Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60


Gã thức dậy, vươn vai, nằm lăn sang một bên và liếc nhìn về hướng cửa sổ. Trời vẫn trong vắt như ngày hôm qua, vẫn là một ngày nắng đẹp, với gió biển thoảng nhẹ tạo cảm giác thư thái cho mọi sự vật. Gã ngồi dậy, lấy khăn quấn quanh người rồi bước đến bên cửa sổ. Ngôi biệt thự tọa lạc tại một mảnh đất rộng vài mẫu bao gồm bãi biển cát trắng chạy dài và bao bọc bởi đại dương xanh biếc kia là của gã, theo hợp đồng thuê một năm, nhưng gã đang có ý định mua đứt nó luôn. Khu nhà nghỉ riêng biệt này có nhiều tiện ích như hồ bơi, hầm rượu, sân quần vợt và cả ngôi nhà nhỏ và ghế nằm, hữu ích hơn mức cần thiết nếu chỉ dành cho phơi khô sau khi tắm vì gã ít khi nào tắm một mình mà cũng ít khi mặc đồ tắm. Trong ga-ra rộng, đang đậu hai chiếc Maserati hai chỗ và một chiếc Ducati mà gã hay dùng để lái dạo chơi. Gã thuê một đầu bếp, một người giúp việc và cả người làm vườn với chi phí rẻ hơn cả cái căn hộ ở Los Angeles mà gã từng sống. Gã hít một hơi dài, gã muốn sống trọn cuộc đời còn lại ở nơi này.

Gã đã không nghe theo lời của Annabelle về việc vung tiền, nhưng những nơi như thế này chỉ thích hợp cho kẻ có tiền. Gã đã xem qua danh sách về một loạt những ngôi nhà hay ho trên mạng chỉ sau khi Annabelle bảo đó là số tiền triệu đôla trước khi bắt tay vào cú lừa. Khi có nhà rồi phải có “đồ chơi” đi chung với nó. Gã chẳng sợ chuyện Bagger sẽ tìm ra vì tên đó có bao giờ biết hắn là ai, vả lại trên thế giới này thiếu gì những tay nhà giàu còn trẻ trung như gã. Tóm lại, gã thật cừ, thật tuyệt.

Tony nghe tiếng bước chân cô gái đang lên cầu thang và quay vào giường, cởi khăn ra. Khi cô ta mở cửa, gã thấy cô ta mang theo một phần ăn sáng chỉ dành riêng cho gã. Cũng thật lạ, cô ta đã ở với gã ngày thứ hai rồi mà vẫn không dùng chung bữa sáng, có thể vì cô ta biết phận sự làm hầu gái của mình.

“Bữa sáng có trứng ốp-la, nước cam, tostada1 và cà phê sữa nhé, thưa ngài”, Cô ta cất giọng Tây Ban Nha ngọt ngào.

“Và cả em nữa”, gã mỉm cười, kéo cô ả về phía mình sau khi đặt khay xuống bàn kế giường. Cô ta hôn gã rồi để gã hôn lại tới tấp. Gã sờ soạng khắp vùng thân thể của cô ả, từ bên trên rồi xuống đến vòng eo thon gọn, tiếp xuống nữa, xuống nữa.

“Ngài có đói không?”, giọng cô ả bỡn cợt.

“Ôi đói mà”, gã thì thào nói vào tai ả.

Gã xoay người, đùa cợt với cô ta. “Camrmela, em làm anh phát điên đấy”, gã bật thốt lên.

Cô ả vùng dậy, kéo vai hắn, thân hình hắn đè lên người ả.

Thình lình cánh cửa bật mở, đập vào tường làm cho cặp nam nữ giật mình trong lúc tự tình. Bốn tên to cao lực lưỡng bước vào tiếp theo sau là một tên khác cũng với bờ vai rộng trong trang phục lịch sự, áo sơ mi có cổ và ánh mắt đắc thắng có vẻ tinh quái.

Jerry Bagger cất tiếng trước, “Chào Tony, chú mày có căn nhà đẹp quá nhỉ, tao thích lắm. Rõ ràng chú mày biết tiêu xài ra phết khi sử dụng tiền của người khác đấy”.

Hắn ngồi xuống giường trong lúc cô ả Carmela sợ chết khiếp phải lấy chăn trùm người lại.

“Này em yêu, em đừng làm thế ”, Bagger vẫn tiếp tục nói, “Em đẹp lắm, tiếng Tây Ban Nha nói thế nào nhỉ, à, là bonita! Đúng rồi, cô em xinh đẹp, quỷ cái”. Hắn ra hiệu cho một tên vệ sĩ, tên này nhấc bổng Carmela, khiêng ả đến gần cửa sổ rồi ném ả ra ngoài. Họ cùng lắng nghe tiếng hét dài và rồi một âm thanh “thịch” thật to vọng từ dưới cửa sổ.

Bagger cầm ly nước cam trên bàn và một hơi uống sạch. Hắn lau miệng bằng khăn rồi tiếp tục, “Tao uống nước cam mỗi ngày. Mày biết tại sao không? Vì có nhiều can-xi. Giờ tao sáu mươi sáu tuổi rồi mà mày thấy tao ra sao? Nhìn này, cơ bắp này, mày thử sờ vào xem”. Hắn gồng tay lên, nhưng Tony gần như không nói được lời nào.

Bagger giả bộ ngạc nhiên, “Sao chú mày có vẻ buồn thế ? À, vì cô nàng xinh đẹp bay ra khỏi cửa sổ sao? Đừng lo mà”. Hắn nhìn tên vệ sĩ đã quăng cô nàng kia, “Này, Mike, mày nhắm vào hồ bơi phải không, giống như bộ phim về điệp viên James Bond phải không? Mà phim nào nhỉ?”

“Kim cương vĩnh cửu, thưa ngài Bagger”, Mike lập tức trả lời.

Bagger mỉm cười, “Đúng thế, Kim cương vĩnh cửu. Mẹ kiếp, tao thích mấy cái bộ phim chết tiệt đó ghê. Đó là bộ phim với cái con mụ gì đó, trong bộ áo tắm bé xíu đó mày. Stephanie Powers à?”

“Dạ, Jill St.John, thưa ngài Bagger”, Mike nhã nhặn sửa lời.

“Đúng thế, tao luôn bị nhầm hai ả đó với nhau, mà mấy ả đấy giống nhau khi trên người không mặc gì. Cũng hay nhỉ”.

“Tôi đã không thành công khi ném vào hồ lần này, thưa ngài Bagger”, Mike thành thật.

“Nhưng mày cố gắng, đó mới là điều quan trọng”. Hắn quay lại Tony, “ Đúng không Tony?”

Tony rõ ràng là không đủ sức để nói gì cả.

“Hơn nữa, cách này vẫn còn đỡ hơn, vì mày biết chuyện gì xảy ra với hai lão khốn dưới nhà không? Mày không thể tin được đâu chúng chỉ có đổ nhào mà chết thôi, cho nên rõ ràng con ả xinh đẹp này chẳng thể một mình tận hưởng cái nơi xinh đẹp như vậy. Tao cứ xem như là cứu vớt đời nó, Tony nhỉ?”

Tony gật đầu một cách khó khăn.

“Bây giờ hãy thử xem cơ bắp của tao nào. Tao muốn mày biết sức mạnh tao có được”.

Chẳng thèm đợi Tony làm theo, Bagger nắm và đưa tay gã chạm vào những thớ thịt cuồn cuộn trên cánh tay. “Mày thấy nó có cứng cáp không, Tony? Mày có biết tao mạnh thế nào không Tony? Mày rõ chưa?”

Tony van nài, “Xin đừng giết tôi, thưa ngài Bagger. Xin đừng, tôi xin lỗi ngài”.

Bagger bóp chặt tay của Tony rồi buông ra, “Thôi nào, đừng thế, việc van xin làm mày yếu hèn lắm, mà cái cú lừa đó quả là tuyệt hảo. Tất cả những tay trong thế giới cờ bạc đều biết bọn bay đã thực hiện thành công phi vụ với con số bốn mươi triệu đôla”. Bagger nhìn về hướng khác, hít một hơi dài lấy bình tĩnh, rõ ràng là đang nén lòng không chặt gã trai trẻ này thành từng mảnh, ít nhất là trong vài phút.

“Nhưng trước tiên, chúng ta đi thẳng vào vấn đề nhé, tao muốn mày hỏi tao xem làm cách nào mà tao tìm ra mày nhỉ. Tao muốn mày biết tao là kẻ thông minh thế nào, và mày ngu ngốc ra sao. Hỏi tao xem nào, Tony, sao tao kiếm ra mày, tất cả những chỗ chết tiệt mày từng đến sau khi đã cho tao một cú?”. Bagger tóm lấy cổ Tony, kéo hắn lại gần, “Hỏi tao xem nào, thằng chết tiệt”. Đường gân xanh ở thái dương hắn hiện rõ trong cơn tức giận.

Tony lập tức ngập ngừng, “Làm sao ngài tìm được tôi vậy thưa ngài Bagger?”

Bagger dùng tay đẩy vào ngực Tony khiến gã lảo đảo ngồi phịch xuống giường, và rồi tên chủ sòng bài đứng dậy, đi tới đi lui. “Tao rất vui mày đã hỏi, việc là thế này, con quỷ cái đã soạn ra kế hoạch lừa tao vào tròng đã theo dõi tao đêm đầu tiên và làm ra vẻ tao đang bị giám sát. Cách duy nhất để nhìn vào văn phòng tao là thuê một phòng nào đấy trong cái khách sạn hai mươi ba tầng đối diện mà thôi. Thế là tao vào đấy, hỏi thăm tin tức những kẻ đã ở tại ngay tầng đấy, tao kiểm tra từng tên trong danh sách một”.

Hắn dừng lại, và cười tươi nhìn Tony, “Tao tìm ra mày, mày cũng khôn ngoan khi dùng tên giả tại khách sạn, nhưng mày cũng có sai sót trong khi con quỷ kia và thằng đồng bọn của nó thì không. Đó là lý do tao không tìm ra được bất cứ thông tin gì về chúng, vì chúng chẳng để lại quái gì cả”. Bagger chỉ thẳng tay vào Tony, “Nhưng mày thì có, tao tìm ra thông tin về mày qua cô ả mát-xa yêu kiều, người bạn tình của mày, nhưng mày chui vào phòng tắm nôn thốc nôn tháo. Trong lúc đó, con mụ kia mò mẫm ví của mày, kiếm thêm vài đồng thay cho cái tờ tiền ít ỏi mày đưa cho ả. Đó cũng là lý do ả tìm thấy bằng lái xe với tên thật của mày, mày cũng hơi ngu khi cất đồ trong đó đấy Tony”.

“Vậy là trong khi mày nghĩ ả điếm đó chỉ tốn mất một trăm đôla thì hóa ra cái giá thật phải trả cao hơn nhỉ, thậm chí ả nói cho tao biết mọi thứ mà chỉ nhận được phần cũng chẳng đáng kể lắm. Này Tony, bài học cho mày nhé, đừng bao giờ tin những ả điếm, chúng lừa mày thôi”.

Hắn ngồi xuống cạnh Tony, lúc này đang thút thít khóc, “Mày cũng tài lắm, Tony, người giỏi giang có thể làm mọi thứ với cái máy tính quỷ quái, nào là phần mềm gián điệp lên hệ thống điện chuyển tiền của tao, cướp đi bốn mươi triệu. Thật đại tài, tao phải tiêu tốn rất nhiều, mua chuộc, kiểm tra bạn bè mày, gia đình mày, theo dấu vài cú điện thoại mày gọi về nhà, giết vài tên bất hợp tác, và giờ tao và mày đang ngồi đây với nhau trên một bãi biển đầy nắng của Tây Ban Nha, hay cái nước Bồ Đào Nha quỷ quái hay là nơi chết tiệt nào đó”. Hắn vỗ chân Tony.

“Rồi, tao thấy thoải mái hơn rồi, chúng ta tiếp tục thôi”. Hắn ra hiệu cho một tên cận vệ rút một khẩu súng lục ra khỏi vỏ, gắn nòng giảm thanh vào, nhét đạn vào ổ rồi đưa cho Bagger.

“Xin đừng, xin đừng”, Tony lắp bắp trước khi Bagger buộc gã ngưng bặt bằng cách tống mạnh khẩu súng vào miệng gã, làm gãy hai cái răng cửa.

Hắn chặn tay ngang khí quản của Tony, đè gã xuống giường và tay chạm vào cò súng, “Rồi, chú em, đây là thương lượng, mày vẫn còn một cơ hội. Một cơ hội duy nhất”, hắn chậm rãi nhắc lại, “Và chỉ vì tao cảm thấy phải rộng lượng, tao cũng chẳng biết tại sao, có lẽ tính tao đằm thắm hơn khi tuổi về già”. Hắn ngừng lại, liếm môi và tiếp, “Con quỷ cái đó, tao muốn biết tên nó và tất cả những thứ mày biết về nó, nếu mày nói ra, mày có thể sống sót”. Hắn nhìn xung quanh căn phòng ngủ rộng, “Không phải ở đây, không phải bằng tiền của tao, nhưng mày sẽ sống, còn nếu không nói?”. Bagger đột ngột rút súng ra khỏi miệng Tony, lúc này đã dính máu me và cả một ít răng, “Mày nghĩ tao sẽ bắn mày à?”. Bagger cười lớn, “Không đâu, chẳng ai làm thế cả, nhanh quá”. Hắn đưa súng cho thuộc hạ, trong lúc Mike trao cho hắn một con dao nhỏ.

“Chúng tao làm mấy chuyện này từ từ thôi, cũng luyện tập lâu rồi”, Rồi hắn giơ tay còn lại ra nhận một bao tay bằng nhựa từ tên thuộc hạ khác.

Bagger tiếp tục, “Mày chẳng phải dùng nhiều mấy cái loại bao tay này trừ phi mày không muốn để lại vân tay nhỉ. Nhưng thời buổi bây giờ, mấy cái bệnh lây nhiễm nhan nhản nên phải thận trọng, ngay cả với con ả xinh đẹp lúc nãy, làm sao mày biết ả thế nào trước khi mày tình tự với ả? Tao mong mày có chút tỉnh táo”.

Bagger với tay xuống hạ bộ của Tony và kéo mạnh.

Tony thét lên vì đau đớn, nhưng tay chân của Bagger giữ chặt hắn. Bagger nhìn Tony một lát rồi nhận xét, “Thật tình tao chẳng biết con mụ kia thích mày vì điểm gì”. Hắn giơ dao lên, “Rồi, tên con quỷ cái đó, tiền của tao ở đâu, và mọi thứ. Rồi mày được sống, nếu không tao xử cái này của mày trước, đau lắm đấy. Sẽ ra sao Tony nhỉ? Mày có năm giây, nhớ là tao mà cắt rồi là chẳng dừng lại đâu”.

Tony mấp máy môi.

“Cái gì? Tao không nghe rõ”.

“Anna...”

“Nói lớn lên, thằng ngu kia, tao chẳng nghe rõ”.

Gã gào lên, “Annabelle!”

“Annabelle? Annabelle gì?”, Bagger cũng gào lại, văng cả nước miếng ra ngoài.

“Annabelle... Conroy. Con gái của Paddy Conroy”.

Bagger từ từ hạ dao xuống, buông tay. Hắn đưa dao cho thuộc hạ, rồi tháo bao tay ra, đoạn hắn đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Hắn còn chẳng thèm nhìn xác cô ả Carmela, thân thể nát nhừ trên một con sư tử đá cạnh cửa sau. Hắn đang nhìn thẳng ra biển.

Annabelle Conroy? Hắn không bao giờ nghĩ rằng Paddy lại có con, nhưng rõ ràng mọi chuyện có lý hơn. Con gái của Paddy Conroy đã ở trong sòng bạc của hắn, trong văn phòng của hắn, chơi đùa hắn và cho hắn một vố còn đau hơn cả cha của ả.

Được rồi Annabelle, tao đã xử mẹ mày, rồi sẽ đến lượt mày.

Hắn bẻ tay, quay lại, nhìn thấy Tony lúc này mồm miệng vẫn đầy máu, nằm phục trên sàn, tay ôm hạ bộ. “Còn gì nữa?”. Hắn gằn giọng, “Nói ra mọi thứ, và mày phải thở đấy nhé”.

Tony kể cho hắn nghe, kết thúc bằng chuyện Annabelle căn dặn hắn nên giữ kẽ và không phung phí tiền bạc bất kỳ nơi nào.

Bagger nhận xét, “Mày phải nghe lời con mụ đó”. Hắn búng tay, “Rồi, bọn bây, làm việc nào, chúng ta chẳng có cả ngày ở đây đâu”.

Một trong những tên thuộc hạ mở va-ly hắn mang theo và lôi ra bốn cây vợt bóng dã chày. Hắn đưa cho ba gã kia. Khi chúng bắt đầu giơ cao gậy, Tony hoảng hốt, “Nhưng ngài nói nếu tôi kể cho ngài nghe, ngài sẽ cho tôi sống mà, ngài đã nói thế mà”.

Bagger nhún vai, “Đúng rồi, sau khi đám đàn em tao xong việc, thì mày vẫn sống đấy. Tao là Jerry Bagger, tao giữ lời lắm”.

Khi hắn bước ra ngoài, hắn nghe tiếng chày nện đầu tiên làm gãy chân phải của Tony. Bagger huýt sáo, khép cửa lại, và xuống dưới nhà tìm một cốc cà phê nóng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61


Sáng hôm đó, thư viện gần như náo loạn, cả tòa nhà Jefferson rung động với cái tin Norman Janklow bị ám hại chỉ sau cái chết của DeHaven không lâu. Khi Caleb đến nơi làm việc thì cảnh sát và FBI đang chất vấn mọi người. Caleb cố gắng trả lời thật ngắn gọn, thậm chí ông cảm thấy căng thẳng khi hai gã thám tử đưa lại chìa khóa vào nhà DeHaven lần trước cũng có mặt ở đó. Hai gã có vẻ giám sát ông thật chặt. Liệu có ai thấy ông mò vào nhà bà Jewell? Vả lại còn chuyện Reuben đã được thả ra ngay lúc này. Liệu họ có nghi ngờ luôn cả anh ấy? Cũng không biết được.

Kế đến, ông nghĩ về quyển sách của Beadle mà Annabelle đã lấy trộm. Ông mang nó theo ngày hôm nay, dù việc đó không quá khó nhưng Caleb cảm thấy căng thẳng. Bảo vệ không kiểm tra túi xách mang vào, chỉ kiểm tra túi mang ra, và chỉ có khách viếng thăm mới phải qua hệ thống tia X-quang. Nhưng sự xuất hiện của đám cảnh sát làm ông thấy e ngại, ông thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng hoàn thành xong việc chất vấn và cất quyển sách tại bàn làm việc của mình.

Khi một người bảo quản sách xuất hiện cùng vài quyển sách đã được sữa chữa để mang vào phòng sách, ông xung phong làm điều đó vì đây là cơ hội tuyệt vời giúp ông đặt quyển Beadle lên giá sách. Ông gộp tất cả sách lại thành một chồng, rồi đi vào phòng sách. Ông cất những quyển được bảo quản trước rồi sau đó đến khu Sách Quý Hiếm nơi cất giữ quyển của Beadle. Tuy vậy, khi ông nhét quyển sách lên kệ, ông để ý thấy vết băng dính Annabelle dùng để quấn quanh chân đã làm rách một góc nhỏ bìa khi cô ta tháo ra.

“Hay đấy, mày cứ nghĩ cô ta sẽ cẩn thận hơn, cho dù cô ta trộm quyển sách trước tiên”, ông lẩm bẩm. Rốt cuộc rồi ông cũng phải mang quyển Beadle vào khu bảo quản. Sau đó ông rời khỏi phòng đọc, điền vào mẫu cần thiết và nhập dữ liệu yêu cầu bảo quản sách vào máy tính rồi đi theo đường hầm đến tòa nhà Madison, không dám nhìn lại căn phòng nơi có những xilanh khí đã giết hại Jonathan DeHaven. Khi đến nơi, ông đưa quyển sách cho Rachel Jeffries, một nhân viên bảo quản tận tâm và nghiêm túc.

Sau khi nói vài câu với cô ta về những tin tức nóng hổi vừa xảy ra, ông quay lại phòng đọc và ngồi xuống bàn. Ông nhìn khung cảnh xung quanh, rộng rãi, sạch đẹp, nơi thích hợp để suy tư, và bây giờ thật vắng vẻ vì đã có hai vụ án mạng xảy ra.

Ông giật nảy mình khi cửa phòng bật mở và Kevin Philips bước vào, vẻ hốc hác, mệt mỏi. Hai người nói chuyện một lát với nhau rồi Philips kể cho Caleb nghe về ý định xin từ chức của mình, “Tôi cảm thấy căng thẳng quá, tôi đã mất mười pound1 từ hồi Jonathan chết, rồi sau đó xảy ra vụ giết hại hàng xóm của ông ta, và giờ là cái chết của Janklow nữa, chắc chắn cảnh sát phải nghi ngờ rồi”.

“Có lẽ họ đúng”.

“Anh nghĩ chuyện gì đang xảy ra thế này, Caleb? Ý tôi, đây là thư viện, những chuyện đại loại như vậy không nên xảy ra ở đây tí nào”.

“Tôi ước mình biết để mà nói cho anh nghe”.

Sau đó Caleb gọi cho Milton, ông ta lúc nào cũng bám chặt vào các phương tiện thông tin đại chúng. Ông ta kể lại rằng vẫn còn nhiều nghi vấn về cái chết của Janklow, nhưng không có tường thuật gì thêm. Căn nhà mà Jewell English đang ở do bà ta thuê hai năm trước, còn mối liên hệ giữa họ chỉ là thông qua những lần đến phòng đọc sách mà thôi. Bà English cũng đang mất tích, chẳng tìm ra được thông tin gì về lý lịch của bà ta cả. Rõ ràng bà ta không đơn giản tí nào, và cả Janklow cũng vậy.

Đúng là đáng ngạc nhiên ghê, Caleb nghĩ bụng khi ông gác máy điện thoại. Mỗi lần cửa phòng đọc mở, Caleb lại cứng người. Căn phòng, trước đó là một nơi yên bình, tĩnh lặng thì giờ giống như cơn ác mộng đang hoành hành. Ông chỉ muốn ra khỏi chốn nghẹt thở này. Nghẹt thở! Lạy Chúa, đó là một từ không may mắn. Ông vẫn phải ở lại để làm đúng trách nhiệm của ông, cho dù ông có là người yếu ớt và thiếu cương quyết trong mọi vấn đề cuộc sống, nhưng ông lại đam mê công việc. Tuy vậy, hôm nay trong phòng đọc không có ai cả. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì vậy, cũng tạo cho Caleb có cơ hội hoàn thành vài nhiệm vụ. Ông cảm thấy đói bụng và quyết định đi ra ngoài ăn một cái bánh xăng-đuých.

“Anh Foxworth phải không ạ?”, Caleb lên tiếng chào khi thấy người đàn ông cao lớn, điển trai đi về phía ông bên ngoài tòa nhà Jefferson.

Seagraves gật đầu, mỉm cười. “Vui lòng gọi tôi là Bill. Tôi đến gặp anh ngày hôm nay đấy”. Thật ra Seagraves đã đợi Caleb bước ra ngoài.

“Tôi tính đi mua một cái bánh xăng-đuých, anh cứ vào phòng đọc, thế nào cũng có người tiếp đón anh thôi”.

“Thật tình tôi tự hỏi liệu anh có muốn xem qua mấy quyển sách của tôi không?”

“Sao cơ ạ?”

“Bộ sưu tập của tôi, hiện trong văn phòng, cách đây vài dãy nhà. Tôi là nhà vận động hành lang, chuyên ngành công nghiệp dầu khí. Do tính chất công việc, tôi đặt văn phòng tại điện Capitol này”.

“Tất nhiên rồi”.

“Anh có thời gian rảnh chứ? Tôi cũng có vài câu muốn hỏi anh”.

“Sẵn sàng thôi, nhưng chắc tôi phải ghé ngang mua đồ ăn vì tôi vẫn chưa ăn trưa”.

“Được rồi, nhân tiện tôi cũng có thể kể cho anh nghe về việc kiểm định sách trong năm ngày của hai tác giả Ann Radcliffe và Henry Fielding”.

“Hay quá, sách nào vậy?”

“Quyển Tình Sử Rừng Già của nhà văn Radcliffe và quyển Những cuộc phiêu lưu của Joseph Andrews”.

“Những tác phẩm hay đấy, Bill ạ. Radcliffe là bậc thầy về huyền thoại Gô-tích. Nhiều người cứ cho rằng những tác giả viết truyện kinh dị dễ cáu gắt ư, có lẽ vì họ chưa đọc truyện của Radcliffe đấy. Truyện của bà ta vẫn có thể làm anh sợ xanh mặt. Quyển Joseph Andrews là một tiểu thuyết nhại lại tác phẩm Pamela của nhà văn Richardson. Fielding đã mỉa mai rằng ông vẫn luôn là một nhà thơ thực thụ, cho dù danh tiếng nổi như cồn trong các tác phẩm văn chương và kịch nghệ. Người ta kể lại rằng vở kịch Tom - ngón tay cái là một tác phẩm nổi tiếng của ông, nó đã giúp cho nhà văn Jonathan Swift cười lần thứ hai trong đời đấy”. Caleb bật cười rồi tiếp, “Tôi chẳng biết lần thứ nhất thế nào, nhưng cũng có vài giả thuyết”.

“Hay quá”, Seagraves nhận xét trong lúc họ đi dọc trên đường. “Vấn đề là tay đầu nậu sách tôi gặp ở thành phố Philadelphia ca cẩm đây là quyển xuất bản đầu tiên, giấy tờ cũng có ghi rõ ràng và hướng dẫn cụ thể nhưng tôi vẫn cần ý kiến của chuyên gia thêm. Mấy quyển này đâu có rẻ gì”.

“Tôi hiểu mà, tôi sẽ xem xét chúng và nếu tôi cũng không có câu trả lời tôi có thể giới thiệu cho anh vài người khác có chuyên môn hơn”.

“Anh Shaw này, tôi thật biết ơn anh về điều đó”.

“Cứ gọi tôi là Caleb”.

Caleb dừng lại mua một bánh xăng-đuých ở cửa hàng bán thức ăn nhanh trên đại lộ Độc lập cách tòa nhà Madison một dãy nhà, rồi cùng Seagraves hướng về khu văn phòng của hắn. Nó nằm ở khu sầm uất, nhưng họ phải đi từ phía hẻm sau. “Họ đang làm lại dãy hành lang, nhưng chúng ta có thể đi thang máy từ tầng hầm lên văn phòng của tôi”, Seagraves nói.

Trong lúc đi, Seagraves liến thoắng về kế hoạch mua sách cũ và tạo ra một bộ sưu tập cho riêng mình.

“Cần phải có thời gian”, Caleb trấn an. “Tôi có cổ phần trong một hiệu sách hiếm tại khu phố cổ Alexandria, bang Virginia. Nếu rảnh, mời anh đến nhé”.

“Tôi sẽ đến”.

Seagraves dừng lại trước một cánh cửa tại đường hẻm, mở khóa và mời Caleb bước vào trong. Hắn đóng sập cửa lại và lên tiếng, “Thang máy ngay tại góc kia”.

“Vâng. Tôi nghĩ...”

Caleb chẳng kịp nói lên điều ông đang suy nghĩ, vì ông đã gục xuống sàn, bất tỉnh. Seagraves đứng phía sau ông, tay cầm dùi cui mà hắn đã dấu sau cánh cửa, hắn không nói dối, đúng là hành lang của tòa nhà đang được tu sửa, và tòa nhà thật ra đã được đóng cửa để chuẩn bị cho việc xây dựng trong một tuần nữa.

Seagraves trói gô Caleb rồi khiêng ông để vào thùng đang mở nắp phía góc phòng trước khi tháo chiếc nhẫn đeo ở ngón giữa của Caleb. Hắn đóng sập thùng lại rồi gọi điện thoại. Năm phút sau, một chiếc xe tải trờ đến, cùng với sự giúp đỡ của tên tài xế, cả hai nhấc bổng thùng để vào thân xe. Chúng leo lên xe và chạy đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62


Annabelle đến đón Stone trước khi bình minh ló dạng, họ cùng chạy về hướng nhà của Trent và đậu xe tại một nơi có thể quan sát được lộ trình của hắn. Chiếc xe hơi Annabelle thuê, họ để lại cho Reuben dùng, thay vào đó họ lái chiếc xe tải chở hàng chạy bằng pin của ông ta để tiến hành giám sát vì lý do nó thích hợp cho một vùng nông thôn nuôi ngựa hơn chiếc xe Chrysler Le Baron của cô ta. Dù sao thì nó vẫn còn đậu lại ở một con đường cáu bẩn cách họ bốn trăm yard từ lúc họ bị bắt cóc đến giờ. Chiếc xe mà Reuben đang dùng cô ta vừa thuê tại phi trường Dulles.

Stone nhìn qua ống nhòm, trời vẫn còn tối, lạnh và ẩm ướt, khi máy xe ngừng cũng là lúc cảnh vật trở lại với vẻ tĩnh mịch vốn có. Annabelle rúc sâu vào áo choàng, trong lúc Stone có vẻ thờ ơ với sự vật xung quanh. Phải rất lâu họ mới thấy một chiếc xe chạy qua, ánh đèn xe chiếu xuyên qua lớp sương mù vẫn còn chưa tan hẳn. Stone và Annabelle phải chúi thấp xuống ca-bin khi nó chạy ngang. Tay tài xế ngái ngủ đang vừa nghe điện thoại, nhấp cà phê vừa đọc báo để ngay trên vô-lăng xe. Một giờ sau, khi bình mình lên, Stone thình lình nghiêm giọng, “Đến rồi”. Một chiếc xe lái từ hướng nhà Trent, khi đến chỗ rẽ, nó chạy chậm lại, Stone tranh thủ đưa ống nhòm lên nhìn về hướng tài xế.

“Đó là Trent”.

Annabelle nhìn xung quanh khu vực vắng vẻ, “Nếu theo đuôi hắn, hắn biết liền đấy”.

“Chúng ta cũng phải thử thôi”.

May thay, vào lúc đó có một chiếc xe khác trờ tới, trên xe là một bà mẹ và ba đứa con nhỏ phía sau. Trent chạy vượt lên chiếc xe này.

Stone nói nhanh, “Được rồi đấy, chiếc xe đó sẽ che cho chúng ta. Nếu hắn có nhìn qua kính chiếu hậu cũng chỉ thấy họ, nhanh lên”.

Annabelle lập tức vào số và bám sát chiếc xe thứ hai. Hai mươi phút sau họ ra đến đường số 7 sau khi đã đi qua một loạt đường nhỏ. Trong lúc đó, cũng có vài xe khác xuất hiện nhưng Annabelle vẫn cố gắng bám theo chiếc xe của bà mẹ trẻ tình cờ cùng đi chung tuyến đường với Trent. Khi họ ra đường số 7, tuyến giao thông chính vào khu Tyson, Virginia và Washington, D.C, giao thông có vẻ tắc nghẽn hơn ở D.C vì đó là một nơi người ta có thói quen đi làm sớm và những con đường chính lúc này đã bắt đầu đông nghịt xe cộ cho dù chỉ mới 5 giờ rưỡi sáng.

Giọng Stone khẩn trương, “Đừng mất dấu hắn”.

“Tôi biết mà”. Cô ta lái chiếc xe tải điệu nghệ qua làn giao thông chật chội, giữ cho xe của Trent trong tầm kiểm soát. Trời dần sáng cho nên việc bám đuôi cũng dễ hơn.

Stone liếc cô ta, “Cô có vẻ rành việc bám đuôi này nhỉ”.

“Cũng giống như lúc Milton hỏi, tôi có thể trả lời rằng chỉ là may mắn thôi. Anh nghĩ Trent đang đi đâu?”

“Chắc đi làm”.

Bốn mươi phút sau, suy đoán của Stone trở nên chính xác khi Trent dẫn họ đến điện Capitol. Khi xe của hắn rẽ vào khu vực cấm, họ phải ngưng chuyện theo dõi lại, và nhìn theo thanh chắn an ninh tự động hạ xuống, và một tay bảo vệ canh gác vẫy tay cho hắn vào.

Annabelle thốt lên, “Phải chi tay bảo vệ ấy biết rằng hắn là một tay gián điệp và hung thủ giết người”.

“Chúng ta phải chứng minh được là hắn làm hay không làm điều đó. Đế chế cộng hòa là thế mà”.

“Và làm cho anh ước gì mình đang ở chế độ phát xít chứ gì?”

“Không hề”, Stone thẳng thắn.

“Vậy giờ chúng ta làm gì?”

“Đợi và quan sát”.

Thậm chí ngay cả trước ngày Mười một tháng Chín, việc theo dõi gần trụ sở cũng không dễ dàng gì nói gì là lúc này, nhất cử nhất động đều bị để ý. Annabelle phải liên tục di chuyển xe tải cho đến lúc họ tìm thấy một chỗ đậu xe đủ gần để nhìn thấy xe của Trent khi chạy ra, và đủ xa để không bị đám cảnh sát chú ý. Hai lần trong suốt thời gian đó, Stone phải ra khỏi xe, băng qua đường mua cà phê và đồ ăn. Họ nghe đài, trao đổi thêm chút ít về bản thân và vạch kế hoạch cho những bước hành động kế tiếp.

Milton gọi đến điện thoại mà Stone vừa mượn của người bạn. Ông ta chẳng có gì để báo cáo do đám cảnh sát gần như kín tiếng về mọi chuyện, cho nên cuối cùng đám báo chí cứ đăng tải cùng một câu chuyện mãi. Stone tắt điện thoại rồi ngồi tựa vào ghế, nhấp một ngụm cà phê và nhìn cô bạn. “Tôi hơi ngạc nhiên khi không thấy cô phàn nàn về công việc chán chường này. Việc theo dõi chẳng khỏe tí nào”.

“Kẻ kiên nhẫn là kẻ khôn ngoan”.

Stone nhìn quanh và bảo, “Tôi nghĩ Trent sẽ làm việc cả ngày, nhưng cũng không chắc lắm”.

“Thế còn Thư viện Quốc hội có gần đây không?”

Stone chỉ tay phía trước, “Đi về hướng đó, thêm một dãy phố nữa là tòa nhà Jefferson, nơi Caleb đang làm việc. Tôi không biết anh ta ra sao rồi, hôm nay ở đấy chắc có nhiều cảnh sát lắm”.

“Sao ông không gọi cho anh ấy?”, cô ta đề nghị.

Stone giở điện thoại gọi cho Caleb nhưng ông ta không trả lời, ông liền gọi đến phòng đọc, tiếng một người phụ nữ vang lên. Stone nói muốn gặp Caleb.

“Anh ấy ra ngoài một lát để mua đồ ăn trưa rồi ạ”.

“Anh ấy có nói khi nào quay lại?”

Người phụ nữ hỏi vặn lại, “Tôi có thể được biết vì chuyện gì được không?”

Stone ngắt điện thoại và ngồi dựa vào ghế.

“Có chuyện gì à?”, Annabelle hỏi.

“Tôi không nghĩ thế, Caleb vừa ra ngoài mua đồ ăn trưa”.

Ngay lúc đó, điện thoại của Stone reo, ông nhận ra số Caleb trên màn hình, ông đưa điện thoại ngang tai và hỏi, “Này Caleb, anh đang ở đâu đấy?”

Stone im bặt. Một phút sau, ông đặt di động xuống.

“Chuyện gì vậy?”. Annabelle hấp tấp, “Caleb nói gì?”

“Đó không phải Caleb, có người đang giữ Caleb”.

“Cái gì?”

“Anh ta bị bắt cóc”.

“Trời ơi, chúng muốn gì? Sao lại gọi ông?”

“Chúng có số từ Milton, chúng muốn gặp để bàn chuyện. Nếu báo cảnh sát, giết anh ta liền”.

“Ý chúng là muốn gặp và bàn việc thế nào”.

“Chúng muốn cô, tôi, Milton và Reuben cùng đến?”

“Để giết hết chúng ta à?”

“Đúng thế, nhưng nếu không đi, chúng giết Caleb”.

“Làm sao biết liệu anh ta có chết hay chưa?”

“Chúng bảo 10 giờ tối nay sẽ gọi và đưa anh ta nói chuyện với chúng ta, lúc đó cũng là lúc báo thời gian và địa điểm”.

Annabelle bám chặt tay vào vô-lăng xe, “Vậy giờ chúng ta làm gì?”

Stone nhìn chăm chăm vào trụ sở Quốc hội và buông lời, “Cô có chơi xì-phé không?”

Cô nghiêm mặt, “Tôi không thích cờ bạc”.

“Caleb là con át chủ bài của chúng, nên chúng ta cũng phải tìm ra một con tương tự hay hơn thế để ngang cơ chúng, và tôi biết phải tìm ở đâu rồi”. Tuy vậy, Stone biết kế hoạch này sẽ đẩy tình bạn của ông vào một cuộc kiểm tra cao nhất, nhưng ông không còn lựa chọn khác, ông bấm số mình đã thuộc lòng.

“Alex à, Oliver đây. Tôi rất cần anh hỗ trợ”.

Alex Ford ngồi thẳng người trong ghế tại văn phòng công vụ mật của Washington.

“Chuyện gì xảy ra vậy Oliver?”

“Chuyện dài lắm nhưng anh cần nghe hết”.

Khi Stone nói xong, Ford ngồi tựa vào ghế và thở ra,

“Khốn kiếp”.

“Anh giúp chúng tôi được chứ?”

“Tôi sẽ cố gắng”.

“Tôi đã lên kế hoạch”.

“Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng chúng ta chẳng có nhiều thời gian đâu”.

Albert Trent rời trụ sở chiều hôm đó và lái xe theo tuyến đường số 7, rẽ vào con đường nhỏ quen thuộc về nhà. Hắn chạy chậm lại trước khi đến khúc quẹo cuối cùng trên đường. Một xe tải nhỏ đã chạy lệch ra khỏi đường và đâm sầm vào thứ gì đó, xe cứu thương và xe tải cơ dụng đang đậu ở đó cùng xe cảnh sát. Một tay cảnh sát đứng giữa đường, Trent thận trọng lái xe về phía trước cho đến khi tay cảnh sát bước ra và giơ tay ra hiệu cho hắn ngừng lại. Trent hạ kính xe xuống và tay cảnh sát cúi vào.

“Thưa ông, tôi phải yêu cầu ông quay lại vì đã có sự cố xảy ra, chiếc xe tải kia đã chệch tay lái và đâm vào một hệ thống điều khiển khí gas thiên nhiên bên đường, làm cho thoát khí ra ngoài. Cũng may mắn là ông ta không làm cho mình, chiếc xe và khu vực xung quanh nổ tung đấy”.

“Nhưng tôi sống ngay khúc rẽ kia thôi, mà nhà tôi cũng không có gas gì đâu”.

“Vậy thì vui lòng cho tôi xem giấy tờ tùy thân có địa chỉ của ông”.

Trent thò tay vào túi áo và đưa cho tay cảnh sát bằng lái xe của hắn, tay cảnh sát kiểm tra bằng đèn pin sau đó gửi lại cho hắn. “Được rồi, thưa ông Trent”.

“Họ sẽ sửa trong bao lâu nữa?”

“Câu trả lời dành cho công ty khí đốt. À, một điều nữa”.

Tay cảnh sát vươn tay vào trong ca-bin và xịt thứ gì đó vào mặt Trent từ bình xịt nhỏ, thế là hắn ngả người vào ghế, lịm đi.

Ngay lập tức, Stone, Reuben và Milton từ xe cứu thương bước xuống. Với sự giúp đỡ của tay cảnh sát, Reuben nhấc bổng Trent từ xe của hắn vào một chiếc xe khác vừa trờ tới, Annabelle là người cầm lái. Alex Ford cũng ra khỏi xe cứu thương và đưa cho Stone chiếc ba lô vải da, “Anh có cần tôi chỉ lại cho cách sử dụng không?”

Stone lắc đầu, “Tôi biết mà, tôi biết đây là một việc khó khăn cho anh, cảm ơn đã giúp tôi. Nếu không có anh, tôi cũng không biết sẽ nhờ ai”.

“Oliver, chúng ta sẽ đưa Caleb về. Nếu đây là bọn gián điệp mà mọi người vẫn đang bàn tán và các anh có thể phá tan thì các anh xứng đáng nhận huy chương đấy. Khi anh có thể gọi điện, báo cho chúng tôi biết tình hình cụ thể nhé. Tôi có nhiều tổ chức có thể hỗ trợ, và tôi có thể cho anh biết rằng, anh không cần tìm người tự nguyện đâu vì nhiều người như tôi ghét những kẻ đồi bại kia lắm”.

Stone leo vào xe cùng những người bạn của mình.

“Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu cuộc chơi rồi”, Annabelle cất tiếng.

“Chúng ta có thể chơi”, Stone khẳng định.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63


Cú điện thoại gọi đến đúng 10 giờ đêm, Stone và cả nhóm đang ngồi tụ tập trong một phòng khách sạn dưới phố. Qua điện thoại, gã đàn ông bắt đầu miêu tả thời gian và địa điểm cụ thể nhưng Stone cắt lời hắn.

“Bọn tao không tính làm điều đó, bọn tao đang nắm giữ Albert Trent và nếu mày muốn, chúng ta có thể trao đổi theo yêu cầu của bọn tao”.

Giọng nói cất lên, “Không thể được”.

“Được thôi, vậy thì tao sẽ giao tên này cho CIA để họ “tự điều tra” ra sự thật, bao gồm cả danh tính đồng bọn, và tao tin rằng Trent chẳng chịu được lâu đâu. Mày sẽ chẳng có thời gian để đóng hành lý thì FBI đã tóm gọn mày rồi”.

Gã đàn ông gay gắt, “Mày muốn bạn mày chết à?”

“Tao đang nói về chuyện làm sao cả hai người có thể sống, mà mày lại tránh đi tù nữa”.

“Làm sao tao biết liệu có phải là cái bẫy?”

“Làm sao tao biết liệu khi xuất hiện mày sẽ nã một phát đạn vào người tao? Chúng ta phải biết tin tưởng lẫn nhau, thế thôi”.

Hắn ngừng khá lâu rồi hỏi, “Ở đâu?”

Stone nói cho hắn biết thời gian và địa điểm.

“Mày có biết ngày mai ở đó sẽ thế nào không?”

“Đó là lý do tao chọn, và một điều nữa, nếu mày đụng đến Caleb, tao sẽ chính tay giết mày”. Stone ngưng điện thoại, quay sang những người khác. Milton nhìn có vẻ sợ sệt nhưng quyết tâm, Reuben đang xem xét những thứ bên trong chiếc ba lô da Alex Ford đưa cho họ, Annabelle thì đang nhìn ông.

Stone đến gần Reuben, “Nó thế nào?”

Ông ta giơ cao hai ống tiêm và hai lọ nước, “Toàn những thứ đáng ngạc nhiên không đấy, chúng có nghĩ ra chuyện gì kế tiếp không?”

Stone bước vào phòng giữa nơi tên Albert đang nằm bất tỉnh, bị trói vào giường. Stone nhìn hắn, nén không cho hắn một đấm để hả giận. Một phút sau, ông quay lại với mọi người, “Ngày mai sẽ là một ngày dài cho nên chúng ta phải chợp mắt chút, chúng ta chia ra hai ca canh giữ Trent, tôi sẽ canh ca đầu”.

Milton lập tức cuộn tròn trên sô-pha còn Reuben nằm ở giường trong phòng, cả hai nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Stone quay lại phòng canh, ngồi xuống ghế cạnh Trent và nhìn chăm chăm vào sàn nhà. Ông giật mình khi thấy Annabelle cũng kéo ghế ngồi xuống bên cạnh và đưa tận tay ông một cốc cà phê do cô ta tự mình pha. Cô ta vẫn mặc quần jeans và áo lạnh, nhưng để chân trần. Cô ta thu chân lên ghế khi vừa ngồi xuống.

Ông cám ơn cô ta vì cốc cà phê và nói thêm, “Cô cũng phải ngủ một chút đấy”.

“Tôi cũng thức khuya lắm”, rồi cô ta quay qua nhìn gã Trent, “Vậy ngày mai ta sẽ có lợi thế hơn phải không?”

“Số không”, Stone trả lời, “Vẫn luôn là số không cho đến lúc cô làm mọi cách để đánh bại con số đó, nhưng mà cũng có những lúc nó hoàn toàn mất kiểm soát”.

“Ông rút ra từ kinh nghiệm của mình sao?”

“Thế cô có thể nhận xét bằng cách nào đây?”

“Từ chuyện nhảm, giống như những kẻ khác, chỉ có ông là không?”

Ông nhấp ngụm cà phê rồi tiếp chuyện, “ Alex Ford là một người tốt, tôi từng ra trận với anh ta và luôn muốn điều đó. Chúng tôi hợp với nhau về chuyện này”.

“Tôi muốn giết tên súc sinh này”, Annabelle giận dữ nhìn gã Trent đang bất tỉnh.

Stone gật đầu và nhìn hắn, “Hắn nhìn giống một con chuột, một người chỉ biết việc văn phòng, giống như cách hắn tỏ vẻ với mọi người. Hắn không dám làm hại đến một con ruồi. Hắn chỉ sai khiến người ta làm việc cho hắn, hắn không trực tiếp làm và tay không vấy bẩn. Vì những người như hắn, quốc gia của chúng ta lâm nguy”.

“Chỉ vì tiền thôi ư?”

“Có kẻ thì nói vì lý do này lý do nọ - theo chủ nghĩa lý tưởng, sự phấn khích - nhưng thật sự cũng chỉ vì tiền”.

Cô ta nhìn ông tò mò, “Vậy chắc ông cũng biết những tay phản bội khác phải không?”

Ông liếc cô ta, “Sao cô có vẻ hứng thú mấy vấn đề này nhỉ?”

“Vì tôi thấy ông đáng quan tâm”. Khi ông im lặng, cô ta lại quay trở lại đề tài lúc nãy, “Chúng ta đang nói về những kẻ phản bội khác phải không?”

Ông nhún vai, “Tôi biết nhiều về chúng hơn là quan tâm đến chúng, nhưng mà cũng không lâu đâu”. Ông đứng dậy và đi về phía cửa sổ, “Tôi chỉ gặp chúng vài giây trước khi chúng chết mà thôi”, ông nói thêm trong hơi thở.

“Đó cũng là vị trí của ông ư? Tay sát nhân của những kẻ phản bội nước Mỹ?”. Vai của Stone dường như cứng lại, và Annabelle lập tức chữa lời, “Tôi xin lỗi John, đáng lý tôi không nên nói ra điều đó”.

Ông quay sang nhìn cô ta, “Tôi nghĩ mình quên nói cho cô nghe rằng John Carr đã chết, sao cô không gọi tôi là Oliver từ bây giờ nhỉ?”. Ông ngồi tựa lưng mà không nhìn Annabelle, “Tôi nghĩ đã đến lúc cô phải đi ngủ”.

Khi cô ta đứng lên, Stone vẫn còn ngồi ngay trên ghế, có vẻ như đang nhìn Trent chằm chằm nhưng Annabelle không nghĩ ông đang làm điều đó. Suy nghĩ của ông có lẽ đang trôi dạt về quá khứ, về cách làm sao giết những kẻ xấu nhanh nhất.

Cách đó không xa, Roger Seagraves đang chủ trì cuộc họp với nhóm của hắn, cố đoán ra nhất cử nhất động bên nhóm của Oliver. Hắn không quay lại nhà mình vì hắn nghi ngờ Trent sẽ gặp chuyện. Hắn và tay đồng bọn đã lập ra một kế hoạch sao cho người này sẽ gọi cho người kia vào một thời gian cố định mỗi tối nếu mọi thứ bình thường. Hắn đã không nhận được cú điện thoại như vậy. Việc Trent bị bắt cóc làm cho sự việc thêm phức tạp nhưng cũng không sai với dự định của hắn. Hắn cho rằng Oliver Stone và đồng bọn đã báo cho chính quyền và hắn cần phải tìm ra vài cách phòng hờ trong trường hợp cứu Trent, nếu như Trent vẫn còn sống. Tuy vậy, thay vì lo sợ cho ngày mai, Seagraves lại mong chờ nó. Hắn đã quen những chuyện như vậy, và chỉ có kẻ khôn ngoan nhất sẽ tồn tại. Hắn chắc chắn hắn là người đó, và lẽ dĩ nhiên Oliver Stones và đồng bọn của ông sẽ lên thiên đường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64


Ngày mới đến thật trong trẻo và ấm áp. Stone và những người bạn của ông rời khách sạn, khiêng Trent trong một cái rương lớn rồi bỏ vào xe tải. Trên xe, Stone cúi người về phía Trent và cho hắn một mũi tiêm vào cánh tay. Ông đợi gần mười phút rồi lại tiêm vào tay kia của Trent một mũi khác. Một phút sau, hắn bắt đầu chớp chớp mắt, khi hoàn hồn, Trent hốt hoảng nhìn xung quanh và cố ngồi dậy.

Stone đẩy tay vào ngực hắn, tay còn lại rút con dao mang theo bên mình ra. Ông giơ dao ra ngay trước khuôn mặt biến sắc vì sợ của Trent, ông luồn dao qua lớp quần áo hắn.

Trent lắp bắp, “Ông làm gì vậy? Tôi là nhân viên liên bang đấy. Ông sẽ bị đi tù nếu làm vậy”.

“Chuyện đó hẵng tính sau ông Trent ạ. Chúng tôi biết tất cả mọi thứ, nếu ông làm trò gì ngớ ngẩn thì chúng tôi sẽ mang ông ra làm người trao đổi với Caleb Shaw, một chuyện dễ dàng. Nhưng nếu không hợp tác, tôi sẽ tự tay giết ông, hay muốn dành quãng đời còn lại trong tù nhỉ?”

“Tôi không hiểu...”

Stone lại giơ dao lên. “Tôi không gọi đó là sự hợp tác. Chúng tôi tìm ra sách, mật mã và bằng chứng mà ông tìm cách sát hại Bradley, Jonathan DeHaven và cả Cornelius Behan. Tôi và cô ta cũng suýt được tham gia vào kế hoạch đó, nhưng chúng tôi chưa cho phép mình đi vội”. Ông hất hàm về phía Annabelle.

Cô ta mỉm cười, tiếp lời, “Nếu ông có ý định hạ gục những ai trong nhà mình, bắt họ, rồi giết họ thì ông làm ơn đừng đứng ở chỗ có phản chiếu trong gương nhé. Nếu ông chống lại tôi, tôi sẽ xọc dao vào cổ ông và xẻ ông ra làm hai, rồi quẳng ông ở cái nơi gọi là bãi rác đấy”.

Stone tháo còng tay và chân cho hắn, “Bây giờ chúng tôi sẽ tiến hành một đổi một đây, khi tôi có Caleb, ông sẽ tự do”.

“Làm sao tôi chắc điều đó?”

“Cũng như điều có thể xảy ra cho Caleb, ông phải có niềm tin chứ. Giờ thì đứng dậy nào”.

Trent đứng trên đôi chân run rẩy, và nhìn những người đứng vây quanh mình, “Chỉ có các anh biết hay các anh đã gọi cảnh sát?”

“Câm miệng lại”, Stone rắn giọng, “Tôi hy vọng anh đã có hộ chiếu giả và vé máy bay sẵn sàng rồi”.

Reuben mở cửa xe và tất cả cùng bước ra, Trent đứng giữa.

“Ôi lạy Chúa”, Trent thốt lên, “Chuyện gì đang xảy ra thế này?”. Hắn đang đứng trước một biển người.

Stone thốt lên, “Anh không đọc báo à, hôm nay là ngày hội sách toàn quốc tại Quảng trường Quốc gia”.

“Và diễu hành chống lại đói nghèo”, Milton thêm vào.

“Tổng cộng hai trăm nghìn người”, Reuben phụ họa theo, “Quả là một ngày thật tuyệt tại thủ đô, vừa đọc sách vừa chống lại đói nghèo”. Đoạn ông thúc vào hông của Trent, “Đi thôi nào, chúng ta không thể trễ được”.

Quảng trường Quốc gia rộng gần hai dặm giáp Đài tưởng niệm Lincoln về phía tây và Trụ sở Quốc hội về phía đông và được bao quanh bởi hàng loạt bảo tàng rộng lớn và Tòa nhà Chính phủ uy nghiêm.

Lễ hội sách Quốc gia, lễ hội hàng năm có tới hơn một trăm nghìn người tham dự. Bên trong quảng trường là những chiếc lều dựng sẵn và ghi rõ từng khu như Tiểu thuyết, Lịch sử, Truyện tranh Thiếu nhi, Truyện Mạo hiểm, và Thơ văn. Trong từng lều, đám đông đứng xung quanh nhà văn, nhà minh họa kể chuyện, lắng nghe họ thuyết minh về câu chuyện hay xin chữ ký.

Trên đại lộ Hiến pháp, đoàn diễu hành đã sẵn sàng với đích đến là Trụ sở Quốc hội, sau đó những người này sẽ quay về tham gia hội chợ sách; Hội chợ sách mở cửa cho tất cả mọi người tham dự và hoàn toàn miễn phí.

Stone đã cẩn thận lên chi tiết cho kế hoạch trao đổi này với sự giúp đỡ của Alex Ford. Địa điểm trao đổi sẽ diễn ra tại lâu đài Smithsonian trên đường Jefferson. Với hàng nghìn người tụ tập tại đó, khó có thể chọn một điểm bắn cố định nào, cho dù trong khoảng cách gần. Trong ba lô, Stone có mang theo một dụng cụ cho phép ông hoàn thành nhiệm vụ ngay lập tức, vì khi đảm bảo được sự tự do của Caleb, ông không dự định sẽ cho Albert Trent và đám đồng bọn gián điệp của hắn trốn thoát.

Reuben nói, “Phía trên ấy, đúng 2 giờ, gần ngay chỗ để xe đạp đấy”.

Stone gật đầu, ông nhìn thấy Caleb đang đứng tại một bãi cỏ, được bao phủ một nửa bởi một hàng dậu cao ngang hông, phía sau là vòi phun nước được điêu khắc tinh vi. Phía sau Caleb là hai tên mặc áo trùm đầu và đeo mắt kính râm. Stone biết chắc bọn chúng có vũ khí, nhưng có mấy tay bắn tỉa liên bang hỗ trợ ông đang cố định đâu đó trên nóc lâu đài, và nhắm thẳng súng về phía bọn bắt cóc. Tuy nhiên họ chỉ nã đạn khi cần thiết, và cả Alex Ford cũng ở gần đó sẵn sàng chi viện cho ông. Stone nhìn Caleb, cố làm ông ta chú ý, nhưng xung quanh có nhiều người nên điều đó thật khó, chưa kể Caleb trông có vẻ hoảng hốt, dù điều đó không có gì lạ. Stone còn phát giác ra cả một điều gì đó trong ánh mắt ông bạn mình, ông không thích điều đó vì nó là: sự vô vọng.

Thình lình ông thấy gì đó quanh cổ Caleb, ông thốt lên, “Lạy Chúa, anh có thấy gì không Reuben?”

Người bạn to lớn cũng căm phẫn không kém, “Mấy thằng chó chết!”

Stone quay qua Milton và Annabelle đang theo sau, “Quay lại ngay!”

“Sao vậy?”, Annabelle thốt lên.

“Nhưng Oliver”, Milton phản đối.

“Làm theo lời tôi”, Stone nạt.

Cả hai ngừng lại. Annabelle tức tối khi nghe Stone ra lệnh, còn Milton thì không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Reuben, Stone, và Trent cứ đi tiếp cho đến khi họ đối mặt với Caleb và bọn bắt cóc. Caleb rên rỉ xen lẫn vào tiếng nước chảy róc rách của tượng đài phía sau, rồi chỉ vào thứ giống như vòng đeo cổ chó. “Oliver ơi?”

“Tôi hiểu mà Caleb”. Ông chỉ vào vòng cổ và ra lệnh cho mấy tên mặc áo trùm đầu, “Gỡ ra cho anh ta mau. Ngay bây giờ!”

Cả hai tên lắc đầu, một tên giơ cao một cái hộp với hai nút trồi lên, “Chỉ khi bọn tao ra khỏi đây an toàn”.

“Bọn mày nghĩ tao sẽ cho bọn mày đi ra khỏi đây mà trái bom chết tiệt đó vẫn còn trên cổ bạn tao à?”

“ Ngay khi chúng tao ra khỏi đây, chúng tao sẽ vô hiệu hóa nó”, một tên nói.

“Mày nghĩ tao sẽ tin mày ư?”

“Phải như vậy”.

“Vậy mày không thể đi đâu cả, nếu mày kích hoạt, cả đám cùng chết chung”.

“Đó không phải bom”, vẫn là tên đầu tiên lên tiếng, hắn lại giơ hộp đen lên lần nữa, “Nếu tao nhấn nút đỏ, chất cực độc đủ giết một con voi sẽ lập tức được bơm vào người hắn, nếu tao nhấn nút đen, hệ thống sẽ bị vô hiệu và mày có thể tháo tung vòng cổ mà chất độc không thoát ra nữa. Đừng ép buộc tao, còn nữa, nếu tay bắn tỉa nào nhắm vào tao thì theo phản xạ tự nhiên tao sẽ tự động nhấn nút”. Hắn đung đưa ngón tay trên cái nút đỏ, mỉm cười khoái trá khi thấy Stone rơi vào tình huống khó xử.

“Mày thích lắm hả, thằng chó kia?”, Reuben gào lên.

Gã vẫn bình tĩnh nhìn thẳng Stone, “Chúng tao thừa biết mày sẽ kiếm bọn cớm đến đây, sẵn sàng hốt bọn tao khi bạn mày được an toàn, nên xin lỗi, bọn tao cũng phải phòng ngừa”.

Stone nói, “Thế điều gì sẽ khiến chúng mày không kích hoạt cái nút kia khi chúng mày đi mất hả. Đừng cho tao biết câu trả lời là niềm tin nữa nhé, tao thấy buồn nôn quá”.

“Tao được lệnh không giết hắn trừ phi tao không có đường thoát, nếu mày cho chúng tao con đường thoát, hắn sẽ sống”.

“Chúng mày phải đến điểm nào trước khi hủy lệnh kích hoạt chất độc hả?”

“Không xa đây lắm đâu, trong ba phút bọn tao sẽ biến đi, nhưng nếu tao đợi quá lâu, tao sẽ nhấn nút đỏ liền”.

Stone nhìn Caleb, rồi nhìn ông bạn Reuben đang phát khùng, rồi lại quay ra Caleb, “Caleb, anh phải nghe tôi, chúng ta phải tin tưởng chúng”.

“Ôi, Trời, Oliver, xin hãy cứu tôi”, Caleb nhìn có vẻ như chẳng tin ai.

“Tôi sẽ cứu anh, Caleb”. Trong cơn tuyệt vọng, Stone hỏi, “Có bao nhiêu mũi tiêm đã tẩm thuốc trong cái thứ đó vậy?”

Gã đàn ông có vẻ cảnh giác, “Chuyện gì?”

“Tao hỏi có bao nhiêu?”

“Hai, một cái bên trái, một cái bên phải”.

Stone quay sang đưa ba lô cho Reuben và thì thầm, “Nếu chúng ta chết, chúng ta phải chết có ích”.

Reuben nhận ba lô và gật đầu, khuôn mặt vẫn tái xanh, dù thái độ của ông ta hoàn toàn bình tĩnh.

Stone quay lại chỗ mấy gã đàn ông và chìa tay trái ra, “Tao sẽ để tay trái của mình ngay đây để mũi tiêm bên trái sẽ đâm thẳng vào tao thay vì anh ta”.

Gã đàn ông hoàn toàn bất ngờ, “Nhưng như vậy mày sẽ chết”.

“Đúng thế, cả hai cùng chết”.

Caleb ngừng run rẩy và nhìn thẳng vào Stone, “Oliver, anh đừng làm vậy”.

“Anh im đi, Caleb”. Stone nhìn gã đàn ông, “Nói tao biết tao sẽ để tay ở đâu”.

“Tao không biết liệu điều này...”

“Nói mau”, Stone la lớn.

Gã lập tức chỉ tay vào một điểm và Stone lập tức chèn tay của mình vào khoảng trống, bây giờ da ông đụng vào da thịt của Caleb.

“Được rồi”, Stone hài lòng, “Khi nào tao biết nó đã bị vô hiệu?”

“Khi đèn đỏ ngay phía đó chuyển màu xanh”, gã trả lời, chỉ tay vào một chấm tròn đỏ thẫm ngay trên vòng cổ, “Rồi mày có thể tháo móc ra, vòng sẽ rơi xuống, nhưng nếu mày cố ý muốn tháo trước đó, nó sẽ tự kích hoạt”.

“Hiểu”, ông nhìn Trent, “Bây giờ chúng mày biến ngay đi”.

Albert Trent vùng thoát khỏi vòng kìm kẹp của Reuben và đi về phía những tên mặc áo trùm đầu. Khi chúng dợm bước đi, Trent quay lại và cười toe, “Xin từ biệt!”

Stone nhìn chăm chăm vào mặt của Caleb, ông liên tục nói nhỏ động viên bạn của mình, dù cho nhiều người hiếu kỳ bắt đầu vây quanh trước một cảnh tượng kỳ lạ, tay một người luồn dưới cổ áo một người khác.

“Caleb, thở sâu vào, chúng không giết được chúng ta đâu, không thể được, thở sâu vào”. Ông nhìn đồng hồ, sáu mươi giây đã trôi qua kể từ lúc mấy tên kia và Trent biến mất vào đám đông. “Hai phút nữa chúng ta sẽ được tự do, chúng ta ổn thôi, rất ổn”. Ông lại nhìn đồng hồ, “Còn chín mươi giây nữa, chúng ta gần được rồi, cố gắng nhé, cùng tôi nhé, Caleb”.

Caleb bấu chặt tay của Stone, khuôn mặt đỏ gay, hơi thở ngắt quãng, nhưng ông ta vẫn đứng yên và mãi mới thốt lên, “Tôi ổn thôi, Oliver”.

Một lúc sau, có nhân viên cảnh sát đi về hướng họ nhưng có hai người trong bộ đồng phục quét dọn rác đã nhảy ra chắn đường viên cảnh sát và bằng cách nào đó nói ông ta đi hướng khác, họ cũng thông báo tình huống khẩn cho mấy tay bắn tỉa và họ nằm xuống, tiếp tục mai phục. Trong lúc đó, Milton và Annabelle đã bò lên đến nơi, Reuben kể cho họ nghe chuyện. Khuôn mặt hoảng hốt của Milton đẫm lệ trong lúc Annabelle run rẩy đưa tay che miệng và nhìn hai người bạn đang dính chặt vào nhau.

“Ba mươi giây, Caleb ạ, chúng ta sắp làm được rồi”. Lần này Stone chỉ nhìn chăm chăm vào ngọn đèn đỏ trên cổ áo vừa đếm từng giây, “rồi mười giây nữa, chúng ta tự do rồi”.

Cả Stone và Caleb cùng đếm ngược, nhưng đèn chẳng chuyển thành màu xanh, Caleb do không nhìn thấy nên hỏi ngay, “Oliver, anh tháo ra được chưa?”

Đến lượt Stone trở nên căng thẳng, nhưng ông không muốn rút tay ra, ông nhắm mắt lại thêm một lúc, đợi mũi tiêm đâm sâu vào da thịt. Tiếng Annabelle vọng lại, “Oliver, nhìn kìa”.

Stone mở mắt ra, đèn đã chuyển thành màu xanh, ông gọi lớn, “Reuben, giúp tôi với”.

Reuben chồm về phía trước, họ cởi móc khóa và tháo vòng ra khỏi cổ Caleb. Tay thủ thư phủ phục xuống nền cỏ, trong lúc những người khác vây quanh ông ta, cuối cùng, ông ta cũng lấy lại bình tĩnh và nắm lấy tay Stone. Ông ta nghẹn ngào, “Anh là một người thật can đảm, Oliver ạ. Cám ơn anh nhiều lắm”.

Stone nhìn những người xung quanh, và tiếp tục tình huống mới, chỉ có một giây để hành động, ông la lớn, “Tất cả nằm xuống!”. Ông nắm lấy vòng cổ và ném nó qua hàng dậu, rơi trúng vào tượng đài phun nước phía sau. Hai giây sau đó, chiếc vòng phát nổ, làm những cột nước và cả những mảng xi-măng bốc cao trong không khí. Đám đông trong quảng trường hoảng hốt tháo chạy. Một lúc sau, khi mọi thứ lắng xuống, Stone và các bạn của mình phủi bụi đứng dậy, Caleb thốt lên, “Chúa ơi, sao anh biết hay vậy?”

“Trò cũ rích, bắt chúng ta ở cùng nhau, rồi diệt cả đám. Hắn bảo cho tôi biết có mũi tiêm độc trong vòng cổ vì hắn biết quả bom sẽ giết chúng ta, chứ không phải chất độc đó, đại loại thế ”. Stone với lấy ba lô từ Reuben, lôi ra một thiết bị có màn hình. Trên đó, một chấm đỏ đang di chuyển.

“Giờ đến lượt chúng ta”, ông tuyên bố.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65


Bọn chúng đang đến lối vào tàu điện ngầm của ga Smithsonian”, Reuben thuật lại khi thấy chấm đỏ di chuyển trên màn hình Stone đang cầm. Cả nhóm chạy nhanh qua quảng trường, chen chúc giữa dòng người đông nghịt và một số nhóm cảnh sát.

“Đó cũng là lý do chúng ta lựa chọn địa điểm trao đổi này”, Stone trả lời.

“Nhưng tàu điện ngầm cũng đông cứng”, Milton thắc mắc, “Làm sao tìm được chúng ở đó?”

“Chúng ta đang theo dõi chúng đây thôi. Anh còn nhớ hóa chất chúng dùng để làm sáng màu những chữ cái trong sách chứ?”

“Vậy thì sao nào?”, Milton hỏi.

Stone tiếp, “tôi đã tiêm vào người gã Trent đó một hóa chất đặc biệt do Alex Ford cung cấp, có thể gửi tín hiệu về hệ thống thu phát này, hắn sẽ chỉ đường cho chúng ta, sử dụng hệ thống này, chúng ta sẽ biết hắn đang ở đâu giữa hàng vạn người. Alex và người của anh ta cũng có thiết bị này, và họ sẽ tóm gọn chúng”.

“Mong nó hoạt động tốt”, Caleb nói trong lúc họ khẩn trương giúp nhau len lỏi đi giữa rừng người. Ông đưa tay xoa cổ, “Tôi muốn thấy bọn chúng chết rục xương trong tù, không có sách để đọc luôn. Đáng đời chúng”. Thình lình có những tiếng la hét từ ga tàu phía dưới. “Mau lên!”, Stone la lớn, và cả nhóm lao xuống thang cuốn.

Trong lúc Trent và hai tên đồng bọn đang đứng đợi chuyến tàu kế tiếp, hai tay đặc vụ trong trang phục nhân viên bảo trì tiến đến gần bọn chúng từ phía sau. Trước khi các tay đặc vụ kịp rút súng ra thì cả hai đã ngã xuống vì bị bắn từ phía sau. Roger trong trang phục áo choàng nhét khẩu súng lục giảm thanh vào hai bên hông. Tiếng ồn ào của đám đông đã lấp đi tiếng súng nổ, khi những tay đặc vụ ngã xuống, máu chảy ra, tiếng la hét bắt đầu, khách bộ hành trong cơn hoảng hốt túa ra khắp ngả. Trước khi một đặc vụ ngã gục, ông ta còn kịp rút súng bắn thẳng vào đầu một tên gián điệp, thế là tên đó cũng đổ sụp xuống, cùng lúc thiết bị điều khiển kíp nổ rơi tung tóe xuống nền đất.

Đoàn tàu về hướng tây vừa kịp tới ga, người trên tàu túa ra càng làm cho quang cảnh thêm hỗn độn.

Trent và tên đồng bọn còn lại lợi dụng sự hoảng loạn này nhảy lên toa tàu, Seagraves bám theo nhưng do đám người cứ đùn đẩy hắn về phía sau nên hắn đành leo lên toa tàu tiếp theo.

Ngay trước khi cửa toa tàu đóng, Stone và những người bạn của mình cố gắng len lỏi giữa dòng người rồi cũng kịp leo lên tàu. Toa tàu chật ních, nhưng nhờ vào thiết bị điều khiển Stone có thể nhận biết Trent đang đứng rất gần. Ông đảo mắt vòng quanh và cuối cùng cũng thấy Trent đứng cuối dãy, cả tên đồng bọn với áo trùm đầu nữa. Vấn đề hiện tại là gã Trent và tên đồng bọn có thể nhìn thấy nhóm của Stone bất cứ lúc nào.

Sau đó ít lâu, Alex Ford và vài đặc vụ chạy đến nhưng tàu đã khởi hành. Anh hét đám nhân viên và họ lao ra khỏi ga.

Bên trong toa tàu, Stone nói khẽ, “Reuben, anh ngồi xuống, nhanh lên!”. Reuben có thân hình to lớn cho nên có thể là người dễ bị phát hiện nhất. Reuben lập tức đẩy vài cậu bé qua một bên rồi ngồi phịch xuống sàn. Stone cũng cúi thấp, mắt không ngừng liếc về Trent. Hắn đang nói chuyện với tên đồng bọn và chẳng hiểu tại sao tay hắn để sát lên tai. Với tư thế ngồi như vậy, Stone không thể thấy được Roger Seagraves đang ở toa kế tiếp và hắn cũng đang nhìn thấy ông qua tấm kính. Seagraves cũng khá ngạc nhiên khi thấy Caleb và bạn bè của ông ta vẫn còn sống. Hắn đang giơ súng nhắm bắn thẳng vào đầu Stone thì tàu tăng tốc trước khi dừng vào ga kế tiếp. Người ta xô đẩy nhau lên xuống làm Seagraves bị chệch hướng bắn. Sau đó, tàu lại khởi hành, và nhanh chóng tăng tốc độ. Stone đang đi nhanh giữa đám đông hướng về Trent. Ông thủ sẵn dao trong tay, dấu nó dưới tay áo. Ông hình dung có thể đâm thẳng con dao vào ngực của Trent, nhưng đó không phải là kế hoạch của ông, ông sẽ giết tên đồng bọn, còn Trent, hắn phải bị bỏ tù rục xương.

Stone đang gần đến mục tiêu của mình thì kế hoạch của ông tiêu tan do tàu tiến nhanh vào trung tâm Metro, dừng lại và cửa bật mở. Trung tâm Metro là ga sầm uất nhất của hệ thống tàu điện ngầm. Cửa vừa bật mở, Trent và tên đồng bọn lập tức nhảy ra khỏi toa tàu, ở toa sau, Seagraves cũng vậy trong lúc Stone và những người khác xô đẩy đám đông đang đùn đẩy nhau tìm những toa tàu đến và đi từ nhiều hướng khác nhau. Stone vẫn liên tục bám sát Trent và tên đồng bọn, ông thấy hai người đàn ông trong đồng phục trắng hướng về phía Trent, nhưng ông lại không nhìn thấy Roger Seagraves rút ra khỏi túi một thiết bị bằng kim loại, dùng răng tháo cái kẹp rồi quăng vào khoảng không. Mặc dù hắn quay lưng lại nhưng chắc chắn rằng tai của hắn đã được bít kỹ.

Stone nhìn thấy cái ống hình chữ nhật bay về phía ông và ngay lập tức đoán biết đó là cái gì. Ông vội xoay vòng tròn và hét lớn cho Reuben và những người khác nghe, “Cúi thấp xuống và bịt tai lại!”. Vài giây sau, tiếng nổ lớn kèm theo ánh chớp vang lên và những người gần xung quanh đổ gục xuống sàn, bịt tai lại và la thét trong đau đớn.

Chỉ có Trent và tên đồng bọn không bị ảnh hưởng bởi vụ nổ đó. Chúng đã đeo thiết bị bảo vệ lên tai, rồi cùng lúc quay sang hướng khác để tránh tia lóe sáng của tiếng nổ lớn.

Tai Stone ù đi cho dù ông đã úp mặt xuống sàn và nhét chặt tay áo khoác vào tai, ông vẫn còn kịp ngước lên để nhìn thấy giày và chân người lướt ngang trước mặt. Khi ông gượng đứng dậy thì một gã to lớn trong lúc hoảng loạn đâm sầm vào ông, làm ông ngã phịch xuống sàn. Stone cảm thấy tay mình không còn kiểm soát được thiết bị theo dõi nữa, ông đành ngậm ngùi nhìn theo nó trượt ngang trên sàn, và rớt ngay xuống đường ray của tàu điện. Khi toa tàu cuối cùng đã rời khỏi ga, ông vội chạy đến phía đường ray, nhưng cái thiết bị ấy đã hoàn toàn nát vụn.

Ông quay lại và thấy Reuben đang tấn công tên đồng bọn to lớn của tên Trent, Stone chạy đến để hỗ trợ cho ông bạn của mình nhưng có vẻ ông là người thừa vì Reuben cao lớn hơn tên đó, đang trong thế kẹp người hắn, nhấc bổng hắn lên khỏi sàn và nện đầu hắn vào một trụ kim loại, rồi sau đó quẳng hắn bay vèo về phía trước, làm những người xung quanh hốt hoảng tránh ra xa. Trong lúc Reuben hùng dũng tiến về phía hắn thì Stone lại vung cú đấm vào chính người bạn của mình, làm ông ta ngã chỏng chơ trên sàn.

“Chuyện quái gì...”, Reuben lầm bầm thì ngay lập tức viên đạn sạt qua đầu ông ta, Stone hành động kịp thời cứu bạn của mình. Tên kia chống chân đứng dậy và chuẩn bị nã thêm một phát đạn nữa thì bị hạ gục bởi ba viên đạn ghim ngay vào ngực và lần này phát súng xuất phát từ hai đặc vụ liên bang, đang chạy đến theo sau là cảnh sát mặc sắc phục.

Stone đỡ Reuben dậy và nhìn xung quanh tìm những người còn lại. Annabelle vẫy vẫy tay từ một góc phía xa, Milton và Caleb đang bên cạnh cô nàng.

“Trent đâu rồi?”, Stone gọi lớn.

Annabelle lắc đầu và làm cử chỉ như mọi cố gắng đều vô ích. Stone đảo mắt xung quanh, vô vọng, họ đã mất dấu hắn.

Thình lình Caleb la lớn, “Kia kìa, đang đi lên phía thang cuốn đấy, đó là tên đã bắt cóc tôi, gã Foxworth!”

Milton phụ họa, “Và cả Trent!”

Tất cả nhìn lên phía trên, Seagraves khi nghe bí danh của mình liền quay xuống, mũ trùm đầu của hắn chợt rớt xuống vai, và tất cả mọi người đều nhìn thấy rõ hắn cùng tên Trent bên cạnh.

“Mẹ kiếp”, Seagraves chửi đổng lên, hắn khéo léo kéo Trent luồn lách qua đám đông, và chạy ra khỏi sân ga. Trên phố, hắn đẩy tên Trent vào một chiếc tắc-xi vừa trờ tới, đưa tài xế địa chỉ, hắn thì thầm vào tai tên Trent, “Tôi sẽ gặp anh ở đó sau, tôi đã chuẩn bị máy bay riêng chở chúng ta ra khỏi đất nước và đây là thứ anh cần để đi du lịch, và cả những thẻ căn cước mới. Chúng ta sẽ đổi diện mạo của anh sau nhé”. Hắn nhét gói tài liệu và một hộ chiếu vào tay Trent.

Seagraves định đóng sập cửa xe tắc-xi lại thì đột ngột dừng và nói, “Albert, anh đưa cho tôi đồng hồ của anh nào?”

“Cái gì cơ?”

Seagraves không hỏi lại, hắn giật chiếc đồng hồ khỏi tay Trent rồi đóng sập cửa, chiếc xe chạy đi, còn anh bạn Trent vẫn còn nguyên nét mặt kinh hãi ngoái lại nhìn hắn qua cửa sổ xe. Seagraves dự tính sẽ hạ Trent lúc sau này cho nên cần có thứ gì của tên này. Hắn cảm thấy tức giận vì phải để lại hết bộ sưu tập của hắn ở căn nhà riêng, hắn không dám quay về, và hắn cũng không vui vì đã không lấy được món gì đó của hai tay đặc vụ hắn sát hại tại ga tàu điện ngầm.

Mày có thể bắt đầu bộ sưu tập mới mà.

Hắn chạy ngang qua đường, vào một ngõ hẻm, leo lên chiếc xe tải đã đậu sẵn, thay đổi trang phục, rồi đợi những kẻ săn đuổi hắn, lần này hắn không thể để vuột mất con mồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66


Stone và những người bạn đi theo thang cuốn ra khỏi ga tàu điện ngầm cùng với hàng trăm người trong tình trạng lo sợ. Tiếng còi hụ vang khắp nơi, và cảnh sát thì phong tỏa khu vực xảy ra sự việc, trong lúc đó họ bước ra tới đường mà không rõ bước kế tiếp sẽ làm gì.

“Cám ơn trời anh Caleb của chúng ta vẫn bình yên vô sự”, Milton nói.

“Hiển nhiên rồi”, Reuben vui vẻ choàng vai Caleb, “Chúng tôi biết làm gì nếu không có anh để chọc ghẹo đây?”

“Sao anh bị bắt cóc vậy?”, Stone tò mò.

Caleb nhanh chóng giải thích về người tự nhận là William Foxworth, “Hắn bảo hắn có sách cho tôi xem qua, rồi sau đó tôi không biết gì nữa”.

Stone tiếp tục, “Vậy là hắn dùng tên Foxworth à?”

“Vâng, tôi thấy ghi như thế trên thẻ thư viện, chắc chắn hắn phải trình thẻ căn cước để làm thẻ mà”.

“Rõ ràng đó không phải tên thật của hắn. Nhưng cũng may chúng ta đã thấy khuôn mặt của hắn”.

“Giờ chúng ta làm gì đây?”, Annabelle hỏi.

“Tôi vẫn không hiểu về cái loại hóa chất được dùng trong quyển sách”, Milton lên tiếng, “Albert Trent làm nhân viên của tổ chức tình báo, hắn có thông tin mật, chuyển cho kẻ nào đó, nhưng là ai mới được. Sao bọn chúng lại dùng sách trong phòng đọc nơi bà lão English Jewell và cả Norman Janklow có thể tìm ra, sử dụng loại kính đặc biệt để viết chúng lại?”

Trong lúc mọi người vẫn thắc mắc, Stone gọi điện thoại cho Alex Ford, họ vẫn đang tìm Trent nhưng Ford khuyên Stone và những người khác nên ngừng cuộc truy đuổi. “Chẳng có nghĩa lý gì để dấn thân thêm vào nguy hiểm cả, anh làm đủ rồi”.

Sau đó Stone kể lại cho mọi người, Caleb lên tiếng, “Vậy chúng ta đi đâu đây? Về nhà à?”

Stone lắc đầu, “Thư viện Quốc hội cũng gần đây, tôi muốn đến đó”.

Caleb thắc mắc tại sao. “Bởi vì đó là nơi mọi thứ bắt đầu, vả lại muốn tìm câu trả lời thì thư viện là nơi tốt nhất còn gì?”

Caleb giúp các bạn của mình vào thư viện nhưng không ai vào phòng đọc được do chủ nhật thư viện không làm việc. Trong lúc đi dọc theo sảnh, Stone nói với các bạn của mình, “Tôi vẫn không hiểu rõ về khoảng thời gian của các sự kiện”. Ông ngừng lại một chút, tổng hợp suy nghĩ, “Cách đây hai ngày bà Jewell English đến thư viện, chữ được đánh dấu nằm trong quyển sách Beadle đó. Vào buổi tối cùng ngày, khi chúng ta cầm quyển sách trong tay nó lại biến mất. Thời gian rất chặt chẽ đấy chứ”.

Caleb đồng tình, “Chuyện đó thật đáng kinh ngạc bởi vì hầu hết sách trong khu đó đều hiếm có người mượn đọc trong vài năm, thậm chí vài thập niên. Việc đánh dấu phải được thể hiện lên từng chữ, rồi Jewell sẽ được báo phải mượn quyển sách nào, rồi như anh nhận xét, trong cùng ngày dòng chữ đánh dấu lại biến mất”.

Stone ngừng đi qua đi lại, ông dựa người vào một trụ cẩm thạch, “Vả lại sao họ biết cái mốc thời gian như vậy sẽ có tác dụng? Không ai muốn những chữ được đánh dấu như vậy tồn tại quá lâu trên giấy phòng trường hợp cảnh sát mó tay vào. Thật vậy, nếu chúng ta hành động nhanh hơn, có thể chúng ta đã giao cho FBI quyển sách trước khi hóa chất bốc hơi, như vậy rõ ràng là hóa chất phải có tác dụng gần với thời gian bà English bước vào”.

Caleb nhận xét, “Tôi ra vào phòng sách liên tục trước khi Jewell bước vào mà tôi đâu có thấy ai ngoại trừ vài nhân viên, mà cũng chẳng ai ở lâu hơn mười hay mười lăm phút, rõ ràng thời gian đó không đủ để đánh dấu mấy chữ cái đó. Mà họ cũng chẳng thể làm chỗ nào khác vì họ phải mang sách về nhà”. Ông thình lình la to, “Đợi đã, nếu có nhân viên nào mang sách về nhà thì tôi có thể kiểm tra, họ phải điền vào mẫu thông tin gồm bốn phần. Đi nào! Phòng đọc đóng cửa rồi, nhưng tôi có thể kiểm tra từ phòng khác”.

Ông dẫn họ đến phòng hướng dẫn chính của thư viện, ông nói chuyện với người nữ nhân viên làm việc ở đó một lúc, rồi ngồi vào bàn máy tính, truy cập vào hệ thống và bắt đầu gõ lách cách. Một phút sau đó, khuôn mặt của ông có vẻ thất vọng, “Chẳng có quyển Beadles nào được mượn cả, mà cả bốn tháng rồi, chẳng có nhân viên mượn quyển sách nào của thư viện cả”.

Trong lúc họ đang đứng đó thì Rachel Jeffries đi ngang qua, bà ta là thợ bảo quản sách mà lần trước Caleb đã nhờ hỗ trợ quyển tiểu thuyết Beadle với những chữ được đánh dấu trước đó.

Bà ta chào Caleb, “Chào anh Caleb, tôi không nghĩ anh lại đến thư viện vào cuối tuần như vậy cả”.

“Chào bà Rachel, tôi chỉ đến tham khảo thôi”.

“Tôi đang cố gắng thực hiện vài lời yêu cầu về bảo quản sách đây. Tôi đi ngang qua để gặp đồng nghiệp cùng làm chung phần này với tôi. À, quyển sách Beadle anh nhờ tôi bảo quản thật ra vừa được bảo quản trước đó rồi mới để vào phòng sách đấy”.

“Sao cơ?”, giọng Caleb kinh ngạc.

“Nó bị hỏng phần bìa phía sau, và có vài trang bị rời ra. Khi tôi nhìn vào thông tin của nó, tôi hơi ngạc nhiên vì nó vừa mới được đưa trở lại phòng sách thôi mà. Anh có biết tại sao lại bị hỏng nữa không?”

“Thế chính xác nó đã được mang lại phòng sách khi nào?”, Caleb hỏi dò, giả bộ không nghe câu hỏi trước.

“Sao vậy, chỉ trước khi anh đưa lại cho tôi một ngày”.

“Rachel, đợi một chút”, Caleb lại lạch cạch gõ máy tính và lần này ông tìm xem bao nhiêu quyển Beadles đã được gửi đi bảo quản trong thời gian qua. Câu trả lời của ông được in ra.

“Ba mươi sáu quyển Beadle được bảo quản trong vòng hai năm”, ông nói cho các bạn mình biết. Sau đó ông kiểm tra thông tin về những quyển sách mà Jewell English và Norman Janklow yêu cầu, cùng với tất cả những quyển sách đã đến phòng bảo quản trong sáu tháng qua. Ông tìm được kết quả rằng Jewell English đã yêu cầu hơn bảy mươi phần trăm số sách được bảo quản trong sáu tháng qua, và bà ta yêu cầu sử dụng ngay đúng ngày chúng vừa được bảo quản xong. Ông lão Norman Janklow cũng có yêu cầu tương tự.

Ông lập tức kể cho những người bạn nghe về kết quả tìm kiếm của mình, “Mấy quyển Beadle này tốn thời gian bảo quản nhiều lắm vì chúng được xuất bản theo kiểu rẻ tiền mà”.

Stone, với trí óc nhanh nhạy, nhìn Rachel Jeffries và hỏi, “Bà có thể cho tôi biết thường ai là người chăm sóc mấy quyển của Beadle nhỉ?”

“Đó là Monty Chambers đấy”.

Stone và mọi người lập tức chạy nhanh dọc hành lang. Caleb còn quay với lại đằng sau, hét lớn, “Rachel, tôi yêu bà”.

Bà ta lập tức đỏ mặt nhưng vẫn vớt vát, “Caleb, anh biết rồi đấy, tôi đã kết hôn, nhưng chúng ta có thể gặp nhau lúc nào đó”.

“Anh biết Chambers sống ở đâu không?”, Stone hỏi Caleb khi mọi người chạy ra đường.

Caleb gật đầu, “Cũng không xa chỗ này mấy”. Họ gọi hai chiếc tắc-xi và phóng đi. Mười lăm phút sau, xe chạy chậm lại đưa họ đến một vùng dân cư yên tĩnh với những dãy nhà được sửa chữa khá tốt. Phía trước mỗi căn nhà là một khoảnh sân nhỏ và bờ tường rào bằng sắt rèn cao hai thước Anh.

“Tôi thấy khu này có vẻ quen quen đấy”, Stone lên tiếng.

“Khu này xung quanh nhà nào cũng vậy hết”, Caleb giải thích.

Họ ra khỏi xe, và Caleb dẫn họ đến một căn nhà với tường gạch được sơn màu xanh dương, còn cửa chớp lại có màu than. Trên ngưỡng cửa sổ là vài chậu hoa.

“Anh đã đến đây rồi chứ?”, Stone hỏi và Caleb gật đầu đồng tình.

“Monty có một xưởng ở nhà và làm việc tự do. Tôi cũng có giới thiệu vài người cho ông ta, ông ta còn giúp tôi bảo quản vài quyển, không thể tin được ông ta lại dính líu đến chuyện này. Ông ta là tay bảo quản sách tốt nhất mà thư viện có được, trong vài thập niên gần đây”.

“Mỗi người có giá của nó, và chỉ có người bảo quản mới có cơ hội chăm sóc sách tốt được”, Stone nhận xét, cẩn thận nhìn về phía trước căn nhà. “Tôi tự nhủ liệu ông ta có lòng vòng đâu đó, tôi và Reuben sẽ gõ cửa còn mọi người lui hết ra sau nhé”.

Tiếng gõ cửa vang lên nhưng không ai trả lời. Stone nhìn xung quanh, không có ai ngoài đường chính cả, “Che cho tôi nhé, Reuben”.

Reuben quay lại, dùng tấm lưng to bè che khuất Stone. Một phút sau, ổ khóa bật mở. Stone bước vào trong, tầng chính chẳng có gì đáng nói cả, đồ đạc cũ kỹ, nhưng không lỗi thời, hình treo trên tường toàn là hình được in lại, tủ lạnh chứa vài món thức ăn nhanh, máy rửa bát đĩa trống rỗng. Hai phòng ngủ phía trên tầng cũng không đáng để chú ý, có vài quần tây, áo sơ mi, áo khoác treo trong tủ, phía ngăn bên dưới để bít tất và quần đùi. Phòng tắm chỉ toàn những thứ thường nhật, Stone nhặt nhạnh vài thứ và xem xét với vẻ tò mò. Tủ thuốc chứa một số thuốc thường dùng, và đồ dùng trong nhà tắm. Họ không tìm ra thứ gì có thể nói ra Chambers đã đi đâu.

Khi họ xuống nhà dưới, mọi người đang đợi ở sảnh.

Caleb hăm hở, “Có gì không?”

Stone trả lời, “Anh nói có xưởng ở đâu đó à?”

“Tầng dưới”.

Họ lại kéo xuống và lục soát không gian làm việc của Chambers, nó chứa tất cả mọi thứ có liên quan đến nghề đặc trưng này và không còn thứ gì khác.

“Thế là hết”, Reuben thốt lên.

Tầng dưới là một dạng cửa đi ra ngoài được, Stone liếc nhìn ra cửa sổ, “Nhìn ra hẻm ngang hông nhà và hàng loạt tòa nhà phía đối diện”.

“Vậy thì sao?”. Reuben bực bội, “chẳng lẽ có kẻ phản bội đang trốn chạy núp đâu đó ở ngõ hẻm này và đợi vài tay FBI xuất hiện sao”.

Stone mở cửa bước ra ngoài, nhìn lên nhìn xuống con hẻm. Đoạn ông chạy xuống cuối hẻm, rẽ vào góc và biến mất. Khi ông quay lại, ánh mắt ông sáng rực.

Reuben nhận xét, “Anh nhớ tại sao khung cảnh ở đây quen thuộc rồi à. Anh đến đây rồi chứ?”

“Tất cả chúng ta đều từng đến đây, Reuben ạ”.

Chú thích

1.Tác giả chơi chữ “Evilbay’(evil: tội ác) với chữ Ebay, trang web mua bán trực tuyến lớn nhất trên mạng Internet nơi bạn có thể tìm thấy và mua những thứ mình cần.

2. Kỹ thuật đổi màu để phù hợp với phần nền.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67


Stone dẫn những người bạn của mình đi vòng qua một góc đường rồi đi xuống con đường dọc theo những dãy nhà dẫn ra ngõ hẻm đối diện nhà của Chambers. Stone dừng lại giữa khu phố và ra hiệu cho mọi người ở yên đó trong khi ông nhìn vào thứ gì đấy phía trên tòa nhà họ đang đứng trước mặt.

“Ôi Chúa tôi”, Caleb nhìn quanh quất và nhận ra mình đang ở đâu. “Tôi không nhận ra nó vào ban ngày”.

“Caleb, bấm chuông đi”, Stone hướng dẫn.

Caleb làm theo và nghe giọng trầm cất lên, “Vâng, ai đó?”

Stone thúc giục Caleb, “Là tôi đây, ông Pearl, Caleb Shaw. Tôi, ơ, tôi muốn nói chuyện với ông về cuốn Thánh ca”.

“Tôi không mở cửa. Giờ mở cửa được viết trên biển”.

“Chuyện rất khẩn cấp. Xin ông, sẽ không mất nhiều thời gian lắm đâu”.

Một khoảng thời gian im lặng khá dài rồi họ nghe tiếng cửa bật mở. Caleb kéo cửa mở và tất cả cùng vào trong. Vincent Pearl xuất hiện ngay sau đó, ông ta không mặc áo choàng dài nữa mà vận quần tây đen, áo sơ mi trắng và mang cái tạp dề màu xanh lá cây. Ông ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy những người khác đi cùng với Caleb và giận dữ nói, “Lúc này tôi rất bận anh Shaw à. Tôi không thể bỏ dở công việc đơn giản chỉ vì anh xuất hiện không báo trước như thế này”.

Stone tiến lên phía trước, “Alber Trent đâu, thưa ông? Ở phòng sau chăng?”

Pearl há hốc mồm nhìn ông, “Xin lỗi, ông nói ai?”

Stone đẩy Pearl qua một bên, đá vào cửa phòng sau và bước vào, “Hay ở trên tầng?”

“Các anh đang làm cái quái gì vậy?”. Pearl hét lên, “Tôi sẽ gọi cảnh sát”.

Stone lách người qua Pearl để đến bên thang xoắn và ra hiệu cho Reuben theo sau mình. “Coi chừng, Foxworth có thể đi chung với hắn ta đó”. Cặp đôi biến mất ở đầu cầu thang, một phút sau những người còn lại nghe tiếng la hét và vật lộn. Rồi tiếng động ngừng đột ngột, Stone và Reuben đi xuống cầu thang với Albert Trent đang bị trói chặt.

Họ quăng hắn vào ghế và Reuben đứng ngay bên cạnh. Tên nhân viên của Ủy ban Tình báo bị đánh tơi tả, nhưng Reuben vẫn gào lên, “Cho tôi một lý do nào đó để tôi bẻ gãy cổ thằng này đi”.

Stone quay lại đối diện với Pearl, kẻ cũng giống như Trent, đã mất đi sự điềm tĩnh vốn có.

“Tôi không biết các anh đang làm gì ở đây”, Pearl vừa nói vừa nhấc cái tạp dề lên vai. “Cậu này là bạn tôi, và tôi mời cậu ta đến đây”.

“Tên Chambers ở đâu?”. Caleb buộc miệng hỏi, “Gã ấy cũng đến vì được ông mời đúng không?”

“Ai cơ chứ?”, Pearl hỏi lại.

Caleb giận điên người, “Monty Chambers”.

“Hắn ở ngay đây Caleb à”, Stone nói. Ông với tay giật mạnh bộ râu của Pearl. Còn tay kia Stone nắm lấy đống tóc rối bù, nhưng Pearl đã ngăn ông lại.

“Xin hãy để tôi tự làm”. Ông ta từ từ tháo bộ râu giả rồi đến bộ tóc giả để lộ ra cái đầu hói bóng loáng.

Stone nói, “Để che giấu tung tích thật sự của mình, đừng để lược và dầu gội đầu trong phòng tắm. Người hói thì đâu cần những thứ đó cơ chứ”.

Pearl ngồi xuống nặng nề rồi sờ tay vào bộ tóc giả. “Tôi giặt râu và tóc mỗi ngày rồi chải ra để đỡ rối. Đau lắm chứ, nhưng các ông đã thấy rồi. Phần lớn cuộc đời là nỗi đau”.

Caleb vẫn nhìn chằm chằm vào Vincent Pearl, người hóa ra lại là Monty Chambers.

“Tôi không tin nổi, tôi chưa bao giờ thấy hai người là một”.

“Lớp hóa trang rất hiệu quả, Caleb”, Stone nói. “Tóc và râu, hai loại kính khác nhau, thêm cân nặng, mặc quần áo khác nhau. Tất cả những cái kể trên sẽ trở thành một con người khác hoàn toàn. Vì công việc mà anh gặp riêng Pearl trong cửa hàng này cũng chỉ có hai lần. Và chỉ vào ban đêm nên mới dễ lầm, chứ ban ngày thì ông ta không lừa được hay đến thế đâu”.

Caleb gật đầu, “Và trong thư viện ông ta nói rất ít. Khi ông ta cất tiếng thì giọng cao và nghe the thé. Vậy vai nào có trước”, ông tra hỏi, “Vincent Pearl hay là Monty Chambers?”

Pearl mỉm cười lý nhí, “Monty Chamber là tên thật của tôi, còn Vincent Pearl chỉ là tên giả”.

“Sao không dùng một cái thôi?”, Stone hỏi.

Lúc đầu Chambers miễn cưỡng trả lời câu hỏi, nhưng cuối cùng ông ta nhún vai và nói, “Tôi nghĩ giờ cũng không còn gì quan trọng nữa. Tôi từng là diễn viên. Tôi thích hóa trang thời còn trẻ. Tôi thích mặc quần áo phục trang đóng vai. Nhưng tài năng của tôi không có cơ hội để tỏa sáng như các ông thấy đấy. Tôi có niềm đam mê khác là sách. Hồi xưa tôi học nghề với một người bảo quản sách tuyệt vời và đã được truyền nghề. Sau đó tôi được tuyển vào làm trong thư viện và bắt đầu một công việc tốt. Nhưng tôi cũng muốn sưu tập sách nữa mà thu nhập từ công việc ở thư viện đâu có đủ để sưu tầm. Tuy nhiên với vốn kiến thức và kinh nghiệm của mình nên tôi trở thành người môi giới sách quý. Nhưng ai sẽ đi làm ăn với một kẻ bảo quản sách khiêm tốn ở thư viện? Dĩ nhiên là bọn nhà giàu không làm rồi, mà tôi thì lại nhắm đến đối tượng đó. Tôi tạo ra một nhân vật có khí chất để theo đuổi mục tiêu đó: Vincent Pearl, rất kịch, bí ẩn và không thể sai lầm”.

“Nên cái cửa hàng sách chỉ mở vào ban đêm để vẫn làm được công việc ban ngày”, Stone nói thêm.

“Tôi mua cửa hàng sách này bởi vì nó đối diện với nhà tôi. Tôi có thể hóa trang rồi bước ra cửa, và sang cửa hàng sách, tôi trở thành một người khác. Công việc trôi chảy, theo năm tháng thì tiếng tăm môi giới của tôi ngày càng vang xa”.

“Sao ông lại từ người môi giới thành gián điệp hả?”, Caleb hỏi, giọng ông run rẩy, “Sao ông lại từ một người bảo quản sách biến thành kẻ giết người hả?”

Trent cất tiếng, “Đừng nói gì hết! Chúng nó không có chứng cứ gì đâu”.

“Chúng tôi có mã số”, Milton nói.

“Không, chúng mày không có”, Trent cười mỉa. “Nếu chúng mày có thì chúng mày đã đi báo cảnh sát rồi”.

“E, w, h, f, w, s, p, j, e, m, r, t, i, z. Có muốn tôi đọc tiếp nữa không?”, Milton lịch sự hỏi.

Tất cả lặng người nhìn Milton.

Caleb nói, “Milton, sao anh không nói với chúng tôi từ trước?”

“Tôi không nghĩ nó quan trọng bởi vì chúng ta đâu có chứng cứ trong cuốn sách. Nhưng tôi đã thuộc lòng những chữ cái được tô dạ quang trước khi màu mực bay mất. Mà một khi tôi đã thuộc lòng cái gì rồi tôi sẽ không quên được”. Ông giải thích cố ý cho tên Trent nghe. “Dù sao đi nữa, vì tình cờ tôi nhớ hết tất cả các chữ cái, nên những người có trách nhiệm điều tra có thể tìm cách giải mật mã một khi tôi báo cho họ biết”.

Chambers nhìn Trent và nhún vai, “Cha của Albert và tôi là bạn, ý tôi là bạn của Monty Chambers ấy. Khi ông ấy mất, tôi trở thành cha đỡ đầu của Albert, hay ít nhất cũng là thầy của cậu ấy. Chuyện này xảy ra nhiều năm rồi. Albert trở về Washington để học cho xong, rồi gia nhập CIA. Cậu ấy và tôi đã nói chuyện về thế giới gián điệp nhiều năm rồi. Cho tới khi cậu ta chuyển lên làm việc ở điện Capitol, chúng tôi lại càng bàn bạc nhiều hơn. Lần này tôi tiết lộ bí mật cho cậu ta hay, nhưng cậu ta không thích sách cho lắm. Một khiếm khuyết về tính cách mà không may tôi chưa bao giờ nghĩ đến”.

“Gián điệp hả?”, Stone nhắc.

Trent hét vào mặt Chambers, “Đồ già ngu ngốc, câm miệng đi”.

“Rồi, đến giờ ngủ rồi, em bé ạ”. Reuben đấm vào hàm tên Trent làm hắn bất tỉnh. Ông đứng thẳng người lại và khuyến khích kẻ môi giới sách, “Ông kể tiếp đi”.

Chambers nhìn tên Trent nằm bất tỉnh, “Vâng, tôi tự hỏi mình có phải là một lão già ngu ngốc hay không. Mưa dầm thấm lâu, Albert cho tôi biết tiền kiếm được như thế nào khi bán những bí mật mà cậu ta gọi là rất nhỏ đó. Cậu ta giải thích cho tôi nghe rằng không phải làm gián điệp mà chỉ giống như tiến trình làm ăn bình thường vậy thôi. Cậu ta nói ở địa vị nhân viên của ủy ban, cậu ấy đã gặp một người đàn ông có mối quan hệ với các cơ quan tình báo và người này rất hứng thú muốn làm ăn với Trent. Giờ mới phát hiện ra người đàn ông đó quá nguy hiểm, nhưng Albert nói nhiều người cũng đã bán bí mật quốc gia rồi, cả hai phía. Người ta chỉ trông đợi như thế ”.

“Và ông đã tin à?”, Stone hỏi.

“Một phần trong tôi không muốn. Phần còn lại thì thúc giục bởi vì sưu tập sách là một đam mê rất tốn kém và phải có sẵn tiền trong tay. Giờ tôi mới rõ là mình đã sai rồi, nhưng trước kia tôi chẳng thấy nó tệ đến thế ”.

“Ông có kỹ năng bảo quản sách quý; ông chuyên về việc đó nên được phép ra vào thư viện”, Caleb nói.

“Vâng. Tôi và Albert là bạn cũ, vì thế không có ai nghi ngờ việc cậu ta đem sách đến cho tôi, thì suy cho cùng là ngành nghề của tôi mà. Phía trong quyển sách, vài chữ cái được đánh dấu chấm nhỏ xíu. Cậu ta đưa những chữ cái mã hóa để tôi cho vào quyển sách dùng hóa chất đặc biệt. Với những cuốn sách in trước năm 1500, tôi thật sự rất thích những chữ cái được đánh dấu mà người nghệ nhân đã sáng tạo suốt chiều dài của bản in. Đối với tôi, chúng như là những bức tranh nhỏ xíu hàng trăm năm tuổi và với sự bảo quản đúng cách chúng vẫn có thể rực rỡ như lúc mới được in ra. Bằng cách riêng của mình, tôi đã thử nghiệm với nhiều vật liệu như thế qua nhiều năm chỉ vì sở thích thôi. Giờ đâu còn thị trường nào chuộng loại sách đó nữa. Thật ra không khó tạo hóa chất như thế để người đọc phải dùng loại tròng kính đúng mới nhìn ra, mà loại kính này cũng do tôi chế luôn. Cùng với sách cũ, tôi rất thích hóa chất và cường độ ánh sáng. Vì thế tôi thích làm công việc ở thư viện”. Ông ta ngưng lại. “À, mà ít ra tôi đã từng làm như vậy, vì bây giờ nghề của tôi coi như xong rồi”. Ông ta thở nặng nhọc, “Phía bên kia thì Albert và người của cậu ta sắp xếp người đến phòng đọc với những chiếc kính đặc biệt. Tôi biết họ đến rất thường xuyên, không phải lúc chỉ đến khi có tin mã hóa - để tránh gây nghi ngờ”.

“Những ông già bà già đến phòng đọc sách sẽ làm ta không mảy may nghi ngờ”, Stone nói thêm, “Họ có thể đem bí mật cho vào những con chữ không hợp thời nữa để đưa ra nước ngoài mà ngay cả NSA với siêu vi tính và vệ tinh cũng không thể nào biết. Đúng là một kế hoạch hoàn hảo”.

“Tôi sẽ nói với Albert rằng quyển nào sẵn sàng để đưa vào phòng đọc, và cậu ta sẽ để lại lời nhắn ở trang web nào đó trên mạng internet cho họ - khi nào vào và hỏi mượn cuốn nào. Tôi sẽ đưa sách vào buổi sáng hôm mà họ đến. Tôi có vô vàn bản sách cần phải sửa chữa nên có thể tự do đi lại trong phòng đọc sách, không có vấn đề gì. Họ vào, chép những chữ được tô dạ quang ra, rồi đi về. Vài giờ sau, hóa chất tự biến mất chẳng có một chứng cứ nào còn sót lại”.

“Và các ông được trả tiền công hậu hĩnh, với số tiền chuyển khoản vào tài khoản ở ngân hàng nước ngoài”, Annabelle nói.

“Đại loại như thế ”, lão thừa nhận.

“Nhưng ông đã nói rằng Vincent Pearl là một thành công lớn, sao ông không dành toàn thời gian cho nghề môi giới?” Stone hỏi.

“Tôi nói tôi yêu thích công việc ở thư viện. Tôi cũng cảm thấy vui khi lừa được mọi người. Có lẽ tôi thích làm người giỏi nhất ở cả hai thế giới”.

Caleb lên tiếng, “Gián điệp là đủ tệ lắm rồi, nhưng ông lại còn liên quan đến giết người. Bob Bradley, Cornelius Behan, Norman Janklow, có lẽ là Jewell English? Và Jonathan? Ông đã giết Jonathan”.

“Tôi không giết bất cứ ai trong số họ cả”, Chambers phản đối gay gắt. Lão chỉ vào Trent, “Hắn ta làm, hắn và những người làm ăn chung”.

“Ông Foxworth”, Stone nói chậm rãi.

“Nhưng tại sao lại là Jonathan?”, Caleb cay đắng hỏi, “Tại sao lại là ông ấy?”

Chambers chà xát hai tay với nhau lo lắng, ông ta bất ngờ đến phòng bảo quản sách sau giờ làm việc vào một đêm nọ và thấy tôi thêm dấu hiệu vào một cuốn sách. Tôi chỉ đang quét hóa chất lên các trang sách. Tôi cố gắng hướng ông ta hiểu khác đi nhưng không chắc ông ta có tin mình không. Ngay lập tức tôi báo cho Albert chuyện xảy ra, và điều kế tiếp tôi biết được là tin Jonathan đã chết. Sau đó Albert bảo với tôi rằng phòng đọc là căn cứ trao đổi của chúng tôi, họ phải làm cho cái chết có vẻ tự nhiên. Nếu chúng tôi mất phòng đọc, chúng tôi sẽ không thể làm ăn gì nữa”.

“Ông biết chuyện xảy ra mà vẫn cứ bình chân như vại à?”, Caleb buộc tội.

“Chứ tôi phải làm sao? Tôi mà nói ra thì tôi sẽ phải ở tù rục xương”.

“Giờ thì ông sẽ ở tù rục xương”, Stone gằn giọng. “Cùng với thằng này”, ông nhìn vào Trent nằm một đống.

Một giọng nói vang lên, “Hoặc là không”.

Tất cả cùng quay người lại nhìn Roger Seagreaves bước về phía họ, mỗi tay một khẩu súng.

“Ông Foxworth?”, Caleb lên tiếng.

“Câm họng!”, Seagreaves thiếu bình tĩnh. Ánh mắt hắn ghim vào thằng Trent vừa mới cựa quậy hồi tỉnh.

Khi thấy Seagreaves, hắn nói, “Ơn Chúa, gặp được anh rồi Roger”.

Seagreaves mỉm cười, “Nhầm người rồi Albert”, hắn nã súng vào ngực Trent. Gã Trent há hốc miệng té xuống sàn nhà. Seagreaves chĩa súng vào Stone và Reuben, hai người đang định áp sát hắn. “Tôi không nghĩ thế đâu”. Hắn đưa khẩu súng kia chĩa vào Chambers, “Sự phục vụ của ông đến đây là không cần thiết nữa”. Khi Chamber dang tay ra đón viên đạn, Stone nhảy vào giữa Seagreaves và Chambers.

“Tao đã gọi cảnh sát, họ đang trên đường đến đây. Nếu mày muốn trốn đi thì thời điểm này lý tưởng nhất rồi”.

“Thật cảm động; một thằng mã 666 quan tâm đến một thằng mã 666 khác ư?”

Stone cứng người.

Seagreaves lại cười, “Vậy là đúng rồi. Vậy là ông biết cái luật đầu tiên cho công việc của chúng ta: không bao giờ để lại nhân chứng. Nhưng tôi có hơi tò mò, sao ông lại thê thảm đến độ phải làm việc trong nghĩa trang? Thật là một cú trượt quá dài đối với những người đã từng phục vụ đất nước như ông?”

“Thật ra tao đang nghĩ đến việc thăng tiến đấy”.

Seagreaves lắc đầu, “Tôi đã có thể tránh được nhiều phiền phức nếu lúc trước tôi giết ông đi khi có cơ hội. Tôi đã bỏ lỡ một cơ hội lớn. Nhưng giờ tôi có đủ tiền mặt để sống khỏe rồi”.

Annabelle nói, “Nếu mày trốn đi được”.

“Ồ, tao sẽ trốn đi chứ”.

“Tao không chắc lắm”, Stone nói khi ông từ từ đưa tay phải vào túi áo khoác. “Giờ thì Cơ quan Mật vụ và cả FBI cũng tham gia luôn”.

“Oa, mày làm tao sợ quá. Ít nhất tao cũng cần vài thứ nữa cho bộ sưu tập của mình”, Seagreaves nói. “Giữ tay ngay nơi đó!”, hắn la lớn và tay Stone để yên, ngón tay đã gần chạm đến túi áo khoác rồi. “Giơ tay lên đi lão già”.

“Cái gì?”, Stone hỏi, có vẻ như chẳng biết gì.

“Giơ hai tay cao lên, ‘666’, giơ cao lên để tao thấy hết cả hai bàn tay nào! Nhanh lên!”

Stone giơ phắt hai bàn tay lên trời.

Seagreaves thở hắt ra và loạng choạng ngã tới trước. Buông súng, hắn cố gắng rút con dao ra khỏi cổ họng. Nhưng loại lưỡi dao Stone vừa mới phóng ra khi giơ hai tay lên trời đã cắt đứt động mạch của hắn. Máu chảy ra lênh láng. Seagreaves đã thụp xuống bằng đầu gối, rồi từ từ lăn ngửa ra sàn nhà. Trong khi những người khác hoảng sợ, Stone vẫn bình tĩnh bước đến bên cạnh Seagreaves và kéo con dao ra.

Người cuối cùng ông đã giết bằng cú phi dao bất ngờ cũng giống như kẻ này. Tên này đáng bị giết như thế này.

Milton nhìn đi chỗ khác trong khi Caleb mặt mày xanh như tàu lá và có vẻ như chân ông ta run lập cập. Annabelle và Reuben nhìn vào xác chết.

Stone nhìn xuống cái xác không chút xót thương, “Nếu mày muốn giết ai thì giết ngay, đừng có nói chuyện với hắn”.

Khi Roger Seagreaves nằm im lìm trong vũng máu, họ mới nghe tiếng còi hụ từ xa. “Tôi đã gọi cho Alex Ford khi tôi nhận ra nhà của Chambers đối diện với hiệu sách quý”, Stone giải thích.

“Đó là lý do tôi làm thế này, anh biết đó”, Chambers cuối cùng cũng đưa mắt ra khỏi xác người chết tên là Seagreaves. “Tất cả dành cho sách, giữ chúng cho đời sau, với số tiền tôi đã tìm được tôi đã mua được nhiều thứ hay ho ra phết, thật sự như vậy”. Lão nhìn lên và thấy mọi người đang nhìn lão khinh bỉ.

Chambers từ từ đứng dậy, “Tôi có cái này để đưa cho anh, Caleb”.

Stone nghi ngờ theo lão ta đến bên quầy, khi lão ta chuẩn bị kéo ngăn tủ, Stone nắm chặt tay lão ta, ghì lại, “Để tôi làm cho”.

Chambers phản đối, “Đó đâu phải là vũ khí”.

“Chúng ta sẽ cùng xem?” Stone lôi ra một hộp nhỏ, mở ra và hé mắt nhìn vào trong, ông đưa cho Caleb xem, đó là nguyên tác của quyển Thánh ca.

“Cám ơn Chúa!”, Caleb thở phào nhẹ nhõm, rồi ngạc nhiên nhìn Chambers, “Làm sao ông lấy được nó, ông đâu có chìa khóa hay mật mã của phòng sách”.

“Anh nhớ lần trước khi chúng ta tính rời phòng sách, tôi giả vờ bệnh rồi anh mang cho tôi một cốc nước từ phòng tắm bên dưới? Ngay khi anh rời khỏi phòng, tôi mở tủ sắt ra. Trước đó, tôi đã nhìn thấy anh mở khóa và cả mật mã, đó là con số của phòng đọc, tôi lập tức lấy quyển sách ra, và cất vào túi. Khi anh quay lại với cốc nước, anh đóng cửa phòng và chúng ta cùng rời đi”.

Reuben rên rỉ, “Anh xấu quá, sao lại để hắn một mình trong phòng”.

Caleb bốp chát, “Ai mà biết hắn sẽ ăn cắp cái thứ đó chứ”.

Chambers nhìn chăm chăm vào tay hắn, “Đó là một sự thôi thúc mãnh liệt, khi tôi đã có nó, tôi cảm thấy sợ và cả phấn khích vì tôi vốn dĩ rất thành thật với khách hàng của mình. Nhưng quyển sách đó, chỉ cần tôi được chạm tay vào nó thôi!”. Mắt hắn sáng lên một chút rồi sau đó lại tối sầm, “Ít nhất tôi có thể có nó trong tay, dù chỉ là một lát thôi. Tôi thúc giục chuyện anh phải đánh giá quyển sách vì tôi muốn tránh sự nghi ngờ về phía mình khi mà anh khám phá ra sự mất mát”.

Annabelle nhìn vào trong hộp, “Là quyển này ư? Ông ấy đã giữ nó!”

Caleb nghi ngờ, “Sao thế, cô biết quyển sách à?”, ông hỏi lại.

“Vâng, đó là một câu chuyện dài”, cô ta nhanh chóng giải đáp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68


Alex Ford và một nhóm lính đặc vụ đến ngay sau đó ít phút. Kinh ngạc thay, Albert Trent vẫn còn sống, dù bị thương nặng. Tập tài liệu dầy cộp nhét vào túi phần nào đã giúp hắn tránh được lực của viên đạn. Hắn được khiêng vào xe cứu thương còn Chameber kể lại chi tiết cho cảnh sát những gì đã làm. Khi cảnh sát dẫn hắn đi, hắn còn quay với lại và nói với Caleb, “Nhớ giữ quyển Thánh ca cẩn thận nhé!”

Câu trả lời của Caleb làm mọi người ngạc nhiên, nhất là chính bản thân ông, “Đó chỉ là một quyển sách quỷ quái, Monty hay Vincent hay anh là kiểu người gì tôi cũng không quan tâm, nhưng tôi muốn Jonathan sống lại hơn là ngồi lật mấy trang sách cũ xì này”. Ông cầm quyển sách Thánh ca rồi ném thẳng vào hộp.

Điều tra mở rộng dần chứng minh suy luận của Stone và mọi người là đúng. Bradley bị giết hại vì đã ép buộc Trent phải rời khỏi Ủy ban Tình báo, và điều đó đồng nghĩa với việc làm gián đoạn mối quan hệ làm ăn giữa hắn và Seagraves. Behan bị giết vì gã phát giác ra Jonathan bị sát hại do sử dụng khí cacbonnic đánh cắp trong công ty của gã. Từ những chuyện Chambers thuật lại, thì một số những tay thuộc hạ của Trent, làm việc tại Công ty Cứu hỏa, đã lẻn vào phòng đọc, gắn máy camera vào khoang thông gió, trong lúc giả vờ như đang chỉnh lại miệng ống gas ở đó. Annabelle và Caleb không tìm ra được chuyện này vì bọn chúng hành động vào ngày thứ bảy, khi phòng đọc đóng cửa và máy camera không được bật lên. Tuy vậy, họ đã tìm ra được một vài manh mối quan trọng: đó là cách bà lão Jewell khéo léo sử dụng tay tráo mắt kính và đó cũng là phần nào dẫn đến việc điều tra ra sự thật.

Có một người đàn ông tình cờ chứng kiến sự việc khi đứng gần tầng hầm nơi cất giữ những xilanh khí Halon, cũng là nơi DeHaven bị ám sát, nhưng sau đó, gã kém may mắn này đã bị kết liễu trước khi gã kịp nói với người khác về những chuyện đã xảy ra. Chambers cũng tự nhận đã đột nhập vào phòng sách sau đó và tháo máy camera đi.

Milton trao những chữ mật mã cho đại diện NSA, và họ giải mã chúng, đoạn mã được tiến hành dựa trên một cách viết mật mã từ hàng thế kỷ trước và dễ dàng bị tháo gỡ bởi kỹ thuật giải mã tinh vi trên máy tính hiện đại, nhưng rõ ràng Seagraves đã khéo léo cài những tay gián điệp mà không ai ngờ tới như Monty Chambers, Norman Janklow và cả bà lão Jewell English. Văn bản viết thành mật mã hiện đại đều được điện tử hóa, đòi hỏi từ khóa gồm nhiều dãy số để bảo vệ thông tin khỏi sự tấn công ồ ạt và mạnh mẽ của máy vi tính, và rõ ràng không thể sao chép lại trong một quyển sách cũ.

Trent đã dần hồi phục vết thương và đang bận rộn phân bua, nhất là khi hắn biết chính phủ có thể áp dụng hình phạt cao nhất đối với hắn là tử hình, trong đó thông tin có liên quan là Seagraves cầm đầu tổ chức gián điệp. Và khi biết chuyện có liên quan đến Seagraves, FBI đã mở rộng điều tra đến tất cả những người có mối quan hệ cho dù là không thân thiết với hắn, việc bắt bớ sẽ không tránh khỏi.

FBI cũng lục soát nhà của Seagraves và tìm thấy “bộ sưu tập” của hắn. Tuy ban đầu họ không biết những thứ đồ để trong phòng có ý nghĩa gì, nhưng cuối cùng họ phát giác ra rằng việc đó không đơn giản tí nào, vì nhiều thứ có liên quan đến các nạn nhân đã bị Seagraves sát hại khi hắn từng làm cho CIA.

Cuối cùng Stone cũng có cuộc gặp gỡ với Ford, thành viên FBI và cả hai tay thám tử của D.C. đã chạm trán với Caleb ở thư viện. Một tay FBI nói, “Chúng tôi biết đến sự tồn tại của một tổ chức gián điệp ngay trong thành phố này, nhưng chúng tôi không tìm được cách truy ra ngọn nguồn của chúng, và càng không thể ngờ Thư viện Quốc hội lại có dính líu”.

Stone tự hào, “Chúng tôi có một con át chủ bài mà các anh không có”.

Tay đặc vụ ngạc nhiên, “Đó là gì?”

Alex Ford đỡ lời, “Một người thủ thư đầy kinh nghiệm tên là Caleb Shaw”.

Tay thám tử D.C nheo mắt vui vẻ, “Đúng rồi, anh Shaw? Anh ta có vẻ hơi căng thẳng”.

Stone tiếp, “Nói thẳng ra là việc thiếu tự tin cá nhân của anh ta vẫn luôn được xem nhẹ so với...”

Tay thám tử chen ngang, “Sự may mắn ngẫu nhiên sao?”

“Không, đó là cách để ý sự việc đến từng chi tiết”.

Họ cám ơn Stone đã cung cấp thông tin và rồi mời người khác vào thẩm vấn.

Một trong số tay FBI kết luận, “Nếu có cần gì giúp đỡ cứ gọi cho chúng tôi”, rồi đưa cho Stone danh thiếp với số điện thoại trên đó.

Stone bỏ danh thiếp vào túi và nghĩ bụng, mình mong rằng không bao giờ cần đến mức kinh khủng như vậy.

Sau khi mọi thứ có vẻ lắng dịu xuống, họ lại tụ họp ở nhà của Stone và Caleb đưa cho Annabelle xem quyển sách Thánh ca và muốn cô ta nói lên sự thật.

Annabelle hít một hơi dài và bắt đầu giải thích, “Tôi biết Jonathan rất thích đọc sách, và một ngày kia khi tôi vui miệng hỏi nếu ông ấy muốn có một quyển sách quý nhất trên thế giới này thì đó sẽ là quyển nào, ông ấy bảo sẽ là quyển Thánh ca đó. Thế rồi tôi suy nghĩ, tìm kiếm chúng trong tất cả những thư viện và tìm ra một nơi thích hợp nhất để đánh cắp”.

Caleb chen ngang, “Cho tôi đoán nhé, nhà thờ cổ miền nam ở Boston phải không?”

“Sao anh biết?”

“Dễ đột nhập hơn là Thư viện Quốc Hội hay trường đại học Yale, tôi nghĩ thế”.

“Tôi tìm đến đó cùng với một người bạn và giới thiệu tôi là nghiên cứu sinh đại học đang tham gia đề tài về những quyển sách nổi tiếng”.

“Và họ cho cô xem qua nó à”, Caleb hỏi.

“Đúng vậy, cả chụp hình nữa, rồi tôi có người bạn khác rất giỏi làm giả... ý tôi là tạo ra đồ vật”.

“Vậy là anh ta làm giả quyển sách Thánh ca ư?”, Caleb thốt lên kinh ngạc.

“Giống nhau như thật, không thể phân biệt được”, Annabelle vụt tắt sự phấn khích khi thấy Caleb bắt đầu nổi giận. “Cuối cùng là chúng tôi cùng quay trở lại đó, rồi làm cú đánh tráo nhỏ”.

“Cô chỉ đánh tráo nhỏ thôi ư?”, Caleb đỏ mặt tía tai, “Với một trong những quyển sách quý hiếm nhất trên thế giới mà cô bảo là chỉ đánh tráo thôi à?”

Stone xen vào, “Sao cô không đưa quyển sách giả giống thật cho DeHaven?”

“Đưa quyển giả cho người tôi yêu ư? Không bao giờ?”

Caleb ngồi sụp xuống ghế, “Tôi không thể tin vào tai được”.

Trước khi ông ta trở nên bực bội hơn, cô ta tiếp tục, “Khi tôi đưa cho ông ấy quyển sách này, Jonathan rất kinh ngạc, nhưng tôi chỉ bảo đây là quyển giả mạo mà thôi, tôi nghĩ có lẽ ông ấy cũng gọi đến nhiều nơi để hỏi thăm, dù sao ông ấy cũng biết tôi đâu phải là kẻ sống hoàn toàn trung thực đâu”.

“Thật vậy ư? Chuyện có vẻ hay nhỉ”, Caleb bốp chát.

Cô ta giả lơ, “Nhưng vì nhà thờ không biết quyển sách đó là sách giả và cũng không ai báo mất quyển Thánh ca nào cho nên cuối cùng Jonathan kết luận rằng tôi nói thật, ông ấy rất vui vì điều đó, dù sao quyển sách đó cũng cũ rồi”.

“Sách cũ à!”. Caleb sắp sửa nổ tung vì giận dữ thì Stone đặt tay lên vai ông ta, “Này, thôi đừng nhắc lại chuyện cũ nữa, Caleb ạ”.

“Chuyện cũ gì?”, Caleb lầm bầm.

“Tôi sẽ trả nó lại”, Annabelle tỏ thành ý.

“Ý cô là sao?”, Caleb hỏi.

“Tôi sẽ mang quyển sách về chỗ cũ, đánh tráo quyển sách lần nữa”.

“Cô không nói đùa chứ”.

“Tôi hoàn toàn nghiêm túc, tôi có thể đánh tráo một lần, và lần nữa không vấn đề gì”.

“Lỡ họ bắt cô thì sao?”

Cô ta nhìn Caleb với ánh mắt thương hại, “Bây giờ tôi điêu luyện hơn lúc trước nhiều rồi”. Cô ta nhìn sang Milton và nói thêm, “Có muốn giúp tôi làm điều này không?”

“Chắc chắn rồi!”, Milton thốt lên đầy phấn khích.

Caleb cáu gắt, “Tôi nghiêm cấm anh trở thành tòng phạm nhé”.

Milton ngập ngừng, “Anh đừng dễ nổi cáu thế chứ? Đó đâu phải là tòng phạm nếu chúng tôi gửi trả lại quyển sách thật nhỉ?”

Caleb tính nói gì đó rồi lại thôi, “Vâng, tôi nghĩ cũng đúng”.

“Tôi sẽ tự tính toán”, Annabelle nói, “Giờ thì tôi chỉ cần quyển sách của anh, Caleb”. Cô ta vươn tay ra lấy.

Caleb lập tức ghì sát quyển sách vào ngực, “Tôi có thể giữ nó cho đến lúc cô cần không?”. Ông mân mê bìa sách.

Reuben nhắc nhở Caleb, “Anh bảo Monty rằng nó chỉ là một quyển sách vô giá trị mà”.

Caleb nhìn khổ sở, “Tôi biết mà, tôi chẳng nháy mắt khi nói ra những điều đó còn gì, có lẽ bà tiên sách đã nguyền rủa tôi”.

Annabelle gật đầu, “Được rồi, anh cứ giữ lấy”.

Reuben nhìn cô ta tràn đầy hy vọng, “Bây giờ mọi thứ đã qua đi, thế cô có muốn đi đâu đó với tôi tối nay không?”

Cô ta mỉm cười, “Để tôi xem lại thời tiết, Reuben ạ. Nhưng cám ơn anh đã có nhã ý”.

“Sẽ còn nhiều lần như vậy nữa, thưa quý cô”, ông hôn tay cô.

Sau khi mọi người rời khỏi căn nhà, Annabelle tìm đến Stone lúc này đang làm việc ngoài nghĩa trang.

Ông dọn dẹp một nấm mồ, còn cô nàng nhổ cỏ dại bỏ vào túi ni-lông. Ông chau mày, “Cô không cần phải ở lại và giúp tôi đâu, làm việc ở nghĩa trang là một chuyện chẳng thích hợp với một người như cô tí nào”.

Cô ta chống tay lên hông, “Vậy ông nghĩ sống thế nào mới thích hợp với tôi?”

“Chồng, con, nhà đẹp ở vùng ngoại ô, tham gia hội phụ huynh học sinh, và có thể nuôi chó cưng”.

“Ông đang đùa à?”

“Vâng, tôi đùa đấy. Bây giờ thì sao?”

“Tôi phải trả sách nếu không Caleb sẽ nổi điên mất”.

“Rồi sau đó?”

Cô ta nhún vai, “Tôi chẳng nghĩ ngợi xa hơn nữa đâu”. Cô ta cầm lấy miếng xốp, cúi thấp xuống và giúp Stone chà sạch tấm bia. Sau đó, cô ta đi nấu bữa tối, cùng ăn và trò chuyện với Stone ngay dưới mái hiên.

Annabelle liếc nhìn Stone, “May là tôi đã quay lại”.

Stone phụ họa, “Tôi cũng thế, Annabelle”.

Cô ta mỉm cười khi nghe ông gọi tên thật của mình. “Tên Seagraves đó gọi ông là một thằng 666. Điều đó có ý nghĩa gì?”

Stone trả lời, “Chuyện cũng đã cách đây ba mươi năm rồi”.

“Cũng công bằng thôi, tất cả chúng ta đều có bí mật, thế ông có tính đi chỗ khác không?”, cô ta hỏi.

Ông lắc đầu, “Ở đây có vẻ thích hợp với tôi”, ông đáp gọn lỏn.

Có thể vậy, Annabelle suy nghĩ, rồi họ cùng im lặng, thưởng thức trăng tròn trên bầu trời.

Cách đó bốn giờ lái xe về hướng bắc, Jerry cũng đang nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm trăng. Hắn đã gọi tất cả những mối quen biết, đe dọa và đánh đập nhiều hơn số mà hắn nhớ, thích thú từng phút giây hành hạ người khác. Kết quả là hắn đang tiến gần đến đích hơn vì lần lượt những hàng rào phòng thủ của Annabelle đã lộ diện. Và sắp tới, những gì hắn đã làm với Tony Wallace sẽ nhanh chóng được thực hiện với Annabelle. Hình ảnh cô ả gục ngã bất giác làm hắn nở một nụ cười mãn nguyện, hắn đã trở lại thế thượng phong, hắn rít một hơi xì-gà và nhấp một ngụm uýt-ki.

Mày chuẩn bị nhé Annabelle Conroy, tay Jerry to lớn, xấu tính sắp đến rồi đấy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom