Cung Đấu Thâm Cung - Trần Lạc Hoa

Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 40


Nơi gặp gỡ là Ngự hoa viên, có thể còn có người khác nhìn thấy nên nếu chối là không gặp thì
không ổn. Còn thừa nhận là có gặp nàng ta thì cũng chẳng đặng. Quả thực
lúc đó ta không nàng ta đang tìm cái gì nhưng nói như thế thì càng không ổn. Có Đức phi cáo già ở đây, nói lỡ một lời thôi không chừng cũng sẽ
bị nàng ta vin lấy… Thôi thì đành thuận nước đẩy thuyền.

Vô số suy tính lướt qua đầu, ta hít sâu một hơi, cố kiềm cho giọng nói khỏi run rẩy mà đáp:

“Bẩm, thần thiếp đúng là có từng gặp qua Tĩnh Tu dung ở Ngự hoa viên… Nhưng
chỉ là gặp mặt chào hỏi một câu mà thôi nên không biết Tĩnh Tu dung có
đang tìm kiếm vật gì hay không.”

Tĩnh Tâm Lan nghe ta nói thế, lập tức giãy nảy:

“Hòa phi! Rõ ràng lúc đó nương nương còn vặn hỏi ta đang tìm thứ gì sao giờ lại nói chỉ gặp qua thôi?”

Ta lắc đầu, đáp như đinh đóng cột:

“Tĩnh Tu dung nhớ lầm rồi. Lúc đó từ Thuận Ninh cung trở về, trời thì đang
mưa, có lẽ nào ta lại dừng chân nói chuyện lâu để cho dính nước mưa? Ta
nhớ rõ khi ấy hai chúng ta chỉ chào hỏi mà thôi, sau đó Tu dung đi
trước, ta cũng hồi cung, nào có vặn hỏi gì. À, khi ấy cả Ngọc Nga và
Đông Tú cũng có mặt, họ có thể làm chứng.”

Ngọc Nga đang đứng hầu sau lưng ta, nghe đến đây bèn bước ra trước, quỳ xuống phía sau Tĩnh Tâm Lan mà thưa:

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu và các vị nương nương, nô tỳ xin lấy đầu ra đảm bảo, sự việc đúng là như thế.”

Lúc này, Đông Tú cũng hớt hải dập đầu lia lịa:

“Vâng, đúng là như thế…”

Tĩnh Tâm Lan không ngờ đến Đông Tú dám phản lại mình, giận run cả người:

“Ngươi! Các ngươi… không đúng! Hoàng Hậu, Hòa phi nói dối! Xin hãy tin thần
thiếp, lúc thần thiếp rời khỏi Ngự Hoa viên còn gặp cả Trịnh phi… Trịnh
phi đứng ngay gần đó, nhất định nhìn thấy thần thiếp cùng với Hòa phi…
Trịnh phi, xin hãy nói một câu công bằng cho thần thiếp…”

Hai mắt Tĩnh Tâm Lan đỏ ngầu, giàn dụa nước, hết nhìn ta oán hận lại nhìn sang
Trịnh Vân Anh đầy mong đợi. Lẽ dĩ nhiên ở trong cung lâu nay, Tĩnh Tâm
Lan hiểu rõ tính cách Trịnh Vân Anh thuần lương trong sáng, tuyệt đối sẽ không dựng chuyện vu hại người khác. Thường ngày ta yêu mến Trịnh Vân
Anh chính là vì sự lương thiện của muội ấy, nhưng hôm nay, trong tình
thế này… tính cách ấy lại làm ta lo sợ…

“Trịnh phi, muội nói thử xem.”

Triệu Lam Kiều liếc mắt nhìn Trịnh Vân Anh, khóe môi khẽ nhoẻn cười, ra vẻ
rất vô tư nhưng ánh mắt lại sắc lạnh như dao. Trịnh Vân Anh nghe nhắc
tới tên thì khẽ giật mình, đưa đôi mắt tròn xoe dè dặt nhìn Triệu Lam
Kiều:

“Chuyện này…”

Nhìn thấy Trịnh Vân Anh bị Triệu Lam Kiều hù dọa, Hoàng Hậu liền dịu dàng lên tiếng, vừa như động viên, vừa mang hàm ý bảo hộ:

“Muội muội đừng sợ, có Hoàng Thượng và bản cung ở đây, không có gì phải lo lắng cả.”

Mỗi lần nhìn thấy Hoàng Hậu che chở cho Trịnh Vân Anh như thế, ta đều tự
hỏi vì lẽ gì mà một người như Hoàng Hậu lại đối đãi với Trịnh Phi tốt
như vậy. Trịnh Vân Anh chẳng những không được sủng ái lại còn không có
đầu óc. Nói về gia thế, Trịnh gia tuy vẫn còn cái danh “Tướng gia” nhưng ai nấy đều rõ một Tướng gia mà không có binh quyền thì chỉ là hữu danh
vô thực. Như vậy Trịnh Vân Anh hoàn toàn không có giá trị gì đối với
Hoàng Hậu còn Hoàng Hậu vốn không thích người vô dụng vậy mà lại hết
lòng bảo vệ muội ấy. Sự bảo bọc của Hoàng Hậu đối với muội ấy lâu nay
rốt cuộc có ý nghĩa gì?

Trịnh Vân Anh rất ít khi bị nhiều người
nhìn chằm chằm thế này thành thử không khỏi sợ hãi, ngập ngừng một lúc
lâu mới cất tiếng:

“Muội… muội có nhìn thấy Tĩnh Tu dung và Hòa phi ở Ngự hoa viên hôm đó…”

Hai hàng lông mày Tĩnh Tâm Lan khẽ dãn ra, trên môi còn thấp thoáng nụ
cười. Trái tim ta ngược lại như bị cột chặt vào một tảng đá lớn, càng
lúc càng nặng nề. Ta lén nhìn sang Hoàng Hậu nhưng vẫn thấy nét mặt nàng dửng dưng như không có chuyện gì, chẳng hiểu là nàng thực đã có đối
sách hay là che dấu cảm xúc quá tài tình.

Đúng vào lúc này, Trịnh Vân Anh lại nhanh chóng tiếp lời:

“Nhưng muội cũng chỉ nhìn thấy hai người chào hỏi nhau đôi câu rồi đường ai nấy đi, Hòa phi không vặn hỏi gì Tĩnh Tu dung cả.”

Nói xong liền cúi đầu không dám nhìn lên nữa.

Lòng ta nhẹ hẫng. Hai bàn tay đương nắm chặt bên dưới tay áo cuối cùng cũng có thể buông lỏng.

Tĩnh Tâm Lan không thể ngờ được Trịnh Vân Anh cũng dám nói dối vu hại nàng
ta, nét mặt liền tái mét, chỉ thẳng vào Trịnh Vân Anh la lớn:

“Trịnh phi! Ngươi… ngay cả ngươi… ngươi cùng một giuộc với Chu thị kia! Các ngươi thông đồng hãm hại ta!”

Hai tiếng “Chu thị” của Tĩnh Tâm Lan khiến Hoàng Đế khẽ chau mày một cái.
Động tác này rất nhỏ, nếu không phải ta đang lén lút quan sát phản ứng
của hắn thì sẽ không nhận ra nổi.

Động tác nhỏ ấy người khác có
thể nhìn không thấu nhưng Hoàng Hậu lại nắm bắt được ngay. Nét cười trên mặt nàng thoáng chốc tan biến như mây khói, nàng lạnh lùng đập tay
xuống bàn:

“Tĩnh Tu dung, ngôn hành cẩn trọng. Đừng để bản cung phải phạt vả miệng ngươi.”

Ta thầm cười nhạo trong lòng. Tĩnh Tâm Lan giận quá hóa điên rồi hay sao?
“Chu thị” là thứ nàng ta muốn gọi thì gọi à? Ngay cả Hoàng Đế còn phải
kiêng dè hai chữ “Chu thị” này mà đặc cách ban cho ta phong hiệu, vậy mà nàng ta dám ngang nhiên mắng chửi như vậy, chẳng lẽ cảm thấy mình sống
quá lâu rồi? Chu thị này không phải chỉ có mình ta, mà còn ám chỉ toàn
bộ hoàng tộc Tùy Khâu. Nếu sau này truyền ra việc phi tử của Hoàng Đế
Bách Phượng cả gan mắng chửi hoàng tộc nước khác, mặt mũi Hoàng Đế còn
để chỗ nào được. Nếu quân sự Tùy Khâu đủ mạnh, mỗi việc này cũng đã đủ
để khởi binh.

Triệu Lam Kiều hiểu rõ một câu buột miệng của Tĩnh Tâm Lan nghiêm trọng đến mức nào, lập tức quát lớn:

“Tĩnh Tu dung, còn không mau tạ tội?!”

Tĩnh Tâm Lan nhìn thấy Triệu Lam Kiều sa sầm sắc mặt mới ngộ ra mình đã lỡ lời, hoảng hốt dập đầu liên tục:

“Hoàng Thượng, Hoàng Hậu, thần thiếp sai rồi! Thần thiếp lỡ lời chứ hoàn toàn
không cố ý mạo phạm Hòa phi nương nương… Nhưng thần thiếp quả thực bị
oan! Hoàng Thượng minh xét!”

Hoàng Đế xoa xoa thái dương, tỏ vẻ mệt mỏi:

“Bỏ đi… Cũng chẳng có gì, Hòa phi chắc cũng không để bụng đâu nhỉ?”

Ta nghe hắn nhắc đến mình lập tức cúi đầu ngoan ngoãn đáp:

“Hoàng Thượng nói phải.”

Hoàng Đế gật đầu với ta rồi uể oải ngáp dài. Liễu Yến Yến liền đưa chung trà của mình đến bên miệng hắn, nũng nịu:

“Hoàng Thượng, uống chút trà đi.”

Hoàng Đế tủm tỉm cười, thản nhiên uống chung trà mà Liễu Yến Yến vừa uống
qua, lại còn khẽ nhéo yêu gò má nàng ta một cái khiến cho gương mặt xinh đẹp tựa thiên tiên của Liễu Yến Yến lập tức xuất hiện một rặng mây
hồng. Hai người tình ý thắm thiết làm cho người khác nhìn vào không khỏi ngưỡng mộ.

Trước cảnh tượng hoàn toàn lạc đề ấy, Hoàng Hậu chỉ cười khẽ, nhẹ nhàng chuyển chủ đề trở về chỗ Tĩnh Tâm Lan:

“Ban nãy Tĩnh Tu dung nói rằng có nhân chứng, nhưng xem ra đã có chút nhầm lẫn rồi.”

Tĩnh Tâm Lan sợ đến méo xệch cả miệng, khổ sở nói:

“Thần thiếp… Thần thiếp bị oan… Tên hộ vệ kia rốt cuộc mặt mũi thế nào, thần thiếp còn không rõ, sao thần thiếp có thể…”

Triệu Lam Kiều hẳn cũng nhận ra Tĩnh Tâm Lan đã rơi vào hoảng loạn, liền đỡ lời:

“Thực ra thần thiếp cũng cảm thấy rất kỳ lạ. Gã hộ vệ làm nhiệm vụ canh cổng
hoàng thành, còn Tĩnh Tu dung lại ở trong hậu cung. Hai người như thế
gặp nhau đã khó, huống hồ gì lại có tư tình?”

Dương Quý cơ vốn yên lặng từ đầu, giờ cũng cười cười châm biếm:

“Thần thiếp thì lại không cho là vậy. Người đã có lòng, thực sự không có việc gì là không thể. Ví như một ngày Huệ Đàm cung có biết bao nhiêu cung
nữ, thái giám ra vào. Đâu thể nào kiểm mặt từng người nhỉ?”

Triệu Đức phi cười lạnh:

“Ồ, bản cung cảm thấy hình như Quý cơ rất tỏ tường những việc thế này, phải không?”

Dương Quý cơ chột dạ, vội vàng phân bua:

“Thần thiếp chỉ suy đoán vậy thôi…”

“Thì ra là suy đoán sao? Bản cung thấy suy đoán này thật sự rất hợp lý. Phải chăng Quý cơ đã tự mình tính toán nhiều lần trong đầu?”

Dương
Quý cơ vốn không phải đối thủ của Triệu Lam Kiều, miệng lưỡi đanh đá
nhưng tâm tư lại chẳng đủ sắc sảo, mới mấy câu đã chống đỡ không nổi,
khéo còn mang họa vào thân. Hoàng Hậu để Dương Quý cơ có mặt chẳng qua
vì muốn mượn cái miệng nàng ta một chút nhưng hóa ra lại uổng công, trên mặt hơi lộ nét bất đắc dĩ.

Ngay chính lúc Triệu Lam Kiều đang định thừa thắng xông lên thì Hoàng Đế lại bất thần lên tiếng:

“Tĩnh Tu dung, chiếc khăn này nàng tự tay làm sao?”

Tĩnh Tâm Lan hoảng hốt đáp:

“Dạ phải… thần thiếp vốn muốn tặng nó cho Hoàng Thượng…”

“Vậy sao…”

Hoàng Đế cười nhàn nhạt, với lấy chiếc khăn từ tay Xuân Linh, chầm chậm nói:

“Trẫm nhớ Tu dung từng tặng trẫm vài cái túi thơm và khăn tay, nhưng chưa từng thấy qua loại mẫu thêu kì lạ này.”

Mặt Tĩnh Tâm Lan trắng bệch, nàng ta cúi đầu lí nhí đáp:

“Thần thiếp thấy… Hoàng Thượng yêu thích chiếc túi thơm của Hòa phi… cho nên… nghĩ Hoàng Thượng sẽ vừa ý những hình thêu đặc biệt…”

Ta hơi
giật mình. Căn nguyên chuyện này sao lại dính dáng tới ta? Lén nhìn qua
chỗ Hoàng Đế, ta lại giật mình thêm một lần nữa, chiếc túi thơm vụng về
của ta vẫn đang chễm chệ treo ở trên thắt lưng Hoàng Đế.

“Thì ra là vậy.”

Hoàng Đế hỏi đến đấy, dường như đã được đáp án như ý bèn quẳng chiếc khăn lại cho Xuân Linh, ngả người vào tấm đệm sau lưng, che miệng ngáp.

Hoàng Hậu nhìn bộ dạng lười nhác của Hoàng Đế, mỉm cười trìu mến.

“Thần thiếp lại nghĩ đôi chim ưng này thực ra có hàm ý sâu xa.”

Hoàng Đế nhướn mày:

“Hoàng Hậu nghĩ vậy sao?”

“Xuân Linh, ngươi nói đi.”

Cung nữ Xuân Linh được lệnh của Hoàng Hậu bèn bước đến trước, cúi mình thưa:

“Bẩm, theo như nô tỳ điều tra được thì gã hộ vệ kia tên chỉ có một chữ: Ưng.”

“Là Ưng sao?” Hoàng Đế vẫn cười, nhưng ánh mắt lại trở nên lạnh lẽo như
băng. “Song ưng tại thiên… Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu… Thật là có ý vị.”

Mồ hôi trên trán Tĩnh Tâm Lan túa ra, thoáng chốc đã làm bết cả phần tóc mái trước trán. Nàng ta run rẩy, lắc đầu nguầy nguậy:

“Không phải… thần thiếp không biết hắn tên gì cả… thần thiếp chỉ tình cờ chọn
mẫu thêu đó mà thôi… Thần thiếp vào cung đã ba năm, không hề rời hậu
cung một bước, làm sao biết được ở cổng thành có một gã hộ vệ tên Ưng?!”

Triệu Lam Kiều nhấp một ngụm trà, chợt reo như sực nhớ ra việc gì đó:

“À, Tĩnh Tu dung nói cũng có lý lẽ đấy. Nếu thần thiếp nhớ không lầm thì hộ vệ canh cổng hoàng thành mỗi năm thay một đợt. Tĩnh Tu dung vào cung đã ba năm, gã hộ vệ kia thì chỉ vừa mới đến năm nay, dễ gì quen biết
được.”

Hoàng Hậu bình thản mỉm cười:

“Vậy nếu như hai người đã quen nhau trước từ lâu thì sao?”

Triệu Lam Kiều hơi biến sắc:

“Ý của nương nương là…”

“Đức phi có điều chưa rõ rồi, tên hộ vệ này thực ra mang họ Tĩnh.”

Hoàng Hậu khẽ cười, thản nhiên nhấp một ngụm trà thấm giọng cứ như không hề
nhận ra câu nói của mình đã khiến những người ở đây chấn động đến mức
nào.

Ngay cả ta cũng không tin nổi vào tai mình. Tại sao bỗng
nhiên lại xuất hiện thêm họ Tĩnh ở đây? Sự việc này rốt cuộc là như thế
nào?

Hoàng Hậu điềm nhiên nói tiếp:

“Nguồn gốc của tên hộ
vệ này thực là bi thương. Hắn vốn là cô nhi trôi dạt ở Tây Lạt được Tĩnh Tổng đốc thu nhận làm gia nô trong nhà. Qua nhiều năm, thấy hắn chăm
chỉ trung thành, Tĩnh Tổng đốc thương tình ban cho họ Tĩnh để hắn quản
lý một nhóm gia đinh, chuyên làm nhiệm vụ trông coi bảo vệ phủ Tổng đốc. Năm Quang Nhật thứ hai, Triệu Tướng dời doanh trại chính đến Tây Lạt,
tiến hành chiêu mộ thêm binh lính. Tĩnh Ưng muốn kiến công lập nghiệp
nên đã cầu xin Tĩnh Tổng đốc cho mình đầu quân cho Triệu Tướng. Tĩnh Ưng phấn đấu hết mình, lại có sự cất nhắc của Tĩnh Tổng đốc cho nên rất
nhanh đã lên được chức thống lĩnh một tiểu đoàn bộ binh. Sau đó phía Nam dấy lên nội loạn, Tĩnh Ưng được cử đi bình định phản quân, tuy rằng
chiến thắng trở về nhưng một chân bị thương, không thể đi lại bình
thường nữa. Tĩnh Tổng đốc nhớ tình xưa, muốn đón hắn về quản lý việc
trong phủ, nhưng Tĩnh Ưng từ chối, cuối cùng Triệu Tướng vì muốn đẹp
lòng Tĩnh Tổng đốc nên đã cất nhắc hắn vào cung làm Cẩm Y vệ. Bất quá vì có tật ở chân nên chỉ được gác cổng thành mà thôi.”

Chuyện đời
Tĩnh Ưng vốn đã thương tâm, qua giọng kể nhẹ nhàng của Hoàng Hậu lại
càng thêm thấm thía. Hoàng Hậu chỉ kể qua thân thế của hắn như vậy,
nhưng mọi người đều hiểu ra câu chuyện phía sau.

Một đứa trẻ côi
cút được nhà quan lớn nhận nuôi, khi ở trong phủ đã nảy sinh tình cảm
với vị tiểu thư nhà ấy, vì tình cho nên không ngại hiểm nguy dấn thân
nơi sa trường, mong làm nên sự nghiệp để môn đăng hộ đối với người trong mộng. Đáng tiếc, khi hắn trở về thì người trong mộng đã thành phi tử
trong chốn thâm cung, còn hắn dù cho thân thể tật nguyền, lòng vẫn muốn ở gần người xưa được chút nào hay chút ấy nên đã từ bỏ chức quản sự phủ
Tổng đốc mà vào cung làm một tên hộ vệ canh cổng tầm thường. Tình yêu
cao thượng như thế thật khiến người ta không khỏi đau lòng. Nhất là ở
nơi hậu cung thiếu thốn chân tình, mối tình thâm của Tĩnh Ưng làm ai nấy đều bùi ngùi.

Bầu không khí lắng xuống.

Tĩnh Tâm Lan ngơ ngác một lúc như cố gắng lục lọi trí nhớ của mình, hồi sau mới hoảng loạn khóc lên:

“Không… không phải là như vậy… Dù hắn từng ở trong Tĩnh phủ, nhưng hắn chỉ là
một tên gia nô, thần thiếp làm sao có thể qua lại với một tên gia nô cơ
chứ!”

Tĩnh Tâm Lan không phải một nữ tử vô tri, nói đến đây thần
trí nàng ta đã sáng suốt ra mấy phần, liền đưa tay lau nước mắt, kiên
quyết nói:

“Nếu Hoàng Hậu nương nương không tin, vậy xin hãy cho
gọi hắn vào đây đối chứng với thần thiếp. Nếu quả có tư tình, thế thì
nhất định còn phải có vật định tình khác chứ, đâu thể chỉ có một cái
khăn tay đó được. Còn có ngày xưa, thần thiếp thích thứ gì, ghét thứ gì, cả những chuyện lúc nhỏ… Nếu hắn là tình lang của thiếp thì phải biết
việc đó. Thiếp muốn đối chứng với hắn!”

Lời nói của Tĩnh Tâm Lan
cũng rất có lý. Chuyện gian tình như vậy, nếu không phải bắt được ngay
trên giường thì rất khó chứng minh. Ta lặng lẽ nhìn qua chỗ Hoàng Hậu,
thấy mặt nàng chẳng có biểu cảm gì, thậm chí còn gật đầu đồng thuận:

“Tĩnh Tu dung nói phải. Thế thì thử truyền Tĩnh Ưng vào đây xem sao. Ý Hoàng Thượng thế nào?”

Hoàng Đế chẳng buồn mở miệng, chỉ hơi gật gật đầu.

Nét mặt Tĩnh Tâm Lan vừa sáng lên một tia hi vọng mới, thì đúng lúc đó, từ
bên ngoài có một thái giám hối hả chạy vào, hổn hển thưa:

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu… Tên đó… Tên Tĩnh Ưng đó đã cắn lưỡi tự sát rồi!…”

“Cái gì?!”

Tin này chẳng khác nào sấm sét giữa trời quang. Tĩnh Tâm Lan thét lên một
tiếng, thân mình nhổm lên như thế muốn xông tới chỗ thái giám vừa báo
tin kia mà hỏi cho rõ, nhưng rồi lại đổ sụp xuống tại chỗ, hai mắt trợn
trừng, nói không nên lời.

Thái giám kia kinh hãi thưa:

“Chúng nô tài đã cố gắng cứu chữa, nhưng Tĩnh Ưng mất máu quá nhiều… thực sự đã chết rồi… Trước khi tự vẫn, hắn còn nói…”

Thấy tiểu thái giám kia sợ sệt chẳng dám nói hết câu, trên mặt Hoàng Đế xuất hiện một tia thích thú. Hoàng Hậu liền hỏi:

“Hắn nói cái gì? Ngươi cứ nói đi.”

“Bẩm, hắn nói: Tội lỗi đều ở mình ta, là tự ta si tâm vọng tưởng, không liên quan gì đến A Lan.”

Thái giám truyền lời xong cũng biết lời kia kinh hãi thế tục đến nhường nào, dù chẳng phải là lời của hắn nhưng vẫn vội quỳ xuống dập đầu liên tục.

Sự việc đến đây đã quá rõ ràng rồi.

“A Lan? Ồ, cách gọi này thật tình tứ làm sao!”

Dương Quý cơ làm bộ trầm trồ.

“Còn không phải ư? Đến chết cũng vẫn muốn bảo vệ tình nhân… Thật khiến người ta cảm động mà…”

Liễu Thục phi thở dài, yểu điệu đưa khăn tay lên chấm chấm trên mi mắt ra chiều thương tâm lắm.

Chén Thanh Thủy canh hôm trước đã hại Liễu Yến Yến điêu đứng một phen, làm
sao nàng ta lại không ôm hận. Liễu Yến Yến quả nhiên không nhịn nổi nữa
đã bắt đầu thêm dầu vào lửa.

Hoàng Đế thấy Liễu Yến Yến rơi lệ, dầu đang lười biếng cũng phải đau lòng vỗ về:

“Yến Yến của trẫm ngoan, đừng khóc…”

Liễu Yến Yến được dỗ dành, thút thít thêm mấy tiếng thì nín hẳn, ra vẻ rất
nghe lời Hoàng Đế. Đôi mắt hạnh ướt át lướt qua mọi người một lượt, dừng lại trên chiếc khăn tay vẫn đang được Xuân Linh bưng trên khay gỗ.

“Thiếp muốn xem chiếc khăn đó một chút, ban nãy nhìn chưa rõ…”

Liễu Yến Yến dựa đầu vào vai Hoàng Đế, hệt như trẻ con làm nũng.

Hoàng Đế phì cười, xoa đầu nàng ta:

“Có cái gì đâu mà xem.”

Dù miệng nói thế nhưng hắn vẫn ra hiệu cho Xuân Linh dâng khăn đến.

Liễu Yến Yến cầm chiếc khăn lên xem qua xem lại một lượt, như vô ý ngâm nga:

“Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu… Tại địa nguyện vi liên lý chi… Tâm Lan
niệm quân… Tâm Lan niệm quân… Bốn chữ này nghe thôi cũng thấy đau lòng
rồi. Thâm tình sâu nặng như thế, một người ở hậu cung, một người ở cổng
thành, đúng là vô duyên mà. Cùng ở trong Hoàng thành, thế mà lại chẳng
thể nhìn thấy nhau, chỉ có thể gửi tâm tình vào một chiếc khăn này…”

Vốn ta đang nghĩ không biết Liễu Yến Yến tính nói mấy lời thương tâm giả
dối này đến khi nào thì nàng ta đột nhiên đổi giọng lạnh lùng, nhìn
thẳng vào Tĩnh Tâm Lan mà mắng:

“Nếu ngươi đã có ý trung nhân thì ba năm trước đừng nên nhập cung mới phải! Hoàng Thượng nhân từ, chỉ cần ngươi nói ra chắc chắn người sẽ không ép uổng ngươi, không chừng lại
còn tác thành cho các ngươi nữa đấy! Cớ sao lại miễn cưỡng vào cung, để
rồi gây ra tội nghiệt như vậy?”

Tĩnh Tâm Lan đã khóc đến khàn cả giọng, lại thấy Liễu Yến Yến thêm dầu vào lửa liền cuống quýt muốn biện giải:

“Thần thiếp không có… thần thiếp thực chẳng có tư tình gì với ai… Từ trước
đến nay thần thiếp luôn toàn tâm toàn ý với Hoàng thượng… Có người hãm
hại thần thiếp…”

Nói đoạn, Tĩnh Tâm Lan quay sang túm lấy tỳ nữ Đông Tú, vừa khóc vừa đánh nàng ta:

“Nhất định là ngươi! Chỉ có ngươi thôi! Ngươi trộm đồ của ta, vu hại ta!”

Nhìn thấy cảnh tượng l* m*ng như vậy, Liễu Yến Yến bĩu môi, vứt chiếc khăn xuống đất, khinh miệt nói:

“Huệ chất lan tâm, cũng chỉ đến thế mà thôi.”

Chiếc khăn ngọn nguồn của mọi sự phiền phức kia rời tay Liễu Yến Yến bay lượn một vòng trong không trung, cuối cùng đáp xuống dưới chân ta. Ta cúi
đầu chăm chú nhìn nó một lát, chợt phát hiện khoảng cách từ viền khăn
đến chữ “quân” trong câu “Tâm Lan niệm quân” hơi xa hơn những chi tiết
khác trên khăn, thành ra có chút không cân đối, dường như còn đương
thiếu một chữ nữa. Có lẽ Tĩnh Tâm Lan muốn thêu mấy chữ “Tâm Lan niệm
quân vương” để bày tỏ lòng thương nhớ với Hoàng Đế, nhưng còn thiếu một
chữ “vương” thì đã bị Đông Tú nhanh tay trộm mất. Thiếu đi một chữ, ý
nghĩa sẽ rất khác biệt. Hẳn vì vậy mà nàng ta mới hốt hoảng đi tìm như
thế.

Hoàng Hậu thở dài:

“Người đâu, giữ Tĩnh thị lại, đừng để nàng ta náo loạn trước long nhan.”

Cách xưng hô đã thay đổi, người nào cũng hiểu rõ: Tĩnh Tâm Lan xong xuôi rồi.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 41


Hai thái giám đứng hầu ở cửa, nghe lệnh Hoàng Hậu liền tiến vào tách Tĩnh
Tâm Lan khỏi Đông Tú, xách cổ ném sang một bên. Tĩnh Tâm Lan càng gào
lớn:

“Chính là ả đã hại thần thiếp! Mẫu thêu song ưng cũng là ả đưa cho thần thiếp xem!”

Ta đưa mắt nhìn qua, thấy Triệu Lam Kiều cau mày tựa như đang suy nghĩ gì
đó thì lấy làm hốt hoảng. Triệu Lam Kiều đa mưu túc trí, biết đâu đã
nghĩ ra đối sách. Dù sao quan hệ của Triệu thị và Tĩnh thị có nhiều
khuất tất, Triệu Lam Kiều sẽ không để Tĩnh Tâm Lan cứ thế này mà chìm
thuyền. Lần này ta té nước theo mưa, nếu Tĩnh Tâm Lan bình yên vô sự vậy thì ngày sau của ta sẽ rất khó coi đây.

Hoàng Hậu cũng nhận ra Triệu Lam Kiều muốn can thiệp nên đã đón đầu trước:

“Đức phi có cao kiến gì chăng?”

Triệu Lam Kiều mỉm cười, bình tĩnh đáp:

“Thần thiếp thấy chuyện này vẫn còn nhiều điều chưa được rõ ràng…”

Hoàng Hậu nở nụ cười thâm thúy:

“Vậy sao? Bản cung cũng định hỏi ý kiến Đức phi đây. Triệu gia của nàng cùng Tĩnh gia thân thiết, nghe nói mấy năm trước Đức phi cũng từng đến Tây
Lạt du ngoạn, nghỉ lại trong phủ Tổng đốc. Không biết lúc đó Đức phi có
nhận thấy sự gì khác thường chăng?”

Dương Quý cơ dường như đã chờ rất lâu, nhận thấy thời cơ liền mở miệng hùa theo:

“Hoàng Hậu nói phải. Đức phi và Tĩnh Tu dung ngày thường thân thiết. Tâm tình
của Tu dung, Đức phi nương nương hẳn cũng phải thấu hiểu vài phần chứ
nhỉ?”

Mắt thấy Hoàng Hậu định hắt cả chậu nước dơ này lên người
mình, sắc mặt của Triệu Lam Kiều rất khó coi nhưng không dám nổi giận
với Hoàng Hậu đành trút hết lên Dương Quý cơ:

“Trong hậu cung này, ai qua lại thân thiết với ai Quý cơ đều biết nhỉ? Tai và mắt của muội muội quá linh thông rồi.”

Dương Quý cơ móc mỉa người khác không xong lại còn bị người ta tát lại một
cái, không thể không ê mặt. Nàng ta nhìn tới Hoàng Hậu, thấy Hoàng Hậu
hơi hơi liếc mình liền thức thời ngậm miệng.

Hoàng Đế vốn đương ngáp ngắn ngáp dài, bấy giờ chợt nói:

“Nếu không vì có việc như vậy thì trẫm chẳng biết được ngay cả Cẩm Y vệ của trẫm cũng phải phiền Triệu Tướng sắp xếp đấy.”

Hoàng Đế không hổ danh bạo quân. Một lời tưởng như vô hại thốt ra mà khiến
cho cả đại điện ai nấy đều rét run, mặt mũi Triệu Lam Kiều cũng lập tức
tái nhợt đi.

Ý tứ của Hoàng Đế đã quá rõ ràng.

Cẩm Y vệ là hoàng quân được huấn luyện kĩ lưỡng, quân số không quá ba vạn nhưng rất tinh nhuệ, đóng quân trực tiếp ở Hoàng thành đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ
Hoàng thành và Hoàng Đế phòng trường hợp có kẻ tạo phản mà quân đội
chính quy ở xa không thể tiếp cứu kịp. Vì vai trò quan trọng này mà Cẩm Y vệ các triều đại đều do đương kim thánh thượng trực tiếp quản lý. Tuy
rằng có chọn ra thống lĩnh, nhưng vị thống lĩnh này cũng chỉ làm nhiệm
vụ giám sát luyện binh thôi, còn quyền điều binh hoàn toàn thuộc về
Hoàng Đế. Trông Hoàng Đế ốm yếu như thế nhưng cứ mỗi ba ngày, hắn lại
phải đến Xưởng vệ đốc thúc Cẩm Y vệ, dẫu hắn luôn ra vẻ lười nhác nhưng
những việc cần phải làm thì chưa từng để thiếu việc gì.

(Hoàng
thành phân làm ba khu vực chính: Tiền cung gồm các viện, các, xưởng… là
nơi làm việc của bá quan. Trung cung gồm điện Cát Tường, Đông cung và
một số bộ phận khác như Nội thị giám, Thượng Cung cục, Kính Sự phòng…
Cuối cùng Hậu cung là nơi ở của phi tử và các công chúa, hoàng tử lúc
nhỏ. Xưởng vệ thuộc về Tiền cung.)

Nói tóm lại, Cẩm Y vệ là đồ
trong túi Hoàng Đế. Triệu Tướng nắm nhiều quân quyền, phần lớn quân đội
Bách Phượng đều nằm trong tay ông ta, không thì cũng do con cháu hoặc
môn đệ của ông ta nắm giữ, Hoàng Đế không phàn nàn gì. Nhưng đã thế lại
còn đụng vào Cẩm Y vệ của hắn thì quả là quá đáng. Hoàng Đế xù lông lên
như vậy cũng là lẽ thường.

Thực ra thì chuyện quan viên sắp xếp
người nhà vào Cẩm Y vệ cũng chẳng phải chuyện hiếm. Làm Cẩm Y vệ tuy
phải luyện tập vất vả nhưng bổng lộc rất cao, tiếng tăm cũng tốt mà
chẳng gặp nguy hiểm gì. Nghĩ thử mà xem, nếu ra làm quan trong triều thì còn phải va chạm người này người nọ, lỡ đắc tội ai thì liên lụy cả dòng họ, chẳng bằng cứ đi làm Cẩm Y vệ, hằng ngày chăm chỉ luyện võ, mười
bữa về thăm nhà một lần, cuối tháng lĩnh bổng lộc. Tốt biết bao nhiêu!
Lại nói, đâu phải ngày nào cũng có kẻ tạo phản? Làm Cẩm Y vệ vô ưu vô
lo, những quan viên có tầm nhìn hơi xa một chút đều chạy chọt cho con
cháu một chân Cẩm Y vệ. Ấy thế nhưng nếu người động tay là Triệu Tướng
thì lại khác. Trong túi ông ta đã có cả đống binh phù thế mà vẫn muốn
thò tay vào túi Hoàng Đế, tay quá dài rồi.

Chuyện này nói lớn thì lớn, nói nhỏ thì nhỏ, đều tùy vào Hoàng Đế. Có điều nếu Hoàng Đế cho là nhỏ thì đã chẳng nói ra. Hoàng Đế mở miệng rồi, ai ai cũng biết đó
chẳng phải là chuyện nhỏ nữa.

Ánh mắt của người trong phòng đều đổ lên người Triệu Lam Kiều.

Chậu nước dơ này Hoàng Hậu hất thật là khéo, cả Triệu Tướng đang ở tận Tây Lạt cũng bị dính mấy phần.

Gương mặt kiều diễm của Triệu Lam Kiều đã xám nghoét từ bao giờ. Đôi môi xinh đẹp khẽ mấp máy nhưng không phát ra tiếng, muốn nói lại thôi.

Nếu bây giờ thấy chết không cứu, e sau này Tĩnh Tổng đốc sẽ trở mặt. Thông
dâm là tội tày đình, ảnh hưởng danh dự toàn gia tộc, Tĩnh Tổng đốc tuyệt đối không chịu để yên đâu. Tây Lạt dù sao cũng là địa bàn của ông ta,
Triệu Tướng đóng quân ở đó, có rất nhiều việc phải nhờ đến Tĩnh thị,
thực sự không nên đối đầu. Nhưng nếu bây giờ nói nữa không chừng cả
Triệu Tướng cũng gặp chuyện phiền phức. Triệu Tướng quyền khuynh thiên
hạ nhưng người ngồi trên ngai vàng là Hoàng Đế, ông ta có thể làm rất
nhiều chuyện mờ ám sau lưng nhưng trước mặt Hoàng Đế vẫn phải cúi đầu.
Chọc giận Hoàng Đế lúc này chẳng ích lợi gì.

Phen này Triệu Lam
Kiều thực đã rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, từ xa ta cũng có thể nhìn thấy tay áo nàng ta đang rung lên từng chập.

Nhìn tình thế này, ta chợt hiểu ra Hoàng Hậu bình thản như thế hẳn là vì đã đoán được thánh ý.

Triệu Tướng thâu tóm quân quyền đã lâu, nay Hoàng Đế đã thành niên nhưng ông
ta lại chẳng có ý định giao trả. Dựa vào tính khí của Hoàng Đế làm sao
không bất mãn trong lòng? Nay Hoàng Hậu giá họa cho Tĩnh Tâm Lan còn cố ý lôi cả Triệu Tướng vào cũng chính là tạo thời cơ cho Hoàng Đế, hắn nhất định không để lỡ dịp chặt đứt một cánh tay của Triệu Tướng.

Ngược lại nếu làm trái ý Hoàng Đế, cho dù chứng cứ có chu toàn đến đâu thì mọi việc cũng chẳng ổn thỏa cho được.

Đầu óc Triệu Lam Kiều rất linh hoạt. Nàng ta là người thức thời, sau một
hồi cân nhắc bèn rời ghế, nhấc váy quỳ xuống chân Hoàng Đế:

“Hoàng thượng… phụ thân của thần thiếp chỉ là nể tình đồng liêu với Tĩnh Tổng
đốc cho nên mới giúp đỡ tên Tĩnh Ưng đó, cũng chỉ là một chân gác cổng
thành mà thôi… Thực ra hai nhà Tĩnh – Triệu cũng không tính là thân
thiết, nếu có ẩn tình gì, phụ thân thiếp không thể biết được… Hoàng
thượng, chuyện này phụ thân thiếp thực sự vô can…”

Triệu Lam Kiều đã đưa ra lựa chọn của mình. Nàng ta vừa giãi bày, nước mắt vừa rơi đầy mặt, lại bày ra bộ dạng “hoa lê đẫm mưa”, lời nói nghẹn ngào đáng
thương nhưng lại chặt chẽ đến kinh ngạc. Ban nãy ý Hoàng Đế trách Triệu
Tướng quá phận. Khi Triệu Lam Kiều đáp lại hoàn toàn tránh đi ý này, chỉ tập trung vào việc của Tĩnh Tâm Lan, tỏ ra phụ thân nhà mình vô cùng
ngây thơ vô tội.

Tĩnh Tâm Lan nhận ra Triệu Lam Kiều đã quyết
định phủi tay, vừa sợ vừa giận, vùng khỏi tay hai tên thái giám, chực
lao đến chỗ Triệu Lam Kiều:

“Đức phi! Đức phi! Người không thể nói thế được! Cái gì mà ‘ẩn tình’? Nhà ta nào có ẩn tình gì?…”

Người ở xung quanh nhất thời không phản ứng kịp, Tĩnh Tâm Lan dường như đã
phát điên, túm chặt lấy cổ áo Triệu Lam Kiều, chẳng còn kiêng dè gì:

“A! Ta biết rồi! Tên cẩu tặc đó từng ở dưới trướng phụ thân ngươi, nhất
định chuyện này do các ngươi bày ra để hãm hại ta! Các ngươi săn được
thỏ rồi thì liền muốn giết chó săn, có phải không? Đức phi! Ta nói cho
ngươi biết, không dễ như thế đâu… phụ thân ta sẽ không tha cho các ngươi đâu… Đừng tưởng nhà ta sợ các ngươi… Đồ tiện nhân…”

Triệu Lam Kiều bị Tĩnh Tâm Lan túm cổ mắng chửi ầm ĩ nhưng chẳng hề phản kháng, cũng không đáp lại.

Có thể nhìn thấy Triệu Lam Kiều bị mắng thậm tệ như thế, những nữ nhân ở
đây, ngoại trừ Liễu Yến Yến đang cười đến rạng ngời, mấy người còn lại
dù không lộ vẻ vui mừng nhưng ai nấy đều mang một nét mặt thư thái.

Hoàng Hậu để Tĩnh Tâm Lan mắng đã miệng rồi, mới xua tay:

“Thật chẳng còn thể thống gì nữa! Các ngươi không mau cản Tĩnh thị lại, ngộ nhỡ để Đức phi bị thương thì sao?”

Hai tên thái giám nãy giờ bị sự điên loạn của Tĩnh Tâm Lan dọa cho ngây
người, giờ mới sực tỉnh, vội chạy tới kéo nàng ta ra. Tĩnh Tâm Lan sống
chết không chịu buông Triệu Lam Kiều. Hai bên giằng co một hồi mới khống chế được Tĩnh Tâm Lan, hai mắt nàng ta vằn đỏ, trông vô cùng dữ tợn còn Triệu Lam Kiều sau một trận dây dưa, bây giờ váy áo xộc xệch, trâm cài
cũng bị lệch đi mấy cái làm cho búi tóc gần như muốn tuột ra, thực là
thảm hại.

Hoàng Hậu liếc mắt ra hiệu, hai tên thái giám lập tức
hiểu được, nhanh chóng trói nghiến Tĩnh Tâm Lan lại. Nàng ta muốn hét
lên, liền bị nhét giẻ vào miệng, chỉ đành nằm vật dưới sàn giãy dụa.

Thường ngày Tĩnh Tâm Lan ỷ được sủng ái, xuất thân thế gia lại có Triệu Lam
Kiều chống lưng, kiêu ngạo biết bao nhiêu. Ba năm ở hậu cung không biết
đã chà đạp lên bao nhiêu người, ngay cả công chúa hòa thân như ta Tĩnh
Tâm Lan cũng chẳng kiêng dè. Không ngờ cũng có ngày trở thành cá nằm
trên thớt, chỉ còn có thể giãy chết như vậy. Tuy thường ngày nàng ta
luôn chèn ép ta, nhưng cảnh tượng này thực quá mức thảm thương. Ta cuối
cùng không dám nhìn nữa, bèn cúi đầu vờ uống trà.

Bấy giờ, Hoàng Đế mới bật cười:

“Trẫm chỉ nói vậy thôi, đâu có ý gì. Đức phi làm gì mà căng thẳng thế?”

Triệu Lam Kiều không dám đáp, chỉ cố gắng cúi lạy thật thấp, không ngẩng đầu lên nữa.

Hoàng Hậu cũng cười, nói với Hoàng Đế:

“Chuyện này dù sao cũng không liên can đến Đức phi. Mặt đất lạnh lẽo, đừng nên để muội ấy quỳ lâu quá.”

Hoàng Đế mỉm cười rất ăn ý với Hoàng Hậu:

“Cũng là nàng chu đáo.”

Cung nữ thân cận của Triệu Lam Kiều nghe được lời này liền nhanh chân bước
ra đỡ nàng ta. Triệu Lam Kiều không rõ là do lạy đến váng cả đầu hay là
bị Tĩnh Tâm Lan dọa sợ mất hồn, hai chân loạng choạng, nghiêng ngả mãi
mới về được chỗ cũ.

Hoàng Hậu tặc lưỡi, thở dài:

“Chuyện nay đã rõ, chứng cớ đầy đủ, không còn nghi vấn gì. Hoàng thượng, chuyện này người định xử lý thế nào?”

Hoàng Đế cười nhạt, thản nhiên nói:

“Tu Dung Tĩnh thị không đủ hiền đức, làm trái Nữ Huấn, dâm loạn Hậu cung,
bất trung với Trẫm, tội đáng lăng trì. Trẫm rất đau lòng, nhưng nghĩ
tình Tĩnh thị hầu hạ trẫm mấy năm, nay tước bỏ phẩm vị Tu dung, ban ba
thước lụa trắng, ân chuẩn được chết toàn thây.”

Tĩnh Tâm Lan bị lôi đi chờ chết.

Lần này Hoàng Hậu thắng lợi rực rỡ.

Hoàng Đế cùng Liễu Yến Yến vui vẻ trở về điện Cát Tường.

Triệu Lam Kiều mặt mũi trắng nhợt, liêu xiêu hồi cung.

Mấy người còn lại như ta, Trịnh Vân Anh và Minh phi cũng lần lượt cáo từ.

Từ đại điện Triêu Lan cung ra đến bên ngoài là cả một quãng đường dài.
Minh phi ý tứ, từ biệt rồi cố gắng đi nhanh để lại ta và Trịnh Vân Anh
song song rảo bước. Nô tỳ hai bên cũng lùi về phía sau.

Suốt từ
lúc bước chân ra khỏi đại điện, Trịnh Vân Anh cứ thẫn thờ mãi. Ta kiềm
lòng không đặng, bèn nắm lấy tay muội ấy, khẽ nói:

“Tiểu Anh, xin lỗi muội.”

Trịnh Vân Anh giật mình, ngước nhìn ta:

“Tỷ tỷ nói gì vậy?”

Ta mỉm cười buồn bã:

“Tỷ biết, là vì tỷ cho nên muội mới phải làm trái lòng mình…”

Trịnh Vân Anh gượng cười yếu ớt:

“Tỷ đừng nghĩ vậy. Muội dĩ nhiên phải bảo vệ tỷ. Đừng nói ngày thường nàng
ta luôn ức h**p người khác… Chỉ là, với nữ tử mà nói… tội đó thực sự quá nặng nề…”

Ta siết lấy bàn tay nhỏ bé của Trịnh Vân Anh:

“Tiểu Anh, muội quên rồi sao? Ngày trước Diệu Hoa cũng bị oan.”

Nhắc tới Bạch Diệu Hoa, Trịnh Vân Anh ngẩn ra một chút rồi bật cười nhưng khóe mắt lại hoen lệ:

“Phải. Diệu Hoa tỷ cũng từng bị oan còn suýt mất mạng, liên lụy đến cả tỷ tỷ… Sao muội lại có thể quên nhỉ?”

Nói đoạn, muội ấy nắm lấy tay ta bằng cả hai tay, thành khẩn nói:

“Bất luận là chuyện gì, muội cũng tin tưởng tỷ và đại tỷ.”

Ánh mắt của Trịnh Vân Anh nhìn ta lúc đó trong sáng, thuần khiết đến mức ta có nằm mơ cũng chẳng thể ngờ chỉ mấy năm sau thôi, trong đôi mắt này sẽ chỉ còn lại bóng tối âm u.

***

Hoàng Đế đã khẩu dụ ban
chết cho Tĩnh Tâm Lan, nàng ta liền bị nhốt vào Tông Nhân phủ, theo lệ
chờ đủ ba ngày mới thụ hình. Những người hầu hạ nàng ta đều bị vạ lây,
kẻ thân cận như Đông Tú thì bị đày đi biên ải, những người khác thì trả
về Thượng Cung cục làm việc nặng.

Lý Thọ phát huy trí nhớ siêu
phàm, chép lại khẩu dụ của Hoàng Đế truyền đi lục cung, sáng nay cũng
đến cung ta đọc thêm một lần. Tới đoạn “trẫm rất đau lòng” ta nghe mà
phải mím chặt môi cho khỏi bật cười.

Lần này Hậu cung đấu đá,
Hoàng Đế làm ngư ông đắc lợi, không tốn chút công sức mà có thể chặt
phăng một cánh tay đắc lực của Triệu Tướng, hắn không cười lăn lộn thì
thôi lại còn “trẫm rất đau lòng”. Đúng là nói dối không chớp mắt.

Nghe đâu huynh trưởng của Tĩnh Tâm Lan nghe tin dữ, không kiềm chế được đã
xông vào Ngự thư phòng muốn nói lý lẽ với Hoàng Đế. Hoàng Đế nổi xung
lên suýt nữa là đòi chém cả người này. May mà khi ấy đang có mấy vị đại
thần khác ở đấy, kịp thời can ngăn nên họ Tĩnh kia chỉ bị nện cho hai
mươi trượng, lột mũ ô sa, đuổi về Tây Lạt.

Ta nghe xong cũng
không lấy làm lạ. Hoàng Đế muốn triệt để hủy hoại mối quan hệ của hai
nhà Tĩnh – Triệu làm sao có thể buông tha cho trưởng tử Tĩnh thị? Cho dù hắn không tìm Hoàng Đế gây sự, Hoàng Đế sớm muộn gì cũng động vào hắn
thôi. Chỉ bị đánh một trận rồi bãi chức đã có thể xem là Hoàng Đế khai
ân rồi. Tĩnh đại thiếu gia bị đuổi về Tây Lạt, Tĩnh Tổng đốc chẳng còn
vướng bận sẽ có thể toàn tâm toàn lực đấu một trận sống mái với Triệu
Tướng gia. Nhìn xem, con gái bị xử tử vì tội dâm loạn, con trai bị cách
chức mất cả tiền đồ. Mà những việc này căn nguyên đều từ một tên Tĩnh
Ưng – kẻ từng là thuộc hạ của Triệu Tướng vu hại. Tĩnh Tổng đốc nuốt nổi mối hận này mới lạ.

Ba ngày trôi qua rất nhanh, ngày Tĩnh Tâm Lan phải thụ hình cũng đã đến.

Ngọc Thủy là người báo tin này cho ta:

“Bẩm chủ nhân, đã quá nửa canh giờ rồi mà Tĩnh thị vẫn chưa chịu thụ hình, vẫn còn đang chửi mắng chủ nhân đấy ạ!”

Khi đó ta đang ngồi trong Đông viện học đàn với Bạch Diệu Hoa. Bạch Diệu Hoa nghe thế nhíu mày hỏi:

“Ở Tông Nhân phủ ba ngày rồi mà vẫn còn sức mắng người sao?”

Ngọc Thủy lau mồ hôi trên trán, bất đắc dĩ đáp:

“Đúng thế ạ. Tĩnh thị đòi gặp chủ nhân, còn bảo không gặp được thì nhất quyết không chịu chết. Phải làm sao đây chủ nhân?”

Ta chẳng buồn ngẩng lên, ánh mắt vẫn rơi trên bộ móng gảy đàn bằng gỗ chạm tinh xảo trên tay mình. Móng gảy đen tuyền, tương phản với ngón tay
trắng ngần. Khẽ lật bàn tay lại, lộ ra mười đầu ngón tay mềm mại trơn
tru, chẳng có chút dấu vết nào, cứ như cái lần đàn đến hai tay tứa máu
kia chỉ là một giấc mơ.

“Cứ mặc nàng ta.”

Nói đoạn ta khẽ vuốt ngón trỏ qua mấy sợi dây đàn làm vang lên mấy tiếng vui tai.

Ngọc Thủy gật gật đầu nhưng vẫn chưa hết bất bình:

“Nhưng ả chửi khó nghe quá… Nô tỳ nghe nói… Ả… ả còn dám bảo có thành cô hồn dã quỷ cũng sẽ tìm chủ nhân báo thù…”

Ta không khỏi bật cười:

“Nàng ta sắp chết rồi, hà tất phải so đo?”

Ngoài ra nếu Tĩnh Tâm Lan thật sự muốn hiện hồn về tìm ta báo oán thì đành
phải xếp hàng thôi. Hơn một trăm người từng bị ta làm liên lụy mà mất
mạng ngày trước không chừng cũng đang xếp hàng đợi báo oán ta đây. Tĩnh
Tâm Lan sẽ còn phải đợi rất lâu.

Qua ngày hôm nay Hậu cung chẳng
còn nữ nhân tên gọi Tĩnh Tâm Lan nữa. Ta cứ nghĩ Tĩnh Tâm Lan vong mạng
rồi Bạch Diệu Hoa sẽ thấy vui vẻ một chút, dẫu sao cũng là xả giận cho
nỗi oan ức, nhục nhã mà nàng từng phải chịu. Thế nhưng Bạch Diệu Hoa lại chẳng có phản ứng gì. Nàng nói:

“Mất đi một Tĩnh thị, rồi sẽ lại có thêm người khác thế vào. Ở đây không thiếu người muốn bợ đỡ Đức phi
hòng tiến thân như Tĩnh thị. Đối với Đức phi chẳng qua cũng như đổi một
quân cờ thôi. Chừng nào vẫn còn Đức phi muội chẳng thể vui được.”

***

Hậu cung vốn là một vườn hoa bạt ngàn. Sóng sau xô sóng trước là việc khó
tránh. Những lời của Bạch Diệu Hoa, ta cũng hiểu. Chỉ không ngờ mấy lời
này qua miệng nàng lại ứng nghiệm nhanh như thế.

Tĩnh Tâm Lan vốn chẳng được lòng ai, nàng ta chết đi thiên hạ hả hê được đôi ngày nhưng
cũng nhanh chóng quên đi. Bởi vì trong Hậu cung lại xuất hiện một nhân
vật khác.

Lời đồn kể rằng một ngày đẹp trời nọ, Hoàng Đế tình cờ
đi ngang Ngự hoa viên chợt bắt gặp một mỹ nhân đương đứng cạnh một thảm
hoa tươi đẹp. Mỹ nhân mình hạc xương mai, vóc dáng yểu điệu, trên người
tỏa ra hương thơm quyến rũ, xung quanh nàng ta lúc nào cũng có bươm bướm bay lượn dập dềnh, vô cùng diễm lệ.

Thực ra chuyện gọi bướm chỉ
là trò vặt, dùng một loại hương liệu đặc chế thoa lên người để thu hút
bươm bướm mà thôi. Trong số các phi tử của phụ hoàng ta cũng có người
từng dùng đến thuật này nên ta không ngạc nhiên lắm. Ngay cả Ngọc Nga
cũng từng thấy ở ngoài cung rồi. Chỉ đến khi Ngọc Thủy nói ra tên của vị giai nhân đó ta mới lên cơn đau tim:

“Cái gì? Ngươi nói cái gì? Quách Ngữ? Là Phương uyển Quách thị đấy ư?”

Ngọc Thủy cắn răng, giận dữ dậm chân:

“Là nàng ta đấy! Có điều bây giờ đã được Hoàng Thượng thăng lên hàng Uyển nghi rồi!”

Ta choáng váng vịn vào Ngọc Nga, lắp bắp:

“Không thể nào…”

Ta nhớ rõ Quách Ngữ rất béo tốt, sao bây giờ lại hóa thành mỹ nhân mình
hạc xương mai, vóc dáng yểu điệu rồi? Chỉ mới có mấy tháng thôi mà?

Ngọc Nga cũng sợ hãi, đỡ ta ngồi hẳn xuống sạp:

“Có lẽ là đồn thổi phóng đại lên thôi…”

Ta lắc đầu, xua tay:

“Từ Phương uyển thăng ngay lên Uyển nghi, vượt đến bốn cấp. Nếu chỉ là đồn thổi thì đã không được lòng Hoàng thượng như vậy.”

Ngọc Thủy thở dài thườn thượt:

“Phen này thì phiền phức rồi. Ngày trước chủ nhân từng trách phạt nàng ta…
Quách Uyển nghi là người nhỏ nhen nhất định sẽ tìm cách hãm hại chủ nhân cho mà xem.”

“Không sớm không muộn, lại chọn đúng thời điểm này mà xuất hiện. Sao khéo thế được?”

“Ý chủ nhân là…”

“Đi Triêu Lan cung. Ta phải thỉnh giáo Hoàng Hậu mới được.”

Ta chẳng quản mưa gió, ôm một bụng ngờ vực đi đến Triêu Lan cung quả nhiên nhận được câu trả lời không ngoài dự đoán.

Quách Ngữ là người của Triệu Lam Kiều.

“Chỗ Quách Ngữ gặp Hoàng thượng là đoạn đường khuất, phi tử thường chẳng ai
tới đó ngắm hoa cả. Hoàng thượng thích yên tĩnh cho nên mới chọn đi đoạn đường đó.”

Hoàng Hậu thích trà đạo, thường tự mình pha trà, xem
là thú tiêu khiển. Ta đến đúng lúc Hoàng Hậu đang pha loại trà mới, nói
đến đây thì trà cũng vừa ngấm, nàng liền rót cho ta một chén.

Ta nâng ly trà lên ngang mũi, hít nhẹ một hơi:

“Chẳng phải vô ý thì là hữu tình.”

Hoàng Hậu mỉm cười, tự nhấp một ngụm trà:

“Bản cung vốn không chú ý đến Quách thị mấy. Sau khi xảy ra chuyện mới cho
người đi điều tra, thì ra ngay sau lúc Quách thị bị giáng chức thì Đức
phi đã liên hệ với nàng ta rồi. Cung nữ Hồng Diệp ở chỗ Đức phi cứ ba
bốn ngày lại đến thăm Quách thị một lần, giao tình hẳn là tốt.”

Uống lấy một hớp trà nóng, trong lòng cũng ấm áp lên đôi chút, ta nói:

“Muội chỉ không hiểu, Quách thị làm thế nào trong thời gian ngắn như thế lại có thể hoàn toàn thay hình đổi dạng?”

Hoàng Hậu chậm rãi đặt ly trà đang cầm xuống, bàn tay trắng nõn khẽ phe phẩy
đùa nghịch với làn khói tỏa lên từ ly trà, cười nhẹ:

“Đức phi
luôn luôn làm được nhiều chuyện hay ho. Người ở Sương đình nói với ta,
ngày nào Quách thị cũng uống một chén dấm lớn, cách mỗi hai canh giờ lại uống thêm một chén nước chanh pha loãng, còn dùng nhiều loại thuốc kì
quái gì đó nữa.”

Ta nghe mà ớn lạnh, nhăn mặt nói:

“Quách
thị vì sao lại liều mạng như vậy chứ? Dùng cách này tùy rằng có thể tu
sửa vóc dáng, nhưng sẽ hại đến lục phủ ngũ tạng không thể cứu vãn. Muội
không ngờ Quách thị to gan như vậy.”

Hoàng Hậu cười đáp:

“Nàng ta không muốn to gan cũng phải to gan. Năm sau đã đến kỳ tuyển tú rồi.
Nữ tử vào cung ba năm mà chưa được một lần sủng hạnh, lại từng gây
chuyện để bị giáng chức thì sau này có thể sống thế nào? Thế nhưng nói
như vậy, muội cũng không tò mò vì sao nàng ta lại gọi được bươm bướm à?”

Ta lắc đầu:

“Không ạ. Trước kia, trong hậu cung của phụ hoàng muội cũng từng có một nương
nương dùng cách này tranh sủng. Muội nhìn thấy rồi.”

Hoàng Hậu tỏ vẻ hiếu kì:

“Cuối cùng bà ấy thế nào? Tranh được bao nhiêu sủng?”

Ta thành thật trả lời:

“Cuối cùng người đó chết rất khó coi.”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 42


Chuyện Quách Ngữ một bước lên mây khiến cho Hậu cung mà Hoàng Hậu mất bao tâm huyết mới ổn định được lại loạn hết cả lên.

Người khởi xướng làm loạn chẳng ai khác ngoài Liễu Yến Yến.

Lâu nay nàng ta là đệ nhất sủng phi, được yêu chiều hơn cả. Dù Hoàng Đế
cũng coi trong Triệu Lam Kiều, nhưng vẫn không bằng được Liễu Yến Yến.
Liễu Yến Yến nhẫn nhịn Triệu Lam Kiều một phần vì thấy Hoàng Đế không
thích Triệu Lam Kiều bằng mình, một phần là do e ngại Triệu thị. Thế
nhưng bây giờ một kẻ tầm thường như Quách Ngữ cũng muốn tranh sủng với
nàng ta, lại còn tranh rất thành công khiến Liễu Yến Yến không nhịn nổi
nữa, quả nhiên đã náo loạn cả lên, chỉ cần gặp Quách Ngữ ở đâu liền bắt
phạt ở đó. Số tơ lụa Phong tộc kia Liễu Yến Yến dùng không được, tức
giận mà không có chỗ xả, bây giờ đều dồn hết lên đầu Quách Ngữ. Đám
người Dương Quý cơ, Tiệp Chiêu nghi, Quỳnh Thục nghi… thấy vậy cũng hùa
vào khó dễ Quách Ngữ. Quách Ngữ là người thế nào? Mối nhục này nàng ta
dĩ nhiên không chịu nuốt một mình, chẳng biết nhỏ to gì bên tai Hoàng Đế mà những người từng kiếm chuyện với nàng ta ngoại trừ Liễu Yến Yến ra,
lần lượt đều bị trách phạt. Hành động của Hoàng Đế chẳng những không
bình ổn được Hậu cung mà còn khiến lòng người thêm oán hận, Hậu cung
càng lúc càng loạn. Thêm vào Quách Ngữ kia dung mạo thay đổi nhưng tính
tình vẫn vậy, luôn tìm cớ ức h**p những người chức vị nhỏ hơn, như Liên
Nhạc và Du thị chẳng hạn. Liên Nhạc yếu đuối trước nay đều nhẫn nhịn,
Quách Ngữ trút giận thỏa rồi cũng cho qua. Chẳng như Du thị đã có tư
thù, lại dám chống đối Quách Ngữ, thế là bị nàng ta sai người phạt
trượng từ sáng đến trưa, chẳng biết đã thảm đến mức nào. Sự ngang ngược
của Quách Ngữ giống như thêm dầu vào lửa. Đã lập thu rồi mà không khí ở
đây lúc nào cũng như đang sôi sục.

Dựa vào tính tình của Quách
Ngữ chắc chắn không trụ được lâu, nhưng mấy tháng này nàng ta cũng gây
đủ phiền phức cho Hoàng Hậu. Hoàng Hậu trong lòng tức giận, chỉ là vừa
rồi đã trừ bỏ Tĩnh Tâm Lan, giờ là lúc cần tỏ ra hiền đức để Hoàng Đế
được đẹp lòng cho nên tạm thời chưa làm gì được Quách Ngữ.

“Đức phi giỏi lắm!”

Hoàng Hậu dằn mạnh chung trà xuống bàn khiến nước trà văng ra tung tóe.

Ta không thường thấy Hoàng Hậu giận đến như vậy, lòng hơi hoang mang vội
lấy khăn tay ra lau mấy vệt nước trà bắn lên tay Hoàng Hậu, đồng thời
nói:

“Không ngờ Đức phi lại chọn bồi dưỡng Quách Ngữ. Nhưng để Quách Ngữ ra mặt lúc này thực không phải là một lựa chọn khôn ngoan.”

Hoàng Hậu cười nhạt:

“Tĩnh thị đã trở mặt với Triệu thị rồi. Từ đó đến nay Tĩnh Tổng đốc mỗi ba
ngày lại gửi một bản tấu chương tố cáo tội ác của quân Triệu Tướng, nào
là ỷ thế ức h**p dân lành, nào là cướp của giết người, nào là c**ng b*c
dân nữ, không thiếu tội gì. Triệu Tướng quản thuộc hạ không nghiêm đã bị Hoàng Thượng trách phạt ngay trên triều. Đám thuộc hạ phạm lỗi kia đều
bị xử tử, trong đó còn có cả họ hàng Triệu thị. Chuyện lớn đến mức này
Đức phi không hận ta đến tận xương tủy mới lạ. Nàng ta bây giờ e chỉ
muốn quậy phá cho ta không được yên thân.”

“Quách Ngữ này cũng
thật quá đáng. Nàng ta nên biết trân trọng cơ hội của mình mới phải. Sao có thể suốt ngày gây chuyện như thế?!”

Lau tay cho Hoàng Hậu xong, ta lặng lẽ gấp gọn khăn tay nhét lại vào trong tay áo, sau đó rót lại cho nàng một chung trà khác.

Hoàng Hậu cắn môi, lộ vẻ bất đắc dĩ:

“Quách thị không có giáo dưỡng thì thôi, ai ngờ ngay cả Dương Quý cơ cũng hùa
vào làm loạn. Kết cục thế nào? Thân là Quý cơ nhị phẩm mà lại bị trách
phạt vì một Uyển nghi lục phẩm, chẳng ra thể thống gì. Cả Giang Tần cũng thế! Thật khiến ta tức chết mà…”

Ta thấy Hoàng Hậu đã giận đến muốn bốc khói, vội vàng dâng trà lên cho nàng ta hạ hỏa:

“Tỷ tỷ, uống chút trà… Đừng nóng giận kẻo hại đến phượng thể. Tính cách của Quách thị như thế khó trách bọn họ nhất thời nóng nảy.”

Dương
Quý cơ ngu dốt chuốc họa vào thân ta đương nhiên vui vẻ trong lòng. Thế
nhưng nàng ta dẫu sao cũng là người của Hoàng Hậu, ở dưới trướng Hoàng
Hậu trước ta, lại còn ràng buộc gia tộc hai bên. Hoàng Hậu dù mắng nàng
ta nhưng thực lòng cũng không muốn nàng ta gặp họa. Ta vì vậy không thể
vui mừng ra mặt, nên chỉ nói mấy câu ngọt nhạt như vậy.

Hoàng Hậu thở hắt ra:

“Cũng may còn có muội muội.”

Ta cũng khẽ thở dài:

“Dương Quý cơ và Giang tần rốt cuộc cũng chỉ bị cấm túc vài ngày, để bọn họ an tĩnh ít lâu cũng tốt. Chỉ tội cho Liên Tuyển thị và Du Thường tại. Nhất là Du Thường tại ấy, nghe nói đến nay vẫn chưa ngồi dậy được.”

Hoàng Hậu mỉm cười, nhẹ nhàng trấn an ta:

“Muội đừng lo. Ta đã cho người mang thuốc đến cho Du thị, cũng gửi ít quà đến an ủi bọn họ rồi.”

Nghe Hoàng Hậu nói thế, ta bèn thở phào nhẹ nhõm. Du thị kết oán với Quách
thị cũng một phần do ta khơi mào. Du thị lại vì vậy mà gặp họa đến nông
nỗi này trong lòng ta không sao yên được, nên mới muốn nhân dịp này nhắc Hoàng Hậu một tiếng. May mà Hoàng Hậu cũng không đến nỗi vô tâm. Có
Hoàng Hậu ra mặt, Quách thị chắc sẽ không dám đuổi cùng giết tận nữa.

Ta nhìn Hoàng Hậu đầy cảm kích, thành thật nói:

“Nếu không phải vì muội, Du thị cũng sẽ không đắc tội Quách thị. Nay muội vô sự mà Du thị lại ra nông nỗi này, muội rất áy náy. Quách thị muốn trả
thù xưa lẽ ra nên tìm muội mới phải…”

Hoàng Hậu nghe ta nói chưa hết câu đã bật cười, vỗ vỗ vai ta:

“Không phải Quách thị không muốn tìm muội đâu. Chẳng qua vì chức vị của muội
cao hơn ả, lại ít khi ra ngoài, ả không kiếm chuyện với muội được cho
nên đã tìm cách nói xấu muội với Hoàng Thượng đấy.”

Tin này ta mới nghe lần đầu, liền hỏi:

“Thật vậy sao? Muội sao lại chẳng biết gì?”

Hoàng Hậu cười cười đáp:

“Hoàng Thượng nghe Quách thị nói xong liền nổi giận, phạt ả quỳ hai canh giờ,
còn lệnh rằng sau này không được nói năng xằng bậy nữa. Vì vậy nên mới
không có ai truyền ra ngoài.”

Ta lấy làm kinh ngạc, không thể
hiểu nổi Hoàng Đế vì sao lại bảo vệ mình như vậy. Song lại chợt nhớ ra,
ta gây thù với Quách Ngữ cũng vì bảo vệ Liên Nhạc. Hoàng Đế có lẽ là
nghĩ đến Liên Nhạc mà thôi.

Hoàng Hậu chợt nói:

“Lần trước ta nhớ muội vẫn chưa kể xong chuyện của vị nương nương dùng thuật gọi
bướm ở Tùy Khâu. Bây giờ hãy kể tiếp đi, người đó rõ ràng rất được sủng
ái vì sao lại chết khó coi như thế?”

Vẻ mặt Hoàng Hậu rất vô tư, cứ như thực sự có hứng nghe chuyện cũ.

Ta cúi đầu, chậm rãi đáp:

“Bà ấy có thể nói là “thành vì loài bướm, cũng bại vì loài bướm”. Sau cùng
trúng độc phấn trên cánh bướm, toàn thân mọc đầy mụn độc như da cóc, lở
loét thấu xương, chết trong đau đớn.”

Sự việc xảy ra khi ta mười
sáu tuổi, tính đến nay đã hơn bốn năm rồi nhưng hình ảnh cuối đời của Hồ Điệp phu nhân – cách phụ hoàng từng gọi người đó – vẫn in sâu trong tâm trí ta.

Hoàng Hậu kinh ngạc hỏi:

“Thực khó coi đến mức đó sao? Muội sao lại biết rõ như thế?”

Ta mỉm cười buồn bã:

“Bà ấy không phải người xấu. Chẳng qua vì được sủng ái quá nên thành ra
chướng mắt kẻ khác thôi. Bà ấy từng cho muội thức ăn, có lúc muội bị
phạt bà ấy còn nói đỡ hộ muội nữa kìa. Đó dù sao cũng là một trong số ít người từng đối tốt với muội, cho nên muội mới lén tìm hiểu cái chết của bà ấy. Muội không thân không thế, thực ra chẳng làm được gì nhiều, chỉ
có thể âm thầm để ý nhiều việc một chút.”

Thấy Hoàng Hậu chăm chú lắng nghe, ta dù không muốn nhắc lại vẫn phải cố nói tiếp:

“Khi phụ hoàng của muội sủng ái bà ấy đã tặng cho bà ấy một cung điện lớn,
bên trong trồng trăm loại hoa, lại tuyển riêng một đội cung nữ chăm sóc
số hoa này. Sau khi bà ấy mất, muội vô tình gặp một người trong đội cung nữ đó, lại thấy tay nàng ta cũng có nổi mấy cái mụn giống như bà ấy
nhưng không nghiêm trọng bằng. Thế là muội sinh nghi, cố tìm gặp những
người còn lại, đều thấy trên thân thể bọn họ đều có một vài cái mụn như
vậy. Để xác định nghi ngờ trong lòng, muội bèn lẻn vào cung điện cũ của
bà ấy ngắt vài bông hoa về xem xét. Khi ấy có một con bướm vô tình đậu
lên tay muội. Khi muội trở về, chỗ da thịt bị con bướm kia đậu vào tự
nhiên nổi mẩn đỏ ngứa ngáy, hôm sau mọc lên một cái mụn y hệt. Muội liền hiểu ra phấn trên cánh bướm có độc. Vị nương nương kia mỗi ngày đều
tiếp xúc với rất nhiều bướm, khó tránh trúng độc nguy kịch.”

Nói
đoạn, ta kéo tay áo lên đưa cho Hoàng Hậu xem, trên cổ tay ta vẫn còn
một vết sẹo tròn hơi dài như hạt đậu đỏ, màu nâu nhạt, chính là vết tích còn lại của cái mụn kia.

Hoàng Hậu kinh hãi sờ sờ tay ta:

“Đến giờ vẫn còn sẹo sao?”

Ta gật đầu, nói tiếp:

“Đó là mụn độc, chân mụn khoét sâu rất khó lành. Cũng may muội chỉ dính một chút phấn độc, da thịt muội lại bẩm sinh lành tính nên mới chỉ để lại
một vết sẹo nhạt như thế. Muội từng có cơ duyên học được chút ít y
thuật, sau khi nghiên cứu kĩ lưỡng mấy bông hoa ngắt về, lại xem kĩ mụn
độc trên tay mới phát hiện ra có người đã hạ độc vào trong hoa, bướm hút mật hoa cũng thành bướm độc.”

Hoàng Hậu buông tay ta ra, trầm ngâm nói:

“Thật đáng sợ. Tâm tư thâm sâu như thế, không biết là cao nhân phương nào…”

Ta lắc đầu, cười buồn:

“Muội muội vô dụng, chỉ tra được đến đó. Những chuyện còn lại dính dáng đến nhiều nương nương khác, muội hữu tâm vô lực.”

Hồ Điệp phu nhân đối tốt với ta mà ta lại chẳng thể giúp gì được cho bà.
Vốn muốn làm rõ cái chết của bà nhưng cũng chẳng thể thực hiện được.
Trong đầu cứ chập chờn hình ảnh của bà lúc cuối đời, người không ra
người, quỷ không ra quỷ, phụ hoàng ghê tởm chẳng thèm nhìn tới, đám cung nữ cũng tránh như tránh tà, cuối cùng chỉ còn mình ta lén tới thăm bà.
Nhìn bà nằm thoi thóp trên giường, da thịt trắng trẻo nõn nà chẳng còn
đâu, chỉ thấy một thân bê bết máu mủ tanh hôi, ta chỉ biết ngồi khóc.

Câu nói cuối cùng ta nghe được từ bà là “Đại công chúa, ta đau quá…”

Hoàng Hậu cũng nhận thấy nỗi bi thương của ta. Nàng nắm lấy tay ta, ôn tồn khuyên nhủ:

“Muội muội có lòng, bà ấy sẽ hiểu, không cần phải tự trách mãi như thế. Dù sao muội cũng đã cố gắng hết sức rồi.”

Ta hít sâu lấy một hơi, cố dẹp qua một bên những chuyện không nên nghĩ đến, gật đầu với Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu lại nói:

“Đáng tiếc, Quách thị lại chẳng phải là người tốt…”

Ta tiếp tục gật đầu thêm một cái.

“Nguyệt nhi này, muội nói xem, Quách thị dùng một cách thức như vị nương nương
ấy, liệu có thể nào sẽ có chung một kết cục không?”

Trên đôi môi Hoàng Hậu hiện lên một nét cười thâm sâu. Ta làm sao không hiểu nàng đang nghĩ gì.

“Có thể lắm… Nhưng có lẽ còn phải đợi một thời gian nữa…”

Hoàng Hậu nói chuyện lửng lơ, ta cũng đáp lại một câu lơ lửng. Vậy mà hai
người đều hiểu ý nhau. Hoàng Hậu đã đạt được mục đích, liền cười tươi
tắn:

“Có gì phải vội đâu?”

Ta cười lại với nàng theo thói
quen nhưng trong lòng lại bắt đầu nổi lên sóng gió. Hoàng Hậu không tiện trừ bỏ Quách Ngữ mới muốn mượn tay ta. Nhưng ta lại không muốn xuống
tay…

Dùng độc kế đã hại chết Hồ Điệp phu nhân để hại người khác… Ta làm không nổi.

Lệnh của Hoàng Hậu không thể cãi, nhưng ta nghĩ có lẽ chỉ cần kéo dài một
thời gian nữa, biết đâu Hoàng Đế chán Quách Ngữ thì ta sẽ không cần ra
tay.

***

Buổi đêm hôm ấy, vì nhớ đến Hồ Điệp phu nhân ta
lại ngủ không yên giấc. Đương lúc suy nghĩ miên man thì nghe bên ngoài
náo động, ta giật mình ngồi dậy, chưa kịp hỏi chuyện gì thì Ngọc Nga đã
hốt hoảng chạy vào đỡ ta:

“Chủ nhân ơi, Hoàng Thượng giá đáo! Người mau ra ngoài tiếp giá thôi…”

“Hoàng Thượng sao lại đến vào giờ này…”

“Nô tỳ cũng không biết… Không kịp trang điểm rồi, phải làm sao đây…”

Ngọc Nga cuống quýt chải vội tóc cho ta, chưa xong đã nghe tiếng bước chân
tiến đến rất gần. Ta đành khoác tạm áo ngoài, xỏ guốc mộc, lộc cộc chạy
ra tiếp giá.

Hoàng Đế thong thả bước vào, thấy bộ dạng hớt hải của ta liền cười nói:

“Mới ít lâu trẫm không đến, ái phi đã quên mất nên tiếp giá thế nào rồi ư? Xem ra trẫm phải đến thường xuyên hơn mới được.”

Ta biết hắn đang đùa, nhưng vẫn hành lễ đúng quy củ:

“Thần thiếp tiếp giá chậm trễ, Hoàng Thượng tha tội.”

Hoàng Đế phì cười, chìa tay kéo ta đứng dậy rồi cùng đi vào phòng trong. Khi
Hoàng Đế ngồi ngay ngắn trên sạp gỗ rồi, Ngọc Thủy cũng vừa bưng một
bình trà mới tới. Thấy trán nàng lấm tấm mồ hôi, tay còn hơi run, ta bèn ra hiệu cho nàng lui ra ngoài, tự mình rót trà cho Hoàng Đế.

Trà vừa rót ra, trong phòng liền thoảng hương sen thanh nhã. Hoàng Đế hài
lòng nâng chung trà lên uống cạn một nửa, không quên tán thưởng:

“Trà ngon!”

Tâm tình của Hoàng Đế xem ra không tệ. Ta cũng yên tâm một chút nhưng cũng
chẳng biết nói gì với hắn. Thường ngày, ta có thể tán chuyện với đám
người Ngọc Nga, Ngọc Thủy hoặc Tạ Thu Dung, Bạch Diệu Hoa đến mấy canh
giờ liền, tính ra thì chẳng phải kẻ ít lời. Vậy mà mỗi lần gặp Hoàng Đế, lời lẽ của ta cứ đi đâu hết cả, ta chẳng biết nói gì, cũng chẳng dám
nói gì. Ta nghĩ có lẽ là vì ta quá sợ hắn chăng?

Cũng may, không đợi ta hỏi, Hoàng Đế đã nói trước:

“Hiển quốc vừa tiến cống một ít nho đen, trẫm liền mang qua cho nàng ăn thử.”

Hoàng Đế nói dứt câu, Lý Thọ lập tức cung kính bưng đĩa nho vào. Ta hết nhìn
đĩa nho nhỏ xíu trên bàn lại nhìn sang bộ mặt cười cợt của Hoàng Đế,
lòng dở khóc dở cười. Hoàng Đế thật là giỏi kiếm cớ. Nếu muốn cho ta ăn
cũng đâu cần tự mình mang đến như vậy, cứ để lúc nào cho người đưa tới
mà chẳng được. Đêm hôm khuya khoắt chạy đến chỗ này hẳn là vì không còn
chỗ nào để đi nữa. Hắn đang muốn chèn ép Triệu thị, tất nhiên không thể
đến chỗ Triệu Lam Kiều. Liễu Yến Yến thì đang ghen tuông ầm ĩ, đến chỗ
nàng ta lúc này chẳng khác nào vào hang cọp. Mấy người còn lại đa phần
đều bị hắn phạt rồi. Quách Ngữ hôm nay nghe nói bị Thái Hậu gọi đến hầu
kinh sách, chẳng biết gây ra tội gì mà cũng bị phạt quỳ gối tĩnh tâm một đêm. Tính đi tính lại thì chỉ còn Cẩm Tước cung của ta mà thôi.

Hoàng Đế thấy ta nhìn hắn, bèn cười tủm tỉm hỏi:

“Trẫm nghe nói Tùy Khâu cũng có giống nho đen này, không biết so với Hiển
quốc hương vị thế nào nên đặc biệt đem tới cho nàng. Sao hả? Có thích
không? Cả Hậu cung này chỉ có ba, bốn đĩa thôi đấy.”

Tiểu tử mồm
mép! Muốn tìm chỗ lánh nạn thì cứ việc nói thằng ra lại còn bày ra dáng
vẻ thâm tình ấy, rõ ràng là chuốc thêm phiền phức cho ta mà.

Dù lòng nghĩ như thế, ta vẫn phải trưng lên vẻ mặt vô cùng cảm động:

“Hoàng Thượng nhớ đến thần thiếp, thần thiếp thực sự rất vui…”

Hoàng Đế nghe được câu này, quả nhiên hài lòng ra mặt, còn tự tay đút nho cho ta làm ta nổi cả da gà.

Hai người vừa ăn vừa nói chuyện một chút, chợt thấy Hoàng Đế đã muốn ngáp ngắn ngáp dài, ta nói:

“Hoàng Thượng mệt rồi, nên nghỉ ngơi sớm thôi. Ngày mai người còn phải thượng triều nữa.”

Hoàng Đế chỉ đợi câu này của ta, mắt sáng cả lên, đồng ý ngay lập tức. Ta
nhịn cười dắt tay hắn vào trong. Hoàng Đế không thích để người lạ hầu hạ vì vậy ta phải đích thân cởi long bào cho hắn. Bấy giờ mới để ý thấy,
bên thắt lưng hắn vẫn đang đeo túi thơm của ta.

Ta hơi ngạc
nhiên, hành động cũng chậm lại một chút, Hoàng Đế đã nhận ra ngay, hắn
cầm lấy chiếc túi thơm từ tay ta, nghiêm mặt nói:

“Định nói với
nàng mấy lần rồi mà cứ quên mất. Trẫm lệnh nàng làm thêm cho trẫm vài
cái túi thơm nữa, chỉ có một cái trẫm dùng không đủ.”

Bộ dạng nghiêm túc hiếm có của hắn làm ta hơi hoảng:

“Hoàng… Hoàng Thượng… thần thiếp vụng về… e là…”

Hoàng Đế trừng mắt:

“Lắp bắp cái gì? Trẫm bảo nàng làm thì cứ làm. Dù sao thì nàng suốt ngày ở trong Cẩm Tước cung này cũng đâu có việc gì làm.”

Đã biết Hoàng Đế vui giận thất thường, ta làm sao dám cãi lời hắn, vội gật đầu lia lịa. Hoàng Đế cười thích thú, lại dặn thêm:

“Nhớ, lần sau không được thêu hình sâu róm nữa.”

Ta giương mắt long lanh nhìn hắn:

“Hoàng Thượng… đó là chiếc lá…”

Hoàng Đế cau mày:

“Mặc kệ là cái gì, lần sau không thêu như thế nữa.

“Vậy… Hoàng Thượng muốn thiếp thêu hình gì?”

“Ừm, ngoại trừ sâu róm ra thì cái gì cũng tốt…”

Hoàng Đế nói xong, không hề khách khí kéo ngực áo ta ra, nhét cái túi thơm
“sâu róm” kia vào. Hắn ra tay rất nhanh, chẳng hề cho ta cơ hội phản
ứng.

Đúng lúc này, Lý Thọ bưng một bát thuốc lớn bước vào. Đầu
hắn cúi rất thấp, chắc hẳn đã biết trong này vừa xảy ra một việc khó
coi.

“Hoàng Thượng, đến lúc uống thuốc rồi.”

Lý Thọ kính cẩn dâng bát thuốc lên.

Hoàng Đế nhìn bát thuốc gườm gườm, lộ rõ chán ghét nhưng vẫn bưng lên uống.

Ta nhìn Hoàng Đế từ từ uống cạn chén thuốc, biết đó rõ ràng là độc dược,
nhưng lại chẳng thể làm gì, trong lòng chẳng hiểu vì lẽ gì lại dâng lên
đau xót, càng không hiểu nổi mình đang vì ai mà đau xót. Vì hắn, hay là
vì chính bản thân ta?

Chiếc nhẫn bạc ta vẫn đeo mấy tháng nay như đang siết lấy ngón tay ta. Ta bất giác v**t v* chiếc nhẫn, trong lòng
cuộn sóng mà không thể biểu hiện ra ngoài.

Bây giờ vẫn chưa phải lúc.

Lý Thọ giám sát Hoàng Đế uống thuốc rồi mới lui ra ngoài.

Màn lụa buông xuống, nến tắt đi rồi, Hoàng Đế cũng trở nên trầm lặng, không đùa với ta nữa. Hắn kéo ta đến nằm sát bên, hai người cứ thế nằm cạnh
nhau trong màn đêm tĩnh lặng, không ai biết được đối phương đang nghĩ
gì, nhưng như thế này lại có cảm giác bình yên không nói nên lời.

Khi ta nghĩ Hoàng Đế đã ngủ rồi thì hắn đột nhiên lần tìm tay ta, sau đó
dùng ngón tay vẽ vào lòng bàn tay ta mấy nét ngoằn ngoèo gì đó. Ta hơi
bất ngờ nhưng không lên tiếng, để ý kĩ mới nhận ra hắn đang viết hai chữ “Nguyệt nhi”, bèn bắt chước viết lại vào lòng bàn tay hắn “có thần
thiếp”.

Hoàng Đế thấy ta hiểu ý hắn, phì cười một tiếng, lại tiếp tục viết lên tay ta: “Trẫm mệt quá.”

Thấy hắn thích trò mới này, ta cũng chiều ý, kiên nhẫn viết vào tay hắn: “Vậy Hoàng Thượng mau ngủ đi thôi.”

“Nhưng trẫm lại không muốn ngủ. Hiếm có lúc được thanh tịnh thế này, nếu ngủ thì thật uổng phí.”

Hoàng Đế viết cả một câu dài, làm ta phải căng não theo dõi, bỏ sót đến mấy chữ, may mà vẫn hiểu được, liền mặt dày viết lại:

“Hoàng Thượng thích thì đến chỗ thần thiếp nhiều một chút là được.”

Hoàng Đế khẽ cười, xoa xoa lòng bàn tay ta mấy cái rồi mới viết tiếp:

“Nếu trẫm đến nhiều, e ngay cả nàng cũng chẳng được thanh tịnh nữa.”

Viết xong liền lật tay lại nắm chặt lấy tay ta. Ta hơi nghểnh cổ nhìn lên
thì thấy Hoàng Đế đã nhắm mắt, hơi thở dần dần ổn định. Đợi thêm một lát nữa, bàn tay đang nắm tay ta cũng dần buông lỏng. Hoàng Đế ngủ thật
rồi. Mắt ta cũng dần quen với bóng tối, khiến cho gương mặt Hoàng Đế
cũng trở nên rõ nét hơn. Gương mặt hắn vẫn còn sự non nớt của một thiếu
niên mười bảy tuổi vô cùng sáng lạn, trong trẻo. Thật chẳng thể ngờ
người thiếu niên sở hữu gương mặt này lại là một Đế Vương tâm cơ sâu
thẳm, lòng dạ lạnh bạc.

Không khí lúc này đúng là rất thanh tịnh
có thể khiến người ta nghĩ thông nhiều việc. Ví như Quách Ngữ kia dựa
vào dung mạo bình thường, gia thế lụn bại cộng với cái tính coi trời
bằng vung đó, Hoàng Đế có thể thích nàng ta được bao nhiêu? Thuật gọi
bướm kia cũng chẳng phải thứ quá mới lạ, Hoàng Đế học hành bao năm, đọc
ngàn thứ sách, lẽ nào chưa từng nghe qua? Lẽ nào không biết đó chỉ là
chút trò vặt dùng thuốc thoa lên da mà thôi? Lại nói chuyện Triệu Lam
Kiều mua chuộc Quách Ngữ, Hoàng Hậu biết chẳng lẽ Hoàng Đế lại không
biết? Nếu đã biết rồi vì sao vẫn hùa theo sủng ái Quách Ngữ?

Phải chăng là vì muốn trấn áp Hoàng Hậu?

Gần đây Hoàng Hậu liên tiếp giành thắng lợi, Triệu Lam Kiều ngày càng thất
thế. Hoàng Đế muốn chèn ép Triệu thị, nhưng cũng không muốn để Hoàng Hậu đắc ý khiến thế lực Hậu cung mất cân bằng. Có lẽ vì vậy nên mới mượn
Quách Ngữ làm giảm bớt khí thế của Hoàng Hậu thôi.

Ở Hậu cung
này, Hoàng Hậu thủ đoạn cao minh, Triệu Lam Kiều đa mưu túc trí, bọn họ
mỗi ngày đều đấu nhau đến sứt đầu mẻ trán. Nhưng chung quy tất cả chúng
ta chẳng phải đều chỉ là những quân cờ trong tay Hoàng Đế hay sao? Bản
thân ta vẫn thường tự hỏi, trên bàn cờ chính trị to lớn của Hoàng Đế thì một kẻ thân cô thế cô như ta rốt cuộc đóng vai trò gì?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 43


Bách Phượng vào thu, thời tiết khoan hòa. Mùa mưa đã kết thúc nên lễ thỉnh
an ở Triêu Lan cung mỗi buổi sáng lại phải tiếp tục. Đại điện Triêu Lan
cung bây giờ có phần ảm đạm hơn trước. Ta đến đây chưa được một năm mà
đã thấy vắng đi mấy người. Tố Linh và Bạch Diệu Hoa hết thời, sau lại
đến Tĩnh Tâm Lan vong mạng. Nơi này lại ít đi vài cái ghế.

Quách Ngữ bị Thái Hậu phạt một lần đã bớt hung hăng nhưng xem chừng còn chưa
bỏ được mối hận bị giáng chức ngày trước, cứ có dịp lại bắt nạt người
trong cung của ta. Ta biết Quách Ngữ cố ý nhưng không buồn đáp trả, chỉ
dặn dò người trong cung tránh nàng ta đi. Những người nào từng bị nàng
ta bắt nạt thì thưởng thêm một chút để an ủi. Quách Ngữ dèm pha bên tai
Hoàng Đế không được, khiêu khích ta cũng chẳng xong thế là thẳng thắn
đến gõ cửa Cẩm Tước cung đòi thỉnh an. Mặc kệ nàng ta ầm ĩ thế nào, ta
vẫn kiên trì làm con rùa rụt đầu yên ấm ở trong nhà của mình, nhất quyết cáo bệnh không tiếp khách. May mà chức vị của Quách Ngữ chưa cao, không được tham dự lễ thỉnh an, ta mới bớt đi được một mối bận tâm. Dù sao
Quách Ngữ cũng chẳng đắc ý được lâu, ta cứ tránh đi một thời gian là
được. Đã biết nàng ta điên rồ thì việc gì phải điên cùng nàng ta?

Hậu cung thì vẫn cứ âm ỉ sôi sục như vậy.

Quách Ngữ được ban chỗ ở mới – một tòa Linh Lung các rộng rãi xinh đẹp, sáng
tối hoa thơm bướm lượn, cảnh đẹp ý vui. Người khác dẫu căm ghét thế nào
thì dịp này cũng phải đưa đồ tới tặng. Nghe đâu Liễu Thục phi hào phóng
ban thưởng cho Linh Lung các bốn cuộn tơ lụa Phong tộc, làm cho ai nấy
đều kinh ngạc. Lại nghe đâu Quách Ngữ kia không biết tốt xấu, chẳng hề
nể mặt Thục phi nương nương, đem chỗ tơ lụa kia xé thành giẻ vụn khiến
Thục phi nương nương vô cùng tức giận, bèn phạt Quách Ngữ quỳ ở cửa Linh Lung các mấy canh giờ. Chẳng biết tình cờ thế nào mà hôm ấy có rất
nhiều phi tử trang điểm xinh đẹp đi ngang qua Linh Lung các, Quách Ngữ
càng thêm đẹp mặt. Còn ta dĩ nhiên vẫn đóng vai người ngoài ngồi xem
kịch, bổn cũ soạn lại, cương quyết không dây dưa đến Quách Ngữ, nhận
tiếng keo kiệt, cả quà cũng chẳng buồn tặng. Lòng ta hơi ngưỡng mộ Liễu
Yến Yến. Chỗ tơ lụa kia thế mà nàng ta cũng tìm được chỗ để dùng. Chẳng
biết đấy là chủ kiến của nàng ta hay là của Minh phi đây?

Ban đầu ta cứ nghĩ, những chuyện phiền phức chỉ cần đóng cửa không ra ngoài là
có thể tránh được, thực chẳng ngờ phiền phức kia vẫn có thể dai dẳng bám theo ta vào tận trong chăn.

Buổi tối hôm ấy, Hoàng Đế không đến, ta ngồi chơi với Bạch Diệu Hoa từ chiều, dù ta chẳng mệt thì cũng phải
cho nàng nghỉ ngơi nên đành về ngủ sớm. Như thường lệ, công việc trải
giường, hơ ấm chăn gối là của Ngọc Nga, còn Ngọc Thủy giúp ta tháo trâm
cài, rửa mặt, thay y phục sạch sẽ đâu đó rồi lại cùng ta ngồi tán dóc
những chuyện ngang ngược Quách Ngữ đã làm hôm nay.

Từ lúc Quách
Ngữ đắc sủng, mỗi ngày Ngọc Thủy đều nghe ngóng rồi tổng kết lại cho ta
mấy việc này. Ở trong nhà nhàn rỗi, nghe một chút cũng coi như giải
khuây. Hai người cùng ngồi trên sạp gỗ ở gian ngoài nói chuyện vui vẻ
thì đột nhiên nghe ở phòng trong một tiếng thét lớn, lại nghe cả tiếng
người ngã bịch xuống đất. Ta và Ngọc Thủy điếng người, không ai bảo ai,
lập tức chạy vào trong.

“Ngọc Nga! Chuyện gì thế này?!”

Cảnh tượng trước mặt làm ta không khỏi kinh hãi. Ngọc Nga đang ngồi bệt dưới đất, mặt mày trắng nhợt, ánh mắt lộ rõ sự kinh hoàng tột đỉnh. Một con
rắn lớn thân khúc đen khúc đen khúc vàng đang ngoạm chặt lấy bàn tay
nàng ấy.

“Chủ nhân… trên giường có rắn độc! Người đâu! Mau kêu người đến đây… Coi chừng chủ nhân bị cắn…”

Ngọc Nga phát hoảng, vừa kêu lên vừa cố sức vẩy tay muốn hất con rắn ra mà
không được, lại sợ Ngọc Thủy và ta đến gần cũng sẽ bị cắn nên gắng gượng lết ra xa.

Trước tình cảnh này, không kịp suy nghĩ, ta nhảy ngay đến bên cạnh Ngọc Nga, bạo gan chụp lấy phần sau đầu rắn bóp mạnh.

Lúc nhỏ, ta từng nghe Y Tiên nói rắn có túi độc phía sau mắt, khi cần tách
nọc rắn thì bóp chặt phần này, nọc sẽ chảy ra. Vì vậy, lúc bắt rắn như
thế này phải tránh phần túi nọc mà nhắm vào phần hàm của rắn để buộc nó
phải nhả con mồi.

Rắn độc không phải thứ để đùa, khi ấy ta lại
còn nhỏ, Y Tiên chưa từng cho ta đụng trực tiếp vào rắn. Bây giờ, tình
thế cấp bách, ta chỉ đành liều lĩnh một phen. Cũng may ta vừa vận lực
bóp mạnh liền thấy cái miệng rắn đang ngoạm chặt tay Ngọc Nga hơi nới
lỏng. Ta lập tức gỡ nó ra khỏi tay nàng, vung tay ném trở lại trên
giường, lại nhớ Ngọc Nga nói trên giường vẫn còn rắn bèn dùng hết sức
kéo nàng ra một góc thật xa.

“Mau, đi mời Lâm Thái y đến đây!”

Ngọc Thủy bị cảnh tượng này dọa đến mất hồn, nghe ta hét ầm lên mới tỉnh ra, lập tức lao đi, đến bậc cửa còn ngã văng cả giày, thế nhưng vẫn mặc kệ, cứ thế chân thấp chân cao chạy đi trong đêm tối.

Cùng lúc này,
Tiểu Phúc Tử đi tuần bên ngoài, nghe tiếng huyên náo cũng hớt hải lao
vào xem, thấy ta đang đỡ Ngọc Nga nằm sõng soài dưới đất thì hoảng lên:

“Chủ nhân, Ngọc Nga bị làm sao vậy?”

Ta không có thời gian giải thích nhiều nên chỉ nói ngắn gọn:

“Trong giường của ta có rắn độc. Ngươi gọi thêm vài người vào đây bắt rắn. Nhớ cẩn thận đừng để bị cắn.”

Những chuyện náo động sau đó ta đều để mặc cho Tiểu Phúc Tử giải quyết. Mạng
người là quan trọng nhất, ta phải toàn tâm toàn ý lo cho Ngọc Nga. Từ
lúc Ngọc Nga bị cắn đến nay chỉ mới tích tắc, thế mà da thịt xung quanh
vết rắn cắn đã sưng tấy lên, từ hai lỗ răng rắn để lại chảy ra máu đen,
đủ biết đây là loại cực độc. Ta lập tức xé vải từ thân váy làm băng, cứ
thế băng từ đầu ngón tay đến hết cánh tay Ngọc Nga. Không có nẹp gỗ, ta
vơ đại hai cây thoa dài thay thế, cố định tay nàng lại.

“Chủ nhân… Chủ nhân… mau ra khỏi phòng…” Ngọc Nga sợ quá, vừa khóc vừa níu lấy ta muốn ngồi dậy.

Ta sợ nàng vận động nhiều sẽ làm độc phát tác càng nhanh, bèn ôm chặt lấy nàng, luôn miệng nói:

“Đừng sợ, đừng sợ… Lâm Giang sắp tới rồi. Ngươi sẽ không sao đâu, có ta ở đây…”

Tuy rằng đang an ủi nàng ấy nhưng giọng ta lại run rẩy đến mức cả ta nghe
cũng thấy hoảng hốt, lại chợt nhớ đến ba viên thuốc giải độc vẫn đang
cất kỹ trong tủ…

Ba viên thuốc này ta vốn muốn giữ lại phòng
thân, thế nhưng bây giờ nhìn thấy Ngọc Nga mềm oặt nằm trong lòng ta,
mặt nàng trắng bệch, môi tím tái, hơi thở càng lúc càng mỏng manh…

“Đợi ta một lát… ta lấy thuốc cho ngươi…”

Ta cuối cùng cũng không nghĩ nổi nữa.

Nhẹ nhàng đặt Ngọc Nga xuống, ta chạy như bay đến mở tung cả hai cánh tủ,
hất hết những thứ đồ bên trên ra ngoài, tìm lấy lọ thuốc mang đến cho
Ngọc Nga. Ngọc Nga đã yếu đi nhiều, dù cho ta đã bóp nát viên thuốc,
nhét vào miệng nàng từng chút một, nàng cũng chỉ nuốt nổi nửa viên đã
hôn mê bất tỉnh, ta làm thế nào cũng không ép nàng uống vào thêm được
nữa.

Lọ thuốc trên tay ta bỗng chốc trở nên trơn tuột, rơi xuống
đất lăn mấy vòng. Ta chẳng buồn để tâm đến nó, chỉ khư khư ôm chặt Ngọc
Nga, đầu óc tự nhiên trống rỗng…

Mắt ta nóng lên, rồi lại mờ đi. Xa xa, nghe như có tiếng Ngọc Thủy gọi lớn:

“Lâm đại nhân đến rồi… Lâm đại nhân đến rồi…”

***

Chính điện Cẩm Tước cung gà bay chó sủa suốt một canh giờ cuối cùng cũng thanh tĩnh trở lại.

“Lâm đại nhân, tình hình Ngọc Nga thế nào rồi? Không nguy hiểm chứ?”

Ta khoác áo choàng trùm kín người, ngồi bên giường xem Lâm Giang cắm lên
cánh tay Ngọc Nga đến cây kim thứ hai mươi thì không nhịn nổi nữa đành
lên tiếng hỏi.

Lâm Giang lúc lắc đầu cho có, hai mắt vẫn chăm chú nhìn vào cánh tay chi chít kim châm của Ngọc Nga. Mãi đến khi châm xong cây kim thứ ba mươi, Lâm Giang mới thở ra một tiếng:

“May mà
nương nương kịp thời cứu chữa nên độc chưa ngấm vào tim, vi thần đã châm cứu ép độc ra khỏi kinh mạch rồi. Thần viết cho Ngọc Nga cô nương mấy
thang thuốc thanh độc, tĩnh dưỡng ít ngày là ổn thôi.”

Ta thở phào nhẹ nhõm, vịn tay Ngọc Thủy đứng dậy:

“Đa tạ Lâm đại nhân.”

Lâm Giang cũng lật đật chắp tay thưa:

“Vốn là chức trách của vi thần, nương nương đừng khách sáo như vậy.”

Lúc hắn nói, hai mắt chỉ nhìn chằm chằm xuống đất hoàn toàn không dám ngước lên.

Ta cũng biết bộ dạng mình khó coi. Ban nãy chỉ kịp khoác thêm áo choàng,
tóc tai rũ rượi, mặt mũi thì lem nhem nước mắt, cho nên không nhiều lời
với hắn.

“Vậy phiền Lâm đại nhân kê giúp đơn thuốc. Ngoài ra… bản cung vẫn còn việc muốn thỉnh giáo. Đại nhân xong việc, mời đến phòng
khách uống ly trà.”

Ta nói xong liền cùng Ngọc Thủy trở về thay y phục, bới tóc, trang điểm nghiêm chỉnh rồi mới đến phòng khách gặp Lâm Giang.

Trời đã tối, về lý, ta và Lâm Giang không tiện gặp gỡ nhưng việc đã đến mức
này, ta chẳng còn cách nào khác. Phòng khách ta đã cho người mở tung hết mọi cửa chính, cửa sổ, thắp đèn gấp đôi, lại cho Tiểu Phúc Tử dẫn một
đám thái giám đứng đầy bên ngoài, nói chuyện ồn ào, tin rằng chẳng có ai đặt điều gì được.

Khi ta đến nơi đã thấy Lâm Giang đang ngồi uống trà. Lâm Giang vừa nhìn thấy ta, bèn kính cẩn đứng dậy chào:

“Vi thần tham kiến Hòa phi nương nương.”

“Mời Lâm đại nhân ngồi.”

Ta mỉm cười, kéo ghế ngồi đối diện Lâm Giang, tự rót cho mình một ly trà, cũng tiện tay châm thêm trà vào chén của Lâm Giang.

Lâm Giang cảm ơn một cách gượng gạo rồi hỏi ta:

“Chẳng hay nương nương còn điều chi muốn phân phó chăng?”

Ta khẽ phẩy tay áo. Tiểu Phúc Tử ở bên ngoài liền xách vào một túi vải lớn để ngay trước mặt Lâm Giang. Lâm Giang tò mò, nghểnh cổ nhìn vào một
chút liền hoảng hốt kêu lên:

“Ở đâu ra nhiều rắn độc thế này?!”

Ta cầm cây kẹp gắp than, cúi người gắp một con rắn trong túi đưa đến trước mặt Lâm Giang, cười hỏi:

“Lâm đại nhân chẳng hay có biết đây là loại rắn gì không?”

Lâm Giang xanh mặt, hơi hơi kéo ghế ngồi lùi lại, nói lí nhí:

“Nanh độc to dài, thân mình khúc đen khúc vàng… có lẽ là kim hoàn xà…” (1)

Thấy Lâm Giang nhát gan, ta bèn thu con rắn về thảy trở vào túi rồi mới hỏi tiếp:

“Bản cung mới nhập cung không lâu, còn nhiều chuyện chưa rõ. Tỉ như mấy con
kim hoàn xà này hẳn là thường xuất hiện trong cung chăng?”

Không có con rắn chết đong đưa trước mặt, Lâm Giang quả nhiên bớt căng thẳng, nói năng cũng gãy gọn hơn nhiều:

“Nương nương nói đùa rồi. Trong cung sao có thể có kim hoàn xà chứ? Giống rắn
này chủ yếu sống ở vùng thôn quê, thích đào hang trong bụi cỏ…”

Lâm Giang nói đến nửa chừng, thì nín lặng, nhìn đến một túi cả chục con kim hoàn xà bị đập dập đầu dưới đất, mặt từ từ tái đi.

Ta biết hắn đã hiểu ra vấn đề, liền cười:

“Vậy sao? Bản cung còn tưởng mấy con rắn này thích làm tổ ở trong chăn gối của người ta chứ.”

Lâm Giang bắt gặp ánh mắt sắc lạnh của ta, liền cúi đầu, khẽ hỏi:

“Ý nương nương là…”

Ta uống một ngụm trà, thong thả nói:

“Có người sợ bản cung đêm ngủ không ngon cho nên chuẩn bị mấy con độc xà
này bỏ vào trong chăn bầu bạn cùng ta đây. Lâm đại nhân nói xem, họ đã
quan tâm ta như thế, ta nên làm gì mới phải?”

Lâm Giang cúi đầu
càng thấp hơn, vạt áo quan phục bị tay hắn vò muốn nát, có lẽ đang suy
tính rất nhiều. Sở dĩ Lâm Giang còn có thể ngồi trong Thái Y viện đến
ngày hôm nay đều là vì Hoàng Đế đã chỉ thị hắn làm thái y chăm sóc cho
ta nên Viện phán đại nhân mới không dám đụng đến hắn, mà kẻ khác cũng
không dám ức h**p hắn như trước. Nếu không còn Hòa phi nữa, vậy Thái Y
viện còn giữ chỗ cho hắn làm gì? Lý lẽ này Lâm Giang hiểu hơn ai hết. Ta và hắn từ lâu đã ngồi chung một con thuyền.

“Nếu đã có người
quan tâm nương nương nhường ấy…” Lâm Giang ngập ngừng lên tiếng. “Thì
nương nương cũng nên đáp lễ tương xứng mới phải…”

Ta gật đầu hài lòng:

“Đại nhân nói rất có lý. Bản cung đương nhiên phải đền đáp người ta cẩn
thận. Chỉ là trả lễ không thể qua quýt được, mà bản cung hiểu biết hạn
hẹp, còn vài chỗ chưa được thấu đáo, mong Lâm đại nhân chỉ giáo…”

Ngọc Thủy được ta ra hiệu, bèn mang đến giấy mực đã chuẩn bị từ trước trải
lên bàn. Ta cầm bút, chậm rãi viết lên tên vài loại thảo dược. Lâm Giang chăm chú nhìn theo từng nét bút của ta, sắc mặt biến hóa liên tục.

Ngày trước khi ta điều tra nguyên nhân cái chết của Hồ Điệp phu nhân, sau
khi thử qua mấy bông hoa ngắt về từ chỗ ở của bà, cũng thử cả cái mụn
độc trên tay mình cộng với xem nát cả đống sách Y Tiên để lại, mới đoán
đại khái được thành phần độc dược, từ đó tự chế thuốc giải. Tuy chữa
được cái mụn trên tay nhưng vì cơ địa ta khác người nên cũng không dám
chắc thành phần độc dược ta đoán có đúng hay không, không biết liệu có
thiếu sót gì, càng không nói chính xác được cách thức điều chế. Phải nên biết rằng chế độc không hề đơn giản. Loại độc trực tiếp bỏ vào thức ăn
là loại dễ chế nhất còn những loại gián tiếp hạ vào đồ dùng, càng gián
tiếp thì càng khó điều chế. Như loại độc Hồ Điệp phu nhân trúng phải, ta nghĩ bước đầu tiên hẳn là pha độc vào nước tưới hoa, làm phấn hoa nhiễm độc, từ đó tiếp tục lây độc sang đàn bướm, mượn đàn bướm rắc phấn độc
lên người bà ấy. Như vậy độc này phải cực kì tinh tế, phải điều phối sao cho không làm chết hoa, chết bướm mà chỉ có tác dụng với con người, cả
liều lượng cũng không thể có sai sót một li. Nhớ lại ngày xưa khi ta
gián tiếp hạ độc Lý phi, cũng vì không tính chính xác cho nên mới không
hại chết được bà ta, gây ra biết bao nhiêu phiền phức. Dược thuật của ta có rất nhiều lỗ hổng, vì vậy ta cần phải nhờ đến người tinh thông dược
thuật như Lâm Giang.

Ta đem độc tính cùng phương thức hạ độc kể
lại cho Lâm Giang nghe, dĩ nhiên là giấu đi câu chuyện bên trong, chỉ
hỏi Lâm Giang có thể mô phỏng lại độc chất như vậy hay không. Lâm Giang
suy nghĩ một hồi, cuối cùng nói:

“Xin nương nương cho vi thần ba ngày. Ba ngày sau, vi thần nhất định cho nương nương một câu trả lời.”

Ta mỉm cười vừa ý:

“Có lời này của đại nhân, bản cung yên tâm rồi. Chỉ còn một chuyện…”

Lâm Giang vội nói:

“Xin nương nương cứ sai bảo.”

Ta xua tay cười:

“Nào có gì mà sai bảo. Chỉ là bản cung hôm nay bị kinh hãi, trong lòng bất an, phải chăng nên nghỉ ngơi vài ngày?”

Lâm Giang nheo nheo mắt nhìn ta một lượt, hẳn là muốn tìm xem ta bất an ở
chỗ nào nhưng tìm mãi không thấy liền ngẩn ra. Sự ngay thẳng của Lâm
Giang có đôi khi thật khiến người khác mất kiên nhẫn.

Ta cười
nhẹ, cúi đầu uống trà chủ yếu là để tránh khỏi phải nhìn vào gương mặt
ngớ ngẩn của Lâm Giang. Đến khi ta uống hết cả chung trà, Lâm Giang mới
ngộ ra:

“Phải, phải… Nương nương đúng là đã sợ hãi nhiều rồi, nên nghỉ ngơi vài ngày mới phải… Vi thần cũng kê cho người vài thang thuốc
định tâm vậy… Vừa khéo vi thần có mang theo đây… ”

Lâm Giang nói
đoạn, lấy trong rương gỗ ra mấy gói thuốc đưa cho ta. Ta xem qua thuốc,
không thấy có gì khác thường, bèn đa tạ hắn rồi cho hắn trở về.

Lâm Giang đi rồi, Tiểu Phúc Tử cũng nhanh nhẹn thu dọn đống xác rắn kia đi. Dù số rắn trong phòng ta đã bị bắt sạch rồi nhưng Ngọc Thủy vẫn không
an tâm. Bắc viện nơi Tạ Thu Dung từng ở, giờ bỏ trống nhưng vẫn được
quét tước gọn gàng mỗi ngày. Ngọc Thủy khuyên ta đến đó nghỉ tạm một
đêm, để sáng mai cho người kiểm tra phòng nghỉ của ta thật kĩ càng đã.
Ta biết Ngọc Thủy có lí nên ngoan ngoãn nghe theo.

Phòng không
người ở luôn có chút lạnh lẽo. Ngọc Thủy phải khệ nệ bưng chậu than đi
khắp quanh phòng xua đi cái lạnh, lại kiểm tra chăn gối thật cẩn thận
mới đỡ ta đi nghỉ.

Ngồi trên giường rồi, chợt nhớ đến một chuyện, ta bèn hỏi:

“Việc đó làm đến đâu rồi?”

Ngọc Thủy nhìn ra ngoài, chép miệng:

“Nô tỳ bảo Tiểu Minh Tử đi tra xét chỗ đám cung nhân rồi, chắc sẽ mau có kết quả thôi. Chủ nhân nghỉ một chút đi.”

Vừa nói dứt câu đã thấy Tiểu Minh Tử hối hả chạy vào, dập đầu lạy tới tấp:

“Không hay rồi… Chủ nhân ơi, không hay rồi…”

Ta thở dài, ra hiệu cho hắn ta đứng dậy nói chuyện:

“Còn có thể có chuyện gì không hay nữa?”

Tiểu Minh Tử loạng choạng bò dậy, vừa lau mồ hôi trên mặt vừa nói:

“Nô tài vâng lệnh đi kiểm tra người trong cung chúng ta… Những thứ khác thì đều bình thường… nhưng khi đến phòng nghỉ của đám cung nữ thì… Thì phát hiện ra… ba đứa cung nữ chuyên làm việc nặng… Ngọc Dung, Ngọc Xuân và
Ngọc Ánh… đều đã treo cổ tự vẫn rồi…”

Ngọc Thủy trợn mắt:

“Cái gì? Cả ba đứa đều tự vẫn sao? Ngươi không đùa đấy chứ?”

Tiểu Minh Tử khổ sở đáp:

“Thủy tỷ nói gì vậy? Đệ sao dám đùa với chủ nhân… Khi hạ xuống thì bọn chúng
đều đã lạnh ngắt rồi… Xem chừng vừa làm chuyện xấu xong liền tự vẫn chạy tội…”

Ngọc Thủy hoảng hốt quay sang ta:

“Chủ nhân, thế này phải làm sao đây? Ba người chết một lúc không phải chuyện nhỏ… Hơn nữa chết cả rồi làm sao tra tiếp đây?”

Ta mệt mỏi phẩy tay:

“Chết rồi thì thôi. Sáng mai bẩm báo với Hoàng Hậu là được. Tiểu Minh Tử,
ngươi tạm thời niêm phong căn phòng đó lại, để mai Thượng Cung cục đến
xử lí. Nhớ cử người tin cậy trông coi Ngọc Nga.”

Tiểu Minh Tử vâng dạ rồi lại cuống quýt chạy đi.

Thuốc Lâm Giang cho ta cũng vừa sắc xong, ta bình thản ngồi uống chậm rãi từng ngụm đến hết.

Ngọc Thủy thấy ta yên lặng, bèn nhỏ giọng hỏi:

“Chủ nhân, ban nãy… Thứ lỗi cho nô tỳ nghe nhiều nói nhiều, nhưng… Người nói với Lâm đại nhân chuyện đó… Chẳng lẽ người cho rằng hung thủ là Quách
thị sao? Quách thị lại có thể to gan như vậy?”

Ta không buồn giấu diếm sự mệt mỏi trên mặt, đưa tay xoa hai bên thái dương, thấp giọng đáp:

“Có thể ép cả ba cung nữ ở chỗ ta vào tử lộ, lại có thể chuyển cả túi rắn
độc như thế vào hậu cung… Bản lĩnh nhường ấy, hậu cung được mấy người?
Quách thị không có bao nhiêu tài cán, nhưng Đức phi lại có thể giúp được nàng ta rất nhiều việc.”

Ngoại trừ Hoàng Hậu ra, người có bản
lĩnh mang rắn độc thả tận vào trong chăn của ta chỉ còn Liễu Yến Yến và
Triệu Lam Kiều, chỉ là chuyện này hẳn không liên quan tới Liễu Yến Yến. Ở đây một thời gian, ta cũng phần nào hiểu được tính cách nàng ta. Liễu
Yến Yến trước sau chỉ xem trọng sủng ái của Hoàng Đế. Bất luận kẻ nào
dám san sẻ sủng ái với nàng ta dù ít dù nhiều, nàng ta đều xem là kẻ
địch. Ngay cả người cùng phe như Minh phi cũng không ngoại lệ, đừng nói
người ngoài. Lúc trước nàng ta luôn luôn kiếm chuyện ầm ĩ với ta chắc
cũng vì ta là người mới đến, sợ ta tranh mất Hoàng Đế của nàng ta. Sau
đó Hoàng Đế lại gọi ta đến ở Noãn các ba ngày mới làm cho hiềm khích của Liễu Yến Yến với ta càng lớn. May mà thời gian sau, Hoàng Đế chỉ thỉnh
thoảng mới ghé chỗ ta, Liễu Yến Yến lại phải lo tranh với phi tử khác,
thành thử ta được yên thân. Nghĩ lại lúc đó Liễu Yến Yến thù ghét ta đến thế mà cũng chỉ kiếm chuyện bên ngoài, cũng chưa thả rắn cắn chết ta
nói gì bây giờ nàng ta còn bận bịu với Quách Ngữ, hơi sức đâu quan tâm
đến ta. Người muốn ta chết lúc này, lại có đủ năng lực thực hiện, nay
chỉ có Triệu Lam Kiều. Triệu Lam Kiều tìm được một nữ nhân vừa độc ác
vừa ngu dốt như Quách Ngữ, làm việc càng thêm thuận tay.

Ả đã có
tâm tư độc ác như thế, ta không thể không đề phòng. Phương thuốc độc ta
nhờ Lâm Giang điều chế, tương lai có thể cần dùng cũng có thể không cần
dùng đến. Bất luận thế nào, ta vẫn nên chuẩn bị sớm một chút. Còn việc
dùng nó lên Quách Ngữ hay ai khác thì hãy để Hoàng Hậu tra xét thêm một
chút.

Ngọc Thủy nghe ta nói mấy câu đã nổi giận:

“Nhất
định là Đức phi giựt dây Quách thị… Chỉ tiếc bọn phản phúc kia đã chết
rồi, không thể tra thêm được, nếu không lần này Đức phi không xong đâu…”

Ta mệt mỏi ngả người ra giường, uể oải đáp:

“Đức phi là người thế nào? Có thể tra ra nàng ta dễ dàng vậy sao? Dù thực là bọn họ làm, dù mấy người đó còn sống thì cùng lắm cũng chỉ tra ra được
Quách thị mà thôi. Đức phi nếu dám làm chuyện tày đình như thế này, hẳn
đã tính kế bình an vô sự cho mình rồi.”

Ngọc Thủy tức đến rơi lệ, hai mắt đỏ hoe nhìn ta:

“Chủ nhân vốn không tranh đoạt gì, sao bọn họ lại cứ muốn dồn người và chỗ chết như thế chứ?”

Ta khép hờ mí mắt, lẳng lặng quay mặt vào trong, chỉ nói khẽ:

“Trời sắp sáng rồi, bản cung ngủ một chút. Ngươi cũng nghỉ ngơi đi. Mai sẽ còn nhiều việc để làm đấy.”

Ngọc Thủy sụt sịt vâng lời, thả màn, tắt đèn rồi nằm xuống chiếc sạp gỗ ở
gian ngoài. Nàng đã làm việc cả ngày nên hẳn vô cùng mệt mỏi, vừa đặt
lưng xuống trong chốc lát liền nghe tiếng thở đều đều.

Thuốc của
Lâm Giang bắt đầu phát huy tác dụng, những toan tính như thủy triều cuộn xoáy trong lòng ta dần nhòa đi. Mí mắt ta trĩu nặng, nhanh chóng chìm
vào giấc ngủ.

Không gian đen đặc, tĩnh mịch, chỉ còn lại tiếng gió lùa trong vườn trúc như tiếng khóc ai oán.

Đêm hôm ấy ta mơ thấy Hồ Điệp phu nhân.

(1)Kim hoàn xà: rắn cạp nong
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 44


Ban đầu ta xin Lâm Giang vài thang thuốc “tĩnh tâm” chỉ là muốn giả bệnh, ngủ mê một buổi nhằm tránh phiền phức. Không ngờ sau đó lại có thêm ba kẻ treo cổ tự vẫn trong cung, phiền phức càng lúc càng lớn. Theo lí mà nói, một nữ tử vừa phát hiện cả ổ rắn trong chăn mình, tiếp theo lại có thêm ba người chết trong nhà mình thì nhất định vô cùng kinh hãi, không chừng còn sợ quá mà đổ bệnh. Thế nên mấy thang thuốc “tĩnh tâm” kia, ta đành phải uống liên tục ba ngày liền. Trong ba ngày này, đầu óc ta mờ mịt, nửa tỉnh nửa mê, còn hơi nóng sốt nên cứ ngủ li bì suốt, thỉnh thoảng mới tỉnh. Lâm Giang liền tuyên bố rằng ta bị kinh sợ quá độ mà sinh bệnh, cần phải an tĩnh điều dưỡng, không ai được quấy rầy. Hoàng Hậu thấy ta cứ nằm mê mệt bèn cho Xuân Linh đến giúp Ngọc Thủy xử lí công việc. Thượng Cung cục đưa người đến thu dọn thi thể ba kẻ xấu số kia rồi cũng chỉ khám xét qua loa. Vì có Xuân Linh nên bọn chúng đều không dám làm gì quá đáng trong cung của ta. Cuối cùng kết luận là ba cung nữ kia ngày ngày làm việc nặng, sinh lòng oán hận ta cho nên tính kế báo thù, sau đó sợ tội tự sát. Gian phòng đầy tử khí nọ thì bị niêm phong lại. Sau khi xong việc, Xuân Linh bí mật đến thông báo với ta ba người kia kì thực từng có liên hệ với Linh Lung các, nhưng người chết rồi nên không tra thêm được. Kết quả này không ngoài dự kiến của ta, ta nghe rồi cũng để đó thôi.

Dù đã ngưng uống thứ thuốc đó nhưng đầu óc ta còn chưa hết hơi thuốc, vẫn cứ mơ mơ hồ hồ. Nếu không phải ta đã kiểm tra thuốc trước thì nhất định nghĩ Lâm Giang thực muốn đầu độc ta. Đến ngày thứ tư, sau khi ta dùng bữa sáng xong, đương nằm ngủ lơ mơ thì chợt nhận thấy có một bàn tay mát lạnh đặt lên trán mình. Ta muốn mở mắt ra mà không được, đầu vẫn rất nặng, bèn thôi không cố nữa, cứ thế ngủ luôn. Đến trưa tỉnh dậy, Ngọc Thủy mới nói cho ta biết chính là Hoàng Đế đến thăm ta.

“Hoàng Thượng ngồi trông chủ nhân chừng một canh giờ, sau đó mới khởi giá về Cát Tường điện.”

