Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美

Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 10 : Bầy Sói (5)


Pháo chiến vẫn tiếp diễn.

“Thị Trường Chung” bắn pháo huyền phải nhịp nhàng. Pháo thủ, nhờ huấn luyện thực đạn, thao tác thành thạo: kéo pháo về vị trí, rửa nòng, nạp thuốc, đạn, bắn. Tân binh hoảng loạn dần trấn tĩnh dưới ảnh hưởng lão binh.

“Liên lạc quan, báo thương pháo trưởng, pháo ngắn 12 bảng đổi đạn nóng cháy. Nhắm vải bạt địch, bắn lần lượt!” An Chỗ, tay chắp sau lưng, đứng cạnh lan can hạm kiều, giả trấn định nhìn chiến hạm Anh. Yết hầu gã nuốt nước bọt, thân hơi run, nhưng cố đứng vững, ra lệnh theo tình hình. An Chỗ lẩm bẩm, “Chỉ huy xong, mồ hôi ướt, nhưng sống!”

Thương pháo trưởng nhận lệnh, lao đến ụ pháo, ra lệnh đổi đạn nóng cháy.

Đạn nóng cháy là chì đạn nung đỏ. Gần ụ pháo, lò gạch nhỏ cháy liên tục, nung chì đạn. Pháo thủ dùng kẹp lấy đạn đỏ ra, bọc da tích cách nhiệt (ngăn thuốc pháo nổ sớm), nhét vào nòng đã nạp thuốc, đóng chặt.

“Bắn!” Pháo trưởng cắm thiên thiết đỏ vào lỗ châm, “Ầm!” Đạn chì nóng cháy gào thét ra nòng. Do tốc độ cao, da tích cọ không khí, nóng chảy. Đạn đỏ đậm đâm vào vải bạt cột buồm địch.

Chì đạn xuyên vải bạt, rơi xuống biển. Nhưng chỗ xuyên bốc cháy, vải bông dễ bắt lửa lan nhanh. Mười mấy đạn nóng cháy bắn ra, cột buồm giữa và trên của địch bốc lửa. Gió thổi, hai mảnh vải bạt cháy lớn.

Đại phó “Đạt Hi” (Anh), tiếp quản hạm trưởng bị thương, há hốc nhìn cột buồm cháy, hét, “Thủy thủ trưởng, hạ buồm! Mau! Nima, buồm dưới cũng cháy! Phó nhì, bỏ việc đang làm, tổ chức dập lửa!” Walter than, “Tàu Đông Ngạn ác, ta thua vẫn cay!”

Thủy thủ Anh rối loạn, chạy khỏi chỗ nấp, lăng xăng trên boong. Thủy thủ trưởng gào tổ chức tháo dây, hạ buồm cháy; phó nhì dẫn lính xách thùng nước dập lửa.

“Thị Trường Chung” không bỏ cơ hội. Pháo thủ, theo lệnh An Chỗ, nạp đạn nho vào pháo ngắn 18 bảng, cười dữ tợn bắn.

Đạn nho dày đặc quét boong địch, gây thảm họa. Viên tạ nhỏ như ác ma, nhắm đám đông cột buồm, quét sạch thủy thủ, lính Anh hạ buồm, dập lửa, giết ít nhất 30 người, nhiều quan quân thương vong.

Đạn nho ngăn nỗ lực cứu vải bạt. Địch cắt dây cố định, để vải bạt cháy thành hỏa cầu bay theo gió. Mảnh vải cháy rơi, boong như mưa lửa.

“Thị Trường Chung” dùng đạn nóng cháy, hai tàu hộ vệ học theo, bắn chì đỏ vào boong, vải bạt địch. Tàu Anh khói cuồn cuộn, thủy thủ mệt mỏi. Nhờ “Đạt Hi” đi trước, Anh nhanh hạ buồm chính, tưới nước, đối phó chiến thuật “đê tiện” của Đông Ngạn.

Nhưng Anh không chịu yếu thế. Liên đạn bắn vào vải bạt, cột buồm Đông Ngạn, nhằm giảm lực cơ động.

Hai bên giao chiến thảm liệt.

Nửa giờ, “Đạt Hi” rút trước. Cột buồm giữa cháy rụi, hư nặng; cột trước gãy do liên đạn; cột sau tam giác buồm hỏng nhiều, hiệu suất thấp. Tàu mất sức chiến đấu.

Ngoài “Đạt Hi”, “Mang Lợi Tước Sĩ” tổn thất nặng thứ hai, hút đa số pháo Đông Ngạn, trúng 200-300 phát, không chỗ lành lặn, nhưng vẫn nổi, khiến cả hai bên ngạc nhiên.

“Mỹ Nhân Ngư” và “Chim Hải Âu Mày Đen” chỉ hỏng ít vải bạt, tổn thất nhân viên, pháo nhẹ, giữ sức chiến đấu. “Kỵ Sĩ”, sau “Đạt Hi”, mất ba pháo, hơn 40 thuyền viên, cột trước nghiêng gãy, buồm tam giác sau cháy, nhiều quan quân thương vong, nhưng còn chiến đấu được.

Phía Đông Ngạn, “Thị Trường Chung” trúng gần 200 phát. Vách mũi tàu thủng lỗ, đuôi hai tầng, hạm kiều ba tầng hư nặng, hàng hải trưởng trọng thương. Huyền phải tầng trên mất ba pháo, tám pháo thủ chết; tầng dưới, một tổ pháo 8 bảng xui, pháo thủ vận đạn trúng phát Anh, thuốc pháo nổ, ba pháo thủ chết, hai tổ lân cận nhiều người bị thương. Nhưng “Thị Trường Chung” vẫn mạnh, pháo 32, 24 bảng là bóng ma Anh.

“Hồng Cá Hồi Chấm”, cựu tuần tra hạm Peru Tây Ban Nha, trúng ít đạn, thương vong nhẹ, buồm hư nặng, giữ 70-80% chiến lực.

“Trên Biển Văn Học Gia”, cải từ tàu hải tặc, tình hình xấu. Trúng ít đạn, nhưng mớn nước bị “Mang Lợi Tước Sĩ” bắn 24 bảng, thủng lỗ lớn. Thủy thủ dùng vải bạt chặn, sửa, nhưng khó thành, Hàn Đức Trí thiếu tin tưởng.

“Dạ Oanh” (Khăn Tư Quill gia tộc) trúng hơn chục phát, vài thủy thủ bị thương, gần như nguyên vẹn. “Bồng Lai”, “Doanh Châu” (Flute vận chuyển) tránh sau chiến hạm, chỉ trúng đạn lạc, không tổn thất nhân viên.

Chiến đấu thảm liệt, cả hai kiệt sức.

Anh mất nặng nhân viên, tàu; Đông Ngạn lo “Trên Biển Văn Học Gia” ngập nước, thủy thủ lội nước đến mắt cá, khó chặn lỗ.

Cả hai đánh giá sai: Anh xem thường Đông Ngạn, tự tin quá mức.

Mười phút sau, hai bên bắn vài loạt đồng loạt. Anh không cầm cự, tận dụng thượng phong, rút bắc. Quan, thủy thủ “Đạt Hi” lên thuyền liên lạc, bỏ tàu cháy. “Mang Lợi Tước Sĩ” dẫn đầu, “Mỹ Nhân Ngư”, “Chim Hải Âu Mày Đen” theo, “Kỵ Sĩ”殿后. An Chỗ chỉ huy “Thị Trường Chung” đuổi, tặng “Kỵ Sĩ” chục phát nặng làm quà chia tay, rồi quay về.

Trận chiến ngoài khơi Bồ Đào Nha kết thúc, khởi đầu và kết thúc đột ngột.

Anh rút, Vương Thiết Chuy, đầu băng vải, đi đến hạm kiều, vỗ vai An Chỗ. Gã lảo đảo, suýt ngã, người cứng đờ, áo ướt mồ hôi.

“Vào phòng nghỉ đổi áo khô, uống rượu mạnh cho ấm,” Vương Thiết Chuy nói, “Mùa đông lạnh, đừng để bệnh.” Vương Thiết Chuy cười, “Xé thư, Tiểu An được tha!”

An Chỗ gật, đi xuống lầu.

Vương Thiết Chuy nhìn theo, lấy tờ giấy từ túi, đề “Về điều khỏi An Chỗ thiếu úy ‘Thị Trường Chung’ đại phó xin thư”, chê gã “lo trước lo sau”. Gã nhìn, cười hắc hắc, xé nát, ném xuống biển.

“Trên Biển Văn Học Gia” không chặn được lỗ đáy. Vương Thiết Chuy chuyển quan, thủy thủ lên kỳ hạm, bỏ tàu. Trận này, Đệ Nhị Hộ Tống Phân Hạm Đội mất một tàu, ba tàu bị thương, là tổn thất nặng nhất hải quân Đông Ngạn từ khi thành lập.

Anh cũng thảm: “Đạt Hi” cháy, chìm; “Mang Lợi Tước Sĩ” chìm trên đường về; “Kỵ Sĩ” hỏng nặng; “Mỹ Nhân Ngư”, “Chim Hải Âu Mày Đen” cần đại tu.

Ngày 30 tháng 1, Đệ Nhị Hộ Tống Phân Hạm Đội, vượt ngàn khó, vào cảng Bordeaux
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 11 : Đại kiến thiết (Phần 3)


Bờ nam Đại Ngư Hà, lò gạch đất vẫn ngày đêm nung gạch không ngừng. Nhưng gần đây, họ không nung gạch đỏ thông thường mà chuyển sang gạch chịu lửa. Do các dự án lớn sắp khởi công như lò luyện sắt và thép cần lượng lớn gạch chịu lửa, ủy ban chấp hành quyết định xây thêm một lò luân diêu 20 cửa bên cạnh lò đất.

Lò luân diêu là lò gạch sản xuất liên tục, khói từ quá trình nung sẽ làm nóng trước gạch sống. Khi hoạt động, 4 cửa nung, 7 cửa dự nhiệt, 5 cửa làm nguội, và 4 cửa lấy gạch. Ngọn lửa di chuyển giữa các cửa, cho phép sản xuất không ngừng, hiệu suất cao hơn lò nhỏ gấp nhiều lần.

Vì thế, nhiều dự án dùng gạch bị tạm dừng, trừ vài dự án được ủy ban đặc cách. Tất cả nhường nguồn lực cho việc xây lò luân diêu.

Sau khi đắp đập trên Đại Ngư Hà, việc khai thác sức nước được đưa vào chương trình nghị sự.

Đầu tiên là cối xay sức nước cho xưởng xi măng. Cối xay này đơn giản: một cối xay tròn ở dưới, trục giữa nối với cối, phía trên là trục ngang gắn hai vòng lăn. Sức nước từ bánh xe dưới sông quay trục giữa, kéo vòng lăn cọ xát, nghiền nguyên liệu. Xưởng xi măng xây vài cối xay này ở hạ lưu đập, mỗi ngày nghiền được 2 tấn bột, tăng hiệu suất lao động đáng kể.

Tiếp theo, phòng thiết kế máy móc thuộc Cục Công nghiệp chế tạo một búa máy sức nước cổ xưa. Bánh xe nước quay nhờ dòng chảy, qua trục cong chuyển động tròn thành chuyển động thẳng, nâng búa từ thấp lên cao, rồi thả xuống đập. Tần suất đập được điều chỉnh bằng tổ bánh răng.

Thợ mộc kỳ cựu người Hesse, Braun Baker, dẫn dắt nhóm thợ mộc nửa mùa của nhóm xuyên không chế tạo thiết bị. Bánh xe nước, trục truyền lực, bánh lệch tâm, trục cong, và bánh răng đều làm bằng gỗ chắc. Riêng đầu búa là Mã Giáp tận dụng một cái chùy hỏng từ phế liệu sà lan.

Từ khi búa máy sức nước ra đời, công nhân xưởng xi măng và vôi được giải phóng nhiều. Hiệu suất đập đá vôi quá cao! Nhưng thiết bị này cũng lắm trục trặc, chủ yếu do bánh răng gỗ thiếu độ bền, không nâng được búa quá nặng và dễ hỏng. Giải pháp đơn giản: thay bánh răng gỗ bằng sắt hoặc thép.

Nói đến thép, không thể không nhắc đến nỗ lực của Mã Giáp với lò nấu quặng than chì. Có than chì, Mã Giáp ấp ủ làm lò nấu quặng để luyện lại đống phế liệu thép. Anh nghiên cứu tài liệu, chọn công thức thép than cao tinh luyện: 50-55% than chì, 38-40% đất chịu lửa, 5-15% chất lõi.

Sau khi chọn công thức, anh làm khuôn đúc hai lớp bằng gỗ. Mã Giáp nhắm đến lò nấu quặng cỡ 50, mỗi lần luyện được 43 kg sắt. Khuôn đúc xong, anh trộn than chì, đất chịu lửa, và chất lõi với nước thành bùn, đổ vào đáy khuôn ngoài, đặt khuôn trong, lấp đầy khe hở giữa hai lớp, nén chặt, tạo phôi lò nấu quặng.

Phôi lò được hong khô bằng lửa nhỏ, phủ một lớp men gốm chống oxy hóa, rồi đưa vào lò nung. Mã Giáp làm một hơi 5 lò nấu quặng than chì.

Trong lúc chờ nung, Mã Giáp và nhóm thiết kế nửa mùa tính toán xây lò luyện. Lò được làm từ gạch chịu lửa, đáy có lò sưởi, chứa được 6-10 lò nấu quặng, đốt bằng than gầy. Khí thải từ lò đi qua ống khói vào phòng tích nhiệt làm từ gạch chịu lửa dạng lưới, đốt nóng gạch đến vài trăm, thậm chí hơn 1.000 độ, rồi thoát ra ngoài.

Thật ra, với lò nấu quặng than chì, phòng tích nhiệt không cần thiết, vì lò dễ đạt trên 1.600 độ – đủ làm chảy thép. Nhưng để tiết kiệm năng lượng và chuẩn bị cho lò bằng luyện thép sau này, Mã Giáp vẫn thiết kế phòng tích nhiệt.

Thiết kế gồm hai phòng tích nhiệt A và B, làm từ gạch chịu lửa, nối với lò luyện. Mỗi phòng có ống dẫn đến ống khói. Giữa hai ống dẫn là ống C, nối hai phòng, gắn với máy quạt gió sức nước. Máy quạt có van điều khiển luồng gió.

Khi gió từ máy quạt đi qua ống A vào lò, khí thải nóng chảy vào phòng B, đốt nóng gạch chịu lửa, rồi thoát qua ống khói. Khi gạch phòng B đủ nóng, van đổi hướng, gió đi qua ống B, không khí lạnh được dự nhiệt trước khi vào lò, nâng nhiệt độ lò, trong khi khí thải nóng chảy vào phòng A, đốt nóng gạch, rồi thoát ra. Quy trình lặp lại, đảm bảo nhiệt độ lò đủ cao để luyện thép lỏng.

Dự án này cần lượng lớn gạch chịu lửa và gạch đỏ, nên Mã Giáp phải vận động mạnh ở ủy ban, vẽ viễn cảnh tươi đẹp khi luyện được thép. Nhờ sự ủng hộ của Mã Càn Tổ, dự án mới được thông qua.

Đội xây dựng lò luân diêu phân ra 30 người, cộng thêm 60 di dân Thụy Sĩ, lập thành đội 90 người xây phân xưởng luyện thép ở bờ bắc Đại Ngư Hà, tận dụng sức nước. Nhà xưởng tạm thời là lều tranh gỗ, vì vật tư ưu tiên cho các dự án cấp bách. Khi vật tư dồi dào, họ sẽ nâng cấp thành nhà bê tông cốt thép.

Thợ rèn Thụy Sĩ Pierre, theo yêu cầu của Mã Giáp, dùng lò đất sét đơn giản luyện sắt vụn, chế tạo công cụ cấp bách: cưa, rìu, giũa, mũi tên, nông cụ, xẻng, thìa, kìm cho lò nấu quặng.

Ở mảng nông nghiệp, Kim Khoa Lôi cũng rộn ràng không kém. Trước chuồng ngựa, bò, cừu, và lợn mới xây, anh đứng ngắm gia súc, ánh mắt dịu dàng như nhìn người thân, khiến Trịnh Bân đi sau nổi da gà. Đã là mùa thu Nam Mỹ, chỉ nửa năm nữa, đến tháng 10-11, gia súc sẽ vào mùa sinh sản. Với khí hậu và đồng cỏ Uruguay, đàn gia súc sẽ lớn nhanh như quả cầu tuyết.

Ủy ban phân hơn 20 di dân Thụy Sĩ, chủ yếu là phụ nữ, cho Cục Chăn nuôi mới thành lập. Họ chăm sóc chuồng trại, dọn vệ sinh hàng ngày. Phân gia súc được thu gom, vừa giữ vệ sinh, vừa làm phân bón quý giá cho nông nghiệp.

“Cây giống chuẩn bị xong chưa? Mai tổ chức người đi trồng,” Kim Khoa Lôi hỏi. “Đất đây giàu chất hữu cơ và kali, chẳng cần bón phân. Tiếc là bọn Hà Lan không biết bảo quản cây giống. Táo, lê, đào, nho cộng lại chưa tới 100 cây, tiếc thật.”

“Kim ủy viên, đống hạt lúa mì thì sao? Bao giờ trồng?” Trịnh Bân hỏi.

“Lúa mì gì mà lúa mì! Bọn Hà Lan lừa ta, chỉ mua đại một đống lúa mì, chẳng phải giống tốt. Có chưa tới 500 kg, đủ gieo 60-70 mẫu. Thôi, năm nay chăm sóc kỹ, chọn giống tốt, sang năm mở rộng,” Kim Khoa Lôi thở dài. “Rau xanh, hẹ ở vườn trước sắp cấy được.

Nhớ bón phân, nếu sản lượng cao, bàn ăn ổn định, Cục Nông nghiệp ta coi như lập công lớn.”

“Chiều nay tôi dẫn bạn học đi cấy,” Trịnh Bân hào hứng. Trước khi xuyên không, anh và 60 thầy trò trên Vận Thịnh 01 đi du lịch, chẳng may (hay may mắn) xuyên đến đây. Các học sinh lớp 11 này phần lớn làm việc nhẹ: vệ sinh, bắt cá, làm gạch sống. Một số ít vào Cục Nông nghiệp, tưới nước, bón phân, làm cỏ. Sau mấy tháng rèn luyện, họ làm việc ra dáng hơn nhiều.

“À, bọn Hà Lan còn mang ít khoai tây. Hôm qua tôi xem, đa số nảy mầm. Cắt phần mầm, trồng ở mấy mẫu đất tây đã san bằng, đừng nhầm. Đây là cây cao sản, ở châu Âu thời này nhiều người sống nhờ nó,” Kim Khoa Lôi dặn. “Nửa tháng nữa đậu nành thu hoạch, sản lượng khoảng 50-60 cân/mẫu.”

So với sản lượng hiện đại 150-200 kg/mẫu, 1.000 mẫu đậu nành của nhóm xuyên không chỉ đạt 50-60 kg/mẫu, khá thấp. Nhưng không có phân hóa học, thuốc trừ sâu, lại là năm đầu gieo trồng, mức này đã tốt, chứng tỏ đất Uruguay rất màu mỡ.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 11 : Chương 11: Tân Di Dân (4)


Chạng vạng, công trường Bình An Bảo tạm nghỉ. Cư dân ngừng lao động, chuẩn bị cơm chiều. Khói bếp từ thực đường cách đó không xa bốc lên, bảng thực đơn viết bằng than: củ cải hầm bò, canh rau xanh đậu hũ, cá mặn, khoai tây hấp.

Sau khi nối lại mậu dịch với La Plata, giá thịt bò giảm mạnh. Bò Colonia rẻ nhất chỉ 10 nguyên/con, bằng 1/4 đến 1/5 giá Châu Âu. Bộ Mậu dịch mua lớn, mỗi tháng trên 500 con, một phần chăn thả, phần còn lại giết lấy thịt. Nhờ vậy, cư dân ăn thịt bò thường xuyên, đời sống cao hơn trước nhiều.

Từ Văn Tuyển ngồi xổm trên ghế gỗ, ngắm mặt hồ nhuộm đỏ hoàng hôn, ngẩn ngơ, chẳng biết nghĩ gì.

“Một vầng tà dương trải mặt nước, nửa sông run lạnh nửa sông hồng. Đáng thương đêm mùng ba tháng chín, lộ tựa… ờ… tựa gì nhỉ?” Thiệu Thụ Đức, ngắm cảnh hồ tuyệt đẹp, nổi hứng ngâm thơ, nhưng đến câu cuối thì kẹt, nghĩ mãi không ra.

“Phụt!” Từ Văn Tuyển bật cười. “Lộ tựa trân châu nguyệt tựa cung… Bài Mộ Giang Ngâm của Bạch Cư Dị đặt ở đây đúng hợp cảnh. Thiệu tiên sinh đọc sách sao?”

“Đọc chứ,” Thiệu Thụ Đức gật đầu. “Nhưng ít, cũng chẳng giỏi. Sách ta đọc khác sách tiên sinh nhiều.”

“Oh? Thiệu tiên sinh đọc gì? Chẳng lẽ không phải thơ từ ca phú, thánh nhân chi học?” Từ Văn Tuyển tò mò.

“Ừ, thơ từ thánh nhân có đọc, nhưng không nhiều. Ta đọc chủ yếu là… ờ… số học, xây dựng chi thuật, thỉnh thoảng chút ngôn ngữ Châu Âu,” Thiệu Thụ Đức chọn từ cẩn thận.

“Xây dựng chi thuật? Như dựng tường, xây nhà, đắp cầu? Cái đó cũng có học vấn?” Từ Văn Tuyển ngạc nhiên. “Thiệu tiên sinh học thật thú vị…”

“Thú vị?” Thiệu Thụ Đức ngạc nhiên. “Trong mắt sĩ tử Đại Minh, mấy thứ này chẳng phải kỳ kỹ dâm xảo, sao sánh được thánh nhân chi ngôn sâu xa?”

“Haha!” Từ Văn Tuyển cười lớn. “Sĩ tử bình thường nghĩ vậy cũng chẳng lạ. Nhưng Từ mỗ lăn lộn hồng trần nhiều năm, sớm biết thánh nhân chi học văn chẳng kinh thế, võ chẳng an bang. Nếu không, Đại Minh trăm triệu dân, sao thua vài vạn Kiến Châu mọi rợ?”

Thiệu Thụ Đức tấm tắc. “Ngọa tào, thời này người đọc sách không phải ai cũng đọc chết sách! Từ Văn Tuyển đúng là minh bạch!” Hắn hỏi tiếp: “Từ tiên sinh kỳ nhân thật. Bao nhiêu tuổi? Bình thường sống thế nào?”

“Năm nay ba mươi, bình thường vô vi. Thường chép sách, viết thư cho người, kiếm sống tạm bợ,” Từ Văn Tuyển đáp.

“Tiên sinh là tú tài, sao sinh kế gian nan vậy?”

“Thân phụ liên quan Thiến đảng, phẩm hạnh thấp kém…” Từ Văn Tuyển tự giễu, nhàn nhạt nói.

Thiệu Thụ Đức cứng người. “Ta dựa, lão Từ này đúng là quang côn, vì lợi, tư tưởng thoáng, lại có uy tín với hương dân!” Hắn nhớ Cục Di dân đề cử trọng dụng Từ Văn Tuyển, nghĩ: “Phải đầu tư vào hắn!”

“Tiên sinh đánh giá Nước Cộng hòa Đông Ngạn thế nào?”

“Tân triều như mặt trời mọc, khí thế ngút trời,” Từ Văn Tuyển nhíu mày, đáp. “Nghe nói vài tháng trước quý quân đại phá Nhật Tư Ba Di Á, võ công hiển hách. Nhưng kẻ hèn thấy, trong thịnh thế vẫn có lo âu.”

“Nguyện nghe kỹ càng,” Thiệu Thụ Đức nói, hơi ngượng. “Nói kiểu này như Tam Quốc Diễn Nghĩa, ngố chết được!”

“Thứ nhất, đinh khẩu ít ỏi. Kẻ hèn hỏi, quốc gia có mấy thành trì, đinh khẩu quá vạn chưa? Kẻ thù gần kề, Tây Ban Nha, đinh khẩu bao nhiêu, thành trì bao nhiêu?” Từ Văn Tuyển nhìn Thiệu Thụ Đức.

“Chỉ Bình An Bảo, một đại thành, ba tiểu bảo, đinh khẩu hơn 8000,” Thiệu Thụ Đức không quen nói dối, im lặng rồi đáp thật. “Tây Ban Nha gần chục triệu, bán đảo Iberia bốn triệu, lãnh thổ hai lục địa, thành trì vô số, chẳng thua Đại Minh.”

“Thiệu tiên sinh thật thành,” Từ Văn Tuyển cười. “Quốc lớn thế, ở Châu Âu chắc nổi bật, dễ bị vây đánh. Lưỡng quốc đã trở mặt, tương lai khó bình an. Tiên sinh nghĩ nên xử trí thế nào?”

“Trước hết, chiêu mộ lưu dân Châu Âu, Hoa Hạ, phát triển công nghiệp, củng cố căn cơ. Sau, hợp tung liên hoành. Hoàng Đài Cát từng nói, tiểu quốc đánh đại quốc, phải cắt cành lá, làm yếu thân cây, tích lũy lâu ngày, đại quốc tất suy,” Thiệu Thụ Đức đáp trôi chảy, đây là quốc sách Chấp Ủy Hội, đã thuộc nằm lòng.

“Hoàng Đài Cát nói vậy? Cũng là người hiểu biết trong đám nô tù,” Từ Văn Tuyển thở dài. “Đó là thứ nhất. Thứ hai, ta thấy dân chúng quốc gia, mũi cao mắt thâm có, tóc đỏ da trắng có, hỗn tạp không đồng nhất. Bình thường thì ổn, nhưng khi có biến, e khó đồng lòng.”

“Dùng đất đai thu phục lòng dân, giáo hóa để hiểu đại nghĩa,” Thiệu Thụ Đức đáp.

“Việc này vài chục năm chưa chắc xong. Quốc gia nhỏ yếu, trăm trận phải thắng, một bại là tan. Tiên sinh tự xưng di dân Tiền Tống, sao không chiêu thêm lưu dân Đại Minh? Đại Minh đất cằn ngàn dặm, dân đói khắp nơi, nếu dùng tàu lớn chở đến, sao lo đinh khẩu không đủ?”

“Không phải không muốn, mà không thể,” Thiệu Thụ Đức cười khổ. “Không giấu tiên sinh, chở các ngươi đến, Bồ Đào Nha đòi 24 vạn nguyên, quốc khố mất sáu phần mười. Tính ra, mỗi người hơn ngàn lượng bạc. Vài chuyến nữa, ai chịu nổi?”

Từ Văn Tuyển im lặng, rồi thở dài, lắc đầu.

Thiệu Thụ Đức thấy trời tối, nói: “Từ tiên sinh đọc sách, thông nhân tình, là nhân tài hiếm. Quốc gia ta mới dựng, cần người như tiên sinh. Ý tiên sinh thế nào?”

Từ Văn Tuyển cười: “Thiệu tiên sinh thật quân tử, Từ mỗ không dám khinh. Không giấu, ta liên lụy chuyện cũ, đường tiến thân ở Đại Minh đã tuyệt. Đông Ngạn quốc tuy nhỏ, dân ít, nhưng tiền đồ vô hạn. Tiên sinh mời, ta cầu còn chẳng được!”

“Hảo! Đồng ý là được!” Thiệu Thụ Đức thở phào, nhưng thầm nghĩ: “Ngọa tào, sao như ta cầu người làm quan? Bị lão Từ dẫn dắt từ đầu, cổ nhân không thể khinh!”

“Lãnh đạo cho ta chức gì?” Từ Văn Tuyển cười tủm tỉm.

“Chính vụ trợ lý đội khai thác Bình An Bảo, hỗ trợ đội trưởng Tiền Hạo giải quyết vấn đề: truyền đạt, liên hệ, thống kê vật tư. Cụ thể hỏi Tiền Hạo,” Thiệu Thụ Đức đáp.

“Chức này phẩm cấp, lương bao nhiêu?”

Thiệu Thụ Đức suýt sặc. “Nima, ai bảo cổ nhân hàm súc? Chưa nhậm chức đã hỏi cấp bậc, lương bổng!” Hắn cười: “Chức tạm, làm tốt chuyển chính thức. Lương tháng 2 nguyên, trợ cấp công tác 0.5 nguyên, trợ cấp nguy hiểm 1 nguyên. Tổng 3.5 nguyên mỗi tháng, đủ chứ? Lương cao đấy!”

“Đa tạ lãnh đạo,” Từ Văn Tuyển chắp tay.

Gần đó, đầu bếp Ireland ở thực đường gõ mõ, báo cơm chiều. Cư dân lấy bát gỗ, đũa gỗ, xếp hàng dài múc cơm. Đội trị an, cầm quân đao, đi qua đi lại, thấy ai chen lấn, dùng vỏ đao đập, lôi ra cuối hàng, bắt ăn sau cùng.

Đội trị an mới lập, vì hai đội Lục quân thám hiểm không thể ở lại lâu, mỏ than cần bảo vệ hơn. Thiệu Thụ Đức ra lệnh, Bình An Bảo tuyển người khỏe mạnh, biết võ, lập đội trị an 20 người, gồm chính phó đội trưởng, 18 đội viên, mỗi người phát quân đao.

Chính đội trưởng là đạo sĩ Thọ Tàn Nguyệt, quyền cước giỏi, biệt danh Tàn Nguyệt Đạo trưởng. Phó đội trưởng là An Đạt Mười Lăm, võ sĩ Nhật Bản, tàn nhẫn, đao pháp thành thạo. Hắn và vài võ sĩ Nhật Bản nghèo túng là lực lượng tinh nhuệ.

Sau cơm chiều, cư dân tiếp tục làm việc, nhiệt huyết xây quê mới không hề giảm.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 11 : Ngoại Giao Kháng Nghị


“Cảm tạ trời đất!” Hứa Tín thấy vài hải quân quan quen thuộc từ tàu xuống, vội chắp tay, lẩm nhẩm Bồ Tát phù hộ. Hứa Tín lẩm bẩm, “Bồ Tát phù hộ, nhưng ví ta vẫn rỗng!”

“Thôi, Lão Hứa, đừng thần thánh hóa,” Vương Thiết Chuy, đầu quấn băng, kéo gã, thì thầm, “Hàng trên tàu, nhanh tổ chức người khuân đến Thương Trạm. Nhiều anh em bị thương, không nhẹ. Tìm bác sĩ trong thành, trả giá cao, phải gọi họ đến. Anh em vào sinh ra tử, hai ngày qua chết vài người, hơn chục người chưa thoát nguy hiểm. Cứu được ai hay người đó.” Vương Thiết Chuy than, “Đánh Anh, thuyền hỏng, ta đau đầu hơn đau vết thương!”

Hứa Tín gật, sai người lo. Gã ở Bordeaux có danh, mời bác sĩ không khó.

“Anh em bị thương tạm ở Thương Trạm dưỡng thương,” Vương Thiết Chuy tiếp, “Hai tàu Nam Hải Công Ty, dỡ xong, nhanh xếp vật tư lên. Di dân cũng phải gấp, mai xong đi.”

“Cái gì? Mai các ngươi đi?” Hứa Tín ngạc nhiên.

“Đụng Anh, kết thù lớn, không chạy nhanh sao nổi? Tàu Lão Hàn chìm, hộ tống yếu. Hang Anh gần đây, phải rút gấp!” Vương Thiết Chuy thật thà, “Tiền hàng Khăn Tư Quill gia tộc, mang về. Lão Hứa, lần này Anh quyết tâm lớn, tới Bordeaux lần sau chưa biết khi nào. Hay đi cùng ta?”

“Không được!” Hứa Tín kiên quyết, “Bordeaux Thương Trạm, quốc gia tốn bao năm dựng lên, bỏ thì tiếc. Ta ở lại, thời khắc mấu chốt còn truyền tin về nước.”

“Truyền tin? Trong thành có Anh?”

“Đương nhiên,” Hứa Tín đáp, “Quan ngoại giao Anh, lo thương phẩm xuất nhập, quản thương nhân Anh ở Bordeaux. Ta thử tiếp xúc họ?”

“Ta không quyết được, ngươi là đại diện toàn quyền, tự lo,” Vương Thiết Chuy sờ vết thương trán, “Đánh thế này, ta chịu không nổi. Người, tàu ta sao sánh Anh? Một lần phong tỏa, mậu dịch đứt, kinh tế quốc nội khó khăn. Nhưng đừng để mất khí thế, không Anh khinh ta.”

“Ta biết chừng mực,” Hứa Tín gật, “Ta không giữ các ngươi. Ta tổ chức vận hàng: hỏa dược, gang, cây đay, đồng, chì, tích, thạch mặc, đều là quốc nội cần gấp. Tiền hàng, ta yêu cầu Chu Lợi An thanh toán hôm nay, mai các ngươi đi sớm.”

Vào Thương Trạm, Hứa Tín lo mọi việc, soạn thư kháng nghị cứng rắn cho quan ngoại giao Anh ở Bordeaux. Đọc lại hai lần, xác nhận không sai, gã bỏ vào bao da trâu, lên xe ngựa bốn bánh, đến phủ đệ đặc phái viên Anh.

Phủ đệ đến nhanh. Hứa Tín xuống xe, đi đến cổng.

Một trung niên Anh bước tới, nghi ngờ nhìn gã thanh niên mặt Latin, hỏi, “Chàng trai, ngươi nhầm chỗ chăng? Đây là phủ đệ Abraham, lãnh sự Anh ở Bordeaux. Ngươi chắc đến đúng?”

Gã thanh niên cúi chào, đáp, “Chào buổi sáng, tiên sinh. Ta là Constantine, trợ lý đại diện toàn quyền Hoa Hạ Đông Ngạn Nước Cộng Hòa ở Bordeaux. Thượng quan ta muốn hội đàm thẳng thắn với Abraham tiên sinh, có thể sắp xếp không?”

Nghe “Hoa Hạ Đông Ngạn Nước Cộng Hòa”, trung niên đổi sắc, “Abraham tiên sinh bận công vụ, không chắc có thời gian gặp. Ta không nghĩ hai bên có gì để trao đổi. Virginia Công Ty và Công Ty Thương Nhân Mạo Hiểm Gia phàn nàn hải quân quý quốc như hải tặc, Abraham nhận khiếu nại. Là thân sĩ chính trực, ta nghĩ ông không tiếp xúc với người từ quốc gia hải tặc, tổn hại danh dự.”

Constantine mặt lạnh, đợi nói xong, lấy thư kháng nghị của Hứa Tín, đưa ra, “Đáng tiếc, Abraham tiên sinh thành kiến với quốc gia ta, ảnh hưởng phán đoán. Hãy đưa thư này cho ông. Ta đợi 15 phút. Nếu ông không gặp, ta rời đi, hậu quả do Abraham tiên sinh chịu.”

Trung niên ngạc nhiên nhìn Constantine, vội đi.

Hứa Tín, mặc áo nỉ đen, xuống xe. Kojirou và Tân Tả Vệ Môn hộ vệ hai bên. Trời lạnh, hơi thở thành sương trắng.

Mười phút sau, trung niên trở lại, “Abraham tiên sinh mời Hứa Tín, đại diện toàn quyền Hoa Hạ Đông Ngạn Nước Cộng Hòa, đến thư phòng.”

Hứa Tín gật, theo vào.

Abraham, lão nhân râu hoa râm, làm đặc phái viên Anh ở Bordeaux nhiều năm, nổi tiếng học vấn uyên thâm, xử sự công chính.

“Chào buổi sáng, Abraham tiên sinh,” Hứa Tín tháo mũ da hải ly, cúi chào.

“Chào buổi sáng, Hứa tiên sinh,” Abraham, cầm tẩu thuốc, mặc lễ phục lông dê tơ lụa, phất tay chỉ ghế, “Mời ngồi.”

Hứa Tín ngồi, vào thẳng vấn đề, “Abraham tiên sinh, về thư kháng nghị quốc gia ta, ngài đáp thế nào?”

Abraham không trả lời, sai người mang trà, “Đây là Thiết Quan Âm từ Viễn Đông, Hứa tiên sinh sẽ thích. Thưởng thức hương thơm đi.” Abraham cười, “Trà ngon, nhưng kháng nghị của ngươi, ta nuốt không trôi!”

Hứa Tín nhẫn nại nhấp trà, tiếp tục, “Abraham tiên sinh, về quốc gia ta…”

“Không phiền chứ?” Abraham, vung tẩu, cười ngắt lời.

“Tùy ngài,” Hứa Tín, bị ngắt hai lần, chùn khí, buồn bực uống trà.

Abraham thong dong hút tẩu, khói lượn lờ dưới nắng, phòng yên tĩnh.

“Thuốc lá Virginia, ta yêu thích,” Abraham cười, “Hương thuần khiết, 4 tô một bao. Hai năm trước 3 tô, năm ngoái đỉnh điểm 8 tô. Giá dao động vì Đông Ngạn cản trở thương mại, tàu Virginia Công Ty bị các ngươi tập kích, tổn thất lớn. Ban trị sự tăng giá bù thiệt hại, khách hàng phàn nàn.”

“Abraham tiên sinh, đó là cáo buộc nghiêm trọng, ta phản đối mạnh mẽ,” Hứa Tín nâng giọng, “Chính phủ ta ủng hộ tự do mậu dịch, đầu tư lớn bảo vệ thương thuyền. Chúng ta không làm điều tổn hại danh dự quốc gia. Ngược lại, thương thuyền ta đến Bordeaux bị tàu quý quốc quấy rối, tập kích, gây thiệt hại tài sản, nhân viên. Ta chính thức kháng nghị quý quốc, yêu cầu kiềm chế Công Ty Đông Ấn, Virginia Công Ty và liên hợp hải tặc, bồi thường thiệt hại. Nếu không, theo nguyên tắc ngang bằng, chính phủ ta giữ quyền hành động tự do.”

“Người trẻ tuổi hăng hái thật,” Abraham hút tẩu, thản nhiên, “Xin lỗi, vương quốc Anh vĩ đại không chấp nhận uy hiếp. Nếu quý quốc cố chấp cản mậu dịch, để tình thế xấu đi, chính phủ ta có thể đáp ứng thương nhân, dùng biện pháp mạnh. Nếu quốc vương quyết định, đó sẽ là tai họa cho quý quốc.”

Không cần nói tiếp.

Hứa Tín đứng, đội mũ, gật đầu lễ phép, lạnh lùng, “Chính phủ ta cũng không chấp nhận uy hiếp. Nếu quý quốc dùng vũ lực lừa gạt, tống tiền, thì để đại pháo nói chuyện. Tái kiến, Abraham tiên sinh, hy vọng lần sau ngài vẫn nhàn nhã thế.” uukanshu.net

Hứa Tín rời đi, Abraham vẫn ngồi, tẩu trên môi.

“Paolo, Walter đâu?” Abraham hỏi người hầu.

“Walter tiên sinh ở Kéo La Tạ Nhĩ,” Paolo đáp, “‘Kỵ Sĩ’ hư nặng, cần vài tháng sửa, Walter giám sát người Pháp sửa tàu. Hôm qua, Hamilton từ Công Ty Đông Ấn bất mãn Walter, cho rằng sai lầm chỉ huy gây mất hai chiến hạm, hơn trăm thủy thủ, còn tàu Virginia Công Ty vô sự…”

“Đủ rồi, Paolo,” Abraham ngắt, “Chiều nay, mang thư ta nhờ tàu Công Ty Thương Nhân Mạo Hiểm Gia gửi về, giao Canterbury đại chủ giáo. Trước khi đến tay giáo chủ, không ai được thấy.”

“Tuân mệnh.”
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 12 : Đại kiến thiết (Phần 4)


Ngày 1 tháng 5, phân xưởng luyện thép.

“Đốt lửa!” Mã Giáp nhìn 5 lò nấu quặng than chì xếp ngay ngắn trong lò luyện, bình tĩnh ra lệnh.

Lò luyện vừa xây xong, mới hong khô vài ngày, Mã Giáp đã nôn nóng tiến hành lần luyện thép đầu tiên. Lúc này, phòng tích nhiệt, ống dẫn, ống khói, và máy quạt gió trên bản vẽ vẫn chưa thấy đâu. Mấy di dân cu li ra sức đẩy phong tương gỗ do thợ mộc gấp rút làm, thổi gió vào lò qua miệng cấp liệu, bên cạnh có người sẵn sàng thay phiên.

Trong lò đặt 5 lò nấu quặng cỡ 50, chứa sắt vụn, phế thép, và vôi, đốt bằng than gầy (than đá). Khi than cháy, nhiệt độ lò dần tăng, ngọn lửa chuyển từ đỏ sậm sang cam hồng.

“Ngọn lửa thành cam hồng, nghĩa là nhiệt độ lò đã gần 1.000 độ,” Mã Giáp nhân cơ hội giảng giải cho đám người phía sau. Ngay cả thợ rèn Thụy Sĩ Pierre cũng ghé tai nghe, nửa hiểu nửa không, rồi ngạc nhiên nhìn vào lò.

Do phòng tích nhiệt chưa xây, quá trình đốt nóng chảy chậm. Khoảng một giờ sau, sắt vụn và phế thép trong lò nấu quặng đã chảy phần lớn. Thép lỏng sôi sục, thỉnh thoảng bùng lên ngọn lửa xanh lam – dấu hiệu carbon monoxide cháy do phản ứng hóa học.

“Mở cửa lò,” Mã Giáp ra lệnh sau một lúc.

Hai người xuyên không tiến lên mở cửa lò làm từ gạch chịu lửa. Một luồng sóng nhiệt như thiêu đốt ập vào mặt. Mã Giáp cầm muôi dài, vớt xỉ nổi trên bề mặt thép lỏng trong lò nấu quặng.

“Xỉ này chủ yếu là canxi photphat và canxi sulfide, hình thành từ phản ứng của phốt-pho, lưu huỳnh trong thép với vôi,” Mã Giáp chỉ vào đống xỉ ném vào nước, giải thích. “Nếu không loại bỏ phốt-pho và lưu huỳnh, thép sẽ giòn, chất lượng kém.”

Sau đó, anh lấy một thanh thép dài, khuấy mạnh trong từng lò nấu quặng, rồi ra lệnh đóng cửa lò. Anh quay sang mọi người: “Khuấy giúp phản ứng thoát carbon nhanh hơn, khiến carbon trong thép dễ kết hợp với oxy, cháy thành carbon monoxide.”

Thấy còn thời gian, Mã Giáp giảng giải về sự khác biệt giữa gang, thép tôi, và thép, cùng các lưu ý khi luyện thép. Buổi học tại chỗ xong, anh ước lượng đã hơn hai giờ từ lúc đốt lò, tiến đến lỗ quan sát nhìn vào, mở cửa lò vớt xỉ kiểm tra, rồi nói: “Được rồi, kìm từng lò nấu quặng ra, cẩn thận.”

Mười người xuyên không, hai người một nhóm, dùng kìm cẩn thận lôi lò nấu quặng than chì ra, đổ thép lỏng vào các khuôn đúc sẵn. Sau đó, họ rắc một lớp vôi lên bề mặt thép lỏng, phủ thêm lớp than củi để ngăn oxy hóa.

Mỗi lò nấu quặng luyện được 43 kg thép, 5 lò tổng cộng hơn 200 kg. Với thép than cao chất lượng này, nhiều vấn đề được giải quyết: búa máy, mũi khoan, bánh răng, dụng cụ cắt, thậm chí áo giáp – những thứ cần thép tốt – giờ đã có hy vọng.

Bành Chí Thành và Vương Khải Niên nghe tin Mã Giáp luyện được thép, dẫn theo thợ làm súng và đúc pháo Thụy Sĩ, cùng “phiên dịch” Cao Ma, vội đến xem. Các thợ nước ngoài ngỡ ngàng nhìn lò nấu quặng và thép thỏi nguội lạnh. Ở châu Âu thời này, thép lỏng chưa thể luyện, và lò nấu quặng than chì phải hơn 100 năm sau mới xuất hiện.

“Thép này đúc pháo được không?” Bành Chí Thành hỏi, Cao Ma dịch sang tiếng Pháp cho các thợ súng pháo.

“Lý thuyết thì không vấn đề. Thép chịu áp lực nòng tốt hơn gang, cùng uy lực, thân pháo có thể làm nhẹ hơn,” pháo thợ François, vẫn choáng ngợp trước “kỳ tích” thép lỏng, trả lời không do dự.

“Chúng ta cần pháo gì?” Mã Giáp hỏi. “Thép lần này chưa đo được hàm lượng carbon, nhưng chắc trên 1%. Kéo dãn hay dát mỏng không bằng đồng, nhưng rẻ hơn. Một khẩu pháo cần bao nhiêu thép?”

“Tùy kích cỡ,” Vương Khải Niên đáp. “Pháo dã chiến cỡ nhỏ, nòng ngắn thì dễ. Pháo công thành, pháo đài, hay pháo hạm thì khó nói, từ 1 đến vài tấn. Nhưng đó là pháo gang và đồng, pháo thép thì tôi không rõ.”

“Thử đi. Đúc vài khẩu, thử nghiệm nhiều. Sẽ có kinh nghiệm,” Mã Giáp nói. “Nhưng thế này, thép tôi luyện không đủ cho các anh tiêu xài đâu.”

“Haha, không còn cách nào. Chúng ta giờ mạnh biển, yếu bờ,” Vương Khải Niên cười. “Phải đúc ít nhất 8-10 pháo đài bờ biển lắp lên trước. Nếu vài pháo hạm đến oanh tạc ngoài bến tàu, chúng ta chịu không nổi.”

“Pháo dã chiến lục quân thì sao?” Mã Giáp hỏi.

“Cái này dễ. Với quy mô lục quân hiện tại, vài khẩu pháo 4 bảng đủ dùng. Nhưng nếu anh đúc thêm pháo đài, tôi không phản đối,” Bành Chí Thành đùa.

“Anh có pháo thủ không? Với vài chục người, phục vụ nổi mấy khẩu pháo?” Mã Giáp cũng cười. “À, lần trước không mua 10 khẩu pháo từ Cornelis de Graeff sao? Là loại gì?”

“Bốn khẩu dã chiến 4 bảng, bốn khẩu dã chiến 8 bảng, và hai khẩu hạm pháo 24 bảng, đều bằng đồng,” Bành Chí Thành nói. “Chúng ta có thể huấn luyện thêm pháo thủ dự bị, tránh lúc kẻ địch đánh đến thì trở tay không kịp.”

“Họ đúc được pháo gì?” Mã Giáp hỏi.

“Tôi hỏi rồi. Họ chỉ đúc pháo nhỏ: 3 bảng, 4 bảng, 6 bảng. Người đúc được pháo lớn là nhân tài, đãi ngộ cao, không lưu lạc đến Tân Thế Giới mạo hiểm. Nhưng dù thế, họ vẫn là chuyên gia ta mời, dân tự do, trả lương tháng,” Bành Chí Thành nói.

“Chuyện pháo để sau. Súng thì sao? 50 khẩu súng kíp mua lần trước là gì? Hỏa mai?” Mã Giáp hỏi.

“Là súng hỏa mai Toul mới nhất,” Bành Chí Thành thở dài. “Tôi thử vài phát, ngoài uy lực lớn hơn, độ chính xác và tốc độ bắn thua xa nỏ săn thú. Tầm bắn tương đương, nhưng nỏ săn bắn liên tục được. Tóm lại, súng hỏa mai này chỉ hơn không có.”

“Hỏa mai? Tôi nhớ súng toại phát mới là chủ đạo thời này?” Mã Giáp thắc mắc.

“Châu Âu hiện vẫn dùng súng hỏa mai đại trà. Súng toại phát có, nhưng chỉ trang bị nhỏ lẻ. Thành thật mà nói, ở giai đoạn này, súng toại phát cũng chẳng mạnh hơn cung bao nhiêu. Súng hỏa mai hay toại phát, ưu điểm là rẻ, binh lính huấn luyện sơ là bắn được, không tốn sức, cung không sánh bằng,” Bành Chí Thành giải thích.

“Nhưng ta thiếu người. Họ huấn luyện pháo hôi số lượng lớn được, ta thì không. Mỗi người của ta đều quý giá. Tôi không rành súng, nhưng biết súng tuyến thang sau này mới là vua,” Mã Giáp nói, nhìn Bành Chí Thành.

“Đừng nhìn tôi, súng thế kỷ 17 tôi cũng mù,” Bành Chí Thành cười khổ. “Mấy thợ súng pháo này chỉ làm súng hỏa mai, tay nghề còn chưa chắc bằng lô súng ta mua.”

“Luyện! Để họ luyện! Dẫn thêm vài đồ đệ, dù súng hỏa mai tệ, ta cũng phải thử tự làm,” Vương Khải Niên nghiến răng. “Pháo cỡ lớn cũng đúc! Thành phẩm thấp thì nấu lại!”

Trong lúc ba ủy viên nghiến răng bàn chuyện thép và vũ khí, một nhóm lính canh mới vây quanh mấy khẩu pháo dã chiến, tò mò ngó nghiêng. Theo hướng dẫn bắn pháo mới biên soạn, họ luyện tập dọn nòng, nạp thuốc, nạp đạn, ngắm bắn, và khai hỏa, để nhanh chóng làm quen kỹ thuật pháo thời này.

Ngoài ra, súng hỏa mai cũng cần thuần thục. Dù không yêu cầu nhóm xuyên không học “xếp hàng bắn chết” như châu Âu – họ chẳng có can đảm lẫn kỹ năng – Bành Chí Thành chỉ cần họ biết bắn, có thể núp sau công sự xạ kích khi địch tấn công, là đủ tư cách. Một số di dân Thụy Sĩ từng làm lính đánh thuê có kỹ năng quân sự tốt, nếu hứa trả hậu, họ sẵn sàng chiến đấu cho nhóm xuyên không.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 12 : Chương 12: Tân Phát Triển (1)


Sau vài tháng, Bố Lan Khoa Almeida lại đặt chân lên Phương Đông Cảng. Cảng vắng, chỉ có vài tàu hàng từ La Plata neo đậu. Tàu Rodriguez Thương hội treo cờ, bận rộn dỡ thịt bò, khiến thủy thủ và công nhân bến tàu tất bật. Bên phải, khu cách ly, đám nam nhân mặc đồng phục cây đay tập quân sự – di dân mới. Nhóm Xuyên Không thích mấy trò này, Bố Lan Khoa thấy quen, chẳng lạ.

Đội tàu Bố Lan Khoa có ba tàu lớn, chở đầy Brazil gỗ đỏ thượng hạng. Loại gỗ cao, đặc, cứng, bền, chống nước biển ăn mòn, lý tưởng cho đóng tàu. Tạo Thuyền Hán ở La Habana dùng nhiều gỗ này; sau này, khi gỗ Cựu Đại Lục cạn, cả kỳ hạm Tây Ban Nha cũng làm từ Brazil gỗ đỏ.

Nhưng gỗ này không rẻ. Ở Châu Âu, nó được dùng làm thuốc nhuộm, giá cao ngất. Mỗi cây trung bình 80 nguyên, giá hữu nghị, người thường khó mua.

“50 cây Brazil gỗ đỏ, quặng sắt sa, than chất lượng, và bông – đủ làm Đông Ngạn hài lòng chứ?” Bố Lan Khoa thầm nghĩ. Hắn đến Phương Đông Cảng nhiều lần, nhưng chưa lần nào tâm trạng phức tạp như hôm nay. Đông Ngạn, như sao chổi, đánh bại Tây Ban Nha giữa đỉnh vinh quang, làm hắn – đại diện Brazil – ngưỡng mộ xen đau đớn.

Phải biết, Bồ Đào Nha và Brazil đang bị Hà Lan đánh bại liên tiếp ở Bá Nam Bố Ca. Trên chiến trường, họ như hề, yếu đuối trước Hà Lan trẻ trung. Thời Đại Phát Hiện là đỉnh cao của Bồ Đào Nha, nhưng sau đó, họ tụt dốc. Mậu dịch phương Đông bị Tây Ban Nha, Hà Lan chia cắt; thuộc địa Brazil mất đất vì Hà Lan xâm lược.

Bản thổ bị Tây Ban Nha kiểm soát, Brazil bị Hà Lan nhòm ngó, mọi thứ tệ hại. Bố Lan Khoa chán nản, nhưng vực tinh thần, vì phải đối mặt Cao Ma, bộ trưởng ngoại giao giảo hoạt, để mua lô vũ khí Đông Ngạn.

Thủy thủ Rodriguez dỡ thịt bò xong, hẹn vào thành dạo chơi. Đám thô lỗ cười lớn, rời đi tìm rượu và hàng hóa tinh mỹ, chẳng sợ không có cô nương热情.

“Lũ Ý thô tục,” thương nhân Carlos lẩm bẩm.

“Đừng nói vậy, Mã Khoa Tư,” Bố Lan Khoa uể oải. “Chúng ta đều là kẻ đáng thương dưới Tây Ban Nha. Phiền toái lớn rồi, lũ Hà Lan chết tiệt! Tạp Đa thượng úy, ngươi ở lại giao thiệp, giá hàng đã thỏa, phối hợp nhập kho thôi. Mã Khoa Tư, đi!”

Đường phố Phương Đông Cảng sạch sẽ, không như Rio de Janeiro bẩn thỉu, hôi hám. Chiều tà, công nhân tan ca nhàn nhã, vừa trò chuyện vừa vào tửu quán. Dù Nhóm Xuyên Không cung cấp ba bữa miễn phí, nhiều người vẫn thích tụ tập uống rượu, nói chuyện.

“Thầy tái kiến!” Một đám trẻ năm sáu tuổi, đeo cặp vải bông, xếp hàng trước sân, cúi chào một người lớn. Người này cười, vẫy tay: “Về nhà luyện chữ hôm nay, mai thầy kiểm tra, viết sai là ăn thước!”

Trẻ cười rộ, dưới dẫn dắt của hai cảnh sát Nội vụ Bộ, xếp hàng lại. “Hát quốc ca Ca Xướng Tổ Quốc! ‘Trang nghiêm quốc kỳ đón gió tung bay, thắng lợi tiếng ca vang dội…’ Chuẩn bị… Hát!” Một cảnh sát hô. Đám trẻ non nớt cất tiếng.

Bố Lan Khoa nhìn lũ trẻ – tóc vàng mắt xanh, tóc đen da hồng, hoặc da vàng – hát bài giai điệu đơn giản mà cuốn hút, cảm nhận ma lực kỳ lạ. Trên cột cờ, quốc kỳ Đông Ngạn đỏ, lam, trắng tung bay. Góc trái trên, nền đỏ, 12 bánh răng vòng quanh một con thuyền; góc phải trên và dưới là lam trắng gợn sóng.

“Quốc kỳ Đông Ngạn,” Bố Lan Khoa ngưỡng mộ, nhớ Bồ Đào Nha, Brazil dưới Tây Ban Nha, lắc đầu ảm đạm.

Trời tối, Bố Lan Khoa và hai tùy tùng đến hành chính đại lâu Chấp Ủy Hội. Tám cảnh sát mặc chế phục đen, cầm súng, đứng hai bên cổng sắt. Trên mái hiên, quốc huy hình thuẫn: song đầu ưng giương vuốt trên âm dương cá, một tay cầm đao, một tay cầm súng, ngụ ý mở rộng nam bắc.

Cảnh sát kiểm tra công văn, hỏi ý kiến bên trong, đóng dấu, tịch thu vũ khí, giao bảo an dẫn vào văn phòng Bộ Ngoại giao.

Văn phòng giản dị, tường vôi trắng treo bản đồ Nước Cộng hòa Đông Ngạn. Cao Ma nhiệt tình đón, bắt tay Bố Lan Khoa. Hắn ngồi đối diện bàn tùng mộc, ghế và bàn lót vải bông thêu “Bộ Ngoại giao”.

“Tự sản vải bông?” Bố Lan Khoa hỏi.

“Phải, gọi Đông Ngạn bố. Trừ bông nhập khẩu, từ sợi đến vải đều tự làm. Chẳng bao lâu, ta sẽ bán cho các ngươi!” Cao Ma khoe.

“Tin tốt đấy,” Bố Lan Khoa cười gượng.

“Thử trà phương Đông đi,” Cao Ma bảo thư ký pha trà. “Cảm ơn Edward Đa La A Tùng Tang mang từ phương Đông. Hắn khỏe không? Nghe nói đang ở Rio.”

“Hắn khỏe, vừa mua vườn mía ở Rio. Lần chở di dân, hắn phát tài, nhờ phúc các ngươi,” Bố Lan Khoa nói.

“Haha, ta đối bạn bè luôn hào phóng,” Cao Ma cười. “Thôi, không vòng vo. Ta biết ý ngươi. Hà Lan không thân thiện lắm, đúng không?”

Bố Lan Khoa ngượng. “Ừ, Hà Lan Tây Ấn Độ Công ty rầm rộ, chở dân đến, tổ chức quân công liên tục. Tướng Mã Thịt Khô Ni vô năng, lính đánh thuê Ireland hèn nhát làm ta mất mặt. Thế cục xấu nhanh. Cao, các ngươi không cân nhắc cho thuê quân đánh Brazil à?”

“Chưa,” Cao Ma đáp. “Nước Cộng hòa Đông Ngạn có lợi ích riêng. Chiến tranh Brazil Đông Bắc quá xa. Có thể tham gia, nhưng không phải bây giờ. Bố Lan Khoa, khứu giác ngươi nhạy, biết kho ta đầy vũ khí. 1005 Hỏa Thằng Thương, 112 Toại Phát Thương, 16 pháo đồng, 450 Áo giáp M31, hơn 1000 kiếm nhẹ – 2 vạn nguyên, lấy hết đi!”

“Thêm 100 chống đạn bản giáp. Không có, đám lính ta thiếu dũng khí, vì Hà Lan có thứ này,” Bố Lan Khoa nhìn chờ đợi.

“Hảo, bạn bè không để chịu thiệt. Nể Brazil gỗ đỏ, thêm 5000 nguyên, 100 kê giáp cho ngươi. Đây là từ quân đội khẩn cấp điều ra, các ngươi vinh hạnh lắm!” Cao Ma cười.

“Thành giao!” Bố Lan Khoa bắt tay ngay.

Cả hai thở phào. Bố Lan Khoa mừng vì đủ vũ khí bù chiến tổn, Cao Ma vui vì tống khứ chiến lợi phẩm, thêm khoản thu lớn cho quốc khố trống rỗng.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 12 : Tu Kình Cảng Chiến Đấu


Thời gian quay về Nguyên Đán 1637. Khi Đệ Nhị Hộ Tống Phân Hạm Đội gian nan di chuyển ở Cabo Verde ấm áp, tại Mã Đảo, Tu Kình Cảng (nguyên Tô Lợi Văn Tránh Gió Loan), mưa tuyết đan xen, hơn 200 cư dân hoảng loạn nhìn hạm đội buồm lai lịch bất minh trên mặt biển.

Hạm trưởng Lý Nghị của “Đông Ngạn Chi Ưng”, đang neo cảng để vận chuyển vật tư xây dựng, mặt ngưng trọng. Từ khi Hoa Hạ Đông Ngạn Nước Cộng Hòa tuyên bố Mã Đảo là lãnh thổ, xây Tu Kình Cảng trên điểm tiếp viện bí mật hải quân ở Tô Lợi Văn Tránh Gió Loan, thường có tàu Bộ Kình, thuyền đánh cá, hoặc thương thuyền qua Magellan Eo Biển vào tránh thời tiết hoặc tiếp tế. Nhưng bốn chiến hạm đến cùng lúc là lần đầu.

“Tới chẳng lành,” Lý Nghị, cầm kính viễn vọng quân dụng 20x từ Hà Nam Pha Lê Xưởng, nói với đại lý hạm trưởng “Galicia Phi Ngư” Hoàng Dương, thiếu úy hải quân.

Hoàng Dương, cũng cầm kính, quan sát, “Đều là chiến hạm hoặc thương thuyền võ trang 300-400 tấn, trang bị 16-22 pháo, đa số cỡ nhỏ, lớn nhất không quá 18 bảng, số lượng ít.”

Lý Nghị tính toán, nếu dẫn “Đông Ngạn Chi Ưng” xông ra, khó thoát. Tu Kình Cảng, nằm ở cửa sông trong Tô Lợi Văn Tránh Gió Loan, điều kiện tránh gió tuyệt hảo, nhưng ra vào cảng tốn thời gian. Hạm đội địch chặn ngoài kia, xuất cảng chậm sẽ bị pháo bắn tan xác. Lý Nghị trêu, “Anh muốn đánh, nhưng bão nhấn chúng trước!”

Lý Nghị và Hoàng Dương nhất trí: làm rùa rút đầu, quan sát ý đồ địch, có thể họ chỉ tránh gió.

Mục đích địch nhanh chóng lộ rõ. Bốn chiến hạm thả nhiều thuyền nhỏ, thủy thủ mặc áo mưa vải dầu, cầm dụng cụ đo độ sâu nước.

“Trưởng quan, chúng muốn đổ bộ. Mathias thượng sĩ hỏi có nã pháo không?” Một người Tra Lỗ Á thở hổn hển chạy đến.

Hoàng Dương nhìn Lý Nghị, hải quân trung úy, quân hàm cao nhất, phòng giữ quan tạm thời Mã Đảo (lo trung chuyển vật tư sang Nam Phi), chỉ gã ra lệnh nã pháo.

“Cảnh cáo bắn trước. Nếu địch không lùi hoặc phản pháo, cho ngạn pháo đồng loạt khai hỏa,” Lý Nghị ra lệnh dứt khoát.

Tu Kình Cảng pháo đài, bên bờ sông phải, có hai pháo 18 bảng, bốn pháo 12 bảng, bốn pháo 8 bảng. Hơn 30 pháo thủ, toàn cư dân bản địa, thường huấn luyện. Dù kém pháo thủ hải quân, họ đủ sức vận hành pháo đài cố định. Hoàng Dương cười, “Pháo đài chắc, nhưng ví ta thiếu người!”

Tu Kình Cảng thành khu là lâu đài nhỏ, chu vi hơn 400 mét, mỗi hướng đầu tường đặt hai pháo. Tất cả nam cư dân được huy động, cả phụ nữ khỏe mạnh cũng nhận nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu. Dân số quá ít, phải tận dụng mọi lực lượng.

Tù binh Tây Ban Nha, Anh lưu đày trước đây đã mặc hải quân phục về Phương Đông Cảng. Pháo thủ Tra Lỗ Á thay thế, được huấn luyện thực đạn, thể hiện kỹ năng cao. Một đạn sắt 8 bảng bắn ra, rơi cách chiến hạm địch hơn 100 mét, cảnh cáo rõ ràng. Mathias hét, “Bắn đi, cho Anh biết đau!”

Nhưng địch không dao động, thủy thủ trên thuyền nhỏ tiếp tục đo độ sâu, động tác nhanh hơn.

Bốn chiến hạm địch xếp hàng ngang, mép tàu song song pháo đài, chạy từ đông sang tây.

“Ầm! Ầm!” Chiến hạm đầu tiên qua pháo đài, 12 pháo huyền bắn đồng loạt. Đạn lướt qua không trung mưa tuyết, đa số rơi xuống sông, vài viên trúng bùn gần pháo đài. Đất lầy hấp thụ động năng, đạn nhảy vài cái rồi dừng.

Địch tấn công, pháo đài không khách sáo. Mathias, gã khổng lồ từ Pomeranian Đức, ra lệnh bắn.

Pháo thủ nhét gói thuốc vào nòng, nạp đạn sắt rỉ, đóng chặt bằng que cời. Pháo trưởng quan sát vị trí địch, điều chỉnh góc, bắn.

Địch dùng chiến thuật luân bắn: bốn chiến hạm xếp hàng, lần lượt khai hỏa. Tàu trước bắn xong chạy đi, tàu sau tiến lên, duy trì hỏa lực áp chế pháo đài.

Nhưng vô hiệu. Pháo đài Tu Kình Cảng nửa chôn ngầm, nửa kín, chỉ lộ cửa sổ bắn, tường gạch dày bảo vệ. Mỗi pháo được bố trí cẩn thận, hỏa lực đan xen, không góc chết.

Nửa giờ bắn nhau, 10 ngạn pháo công sự không hề hấn, nhưng chiến hạm địch trúng hơn 20 phát, không gây thương vong lớn, nhưng sĩ khí giảm mạnh.

Hai pháo 12 bảng trái phá đầu tường bắn vào thuyền nhỏ đo độ sâu. Khoảng cách xa, khó trúng, chỉ tăng áp lực tâm lý địch.

“Đông Ngạn Chi Ưng” và “Galicia Phi Ngư” neo bến sông, không tham chiến. Do địa hình, pháo địch không bắn tới bến. Cả hai bên hiểu, hải quân không giải quyết được, lục quân quyết định thắng bại.

Chiến đấu tạm dừng chiều. Mưa tuyết dày, Mã Đảo 265/365 ngày mưa hoặc tuyết, gió tây cấp 5-6. Chiến đấu trong môi trường này thử thách cả hai.

Sáng hôm sau, có lẽ đo độ sâu xong, bốn chiến hạm địch mạo pháo đài bắn dữ, thả thuyền nhỏ chở thủy thủ trang bị vũ khí sặc sỡ. Dù thời tiết ác liệt, họ chỉ mặc áo đay rách, tay không, uống rượu mạnh, chửi tục bằng tiếng Anh quê mùa.

Pháo đầu tường phát uy. Pháo thủ tính thời gian, khoảng cách, cắt ngắn ngòi nổ đạn nổ, nhét nòng. “Ầm!” Đạn nổ trên không thuyền nhỏ, đinh sắt, mảnh vỡ bay, vài thủy thủ Anh xui xẻo bị thương.

Bốn anh [*] hạm thả hơn chục thuyền nhỏ, chở khoảng 100 thủy thủ lên bờ, xếp đội hình dày, tấn công cánh pháo đài đang đối bắn chiến hạm.

“Đông Ngạn Chi Ưng” và “Galicia Phi Ngư” ở bến sông khai hỏa. Hơn chục pháo trong góc bắn bắn dữ dội vào thủy thủ Anh trên bờ. Đạn nho, đạn nổ ở 200-300 mét quét sạch đội hình không che chắn, tạo đường máu. Đồng thời, hai pháo 12 bảng đầu tường bắn liên tục, súng kíp và súng trường Toại Phát bắn từ 100 mét.

Chỉ 10 phút đổ bộ, hơn 100 thủy thủ Anh sụp đổ. Khu tam giác giữa tường, bến, pháo đài đầy 30-40 thi thể, nhiều người rên rỉ. net

“Chiến đấu kết thúc,” Lý Nghị ném kính viễn vọng cho Hoàng Dương, “Bốn chiến hạm Anh nhỏ có lẽ 200 chiến binh đã là xa xỉ. Vừa lên bờ hơn 100, đứng về được chưa nửa. Cộng tổn thất đối pháo, hôm qua và hôm nay họ mất 70-80 người. Họ không ngu, Tu Kình Cảng không phải xương cứng, nhưng không phải đám chân tay nhỏ này lấy được. Thời tiết xấu, mai họ chạy thôi. Phát tài chỗ khác, việc gì hao với ta.”

“Haha, đúng thế,” Hoàng Dương phụ họa, “Nhưng phòng thủ Tu Kình Cảng phải tăng, người quá ít. Lần sau Anh mang nhiều tàu, e khó giữ.”

“Đừng lo xa,” Lý Nghị nói, “Hiện Tu Kình Cảng không phải trọng điểm Anh. Mục tiêu họ ở bản thổ. Đệ Nhị Hộ Tống Phân Hạm Đội chưa về, trong nhà chỉ có ‘Tám Tháng Mười Rằng’ và ‘Tiểu Chó Săn’, phòng hộ hải vực rộng, lo không xuể.”

Không ngoài dự liệu, thấy không chiếm được lợi, trưa đó bốn chiến hạm Anh nhỏ, thân tàn tạ, rời Tu Kình Cảng, chìm vào Nam Đại Tây Dương cuồn cuộn.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 13 : Lương thực vấn đề


Ngày 12 tháng 5 năm 1631, thứ Hai. Trời âm u.

Mục sư Francis dẫn mấy di dân bước nhanh trên con đường lát gạch vụn và than cám, phía trước là vài cô gái trẻ từ Cục Vệ sinh Phòng dịch. Những cô này trước đây thuộc ngành y tế trong nhóm xuyên không: hoặc là hộ sĩ bệnh viện, hoặc là sinh viên y khoa. Cục Vệ sinh Phòng dịch, đơn vị trực thuộc ủy viên dân sự, có biên chế 10 người, phụ trách khử trùng nơi công cộng, phòng chống bệnh truyền nhiễm, kiểm tra sức khỏe di dân, và các công việc tương tự.

Ngoài ra, nhóm xuyên không còn lập một trung tâm bệnh viện, cũng trực thuộc ủy viên dân sự, với vài bác sĩ nội ngoại khoa, bao gồm thuyền y Vương Liêu. Nhưng thiếu thiết bị y tế, thuốc hiện đại mang theo đã cạn, các bác sĩ gần như “không bột đố gột nên hồ” chỉ chẩn đoán được bệnh, hiệu quả hạn chế.

Mạc Tiểu Tịch, trước khi xuyên không là nghiên cứu sinh ngành vệ sinh công cộng tại Đại học Y khoa XX, giờ đảm nhận trọng trách Cục Vệ sinh Phòng dịch.

“Nhà vệ sinh phải định kỳ khử trùng bằng vôi,” Mạc Tiểu Tịch nói khi đến khu nhà gỗ của di dân. “Ban ngày, cửa sổ trước sau phải mở để thông thoáng.”

Mục sư Francis đoán ý, hiểu lời cô, vội chỉ huy di dân bắt tay làm việc.

Kiểm tra xong khu dân cư, để lại nhóm di dân làm việc, Mạc Tiểu Tịch và các cô gái ríu rít đi đến công trường đào cống thoát nước. Đội công trình hiện tập trung xây lò luân diêu, chỉ còn hơn chục người đào cống, tiến độ chậm chạp.

Lưu Đại, đội trưởng đội kiến trúc, đang lười biếng đào đất cùng công nhân. Thấy đám cô gái trẻ, cả bọn lập tức phấn chấn.

“Sao chỉ có vài người?” Mạc Tiểu Tịch cau mày. “Không phải điều một nhóm di dân cho các anh sao? Người đâu?”

“Hừ!” Lưu Đại bực bội. “Ủy ban chấp hành bao giờ để ý đến đội kiến trúc chúng tôi? Người chưa tới đã bị bọn khốn Cục Nông nghiệp cướp mất!”

“Cái gì?! Sao họ dám!” Mạc Tiểu Tịch nổi giận. “Đã hứa rồi còn đổi, tôi về hỏi Tiếu Minh Lễ xem anh ta giải thích thế nào!” Nói xong, cô dẫn đám chị em phẫn nộ quay đi.

“Ơi! Các cô, đừng đi vội! Tôi nói đùa mà!” Lưu Đại cuống quýt dậm chân, trong lòng mắng tổ tông tám đời bọn Cục Nông nghiệp.

Kim Khoa Lôi cầm một cây đậu nành lắc lắc, phát ra tiếng xào xạc. Lá đậu đã rụng gần hết, thân chuyển vàng. Bóc quả, lớp lá mỏng cung cấp dinh dưỡng giữa vỏ và hạt đã biến mất – dấu hiệu đậu chín.

“Phát lưỡi hái nhanh lên,” Kim Khoa Lôi nhìn trời, lo vài ngày tới sẽ mưa. Sáng nay, anh đến ủy ban chấp hành, yêu cầu tạm dừng các công việc khác, ưu tiên thu hoạch đậu nành.

Lưỡi hái được rèn bằng búa máy sức nước, mài bén thủ công, gắn cán gỗ. Công nghệ thô sơ, nhưng chất lượng tốt. Để thu hoạch 1.000 mẫu đậu nành, ủy ban huy động gần 400 người, cả nam nữ già trẻ, tập trung gặt hái.

Mã Càn Tổ vung lưỡi hái tham gia lao động. Do thiếu người và tránh chỉ trích, các ủy viên chấp hành và người phụ trách bộ phận không bận việc cũng nhập cuộc.

Đậu nành sinh trưởng bình thường. Không có phân hóa học và ít phân chuồng, sản lượng chỉ khoảng 50-60 kg/mẫu. Nhóm xuyên không thu hoạch phần trên rễ, tuốt hạt tại sân phơi. Rễ đậu giữ lại vì khuẩn nốt rễ cố định đạm từ không khí thành amonia, tốt cho đất.

Thu hoạch kéo dài đến hoàng hôn thì tạm nghỉ. Kim Khoa Lôi đi kiểm tra, thấy đã gặt khoảng một phần ba diện tích. Thấy Mã Càn Tổ và các ủy viên ngồi nghỉ uống nước bên ruộng, anh tiến đến.

“Lương thực không thể xem nhẹ nữa,” Thiệu Thụ Đức lên tiếng. “Bột mì và gạo mang theo đã hết gần nửa. Nếu tiếp tục nhận di dân, tiêu thụ lương thực sẽ tăng nhanh. Nhưng trong một năm tới, sản lượng cây trồng của ta có hạn. Phải tìm cách kiếm lương thực, càng nhiều càng tốt.”

“Nguồn lương thực hiện có những gì?” Mã Càn Tổ hỏi. Vấn đề này thực sự đáng lo.

“Thứ nhất: Bắt cá. Thượng nguồn Đại Ngư Hà, hồ Cá Lớn có nguồn cá dồi dào. Ta có thể lập cứ điểm bắt cá, thậm chí chế biến tại chỗ. Cá cung cấp protein, giảm phụ thuộc lương thực,” Thiệu Thụ Đức nói. “Thứ hai: Giao dịch. Nhưng khó, vì ta thiếu đối tác.

Cornelis de Graeff đến lần sau vào khoảng tháng 10, tàu ông ấy không chở được nhiều lương thực. Quan trọng hơn, châu Âu cũng thiếu lương thực, rất thiếu! Mua số lượng lớn từ đó khó lắm.”

“Mua không được thì tự lực cánh sinh,” Mã Càn Tổ nói. “Đậu nành lần này thu khoảng 50.000 kg. Lúa mạch thì đừng trông, khoai tây thu được vài chục tấn, nhưng sản lượng không cao. Dựa vào đó nuôi di dân thì ngắn hạn không khả thi. Hồ Cá Lớn phải khai thác! Tài nguyên dồi dào thế, không thể bỏ qua. Sau khi về, ta bàn lại, lập kế hoạch, đưa lên biểu quyết. À, lão Kim, cậu đến đúng lúc. Mai tổ chức người tuốt hạt đậu hôm nay, phơi khô, nhập kho, làm nhanh.”

“Không thành vấn đề,” Kim Khoa Lôi ngồi xuống uống ngụm nước. “Kho đã sẵn, phơi xong nhập ngay.”

“Lão Kim, các cậu tuốt hạt thế nào? Thủ công à?” Thiệu Thụ Đức hỏi.

“Sao? Cậu làm được máy tuốt hạt cho tôi?” Kim Khoa Lôi sáng mắt.

“Tôi không có bản lĩnh đó,” Thiệu Thụ Đức cười. “Tìm Cao Ma đi, bảo anh ta cho người làm máy tuốt hạt sức nước. Đơn giản mà, thợ rèn gõ vài cái là xong.”

“Được, tí tôi tìm anh ta,” Kim Khoa Lôi cười tươi.

Thu hoạch đậu nành kéo dài 3 ngày, đến tối 15 tháng 5, 1.000 mẫu hoàn tất. Ông trời ưu ái, trừ ngày đầu âm u, hai ngày sau nắng đẹp, khiến Kim Khoa Lôi lo mưa âm thầm thở phào.

Sau thu hoạch, ủy ban cho mọi người nghỉ vài ngày, rồi tiếp tục các dự án xây dựng. Chương trình lập cứ điểm vĩnh cửu ở hồ Cá Lớn cũng bắt đầu thảo luận và chuẩn bị.

Ngày 26 tháng 5, lò luân diêu hoàn công sau khi đội kiến trúc tăng ca luân phiên. Lò lý thuyết sản xuất 15 triệu viên gạch/năm, nhưng do thiếu nhân lực, thực tế khoảng 10 triệu viên. Dù vậy, đây là bước tiến lớn, giảm thiếu hụt vật liệu, cho phép khởi động nhiều dự án xây dựng bị trì hoãn.

Lò luân diêu hoàn công, giải phóng nhân lực. Kế hoạch khai thác hồ Cá Lớn, đã hình thành sơ bộ qua thảo luận ủy ban, bước vào giai đoạn thực thi.

Theo quyết nghị, cứ điểm được lập tại giao điểm Đông Nam hồ Cá Lớn và Đại Ngư Hà, dạng thành lũy nhỏ, có tường bao, bên trong là ký túc xá cho 200 người. Ngoài ra có:

Hai giếng nước ngầm, hơi mặn, dùng để lao động, khẩn cấp có thể uống.

Một bể thu nước mưa, bể lắng, và bể lọc.

Nhà vệ sinh công cộng, nhà ăn, nhà tắm, kho vật tư (bao gồm kho quân khí) tháp canh.

Bến tàu ngư nghiệp ven hồ, với đường từ bến vào thành lũy được chỉnh sửa.

Quan trọng nhất là xưởng chế biến cá tại cứ điểm. Do hạn chế vận chuyển, trừ một phần cá tươi gửi về hạ lưu cung cấp nhóm xuyên không, phần lớn sẽ chế biến tại chỗ thành cá mặn, ruốc, cá khô, bột xương cá.

Đây là cứ điểm đầu tiên thực sự của nhóm xuyên không. Ủy ban kêu gọi đặt tên, cuối cùng chọn Định Xa Bảo theo xếp hạng. Để xây dựng và phát triển ngư nghiệp, ủy ban lập đội khai thác Định Xa Bảo, biên chế tạm thời:

Đội kiến trúc: 100 người (tạm thời, rút về sau khi hoàn công).

Đội bắt cá Cục Ngư nghiệp mới thành lập: 20 người.

Công nhân xưởng chế biến cá (trực thuộc ủy ban): 60 người.

Đội bảo vệ Định Xa Bảo: 25 người.

Đầu bếp: 3 người; bác sĩ: 1 người; thợ đóng tàu: 1 người; thợ rèn thực tập: 1 người; thợ sửa lưới: 1 người; tạp công: 5 người.Tổng cộng: 217 người.

Đội khai thác Định Xa Bảo thu hút sự quan tâm lớn. Nhiều người đến ủy ban tự ứng cử, khiến Tiếu Minh Lễ, phụ trách tuyển chọn, đau đầu vì bị làm phiền cả ngày.

Ngày 30 tháng 6 năm 1631, sau một tháng chuẩn bị ồn ào, đội tàu chở người và vật tư lên đường.

Đội tiên phong gồm hơn 100 người (đội kiến trúc và bảo vệ). Sau khi thành lũy hoàn thành, các nhóm còn lại sẽ hội hợp. Vật tư vận chuyển gồm vật liệu xây dựng, thực phẩm, nước uống, 2 pháo dã chiến 4 bảng, 2 pháo 8 bảng, 50 nỏ săn thú, và 30 súng hỏa mai.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 13 : Chương 13: Tân Phát Triển (2)


“Lão Cao, tháng này Mậu dịch Bộ phải mua mấy thứ này, kho sắp cạn rồi…” Áo Choàng cầm tờ giấy, hối hả xông vào văn phòng Cao Ma. Thấy Bố Lan Khoa và Carlos ngồi đối diện, hắn ngỡ ngàng: “Ủa, Bố Lan Khoa? Lại thua trận à?”

Cao Ma cười gượng, không dịch câu cuối, giật tờ giấy, liếc qua, nhét vào ngăn kéo, nói: “Được, Mậu dịch Bộ sẽ lo mua, nhưng không biết số lượng thế nào.”

“Cứ cố hết sức,” Áo Choàng vẫy tay. “À, Bố Lan Khoa, ta biết Brazil có nhiều vườn trồng, bông sản lượng lớn không?”

Cao Ma vội dịch. Bố Lan Khoa nghĩ ngợi: “Brazil chủ yếu trồng mía, ca cao, lợi nhuận cao. Bông có, nhưng không nhiều. Ta có thể thuyết phục chủ vườn bán bông cho các ngươi, không khó. Nhưng nếu cần lượng lớn, Thánh Đa Minh Các và đảo Caribê có vườn bông lớn nhất. Chỗ đó khó tiếp cận.”

“Đủ rồi,” Áo Choàng lẩm bẩm. “Giai đoạn đầu, bông từ Brazil đáp ứng được sản xuất. Thiết bị hiện nay còn chút vấn đề. Thôi, Bố Lan Khoa, Lão Cao, ta đi đây. Phải qua xưởng dệt Đại Ngư Hà, sức nước xe sa, dệt vải cứ trục trặc, ta xem đã!” Hắn vội vã rời đi.

Trong xưởng dệt Đại Ngư Hà, kỹ sư Nhóm Xuyên Không và thợ Châu Âu vây quanh sức nước xe sa khổng lồ cạnh sông. Thủy luân quay nhờ dòng nước, truyền lực qua ổ trục đến cơ cấu dắt, con suốt, thực hiện xe sợi. Máy có 30 con suốt, xe 30 cuộn sợi cùng lúc, hiệu suất gấp vài chục lần thủ công, đủ khiến thợ dệt tay phá sản.

Máy chạy vài tháng, kỹ sư và thợ xưởng giải quyết nhiều vấn đề, gần hoàn thiện.

“Hai máy quay tơ, một dệt len, một dệt bông, chạy ổn 18-24 giờ không trục trặc. Sản xuất 100 ngày, sợi bền, mịn, vượt xa thủ công Châu Âu,” Đào Tia Nắng Ban Mai, tổ trưởng kỹ thuật xưởng dệt, báo cáo.

“Trục trặc chủ yếu ở đâu? Thiết kế có vấn đề không?” Áo Choàng hỏi.

“Thiết kế không sao,” Đào Tia Nắng Ban Mai tự tin. “Máy dựa trên kỹ thuật hiện có và nguyên lý máy dệt thế kỷ 18, tương đương ‘loa cơ’ của Anh. Vấn đề là linh kiện bằng gang, gỗ, mài mòn nặng khi chạy liên tục, phải thường xuyên thay. Ta định đổi sang thép, tăng tuổi thọ thiết bị. Ai, lúc đầu tiếc tiền, tiếc thời gian, dùng linh kiện kém!”

“Hảo,” Áo Choàng vỗ vai Đào Tia Nắng Ban Mai. “Dệt là ngành siêu lợi nhuận. Xã hội thượng lưu Châu Âu chuộng vải bông mỏng, len dạ giảm dần. Chấp Ủy Hội ưu tiên công nghiệp, dệt, cấp 1000 nguyên nghiên cứu. Công nghiệp Bộ không thể kéo chân sau! Tháng 12 tuyển cử, cơ hội tốt, làm nhanh, đưa xưởng vào sản xuất, mọi người đều lợi. Máy dệt vải ổn không?”

“Máy dệt vải ổn, chỉ thiếu công suất,” Đào Tia Nắng Ban Mai đùa.

“Haha, đừng giỡn!” Áo Choàng cười. “Lông dê thiếu, La Plata nuôi bò nhiều, dê ít, mua phiền phức. Trước khi tự nuôi dê đủ, tập trung dệt bông đi!”

“Nhưng dệt bông cũng khó,” Đào Tia Nắng Ban Mai nhắc. “La Plata có lông dê, nhưng bông phải mua từ Brazil hoặc Caribê, nơi Tây Ban Nha kiểm soát. Tàu ta ít, chạy Trấn Hải Bảo, Phương Đông Cảng còn thiếu, huống chi đi xa mua bông. Brazil thì binh hoang mã loạn, khó lắm!”

“Đừng than!” Áo Choàng cười mắng. “Ngươi lo sửa máy cho tốt. Hôm nay 26/11, cho ta thời hạn chính xác: máy dệt lụa, dệt vải bao giờ xong? Cuối tháng được không?”

“Cố hết sức,” Đào Tia Nắng Ban Mai không dám hứa. Nhóm Xuyên Không thiếu nhân tài, làm máy sức nước đã khó, sau này đụng máy hơi nước, chắc “đầu hàng” luôn!

“Dựa!” Áo Choàng mắng, tát mạnh vai Đào Tia Nắng Ban Mai, làm hắn lùn xuống, nhăn nhó. “Cuối tháng không xong, xem ta thu thập ngươi!”

“Ngươi muốn bức chết người à!” Đào Tia Nắng Ban Mai “ai oán”. “Vội thế vì tuyển cử Chấp Ủy Hội? Không đến mức! Mã Đại ủy viên, nói thật, chưa ai lung lay vị trí ngươi!”

“Bang!” Áo Choàng tát tiếp, cười mắng: “Ta là loại đó sao?”

Đào Tia Nắng Ban Mai xoa vai, im lặng, ánh mắt rõ ràng nói: “Ngươi chính là loại đó!”

Áo Choàng bật cười: “Nói nghiêm túc. Tháng sau ngươi sẽ biết, tất cả vì tiền! Ngày 25/11/1633, quốc khố còn 39,667 nguyên (nợ Đông Ngạn Công ty 20 vạn), công ty còn 147,905 nguyên, tổng cộng 18 vạn dư. Với tốc độ chi như nước, sang năm phá sản trong nửa năm! Tài chính Bộ bảo dự toán không làm nổi, thiếu hụt mỗi tháng trên 1 vạn. Máy dệt xong sớm, xưởng sản xuất sớm, xuất khẩu vải bông, len dạ, kiếm ngoại hối. Thị trường Đông Ngạn, La Plata, Brazil, Chi Lê, Peru – cả triệu người! Sao để Anh quốc độc chiếm? Anh xuất khẩu mười mấy vạn thất len dạ, vài chục vạn thất bông từ Ấn Độ, nuôi công nghiệp, tư sản, hải quân. Ta phải xé miếng thịt mỡ này! Trước chiếm Đông Ngạn, La Plata, rồi tính tiếp. Giờ thị trường nội địa còn chưa chiếm hết, vì thiếu sản năng! Đừng lên lớp chính trị, lý lẽ rõ rồi, làm cho ra hồn! Tiểu Đào, dệt là nền tảng sự nghiệp, cố lên!”

“Hảo, ngươi nâng lên tầm này, ta còn nói gì? Làm!” Đào Tia Nắng Ban Mai sảng khoái. “Từ nay không về nhà, ngủ xưởng! Máy dệt lụa, dệt vải không vấn đề lớn, xong sớm. Tiếp theo là cán bông! Cán bông thủ công hiệu suất thấp, tốn lao động, không theo kịp sản xuất, kìm hãm sản năng.”

“Ý chí tốt!” Áo Choàng cười. “Chờ tin vui. Ta đi Tài chính Bộ, moi thêm kinh phí cho các ngươi!”

“Tốt quá!” Đào Tia Nắng Ban Mai cười. “Dưới 1000 nguyên, đừng về gặp huynh đệ!”
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 13 : 12 Tự Phương Châm


Tình thế bản thổ nghiêm trọng.

“Năm trước, 25/12/1636, hai tàu hải tặc tấn công đội vận than từ Trấn Hải Bảo đến Phương Đông Cảng, làm chìm hai tàu than ven biển 60 tấn, mất 80 tấn than tinh, 10 thủy thủ thương vong.”

“Tháng này, 1/1/1637, ‘Người Làm Ăn’ võ trang thương thuyền, đi lại giữa Phương Đông Cảng và Khoa Lạc Ni Á, bị hai tàu không rõ quốc tịch tấn công, chống cự anh dũng, thoát nhưng bị thương.”

“10/1, La Hiệp Cảng bị ba tàu bảo vệ pháo kích.”

“12/1, nhân lúc chiến hạm hải quân hộ tống ngoài khơi, năm tàu chiến không rõ quốc tịch định vào thủy đạo Áp Tử Hồ, bị ngạn pháo Trấn Hải Bảo đánh lui.”

Trong Liên Hợp Tham Mưu Bản Bộ, hải quân bộ nhất đẳng tham mưu, trung úy Đinh Một Ngu, báo cáo trước quân đội đại lão và trung ương chấp hành ủy viên. Gần đây, vùng duyên hải xuất hiện nhiều tàu không rõ quốc tịch, tấn công tàu vận chuyển Đông Ngạn, cảng ven biển, ý đồ đổ bộ. Đinh Một Ngu than, “Báo cáo xong, mồ hôi ta nhiều hơn biển!”

Hải quân Đệ Nhất Hộ Tống Phân Hạm Đội, chỉ có “Tám Tháng Mười Rằng” chiến hạm và “Tiểu Chó Săn” tàu bảo vệ, lực lượng yếu. Cảnh báo khắp nơi, tàu địch xuất hiện liên tục, hai tàu mệt mỏi chạy qua chạy lại. Để xoay chuyển, hải quân bộ lập chế độ hộ tống định kỳ, xác định địa điểm, chủ yếu bảo vệ tàu than từ Trấn Hải Bảo đến Phương Đông Cảng.

Nhưng bảo vệ tàu bản quốc, tàu mậu dịch nước khác không may mắn. Di dân, mậu dịch thuyền trước đây liên tục bị “hải tặc” quấy rối, dần biến mất, gây khó khăn lớn cho Đông Ngạn. Di dân giảm nửa, nhập khẩu cây đay, kim loại, hỏa dược, gỗ, than chất lượng giảm mạnh. Ngọn nến, hương liệu, đường mía, ca cao, cà phê, thuốc nhuộm thiếu hụt, ảnh hưởng đời sống dân chúng.

Hải quân lực yếu, cố đầu không màng đuôi, chỉ bảo vệ tàu bản quốc và tuyến hàng hải chính. Tàu mậu dịch nước khác tự lo.

“Trên là tình hình an toàn gần biển tháng qua,” Đinh Một Ngu khép văn kiện, tổng kết, “Tình thế xấu đi nhanh. Hải tặc đa phần là Anh, ít là Hà Lan, Tây Ban Nha đi theo cướp. Nguyên Đán, ‘Tám Tháng Mười Rằng’ cứu vài thủy thủ Anh từ thuyền nhỏ đâm đá ngầm ngoài La Hiệp Cảng. Họ khai, bị Công Ty Đông Ấn, Virginia Công Ty, Công Ty Thương Nhân Mạo Hiểm Gia xúi giục hoặc thuê tấn công tàu, cảng ta.”

“Vậy không có chính phủ Anh chủ đạo?” Tư pháp ủy viên Bạch Văn Nhã, tựa ghế, hỏi.

“Đúng vậy,” Đinh Một Ngu khẳng định, “Chính phủ Anh hiện thiếu sức lo Nam Đại Tây Dương. Quốc vương Charlie I, vì bổ nhiệm Laud, bộ hạ cũ công tước Bạch Kim Hán, làm Canterbury giáo chủ, căng thẳng với Scotland, có thể khai chiến. Anh thiếu quân phí, vua và hội nghị cãi nhau, khó hình dung họ điều quân viễn chinh một quốc gia xa lạ cách vạn dặm.”

“Vậy địch ở duyên hải, tuyến hàng hải là tàu các công ty?” Bạch Văn Nhã thở phào khi Anh không nhúng tay.

“Không đánh Anh đau thấu tim, trông họ tự rút? Mơ đi!” Bành Chí Thành, mặt đen, châm chọc Bạch Văn Nhã, “Mâu thuẫn căn bản với các công ty Anh là gì? Cướp vài tàu? Ngây thơ! Với Virginia Công Ty, Massachusetts Loan Công Ty, có thuộc địa, tự trị, công nghiệp ở Bắc Mỹ, Đông Ngạn là đối thủ thương nghiệp nhỏ, đối thủ tranh quyền chủ đạo Tân Đại Lục lớn. Không thì họ phí sức đối phó ta?”

Bạch Văn Nhã, luật sư, cựu thanh niên văn nghệ, mặt lúc đỏ lúc trắng.

“Còn Công Ty Đông Ấn, Công Ty Thương Nhân Mạo Hiểm Gia rõ hơn,” Bành Chí Thành cười khẩy, “Ta c抢 thị trường. Ta biến len dạ lợi nhuận cao thành giá cải trắng, đẩy vải bông Ấn Độ khỏi nhiều thị trường, đè bẹp công nghiệp dệt bông Anh mới nhú. Không liều với ta, họ đóng cửa luôn. Biết mâu thuẫn không thể hòa giải? Đây là! Chỉ giải quyết khi một bên nhượng bộ, hoặc qua bạo lực kịch liệt.” Bành Chí Thành châm chọc, “Anh không đau, họ tự rút? Mơ đi!”

Lời Bành Chí Thành khiến lòng mọi người nặng trĩu. Cạnh tranh không chết không ngừng đau đầu nhất. Thị trường châu Âu (Pháp, Thần Thánh La Mã Đế Quốc, Bắc Âu, Nga, Ba Lan-Litva, Italy, Tây Ban Nha, Ottoman) hơn 100 triệu dân, Đông Ngạn chiếm 2%, Anh đã nổi giận. Nếu chiếm toàn bộ, Anh có thể phát động chiến tranh diệt quốc.

“Hải quân bộ có đối sách gì?” Mã Giáp, Quốc Vụ Viện tổng lý, đau đầu vì Bành Chí Thành, hỏi Vương Khải Niên.

Vương Khải Niên, giữ điệu thấp, bị Mã Giáp kéo ra, buộc mở miệng, “Hải quân lực yếu. ‘Tự Do Mậu Dịch’ ở Đại Ngư Hà Tạo Thuyền Hán còn một năm hoàn công. Mậu dịch đứt, gỗ đỏ Brazil không nhập, có thể trễ hơn. Nhưng hai tàu tuần tra nhanh ‘Dương Võ’ cấp ở Trấn Hải Tạo Thuyền Hán hơn hai tháng hoàn công, sẽ giảm bớt quẫn cảnh.”

“Ta hỏi đối sách, ngươi nói lung tung gì!” Mã Giáp nổi nóng, trừng Vương Khải Niên, “Kinh tế quốc gia khó khăn, hải quân phải giải nguy. Đừng giả ngốc! Hôm nay không nói rõ một hai ba, ta với Mã chủ tịch triệu đại hội loát ngươi!” Mã Giáp gầm, “Nói phương châm, đừng vòng vo, ta không kiên nhẫn!”

Mọi người giả vờ không nghe lời đe dọa loát ủy viên, nhìn notebook, làm bộ trầm tư.

Không đường lui, Vương Khải Niên hắng giọng, “Hải quân ngắn hạn có 12 tự phương châm: Bình tĩnh quan sát, vững vàng ứng phó, có thành tựu.”

“Giải thích thế nào?” Mã Giáp truy hỏi.

“‘Bình tĩnh quan sát’: xác định thực lực, quyết tâm, hậu cần, tình thế quốc tế của địch, tránh đánh không chuẩn bị. ‘Vững vàng ứng phó’: hải quân yếu, ưu tiên giữ tuyến hàng hải, cảng an toàn, bảo vệ quốc thổ, ổn định lòng dân. ‘Có thành tựu’: sau khi Đệ Nhất Hộ Tống Phân Hạm Đội về, tiến hành hành động lớn, suy yếu ý chí, dao động quyết tâm địch, tức đánh xúc tiến hòa.”

“Hành động lớn? Mục tiêu? Đánh đến mức nào?” Mã Giáp hỏi.

“Mục tiêu: khu vực lợi ích thương nghiệp Anh như đảo nhỏ Biển Caribê, thuộc địa Bắc Mỹ, trạm mậu dịch Tây Phi, tuyến mậu dịch phương đông. net Đó là mệnh căn. Phá hủy hoặc khống chế, họ mới biết đau, tự hỏi chính sách thù địch, tạo cơ sở hòa đàm,” Vương Khải Niên trình bày kế hoạch xâm lược táo bạo.

“Nắm chắc bao nhiêu?” Mã Càn Tổ, chủ tịch chấp ủy hội, lên tiếng.

“Hai chiến hạm, hai tuần tra nhanh, hai tàu bảo vệ xuất động, đánh cứ điểm Anh, ưu tiên giết người, phá cơ sở, vào nhanh ra nhanh, trước khi Anh phản ứng, rút, đạt mục tiêu chiến lược,” Vương Khải Niên nói.

“Có thể thực thi. Hải quân bộ lập kế hoạch chi tiết, nộp chấp ủy hội thảo luận,” Mã Càn Tổ trầm ngâm, quyết định.

Tiêu Bách Lãng và mọi người phụ họa. Mã Giáp khẽ nhíu mày.
 
Back
Top Bottom