ, tôi tự hỏi sao đám cảnh sát không mò ra nhỉ. Warren cũng không nghi ngờ gì”.

“Động cơ gì?”

“Oliver à, rõ ràng quá rồi. Nếu Bradley còn sống, Trent phải rời Ủy ban Tình báo, nếu ông ta chết, Trent ở yên đó”.

“Vậy là anh nghĩ hắn giết Chủ tịch Hạ viện để tránh việc đổi chỗ làm à? Mà cũng đâu phải là người cướp cò, vì lúc đó hắn có mặt ở đó. Vậy là hắn phải thuê một tay sát thủ. Hành động này có vẻ hơi quá tay, và mạo hiểm đối với một vị trí trung cấp của hắn hiện tại. Rõ ràng mà nói, chức vụ tại văn phòng Chủ tịch Hạ viện cao quý hơn biết bao nhiêu”.

“Vậy là còn gì thêm sau đó”.

“Đúng thế. Có điều chúng ta không biết đó là gì lúc này”.

Trong nhà của Dennis Warren, ông ta nhấc máy và quay số cho người bạn, người đồng nghiệp cũ Mike Avery. Rồi sau đó là số điện thoại thứ hai.

“Albert à? Dennis đây. Xin lỗi vì làm phiền giờ làm việc của anh, nhưng có vài gã xuất hiện và hỏi vài câu kỳ lạ lắm. Tôi cũng vừa gọi cho Mike rồi, chủ yếu báo cho anh ta biết và chuẩn bị thôi. Chắc cũng chẳng có gì, nhưng tôi nghĩ tôi nên gọi cho anh”.

Trent trả lời, “Tôi cảm ơn vì điều đó. Họ muốn biết chính xác điều gì?”

Warren thuật lại cuộc gặp mặt rồi nói thêm, “Tôi có kể cho họ biết rằng anh đứng ra tổ chức vụ nâng ly chúc mừng cho Bob, và cả việc anh ở lại Ủy ban Tình báo”.

“Họ nhìn ra sao?”

Warren miêu tả Stone và Milton, “Anh có biết họ không?”

“Không, cũng lạ nhỉ”.

“Thì đó, đó cũng là lý do tôi báo anh biết, hy vọng tôi chẳng nói gì sai”.

“Tôi đâu có gì mà phải giấu”, Trent phản ứng.

“À, Albert, nếu có vị trí nào thiếu trong ủy ban, báo tôi biết nhé. Ở nhà lâu cũng ngán quá rồi”.

“Chắc rồi, cám ơn vì đã báo nhé”.

Albert lập tức rời văn phòng và gọi một cuộc điện thoại công cộng, hẹn gặp Seagraves ngoài điện Capitol sau đó.

Gặp Seagraves, hắn ta nói ngay, “Chúng ta có rắc rối”.

Seagraves nghe chuyện và nhận xét, “Hành động kế tiếp của chúng thế nào thì cũng rõ rồi”.

“Anh lo liệu nhé?”

“Lúc nào chẳng vậy”.

Chú thích

1.Federalist: Người theo chủ nghĩa liên bang.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Trong lúc Milton và Stone đi dò la thám thính tình hình, Caleb ngồi trong thư viện và đón tiếp Annabelle, lúc này trong trang phục váy xếp li đen, cùng màu với áo khoác, áo sơ mi trắng, mang giày đế thấp. Cô ta mang theo kè kè một cái túi nhỏ khoác ngang vai, và tay chìa ra tấm thẻ thư viện mới cứng. Caleb đón tiếp Annabelle.

“Tôi có thể giúp gì cho cô, thưa cô...?”

“Charlotte Abruzzio. Tôi muốn tìm vài quyển sách”.

“Vậy cô tìm đúng chỗ rồi. Thư viện mà”, Caleb cười vang.

Annabelle không nhếch mép, cô ta đã dặn dò ông trước đó không nên nói nhiều và cũng không nên cười đùa gì cả, nhưng ông đã vượt giới hạn và đã làm điều đó, đúng là người không biết giữ ý gì cả. Cô ta đọc tên quyển sách cần tìm, giống như kế hoạch đã bàn tối hôm trước.

Caleb mang sách ra khỏi giá, đưa cho Annabelle, cô ta ngồi xuống bàn đọc, phía đối diện cửa chính nơi cô ta có thể dễ quan sát Caleb.

Một giờ sau, Caleb đứng lên, “Chào bà, bà Jewell, bà khỏe không? Gặp bà tôi thấy vui quá”, ông niềm nở chào đón bà lão, sau khi đã gửi cho Annabelle cái nhìn “đầy ngụ ý”.

Tại bàn của mình, Annabelle nghiến chặt răng, nhiệt tình quá mức cần thiết. Sao ông ta không lôi ra luôn một cặp còng số tám và tấn công bà ta luôn nhỉ. Cũng may, bà lão Jewell English không để ý thái độ niềm nở bất thường vì bà ta đang lúi húi tìm đồ trong túi.

Vài phút sau, Caleb đưa cho Jewell quyển sách bà ta yêu cầu, và bà ta ngồi xuống bắt đầu chăm chú đọc. Caleb lui tới chỗ bà ta thường xuyên cứ như sợ Annabelle bỏ lỡ mục tiêu. Cáu tiết, Annabelle liếc ông ta một cái dài khiến ông ta phải lập tức quay về chỗ ngồi.

Một giờ sau, Jewell hoàn thành quyển sách, bà ta thu dọn đồ, rồi chào tạm biệt Caleb. Annabelle nối gót theo sau, và chạm mặt bà ta trên đường nơi bà ta đang dừng lại đón tắc-xi. Lúc này, Annabelle quấn khăn choàng quanh đầu và khoác áo choàng dài cô ta đã bỏ sẵn trong túi. Khi chiếc tắc-xi dừng lại, cô ta bắt đầu ra tay. Cô ta cố tình tông nhẹ vào bà lão, làm rớt túi bà ta đang xách xuống đất. Bàn tay cô ta điêu luyện thụt thò vào túi của bà ta, nhanh đến nỗi cho dù có người đứng kế bên cũng không chắc là thấy được.

“Ôi, lạy Chúa!”, Annabelle thốt lên bằng giọng miền nam đặc sệt. “Thưa quý bà, cháu rất rất xin lỗi, mẹ cháu mà biết cháu đâm sầm vào bà thế này sẽ la mắng cháu ngay”.

“Không sao đâu, cháu ạ”, Jewell trấn an, dù thở hổn hển vì cú va chạm vừa rồi.

“Chúc bà có một ngày vui vẻ nhé”.

“Cháu cũng thế ”, Jewell cất giọng vui vẻ trước khi bước vào xe.

Annabelle sờ vào hộp đựng kính có hoa văn trong túi trong lúc bước tiếp, một lát sau cô ta đã có mặt ở phòng đọc, lúc này đã có người khác làm việc tại quầy tiếp bạn đọc. Caleb hối hả đi về phía Annabelle. “Dawn này”, ông ta quay với lại người phụ nữ ngồi tại đó, “Tôi cần đưa cô Abruzzio đây đi tham quan vòng quanh phòng đọc. Cô ấy không phải là người ở đây, cho nên tôi đã xin phép cấp trên để giúp cô ấy việc này”. Ông nói dối, một việc mà từ trước đến giờ ông chưa nghĩ đến mình sẽ phạm phải, nhưng với những gì đã xảy ra, Caleb tự cho rằng việc tìm ra kẻ sát hại Jonathan quan trọng hơn bất cứ một nguyên tắc thư viện nào.

“Tôi hiểu rồi, anh Caleb”, Dawn trả lời.

Cả hai đi vào trong phòng sách, Caleb dẫn Annabelle đến phòng Jefferson, nơi họ có thể tự do nói chuyện, cô nàng đưa cho ông cặp mắt kính, “Anh có muốn thử đeo không? Tôi thử rồi nhưng không thấy gì cả”.

Caleb thử và lập tức tháo ra ngay, “Ôi, lạ nhỉ, cứ như là có thêm ba hay bốn lớp gương khác vậy, không thấy ánh mặt trời đâu cả. Tôi không hiểu lắm vì lần trước chiếc kính kia của bà ấy tôi thấy rõ lắm mà”.

“Đó cũng là lý do bà ta đưa cho anh chiếc kính đó thay cho chiếc này. Nếu không anh đã nghi ngờ rồi, anh có quyển sách bà ta đọc ở đây không?”

Caleb giơ quyển tiểu thuyết của Beadle lên , “Tôi phải giả bộ sắp xếp lại chúng lên kệ”.

Annabelle xem xét quyển sách và nhận xét, “Nhìn có vẻ rẻ tiền nhỉ?”

“Đó cũng là lý do, chúng toàn là tiểu thuyết rẻ tiền của thế kỷ 19 mà thôi”.

“Vấn đề là khi đeo kính này bà ta hoàn toàn có vẻ thoải mái, thậm chí tôi còn thấy bà ta ghi chú nữa”.

“Đúng vậy đấy”, Caleb từ từ đeo kính lại, nheo mắt và mở sách ra xem.

“Anh có đọc được gì không?”, Annabelle tò mò hỏi.

“Hơi mờ chút”, ông tiếp tục giở sách ra và thình lình ông dừng lại, “Đợi một chút, chuyện gì thế này?”

“Chuyện gì là chuyện gì?”, Cô nàng háo hức.

Ông chỉ vào một từ trên trang sách, “Chữ này được tô sáng lên này, cô có thấy không, nó rõ ràng được tô vàng lên đấy”.

Annabelle nhìn về phía chữ cái tay Caleb chỉ, “Tôi đâu có thấy gì đâu”.

“Ngay đó mà”, ông chỉ tay về chữ cái e ngay dòng đầu tiên.

“Nhưng tôi đâu thấy nó sáng lên gì đâu và...”, cô nàng ngắt ngang, “Anh Caleb này, đưa tôi cặp mắt kính mau”. Annabelle đeo vào và nhìn những trang sách, đúng là chữ cái được tô màu vàng nổi bật giữa trang giấy. Cô nàng từ từ tháo mắt kính ra và nhận xét, “Đúng là kính đặc biệt”.

Caleb nhìn vào những dòng chữ trong sách bằng mắt thường, không thấy nổi, nhưng đeo kính vào, đúng là chữ e nổi rõ lên trông thấy, “Ngoài ra còn mấy chữ khác cũng nổi lên như chữ w, chữ h, chữ f này”. Ông lật sang trang kế tiếp, lại là chữ w, chữ s và p, còn nhiều chữ khác nữa, tất cả đều nổi lên như thế. Ông tháo kính ra, “Mấy chữ này e, w, h, s, p, chẳng có nghĩa gì cả”.

“Không phải vậy đâu anh Caleb ạ, chúng là mật mã đấy”, Annabelle giải thích, “Đây là những chữ cho mật mã nào đấy, và cần có những loại kính đặc biệt để xem”.

Ông ta có vẻ kinh ngạc, “Mật mã ư?”

“Anh còn biết bà ta đọc sách nào gần đây không?”

“Chúng đều thuộc nhà văn Beadles cả, nhưng để tôi kiểm tra danh mục sách thử xem”.

Vài phút sau, ông mang ra sáu quyển sách, rồi xem từng trang sách một trong lúc vẫn đeo cặp mắt kính đặc biệt, nhưng lần này không còn ký hiệu nổi nữa. “Tôi không hiểu lắm, chẳng lẽ chỉ có trong một quyển thôi ư?”

“Không thể nào”, giọng Annabelle bực bội. Cô ta giơ quyển sách có những chữ nổi lên và hỏi, “Tôi mượn mang về nhà được không?”

“Không, thư viện đọc tại chỗ chứ không cho mang về”.

“Anh cũng không được ư?”

“Tôi thì được, nhưng tôi phải làm thủ tục điền vào phiếu mượn sách thư viện bốn lần đấy”.

“Để cho người nào khác trong thư viện biết anh đã mượn sách à?”

“Vâng, đúng thế”.

“Vậy cũng chẳng có ích lợi gì cả, chúng ta lại bứt dây động rừng mất thôi”.

“Ý cô là sao cơ?”

“Anh Caleb này, có kẻ đã ở đây và đánh dấu những chữ này, nếu anh mang một trong số những quyển sách đấy về nhà, có thể sẽ đánh động kẻ chủ mưu đó”.

“Ý cô là có ai đó ở Thư viện Quốc hội đã chủ động tạo nên mật mã trên những dòng sách quý hiếm này”.

“Đúng thế ”, cô ta nổi cáu, “Bây giờ anh đưa cho tôi quyển sách và tôi sẽ mang ra khỏi thư viện. Dẫu sao nó cũng nhỏ và mỏng, nên chắc không là vấn đề gì cả. Đợi đã, trên sách có thiết bị mã vạch chống trộm gì không đấy?”

Caleb hoảng hốt khi nghe lời đề nghị bạo gan của Annabelle, “Ôi trời, cô ơi là cô, đây là những quyển sách quý hiếm mà, làm hư hại chúng không đền nổi đâu”.

“Vậy thì sao? Dẫu sao cũng có kẻ làm điều đó trước tôi khi đánh dấu vào sách rồi, vì vậy giờ tôi chỉ mượn sách chút thôi mà”.

“Mượn ư? Đây là tài sản của Thư viện Quốc hội đấy”.

“Caleb, đừng để tôi nổi khùng nhé, tôi mang sách ra đây”. Ông định ngăn cản, nhưng cô ta cắt lời, “Chuyện này ắt hẳn có liên quan phần nào đến cái chết của Jonathan và nếu đúng thế, tôi chẳng thèm quan tâm luật lệ gì ở đây cả, tôi muốn tìm ra sự thật cái chết của ông ấy. Anh là bạn của ông ấy, anh cũng muốn biết mà đúng không?”

Caleb nhanh chóng dịu xuống và phân bua, “Đúng thế, nhưng mang quyển sách ra khỏi đây không dễ chút nào cả. Về nghiệp vụ, chúng tôi cần phải kiểm tra mỗi túi xách trước khi người ta rời khỏi đây, và tôi sẽ giả bộ như đã kiểm tra cô rồi, nhưng còn đám bảo vệ nữa, họ còn kiểm tra kỹ hơn tôi đấy”.

“Tôi đã bảo không có vấn đề gì cả. Tôi mang sách qua chỗ Oliver tối nay, gặp nhau ở đó khi anh xong việc. Anh ta làm tôi có cảm giác rằng anh ấy am hiểu nhiều thứ lắm”.

“Ý cô là sao? Nhìn vào thì đúng là anh ấy có kỹ năng và kiến thức hơn người thường, nhưng còn đám mật mã này, đây là dành cho những điệp viên đấy chứ”.

“Anh biết không, anh là người dành hầu hết thời gian quanh quẩn bên sách vở và cũng là người chẳng biết cái quái gì mà tôi đã từng gặp”.

“Đó là lời nhận xét quá ư là gây mất thiện cảm và thô lỗ”, Caleb nổi giận.

“Hay đấy, tôi muốn thế mà”. Cô ta cũng trả đũa, “Còn bây giờ nhờ anh mang cho tôi cuộn băng dính nào”.

“Băng dính để làm gì?”

“Cứ lấy băng dính đã”.

Ông ngần ngừ lấy cuộn băng dính từ tủ đựng văn phòng phẩm bên trong khu phòng sách chính.

“Bây giờ quay người lại đi”, cô ta ra lệnh.

“Sao cơ?”

Cô ta xoay người ông lại, khi ông quay lưng về phía cô ta rồi, Annabelle lập tức kéo váy lên tận eo, và đặt quyển sách ngay phía trong đùi trái rồi dán chặt băng dính xung quanh. “Vậy là nó sẽ nằm yên ở đấy, nghĩ đến cảnh tháo sách ra chắc vui đấy”.

“Làm ơn cho tôi biết rằng cô không làm gì phá hư sách nhé”, giọng Caleb khẩn khoản, “Đó là một trong những mảnh lịch sử có giá trị đấy”.

“Anh tự quay lại mà nhìn”.

Ông quay lại và nín thở nhìn thấy quyển sách, cặp đùi thon thả, trắng nõn của Annabelle.

Giọng cô ta thì thầm, “Tôi nghĩ quyển sách chẳng việc gì khi ở đó đâu nhỉ?”

“Tôi chưa bao giờ thấy điều này, trong cuộc đời bao năm làm thủ thư và tại một nơi cao quý như thế này”, ông thốt lên, giọng run run vì kinh ngạc nhưng ông chẳng rời mắt khỏi chân cô ta và tim ông đánh lô tô trong ngực.

Cô ta kéo váy xuống, mỉm cười châm chọc, “Anh đang nghĩ gì thế, trông anh lạ lắm”. Hông cô ta chạm nhẹ vào Caleb khi cô ta bước ra cửa, “Gặp anh ở chỗ Oliver nhé, anh bạn!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


Sau màn trình diễn quá ấn tượng của Annabelle, Caleb chỉ đủ tỉnh táo để giả bộ quay lại làm việc, nhưng một lát sau thì Kevin Philips bước vào phòng đọc và tiến đến bàn làm việc của ông.

“Caleb, anh có thể ra ngoài chút xíu không?”, Ông ta nói nhỏ.

Caleb đứng dậy, “Được thôi, Kevin, nhưng có chuyện gì?”

Philips nhìn có vẻ lo lắng, và hạ giọng, “Cảnh sát đang ở ngoài, họ muốn nói chuyện với anh đấy”.

Caleb lập tức thấy tất cả những tế bào trong người ngưng hoạt động, cho dù ông liên tục động não tìm ra lý do tại sao đám cảnh sát lại muốn gặp ông lúc này. Chẳng lẽ cô nàng quỷ quái kia đã bị bắt cùng với quyển sách dán chặt ở đùi, bị hỏi cung và khai tuốt rằng ông là kẻ đồng phạm? Hay bà lão Jewell English đã biết điều gì đang xảy ra và trình báo về việc mất cặp mắt kính cho cảnh sát, chỉ rõ là ông? Và liệu Caleb Shaw này có chuẩn bị ngồi trên ghế điện không?

“Caleb này, anh có thể đứng lên và đi chung với tôi không?”, giọng Philips văng vẳng đâu đó.

Caleb bừng tỉnh và nhận ra rằng thay vì ngồi trên ghế, ông lại đang ngồi bẹp xuống sàn nhà. Ông run rẩy đứng dậy, mặt trắng bệch, và thốt lên thành lời dù ông cũng ngạc nhiên vì mình vẫn còn đủ can đảm, “Tôi tự hỏi họ muốn gì từ tôi đây, Kevin?” Lạy Chúa, chỉ mong rằng đó là một nhà tù có sự bảo vệ tối thiểu.

Khi ra đến ngoài, Philips giao Caleb lại cho cảnh sát, với đại diện là hai thám tử tư trong bộ quần áo rộng thùng thình, rồi sau đó ông ta biến đi mất, để lại Caleb với ánh mắt gần như van nài. Hai gã hộ tống Caleb bước vào một căn phòng trống, việc di chuyển hơi chậm vì Caleb không thể điều khiển chân mình hoạt động tốt như bình thường, ngay cả việc nói chuyện cũng dường như khó khăn vì cổ họng ông hoàn toàn khô khốc. Liệu họ có thư viện trong nhà tù không nhỉ? Liệu ông có bị hành hạ trong tù?

Gã to lớn hơn trong hai người ngồi phịch chiếc mông béo phị xuống ghế trong lúc Caleb đứng chết dí sát tường, chờ đợi giờ phán quyết cuối cùng. Ông cảm nhận được thép lạnh của cùm tay, và kết thúc cuộc đời đáng kính của mình, từ một người thủ thư biến thành tên phạm tội, cú tuột dốc không kiềm chế được. Tên còn lại thò tay vào túi và lôi ra một chùm chìa khóa, “Đây là chìa khóa vào nhà của ông DeHaven, thưa ông Shaw”. Caleb chìa bàn tay run lẩy bẩy ra và nhận chìa khóa. “Chúng được tìm thấy từ người bạn của ông, Reuben Rhodes”.

Caleb bật ra tiếng, “Tôi không xem anh ta là bạn, chỉ là người quen thôi mà”.

Hai tay thám tử nhìn nhau, rồi tên to lớn nói tiếp, “Dẫu sao chúng tôi cũng muốn báo cho ông biết rằng, ông ta đã được thả ra theo lời cam kết trước tòa”.

“Có nghĩa là các anh không còn xem anh ta là nghi phạm nữa à?”

“Không, nhưng chúng tôi cũng xem xét câu chuyện kể của ông ta và ông. Và kể từ bây giờ chúng tôi sẽ dừng ở đó”.

“Chúng tôi đã tiến hành lục soát nhà ông DeHaven để tìm ra chứng cứ, cho nên ông có thể vào, nhưng để cẩn trọng, ông đừng lên gác nhé”.

“Tôi chỉ muốn xem qua bộ sưu tập sách mà thôi, vì tôi là người được ủy quyền mà”.

“Luật sư có cho chúng tôi biết”.

Caleb nhìn xung quanh, “Vậy là tôi được đi à?”

“Trừ phi ông còn điều gì để kể chúng tôi nghe?”, gã to lớn hỏi.

Caleb nhìn từng người, “Chúc các anh may mắn khi điều tra nhé”.

“Cám ơn”, gã rời khỏi bàn, rồi cả hai đi ngang qua Caleb, ra ngoài và đóng cửa lại. Caleb đứng như trời trồng một lát, không tài nào tin vào vận may từ trên trời rơi xuống của mình. Rồi ông lại suy nghĩ, tại sao họ lại thả Reuben, và tại sao họ lại trả lại chùm chìa khóa vào nhà Reuben cho ông? Liệu đây có phải là một vụ dàn xếp, liệu họ có đang đợi ông bên ngoài và nhảy xổ vào ông, đổ tội cho ông ăn cắp chìa khóa và tẩu thoát? Caleb biết những sự việc trên có thể xảy ra, ông xem trên ti-vi nhiều rồi.

Ông chậm rãi mở cửa và nhìn ra ngoài, hành lang trống không, và quang cảnh thư viện vẫn bình thường. Ông không thấy có những tay trong đội đặc nhiệm đi lại xung quanh. Ông đợi thêm vài phút nữa rồi cũng không thấy động tĩnh gì. Cuối cùng, không tài nào đoán được điều gì đang xảy ra, ông đành đầu hàng. Ông ra về sớm và chạy vội đến nhà DeHaven. Vào phòng đọc, ông nhanh chóng chạy đến tủ sắt nhỏ phía sau bức tranh, ông cần phải xem liệu dấu vết của thư viện có nằm trong quyển sách hay không. Ông chọn mã số, và mở cửa. Một lần nữa, tất cả những tế bào trong người ông lại ngưng hoạt động, vì quyển Thánh ca không còn ở đó nữa.

Họ tụ họp tại nhà của Stone đêm đó, cùng với sự có mặt của ông bạn Reuben vừa được thả tự do. Sau khi đã chúc mừng bạn mình, Stone viết lên một mảnh giấy nhỏ, “Tôi không muốn chúng ta thảo luận ở đây”. Ông cũng liệt kê vài hướng dẫn sơ bộ trong lúc những người khác tiếp tục tán gẫu.

Ba mươi phút sau, Milton và Caleb rời khỏi nhà, hai mươi phút nữa là đến lượt Annabelle và Reuben. Một giờ sáng, đèn nhà Stone tắt, rồi sau đó ba mươi phút, Stone đang trườn mình trong đám cỏ dại mọc trong nghĩa trang, thoát ra ngoài qua một lỗ hổng ngay hàng rào sắt được che bởi một ngôi mộ to.

Sau khi đã luồn lách qua một loạt những con đường ngoằn ngoèo của thị trấn Georgetown, ông cùng các bạn gặp nhau tại một con hẻm nhỏ. Ông mở khóa cánh cửa gỗ nằm phía sau thùng rác to và ra hiệu cho mọi người vào trong. Ông khóa cửa lại, rồi mở đèn duy nhất trong phòng lên. Vì phòng không có cửa sổ cho nên mở đèn cũng không phải lo gì mấy, trong phòng là vài chiếc ghế cũ, có vẻ ọp ẹp, vài thùng gỗ, cả nhóm ngồi túm tụm lại bên nhau. Annabelle nhìn quanh căn phòng ẩm thấp, chật hẹp và nói đùa, “Ông biết cách làm cho phụ nữ vui vẻ nhỉ, thế mình mở tiệc ở đây được chứ?”

Stone gọn lỏn, “Cô báo cáo tình hình đi chứ”.

Cô ta dành ra vài phút để kể cho mọi người nghe về khám phá của mình và Caleb, rồi chuyển kính và sách cho Stone trong lúc Caleb ngồi yên bất động. Stone nhìn qua kính và thốt lên, “Cô nói đúng, nhìn giống mật mã thật”.

Annabelle thắc mắc, “Liệu ai là người tạo ra mật mã

này nhỉ?”

Stone để sách và kính xuống bàn, đến lượt Milton cầm lên và săm soi.

Reuben xoa cằm, “Liệu có liên quan gì đến vụ án mạng của Behan không? Hắn là tay tài phiệt vũ khí mà. Mà chỉ có Chúa mới biết đám tình báo đang nằm ở đâu”.

Stone gật đầu, “Điều đó hoàn toàn có khả năng, nhưng tôi nghĩ chuyện còn đi xa hơn thế nữa”. Ông kể lại những gì ông tìm ra tại Câu lạc bộ Federalist và từ cuộc nói chuyện với Dennis Warren.

“Vậy tay Albert Trent này vẫn còn làm việc cho Ủy ban Tình báo à”, Annabelle chen ngang, “Điều đó có nghĩa là gì?”

Reuben lên tiếng, “Có nghĩa là hắn có thể biết được những bí mật đáng giá, cũng như lúc tôi còn làm việc ở Cơ quan Tình báo Quốc phòng, chúng tôi lúc nào cũng họp ở điện Capitol với những thành viên tình báo và nhân viên của họ được phép tiếp cận thông tin tối mật đấy”.

“Nhưng những gián điệp lại khét tiếng vì không báo cho Quốc hội mọi chuyện mà”, Milton xen ngang, ngừng đọc sách giữa chừng, “Liệu Trent có biết giá trị những thứ hắn có thể bán đi?”

“Nên nhớ rằng, Trent đâu chỉ là nhân viên ở đó, hắn từng phục vụ cho CIA mà”.

“Cũng có khi hắn còn một số quen biết ở đó, quỷ thần ơi, vẫn còn đó, nào là NSA, NIC, cả bảng chữ cái đó chứ”. Reuben buông lời nhận xét, “Hắn cũng có thể liên minh hành động”.

“Nhưng làm sao ông có thể kết nối giữa tay gián điệp nhị trùng như Trent cho đến những mật mã trong đám sách hiếm này?”, Annabelle vừa hỏi vừa ngọ nguậy trên chiếc ghế cũ ọp ẹp, tay cô ta thoa liên tục vào phần bắp đùi đã dán băng dính và đang phải gỡ ra.

“Tôi cũng không biết nữa”, Stone thú nhận. “Chúng ta phải tìm cho ra điều gì đó về bà lão Jewell English. Nếu có thể cạy miệng bà ta, biết đâu có thể hỗ trợ thông tin ban đầu, mà chắc bà ta cũng biết chuyện về cặp mắt kính bị mất rồi nhỉ”.

“Cạy miệng bà ta ư?”, Reuben sửng sốt, “Oliver ơi, đâu thể nào đưa bà ta lên giá tra khảo, và hành hạ cho đến lúc phải nói ra”.

“Nhưng chúng ta có thể tìm đến FBI và kể cho họ nghe về quyển sách, về giả thuyết của chúng ta và để cho họ tự lo liệu”, Stone đề nghị.

“Giống như những gì anh nói, nếu chúng ta càng tạo khoảng cách, thì cho dù chúng là ai đi nữa, sự việc sẽ dễ thở hơn”.

Stone nhìn Caleb, người từ nãy giờ vẫn chưa thốt lên lời nào, và ngồi thu mình một góc, “Caleb, anh có chuyện à?”

Người thủ thư sầu não hít một hơi dài nhưng cũng chẳng nhìn ai cả. Annabelle động viên, “Anh Caleb này, tôi xin lỗi vì đã hơi thô bạo với anh hôm nay, hôm nay anh đã hành động rất tốt”. Cô ta cắn môi lại sau khi nói dối. Ông ta lắc đầu, “Không phải điều đó đâu, cô nói đúng”. “Tôi hoàn toàn không rành về những gì mà cô làm”.

“Vậy là chuyện gì?”, Stone mất kiên nhẫn.

Ông ta thở một hơi thật dài và nhìn mọi người, “Hôm nay có cảnh sát ghé qua thư viện, và họ đưa cho tôi chùm chìa khóa vào nhà của Jonathan, việc đầu tiên tôi làm là kiểm tra đám sách”. Ông ta dừng lại, liếc về phía Annabelle và ghé sát tai của Stone, “Quyển Thánh ca đã không cánh mà bay”.

Stone chết lặng trong vài giây trong lúc Milton và Reuben nhìn Caleb. “Không phải vụ quyển sách chứ”, Milton hỏi và Caleb đau khổ gật đầu.

Annabelle lên tiếng, “Này các anh, nếu đây là chuyện của nhóm các anh, thì tôi có thể ra ngoài, tôi chẳng muốn dính dáng chuyện sách vở ở đây”.

Stone đưa tay lên ngăn cô ta lại, rồi hỏi, “Tại sao lại mất nhỉ?”

“Tôi cũng chẳng biết, rõ ràng cần phải có mật mã để vào phòng sách và mở két sắt, mà cũng không thấy dấu hiệu đột nhập”.

“Còn ai khác biết mật mã?”, Reuben hỏi.

“Tôi cũng không rõ nữa”.

“Có thể là tay luật sư, ông ta có mật mã cho cả phòng sách và cửa vào. Có thể ông ta đã ghi lại trước khi cho anh biết và sau đó làm thêm chìa khóa”.

“Cũng có thể, tôi chẳng nghĩ ra điều đó. Thế còn cái tủ sắt nhỏ thì sao? Anh ta chắc không có mật mã đâu nhỉ?”

“Nếu anh nghĩ ra, thì có thể ông ta cũng vậy. Giả dụ như tay luật sư biết rõ về Jonathan, và hay đến phòng đọc tìm anh ta, thì chắc cũng có thể dễ dàng tìm ra được mật mã, hay có khi Jonathan lại đưa mật mã cho ông ta mà không đưa cho anh”.

Caleb thắc mắc, “Nhưng nếu ông ta muốn lấy quyển sách sao lại không lấy trước khi tôi tìm ra, như thế tôi đã không biết sự tồn tại của nó rồi”.

Stone bối rối, “Cũng đúng, mặc dù tôi chẳng nghĩ chuyện này có liên quan đến mấy vụ án mạng”.

Caleb rên rỉ, “Hay đấy, nhưng tay Vincent Pearl sẽ giết tôi mất nếu hắn biết việc này, hắn sắp sửa bước lên đài danh vọng tới nơi mà lại xảy ra như thế này, biết đâu hắn còn tố cáo tôi đã đánh cắp quyển sách không chừng”.

Milton ngẩng đầu lên và chen vào, “Hay là chính hắn lấy trộm nhỉ?”

“Sao được? Hắn chẳng thể vào nhà, không có chìa khóa, lẫn mật mã vào phòng sách, và hắn cũng thừa biết khó có thể bán được quyển sách nếu không có giấy tờ hợp lệ kèm theo, chẳng kiếm ra được đồng nào cả, mà có khi lại bị ở tù đấy”, Caleb giải thích.

Họ ngồi lặng im, cho đến lúc Reuben thốt lên, “Rõ ràng là tin về quyển sách không được vui vẻ gì, nhưng chúng ta cũng đừng xao lãng mục tiêu chính, đó là ngày mai phải tìm đến FBI đấy, ít nhất cũng vớt vát vài điều”.

“Thế còn bà lão Jewell English thì sao?”, Milton thắc mắc.

Caleb ngồi thẳng dậy, cảm thấy an ủi phần nào và tạm gác chuyện quyển Thánh ca qua một bên, “Nếu bà ta trở lại thư viện, tôi có thể báo cho bà ta biết tôi tìm được chiếc kính của bà ta ở quầy “Mất và Thấy”.

Reuben cảnh giác, “Nếu bà ta quả là gián điệp thì chắc giờ đã cao bay xa chạy rồi”.

“Có khi bà ta vẫn chưa biết cặp mắt kính đã bị mất, vì bà ta chỉ sử dụng chúng khi muốn đọc mật mã mà thôi, đồng nghĩa với việc chỉ mang ra sử dụng khi vào phòng đọc”.

Caleb hồ hởi, “Vậy nếu trả lại cho bà ta trước khi bà ta biết thì bà ta chẳng nghi ngờ gì cả”.

“Nhưng chúng ta cũng cần nó để đưa cho FBI chứ, tôi hy vọng khi chúng ta giải thích cho họ nghe tình huống của mình, họ có thể trả lại và bắt đầu tiến hành theo dõi bà ta”, Reuben suy tư, “rồi sau khi bà ta nhận mật mã, chuyển cho người khác, thì chúng sẽ bị tóm gọn”.

“Kế hoạch hay đấy”, Stone khen ngợi.

“Không được rồi, chúng ta chẳng thể mang sách cho FBI được”, Milton thình lình lên tiếng. Cả bọn nhìn về phía ông, trong lúc họ đang nói chuyện, ông đã quay trở lại với quyển sách và giở sách ra kiểm tra lại. Sau khi đã lật nhanh qua quyển sách một lát, ông gỡ mắt kính ra và giơ quyển sách lên, tay run lẩy bẩy.

“Sao lại không?”, Caleb nói giọng cáu gắt.

Thay vì trả lời, Milton đưa sách và cả kính cho Caleb, “Anh tự xem đi”.

Caleb đeo kính vào và giở sách ra, ông lật hết trang này sang trang khác cho đến trang cuối quyển sách, rồi đóng sập nó lại, mặt mày xám xịt vì tức giận và thất vọng.

Stone nheo mắt với vẻ quan tâm, “Chuyện gì nữa vậy?”

Caleb chậm rãi thông báo, “Tất cả những chữ cái sáng màu đã biến mất”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


Stone lập tức đeo mắt kính lên và nhìn vào sách, ngón tay ông lướt trên những chữ cái đã từng sáng màu trước đó, nhưng giờ thì cũng chỉ một màu đen nhạt nhẽo giống những chữ còn lại. Ông gấp sách lại, tháo kính ra và thở dài, “Hóa chất dùng tô sáng chữ bọn họ sử dụng chỉ trong một khoảng thời gian nhất định rồi tự bốc hơi”.

“Giống loại mực tự bay màu à?”, Milton hỏi.

“Còn tinh vi hơn cả thế ”, Stone lẩm bẩm rồi giận dữ, “Đáng lý tôi phải nghĩ ra điều này chứ”.

“Anh có biết loại hóa chất này không, Oliver?”, Đến phiên Caleb hỏi.

“Công thức này thì không, nhưng cũng có lý ở chỗ, nếu anh là tay gián điệp và kính mà lọt vào tay kẻ khác thì cũng chẳng có đủ thời gian để xem sách đâu”. Ông nhìn Caleb rồi thêm vào, “Kẻ nào đó sử dụng hóa chất này biết lúc nào bà Jewell English sẽ đến phòng sách, và đọc chúng trước khi chúng hết hiệu lực. Làm sao làm được điều đó nhỉ?”

Caleb suy tư một lát, “Chắc phải có kẻ vào phòng sách và sửa sách rồi liên lạc với bà ta, nói tên quyển sách cần thiết. Bà ta đến phòng đọc ngay và yêu cầu đúng quyển sách ấy”.

Stone nhìn bìa sách, “Có vẻ công việc đánh dấu những từ này hơi cực đấy, không nói là rất tốn thời gian”.

“Đúng là người ta ra vào phòng sách thường xuyên, nhưng cũng có vài phòng không được sử dụng thường xuyên, mặc dù vậy, nếu một nhân viên thư viện ở đó hàng giờ sẽ bị chú ý liền”.

Reuben đặt giả thuyết, “Có thể kẻ nào đó rất điêu luyện về việc này, có thể làm nhanh và chuyên nghiệp, hay dùng vài mẫu có sẵn”.

“Vậy còn sau giờ làm việc thì sao?”

Caleb có vẻ phân vân, “Trong phòng sách à? Chỉ có vài người được phép thôi, giám đốc và quản thư là hai người có khả năng, chương trình máy tính được lập trình không cho phép người lạ vào sau giờ làm việc, trừ phi đã có kế hoạch sẵn, mà không phải ngày nào cũng được đâu”.

“Vậy là DeHaven có thể đi vào phòng sách sau giờ làm việc à?”, Stone hỏi.

Caleb gật đầu, “Vâng, đúng thế. Thế anh có nghĩ ông ta là một tay trong tổ chức gián điệp không? Và đó cũng là lý do ông ta bị giết”.

Annabelle định phản đối, nhưng nghĩ lại rồi thôi.

“Tôi không chắc, Caleb ạ”. Stone đứng dậy, “Chúng ta cần phải hành động. Caleb, anh gọi cho Jewell English và bảo bà ta rằng chúng ta tìm thấy mắt kính của bà ta tại phòng đọc, sẽ mang qua nhà gửi lại cho bà ta”.

“Tối nay ư? Giờ đã 9 giờ rồi”, Caleb ngần ngừ.

“Anh phải thử gọi, vì rõ ràng chúng ta không còn nhiều thời gian, nếu bà ta có trốn đi, chúng ta cũng cần phải biết chứ”.

Annabell ngắt lời, “Oliver, điều đó có thể hơi nguy hiểm vì nếu bà ta vẫn còn ở lại và gây ra thêm vụ gì thì sao?”

“Caleb sẽ mang theo máy nghe, tôi biết Milton còn vài cái ở nhà”. Milton gật đầu, và Stone nói tiếp, “Milton đi chung với Caleb nhưng nấp phía ngoài, nếu có chuyện sẽ gọi cảnh sát”.

Caleb rên rỉ, “Lỡ có chuyện gì tổn hại tới tôi làm sao?”

“Caleb này, theo tôi biết đó là bà lão phải không?”, Stone nhắc Caleb, “Tôi nghĩ anh biết cách làm chủ tình huống, tuy vậy, tôi hình dung ra bà ta đã tẩu thoát, nếu đúng vậy, đột nhập vào nhà bà ấy và cố tìm ra chút manh mối”.

Caleb vặn vẹo tay, căng thẳng, “Nhưng lỡ bà ta chưa đi đâu thì sao? Rồi lỡ có vài tay vạm vỡ đang đợi tôi ở đấy khi tôi đến thì sao?”

Stone nhún vai, “Thì xem như anh không may vậy”.

Ông thủ thư phát khùng”, Không may à? Anh nói thì dễ quá, anh nói cho tôi biết anh làm gì trong lúc tôi liều mạng vậy?”

“Đột nhập nhà Albert Trent”, ông nhìn về phía Annabelle. “Cô có tham gia không?”

“Dĩ nhiên rồi”, Annabelle cười lớn.

“Còn tôi, Oliver?”. Reuben thiểu não, “Tôi nghĩ tôi vẫn là bạn chí cốt của anh chứ”.

Stone lắc đầu, “Anh đã bị bắt rồi còn thuộc dạng tình nghi nữa, nên chúng ta không nên liều vậy, anh phải ngưng một ít lâu thôi”.

“Hay đấy”, Reuben lẩm bẩm và vỗ đùi giận dữ, “Có kẻ hưởng hết trò vui”.

Caleb có vẻ muốn vặn cổ ông ta vì câu nói đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


Caleb dừng chiếc Nova với tiếng bô xe vẫn còn lục khục tại ngõ cụt và tắt máy, ông nhìn Milton với ánh mắt căng thẳng. Bạn của ông trong trang phục đen, mái tóc dài được túm gọn vào mũ len và cả mặt của Milton cũng được bôi đen nốt.

“Chúa ơi, anh nhìn giống diễn viên chính trong phim “Chúng tôi là tội phạm” quá”.

“Đây chỉ là loại trang phục và ngụy trang theo dõi thôi, còn cái máy nghe của anh sao rồi?”

Caled chạm vào phía trong tay áo, nơi thiết bị đã được gắn sẵn sàng, ngoài ra, ông cũng thủ sẵn bộ cung cấp điện cho máy đeo quanh eo. “Cái máy quỷ quái làm tôi ngứa ngáy trong lúc thứ đeo ngay hông này chật đến nỗi tôi chẳng thở được luôn”.

“Có lẽ vì anh đang căng thẳng đấy thôi”, Milton an ủi.

Caleb liếc ông ta, “Anh nghĩ vậy sao?”. Ông trườn người ra khỏi xe, “Này bấm sẵn số 911 ở phím nhanh của anh nhé, tay trộm kia”.

“Rõ”, Milton nhanh chóng trả lời, rồi lôi ra một cặp ống nhòm dùng trong đêm quan sát khu vực xung quanh, ông cũng thủ sẵn luôn máy chụp hình siêu tốc và cả một khẩu súng điện.

Bà lão Jewell English trả lời điện thoại của Caleb và có vẻ rất vui mừng vì ông đã tìm hộ được kính. Buổi tối cũng không sao, có điều hơi trễ. “Tôi vẫn chưa ngủ đâu”, bà ta thủ thỉ với Caleb qua điện thoại, “Nhưng mà tôi có thể mặc áo ngủ đấy nhé”, bà ta cất giọng mè nheo.

“Hay đấy”, giọng Caleb lạnh băng.

Trong lúc đi về phía nhà bà lão, ông tiện thể quan sát những căn còn lại xung quanh. Tất cả đều là những căn nhà bằng gạch ngói cũ kỹ với khoảnh sân nhỏ phía trước và gian trong tối om om. Ông tự hít thở sâu vài lần, rồi lẩm bẩm, “Bà ta là một bà già vừa mất kính, một bà già làm mất kính. Và một bà già làm điệp viên chuyên nghiệp, với vài gã bặm trợn đợi siết cổ mình đây”. Ông liếc nhìn về phía xe, tuy không thấy Milton nhưng anh nghĩ có lẽ tay đồng bọn của mình đang bận chụp vài tấm hình của chú chim nào đó trong bụi rậm.

Đèn trong nhà bà Jewell vẫn còn sáng, ông nhìn thấy rèm cửa được cột gọn gàng qua cửa sổ và qua tấm kính lớn trong phòng khách, ông thấy rõ mấy món đồ trang trí, đồ cổ để ngay trên bệ lò sưởi. Ông không thấy xe hơi để trong ga-ra xe, có thể bà ta không lái xe nữa, hoặc xe đang được tu sửa ở tiệm. Bãi cỏ được cắt tỉa gọn ghẽ và hai hàng hoa hồng cao làm rào chắn trước nhà. Ông ấn chuông rồi đợi, không ai ra mở cửa cả. Ông ấn chuông lần nữa, vẫn yên ắng, không nghe tiếng bước chân. Ông nhìn quanh, con đường thật vắng vẻ, và chẳng phải trong phim người ta vẫn hay bảo, mọi thứ trở nên thật yên lặng, trước khi bạn bị bắn, đâm hay ăn thịt sao.

Ông vừa gọi cho bà ta trước đó khoảng một giờ, trong thời gian đó, chuyện gì đã xảy ra? Ông nghe thấy tiếng chuông reo, nhưng có lẽ bà ta không nghe thấy. Ông gõ mạnh cửa. “Bà Jewell?”, Ông gọi tên bà ta lần nữa, to hơn. Tiếng chó sủa đâu đó làm ông giật mình, nhưng không phải vọng ra từ trong nhà, mà là nhà hàng xóm. Ông gõ mạnh tay hơn, và thình lình cửa bật mở.

Ông quay lại, tính chạy ra xa, không nên bước vào nhà khi cánh cửa tự mở ra như thế, và âm thanh kế tiếp vọng tới tai ông càng làm ông muốn rụng tim ra ngoài.

“Caleb này?”

Ông hoảng hồn, nắm chặt tay vịn phía hành lang ngoài cửa, suýt nữa thì nhảy vào bụi rậm trốn.

“Caleb!” tiếng nói lại vang lên khẩn khoản hơn.

“Cái gì? Ai vậy? Ôi lạy Chúa!”, ông đảo mắt xung quanh tìm ra kẻ đang gọi tên ông, chân ông gần như không đứng vững trên nền đất ẩm ướt, ông cảm thấy chao đảo, và chỉ muốn nôn mửa.

“Là tôi mà, Milton đây”.

Caleb cúi người, tay chống vào đùi để cố không nôn thốc nôn tháo vào đám hoa hồng trước cửa. “Milton à?”

“Vâng”.

“Anh đang ở đâu vậy?”, Caleb rít lên.

“Tôi vẫn còn trong xe, tôi nói chuyện với anh qua máy nghe, ngoài công dụng là thiết bị theo dõi, nó còn có tính năng liên lạc nữa đấy”.

“Sao anh chẳng cho tôi biết cái quái gì vậy?”

“Có mà, chắc anh quên đấy, tôi nghĩ anh có vẻ căng thẳng”.

“Anh nghe tôi rõ chứ?”, Caleb nghiến răng.

“Rõ, rất rõ”.

Ngay sau đó là một tràng những ngôn ngữ mà người thủ thư trong cơn giận dữ có thể khiến cho tay nhạc ráp với những lời tục tĩu nhất cũng nghiêng mũ cúi chào. Sau khi bùng phát, cả hai cùng giữ im lặng và rồi Milton với giọng hơi kinh ngạc lên tiếng, “Tôi biết anh không hài lòng”.

“Đúng thế!”, Caleb hít một hơi dài và cố giữ cho thức ăn không tuôn khỏi bao tử. Ông dần đứng dậy và vươn vai, dù tim vẫn đánh lô tô trong ngực. Ông tự hứa với lòng nếu như ông đột tử vì đứt mạch máu não, ông hứa sẽ ám tên kỹ thuật kia mỗi phút mỗi giây trong cuộc đời hắn.

“Rồi đó, bà ta không trả lời. Tôi vừa gõ cửa và nó tự mở. Anh nghĩ tôi nên làm gì?”

“Nếu là tôi, tôi quay ra ngay”, Milton trả lời nhanh.

“Tôi cũng mong anh nói thế”. Caleb quay ra bậc thang, không dám quay đầu lại vì sợ lỡ có cái gì đó nhảy xổ vào ông. Thình lình ông dừng lại, lỡ như bà ta đang nằm bất động trong phòng tắm, bị gãy xương hay là bị nhồi máu cơ tim thì sao? Cho dù bằng chứng có ra sao, trong lòng Caleb vẫn phần nào không tin rằng bà lão tử tế kia lại có liên quan tới đám gián điệp. Mà nếu có đi nữa, cũng chỉ là bị người ta lừa thôi.

“Caleb, anh quay ra chưa?”

“Chưa”, ông đáp, “Tôi vẫn còn đang suy nghĩ”.

“Suy nghĩ về điều gì?”

“Liệu tôi có nên vào và kiểm tra xem bà ấy có sao không?”

“Anh có muốn tôi đi chung với anh không?”

Ông ngần ngừ, rõ ràng Milton có súng điện, nhưng nếu bà Jewell thật là gián điệp và có dọa họ bằng một con dao phay đi nữa, họ cũng có thể hạ gục bà lão mà.

“Không cần, anh ở yên đấy. Tôi nghĩ chẳng có chuyện gì đâu”. Caleb mở cửa ra và đi vào trong. Phòng khách trống trải và cả nhà bếp cũng thế, trên bếp vẫn còn một cái chảo và vài lát hành và món gì đó trông giống thịt bò, sực nức mùi trong gian bếp. Có một cái đĩa, cốc và dĩa trong chậu rửa bát, nhưng chưa rửa. Trong lúc quay ra phòng khách, ông với tay lấy một dụng cụ đựng nến bằng đồng làm vũ khí và chậm chạp di chuyển xuống sảnh. Ông tìm đến phòng tắm trước, ghé mắt vào trong, bàn cầu trống không, cửa nhà tắm vẫn mở, không có ai nằm trong phòng tắm, chẳng có máu me trong bồn tắm, ông không nhìn vào gương tủ thuốc, vì ông không muốn nhìn thấy gương mặt kinh hãi của mình trong gương.

Phòng ngủ đầu tiên trống rỗng, tủ quần áo chứa đầy khăn tắm và ga trải giường. Chỉ còn lại một phòng, giơ cao đồ cắm nến trên đầu, và dùng chân đẩy cửa ra. Bên trong tối om om, phải mất một lát sau ông mới quen dần với ánh sáng trong phòng, ông cảm thấy hồi hộp vì ngay giữa giường là một thứ gì đó khá to.

Ông thì thầm vào máy nghe, “Có ai đó đang trên giường, nhưng che mặt lại”.

“Bà ta chết rồi à?”, Milton hỏi ngược lại.

“Tôi không biết, nhưng sao lại che mặt khi ngủ nhỉ”.

“Tôi có nên gọi cảnh sát không?”

“Đợi một chút đã”.

Có một cái tủ nhỏ trong phòng, cửa he hé, Caleb thận trọng đến gần, sẵn sàng dùng đồ cắm nến, ông lại dùng chân đá cửa mở và nhảy lùi ra sau, nhưng bên trong chỉ có giá treo đồ, không thấy dấu tích của hung thủ.

Ông quay lại phía giường, tim đập nhanh hơn, và đang tự hỏi liệu Milton có đang gọi xe cứu thương cho mình. Ông nhìn xuống bàn tay run rẩy và tự trấn an, “Được mà, được mà, xác chết chẳng làm hại mình đâu”. Nhưng trong thâm tâm ông không muốn nhìn thấy bà ta như thế, không muốn tí nào. Thình lình ông chợt nhớ ra một chuyện, nếu họ giết bà ta, ông cũng có phần trách nhiệm vì đã lấy kính của bà ta cũng như đã tiếp cận bà ta. Ý nghĩ này nghe thì có vẻ đang buồn nhưng lại phần nào giúp anh bình tĩnh hơn.

“Tôi xin lỗi nhé bà Jewell, cho dù bà có là gián điệp đi nữa”, ông lẩm bẩm trong miệng.

Ông nắm ga trải giường và kéo mạnh xuống.

Một xác chết đàn ông trừng trừng nhìn Caleb, xác chết của Norman Janflow, độc giả thân thuộc của nhà văn Hemingway, kẻ thù của bà lão Jewell English trong phòng đọc khu Sách Quý Hiếm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


Albert Trent sống trong một căn nhà cũ kỹ với vỉa hè rộng ở vùng nông thôn xa xôi tại hạt Fairfax về hướng tây.

“Chắc hắn cũng tốn hàng giờ để đi làm tại D.C đấy”, Stone để ý trong lúc ông quan sát nhà hắn qua ống nhòm từ phía sau một tán cây rộng. Annabelle vận trang phục quần jeans đen, giầy thể thao màu sẫm, áo khoác trùm đầu đen, ngồi thu lu bên cạnh Stone. Stone mang theo một ba lô nhỏ.

“Căn nhà có người ở không?”, cô ta hỏi.

Ông lắc đầu, “Tôi không nhìn thấy đèn từ chỗ này và ga-ra không mở, nên chẳng thể nói là có xe đậu bên trong hay không”.

“Một gã làm trong lĩnh vực tình báo như hắn chắc có cài hệ thống báo động”.

Stone gật đầu, “Điều đó hiển nhiên rồi, giờ chúng ta sẽ vô hiệu hóa hệ thống đó rồi đột nhập vào trong”.

“Anh biết làm cách nào à?”

“Như tôi từng nói với Reuben khi anh ta hỏi tôi câu này, cứ thử sẽ biết mà”.

Chẳng có ngôi nhà nào che chắn họ khi họ đi về hướng nhà Albert, nhưng cuối cùng họ cũng tìm cách đến phía sau nhà mà không bị phát hiện. Để làm được điều đó, họ phải vận dụng đủ kỹ năng, bò trườn, đi bằng đầu gối và cúi lom khom theo con dốc cách nhà hai mươi thước. Họ dừng lại, và Stone lại thám thính lần nữa. Căn nhà có tầng hầm với cửa thông ra sân và nối với bậc thang gỗ đã qua xử lý. Phía sau cũng tối om om giống phía trước. Không có đèn đường, và chỉ một ít ánh sáng hắt ra đâu đó nên ống nhòm dùng trong đêm của Stone rất thích hợp vì ông có thể quan sát mọi thứ thông qua lớp kính xanh mờ của nó.

“Tôi chẳng thấy có động tĩnh gì trong đó cả, nhưng cứ thử gọi điện xem sao”, ông nhắc Annabelle.

Milton tìm ra được số điện thoại nhà Trent trên mạng, một nơi còn nguy hiểm cho sự riêng tư của nước Mỹ hơn điều mà Cơ quan An ninh Quốc gia từng nghĩ đến. Annabelle dùng điện thoại riêng của mình để gọi, sau vài tiếng đổ chuông thì giọng hộp thư thoại vang lên, và họ cùng lắng nghe tiếng một người đàn ông hướng dẫn họ để lại lời nhắn.

“Tay gián điệp của chúng ta lại ra ngoài trong đêm giá buốt thế này”, cô ta thốt lên. “Mà anh có chuẩn bị đủ đồ nghề không?”

“Tôi không có súng, cô thì sao?”

Cô ta lắc đầu, “Tôi không thích chuyện đó lắm, tôi thích dùng trí óc hơn súng đạn”.

“Đúng thế, đôi khi súng ống không giải quyết được

vấn đề”.

“Ông có vẻ kinh nghiệm về điều này”.

“Bây giờ đâu phải lúc nói chuyện đời đâu”.

“Tôi biết thế, chỉ mong có dịp nói điều đó”.

“Tôi không nghĩ cô sẽ ở lại sau tất cả chuyện này”.

“Tôi còn không nghĩ mình sẽ ở lại vì chuyện này nữa là. Không ai đoán được chữ ngờ cả”.

“Được rồi, hộp điện thoại được treo ngay móng tường dưới cầu thang, đi thôi, nhớ cẩn thận”.

Khi họ trườn người về phía trước, họ nghe thấy tiếng ngựa hí văng vẳng đâu đó. Đó là một khu có nhiều nông trang nhỏ, nhưng có vẻ đang phát triển khá nhanh dưới sự bành trướng của cái gọi là ‘guồng máy nhà cửa’ từ tiểu bang Virginia phía bắc, sự xâm nhập của căn hộ gia đình, căn hộ chung cư, nhà phố với tốc độ chóng mặt. Trên đường đến nhà Trent, họ có dịp ngắm nhiều chuồng ngựa, những ụ cỏ khô cao ngất ngưỡng, khu chăn dắt và cả những chú ngựa béo tốt đang thong dong gặm cỏ bên đường. Chất thải của chúng nằm rải rác trên đường như nhấn mạnh thêm sự hiện diện này, và có lúc Stone suýt dẫm phải khi bước ra khỏi chiếc xe mà Annabelle đã thuê.

Họ đến gần hộp điện thoại, Stone mất vài phút để xem xét hệ thống báo động và vô hiệu hóa nó. Sau đó, trong lúc gắn lại đám dây điện lằng nhằng, ông bảo, “Chúng ta sẽ đi vào từ cửa sổ đó, chắc là cánh cửa có chốt khoá rồi, tôi có mang theo dụng cụ bẻ khóa, nhưng thử chỗ nào dễ dàng nhất đấy”.

Cánh cửa sổ đầu tiên không phải là nơi dễ dàng, vì nó bị đóng đinh chặt trước đó. Họ tiến về phía sau căn nhà và cuối cùng cũng tìm ra được cửa sổ chỉ gài chốt bên trong. Stone cắt một khoanh kính tròn, thò tay vào trong, gạt chốt và mở cửa. Một phút sau đó, họ đã ở trong nhà, và đi về hướng một gian bếp, Stone đi đầu trong tay cầm một đèn pin dò đường.

“Chỗ này cũng có vẻ đẹp đấy, dù chủ nhà có vẻ là tay thích sự tối giản”. Annabelle nhận xét dựa trên khiếu trang trí nội thất thanh đạm của Trent: chỉ một cái bàn, và một cái ghế, còn nhà bếp thì hầu như không có gì cả.

Stone gật gù, “Có lẽ hắn sống độc thân, và cũng ăn ngoài thôi”.

“Để tìm thử xem hắn có văn phòng ở đâu đó không, thường mấy tay như hắn lúc nào cũng mang việc về nhà cả”.

Họ tìm thấy văn phòng, nhưng cũng trống trải như những nơi khác trong nhà, không thấy giấy tờ, tài liệu gì cả. Có vài tấm hình đặt trên đầu tủ phía sau bàn làm việc, Stone chỉ vào một người đàn ông to lớn, râu ria rậm rạp, khuôn mặt nhìn phúc hậu, tóc bạc phơ, lông mày rậm đang đứng cạnh một người nhỏ thó, dáng vẻ yếu đuối, đầu hói nhưng lại có ánh mắt lanh lợi và tinh ranh.

Stone kết luận, “Người to lớn là Bob Bradley, còn tay kia là Trent đấy”.

“Hắn nhìn giống chú chồn nhỏ vậy”. Cô ta thình lình ngưng lại, “Tiếng gì rung vậy?”

“Chết tiệt, đó là điện thoại của tôi”, Stone giở điện thoại ra, nhìn màn hình, “Caleb đấy, tôi chẳng biết liệu họ đã tìm thấy gì”.

Ông chẳng có cơ hội biết đó là gì, vì ngay lúc đó, một cú đánh mạnh vào đầu khiến ông bất tỉnh ngay lập tức. Annabelle thét lên trước khi cũng bị một miếng khăn ướt tẩm thuốc mê che miệng. Trước khi bị ngấm thuốc mê, ánh mắt cô ta quét nhanh qua tấm gương treo ngay bức tường đối diện và kịp thấy hai gã đàn ông mang mặt nạ đen, một tên đang đứng giữ chặt cô ta từ phía sau, tên kia đang đứng ngay chỗ Stone. Cô ta cũng nhìn thấy cả người thứ ba, đó là gã trong ảnh, Albert Trent, và hắn đang mỉm cười không biết Annabelle nhìn thấy hình ảnh của hắn trong gương. Rồi chỉ thoáng chốc sau đó, cô nàng lịm đi.

Theo lời chỉ dẫn của Roger Seagraves, một trong hai tên tháo chiếc đồng hồ ra khỏi tay Annabelle. Seagraves đã có áo sơ mi của Stone trước đó, dù hắn không tự tay giết họ, nhưng hắn chỉ đạo cái chết của họ và điều đó hoàn toàn hợp lệ với quy tắc sưu tập của hắn. Hắn mong đợi cái ngày này đã lâu, khi mà hắn có thể sát hại một tay trong nhóm 666, và hắn dự định dành cho vật phẩm này một nơi danh giá trong bộ sưu tập của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


Annabelle dần mở mắt ra tỉnh lại, cô ta thấy thấp thoáng hai tên đang lúi húi làm việc. Một tên đứng trên thang và tên còn lại đưa đồ cho hắn. Cô ta đang bị trói chặt tay chân và nằm trên nền đất lạnh lẽo. Ngay phía đối diện cô ta là Stone, mắt vẫn nhắm nghiền, nhưng sau đó ông cũng chớp chớp mắt dần tỉnh lại. Khi nhìn thấy Annabelle, ông hướng mắt về hai tên kia. Tuy họ không bị bịt miệng, nhưng cả hai không muốn lên tiếng tránh để hai tên kia biết họ đã tỉnh lại.

Khi nhìn quanh phòng, Stone cảm thấy lo lắng, vì họ đang bị giam trong kho hàng của Công ty Cứu hoả. Ông hé mắt nhìn vào mấy cái nhãn trên xilanh khí mà hai tên thợ đang làm việc. Xilanh được treo lơ lửng giữa nhà nên phải dùng thang mới với tới được.

“Các-bon đi-ô-xít, 5000 ppm”, ông dùng miệng miêu tả mà không nói ra tiếng cho Annabelle hiểu.

Vậy là bọn chúng tính giết hại họ theo cách đã làm với DeHaven.

Stone hốt hoảng nhìn xung quanh tìm kiếm thứ gì đấy, bất cứ thứ gì ông có thể dùng để cắt dây trói. Họ chẳng có nhiều thời gian vì sau khi xong việc, bọn chúng bỏ đi cũng là lúc khí gas tuôn ra từ xilanh và hủy hết khí ôxy trong không khí, rồi họ sẽ bị chết ngạt. Ông hình dung ra cảnh đó khi mấy gã kia xong việc.

“Chắc vậy là được rồi”, một tên thốt lên rồi leo xuống.

Khi hắn bước vào chỗ sáng, Stone nhận ra hắn, đó là tên trưởng nhóm đã ra lệnh tháo gỡ những xilanh khí khỏi thư viện. Khi chúng liếc về phía họ, lập tức Stone nhắm nghiền mắt, Annabelle cũng nhanh trí làm theo.

“Được rồi đấy”, tên trưởng nhóm kết luận, “Bây giờ đừng làm mất thời gian nữa, khí gas sắp tuôn ra trong ba phút nữa, chúng ta đợi nó tan hết rồi hốt chúng ra khỏi đây”.

“Chúng ta quẳng xác chúng ở đâu đây?”, tên còn lại hỏi.

“Một nơi xa xăm nào đó, nhưng mà người ta có tìm ra chúng cũng chẳng sao, vì đám cảnh sát làm sao mà biết tại sao chúng chết, cách này thế mà hay”.

Chúng khiêng thang ra khỏi phòng. Ngay khi hai tên vừa đóng sập cửa, và khóa lại thì Stone lập tức ngồi bật dậy, lê thân mình về bàn dụng cụ. Ông tự nâng người lên, hất một con dao đa năng rớt xuống đất, rồi quay ra chỗ Annabelle. Ông thì thầm với cô ta, “Nhanh lên, cầm lấy dao và cắt dây thừng trói tôi. Nhanh lên nhé, chúng ta chỉ có ba phút thôi đấy”.

Họ nằm quay lưng vào nhau trong lúc Annabelle cố gắng cưa dây bằng dao trong tư thế hoàn toàn khó khăn, thậm chí có lúc cô ta cắt nhầm cả vào tay ông khiến ông phải rên thành tiếng, nhưng ông vẫn luôn miệng thúc giục, “Nhanh nữa, đừng lo, cố lên!”. Mắt ông không rời khỏi xilanh khí lơ lửng trên đầu, ở chỗ ông đang ngồi có thể nhìn rõ sự việc hơn bên Annabelle, và cũng vì thế ông thấy đồng hồ đếm giờ trên thân xilanh đang đếm ngược thật nhanh.

Annabelle dùng tất cả sức lực để thực hiện việc cắt dây, mồ hôi đầm đìa trong lúc cô ta có cảm giác tay đang sắp rơi ra ngoài. Nhưng cuối cùng công sức của cô ta cũng được đền bù, dây thừng của Stone cũng đứt, ông nhanh chóng tháo dây trói ở chân rồi đứng dậy. Họ chỉ còn một phút. Ông không đủ thời gian cho xilanh khí kia, vì nó quá cao mà dù có trèo lên và cố dừng đồng hồ thì hai tên ngoài kia cũng sẽ biết có chuyện xảy ra khi không nghe thấy khí gas bị xì. Ông nhanh chóng tóm lấy bình khí ôxy và mặt nạ rồi chạy về phía Annabelle. Họ chỉ còn ba mươi giây.

Ông đẩy cô ta về phía góc khuất sau đống thiết bị, rồi dùng vải che phủ cả hai, đầu ông kề sát bên cô ta trong lúc đeo mặt nạ ôxy cho cả hai, vặn công tắc. Một tiếng xì nhỏ và cái khí lạnh phả vào mặt họ cho biết mặt nạ hoạt động tốt. Ngay lúc đó, họ nghe thấy tiếng nổ bụp, và tiếng róc rách của nước được bơm. Mười giây sau, khí cacbonnic tràn ra nhanh và mạnh tràn ngập cả gian phòng. Khi hiện tượng “đóng tuyết” xuất hiện, nhiệt độ tụt xuống kinh hoàng, cả Stone lẫn Annabelle liên tục run lẩy bẩy. Cả hai không ngừng thở khí từ bình khí ôxy, tuy vậy, Stone vẫn có cái cảm giác ngạt thở của bầu khí quyển ở nơi xa xăm nào đó trên mặt trăng, thay vì trái đất. Cái khí ấy làm họ nghẹt thở, làm họ bấn loạn nhưng Stone vẫn cố gắng giữ chặt mặt nạ trong lúc Annabelle ghì chặt lấy ông.

Dù được cung cấp khí ôxy, đầu óc của Stone cũng dần trở nên mụ mẫm. Ông có cảm giác mình đang ngồi trên một chiếc máy bay phản lực trên trời cao, tốc độ của nó càng lúc càng nhanh, như muốn cuốn phăng đầu ông đi. Ông có thể cảm nhận được sự sợ hãi tột đỉnh mà Jonathan đã phải trải qua, cái lúc mà không khí không còn để thở.

Thình lình, mọi thứ ngừng lại cứ như lúc nó bắt đầu. Annabelle khẽ vươn tay tháo mặt nạ ra nhưng Stone cản lại. Ông thì thào, “Nồng độ ôxy vẫn còn thấp lắm, đợi một chút”. Tiếng quạt thông gió vang lên, thời gian như chầm chậm trôi qua. Và với mỗi giây đồng hồ trôi qua, Stone vẫn dán chặt mắt nơi cửa ra vào. Cuối cùng, ông tháo mặt nạ của mình ra, nhưng vẫn để mặt nạ cho Annabelle. Ông thận trọng hít một hơi rồi tiếp tục thêm hơi nữa. Ông gỡ miếng vải trùm ra, khiêng cô ta lên, đặt cô ta tại chỗ cũ, rồi ông rón rén cầm một bình khí ôxy đã cạn đứng nép sau cánh cửa.

Ông chẳng phải đợi lâu vì chỉ một phút sau cửa phòng bật mở, và tên đầu tiên bước vào. Stone đợi thêm một lát, đến tên thứ hai xuất hiện, Stone lập tức dùng bình khí đập mạnh vào đầu hắn khiến hắn vỡ sọ mà chết lập tức. Tên còn lại lập tức rút súng ra tự vệ nhưng cũng bị một bình ôxy khác bay thẳng vào mắt, làm hắn chúi nhào xuống bàn để dụng cụ, đè lên chiếc mỏ cặp đang dựng sẵn trên bàn. Hắn hét lên khi bị đâm từ sau trong lúc khuôn mặt hắn cũng bắt đầu tứa máu. Stone lại giơ bình khí lên lần nữa thẳng vào đỉnh đầu hắn, và hắn nằm đơ ngay trên sàn. Sau đó, ông quẳng bình xuống đất, nhanh chóng chạy đến bên Annabelle, tháo dây trói cho cô ta. Cô ta run rẩy đứng dậy, nhìn hai thân thể bất động, rồi thốt lên.

“Ông nhớ nhắc tôi đừng làm ông nổi giận nhé”, mặt cô ta vẫn còn xanh xám.

“Đi thôi, trước khi có kẻ khác đến”.

Họ lao nhanh ra cửa, trèo qua hàng rào, ra đường chính. Nhưng chỉ khoảng vài phút sau, họ phải dừng lại, thở dốc, trong lúc mồ hôi túa ra nhễ nhại trên lớp da cáu bẩn. Họ hít lấy hít để cái không khí trong lành bên ngoài và đi thêm một đoạn nữa trước khi đôi chân mỏi nhừ. Họ dừng lại, tựa lưng vào bức tường gạch của một nhà kho bên đường.

“Chúng lấy điện thoại của tôi rồi”, Stone nói trong lúc tranh thủ hít thêm khí ôxy, “Mà tôi thật sự không còn đủ sức cho mấy chuyện này nữa”.

“Điện thoại của tôi cũng mất, mà tôi cũng mệt nữa”, cô ta trả lời trong hơi thở ngắt quãng. “Oliver này, tôi nhìn thấy Trent trong căn nhà đó, qua gương phản chiếu đấy”.

“Cô có chắc không?”

Cô ta gật đầu, “Chắc chắn là hắn mà”.

Stone liếc nhìn xung quanh, “Giờ chúng ta phải tìm cách liên lạc với Milton hay Caleb ngay”.

“Sau những gì đã xảy ra à, liệu họ có chịu được không?”

“Tôi cũng không biết”, rồi ông lảo đảo đứng dậy không quên chìa tay đỡ Annabelle dậy.

Họ tiếp tục đi cho đến lúc cô ta dừng lại và hỏi nhỏ, “Có phải Jonathan cũng chết theo cách đó?”

Ông ngừng lại, quay nhìn cô ta. “Đúng vậy. Tôi xin lỗi”.

Cô ta co người lại, mắt rướm lệ. “Lạy Chúa”, giọng cô ta run rẩy.

“Vâng, lạy Chúa”, Stone cất giọng an ủi, “Susan này, đáng lý tôi không nên để cô tham gia vào chuyện này”.

“Thứ nhất tên tôi không phải Susan”.

“Được thôi”.

“Thứ hai, ông nói cho tôi biết tên thật của ông, rồi tôi sẽ nói tên thật của tôi”.

Stone ngần ngừ trong giây lát, “Franklin nhưng bạn bè hay gọi tôi là Frank. Còn cô?”

“Eleanor, nhưng bạn gọi là Ellie thôi”.

“Franklin và Eleanor à?”, giọng ông bông đùa.

“Ông khơi chuyện mà”. Cô ta cười mà mắt vẫn đẫm lệ, và rồi cả người cô ta run bần bật. “Ôi, Jonathan”.

Stone với nắm vai cô ta, giữ cô ta khỏi ngã.

“Tôi không thể tin được chuyện này, tôi không bao giờ có thể gặp lại ông ấy”.

“Miễn sao cô còn quan tâm ông ấy là tốt rồi”.

“Tôi chẳng biết mình đang làm gì nữa”.

“Có thể hiểu được mà”.

“Tôi sẽ ổn thôi, tin tôi đi mà, có lúc tôi còn tệ hơn thế này nhiều”. Khi vừa nói xong những điều này, cô ta bật khóc. Stone kéo Annabelle gần hơn, và dìu cô ta ngồi xuống, nắm chặt tay cô ta để mặc cho nước mắt ướt đẫm áo của ông.

Năm phút sau, cô ta ngừng khóc, dù thỉnh thoảng vẫn nấc lên vài tiếng. Đẩy người ra khỏi ông, cô ta lấy tay áo lau đôi mắt sưng húp và chùi mũi.

Cô ta lên tiếng, “Tôi xin lỗi, tôi chưa bao giờ bị mất kiểm soát như vậy cả”.

“Khóc vì mất người yêu đâu có gì là bất thường”.

“Chỉ là vì không... ý tôi là... ông chưa bao giờ...”, cô ta cố tìm cách giải thích.

Stone đưa tay che miệng cô ta lại, thốt lên, “Tên thật của tôi là John Carr”.

Annabelle lặng đi một lát rồi thở phào, “Còn tôi là Annebelle Conroy, rất vui được quen ông, John”. Cô ta hít một hơi thật sâu, “Đây chẳng phải là điều tôi hay làm đâu”.

“Dùng tên thật của cô à? Tôi hiểu mà, tôi đã nói tên cho kẻ muốn giết tôi lúc trước”.

Ông đứng dậy, kéo cô ta theo. Khi ông chuẩn bị quay đi, Annabelle nắm khuỷu tay ông.

“Cảm ơn ông John... vì tất cả”.

Ông có vẻ bối rối trước thành ý của cô ta, nhưng cô ta làm ra vẻ không để ý và tiếp, “Giờ chúng ta phải xem liệu Caleb và Milton có cần giúp không?”

Và họ tiếp tục cuộc hành trình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


Annabelle và Stone gọi điện thoại cho Caleb từ dịch vụ công cộng. Ông ta vẫn chưa hoàn hồn sau vụ phát hiện ra xác chết của ông lão Norman Janklow nhưng vẫn muốn kể lại những chuyện đã xảy ra. Sau đó, Stone gọi Reuben, và họ hẹn nhau gặp mặt tại ngôi nhà an toàn của Stone. Một tiếng sau đó, mọi người đã đông đủ, lắng nghe chuyện của Stone và Annabelle.

“Mẹ nó”, Reuben chửi đổng, “Cũng may anh nhớ đến cái bình ôxy”.

Caleb và Milton kể tiếp chuyện của họ.

Caleb thêm vào, “Chúng tôi gọi cho cảnh sát bằng thẻ điện thoại, chỉ mất có một tiếng để tìm ra một trạm thôi à, mà ôi trời, tôi nhớ ra là mình đã cầm cái đồ cắm nến, thế nào dấu vân tay cũng còn trên đó”.

Stone hỏi thêm, “Thế anh còn chạm thứ gì khác không?”

Caleb lo lắng, “Cả thanh vịn của cầu thang bên ngoài”, đoạn nhìn sang Milton, “Bởi vì anh bạn yêu quý của tôi góp phần làm tôi giật thót tim. Tôi cũng chạm vào vài thứ trong nhà, nhưng mà không nhớ rõ lắm, thật tình tôi chỉ muốn xóa hết mọi thứ trong đầu”.

“Anh cũng có dấu vân tay tại cơ sở dữ liệu của liên bang chứ?”, Stone tiếp tục.

“Dĩ nhiền rồi”, Caleb thở dài, “Đây không phải là lần đầu cảnh sát mò đến tôi, nhưng tôi tự hỏi liệu có là lần cuối”.

Reuben chen ngang, “Ông lão Norman Janklow có liên quan gì chuyện này nhỉ?”

Stone trả lời, “Janklow cũng có thể là gián điệp, giống bà English. Suy ra sách ông ta hay đọc cũng có mật mã trên đó”.

Caleb suy luận, “Vậy họ chỉ giả vờ ghét nhau để ngụy trang thôi sao”.

Reuben vẫn tiếp tục, “Nhưng sao lại giết Janklow?”

“Nếu ông ta cũng là gián điệp, khi chúng ta tìm ra sự thật về bà Jewell thì chắc chắn sự việc sẽ bại lộ, cho nên chúng phải tìm cách giải quyết êm đẹp chuyện này”, Annabelle lên tiếng, “Có thể chúng đã đưa bà ta đi nơi khác, còn để lại xác Janklow để làm rối tung sự việc”.

“Vậy thì đúng là chúng đã thành công”, Caleb chỉ rõ.

“Chúng ta phải báo cảnh sát thôi”, Milton hồ hởi.

“Và nói gì với họ?” Stone cảnh tỉnh ông ta, “Dấu vết trong quyển sách cũng mất đi rồi, nếu chúng ta báo tối nay xém bị giết khác gì tự nhận đã đột nhập vào nhà Trent. Tôi nghĩ có lẽ hắn đã báo cảnh sát về vụ đột nhập rồi đấy”.

Ông nhìn Annabelle. “Mà cho dù cô có nhìn thấy hắn đi nữa, chỉ là việc cô chống lại hắn. Tôi không gọi cho cảnh sát báo về việc xảy ra tại Công ty Cứu hỏa bởi vì tôi chắc chắn rằng khi họ đến đó, xác hai tên kia đã biến mất”. Quay sang Caleb, Stone tiếp tục, “Caleb đến nhà bà Jewell nên chắc chắn dấu vân tay anh ta còn đó, nếu giờ báo cảnh sát, anh ta sẽ bị tình nghi ngay lập tức, thêm vào chuyện, chính quyền từng nhìn thấy Caleb và Reuben trong hồ sơ của mình, chắc gì đám cảnh sát sẽ tin”.

“Quỷ quái thật”, đó là câu nhận xét duy nhất của Reuben cho cả câu chuyện.

Annabelle lên tiếng, “Thế giờ chúng ta làm gì, ngồi đợi chúng đến à?”

Stone lắc đầu, “Không phải vậy, ngày mai Caleb vẫn đi làm bình thường như không có gì xảy ra. Chắc chắn thư viện sẽ xáo trộn vì chỉ trong một thời gian ngắn mất đi cả giám đốc lẫn độc giả. Anh cứ cố gắng tìm thêm thông tin nếu có thể nhé, Caleb. Tin tức sẽ giúp chúng ta liệu cảnh sát đang nghĩ gì. Nếu chúng có giết Jewell rồi, xác chết sẽ sớm bị phát hiện thôi”.

Milton chen ngang, “Tôi sẽ dán chặt mắt vào màn hình tìm thông tin trên internet. Mấy thông tin đó luôn được cập nhật trên mạng”.

Stone tiếp tục nói, “Bob Bradley, Jonathan DeHaven, Cornelius Behan và giờ là Norman Janklow đều bị sát hại. Tôi tin rằng Bradley bị giết vì ông ta ép buộc Albert Trent rời khỏi cái ghế làm nhân viên tình báo. Nếu tôi không lầm, thì Trent không thể thực hiện điều đó vì hắn đang sử dụng công việc tình báo để trao đổi thông tin mật. DeHaven bị giết vì ông hoạt động tại phòng đọc nơi trao đổi thông tin mật hay có liên quan đến kế hoạch nào đấy và buộc phải im lặng. Tương tự với ông lão Norman Janklow, nói cách khác cũng là tay gián điệp. Behan bị sát hại bởi vì hắn phát giác ra một trong số thiết bị của mình là công cụ giết DeHaven và phải tiến hành điều tra. Trent có tay trong ở công ty này, và có lẽ đã được báo cáo về sự nghi ngờ này cho nên ra tay thủ tiêu Behan trước”.

Caleb thắc mắc, “Nhưng tại sao Jonathan, Jewell English và cả Norman Janklow lại vướng vào tổ chức gián điệp nhỉ? Ai mà lại nghĩ ra chuyện lấy phòng Sách Quý Hiếm làm nơi trao đổi thông tin mật với nhau chứ?”

Stone giải thích, “Bởi vì người ta hay suy luận điều đó không thể là kế hoạch hay ho được. Và anh nên nhớ rằng, thường mấy tay gián điệp hay bị bắt bởi vì trong suốt quá trình bị điều tra theo dõi, họ hay trao đổi thông in ở những nơi công cộng. Còn ở đây, chúng ta có thông tin trong phòng Sách Quý Hiếm, khó có thể theo dõi được, ai mà lại nghi ngờ chuyện ông lão bà lão đến đọc sách rồi đi về chứ”.

Caleb vẫn không buông tha, “Nhưng anh cũng cần phải tìm hiểu các thông tin mà Trent đang tìm cách mua bán được chuyển tải ra sao trong thư viện. Rõ ràng hắn không phải là người đánh dấu những chữ đó, và Jonathan càng không thể dùng quyển sách của tác giả Beadle vì ông ta đã chết trước đó”.

“Tôi đồng ý, và đó cũng là phần chúng ta cần tìm ra lời giải. Phần quan trọng nhất bởi vì đó là cứu cánh cho cả câu chuyện. Nếu Janklow, English và DeHaven là gián điệp, chắc chắn phải có bằng chứng đâu đó”.

Milton tiếp lời, “Chúng tôi đã lục soát nhà DeHaven mà không tìm được gì cả”.

“Tôi thì tìm đến nhà bà Jewell, chỉ thấy mỗi xác chết”. Caleb rùng mình nhớ lại.

Stone gật đầu, “Có thể nhà Norman Janklow có gì đó”.

Reuben phản đối, “Vấn đề duy nhất là đám cảnh sát đang dày đặc ở đó, cũng như chỗ bà English vậy”.

Stone tổng kết, “Tình hình ngày càng trở nên nguy hiểm, và chúng ta phải rất cẩn thận. Tôi yêu cầu chúng ta phải hành động đôi. Caleb, anh có thể ở lại nhà Milton, ở đó có hệ thống an ninh khá tốt. Reuben, tôi sẽ đến chỗ anh vì cũng có vài kẻ biết chỗ của tôi rồi”. Ông nhìn sang Annabelle, “Cô có thể ở chung với chúng tôi”.

Reuben có vẻ hào hứng, “Nhà tôi cũng chẳng có gì đẹp đẽ cả, nhưng có nhiều bia, khoai tây, và cả một cái tivi plasma màn hình rộng, tôi còn biết nấu món ớt cay nồng nữa đấy. Về phía canh gác bảo vệ, thì tôi có một nàng chó bull1 gọi là Delta Dawn, trung thành, sẵn sàng lăn xả vào kẻ thù”.

“Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại khách sạn của mình, và tự biết lo liệu, đừng lo cho tôi”.

Stone hỏi lại lần nữa, “Cô chắc chứ?”

“Tôi chắc mà, cám ơn vì lời mời, tôi thuộc tuýp người thích một mình mà”, cô ta tránh ánh mắt của Stone.

Khi cuộc họp kết thúc, Stone chặn cô ta lại lúc cô ta chuẩn bị đi và hỏi, “Cô có sao không?”

“Tôi bình thường, sao lại không nhỉ? Chỉ là một ngày như mọi ngày”.

“Nhưng gần cái chết không phải là thứ thường ngày”.

“Có thể vậy mà cũng có thể không”.

“Được rồi, thế cô có muốn tiếp tục vụ Albert Trent không?” Thấy cô ta ngần ngừ, ông giải thích, “Ý tôi không phải là đột nhập vào nhà hắn mà là theo dõi hắn”.

“Ông nghĩ hắn vẫn lảng vảng đâu đó à?”, cô ta hỏi.

Stone gật đầu, “Chúng chẳng biết chúng ta biết hay không biết gì. Tôi đoán chúng sẽ án binh bất động đợi thời cơ. Nếu bây giờ hắn ra khỏi thành phố, sự việc sẽ chấm dứt. Nếu đây là một đường dây gián điệp, chúng sẽ tìm cách gỡ gạc, rõ ràng chúng đã phải gây dựng rất lâu để được như vậy”.

“Bọn này không phải chỉ biết chơi đùa nhỉ?”

“Tôi cũng không”, Stone trả lời cộc lốc.

Roger Seagraves nổi cáu hoàn toàn. Trong lúc ông lão Janklow đã phải hy sinh để che dấu sự việc và giúp ngăn chặn một nhân chứng thì bà lão English đang yên ổn tại một nơi nào đó cách xa D.C. Tuy nhiên, vì bà ta đã mất mắt kính và làm bại lộ mọi chuyện cho nên hắn cũng chẳng để cho bà ta tồn tại quá lâu. Đó là tin tốt. Tin xấu là gã Oliver Stone và mụ đàn bà đã trốn thoát, làm thiệt hại thêm hai người về phía hắn. Gã 666 đó đã may mắn thoát khỏi cửa tử thần, mà còn hạ gục hai gã kia. Điều đó quả là ấn tượng, đặc biệt là đối với một tay gần sáu mươi tuổi như gã. Seagraves cảm thấy giận bản thân vì đã không giết gã khi có cơ hội. Hắn đã thu dọn xác chết tại Công ty Cứu hỏa nhưng hiện tại đám cảnh sát đang lúc nhúc trong nhà Jewell. Cũng may, bà ta chẳng để gì ở nhà, cả chỗ Janklow cũng thế. Tuy vậy, kế hoạch hoàn hảo của Seagraves hoàn toàn bị phá sản.

Bây giờ hắn chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là tìm ra đầu mối sự việc và kết liễu nó. Hắn cầm lấy cái áo sơ mi cũ của Stone lên khỏi bàn, cả đồng hồ lấy của Annabelle. Hắn tự hứa với lòng rằng chúng vẫn thuộc về bộ sưu tập của hắn.

Chú thích

1. Bulldog là loài chó có nguồn gốc từ loài chó bull chọi, có tên là Bulldog 1630, chính bản thân bulldog cũng là một loài chó chọi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom