Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Một giờ sau cả hai đã ăn xong bữa ăn tối tuyệt vời được đầu bếp của Bagger chuẩn bị. Bagger cầm ly rượu bourbon cùng Annabelle và Leo cầm rượu vang đến ngồi trên những chiếc ghế bọc da êm ái gần ngọn lửa ga bập bùng.

Bagger đã chấp thuận lời đề nghị, kêu Annabelle và Leo kiểm tra xem có thiết bị nghe lén nào ở đây không.

“Rồi, ăn uống no say rồi, giờ nói chuyện đi”, Bagger ra lệnh. Hắn giơ một ngón tay lên, “Chúng mày làm được gì? Sau đó nói với tao về số tiền mày đã đề cập”.

Annabelle ngồi xuống, tay cầm ly rượu vang, liếc mắt nhìn Leo, “Ông có nhớ ngân hàng Iran-Contra không?

“Không rõ lắm”.

“Có vài lần lãi suất ở Mỹ được tiêu xài tốt nhất bằng cách giúp đỡ các nước khác và một số tổ chức không được hỗ trợ thường xuyên ở Mỹ”.

“Cái gì? Chẳng hạn như đưa súng cho Osama Bin Laden để đánh Liên bang Nga hả?”, hắn cười mỉa mai.

“Thì chọn cái nào ít tồi tệ hơn trong hai cái tồi tệ thôi. Chuyện này xảy ra hoài”.

“Vậy chúng mày muốn làm gì với tao?”

“Chúng tôi có nhiều nguồn tiền bí mật, nhưng phảima mãnhvới đống tiền này trước khi được sử dụng có hiệu quả”, Annabelle nhấp một ngụm rượu.

“Ý mày là chuyển tiền vào ngân hàng để che giấu gốc tích ấy hả?”, Bagger hỏi.

Cô ả mỉm cười duyên dáng, “Không, ý tôi làma mãnhmột chút”.

“Tao chẳng thấy mối liên hệ nào ở đây cả”.

“El Banco del Caribe. Ông biết ngân hàng này không?”

“Tao có cần phải biết không?”

Leo lên tiếng, “Đó không phải là chỗ ông để tiền mặt thu được từ sòng bài hả? Họ chuyên làm tiền mặt bốc hơi, dĩ nhiên phải trả công rồi. Không tính bất cứ loại thuế nào với khách hàng hết”.

Bagger gần như đứng bật dậy.

Annabelle nói, “Biết những chuyện như thế là một phần công việc của chúng tôi. Những người khác cũng được ghi chép chi tiết chứ không riêng gì ông”.

Bagger ngồi xuống, hắn nhìn cái đầu tóc chỉa chỉa của cô ả, “Mày trông chẳng giống điệp viên chút nào”.

“Vấn đề là ở đó, đúng không?”, cô ta tỏ ra thân thiện, đứng dậy đi rót thêm rượu vào ly.

“Nhưng này, làm sao tao biết chúng mày làm việc hợp pháp? Tao gọi ai họ cũng nói chưa nghe tên mày bao giờ. Vậy sao tao biết chúng mày là ai?”

“Có tiền mua tiên cũng được”, Annabelle ngồi xuống.

“Ý mày là sao?”

“Ý tôi là xin ông cho gọi tên thủ quỹ của mình lên”.

Bagger nhìn cô ả nghi ngờ rồi nhấc điện thoại.

Một phút sau tên thủ quỹ xuất hiện. “Vâng, thưa sếp?”

Annabelle lấy một mảnh giấy nhỏ trong túi quần ra và đưa cho hắn, “Nhập số tài khoản này vào máy vi tính. Tài khoản này mở tại ngân hàng El Banco del Caribe. Đây là mật mã sử dụng một lần cùng với dãy số tài khoản. Hãy quay trở lại sau khi kiểm tra xong để báo cho ông Bagger đây biết số dư trong tài khoản”.

Bagger gật đầu. Gã đàn ông bước ra và vài phút sau quay lại.

“Sao hả?”, Bagger hấp tấp hỏi.

“Thưa sếp, ba triệu mười hai nghìn đôla và mười sáu xu”.

Bagger nhìn Annabelle trân trối, rõ ràng trong ánh mắt hắn bắt đầu có chút tôn trọng. Hắn vẫy tay cho tên thủ quỹ lui. Cửa đóng, hắn nói, “Được rồi, bọn mày có khoản tiền đáng kể đó”.

“Để giảm bớt mối nghi ngờ của những người như ông, chúng tôi cho làm ăn thử nghiệm trước”.

“Mày nói đấy nhé. Cơ chế ra sao hả?”

“Ông gửi tiền trong một tài khoản chúng tôi chỉ định ở El Banco trong hai ngày; ông lấy lãi, rồi tiền sẽ quay trở lại tài khoản của ông ở ngân hàng của ông”.

“Ta đang bàn tới bao nhiêu tiền vậy?”

“Ví dụ như một triệu đôla. Số tiền ông gửi vào sẽ nhập chung với những quỹ khác. Hai ngày sau ông đem tiền về cộng thêm hai mươi nghìn đôla tiền lời. Ông có thể gửi tiền cứ hai ngày một nếu muốn”.

“Nhập chung? Ý mày là làm tròma mãnhđó hả?”

Annabelle nâng ly rượu lên, “Ông học nhanh thế”.

Nhưng Bagger long lên sòng sọc, “Mày muốn tao để một triệu đôla vào tài khoản mà mày chỉ định rồi đợi hai ngày để tiền lãi chảy về tài khoản của tao hả? Mày nghĩ tao ngu như thế sao?”

Annabelle ngồi xuống bên cạnh, nhẹ nhàng chạm vào tay gã, “Để tôi nói cho ông nghe, Jerry à, tôi gọi ông là Jerry nhé”.

“Tao không quan tâm”.

“Trong hai ngày tiền của ông để đó, tôi và cộng sự của mình sẽ vẫn ở khách sạn đó, và đàn em của ông sẽ canh gác chúng tôi ngày đêm. Nếu món tiền của ông không quay trở lại tài khoản của ông cùng số tiền lãi, chúng tôi đang ở trong tay ông mà. Tôi không biết về ông, nhưng tôi yêu mạng sống của mình lắm và tôi không muốn vì một món tiền mà bỏ mạng đâu”.

Hắn nhìn cô ả từ trên xuống, từ dưới lên, lắc lắc đầu, bước tới cửa sổ và nhìn qua khung cửa kính chống đạn. “Chuyện này là chuyện khùng điên nhất mà tao từng nghe thấy. Mà tao cũng điên khùng lắm mới ngồi nghe chúng mày kể chuyện”.

“Nhìn lại thế giới hôm nay đi, ông sẽ chẳng thấy mình điên khùng chút nào. Để bảo vệ đất nước, chúng ta phải làm nhiều việc, tất nhiên không phải việc nào cũng hoàn toàn hợp pháp hay phải phổ biến cho công chúng biết. Điều gì sẽ xảy ra nếu người dân Mỹ biết được?”. Cô ả nhún vai, “Nhưng đó không phải là nhiệm vụ của tôi. Công việc của tôi là đảm bảo tiền chảy vào những chỗ cần phải đến. Đổi lại sự giúp đỡ của ông, ông được trả thêm tiền, rất đơn giản”.

“Nhưng tiền này đều chuyển khoản điện tử mà. Sao chúng mày phải chuyển tới chuyển lui để che giấu gốc tích làm gì?”

“Dù tiền chuyển khoản cũng bị truy ra được đấy Jerry. Thật ra muốn truy ra còn dễ hơn tiền mặt nữa. Số tiền đó phải đượcnhậpvới những nguồn tiền phi chính phủ khác. Tất cả đều được tự độngrửasạch, đại loại giống như ta lau dấu tay trên súng vậy thôi. Rồi số tiền đó sẽ đến nơi nó cần phải đến”.

“Mày nói bọn bên Vegas làm vụ này rồi hả? Vậy nếu tao gọi hỏi chúng mà…”.

Annabelle cắt ngang, “Họ sẽ chẳng hé môi vì họ được hướng dẫn làm thế”. Cô ả bước tới sau lưng hắn, “Jerry ơi, mặt lợi là ông sẽ kiếm được món lời lớn, nhưng cũng có mặt hại đấy. Để cho công bằng, tôi phải cho ông biết luôn”.

Cô ả kéo gã ngồi xuống ghế sô-pha, “Nếu ông để vụ xếp đặt này cho ai đó biết…”

Bagger cười ha hả, “Đừng dọa tao, bé con. Tao mới là người sáng tạo ra nghệ thuật dọa dẫm đấy”.

“Đâu phải dọa dẫm, Jerry”, Annabelle ôn tồn nói, mắt nhìn thẳng vào hắn. “Nếu ông hé răng với ai về vụ sắp xếp này, sẽ có người đến tìm ông dù ông trốn ở đâu. Bọn này không ngại bất cứ tay anh chị nào của ông. Chúng không bị luật pháp nước nào bó buộc hết, và chúng sẽ giết bất cứ ai quan hệ xa gần với ông, già trẻ lớn bé gì cũng không tha. Rồi chúng sẽ xử tới ông”. Annabelle để lời nói mình lắng đọng, “Tôi đã làm công việc này lâu lắm rồi, và đã làm những việc có lẽ ông cũng phải ngạc nhiên nếu biết; nhưng bọn người này cả tôi cũng không muốn chạm mặt, dù có cả đội quân bao quanh để bảo vệ tôi. Bọn này không phải là những đứa ưu việt nhất trong số những người giỏi nhất đâu Jerry. Chúng là những đứa thối tha nhất trong những đám cặn bã xã hội. Và điều cuối cùng mà ông còn có thể nhớ sẽ là nỗi đau đớn chúng để lại cho ông”.

Bagger chợt gào lên, “Mấy trò đánh đập khốn kiếp này được chính phủ củachúng ta phát lương!Chẳng trách gì chính phủ bòn rút của dân nhiều tiền đến thế”. Hắn nhấp một ngụm rượu bourbon, cả Annabelle và Leo đều nhận thấy tay hắn run run. “Thế tao cần quái gì…”, Bagger bắt đầu nói tiếp.

Đoán được điều hắn sẽ nói, Annabelle cắt ngang, “Nhưng nếu tôi báo với cấp trên rằng Jerry Bagger không muốn đàm phán. Ông ta chỉ lấy món lời béo bở của mình rồi ngậm miệng. Tôi không muốn ném đao vào tường, Jerry ơi. Những người như ông là phù hợp nhất với mục đích của chúng tôi. Ông thông minh, gan dạ, giàu có, và ông không ngại mạo hiểm”. Annabelle quan sát vẻ mặt của Bagger và nói tiếp, “Tôi chẳng muốn trao cơ hội này cho bất cứ sòng bạc nào khác Jerry à. Nhưng mà nhiệm vụ của tôi rất rõ ràng”.

Một phút trôi qua, hắn nhe răng cười và vỗ đùi Annabelle, “Tao yêu nước giống hệt thằng điên tiếp theo tham gia vào vụ này. Lo quái gì, tiến hành đi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Hội Camel họp khẩn ở nhà Stone tại khu nghĩa trang sáng hôm sau buổi viếng thăm nhà DeHaven. Stone giải thích cặn kẽ với Milton và Caleb chuyện xảy ra tối hôm trước.

“Có lẽ chúng đang theo dõi bọn mình”, Caleb lo sợ liếc mắt ra cửa sổ.

“Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu chúng không theo dõi bọn mình đấy”, Stone bình tĩnh trả lời.

Ngôi nhà nhỏ trang trí sơ sài với cái giường cũ, bàn làm việc lớn xiêu vẹo chất đầy báo chí, những kệ chất đầy sách đủ thứ tiếng - tất cả các thứ tiếng mà Stone biết nói, căn bếp nhỏ với cái bàn ăn liêu xiêu, phòng tắm nhỏ xíu và cuối cùng là mấy cái ghế chẳng ra bộ nào đặt quanh lò sưởi - nguồn nhiệt chính trong nhà.

“Chuyện này không làm anh lo lắng sao?”, Milton hỏi.

“Tôi sẽ lo lắng nhiều hơn nếu chúng cố tình giết tôi, việc chúng có thể làm dễ dàng - nhưng chúng dường như không muốn giết tôi - mặc cho Reuben có hành động dũng cảm như thế nào”.

“Rồi sao?”, Reuben hỏi. Ông đang ngồi trước lò sưởi, cố xua đi cái lạnh. Ông nhìn đồng hồ, “Đến giờ tôi phải đi làm rồi”.

Caleb đồng tình, “Tôi cũng phải đi”.

Stone nói, “Caleb, tôi có vào phòng đọc Sách Quý Hiếm của thư viện được không?”

Caleb có vẻ không chắc chắn, “À, tình hình bình thường thì có thể. Ý tôi là tôi có quyền dẫn người vào phòng đọc, nhưng tôi sẽ bị xét hỏi tại sao dẫn những người đó vào. Họ thật sự không thích nhân viên đem người thân bạn bè vào nếu không thông báo trước. Và kể từ cái chết của Jonathan, họ siết chặt hơn nữa quy định này”.

“Nếu người khách đến thăm thư viện là một học giả nước ngoài thì sao?”, Stone hỏi.

“À, tất nhiên là khác rồi. Anh biết học giả nước ngoài nào?”

Reuben chen vào, “Tôi nghĩ anh ta đang nói về mình đó, Caleb”.

Caleb nhìn Stone sững sờ. “Oliver! Tôi không thể nào tiếp tay đưa một người giả mạo vào Thư viện Quốc hội, Chúa ơi!”

“Vô vọng, Chúa không giải quyết vấn đề này đâu. Tôi cho rằng chúng ta đang ở trong tình trạng nguy hiểm vì chúng ta có liên quan đến Jonathan DeHaven. Vì thế ta cần phải biết là ông ta tự nhiên lăn ra chết hay là bị sát hại. Việc xem xét nơi ông ta chết có thể giúp tôi phần nào xác định được nguyên nhân cái chết”.

“Tôi biết nguyên nhân cái chết rồi”, Caleb thông báo. Mọi người đều ngạc nhiên. “Tôi vừa mới biết sáng nay”, ông nhanh nhẹn nói. “Một người bạn trong thư viện gọi cho tôi, Jonathan chết vì lên cơn đau tim đột ngột theo kết quả giám định pháp y”.

Milton nói, “Mọi ngườichết vì bệnh ấy đấy. Đơn giản là chết vì tim ngừng đập”.

Stone có vẻ trầm ngâm, “Milton nói đúng. Điều đó có nghĩa là nhân viên giám định pháp y cũng không biết Dehaven thật sự chết vì nguyên nhân gì”. Ông đứng dậy và nhìn xuống Caleb, “Tôi muốn vào thư viện ngay sáng hôm nay”.

“Oliver ơi, anh không thể nào đột nhiên xuất hiện và tự nhận rằng mình là một học giả nào đó”.

“Tại sao?”

“Không thể được. Phải trải qua rất nhiều nghi thức và thủ tục phải tuân thủ”.

“Tôi sẽ nói tôi đang du lịch ở thành phố này với gia đình và rất ao ước được nhìn thấy bộ sưu tập sách vĩ đại nhất thế giới, một quyết định bất ngờ vậy thôi”.

“Có thể”, Caleb miễn cưỡng chấp nhận. “Nhưng lỡ họ hỏi anh câu hỏi gì đó mà anh không biết trả lời thì sao?”

“Chẳng có vai nào dễ diễn xuất hơn vai học giả đâu, Caleb”, Stone trấn an. Caleb cảm thấy mình bị xúc phạm vì lời nhận định này, nhưng Stone phớt lờ sự khó chịu của bạn mình và nói thêm, “Tôi sẽ có mặt ở thư viện lúc 11 giờ”. Ông viết gì đó vào miếng giấy nhỏ và đưa cho Caleb, “Thông tin về vai diễn của tôi đây”.

Caleb đưa mắt đọc rồi nhìn lên một cách ngạc nhiên.

Sự việc này kết thúc buổi họp của Hội Camel mặc dù Sotne kéo Milton ra một chỗ và âm thầm nói chuyện với Milton.

Vài giờ sau tại thư viện Caleb đang trao sách cho Norman Janklow, một ông lão thường đến phòng đọc sách.

“Sách đây, ông Norman”, anh đưa ông cuốnGiã từ vũ khícủa Ernest Hemingway. Janklow là một độc giả cuồng nhiệt của Hemingway. Cuốn tiểu thuyết ông cầm trên tay là ấn bản đầu tiên, phía trong có lời đề tặng của Hemingway.

“Tôi khao khát sở hữu cuốn sách này, Caleb à”, ông Janklow nói.

“Tôi biết chứ ông Norman, tôi cũng vậy”. Ấn bản đầu tiên được Hemingway ký tặng rao bán với giá ba mươi lăm nghìn đôla, Caleb biết số tiền này vượt quá khả năng tài chính của mình và có lẽ của ông Janklow nữa. “Nhưng ít nhất ông vẫn có thể cầm nó trên tay”.

“Tôi đang chuẩn bị viết tiểu sử của Hemingway đấy”.

“Tuyệt quá”. Sự thật là ông Janklowđang chuẩn bịviết tiểu sử Hemingway gần được hai năm rồi. Tuy nhiên ý nghĩ này làm ông hạnh phúc, và Caleb thì sẵn lòng phụ họa với ông ấy.

Ông Janklow cẩn thận chạm vào tập sách. “Họ sửa lại bìa rồi”, ông cáu kỉnh.

“Đúng vậy. Nhiều tuyệt tác của văn học Mỹ ấn bản đầu tiên được lưu trữ trong những điều kiện không tốt trước khi phòng Sách Quý ra đời. Chúng tôi đã giải quyết hàng chồng sách ùn đống nhiều năm liền. Quyển sách ông đang cầm đã quá hạn lưu trữ rất lâu rồi, có thể do lỗi hành chính. Chuyện này xảy ra khi ông có gần cả nghìn cuốn sách dưới một mái nhà”.

“Tôi ước gì họ giữ sách quý nguyên vẹn như hình hài chúng ngày xưa”.

“Mục đích chính của chúng tôi là bảo quản sách. Thế nên ông mới có cuốn sách này để thưởng thức, bởi vì nó đã được chúng tôi bảo quản nhiều năm”.

“Đã có lần tôi gặp Hemingway”.

“Tôi nhớ ông có nói với tôi rồi”.Hơn một trăm lần rồi.

“Ông ta thật vĩ đại. Chúng tôi đã uống rượu cùng với nhau trong một quán cà phê ở Cuba”.

“Được rồi, tôi nhớ rất kỹ câu chuyện này. Tôi xin phép để ông bắt đầu nghiên cứu”.

Ông Janklow đeo kính vào, lôi ra mấy tờ giấy, viết chì và đắm chìm vào thế giới phiêu lưu lạ kỳ mà Ernest Hemingway tưởng tượng ra và viết thành những áng văn xuôi.

Đúng 11 giờ, Oliver Stone hiện diện ở phòng đọc Sách Quý Hiếm trong bộ vét ba mảnh, tay cầm ba-toong. Mái tóc bạc trắng chải gọn gàng, bộ râu cũng được tỉa tót gọn ghẽ cùng với cặp kính đen làm cho mắt của ông trông cứ như mắt con bọ. Vẻ ngoài cùng với dáng đi khom khom làm ông già đi hai mươi tuổi so với tuổi thật của mình. Caleb bước ra khỏi bàn làm việc ở cuối phòng, gần như không nhận ra người bạn của mình.

Khi người phục vụ thư viện bước đến bên Stone, Caleb vội vã nói, “Tôi sẽ tiếp đón ông ấy, Dorothy à... Tôi có quen biết quý ông này”.

Stone trau chuốt cho vai diễn của mình bằng cách chìa ra một tấm danh thiếp màu trắng, “Tôi đến để tham quan thư viện như đã hứa, thưa ông Shaw”. Ông nói tiếng Anh đặc sệt giọng Đức.

Thấy Dorothy, người tiếp tân, nhìn ông tò mò, Caleb nói, “Đây là Giáo sư Aust. Chúng tôi quen nhau một năm trước tại hội thảo sách ở… Frankfurt, phải vậy không thưa ông?”

“Không, ở Mainz”, Stone chỉnh lại. “Tôi nhớ rất rõ, bởi vì đó là mùa măng tây trắng Spargel. Và tôi luôn đến hội thảo ở Mainz để thưởng thức loại măng tây trắng đấy”. Ông nở nụ cười toe toét với Dorothy, cô ta mỉm cười rồi quay trở lại làm việc.

Một người đàn ông khác bước vào phòng đọc và ngừng lại, “Caleb, tôi muốn nói chuyện với anh một chút”.

Caleb hơi tái mặt, “Ô, chào Kevin. Kevin đây là, ơ…, Giáo sư Aust đến từ Đức. Ông Aust, đây là Kevin Philips, quyền giám đốc Bộ phận Sách Quý. Sau khi Jonathan…”.

“À, vâng, cái chết bất ngờ của ông DeHaven”, Stone xem ngang. “Rất đáng tiếc. Rất đáng tiếc”.

“Ông cũng biết Jonathan à?”, Kevin hỏi.

“Chỉ nghe danh tiếng của ông ấy thôi. Tôi nghĩ rõ ràng là bài phân tích về James Logan với bản dịch tác phẩmNhững vần thơ luân lýcủa nhà thơ Cato là những dòng văn cuối cùng của ông ta”.

Philips có vẻ hơi hổ thẹn, “Tôi phải thừa nhận rằng mình chưa đọc bài viết ấy”.

“Bài phân tích về bản dịch đầu tiên của Logan được viết từ Bắc Mỹ, rất đáng nghiên cứu, thưa ông”, Stone chân thành khuyên.

Philips nói, “Chắc chắn tôi sẽ đọc bài viết này. Thật trớ trêu là thỉnh thoảng các thủ thư cũng có nhiều thời gian để đọc sách”.

“Vậy tôi sẽ không dám phiền ông đọc thêm mấy cuốn sách của tôi nữa”, Stone mỉm cười. “Dù sao chúng cũng được viết bằng tiếng Đức”, ông cười tủm tỉm.

“Tôi đã mời Giáo sư Aust đến tham quan thư viện trong khoảng thời gian ông thăm thú ở đây”, Caleb giải thích. “Một ý định bất chợt thôi”.

“Tất nhiên chúng tôi rất lấy làm vinh dự được đón tiếp ông”, Philips nói, sau đó hạ thấp giọng: “Caleb, anh có nghe báo cáo về cái chết của Jonathan chưa?”

“Vâng, tôi có nghe”.

“Vậy có nghĩa là ông ta bị đau tim đúng không?”

Caleb nhìn Stone, người đang nằm ngoài tầm nhìn của Kevin và gật đầu.

“Vâng, tôi nghĩ chính xác là thế “.

Phillips lắc đầu, “Chúa ơi, ông ta trẻ hơn tôi. Tim ngừng đập, đúng không?”. Ông quyền giám đốc nhìn về phía Stone, “Giáo sư Aust, ông có muốn tôi dẫn ông tham quan không?”

Stone cười, chống người nặng nề lên cây ba-toong của mình, “Không, thưa ông Philips, tôi lại muốn ông dành thời gian đó để đọc bài biết về Những vần thơ luân lý của bạn ông”.

Philips cười, “Thật thú vị khi thấy những học giả lỗi lạc vẫn còn giữ được khiếu hài hước như thế”.

“Tôi sẽ cố gắng, thưa ông”, Stone cúi thấp người để chào.

Sau khi Philips bước ra, Caleb và Stone đi vào kho sách.

“Sao anh biết Jonathan có một bài nghiên cứu đó?”, Caleb hỏi khi chỉ còn hai người với nhau.

“Tôi bảo Milton tìm trên mạng. Anh ta kiếm được trên internet và gửi cho tôi một bản sách. Tôi đọc qua bài viết đó phòng trường hợp có ai đó như Philips xuất hiện, để chứng tỏ mình là học giả thật ấy mà”. Thấy Caleb có vẻ hơi khó chịu, Stone hỏi, “Sao thế?”

“À, chỉ là cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương đôi chút khi thấy sao mà đóng vai một học giả lại dễ dàng đến thế”.

“Tôi chắc chắn sự xác nhận của anh về học vị của tôi khiến cho sếp của anh nghĩ tôi đúng là một giáo sư”.

Caleb tươi tỉnh lên, “Tôi chắc là mình đã góp phần vào thành công này”. Ông nói nhún nhường.

“Được rồi, diễn lại chính xác những gì anh thấy vào ngày hôm đó đi”.

Caleb thuật lại khi ông lên tầng cao nhất. Ông chỉ vào một vị trí, “Xác ông ta ở đó”. Caleb rùng mình, “Chúa ơi, rất khủng khiếp anh ạ”.

Stone quan sát xung quanh cẩn thận và chỉ vào thứ gì đó trên tường.

“Cái gì vậy?”

Caleb nhìn lên, “Ồ, vòi phun dập lửa đấy”.

“Các anh sử dụng nước để dập lửa trong kho sách à?”

“Không, đó là hệ thống khí Halon 1301”.

“Halon 1301 ư?”, Stone hỏi.

“Là một loại khí gas, dù thật ra nó là chất lỏng. Nhưng khi chất lỏng này bắn ra khỏi vòi, nó biến thành khí gas để dập lửa mà không tổn hại đến sách”.

Stone phấn chấn hẳn lên, “Dập lửa bằng khí gas! Lạy Chúa! Caleb ơi, anh không thấy gì sao?”

Điều Stone đang đề cập đến bỗng nhiên rõ ràng hơn với Caleb, “Ý anh là Jonathan bị ngạt khí gas ư? Không thể nào, Oliver à. Đó không thể là nguyên nhân cái chết của Jonathan được”.

“Tại sao lại không thể?”

“Bởi vì một người có vài phút chạy ra khỏi phòng trước khi bắt đầu cảm nhận được khí gas phun ra. Đó là lý do tại sao người ta sử dụng Halon ở những nơi có nhiều người lui tới. Trước khi khí gas phun ra, còi báo động sẽ vang lên inh ỏi. Thật ra chúng tôi đang thay hệ thống nhưng chẳng phải vì nó gây nguy hiểm”.

“Thế tại sao phải thay?”

“Halon ảnh hưởng đáng kể đến tầng ô-zôn. Thật sự mà nói, trong khi Halon vẫn được sử dụng và tái chế, nước Mỹ đã cấm sản xuất Halon 1302 kể từ giữa thập niên 90 rồi - mặc dù chính quyền liên bang vẫn còn sử dụng chất này nhiều nhất trên thế giới”.

“Anh biết rõ về Halon nhỉ?”

“Ấy, tất cả nhân viên đều được huấn luyện kỹ càng về hệ thống này ngay sau khi nó được lắp đặt. Và tôi tự tìm hiểm thêm về đề tài này thôi”.

“Tại sao?”

Ông thốt ra, “Bởi vì tôi vào kho sách này thường xuyên, và tôi chẳng muốn chết thê thảm. Anh biết là tôi nhát như cáy mà”.

Stone xem xét cái vòi phun, “Khí gas được trữ ở đâu?”

“Đâu đó dưới tầng hầm của tòa nhà, rồi gas sẽ được bơm lên đây”.

“Anh nói nó được trữ dưới dạng lỏng rồi hóa thành khí ga sau khi phun ra ngoài?”

“Đúng vậy. Nhờ tốc độ mà chất lỏng được đẩy ra khỏi vòi biến thành gas”.

“Chắc khí ga phải lạnh lắm nhỉ?”

“Nếu anh đứng trước vòi phun, anh sẽ chết cóng”.

“Còn gì nữa không?”

“Nếu anh ở trong phòng quá lâu, anh sẽ bị ngạt thở. Nguyên tắc sống còn là: Nếu không có đủ ôxy để ngọn lửa tiếp tục cháy thì cũng không có đủ ôxy để thở”.

“Khí gas này có thể gây đau tim không?”

“Tôi không biết, nhưng đâu có quan trọng. Hệ thống này chưa bao giờ bất thình lình kích hoạt. Cả tòa nhà có thể nghe thấy tiếng còi báo động. Jonathan chỉ không nghe được nó khi ông ta đã chết rồi”.

“Nếu còi báo động bị cắt thì sao?”

“Ai làm điều đó nhỉ?”, Caleb hoài nghi.

“Tôi không biết”.

Vừa nói, Stone vừa nhìn công-tơ lớn gắn vào trụ đỡ kệ sách, “Có phải là ống thông hơi của hệ thống HVAC* không?”. Caleb gật đầu, “Cái gì đó rớt lên công-tơ đó”, Stone nói, chỉ vào hai cái vỉ ống thông hơi bị bẻ cong. [* HVAC: hệ thống đốt nóng, tản nhiệt, và điều hòa nhiệt độ.]

“Chuyện này xảy ra khi người ta đem xe sách vào ra ấy mà”.

Stone nói, “Tôi sẽ nói Milton nghiên cứu về hệ thống Halon để xem còn gì nữa không. Reuben cũng có vài người bạn ở Phòng Điều tra D.C. và FBI từ thời còn làm tình báo quân sự. Tôi đã nhờ Reuben gọi cho họ để hỏi thăm về vụ điều tra”.

“Chúng ta có cuộc hẹn với ông Vincent Pearl chiều nay ở nhà Jonathan mà. Vì những tình tiết mới này, anh nghĩ chúng ta có nên hoãn lại cuộc họp không?”

Stone lắc đầu, “Không, mấy tên theo dõi chúng ta có thể tìm chúng ta bất cứ nơi đâu, Caleb à? Nếu ta gặp nguy hiểm, tôi thà cố gắng tự mình tìm ra sự thật còn hơn ngồi chờ nguy hiểm rớt xuống đầu”.

Lúc họ rời khỏi kho sách, Caleb lẩm bẩm, “Sao hồi đó tôi không tham gia một câu lạc bộ sách nào đó tuy nhàm chán mà nhẹ nhàng nhỉ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Tối đó tất cả cùng đến nhà DeHaven trên chiếc Nova của Caleb. Milton đã tìm ra nhiều thông tin về các hệ thống dập lửa. Ông báo cáo: Halon 1301 là chất không màu, không mùi, dập lửa bằng cách ngắt ngang quá trình đốt cháy, bao gồm việc giảm lượng ôxy. Khí gas nhanh chóng bốc hơi và không để lại bất cứ thứ gì. Khi hệ thống kích hoạt, khí gas phụt ra chỉ trong vòng mười giây.

“Chất này có gây chết người không?”, Stone hỏi.

“Tùy thuộc thời gian anh còn loanh quanh ở nơi có khí gas và tùy thuộc vào độ đậm đặc của khí gas ở khu vực đó mới xác định được việc anh có bị ngạt thở hay không. Khí gas này còn có thể gây đau tim”.

Stone nhìn Caleb với vẻ đắc thắng.

“Nhưng kết quả giải phẫu tử thi cho biết ông ta bị ngưng tim phổi”, Milton nhắc Stone. “Nếu ông ta bị đau tim đột ngột, nguyên nhân cái chết phải được ghi là ‘nhồi máu cơ tim’ mới đúng. Đau tim hoặc đột quỵ để lại dấu hiệu rất rõ ràng. Người giám định pháp y không thể nào bỏ lỡ chi tiết đó được”.

Stone gật đầu, “Được rồi. Nhưng cũng có thể là ngạt thở, như anh đã nói”.

“Tôi không nghĩ thế sau khi đã nói chuyện với Caleb trước đó”, Milton nói.

“Tôi xem lại hệ thống Halon của thư viện rồi”, Caleb giải thích. “Nó là loại hệ thống NOAEL. Có nghĩa là ‘Không ảnh hưởng có hại’, là tiêu chuẩn sử dụng trong chữa cháy. Nó liên quan đến mức độ nhạy cảm của tim ở một nơi đặc biệt có nồng độ khí ga đủ để dập tắt lửa. Điểm mấu chốt là: với loại hệ thống này, anh có rất nhiều thời gian để thoát khỏi nơi đó trước khi bị ảnh hưởng. Và mặc dù còi báo động có bị ngắt vì lý do nào đó thì Jonathan vẫn nghe được tiếng còi nếu khí ga đã phun ra khỏi vòi. Không có chuyện chất Halon này làm ông ta yếu sức nên không chạy thoát khỏi kho sách được”.

“Vậy có lẽ giả thuyết của tôi về cái chết của ông ta không đúng rồi”, Stone thừa nhận. Ông nhìn ra phía trước. Họ vừa đến đường Good Fellow.

“Có phải Vincent Pearl ở đằng kia không?”, ông hỏi.

Caleb gật đầu và nói một cách khó chịu, “Ông ta đến sớm, có lẽ háo hức muốn chứng minh tôi hoàn toàn sai lầm về cuốnThánh ca của Kinh Cựu ướcđây”.

Reuben cười khẩy, “Tôi thấy ông ta bỏ áo choàng ở nhà rồi”.

“Mở to mắt ra nhìn đi các anh”, Stone cảnh báo khi họ bước xuống xe. “Chắc chắn chúng ta đang bị theo dõi”.

Đúng như lời Stone nói, vẫn cặp ống nhòm từ cửa sổ đối diện nhà Jonathan đang chĩa vào nhóm Hội Camel khi họ gặp ông Pearl và bước vào trong nhà. Người theo dõi cũng chộp vài bức ảnh.

Khi đã ở trong nhà, Stone đề nghị người buôn sách quý hiếm xuống kho sách với Caleb. “Chỗ ấy chẳng rộng lớn gì cho cam, nên chỉ cần hai chuyên gia xuống đó là đủ rồi. Chúng tôi sẽ đợi ở tầng trệt”, Stone giải thích.

Caleb nhìn Stone không vui, không còn nghi ngờ việc để một mình Caleb đi với Pearl. Về phần mình, Pearl nhìn Stone hoài nghi một chút rồi nhún vai, “Tôi đoán sẽ mất nhiều thời gian để chứng minh rằng đó chẳng phải là cuốnThánh caấn bản đầu tiên”.

“Cứ từ từ nhé”, Stone nói với theo khi hai người bước vào thang máy.

“Đừng để mấy con mọt sách cắn đấy”, Reuben nói thêm.

Cửa đóng, Stone nói, “Được rồi, nhanh lên, lục lọi chỗ

này đi”.

“Sao ta không chờ cho tới khi Pearl đi về?”, Milton hỏi. “Rồi ta cứ từ từ, Caleb có thể giúp ta tìm kiếm”.

“Tôi không lo về Pearl. Tôi không muốn Caleb biết vì chắc chắn anh ta sẽ phản đối”.

Họ chia ra, ba mươi phút sau đã sục sạo gần hết căn nhà.

Stone thất vọng, “Không có gì hết. Không nhật ký, không thư từ”.

“Tôi tìm thấy cái này trong tủ quần áo ở phòng ngủ của ông ta”, Reuben nói, chìa ra khung ảnh nhỏ chụp một người đàn ông và một người phụ nữ. “Và đây là DeHaven. Tôi nhận ra ông ta nhờ bức hình trên báo”.

Stone nhìn trân trân vào bức ảnh và lật ra mặt sau, “Không có ghi chú hay ngày tháng gì hết. Nhưng nhìn vẻ ngoài của DeHaven, có thể thấy rằng bức hình này đã chụp rất lâu rồi”.

Milton nói, “Caleb bảo với chúng ta rằng người luật sư có đề cập DeHaven đã kết hôn một lần. Tôi tự hỏi người phụ nữ trong ảnh có phải là vợ cũ của anh ta không?”

“Nếu đúng là vợ cũ thì ông ta thật may mắn”, Reuben bình luận. “Và họ trông rất hạnh phúc, có nghĩa là mới cưới thôi. Mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, tin tôi đi”.

Stone nhét bức ảnh vào túi quần, “Giờ ta phải dựa vào bức hình này thôi”. Ông dừng lại và nhìn lên, “Căn nhà này có mái thẳng dốc xuống”.

“Vậy thì sao?”, Reuben hỏi.

“Thì những căn nhà có mái thẳng dốc trong khu vực dân cư này thường có gác”.

Milton nói, “Tôi đâu thấy căn gác nào trên tầng đâu”.

“Anh sẽ không thấy nếu lối vào bị che đi”, Stone đáp lời.

Reuben nhìn đồng hồ, “Sao mấy người đam mê hoạt động trí não đó lâu thế? Anh nghĩ họ có đang đấu đá với nhau không?”

“Tôi không thật sự nghĩ hai người đó ném mấy cuốn ấn bản đầu tiên vào mặt nhau”, Milton nói.

“Dù họ có đang làm gì, mong là họ cứ làm lâu lâu một chút”, Stone nói. “Milton, anh ở đây trông chừng nhé, gọi chúng tôi xuống nếu có chuyện gì xảy ra”.

Stone mất vài phút để tìm ra lối vào căn gác phía sau giá treo quần áo trong tủ áo của DeHaven. Lối vào bị khóa, nhưng Stone có đem theo chìa khóa vạn năng và kìm cộng lực, cuối cùng ổ khóa cũng phải chịu thua ông ta.

“Chắc sau này họ đã để thêm tủ áo”, Reuben nói.

Stone đồng tình, “Loại tủ áo đủ to để bước vào như thế này không phổ biến lắm vào thế kỷ thứ 19”.

Họ bước lên cầu thang. Trên đường lên, Stone bật công tắc đèn, ánh sáng yếu ớt rọi vào cầu thang. Đến cuối cầu thang họ thấy một không gian rộng lớn. Nơi này có vẻ như không có gì thay đổi kể từ ngày căn nhà được xây lên. Có vài thùng giấy và va-li cũ kĩ, nhìn sơ cũng thấy căn gác chỉ toàn đồ vứt đi.

Reuben nhìn thấy cái vật đó trước tiên, đặt phía trước một khung cửa sổ hình bán nguyệt, “Sao lại có kính viễn vọng ở đây?”

“Anh sẽ không đặt kính viễn vọng dưới nhà kho chứ hả?”

Reuben nhìn vào kính, “Chúa ơi!”.

“Gì thế?”, Stone la lên.

“Nó hướng vào căn nhà kế bên”.

“Nhà ai vậy?”

“Làm sao tôi…”, Reuben dừng lại và điều chỉnh ông kính. “Khốn kiếp!”

“Gì vậy? Để tôi xem nào”.

“Chờ chút, Oliver”, Reuben nói, “Để tôi quan sát một chút coi”.

Stone chờ rồi đẩy bạn mình qua một bên. Lau cặp kính cho sạch, ông ghé mắt vào nhìn xuyên qua cửa cửa sổ nhà bên cạnh. Rèm cửa đã được thả xuống, nhưng phía trên cửa sổ còn nửa vòng tròn bằng kính. Chỉ có thể nhìn vào phòng của nhà bên kia từ nơi cao như thế này. Giờ Stone đã thấy cái thu hút sự chú ý của Reuben. Đó là phòng ngủ. Cornelius Behan ngồi trần như nhộng trên chiếc giường bốn cột trong khi một cô gái cao và xinh đẹp với nước da ngăm đen đang từ từ cởi bỏ quần áo để trêu chọc gã. Chiếc đầm đã rơi xuống sàn nhà bóng láng.

“Nhanh lên Oliver, đến lượt tôi”, Reuben lớn tiếng, tay lắc vai Oliver. Oliver cứ đứng ỳ ra. “Này, chẳng công bằng chút nào. Tôi thấy cái kính viễn vọng trước đấy”, Reuben phản đối.

Stone tiếp tục theo dõi, rồi tất cả cũng tuột xuống khỏi đôi chân thon dài của cô gái. Cô ả bước ra, quăng cái quần cho Behan; gã nhanh chóng chụp lấy. Cô ta cười lớn, ôm cái cột giường và bắt đầu màn múa cột bốc lửa, y như các vũ công chuyên nghiệp. Khi cô ta cởi bỏ đôi giày và bước về phía gã Behan đang háo hức chờ đợi, Stone trả kính lại cho anh bạn của mình, “Tôi đã thấy hình bà Behan trên báo. Không phải cô ả này”.

Reuben chỉnh lại kính, “Khốn kiếp, anh làm lệch tiêu điểm rồi”, ông ta cằn nhằn.

“Anh làm mờ kính thì có”.

Reuben xem tiếp, “Một thằng đàn ông nhỏ thó, thô kệch ở cùng một cô gái xinh đẹp thế kia, sao chuyện vớ vẩn này có thể xảy ra được nhỉ?”

“Ồ, tôi có thể cho anh một tỷ lý do”, Stone trầm ngâm. “Vậy DeHaven là một gã xem trộm người khác”.

“Khỉ thật, sao anh đổ lỗi cho ông ta được?”, Reuben ca thán. “Ô, có vẻ như đau đớn nhỉ. Rồi, được rồi. Nhưng có vẻ tệ hơn… Chà, gã cũng mềm dẻo gớm. Giờ chân ở đằng đầu”.

Stone nghe ngóng, “Gì thế kia?”

Reuben bận rộn tường thuật hai vai diễn bốc lửa bên kia nên không thể trả lời, “Rồi, hai người họ đang nằm dưới sàn”.

“Reuben, Milton gọi chúng ta xuống kìa. Có lẽ Caleb và Pearl đã lên tầng trệt rồi”.

Reuben không thèm nhúc nhích. “Gì mà phiền vậy? Tôi chưa thấy trò này ở nhà thổ bao giờ”.

“Reuben, nhanh lên!”.

“Trông cô ta khiêu khích quá!”

Stone nắm Reuben kéo ra cửa, “Ngay lập tức!”

Bị Stone đẩy xuống cầu thang, Reuben càu nhàu liên tục. Lúc họ xuống đến tầng trệt cũng là lúc Caleb và Pearl bước ra khỏi thang máy.

Milton liếc Stone và Reuben muốn tóe lửa, chứng tỏ là họ đã xuống vừa đúng lúc; người buôn sách quý có vẻ sững sờ còn Caleb thì đắc thắng.

“Tôi biết đây là cú sốc đối với ông”, Caleb nói, vỗ vỗ vào vai Pearl. “Nhưng tôi đã nói với ông rằng nó là bản gốc mà”.

“Vậy nó là ấn bản 1640 đúng không?” Stone hỏi.

Pearl chỉ im thít và gật đầu, “Và tôi đã cầm nó, bằng đôi tay này, tôi đã cầm nó”. Ông ta ngồi xuống ghế, “Lúc nãy tôi gần như muốn xỉu ở dưới ấy. Ông Shaw đây đã phải lên lấy nước cho tôi”.

“Tất cả chúng ta đều mắc sai lầm trong đời”, Caleb nói với giọng cảm thông nhưng nụ cười toe toét đã phản bội ông ta.

“Sáng nay tôi đã gọi cho các thư viện có lưu trữ quyểnThánh ca”, Pearl nói. “Đại học Yale, Thư viện Quốc hội, Nhà thờ Old South ở Boston, tất cả. Họ khẳng định rằng quyểnThánh cacủa họ vẫn nguyên vẹn”. Ông ta lấy khăn tay lau mặt.

Caleb tiếp tục câu chuyện, “Chúng tôi đã xem xét quyển sách ở mọi khía cạnh xác thực. Thế nên chúng tôi mất nhiều thời gian đến thế “.

“Tôi đã đoán chắc rằng nó là một bản sao chép giả mạo”, Pearl thừa nhận. “Nhưng mặc dù chúng tôi kiểm tra cả cuốn sách thật kỹ càng, tôi biết ngay từ lúc lần giở những trang sách đầu tiên - nó là một cuốnThánh cathật. Thấy rõ nhất là chữ in không đều. Có mấy chỗ chữ in mỏng mực, có chỗ lại vấy mực. Ở những ấn bản đầu tiên anh luôn thấy dấu hiệu mực bị khô đi đóng lại giữa các chữ cái, làm cho chữ in rất khó đọc. Trước đó không có quy tắc lau chùi các khuôn bản chữ cái trước khi in ấn. Những điểm khác mà chúng tôi trông đợi được thấy, hay nói chính xác hơn là phải có trong ấn bản đầu tiên, đều có ở quyểnThánh canày. Tất cả đều có trong quyểnThánh canày”. Ông ta lặp lại.

“Dĩ nhiên rồi, những điểm xác thực vừa đề cập sẽ phải được một nhóm chuyên gia khẳng định lại bằng phân tích văn phong, lịch sử và khoa học nữa”, Caleb nói.

“Chính xác”, Pearl đồng ý. “Dù tôi thật lòng tin vào câu trả lời là gì rồi”.

Stone nói, “Vậy là có bản sách thứ mười hai của quyểnThánh caư?”

“Đúng thế “, Pearl khẳng định, “Và Jonathan Dehaven là chủ sở hữu của bản thứ mười hai này”. Ông ta gật đầu. “Tôi không thể tin rằng ông ta chưa hề nói với tôi điều này. Rằng ông ta có một trong những quyển sách quý hiếm nhất thế giới, một quyển sách mà vài nhà sưu tập vĩ đại nhất mọi thời đại chưa hề có thể sở hữu. Mà ông ta giữ bí mật. Tại sao?”. Ông bất lực nhìn Caleb, “Tại sao vậy, Shaw?”.

“Tôi không biết”, Caleb thừa nhận.

“Thế cái bản sách đó trị giá bao nhiêu?”, Reuben hỏi.

“Trị giá ư?”, Pearl kêu lên, “Trị giá? Nó vô giá!”

“À, nếu ông rao bán thì sẽ có người đặt giá thôi”.

Pearl đứng dậy và rảo bước, “Giá sẽ là giá cao nhất mà người ta trả tại cuộc đấu giá. Và có thể là hàng nghìn triệu đôla. Có vài nhà sưu tập và các viện sách đầy ắp tiền lúc này, nên họ sẽ rất quan tâm đến quyểnThánh canày. Chưa hề có một quyểnThánh canào trên thị trường hơn sáu thập kỷ rồi. Đây sẽ là cơ hội cuối cùng cho những ai muốn có nó trong bộ sưu tập của mình”. Ông ta dừng lại nhìn Caleb, “Và tôi rất vinh dự nếu được sắp xếp buổi đấu giá. Tôi có thể liên kết với hai nhà đấu giá Sotheby và Christie để tổ chức”.

Caleb thở hắt ra, “Chuyện này rất quan trọng, ông Pearl à. Xin hãy để tôi suy nghĩ cẩn thận một vài ngày rồi tôi sẽ gọi cho ông”.

Pearl có vẻ thất vọng nhưng vẫn cố nở nụ cười, “Tôi sẽ rất nóng lòng chờ cuộc gọi của anh”.

Sau khi Pearl rời khỏi nhà DeHaven, Stone nói, “Caleb, trong khi anh ở dưới kho sách, chúng tôi đã lục lạo căn nhà này”.

“Anh nói sao?”, Caleb kêu lên, “Oliver, thật là quá đáng. Tôi chỉ được phép vào nhà với tư cách là người ủy quyền thư viện của Jonathan thôi. Tôi đâu có quyền săm soi đồ đạc của ông ấy, và các anh càng không”.

“Nói cho anh ta nghe về cái kính viễn vọng đi”, Reuben xúi giục với cái nhìn chạnh chọe.

Stone kể cho Caleb nghe, và thay vào cơn giận dữ của Caleb là sự ngạc nhiên. Ông nói, “Jonathan xem người khác mua vui ư. Kinh tởm quá”.

“Không, không hẳn thế “, Reuben trả lời chân thật. “Thật sự thì việc nhìn lén này rất làkích thíchđấy chứ. Anh có muốn lên xem với tôi không?”

“Không, Reuben!”, Stone gằn giọng. Rồi ông đưa cho Caleb xem bức ảnh chụp người phụ nữ trẻ và DeHaven.

“Nếu cô ấy là vợ cũ của Jonathan, vậy hôn nhân này có trước khi tôi quen biết ông ấy rồi”, Caleb thổ lộ.

“Nếu ông ta còn giữ bức ảnh, có lẽ ông ta vẫn còn giữ liên lạc với cô ấy”, Milton đề xuất.

Stone nói, “Nếu vậy, có lẽ ta cần phải tìm cô ấy thôi”. Ông nhìn vào cuốn sách Caleb đang cầm, “Cái gì thế?”

“Đó là quyển sách trong bộ sưu tập của Jonathan, cần phải sửa chữa lại, vì chẳng biết sao mà nó bị thấm nước. Tôi sẽ đem đến bộ phận bảo tồn của thư viện. Chúng tôi có những người giỏi nhất thế giới về lĩnh vực này. Một trong số họ làm nghề tự do bên ngoài. Tôi chắc chắn anh ta có thể sửa chữa cuốn này được”.

Stone cảnh báo, “Jonathan DeHaven có quyển sách quý hiếm nhất thế giới mà hoàn toàn không thể giải thích được. Ông ta theo dõi tên buôn vũ khí ngoại tình và có thể đã thấy được điều gì đó nữa ngoài chuyện chơi bời của gã hàng xóm. Và không ai biết ông ta chết như thế nào”. Ông nhìn những người bạn của mình, “Tôi nghĩ chúng ta có việc để làm rồi đấy”.

“Nhưng tại sao chúng ta phải làm?”, Reuben hỏi.

Stone nhìn Reuben, “Jonathan DeHaven có thể đã bị ám sát. Ai đó theo dõi chúng ta. Caleb làm việc ở thư viện, và anh ta được chỉ định làm người ủy quyền thư viện của DeHaven. Nếu Cornelius Behan có dính líu đến cái chết của DeHaven, hiện thời có lẽ gã nghi ngờ Caleb biết chuyện gì đó. Điều này có thể đẩy Caleb vào tình thế nguy hiểm. Cho nên chúng ta phải tìm ra sự thật càng nhanh càng tốt”.

“Tuyệt quá”, Caleb châm biếm. “Tôi chỉ hy vọng mình có thể sống qua khoảng thời gian này”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Các anh sẽ nhận được thư điện tử từ người của chúng tôi”, Annabelle nói khi đang ngồi trong trung tâm điều hành của sòng bài Pompeii cùng với vài tên đàn em của Bagger, “Khi mở thư, các anh sẽ thấy trong đó có đầy đủ hướng dẫn chi tiết “.

Một gã lên tiếng, “Chúng tôi không thích mở những thư điện tử mà không biết chúng đến từ đâu”.

Annabelle gật đầu, “Quét thư bằng mấy phần mềm diệt virus của các anh. Tôi chắc rằng các anh có những máy vi tính tối tân”.

“Tất nhiên chúng tôi có”, gã ấy tự tin trả lời.

“Vậy thì nghe theo lời cô gái và quét virus cẩn thận đi”, Bagger thiếu kiên nhẫn.

Leo ngồi ở góc phòng, ánh mắt nhìn vào tên điều khiển máy tính. Công việc của gã là để ý bất cứ sự nghi ngờ hay lo lắng trong mắt bọn đàn em của Bagger trong khi Annabelle đang diễn bài văn của mình. Không có liên quan gì đến chuyện cô ấy mặc một chiếc váy rất ngắn, không vớ da, và chiếc áo kiểu mở bung hai nút. Mọi gã đàn ông trong phòng đang theo dõi từng cử động của đôi chân và phía trên hở hang của Annabelle. Và nếu mà chúng nó cứ lo theo dõi cô ta như thế thì chúng nó khó mà suy nghĩ sáng suốt được. Annabelle Conroy, như Leo đã biết từ lâu rồi, sử dụng mọi thứ tài sản trong kho thuốc súng của cô ta.

“Phương tiện giao tiếp chấp nhận được sẽ là dùng cổng web an ninh trong một thư điện tử. Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dùng điện thoại hay máy fax vì cả hai thứ này đềucó thể bịkiểm soát”. Cô ta nói thêm, liếc mắt nhìn Bagger, “cả hai thứ này đềuđang bịkiểm soát”.

Bagger nhướng mày khi nghe câu đó, nhưng gã nói, “Chúng mày nghe cô gái nói rồi đấy. Không dùng phương tiện liên lạc nào ngoài internet hết”. Không nghi ngờ gì Baggerngồi chiếutrên trong việc hợp tác này bởi vì hắn cócon át chủ bài,trong trường hợp này làhai con áttrong một cái lỗ. Hắn sẽ giữ chân Annabelle và Leo đến khi tiền lãi quay trở lại.

“Bức thư điện tử sẽ báo cho các anh biết gửi tiền đi đâu và như thế nào. Hai ngày sau số tiền ký quỹ đó sẽ tự động được gửi lại tài khoản của các anh, cộng với tiền lãi”.

“Và một triệu đôla sẽ nảy nở thành một triệu một trăm nghìn đôla, trong vòng vài ngày, đúng không?”, Bagger nói.

Annabelle gật đầu, “Như chúng tôi đã nói rồi, Jerry. Không phải là một món lãi tồi đâu”.

“Ừ, nên là thế”, hắn nói với giọng lo ngại. “Khi nào ta có thể bắt đầu?”

Annabelle kiểm tra đồng hồ. “Bức thư điện tử chắc là đã được gửi đến hệ thống của ông vào giờ này rồi đấy”.

Bagger búng tay cái chóc, một tên đàn em chạy đến máy vi tính để kiểm tra.

“Có rồi”, tên này nói. Nó kích chuột vài cái, “Em đang chạy chương trình diệt virus để chắc chắn là thư sạch”.

Hai phút trôi qua, Nó ngước lên bảo, “Xong rồi ạ”.

“Mở thư đi”, Bagger ra lệnh.

“Ông có hệ thống đánh điện gửi tiền của riêng mình phải không?”, Annabelle hỏi, mặc dù việc điều tra nghiên cứu cẩn thận đã cho cô ả câu trả lời rồi.

Bagger nói, “Chúng tao chuyển tiền thẳng vào hệ thống ngân hàng. Tao không thích có bên thứ ba kiểm soát tiền của tao hay biết được tiền của tao đi đâu. Số tiền ký quỹ sẽ gửi thẳng lại cho bọn tao tự đánh điện. Tao thích làm việc như thế”.

Tao cũng thích thế, Annabelle tự nhủ.

Mười phút sau, một triệu đôla của Jerry Bagger đang trên đường đến một tài khoản đặc biệt.

Rời khỏi văn phòng, Bagger nói với Annabelle, “Được rồi, chúng mày là ‘khách’ của tao trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ tới. Để chúng ta có cơ hội hiểu rõ nhau hơn”. Gã mỉm cười và đảo mắt nhìn dáng vẻ yểu điệu uyển chuyển của cô.

“Nghe hay đấy”, Annabelle nói.

“Ừ, nghe hay đấy chứ”, Leo thêm vào.

Bagger nhìn Leo như thể hắn quên sự hiện diện của Leo cũng là một phần thỏa thuận. “Đúng vậy”, hắn lẩm bẩm.

Hai ngày tiếp theo Annabelle ăn sáng, ăn trưa, ăn tối với gã Bagger. Lúc nào bọn tay chân của Bagger cũng đứng bên ngoài khách sạn của sòng bài Pompeii và theo sát họ bất cứ nơi nào họ đi. Annabelle cũng ngồi rất khuya uống rượu với vua sòng bạc, nhưng khéo léo từ chối sự tán tỉnh của hắn mà vẫn để lại chút hy vọng đủ để khuyến khích hắn cứ hy vọng. Cô ả rất cẩn thận trò chuyện về ‘quá khứ’ của mình, đủ để đảm bảo sự mù mờ thông tin mà vẫn làm hắn thú vị muốn biết nhiều hơn. Hắn nói nhiều về mình, về tất cả những điều tự phụ ngang nhiên mà người ta đoán chắc phải có ở một tên đàn ông như hắn.

“Tôi nghĩ ông có thể làm một điệp viên giỏi đấy, Jerry”, Annabelle nói với giọngngưỡng mộkhi đang ngồi thư giãn trên ghế sô-pha của hắn sau vài ly rượu martini. “Ông thông minh và can đảm, mà hiếm ai có cả hai lắm”.

“Nhìn xem ai đang nói thế này”, hắn lết đến gần cô ả hơn, vỗ vào đùi cô ta cái chát. Rồi gã cố hôn nhẹ lên má cô ta nhưng Annabelle quay mặt đi.

“Jerry, tôi sẽ gặp rắc rối to khi dính líu chuyện tình cảm với ông đấy”.

“Ai nói vậy? Này, chỉ có hai chúng ta ở đây. Anh biết anh chẳng phải là gà trống sung sức nữa, nhưng anh nghĩ anh sẽ làm em ngạc nhiên em yêu à”.

“Hãy cho tôi chút thời gian. Không phải là tôi không bị ông hớp hồn, nhưng tôi có rất nhiều việc phải làm vào thời điểm này. Được không hả?” Cô ả hôn vội lên má gã và cuối cùng gã cũng rút lui.

Cuối ngày thứ hai, Bagger giàu thêm một trăm nghìn đôla.

“Muốn thử năm triệu đôla không Jerry? Ông sẽ thu về nửa triệu tiền lãi trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ”, Annabelle ngồi vắt vẻo trên bàn làm việc của Bagger, chân bắt chéo, trong khi Leo ngồi ghế dài.

“Chỉ khi cô em vẫn ở đây cho đến khi tiền và lãi quay lại”, Bagger nói.

Annabelle nháy mắt, “Đó là một phần thỏa thuận mà Jerry. Ông vẫn có tôi trong tay”.

“Thì cô em vẫn cứ trấn an anh như thế mà. Nhân tiện cho anh hỏi tiền anh đi đâu vậy?”

“Như tôi đã nói với ông, El Banco del Caribe”.

“Không, ý anh là nó gây quỹ gì cho hoạt động gì ở nước ngoài ấy”.

Leo lên tiếng, “Cô ấy có thể nói cho ông biết, nhưng rồi tôi sẽ phải giết cả hai người để bịt miệng”. Khoảng khắc im lặng kỳ quặc cho đến khi Annabelle cất tiếng cười. Leo cười theo và Bagger thì miễn cưỡng phụ họa.

Hai ngày sau nữa năm triệu đôla tăng thêm được năm trăm nghìn đôla.

“Khỉ thật”, Bagger nói, “Phi vụ này còn hay hơn cả in tiền nữa chứ”. Hắn lại một lần nữa đang ở trong văn phòng cùng với Annabelle và Leo, “Tôi biết chính phủ có hàng tấn tiền, nhưng làm sao nhà nước chịu nổi chi phí thế này?”

Annabelle nhún vai, “Chúng tôi không thể. Đó là lý do chúng tôi mất hàng nghìn tỷ đôla. Nếu cần thêm tiền, chúng tôi phải bán nhiều nợ ngắn hạn hơn cho người Ả Rập và người Trung Quốc rồi. Chuyện làm ăn như thế không thể dài lâu được nhưng hiện giờ thì lại có hiệu quả”. Cô nàng nhìn Bagger và đặt bàn tay lên cánh tay của hắn, “Nếu ông cảm thương cho chính phủ thì ông có thể cho chúng tôi sử dụng tiền của ông khỏi trả lãi đi”.

Hắn bật cười, “Phương châm của anh không thay đổi bốn mươi năm rồi em: thằng nào cũng phải sống vì mình hết”.

Và cái phương châm ấy chẳng hợp với ai hơn mày đâu, Annabelle nghĩ khi mà vẫn nhoẻn miệng cười ngưỡng mộgã đàn ông.

Bagger rướn người về phía trước, liếc nhìn Leo như gã ta đang liếc nhìn Bagger. Hắn hạ giọng, “Em không cắt được cái bóng ấy à?”

Annabelle nói, “Còn tùy”.

“Tùy vào cái gì?”

“Tùy vào tình cảm bạn bè tốt đẹp của ông và tôi tiến triển như thế nào”.

“Anh biết chúng ta có thể thật sự là bạn tốt của nhau mà”.

“Nói tôi nghe thử đi”.

“Chúng ta đã làm ăn được mười triệu đôla, và anh có thêm một triệu đôla chẵn. Chính phủ có che giấu được điều đó chăng?”

“Cứ đánh điện chuyển tiền đi Jerry”.

“Và em sẽ ở đây cho đến khi tiền của anh quay trở lại chứ?”

“Cả hai chúng tôi sẽ ở lại”.

Bagger nhăn mặt và thấp giọng hơn nữa để Leo khỏi nghe thấy, “Anh nghĩ anh phải cho thằng đó một bài học, được không cưng?”

“Ông có nhớ tôi nói với ông sao không? Ông đụng đến anh ấy, bọn họ xuất hiện trước cửa nhà ông liền. Tôi khuyên ông không nên cạn nghĩ”.

“Khốn nạn thật”, Bagger phàn nàn.

“Nói tóm lại là đâu có gì mất mát đâu, Jerry. Trong hai ngày, ông kiếm được một triệu đôla mà chẳng phải làm gì ngoại trừ ăn uống với tôi”.

“Anh muốn làm nhiều hơn thế, cô em biết điều đó mà, đúng không hả?”

“Jerry, tôi biết điều đó ngay từ lần đầu tiên ông cố tình đặt bàn tay lên váy của tôi”.

Bagger cười rống lên, “Anh thích phong cách của em lắm, quý cô nương ạ. Em quá giỏi không nên làm việc cho chính phủ làm chi. Em nên đến làm việc cho anh. Ta sẽ đưa thị trấn này lên một tầm cao mới”.

“Tôi luôn mở rộng vòng tay với triển vọng tương lai của mình. Nhưng hiện giờ thì tại sao chúng ta không kiếm thêm một triệu đôla nữa cho ông? Tôi muốn ông có đủ tiền để chăm sóc tôi theo cái kiểu mà tôi dần quen sau những ngày sống ở đây với ông?”, Cô ả vỗ vào tay hắn, nhè nhẹ ấn móng tay vào lòng bàn tay của hắn. Cô ả cảm thấy cái rùng mình chạy dọc toàn thân của hắn.

“Em đang giết anh đấy, cưng ạ”, hắn rên rỉ thống thiết.

Ồ, không, nó lại đến nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Hai ngày sau Bagger đã kiếm được tổng cộng một triệu sáu trăm nghìn đôla kể từ khi tình cờ gặp được Annabelle và Leo, không hề nhận ra rằng số tiền lãi hắn có được xuất phát từ số tiền ba triệu đôla mà bọn họ tích lũy sau hai phi vụ. Tony đã hợp thức hóa vụ chuyển tiền ‘lãi’ từ tài khoản của họ vào tài khoản của Bagger. Khái niệm này tương tự như kế hoạch của Ponzi, tức là luôn luôn tự hủy hoại mình. Annabelle không hề định để cho kết quả đó xảy ra vào thời điểm này.

Niềm vui của Bagger có thể thấy rất rõ ràng, đặc biệt là vì hắn tin rằng đối thủ đáng sợ - chính quyền - đang thanh toán hóa đơn. Ngồi trong căn phòng khách sạn sang trọng, được bản thân Bagger nâng cấp thành hạng sang dành cho tổng thống sau lần được trả lãi gần nhất, và tràn ngập trong đống hoa sòng bài gửi, Annabelle đọc hết tờ báo này đến tờ báo khác để kiếm cái thông tin mình muốn, và cuối cùng cô nàng cũng thấy được nó. Annabelle và Leo không thể nào nói chuyện với nhau ở bất cứ chỗ nào trong sòng bài. Họ cho rằng tất cả những gì họ nói sẽ bị nghe lén bằng các thiết bị hoặc tay chân của tên Bagger cài vào. Cách duy nhất để thực sự giao tiếp là ra dấu bằng tay và bằng mắt mà hai người đã phát triển theo những năm tháng làm việc với nhau và những người khác cũng không nhận ra được.

Đi ngang qua nhau trong sảnh chính, Annabelle chào buổi sáng và xoay xoay chiếc nhẫn trên ngón trỏ bàn tay trái. Leo chào lại, chạm tay vào nút thắt cà-vạt rồi vuốt mũi, như thế chứng tỏ là mình đã nhận được thông điệp của cô ta và gã sẽ hành động như thế nào.

Trước khi cô ả bước vào thang máy để lên văn phòng của Bagger, Annabelle hít một hơi thật sâu. Ngược lại với những gì Leo nói, cô ả cũng rất lo lắng. Bước đi cuối cùng này quyết định cả cuộc chơi. Nếu Annabelle không diễn cho hoàn hảo, mọi thứ họ làm trong vòng vài tuần qua sẽ đi tong. Cô ả không những sẽ mất số tiền đã trả cho Bagger mà còn không thể sống sót để hưởng số tiền chia từ một triệu bốn trăm nghìn đôla còn lại.

Annabelle nhanh chóng bước vào văn phòng, bọn vai u thịt bắp đã quen với sự hiện diện của cô ả ở nơi này. Bagger chào cô ả bằng một cái ôm thật chặt mà cô ả để cho vòng tay hắn tuột xuống thấp hơn thường lệ. Đôi tay hắn đã siết nhè nhẹ trước khi cô ả gạt tay hắn ra. Nhưng Annabelle vẫn để hắn mỗi lần đi xa hơn một chút vì cô ả biết cái điều hắn thật sự thèm muốn lúc này. Mỉm cười, hắn bước lùi về phía sau và nói, “Sáng nay anh có thể làm gì cho vị thần tài kỳ diệu của anh đây?”

Annabelle nhíu mày, “Tin xấu đây. Tôi vừa mới nhận được cuộc gọi từ Tổng hành dinh của chúng tôi, Jerry à”.

“Chuyện gì? Nghĩa là sao?”

“Nghĩa là tôi bị thuyên chuyển công tác”.

“Đi đâu?”, Hắn nhìn vào mặt cô ta rồi tự trả lời, “Anh biết rồi, cô em không nói cho anh nghe được chứ gì”.

Annabelle giơ mẩu tin trên tờ báo cầm theo, “Đọc đi, ông có thể thấy gợi ý trong đó”.

Hắn cầm tờ báo và đọc mẩu tin Annabelle chỉ, nó mô tả chi tiết một câu chuyện về vụ bê bối tham nhũng chính phủ có liên quan đến một nhà thầu nước ngoài ở Nga.

Bagger ngước nhìn cô ta sửng sốt, “Vậy cô đi từ sòng bài sang mấy nhà thầu bẩn thỉu ở thủ đô Moscow của Nga sao?”

Cô ta giật tờ báo lại, “Không phải bất cứ nhà thầu nước ngoài nào”.

“Em biết mấy thằng đó hả?”

“Tôi chỉ có thể nói nước Mỹ rất quan tâm đến trường hợp không bao giờ ra tòa này. Đó là nơi tôi sẽ đến”.

“Em đi bao nhiêu lâu?”

“Khó nói lắm. Sau Nga sẽ là một nơi nào đó”, Cô ta xoa xoa thái dương, “Ông có thuốc đau đầu hiệu Advil không?”

Hắn mở hộc tủ đưa cô ả một lọ thuốc. Cô ả uống ba viên bằng ly nước hắn rót cho mình.

Hắn ngồi xuống, “Cô em trông không khỏe”.

Cô ả ngồi lên cạnh bàn và cất giọng mệt mỏi, “Jerry ơi, tôi đã làm việc quá nhiều nơi mỗi năm rồi đến nỗi giờ tôi không nhớ hết nữa. Nếu dùng hộ chiếu thật, chắc tôi sử dụng hai mươi tấm rồi đó. Thỉnh thoảng bị nhức đầu vậy đó. Đừng lo, tôi sẽ ổn thôi”.

“Sao em không bỏ làm đi?”, hắn thúc giục.

Cô ta cười cay đắng, “Bỏ ư? Để mất luôn phần lương hưu à? Tôi đã phục vụ nhiều năm rồi. Ngay cả công chức cũng phải ăn chứ”.

“Hãy đến làm việc cho anh. Anh sẽ trả lương cho em một năm bằng số lương bao nhiêu em kiếm được với bọn hề đó”.

“Ừ, đúng vậy”.

“Anh nói nghiêm túc đấy. Anh thích em. Em giỏi thật mà”.

“Ông thích cái việc tôi kiếm cho ông một triệu năm trăm nghìn đôla thì có”.

“Được rồi, anh không bàn cãi việc này. Nhưng đã hiểu em. Và anh thích cái anh nhìn thấy Pam à”.

“Thậm chí tên tôi cũng đâu phải là Pam. Đấy, anh hiểu tôi thế đấy”.

“Chỉ giỡn thôi mà. Em cứ suy nghĩ chuyện ấy nhé?”

Annabelle lưỡng lự, “Gần đây tôi bắt đầu suy nghĩ về tương lai của mình. Tôi chưa chồng con; đời tôi chỉ có công việc và công việc là lẽ sống của đời tôi. Và tôi cũng không còn rực rỡ như ngày xưa nữa”.

Hắn đứng dậy và choàng tay qua vai Annabelle, “Em giỡn hả? Em rất bốc lửa. Thằng nào có được em thì nó quả là may mắn”.

Cô ả vỗ vào tay hắn, “Ông chưa có gặp tôi lúc tôi vừa mới uống cà phê sáng với bộ mặt không son phấn đâu”.

“Ôi, cưng ơi, chỉ cần nói một từ thôi và ta sẽ biết kết quả liền”. Hắn chà nhè nhẹ vào phần lưng của Annabelle. Với tay ấn nút trên bảng điều khiển thiết bị trên bàn, rèm cửa tự động hạ xuống.

“Ông làm gì vậy?”, Cô nhướng mày.

“Anh thích sự riêng tư”, hắn đưa tay chạm vào cô ta.

Vừa đúng lúc, điện thoại rung bần bật, Annabelle nhìn số, “Trời đất”. Cô ta đứng dậy và quay lưng về phía hắn, nhìn vào màn hình.

“Ai vậy?”, Bagger hỏi.

“Trưởng bộ phận của tôi. Số của ông hiện ra toàn là zero”. Cô ta chỉnh trang lại mình và trả lời máy, “Vâng, thưa sếp”.

Cô ta chẳng nói gì trong vài phút, rồi tắt máy, “Đồ chó má, thằng khốn đó”, Cô ta hét lên.

“Gì vậy em yêu?”

Cô ta đi vòng vòng rồi ngừng lại, rõ ràng là vẫn còn đang giận sôi ruột sôi gan, “Gã trưởng bộ phận đáng kính của tôi lại thuyên chuyển tôi qua chỗ khác nữa rồi. Thay vì đi Nga, giờ tôi lại bị đẩy đi Portland ở bang Oregon”.

“Oregon hả? Chúng cần gián điệp ở Oregon sao?”

“Đó là mồ chôn đấy, Jerry. Là nơi chúng tôi bị chuyển đến khi cấp trên không ưa chúng tôi nữa”.

“Sao cô em lại có thể bị đưa từ Nga sang Oregon trong vòng một buổi sáng thế?”

“Vụ ở Nga là do người giám sát lĩnh vực của tôi giao cho. Còn đến Oregon là do trưởng bộ phận điều đi, là cấp cao hơn nên việc thuyên chuyển này phải ưu tiên”.

“Chứ thằng cha trưởng bộ phận sao lại không ưa cô em?”

“Tôi không biết, chắc tại tôi làm quá tốt”, Annabelle gần như sắp nói thêm điều gì đó, nhưng rồi cô ta im bặt.

Bagger nắm lấy cơ hội liền, “Khai mau đi. Nói đi, biết đâu anh giúp được em”.

Cô ta thở dài, “Tin hay không là tùy ông, thằng cha ấy muốn tằng tịu với tôi. Chỉ có điều thằng cha có vợ rồi, nên tôi từ chối gã”.

Bagger gật đầu, “Thằng khốn nạn! Cùng một lũ sâu bọ cả. Cái gì mà phụ nữ người ta không muốn chung chạ là tống cổ người ta đi”.

Annabelle nhìn xuống bàn tay của mình, “Điều này phá hoại sự nghiệp của tôi luôn, Jerry à. Portland! Khốn kiếp!”. Cô ta quăng luôn điện thoại vào tường, nó vỡ làm hai. Rồi cô ả ngồi thụp xuống ghế, “Lẽ ra tôi nên cặp kè với thằng khốn ấy”.

Bagger bắt đầu sờ nắn đôi vai Annabelle, “Không đâu. Mấy thằng như thế, chúng chỉ muốn vui chơi với em. Rồi chúng chán em, và thế là chúng kiếm một cô em khác. Rồi xong, Portland vẫn là nơi em đáp tấm thân ngọt ngào của mình”.

“Tôi chỉ muốn đập thằng cha đó”.

Bagger có vẻ trầm ngâm, “Chuyện đó có thể sắp xếp mà”.

Cô ta mệt mỏi nhìn hắn, “Jerry, ông không được đánh đập gã”.

“Anh đây đâu có nghĩ tới chuyện đó, cưng. Cưng nói thằng đó ghen tỵ vì em làm việc quá tốt. Nghĩ sao?”

“Tôi đưa về được khá nhiều tiền, rồi tự nhiên người ta lên chức cho tôi. Tôi bắt đầu nâng cấp thì tự nhiên tôi trở thành mối đe dọa cho vị trí của hắn. Tin không Jerry, không nhiều phụ nữ làm được việc như tôi đâu. Có vài người muốn thấy một người phụ nữ khác trong chức vụ trưởng bộ phận. Nếu tôi cứ đưa được những người như ông vào phi vụ này, và tiền mặt cứ chảy vào những hoạt động ở nước ngoài như thế này thì chỉ tổn hại đến hắn và làm lợi cho tôi thôi”.

“Hừm, chỉ có trong khu vực nhà nước em mới bị rắc rối vì ‘quá được việc’ thế này”. Hắn nghĩ ngợi một chút, “Được rồi, anh biết ta có thể đảo ngược thế cờ ra sao rồi”.

“Ông nói gì vậy?”

“Nước đi kế tiếp ở El Banco”.

“Jerry, tôi đã bị chuyển công tác rồi. Tôi và cộng sự sẽ lên máy bay tối nay”.

“Được rồi. Nhưng thỏa thuận như thế này nhé. Em vẫn có thể làm cú chót trước khi rời khỏi đây mà, đúng không?”

Annabelle có vẻ như đang xem xét lời đề nghị, “À, vâng, ý tôi là, tôi vẫn còn thẩm quyền. Nhưng một triệu đôla tiền lãi cũng không thể cho tôi chiếc ghế trưởng bộ phận của thằng cha đó”.

“Anh không nói một triệu vô tích sự”, Hắn nhìn Annabelle. “Số tiền lớn nhất mà em từng rửa là bao nhiêu?”

Cô ả nghĩ ngợi, “Phần lớn các số tiền đã gửi đi là từ một triệu cho đến năm triệu đô la. Nhưng tôi đã từng chuyển được mười lăm triệu ở Vegas và hai mươi triệu ở New York, chuyện của hai năm trước rồi”.

“Không thể!”.

“Không thể ư? Đúng vậy”.

“Nói anh nghe, bao nhiêu mới lật được ghế thằng ấy?”

“Jerry, tôi không biết. Ba mươi triệu đôla”.

“Vậy bốn mươi triệu đôla nhá. Và để trong bốn ngày chứ chẳng phải hai ngày nữa”. Hắn tính rất nhanh trong đầu mình, “Là hai mươi phần trăm lãi mỗi mười triệu đôla. Thế là anh kiếm được tám triệu đôla. Món hời nhỉ”.

“Ông có bốn mươi triệu đôla tiền mặt à?”

“Này, em nghĩ em đang nói chuyện với ai vậy? Anh đây có hai trận tranh chức vô địch hồi tuần rồi. Anh có nhiều tiền mặt lắm”.

“Vậy ông làm vụ này để làm gì?”

“Tám triệu đôla trong bốn ngày đâu có dễ hắt xì hơi là ra đâu, thậm chí với người kiếm tiền dễ như anh”. Hắn véo mũi cô ả, “Với lại, như em nói đó, em đang có tình cảm với anh mà, em yêu”.

“Nhưng tôi vẫn phải đến Oregon. Tôi không thể cãi lại lệnh cấp trên”.

“Ờ, vậy em cứ đến Oregon. Nhưng sau đó em sẽ nghĩ đến chuyện ra khỏi tổ chức và trở lại đây với anh. Anh chia luôn cho em mười phần trăm của tám triệu đôla tiền lãi mới kiếm được và cho em địa vị”.

“Tôi không muốn làm gái bao của ông, Jerry à. Tôi có bộ óc mà”.

“Thì anh sẽ sử dụng bộ óc của em”. Hắn lại chuồn tay xuống lưng Annabelle, “Anh sẽ gọi cho mấy đứa tay chân ở tầng dưới”.

“Như tôi đã nói, tôi sẽ đi Oregon tối nay bằng máy bay riêng”.

“Anh hiểu rồi cưng”.

“Ý tôi nói là anh sẽ không có lại tiền của mình trước khi tôi rời khỏi đây, Jerry ơi”.

Hắn cười ha hả, “Ô, cái vụ con tin ấy à? Anh nghĩ ta cho qua nhé em yêu. Em đã giúp anh có một triệu sáu trăm nghìn đôla rồi, nên anh nghĩ em đã chứng minh được mình rồi”.

“Chỉ khi anh chắc chắn thôi. Bốn mươi triệu chẳng phải là món tiền nhỏ đâu”.

“Ê, vụ bốn mươi triệu này là ý tưởng của anh, chứ đâu phải của em đâu. Để anh lo cho”.

Annabelle đứng ngẩn người, “Tôi làm việc với nhiều gã rồi mà thực sự chúng nó chỉ coi đây là chuyện làm ăn thôi Jerry à”. Cô ả ngừng lại một chút, “Chúng chỉ biết hỏi bao nhiêu, được bao nhiêu. Bọn đểu giả tham lam, tất cả bọn chúng nó đều thế”. Cô ả lại ngừng, ra vẻ đang tìm lời để diễn tả, dù cô ả đã luyện tập cho màn này khá lâu rồi, “Ông là người đầu tiên làm chuyện gì đó vì tôi. Tôi rất cảm kích, cảm kích nhiều hơn bao giờ hết”. Đây có lẽ là câu nói thật lòng đầu tiên mà cô ả thốt lên trước mặt Bagger.

Họ nhìn nhau, rồi Annabelle chầm chậm mở rộng vòng tay. Ngay lập tức hắn ào cả thân người vào vòng tay cô ả. Cô ả gần như ngạt thở vì mùi nước hoa của hắn. Đôi bàn tay hắn nhanh chóng mò mẫm xuống lớp váy, ả lặng im chịu đựng. Thật ra cô ả rất muốn thúc đầu cho hắn một cú trời giáng.Bình tĩnh nào, Annabelle, mày chịu được mà. Mày phải chịu được.

“Ôi, cưng ơi”, Bagger nói vào tai Annabelle. “Trước khi em ra đi, anh muốn ta phải có kỷ niệm sâu sắc với nhau, rồi em lại quay về với anh nhé”.

“Tin tôi đi, tôi có thể cảm nhận được tình cảm, Jerry ạ”, cuối cùng cô nàng cũng giằng được ra khỏi hắn. Annabelle chỉnh trang lại bộ váy thời trang, “Được rồi, Jerry, tôi thấy mình chẳng thể từ chối tình cảm của ông lâu hơn nữa. Nói tôi nghe ông đến Roma bao giờ chưa?”

Hắn có vẻ không hiểu, “Chưa, nhưng sao?”

“Tôi thuê biệt thự ở Roma mỗi năm khi tôi có dịp đi nghỉ mát. Tôi sẽ gọi điện nói với ông chi tiết hơn. Hai tuần sau tôi sẽ gặp ông ở đó”.

“Tại sao lại là hai tuần sau mà không phải là bây giờ nhỉ?”

“Tôi phải dành thời gian để viết báo cáo chứ, biết đâu tôi có thể dùng cú chuyển bốn mươi triệu đôla để làm đòn bẩy thăng tiến đi đâu đó chứ không phải là Portland”.

“Nhưng đề nghị em về làm việc cho anh vẫn còn chờ em đó. Anh thấy nó thuyết phục mà”.

Annabelle đưa tay rờ lên mặt của hắn, “Cho tôi thấy tính thuyết phục của ông ở Roma nhé!”.

Bốn mươi triệu đôla rời khỏi sòng bài hai giờ sau đó. Thư điện tử đầu tiên mà Tony gửi cho trung tâm điều hành sòng bài Pompeii có một phần mềm gián điệp rất phức tạp để điều khiển hệ thống máy vi tính của sòng bài Pompeii từ xa. Với cách truy cập bí mật đó, gã viết thêm đoạn mã mới vào chương trình đánh điện chuyển tiền của Bagger.

Ba cú đánh điện chuyển tiền đã đến tài khoản ở El Banco, nhưng khi họ gửi bốn mươi triệu đôla, chương trình đã tự động lập trình lại đường đi đến một ngân hàng nước ngoài khác vào một tài khoản khác được Annabelle Conroy kiểm soát. Trong khi bọn đàn em của Bagger sẽ thấy rằng tiền đã đến El Banco rồi - một hóa đơn điện tử được gửi tự động đến Pompeii - không một đồng nào sẽ quay trở về với tên Bagger cả. Kế hoạch của Annabelle chỉ chú trọng vào một mục tiêu: cài phần mềm gián điệp vào hệ thống máy tính của Bagger. Sau khi cài xong, cô ả an tâm mà làm tiếp. Sau đó cô ta đóng tròn vai của mình và để cho lòng tham cùng dục vọng làm mồ chôn gã, bởi vì cách hay nhất để lừa con mồi chính là để con mồi tự đề nghị ra cú lừa.

Bốn ngày nữa kể từ hôm nay, Bagger sẽ dần dần cảm thấy bồn chồn khi tiền không quay trở về tài khoản của hắn. Một giờ sau hắn sẽ bắt đầu thấy ruột gan nóng như đốt. Một giờ sau nữa hắn sẽ trở nên khát máu. Và Annabelle cùng đồng bọn đã cao chạy xa bay cùng với món tiền bốn mươi triệu đôla kếch xù chẳng tốn một đồng thuế.

Annabelle Conroy có thể mua du thuyền và sống trên biển suốt phần đời còn lại, bỏ thế giới bịp bợm phía sau. Trừng phạt như thế vẫn chưa đủ hả dạ cơ đấy, Annabelle nghĩ khi rời văn phòng Bagger để về thu xếp hành lý. Nhưng trước tiên, phải tắm sạch sẽ gột rửa cảm giác bàn tay rờ rẫm nhớp nhúa của tên Bagger cái đã.

Khi Annabelle đang tắm, cô ả lại nghĩ ngợi rằng số tiền mất đi chẳng đủ làm cho gã đàn ông ấy đau đớn, gã đàn ông đã giết mẹ cô ta vì mười nghìn đôla mà Paddy Conroy lừa phỉnh hắn. Sẽ không bao giờ có thể đủ bù đắp nỗi đau của cô ả. Dù sao Annabelle phải thừa nhận rằng bốn mươi triệu đôla là một khởi đầu đau đớn dành cho hắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Roger Seagraves đã biết được nơi Stone ở và cho người đến căn nhà ấy khi không có ai. Họ sục sạo kĩ càng và không để lại bất cứ vết tích gì cho rằng họ đã từng ở đó. Và quan trọng hơn, họ lấy được vân tay của Stone từ chiếc ly thủy tinh và bàn bếp.

Seagraves đã so với dấu vân tay lưu trữ trong kho dữ liệu chung của CIA, nhưng chẳng tìm thấy gì. Sử dụng mật mã ăn cắp được từ một đồng nghiệp, hắn cố gắng kiểm tra trong phần dữ liệu tối mật. Truy nhập được rồi, hắn đặt vân tay Stone vào phễu. Một phút sau, dẫn đến thư mục con mang số hiệu 666, cái thư mục mà hắn chắc chắn biết rõ mặc dù phần tìm kiếm với dấu vân tay của Stone cho kết quả “Không truy cập được”. Seagraves quá quen thuộc với thư mục con ‘666’ bởi vì đó là nơi dấu vân tay của chính mình đang được lưu giữ, hay ít nhất là cái ‘nhân thân’ mà hắn đã từng mang. Hắn thường cười cái mã số ‘666’, nghĩ rằng việc gắn mã như thế khá xấc xược, mà thực sự là thế.

Seagraves hài lòng với kết quả tìm thấy và rồi trầm tư. Stone đã làm việc cho CIA, đối với tuổi tác như thế, thì có lẽ lâu lắm rồi. Ông ta có lẽ đã từng là người chuyên đi thủ tiêu người vì nhóm 666 chưa bao giờ dành cho mấy người làm công tác văn phòng trong CIA cả. Lúc này thì Seagreaves vẫn chưa biết nên hiểu điều mới khám phá này như thế nào cho đúng. Hắn biết rằng người bạn thủ thư của Stone được ủy quyền bán bộ sưu tập sách của DeHaven. Xui rủi là vụ đuổi theo Stone của mấy đứa nhân viên đã làm Stone nghi hoặc. Và một người ‘666’ được sinh ra với tính đa nghi cố hữu; đó là một trong những phẩm chất phải có để làm công việc của ông ta.

Mình có nên giết hắn không? Hay khử hắn làm mọi chuyện phức tạp hơn?Seagraves cuối cùng cũng quyết định bỏ cái bước giết người ấy đi. Hắn sẽ luôn chọn giết người sau khi xong việc của mình.Mẹ kiếp, tao sẽ tự tay giết mày. Từ thằng ‘666’ này đến thằng ‘666’ khác. Thằng trẻ đấu với thằng già, và trẻ luôn thắng trận. Mày phải sống Oliver Stone ạ. Ngay lúc này.

Nhưng hắn phải làm gì đó để phủ đầu ông già đó. Không thời điểm nào tốt hơn lúc này.

Hai ngày sau chuyến viếng thăm nhà DeHaven, Stone và Reuben lái chiếc mô-tô đến một tiệm sách quý ở khu chợ cũ Alexandria. Tên tiệm sách đặt bằng tiếng La-tinh, có nghĩa là “Sách Bốn Câu”. Caleb có cổ phần trong tiệm sách này - trước đây nó có tên “Sách của ông Doug” cho đến khi Caleb nảy ra ý tưởng nâng tầm ảnh hưởng của hiệu sách lên hoàn toàn. Stone đến đây không phải vì ông muốn ngắm nhìn những cuốn sách cũ. Ông đã gửi vài vật dụng ở tiệm sách và giờ đây muốn lấy về sử dụng.

Chủ cửa tiệm, người tên Doug được đề cập ở trên, người được gọi trang trọng hơn với tên “Douglas”, cho phép Stone tự do ra vào chỗ trú ẩn của ông ấy. Có chuyện này là vì Douglas rất sợ Oliver Stone - người được Caleb mô tả (với sự “đạo diễn” của Stone) là một tên mắc bệnh cuồng sát đi lại tự do chỉ nhờ kỹ thuật giết người.

Căn phòng bí mật của Stone nằm dưới tầng hầm sau một bức tường giả, mở ra bằng cách kéo sợi dây giăng ngang lò sưởi liền kề. Một cái hốc trước đây dành cho một cha xứ trong tòa nhà cổ như thế này, giờ chứa rất nhiều vật dụng ông sử dụng trong cuộc đời cũ của mình, cộng với bộ sưu tập các bài báo cắt từ báo giấy và tạp chí.

Với sự giúp đỡ của Reuben, ông tìm ra vài cuốn nhật ký báo và đem về. Reuben thả ông xuống căn nhà ở nghĩa trang.

“Cẩn thận nhé Oliver”, Reuben nhắc nhở. “Nếu thằng Behan nhỏ thó có liên quan đến vụ này, nó sẽ dùng vũ lực và các mối quan hệ để xử anh đó”.

Stone trấn an Reuben rằng ông sẽ cẩn trọng, chào tạm biệt và bước vào nhà. Ông pha chút cà phê đậm đặc, ngồi vào bàn và bắt đầu xem lại mấy cuốn nhật ký báo. Câu chuyện ông chọn ra để xử lý là vụ ám sát Chủ tịch Hạ viện, Robert Bob Bradley. Và cả ngôi nhà bị nổ xảy ra cùng thời điểm, một sự kiện mà chỉ có mấy thằng đần độn nhất mới nghĩ rằng chỉ là sự trùng hợp tình cờ. Nhưng có vẻ như chẳng có mối liên hệ nào giữa vụ ám sát Bradley và sự nhúng tay của nhóm khủng bố nội địa tên “Chống người Mỹ năm 1984” và cái chết dường như vô tội của Jonathan DeHaven cả. Phía FBI đã nhận được thông báo của nhóm này nói rằng Bradley bị giết là bước khởi đầu trong cuộc chiến với chính quyền liên bang. Bọn khủng bố hứa hẹn sẽ có nhiều vụ tấn công hơn, và an ninh ở Washingtơn đã phải được thắt chặt hơn để đề phòng rủi ro.

Khi giở trang nhật ký báo, cái gì đó làm Stone khó chịu, nhưng ông không kìm nén được. Bradley chỉ làm Chủ tịch Hạ viện trong một thời gian ngắn, sau cuộc cải tổ chính trị mà người Chủ tịch đương nhiệm cùng thủ lĩnh phe đa số bị kết tội mua bán sự ảnh hưởng và che giấu gốc tích của số tiền vận động chính trị. Thông thường, vị trí Chủ tịch Hạ viện sẽ chuyển cho người đứng đầu đảng chiếm đa số ghế, nhưng với việc hai người lãnh đạo cao nhất đều đi tù thì phải sử dụng giải pháp đặc biệt. Và thế là Bob Bradley, vị chủ tịch ủy ban quyền lực với danh tiếng không chút tỳ vết bỏ khá xa nấc thang lãnh đạo ô uế của đảng mình, trở thành con bài chính trị được đưa ra để dẫn dắt nhóm người của ông ta khỏi bụi rậm những sai lầm bẩn thỉu.

Ông ta bắt đầu công việc của mình với lời hứa dọn sạch lại Hạ viện và kết thúc việc bè phái chính trị. Rất nhiều người đã hứa như thế nhưng rất ít người làm được điều đó, ai cũng nghĩ rằng ‘nếu mọi người có thể hứa thì Bradley cũng có thể hứa’.

Stone giở cuốn nhật ký báo khác và một câu chuyện khác. Câu chuyện này nói về Cornelius Behan, nhắc lại gã đã đến đất nước này không một đồng dính túi và từ hai bàn tay trắng đã xây dựng một khối đoàn kết quốc tế bằng mồ hôi và mưu trí của chính mình. Những nhà thầu vũ khí phòng thủ có tiếng là không coi luân thường đạo lý ra gì. Dùng tiền bịt miệng các dân biểu để được hưởng lợi chính trị là một trong những trò cũ mèm ở Washington, và thế là mấy kẻ sản xuất xe tăng máy bay cũng chơi trò ấy đâu thua gì những người khác.

Stone đọc xong câu chuyện về Behan, đề cập chi tiết hai vụ kinh doanh thành công lớn gần đây nhất. Một là xây dựng hệ thống tên lửa thế hệ mới cho Lầu Năm Góc và hai là xây một boongke thật lớn cho Quốc hội bên ngoài Washington đề phòng biến động chính trị. Trong khi vài kẻ yếu thế tranh luận rằng điều tốt nhất có thể xảy đến cho đất nước trong trường hợp có biến động chính trị là thủ tiêu cơ quan quyền lực là Quốc hội đi, thì Stone cho rằng đất nước vẫn cần phải có chính quyền.

Mỗi một hợp đồng như thế trị giá nghìn tỷ đôla, và Behan gom cả hai hợp đồng vào tay mình. Như bài báo giải thích, hắn đã loại bỏ được các đối thủ vào lúc gay go nhất. “Cứ như thể ông ta biết đọc suy nghĩ của người khác” - người phóng viên viết như thế. Stone không tin có những người đọc được suy nghĩ của người khác; nhưng đã từng là gián điệp khi còn trẻ, ông tin rằng có những bí mật bị đánh cắp.

Stone dựa người vào ghế và nhấp một ngụm cà phê. Nếu người tiền nhiệm của Bradley đã nằm trong túi quần của Behan và Bradley hứa hẹn giải quyết triệt để tham nhũng, có lẽ đó là cái giá phải trả của một người muốn làm cuộc cách mạng trong Hạ viện. Không gì bảo đảm rằng người kế nhiệm của Bradley sẽ còn hợp tác với những thằng như Behan nhưng những yếu tố dọa dẫm đã lộ ra hết. Chủ tịch Hạ viện mới có dám tiếp bước Bradley đem lại sự trong sạch cho Hạ viện khi lời hứa y chang đã dẫn đến cái chết bất đắc kì tử của người đồng nghiệp? Nhóm khủng bố chỉ là bình phong, màn tung hỏa mù không thể xác thực được vào thời điểm đó.

Stone bắt đầu nghĩ đến cái chết của Bradley bởi vì ông chỉ thấy mối liên hệ duy nhất giữa kẻ giết Bradley và kẻ giết DeHaven. Đó là Cornelius Behan, gã đã kiếm được hàng tỷ đôla bằng cách buôn bán vô số thứ giết người, dưới danh nghĩa hòa bình.

Có phải người của Behan ở trong chiếc xe tải “Công trình công cộng D.C” hay không? Có khi nào chúng làm cho Mật vụ phải rút lui bằng cách nào đó? Hoặc đó là một cơ quan khác có quan hệ mật thiết với Behan đóng vai trò can thiệp cho gã chăng? Con người đã tranh cãi hàng thập kỷ về việc có tồn tại hay không mối quan hệ công nghiệp - quân sự. Stone chưa bao giờ tự hỏi về điều này. Ông đã tham gia trong liên minh đó nhiều năm rồi. Nếu như có mối quan hệ như thế ba mươi năm về trước, nó sẽ là một lực lượng có uy lực cần phải được cân nhắc đến. Nó cũng là một lực lượng không ngần ngại thủ tiêu những chướng ngại vật trên đường. Stone biết được nhờ kinh nghiệm cá nhân. Suy cho cùng thì ông đã từng là một trong những kẻ đi thủ tiêu những người chướng ngại mà.

Ông sẽ nhờ Milton tìm càng nhiều thông tin về Bradley và Behan càng tốt. Milton có thể xâm nhập vào các cơ sở dữ liệu mà anh ta không được phép lai vãng; tuy nhiên các cơ sở dữ liệu ấy lại là những cái thú vị nhất. Stone sẽ đến căn nhà cháy trụi của Bradley để coi có thu thập được thêm gì hay không. Rồi ông sẽ quay lại nhà Jonathan DeHaven vì ông muốn quan sát bằng kính viễn vọng một lần nữa, không phải vì háo hức muốn được xem màn kích dục mới của Behan. Không, có một điều gì đó rõ ràng là ông hoàn toàn bỏ sót.

Một cơn gió lạnh lùa đến, ông đứng dậy đốt lò sưởi. Rồi ông dừng lại và chà xát da thịt mình. Ông thấy lạnh, rất lạnh. Người phụ nữ đó đã nói cái quái gì nhỉ? Ông đấu tranh tư tưởng để gắng nhớ chính xác từng chữ. “Thân nhiệt của anh đang tăng trở lại”. Đúng rồi, đó là lời cô y tá chăm sóc Caleb đã nói. Ông thấy câu nói ấy kì kì bởi vì trong bệnh viện người ta thường nghe rằng anh đang hồi phục vì thân nhiệt của anhhạ xuốngbình thường rồi. Nhưng cô y tá nói thân nhiệt anh ta gần nhưtăng lênmức bình thường rồi, ông chắn chắn mình nghe không sai chữ nào.

Stone bỗng thấy phấn khích lạ thường. Cuối cùng thì cũng đã có manh mối. Ông chộp lấy di động để gọi cho mọi người nhưng rồi bất chợt nhìn ra cửa sổ. Từ đây ông có thể thấy dãy đèn đường chiếu sáng con đường bên ngoài khu nghĩa trang. Một chiếc xe tải “Công trình công cộng D.C” đang đậu ở đó. Ông thấy nó rất rõ dưới ánh đèn đường.

Ngay lập tức Stone tránh ra khỏi cửa sổ. Ông gọi cho Reuben nhưng không kết nối được. Nhìn vào điện thoại, ông chẳng thấy cột sóng đâu nữa, dù khu vực này sóng điện thoại rất mạnh. Ông liếc nhìn ra ngoài cửa sổ.Đài từ làm nhiễu sóng. Ông thử dùng điện thoại bàn. Nó im như chết.

Ông cầm áo khoác chạy ra cửa sau. Ông sẽ nhảy qua bờ rào và chạy ra mấy con đường ở khu Georgetown đến một căn nhà bỏ hoang mà ông thường sử dụng làm nơi trú ngụ an toàn. Ông cẩn trọng mở cửa và bước ra, bờ rào ở đằng kia.

Viên đạn bắn vào ngực làm ông ngừng lại và khụy gối. Đã từng rơi vào trạng thái bất tỉnh nhân sự, Stone vẫn có thể ngước nhìn người đàn ông đứng ở đó, mặc chiếc áo khoác trùm đầu màu đen, cầm súng bằng hai tay. Stone cảm thấy hắn mỉm cười mặc dù nạn nhân của hắn ngã gục xuống nền đất cứng và bất động.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Bóng tối của thẩm vấn. Stone nhận ra ngay khi ông tỉnh dậy. Không gian quá tối đến nỗi Stone thậm chí còn không thấy bất cứ phần nào trên cơ thể của mình, nhưng mà ông cũng chẳng cảm giác được cơ thể của mình nữa. Chân trần, đứng trên đầu ngón chân đau buốt, và tay đang bị trói trên đầu. Nơi này rất lạnh - những nơi kiểu này luôn rất lạnh lẽo bởi vì cái lạnh làm người ta xuống sức nhanh hơn cái nóng. Ông có thể nhận thấy rằng mình không những không có giày dép gì mà còn trần truồng nữa.

Giọng nói phát ra từ bóng tối, “Tỉnh rồi à?”

Stone gật đầu.

“Nói đi”, giọng nói ra lệnh.

“Tỉnh rồi”, Stone trả lời. Ông chỉ nói một từ, không thêm gì nữa. Ông từng trải qua việc tra tấn này rồi, mặc dù đã xảy ra ba mươi năm trước khi một điệp vụ thất bại và rồi ông thấy mình trở thành tù nhân ở một nơi mà không người Mỹ nào muốn bị bắt giữ.

“Tên gì?”

Đây chính xác là điều ông đang lo sợ.

“Oliver Stone”.

Cái gì đó đánh mạnh vào sau gáy ông, ngay tức khắc làm ông choáng váng.

“Tên gì?”

“Oliver Stone”, ông nói chậm rãi, tự hỏi cú đánh có làm vỡ sọ mình chưa.

“Được rồi, Oliver. Nói về DeHaven đi?”, giọng nói cất lên.

“Ai?”

Giờ Stone có cảm giác cái gì đó đang quấn chân ông, ông cố đá nó ra nhưng nhận ra chân mình bị ghìm chặt rồi. Cái vật đó cứ như rắn bò lên chân phải của ông. Ông thở mạnh và cố xua nỗi sợ đi. Đó không thể là rắn được; chúng chỉ đang kích thích cái gì đó thôi, ông tự viện dẫn. Nhưng dù cái gì đang thúc vào da thịt ông, không phải cắn, thì cái áp lực của nó ngày càng nặng nề.Khốn kiếp, giống hệt như trăn, trăn Nam Mỹ?Trong bóng tối đen như mực, thần kinh thép của Stone cũng bắt đầu rã rời.

“Nói về DeHaven đi”, giọng nói lại thúc.

“Ông muốn biết gì?”

Sự đè nặng đã nới ra một chút, nhưng vẫn còn đe dọa siết chặt.

“Ông ta chết như thế nào?”

“Tôi không biết”.

Cái đó siết mạnh hơn ngay tức thì. Giờ nó đang quấn chặt eo Stone. Ông thấy khó thở. Tay chân vẫn đang đau nhức còn gót chân gần như muốn nổ tung bị bắt đứng trên các đầu ngón chân quá lâu.

“Tôi nghĩ ông ta bị ám sát”, Stone thở hổn hển.

Áp lực nới lỏng, ông nhanh chóng hít thở, buồng phổi căng toạt đau đớn.

“Như thế nào?”

Stone tuyệt vọng nghĩ ra cái gì đó để nói. Ông chẳng biết những người này là ai và hẳn nhiên là không muốn tiết lộ quá nhiều. Khi ông không nói gì, cái đó rớt ra hoàn toàn. Hoang mang, ông cố gắng thư giãn; lẽ ra ông phải biết nhiều hơn.

Ông té xuống nền nhà khi được cởi dây trói tay. Ông cảm thấy những bàn tay mang găng mạnh bạo xốc thân người ông. Khi ông bất thần quơ tay ra, ông đụng phải cái gì đó cưng cứng - kính và kim loại, gần nơi mà kẻ giam giữ có lẽ đang ngồi.Chúng có thiết bị nhìn trong bóng tối.

Stone bị nhấc đến nơi khác. Một chốc sau ông bị quăng mạnh xuống một vật cứng như là miếng ván dài và được giữ vào đó. Ông bị lật ngửa ra, mặt bịt băng keo. Nước đổ xuống mặt làm băng keo dính chặt vào mắt, mũi và miệng ông. Ông ngạt thở. Chúng đang làm trò “ván nước”, một kỹ thuật tra tấn rất hiệu quả. Có những trò khác còn khủng khiếp hơn việc tin rằng mình đang bị trấn nước, đặc biệt là chổng ngược đầu trong bóng tối trong khi bị buộc chặt vào tấm ván.

Bỗng nhiên, trò này dừng lại, băng keo được tháo ra. Ngay khi ông vừa hớp chút không khí thì đầu ông bị nhúng vào nước lạnh. Ông lại bị ngạt thở và cố quẫy đạp để thoát ra. Tim đập nhanh đến nỗi ông biết mình có thể chết vì đau tim trước khi chết vì ngạt nước.

Rồi ông được kéo ra khỏi nước. Ông nôn ọe khan, phun nước dãi đầy mặt.

“Như thế nào?”, giọng nói bình tĩnh.

À, thằng đang đặt câu hỏi rất bình tĩnh, Stone nghĩ trong lúc cố hất nước dãi ra khỏi mắt. Có lẽ hắn đang ngồi trong một căn phòng ấm cúng với tách cà phê trong khi mình đang cố hất đống đờm dãi ra khỏi mặt.

“Bị ngạt, giống như mày đang làm với tao vậy, đồ khốn!”

Lại thêm một cái dìm xuống nước nữa. Ông cố ý làm vậy để rửa nước đờm khỏi mặt thôi. Stone đã nhanh hít thở một hơi trước khi lại bị trấn nước, và sau đó ông được nhấc lên lành lặn hơn.

“Như thế nào?”, giọng nói cất lên.

“Không phải vì chất Halon 1301, vì cái khác”.

“Cái gì?”

“Tôi vẫn chưa biết”.

Stone cảm thấy mình lại đang bị dìm xuống. Ông hét lên hoảng loạn, “Nhưng tôi có thể tìm ra được nguyên nhân”.

Giọng nói không trả lời ngay. Stone cho đó là tín hiệu tốt. Những người thẩm vấn ghét im lặng.

Giọng nói cất lên, “Chúng tôi xem nhật ký báo của ông. Ông đang đọc về Bradley. Tại sao vậy?”

“Có vẻ như quá trùng hợp. Cái chết của ông ta và DeHaven”.

“Chẳng có điểm giống nào cả”.

“Ông nghĩ vậy sao?”

Stone vẫn cố hít một hơi dài, nhưng lần này chúng giữ ông quá lâu đến nỗi ông gần như chết ngộp. Ông được đưa lên với bộ não gần như nổ tung vì thiếu oxy, mọi bắp thịt run rẩy; sức sống toàn thân ông bắt đầu tắt ngúm.

“Ông nghĩ hai cái chết có điểm chung gì?”, giọng nói ra lệnh.

“Ông sắp làm tôi chết ngộp, vậy nếu đó là kế hoạch thì sao không kết thúc tôi luôn cho rồi?”, ông yếu ớt nói. Ông căng người chờ một cái dìm nước nữa nhưng nó đã không tới.

“Ông nghĩ hai cái chết có điểm chung gì?”, giọng nói lại ra lệnh.

Stone thở hắt ra, điều mà ông có thể làm vào thời điểm này, đang nghĩ xem có nên trả lời hay không. Nếu đó không phải là điều chúng muốn nghe thì ông phải chết. Nhưng ông cũng gần chết tới nơi rồi.

Ông gom hết sức nói, “Cornelius Behan”.

Ông lại chờ chúng nhúng nước. Thay vì vậy, giọng nói hỏi, “Sao lại là Behan?”

“Bradley thì chống tham nhũng. Behan thắng hai hợp đồng đấu thầu dưới triều đại cũ. Có lẽ Bradley đã tìm thấy điều gì đó mà Behan không muốn người khác biết. Vì thế hắn giết ông ta, đốt nhà ông ta và đổ lỗi cho nhóm khủng bố không có thật”.

Một khoảng im lặng dài. Tất cả những gì Stone nghe thấy là tiếng đập giận dữ từ trái tim bị tra tấn của mình. Tiếng động ấy rất đáng sợ, nhưng ít nhất ông vẫn còn sống.

“DeHaven thì sao?”

“Là hàng xóm của Behan”.

“Chỉ có thế sao?”, giọng nói rõ ràng rất thất vọng.

Stone cảm thấy mình sắp bị trấn nước, “Chưa, chưa hết! Có một cái kính thiên văn trên căn gác ở nhà DeHaven chĩa qua nhà Behan. DeHaven có lẽ đã thấy điều gì đó mà lẽ ra ông ta không nên thấy. Vì thế ông ta cũng phải bị giết, nhưng không giống cách giết Bradley”.

“Tại sao?”

“Người ta chĩa súng vào Chủ tịch Hạ viện không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng DeHaven là một thủ thư và là hàng xóm của Behan. Cái chết phải được làm cho giống như tai nạn, tránh xa nhà của DeHaven và Behan. Nếu không thì việc điều tra có thể chuyển hướng qua Behan”.

Stone chờ trong im lặng, tự hỏi câu trả lời đã đúng chưa.

Ông lảo đảo và cảm thấy mũi kim tiêm đâm vào cánh tay. Một giây sau ông nhắm mắt lại, và Oliver Stone hít thật sâu rồi nằm bất động.

Từ góc phòng Roger Seagraves quan sát bọn đàn em xốc Stone đem đi. Ông ta khá cứng cỏi so với tuổi tác của mình. Seagraves mường tượng ba mươi năm trước Stone có lẽ cũng giỏi giang như hắn bây giờ. Giờ ít nhất hắn cũng biết được rằng Stone nghi ngờ Cornelius Behan đứng phía sau các vụ này. Và bởi vì lý do này mà Stone sẽ được sống thêm một ngày nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Phòng khách sạn của Annabelle nhìn ra công viên trung tâm, và cô ngẫu hứng muốn đi dạo. Kiểu tóc và màu tóc cũng đã được thay đổi thêm một lần nữa. Giờ cô ta là một cô gái tóc đen, ngắn, tóc rẽ một bên, trùng hợp với tấm hình trên hộ chiếu Freddy đã làm cho cô ta. Nhìn quần áo thì rõ rằng cô ta là dân New York, có nghĩa là mặc màu đen và nhìn rất phong cách. Cô ta lang thang trên những con đường mòn công viên dưới chiếc nón và kính mát. Vài người đi ngang liếc nhìn, có lẽ họ nghĩ cô ta là người nổi tiếng nào đó. Mỉa mai thay, Annabelle chưa bao giờ tìm kiếm danh vọng. Cả cuộc đời mình cô chỉ biết bám víu vào những cái bóng tối tăm mờ mịt để an ủi nơi mà một tên bịp tài năng có thể tìm được một cái máy kéo chuyên nghiệp.

Cô ta mua một gói bánh bích quy mềm của một người bán dạo rồi đem về phòng, nơi cô ta ngồi trên giường xem qua đống giấy tờ du lịch. Leo và cô ta đã chia tay ở sân bay Newark. Freddy đã đi khỏi nước Mỹ rồi. Cô ta chưa hỏi hai người đó đi đâu mà cô cũng chẳng muốn biết.

Sau khi đến New York, cô ta liên lạc với Tony. Như đã hứa, Annabelle đã sắp xếp cho gã đến Paris. Sau đó gã tự đi một mình cùng đống giấy thông hành và chứng minh thư giả và mấy triệu đôla để sẵn trong một tài khoản lúc nào cũng sẵn sàng cho gã rút tiền. Cô ta cảnh báo gã lần cuối cùng, “Dù Bagger chưa bao giờ thấy anh, nó vẫn sẽ biết tôi cần phải có thêm ai đó giỏi về máy vi tính, và anh có danh tiếng đấy. Vì thế hãy lặn khỏi nước Mỹ khoảng một năm nhé. Và đừng có quăng tiền khắp nơi. Chọn một nơi nào đó nho nhỏ, trốn vào, học ngôn ngữ mới và bỏ thân phận cũ đi”.

Tony hứa sẽ làm theo những điều cô ta khuyên bảo.

“Tôi sẽ gọi cho cô biết tôi tới đâu”.

“Không, anh không được gọi cho tôi”, cô bảo gã như thế.

Cô ả vẫn còn ba ngày trước khi đến hạn món tiền của Bagger trở về với hắn và hắn phát hiện ra mình bị lừa. Cô ả sẽ trả lại phân nửa số tiền để xem hắn phản ứng như thế nào. Có lẽ hắn sẽ giết thằng kỹ thuật viên cùng thằng thủ quỹ trước. Rồi hắn sẽ đi ngang qua sòng bài của mình với khẩu súng lục, bắn ngay vào đầu những con bạc già cả đang chơi bài. Có lẽ đội đặc nhiệm của bang New Jersey sẽ đột kích lao vào và đưa tên khốn kiếp đó ra khỏi tình trạng đau khổ. Có lẽ không hiện thực lắm, nhưng cô nàng vẫn luôn có thể tưởng tượng ra như thế.

Con đường trốn chạy của cô nàng được vạch ra bắt đầu từ Đông u sang Châu Á. Có lẽ sẽ mất khoảng một năm. Sau đó, cô ả sẽ đến Nam Thái Bình Dương, đến một hòn đảo nhỏ mà cô ả khám phá ra nhiều năm trước và chưa bao giờ quay trở lại vì nỗi sợ rằng lần thứ hai nó sẽ không đẹp hoàn hảo nữa. Hiện giờ cô ả thấy vui với sự ‘gần như hoàn hảo’ của lần thứ hai này.

Phần chia của cô ả đang nằm rải rác trong nhiều tài khoản ở ngước ngoài. Cô ả sẽ tránh xa lối sống xa hoa và công việc đầu tư cả phần đời còn lại của mình, có lẽ thỉnh thoảng cũng phá lệ. Thậm chí cô ả có thể mua cho mình một con tàu nho nhỏ và tự mình lái. Không phải vòng quanh thế giới, mà chỉ cần những chuyến du hành ngắn ngày quanh một vùng vịnh nhiệt đới là tuyệt lắm rồi.

Cô ả đã cân nhắc có nên gửi cho Bagger một lời nhắn rằng cô ả đã lừa hắn thành công không, nhưng cuối cùng lại quyết định rằng sự hiên ngang bạo dạn như thế chẳng đáng với cấp độ của cú lừa cao cấp này. Để hắn phải sống cả đời trong sự hoài nghi không biết ai lừa mình. Cô con gái bé nhỏ của Paddy Conroy sẽ không thể nào nằm trên danh sách nghi can thông thường vì cô ả chắn chắn rằng Bagger chẳng biết rằng Paddy có một đứa con gái. Mối quan hệ của Annabelle với cha cô ả là duy nhất, và ông chưa bao giờ giới thiệu cô ả với thế giới bạc bịp rằng đây là con của mình. Leo và vài đứa mà họ làm ăn chung cuối cùng cũng khám phá ra, nhưng chỉ có bao nhiêu người đó biết thôi.

Lần này hình ảnh của cô ả đã bị lưu lại trong các camera ở sòng bài Pompeii. Và cô ả biết Bagger sẽ đem mấy bức ảnh đó đi khắp thế giới bạc bịp trả tiền hay thậm chí tra tấn chúng để lấy được nhân thân của cô ả. Mọi thằng bịp cô quen biết đều rất hoan hỉ với những gì cô ả gây ra cho hắn Bagger. Nhưng cũng có thể thằng nào đó nhìn bức hình và lỡ miệng nói ra tên cô ả nếu Bagger hăm dọa quá mức.À, cô ả nghĩ,cứ để hắn đến. Hắn sẽ thấy giết mình khó khăn hơn hắn tưởng đấy. Kích cỡ của con chó trong cuộc chiến không quan trọng mà phạm vi chiến đấu của con chó mới là vấn đề. Điều này chẳng phải do cha cô ta nói, mà chính mẹ cô ta bảo với cô ta.

Tammy Conroy, dù là tội phạm, bà vẫn là người phụ nữ tốt, và là người vợ phải chịu đựng Paddy Conroy trong thời gian dài. Bà ta từng làm nhân viên pha chế cốc-tai trước khi gắn kết cuộc đời với người đàn ông Ai-len quyến rũ, người làm cho người khác phải cười sái cả quai hàm và có thể ca bất cứ giai điệu nào mà người khác muốn nghe. Paddy Conroy thống trị bất cứ căn phòng nào mà ông có mặt; có lẽ đó là lý do người ta chưa bao giờ thấy hết tiềm năng lừa bịp của ông. Những kẻ bịp giỏi nhất là những kẻ mà anh thậm chí còn không biết là chúng đang có mặt ở đó. Rõ ràng Paddy chẳng quan tâm, cho rằng đó là may mắn của người Ai-len, sự gan dạ và nụ cười cứu ông nhiều bàn thua trông thấy. Phần lớn là do may mắn, nhưng may mắn không thể cứu được Tammy Conroy.

Jerry Bagger đã tự tay bắn vào đầu bà khi bà không khai ra chồng mình. Paddy chắc chắn đã không đáp lại sự trung thành của vợ mình. Ông tẩu thoát khi Bagger bắt đầu xông vào nhà. Annabelle còn chẳng được dự đám tang của mẹ vì Bagger và lũ tay chân vẫn còn ở nghĩa trang chờ xem có ai đó xuất hiện hay không. Nhiều năm qua đi nhưng có lẽ Bagger vẫn còn đang tìm kiếm cha cô ta. Hơn mười triệu đôla, tên khốn Bagger chi còn nhiều hơn để diện những bộ comples đắt tiền. Annabelle biết vụ việc đó tuyệt nhiên chẳng phải vì tiền, mà vì sự tôn trọng. Cách duy nhất để được tôn trọng trong thế giới của Bagger là tiêu xài tiền nhỏ giọt thôi. Và bất cứ ai mà lấy mười triệu đôla của hắn, Bagger sẽ băm vằm kẻ ấy nếu hắn chạm được tay tới kẻ ấy. Thế nên khi Annabelle chỉ ra mấy con bạc bịp ở sòng bài Pompeii, cô ta cũng phải gọi cảnh sát luôn. Có cảnh sát, Bagger sẽ không đánh gãy chân ai hết. Nếu bọn bịp còn biết khôn ngoan, chúng sẽ giải tán nhanh chóng sau khi bị giam và đóng án phạt xong.

Bagger có lẽ là bức tranh biếm họa biết đi đứng của một tên đầu sỏ sòng bài trong bộ phim xã hội đen nào đó, nhưng điều chẳng buồn cười chút nào về hắn chính là cái cách hắn sử dụng bạo lực dễ dàng như thế nào. Nếu anh gian lận ở mấy sòng bài khác, anh đi tù. Bagger thì không hoạt động như thế. Hắn là hình ảnh phản chiếu những ngày xưa ở Vegas khi cách giải quyết kẻ gian lận bài bạc là đập vỡ đầu gối rồi tới đập đầu. Việc thất bại khi mang cách hành xử cũ kỹ đến thời kỳ hiện đại làm hắn bị trục xuất khỏi thành phố Tội ác. Trong lúc hắn vẫn chưa gỡ gạc lại hình ảnh của mình ở thành phố Atlantic, hắn vẫn còn rất thận trọng về chuyện này.

Với những điều đề cập ở trên, trong trường hợp của Tammy Conroy, một vố lừa một triệu đôla thường khó mà dẫn đến cái chết. Nhưng đây không phải là vụ việc đơn giản bởi vì cha của Annabelle và Bagger đã có cuộc chiến ngầm. Cá nhân Paddy thì tránh xa sòng bài của Bagger, nhưng khi ông đưa những nhóm bịp vào sòng của Bagger để làm công việc giúp ông, bao gồm cả việc đưa đứa con gái tuổi vị thành niên và chàng trai trẻ Leo vào thực hiện kế hoạch của mình. Điều này giống như biến cả hai thành miếng mồi ngon cho cá đại dương lần cuối cùng họ đến thành phố Atlantic. Nhưng nhiều năm qua, cuối cùng Bagger cũng tìm ra được mối liên hệ giữa Paddy với những rắc rối trong sòng bài của mình. Thế là hắn xuất hiện trên bậc thềm nhà Paddy rất xa New Jersey một đêm nọ, nhưng Paddy không có ở nhà. Ai đó nói ông ta được cảnh báo nên đã tẩu thoát. Nhưng nếu thế thì ông đã quên mang theo vợ mình.

Không có bất cứ chứng cớ nào cho thấy Bagger có liên quan đến vụ giết người, tất nhiên, hắn có hàng nghìn chứng cớ ngoại phạm, vì vậy cũng chẳng có trát hầu tòa hay khởi tố gì hết. Tuy nhiên, vài tên bạc bịp kỳ cựu mà Annabelle đã trò chuyện nói rằng hoàn toàn chắc chắn về chuyện đã xảy ra. Mà dù họ có tận mắt thấy họ cũng không dám làm chứng chống lại Bagger.

Đã ở gần hắn hơn một tuần trước, Annabelle nhận ra mình có ý nghĩ đặt cây súng vào giữa trán hắn và bóp cò. Hành động ấy có thể trả được thù, nhưng trả giá bằng cả cuộc đời tù tội thì cô ả không muốn. Không, cách này hay hơn nhiều. Cha cô ả chưa hề thích những vụ lừa gạt lớn - ông cho rằng phải tốn quá nhiều thời gian và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Nhưng ắt hẳn Tammy Conroy sẽ thật lòng đánh giá cao tính nghệ thuật và mức độ công phá của cú lừa này. Và nếu như mẹ cô ả có thể lên thiên đàng, Annabelle hy vọng bà sẽ lén theo dõi Bagger từ trên cao khi Bagger phát giác ra hắn đã bị lừa vào cuộc đua hoang dại và xảo quyệt với giá vào cổng là bốn mươi triệu đôla.

Cô ả với lấy cái điều khiển ti-vi và vừa lướt qua các kênh một lượt vừa ăn bánh quy. Tin tức cũng giống như mọi ngày thôi, đều là tin xấu cả. Có nhiều lính bị giết hơn, nhiều người chết đói hơn, nhiều người tự sát bằng bom và giết những người vô tội dưới danh nghĩa của Chúa. Xong cái ti-vi, cô ả nhặt tờ báo lên. Thói quen khó bỏ, và hơn một lần cô ả thấy mình nhìn vào những bài báo, tự hỏi làm thế nào để nhào trộn các chi tiết thành một cú lừa sáng tạo và thành công. Giờ cũng xong hết rồi, cô ả nhủ thầm. Lừa được Bagger là đỉnh cao trong sự nghiệp của cô ả, không còn lên cao được nữa mà chỉ có nước đi xuống thôi.

Bài báo cuối cùng cô ả đọc khiến cô ả phải giật mình ngồi bật dậy, làm đổ bánh và mù tạt ra giường. Cô ả trố mắt nhìn vào bức ảnh nhỏ cùng với câu chuyện ở trang cuối. Một bài điếu dành cho nhà học giả lỗi lạc và là người đọc sách. Không có bất cứ nguyên nhân nào được đưa ra để giải thích cái chết của Jonathan DeHaven, họ chỉ nói ông chết bất ngờ trong khi đang làm việc ở Thư viện Quốc hội. Mặc dù ông đã chết trước đó, việc sắp xếp lễ tang giờ mới được hoàn thành và được chôn vào ngày mai ở D.C. Annabelle làm sao biết được việc trì hoãn là do các nhân viên giám định pháp y đã chẳng thể tìm ra nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông ấy. Tuy nhiên, vì không có bất cứ điều gì đáng ngờ, nên vụ việc đã được khép lại với cái chết vì lý do tự nhiên và xác ông được đưa về nhà tang lễ.

Annabelle chộp cái túi và nhồi nhét quần áo vào. Kế hoạch du lịch của cô ả thay đổi, cô ả sẽ bay đến Washington. Để nói lời tạm biệt với người chồng cũ, Jonathan DeHaven, người đàn ông duy nhất trên thế gian này có thể nắm giữ được cả trái tim cô ả.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


"Oliver! Oliver!”

Stone từ từ tỉnh và ngồi dậy một cách khó khăn. Ông đang nằm dài trên sàn nhà, quần áo vẫn còn nguyên vẹn, trong căn nhà ở nghĩa trang, tóc ông vẫn còn ướt.

“Oliver!”, ai đó đập cửa nhà ông.

Stone đứng dậy, bổ nhào đến để mở cửa.

Reuben nhìn ông với vẻ mặt cười cười, “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Anh lại uống quá nhiều rượu tequila à?”. Tuy nhiên, khi ông nhận thấy tình trạng kiệt sức của Stone, ông nghiêm mặt, “Oliver, anh có ổn không?”

“Tôi không chết. Lấy làm mừng về điều đó đi”.

Ông ra hiệu cho Reuben bước vào, và Stone mất mười phút để giải thích chuyện gì đã xảy ra.

“Mẹ kiếp, anh không biết chúng nó là ai hả?”

“Là ai đi chăng nữa, thì chúng rất thành thạo kỹ thuật tra tấn”, Stone nói một cách khô khốc, tay xoa xoa chỗ u trên đầu. “Tôi nghĩ có thể mình sẽ không uống nữa”.

“Vậy chúng có biết gì về mối quan hệ của Behan không?”

Stone gật đầu, “Tôi không chắc rằng điều đó có làm chúng ngạc nhiên không, nhưng tôi nghĩ những điều tôi khai với chúng về Bradley và DeHaven thì hoàn toàn là tin mới cả”.

“Nhắc đến DeHaven mới nhớ, hôm nay là tang lễ của ông ta. Chúng tôi đến gọi anh là vì thế. Caleb đang dự lễ cùng với các nhân viên Thư viện Quốc hội khác. Milton cũng đến dự, còn tôi đổi ca làm ở bến tàu nên cũng có thể đi viếng. Chúng tôi nghĩ buổi tang lễ này quan trọng lắm”.

Stone bật dậy nhưng rồi lại xụp xuống.

Reuben đỡ tay ông, “Oliver, có lẽ anh nên ngồi nghỉ chút đã”.

“Thêm một lần tra tấn kiểu đó, các anh sẽ phải đi dự đám tang của tôi đấy. Nhưng buổi tang lễ hôm nay có thể cũng rất quan trọng. Ước gì những điều cần phải làm sáng tỏ cũng sẽ được giải đáp trong buổi lễ”.

Tang lễ tại Nhà thờ Thánh John nằm sát bên công viên Lafayette có rất nhiều người đến dự, đủ các loại nhân viên của thư viện và chính phủ. Cornelius Behan cũng tham dự cùng với vợ mình, người phụ nữ hấp dẫn mảnh khảnh và cao ráo mới bước vào tuổi ngũ tuần với mái tóc nhuộm vàng. Cái vẻ kiêu kỳ của bà ta đi cùng với vẻ ngoài mỏng manh, mệt mỏi. Cornelius Behan nổi tiếng ở Washington, và người ta cứ tiến đến chỗ gã để ôm thắm thiết và tỏ lòng tôn kính. Gã nhận hết bằng cử chỉ thân thiện của mình, nhưng Stone thấy lúc nào gã cũng nắm cánh tay vợ mình cứ như thể bà ta có thể té ngã nếu không có sự trợ sức của gã.

Stone khăng khăng đòi Hội Camel phải rải rác mỗi người mỗi chỗ trong nhà thờ để khảo sát nhiều nhóm người khác nhau. Dù rõ ràng là ai bắt cóc ông thì đã biết mối quan hệ của ông với những người còn lại, nhưng ông không muốn cho bọn chúng biết rằng ông còn có ba người bạn có thể trở thành mục tiêu của chúng.

Stone ngồi đằng cuối, rảo mắt nhìn khắp một lượt và khi dừng lại ở vị trí của một phụ nữ ngồi ngoài rìa. Khi cô ta quay lại vuốt cọng tóc ra khỏi khuôn mặt, ánh nhìn của Stone còn dữ dội hơn. Việc luyện tập trước kia đã giúp ông luyện kỹ năng có thể nhớ hình dáng con người, và ông đã thấy người phụ nữ này rồi dù giờ trông cô ấy có vẻ già hơn.

Sau khi buổi lễ kết thúc, thành viên Hội Camel rời nhà thờ, bước về phía vợ chồng Behan. Behan thì thầm gì đó vào tai vợ trước khi quay qua nói chuyện với Caleb.

“Một ngày buồn”, gã nói.

“Vâng, đúng thế “, Caleb kịt khịt mũi. Ông nhìn bà Behan.

“Ồ”, Behan nói. “Đây là vợ tôi Marilyn. Đây là, ơ…”

“Caleb Shaw. Tôi làm việc ở thư viện với Jonathan”.

Ông giới thiệu những thành viên của Hội Camel cho bà ấy.

Behan nhìn vào nhà thờ khi những người hộ tang khiêng quan tài ra. “Ai có nghĩ đến? Ông ta trông khỏe mạnh đến thế cơ mà”.

“Nhiều người trông khỏe như thế trước khi họ chết”, Stone nói trống không. Ông vẫn để mắt tới người phụ nữ mình thấy lúc đầu. Cô ta đội mũ đen và mang kính mát, mặc chiếc đầm dài màu đen và mang giầy bốt. Cao gầy, cô ta khá nổi bật giữa đám người dự lễ.

Behan tìm Stone xoi mói và cố gắng theo dõi ánh mắt của ông, nhưng ông quay lại ngay kịp lúc trước khi gã kịp thấy người phụ nữ. “Tôi nghĩ họ biết chắc chắn về cái chết của ông ấy”, Behan nói. Gã nhanh nhảu nói thêm, “Ý tôi là thỉnh thoảng họ cũng phán đoán sai”.

Stone lên tiếng, “Tôi cho rằng nếu họ có nghi ngờ, ta cũng sẽ biết ngay mà. Phương tiện truyền thông khám phá mấy vụ đó ra liền”.

“Vâng, các nhà báo khá giỏi chuyện khám phá”, Behan nói với vẻ không hứng thú nữa.

“Chồng tôi biết rất nhiều về những cái chết đột ngột”, Marilyn Behan tự nhiên phun ra. Khi tất cả mọi người đều nhìn bà ta, bà vội vã nói thêm, “Tôi biết là vì nghề nghiệp của anh ấy đó mà”.

Behan mỉm cười với Caleb và mấy người khác rồi nói, “Xin phép”. Gã vẫn cầm tay vợ rất chặt và dẫn bà ta ra chỗ khác. Có phải Stone vừa nhìn thấy một tia vui thích trong ánh mắt của người phụ nữ không nhỉ?

Reuben vẫn dõi theo họ, “Tôi chỉ có thể hình dung gã với cái quần lót của gã thôi. Tôi đã phải ngậm cả nắm tay vào miệng để nín cười suốt buổi lễ”.

“Ông ta quả có lòng khi đến đây hôm nay”, Stone nói. “Ý tôi là ông ta quả có lòng khi đến dự tang lễ của một người quen biết bình thường”.

“Mấy bà vợ trông như tác phẩm nghệ thuật phức tạp quá”, Caleb bình luận.

“Này, bà ta làm tôi ngạc nhiên khi nói thẳng bí mật của ông chồng đấy”, Stone nói “Tôi không tin họ có thể yêu nhau tha thiết”.

“Nhưng họ vẫn cứ ở với nhau đấy thôi”, Milton nói thêm.

“Vì tình yêu tiền, yêu quyền lực và địa vị xã hội”, Caleb ghê tởm nói.

“Tôi đã không thể nhớ điều đó trong các cuộc hôn nhân của mình”, Reuben đáp trả. “Tôi có tình yêu, ít nhất là trong một khoảng thời gian, chứ mấy yếu tố kia thì không”.

Stone lại theo dõi người phụ nữ đầm đen, “Người phụ nữ ở đằng kia, trông cô ấy có quen không?”

“Sao biết được?”, Caleb nói. “Cô ta đội mũ và đeo kính mà”.

Stone lấy bức ảnh ra, “Tôi nghĩ cô ta là người trong ảnh”.

Họ tụ tập quanh bức ảnh và rồi Caleb và Milton nhìn trực diện vào người phụ nữ và thay phiên nhau chỉ trỏ.

Stone suỵt, “Hai người có thấy mình quá lộ liễu không hả?”

Đoàn người dự lễ đang tiến về nghĩa trang. Sau khi lễ động quan đã xong, mọi người quay trở về xe của họ. Người phụ nữ áo đen vẫn cứ lưu luyến bên cỗ quan tài trong khi hai người làm công mặc quần jean áo sơ mi xanh đang chờ gần đó. Stone nhìn quanh và thấy vợ chồng Behan cũng đã quay về chiếc limosine. Ông quan sát cả khu vực một lượt để tìm kiếm những kẻ ‘trấn nước’ ông có thể hiện diện trong cuộc sống hàng ngày. Anh có thể nhận diện loại người đó nếu anh biết cách tìm chúng, như Stone đã làm. Tuy nhiên, việc quan sát này không có kết quả gì cả.

Ông ra hiệu cho những người khác theo mình khi ông bước về phía người phụ nữ. Cô ta đặt một tay lên trên cỗ quan tài bằng gỗ hồng sắc và có vẻ như lẩm bẩm điều gì đó, có lẽ là lời cầu nguyện.

Họ chờ cô ta cầu xong. Khi cô quay mặt về phía họ, Stone nói, “Jonathan đang ở đỉnh vinh quang của đời mình thì đột ngột ra đi. Thật đau buồn”.

Phía sau cặp kính đen, cô ta đáp, “Sao ông biết ông ấy?”

Caleb nói, “Tôi làm việc chung với ông ấy ở Thư viện. Ông ấy là sếp của tôi. Mọi người sẽ rất nhớ ông ấy”.

Người phụ nữ gật đầu, “Vâng, mọi người sẽ rất nhớ ông ấy”.

“Sao cô biết ông ta?”, Stone cẩn trọng hỏi lại.

“Đã lâu lắm rồi”, cô ta nói mù mờ.

“Những tình bạn lâu dài như thế ngày nay rất hiếm có”.

“Vâng, đúng thế. Tôi xin phép”, cô ta bước qua họ và bắt đầu đi thẳng.

“Cái chết của ông ta rất bí ẩn, nhân viên giám định pháp y chưa thể tìm ra nguyên nhân cái chết”, Stone nói đủ lớn để cô ta nghe thấy. Lời nói có hiệu nghiệm tức thì. Cô ta dừng bước và quay lại.

“Báo đưa tin rằng ông ấy chết vì đau tim”, người phụ nữ nói.

Caleb gật đầu, “Ông ấy chết vì tim ngừng đập, nhưng ông ta không bị đau tim. Tôi nghĩ báo chí chỉ giả định thế thôi”.

Cô ta bước thêm vài bước về phía họ, “Tôi chưa được biết tên các ông”.

“Caleb Shaw. Tôi làm việc trong phòng đọc Sách Quý Hiếm. Đây là bạn tôi…”

Stone chìa tay ra, “Sam Billings, hân hạnh được gặp cô”. Ông ra hiệu cho hai thành viên còn lại của nhóm Camel. “Chiến hữu của tôi Reuben và kia là Milton. Và cô là?”

Cô ta lờ Stone đi và chỉ chú mục vào Caleb, “Nếu anh làm việc ở thư viện, anh hẳn phải yêu sách nhiều như Jonathan vậy”.

Caleb rạng rỡ hẳn lên khi chuyển sang đề tài yêu thích của mình, “Ồ, tất nhiên rồi. Thật ra trong di chúc ông ta ủy quyền thư viện sách của mình cho tôi. Tôi đang tiến hành kiểm kê, định giá và bán bộ sưu tập sách của ông ấy, sau đó số tiền thu được sẽ đem đi làm từ thiện”.

Ông ngừng nói khi nhìn thấy Stone ra dấu cho ông ngậm miệng.

Cô ta nói, “Nghe có vẻ đúng là giọng Jonathan rồi. Chẳng hay cha mẹ ông ta mất chưa?”

“Ồ, vâng, cha ông ta mất nhiều năm rồi, mẹ mất hai năm trước. Jonathan thừa hưởng toàn bộ nhà cửa”.

Stone thấy người phụ nữ rất khó khăn mới nhoẻn một nụ cười với thông tin cuối cùng. Người luật sư nói gì với Caleb nhỉ? Rằng cuộc hôn nhân đã bị thủ tiêu. Có lẽ không phải bởi người vợ mà chính vì cha mẹ ông ấy khăng khăng không đồng ý?

Cô ta nói với Caleb, “Sẽ rất tuyệt nếu được thăm căn nhà và bộ sưu tập sách của ông ấy. Tôi chắc là giờ bộ sưu tập đã được mở rộng ra rồi”.

“Cô biết về bộ sưu tập của ông ấy nữa ư?”, Caleb hỏi.

“Jonathan và tôi chia sẻ nhiều thứ lắm. Tôi sẽ không ở đây lâu, thế nên tối nay tôi ghé thăm nhà ông ấy có được không?”

“Tình cờ là chúng tôi cũng định ghé ngang qua đó tối nay. Nếu cô ở khách sạn, chúng tôi có thể đến đón cô”, Stone đề nghị.

Người phụ nữ lắc đầu, “Tôi sẽ gặp các anh trên đường Good Fellow”. Cô ta nhanh bước đến chiếc tắc-xi đã đợi sẵn.

“Anh nghĩ mời một người phụ nữ đến nhà Jonathan có tốt không?”, Milton hỏi, “Chúng ta còn chưa biết cô ấy là ai nữa mà”.

Stone lấy bức ảnh ra giơ lên, “Tôi nghĩ có lẽ chúng ta biết cô ấy. Ít nhất chúng ta sẽ sớm biết thôi. Trên đường Good Fellow”, ông trầm ngâm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Sau khi buổi chứng nhận kết thúc phía trước Ủy ban Tình báo, Seagraves và Trent uống cà phê trong quán rồi sải bước về phía điện Capitol. Vì nhiệm vụ chính thức bắt hai gã làm việc với nhau nhiều, nên lần này hai gã đi với nhau sẽ chẳng ai nghi ngờ.

Seagraves ngừng lại để nhả bã kẹo cao su trong khi Trent cúi xuống cột lại dây giày.

“Vậy anh nghĩ gã đó thực sự là nhân viên cũ của Cục tình báo hả?”, Trent hỏi.

Seagraves gật đầu, “Mã ‘666’ đấy, anh biết về thư mục đó không Albert?”

“Mù mờ lắm, không rõ như anh đâu. Cơ quan Tình báo thuê tôi để làm công tác phân tích chứ không phải trên lĩnh vực đó đâu. Sau mười năm phân tích rác rưởi thì tôi cũng chán lắm rồi”.

Seagraves mỉm cười, “Nhảy vào làm con buôn chính trị có tốt hơn không?”

“Tốt hơn đối với chúng ta”.

Seagraves nhìn người đồng nghiệp cẩn thận chải mớ tóc về đúng hàng thẳng lối, hàng nào cũng đều tăm tắp mà không cần gương. Seagraves nói, “Sao anh không cắt đầu tròn đi? Nhiều phụ nữ thích cái kiểu trượng phu như thế đó. Và nếu anh để cái kiểu đầu đó anh trông lịnh lãm hơn”.

“Sau khi kết thúc công việc, tôi sẽ có thật nhiều tiền đủ để mỗi khi tôi đến nước nào gái đẹp cũng quay quanh chiều theo ý thích của tôi”.

“Hợp với loại người như anh”.

“Gã mã số 666 này có thể là điều phiền toái. Chúng ta sẽ phải trò chuyện nhiều về mối quan hệ của cơn mưa bão sấm sét này”.

Seagraves lắc đầu, “Chúng ta làm như vậy mọi chuyện sẽ bắt đầu được hâm nóng lên. Theo như tôi thấy thì hắn vẫn còn các mối quan hệ. Nếu tôi xử hắn, tôi sẽ phải xử cả bạn bè của hắn luôn. Điều đó rất dễ gây sai lầm và dẫn đến nghi ngờ nhầm người. Giờ tôi nghĩ chính Behan là kẻ đó. Nếu có gì thay đổi, dự báo thời tiết phải được đọc khác đi”.

“Anh có chắc rằng đó là chiến lược tốt hay không?”

Vẻ mặt Seagraves tối sầm lại, “Hãy thử kiểm nghiệm thực tế đi Trent. Trong khi anh ngồi phía sau cái bàn làm việc ấm áp thoải mái ở Wahington, tôi phải đặt mông ngồi ở những nơi anh quá sợ đến nỗi không dám xem TV. Anh cứ làm chuyện của anh và để tôi lo về kế hoạch chiến lược này, trừ phi anh nghĩ mình có thể làm tốt hơn tôi”.

Trent cười mỉm, nhưng nỗi sợ hãi vẫn chưa cho phép cười, “Tôi đâu có tra hỏi anh”.

“Nhưng có vẻ giống hệt như thế”. Hắn bất chợt nhe răng cười và choàng tay qua đôi vai hẹp của Trent, “Không có thời gian để đấu đá với nhau Albert à. Mọi việc vẫn tiến triển tốt đẹp đúng không?”

“Chính xác”, Trent xoa xoa vai mà trông hắn có vẻ như sắp khóc tới nơi.

Mày phải có vẻ như mất sức trên sân chơi mỗi ngày vậy.

Seagraves đổi đề tài, “Bốn mật thám đã chết. Đó là tin gốc ấy”. Hắn thật sự có biết một người trong số bốn người bị ám sát; chính xác là hắn đã làm việc chung với gã đó. Một nhân viên giỏi, nhưng hàng nghìn đôla dễ dàng đánh đổi bất cứ tình bạn nào mà hắn có.

Trent nói, “Anh muốn chính quyền năng động hơn sao? Mục tiêu kế tiếp trong danh sách?”

Seagraves ném điếu thuốc xuống đất và liếc mắt nhìn đối tác, “Anh sẽ biết khi anh thấy nó, Albert à”. Hắn cảm thấy mệt mỏi vì tên đối táccấp thấpnày lắm rồi. Điều này phần nào cho thấy rõ ràng rằng với Trent thì tên này đang và sẽ luôn luôn là cấp dưới của hắn. Nếu mọi chuyện có trở nên nguy hiểm và căn nhà bằng những lá bài này có đổ sụp thì Trent vẫn là người đầu tiên hắn muốn giết vì một lẽ đơn giản: mấy con chuột dễ dàng bị bóp nát dưới áp lực.

Hắn rời bỏ tên đối tác cùng biên chế cơ quan và đi về phía xe đang đậu ở khu vực cấm, hắn vẫy tay với một người lính nhận diện được hắn qua hình dáng.

“Giữ xe tôi cẩn thận chứ?”, Seagraves nói với một nụ cười toe toét.

“Giữ xe của ông và của tất cả mọi người”, người gác cổng nói, miệng còn nhai cây tăm xỉa răng, “Các ông đang giữ cho đất nước an toàn à?”

“Làm hết sức mình thôi”. Thật ra kế tiếp Seagraves sẽ đưa cho Trent những yếu tố chủ chốt trong kế hoạch theo dõi chiến thuật hoàn toàn mới của NSA - Cục An ninh Quốc gia. Các phương tiện truyền thông cứ cho rằng NSA đang làm chuyện gì đó ngoài vòng pháp luật. Họ chẳng biết một nửa câu chuyện, mà mấy thằng cận thị ngồi ở điện Capitol cũng chẳng biết gì đâu. Nhưng vài đứa giàu có nhưng không ưa nước Mỹ sống cách đây bảy nghìn dặm và ít nhất là tám thế kỷ sẵn sàng trả tiền để biết về kế hoạch này. Và tiền, ôi, tiền đem lại một ngày mới, vậy yêu nước để làm gì? Trong đầu Seagraves, cái mà bọn yêu nước nhận được là lá cờ tổ quốc xếp làm ba cho tất cả những rắc rối mà họ phải trải qua. Nhưng mà vấn đề lớn nhất lại chính là việc người ta phải chết rồi thì mới nhận được cờ.

Seagraves lái xe về lại văn phòng, hoàn thành nốt thêm một chút việc rồi mới về nhà, bao gồm một trang trại nuôi gia súc đã ba mươi lăm tuổi, sàn của phòng này ở nửa chừng phòng bên cạnh, với ba phòng ngủ, hai phòng tắm, trên một phần đất thách thức hệ thống tưới tiêu - hắn phải tốn gần nửa lương để vay thế chấp và đóng thuế tài sản. Hắn tập bài tập thể lực ngắn nhưng nặng nề rồi mở cửa tủ quần áo nhỏ dưới tầng hầm mà hắn luôn khóa kỹ và có hệ thống báo động.

Ở trong đó, trên tường và các kệ là những kỷ vật còn sót lại từ thuở ban đầu làm việc. Trong đó là một cái bao tay viền bằng lông màu nâu đựng trong hộp kính, một cái cúc áo khoác để trong cái hộp nhỏ, một bộ mắt kính trong hộp nhựa, một chiếc giày mắc trên tường, một đồng hồ đeo tay, hai chiếc vòng của nữ, một quyển sổ nhỏ trắng trơn có ba chữ cái A, F, W lồng vào nhau, một cái khăn đội đầu để trên kệ và một bản kinh Koran sờn cũ, một cái mũ lông thú và cái yếm dãi trẻ con. Cái yếm dãi làm hắn thấy ăn năn. Nhưng khi ai đó giết cha mẹ của một đứa trẻ thì chính nó cũng phải hy sinh theo. Một quả bom nổ xe hơi, suy cho cùng, không thể phân biệt được nó sẽ hủy diệt ai. Mỗi vật được đánh số từ một đến năm mươi và mỗi vật đều gắn liền với một câu chuyện mà chỉ có hắn và vài người khác ở CIA mới biết.

Seagraves đã từng đau khổ dày vò và trải qua những hiểm nguy để sưu tầm những món đồ này cho cái mà hắn gọi là bộ sưu tập của mình. Dù con người có nhận ra hay không, thì mỗi người trong số họ đều sưu tập một thứ gì đó. Nhiều người di chuyển đến đầu kia của quang phổ, sưu tập tem, đồng xu và sách. Lại có những người thích tích lũy chiến tích tình yêu và tình dục. Rồi có những người lấy làm hài lòng với việc góp nhặt những linh hồn bị lạc. Ngược lại, Roger Seagraves sưu tập những vật dụng cá nhân của những người mà hắn giết hay nói chính xác hơn là ám sát vì hắn làm việc này dưới vỏ bọc phục vụ cho quốc gia. Đối với nạn nhân thì điều đó cũng chẳng có khác nhau mấy; dù sao thì họ cũng chết rồi.

Tối nay hắn đến để đặt thêm hai vật nữa vào phòng sưu tập, cây viết của Robert Bradley và cái thẻ đánh dấu sách bằng da của Jonathan DeHaven. Hai vật này được đặt trang trọng trong một chiếc hộp trên kệ. Hắn lại đánh số lên hai món đồ mới bổ sung, vậy là sắp đạt đến con số sáu mươi rồi. Nhiều năm trước hắn khao khát đến con số một trăm, và đã hùng hục bắt đầu bởi lẽ ngày đó đất nước của hắn cần rất nhiều người trên dưới phải chết. Trong những năm cuối cùng của sự nghiệp nhịp độ giết chóc cứ giảm đáng kể; một chính quyền nhu nhược và bộ máy CIA yếu hơn đã gây ra điều đó. Vì thế hắn bắt đầu tập trung vào chất lượng thay vì số lượng.

Bất cứ một con người tỉnh táo nào được kể về lịch sử những vật này có thể đánh giá Seagraves là kẻ tâm thần man rợ chuyên sưu tầm vật dụng cá nhân của những người hắn giết. Hắn biết rằng họ nghĩ sai rồi.Thật ra đó chính là cách tôn trọng một con người mà người ta đã tước đoạt món đồ quý giá nhất của họ - cuộc sống. Nếu có ai giết được hắn, hắn tin tưởng rằng người đó là một kẻ thù xứng đáng cho hắn cái vinh dự y như thế. Hắn khóa bộ sưu tập cẩn thận và lên tầng trệt để vạch kế hoạch cho bước đi kế tiếp. Hắn cần phải lấy một thứ, và khi DeHaven chết và đã được chôn thì giờ là lúc lấy lại thứ đó.

Annabelle Conroy ngồi trong chiếc xe thuê ở góc đường Good Fellow. Đã nhiều năm rồi kể từ những ngày cô ở đây thế nhưng cảnh vật chẳng thay đổi mấy. Vẫn có thể ngửi thấy mùi rêu mốc của mùi tiền cũ dù chúng đã quyện vào mùi hương quyến rũ của đồ tiền tệ mới. Annabelle, tất nhiên là, không có cả tiền mới lẫn tiền cũ, một sự thật mà Elizerbeth - mẹ của Jonathan DeHaven - đã vồ lấy để viện cớ. Không có tiền và không được nuôi nấng đàng hoàng là điều mà có lẽ bà lải nhải với con trai mình cho đến khi câu nói đó ăn sâu và ảnh hưởng vào bộ não, cuối cùng bộ não ấy cho phép mẹ ông đẩy ông đến quyết định bỏ cô ta. Annabelle không phản kháng quyết định của ông bởi có nghĩa lý gì cơ chứ?

Annabelle vẫn không thể nào có những ý nghĩ bất mãn với người chồng cũ của mình. Ông ta là một đứa trẻ trong thân xác một người đàn ông, uyên bác, tử tế, rộng rãi và dạt dào tình cảm. Nhưng ông ta lại thiếu nghị lực và sức mạnh, chỉ biết trốn chạy chứ không dám đối đầu những kẻ ăn hiếp mình giống như một đứa trẻ biết nói sành sỏi và đeo kính. Ông ấy không có gì hợp với người mẹ miệng lưỡi độc ác quyền hạn tuyệt đối của mình, nhưng có mấy đứa con trai đây? Sau khi cuộc hôn nhân tan vỡ, ông ấy đã viết cho Annabelle những lá thư đầy yêu thương và cảm động, gửi cho cô ả hàng đống quà, nói với cô rằng ông luôn luôn nghĩ về cô ả. Và cô ả chưa bao giờ nghi ngờ sự thật ấy cả. Dối trá không phải là đức tính của ông; đó quả là khái niệm khá lạ lẫm với cô ả. Sự trái ngược giữa hai tính cách lại cuốn hút nhau đến kỳ lạ.

Mà ông chưa từng một lần năn nỉ cô ả quay trở lại với mình. So với những người đàn ông cô ả từng quen biết trong cuộc đời mình thì tất cả bọn họ đều thích ở cái mặt trái của cái tốt, còn ông thì như luồng ánh sáng tinh khiết vô hại. Ông nắm lấy bàn tay cô ả và nhanh chóng mở các cánh cửa cho ‘quý cô nương’. Ông nói cho cô ả nghe về những vấn đề quan trọng trong thế giới của người bình thường, một nơi quá xa lạ với cô ả như thể một vì sao xa thật xa. Nhưng Jonathan đã làm cho nó bớt xa lạ trong những tháng ngày ngắn ngủi họ ở bên nhau.

Annabelle phải thừa nhận rằng mình đã thay đổi khi ở bên cạnh ông. Jonathan DeHaven, dù ông luôn nép mình vững chãi bên vệ đường bảo thủ của cuộc sống, đã tiến về phía cô ta từng chút từng chút một, có lẽ là tận hưởng cuộc sống theo cái cách trước đây ông chưa bao giờ có thể tưởng tượng được. Ông là người đàn ông tốt. Và cô ta rất lấy làm tiếc khi người đàn ông ấy mất đi.

Cô ả giận dữ lau giọt nước mắt dễ dàng chảy dài xuống gò má. Cái cảm xúc như thế này rất bất thường và cô ả không muốn chào đón. Cô ả không còn có thể khóc được nữa vì chẳng có ai đủ gần gũi để chảy nước mắt xót thương khi người ấy chết. Ngay cả với cái chết của mẹ cô ả. Đúng là cô ả báo thù cho Tammy Conroy, nhưng bản thân cô ả cũng tự kiếm tiền cho chính mình trong phi vụ đó. Có lẽ nào cô ả chỉ trả thù mà không kiếm tiền hay chỉ gạt tiền chứ không cần trả thù không? Annabelle không thể nói chắc chắn được. Chuyện rạch ròi ấy có quan trọng không? Cô ả có gần mười bảy triệu lý do nằm trong một tài khoản ngân hàng nước ngoài nói rằng chuyện ấy không quan trọng đấy.

Cô ả quan sát chiếc Nova màu xám rầm rầm chạy đến khúc cua trước nhà DeHaven. Bốn người đàn ông bước xuống - bốn tay kỳ quặc ở nghĩa trang nói rằng cái chết của Jonathan chưa có kết luận chính thức. Cô ả đã nói lời từ biệt với Jonathan ở nơi này và giờ sẽ bước vào nhà lần đầu tiên mà không có đôi mắt bực mình của bà lão DeHaven dõi theo mỗi cái đánh mông của cô con dâu nữa. Và rồi cô ả sẽ nhảy lên máy bay biến khỏi đây. Annabelle không muốn ở cùng một châu lục với Jerry Bagger khi hắn phát hiện bốn mươi triệu đôla phun trào trên phạm vi rộng hơn cái núi lửa giả của gã.

Dung nham có thể phun trào đến tận D.C.

Cô ả bước ra khỏi xe đi về phía căn nhà và một cuộc đời rất đẹp đẽ này đã là của cô ả nếu mọi việc diễn ra khác đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Cả nhóm cùng ở trong kho sách sau khi Annabelle được giới thiệu ngắn gọn tầng trệt của ăn nhà.

Caleb không mở két sắt phía sau bức tranh. Ông không có ý định để ai đó thấy quyểnThánh ca. Sau khi tham quan bộ sách, họ lên tầng, nơi Annabelle bước qua những căn phòng trang nhã với niềm thích thú nhiều hơn cái cô ta tỏ ra ngoài mặt.

“Vậy là cô từng ở đây rồi?”, Stone hỏi.

Cô ta nhìn ông thẳng thừng, “Tôi không nhớ rằng tôi đã nói mình đã ở đây hay chưa”.

“À, cô biết Jonathan sống ở đường Good Fellow nên tôi mới đoán thế”.

“Con người không nên nhận định nhiều quá, họ sẽ khấm khá hơn”. Cô ta tiếp tục nhìn ngắm xung quanh. “Căn nhà không thay đổi gì nhiều”, cô ta nói, không trả lời trực tiếp câu hỏi. “Ít ra ông ta đã loại bỏ được vài vật bài trí xấu xí đi. Có lẽ sau cái chết của mẹ ông ấy. Tôi không nghĩ là ông ấy có thể quăng đi bất cứ cái gì cho đến khiElizabeth DeHaventrút hơi thở cuối cùng”???.

“Cô và Jonathan gặp nhau ở đâu?”, Caleb hỏi.

Cô ta lờ câu hỏi này. “Ông ta có thể đã đề cập đến tên của cô, nhưng tôi không biết là tên gì”, ông vẫn kiên trì chất vấn và nhận được một cái nhìn cảnh báo từ Stone.

“Susan Farmer. Chúng tôi gặp nhau ở miền tây”.

“Hai người làmkết hônở đó luôn à?”, Stone nhảy vào.

Ông rất ấn tượng với cô ta bởi vì cô ta không hề nao núng trước câu hỏi này, nhưng cô ta cũng không trả lời ông.

Stone quyết định chơi bài ngửa. Ông lôi bức ảnh trong túi áo ra, “Chúng tôi được biết là cuộc hôn nhân của Jonathan bị hủy bỏ. Vì cô không thích người khác giả định về mình, nên tôi suy ra từ cách cô đề cập đến bà Elizabeth DeHaven rằng bà lão là chủ mưu của hành động này. Ông ta vẫn giữ bức ảnh này. Người phụ nữ trong ảnh rất giống cô. Theo kinh nghiệm của tôi thì đàn ông không giữ ảnh phụ nữ mà không có lý do nào đó. Tôi nghĩ trường hợp của cô rất đặc biệt”.

Ông đưa cô ta bức ảnh. Lần này cô ta có phản ứng chứ không lờ đi nữa, khi Annabelle cầm lấy bức ảnh, bàn tay cô ta - bàn tay cứng chắc như đá ngần ấy năm, hơi run rẩy, đôi mắt mở to hơn một chút và có vẻ ươn ướt. Cô ta nói bâng quơ, “Jonathan rất đẹp trai. Cao, tóc nâu dày và đôi mắt ấy làm người khác cảm thấy dễ chịu lạ kỳ”.

“Tôi có thể nói rằng giờ cô vẫn duyên dáng như ngày đó được không?”, Reuben nói với lòng hào hiệp và tiến đến gần cô hơn.

Annabelle có vẻ như không nghe thấy Reuben nói gì. Cô ta làm điều mình đã không làm từ lâu lắm rồi - mỉm cười chân thật, “Bức ảnh này chụp vào ngày cưới. Đó là cuộc hôn nhân đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi”.

“Hai người kết hôn ở đâu?”, Caleb hỏi.

“Vegas, còn ở đâu được nữa?” cô ta nói mà mắt không rời khỏi bức ảnh. “Jonathan đến tham dự hội nghị sách. Chúng tôi gặp nhau, quen rồi kết hôn. Mọi thứ chỉ diễn ra trong vòng một tuần. Khá là điên rồ, tôi biết lắm chứ. Ít nhất thì đó cũng là ý nghĩ của mẹ ông ấy”. Cô ta di ngón tay vào nụ cười lạnh lẽo của Jonathan, “Nhưng chúng tôi hạnh phúc. Trong thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi ở đây với ba mẹ ông ấy sau khi cưới cho đến khi tìm được nơi ở mới”.

“À, căn nhà này khá rộng mà”, Caleb nói.

“Buồn cười là lúc đó nó lại có vẻ quá nhỏ hẹp”, cô nói giọng khàn đặc.

“Cô cũng đến Vegas dự hội nghị sách à?”, Stone hỏi một cách lịch sự.

Cô ta trả bức hình lại cho Stone, ông cất vào túi áo khoác, “Ông có thật sự muốn biết câu trả lời không?”

“Được thôi. Cô có liên lạc với Jonathan trong khoảng thời gian ấy không?”

“Tại sao tôi phải nói cho ông biết rằng có hay không?”

“Nếu không có lý do gì để cô phải nói”, Reuben nhảy vào, trách móc Stone, “Thực sự thì câu hỏi ấy hơi riêng tư rồi đó”.

Stone hiển nhiên không lấy làm khó chịu với lời phê bình của ông bạn dại gái, “Chúng tôi đang làm mọi cách để biết chuyện gì xảy ra với DeHaven, nên chúng cần thu thập càng nhiều thông tin càng tốt”.

“Tim ngừng đập và ông ta chết. Thế thì có gì bất thường?”

Milton giải thích, “Nhân viên giám định pháp y rõ ràng không thể xác định được nguyên nhân cái chết. Và Jonathan vừa mới đi kiểm tra tim toàn diện ở chỗ bác sĩ John Hopskin. Ông ta rõ ràng không thể nào bị đau tim được”.

“Vậy các anh nghĩ ai đã giết ông ấy? Ai có vấn đề với Jonathan được đây? Ông chỉ là người quản thư thôi mà”.

“Quản thư không thể có kẻ thù sao?”, Caleb phản đối. “Thật sự là tôi đã từng gặp những người đồng nghiệp dễ trở nên xấu bụng sau khi uống vài ly rượu”.

Cô ta nhìn ông ngờ vực, “Ừ, tôi đoán thế. Nhưng không ai giết người nào đó vì người đó quá hạn mà chưa trả sách cả”.

“Để tôi cho cô xem thứ này”, Stone nói. “Trên gác ấy”.

Khi họ đến nơi, Stone nói, “Cái kính viễn vọng đó chĩa thẳng xuống cửa sổ nhà hàng xóm”.

Reuben nói thêm, “Ừ, nó ngắm thẳng vào giường ngủ của người chủ…”

Stone cắt ngang, “Tôi sẽ giải thích, Reuben à, nếu anh không phiền”. Ông nhướng mày nhìn Annabelle.

Reuben nói, “Ồ, được thôi. Cứ tự nhiên đi, Oliv… ý tôi là Frank phải không? Hay Steve?”

“Cám ơn anh, Reuben!”, Stone nạt, “Như tôi đã nói cái kính viễn vọng chĩa thẳng vào nhà bên cạnh. Người chủ là giám đốc công ty Kỹ thuật Paradigm, một trong những nhà thầu vũ khí phòng thủ lớn nhất trong nước. Tên gã ấy là Cornelius Behan”.

“Gã thích được gọi là CB”, Caleb nói.

“Được rồi”, Annabelle nói chậm rãi.

Stone nhìn qua kính, quét tầm nhìn dọc theo chiều dài nhà của Behan nằm vắt ngang bãi cỏ của nhà DeHaven. “Tôi nghĩ thế”, ông ra hiệu cho Annabelle thế chỗ. Cô ta tập trung vào cái điểm mà ông đã nhìn qua kính.

“Là một văn phòng hay phòng nghiên cứu”, cô ta nói.

“Đúng rồi”.

“Ông nghĩ Jonathan đang theo dõi gã này chăng?”

“Có lẽ. Hoặc ông ta tình cờ thấy điều gì đó có thể dẫn đến cái chết của mình”.

“Vậy tên Cornelius Behan này giết Jonathan hả?”

“Chúng tôi không có chứng cứ. Nhưng những chuyện kỳ lạ cứ xảy ra”.

“Chuyện gì?”

Stone ngập ngừng. Ông không muốn kể cho cô ta nghe về việc mình bị bắt cóc. “Như thế này nhé, có quá nhiều câu hỏi đủ để ta phải tìm hiểu sâu hơn. Tôi nghĩ Jonathan đáng được quan tâm như thế”.

Annabelle xem xét gương mặt ông một lát rồi lại nhìn vào kính viễn vọng, “Nói tôi nghe về gã CB này đi”.

Stone phác họa chân dung của Behan và công ty của gã. Kế tiếp ông đề cập đến vụ ám sát Chủ tịch Hạ viện Bob Bradley.

Annabelle có vẻ hoài nghi, “Ông không nghĩ vụ đó có liên quan đến Jonathan đúng không? Tôi nghĩ bọn khủng bố đã nhận trách nhiệm rồi mà”.

Stone kể cho cô nàng nghe về hợp đồng quân sự mà Behan vừa mới trúng thầu ở thời Chủ tịch Hạ viện trước đó, “Người tiền nhiệm của Bradley đã bị kết án, vì thế ông ta chẳng còn nằm trong túi của Behan nữa. Rồi Bradley xuất hiện với phương châm ‘sạch’, mà Behan thì không muốn chuyện hối lộ bị điều tra. Vì thế Bradley phải chết”.

“Và ông nghĩ là Jonathan tình cờ biết được bí mật vụ việc, và họ phải giết ông ấy để bịt miệng chăng?”, cô ta vẫn giữ giọng điệu như mình không cảm thấy thuyết phục cho lắm.

“Cái chúng ta có là hai cái chết của hai viên chức chính phủ mà Cornelius Behan là mẫu số chung và là hàng xóm của một trong hai người chết”.

Caleb nói thêm, “Behan cũng có mặt ở buổi lễ tang hôm nay”.

Annabelle hỏi gắt, “Người nào?”

“Gã nhỏ thó đầu đỏ”.

Annabelle kết thúc câu nói giùm ông, “Người nghĩ mình cao sang lắm và có cô vợ cao, tóc vàng kinh tởm chứ gì”.

Stone bị ấn tượng với óc quan sát của cô ta, “Cô nhìn nhận người khác nhanh quá”.

“Tôi chưa bao giờ xem đó là lợi thế. Vậy bước đi kế tiếp của chúng ta là gì?”

Stone giật mình, “Bước đi kế tiếp của chúng ta ư?”

“Vâng, một khi ông cho tôi thấy rõ ràng ông vẫn còn giữ lại vài thông tin khác, có thể chúng ta sẽ có sự tiến triển trong vụ này”.

“Cô Farmer”, Stone lên tiếng.

“Gọi tôi là Susan được rồi”.

“Tôi tưởng cô sẽ không ở đây được lâu cơ mà”.

“Kế hoạch thay đổi”.

“Tôi có thể hỏi tại sao không?”

“Ông có thể hỏi. Sáng mai chúng ta gặp nhau được không?”

“Tất nhiên rồi”, Reuben nói, “Nếu cô cần một chỗ qua đêm…”

“Tôi không cần”.

“Chúng ta gặp nhau ở nhà tôi nhé”, Stone đề nghị.

“Ở đâu vậy?”

“Ở nghĩa trang”, Milton sốt sắng.

Annabelle thậm chí không thèm nhướng chân mày.

Stone viết địa chỉ và hướng dẫn đường đi ra giấy. Khi cô ta đến lấy, cô ta ngã giúi giụi vào người ông, may là nắm được áo khoác của ông nên không té.

“Xin lỗi”, cô ta nói khi bàn tay mình chụp bức ảnh trong túi áo ông. Một giây sau cô ta lôi nó ra. Và chuyện gì đó chưa từng xảy ra với cô ta trước đây, nhưng giờ nó lại xảy ra. Bàn tay Stone đã nắm chặt cổ tay cô ta.

Ông hạ giọng để vừa đủ cô nghe, “Cô chỉ cần hỏi xin tấm hình thôi, không cần phải làm thế”. Ông thả tay ra, cô ta nhẹ nhàng đút bức ảnh vào túi áo mình, nhìn bộ dạng của Stone với vẻ mặt sửng sốt. Cô ta lấy lại bình tĩnh và chào mọi người, “Hẹn gặp lại ngày mai”.

Reuben nắm tay cô ta, nhẹ nhàng đặt nụ hôn kiểu Pháp của một quý ông lên nó, “Tôi muốn cô biết sự vinh dự của tôi khi được quen biết với cô,Susan”.

Cô ta cười mỉa, “Cám ơn anh,Reuben. Ồ, tôi có thể thấy phòng ngủ của Behan từ trên đây. Gã ta đang lên giường với một cô gái trẻ trung. Có lẽ anh muốn xem thử”.

Reuben quay lại liền, “Oliver, anh đã không nói cho tôi biết gì cả”.

Annabelle nhìn thấy Stone đang nổi cáu, “Không sao đâu,Oliver, thật ra Susan cũng đâu phải là tên thật của tôi. Sốc quá hả?”

Một phút sau họ nghe tiếng cửa trước mở ra rồi đóng lại. Reuben nhanh nhảu nhìn vào kính viễn vọng, nhưng rồi rên rỉ, “Khỉ thật, chắc hai người đó làm xong rồi”. Ông quay sang nhìn Oliver và nói một cách kính nể, “Chúa ơi, một người phụ nữ đấy”.

Vâng, Stone nghĩ, một người phụ nữ thật sự.

Annabelle bước vào xe, khởi động máy và lôi bức ảnh ra, tay xoa xoa cái cổ tay nơi Oliver đã nắm thật chặt ban nãy. Oliver thật sự đã bắt được cô ta móc túi ông. Từ nhỏ, cha mẹ cô ta đã huấn luyện cô ta đi lừa đảo móc túi du khách ở cái vùng Los Angeles này, và chưa bao giờ cô ta bị bắt tại trận cả. Ngày mai sẽ là ngày thú vị lắm đây.

Rồi cô ta hướng sự chú ý đến tấm hình, thật kỳ lạ làm sao khi một tấm hình nhỏ bé như vậy lại khơi gợi lên thật nhiều kỷ niệm. Chỉ có năm đó, là năm duy nhất trong cuộc đời cô ta được sống một cuộc đời gọi là bình thường. Có thể đối với người khác, những điều như vậy thật tẻ nhạt và nhàm chán, nhưng cô ta thì khác, cô ta xem những điều đó thật tuyệt vời. Cô ta gặp người mình yêu, với những lý do chẳng giấu diếm, không có kế hoạch sâu xa, chẳng phải là một mưu mô toan tính lọc lừa nào cả. Đơn giản là ông ta yêu cô ta mà thôi. Chuyện tình nhà học giả và cô nàng lừa đảo. Tất cả mọi người đều phản đối họ quen nhau, và cô ta thừa biết rằng, chỉ có kẻ khờ mới đi chống lại số đông kia mà thôi.

Vậy mà, nhà học giả lịch lãm ấy lại có thể chiếm lấy trái tim cô ta, trái tim đã chai sạn và đầy vết xướt. Khi họ vừa bắt đầu quen nhau, Jonathan, tên người đàn ông ấy, đã hỏi cô ta liệu rằng cô ta đã từng sưu tầm bất cứ thứ gì chưa. Annabelle trả lời “Không”, điều đó chắc chắn là không nói thật, cô ta tự nhủ. Có lẽ cô ta cũng đã từng sưu tầm cái gì đó, như những cơ hội thất bại chẳng hạn.

Cô ta liếc nhìn căn nhà to lớn cũ kỹ. Nếu mọi chuyện đi theo kế hoạch, ắt hẳn rằng cô ta và Jonathan đã cùng chung sống ở đó, với một lũ con. Biết đâu được, có thể lắm chứ. Nhưng dẫu sao thì cũng là một chuyện tốt khi kết cục không diễn ra như vậy, vì cô ta sẽ là bà mẹ tệ nhất trên đời.

Rồi cô ta nghĩ đến vấn đề hiện tại. Jerry Bagger sẽ xuất hiện trong hai ngày tới, cách tốt nhất là rời khỏi đất nước này, cho dù cô ta đã lên cuộc hẹn với đám đàn ông vào ngày mai. Annabelle quyết định trong tích tắc. Cô ta sẽ ở lại và giải quyết mọi chuyện. Cô ta đã mắc nợ Jonathan, và cả chính bản thân mình, bởi vì, thời điểm này là lúc tốt nhất để đặt dấu chấm hết cho bộ sưu tập những cơ hội thất bại của cô ta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Annabelle và Hội Camel tụ tập tại ngôi nhà của Stone vào lúc 7 giờ sáng hôm sau.

“Chỗ này có vẻ ấm cúng đấy nhỉ”, cô ta vừa nói vừa đảo mắt nhìn không gian nhỏ xung quanh. “Và ông có hàng xóm hơi kín tiếng đấy”, cô ta hất hàm về hướng những ngôi mộ ngoài cửa sổ.

“Có đôi khi tôi thích làm bạn với người chết hơn là người sống đấy”, Stone trả lời cộc lốc.

“Tôi hiểu mà”, Annabelle vui vẻ tán thành, rồi ngồi xuống ngay phía trước bệ lò sưởi trống trải. “Chúng ta bắt đầu thôi, các anh”.

Reuben ngồi sát bên cô ta, nhìn háo hức cứ như chú chó nhỏ đang đợi vài cái vuốt ve. Caleb, Milton và Stone ngồi đối diện.

“Đây là kế hoạch của tôi”, Stone mở lời, “Milton tìm cách điều tra thông tin về Bob Bradley càng nhiều càng tốt, có khi thông tin hữu dụng đấy. Tôi sẽ đến nhà Bradley, chính xác hơn là những gì còn lại của căn nhà đó, và xem có tìm thêm được manh mối gì không. Reuben từng có thời gian bám tại Lầu Năm Góc, cho nên ông sử dụng hết mấy mối liên hệ ở đó, xem có tìm hiểu được hợp đồng quân sự của Behan mà cha ông nhà Bradley có thể từng đạt được”.

Annabelle liếc mắt nhìn Reuben, “Lầu Năm Góc à?”

Ông ta cố tạo vẻ khiêm tốn, “Ba lần tham chiến ở Việt Nam. Nhận đủ huy chương danh dự để trang trí cây Noel đấy. Này, đấy chỉ là phục vụ đất nước thôi nhé!”

“Tôi nào có biết”, Annabelle trả lời, rồi quay sang Stone. “Thế còn cái chết của Jonathan? Làm sao chúng ta lại có ý nghĩ có kẻ đã giết ông ấy?”

“Tôi đặt ra giả thuyết về chuyện này, nhưng cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải quay trở lại Thư viện Quốc hội và kiểm tra hệ thống chữa cháy tại đó. Chỉ có một vấn đề là chúng ta chẳng biết hệ thống đó nằm ở đâu trong tòa nhà. Caleb chẳng tìm ra vì một lý do nào đó nó lại được bảo mật, có lẽ để tránh bị phá hoại, dù điều đó đã xảy ra. Tòa nhà lại rộng lớn đến nỗi có tìm từng phòng, chúng ta cũng chẳng có đủ thời gian. Ngoài ra, chúng ta cũng cần tìm ra cấu trúc của hệ thống thông gió tại căn phòng mà xác Jonathan được tìm thấy”.

Cô ta thắc mắc, “Hệ thống chữa cháy thì có liên quan gì đến chuyện này?”

“Đó chỉ là giả thuyết của tôi mà thôi”, Stone trả lời ngắn gọn.

“Vậy thì kiến trúc sư của tòa nhà chắc phải biết vị trí của hệ thống báo cháy và hệ thống thông gió chứ?”, Annabelle nhận định.

“Họ phải biết”, Stone tán thành, “Dù tòa nhà Jefferson này được xây dựng vào cuối những năm 1800, nhưng người ta tiến hành tu sửa toàn diện cách đây một năm mà thôi. Người kiến trúc sư của Tòa nhà Quốc hội có bản vẽ nhưng chúng ta chẳng có cách nào tiếp cận được cả”.

“Họ có thuê một công ty kiến trúc tư nhân nào đó để tiến hành việc sửa chữa không?”, cô hỏi.

Caleb búng tay cái tách, “À, có, một công ty nào đó ngay thủ đô. Giờ tôi mới nhớ, bởi vì chính phủ cố khuyến khích nền kinh tế địa phương cũng như củng cố mối quan hệ nhà nước - tư nhân nhiều hơn”.

“Vậy là tìm được đáp án”, Annabelle ủng hộ.

“Tôi thì không biết rõ lắm”, Stone lên tiếng. “Chúng ta cũng chẳng tìm ra cách nào để tiến đến gần mấy bản vẽ đó cả”.

Cô ta nhìn Caleb, “Anh có thể giúp tôi tìm ra tên công ty đó không?”

“Chắc được”.

“Vấn đề duy nhất là liệu họ có cho chúng ta chụp hình bản vẽ không đã. Điều đó sẽ khó, chưa kể việc coppy bản vẽ càng khó hơn”. Cô ta lẩm bẩm, trong khi Hội Camel nhìn cô ta với ánh mắt đầy hoài nghi. Cuối cùng, cô ta lên tiếng trấn an, “Tôi sẽ tìm cách lẻn vào công ty kiến trúc đó, nhưng chúng ta cần có bản coppy của bản vẽ nếu chúng ta muốn tìm ra vị trí phòng chữa cháy và hệ thống thông gió trong tòa nhà”.

Milton mở lời, “Tôi nghĩ mình có thể ghi nhớ được hình ảnh đấy. Nếu tôi nhìn bản kế hoạch một lần, chúng sẽ nằm trong đầu tôi thôi”.

Cô ta nhìn ông ta ngờ vực, “Tôi nghe nhiều người nói điều này rồi, nhưng thường sự thật chẳng như vậy”.

“Tôi có thể cam đoan với cô rằng, điều này hoàn toàn là sự thật với tôi”, Milton trả lời với vẻ không hài lòng.

Cô ta đến kệ sách, vươn tay lấy một quyển sách ra khỏi giá, và mở đến những trang giữa, rồi đưa cho Milton xem, “Này, anh xem đi nhé!”. Ông ta nhìn vào sách, gật đầu. Annabelle quay quyển sách về phía mình, rồi bảo, “Được rồi, ngàicoppy, xin mời ngài bắt đầu làm việc nào”.

Milton bắt đầu đọc sách theo trí nhớ của mình, đọc cả dấu chấm phẩy, mà không hề phạm một lỗi nhỏ nào.

Lần đầu tiên trong mối quen biết của mình, Annabelle nhìn có vẻ ngưỡng mộ. “Anh có đến Las Vegas bao giờ chưa?”, cô ta hỏi. Ông ta lắc đầu, “Vậy anh nên thử đi”.

“Bộ không phải đánh bài là phạm luật sao?”, Stone hỏi, nhanh chóng suy luận ra những gì cô đang ngấp nghé.

Cô ta trả lời, “Không, miễn là anh không dùng máy móc hay vi tính hỗ trợ”.

“Tuyệt thật”, Milton thốt lên, “Vậy là tôi có cách kiếm tiền rồi”.

Annabelle cắt ngang, “Nhưng trước khi anh bắt đầu nuôi hy vọng, anh hãy nhớ rằng, nếu anh sử dụng trí óc của mình, điều đó không phạm luật, nhưng nếu họ bắt quả tang, anh sẽ bị đánh bầm dập đấy”.

“Vậy à, vậy thì thôi”, Milton tỏ vẻ hoảng hốt.

Cô ta quay sang Stone, “Thế ông nghĩ tại sao Jonathan bị sát hại vậy? Đừng trả lời kiểu nước đôi nữa nhé”.

Stone quan sát cô ta một lúc rồi quyết định nói, “Caleb phát hiện ra thi thể của Jonathan. Ông ta ngất xỉu ngay sau đó. Ở bệnh viện, y tá bảo ông ta khỏe hơn, còn nhiệt độ của ông ta ngày càng tăng, chứ không hề giảm”.

“Vậy ý của ông là sao?”

“Hệ thống chữa cháy tại Thư viện Quốc hội sử dụng một chất gọi là chất Halon 1301”, Caleb lên tiếng giải thích. “Nó ở dạng lỏng khi nằm trong ống, nhưng khi ra khỏi vòi nó trở thành khí. Nó dập tắt lửa bằng cách tiêu hủy khí ôxy trong môi trường”.

“Điều đó có nghĩa là Jonathan có thể chết ngạt à! Trời ơi, ý ông là cảnh sát đã bỏ qua chi tiết đó và chẳng quan tâm đến việc bình gas trống không ư?”, Annabell tức giận.

“Chẳng có bằng chứng nào cho thấy hệ thống chữa cháy có liên quan trong vụ này”, Stone tiếp tục nói. “Không có còi báo động, hệ thống vẫn trong tư thế sẵn sàng, cho dù có thể nó bị tạm ngưng rồi lại được kết nối ngay sau đó. Ngoài ra cũng chẳng có hơi gas gì cả”.

“Trên hết, chất Halon 1301 cũng chẳng thể giết nổi Jonathan, nhất là trong mức dùng để chữa lửa ở thư viện như vậy”, Caleb thêm vào. “Tôi đã kiểm tra. Đó cũng là lý do người ta dùng chất này ở nơi đông người”.

“Vậy thì chuyện này sẽ đi đến đâu?”, Annabelle thắc mắc. “Các anh đang nói chuyện có vẻ lập lờ. Nguyên nhân là do khí gas mà cũng không phải là khí gas. Vậy đó là gì?”

Stone tiếp tục phần thảo luận, “Một trong những yếu tố có liên quan là việc hạ nhiệt độ trong phòng. Caleb phát hiện thi thể của Jonathan, rồi cảm thấy ớn lạnh và ngất xỉu ngay tức thì. Tôi tin rằng khí gas đã làm anh ta trở nên như vậy, đó cũng là lý do cô y tá bảo nhiệt độ của anh ta tăng lên. Tôi cho rằng Caleb ngất xỉu vì mức ôxy trong kho sách rất thấp, nhưng không đủ thấp để hại anh ta, vì anh ta vào phòng sau Jonathan nửa tiếng”.

Annabelle nói tiếp, “Vậy rõ ràng không phải do cái chất Halon 1301 này. Vậy còn chất khác à?”

“Chính xác là thế. Chúng ta phải điều tra đó là chất gì”.

Annabelle đứng dậy. “Được rồi, tôi cần bắt tay nghiêm chỉnh vào các công việc chuẩn bị đây”.

Stone đứng lên, đối diện với cô ta, “Susan, trước khi cô thực sự bắt tay vào việc, cô cần biết rằng có vài tay nguy hiểm liên quan trong chuyện này. Cá nhân tôi cũng tìm ra chứng cứ chứng thực. Điều đó có thể rất mạo hiểm đấy”.

“Oliver, như thế này nhé, nếu có chuyện gì nguy hiểm hơn điều tôi đã từng thực hiện trong tuần trước, tôi sẽ không làm nữa”.

Stone có vẻ sửng sốt khi nghe tuyên bố trên, ông lùi ra sau.

Annabelle choàng vào tay Milton, “Milton ơi, đã đến lúc chúng ta đi với nhau rồi”.

Reuben có vẻ thất vọng, “Sao lại là Milton nhỉ?”

“Bởi vì anh ấy là cái máy coppy Xerox nhỏ nhắn của tôi”. Cô ả véo má của Milton làm ông ta đỏ mặt, “Nhưng trước tiên chúng ta cần tìm bộ trang phục thích hợp cho anh ấy, hợp phong cách”.

“Đồ này có vấn đề à?”, Milton thắc mắc, vừa nhìn xuống cái áo ấm màu đỏ và chiếc quần jeans, chúng vẫn rất sạch sẽ và phẳng phiu.

“Chẳng có vấn đề gì hết”, cô ta trả lời. “Nó chỉ không giống những gì tôi cần mà thôi”. Cô ta chỉ về phía Caleb, “Gọi cho Milton khi anh tìm ra tên của cái công ty đó”. Cô ta búng tay, “Đi thôi nào, Miltie”.

Cô ta sải bước ra ngoài. Milton với khuôn mặt vẫn còn ngơ ngác, nhìn những người còn lại và rên rỉ, “Miltie ư?”

“Milton!”. Tiếng Annabelle gọi từ bên ngoài, “Đi thôi!”

Milton bước vội ra khỏi cửa. Reuben lập tức bám lấy Stone, “Anh tính để ả dẫn anh ta đi à?”

“Vậy anh có đề nghị tôi làm gì không hả Reuben?”, Stone trả lời cộc lốc. “Người phụ nữ đó nhanh như lốc và dữ dội như động đất vậy”.

“Tôi không hiểu lắm, tôi nghĩ.. anh có thể... Ông ta ngồi phịch xuống ghế và than thở, “Khốn kiếp, sao tôi lại không có trí nhớ thiên tài nhỉ?”

“Ơn Chúa, anh không phải dạng đó”, Caleb thốt lên, giọng đầy vẻ kinh tởm.

“Sao anh lại nói thế?”, Reuben gay gắt.

“Bởi vì cô ả có thể gọi anh là Ruby, tôi mà nghe thế chỉ muốn buồn nôn mà thôi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Sau đó, tại thư viện, Caleb gửi thư điện tử cho phòng văn thư. Một giờ sau, ông ta tìm ra tên của công ty kiến trúc tư nhân đã giúp phục hồi tòa nhà Jefferson. Ông ta gọi cho Milton thông báo về thông tin đó.

“Thế còn chuyện người phụ nữ ấy đến đâu rồi?”, ông thì thầm.

Milton cũng thì thầm lại, “Cô ả mua cho tôi một bộ cánh đen tuyền, cùng với chiếc cà vạt cực chói, cô ả còn bắt tôi làm đầu tóc lại nữa đấy, đúng là trò lố bịch hết cỡ”.

“Thế có bảo cho anh biết tại sao lại làm vậy không?”

“Vẫn chưa”. Ông ta im lặng rồi tiếp, “Này anh bạn Caleb, cô ả làm tôi sợ đấy. Cô ta quá ư là tự tin”. Milton thường không biết cách thể hiện, nhưng có lẽ đây là điều chân thật nhất mà anh ta từng nói.

“Ráng thôi, chú em, Miltie”, Caleb gác máy, kèm theo tiếng khúc khích.

Kế đến ông ta gọi cửa hàng Vincent Pearl, cho dù thừa biết là chỉ nghe tiếng máy điện thoại tự động, vì cửa hàng bán sách độc này tới tận chiều tối mới mở cửa. Số là ông ta chẳng muốn nói chuyện với ông chủ tiệm bởi vì ông ta vẫn chưa quyết định sẽ bán bộ sưu tập sách của Jonathan như thế nào cả, trên hết là ông ta chẳng biết nên tính quyểnThánh ca của Kinh Cựu ướckiểu gì. Bảo đảm sự xuất hiện của nó sẽ làm thị trường sách hiếm xôn xao, và hiển nhiên ông sẽ nằm giữa tâm điểm của sự hỗn loạn ấy, ý nghĩ này vừa khiến ông e ngại lại vừa phấn khích. Dẫu sao thì làm người hùng của ánh hào quang cũng hay, đặc biệt là người như ông, lúc nào cũng chỉ chui rúc vào xó thư viện tẻ nhạt.

Lý do duy nhất khiến ông ngần ngại là ý nghĩ lỡ như Jonathan đã bằng cách nào đó chiếm đoạt quyểnThánh Canày bất hợp pháp thì sao? Đó cũng là lý do ông ta giữ bí mật về nó, và chắc rằng Caleb chẳng đời nào muốn bêu xấu bạn mình.

Caleb thôi không nghĩ ngợi nữa, ông tiến lại chỗ bà Jewell English, cũng giống như ông cụ Norman Janklow, người yêu thích các tác phẩm của Hemingway, họ là độc giả thường xuyên và trung thành trong suốt mấy năm qua.

Khi thấy ông đến, Jewell gỡ mắt kính và cất những mẫu giấy với dòng chữ nắn nót vào trong một bìa hồ sơ. Bà ta ra hiệu cho anh ngồi cạnh, rồi nắm cánh tay ông, hào hứng, “Anh Caleb à, tôi đã tìm ra được một quyển khá hay của nhà in Beadles, quyểnMaleska- người vợ Ấn Độ của thợ săn da trắng. Quyển đó cực hay anh ạ”.

“Tôi nghĩ ở đây có một bản đấy”. Ông suy tư, “Nhưng bà phải chắc là quyển đó mới toanh đấy nhé. Sách của Beadles xuất bản không được chuyên nghiệp lắm”.

Jewell vỗ tay, “Vậy ư, nhưng anh Caleb này, vẫn hay đó chứ? Quyển đó hay số một đấy”.

“Ừ, rất hay. Tôi có thể lấy cho bà nếu bà cần”.

“Anh thật là đáng mến. Tôi phải mời anh lúc nào đó uống nước, và cùng trò chuyện. Chúng ta có nhiều điểm giống nhau lắm”. Bà ta vỗ vỗ tay ông và nhướng đôi lông mày được vẽ chì cẩn thận, tỏ ý sâu xa.

Cẩn thận, Caleb vội lên tiếng, “Cũng được đấy. Chắc là lúc nào đó, rảnh rỗi, trong tương lai, có lẽ vậy”. Ông cố không quay vội lại bàn làm việc. Dù bị một bà già gần bảy mươi bỡn cợt, ông cũng chẳng tỏ vẻ gì là bị xúc phạm cả, thay vì thế, ông trở lại bản tính vui vẻ của mình lúc đầu và quan sát căn phòng. Mọi thứ yên ắng, với những người say mê đọc sách như Jewell và Norman Jankflow cặm cụi bên giá sách cũ, và thế giới trong hoàn cảnh đó cũng trở nên lành mạnh và tích cực hơn thực tại. Caleb thích ảo tưởng đó, cho dù chỉ là vài giờ trong ngày,thôi thì trở lại một chút bình yên với chỉ giấy bút và nghiên mực.

Hai mươi phút sau, trong khi ông đang ngồi cắm cúi tại bàn làm việc thì cửa phòng đọc sách bật mở. Ông ngẩng đầu lên, lặng người vài giây. Cornelius Behan đang rảo bước đến bàn tra cứu thì thấy Caleb. Gã nói gì đó với người phụ nữ ở bàn trong góc, cô ta chỉ về hướng Caleb. Ông đứng dậy khi thấy gã bước tới, ông chìa tay ra. Gã không mang theo mấy tên vệ sỹ. Có lẽ nhân viên bảo vệ không cho mang súng ống vào đây.

“Ngài Behan phải không ạ?”, Ông cất lời. Và rồi ông mường tượng ra cảnh Behan không mặc quần lót. Ông bật cười khẽ. “Xin lỗi”, ông chống chế, “tôi bị sặc”.

“Gọi tôi là CB được rồi”. Họ bắt tay nhau. Behan nhìn quanh phòng, “Tôi không biết có nơi như vậy đấy. Anh phải đẩy mạnh quảng cáo thêm chứ”.

“Chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao nhận thức quần chúng”, Caleb tán đồng. “Nhưng với nguồn kinh phí hạn hẹp, thật khó tìm ra chi phí”.

“Tin tôi đi, tôi biết tất tần tật về sự thâm hụt tiền bạc của chính phủ đấy”.

“Ngài lúc nào mà không làm việc tốt với Washington”, Caleb buông lời nhận xét, và chợt thấy mình nói hớ khi thấy Behan nhìn ông ta với ánh mắt nghi ngờ.

“Đám tang cũng được tổ chức khá chu đáo đấy”, Behan đột ngột thay đổi đề tài. “Rất chu đáo”.

“Đúng vậy. Tôi đi gặp gỡ vài người bạn ở Hill, nhân tiện ghé ngang. Tôi là hàng xóm của Jonathan lâu vậy chứ đâu biết ông ấy làm việc ở đâu”.

“Trễ vẫn còn hơn không”.

“Chắc Jonathan thích công việc của ông ta ở đây lắm nhỉ?”

“Chắc rồi. Lúc nào cũng là người đi làm sớm nhất cả”.

“Có nhiều bạn, và ai mà chẳng thích ông ấy”, vừa nói, hắn vừa nhìn Caleb dò hỏi.

“Tôi nghĩ Jonathan quan hệ tốt với tất cả mọi người ở đây”.

“Tôi thấy anh cùng một phụ nữ đến nhà của Jonathan tối qua phải không?”

Caleb ứng phó tức thời với sự thay đổi đề tài đột ngột lần này, “Anh phải sang nhà nếu thấy chúng tôi chứ”.

“Lúc đó tôi không rảnh lắm”.

Chắc thế rồi,Caleb nghĩ bụng.

“Nhưng vài người cận vệ của tôi có trông thấy anh, và họ cũng quan sát khá lâu. Còn cô gái?”

“Cô ấy là chuyên gia về lĩnh vực sách quý hiếm đấy. Tôi nhờ cô ấy đến để xem qua bộ sưu tập của Jonathan để tiến hành một buổi tuyên dương sau này”, Caleb cảm thấy tự thán phục vì dễ dàng nghĩ ra lời nói dối trong tình huống này.

“Vậy còn nhà của Jonathan thế nào?”

“Tôi nghĩ chắc sẽ được rao bán. Tôi cũng không rõ lắm”.

“Chắc tôi sẽ mua căn nhà đó và sửa sang lại thành nhà khách”.

“Căn nhà của cũng ông đã rất to rồi mà”, Caleb buột miệng.

May thay, Behan chỉ cười lớn, “Ồ, đồng ý vậy, nhưng chúng tôi lúc nào cũng đông khách cả. Có khi anh cũng mường tượng ra họ sẽ làm gì với căn nhà đó rồi chứ, vì chắc hẳn anh đã xem qua toàn bộ căn nhà”. Gã buông lời.

“Không đâu, tôi chỉ quanh quẩn xung quanh mấy giá sách mà thôi”.

Behan chăm chú nhìn Caleb một lúc, “Vậy thì tôi sẽ gọi đám luật sư, rồi tạo công ăn việc làm cho họ”. Rồi do dự trong giây lát, gã tiếp, “Nhân tiện tôi còn ở đây, anh dẫn tôi đi dạo một vòng nhé! Tôi biết anh cũng có một kho sách quý hiếm ở đây phải không?”

“Đó gọi là phòng đọc Sách Quý Hiếm”, Caleb nảy ra một ý bất chợt. Cho dù điều đó trái ngược với nội quy của thư viện, nhưng mặc kệ, có khi điều đó lại là manh mối quan trọng khám phá ra người đã giết Jonathan. Ông hỏi, “Ông đi tham quan với tôi chứ?”

“Được thôi”, gã hấp tấp trả lời.

Caleb hướng dẫn hắn đi thăm phòng đọc, và dừng lại gần nơi Jonathan DeHaven đã bị sát hại. Không biết là do Caleb tưởng tượng hay không, mà có vẻ Behan nhìn hơi lâu vào cái vòi ống chữa cháy thò ra ngoài tường. Nghi ngờ của ông càng tăng khi Behan chỉ về hướng đó.

“Cái gì vậy?”

Caleb giải thích về hệ thống. “Thực ra chúng tôi dự định sẽ thay khí gas mới thân thiện với môi trường hơn”.

Sau khi Behan đi rồi, Caleb gọi Stone, kể cho ông ấy nghe về cuộc gặp mặt.

Stone nhận xét, “Cách hắn dò hỏi về kẻ thù của Jonathan này nọ rất đáng để quan tâm, trừ phi hắn muốn gán ghép hành động giết người cho kẻ khác. Ngoài ra, chuyện hắn hỏi anh đã xem xét ngôi nhà thế nào càng chứng tỏ thêm điều đó. Tôi tự hỏi liệu hắn có biết về thói tò mò tọc mạch của anh chàng hàng xóm hay không?”

Sau khi gác máy, Caleb cầm quyển sách lấy từ giá sách của người quá cố DeHaven và đi một quãng đường vòng vèo xuyên qua những đường hầm của tòa nhà Madison đến khu Bảo quản sách. Nơi này được chia làm 2 phòng lớn, một dành cho sách, phòng còn lại dành cho vô số những thứ khác. Nơi đây, luôn có gần một trăm chuyên viên bảo quản dốc sức làm việc để phục hồi sách quý hiếm, và những thứ không hẳn là quý hiếm trở về tình trạng tốt nhất của chúng. Caleb bước vào phòng sách, tiến thẳng lại chiếc bàn nơi có một người đàn ông gầy gò, đeo một chiếc tạp dề xanh, cẩn thận giở từng trang sách của một ấn phẩm gần như xuất hiện đầu tiên tại Đức. Xung quanh ông ta là cả tá dụng cụ đủ loại, từ máy hàn, bàn xẻng đến những dụng cụ vặn ốc vít thủ công hay dao rọc giấy.

“Chào ông Monty”, Caleb cất tiếng.

Ông Monty Chambers ngẩng lên, nhìn Caleb sau cặp mắt kiếng đen dầy cộp và đưa bàn tay đeo găng vuốt mái đầu hói bóng lưỡng. Ông có cái cằm nhỏ, cạo râu nhẵn nhụi, gần như không chút gì ấn tượng trên khuôn mặt. Ông ta chẳng nói gì cả, chỉ gật đầu chào Caleb. Bước vào tuổi sáu mươi, Monty được xem là một trong những chuyên gia bảo quản sách kỳ cựu của thư viện. Lúc nào ông cũng được tin tưởng giao cho những công việc khó khăn nhất, và ông chẳng phụ niềm tin đó. Người ta còn đồn rằng ông có tài hóa phép cho những quyển sách gần như bị phá hủy toàn bộ trở nên có giá trị hơn. Ông được tặng thưởng vì đôi bàn tay khéo léo và tỉ mỉ, tính cần cù và sáng tạo trong công việc phục hồi lại những quyển sách cũ cũng như kiến thức uyên bác về kỹ thuật bảo quản và trùng tu sách.

“Có việc làm thêm cho ông đây, Monty ạ, khi nào ông rảnh nhé”, Caleb giơ cao quyển sách, “Âm thanh và Cơn thịnh nộbị nước làm hỏng mấy mảnh bìa. Quyển này của Jonathan DeHaven. Tôi đang đảm nhận việc bán bộ sưu tập sách của ông ta”.

Monty xem xét cuốn tiểu thuyết và cất giọng the thé, “Trong bao lâu đây?”

“Tôi có nhiều thời gian lắm. Chúng ta chỉ mới ở giai đoạn đầu thôi”.

Những chuyên viên đầy kinh nghiệm như Monty lúc nào cũng bận rộn với các công việc lớn nhỏ trong cùng một lúc. Họ ở lại trễ và có khi làm việc cả cuối tuần lúc họ không bị người khác làm phiền. Caleb còn biết Monty có một khu làm việc với đầy đủ dụng cụ tại nhà ở D.C, đây cũng là nơi ông ta có thể nhận thêm việc ngoài về làm.

“Trả lại tình trạng nguyên thủy được phải không?”

Chuẩn mực của ngành bảo quản yêu cầu rằng khi tiến hành phục hồi sách cũ, phải đảm bảo việc “trở lại tình trạng ban đầu”. Vào cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỉ hai mươi, những chuyên viên bảo quản sách chỉ quan tâm đến việc “phục hồi cho đẹp” mà thôi. Tiếc thay, điều này lại dẫn đến hậu quả là sách phục hồi gần như bị biến đổi, bìa ngoài nguyên thủy bị loại bỏ, trang sách được đóng gáy, bọc da sặc sỡ. Dĩ nhiên, sách sẽ đẹp hơn nhưng tính lịch sử gần như bị hủy hoại vì không thể đổi mới thành cũ.

“Vâng, đúng vậy”, Caleb trả lời. “Ông nhớ ghi lại những công việc cần làm. Chúng tôi sẽ đóng thành tài liệu kèm theo sách khi bán chúng”.

Monty gật đầu và quay trở lại với công việc lúc đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Tôi tên là Regina Collins”, Annabelle cất giọng vui vẻ giới thiệu, vừa đưa danh thiếp cho cô nàng tại quầy tiếp tân. “Tôi có gọi xin một cuộc hẹn với ông Keller trước đó rồi”. Cô ta và Milton đang đứng trước khu vực tiếp tân của công ty kiến trúc Keller và Mahoney. Công ty này tọa lạc tại khu phố cao tầng sầm uất gần Nhà Trắng. Cô nàng tha thướt trong bộ váy đen tuyền và làm nổi bật lên mái tóc nhuộm đỏ. Milton đứng phía sau, loay hoay hết chỉnh chỉnh sửa sửa cà-vạt màu cam lại vuốt vuốt chỏm tóc đuôi ngựa mà cô nàng Annabelle đã tự tay thiết kế.

Một phút sau đó, một người đàn ông cao lớn, trạc năm mươi, với mái tóc xám xuất hiện, tiến đến gần họ. Ông ta mặc một bộ áo kẻ sọc, tay áo xắn lên, và thắt dây lưng màu xanh. “Cô Collins phải không ạ?”, ông ta cất tiếng hỏi. Họ bắt tay nhau và cô đưa cho ông ta danh thiếp của mình.

“Rất hân hạnh được biết ông, ông Keller. Cảm ơn vì đã dành thời gian quý báu để gặp chúng tôi dù chúng tôi chỉ thông báo cho ông chưa được bao lâu. Cô trợ lý của tôi đáng lẽ phải gọi cho ông trước khi chúng tôi rời nước Pháp. Chỉ cần biết rằng, tôi có trợ lý mới rồi đây”. Rồi cô ta chỉ về phía Milton, “Cộng sự của tôi, anh Leslie Haynes”.

Milton vừa cúi chào vừa bắt tay người đàn ông dù ông ta chẳng có chút tự tin nào.

“Xin ông thứ lỗi vì chúng tôi vẫn còn chút mệt mỏi sau chặng đường dài”, Annabelle nhanh nhảu nói đỡ cho sự vụng về của anh ta. “Thường thì chúng tôi bay chuyến chiều, nhưng lần này hết chỗ, cho nên chúng tôi phải dậy sớm để kịp chuyến bay. Quả là mệt”.

“Không sao, tôi hiểu mà. Chúng ta cùng vào văn phòng tôi nào”, Keller vui vẻ trả lời.

Tại văn phòng của ông ta, mọi người cùng ngồi trò chuyện tại một bàn họp nhỏ.

“Tôi biết ông là người rất bận rộn nên tôi xin phép được đi thẳng vào vấn đề chính. Như những lời tôi trao đổi với ông qua điện thoại, tôi hiện là giám đốc điều hành của một tạp chí kiến trúc cho ngành thương mại Châu Âu”.

Keller liếc nhìn tấm danh thiếp của Annabelle, “La Balustrade. Cái tên hay nhỉ”.

“Cám ơn ông. Giới quảng cáo tốn nhiều thời gian cho nó, còn chúng tôi thì tốn nhiều tiền phát triển nó. Tôi nghĩ ông hiểu điều đó hơn ai hết”.

Keller cười lớn, “Vâng, đúng vậy. Ban đầu chúng tôi cũng xây dựng như vậy, nhưng cuối cùng lại quyết định là lấy tên mình đặt tên cho công ty”.

“Ước gì chúng tôi cũng có lựa chọn như vậy”.

“Nhưng cô không phải người Pháp phải không?”

“Câu chuyện bắt đầu từ khi tôi là cô nữ sinh trung học, người Mỹ, đến Paris trong một chương trình giao lưu. Tôi yêu Paris. Tôi nói được chút ít tiếng Pháp, đủ để gọi món, một chai rượu vang hảo hạng, và giải quyết một số tình huống cấp bách”. Rồi cô ta nói vài câu tiếng Pháp.

Keller bối rối, “Tôi e rằng mình không hiểu cô đang nói gì”.

Annabelle lấy quyển sổ từ chiếc cặp da mang theo, “Để cho buổi lễ khánh thành được diễn ra tốt đẹp, chúng tôi muốn viết một câu chuyện về việc trùng tu tòa nhà Jefferson do chính công ty ông cùng trụ sở Quốc hội hợp tác đảm nhiệm”.

Keller gật gù, “Quả là vinh hạnh cho chúng tôi”.

“Một công trình vĩ đại phải không, từ năm 1984 đến năm 1995?”

“Cô quả là nghiên cứu kỹ vấn đề này. Do chúng tôi đồng thời trùng tu lại tòa nhà Adam phía đối diện và lau chùi, bảo quản những bức tranh trên tường của tòa nhà Jefferson. Tôi theo đuổi công việc này đúng mười một năm đấy cô ạ!”

“Và mọi người đã hoàn thành xuất sắc công việc. Như những gì tôi được biết thì chỉ mỗi khu vực đọc sách thôi cũng tiêu tốn thời gian và công sức của công trình. Nào là những vấn đề về cấu trúc thiết kế, nâng đỡ cột chèo, tôi nghe nói mái vòm cũng là một thử thách lớn, khi vỉ kèo cần được tu sửa lại cũng khá nhiều?”. Đây là những thông tin mà Milton vừa tìm ra được trên mạng chỉ mới sáng nay, vậy mà cái cách cô ta miêu tả hàng trăm trang thông tin một cách ngắn gọn và sắc sảo làm cho ông ta thầm kinh ngạc.

“Dĩ nhiên chúng tôi phải gặp nhiều khó khăn, dù cô cũng biết đó là tòa nhà được xây dựng cách đây hàng trăm năm. Nhưng ở vào thời đó mà xây được tòa nhà như thế cũng là cả kỳ công đấy”.

“Tôi phải thừa nhận rằng việc mạ vàng lại ngọn đuốc học tập trên đỉnh tòa nhà với vàng lá 23.5 carat quả là một tác phẩm tuyệt đẹp”.

“Tôi không dám nhận lời khen đó, nhưng tôi cũng công nhận là nhìn ngọn đuốc ấy sáng rực trên lớp mái vòm màu đồng của tòa nhà”.

“Nhưng ông xứng đáng nhận lời khen ngợi vì đã sử dụng những công nghệ xây dựng tiên tiến nhất để giúp tòa nhà trở nên khang trang hơn”.

“Vâng, đúng vậy. Bây giờ thì chúng ta có thể yên tâm rằng tòa nhà sẽ vững chãi thêm vài trăm năm nữa. Hơn tám mươi triệu đôla đổ vào đấy, chắc chắn rằng công việc trùng tu phải có kết quả tốt chứ”.

“Chúng tôi có được chụp hình bản thiết kế của công trình không ạ?”

“Tôi e là không, vì lý do an ninh, thưa cô”.

“Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi vẫn muốn hỏi ý ông liệu chúng tôi có thể nhìn sơ qua? Khi chúng tôi viết báo, chúng tôi muốn chuyển tải câu chuyện thật đầy đủ về những công việc vĩ đại mà công ty của ông đã bắt tay đảm nhận. Và khi chúng tôi tận mắt xem qua những bản thiết kế ấy, cảm xúc sẽ càng mãnh liệt hơn. Tạp chí của chúng tôi sẽ có mặt tại tám quốc gia khác nhau, cho dù ông không muốn công ty của mình bị đưa lên quảng cáo quá nhiều, nhưng nếu có thì cũng không đến nỗi nào phải không ạ?”

Keller nở một nụ cười, “Có vẻ như bài báo này sẽ thuận lợi cho việc làm ăn của chúng tôi nhỉ. Chúng tôi cũng có dự định mở rộng kinh doanh ra nước ngoài đấy”.

“Vậy thì không còn gì tiện hơn nữa”, Annabelle nhanh chóng đáp lời.

“Vậy thì cô có ý định xem qua giai đoạn thi công cụ thể nào không?”

“Tôi muốn xem qua hết, nhưng có thể tập trung vào tầng hầm và tầng hai, tôi nghe nói hai chỗ đó khó khăn lắm”.

“Tất cả đều là thử thách, cô Collin ạ”.

“Xin gọi tôi là Regina. Và việc thiết kế lại hệ thống báo cháy nữa chứ?”

“Vâng, đúng là trọng trách khó khăn”.

“Tôi tin là bài báo của mình sẽ thật xuất sắc đấy”.

Keller quay số điện thoại và vài phút sau, họ chăm chú cùng nhau nhìn những bản thiết kế. Milton đứng ở vị trí thuận lợi nhất, vận dụng hết công suất của bộ não, cố gắng ghi nhớ từng chi tiết nhỏ trên bản vẽ. Keller nói chi tiết từng phần, còn Annabelle lại nhanh chóng chuyển hướng câu chuyện sang việc bình luận về phòng chữa cháy của tầng hầm, hệ thống báo cháy và mái vòm phòng đọc sách.

“Vậy là các thiết bị của hệ thống báo cháy được lắp đặt tập trung và nằm dưới bề mặt sàn?”, cô ta đặt câu hỏi, vừa chạy dọc ngón trỏ theo phần đang tìm hiểu.

“Chính xác. Chúng tôi thành công trong việc này nhờ vào hệ thống cấp khí mà chúng tôi có. Nhưng hiện tại họ đang chuẩn bị quy trình thay đổi chất chữa cháy”.

“Chất Halon 1301”, Milton chen vào, Annabelle nhìn ông ta và mỉm cười cám ơn. “Sát thủ của tầng Ozone. Chỗ chúng tôi cũng có tình trạng tương tự”.

“Đúng vậy”, Keller đồng ý.

“Và hệ thống ống chữa cháy này lại dẫn đến mái vòm quanh khu phòng đọc sách”, cô ta tiếp tục.

“Vâng, điều này quả là gay go vì không gian ở đó hơi hẹp. Nhưng chúng tôi đã cố gắng thiết kế một số hệ thống ống dẫn chính ngay trên các cột chống kệ sách”.

“Mà vẫn chịu lực tốt được phải không ạ. Quả thật là khéo léo”, Annabelle buột miệng khen.

Họ tiếp tục tham khảo bản thiết kế thêm nửa giờ đồng hồ cho đến lúc Annabelle cất tiếng thỏa mãn, “Này anh Lessie, anh có cần xem thêm gì nữa không?”

Ông ta lắc đầu, mỉm cười đầy ý nghĩa, chỉ tay vào trán đầy ngụ ý, “Tôi đã tham khảo xong hết rồi”.

Annabell bật cười, và Keller nhanh chóng cười theo.

Cô ta chụp hình Keller và công sự của ông ta, Mahoney để đính kèm theo bài báo, và hứa sẽ gửi cho họ một bản báo biếu khi xuất bản.Đừng nín thở các bạn nhé.

Khi họ chuẩn bị ra về thì Keller nói với theo, “Nếu mọi người còn câu hỏi nào, đừng ngần ngại gọi điện cho chúng tôi nhé”.

“Ông quả thật là đã giúp chúng tôi rất nhiều đấy ạ”, Annabelle trả lời thật lòng.

Khi họ leo lên chiếc Ford mà Annabelle đã thuê ở đâu đó, Milton thở phào, “Lạy Chúa, mọi việc cũng xong. Tôi đổ mồ hôi hột, run lẩy bẩy, tí nữa là không mở nổi cửa xe đấy”.

“Anh đã làm rất tốt, anh Milton ạ. Câu buột miệng về chất Halon hóa ra lại làm cho Keller thấy thoải mái trò chuyện hơn”.

“Vâng, câu chuyện có vẻ dễ thở hơn, dù có vài lần tôi chỉ muốn nôn mửa”.

“Quên chuyện đó đi. Chuyện nào cũng có giới hạn của nó, nhưng quả là anh cũng khá điêu luyện với cách xử lý tình huống đấy chứ”.

Milton rạng rỡ, “Cô thích câu đó à? Tự nhiên tôi buột miệng nói đấy”.

“Tôi tin là anh rấtnghề”.

Ông nhìn cô ta, ngưỡng mộ, “Còn cô thì có vẻ rất quen với những chuyện như vậy nhỉ”.

Cô ta nhấn ga, “Chỉ may mắn thôi”.

.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Trong lúc Annabelle và Milton gặp gỡ với đám kiến trúc sư, Stone lại thám thính nơi Bob Bradley từng ở. Ông đội chiếc mũ mềm, mặc áo khoác rộng, quần thụng, và dắt theo con Goff, chó lai của Caleb. Chú chó này là được đặt theo tên của vị giám đốc đầu tiên tại Khoa Sách Quý Hiếm. Đây là mánh khóe ông từng sử dụng hồi còn làm việc cho chính phủ vì chẳng ai lại nghi ngờ một người đang dẫn chó đi dạo cả. Dĩ nhiên, ông chẳng tài nào đoán ra liệu tên Roger Seagraves có dùng cách tương tự để trốn thoát sau khi giết Bradley không nữa.

Khi đến nơi, ông chỉ còn nhận ra phần còn lại của căn nhà là những cột nhà cháy đen, nằm nghiêng ngả, ống khói xạm đen. Hai căn nhà nằm bên cạnh nhà Bradley cũng bị hư hại nghiêm trọng. Stone nhìn xung quanh, khu vực này cũng không lấy gì làm khá giả lắm. Đâu phải cứ là đại biểu Quốc hội là lại phất lên như diều gặp gió, thường thì những người này phải ở hai nơi, một là quê nhà, hai là ở thủ phủ, và lúc nào giá nhà ở Washington cũng cực đắt. Vài đại biểu, đặc biệt là người mới nhậm chức, thường ở chung nhà, hay thậm chí ngủ lại trong văn phòng vì lý do trên. Vậy mà cựu chiến binh Bradley chỉ ở một mình.

Milton đã phần nào cung cấp một số thông tin chính về người đàn ông này, Stone cũng tìm hiểu thêm về ông ta thông qua đống báo chí tại chỗ trú ẩn của mình. Họ cùng nhau phác họa ra chân dung của Bradley, về Kansas, nơi ông ta được sinh ra và lớn lên, về cuộc đời chính trị đơn thuần của ông, với đặc điểm đáng chú ý nhất là phục vụ mười hai nhiệm kỳ trong Nhà Trắng và từng vươn lên đứng đầu cơ quan tình báo của Nhà Trắng gần mười năm trước khi giữ chức Chủ tịch Hạ viện. Stone nhận biết rằng ông ta có vẻ là người trung thực, và cuộc đời sự nghiệp của ông ta không vướng vào bất kỳ vụ xì-căng-đan nào cả. Có vẻ như mục đích làm trong sạch Quốc hội đã làm nảy sinh vài kẻ thù đầy thế lực và dẫn đến cái chết của ông ta. Có người sẽ cho rằng ám sát một người đứng vị trí thứ ba ứng cử chức vụ tổng thống quả là táo tợn và liều lĩnh. Stone biết rằng đó là điều không tưởng - vì nếu có thể giết tổng thống, thì thế giới chẳng còn gì là an toàn cả.

Án mạng của Bradley vẫn được công khai là trong giai đoạn điều tra, dù các phương tiện truyền thông báo chí sau thời gian liên tục đăng tải câu chuyện, cũng bắt đầu chìm vào im lặng. Có vẻ như cảnh sát đang dần kết luận rằng chẳng hề tồn tại nhóm khủng bố nào, và cái chết của Bradley còn có nhiều uẩn khúc hơn; chỉ là hành động quá khích của một nhóm người nào đó.

Ông dừng lại tại một gốc cây cho chú chó Goff “trút bầu tâm sự”. Stone có thể đánh hơi được bầu không khí điều tra dò xét đang bên cạnh mình. Dẫu sao thì ông cũng dày dặn kinh nghiệm gián điệp để nhận biết chiếc xe tải đậu phía cuối con đường chỉ là giả mạo, và hai người đàn ông ngồi trên xe có nhiệm vụ giám sát căn nhà của nạn nhân để tìm ra thêm manh mối nào đó. Một trong số căn nhà trong khu vực chắc chắn đã được FBI và nhóm điều tra trưng dụng cho việc theo dõi 24/24 trong suốt tuần. Chắc chắn ông cũng không lọt ra khỏi tầm ngắm của ống nhòm và các thiết bị theo dõi. Bất giác, ông kéo mũ xuống thêm một chút, làm ra vẻ gió mạnh vừa thổi qua.

Đang đảo mắt nhìn quanh, bất chợt ông phát hiện ra một thứ, ngay lập tức ông quay ngoắt lại và bước nhanh về hướng khác, kéo lê con Goff theo. Một chiếc xe tải nhỏ màu trắng với dòng chữ “Công trình công cộng D.C” vừa mới rẽ vào con đường, và đang tiến về phía ông. Ông chẳng có ý định là tìm hiểu xem liệu đó có phải là xe công, hay là trên xe lại đầy những kẻ chuyên gây đau đớn cho người khác.

Ông rẽ phải vào ngõ kế tiếp và cầu thầm trong bụng cho chiếc xe không đi theo. Dù khu vực dày đặc cớm FBI, nhưng điều đó cũng chẳng đảm bảo rằng ông sẽ an toàn. Đám FBI đó cũng có thể sẽ hùa đẩy ông vào chiếc xe tải đầy những kẻ thích tra tấn và rồi vẫy tay chào tạm biệt ông. Ông mải miết đi thêm hai dãy phố nữa trước khi giảm tốc độ, cho con Goff nhảy nhặng xị lên, ông từ từ liếc nhìn về phía sau lưng. Không còn thấy bóng dáng chiếc xe tải đâu cả, nhưng đó cũng có thể là chiêu lừa của chúng, vì trong lúc ông không để ý nhất, chúng sẽ lại xuất hiện từ phía khác. Vừa nghĩ đến đó, ông gọi di động ngay cho Reuben. Người anh em to lớn của ông vừa mới xong việc tại khu vực bốc dỡ.

“Tôi sẽ đến đó trong vòng năm phút nữa, Oliver”. Giọng Reuben vang lên qua điện thoại, “Có một trạm gác của cảnh sát cách chỗ anh đứng hai dãy phố, cứ thẳng tiến, nếu mấy tên chết tiệt đó có động tĩnh gì, anh cứ la làng lên như sắp sửa xảy ra một vụ đẫm máu vậy”.

Stone tiến bước, dẫu sao thì ngoài những lỗi lầm của mình, Reuben vẫn là người bạn chân thật và mạnh mẽ nhất mà ông đang cần phải có.

Đúng như lời hứa, Reuben đang lái chiếc xe tải chở hàng lao nhanh từ phía cuối đường, Stone và Goff nhảy phóc lên xe.

“Xe máy của anh đâu?”, Stone hỏi khi vừa yên vị trên xe.

“Mấy tên du côn cuỗm đi mất rồi. Tôi muốn giữ bí mật chuyện này”.

Khi họ ra khỏi khu vực nguy hiểm, Reuben giảm tốc độ rồi dừng hẳn.

“Nãy giờ tôi luôn nhìn vào kính chiếu hậu, Oliver ạ”, ông ta kể lại sự việc, “Nhưng tôi chẳng thấy động tĩnh gì cả”.

Stone vẫn cảnh giác, “Chắc chúng thấy tôi trên đường”.

“Anh hóa trang đánh lừa chúng được mà”.

Stone lắc đầu phản đối, “Những người như thế đâu dễ đánh lừa”.

“Vậy chúng chỉ nhử mồi thôi, đợi anh dẫn chúng đến mỏ vàng”.

“Vậy thì đợi hơi lâu rồi”.

“À, tôi định nói với anh rằng, một người bạn của tôi ở Lầu Năm Góc đã gọi lại. Anh ta cũng không biết nhiều về Behan và cái hợp đồng quân sự đó, nhưng anh ta có tiết lộ chút thông tin đáng quan tâm. Tôi cũng có nghe nói về việc thông tin mật bị ăn cắp và tiết lộ qua báo chí, nhưng sự thật còn tệ hơn nhiều. Từ câu chuyện của bạn tôi, tôi phát hiện ra thêm vài phần tử xấu mưu đồ bán nước cho kẻ thù chúng ta ở vùng Trung Đông và Châu Á”.

Stone nghịch nghịch sợi dây dắt con Goff rồi hỏi, “Reuben này, thế còn bạn của anh trong Đội Trọng án, hay FBI có liên lạc lại với anh không?”

“Điều đó mới lạ, chẳng ai thèm liên lạc lại. Tôi đang tự hỏi tại sao đây”.

Vậy mà tôi lại hiểu đấy,Stone nghĩ bụng,tôi cực kỳ hiểu rõ tại sao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Họ gặp nhau tại căn lều của Stone chiều hôm đó. Annabelle và Milton kể lại cuộc chạm trán với đám kiến trúc sư. Dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình, Milton đã vẽ lại chi tiết bản phác thảo vị trí căn phòng chữa cháy và hệ thống thông gió.

Caleb nghiên cứu bản vẽ, thốt lên, “ Tôi biết chính xác nó ở vị trí nào rồi, chắc là phòng lưu trữ”.

“Có khóa không?”, Stone hỏi.

“Chắc có”.

“Tôi cá rằng chúng ta phải có chìa khóa ở đâu đó nhỉ”, Stone lẩm bẩm.

Caleb có vẻ cảnh giác, “Chìa khóa à? Ý anh là gì đây, anh bạn?”

“Tôi nghĩ có vẻ như anh ta đang lên kế hoạch đột nhập vào căn phòng đó”, Annabelle lên tiếng trả lời thay.

“Này Oliver, anh không nói đùa đấy chứ. Tôi mong là tôi nghe nhầm, việc anh đóng vai học giả người Đức vào khu đọc sách nghe còn có vẻ khả thi, chứ tôi không tán thành việc anh đột nhập vào Thư viện Quốc hội đâu nhé”.

Annabelle nhìn Stone với ánh mắt ngưỡng mộ.,“Anh đóng vai học giả người Đức à? Hay nhỉ”.

“Cô đừng khiêu khích anh ta nữa”, Caleb bắt đầu cáu gắt. “Oliver này, tôi là người làm công của liên bang đấy”.

“Có khi nào chúng tôi phủ nhận điều đó đâu?”, Reuben chen ngang.

Stone tiếp tục, “Caleb, nếu chúng ta không đột nhập vào phòng đó, thì việc liều mạng chiếm được cái bản vẽ chẳng có nghĩa lý gì cả”. Rồi chỉ vào bản vẽ, ông tiếp, “Anh thấy đó, hệ thống thông gió dẫn đến khu phòng đọc cũng nằm trong phòng chữa cháy. Vậy là một công đôi việc”.

Caleb lắc đầu, “Căn phòng đó nằm ở gần hành lang của tầng hầm chính, lúc nào cũng có người qua lại, chắc chắn chúng ta bị phát hiện liền”.

“Chúng ta cứ giả vờ là đang làm việc tại đó, chắc chẳng ai chú ý cả”.

Annabelle tán thành, “Anh ấy nói đúng đấy, Caleb ạ”.

“Tôi cũng đi nữa”, Reuben chen vào, “Tôi chẳng muốn bỏ lỡ trò vui nào nữa đâu”.

Milton phụ họa, “Thế còn chúng tôi thì sao?”

Caleb rên rỉ, “Sao lại đi cả đám thế này?”

Annabelle lên tiếng, “Chúng ta sẽ yểm trợ nhé Milton. Bất cứ kế hoạch nào cũng có thể có bất trắc xảy ra cả”.

Stone nhìn cô với ánh mắt ngạc nhiên, “Tốt thôi, vậy các bạn sẽ yểm trợ cho chúng tôi. Tối nay, chúng ta hành động thôi”.

“Tối nay à!”, Caleb thảng thốt, “Tôi cần cả tuần để thu hết can đảm đấy. Tôi vừa nhút nhát, lại chỉ là một tay thủ thư quèn ở thư viện, làm sao mà dám liều mạng thế”.

“Anh có thể làm được mà, Caleb”, Milton an ủi. “Hôm nay tôi cũng tưởng mình yếu ớt như thế, nhưng mà việc lừa gạt người khác cũng không đến nỗi quá khó. Tôi còn lừa được mấy tay kiến trúc sư, huống hồ gì là anh, chỗ đó là chỗ anh làm việc mà. Ai lại gây khó dễ với anh cơ chứ?”

“Tôi chẳng biết nữa, sao tôi lại để mình dây vào việc nguy hiểm này cơ chứ?”, Caleb rên rỉ, “Còn nữa, khi chúng ta đến nơi, có khi thư viện đã đóng cửa mất rồi”.

“Anh có thể giúp chúng tôi vào bằng thẻ làm việc của anh không?”

“Chẳng biết nữa, có thể được, có thể không”, ông ta yếu ớt trả lời.

“Caleb”, Stone cứng rắn. “Chúng ta cần phải hành động”.

Caleb thở dài, “Vâng, tôi biết, tôi hiểu”, rồi nói thêm, “Nhưng mà ít nhất cũng cho tôi cơ hội giả vờ chống đối chứ”.

Annabelle đặt tay lên vai ông ta, và mỉm cười, “Anh biết không Caleb. Anh giống một người bạn của tôi, tên anh ta là Leo. Lần nào trước khi làm gì anh ta cũng rên rỉ, than thở, nhưng cuối cùng lúc nào cũng thành công cả”.

“Tôi xem đó là lời khen vậy”.

Stone đằng hắng và mở một quyển tạp chí mang theo, “Tôi nghĩ ít ra tôi cũng tìm ra phần nào những gì chúng ta đang cần”.

Họ hướng sự chú ý sang ông. Trước khi nói, ông bật một bài nhạc cổ điển từ chiếc radio bỏ túi mang theo rồi giải thích, “Lỡ chúng ta đang bị nghe trộm”. Ông lại hắng giọng, rồi kể cho mọi người nghe về chuyến thám thính căn nhà bị hủy hoại của Bradley. “Họ giết ông ta rồi cho nổ tung nhà. Ban đầu tôi nghĩ đó là vì lý do lẩn trốn của bọn khủng bố, nhưng giờ thì tôi cho rằng có thể còn có lý do khác: biết đâu rằng, dưới danh nghĩa là một người đàn ông chân chính và trung thực, Bob Bradley lại là một tên đồi bại. Và vết tích đồi bại ấy đã tiêu tan đi cùng vụ nổ sau đó”.

“Không thể có việc đó được”, Caleb chống chế. “Người tiền nhiệm ông ta đúng là thối tha, nhưng Bradley thì không. Họ tiến cử Bradley thế vào vị trí của hắn để cải tổ mọi thứ”.

Stone lắc đầu, “Với kinh nghiệm của tôi tại Washington, chẳng ai có thể leo lên cái ghế Chủ tịch Hạ viện của Nhà Trắng chỉ vì kế hoạch thanh trừ tệ nạn tham nhũng cả. Để được như vậy, người đó cần củng cố thế lực của mình cũng như tìm kiếm đồng minh ủng hộ trong nhiều năm. Rõ ràng là việc thăng tiến của Bradley khá bất thường, nếu lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện không bị buộc tội chung với Chủ tịch Hạ viện tiền nhiệm thì có lẽ ông ta đã nhận công việc đó. Đảng luôn ủng hộ ông ta. Nhưng rồi các vị lãnh đạo trở nên đồi bại và ngài Bradley của chúng ta trở thành vị anh hùng có công thanh lọc bộ máy chính phủ. Nhưng tôi chẳng muốn đề cập quá nhiều đến chuyện tham nhũng đó nữa. Vai trò của Bradley với tư cách là Chủ tịch Hạ viện đã lấp đi những chức danh khá quan trọng khác mà ông ta đang đảm nhiệm: đó là người đứng đầu Ủy ban Tình báo. Với chức vụ này, Bradley gần như được báo cáo liên tục về những hoạt động bí mật của mọi tổ chức tình báo của Mỹ, bao gồm CIA, NSA và Lầu Năm Góc. Ông ta và đội ngũ của mình sẽ ắt hẳn có thể tiếp cận với những bí mật quốc gia và những tài liệu đáng giá với kẻ thù của chúng ta”. Stone lật thêm vài trang báo, rồi nói tiếp, “Trong vài năm gần đây, đã xảy ra rất nhiều hoạt động gián điệp chống lại các tổ chức tình báo của nước Mỹ, vài vụ trong số đó đã dẫn đến cái chết của những tay nằm vùng, bốn vụ mới nhất mà báo chí phanh phui và gọi là đồng minh của bộ ngoại giao. Còn theo những nguồn do Reuben cung cấp, có lẽ sự việc còn tệ hơn thế”.

“Vậy theo ý anh, Bradley là gián điệp à?”, Milton lên tiếng hỏi.

“Tôi đặt trường hợp là có thể”.

Caleb tiếp lời, “Nhưng nếu Bradley làm việc cho kẻ thù của người Mỹ, sao chúng lại giết hắn?”

Stone giải thích, “Có hai khả năng, một là hắn đòi thêm tiền, và bị thủ tiêu, hai là...”

Annabelle ngắt ngang, “Người của tađã giết hắn”.

Stone liếc xéo cô ta và nhẹ gật đầu, tán thành. Những người còn lại tỏ vẻ kinh ngạc.

Caleb thốt lên, “Người của ta? Ý là người trongchính phủcủa chúng ta!”

“Sao lại giết hắn? Sao không buộc tội hắn trước tòa?”, Mitlon cũng cất tiếng hỏi.

“Bởi vì nếu làm như thế, mọi thứ sẽ bị lộ”, Stone

trả lời.

“Và cũng có thể vì CIA và Lầu Năm Góc chẳng muốn người khác biết chuyện họ thất bại”, Reuben thêm vào.

“Và CIA cũng chẳng có lòng nhân từ đâu”, Stone chua chát. “Ngay cả Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng cũng không thoát khỏi bị làm bia đỡ đạn”.

“Nhưng nếu chính phủ chúng ta đứng sau tất cả chuyện này, thì ai là người đã bắt cóc và tra tấn anh vậy, Oliver?”, Milton hỏi tiếp.

Lần này đến lượt Annabelle, “Ông bị tra tấn à?”

“Tôi đã bị một nhóm đầy kinh nghiệm thẩm vấn toàn diện”, Stone thừa nhận.

“Thẩm vấn toàn diện cái khỉ gì? Chúng cố dìm chết anh đấy”, Caleb tức tối, “Bằng cách dìm anh vào nước”.

Reuben giận dữ vỗ đùi cái đét rồi tiếp lời, “Dìm nước à. Lạy Chúa, đó chỉ là trò hề của rạp xiếc. Những gì chúng làm với anh bạn Oliver của chúng ta phải gọi là hình thức tra tấn “Ván và nước”1đấy chứ, có khi còn dã man hơn thế”.

“Để trả lời câu hỏi của anh, Mitlon ạ, tôi có thể khẳng định rằng tôi không biết những người bắt cóc tôi có liên quan gì ở đây. Chẳng có lý gì nếu như chính phủ đã ra tay giết hại Bradley lại quan tâm đến việc chúng ta tìm ra manh mối. Họ biết hết cả rồi”.

“Vẫn có lý do nếu như tổ chức giết hại Bradley làm việc đó vì động cơ riêng của nó, còn một tổ chức khác lại chơi trò rượt đuổi”, Annabelle đặt giả thuyết, “Ở đây có lẽ đang có sự mâu thuẫn giữa các tổ chức”.

Stone nhìn cô ta với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, “Giả thuyết rất hay. Còn chuyện chúng ta tham gia vào trò chơi thế nào cũng còn chưa biết được”.

“Ông vẫn nghĩ rằng cái chết của Jonathan có liên quan đến chuyện này à?”, Annabelle hỏi.

“Mẫu số chung chúng ta tìm được đến giờ là Cornelius Behan”, Stone tiếp lời. “Sự xuất hiện của hắn tại thư viện, cách hắn quan tâm đến hệ thống báo cháy càng làm sự nghi ngờ của chúng ta có cơ sở. Hắn là đầu mối cho vụ của Jonathan. Và để tìm rõ ngọn nguồn chúng ta cần phải tìm hiểu cái chết của Jonathan”.

“Vậy là chúng ta vẫn phải đột nhập Thư viện Quốc hội”, Caleb quay lại rên rỉ.

Stone đặt tay lên vai ông bạn mình an ủi, “Nếu tôi nói điều này anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, Caleb, đây không phải là tòa nhà chính phủ đầu tiên tôi đột nhập vào đâu”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Caleb giúp Stone và Reuben qua khỏi cổng bảo vệ nhờ vào uy tín của mình và lời nói dối rằng đây là những khách viếng thăm khu triển lãm của thư viện sau giờ làm việc, dù giọng nói và điệu bộ của ông ta thật vụng về và gượng gạo.

Trong lúc họ đi thang máy xuống tầng hầm, Caleb cất tiếng phàn nàn, “Tôi có cảm giác mình vừa gây ra tội ác nghiêm trọng vậy”.

“Tội ác chỉ sắp diễn ra thôi, Caleb”, Stone hưởng ứng, tay giơ cao chùm chìa khóa, “Những gì anh đã làm trên ấy tính ra chẳng thấm thía vào đâu cả”. Caleb chỉ còn biết trân trân nhìn ông.

Họ tìm ra vị trí căn phòng, với những lớp cửa đôi to và dầy, Stone nhanh chóng tìm ra chìa khóa mở chúng. Chỉ thoáng chốc sau, họ đã ở trong một căn phòng rộng, và các thiết bị chữa cháy được đặt phía góc tường.

“Giờ thì tôi hiểu tại sao lại cần lớp cửa đôi rồi”, Stone thốt lên.

Những khối xilanh to lớn, mỗi cái có thể nặng cả tấn, sẽ không thể lọt qua khung cửa bình thường. Vài xilanh được nối với ống dẫn xuyên qua trần nhà. Trên các xilanh này là dòng chữ “Khí Halon 1301”. Stone đọc tên của công ty đã lắp đặt hệ thống “Công ty Cứu hỏa”. Tên công ty này cũng được in trên các trụ xilanh trong phòng. Sau đó ông bắt tay vào việc nghiên cứu hệ thống ống dẫn, “Có một cái công tắc dùng tay để điều chỉnh khí, và các ống dẫn phải chạy đến một số phòng khác nữa, ngoài phòng sách. Nhưng tôi không rõ ống nào mới là ống dẫn đến chỗ anh làm việc Caleb ạ”.

Reuben nhìn qua vai Stone, “Và anh cũng chẳng biết rõ liệu ống nào đã thoát khí ra đấy”.

Stone đến quan sát hệ thống điều hòa không khí, rồi rút bảng vẽ của Milton, chăm chú nhìn vào phần hệ thống điều hoà không khí chạy đến trần nhà.

“Oliver, sao anh có vẻ quan tâm đến hệ thống điều hòa không khí quá nhỉ?”, Reuben thắc mắc.

“Nếu có loại khí nào đó gây ra cái chết của Jonathan, thì tên sát nhân phải biết vị trí chính xác của ông ấy trước khi mở đường ống khí từ tận dưới tầng hầm này”.

Caleb tán thành, “Đúng rồi, sao tôi lại không nghĩ ra điều này nhỉ. Vì đâu có báo cháy thì khí gas sẽ không hoạt động, nên chắc chắn để khí thoát ra, chỉ có cách điều chỉnh bằng tay mà thôi. Nhưng phải có mặt trong phòng này thì mới làm được điều đó, tên sát nhân làm cách nào mà biết chính xác Jonathan sẽ đứng tại vị trí nhất định trong phòng sách nhỉ?”

“Tôi nghĩ hắn biết công việc thường nhật của Jonathan. Lúc nào, ông ấy cũng là người đầu tiên có mặt tại phòng sách, kiểm tra một số khu vực nhất định, cả nơi ông ta bị sát hại nữa”.

Reuben lắc đầu, “Cũng có lý, nhưng theo như Caleb kể lại thì anh ta tìm thấy xác của ông bạn DeHaven của chúng ta tại vị trí cách vòi khí khoảng sáu mét, khẳng định khí gas là nguyên nhân chính gây ra tử vong. Nhưng làm thế nào mà kẻ giết người lại biết sự việc rõ khi hắn ở dưới này nhỉ?”

Stone vẫn còn đang nhìn chăm chăm vào bản vẽ của Milton, thình lình ông chỉ tay vào hệ thống điều hòa không khí. “Cái ống này dẫn thẳng đến phòng sách, đi qua tất cả các đường ống của hệ thống”.

“Điều đó có nghĩa là gì?”

Stone nhìn xung quanh hệ thống điều hòa, rồi chợt dừng lại, ông chỉ tay vào một góc khuất tầm nhìn từ vị trí chính của căn phòng. Reuben và Caleb cùng bước đến.

“Sao lại có một hộp truy nhập nằm ngay trong hệ thống này nhỉ?”, Reuben tỏ vẻ không hiểu.

Stone mở hộp và nhìn vào trong, “Caleb này, anh có nhớ đến miệng ống gần nơi phát hiện ra xác của Jonathan không? Có phải là tấm lưới sắt bị bẻ cong?”

“Vâng, đúng vậy, anh còn chỉ tôi xem mà. Có liên quan gì đến chuyện này?”

“Nếu có ai đó đặt một camera có gắn cọng cáp dài bên trong hệ thống thông khí của phòng sách, bẻ cong tấm lưới sắt thì chắc rằng tầm nhìn của camera có thể quay lại rõ vị trí của Jonathan trong phòng sách sáng hôm đó. Còn người này chỉ cần ở dưới này, với thiết bị thu tín hiệu từ camera, tôi tin rằng, hắn hoàn toàn có thể nhìn thấy từng cử động nhỏ của Jonathan”.

“Mẹ kiếp”, Reuben cất tiếng chửi thề, “Chúng biết lợi dụng hệ thống này quá nhỉ”.

“Vì đó là cách duy nhất để nối dây cáp. Hệ thống vô tuyến không thể hoạt động qua cái đống bê tông và những vật cản khác”, Stone giải thích, “Tôi tin rằng khi chúng ta kiểm tra hệ thống điều hòa không khí trong phòng sách sau miếng lưới sắt bị bẻ cong, chúng ta có thể tìm ra được dấu tích nơi camera được gắn. Tên sát nhân ngồi đây đợi, rồi hắn nhìn thấy Jonathan, mở công tắc, trước đó là tắt hệ thống báo động, và mười giây sau, khí gas tràn ngập phòng và sát hại Jonathan”.

“Nhưng tên này sau khi sát hại Jonathan, chắc phải tháo camera ra chứ, vậy sao hắn không bẻ tấm lưới sắt lại cho đàng hoàng?”, Reuben hỏi tiếp.

“Hắn có làm, chỉ có điều, khi đã bẻ cong rồi, rất khó làm lại hình dáng ban đầu”, ông ngưng lời, nhìn sang Caleb, “Này anh sao vậy?”

Mặt Caleb trắng bệch, “Nếu những gì anh nói là đúng, vậy thì kẻ nào đó, hiện đang làm việc tại thư viện chính là tên sát nhân. Chẳng ai được bước vào phòng sách một mình cả”.

“Tiếng gì vậy?”, Reuben rít lên.

Stone nhìn cánh cửa, cảnh giác, “Có người đang đến, nhanh lên, lại đây nào”.

Họ nép mình vào phía sau hệ thống điều hòa không khí, Reuben gần như phải đỡ ông bạn Caleb đang run lẩy bẩy vào chỗ nấp. Họ chỉ kịp vào chỗ an toàn thì cửa bật mở. Bốn người đàn ông bước vào, tất cả đều mặc đồ bảo hộ lao động màu xanh da trời. Một chiếc xe nâng do người đàn ông thứ năm lái cũng vừa trờ tới sau lưng. Người mới xuất hiện, cũng là ông chủ, lấy ra một bìa hồ sơ và những người còn lại đứng xung quanh.

“Rồi bây giờ chúng ta sẽ lấy trụ này, trụ này, và trụ đằng kia”, ông ta vừa nói vừa chỉ vào ba xilanh, gồm cả hai cái đang gắn với ống dẫn, “rồi thay chúng bằng những trụ đang nằm trên xe nâng nhé”.

Những người thợ cẩn thận tháo rời những trụ xilanh cồng kềnh khỏi ống dẫn. Stone và các cộng sự dõi theo từ chỗ nấp. Reuben nhìn Stone, tính cất tiếng hỏi, nhưng ông lắc đầu, ra hiệu im lặng. Còn Caleb vẫn không ngớt run rẩy, đến nỗi Stone phải nắm chặt một cánh tay, còn Reuben đỡ tay kia để giữ ông ta đứng thẳng.

Nửa tiếng sau đó, ba trụ xilanh đã được đặt yên vị trên xe nâng, trong lúc ba trụ mới được gắn vào hệ thống ống dẫn. Chiếc xe nâng rời khỏi phòng, và những người thợ nối đuôi theo sau. Khi cửa vừa đóng, Stone lập tức đến bên những trụ mới, và đọc nhãn ghi trên thân, “Chất khí FM-200. Caleb này, anh nói rằng thư viện đang thay đổi hệ thống khí chữa cháy à. Chắc là chất này đây”.

Caleb trả lời, “Chắc thế”.

“Vậy thì chúng ta sẽ đi theo họ”, Stone quả quyết.

Caleb lắp bắp, “Làm ơn đi, Oliver, không đi có được không?”

“Caleb, chúng ta phải đi”.

“Tôi... không... muốn chết!”

Stone lay ông ta thật mạnh, “Này, bình tĩnh nào anh bạn. Đi thôi!”

Caleb nhìn trân trối Stone rồi lại lắp bắp, “Tôi chẳng thích cái kiểu anh hành hung tôi như thế”.

Stone phớt lờ, “Chỗ đi lên ở đâu nhỉ?”

Caleb trả lời, rồi mọi người lục tục kéo ra ngoài. Lúc này, điện thoại của Stone reo, đó là Milton. Stone kể vắn tắt chuyện đã xảy ra rồi kết luận, “Chúng tôi theo dấu mấy cái trụ, sẽ liên tục báo tin cho anh”.

Milton tắt điện thoại, nhìn Annabelle. Họ đang ở trong khách sạn của cô ả, ông kể lại câu chuyện.

“Nghe có vẻ nguy hiểm đấy”, cô ả nhận xét. “Họ không biết họ sắp gặp chuyện gì cả”.

“Vậy chúng ta nên làm gì?”

“Yểm trợ họ, anh nhớ chứ?”

Cô ả chạy lại tủ, lôi ra một cái túi, lấy một hộp nhỏ ra khỏi túi.

Milton lập tức bối rối vì nó là hộp đựng băng vệ sinh. Nhận thấy điều này, Annabelle lên tiếng, “Đừng mắc cỡ, anh Milton ạ. Phụ nữ hay giấu những thứ họ không muốn người khác tìm ra trong hộp này đấy”. Cô mở hộp, lấy một món đồ rồi bỏ vào túi áo. “Họ nói tên công ty là “Chữa cháy” à. Tôi nghĩ họ đang đi đến kho hàng của công ty này đấy. Anh tìm ra chỗ được không?”

“Khách sạn này có mạng không dây, nên tôi tra trên mạng nhanh mà”, vừa nói tay ông ta đã lướt trên bàn phím.

“Tốt quá. Có cửa hàng bán đồ dùng nào gần đây không nhỉ?”, cô ả hỏi thêm.

Ông suy nghĩ một lát, rồi trả lời, “À, có đấy, có cả vài món đặc biệt nữa. Mà lại mở cửa đến tối nữa chứ”.

“Tuyệt vời”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Chiếc Nova theo sau chiếc xe tải của Công ty Cứu hỏa trong một cự ly an toàn. Caleb ngồi ở vị trí tài xế, kế đến là Stone, còn Reuben ngồi phía sau.

“Sao chúng ta không gọi cảnh sát và để họ lo vụ này nhỉ?”, Caleb lên tiếng.

“Rồi nói gì cho họ nghe?”, Stone phản ứng. “Anh đã chẳng bảo rằng thư viện đang đổi hệ thống cũ. Những gì chúng ta biết nãy giờ, chẳng qua là đúng quy trình. Làm vậy, có khi còn làm cho người vô can tưởng chúng ta có âm mưu gì khác. Chúng ta cần sự dò xét, không cần bọn cớm làm gì cả”.

Caleb trả miếng, “Hay thật đấy! Vậy là tôi phải lao vào nguy hiểm chứ không phải đám cảnh sát kia à? Vậy tôi trả tiền thuế cho chúng làm cái quái gì nhỉ?”

Chiếc xe tải lúc này rẽ trái rồi lại rẽ phải. Họ đi ngang qua khu vực điện Capitol rồi tiến vào vùng khá tồi tàn của thành phố.

Stone cất tiếng, “Chạy chậm lại thôi, xe tải dừng rồi đấy”.

Caleb thắng xe lại bên vệ đường. Lúc này chiếc xe tải dừng trước một cánh cổng khóa bằng xích, một người đàn ông từ phía sân trong bước ra mở cổng.

“Đó là khu nhà kho”, Stone suy đoán.

Xe tải chạy qua cổng vào bên trong, và cánh cổng được khóa lại như cũ.

“Vậy là chúng ta chỉ có thể làm bấy nhiêu mà thôi”, Caleb thở phào nhẹ nhõm. “Trời ơi, chắc tôi phải uống một ly cà phê sữa đậm đặc để lấy lại tinh thần sau một tối kinh hoàng như thế này”.

Stone cắt ngang, “Chúng ta cần lọt vào phía sau hàng rào”.

“Đồng ý”, Reuben tán thành.

“Hai anh điên hết rồi!”, Caleb thảng thốt.

“Anh có thể ngồi đợi ngoài xe, Caleb ạ”, Stone trấn an. “Còn tôi phải xem chuyện gì đang xảy ra trong ấy”.

“Lỡ anh bị bắt thì sao?”

“Phải chịu thôi. Nhưng tôi nghĩ cũng đáng mà”, Stone trả lời.

“Còn tôi vẫn ngồi trong xe à?”, Caleb chậm rãi nói. “Nhưng có vẻ như không công bằng cho hai anh lắm, hai anh phải liều mạng...”

Stone ngắt lời ông ta, “Nếu chúng tôi cần chuồn nhanh, thì anh ngồi trong xe, sẵn sàng là tốt chứ sao”.

“Đúng thế”, Reuben gật đầu.

“Vậy thì quyết định vậy thôi”. Caleb nắm chặt vô-lăng và nghiêm nghị, “Đôi khi tôi cũng cài số xe chạy nước rút đấy”.

Stone và Reuben nhẹ nhàng ra khỏi xe và lần về phía tường rào. Nép mình sau vài tấm ván cũ ngay phía ngoài khu nhà kho, họ dõi theo hướng chiếc xe tải đang đỗ xịch ngay góc sân. Những người thợ bước xuống, và đi vào khu nhà chính. Vài phút sau, họ thay đồ, rồi lái xe riêng đi mất. Một nhân viên bảo vệ khóa cổng và quay trở vào trong.

“Tốt nhất chúng ta nên leo vào từ phía bờ rào bên kia, nơi có xe tải đang đậu”, Reuben đề nghị. “Như vậy, lỡ như tên bảo vệ có quay ra cũng bị xe tải che tầm nhìn”.

“Ý kiến hay”, Stone tán thành.

Họ hối hả đi vòng về hướng bên kia hàng rào. Trước khi họ chuẩn bị leo rào, Stone lấy cây ném về phía hàng rào rồi nói, “Như vậy để xem có điện hay không”.

“Ừ”

Họ chầm chậm leo qua tường rào, rồi nhẹ nhàng đáp xuống đất, cúi thấp và bắt đầu tiến về phía chiếc xe tải. Khi được nửa đường, Stone dừng lại, ra hiệu cho Reuben cúi rạp người, nhìn xung quanh, khi không thấy ai, họ lại tiếp tục tiến về phía trước. Thình lình, Stone chuyển hướng từ chiếc xe tải sang hướng một khu nhà bê-tông nhỏ sát tường rào. Reuben hấp tấp bám theo sau.

Cánh cửa bị khóa, nhưng Stone vẫn dùng chìa mở được. Bên trong là hàng khối trụ lớn. Stone bật đèn pin nhỏ mang theo bên mình và chiếu xung quanh. Trong nhà, là một bàn gỗ với đầy đủ dụng cụ, máy phun sơn nhỏ trong góc, đặt cạnh vài thùng sơn và chất dung môi, phía trên một vách tường là một bình ôxy với mặt nạ. Stone bật chiếc bật lửa gần những khối trụ lớn, ánh sáng đủ để đọc những dòng chữ trên đó, “FM-200, Innergen, Halon 1301, CO2 , FE-25”. Ông quay lại quan sát xilanh CO2 kỹ hơn.

Reuben chạm khẽ vào tay ông và bảo, “Nhìn này”. Stone nhìn theo hướng tay chỉ lên tấm bảng trên tường.

“Công ty Cứu hỏa. Chúng ta biết rồi mà”, Stone nói, giọng thiếu kiên nhẫn.

“Nhìn hàng bên dưới kìa”.

Stone thở gấp, “Chữa cháy là một công ty con của Công ty Cổ phần Công nghệ Paradigm”.

“Công ty của Cornelius Behan đó”, Reuben thì thầm.

Caleb ngồi bồn chồn trong chiếc Nova, ánh mắt hướng về khu vực hàng rào. Ông lẩm bẩm ,“Thôi nào, sao mà lâu thế?”

Đột nhiên, ông nghiêng người qua một bên. Một chiếc xe chạy vụt qua hướng về phía khu nhà kho. Khi nó đi qua rồi, ông ngồi thẳng dậy, ngực vẫnđánh lô tô.Đó là một chiếc xe tuần tiễu, phía ghế sau chễm chệ một con chó Béc-giê Đức rõ to.

Caleb lập tức bấm điện thoại để gọi Stone, nhưng máy lại hết pin. Lúc nào ông cũng quên phải xạc pin cho cái điện thoại quỷ quái này cả, vì ông không thích lúc nào cũng kè kè theo nó.

“Lạy Chúa!”, Caleb rên rỉ. Ông hít một hơi thật sâu. “Mày có thể làm được mà Caleb Shaw. Mày làm được”. Ông thở ra một hơi, tập trung và đọc vài dòng thơ yêu thích để lấy can đảm, “Nửa đoàn quân, nửa đoàn quân/Nửa đoàn quân tiến về phía trước/Đến thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước/Tấn công, hỡi đoàn khinh binh/Xung phong vì súng ống/Tướng quân ra lệnh/Tiến vào thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước”. Ông ngừng đọc, và ngẩng lên đối diện với thực tại nơi có bảo vệ vũ trang tận răng và chó nghiệp vụ cùng vào cuộc. Lúc này thì ý chí của ông biến đâu mất ngay khi ngừng đọc thơ.

Ông bực bội, “Quý ngài Tennyson chẳng biết quái gì về nguy hiểm thật sự cả”.

Caleb leo ra khỏi xe, và ngần ngừ tiến về phía hàng rào.

Phía trong bờ rào, Stone và Reuben đang tiến về phía xe tải. Stone cảnh giác, “Nhớ canh chừng khi tôi thám thính nhé”. Ông leo vào phía thân sau xe. Thùng xe trống, chỉ có những thanh gỗ được đóng quanh thân xe, giữ hàng hóa. Ông dùng đèn pin soi rõ phần sơn trên thân trụ. Chỉ có một ống được sơn chữ “Chất Halon 1301”, còn tất cả những ống khác lại được sơn dòng chữ “FM-200”. Ông lấy ra trong túi một hộp nhựa thông và một miếng giẻ vớ được từ khu nhà kho rồi chùi mạnh trên trụ có dòng chữ FM-200.

“Nhanh nào, nhanh nào”, Reuben vừa nói, mắt vừa láo liên khắp nơi.

Khi lớp sơn phủ bên ngoài dần tan ra, Stone dừng lại và soi ánh đèn pin vào dòng chữ bên dưới, “Chất CO2”, “5 ngàn ppm”1.

“Chết tiệt!”, giọng Reuben vang lên từ ngoài. “Chạy thôi nào anh bạn Oliver của tôi”.

Stone nhìn qua phía thân xe. Chó đặc vụ vừa nhảy phóc khỏi chiếc xe tuần tra ngay gần cổng ra vào.

Stone nhảy vội ra khỏi xe tải, nhờ xe tải che khuất tầm nhìn, họ tiến vội về phía hàng rào. Nhưng con chó đánh hơi được mùi của họ, và chỉ thoáng chốc sau, nó bắt đầu gầm gừ, và sục sạo đi về phía họ, theo sau là hai tên lính canh.

Stone và Reuben nhảy bổ về phía hàng rào và bắt đầu leo, nhưng con chó có vẻ nhanh hơn họ. Nó táp vào quần Reuben.

Phía bên ngoài, Caleb quan sát thấy hết sự việc, có điều, ông không chắc mình có thể làm gì được, ông chỉ có thể thu hết can đảm để làm điều gì đó.

“Giữ lấy nhé”, một giọng cất lên. Reuben ráng hết sức bình sinh đá mạnh chân để con chó thả quần ông ta ra, nhưng nó vẫn ngoạm chặt. Khi Stone quay xuống nhìn, thì đã thấy hai miệng súng đen ngòm chĩa về phía họ.

Một tên bảo vệ đanh giọng, “Xuống mau, kẻo con chó cắn đứt chân ông đấy”. “Mau!”

Stone và Reuben từ từ leo trở lại. Con chó tha cho họ, dù vẫn còn gầm gừ.

“Tôi nghĩ đây chỉ là sự hiểu lầm mà thôi”, Stone lên tiếng phân bua.

“Đúng thế, cảnh sát sẽ tin ông”, tên còn lại chát chúa.

“Chúng tôi có mặt kịp thời để hỗ trợ mấy chú em đây”, tiếng phụ nữ tiếp lời.

Họ cùng nhìn về hướng tiếng nói. Annabelle đứng phía ngoài cổng, bên cạnh chiếc xe hơi, Milton đứng bên cạnh, trong chiếc áo gió và đầu đội mũ với dòng chữ “FBI”.

“Mấy người là ai thế?”, một trong hai tên bảo vệ hỏi.

“Nhân viên FBI McCallister và Dupree”, cô trình thẻ ra và giở áo khoác để lộ huy hiệu và súng dắt bên hông. “Mở cổng, và làm ơn giữ con chó quỷ quái đó tránh xa chúng tôi”, cô ta đanh giọng.

“Nhân viên FBI làm cái quái gì giờ này lại ở đây?”, tên bảo vệ có vẻ hơi căng thẳng, nhưng hắn vẫn chạy ra mở cổng.

Annabelle và Milton bước vào. Cô ta quay sang bảo Milton, “Buộc tội chúng, và còng chúng lại”. Milton rút hai chiếc còng từ trong túi, và tiến về phía Stone và Reuben.

“Đợi đã”, một tên cản lại. “Chúng tôi có nhiệm vụ bắt những tên đột nhập và báo cho cảnh sát liền”.

Annabelle đến gần tay bảo vệ có khuôn mặt phúng phính, nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi hỏi, “Này, chú em vào nghề bao lâu rồi thế?”

“Mười ba tháng. Tôi đã có thể được mang theo vũ khí rồi đó”, hắn tự hào trả lời.

“Chắc chắn là thế rồi. Nhưng mà bỏ cái khẩu súng đó qua một bên đi, kẻo lại gây thiệt mạng một người giống chị đây”.

Hắn ngần ngừ chĩa khẩu súng sang hướng khác khi Annabelle giơ thẻ ra lần nữa, “Cái thẻ này có tiếng nói hơn đámcớmđịa phương đấy”. Những tấm thẻ nhìn y như thật này, chỉ là một trong số những thứ cô đã nhờ Freddy chuẩn bị sẵn và luôn cất chúng trong hộp băng vệ sinh của mình.

Tên bảo vệ nhăn nhó, “Nhưng chúng tôi có quy tắc của mình, với lại bọn chúng đột nhập nữa”. Hắn chỉ về phía Stone và Reuben, lúc này đã bị còng tay. Phía sau áo khoác của Milton cũng là dòng chữ “FBI”, họ đã mua đủ đồ thứ súng ống, huy hiệu và còng giả tại cửa hiệu đồ chơi.

Annabelle cất tiếng cười lớn, “Đột nhập à!”. Rồi cô chống nạnh, “Hai chú em không biết hai chú em vừa tóm được ai sao?”

Chúng liếc nhau rồi hỏi dò, “Hai lão lang thang chứ gì?”

“Này, mày là thằng chó chết”, Reuben, tay vẫn bị còng, nhảy chồm lên trong cơn giận dữ. Milton ngay lập tức chĩa khẩu súng ngắn vào đầu của Reuben, hét lên, “Mày có im không, thằng khốn kia, không tao bắn vỡ sọ mày đấy”.

Ngay lập tức, Reuben đứng im.

Annabelle tiếp tục, “Gã “dễ thương” đằng kia là Randall Weathers, đang bị truy nã vì bốn tội danh khác nhau, bao gồm buôn ma túy, rửa tiền, bị tố cáo giết người và có dính dáng đến việc đánh bom nhà của quan tòa liên bang tại Georgia. Tên kia là Paul Mason, biệt danh là Peter Dawson, trong mười sáu cái tên giả khác của hắn. Tên chết tiệt này lại lần ra đường dây trực tiếp đến phòng chống khủng bố tại Trung Đông đang núp bóng điện Capitol. Chúng tôi vẫn đang theo dõi các cuộc điện thoại và thư điện tử của hắn. Tối nay, chúng tôi lần theo hắn đến đây và bắt quả tang hắn, có vẻ như bọn chúng đang âm mưu chôm vài món chất nổ. Rồi chúng sẽ đậu một chiếc xe tải, bên trong là vô số chất cần thiết, cùng đồng hồ hẹn giờ, đợi chín vị quan tòa đáng kính của chúng ta và “bùm” họ ra tro”. Cô ta nhìn Stone và Reuben với ánh mắt đầy kinh tởm. “Lần này bọn bay sẽ bị hạ gục hết. Hạ gục toàn bộ”, cô ta lặp lại.

“Hay thật đấy, Earl”, một trong hai tên quay sang tên còn lại, giọng phấn khích. “Khủng bố đấy!”

Annabelle rút ra một quyển sổ nhỏ, tiếp tục, “Để chị ghi tên hai chú em vào. Bảo đảm Cục điều tra sẽ cần phải biết tên ai để mà khen thưởng vì đã góp phần xuất sắc cho nhiệm vụ này”, rồi cô mỉm cười, “chị bảo đảm hai em sẽ sớm thăng tiến đấy”.

Hai tên bảo vệ nhìn nhau, hớn hở, “Tuyệt quá”. Bọn chúng đọc tên cho cô ta ghi, rồi cô ta quay sang Milton, ra lệnh, “Đưa chúng lên xe, Dupree. Những gã bại hoại này càng sớm vào tù chừng nào, càng tốt chừng đó”. Rồi quay sang hai tên bảo vệ, cô ta giải thích thêm, “Chắc chắn chúng tôi sẽ nộp chúng cho cảnh sát, có điều chỉ sau vài màn “hỏi thăm” nhẹ nhàng mà thôi, kiểu FBI đấy mà”. Cô ta nháy mắt với cả hai, “Mà xem như là hai chú em chưa nghe gì nhé”.

Hai tên cùng cười, ra vẻ hiểu biết, “Nhớ làm chúng phun ra hết sự thật nhé”, tên Earl nói với theo.

Cô ta trả lời, “Chắc rồi. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc”.

Họ đẩy Stone và Reuben vào ghế sau của chiếc xe hơi và lăn bánh. Caleb đợi đám bảo vệ đi hết rồi vội vàng ra khỏi chỗ ẩn nấp, leo lên chiếc Nova và nối đuôi theo xe Annabelle.

Trong xe, Milton tháo còng cho Stone và Reuben. “Milton này, chú em cũng ra vẻ gớm nhỉ”, Reuben thốt lên, giọng đầy tự hào.

Milton nở một nụ cười hãnh diện. Ông giở mũ ra, và mái tóc xổ dài. Stone khen ngợi Annabelle, “Khi cô yểm trợ, cô làm việc tốt lắm. Cám ơn nhé!”

“Đã làm thì phải làm tới cùng chứ”, cô ta đáp lời. “Chúng ta đi đâu đây?”

“Đến chỗ của tôi”, Stone trả lời. “Chúng ta có nhiều chuyện cần bàn đấy”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Roger Seagraves lái chiếc xe thuê chầm chậm qua những đường phố tĩnh mịch của vùng thủ phủ Washington thịnh vượng, rẽ trái vào đường Good Fellow. Vào giờ này, những căn nhà to lớn trong phố vẫn còn tối om om. Khi đi ngang qua nhà Jonathan DeHaven quá cố, hắn làm ra vẻ không chú ý đến nó. Lại sắp sửa có một trận bão.Hắn hơi mệt mỏi vì cái thời tiết này, nhưng đây là một cơ hội tốt, ta không thể để nó vuột mất.Xe chầm chậm lăn bánh, cảm giác hắn đang tận hưởng niềm yêu thích ngắm nghía những căn nhà cổ. Kế đến, hắn lái xe vòng xung quanh các dãy nhà, và rồi chạy ra hướng con đường song song, cẩn thận ghi nhớ cách bố trí nơi đó.

Tuy vậy, việc quan sát và phác thảo kế hoạch lại là hai việc hoàn toàn khác nhau. Hắn cần thời gian để suy nghĩ. Hắn chợt quan sát thấy một thứ: căn nhà đối diện nhà Behan. Một tên nào đó với chiếc ống nhòm, đang quan sát. Quan sát gì nhỉ? Không cần nói, chắc rằng hắn cũng phải nghĩ đến chuyện này khi bắt tay hành động. Và khi mắt đang bận quan sát như vậy, chỉ có một cách duy nhất để giết hại và tẩu thoát mà thôi.

Sau khi đã tiến hành do thám, Seagraves đỗ xịch xe hơi thuê tại một khách sạn. Xách theo chiếc cặp táp nhỏ, hắn bước vào quầy bar, gọi một ly rượu, rồi bấm thang máy như đi lên phòng mình. Hắn đợi một tiếng đồng hồ sau, rồi mới đi xuống, ra khỏi tòa nhà bằng một lối khác, Seagraves chui vào một chiếc xe đã chờ sẵn tại bãi đậu xe phụ. Hắn cần làm thêm một việc khác bên cạnh việc giết người.

Hắn lái xe đến một nhà trọ, ra khỏi xe, rút ra từ túi áo một chiếc chìa khóa. Chỉ cần mười sải chân, hắn đã đến được căn phòng ở tầng hai nhìn ra bãi đậu xe. Hắn mở cửa, nhưng không bật đèn lên, bước nhanh vào cánh cửa phòng bên trong, mở khóa và bước vào. Hắn cảm nhận được sự hiện diện của một người khác, nhưng không lên tiếng. Hắn cởi quần áo và leo vào giường với cô ả. Cô ta thật mềm mại, ấm áp, và đặc biệt nhất, phục vụ cho mục đích của hắn, cô ả là giám sát an ninh tại Cơ quan An ninh quốc gia.

Một tiếng sau, khi cả hai đã thỏa mãn, hắn mặc đồ và hút thuốc, trong khi cô ả bước vào phòng tắm. Hắn biết cô ả đang áp dụng cách hắn đang làm để tránh bị theo dõi, và có khi NSA cũng có nhiều nhân viên không kiểm tra xuể. Và cô ta cũng khéo léo biết cách tránh để người khác chú ý đến mình, và đó là lý do hắn đào tạo cô ta cho kế hoạch của mình. Và vì cả hai vẫn độc thân, cho nên nếu cuộc hẹn hò này bị phát giác, người ta cũng chỉ dừng lại ở việc kết luận rằng đó là mối quan hệ tình dục giữa hai người lớn tự nguyện, tình cờ cùng làm việc cho liên bang, và điều đó hoàn toàn hợp pháp ở Mỹ.

Tiếng nước chảy trong nhà tắm dừng lại, hắn gõ cửa nhà tắm, rồi giúp ả ra khỏi bồn tắm, đưa tay bóp lấy bờ vai trần của ả, rồi hôn một cái rõ kêu.

Ả thì thầm vào tai hắn, “Em yêu anh”.

Hắn nói lảng, “Hay là yêu tiền của anh?”

Ả cũng không vừa, “Cả anh và tiền”, tay ả lần xuống bên dưới, và ép sát hắn.

“Một lần là đủ rồi”, hắn lên tiếng, “Anh đâu còn trai trẻ đôi mươi nữa”.

Ôm chặt bờ vai lực lưỡng của hắn, ả tiếp lời, “Anh định lừa em đấy à, anh yêu”.

“Lúc khác đi”, hắn nói.

“Anh à, mình tiếp tục đi anh”, ả thổi vào tai hắn, “em muốn đau đớn như lúc nãy”.

“Anh đâu biết làm cách khác”.

Ả đẩy hắn vào tường, “Lạy Chúa, anh gợi tình quá”, ả rên rỉ.

“Ai cũng bảo thế”.

Hắn cố xô ả ra, nhưng ả vẫn bám theo. “Tiền chuyển đúng theo thời hạn chứ?”, ả hỏi giữa những hơi thở hổn hển.

“Anh có là em có thôi, bé yêu ạ”.

Đúng thế, ngu ngốc thật, tất cả chỉ vì tiền thôi.

Trong khi ả tiếp tục phần tắm táp, hắn quay trở về phòng, bật đèn, với lấy chiếc ví để trên tủ và khéo léo lấy một máy quay phim nhỏ ra khỏi ngăn trong cùng của ví. Hắn lấy thẻ nhớ 20 Gb ra khỏi khe máy và dùng móng tay khều nhẹ nắp nhựa đen của đầu đọc thẻ. Hắn nhìn chăm chăm vào cái thứ nhỏ xíu kia một lát, dù tí hon, nó lại đáng giá ít nhất là một triệu đôla, mà có khi còn hơn thế, đối với một tên nào đó ở vùng Trung Đông, kẻ không ưa gì nước Mỹ, kẻ rành về những kế hoạch chết chóc và phá hoại dành cho ai chống đối hắn.

Thông tin lưu trên miếng nhựa màu đen sẽ làm cuộc chiến trở về vị thế cân bằng, ít nhất là trong một thời gian, cho đến khi NSA phát giác ra việc hệ thống theo dõi của mình đã có vài sự dàn xếp nhỏ. Thế rồi, họ sẽ thay đổi nó, còn Seagraves thì nhận được một cú điện thoại, hắn lại gọi điện. Và chỉ vài ngày sau, hắn sẽ lại đến nhà trọ, ôm xiết người đẹp, bóc một miếng nhựa khác, và lại có một số tiền tám chữ số lần nữa. Công việc sẽ được lặp lại, và tiếp tục cho đến lúc NSA đánh hơi ra mùi gián điệp đâu đó. Hắn sẽ ngưng hoạt động tại NSA, trong một thời gian, vì các quan chức thường có trí nhớ kém. Trong lúc đó, hắn lại theo đuổi những mục tiêu khác. Lúc nào mà chẳng đầy ra đấy.

Hắn dùng một miếng kẹo cao su dán thẻ nhớ chứa thông tin về hệ thống giám sát của NSA vào phía trong răng hàm trước. Rồi bước vào phòng đầu tiên, tìm đến tủ quần áo, ở đó đã treo sẵn một bộ trang phục khác. Hắn tắm táp, thay đồ, rồi rời nhà nghỉ, đi bộ vài dãy phố, sau đó nhảy lên xe buýt, đến cửa hàng thuê xe hơi, thỏa thuận, và lái xe về nhà.

Hắn mất một tiếng để lấy dữ liệu ra khỏi miếng thẻ nhỏ xíu, và mất thêm một tiếng nữa tổng hợp dữ liệu để chuyển đi. Vì là một điệp viên cho nên Seagraves hoàn toàn quen thuộc với mật mã và lịch sử của chúng nói chung. Trong thời hiện đại này, máy vi tính khóa mã và giải mã tự động, trong đó những hệ thống bảo mật an toàn nhất sử dụng các dãy số hàng trăm, thậm chí đến hàng nghìn chữ số - có khi còn dài hơn cả những dòng tin nhắn được mã khóa nữa. Ít nhất để giải mã khóa mạnh nhất cần đến một máy vi tính tinh vi và có khi hàng nghìn, đến hàng triệu năm. Điều đó xảy ra vì những nhà giải mã đương đại cho rằng những đoạn tin mã khóa có thể bị lấy cho nên họ tạo ra những hệ thống giải mã cho tình huống trên, với câu thần chú rằng: bạn có thể nhận được chúng, nhưng chắc chắn rằng bạn không đọc được chúng.

Seagraves lại chọn một cách viết mật mã cổ điển, với cách này, qua việc truyền thông tin, sẽ là một thách thức lớn, khó phá vỡ hơn cho cả những chuyên gia xuất sắc, trang bị máy tính mạnh nhất, chỉ vì một nguyên lý đơn giản: Nếu bạn không thể nhận được tin, bạn chẳng có cơ hội nào đọc được nó cả. Dẫu sao thì những cách xưa cũng có giá trị của nó, hắn trầm ngâm. Đây hẳn là một bài học mà các giới chức tại NSA cần biết.

Sau khi hắn xong việc, cơn buồn ngủ ập đến, nhưng trước khi nhắm mắt, hắn còn kịp nghĩ đến lần hành động kế tiếp, và thế là “bộ sưu tập” của hắn lại có thêm một mục mới.

Trở lại với túp lều của mình, Stone lập tức tường thuật lại cho các bạn nghe về chuyến thám thính. Khi ông nhắc đến lớp chữ “5 nghìn ppm” ẩn bên trong trên thân trụ, Milton lập tức nhảy vào chiếc máy tính xách tay, và tìm đến kho thông tin lưu trữ trên máy. Đợi cho Stone nói xong, Milton mới tiếp, “Chất CO2 không được sử dụng ở những nơi chật hẹp do nó có thể gây ngộp thở cho người, vì nó lấy đi những hợp chất ôxy trong không khí để dập tắt lửa. Nếu sử dụng ở liều 5 nghìn trên hàng triệu, nó sẽ gây chết người; anh ta sẽ chết ngộp ngay khi anh ta có thể thoát ra ngoài. Và chết theo cách đó chẳng dễ dàng tí nào”.

Annabelle làm động tác ho, đứng dậy rồi đến cửa sổ nhìn ra ngoài.

Stone nói nhanh, nhìn cô ta với vẻ quan tâm, “Tôi đoán rằng nó cũng có tác dụng làm lạnh nữa”.

Vẫn nhìn vào màn hình, Milton gật đầu, “Với hệ thống áp suất cao, sẽ có phun tuyết khô. Họ gọi là hiệu ứng tuyết vì nó nhanh chóng tản nhiệt, giảm nhanh nhiệt độ xung quanh và giúp ngăn ngừa sự phát tán của ngọn lửa. Dưới nhiệt độ thông thường, tuyết tan ra và không để lại dấu vết gì cả”.

Stone nói thêm, “Vào lúc Caleb và DeHaven được tìm thấy trong phòng, có lẽ nồng độ CO2 đã trở lại bình thường, và người ta có thể hiểu lầm phòng sách lúc nào cũng có cảm giác lành lạnh như vậy”.

“Nhưng nếu DeHaven bị chết ngạt bởi khí CO2, thì sao lại không được nhắc đến trong bản khám nghiệm tử thi?”, Reuben thắc mắc.

Trong lúc họ nói chuyện, tay của Milton tiếp tục lướt trên bàn phím, “Không nhất thiết vì đó là thông tin tôi tải từ trang web của Tổ chức Giám định Y khoa Quốc gia. Dĩ nhiên là khi bị ngộ độc khí cacbonnic, cơ thể sẽ biểu hiện qua sắc tố da màu đỏ tươi, nhưng ngộ độc khí cacbon đioxyt thì lại chẳng có biểu hiện gì mấy”. Vẫn tiếp tục đọc thông tin trên màn hình, Milton nói thêm, “Cách duy nhất để phát hiện ra nồng độ ôxy thấp ở người là thông qua một cuộc kiểm tra nồng độ máu để đo lượng ôxy so với lượng cacbon đioxyt trong máu người. Nhưng cuộc thử nghiệm như vậy chỉ dành cho những người còn sống để phát hiện ra cần tăng thêm lượng ôxy bao nhiêu. Chúng ta không khám nghiệm tử thi vì lý do đơn giản là người đó đã chết rồi”.

Caleb bồi thêm, “theo tôi được biết, sau khi người ta nhận định rằng Jonathan đã chết, người ta còn không thèm đưa ông ấy vào phòng cấp cứu nữa kìa”.

Stone nói tiếp, “Ống trụ với nhãn FM-200 đã bị chuyển đi là ống mà tôi muốn đề cập đến vì những lý do trên”.

Reuben thắc mắc, “Tôi vẫn chưa hiểu ý anh lắm”.

“Thư viện đang bỏ đi cái hệ thống Halon và nếu tôi không lầm thì họ đã cho mang vào một trụ đầy những chất cacbon chết người nhưng lại khéo léo sử dụng những tên nhãn khác, nếu họ không nhập lại những hợp chất Halon kia, thì có lẽ người ta đã nghi ngờ rồi”.

“Đúng vậy, họ phải mang vào chất khí họ sẽ thay thế, đó là chất FM-200”, Caleb phụ họa thêm. “Và họ đã làm việc đó tối nay, tháo gỡ hàng loạt trụ chứa chất khí Halon. Nếu chúng ta không có ở đó, chắc chẳng ai biết việc này đâu nhỉ”.

Stone gật đầu, “Tôi tin rằng trụ nối với hệ thống ống dẫn tối nay chứa đầy chất Halon, cái trụ rỗng từng chứa khí cacbonnic chắc hẳn đã được tháo ra khỏi ống dẫn ngay sau khi nó được mở ra. Giả dụ như cảnh sát đến kiểm tra, họ cũng chẳng tìm được điều gì bất thường cả, mà họ cũng đâu thể xét từng trụ khí được, cho dù có đi nữa, họ sẽ gửi cái trụ đó về Công ty Cứu hỏa. Tôi không tin rằng họ sẽ tìm được đáp án chính xác vì kẻ nào đang đạo diễn vụ này chắc cũng làm trong công ty đó”.

“Vụ án mạng hoàn hảo”, Annabelle nói cứng khi cô ta quay trở lại ngồi. “Câu hỏi là tại sao, tại sao lại có người giết hại Jonathan một cách dã man đến vậy?”

“Điều này phải quay trở lại tên Cornelius Behan”, Stone đáp, “bây giờ chúng ta biết về cái ống chứa chất cacbonnic gây ra cái chết cho DeHaven đã được thay bằng chất Halon. Chúng ta cũng biết rằng Công ty Chữa cháy do Behan làm chủ, gã đó chắc cũng có thể là chủ mưu trong vụ này. Tiếp theo sau đó, gã lại xuất hiện trong phòng đọc sách và gặp Caleb, cùng ngày với việc tháo dỡ các trụ khí ra khỏi thư viện. Tôi chắc rằng gã đang thám thính xem có ai quan tâm đến những cái miệng ống hay không, và cũng ắt hẳn hai tên Behan và Bob Bradley phải có mối liên hệ nào đó với nhau”.

Reuben suy đoán, “Có thể Bradley và Behan là thành viên của một nhóm điệp viên đang hoạt động tại đây. Bradley đến nhà Behan và Jonathan có thể tình cờ nghe hoặc thấy điều gì đó mà ông ta không nên. Mà cũng có khi ông ta phát hiện ra manh mối có liên quan đến Behan trong vụ án mạng Bradley. Behan phát hiện ra và giết ông ta trước khi DeHaven có thể đi trình báo để người ta tiến hành điều tra”.

Stone đồng tình, “Điều đó hoàn toàn có khả năng. Bây giờ chúng ta có nhiều manh mối hơn và cần phải chia việc ra. Caleb, sáng sớm mai anh phải vào phòng sách và kiểm tra phía sau tấm lưới của hệ thống điều hòa xem có dấu vết gì của máy quay phim gắn ở đó không. Kế đến kiểm tra hệ thống camera theo dõi của thư viện xem có ai đã vào phòng đọc”.

“Cái gì?”, giọng Caleb thảng thốt. “Nhưng tại sao chứ?”

“Chính anh là người đề xuất rằng kẻ nào đã giết hại Jonathan có quyền vào thư viện và vào phòng đọc. Tôi muốn biết những ai đã vào phòng sách vài ngày trước và sau cái chết của DeHaven”.

“Tôi không thể vào phòng trực và ra lệnh cho họ để tôi xem cuộn băng ghi hình được. Tôi phải đưa ra lý do nào hợp lý chứ?”

“Tôi sẽ giúp anh tìm ra lý do, Caleb ạ”, Annabelle cất lời.

“Hay thật”, Reuben lẩm bẩm. “Đầu tiên là lượt chơi của chú em Milton, giờ đến anh Caleb. Còn mình thì sao nhỉ? Chắc không đâu”.

Stone nói tiếp, “Reuben, tôi nhờ anh gọi một cuộc điện thoại nặc danh đến cảnh sát thủ đô và tiết lộ đôi chút về xilanh khí cacbonnic đó. Dùng điện thoại thẻ để họ không lần ra dấu vết của cuộc điện thoại. Tôi không chắc họ có nghĩ đây là chuyện nghiêm túc hay không, nếu có, khi họ đến nơi mọi thứ đã quá muộn. Nhưng chúng ta phải thử thôi”.

Caleb thắc mắc thêm, “Nhưng liệu điều đó có làm cho vài người nghĩ chúng ta đang chống lại họ không?”

“Cũng có thể”, Stone trầm ngâm. “ Nhưng vào tại thời điểm này đó là bằng chứng duy nhất chúng ta tìm thấy được trong vụ giết hại DeHaven. Sau đó, tôi muốn anh tiến hành theo dõi và quan sát con đường Fellow Street, ngay trong đêm nay nhé”.

“Chỗ đó đâu có thuận tiện cho việc theo dõi đâu, Oliver. Tôi ẩn mình ở đâu đây?”

“Caleb sẽ đưa cho anh chìa khóa và mã số mở cửa vào nhà DeHaven. Anh có thể đi vào từ ngõ sau và sẽ chẳng ai bắt gặp đâu”.

Milton lên tiếng, “Thế còn tôi, tôi làm gì?”

“Nhiệm vụ của anh là tìm ra thông tin càng nhiều càng tốt về mối liên hệ giữa người quá cố Bob Bradley và tên Cornelius Behan. Ghi nhớ là không bỏ sót một chi tiết nào dù là nhỏ nhất nhé”.

Annabelle nói thêm, “Thế còn ông, ông tính làm gì hả Oliver?”

“Tôi tiếp tục suy nghĩ”.

Khi những người khác lục tục kéo đi, Annabelle kéo Caleb về một phía và hỏi, “Anh tin tưởng người bạn Oliver của mình bao nhiêu vậy?”

Caleb nghiêm nghị, “Tôi sẽ tin anh ấy cả đời, mà hiện tại cũng luôn như thế”.

“Phải công nhận rằng anh ấy biết mình đang làm gì”.

“Đúng vậy”, Caleb tỏ vẻ trung thành. “Bây giờ cô bảo cô sẽ giúp tôi tìm cách lấy được cuộn băng ghi hình ở chỗ bảo vệ. Cách nào đây nhỉ?”

“Tôi sẽ báo cho anh biết đầu tiên khi tôi nghĩ ra”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Vào lúc 10 giờ 15 phút, giờ địa phương, bang New Jersey chứng kiến một trậnđộng đấtlần đầu tiên trong lịch sử. Tâm địa chấn nằm ở thành phố Anlantic, phố Boardwalk - nơi đặt trụ sở của sòng bài Pompeii. Lúc đầu, Jerry Bagger chỉ bực bội chút ít, nhưng sự thịnh nộ và cơn giận càng tăng khi số tiền bốn mươi tám triệu đôla không đến ngay tại thời điểm 10 giờ. Khi đã quá 10 giờ, đến lúc hắn được báo rằng có sự rắc rối về vụ tiền bạc thì những tên cận vệ của hắn bắt đầu lảng tránh khi hắn đến gần. Chỉ năm phút sau, thì vị vua sòng bạc được nhân viên trình báo sự việc từ phía El Banco rằng không chỉ tám triệu đôla tiền lãi vướng rắc rối mà ngay cả số tiền gốc là bốn mươi triệu đôla cũng biến mất tăm, và ngân hàng chưa bao giờ nhận được số tiền trên cả.

Việc đầu tiên Bagger làm là muốn thủ tiêu luôn kẻ đưa tin. Cơn thịnh nộ của hắn thật mãnh liệt và không thể nào kiềm chế nổi, có thể hắn đã nhảy xổ vào giết luôn nhân viên đó nếu như đám cận vệ không kéo hắn ra, và năn nỉ hắn rằng có thể sự việc sẽ làm hắn vướng rắc rối thêm. Việc kế đến Bagger làm là nhảy đến điện thoại và đe dọa đáp chuyến bay sớm nhất đến El Banco, đến nơi hắn sẽ xé xác từng người một. Tay chủ tịch ngân hàng cũng không vừa gì, gã thách hắn đến, vì gã tự tin vào đội ngũ chuyên nghiệp với vũ khí tối tân và xe tăng bảo vệ xung quanh tòa nhà.

Thật ra họ cũng đã gửi cho hắn bản kế toán xác nhận ba lần chuyển tiền đã được nhận, cả bảng hiển thị rằng số tiền quỹ từ một tài khoản khác được lệnh chuyển khoản vào tài khoản ký thác của hắn, đồng nghĩa với số tiền lãi mười phần trăm trong vòng chỉ hai ngày. Cả ba lần chuyển khoản, lần nào hắn cũng nhận được tiền lãi, tuy vậy, lần chuyển tiền thứ tư lại không xảy ra. Khi văn phòng điện chuyển khoản ngân hàng của hắn được kiểm tra kỹ lưỡng thì mới phát hiện ra rằng đã không có mã ủy quyền hoàn chỉnh từ ngân hàng, để phát hiện ra sai sót, mọi người phải tiến hành việc kiểm tra từng chi tiết.

Khi nhận được tin, Bagger lập tức nhào đến tấn công tay trưởng phòng bất hạnh bằng chiếc ghế ngay trong phòng tên này. Hai tiếng sau đó, sau khi đã tiếp tục điều tra toàn diện, sự việc được sáng tỏ rằng, một phần mềm gián điệp tinh vi đã xâm nhập vào hệ thống điện chuyển khoản của sòng bài cho phép một nhân tố thứ ba điều khiển nó. Khi biết điều này, Bagger ra lệnh mang một khẩu súng lục và triệu tập tay trưởng phòng thông tin đến gặp. Tuy vậy, tay này khôn ngoan chạy trốn trước, và bị người của Bagger tóm gọn tại Trenton. Sau cuộc điều tra mà khiến CIA cũng phải tròn mắt kinh ngạc, đã cho thấy người đàn ông không có liên quan đến âm mưu chỉ là một nạn nhân của trò lừa bịp mà thôi. Phần thưởng mà Bagger dành cho anh ta là một viên đạn xuyên vào đầu, và thủ phạm không ai khác cũng chính là Bagger. Xác của người đàn ông xấu số đượcthảyxuống một bãi rác gần đó, dù vậy, sau khi giết hại không nương tay, cơn thịnh nộ của Bagger cũng không tài nào thuyên giảm.

“Tao sẽ giết con quỷ cái đó, chúng mày có nghe không”, Bagger nhoài người ra cửa sổ của văn phòng trên cao của hắn, la lớn xuống phía bên dưới, nơi dòng người đang tấp nập xuôi ngược trên phố Boardwalk. Hắn quay ngoắt lại bàn, mở tủ lấy ra tấm danh thiếp, trên đó là hàng chữ, cô Pamela Young, Công ty Quản lý Quốc tế. Hắn nghiến răng xé tấm danh thiếp thành từng miếng nhỏ và nhìn như điên dại vào tay đội trưởng đội vệ sĩ. “Tao muốn giết người, tao muốn giết đứa nào đó ngay lập tức, mẹ kiếp”.

“Ông chủ ơi, xin ông bớt giận, chúng ta phải kìm xuống thôi. Tay nhân viên chuyển tiền đang nằm trong bệnh viện cùng với các tên vô dụng khác. Ông vừa mới khử xong thằng khốn kỹ thuật, vậy là ngày hôm nay cũng khối thứ đã xảy ra. Tên luật sư có nói khó mà tránh cảnh sát ngửi mùi vụ này đấy”.

“Tao phải tìm ra con quỷ đó”, Bagger hầm hè, quay lại phía cửa sổ. “Tao phải tìm ra nó, và hành hạ nó chết dần chết mòn”.

“Chúa sẽ chứng giám cho ông, thưa ông”, tên vệ sĩ cơ bắp hùa theo.

“Tiền của tao, bốn mươi triệu đôla của tao!”, giọng hắn như điên như dại làm tên vệ sĩ vội vã quay sang hướng cửa chính.

“Chúng tôi sẽ tìm ra nó, tôi thề đấy, thưa ông”.

Cuối cùng rồi Bagger cũng tìm lại chút bình tĩnh, “Tao muốn bằng mọi cách mày có thể tìm ra con quỷ cái đó, và thằng khốn đi chung với nó. Moi hình nó ra từ cái đám máy quay và đi vòng quanh, kiếm cho ra tên tuổi của nó. Nó không thuộc dạng lừa đảo, lang thang đầu đường xó chợ đâu. Ngoài ra, tìm vài thằng cảnh sát có quan hệ với chúng ta đi vào phòng nó, dò cho ra dấu vân tay nó để lại, gọi hết những thằng chúng ta có quan hệ tốt đấy nhé”.

“Vâng, thưa ông chủ”, tên vệ sĩ bắt đầu lao ra ngoài.

“Đợi đã!”, Bagger gọi với theo. Tên vệ sĩ e dè quay lại, “Không ai được biết chuyện tao bị lừa nhé, mày hiểu không? Jerry Bagger không phải là mục tiêu đàm tiếu đâu. Mày có hiểu không?”

“Rõ thưa ông, rất rõ”.

Rồi hắn biến ra ngoài.

Bagger ngồi xuống bàn làm việc, nhìn những mảnh vụn từ tấm danh thiếp của Annabelle nằm rải rác trên thảm. Ả sẽ giống như vậy, hắn nghĩ bụng,sau khi mình xử đẹp ả.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom