Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Khi Krantz tỉnh dậy sau cuộc phẫu thuật, điều đầu tiên mà cô ta nhận thấy là cảm giác đau buốt ở vai phải. Cô ta cố nhấc đầu khỏi gối vài inch và nhìn quanh căn phòng nhỏ được sơn trắng: chỉ có những đồ vật thật cần thiết - một chiếc giường, một chiếc tủ, một tấm ga, một chiếc chăn và một chiếc quạt nhỏ để giường. Chắc là bệnh viện, nhưng không phải là bệnh viện tư, bởi vì không có cửa sổ, không có hoa, không đồ ăn thức uống. Krantz cố nhớ lại những gì đã xảy ra với cô ta. Cô ta nhớ là khẩu súng của người tài xế tắc xi đã chĩa thẳng vào tim cô ta, và chỉ nhớ được có thế. Cô ta chỉ có đủ thời gian để quay đi 1 inch, không hơn, trước khi viên đạn xé bả vai cô ta. Chưa bao giờ cô ta phải đối mặt với thần chết ở cự ly gần đến thế. Viên đạn thứ hai bị trượt hoàn toàn, nhưng cô ta đã có được khoảng thời gian một giây giữa hai lần bắn của người tài xế tắc xi, đủ để cô ta cắt đứt họng ông ta.

Chắc chắn ông ta là một người trong nghề, một cựu sỹ quan cảnh sát, cũng có thể là một cựu binh. Cô ta chỉ nhớ được có thế, bởi vì sau khi kịp cắt họng ông già, chắc chắn cô ta đã ngất đi.

Jack đăng kỷ ngủ qua đêm tại Wentworth Arms, và đặt một bàn ăn tối vào lúc 8 giờ. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, anh mong đợi phút giây được nghiến ngấu một tảng bít tết to dày. Cho dù chắc chắn Anna đã ngủ lại Lâu đài Wentworth, Jack vẫn không thể yên tâm khi anh nghĩ tới chuyện Người Lùn có thể đang lảng vảng đâu đây. Anh đã yêu cầu Tom thông báo cho cảnh sát địa phương, trong khi bản thân anh vẫn tiếp tục tự mình theo dõi. Anh ngồi trong phòng đợi, nhấm nháp một cốc Guinness và nghĩ về Anna. Trước khi đồng hồ điểm 8 giờ, Tom bước vào, nhìn quanh và thấy bạn mình đang ngồi gần lò sưởi. Jack đứng dậy chào anh ta, và xin lỗi vì đã lôi anh ta xuống Wentworth trong khi nhẽ ra anh ta đã được hưởng một buổi tối vui vẻ với câu lạc bộ Chloe và Hank.

“Một khi quán này có thể chế được món đồ uống Tom Collins ngon lành thì cậu sẽ không phải nghe lời phàn nàn của tớ”, Tom trả lời.

Tom đang giải thích với Jack về lịch sử hơn nửa thế kỷ của câu lạc bộ Hank thì người phục vụ bàn bước tới và ghi các món mà hai người gọi. Cả hai cùng chọn bít tết, nhưng với tư cách là một người Texas, Tom thú nhận anh vẫn không thể nào quen với kiểu bít tết của Anh quốc, vì theo anh thì bít tết bò của Anh quốc trông giống như được làm từ thịt cừu.

“Tôi sẽ gọi cho hai anh”, người phục vụ bàn nói, “ngay khi bàn ăn sẵn sàng”.

“Cảm ơn”, Jack nói, trong khi Tom cúi xuống và mở cặp ra. Anh ta lấy ra một tập hồ sơ dày và đặt lên bàn. Chuyện phiếm chưa bao giờ là sở trường của anh ta.

“Hãy bắt đầu bằng những tin quan trọng trước nhé”, Tom vừa nói vừa mở tập hồ sơ ra. “Bọn mình đã xác định được người phụ nữ trong bức ảnh mà cậu gửi tới từ Tokyo”. Jack bỏ cốc đồ uống xuống và tập trung vào nội dung của tập hồ sơ. “Tên cô ta là Olga Krantz, và cô ta có một điểm chung với Tiến sỹ Petrescu”.

“Đó là gì vậy?”, Jack hỏi.

“Mọi người cũng nghĩ rằng cô ta đã mất tích, có thể đã chết. Như cậu có thể thấy trong hồ sơ về cô ta”, Tom vừa nói thêm vừa đẩy một tờ giấy qua bàn, “chúng ta đã mất dấu cô ta vào năm 1989, khi cô ta không còn là vệ sỹ của Ceausescu nữa. Nhưng bây giờ thì có thể kết luận cô ta hiện nay đang làm việc cho Fenston”.

“Chỉ là suy diễn”, Jack nói, cùng lúc đó, người hầu bàn đem đến một ly Tom Collins và một cốc Guinness.

“Không phải thế, nếu cậu xem xét các sự kiện một cách lôgic”, Tom nói, “và nối kết các chi tiết lại với nhau”, anh ta nói thêm rồi nhấp một ngụm rượu, “Ừm, không phải tồi. Suy cho cùng, cô ta và Fenston có thời cùng làm việc cho Ceausescu”.

“Chỉ là trùng hợp”, Jack nói. “Không thể đứng vững trước toà”.

“Có thể, nếu cậu biết rõ công việc của cô ta”.

“Cậu thử nói xem nào”, Jack nói.

“Cô ta có nhiệm vụ loại bỏ bất kỳ ai có thể gây nguy hiểm cho Ceausescu”.

“Vẫn chỉ là suy diễn”.

“Cho đến khi cậu phát hiện ra cách thức giết người của cô ta”.

“Một con dao làm bếp?”, Jack hỏi mà không nhìn xuống tờ giấy trước mặt.

“Cậu đoán đúng”, Tom nói.

“Nếu cậu đúng, thì còn một mắt xích nữa trong chuỗi lôgic này”.

“Gì vậy?”, Tom hỏi.

“Anna sẽ là nạn nhân tiếp theo của cô ta”

“Không, chuỗi lôgic bị vỡ ở chỗ này, bởi vì sáng nay Krantz đã bị bắt tại Bucharest.”

“Cái gì?”, Jack hỏi.

“Cảnh sát địa phương đã bắt giữ cô ta”, Tom nói thêm.

“Khó có thể tin là họ lại tiếp cận được cô ta, dù là cách một dặm”, Jack nói. “Tớ luôn bị mất dấu cô ta ngay cả khi tớ biết cô ta đang ở đâu”.

“Cảnh sát địa phương thừa nhận rằng”, Tom nói, “cô ta lúc đó đang bị bất tỉnh”.

“Cho tớ biết chi tiết đi”, Jack nói một cách nôn nóng.

“Có vẻ như, và người ta vẫn đang gửi thêm các báo cáo bổ sung khi tớ rời đại sứ quán, là Krantz đã cãi cọ với một người tài xế tắc xi. Trong túi ông này có 500 đôla. Ông ta đã bị cắt đứt họng, còn cô ta thì bị dính đạn vào vai. Chúng ta không biết lý do của vụ việc này, nhưng vì ông ta bị giết chỉ vài phút trước khi cậu cất cánh, bọn tớ nghĩ cậu có thể giúp làm rõ chuyện này”.

“Chắc Krantz muốn biết Anna sẽ đi chuyến bay nào, nhưng ông già kia sẽ không đời nào nói cho cô ta biết. Ông ta bảo vệ Anna giống như một người cha bảo vệ cho con gái mình, và 500 đôla chỉ là trùng hợp. Krantz không bao giờ giết người vì một món tiền nhỏ như thế. Và người tài xế tắc xi này không phải là phường lừa đảo khách hàng”.

“Dù thế nào thì bây giờ Krantz cũng đã bị khoá chặt. Nếu may mắn, cô ta sẽ được ngồi tù cho đến hết đời. Nhưng chắc cô ta khó có thể gặp may như thế, bởi vì một nửa nước Romania muốn bóp cổ cô ta”. Tom liếc nhìn xuống tập hồ sơ. “Và hoá ra người tài xế tắc xi kia là Đại tá Sergei Slatinaru, một người anh hùng trong cuộc nổi dậy”. Tom uống một hớp bia trước khi nói thêm, “Vậy là cậu không còn phải lo lắng cho sự an toàn của Petrescu nữa”.

Người hầu bàn xuất hiện và mời hai người bọn họ vào phòng ăn.

“Cũng giống như phần lớn người Romania, tớ chỉ có thể yên tâm khi tận mắt thấy Krantz đã chết”, Jack nói. “Nếu không, tớ vẫn còn lo cho Anna”.

“Hay mời cô ta tới đây với bọn mình?”.

“Quên chuyện đó đi, chắc lúc này cô ta đang ăn tối với Phu nhân Arabella tại Lâu đài Wentworth”.

Một người hầu bàn đặt một bát xúp khoai tây trước mặt Tom và một đĩa xa lát Caesar trước mặt Jack.

“Có thêm tin gì về Anna không?”.

“Không nhiều”, Tom thú nhận, “nhưng tớ có thể nói cho cậu biết rằng cô ta đã gọi cho Sở cảnh sát New York từ sân bay Bucharest. Cô ta yêu cầu họ gạch tên mình ra khỏi danh sách những người mất tích, nói rằng cô ta đang ở Romania thăm mẹ mình. Cô ta cũng gọi cho bác mình ở Danville, Illinois, và Phu nhân Arabella ở Lâu đài Wentworth”.

“Vậy thì cuộc gặp của cô ta ở Tokyo hẳn là đã thất bại”, Jack nói.

“Cậu phải giải thích chuyện đó cho tớ nghe”, Tom nói.

“Cô ta đã có một cuộc gặp gỡ tại Tokyo với một nhà tài phiệt trong ngành thép gọi là Nakamura, ông ta có một bộ sưu tập tranh ấn tượng lớn nhất thế giới, theo lời của người gác cửa tại khách sạn Seiyo cho tớ biết”. Jack dừng lại. “Chắc chắn là cô ta đã không bán được bức tranh Van Gogh cho Nakamura, và vì thế cô ta đã đưa bức tranh trở lại London, và từ đó gửi sang New York”.

“Có thể là như thế”, Tom vừa nói vừa lấy một tờ giấy từ tập hồ sơ ra. “Tiện đây xin nói thêm, cô ta đang bị hãng Happy Hire truy tìm. Họ nói rằng cô ta đã để một chiếc xe của họ lại biên giới Canada, mất chắn bùn trước, mất cả hai thanh ba đờ sốc, tất cả các bóng đèn đều cháy”.

“Đó chỉ là chuyện vặt”, Jack nói.

“Cậu phải lòng cô gái này à?”, Tom hỏi.

Jack không trả lời. Người hầu bàn xuất hiện bên cạnh họ. “Hai bít tết, một tái, một chín”, anh ta nói.

“Tái là của tớ”, Tom nói.

Người hầu bàn đặt hai chiếc đĩa xuống rồi nói: “Chúc ngon miệng”.

“Lại thêm một lối nói mà người Mỹ đã xuất khẩu”, Tom cằn nhằn.

Jack mỉm cười. “Cậu có biết thêm gì về Leapman không?”

“Ồ, có”, Tom nói. “Chúng ta đã biết thêm nhiều điều về Leapman”. Anh ta liếc nhìn một tập hồ sơ khác trên bàn. “Ông ta là người Mỹ, thế hệ thứ hai, và học luật ở đại học Colombia. Không giống như cậu”, Tom vừa nói vừa cười nhăn nhở. “Sau khi tốt nghiệp, ông ta làm việc cho nhiều ngân hàng, thường là thăng tiến rất nhanh, cho đến khi ông ta dính vào một vụ lừa đảo. Ngón nghề của ông ta là bán trái phiếu cho những bà quả phụ không có thật”. Tom dừng lại. “Quả phụ thì có thật, trái phiếu thì không có thật”. Jack cười, “ông ta ngồi tù hai năm tại Trung tâm Cải tạo Rochester ở New York, và bị cấm hành nghề suốt đời tại bất kỳ một ngân hàng hay một tổ chức tài chính nào”.

“Nhưng ông ta là cánh tay phải của Fenston?”.

“Đúng là của Fenston, nhưng không phải của ngân hàng Fenston Finance. Tên của ông ta không xuất hiện trong bảng lương của họ, dù là với tư cách người quét dọn. Ông ta đóng thuế thu nhập cá nhân đối với khoản tiền mà ông ta nhận hàng tháng từ một bà cô của mình ở Mêhicô”.

“Thôi đi nào...”, Jack nói.

“Và cho dù cậu có nói gì, phòng của mình vẫn chưa tìm ra bất cứ một đầu mối nào cho thấy bà cô ấy thực sự tồn tại hay không”.

“Có mối quan hệ nào với người Romania không?”, Jack vừa hỏi vừa cắt bít tết.

“Không, với những gì chúng ta biết”, Tom nói.

“Leapman có thể sẽ là đầu mối tốt nhất của chúng ta”, Jack nói. “Giá mà chúng ta có thể tóm ông ta để khai thác…”.

“Không có hy vọng”, Tom nói. “Kể từ khi ra tù, ông ta hết sức cẩn thận, thậm chí ông ta còn chưa bao giờ bị phạt vì tội đỗ xe không đúng quy định, và tớ nghĩ rằng ông ta còn sợ Fenston hơn cả sợ chúng ta”.

“Giá mà Hoover còn sống”, Jack nhăn nhở nói.

Cả hai người cùng nâng cốc, trước khi Tom nói thêm, “Vậy khi nào cậu bay về Mỹ? Tớ hỏi như thế để biết khi nào thì tớ có thể quay trở lại với công việc hàng ngày”.

“Ngày mai, tớ nghĩ thế”, Jack nói. “Bây giờ khi Krantz đã bị bắt, tớ cần phải quay trở lại New York. Macy chắc sẽ muốn biết tớ có tìm ra mối quan hệ nào giữa Krantz và Fenston hay không”.

“Và cậu có tìm ra không?”, Tom hỏi. Cả Jack lẫn Tom không ai chú ý tới hai người đàn ông đang nói chuyện với người trưởng nhóm hầu bàn. Chắc chắn không phải họ đang đặt bàn, bởi vì họ không để áo khoác lại quầy tiếp tân. Sau khi người trưởng nhóm hầu bàn đã trả lời câu hỏi của họ, họ đi thẳng qua phòng ăn.

Tom đang cho các tập hồ sơ vào cặp của mình thì hai người bọn họ bước tới bên bàn.

“Xin chào các ông”, người cao lớn hơn nói. “Tôi là Thám tử, Trung sỹ Frankman, còn đây là đồng nghiệp của tôi, Thám tử, Hạ sỹ Ross. Tôi xin lỗi vì đã làm hỏng bữa ăn của các ông, nhưng tôi cần nói đôi lời với ông”, anh ta vừa nói vừa chạm tay vào vai Jack.

“Tại sao, tôi đã làm gì?”, Jack vừa hỏi vừa đặt dao và dĩa xuống. “Đỗ xe trên vạch vàng đôi à?”.

“Tôi e là nghiêm trọng hơn thế, thưa ông”, viên trung sỹ nói, “và vì vậy tôi phải mời ông về đồn”.

“Vì tội gì?”, Jack hỏi.

“Tôi nghĩ sẽ là khôn ngoan hơn nếu chúng ta không tiếp tục nói chuyện ở một quán ăn đông người”.

“Và theo lệnh của ai...”.

“Tôi nghĩ ông không nên tham dự vào chuyện này”.

“Đó là quyền của tôi”, Tom nói và móc phù hiệu FBI từ túi áo trong ra. Anh ta vừa định mở chiếc ví da ra thì Jack chạm vào khuỷu tay anh và nói, “Không nên gây chú ý. Không nên để Cục phải dính líu vào chuyện này”.

“Bọn người này nghĩ họ đang nói chuyện với...”.

“Thôi nào, Tom. Đây không phải là nước Mỹ. Tớ sẽ đi với họ tới đồn cảnh sát để giải quyết chuyện này”. Tom miễn cưỡng cho tấm phù hiệu FBI vào túi áo, và cho dù anh ta không nói gì, khuôn mặt của anh ta nói rõ với hai người cảnh sát kia cảm xúc của anh ta. Khi Jack đứng lên, viên trung sỹ ngay lập tức cho còng vào tay anh.

“Này, có thật cần thiết phải làm thế không?”, Tom nói.

“Tom, đừng can dự vào chuyện này”, Jack nói bằng một giọng ôn hoà.

Tom miễn cưỡng theo Jack ra khỏi phòng ăn, qua một căn phòng đầy khách, những người chăm chú nói chuyện và ăn uống như thể không có chuyện gì bất thường xảy ra quanh họ. Khi ra tới cửa, Tom nói, “Cậu có cần tớ cùng đi tới đồn cảnh sát không?”.

“Không”, Jack trả lời, “tại sao cậu không ở lại. Đừng lo, tớ sẽ về kịp giờ để uống cà phê”.

Có hai người phụ nữ nhìn Jack chằm chằm từ phía bên kia hành lang.

“Có phải anh ta không, thưa bà?”.

“Đúng là anh ta”, một trong hai người phụ nữ ấy khẳng định.

Khi Tina nghe thấy tiếng mở cửa, chị ngay lập tức tắt màn hình theo dõi. Chị không nhìn lên, bởi vì chỉ có một người không bao giờ gõ cửa khi bước vào phòng chị.

“Tôi nghĩ cô biết Petrescu đang trên đường trở về New York?”.

“Tôi đã nghe nói”, Tina vừa nói vừa tiếp tục đánh máy.

“Nhưng cô có nghe nói rằng”, Leapman đặt cả hai tay lên bàn chị, “cô ta đã tìm cách đánh cắp bức tranh Van Gogh?”.

“Bức tranh trong phòng chủ tịch à?”, Tina hỏi một cách ngây thơ.

“Đừng vờ vịt với tôi”, Leapman nói. “Cô nghĩ tôi không biết là cô nghe lỏm mọi cuộc nói chuyện điện thoại của chủ tịch à?”. Tina ngừng đánh máy và nhìn lên. “Có lẽ đã đến lúc báo cho ngài Fenston biết về nút chuyển mạch dưới bàn làm việc của cô, và việc cô có thể theo dõi chủ tịch mỗi khi ông ấy nói chuyện với bất kỳ ai trong văn phòng”.

“Ông doạ tôi đấy à, ông Leapman?”, Tina hỏi. “Bởi vì nếu thế, tôi cũng có chuyện muốn nói với chủ tịch”.

“Và tại sao tôi lại phải quan tâm tới chuyện của cô?”, Leapman hỏi.

“Về những cuộc điện thoại mà hàng tuần ông nhận được từ một người tên là Pickford, và có thể chúng ta sẽ biết ai là người đang vờ vịt”. Leapman bỏ tay ra khỏi bàn và đứng thẳng dậy.

“Tôi nghĩ cơ quan điều tra sẽ rất quan tâm khi biết rằng ông đã quấy rối nhân viên của một ngân hàng mà ông không làm việc cho nó, không có văn phòng trong đó, và không nhận lương của ngân hàng ấy”.

Leapman lùi lại một bước.

“Lần sau tới thăm tôi, ông Leapman, ông hãy gõ cửa, như bất kỳ một vị khách nào của ngân hàng”.

Leapman lùi lại một bước nữa, lưỡng lự, rồi bước ra ngoài mà không nói lấy một lời.

Khi cánh cửa đóng lại, Tina run tới mức chị phải nắm chặt lấy tay ghế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Khi chiếc xe cảnh sát trở về đồn, Jack bị đẩy xuống xe. Sau khi viên trung sỹ trực ban đã ghi tên anh, hai viên thám tử đưa anh xuống cầu thang tới phòng thẩm vấn. Trung sỹ Frankham bảo anh ngồi xuống một chiếc ghế đối diện với anh ta qua bàn làm việc. Một chuyện mà Jack chưa từng trải qua bao giờ. Hạ sỹ Ross đứng yên lặng ở một góc.

Jack băn khoăn không hiểu ai trong hai người bọn họ sẽ chứng minh được rằng mình là một cảnh sát giỏi hơn.

Trung sỹ Frankham ngồi xuống, đặt một tập hồ sơ lên bàn và lấy ra một tờ khai mẫu.

“Tên?”, Frankham bắt đầu.

“Jack Fitzgerald Delaney”, Jack đáp. “Ngày sinh?”.

“22 tháng 10 1963”.

“Nghề nghiệp?”.

“Sỹ quan điều tra cao cấp của FBI, văn phòng New York”.

Viên trung sỹ bỏ bút xuống, nhìn lên và nói: “Ông có mang thẻ không?”. Jack đưa thẻ FBI và chứng minh thư của anh cho anh ta.

“Cảm ơn ông”, Frankham nói sau khi đã xem kỹ hai tấm thẻ. “ông có thể chờ ở đây một lát được không?”.

Anh ta đứng dậy và quay sang người đồng nghiệp của mình. “Anh có thể mời Đặc vụ Delaney một cốc cà phê không? Chuyện này cần phải mất chút thời gian”. Khi ra tới cửa, anh ta nói thêm, “Và hãy giúp ông ấy thắt lại caravát, dây lưng và dây giày nhé”. Hoá ra trung sỹ Frankham nói đúng, bởi vì một giờ sau chiếc cánh cửa nặng nề mới mở ra và một người lớn tuổi hơn có nước da đen sạm bước vào. Ông ta mặc một bộ đồng phục được cắt may cẩn thận, có viền bạc trên ống tay, ngù vai, và mũ. Ông ta bỏ mũ ra và để lộ một mái tóc muối tiêu, rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Jack.

“Xin chào ông Delaney. Tôi là Renton, Chánh thanh tra Renton, và bây giờ khi chúng tôi đã kiểm tra lại thông tin về ông, xin ông làm ơn trả lời một vài câu hỏi của chúng tôi”.

“Nếu tôi có thể”, Jack nói.

“Tôi nghĩ là ông có thể”, Renton nói.

“Vấn đề là ông có muốn hay không”. Jack không trả lời.

“Chúng tôi đã nhận được lời phàn nàn từ một nguồn tin đáng tin cậy rằng trong suốt tuần qua, ông đã bám theo một phụ nữ mà không báo trước cho cô ta biết. Điều này vi phạm điều luật chống quấy rối đã được áp dụng ở nước Anh từ năm 1997, mà chắc chắn là ông cũng biết. Tuy nhiên, tôi nghĩ là ông có một lời giải thích đơn giản”.

“Tiến sỹ Petrescu liên quan đến một cuộc điều tra đang được tiến hành, mà phòng của tôi đã tham gia trong một thời gian”.

“Cuộc điều tra ấy có liên quan gì tới cái chết của Phu nhân Victoria Wentworth hay không?”.

“Có”, Jack trả lời.

“Và Tiến sỹ Petrescu bị tình nghi là thủ phạm giết người?”.

“Không”, Jack trả lời một cách quả quyết. “Rất may là kẻ sát nhân đã bị bắt tại Bucharest”.

“Và ông cảm thấy không thể chia sẻ thông tin này với chúng tôi?”, Renton nói. “Bất chấp thực tế là các ông biết chúng tôi cũng đang tiến hành điều tra vụ này”.

“Tôi xin lỗi, thưa ngài”, Jack nói. “Chính tôi cũng mới đi đến kết luận vài giờ trước. Nhưng tôi tin chắc văn phòng London của chúng tôi sẽ thông báo cho các ngài”.

“Ông Tom Crasanti đã thông báo vắn tắt với tôi, nhưng tôi nghĩ ông ta làm chuyện đó chỉ vì đồng nghiệp của mình đang bị tạm giữ”. Jack không nói gì. “Nhưng đúng là ông ta có khẳng định với tôi rằng các ông sẽ thông báo diễn tiến của vụ điều tra này cho chúng tôi”. Một lần nữa, Jack không nói gì. Viên chánh thanh tra cảnh sát đứng dậy. “Tạm biệt, ông Delaney. Tôi đã ra lệnh thả ông ngay lập tức, và hy vọng ông có một chuyến bay an toàn về nước”.

“Cảm ơn ngài”, Jack nói khi Renton đội mũ lên và rời khỏi phòng.

Jack cảm thấy thông cảm với viên chánh thanh tra. Suy cho cùng, NYPD, chưa nói gì tới CIA, cũng hiếm khi cho FBI biết họ đang làm gì. Một lát sau, trung sỹ Frankham quay trở lại.

“Mời ông đi theo tôi”, anh ta nói, “chúng tôi đã cho xe chờ để đưa ông về khách sạn”.

“Cảm ơn”, Jack nói rồi đi theo viên trung sỹ ra khỏi phòng, leo lên cầu thang và bước ra phòng tiếp tân. Viên trung sỹ trực ban cúi chào khi anh bước ra khỏi tòa nhà. Jack bắt tay với trung sỹ Frankham. Anh ta có vẻ xấu hổ. Rồi Jack lên chiếc xe của cảnh sát đang đỗ ở trước cổng. Tom đã ngồi sẵn ở ghế sau.

“Thêm một bài tập thảo luận để Quantico đưa vào giáo trình của mình”, Tom nói đùa. “Lần này là về việc làm thế nào để gây ra những vụ việc nghiêm trọng trong quan hệ ngoại giao với một đồng minh lâu năm nhất”.

“Có lẽ tớ đã thêm nét nghĩa cho cụm từ mối quan hệ đặc biệt”, Jack nói. “Tuy nhiên, kẻ bị cáo buộc sẽ có cơ hội để lấy lại danh dự”, Tom nói.

“Cậu có gì trong đầu đấy?”, Jack hỏi. “Chúng ta đã được mời tới Lâu đài Wentworth để dùng bữa sáng với Phu nhân Arabella và Tiến sỹ Petrescu, và này, tớ đã biết tại sao cậu lại phải lòng Anna”.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Jack ra khỏi quán trọ Wentworth Arms lúc 7 giờ 30 phút. Một chiếc Rolls-Royce đã chờ sẵn ở cổng. Người tài xế mở cửa sau xe ngay khi vừa trông thấy anh.

“Xin chào ngài”, anh ta nói. “Phu nhân Arabella muốn tôi nói với ngài rằng Phu nhân đang rất mong chờ được đón tiếp ngài”.

“Tôi cũng vậy”, Jack vừa nói vừa bước lên xe.

“Chúng ta sẽ về tới Lâu đài trong vòng vài phút”, người tài xế nói khi anh ta cho xe chạy ra khỏi cổng quán trọ.

Sau khi cho xe dừng lại trước đại sảnh của tòa Lâu đài, người tài xế nhảy xuống và bước lại mở cửa sau cho Jack. Anh bước xuống con đường rải sỏi và nhìn lên. Người quản gia đang đứng trên bậc thềm cao nhất để chờ anh.

“Xin chào ngài”, ông ta nói, “chào mừng ngài đã tới Lâu đài Wentworth. Xin mời ngài đi theo tôi, Phu nhân Arabella đang chờ ngài”.

“Một nguồn tin đáng tin cậy”, Jack lẩm bẩm. Không hiểu người quản gia có nghe anh nói gì không, nhưng ông ta không bình luận gì trong lúc dẫn vị khách tới phòng khách.

“Ngài Delaney, thưa Phu nhân”, người quản gia nói. Hai con chó đứng dậy vẫy đuôi chào anh.

“Xin chào ông Delaney”, Arabella nói. “Tôi nghĩ chúng tôi nợ ông một lời xin lỗi vì sự nhầm lẫn của mình”.

Jack nhìn Anna chằm chằm. Trông cô có vẻ xấu hổ. Rồi anh quay sang Tom. Anh ta đang cười nhăn nhở. Andrews xuất hiện ở cửa. “Bữa sáng đã chuẩn bị xong, thưa Phu nhân”.

Khi Krantz tỉnh dậy lần thứ hai, một vị bác sỹ trẻ đang thay băng cho cô ta.

“Mất bao lâu thì tôi mới có thể hồi phục hoàn toàn?” là câu hỏi đầu tiên của cô ta.

Viên bác sỹ có vẻ giật mình khi lần đầu tiên anh ta nghe thấy giọng nói của Krantz - một cái giọng the thé không hợp với những câu chuyện về cô ta. Anh ta không trả lời cho đến khi đã cắt xong một đoạn băng bằng đôi kéo trong tay.

“Ba, cùng lắm là bốn ngày”, viên bác sỹ vừa đáp vừa nhìn cô ta. “Nhưng tôi sẽ không muốn xuất viện sớm, nếu tôi là cô, bởi vì sau khi tôi ký giấy xuất viện cho cô, điểm dừng chân tiếp theo của cô sẽ là Jilava, một nơi mà tôi tin là cô đã quá quen kể từ thời cô còn phục vụ chế độ cũ”. Krantz không thể quên tòa nhà với những bức tường bằng đá, đầy chuột cống mà đêm nào cô ta cũng viếng thăm để tra khảo những tù nhân mới nhất trước khi trở về ngôi nhà đầy đủ tiện nghi của cô ta ở ngoại ô thành phố.

“Tôi nghe nói các tù nhân ngày xưa rất muốn gặp lại cô sau một thời gian cô vắng mặt lâu như vậy”, viên bác sỹ nói thêm. Anh ta cúi xuống, cầm lấy mép dải băng rộng trên vai cô ta. “Hơi đau đấy”, anh ta nói rồi giật mạnh bằng một cử chỉ dứt khoát. Krantz không hề rên la. Cô ta không thể để cho viên bác sỹ được hưởng niềm vui chứng kiến sự đau đớn của mình.

Viên bác sỹ cho iodine vào vết thương trước khi đặt lên đó một dải băng mới. Sau đó anh ta băng lại vết thương một cách thành thục và đặt cánh tay phải của cô ta vào một sợi dây đeo.

“Có bao nhiêu lính gác?”, cô ta làm như tình cờ hỏi.

“Sáu, và tất cả đều có vũ khí”, viên bác sỹ nói, “và để đề phòng cô tìm cách tẩu thoát, họ đã được lệnh bắn trước rồi báo cáo sau. Tôi cũng đã chuẩn bị trước một giấy chứng tử để họ chỉ việc ký vào”.

Krantz không hỏi gì thêm.

Khi viên bác sỹ đã ra khỏi phòng, cô ta cứ nằm yên và nhìn chằm chằm lên trần nhà. Nếu muốn trốn thoát, cô ta phải tìm cơ hội khi vẫn còn nằm trong bệnh viện. Không ai có thể trốn thoát khỏi nhà tù Jilava, kể cả Ceausescu.

8 tiếng đồng hồ sau đó, cô ta đã khẳng định được rằng lúc nào cũng có sáu lính gác, và có ba ca gác. Ca thứ nhất bắt đầu lúc 6 giờ, ca thứ hai lúc 2 giờ, và ca đêm bắt đầu lúc 10 giờ.

Sau một đêm dài không ngủ, Krantz đã phát hiện ra rằng toán lính gác đêm có vẻ như quá tin tưởng vào đội ngũ đông đảo của họ. Một người trong bọn họ ngủ gà ngủ gật suốt đêm. Một người khác thường lẻn ra ngoài để hút thuốc - không được phép hút thuốc trong bệnh viện. Người thứ ba là một anh chàng chỉ thích tán gái, một người nghĩ rằng mình sinh ra là để làm vui lòng mọi phụ nữ. Anh ta không bao giờ đứng cách xa các nữ hộ lý vài bước chân. Người thứ tư thì dành phần lớn thời gian để phàn nàn về khoản tiền lương ít ỏi của mình và khả năng tiêu tiền của bà vợ. Krantz biết mình có thể giải quyết vấn đề của anh ta nếu cô ta có cơ hội. Hai người lính gác còn lại thì cao tuổi hơn, và biết quá rõ cô ta từ thời chế độ cũ. Một trong hai người đó sẵn sàng bắn vỡ đầu cô ta nếu cô ta nhấc đầu lên khỏi gối. Nhưng kể cả hai người đó cũng cần phải ăn.

***

Jack ngồi xuống và dùng bữa sáng với trứng, thịt muối, cật nướng, nấm và cà chua, tiếp đến là bánh mỳ, mứt cam và cà phê.

“Chắc ông rất đói sau một thử thách như vậy”, Arabella nhận xét.

“Nếu không có Tom, chắc tôi sẽ phải chấp nhận cơm tù”.

“Và tôi e rằng chính tôi là người có lỗi”, Anna nói. “Bởi vì tôi đã chỉ điểm cho người ta bắt anh”, cô nói thêm và mỉm cười.

“Không đúng thế”, Tom nói. “Cô phải cảm ơn Arabella vì đã khiến Jack bị bắt, và cảm ơn Arabella vì đã giúp anh ấy được thả ra”.

“Không, tôi không dám nhận nhiều công trạng như thế đâu”, Arabella vừa nói vừa vuốt ve con chó đang nằm cạnh bà. “Tôi thừa nhận là đã yêu cầu người ta bắt Jack, nhưng chính ngài đại sứ của các ông là người đã giúp ông Jack được, gì nhỉ, theo cách nói của người Mỹ?, nhảy dù”.

“Nhưng có một điều mà tôi vẫn không hiểu”, Anna nói, “cho dù Tom đã nói cho chúng tôi biết mọi chi tiết. Là tại sao anh vẫn theo tôi tới Lâu đài Wentworth trong khi anh biết rằng tôi không còn giữ bức tranh?”.

“Bởi vì tôi nghĩ người phụ nữ đã giết người tài xế của cô sẽ đuổi theo cô tới London”.

“Nơi mà cô ta lập kế hoạch giết tôi?”, Anna trầm giọng hỏi. Jack gật đầu, nhưng không nói gì. “Lạy Chúa là tôi đã không bao giờ phải biết điều đó”, cô vừa nói vừa gạt đĩa thức ăn sang một bên.

“Nhưng đến lúc đó thì cô ta đã bị bắt vì tội giết chết Sergei?”, Arabella hỏi.

“Đúng thế”, Jack nói, “nhưng tôi không biết điều đó cho tới khi gặp Tom vào tối hôm qua”.

“Vậy là FBI cùng lúc cũng theo dõi luôn cả tôi?”, Anna vừa nói vừa quay sang nhìn Jack, lúc này đang phết bơ lên bánh mỳ.

“Trong một khoảng thời gian khá dài”, Jack thú nhận. “Có lúc, thậm chí chúng tôi còn băn khoăn không hiểu cô có phải là kẻ ám sát thuê hay không”.

“Dựa trên cơ sở nào?”, Anna hỏi. “Nghề tư vấn nghệ thuật là một bình phong tốt cho ai đó làm việc cho Fenston, đặc biệt nếu cô ta còn là một vận động viên, và tình cờ sinh ra tại Romania”.

“Và tôi bị điều tra trong bao lâu?”, Anna hỏi.

“Trong hai tháng qua”, Jack thú nhận. Anh nhấp một ngụm cà phê. “Thực tế là, chúng tôi vừa chuẩn bị khép hồ sơ về cô lại thì xảy ra chuyện cô đánh cắp bức tranh Van Gogh”.

“Tôi không đánh cắp nó”, Anna nói bằng một giọng gay gắt.

“Cô ấy tìm lại nó cho tôi, thay mặt tôi”, Arabella nói chen vào.

“Và bà vẫn hy vọng Fenston sẽ bán bức tranh để giúp bà thanh toán nợ nần?”.

“Không”, Arabella trả lời, hơi quá nhanh. “Đó là điều cuối cùng mà tôi muốn”.

Jack có vẻ ngạc nhiên.

“ít nhất là cho đến khi cảnh sát tìm ra kẻ đã sát hại chị gái của Phu nhân”, Anna nói chen vào.

“Tất cả chúng ta đều biết kẻ nào đã sát hại chị gái tôi”, Arabella nói bằng một giọng căm thù, “và nếu kẻ đó bước qua đường của tôi, tôi sẽ bẻ gẫy cổ nó”. Cả hai con chó cùng vểnh tai lên.

“Biết sự thực khác với việc chứng minh sự thực”, Jack nói.

“Vậy là Fenston sẽ thoát tội giết người”, Anna trầm giọng nói.

“Có lẽ đã nhiều lần, tôi ngờ là thế”, Jack thú nhận. “Cục đã vài lần đưa ông ta vào diện điều tra. Có bốn” anh dừng lại - “và bây giờ là năm vụ giết người mang dấu ấn của Krantz, ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Nhưng chúng ta vẫn chưa thể chứng minh mối quan hệ trực tiếp của cô ta với Fenston”.

“Krantz đã giết Victoria và Sergei”, Anna nói.

“Không nghi ngờ gì nữa”, Jack nói. “Và Đại tá Sergei Slatinaru là sỹ quan chỉ huy của cha cô”, Tom nói thêm, “đồng thời họ cũng là bạn thân của nhau”.

“Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể”, Anna nói, giọng đầy nước mắt, “tôi muốn nói là tất cả”.

“Chúng tôi có một bước đột phá nhỏ”, Tom thừa nhận, “cho dù chúng tôi không biết là nó có dẫn tới đâu không. Khi Krantz bị đưa vào viện để các bác sỹ lấy viên đạn ra, thứ duy nhất người ta tìm thấy trên người cô ta, ngoài con dao và một ít tiền, là một chiếc chìa khoá”.

“Chắc chắn nó phải vừa với một ổ khoá nào đó ở Romania”, Anna nhận định.

“Chúng tôi không nghĩ như vậy”, Jack vừa nói vừa xúc một thìa nấm. “Nó có ký hiệu NYRC 13 trên đó. Không có nhiều hy vọng, nhưng nếu chúng tôi có thể tìm ra ổ khoá của nó, có thể điều đó sẽ giúp chúng tôi tìm ra mối quan hệ của cô ta với Fenston”.

“Vậy các anh có muốn tôi ở lại nước Anh trong khi các anh tiếp tục điều tra không?”, Anna hỏi.

“Không, tôi cần cô quay trở lại New York”, Jack nói. “Hãy để cho mọi người biết cô vẫn an toàn và mạnh khoẻ. Cứ tỏ ra bình thường, thậm chí là nên đi tìm việc. Đừng để cho Fenston nghi ngờ”.

“Tôi có nên tiếp xúc với các đồng nghiệp cũ trong văn phòng của ông ta không?”, Anna hỏi. “Bởi vì Tina, thư ký của Fenston, bạn thân nhất của tôi”.

“Cô có chắc chắn là như vậy không?”, Jack hỏi và bỏ thìa dĩa xuống.

“Ý anh là gì?”, Anna hỏi.

“Làm sao cô có thể giải thích chuyện Fenston luôn biết chính xác cô sắp làm gì, nếu Tina không nói cho ông ta biết?”.

“Tôi không biết”, Anna nói, “nhưng tôi biết chính xác rằng chị ấy cũng căm thù Fenston như tôi”.

“Cô có thể chứng minh được chuyện đó chứ?”, Jack hỏi.

“Tôi không cần phải có bằng chứng”, Anna nói bằng một giọng gay gắt.

“Còn tôi thì cần”, Jack nói một cách điềm đạm.

“Hãy cẩn thận, Jack, bởi vì nếu anh sai”, Anna nói, “tính mạng của chị ấy sẽ bị đe doạ”.

“Nếu thế, cô càng cần phải trở về New York và liên lạc với cô ta càng sớm càng tốt”, Tom nói để làm dịu bầu không khí.

Jack gật đầu đồng ý.

“Tôi đã đặt chỗ trên chuyến bay chiều nay”, Anna nói.

“Tôi cũng vậy”, Jack nói. “Heathrow à?”.

“Không, Stansted”, Anna nói.

“Này, thế thì một trong hai người phải đổi chuyến bay thôi”, Tom gợi ý.

“Không phải tôi”, Jack nói. “Tôi không muốn bị bắt lần thứ hai vì tội rình rập một phụ nữ”.

“Trước khi ra quyết định có nên đổi chuyến bay không”, Anna nói, “tôi cần phải biết mình có còn nằm trong diện tình nghi và đang bị điều tra không. Bởi vì nếu tôi là kẻ bị tình nghi, anh vẫn có quyền theo dõi tôi”.

“Không”, Jack nói. “Tôi đã khép hồ sơ về cô cách đây vài ngày rồi”.

“Điều gì đã thuyết phục anh làm thế?”, Anna hỏi.

“Khi chị gái của Phu nhân Arabella bị giết, có một nhân chứng quan trọng có thể cung cấp chứng cứ ngoại phạm cho cô”.

“Và đó là ai vậy, liệu tôi có thể biết không?”.

“Tôi”, Jack đáp. “Bởi vì tôi đã theo dõi cô quanh công viên Central, nên cô không thể có mặt ở nước Anh được”.

“Anh chạy trong công viên Central à?”.

“Sáng nào cũng vậy, quanh đường chạy”, Jack nói. “Quanh hồ chứa nước vào các sáng Chủ nhật”.

“Tôi cũng vậy”, Anna nói. “Không bỏ ngày nào”.

“Tôi biết”, Jack nói. “Tôi đã vượt cô vài lần trong sáu tuần qua”.

Anna nhìn anh chằm chằm. “Người đàn ông mặc áo phông xanh ngọc”.

“Cô tuyệt lắm”.

“Anh không quá...”.

“Xin lỗi vì không tham dự được cuộc gặp gỡ của câu lạc bộ vận động viên điền kinh Central”, Tom nói và đẩy ghế ra sau, “nhưng tôi phải quay về văn phòng của mình. Có cả một chồng hồ sơ về vụ 11 /9 mà tôi thậm chí còn chưa có thời gian để mở. Cảm ơn Phu nhân về bữa sáng”, anh ta quay sang Arabella. “Tôi xin lỗi vì sáng nay ngài đại sứ đã quấy rầy bà vào lúc trời còn chưa sáng”.

“Điều này giúp tôi nhớ rằng”, Arabella vừa nói vừa đứng dậy khỏi ghế, “lôi phải viết nốt mấy bức thư, cảm ơn ngài đại sứ và xin lỗi một nửa lực lượng cảnh sát Surrey”.

“Thế còn tôi thì sao?”. Jack nói. “Tôi đang tính chuyện sẽ kiện Lâu đài Wentworth, cảnh sát Surrey và Bộ Nội vụ, có Tom làm nhân chứng”.

“Không có hy vọng”, Tom nói. “Tôi không muốn mất lòng Phu nhân Arabella”.

Jack mỉm cười. “Vậy thì chỉ cần cho tôi đi nhờ tới Wentworth Arms là đủ”.

“Đơn giản”, Tom nói.

“Và bây giờ, khi tôi đã cảm thấy an toàn nếu cùng đi với anh tới Heathrow”, Anna vừa nói vừa đứng dậy, “chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?”.

“Đừng lo”, Jack nói. “Tôi sẽ tìm thấy cô”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Leapman được chở tới sân bay JFK để lấy bức tranh một giờ trước khi máy bay hạ cánh. Điều đó không ngăn được Fenston cứ mười phút lại gọi điện cho ông ta trên đường tới sân bay, và khi chiếc limousine đang trên đường trở lại Phố Wall cùng với chiếc thùng màu đỏ được khoá an toàn trong cốp xe, cứ năm phút Fenston lại gọi một lần.

Fenston đang đi đi lại lại trong phòng khi Leapman được thả xuống bên ngoài tòa nhà, và ông ta đang đợi ở hành lang khi Barry và người tài xế bước ra khỏi thang máy cùng với chiếc thùng màu đỏ.

“Mở ra”, Fenston ra lệnh, trước cả khi chiếc thùng được dựng vào tường trong văn phòng của ông ta. Barry và người lái xe mở những cái kẹp đặc biệt ra trước khi bắt đầu rút những chiếc đinh dài đã được vít chặt vào viền thùng, trong khi Fenston, Leapman và Tina đứng nhìn. Khi nắp thùng được mở và những lớp pôlixetiren ở bốn góc được bóc ra, Barry cẩn thận lấy bức tranh ra khỏi chiếc thùng gỗ và dựng nó lên vào bàn làm việc của Fenston. Ông ta lao tới và bắt đầu xé các lớp giấy bóng bằng đôi tay trần của mình, cho đến khi ông ta nhìn thấy thứ mà vì nó ông ta sẵn sàng giết người.

Fenston lùi lại và há hốc miệng. Không ai có mặt trong căn phòng dám mở miệng trước khi ông ta lên tiếng. Rồi bỗng nhiên ông ta nói một lèo: “Đẹp hơn tôi tưởng. Màu sắc quá tươi, nét vẽ quá sắc. Đúng là một kiệt tác”. Leapman quyết định không bình luận.

“Tôi biết chính xác cần phải treo bức Van Gogh của tôi ở đâu”, Fenston nói.

Ông ta ngẩng lên và nhìn chằm chằm vào bức tường sau bàn làm việc của mình, nơi có treo một bức ảnh lớn chụp cảnh George W. Bush đang bắt tay ông ta trong lần ông ta tới thăm Bãi Trống.

Anna nóng lòng chờ đợi chuyến bay trở về Mỹ, cùng cơ hội để tìm hiểu thêm về Jack trong hành trình dài bảy giờ đồng hồ. Cô thậm chí còn hy vọng rằng Jack sẽ trả lời một vài câu hỏi của mình. Làm thế nào mà anh ta có thể tìm được địa chỉ của mẹ cô, tại sao anh ta vẫn nghi ngờ Tina, và có bằng chứng nào cho thấy Fenston và Krantz có quan hệ với nhau?

Jack đang chờ Anna lúc cô bắt đầu làm thủ tục. Anna tranh thủ một chút thời gian để thư giãn bên người đàn ông đã bám theo cô trong suốt chín ngày, và điều tra cô trong tám tuần vừa qua. Đến khi họ bắt đầu bước lên các bậc cầu thang để lên máy bay, Jack đã biết rằng Anna là một fan hâm mộ của nhóm Knicks, thích mỳ ống của Ý và thích Dustin Hoffman, còn Anna thì biết rằng Jack cũng hâm mộ nhóm Knicks, rằng hoạ sỹ hiện đại mà anh ngưỡng mộ là Fernando Botero, và rằng không gì có thể thay thế món thịt hầm kiểu Ailen do mẹ anh nấu.

Anna đang băn khoăn không hiểu Jack có thích phụ nữ mập không thì thấy anh gục đầu vào vai cô. Vì cô là nguyên nhân khiến anh mất ngủ, Anna cảm thấy cô không có lý do gì để phàn nàn. Cô nhè nhẹ đẩy đầu anh ra, cố không làm anh thức giấc. Cô bắt đầu liệt kê một loạt những việc mà cô cần làm một khi đã trở về New York. Jack lại gục đầu vào vai cô. Anna đành để mặc và cũng cố ngủ một chút. Cô đã từng đọc được ở đâu đó rằng chiếc đầu nặng bằng một phần bảy cơ thể, và giờ thì cô hoàn toàn tin điều đó.

Cô tỉnh dậy khoảng một tiếng trước khi máy bay hạ cánh. Jack vẫn còn đang ngủ, nhưng một tay anh lúc này vắt qua vai cô. vẫn còn ngái ngủ, cô ngồi dậy và nhận cốc trà từ tay cô chiêu đãi viên.

Lúc này Jack đã tỉnh ngủ. “Cô thường ngủ với đàn ông ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên à?”, anh vừa hỏi vừa nhe răng cười.

“Nếu anh ta chịu mời tôi bữa tối”.

“Thế điều đầu tiên mà cô sẽ làm là gì, sau khi cô đã thoát chết một cách thần kỳ như vậy?”.

“Gọi điện cho gia đình và bạn bè và báo cho họ biết rằng tôi vẫn còn sống khoẻ như thế nào, rồi sau đó tìm xem có ai muốn thuê tôi không. Thế còn anh?”.

“Tôi phải gặp sếp và báo cho ông ấy biết tôi chẳng tiến gần Fenston được bao nhiêu, và sẽ được nghe một trong hai câu nói quen thuộc của ông ấy. Lười biếng quá hoặc Chậm như rùa.”

“Không công bằng”, Anna nói, “nhất là bây giờ khi Krantz đã bị bắt”. “Không phải công sức của tôi”, Jack nói. “Và tôi sẽ phải đối mặt với sự quở trách còn đáng sợ hơn từ phía bà mẹ của tôi, khi tôi phải giải thích với bà lý do tại sao tôi không gọi cho bà từ London và xin lỗi vì không thể về nhà để thưởng thức món thịt hầm kiểu Ailen của bà. Không, tôi chỉ có thể lấy lại được thể diện nếu tôi điều tra ra ý nghĩa của các chữ cái NYRC”. Jack cho tay vào túi áo trên. “Sau khi rời quán trọ Wentworth Arms, tôi đi cùng Tom tới đại sứ quán, và nhờ công nghệ hiện đại, anh ấy có thể cho ra một bản sao chính xác chiếc chìa khoá ấy, cho dù chiếc chìa khoá gốc vẫn ở Romania”. Anh lấy từ trong túi ra một chiếc chìa khoá và đưa nó cho Anna.

Anna lật đi lật lại chiếc chìa khoá nhỏ bằng đồng ấy trong tay. “NYRC 13. Anh có suy nghĩ gì không?”.

“Chỉ là những cái tên mà ai cũng có thể nghĩ đến”, Jack nói.

“Câu lạc bộ đua ngựa New York? Câu lạc bộ đua thuyền New York, còn gì nữa?”.

“Câu lạc bộ quần vợt New York, nhưng nếu cô nghĩ ra được gì, hãy cho tôi biết, bởi vì tôi sẽ dành cả kỳ nghỉ cuối tuần để tìm hiểu xem nó có liên quan gì tới mấy cái tên mà chúng ta vừa kể ra hay không. Tôi phải có được cái gì đó khả quan trước khi gặp sếp vào thứ Hai”.

“Nếu anh tìm ra, anh hãy chạy chậm lại trên đường chạy vào buổi sáng để cho tôi biết với nhé”.

“Tôi hy vọng có thể cho cô biết chuyện đó trong bữa ăn tối hôm nay”, Jack nói.

“Không thể được. Tôi xin lỗi, Jack, mặc dù tôi rất muốn, tôi phải ăn tối với Tina”.

“Thế ư?”, Jack nói. “Phải cẩn thận đấy nhé”.

“6 giờ sáng mai có được không?”, Anna hỏi, phớt lờ câu nói của Jack. “Thế có nghĩa là tôi nên đặt đồng hồ báo thức vào lúc 6 giờ 30, nếu chúng ta hẹn gặp nhau giữa đường chạy”.

“Lúc ấy chắc tôi đã tắm xong”.

“Thế thì tôi không thể bỏ lỡ cơ hội ấy”.

“Tiện đây”, Anna nói, “anh có thể giúp tôi một việc được không?”.

***

Leapman bước vào văn phòng chủ tịch mà không gõ cửa.

“Ngài đã thấy cái này chưa?”, ông ta vừa hỏi vừa đặt một tờ Thời báo New York lên bàn và đưa tay chỉ vào một bài báo trong mục tin quốc tế. Fenston đọc kỹ tít báo: Cảnh Sát Romania Bắt Giữ Kẻ ám Sát. Ông ta đọc qua bài báo ngắn đó hai lần trước khi nói: “Tìm hiểu xem viên cảnh viên trưởng muốn bao nhiêu”.

“Chưa hẳn đã dễ như thế đâu”, Leapman nói.

“Bao giờ cũng dễ như vậy”, Fenston vừa nói vừa nhìn lên. “Chỉ có thoả thuận giá cả là khó thôi”.

Leapman cau mày: “Và còn một vấn đề nữa mà ngài phải cân nhắc”.

“Đó là chuyện gì vậy?”, Fenston hỏi. “Bức tranh Van Gogh. Ngài cần phải làm bảo hiểm, sau những gì xảy ra với bức Monet”.

“Tôi không bao giờ làm bảo hiểm cho các bức tranh của mình. Tôi không muốn IRS biết bộ sưu tập của tôi trị giá bao nhiêu, và dù sao thì chuyện đó cũng sẽ chẳng bao giờ xảy ra hai lần”.

“Nó đã xảy ra hai lần”, Leapman nói. Fenston nhăn mặt và một lúc sau mới trả lời.

“Thôi được, nhưng chỉ mình bức Van Gogh thôi đấy”, cuối cùng ông ta nói. “Bảo hiểm ở công ty Lloyd nhé, và nhớ là giá trị sổ sách của nó phải để dưới 20 triệu đôla”.

“Tại sao lại thấp như vậy?”, Leapman hỏi.

“Bởi vì điều cuối cùng tôi muốn là có được bức Van Gogh với trị giá thực là 100 triệu đôla trong khi tôi vẫn muốn được đặt tay lên những gì còn lại trong bộ sưu tập của Lâu đài Wentworth”.

Leapman gật đầu và quay mình bước đi.

“Tiện đây”, Fenston vừa nói vừa nhìn xuống tờ báo. “ông đã gửi nốt nửa triệu đôla còn lại vào tài khoản của Krantz chưa?”

“Chưa, tôi đang định...”.

“Vậy thì cứ từ từ”. Ông ta ngẩng lên nhìn Leapman và mỉm cười. “Hãy đợi cho đến khi cô ta trốn thoát đã”.

Krantz nằm yên trên giường và chờ đợi phiên gác lúc 2 giờ sáng đổi ca. Cô ta không có cách nào để biết thời gian ngoài việc theo dõi lính gác đổi phiên cho nhau. Một lính gác vừa đi ăn về, vì vậy cô ta đoán lúc đó là vào khoảng 2 giờ kém 10.

Đã đến giờ thực hiện thói quen hàng đêm. Krantz kéo tấm ga lên, nằm nghiêng sang bên hông, và tì gối vào cằm. Cô ta cho hai ngón tay vào hậu môn và lấy ra một chiếc bao cao su. Cô ta mở chiếc nút trên miệng bao, lấy ra một cuộn nhỏ những tờ 100 đôla được cuộn chặt. Cô ta bóc hai tờ, và dấu vào băng đeo. Sau đó cô ta làm lại tất cả những thao tác đó theo thứ tự ngược lại.

Krantz tính rằng lúc đó là hai giờ kém mười.

Cô ta chờ đợi.

***

Jack ngồi ở hàng ghế sau trên tắc xi và nhìn ra cửa sổ. Đám mây xám từ ngày 11/9 vẫn còn đó trên bầu trời Manhattan, cho dù người dân New York không còn nhìn lên với cái nhìn khiếp hãi nữa. Chủ nghĩa khủng bố là một cái gì đó mà thành phố sôi động nhất trên thế giới này đã phải học cách để thừa nhận sự tồn tại của nó.

Jack ngồi ngả người ra ghế và suy nghĩ về công việc mà anh đã hứa sẽ giúp Anna. Anh bấm số điện thoại mà cô đã đưa cho anh. Sam nhấc điện thoại lên. Jack nói với ông già rằng Anna vẫn còn sống và mạnh khoẻ, và rằng cô đã đi thăm mẹ mình ở Romania, và tối nay cô sẽ trở về nhà. Thật là tuyệt vời khi bắt đầu một ngày mới bằng việc đem lại niềm vui cho ai đó, Jack nghĩ. Nhưng với cú điện thoại thứ hai của anh thì lại khác. Anh gọi cho sếp của mình để báo với ông ta rằng anh đã quay trở lại New York. Macy nói với anh rằng Krantz đã được đưa tới một bệnh viện địa phương ở Bucharest, và đã được phẫu thuật vai. Cô ta được canh giữ ngày đêm, mỗi ca gác gồm sáu người.

“Tôi sẽ cảm thấy vui hơn khi cô ta bị tống giam”, Jack nói.

“Tôi nghe nói cậu đã có kinh nghiệm về việc này”, Macy nói.

Jack vừa định trả lời thì Macy nói thêm: ‘Tại sao cậu không nghỉ ngơi cho hết tuần đã, Jack? Cậu xứng đáng mà”.

“Hôm nay là thứ Bảy”, Jack nhắc sếp mình.

“Vậy thì tôi sẽ gặp cậu vào sáng thứ Hai nhé”, Macy nói Jack quyết định nhắn tin cho Anna. Đã báo cho Sam biết cô đang trở về nhà. Ông ta là người đàn ông duy nhất khác trong cuộc đời cô à? Anh chờ vài phút, nhưng không có tin trả lời. Anh gọi cho mẹ mình.

“Hôm nay con có về ăn tối không đấy?”, mẹ anh hỏi bằng một giọng gắt gỏng. Anh gần như có thể ngửi thấy mùi thịt hầm.

“Thế con đã bỏ bữa nào chưa, mẹ?”.

“Tuần trước rồi còn gì”.

“À, vâng, con định gọi cho mẹ”, Jack nói, “nhưng con phải đuổi theo một cô gái qua nửa vòng trái đất”.

“Một cô gái ngoan theo đạo Cơ đốc chứ?”, mẹ anh vội hỏi.

“Không, mẹ ơi”, Jack trả lời. “Cô ấy vừa mới ly dị chồng. Cô ấy đã có ba đời chồng rồi, hai trong số những người chồng trước của cô ấy bị chết bất đắc kỳ tử. Ồ, và cô ấy có năm con rồi, mà không phải tất cả đều là con của ba người chồng kia, nhưng chắc là mẹ sẽ vui khi biết bốn trong số năm đứa con của cô ấy nghiện ma tuý - thằng còn lại thì đang ngồi tù”

“Cô ấy có công việc ổn định không?”

“ồ, có, mẹ ạ, đếm tiền ấy mà mẹ. Cô ấy phục vụ phần lớn khách hàng của mình vào kỳ nghỉ cuối tuần, nhưng cô ấy khẳng định với con rằng lúc nào cô ấy cũng có thể bỏ ra một giờ để tới nhà ta xin một bát thịt hầm kiểu Ailen của mẹ”.

“Vậy chứ thực sự cô ta làm nghề gì?”, mẹ anh hỏi.

“Cô ấy là một kẻ chuyên trộm tranh”, Jack nói, “và chỉ trộm tranh của Van Gogh. Kiếm rất nhiều tiền sau mỗi phi vụ”.

“Vậy thì cô ta còn hơn khối những người bạn gái trước của con”.

“Tạm biệt mẹ”, Jack nói. “Con sẽ gặp mẹ tối nay”.

Anh kết thúc cuộc gọi, và nhận được một tin nhắn của Anna.

Hãy động não đi, Người Rình rập. Đã tìm ra nghĩa của chữ R, rất dễ. Anh chậm hơn tôi rồi nhé.

“Của nợ”, Jack nói. Tiếp đó anh gọi điện tới London cho Tom, nhưng tất cả những gì anh có là một thông điệp từ chiếc máy trả lời tự động: “Tom Crasanti, tôi ra ngoài vài phút, và sẽ trở lại ngay, xin để lại tin nhắn”.

Jack chẳng để lại tin nhắn làm gì, vừa lúc đó chiếc tắc xi dừng lại bên ngoài căn hộ của anh.

“Hết 32 đôla”.

Jack đưa cho người tài xế bốn tờ 10 đôla, anh không lấy lại tiền lẻ, cũng không nhận lời cảm ơn.

Mọi thứ ở New York đã trở lại bình thường.

***

Khi Krantz nghe thấy người lính gác đi ăn về, cô ta tính rằng lúc đó khoảng 1 giờ 40 phút. Cô ta chờ vài phút trước khi thực hiện công việc hàng đêm của mình.

Cô ta lấy chiếc bao cao su từ hậu môn ra, cởi nút, lấy cuộn tiền giấy ra, bóc lấy hai tờ 100 đôla, buộc nút lại, cất chiếc bao vào chỗ cũ, và chờ đợi. Krantz tính rằng lúc đó là vào khoảng 2 giờ kém 10.

Khi Krantz nghe thấy tiếng ca gác lúc 2 giờ đêm đến thay ca, cô ta tin rằng anh chàng kia sẽ xuất hiện sau vài phút nữa. Suy cho cùng, anh ta chỉ phải lấy cho cô ta một cốc nước, đổi lại anh ta có một gói Silk Cut. Không phải là một cuộc đổi chác tồi.

Chỉ 20 phút là anh ta sẽ lẻn ra ngoài châm một điếu thuốc. Đúng là một con nghiện. Đó cũng chính là ám hiệu để người đồng đội của anh ta xuất hiện với một chiếc bánh xăngđuých pho mát, một lon coke và một gói Silk Cut, mà nhờ nó anh ta đút túi được 100 đôla. Đến như khách sạn Ritz cũng không tính đắt như thế. Nhưng điều đó chỉ thể hiện rằng anh ta vừa ngu dốt vừa tham lam, một sự kết hợp mà cô ta có thể lợi dụng khi thời cơ đến để dạy cho anh ta ý nghĩa đích thực của cụm từ Silk Cut.

***

Không thèm tắm rửa và thay quần áo, Jack bắt đầu tra cứu danh bạ điện thoại của New York để tìm cái tên đầy đủ của các chữ viết tắt NYRC. Ngoài ba từ mà Jack đã nghĩ ra từ trước, anh không tìm thấy từ nào có chứa chữ R mà Anna nói là rất dễ tìm kia. Anh bật máy tính lên và vào trang Google để tìm kiếm cụm từ “Câu lạc bộ quần vợt sân trường New York - New York Racquet Club”. Anh tìm được phần lịch sử sơ lược của NYRC, một vài bức ảnh chụp một tòa nhà rất đẹp trên Đại lộ Park và một tấm hình của vị chủ tịch đương nhiệm, Darius T. Mablethorpe III. Jack biết chắc rằng cách thức duy nhất để anh có thể đi qua qua cửa trước là phải làm sao để trông không khác gì một hội viên. Đừng bao giờ làm cho Cục phải xấu hổ.

Sau khi tắm rửa, anh chọn một bộ complê đen, một chiếc sơ mi xanh và một chiếc caravát Colombia cho công việc đặc biệt này. Anh rời khỏi căn hộ của mình và bắt tắc xi tới địa chỉ 370 Đại lộ Park. Anh bước xuống vỉa hè và đứng nhìn tòa nhà một lúc. Anh chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy của công trình kiến trúc bốn tầng theo kiểu phục hưng này. Anh bước lên các bậc thềm về phía một cánh cửa ra vào có các chữ cái NYRC dán trên cửa.

Người gác cửa chào Jack bằng câu “Xin chào ngài” và đứng giữ cánh cửa cho anh, như thể anh là một thành viên lâu năm. Anh bước vào một căn sảnh thanh nhã với những bức ảnh lớn chụp các vị cựu chủ tịch mặc quần dài màu trắng và áo cộc tay màu xanh, tay cầm vợt. Jack nhìn ngược lên chiếc cầu thang rộng. Ở trên đó thậm chí còn treo ảnh của nhiều vị cựu chủ tịch hơn, từ những năm tháng xa xưa hơn. Chỉ có chiếc vợt là dường như không thay đổi. Anh bước tới quầy tiếp tân.

“Tôi có thể giúp gì cho ngài không?”, một người đàn ông trẻ tuổi hỏi anh.

“Tôi sợ là không”, Jack thú nhận.

“Ngài cứ thử nói xem”, anh ta đề nghị.

Jack lấy chiếc chìa khoá sao bản kia từ trong túi ra rồi đặt lên mặt quầy. “Đã bao giờ trông thấy cái này chưa?”, anh hỏi.

Anh ta lật đi lật lại chiếc chìa khoá, nhìn kỹ các chữ cái một lúc, rồi nói, “Chưa, thưa ngài. Có thể là chìa khoá gửi đồ, nhưng không phải của chúng tôi”. Anh ta quay người lại và lấy một chiếc chìa khoá to bằng đồng từ chiếc bảng phía sau lưng. Có một tấm biển nhỏ đề tên của hội viên đính trên tay cầm, và các chữ cái NYRC màu đỏ được in trên thân chiếc chìa khoá.

“Có gợi ý gì không?”, Jack hỏi, và cố để không thể hiện sự thất vọng trong giọng nói.

“Không, thưa ngài”, anh ta trả lời. “Nhưng không biết đó có phải là loại chìa có từ trước khi tôi vào làm ở đây không. Tôi mới làm ở đây được hơn mười năm, nhưng có lẽ Abe có thể giúp. Ông ấy có mặt ở đây từ thời còn nhiều người chơi quần vợt sân trường hơn tennis”.

“Và các quý ông thực thụ chỉ chơi quần vợt sân trường thôi”, một người cao tuổi hơn vừa xuất hiện từ một văn phòng phía sau bước tới và nói. “Và chuyện mà tôi có thể giúp là gì vậy?”.

“Một chiếc chìa khoá”, người đàn ông trẻ tuổi nói. “Quý ông đây muốn biết liệu ông đã bao giờ trông thấy một chiếc chìa khoá như thế này hay chưa”, anh ta nói thêm rồi đưa chiếc chìa khoá cho Abe. Abe lật đi lật lại chiếc chìa trên tay. “Rõ ràng là không phải của chúng tôi”, ông ta khẳng định, “và chưa bao giờ là của chúng tôi, nhưng tôi biết chữ “R” là viết tắt của từ nào”, ông ta nói thêm bằng một giọng tự đắc, “bởi vì phải, ờ, gần 20 năm rồi, thời Thị trưởng Dinkins”. Ông ta dừng lại và ngước lên nhìn Jack. “Một người đàn ông trẻ tuổi, gần như không biết một từ tiếng Anh nào, bước vào và hỏi xem đây có phải là một câu lạc bộ của người Romania không”.

“Đúng thế”, Jack lầm bầm, “mình ngu quá”.

“Tôi còn nhớ là anh ta đã thất vọng như thế nào”, Abe tiếp tục nói, phớt lờ câu tự rủa của Jack, “khi biết chữ R là viết tắt của từ Racquet. Chắc không phải vì anh ta không biết nghĩa của từ Racquet là gì. Ông thấy đấy, anh ta không biết tiếng Anh.

Điều duy nhất khiến tôi có thể nhớ đôi điều về chuyện này là vì nó nằm đâu đó trên phố Lincohn”, ông ta nhấn mạnh tên phố. Ông ta liếc nhìn Jack. Anh quyết định không ngắt lời ông ta lần thứ hai. “Ở đâu đó trong khu Queens, nhưng tôi không nhớ chính xác”.

Jack cất chiếc chìa khoá vào túi, cảm ơn Abe và quay mình bước đi, trước khi ông ta có cơ hội để chia sẻ thêm về ký ức của mình.

***

Tina ngồi bên bàn làm việc và đang đánh máy một bài phát biểu, ông ta thậm chí cũng chẳng cảm ơn chị về việc chị đã phải đi làm cả vào ngày thứ Bảy.

Các chủ nhà băng ở mọi lúc, mọi nơi phải luôn đề ra những tiêu chuẩn cao hơn cả những bổn phận pháp lý của họ.

Fenston đã được Hiệp hội Ngân hàng New York mời phát biểu trong bữa tiệc tối thường niên của họ, được tổ chức tại Sherry Netherland. Fenston vừa ngạc nhiên vừa sung sướng vì lời mời này, cho dù ông ta đã phải vận động một thời gian để có được nó.

Ban tổ chức đã bị chia rẽ.

Fenston quyết tâm gây ấn tượng tốt với các đồng nghiệp trong ngành ngân hàng, và đã sửa đi sửa lại bài phát biểu của mình.

Sự phán quyết độc lập của chúng ta phải luôn là chỗ dựa vững chắc của khách hàng, và phải làm sao cho khách hàng luôn tin tưởng rằng chúng ta sẽ hành động vì lợi ích cao nhất của họ chứ không phải vì lợi ích của chúng ta.

Tina bắt đầu băn khoăn không hiểu có phải đây là một vở kịch mà Fenston là nhân vật thử giọng đầu tiên hay không. Leapman đóng vai nào trong bài răn dạy đạo đức này? Victoria Wentworth được sống qua bao nhiêu hồi trong vở kịch này? Chúng ta luôn luôn phải tự xem mình là những người bảo vệ tài sản cho khách hàng - đặc biệt là khi họ có một bức tranh Van Gogh, Tina muốn viết thêm vào - trong khi không bao giờ được xem nhẹ những quyền lợi tài chính của họ.

Những suy nghĩ của Tina lúc này đang hướng tới Anna, trong khi chị vẫn tiếp tục đánh máy ra những lời lẽ đạo đức giả của Fenston. Chị đã nói chuyện trên điện thoại với Anna ngay trước lúc ra khỏi nhà để đi làm vào sáng hôm đó. Anna muốn kể cho chị biết về người đàn ông mới trong cuộc đời mình, người mà Anna đã gặp trong những hoàn cảnh khác thường nhất. Họ đã đồng ý sẽ gặp nhau trong bữa ăn tối hôm đó, bởi vì chính Tina cũng có chuyện muốn chia sẻ.

Và xin đừng bao giờ quên rằng chỉ cần một ai đó trong chúng ta hạ thấp tiêu chuẩn nghề nghiệp, thì tất cả chúng ta cùng phải hứng chịu hậu quả.

Khi Tina sang trang mới, chị băn khoăn không hiểu mình có thể tiếp tục làm thư lý riêng của Fenston trong bao lâu nữa. Kể từ khi chị ném Leapman ra khỏi phòng mình, chị và ông ta chưa hề nói với nhau câu nào. Có thể ông ta sẽ tìm cách để chị bị sa thải càng sớm càng tốt, và khi điều đó xảy ra, chị đã thu thập đủ chứng cứ để đảm bảo rằng Fenston sẽ sống phần đời còn lại của ông ta trong một căn phòng nhỏ ở một trại giam lớn?

Và cho phép tôi được kết thúc bài phát biểu của mình bằng lời khẳng định rằng mục đích duy nhất trong suốt cuộc đời tôi là phục vụ và trả ơn cộng đồng, một cộng đồng đã cho tôi được sẻ chia giấc mơ Mỹ.

Đây là tài liệu duy nhất mà Tina không muốn lưu một bản sao của nó. Đèn trên điện thoại của Tina nhấp nháy và chị vội cầm ống nghe lên. “Vâng, có chuyện gì vậy, ngài chủ tịch?”.

“Cô đã đánh máy xong bài phát biểu tối nay của tôi chưa?”.

“Xong rồi, thưa chủ tịch”, Tina nói.

“Hay đấy chứ hả?”, Fenston nói.

“Rất đáng chú ý”, Tina trả lời.

Jack vẫy một chiếc tắc xi và yêu cầu tài xế chạy tới phố Lincoln, khu Queens. Người tài xế bật đồng hồ đo đường trong khi anh tìm địa chỉ trong cuốn danh bạ. Jack đã đi được nửa chặng đường tới sân bay trước khi anh được cho xuống một góc phố giữa phố Lincoln và phố Harris. Anh nhìn dọc con phố, và ý thức được rằng bộ complê mà anh đã chọn cho Đại lộ Park không hợp với chỗ này. Anh bước vào một quầy bán rượu bia ở góc phố.

“Tôi muốn tìm Câu lạc bộ Romania”, anh nói với người phụ nữ đứng tuổi đang đứng sau quầy.

“Đóng cửa từ lâu rồi”, bà ta nói. “Bây giờ đã thành một nhà nghỉ”, bà ta nói thêm rồi nhìn Jack từ đầu đến chân, “nhưng tôi không nghĩ là anh muốn trọ ở đó”.

“Bà có biết số nhà không?”, anh hỏi.

“Không, nhưng ở khoảng giữa phố, phía bên kia đường”.

Jack cảm ơn người phụ nữ, rồi bước trở ra phố và băng sang bên kia đường. Anh cố tính xem giữa phố là ở chỗ nào, rồi anh trông thấy một tấm biển với dòng chữ Có phòng cho thuê đã mờ. Anh dừng lại, nhìn xuống các bậc cầu thang và trông thấy một tấm biển có một dòng chữ còn mờ hơn phía trên cửa ra vào. Dòng chữ NYRC, thành lập 1919 gần như không còn có thể luận ra nổi. Jack bước xuống cầu thang và khẽ đẩy chiếc cánh cửa kính đã bị rạn. Anh bước vào một hành lang tối mờ, bẩn thỉu và sặc mùi thuốc lá rẻ tiền. Có một cái bàn tiếp tân nhỏ đầy bụi ngay trước mặt anh, phía sau cái bàn mốc meo ấy, Jack trông thấy một ông già đang đọc tờ Bưu điện New York, bao quanh ông ta là một màn khói thuốc.

“Tôi cần thuê một phòng để ở qua đêm nay”, Jack cố nói bằng một giọng tự nhiên nhất.

Ông già nheo mắt nhìn Jack bằng một cái nhìn thể hiện sự ngờ vực. Anh ta có gái đang chờ ở ngoài không? “Hết 7 đôla”, ông ta nói, “trả tiền trước”.

“Và tôi cần có chỗ để cất đồ đạc có giá trị của mình”, Jack nói.

“Thêm 1 đôla nữa - trả trước”, ông già lặp lại, điếu thuốc nảy nảy trên môi ông ta.

Jack đưa cho ông ta 8 đôla, và đổi lại anh nhận được một chiếc chìa khoá. “Tầng 2, số 3, tủ cất đồ ở cuối hành lang”, ông già vừa nói vừa đưa cho anh một chiếc chìa khoá nữa. Rồi ông ta lại cúi xuống tờ báo, điếu thuốc vẫn không rời khỏi môi.

Jack chầm chậm đi về phía cuối hành lang, cho đến khi trước mặt anh là một dãy những ngăn tủ an toàn. Dù đã rất lâu năm, nhưng những ngăn tủ này trông có vẻ rất chắc chắn và không dễ dàng có thể phá ra, cho dù có ai đó muốn làm điều ấy. Anh mở ngăn tủ của mình ra và nhìn vào bên trong. Nó rộng khoảng 8 inch, và cao khoảng hai bộ. Jack liếc nhìn về phía bàn tiếp tân, ông già đang lật sang trang báo khác, điếu thuốc vẫn ngậm chặt trên môi.

Jack đi thêm vài bước nữa, rồi rút chiếc chìa khoá sao bản từ trong túi ra. Thêm một cái liếc nhìn nữa, anh cho chiếc chìa vào ổ khoá ngăn tủ số 13. Anh nhìn vào bên trong và cố giữ bình tĩnh, cho dù tim anh đập thình thịch. Anh rút một tờ tiền từ trong đó ra và bỏ vào ví mình. Jack khoá ngăn tủ lại và cất chiếc chìa khoá vào túi. Ông già đã lật sang một trang báo khác và đang đọc kết quả các cuộc đua ngựa khi Jack bước trở ra phố. Anh phải đi qua 11 tòa nhà trước khi vẫy được một chiếc xe tắc xi chưa có khách, nhưng anh không vội gọi cho Macy. Khi về tới nhà, anh mở cửa trước, chạy vào bếp và đặt tờ 100 đôla lên bàn. Sau đó anh hình dung lại kích thước của ngăn tủ, trước khi tính toán xem phải bao nhiêu tờ tiền 100 đôla mới có thể nhét đầy ngăn tủ đó. Đến khi anh gọi cho Macy, anh đã mất mấy tờ giấy để trợ giúp cho sự tính toán của mình.

“Tôi nghĩ tôi đã nói rằng cậu được nghỉ cho đến hết tuần”, Macy nói.

“Tôi đã tìm thấy ngăn tủ vừa với chiếc chìa khoá kia”.

“Trong đó có gì?”.

“Khó tin lắm”, Jack trả lời, “nhưng theo tôi tính thì phải có tới 2 triệu đôla”

“Kỳ nghỉ phép của cậu đã bị hoãn”, Macy nói.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


“Tin tốt lành”, viên bác sỹ tuyên bố vào buổi sáng ngày thứ ba. “Vết thương của cô đã gần lành, và tôi sắp sửa đề nghị với nhà chức trách đưa cô tới trại giam Jilava vào ngày mai”.

Với câu nói này, viên bác sỹ đã quyết định giờ hành động của Krantz. Sau khi viên bác sỹ đã thay băng cho cô ta và bước ra khỏi phòng mà không nói một lời, Krantz nằm trên giường và nghiền ngẫm kế hoạch của cô ta. Cô ta ngủ ngon lành từ lúc 3 giờ chiều tới lúc 9 giờ đêm. Suy cho cùng, cô ta chỉ cần tỉnh táo vào ca đêm.

“Hôm nay cô ta không gây rối gì”, Krantz nghe thấy một trong người lính gác báo cáo khi anh ta giao chùm chìa khoá cho ca gác lúc 10 giờ đêm.

Krantz không cựa quậy trong suốt bốn tiếng đồng hồ sau đó, bởi vì cả bao thuốc lá Silk Cut lẫn tờ tiền 100 đôla đều không thể mua được nụ cười của hai người lính già. Họ dường như chỉ nóng lòng được tham dự lễ tang của cô ta.

Cô ta không ngủ.

Anna rời khỏi căn hộ của mình để thực hiện bài tập chạy buổi sáng ngay trước lúc 6 giờ. Sam đứng dậy khỏi chiếc bàn của mình để mở cửa cho cô - nụ cười không rời khỏi khuôn mặt ông già kể từ khi Anna trở về.

***

Anna băn khoăn không hiểu Jack sẽ đuổi kịp cô ở khúc nào. Cô phải thú nhận là cô đã nghĩ về Jack rất nhiều kể từ khi hai người chia tay nhau vào hôm trước, và cô đang hy vọng là mối quan hệ của họ sẽ vượt ra khỏi phạm vi quan hệ nghề nghiệp bình thường.

“Hãy cẩn thận”, Tina cảnh báo cô trong bữa ăn tối qua. “Một khi ông ta đã có được thứ mình muốn, ông ta vẫn sẽ không dừng lại”.

Một kẻ quái đản, cô nhớ là mình đã nghĩ như vậy.

“Fenston rất thích bức tranh Van Gogh”, Tina khẳng định với cô. “Ông ta đã treo nó ở vị trí trang trọng sau bàn làm việc của mình”.

Thực tế là Tina đã nói cho cô biết tất cả những gì mà Fenston và Leapman đã làm trong mười ngày qua. Tuy nhiên, với tất cả những sự thăm dò khôn khéo, những lời ám chỉ và những câu hỏi đúng chỗ, cô vẫn không tìm ra nguyên nhân tại sao Fenston luôn theo sát cô.

Anna nhớ tới lần cuối khi cô chạy quanh công viên Central là vào buổi sáng ngày 11. Đám mây xám xịt kia có lẽ cuối cùng cũng sẽ tan biến, nhưng còn nhiều thứ gợi nhớ tới cái ngày khủng khiếp đó, chưa nói gì đến hai tiếng Bãi Trống trên môi mọi người. Cô gạt sang một bên những hình ảnh kinh hoàng của ngày hôm đó khi cô trông thấy Jack đang chạy bên dưới Artists Gate.

“Chờ lâu chưa, Người Rình rập?”, Anna hỏi khi cô chạy qua chỗ anh và vòng quanh chiếc ao.

“Chưa”, Jack trả lời khi anh đuổi kịp cô. “Tôi mới chạy quanh được hai vòng, vì vậy tôi sẽ xem đây như là vòng chạy cho người bớt nóng”.

“Bớt nóng chưa?”, Anna nói và tăng tốc chạy đi. Cô biết mình không thể duy trì tốc độ đó lâu và chỉ ít giây sau anh đã lại chạy chầm chậm bên cô.

“Không tồi”, Jack nói, “nhưng cô có thể giữ tốc độ như vậy trong bao lâu? .

“Tôi nghĩ đó là chuyện của đàn ông”, Anna nói và cố gắng giữ tốc độ. Cô biết hy vọng duy nhất của mình là làm anh sao nhãng. Cô chờ cho đến khi bảo tàng Frick hiện ra trước mắt. “Hãy kể tên năm hoạ sỹ có tranh treo trong bảo tàng kia”, cô yêu cầu, với hy vọng rằng sự thiếu kiến thức của anh trong lĩnh vực này sẽ bù đắp cho tốc độ của cô.

“Bellini, Mary Cassatt, Renoir, Rembrandt và Cromwell”.

“Đúng, nhưng Cromwell nào?”, Anna vừa hỏi vừa thở hổn hển.

“Thomas, không phải Oliver”, Jack nói.

“Không tồi, Người Rình rập ạ”, Anna thú nhận.

“Cô có thể phê bình cha tôi về chuyện đó”, Jack nói. “Cứ mỗi khi ông đi tuần tra vào Chủ nhật, mẹ tôi lại đưa tôi tới các phòng tranh và các bảo tàng. Ban đầu tôi nghĩ đó là sự lãng phí thời gian, cho đến khi tôi thấy say mê”.

“Anh say mê ai?”, Anna hỏi khi họ chạy lên đồi Pilgrim.

“Rossetti, hoặc, nói một cách chính xác hơn, người yêu của ông là Jane Burden”.

“Các học giả vẫn đang tranh cãi xem Ông ấy đã ngủ với bà ta chưa”, Anna nói. “Và chồng của bà ta - William Morris - ngưỡng mộ Rossetti đến mức người ta nghĩ rằng ông ta sẽ không phản đối nếu chuyện đó xảy ra.”.

“Một người đàn ông xuẩn ngốc”, Jack nói.

“Anh vẫn còn say mê Jane chứ?”, Anna hỏi.

“Không, từ đó đến nay tôi đã thay đổi nhiều. Tôi bây giờ chỉ thích những phụ nữ có bộ ngực cao đến mang tai”.

“Vậy chắc là anh đã bỏ ra nhiều thời gian ở MIMA”.

“Một vài cuộc hẹn hú hoạ”, Jack thú nhận, “nhưng mẹ tôi không đồng ý”.

“Vậy bà muốn anh phải hẹn hò với những người như thế nào?”.

“Mẹ tôi cổ lắm, vì vậy bất kỳ cô Mary nào còn trinh là được, nhưng tôi đang cố làm bà thay đổi suy nghĩ”.

“Anh còn cố làm gì nữa không?”.

“Ví dụ? , Jack hỏi.

“Ví dụ như nghĩ xem chữ R là viết tắt của từ gì”, Anna vừa nói vừa thở hổn hển.

“Cho tôi biết đi”, Jack nói.

“Tôi cá là Romania”, Anna nói như sắp đứt hơi.

“Cô nên gia nhập FBI”, Jack vừa nói vừa chạy chậm lại.

“Anh đã tự nghĩ ra rồi à?”, Anna hỏi.

“Không”, Jack thừa nhận, “Một người tên là Abe nói cho tôi biết”.

Và?

“Và cả cô lẫn ông ta đều đúng”.

“Vậy Câu lạc bộ Romania ở đâu?”.

“Ở một ngôi nhà xuống cấp tại khu Queens”, Jack đáp.

“Và anh đã nhìn tìm thấy gì khi mở nó ra?”.

“Tôi không hoàn toàn chắc chắn”, Jack nói.

“Đừng đùa nữa, Người Rình rập, nói cho tôi biết đi”.

“Khoảng hai triệu đôla”.

“Hai triệu?”, Anna lặp lại lời anh bằng một giọng thể hiện sự nghi ngờ.

“Ừ, cũng có thể không nhiều đến thế, nhưng chắc chắn đủ để sếp tôi vứt hết mọi thứ, cho theo dõi tòa nhà và hoãn kỳ nghỉ phép của tôi”.

“Loại người nào sẽ cất hai triệu đôla ở ngăn tủ gửi đồ tại một tòa nhà xuống cấp ở khu Queens?”, Anna hỏi.

“Một người không dám mở tài khoản tại bất kỳ một ngân hàng nào trên thế giới”.

“Krantz”, Anna nói.

“Bây giờ đến lượt cô. Bữa ăn tối của cô với Tina có cho kết quả gì không?”.

“Tôi nghĩ anh sẽ không bao giờ hỏi”, Anna đáp và chạy thêm 100 thước nữa trước khi nói tiếp, “Fenston nghĩ món đồ mới nhất trong bộ sưu tập của ông ta thật tuyệt vời. Nhưng quan trọng hơn là, khi Tina đưa cà phê vào phòng cho ông ta, chị ấy thấy có một tờ Thời báo New York trên mặt bàn, và được giở tới trang 17”.

“Chắc chắn không phải là chuyên mục thể thao”, Jack nói.

“Không, chuyên mục tin quốc tế”, Anna vừa nói vừa rút bài báo từ trong túi ra rồi đưa cho Jack.

“Đây là mồi nhử để xem tôi có thể theo kịp cô trong khi vừa chạy vừa đọc không chứ gì?”.

“Không, đây là mồi nhử để xem anh có biết đọc không, Người Rình rập ạ, và tôi lúc nào cũng có thể chạy chậm lại, bởi vì tôi biết trước kia chưa bao giờ anh đuổi kịp tôi”, Anna nói.

Jack đọc tít báo và gần như dừng hẳn khi họ chạy qua khu hồ. Một lát sau anh nói: “Một cô gái khôn ngoan, cô bạn Tina của cô ấy”.

“Và chị ấy càng ngày càng khôn ngoan hơn”, Anna nói. “Chị ấy đã nghe lỏm một cuộc nói chuyện điện thoại giữa Fenston với Leapman và thấy Fenston nói Ông vẫn còn giữ chiếc chìa khoá thứ hai đấy chứ? Chị ấy không hiểu ý nghĩa của câu nói này, nhưng...”

“Tôi xin rút lại tất cả những gì tôi đã nói về cô ấy”, Jack nói. “Cô ấy là đồng đội của chúng ta”.

“Không, Người Rình rập, chị ấy là đồng đội của tôi”, Anna vừa nói vừa tăng tốc chạy xuống khu strawberry Fields, Jack chạy song song bên cô.

“Tôi sẽ chia tay anh ở đây”, Anna nói khi họ chạy tới Artists Gate. Cô nhìn đồng hồ và mỉm cười: mười một phút bốn mươi tám giây.

“Ăn gì không?”.

“Xin lỗi, không thể”, Anna nói, “tôi phải gặp một người bạn cũ ở hãng Christie, thử tìm hiểu xem họ có cuộc đấu giá nào không”.

“Bữa tối thì thế nào?”.

“Tôi có vé vào xem triển lãm Rauschenberg tại bảo tàng Whitney. Nếu anh muốn đi với tôi, tôi sẽ có mặt tại đó vào lúc 6 giờ, Người Rình rập ạ”.

Cô chạy đi trước khi anh kịp trả lời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Leapman chọn một ngày Chủ nhật bởi vì đó là ngày duy nhất trong tuần Fenston không tới văn phòng, cho dù hôm ấy Fenston đã gọi ông ta ba lần. Ông ta ngồi một mình trong căn hộ của mình và ăn bữa tối trước màn hình tivi, nghiền ngẫm kế hoạch của mình, cho đến khi ông ta tin chắc rằng sẽ không có sai sót nào. Ngày mai, và tất cả các ngày mai của ngày mai, ông ta sẽ ăn tối tại những nhà hàng sang trọng nhất, và chẳng cần phải chờ Fenston.

Sau khi đã vét đến mẩu thức ăn cuối cùng, ông ta quay về phòng ngủ của mình và cởi quần lót ra. Ông ta mở tủ lấy ra bộ đồ thể thao mà ông ta cần cho công việc đặc biệt này. Ông ta mặc lên người một chiếc áo phông, một chiếc quần đùi và một chiếc quần dài thụng màu xám mà các cô cậu thanh niên ngày nay không thể tin rằng cha mẹ họ đã từng mặc.

Cuối cùng ông ta đi một đôi tất trắng vào chân, và xỏ chân vào một đôi giày màu trắng. Ông ta không nhìn vào mình trong gương, ông ta bước qua phòng, quỳ xuống và quờ tay dưới gầm giường để lấy ra một chiếc túi thể thao. Một chiếc vợt chơi bóng quần thò cán ra khỏi miệng túi. Lúc này ông ta đã sẵn sàng cho công việc bất thường của mình. Tất cả những gì mà ông ta cần là một chiếc chìa khoá và một bao thuốc lá.

Ông ta bước vào căn bếp, mở một ngăn kéo có chứa một thùng các tông lớn đựng những tút thuốc Marlboro và lấy ra một bao. Ông ta không bao giờ hút thuốc. Hành động cuối cùng của ông ta trong nghi lễ này là luồn tay xuống đáy ngăn kéo và lấy ra một chiếc chìa khoá, vốn được dán chặt vào đáy tủ bằng băng dính. Bây giờ thì ông ta đã có tất cả những gì mình cần.

Ông ta khoá cửa trước bằng hai lần khoá rồi đi xuống tầng trệt. Ông ta mở cửa hậu, leo lên các bậc cầu thang và bước ra phố.

Đối với những người qua đường, ông ta trông giống như một người đang trên đường tới câu lạc bộ bóng quần của mình. Leapman chưa bao giờ chơi bóng quần trong cuộc đời mình. Ông ta đi bộ qua một tòa nhà rồi mới gọi tắc xi. Một thói quen không bao giờ thay đổi. Ông ta đưa cho tài xế địa chỉ cần tới, cách đó năm dặm, và không phải là địa chỉ của một câu lạc bộ bóng quần, ông ta ngồi ở băng ghế sau, cảm thấy nhẹ nhõm khi người tài xế rất ít lời, bởi vì ông ta cần tập trung. Ngày hôm nay, ông ta sẽ có một thay đổi trong lề thói hàng ngày của mình, một sự thay đổi mà ông ta đã lên kế hoạch trong mười năm qua. Đây sẽ là lần cuối cùng ông ta đi làm những công việc lặt vặt cho Fenston, một kẻ đã lợi dụng ông ta suốt mười năm qua. Hôm nay thì không. Không bao giờ còn có chuyện đó nữa. Ông ta nhìn qua cửa xe. Ông ta thực hiện chuyến đi này một lần, đôi khi là hai lần trong một năm, để bỏ những khoản tiền lớn vào một ngăn tủ an toàn tại NYRC, mỗi khi Krantz vừa hoàn thành một công việc được giao. Trong suốt thời gian đó, ông ta đã đặt tổng cộng 5 triệu đôla vào ngăn tủ để đồ số 13 ở nhà nghỉ NYRC trên phố Lincoln, và ông ta biết đó luôn là những chuyến đi một chiều - cho đến ngày cô ta mắc sai lầm.

Khi ông ta đọc thấy trên tờ Thời báo rằng Krantz đã bị bắt sau khi bị bắn vào vai - kể mà bị bắn chết thì tốt biết mấy, ông ta nghĩ - Leapman biết đây là cơ hội có một không hai trong đời mình. Fenston thì thích gọi đó là cánh cửa cơ hội. Suy cho cùng, Krantz là người duy nhất biết trong ngăn tủ đó có bao nhiêu tiền mặt, trong khi ông ta là người duy nhất ngoài cô ta có chìa khoá ngăn tủ đó. “Chính xác là ở đâu?”, người tài xế hỏi.

Leapman nhìn qua cửa xe. “Hai tòa nhà nữa”, ông ta nói, “anh có thể cho tôi xuống tại góc phố”. Leapman lấy chiếc vợt chơi bóng quần ra khỏi túi rồi đặt nó lên ghế sau.

“23 đôla”, người tài xế vừa nói vừa cho xe dừng lại bên ngoài một cửa hàng bán rượu.

Leapman đưa cho anh ta ba tờ mệnh giá 10 đôla. “Tôi sẽ quay lại sau năm phút. Nếu anh vẫn còn ở quanh đây, anh sẽ được nhận 50 đôla nữa”.

“Tôi sẽ ở quanh đây”, người tài xế tắc xi vội trả lời.

Leapman cầm chiếc túi thể thao lên và bước xuống, để lại chiếc vợt trên xe. Ông ta bước qua đường, hài lòng khi thấy trên vỉa hè có rất đông người đi mua sắm. Một trong những lý do khiến ông ta luôn chọn ngày Chủ nhật. Tại khu Queens, một chiếc túi không đựng gì cũng có thể bị cướp giật.

Leapman bước nhanh cho tới khi ông ta đến trước số nhà 61. Ông ta dừng lại một lát để kiểm tra xem có ai để ý đến mình không. Họ để ý đến Ông ta làm gì? ông ta bước xuống cầu thang về phía tấm biển NYRC và đẩy chiếc cánh cửa chưa bao giờ bị khoá ra. Người gác cửa ngước nhìn lên và khi nhìn thấy vị khách mới bước vào, ông ta gật đầu - hành động nhiệt thành nhất của ông ta trong ngày - rồi lại tập trung vào chuyên mục thể thao. Leapman đặt bao Marlboro lên mặt bàn, và biết rằng nó sẽ biến mất trước khi ông ta quay đi. Ai cũng có giá của mình. Leapman nhìn dọc chiếc hành lang tối mờ được chiếu sáng nhờ một ngọn đèn 40 watt. Đôi khi ông ta băn khoăn tự hỏi không hiểu mình có phải là người duy nhất bước qua chiếc bàn tiếp tân hay không.

Cho dù hành lang rất tối, ông ta vẫn biết chính xác ngăn tủ cần tìm nằm ở vị trí nào. Không phải vì ông ta có thể đọc con số trên cửa, bởi vì giống như mọi thứ khác, nó đã bị mờ đi theo thời gian, ông ta nhìn về phía đầu hành lang, một điếu thuốc nữa đang cháy đỏ trên môi ông già.

Ông ta lấy chiếc chìa khoá trong túi quần ra, cho vào ổ khoá, xoay một vòng rồi mở cửa ra. Ông ta mở khoá chiếc túi thể thao trước khi ngoái nhìn lại phía đầu hành lang. Không quan tâm. Chỉ cần không đầy một phút, ông ta đã vét sạch ngăn tủ, chất đầy chiếc túi, và kéo khoá lại. Leapman đóng cửa tủ và khoá lại lần cuối cùng, ông ta nhấc chiếc túi lên, hơi ngạc nhiên vì sức nặng của nó, rồi bước trở lại chỗ bàn tiếp tân. Ông ta đặt chiếc chìa khoá lên mặt bàn. “Tôi sẽ không cần nó nữa”, ông ta nói với ông già gác cửa. Ông già không ngẩng đầu lên mà vẫn chăm chú đọc chuyên mục thể thao. Leapman bước qua cửa, trèo lên các bậc cầu thang và bước ra ngoài, ông ta lại nhìn dọc con phố. An toàn, ông ta bắt đầu bước nhanh trên phố, tay nắm chặt quai túi, và cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy chiếc tắc xi vẫn đợi ông ta ở góc phố.

Ông ta vừa đi được khoảng 20 thước thì bất ngờ bị bao vây bởi hàng chục người mặc quần bò và áo gió, phù hiệu FBI màu vàng in đậm sau lưng áo. Họ lao về phía ông ta từ mọi phía. Vài giây sau, hai chiếc xe lao vào phố Lincoln từ hai phía, cho dù đây là đường một chiều, và thắng gấp ngay sát kẻ tình nghi. Lần này thì những người qua đường dừng lại và nhìn chằm chằm người đàn ông mặc bộ đồ thể thao mang túi thể thao đang bị bắt giữ. Chiếc tắc xi chạy đi, mất 50 đôla, được một chiếc vợt. “Đọc cho ông ta nghe quyền lợi của mình”, Joe nói, khi một sỹ quan khác bẻ quặt tay Leapman ra sau và còng lại, trong khi một người thứ ba cầm lấy chiếc túi.

“Ông có quyền giữ im lặng...”, Leapman im lặng không nói gì.

Sau khi Leapman đã được nghe về những quyền lợi Miranda[3] của mình - đây không phải là lần đầu tiên - ông ta được dẫn tới một chiếc xe, không kèn không trống, và được đẩy vào hàng ghế sau, nơi Đặc vụ Delaney đang ngồi chờ ông ta.

[3] Điều luật của Mỹ quy định các sỹ quan cảnh sát phải cho người tình nghi biết một số quyền lợi pháp lý của mình trước khi bắt giữ và thẩm vấn họ (ND).

***

Anna đang ở trong Bảo tàng Whitney, và đang đứng trước một bức tranh của Rauschenberg có tựa đề Satellite khi chiếc điện thoại di động trong túi cô rung lên. Cô nhìn màn hình và thấy người gọi chính là Người Rình rập.

“Có đây”, Anna nói.

“Tôi tính sai rồi”.

“Cái gì sai?”, Anna nói.

“Hơn hai triệu”.

Krantz lắng nghe tiếng chuông đồng hồ trên tháp nhà thờ gần đó. Cô ta nằm im, cảnh giác, sẵn sàng cho một sự thay đổi.

Chỉ một lát sau, cô nghe thấy có tiếng chìa khoá tra vào ổ, tiếp đến là tiếng cánh cửa mở ra và khép lại. Cô ta không nhìn lên, tất cả đều như bình thường. Người lính gác bước lại gần, đặt một cốc nước lên chiếc bàn bên cạnh giường, lấy gói Silk Cut, và rời khỏi căn phòng mà không nói lấy một lời. Cô ta nghe thấy tiếng cánh cửa được khoá lại.

Cô ta không hề cử động, một tay nắm chặt tờ 100 đôla, một tay nắm chặt chiếc kéo của viên bác sỹ.

20 phút trôi qua trước khi cô ta nghe thấy tiếng chìa khoá xoay trong ổ và chiếc cánh cửa được mở ra lần thứ hai. Cánh cửa được khép lại. Người lính gác thứ hai bước nhanh qua phòng, đặt một chiếc bánh xăngđuých pho mát, một lon coke và một gói Silk Cut lên mặt bàn. Anh ta quay sang nhìn người tù nhân và chờ đợi.

Một nắm tay nhỏ luồn ra từ bên dưới tấm ga, và các ngón tay từ từ mở ra để lộ một tờ 100 đôla. Người lính gác mỉm cười. Khi anh ta cúi xuống để cầm lấy tờ tiền, tờ tiền rơi khỏi bàn tay cô ta và bay xuống sàn.

Người lính gác cúi xuống để nhặt tờ tiền lên, và đến khi anh ta đứng lên, với một nụ cười trên mặt, Krantz đã ngồi dậy và đang chờ trên mép giường. Anh ta vừa định cho tờ tiền vào túi thì Krantz nắm lấy mái tóc dầy của anh ta bằng một tay, và bằng một động tác thành thục, cắt đứt họng anh ta bằng tay còn lại với chiếc kéo của viên bác sỹ. Không phải là vũ khí hiệu quả nhất, nhưng là thứ duy nhất mà cô ta có.

Anh ta ngã xuống đất, và nằm giữa vũng máu của chính mình, trong khi vẫn nắm chặt tờ đôla trong tay. Krantz rời khỏi giường, nhanh chóng tháo chiếc chìa khoá mà cô ta cần từ chùm chìa khoá của anh ta, chạy lại phía cửa và khoá lại. Cô ta kéo chiếc giường lại gần, chỉ vài inch, và nhìn lên chiếc cửa sổ nhỏ không khoá. Krantz muốn tìm hiểu mức độ rủi ro trong công việc mà cô ta sắp làm.

Cô ta chạy ba bước tính từ cửa, nhảy lên tấm đệm, trèo lên thành giường, như thể đó là một thanh xà, tung người lên như một vận động viên nhào lộn, và luồn hai chân qua cửa sổ.

Cô ta bị kẹt, một nửa ở trong, một nửa ở ngoài. Krantz xoay người, vặn vẹo một lúc, cuối cùng cô ta đã chui qua được chiếc cửa sổ nhỏ và bám chặt tay vào mép cửa. Không nhìn xuống, không chần chừ. Cô ta thả tay ra, rơi qua hai tầng nhà xuống một luống hoa, và lăn tròn như thể cô ta vừa thả tay rơi xuống từ một chiếc xà cao.

Cô ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía bức tường được chăng dây thép gai, cũng là lúc người lính gác nghiện thuốc lá mở cửa ra để xem tại sao đồng đội của anh ta lại lâu đến vậy.

Mấy giây sau, tiếng còi báo động vang lên, và toàn bệnh viện ngập trong ánh đèn pha, giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm. Krantz chỉ còn cách mục tiêu của mình vài thước khi cô ta nghe thấy tiếng chó sủa đầu tiên. Không bao giờ nhìn lại, bởi vì điều đó sẽ làm giảm tốc độ.

Krantz nhảy lên nắm lấy lớp dây thép gai, và những con chó đầu tiên cũng nhảy lên theo cô ta. Nhưng chúng chỉ còn biết sủa theo khi con người kia gác chân qua lớp dây thép gai trần và nhanh chóng rơi xuống phía bên kia bức tường. Ba người lính gác đã chạy đến chân tường, nhưng không ai dám bắt chước kẻ đào tẩu. Một người trong số họ rút súng ra khi Krantz bắt đầu chạy qua đường. Anh ta bắn phát thứ nhất - rất gần, nhưng chưa đủ. Và đến khi anh ta bóp cò lần thứ hai thì cô ta đã mất hút trong rừng.

Viên bác sỹ trẻ quỳ xuống bên cái xác để tìm hiểu xem thứ vũ khí giết người mà kẻ sát nhân sử dụng là gì. Anh ta phát hiện thấy chiếc kéo của mình trong gầm giường, và vội vàng cho chiếc kéo vào túi áo khoác. Anh ta nhìn lên và thấy người lính gác nghiện thuốc lá đang đứng nhìn chiếc cửa sổ nhỏ bằng một vẻ mặt kinh ngạc.

Rồi anh ta nhớ ra. Cô ta từng là vận động viên trong đội tuyển Olympic.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


Một trong những nguyên tắc vàng của Anna khi cô thức dậy vào buổi sáng là không kiểm tra tin nhắn trước khi đã tắm rửa, mặc quần áo, ăn sáng và đọc tin trên tờ Thời báo New York. Nhưng vì cô đã phá vỡ rất nhiều những nguyên tắc vàng của mình trong hai tuần qua, lần này Anna đã kiểm tra tin nhắn thậm chí từ trước khi cô ngồi dậy khỏi giường. Một tin nhắn của Người Rình rập làm cô mỉm cười, và một tin nhắn của ông Nakamura làm cô cau mày - chỉ có vài từ, “Khẩn cấp, gọi lại ngay. Nakamura”.

Anna quyết định phải tắm trước khi gọi cho ông ta. Khi những dòng nước lạnh bắt đầu xối trên người Anna, cô nghĩ về nội dung tin nhắn của ông Nakamura. Cụm từ “Khẩn cấp” luôn khiến cô nghĩ đến những tình huống xấu nhất. jjj Anna đã tỉnh hẳn khi cô bước ra khỏi vòi tắm. Tim cô đập mạnh như thể cô vừa chạy xong đường chạy buổi sáng. Cô ngồi xuống đuôi giường và cố gắng giữ bình tĩnh.

Khi Anna cảm thấy nhịp tim mình đã trở lại bình thường, cô quay số của Nakamura ở Tokyo.

“Hai, Shacho-Shito desu”, cô nhân viên tiếp tân nói.

“Xin cho nói chuyện với ông Nakamura”.

“Xin cho biết tôi phải báo với ông ấy là ai đang gọi?”.

“Anna Petrescu”.

“À, vâng, ông ấy đang chờ điện thoại của bà”. Tim Anna đập mạnh hơn. “Xin chào, Tiến sỹ Petrescu, chúc cô một buổi sáng tốt lành”.

“Xin chào, ngài Nakamura, chúc ngài một buổi chiều tốt lành”, Anna nói và ước gì mình có thể nhìn thấy khuôn mặt của ông ta để biết rõ số phận của mình được nhanh hơn.

“Gần đây tôi vừa có một cuộc nói chuyện rất khó chịu với ông chủ cũ của cô là Bryce Fenston”, Nakamura tiếp tục. “Và tôi e rằng” - Anna gần như tức thở - “điều đó đã khiến tôi phải đánh giá lại” - cô cảm thấy mình sắp phát sốt - “nhận xét của tôi về con người ông ta. Tôi muốn cho cô biết rằng mấy hôm nay mỗi ngày cô đã khiến tôi mất 500 đôla vì tôi đã đặt cọc năm triệu đôla theo yêu cầu của cô tại chỗ các luật sư của tôi ở London. Vì vậy tôi muốn nhìn thấy bức tranh Van Gogh càng sớm càng tốt.”

“Tôi có thể bay sang London trong vài ngày tới”. Anna khẳng định với ông ta, “nhưng đầu tiên tôi phải sang Anh quốc để lấy bức tranh đã”.

“Có lẽ không cần thiết phải làm thế”, Nakamura nói. “Tôi có một cuộc gặp với công ty Corns Steel tại London vào ngày thứ Tư, và sẽ sẵn lòng đến trước hẹn một ngày, nếu chuyện đó không gây phiền phức cho Phu nhân Arabella”.

“Chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp”, Anna nói. “Tôi cần phải liên lạc với Arabella, và sau đó sẽ gọi cho thư ký của ông để thống nhất các chi tiết. Lâu đài Wentworth chỉ cách sân bay Heathrow ba mươi phút”.

“Tuyệt vời”, Nakamura nói. “Vậy thì tôi mong tối mai sẽ được gặp cả cô và Phu nhân Arabella ông ta dừng lại. “Tiện đây, Anna, cô đã suy nghĩ gì tới việc về làm giám đốc quỹ của chúng tôi chưa? Bởi vì ông Fenston đã thuyết phục tôi tin một điều: cô xứng đáng được hưởng 500 đôla một ngày”.

***

Cho dù đây là lần thứ ba Fenston đọc bài báo này, nụ cười vẫn chưa tắt trên khuôn mặt ông ta. Ông ta muốn chia sẻ tin tức này với Leapman ngay, mặc dù ông ta biết có lẽ giờ này Leapman cũng đã biết rõ mọi chuyện. Ông ta liếc nhìn đồng hồ, vừa qua 10 giờ. Leapman không bao giờ muộn, ông ta ở đâu?

Tina đã báo cho ông ta biết rằng ông Jackson, một người định giá bảo hiểm, đang chờ trong phòng khách, và phòng tiếp tân vừa gọi để báo rằng Chris Savage của hãng Christie đang trên đường tới.

“Ngay khi Savage tới”, Fenston ra lệnh, “đưa cả hai người bọn họ sang đây, và bảo ông Leapman tới phòng tôi luôn thể”.

“Sáng nay tôi chưa thấy ông Leapman đâu”, Tina nói.

“Thế thì khi ông ta tới, bảo ông ta sang phòng tôi ngay”. Fenston nói. Nụ cười trở lại khuôn mặt ông ta khi ông ta đọc lại bài báo, Kẻ Sát Nhân Bằng Dao Làm Bếp Tẩu Thoát.

Có tiếng gõ cửa, Tina đưa cả hai người khách sang văn phòng chủ tịch.

“Ông Jackson và ông Savage”, chị nói. Từ cách ăn mặc của họ, người ta có thể dễ dàng biết ai là người môi giới bảo hiểm, ai là người thẩm định nghệ thuật.

Fenston bước lên một bước và bắt tay với một người thấp lùn, hói đầu mặc complê màu xanh hải quân và đeo một chiếc caravát màu xanh dương, ông ta giới thiệu tên mình là Bill Jackson. Fenston gật đầu với Savage, người mà ông ta đã gặp tại hãng Christie vài lần trong mấy năm qua. Ông ta đeo một cái nơ mang nét điển hình nghề nghiệp của mình.

“Tôi muốn nói rõ ngay từ đầu”, Fenston bắt đầu, “rằng tôi chỉ bảo hiểm mỗi bức tranh này”, ông ta vừa nói vừa chỉ tay vào bức Van Gogh trên tường, “với trị giá là 20 triệu đôla”.

“Cho dù nó phải có cái giá gấp năm lần như thế nếu được đem ra đấu giá?”, Savage vừa hỏi vừa chăm chú ngắm nhìn bức tranh mà ông ta vừa mới được thấy lần đầu.

“Tất nhiên là điều đó cũng đồng nghĩa với một mức phí thấp hơn nhiều”, Jackson nói. “Đó là nếu các nhân viên an ninh của chúng tôi đã biết chắc chắn rằng bức tranh được bảo vệ một cách an toàn”.

“Ông cứ ngồi yên đó, ông Jackson, và ông có thể tự trả lời câu hỏi là nó có được bảo vệ một cách chu đáo hay không”.

Fenston bước về phía cửa, nhập một mã số gồm sáu con số lên bảng khoá gần bảng mạch điện rồi rời khỏi căn phòng. Ngay sau khi cánh cửa đóng lại sau lưng ông ta, một tấm lưới sắt xuất hiện từ trên trần, và tám giây sau, nó đã chạm xuống sàn nhà, che kín bức tranh Van Gogh. Đồng thời, những tiếng còi báo động chói tai cất lên.

Jackson vội lấy tay bịt tai lại và nhìn lại phía sau. Một tấm lưới khác đã chắn ngang lối thoát của ông ta ra chiếc cửa duy nhất, ông ta bước lại phía cửa sổ để nhìn xuống dòng người trên đang chuyển động trên vỉa hè. Vài giây sau, tiếng còi dứt và các tấm lưới được nâng lên trần. Fenston bước trở lại vào phòng, trông ông ta có vẻ tự đắc.

“Rất ấn tượng”, Lackson nói mà cảm thấy tiếng còi vẫn còn xói vào tai mình. “Nhưng vẫn còn một vài câu hỏi mà tôi cần được trả lời”, ông ta nói thêm. “Có bao nhiêu người biết mã số bí mật?”.

“Chỉ có hai chúng tôi”, Fenston nói, “tôi và chánh văn phòng của tôi, và tôi đổi mật mã mỗi tuần một lần”.

“Thế còn chiếc cửa sổ kia”, Jackson nói, “có cách nào mở nó ra không?”.

“Không, đó là kính chống đạn hai lớp, và cho dù ông có thể phá vỡ nó ra, vẫn còn ba mươi hai tầng ở bên dưới nữa mới tới mặt đất”.

“Còn chiếc chuông báo động...?”.

“Nối trực tiếp với công ty bảo vệ Abbott”, Fenston nói. “Họ có một văn phòng trong tòa nhà này, và cam đoan sẽ có mặt trong phòng của ông sau hai phút”.

“Tôi cảm thấy bị thuyết phục rồi đấy”, Jackson nói. “Thuộc loại A theo cách gọi của chúng tôi, có nghĩa là phí chỉ dưới 1 %, tính ra là vào khoảng 200.000 đôla một năm”. Ông ta mỉm cười. “Tôi chỉ ước người Na Uy có được tầm nhìn như ông, ông Fenston ạ, và như thế có lẽ chúng tôi đã không phải trả quá nhiều cho bức tranh Tiếng Thét”.

“Nhưng các ông cũng đảm bảo giữ bí mật trong chuyện này chứ?”, Fenston hỏi.

“Tất nhiên”, Jackson khẳng định với ông ta. “Chúng tôi bảo hiểm một nửa kho báu của thế giới, và ông không thể biết khách hàng của chúng tôi là ai, cho dù ông có đột nhập vào trụ sở của chúng tôi ở London đi chăng nữa. Thậm chí tên của khách hàng cũng được mã hoá”.

“Nghe có vẻ thuyết phục đấy”, Fenston nói. “Vậy tất cả những gì cần làm là thủ tục giấy tờ”.

“Tôi sẽ làm ngay”, Jackson nói, “sau khi ông Savage khẳng định giá trị của bức tranh không dưới 20 triệu”.

“Điều đó không quá khó”, Fenston vừa nói vừa quay sang Chris Savage, lúc này đang chăm chú nhìn bức tranh. “Suy cho cùng, ông ấy đã nói khẳng định với chúng ta rằng bức Van Gogh này đáng giá 100 triệu đôla”.

“Bức Van Gogh của Lâu đài Wentworth thì đúng là đáng giá 100 triệu đôla”, Savage nói, “nhưng không phải bức tranh này”, ông ta dừng lại trước khi quay sang nhìn Fenston. “Thứ duy nhất còn nguyên bản là khung tranh”.

“Ông nói gì?”, Fenston vừa nói vừa nhìn chằm chằm lên bức tranh yêu thích như thể có ai đó vừa nói với ông ta rằng đứa con duy nhất của ông ta là con hoang.

“Tôi biết mình nói gì”, Savage nói. “Khung tranh là thật, nhưng bức tranh là giả”.

“Giả ư?”, Fenston lặp lại bằng một giọng lắp bắp. “Nhưng đây là bức tranh của Lâu đài Wentworth mà?”.

“Khung tranh có thể là của Wentworth”, Savage nói, “nhưng tôi có thể khẳng định với ông rằng bức tranh thì không”.

“Sao ông có thể biết chắc như vậy”, Fenston hỏi, “trong khi ông chưa thực hiện bất kỳ một công việc kiểm tra nào?”

“Không cần thiết phải thế”, Savage nói bằng một giọng thông cảm.

“Tại sao?”, Fenston nói bằng một giọng mất bình tĩnh.

“Bởi vì chiếc tai bị băng không phải là chiếc tai đó”, Savage trả lời ngay. “Không phải ư?”, Fenston vừa nói vừa nhìn chằm chằm lên bức tranh trên tường. “Đứa bé nào mà chẳng biết Van Gogh đã cắt tai trái của mình?”.

“Nhưng học sinh nào cũng biết Van Gogh nhìn vào gương khi vẽ chân dung của chính mình, đó là lý do tại sao chiếc tai bị băng là tai phải”. Fenston ngồi sụp xuống chiếc ghế bên bàn làm việc của mình, quay lưng lại phía bức tranh. Savage bước lại phía trước và bắt đầu xem xét bức tranh kỹ hơn. “Điều làm tôi ngạc nhiên là”, ông ta nói thêm, “dù bức tranh này là giả, có ai đó đã đưa nó vào khung tranh thật”. Fenston tím mặt vì giận dữ. “Và tôi phải thú nhận rằng”, Savage tiếp tục, “người đã vẽ nên bức tranh giả này là một hoạ sỹ tài năng”, ông ta dừng lại. “Tuy nhiên, tôi chỉ có thể định giá bức tranh này ở tầm mười nghìn đôla, và có lẽ” - ông ta lưỡng lự - “10.000 đôla nữa cho khung tranh, và như vậy mức phí 200.000 đôla một năm là hơi quá cao”. Fenston vẫn không nói gì. “Tôi xin lỗi vì đã nói ra những tin xấu như vậy”, Savage kết luận và bước tới trước mặt Fenston. “Tôi chỉ hy vọng là ông đã không phải chia tay với một món tiền quá lớn, và, nếu không may ông đã bỏ tiền ra, ông biết ai phải chịu trách nhiệm về sự lừa dối này”.

“Gọi Leapman cho tôi”, Fenston hét lên, Tina chạy vội sang văn phòng chủ tịch.

“Ông ấy vừa mới tới”, chị nói. “Tôi sẽ nói với ông ấy rằng ngài cần gặp”.

Cả nhân viên của hãng Lloyd và hãng Christie đều hiểu rằng đây không phải là lúc ngồi lại để kiếm một cốc cà phê. Họ yên lặng rút lui, cũng là lúc Leapman lao vào phòng.

“Đấy là đồ giả”, Fenston la lên.

Leapman nhìn chằm chằm bức tranh một lúc trước khi đưa ra nhận xét. “Và cả ngài lẫn tôi đều biết ai là người phải chịu trách nhiệm”, cuối cùng ông ta nói.

“Petrescu”, Fenston rít lên.

“Đấy là chưa kể đến kẻ đồng loã của cô ta, kẻ đã cung cấp thông tin cho cô ta kể từ khi cô ta bị ngài sa thải”.

“Ông nói đúng”, Fenston nói và quay về phía chiếc cánh cửa đang mở rồi lại rít lên “Tina”. Một lần nữa, chị lại chạy sang văn phòng chủ tịch.

“Cô có thấy bức tranh kia không?”, ông ta nói, và vẫn chưa thể quay lại nhìn bức tranh. Tina gật đầu, nhưng không nói gì. “Tôi muốn cô cho nó vào thùng, và gửi ngay tới Lâu đài Wentworth, cùng với một yêu cầu...”.

“Trả ngay ba mươi hai triệu 892.000 đôla”, Leapman nói.

“Và sau đó”, Fenston nói, “cô có thể thu dọn đồ đạc của mình và rời khỏi nơi này trong vòng mười phút, bởi vì cô đã bị sa thải, đồ chó cái”.

Tina bắt đầu run khi Fenston đứng dậy và nhìn cô chằm chằm. “Nhưng trước khi rời đi, tôi còn một công việc cuối cùng cho cô”. Tina không thể cử động. “Hãy nói với Petrescu, bạn của cô rằng tôi vẫn chưa gạch tên cô ta khỏi danh sách những người mất tích, được cho là đã chết”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Anna cảm thấy bữa trưa của cô với Ken Wheatley nhẽ ra đã có thể tốt đẹp hơn. Vị phó chủ tịch của hãng Christie đã nói thẳng ra rằng vụ việc không may khiến cô bị sa thải khỏi hãng vẫn chưa được các đồng nghiệp của cô trong giới nghệ thuật xếp vào kho chuyện của quá khứ. Và mọi chuyện còn tồi tệ hơn khi Fenston đã rêu rao rằng cô bị sa thải vì vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Wheatley thừa nhận rằng chẳng mấy ai tin lời Fenston. Tuy nhiên, họ cảm thấy khó có thể làm mất lòng một khách hàng giàu có như vậy, và điều đó có nghĩa là việc cô muốn quay trở lại nhà đấu giá này không phải là chuyện dễ. Những gì mà Wheatley nói càng khiến cô thêm quyết tâm giúp Jack đưa Fenston, một kẻ vô lương sẵn sàng huỳ hoại cuộc sống của bất kỳ ai, vào tù.

Theo lối nói khéo léo của Ken thì hiện nay không có công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của cô, nhưng ông ta hứa sẽ giữ liên lạc.

Khi Anna rời khỏi tiệm ăn, cô vẫy một chiếc tắc xi. Có lẽ cuộc gặp thứ hai sẽ tốt đẹp hơn. “Số 26 Federal Plaza”, cô nói với người lái xe.

Jack đang đứng ở sảnh của văn phòng New York chờ Anna. Anh không ngạc nhiên khi thấy cô đến sớm mấy phút, mặc dù anh đã chờ cô được một lúc. Ba lính gác nhìn theo Anna khi cô đi xuống mười hai bậc cầu thang dẫn tới cửa ra vào tòa nhà số 26 đường Federal Plaza. Cô nói tên mình với một người lính gác, và anh ta hỏi xem giấy tờ tuỳ thân của cô. Cô đưa cho anh ta tấm bằng lái xe của mình, anh ta xem kỹ rồi viết tên cô vào sổ.

Jack mở cửa cho cô.

“Tôi không nghĩ cuộc hẹn hò đầu tiên sẽ như thế này”, Anna vừa nói vừa bước vào bên trong.

“Tôi cũng thế”, Jack nói, “nhưng sếp của tôi muốn cô không nghi ngờ gì về việc ông ấy đánh giá cuộc gặp này quan trọng đến mức nào”.

“Tại sao, bây giờ đến lượt tôi bị bắt à?”, Anna hỏi.

“Không, nhưng ông ấy hy vọng cô có thể giúp chúng tôi”.

“Vậy thì chúng ta cùng đi đeo chuông vào cổ mèo”.

“Một câu nói quen thuộc của cha cô”, Jack nói.

“Sao anh biết?”, Anna hỏi. “Anh cũng có hồ sơ điều tra về cha tôi à?”.

“Không”, Jack cười, cũng là lúc họ bước vào thang máy. “Đó là một trong những gì mà cô đã nói cho tôi biết trên máy bay trong đêm đầu tiên của chúng ta”.

Jack đưa Anna lên tầng thứ mười chín, nơi Dick Macy đang chờ ngoài hành lang để đón cô.

“Cảm ơn cô vì đã nhận lời mời đến đây, Tiến sỹ Petrescu”, ông ta nói như thể cô có quyền lựa chọn. Anna không bình luận gì. Macy đưa cô vào văn phòng của mình và mời cô ngồi xuống một chiếc ghế êm ái bên bàn làm việc của ông ta.

“Cho dù đây là một cuộc gặp không có ghi âm”, Macy bắt đầu, “tôi không thể nói hết mức độ quan trọng mà Cục của chúng tôi đánh giá về sự giúp đỡ của cô”.

“Tại sao các ông cần sự giúp đỡ của tôi?”, Anna hỏi. “Tôi nghĩ các ông đã bắt giữ Leapman và hiện nay ông ta đang được canh giữ cẩn thận”.

“Chúng tôi đã thả ông ta ra sáng nay”, Macy nói.

“Thả ông ta?” Anna nói. “Hai triệu không đủ à?”.

“Thừa đủ”, Macy thừa nhận. “Đó là lý do tại sao tôi phải can dự vào. Chuyên môn của tôi là thương thuyết với những người bị bắt về khả năng được hưởng sự khoan hồng của họ, và lúc 9 giờ sáng nay, Leapman đã ký một thoả thuận với Công tố Quận Nam để đảm bảo rằng nếu ông ta hợp tác đầy đủ với chúng tôi trong cuộc điều tra, ông ta sẽ chỉ phải ngồi tù 5 năm”.

“Nhưng đó chưa phải là lý do khiến các ông thả Leapman”, Anna nói.

“Bởi vì Leapman khẳng định ông ta có thể chứng minh mối quan hệ tài chính trực tiếp giữa Fenston và Krantz, nhưng ông ta phải trở lại văn phòng Phố Wall của mình để có thể lấy được những tài liệu cần thiết, bao gồm cả số tài khoản, và một số vụ chi trả bất hợp pháp vào các tài khoản ngân hàng khác nhau trên khắp thế giới”.

“Ông ta có thể lừa các ông”, Anna nói. “Suy cho cùng, phần lớn các tài liệu liên quan đều không còn sau khi Tháp Bắc sụp đổ”.

“Đúng vậy”, Macy nói, “nhưng nếu ông ta làm thế, tôi đã nói rõ với ông ta rằng ông ta chỉ còn nước ngồi tù cho đến hết đời tại Sing Sing”.

“Có vẻ như đó là một sáng kiến”, Anna nói.

“Leapman cũng đồng ý trở thành người làm chứng của chính phủ”, Jack nói, “nếu vụ việc được đưa ra tòa.

“Vậy thì hãy tỏ lòng biết ơn khi Krantz đã bị bắt giữ, nếu không người làm chứng quý giá của các ông cũng chẳng làm gì nổi Fenston”. Macy nhìn Jack, và không che giấu nổi sự ngạc nhiên của mình. “Cô chưa đọc ấn bản của tờ Thời báo New York sáng nay à?”, ông ta quay sang Anna hỏi.

“Chưa”, Anna thú nhận. Cô vẫn chưa hiểu họ đang nói về chuyện gì.

Macy mở tập hồ sơ trước mặt, lấy ra một bài báo và đưa cho Anna.

Olga Krantz, được biết tới như là một sát thủ chuyên sử dụng dao làm bếp làm vũ khí giết người và vai trò đồ tể của cô ta trong chế độ tàn bạo của Ceausescu, đã tẩu thoát khỏi một bệnh viện được canh gác nghiêm ngặt ở Bucharest vào tối hôm qua. Người ta cho rằng Krantz đã trốn đi trong một bộ quần áo của nhân viên bốc vác trong bệnh vện. Sau đó người ta đã phát hiện thấy một sỹ quan cảnh sát canh gác cô ta...

“Tôi sẽ phải liên tục ngoái nhìn qua vai trong suốt phần đời còn lại của mình”, Anna nói, trước cả khi cô đọc xong đoạn cuối.

“Tôi không nghĩ vậy”, Jack nói. “Krantz sẽ không vội trở về Mỹ, khi cô ta đã có tên trong danh sách chín người bị FBI truy nã gắt gao nhất. Cô ta cũng sẽ nhận ra rằng chúng ta đã đưa mô tả chi tiết về cô ta tới mọi cửa ngõ ra vào nước Mỹ, cũng như cho Interpol. Nếu cô ta bị chặn lại và bị hỏi han, cô ta sẽ không thể giải thích được vết thương trên vai phải của mình”.

“Nhưng điều đó cũng không ngăn được hành động trả thù của Fenston”.

“Tại sao ông ta lại phải làm điều đó?”, Jack hỏi. “Một khi ông ta đã có bức tranh Van Gogh, và cô đã không còn gây nguy hiểm cho ông ta”.

“Nhưng ông ta chưa có được bức Van Gogh”, Anna vừa nói vừa cúi đầu.

“Cô muốn nói gì?”, Jack hỏi.

“Tôi mới nhận được một cú điện thoại của Tina, ngay trước lúc tôi rời nhà tới đây. Chị ấy cảnh báo với tôi rằng Fenston đã gọi một chuyên gia của hãng Christie tới để định giá bảo hiểm cho bức tranh. Một chuyện mà trước đây ông ta chưa bao giờ làm”.

“Nhưng thế thì có gì là lạ?”, Jack nói. Anna ngẩng đầu lên. “Bởi vì đó là tranh giả”.

“Một bức tranh giả à?”, cả hai người đàn ông cùng lên tiếng.

“Đúng thế, và đó là lý do tại sao tôi bay sang Bucharest. Tôi nhờ một người bạn, một hoạ sỹ thiên tài về thể loại chân dung, sao một bản của bức tranh đó”.

“Điều này giải thích tại sao trong phòng khách của cô lại có một bức tranh đẹp như vậy”, Jack nói.

“Anh đã ở trong phòng khách của tôi à?”, Anna nói.

“Chỉ khi tôi tin rằng cuộc sống của cô đang bị đe doạ”, Jack trầm giọng nói. “Nhưng...”, Anna bắt đầu.

“Và điều này cũng giải thích”, Macy nói chen vào, “tại sao cô lại gửi một chiếc thùng màu đỏ tới London, thậm chí còn để hãng Art Locations tham dự vào và chuyển nó tới New York cho Fenston”.

Anna gật đầu.

“Nhưng cô phải biết rằng đến một lúc nào đó, ông ta cũng sẽ phát hiện ra chứ?”, Jack hỏi.

“Đến một lúc nào đó, đúng vậy”, Anna nói. “Vấn đề là ở chỗ đó. Tất cả những gì tôi cần là có đủ thời gian để bán bức tranh gốc, trước khi Fenston biết rõ ý định của tôi”.

“Vậy là khi người bạn Anton của cô đang sao lại bức tranh, cô bay sang Tokyo để tìm cách bán bản gốc cho Nakamura”.

Anna gật đầu.

“Nhưng cô có thành công không?”, Macy hỏi.

“Có”, Anna nói. “Nakamura đồng ý mua bản gốc với giá 50 triệu đôla, như thế là thừa đủ để Arabella thanh toán hết các món nợ của chị mình với Fenston Finance trong khi vẫn giữ được toàn bộ những gì còn lại của Lâu đài”.

“Nhưng bây giờ khi Fenston đã biết rằng ông ta đang giữ một bức tranh giả, ông ta sẽ liên lạc với Nakamura và nói cho ông ta biết ý định của cô”.

“Ông ta đã làm thế”, Anna nói.

“Vậy là cô về số không”, Macy nói. “Không”, Anna vừa nói vừa mỉm cười. “Nakamura đã gửi 5 triệu đôla tiền đặt cọc cho các luật sư của ông ta tại London, và đã đồng ý sẽ thanh toán hết ngay sau khi ông ta đã cho thẩm định bức tranh”.

“Cô có đủ thời gian không?”, Macy hỏi.

“Tối nay tôi sẽ bay đi London”, Anna nói, “và Nakamura có kế hoạch sẽ gặp chúng tôi tại Lâu đài Wentworth vào tối mai”.

“Có vẻ như rất gấp rút”, Jack nói. “Không, nếu Leapman không trở mặt”, Macy nói. “Đừng quên những gì mà ông ta đã lên kế hoạch cho tối nay”.

“Tôi có thể biết các anh định làm gì không?”, Anna hỏi.

“Không”, Jack nói một cách dứt khoát. “Cô cứ lên máy bay đi London và giải quyết công việc của mình đi, còn chúng tôi sẽ tiếp tục với nhiệm vụ của mình”.

“Công việc của các anh có bao gồm cả việc theo dõi Tina không?”, Anna trầm giọng hỏi.

“Tại sao chúng tôi lại phải làm việc đó?”, Jack hỏi.

“Chị ấy vừa bị đuổi việc sáng nay”.

“Vì lý do gì?”, Macy hỏi.

“Vì Fenston phát hiện ra rằng chị ấy đã báo cho tôi biết tất cả những ý định của ông ta, vì vậy tôi sợ rằng mình đã đặt cuộc đời chị ấy vào vòng nguy hiểm”.

“Tôi đã lầm về Tina”, Jack thú nhận, rồi anh nhìn sang Anna và nói thêm, “và tôi xin lỗi. Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao cô ấy lại nhận lời làm việc cho Fenston”.

“Tôi có cảm giác là tôi sẽ tìm ra câu trả lời vào tối nay”, Anna nói. “Chúng tôi sẽ gặp nhau và đi uống nước trước khi tôi ra sân bay”.

“Nếu cô có chút thời gian rảnh trước khi cất cánh, hãy gọi điện cho tôi. Tôi sẽ rất nóng lòng muốn được biết câu trả lời cho điều bí ẩn đó”.

Anna gật đầu.

“Còn một điều bí ẩn nữa mà tôi muốn làm rõ trước khi cô ra về. Tiến sỹ Petrescu ạ”, Macy nói.

Anna quay sang nhìn ông sếp của Jack.

“Nếu Fenston đang giữ một bức tranh giả, vậy thì bức tranh gốc ở đâu?”, ông ta hỏi.

“Ở Lâu đài Wentworth”, Anna trả lời. “Sau khi lấy lại bức tranh từ hãng Sotheby, tôi bắt tắc xi và đưa nó thẳng tới chỗ Arabella. Thứ duy nhất mà tôi mang theo là chiếc thùng màu đỏ và khung tranh gốc”.

“Rồi cô mang sang Bucharest để người bạn Anton của cô có thể lắp bức tranh giả vào khung tranh thật, và cô hy vọng như thế là đủ để thuyết phục Fenston tin rằng ông ta đã có được bức chân dung đích thực của Van Gogh”.

“Và mọi chuyện sẽ là như vậy nếu ông ta không quyết định bảo hiểm cho bức tranh ấy”.

Yên lặng vài giây, rồi Macy nói: “Và cô đã làm tất cả những chuyện đó trước mặt Jack”.

“Đúng thế”, Anna vừa nói vừa mỉm cười.

“Vậy cho tôi hỏi một câu cuối cùng, Tiến sỹ Petrescu”, Macy tiếp tục, “bức tranh Van Gogh đã ở đâu khi hai nhân viên có kinh nghiệm nhất của tôi ăn sáng với cô và Phu nhân Arabella tại Lâu đài Wentworth?”.

“Thỉnh nguyện Tu chính Thứ Năm”, Jack nói bằng một giọng cầu xin.

“Trong phòng ngủ mang tên Van Gogh”, Anna trả lời, “ngay phía trên đầu họ, ở tầng hai”.

“Rất gần”, Macy nói.

***

Krantz đợi cho đến tiếng chuông thứ mười, và một giọng nói cất lên hỏi cô ta: “Cô đang ở đâu?”.

“Gần biên giới nước Nga”, cô ta nói. “Tốt, bởi vì cô không thể quay trở về New York lúc này khi tên của cô vẫn thường xuyên xuất hiện trên tờ Thời báo New York”.

“Đó là chưa kể tới danh sách truy nã đặc biệt của FBI”, Krantz thêm vào. “Mười lăm phút nổi tiếng”, Fenston nói. “Nhưng tôi có một công việc mới cho cô đây”.

“Ở đâu?”, Krantz hỏi.

“Lâu đài Wentworth”.

“Tôi không thể liều quay trở lại đó lần thứ hai...”.

“Cho dù tôi trả gấp đôi tiền?”.

“Vẫn quá mạo hiểm”.

“Cô sẽ không nghĩ thế nếu tôi cho cô biết tôi muốn cắt cổ ai”.

“Tôi đang nghe đây”, cô ta nói, và khi Fenston nói ra cái tên mà ông ta muốn trở thành nạn nhân tiếp theo của mình, cô ta chỉ nói: “ông sẽ trả tôi 2 triệu đôla cho việc đó?”.

“3 triệu, nếu cô có thể giết luôn Petrescu - cô ta sẽ ở đó qua đêm”. Krantz lưỡng lự.

“Và sẽ là 4, nếu cô ta là nhân chứng khi cái họng thứ nhất bị cắt đứt”, Fenston nói thêm.

Yên lặng một lúc, trước khi Krantz nói: “Tôi muốn được trả trước 2 triệu”.

“Ở chỗ cũ à?”.

“Không”, cô ta trả lời, và nói cho ông ta biết một mã số tài khoản ở Moscow.

Fenston đặt ống nghe xuống và bấm nút chuyển đường dây để gọi cho Leapman.

“Tôi cần phải gặp ông - ngay bây giờ”.

Trong khi chờ Leapman, Fenston bắt đầu viết ra những gì mà ông ta muốn bàn: Van Gogh, Tiền, Tài sản của Wentworth, Petrescu. Ông ta vẫn đang còn đang ngoáy bút khi có tiếng gõ cửa.

“Cô ta đã trốn thoát”, Fenston nói khi Leapman đã khép cửa lại.

“Vậy là Thời báo New York đã đưa tin chính xác”, Leapman nói, và hy vọng giọng nói của mình không để lộ sự lo lắng.

“Đúng, nhưng điều họ không biết là cô ta đang trên đường tới Moscow”.

“Cô ta có dự định quay trở lại New York không?”

“Không phải trong lúc này”, Fenston nói. “Cô ta không thể mạo hiểm trong khi lực lượng an ninh đang lùng sục như vậy”.

“Đúng là như vậy”, Leapman nói, và cố để giọng nói của mình không để lộ sự nhẹ nhõm.

“Trong khi đó, tôi đã giao cho cô ta một công việc khác”, Fenston nói. “Lần này sẽ là ai vậy?”, Leapman hỏi.

Leapman lắng nghe và không tin ở tai mình khi Fenston nói ra tên nạn nhân tiếp theo của ông ta, và tại sao cô ta không thể cắt tai trái của họ. “Bức tranh giả đã được gửi tới Lâu đài Wentworth rồi chứ?”, Fenston hỏi, trong khi Leapman đang nhìn chằm chằm lên bức ảnh chụp cảnh vị chủ tịch đang bắt tay với George W. Bush khi vị Tổng thống tới thăm Bãi Trống. Lúc này bức ảnh đó đã quay trở lại vị trí trang trọng của nó sau bàn làm việc của Fenston.

“Chuyện đó đã xong, thưa ngài. Art Locations đã nhận bức tranh vào sáng nay”, Leapman trả lời, “và sẽ đưa nó tới Lâu đài Wentworth vào ngày mai. Tôi cũng đã nói chuyện với luật sư của chúng ta tại London. Lệnh tạm thời tịch biên tài sản sẽ được một quan tòa xem xét vào thứ Tư, vì vậy đến lúc đó nếu bà ta chưa trả lại bức tranh gốc cho chúng ta, Tài sản của Lâu đài Wentworth sẽ nghiễm nhiên trở thành tài sản của ngài, và chúng ta có thể bắt đầu bán toàn bộ phần còn lại của bộ sưu tập cho đến khi thu hồi hết nợ. Xin nhắc ngài là chuyện đó phải mất nhiều năm”.

“Nếu Krantz thực hiện tốt công việc của cô ta tối nay, Lâu đài Wentworth sẽ không bao giờ trả được nợ”, Fenston nói, “đó là lý do tôi gọi ông sang đây. Tôi muốn ông đưa toàn bộ phần còn lại trong bộ sưu tập của Wentworth ra đấu giá trong một ngày gần nhất khi có cơ hội. Hãy chia đều các bức tranh cho Christie, Sotheby, Phillips và Bonhams, và hãy nhớ là phải bán tất cả cùng một lúc”.

“Nhưng như thế sẽ làm thị trường bị chìm ngập, và chắc chắn sẽ kéo giá hạ xuống”.

“Đó chính là điều tôi cần”, Fenston nói. “Nếu tôi nhớ không nhầm, Petrescu đã đánh giá toàn bộ các bức tranh còn lại trong bộ sưu tập ấy đáng giá khoảng 30 triệu đôla, và tôi sẽ rất hài lòng nếu thu về được khoảng 15 hay 20 triệu từ đó”.

“Nhưng như thế vẫn còn thiếu 10 triệu nữa”.

“Buồn thế”, Fenston vừa nói vừa mỉm cười. “Trong trường hợp đó, tôi sẽ không còn cách nào khác ngoài việc rao bán Lâu đài Wentworth và tất cả những gì có trong đó, cho tới bộ áo giáp cuối cùng”. Fenston dừng lại. “Vì vậy ông hãy đặt khu bất động sản ấy vào tay ba đại lý hàng đầu ở London. Hãy nói với họ rằng họ có thể in những tờ rơi màu mè nhất, quảng cáo trên những tờ tạp chí lớn nhất, và thậm chí có thể bao cả nửa trang báo trên một tờ báo cấp quốc gia nào đó. Đến khi tôi giải quyết xong vụ này với Phu nhân Arabella, bà ta không những sẽ bị trắng tay mà còn, ông biết báo chí Anh quốc đấy, sẽ bị hạ nhục không còn đất sống”.

“Thế còn Petrescu?”.

“Đơn giản là cô ta không gặp may khi cô ta có mặt ở chỗ không nên có mặt”, Fenston nói và nở một nụ cười nham hiểm.

“Vậy là Krantz có thể bắn chết hai con chim bằng một mũi tên”, Leapman nói.

“Đó là lý do tại sao tôi muốn ông tập trung vào việc làm cho Lâu đài Wentworth phải phá sản, để Phu nhân Arabella phải chịu đựng một cái chết từ từ”.

“Tôi sẽ bắt tay ngay vào việc đó”, Leapman nói và quay người bước đi. “Chúc ngài may mắn với bài phát biểu của mình, thưa chủ tịch”, ông ta nói thêm khi ra đến cửa.

“Bài phát biểu của tôi?”, Fenston nói. Leapman quay lại nhìn Fenston. “Tôi nghĩ ngài sẽ có bài phát biểu trong bữa tiệc tối thường niên của các chủ nhà băng vào tối nay tại Sherry Netherlands”.

“Chúa ơi, đúng thế. Không biết con chó cái Tina đã vứt bài phát biểu của tôi ở đâu?”.

Leapman mỉm cười, nhưng là khi ông ta đã khép cánh cửa văn phòng chủ tịch lại sau lưng mình, ông ta quay trở về phòng, ngồi xuống bàn làm việc và cân nhắc tất cả những gì mà Fenston vừa mới nói với mình. Một khi FBI biết rõ tối mai Krantz sẽ có mặt ở đâu, và ai là nạn nhân tiếp theo của cô ta, ông ta tin chắc rằng văn phòng chưởng lý quận sẽ đồng ý giảm án tù của ông ta hơn nữa. Và nếu ông ta có thể đưa ra những bằng chứng quan trọng cho thấy mối quan hệ trực tiếp giữa Fenston và Krantz, họ thậm chí còn có thể chấp nhận cho ông ta được hưởng tù treo.

Leapman lấy chiếc camera, do FBI cung cấp, từ túi áo trong ra và bắt đầu tính xem ông ta có thể chụp được bao nhiêu trang tài liệu trong khi Fenston đi dự tiệc.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Vào lúc 7giờ 16 phút tối, Leapman tắt điện trong phòng làm việc của mình và bước ra hành lang, ông ta đóng cửa lại, nhưng không khoá. Ông ta bước về phía thang máy, và biết rõ chỉ còn một vệt ánh sáng duy nhất hắt ra từ dưới chân cánh cửa văn phòng chủ tịch, ông ta bước vào một buồng thang máy không có người và nhanh chóng xuống dưới tầng trệt. Ông ta chầm chậm bước lại quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. Lúc đó là 7 giờ 19 phút. Một người phụ nữ đứng sau ông ta tiến lên ký vào sổ khi Leapman lùi lại một bước, mắt ông ta vẫn không rời hai người bảo vệ sau quầy. Một người đang theo dõi dòng người chầm chậm rời khỏi tòa nhà, trong khi người kia thì đang nhận một gói hàng cần phải có ký nhận. Leapman tiếp tục lùi cho đến khi ông ta tới chiếc thang máy không người, ông ta bước vào trong và đứng sang một bên để hai người bảo vệ không thể trông thấy mình. Ông ta bấm nút 31. Không đầy một phút sau, ông ta đã bước ra một hành lang vắng lặng.

Ông ta đi về phía cuối hành lang, mở cánh cửa thoát hiểm ra và bước lên các bậc cầu thang tới tầng ba mươi hai. Ông ta đẩy nhẹ cánh cửa, cố không gây tiếng động nào dù là nhỏ nhất. Rồi ông ta rón rén đi dọc chiếc hành lang dài trải thảm về phía phòng mình. Ông ta nhìn quanh, chỉ có một vệt sáng mờ hắt ra từ dưới chân chiếc cánh cửa của văn phòng chủ tịch. Ông ta khẽ đẩy chiếc cánh cửa phòng mình, bước vào trong và khoá lại. Ông ta ngồi xuống chiếc ghế sau bàn làm việc, nhưng không bật đèn.

Ông ta ngồi trong bóng tối và kiên nhẫn chờ đợi.

***

Fenston đang cân nhắc đơn xin vay tiền của một người tên là Michael Karraway. Người này muốn vay 14 triệu đôla để đầu tư vào các nhà hát địa phương, ông ta là một nghệ sỹ thất nghiệp không tên tuổi. Nhưng bù lại, ông ta có một bà mẹ luôn nuông chiều ông ta, và đã để lại cho ông ta một bức tranh của Matisse, Nhìn từ phòng ngủ, và một trang trại rộng một nghìn mẫu ở Vermont. Fenston ngắm nhìn người phụ nữ trẻ khoả thân đang nhìn ra ngoài cửa sổ trong bức tranh và quyết định sẽ chỉ đạo Leapman soạn thảo một bản hợp đồng. Fenston đặt tờ đơn sang một bên và bắt đầu xem xét kỹ catalog mới nhất của hãng Christie, ông ta dừng lại một lúc trước bản chụp bức tranh Vũ nữ trước gương của Degas, nhưng rồi lật ngay sang trang khác khi thấy nó được định giá quá thấp. Suy cho cùng, Pierre de Rochelle đã cung cấp cho ông ta một bức của Degas, Người dạy nhảy, với một cái giá hợp lý hơn nhiều.

Fenston tiếp tục xem xét giá cả của từng bức tranh, và một nụ cười thường xuất hiện trên môi ông ta mỗi khi ông ta thấy bộ sưu tập của mình đang lên giá như thế nào. Ông ta nhìn đồng hồ: 7 giờ 43 phút. “Chết tiệt”, Fenston chửi thề vì nhận thấy rằng ông ta có nhiều khả năng sẽ bị muộn, không kịp để đọc bài phát biểu của mình tại bữa tiệc của các chủ nhà băng, ông ta cầm cuốn catalog lên và đi vội ra phía cửa. Ông ta nhập mật mã gồm sáu con số lên bảng mã gần công tắc điện, bước ra hành lang và đóng cửa lại. Tám giây sau khi Fenston khoá cửa, ông ta nghe thấy tiếng những tấm lưới bảo vệ hạ xuống.

Lúc ở trong buồng thang máy khi đi xuống, Fenston ngạc nhiên khi thấy bức Những người quét đường của Caillebotte lại được định giá thấp như vậy. Ông ta đã kiếm được một phiên bản lớn hơn với cái giá bằng một nửa từ một khách hàng vừa bị ông ta làm cho phá sản trong thời gian gần đây. Khi cửa buồng thang máy mở ra, ông ta đi vội tới quầy tiếp tân và ký vào sổ theo dõi. 7 giờ 48 phút tối.

Trong lúc sải bước qua sảnh, ông ta có thể nhìn thấy người lái xe riêng của mình đang chờ ở dưới chân thềm. Ông ta vẫn chăm chú vào cuốn catalog trong khi leo lên xe và ngồi vào ghế sau. Ông ta cảm thấy bực mình khi giở sang trang bên và thấy bức tranh Thợ gặt trên đồng của Van Gogh, được định giá thấp, 27 triệu đôla. Ông ta chửi thề. Nó không cùng loại với bức Chân dung người cụt tai. “Xin lỗi ngài”, người lái xe nói, “nhưng ngài vẫn đi dự bữa tiệc của hiệp hội ngân hàng chứ ạ?”.

“Ừ, vì thế phải nhanh lên”, Fenston vừa nói vừa giở sang trang khác của cuốn catalog.

“Nhưng mà...”, người lái xe vừa nói vừa cầm một tấm thiếp có nhũ vàng từ chiếc ghế bên cạnh lên.

“Nhưng mà cái gì?”, Fenston hỏi. “Giấy mời nói là mặc áo xmôckinh”. Anh ta quay lại phía sau và đưa tấm thiếp cho Fenston.

“Chết tiệt”, Fenston nói và vứt cuốn catalog sang một bên. Nếu còn Tina thì chắc chắn là chị đã chuẩn bị áo xmôckinh cho ông ta. Ông ta nhảy ra khỏi xe, trước cả khi người tài xế kịp mở cửa sau, và nhảy qua hai bậc thềm một tới cửa ra vào, đi nhanh qua quầy tiếp tân, và không dừng lại để ký sổ. Ông ta đi vội tới chiếc thang máy đang chờ và bấm nút lên tầng ba mươi hai.

Khi bước ra khỏi thang máy, thứ đầu tiên ông ta nhận thấy là một vệt ánh sáng thoát ra từ dưới khe cửa văn phòng của mình, ông ta có thể thề là đã tắt điện sau khi đặt chuông báo động, hay là ông ta đã quá chú tâm vào cuốn catalog và đã quên làm chuyện đó? ông ta vừa chuẩn bị nhập mã số vào bảng mã bên cánh cửa thì nghe thấy một tiếng động phát ra từ bên trong.

Fenston lưỡng lự, băn khoăn không hiểu đó là kẻ nào. Ông ta đứng yên trong khi chờ để xem kẻ đột nhập có phát hiện ra sự có mặt của mình không. Không. Ông ta thận trọng lùi lại, lách mình vào căn phòng bên cạnh và nhẹ nhàng khép cửa lại.

Ông ta ngồi xuống ghế của cô thứ ký của mình và bắt đầu tìm chiếc công tắc. Leapman đã cảnh báo với ông ta rằng Tina có thể theo dõi mọi thứ diễn ra trong phòng ông ta. Sau khi tìm kiếm một lúc, ông ta đã phát hiện ra chiếc công tắc dưới chiếc bàn làm việc. Ông ta bật chiếc công tắc, và một màn hình nhỏ ở góc bàn sáng lên. Ông ta có thể nhìn rõ toàn bộ bên trong căn phòng của mình. Fenston nhìn chằm chằm vào màn hình và không tin ở mắt mình.

Leapman đang ngồi ở bàn làm việc của chủ tịch, với một tập hồ sơ trước mặt. Ông ta đang chầm chậm lật từng trang, đôi khi dừng lại đọc kỹ một đầu mục nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ giấy nào đó từ tập hồ sơ, đặt lên bàn và chụp ảnh bằng một thiết bị nào đó trông giống như một chiếc máy ảnh kỹ thuật cao.

Nhiều suy nghĩ lướt qua đầu Fenston. Chắc chắn Leapman đang thu thập tài liệu, để một lúc nào đó sẽ tống tiền ông ta. Có thể Leapman đang muốn bán tài liệu cho một ngân hàng đối thủ nào đó. IRS cuối cùng đã xiết được Leapman và buộc Leapman phải đánh đổi ông chủ của mình để lấy sự an toàn. Nhiều khả năng là tống tiền.

Rõ ràng Leapman không vội. Ông ta đã tính toán để chọn thời điểm này. Sau khi kết thúc với một tập hồ sơ, ông ta trả nó lại chỗ cũ và chọn một tập hồ sơ khác. Cách làm của ông ta vẫn không có gì thay đổi: chầm chậm xem kỹ nội dung, nghiên cứu cẩn thận một số mục nào đó, và lúc lúc lại lấy ra một tờ nào đó trong tập hồ sơ rồi chụp ảnh.

Fenston cân nhắc một vài phương án giải quyết, trước khi cuối cùng lựa chọn một cách làm mà ông ta cho là xứng đáng với Leapman.

Đầu tiên, Fenston viết ra trình tự của các sự kiện cần có để đảm bảo ông ta không bị mắc kẹt. Sau khi tin chắc rằng mình đã nắm vững trình tự đó, ông ta tắt một chiếc công tắc để chặn mọi cuộc gọi đến và đi từ văn phòng của mình, ông ta kiên nhẫn ngồi đợi tại bàn làm việc của thư ký cho đến khi ông ta thấy Leapman mở một tập hồ sơ khác. Ông ta lẻn ra hành lang, và dừng lại trước cánh cửa văn phòng của mình. Fenston nhẩm lại trình tự đã sắp đặt trong đầu mình, rồi bước lên phía trước. Đầu tiên, ông ta nhập mã số chính xác, 170690, lên bảng mã, như thể ông ta đang chuẩn bị ra về. Rồi ông ta xoay chìa khoá trong ổ và thận trọng hé mở chiếc cánh cửa ra, không quá 1 inch. Sau đó ông ta ngay lập tức đóng cửa lại. Tiếng chuông báo động chói tai vang lên, và Fenston đợi tám giây cho đến khi các tấm lưới bảo vệ đã hạ xuống. Rồi ông ta nhanh chóng nhập mã số của tuần trước, 170680, mở cánh cửa ra rồi đóng lại ngay. Ông ta có thể nghe thấy tiếng Leapman chạy qua căn phòng; rõ ràng Leapman hy vọng rằng nếu nhập mã số chính xác, ông ta có thể khiến chuông báo động ngừng kêu và khiến các tấm lưới bảo vệ rút lên trần. Nhưng đã quá muộn, bởi vì các tấm lưới bảo vệ đã bám chặt xuống sàn, và những tiếng chuông báo động chói tai vẫn vang lên dồn dập. Fenston biết mình chỉ còn vài giây để kết thúc việc này mà không bị bắt. Ông ta chạy trở vào phòng bên cạnh và vội đọc lướt qua những ghi chú mà ông ta đã để lại trên bàn làm việc của thư ký. Ông ta quay số báo động khẩn cho công ty bảo vệ Abbott.

Một giọng nói cất lên: “Trực ban xin nghe”.

“Tôi là Bryce Fenston, chủ tịch ngân hàng Fenston Finance”, ông ta nói một cách chậm rãi, nhưng bằng một giọng thể hiện quyền lực. “Chuông báo động đã bị kích hoạt tại văn phòng của tôi trên tầng ba mươi hai. Có lẽ tôi đã nhập mã số của tuần trước vì nhầm lẫn, và tôi muốn báo cho các ông biết rằng đây không phải là báo động khẩn”.

“Xin ngài nhắc lại tên mình?”.

“Bryce Fenston”, ông ta phải nói như quát vào tai nghe điện thoại để át tiếng chuông.

“Ngày sinh?”.

“12 tháng 2 năm 1962”.

“Tên khai sinh?”.

“Madejski”.

“Mã số cá nhân?”.

“1-0-0-2-1”

“Cảm ơn ngài. Chúng tôi sẽ cho người lên tầng ba mươi hai ngay. Các kỹ sư đang giải quyết một sự cố tại tầng mười bảy, nơi có một người bị kẹt trong thang máy, và vậy có lẽ phải mất vài phút họ mới tới chỗ ngài”.

“Không cần phải vội”, Fenston nói bằng một giọng như không có chuyện gì xảy ra, “hiện nay không có ai làm việc trên tầng này và văn phòng của tôi sẽ không mở cửa trước bảy giờ sáng ngày hôm sau”.

“Chắc chắn là không cần phải mất nhiều thời gian như thế đâu”, viên bảo vệ trực ban nói, “nhưng nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ chuyển từ mức báo động sang mức ưu tiên”.

“Được thôi”, Fenston nói to trong tiếng chuông báo động đổ liên hồi. “Nhưng còn một khoản tiền phí ngoài giờ là 500 đôla”.

“Có vẻ hơi đắt”, Fenston nói.

“Đó là quy định chung cho những trường hợp như thế này thưa ngài”, viên bảo vệ trực ban trả lời. “Tuy nhiên, nếu ngài có thể đích thân tới quầy tiếp tân để thông báo, và ký vào sổ trực của chúng tôi, thì phí tổn sẽ chỉ còn 250 đôla”.

“Tôi đang tới đây”, Fenston nói. “Nhưng tôi cần phải nói rằng”, viên bảo vệ trực ban nói tiếp, “nếu ngài làm như thế, ngài sẽ được đưa xuống hàng bình thường và trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ không thể giúp ngài cho đến khi chúng tôi đã giải quyết tất cả các trường hợp khẩn cấp và ưu tiên khác”.

“Không thành vấn đề”, Fenston nói “Nhưng dù gì thì ngài hãy tin rằng dù chúng tôi có bao nhiêu cuộc gọi đi chăng nữa, trường hợp của ngài sẽ được giải quyết trong vòng bốn giờ tới”.

“Cảm ơn”, Fenston nói. “Tôi sẽ đi xuống báo với quầy tiếp tân ngay bây giờ”.

Ông ta gác ống nghe và bước trở ra hành lang. Khi đi qua văn phòng của mình, ông ta có thể nghe thấy tiếng Leapman đang đấm thình thình lên cửa như một con thú bị bẫy. Nhưng tiếng la hét của Leapman bị những tiếng chuông báo động át đi. Fenston tiếp tục đi về phía thang máy. Cho dù ở khoảng cách gần năm mươi bộ, tiếng chuông báo động vẫn làm ông ta đinh tai nhức óc.

Sau khi bước ra khỏi buồng thang máy ở tầng trệt, ông ta đi thẳng tới quầy tiếp tân.

“A, ngài Fenston”, viên bảo vệ trực ban nói. “Xin ngài ký vào đây, và điều đó sẽ giúp ngài tiết kiệm được 250 đôla .

Fenston đưa cho viên bảo vệ một tờ 10 đôla. “Cảm ơn ngài”, anh ta nói. “Không cần phải vội, tôi là người cuối cùng”, Fenston nói rồi đi vội ra phía cửa trước.

Khi xuống tới chỗ chiếc xe đang chờ, Fenston liếc nhìn lên chỗ văn phòng của mình, ông ta có thể nhìn thấy một bóng người rất nhỏ đang đấm lên cửa sổ. Người tài xế đóng cửa xe lại và quay về chỗ ngồi của mình sau vô lăng. Anh ta có vẻ ngạc nhiên.

Ông chủ của anh ta vẫn chưa thay quần áo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Jack dừng xe lại trên phố Broad lúc 9 giờ 30 phút. Anh bật radio lên và lắng nghe bài “Cousin Brucie” trên sóng FM 101.1, trong khi anh ngồi ngả người ra sau để chờ Leapman. Điểm hẹn của họ là do Leapman chọn, và ông ta đã yêu cầu người của FBI chờ mình trong khoảng thời gian từ 10 đến 11 giờ, vì ông ta hy vọng tới lúc đó, ông ta đã chụp đủ các tài liệu làm bằng chứng để buộc tội Fenston.

Jack đang thiu thiu trong tiếng nhạc thì nghe thấy tiếng còi hú. Giống như tất cả những người làm công việc thực thi pháp luật khác, anh có thể phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa tiếng còi hú của xe cảnh sát, xe cứu thương và xe cứu hỏa chỉ trong vòng một tích tắc. Đây là tiếng hú của xe cứu thương, có lẽ là trên phố St Vincent.

Anh nhìn đồng hồ: 11 giờ 15 phút. Leapman đã muộn, nhưng ông ta đã cảnh báo trước với Jack rằng có thể cần phải chụp ảnh hàng trăm tài liệu, vì vậy không nên nóng ruột nếu ông ta có đến muộn vài phút. Các nhân viên kỹ thuật của FBI đã hướng dẫn Leapman cách sử dụng chiếc máy ảnh công nghệ cao để ông ta có thể chụp được những bức ảnh tốt nhất. Nhưng đó là trước khi có cú điện thoại kia. Leapman đã gọi tới văn phòng của Jack vào lúc vừa sau bảy giờ để báo rằng Fenston đã nói với ông ta một chuyện có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ tài liệu nào. Nhưng ông ta không muốn tiết lộ tin tức đó trên điện thoại. Tín hiệu đường dây tắt trước khi Jack kịp căn dặn ông ta. Jack biết rằng những người đang muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật thường tuyên bố rằng mình có những thông tin mới giúp làm sáng tỏ vụ việc, và vì vậy FBI cần phải cân nhắc lại mức án tù của họ. Anh biết sếp của mình sẽ không đồng ý giảm nhẹ tội cho Leapman nếu ông ta không kiếm được những bằng chứng mới để chứng minh mối quan hệ trực tiếp giữa Fenston và Krantz.

Tiếng còi hú mỗi lúc một to hơn.

Jack quyết định ra khỏi xe và vận động chân tay một chút. Chiếc áo khoác của anh có vẻ quá nhàu nát. Anh đã mua nó từ cửa hàng Brooks Brothers vào cái thời khi anh muốn mọi người biết rằng mình là một người bên an ninh, nhưng khi anh càng được thăng cấp thì anh lại càng muốn người ta đừng biết về điều đó. Nếu anh được đề bạt làm trưởng phòng, thậm chí có thể anh sẽ mua một chiếc áo khoác mới, loại áo khoác giúp anh trông giống với một luật sư hay một chủ nhà băng, và cha anh hẳn sẽ hài lòng hơn.

Anh nghĩ tới Fenston, kẻ giờ này đang rao giảng về Trách nhiệm Đạo đức trước các Chủ nhà băng Hiện đại, rồi anh nghĩ tới Anna, người lúc này đang trên đường bay qua Đại Tây Dương để tới London gặp Nakamura. Anna đã gửi một tin nhắn tới điện thoại di động của anh, cho biết cô đã hiểu tại sao Tina lại nhận làm thư ký riêng của Fenston, và bằng chứng nằm ở ngay trước mắt cô trong suốt thời gian qua. Đường dây đang bận khi cô gọi, nhưng Anna cho biết cô sẽ gọi lại vào sáng ngày mai. Lúc đó chắn hẳn là khi Leapman đang nói chuyện với anh. Cái thằng cha khốn kiếp ấy. Jack đứng trên vỉa hè của một đường phố New York vào lúc nửa đêm, mệt mỏi và đói cồn cào, để chờ nhận một chiếc máy ảnh. Cha anh nói đúng. Nhẽ ra anh nên theo nghề luật thì hơn.

Tiếng còi hú lúc này chỉ còn cách hai tòa nhà.

Jack sải bước đi về phía cuối phố và ngước nhìn lên tòa nhà nơi Leapman làm việc, ở đâu đó trên tầng ba mươi hai. Có một dãy ánh đèn sáng chói ở khoảng giữa tòa nhà, tất cả các cửa sổ ở những tầng khác đều tối đen. Jack bắt đầu đến các tầng nhà từ dưới lên, nhưng khi anh đếm đến tầng thứ mười tám, anh không còn dám chắc nữa, và khi anh đếm đến tầng thứ ba mươi hai, đó có thể là tầng có dẫy đèn sáng kia. Nhưng không thể có chuyện đó, bởi vì trên tầng làm việc của Leapman, giờ này nếu có ánh đèn thì chỉ có một khung cửa sổ sáng mà thôi. Chắc chắn ông ta không dại gì mà đi thu hút sự chú ý về mình.

Jack nhìn qua đường và quan sát chiếc xe cứu thương vừa phanh gấp ngay trước cổng tòa nhà. Cửa sau của chiếc xe mở ra, và ba nhân viên y tế, hai nam và một nữ trong những bộ đồng phục màu xanh đậm của họ, nhảy lên vỉa hè. Một người đẩy cáng, người thứ hai vác bình ô xy, trong khi người thứ ba xách một chiếc túi cấp cứu to. Jack nhìn theo khi họ bước lên các bậc cầu thang vào trong tòa nhà.

Anh hướng sự chú ý tới quầy tiếp tân, nơi một nhân viên bảo vệ vừa chỉ tay vào một tấm bảng vừa nói gì đó với một người đàn ông mặc complê, có lẽ là sếp của anh ta, trong khi nhân viên bảo vệ thứ hai đang bận nói chuyện trên điện thoại. Nhiều người ra vào thang máy, nhưng chuyện đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì họ đang ở trung tâm của một thành phố mà các hoạt động tài chính được thực hiện 24/24 giờ. Phần lớn người New York ngủ khi tiền bạc đang được trao tay tại Sydney, Tokyo, Hong Kong và lúc này là London, nhưng bao giờ cũng có một nhóm người New York sống trên thời gian của người khác.

Dòng suy nghĩ của Jack bị cắt đứt khi một buồng thang máy mở ra và ba nhân viên y tế xuất hiện, hai người đẩy chiếc cáng, còn người thứ ba vẫn ôm chiếc bình ô xy. Khi họ chầm chậm đi về phía thang máy, mọi người đứng tránh sang hai bên để nhường lối cho họ. Jack bước lên các bậc thềm để nhìn cho rõ hơn. Lại có tiếng còi hú từ phía xa, lần này là tiếng hú của xe cảnh sát, NYPD, nhưng vào giờ này thì tiếng còi ấy có thể chạy về bất kỳ hướng nào, vả lại lúc này Jack chỉ tập trung nhìn vào chiếc cáng. Anh đứng bên cửa khi các nhân viên y tế bước ra khỏi tòa nhà và chầm chậm đưa bệnh nhân của họ xuống qua các bậc thềm. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tái nhợt của người bệnh trên cáng; đôi mắt của người ấy mở trừng trừng. Mãi đến khi chiếc cáng được đẩy qua chỗ anh, Jack mới nhận ra đó là ai. Anh phải quyết định ngay. Anh nên đi theo chiếc xe cứu thương trở lại St Vincent, hay anh nên lên thẳng tầng ba mươi hai? Tiếng còi xe cảnh sát nghe có vẻ như đang hướng về phía họ. Một cái nhìn qua khuôn mặt ấy, và Jack hiểu rõ phải còn rất lâu Leapman mới có thể nói chuyện với bất kỳ ai. Anh chạy vào tòa nhà khi tiếng còi xe cảnh sát chỉ còn cách đó vài trăm mét. Anh biết mình chỉ có vài phút trước khi đội quân của NYPD có mặt. Anh dừng lại trước quầy tiếp tân mấy giây để cho họ xem thẻ FBI của mình.

“Anh phải trở lại ngay”, một nhân viên bảo vệ nói, nhưng Jack không trả lời mà vẫn đi thẳng về phía thang máy. Người nhân viên bảo vệ băn khoăn không hiểu tay nhân viên FBI kia làm sao có thể biết mình cần lên tầng nào.

Jack len vào buồng thang máy khi nó sắp đóng lại, và bấm nút 32. Khi cửa buồng thang máy lại mở ra, anh nhìn lướt khắp hành lang để xem ánh sáng phát ra từ đâu. Anh quay mình chạy về phía cuối hành lang, nơi có một nhân viên bảo vệ, hai kỹ sư và một nhân viên vệ sinh đang đứng bên một chiếc cánh cửa mở toang. “Anh là ai?”, người nhân viên bảo vệ hỏi.

“FBI”, Jack nói và chìa thẻ FBI ra, nhưng không cho anh ta xem tên mà bước thẳng vào trong phòng. Thứ đầu tiên mà anh trông thấy là một bức ảnh phóng to chụp cảnh Fenston đang bắt tay với George W. Bush treo trên bức tường ở sau chiếc bàn làm việc, ánh mắt Jack lướt qua căn phòng cho đến khi anh nhìn thấy thứ mà anh đang tìm kiếm. Nó nằm giữa bàn, trên một tập hồ sơ đang được mở ra.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, Jack hỏi bằng một giọng của người có thẩm quyền.

“Có một người bị kẹt trong văn phòng này trong suốt ba giờ và đã kích hoạt chuông báo động”.

“Đó không phải là lỗi của chúng tôi”, một kỹ sư nói chen vào, “chúng tôi được yêu cầu hạ thấp mức độ khẩn cấp của cuộc gọi, và chúng tôi đã ghi lại điều đó bằng giấy tờ hẳn hoi, nếu không chúng tôi đã có mặt ở đây từ lâu rồi”.

Jack không cần phải hỏi cũng biết ai đã kích hoạt chuông báo động và khiến Leapman lâm vào tình cảnh này. Anh bước về phía chiếc bàn, mắt anh lướt nhanh trên các trang hồ sơ. Anh nhìn lên và thấy cả bốn người kia đang nhìn mình chằm chằm. Jack nhìn thẳng vào người nhân viên bảo vệ. “Đi tới chỗ thang máy, và khi cảnh sát lên đến nơi, hãy đưa họ thẳng tới chỗ tôi”. Người nhân viên bảo vệ biến vào hành lang mà không nói lấy một lời và đi thẳng lại chỗ buồng thang máy. “Còn ba người các anh, ra ngoài”, Jack ra lệnh. “Đây có thể là hiện trường tội ác, và tôi không muốn các anh làm xáo trộn các chứng cứ”. Ba người kia quay đi, và ngay khi họ vừa ra khỏi phòng, Jack chụp lấy chiếc máy ảnh và cho vào túi áo khoác.

Anh cầm điện thoại trên bàn làm việc của Fenston lên. Không có tín hiệu thông đường dây, chỉ có tiếng vo vo không ngớt. Ai đó đã ngắt đường dây. Chắc chắn vẫn là kẻ đã kích hoạt chuông báo động. Jack không đụng vào bất cứ thứ gì khác trong căn phòng. Anh bước trở ra hành lang và lẻn vào căn phòng bên cạnh. Một chiếc màn hình gắn trên góc bàn làm việc vẫn còn sáng và cho thấy rõ những hình ảnh trong văn phòng của Fenston. Fenston chắc chắn không chỉ chứng kiến việc làm của Leapman, mà còn có đủ thời gian để nghĩ ra trò báo thù thâm hiểm kia. Đôi mắt Jack dừng lại trên bảng mạch điện. Một chiếc công tắc đang ở chế độ mở, nhấp nháy ánh đèn màu da cam, cho thấy đường dây đang bận. Ông ta đã cắt đứt mọi cơ hội để Leapman có thể liên lạc với thế giới bên ngoài. Jack nhìn xuống chiếc ghế nơi chắc hẳn trước đó Fenston đã ngồi để nghĩ ra cách báo thù kia. Ông ta đã viết ra một danh sách những bước cần thực hiện để không bị nhầm lẫn. Tất cả các bằng chứng đều còn đó để NYPD có thể thu thập và đánh giá. Nếu đây là một cuộc điều tra của Columbo, bảng mạch, danh sách viết tay để trên mặt bàn và thời điểm kích hoạt chuông báo động sẽ thừa đủ để vị thám từ tài ba này đưa ra lời kết tội, và Fenston sẽ phải thúc thủ và thú tội sau mục quảng cáo. Nhưng đáng tiếc đây không phải là một bộ phim truyền hình, và có một điều chắc chắn là Fenston sẽ không bao giờ chịu thúc thủ, không bao giờ chịu thú tội. Jack cau mày. Điểm giống nhau duy nhất giữa anh và Columbo là chiếc áo khoác. Jack nghe thấy tiếng cửa buồng cầu thang mở ra và một giọng nói cất lên: “Đi theo tôi”. Anh biết đó là cảnh sát New York. Anh tập trung chú ý vào màn hình khi hai người mặc sắc phục cảnh sát bước vào văn phòng của Fenston và bắt đầu hỏi chuyện bốn nhân chứng. Những người mặc thường phục chắc chắn cũng sắp tới. Anh bước ra khỏi căn phòng và nhè nhẹ đi về phía thang máy. Khi anh vừa tới cửa buồng thang máy thì một sỹ quan cảnh sát bước ra khỏi văn phòng của Fenston và quát lên: “Này, anh kia”. Jack nhấn nút đi xuống và xoay ngang mình để viên sỹ quan cảnh sát không thể nhìn thấy mặt anh. Ngay khi cửa mở ra, anh lách mình vào trong buồng thang máy. Anh ấn và giữ chặt ngón tay trên nút có chữ L và cửa buồng thang máy ngay lập tức đóng lại. Khi cánh cửa mở ra ba mươi giây sau đó tại tầng trệt, anh đi nhanh qua chỗ quầy tiếp tân, ra khỏi tòa nhà, nhảy xuống qua các bậc thềm, và chạy lại chỗ chiếc xe của anh.

Jack nhảy lên xe và khởi động máy. Một viên cảnh sát xuất hiện ở góc phố. Anh cho xe xoay một vòng, trèo lên vỉa hè, lùi lại xuống đường, và lao thẳng về phía bệnh viện St Vincent.

***

“Hãng Sotheby xin nghe”.

“Xin cho gặp Lord Poltimore”.

“Thưa bà, tôi cần phải nói với ông ấy là ai đang cần gặp?”.

“Phu nhân Wentworth”. Arabella không cần phải đợi lâu trước khi giọng nói của Mark vang lên trong điện thoại.

“Thật vui khi được nhận điện thoại của bà, Arabella”, Mark nói. “Cho tôi đánh liều hỏi một chút”, anh ta nói đùa, “lần này bà là người mua hay người bán?”.

“Một người cần lời khuyên”, Arabella trả lời. “Nhưng nếu tôi là người bán...”.

Mark bắt đầu ghi chú trong khi anh ta lắng nghe những câu hỏi nghiêm túc mà rõ ràng là Arabella đã chuẩn bị cẩn thận.

“Vào cái thời khi tôi còn là một nhà buôn tranh”, Mark trả lời, “trước khi tôi về làm cho Sotheby, tiền hoa hồng là 10% nếu giá bán thấp hơn 1 triệu. Từ 1 triệu trở lên, tôi sẽ thương lượng với người bán”.

“Và anh sẽ nêu ra mức phí nào, nếu tôi yêu cầu anh bán bức tranh Van Gogh cho tôi?”.

Mark cảm thấy mừng vì Arabella không thể trông thấy vẻ mặt của anh ta lúc đó. Sau khi đã trấn tĩnh lại, anh ta chờ một lát rồi mới nêu ra một con số, trước khi vội nói thêm, “nếu bà cho phép Sotheby đưa bức tranh ấy ra đấu giá, bà sẽ không phải trả một đồng tiền phí nào, và bà sẽ nhận được toàn bộ tiền đấu giá”.

“Vậy các anh kiếm lời bằng cách nào?”, Arabella hỏi.

“Chúng tôi yêu cầu người mua trả một mức phí nào đó”, Jack giải thích.

“Tôi đã có người mua”, Arabella nói, “nhưng cảm ơn anh vì lời khuyên nhé”.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Krantz rẽ vào con phố, và cảm thấy nhẹ nhõm khi trên vỉa hè có rất nhiều người qua lại. Cô ta đi thêm khoảng 100 thước rồi dừng lại bên ngoài một khách sạn nhỏ. Cô ta đảo mắt nhìn quanh. Không có ai theo dõi cô ta.

Cô ta kéo cánh cửa và bước vào bên trong khách sạn, nhìn thẳng về phía trước, đi qua chỗ quầy tiếp tân, phớt lờ người gác cửa, lúc này đang nói chuyện với một khách du lịch có lẽ đến từ New York. Mắt cô ta vẫn dán vào một dãy những ngăn tủ gửi đồ ở phía trái quầy tiếp tân. Krantz đợi cho đến khi cả ba cô nhân viên tiếp tân đều đang bận rộn mới bắt đầu bước tiếp. Cô ta liếc nhìn lại phía sau để biết chắc là không có ai theo dõi mình. Hài lòng, cô ta bước nhanh hơn, và lấy ra một chiếc chìa khoá từ túi áo trong, khi cô ta tới ngăn tủ số 19. Cô ta tra chìa vào ổ và mở ngăn tủ ra. Tất cả mọi thứ đều vẫn còn nguyên vẹn. Krantz lấy hết tiền và hai cuốn hộ chiếu, rồi cất vào túi. Sau đó cô ta khoá ngăn tủ lại, bước ra khỏi khách sạn và trở ra phố Herzen, vẫn không phải nói với ai một lời nào.

Cô ta vẫy một chiếc tắc xi, một điều gì đó mà cô ta không thể làm vào cái thời chế độ cũ còn đang huấn luyện tay nghề cho cô ta. Cô ta đưa cho người lái xe địa chỉ của một ngân hàng ở Cheryomushki, rồi ngả người ra sau ghế, nghĩ tới Đại tá Sergei Slatinaru - nhưng chỉ thoáng qua.

Cô ta chỉ tiếc là không có đủ thời gian để cắt tai trái ông ta. Krantz rất muốn có cái gì đó để gửi cho Petrescu, để nhắc Petrescu luôn nhớ tới chuyến trở về Romania. Dầu vậy, những gì mà cô ta còn nhớ về Petrescu cũng thừa đủ để bù đắp cho nỗi thất vọng ấy.

Nhưng trước hết cô ta cần tập trung vào việc tìm cách thoát ra khỏi nước Nga. Việc thoát khỏi tay mấy gã nghiệp dư ở Romania thật quá dễ dàng, nhưng để lọt được vào nước Anh không phải dễ dàng như thế. Các đảo quốc bao giờ cũng có nhiều vấn đề; núi non thì dễ vượt hơn là biển cả. Khi tới được thủ đô của nước Nga vào sáng hôm đó, cô ta đã kiệt sức, vì phải liên tục di chuyển kể từ khi thoát khỏi bệnh viện.

Krantz đã lên tới đường cao tốc khi còi báo động vang lên. Cô ta quay lại và thấy toàn khu bệnh viện ngập trong ánh đèn pha. Một tài xế xe tải đã giúp cô ta vượt biên, sau khi làm tình với cô ta hai lần. Cần thêm một chuyến tàu hỏa, một chuyến máy bay, 300 đôla và mười bảy tiếng đồng hồ nữa trước khi cô ta đặt chân xuống Moscow. Cô ta ngay lập tức đi tới khách sạn Isla, và không có ý định ngủ qua đêm tại đó. Mối quan tâm duy nhất của cô ta là ngăn tủ gửi đồ có chứa hai cuốn hộ chiếu và mấy trăm rúp.

Trong khi chờ đợi thời cơ an toàn để trở về Mỹ, Krantz lên kế hoạch kiếm tiền ở Moscow. Mức sinh hoạt ở thủ đô của nước Nga rẻ hơn New York nhiều, và mạng người cũng rẻ hơn, 5000 đôla cho một bà vợ, 10.000 đôla cho một ông chồng. Người Nga vẫn chưa đạt được quyền bình đẳng giới tính. Một đại tá của KGB có thể kiếm tới 50.000 đôla, trong khi Krantz có thể đòi 100.000 đôla để làm việc cho một trùm mafia. Nhưng nếu Fenston đã gửi cho cô ta 2 triệu đôla theo như lời hứa, các ông chồng và bà vợ mệt mỏi kia còn phải chờ đó. Thực tế là, giờ đây khi nước Nga đã chấp nhận nền kinh tế thị trường tự do, cô ta có thể đầu quân cho một nhà tài phiệt nào đó và tận tình phục vụ ông ta.

Chiếc tắc xi dừng lại bên ngoài chiếc cổng ra vào kín đáo của một ngân hàng mà niềm tự hào của nó là có rất ít khách hàng. Hai chữ cái G và Z được khắc trên gờ đá cẩm thạch trắng. Krantz bước ra khỏi tắc xi, trả tiền và chờ cho đến khi chiếc tắc xi đã khuất tầm nhìn mới bước vào trong tòa nhà.

Ngân hàng Geneva và Zurich là một ngân hàng chuyên đáp ứng nhu cầu của lớp người Nga mới, những người đã vớ bẫm từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Chính trị gia, trùm mafia (doanh nhân), cầu thủ bóng đá và ca sỹ nhạc ppp chỉ là những đồng tiền lẻ nếu so với những siêu sao mới nổi, các nhà tài phiệt.

Dù ai cũng biết tên bọn họ, đó là một giống người mới mà không ai có thể sờ vào người họ.

Krantz bước tới chiếc quầy tiếp tân bằng gỗ được thiết kế theo lối cũ, nơi có một dãy nhân viên mặc complê xám, sơ mi trắng và đeo caravát lụa đang ngồi chờ phục vụ khách. Trông họ không khác gì như đang ngồi tại Geneva hay Zurich.

“Tôi có thể giúp gì cho bà?”, người nhân viên giao dịch mà cô ta lựa chọn hỏi. Anh ta băn khoăn không hiểu mình đang giao dịch với loại người nào - vợ của trùm mafia, hay con gái của một nhà tài phiệt. Trông cô ta không giống ca sỹ nhạc pop.

“1-0-7-2-0-9-5-9”, cô ta nói.

Anh ta gõ dãy số đó vào máy tính, và khi những con số hiện lên trên màn hình, anh ta bắt đầu quan tâm hơn. “Tôi có thể xem hộ chiếc của bà được không?”, anh ta hỏi.

Krantz đưa cho anh ta một cuốn hộ chiếu mà cô ta vừa lấy ở khách sạn Isla.

“Trong tài khoản của tôi còn bao nhiêu?”, cô ta hỏi.

“Theo bà nghĩ thì còn khoảng bao nhiêu?”, anh ta trả lời.

“Khoảng trên 2 triệu đôla”, cô ta nói. “Vậy bà muốn rút bao nhiêu?” anh ta hỏi.

“10.000 đôla, và mười nghìn rúp”. Anh ta lôi một chiếc khay từ dưới quầy ra và bắt đầu chầm chậm đếm. “Đã lâu rồi chúng ta không giao dịch với giá trị lớn như thế này”, anh ta nhìn lên màn hình và gợi chuyện. “Đúng thế”, cô ta công nhận, “nhưng các ông sẽ thấy có nhiều hoạt động hơn khi giờ đây tôi đã quay trở lại Moscow”, cô ta nói thêm mà không giải thích gì.

“Vậy thì tôi mong đợi được phục vụ bà”, người nhân viên giao dịch nói, trước khi đẩy hai gói tiền được buộc lại một cách gọn gàng qua mặt bàn. Không có một thứ giấy tờ nào cho biết khoản tiền đó đến từ đâu, và dĩ nhiên là cũng chẳng có thứ giấy tờ nào cho thấy đã có một giao dịch vừa diễn ra. Krantz cầm hai gói tiền lên, cho vào túi áo trong và chầm chậm bước ra khỏi ngân hàng. Cô ta vẫy một chiếc tắc xi.

“Khách sạn Kalstern”, cô ta nói, rồi trèo lên ghế sau xe và tập trung suy nghĩ về phần hai trong kế hoạch của mình.

Fenston đã thực hiện phần của ông ta. Giờ đây cô ta phải giữ lời hứa của mình nếu cô ta muốn nhận được 2 triệu đôla còn lại. Ý nghĩ về việc giữ lấy 2 triệu đôla hiện có và quên đi chuyện sang nước Anh thoáng qua trong đầu cô ta. Nhưng cô ta biết Fenston có mối quan hệ với KGB, và họ sẽ rất vui nếu được thuê xử lý cô ta với một mức phí thấp hơn nhiều. Khi chiếc tắc xi dừng lại mười phút sau đó, Krantz đưa cho người lái xe 400 rúp và không chờ để lấy lại tiền lẻ. Cô ta bước ra khỏi tắc xi và lẩn vào giữa một toán du khách đang ngó ngiêng nhìn vào cửa sổ một cửa hiệu với hy vọng sẽ kiếm được một món đồ kỳ niệm để chứng minh họ đã từng đặt chân đến một đất nước bị tàn phá bởi một chế độ bạo tàn. Được trưng bày ở giữa chiếc cửa sổ là những món đồ ăn khách của họ: một bộ quân phục cấp tướng bốn sao với tất cả những thứ kèm theo - mũ, dây lưng, bao súng và ba dãy huân chương. Không thấy đề giá, nhưng Krantz biết giá bán là 20 đôla. Bên cạnh đó là bộ quân phục của một đô đốc hải quân, 15 đôla, và phía sau là bộ quân phục của một đại tá KGB, 10 đổla. Cho du Krantz không muốn chứng minh cho các đồng hương Mỹ của mình rằng cô ta đã từng có mặt tại Moscow, những người có thể đặt tay mình lên những bộ đồng phục của những vị tướng lục quân, đô đốc hải quân, đại tá KGB chắc chắn có thứ mà cô ta đang cần.

Krantz bước vào cửa hiệu và được một cô gái bán hàng đón tiếp.

“Tôi có thể giúp gì cho bà?”, cô gái hỏi.

“Tôi cần nói chuyện riêng với ông chủ của cô”, Krantz nói.

Cô gái bán hàng có vẻ bối rối, nhưng Krantz cứ nhìn cô ta chằm chằm cho đến khi cô ta nói “Đi theo tôi” và dẫn vị khách của mình vào sâu trong cửa hàng, rồi gõ nhẹ lên một chiếc cánh cửa trước khi mở nó ra.

Ngồi sau chiếc bàn làm việc lớn bằng gỗ đầy giấy tờ, bao thuốc lá, và một chiếc bánh xăngđuých đang ăn dở là một người đàn ông béo phì mặc một bộ complê thụng màu nâu. Ông ta mặc một chiếc áo sơ mi màu đỏ hở cổ trông có vẻ như đã lâu không giặt.

Mái tóc hói và bộ râu rậm của ông ta khiến Krantz khó có thể đoán tuổi con người đó, cho dù rõ ràng ông ta là chủ tiệm.

Ông ta đặt cả hai tay lên mặt bàn và nhìn lên một cách dè chừng, ông ta mỉm cười, nhưng tất cả những gì mà Krantz nhận thấy là chiếc cổ hai cằm của ông ta. Khó đàm phán.

“Tôi có thể giúp gì cho cô?”, ông ta hỏi bằng một giọng cho thấy ông ta không muốn mất thời gian.

Krantz nói với ông ta thứ mà mình cần. Người chủ tiệm yên lặng lắng nghe với một sự kinh ngạc rồi cười phá lên.

“Không rẻ đâu”, cuối cùng ông ta nói, “và cũng mất nhiều thời gian đấy”.

“Tôi cần bộ đồng phục ấy ngay chiều nay”, Krantz nói.

“Không thể được”, ông ta nói với một cái nhún vai.

Krantz lấy một bó tiền từ trong túi ra, rút một tờ 100 đôla và đặt lên bàn trước mặt ông ta. “Ngay chiều nay”, cô ta nhắc lại.

Người chủ tiệm nhướng mày. “Có thể tôi có một mối quan hệ”.

Krantz đặt một tờ 100 đôla nữa lên bàn.

“Vâng, tôi nghĩ mình có một mối quan hệ lý tưởng”.

“Và tôi cần cả hộ chiếu của cô ta nữa”, Krantz nói.

“Không thể được”.

Thêm hai tờ 100 đôla nữa.

“Có thể được”, ông ta nói, “nhưng không dễ”

Thêm hai tờ nữa. Tất cả là sáu tờ. “Nhưng tôi cảm thấy có thể thu xếp được”, ông ta dừng lại, “với một cái giá phù hợp”. Ông ta nhìn lên vị khách hàng của mình trong khi hai tay ông ta để lên bụng mình.

“1000 đôla nếu những gì tôi cần đều sẵn sàng vào chiều nay”.

“Tôi sẽ cố hết sức mình”, người chủ tiệm nói.

“Tôi cảm thấy ông sẽ thành công”, Krantz nói. “Bởi vì nếu sau giờ hẹn mà tôi vẫn không có thứ tôi cần, cứ mười lăm phút tôi sẽ lấy lại một tờ”, cô ta nhìn đồng hồ, “2 giờ chiều nhé”. Người chủ tiệm định phản đối, nhưng rồi ông ta nghĩ lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Khi chiếc xe tắc xi chở Anna chạy qua chiếc cổng của Lâu đài Wentworth, cô ngạc nhiên khi thấy Arabella đang đứng chờ ở bậc cầu thang trên cùng, với một khẩu súng săn trong tay phải và hai con chó Brunswick và Picton ngồi bên cạnh. Người quản gia mở cửa xe tắc xi trong khi bà chủ của ông ta và hai con chó bước xuống các bậc thềm để đón chào Anna.

“Thật vui khi được gặp lại cô”, Arabella nói và hôn lên hai bên má Anna. “Cô tới vừa kịp giờ uống trà”. Anna vuốt ve hai con chó rồi bước theo Arabella lên các bậc thềm, trong khi một gia nhân khác lấy chiếc vali của cô từ cốp xe ra. Khi Anna bước vào đại sảnh, cô dừng lại và chầm chậm nhìn khắp căn phòng, từ bức tranh này sang bức tranh khác. “Vâng, thật là tuyệt vời khi vẫn giữ được gia đình quanh mình”, Arabella nói, “cho dù đây có thể đây là kỳ nghỉ cuối tuần cuối cùng của họ tại nước Anh này”.

“Phu nhân muốn nói gì?”, Anna hỏi một cách chăm chú.

“Các luật sư của Fenston đã chuyển cho tôi một bức thư vào sáng nay, nhắc nhở tôi rằng nếu tôi không thanh toán hết nợ cho chủ của họ vào trưa ngày mai, tôi cần phải sẵn sàng để chia tay với tất cả các tài sản của gia đình”.

“Ông ta định bán tất cả các bức tranh trong bộ sưu tập à?”, Anna hỏi.

“Có vẻ như đó là mục đích của ông ta”, Arabella nói.

“Nhưng như thế thì vô lý quá”, Anna nói. “Nếu Fenston đưa tất cả các bức tranh trong bộ sưu tập ra thị trường cùng lúc, ông ta sẽ không thể thu hết nợ”.

“Ông ta có thể thu hết nợ, nếu sau đó ông ta bán nốt Lâu đài này”, Arabella nói.

“Ông ta không thể...”. Anna bắt đầu.

“Ông ta sẽ làm thế”, Arabella nói. “Vì vậy chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng ông Nakamura vẫn còn say mê bức tranh Van Gogh, bởi vì nói thật, ông ấy là hy vọng cuối cùng của tôi”.

“Bức tranh ấy ở đâu?”, Anna hỏi trong khi Arabella dẫn cô qua phòng khách.

“Đã được trả lại phòng ngủ của Van Gogh, nơi ông ấy đã ngự trong suốt 100 năm qua” - Anna dừng lại - “trừ một ngày tới Heathrow tham quan”. Trong khi Arabella ngồi xuống chiếc ghế ưa thích của mình bên bếp lửa, mỗi con chó nằm một bên, Anna bước quanh căn phòng, và nghĩ về bộ sưu tập các bức tranh của Ý do vị bá tước đệ tứ xây dựng.

“Nếu những con người thân yêu này của tôi phải sang New York”, Arabella nói, “họ cũng sẽ không phàn nàn gì. Suy cho cùng, nó cũng giống như một truyền thống của Mỹ”.

Anna cười khi cô nhìn từ Titian sang Veronese và sang Caravaggio. “Tôi đã quên mất là Caravaggio tuyệt vời như thế nào”, cô nói và lùi lại ngắm nhìn bức Đám cưới tại Cana.

“Tôi tin là cô quan tâm tới những người Ý quá cố hơn là những người Ailen còn sống”, Arabella nói.

“Nếu Caravaggio còn sống đến ngày nay”, Anna nói, “Jack sẽ đi theo ông ấy chứ không theo tôi”.

“Cô muốn nói gì?”, Arabella hỏi.

“Ông ấy đã giết một người đàn ông trong lúc say rượu. Chạy trốn trong những năm cuối đời, nhưng mỗi khi ông ấy tới một thành phố mới, mọi người đều vờ như không biết chuyện đó, chừng nào ông ấy còn vẽ những bức tranh tuyệt vời về Đức Mẹ đồng trinh và Chúa hài đồng”.

“Anna, cô là một vị khách tuyệt vời, hãy tới ngồi bên tôi”, Arabella nói khi một chị hầu gái bê một chiếc khay bạc bước vào phòng khách. Chị ta bắt đầu bày biện cho một tiệc trà nhỏ bên lò sửa.

“Nào, Anna, cô dùng trà Ấn Độ hay trà Trung quốc?”.

Vừa lúc đó, Andrews bước vào nói: “Thưa Phu nhân, có một quý ông ngoài cửa đem đến một gói hàng cho Phu nhân. Tôi đã yêu cầu ông ta đưa tới chỗ nhận hàng, nhưng ông ta nói rằng ông ta không thể giao gói hàng ấy nếu không có chữ ký của Phu nhân”.

“Chắc là một nhân vật Viola kiểu mới”, Arabella nói. “Tôi phải đi xem người sứ giả hay hờn dỗi này đem đến cái gì”, bà nói thêm rồi hơi cúi đầu chào và theo chân Andrews bước ra ngoài.

Anna đang ngắm nghía bức tranh Perseus và Andrromada của Tintoretto khi Arabella quay trở lại, nụ cười trước đó đã bị thay thế bằng một vẻ mặt cau có.

“Có chuyện gì à, Phu nhân?”, Anna quay sang hỏi.

“Sứ giả đã gửi trả lại chiếc nhẫn”, Arabella nói. “Hãy đi theo tôi”.

Anna bước theo Arabella và đi ra đại sảnh. Cô thấy Andrews và một gia nhân khác đang mở chiếc thùng màu đỏ mà cô nghĩ là mình sẽ không bao giờ còn nhìn thấy nữa.

“Chắc chắn được gửi tới từ New York”, Arabella vừa nói vừa nhìn kỹ chiếc nhãn dán trên nắp thùng, “có lẽ trên cùng chuyến bay với cô”.

“Có vẻ như nó không muốn rời tôi”, Anna nói.

“Cô hoá ra rất được đàn ông chú ý”, Arabella nói.

Cả hai người cùng chăm chú theo dõi trong khi Andrews bóc các lớp giấy bọc ra và để lộ bức tranh mà Anna đã nhìn thấy lần cuối tại phòng tranh của Anton.

“Điều tốt duy nhất trong chuyện này là”, Anna nói, “chúng ta có thể trả khung tranh gốc cho bức tranh gốc”.

“Nhưng chúng ta phải làm gì với ông kia?”, Arabella vừa hỏi vừa đưa tay chỉ bức tranh giả. Người quản gia húng hắng ho. “ông có gợi ý à, Andrews?” Arabella hỏi. “Nếu có, ông hãy nói ra đi”.

“Không, thưa Phu nhân”, Andrews trả lời, “nhưng tôi nghĩ Phu nhân muốn biết rằng vị khách khác của Phu nhân đang sắp tới cổng Lâu đài”.

“Ông ta có khả năng bấm giờ thiên tài”, Arabella nói rồi vội nhìn vào gương và sửa lại mái tóc. “Andrews”, bà nói, “phòng Wellington đã được chuẩn bị cho ông Nakamura chưa?”

“Rồi, thưa Phu nhân. Và Tiến sỹ Petrescu sẽ ở trong phòng Van Gogh”.

“Thật là hợp”, Arabella nói rồi quay sang Anna, “khi ông ta trải qua đêm cuối cùng ở đây với cô”.

Anna cảm thấy yên tâm khi Arabella nhanh chóng lấy lại được vẻ nhanh nhẹn, và cô có cảm giác Arabella sẽ rất hợp với Nakamura.

Người quản gia mở cửa trước ra và bước xuống các bậc thềm với một tốc độ đảm bảo rằng ông ta sẽ xuống đến lớp sỏi vừa khi chiếc Toyota Lexus dừng lại. Andrews mở cửa sau chiếc limousine để ông Nakamura bước ra ngoài, ông ta ôm một gói nhỏ hình vuông.

“Người Nhật Bản đi đâu cũng có quà”, Anna thì thầm, “nhưng Phu nhân không nên mở quà ra trước mặt họ”.

“Được”, Arabella nói, “nhưng tôi không chuẩn bị quà cho ông ta”.

“Không cần phải thế. Phu nhân đã mời ông ta làm khách trong nhà của mình, và đó là niềm vinh hạnh đối với bất kỳ người Nhật Bản nào”.

“Thế thì may quá”, Arabella nói vừa lúc ông Nakamura xuất hiện ở cửa trước.

“Phu nhân Arabella”, ông ta nói và cúi chào, “tôi thật hân hạnh khi được mời tới Lâu đài lộng lẫy của Phu nhân”.

“Ngài đã đem vinh dự đến cho ngôi nhà của tôi, ngài Nakamura”, Arabella nói, hy vọng không mắc sai sót gì trong lễ nghi.

Vị khách người Nhật Bản cúi đầu thậm chí còn thấp hơn nữa, và khi ngẩng đầu lên, ông ta đối diện với bức chân dung của Wellington do Lawrence vẽ.

“Thật là tuyệt vời”, ông ta nói. “Có phải con người vĩ đại này đã ăn tối tại Lâu đài Wentworth vào buổi tối trước khi lên đường tới Waterloo không?”.

“Đúng thế”, Arabella nói, “và ngài sẽ được ngủ trên chiếc giường mà ngài Công tước Thép đã ngủ lần đó”. Nakamura quay sang Petrescu và cúi chào. “Thật vui vì được gặp lại cô, Tiến sỹ Petrescu”.

“Tôi cũng vậy, rất vui vì được gặp lại ngài, Nakamura San”, Anna nói. “Tôi hy vọng ngài đã có một chuyến đi dễ chịu”.

“Vâng, xin cảm ơn cô. Chúng tôi thậm chí còn hạ cánh đúng giờ, một sự thay đổi lớn”, Nakamura nói và vẫn đứng yên tại chỗ trong khi lướt nhìn khắp căn phòng. “Cô làm ơn sửa sai cho tôi nếu tôi có nhầm lẫn nhé, Anna. Rõ ràng căn phòng này được dành riêng cho trường phái Anh quốc. Gainsborough?”, ông ta hỏi trong khi ngắm nhìn bức chân dung toàn thân của Catherine, Phu nhân Wentworth. Anna gật đầu, trước khi Nakamura tiếp tục. “Landseer, Morland, Romney, Stubbs, nhưng mà tôi vấp rồi - không biết tôi dùng từ có đúng không?”.

“Ông nói rất chuẩn”, Anna nói, “và những anh em người Mỹ của chúng tôi chưa hẳn đã nói chuẩn như ông. Và ông bị vấp bởi Lely”.

“À, ngài Peter, người phụ nữ kia trông mới tuyệt vời làm sao” - ông ta dừng lại - “nét đặc trưng của gia đình”, ông ta nói và quay sang nhìn chủ nhà.

“Và tôi có thể thấy, ngài Nakamura, nét đặc trưng của gia đình ngài là biết cách làm vui lòng phụ nữ”, Anna nói đùa.

Nakamura cười phá lên. “Với nguy cơ phải thi lại, thưa Phu nhân Arabella, nếu phòng nào cũng như phòng này, có lẽ tôi sẽ phải hoãn cuộc gặp của mình với mấy anh chàng nhà quê ở công ty thép Corns Steel”. Đôi mắt Nakamura tiếp tục nhìn quanh căn phòng, “Wheatley, Lawrence, West và Wilkie”, ông ta nói cho đến khi ánh mắt ông ta dừng lại trên bức chân dung dựng sát tường.

Nakamura không bình luận gì trong một lúc. “Tuyệt vời”, cuối cùng ông ta nói. “Một tác phẩm của một bàn tay hiếm có” - ông ta dừng lại - “nhưng không phải là bàn tay của Van Gogh”.

“Sao ông có thể biết chắc như vậy, Nakamura San?”, Anna hỏi.

“Bởi vì chiếc tai bị băng không phải là chiếc tai kia”, Nakamura trả lời. “Nhưng ai cũng biết Van Gogh đã cắt tai trái của mình”, Anna nói. Nakamura quay sang và mỉm cười với Anna. “Cô biết rõ hơn cả những người khác”, ông ta nói thêm, “rằng Van Gogh đã nhìn vào gương để vẽ bức tranh này, vì vậy chiếc tai bị băng hoá ra phải là tai khác”.

“Tôi thực sự cứ mong có ngày nào đó có người sẽ giải thích điều này cho tôi hiểu”, Arabella nói rồi dẫn các vị khách sang phòng khách.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


Krantz quay trở lại cửa hiệu đó vào lúc 2 giờ chiều, nhưng không thấy bóng dáng người chủ đâu. “ông ấy sẽ quay về ngay bây giờ”, cô gái bán hàng khẳng định với cô ta.

Cái gọi là ngay bây giờ ấy biến thành 30 phút, và đến lúc đó thì cô gái bán hàng kia cũng chẳng còn thấy đâu. Khi người chủ cửa hàng xuất hiện, Krantz hài lòng khi thấy ông ta vác một chiếc túi nhựa lớn. Không nói một lời, Krantz đi theo người chủ cửa hiệu và bước vào văn phòng của ông ta. Chỉ đến khi cánh cửa đã được khép lại, một nụ cười nhăn nhở mới xuất hiện trên khuôn mặt đầy thịt của ông ta.

Người chủ cửa hiệu đặt chiếc túi lên mặt bàn. Ông ta dừng lại một lát, rồi lấy ra bộ đồ màu đỏ mà cô ta đã yêu cầu.

“Cô ta có thể cao hơn cô một chút”, ông ta nói bằng một giọng nửa như xin lỗi, “nhưng tôi có kim và chỉ, không tính tiền”, ông ta bắt đầu cười to, nhưng dừng lại ngay khi thấy người khách hàng của mình không hưởng ứng.

Krantz cầm bộ đồng phục ướm thử lên vai. Người chủ trước của bộ đồng phục ấy cao hơn Krantz ít nhất là 3 hay 4 inch, nhưng chỉ nặng hơn cô ta vài pao; không có vấn đề gì - như người chủ cửa hiệu đã gợi ý - chỉ cần một cây kim và một sợi chỉ là đủ.

“Thế còn cuốn hộ chiếu?”, Krantz hỏi. Một lần nữa, người chủ cửa hiệu lại cho tay vào chiếc túi, và, giống như một nhà ảo thuật lấy ra một con thỏ từ chiếc mũ của mình, ông ta lấy ra một cuốn hộ chiếu của Nga. Ông ta đưa nó cho Krantz và nói: “Cô ta được nghỉ phép ba ngày, vì vậy có thể phải đến ngày thứ Sáu cô ta mới phát hiện thấy mình bị mất hộ chiếu”.

“Nó đã hoàn thành sứ mệnh của mình từ trước đó”, Krantz vừa nói vừa bắt đầu lật giở các trang trong cuốn hộ chiếu.

Cô ta nhận thấy Sasha Prestakavich trẻ hơn cô ta ba tuổi, cao hơn cô ta 8 cm, và không có nét đặc biệt nào.

Một vấn đề mà một đôi giày cao gót có thể giải quyết, trừ phi một viên chức quá mẫn cán nào đó quyết định bắt cô ta cởi hết quần áo ra để kiểm tra và phát hiện thấy vết thương trên vai cô ta.

Khi Krantz lật đến trang có vết dán ảnh của Sasha Prestakavich, người chủ cửa hiệu không dấu nổi một nụ cười ranh ma. Ông ta lấy từ dưới quầy ra một chiếc máy ảnh chụp lấy ngay.

“Cười lên đi”, ông ta nói. Cô ta không cười.

Vài giây sau, một tấm ảnh được đẩy ra. Tiếp đến là một chiếc kéo xuất hiện và người chủ cửa hiệu bắt đầu cắt viền của tấm ảnh cho đến khi nó vừa với hình chữ nhật có viền chấm chấm ở trang thứ ba của cuốn hộ chiếu. Tiếp đến là một lọ keo dán. Việc cuối cùng của ông ta là bỏ một cây kim và một sợi chỉ vào chiếc túi. Krantz bắt đầu nhận ra rằng đây không phải là lần đầu tiên ông ta cung cấp dịch vụ này. Cô ta cho bộ đồng phục và cuốn hộ chiếu vào chiếc túi, trước khi chìa ra 800 đôla. Người chủ cửa hiệu cẩn thận đếm đi đểm lại.

“Cô nói là 1000 cơ mà”, ông ta phản đối.

“Ông chậm 30 phút”, Krantz nhắc nhở ông ta rồi cầm lấy chiếc túi và quay gót bước đi.

“Hãy tới thăm chúng tôi nhé”, người chủ cửa hiệu nói với theo, “bất kỳ khi nào cô cần”.

Krantz không muốn giải thích với ông ta rằng trong nghề của mình, cô ta không gặp ai hai lần, trừ khi cần phải đảm bảo rằng ai đó sẽ không thể có cơ hội nhìn thấy cô ta lần thứ ba.

Khi đã trở ra phố, cô ta chỉ phải đi qua vài tòa nhà trước khi tới một cửa hiệu mà cô ta đang tìm kiếm. Cô ta mua một đôi giày cao gót màu đen, không hợp với cô ta, nhưng có thể giúp cô ta đạt được mục đích. Cô ta thanh toán bằng tiền rúp và rời khỏi cửa hiệu, xách theo hai chiếc túi.

Tiếp đó, Krantz vẫy một chiếc tắc xi, đưa cho người lái xe một địa chỉ và cho anh ta biết cô ta muốn xuống chính xác chỗ nào. Khi chiếc tắc xi dừng lại bên một chiếc cánh cửa đề “Chỉ dành cho nhân viên”, Krantz trả tiền, bước vào tòa nhà và đi thẳng vào phòng vệ sinh nữ. Cô ta nhốt mình trong một ngăn nhỏ và ở đó suốt bốn mươi phút. Với cây kim và sợi chỉ mà người chủ cửa hiệu đưa cho, cô ta nâng gấu váy lên vài inch, và khâu vài nếp gấp ở phần eo. Sẽ chẳng ai có thể thấy những nếp gấp ấy vì chiếc áo khoác sẽ che láp chúng. Sau đó cô ta cởi bỏ tất cả quần áo ngoài trước khi thử bộ đồng phục - không vừa lắm, nhưng cái công ty mà cô ta đang muốn vào làm nhân viên không phải là một công ty nổi tiếng về sự cầu kỳ trong cách ăn mặc. Tiếp đến, cô ta thay đôi giày thể thao bằng đôi giày cao gót vừa mua, trước khi cho quần áo của mình vào chiếc túi. Sau khi rời khỏi phòng vệ sinh, cô ta đi tìm những ông chủ mới của mình. Bước đi của cô ta không được tự nhiên lắm, bởi vì cô ta không quen với giày cao gót. Ánh mắt Krantz dừng lại trên người một phụ nữ mặc một bộ đồng phục giống hệt của cô ta. Cô ta bước lại quầy tiếp tân và hỏi: “Cô có còn một ghế trống nào trên một chuyến bay bất kỳ nào đó của chúng ta tới London không?”

“Không thành vấn đề”, cô gái ở quầy tiếp tân trả lời. “Tôi có thể xem hộ chiếu của cô không?”. Krantz đưa cho cô nhân viên tiếp tân cuốn hộ chiếu mà cô ta vừa kiếm được.

Người đại diện của công ty xem kỹ các chi tiết về Sasha Prestakavich trong cơ sở dữ liệu của công ty.

Theo hồ sơ của họ, Sasha Prestakavich đang được nghỉ ba ngày. “Có vẻ ổn”, cuối cùng cô nhân viên tiếp tân nói và đưa trả Krantz cuốn hộ chiếu. “Hãy là người cuối cùng lên máy bay, đề phòng chúng ta có khách đến muộn”.

Krantz bước về phía cửa dành cho khách bay quốc tế, và sau khi làm thủ tục hải quan, cô ta quanh quẩn ở khu bán đồ miễn thuế cho đến khi cô ta nghe thấy thông báo mời các hành khách đi chuyến bay 413 tới London lên máy bay. Khi cô ta tới cửa, ba hành khách cuối cùng đang làm thủ tục. Một lần nữa, hộ chiếu của cô ta lại được đối chiếu với các chi tiết trong cơ sở dữ liệu của công ty trước khi người nhân viên làm thủ tục ở cửa nhìn màn hình và nói: “Tất cả các ghế đều đã có người, vậy cô chọn chỗ đi”.

“Hàng ghế sau cùng, hạng tiết kiệm”, Krantz nói một cách dứt khoát.

Người nhân viên kia có vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi anh ta in một tấm thẻ lên máy bay rồi đưa nó cho cô ta. Krantz bước qua cửa, và lên chuyến bay 413 của hãng Aeroflot tới London.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Anna chầm chậm bước xuống các bậc cầu thang rộng bằng đá hoa cương, và cứ sau vài ba bậc lại dừng lại để ngắm nhìn tác phẩm của một hoạ sỹ bậc thầy nào đó. Dù đã ngắm những bức tranh này nhiều lần... cô nghe thấy tiếng động sau lưng mình, và ngẩng đầu lên nhìn. Andrews đang bước ra từ phòng ngủ của cô. Ông ta vác theo một bức tranh. Cô mỉm cười trong khi ông ta đi vội ra cầu thang phía sau.

Anna tiếp tục ngắm kỹ các bức tranh trong lúc chầm chậm đi xuống các bậc cầu thang. Khi bước vào đại sảnh, cô dừng lại ngắm nhìn Catherine, Phu nhân Wentworth, một lát trước khi chầm chậm bước đi trên nền đá hoa cương đen trắng về phía phòng khách.

Điều đầu tiên mà Anna trông thấy là Andrews đang đặt bức Van Gogh lên một chiếc giá ở giữa phòng.

“Cô thấy thế nào?”, Arabella hỏi và lùi lại một bước để ngắm bức chân dung.

“Phu nhân không sợ là ngài Nakamura sẽ cho rằng điều đó hơi...”, Anna nói, và dĩ nhiên là không muốn làm mất lòng chủ nhà. “Thô lỗ, trắng trợn, lộ liễu? Cô muốn tìm từ nào, Tiến sỹ Petrescu yêu quý?”, Arabella vừa nói vừa quay lại nhìn Anna. Anna cười phá lên. “Hãy đối mặt với thực tế”, Arabella nói, “Tôi bị mắc kẹt trong các vấn đề tài chính và không còn thời gian, vì vậy tôi chẳng có nhiều lựa chọn”.

“Không ai có thể tin điều đó, nếu họ nhìn thấy Phu nhân lúc này”, Anna vừa nói vừa chiêm ngưỡng chiếc váy dài lộng lẫy bằng lụa hồng và chuỗi hạt kim cương mà Arabella đang đeo. Cô cảm thấy bộ quần áo mà mình đang mặc có vẻ quá quê mùa.

“Cảm ơn cô đã động viên, Anna yêu quý, nhưng nếu tôi có được vẻ đẹp và vóc dáng của cô, tôi chẳng cần phải che kín từ đầu đến chân như thế này”.

Anna mỉm cười, và thầm phục cách mà Arabella giúp cô cảm thấy thoải mái.

“Cô nghĩ khi nào ông ta sẽ đưa ra quyết định?”, Arabella hỏi, cố không để lộ sự tuyệt vọng trong giọng nói. “Cũng giống như các nhà sưu tầm lớn khác”, Anna nói, “ông ta sẽ quyết định rất nhanh. Một nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy đàn ông chỉ cần tám giây để quyết định xem mình có muốn ngủ với một phụ nữ nào đó hay không”.

“Lâu thế cơ à?”, Arabella hỏi.

“Ông Nakamura cũng sẽ cần chừng ấy thời gian để quyết định xem ông ta có muốn mua bức tranh này không”, cô vừa nói vừa nhìn thẳng vào bức Van Gogh.

“Hãy uống mừng vì điều đó”, Arabella nói.

Andrews bước tới ngay sau câu nói đó của chủ, tay ông ta đỡ một chiếc khay có ba chiếc ly trên đó.

“Một ly sâm panh nhé, thưa bà?”, ông ta hỏi.

“Cảm ơn ông”, Anna nói và cầm lấy một chiếc ly đế cao. Khi Andrews lùi lại, ánh mắt cô bắt gặp một chiếc bình màu đồi mồi mà cô chưa từng thấy trước đó.

“Đẹp quá”, cô nói.

“Quà tặng của ông Nakamura”, Arabella nói. “Ngại quá. Tôi hy vọng mình không thất lễ khi trưng bày nó lúc ông Nakamura vẫn còn đang làm khách trong nhà tôi?”. Bà dừng lại. “Nếu như thế là thất lễ, Andrews sẽ cất nó đi ngay”.

“Tất nhiên là không”, Anna nói. “Ông Nakamura sẽ cảm thấy sung sướng khi Phu nhân cho đặt món quà tặng của ông ta giữa những kiệt tác này”. “Cô có chắc không?”, Arabella hỏi. “Chắc chắn là như thế. Chiếc bình ấy đẹp lắm, và rất hợp với căn phòng này. Đối với các tài năng nghệ thuật thì chỉ có một nguyên tắc duy nhất”, Anna nói. “Mọi tác phẩm nghệ thuật thuộc bất kỳ thể loại nào đều phải được đặt giữa những tác phẩm tương xứng khác. Bức tranh của Raphael trên tường, chuỗi hạt kim cương của Phu nhân, chiếc bàn mà phu nhân đã chọn để đặt chiếc bình kia, chiếc lò sưởi kia, bức tranh Van Gogh, tất cả đều được sáng tạo bởi những bàn tay bậc thầy. Tôi không biết nghệ nhân đã làm nên chiếc bình này là ai”, Anna nói và vẫn không rời mắt khỏi chiếc bình màu đồi mồi như đang ngả sang màu đen giống một ngọn nến đang tan chảy, “nhưng tôi tin chắc rằng ở đất nước của mình, ông ta được xem là một bậc thầy”.

“Dùng cụm từ “bậc thầy” chưa hẳn đã chính xác lắm”, một giọng nói cất lên sau lưng họ.

Arabella và Anna cùng quay lại và thấy ông Nakamura đã bước vào phòng. Ông ta mặc một bộ đồ xmôckinh và đeo một chiếc nơ mà chắc hẳn Andrews rất ngưỡng mộ khi được trông thấy.

“Không gọi là bậc thầy?”, Arabella hỏi.

“Không”, Nakamura nói. “Ở đất nước này, người ta vinh danh những người “vĩ đại” bằng cách phong tước cho họ, hiệp sỹ hay nam tước, trong khi ở Nhật Bản, chúng tôi xem những tài năng như thế là “kho báu quốc gia”. Thật hợp lẽ khi chiếc bình này tìm được một chỗ đứng trong Lâu đài Wentworth, bởi vì trong số 12 người thợ gốm tài ba nhất trong lịch sử, các chuyên gia đã công nhận rằng 11 người trong số họ là người Nhật Bản. Trường hợp ngoại lệ duy nhất là Bernard Leach, một người xứ Cornwall. Người Anh đã quên không phong tước hiệp sỹ hay Lãnh Chúa cho ông ấy, vì vậy chúng tôi tuyên bố ông ấy là kho báu quốc gia danh dự của Nhật Bản”.

“Thật là một nền văn minh vĩ đại”, Arabella nói, “vì tôi phải thú nhận rằng gần đây người Anh chúng tôi chỉ biết ban tước hiệu cho ca sỹ nhạc pop, cầu thủ bóng đá, và những nhà trọc phú”. Nakamura phá lên cười. Andrews bước tới và đưa cho ông ta một ly sâm panh. “Ngài có phải là kho báu quốc gia không, ngài Nakamura?”, Arabella hỏi.

“Tất nhiên là không”, Nakamura đáp. “Đồng bào tôi không bao giờ nghĩ rằng những nhà trọc phú lại xứng đáng với danh hiệu ấy”.

Arabella đỏ mặt, trong khi Anna tiếp tục ngắm chiếc bình, như thể cô không nghe thấy lời nhận xét đó. “Nếu tôi không lầm, ngài Nakamura, hình như chiếc bình này không cân?”

“Xuất sắc”, Nakamura đáp. “Nhẽ ra cô phải là thành viên của phái Bộ Ngoại giao mới đúng, Anna. Không những cô đã xoay chuyển đề tài, mà đồng thời còn đưa ra một câu hỏi Cần được trả lời”.

Nakamura bước qua chỗ bức tranh Van Gogh như thể ông ta không nhìn thấy nó và ngắm chiếc bình một lúc rồi nói thêm, “Nếu cô gặp một tác phẩm bằng gốm nào đó hoàn toàn cân đối, thì chắc chắn đó là sản phẩm của máy móc. Với đồ gốm, ta nên tìm những sản phẩm gần với sự hoàn hảo. Nếu cô nhìn kỹ, cô sẽ phát hiện ra một vài tì vết nhỏ giúp chúng ta biết rằng nó được làm ra bằng tay. Càng mất nhiều thời gian hơn để phát hiện tì vết, nghệ nhân làm ra tác phẩm ấy càng tài ba hơn, bởi vì chỉ có Giootto mới vẽ được những vòng tròn hoàn hảo”.

“Đối với tôi, đó là một tác phẩm hoàn hảo”, Arabella nói. “Đơn giản là tôi thích nó, và trong những năm tới, dù cho Fenston có lấy đi bao nhiêu thứ của tôi, ông ta cũng sẽ không bao giờ có được tác phẩm của kho báu quốc gia ấy”.

“Có lẽ ông ta không cần phải lấy đi bất kỳ một thứ gì từ Lâu đài này”, Nakamura nói và quay sang nhìn bức tranh Van Gogh như thể ông ta mới thấy nó lần đầu. Arabella nín thở trong khi Anna theo dõi nét mặt của Nakamura. Cô không biết chắc. Nakamura chỉ nhìn bức tranh vài giây trước khi quay sang Anna và nói, “Có những lúc trọc phú cũng có thế lợi của họ, bởi vì cho dù họ không thể trở thành kho báu quốc gia, họ có thể sưu tập các tác phẩm từ các kho báu quốc gia”.

Anna muốn chúc mừng, nhưng cô chỉ đơn giản giơ ly rượu lên. Ông Nakamura đáp trả cử chỉ ấy và cả hai quay sanh nhìn Arabella. Nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt bà.

“Tôi không biết phải cảm ơn ông bằng cách nào”, bà nói.

“Không phải cảm ơn tôi”, ông Nakamura nói. “Phu nhân hãy cảm ơn Tiến sỹ Petrescu. Bởi vì nếu không nhờ lòng dũng cảm và tài năng của cô ấy, câu chuyện này sẽ không thể có được một hồi kết tốt đẹp”.

“Đúng thế”, Arabella nói, “và đó là lý do tại sao tôi sẽ yêu cầu Andrews đưa bức chân dung này vào phòng ngủ của Anna, để cô ấy là người cuối cùng được chiêm ngưỡng nó trước khi nó bắt đầu một hành trình dài sang Nhật Bản”.

“Thật là một sự sắp xếp tuyệt vời”, Nakamura nói. “Nhưng nếu Anna trở thành giám đốc quỹ của chúng tôi, cô ấy có thể ngắm bức tranh này bất kỳ khi nào cô ấy thích”.

Anna vừa định trả lời thì Andrews bước vào phòng và nói, “Bàn ăn đã được chuẩn bị xong, thưa Phu nhắn”.

***

Krantz chọn chỗ ngồi ở cuối máy bay để không có mấy hành khách chú ý đến cô ta, ngoài phi hành đoàn. Cô ta cần phải làm thân với một người trong số họ trước khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Heathrow.

Krantz ngồi yên quan sát, và cố tìm xem ai trong số các đồng nghiệp mới của cô ta sẽ giúp cô ta đạt được mục đích.

“Trong nước hay quốc tế?” trưởng nhóm tiếp viên hỏi, ngay khi máy bay vừa lấy được độ cao đường dài. “Trong nước”, Krantz đáp lại, kèm theo một nụ cười.

“À, hèn chi tôi chưa từng gặp cô”.

“Tôi vừa vào làm cho công ty được ba tháng”, Krantz nói.

“Thế thì phải rồi. Tôi là Nina”.

“Sasha”, Krantz nói và nở một nụ cười thân thiện.

“Nếu cần gì cứ nói với tôi, Sasha”.

“Vâng, cảm ơn chị”, Krantz nói.

Việc cố gắng thư giãn trong khi không thể dựa vào vai phải cũng đồng nghĩa với việc Krantz sẽ phải thức gần suốt chuyến bay. Cô ta bỏ ra khoảng thời gian đó để tìm hiểu về Nina, để đến khi máy bay hạ cánh, người tiếp viên trưởng này sẽ sẵn lòng đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch của cô ta. Đến khi cuối cùng Krantz gục xuống ngủ, Nina đã trở thành người trông nom cô ta.

“Cô có muốn lên ngồi phía trên không, Sasha?” Nina hỏi sau khi phi cơ trưởng đã yêu cầu các tiếp viên về chỗ ngồi để chuẩn bị hạ cánh. “Như thế cô có thể xuống trước ngay khi cửa mở ra”.

Krantz lắc đầu. “Đây là lần đầu tiên tôi tới nước Anh”, cô ta nói bằng một giọng có vẻ lo âu, “và tôi muốn đi cùng chị với phi hành đoàn”.

“Thế cũng tốt”, Nina nói. “Và nếu cô muốn, cô có thể lên xe minibuýt với chúng tôi”.

“Cảm ơn chị”, Krantz nói.

Krantz ngồi trên ghế của mình cho đến khi hành khách cuối cùng đã rời khỏi máy bay. Sau đó cô ta cùng phi hành đoàn xuống máy bay và đi về phía cửa kiểm tra hộ chiếu. Krantz không rời khỏi trưởng nhóm tiếp viên trong suốt thời gian họ đi dọc những hành lang dài dằng dặc, trong khi Nina mải mê nói về đủ thứ chuyện, từ Putin tới Rasputin.

Khi phi hành đoàn của Aeroflot cuối cùng đi đến cửa kiểm tra hộ chiếu, Nina dẫn người được mình bảo trợ vượt qua một dãy dài hành khách đang xếp hàng chờ và đi về phía một chiếc cửa đề Chỉ dành cho phi hành đoàn. Krantz cứ bám lấy Nina, còn cô này thì vẫn không ngừng nói chuyện kể cả trong khi đang đưa hộ chiếu ra để kiểm tra. Người nhân viên kiểm tra hộ chiếu chầm chậm giở từng trang, nhìn kỹ ảnh rồi ra hiệu cho Nina bước qua. “Người tiếp theo”

Krantz đưa hộ chiếu ra. Một lần nữa, anh ta lại nhìn ảnh rồi nhìn người. Anh ta thậm chí còn mỉm cười rồi ra hiệu cho Krantz bước qua. Krantz bỗng cảm thấy đau nhói ở vai phải. Trong vài giây, cơn đau khiến cô ta không thể bước đi. Cô ta cố không nhăn nhó. Người nhân viên kiểm tra hộ chiếu lại vẫy cho cô ta bước qua, nhưng cô ta vẫn đứng nguyên tại chỗ.

“Đi nào, Sasha”, Nina gọi, “cô đang cản đường mọi người đấy”.

Krantz cố nén cơn đau và loạng choạng bước qua chiếc cửa. Người nhân viên nhìn theo cô ta. Không bao giờ được ngoái nhìn lại. Cô ta mỉm cười với Nina và khoác tay cô này rồi cả hai người cùng bước về phía cửa ra vào. Người nhân viên kiểm tra hộ chiếu không nhìn theo Krantz nữa mà quay sang làm nhiệm vụ của mình.

“Cô sẽ đi xe buýt với chúng tôi chứ?” Nina hỏi lúc họ bước ra khỏi sân bay. “Không”, Krantz nói. “Tôi có bạn trai đến đón”.

Nina trông có vẻ ngạc nhiên. Cô ta nói lời tạm biệt, trước khi bước qua đường để đi cùng với một đồng nghiệp.

“Ai đấy”, đồng nghiệp của Nina hỏi, trước khi trèo lên chiếc xe buýt của hãng Aeroflot.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,808
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


“Không có gì trong những thước phim này có thể giúp ích cho chúng ta à?” Macy hỏi.

“Chẳng có gì”, Jack ngẩng lên nhìn sếp mình qua chiếc bàn làm việc và trả lời. “Leapman mới chỉ chụp được tám tài liệu trước khi bị Fenston phát hiện”.

“Thế tấm tài liệu đó nói lên điều gì?” Macy hỏi.

“Đều là những chuyện chúng ta đã biết”, Jack vừa nói vừa mở tập hồ sơ trước mặt ra. “Chủ yếu là các hợp đồng khẳng định rằng Fenston vẫn đang lường gạt các khách hàng trên khắp thế giới, những người hoặc là ngây thơ, hoặc là tham lam. Và mỗi khi có một ai đó trong số họ muốn bán tài sản để trả nợ cho Fenston Finance, thì tôi e là lúc đó chúng ta lại có một án mạng. Không, hy vọng duy nhất của tôi là NYPD đã thu thập đủ bằng chứng”.

“Không có hy vọng gì”, Macy nói, “bởi vì khi tôi nói chuyện với sếp của họ, hay đúng hơn là ông ta nói chuyện với tôi, điều đầu tiên mà ông ta muốn biết là chúng ta có đặc vụ FBI nào tên là Delaney không, nếu có, có phải là anh ta có mặt ở hiện trường tội ác trước khi người của ông ta tới đó hay không”.

“Sếp nói gì với ông ta?” Jack hỏi, và cố không cười.

“Tôi sẽ xem xét vấn đề và gọi anh ta về”. Macy dừng lại. “Nhưng có thể xoa dịu họ đôi chút nếu cậu vui lòng trao đổi một vài thông tin với họ”, ông ta gợi ý.

“Nhưng tôi không nghĩ là họ lại có một thông tin nào đó mà chúng ta chưa biết”, Jack nói, “và họ cũng không thể lạc quan khi Leapman vẫn còn chưa được thẩm vấn”.

“Có tin gì từ bệnh viện về cơ hội bình phục của Leapman không?” Macy hỏi.

“Không tốt lắm”, Jack nói. “Khi ở trong văn phòng của Fenston, ông ta đã bị đột quỵ vì cao huyết áp. Thuật ngữ y tế gọi là chứng mất ngôn ngữ”.

“Mất ngôn ngữ à?”

“Vùng ngôn ngữ trong não bộ của ông ta đã bị tổn thương nghiêm trọng, vì vậy ông ta không thể nói.

Nói thật, bác sỹ của ông ta mô tả rằng lúc này ông ta đang ở trong trạng thái thực vật, và cảnh báo với tôi rằng quyết định duy nhất mà bệnh viện có thể đưa ra là rút phích cắm để ông ta được chết một cách nhẹ nhàng”.

“NYPD nói với tôi rằng Fenston ngồi suốt ngày bên giường bệnh và tỏ vẻ rất lo lắng”.

“Vậy thì họ không nên để ông ta ngồi lại với Leapman một mình, dù chỉ là một phút”, Jack nói, “bởi vì nếu ông ta có cơ hôi, các bác sỹ sẽ không còn phải mất công rút phích cắm”.

“NYPD cũng muốn biết có phải anh đã lấy chiếc máy ảnh khỏi hiện trường hay không”.

“Đó là tài sản của FBI”.

“Không. Nếu đó là một bằng chứng phục vụ một cuộc điều tra tội ác, như cậu đã biết quá rõ, Jack ạ. Tại sao cậu không gửi cho họ một tập ảnh mà Leapman đã chụp và cố gắng có thái độ hợp tác hơn trong tương lai? Nhắc họ nhớ rằng cha cậu đã phục vụ 20 sáu năm trong lực lượng ấy - điều đó có thể có ích”.

“Nhưng họ có gì để đổi lại?” Jack hỏi.

“Một tấm ảnh có tên của cậu ở mặt sau. Họ muốn biết nó có ý nghĩa gì với cậu không, bởi vì rõ ràng nó chẳng có ý nghĩa gì đối với họ, hay đối với tôi”, Macy thú nhận.

Viên chỉ huy trưởng FBI đẩy hai tấm ảnh qua mặt bàn và để cho Jack vài phút để cân nhắc. Tấm ảnh thứ nhất chụp cảnh Fenston đang bắt tay với George W. Bush tại Bãi Trống. Jack nhớ lại tấm ảnh phóng to mà anh đã thấy treo trên tường sau bàn làm việc của Fenston. Anh giơ tấm ảnh lên và hỏi, “Làm thế nào NYPD có được tấm ảnh này?”

“Họ tìm thấy trên bàn làm việc của Leapman. Chắc chắn là ông ta đang định đem đến cho cậu vào tối hôm qua, cùng với một lời giải thích cho những gì mà ông ta đã viết ở mặt sau”.

Jack nhìn tấm ảnh thứ hai và đang ngẫm nghĩ về mấy từ viết ở mặt sau, Delaney, đây là tất cả những bằng chứng mà anh cần, thì chuông điện thoại trên bàn làm việc của Macy đổ. Ông ta cầm ống nghe lên. “Nối máy cho anh ta”, Macy nói rồi đặt ống nghe xuống và ấn một nút để cả hai người cùng có thể theo dõi cuộc nói chuyện. “Đó là Tom Crasanti, gọi về từ London”, Macy nói. “Chào Tom, Dick Macy đây. Jack đang có mặt trong văn phòng cùng với tôi. Chúng tôi đang thảo luận về trường hợp của Fenston, bởi vì chúng tôi vẫn chưa tiến được bao xa”.

“Đó là lý do tại sao tôi gọi”, Tom nói. “Đã có sự thay đổi, tới thời điểm này, và tin tức không được tốt. Chúng tôi nghĩ Krantz đã lọt vào nước Anh”.

“Không thể như thế được”, Jack nói. “Làm thế nào cô ta qua được cửa kiểm tra hộ chiếu?”

“Bằng cách đóng giả là một chiêu đãi viên của hãng Aeroflot, có vẻ là như vậy”, Tom nói. “Người của tôi tại đại sứ quán Nga gọi tới để cảnh báo rằng một người phụ nữ đã xâm nhập vào nước Anh dưới cái tên Sasha Prestakavich”.

“Nhưng tại sao họ lại nghĩ rằng người mang tên Sasha Prestakavich ấy chính là Krantz?” Jack hỏi.

“Không, họ không nói thế”, Tom nói. “Họ cũng không biết cô ta là ai. Tất cả những gì họ có thể nói với tôi là kẻ tình nghi đã làm thân với tiếp viên trưởng của Aeroflot trong chuyến bay của họ tới London. Sau đó cô ta đã lừa để người tiếp viên trưởng ấy đưa mình qua cửa kiểm tra hộ chiếu. Đó là những gì chúng tôi được nghe họ nói. Đến khi viên phi công phụ hỏi người tiếp viên trưởng xem cô ta là ai, và khi nghe tiếp viên trưởng nói rằng đó là Sasha Prestakavich, anh ta nói không thể có chuyện như vậy vì anh ta thường xuyên bay cùng cô tiếp viên ấy, và rõ ràng người vừa đi cùng tiếp viên trưởng không phải là Sasha Prestakavich”.

“Nhưng như thế vẫn chưa thể khẳng định được rằng đó chính là Krantz”, Macy vặn.

“Tôi sắp nói tới chỗ đó, thưa sếp, cho tôi một ít thời gian”.

Jack mừng vì bạn mình không nhìn thấy sự nôn nóng trên mặt sếp.

“Phi công phụ”, Tom tiếp tục, “báo cáo với phi công trưởng, và phi công trưởng ngay lập tức cảnh báo bộ phận an ninh của hãng. Chẳng mất nhiều thời gian, họ đã phát hiện ra rằng Sasha Prestakavich đang được nghỉ ba ngày, và hộ chiếu của cô ta đã bị đánh cắp, cùng với bộ đồng phục. Và thế là chuông báo động vang lên”. Macy bắt đầu gõ ngón tay lên mặt bàn. “Người của tôi ở đại sứ quán Nga gọi tới trên tinh thần cảnh giác sau sự kiện 11/9”, Tom nói, “sau khi đã thông báo cho Interpol”.

“Sắp tới chỗ quan trọng rồi chứ, Tom?”

“Vâng, thưa sếp”. Anh ta dừng lại. “Tôi tới đâu rồi nhỉ?”

“Tới chỗ nhận điện thoại từ người của cậu ở đại sứ quán Nga”, Jack nói.

“à, ừ”, Tom nói. “Sau khi tôi mô tả nhận dạng của Krantz cho anh ta, cao năm bộ, nặng 100 pao, tóc húi cua, họ yêu cầu tôi fax một tấm ảnh của cô ta cho họ. Tôi làm ngay. Sau đó anh ta gửi bản fax tấm ảnh ấy tới một khách sạn ở London cho viên phi công phụ. Anh ta khẳng định đó chính là Krantz”.

“Làm tốt lắm, Tom”, Macy nói, “kỹ lưỡng như thường lệ, nhưng cậu đã nghĩ ra lý do tại sao Krantz lại phải mạo hiểm sang Anh quốc vào lúc này chưa?

“Để giết Petrescu, tôi cá là như vậy”, Tom nói.

“Cậu nghĩ gì?” Macy nhìn Jack và hỏi.

“Tôi đồng ý với Tom”, Jack đáp.

“Anna rõ ràng là mục tiêu”. Anh ngập ngừng. “Nhưng tôi không hiểu tại sao Krantz lại phải liều như vậy vào lúc này”.

“Tôi đồng ý”, Macy nói, “nhưng tôi không thể đánh cược mạng sống của Petrescu trong khi chúng ta chưa tìm ra động cơ đích thực của Krantz”. Macy ngả người về phía trước.

“Nghe đây Tom, bởi vì tôi chỉ nói với cậu có một lần mà thôi”, ông ta bắt đầu lật nhanh các trang hồ sơ về Fenston. “Tôi cần cậu liên lạc với - đợi tôi một giây”, ông ta nói và tiếp tục lật các trang hồ sơ. “A, đây rồi, Chánh thanh tra Renton của khu vực Surey. Sau khi đọc báo cáo của Jack, tôi có ấn tượng rất rõ rằng Renton là một con người của những quyết định khó khăn, thậm chí dám nhận trách nhiệm cả khi một cấp dưới của mình mắc tội. Tôi biết cậu đã thông báo cho ông ta về Krantz, nhưng hãy cảnh báo với ông ta rằng chúng ta nghĩ là cô ta sắp tiếp tục phạm tội ác, và nhiều khả năng mục tiêu là ai đó trong Lâu đài Wentworth. Ông ta sẽ không muốn chuyện đó xảy ra hai lần trong địa hạt của mình, và chắc cũng chưa quên rằng vừa mới bị bắt, Krantz đã lại trốn thoát. Điều đó sẽ giúp ông ta tỉnh ngủ suốt đêm. Và nếu ông ta muốn nói chuyện với tôi vào bát cứ lúc nào, tôi luôn có mặt ở đầu dây”.

“Và cho tôi gửi lời hỏi thăm ông ta”, Jack nói thêm.

“Thế là tạm ổn”, Macy nói. “Tom, hãy khẩn trương lên”.

“Vâng, thưa sếp”, Tom đáp.

Macy tắt loa điện thoại. “Và này, Jack, tôi muốn cậu bay chuyến bay sắp tới, đi London. Nếu Krantz vẫn tính tới chuyện làm hại Petrescu, hãy đảm bảo là chúng ta đã chờ sẵn cô ta, bởi vì nếu cô ta thoát một lần nữa, tôi sẽ phải về hưu non và các cậu đừng có nghĩ đến chuyện được đề bạt”.

Jack cau mày nhưng không nói gì. “Trông cậu có vẻ như đang nghĩ tới một điều gì đó”, Macy nói.

“Tôi không hiểu tại sao bức ảnh chụp Fenston đang bắt tay với Tổng thống lại là tất cả những bằng chứng mà anh cần” - anh dừng lại - “mặc dù tôi nghĩ mình đã biết tại sao Krantz lại liều lĩnh mò tới Lâu đài Wentworth lần thứ hai”.

“Tại sao?”, Macy hỏi.

“Cô ta sẽ đánh cắp bức tranh Van Gogh”, Jack nói, “rồi sau đó sẽ tìm cách đem nó về Mỹ cho Fenston”.

“Vậy là Petrescu không phải là lý do khiến cô ta quay trở lại nước Anh”.

“Đúng vậy”, Jack nói, “nhưng một khi cô ta phát hiện ra Petrescu có mặt ở đó, có thể cô ta sẽ giết Petrescu để lấy thưởng”.

55

Lúc này là 7 giờ 41 phút tối ngày 25 tháng Chín. Krantz đợi cho đến lúc sau 8 giờ tối mới xuất hiện tại khu vực phụ cận của Wentworth. Khi ấy Arabella đang dẫn các vị khách của mình sang phòng ăn.

Krantz mặc một bộ đồ thể thao bó sát người. Cô ta đi vòng qua khu Lâu đài hai lần trước khi quyết định sẽ xâm nhập từ chỗ nào. Tất nhiên là không thể qua cổng trước. Cho dù chắn những bức tường đá cao bao quanh khu Lâu đài khi mới xây là bất khả xâm phạm, thời gian đã tạo ra nhiều chỗ để các chú bé trong vùng có thể lẻn vào ăn trộm vài quả táo.

Sau khi đã chọn được điểm đột nhập, Krantz dễ dàng trèo lên bức tường trong tích tắc, rồi thả mình rơi xuống và lăn tròn, những động tác mà cô ta đã thực hành hàng nghìn lần khi tập trên xà cao.

Krantz nằm yên và chờ đợi một lát để mặt trăng khuất sau một đám mây. Sau đó cô ta chạy một đoạn khoảng ba hay bốn chục thước tới một địa điểm an toàn bên một lùm cây gần bờ sông. Cô ta chờ cho đến khi mặt trăng lại ló ra để có thể quan sát khu đất cẩn thận hơn, và cô ta hiểu rõ rằng phải thật kiên nhẫn. Trong cái nghề của cô ta, sự thiếu kiên nhẫn sẽ dẫn đến sai lầm, và sai lầm không dễ sửa như trong các nghề khác.

Krantz nhìn rõ phía trước của tòa Lâu đài, nhưng cô ta phải chờ bốn mươi phút trước khi chiếc cánh cửa to bằng gỗ sồi được một người đàn ông mặt áo khoác đuôi tôm màu đen và thắt nơ trắng mở ra để hai con chó có thể ra ngoài dạo đêm. Chúng nghếch mũi lên đánh hơi, và ngay lập tức chúng bắt được mùi của Krantz. Hai con chó sủa ầm lên và lao về phía cô ta. Nhưng cô ta đang đợi chúng - một cách kiên nhẫn.

Người huấn luyện viên của Krantz đã nói với cô ta rằng người Anh rất yêu động vật, và ta có thể biết đẳng cấp của một ai đó nếu ta biết những con chó mà họ nuôi. Người lao động thích chó săn thỏ, tầng lớp trung lưu thích giống chó cốc của Tây Ban Nha và những nhà giàu mới nổi thích chó chăn cừu của Đức để bảo vệ tài sản mới kiếm được của họ. Tầng lớp thượng lưu thường chọn giống chó tha mồi Labrador, một giống chó không thích hợp cho việc giữ nhà bởi vì chúng chỉ thích liếm vào mặt chủ và cướp thức ăn của chủ. Khi Krantz được giảng giải về vấn đề này, lần đầu tiên cô ta nghe thấy cụm từ “mùi mẫn”. Chỉ có Nữ Hoàng mới nuôi chó corgi, một giống chó của xứ Wales.

Krantz không động đậy khi hai con chó lao về phía cô ta, thi thoảng dừng lại để đánh hơi, và lúc này đã phát hiện thêm một thứ mùi nữa khiến chúng càng vẫy đuôi loạn xạ. Krantz trước đó đã đến tiệm Curnick ở đường Fulham và chọn những miếng bít tết sirloin mềm nhất, những miếng bít tết mà giờ này các vị khách trong Lâu đài đang thưởng thức.

Krantz cảm thấy không được tiếc. Suy cho cùng, đó là bữa ăn cuối cùng của chúng.

Krantz đặt những miếng bít tết quanh mình thành một vòng tròn và ngồi bất động ở giữa, giống một người bồi bàn bị câm. Khi trông thấy những miếng bít tết, Brunswick và Picton liền quên ngay cái hình người đang ngồi ở giữa vòng tròn. Krantz quì xuống và bỏ thêm các miếng bít tết vào những chỗ vừa bị trống trên vòng tròn. Thi thoảng hai con chó lại ngước lên nhìn cô ta, đuôi vẫy lia lịa, rồi lại cúi xuống nhiệt tình thưởng thức bữa tiệc.

Sau khi đặt miếng bít tết cuối cùng xuống trước mặt hai con chó, Krantz bắt đầu vuốt ve lớp lông mềm mại trên đầu Picton, con chó non hơn.

Picton thậm chí chẳng thèm ngước đầu lên khi cô ta rút con dao ra. Thép Sheffield, cũng được mua từ một cửa hiệu trên đường Fulham vào chiều hôm đó.

Một lần nữa, cô ta lại vuốt ve cái đầu của con chó giống Labrador màu sôcôla, rồi nhanh như chớp, cô ta đâm vào mang tai Picton, nhấc đầu con chó lên, và bằng một động tác lách dao, cắt đứt cổ họng con vật. Con chó còn lại già hơn nhưng cũng chẳng khôn hơn. Nó nhìn lên và gầm gừ, và điều đó khiến nó phải mất một giây đồng hồ. Thừa đủ để Krantz liếc lưỡi dao dưới họng nó. Không chính xác lắm. Con chó giẫy dụa dưới đất. Krantz nghiêng người về phía trước, nắm lấy hai tai con chó và kết thúc công việc của cô ta.

Krantz kéo hai con chó lại chỗ bụi cây và vứt sau thân một cây sồi bị đổ. Sau đó cô ta xuống sông rửa tay và bực mình khi thấy bộ quần áo thể thao mới mua của mình dính đầy máu. Sau đó cô ta chùi lưỡi dao xuống cỏ, trước khi cất nó vào bao. Cô ta nhìn đồng hồ. Cô ta đã trù tính dành hai giờ đồng hồ cho công việc vừa rồi, vì vậy cô ta nghĩ mình sẽ còn một giờ nữa trước khi những người trong Lâu đài kia, vì bận rộn với việc tiếp khách hoặc được tiếp, nhận ra rằng hai con chó chưa trở lại sau buổi dạo đêm thường lệ của chúng. Krantz ước lượng khoảng cách giữa bụi cây và đầu phía bắc của tòa Lâu đài là khoảng từ 100 đến 120 thước. Với ánh trăng sáng như vậy, cô ta biết rằng chỉ có một cách di chuyển duy nhất không gây nên sự chú ý.

Cô ta quỳ xuống trước khi nằm bẹp xuống cỏ. Cô ta đặt một tay lên trước, tiếp đến là một chân, đến tay còn lại, rồi đến chân còn lại, và bò về phía trước. Kỷ lục mà cô ta ghi được trong cái trò Người Cua này với quãng đường 100 thước là bảy phút mười chín giây. Chốc chốc cô ta lại dừng lại, ngóc đầu nhìn tòa nhà phía trước để tìm điểm đột nhập. Tầng trệt rực sáng ánh đèn, trong khi tầng hai gần như tối đen. Tầng ba, nơi ở của các gia nhân, chỉ có một bóng đèn sáng. Krantz không quan tâm tới tầng ba. Mục tiêu của cô ta lúc này chắc chắn đang ở tầng trệt và một lát nữa sẽ ở tầng hai.

Khi chỉ còn cách tòa nhà khoảng 10 thước, Krantz di chuyển chậm lại cho đến khi cô ta thấy ngón tay mình chạm vào một bức tường. Cô ta nằm yên, nghiêng đầu sang một bên và nhờ ánh trăng để nhìn mọi thứ một cách kỹ lưỡng. Chỉ có những tòa nhà lớn mới có những đường ống nước như vậy. Sau khi đã luyện tập trên những thanh xà có đường kính bốn inch, một đường ống nước như vậy có thể được xem là một chiếc thang. Tiếp đến, Krantz nhìn kỹ những cửa sổ của căn phòng lớn mà tiếng động đang chủ yếu phát ra từ đó. Cho dù những tấm rèm dầy đã được kéo lại, cô ta phát hiện thấy có một khe hở nhỏ. Cô ta di chuyển thậm chí còn chậm hơn lúc trước về phía những tiếng cười nói. Khi tới bên chiếc cửa sổ, cô ta nhổm dậy trên đầu gối cho đến khi cô ta có thể ghé một mắt vào khe hở trên tấm rèm.

Đầu tiên, cô ta trông thấy một người đàn ông mặc một bộ đồ xmôckinh. Ông ta đang đứng, tay cầm một ly sâm banh như sắp chúc tụng. Krantz không nghe thấy người đàn ông đó nói gì, nhưng cô ta cũng chẳng quan tâm tới chuyện đó. ánh mắt cô ta quét khắp lượt những gì cô ta có thể trông thấy trong căn phòng. Ở một đầu bàn có một phụ nữ mặc áo dài bằng lụa đang ngồi quay lưng ra phía cửa sổ và chăm chú nhìn người đàn ông đang nói. Ánh mắt Krantz dừng lại trên chuỗi hạt kim cương mà người phụ nữ ấy đang đeo, nhưng đó không phải là thứ cô ta quan tâm.

Cô ta quan tâm tới một điểm cách những viên đá sáng lấp lánh kia khoảng ba inch.

Cô ta hướng sự chú ý sang phía đầu bàn còn lại. Cô ta gần như mỉm cười khi nhận ra người đang ăn thịt gà lôi và nhấm nháp ly rượu vang kia là ai. Khi Petrescu quay trở lại phòng mình sau bưỡi tối, cô ta sẽ chờ sẵn ở một chỗ mà Petrescu ít ngờ nhất.

Krantz lại liếc nhìn về phía người đàn ông mặc áo khoác đuôi tôm màu đen. Ông ta là người đã mở cửa cho hai con chó ra ngoài. Lúc này ông ta đang đứng sau người phụ nữ mặc áo dài, rót rượu cho người phụ nữ ấy, trong khi những người hầu khác dọn những chiếc đĩa đã hết thức ăn và một người trong số họ chỉ có một nhiệm vụ là dọn các mẩu vụn bánh mỳ trên bàn vào một chiếc khay bạc. Krantz không gây một tiếng động nào trong khi ánh mắt cô ta tiếp tục lướt quanh căn phòng, tìm kiếm chiếc họng thứ hai mà Fenston đã đặt hàng.

“Phu nhân Arabella, tôi đứng lên để cảm ơn lòng tốt và sự hiếu khách của bà. Món cá hồi bắt ở sông Test, và món gà lôi bắn trong khu đất của Lâu đài quả là rất ngon. Hai người phụ nữ ngồi cùng bàn ăn với tôi hôm nay thật tuyệt vời. Và ngày mai, khi tôi rời Lâu đài Wentworth, tôi sẽ có thêm một kiệt tác và một chuyên gia bậc thầy, một người đã đồng ý là giám đốc quỹ của chúng tôi. Ngài bá tước đệ ngũ quả là khôn ngoan khi đã mua của Tiến sỹ Gachet bức chân dung một người bạn thân của ông ta, Vincent Van Gogh, vào năm 1889, hơn một thế kỷ trước. Ngày mai, kiệt tác đó sẽ bắt đầu một chuyến đi qua nửa vòng trái đất, nhưng tôi xin cảnh báo với Phu nhân, rằng sau vài giờ ở trong Lâu đài của Phu nhân, tôi đã để mắt đến một kho báu quốc gia khác của Phu nhân và lần này tôi sẵn lòng trả giá cao”.

“Tôi có thể biết đó là thứ gì không?” Arabella hỏi.

Krantz quyết định đó là thời điểm thích hợp để di chuyển.

Cô ta chầm chậm bò về phía bắc của tòa nhà. Cô ta không cần biết rằng những bệ đá lớn ở nền nhà là niềm tự hào về kiến trúc của Ngài John Vanbrugh; đối với cô ta, đó chỉ là những chỗ bám chân thích hợp để trèo lên tầng hai.

Cô ta trèo lên ban công tầng hai chỉ mất không đầy hai phút, và dừng lại vài giây để đếm xem có bao nhiêu phòng ngủ. Cô ta biết rằng khi Lâu đài có khách, sẽ không có một phòng nào được gắn chuông báo động, và với sự già nua của tòa nhà, việc đột nhập vào một phòng ngủ nào đó không phải là chuyện khó. Với sự trợ giúp của con dao, Krantz cạy chốt cửa sổ của căn phòng đầu tiên. Sau khi đã lẻn vào trong, cô ta không tìm công tắc đèn điện mà bật một chiếc đèn pin lên. Chiếc đèn pin chỉ nhỏ bằng một chiếc bút bi và chỉ chiếu sáng một khoảng rộng bằng màn hình của một chiếc ti vi nhỏ. Khoảng sáng nhỏ ấy di chuyển trong căn phòng, lướt từ bức tranh này sang bức tranh khác, và cho dù Hals, Hobbema và Van Goyen luôn làm hài lòng mọi con mắt tinh tường, cô ta lướt qua các bức tranh của họ để tìm bức tranh của hoạ sỹ người Hà Lan khác. Sau khi đã xem lướt qua tất cả các bức tranh trong căn phòng, cô ta tắt đèn pin và quay trở ra ban công. Khi cô ta bước vào phòng ngủ thứ hai cũng là lúc Arabella đứng dậy đáp lời ông Nakamura. Một lần nữa, Krantz lại kiểm tra từng bức tranh, và một lần nữa không có bức tranh nào đem lại nụ cười cho cô ta. Cô ta vội trở ra ban công, cũng là lúc người quản gia rót mời ông Nakamura một ly rượu poóctô và mở hộp đựng xì gà ra. Ông Nakamura để người quản gia rót cho mình một ly đầy. Khi người quản gia quay lại chỗ bà chủ của mình ở đầu bàn phía bên kia, Arabella từ chối không uống rượu nữa, nhưng bà dùng ngón cái và ngón trỏ vê mấy điếu xì gà trước khi chọn một điếu Monte Cristo. Khi người quản gia bật diêm cho bà, Arabella mỉm cười. Mọi chuyện đều suôn sẻ.



56

Krantz đã kiểm tra được năm căn phòng ngủ khi Arabella mời các vị khách của mình sang phòng khách để dùng cà phê. Vẫn còn chín phòng nữa, và Krantz hiểu rõ rằng không những cô ta chẳng còn nhiều thời gian, mà đồng thời cô ta cũng chẳng thể có một cơ hội thứ hai.

Cô ta vội di chuyển sang căn phòng bên cạnh, mà ai đó đã mở cửa sổ để đón gió. Cô ta bật đèn pin lên, và được đón tiếp bằng cái nhìn lạnh lùng của vị Công tước Thép. Cô ta di chuyển tới bức tranh khác, cũng là lúc ông Nakamura đặt cốc cà phê xuống chiếc bàn con bên cạnh và đứng dậy. “Tôi nghĩ đã đến lúc tôi nên đi ngủ, thưa Phu nhân”, ông ta nói, “nếu không, những anh chàng ngốc ở công ty thép Corns Steel sẽ nhận ra rằng tôi ăn nói không còn sắc bén”. Ông ta quay sang Anna. “Tôi mong chờ được gặp lại cô vào sáng mai, khi chúng ta có thể thảo luận trong bữa ăn sáng về những ý tưởng của cô trong việc phát triển bộ sưu tập của tôi, và có thể là cả chuyện lương bổng của cô nữa”. “Nhưng ngài đã nói rõ là tôi đáng giá là bao nhiêu rồi mà”, Anna nói.

“Tôi không nhớ”, Nakamura nói và trông ông ta có vẻ bối rối.

“Ồ, vâng”, Anna nói và mỉm cười.

“Tôi nhớ rất rõ là Fenston đã thuyết phục ngài tin rằng tôi đáng giá 500 đôla một ngày”.

“Cô đã lợi dụng người già”, Nakamura vừa nói vừa mỉm cười, “nhưng tôi sẽ không rút lại những lời nói của mình”.

Krantz nghĩ cô ta nghe thấy tiếng một chiếc cánh cửa được đóng lại và không nhìn lại Wellington lần thứ hai, cô ta lẻn vội ra ban công. Cô ta phải cần tới con dao của mình để đột nhập căn phòng tiếp theo. Cô ta rón rén bước qua phòng, và dừng lại ở đuôi giường. Cô ta bật đèn pin lên, nghĩ là sẽ được đón tiếp bằng một bức tường trống không. Nhưng không phải.

Đôi mắt dài dại của một thiên tài đang nhìn cô ta chằm chằm. Đôi mắt điên dại của kẻ sát nhân nhìn trả lại. Krantz mỉm cười lần thứ hai trong ngày. Cô ta trèo lên giường và chầm chậm bò về phía nạn nhân tiếp theo của mình. Khi còn cách bức tranh vài inch, cô ta rút dao ra khỏi bao, giơ lên cao khỏi đầu và chuẩn xọc lưỡi dao vào cổ Van Gogh thì cô ta nhớ lại những gì mà cô ta cần làm theo chỉ đạo của Fenston để được lĩnh bốn triệu đôla thay vì chỉ được lĩnh ba triệu. Cô ta tắt đèn pin, bò xuống và chui vào gầm giường. Cô ta nằm ngửa mình lên và chờ đợi.

Khi Arabella và các vị khách rời phòng khách và bước ra hành lang, bà hỏi Andrews xem Brunswick và Picton đã trở lại chưa.

“Chưa, thưa Phu nhân”, người quản gia trả lời, “nhưng đêm nay có rất nhiều thỏ ra ngoài kiếm ăn”.

“Vậy thì để tôi đích thân đi gọi mấy tên hư đốn đó”, Arabella nói rồi quay sang phía các vị khách. “Chúc ngủ ngon, tôi sẽ gặp lại hai người vào bữa ăn sáng ngày mai”.

Nakamura cúi chào trước khi đưa Anna đi lên cầu thang, và chốc chốc hai người lại dừng chân để ngắm nhìn các vị tổ tiên của Arabella. Họ cũng trả lại hai người những cái nhìn chằm chằm.

“Xin cô hiểu cho tôi, Anna”, ông ta nói, “vì tôi sẽ không có cơ hội được gặp lại các quý ông này lần thứ hai”. Anna mỉm cười và bước đi, để ông Nakamura đứng lại ngắm nhìn Bà Siddons của Romney.

Cô tiếp tục đi dọc hành lang, và dừng lại bên ngoài phòng Van Gogh. Cô mở cửa căn phòng ra và bật đèn lên, rồi dừng lại một lát để ngắm nhìn chân dung Van Gogh. Cô cởi váy ra và treo vào tủ quần áo, rồi cô đặt những quần áo còn lại của mình lên chiếc ghế sô pha ở chân giường.

Sau đó cô bật ngọn đèn ở cạnh giường lên và xem đồng hồ. Vừa qua mười một giờ. Cô đi vào phòng tắm. Khi Krantz nghe thấy tiếng nước chảy từ một chiếc vòi hoa sen, cô ta bò ra khỏi gầm giường và quỳ bên cạnh giường. Cô ta giỏng tai lên, giống một con thú đang đánh hơi trong gió. Vòi nước vẫn đang chảy. Cô ta đứng lên, bước tới cửa và tắt chiếc bóng đèn trong phòng ngủ, trong khi vẫn để ngọn đèn đọc sách bên cạnh giường. Cô ta nhấc đầu tấm chăn phía bên kia giường, cẩn thận trèo lên và chui vào chăn. Cô ta nhìn Van Gogh lần cuối, trước khi kéo chăn lại che kín đầu. Krantz nằm yên không động đậy. Cô ta nhỏ con tới mức gần như biến mất trong thứ ánh sáng mờ mờ. Cho dù đang ẩn mình dưới lớp chăn, cô ta vẫn nghe rõ tiếng vòi nước được vặn lại. Tiếp đến là sự yên lặng. Chắc Anna đang lau khô người, rồi cô ta nghe thấy tiếng một chiếc công tắc được tắt - đèn phòng tắm, tiếp đến là tiếng một chiếc cánh cửa được khép lại.

Krantz rút con dao từ trong chiếc bao ra và nắm chặt cán dao khi Anna bước trở ra phòng ngủ. Anna chui xuống dưới chăn phía giường của cô và xoay mình sang một bên, vươn một cánh tay để tắt ngọn đèn bên cạnh giường. Cô ngả đầu xuống chiếc gối lông ngỗng mềm mại. Khi chuẩn bị bước vào giấc ngủ, những suy nghĩ cuối cùng của cô là bữa tiệc thật tuyệt vời. Ông Nakamura không những đã quyết định chuyện mua bán, mà còn mời cô về làm việc. Cô còn cần gì hơn thế?

Anna đang trong trạng thái chợp chờn khi Krantz nhoài người sang bên và sờ vào lưng cô bằng đầu ngón tay trỏ. Cô ta rê ngón tay dọc xương sống Anna xuống mông cô, dừng lại trên đùi cô. Anna thở ra một hơi dài. Krantz dừng lại vài giây, trước khi cho tay vào giữa hai đùi Anna.

Cô đang mơ ngủ, hay có ai đó sờ vào cô, Anna băn khoăn tự hỏi trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Cô nằm yên. Không thể có chuyện có ai đó đang nằm trên giường cùng cô. Chắc chắn là mơ. Đó là lúc cô cảm thấy cái lạnh của một lưỡi dao bằng thép khi nó luồn vào giữa hai đùi cô. Thình lình Anna tỉnh như sáo, tất cả các suy nghĩ đều chạy khỏi đầu cô. Cô vừa chuẩn bị tung chăn ra và lăn xuống sàn thì một giọng nói cất lên, nhỏ nhưng rõ ràng, “Đừng nghĩ tới chuyện cử động, dù chỉ là một sợi gân; mày có một con dao dài sáu inch ở giữa hai đùi, và lưỡi dao hướng lên”. Anna nằm yên. “Nếu mày lên tiếng, dù chỉ là thì thầm, tao sẽ rạch đôi mày từ háng lên họng, và mày sẽ chỉ có đủ thời gian để ước được chết”.

Anna cảm thấy cái lạnh của lưỡi dao bằng thép giữa hai đùi cô và cố không động đậy, cho dù người cô vẫn run lên.

“Nếu mày nghe theo chỉ dẫn của tao”, Krantz nói, “thì mày có thể sống, nhưng đừng tin lắm vào điều đó”. Anna không tin, và biết rằng nếu muốn có cơ hội sống sót, cô phải kéo dài thời gian. “Cô muốn gì?” Anna hỏi.

“Tao đã bảo là không được mở miệng”, Krantz nói và đẩy con dao lên cho đến khi lưỡi dao chỉ còn cách âm vật của cô một xentimét. Anna không dám nói gì thêm.

“Có một ngọn đèn bên cạnh giường ở phía mày”, Krantz nói. “Hãy vươn người ra, rất chậm và bật nó lên”. Anna vươn người ra và cảm thấy lưỡi dao di chuyển cùng cô khi cô bật ngọn đèn lên.

“Tốt”, Krantz nói. “Bây giờ tao sẽ kéo phần chăn phía mày, trong khi mày phải nằm yên. Tao sẽ không rút dao ra - chưa đến lúc”.

Anna nhìn chằm chằm về phía trước mặt cô, trong khi Krantz chầm chậm kéo chăn phía cô ra.

“Bây giờ hãy co gối lên trước ngực”, Krantz nói, “chậm thôi”.

Anna làm theo lệnh cô ta, và lại cảm thấy lưỡi dao di chuyển cùng cô.

“Bây giờ ngồi dậy trên đầu gối và nhìn vào bức tường trước mặt mày”. Anna tì khuỳu tay trái lên giường, đẩy mình ngồi dậy một cách chầm chậm trên đầu gối và xoay mình từng inch một cho đến khi cô đối diện với bức tường. Cô nhìn chằm chằm vào Van Gogh. Khi cô nhìn thấy chiếc tai bị băng, cô không thể không nhớ tới những gì mà Krantz đã làm đối với Victoria.

Krantz lúc này đang quỳ ngay sát phía sau cô, tay vẫn cầm chặt cán dao.

“Từ từ cúi về phía trước”, Krantz nói, “và cầm lấy hai bên khung bức tranh”.

Anna làm theo lệnh của cô ta, trong khi từng chiếc cơ trên người cô đều run lên.

“Bây giờ nhấc bức tranh ra khỏi móc treo và từ từ đặt nó xuống gối”.

Anna gắng sức để làm theo mệnh lệnh của cô ta, dù cô đã bủn rủn cả chân tay. Cô đặt bức tranh xuống gối.

“Bây giờ tao sẽ lấy con dao ra khỏi háng mày, rất chậm, trước khi gí lưỡi dao vào cổ mày. Đừng tính đến chuyện cử động khi con dao được rút ra, bởi vì nếu mày ngu xuẩn đến mức thử làm điều gì đó, tao xin đảm bảo với mày rằng tao chỉ cần không đầy ba giây để giết mày, và mười giây để thoát ra từ chiếc cửa sổ kia. Tao muốn mày nghĩ về điều đó trước khi tao rút lưỡi dao ra”.

Anna nghĩ về điều đó, và không nhúc nhích. Vài giây sau, cô cảm thấy lưỡi dao đã được rút ra khỏi hai chân mình, và chỉ tích tắc sau, lưỡi dao đã kề vào cổ cô.

“Nâng bức tranh lên khỏi chiếc gối”, Krantz ra lệnh, “rồi quay lại và nhìn tao. Hãy nhớ rằng lưỡi dao sẽ không bao giờ rời cách họng mày quá vài inch. Bất kỳ một cử động nào, và tao muốn nhấn mạnh là bất kỳ một cử động nào mà tao cho là khả nghi, sẽ là cử động cuối cùng của mày”.

Anna tin lời cô ta. Cô cúi xuống, nâng bức tranh lên khỏi chiếc gối và chầm chậm xoay mình trên hai đầu gối cho đến khi cô đối diện với Krantz. Khi Anna lần đầu tiên nhìn thấy cô ta, cô ngạc nhiên trong một giây lát thoáng qua. Người phụ nữ này trông thật bé nhỏ, thậm chí có vẻ dễ bị tổn thương - một nhận định sai lầm mà nhiều người đàn ông đã mắc phải trong quá khứ - quá khứ của họ. Sergei còn không thể hạ được Krantz thì cô còn có cơ hội gì? Suy nghĩ lạ lùng ấy lướt qua đầu Anna trong khi cô chờ đợi mệnh lệnh tiếp theo của cô ta.

Tại sao cô lại từ chối khi Andrews đề nghị đem cho cô một cốc cacao lên phòng trước khi cô đi ngủ?

“Bây giờ tao muốn mày xoay bức tranh lại để nó nhìn thẳng vào tao”, Krantz nói, “và đừng rời mắt khỏi con dao”, cô ta nói thêm rồi nhấc con dao khỏi họng cô và giơ lên cao khỏi đầu. Trong khi Anna xoay bức tranh lại, Krantz giữ con dao chĩa thẳng vào vị trí mà cô ta thường chọn.

“Nắm chặt lấy khung tranh”, Krantz nói, “bởi vì bạn mày, ông Van Gogh, sắp mất thêm một cái tai nữa”. “Nhưng tại sao?” Anna kêu lên, cô không thể cố im lặng được nữa.

“Tao thấy vui là mày đã hỏi”, Krantz nói, “bởi vì mệnh lệnh của ông Fenston không thể rõ ràng hơn. Ông ấy muốn mày là người cuối cùng được nhìn thấy bức tranh này trước khi nó bị đi tiêu”.

“Nhưng tại sao?” Anna lặp lại.

“Bởi vì ông Fenston không thể có bức tranh cho riêng mình, ông ấy muốn đảm bảo rằng chẳng ai có thể sở hữu nó”, Krantz nói, lưỡi dao chỉ cách cổ họng Anna vài inch. “Bao giờ cũng là sai lầm nếu làm trái ý ông Fenston. Thật tiếc khi mày không có cơ hội để nói lại với bạn mày là Phu nhân Arabella về những gì mà ông Fenston sẽ dành cho bà ta”. Krantz dừng lại. “Nhưng tao có cảm giác ông ấy không phiền lòng nếu tao nói cho mày biết. Một khi bức tranh này đã bị phá hủy - thật đáng tiếc là bà ta không có tiền để mua bảo hiểm cho nó, thì đó cũng là lúc ông Fenston sẽ bắt đầu bán các bức tranh còn lại trong bộ sưu tập của Lâu đài này cho đến khi bà ta thanh toán hết nợ. Cái chết của bà ta, không giống như cái chết của mày, sẽ diễn ra một cách từ từ và dai dẳng. Người ta phải khâm phục đầu óc tư duy lôgic và gẫy gọn của ông Fenston”. Cô ta dừng lại lần nữa. “Tao sợ không còn thời gian, cả cho mày lẫn cho ông Van Gogh”.

Krantz bất ngờ giơ cao con dao khỏi đầu và xọc mạnh lưỡi dao xuống bức tranh. Anna cảm nhận được rằng Krantz đã dồn toàn lực để làm việc đó khi cô ta rạch qua cổ Van Gogh, và bằng tất cả sức lực của mình, tiếp tục đẩy lưỡi dao cho đến khi cô ta đã tạo nên một vòng tròn không đều, cuối cùng làm chiếc đầu của Van Gogh rơi ra, để lại một lỗ hổng nham nhở ở giữa bức tranh. Krantz hơi ngửa người ra để chiêm ngưỡng chiến tích của mình, và cho phép mình được tự mãn trong giây lát. Cô ta cảm thấy mình đã hoàn thành hợp đồng với Fenston, và giờ đây, khi Anna đã chứng kiến toàn bộ cảnh này, đã đến lúc cô ta kết thúc mọi chuyện để lĩnh bốn triệu đôla tiền công và tiền thưởng. Anna nhìn chiếc đầu Van Gogh rơi xuống tấm ga cạnh cô, không một giọt máu. Khi Krantz ngồi thẳng lên để tận hưởng chiến thắng của mình, Anna nâng chiếc khung tranh lên và đập thẳng xuống đầu cô ta. Nhưng Krantz nhanh hơn cô tưởng; cô ta xoay mình và giơ tay trái lên đỡ. Anna nhảy xuống giường khi Krantz gạt chiếc khung tranh xuống và nhoài người về phía trước. Anna đã kịp đứng dậy và thậm chí đã nhảy được một bước về phía cửa trước khi Krantz lao theo và đâm lưỡi dao và chân cô. Anna loạng choạng và ngã xuống, chỉ cách cánh cửa vài inch, máu phun ra từ vết thương. Krantz chỉ cách cô một bước chân khi tay Anna chạm vào tay cầm trên cánh cửa, nhưng quá muộn. Krantz đã nhảy chồm lên cô trước khi cô kịp xoay tay cầm. Krantz túm lấy tóc Anna và kéo cô ngã xuống sàn. Krantz giơ con dao lên, và những từ cuối cùng mà Anna nghe là: “Lần này là chuyện cá nhân”.

Krantz vừa chuẩn bị thực hiện cú cắt họng theo nghi lễ quen thuộc của cô ta thì cánh cửa mở toang. Không phải là người quản gia với một cốc cacao, mà là một phụ nữ với khẩu súng săn dưới cánh tay phải, đôi bàn tay và chiếc áo dài của bà nhuộm đầy máu.

Trong một giây lát thoáng qua, Krantz cứng người khi cô ta nhìn thấy Phu nhân Victoria Wentworth. Không đúng là cô ta đã giết chết người đàn bà này rồi sao? Trước mặt cô ta là ma ư? Krantz chần chừ, như bị thôi miên, khi con ma tiến lại phía cô ta. Krantz không rời mắt khỏi Arabella, trong khi vẫn nắm chặt con dao, lưỡi dao chỉ cách cổ họng Anna vài inch.

Arabella nâng khẩu súng lên khi Krantz lùi lại, kéo theo con mồi của mình trên sàn về phía cửa sổ. Arabella lên cò. “Chỉ cần một giọt máu nữa”, bà nói, “và tao sẽ bắn mày thành một đống thịt vụn. Tao sẽ bắt đầu từ hai chân của mày, và sau đó tao sẽ dành ổ đạn thứ hai cho cái bụng của mày. Nhưng tao sẽ chưa bắn chết mày ngay. Không, tao hứa sẽ dành cho mày một cái chết từ từ, đau đớn, và tao sẽ không gọi cứu thương cho đến khi tao biết chắc rằng họ chẳng thể làm gì để cứu mày”. Arabella hơi hạ nòng súng xuống và Krantz lưỡng lự. “Thả cô ta ra”, bà nói, “và tao sẽ không bắn”. Arabella chờ đợi. Bà ngạc nhiên khi thấy Krantz có vẻ hoảng hốt như vậy, trong khi Anna lại có vẻ khá điềm tĩnh.

Bất ngờ Krantz bỏ tóc Anna ra và lăn mình qua cửa sổ ra ban công. Arabella nâng súng lên và bắn về phía cái bóng đang chuyển động.

Đạn thổi bay cánh cửa sổ và để lại một lỗ hổng lớn. Arabella lao về lỗ hổng đang toả khói ấy và gọi, “Andrews, nhanh lên”, như thể bà đang đi săn gà lôi. Một giây sau, đèn pha bảo vệ được bật lên và bãi cỏ trước Lâu đài ngập trong ánh sáng giống như một sân bóng trong một trận đấu đêm, nhưng chỉ có một cầu thủ đang lao về phía cầu gôn.

Đôi mắt Arabella bám theo cái bóng đen nhỏ đang chạy hình chữ chi qua bãi cỏ. Arabella nâng súng lên lần thứ hai, tì chặt báng vào vai, ngắm nhìn, hít sâu một hơi và kéo cò. Tích tắc sau, Krantz ngã xuống đất, nhưng vẫn cố bò về phía bức tường. “Chết tiệt”, Arabella nói, “tôi chỉ bắn trúng cánh nó”. Bà chạy ra khỏi phòng, lao xuống cầu thang và kêu to trước khi xuống đến tầng trệt, “Hai các tút đạn nữa, Andrews”.

Andrews mở cánh cửa trước bằng tay phải và đưa cho bà chủ hai các tút đạn bằng tay trái. Arabella nhanh chóng nạp đạn trước khi nhảy xuống các bậc cầu thang và chạy về phía bãi cỏ. Bà chỉ còn nhìn thấy một cái bóng đen rất nhỏ đang đổi hướng chạy về phía cổng, nhưng bà nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với Krantz. Sau khi Krantz đã nằm trong tầm ngắm, bà dừng lại giữa bãi cỏ. Bà nâng súng lên và tì vào vai. Bà lấy mục tiêu và vừa chuẩn bị bóp cò thì thình lình từ đâu có ba chiếc xe cảnh sát và một chiếc xe cứu thương lao qua cổng, ánh đèn pha làm bà loá mắt và không nhìn thấy mục tiêu đâu nữa.

Chiếc xe đầu tiên phanh khựng lại ngay sát chân bà, và khi nhận ra người vừa bước xuống xe, bà miễn cưỡng hạ khẩu súng xuống.

“Chào ông chánh thanh tra”, bà vừa nói vừa đưa tay che ngang trán để ngăn dòng ánh sáng đang chĩa thẳng vào bà.

“Chúc một buổi tối tốt lành, Arabella”, viên chánh thanh tra cảnh sát đáp lời, như thể ông ta đã đến muộn vài phút trong một tiệc rượu nhỏ mà bà tổ chức. “Mọi thứ đều ổn chứ?” ông ta hỏi.

“Đều ổn trước khi ông tới đây”, Arabella nói, “và thò mũi vào công việc của người khác. Và cho phép tôi hỏi, làm sao ông có thể tới đây nhanh như thế?”

“Bà có một người bạn Mỹ, Jack Delaney, để cảm ơn về điều đó”, viên chánh thanh tra cảnh sát nói. “Anh ta cảnh báo với chúng tôi rằng có thể bà cần một vài sự giúp đỡ. Vì vậy chúng tôi đã theo dõi khu vực này suốt một giờ qua.

“Tôi không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào”, Arabella nói và lại nâng khẩu súng lên. “Nếu ông cho tôi yên thêm được vài phút, tôi đã kết liễu đời nó, và vui sướng được đối mặt với những hậu quả”.

“Tôi không hiểu bà đang nói gì”, viên chánh thanh tra cảnh sát nói rồi quay trở lại chiếc xe và tắt đèn pha. Chiếc xe cứu thương và hai chiếc xe cảnh sát còn lại không thấy đâu nữa.

“Ông đã để nó chạy mất, đồ ngu”, Arabella vừa nói vừa nâng súng lên lần thứ ba, cũng là lúc ông Nakamura xuất hiện bên cạnh bà trong bộ quần áo ngủ.

“Tôi nghĩ Anna-”

“Ôi, Chúa ơi”, Arabella nói rồi quay mình chạy vào trong tòa nhà, không thèm để ý đến viên chánh thanh tra cảnh sát. Bà tiếp tục chạy lên các bậc thềm, qua cửa, trước khi lao lên cầu thang, và không dừng lại cho đến khi tới căn phòng khách dành cho Anna. Bà thấy Andrews đang quỳ trên sàn, và đang băng bó vết thương ở chân Anna một cách thành thục. Ông Nakamura lao qua cửa. Ông ta dừng lại một lát để lấy hơi trước khi nói, “Trong nhiều năm, Arabella, tôi vẫn cứ băn khoăn không biết trong một bữa tiệc kiểu thôn dã của Anh quốc sẽ có những gì”, Ông ta dừng lại. “Giờ thì tôi đã biết rõ”. Arabella cười phá lên, và quay sang phía Nakamura, ông ta đang nhìn chằm chằm vào bức tranh trên sàn nhà bên cạnh chiếc giường.

“Ôi, Chúa ơi”, Arabella kêu lên khi ánh mắt bà dừng lại trên bức tranh.

“Thằng Fenston con hoang kia cuối cùng đã cũng đã đánh bại chúng ta. Bây giờ tôi hiểu tại sao hắn lại tự tin đến thế về việc tôi sẽ buộc phải bán hết tất cả những gì còn lại trong bộ sưu tập của mình, và thậm chí cuối cùng sẽ mất luôn cả Lâu đài này”. Anna chầm chậm đứng lên và ngồi xuống đuôi giường. “Tôi không nghĩ như vậy”, cô nói và nhìn thẳng vào chủ nhà. Arabella trông có vẻ ngạc nhiên. “Nhưng Phu nhân hãy cảm ơn Andrews về điều đó”.

“Andrews à?” Arabella lặp lại.

“Đúng vậy. Ông ấy đã cảnh báo với tôi rằng sáng mai ngài Nakamura sẽ phải rời khỏi Lâu đài từ rất sớm nếu muốn kịp giờ hẹn với hãng Corns Steel, và Andrews gợi ý rằng nếu tôi không muốn bị đánh thức vào một cái giờ không thích hợp, thì có lẽ ông ấy nên lấy bức tranh đi trong lúc chúng ta còn đang ăn tối. Điều đó không những cho phép người của ông ấy trả bức tranh vào khung tranh gốc mà còn giúp họ có đủ thời gian để đóng gói bức tranh, chuẩn bị sẵn sàng để ông Nakamura có thể đem đi vào sáng sớm ngày mai”. Anna dừng lại. “Tôi nói với Andrews rằng có thể Phu nhân sẽ không được hài lòng nếu ông ấy làm trái ý Phu nhân, trong khi rõ ràng tôi đã lợi dụng lòng hiếu khách của Phu nhân. Tôi nghĩ mình vẫn còn nhớ chính xác những lời của Andrews”, Anna nói. ““Nếu cô cho phép tôi thay kiệt tác ấy bằng bức tranh nhái, tôi tin là Phu nhân sẽ không để ý”.”

Đó là một trong những lần hiếm hoi trong suốt bốn mươi chín năm qua, Andrews được chứng kiến cảnh bà chủ của mình phải nghẹn lời không nói nên lời.

“Tôi nghĩ Phu nhân nên sa thải ông ấy ngay lập tức vì tội không nghe lời”, Nakamura nói, “để tôi có thể mời ông ấy về chỗ tôi làm. Nếu ông chấp nhận”, ông ta vừa nói vừa quay sang Andrews, “tôi sẵn lòng trả ông một mức lương cao gấp đôi hiện nay”.

“Không có hy vọng”, Arabella nói, trước khi người quản gia có cơ hội trả lời. “Andrews là một kho báu quốc gia mà tôi sẽ không bao giờ chịu mất”.

57

Ông Nakamura thức dậy vào lúc vừa qua 6 giờ, khi ông ta nghĩ mình nghe thấy tiếng một chiếc cánh cửa được đóng lại. Ông ta nghĩ về những chuyện đã xảy ra tối hôm trước, và cố thuyết phục mình rằng đó không phải là một giấc mơ.

Ông ta thả chân xuống thảm, tìm đôi dép lê và chiếc áo khoác mỏng bên cạnh giường, ông ta xỏ chân vào dép lê, khoác chiếc áo lên mình và đi về phía đuôi giường, nơi trước khi đi ngủ ông ta đã để chiếc áo xmôckinh, áo sơ mi và những quần áo khác trên một chiếc ghế. Ông ta đã định thức dậy để đóng gói hành lý trước khi rời đi, nhưng không thấy ở đó nữa. Ông ta cố nhớ lại xem mình có cất vào vali không, ông ta mở vali ra và thấy chiếc áo sơ mi đã được giặt là và được gấp lại, còn chiếc áo xmôckinh đã được là ủi và được treo vào chiếc móc dành riêng để treo complê.

Ông ta bước vào phòng tắm và thấy chiếc bồn tắm lớn đã được lấy đầy nước. Ông ta cho tay vào nước: ấm nhưng không nóng. Rồi ông ta nhớ lại là đã nghe thấy tiếng cửa phòng mình được khép lại. Rõ ràng là vừa đủ gây tiếng động để đánh thức ông ta nhưng không làm ảnh hưởng đến người khác, ông ta cởi chiếc áo ngủ ra và bước vào bồn.

***

Anna bước ra khỏi phòng tắm và bắt đầu mặc quần áo. Cô đang đeo chiếc đồng hồ của Tina vào thì thấy một chiếc phong bì trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh giường. Có lẽ Andrews đã đưa nó tới phòng cô trong khi cô đang tắm? Cô biết chắc chắn là nó không có ở đó khi cô thức dậy. Trên chiếc phong bì có đề chữ Anna, kiểu chữ mạnh mẽ của Arabella.

Cô ngồi xuống đuôi giường và bóc chiếc phong bì ra.

Lâu đài Wentworth

Ngày 26 tháng Chín năm 2001

Anna vô cùng yêu quý,

Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất tặng thưởng vàng bạc và châu báu cho một vị tổ tiên của tôi vì lòng dũng cảm và những chiến công của ngài. Vì vậy sẽ hợp lý khi mà sau khi cô đã cứu vãn danh dự...

Anna bật cười vì lối nói là lạ trong thư, khiến cho hai tờ giấy rơi ra khỏi phong bì. Anna cúi xuống nhặt lên. Tờ thứ nhất là một tấm séc ghi tên người lĩnh là Anna có trị giá một triệu bảng. Tờ thứ hai...

***

Sau khi Nakamura mặc quần áo xong, ông ta cầm chiếc điện thoại di động từ chiếc bàn con bên cạnh giường lên và bấm một số để gọi về Tokyo. Ông ta chỉ thị cho giám đốc tài chính chuyển bốn lăm triệu đôla bằng hình thức chuyển tiền điện tử vào tài khoản của ông ta tại London. Ông ta không cần phải báo cho các luật sư của mình biết, bởi vì ông ta đã yêu cầu họ chuyển toàn bộ khoản tiền đó tới ngân hàng Coutts & Co, nơi gia đình Wentworth vẫn gửi gắm tiền bạc của mình trong suốt hai thế kỷ qua.

Trước khi rời khỏi phòng để xuống ăn sáng, ông Nakamura dừng lại một lát trước bức chân dung của Wellington, ông ta khẽ cúi chào ngài Công tước Thép, và cảm thấy rằng chắc chắn ngài Công tước đã rất thích thú với cuộc giao tranh nhỏ tối hôm qua.

Trong lúc bước xuống những bậc cầu thang bằng đá hoa cương, ông ta trông thấy Andrews trong đại sảnh. Andrews đang chỉ đạo việc vận chuyển chiếc thùng màu đỏ, trong đó đựng bức tranh Van Gogh đã được lắp vào khung tranh gốc. Người phụ việc của Andrews dựng chiếc thùng cạnh cửa trước để có thể đưa nó lên xe của Nakamura ngay khi tài xế riêng của Nakamura xuất hiện. Arabella bước vội ra khỏi phòng ăn sáng khi vị khách của bà xuống đến bậc cầu thang cuối cùng.

“Chúc một buổi sáng tốt lành, ngài Nakamura”, bà nói. “Tôi hy vọng rằng, bất chấp những chuyện đã xảy ra, ngài vẫn ngon giấc”.

“Ồ, vâng, xin cảm ơn Phu nhân”, ông ta đáp lời, vừa lúc Anna khập khiễng bước xuống sau lưng ông ta.

“Tôi không biết phải cảm ơn Phu nhân như thế nào”, Anna nói. “Sotheby chắc chắn sẽ bắt tôi phải trả tiền phí cao hơn nhiều”, Arabella nói mà không giải thích gì thêm.

“Và tôi biết rằng Tina-” Anna bắt đầu, vừa lúc đó có một tiếng gõ dứt khoát ở cửa trước. Nakamura dừng lại, và Andrews bước qua sảnh về phía cửa.

“Có lẽ là tài xế của tôi”, ông ta nói khi người quản gia mở chiếc cánh cửa sồi ra.

“Xin chào ngài”, Andrews nói.

Arabella quay người lại và mỉm cười với vị khách không mời.

“Chào anh, Jack”, bà nói. “Tôi không biết là anh sẽ tới ăn sáng cùng chúng tôi. Anh vừa từ Mỹ qua à, hay đêm qua anh ngủ ở chỗ đồn cảnh sát địa phương?”

“Không, thưa Phu nhân, tôi không ghé qua đồn cảnh sát ấy, nhưng tôi nghe nói nhẽ ra phu nhân phải vào đó ngủ đêm qua”, Jack trả lời, kèm theo một nụ cười nhăn nhở.

“Xin chào, người hùng của tôi”, Anna nói và hôn lên má Jack. “Anh vừa kịp tới để cứu chúng tôi”.

“Không công bằng”, Arabella nói chen vào, “bởi vì chính Jack là người đã báo với cảnh sát địa phương”. Anna mỉm cười. Cô quay sang Nakamura và nói, “Đây là bạn của tôi, Jack Fitzgerald Delaney”.

“Chắc chắn tên thánh là John”, ông Nakamura nói khi bắt tay với Jack. “Chính xác, thưa ngài”.

“Cái tên do một bà mẹ người Ailen lựa chọn, và có lẽ anh sinh ngày 20 hai tháng Mười, năm 1963?”

“Hoàn toàn chính xác”, Jack thú nhận.

“Kỳ lạ thật”, Arabella nói và dẫn các vị khách sang phòng ăn sáng, và Anna giải thích với Jack lý do tại sao chân cô lại bị băng bó.

Arabella mời Nakamura ngồi bên phải mình. Bà ra hiệu cho Jack và nói, “Lại ngồi bên trái tôi, chàng trai. Còn một vài câu hỏi mà tôi muốn có câu trả lời”. Jack nhìn món cật nướng khi anh cầm dao và dĩa lên. “Và anh đừng mơ đến thức ăn”, Arabella nói thêm, “trước khi giải thích tại sao tôi lại không được lên mặt báo sau những nỗ lực dũng cảm của mình đêm qua”.

“Tôi không hiểu Phu nhân nói gì”, Jack nói, lúc đó Andrews đang rót cho anh một cốc cà phê.

“Này, đừng có thế”, Arabella nói.

“Chẳng trách gì mà nhiều người tin vào các giả thuyết về đủ thứ âm mưu và sự che đậy của cảnh sát. Cố lên một chút đi, Jack”.

“Khi tôi hỏi các đồng nghiệp của mình ở MI5 lúc sáng nay”, Jack trả lời rồi đặt dao và dĩa xuống bàn, “họ có thể cam đoan với tôi rằng trong 20 bốn giờ qua, không có tên khủng bố nào đột nhập vào đất nước này”.

“Nói một cách khác, ả kia đã trốn thoát”, Anna nói.

“Không hẳn là như thế”, Jack nói, “nhưng tôi có thể nói rằng một phụ nữ cao khoảng năm bộ, nặng khoảng 100 pao, có một vết thương do súng săn gây ra, đã ngủ qua đêm tại nhà lao Belmarsh”.

“Nơi mà ả có thể trốn thoát dễ dàng”, Arabella nói.

“Tôi có thể cam đoan với Phu nhân rằng không kẻ nào có thể trốn thoát khỏi nhà lao Belmarsh”.

“Nhưng cuối cùng họ sẽ dẫn độ ả sang Bucharest”.

“Không thể có chuyện đó”, Jack nói, “bởi vì không có hồ sơ nào cho thấy cô ta từng vào nước Anh, và sẽ không có ai tìm kiếm một phụ nữ ở nhà lao đặc biệt đó”.

“Nếu đúng là như vậy, tôi sẽ cho phép anh ăn một chút nấm”.

Jack cầm dao và dĩa lên.

“Một món mà tôi đánh giá rất cao”, ông Nakamura nói và đứng dậy, “nhưng tôi e là tôi phải tạm biệt bà, Phu nhân Arabella ạ, nếu tôi muốn kịp giờ cho cuộc hẹn của mình”.

Jack đặt dao và dĩa xuống lần thứ hai, khi mọi người đều đứng lên tiễn ông Nakamura ra đại sảnh.

“Tôi nghĩ”, ông Nakamura vừa nói vừa quay sang Arabella, “rằng cụm từ đáng ghi nhớ sẽ mô tả một cách thích hợp chuyến đi ngắn ngủi của tôi tới Lâu đài Wentworth”. Ông ta mỉm cười, trước khi nhìn bức chân dung của Catherine lần cuối. “Hãy giúp tôi nếu tôi nói sai nhé, Phu nhân”, ông ta tiếp tục, “nhưng đó có phải là chuỗi hạt mà bà đã đeo trong bữa tiệc tối qua không?”

“Chính là chuỗi hạt ấy”, Arabella mỉm cười và trả lời. “Phu nhân là một nữ diễn viên, ngày nay có thể gọi là một vũ nữ, vì vậy chỉ có Chúa mới biết ai trong số những người hâm mộ của Phu nhân đã tặng cho bà chuỗi hạt này. Nhưng tôi không phàn nàn gì về điều đó, bởi vì tất nhiên nhờ có bà mà tôi được hưởng chuỗi hạt ấy”.

“Thế còn khuyên tai”, Anna nói.

“Khuyên tai, thật đáng buồn”, Arabella nói và sờ lên dái tai phải của mình.

“Khuyên tai”, Jack lặp lại và nhìn lên bức tranh. “Tôi ngu quá”, anh nói thêm. “Nó ở ngay trước mặt tôi, thế mà tôi không nhìn ra”.

“Và cái gì ở ngay trước mặt anh mà anh không nhìn ra?” Anna hỏi. “Leapman đã viết lên mặt sau tấm ảnh chụp cảnh Fenston đang bắt tay với Tổng thống Bush rằng: “Đây là tất cả những bằng chứng mà anh cần””.

“Tất cả những bằng chứng mà anh cần cho chuyện gì?” Arabella hỏi.

“Để chứng minh chính Fenston là người đã sát hại chị gái Phu nhân”, Jack đáp.

“Tôi không nhìn thấy mối quan hệ giữa Phu nhân Wentworth với Tổng thống Mỹ”, Arabella nói.

“Đó cũng chính là sai lầm mà tôi đã mắc phải”, Jack nói. “Không phải là mối quan hệ giữa Phu nhân Wentworth với ngài Bush, mà là giữa Phu nhân Wentworth với Fenston. Và đầu mối luôn ở ngay trước mặt chúng ta”.

Mọi người đều nhìn lên bức chân dung do chính Gainsborough vẽ.

Sau một lúc yên lặng, Anna là người đầu tiên lên tiếng.

“Cả hai đều đeo cùng một chiếc khuyên tai”, cô trầm giọng nói. “Tôi cũng hoàn toàn không để ý đến chuyện đó. Tôi thậm chí còn thấy Fenston đeo chiếc khuyên tai đó vào hôm ông ta sa thải tôi, nhưng tôi đã không tìm ra mối quan hệ ấy”.

“Leapman ngay lập tức nhận ra tầm quan trọng của nó”, Jack nói và gần như xoa hai tay vào nhau, “ông ta đã nhận thấy rằng đây là một bằng chứng quan trọng mà chúng ta cần để kết tội Fenston”.

Andrews húng hắng ho.

“Ông nói đúng, Andrews”, Arabella nói. “Chúng ta không nên giữ ngài Nakamura lâu hơn nữa. Người đàn ông tội nghiệp này đã phải chịu đựng quá nhiều mối quan hệ gia đình trong một ngày”.

“Quả là thế thật”, ông Nakamura nói. “Tuy nhiên, tôi xin được chúc mừng anh Delaney vì phát hiện này của anh”.

“Chậm, nhưng cuối cùng thì cũng tới đích”, Anna nói và cầm lấy tay Jack. Ông Nakamura mỉm cười khi Arabella tiễn ông ta xuống chỗ chiếc xe hơi đang đợi, trong khi Jack và Anna đứng chờ trên bậc thềm cao nhất.

“Giỏi đấy, Người Rình rập. Tôi đồng ý với ông Nakamura, rằng đó không phải là một phát hiện tồi”.

Jack mỉm cười và quay sang nhìn Anna. “Thế còn những nỗ lực của cô thì sao? Cô đã phát hiện ra tại sao Tina”.

“Tôi cứ tưởng anh sẽ không bao giờ hỏi”, Anna nói, “cho dù tôi phải thú nhận rằng chính tôi cũng bỏ qua rất nhiều đầu mối hiển nhiên, mà ngay cả một người nghiệp dư cũng có thể nhìn thấy”.

“Ví dụ?” Jack hỏi.

“Một cô gái hâm mộ đội 49ers và đội Lakers, hiểu biết về nền nghệ thuật Mỹ, có sở thích là đi trên một chiếc thuyền buồm gọi là Christina, được đặt theo tên một trong hai người con của người chủ”.

“Cô ấy là con gái của Chris Adam?”, Jack nói.

“Và là em gái của Chris Adam Jr”, Anna nói.

“Đúng, điều đó có thể giải thích mọi chuyện”.

“Gần hết mọi chuyện”, Anna nói, “bởi vì Tina Adam không chỉ mất nhà và chiếc du thuyền sau khi anh trai chị ấy bị Krantz cắt cổ chết, mà chị ấy còn phải bỏ học ở trường luật”.

“Vậy là Fenston đã dùng nhầm người”.

“Và còn nữa”, Anna nói. “Tina đổi tên và tới New York, học qua một lớp thư ký, xin vào làm một công việc tạm thời ở ngân hàng, chờ cho cô thư ký từ chức - một chuyện thường xuyên xảy ra - trước khi bước vào chỗ khuyết”.

“Và bám chặt lấy vị trí đó cho đến khi cô ấy bị sa thải vào tuần trước”, Jack nói, cũng là lúc ông Nakamura cúi chào Arabella trước khi bước vào trong xe.

“Còn chuyện này nữa, Người Rình rập ạ”, Anna tiếp tục sau khi vẫy tay chào Nakamura. “Tina đã tải tất cả các tài liệu có thể chứng minh tội ác của Fenston về máy tính của mình. Chị ấy có tất cả, từ thư từ đến hợp đồng, thậm chí cả các rác thư cá nhân mà Fenston nghĩ là đã bị hủy hết khi Tháp Bắc sụp đổ. Vì vậy tôi có cảm giác là chẳng bao lâu nữa anh có thể khép hồ sơ về vụ Fenston lại”.

“Nhờ có cô và Tina”, Jack nói. Anh dừng lại. “Nhưng cô ấy vẫn mất mọi thứ”.

“Không phải mọi thứ”, Anna nói, “bởi vì anh sẽ vui khi biết rằng Arabella đã tặng chị ấy một triệu đôla cho vai trò của chị ấy trong việc cứu vãn gia tài của Lâu đài Wentworth”.

“Một triệu đôla?”, Jack nói.

“Không kể đến một triệu bảng mà bà ấy đã tặng cho tôi, “vì người lao động đáng được hưởng thành quả từ công sức của mình” là lý do mà Arabella viết trong thư”.

“Thánh Luke”, Jack nói. ““Và trong cùng một ngôi nhà, cùng ăn uống những gì được ban cho: bởi vì người lao động đáng được hưởng thành quả từ công sức của mình”.”

“Rất ấn tượng”, Anna nói.

“Và tôi vẫn còn chưa ăn sáng”.

“Đáng thương quá, Người Rình rập ạ, vậy hãy cùng ăn trưa với tôi ở ghế hạng nhất trên chuyến bay về nhà”. Jack quay sang Anna và mỉm cười. “Tôi rất muốn cô tới dự bữa tối với chúng tôi vào thứ Bảy”.

“Món thịt hầm của mẹ anh à?”, Anna nói. “Còn trên cả hạng nhất. Tất nhiên là tôi sẵn lòng”.

“Nhưng trước khi cô đồng ý, Anna, còn một chuyện này nữa mà tôi muốn nói với cô”, Jack nói, cũng là lúc chiếc xe của Nakamura khuất sau cổng.

“Chuyện gì vậy?”, Anna hỏi và quay sang nhìn anh.

“Mẹ tôi chỉ biết là cô đã qua ba đời chồng, có năm đứa con, không phải tất cả đều là con của ba người chồng đó. Bốn trong năm đứa con của cô nghiện ma tuý và đứa còn lại đang ngồi tù”. Anh dừng lại. “Mẹ tôi cũng nghĩ rằng cô làm một cái nghề lâu đời hơn rất nhiều nghề tư vấn nghệ thuật”.

Anna cười phá lên. “Nhưng anh sẽ nói gì nếu bà phát hiện ra rằng không có bất kỳ một sự thật nào trong những chuyện đó?”

“Cô không phải là người Alien”, Jack nói.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom