Ban đầu, ta cứng đầu không theo ông già đó.
Ông ta cũng không nhiều lời nữa, trực tiếp quay lưng bỏ đi không thèm ngoảnh mặt.Sương đêm lúc ấy đã phủ xuống dày đặc, gió từ sườn núi thổi qua mang theo hơi lạnh buốt giá, quấn lấy thân thể ta như từng dải lụa ẩm ướt.
Xa xa, trong ánh trăng lờ mờ, có tiếng chó hoang tru lên từng hồi, vọng lại từ cánh rừng tăm tối phía chân trời.Ta nhớ khi ông ta đã đi được một đoạn ta mới qua cơn sợ hãi.Tử thi dưới chân ta đã bắt đầu lạnh cứng, ánh trăng chiếu xuống, hắt lên làn da tái mét, có thi thể co quắp, có thi thể mắt vẫn còn trợn trừng.
Mùi máu tanh nồng bốc lên quyện với mùi tro cháy khét từ những căn nhà đổ nát khiến dạ dày ta cuộn trào.
Cảnh tưởng ấy ghim vào tâm trí khiến bụng ta nôn nao, cổ họng lờm lợm như muốn nôn, trong đầu ngập tràn nỗi căm hận, còn lòng ta đau đến tê dại.Gió thốc qua những tán cây, cuốn bụi đất và tro tàn lấp lánh dưới ánh trăng, cảnh hoang tàn của thôn xóm đêm nay bị biến thành một bãi tha ma trải dài, chôn vùi tất cả những gì ta từng biết, từng yêu thương.Ta, cứ ngồi đó thẫn thờ.
Muốn chạy ư?
Ta không biết chạy đi đâu!Muốn báo thù ư?
Báo thù ai và làm thế nào để báo thù đây?Ta không biết phải làm gì nữa, cứ đần mặt ra đó, khóc cũng chẳng khóc được nữa.
Ta cũng chẳng có gan tự sát để về với cha mẹ được.Bất chợt ta thấy cái gì cứ lấp lánh trên người hắn.Ánh sáng đó rất nhỏ, yếu ớt như một con đom đóm giữa bãi tha ma, nhưng lại vô cùng rõ ràng giữa màn đêm đặc quánh xung quanh.Ta cúi xuống, nhặt miếng ngọc bội từ trên thi thể tên tu sĩ chó má này.
Ánh sáng mờ nhạt của nó khẽ lóe lên giữa bàn tay run rẩy của ta.Lúc đầu, ta chỉ cảm thấy giận dữ, muốn giật lấy bất cứ thứ gì thuộc về hắn để trút hận.
Nhưng khi ngón tay chạm vào những hoa văn khắc tỉ mỉ trên ngọc, một ý nghĩ đột ngột nảy sinh trong đầu ta, như một tia lửa bén vào đống cỏ khô.Nếu hắn có gia đình thì sao?
Có cha mẹ, vợ con, anh em bạn bè hay không?
Nếu ta không thể giết hắn, ta sẽ giết người thân của hắn.
Cho hắn chết rồi mà vẫn nếm mùi vị mất mát như ta hôm nay.
Để hắn biết thế nào là máu chảy thành sông, nhà tan cửa nát.Ý nghĩ ấy khiến ta rùng mình.
Đó là lần đầu tiên trong đời, ta có một suy nghĩ độc ác đến vậy.
Nhưng càng nghĩ, lòng ta càng cảm thấy dễ chịu.
Sự uất nghẹn như được xoa dịu phần nào.Ta biết điều đó là sai, nhưng ta mặc kệ!Công bằng ư?
Lẽ phải ư?
Người nhà ta chết oan khuất, có ai nói về công bằng không?Những kẻ này mạnh, nên chúng giết người nhà ta mà chẳng ai dám ho he.
Vậy ta cũng phải mạnh giống chúng, để giết người thân của hắn.
Ta với người thân của hắn không có cừu báo gì.
Nhưng có trách, trách các ngươi là những kẻ có mối quan hệ với tên tu sĩ ma đầu này.Ta chợt nhận ra thế giới này là vậy.
Kẻ yếu thì kêu trời, kẻ mạnh thì giết người mà chẳng sao.
Nếu ta không muốn khóc than mãi như một con chó bị đánh gãy chân, thì ta phải trở thành kẻ mạnh, kẻ mạnh nhất.Nghĩ đến đây, ta siết chặt ngọc bội, cảm giác lạnh buốt lan khắp lòng bàn tay, nhưng trong tim ta, ngọn lửa hận thù đã bắt đầu bùng cháy.Ta phải sống!
Phải sống, để trả lại tất cả!Đương nhiên, nói thì dễ làm gì khó, quan trọng nhất phải sống tiếp thì mới có thời gian truy tung, và ta cũng phải mạnh hơn, mới có thể làm chuyện sát nhân.
Nghĩ vậy, chi bằng ta tạm theo lão già kia, cảm giác ông ta rất mạnh, dẫu cho có làm tạp dịch thì vẫn có thể học trộm vài ngón đòn sát thủ.Vậy nên ta đứng dậy, bước chân vụng về tránh qua xác người dưới đường, nhanh chóng bắt kịp đi theo ông già kia, dường như ông ta biết ta sẽ đi theo nên cố tình đứng ở phía bên kia cầu.Quả thật lúc ấy ta suy nghĩ có phần ngây thơ và đơn giản.Lão già đó dẫn ta lên núi Lam Thương lúc nửa đêm, đám tu sĩ này thay vì dùng đuốc để soi đường, ông ta có lẽ vừa thi triển một loại thuật pháp đối với ta không khác nào truyền thuyết, biến ra một quả cầu lửa chiếu sáng không gian rộng cả một vùng.Ánh lửa vàng cam lập lòe hắt lên những tán cây rậm rạp hai bên đường, tạo thành những bóng đen quái dị nhảy múa như ma quỷ.
Thỉnh thoảng có tiếng cú rúc hoặc cành khô gãy răng rắc làm tim ta giật thót.Ta thầm nghĩ trong bụng, bảo sao ai nấy cũng đều muốn tu tiên, thì ra để tiếp cận những thuật pháp tiện lợi như vậy.
Cứ như y ta, có loại thuật pháp này, ta không phải ngày đêm chặt củi, kiếm dầu để nấu cơm đun nước nữa.Ông già đó mặc bộ đồ màu trắng - nếu ta không biết, trong đêm tối thế này tưởng ông ta là ma không chừng - dẫn theo ta leo từng bậc đá một.
Mặc dù rất mệt, chân đã mỏi nhừ, mắt lim da lim dim như sắp chết, nhưng ta vẫn cắn răng chịu đựng để khỏi ông ta phải thương hại.Được người khác thương hại không phải chuyện gì nhục nhã, nhưng ta ghét bọn tu sĩ thương hại kể cả khi lão già này đã cứu mạng ta.
Trong lòng ta thầm nghĩ, nếu sau này ta có khả năng, ta muốn diệt toàn bộ đám tu sĩ, dùng chính thuật pháp cùa bọn chúng để giết chúng.
Không còn gì thống khoái hơn khi dùng thanh kiếm của kẻ thù để đâm kẻ thù, đây là lời của một gã tu sĩ lúc đàm luận với đồng bọn mà ta nghe lỏm được.Chẳng biết đi bao lâu ông già đó và ta dừng trước một cổng tam quan với mấy cột gỗ nhỏ, trên đó đề cái bảng gì đó ta vốn không biết chữ nên chẳng quan tâm.Thấy ta liếc qua tấm bảng đó, ông ta hỏi: "Ngươi muốn biết trên đó đề gì ư?"
"Không muốn!", ta trả lời cộc lốc.Ông ta lại vuốt râu cười nhẹ: "Trên đó đề là Diệu Hoa môn!"
Ba từ "Diệu Hoa môn" phát ra làm ta chấn động, tê cứng cả người.
Đúng, ta là một đứa trẻ, đúng, ta là một phàm nhân.
Nhưng ta từ nhỏ cũng phải làm phục dịch cho đám tu sĩ trong thành, chỉ có ngu mới không nắm bắt thông tin qua những lời qua tiếng lại của bọn họ nói chuyện với nhau.Ta biết Diệu Hoa môn có ý nghĩa gì.Trong tu thành Quan Trúc này, ngoài chủ thành là Thiên Đạo Kiếm tông còn chút liên quan, nhưng Diệu Hoa môn cũng được nhắc đến kha khá chẳng kém, xem chừng là nổi danh lắm.Nhưng điều ta ấn tượng về Diệu Hoa môn là lúc ta phải đứng hầu trà cho mấy lão tu sĩ, nghe qua bọn hắn từng bàn luận đại khái rằng, Diệu Hoa môn tuy là một môn nhỏ chẳng đáng lưu tâm trong cái thành Quan Trúc này, nhưng môn chủ của họ Đặng Nhất Mai với Diệu Hoa kiếm kinh lúc chỉ mới Phá Cảnh Xung Thiên đã dám ngạnh cứng một tu sĩ Chân Cảnh vừa Quy Chân viên mãn.Qua giọng điệu mà tên tu sĩ phải sùi bọt mép ra kể lể, xem ra cái ông Đặng Nhất Mai hay Diệu Hoa kiếm kinh là một cái gì đó kinh thiên động địa.
Phải biết là bọn tu sĩ hay khinh người này mà lộ ra bộ dạng cường điệu tán tụng đó, hẳn kẻ hoặc thứ mà bọn hắn nhắc đến vô cùng phi phàm.Chuyện đó, ta nghe rất rõ.
Một cuộc chiến khiến giới tu sĩ tu thành Quan Trúc phải chấn kinh, cách cổng thành bốn chục dặm.Khi ấy, tên tu sĩ Chân Cảnh kia vì tranh đoạt một kiện pháp bảo mà đồ sát cả một đội ngũ tán tu hơn ba mươi người.
Hắn thi triển thuật pháp tên chi đó nghe rất oách, "Phong Hỏa Lạc Trận", trời đất phút chốc biến sắc, ngọn lửa từ hư không giáng xuống, gió lốc quét ngang, thi thể cháy khét nằm rải khắp.
Những kẻ còn sống sót cũng thành phế nhân.Ngay lúc đó, Đặng Nhất Mai xuất hiện, một tu sĩ Phá Cảnh mới đang còn Xung Thiên.
Phải biết ở cái giới tu tiên này, tu sĩ cảnh thấp gặp tu sĩ cảnh cao đều giống như gặp ông bà tổ tiên vậy.Đặng Nhất Mai năm đó chỉ đứng giữa không trung, không nói lời nào, tay cầm kiếm.
Một kiếm chém ra, thiên địa đột nhiên tĩnh lặng.
Lửa tắt.
Gió ngừng.Chỉ có một luồng kiếm quang, vô hình vô tướng, xuyên qua không gian.
Tên tu sĩ Chân Cảnh hét lớn, chân nguyên bùng nổ, lại bung ra thuật pháp mang tên "Sơn Địa Kiên" hiện lên như núi lớn sừng sững chặn trước người.
Nhưng tất cả sụp đổ.
Núi vỡ, thuật pháp tan rã.Hắn thoát chết, nhưng bị chém đứt nửa cánh tay, máu tuôn xối xả, chật vật tháo chạy, nét mắt hắn lộ rõ vẻ kinh hoàng không dám tin, từ đó biệt tăm biệt tích.Đám tu sĩ bảo nhau, tên đó tuy chỉ là Chân Cảnh Quy Chân viên mãn, nhưng dù sao cũng đang tu luyện Phục Vị có chút tiến bộ, đã có một chút lĩnh hội thần văn, chỉ tiếc chưa kịp sử dụng đã cụt mất bố một tay.Nhưng khiến người ta choáng váng hơn cả là Đặng Nhất Mai, tu sĩ chỉ mới Phá Cảnh Xung Thiên, còn phải leo qua Vọng Nguyệt và Hoàn Sinh mới tạm coi như là chờ đột phá Chân Cảnh, vậy mà dùng Diệu Hoa kiếm kinh đánh bại.
Đám tu sĩ giả sử rằng, nếu như ông ta lúc đó tu vi ngang cảnh giới, cùng trình độ thì lẽ tên tu sĩ Chân Cảnh kia đã chết ngay trong một ánh nhìn mà chẳng hiểu vì sao.Chỉ có kẻ tận mắt chứng kiến trận chiến đó mới hiểu.
Đó không đơn thuần là thực lực cảnh giới.
Đó là tâm kiếm.
Một kiếm xuất ra, mọi pháp tắc thiên địa đều bị đè nén.Ta nghĩ lại mà lạnh gáy, lom lom nhìn ông già trông có vẻ mặt hiền từ này, ánh mắt lão ta như xuyên thấu tâm can ta như hiểu lòng ta thế nào.
Ta bỗng thấy chột dạ, sợ rằng ông ta biết được ý định độc ác của ta, có khi nào cho ta một kiếm xuyên tim như tên tu sĩ điên loạn kia không nhỉ?Ta lại ngẩn người, cứ nghĩ đến việc tên tu sĩ chỉ trong tích tắc đã thảm diệt cả một thôn, vậy mà chết dưới tay ông già kia chỉ trong một chiêu kiếm xuyên tim... không lẽ ông ta là...Đúng lúc này một người đàn ông trung niên bước ra.
Người đàn ông này nhìn ta một cái hời hợt rồi quay qua cung kính với lão già kia nói: "Môn chủ ngài cuối cùng đã về!
Đệ tử chờ ngài mãi!"
Môn chủ, hai cái tiếng đó vang lên, đến tên đần cũng biết ông già dắt ta lên núi Lam Thương này chính là môn chủ của Diệu Hoa môn, qua lời kể của bọn tu sĩ, cũng xứng xếp vào hàng cường giả, Thiên Đạo KIếm tông còn nể mặt vài phần, mà thực chất là nể mặt Diệu Hoa kiếm kinh.Môn chủ Diệu Hoa môn gật đầu bảo: "Tư Bình à, ta dự tính về môn sớm, không ngờ đi gần tới núi Lam Thương cảm nhận được tà khí sát phạt cực nặng nên ta rẽ sang hướng đó, chỉ tiếc không kịp cứu người, cả thôn bị thảm sát, chỉ còn duy nhất đứa nhóc này."
Thế là Đặng Nhất Mai, cùng đệ tử của ông ta, Tư Bình, đứng trò chuyện một lúc lâu.Ta chẳng quan tâm họ nói gì, chỉ cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ.
Rốt cuộc, ta không nhịn được mà ngáp một cái rõ to.
Tiếng ngáp phá vỡ cuộc trò chuyện của hai người, khiến cả Đặng Nhất Mai lẫn Tư Bình đồng loạt quay sang nhìn.Ta có chút bối rối, lúng túng giải thích: "Ta... ta chỉ là... buồn ngủ!"
Tư Bình cau mày, rõ ràng là khó chịu trước thái độ của ta.
Nhưng Đặng Nhất Mai thì vẫn giữ bộ mặt hiền từ ta trông đến giả tạo mà nói: "Thằng bé này buồn ngủ rồi.
Tư Bình, ngươi đưa nó đến chỗ lão Hạc để nghỉ ngơi."
Tư Bình gật đầu dạ vâng, rồi lập tức dẫn ta đi.Bọn ta men theo một lối mòn nhỏ, không đi qua cổng chính của Diệu Hoa môn mà vòng sang một khu đất hẻo lánh.
Con đường tối đen, chỉ có ánh trăng nhợt nhạt soi rọi.
Tiếng côn trùng kêu rả rích, gió đêm lạnh lẽo len lỏi qua những bụi cây hai bên đường.Cuối cùng, trước mặt ta hiện ra một căn nhà tranh cũ kỹ, vách đất loang lổ, trông chẳng khác gì những căn nhà tồi tàn dưới thôn.
Tư Bình tiến lên, gõ cửa theo một nhịp điệu nhất định.Cạch cạch... cạch cạch cạch cạch... cạch... cạch cạch cạch...Ta đoán đây là ám hiệu riêng của bọn họ.
Một lát sau, bên trong gian phòng hắt ra chút ánh sáng leo lét, cánh cửa phát ra tiếng kẽo kẹt rồi từ từ mở ra.Dưới ánh trăng nhợt nhạt, ta nhìn thấy một lão già gầy gò, gương mặt khắc khổ, tóc bạc được quấn khăn nâu đơn sơ.
Bộ quần áo trên người lão vá chằng vá đụp, ống tay áo đã sờn cũ.Nhìn lão, ta có thể đoán ngay đây là người tạp dịch trong Diệu Hoa môn, chắc hẳn là lão Hạc mà Đặng Nhất Mai đã nhắc tới.Tư Bình chẳng buồn dài dòng, hắn hất cằm về phía ta rồi nói với lão già: "Lão Hạc, thằng bé này được môn chủ đưa về, từ nay sẽ làm tạp dịch ở chỗ ông.
Ông dạy nó quy củ, giao việc cho nó mỗi ngày.
Diệu Hoa môn sẽ bổ sung thêm phần bạc."
Giọng Tư Bình lười biếng, thản nhiên, vô tình làm ta phải trừng mắt nhìn hắn, trong lòng tràn đầy khó chịu.Hắn đối xử với ta chẳng khác gì một món đồ vật, một con hàng được quăng đến tay người khác mà chẳng chút bận tâm.
Nhưng dường như đối với hắn, đây là chuyện quá đỗi bình thường, hắn thậm chí còn không buồn liếc lại ta một lần nào nữa.
Nói xong, hắn lập tức quay lưng rời đi, như thể nơi này quá thấp kém để hắn đứng lâu thêm một chút nữa.Nhìn bóng lưng xa dần của hắn, ta cắn chặt răng.
Cảm giác nhục nhã dâng trào trong lòng.
Ta vốn không quan tâm đến việc mình phải làm tạp dịch, nhưng cái cách hắn hời hợt vứt ta cho người khác như một kẻ vô giá trị khiến ta không thể nào nuốt trôi được.Dù vậy, ta không lên tiếng.
Ta hiểu rõ rằng bản thân bây giờ chẳng là gì cả.
Muốn phản kháng ư?
Ta có tư cách gì để phản kháng đây?Lão Hạc không để ý đến sự tức giận của ta, ông mỉm cười hiền lành, đưa đôi tay khô gầy nắm lấy bả vai ta, kéo ta lại gần.Trong ánh mắt già nua ấy không hề có sự khinh miệt hay thờ ơ, chỉ có sự quan sát cẩn thận, như thể muốn ghi nhớ gương mặt ta thật kỹ.
Bất giác, ta cảm thấy có chút xấu hổ dẫu ta là nam nhi."
Thằng bé này mặt mũi cũng khá, trắng trẻo đẹp trai, duy có điều mũi hơi to một chút.", giọng già nua của lão Hạc vang lên.Lời nhận xét vô tư của lão Hạc khiến ta đỏ bừng mặt.
Trước giờ, ngoài cha mẹ, chưa ai khen ta như vậy.
Mà cha mẹ ta giờ...
đã không còn nữa.
Nghĩ đến đây, lòng ta đau thắt lại.
Nước mắt bất giác trào ra, những giọt lệ lặng lẽ lăn xuống má, rơi xuống nền đất lạnh lẽo.Ta, cuối cùng cũng có thể khóc rồi.Lão Hạc thoáng ngạc nhiên, rồi ông dịu giọng, đặt tay lên vai ta, giọng nói trầm ấm đầy quan tâm "Thằng nhóc này sao vậy?
Có chuyện gì vào đây kể ta nghe qua xem nào!"
Vào trong, ta không còn kìm nén được nữa.
Tất cả những đau đớn, kinh hoàng và uất hận bị dồn nén từ trước đến giờ như vỡ òa ra trong một cơn sóng dữ.
Ta khóc, khóc đến mức toàn thân run rẩy, nước mắt không ngừng tuôn rơi, chảy dài xuống hai bên má, rơi xuống nền đất lạnh lẽo.Căn nhà tranh của lão Hạc nhỏ bé và đơn sơ, chỉ có một ngọn đèn dầu leo lét đặt trên chiếc bàn gỗ cũ kỹ, ánh sáng yếu ớt hắt lên những bức vách đất loang lổ, tạo thành những cái bóng nhảy múa trên tường.Không gian chật hẹp, đồ đạc ít ỏi, chỉ có một chiếc giường tre đã cũ, một cái chõng gỗ thấp, vài bộ quần áo vá chằng vá đụp treo nơi góc nhà.
Không khí trong phòng vương mùi ẩm mốc, lẫn với một chút hương nhang trầm thoang thoảng, như thể lão Hạc vẫn thường thắp nhang cho ai đó.Giọng ta nghẹn lại khi kể cho lão Hạc nghe những gì đã xảy ra.
Từng câu, từng chữ như dao cứa vào tim ta, nhưng ta vẫn phải nói.
Về cha ta, người bị giết ngay trước mắt ta chỉ trong một cái chớp mắt, đầu lìa khỏi cổ mà thân thể vẫn còn run rẩy.
Về mẹ ta, người đã bịt chặt miệng ta để ta không phát ra tiếng động, rồi liều mạng lao ra ngoài, hy vọng có thể đánh lạc hướng kẻ thủ ác.Nhưng tất cả đều vô ích.
Cả thôn đã trở thành một bãi tha ma, nơi xác người chất chồng, mùi máu tanh nồng tràn ngập trong không khí.Ta kể hết, từng chi tiết một, giọng nói khản đặc, đôi lúc bị đứt quãng bởi những tiếng nấc nghẹn.
Lão Hạc không ngắt lời ta, cũng không tỏ vẻ thương hại, ông chỉ ngồi đó, im lặng lắng nghe.
Đôi mắt ông sâu thẳm, ánh lên một tia hiểu biết và đồng cảm.
Ta nhận ra rằng, trong mắt ông, những gì ta vừa trải qua không phải là một câu chuyện xa lạ.Gió đêm luồn qua những khe hở trên vách đất, mang theo hơi lạnh phả vào da thịt, khiến ta khẽ rùng mình.
Ngọn đèn dầu khẽ lay động, ánh sáng vàng vọt chập chờn như sắp tắt.
Cả căn nhà chìm vào sự tĩnh lặng nặng nề, chỉ còn tiếng nấc nghẹn của ta và hơi thở trầm ổn của lão Hạc.Cuối cùng, khi ta đã kể xong, chỉ còn lại tiếng thở dốc xen lẫn những tiếng nấc nhỏ, lão Hạc mới vươn tay ra, nhẹ nhàng vỗ lên lưng ta.Giọng ông trầm ấm, chậm rãi mà chắc chắn: "Ngày hôm qua chỉ là một cảnh mộng, và ngày mai chỉ là một giấc mơ.
Nhưng nếu con sống tốt hôm nay, thì mỗi ngày qua sẽ là giấc mơ hạnh phúc, và mỗi ngày mai sẽ là giấc mơ hy vọng."
Những lời đó không thể ngay lập tức xoa dịu nỗi đau trong lòng ta, nhưng chúng giống như một ngọn đèn le lói giữa đêm tối, không rực rỡ nhưng đầy tình người đủ để khiến ta không lạc lối.