Ngôn Tình Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám

[BOT] Dịch

Ban Quản Trị
24/9/25
117,272
0
36
AP1GczNiWeenKDRxdVDvEDUTkwdKEgeAeoQNDDfwXYBLlFri6S7EWJLRolEMesGwFImuv0IBUfTIcqmFsPOtXANPAnbqAjRLWDd21I6gwx-WfNfFNuQknclCBv-shAXo30IohHJUA6XSc1qw2eDwc9_Or5om=w215-h322-s-no-gm

Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Tác giả: Một Nhánh Đào Đông
Thể loại: Ngôn Tình, Xuyên Không, Cổ Đại, Khác
Trạng thái:


Giới thiệu truyện:

Diêu Khải Chiêu - quan Tế tửu ở Quốc Tử Giám, là người thanh liêm chính trực, cả đời cần kiệm liêm khiết, chưa từng mắc lỗi.

Vậy mà một ngày nọ, ông đột nhiên công khai hủy hôn sự của cháu gái ngay giữa phố, thậm chí còn đánh cả quan viên triều đình. Từ đó tiếng xấu lan truyền, sức khỏe cũng sa sút theo.

Ông sống cả đời nghèo khó, tài sản chỉ vỏn vẹn hơn hai mươi quan tiền và một căn nhà nhỏ bên cạnh Quốc Tử Giám... Mà ngôi nhà nhỏ ngay trung tâm Biện Kinh ấy lại đang nợ chùa Hưng Quốc một khoản nợ khổng lồ!

Diêu Như Ý – người đã thất bại sau tám năm chống chọi với ung thư, xuyên không đến đây đúng lúc chùa tới đòi nợ, bếp thì trống rỗng, ông cháu nguyên chủ vì cùng đường đã định quyên sinh.

Được sở hữu một cơ thể khỏe mạnh như vậy lần nữa, dù khó khăn mấy cũng phải sống tiếp.

Huống chi ngôi nhà của ông lại thông ra cổng sau của Quốc Tử Giám, vị trí địa lý chẳng phải quá tuyệt sao?

Diêu Như Ý vực dậy tinh thần, mang nghề cũ của gia đình từ kiếp trước ra làm lại: mở tiệm tạp hóa ngay bên trường học thời cổ đại: bán văn phòng phẩm, bán xúc xích nướng, bán trái cây, bán bữa sáng, bán tuyển tập thơ văn hay, “ba năm tiến sĩ – năm năm trạng nguyên”, lại còn bán cả chậu rửa mặt, xô nước, bàn chải, khăn mặt, bột giặt...

Kiếm tiền trả nợ đồng thời còn có thể ngày ngày ngắm nhìn các tài tử trẻ tuổi tuấn tú ở Quốc Tử Giám, cuộc sống đúng là ngày một thú vị.

Lâm Văn An, vì bị thương thêm mẫu thân qua đời nên về quê nhiều năm, cuối cùng cũng hồi kinh, lại nghe được tin nhà ân sư đã tan nát.
Vội vàng trở về, chàng chỉ thấy tiểu viện ngày xưa đã biến thành một cửa tiệm tấp nập, hàng hóa đủ loại, sau quầy hàng cao cao là một cô gái nhỏ mỉm cười ngọt ngào:
“Lang quân, ngài muốn mua gì ạ?”

“……” Đây là cháu gái nhút nhát, rụt rè, từng chẳng dám nói chuyện với ai của ân sư sao?

Lâm Văn An còn đang do dự thì nghe từ hậu viện vang lên tiếng quát vang rền của ân sư:
“Các ngươi làm bài nát bét thế này! Về quê làm ruộng đi là vừa!”

Chàng ghé mắt nhìn, thấy vài học trò đang bị mắng đến rũ như rau muối dưa, còn ân sư thì bưng chén trà, gạt đi bọt trà, cầm thước gõ đầu họ không thương tiếc.

Lâm Văn An: “……” Ai tung tin đồn thất thiệt vậy! Ai!​
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 1: Than ôi!


Mùa thu năm Bảo Nguyên thứ tám, trong con hẻm nhỏ cạnh cổng sau Quốc Tử Giám.

Trống canh năm vừa dứt, trời còn chưa sáng hẳn, trong hẻm đã vang lên tiếng học sinh nhà ai đó đọc sách lớn tiếng:

“Than ôi! Nguy thay cao thay! Đường Thục khó đi, còn khó hơn lên trời xanh!”
“Con tằm từ… từ… từ gì nữa nhỉ?” - Giọng kia ngắc ngứ một chút, rồi lại gào lên từ đầu: “Than ôi!” <i>(Bài thơ Thục Đạo Nan – Lý Bạch)</i>

Diêu Như Ý bị tiếng "than ôi" đánh thức, dụi mắt ngồi dậy.

Trên xà nhà thấp treo mấy giỏ tre đựng rau củ khô, cửa sổ tre đan dán giấy thô đã mốc loang lổ. Trong căn phòng nhỏ, từ giường đất, bàn gỗ, tủ thấp đến ngọn đèn dầu, đâu đâu cũng cũ kỹ loang lổ, mang theo vẻ túng thiếu eo hẹp.

Diêu Như Ý nhìn căn phòng cổ xưa mộc mạc trước mặt, dù đã xuyên không được mười mấy ngày, mỗi sáng tỉnh dậy cô vẫn ngẩn người một lúc.

Lúc mới đến, cô hoảng loạn chưa kịp định thần, thân thể này còn bị ngộ độc khí than, cả ngày mơ màng buồn nôn. Cô cứ đờ đẫn, thỉnh thoảng có một phụ nữ trung niên quấn khăn vải xanh vừa càu nhàu vừa bưng thuốc đưa cơm cho cô. Cô thì hoa mắt ù tai, tay chân mềm nhũn, vài ngày đầu chỉ biết mặc người xoay trở. Dọa cho bà ấy phải kéo một lão lang trung đeo hòm thuốc đến chữa gấp, vừa bốc thuốc vừa châm cứu, bận rộn cả đêm.

Diêu Như Ý bị châm đến phát khóc, tiếng khóc nấc nghẹn làm cô cảm nhận được rõ ràng cơn đau thực sự, cũng là lúc cô chấp nhận được sự thật rằng mình đã xuyên không sau khi c.h.ế.t.

Cũng khó trách cô tiếp thu chậm như vậy, bởi lần này cô xuyên vào trong một quyển tiểu thuyết. Ngày hôm ấy, cô vừa phẫu thuật xong, đau đớn trằn trọc mãi không ngủ được, bèn tiện tay mở một cuốn truyện sủng ngọt tên là 《Quán Mì NhỏỞ Biện Kinh》 để giết thời gian, đọc đến giữa chừng thì bất ngờ thấy một cái tên quen quen, không nhịn được đã để lại bình luận: “Trùng tên với người cháu gái làm nổ tung cả bếp kia, có duyên ghê!”

Tiếc là chưa kịp đọc nốt ngoại truyện thì vài hôm sau cô đã qua đời vì biến chứng sau phẫu thuật và suy gan cấp tính.

Vừa mở mắt ra, cô đã thực sự trở thành cô cháu gái kia – “người cháu gái làm nổ tung căn bếp”.

Dù kiếp trước của cô ngắn ngủi chưa đầy hai mươi năm, phần lớn thời gian còn là những tháng ngày gắng gượng sống trong bệnh viện, nhưng cô chưa từng nghĩ mình sẽ xuyên không. Đừng nói đến chuyện phi thực tế ấy, cô còn có một người bà rất yêu thương mình. Vì bà, cô vẫn luôn muốn sống tiếp, dù chỉ thêm một năm, nửa năm, được ở bên bà ngày nào hay ngày đó.

Kết quả giờ thì hay rồi, chẳng nói lời nào đã “rầm” một phát ném cô vào trong truyện.

Quyển truyênj này là một truyện xuyên không lấy bối cảnh đời Tống giả tưởng, thuộc thể loại ẩm thực, làm ăn. Nhân vật chính là một đầu bếp hiện đại tên Thẩm Miểu, xuyên thành vợ cũ bị ruồng bỏ, rồi gây dựng lại sự nghiệp bằng quầy bánh nhỏ trong thành Biện Kinh. Diêu Như Ý sau khi phát bệnh đặc biệt mê thể loại cuộc sống hàng ngày nhẹ nhàng, nuôi mèo nấu cơm như thế, nhất là trong truyện có rất nhiều món ngon mà cô kiêng ăn không được đụng vào, chỉ nhìn thôi cũng thỏa mãn phần nào.

Cô vốn định giết thời gian, chẳng ngờ lại đọc đến nỗi xuyên luôn vào.

Đến nước này thì chỉ còn cách cố gắng nhớ lại mọi chi tiết trong truyện liên quan đến nguyên chủ. Đã đến rồi, cũng phải tìm cách sống tiếp thôi? Kiếp trước khó khăn như thế cô còn không nghĩ đến chết, giờ có thân thể khỏe mạnh lại chịu thua sao? Bà mà biết cô yếu đuối thế này, chắc chắn sẽ lấy dép ném cô mất!

“Cứ không chết đấy, cứ phải sống lì ra.”

Đây là câu nói vàng ngọc của bà cô.

Mà cuốn truyện kia, thật ra cũng chẳng liên quan gì đến nguyên chủ, thậm chí còn không tính là nhân vật nền, chỉ nhắc đến ông nội của nguyên chủ – Diêu Khải Chiêu một lần rất ngắn gọn, chẳng có chút thông tin gì về cuộc đời cô ấy. Tệ hơn là ký ức của nguyên chủ để lại cho cô lại như bị máy hủy tài liệu nghiền nát, Diêu Như Ý ghép nối cả chục ngày mới nắm được sơ sơ đầu đuôi.

Nguyên chủ Diêu Như Ý, quê ở Tr**ng S*, Hồ Nam, mồ côi cha mẹ, sống nương tựa với ông nội.

Là con một, từ nhỏ được cha mẹ nâng niu. Sau khi cha mẹ lần lượt mất vì bệnh dịch, ông nội càng thương yêu cô hơn, nuôi thành tính cách mong manh như bình sứ. Trong truyện từng nhắc qua việc ông nội Diêu làm tế tửu Quốc Tử Giám, bắt gặp cháu rể chưa cưới Đặng Thắng trăng hoa với tiểu quan (<i>giống với trai b.a.o</i>) nên tức giận hủy hôn giữa phố, còn đấm vỡ hai cái răng của hắn.

Nghe thì hả giận, nhưng lại là khởi đầu tai họa cho nhà họ Diêu.

Diêu gia gia làm quan thanh liêm, luôn khước từ quà cáp, xử phạt nghiêm minh trong thi cử, thậm chí đến lạp xưởng do học trò biếu dịp lễ tết cũng không nhận. Chính trực như vậy thật chẳng được lòng ai. Diêu Như Ý đoán gia gia có lẽ đã đắc tội với không ít quan viên đã hòa mình vào bụi trần từ trước rồi.

Chứ đâu đến mức chỉ vì đánh người mà bị đám ngự sử xúm vào công kích?

Nhà họ Đặng mất mặt, mất đường tiến thân, liền như chó đ.i.ê.n xông tới cắn xé, không chỉ thuê đám nhàn rỗi tung tin đồn nguyên chủ khắc cha mẹ, còn vu cáo nhà họ Diêu có trai lạ ra vào, gia gia thì dung túng cháu gái tư tình.

Lời đồn như dao, không ai bênh vực. Thế nhưng Diêu gia gia vẫn không lùi bước, liên tiếp dâng tấu tố cáo nhà họ Đặng, yêu cầu nghiêm trị Đặng Thắng.

Sau cùng, Đặng Thắng – một tên quan tép riu bị cách chức, Diêu gia gia vì đánh người mà bị giáng từ tế tửu ngũ phẩm xuống làm tiến sĩ cửu phẩm. Xem như kết thúc êm xuôi.

Nguyên chủ vốn đã rụt rè nhút nhát, trong bầu không khí ngập lời gièm pha ấy lại càng như con ốc sên rụt vào vỏ, không chịu gặp ai.

Có lẽ vì áy náy, sau chuyện ấy Diêu gia gia lại càng cẩn thận chăm sóc cháu gái. Cô không ra khỏi cửa, ông ngày ngày dậy sớm nấu ăn cho cô. Cô không nói chuyện, ông mỗi ngày để lại lời nhắn bằng chữ viết. Bên ngoài thị phi dồn dập, nhưng ông đều gạt hết ngoài cửa, giúp cô có lại cuộc sống bình lặng.

Lúc cô gần như hồi phục thì lại gặp đúng đợt ân khoa triều đình thêm hàng năm, ông nội Diêu được giao ra đề và giám khảo, phải vào trường thi ở ba tháng. Không yên tâm, ông đành gửi cháu cho người thân duy nhất ở Biện Kinh - cháu họ Diêu Quý, làm tiểu lại ở phủ Khai Phong.

Nào ngờ lần nhờ vả này lại dìm nguyên chủ xuống vực sâu một lần nữa. Nhà Diêu Quý từ lâu đã oán hận hai ông cháu. Con gái nhà họ, Diêu Vân Nương, bị ảnh hưởng bởi vụ hủy hôn nên khó gả, khiến họ trút giận lên người nguyên chủ.

Không đánh mắng nhưng liên tục nói móc:
“Như Ý à, tính cách ngươi cứ âm u kỳ quặc thế này, bị người ta chê cũng chẳng oan.”
“Chẳng phải con nhà danh môn, lại cứ ra vẻ yểu điệu làm phách.”
“Ông ngươi cũng vậy, đáng lẽ nên âm thầm hủy hôn, ai lại gây chuyện giữa đường? Dù đánh rồi sau đó xin lỗi thì đâu đến mức bị giáng chức? Ngươi nhìn Vân Nương đi, bị ngươi liên lụy, bị từ chối mấy mối rồi đấy! Vậy mà ngươi còn ra vẻ lạnh lùng, như thể nhà chúng ta nợ ngươi không bằng!”

Về nhà rồi, nguyên chủ càng thêm suy sụp.

Họa vô đơn chí, tháng trước Diêu gia gia chấm bài, đọc đến bài thi quá dở của vài học sinh lười biếng, tức quá mà ngất lịm. May có người đưa kịp tới y quán nên chưa chết, nhưng sau đó đi lại khó khăn, đầu óc cũng lẫn lộn.

Bầu trời của nguyên chủ hoàn toàn sụp đổ.

Nhìn gia gia liệt nửa người, chống gậy khó khăn, thỉnh thoảng còn không nhận ra mình, cô đau khổ khóc liền mấy ngày. Cuối cùng, người vốn nhút nhát như cô lại cắn răng đóng chặt cửa, cùng ông đốt than tự vẫn. Tất cả những điều này đều là Diêu Như Ý suy đoán từ những mảnh ký ức rời rạc. Vì ngày tự vẫn ấy, trong trí nhớ của nguyên chủ là một khoảng trắng, chẳng biết rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Chỉ biết khi Diêu Như Ý tỉnh lại thì mùi khí than nồng nặc khắp phòng.

Lúc ấy cô vừa tỉnh lại liền ho khan, nôn ọe không ngừng, toàn thân mềm nhũn. Dù chẳng rõ mình đang ở đâu, cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng cô từng là một chiến binh chiến đấu với ung thư suốt tám năm, ý chí cầu sinh cực kỳ mạnh mẽ. Vừa tỉnh là tay chân cũng động, lập tức liều mạng bò ra ngoài, hí thở lấy lại chút khí, rồi quay đầu lại, bỗng nghe thấy trong phòng còn có tiếng rên khe khẽ. Cô lại cắn răng nhịn thở, bò trở vào kéo cả ông nội đang bị ngạt sắp bất tỉnh ra ngoài.

Sau này hồi tưởng lại, Diêu Như Ý cũng không biết lúc ấy bản thân lấy đâu ra sức lực lớn đến thế.

Đang nghĩ ngợi, cánh cửa kêu “két” một tiếng rồi mở ra. Một người phụ nữ trung niên quấn khăn đầu bước vào.

“Đã khỏe rồi thì dậy vận động gân cốt đi, nằm bẹp trên giường cả ngày, còn ra thể thống gì nữa!” - Người phụ nữ thấy Diêu Như Ý đã có thể ngồi dậy, ánh mắt thoáng qua vẻ chán ghét, giọng cũng chẳng mấy hòa nhã.

“Cứ làm bộ mặt đưa đám như thể cả thiên hạ nợ ngươi không bằng! Nếu ngươi chịu sớm dậy lo liệu đã chẳng đến nước này! Thôi thôi, ta nói với cái khúc gỗ như ngươi phí lời vô ích! Nghe đây, ta hầu hạ hai ông cháu các ngươi nửa tháng là hết lòng rồi, hôm nay ta về nhà, sống chết mặc bay!”

Người phụ nữ này chính là thím họ của nguyên chủ - Ngũ thị. Nửa tháng qua người chăm sóc ông cháu nhà họ Diêu đều là bà ta.

Người này cũng lạ, miệng thì độc, câu nào cũng như dao, nhưng mấy ngày Diêu Như Ý và ông nội nằm liệt giường, trên người vẫn sạch sẽ thơm tho, cho thấy bà ta chăm sóc rất chu đáo.

Giờ thì thả cho một câu, thấy Diêu Như Ý im lặng không phản ứng, bà ta hừ lạnh một tiếng rồi đóng sầm cửa bỏ đi.

Nghe tiếng bước chân xa dần, rồi cửa sân bị mở ra rồi đóng lại, Diêu Như Ý khẽ thở phào.

Dù Ngũ thị nói khó nghe, nhưng cũng chẳng sai, hiện giờ cô đúng là phải bắt đầu suy tính cho tương lai rồi.

Cô quay lại, lục dưới giường lấy ra một đôi giày thêu, rồi tìm được một bộ y phục thường ngày ở cuối giường, lóng ngóng mặc vào theo bản năng.

Nhà họ Diêu không giàu, không, phải nói là nghèo rớt mồng tơi. Y phục của nguyên chủ toàn là vải bông thường, hôm nay cô mặc một chiếc áo cộc tay chéo cổ màu xanh nước, thêu hoa mai nhạt, phía dưới là váy ngắn màu xanh lam, tóc búi song hoàn đơn giản, coi như là chỉnh tề.

Bối cảnh truyện là một triều đại phỏng theo nhà Tống, tác giả lúc viết chắc tra tài liệu đến hoa mắt, hoặc đơn giản là không đủ tỉnh táo, nên trong truyện còn trộn cả chế độ và phong tục từ các triều khác.

Nhưng mà Diêu Như Ý gãi đầu ngượng ngùng, cô thật sự cũng chẳng phân biệt nổi. Việc học bị gián đoạn vì bệnh từ cấp hai nên tri thức lịch sử cũng toàn đến từ mấy bộ phim cổ trang xem cùng bà, hoặc mấy tiểu thuyết mạng cô đọc giết thời gian khi nằm viện, căn bản chẳng đủ làm hành trang sống ở nơi này.

Cô đẩy cửa bước ra, đập vào mắt là một cái sân nhỏ, nhỏ đến mức nhìn một cái là thấy hết: bốn gian rưỡi nhà được xây thành một hàng thẳng, mái ngói xám hình chữ nhân đã hơi mục nát. Mặt sân lát đá xanh đã nứt nẻ khắp nơi, tường gạch bao quanh cao hơn đầu người một chút, kẽ gạch mọc đầy rêu và cỏ dại, rõ là đã lâu không ai dọn dẹp.

Phía đông chân tường có một giếng nhỏ, giếng thấp và hẹp, nắp gỗ tròn bên trên có đè một cái thùng gỗ buộc dây thừng to.

Ngoài ra… thì chẳng còn gì nữa.

Trời đã sáng hẳn, giữa sân có một chiếc bàn vuông, hai băng ghế dài. Trên bàn có một thau cháo kê loãng, một đĩa dưa muối, và hai cái bánh nướng bị cháy cạnh. Đây chắc là bữa sáng do Ngũ thị làm lúc sáng sớm. Bà ấy nấu ăn rất bình thường, chắc cũng vì phải chăm hai người bệnh đã quá mệt, không còn tâm sức nấu nướng gì, mấy hôm nay Diêu Như Ý đều ăn những món này.

Trời còn sớm, ông nội chưa dậy, sân vắng vẻ im lìm.

Gió thu nhẹ lướt qua, chỉ có tiếng chim hoàng yến nhà hàng xóm nhảy nhót trong lồng, lích chích líu lo.

Nhà họ Diêu có hai phòng ở, phòng chính là chỗ Diêu Như Ý ngủ, bên trái là phòng ông nội, Diêu tiên sinh, bên phải là bếp.

Sau nhà và tường có một lối đi nhỏ, trong góc có một cửa nhỏ có khóa, cạnh đó là một mái che chứa củi than và một rổ bánh than còn lại phân nửa. Thời này đã có than tổ ong rồi, Diêu Như Ý ngạc nhiên ngồi xuống nhìn kỹ.

Những miếng than này tròn bẹt, không đục lỗ, ruột đặc, mỗi viên tầm một hai cân, to nhỏ không đều, trông như nặn tay mà thành. Có vẻ còn được trộn thêm đất vàng để tăng độ kết dính, nếu không sao giữ được hình.

Khá hiện đại đấy chứ. Diêu Như Ý đếm sơ cũng còn hai chục viên. Nhà quan nghèo như này mà còn dùng than, chắc than rất phổ biến ở Biện Kinh rồi.

Thế cũng tốt. Cô ngẩng đầu nhìn trời, dù nắng thu còn gắt, nhưng có than thì mùa đông mới sống nổi.

Cô vòng ra trước sân. Gần tường trái có hai căn phòng thấp bé lợp mái sơ sài như nhà dựng trái phép, một căn chứa đủ thứ lặt vặt, căn kia cất sách vở, thư từ, bài viết cũ của ông, xếp thành mấy thùng, xem như nhà.

Trước cửa bếp đặt một lu nước lớn, nắp tròn bằng gỗ, bên trên gác một nửa quả bầu làm gáo.

Diêu Như Ý quay đầu nhìn về phía giếng nhỏ, đây là nơi cô ưng ý nhất trong cả cái viện này. Có giếng nước trong nhà, giặt giũ nấu ăn đều tiện.

Cô quyết định đi xách nước rửa mặt. Trên bếp có vài cây bàn chải lông heo cán gỗ, cắm trong ống tre. Bột đánh răng cũng có, mở hũ ra là mùi bạc hà với băng phiến thơm mát.

Người dân Biện Kinh cũng…hiện đại thật.

Rửa mặt xong, Diêu Như Ý dội nước, ngồi xuống ăn nửa bát cháo với dưa muối, tuy rất đói nhưng vẫn còn cảm giác buồn nôn, không dám ăn nhiều.

Ăn xong, cô rửa sạch bát đũa, úp lên nia tre phơi khô, rồi cầm chổi quét hết sân, vừa làm vừa làm quen dần với hoàn cảnh.

Nhưng càng quét càng tuyệt vọng: củi gần hết, thùng gạo rỗng, trong hầm chỉ còn mấy cây cải thảo và nửa bao bột mỳ…

Làm quan mà nghèo đến thế này là sao hả trời?

Dù là xuyên vào sách… Diêu Như Ý chống chổi đứng ngẩn người, mặt tỉnh bơ mà trong lòng như có đứa nhỏ đang giật tóc gào thét: “Tiền đâu hết rồi?!”

Đang khủng hoảng thì…

“Cộc cộc cộc”

Tiếng đập vòng cửa vang lên liên hồi:

“Diêu Đàn Việt! Mở cửa mau! Đừng trốn trong đó không lên tiếng! Tiểu tăng biết ngài có ở nhà! Nợ nần phải trả là lẽ tự nhiên, ngài dù sao cũng là người nhà quan, chẳng lẽ còn muốn thăng đường đối chất với người xuất gia sao? Giấy nợ nhà ngài còn để trong chùa đấy, mau mở cửa!”
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 2: Nợ nần


<i>Một căn nhà tồi tàn mà cũng vay đến hơn một ngàn một trăm bốn mươi quan tiền!</i>

Cánh cửa vốn đã cũ nát bị đập đến rung lắc trời long đất lở, bản lề ọp ẹp rung bần bật rơi đầy bụi, còn hòa thượng đòi nợ kia chưa phá được cửa nhà họ Diêu, thì đã làm cho mấy nhà khác trong hẻm phải bật mở cửa sổ, nhô đầu ra xem náo nhiệt.

Ngay cả cậu bé đang đứng ngoài cửa lẩm nhẩm "Than ôi" từ sáng sớm nãy giờ cũng trố mắt ngó qua.

Nhà họ Diêu vốn đã tiếng xấu đầy mình, Diêu Như Ý vội vàng bước tới gỡ then cửa:<b>"Đây đây, ra liền đây!"

Mở cửa ra, nàng thoáng sững người.

Không phải kẻ đòi nợ hung hăng nào cả, mà chỉ thấy đứng đó là một tiểu hòa thượng mười hai, mười ba tuổi, đầu trọc lóc, đôi mắt nhỏ như hạt đậu xanh, thân hình tròn vo như cái bánh, mặc áo lam xám được giặt kỹ càng.

Có lẽ không ngờ nàng lại mở cửa nhanh thế, tiểu hòa thượng kia bị bất ngờ, loạng choạng suýt ngã nhào vào trong.

May mà cậu bé nhanh chóng giữ được thăng bằng, lập tức đứng thẳng dậy, bày ra vẻ mặt nghiêm nghị trên gương mặt trẻ con chưa dứt sữa, khụ nhẹ một tiếng, rút từ trong ngực ra một xấp sổ dày cộp đầy chữ.

Diêu Như Ý vừa trông thấy chồng giấy đó, liền tưởng nhà họ Diêu nợ ngập đầu, mắt trợn tròn lên suýt rơi ra ngoài.

Tiểu hòa thượng ra vẻ như lão luyện lắm, đưa tay quẹt lên miệng, mở sổ ra, trịnh trọng đọc to:

"Khụ khụ, Diêu Đàn Việt, tiểu hòa thượng là đại đệ tử dưới trướng giám viện khố phòng chùa Hưng Quốc. Sư phụ ta có nói! Nhà ngươi đã chậm trả tiền lãi ba tháng liền, chùa ta đã rộng lượng gia hạn nhiều lần, nếu hôm nay lại trì hoãn nữa, sẽ đem bản sao khế ước nhà ngươi nộp lên nha môn để quan sai đến niêm phong nhà trừ nợ. Nhà ngươi còn chờ gì, mau trả tiền đi!"

Cái lời đòi nợ này... thật là cứng ngắc…Diêu Như Ý liếc mắt nhìn sang con hẻm, bao ánh mắt hiếu kỳ đang hướng về phía nàng, nàng lập tức cao giọng phân trần:
"Ta vốn muốn trả, nào có ý thoái thác?"

Tiểu hòa thượng ngẩn ra một chút, không ngờ con nợ lại nói chuyện dễ nghe như vậy, vội cúi đầu tra sổ, nói: "Xin chờ một chút."

Lật vài trang nữa, chú ta mới tìm được đoạn phù hợp, lại tiếp tục đọc:
"A di đà Phật, đáng ra nên như vậy. Hôm nay cần hoàn trả cả gốc lẫn lãi ba mươi lăm quan tám trăm hai mươi sáu văn, một văn cũng không được thiếu."

Diêu Như Ý dở khóc dở cười: "Tiểu sư phụ, vào trong nói chuyện đi."

Nàng né người ra mời vào.

Tiểu hòa thượng gãi đầu nói một tiếng "phiền toái rồi", rồi cũng lạch bạch bước vào.

Vừa vào nhà, cậu ta lập tức liếc quanh bốn phía, thấy nhà trống huơ trống hoác, trên bàn chỉ có cháo loãng và dưa muối, trong phòng còn phảng phất mùi thuốc, lại nhìn kỹ sắc mặt tái nhợt vì bệnh của Diêu Như Ý, trong mắt liền hiện lên vẻ bất ngờ, đồng cảm, rồi dần chuyển thành hối hận.

Gương mặt tròn vo như bánh bao viết rõ ràng: "Tiểu hòa thượng đâu có ngờ một nhà quan lại lại khốn cùng đến thế này…"

Diêu Như Ý suýt nữa phì cười, đây là lần đầu tiên nàng thấy người ta đòi nợ mà có bộ dạng thế này.

Nàng mời tiểu hòa thượng ngồi xuống, rót cho ly trà nhạt, rồi hỏi: "Tiểu sư phụ pháp hiệu là gì?"

"Tiểu hòa thượng là Vô Bạn." (<i>tên của tiểu hòa thượng là 无畔, âm Hán Việt là Vô Bạn, có nghĩa là vô bờ bến</i>)
Tiểu hòa thượng nghiêm trang đặt sổ lên bàn, ưỡn ngực, tự hào nói: "Sư phụ đặt tên theo Kinh Đàn: 'Tâm lượng quảng đại, vô hữu biên phán'."
Thấy Diêu Như Ý ngơ ngác, liền giải thích thêm: "Nghĩa là: không bờ không bến, Phật pháp vô biên."

Nhìn đôi mắt bé tẹo kia lóe lên vẻ kiêu ngạo, Diêu Như Ý đành gượng gạo phụ họa: "Thật là một cái tên hay."

Vô Bạn mới vừa lòng gật gù.

Người này nguyên chủ chưa từng gặp qua… Diêu Như Ý thử lục lại ký ức tàn dư của thân xác này, nhưng không thấy ai giống vị tiểu hòa thượng này. Ký ức của nguyên chủ rời rạc, hầu như chẳng biết chuyện gì, đến cả lý do vì sao nợ nần chồng chất cũng không rõ, chỉ biết tự mình sống trong thế giới đóng kín mà ông nội che chắn cho nàng ta khỏi mọi giông tố ngoài kia. Bởi thế, chỉ cần một lời xỉa xói, một trận ốm đau, cũng khiến nàng ta cảm thấy trời sập.

May mà tiểu hòa thượng này còn chưa quá già đời, nàng thử thăm dò:

"Tiểu sư phụ quả là người có tâm, ta hình như chưa từng gặp qua trước đây. Hôm nay là lần đầu người xuất môn hành sự sao?"

Vô Bạn gật đầu ngay: "Hôm nay chùa Hưng Quốc mở pháp hội, sư phụ bận không đi được, mới sai tiểu hòa thượng chạy việc. Sư phụ còn bảo ta cần rèn luyện thêm."

Diêu Như Ý hơi cụp mắt, cũng đúng, người ta ít ra cũng được sư phụ đưa ra ngoài va vấp xã hội rồi.

Nàng nở nụ cười xin lỗi: "Thật có lỗi, tiểu sư phụ, nhà ta không phải cố tình trễ nải. Ông nội ta bị trúng gió, liệt giường gần một tháng mới gượng dậy, sau đó không may lại bị ngạt khí, ông cháu ta hôn mê hơn nửa tháng mới tỉnh lại, bởi vậy mới chậm trễ chuyện trả nợ. Vừa rồi người nói nợ bao nhiêu tiền? Xin hãy tra sổ lại, nếu đúng, ta lập tức lấy tiền trả."

Vô Bạn nghe xong lại thấy ngượng ngùng. Đây là lần đầu tiên cậu đi đòi nợ, vốn định bày ra vẻ mặt dữ tợn một chút để người ta không dám ăn vạ, ai ngờ gặp nhà khổ quá, thành ra cảm thấy chính mình quá thô lỗ.

Nhưng đồng cảm là một chuyện, tiền vẫn phải đòi, nếu không sư phụ sẽ không tha. Cậu vội móc từ ngực ra tờ khế ước có dấu đỏ dính dầu mỡ:

"Sư phụ bảo, ba tháng lãi và tiền phạt gộp lại là ba mươi lăm quan. Đây là hợp đồng nhà ngươi ký với chùa ta, ngươi cứ xem, trắng đen rõ ràng, giấy trắng mực đen đều ghi rành mạch."

Diêu Như Ý cầm lên xem, choáng váng.

Bên trên viết rõ: căn nhà cũ kỹ bé tẹo ở bên Quốc Tử Giám này, ban đầu lại vay được hơn một ngàn một trăm bốn mươi quan!?

Mà nhà này lại là nhà mua chung với người ta.

Khế ước viết rõ ràng: đây vốn là một tòa nhà lớn ba gian, chủ cũ là đại quan, sau phạm tội bị tịch biên, nhà chia ra bán làm hai. Hai gian trước được một đồng liêu cũ của ông nội mua, phần sau nhà họ Diêu mua hết hơn một ngàn quan, vị trí tuy ổn, nhưng cũ nát trầm trọng.

Bảo sao Diêu Như Ý thấy bức tường sau nhà có vẻ mới hơn, thì ra là tường ngăn với nhà bên. Ớ, vậy cái nhà nát này mà cũng hơn ngàn quan á??

Giá nhà gì mà như chém vàng!

Nhưng nghĩ lại cũng đúng. Một phần ba căn nhà này, nếu so sánh thì chẳng khác nào nhà đất quận trung tâm, gần kề các trường kiểu Bắc Đại, hoặc các học viên trực thuộc Bắc Đại. Thôi, thế cũng dễ hiểu.

Còn nhà họ Lâm mua cùng, nguyên chủ có chút ấn tượng: Lâm Trực vốn là chủ sự Quốc Tử Giám, là bạn già thân thiết ít ỏi của ông nội nàng, có đứa con trai Lâm Văn An, được ông dạy dỗ từ nhỏ, mười bảy tuổi đã đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Đông Cung thi độc, tiền đồ vô lượng.

<i>*Thi độc: chức quan trong viện Hàn Lâm, giữ chức vụ đọc sách cho vua.</i>

Bởi "dạy ra thần đồng mười bảy tuổi đỗ tiến sĩ", ông nội từng được ca tụng một thời, bao người đến xin ông chỉ dạy, người nhà họ Lâm và đám môn sinh Quốc Tử Giám cũng hay lui tới nhà họ Diêu, vậy là bị nhà họ Đặng mượn cớ vu vạ “có trai lạ ra vào”.

Hiện giờ nhà bên trống không.

Trong ký ức hỗn loạn của nguyên chủ, từng nhiều lần thấy ông nội thở dài vì Lâm Văn An. Thì ra thiên tài này như sao băng vụt tắt, trong sách từng nhắc lướt qua, khi xảy ra biến cố trong cung, chàng bị phe tạo phản của Tấn Vương bắt giam, tra tấn tàn bạo, bị thương nặng đến mức không dậy nổi. Sau đó cả nhà dời về Phúc Châu quê cũ để dưỡng bệnh.

Nhà họ Lâm khi đi đã gửi chìa khóa nhờ ông nội trông coi giúp.

Nhưng chuyện đó không quan trọng. Những mảnh ký ức kia như ánh sáng loé lên trong đầu Diêu Như Ý rồi lại chìm vào sâu thẳm.

Sau khi hiểu rõ mình nợ bao nhiêu, Diêu Như Ý lại thấy yên tâm hơn. Nàng hỏi kỹ mỗi tháng cần trả bao nhiêu, Vô Bạn nhất thời không nhớ, lại luống cuống lật sách sổ do sư phụ chuẩn bị, cà lăm nói một hồi, làm nàng nghe mù mờ chẳng hiểu, phải hỏi lại liên tục.

Sau hơn hai khắc nói chuyện, cuối cùng Diêu Như Ý mới hiểu rõ:

Nhà họ Diêu vay tiền theo hình thức "vay theo kỳ hạn", gần giống kiểu trả góp vốn lãi cố định như ngân hàng hiện đại.

Trong số hơn 1100 quan đó, thực ra họ chỉ vay gần 800 quan, nhưng lãi suất hàng năm tới 5%, thỏa thuận trả trong vòng 15 năm. Tổng cộng cả gốc lẫn lãi là hơn 1100 quan, hiện đã trả được 8 năm.

Diêu Như Ý thấy Vô Bạn còn nhỏ, bèn thuận miệng hỏi thêm: một nhà nghèo rớt mồng tơi như nhà nàng sao có thể vay được nhiều tiền đến thế? Còn nữa, sao chùa Hưng Quốc lại giống như nhà tư bản vậy, không sợ cho vay lâu như thế sẽ không đòi lại được hay sao?

Vô Bạn thật thà đáp lại nhưng nói đến đoạn giữa thì mặt đã bắt đầu đỏ lên:

“Hồi đó, Diêu đại nhân là Tế tửu của Quốc Tử Giám, lại có nhiều vị đại nhân khác bảo lãnh, thêm vào đó có cả khế đất thế chấp, nên tất nhiên vay được số tiền lớn.”

Diêu Như Ý nghe vậy thì hiểu rõ: nếu bây giờ ông nội nàng đi vay thì chắc chắn không ai cho vay nữa rồi.

Xem ra ở thời này, dù là chùa cũng phải điều tra khả năng hoàn nợ của người vay.

Sau đó, Vô Bạn vội vàng chuyển chủ đề, bắt đầu ca tụng chùa Hưng Quốc hương khói thịnh vượng cỡ nào, khách khứa tôn quý ra sao, đã làm bao nhiêu việc thiện và truyền giảng bao nhiêu bộ Phật pháp.

Nói một hồi còn biết dừng lại, để nàng có thời gian “ồ” một tiếng tán thưởng.

Diêu Như Ý cũng không thấy phiền, ngược lại còn lắng nghe chăm chú. Dù là gì, nàng cũng muốn hiểu thêm về thế giới này, bất kể là chuyện gì nàng cũng muốn nghe.

Cũng nhờ những lời vô tình của Vô Bạn mà nàng đã nắm rõ địa vị của chùa Hưng Quốc: đây là một trong bốn đại hoàng tự của Đại Tống, thậm chí còn có địa vị cao hơn cả Tướng Quốc Tự nổi tiếng sau này. Điều này có thể nhìn ra được từ vị trí địa lý: chùa Hưng Quốc nằm ở phía tây phố Ngự, nơi toàn quan lại giàu có cư ngụ, gần các nha môn như Thượng thư tỉnh, phủ Khai Phong, Ngự sử đài, và là ngôi chùa duy nhất được Thái Tông hoàng đế ban hiệu "Thái Bình Hưng Quốc Tự".

Nơi này không phải là một ngôi chùa dân gian tầm thường, đến cả hoàng thân quốc thích, thậm chí hoàng hậu, thái hậu đều đến dâng hương lễ Phật. Cũng vì thế mà dù Diêu gia chẳng còn chức quyền gì, tiểu hòa thượng nhỏ như Vô Bạn cũng chẳng hề e ngại. Chùa Hưng Quốc dám cho vay là vì biết người vay không thể thoát nợ. Ngược lại, nếu muốn sống bình yên ở Đại Tống, không muốn bị đuổi ra khỏi nhà thì chỉ còn cách ngoan ngoãn trả nợ đúng hạn.

Từ xưa đến nay, nỗi lo về nhà cửa là nỗi lo chung!

Vừa nghĩ đến đó, Diêu Như Ý vừa giấu tay trong tay áo, ngón tay khẽ khàng viết công thức trong không trung, âm thầm kiểm tra xem số tiền Vô Bạn nói có đúng không.

Đã biết tiền gốc là 800 quan, lãi suất năm 5%, thì lãi suất tháng vào khoảng 0.42%. Thời hạn vay là 15 năm, tức 180 tháng. Như vậy mỗi tháng phải trả khoảng 6.375 quan. Đã trả được 8 năm, tức 96 tháng, thì còn lại 84 tháng.

Tính theo cách trả góp vốn lãi cố định, suốt 8 năm qua đã trả được khoảng 612 quan cả gốc lẫn lãi. Như vậy, số còn nợ khoảng 535 quan.

Với ba tháng vừa qua chưa trả, mỗi tháng khoảng 6.3 quan, cộng lại khoảng 19 quan. Thêm tiền phạt do quá hạn, chừng 16 quan, tổng cộng khoảng 35 quan.

Vậy nên số tiền Vô Bạn báo ba mươi lăm quan tám trăm lẻ mấy văn hoàn toàn chính xác, không phải lừa gạt gì.

Tính rõ xong, Diêu Như Ý liền dứt khoát vào nhà lấy tiền.

Chỗ giấu tiền của ông nội nguyên chủ có nhớ, nằm dưới viên gạch sát tường trong kho củi.

Bên trong có cả bạc vụn, tiền đồng, và hai tờ giao tử (giấy bạc) mỗi tờ hai mươi quan. Nàng lấy một tờ giao tử, thêm ít bạc vụn rồi mang ra.

Trong lúc nàng đi lấy tiền, Vô Bạn đã hớn hở chạy đi gọi người làm chứng. Sau đó cậu ta rút ra cân tiểu ly và kéo cắt bạc từ tay nải trên vai, cân đủ bạc xong liền lập giấy biên nhận ngay trước mặt người chứng kiến, ba bên ký tên điểm chỉ, việc hôm nay coi như xong xuôi.

Giao dịch xong, Vô Bạn mừng rỡ như được lì xì Tết, không chỉ chắp tay cảm tạ, mà còn hẹn trước:

"A di đà Phật, đa tạ nữ bồ tát giữ tín nghĩa trả nợ. Tháng sau giờ này tiểu hòa thượng sẽ lại đến như hẹn, mong nữ bồ tát chuẩn bị sẵn tiền bạc. Hẹn gặp lại vào tháng sau. Trời không còn sớm, tiểu hòa thượng còn phải về chùa giúp sư phụ xử lý phàm sự, không cần tiễn."

Diêu Như Ý chỉ có thể gượng cười tiễn tiểu hòa thượng đã ôm tiền chạy biến đi như một con chim nhỏ tung tăng.

Đóng cửa lại, nàng nhét chỗ bạc còn lại vào khe gạch dưới nhà kho, rồi ôm má ngồi thừ giữa đống củi than, thở dài.

Gió thu cuốn mấy chiếc lá vàng bay lượn sau lưng, nắng thu oi ả chiếu thẳng lên đầu khiến nàng càng thêm khô miệng nóng họng.

Vừa rồi khi lấy tiền, nàng đã tính kỹ lại một lần nữa, sau khi trả 35 quan tiền lãi, nhà họ Diêu chỉ còn lại đúng 21 quan 632 văn.

Vẻ mặt Diêu Như Ý dần trở nên nặng nề nghiêm nghị.

Mỗi tháng phải trả hơn 6 quan tiền lãi, lại còn chi phí ăn uống sinh hoạt hằng ngày, nếu không nhanh chóng nghĩ cách kiếm tiền, thì số tiền còn lại sẽ cạn kiệt trong chưa đầy ba tháng.

<b>[Lời tác giả]</b>
Vào thời Tống, chùa chiền vô cùng giàu có, là lực lượng chủ yếu trong hoạt động cho vay trong dân gian. Cho vay được xem là một việc làm chính đáng và rất được chấp nhận rộng rãi.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 3: Đi mua đồ


<i>Từ nhỏ đã giúp việc ở tiệm tạp hóa, nay Diêu Như Ý chẳng có sở trường gì khác, chi bằng quay lại nghề cũ.</i>

Trong ký ức của nguyên chủ, quan viên triều Tống vốn có bổng lộc rất hậu hĩnh, không chỉ được phát bổng lộc bằng bạc, mà còn có ruộng chức, gạo lương, lụa tơ và nhiều khoản hiện vật trợ cấp khác. Năm xưa lúc gia gia còn là Tế tửu của Quốc Tử Giám, mỗi tháng lĩnh mười quan tiền, mười thạch gạo lương, ba xấp lụa, hai mươi xấp bông; lại thêm tiền than (phát vào mùa đông để mua than), tiền nuôi ngựa, tiền công vụ (phí đi công cán) tổng cộng mỗi năm năm mươi quan; ngoài ra còn có mười mẫu ruộng chức, mỗi năm thu tiền thuê được ba trăm quan; vào các dịp lễ lớn còn được ban thưởng rượu thịt, chè bánh, vải vóc giá trị cao.

Không tính quà tặng, chỉ riêng bổng lộc đã có hơn bốn mươi quan mỗi tháng, mỗi năm trên bốn trăm quan. Nếu không phải mua gạo, mua vải, mua than, tỉ lệ chi cho ăn uống rất thấp. Trong trí nhớ của nguyên chủ, lúc đó trong nhà còn có đầu bếp, nha hoàn, gia đồng lo quét dọn, cuộc sống vô cùng sung túc.

Nhưng bị giáng chức rồi thì thảm luôn.

Một chức quan cửu phẩm chẳng khác gì tiểu lại không biên chế trong nha môn. Gia gia bị giảm bổng xuống còn một quan rưỡi mỗi tháng, hai thạch gạo, ba xấp bông, toàn bộ ruộng chức bị triều đình thu hồi, chẳng còn khoản thu nào từ thuê ruộng nữa. Các khoản phụ cấp linh tinh cũng bị cắt còn mười quan một năm. Với mức bổng lộc còm cõi thế này, đừng nói trả nổi tiền vay nhà, ngay cả ăn thịt cũng hóa thành xa xỉ.

Mà cũng đúng thôi, nếu loại quan lại nhỏ dưới đáy này mà chỉ dựa vào bổng lộc sống qua ngày, chỉ e kết cục sẽ như Hải Thượng Lãn Ông thời Minh - sống khổ đến chết. Như Ý không nghiên cứu lịch sử thời Minh nhiều, chẳng qua từng xem mấy lần Đại Minh Vương Triều 1566 với bà ngoại nên thấy quan trường lắm uẩn khúc.

Thêm nữa, khi chắp nối ký ức nguyên chủ, nàng cũng nhiều lần thấy được người đường thúc là Diêu Ký có những giao dịch mờ ám, mặt mày còn đường đường chính chính, chẳng buồn che giấu. Chứng tỏ chuyện như vậy ở thời này vốn là quy tắc ngầm.

Thế mà Diêu gia gia lại cứng đầu ngay thẳng, giữ vững nguyên tắc, thà ăn cháo húp nước cũng không nhận tiền bất chính, kết quả nhà càng lúc càng lụn bại.

Bị giáng chức mấy năm nay, đến cả của hồi môn của Như Ý ngày xưa cũng bị tiêu gần hết.

Như Ý thở dài. Bổng lộc quan cửu phẩm tuy bèo bọt, nhưng có còn hơn không, một tháng hai ba quan cũng còn hơn chẳng có đồng nào. Chỉ tiếc giờ gia gia bị tai biến, lại thêm di chứng ngạt khói than, không thể tiếp tục làm “giảng viên đại học” nữa rồi.

Lúc trước gia gia mới bị tai biến, có một vị thư lại họ Lưu ở Quốc Tử Giám đã vội vàng giúp ông xin nghỉ bệnh. Hắn ta người như gốc cây lùn, mặt rỗ, còn cố ý bóng gió với nguyên chủ:

“Quan lại xin nghỉ trị bệnh tối đa trăm ngày, nếu quá hạn chưa khỏi thì bất kể lý do gì đều bị bãi chức cắt lương. Ngươi xem mà lo liệu.”

Lúc hắn nói câu đó, còn vuốt râu, mắt sáng rỡ, cứ như chỉ hận không thể lập tức chiếm vị trí của gia gia cho người nhà hắn hay đem ra rao bán luôn.

Như Ý ngồi xổm lâu đến tê chân, lúc quay về viện thì nghe thấy trong phòng gia gia vọng ra tiếng ho sặc dữ dội, vội vã bước vào xem.

Gia gia là người mặt rộng, lông mày rậm và chếch lên, thân hình cao to, có thể đoán được hồi trẻ là người mạnh khỏe. Nhưng giờ bệnh nặng, gầy đi nhiều, gò má nhô cao, hốc mắt lõm sâu, trông còn dữ tợn hơn. Lúc này đang cúi rạp bên giường, ho khan đến mức buồn nôn.

Như Ý vội vã đến đỡ lưng cho ông, rồi rót nước cho ông uống.

Sau khi uống xong mới thôi ho, Diêu Khải Chiêu thở hổn hển một hồi mới ngẩng lên, dùng đôi mắt mờ đục nhìn nàng đăm đăm, hồi lâu mới khàn giọng hỏi:

“Ngươi… ngươi là ai vậy?”

Như Ý đáp: “Là Như Ý đây ạ.”

Diêu Khải Chi nhìn nàng hồi lâu rồi lắc đầu chậm rãi:

“Không đúng, ngươi không phải Như Ý.”

Như Ý im lặng.

Ông lại giơ tay ra hiệu ngang hông:

“Như Ý chỉ cao bằng này thôi.”

Như Ý khẽ thở dài. Đoạn đối thoại này đã xảy ra mấy lần rồi. Vài hôm trước nàng đỡ hơn, cũng đã tới thăm ông, nhưng ông đã không còn nhận ra người. Triệu chứng này có phần giống Alzheimer ở người già, cũng giống tổn thương thần kinh do ngộ độc nặng.

Tóm lại, hiện giờ ký ức của ông thường dừng lại ở thời cháu gái còn nhỏ, hầu như không có lúc nào tỉnh táo thật sự.

Không biết sau này có cải thiện được không nữa.

Diêu Khải Chi bỗng đổi sang thần sắc nghiêm túc, dặn dò:

“Như Ý đi đâu rồi? Con bé còn nhỏ thế, ngươi phải trông chừng kỹ, đừng để nó chạy lung tung.”

“Dẫn nó ra ngoài chơi thì nhớ để mắt sát sao, đừng để nó rời khỏi tầm mắt dù chỉ nửa bước, nhớ kỹ chưa?”

Lại bị coi như vú nuôi rồi.

“Biết rồi, cháu đi lấy cháo cho ông đây.” - Như Ý không tranh cãi với ông cụ lẩm cẩm, chỉ cúi người đắp chăn lại cho ông rồi ra ngoài hâm cháo. Nàng không để ý thấy Diêu Khải Chiêu đang tựa vào giường, im lặng nhìn theo bóng lưng nàng với ánh mắt mờ mịt.

Vào bếp, Như Ý ngồi xổm xuống nhóm lửa, động tác thành thạo. Nguyên chủ đương nhiên không biết nhóm lửa, nhưng nàng thì biết. Đời trước nàng xuất thân nghèo khó, mẹ mất từ khi nàng ba tuổi, cha tái hôn rồi sinh con trai thì không thèm đoái hoài gì đến nàng nữa. Mẹ kế ghét nàng, còn đem nàng gửi cho mấy người cô chăm sóc luân phiên suốt hơn ba năm.

Chỉ có bà ngoại là luôn nhớ tới cháu ngoại, đứa con gái của người con đã sớm ra đi của bà. Mỗi dịp nghỉ đông, bà đều xách theo đống túi to túi nhỏ, chen chúc ngồi tàu hỏa cứng mất hai ngày để đến thăm nàng.

Năm ấy cũng là một cơ duyên, bà lại đến thăm nàng, thấy nàng chẳng được đi học, mùa đông rét mướt mà vẫn mặc áo thun cũ hình siêu nhân của anh họ để lại, đi dép nhựa mỏng manh, run cầm cập đứng giữa gió rét bán thịt nguội dưa muối cho cô họ.

Bà ngoại giận sôi máu, ôm nàng bỏ về, cãi nhau với cha nàng ba ngày liền, cuối cùng còn đưa cho ông ta năm ngàn tệ mới mang được nàng đi.

Kỳ thật, bà rất nghèo. Nhà bà ở một thị trấn vùng núi xa xôi nghèo đói, đi xe ba bánh xuống huyện cũng phải xóc nảy trên đường núi suốt hai tiếng. Hồi bé, nhà bà đun củi hai năm mới đủ tiền đổi sang dùng bếp than tổ ong. Hai năm sau nữa, bà được người quen giới thiệu vào nấu ăn ở nhà bếp trong trường trên thị trấn, thấy có cơ hội, liền vét hết số tiền dành dụm cả đời thuê lại một cửa hàng nhỏ, dắt theo nàng bắt đầu buôn bán, gia cảnh mới khấm khá hơn, lúc ấy mới có điều kiện dùng bình gas.

Thời đó nàng còn chưa phát bệnh, tuy chẳng mấy dư dả, nhưng cuộc sống cùng nhau cố gắng kiếm tiền sống qua ngày bên bà ngoại lại là quãng thời gian hạnh phúc nhất, đầy hy vọng nhất trong đời nàng.

Lửa trong bếp dần cháy rực, ánh sáng lập lòe hắt lên gương mặt nàng. Như Ý chợt nhớ bà ngoại, rồi lại nghĩ đến cảnh ngộ khốn quẫn của nhà họ Diêu bây giờ, thầm nghĩ: chức quan của gia gia này e là giữ không nổi nữa rồi, mình phải mau chóng tìm cách kiếm tiền, nếu không e rằng chẳng mấy chốc hai ông cháu sẽ phải ra đường sống.

Nước trong nồi sôi, nàng đặt nồi cháo lên giàn hấp bằng tre. Ngẩng đầu lên, nàng vô tình thấy trong chiếc giỏ tre treo dưới cửa sổ vẫn còn hai quả trứng gà, liền nhón chân lấy xuống, chừa lại một quả, còn lại đập ra đánh tan, thêm chút muối, làm một bát trứng hấp nước để gia gia bồi bổ.

Đúng lúc ấy, bên ngoài vang lên tiếng chuông báo tiết đầu tiên trong ngày ở Quốc Tử Giám, "keng keng keng" dồn dập. Vài học sinh đến muộn chạy vù vù qua cửa nhà họ Diêu, la hét như khỉ hoảng loạn:

“Xong rồi xong rồi, sắp trễ học rồi!”
“Hôm nay còn là giờ của Lão Chu mặt bự, xui xẻo thật!”
“Chạy... chạy không nổi nữa… kéo ta một cái… ta còn chưa ăn sáng mà…”

Như Ý nghe đám học sinh la hét bay qua tường mà thấy buồn cười, còn lén mở hé cửa ngó ra, chỉ thấy vài bóng người thở hồng hộc, chạy lướt qua cửa nhà như một cơn gió lốc.

Nàng chớp mắt, ánh mắt dần sáng lên một tia hứng thú: Giọng mấy đứa học sinh này quen ghê, nghe mà thấy gần gũi ghê… Nói đi cũng phải nói lại, nhà họ Diêu nằm sát Quốc Tử Giám, đúng kiểu nhà “trong khu trường học”, chẳng phải ông trời đang ban cho cơ hội làm ăn đây sao?

Trừ làm thuê trong tiệm tạp hóa và liều mạng trong bệnh viện, nàng chẳng có kỹ năng nào khác, chi bằng quay lại nghề cũ.

Có điều... giờ nàng không có vốn, cũng chẳng có của dư để sai sót. Trước hết, vẫn nên thử làm món gì đơn giản, chi phí thấp để thăm dò thị trường đã.

Nàng cúi đầu nhìn quả trứng đỏ trong lòng bàn tay, trong đầu đã nảy ra một ý tưởng.

Vào phòng, thấy gia gia đã ăn hết cháo và trứng hấp, cũng uống xong thuốc, Như Ý mới ngồi bên giường, kiên nhẫn trả lời từng câu hỏi ngớ ngẩn, lặp đi lặp lại của ông. Rốt cuộc cũng chờ được đến khi ông mơ mơ màng màng, mí mắt sụp xuống, lại chìm vào giấc ngủ.

Thang thuốc mà nhà họ Vũ giúp cắt trước đó có cho thêm nhiều vị thuốc an thần. Gia gia bị bệnh nặng mới hồi phục, ban ngày phần lớn thời gian đều ngủ say không tỉnh. Như Ý còn thấy trên bàn có một tờ giấy ghi chú, viết rằng cách nửa tháng phải đưa ông đến y quán châm cứu tắm thuốc một lần để lưu thông máu huyết, trị chứng tắc nghẽn máu não sau trúng gió.

Nàng xuyên đến đây cũng đã hơn mười ngày, tính ra còn hai hôm nữa là đến kỳ hẹn đưa gia gia đi trị liệu. Lần trước Vũ thị cũng từng đưa ông đi, còn giúp ứng trước cả tiền thuốc. Như Ý ghi tạc chuyện này trong lòng, sau này kiếm được tiền, nhất định phải trả lại đầy đủ.

Chờ gia gia ngủ say, nàng kéo hai cái ghế chắn ngang giường làm thành “lan can” tạm thời rồi mới sửa soạn ra ngoài. Nàng muốn đi chợ mua ít đồ.

Nàng moi ra được một chiếc xe đẩy cũ kỹ, bánh xe gần rơi ra, bụi phủ đầy từ căn phòng chứa đồ lộn xộn trong sân sau. Vừa kéo ra khỏi đống đồ, bụi bặm bay tung tóe khiến nàng sặc đến mức ho sù sụ.

Cái xe cũ này khi nàng quét dọn đã trông thấy, tuy ọp ẹp nhưng ít ra chưa hỏng hẳn. Như Ý ngồi xổm xuống sửa một hồi, cuối cùng cũng gắn lại được bánh, lau sạch sẽ rồi thử đẩy một vòng, cảm giác trong tay rất quen thuộc.

Hồi nhỏ, bà ngoại nàng cũng có một chiếc xe thế này.

Những năm theo bà về quê thu mua lạc, lúc về bà sẽ bỏ cả nàng và bao lạc vào rổ to đặt lên xe kéo, đẩy về nhà.

Nàng cứ thế ngồi trong đống lạc, đón gió đồng mà bóc lạc ăn, vui vẻ biết bao.

Hồi tưởng một hồi, nàng đẩy xe bước ra cửa.

Ai ngờ vừa ra khỏi cổng lại gặp ngay một người phụ nữ tầm thước, chừng ba bảy ba tám tuổi, đầu quấn khăn nâu, tay xách giỏ tre, áo vải váy ngắn gọn gàng, tay áo xắn lên buộc chặt gọn ghẽ.

Như Ý cố lục lại ký ức lộn xộn của nguyên chủ, hình như là quả phụ họ Trình, mở tiệm may ở đầu hẻm thì phải? Không dám chắc, Như Ý không lên tiếng trước.

May mà đối phương cũng chẳng thấy gì lạ, như thể nguyên chủ vốn là kiểu người rụt rè ít nói. Chị ta cười niềm nở: “Chẳng phải là Như Ý đấy sao? Đỡ hẳn rồi chứ?”

Như Ý vội dừng xe, cúi đầu tỏ vẻ ngượng ngùng như nguyên chủ hay làm:
“Đa tạ chị dâu Trình quan tâm, giờ muội đã không sao rồi ạ.”

Trình nương tử ngạc nhiên: “Ấy dà, hôm nay muội biết đáp lời ta rồi!”

Như Ý: “…”

Không ngờ chỉ một câu nói cũng bị lộ.

May mà Trình nương tử không để ý lắm, thấy nàng lúng túng thì liền đổi chủ đề, liếc nhìn xe đẩy trong tay nàng, giọng dịu dàng:
“Đi một vòng quỷ môn quan, ta lại thấy muội chững chạc hơn trước rồi. Giờ biết lo liệu việc nhà, thật tốt quá. Sau này Diêu đại nhân chỉ còn trông cậy vào muội thôi. Muội đẩy xe đi đâu thế? Ta cũng đang định đi chợ, có muốn đi cùng không?”

Như Ý thầm thở phào, nguyên chủ ít ra ngoài, vị trí trong truyện cũng mơ hồ, nàng vốn đang lo không biết tìm đường ra chợ, vậy mà gặp được “chiếu manh” thế này, đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh.

Nàng cúi đầu, làm bộ e thẹn, dịu giọng nói:
“Gia gia bệnh mấy hôm nay, đều do đường bá mẫu lo liệu. Nay bà ấy về nhà rồi, trong nhà hết gạo rau từ hôm qua, mấy cái nồi niêu bát đĩa muội lại làm vỡ vài món, cũng phải mua lại. Muội tính đi chợ xem có gì dễ tiêu hóa, nấu cho gia gia ăn.”

“Muội biết nghĩ như thế là tốt lắm! Có muội bên cạnh chăm sóc, lại thấy muội đã đứng vững được rồi, bệnh của Diêu đại nhân ắt cũng mau hồi phục.” - Trình nương tử mừng rỡ, cười giơ giỏ tre lên: “Trùng hợp, vậy thì cùng đi thôi!”

Như Ý ngoan ngoãn gật đầu.

Hai người sóng bước rời khỏi ngõ nhỏ. Hai bên con hẻm là nhà cửa im ắng, trước cửa đều trồng tùng hoặc liễu. Dù đã vào thu, lá đã rụng bớt, nhưng vẫn rải rác bóng râm đổ xuống đường lát đá.

Hẻm này tuy nhỏ nhưng vẫn thuộc khu vực Quốc Tử Giám, hai bên đầu hẻm có trạm gác, có binh sĩ canh giữ, cấm người ngoài tùy tiện ra vào, học trò cũng không được phép tự ý rời khỏi khi chưa tới ngày nghỉ.

Như Ý và Trình nương tử dẫm trên những bóng nắng mảnh mai mà đi. Gác trưởng trực đang ngồi trong phòng gác, vắt chân, xỉa răng, thấy hai người quen mặt, lại không phải học sinh trốn học thì chỉ gãi đầu tóc xù, ngoác miệng cười, rồi lại rút vào trong.

Vừa ra đến phố lớn liền có cảm giác như bước vào thế giới khác, tai liền bị âm thanh hỗn tạp chen chúc lấp đầy. Cảnh tượng bên ngoài nhộn nhịp như nồi nước sôi sùng sục, người bán hàng gánh dọc hai bên đường chen chúc san sát, thứ gì cũng có, nhìn mà hoa cả mắt.

Đi ngang cầu Kim Lương, Như Ý không nhịn được, nhìn quanh tìm tiệm mì nhỏ của nữ chính Thẩm nương tử từng mở trong sách, sau khi bán mì kiếm được “nồi vàng đầu tiên”.

Nhưng nàng chỉ dám đứng xa xa nhìn.

Thời điểm nàng xuyên đến dường như đã muộn rồi. Nhớ trong truyện từng nhắc đến niên hiệu “Bảo Nguyên năm thứ ba” hay “năm thứ tư”, mà hôm dọn dẹp, nàng thấy trên cuốn Lịch thông thư treo tường viết “Niên hiệu Bảo Nguyên năm thứ tám”, chứng tỏ lúc này nữ chính Thẩm nương tử đã lập nên đế chế buôn bán, không chỉ mở tiệm ở Biện Kinh mà còn thành hoàng thương, đưa tiệm Thẩm Ký mở chi nhánh khắp nơi.

Xem ra nàng xuyên đến sau cả cốt truyện? Như Ý thầm nghĩ.

Bảo sao tiệm Thẩm Ký nàng thấy giờ đây đã không còn là tiệm mì nhỏ ban đầu.

Tiệm gốc giờ đã chuyên bán vịt quay.

Cửa tiệm mở rộng thành hai gian, treo biển hoàng gia ban tặng “Tiệm vịt thiên hạ đệ nhất”, trước cửa khách ra vào tấp nập, ai cũng xách theo gói giấy dầu đẫm mỡ. Xa xa bên kia bờ sông Biện, đại tửu lâu năm gian liền nhau mang biển Thẩm Ký sừng sững.

Trước khi đi xa, Như Ý còn ngoái đầu lại nhìn tấm hoành phi kia, suýt nữa bật cười, may mà nhịn được.

Tính cách nàng vốn khác xa nguyên chủ, cũng chẳng định học y hệt. Chuyện "gia gia bệnh nặng, hòa thượng đòi nợ, bản thân tỉnh ngộ" lúc này rất hợp tình hợp lý, một cơ hội quá tốt để nàng chuyển biến tính cách.

Nàng quyết định: phải tận dụng triệt để.

Lời của dịch giả: vốn mấy chương trước định để xưng hô nữ chính với ông là ông nội, nhưng nghĩ lại đây là cổ đại, nên đổi lại thành gia gia từ chương này nhé!
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 4: Chè Hạnh Nhân


<i>Không biết món chè hạnh nhân ở đây có giống với món chè hạnh nhân nổi tiếng ở Khai Phong đời sau không nhỉ?</i>

Xem phản ứng của Trình Nương Tử lúc nãy, có lẽ người trong xóm này cũng không hiểu rõ gì về nàng, ngoài ấn tượng là một người rụt rè ít nói, ngại giao tiếp với người khác. Nếu không phải vậy, e rằng lời giải thích khi nãy của Diêu Như Ý khó mà xuôi tai được.

“Vịt quay của tiệm Thẩm Ký thơm thật, đứng xa thế này mà còn ngửi thấy mùi.” - Trình Nương Tử thấy nàng ngoái đầu nhìn về phía tiệm Thẩm Ký, tưởng nàng thèm, bèn cười nói chuyện phiếm: “Gia gia muội ngày trước cũng mê món bánh canh và vịt quay của nhà họ lắm. Có một thời gian ăn liền năm bữa một ngày ở đấy, còn béo lên hơn mười cân. Nhưng cũng may nhờ có mấy cân mỡ đó, lần gia gia muội bị đột quỵ, hàng xóm ai cũng sang thăm, ôi chao, khi đó gia gia mê man nằm đấy, chỉ có thể dùng đũa cạy miệng để đổ cháo gạo loãng vào. Bệnh một trận xong gầy rộc như que củi. Thầy lang nhà họ Triệu cũng nói, nếu là người gầy thì chắc đã không qua khỏi. Gia gia muội nhặt lại được một mạng, thật đúng là nhờ vịt quay nhà họ Thẩm đấy!”

Diêu Như Ý say sưa lắng nghe.

Thật ra… nàng cũng không định “nhận mặt” với Thẩm nương tử – người đồng cảnh ngộ xuyên không như mình.

Có lẽ vì từng sống vất vưởng ở nhà họ hàng như một món đồ thừa, nàng rất sợ làm phiền người khác. Dù giờ đây xuyên vào sách là một kiểu tái sinh, nàng vẫn chẳng có chí lớn gì, chỉ mong được sống tiếp.

Có ăn có uống, sống khỏe mạnh là nàng đã cảm tạ trời đất lắm rồi.

Vả lại, tự dưng tìm tới người ta cũng quá đường đột. Nhỡ đâu người ta không muốn chia sẻ bí mật lớn nhất đời mình thì sao? Có lẽ không quấy rầy chính là sự dịu dàng lớn nhất.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện, rẽ vào phố tiểu thương, nơi này chính là “khu chợ đầu mối” của cả Biện Kinh, là nơi tụ hội của các thợ thủ nàng ng. Trong tiệm mây tre, mẹt rổ chất thành núi; lò rèn b*n r* tia lửa; đất sét và gỗ được bày đầy trước cửa tiệm gốm; trước tiệm trâm cài, rất nhiều nàng nương chen nhau chọn mấy mẫu mới nhập từ phương Nam. Diêu Như Ý cố gắng kiềm chế sự tò mò để không ngoái đầu nhìn khắp nơi.

“Như Ý, muội không phải định mua đồ gốm sao? Phía trước chính là tiệm đấy, đi xem có món nào vừa ý không.” - Trình Nương Tử rất chu đáo, dẫn nàng vào một tiệm gốm. Diêu Như Ý đi một vòng, chọn hai chiếc vò lớn bằng sứ men xanh, miệng rộng, đáy sâu, có nắp, hai bên có quai xách, còn được vẽ hoa chim, mỗi chiếc bốn mươi văn.

Trình Nương Tử sốt sắng mặc cả giúp, cuối cùng được giá ba mươi văn một chiếc, còn tặng thêm hai cái muôi cán dài.

Đi tiếp, Diêu Như Ý thấy một cái tên quen thuộc: tấm biển của một tiệm ghi “Lá trà Mai Tam Nương”, nàng lập tức dừng chân ngó vào, quả nhiên thấy trên quầy bày hồng trà mới rang. Nàng nhớ trong sách có nhắc đến chuyện nữ chính hùn vốn cùng Mai Tam Nương mở quán trà, phát triển dòng hồng trà lên men, giờ quả nhiên đã làm được rồi.

Quả thật, nàng đến được thế giới này là nhờ phúc khí của nữ chính.

Nàng cảm kích bước đi trên con đường người đi trước đã mở, vui vẻ bước vào tiệm, nhờ tiểu nhị cân cho hai cân “vụn trà” rẻ nhất. Tuy đời sau từ “vụn trà” thường chỉ cặn của trà nhài, nhưng thật ra không giới hạn loại nào, bất kể là trà gì, trong quá trình sàng lọc cũng sẽ sinh ra vụn.

Người Tống thậm chí còn cố ý nghiền lá trà thành “vụn trà”, nén thành bánh để dùng trong nghệ thuật điểm trà, đấu trà. Tất nhiên loại này phải chọn nguyên liệu hảo hạng, chứ không phải loại vụn rẻ tiền mà Diêu Như Ý mua.

Nhưng nàng không kén chọn, mua trà vụn là để nấu món trứng trà ngũ vị.

Trứng trà không phải món lạ, thời này cũng có món tương tự. Nhưng công thức của Diêu Như Ý là bí quyết độc nhất vô nhị của bà ngoại, khác hẳn với người khác. Trước đây, trong tiệm tạp hóa nhỏ của hai bà cháu, trứng trà buổi sáng luôn bán hết sạch. Học sinh nào trước khi học sớm cũng mua một quả ăn kèm bữa sáng, thơm nức.

Trứng trà kiểu này rất hợp để học sinh mang vào lớp ăn, vừa thơm vừa đậm vị, lại dễ giấu.

Gói trà xong, hai người đi vòng ra sau phố tiểu thương đến khu chợ nhỏ mua rau. Trình Nương Tử quen thuộc từng ngóc ngách nơi này, tiệm nào bán hàng ngon, tiệm nào bán mắc, tiệm nào vợ chồng hay cãi nhau, tỷ ấy đều biết tường tận.

Diêu Như Ý nhờ tỷ ấy giới thiệu, cũng đẩy xe chọn được hai quả cà tím tròn và một bó đậu đũa ở một sạp rau uy tín, còn mua thêm nửa đấu gạo tẻ.

Tiếp đó ghé tiệm tạp hóa. Trình Nương Tử cố ý dẫn nàng đến một tiệm nhỏ ít người chú ý, quả nhiên rẻ hơn nhiều so với tiệm lớn. Nàng mua một đống gia vị như lá thơm, quế, hồi; lại mua hai vò rượu mạch, hai cân đường phèn, hai cân xì dầu, mười cái bánh nướng, hai xấp giấy dầu.

Vì mua nhiều, Trình Nương Tử còn chủ động xin tiệm giảm giá, họ còn tặng thêm một hũ dưa muối. Bà chủ tiệm là một người phụ nữ mập dễ thương, luôn tươi cười, không dây dưa, vui vẻ đồng ý.

Rời khỏi tiệm tạp hóa, Diêu Như Ý thực lòng cảm ơn Trình Nương Tử, đứng lại hành lễ nói: “Tẩu tẩu, chuyến này thật nhờ có tẩu.”

Trình Nương Tử thấy nàng gương mặt còn xanh xao mang bệnh, gầy đến nỗi má hóp lại, vốn là một cô nương ít nói sợ sệt, giờ phải tự mình gánh vác cuộc sống, trong lòng không khỏi xót xa, lại càng thương cảm: “Có gì đáng nói? Về sau nếu cần giúp đỡ gì, đừng ngại ngùng, cứ mở miệng nói với tỷ.”

Diêu Như Ý nở nụ cười, lúm đồng tiền hiện ra hai bên má.

Trình Nương Tử lại thấy mềm lòng, dịu dàng khuyên nhủ: “Muội xem, mặt tròn mắt hạnh như muội vốn là rất dễ thương đấy! Về sau đừng cứ cúi đầu mãi, cứ ngẩng cao đầu lên, đừng bận tâm mấy lời đàm tiếu. Nghe lời tẩu tẩu đi, thời gian trôi qua, mọi chuyện sẽ qua thôi, ai cũng sẽ yêu quý muội cả.”

“Muội nghe tẩu tẩu hết.” - Diêu Như Ý vẫn nói nhỏ nhẹ, nhưng cũng nhân cơ hội bày tỏ thái độ.

Trình Nương Tử cười rồi khoác tay nàng : “Mua đủ rồi chứ? Đi, đến quán trà nghỉ chân uống chút trà. Gần đây có một quán nhỏ, ông lão què bán trà ở đó nấu trà ngon lắm.”

Diêu Như Ý cũng khát rồi, bèn gật đầu.

Quán trà mà Trình Nương Tử nói thật sự rất gần, hai người đi vài bước đã đến một quán nhỏ có mái che cố định. Quán được lợp mái rơm, dùng dây thừng và đá đè lên mái để tránh gió thổi bay, phía trên mái che xiêu xiêu vẹo vẹo treo một tấm vải bố thô viết chữ “Chè”.

Tới nơi, Trình Nương Tử đã nhanh chóng lấy tiền ra, cười hỏi: “Muội muốn uống loại nào? ‘Chè đậu mặn’ tốt cho tiêu hóa, ‘chè tía tô’ trị ho, tốt cho cổ họng. Chỗ này còn có chè hạnh nhân và chè táo đỏ cũng rất ổn.”

“Không, không, muội phải là người trả chứ. Tẩu tẩu đã giúp muội nhiều việc như vậy rồi, sao còn để tẩu phải tốn tiền?” - Diêu Như Ý vội ngăn tẩu tử lại.

“Sao lại thế được? Muội vừa khỏi bệnh, ta mời muội một bát chè mừng là chuyện nên làm mà. Chỉ hai văn tiền, đâu có đáng gì?” - Trình Nương Tử cương quyết không chịu, khăng khăng trả tiền trước. Quán trà này có hơn mười loại chè và canh, dù là loại nào giá cũng như nhau: một nồi đầy hai mươi văn, một bát nhỏ hai văn, hai bát nhỏ ba văn. Trình Nương Tử sợ nàng giành trả tiền nên chọn nhanh luôn hai phần nhỏ, vừa ngăn tay nàng lại, vừa nhanh chóng thanh toán.

Diêu Như Ý đành chịu thua, cười nói: “Lần sau nhất định để muội mời nhé.”

Trình Nương Tử nhẹ nhàng vỗ tay nàng, cười: “Thôi đi, chúng ta là hàng xóm, về sau chẳng thiếu cơ hội để muội đãi khách đâu. Khách sáo làm chi. Nào, lại đây xem thích loại nào? Ta thích nhất là chè táo đỏ, chan một muỗng mật lên, ngọt lịm luôn.”

Trình Nương Tử tuy đã trung niên, tướng mạo không phải kiểu xinh đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhưng lại rất dễ nhìn, nét mặt dịu dàng, thanh tú, sống mũi cao và thẳng khiến khí chất thêm phần cứng cỏi. Cách tẩu tử đối đãi người khác vừa nhẹ nhàng vừa chu đáo, toát lên một sự ấm áp rất riêng.

Diêu Như Ý chỉ mới tiếp xúc nửa ngày đã thấy rất quý mến tẩu.

Nghe tẩu nói vậy, Diêu Như Ý ngẫm nghĩ, số tiền nàng dùng để mua đồ là phần gia sản mà gia gia cực khổ tích cóp, sau này còn phải trông vào đó mà sống. Nếu giờ mang ra chi trả cho việc mời chè, quả thật không ổn. Sau này khi kiếm được tiền rồi, nàng nhất định sẽ mời Trình Nương Tử đi chơi, uống trà thật đàng hoàng.

Nghĩ vậy, nàng bắt đầu chọn chè, rồi chỉ vào chè hạnh nhân.

Có một năm, nàng từng cùng bà ngoại đi tới thủ đô chữa bệnh. Trong phòng bệnh có một chú người Hà Nam nằm cùng phòng, bệnh còn nặng hơn nàng nhưng lại rất lạc quan, còn biết đan len rất khéo.

Chú ấy luôn cười gọi nàng là “bé con”, khi đó nàng còn nhỏ, vừa nghỉ học, đầu vừa bị cạo trọc vì chữa bệnh, đang khóc sướt mướt thì chú ấy đan cho nàng một chiếc mũ len có quả bông ở trên, viền mũ còn có hoa tuyết dệt bằng len trắng, rất đẹp.

Chú ấy thường kể nàng nghe về món ngon quê nhà ở Hà Nam, món gì cũng ngon nhưng nhắc đến nhiều nhất là món chè hạnh nhân đặc sản Khai Phong. Chú nói món ấy dùng ấm đồng rồng phượng đun sôi nước rồi pha. Hạnh nhân phải dùng loại ngọt từ Nam Dương, ngâm mềm bằng nước giếng từ đêm trước, sau đó đem xay thành sữa bằng cối đá. Lọc bỏ bã, nước cốt thu được phải trắng ngà, sau đó đun với bột nếp thành dạng sền sệt, thêm vào lạc rang, táo đỏ, mè, hạt điều, óc chó, nho khô… Đem ăn thì ngay cả lát táo đỏ cũng giòn rụm, mùa hè thì ăn lạnh, mùa đông thì ăn nóng, ngọt mà không ngấy, thơm nức.

Nghe kể mà Diêu Như Ý ch** n**c miếng. Không biết món trà hạnh nhân nơi đây có giống với món mà chú ấy miêu tả không?

Nàng kiễng chân lên nhìn.

Kiếp trước nàng không cao, xương nhỏ, thân thể hiện tại cũng giống vậy. Sáng nay lúc soi gương, nàng đã phát hiện mình giống hệt nhân vật “Diêu Như Ý” trong sách, chỉ là giờ quá gầy, sắc mặt kém nên không đẹp bằng nguyên bản.

Quán trà của ông lão què đặt trên hai bậc thềm. Diêu Như Ý phải dùng cả hai tay bám vào thành quán, rướn cổ mới thấy được cách ông ấy nấu trà.

Nhưng thật ra cũng chẳng có gì để xem, phần trà đã nấu sẵn từ trước, luôn được giữ nóng trên bếp than, chỉ có nguyên liệu ăn kèm là cho vào tại chỗ.

Phần ăn kèm ông lão thêm vào khá giống như lời chú bệnh nhân kể, chỉ là phần nước chè hơi loãng, dùng muôi múc lên sẽ thấy kéo thành sợi mảnh, không sánh đặc như món nàng từng nghe.

Dù vậy, Diêu Như Ý vẫn ăn một cách rất trân trọng.

Từ khi đổ bệnh, nàng đã rất nhiều năm không được ăn vặt, không được uống trà sữa, không được ăn cơm đúng nghĩa, thứ duy nhất được "ăn" là hàng trăm vị thuốc đắng.

Sau đó còn phải nuôi sống sinh mệnh bằng ống truyền.

Được ăn cơm, bất kể món gì, với nàng đều là niềm hạnh phúc to lớn.

Trình Nương Tử nói đúng thật, chè nơi này rất ngon. Chè hạnh nhân đựng trong bát đất thô, màu trắng sữa hơi ánh vàng, trên mặt rắc đầy nho khô, sơn tra, óc chó băm vụn. Nhấp một ngụm, vị đắng chát đặc trưng của hạnh nhân đã bị đường khử sạch, còn lại chỉ có ngọt bùi mềm mượt. Thứ ấm nóng đặc vừa phải ấy theo cổ họng trượt xuống dạ dày, như thấm vào từng tạng phủ.

Thật dễ chịu, thật hạnh phúc.

Nhất là hôm nay trời vô cùng đẹp, nắng tươi, mây trắng dày. Hai người đứng bên cạnh chiếc xe hai bánh chất đầy rau, gia vị, đồ đạc, tay ôm bát chè, gió nhẹ thổi qua, mây trắng trôi lững lờ trên đầu, bóng mờ rơi xuống người họ như tơ lụa phủ nhẹ, khoảnh khắc này đúng là an yên vô cùng.

Diêu Như Ý vừa chậm rãi ăn chè hạnh nhân, vừa nhìn phố xá náo nhiệt phía trước, trong lòng lại lặng lẽ nhớ về phòng bệnh năm xưa. Nàng và chú Hà Nam đã chiến đấu cùng nhau suốt hai tháng, cuối cùng chú ấy ra đi trước. Khi đó nàng buồn vô cùng, chui đầu vào chăn, ôm chiếc mũ len mà khóc nức nở. Bây giờ nghĩ lại, chỉ mong chú ấy khi chết cũng được xuyên đến một thế giới khác, sống những ngày vui vẻ như nàng bây giờ, vì người tốt như chú ấy xứng đáng với điều đó.

Chú ơi, cháu cuối cùng cũng được ăn món chè hạnh nhân mà chú kể rồi.

Thật sự rất ngon, giống y như lời chú nói.

Khi Diêu Như Ý còn đang thẫn thờ, Trình Nương Tử đã đem bát chè đã ăn xong trả lại quán. Nàng vội hoàn hồn, ngửa cổ uống nốt chỗ còn lại trong bát, rồi hai người vừa trò chuyện vừa đẩy xe quay về nhà.

Về đến nơi trời vẫn chưa đến giờ ngọ. Diêu Như Ý bày hết đồ ra sân, mệt đến nỗi phải ngồi phịch xuống ghế gỗ đấm đấm thắt lưng, thân thể nguyên chủ mới khỏi bệnh chưa lâu, làm việc liên tục dễ mệt mỏi.

Nghỉ ngơi một lát, nàng nhẹ nhàng mở cửa phòng ông nội, ló đầu vào xem thử, thấy ông vẫn còn đang ngáy ngủ, liền rón rén trở lại bếp, lấy mấy cái bánh nướng còn thừa buổi sáng lót dạ, rồi bắt tay vào luộc trứng trà.

Trước kia, mỗi ngày bà ngoại đều làm trứng trà để bán, nàng nhìn mãi cũng đã thuộc.

Trước khi luộc, bà ngoại luôn cho bia vào nước luộc trứng. Giờ không có bia, Diêu Như Ý nhớ lại bia vốn cũng là từ lúa mạch lên men, thế là nàng quyết định dùng loại rượu mạch rẻ nhất ở thời này để thử xem sao.

Luộc bằng rượu là để làm lòng đào.

Lần này nàng chỉ mua năm mươi quả trứng, cẩn thận rửa sạch từng quả, rồi ngâm vào nước pha rượu, nấu lửa nhỏ chừng một lát, canh khi lòng trắng vừa se lại là vớt ra. Để nguội, sau đó xả qua nước sôi, gõ nhẹ cho vỏ nứt ra như vết rạn trên gốm. Lặp lại vài lần, rồi đem ngâm vào nước trà đen đã pha.

Sau đó, nàng đổ nước sạch vào nồi nhỏ, bỏ thêm các loại gia vị như lá nguyệt quế, quế chi, hồi hương, thêm ít đường phèn, nước tương, lại cho thêm hai muỗng rượu, nấu sôi rồi đổ hỗn hợp trà và trứng vào. Rút bớt củi lửa, để nồi sôi lăn tăn. Chẳng mấy chốc, hương thơm tỏa ra khắp sân, thơm lừng mê người.

Mẻ trứng trà này, khi bóc lớp vỏ màu nâu sẫm ra, lòng trắng hiện lên những đường vân trà đẹp mắt. Cắn một miếng, lòng trắng dai giòn, còn lòng đỏ bên trong do được ướp với rượu và không luộc quá lâu nên vẫn giữ được màu vàng mềm mịn, không hề bị khô cứng, ăn rất vừa miệng.

Diêu Như Ý nếm thử một quả, nóng đến mức nhảy dựng lên, nhưng trong lòng thì mừng rỡ gật gù, cũng tạm ổn rồi, chỉ là rượu mạch ở thời này không thơm bằng bia thời hiện đại, lòng đào chưa ngấm kỹ lắm, chắc cần để ngâm thêm chút nữa.

Dù vậy, mùi vị cũng ổn rồi, xem như đã có vài phần tay nghề của bà ngoại.

Tắt bếp, nàng để trứng tiếp tục ngấm trong nồi còn âm ấm.

Lúc này, Diêu gia gia cũng đã bị mùi thơm đánh thức.

Nghe thấy tiếng động, nàng lại vớt ra một quả, hâm nóng một cái bánh nướng, kẹp thêm ít dưa muối rồi đem đến đẩy ông ra sân ngồi phơi nắng chiều.

Lúc này trời bắt đầu dịu nắng, ánh mặt trời sắp lặn, rất thích hợp cho người già thể trạng yếu ra ngoài phơi nắng một lát.

Thực ra Diêu gia gia cũng có thể vịn tường đi vài bước, nhưng hơi động đậy đã th* d*c, nên hàng ngày ông ngồi xe lăn là tiện nhất.

Lúc này đã gần chiều muộn, ánh tà dương nhuộm vàng mọi thứ, bầu trời xanh sẫm dần chuyển sang màu cam rực, đổ bóng loang lổ lên cửa sổ và mặt đất. Diêu Như Ý đứng trong ánh nắng, tính toán thời gian, còn chừng nửa canh giờ nữa Quốc Tử Giám sẽ tan học, nàng có thể đẩy xe ra ngoài bán trứng trà thử xem.

Nhân lúc còn rảnh, nàng tranh thủ chuẩn bị món ăn tối. Sắp xếp cho Diêu gia gia ngồi yên ổn xong, nàng liền ra giếng ngồi chọn đậu đũa.

Diêu gia gia đắp tấm chăn mỏng lên đùi, tay cầm bánh nướng, vừa ăn vừa lóng ngóng bóc vỏ trứng, còn khịt mũi ngửi ngửi: “Trứng này thơm quá, con mua ở đâu thế?”

“Con làm đó ạ.”

Ông Diêu “ồ” một tiếng, rồi liếc thấy nàng đã nhặt xong đậu, bỏ vào giỏ rau để sang một bên, đang ngồi gọt cà tím, vo gạo, liền nói chuyện phiếm với nàng :

“Hôm nay ăn đậu à?”

“Vâng ạ.”

“Đậu không ngon.”

“Tại nó rẻ.”

“Ta có tiền, con lấy mà mua thịt, đi chặt cái đùi dê về nấu.”

“Có tiền cũng không được tiêu lung tung đâu.”

“Như Ý cũng ăn đậu à? Nó đi chơi đâu rồi?”

“Cũng ăn, đi chơi rồi.”

“Đậu không ngon.”

“Ngon lắm đó, con sẽ nấu chung với cà tím, ngài ăn rồi sẽ biết.” - Diêu Như Ý đổ nước vo gạo vào rãnh thoát nước bên cạnh, lấy khuỷu tay quệt mồ hôi, quay đầu cười nói: “Ngài ăn trứng đi, ăn cho no nhé.”

Diêu gia gia tỏ vẻ tủi thân mà vẫn ngoan ngoãn cúi đầu cắn một miếng: “Trứng cũng chẳng ra gì…”

Chữ “gì” còn chưa kịp thốt ra, đôi mắt già nua đã tròn xoe, ông cúi xuống ăn thêm miếng nữa: “....Cũng ngon đấy!”
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 5: Bán trứng


<i>Đây chẳng phải là một thị trường tiềm năng hay sao?</i>

Phản ứng kia thật quá chân thực, khiến Diêu Như Ý không nhịn được bật cười.

Bản thân nàng cảm thấy ngon không tính, Diêu gia gia cũng cảm thấy ngon, xem ra trứng kho nước tương này đúng là làm không tệ. Điều đó cũng khiến nàng có thêm chút tự tin.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 6: Phạt chép sách


<i> Canh hôm nay là canh khoai núi táo rừng gan dê… ọe.”</i>

Lâm Duy Minh yếu ớt đọc theo hai lượt, sau đó Chu Bính bắt đầu giảng giải từng chữ một, hắn thì bên nghe vào tai trái rồi ra phía tai phải, tâm trí đã sớm bay tận đẩu đâu.

Thôi thế là xong, món ngon ở nhà ăn vốn đã hiếm, giờ thì chắc chắn không đến lượt hắn nữa. Quốc Tử Giám nằm ngay dưới chân Thiên tử, khẩu phần ở nhà ăn tuy có nhỉnh hơn Thư Viện Tịch Ủng một chút, nhưng cũng không khá hơn bao nhiêu. Không phải vì không có chuyện tham ô nhà bếp nghiêm trọng như ở Thư Viện Tịch Ủng, mà là ba đầu bếp chính ở đây, đầu óc đều rất “sáng tạo”.

Hôm kia, họ mang ra món "mì giòn trộn gà kho ngọt", Lâm Duy Minh đã thấy cạn lời. Hôm qua lại ra món "lê chua dầm dưa chuột non tẩm ngũ vị". Hôm nay càng không thể tin nổi! Nghe mấy đứa học cùng ở học xá bên cạnh ăn sáng về kể lại, canh hôm nay là: canh khoai núi, táo rừng, gan dê… ọe.

Nhưng! Đáng mừng là một trong ba vị đầu bếp bị bệnh, cho nên mấy hôm nay Bàng chủ bộ quản lý việc ăn uống đã đặt thêm món từ tiệm ăn Thẩm Ký để bổ sung, phòng khi hai đầu bếp còn lại không xoay xở kịp.

Vì vậy chỉ cần đến sớm một chút là vẫn có cơ hội ăn được món ngon!

Nhưng bây giờ thì muộn rồi! Đám sói đói ở học xá Đinh đã phóng qua hành lang từ sớm, chỉ còn để lại vài cái bóng mờ. Lâm Duy Minh xoa bụng đói lép kẹp, bi thương dâng trào.

Thôi vậy, về nhà bảo a nương nướng bánh cho ăn, còn hơn là uống cái canh gan dê gì đó!

Ai mà nghĩ ra nổi cái món ấy cơ chứ? Chỉ nghe thôi đã thấy khủng khiếp rồi.

Lâm Duy Minh đã hoàn toàn chẳng còn tâm trí nghe giảng, nhưng ngoài mặt vẫn cố giả vờ chăm chú. Mà ngồi trước hắn, người huynh đệ tốt Mạnh Bác Viễn chẳng hiểu sao lại buồn ngủ đến mức mắt lờ đờ, mí mắt sụp xuống như đeo chì, cả người cứ lắc la lắc lư.

Bạn cùng bàn là Trình Thư Quân âm thầm đẩy đầu hắn ta lại chỗ cũ, nhưng Mạnh Bác Viễn lại gục xuống bàn.

Đúng lúc đó, Chu Bính ở đằng trước đột nhiên hét lớn: “Chính trị là để điều hòa!”

Lâm Duy Minh hốt hoảng lật sách, thì ra Chu Bính đã giảng đến mấy trang sau rồi, mình hoàn toàn không nghe thấy gì. May mà không phải chỉ mỗi mình hắn như thế, cả lớp đều rì rầm lật sách loạn xạ, cố gắng đọc theo: “Chính sách khoan dung thì dân sẽ lười nhác…”

Mạnh Bác Viễn tuy gần như ngủ gục, nhưng nghe xung quanh bắt đầu đọc, vẫn ngoan cường ngồi dậy, cầm sách lên, lơ mơ đọc theo: “Lười nhác thì phải lấy nghiêm trị để sửa…”

Chưa đọc xong thì “rầm” một tiếng, cả người hắn đổ gục xuống bàn.

Tiếng động lớn đến mức Chu Bính lập tức quay phắt lại, mặt bánh nướng lạnh toát, rút ngay cây roi mây bên hông lao tới. Trình Thư Quân vội đá Mạnh Bác Viễn một cái, hắn ta giật mình ngồi dậy, theo phản xạ tiếp tục đọc sách, quyển sách chắn mất nửa mặt, Chu Bính nhìn chằm chằm một lúc lâu, cuối cùng cũng chỉ hừ một tiếng nặng nề rồi quay lại tiếp tục giảng bài.

Trình Thư Quân lau mồ hôi lạnh, người nghe giảng đàng hoàng như hắn mới là người bị hù chết.

Nhưng chỉ được vài câu, Mạnh Bác Viễn lại bắt đầu nghiêng ngả, người đổ ngược về sau, ngồi đằng sau là Lâm Duy Minh phải cố nhịn cười mà đẩy hắn ta về phía trước, còn véo mạnh một cái:
“Mạnh Tứ! Này! Mau tỉnh! Ngươi bị trúng bùa ngủ à? Sao mà buồn ngủ đến thế, tối qua đi trộm gà nhà ai hả?”

Không ai đáp lại, chỉ có tiếng ngáy khe khẽ vang lên.

Lâm Duy Minh trố mắt nhìn, nghiêng người liếc thử, Mạnh Bác Viễn mắt vẫn mở he hé… nhưng rõ ràng đã ngủ say.

Thật khâm phục, ngồi mà ngủ được!

Hắn đành phải dùng tay đỡ lưng đối phương, không để hắn ngã ngửa ra sau.

Lúc sau, cuối cùng cũng giảng đến hết bài, Chu Bính liếc quanh một lượt những học trò uể oải rồi nói:
“Giảng nốt bài tập này là tan học. Nào, ai giải thích giúp ta đoạn 'Luận trị chính khoan nghiêm' này tách ra thế nào?”

Cả lớp lập tức cúi gằm mặt, ai nấy chuyên chú nhìn chằm chằm vào sách như thể trong sách nở hoa.

“Không ai trả lời? Vậy ta gọi tên! Trình Thư Quân, trò trả lời trước.”

Trình Thư Quân giật mình đứng dậy, nhưng vừa đứng, ghế dài bên dưới liền mất cân bằng, Mạnh Bác Viễn cả người ngã lăn sang một bên, Lâm Duy Minh hoảng hốt vội túm áo kéo lại nhưng đã muộn, “rầm” một tiếng, người lẫn ghế đều lăn xuống đất.

Tiếng cười vang dội cả lớp. Mạnh Bác Viễn dụi mắt, ngơ ngác bò dậy, vừa tỉnh táo thì đối diện ngay với ánh mắt như phun lửa của Chu Bính:
“Oắt con! Ta dạy học hơn mười năm, chưa từng thấy học sinh nào như trò! Phạt chép hai mươi lần bài 'Luận trị chính khoan nghiêm'! Không chép xong thì đừng hòng bước ra khỏi cửa!”

Nửa canh giờ sau, trời đã tối hẳn, học sinh ở học xá phòng Bính đã sớm rút sạch, chỉ còn lại ba người: Mạnh Bác Viễn, Lâm Duy Minh và Trình Thư Quân vẫn đang gục trên bàn, vắt tay viết lia lịa.

Lâm Duy Minh vừa cắn răng, vừa ôm cái bụng đang réo ầm ỹ, vừa chép vừa nghiến:
“Kiếp trước ta đã tạo nghiệt gì mà dính phải cái của nợ như ngươi chứ! Mạnh Tứ, khai thật đi, tối qua rốt cuộc hôm qua ngươi làm gì hả?”

Mạnh Bác Viễn ngáp dài liên tục: “Không có gì. Hôm qua tam ca được nghỉ về nhà, cha ta cứ bắt huynh ấy dạy ta học. Học không xong thì mắng ta ngu như heo. Tam ca nói đỡ giúp mà cha ta cũng chẳng nghe, lại còn chỉ tay vào mũi ta mà chửi ta suốt nửa canh giờ, hại ta đến sáng mới chợp mắt được một tí.”

Lâm Duy Minh nghe xong thì giận cũng chẳng giận nổi nữa, thở dài, còn phẫn uất thay cho bạn:
“Cha ngươi cũng quá đáng thật. Như tiểu thúc nhà ta mới gọi là thiên tài nổi danh khắp nơi. Nhưng cha và a nương ta có bao giờ đem ta ra so sánh với tiểu thúc đâu? Giống như đem cái đũa tre đi so với gỗ trắc vậy, có gì đáng so. Một nhà mà ra được một người giỏi đã là tổ tiên tích đức rồi, nhà ngươi còn muốn giỏi cả đôi? Hay là ngươi về bảo cha ngươi, đem mộ tổ đốt luôn đi! Cho khói nó bốc cao một thể!”

Mạnh Bác Viễn bĩu môi, trừng mắt nhìn hắn: “Ngươi đợi đấy, tối nay ta gọi ông nội ta lên tìm ngươi tâm sự.”

Lâm Duy Minh lật trang chép xong để sang một bên hong khô, cười toe toét:
“Dọa ai chứ? Ta không sợ đâu. Nếu thật sự ông nội ngươi có linh thiêng thì đã chẳng để cha ngươi hành hạ ngươi thế này rồi.”

Mạnh Bác Viễn tiu nghỉu, cúi đầu không nói nữa.

Nhà họ Mạnh vốn có bốn huynh đệ, con trưởng c.h.ế.t đuối từ nhỏ, người thứ hai thì được cho sang làm con thừa tự của bác cả không con, trong nhà giờ chỉ còn Mạnh Khánh Nguyên và Mạnh Bác Viễn. Hai người cách nhau tám tuổi, nhưng Mạnh Khánh Nguyên năm ngoái đã đậu tiến sĩ, đầu năm nay được chọn vào Học sĩ viện làm bút thiếp, chưa đến ba mươi đã chính thức ra làm quan.

Ai cũng biết, Quốc Tử Giám chỉ tuyển con cháu quan viên phẩm cấp từ thất phẩm trở lên, gọi chung là nội xá sinh; còn Thư Viện Tịch Ủng thì không phân biệt xuất thân, chỉ cần là con dân lương thiện, thi đỗ là có thể vào học, gọi là ngoại xá sinh. Nhà họ Mạnh vốn chỉ là hào phú ở quê, chính nhờ Mạnh tam đệ được chọn vào Học sĩ viện mà có được quan thân, mới được chuyển vào nội thành mua nhà ở ngõ gần Quốc Tử Giám, và cũng nhờ đó mà Mạnh Bác Viễn được chuyển từ Tịch Ủng sang Quốc Tử Giám học.

Nhưng tài năng giữa hai huynh đệ khác nhau một trời một vực. Năm xưa Mạnh tam ca ở Thư Viện Tịch Ủng đã rất nổi tiếng. Từ năm Bảo Nguyên thứ ba, hắn cùng với Tạ Cửu, xuất thân từ dòng dõi họ Tạ ở Trần quận dự thi cùng năm, sau đó ba năm liền khiến đám học sinh Quốc Tử Giám không ngóc đầu nổi. Ba năm liền, Thư Viện Tịch Ủng đều chiếm trọn ba hạng đầu trong kỳ thi phủ, thi viện, thi hương. Hơn nữa, thứ tự ba người đó chưa từng thay đổi: đầu bảng là Tạ Kỳ, kế là Mạnh Khánh Nguyên, thứ ba là một người tên Thượng Ngạn.

Mấy năm đó, viện trưởng và giáo thụ bên Thư Viện Tịch Ủng như ăn phải linh đan, suýt nữa muốn đem bảng vàng dán lên người mà đi khắp nơi khoe mẽ, khiến các tiên sinh bên Quốc Tử Giám cũng phải gồng mình quyết đấu, nhưng cuối cùng cũng chẳng xoay chuyển được gì.

Mãi đến khi ba người đó đều ra làm quan, năm ngoái học sinh Quốc Tử Giám mới giành lại được đầu bảng.

Còn Mạnh Bác Viễn… hắn ta tuy miễn cưỡng qua được kỳ thi phủ, nhưng chữ viết vẫn bị tiên sinh khoanh tròn phê "xấu tệ".

Cha Mạnh thì lại mong con thành rồng, một đứa thành rồng còn chưa đủ, nhất định phải hai rồng quấn nhau mới vừa ý. Thế nên Mạnh Bác Viễn sống ở nhà khổ không tả xiết, Lâm Duy Minh còn thuộc lòng mấy câu cha hắn ta hay nói:
“Sao không học theo huynh con?”

“Huynh con đậu tiến sĩ rồi, còn con đến tú tài cũng không qua nổi!”

“Vô dụng thế này, trong nhà con lừa chỉ biết ngoe nguẩy cái mông còn có ích hơn con!”

Trình, Lâm và Mạnh tuổi tác tương đương, tính tình hợp nhau, lại cùng học một học xá nên chơi thân. Ngày nào hai người kia cũng nghe thấy viên ngoại họ Mạnh răn dạy con bằng lời lẽ nặng nề, không chỉ trong nhà mà trước mặt người ngoài cũng luôn nói con út không bằng huynh.

Đặc biệt là chuyện Mạnh Bác Viễn đã đính hôn từ hai năm trước mà mãi chưa cưới, cũng vì cha hắn ta hứa hẹn với nhà gái rằng phải đỗ tú tài mới được tổ chức hôn lễ, khiến hắn càng thêm áp lực, càng thêm chán nản.

Hai người bạn đều thấy bất bình thay hắn, nhưng cũng không thể chỉ trích người lớn nhà người ta, may mà Mạnh Bác Viễn tính tình vẫn lạc quan, chứ nếu không thì với kiểu bị mắng mỏ suốt ngày thế này đã sinh bệnh mất rồi.

Trình Thư Quân vỗ vai Mạnh Bác Viễn, không nói gì thêm, chỉ lẳng lặng viết nhanh như gió, giúp hắn ta chép thêm một tờ, còn không quên nhắc Lâm Duy Minh:
“Ngươi cũng đừng chép đẹp quá, kẻo bị Chu tiên sinh nhìn ra thì toi đấy.”

Lâm Duy Minh cũng vội vàng đổi tay trái chép.

Ba người chép đến mức cổ tay rã rời, giao bài phạt cho các tiên sinh đang nghỉ ở phòng giáo thụ, sau đó mới ôm cổ tay, ủ rũ lê bước ra cửa sau.

Trong ngõ nhỏ đã yên tĩnh trở lại, vài ngọn đèn gió lắc lư dưới mái hiên, ánh sáng lờ mờ rọi xuống phiến đá xanh, chiếu lên con đường dưới chân họ. Cả ba đói đến mức bụng dán vào lưng, định bụng lén đi ăn một nồi cá nướng của Thẩm Ký, ai ngờ đúng lúc đó, gió đưa đến một mùi thơm ngào ngạt, mùi trứng có lẫn cả hương trà.

Mùi hương ấy nhẹ nhàng theo gió bay đến, Lâm Duy Minh hít lấy hít để, đi theo mùi sang bên trái vài bước, liền thấy trước cửa một căn nhà ở phía trái có một cô nương dáng người nhỏ nhắn đang đứng đó.

Nàng búi tóc đơn giản thành hai búi tròn, chỉ buộc một sợi dây đỏ, không trang sức gì khác. Ánh đèn hắt lên chiếc áo dài xanh mạ đơn sơ, khiến cả người nàng như một đóa quỳnh nở trong đêm, thanh thoát mà dịu dàng.

Nàng đang cúi người nhấc cái vại sành có quai kép trên bếp than, than tổ ong bên dưới còn đang cháy đỏ rực, ánh lửa hắt lên nửa bên mặt trắng trẻo thanh tú của nàng.

Còn mùi thơm khiến người ta ch** n**c miếng ấy, chính là bốc lên từ cái vại sành ấy.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 7: Diêu Tiến sĩ


<i>Ngon quá! Thật sự rất ngon! Hai người mau nếm thử đi!</i>

Ba người nhìn nhau, rồi lại ngẩng đầu nhìn tấm biển phía sau lưng nàng nương ấy, trong mắt không giấu nổi vẻ kinh ngạc: đây đúng là nhà họ Diêu...

Vậy thì nàng nương đang đứng trước cửa kia, chẳng phải chính là cháu gái của Diêu Tiến sĩ – người xưa nay thấy ai cũng trốn, đến cửa viện còn chẳng mấy khi bước ra đó sao? Bình thường chẳng mấy ai thấy bóng dáng, hôm nay lại ra bên ngoài, bày lò nấu đồ ăn bán trước cửa?

Mang đầy bụng nghi ngờ, ba người không tự chủ được bước tới xem thử.

Diêu Như Ý đã bán được hơn nửa nồi trứng trong khoảng nửa canh giờ, lúc này thấy vắng khách, đang mừng thầm chuẩn bị dọn quán thì sau lưng bỗng vang lên tiếng bước chân khe khẽ. Nàng quay đầu lại nhìn, thì thấy ba thiếu niên mặc áo xanh đang bước tới.

Trông cả ba đều chừng mười sáu mười bảy tuổi, lại có vẻ hơi quen mặt, dường như là mấy người từng hay qua lại nhà họ Diêu trong ký ức của nguyên chủ.

Có điều ký ức mơ hồ, Diêu Như Ý cũng chẳng nhận ra ai.

Người ở giữa, vóc dáng cao gầy, ánh mắt linh hoạt, rất tự nhiên mà rướn cổ đến trước chiếc nồi sành, thò đầu nhìn vào bên trong lớp hơi nước bốc nghi ngút: “Tiểu nương tử họ Diêu nấu cái này là...?”

“Là trứng trà kho nước tương đấy ạ, mấy vị công tử có muốn nếm thử không?” - Diêu Như Ý khép tay áo lại, cân nhắc tính cách của nguyên chủ, rồi mỉm cười ngượng ngùng, giọng nói nhẹ nhàng.

“Chỉ còn sáu quả thôi ạ.”

Người cao nhất, sắc mặt lạnh lùng đứng bên cạnh, thấy Diêu Như Ý đáp lời tự nhiên như thế thì càng thêm kinh ngạc, do dự một lát mới cất lời quan tâm: “Diêu tiên sinh gần đây đã ổn hơn chưa? Hôm qua ta đến hỏi thăm sớm, nghe Ngũ thẩm nói ông đã có thể ngồi dậy rồi.”

Đúng là học trò của gia gia, Diêu Như Ý khẽ gật đầu đáp: “Thân thể a gia đã khá hơn nhiều, giờ cũng có thể đi lại rồi, chỉ là tinh thần vẫn còn chưa minh mẫn, cảm ơn các vị đã quan tâm.”

Người tròn mặt đứng góc ngoài cùng chỉ chăm chăm nhìn vào nồi nước tương nâu sánh thơm ngào ngạt, hít hít mũi, cũng lấy làm kinh ngạc: “Cái… cái trứng trà này là do tiểu nương tử tự tay nấu sao?”

Vài ngày không gặp, sao tiểu nương tử họ Diêu lại thay đổi nhiều đến thế? Hôm trước đến thăm còn nghe Ngũ thẩm – cháu dâu của Diêu tiến sĩ giận dữ mắng nàng là đồ vô dụng nhất nhà cơ mà.

Diêu Như Ý đã sớm nghĩ sẵn lý do, bèn khẽ cúi đầu, vẻ mặt buồn bã, nhẹ nhàng than: “Vâng. A gia bệnh nặng, chi tiêu hằng ngày đều cần bạc, chẳng thể cứ ngồi không mãi được. Trước đây a gia thương ta, mới để ta hưởng phúc nhàn rỗi. Nay ta vô dụng, chẳng có gì báo đáp a gia, cũng chẳng biết làm gì mới tốt, tình cờ thấy món trứng trà này trong sách, thấy có vẻ đơn giản nên thử nấu xem sao, cũng mong kiếm chút đỉnh phụ thêm cho nhà.”

Một đoạn lời khiến ba người nghe mà lòng nghẹn đắng, im lặng hồi lâu, người học trò lanh lợi kia vội nói: “Chỉ còn sáu quả? Vậy ta mua hết! Bao nhiêu tiền?”

“Ba văn một quả ạ. Trứng gà vỏ đỏ loại ngon ngoài chợ cũng đã một văn rồi, thêm chi phí trà, gia vị, tiền than… thật ra ta cũng chẳng lời bao nhiêu, chỉ mong lãi ít bán nhiều, tích chút tiếng thơm. Nếu mấy vị ăn ngon, nhớ giúp ta truyền miệng với người khác nhé.”

Diêu Như Ý nói thế là sợ bọn họ chê đắt. Dù sao ngoài chợ trứng trà đa phần chỉ bán hai văn một quả, có người còn bán ba văn hai quả. Nàng định giá ba văn một quả quả là nhỉnh hơn, nhưng vì nàng nhập lô trứng đầu này từ cửa tiệm với giá thị trường nên giá vốn cao, nếu bán rẻ quá thì chẳng lãi bao nhiêu, chỉ đành định như vậy.

Theo quan sát của nàng mấy ngày nay, một văn tiền tương đương vào khoảng 2–3 tệ thời hiện đại, chỉ cần không gặp năm gà bệnh là có thể mua hai quả trứng sống. Có điều, hệ thống tiền tệ và giá cả thời này hỗn loạn và mong manh, chất lượng tiền xu, biến động giá vàng bạc đều ảnh hưởng tới giá trị của đồng tiền, nàng chỉ có thể tạm quy đổi như thế.

Nàng cũng đã tính sẵn, sau này rảnh thì đi tìm vài hộ nuôi gà, bàn bạc mua trứng theo giá sỉ dài hạn, chắc sẽ tiết kiệm chi phí hơn.

Thêm nữa, nước sốt dùng để luộc trứng này có thể tái sử dụng nhiều lần, nước sốt cũ càng nấu càng thơm, sau cùng tính trung bình ra chi phí trên từng quả trứng cũng rất nhỏ, thật ra cũng không căng như nàng nói.

Không ngờ, nghe nàng nói vậy, học trò lanh lợi kia lại cuống lên: “Trời ơi, cô... cô... sao lại... sao lại bán rẻ như vậy!”

Diêu Như Ý ngẩn ra: “... Hả?”

“Thật không biết nên nói cô thế nào! Cô quả là cháu gái của Diêu tiên sinh, làm ăn sao mà thật thà đến vậy? Cô thử nhìn xem đây là đâu?”

Hắn chỉ hận rèn sắt không thành thép, chỉ tay về phía tấm biển vàng của Quốc Tử Giám mờ mờ dưới bóng đêm.

“Cô có biết trong nhà ăn của chúng ta, món trứng hấp bằng nước pha loãng đến mức không còn vị trứng, người ta bán bao nhiêu không? Mười văn một chén! Trứng luộc thôi cũng bốn văn một quả. Mì chan nước rau dăm rắc muối và hành mà đòi hai mươi lăm văn, lại còn dở tệ.”

Diêu Như Ý lúc này mới vỡ lẽ, trách sao hôm nay nàng bán hết năm chục quả trứng nhanh như vậy! Chỉ trách ba người này đến muộn, lúc trước khi trống đánh, nàng mới hô vài tiếng, đã có không ít học trò và người hầu ngửi thấy mùi thơm kéo tới. Hỏi giá rồi ngửi thấy thơm, nhiều người mua liền bốn năm quả mang đi, chỉ nhờ vào đó mà hơn bốn mươi quả trứng hết veo.

Thì ra là nàng bán quá rẻ.

Nhưng… nhà ăn của Quốc Tử Giám cũng quá chém rồi đấy? Thời hiện đại còn thấy nhà ăn trường học rẻ hơn bên ngoài, chỗ này thì ngược lại.

Có lẽ vì thiếu kiểm soát, mà học trò trong Quốc Tử Giám đa phần là con quan, xuất thân không thấp.

Học trò kia thấy nàng nghe mình nói xong lại ngơ ngác không lên tiếng, không biết đang nghĩ gì, bèn cùng hai bạn nhìn nhau bất lực.

Ban đầu nghe nàng đối đáp trôi chảy, còn tưởng vì gia gia bệnh nặng nên cuối cùng nàng cũng thức tỉnh, không ngờ vẫn còn mơ mơ hồ hồ, thật chẳng yên tâm.

Cũng đúng, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, làm gì có ai trưởng thành chỉ sau một đêm?

Ba người nhìn Diêu Như Ý, nét mặt mềm lại.

Ngoại trừ người mới đến là Mạnh Bác Viễn, hai người còn lại đều từng nhận ơn Diêu tiên sinh.

Dù Quốc Tử Giám là nơi tụ họp con cháu nhà quan, nhưng cũng không phải ai cũng giàu, triều đình không thể toàn người quyền quý. Có học trò chỉ là con nhà tiểu lại, có người còn là con các võ tướng trấn thủ nơi biên ải xa xôi, gia cảnh cực khó khăn. Trước kia, Diêu tiến sĩ thường mời những học trò nghèo về nhà, không chỉ tận tâm chỉ dạy mà còn hỗ trợ vật chất lúc khó khăn. Gia cảnh nhà họ Diêu thanh bần cũng bởi vậy.

Không giống như Chu Bỉnh chỉ biết la mắng học trò, Diêu tiến sĩ ngoài mặt nghiêm khắc, nhưng trong lòng lại rất thương yêu học sinh.

Có một chuyện từng lan truyền rất rộng rãi trong Quốc Tử Giám. Năm xưa, khi Diêu tiên sinh còn làm giáo thụ ở Đàm Châu, ông từng dạy một học trò nghèo tên là Giang Hoài. Sau này Giang Hoài đỗ tiến sĩ, nhưng chờ mãi ở Hộ bộ mà không được bổ nhiệm, gõ cửa khắp nơi đều không có hồi âm, chỉ nghe người ta bảo cứ đợi đi.

Diêu tiên sinh nghe chuyện, bèn gác lại thể diện, trong đêm viết thư tay gửi tới vị chủ sự ở Hộ bộ, người đó là bạn đồng khoa năm xưa của ông, cũng là người có tiếng nói.

Tuy Diêu tiên sinh là bậc học giả uyên bác, văn từ phi phàm, nhưng bức thư ấy lại viết rất chân thành mộc mạc:

“Giang Hoài học vấn vững vàng, người cần cù hiếu học, tính cách ngay thẳng, thực là kẻ có thể bồi dưỡng. Kính mong đại nhân rút chút thời gian khảo nghiệm. Nếu cảm thấy không đáng dùng, cũng mong đại nhân không tiếc lời vàng ngọc, chỉ điểm rõ chỗ thiếu sót, để người trẻ khỏi uổng phí tháng năm ở kinh thành mà chờ đợi vô vọng.
Diêu Khải Chiêu kính lạy.”

Vị chủ sự đọc thư cảm động trong lòng, thật sự triệu kiến Giang Hoài, sau khi khảo sát nhân phẩm và học vấn, liền đề cử hắn giữ chức Đồng tri ở Vân Châu. Trước khi trao bổ nhiệm còn đưa lại bức thư và dặn dò: “Ngươi có một người thầy rất tốt, sau này đừng quên ơn, hãy làm một vị quan vì dân vì nước.”

Trước khi lên đường, Giang Hoài đến bái biệt Diêu tiên sinh, dập đầu thật mạnh, rồi dắt lừa một mình lên đường nhậm chức.

Ba năm trước, nước Liêu suýt bị Kim quốc tiêu diệt, thế cân bằng giữa Liêu–Kim–Tống bị phá vỡ. Môi hở răng lạnh, nếu Kim quốc nuốt trọn Liêu quốc, thế lực lớn mạnh, sau đó chắc chắn sẽ đánh Tống! Hoàng đế Đại Tống lúc này đành phải bỏ qua mối thù xưa, phái binh viện trợ Liêu quốc, gọi là “kháng Kim viện Liêu”.

Diêu Vân thập lục châu lại nổi lửa chiến tranh.

Cuộc chiến kéo dài suốt hai năm, tới mùa đông năm thứ hai thì tình hình bất lợi. Quân chủ lực của Vân Châu vừa bị điều ra tiền tuyến, thành liền bị quân Kim bao vây tầng tầng lớp lớp.

Tri phủ Vân Châu sợ hãi, ôm tiền bỏ trốn. Giang Hoài là Đồng tri, thân là văn quan, đành phải đích thân dẫn dắt dân chúng giữ thành. Đến lúc hết tên cạn lương, ông huy động cả người già phụ nữ, biến nồi niêu, gậy gộc, bồ cào thành vũ khí. Vậy mà vẫn trụ được đến khi viện binh của Nhạc tướng tới cứu.

Đáng tiếc, đêm trước hôm được giải vây, Giang Hoài vì lao lực quá độ đã ngã gục trên tường thành. Trước khi chết còn không biết viện binh sắp tới, câu cuối cùng là: “Tử thủ, không đầu hàng.”

Di vật để lại chỉ có hai bộ quan phục vá chằng vá đụp, mấy lượng bạc vụn và lá thư tiến cử năm xưa của Diêu tiên sinh.

Tin truyền về Biện Kinh, cả triều lẫn dân chúng đều rơi lệ.

May mắn thay, trận chiến đó cuối cùng giành được thắng lợi. Quân Kim bị đẩy lùi về phương Bắc, nước Liêu tuy còn sống sót nhưng nguyên khí đại tổn, phải cắt sáu châu cho Kim, lại cắt thêm ba châu nữa dâng cho Đại Tống, mỗi năm còn phải tiến cống mười vạn lượng bạc. Nhờ đó mà biên cương mới yên ổn được vài năm gần đây.

Đối với chuyện của Giang Hoài, cả Lâm Duy Minh và Trình Thư Quân đều xúc động sâu sắc, bởi hai người họ cũng xuất thân bần hàn, từng là khách quen trong nhà họ Diêu.

Nhất là Trình Thư Quân.

Cha hắn vốn là võ quan, nhiều năm trước từng theo Hy lão tướng quân chinh phạt phản loạn tại Tần Châu. Trong trận chiến đó, ông bị vây khốn nhưng vẫn cố thủ đến cùng, cuối cùng thân trúng nhiều tên, vẫn cầm đao chống đất đứng vững. Sau chiến thắng, Hy lão tướng quân đích thân viết sớ dâng vua xin phong cho cha Trình Thư Quân chức “Vân Huy tướng quân”, rồi cầu khẩn triều đình cho con trai ông tiếp tục ở lại Quốc Tử Giám học tập.

Hoàng thượng nghe chuyện cảm động, ban cho mẹ con Trình gia một ngôi nhà nhỏ trong ngõ hẻm gần Quốc Tử Giám, Trình nương tử cũng mở tiệm may để mưu sinh. Nhưng góa phụ nuôi con ăn học thật chẳng dễ dàng, dù có tiền trợ cấp và thu nhập từ tiệm may, vẫn luôn thiếu trước hụt sau.

Trình Thư Quân hiểu a nương vất vả kiếm tiền, nên vô cùng siêng năng, lại rất tiết kiệm. Ngòi bút mòn rồi, hắn cũng chỉ lặng lẽ hơ lên đèn cho tơi lông mà dùng tiếp. Là người kiệm lời, nhưng Diêu tiên sinh lại phát hiện ra tình cảnh qua nét chữ trên bài làm. Ông không nói gì nhiều, sau khi trả bài chỉ lặng lẽ kẹp trong tập bài của hắn vài cây bút lông sói thân trúc mới tinh, trên thân bút khắc dòng chữ: “Tri quân chí bất tiểu, nhất cử lăng hồng hộc” – Biết chí con chẳng nhỏ, một phen cất cánh như chim hồng bay cao.

Còn Lâm Duy Minh thì được thơm lây từ tiểu thúc – Lâm Văn An, học trò lừng danh của Diêu tiên sinh. Có lẽ vì thế mà cha hắn cũng đem hắn nhét vào nhà họ Diêu, mong nhận được chỉ điểm từ vị danh sư này.

Hắn thường đến nhà họ Diêu để học ké, dù tư chất bình thường, tính tình nóng nảy, học hành lười biếng, Diêu tiên sinh cũng chưa từng buông bỏ. Ông chỉ nghiêm khắc phê bình rằng hắn không chăm chỉ, nét bút hời hợt, chưa bao giờ đem hắn ra so sánh với tiểu thúc giỏi giang kia như cha Mạnh Bác Viễn hay làm: “Trò xem xem trò, năm đó tiểu thúc của trò như nào như nào…”

Ngược lại, ông nghiêm mặt dặn: “Đời người quý ở cần cù, không cầu thì không được. Trên đời không có cuốn sách nào đọc là vô ích, chỉ sợ con ôm hoài bão mà lười biếng, vừa căm ghét bản thân lại chìm trong lười nhác. Tuổi trẻ chóng già, học vấn khó thành, con phải đọc sách! Không được trì hoãn, đừng nói rằng còn nhiều thời gian, hôm nay chính là lúc đọc sách!”

Một câu như sét đánh tỉnh mộng, từ đó Lâm Duy Minh thử học hành nghiêm túc.

Có điều, hắn không có ý chí bền bỉ, thường học được vài ngày lại lười vài ngày, rồi lại tự trách, rồi lại học tiếp, cứ thế mà trồi sụt suốt. Thành tích trong Quốc Tử Giám cũng chỉ ở mức trung bình, chẳng thể so với Trình Thư Quân luôn đứng đầu, nhưng cũng khá hơn Mạnh Bác Viễn luôn lẹt đẹt phía cuối.

Đôi lúc hắn cũng ngẫm nghĩ, có lẽ người như mình, tư chất bình thường, dù cố gắng cũng chẳng nên việc lớn. Chi bằng mưu cầu yên ổn sung túc, sống vui vẻ khỏe mạnh, dù tầm thường cả đời cũng không sao.

Nhưng hôm nay vừa gặp lại tiểu nương tử nhà họ Diêu, ký ức lại ùa về, lại nhớ tới lời răn dạy của Diêu tiên sinh, trong lòng Lâm Duy Minh lại thấy không cam tâm.

Và thế là trong đầu hắn lại bắt đầu thề thốt: “Ngày mai ta nhất định treo tóc đâm đùi học đêm, quyết học cho tới khi mờ trời tối đất, không phân ngày đêm! Từ hôm nay trở đi, ba tháng liền, ta tuyệt đối không lén xem truyện mới trong tiệm sách nữa! Nếu vi phạm lời thề… thì... thì phạt ta không đi vệ sinh được!”

Thề xong, hắn lại thấy hơi lo lắng, không tin bản thân làm được.

Lâm Duy Minh nghĩ nghĩ, lại thêm điều kiện: “Chỉ một lần thôi…”

Trình Thư Quân không biết đầu óc Lâm Duy Minh đã bay tận phương nào, ánh mắt hắn vẫn xuyên qua bóng dáng tiểu nương tử nhà họ Diêu mà nhìn vào cánh cổng khép hờ, trong lòng dấy lên bao nỗi ngổn ngang.

Khi Diêu tiên sinh còn nằm ở y quán vì trúng gió, Trình Thư Quân cùng Mạnh và Lâm hai người đều đến thăm mỗi ngày. Sau khi ông được đưa về nhà tĩnh dưỡng, vì trong nhà có nữ quyến chưa xuất giá nên bọn họ cũng không tiện tự tiện ra vào, đành mỗi ngày chỉ đứng ngoài cửa hỏi thăm. Chỉ cần nghe được từ miệng Ngũ thẩm – người chăm sóc lão tiên sinh một câu kiểu như “Hôm nay khá hơn rồi, ăn thêm được nửa bát cháo”, cũng khiến họ thấy như mây mù tan biến, mặt trời ló rạng.

Vậy mà hôm nay lại thấy tiểu nương tử nhà họ Yên ngồi trước cổng bán trứng trà.

Ba văn một quả trứng, nàng một ngày bán được cũng chẳng bằng con cháu nhà quyền quý trong Quốc Tử Giám vung tay mua một cây bút hay một nghiên mực.

Nghĩ đi nghĩ lại, nàng trước đây cũng là con gái nhà quan đấy thôi.

Trình Thư Quân không giỏi nói chuyện, lại càng không biết an ủi nữ tử, chỉ có thể cụp mắt, siết chặt tay thành nắm.

Mà lúc này, Lâm Duy Minh như vừa tỉnh mộng, sốt ruột nói với Diêu Như Ý: “Mai cô phải bán năm đồng một quả nhé, nhớ đó, đừng bán ba đồng nữa.”

Ba người đang rơi vào im lặng, Yên Như Ý đã gói xong trứng bằng giấy dầu, mỉm cười nói:
“Hôm nay ba đồng, ngày mai năm đồng, như thế chẳng phải là hét giá hay sao? Sau này ai còn đến mua nữa? Thức ăn ở nhà bếp Quốc Tử Giám tuy đắt, nhưng nếu ta bắt chước họ thì có gì khác biệt? Gia gia ta từng dạy: quân tử yêu tiền, song phải theo đạo lý. Người ngoài có thể nói xấu a gia, nhưng ta không thể làm tổn hại đến thanh danh ngài ấy.”

Nàng ngẩng đầu nhìn ba học trò trước mặt, mỉm cười chân thành:
“Không sao đâu, cảm ơn các vị đã đến ủng hộ, lại còn quan tâm đến gia gia ta… Tổng cộng là mười tám đồng.”

Lâm Duy Minh đành ngậm ngùi lấy tiền ra, định trả thêm cũng bị nàng từ chối.

“Lang quân không cần thương hại ta.” - Nàng vẫn cười, đôi mắt cong cong, má lúm xinh xắn:
“Tiền của ai cũng không phải gió thổi mà ra. Lang quân thương tình cho ta, ta cảm kích trong lòng, nhưng ta không thể nhận. Không phải vì sĩ diện, mà là vì ta vẫn còn tay chân lành lặn, gia cảnh cũng chưa đến mức một đồng không có. Nếu ta tham mấy đồngnày thì về sau làm sao tự lập? Dù là nữ tử, ta cũng nên tự tay kiếm tiền nuôi gia gia, chứ không thể không làm mà hưởng. Đa tạ các vị.”

Ba người nhìn nhau, cuối cùng cũng không khuyên thêm được gì.

Diêu Như Ý nói xong, cẩn thận cất mười tám đồng tiền vào túi vải nhỏ bên hông, cúi người hành lễ với họ rồi chuẩn bị khom người thu dọn. Trình Thư Quân lập tức bước tới, xắn tay áo nói:
“Để ta làm, tiên sinh từng nhiều lần giúp đỡ ta, ta chẳng có gì báo đáp, để ta phụ cô mang vào trong.”

“Ta cũng vậy, ta cũng vậy!”

“Để ta giúp!”

Hai người còn lại cũng vội vàng giành nhau mang bếp, khiêng ghế.

Nhưng trời đã tối, họ cũng không tiện ở lâu, dù sao năm đó trong đám lời đồn bẩn thỉu mà nhà họ Diêu từng gánh, có cả câu “trong nhà thường có đàn ông ra vào”. Ai cũng biết tiểu nương tử nhà họ Diêu là oan uổng, chuyện Diêu tiên sinh bị cách chức cũng oan, nhưng trước kia nhà họ Đặng đã dùng tiền mua chuộc đám lưu manh vô lại rêu rao khắp nơi, lời đồn thì luôn lan xa. Giờ nếu ai nói giúp một câu, thể nào cũng bị gán cho “ngươi chính là nam nhân đã từng lén lút với tiểu nương tử nhà họ Diêu phải không?”

Cãi không lại, đành phải né tránh.

Chỉ giúp nàng mang đồ vào trong sân, chào nhau một cái rồi ai nấy mang theo trứng còn nóng rời đi.

Cổng nhà họ Diêu cũng lại khép lại.

Cả ba đều sống ở ngõ nhỏ này, nên không ở ký túc xá Quốc Tử Giám. Lâm Duy Minh tiện tay lấy mấy quả trứng đưa cho hai người còn lại. Bọn họ vừa bóc vỏ vừa thở dài, sóng vai bước đi:
“Nhà Diêu tiên sinh thật quá khổ, nhìn tiểu nương tử vốn là khuê nữ gia giáo giờ phải kho trứng kiếm sống, thấy mà xót xa.”

Trình Thư Quân cầm hai quả trứng, không nói gì.

“Diêu gia đúng là số khổ, sau này nếu có cơ hội, chúng ta nên giúp họ nhiều hơn.” - Mạnh Bác Viễn dù mới tới Quốc Tử Giám không lâu, không thân thiết với Diêu tiên sinh bằng hai người kia, nhưng cũng nghe qua chuyện của gia đình ấy, giờ cũng thở dài theo.

Có điều, hắn thật sự đói bụng. Vừa thở dài, tay cũng không ngừng, nhanh chóng bóc vỏ xong một quả trứng, còn đưa lên ngắm kỹ:
“Trứng này thơm thật đấy, nhưng ăn vào liệu có đau bụng không nhỉ…” - Hắn vẫn hơi lo.

Lâm Duy Minh cũng bóc vỏ xong, nhưng chưa dám ăn.

Cả ba chẳng ai hy vọng gì nhiều vào món trứng của tiểu nương tử nhà họ Diêu. Ai cũng biết, bếp nhà họ Diêu từng nổ hai lần, nồi bay bếp nát, khói đen mù mịt, cảnh tượng kinh hoàng đến mức quân lính tuần tra cũng phải tới dập lửa. Tay nghề nấu nướng của Diêu tiên sinh và tiểu nương tử chắc còn không bằng đầu bếp trong nhà ăn Quốc Tử Giám - những người mỗi ngày đều nghĩ ra đủ món mới lạ.

Nhưng… mùi thật sự rất thơm. Mạnh Bác Viễn nhịn không nổi, cắn một miếng thử.

Vừa cắn một cái, hắn lập tức trợn tròn mắt, chỉ vào quả trứng có lòng đỏ tan chảy thơm lừng:
“Ngon… ngon… ngon…”

“Sao đấy? Cắn trúng lưỡi à?”

“Ngon lắm! Thật sự ngon! Hai người mau ăn thử!”

Lâm Duy Minh thấy bạn mình như sắp l**m đến mép, bán tín bán nghi cũng cắn một miếng.

Lòng trắng trứng thấm đẫm nước sốt đậm đà, mềm mịn dẻo dai, hương vị đậm mà không gắt, thơm mùi trà. Lòng đỏ bên trong lại càng tuyệt – vừa cắn, phần trứng lòng đào chảy ra sánh quyện lấy lớp lòng trắng, khiến người ta vội há miệng nuốt ngay.

Không chỉ có mùi nước tương đậm đà, vị trà thơm thanh, mà ăn xong còn thấy vị ngọt dịu nơi đầu lưỡi, chính là vị hậu ngọt đặc trưng của trứng trà.

Tay nghề này mà từng làm nổ bếp hai lần?

Mạnh Bác Viễn ba miếng hết một quả, đang ăn quả thứ hai, mắt híp lại vì sung sướng:
“Đây là lần đầu tiên ta ăn trứng trà có lòng đào, ngon quá ngon quá, ngon đến mức đầu óc ta cũng bay theo luôn rồi!”

“Ngươi khen hơi quá đấy!”

Lâm Duy Minh dù ngoài miệng chê bai, nhưng cũng ăn hết trứng ngon lành.

Công nhận ngon thật! Ngon hơn nhà bếp Quốc Tử Giám nhiều!

<i>【Tác giả có lời muốn nói】</i>
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 8: Đậu đũa xào cà tím


<i>"Ta nghe khẩu khí của Vương đại nhân, hình như Lâm Văn An sắp được triệu hồi hồi kinh rồi."</i>

Gió thu mang theo chút se lạnh len qua lòng bàn chân trong sân nhỏ nhà họ Diêu. Diêu Như Ý bày sẵn ghế lò than ở ngay cửa sân, để sáng mai dùng tiếp.

Giờ này bán xong trứng trà thì trời đã tối om như đổ mực, nhưng tính ra cũng không phải quá muộn, vừa qua ba khắc giờ Dậu.

Lúc ba người kia tới, Diêu Như Ý thấy trong ngõ người qua lại đã thưa dần, trong nồi còn đúng sáu quả trứng, nàng bèn quay lại sân nhỏ, đỡ gia gia vào phòng nghỉ ngơi. Lão gia tử trưa ngủ mê, mới ăn bánh nướng và trứng trà lúc xế chiều nên giờ vẫn còn tỉnh táo, ngồi cạnh giường rành rọt gọi Như Ý mang bài tập của đám học trò trên bàn đến, ông muốn chấm bài.

Đến người cũng chẳng còn nhận ra, vậy mà vẫn nhớ phải chấm bài, đúng là mệnh trời chọn làm thầy giáo.

Tính ra lão gia tử đã xin nghỉ ốm hai tháng, còn bài vở gì để chấm nữa đâu? Diêu Như Ý bèn lục tung chiếc bàn sách cũ kỹ sơn đã tróc ở trong nhà, rút đại một tờ bài văn đã ố vàng bị kẹp ở dưới cùng xấp giấy, đưa cho ông mà chẳng buồn xem của ai.

Quả nhiên, Diêu lão tiên sinh liền chỉnh lại tư thế nghiêm trang, bước từ trên giường xuống, ngồi vào bàn, nâng tờ giấy đọc chăm chú.

Gió đêm thổi qua, cửa sổ ọp ẹp vang lên tiếng lách cách khe khẽ, lão gia tử tay ôm bài văn dần dần nhập thần, lưng cũng thẳng tắp. Như Ý thấy ông ra vẻ nghiêm túc, mím môi lui ra.

Ra đến trước cửa sân chuẩn bị dọn hàng thì không ngờ gặp vận may, ba học trò của lão gia tử đến mua nốt chỗ trứng còn lại.

Nàng hớn hở ra mặt. Hôm nay nàng chỉ bán một nồi năm mươi quả trứng, trừ chi phí thì lãi được bảy mươi lăm văn.

Nghe thì có vẻ ít, nhưng buôn bán nhỏ vốn là tích tiểu thành đại. Nàng dự tính đợi ông nội ngủ rồi sẽ ra chợ đêm mua một trăm năm mươi quả trứng về kho tiếp, ngâm qua đêm, sáng mai mở bán sớm, cả ngày có thể bán nhiều hơn, kiếm được nhiều hơn nữa.

Nghĩ đến đây, Như Ý liền lấy khăn lọc kỹ lại nồi nước dùng đã dùng hôm nay. Lọc bỏ mảnh vụn vỏ trứng, cọng trà, bã quế… nồi nước dùng sẽ trong lại, rồi thêm chút gia vị mới và một gáo nước đun sôi để nguội, đậy kín, đặt nơi mát, sáng mai chỉ cần đun sôi là dùng tiếp được rồi.

Nước dùng cũ muốn giữ được thì phải “nuôi”. Lọc sạch kỹ, có thể dùng lại ba đến năm lần. Sau đó phải bỏ bớt một nửa, loại bỏ cặn ở đáy, rồi thêm nguyên liệu mới và nước sạch pha lại. Chỉ cần chú ý vệ sinh, tránh để dính dầu mỡ hay nước lã, nồi sốt này sẽ không bị hỏng.

Sở dĩ nước dùng có thể dùng lại là vì thường xuyên đun nóng sẽ diệt khuẩn, mà bản thân các loại gia vị như tiêu, đại hồi cũng có công dụng kháng khuẩn và bảo quản. Nàng nhớ từng tra trên mạng rằng đại hồi có chất gọi là dầu hồi, có hiệu quả bảo quản rất tốt.

Hồi xưa, người ta thường đồn những tiệm bán vịt luộc, gà luộc dùng nước dùng trăm năm truyền đời, thực ra là vì lý do này. Dù đã pha loãng nhiều lần, nhưng công thức giữ nguyên, thành ra dùng luôn làm chiêu bài quảng cáo.

Dù sao, nước dùng cũ nấu ra đồ ăn vẫn có mùi vị đặc biệt.

Trước đây bà ngoại nàng cũng làm vậy. Người khác thì dùng gói gia vị bán sẵn, bà lại khăng khăng tự phối, nói ngon hơn. Thực ra cũng vì gói gia vị ngoài tiệm vừa đắt vừa ít đồ xịn. Khi đó Như Ý còn nhỏ mà lo chuyện người lớn, cứ tưởng bà ngoại tiếc của không chịu bỏ, còn lo bị đau bụng, phải lên mạng tra mới biết lý do thật sự chứ không phải mất vệ sinh.

Lọc xong nồi nước dùng, Diêu Như Ý liền vụng về xắn tay áo, bắt đầu nấu cơm tối. Hôm nay lo bán thử nên trễ giờ cơm, may mà ông nội có ăn lót bụng từ trưa, không thì giờ càng sốt ruột hơn.

Nàng bẻ đậu đũa thành từng khúc, cà tím rửa sạch, cắt khúc rồi bổ đôi, ngâm vào nước giếng. Lấy sắn dây pha loãng thành hồ bột trộn vào cà, sau đó pha nước dùng: nước tương, đường trắng, muối và nửa bát nước sạch. Thêm tí tỏi băm là có thể xào rồi.

Hôm nay nàng chỉ định làm món cà tím xào đậu đũa chan cơm đơn giản. Cơm đã nấu sẵn, đang ủ trong nồi, chỉ cần làm một món, rất nhanh.

Thêm bánh than, chảo dầu nóng, cho đậu đũa vào xào trước, sau đó chiên cà tím. Khi cà tím vàng ươm và mềm thì vớt ra, rồi phi thơm tỏi, cho cả đậu và cà vào đảo đều, đổ hỗn hợp nước dùng vừa pha vào, vừa chạm chảo nóng “xèo” một tiếng, hơi trắng lập tức bốc lên khắp bếp, mùi thơm ngào ngạt lan khắp phòng.

Lúc múc ra, Như Ý hít một hơi thật sâu. Dù không có ớt, nhưng mùi thơm đã quá đủ.

Đậu giòn, cà mềm, món này chan cơm đúng là thơm nức mũi!

Nàng tìm trong tủ bát cái bát sứ thô lớn, múc đầy cơm trắng, ấn chặt rồi chan nước dùng sền sệt lên trên, xới một muôi cà tím xào đậu đũa đầy ắp phủ lên mặt. Còn chưa mang vào nhà thì mùi thơm đã bay ra, gia gia Diêu Khải Chiêu trong phòng đã ngửi thấy.

Ông quay mặt lại, tuy vẫn ra vẻ nghiêm nghị, nhưng sống mũi khẽ động đậy.

“Xin lỗi a gia, hôm nay ăn muộn, mai con nhất định nấu sớm hơn.” - Như Ý vừa dẹp xấp sách vở lộn xộn trên bàn qua một bên vừa cười đưa đôi đũa tre qua.

“Ông nếm thử xem, đậu đũa này ăn được không?”

Diêu gia gia tay run run cầm đũa, thực ra ngửi thấy mùi đã biết ngon rồi, nhưng vẫn cố chấp lầm bầm: “Đậu đũa ăn không ngon.”

Nhưng khi bắt đầu ăn, ông ôm bát cơm, cúi đầu xúc cơm lia lịa, ăn càng lúc càng nhanh, Như Ý cũng không hỏi thêm nữa. Nàng chỉ rót cho ông một ly nước đặt lên bàn, rồi nhẹ chân lui ra.

Nàng cũng bưng bát cơm chan đầy thức ăn, tựa cột hiên, nhìn ông ăn là biết mình học cũng tạm, ăn vào cũng gật gù. Cà tím thấm đẫm nước dùng, mềm tan trong miệng. Đậu đũa giòn ngọt đậm đà, ăn kèm cơm nóng đượm vị nước dùng sánh đặc, ấm áp lan từ dạ dày ra khắp tứ chi.

Tuy chỉ là bát cơm chan món xào đơn giản, nhưng ăn vào lại cảm thấy ấm lòng.

Trước đây ở nhà có bà ngoại siêng năng nên nàng ít khi phải nấu. Giờ tự tay làm mới thấy nấu ăn cũng không khó như nàng tưởng.

Sao trời dần sáng rõ nơi mái hiên, nàng ngẩng đầu nhìn, ánh mắt chan chứa hy vọng, từng đũa từng đũa, ăn đến phồng cả má.

Mỗi hạt cơm trong bát đều được nàng vét sạch.

Bụng căng tròn ấm áp, Diêu Như Ý thở ra một hơi thật dài đầy mãn nguyện.

---------

Ngay lúc nhà họ Diêu đang đóng cửa ăn cơm tối, ở đầu hẻm cạnh Quốc Tử Giám cũng có mấy người tạp dịch lần lượt cầm sào tre đi thắp đèn. Trời đã tối hẳn, ngoài mấy học sinh đang tắm rửa hát hò om sòm trong học xá của Quốc Tử Giám, thì cả con hẻm đều khá yên tĩnh.

Gió thu len lỏi khắp các ngõ nhỏ, thổi rung mấy chiếc đèn lồng treo trước hiên nhà, từng vạt ánh sáng ấm áp hắt lên mặt đá xanh khiến bóng đèn lay động mập mờ.

Người lính già đang trực gác hai chân lên chiếc bàn bừa bộn, ngả người ra sau dựa vào chiếc ghế trúc kẽo kẹt, vừa bóc trứng trà ăn vừa khe khẽ ngâm nga khúc hát lầu xanh, trong lòng còn đang tặc lưỡi than thầm: Cô cháu gái nhà họ Diêu vốn nhút nhát mà giờ cũng dám dấn thân buôn bán, xem ra thật sự sa cơ thất thế rồi mới đến mức đó.

“Thảm quá a ~ í í i a a ~”

Vừa hát tới đoạn cao trào thì đúng lúc trước phòng trực có người gõ cửa kính “cốc cốc”.

Giờ này thì quan viên lớn nhỏ, các tiến sĩ Quốc Tử Giám đều tan làm cả rồi, ông ta vội nuốt vội quả trứng trong miệng, đưa khuỷu tay chống đẩy cửa sổ lên, cau mày thò đầu ra nhìn:
“Ai đó?”

Trước cửa sổ là một nữ tử trung niên mặt dài, đầu quấn khăn, nhìn kỹ lại thì có chút quen mắt.

Ngũ thị thắt chiếc tạp dề vải thô ở lưng, tay xách một con cá quế hoa buộc dây rơm xuyên mang, vội nở nụ cười niềm nở:
“Quan nhân đúng là người quý nên hay quên, mới không gặp nửa ngày mà không nhận ra tiểu phụ rồi? Tiểu phụ là cháu dâu của Diêu tiến sĩ đây ạ, gần đây thường ra vào ở đây. Ngài nhìn kỹ lại xem! Thật đó, không lừa đâu!”

Người lính già khi ấy mới lười nhác lê dép ra, giơ đèn dầu lên soi từ đầu đến chân bà ta, nhận ra rồi bèn hỏi: “Giờ này tới làm gì?”

Ngũ thị giơ con cá lên, cười nói:
“Dẫu sao cũng là người nhà, dù có thế nào thì xương cũng nối với gân, chẳng lẽ lại thực sự mặc kệ? Ta đây không yên tâm, thật đó! Quan nhân không biết chứ, cháu gái ta từ nhỏ chưa từng động đến việc bếp núc, tay còn không dính nước xuân, chẳng biết làm gì cả. Ta ở nhà mà cứ thấp thỏm, không biết ông cháu họ có ăn uống gì chưa nữa? Đúng lúc nhà ta có được mấy con cá, quan nhân nhà ta bảo: Thôi bỏ đi, bảo ta mang qua cho thúc phụ một con tẩm bổ.”

Lính già lại liếc nhìn bà ta, thấy Ngũ thị người gầy, mặt dài, cười lên thì khóe miệng có hai nếp nhăn sâu, mặc bộ áo dài vải mỏng viền xanh cũ kỹ, chẳng có vẻ gì là giấu dao giấu kiếm, bèn khoát tay cho qua: “Đi đi.”

Ngũ thị “dạ” một tiếng, liền lần theo bóng tối nhá nhem mà đi vào trong hẻm.

Nhà họ Diêu nằm ở cuối con hẻm, nhưng bà ta đi được nửa đường thì đã thấy có khói bếp bốc lên từ tường viện nhà họ Diêu, từng làn từng làn quấn lấy nhau bay lên ẩn hiện trong bóng tối dày đặc, khiến bước chân bà chậm lại.

Bà ngẩng đầu nhìn luồng khói ấy một lúc lâu, sững người, rồi lại nhanh bước đến trước cửa nhà họ Diêu, quả nhiên ngửi thấy mùi cơm và mùi thức ăn thơm phức từ bên trong bay ra. Lờ mờ còn nghe thấy tiếng Diêu Như Ý đang gọi: “A gia cẩn thận nghẹn, ăn chậm thôi ạ!”

Bà ta đứng trước cửa một lúc, ghé mắt nhìn qua khe cửa, nhưng chỉ thấy ánh đèn lờ mờ bên trong. Không lẽ có ai tốt bụng tới nấu cơm giúp ông cháu họ?

Trong hẻm này phần lớn là nhà quan lại, vợ của một tiểu lại nhỏ bé như bà ta ngược lại cảm thấy hơi chùn bước, bèn do dự không biết có nên vào không.

Nghĩ một hồi, bà tháo con cá tươi xuống, buộc vào chiếc vòng đồng treo trước cửa nhà họ Diêu, không gọi cửa, cũng chẳng vào, mà xoay người rời đi.

Người lính già thấy bà ta đi ra nhanh như thế thì lấy làm lạ, lại thò đầu ra hỏi:
“Sao thế? Diêu tiến sĩ với cháu gái không có nhà à? Lạ nhỉ, vừa nãy cô cháu gái còn ngồi bán trứng trà ngay trước cửa mà. Ta thấy vui vui cũng ra mua hai quả đó! Nãy bà chẳng bảo nàng tay không dính nước xuân, chẳng biết làm gì sao? Ta thấy cũng không phải vậy đâu! Nàng bảo hôm nay lật sách ra thấy công thức, thử làm xem sao. Nói chứ, lần đầu làm mà hương vị đã ngon lắm đấy. Nhưng mà cũng thật đáng thương, con gái nhà quan gia đàng hoàng, giờ lại phải sống thế này…”

Ngũ thị nghe vậy thì tròn mắt kinh ngạc, chẳng thể tin được, thậm chí còn ngẩng đầu nhìn trời hôm nay đâu có mưa đỏ gì đâu?

Trứng trà? Diêu Như Ý làm? Còn bày hàng bán?!

Sao có thể?

Nếu nói ai hiểu rõ Diêu Như Ý nhất, thì chắc chắn là Ngũ thị!

Dạo trước, a gia nhà nàng ta bị trúng gió phải đi y quán, bà ta bảo nàng mỗi ngày hấp vài xửng bánh mì bột mì mềm dễ nuốt mang vào, nhưng con bé đó chỉ biết cúi đầu rơi nước mắt, không nói một lời. Ngày thường cũng vậy, muốn nói chuyện với nó còn phải dí tai sát miệng mới nghe thấy tiếng nhỏ như muỗi kêu.

Cái dáng vẻ co đầu rụt cổ như con rùa kia làm người ta tức đến nghiến răng! Sau đó, hai ông cháu bị ngộ độc khí than, suýt chết, Diêu Như Ý hồi tỉnh thì ánh mắt có vẻ linh động hơn, có chút sinh khí hơn, nhưng vẫn là cái kiểu lầm lì, mười mấy ngày rồi nói gì cũng không đáp.

Đến mức khiến Ngũ thị phải uống hết ba lọ thuốc “Tiêu Dao Hoàn”!

Sự kinh ngạc ấy của Ngũ thị nhất thời không che giấu được, nhưng đối mặt với vẻ mặt đầy tò mò như muốn xem trò vui của người lính già, bà ta vội kìm nén nghi hoặc trong lòng, gượng cười cúi chào một cái:
“Đa tạ đại nhân cho tiện đường,” cũng không tiếp lời trước đó mà quay người rời đi.

Vừa đi bà ta vừa nghĩ ngợi, mãi đến khi về tới nhà vẫn thấy không ổn. Vào nhà thấy chồng là Diêu Quý đang ngồi dưới đèn, vẫn đang bấm bàn tính, tính toán đống sổ sách vụn vặt ở nha môn, bà ta đành nuốt hết mớ lời xuống.

Haizz, tiểu lại nha môn nhìn thì oai, kỳ thực là việc nặng nhọc như trâu bò, cấp trên ra lệnh một câu là chạy đến gãy chân. Gặp lúc triều đình có chuyện lớn thì đến nhà cũng không về được.

Không chỉ phải cung phụng bề trên, mà sinh nhật chính thất tiểu thiếp, con cái họ cũng không thể thiếu lễ vật. Ngũ thị thở dài, thúc phụ từng mắng chồng bà là người không có chính khí, chỉ biết mưu tính mánh khóe, nhưng nếu không nhận chút “đồ cống” từ kẻ dưới thì cả nhà to thế này lấy gì mà sống?

Trên ăn dưới, dưới lại phải tìm cách xoay xở, biết làm sao được?

Bà lắc đầu, vào bếp múc một bát canh trứng nóng mang tới cho chồng, dịu giọng nói:
“Quan nhân nghỉ tay chút đi.”

Diêu Quý đặt bút lên giá bút, ngẩng đầu nhìn vợ, ngạc nhiên:
“Sao về sớm thế?” - Hắn còn tưởng vợ sẽ ở lại dọn dẹp, nấu cơm cho thúc phụ chứ.

Ngũ thị đang nghẹn một bụng lời, lập tức kéo ghế ngồi xuống, không chờ hỏi, liền trút hết chuyện khói bếp, trứng trà, người lính già, lời nói ra như trút nước:
“Quan nhân, chàng nói xem có lạ không? Mới nửa ngày mà con bé lầm lì đó lại trở nên tháo vát đến thế?!”

Diêu Quý thì mệt mỏi, đầu óc choáng váng, chẳng mấy để tâm, gật gù nói:
“Thúc phụ dù sao cũng từng làm quan ngũ phẩm, trong nhà chắc có sách vở cổ, biết đâu nó thực sự tìm được sách dạy nấu ăn. Thế thì tốt, khỏi phải lo cho họ nữa.”

Nhưng Ngũ thị vẫn thấy không ổn.

Diêu Quý là đàn ông, lại bận việc quan, lúc trước Diêu Như Ý ở nhà họ Diêu hắn chẳng gặp mấy, nhưng Ngũ thị thì ba bữa một ngày đều chạm mặt nàng, hiểu rõ đó là một khúc gỗ phải chọc mới nhúc nhích.

“Không được, mai thiếp phải tới xem thử.” - Ngũ thị đứng dậy, vẫn thấy tò mò không chịu nổi.

“Thiếp muốn tận mắt nhìn xem cái gọi là trứng trà ấy ra sao.”

“Thì tùy nàng thôi.” - Diêu Quý ngáp một cái, hai mắt mệt rã rời, chợt nhớ ra chuyện quan trọng:
“À phải, Lâm Văn An ở Phủ Châu lại gửi thư cho thúc phụ. Vương đại nhân đích thân mang đến, dặn ta giao tận tay. Suýt nữa ta quên mất, mai nàng đi tiện thì mang luôn cho thúc phụ.”

Mắt Ngũ thị sáng lên:
“Lại là cái vị Lâm Văn An từng kết giao với quan gia và Vương Phủ doãn sao? Hắn lại gửi thư tới? Đúng là người trọng tình nghĩa, đối đãi với thúc phụ như cha vậy.”

Nhưng nói đến đây, giọng bà ta cũng nhỏ lại mấy phần, mỗi năm Lâm Văn An đều gửi thư về cho thúc phụ, tiện thể cũng kèm chút bạc, xem như tiền nhờ vả họ chăm sóc ông cháu nhà Diêu.

Vì vậy, khoảng thời gian gần đây thúc phụ vừa bị đột quỵ vừa ngộ độc khí, suýt nữa mất mạng khiến Ngũ thị sợ hãi đến mức ban đêm ngủ không yên, chẳng những tận tình chăm sóc hai ông cháu, mà cả tiền thuốc thang cũng chẳng dám tính toán.

Diêu Quý gật đầu, rút từ ngăn kéo ra một phong thư dày, mặt nghiêm túc đưa cho vợ:
“Ta nghe Vương đại nhân lộ miệng nói, hình như Lâm Văn An sắp được triệu về kinh. Dựa vào danh tiếng của hắn và thân phận cựu thần Đông cung…”

“Ta dám đoán, nhất định sẽ được trao trọng trách.”

Ngũ thị liếc nhìn chồng, trong lòng cũng thấy căng thẳng.

“Cho nên ta mới bảo nàng mang cá tới. Chuyện hôn sự của Vân Nương, mấy mâu thuẫn cũ sau này đừng nhắc lại nữa. Cứ xem như chưa từng xảy ra, nhớ chưa?” - Diêu Quý thấp giọng dặn dò rồi đưa thư cho vợ.

“Thúc phụ tuy mắc bệnh, mất chức, nhưng với môn sinh thế này, sau này nhà ta còn phải trông cậy vào nhiều lắm!”
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 9: Bị đánh


<i>Thật là ghen tị</i>

Lúc này Diêu Như Ý vẫn chưa biết có người từng đến tìm mình.

Sau bữa tối, nàng lại vào phòng gia gia thu dọn bát đũa. Ông đã ăn xong từ lâu, thấy nàng vào còn ra vẻ đạo mạo khen rằng:
“Tiểu đầu bếp này tay nghề cũng được lắm, chịu khó nấu nướng đi, tháng sau gia tăng tiền tiêu vặt cho con.”

Diêu Như Ý bật cười, cầm cái bát sạch bóng không còn một hạt cơm bên cạnh ông, gật đầu lia lịa phối hợp với lời ông.

Nàng vừa định xoay người ra ngoài thì Diêu Khải Chiêu lại hỏi:
“Khi nãy giúp con dọn bếp lò vào nhà, có phải là Văn An không?”

Diêu Như Ý ngớ ra, nàng biết ai với ai đâu?

Nhưng chưa kịp trả lời, ông cụ đã lắc đầu tự phủ định:
“Chắc không phải, Văn An tuấn tú hơn người kia.”

Diêu Như Ý: “…”

Lấy ngoại hình ra đánh giá người khác là không tốt đâu a gia!

Diêu Khải Chiêu trầm ngâm hồi lâu, sắc mặt bỗng chùng xuống, tự lẩm bẩm:
“Đúng rồi, ta nhớ ra rồi… không phải Văn An. Văn An đã được đưa về Phủ Châu từ lâu rồi… Haizz…”

Diêu Như Ý nghe mà mù mịt.

Trong ký ức nguyên chủ để lại, ngoài gia gia ra thì mặt mũi những người khác đều như phủ một lớp sương mờ, huống chi là người nhà họ Lâm đã lâu không gặp.

Diêu Khải Chiêu chậm rãi cụp mí mắt xuống, bỗng trở nên buồn bã. Hồi lâu sau mới lại dặn dò Diêu Như Ý:
“Có chuyện này phải nhờ con đi một chuyến. Nhà họ Lâm đã giao căn nhà kia cho chúng ta trông coi, mà ta thì chân không tiện, đành phiền con vài bữa nữa đi mở cửa thông gió, tránh để mốc meo. Mai ta đưa chìa khóa cho con, con đi xem giúp xem có rắn rết chuột bọ gì làm ổ bên trong không.”

Chuyện này cũng chẳng khó khăn gì, Diêu Như Ý liền thuận miệng nhận lời.

Tám chuyện thêm một lúc nữa, nàng mang nước nóng đến cho ông rửa mặt. Đợi ông tự mình lo xong xuôi, nàng mới thổi đèn tắt lửa, đóng cửa lại.

Sau đó, nàng lại đẩy xe định ra phố nhỏ mua trứng. Lần này phải mua nhiều một chút, trứng còn có thể để dưới hầm đá mấy hôm, đỡ phải ngày nào cũng ra ngoài.

Vừa mở cửa ra thì “bịch” một tiếng, có vật gì từ trên cửa rơi xuống. Diêu Như Ý cúi người dưới ánh đèn lồng trong sân nhìn kỹ, là một con cá!

Sao lại có cá? Từ đâu đến vậy? Nàng nhấc con cá béo ụ lên xem trái xem phải, lại ló đầu ra ngõ nhìn, vậy mà chẳng có ai cả.

Suy nghĩ một lúc, nàng tạm thời đem con cá béo núc này vào viện. Lúc đẩy xe ra ngõ, nàng tiện đường hỏi bác gác cổng xem có ai đến tìm mình không.

Con hẻm này người ngoài không vào được, quả nhiên vừa hỏi liền biết ngay.

Thì ra là Ngũ thẩm từng đến, còn mang cho nàng một con cá.

Nhưng sao bà không vào? Cái này chưa nói, chắc chắn bà đã biết nàng bán hàng ngoài cửa rồi…

Nói ra cũng ngậm ngùi, ngoài gia gia ra thì người hiểu rõ nguyên chủ nhất, e rằng chính là người thẩm này, người xưa nay chưa từng ưa gì nàng.

Ngũ thẩm khác với hàng xóm trong ngõ, chuyện này phải tìm lý do cho thật hợp lý mới được.

Diêu Như Ý thầm cân nhắc, cúi đầu cảm ơn lão gác cổng, sau đó tiếp tục ra ngoài.

Chợ đêm Biện Kinh cực kỳ náo nhiệt, người trên đường còn đông hơn cả ban ngày, đèn đuốc sáng trưng, người chen chúc. Diêu Như Ý đẩy xe mà phải hết sức cẩn thận.

Ông chủ tiệm tạp hóa thấy nàng lần này mua nhiều, rất vui vẻ giảm giá cho nàng, rẻ hơn ban ngày, tính ra mỗi quả trứng hơn nửa văn, lời to.

Trên đường về, đột nhiên ngửi thấy mùi hương cay nồng, thấy có người đang đẩy xe bán mì ven đường đi ngang qua, nàng trợn tròn mắt nhìn cái xe nhỏ chất đầy nồi than, chảo nhỏ, bát đũa… mùi vắt mì thơm lừng kia chẳng phải là… mì ăn liền trong tiểu thuyết nữ chính dùng để khởi nghiệp sao?!

Khi ấy nàng đọc truyện tới đoạn nửa đêm thấy nhân vật nữ chính bán mì ăn liền kèm trứng, thèm đến mức cũng muốn pha một gói mì ăn, tiếc là thân thể yếu quá, đành phải chịu thèm.

Cho nên ấn tượng vô cùng sâu sắc.

Thấy người kia sắp đi xa, Diêu Như Ý không kịp suy nghĩ nhiều, vội lên tiếng gọi lại.

Chẳng bao lâu sau, xe nhỏ của nàng đã chất thêm ba cái chum sành đựng tương, nửa bao tải vắt mì.

Diêu Như Ý cột chặt bao tải, trong lòng mừng rỡ: Đáng ra phải nghĩ đến sớm hơn mới đúng! Thứ gì hợp với trứng trà nhất? Dĩ nhiên là mì ăn liền pha nước nóng miễn phí của tiệm tạp hóa rồi!

Trước kia ở căn tin, món này được học sinh yêu thích nhất. Vừa reo chuông vào học sớm là học sinh ùa tới căn tin, chọn gói mì, lấy thêm quả trứng trà với xúc xích Vương Trung Vương, rồi tự đi lấy tô inox và nước sôi, ngồi ngoài căn tin húp sì sụp ngon lành.

Bán kèm thế này vừa tiết kiệm sức, vừa kiếm thêm tiền. Nàng định vị rõ ràng cho món ăn của cửa hàng nhỏ: không cần phát minh món mới (vì cũng không biết làm), nhưng nhất định phải ngon, tiện, rẻ, để thầy trò Quốc Tử Giám không tiện ra ngoài ăn có thể ghé qua mua.

Mai nhất định phải bán như vậy! Nghĩ vậy nàng hớn hở quay về.

Về nhà rồi, nàng vẫn chưa nghỉ ngơi. Trước tiên là rửa sạch trứng định bán ngày mai, luộc sơ với rượu, đập nhẹ cho nứt mà không vỡ, rồi ngâm vào nước sốt.

Vì thời gian ngâm dài, không cần đun sôi, cứ để qua đêm là được. Sáng mai chỉ cần đun lại là có thể bán luôn, nàng cũng không phải dậy quá sớm.

Làm trứng trà rất tiết kiệm công sức, đây cũng là lý do nàng chọn bán món này, dù sao nguyên chủ cũng vừa khỏi bệnh.

Sau đó nàng lần lượt chuyển số trứng dự trữ xuống hầm lạnh.

Chải đầu rửa mặt sơ qua, Diêu Như Ý nằm nghiêng trên giường, xoa chân kéo gân, cơ thể này vừa khỏi ốm, lại ít vận động, chỉ hơi mệt một chút là đã đau nhức tay chân. Không giãn gân thì sáng mai chắc chắn không đi nổi.

Nhưng thực ra thân thể nguyên chủ trông gầy nhỏ vậy thôi, chứ rất có tiềm năng! Chỉ cần ăn no làm nhiều, nhất định sẽ khỏe mạnh lên. Tới lúc đó cũng giống như ngoại cô, đi đứng nhanh nhẹn, một ngày luộc ba trăm quả trứng vẫn dư sức.

Bên ngoài tiếng côn trùng kêu rả rích, gió thu mát lạnh lùa qua khe cửa, Diêu Như Ý lấy chân giữ chặt chăn, lăn một vòng cuộn mình thành cuốn khăn lông nhỏ bé, đầu vừa chạm gối liền ngủ như sập nguồn, ấm áp và dễ chịu.

Trong khi Diêu Như Ý ngủ ngon lành, thì Mạnh Bá Viễn lại trằn trọc không sao ngủ được.

Nhà họ Mạnh ở ngay gần phòng gác đầu ngõ, rẽ qua con đường nhỏ phía nam Quốc Tử Giám là thấy hai cánh cổng son vừa mới sơn sửa. Nhà có hai sân, tiền viện và sảnh đều chuyển thành xưởng khắc bản (thời cổ đại người ta khắc in chữ lên bản tre), sáu gian phòng phía sau thì cả nhà chen nhau mà ở.

Căn nhà này không rộng rãi như dinh thự cũ ngoài thành, còn phải cầm cố dinh cũ cộng thêm bảy trăm quan mới mua nổi.

Tam ca của hắn – Mạnh Khánh Nguyên hôm nay đã về nha môn làm việc, nhưng tình cảnh của hắn trong nhà vẫn chẳng khá hơn.

Hôm trước, khi hắn và Trình, Lâm hai người vẫn còn ở học đường chép sách, Chu Bính đã tới nhà họ Mạnh in đề thi. Không những phạt hắn mà còn mách lẻo việc hắn ngủ gật trong lớp với cha hắn.

Cha hắn bị Chu Bính mắng tới toát mồ hôi lạnh, cảm thấy danh dự mất sạch, không chỉ liên tục cúi đầu xin lỗi trước mặt Chu Bính mà cả tiền khắc đề cũng không dám thu. Tức đến mức bụng đầy lửa chờ đợi đứa con hư về nhà để trút giận.

Đúng lúc Mạnh Bá Viễn lại về muộn.

Trong lòng hắn cũng rất tủi thân, ba người bọn họ bụng chỉ lót được hai quả trứng, đến nhà ăn thì chỉ còn mấy món thừa lạnh ngắt, món canh gan cừu nấu với củ từ và táo tàu trông như nước bùn lổn nhổn.

Ba người nhìn nhau khổ sở cười gượng rồi ai nấy về nhà.

Nhà của cả ba đều ở trong ngõ nhỏ, cách học đường chỉ vài bước nên không cần ở trong ký túc xá Nam Trai của Quốc Tử Giám.

Nam Trai tuy có từ sớm, nhưng đã là nhà cũ hơn hai mươi năm, chưa được sửa sang lại, mười hai người một gian giường chung, còn không bằng ký túc xá của Thư viện Tịch Ủng.

Nghe nói ký túc của Tịch Ủng có bốn đến sáu người một phòng, sáng sủa sạch sẽ, bàn ghế tủ đầy đủ, cả nhà xí còn có hương liệu và khăn thơm.

Thật là ghen tị.

Tuy ba người ở nhà, nhưng cơm nước thường phải ăn tạm trong nhà ăn. Nhà không giàu sang, càng không thể so với các công tử đệ tử lớp Giáp, lớp Ất, cả ngày có người hầu kẻ hạ, cơm nước đưa tận miệng.

Ba người bọn họ đến người hầu cũng không có!

Học sinh lớp Giáp, lớp Ất chưa từng vào nhà ăn. Họ hoặc về nhà dùng bữa, hoặc đã đặt bàn sẵn ở các tửu lâu lớn như Phàn lâu, Bàn lâu, Thẩm ký. Nhà ăn chỉ phục vụ mấy người con nhà quan nhỏ như bọn hắn thôi.

Sáng học sớm, nhà không kịp nấu ăn, thà bỏ vài đồng ăn tạm trong nhà ăn còn hơn. Buổi trưa cửa sau Quốc Tử Giám không mở, nên họ mang theo bánh hấp, bánh rán để ăn chống đói, hoặc hâm nóng chút điểm tâm, ăn xong lại phải vội vàng lên lớp.

Tối đến vốn nên về nhà ăn, nhưng học cả ngày vất vả, được nghỉ chút thì ai cũng muốn rủ bạn bè đi ăn ngoài cho thoải mái. Mười ngày thì có đến năm bữa ra ngoài ăn, nên nhà cũng lười nấu cho họ, có khi để ít cơm nguội dưa muối là xong chuyện.

Nhưng hôm nay Mạnh Bá Viễn về đến nhà, chờ hắn không phải là mấy món thừa mà là người cha mặt mày xanh mét đang đứng chờ ở sảnh trước, tay cầm roi mây nắm chặt đến mức phát ra tiếng rắc rắc.

“Đồ súc sinh!” – Cha Mạnh thấy hắn vừa vào cửa liền quát lớn.

“Quỳ xuống trước linh vị gia gia ngươi!”

Mạnh Bá Viễn cúi đầu quỳ ngay.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 10: Hương mì gói


<i> “Ngươi chỉ cần nói xem có ăn hay không?”</i>

Hồi nhỏ, Mạnh Bá Viễn cũng từng buồn bã vì sự thiên vị của cha, nhưng giờ đã quen rồi, lúc này hắn chẳng hốt hoảng cũng chẳng tủi thân, chỉ bĩu môi. Hắn biết thừa tính cha mình, trận đòn này kiểu gì cũng không tránh khỏi, chỉ không ngờ nó lại tới nhanh vậy.

Dây mây quất vù vù, quất thẳng lên lưng hắn, đau đến nỗi mặt hắn từ trắng chuyển sang tái xanh, nhưng vẫn nghiến răng chịu đựng, sống lưng thẳng tắp, không kêu một tiếng.

Trời dần tối, Mạnh phu nhân – Quan thị, sau khi cùng hai nàng dâu nhà người làm đi dạo chợ đêm mua được mớ vải mới, vui vẻ ôm về nhà. Vừa bước vào cửa thì đã nghe tiếng ầm ĩ ngoài sân. Bà vội nhét đống vải vào tay người khác, xách váy chạy ra xem.

Vừa thấy con trai ruột lại bị đánh đến rách da chảy máu, bà giận điên người. Một bước xông lên chắn trước mặt, quát:
“Muốn đánh thì đánh cả tôi luôn đi! Đánh chết mẫu tử tôi là ông hài lòng rồi chứ gì! Con nó vừa về nhà, chưa hỏi han rõ ràng gì đã đánh đập mắng mỏ, ông để nó nói một câu đi đã chứ!”

“Chẳng lẽ Chu tiên sinh còn oan cho nó chắc? Nó vô dụng, học dốt còn không chịu siêng năng. Bỏ bao nhiêu tâm huyết, tiền bạc cho nó đi học, thế mà trên lớp còn dám ngủ gật! Còn bị thầy mắng đến tận nhà! Thể diện tôi bị nó giẫm nát rồi!”

Quan thị là người Thục Châu, tính tình nóng nảy, nghe thế thì lông mày dựng đứng, đứng bật dậy cãi:
“Tối qua nó học tới tận sáng mới ngủ, sáng nay lấy đâu ra tinh thần mà học với chả hành? Vả lại, người ta vẫn nói ‘ba mươi mới vào Quốc Tử Giám, năm mươi mới thi tiến sĩ’. Trong Quốc Tử Giám còn có người năm mươi tám tuổi vẫn đi học kìa! Tứ lang mới tí tuổi, ông gấp cái gì? Hay sợ sống không nổi tới lúc nó thi đỗ?”

“Không siêng lúc trẻ, chẳng lẽ đợi tới năm mươi mới siêng? Cũng là do bà chiều hư nó!”

Cha Mạnh cứng miệng, nhưng mắt cứ lấm lét nhìn nét mặt vợ. Thấy bà càng lúc càng tức, ông cũng dần nói nhỏ lại, dây mây cũng từ từ thu về sau lưng.

“Ông nói vớ vẩn cái gì đấy! Dạy con là việc của riêng tôi à? Tôi sinh con cho nhà họ Mạnh ông, giờ lại là lỗi của tôi à? Được thôi! Nếu ông không cần nó thì cho nó mang họ Quan! Mai tôi đưa nó về Thục Châu, để nó phụng dưỡng cha tôi cũng coi như là hiếu đạo!”

“Bà… bà vô lý!”

“Hừ! Ông mới vô lý! Hồi trẻ ông đi học chẳng ra gì, có được mảnh bằng nào đâu? Giờ còn bày đặt dạy con! Nói hay thì giờ ông cũng đi thi đi! Mới bốn mươi mấy tuổi, thi vẫn kịp mà! Mai tôi chuẩn bị hai lượng bạc đi tìm Lưu chủ sự, xem có thể cho ông vào học không! Để coi ông làm cha mà có giỏi hơn Tứ lang nhà tôi không!”

Mạnh Bá Viễn quỳ dưới đất cúi đầu, giả vờ ngoan ngoãn, thực ra đang nhịn cười muốn trẹo miệng. Hắn cắn tay mới không cười phá lên.

A nương uy vũ!

Quan thị càng nói càng giận, càng chửi càng hăng, chống nạnh chỉ vào mặt cha Mạnh mà mắng tơi bời. Cha Mạnh không đỡ nổi, lau mặt bị bà mắng cho ướt nhẹp, định bỏ chạy thì bị bà túm tai kéo ra sân sau.

Mạnh Bá Viễn lắng tai nghe mãi, đến khi cha mình bị mắng chạy xa, nghe không rõ nữa, hắn mới ôm bụng thở dài nhìn trời:

A nương lo mắng cha quá quên mất mình rồi! Đói quá trời luôn. May mà hồi nãy còn ăn hai quả trứng trà.

Hắn bật dậy, rón rén thò đầu ra nhìn quanh. Thấy cha đi đâu mất, xưởng khắc gỗ phía trước cũng không có người qua lại, yên tĩnh như tờ. Nhưng gian nhà tây còn sáng đèn, trong đó có thầy thợ khắc chữ – Dịch lão sư phụ đang ngồi cặm cụi chạm khắc trên tấm ván tùng.

Bên cạnh còn đồ đệ nhỏ của ông tầm mười bốn mười lăm tuổi phụ việc. Thấy Mạnh Bá Viễn lén lút ló đầu ra, hắn ta nháy mắt cười trộm, rồi xoay người che tầm mắt sư phụ, đưa tay sau lưng ra hiệu cho hắn chạy đi.

“A Dực, cảm ơn nha!” - Mạnh Bá Viễn cười toe, chắp tay cảm tạ, rồi co giò chuồn lẹ.

Mạnh Bá Viễn tâm hồn rộng rãi, trốn về phòng cái là ngủ thẳng cẳng. Lúc mơ mơ màng màng còn nghĩ: giờ mà có bát mì thịt dê nóng hổi thơm lừng ăn rồi ngủ tiếp thì tuyệt biết mấy…

Ngủ một mạch tới tận sáng, ngoài cửa sổ bỗng vang lên tiếng còi trúc. Mở cửa sổ ra, thấy Lâm Duy Minh đang nhảy nhót vẫy tay ngoài tường, gào như khỉ.

Hắn vội mặc quần áo, rửa mặt qua loa, xách hộp sách, nhét bánh nướng mẹ nướng cùng mấy đồng bạc mẹ dúi vào tay, còn không quên xoa đầu cún đen giữ cửa tên Bạch Tuế nhà mình rồi khen vài câu:
“Ngoan lắm, chó ngoan!” - Rồi vội vã chạy đi gặp Lâm Duy Minh.

“Sao hôm nay tới sớm vậy?” - Mạnh Bá Viễn ngạc nhiên. Bình thường toàn là hắn tới nhà gọi Lâm Duy Minh dậy.

“Hôm qua ta thề là phải chăm chỉ học hành!” – Lâm Duy Minh vẻ mặt nghiêm túc.

Mạnh Bá Viễn trợn trắng mắt: “Mấy câu đó ngươi đã nói không dưới ba trăm lần rồi. Ta coi thử ngươi kiên trì được mấy ngày.”

“Sao ngươi toàn dội gáo nước lạnh vào ta vậy?”

“Cần ta dội à? Không lần nào là ngươi không tự buông xuôi!”

“Lần này khác!”

“Ngươi hôm qua có đi đốt giấy cúng tổ không?”

“Hả?”

“Lừa quỷ đó!”

Hai đứa vừa cãi nhau vừa quẹo qua góc đường thì thấy trước cửa nhà Diêu Như Ý đông nghẹt người, ồn ào náo nhiệt.

Mùi thơm trứng trà quen thuộc theo gió thoảng tới, ngoài ra còn một hương thơm khác mạnh mẽ lấn át, lan khắp cả hẻm.

“Diêu tiểu nương tử sớm vậy đã mở hàng rồi à?” – Mạnh Bá Viễn rướn cổ nhìn

“Còn bày cả bàn ghế nữa… Ủa, mùi này… không phải mì ăn liền sao?”

Từ khoảng năm sáu năm trước, tiệm Thẩm Ký ra mắt món “mì ăn liền” chỉ cần pha nước sôi là dùng được đã làm mưa làm gió ở Biện Kinh. Giờ ngoài Thẩm Ký, nhiều tiệm khác cũng làm mì ăn liền, mỗi tiệm có công thức nước sốt riêng: Thẩm Ký nổi tiếng với vị kho và dưa cải, Lục gia ở Châu Kiều làm mì sợi dao cắt rất ngon, còn tiệm “Thang Sư Phụ” thì nổi bật với vị gà hầm.

Mạnh Bá Viễn trước đây nghiện mì ăn liền, có thời gian ăn nhiều quá bị nhiệt miệng, lưỡi lở to bằng hạt đậu, ăn uống gì cũng đau. Mẹ hắn vừa mắng vừa đổ muối vào miệng hắn, khiến hắn nhảy dựng khắp nhà. Sau đó cả nhà cấm hắn ăn mì nữa, đến giờ cũng lâu rồi chưa ăn lại.

Lúc này hắn ngửi thấy mùi, nước bọt trào ra không nhịn được.

Lâm Duy Minh cũng ngửi thấy!

Trước cửa nhà Diêu Như Ý được thêm hai bếp than, ba cái bàn thấp và vài cái ghế nhỏ. Khói trắng bốc lên nghi ngút. Một bếp nấu nồi sành to chứa đầy nước sốt, trứng trà sẫm màu chất như núi, sôi ùng ục.

Bếp còn lại để đun nước, phía trên đặt ấm gốm lớn.

Càng tới gần, người càng đông, hai người gần như phải chen vào.

Đã có mấy học trò ngồi ăn ngay tại bàn trước cửa. Có người mặc lụa trắng, mặt trắng tròn, chẳng biết giữ gìn sách vở, tiện tay lấy cuốn sách trong hộp ra đè lên bát mì, tay thì gắp mì hớt hải.

Trong làn khói mờ, Diêu Như Ý buộc khăn hoa, tay áo xắn cao, để lộ cánh tay thon thon, má hồng rực vì hơi lửa, mũi toát mồ hôi, bận tối mắt. Lúc thì vớt trứng, lúc lại hỏi chọn nước sốt nào, tay không ngừng múc mì, đưa bát, thu tiền.

Vừa lúc ấy có người hỏi:
“Diêu tiểu nương tử, một bát mì thêm trứng trà giá bao nhiêu?”

Nàng tay vẫn không ngừng, quay đầu cười đáp:
“Mì ăn liền giá giống nhau, mỗi bánh 12 văn, nước sốt 1 văn, nước nóng 1 văn, trứng trà 3 văn, tổng cộng 17 văn.”

Người nọ gọi một phần vị kho, nàng nhanh nhẹn lấy bát, cho bánh, múc nước sốt, thêm trứng, rồi chỉ tay:
“Công tử tự rót nước nóng nhé.”

Vừa dứt lời, có người gọi:
“Diêu tiểu nương tử, hết nước nóng rồi!”

“Chờ chút! Tới liền!” – Diêu Như Ý chạy vào nhà, bưng ra ấm mới còn nghi ngút khói, đặt lên bếp than, rồi bưng ấm cạn vào trong.

Chẳng bao lâu, ấm mới lại sôi, hơi nước hất nắp ra phát ra tiếng “tút tút”. Lâm Duy Minh thấy vậy thầm khen thông minh.

Trước hiên nhà nào cũng có rãnh nước lợp đá xanh, chỉ rộng khoảng hơn bốn thước, không thể bày hết đồ ra ngoài hẻm. Cô nàng chuẩn bị sẵn nhiều ấm nước sôi trong bếp, cần là lấy ra đun lại, tiết kiệm chỗ mà lại nhanh.

Một học trò vừa rót xong, ngồi xuống, mở nắp bát, hương thơm ngào ngạt bay ra, lập tức cúi đầu ăn ngay. Nước sốt màu nâu đỏ nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, nhưng vẫn không ngừng đũa.

Thơm quá! Mạnh Bá Viễn nuốt nước bọt. Tối qua hắn bụng đói đi ngủ, mơ cũng là mơ thấy mì thịt dê. Sáng dậy còn thấy chảy đầy nước dãi lên gối. Hắn đẩy Lâm Duy Minh:
“Còn sớm mà, chưa cần vô học. Mình cũng ăn một bát đi?”

Lâm Duy Minh ngó trời: còn sớm thật… nhưng… hắn đau lòng:
“Ta dậy sớm để học bài! Giờ lại bị ngươi dụ đi ăn mì? Vậy ta dậy sớm chi nữa?”

“Ngươi chỉ cần nói xem có ăn không?”

“Trong sách tự có mì thơm, có trứng trà, nhưng người cần có khí tiết, ta không ăn!”

“Ta mời.”

“… Ăn.”

Chẳng bao lâu, bàn trước cửa nhà Diêu Như Ý đã kín người. Hai người bưng bát ngồi bệt ngay bậc cửa mà ăn. Ánh nắng sáng thu nghiêng qua mái ngói đen bóng như phủ dầu, trời xanh trong vắt như bị nướng qua một lần, giòn giòn thơm thơm.

Cùng lúc đó, Ngũ thị tay cầm thư, tay xách rổ tre đựng mấy chục quả trứng, dẫn theo con gái là Vân Nương, cũng đã đến đầu hẻm Quốc Tử Giám…
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 11: Lời nói như dao


<i>Cửa nhà quá hẹp, phải sớm mở tiệm mới được</i>

Vừa định bắt chuyện làm thân với lão binh gác hẻm, thì một làn hương thơm ngào ngạt từ trong ngõ nhỏ lướt tới, thứ mùi dầu mỡ thơm phức ấy tựa như một sợi tơ, lôi kéo Ngũ thị và Vân Nương khiến hai người không tự chủ được mà quay đầu nhìn vào sâu trong ngõ.

Đúng giờ vào học, đám học sinh từ học xá phía nam túa ra nhanh chóng lấp đầy cả ngõ. Ngũ thị ngẩng lên nhìn, chỉ thấy trước cửa nhà họ Diêu khói trắng bốc lên mù mịt, người vây thành một bức tường, khỏi cần nói, mùi mì thơm ngào ngạt đó chính là từ đó bay ra. Không ít học sinh trẻ, thậm chí chưa kịp đeo cặp sách đã chạy thẳng về phía làn hơi nóng kia.

“Nương, thơm quá.” - Diêu Vân Nương không nhịn được kéo tay áo mẫu thân.

Vì Ngũ thị dậy sớm ra khỏi nhà nên nàng chỉ kịp ăn bát cháo táo đỏ, giờ bị hương thơm ấy hun cho bụng sôi réo rắt.

Nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, đang tuổi lớn, ăn khỏe, dáng dấp thanh mảnh, khuôn mặt thon dài, ánh mắt sáng ngời, nhìn qua là biết người được chiều chuộng từ nhỏ. Da dẻ trắng mịn hồng hào, trên đầu búi hai búi tóc cài trâm bạc cẩn ngọc trai, cổ đeo một chiếc khóa trường mệnh bằng bạc nặng trĩu. Giờ bị hương thơm quyến rũ, nàng khẽ kiễng chân, cổ vươn dài, xuyên qua đám người nhìn về phía hơi nước: “Nương, hình như thật sự là đường tỷ.”

Ngũ thị không buồn để tâm tới đứa con gái đang thèm thuồng của mình, mà gõ cửa sổ, chào lão binh gác hẻm.

“Lại đến nữa à?” – Lão giữ hẻm đang bưng bát mì ăn, đầu tóc rối bù, vẻ mặt ngái ngủ sau một đêm ngủ trên băng ghế dài, vừa phàn nàn lẩm bẩm, vừa khoát tay ý cho qua cửa, mắt chẳng buồn nhìn.

Ngũ thị lập tức kéo tay Diêu Vân Nương, nén lại kinh ngạc trong lòng, nhanh bước đến trước nhà họ Diêu.

Từ xa đã thấy rõ: Trước cửa nhà đúng là có bếp lò, dưới mái hiên kê ba chiếc bàn thấp, mấy chiếc ghế nhỏ lộn xộn ngồi đầy người.

Tiếng chuông buổi sáng của Quốc Tử Giám vang lên, học sinh đang ăn vội vàng lau miệng rồi chạy đi. Mấy người đến muộn thì cuống cuồng chạy tới.

Chớp mắt, ba chiếc bàn và đám đông trước quầy liền thưa đi rõ rệt. Hai cậu học trò quen mặt tối qua cũng vội uống cạn nước mì, không kịp nuốt, đã xách cặp sách lao về Quốc Tử Giám.

Học sinh tới sau từ xa đã hô to gọi trứng, chạy tới chỉ kịp giật lấy, dúi tiền rồi phi như bay.

Vừa tiễn được mấy người mua vội cuối cùng, Diêu Như Ý đang cúi đầu nhét tiền vào túi vải, trước mắt bỗng phủ hai bóng người mảnh khảnh.

Ngẩng lên liền thấy mặt của Ngũ thị và Diêu Vân Nương, khuôn mặt đều dài và hơi nhọn.

Ngũ thị thì có vẻ đang đánh giá, dò xét với ánh mắt nghi ngờ và khắt khe. Còn Diêu Vân Nương lại vui vẻ cất tiếng: “Tỷ tỷ chào buổi sáng.”

Diêu Như Ý thoáng sững người khi đối mặt với hai người họ, nhưng rất nhanh liền cúi đầu, giả bộ như nguyên chủ, giọng lí nhí: “Thẩm… muội muội… chào buổi sáng.”

Ngũ thị liếc xéo, thấy nàng trở lại dáng vẻ cũ, lập tức tức tối: “Tốt lắm, ra là ngươi cũng có bản lĩnh đấy nhỉ? Trước mặt ta thì cố tình giả bộ rụt rè à?”

Diêu Như Ý lập tức cúi đầu, rút tay vào trong tay áo, âm thầm véo đùi một cái đau điếng, nước mắt rưng rưng ngay lập tức.

Nàng tội nghiệp nói: “Thẩm cứ mắng ta, ta… ta thấy sợ thẩm nên không dám nói gì.”

Nói đến đây, không hiểu sao nàng bỗng nhớ đến tuổi thơ của mình, thuở còn sống ở nhà dì, bị xếp ở nhà kho gần chuồng gà và nhà xí, không quạt, giường chỉ là mấy cái rương ghép lại. Gắp miếng thịt sẽ bị đũa chặn lại, bị kẹp tay gãy xương không ai đoái hoài, gọi bố thì mười lần chỉ nhận lại một lần “Đừng gây chuyện.”

Những vết thương tưởng chừng đã lành, bất chợt va chạm với ký ức tự ti của nguyên chủ, thế là dòng nước mắt vốn ban đầu chỉ là diễn kịch, giờ bỗng hóa thành thật, tuôn rơi không dứt.

Mọi người đều chê nguyên chủ vô dụng, nhưng thế gian có muôn vàn người, có người hoạt bát thì cũng có người hướng nội, sao lại vì tính cách khác biệt mà xem thường nhau?

Diêu Như Ý thật lòng thấu hiểu nguyên chủ. Nàng từng mồ côi mẹ, cũng từng sống nhờ nhà người khác nhiều năm. Khác chăng là nàng còn có bà ngoại, một bà tiên trong nhân gian đã dang tay ôm lấy nàng khỏi bùn lầy.

Còn nguyên chủ Như Ý ở thế giới này, tuy gia gia yêu thương, nhưng ông là người trưởng thành trong khuôn khổ lễ giáo, lại ngày ngày phải giảng dạy, không thể quan tâm kịp những nỗi lòng mỏng manh của cháu gái.

Ký ức của nguyên chủ toàn là ấm ức và cô đơn kéo dài…

“Khóc lóc cái gì? Lẽ nào mong manh đến mức không chịu nổi một câu nặng lời à?” – Ngũ thị cau có.

Diêu Như Ý lau mặt mấy lần không sạch, dứt khoát để nước mắt mặc sức tuôn, ngẩng đầu, gương mặt đầy nước nhìn Ngũ thị khiến bà càng giận tím mặt.

Ngày xưa cũng vậy, mới nói vài câu là khóc! Làm như bà là ác phụ không bằng. Nhưng nhìn cảnh nàng niềm nở với người ngoài, chỉ riêng với bà là dè chừng như sợ hổ dữ, chẳng khác nào tố cáo bà bắt nạt nàng.

Ngũ thị trong lòng càng bực: “Ta dạy ngươi chẳng phải vì muốn tốt cho ngươi sao?”

Diêu Vân Nương bên cạnh lúng túng rút khăn tay dúi cho tỷ tỷ: “Tỷ lau mặt đi” rồi kéo áo nương: “Nương, đừng nói nữa.”

Diêu Như Ý nghẹn ngào, rồi nói: “Thẩm, con biết con vụng về, con biết các người chán ghét con. Nhưng con cũng chỉ lớn hơn Vân Nương một tuổi thôi. Chuyện hôn ước, muội ấy vì con mà bị liên lụy, con hổ thẹn vô cùng. Trước kia thím mắng, con không dám cãi. Nhưng con cũng là người, lời nói như dao, sao không đau?”

“Giờ gia gia bệnh, con thì thế nào cũng được, nhưng a gia không thể không có người chăm. Con biết việc bán buôn này làm các người mất mặt, nhưng con cũng hết cách, nhà không có tiền lại còn nợ, thì đành làm vậy thôi…”

Ngũ thị ngẩn ra, bà chưa từng nghĩ như thế. Dù sao ở Đại Tống thương nhân cũng được thi khoa cử như thường, bà cũng là con nhà buôn, có gì mà mất mặt? Huống chi chồng bà chỉ là một tiểu quan. Không lẽ… thật sự do bà quá khắt khe khiến một đứa trẻ ra nông nỗi này?

Không, liên quan gì đến bà? Chẳng phải là vì vụ hủy hôn đấy à? Ngũ thị nhanh chóng gạt bỏ cảm giác tội lỗi.

Mà đúng lúc ấy, Diêu Như Ý càng khóc càng lớn, vừa thương nguyên chủ, vừa thương bản thân.

Ngũ thị lập tức cuống lên, khóc thế này thì danh tiếng bà bị tổn hại thì sao? Vội kéo nàng vào sân, bảo con gái: “Vân Nương, mau đóng cửa! Ngươi đừng gào nữa, có đáng thế không?”

Diêu Như Ý ráng kiềm chế, chỉ khẽ lắc đầu, không trả lời.

Ngũ thị triệt để buông bỏ nghi ngờ, vài nỗi bất an và nghi ngờ trong lòng cũng biến mất, bộ dạng hèn nhát này của nàng ta vẫn giống hệt trước kia!

“A gia nhà người vẫn chưa dậy?” – Ngũ thị liếc về phía cửa phòng.

Diêu Như Ý gật đầu, dùng tay áo lau mặt.

Ngũ thị cũng không rầy nữa, đặt giỏ trứng gà xuống, cứng giọng nói: “Thôi, trứng này cho a gia bồi bổ, thư của nhà họ Lâm cũng đây.” - Nói rồi dúi thư vào lòng nàng, kéo Vân Nương đi.

Vân Nương ngoái lại nhìn nàng, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng lặng lẽ theo mẹ rời đi.

Nghe tiếng bước chân xa dần, Diêu Như Ý mới thở phào, tựa vào cửa nghỉ ngơi.

Nàng vừa đau lòng, vừa mệt. Nhưng khi tay vô tình chạm vào túi vải nặng trĩu bên người, nghe tiếng tiền leng keng thì tinh thần nàng bừng tỉnh!

Dọn quầy vào, đóng cửa lại, nàng liền ngồi xổm xuống đếm tiền. Đếm xong khỏi cần khóc, mặt nàng sáng bừng như hoa nở!

Trứng trà, mì ăn liền chưa bán hết, nhưng chỉ vừa rồi thôi nàng đã bán 35 phần mì, hơn 100 quả trứng, lời hơn tám trăm văn! So với hôm qua đúng là phát tài!

Có điều ba bộ bàn ghế chẳng đủ chỗ ngồi, có người phải đứng hoặc ngồi xổm ăn, nhiều người thấy đông quá lại bỏ đi.

Trước cửa chật hẹp, nàng nhất định phải sớm mở tiệm.

Ôm túi tiền, nàng quyết tâm, tối nay phải dọn hai gian nhà kho, tiện thể nhờ Trình nương tử tìm thợ mộc.

Trước từng đi chợ cùng Trình nương tử, thấy tỷ ấy biết rất rõ chỗ nào hàng thật giá tốt. Một người phụ nữ tự nuôi con, nhất định phải khéo lo toan mới sống nổi.

Đang nghĩ ngợi, trong phòng gia gia vang lên tiếng động, nàng vội vắt khăn lau nước mắt, nở nụ cười rạng rỡ, ôm túi tiền, tung tăng chạy tới gõ cửa:

“A gia dậy rồi à? Con vào được không? A gia đoán xem hôm nay con lời bao nhiêu? Nghe xong a gia phải giật mình té ngửa cho coi! À, còn có thư của ngài nữa ạ!”
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 12: Tới nhà họ Lâm


<i>Đoán chừng cũng giống như nàng, chỉ là nhân vật qua đường nho nhỏ trong sách</i>

Tiếng chuông buổi sáng dần tan, ngay sau đó, tiếng đọc sách vang vang từ Quốc Tử Giám cũng theo ngõ nhỏ truyền ra. Nhà họ Diêu ở gần, học trò đang học bài gì nghe rất rõ ràng.

Diêu Khải Chiêu uống thuốc xong, đêm ngủ rất say, hoàn toàn không biết sáng sớm Ngũ thị đã đến. Lúc này đã rửa mặt chỉnh tề, đang ngồi ở hiên trước trên chiếc chiếu mây đọc thư. Đọc được một lúc, ông lại không nhịn được vểnh tai lắng nghe tiếng đọc bài bên ngoài tường, nhíu mày bảo:
“Con nghe đi, con nghe đi! Đọc cứ như rã rời hết hơi, chẳng có chút khí lực nào cả! Học trò Quốc Tử Giám bây giờ đúng là năm sau không bằng năm trước, đến tụng kinh cũng còn chuyên tâm hơn bọn họ!”

Diêu Như Ý đang rửa chén bên giếng, nghe xong suýt bật cười. Câu này sao giống hệt mấy thầy nàng thời hiện đại hay nói: “Các em là lứa tệ nhất mà cô từng dạy” thế không biết!

Nàng rửa xong một chậu lớn, úp xuống rổ tre cho ráo nước, rồi vào bếp nấu hai bát mì chay. Trên mì rải vài cọng rau xanh, nhỏ vài giọt dầu thơm, chan thêm một muôi dưa cải muối chua, thanh đạm nhưng cũng ngon miệng.

Diêu Khải Chiêu đặt thư qua một bên, ông không kén ăn, bưng bát mì lên húp sột soạt.

“A gia, hôm qua con hứa rồi đó, đợi con kiếm được tiền là mua thịt cho ngài ăn.” - Diêu Như Ý hào sảng vỗ lên chiếc túi đeo căng phồng, cộng cả mấy chục văn hôm qua, trừ chi phí, hai ngày này nàng đã kiếm gần nửa quan rồi. Một cân thịt ba chỉ chỉ khoảng ba mươi mấy văn, mua nổi!

Diêu Khải Chiêu nheo mắt nhìn dáng vẻ hớn hở, ngẩng cao đầu của nàng, lòng cũng vui theo nhưng ngoài miệng vẫn dùng gậy gõ nhẹ nàng mấy cái:
“Người ngoài không biết lại tưởng con kiếm được năm trăm quan ấy chứ! Nhìn đằng sau xem, có cái đuôi sắp vểnh lên trời rồi đó! Phải biết ‘tài không để lộ’, mau thu bớt kiêu ngạo đi!”

“Ở trước mặt a gia thì sợ gì chứ? Vui là phải vui chứ còn gì nữa!” - Diêu Như Ý nắm dây túi vải, cười híp mắt thành hai vầng trăng khuyết. Bà ngoại nàng thường nói, đàn ông có thể lừa gạt nàng, tiền thì không. Nàng kiếm được tiền, có thể sống vững trong thế giới trong sách này, tại sao lại không vui?

“Được được được.” - Diêu Khải Chiêu lại cúi đầu đọc thư, vẻ mặt nghiêm túc.

Diêu Như Ý chu môi với bóng lưng ông, nàng thích cảm giác vui vẻ, bất cứ lúc nào cũng muốn vui vẻ!

Nàng vừa hát khe khẽ vừa vào phòng đếm tiền đi chợ hôm nay, còn lại thì giấu vào khe giường trong phòng mình. Nàng cũng thèm thịt rồi, hôm nay nhất định phải chiêu đãi bản thân một bữa thịt ba chỉ chiên giòn thơm lừng!

Kiếp trước, trước khi nàng bị bệnh, thời gian hạnh phúc nhất là sau buổi học chiều cấp hai. Trường tan vắng lặng, ngoại nàng sẽ kéo cửa cuốn xuống một nửa, rồi bật bóng đèn tròn cũ trong tiệm, ánh sáng vàng nhạt bao phủ khắp nơi, không ai làm phiền.

Nàng kéo một chiếc ghế vào bếp, phụ ngoại rửa rau vo gạo. Ngoài phòng khách, cái tivi cũ người ta cho vang lên mấy chương trình dưỡng sinh nhạt nhẽo, mười phút chiếu thì ba mươi phút quảng cáo.

Ngoại vừa chiên thịt ba chỉ, vừa kể mấy câu chuyện ma vớ vẩn do bà bịa ra.

Nàng thì sợ đến mức vừa muốn ăn vừa run lẩy bẩy, cuối cùng chỉ biết vừa khóc vừa ăn.

Ngoại lại chỉ nàng mà cười ha ha.

Diêu Như Ý buộc túi tiền vào trong thắt lưng, ra ngoài thì thấy Diêu Khải Chiêu đã đọc xong thư, lập tức ngoắc tay gọi nàng lại:
“Như Ý, lại đây. Trong thư nói, Văn An chắc khoảng đông chí sẽ tới kinh. Vậy thì con tranh thủ hôm nay đến nhà họ Lâm xem thử đi, nếu có chỗ nào hư hỏng thì ta còn kịp sửa sang giúp nó.”

Phải rồi, còn chuyện này nữa, nàng bận rộn quá quên mất! Diêu Như Ý vội cười gượng nhận lời:
“Ngài đưa con chìa khóa đi, con đi xem liền. Xem xong rồi đi mua thịt. Con khóa cửa lại, ngài nhớ ở nhà đọc sách thôi đó, đừng chạy lung tung.”

Nàng thật ra chẳng quan tâm cái vị hàng xóm chưa từng gặp mặt kia có về hay không. Trước đây do gia gia hay nhắc đến, nên nàng cũng từng cố nhớ lại, chắc không sai đâu, trong tiểu thuyết hình như không có nhân vật nào tên Lâm Văn An.

Đoán chừng cũng giống như nàng, chỉ là nhân vật qua đường nho nhỏ trong sách.

Nhưng Diêu Khải Chiêu lại xem trọng, nàng coi như làm ông yên lòng.

“Ta bao nhiêu tuổi rồi mà còn cần con dặn dò?” - Diêu Khải Chiêu không phục, nhét thư vào lòng, lầm bầm rồi lụm cụm đứng dậy vào phòng lấy chìa khóa.

May mà hôm nay tinh thần ông tốt, không quên chỗ để chìa, tuy tìm hơi lâu một chút nhưng cuối cùng cũng mang ra được một chùm chìa khóa to đùng, còn lấy thêm giấy bút.

Lúc sáng dậy, Diêu Như Ý đã thấy gia gia tỉnh táo hơn chút, nhưng giờ nhìn lại, ông có vẻ lại lú lẫn rồi:
“Như Ý à, tay ta run không viết được thư nữa, con thay ta viết cho Văn An một phong thư, rồi gửi ít bạc cho nó. Tuyệt đối đừng nói ta bị bệnh, cứ bảo nó không cần gấp, đi đường từ từ, đừng tiết kiệm, cứ đi thuyền cho thoải mái…”

Tim Diêu Như Ý chùng xuống. Dù nhờ nguyên chủ nàng có thể đọc được chữ viết dọc phồn thể, viết vài chữ chắc cũng không khó, nhưng nàng chưa từng luyện thư pháp, cầm bút là lộ.

Hơn nữa, chẳng phải trước giờ ông vẫn coi nàng là đầu bếp thuê về sao? Giờ sao lại nhận là cháu gái rồi? Nhưng nàng từng thấy bệnh nhân Alzheimer ở viện, suy nghĩ thất thường, không thể lý giải bằng lẽ thường.

Nàng không để lộ chút nghi ngờ, bình thản nhận chìa khóa và giấy bút, còn thuận tiện chìa ra đôi tay đang quấn băng, bị phỏng đầy mụn nước:

“A gia, thư người ta gửi tới, chắc lúc này người ta cũng đã lên đường rồi, hiện tại viết cũng chẳng kịp gửi. Hơn nữa ngài xem tay con… con cũng không quen làm bếp, mấy hôm nay làm đại, đêm qua nấu nước luộc trứng bị bỏng tay, giờ vẫn sưng ạ.”

Diêu Như Ý vốn không phải đầu bếp chính hiệu, bếp củi lại càng là ký ức tuổi thơ thôi, sao mà không loạn cho được? Tay nguyên chủ vốn trắng trẻo như hành, qua hai hôm bị nàng hành hạ, đã nổi bảy tám vết đỏ rộp.

Làn da nguyên chủ vốn trắng mỏng, bị phỏng nhìn càng nghiêm trọng. Vết nhẹ thì ửng đỏ rát rát, vết nặng thì phồng lên đầy bọng nước, vùng da xung quanh tróc ra vàng vàng.

Diêu Khải Chiêu vừa nhìn liền hoảng:
“Sao lại thành thế này? Có xối nước chưa? Mau đi mua thuốc bôi đi! Để chảy mủ là phiền!”

“Không sao đâu ạ, con có rửa rồi bôi ít kem đánh răng, hai hôm nữa là đỡ thôi.” - Diêu Như Ý đã thoa thuốc, giờ cũng không còn đau nữa. Nàng là người từng chết qua một lần, rất quý trọng thân thể này, nhưng không còn cách nào khác, vẫn phải làm việc.

Diêu Khải Chiêu vẫn không yên tâm, cầm tay nàng ngắm nghía mãi, lại lải nhải dặn phải mua thuốc. Sau đó, ông nhìn chằm chằm nốt ruồi nơi cổ tay nàng hồi lâu, rồi mới thả tay ra, lưng còng khom khom quay về phòng:

“Con nói cũng có lý, Văn An chắc đang trên đường rồi, thôi khỏi viết nữa. Con làm việc của mình đi, ta cũng phải quay vào sửa mấy bài làm lộn xộn của lũ tiểu tử kia.”

Diêu Như Ý cầm chùm chìa khóa, âm thầm thở phào.

Thấy rèm trúc trong phòng gia gia nhẹ nhàng buông xuống, nàng lập tức vòng ra sau nhà mình, chui qua nhà chứa củi, tiếp tục đi tới cuối đường, nơi có một cánh cửa nhỏ dính bụi cùng một chiếc khóa to.

Nhà họ Diêu và nhà họ Lâm trước kia từng qua lại bằng cánh cửa này.

Nàng phủi lớp bụi trên ổ khóa, tra chìa vào vặn, rút then cửa, dùng sức đẩy mấy lần mới mở được cánh cửa đã bị bụi đất kẹt lại.

Đi qua cánh cửa nhỏ là một sân sau đầy cỏ dại mọc um tùm.

Diêu Như Ý lội qua đám cỏ cao tới đầu gối, đi tới hành lang hiên. Bậc thềm phủ đầy rêu xanh, từ đây có thể đi vào cánh cửa nhỏ treo đầy mạng nhện.

Trước mắt nàng là một căn tứ hợp viện nhỏ rộng rãi và sáng sủa. Chính giữa là phòng khách, đối diện với một khoảng sân trời vuông vức, hai bên trái phải mỗi bên có hai gian phòng, gạch xanh lát nền xen kẽ với cỏ dại mọc xen, còn có một giếng nước với nắp gỗ bị chèn bằng đá. Dưới nắp đó, chắc vẫn là một cái giếng thật sự.

Trước khi Diêu lão gia tử bệnh nặng, đoán chừng mỗi tháng ông còn vào kiểm tra một lần. Nhà này tuy lâu rồi không ai ở, nhưng do sân nhà thoáng, không khí chỉ có chút ẩm mốc chứ không bẩn thỉu. Vừa bước vào, Diêu Như Ý đã thấy mái ngói nhà họ Lâm mọc ra mấy bụi cỏ thấp, đầu ngói còn có vết bị chặt tỉa, phía sau cửa còn dựng cả một cái thang gỗ. Hẳn là ông nội nàng đã từng đến quét dọn trước khi phát bệnh.

Già cả rồi mà còn trèo lên mái nhà sửa ngói!

Gia gia đúng là…

Đi tiếp về phía cuối hành lang phía đông còn có một cây hồng cao lớn. Dù đã nhiều năm không được chăm sóc, cây vẫn mặc sức vươn mình, cành lá sum suê, trên cành còn lác đác vài chiếc quả vàng xanh.

Diêu Như Ý ngắm nghía xung quanh rồi bước lại gần cây hồng, sờ nhẹ vào thân cây. Lúc đứng dưới bóng cây, nàng mới phát hiện trên cây còn treo một tấm biển gỗ cũ kỹ đã phai màu. Nét mực gần như mờ hẳn, nhưng vẫn có thể nhận ra bút tích đẹp đẽ bay bổng.

Nàng cố gắng nhìn kỹ hồi lâu, mới đọc ra được trên đó viết:

“Bình Bình
Lấy nghĩa 'hồng hồng bình an'
Trồng vào mùa hạ năm Bảo Nguyên nguyên niên
Cây này tính lười, ưa vươn cành, ít ra quả.”

Diêu Như Ý ngẩng đầu nhìn, quả thật, cây cao lêu nghêu, nhưng quả lại chẳng được bao nhiêu.

Lòng nàng dịu lại, nở một nụ cười đầy dịu dàng.

Thì ra cái vị nhân vật qua đường mà ông nội nàng hay nhắc lại là một người thích đặt tên cho cây cối.

Giống nàng thật đấy, nàng cũng thích đặt tên cho mọi thứ trong nhà. Trước đây nàng còn đặt tên cho chiếc xe máy của ngoại là “Cá chép đỏ, cá chép xanh và con lừa” <i>(đây là một câu vè luyện đọc của Trung Quốc, toàn âm l và âm u tròn môi)</i> nữa kìa.

“Bình Bình, tạm biệt nhé. Lúc khác có thời gian ta sẽ lại tới tưới nước cho ngươi.” - Nàng vừa cười vừa vỗ vỗ thân cây, rồi tiếp tục đi dọc hành lang kiểm tra khắp nơi.

Trên nền đất tích tụ một lớp bụi dày, ngoài nàng ra thì không thấy dấu chân nào khác, chứng tỏ không ai lui tới cả. Nàng lần lượt mở các cửa gỗ chạm khắc hoa để thông khí, tán bớt mùi ẩm.

Nhà họ Lâm có hai dãy nhà trước sau, rộng rãi hơn nhà họ Diêu nhiều, tổng cộng hơn chục gian phòng, bài trí nhã nhặn mà thanh lịch. Xem xong sân sau, nàng định đi vòng qua cửa vòm tới sân trước.

Đi tới sân trước, nàng lại phát hiện có một chậu hoa chuông đỏ đang nở rực. Hoa mọc dày, trông như những chiếc chuông đỏ tươi treo từng chùm. Nàng cúi người ngắm kỹ, quả nhiên trên chậu sứ trắng cũng có viết chữ:

“Diệu Diệu – mùa thu năm Bảo Nguyên thứ hai
Tiểu muội Nguyệt Nguyệt tự tay trồng và đặt tên
Hoa này siêng nở, dễ chăm, đúng là loài hoa tốt, không hổ với chữ 'Diệu'”

Ngoài ra còn có một cây hợp hoan tán rộng, trên đó treo tấm bảng nhỏ viết:

“Thính Mộc – trồng vào mùa xuân năm Bảo Nguyên thứ 2
Mỗi khi đêm xuống hoặc trời mưa, lá cây sẽ cụp lại
Tiểu muội Nguyệt Nguyệt từng nhiều lần áp tai vào, ngây ngô muốn nghe xem lá có thì thầm với nhau không, vì thế mà đặt tên này.”

Trong sân hoa cỏ um tùm, dù lâu ngày không có người ở, nhưng cây cối vẫn sinh trưởng tự do theo bốn mùa luân chuyển. Diêu Như Ý đi dạo hai vòng quanh nhà họ Lâm, để gió lướt qua người, nhìn ánh nắng rọi qua bụi mờ lơ lửng trong không trung, lòng nàng cũng nhẹ hẳn như được gột rửa.

Xem kỹ hai lượt, xác nhận không bỏ sót gì, nàng mới định rời đi.

Vừa quay người, sau lưng bỗng có tiếng sột soạt vang lên như thể có thứ gì đó lướt qua đám cỏ rậm rạp.

Diêu Như Ý dựng hết cả tóc gáy, lập tức quay đầu lại, nhưng chẳng có gì cả.

Chỉ có một cơn gió nhẹ thổi tới, cuốn theo vài chiếc lá rơi, lay động mạng nhện nơi mái hiên, con nhện đang bận rộn dệt tơ cũng bị gió làm chao đảo.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 13: Cún con mèo nhỏ


<i>Nàng ngồi xổm đối diện với mấy cục bông</i>

Diêu Như Ý cứ đứng yên như vậy một lúc, cố gắng lắng tai nghe nhưng chẳng còn động tĩnh gì nữa.

Trong lòng nàng lại dấy lên chút can đảm, rón rén bước từng bước về phía phát ra âm thanh ban nãy, chỗ đó chính là sân nhỏ đầy cỏ dại rậm rạp nàng vừa đi qua.

Lúc đi ngang qua giếng trời, nàng tiện tay nhặt lấy một phiến đá xanh lớn đè trên nắp giếng.

Hai tay ôm hòn đá nặng trĩu, cảm giác trong lòng cũng vững dạ hơn đôi chút.

Chắc không phải người đâu. Nàng thầm nghĩ. Cái sân con bé xíu ấy chẳng có nổi một cây cột, ngoài cỏ mọc cao ra thì chẳng có chỗ nào để người trốn. Nếu ban nãy thực sự có người nấp trong đó, chắc chắn nàng đã nhìn thấy rồi.

Có khi là động vật nhỏ gì đó? Chuột? Thằn lằn? Đừng nói là chồn nha? Nàng hơi sợ chồn, nhưng chỗ như Biện Kinh phồn hoa thế này, làm gì có chồn hoang? Hà Nam có chồn không nhỉ? Diêu Như Ý vừa nghĩ vẩn vơ vừa cẩn thận tiến lại gần.

Nàng nấp sau khung cửa, chỉ thò nửa cái mặt ra nhìn lén.

Gió thổi qua mớ cỏ dại cao quá đầu gối, tạo nên từng làn sóng gợn lăn tăn trước mắt nàng.

Bỗng nhiên, nàng dường như thấy hai cái tai tam giác lông xù run run trong đám cỏ. Rồi ngay sau đó, một bụi cỏ khác cũng lộ ra hai cái tai giống hệt, còn không cùng màu lông nữa. Một cái đầu cún tròn trịa, lông trắng pha vàng, lén lén lút lút chui ra, đôi mắt to đen láy ướt át đang tò mò nhìn nàng.

Ngay sau đó, một cái mặt cún đen thui cũng ló ra, còn bé thứ ba màu nâu cam thì nhút nhát nấp giữa hai bé kia, nhìn kỹ thì ra là… một bé mèo con!

Ba cục bông chắc còn chưa dứt sữa, nhỏ xíu xiu, nên khi nãy nấp trong đám cỏ rậm mới không bị nàng phát hiện.

Diêu Như Ý không dám cử động, cũng chẳng dám phát ra tiếng, sợ hù chúng bỏ chạy.

Mấy bé con thấy nàng đứng bất động như tượng, dần dần cũng yên tâm, bắt đầu chạy nhảy loạng choạng chơi đùa trong đám cỏ, chẳng mấy chốc đã lăn lộn thành một cục lông lớn. Cỏ vụn dính đầy người, chúng cắn đuôi nhau, nhào vô đè nhau, miệng thì phát ra mấy tiếng “gâu gâu” nho nhỏ non nớt.

Diêu Như Ý nhìn mà mặt mày dịu lại, nhẹ nhàng đặt phiến đá xuống nền gạch.

Nàng ngồi xổm xuống, đối diện với mấy cục bông.

Tuy đám nhóc ấy bẩn thỉu, đầu tóc lông lá rối bù, nhưng bé nào cũng béo tròn mũm mĩm, lông xù lên từng cục như tép tỏi, chắc chắn được mẹ nuôi tốt, sữa dồi dào nên mới béo tốt như vậy. Chỉ có bé mèo con kia là gầy hơn chút, không chừng vì sinh ra yếu ớt bị mèo mẹ bỏ rơi, rồi được cún mẹ tha về nuôi luôn?

bé mèo nhỏ này chân ngắn, người cũng ngắn, chạy có vài bước là ngã, nhưng đã học được cách sủa “gâu gâu”, vẫy đuôi và thè lưỡi như mấy anh cún con rồi.

Diêu Như Ý nghe thấy lúc nó đùa giỡn với đám anh em, bé mèo há miệng “gâu” một tiếng, không nhịn được bật cười.

Nàng còn đang đoán thì bỗng sau góc tường vang lên tiếng động, một cái đầu cún to tướng màu vàng nhô ra từ bụi đất sát chân tường, ngậm theo một con chuột béo thoi thóp.

Cún mẹ định chui vào, nhưng vừa ngửi thấy mùi lạ liền khựng lại, rồi ngay lập tức, ánh mắt hung hãn liền quét thẳng đến nàng.

Diêu Như Ý đứng phắt dậy.

Cún mẹ về rồi! Lại còn là loại hung tợn nữa!

“Ta chưa có làm gì đâu.” - Nàng rụt cổ, lí nhí phân trần.

Cún mẹ hình như nhìn ra nàng chỉ là một con người yếu ớt, tay chân gầy nhẳng chẳng có gì đe dọa, nên chỉ gầm gừ trong họng rồi lách hẳn vào trong. Lúc này nàng mới thấy, thì ra nó không phải từ đất chui ra, mà là dưới chân tường có mấy viên gạch rơi lỏng, bị đào thành một cái lỗ chó vừa vặn.

Ba đứa nhóc vừa thấy mẹ về liền không thèm để ý đến vị khách không mời mà tới là Diêu Như Ý nữa, lập tức vẫy đuôi chạy lại, chui rúc dưới bụng cún mẹ đòi bú.

Cùng lúc ấy, trong bụi cỏ lại nhảy ra thêm một bé cún con màu lạ hình như là kiểu “bốn mắt bọc vàng”, hồi nãy bé núp trong cỏ nên chưa thấy, thông minh phết.

Thì ra là gia đình năm miệng ăn.

Nhà họ Lâm không ai ở, lại bị cả nhà cún chiếm làm ổ mất rồi.

Nhưng cũng nhờ gia đình cún mẹ này, mà nhà cửa sạch sẽ, không thấy dấu hiệu bị chuột cắn phá. Lúc nãy nàng đi một vòng cũng chẳng gặp rắn rết hay sâu bọ gì cả.

Chắc đều bị cún mẹ bắt ăn mất rồi.

Bốn cục bông con ôm lấy chân cún mẹ đòi bú, nhưng cún mẹ chẳng thèm để ý, chỉ chăm chăm cảnh giác nhìn Diêu Như Ý, không lộ bụng cho bú.

“Ta không làm phiền, đi ngay đây.” - Diêu Như Ý hơi sợ cún mẹ, nhỏ giọng chào tạm biệt rồi rón rén rút về sân nhà mình.

Nàng gọi với vào trong nhà báo với gia gia mình là ra ngoài một lát, nghe ông “ừ” một tiếng trong phòng, bèn đẩy xe gỗ ra ngoài.

Đi mua thịt thôi!

Ra đến đầu ngõ, nàng gật đầu chào lão binh gác nhàm chán đang ngồi trong phòng trực gãi chân.

Diêu Như Ý thầm nghĩ, sống trong Quốc Tử Giám cũng có điểm bất tiện, người lạ không dễ vào được. Sau này nếu gọi người giao hàng, chắc cũng chỉ chuyển đến được tận đầu ngõ thôi.

Nhưng cũng coi như được cái này mất cái kia, ít ra trong hẻm chẳng có trộm cắp hay phường lưu manh nào khiến nàng cảm thấy yên tâm hơn nhiều. Nếu không thì nàng và ông nội đúng là phải ngày ngày khóa cửa giữ nhà thật kỹ, thậm chí… có khi phải nuôi một con chó dữ như cún mẹ để trông nhà.

Có khi được đó? Nếu cún mẹ chịu, nàng xin nuôi một hai con trong đám con của nó cũng hay, khỏi mất tiền mua cún nữa! Diêu Như Ý nhờ quá trình điều trị luyện được tính lạc quan trong những năm tháng bệnh tật, lại tự thấy vui lên, vừa đẩy xe vừa ngân nga hát nho nhỏ, dù tiệm nhà mình còn chưa thấy đâu, trong đầu nàng đã tưởng tượng ra một tương lai có mèo có cún thật hạnh phúc.

Chẳng bao lâu, nàng đã tìm đến hàng thịt, mua một dải thịt ba chỉ mỡ nạc đan xen, móc vào ghi đông xe, rồi lại hì hục đẩy xe đến tiệm tạp hóa trong phố hàng hóa, mua thêm hai trăm quả trứng gà và mấy vò rượu mang về. Tiện thể, nàng còn đi dạo quanh mấy vòng trong tiệm, lén quan sát xem tiệm tạp hóa thời này bán những gì, coi như khảo sát thị trường trước vậy.

Nàng thấy trong tiệm có bán lược, trâm, chén bát, chổi quét nhà, hót rác, dầu, muối, tương, dấm, đồ chua… Cũng giống tiệm tạp hóa hiện đại ghê.

Về đến nhà, nàng cẩn thận chuyển số trứng gà vào nhà bếp trong ba lần mới hết. Lau mồ hôi xong, nàng hào hứng xách miếng thịt ba chỉ vào bếp.

Nàng còn cố ý cắt một ít ra, băm thành thịt vụn, chần qua nước sôi, dùng thịt và nước thịt trộn với cháo thừa, hí hửng bưng một bát đi sang nhà họ Lâm, chuẩn bị <i>đút lót</i> cún mẹ.

Nhưng vừa mở cánh cửa nhỏ ra, trong sân nhỏ đã không còn bóng dáng nào gia đình cún con nữa.

Chó mẹ có lẽ đã cảm thấy nơi này không còn an toàn, nhân lúc nàng ra ngoài đã vội vã chuyển ổ đi mất, chỉ còn lại cái hang chó dưới chân tường còn hở miệng, và một đống dấu chân lộn xộn của bầy cún con.

Diêu Như Ý đứng tựa vào cánh cửa, nhìn ra sân một hồi, rồi bất giác buồn bã ngồi xổm xuống, quét đám bụi trên bậc thềm, sau đó co chân lại ngồi bệt xuống, chống cằm nhìn lên góc trời nhỏ xíu bị bốn bức tường bao quanh.

Trời thu trong vắt, bóng chim vụt qua cũng nhẹ nhàng như tơ.

Cánh cửa nhỏ khép lại, trong nhà chỉ còn lại gió, cỏ dại và bụi mờ. Ở nơi không ai nhìn thấy này, nàng không cần phải dè dặt che giấu bản thân, không cần căng óc phân biệt từng người, có thể lặng lẽ bộc lộ chút xíu nỗi nhớ nhung và cô đơn khi lạc vào thế giới trong tiểu thuyết.

Thật ra, trong lòng nàng vẫn hơi bất an. Sáng nay gia gia bất ngờ bảo nàng viết thư hồi âm, chẳng biết có phải nàng nghĩ nhiều, nhưng nàng vẫn cảm thấy hình như gia gia đang thử thăm dò nàng.

Nhưng... đầu óc gia gia lúc tỉnh lúc mê, nàng cũng không rõ khi đó gia gia đang tỉnh táo hay không.

Ngồi thêm một lát, nàng tự vỗ mặt mình một cái, rồi lại phấn chấn đứng dậy.

Nàng chẳng có ưu điểm gì lớn, chỉ giỏi nhất là tìm niềm vui trong khốn cảnh. Giống như hồi xưa, dù tế bào ung thư đã lan khắp cơ thể, chỉ cần còn sống được một ngày, nàng vẫn cố sống cho tử tế một ngày. Giờ cũng vậy.

Nghĩ nhiều vô ích. Những chuyện chưa xảy ra, nàng mặc kệ hết.

Dù sao… cuộc đời này, nàng cũng coi như lượm được rồi. Chỉ cần mỗi ngày sống vui vẻ là lời rồi.

Nàng vẫn mang cháo thịt đổ vào cái đĩa mẻ lôi ra từ nhà kho, đặt trên một phiến đá phẳng ngoài sân. Sau đó quay lại khóa từng cánh cửa trong nhà họ Lâm lại thật cẩn thận.

Xong xuôi, nàng quay về nhà mình, xắn tay áo chuẩn bị chiến đấu một trận: <i>“Làm sao giải quyết ngàn vạn nỗi sầu? Ăn một bữa thật no là xong!”</i>

Nếu nói trước đây ngoại nàng làm món gì khiến nàng mê nhất, thì chắc chắn là món thịt ba chỉ chiên giòn, da giòn tan, bên trong lại mọng nước, ăn một miếng là thơm ngậy đến rụng lưỡi!

Muốn làm được món thịt ba chỉ chiên giòn ngon, nhất định phải chọn miếng nhiều mỡ một chút, tốt nhất là loại năm tầng rõ ràng: ba tầng mỡ, hai tầng nạc. Nếu không, thịt chiên lên sẽ bị khô, nhai mỏi răng. Mà như thế thì chỉ có thể xắt thật mỏng để thắng mỡ làm tóp mỡ ăn chơi thôi.

Thịt ba chỉ hôm nay nàng mua là loại rất tốt, thịt heo đen nuôi thả tự nhiên ăn ngũ cốc, thịt săn chắc, đỏ tươi. Miếng thịt nàng xách về vừa dày vừa béo, đập lên thớt nghe một cái “bịch”, phải tốn bao công sức mới cắt đôi được.

Ngoại trừ mùi hôi thịt hơi nồng, còn lại chẳng có điểm nào chê cả.

Nhưng vấn đề lại chính là cái mùi hôi này.

Theo như sách nàng từng đọc, heo thời Tống không bị thiến, vì vậy mùi rất nặng. Muốn khử mùi thì phải rửa máu, ngâm hành gừng, rồi luộc sơ mới được, nhưng khổ nỗi món thịt ba chỉ chiên giòn của bà ngoại nàng ngày trước là ướp bia rồi chiên thẳng, không có luộc trước.

Diêu Như Ý cũng không biết cách nào khác, đành đánh liều làm theo cách của bà ngoại.

Dù sao rượu cũng có tác dụng khử mùi mà.

Nàng rửa sạch máu thịt, ngâm hành gừng rồi lại đem thịt ngâm vào một vò rượu gạo vừa khui. Trước kia bà ngoại ngâm khoảng nửa canh giờ, nàng định ngâm lâu hơn chút, để hương rượu thấm kỹ, át mùi thịt hôi.

Mà vừa khéo hôm nay nàng đã khui một vò rượu mới, vốn không muốn lãng phí, nên nàng bèn tiện thể tranh thủ làm mẻ trứng trà ngày mai luôn.

Nàng lấy nồi sành ra, châm thêm nồi khác, đổ rượu hòa nước sạch cho đám trứng gà mới mua vào kho.

Bếp than nóng quá nên hôm nay nàng dùng củi. Trong lò nàng để lại một khúc củi lớn cháy chậm, như vậy lửa giữ được lâu, không quá mạnh, cũng không làm cạn nồi.

Nàng bận bịu hết nấu trứng lại quay về xử lý nồi thịt, thấy còn dư chút thời gian, liền ra sân sau.

Yên tâm vì ông nội đang trong phòng đọc sách ngủ gật, tiếng ngáy oanh tạc vọng ra ngoài cửa phòng.

Nàng quyết định tranh thủ dọn hai gian nhà chứa đồ, phân loại dần, chuẩn bị chỗ để sau này mở tiệm tạp hóa.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 14: Thịt ba chỉ chiên giòn


<i>Vào miệng trước giòn, sau mềm, cuối cùng tan chảy.</i>

Hai căn phòng chứa đồ này chắc đã mấy năm không được dọn dẹp, bên trong nào là bàn ghế gãy chân, chén bát sứt mẻ chồng chất, hũ dưa muối mốc meo đặt cạnh rèm cửa mối mọt, chất đống lung tung như núi, đến mức người ta bước vào cũng chẳng biết nên bắt đầu từ đâu.

Diêu Như Ý liền kéo hết đám đồ mục nát vô dụng ấy ra, chất một đống lên xe kéo, nhưng vẫn chưa thể vứt bừa. Trong ký ức của nguyên chủ, ở Biện Kinh này cũng thực hiện phân loại rác! Mỗi nhà không được tự tiện đổ rác ra ngoài, triều Tống có luật lệ rõ ràng: chất thải không được vứt bừa, nếu bị tố cáo sẽ bị đánh bảy mươi trượng, có thể mất nửa cái mạng!

Khu Quốc Tử Giám này, rác thải sinh hoạt đều phải chờ người tuần tra phố xá của nha môn đến thu gom theo ngày: các ngày lẻ sẽ thu phân, nước tiểu, cành lá khô, còn cơm thừa canh cặn thì được thu theo giờ mỗi ngày và sẽ được chở ra ngoại ô bán với giá rẻ cho các hộ nuôi heo.

Những thứ như gỗ mục, đồ sành sứ vỡ mà Diêu Như Ý dọn ra, thật ra không tính là chất thải sinh hoạt mà thuộc dạng phế phẩm, tức là rác tái chế, được thu vào các ngày chẵn. Hôm nay đúng là ngày chẵn, cứ đợi trời sập tối, chú ý tiếng rao “thu phế phẩm đây, phế phẩm đây…” vang lên trên phố là được.

Còn mấy hũ dưa muối mốc meo bốc mùi, nàng đổ hết vào thùng chứa chất bẩn. Mùi quá nồng, nếu rửa trong nhà chắc sẽ ám cả mấy ngày không tan, nên nàng bịt khăn lên mũi miệng, xách nước ra rãnh thoát nước trước cửa để cọ rửa.

Ngoài trời có gió xuyên hành lang thổi tới nhưng nàng vẫn bị mùi đó hun cho cổ họng lộn tùng phèo, nôn khan không ngớt. Dù vậy, hũ gốm này tuy bốc mùi nhưng còn lành lặn, vứt thì phí quá, rửa sạch rồi dùng trồng hành lá hay tỏi cũng hợp lý.

Buổi chiều, khi học trò còn chưa tan học, hẻm nhỏ yên tĩnh hẳn. Đây cũng là thời gian tốt để các nàng các bác trong phố kéo ghế ra cửa vừa khâu vá vừa tán chuyện.

Tiếng Diêu Như Ý kiên trì nôn khan cọ rửa mấy hũ dưa hỏng rất nhanh đã khiến mấy thẩm tử đang tụ tập ở tiệm may nhà họ Trình gần đó chú ý.

Nhà họ Trình ở đầu hẻm gần chốt gác, nhà họ Diêu thì nằm ở cuối hẻm sát tường Quốc Tử Giám, khoảng cách cũng khá xa, bình thường chẳng nghe rõ nhau. Thế nhưng, dáng vẻ Diêu Như Ý bị mùi dưa muối hun cho nước mắt nước mũi đầm đìa kia đã khiến một thẩm béo phá lên cười:
"Cháu gái của lão Diêu đúng là được nuôi nấng kỹ quá, rửa có mấy cái hũ dưa muối mà cũng nôn đến vậy."

Trình nương tử vừa vá áo khoác cho con vừa bênh:
"Du thẩm tử vừa từ Lạc Dương về nên không biết, Như Ý bây giờ giỏi lắm đó. Mấy bữa nay là muội ấy lo hết ba bữa cơm cho gia gia, còn dám ra chợ bán trứng trà với mì đó. Cả hẻm đều ngửi thấy mùi thơm. Mì thì không nói, nhưng trứng trà thì đúng là ngon. A Quân nhà ta vừa ăn thử hôm qua, ngon lắm, không hiểu sao muội ấy lại làm được ngon như vậy."

Du thẩm tử còn chưa kịp đáp, một người khác bế hai đứa bé tóc tết hai bên chen vào:
"Thật à? Hôm nay ta cũng ngửi thấy mùi, thơm thật đấy. Nhưng nhà ta cũng từng luộc trứng trà, bé con Mạt Lị nhà ta cứ bảo là khô, chỉ ăn phần trắng, còn lòng đỏ thì không thèm đụng vì dễ nghẹn. Đúng không, Mạt Lị?" (<i>Mạt Lị là hoa nhài</i>)

Mạt Lị mới bốn tuổi, người gầy gò, đầu to mà cổ thì bé xíu, trông cứ như đầu sắp lật ngửa ra đằng sau. Nàng bé ngồi bên cạnh tiểu Tùng - cháu gái của Lưu chủ bộ, hai đứa cùng chơi búp bê lụa trong tay, tết tóc cho búp bê, thay quần áo may từ mảnh vải vụn. Nghe nương mình hỏi, nàng bé liền gật đầu.

“Khô, không ăn.”

Vưu thẩm tử bất lực mà cũng đầy thương yêu xoa lên mái tóc vàng mỏng của con gái, nhìn sang gương mặt trắng trẻo, mũm mĩm của tiểu Tùng mà càng thêm lo lắng:
“Nuôi tiểu Tùng nhàn lắm, ăn gì cũng được. Còn con bé nhà ta thì cái gì cũng không thích ăn, càng nuôi càng gầy, ta lo chết mất.”

Lưu Ngân Châu đang ngồi khâu đế giày, cắn đứt sợi chỉ rồi góp lời: “Bỏ đói mấy bữa là được thôi.”

Trình nương tử cũng gật đầu:
“Không sao đâu, trẻ con bé nào chẳng vậy. Con ta hồi bé, đưa đồ ăn lên miệng còn không hé miệng, mặt thì nhăn nhó y như ta định đầu độc nó vậy. Nhịn đói mấy bữa là không dám kén ăn nữa.”

Nhưng Vưu thẩm tử lại thở dài: “Các tỷ không biết đâu, bé con nhà ta cứng đầu trời sinh. Ta chẳng biết đã bỏ đói bé bao nhiêu lần rồi, vậy mà vẫn không ăn. Đói đến mức người lảo đảo, ngã cả xuống bậc thềm mà cũng không chịu ăn thêm một miếng.”

“Vậy mà cũng chịu được à?” Du thẩm tử cười khì khì, đưa bàn tay mập mạp xoa búi tóc nhỏ của Mạt Lị:
“Có khí phách! Giỏi lắm! Mạt Lị nhà chúng ta sau này chắc chắn sẽ có tiền đồ!”

Mạt Lị biết được khen, cũng ngửa đầu cười, mắt cong cong.

Tiểu Tùng vừa móc từ túi nhỏ ra một viên kẹo nhét vào miệng, má phồng cả lên, nghe thấy thế thì cuống lên:
“Thẩm thẩm, con cũng có tiền đồ mà!”

"Đúng đúng đúng, con cũng có tiền đồ!" - Du thẩm tử ôm bé vào lòng, cười nghiêng ngả.

Tiểu Tùng mãn nguyện ngồi hẳn vào lòng Du thẩm tử tiếp tục ăn kẹo, dùng đầu lưỡi đẩy viên kẹo từ má trái sang má phải, như thế hai bên đều ngọt ngào mới gọi là công bằng.

Chỉ còn mẹ Mạt Lị lắc đầu thở dài:
“Con bé có tiền đồ làm gì? Nữ tử ấy mà, chỉ cần lấy được người chồng tốt, sống cả đời bình an thuận lợi là được rồi.”

“Tỷ nói gì vậy? Con gái thì sao? Giờ còn có cả nữ tướng Kỳ Vân đang trấn thủ ở U Châu đó thôi, không phải cũng nổi danh lẫy lừng à? Đám Kim cẩu bị nàng ấy đánh cho chạy mất dép! Còn nữa, tỷ nhìn Tiểu Thẩm ở tiệm Thẩm ký mà xem, một thân một mình nuôi hai đứa em, chỉ trong mấy năm đã gây dựng được cả sản nghiệp to như vậy, giờ còn giao thiệp với cả quan phủ, ai bảo nữ tử thì không thể có tiền đồ, không thể kiếm được nhiều tiền?”

“Ôi trời ơi, nghe tới ra chiến trường là hai chân ta nhũn ra rồi, còn không bằng để bé con Mạt Lị nhà ta lấy được tấm chồng tử tế. Còn như Thẩm nương tử, bao nhiêu người mới có một người làm được như vậy? Với lại, chẳng phải nàng ấy cũng lấy được tấm chồng tốt đó sao? Chồng nàng ấy là lang quân nhà họ Tạ, là danh gia vọng tộc, ruộng đất cả nghìn mẫu, vàng bạc chất như núi. Có được cơ nghiệp lớn như thế, chẳng phải cũng dựa vào nhà chồng giúp đỡ đấy thôi?”

Du thẩm tử thấy nói chuyện không cùng quan điểm, quay mặt đi, không nói gì thêm.

Trong lúc mấy tẩu tử đang tám chuyện, Diêu Như Ý đã rửa sạch chiếc vại sành chuẩn bị quay về. Vừa đứng dậy đã không kìm được mà nôn thêm một trận nữa, rõ ràng là bị mùi hôi xộc tới choáng váng không nhẹ.

“Con bé này cũng thật là cố chấp, hai cái vại thối hoắc như vậy vứt đi cho rồi, làm chi mà khổ thế?” – Du thẩm tử nhìn bóng lưng lảo đảo kia mà lại tặc lưỡi, ghé tai Trình nương tử thì thầm.

“Ta thấy nàng ta vẫn y như cũ, không biết có gắng gượng nổi mấy ngày không nữa.”

Trình nương tử thì cười:
“Ta thì thấy Như Ý thông suốt rồi, ngày tháng tốt đang đợi phía trước đó.”

Du thẩm tử bĩu môi, tỏ ý không tin.

Mấy người lại tám chuyện thêm một hồi, thấy trời đã xế chiều, cũng tới lúc về nhà nấu cơm, mỗi người ôm một cái rổ mà tản ra.

Thật ra Du thẩm tử ở ngay cạnh nhà họ Diêu, sống ở con hẻm này đã mười mấy năm rồi, còn trước cả khi nhà họ Diêu dọn đến. Chồng bà là Du Thủ Chính, giữ chức Giám môn quan lục phẩm tại Quốc Tử Giám, trước kia còn có chút giao tình với Diêu Khải Chiêu, khi ông ấy còn là Tế tửu. Nhưng Du Thủ Chính tính tình nhát gan, sau khi Diêu Khải Chiêu bị giáng chức và bị nàng lập, ông ta sợ đắc tội với Tế tửu và Tư nghiệp mới, dần dà liền xa lánh nhà họ Diêu.

Nhà họ Diêu không có nữ chủ quản sự, Diêu Như Ý lại sống nội tâm, Du thẩm tử thì hay đi lại giữa Biện Kinh và Lạc Dương, hai nhà càng lúc càng ít qua lại.

Nhưng dù sao cũng là hàng xóm, tình cảnh nhà họ Diêu thế nào, bà ta biết rất rõ.

Vừa về tới nhà, bà liền bắt tay vào chuẩn bị cơm tối.

Bà sinh được hai trai một gái, cả hai con trai đều đã ra làm quan. Đứa nhỏ làm việc ở Đại Lý Tự, bận rộn suốt ngày đêm, mười ngày thì có tới tám ngày ngủ lại nha môn. Đứa lớn cùng gia quyến ở ngoài thành, làm quan phụ mẫu, không được phép tự ý rời nơi nhậm chức. Con gái thì gả về Lạc Dương, sau khi khó sinh dẫn đến cơ thể suy nhược, mỗi năm vợ chồng bà đều phải qua thăm, một là lo cho sức khỏe con gái, hai là sợ bên nhà chồng đối xử không tốt với nàng.

Nhà của nhà họ Du ở hẻm nhỏ Quốc Tử Giám phần lớn thời gian chỉ còn lại hai ông bà sống với nhau.

Bảo là hiu quạnh, nhưng thật ra cũng chẳng hiu quạnh mấy.

Du Thủ Chính thích hoa, chim, cá, côn trùng. Sau khi các con lập gia đình riêng, ông nuôi hơn mười con chim, hai bể cá, sáu chậu rùa, lại còn trồng đầy lan trong sân.

Du thẩm tử thường nói: “Vừa mở mắt ra là đã có cả trăm vị tổ tông trong nhà chờ hầu hạ rồi, lấy đâu ra mà hiu quạnh.”

Không có con cháu bên cạnh, hai người cũng ăn uống đơn giản, miễn là no bụng là được. Dù sao Du Thủ Chính chỉ cần cầm chén cơm ngồi ngoài sân, hết chọc chim lại chọc cá, chọc rùa, còn ngắm hoa, đồ ăn trong bát thì toàn bị đem cho rùa với chim, thật ra có ăn được bao nhiêu đâu.

Vừa lúc Du thẩm tử trở về, ông đang ngồi trên ghế trúc trong sân, ôm lấy con vẹt ngũ sắc mới huấn luyện, gương mặt dài gầy gò âu yếm chu môi hôn chùn chụt lên cái đầu tròn lông mềm của con vẹt:
“Con chim ngoan của cha, thông minh ghê gớm, cái miệng thật là lanh lợi!”

Ông vừa khen, con vẹt lập tức chửi: “Đồ khốn!”

“Được, được lắm!”

“Thằng nhãi! Cái đồ xui xẻo!”

“Ái chà, đúng là bảo bối của cha! Mắng to thêm nữa nào! Cha thích nghe! Chùn chụt chùn chụt.”

Du thẩm tử trong bếp nghe mà cứ trợn trắng mắt.

Bảo sao người nuôi ra sao thì chim thế nấy. Người ta như Tô công đại văn hào, nuôi vẹt mà còn biết đọc thơ, còn có thể nối vần thơ trong các buổi tụ họp văn chương, giỏi biết bao nhiêu! Còn nhà bà thì sao? Chỉ biết chửi người không lặp lại câu nào, mắng càng hăng ông ta càng thích.

Như thể đầu óc có vấn đề vậy.

Bà đang định nấu chút cháo kê, xào thêm ít rau muối nhà làm cho qua bữa thì đột nhiên một mùi thịt chiên thơm lừng nức mũi từ bên cạnh bay sang.

Thì ra Diêu Như Ý đang cắt thịt ba chỉ thành từng khối mập mạp, quết lên lớp mật ong, úp phần da xuống nồi, chan dầu nguội lên, dùng lửa nhỏ chiên từ từ. Khi mặt dầu bắt đầu lăn tăn nổi bọt vàng li ti, nàng dùng muỗng nhỏ múc dầu nóng rưới đều lên miếng thịt, dầu bắn lách tách trên lớp da, chẳng mấy chốc da thịt bắt đầu xuất hiện vết rỗ li ti, màu sắc cũng dần chuyển đậm, lúc này mới nhẹ nhàng lật miếng thịt lại.

Chiên mặt kia xong, mùi thơm đã lan tỏa khắp nơi.

Có lẽ nhờ ngâm qua rượu lúa mạch, lại được chiên kỹ bằng dầu hòa quyện với hoa tiêu, nên dù là thịt heo chưa thiến cũng không có mùi tanh, chỉ có mùi thịt và dầu thơm ngào ngạt.

Chờ đến khi miếng thịt chiên vàng giòn toàn thân, nàng dùng dao cắt thành từng miếng nhỏ. Lưỡi dao vừa chạm xuống là tiếng rộp rộp giòn rụm vang lên, rồi để ráo dầu trong vá tre, xếp ra đĩa sứ trắng tinh, trên lớp da giòn vẫn còn sôi sùng sục những bọt dầu nhỏ li ti, khiến cho món thịt ba chỉ chiên trông càng bóng bẩy hấp dẫn.

Diêu Như Ý đứng bên bếp không kìm nổi cơn thèm, vội rửa tay, gắp một miếng bỏ vào miệng. Á nóng nóng nóng! Lưỡi tê hết cả rồi!

Đợi bình tĩnh lại, vừa đưa vào miệng đã thấy: trước giòn, sau mềm, cuối cùng tan chảy.

Khoảnh khắc hàm răng cắn vỡ lớp vỏ cháy giòn, vang lên tiếng rắc rắc tựa như cắn phải viên đá lạnh đang tan, kế đó là mỡ heo nóng chảy trong miệng, thớ thịt nạc mềm mại dần nở ra dưới đầu lưỡi, có thể cắn ra nước thịt, hoàn toàn không bị dai, nuốt xuống rồi vẫn còn phảng phất chút hương rượu nhè nhẹ.

Ngay cả chính Diêu Như Ý cũng bị bất ngờ, không ngờ mình lại có năng khiếu nấu ăn đến vậy! Chỉ dựa vào ký ức về tay nghề của bà ngoại, lần đầu tiên làm đã thành công mỹ mãn!

Không chỉ mình nàng bất ngờ, đến cả nhà họ Du bên cạnh, ngay cả Du Thủ Chính, người chẳng mấy khi để ý đến chuyện ăn uống, đầu còn có một con chim biết chửi bậy đứng trên, cũng bị mùi thơm làm cho đứng bật dậy, hít hít như cún:
“Thơm thế? Nhà ai nấu món ngon vậy trời…”

[Tác giả có lời muốn nói]
Cún mẹ sẽ quay lại [mắt kính đen cool ngầu]
Diêu Như Ý: Các vị cư dân mạng tài giỏi, xin hỏi làm sao để bắt cóc... à không, nhận nuôi cún con mèo nhỏ mà không bị cún mẹ phát hiện? Online chờ gấp lắm đó!
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 15: Quy hoạch nhỏ


<i>Nửa gương mặt thiếu niên trắng trẻo thò ra từ khe cửa, dáng người cao ráo, tóc còn ướt. </i>

Diêu Như Ý đứng bên bếp, không nhịn được lại ăn thêm hai miếng thịt, mắt lim dim, vừa nhai vừa đung đưa đầu đầy thích thú.

Nàng giỏi quá đi mất! Đời trước đời trước nữa chắc chắn nàng là một thần bếp!

Món thịt ba chỉ chiên giòn này vốn dĩ không khó, đặc biệt là khi dùng nồi sắt lớn để chiên thì hương vị lại càng tuyệt vời.

Trước khi dùng, nồi sắt cần được làm nóng và tráng qua dầu, dùng lâu ngày sẽ trở nên “dưỡng nồi”, lúc nấu gần như chẳng khác gì nồi chống dính. Kiếp trước, nhà Diêu Như Ý dùng chính là nồi sắt rèn tay của thợ rèn trong thôn, có vân búa đều tăm tắp, truyền nhiệt ổn định, giữ nhiệt tốt, bà ngoại dùng hơn mười năm chỉ vá lại có hai lần, vẫn cực kỳ bền.

Nồi sắt thời Tống đã là loại đáy tròn, hình dáng khác đôi chút so với sau này: thân sâu thành rộng, hơi giống nồi cơm điện có vành, đặt khớp vào bếp lò vừa khít. Một nồi dùng được nhiều việc: chiên xào nấu hấp đều tiện. Dưới đáy nấu cơm, phía trên đặt hai xửng hấp thì hấp bánh bao, canh rau; còn viền ngoài rộng chừng một gang tay thì có thể chiên bánh nướng, nướng bánh bao. Tuyệt nhất là, nồi còn có ba rãnh lõm ở đáy, có thể kê lên lò đất hoặc giá sắt, mang ra sân nấu lẩu cũng chẳng thành vấn đề.

Lần đầu thấy thiết kế đó, nàng đã thấy quá thông minh! Giờ mới dùng có hai ngày đã quen tay, nàng cảm thấy dùng cũng chẳng kém gì nồi sắt hiện đại.

Chỉ là hơi nặng tí thôi, còn lại đều ổn.

Bếp củi lửa mạnh, nấu ra món gì cũng mang hương vị đặc biệt mà bếp gas hay bếp điện khó sánh. Có lẽ là do hương thơm của than củi hòa quyện vào thức ăn?

Nghe nói nhà giàu thời này nấu từng món còn chọn củi gỗ khác nhau: nấu thịt cừu hay hầm xương thì dùng gỗ thông vì mùi thơm át được mùi tanh; nướng vịt cá thì dùng gỗ vải, gỗ táo, gỗ nhãn thơm ngọt tự nhiên; nấu cơm thì trộn thêm vỏ trấu, cơm sẽ dẻo và thơm hơn.

Còn nàng, đương nhiên chọn loại nào rẻ nhất!

Huống chi, trong hẻm gần Quốc Tử Giám, các nhà dùng than tổ ong là chính, nhà nàng cũng vậy. Hai hôm nay đi ra đi vào, nàng còn thấy ngoài cửa mỗi nhà đều có đống tro than đã dùng. Loại này còn có thể bán lại cho người ve chai, họ mang về trộn với phân gia súc để làm phân bón. Không lãng phí chút nào.

Ở Biện Kinh, ba trăm sáu mươi nghề, dù bẩn thỉu mấy cũng có người làm. Diêu Như Ý từng đọc sách viết rằng thời Tống buôn bán phát đạt, nhưng đa phần chỉ nói đến việc phá bỏ chế độ chợ huyện, có chợ sớm chợ đêm này kia. Đến khi thật sự sống trong thời đại này, dù là một triều Tống thiếu chuẩn xác của sách vở, nàng vẫn nhìn thấy sự phồn vinh thực sự của Đại Tống qua từng chi tiết nhỏ như thế.

Vừa nghĩ ngợi, Diêu Như Ý vừa chia thịt chiên giòn ra ba đĩa: một đĩa lớn để nhà mình ăn, một đĩa vừa mang biếu Trình nương tử – người đã từng giúp nàng mặc cả, dẫn nàng đi mua đồ rẻ, mời nàng ăn chè hạnh nhân, lại còn dịu dàng động viên nàng sống tốt. Nàng vẫn luôn ghi nhớ những điều đó.

Dù giờ nàng không còn là nguyên chủ, nhưng nghĩ theo lẽ thường, nếu nguyên chủ từng nghe được những lời dịu dàng ấy, hẳn trái tim vốn bị lời đồn và định kiến xé rách kia cũng được an ủi phần nào?

Diêu Như Ý thở dài, nhìn đĩa thịt, lại tự khích lệ mình.

Nàng sẽ sống thật tốt, sống cho cả phần của nguyên chủ.

Món thịt ba chỉ này là nàng dùng chính tiền mình kiếm ra để mua nguyên liệu, lại tự tay nấu, đem đi cảm ơn là thích hợp nhất.

Đĩa cuối cùng chỉ có năm miếng, nàng mang ra góc sân, đổ thêm vào bát cháo thịt đã để sẵn cho cún mẹ và cún con, tuy không biết bọn chúng còn về nữa không.

Nhưng vừa mở cửa sau, nàng đã thấy bát cháo bị ăn sạch, còn dính vài sợi lông cún. Xem ra bọn chúng vẫn quanh quẩn đâu đây!

Nàng mừng rỡ, đổ thêm thịt vào bát, rồi nhảy chân sáo vào nhà dọn bát đũa, gọi lớn: “Gia gia, ăn cơm thôi!”

Ngoài thịt chiên giòn, nàng còn nấu nồi cháo rau xanh. Tuy cháo bị khê do quên khuấy đáy nồi, nhưng ăn kèm thịt lại thấy vừa miệng, không hề ngấy.

Diêu Khải Chiêu chống gậy đẩy cửa ra, ngửi mùi thịt lan tỏa khắp sân, ngạc nhiên nói: “Đầu bếp nhỏ nhà ta nay lại làm được món mới hả? Thịt lợn mà làm thơm thế này, cũng khá đấy.”

Lại gọi nàng là đầu bếp rồi.

Nhưng Diêu Như Ý nghe vậy thì nhẹ cả lòng.

“Con thấy người ta làm ngoài chợ nên học lỏm về làm thử thôi ạ. Nhìn có vẻ được phải không?” - Nàng đặt đĩa thịt lên, vừa nói vừa bối rối đưa ra nồi cháo đã khê:

“Chỉ là cháo bị khê nhẹ, may mà không cháy lắm. Gia gia chịu khó ăn tạm nhé.”

Diêu Khải Chiêu nhìn nồi cháo ngả vàng, có mùi khét nhẹ, bất ngờ bật cười: “Tay nghề chưa chín hả? Tháng sau trừ tiền công nhé.”

Diêu Như Ý đưa đũa cho ông, múc cháo, giả vờ không phục: “Thế mai con đi mua sách nấu ăn về học, bảo đảm làm thêm mấy món mới cho ngài. Đến lúc đó thì ngài phải tăng tiền tiêu công cho con đó nha!”

Diêu Khải Chiêu bị chọc cười, vừa cười vừa cúi đầu ăn thịt, uống cháo. Ông chẳng chê cháo cháy gì, ăn sạch bách, còn khen: “Thịt làm ngon đấy. Nếu có thêm ít rượu Bách Diệp uống kèm thì tuyệt!

“Dừng! Sau này ngài không được uống rượu nữa, một giọt cũng không!” - Diêu Như Ý vừa nghe đến rượu là sầm mặt.

Nàng từng nghĩ, Diêu gia gia bị đột quỵ không chỉ vì tức giận khi dạy học sinh mà còn do tuổi già, chế độ ăn uống sai cách. Bản thân nàng từng lăn lộn ở bệnh viện, gặp đủ loại ca bệnh, kiến thức y học phổ thông khá đầy đủ.

Trước đó Trình nương tử cũng nói, hai ông cháu nhà họ Diêu không biết nấu nướng, toàn ăn ngoài ở quán nhà họ Thẩm. Suốt ngày ăn như vậy tăng cả chục ký! Nhìn vậy mà hại đủ thứ: nước lèo tuy nhìn trong nhưng lại là nước ninh xương béo ngậy, làm tăng axit uric trong máu. Chưa kể thịt nướng, cá nướng giàu chất béo. Giờ lại nói ăn thịt uống rượu? Rõ là ngày thường cũng hay uống với đồ nhắm.

Chế độ ăn thì toàn muối, béo, ngọt quá đà, uống rượu, ăn thực phẩm purin cao, ít chất xơ… tính khí lại nóng nảy. Mỗi khi tức giận là huyết áp tăng, tim đập nhanh, áp lực máu lên não cao, mạch máu não mất kiểm soát… không đột quỵ thì ai đột quỵ?

Diêu Khải Chiêu lại ngang ngược, lý sự cùn: “Không cho ta uống rượu? Giờ không uống thì khi nào uống? Lẽ nào mang vào mộ mới uống?”

Nghe cũng có lý đấy… nhưng Diêu Như Ý chẳng biết giải thích kiểu Đông y, chỉ cứng rắn: “Dù sao cũng không được uống! Ngài mà muốn sống lâu thì cấm uống!”

Diêu Khải Chiêu trợn mắt, nàng cũng chống nạnh trợn mắt đáp trả.

Nguyên chủ và Diêu gia gia chỉ có đôi mắt là giống nhau, to tròn long lanh, hai người trừng nhau như hai con gà chọi, cuối cùng Diêu Khải Chiêu nhức mắt trước, tức tối quay đầu ăn cháo.

Nàng xem như ông đã ngầm đồng ý rồi, liền bê một đĩa thịt lên: “Gia gia ăn từ từ nhé, con mang đĩa này sang nhà Trình nương tử. Nhờ chị ấy hôm trước động viên con, con mới đủ dũng khí đi mua trứng, cũng nhờ vậy mà mới vực dậy tinh thần nhanh thế.”

Diêu Khải Chiêu mặt dính hạt cơm, mơ màng hỏi: “Trình nương tử là ai?”

Mới quay đầu cái đã quên mất lý do cãi nhau, thế là hết giận.

“Là hàng xóm trong hẻm, làm nghề may vá đó ạ.”

Diêu Khải Chiêu cố giữ tay không run, tay kia bốc ăn luôn hạt dính trên mặt, nghĩ mãi không ra: “Không nhớ nổi.”

Diêu Như Ý biết trước là thế nên không nói thêm, không đi là thịt nguội mất.

Nàng dặn ông ăn cơm tử tế, đừng đi linh tinh, rồi bưng đĩa thịt, đá nhẹ cho cửa khép lại, nhanh chân đi sang nhà họ Trình.

Vừa ra cửa, liền thấy nhà họ Du hàng xóm đang mở cửa. Phu thê nhà họ Du cũng ngồi trong sân ăn cháo. Thấy nàng bước ra, Du thẩm tử thân hình tròn trịa và Du thúc trên đầu có con chim đang đậu cùng quay đầu nhìn sang.

Ngay cả chim cũng quay đầu, đôi mắt như hạt đậu đen chằm chằm nhìn đĩa thịt trên tay nàng.

Diêu Như Ý giật thót, lục tìm trong trí nhớ xem nhà bên là ai, rồi khẽ khàng hành lễ: “Chào Du thẩm tử, Du thúc ạ.”

Nói xong vội vã đi luôn.

Nàng vừa khuất bóng, Du Thủ Chính không nhịn được ngẩng mũi hít hít: “Thật là nhà họ Diêu có thể nấu ra mùi thơm thế này sao? Thật lạ ghê!”

“Trước từng ăn ở nhà họ Thẩm rồi mà? Món này cũng không khó.” - Du thẩm tử tuy nói vậy nhưng cũng len lén nuốt nước miếng, lại thì thầm với chồng: “Trình nương tử còn khen trứng trà của nàng ta đấy! Có khi nàng ta chỉ không thích nói chuyện thôi, chứ học nấu được mấy món cũng đâu có gì lạ.”

“Cũng đúng…” - Du Thủ Chính vô thức húp miếng cháo, bỗng thấy vô vị cực kỳ. Kỳ lạ, ngày thường cháo vợ nấu cũng chẳng ngon mấy nhưng vẫn ăn được, hôm nay sao lại khó nuốt đến thế?

Du thẩm tử cũng chẳng còn hứng ăn, bỏ bát xuống, trong đầu hiện lên lời Trình nương tử, bắt đầu thấy động lòng: Hay mai mình cũng mua vài quả trứng về thử xem?

Diêu Như Ý mang thịt sang nhà Trình nương tử, vừa để cảm ơn, chủ yếu là muốn hỏi thăm xem có thợ gốm hay thợ mộc nào tay nghề giỏi mà giá cả phải chăng hay không. Trong truyện, nàng nhớ có một ông thợ mộc tên Dương lão hán từng hợp tác với nữ chính, tay nghề rất khá mà giá lại rẻ, nhưng hai hôm trước khi đi qua cầu Kim Lương mua trứng, nàng đã thấy tiệm “Dương Ký Mộc Khí” đã có tới ba gian cửa hàng lớn, chắc tiền công giờ đã tăng nhiều rồi.

Vậy nên tốt nhất là tìm tiệm khác.

Ngoài việc muốn đặt đóng quầy bán hàng, nàng còn muốn tìm thợ gốm làm một cái bếp đôi bằng đất nung. Nàng dự định làm kiểu bếp cao hình trụ như bếp than thời hiện đại, có chân đế bên trên đặt chảo đất nung có thể thay ra thay vào. Đồng thời, làm thêm mấy loại khuôn như: khuôn nướng xúc xích có rãnh dài, khuôn bánh trứng tròn, khuôn áp chảo bánh lạnh kiểu Đông Bắc và nồi chín ngăn vuông.

Trước kia, mỗi khi bà ngoại ra ngoài nhập hàng, nàng đều một mình trông tiệm, bán mấy món như xúc xích nướng, oden (lẩu xiên), bánh trứng, mì lạnh nướng là chuyện thường ngày.

Nàng nướng ngon lắm luôn.

Mà xúc xích của tiệm nhà nàng, không phải loại mua ngoài, mà do chính tay bà ngoại làm. Hồi đầu bà cũng từng nhập sỉ, nhưng bị lừa một vố xúc xích của xưởng đen ăn vào bị đau bụng, nàng phải nhập viện truyền nước ba ngày. May mà chưa kịp bán ra, nhưng cũng lỗ to một mẻ.

Từ đó, bà ngoại quyết định tự làm hết.

Cũng nhờ vậy mà tiệm nhỏ nhà nàng dần dần nổi tiếng, thậm chí còn có người ở ngoài trường tìm cách vào để mua.

Xúc xích nhà nàng dùng thịt gà thật. Không cần vỏ ruột động vật, chỉ cần xay ức gà nhuyễn, trộn vào hồ bột năng quánh đều, thêm tỏi bột, nhục đậu khấu, đường, muối, xì dầu,… đánh tiếp một lượt là thành hỗn hợp xúc xích.

Gia vị quyết định mùi thơm đặc trưng của xúc xích là nhục đậu khấu, chỉ cần có thứ này là sẽ có hương vị quen thuộc của xúc xích, thịt nguội hay pate. Nhưng tiếc là nhục đậu khấu vốn xuất xứ từ Indonesia, đến thời Đường Tống đã du nhập theo đường biển, song nó quý như vàng, ngang hàng với tiêu, nàng không đủ tiền mua.

Thế nên nàng định dùng quế địa phương để thay thế. Mùi quế sẽ nồng và hăng hơn, nhưng cũng đậm đà không kém. Tuy không thể hoàn toàn sao chép hương vị nhục đậu khấu, nhưng mùi thì khá giống.

Còn về hình dáng xúc xích, chỉ cần điều chỉnh tỉ lệ thịt và tinh bột là ổn. Đổ hỗn hợp thịt bột sệt sệt vào khuôn, lấy que tre xiên vào phần xúc xích đang vừa chín tới, lật mặt, nướng vàng đều, phết sốt gia truyền lên, hương thơm lan cả nửa con phố…

Chưa kể làm cực kỳ nhanh, khuôn 7 ô có thể làm được 7 cây cùng lúc, cách làm lại đơn giản.

Thế nên lò và khuôn là rất quan trọng.

Đoạn đường ngắn sang nhà Trình nương tử, đầu óc Diêu Như Ý đã nghĩ đủ thứ. Khi đến trước cửa nhà, tay ôm đĩa thịt ba chỉ chiên giòn nóng hổi, tâm ý cũng đã định sẵn. Nàng hắng giọng, giơ tay gõ vào khoen cửa.

Còn đang nghĩ trong đầu nên mở lời thế nào, bỗng bên trong có tiếng guốc kéo lết lộp cộp, rồi giọng một thiếu niên lạnh lạnh cất lên:

“Lâm Đại, sao giờ ngươi mới đến…”

Giọng nói đột ngột dừng lại.

Nàng ngẩn ra, đối phương cũng sững sờ.

Từ khe cửa hé ra nửa gương thiếu niên mặt trắng trẻo, dáng người cao ráo, tóc còn ướt, chắc vừa mới tắm xong. Những giọt nước từ đuôi tóc nhỏ xuống, men theo xương quai xanh trượt vào cổ áo. Trên người hắn chỉ mặc trung y bằng vải thô màu nhạt, bên ngoài khoác áo dài xanh chàm buộc lỏng, dây áo buông lệch bên hông. Tà áo phất phơ, phía dưới là đôi chân trần mang guốc gỗ.

Thiếu niên vừa thấy là Diêu Như Ý, mặt lập tức đỏ bừng, vội “Rầm!” một tiếng đóng sập cửa lại.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 16: Bánh đường đỏ


<i>Quan trọng nhất vẫn là kiếm thật nhiều tiền! Diêu Như Ý nghiêm túc gật đầu thật mạnh trong lòng.</i>

Khung cửa bị đập rung rung lên, khiến Diêu Như Ý đang bưng đĩa cũng giật mình run tay một cái.

Nàng nhận ra người này, hôm trước hắn và hai người bạn học đã mua sáu quả trứng trà còn lại của nàng, cũng chính là người đầu tiên cúi người giúp nàng dời bếp lò.

Không ngờ lại là con trai của Trình nương tử.

Diêu Như Ý vẫn còn kinh ngạc nghĩ: Trình nương tử trông trẻ như vậy, mà đã có một đứa con trai lớn như thế rồi!

Quả nhiên người xưa kết hôn rất sớm.

Một lúc sau, cửa cuối cùng cũng mở ra. Trình nương tử thắt chiếc tạp dề vải xanh, hai tay còn dính đầy bột mì, hiển nhiên vừa từ bếp vội chạy ra mở cửa:
“Là Như Ý đấy à! Vừa rồi là con trai ta, A Quân. Hắn tưởng là tiểu tử nhà đối diện sang tìm hắn học bài đấy! Quần áo chưa chỉnh tề, làm muội sợ rồi phải không?”

“Không có! Không sao đâu, muội không thấy gì hết.” - Diêu Như Ý vội vàng xua tay. Chẳng phải chỉ là vừa tắm xong chưa sấy tóc, chân đi dép lê sao? Có gì mà sợ!

Diêu Như Ý không có chút kiến thức lịch sử nào, chẳng hề để tâm, lập tức giơ đĩa lên, đi thẳng vào vấn đề:
“Tẩu tẩu, ta vừa chiên chút thịt, mang đến cho tẩu nếm thử, tiện thể muốn hỏi, quanh đây có chỗ nào làm gốm và đồ gỗ tay nghề tốt, giá cả phải chăng không? Ta muốn đặt làm hai cái bếp lò và một số tủ kệ.”

“Ôi chao, món thịt chiên này thơm quá! Mới có hai hôm mà tay nghề của muội đã lên vùn vụt! Muội quả thật rất có quyết tâm gánh vác việc gia đình, tẩu thật sự mừng thay cho muội.” - Trình nương tử cười đến nỗi khóe mắt nhăn lại, tay nhận lấy đĩa sứ vừa khen Như Ý, vừa nhanh chóng giúp nàng nghĩ cách:
“Muội nói gốm à, ta biết có lò gốm nhà họ Hàn ở ngoài cổng thành, hơi xa một chút nhưng giá rất rẻ. Còn thợ mộc… hiện giờ có tiệm mộc họ Dương rất có tiếng, hai đồ đệ của ông ấy cũng đã ra riêng mở tiệm ở ngoại thành. Ngoại thành còn có một người họ Chu làm đồ mộc cũng không tệ. Ngày mai đúng dịp mười lăm, bên ngoài thành có chợ lớn, nếu muội muốn đi, tẩu cũng định đi dạo chợ, ta cùng đi nhé?”

Đi chợ! Vừa hay có thể tìm nguồn hàng cho tiệm tạp hóa! Diêu Như Ý mừng rỡ:
“Cảm ơn tẩu nhiều lắm! Ta bây giờ vẫn hơi sợ ra ngoài một mình, có tẩu đi cùng ta thật sự rất vui!”

Thật ra là vì không biết đường.

Trình nương tử không để tâm, khoát tay:
“Ta cũng đang định mua thêm kim chỉ và dầu đèn. Hàng ở ngoại thành rẻ hơn nhiều. Nhớ nhé, mai muội mặc đồ dễ đi lại, mình đi xe đường dài, nếu mua nhiều thì bỏ ít tiền thuê người vác về, đỡ phải tự đẩy xe mệt.”

“Ta nhớ rồi, mai ta sẽ đến đúng giờ.” - Diêu Như Ý cảm ơn rối rít rồi cáo từ, mới vừa quay người đã bị Trình nương tử kéo lại:
“Khoan đã, ta cũng vừa làm ít bánh đường đỏ, để ta cắt cho muội một ít mang về. Muội đừng đi đâu, đứng đây chờ ta nhé.”

Sao có thể đến biếu quà mà còn mang quà về? Diêu Như Ý vội vàng từ chối. Trình nương tử bèn nghiêm mặt, bảo nếu còn từ chối nữa thì giận thật, sau này đừng qua lại gì nữa.

Diêu Như Ý chỉ có thể bất đắc dĩ đứng chờ trước cửa.

Trong lúc đợi, suy nghĩ của nàng lại không tự chủ mà xoay quanh chuyện nhập hàng:
Ở hiện đại, hàng trong tiệm tạp hóa đại khái chia thành các loại như thực phẩm, đồ uống, đồ học tập, và đồ dùng hằng ngày. Hàng hóa đa dạng, phải có nhiều nhà phân phối, nhà cung cấp và nhà sản xuất để kết nối.

Trước đây bà ngoại có rất nhiều số điện thoại của các nhà phân phối, ghi kín cả một quyển sổ. Bà thường gọi điện đặt hàng trước, chỗ xa thì người ta gửi hàng qua đường bưu điện, chỗ gần thì xe tải mang đến tận nhà.

Ngày xưa, cứ cách vài ba hôm bà lại đạp xe ba bánh đi hơn mười cây số ra bến xe lấy hàng, vì cả thị trấn chỉ có một điểm nhận chuyển phát hàng, đặt tại bến xe.

Đến thời Tống, chuyện nguồn hàng, Diêu Như Ý cũng đã suy nghĩ rất nhiều.

Thời này không có nhiều nguồn nhập hàng như đời sau, không có hệ thống vận chuyển toàn quốc, càng không có chợ đầu mối như Nghĩa Ô. Nhưng may là Biện Kinh là kinh đô, thương nhân các nơi đều đổ về đây, vận chuyển đường thủy thuận tiện, dân cư đông đúc, các loại xưởng thợ cũng đầy đủ.

Nàng vốn đã có kế hoạch định kỳ đi các khu chợ lớn ở Biện Kinh để “săn hàng”. Ngoài chợ cỏ mà Trình nương tử nhắc đến, chùa Hưng Quốc và chùa Tướng Quốc mỗi tháng cũng tổ chức buổi chợ “vạn họ giao dịch”, khi đó sẽ có nhiều tiểu thương, nông dân mang hàng hóa của nhà họ đến bán, hẳn có thể làm quen với nhiều nhà bán buôn nhỏ.

Một cách khác là hợp tác trực tiếp với các xưởng. Ví dụ, xưởng gốm có thể đặt làm các loại hũ, bát bằng đất, còn lò rèn thì đặt dao, nồi… Sau này hợp tác lâu dài, có khi còn khắc được cả thương hiệu của mình lên sản phẩm.

Cách cuối cùng là những đoàn thương nhân lớn chuyên buôn bán liên tỉnh. Họ thường mang theo đủ loại hàng hóa, đi khắp nơi hoặc đến các đại lý buôn bán. Nếu có cơ hội, hợp tác với họ để mua hàng độc đáo, hàng từ vùng khác cũng có thể làm phong phú thêm sản phẩm của mình. Nhưng dạng thương gia lớn thế này thường cần có người quen giới thiệu mới tiếp xúc được, không thể vội.

Diêu Như Ý cũng từng nghĩ: Sau này nếu tiệm tạp hóa ổn định, các tẩu tử trong hẻm có gì muốn bán, như khăn tay thêu, tất, hoặc đồ ăn tự làm, nàng cũng có thể giúp bán ký gửi. Nhưng chuyện đó là chỉ là dệt hoa trên gấm, giờ chưa cần nghĩ tới.

Trăm mối lo, nói đi nói lại vẫn là thiếu tiền.

Không có vốn, không xoay vòng được, thì cũng không nhập được hàng.

Vẫn là phải kiếm thật nhiều tiền! Diêu Như Ý nghiêm túc gật đầu thật mạnh trong lòng.

Đang trầm ngâm suy nghĩ, Trình nương tử đã quay lại, đưa cho nàng một gói bánh đường đỏ to được bọc bằng giấy dầu. Tẩu xoa đầu nàng như mẹ vỗ về con gái, dịu dàng dặn dò:
“Cầm lấy! Tẩu cũng từng một mình chống chọi qua ngày, nên hiểu rất rõ… Gần đây chắc muội mệt lắm rồi phải không? Bánh này để nơi mát có thể để được vài ngày, mỗi ngày cắt một miếng chiên lên ăn cũng được, hoặc ăn như đồ điểm tâm cũng được, giúp bổ máu và tăng sức khỏe.”

Bàn tay ấm áp ấy làm Diêu Như Ý khựng lại, ôm bánh đường đỏ còn vương hơi ấm vào lòng, trái tim cũng bỗng trở nên vừa chua xót vừa nóng ran. Nàng cúi đầu khẽ “vâng” một tiếng.

Trên đường về, nàng bẻ một miếng bánh trong lòng ăn thử.

Bánh vừa hấp xong không lâu, còn nóng hổi, dẻo mềm. Cắn vào một miếng, đầu tiên là cảm giác dẻo dẻo dính răng, rồi sau đó là lạc rang và lát táo đỏ giòn thơm. Vị ngọt cháy của đường đỏ hòa với vị ngọt mềm của táo đỏ, hương thơm ngào ngạt dường như chỉ cuộn một vòng trên đầu lưỡi liền tan ra, như nuốt vào một ngụm hoàng hôn ấm áp, khiến người ta thấy ấm lòng.

Nàng ngẩng đầu lên.

Ánh chiều tà rải khắp con đường, con ngõ quanh co kéo dài trong ánh nắng cuối ngày tựa như một dòng sông bất động.

Kiếp trước, mẹ nàng mất quá sớm, nàng chẳng có chút ký ức nào về mẹ, chỉ từng thấy ảnh bà, nghe bà ngoại kể rất nhiều chuyện, nhưng qua thời gian dài dằng dặc, tất cả chỉ giống như nghe kể về một người xa lạ.

Có mẹ… sẽ là cảm giác như thế này sao? Cũng sẽ như vậy, nhìn một cái là nhận ra nỗi vất vả nàng giấu trong lòng, xoa đầu nàng, nghĩ đủ cách cho nàng thật nhiều đồ ăn ngon?

Có mẹ… thật là tốt.

Bóng dáng Diêu Như Ý kéo dài trong ráng chiều, vài vạt nắng đậu lên váy nàng tựa như chỉ thêu trên váy.

Lâm Duy Minh kẹp bài tập ngày mai phải nộp dưới nách, lén đi từ cửa sau vào nhà họ Trình. Hắn cúi đầu đi qua mảnh sân phơi đầy quần áo đủ màu, quen cửa quen nẻo đến căn phòng nhỏ nơi Trình Thư Quân học bài.

Vừa bước vào, thấy gã mọt sách ngày thường đọc sách cả lúc ngồi nhà vệ sinh, giờ thì ngồi nghiêng đầu, tay cầm bút, trước mặt trải giấy, nhưng mắt lại nhìn ra ngoài cửa sổ, ngẩn người xuất thần.

“Nhìn cái gì vậy?”

Nhà họ Trình dù được ban thưởng cho căn nhà này, nhưng diện tích cũng không rộng. Phía trước là tiệm may, sau chỉ có ba phòng. Trình Thư Quân bình thường học trong căn phòng nhỏ nơi nương hắn quay sợi dệt vải. Cửa sổ tre hướng ra hẻm nhỏ, bên ngoài có tiếng động gì cũng nghe rõ, khá ồn.

Cũng may là hắn vẫn học được.

Trình Thư Quân bị Lâm Duy Minh hét một tiếng giật mình, vai run lên, quay đầu lại tức giận trừng mắt:
“Lề mề, sao giờ mới tới?” - Làm hắn vừa nãy mất mặt quá.

Lâm Duy Minh chẳng hiểu gì: “Ta cũng phải ăn cơm xong mới tới chứ, sao thế?”

“Mau viết đi, mai cẩn thận bị thầy Chu bắt lên đọc bài.”

“Chu bánh lơn phiền chết đi được!” - Lâm Duy Minh lập tức quên luôn chuyện huynh đệ mình vừa mới hơi là lạ, ngồi phịch xuống, trải giấy ra, nhưng đầu óc vẫn mù mịt, lại bắt đầu vò đầu bứt tai.

Sáng hôm sau, Diêu Như Ý chỉ kho năm mươi quả trứng trà, bán kèm ba mươi phần mì ăn liền, nghe chuông sáng vừa vang là dọn hàng sớm.

Nàng về nhà múc một bát cháo kê rau dại, rồi vội chạy đến cửa hông nhà họ Lâm để cho cún ăn.

Lần này nàng cố ý nhẹ tay nhẹ chân đẩy chốt cửa. Quả nhiên, thấy mấy nhóc cún con đang chơi gần lỗ chó, những quả bóng lông tròn mũm mĩm, chạy nhảy đuổi bắt châu chấu trong cỏ.

Nàng len lén thò nửa người vào, liền dọa tụi nhóc chạy tán loạn chui vào lỗ. Bé mèo nhỏ người nhất chạy trước, bé cún lông vàng và cún đen cuống quýt kêu gâu gâu, lăn lộn chen nhau qua lỗ, bị kẹt cả hai cái mông mập lì.

Nàng vừa buồn cười vừa xót ruột, nhưng hôm nay không rảnh. Đổ cháo vào đĩa rồi vội vàng rời đi.

Về nhà, nàng thay bộ áo ngắn tay hẹp vạt đối, quần váy vải thô màu xanh, lại nhanh chóng nướng một cái bánh nướng vừng to đường kính hơn mười tấc, lấy dây cỏ buộc lại bằng giấy dầu, để ông nội ôm, rồi đẩy xe lăn phóng như bay qua cầu Châu, đưa ông đến y quán nhà Triệu đại phu châm cứu.

Hôm đi chợ đúng hôm gia gia phải đi châm cứu, xông ngải, xoa bóp và ngâm thuốc. Lang trung nói phương pháp điều trị này phối hợp với thuốc uống mỗi ngày có thể từ từ thông kinh hoạt lạc, tiêu ứ sau tai biến.

Diêu Như Ý rất tán thành, tiền thuốc không thể tiết kiệm. Dù là theo Tây y hiện đại, sau đột quỵ nhẹ cũng phải dùng thuốc tan máu đông như Alteplase hoặc Urokinase.

Còn Đông y thì quan trọng ở chỗ kiên trì, tốn thời gian dài, mỗi lần đi ít nhất nửa ngày. Hôm nay tiện thể đưa ông đi, y quán có người chăm, nàng cũng yên tâm đi chợ.

Hẹn thời gian đón ông với tiểu đồng trong y quán xong, dặn gia gia phối hợp điều trị tốt, Diêu Như Ý lại vội vàng quay lại đầu hẻm, chờ đi chợ cùng Trình nương tử.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 17: Các vị thẩm nương


<i>“Nương ơi, con cũng muốn ăn.”</i>

Diêu Như Ý tựa vào bức tường gạch xám ở đầu ngõ, khoác trên vai chiếc túi vải vụn nhuộm xanh tự may, đang thẫn thờ suy nghĩ.

Chiếc túi ấy rất đơn giản, chỉ có một quai đeo và dây rút miệng. Kỹ thuật thêu thùa của nguyên chủ thì rất tốt, nhưng Diêu Như Ý chỉ tiếp nhận được ký ức một cách mơ hồ, chứ đừng nói tới mấy kỹ năng tinh xảo ấy, giờ nàng chỉ có thể dựa vào chút ký ức cơ bắp còn sót lại trên thân thể này mà xoay xở.

Tuy vậy, bản thân nàng cũng biết khâu vá. Không đi học thì những kỹ năng sinh tồn như khâu vá, đan móc đều là cơ bản. Nàng còn từng học đan móc len để làm túi nữa cơ. Nhớ hồi đó là học từ bác trai người Hà Nam trong phòng bệnh, về sau đan đến mức nghiện luôn.

Vậy nên khâu một cái túi vải đựng đồ mang theo bên người với nàng thì dễ như trở bàn tay.

Vì hôm nay ra ngoài, nàng đã bỏ sẵn vào túi bốn, năm quả trứng trà và mấy miếng bánh đường đỏ, dự định mang theo để cùng Trình nương tử ăn dọc đường cho đỡ đói. Lúc này, nàng đang cúi đầu đếm lại, sợ lấy thiếu.

Đúng lúc nàng cúi đầu, phía sau vang lên một tràng cười sang sảng, đậm chất mấy “bà thím” trung niên, to gan không ngại ai cả.

“Khà khà khà,” “hơ hơ hơ,” “khặc khặc khặc,” “hí hí hí.”

Mấy tiếng cười còn khá phong phú.

Thì ra nhiều người cùng đi thế… Diêu Như Ý ngoảnh đầu lại nhìn.

Trình nương tử khoác tay Du thẩm tử, tay kia dắt một bé gái cột tóc hai bên, bé gái ấy lại nắm tay một bé gái mũm mĩm khác. Phía sau còn hai nữ tử nữa, đi thành hàng dài, rộn ràng kéo nhau về phía nàng.

Dư thẩm tử đi đầu đến trước mặt nàng, đánh giá nàng từ trên xuống dưới.

Diêu Như Ý không quên vai diễn của mình, vội vàng cúi đầu ngượng ngùng, thiếu điều lấy khăn tay ra vặn cho đủ bộ.

“Cúi cái gì mà cúi? Ngẩng đầu ưỡn ngực lên!” - Nàng vừa cúi đầu, Du thẩm tử đã không ưa, vươn bàn tay to như chảo vỗ mạnh lên lưng nàng một cái: “Đúng rồi! Đấy! Cô nương ngươi lớn lên xinh xắn thế này, cúi đầu suốt làm gì? Dưới đất có bạc cho mà cúi xuống nhặt hay sao? Mà nay sao không mở quầy bán trứng trà vậy? Ta còn định mua mấy quả ăn thử cơ!”

Diêu Như Ý cố gắng ưỡn lưng, nghe vậy theo bản năng lấy hai quả trứng còn ấm ra, tiếp tục giữ phong thái dịu dàng: “Hôm nay phải ra ngoài nên không chuẩn bị nhiều, ta vẫn còn đây, thẩm muốn ăn không ạ?”

“Ăn chứ, cho ta một quả.” - Du thẩm tử chẳng khách sáo chút nào.

Diêu Như Ý bắt đầu chia trứng, trước tiên đưa Trình nương tử một quả, rồi liếc thấy hai bé gái nắm tay nhau, nàng cúi xuống hỏi: “Các muội có muốn ăn không?”

Cô bé trắng trẻo mũm mĩm liền giơ tay nhận lấy, nở nụ cười rạng rỡ, líu lô cảm ơn: “Cảm ơn Như Ý tỷ tỷ.” Rồi còn lục trong túi áo nhỏ hoa văn của mình ra một viên kẹo mạch nha, dúi vào tay Như Ý: “Đại bá mới mua cho muội đấy, tỷ cũng ăn đi.”

Diêu Như Ý cũng nở nụ cười dịu dàng, không khách sáo, vui vẻ nhận món quà nhỏ: “Cũng cảm ơn muội nhé.”

Bé gái còn lại thì gầy gò, ngước mặt nhìn nàng một lúc, vẻ mặt đầy do dự, định đưa tay ra nhận, thì người phụ nữ trung niên gầy giống bé đã giơ tay ngăn lại: “Cảm ơn Như Ý nhé, nhưng con bé này dạ dày yếu, lại kén ăn, ăn một miếng rồi bỏ phí thì uổng lắm. Nó không thích ăn đồ ngoài đâu.”

Trình nương tử liền tranh thủ giới thiệu cho Diêu Như Ý: “Muội ít ra ngoài, lại không giao tiếp nhiều với chúng ta, chắc còn lạ lắm nhỉ? Bé tặng kẹo là con gái nhà Lưu chủ bộ, tên là Tiểu Tùng, còn đây là nương bé, muội cứ gọi là Ngân Châu tẩu tử. Bé kia là Mạt Lị, còn đây là nương bé, em gọi là Vưu tẩu tử là được.”

“Vưu tẩu tử, vậy tỷ ăn đi ạ.” - Diêu Như Ý đứng thẳng dậy, chuyển quả trứng cho người phụ nữ kia.

Vưu tẩu tử còn đang do dự thì đã bị Trình nương tử giật lấy nhét vào tay: “Cầm đi, trong cái ngõ này chỉ có tỷ là kỹ tính quá mức! Như Ý có lòng tốt, tỷ nể mặt ăn thử xem nào! Món trứng này muội ấy làm ngon thật đấy, tỷ nhìn vỏ là biết, trước khi cho vào nồi còn được chà sạch, đâu như trứng luộc ngoài chợ, vỏ còn dính cả phân gà.”

“Vậy ta ăn thử xem.” – Vưu tẩu tử đành cười ngượng ngùng. Thật ra tẩu vốn kỹ tính, thích sạch sẽ, nhà có ai ghé qua là sau khi khách đi phải rửa sạch bàn ghế chén đũa, thậm chí quét lại cả sàn, nên luôn thấy đồ ngoài không sạch.

Nhưng Như Ý là người cùng ngõ, lại không tiện thể hiện sự nghi ngờ hay khinh ghét ra mặt, nên tẩu đành miễn cưỡng nhận lấy. Ban đầu tẩu định cầm cho có, nhưng vì mọi người đang trên đường ra phố Mã Hành bắt xe, vừa đi vừa nói chuyện, nên Du thẩm tử, Trình nương tử và Tiểu Tùng đều không nhịn được mà bóc trứng ăn luôn.

Trứng trà mà Như Ý mang theo đều là trứng nàng cố tình để lại trong nồi từ sáng, lau khô vỏ rồi gói bằng khăn tay để vào túi nhỏ, nên vẫn còn âm ấm. Giờ tay nghề làm trứng trà của nàng cũng ngày càng thuần thục. Nước ướp đã dùng được vài lần, nên càng thêm đậm đà thơm ngát. Mẻ trứng hôm nay, cả vỏ cũng thơm, vỏ nứt mà không bể, vừa bóc ra, hương thơm dậy lên ngào ngạt, từng tia từng tia len thẳng vào mũi người.

Du thẩm tử cắn một nửa quả, phần lòng đào óng ánh lập tức lộ ra. Bà vốn tính cách ồn ào, giờ càng la to làm cả nửa con hẻm đều nghe thấy: “Ối giời ơi, còn lòng đào nữa này! Trứng trà mà làm lòng đào ngon thì đâu phải dễ? Ướp chưa đủ thì nhạt, mà ướp lâu thì trứng sẽ dai. Như Ý à, tay nghề ngươi giỏi thật đấy, không uổng công Trình nương tử khen ngợi.”

Ban đầu cứ tưởng Trình nương tử nói quá, ai ngờ ngon thật. Du thẩm tử liền nhét nốt nửa quả còn lại vào miệng, trứng đầy miệng mà vị ngon như lan tỏa khắp khoang miệng.

Tiểu Tùng thấy thế liền tăng tốc bóc trứng, mới bóc được một nửa đã cắn ngay một miếng, lòng đỏ óng ánh chảy qua kẽ ngón tay, bé vội cúi đầu l**m, mắt sáng rực lên, ngẩng mặt lên khen Như Ý: “Như Ý tỷ tỷ, trứng trà tỷ làm ngon quá trời luôn ạ! Ngon hơn cả nương muội làm nữa! Nương muội làm trứng trà cứ như luộc nước trắng, chán chết.”

Ngân Châu tẩu tử giả vờ nghiêm mặt trừng con: “Con nói gì thế hả?”

Tiểu Tùng lập tức ngoan ngoãn chạy lại ôm nương, ngọt ngào chữa cháy: “Đại cữu nói rồi, ai cũng có điểm mạnh riêng. Dù nương ướp trứng không ngon, nhưng nương làm món thịt cừu kho tàu là số một! Cả tiệm Phàm Lâu với tiệm Thẩm Ký cũng không bằng! Con thích món đó nhất luôn á!”

Mọi người nghe vậy không nhịn được cười, Ngân Châu tẩu tử cũng phì cười, đưa tay nhéo má mềm mịn của con gái: “Đúng là dẻo miệng! Mau ăn đi, lát nữa ra khỏi thành bụi bặm, lại ăn toàn cát cho coi.”

“Eo ơi, bẩn quá đi!” - Tiểu Tùng lập tức cúi đầu tập trung ăn trứng.

Diêu Như Ý cũng khẽ mỉm cười.

Vưu tẩu tử nhìn quả trứng chảy lòng trong tay mấy người kia, lòng cũng hơi dao động.

Trình nương tử ăn chậm rãi, ra vẻ đắc ý: “Tôi nói là ngon mà mấy người không tin.”

Vưu tẩu tử bị hương thơm xung quanh dụ dỗ đến ngứa ngáy trong lòng, cuối cùng không cưỡng lại nổi cũng bắt đầu bóc trứng. Vừa bóc xong, tay áo đã bị kéo nhẹ. Cúi đầu nhìn, con gái Mạt Lị xưa nay chẳng thích trứng trà lại ngẩng mặt lên, mắt sáng long lanh nhìn tẩu: “Nương ơi, con cũng muốn ăn.”

“Con cũng muốn ăn à?” - Bình thường dù có làm thịt rồng bé cũng chẳng đụng đũa cơ mà! Vưu tẩu tử ngạc nhiên bế con lên. Mạt Lị gầy gò, bế bằng một tay cũng không thấy nặng. Tẩu để con ngồi vào khuỷu tay, tay kia đưa trứng lên miệng con: “Thử một miếng xem, không thích ăn thì để nương ăn.”

Vưu tẩu tử vừa trông chờ, vừa hồi hộp nhìn con gái, thấy bé há miệng cắn một miếng.
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 18: Đi chợ phiên


<i> Như Ý lại định làm món gì nữa đây?</i>

Mới cắn một miếng chưa kịp nuốt, mùi thơm nồng của trứng trà đã khiến Mạt Lị siêu lòng. Bàn tay nhỏ lập tức giữ chặt lấy cổ tay của Vưu tẩu tử, không chịu buông, liền muốn ăn miếng thứ hai. Một quả trứng cũng không lớn lắm, chẳng mấy chốc, dưới ánh mắt sửng sốt của Vưu tẩu tử, Mạt Lị đã ăn sạch cả quả.

Phần lòng đỏ mà trước kia cứ phải móc ra trước mới chịu ăn, giờ cũng ăn hết sạch, chẳng chừa lại chút nào, ăn xong còn l**m môi, bộ dạng thèm thuồng chưa đã.

Trình nương tử còn đắc ý hơn cả Diêu Như Ý: “Nhìn xem, Mạt Lị ăn ngon thế kia! Mạt Lị, ngon không?”

Mạt Lị gật đầu lia lịa: “Ngon ạ! Mai con còn muốn ăn nữa!”

Tiểu Tùng cũng reo lên: “Con cũng thế!”

Vưu tẩu tử mừng rỡ ôm con gái lên, thơm một cái rồi rút khăn ra lau miệng cho bé, dịu dàng nói: “Được được, mai nương sẽ đến nhà Như Ý tỷ tỷ mua.”
Nói xong lại quay sang Như Ý:
“Như Ý này, phiền muội mai làm nhiều thêm chút, nhớ để phần cho ta nhé. Ta chăm con bé đi ngủ, mai không dậy sớm nổi. Một lát nữa về nhà ta sẽ mang tiền tới trước, nhớ để dành năm quả cho nhà ta.”

Du thẩm tử cũng nhanh miệng tiếp lời:
“Nhà ta lấy hai mươi quả. Nhị lang nhà ta làm ở Đại Lý Tự, dạo này bận một vụ án lớn, bận đến mức không ăn được cơm, có mấy quả trứng này ăn đỡ vài miếng, còn có thể chia cho đồng liêu.”
Còn về lão đầu nhà bà? Bà chưa từng nghĩ tới việc để phần cho ông. Dù sao cái ông trời đánh ấy có miếng ngon nào mà không giành cho chim của ông ta? Không xứng ăn đồ ngon! Ăn vỏ cây đi cho rồi!

Ngân Châu tẩu tử cũng góp lời: “Nhà ta cũng lấy hai mươi quả, ta còn muốn đem cho nhà cữu cữu nữa.”

Chỉ có Trình nương tử khoác tay Như Ý, cười nói: “Ta dậy sớm được, mai tự mình đến mua.”

Việc làm ăn tới rồi! Diêu Như Ý cong mắt cười, vui vẻ đồng ý.

Cả nhóm người lại vừa đi vừa cười nói, tiếp tục tiến về phố Mã Hành, ánh nắng mùa thu rọi xuống khiến ai nấy đều thấy ấm áp dễ chịu.

Họ trả tiền rồi bước lên “xe buýt liên tỉnh phiên bản Tống triều”. Đó là loại xe dài mui trần do sáu con ngựa kéo, một chiếc xe có thể chở hơn mười người, ba văn một chỗ. Mọi người vừa ngồi vào chỗ lại tiếp tục trò chuyện.

Du thẩm tử giống hệt đài phát thanh trong hẻm, lời nói nhiều không dứt, suốt dọc đường thao thao bất tuyệt.

Trước tiên là kể về một vị tiến sĩ họ Chu ở Quốc Tử Giám, rất thích chiếm tiện nghi, keo kiệt vô cùng, hay tới nhà học sinh tố cáo rồi tiện thể nhận lấy chút lễ vật đền bù, cả ngày sống bằng mấy món thịt cá lừa được, không cần tiêu đồng nào. Du thẩm tử cười khẩy:
“Bảo sao giờ tuổi này vẫn chưa lấy được vợ, ai mà chịu gả cho loại người này?”

Lại kể chuyện nhà họ Mạnh, cha ngày ngày đánh con, nương là Quan thị thì ngày ngày đánh lại chồng, cả nhà gà bay chó sủa, náo nhiệt lắm. Sau cùng còn nói đến nhà họ Lâm. Như Ý cứ tưởng là nhà họ Lâm bên vách nhà mình, ai ngờ trong hẻm còn có một nhà Lâm khác, đối diện với tiệm may nhà họ Trình, là nhà của Lâm ty tào đang làm ở phủ Khai Phong.

Du thẩm tử kể về vợ của Lâm ty tào - Anh thị, bà ta đã sinh năm đứa con trai, giờ hơn bốn mươi rồi mà lại đang mang thai đứa thứ sáu. Lâm ty tào cuống đến mức đi cầu thần bái Phật khắp nơi, vừa cầu cho vợ sinh nở bình an, vừa hy vọng lần này có thể sinh được một nữ nhi. Nhưng Du thẩm tử chắc như đinh đóng cột:
“Tôi nhìn cái bụng bà ta nhọn hoắt, từ lúc có bầu thì mũi to hẳn ra, mặt nổi đầy mụn, sợ rằng lại là con trai nữa cho coi! Tôi nói cho tỷ muội biết, nữ nhi mới là bảo bối, mang thai nữ nhi thì da mặt trơn láng như trứng gà bóc vậy.”

Vưu tẩu tử che miệng cười khẽ bằng khăn tay:
“Nếu lần này thật sự sinh ra Lâm lục lang, không khéo Lâm ty tào lại ngất tại chỗ?”

Năm xưa khi sinh Lâm ngũ lang, Lâm ty tào căng thẳng đến mức đi đi lại lại ngoài phòng sinh như con lừa kéo cối. Bà đỡ hớn hở bế đứa trẻ béo tròn ra báo tin mừng: “Chúc mừng đại nhân, nương con đều bình an!” - Ông ta mặt tái mét, cố cứng rắn bước tới vén khăn tã, quả nhiên lại là con trai!

Tức thì “gá” một tiếng, hai mắt trắng dã ngất xỉu luôn.

Nghe đến đây, Diêu Như Ý cũng không nhịn được mà bật cười.

Tuy thời cổ cũng có tư tưởng nhiều con nhiều phúc, nhưng cũng phải xét hoàn cảnh. Nhà họ Lâm chỉ có mấy phòng nhỏ, cả nhà chỉ dựa vào bổng lộc của một viên quan thất phẩm như Lâm ty tào mà sống, năm đứa con trai hồi nhỏ thì nghịch như khỉ, lớn rồi vẫn hay gây chuyện, không đứa nào ra dáng người lớn, năm đứa suốt ngày nhảy nhót không ngừng, Lâm ty tào thật sự chịu không nổi. Nhìn sang nhà người khác con gái mềm mại, ngoan ngoãn, ông thèm đến rơi nước mắt.

Ban đầu hai vợ chồng cũng định không sinh thêm con nữa, tuổi tác cũng không còn nhỏ, ai ngờ Anh thị lại dính bầu lần nữa.

Xe lắc lư đi ra khỏi thành, Diêu Như Ý kẹp giữa các thẩm tử tẩu tử, nghe chuyện mà say mê, chỉ tiếc không có hạt dưa để nhâm nhi, lâu lâu lại bị lời nói tếu táo của Du thẩm tử chọc cười không thôi.

Lúc này, ánh nắng mùa thu tuy có chút chói chang nhưng lại khiến người ta cảm thấy như đang đi dã ngoại mùa thu.

Dẫu sao dã ngoại là một hoạt động tập thể mà nhiều năm qua nàng chỉ có thể đứng nhìn, không thể tham gia. Trước kia nàng thường ngồi sau quầy hàng nhỏ, nhìn học sinh trong trường tổ chức dã ngoại mùa thu, giơ cờ đỏ, mặc đồng phục lớp, xếp thành hàng dài đi ngang qua mặt, khiến nàng vừa hâm mộ vừa buồn tủi.

Mặt trời dần lên cao, âm thanh náo nhiệt từ khu chợ vọng đến, họ cuối cùng cũng đã đến chợ phiên lớn.

Ra khỏi cổng thành đi về phía nam vài dặm, hai bên đường đã dựng đầy các sạp tre lợp vải bạt.

Âm thanh ồn ào như sóng trào.

Người bán bánh hấp mở vung hấp, hơi trắng bốc lên ngùn ngụt, mang theo mùi thơm dầu mỡ tỏa khắp đám đông. Người bán thịt nướng đẩy xe, tìm chỗ trống dừng lại, lấy xẻng sắt cạo “xoèn xoẹt” trên chảo gang, miệng rao:
“Thịt cừu nướng nóng hổi đây——”
Còn các phu khuân vác và kẻ nhàn rỗi thì ngồi xổm dưới chân tường, cầm bát sứ thô húp xì xụp canh lục phủ ngũ tạng dê, vừa ăn vừa ngó nghiêng người qua lại, chờ có việc làm.

Vừa bước vào khu chợ, người chen người, đông như kiến, mùi gì cũng có. Trình nương tử và Du thẩm tử vội kẹp Như Ý vào giữa, tay nắm chặt lấy cánh tay nàng, sợ nàng bị lạc.

Vưu tẩu tử và Ngân Châu đã ôm chặt hai đứa bé trong lòng, người lớn thì lo lắng, trẻ con thì phấn khích không thôi. Mạt Lị vươn cánh tay nhỏ bé muốn với lấy búp bê đất tô màu treo trên gánh hàng rong, suýt nữa vùng ra khỏi vòng tay mẹ:
“Nương ơi, con muốn cái đó, con muốn!”

Tiểu Tùng thì lén liếc nương một cái, thấy nương ôm mình mệt lắm rồi nên không dám mè nheo, chỉ kéo tay áo nương nhẹ nhàng:
“Nương ơi, con cũng muốn một cái…”

Trình nương tử nói:
“Các người cứ đưa con đi mua trước, ta với Như Ý đi tới lò gốm nhà họ Hàn một chuyến, còn phải mua kim chỉ nữa.”

Du thẩm tử thì đã nhắm trúng một ông lão bán hoành thánh chim cút, nói:
“Ta không đi dính bụi ở cái đống tro ấy đâu, cứ ngồi đây ăn bát canh nóng cho sướng. Hai người lo việc xong, quay lại tìm ta.”
Nói xong uốn cái eo tròn trịa, chen vào ngồi dưới chiếc dù giấy dầu mà ông lão vừa dựng, còn gọi thêm hai cái bánh rán vàng óng trong rổ, vừa ngồi vững vừa ngân nga chờ đồ ăn. Thật ra Du thẩm tử chẳng cần mua gì, ra ngoài một chuyến chỉ để tiêu khiển mà thôi.

Thế là mọi người tách thành ba hướng. Trình nương tử kéo Diêu Như Ý len lỏi qua đám đông, tới được đường trạm dịch rồi men theo tường thành đi về phía tây một đoạn, liền thấy một bãi đất trống đầy những túp lều vá víu, dựng lên mấy cái lò khổng lồ. Một lò đang mở, hơi nóng cuộn lửa phả ra, thợ lò m*nh tr*n mặt đỏ rần, mồ hôi đầm đìa, đang dùng móc sắt lôi mấy cái bát đất nung đỏ au ra khỏi giá lò.

Trước cửa lò có một ông lão thợ gốm tóc tai bù xù, dáng vẻ dơ dáy, trời cuối thu mà chỉ mặc mỗi cái áo cụt tay, ngực trần phơi làn da đen nhẻm như sắt, cơ bắp cuồn cuộn, đang húp xì xụp canh bánh thịt dê.

Thấy có người đến ông ta cũng chẳng đứng lên, mãi đến khi Trình nương tử gọi:
“Lão Hàn, có khách đến.”

Ông mới ngẩng đầu:
“Nung món gì?”

Diêu Như Ý vội lấy bản vẽ bằng mực ra. Ngoài toán học, nàng còn có chút năng khiếu vẽ tranh, tuy chưa từng được học bài bản, nhưng những năm nằm viện chán quá, nàng đã tự học theo các video của một số uploader trên trang mạng nào đó.

Tuy vẽ không xuất sắc, nhưng đủ dễ hiểu.

Lão Hàn nheo mắt nhìn bản vẽ:
“Ồ, là loại lò nướng hai mắt à? Trên còn thêm giá đỡ và chảo đất? Nhưng chân đỡ này mà dùng đất nung thì dễ gãy lắm, phải dùng đồng hoặc sắt rèn, giá thành sẽ cao hơn.”

Cũng hợp lý thôi. Diêu Như Ý liền cẩn thận nói rõ kích thước và yêu cầu.

Trình nương tử ở bên thì hết sức thắc mắc:
“Mấy cái khuôn nướng có cái rãnh dài lõm xuống, có cái lại là sáu khuôn tròn nhỏ, có cái là chảo tròn phẳng, lại còn cái nồi chia chín ngăn sâu nữa, Như Ý lại định làm món ăn gì thế?”
 
Tiệm Tạp Hóa Nhỏ Bên Quốc Tử Giám
Chương 19: Bếp nướng xúc xích


<i>Miệng của đàn ông toàn lời lừa gạt </i>

Trình nương tử tinh ý, còn phát hiện ra cái lò than mà Diêu Như Ý vẽ không giống với loại họ thường dùng hàng ngày.

Lão Hàn cũng nhìn ra. Ông đặt cái bát xuống đất, l**m l**m răng:
“Cô nương đây chắc chưa từng đốt bánh than bao giờ? Lò gì mà làm sâu vậy? Bánh than chỉ to cỡ này thôi mà.”
Ông ta dùng tay làm động tác chỉ vào hình tròn dẹp:
“Lò sâu quá thì vừa tốn than vừa khó giữ nhiệt.”

Lão liếc nhìn Diêu Như Ý, thấy nàng da trắng, mặt mũi non nớt, chắc cũng nghĩ nàng là tiểu thư nhà giàu chưa từng đụng đến việc nhóm lửa.

Lão Hàn bắt đầu kể về bánh than ở Hà Đông, Sơn Tây nọ kia, Diêu Như Ý nghe xong thì thầm nghĩ, quả nhiên giống như nàng đoán: dân thành Biện Kinh vào thời này, nhà ai có chút tiền đều đã dùng than rồi! Chẳng qua lúc này bánh than vẫn còn đủ loại hình dạng, kích cỡ. Người dân thường vì tiết kiệm nên sẽ mua than vụn về trộn bùn tự nén thành bánh, nên đa phần đều là hình tròn dẹt, nặn bằng tay. Vì thế, lò than trong nhà họ sẽ làm miệng lò nông và rộng, không giống như các loại lò hình trụ tròn của thời hiện đại.

Diêu Như Ý nghĩ một lúc rồi vẫn quyết định làm theo kích cỡ bản thân định sẵn.

Dù sao thì nàng cũng tính sẽ tự làm than viên.

Khi còn nhỏ, trước khi bà ngoại lên thị trấn mở quầy tạp hóa, hai bà cháu vẫn sống ở vùng núi quanh co. Không giống ở thị trấn đã dùng bếp gas, dân trong thôn vẫn còn đốt lò than. Bà ngoại nàng vì muốn tiết kiệm tiền sẽ dùng khuôn để ép bánh than, trộn đất và than vụn lại với nhau, sau đó đmuội phơi khô ngoài sân trước và sân sau. Bà ngoại keo kiệt, thường trộn quá nhiều đất, khiến than viên sau khi đốt cháy chỉ cần kẹp bằng gắp là vụn ngay, dọn dẹp cực kỳ vất vả, nhưng lại tiết kiệm được khá nhiều tiền.

Hồi đó có người chạy xe ba bánh bán bánh than dạo qua thôn, một viên bán tới 5 hào, trong khi tự làm chỉ mất 2 hào chi phí.

Cháu gái được bà ngoại keo kiệt dạy dỗ tất nhiên cũng thành người tiết kiệm. Diêu Như Ý cũng là vì muốn tiết kiệm tiền. Làm bánh than không khó, năm nào nàng cũng giúp bà ngoại trộn than với đất, cảm thấy không cần kỹ thuật gì cao siêu cả.

Mùa đông sắp đến, Trung Nguyên vào đông sẽ có tuyết lớn.

Tích trữ củi lửa, than củi, bánh than là việc nhất định phải làm trước khi đông về.

Chỉ tiếc là trong tay nàng bây giờ chẳng dư dả gì. Hai mươi mấy quan của ông nội nàng, nhất định phải để dành trả nợ cho chùa Hưng Quốc, còn tiền nàng có thể dùng thực sự chỉ có hơn một quan mới kiếm được mấy hôm nay nhờ bán trứng và mì nước. Ngoài tiền làm lò, nàng còn phải đặt đóng tủ quầy hàng. Tiền không thể xé ra làm đôi mà tiêu.

Vì vậy nàng dè dặt hỏi giá.

Lão Hàn ngồi xổm dưới đất than vắn thở dài:
“Một cái lò, thêm bốn cái khay, một cái nồi, ta lấy cô nương bốn trăm sáu mươi văn thôi. Cô nương à, thứ nàng đặt phải nung riêng từng cái, chiếm nhiều chỗ trong lò lắm! Nhất là đồ hình vuông khó nung nhất, cháy hỏng lại phải làm lại, ta lỗ tới mức phải không có cái quần mà mặc. Nếu không phải vì cô do khách quen dẫn tới, ta đã lấy tám trăm văn rồi đó!”

Lão Hàn tỏ vẻ đau khổ vô cùng, như thể với cái giá này ông ta đã lỗ to lắm rồi.

<i>Mắc quá!</i> Diêu Như Ý sờ túi tiền trong người, tính sơ sơ, ngân sách làm lò nhiều lắm chỉ được ba trăm văn, như vậy nàng mới còn ít tiền để mua trứng. Nhưng nghe người ta nói cũng có lý, nung cũng là việc công phu mà...

Ai ngờ Trình nương tử khoanh tay hừ một tiếng lạnh lùng:
“Lão Hàn, đừng tưởng muội ấy còn nhỏ không hiểu chuyện mà lừa! Lò đất này mắc nỗi gì? Một lò nung mấy trăm món, mấy cái khay này chiếm bao nhiêu chỗ? Sao khi nung mấy cái bình mai to của nhà khác thì ông không than chật lò? Bớt bày vẽ đi, hai trăm văn một bộ, tặng thêm sáu cái chén dĩa coi như quà khuyến mãi! Không thì chúng ta sang lò nhà họ Trương!”

Lão Hàn la lên oan uổng, kéo tay Trình nương tử rối rít, một người nói mình lỗ vốn, một người than nghèo kể khổ, hai người kéo co không ngừng. Diêu Như Ý ngơ ngác chứng kiến hai người mặc cả thăm dò giá tới lui, cuối cùng chốt giá: hai trăm sáu mươi sáu văn.

<i>Quá… quá lợi hại luôn!</i> Diêu Như Ý vội nói:
“Không cần tặng dĩa đâu, tặng cho ta hai cái chậu sành sâu ba tấc tư là được rồi.” - Nàng định dùng làm khuôn ép bánh than.

Lão Hàn than vãn một tràng cũng không lay chuyển được Trình nương tử, cuối cùng miễn cưỡng gật đầu đồng ý.

Trình nương tử mới hơi hài lòng.

Sau khi giao tiền cọc, ký giấy, hẹn năm ngày sau giao hàng, lão Hàn vẫn còn lẽo đẽo theo sau, vừa đi vừa than vãn ai oán:
“Chao ôi, vụ làm ăn này ta thật không kiếm được đồng nào, coi như kết bạn với cô nương thôi. Tiểu cô nương nếu dùng tốt, sau này có ai hỏi thì nhớ giới thiệu giúp ta một tiếng nhé!”

Diêu Như Ý thấy ông ta áo rách da đen, chân trần không mang dép, lại thấy lò nung trông tồi tàn, nghĩ bụng người ta cũng là kiếm tiền cực khổ, mình lại còn mặc cả dữ vậy… Nhưng biết làm sao, nàng cũng sắp hết gạo ăn rồi, thật sự phải tiết kiệm từng đồng, haiz.

Trình nương tử kéo tay nàng đi nhanh hơn, ghé tai thì thầm:
“Đừng có tin ổng khóc lóc kể lể! Ông ta mỗi tháng kiếm bảy, tám chục quan, còn hơn lương tháng của Phùng Tế tửu ở Quốc Tử Giám nữa đó! Muội nghĩ đi, làm đồ đất nung thì vốn chỉ có ba món: tiền than, tiền đất, tiền công. Đất sét trăm cân chỉ mấy chục văn, loại tốt nhất cũng chỉ vài trăm. Cái lò muội đặt tốn được mấy cân đất? Than thì một lò nung được cả trăm ngàn món, chia ra thì đồ của muội chẳng chiếm bao nhiêu. Còn công làm, một thợ làm một ngày được bốn, năm trăm văn, tính muội hàng khó, nhiều lắm thì công làm cũng chỉ năm mươi văn, lão Hàn còn lời hai trăm văn nữa đấy!”

Nói xong kéo Diêu Như Ý đi thẳng.

“Muội xót ông ta thì chi bằng xót cho mình trước. Ông ta năm ngoái vừa mới mua đại trạch ở chợ Châu Kiều, trong nhà nuôi ba bà thiếp đó! Lão ấy cố ý ăn mặc rách rưới, đàn ông ấy mà, miệng nói ra toàn lời lừa gạt! Nhưng lão Hàn tay nghề giỏi thật, hồi còn trẻ theo thầy ra từ lò quan, kỹ thuật luyện đất không ai bì kịp, đồ nung của ông ta dù lửa to thế nào cũng không nứt. Không thì với cái vẻ gian manh đó, đời nào ta lại dẫn muội tới đây!”

Diêu Như Ý: “…” Được khai sáng rồi.

Nàng cũng âm thầm tự kiểm điểm. Quả thật nhiều mặt nàng không có kiến thức gì, bệnh tật đã tước đi cơ hội trải nghiệm cuộc sống và đi học của nàng. Bệnh viện dường như chỉ dạy nàng cách đối mặt với sinh ly tử biệt.

Giờ thì cuối cùng đã có cơ hội học thêm điều mới.

<i>Thật tốt biết bao.</i> Ở thời đại này, dù không còn bà ngoại bên cạnh khiến nàng hơi buồn, nhưng dường như nàng đã có thể giống người bình thường khỏe mạnh, tự do thoải mái trải nghiệm cuộc sống. Diêu Như Ý bỗng thấy vui vẻ trở lại, khoác tay Trình nương tử, có chút ỷ lại mà dựa sát vào:
“Tẩu tẩu, cảm ơn tậu đã dạy muội, hôm nay nhờ có tậu, không thì số tiền muội vất vả kiếm mấy hôm nay chắc bị dụ mất sạch rồi.”

Trình nương tử dịu dàng vỗ nhẹ tay nàng, động viên:
“Muội còn nhỏ, tính tình thiện lương là chuyện tốt, sau này dần dần sẽ biết thôi, đừng sợ, có gì cứ tìm mấy thẩm tử tẩu tử láng giềng hỏi, đừng có gồng gánh một mình.”

Diêu Như Ý mắt cay xè, gật đầu mạnh một cái.

Đặt xong lò nướng, nàng liền theo Trình nương tử đi mua chỉ thêu và tìm thợ mộc.

Tiệm thợ mộc ở ngoại thành không có bảng hiệu, chỉ là một cửa tiệm nhỏ nằm khuất trong góc. Người thợ trong đó còn rất trẻ, tên là Chu Cử Mộc. Hắn là người mang theo gia đình chạy nạn từ phía Bắc vào mấy năm trước khi chiến sự liên miên, mang theo cả hòm đồ nghề Lỗ Ban. Có lẽ vì cửa tiệm thuê ở vị trí quá vắng, lại còn trẻ tuổi, nên cửa hàng không có nhiều khách.

Trước tiệm chất đầy thùng gỗ, chậu gỗ, bàn ghế thành phẩm. Bên trong thì ngổn ngang mùn cưa, mảnh gỗ, đủ loại nguyên liệu. Dù hôm nay là ngày họp chợ, cửa tiệm vẫn vắng tanh.

Không có khách, Chu Cử Mộc liền tranh thủ phục vụ nương tử nhà mình - Hà Hương. Hắn đặt ghế tre ngoài sân nắng ấm cho nàng nằm, rót trà nóng, bóc đầy một đĩa hạt thông và đậu phộng, bỏ hạt táo, rồi vào nhà lấy thêm hai cuốn thoại bản đặt cạnh nàng.

Thấy nàng thoải mái ngồi đung đưa trong ánh nắng, vừa uống trà, vừa ăn vặt, vừa đọc sách, hắn mới ngồi xuống tiếp tục đục đẽo chân ghế.
 
Back
Top Bottom