Đã mấy ngày vì tác dụng của thuốc, ta toàn nằm ngủ. Bây giờ tỉnh táo được một chút, Ngọc Thủy bèn đỡ ta ra ngồi dưới tán cây hít thở không khí. Tuy đã trưa nhưng khí trời mùa thu không nóng bức, còn có bóng cây che trên đầu, ta ngồi bên dưới cũng cảm thấy mát mẻ khoan khoái.

“Hoàng Thượng có dặn dò gì không?”

Ta tựa vào lưng ghế, hỏi cho có lệ.

“Hoàng Thượng dặn chúng nô tỳ phải chăm sóc chủ nhân cẩn thận… Người nói chủ nhân bị kinh sợ nhiều rồi, khách khứa không cần biết là ai, nếu không muốn tiếp thì không cần tiếp. À, chỗ chúng ta bây giờ không đủ người. Thượng Cung cục vốn định mang người mới đến cho chủ nhân chọn nhưng Hoàng Thượng đã sai Lý công công dẫn bốn người từ Cát Tường điện đến đây rồi ạ. Nghe đâu đều là cung nữ Ngự tiền, chủ nhân có muốn gặp qua không?”

“Nếu đã là người ở Ngự tiền thì chắc không có gì cần phải dạy bảo đâu. Ngươi sắp xếp cho bọn họ là được rồi.”

Một chiếc lá khô từ trên tán cây nhẹ nhàng buông xuống trước mặt ta. Ta đưa tay vờn lấy, chiếc lá lười nhác đậu lại trong lòng bàn tay ta. Ngọc Thủy cảm thấy ta không có hứng thú nói tiếp chuyện người hầu bèn đổi đề tài:

“Ngọc Nga hôm qua đã tỉnh lại rồi nhưng vẫn chưa xuống giường được. Lâm đại nhân nói không có gì đáng ngại, chỉ là…”

Ngọc Thủy hiếm khi nói năng ấp úng, ta thấy nàng như vậy, tự nhiên có dự cảm không lành, lập tức hỏi:

“Chỉ là thế nào?”

Ngọc Thủy cúi đầu, mí mắt hơi hơi đỏ lên:

“Chỉ là… Trong nọc kim hoàn xà có chất làm tê liệt gân cốt, Ngọc Nga được cứu chữa kịp thời, cánh tay vẫn có thể vận động nhưng cũng bị ảnh hưởng, không còn linh hoạt nữa… Mấy chuyện tỉ mỉ như thêu thùa… Sau này có lẽ không làm được nữa rồi…”

Ta ngẩn người, bàn tay bất giác siết chặt làm chiếc lá khô đang cầm nát vụn lúc nào không hay, đến lúc xòe bàn tay ra, những mảnh lá khô liền bị gió cuốn bay đi mất. Ngọc Thủy xót xa phủi lớp bụi còn dính trên tay ta, khẽ nói:

“Chủ nhân đừng đau lòng… Lâm đại nhân cũng nói nếu chăm chỉ luyện tập thì dù không được như xưa nhưng vẫn có thể khắc phục phần nào…”

Ta ngước nhìn Ngọc Thủy:

“Ngọc Nga biết chưa?”

Ngọc Thủy lắc đầu.

“Thật đáng tiếc. Nha đầu đó thích nhất là thêu thùa.”

Ta nghĩ tới hình ảnh Ngọc Nga thường ngày ngồi bên khung thêu, tay đưa kim, môi mỉm cười rạng rỡ, trò chuyện líu lo… Hình ảnh ấy tươi đẹp biết nhường nào, bây giờ chẳng lẽ không thể nhìn thấy nữa sao? Sự mỏi mệt thoáng chốc đã quay lại, người ta như mềm đi, may mà có lưng ghế chống đỡ, nếu không hẳn sẽ ngã quỵ.

Ngọc Thủy ngồi một bên, nhìn ta chăm chú, muốn nói nhưng lại không cất nổi lời. Ngọc Nga và Ngọc Thủy ở chung một gian phòng, từ lâu đã thân thiết như tỷ muội. Nỗi đau xót này, Ngọc Thủy có lẽ còn tỏ tường hơn ta. Sự lo lắng chứa đầy trong mắt nàng, ép cho nước mắt phải chảy ra ngoài, lăn dài trên má.

Đương lúc ấy, Tiểu Phúc Tử từ xa bước đến, lên tiếng phá vỡ sự bi thương lẩn khuất trong không khí:

“Bẩm chủ nhân, Lâm đại nhân cầu kiến.”

Ngọc Thủy giật mình, vội kéo tay áo lau nước mắt rồi đứng dậy. Ta gật đầu, bảo nàng lui ra. Tiểu Phúc Tử lanh lẹ kéo thêm một cái ghế nhỏ đến kê đối diện chỗ ta. Hắn còn định mang thêm bàn và kỷ trà đến nhưng ta xua tay, bảo không cần. Dù sao Lâm Giang cũng chẳng đến để thưởng trà.

Tiểu Phúc Tử vừa đi, Lâm Giang bèn thong thả tiến vào. Hắn dừng trước mặt ta ba bước, đặt thùng thuốc xuống đất rồi kính cẩn hành lễ:

“Vi thần bái kiến Hòa phi nương nương.”

Ta ngồi thẳng lưng lên, cố mỉm cười với hắn:

“Lâm đại nhân đừng đa lễ. Mau ngồi đi.”

Lâm Giang vâng lệnh, ngồi xuống chiếc ghế Tiểu Phúc Tử bày sẵn, nhưng dáng vẻ lại chẳng được tự nhiên.

“Chẳng hay mấy ngày nay nương nương thấy trong người thế nào?”

Ta day day trán, ai oán nói:

“Thuốc của đại nhân thực tốt. Bản cung cứ tưởng không dậy nổi nữa.”

Lâm Giang biết ta không phải có ý trách cứ hắn, nhưng vẫn gượng gạo giải thích:

“Vi thần vốn nghĩ nương nương chỉ cần dùng một thang, nên mới đưa loại dược lực mạnh như thế. Không ngờ nương nương lại dùng liền ba ngày… Có điều thuốc này chỉ tạo triệu chứng bên ngoài như vậy, không thực sự gây hại gì, nương nương đừng lo lắng.”

Trên cành cao chợt có tiếng chim ríu rít vui tai. Ta ngẩng đầu nhìn lên tán cây trên đầu liền thấy một con chim phiến vĩ nhỏ đang xòe đuôi rỉa lông, thỉnh thoảng lại kêu lên mấy tiếng vui vẻ. Ngay sau đó, lại có thêm một con chim phiến vĩ khác đáp đến bên cạnh. Hai con chim nhỏ ríu rít nhào lộn giữa những tán cây.

Lâm Giang nhìn theo ta, buột miệng cảm thán:

“Đúng là kì lạ. Hoàng cung rộng như vậy mà bọn phiến vĩ tước này chỉ thích vui đùa ở Cẩm Tước cung thôi. Có lẽ vì vậy nơi này mới mang tên Cẩm Tước.”

Ta gật đầu không đáp, ánh mắt vẫn dõi theo đôi phiến vĩ tước hoạt bát ở trên cao.

Lâm Giang nghĩ ngợi một hồi, chợt thở dài rồi lục trong thùng thuốc, lấy ra một cái lọ sứ nhỏ cùng với một tờ giấy đưa cho ta:

“Chuyện vi thần hứa với nương nương, vi thần đã làm xong rồi đây.”

Ta cuối cùng cũng phải dời mắt xuống. Lâm Giang thấy ta có vẻ thờ ơ, bèn hấp tấp nói thêm:

“Thứ này độc tính rất cao, nương nương cẩn thận đừng để chạm vào da thịt…”

Ta gật đầu nhưng không nhìn đến cái lọ, chỉ chuyên tâm đọc tờ đơn thuốc. Lâm Giang làm việc cẩn thận, trên tờ đơn ghi rõ các loại nguyên liệu, phân lượng cùng cách thức điều chế, sử dụng vô cùng tỉ mỉ. Quả nhiên, khi trước ta đã đoán sai một ít.

Từng nét chữ chân phương, rạch ròi trên mặt giấy như in vào tâm trí ta. Thứ này có thể kết thúc cuộc đời Quách Ngữ một cách tồi tệ nhất, bi thương nhất. Chẳng bao lâu sau, phiền phức của Quách Ngữ mang lại cho ta sẽ chẳng còn nữa. Ta lại có thể ngủ ngon một thời gian. Không phải là rất đơn giản sao? Vì sao ta còn cứ phân vân? Vì sao trong đầu ta lại hiện lên nụ cười hoa nhường nguyệt thẹn của Hồ Điệp phu nhân ngày nào?

Mấy hôm nay, trong những giấc ngủ chập chờn, ta rất hay mơ thấy Hồ Điệp phu nhân, thấy lại những khoảnh khắc vui vẻ của chúng ta. Có một lần, ta và bà cũng ngồi dưới tán cây như thế này, chung quanh còn có một vườn hoa thơm ngát, bà từng hỏi ta:

“Đại công chúa thích quân nhân hay là thích văn sĩ?”

Nữ tử ở Bách Phượng đến mười bốn tuổi thì hứa hôn, mười lăm tuổi thì gả đi. Khi ấy ta đã mười sáu tuổi, vậy nên Hồ Điệp phu nhân mới nghĩ đến chuyện hôn nhân đại sự của ta. Ta vẫn còn nhớ mình đã suy nghĩ rất nghiêm túc về câu hỏi ấy:

“Con không được học hành, lời của mấy kẻ văn sĩ con sợ là không hiểu nổi. Con cảm thấy quân nhân tốt hơn.”

Quân nhân như Lý Thanh Phong thì càng tốt.

Dĩ nhiên câu sau thì ta chỉ nghĩ trong lòng thôi. Hồ Điệp phu nhân nghe ta nói xong, hài lòng xoa đầu ta:

“Đại công chúa nói phải. Hồ Điệp nương nương nhất định sẽ tìm cho đại công chúa một quân nhân tốt nhất.”

Đáng tiếc, lời hứa đó Hồ Điệp phu nhân chẳng thể thực hiện được. Mấy tháng sau, bà trúng độc chết thảm, thêm mấy năm sau, ta bị gả đến đây.

Bây giờ nghĩ lại, nếu ngày đó Hồ Điệp phu nhân không bị người ta hại chết thì có lẽ ta đã được gả cho một quân nhân nào đó. Dựa vào hư danh đại công chúa thì chí ít trượng phu của ta cũng phải thuộc hàng phó tướng, may mắn hơn thì còn có thể có tước quân hầu. Nếu bà không chết, ta sẽ không phải gả vào chốn hậu cung sâu không thấy đáy này, cũng sẽ không phải ngày ngày đối mặt với một đám nữ nhân lòng dạ độc địa này, càng không phải lo nghĩ chuyện độc hại kẻ khác như thế này.

Mải mê suy nghĩ, ta chẳng hay mình đã rơi nước mắt từ khi nào. Phải đến lúc Lâm Giang bối rối kêu lên một tiếng, ta giật mình nhìn lại, thấy trang giấy cầm trên tay đã bị ướt mấy đốm mới nhận ra… Bao nhiêu năm đã qua, bao nhiêu chuyện đã đến, thì ra ta vẫn có thể rơi nước mắt vì một kí ức xa xưa. Con người của ta thì ra vẫn yếu đuối như vậy.

“Nương nương… Không sao chứ?” Lâm Giang hoảng hốt nhìn ta, tay chân luống cuống không biết làm gì cho đúng.

Ta lắc đầu, ngượng ngùng lau vội khóe mắt, trong lòng chợt thoáng qua một ý nghĩ, bèn đưa tờ đơn thuốc đến trước mặt Lâm Giang, hỏi:

“Lâm đại nhân, vị thuốc thứ hai và thứ ba trong đơn này, nếu giảm bớt một nửa phân lượng thì thế nào?”

Lâm Giang không dám đến gần ta quá, cố nheo mắt đọc từ xa:

“Ồ, cái đó… Là hai vị thuốc có tác dụng phá hủy tầng bảo vệ của da, dẫn độc chạy trong kinh mạch. Nếu giảm một nửa thì độc chỉ dừng ở ngoài da, cùng lắm là mọc mụn nhọt vài tháng là khỏi, không nguy hiểm đến tính mạng.”

“Có để lại di chứng không?”

“Không có di chứng. Cẩn thận điều dưỡng thì sẽ lại như xưa.”

Ta khẽ gật đầu với hắn, một thoáng do dự hiện lên rồi lại biến mất trong tích tắc. Ta xếp đơn thuốc cất vào tay áo, nói với Lâm Giang:

“Đơn này ta giữ, còn lọ thuốc thành phẩm này đại nhân mang về tiêu hủy đi. Cả nguyên liệu chế thuốc và tất thảy những gì liên quan đến nó đều phải dọn dẹp thật sạch sẽ, không được để lại bất kì dấu vết nào.”

“Vậy nương nương…”

“Nghe lời ta, chuyện này là vì an nguy của đại nhân, xin đại nhân đừng chần chừ.”

Lâm Giang ngơ ngác nhìn ta một chốc, rồi như đã hiểu ý ta muốn bảo vệ hắn, liền cúi đầu, chắp tay vái dài:

“Đa tạ nương nương che chở. Vi thần nhất định xử lí tốt mọi việc.”

Ta mỉm cười, cũng không nói thêm lời khách sáo. Lâm Giang là người cùng chiến tuyến với ta, còn làm cho ta nhiều việc như vậy, ta tất nhiên phải hết lòng bảo vệ hắn. Nhưng ta không phải loại người thi ân bất cầu báo. Ý tốt của ta nhất định phải để kẻ khác hiểu được, nếu không họ làm sao biết đường hồi báo?

***

Hoàng Hậu muốn đem việc trừ bỏ Quách Ngữ giao cho ta, bản thân thì đóng vai mẫu nghi thiên hạ hiền lương đức độ. Thế nhưng mấy việc bẩn thỉu đó ta tất phải khiến nàng tự tay làm. Tờ đơn thuốc nhận từ Lâm Giang, ta cẩn thận chép lại, sau một hồi suy nghĩ đắn đo bèn quyết định giảm bớt một nửa phân lượng hai vị thuốc kia. Dù sao Hoàng Đế đối với Quách Ngữ chẳng có bao nhiêu tình cảm, chỉ cần hủy đi dung mạo nàng ta vào lúc này, sủng ái tự nhiên sẽ hết. Mấy tháng sau, dù dung mạo phục hồi thì Quách Ngữ cũng vẫn trở về làm một phi tần thất sủng, chẳng hại được đến ai nữa.

Quyết định nương tay không có nghĩa là ta không hận Quách Ngữ. Nếu ngày đó người bị rắn cắn là ta, e rằng Ngọc Nga và Ngọc Thủy không xử lý kịp, ta đã thẳng một đường xuống tới hoàng tuyền rồi. Quách Ngữ chẳng những có ý hại chết ta, lại còn khiến Ngọc Nga bị liên lụy như vậy, ta sao có thể không thù ghét ả? Chỉ là dù cho nỗi hận trong lòng lớn tới đâu, ta vẫn không đành lòng đẩy ả vào thảm cảnh của Hồ Điệp phu nhân năm xưa. Ta biết mình mềm yếu, nhưng chút mềm yếu này ta lại chẳng nỡ rũ bỏ, vì ta hiểu nó chính là phần lương tâm còn sót lại trong ta. Lần này, nương tay với Quách Ngữ cũng xem như nương tay với chính lương tâm của mình.

Sau khi giao đơn thuốc mới cho Ngọc Thủy đưa đi Triêu Lan cung, ta cũng đốt bỏ tờ đơn của Lâm Giang. Từ đây việc này không còn can hệ gì đến ta. Hoàng Hậu nương nương muốn giết người, xin tự xắn tay áo lên mà mài dao.

Hoàng Hậu nghe nói ta “kinh sợ quá mà sinh bệnh”, lại đã có thứ mình muốn, liền hào phóng cho ta nghỉ ngơi thêm mấy ngày. Thời gian này, ta ngây ngốc ở trong cung, ngoài Trịnh Vân Anh ra thì không tiếp thêm ai khác.

Từ lúc nhìn thấy đôi phiến vỹ tước đùa nhau trên cành cây hôm đó, ta tự dưng sinh tật thích nhìn ngắm chim chóc ngoài sân.

Đến ở trong Cẩm Tước cung đã lâu nhưng mãi đến khi Lâm giang nói ta mới để ý, quả thực chỉ ở Cẩm Tước cung mới thấy một đám chim chóc ríu rít nhộn nhịp đến thế. Tiểu Phúc Tử biết được, đòi bắt bầy phiến vỹ tước này lại cho ta chơi nhưng ta không đồng ý. Phiến vỹ tước chỉ hoạt bát, sống động khi nó được tự do bay lượn trên tán cây cao. Đem bắt bỏ vào lồng thì sẽ chẳng khác gì một con chim gỗ cứng đờ vô vị. Bản thân ta đã chẳng được tự do, cớ gì phải lấy đi tự do của bầy chim nhỏ đó nữa.

Thế là ta tìm được thú vui mới, mỗi ngày đều bắt bọn Tiểu Phúc Tử bê hẳn một cái sạp nhỏ ra đặt dưới tán cây mát mẻ, ta ngồi ở đó cả ngày, mỏi lưng thì nằm nghỉ ngay tại đó luôn. Ngọc Thủy mang cho ta một ít thóc, ta bèn thử thảy xuống sân, chẳng ngờ bầy phiến vĩ tước kia thực sự dám sà xuống ăn. Ban đầu chỉ một, hai con, về sau thấy không có gì nguy hiểm thì kéo đến cả đàn mười mấy con, vừa mổ thóc vừa chíu chít tranh nhau, rộn ràng cả một góc cung.

Lâm Giang cứ ba ngày tới một lần bắt mạch bình an cho ta. Nhân dịp này, ta nhờ hắn châm cứu cho Ngọc Nga, giúp cánh tay nàng hồi phục lại được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngọc Thủy thấy tâm trạng nàng u uất, bèn đỡ ra ngồi với ta, chơi cùng bầy chim ồn ào kia, chẳng mấy chốc liền khá lên rất nhiều. Mấy con phiến vĩ tước ham ăn này hóa ra lại có năng lực thần kì khiến người ta phần nào quên đi gánh nặng trong lòng.

Người ta nói phiến vĩ tước rất dạn người, quả chẳng sai. Ta chỉ cho chúng ăn mấy ngày, chúng liền chẳng còn sợ ta nữa, thậm chí còn dám đậu lên tay ta mà xòe đuôi líu lo gì đó.

Hôm nay, đương lúc ta đang ngồi chồm hổm giữa sân, một tay cầm nắm thóc, một tay chầm chậm rướn về phía một con phiến vĩ tước có chùm lông ức màu vàng mà ta gọi là Tiểu Hoàng, cố dụ dỗ nó cho ta sờ một chút thì Hoàng Đế đến. Hắn chẳng thông báo, ta thì đang chăm chú “nài nỉ” Tiểu Hoàng nên không hay biết. Mãi đến khi bầy phiến vĩ tước tham ăn ở chung quanh ta đột ngột bay dạt qua một bên, ta quay người lại mới thấy Hoàng Đế hai tay chống hông, đang nhìn ta với vẻ mặt kì quái. Ta giật mình muốn đứng dậy hành lễ nhưng Hoàng Đế đã vội xua tay cản lại, có vẻ như hắn cũng hứng thú với bầy chim dân dã này, không muốn ta dọa bọn chúng bay đi hết.

Hoàng Đế không nói năng gì, rón rén kéo long bào ngồi xổm xuống cạnh ta, lại còn xòe tay đến trước mặt ta. Ta bốc một nhúm thóc thả vào lòng bàn tay hắn, hắn liền mỉm cười, khẽ khàng thảy vài hạt xuống đất. Đáng tiếc thay cho sự hớn hở của Hoàng Đế, bầy chim chưa thấy hắn bao giờ dĩ nhiên lạ người, chẳng dám lại gần mà chỉ đứng đằng xa rỉa lông rỉa cánh. Hoàng Đế tiu nghỉu nhìn ta như muốn hỏi Trẫm làm gì sai. Bộ dạng của hắn như mèo cụp đuôi, trông rõ buồn cười. Ta mím môi, cố không cười thành tiếng, liếc mắt ra hiệu cho hắn nhìn mình rồi chầm chậm rải một ít thóc xuống đất. Bầy chim này đã quen ta, chẳng đợi ta thu tay về, bọn chúng đã nhanh nhẹn nhảy đến mổ thóc lia lịa. Khi ta xòe bàn tay ra, có một con chim nhỏ thậm chí dạn dĩ đến mức nhảy lên mổ nốt một hạt thóc còn sót lại, sau đó giương cánh rỉa lông một cách đắc ý rồi mới bay đi.

Hoàng Đế tròn mắt nhìn ta thán phục. Dáng vẻ hắn lúc này như đứa trẻ ham chơi, cũng có nét đáng yêu. Ta không muốn hắn thất vọng bèn kéo bàn tay hắn đến trước mặt mình, sau đó một tay giữ tay hắn, tay còn lại nhẹ nhàng rải thóc xuống sân dẫn dụ đám phiến vĩ tước lại gần. Bọn nhóc tham ăn đó quả nhiên cứ đi theo mấy hạt thóc của ta từ đằng xa, càng lúc càng lại gần Hoàng Đế. Cuối cùng, còn một ít thóc, ta rải luôn vào lòng bàn tay hắn. Bầy chim nãy giờ thấy hắn ngồi im như tượng, không có vẻ đe dọa, quả nhiên có con bạo gan nhảy cả lên tay hắn mà mổ thóc.

Trong thoáng chốc, tay Hoàng Đế cứng đờ rồi rất nhanh trở lại bình thường. Ta hết nhìn con phiến vĩ tước gan dạ đang say sưa mổ thóc trong tay Hoàng Đế, lại nhìn đến nụ cười ngây thơ sáng lạn trên mặt hắn, trong lòng bất giác lập đi lập lại một suy nghĩ: Chim nhỏ ơi, vì tương lai cả hai ta, mày nhất định không được đi đại tiện trên tay Vạn tuế gia đâu đấy!

May mắn cho ta, điều ta lo sợ không thành sự thật. Con chim nhỏ kia ăn xong liền rũ cánh bay đi chẳng thèm nhìn lại, thế nhưng nhiêu đó cũng đủ làm cho Hoàng Đế vui vẻ lắm rồi. Hắn phủi phủi tay, trèo lên cái sạp gỗ của ta, nằm vắt chân một cách thoải mái. Đoạn nói:

“Nghe nói nàng kinh sợ đến đổ bệnh, xem chừng vẫn chưa đến nỗi nào.”

Ta cười hì hì, đến ngồi bên cạnh hắn:

“Nhờ phúc trạch của Hoàng Thượng, thần thiếp đã khá nhiều rồi.”

Hắn chẳng đếm xỉa việc tay mình có sạch sẽ hay không, cứ thế véo má ta:

“Còn nói nữa! Nàng không chịu mở cửa ra xem, mấy ngày nay bên ngoài đã loạn đến mức nào, chỉ có mình nàng nhàn nhã như thế!”

Hậu cung vốn dĩ đã loạn rồi, không phải vì ngươi nâng đỡ Quách Ngữ mới thành như vậy sao? Còn dám đến đây trách ta.

Ta lúc lắc đầu, muốn gỡ tay Hoàng Đế ra mà không được, đành toét miệng cười cầu hòa:

“Hoàng Thượng bảo thần thiếp nghỉ ngơi, thần thiếp không phải đang tuân lệnh hay sao?”

Hoàng Đế bĩu môi, véo mạnh vào má ta một cái nữa rồi mới chịu buông tay. Ta bị đau lại chẳng dám làm gì, chỉ có thể ở trong lòng mắng hắn một trận. Hắn làm bộ không thấy vẻ mặt ấm ức của ta, đột ngột hỏi:

“Trẫm bảo nàng thêu túi thơm khác cho trẫm, đã làm chưa?”

“… Chưa ạ.”

“Đúng là lười nhác. Hết bệnh rồi thì ngày mai phải bắt tay vào làm ngay, không được chậm trễ.”

Hoàng Đế lườm ta, rồi chỉ tay lên trời, nói tiếp:

“Thêu cho trẫm hình này.”

Ta ngẩng đầu nhìn theo tay hắn mới thấy nơi tán cây trên đầu bọn ta có một đôi phiến vỹ tước đang quấn lấy nhau, xòe đuôi chao lượn ríu rít giữa những cành cây xanh ngắt, vừa vui vẻ vừa ung dung tự tại.

Lòng ta hơi xao động, nhưng lại có một ý nghĩ khác mãnh liệt hơn ùa đến, khiến ta phải nhẩm thầm không biết bao nhiêu lần: Hai vị tiểu bằng hữu, vì tương lai của tất cả chúng ta, ngàn vạn lần không được đại tiện lên đầu Vạn tuế gia đâu đấy!
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 45


Thời gian cứ nhàn nhạt trôi qua.

Chừng đâu mười hôm sau, Linh Lung các truyền ra tin Quách Ngữ đột ngột phát bệnh lạ, toàn thân nổi mụn nhọt. Ban đầu chỉ có vài nốt lưa thưa, về sau càng lúc mụn càng dày, chỉ trong vài ngài đã lan khắp mặt mũi. Quách Ngữ kinh hoàng, thái y cũng tái mặt. Thế nhưng chuyện này là do Hoàng Hậu sắp đặt, Thái y viện đương nhiên không dám khám ra bệnh gì, chỉ mập mờ nói do thời tiết thay đổi rồi kê vài thang thuốc thanh nhiệt tiêu độc thường thường. Quách Ngữ uống thuốc mãi không khỏi bệnh, bộ dạng nghe đâu vô cùng thảm hại. Cuộc sống ở Hậu cung vì thế mà có thêm vài chuyện náo nhiệt. Ban đầu nghe nói Quách Ngữ nổi mụn nhọt toàn thân, mấy nữ tử ở đây ai nấy đều hào hứng hẳn lên. Cả Liễu Yến Yến lẫn đám người Dương Quý cơ, Quỳnh Thục nghi, Giang tần đều lần lượt kiếm cớ đến Linh Lung các thăm hỏi, cốt yếu là để xem Quách Ngữ đã thảm đến mức nào. Chuyện mà đám phi tử tán dóc mỗi buổi sáng chuyển từ gấm vóc lụa là, trang sức, son phấn sang việc hôm nay Quách Uyển nghi đã nổi thêm mấy cái mụn. Còn có người cá cược xem ngày mai Quách Uyển nghi lại nổi thêm mấy cái mụn. Từ ngày Quách Ngữ đổ bệnh, Hoàng Đế không còn lui tới Linh Lung các nữa. Lý Thọ có đưa đồ sang thăm bệnh một lần nhưng cũng chỉ là làm cho có hình thức thôi. Bởi vậy tâm tình của Liễu Yến Yến cực kì tốt, mỗi ngày đến thỉnh an đều ăn vận xinh đẹp, cười tươi như ngàn hoa nở rộ, thậm chí còn có lần nói đùa với cả ta, khiến ta không khỏi nổi da gà.

Hậu cung vui vẻ, Hoàng Hậu đẹp lòng, thiên hạ thái bình.

Cho đến hơn một tháng sau, cảnh thái bình thịnh thế đó đột nhiên chấm dứt. Sự việc bắt nguồn từ một ngày nắng ấm áp, Dương Quý cơ và Giang Tần vui vẻ khoác tay nhau đi đến Linh Lung các xem trò vui, vậy mà lúc trở ra, mặt mũi cả hai người đều xám ngoét không còn giọt máu. Từ trong cung bắt đầu lan truyền tin đồn Quách Uyển nghi bị quả báo cho nên mụn nhọt trên người chẳng những càng ngày càng dày đặc mà còn khoét sâu đến tận xương, da thịt máu mủ lẫn lộn, không còn hình dạng con người nữa. Sự vui vẻ ban đầu khi Quách Ngữ mới đổ bệnh dần dần tiêu tán, Hậu cung chìm trong hoảng loạn. Người chưa biết thì khăng khăng đòi tới xem tận mắt, kẻ thấy tận mắt rồi thì sợ đến ngã bệnh. Dần dần, có người bắt đầu liên kết chuyện Quách Ngữ bị bệnh lạ với chuyện ta bị người thả rắn độc lên giường, thế là sinh ra vài lời đồn kì bí, lại bới lên cả những chuyện cũ. Lời đồn thì nhiều nhưng nội dung đại khái cũng chỉ có một: Quách Uyển nghi khi còn là Thường tại từng đắc tội Hòa phi, bị Hòa phi trách phạt nên đem lòng oán hận. Đến khi đắc sủng, Quách Uyển nghi bèn đem chuyện cũ dèm pha bên tai Vạn tuế gia, chẳng ngờ Hòa phi thủ đoạn cao siêu, Quách Uyển nghi không những không báo được thù lại còn bị phạt. Thù cũ thù mới chồng chất, Quách Uyển nghi trong lúc nóng giận, nghĩ ra hạ sách thả rắn độc hòng hại chết Hòa phi. Đáng tiếc Hòa phi lại cao tay hơn. Kết cục Quách Uyển nghi thua đến thảm hại, dở sống dở chết.

Câu chuyện ân oán tình thù này càng đồn đại càng trở nên li kì, mang tầm cỡ thâm cung bí sử. Trước tình thế này mà Hoàng Hậu vẫn bình chân như vại, chỉ lệnh đóng cửa Linh Lung các để Quách Ngữ tĩnh dưỡng. Còn ta dù bề ngoài ung dung như không có chuyện gì nhưng trong lòng từ lâu đã chẳng được yên.

Thực ra ta không sợ những tin đồn nhảm nhí này. Ở trong cung chẳng có mấy người thực sự tin, bọn họ cũng chỉ là kiếm chút chuyện nói cho vui miệng mà thôi. Mỗi ngày thêm vài lời đả kích, ta cứ cười cười làm như không hiểu là được. Chuyện khiến ta lo lắng là bệnh tình của Quách Ngữ. Về lí mà nói, ta đã giảm lượng độc chính lại, cùng lắm cũng chỉ nổi mụn nhọt ngoài da vài tháng là khỏi, sao có thể trở nên thê thảm như vậy? Chẳng lẽ vì Quách Ngữ từng mấy thứ thuốc độc hại để thay đổi diện mạo nên cơ thể yếu hơn người thường? Hay là còn nguyên do nào khác? Nghi vấn này cứ luẩn quẩn trong đầu ta, nhưng vì ta đã bỏ sót một chi tiết cho nên nghĩ mãi cũng không thông.

Phải đến lúc Linh Lung các truyền ra tin Uyển nghi Quách thị qua đời, ta mới ngộ ra mảnh ghép mình vẫn luôn bỏ sót.

Tin này truyền ra đúng lúc chư phi đang dự lễ thỉnh an ở Triêu Lan cung.

Quách Ngữ không qua khỏi vốn là điều đã được đoán trước nên không mấy ai ngạc nhiên, hầu hết chỉ nói vài câu thương cảm xã giao hờ hững.

Triệu Lam Kiều lại mất thêm một quân cờ nhưng cũng chẳng tỏ vẻ gì, chỉ nhìn ta cười ẩn ý:

“Bình thường Quách thị luôn có hiềm khích với tỷ tỷ. Bây giờ nàng ta chết rồi, tỷ tỷ lại được ngủ ngon, chẳng phải lo trong chăn có thứ gì kì quái.”

Cái chết của Quách Ngữ khiến ta hơi dao động, có điều chút dao động đó chẳng đủ làm ta mất bình tĩnh. Ta cụp mắt nhìn chung trà trên tay, thản nhiên cười:

“Trước kia thần thiếp chỉ có duyên gặp Quách Uyển nghi một lần, từ đó về sau vẫn chưa từng tái kiến, sao có thể có hiềm khích gì? Cẩm Tước cung nhiều cây cối, khó tránh có vài con vật nhỏ lạc vào.”

“Ồ, nếu thế mấy lời đồn kia đều là nhảm nhí rồi.”

“Đức phi nương nương sáng suốt, đúng là nhảm nhí cả.”

“Dù sao thì tỷ tỷ cũng nên cẩn thận. Cẩm Tước cung nhiều cây cối, không chừng sẽ lại có vài con vật khác đi lạc đấy.”

“Nương nương dạy phải, thần thiếp xin ghi nhớ trong lòng.”

Mặc kệ Triệu Lam Kiều nói xiên nói xỏ thế nào, ta vẫn cứ trưng ra dáng vẻ bánh gạo dẻo quẹo, bóp không bể, đè không nát. Triệu Lam Kiều đấm bị bông một hồi, xem chừng đã mất hứng liền hừ lạnh một tiếng, không thèm đả động đến nữa.

Lễ thỉnh an kết thúc, Hoàng Hậu giữ ta ở lại. Chuyện như vậy vẫn thường xảy ra nên chẳng ai lấy làm lạ. Chỉ có Trịnh Vân Anh quanh quẩn một hồi thấy Hoàng Hậu không đả động đến mình đành tiu ngỉu ra về. Mấy chuyện dơ bẩn thế này Hoàng Hậu tất nhiên không đành lòng để Trịnh Vân Anh nghe đến.

Đợi người khác đi cả rồi, Hoàng Hậu mới rời ghế phượng, bước đến đặt tay lên vai ta, dịu giọng hỏi:

“Nguyệt nhi, muội không có chuyện gì muốn hỏi ta sao?”

Ta ngẩng đầu nhìn Hoàng Hậu, khẽ mỉm cười:

“Quyết định của tỷ tỷ, muội không có gì thắc mắc.”

Đôi mắt đen láy như hắc cẩm thạch của Hoàng Hậu thăm thẳm xoáy vào ta, một hồi sau nàng mới cất tiếng thở dài:

“Ta biết, lòng dạ muội lương thiện, cho nên những việc không lương thiện, ta đã thay muội làm rồi. Cái chết của Quách thị không phải do muội, muội không cần nặng lòng.”

Nhìn thấy ta vẫn cúi đầu lặng yên, Hoàng Hậu lại dịu dàng khuyên giải:

“Muội có thể trách ta, ta bằng lòng để muội trách, chỉ cần muội đừng để trong lòng. Lúc này, giữa hai người chúng ta không thể có khúc mắc được.”

Bàn tay của Hoàng Hậu rất đẹp, từng ngón đều trắng nõn nà, thon dài mảnh dẻ, vậy mà để trên vai ta lại có cảm giác nặng như thái sơn đè xuống.

Phải, nút thắt mà ta bỏ sót lâu nay chính là Hoàng Hậu. Người như nàng ấy làm sao có thể hoàn toàn tin tưởng ta? Đơn thuốc ta đưa cho nàng, nhất định nàng đã sai thái y nghiên cứu trước, sau đó lại tăng đủ liều lượng độc lên. Vậy mà khi đó ta chẳng nghĩ được điều này. Ta đã quá tham lam, muốn giải quyết phiền phức nhưng cũng muốn chừa cho Quách Ngữ một con đường sống, lại còn muốn bảo vệ Lâm Giang, kéo Hoàng Hậu xuống nước.

Kết cục bây giờ cũng không tệ, phiền phức không còn, Lâm Giang không bị liên quan, Hoàng Hậu phải tự mình lội xuống vũng nước dơ này, cớ sao ta lại không vui nổi?

Nhưng Hoàng Hậu nói cũng không sai. Lúc này ta và nàng không thể có bất cứ khúc mắc nào. Khi trước Hoàng Hậu tỏ ý muốn diệt Quách Ngữ, vậy mà ta lại đưa cho nàng một đơn thuốc chỉ có tác dụng khiến người ta nổi mụn vài tháng. Hành động này của ta phần nào đã là chống đối Hoàng Hậu rồi. Nàng không trách ta đã may mắn. Nếu ta cứ không lên tiếng, Hoàng Hậu nhất định nghĩ ta oán giận, bất mãn nàng. Vì vậy dù chẳng muốn, ta vẫn phải mở miệng nói:

“Muội hiểu nỗi khổ tâm của tỷ, sao có thể trách tỷ. Chỉ là lúc đó, muội nghĩ Quách thị không đáng chết cho nên mới nhẹ tay… Thực ra muội không có ý chống đối tỷ đâu.”

Hoàng Hậu nở nụ cười ấm áp, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ta:

“Muội đã hiểu khổ tâm của ta, ta dĩ nhiên cũng hiểu thành ý của muội. Nhưng mà cái chết của Quách thị thực ra không oan uổng đâu.”

Ta mơ hồ đưa mắt nhìn nàng:

“Tỷ tỷ…”

Hoàng Hậu cười nhẹ một tiếng:

“Có chuyện này muội cũng nên biết. Du Thường tại đêm qua đã chết rồi.”

“Cái gì?”

Ta giật bắn người, suýt chút đánh đổ chung trà trên bàn. Du thị tuy bị Quách Ngữ đánh cho một trận liệt giường nhưng chẳng phải đã được Hoàng Hậu cho thuốc chữa trị rồi sao? Về sau cũng không nghe nói Quách Ngữ tìm nàng gây sự nữa, sức khỏe đáng lẽ phải chuyển biến tốt rồi, sao tự nhiên lại chết?

Hoàng Hậu đỡ chung trà bị ta làm rung rinh, đặt qua một bên, nói tiếp:

“Ta cũng cảm thấy kì lạ nên đã cho Xuân Linh đi Sương đình điều tra ngay trong đêm qua. Kết cục phát hiện trong thuốc bôi trị thương của Du Thường tại có trộn bột ớt. Vết thương chưa lành lại bị bôi thêm bột ớt vào đau đớn đến mức nào kia chứ? Du thị hẳn là chịu không nổi mà lăn lộn, làm rách vết thương ra. Bọn nô tỳ lại cứ lấy thứ thuốc ấy bôi thêm vào, cuối cùng vết thương rách toác, làm độc lở loét đáng sợ. Du thị chết cũng đau đớn không thua kém gì Quách thị đâu.”

Ta nghe mà sững sờ, sống lưng chợt lạnh đi.

“Quách thị vì sao phải làm vậy? Du thị vốn đã không còn tích sự gì…”

Hoàng Hậu mỉm cười lạnh lùng:

“Du thị chẳng còn tích sự gì, ai lại muốn hại nàng ta? E là chỉ có kẻ lòng dạ hẹp hòi như Quách thị mà thôi. Quách thị đối với Du thị tàn độc như thế, hằng ngày còn bắt Liên thị đến hầu như cung nữ hạ đẳng, lại thả rắn độc muốn hại chết muội, muội còn nghĩ ả không đáng chết sao?”

“Cũng là muội suy nghĩ không chu toàn, không nhìn thấy được con người nàng ta.”

“Vậy nên muội không có gì phải áy náy. Đi đến bước này cũng là do ả tự tạo nghiệp thôi.”

Ta ngoan ngoãn gật đầu với Hoàng Hậu, khóe môi khẽ cong lên thành một nụ cười mờ nhạt.

Quách Ngữ tạo nghiệp. Vậy chẳng lẽ việc ta làm không phải cũng là tạo nghiệp sao?

***

Quách Ngữ được an táng ngay sau đó, truy phong làm Uyển dung, chôn trong lăng phi tần. Du thị chưa từng được sủng hạnh, không thể truy phong nhưng Hoàng Hậu vẫn rộng lượng an táng nàng ta theo lễ chế Quý nhân. Ở trên triều, Hoàng Đế cũng thăng chức cho huynh trưởng hai người bọn họ. Mọi chuyện tạm xem là ổn thỏa. Chuyện náo nhiệt ở Hậu cung luôn không ít, cái chết của một Uyển nghi mới đắc sủng và một Thường tại vô danh cũng chẳng làm chỗ này chấn động được bao lâu. Những việc náo nhiệt khác lại bắt đầu chiếm chỗ.

Tháng tám năm Quang Nhật thứ sáu, Hoàng cung tất bật chuẩn bị yến tiệc trung thu.

Trung thu vốn dĩ là dịp gia đình đoàn viên, thế nhưng Hoàng Đế lại sinh ra đúng vào đêm trung thu. Thế nên gia yến trung thu hóa thành quốc yến mừng thọ Hoàng Đế. Bởi vì là quốc yến cho nên không chỉ Hậu cung mà triều thần cũng sẽ vào cung tham dự. Ngày hôm ấy, tất cả các vị đại thần trong triều và cả sứ thần các nước lân cận đều có mặt nên đương nhiên không thể có sai sót gì. Hoàng Hậu vì việc này mà bận đến tối mặt, cả ngày lo đôn đốc Ti Lễ phòng. May mà ta không rành lễ nghĩa nên mấy việc này Hoàng Hậu muốn nhờ cậy ta cũng chẳng được. Hoàng Hậu bận rộn không có thời gian tán gẫu, lễ thỉnh an mỗi ngày cũng chỉ đến chào cho có mà thôi. Ta tuy chẳng phải làm gì nhưng cũng không được rảnh rỗi. Mỗi ngày ta đều phải chăm chỉ thêu túi thơm cho Hoàng Đế, chẳng biết đã làm hỏng bao nhiêu cái, đến tận hôm nay đã là mười bốn ta mới thêu xong một cái hoàn chỉnh. Theo ý Hoàng Đế, trên mặt túi ta thêu hình một đôi phiến vĩ tước chao lượn trên cành cây. Đôi chim này Ngọc Thủy vẽ mẫu cho ta vốn rất đẹp, nhưng vì mũi thêu của ta quá thô kệch nên khi thêu xong liền có cảm tưởng hai con phiến vỹ tước này như bị béo phì, thân mình tròn vo, chẳng còn thấy sự thanh nhã của nét vẽ đâu nữa. Chẳng qua là thời gian gấp gáp, cứ mấy ngày Hoàng Đế lại cho Lý Thọ đến đưa bánh này nước nọ, thực chất là để đốc thúc không cho ta lười biếng, thế nên ta đành tạm hài lòng với đôi phiến vĩ tước béo ú này mà thôi.

Mãi đến buổi chiều ngày mười bốn, lễ phục của ta mới được đưa đến. Ta nghĩ Ti Chế phòng mấy ngày này cũng bận rộn nên không nói gì. Trước nay ta đều không thích khó dễ kẻ khác, những việc nhỏ có thể bỏ qua ta đều bỏ qua. Chỉ đáng tiếc sự khoan dung đó lại bị người ta lợi dụng để giở trò.

Lễ phục phi tần nhất phẩm của ta là hai lớp váy dài bằng gấm màu xanh ngọc, bên ngoài có áo khoác đuôi khổng tước bằng sa mỏng. Trên thân váy thêu họa tiết hoa và mây cách điệu, uốn lượn tinh tế, vừa nhìn vào đã thấy hài lòng. Chính vì quá yêu thích những hình thêu tỉ mỉ trên áo, ta mới ngồi xem cẩn thận từng chi tiết, mà cũng nhờ xem xét cẩn thận, ta mới phát hiện ra hình thêu viền trên tay áo của ta thực ra là phượng hoàng chín đuôi.

Phát hiện này làm lòng ta lạnh đi, thậm chí không dám tin vào mắt mình, ta phải gọi Ngọc Thủy:

“Ngọc Thủy, ngươi lại đây xem. Cái này rốt cuộc là hình gì?”

Khi ấy, Ngọc Thủy đang sắp xếp trang sức và đồ dùng sẵn sàng cho triêu hội sáng ngày mai, nghe ta gọi bèn tiến đến cúi đầu nhìn vào phần tay áo ta đang cầm. Quả nhiên, Ngọc Thủy ở trong cung đã lâu, chỉ vừa nhìn qua đã tái mặt:

“Chủ nhân, đây là phượng hoàng chín đuôi! Thứ này người tuyệt đối không thể mặc!”

Phượng hoàng chín đuôi là loại họa tiết chỉ có chính cung Hoàng Hậu mới được sử dụng.

Ta cắn chặt răng, cố kiềm chế mong muốn xé nát chiếc váy trong tay, gằn giọng:

“Xem ra Ti Chế phòng không thích ta rồi.”

Ngọc Thủy thấy sắc mặt ta không tốt, liền giành lấy bộ lễ phục, hẳn là sợ ta trong lúc nóng giận không nhịn được mà xé đi. Nàng dè dặt nhìn ta:

“Lễ phục của phi tần nhất phẩm đều do nữ quan Chưởng sự tự tay làm, sau đó trình lên Ti trưởng xem lại. Thật không ngờ bọn họ dám làm ra chuyện này… Nhưng lúc tiếp nhận lễ phục, Ngọc Nga chẳng phải đã kiểm tra rồi sao? Lẽ nào…”

Ta mím môi, lặng lẽ lắc đầu:

“Không phải Ngọc Nga cố ý đâu.”

Nói rồi chỉ vào hoa văn phượng hoàng chín đuôi trên tay áo mà nói tiếp:

“Ngươi nhìn đi, dải hoa văn cách điệu này thêu bằng chỉ sẫm màu, mới nhìn vào rất giống khổng tước. Nếu không xem kĩ phần mào và phần đuôi thì không thể nhận ra sự khác biệt. Ngọc Nga vào cung chưa lâu, lại chưa từng tiếp xúc với lễ phục nên khó mà phân biệt được. Đừng nghĩ oan cho nàng.”

Khổng tước và phượng hoàng vốn rất giống nhau nhưng về ý nghĩa lại khác một trời một vực. Cũng nhờ ta lớn lên trong Hậu cung, từ nhỏ đã nhìn quen mắt mới có thể nhận ra.

Ngọc Thủy còn chưa kịp đáp lại, đã nghe ngoài cửa có tiếng rơi vỡ loảng xoảng. Ngọc Nga sắc mặt tái nhợt, đang đứng ngây người nơi ngưỡng cửa, kỷ trà lăn lóc dưới chân nàng, có lẽ đã nghe thấy mọi chuyện.

“Vào đây, bản cung không trách ngươi đâu.” Ta thở dài, vẫy gọi Ngọc Nga.

Ngọc Nga nghe ta nói vậy liền òa khóc, chạy đến quỳ sụp dưới chân ta, dập đầu lia lịa:

“Nô tỳ đáng chết! Đều tại nô tỳ ngu dốt! Nô tỳ hại chủ nhân rồi!”

Ta tặc lưỡi một tiếng, cúi người đưa tay chặn ngang trán Ngọc Nga, không cho nàng lạy nữa:

“Bản cung biết ngươi không cố ý. Đừng như thế nữa, giờ chúng ta hãy nghĩ cách giải quyết việc này đã.”

Ngọc Thủy e dè nói khẽ:

“Hay chúng ta trả lại Ti Lễ phòng, bắt bọn họ chịu trách nhiệm?”

Ta lắc đầu, gạt đi:

“Không được. Lúc chiều nhận đồ đã không có ý kiến gì, bây giờ sao nói được nữa? Cho dù ép bọn họ nhận về, họ đã có ý hại ta, lẽ nào lại tình nguyện sửa giúp ta? Bất luận là lỗi của ai, chỉ cần đến sáng ngày mai mà ta không có lễ phục mặc dự triêu hội thì đều trở thành lỗi của ta cả.”

Ngọc Nga lau nước mắt, sụt sịt hỏi:

“Chủ nhân, hay chúng ta… đến báo cho Hoàng Hậu nương nương, nhờ Hoàng Hậu nương nương trợ giúp?”

Ta suy nghĩ một chút, cuối cùng vẫn lắc đầu:

“Hoàng Hậu nương nương bận như thế, không có thời gian giải quyết chuyện này cho ta đâu.”

Ngọc Thủy lại nói:

“Hay chủ nhân giả ốm, tránh qua lúc này là được?”

“Sáng nay vẫn mạnh khỏe, sao qua một đêm mà ốm đến mức đó được? Vả lại đây còn là thọ yến của Hoàng Thượng, không thể không đi.”

Bấy giờ, trên mặt Ngọc Nga và Ngọc Thủy đều ngập tràn lo âu. Lòng ta cũng rối như tơ vò. Kẻ lần này ra tay với ta thực quá cao minh. Cứ nghĩ Hoàng Hậu đã nắm Thượng Cung cục trong lòng bàn tay, thật không ngờ Ti Chế phòng đã bị kẻ khác khống chế từ trước. Hậu cung này đúng là biến hóa phi thường.

Bất chợt trong đầu lóe lên một ý nghĩ, ta ngẩng đầu nhìn Ngọc Thủy mỉm cười:

“Theo quy chế thì phi tần nhất phẩm đã có thể dùng hoa văn phượng hoàng rồi, đúng không?”

Ngọc Thủy lập tức hiểu ý ta, reo lên:

“Đúng rồi! Chỉ cần không phải chín đuôi là được!”

Ngọc Nga cũng vui mừng nói:

“Phải đấy, chúng ta tháo bớt đuôi của mấy con phượng hoàng này đi, sau đó thêu chồng thứ khác lên…”

Nói đến đây, sự hào hứng của Ngọc Nga đột nhiên chuyển thành lo lắng:

“Nhưng… Tay của nô tỳ đã không còn như xưa… Tháo chỉ thì không thành vấn đề, nhưng thêu… e là không được… Một mình Ngọc Thủy sợ không thể sửa kịp trong đêm nay…”

Lời Ngọc Nga cũng có phần đúng. Tay áo này rộng đến nửa thước, mỗi bên cũng viền đến cả trăm con phượng hoàng nhỏ xíu. Việc này không những đòi hỏi kĩ thuật thêu phải tinh xảo tương ứng với người đã thêu bộ lễ phục này mà còn phải thật cẩn thận không được sai sót. Một mình Ngọc Thủy không có cách nào làm kịp.

Ta nhắm mắt, cân nhắc một hồi rồi nói:

“Đi mời Tạ tiểu thư đến cho ta.”

Ngày Tạ Thu Dung tiến thân Thượng Cung cục, ta đã dặn dò nàng nếu gặp rắc rối gì nhất định phải báo cho ta biết. Không ngờ người gặp rắc rối trước lại là ta.

Ngọc Thủy rành rẽ đường đi trong cung, ta để nàng đi đường tắt mời Tạ Thu Dung đến để không bị chú ý. Sự việc gấp rút, Tạ Thu Dung vừa nghe Ngọc Thủy nói ta gặp chuyện liền thay y phục cung nữ, khoác áo choàng cắm đầu đi một mạch đến Cẩm Tước cung.

Hai người bọn ta lâu ngày mới gặp mặt, nhưng thời gian hàn huyên cũng chẳng có. Tạ Thu Dung nghe ta nói xong, chỉ ngồi nghỉ một chút cho đỡ mệt, nói một câu: “Nguyệt nhi yên tâm” rồi liền bắt tay vào sửa áo cho ta.

Đêm hôm ấy, phòng nghỉ của ta thắp đèn sáng rực, bốn người cùng ngồi dưới đèn. Ta và Ngọc Nga cầm kéo nhỏ tháo của mỗi con phượng hoàng một cái đuôi. Ngọc Thủy và Tạ Thu Dung thêu vào chỗ cái đuôi vừa bị tháo một cụm mây cong cong che đi phần vải bị tháo chỉ nham nhở. Nói thì dễ nhưng làm thì vô cùng gian khổ. Hình thêu rất nhỏ, khi dùng kéo cắt chỉ phải cực kì tập trung, chỉ sơ sẩy một chút sẽ cắt phạm vào vải làm hỏng cả bộ lễ phục. Việc cắt chỉ đã khó như vậy, công đoạn thêu chèn lên trên dĩ nhiên là khó khăn gấp bội. Ngọc Thủy và Tạ Thu Dung đều là những tú nương tay nghề cực cao nhưng chỉ mới thêu được nửa tay áo, lưng đều đã mướt mồ hôi. Chúng ta vốn thân thiết nhau, bình thường mỗi lúc ở cạnh nhau đều sẽ nói chuyện luôn miệng. Thế nhưng lúc này, ai nấy đều căng thẳng tột bậc, chẳng người nào nói nổi một lời. Từng canh giờ trôi qua như những tảng đá đè nặng lên trái tim ta.

Thoáng chốc, bầu trời phía đông ngoài cửa sổ đã hửng sáng.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 46


Ngày mười lăm tháng tám năm Quang Nhật thứ sáu, thọ yến của Hoàng Đế Tống Chiêu Huy và yến tiệc đoàn viên trung thu được kết hợp tổ chức một thể, hoàng cung Bách Phượng vì vậy mà nhộn nhịp còn hơn lễ tết.

Ngày hôm nay, Hoàng Đế tròn mười tám tuổi. Tuy không phải đại thọ, sứ thần các nước mang quà đến chúc mừng cũng chỉ là hàng quan lại, không có hoàng tộc nhưng lễ tiếp đón vẫn phải làm long trọng đúng quy củ. Lễ tiếp đón sứ thần do đích thân Hoàng Đế chủ trì, thực hiện ở khoảng sân lớn phía trước điện Cát Tường. Hậu cung cũng phải có mặt từ sớm. Hoàng Đế ngồi ở bàn lớn chính giữa sân, Hoàng Hậu và Thái Hậu ngự ở hai bên. Nhiều ngày không gặp, Thái Hậu trông xanh xao hơn trước một chút, chỉ ngồi lặng lẽ ở đó mà không nói lời nào. Có lẽ thời tiết thay đổi làm ảnh hưởng đến bệnh khớp của bà, tâm tình cũng vì thế mà không được tốt.

Đây là lần đầu tiên ta thấy bộ dạng hoàn toàn nghiêm túc của Hoàng Đế. Hắn mặc long cổn màu đen, thân áo thêu hình “kim long tại thiên”, hai ống tay áo cũng thêu kín hoa văn rồng phượng. Áo phủ ngoài đỏ thẫm, trang trí họa tiết bát cát tường. Mười hai sợi tua ngọc rũ dài từ chiếc mũ bình thiên gần như che khuất gương mặt khiến ta không nhìn rõ được biểu cảm của hắn, nhưng chỉ riêng tư thế ngồi thẳng lưng kia thôi thường ngày đã khó thấy rồi. (1) Nhiều khi ta cứ nghĩ mãi, không biết tên tiểu tử này rốt cuộc có bao nhiêu bộ mặt.

Hôm nay Hoàng Hậu cũng ăn mặc rất nghiêm trang. Phượng bào trên người nàng may từ vải sa nam, trên có thêu hình cửu phụng và tản vân, càng tôn thêm nét hiền từ, đoan chính cần phải có của một vị quốc mẫu.

Đế Hậu cùng ngồi một chỗ cười nói hòa hợp tạo cho người khác cảm giác triều chính và hậu cung hết sức ổn định, yên bình. Chính ta nhìn vào cũng cảm thấy mừng thay cho thiên hạ. Thế mà ở phía trước mặt ta, Liễu Thục phi nương nương lại hình như không nghĩ như vậy.

Vị trí ngồi được xếp theo địa vị cho nên bên phía hậu cung, dãy ghế đầu tiên tất nhiên thuộc về Thục phi Liễu Yến Yến và Đức phi Triệu Lam Kiều. Ta ngồi ở hàng thứ hai dành cho phân vị phi cùng với Trịnh Vân Anh và Minh Âm. Khoảng cách hai dãy khá gần, nhờ thế nhất cử nhất động của Liễu Yến Yến ta đều nhìn thấy cả. Liễu Yến Yến có một tật xấu là quá ghen tuông. Bất luận Hoàng Đế gần gũi nữ tử nào, nàng ta cũng đều sẽ nổi giận. Chỉ tiếc nữ tử đang ngồi sát bên Hoàng Đế kia là chính cung Hoàng Hậu, Liễu Yến Yến không có tư cách, càng không có gan ghen với người đó cho nên chỉ đành ngồi ở đây hậm hực trút giận lên đĩa điểm tâm. Dáng vẻ hầm hầm bẻ nát từng cái bánh một của Liễu Yến Yến thực sự rất buồn cười, cho nên Triệu Lam Kiều ngồi bên cạnh đã không nhịn được mà phì cười một tiếng. Liễu Yến Yến vốn chờ có người để trút giận, lập tức quắc mắt nạt Triệu Lam Kiều:

“Ngươi cười cái gì?”

Chẳng ngờ Triệu Lam Kiều lại chỉ thu lại nụ cười, uyển chuyển tránh đi sự khiêu khích của Liễu Yến Yến:

“Thần thiếp chỉ là nhớ lại một vài chuyện thôi.”

Liễu Yến Yến chẳng ngờ Triệu Lam Kiều tự nhiên bị nạt nộ như thế ở chỗ đông người mà vẫn có thể nhún nhường, nhất thời nghẹn lời. Nếu là người khác chưa chắc Liễu Yến Yến sẽ buông tha nhưng người này lại là Triệu Lam Kiều. Nàng ta chẳng những là quý nữ Triệu thị, phân vị cũng chẳng thấp hơn Liễu Yến Yến bao nhiêu mà bây giờ đang là đại lễ, huynh trưởng Triệu Họa của nàng ta cũng đang ngồi ở hàng đầu bên phía triều thần. Liễu Yến Yến đành phải ngậm miệng. Tính ra hai người này vốn chẳng ưa nhau, thêm nữa, sau sự việc Triệu Lam Kiều nâng đỡ Quách Ngữ tranh sủng, Liễu Yến Yến càng thêm căm ghét Triệu Lam Kiều. Mối quan hệ giữa hai người càng lúc càng xấu, mỗi lần gặp nhau đều như nước với lửa. Có điều hôm nay là ngày trọng đại, Liễu Yến Yến dẫu càn quấy đến đâu cũng không dám làm loạn vào lúc này nên chỉ có thể dùng ánh mắt hừng hực lửa căm thù mà nhìn Triệu Lam Kiều. Trái lại, Triệu Lam Kiều như chẳng để tâm đến Liễu Yến Yến, cứ thản nhiên uống trà, ăn điểm tâm. Liễu Yến Yến thấy Triệu Lam Kiều phớt lờ mình, sát khí càng tỏa ra dữ dội. Trước tình cảnh ấy, mấy người ngồi sau bọn ta đều sợ đến run người, chẳng ai dám hó hé một lời nào, chỉ sợ không dưng mang họa. Ngay đến Trịnh Vân Anh luôn thích nói cười cũng im thin thít.

Đoàn sứ thần vẫn chưa thấy bóng dáng, trà nước trên các bàn đang dần vơi đi thì có cung nữ bưng ấm trà mới đến. Vì tính chất trọng đại của buổi lễ, cung nữ phục vụ đều là người ở Ngự tiền và mấy đại cung nữ bên Triêu Lan cung điều đến. Chính vì vậy khi nhìn thấy một cung nữ lạ mặt trong đám người châm trà, lòng ta liền sinh nghi. Thấy cung nữ đó bưng bình trà tiến về phía mình, ta nghiêng đầu nhìn về phía khác, vờ như không để ý đến nhưng hai tai thì vểnh lên, cố gắng tập trung nghe thật kĩ từng bước chân của nàng ta.

Tiếng bước chân mỗi lúc một gần hơn, dù đã cố kiềm chế nhưng nhịp bước vẫn hơi dồn dập, đủ thấy nàng ta đang căng thẳng. Quả nhiên ta chẳng phải đợi lâu, vừa nghe tiếng đế giày trượt trên nền đá, ta xoay nhìn đã thấy cung nữ kia đã muốn ngã dúi về phía mình, khay trà trên tay cũng hướng thẳng ta mà bay đến. Đã có chuẩn bị từ trước nên chỉ trong tích tắc, ta đã xòe bàn tay đón lấy chiếc khay vừa bay đến, bình trà bên trên cũng theo chuyển động cổ tay ta mà xoay tròn mấy vòng nhưng vẫn yên vị trên khay, một giọt trà cũng không rơi ra ngoài.

Mấy năm ta học võ, tuy không thể gọi là giỏi giang gì nhưng đỡ lấy một bình trà cũng chưa phải là quá khó.

Cung nữ kia sau khi ngã xuống đất mà chẳng nghe chỗ ta có biến động gì, bèn ngẩng đầu nhìn lên. Khi thấy khay trà của mình đang an toàn nằm trên tay ta mà ta lại đang thản nhiên nhìn nàng mỉm cười, mặt của nàng ta liền tái đi.

“Nô tỳ vụng về, xin nương nương tha tội!”

Cung nữ kia chẳng bối rối lâu đã thuần thục cúi lạy ta lia lịa. Ta vẫn tỏ ra không có việc gì, nhấc ấm trà để xuống bàn của mình rồi trả lại cái khay cho nàng ta:

“Không sao, ngươi đi đi.”

Sự việc diễn ra quá nhanh.

Mãi đến lúc này, Minh phi và Trịnh Vân Anh mới giật mình, đồng loạt hỏi:

“Có chuyện gì vậy?”

Ta lắc đầu, trấn an hai người bọn họ:

“Không có gì đâu.”

Minh phi tinh ý, nhìn thấy cung nữ châm trà nọ quỳ dưới đất, lại thấy ta đang đưa trả khay cho nàng ta, liền hiểu ra, lo lắng hỏi:

“Nương nương không bị bỏng chứ?”

Trịnh Vân Anh nghe xong liền kinh hãi hỏi theo:

“Tỷ tỷ bị đổ trà lên người à? Đâu, đưa tay cho muội xem nào… ”

Trên tay ta chẳng hề có giọt nước trà nào, nhưng nhìn ánh mắt ngập tràn lo âu của Trịnh Vân Anh lại thấy không đành lòng, bèn đưa một tay ra cho muội ấy yên tâm. Nào ngờ cung nữ kia thực to gan, dám thừa cơ hội ấy chụp lấy tay ta, luôn miệng nói:

“Nương nương có bị thương không? Nô tỳ thật đáng tội! Để nô tỳ xem…”

Nàng ta miệng vừa nói, tay vừa cầm chặt cổ tay ta, chỉ chực muốn tháo nếp gấp trên tay áo ta xuống.

Đúng là đến thật rồi.

Ta cười nhạt, lập tức thẳng tay hất nàng ta ra không chút khoan nhượng.

Nhờ ơn Triệu Lam Kiều, ở trong cung ta luôn có tiếng hiền lành nhân từ, thế nên dĩ nhiên cung nữ kia chẳng ngờ ta lại phản ứng thô bạo như thế. Bị ta bất ngờ hất ra, nàng ta ré lên một tiếng rồi loạng choạng ngã xuống đất. Thế là kinh động đến Thục phi và Đức phi ngồi phía trước.

Tâm tình Liễu Yến Yến đang không tốt, nghe thấy ồn ào liền quay lại xẵng giọng hỏi:

“Hòa phi làm cái gì mà ầm ầm thế? Không biết hôm nay là ngày gì hay sao mà lại làm loạn lên như vậy?”

Ta vội đứng dậy chắp tay thưa:

“Bẩm Thục phi nương nương, cung nữ này chỉ bất cẩn bị ngã thôi. Xin nương nương rộng lòng lượng thứ.”

Liễu Yến Yến lườm ta, mở miệng định mắng tiếp nhưng chưa kịp lên tiếng thì cung nữ kia lại quỳ mọp xuống đất, dập đầu nói lớn:

“Nô tỳ vụng về làm đổ trà ra áo Hòa phi nương nương… Nô tỳ đáng tội!”

Triệu Lam Kiều quan sát nãy giờ, dường như chỉ chờ câu này, lập tức đứng dậy bước lại chỗ ta, lo lắng hỏi:

“Bị đổ trà lên người sao? Hòa tỷ tỷ thật là… Việc nguy hiểm thế mà lại làm như không có gì… Tỷ tỷ không bị thương đó chứ?”

Nói rồi nhanh như chớp tóm lấy tay ta kéo lên cao như thể là để nhìn cho rõ, nhưng thực chất ngón tay lại đang luồn vào nếp gấp trên ống tay áo của ta.

Ta cười gượng, nhanh chóng rút tay lại:

“Thần thiếp quả thực không sao cả. Ấm trà vẫn còn nguyên đây, nương nương nhìn xem, nào có đổ ra ngoài đâu…”

Triệu Lam Kiều thấy ta có ý định rút tay về, lập tức dùng hết sức giữ chặt lấy. Tốn bao nhiêu tâm sức mới có được cơ hội tốt như vậy, nàng ta sao có thể dễ dàng bỏ qua.

Tạ Thu Dung, Ngọc Thủy và Ngọc Nga vất vả đến tờ mờ sáng mới sửa xong hai tay áo cho ta. Tay nghề thêu của Tạ Thu Dung và Ngọc Thủy rất tốt, nhìn những dải mây thêu chèn vào cạnh họa tiết phượng hoàng tám đuôi mềm mại sống động e rằng chẳng ai dám nghĩ nó chỉ mới được thêu vội trong một đêm. Ban sáng trước khi rời cung, ta đã kiểm tra kĩ lưỡng lại từng mũi thêu, cho dù người khác nhìn vào cũng không thể phát hiện bất cứ sai sót gì, nhưng suy nghĩ một hồi ta vẫn quyết định gấp phần viền đó lên.

Thử nghĩ mà xem, nếu kẻ nào đã có lòng dùng đám phượng hoàng chín đuôi này hại ta thì nhất định không bỏ qua cơ hội phơi bày thứ này. Hôm nay là ngày trọng đại, chẳng những bách quan tề tựu mà cả sứ thần các nước đều có mặt, nếu để lộ ra việc ta đại nghịch bất kính, có ý đồ lấn lướt Hoàng Hậu thì cái mạng nhỏ của ta dù là Hoàng Hậu hay Hoàng Đế cũng không cứu nổi. Vì vậy ta mới nảy ra ý định gấp tay áo lên, dùng kim nhỏ ghim cố định lại, kẻ nào muốn gỡ tay áo ta xuống thì kẻ đó chính là chủ mưu hãm hại ta.

Không ngoài dự đoán, kẻ có đủ bản lĩnh qua mặt Hoàng Hậu thao túng Ti Chế phòng còn có thể là ai khác ngoài Triệu Lam Kiều?

Đương lúc ta và Triệu Lam Kiều đang giằng co thì Liễu Yến Yến đã mất kiên nhẫn, nhăn mặt gắt lên:

“Đã không sao thì thôi. Đức phi, ngươi còn ở đó lôi kéo cái gì?”

Liễu Yến Yến không thích ta nhưng càng không thích Triệu Lam Kiều hơn. Trước tình thế này, trong lời nói vô thức có ý hơi nghiêng về phía ta.

Triệu Lam Kiều đương nhiên hiểu Liễu Yến Yến muốn kiếm chuyện với mình, nhưng con mồi đã dâng tới miệng muốn nàng ta nhả ra còn khó hơn lên trời. Bởi vậy, Triệu Lam Kiều coi như không thấy ánh mắt rực lửa của Liễu Yến Yến, chỉ nhìn chằm chằm vào tay ta:

“Thực sự không sao chứ? Thật khiến muội muội đây lo lắng… A, ban nãy vẫn luôn cảm thấy tay áo tỷ tỷ hình như hơi ngắn. Muội còn cứ nghĩ Thượng cung cục sao có thể làm ăn tắc trách như vậy. Thì ra là bị vướng lên sao…”

Sự kinh ngạc trên gương mặt tú lệ của Triệu Lam Kiều nhìn qua rất chân thật. Bất giác ta tự hỏi vị Đức phi trẻ tuổi này đã lớn lên trong hoàn cảnh như thế nào, thời thơ ấu đã trải qua những việc gì mà khả năng diễn kịch lại cao siêu như thế?

Nghĩ rồi ta lại tự nhủ quý nữ dòng chính thất của Triệu Tướng gia, cành vàng lá ngọc như thế thì có thể trải qua chuyện gì được? Có lẽ trên đời này thực có một loại người gọi là thiên tài.

Triệu Lam Kiều đã muốn đóng kịch, ta sẽ cùng nàng đóng cho trọn vẹn. Mắt thấy Triệu Lam Kiều định giật tay áo của mình xuống, ta liền lộ vẻ sợ hãi, muốn tránh né. Hành động ấy càng củng cố niềm tin trong lòng Triệu Lam Kiều, nàng ta càng giữ chặt lấy cánh tay ta, nhanh nhẹn giật phắt nếp gấp trên tay áo xuống.

Cây kim nhỏ bị giật mạnh rơi ra, tay áo mềm mại buông xuống để lộ một dải họa tiết phượng hoàng tám đuôi giương cánh sống động giữa những dải mây bạc.

Sự sợ hãi trên mặt ta dần dần chuyển thành một nụ cười nhã nhặn còn vẻ đắc ý của Triệu Lam Kiều lại hóa thành kinh hoảng. Triệu Lam Kiều như thể không tin vào mắt mình, đôi mày đẹp còn hơi nheo lại, có lẽ muốn đếm cho thật kĩ số đuôi của mấy con phượng hoàng trên tay áo ta.

Tiếc cho nỗ lực của Triệu Lam Kiều, cho dù đếm đi đếm lại bao nhiêu lần thì mấy con phượng hoàng kia vẫn chỉ có tám cái đuôi.

Bàn tay Triệu Lam Kiều bỗng phát run rồi chậm chạp tuột khỏi cánh tay ta. Lúc này ta mới lễ phép đáp:

“Thực ra là thần thiếp chưa quen mặt loại lễ phục long trọng như vậy cho nên cảm thấy hơi vướng víu, đành mạo muội gấp tay áo lên một nếp để tiện cử động hơn, không phải là Thượng Cung cục tắc trách đâu.”

Triệu Lam Kiều vốn thông minh, rất nhanh liền hiểu ra kế hoạch không thành lại còn bị ta trêu chọc, ánh mắt trở nên sắc lạnh, giọng nói cũng thay đổi:

“Dù cảm thấy khó chịu thì cũng không thể làm vậy. Đây là lễ phục, chẳng phải thứ có thể tùy tiện muốn mặc thế nào thì mặc.”

Liễu Yến Yến bị phớt lờ từ ban nãy, lúc này đã giận đến nỗi hai tai muốn bốc khói, liền đập bàn, quát lên:

“Hai người các ngươi không coi bản cung ra gì sao? Lôi lôi kéo kéo mãi chẳng ra thể thống gì cả! Ở đây còn có bản cung, bản cung chưa lên tiếng đã tới lượt Đức phi dạy dỗ kẻ khác nên mặc y phục thế nào à?”

Lần này Triệu Lam Kiều giở trò lên lễ phục của ta, xem như đã đặt cược rất lớn. Sau việc này dù số phận ta ra sao thì Hoàng Hậu cũng sẽ phát hiện ra việc Ti Chế phòng bị thao túng, tất sẽ dọn dẹp gọn gàng. Về sau Triệu Lam Kiều muốn mua chuộc lại càng khó khăn hơn. Nắm được Ti Chế phòng trong tay có rất nhiều lợi ích. Triệu Lam Kiều vì ta mà hi sinh lợi ích lớn lao như vậy, đúng là đã quá coi trọng ta rồi.

Cũng vì đã hi sinh quá lớn mà chẳng đạt được mục đích lại còn bị ta đem ra làm trò cười, Triệu Lam Kiều khó nén nổi lửa giận trong lòng. Thêm vào một Liễu Yến Yến ngông cuồng đứng một bên quát nạt, lửa giận của Triệu Lam Kiều thế là bén ra ngoài:

“Thần thiếp chỉ nói thế thôi. Thục phi nương nương muốn dạy dỗ ai thì cứ dạy dỗ kẻ đó, thần thiếp sao dám chen vào chứ!”

“Ngươi dám nói vậy với bản cung?”

“Nương nương dạy bảo, thần thiếp tất nhiên phải đáp lời rồi. Nếu không chẳng phải vô lễ lắm sao?”

“Ngươi!”

Triệu Lam Kiều và Liễu Yến Yến đều còn trẻ, xưa nay lại được nuông chiều, chuyện gì cũng theo ý các nàng. Bây giờ tự nhiên có việc trái ý xảy ra nên nhất thời tức giận không kiềm chế được cũng là phải lẽ. Cục diện giằng co giữa ta và Triệu Lam Kiều chuyển thành trận chiến của Triệu Lam Kiều và Liễu Yến Yến.

Triệu Lam Kiều dù có tức giận nhưng vẫn cố giữ cho giọng nói vừa đủ nghe, lời lẽ cũng không tính là bất kính, chỉ là bên trong có ý tứ mỉa mai mà thôi. Ngược lại Liễu Yến Yến càng nói càng tức tối, cuối cùng đã hóa thành quát tháo om sòm. Người ở chung quanh không biết từ lúc nào đều đã yên lặng hướng về phía này xem chuyện náo nhiệt. Ngay cả Hoàng Đế ngồi trên cao cũng phải lên tiếng:

“Thục phi và Đức phi đang nói chuyện gì ấy nhỉ?”

Liễu Yến Yến nghe Hoàng Đế nhắc đến mình vội giật bắn người, ấp úng đáp:

“Thần thiếp… Là Đức phi, nàng ta…”

Trước mặt Đế Hậu và quần thần, Triệu Lam Kiều không dám cướp lời, Liễu Yến Yến vì vậy được lợi thế, vốn đang định kể tội thì thấy Minh phi nhìn nàng khẽ lắc đầu. Liễu Yến Yến liền trợn mắt nhìn lại, Minh phi không hề sợ hãi, vẫn kiên nhẫn lắc đầu. Liễu Yến Yến rất càn quấy nhưng cũng biết tâm kế của mình không bằng kẻ khác cho nên rất nghe lời khuyên giải của Minh phi. Minh phi đã ra hiệu nhắc nhở, nàng ta dù còn ấm ức nhưng cũng thôi không làm ầm lên nữa.

Liễu Yến Yến đang như hòn than nóng tự nhiên chỉ trong khoảnh khắc lại xìu xuống như bánh bao nhúng nước khiến cho người khác đều không hiểu nổi nguyên do.

Hoàng Đế nhíu mày, lại hỏi:

“Rốt cuộc là có chuyện gì?”

Liễu Yến Yến mím môi, tự biết mình ăn nói l* m*ng, bèn đưa mắt cầu cứu Minh phi.

Minh phi hiểu ý, lặng lẽ bước lên một bước, cúi người chắp tay thưa:

“Bẩm Hoàng Thượng, do có một cung nữ châm trà bị vấp ngã, suýt chút làm đổ trà nóng lên người Hòa phi nương nương cho nên mới khiến Thục phi nương nương và Đức phi nương nương nhất thời lo lắng. Cũng may Hòa phi nương nương không bị thương, cho nên cũng không phải chuyện gì đâu ạ.”

Lông mày Hoàng Đế càng nhíu chặt, liếc nhìn sơ đúng là có một cung nữ châm trà đang quỳ ở chỗ ta, bèn gọi ta:

“Hòa phi, có đúng vậy không?”

Sau câu nói của Hoàng Đế, mọi ánh mắt liền hướng về phía ta. Ngay cả Minh phi cũng quay lại nhìn ta. Ta hiểu ý nàng muốn khuyên ta đừng làm lớn chuyện bèn khẽ gật đầu đáp lại nàng rồi nâng váy tiến lên, bắt chước làm bộ dạng cúi người kính cẩn đáp:

“Bẩm, đúng là như thế ạ.”

Ta bày ra việc gấp tay áo lên cũng chỉ để thử xem kẻ nào giở trò với mình, không hề có ý định gây phiền phức cho ai. Hơn nữa hôm nay là đại yến, nếu bây giờ nhiều lời gây chuyện, một bên là Thục phi có họ Liễu chống lưng, một bên là Đức phi có Triệu Tướng gia che chở, chống đối bọn họ, người gặp phiền phức nhất sẽ là ta thôi.

Bản thân người trong cuộc là ta đã nói vậy, Hoàng Đế cũng chẳng vặn hỏi thêm, chỉ nhẹ nhàng phán một câu:

“Cung nữ kia tay chân vụng về, không xứng được hầu hạ trong cung, lôi ra ngoài trượng tễ đi.”

Trong ngày đại thọ của mình mà Hoàng Đế vẫn không ngại sát sinh. Ai nấy nghe xong đều xanh mặt nhưng không người nào dám lên tiếng can giải. Dù sao cũng chỉ là một cung nữ thôi, những người có mặt ở đây có ai chẳng phải quý nhân đâu, làm sao có thể liều mình vì một cung nữ vô danh?

Ta cúi đầu, khép chặt mi mắt. Thực lòng không muốn nhìn thấy cảnh cung nữ kia bị người ta lôi đi, mãi đến lúc tiếng kêu khóc của nàng ta chỉ còn văng vẳng ngoài xa, ta mới dám mở mắt ra đã thấy Minh phi ngồi bên cạnh đang tự tay châm thêm trà vào chén của ta. Nàng nhìn ta, mỉm cười đằm thắm:

“Đa tạ nương nương tương trợ.”

Ta không muốn phật ý nàng nên cũng mỉm cười tươi tắn, nâng ly trà lên uống một ngụm cho phải phép.

Cũng là một loại trà, nhưng không hiểu sao bây giờ chẳng nghe thấy hương thơm ấm áp như ban nãy nữa.

Khi ta đặt ly trà xuống nhìn lại, Minh phi đã nhìn ra phía khác.

Minh phi trong ấn tượng của ta từ trước đến nay luôn là một nữ tử dịu dàng, hành xử chừng mực, suy nghĩ chu toàn. Đến hôm nay mới biết, khi cần thiết thì nàng cũng có thể xuống tay tàn nhẫn như vậy. Chỉ bằng đôi câu nói ôn hòa, đem tất cả rắc rối đổ hết lên đầu một cung nữ, thế là bảo vệ được Thục phi của nàng. Đúng là không thể nghĩ ra biện pháp nào đơn giản mà ổn thỏa hơn. Trong tình thế đó, đây đã là giải pháp tốt nhất rồi.

Ta biết Minh phi không làm sai. Đổi lại là ta, nếu phải lựa chọn, ta cũng sẽ làm như nàng. Nhưng mặc dù thấu hiểu đến mức nào, trong lòng vẫn cứ dâng lên một nỗi xót xa.

Nơi Hậu cung mạng người rẻ mạt.

Bất giác, ta cảm thấy tay mình bị một bàn tay ấm áp nắm lấy, ngoảnh nhìn lại đã thấy hiện ra trước mắt gương mặt thuần khiết cùng với nụ cười ngây thơ vô tư lự của Trịnh Vân Anh. Ta không biết những chuyện đã qua muội ấy hiểu được bao nhiêu, cũng nhận thức được rằng theo thời gian, muội ấy nhất định sẽ dần dần hiểu ra tất cả. Ta vừa muốn muội ấy nhanh chóng hiểu được những gian trá, độc địa ở đây mà biết tự bảo vệ mình lại vừa hi vọng muội ấy đừng bao giờ hiểu một điều gì cả, để cho nụ cười trong trẻo, thiện lương này mãi mãi đừng tan biến.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 47


Đoàn sứ thần đi từ dịch quán, qua Vọng Quân thì không thể tiếp tục dùng xe ngựa cho nên khi đến điện Cát Tường này thì cũng đã mất thêm nửa canh giờ.

Dẫn đoàn tiếp đón là phụ thân của Liễu Yến Yến, Thái phó Liễu Nhất đức cao vọng trọng. Sứ thần các nước đi sau Liễu Thái phó, thứ tự dựa vào vị thế từng nước. Đi đầu dĩ nhiên là sứ thần Tùy Khâu, kế sau là sứ thần Ngụy Ảnh và sứ thần Đại Chiếu, sau đó nữa là sứ thần hai mươi nước nhỏ lân cận. Những nước quá nhỏ thì chỉ được đưa quà đến chứ không được dự buổi lễ này.

Lễ tiếp đón sứ thần không hề thú vị như ta nghĩ. Ta ngồi chống cằm nhìn ngó cả buổi, lưng đã muốn đau mà sứ thần các nước cứ thay nhau tiến lên chúc thọ Hoàng Đế hoài không dứt. Cứ mỗi sứ thần chúc thọ dâng quà xong, Hoàng Đế lại nói mấy câu đa tạ xã giao rồi ban tặng lại vài món gì đó. Chỉ có một việc như thế lặp đi lặp lại từ sáng đến quá trưa, sứ thần các nước đều là những vị quan đứng tuổi, nhìn người nào cũng như người nào, đi đi lại lại hoa cả mắt. Đương lúc ta sắp sửa ngủ gục tới nơi thì đến lượt sứ thần Phong tộc xuất hiện. Ta nhìn bọn họ mà cơn buồn ngủ tan biến lúc nào không hay.

Tô Trường Tín đứng cạnh Hoàng Đế đối chiếu danh sách rồi dõng dạc hô to:

“Thế tử Phong Thể Quân và quận chúa Phong Thể Minh của Phong tộc tấn kiến!”

Hai vị sứ thần Phong tộc này đi cạnh nhau thật sự khiến người khác nhìn vào mà kinh ngạc. Người ta cứ đồn đại Phong tộc hoang dã, thô kệch, l* m*ng nhưng nhìn vào hai người đang thong thả bước đi kia, ai dám mở miệng nói bọn họ hoang dã?

Thế tử Phong Thể Quân trạc ngoài ba mươi, dáng vóc khá cao lớn. Đường nét trên khuôn mặt thanh tú, nhã nhặn nhưng không hề mang lại cảm giác yếu đuối. Không có lễ phục rực rỡ, long trọng như các sứ thần khác, Phong Thể Quân chỉ mặc một bộ trường y màu trắng, trên tà áo thêu chìm họa tiết kỳ lân bằng chỉ ngà trang nhã. Toàn thân hắn như toát lên một quầng sáng dịu dàng, ấm áp. Nếu không nhìn thấy những bước chân ổn định đầy nội lực của hắn, ta hẳn đã nghĩ đây là một văn nhân.

Quận chúa Phong Thể Minh đi song song với huynh trưởng của mình, dù Phong Thể Quân bước đi rất nhanh nhưng nàng vẫn chẳng hề bị chậm lại phía sau, đủ thấy được võ công của vị quận chúa này không tệ chút nào, chí ít cũng không thua kém vị huynh trưởng đang đi bên cạnh. Theo mỗi bước đi của nàng, từng lớp váy lụa đỏ thắm lại tung bay như một ngọn lửa đỏ rực bùng cháy dữ dội. Phong Thể Minh đeo mạng che nửa mặt. Ngồi ở xa, ta không thể nhìn rõ dung mạo của nàng, chỉ lờ mờ cảm nhận được đôi mắt kia vừa sáng vừa trong trẻo. Lòng ta thầm nghĩ người sở hữu đôi mắt đẹp như thế, nhất định không thể nào xấu xí được.

Một nam nhân thanh nhã như ánh trăng đêm rằm, một nữ tử rực rỡ như mặt trời buổi sớm. Ở hai người bọn họ toát lên một thứ sức sống tươi mới, khỏe khoắn của sự tự do mà những kẻ cả đời chôn chân trong bốn bức tường thành ở đây không thể nào có được.

Hai con người đẹp đẽ như vậy đi cạnh bên nhau nhất thời làm cho không gian như tỏa sáng.

Phong Thể Quân dừng cách chỗ Hoàng Đế khoảng ba bước chân, quỳ nửa gối, chắp tay thưa:

“Thế tử Phong tộc, Phong Thể Quân cùng gia muội Thể Minh bái kiến Hoàng Thượng. Kính chúc Hoàng Thượng phúc như đông hải, thọ tỷ nam sơn!”

Giọng nói của Phong Thể Quân ấm áp vang vọng, không cần cố sức nói to nhưng ở xa vẫn có thể nghe thấy rõ ràng. Phong Thể Minh đi bên cạnh cũng lặng lẽ kéo váy quỳ xuống.

Hoàng Đế đợi Phong Thể Quân chúc thọ xong liền ân cần đứng dậy, đưa tay về phía hai người đang quỳ trước mặt mà nói:

“Biểu ca và biểu tỷ không cần đa lễ. Mau bình thân!”

Phong tộc vốn là một bộ lạc du mục sống ở dải đất phía bắc Bách Phượng từ thuở Thái Tổ Hoàng Đế khai quốc. Bọn họ ban đầu chỉ là một nhóm người nhỏ, về sau nhờ cướp bóc các bộ lạc giàu có và sáp nhập với các bộ lạc nhỏ hơn mà dần dần trở nên lớn mạnh. Người dân Phong tộc lớn lên trên lưng ngựa, ai nấy đều anh dũng thiện chiến. Đến thời Nguyên Tông Hoàng Đế, Phong tộc đã trở thành một thị tộc hùng mạnh có tiếng ở trung nguyên. Lúc Tiên Đế tại vị, biên cương phía nam thường xảy ra chiến loạn với Ngụy Ảnh, để tránh đất nước rơi vào thế gọng kiềm, Tiên Đế đã quyết định chiêu dụ Phong tộc. Để thể hiện lòng thành, Tiên Đế chẳng những chia đất, phong vương mà còn đích thân cắt máu ăn thề với tộc trưởng Phong Lịch, kết nghĩa huynh đệ. Vì Phong Lịch lớn tuổi hơn, Tiên Đế không ngần ngại gọi ông ta một tiếng huynh trưởng. Phong Thể Quân và Phong Thể Minh là con Phong Lịch, tính theo vai vế, Hoàng Đế cũng gọi bọn họ một cách thân mật là “biểu ca” và “biểu tỷ”.

Có lời này của Hoàng Đế, Phong Thể Quân đa tạ rồi thản nhiên đứng dậy, không quên ân cần đỡ Phong Thể Minh.

Phong tộc có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng đối với Bách Phượng, Hoàng Đế vì vậy không tạ lễ ban thưởng như thường mà bắt đầu hỏi han một cách thân thiết:

“Biểu ca và biểu tỷ đi đường xa nhất định mệt mỏi. Mấy ngày nay nghỉ ngơi ở dịch quán có thoải mái không? Nếu có chỗ nào không vừa ý thì đừng ngại nói một tiếng…”

Phong Thể Quân vừa hé môi chưa kịp đáp thì Phong Thể Minh bên cạnh đã nhanh miệng hơn:

“Thể Minh tuổi nhỏ, không dám nhận hai tiếng biểu tỷ của Hoàng Thượng. Hoàng Thượng cứ gọi tên là được rồi.”

Được Quang Nhật đế gọi bằng biểu tỷ, vinh hạnh như vậy trên đời có mấy người? Phong Thể Minh lại có thể nhún vai nói ra một câu như vậy, tuy giọng điệu hồn nhiên không bất kính nhưng cũng coi như đã phụ ý tốt của Hoàng Đế. Hành động đó chẳng khác nào vuốt râu hùm. Những người ở đây đã quá quen với sự nóng nảy và hung tợn của Hoàng Đế, hết thảy đều nín thở căng thẳng chờ đợi.

Trên mặt Hoàng Đế thoáng hiện một chút bối rối.

Sứ thần các nước đã có người chống cằm chờ xem trò vui. Ai mà chẳng biết tình huynh đệ của hoàng tộc họ Tống và Phong tộc lỏng lẻo đến mức nào.

Phong Thể Quân hẳn cũng hiểu vị muội muội nhà mình đã làm Hoàng Đế mất hứng. Dù Phong tộc của hắn có mạnh đến mức nào thì hắn và muội muội vẫn đang đứng trong Hoàng thành Bách Phượng, vị quân vương trẻ tuổi trước mặt có thể lấy đầu bọn họ bất cứ lúc nào, vì vậy bèn lo lắng nói đỡ:

“Hoàng Thượng, Thể Minh mới mười sáu tuổi, tính tình lại thẳng thắn, không giỏi nói chuyện… Xin Hoàng Thượng chớ trách tội muội ấy.”

Chẳng giống như suy nghĩ của mọi người, nụ cười của Hoàng Đế sau một thoáng bối rối lại sáng lạn như cũ. Hắn phẩy tay, thân thiết nói:

“Đều là người một nhà, có gì mà trách tội chứ.”

Đoạn, quay sang nói tiếp với Phong Thể Minh:

“Phong vương gia là đại bá của trẫm, nếu trẫm không gọi tỷ là biểu tỷ, như vậy hóa ra trẫm vô lễ với đại bá rồi.”

Đôi mày đẹp như xuân sơn của Phong Thể Minh hơi nhíu lại, có lẽ định nói lại gì đó nhưng Phong Thể Quân đã nhanh tay nắm lấy tay áo nàng ta kéo nhẹ một cái. Phong Thể Minh liếc nhìn huynh trưởng, hình như hơi phật ý nhưng cũng ngậm miệng không cãi lại.

Lúc này Phong Thể Quân mới mỉm cười, cung kính nói:

“Đa tạ Hoàng Thượng xem trọng! Gia phụ dạo này sức khỏe không tốt, không thể đến bái kiến Hoàng Thượng, thật sự hổ thẹn. Nay Thể Quân xin thay mặt gia phụ tạ lỗi…”

“Ấy, sao có thể nói như vậy? Trẫm thân là hậu bối, tiền bối bệnh mà trẫm không thể đến thăm hỏi mới đúng là hổ thẹn. Ở chỗ trẫm có vài vị ngự y y thuật không tệ, khi trở về biểu ca hãy chọn lấy một người theo xem bệnh cho đại bá. Coi như là tấm lòng của trẫm vậy.”

Hoàng Đế thường ngày nói năng phun ra lửa, thế mà đối với hai huynh muội Phong tộc này thực không thể nhún nhường hơn quả khiến ta mở rộng tầm mắt. Từ đó cũng thấy được tầm ảnh hưởng của Phong tộc thực không nhỏ.

Không để Phong Thể Quân có cơ hội từ chối, Hoàng Đế đã vui vẻ hỏi han tiếp:

“Trẫm nhớ lúc còn nhỏ đại bá từng mang biểu tỷ đến kinh thành chơi một lần. Khi đó phụ hoàng cùng đại bá và biểu tỷ đi dạo kinh thành còn dẫn trẫm theo. Chớp mắt một cái đã nhiều năm vậy rồi. Biểu tỷ lần này đến đây đã đi chơi ở đâu chưa? Mấy năm nay kinh thành thay đổi rất nhiều.”

Thấy Hoàng Đế nói năng không cố kỵ, còn nhắc lại kỷ niệm lúc nhỏ, có lẽ thực không chấp nhất chuyện ban nãy, Phong Thể Quân lặng lẽ thở phào nhẹ nhõm, không quên thúc vào tay Phong Thể Minh một cái.

Phong Thể Minh vốn đang phụng phịu vì bị huynh trưởng ngắt lời ban nãy, giờ nghe được lời này hẳn đã hỏi đúng ý, nàng ta đột nhiên sôi nổi hẳn lên, liến thoắng đáp:

“Vì đại ca không cho Thể Minh đi xa dịch quán cho nên vẫn chưa đi xem được mấy chỗ ngày xưa, nhưng quanh dịch quán đó cũng có vài chỗ rất thú vị như là khu chợ ở phía sau dịch quán, phường gốm ở đường Kim Hoa, phường múa Quán Ca cũng rất thú vị… A, hôm qua ta vừa đến chơi ở phường dệt Cẩm Hoan, nguyên liệu và phẩm nhuộm ở đây khá tốt nhưng kĩ thuật lại kém quá…”

Cẩm Hoan là phường dệt danh giá nhất kinh đô, không có khúc vải nào ở nơi này bán ra dưới ngàn lạng bạc. Ai cũng biết kĩ thuật dệt vải của Phong tộc đệ nhất thiên hạ nhưng tốt xấu gì thì đây vẫn là kinh thành, vải vóc Cẩm Hoan là niềm tự hào của tất cả các mệnh phụ phu nhân ở đây. Phong Thể Minh hồn nhiên lớn tiếng chê bai như thế thực sự là không biết trời cao đất dày.

Những kẻ phản ứng mạnh nhất chính là đám nữ nhân quần là áo lụa ở hậu cung này. Phía sau lưng ta đã nghe thấp thoáng có tiếng xì xào bất bình. Còn ở trước mặt, Liễu Yến Yến chán ghét hừ lạnh:

“Đúng là nha đầu l* m*ng.”

Triệu Lam Kiều nghe thấy, cũng nghiêng đầu cười nhạo, không biết là cười Phong Thể Minh ăn nói liều mạng hay là cười bộ dạng đố kỵ của Liễu Yến Yến.

“Biểu tỷ nói không sai. So với kỹ thuật dệt của Phong tộc thì Cẩm Hoan thực sự không đáng nhắc tới. À, nói đến phường múa Quán Ca, nơi đó có một vũ điệu gọi là Hồng Hạc Phi Thiên thực sự rất đẹp. Biểu tỷ có dịp đến kinh thành thì nhất định phải xem cho được đấy.”

Hoàng Đế vậy mà còn nói hùa theo. Phong Thể Minh lại càng hào hứng:

“Có phải là vũ điệu múa trong vườn hoa trà không? Thể Minh cũng có nghe nói đấy, nhưng sau giờ hợi bọn họ mới bắt đầu biểu diễn, đại ca nói giờ đó quá trễ, không cho ta đi xem.”

“Không sao, nếu biểu tỷ muốn xem, trẫm sẽ cho gọi bọn họ vào hoàng cung biểu diễn. Ở trong hoàng cung rất an toàn, biểu ca cũng không cần lo lắng.”

“Hoàng thượng nói thật chứ? Nhưng… Thể Minh nghe nói điệu Hồng Hạc Phi Thiên phải múa trong vườn hoa trà ở phường Quán Ca mới đẹp, đem đi nơi khác sẽ mất hay…”

“Biểu tỷ chớ lo, trong hoàng cung cũng có một vườn hoa trà rất đẹp, còn lớn hơn vườn hoa của phường Quán Ca nhiều.”

“Ô, như vậy thì tốt quá! Vậy Thể Minh phải đa tạ Hoàng Thượng rồi!”

Hiếm thấy có người lần đầu gặp gỡ Hoàng Đế mà có thể thẳng lưng đứng trò chuyện vui vẻ như vậy. Sự thẳng thắn vô tư của Phong Thể Minh không hiểu sao lại khiến Hoàng Đế thích thú. Vẻ khách sáo ban đầu dần dần biến mất, Phong Thể Minh và Hoàng Đế càng nói càng hào hứng, chủ đề bắt đầu mở rộng ra đủ thứ trên đời. Mãi đến khi những sứ thần còn lại đã có vẻ mất kiên nhẫn lắm rồi, Hoàng Đế mới cho hai huynh muội họ Phong lui xuống, lại còn hẹn khi nào có dịp sẽ tiếp tục trò chuyện.

Ở phía bên này, sắc mặt của Thục phi nương nương càng ngày càng xấu. Suốt phần còn lại của buổi lễ, ta chẳng cảm nhận được gì ngoài sát khí ngùn ngụt của nàng ta.

***

Buổi lễ tiếp đón sứ thần kết thúc cũng đã quá trưa. Thọ yến chính thức diễn ra vào buổi tối, vì vậy mọi người lần lượt trở về nghỉ ngơi. Sứ thần các nước trở về dịch quán trước, rồi đến quan lại rời đi. Để tránh đụng chạm, phi tử hậu cung trở về sau cùng. Trong lúc chờ đợi, Hoàng Hậu dẫn chúng phi đến hoa viên nhỏ bên hông Cát Tường điện dạo chơi, trò chuyện giết thời gian. Ở đây có rất nhiều phi tử cấp bậc thấp, rất ít khi được bước chân vào Cát Tường điện. Đây là dịp may hiếm có, người nào cũng hớn hở nhìn ngó tứ phương, hệt như đang cố gắng quan sát phong cảnh chỗ này để suy ra ý thích của Hoàng Đế vậy. Hoàng Hậu lúc nào cũng hiền từ nên mấy vị này liền cứ bám lấy nàng hỏi han này nọ, chẳng ai thèm để ý đến sự chán ghét hiển hiện trong mắt nàng. Thiếu nhạy cảm như thế, thảo nào mãi chẳng thể tiến thân.

Ta liếc mắt nhìn quanh, thấy Liễu Yến Yến mặt nặng mày nhẹ, đang vò nát một nhành mẫu đơn trong tay, bên cạnh còn có Minh phi và Tiệp Chiêu nghi, một người khuyên giải, một người quạt mát, bụng bảo dạ phải tránh xa nàng ta một chút bèn nắm tay Trịnh Vân Anh đi ngược về hướng gốc cây cổ thụ vắng người phía trước. Đến gần mới nhận ra Liên Tuyển thị, Liên Nhạc cũng đang ngồi một mình trên một mỏm đá khuất dưới tán cây.

Liên Nhạc nhìn thấy ta và Trịnh Vân Anh đi đến, vội đứng dậy thi lễ:

“Thần thiếp bái kiến Hòa phi nương nương, Trịnh phi nương nương.”

Vì mỏm đá khá cao, Liên Nhạc lại vội vã nên có phần lảo đảo chực ngã. Ta lập tức giang tay đỡ lấy nàng, cười nói:

“Không cần đa lễ. Muội muội sao lại ngồi đây một mình? Sao không ra ngoài trò chuyện cùng các vị muội muội ngoài kia?”

Mấy vị ngoài kia hình như vẫn chưa thôi bám riết Hoàng Hậu.

Liên Nhạc cúi đầu, dè dặt đáp:

“Thần thiếp nói chuyện vô vị, chỉ sợ làm các tỷ tỷ mất hứng.”

Trịnh Vân Anh nghe thấy chợt bật cười, chẳng kiêng dè mà nói:

“Mấy người đó mới là vô vị. Đại tỷ hẳn là chán đến phát bệnh rồi kìa. Thôi, chúng ta ngồi đây nghỉ một chút đi.”

Có rất nhiều việc Trịnh Vân Anh không hiểu, nhưng lại vô cùng nhạy cảm với tâm tư của người khác. Có lẽ nhờ vậy mà vẫn giữ mồm giữ miệng được. Muội ấy dám nói ra mấy lời này hẳn cũng cảm thấy Liên Nhạc không phải kẻ xấu.

Trịnh Vân Anh nói xong, chẳng ngần ngại trèo lên tảng đá cạnh chỗ Liên Nhạc vừa ngồi, lại còn chỉ vào tảng đá bên cạnh, gọi rối rít:

“Tỷ tỷ ngồi đây nè!”

Ta tìm được chỗ ngồi yên rồi, nhìn lại vẫn thấy Liên Nhạc bối rối đứng ở một bên, chợt nhớ ra Liên Nhạc nhút nhát, bèn nói:

“Liên muội muội cũng ngồi đi. Bản cung xem chừng cũng còn lâu mấy vị khách ngoài kia mới rời đi hết, chúng ta ngồi đây nói chuyện giết thời gian, được không?”

“Vâng ạ.”

Liên Nhạc cúi đầu đáp khẽ nhưng không ngồi vào chỗ cũ mà lựa lấy một tảng đá nhỏ thấp hơn. Khi nàng kéo váy ngồi xuống, tay áo hơi co lên để lộ một mảng da hơi ửng đỏ vì bỏng nơi cổ tay nàng. Thiết nghĩ chức Tuyển thị ở hậu cung đúng là vô cùng nhỏ nhoi, nhưng thế nào thì vẫn là tiểu chủ có cung nữ hầu hạ, những việc như bưng nước nóng vốn không cần động tay vào. Hoàng Hậu từng nói Quách Ngữ đòi Liên Nhạc đến hầu như hạ nhân, hóa ra không phải nói quá.

Liên Nhạc phát hiện ra ánh mắt của ta đang nhìn vào cổ tay mình vội vàng kéo tay áo xuống, ngượng ngùng nói:

“Thực ra cũng không có gì nghiêm trọng đâu ạ.”

Ta khẽ thở dài, gật đầu với nàng, cũng chẳng biết nói gì thêm. Quách Ngữ đã không còn, nhưng những tổn thương mà nàng ta gây ra cho người khác cả về thể xác lẫn tinh thần có lẽ còn phải lâu lắm mới phai nhòa. Thời khắc này, ta tự nhiên cảm thấy Hoàng Hậu nói thực có lý. Quách Ngữ chết cũng không quá oan uổng.

Trịnh Vân Anh ngồi bên cạnh, dĩ nhiên không hiểu chuyện gì, chỉ thấy Liên Nhạc bỗng dưng giấu cổ tay đi thì cũng nhìn theo, vô tư hỏi:

“Tay của Liên tỷ tỷ bị làm sao à?”

Liên Nhạc hơi giật mình, lắc đầu lia lịa:

“Thần thiếp không sao cả. Chỉ là bất cẩn nên bị bỏng thôi. Đa tạ nương nương quan tâm.”

Trịnh Vân Anh chớp mắt, chẳng biết có tin hay không, nhưng không gặng hỏi, chỉ cười hồn nhiên:

“Không sao thì tốt. Chỗ ta có thuốc chữa bỏng rất tốt. Ta trở về sẽ bảo Thanh Nhi mang đến cho tỷ tỷ. Tỷ tỷ xinh đẹp như thế, đừng để tay có sẹo.”

Sự nhiệt tình của Trịnh Vân Anh khiến Liên Nhạc sững sờ. Liên Nhạc hết nhìn Trịnh Vân Anh lại quay sang nhìn ta. Trong đôi mắt đẹp như mặt hồ thu của nàng như dâng lên sóng nước long lanh. Lúc này nụ cười vốn luôn rụt rè trên môi Liên Nhạc bỗng trở nên thành thật không e ngại. Nụ cười ấy đúng là có đến bảy phần tương tự với dáng vẻ Lê Khiết trong bức tranh kia.

Mỗi lúc ở bên Hoàng Đế, Liên Nhạc đều cười như thế này chăng? Hoàng Đế mỗi lúc nhìn thấy nụ cười mang bóng dáng của Lê Khiết này, sẽ cảm thấy thoải mái hay là càng đau lòng hơn đây?

Liên Nhạc và ta chỉ mới có dịp gặp gỡ đôi lần, quả thực không có nhiều chuyện để nói. May mà vẫn còn có Trịnh Vân Anh ở đây, tính cách vui vẻ cởi mở của muội ấy khiến cho bầu không khí trở nên nhẹ nhàng hơn.

Ba người ngồi nói chuyện linh tinh một hồi thì chợt từ đằng xa xuất hiện một bóng người to béo đủng đỉnh đi tới, chẳng ai khác ngoài phó tổng quản Lý Thọ.

Mấy tháng nay, Lý Thọ hình như lại béo lên thêm một chút. Hắn đi chậm rề rề, mất một lúc lâu mới tới được trước mặt bọn ta.

“Nô tài tham kiến Hòa phi nương nương, Trịnh phi nương nương và Liên tiểu chủ!”

Vì Lý Thọ quá béo, khi khuỵu gối thỉnh an thì trông như thể một cái bánh bao tròn vo. Ta sợ hắn cúi như thế lâu sẽ thật sự lăn đi mất, bèn vội vàng nói:

“Lý công công đừng đa lễ. Có gì đứng lên rồi nói.”

Lý Thọ đứng dậy, cười hì hì:

“Đa tạ nương nương. Nô tài đến là muốn mời nương nương di giá một chuyến.”

Nghe đến chuyện “mời di giá”, ta lại nhớ đến lần suýt chết trong thư phòng khi trước, không khỏi cau mày:

“Chẳng hay là có chuyện gì?”

Lý Thọ thấy nét mặt nghi ngờ của ta, lập tức thanh minh:

“Là sứ thần Tùy Khâu xin Hoàng Thượng cho phép được thỉnh an nương nương, Hoàng Thượng đã ân chuẩn rồi mới bảo nô tài đến đây mời nương nương.”

Đôi mắt tròn như hai hạt đậu đen của Lý Thọ nheo nheo lại, như tỏ ý: Nô tài làm sao dám gạt nương nương.

Ta cũng nheo mắt, ý đáp lại: Ai tin được ngươi chứ.

Đáng tiếc, chẳng cần biết Lý Thọ có tin được hay không, hắn đã nói Hoàng Đế bảo ta đi gặp thì ta sao có thể không đi, đành đứng dậy cáo từ Trịnh Vân Anh và Liên Nhạc rồi lẽo đẽo theo sau Lý Thọ đi về phía hoa viên.

Nhìn tấm lưng vĩ đại của Lý Thọ đong đưa trước mặt, ta tự nhủ nếu lần này hắn còn dám giả truyền thánh ý lừa gạt, ta nhất định liều cái mạng này với hắn.

Vừa đi, trong đầu ta vừa tranh thủ thời gian dự trù ra đủ loại biện pháp trả thù Lý Thọ. Chẳng biết hắn có cảm nhận được suy nghĩ của ta không mà cứ đi mấy bước lại rùng mình một cái. Men theo đường nhỏ bên hông điện Cát Tường, đi đến hoa viên quả nhiên thấy có một vị quan già đang đứng đợi. Ta nhìn ông ấy rồi nhìn sang Lý Thọ, băn khoăn không biết mở lời như thế nào. Lý Thọ đúng là luôn hiểu ý ta, chưa cần ta mở miệng, hắn đã cười híp mắt, rút từ trong tay áo ra một cái lệnh bài đưa cho ta:

“Hoàng Thượng nói nương nương nhất định không tin, cho nên bảo nô tài đưa cho người cái này. Nương nương cứ giữ lấy, sau này khi nào tiện thì trả lại cho Hoàng Thượng.”

Ta cầm lấy lệnh bài, cũng không chối, chỉ mỉm cười đa tạ. Lý Thọ làm xong nhiệm vụ, lắc mông đủng đỉnh rời đi.

Ta cúi đầu nhìn chiếc lệnh bài bằng vàng khối đúc hình rồng vờn mây trong tay, lòng lại dấy lên nghi vấn nhưng chưa kịp nghĩ tiếp thì sau lưng đã vang lên một giọng nói già nua khàn khàn:

“Lão thần Vi Bạch Thái bái kiến công chúa điện hạ.”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 48


Ngoảnh đầu nhìn lại sau lưng, ta đã thấy vị sứ thần Tùy Khâu đã đứng chắp tay ngay ngắn từ bao giờ. Ta quen miệng đáp:

“Vi đại nhân bình thân.”

Vi Bạch Thái cẩn thận vái thêm một cái nữa rồi mới thẳng lưng đứng dậy, nhìn ta mỉm cười hiền hòa:

“Điện hạ có thể bớt chút thời gian gặp lão thần, lão thần thực vinh hạnh.”

Nói đoạn, ông ta giang tay làm động tác mời ta đi đến mái đình nhỏ ở giữa hoa viên. Đằng nào cũng có lệnh bài của Hoàng Đế trong tay rồi, ta không còn gì phải e ngại, bèn gật đầu với ông ta rồi thẳng bước tới phía mái đình kia, kéo ghế ngồi xuống. Vi Bạch Thái tuổi tác đã cao, râu tóc bạc trắng, đi lại chậm chạp. Đến khi ta đã yên vị, ông ta mới rề rề đi tới nơi.

“Vi đại nhân, mời ngồi.”

Sẵn có kỷ trà ở đây, ta bèn nhấc ấm trà xuống khỏi lò than, chậm rãi rót cho Vi Bạch Thái một chén.

“Tạ công chúa điện hạ.”

Vi Bạch Thái lọng cọng ngồi xuống, cầm chén trà lên thổi phù phù, mãi lâu sau mới uống được một ngụm, cười nói:

“Lão thần già cả rồi. Đúng là khiến điện hạ chê cười.”

Ta lắc đầu, nhẹ nhàng đi vào vấn đề chính:

“Bản cung nghe nói Vi đại nhân có vài lời muốn nói với bản cung phải không?”

Vi Bạch Thái vuốt râu, nhìn ta trầm ngâm:

“Điện hạ ở đây sống có tốt không?”

Câu hỏi này của Vi Bạch Thái thực buồn cười. Dù ở đây có không tốt thì cũng chẳng thể tệ hơn lúc ở Tùy Khâu được. Nếu người ngồi trước mặt ta đây không phải là một vị quan già thì có lẽ ta đã mắng cho một trận. Chỉ vì nghĩ người ngày còn hơn tuổi phụ hoàng ta, ta không muốn nói nặng với ông ta làm gì mới đành nén lại nụ cười mỉa mai, khách sáo đáp:

“Bản cung sống rất tốt. Vi đại nhân không cần lo lắng.”

Vi Bạch Thái gật gù, dùng ánh mắt sáng quắc nhìn ta một lượt từ đầu đến chân:

“Nhìn khí sắc của điện hạ, có thể thấy Quang Nhật đế không bạc đãi người…”

Đêm qua vừa thức tới lúc mặt trời lên mới chợp mắt chốc lát thế mà khí sắc vẫn tốt sao? Không biết là do tay nghề trang điểm của Ngọc Nga quá tốt hay là mắt mũi của lão ông này kèm nhèm quá rồi.

Ta mỉm cười, lại nói thêm một câu khách sáo nữa:

“Đúng là như thế. Hoàng Thượng đối với bản cung rất tốt.”

Vi Bạch Thái thấy ta nói chuyện hờ hững, chợt cười đến rung rinh cả chòm râu bạc:

“Điện hạ hình như có điều chưa rõ… Hôm nay lão thần đến đây không phải vì lệnh của Vạn tuế gia… Là Lý Tướng quân nhờ thần chuyển cho điện hạ một số tin tức…”

Nghe đến Lý Thanh Phong, lòng ta khẽ động nhưng trên mặt vẫn duy trì sự bình thản như trước:

“Vậy sao? Chẳng hay là những chuyện gì?”

Vi Bạch Thái vẫn nhìn ta đăm đăm, chợt thở dài:

“Lý Tướng quân cũng nói là điện hạ chưa chắc sẽ tin ta… Nhưng điện hạ tin hay không tin đều được, ta chỉ cần nói lại với người mấy lời này, người tự khắc sẽ biết phân biệt thực hư.”

Ta im lặng chẳng buồn nói có tin hay không, chỉ thong thả uống trà, chờ đợi Vi Bạch Thái.

Vi Bạch Thái lại thở dài thườn thượt, chậm chạp nói:

“Lý Tướng quân bây giờ không còn quản lý Ngự lâm quân nữa, mấy tháng trước ngài ấy đã đến Xích Nhan. Dạo này sức khỏe của Vạn tuế gia không được tốt, mọi việc đều giao cho Đông Cung xử lý. Hoàng Hậu nương nương chọc giận thánh nhan nên tạm thời bị phạt đóng cửa tĩnh tâm. Phượng ấn giao lại cho Thẩm Quý phi cất giữ. Tháng trước, bệnh tình của Lý phi trở nặng, đã mất rồi.”

Mấy câu gãy gọn, chỉ là tổng kết lại tình hình sau khi ta rời đi, không thừa không thiếu. Tác phong này đúng là Lý Thanh Phong rồi.

Lý Hoàng Thương thân thể bệnh tật, không con cái, không ân sủng, vong mạng là điều sớm muộn. Thẩm thị thủ đoạn thâm hiểm, Hậu cung rơi vào tay bà ta cũng chẳng đáng ngạc nhiên. Cho nên, thông tin quan trọng duy nhất là Đông Cung chấp chính. Tuy ngày trước ta chỉ quanh quẩn trong Viên Linh các hẻo lánh của mình nhưng tiếng tăm của vị Đông Cung Thái tử này vẫn vang đến tận tai ta. Thái tử Chu Trường Lăng hơn ta hai tuổi, từ nhỏ đã nổi tiếng hung hăng. Đám hoàng tử, công chúa trong cung không có ai là chưa từng bị hắn bắt nạt. Nghe nói còn có một hoàng tử nhỏ tuổi không biết trời cao đất dày, dám cự cãi với Chu Trường Lăng thế là bị hắn đá bay xuống hồ, đập đầu vào hòn non bộ, hóa thành điên điên dại dại. May mà ta ở chỗ khỉ ho cò gáy, ban ngày chẳng bao giờ ló mặt ra ngoài nên chưa đụng chạm đến Chu Trường Lăng, tính ra thì cũng có mấy lần chạm mặt, nhưng ta đều nhanh nhẹn trốn kịp. Ngày hắn được tấn phong Thái tử, ta còn nhớ Lý Thanh Phong đã nói với ta nếu Chu Trường Lăng kế vị, sau này Tùy Khâu sẽ không được bình yên. Xem ra lời ấy sắp thành sự thật rồi.

Ta ngẩng đầu, nhìn thẳng vào mắt Vi Bạch Thái, cảm kích nói:

“Đa tạ Vi đại nhân. Bản cung hiểu rồi.”

Vi Bạch Thái cũng cười khà:

“Lý Tướng quân là chỗ thân tình với lão già này, chuyển hộ vài lời thì có cái gì to tát.”

Ta cũng cười theo:

“Nếu đã là chỗ thân tình, vậy nhờ Vi đại nhân thay ta chúc mừng Lý Tướng quân một tiếng.”

Vi Bạch Thái ngẩn ra, run run hỏi:

“Chúc mừng? Điện hạ sao lại chúc mừng Lý Tướng quân…”

Ta che miệng cười khúc khích:

“Dĩ nhiên là chúc mừng hôn sự của Lý Tướng quân rồi. Lý Tướng quân không ngại đường xá xa xôi, đưa ta qua vạn dặm đến Bách Phượng này… Thế mà ngài ấy thành thân, đến một chén rượu mừng ta cũng không thể kính ngài ấy, thực sự hổ thẹn. Hi vọng Vi đại nhân có thể giúp ta.”

Có lẽ sống ở Hậu cung quá lâu, khả năng điều chỉnh nét mặt của ta cũng luyện đến thuần thục rồi, dù cho trong lòng đắng chát nhưng nụ cười trên môi vẫn chẳng hề suy suyển.

Vi Bạch Thái nghe xong, ánh mắt lộ vẻ kinh ngạc:

“Sao điện hạ biết được?”

Nét cười trên mặt ta đã muốn cứng lại, ta lại không muốn Vi Bạch Thái nhìn thấy sự chua chát trong đó bèn chuyển ánh mắt xuống chén trà trên bàn, thản nhiên đáp:

“Nếu không Lý Tướng quân sao lại đến Xích Nhan? Lúc trước bản cung nghe nói tổng đốc vùng Xích Nhan có ba vị thiên kim, không biết là vị nào?”

Không hiểu sao Vi Bạch Thái lại thở dài thườn thượt, trong giọng nói khàn khàn hình như còn pha lẫn nuối tiếc:

“Là đại tiểu thư.”

Ta gật đầu:

“Lý Tướng quân là con trưởng dòng chính thất của Lý Tướng gia, lấy đại tiểu thư phủ tổng đốc Xích Nhan cũng là môn đăng hộ đối. Hơn nữa còn có thể giúp ích được rất nhiều chuyện.”

Vi Bạch Thái tặc lưỡi:

“Điện hạ thực sự rất thông minh. ”

Ta cười nhẹ đáp lại, chẳng nói gì thêm.

Chuyện này còn cần phải thông minh mới nhìn ra được sao?

Xích Nhan giáp ranh Bách Phượng, là địa phận quân sự trọng yếu của Tùy Khâu. Đem tướng giỏi đến đó còn có thể có ý nghĩa gì? Chu Trường Lăng ôm mộng hùng bá thiên hạ từ lâu. Nay phụ hoàng lâm bệnh, hắn liền từng bước thực hiện mưu đồ của mình mà chuyện điều Lý Thanh Phong đến Xích Nhan chính là bước đầu tiên. Ta trưởng thành bên cạnh Lý Thanh Phong, tính cách của Người ta cũng hiểu đến bảy, tám phần. Mẫu thân Lý Thanh Phong có bệnh tim kinh niên, Người đáng lẽ đã có thể kế thừa quân đội của Lý gia từ lâu nhưng vẫn một mực ở lại kinh thành, quản lý Ngự lâm quân chính vì không nỡ rời xa người mẫu thân ốm yếu này. Bởi vậy nếu không vì quân lệnh khó cãi, Lý Thanh Phong tuyệt đối sẽ không tự nguyện đi đến một nơi xa xôi vạn dặm như Xích Nhan. Mà bỗng nhiên điều một vị tướng tài như Lý Thanh Phong đến Xích Nhan, tất yếu sẽ khiến kẻ địch sinh lòng phòng bị. Đó là chưa kể đến biên cương Xích Nhan còn có mấy tiểu quốc đối địch với Tùy Khâu. Để bọn họ nghi ngờ Tùy Khâu có ý đồ động binh thì vô cùng tai hại. Bởi vậy, ngoài thành thân ra thì còn có cách nào tốt hơn? Nếu Lý Thanh Phong lấy thiên kim Tổng đốc Xích Nhan, vậy thì chuyện Người đến Xích Nhan sẽ vô cùng hợp tình hợp lý.

Việc được giao phó đã làm xong, Vi Bạch Thái không tiện ở lâu bèn đứng dậy cáo từ, chỉ để lại một câu dặn dò ta phải bảo trọng. Ta cũng lễ phép đứng dậy cúi chào.

Vi Bạch Thái đi rồi, hai chân ta cũng hóa thành vô lực, ngồi xuống ghế rồi mà vẫn có cảm giác chơi vơi không biết sẽ té ngã lúc nào.

Nỗi sợ lớn nhất của ta cuối cùng cũng đã trở thành sự thật.

Chu Trường Lăng thực sự sẽ khởi binh.

Ngay từ những ngày đầu xuất giá, ta đã dự tính tới việc này. Nhưng khi ấy phụ hoàng còn khỏe mạnh, sự việc vẫn chưa đi đến mức này. Phụ hoàng vẫn luôn muốn chinh phạt Bách Phượng từ lúc Hoàng Đế lên ngôi, ngặt nỗi binh lực chưa đủ, lại thêm vào tuổi già khiến ngài có phần nhát gan, lần lữa mãi vẫn chưa xuất binh được. Vậy nên ta cứ nghĩ phải năm năm nữa chiến tranh mới có thể xảy ra. Nhưng mà với tình hình bây giờ, Chu Trường Lăng không nhát gan như phụ hoàng, hắn không những hung hãn hiếu chiến mà còn có thực tài quân sự. Chu Trường Lăng lên ngôi rồi, ta không chắc mình còn được bao nhiêu thời gian. Mọi dự tính trước đây xem như sụp đổ.

Ta phải làm sao đây?

Hiện giờ Hoàng Đế đối với ta không tệ, nhưng bấy nhiêu sủng ái đã đủ để hắn bằng lòng che chở ta hay chưa, ta chẳng dám nói trước.

Lúc ta đang ngồi thần người ở đó thì có một tiểu thái giám không biết từ đâu chạy tới, bất ngờ quỳ sụp xuống trước mặt ta:

“Nô tài bái kiến Hòa phi nương nương.”

Ta nhìn thấy hắn, chẳng đoán được lại xảy ra chuyện gì, mệt mỏi phẩy tay:

“Đứng lên đi.”

Tiểu thái giám kia lấm lét nhìn trước ngó sau, chắc chắn chung quanh không có ai mới cẩn thận lấy trong tay áo ra một phong thư, dúi vào tay ta:

“Có một vị lão đại nhân vừa mới đưa cho nô tài cái này, nói ông ấy không tiện quay lại đây, nhờ nô tài đưa cho nương nương.”

Nói xong lập tức cắm đầu chạy mất.

Thế là thế nào nhỉ?

Chẳng lẽ Vi Bạch Thái lại lẩm cẩm đến mức này?

Ta nhìn kĩ mới thấy phong thư trong tay hoàn toàn bình thường, cả tên người nhận cũng chẳng đề.

Thở dài một tiếng, sẵn có lò than nhỏ dùng pha trà trên bàn, ta thuận tay thả phong thư bí ẩn nọ vào luôn. Than trong lò lách tách cháy đỏ, chẳng mấy chốc phong thư kia đã chỉ còn là một nhúm tàn tro.

Những lời cần nói, Lý Thanh Phong đều đã nhờ Vi Bạch Thái nói lại cả rồi. Viết thêm một phong thư để làm gì? Hơn nữa, nếu thực sự có một phong thư thì Vi Bạch Thái ngay cả một tờ sớ cống phẩm dài mấy tấc còn đọc thuộc làu làu, sao có thể quên mất kia chứ? Mà quên rồi thì thôi, sao dám to gan nhờ một tiểu thái giám xa lạ đưa hộ?

Ai đưa phong thư giả này đến? Mục đích là để thử lòng ta hay còn có điều gì sâu xa hơn?

Ngày hôm nay ta đã quá mệt mỏi rồi, chẳng muốn nghĩ thêm một chuyện nào nữa.

Bất luận phong thư này là của ai ta đều không đọc. Của kẻ khác giả danh cũng thế, mà của Lý Thanh Phong thực sự thì cũng vậy.

Ta thừa nhận bản thân từng rất thích Lý Thanh Phong. Lý Thanh Phong là người thân duy nhất của ta. Nếu không có Lý Thanh Phong thì cũng sẽ không có Chu Đan Nguyệt ngày hôm nay. Thứ tình cảm ấp ủ từ thời thiếu nữ ấy sao có thể dễ dàng phai nhòa? Nếu tình yêu mà muốn quên là quên ngay được thì ngay từ đầu đó đã chẳng phải chân tình.

Chỉ là, quên hay nhớ thì bây giờ cũng chẳng còn có ý nghĩa gì.

Đại công chúa Tùy Khâu có thể thích Lý Thanh Phong, nhưng trong lòng của Hòa phi Bách Phượng chỉ được phép có bóng hình của Quang Nhật đế mà thôi.

Ta không phủ nhận sự chua chát trong lòng khi nghe tin Lý Thanh Phong thành thân. Nhưng ta càng hiểu rõ một lý lẽ: cho dù sau này ta có thể hoàn toàn quên đi Lý Thanh Phong hay không, thì ta cũng tuyệt đối không thể có liên hệ gì với Người được nữa, ngay cả một phong thư cũng không thể được. Đời này nam nhân duy nhất mà ta được phép để tâm chỉ có một mình Hoàng Đế mà thôi.

Những ý nghĩ nặng nề lại kéo đến, ta mệt mỏi trút tiếng thở dài, lặng lẽ đứng dậy. Lệnh bài trong ngực áo tựa hồ nặng đến ngàn cân.

***

Thọ yến buổi tối tổ chức ở điện Triều Minh. Vị trí chỗ ngồi vẫn sắp xếp như ban sáng, hai người ngồi một bàn nhỏ, riêng Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiều thì được xếp cho mỗi người một bàn.

Trước mắt là khung cảnh ca múa tươi vui, tiếng đàn hát rộn ràng vang vọng khắp nơi mà trong lòng ta chỉ có một mớ bòng bong rối rắm. Ta hết nghĩ đến tương lai mờ mịt như sương mù lại nhớ tới sủng ái hiện thời chóng vánh như băng mỏng, càng cảm thấy toàn thân buốt lạnh. Chung quanh người nói kẻ cười, riêng ta chỉ gắp thức ăn đưa vào miệng theo thói quen, tâm trí đã bay đi nơi khác, cũng không rõ mình đã ăn những gì. Mãi đến lúc bỗng nhiên thấy miệng bốc lên vị cay nồng nặc, ta mới giật mình nhận ra vừa mới uống cạn một chén rượu lớn.

“Tỷ tỷ làm sao thế?”

Thấy ta ôm ngực ho sặc sụa, Trịnh Vân Anh nãy giờ đang mải xem ca múa vội quay sang vỗ lưng cho ta. Nàng lo lắng hỏi thêm:

“Rượu này là Hồng Mai tửu thượng hạng đấy. Tỷ uống thế thì say mất… Từ lúc đến đây, tỷ cứ ngơ ngẩn mãi. Rốt cuộc là đang nghĩ gì vậy?”

Ta ho đến khàn giọng, nhưng vẫn cố xua tay trấn an nàng:

“Không… Không sao… Hôm qua tỷ ngủ không đủ… Cho nên hơi mệt… Muội đừng lo lắng… Cứ xem tiếp đi…”

Trịnh Vân Anh dĩ nhiên không tin nhưng ta làm sao có thể nói cho nàng biết chuyện tính mạng ta sắp nguy đến nơi rồi, đành tìm cớ thoái thác. Hỏi tới hỏi lui một hồi không thu được gì, Trịnh Vân Anh cũng phải bỏ cuộc, lại tiếp tục xem đám vũ cơ xinh đẹp đang nhảy múa giữa điện. Tính nàng vốn vô tư, trong chốc lát vui vẻ trở lại.

Ta không biết uống rượu, chỉ cần uống rượu vào là sẽ rất phiền phức. Lúc nhỏ, một lần trong cung có rượu quý tiến cống, phụ hoàng chỉ ban cho mấy người chức vị cao được sủng ái như Thẩm thị, Trần Hoàng Hậu… Khi ấy, ta không biết rượu quý là gì, chỉ thấy phụ hoàng thiên vị bọn họ như thế thì trong lòng tức giận, bèn nảy ra ý xấu lén trộm phần rượu của Thẩm thị, thay cho bà ta một bình nước lã. Dù sao cũng là rượu phụ hoàng ban, cho dù không ngon thì Thẩm thị cũng phải cắn răng khen thôi. Ta ôm bình rượu quý kia về, uống say bí tỉ, chẳng nhớ nổi đã làm ra bao nhiêu chuyện khó coi. Đến lúc đầu óc hơi tỉnh táo trở lại thì chỉ nhớ mang máng là đã bắt Lý Thanh Phong cõng đi khắp mấy vòng Viên Linh các, mà phải đến ba ngày sau đầu mới hết nhức. Kể từ đó, Lý Thanh Phong cấm tiệt không cho ta động đến giọt rượu nào. Ta cũng biết phận, chẳng dám cãi lời. Ban nãy, lúc cung nữ dâng rượu đến, ta đã cẩn thận đẩy cả chén lẫn bình rượu qua một bên, không ngờ vẫn vô ý uống nhầm.

Hồng Mai tửu này không hổ danh là rượu thượng hạng gì đó. Ta uống một chén xong, chỉ chốc lát hơi rượu đã bốc đầy đầu, chẳng còn nghĩ nổi chuyện gì nữa. Nhưng mà như thế cũng tốt, bây giờ ta vừa sợ hãi vừa chán nản, có thể không suy nghĩ nữa thì còn gì tốt bằng?

Tiếng nói cười chung quanh chẳng biết từ lúc nào đã trở nên nhạt nhòa. Ta yên lặng tự rót rượu cho mình, uống hết chén này đến chén khác. Những ý nghĩ u ám cứ như bị rượu rửa trôi. Đầu óc ta nhờ vậy mà nhẹ nhàng bay bổng. Đã lâu lắm rồi ta mới cảm thấy thoải mái như thế. Tuy rằng cả miệng và mũi đều bị hơi rượu thiêu đốt, hai mắt cũng mờ đi nhưng lòng lại nhẹ tênh.

Ta biết mình đã say lắm rồi, tự nhiên sinh lòng chán ghét nơi ồn ào thị phi này bèn chống tay lên bàn gượng đứng dậy, không ngờ đến hai chân cũng chẳng còn sức lực, thế là lảo đảo ngã xuống. May mà có Trịnh Vân Anh kịp thời đỡ lấy.

“Trời… Tỷ tỷ, muội mới ngoảnh đi một chút mà tỷ đã uống say thành thế này rồi à? Hay là muội đỡ tỷ ra ngoài nhé?”

Yến tiệc ở điện Triều Minh được phép mang theo cung nữ, nhưng phải đứng hầu ở phía sau. Ngọc Thủy có lẽ luôn chăm chú dõi theo ta, vừa thấy cảnh này liền vội vàng chạy tới hỏi:

“Chủ nhân sao thế ạ?”

Thọ yến không phải cứ muốn đi là đi được, nhất là phân vị của ta và Trịnh Vân Anh đều tương đối cao, cả hai cùng đi khỏi một lúc sợ rằng sẽ bị kẻ khác bắt bẻ. Trịnh Vân Anh đang bối rối không biết làm sao, nhìn thấy Ngọc Thủy thì mừng rỡ nói:

“Tỷ tỷ say quá rồi, ngươi đỡ tỷ tỷ ra ngoài một chút cho thoáng. Phía sau điện Triều Minh có một hoa viên nhỏ đấy. Nhớ đưa tỷ tỷ vào đình ngồi, cẩn thận trúng gió độc.”

Ngọc Thủy vâng dạ, lập tức đỡ ta đi theo lối nhỏ bên cạnh ra ngoài. Cũng may, người ở trong điện đều đang xem ca múa mà bọn ta lại ngồi gần phía cửa hông nên không khiến kẻ khác chú ý.

Vừa đến được ngôi đình hóng gió phía sau điện Triều Minh, Ngọc Thủy liền trách ngay:

“Trước nay chủ nhân đâu khi nào uống rượu, sao hôm nay lại uống đến say bét nhè thế này? Lỡ xảy ra chuyện gì thì nô tỳ biết làm sao đây?”

Ta được nàng đỡ ngồi dựa lưng vào một cây cột lớn, đầu óc đã mụ mị đến bảy phần, chỉ biết cười cười:

“Ta mệt lắm, không muốn suy nghĩ nữa… Say rồi thì chẳng cần nghĩ gì cả…”

Ngọc Thủy xót xa, rút khăn tay lau mồ hôi trên trán ta:

“Chủ nhân đừng làm nô tỳ sợ!”

Ta bật cười:

“Có cái gì mà sợ? Ta nghỉ một hôm thôi… Mai sẽ lại nghĩ tiếp… Không cần phải sợ…”

Ta say mềm cả người, ngồi cũng không vững, Ngọc Thủy phải ngồi xuống ôm lấy người ta, ta mới không ngã sõng xoài ra đất.

Bây giờ chắc cũng đã qua giờ Tuất, điện Triều Minh đèn đuốc sáng trưng nhưng như thế lại khiến cho mặt trăng tròn vành vạnh trên cao có phần mờ nhạt. Ta hơi ngẩng lên nhìn xuyên qua những tán cây thưa thớt trên đầu, nhìn thẳng vào vầng trăng lạc lõng giữa nền trời đen đặc. Men rượu có thể tạm thời đẩy lùi toan tính như thủy triều trong lòng nhưng lại mang đến sự trống rỗng vô tận. Ta khép mắt thôi không nhìn nữa, cũng mặc kệ chẳng buồn khống chế hơi rượu đương bừng bừng bốc lên đầu, mệt mỏi dựa vào vai Ngọc Thủy, ngáp dài một cái.

Hai người ngồi chưa được bao lâu, thì bỗng nghe có tiếng bước chân từ đằng xa đi tới. Chắc hẳn hơi rượu cay làm ta ch** n**c mắt, chỉ loáng thoáng thấy bóng long bào vàng sáng trước mặt liền luống cuống vịn Ngọc Thủy đứng dậy, chắp tay thỉnh an theo thói quen:

“Thần thiếp bái kiến…”

Thế nhưng nói chưa hết câu thì đã ngã chúi nhủi. Ta chỉ nghe được tiếng kêu hoảng hốt của Ngọc Thủy vang lên sau lưng, cứ nghĩ đã ngã cắm mặt xuống đất rồi, may mà Hoàng Đế nhanh tay bước lên một bước, kịp thời đỡ được.

“Làm cái gì mà say mèm thế này?”

Hoàng Đế nhăn mặt càu nhàu, lườm luôn cả Ngọc Thủy:

“Hòa phi đã không uống rượu được, ngươi sao lại để nàng ấy uống nhiều như vậy? Nô tài không biết hầu hạ chủ nhân, còn để lại làm gì?”

Bị Quang Nhật đế khét tiếng tàn bạo nạt cho một trận như thế, Ngọc Thủy chẳng dám biện bạch gì, lập tức quỳ sụp xuống:

“Nô tỳ có tội!”

Ta dĩ nhiên chẳng thấy Ngọc Thủy có tội gì, bèn bám lấy tay Hoàng Đế, loạng choạng đứng thẳng lên. Vốn định bênh vực Ngọc Thủy một câu nhưng ngước nhìn lên mới thấy vẻ mặt nhăn nhó của hắn, không nhịn được bật cười:

“Hoàng Thượng, sao mặt người lại nhăn nhúm thế kia?”

Lời này đúng là đại bất kính. Ngay cả Ngọc Thủy kinh hãi nhìn ta một cái, xong liền dập đầu sát đất, không dám ngẩng lên nữa. Lúc tỉnh táo, có dí dao vào cổ ta cũng chẳng dám nói lời như vậy. Nhưng cổ nhân có câu, rượu vào lời ra, ta uống xong một bình rượu đã chẳng biết sợ nữa, nói xong còn đưa tay xoa xoa mặt Hoàng Đế. Ngay cả khuôn mặt tái mét và bộ dạng hoảng loạn của Ngọc Thủy ở bên kia cũng chẳng làm ta mảy may để tâm.

Hoàng Đế không gạt tay ta ra, cứ để mặc ta xoa tới xoa lui, chỉ hừ một tiếng:

“Vẫn còn nhận ra trẫm là ai à?”

Ta xoa mặt Hoàng Đế chán rồi, hai chân đứng lâu lại cảm thấy bủn rủn, bèn giang tay ôm lấy cổ Hoàng Đế, sụt sịt nói:

“Thiếp làm sao không nhận ra Hoàng Thượng? Người là Hoàng Thượng của thiếp… phu quân của thiếp… sinh mệnh của thiếp…”

Ta sống hay chết, đều dựa vào một câu nói của ngươi. Ta làm sao có thể không nhận ra ngươi chứ?

Ý của ta chính là như vậy, chỉ tiếc quá say nên nói năng không trọn vẹn. Cũng không rõ Hoàng Đế nghe xong hiểu được bao nhiêu. Hắn đứng lặng thinh, một tay ôm lấy eo ta, tay còn lại lặng lẽ vỗ lưng ta . Cảm giác được vỗ về khiến cho lòng ta mềm nhũn, ta càng cố sức ôm chặt cổ hắn, nước mắt mang theo bao nỗi tuyệt vọng, bi thương vô thức nối đuôi nhau lăn dài, thoáng chốc thấm ướt cả vai áo Hoàng Đế. Dường như hắn cũng nhận ra, cánh tay đang ôm ngang eo ta siết chặt hơn một chút. Trên đời này làm gì có nữ tử nào mà không mềm yếu, chỉ là có một số người không thể tìm được một nơi để bộc lộ sự mềm yếu của mình mà thôi. Có thể tìm được một bờ vai để rơi lệ thực đã là may mắn lớn lao rồi. Ta chợt nghĩ nếu thời khắc này có thể kéo dài vĩnh viễn, nam nhân này có thể vĩnh viễn để ta dựa dẫm như vậy, vĩnh viễn vỗ về ta, vĩnh viễn không quay lưng lại với ta thì tốt biết bao nhiêu.

Hoàng Đế kiên nhẫn đợi ta khóc thỏa thuê rồi mới buông ta ra. Mấy ngón tay xương xương của hắn dịu dàng lướt qua gò má nóng bừng của ta, khiến ta khẽ rùng mình. Hắn không hỏi vì sao ta khóc, cũng không trách tội ta uống say làm mất thể diện, chỉ nói nhỏ:

“Nàng say rồi thì về nghỉ ngơi đi, không cần quay lại nữa. Cũng chẳng có gì quan trọng.”

Ta khóc xong, cũng thấy dễ chịu hơn, bèn gật gật đầu, tiện tay với lấy tay áo hắn lau mặt.

Hoàng Đế nhướn mày, rõ ràng là giật mình nhưng vẫn để ta tùy ý lau, quay sang bảo Lý Thọ ở đằng xa:

“Chuẩn bị kiệu đưa Hòa phi nương nương hồi cung.”

Nói đoạn, hắn nhìn xuống tay áo vừa nhăn vừa ướt, bất đắc dĩ thở dài:

“Đến trẫm cũng chưa được chùi mũi vào long bào lần nào đâu đấy.”

Lý Thọ làm việc rất nhanh nhẹn, trong chốc lát đã có một cái kiệu bốn người khiêng được mang đến. Hoàng Đế đích thân đỡ ta ngồi vào kiệu, còn dặn dò Lý Thọ phải đi theo canh chừng ta. Hiếm khi thấy hắn tận tâm như vậy, ta cứ cảm thấy có điểm gì đó không đúng nhưng đầu nặng quá, nghĩ không nổi nữa.

“Hoàng Thượng, thiếp về được thật chứ?”

Ta thò đầu ra khỏi kiệu, nheo nheo mắt nhìn Hoàng Đế. Hắn mỉm cười, đẩy ta trở vào:

“Trẫm nói được là được… Vả lại, có một số chuyện nàng không nhìn thấy cũng tốt.”

Nói đoạn, lại ra lệnh cho Ngọc Thủy:

“Trông coi chủ nhân nhà ngươi cho cẩn thận.”

Ngọc Thủy quỳ từ nãy đến giờ, nghe Hoàng Đế nhắc tới mình, vội vàng đáp tuân mệnh rồi bái tạ Hoàng Đế, nhận lấy lồng đèn từ tay Lý Thọ, cùng theo kiệu rời đi.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 49


Nghe đâu trong buổi Thọ Yến đêm hôm trước, Hoàng Đế cảm thấy Phong Thể Minh không thích ca múa, ngồi một mình buồn chán bèn hỏi nàng ta có muốn xem trò vui gì khác không. Hoàng Đế ắt hẳn cũng chỉ hỏi cho có thế mà Phong Thể Minh lại thẳng lưng đứng dậy chê ca múa nhàm chán, đòi tỉ võ giải khuây. Hoàng Đế dĩ nhiên không thể ngờ Phong Thể Minh lại yêu cầu quái đản như vậy nhưng trước mặt quan lại cùng sứ thần, không thể làm mất lòng Phong tộc, bất đắc dĩ phải chấp nhận cho tỉ võ.

Bên phía Bách Phượng, một vị võ trạng nguyên trẻ tuổi bị gọi ra tỉ thí. Cuộc tỉ võ này, nếu vị võ trạng nguyên kia thắng thì cũng chỉ coi là giỏi hơn một tiểu cô nương, không có gì vinh hạnh; ngược lại nếu thua lại hóa ra ngay cả một tiểu cô nương cũng không đánh lại, làm mất thể diện quốc gia. Đó là còn chưa kể đến trong lúc giao đấu mà sơ sảy, ngộ nhỡ đả thương Phong Thể Minh thì phiền phức to. Thế nên trái ngược với Phong Thể Minh khí thế bừng bừng, vị võ trạng nguyên xui xẻo kia lo lắng đến độ mặt cắt không còn giọt máu. Tất thảy mọi người đều hướng mắt trông chờ. Bất luận thắng thua thế nào, đây cũng là một trò vui hiếm có.

Trước long nhan không ai được phép mang vũ khí, Phong Thể Minh tiện tay bẻ lấy một nhánh đào khô làm kiếm. Ban đầu, võ trạng nguyên chưa biết thực lực của Phong Thể Minh, sợ làm nàng ta bị thương nên chỉ dám dùng tay không đỡ đòn. Phong Thể Minh thấy vậy lại cho rằng hắn coi thường mình, nhất thời nổi nóng, xuất chiêu càng thâm độc. Nhành đào khô trên tay nàng ta lợi hại không kém gì đao kiếm, mỗi chiêu xuất ra đều điểm vào tử huyệt của võ trạng nguyên. Võ trạng nguyên khinh địch, liên tiếp trúng phải mấy chiêu, nếu là kiếm thật hẳn đã chết mấy lần. Lúc này, hắn đã bắt đầu hoảng hốt mà người chung quanh cũng im bặt, chẳng còn tiếng nói cười nào. Chẳng ai ngờ Phong Thể Minh không những có võ công cao cường mà ra tay lại còn lạnh lùng quyết liệt như vậy. Võ trạng nguyên hãi hùng nhận ra đây đã chẳng còn là trò vui giải khuây nữa, lập tức nghiêm túc vận toàn lực tiếp chiêu. Đáng tiếc Phong Thể Minh đã chiếm được ưu thế, chỉ qua vài chiêu nữa liền đâm trúng đại huyệt trên ngực đối thủ khiến hắn ngã lăn ra đất bất tỉnh.

Hoàng Đế không ngờ võ trạng nguyên của mình lại bị đánh bại trong tích tắc như thế, còn chưa nói được gì thì Phong Thể Minh đã lớn tiếng trách:

“Kẻ này quá kém, Thể Minh muốn đổi người khác.”

Nói xong liền ném nhành đào trên tay về phía Hoàng Đế. Sự việc diễn ra quá nhanh, người ta thậm chí còn chưa kịp kinh hãi, chỉ có hai vị hộ vệ bên cạnh Hoàng Đế kịp thời phản ứng. Một người nhảy ra chắn trước mặt Hoàng Đế, còn một người phi thân bay ra chụp lấy nhành đào kia, một chưởng đánh nát vụn.

Hành động ngông cuồng của Phong Thể Minh khiến ai nấy đều chết khiếp. Ở hàng ghế sứ thần, Phong Thể Quân cũng tái mét mặt mày, không rõ là vì sợ hay giận. Hắn hét lên:

“A Minh! Không được vô lễ!”

Phong Thể Minh thế mà vẫn còn cười được:

“Muội có vô lễ đâu. Muội vốn không nhắm vào Hoàng Thượng, dù cho người kia không đỡ kịp thì nhánh cây đó cũng chẳng trúng Hoàng Thượng.”

Bên phía triều thần Bách Phượng, Hà Thái sư là người lên tiếng đầu tiên:

“Phong Quận chúa, người làm như vậy là có ý gì?”

Tuy rằng lời nói của ông ta vẫn rất lễ độ nhưng vẻ mặt tối tăm lại khiến người khác bất giác rét run. Không khí trong điện Triều Minh lúc này như đông đặc lại khiến cho hô hấp cũng thành khó khăn. Những người nhát gan thậm chí đã run lên bần bật. Hành động của Phong Thể Minh nếu khép vào tội đại nghịch cũng chẳng oan uổng. Sứ thần các nước nhìn nhau đầy ẩn ý, tất cả đều ngầm hiểu tình huynh đệ của Phong tộc và hoàng tộc họ Tống có còn cứu vãn được hay không đều phải trông cậy vào sự độ lượng của vị Hoàng Đế trẻ tuổi này.

Kẻ khác căng thẳng là thế mà nhân vật chính Phong Thể Minh vẫn không chút hối hận. Nàng ta hồn nhiên chớp mắt, hết nhìn ca ca của mình lại nhìn Hà Thái sư, cuối cùng nhìn đến Hoàng Đế:

“Hoàng Thượng, Thể Minh không cố ý làm ngài sợ.”

Hoàng Đế nãy giờ vẫn yên lặng không lên tiếng, nét mặt hắn bình thản không lộ chút cảm xúc nào, không ai đoán được tiếp theo đây hắn sẽ mỉm cười hòa nhã hay là sẽ quát nạt đòi mạng. Từ đầu hắn đối với hai huynh muội họ Phong này luôn luôn vui vẻ thân thiết, thế nhưng thời khắc này, long nhan như bị mây mù che phủ. Hoàng Đế không đáp lại Phong Thể Minh mà chỉ nhìn nàng ta đăm đăm bằng ánh mắt lạnh lùng. Phong Thể Quân mấy lần muốn nói đỡ nhưng sự yên lặng chết chóc bủa vây chung quanh khiến hắn nghẹn lời, cuối cùng chẳng nói được gì. Đến tận lúc người ta tin chắc hôm nay mạng của Phong Thể Minh không giữ nổi nữa rồi thì Hoàng Đế mới thản nhiên cười một tiếng:

“Chỉ là một nhánh cây khô, sao có thể dọa được trẫm?”

Nụ cười sáng lạn của Hoàng Đế không biết đã khiến cho bao nhiêu người đương chờ xem trò vui phải thất vọng.

Hà Thái sư nghe xong liền nhíu mày:

“Hoàng Thượng, chuyện này…”

Nhưng chưa kịp phản đối, Hoàng Đế đã phẩy tay:

“Biểu tỷ chỉ muốn góp vui cho Thọ yến của trẫm, Thái sư đừng nghĩ ngợi nhiều.”

Nói đoạn, như muốn hoàn toàn xua đi bầu không khí chết chóc ban nãy, hắn bèn nói với người hộ vệ đã bay ra chặn nhánh cây khô lúc nãy:

“Thừa Nguyên này, tên ngốc kia làm biểu tỷ của trẫm mất hứng rồi, ngươi thay mặt trẫm tạ lỗi cùng biểu tỷ.”

Người hộ vệ này thực chất chính là nhị ca của Trịnh Vân Anh, tên gọi Trịnh Thừa Nguyên. Hắn nghe xong hiểu ý Hoàng Đế, liền hướng Phong Thể Minh chắp tay:

“Quận chúa, mời.”

Phong Thể Minh thấy lại có người chịu tỉ thí với mình, lập tức hào hứng trở lại, thoáng chốc đã quên mất chuyện ban nãy. Nàng ta duyên dáng cúi người đáp lễ Trịnh Thừa Nguyên sau đó nhanh như cắt vận khinh công bay đến, tung chưởng tấn công.

Võ công của Trịnh Thừa Nguyên cao hơn vị võ trạng nguyên ban nãy rất nhiều. Một chưởng của Phong Thể Minh tưởng như bão táp mà lại bị Trịnh Thừa Nguyên hóa giải hết sức dễ dàng. Phong Thể Minh kinh ngạc, lập tức nhận ra nội lực mình thua kém không thể đấu lực, liền nhanh chóng khép chặt ngón tay, chưởng thế chuyển từ cương mãnh sang mềm mại mà tàn nhẫn, mỗi chiêu thức đều hiểm hóc khác thường. Mấy vị võ tướng có mặt ở đó đều toát mồ hôi lạnh. Tuy nhiên Trịnh Thừa Nguyên chẳng hề lúng túc, chưởng pháp ổn định, phòng thủ kín kẽ, dù thân thủ của Phong Thể Minh có nhanh đến đâu cũng không cách nào xuyên thủng được. Hai người càng đánh càng nhanh, những kẻ không biết võ công nhìn vào chỉ còn thấy lờ mờ bóng y phục của hai người một đỏ một đen quấn lấy nhau như ngọn lửa cháy bùng giữa đêm đen. Suy cho cùng, Phong Thể Minh có giỏi đến đâu cũng vẫn chỉ là một tiểu cô nương, sức lực không thể so với nam nhân. Hai người đánh qua một khoảng thời gian ngắn tầm nửa chung trà, Phong Thể Minh bắt đầu đuối sức, chưởng lực suy yếu mà cước bộ cũng chậm lại, trong một khắc sơ suất không kịp đỡ đòn, suýt bị Trịnh Thừa Nguyên đánh trúng. May nhờ nàng ta nhanh nhẹn lách người qua một bên, chưởng phong sượt qua sát mặt, tuy không bị đả thương nhưng lại làm tấm sa che trên mặt rơi xuống.

Thời khắc đó toàn thể người ngồi trong điện đều chết lặng. Phong Thể Minh quả thực khiến người ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Bên dưới lớp sa mỏng kia, không ngờ lại có thể là một gương mặt đẹp đến như vậy.

“Nhất tiếu khuynh thành, trầm ngư lạc nhạn, mỹ nhân như họa… Không có câu nào tả nổi mỹ mạo của Phong Quận chúa khi ấy cả.”

Trịnh Vân Anh khoa tay múa chân một hồi, cuối cùng kết luận chắc nịch như vậy.

Phải, toàn bộ câu chuyện sống động kia chính là do Trịnh phi của chúng ta tường thuật lại.

Buổi sáng hôm nay, ta thức dậy thì đã quá trưa. Dù được Hoàng Đế miễn thỉnh an nhưng vì chuyện bộ lễ phục mà ta vẫn phải đội nắng đi Triêu Lan cung một chuyến. Tình cờ gặp được Trịnh Vân Anh còn nán lại chơi, thế là ta bất đắc dĩ phải trở thành thính giả, ngoan ngoãn ngồi một chỗ nghe nàng kể chuyện. Màn xuất đầu lộ diện kinh thiên động địa của Phong Thể Minh chỉ trong một đêm lan ra khắp hậu cung, ta đương nhiên cũng đã nghe Ngọc Thủy kể lại nhưng không sao li kì bằng lời kể của Trịnh Vân Anh.

Trịnh Vân Anh kể đến đây bèn đưa nhánh hoa cúc ban nãy rút từ bình hoa của Hoàng Hậu lên che mặt, cười khúc khích:

“Sau đó thế nào, tỷ có biết không?”

Ta khẽ liếc sang, Hoàng Hậu ngồi bên cạnh vẫn đang tỏ vẻ chăm chú lắng nghe, trong lòng thở dài thườn thượt, cũng không nỡ làm Trịnh Vân Anh mất hứng nên đáp:

“Sau đó thế nào?”

Trịnh Vân Anh thấy ta và Hoàng Hậu đều chú tâm nghe muội ấy kể chuyện, hài lòng vung vẩy nhành hoa cúc trong tay, bắt chước động tác cầm cành đào vung kiếm của Phong Thể Minh:

“Sau đó Phong Quận chúa kia nói với nhị ca của muội: Ngươi làm rơi mạng che mặt của ta, ngươi phải chịu trách nhiệm. Ấy, lúc đó muội sợ muốn chết, cứ nghĩ nàng ta muốn làm nhị tẩu nhà muội. Nhị ca của muội là người hiền lành, nếu lấy phải một bà cô hung dữ như thế thì biết làm thế nào… Cũng may, khi đó Hoàng Thượng liền lên tiếng giải vây. Ngài nói: Biểu tỷ yên tâm, Thọ yến của trẫm mà lại khiến biểu tỷ không vui, trẫm tất nhiên sẽ chịu trách nhiệm với biểu tỷ.”

Trịnh Vân Anh kể đến đoạn này lại còn thở phào nhẹ nhõm khiến cho ta không khỏi đổ mồ hôi lạnh. Trên đời này sao lại có cô nương chỉ sợ người ta lấy ca ca mình mà không sợ người ta lấy phu quân mình?! Lần nữa nhìn sang Hoàng Hậu mới thấy nàng cũng đang ôm trán thở dài.

Lại nói, Hoàng Đế sao có thể mặt dày đến như thế? Người ta rõ ràng đòi Trịnh Thừa Nguyên chịu trách nhiệm, hắn thế mà dám mở miệng ra chuyển người chịu trách nhiệm thành bản thân mình. Thực lòng mà nói thì cả sự ngây ngô của Trịnh Vân Anh lẫn độ dày da mặt của Hoàng Đế đều đáng kính phục như nhau.

Trịnh Vân Anh kể chuyện xong, tiện tay vứt nhành hoa cúc sang một bên, chen vào giữa ta và Hoàng Hậu, cười khanh khách:

“Xem ra chỗ đại tỷ sắp phải bày thêm một cái ghế rồi…”

Hoàng Hậu bị bộ dạng lém lỉnh của Trịnh Vân Anh chọc cho bật cười, búng lên trán muội ấy một cái:

“Còn nói nữa, chúng ta chưa có đủ phiền phức hay sao?”

Trịnh Vân Anh nhanh nhẹn né được, vừa che trán vừa nép về phía ta:

“Phiền phức gì chứ? Chỉ là thêm một bà cô hung dữ thôi.”

Ta cũng cười theo, nói với Hoàng Hậu:

“Tỷ tỷ cũng đừng quá bận tâm. Tính tình Phong Quận chúa như thế thì dù không thể làm tỷ muội với chúng ta thì cũng khó hòa hợp với người khác.”

Hoàng Hậu gật đầu:

“Cũng mong là vậy. Riêng mình Đức phi thôi cũng cho ta đủ loại phiền phức rồi.”

Ta mỉm cười, vẫy tay với Ngọc Thủy đang đứng hầu ngoài cửa, ra hiệu cho nàng mang chiếc rương gỗ chuẩn bị sẵn vào, đoạn nói với Hoàng Hậu:

“Nhân nói đến phiền phức, có chuyện này tỷ tỷ nhất định phải đòi lại công bằng cho muội đấy.”

Ngọc Thủy chậm rãi bưng chiếc rương gỗ vào, cẩn thận mở nắp lấy ra bộ lễ phục của ta xếp ngay ngắn cùng với một búi chỉ vụn.

“Đây là…”

Hoàng Hậu nhướn mày, ngạc nhiên nhấc bộ lễ phục lên nhìn một lượt từ đầu đến chân. Ánh mắt nàng rất tinh tường, chỉ thoáng chốc đã nhận ra điểm bất thường trên tay áo. Vừa nâng phần tay áo lên nhìn cho kĩ, nàng vừa nói:

“Dải họa tiết này hình như có phần kì lạ…”

Trịnh Vân Anh tò mò ghé đầu vào nhìn:

“Muội có thấy gì kì lạ đâu? Cũng đẹp đấy chứ…”

Sự kì lạ này Trịnh Vân Anh có thể không nhận ra nhưng làm sao qua được mắt Hoàng Hậu. Nàng đặt bộ lễ phục xuống, liếc nhìn búi chỉ vụn bên cạnh, thoáng chốc đã hiểu ngọn nguồn, sắc mặt lập tức xấu đi:

“Thượng Cung cục hóa ra cũng không sạch sẽ cho lắm.”

Trịnh Vân Anh nghĩ mãi không ra, ngơ ngác nhìn ta:

“Tỷ tỷ, rốt cuộc là chuyện gì?”

Ta thở dài, cầm phần tay áo lên đưa cho muội ấy, giải thích ngắn gọn:

“Buổi chiều trước hôm Thọ yến của Hoàng Thượng, Ti Chế phòng mới mang lễ phục đến cho ta. Ngọc Nga chưa tiếp xúc với lễ phục bao giờ nên không nhìn ra dải họa tiết này là phượng hoàng chín đuôi.”

Ngay cả Trịnh Vân Anh nghe đến phượng hoàng chín đuôi cũng phải trợn mắt kinh hãi:

“Cái gì? Sao bọn họ dám thêu thứ đó lên lễ phục của tỷ tỷ? Còn nữa, lễ phục vốn phải đưa đến trước ba ngày cơ mà?”

Ta gật đầu:

“Đều trách ta dễ dãi cả tin, cứ nghĩ mấy ngày này bọn họ bận rộn nên cũng không hối thúc. Đến lúc phát hiện ra thì đã muộn rồi. Cũng may có Tạ tiểu thư giúp đỡ, chúng ta tháo bỏ một đuôi phượng hoàng, sau đó thêu đè lên mới tạm qua được ải này.”

Trịnh Vân Anh giận dữ nghiến răng:

“Thật là to gan!”

Hoàng Hậu cười lạnh một tiếng:

“Dám giở trò với lễ phục của phi tử nhất phẩm thì không chỉ to gan thôi đâu. Mấy năm nay, ta luôn quản chặt Thượng Cung cục mà không ngờ vẫn có kẽ hở cho kẻ khác thò tay vào. Nói vậy, chuyện ồn ào của muội với Đức phi, Thục phi sáng hôm qua hẳn cũng là vì chuyện này?”

Ta thành thực nói:

“Đúng là thế ạ. Muội nghĩ hung thủ nhất định không bỏ lỡ cơ hội vạch mặt muội trong đại lễ cho nên tương kế tựu kế, gấp tay áo lên, quả nhiên liền có người muốn đến kéo tay áo muội xuống.”

Trong hai vị Thục phi và Đức phi, ai có đủ tâm kế thực hiện việc này cũng không cần phải bàn cãi nữa.

Hoàng Hậu day day hai bên thái dương, lộ vẻ mệt mỏi:

“Đức phi này… thực khiến ta đau đầu quá. Nàng ta ngồi yên một chỗ thì sẽ chết sao?”

Trịnh Vân Anh vẫn còn rất giận, tranh thủ mắng:

“Nàng ta đúng là đáng ghét! Cứ như con gián ấy, đánh thế nào cũng không trúng, đuổi thế nào cũng không đi!”

Ta cúi đầu nén cười, cố giữ giọng bình thường:

“Vậy chuyện này, tỷ tỷ định giải quyết thế nào?”

Hoàng Hậu đột nhiên cười thành tiếng:

“Ấn tín của Đức phi vẫn còn đang ở chỗ ta. Đẩy ngã nàng ta ngay thì chưa được, nhưng để nàng ta nếm chút mùi khổ cực thì không đến nỗi khó.”

Mỗi khi cười, khuôn mặt xinh đẹp của nàng lại sáng bừng lên như một đóa mẫu đơn nở rộ khiến cho ta nhìn nàng mà băn khoăn, không hiểu sao một người lại có thể cùng lúc sở hữu một nụ cười ôn hòa và một ánh mắt lạnh lùng tàn độc đến vậy.

Ta chợt nghĩ đến một chuyện, bèn chắp tay hướng Hoàng Hậu, lễ phép nói:

“Nguyệt nhi còn một chuyện muốn thỉnh cầu tỷ tỷ.”

Ta rất ít khi cầu xin Hoàng Hậu điều gì, vì vậy nàng có hơi ngạc nhiên nhưng vẫn rộng lượng đáp:

“Muội cứ nói, chỉ cần ta có thể làm được thì nhất định sẽ làm cho muội.”

Ta dè dặt nói:

“Muội muội qua được kiếp nạn này, phần lớn là công lao của Tạ tiểu thư. Nàng ấy là người của Ti Chế phòng… Mà Ti Chế phòng lại không được sạch sẽ… Bọn họ mà biết Tạ tiểu thư đã giúp đỡ muội thì nhất định sẽ khó dễ nàng ấy. Tạ tiểu thư có lòng trượng nghĩa, nhưng muội không muốn nàng ấy vì chuyện này mà gặp chuyện.”

Hoàng Hậu phì cười, vỗ vỗ vai ta:

“Chuyện này muội không cần lo lắng. Tạ tiểu thư đã giúp chúng ta một việc lớn, ta sao có thể để nàng ấy bị liên lụy? Hơn nữa Ti Chế phòng đã không sạch sẽ, thế thì dọn dẹp lại một chút là được.”

Ta cảm kích đa tạ Hoàng Hậu, lòng nhẹ nhõm đôi phần. Lễ phục của ta do nữ quan Chưởng sự may, sau đó còn phải thông qua một vị Thượng nghi, rồi mới đưa đến cho Trưởng ti kiểm tra một lần cuối. Nếu lần này Hoàng Hậu muốn dọn dẹp, vậy Ti Chế phòng sẽ thừa ra ít nhất ba vị trí. Nếu không vì nghĩ đến ba chỗ trống này, ta đã không cần nói mấy lời dài dòng kia với Hoàng Hậu. Thiết nghĩ Thượng Cung cục là nơi cạm bẫy trùng trùng, dù Hoàng Hậu có muốn cũng chẳng thể hoàn toàn che chở Tạ Thu Dung. Những khó khăn nơi đó, nàng phải tự mình vượt qua. Ta chỉ hi vọng qua sự việc này, Hoàng Hậu có thể nhớ tới nàng, ba vị trí kia có thể dành cho nàng một chỗ. Ở nơi này ta chỉ là một phi tần hữu danh vô thực, chữ “phi” của ta nói lớn thì lớn thì vẫn lớn hơn nhiều người, nhưng một phi tần nhất phẩm mà không có ngoại tộc chống lưng, sủng ái lại mơ hồ như sương khói thì đến bản thân mình còn khó bảo toàn… Điều duy nhất ta làm được cho Tạ Thu Dung chỉ là nghĩ nhiều một chút, nói nhiều vài lời mà thôi.

Ta rời khỏi Triêu Lan cung với tâm trạng nặng nề. Men say không còn nhưng lại khiến cho những lo toan lại ùa về chật kín trong đầu ta, khiến cơn đau đầu càng thêm dữ dội.

Về đến Cẩm Tước cung, ta liền rửa mặt, tháo trâm cài, thay trung y rồi quấn chăn nằm lì trên giường chẳng muốn động đậy. Mặc dù rất mệt, nhưng vì ban sáng ngủ dậy quá trễ nên bây giờ ta nằm thế nào cũng không chợp mắt được. Ngọc Thủy thấy ta quấn chăn nằm nhìn đỉnh màn trừng trừng thì lấy làm lo lắng, vội đến bên nắm lấy tay ta hỏi tới tấp:

“Chủ nhân thấy không khỏe ở đâu à? Hay là vẫn chưa tỉnh rượu? Hay đêm qua bị trúng phong hàn rồi?”

Ta trở mình, nằm nghiêng nhìn Ngọc Thủy, cười trấn an nàng:

“Ta không sao.”

Ngọc Thủy ngồi bệt xuống cạnh giường ta, thở hắt ra:

“Thế thì tốt. Nô tỳ cứ sợ chủ nhân bị bệnh… Đêm qua chủ nhân làm nô tỳ sợ quá, sau này người nhất định không được uống rượu nữa đâu.”

Ta cau mày:

“Bản cung có làm gì đâu…”

Ngọc Thủy tròn mắt:

“Chủ nhân không nhớ sao?”

“Không rõ lắm… Chỉ mang máng nhớ là đã uống nhầm rượu, sau đó ngươi đỡ ta ra hoa viên ngồi… Sau đó chúng ta gặp Hoàng Thượng… Rồi Hoàng Thượng bảo ta đi về…”

“Chủ nhân… Người không chỉ gặp Hoàng Thượng thôi đâu.”

Nhìn bộ mặt vặn vẹo của Ngọc Thủy, ta tự nhiên ớn lạnh:

“Ý ngươi là sao? Ta… đã làm gì à?”

Ngọc Thủy nuốt nước bọt, run run đáp:

“Chủ nhân… Người bảo mặt Hoàng Thượng nhăn nhúm, rồi… người còn sờ mặt Hoàng Thượng… sau đó người ôm Hoàng Thượng khóc rất lâu…”

Ta kinh hãi ngồi bật dậy:

“Cái gì? Ta đã làm vậy sao?!”

Ngọc Thủy gật gật đầu, khổ sở nói tiếp:

“Dạ phải… Sau đó người còn chùi mũi vào long bào của Hoàng Thượng…”

“…”

Thôi xong.

Ta há hốc miệng, không nói nổi lời nào. Mồ hôi lạnh không biết từ đâu tuôn ra đầy trán.

Nói long nhan nhăn nhúm?

Chùi mũi vào long bào?

Ta đã biết uống rượu vào sẽ làm ra chuyện khó coi nhưng chưa bao giờ dám nghĩ sẽ làm loạn đến mức đó.

Ta chậm chạp nắm lấy vai Ngọc Thủy:

“Ngọc Thủy này, ngươi nói xem có phải bây giờ ta nên ăn bữa cơm cuối cùng không?”

Ngọc Thủy vừa lau mồ hôi trên trán ta, vừa lắc đầu lia lịa:

“Không… Không đâu… Chủ nhân đừng nói gở… Hoàng Thượng vốn không hề nổi giận với người…”

“Thật sao? Hoàng Thượng không giận sao?”

“Thật ạ… Nếu Hoàng Thượng thật sự nổi giận… thì mọi chuyện đã không được như bây giờ đâu…”

Ta ngã vật ra giường, thở phào nhẹ nhõm. Ngọc Thủy nói đúng, nếu Hoàng Đế thực sự nổi giận thì ta đã đi thẳng tới hoàng tuyền từ tối hôm qua rồi, làm gì còn sống khỏe mạnh đến bây giờ. Có lẽ là Thọ yến làm tâm trạng hắn vui vẻ cho nên phá lệ mà tha cho ta chăng?

“Tỷ tỷ phải nhớ điều này, mấy ngày sau Thọ yến, tâm trạng của Hoàng Thượng thường không được tốt. Tỷ tỷ thận trọng, đừng chọc giận đến ngài kẻo mang họa vào thân.”

Đột nhiên ta nhớ tới lời Trịnh Vân Anh dặn đi dặn lại bay nãy. Quả thật ta từng nghe kẻ khác đồn đãi việc này. Mỗi năm, ba ngày sau Thọ yến là thời điểm Hoàng Đế hạ lệnh trượng tễ nhiều người nhất. Khỏi nói cũng biết tâm trạng hắn không tốt. Nhưng hôm Thọ yến tâm trạng hắn đang rất tốt kia mà, sao qua hôm sau lại hóa thành không tốt rồi?

Ta tặc lưỡi, chẳng buồn suy đoán thêm, chỉ dặn dò Ngọc Thủy:

“Ngươi nói với người của chúng ta, mấy ngày này không cần thiết thì đừng ra ngoài. Nhớ tuyệt đối không được bén mảng lại gần điện Cát Tường.”

Tính tình Hoàng Đế vốn đã như vậy, muốn vui liền vui, muốn giận liền giận, ai dám hỏi lí do? Thôi thì cứ tránh đi vậy. Dù sao thì việc ta giỏi nhất chính là trốn tránh.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 50


Ấy, ta cứ luôn nghĩ mình giỏi trốn tránh mà lại quên mất một điều: Bách Phượng này là của Hoàng Đế, Hậu cung này cũng là của Hoàng Đế, cho dù ta có thể trốn tất thảy mọi người trong thiên hạ thì cũng không trốn được hắn.

Chính vì lẽ đó nên thay vì tận hưởng một buổi tối bình yên ở tẩm cung của mình như những người khác, ta lại phải ngồi đối diện với Hoàng Đế trong Noãn các này, lòng nơm nớp lo sợ mà mặt vẫn phải ngoan ngoãn mỉm cười thật dịu dàng.

Lúc này, Hoàng Đế mặc thường phục màu xanh nhạt, không có long bào oai nghiêm xa cách khiến cho trông hắn cũng có mấy phần giống với một thiếu niên bình thường.

Chỉ là ánh mắt của một thiếu niên bình thường không thể sâu không thấy đáy như vậy.

Có lẽ Hoàng Đế cũng nhận thấy sự căng thẳng của ta, hắn chợt cười, nhấc bình rượu trên bàn rót vào cái chén nhỏ trước mặt ta, nói:

“Sợ cái gì? Uống một chén đi.”

Được Hoàng Đế rót rượu cho là một vinh hạnh lớn nhưng ta mà uống rượu vào thì vinh hạnh này không khéo lại hóa thành đại họa. Ta ái ngại nhìn chén rượu sóng sánh trước mặt, không biết phải nói thế nào:

“Hoàng Thượng, thiếp… Không biết uống rượu…”

Hoàng Đế liếc nhìn ta, khinh khỉnh nói:

“Không biết uống rượu? Rõ ràng hôm qua còn uống tới say mèm, trẫm còn tưởng nàng thích rượu lắm chứ?!”

Nhóc con đáng ghét. Hôm qua không nổi giận thì thôi, giờ lại muốn kiếm cớ phạt chuyện hôm qua à? Đâu có dễ như thế.

Ta lập tức nhe răng cười nịnh bợ, không để hắn có cơ hội khép tội ta bất tuân thánh ý:

“Thần thiếp đúng là không biết uống rượu, nhưng rượu Hoàng Thượng ban thì thần thiếp đương nhiên là thích rồi.”

Nói xong liền cầm chén rượu lên uống một hơi cạn sạch. Rượu này còn mạnh hơn Hồng Mai tửu kia, ta chỉ vừa uống một chén nhỏ mà hơi rượu đã bốc lên cay mờ cả mắt, phải cố lắm mới không ho sặc sụa.

Hoàng Đế nhìn ta cay ch** n**c mắt thì càng tỏ ra thích thú. Một kẻ thích nhất là hành hạ người khác như hắn đương nhiên sẽ không dễ dàng buông tha cho ta.

Hắn gật gù:

“Một hơi cạn sạch. Rất có khí phách. Nào, trẫm mời nàng một chén nữa.”

Ta bất lực nhìn hắn châm đầy chén rượu thứ hai, linh cảm chẳng lành ùa đến, sống lưng bất giác rét run. Một hai chén rượu đối với ta không thành vấn đề, nhưng nếu ta uống chén này rồi hắn có chịu tha cho ta hay không? Hoàng Đế biết ta không uống được nhiều rượu nhưng lại ép ta uống… Chẳng lẽ là muốn chuốc say ta? Hắn làm vậy có mục đích gì?

Ta e dè cầm chén rượu trong tay, rõ ràng biết không thể tiếp tục uống vào nhưng lại không nghĩ ra cách từ chối. Bất giác, ta nảy ra một ý tưởng, bèn chớp mắt nhìn Hoàng Đế:

“Hoàng Thượng, thần thiếp cũng muốn kính rượu người.”

Chẳng biết Hoàng Đế có đoán ra ý của ta không, chỉ thấy hắn cười xòa một tiếng rồi cũng tự rót rượu cho mình.

Hai người chúng ta cứ thế uống cạn hết chén này đến chén khác, chỉ lẳng lặng ngồi uống cùng nhau như thế. Hoàng Đế không nói, ta càng chẳng dám mở miệng hỏi nhiều. Dù sao một bình rượu hai người cùng uống vẫn hơn một mình ta uống. Chỉ hi vọng ta đừng quá say, chí ít là đừng say đến mức bóp cổ Hoàng Đế là được.

Ấy thế mà ta chẳng giữ suy nghĩ ấy được lâu, qua thêm vài chén nữa thì trong đầu ta đã chẳng còn gì ngoài hơi rượu cay nóng bừng bừng. Ta ho khan mấy tiếng, lại đưa tay dụi mắt một hồi mới nhận ra Hoàng Đế đang ngồi nhìn ta cười ngặt nghẽo. Tửu lượng của Hoàng Đế đương nhiên cao hơn ta, dù đã cùng ta chia nửa bình rượu nhưng trông hắn vẫn còn khá tỉnh táo, chỉ có hai gò má xương xương là khẽ đỏ lên. Bộ dạng cười nhạo người khác của hắn làm ta bực mình, không nhịn được lườm hắn:

“Hoàng Thượng cười thiếp à?”

Hoàng Đế cười càng lớn, một tay chống cằm, một tay vươn qua nghịch lấy tóc ta:

“Nàng cũng biết bản thân trông rất buồn cười à?”

Bấy giờ thì ta bực thật rồi.

Ta bĩu môi, chẳng buồn đôi co với tên nhóc đáng ghét này nữa, dứt khoát đứng dậy:

“Không thèm nói chuyện với Hoàng Thượng nữa, thiếp về nhà ngủ đây…”

Ta chẳng ngờ Hoàng Đế lại bất ngờ chụp lấy tay ta kéo lại, mà ta đang say, đứng một mình còn không vững nên lúc bỗng nhiên bị kéo liền mất đà ngã chỏng vó về phía Hoàng Đế.

Còn Hoàng Đế hẳn cũng chẳng ngờ ta lại nặng như vậy, thân thể yếu ớt của hắn tất không đỡ nổi. Thế là ầm một tiếng thật lớn, ta đã ngang nhiên đè ngã Quang Nhật đế khét tiếng hung bạo xuống đất.

Những người hầu hạ ở Ngự tiền đều rất kính sợ Hoàng Đế, ban nãy Hoàng Đế đã dặn không có lệnh của hắn thì không được bước vào. Chính vì vậy, dù có nghe bên trong ồn ào, Lý Thọ và đám cung nữ của chỉ dám sốt ruột đứng từ ngoài xa hỏi vọng vào:

“Hoàng Thượng… Người không sao chứ ạ…”

Hoàng Đế bị ta đè bẹp dưới đất, nãy giờ vẫn còn nhăn nhó vì đau, gắng gượng lớn tiếng đáp lại Lý Thọ:

“Trẫm không sao…”

Nói đoạn, không quên nạt ta một trận: “Nàng còn chưa chịu ngồi dậy à? Nặng chết đi được… Trẫm nuôi nàng béo tốt quá rồi. Từ nay mỗi bữa bớt một nửa khẩu phần nghe chưa…”

Ta vốn đang cố sức bò dậy, nghe Hoàng Đế nói thế thì lại nổi xung. Đã dám chê ta béo lại còn đòi cắt cơm của ta. Thật sự không thể quá đáng hơn. Động đến lòng tự tôn của nữ nhân là một việc hết sức nghiêm trọng. Ta bực bội khịt mũi, bỏ luôn ý định ngồi dậy, cứ yên vị trên người Hoàng Đế.

Thấy ta đột nhiên nằm ì ra, Hoàng Đế bèn giãy nảy, cố sức đẩy ta xuống:

“Này… Muốn đè chết trẫm hay sao?! Mau leo xuống…”

“Không xuống…”

“Nàng muốn tạo phản à? Leo xuống ngay! Đừng để trẫm phải gọi hộ vệ…”

“Thiếp cứ không xuống đấy…”

“Nàng to gan lắm!”

“Ai bảo Hoàng Thượng dám chê thiếp béo…”

Chắc hẳn thời khắc này, Hoàng Đế đã nhận ra chuốc ta say là một sai lầm cực kì nghiêm trọng. Ta đã say rồi thì trời không sợ, đất không sợ, đương nhiên càng không sợ Hoàng Đế. Hắn càng giãy giụa thì ta càng cứng đầu bám chặt lấy cổ hắn.

Một đêm trăng tròn cảnh đẹp ý vui, quân tử và thục nữ vỗn dĩ đang đối tửu thưởng nguyệt, cảnh sắc ấy đáng ra phải đẹp đẽ biết bao nhiêu, không biết vì lẽ gì tự nhiên lại hóa thành tình cảnh đôi bên đấu vật dưới nền đất như thế này.

May mắn cho Hoàng Đế, ta say quá hóa thành vụng về, để cho hắn chớp được sơ hở, cuối cùng cũng đẩy được ta lăn qua một bên. Ầm ĩ một hồi, cả ta và hắn đều thấm mệt. Sau một hồi th* d*c, Hoàng Đế nghiêng đầu nhìn ta, nhăn mặt:

“Nàng định đè chết trẫm thật sao?”

Ta cũng nghiêng đầu nhìn lại hắn, trề môi:

“Hoàng Thượng định bỏ đói thiếp thật sao?”

Hoàng Đế nheo nheo mắt:

“Đúng là uống rượu vào nàng to gan thật.”

Ta đang định cãi thì men rượu lại bốc lên, khiến ta ho một tràng muốn đứt hơi. Hoàng Đế thấy thế mà còn cười được, lại dám thản nhiên xoa ngực ta. Ta vùng vằng hất tay hắn ra:

“Thiếp đã nói là không uống được… Ai bảo Hoàng Thượng cứ ép… đau đầu chết đi được…”

Hoàng Đế chợt thôi không cười nữa, sự đùa cợt trong ánh mắt cũng tan biến, hắn đáp lại bằng một chất giọng phẳng lặng:

“Nếu không say, nàng làm sao chịu nói thật lòng?”

Sự thay đổi của hắn làm ta hơi giật mình, nhưng ta đã quá say, không còn đoán nổi thánh ý nữa, chỉ có thể cau mày mù mờ hỏi:

“Thiếp nói dối Hoàng Thượng bao giờ?”

Hoàng Đế khẽ cười, đưa hai ngón tay sang day day hàng lông mày đang nhăn nhó của ta:

“Còn chối? Nếu là ngày thường, nàng nhất định sẽ sợ hãi quỳ xuống mà nói: Thần thiếp không dám. Làm gì có gan nằm đây nhăn mặt như vậy?”

Ta ngẫm nghĩ một hồi, cảm thấy hắn nói cũng không sai. Đó là vì ngày thường ta luôn luôn sợ hãi. Mà sống lâu trong cung, kinh nghiệm sinh tồn tốt nhất của ta chính là không trốn được thì cứ quỳ gối tạ tội. Nhưng bây giờ, cảm giác sợ hãi đó tự nhiên chẳng còn nữa.

Ta chớp mắt nhìn Hoàng Đế, thật thà nói:

“Hoàng Thượng cũng không giống ngày thường.”

Hoàng Đế nghe ta nói xong cũng không phải đối. Hắn gác tay lên trán, thở dài nhè nhẹ:

“Đúng là hôm nay không giống ngày thường.”

Dáng vẻ ấy cô độc đến mức tận đáy lòng ta cảm thấy xót xa thay cho hắn. Người thiếu niên đang nằm cạnh ta đây ngày thường đều xuất hiện với dáng vẻ quân vương cao ngạo. Một lời nói của hắn có thể dễ dàng lấy đi sinh mạng của kẻ khác. Hắn lúc nào cũng mặc long bào chói mắt, cười cợt buông thả như thể trên đời này chẳng có thứ gì quan trọng… nhưng trong lòng có thực sự vui vẻ không?

Con đường đế vương hiểm nguy ấy hắn đã phải đơn độc dấn thân từ khi là một đứa trẻ mới mười một tuổi.

Một đứa trẻ mười một tuổi đáng lẽ ra phải được sống vô ưu vô lo bên phụ mẫu của mình. Còn hắn, mười một tuổi đã phải gánh lên vai giang sơn xã tắc, không có phụ mẫu, không có huynh đệ tỷ muội.

Mười một tuổi, hắn bước lên ngôi cao cửu ngũ.

Mười một tuổi, ta rơi xuống tận cùng khổ nhục.

Hai người bọn ta sinh ra ở cách xa nhau vạn dặm, con đường mà bọn ta đi cũng khác nhau một trời một vực. Thế nhưng nghĩ lại, có lẽ bọn ta có một điểm tương đồng: mười một tuổi thì mất đi người thân duy nhất, cuộc đời chuyển sang trang mới, vĩnh viễn không còn được bình yên.

Ta vẫn cứ nghĩ mãi mà không hiểu nổi vì sao mấy ngày sau Thọ Yến tâm trạng Hoàng Đế luôn không tốt. Khi tỉnh táo, ta nghĩ không ra, nhưng lúc này men say chếnh choáng thì ta lại bất ngờ thông tỏ.

Thân mẫu của Hoàng Đế sau khi sinh hạ hắn thì băng huyết qua đời. Ngày Hoàng Đế sinh ra cũng là ngày mẫu thân hắn lìa đời. Thọ Yến của hắn linh đình trang trọng là thế mà người mẫu thân đã dùng cả sinh mạng để đưa hắn đến thế gian này cuối cùng vẫn mãi mãi là một Vũ Tiệp dư bị lãng quên, thậm chí cả một nén hương cũng không thể thắp. Nếu đổi lại là ta, ở trong hoàn cảnh đó, e rằng một cái nhếch môi cười ta cũng không làm nổi. Để có được gương mặt tươi cười phấn chấn ngày hôm qua, không biết hắn đã phải nuốt vào trong bao nhiêu thương tâm?

Chuyện nghĩ không thông giờ đã nghĩ thông rồi, nhưng dường như hơi rượu làm cho đầu óc ta mê muội đi, ngay cả một lời dễ nghe để an ủi hắn cũng không thể nghĩ ra nổi. Ta chỉ biết lặng lẽ nắm lấy bàn tay hắn, hi vọng có thể truyền cho hắn một chút mê muội của ta, để hắn quên bớt đi những ưu thương trong tâm trí.

Hoàng Đế siết lấy tay ta, mắt vẫn nhìn thẳng lên trần nhà, nói thầm qua hơi thở:

“Tâm trạng trẫm không tốt. Nàng hãy kể cho trẫm nghe một chuyện vui đi.”

Ta ngượng ngùng đáp:

“Thiếp không đọc sách, không biết kể chuyện đâu.”

“Chuyện gì cũng được, không cần phải ở trong sách. Chuyện của nàng cũng được.”

Ta cắn cắn môi, người như ta thì làm sao có chuyện gì vui? Bình thường lúc không say ta còn chưa chắc nghĩ ra được.

Thời gian chậm chạp trôi qua, ta mò mẫm trong kí ức nặng nề của mình, cố gắng tìm một chuyện có thể coi là vui vẻ để nói. Hoàng Đế không hối thúc thêm. Ta cứ nằm nghĩ mãi, chợt kí ức mịt mờ đau thương như có tia sáng ấm áp hiện lên. Ta thế mà cũng nhớ ra được một chuyện vui vẻ.

“Lúc còn nhỏ thiếp rất béo… cho nên mẫu thân mới đặt nhũ danh cho thiếp là Bánh Bao. Phụ hoàng cũng thích tên này, cứ gặp thiếp là lại gọi: Bánh Bao nhỏ, mau lại đây với phụ hoàng… Khi đó, phụ hoàng hay đưa thiếp và mẫu thân đi thả diều. Hai người bọn họ cùng nhau vẽ một con diều lớn hình bánh bao… Mẫu thân thích thả diều lắm… Cho nên phụ hoàng luôn nhường mẫu thân chơi, còn mình thì cõng thiếp chạy theo…”

Chuyện cũ cứ thế vô thức trôi ra từ miệng ta, đáng lẽ là một câu chuyện vui vẻ, nhưng không hiểu sao kể đến đây, tim ta lại như bị ai đó bóp chặt, chặt đến mức ta không thở nổi, phải ngồi bật dậy. Những cơn nức nở cũng theo đà tuôn trào ồ ạt, khiến ta không sao kiềm được nghẹn ngào.

“Nguyệt nhi sao thế?”

Hoàng Đế lo lắng ngồi dậy, vỗ vỗ lên lưng ta. Nhờ có mấy cái vỗ lưng của hắn, ta ho khan được mấy tiếng, thở cũng dễ hơn.

“Thiếp… thiếp luôn thấy rất khó hiểu. Người đó… là phụ hoàng của thiếp… Người đó cũng từng yêu thương thiếp… từng cõng thiếp đi thả diều cơ mà… Vì sao đột nhiên lại có thể trở nên nhẫn tâm với thiếp như vậy… Là vì thiếp không tốt sao? Hay vì thiếp là nữ nhân? Nếu như thiếp là nam nhân, có phải phụ hoàng sẽ không…”

Lời còn chưa nói xong, mắt đã muốn ướt nhòe. Nghe nói không thể tùy tiện khóc trước long nhan, nhưng ta càng lau thì nước mắt lại càng chảy nhiều hơn, không còn cách nào khác, ta đành dùng hai bàn tay che kín mặt lại. Ta che mặt lại rồi thì không tính là rơi lệ trước long nhan nữa, phải không?

“Đúng là đồ ngốc…”

Hoàng Đế thở dài, khẽ khàng gỡ hai bàn tay ta xuống. Hắn kéo ta lại gần, lẳng lặng lau khô từng giọt nước mắt trên mặt ta, bao nhiêu giọt rơi ra, hắn đều kiên nhẫn dùng ngón tay gạt đi bấy nhiêu.

“Bánh Bao ngoan, đừng khóc… Sao có thể là lỗi của nàng? Nữ nhân thì có gì không tốt? Nữ nhân mới có thể gả cho ta…”

Không biết đã bao nhiêu năm rồi, ta mới được nghe lại ba chữ “Bánh Bao ngoan” này. Trái tim không khỏi run rẩy. Ta hít sâu một hơi, lẩm bẩm:

“Phải rồi, nếu là nam nhân thì không gả đi được rồi…”

Hoàng Đế phì cười, xoa đầu ta:

“Này Bánh Bao, nàng biết không, thực ra ta cùng có nhũ danh đấy.”

Ta dụi mắt nhìn hắn:

“Thật sao?”

Nụ cười trên môi Hoàng Đế chợt nhuốm nét buồn:

“Ừ. Ban đầu ta cũng không biết đâu, vì ai cũng gọi ta là Thái tử gia. Cả mẫu hậu cũng gọi như thế. Mãi đến một ngày nọ, phụ hoàng bỗng nhiên gọi ta đến dặn dò rất nhiều chuyện… Có lẽ người thuận miệng nên kể cho ta nghe cả chuyện lúc ta mới chào đời. Nghe nói vị đó muốn cho ta lúc nào cũng tươi cười, cả đời vui vẻ bèn đặt nhũ danh cho ta là A Tiếu. Nhưng mà vị đó qua đời rồi, phụ hoàng không nhắc đến, cũng không có ai biết đến cái tên đó. Phụ hoàng nói chuyện này với ta xong, ít lâu sau thì băng hà… Cho nên cái tên A Tiếu này ta chưa được nghe ai gọi bao giờ…”

Ta thoáng kinh ngạc, nãy giờ Hoàng Đế xưng “ta”.

Nói về thân mẫu của mình mà hắn chỉ có thể dùng hai tiếng “vị đó”… Nỗi đau này ai có thể tỏ tường?

Đôi mắt trong trẻo của hắn chẳng biết tự bao giờ như bị phủ một màn sương mờ tăm tối. Ta bất giác vươn tay chạm vào gương mặt hắn, ngón tay run run lướt theo gò má xương xương, ngập ngừng dừng lại nơi khóe mắt:

“A Tiếu, đừng khóc…”

Hai tiếng A Tiếu thốt ra, ta mới giật mình hoảng hốt rụt tay lại. Cái tên này ta đâu được phép gọi. Ta say rồi, say đến mất trí rồi.

Ánh mắt Hoàng Đế khẽ lay động, hắn không trách ta vô lễ, chỉ dịu dàng mỉm cười, cầm lấy bàn tay ta vừa rút lại:

“Ta đâu có khóc.”

Như để chứng minh điều đó, hắn cầm tay ta, áp trở lại lên mặt mình, nói tiếp:

“Nàng thấy không, đâu có nước mắt.”

Hành động ấy của hắn càng khiến ta xót xa hơn. Ta lần nữa rút tay khỏi bàn tay lạnh lẽo của hắn, nhưng lần này, ta dùng cả hai bàn tay của mình áp lên đôi mắt hắn, khẽ đáp:

“Ai nói với người nước mắt nhất định sẽ chảy ra ngoài?”

Rất chậm, rất chậm, lòng bàn tay ta nóng lên rồi lại trở nên ẩm ướt, từng giọt nước nóng hổi long lanh chảy tràn xuống cổ tay ta, làm ta khẽ rùng mình.

Ta và Hoàng Đế ngồi yên trong tư thế kì lạ đó không biết bao lâu, đến tận khi không còn nhìn thấy giọt nước nào lăn xuống nữa, ta mới buông tay.

Không dám đối diện với đôi mắt đỏ hoe, bi thương và hoảng hốt đó, ta vội cúi đầu, nhìn hai bàn tay ướt đẫm của mình, cười gượng:

“Tay của thiếp ướt, làm ướt cả mắt của Hoàng Thượng rồi…”

Hoàng Đế bật cười, nhưng lại không nói gì, khiến cho ta càng thêm khó xử. Rượu uống vào ban nãy bây giờ đã bắt đầu hoành hành, đầu ta đau nhức, quả thực không nghĩ nổi biện pháp giải vây nữa.

Đương lúc ta đang bối rối vò tay áo, chịu đựng sự yên lặng đáng sợ này thì Hoàng Đế hỏi:

“Lần trước bảo nàng làm túi thơm cho ta, đã làm xong chưa?”

Ta như vớ được vàng, sực nhớ ra chiếc túi thơm ở trong tay áo, vội nói ngay:

“Có ạ…”

Hoàng Đế nhận túi thơm từ tay ta, hai hàng lông mày lặp tức nhăn nhúm lại:

“Ta nhớ rõ là bảo nàng thêu hình phiến vỹ tước cơ mà, sao lại thành hai cục mỡ biết bay thế này?”

Nếu đầu người có thể bốc khói thật thì có lẽ trên đầu ta đã đầy khói đen rồi.

Hoàng Đế lại quay về bộ dạng đáng ghét ngày thường rồi. Ta bực mình, vểnh mặt đáp:

“Rõ ràng là một đôi phiến vỹ tước xinh xắn.”

Hoàng Đế hừ một tiếng:

“Trên đời có loại phiến vỹ tước nào béo tròn như cục mỡ vậy sao?”

Ta chẳng chịu thua:

“Phiến vỹ tước ở chỗ thiếp ăn no ngủ đủ nên đều như thế. Hoàng Thượng không thích thì trả lại cho thiếp…”

Nói đoạn giơ tay toan giật lại. Hoàng Đế tránh kịp, nhét vội chiếc túi thơm vào tay áo, đổi giọng cười hì hì:

“Sinh thần của ta nàng còn chưa tặng lễ vật gì đâu đấy. Ta tạm lấy cái này đền vào.”

Ta bĩu môi, bày ra vẻ mặt không thèm chấp nhất trẻ con. Hoàng Đế thấy ta không cãi nữa liền tỏ ra đắc ý. Hắn mệt mỏi ngáp dài một tiếng, ngả người nằm kềnh ra đất, lại còn vẫy tay gọi ta:

“Này Bánh Bao, lại đây.”

Dáng vẻ phởn phơ ấy trông thực đáng ghét, nhưng ta ngồi lâu cũng mỏi lưng, lại thêm đầu đang nhức cho nên không buồn tranh cãi, ngoan ngoãn nằm xuống, gối đầu lên vai hắn.

Hoàng Đế mắc hàn chứng, thường hay sợ lạnh, vậy nên chỗ ở của hắn được trải thảm dày, có cả lò sưởi ấm áp, nằm dưới đất cũng khá thoải mái.

Chỗ bọn ta nằm nhìn thẳng ra cửa sổ, thấy rất rõ một vầng trăng tròn vành vạnh. Mặt trăng đêm nay dường như còn tròn hơn hôm trước rất nhiều.

Hoàng Đế vòng tay ôm lấy ta, nhẹ giọng hỏi:

“Sinh thần của nàng cũng là đêm rằm phải không?”

Ta đã hơi buồn ngủ, khẽ gật đầu:

“Là đêm rằm tháng giêng… Tết Nguyên Tiêu…”

Hoàng Đế ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

“Được, vậy đến lúc đó ta đưa nàng đi xem hoa đăng bên ngoài.”

Muốn dỗ ngọt người khác cũng phải nói cho thực tế một chút chứ?! Ta tuy say nhưng vẫn chưa bị điên, đương nhiên không tin lời này của hắn, không khỏi cười thành tiếng:

“Hoàng Thượng đừng gạt thiếp…”

Hoàng Đế nghiêm mặt:

“Nàng ăn nói càng lúc càng to gan. Quân vô hí ngôn, ta mà lại đi gạt nàng sao?

Ta bĩu môi, nói thẳng:

“Hoàng Thượng là Hoàng Thượng kia mà, có thể vì thiếp mà xuất cung sao?”

Hoàng Đế cười gian xảo:

“Thật ra thì cũng không phải vì nàng… Lúc đó ta có việc phải ra ngoài, dắt nàng theo cũng không có gì khó khăn.”

Ta thiếu chút nữa là tự cắn trúng lưỡi mình:

“Hoàng Thượng, cho dù không phải vì thiếp thì người cũng không cần nói thẳng như thế chứ?”

Hoàng Đế ôm ta chặt thêm một chút. Giọng nói của hắn nhẹ như gió thoảng bên tai ta:

“Ta không muốn nói dối nàng. Bánh Bao này, gọi A Tiếu một lần nữa đi.”

Mắt ta đã díp cả lại, ta dụi đầu vào ngực hắn, lơ mơ đáp:

“A Tiếu…”

“Đúng là dễ nghe. Gọi thêm một lần nữa xem nào.”

“A Tiếu…”

“Một lần nữa.”

“Thiếp buồn ngủ lắm…”

“Không được lười biếng. Mau gọi đi.”

“A Tiếu… A Tiếu… A Tiếu…”

Ta lải nhải gọi một hồi, chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng, ta cảm thấy dường như Hoàng Đế v**t v* tóc ta rất lâu. Hắn vén gọn tóc mái của ta vào hai bên mang tai, rồi chầm chậm đặt lên trán ta một nụ hôn phớt nhẹ. Nụ hôn mang theo hơi thở lành lạnh quen thuộc của Hoàng Đế rơi trên mi mắt còn hơi ướt của ta, trượt qua sống mũi, sau đó dừng lại bên khóe môi ta.

Ta thiếp đi với một nụ hôn vụng về như thế.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 51


Khi nhìn Phong Thể Minh, ta bất giác liên tưởng đến hình ảnh cánh chim ưng mạnh mẽ, tự do chao lượn trên bầu trời thảo nguyên rộng lớn bạt ngàn. Một cánh chim ưng đẹp đẽ như thế đáng tiếc thay lại sa vào chốn lồng son thiếp vàng tù túng, cả đời phải tranh tiếng hót cùng một bầy oanh yến lòng dạ xấu xa…

Những ngày sau này, ta cứ nghĩ mãi về buổi tối ở Noãn các với Hoàng Đế. Nghe nói buổi sáng hôm sau, Lý Thọ đưa ta về Cẩm Tước cung, sau đó tuyên khẩu dụ rằng ta đã làm gì đó chọc giận thánh nhan, phạt cấm túc mười ngày. Ta dùng từ “nghe nói” là bởi vì mấy chuyện này ta đều nghe Ngọc Thủy và Ngọc Nga kể lại, chứ lúc được khiêng về ta vẫn còn say mèm chẳng biết trời đất chi cả. Ban đầu nghe mấy chữ “chọc giận thánh nhan”, ta sợ dựng cả tóc gáy, cứ tưởng lúc say đã lỡ làm gì khiến Hoàng Đế nổi giận, cho là mình sắp thăng thiên đến nơi rồi. Mãi tận ba ngày sau, khi đầu óc đã tỉnh táo hẳn, ta mới dần dần nhớ lại đầy đủ những chuyện xảy ra đêm hôm ấy, nỗi sợ hãi cũng dần dần vơi đi.

Thông thường, mấy ngày sau Thọ Yến tâm trạng Hoàng Đế đều không tốt, ai gặp phải hắn xem như xui xẻo tận mạng, nếu như ta được triệu đến chỗ hắn mà bình yên trở về thì mới là kì quái. Hắn vô duyên vô cớ cấm túc ta xem ra lại là làm một chuyện tốt cho ta. Mặc dù đám phi tử bên ngoài được dịp hả hê cười người gặp họa nhưng đổi lại ta lại được một khoảng thời gian yên tĩnh. Dù sao ta cũng không thích đi ra ngoài, chỉ cần không bị cắt cơm thì không thành vấn đề.

Chỉ là rảnh rỗi quá ta đâm ra lại nghĩ ngợi linh tinh. Những lời nói của Hoàng Đế cứ chờn vờn trong tâm trí ta, khiến ta không khỏi băn khoăn. Lúc đó ta không tỉnh táo nên chẳng tính toán gì, cứ nghĩ thế nào thì nói thế ấy. Bây giờ suy xét lại càng thấy mình như đã mắc vào một đống tơ rối mịt mù.

Những lời Hoàng Đế nói khi đó rất chân thật, chân thật đến nỗi đến tận lúc này, ta như vẫn cảm nhận được nỗi đau thương trong từng câu chữ ấy siết chặt lấy trái tim mình. Thậm chí lòng bàn tay này vẫn còn nguyên vẹn cảm giác nóng bỏng của những giọt lệ rơi từng xuống ngày hôm ấy. Ta tự hỏi vì sao Hoàng Đế lại nói với ta những lời này, chẳng lẽ hắn cũng say đến hồ đồ rồi sao?

Hoặc cũng có thể là do hắn thích ta.

Ta hít sâu một hơi, quyết định không ngủ nướng nữa, vừa ngồi dậy lộc cộc xỏ guốc đã thấy Ngọc Nga nhanh chóng đi vào, cẩn thận đỡ ta đến ngồi bên cửa sổ phơi nắng sớm.

Ta ngáp dài:

“Ngọc Nga, mang cho ta một chén canh giải rượu nhé.”

Ngọc Nga cau mày, nghi ngại:

“Lại canh giải rượu nữa à? Chủ nhân ơi, bốn, năm hôm nay người đã uống phải đến cả thùng canh giải rượu rồi đấy.”

Ta day day trán, khổ sở đáp:

“Ta biết chứ, nhưng ta cảm thấy mình vẫn còn say lắm.”

Có thể nghĩ ra việc Hoàng Đế thích mình… có lẽ kẻ say đến hồ đồ phải là ta mới đúng. Hắn là Hoàng Đế, hằng ngày có biết bao nhiêu nữ nhân tài mạo song toàn chạy theo lấy lòng hắn, hắn làm sao lại đi thích một kẻ tầm thường vô dụng như ta được.

Ngọc Nga rất nhạy cảm, vừa nhìn liền hiểu trong lòng ta có tâm sự. Nàng tặc lưỡi, nhẹ nhàng xoa bóp huyệt thái dương cho ta, vừa làm vừa nói:

“Chủ nhân đừng nghĩ nữa. Hiện giờ Hoàng Thượng đối với chủ nhân rất tốt mà. Chủ nhân nghĩ nhiều quá là tự làm khổ mình thôi.”

Ta nghiêng đầu, dựa vào lòng nàng:

“Ta biết, nhưng mà ta rất sợ… Ta sợ Hoàng Thượng mà cứ đối tốt với ta, ta sẽ lầm tưởng Hoàng Thượng thích ta, mà nếu ta lầm tưởng như thế… ta sợ chính ta cũng sẽ thích Hoàng Thượng mất…”

Nỗi lo lắng lớn nhất trong lòng, ta cuối cùng cũng nói ra. Ngọc Nga ngỡ ngàng trong chốc lát rồi thở dài, nói:

“Chủ nhân đến đây cũng được một thời gian rồi, Hoàng Thượng lại đối tốt với người, khó tránh trong lòng người nảy sinh tình cảm. Nhưng có lời này, cho dù chủ nhân có giáng tội thì nô tỳ cũng nhất định phải nói…”

Ta lắc đầu, cười: “Ta từ lâu đã xem ngươi như muội muội của mình, còn trách tội cái gì nữa.”

Ngọc Nga cũng mỉm cười, chẳng ngần ngại cầm lấy tay ta:

“Nếu đã như thế thì nô tỳ xin nói thẳng. Nam nữ gần gũi nhau lâu ngày tất nhiên sẽ sinh ra cảm giác quyến luyến… Nữ nhân vốn mềm yếu cho nên cảm giác đó sẽ càng sâu đậm hơn nam nhân. Nô tỳ cho rằng người có thích Hoàng Thượng một chút thì cũng chẳng hề gì, chỉ cần người nhớ được giới hạn của mình…”

“Giới hạn?”

“Phải, ví như chiếc vòng ngọc này… Chủ nhân có thích nó hay không?”

Ngọc Nga khéo léo tháo chiếc vòng đeo trên cổ tay ta xuống.

Ta gật đầu. Nếu không thích, ta đã chẳng đeo nó làm gì.

Ngọc Nga thản nhiên nói tiếp:

“Nếu nó bị rơi xuống đất, chủ nhân có nhặt nó lên không?”

Ta lại gật đầu. Vòng ngọc đắt tiền như thế, bị rơi đương nhiên là phải nhặt.

“Thế nhưng nếu nó không phải rơi dưới đất mà là rơi ở miệng vực sâu thăm thẳm. Vậy chủ nhân có mạo hiểm tính mạng đến miệng vực nhặt nó hay không?”

Lần này thì ta lắc đầu. Vòng ngọc có đắt đến đâu cũng chỉ là một thứ đồ vật ngoài thân, ta sao có thể liều mạng vì nó được.

“Nếu chủ nhân không nhặt, nó sẽ rơi xuống vực nát vụn. Chủ nhân có buồn không? Có vì nó mà buồn cả đời này không?”

“Mất món đồ mình yêu thích dĩ nhiên là buồn, nhưng không thể buồn cả đời được.”

Ngọc Nga hài lòng mỉm cười, đeo vòng ngọc trở lại vào tay ta.

“Chính là như thế. Thích một vật không có gì là xấu. Chỉ cần chủ nhân hiểu được không có thứ gì quan trọng hơn bản thân mình, không có thứ gì đáng giá để mình phải đau buồn cả đời. Như vậy là được.”

Những lời Ngọc Nga vừa nói ra, thoạt nghe thì rất bình thường, nhưng ngẫm lại, không có lời nào là không mang hàm ý khi quân phạm thượng. Thế nhưng, nàng có thể vì ta mà không ngại nói ra những lời tày đình như thế, đủ thấy nàng đối với ta có bao nhiêu tâm ý.

Ta vỗ vỗ lên lưng bàn tay nàng, không hề che giấu sự cảm kích của mình:

“Ta đã hiểu rồi. Muội muội tốt, đa tạ…”

Ngọc Nga mỉm cười rạng rỡ:

“Chủ nhân hiểu là tốt rồi. Nô tỳ đã chuẩn bị canh gà ác cho người, mau ăn cho nóng thôi.”

Canh gà được mang lên, ta ăn vơi độ nửa chén, bỗng nhiên nghĩ đến một vấn đề khác, lòng lại trầm xuống.

“Ngọc Nga, buổi sáng hôm ta từ Noãn các trở về… Thái Y viện có mang canh đến không?”

Ta đặt chén canh gà xuống bàn, nghiêm túc nhìn Ngọc Nga.

Ngọc Nga lắc đầu:

“Không có ạ…”

“Đã bao lâu rồi?”

“A… có lẽ… hơn ba tháng rồi…”

Sắc mặt của ta lẫn Ngọc Nga đồng loạt xấu đi.

Phải, đã hơn ba tháng nay Hoàng Đế không sủng hạnh ta. Hắn vẫn tới lui đều đặn, nhưng khi thì ghé vào uống trà ăn bánh trêu ghẹo ta vài câu, khi thì tới chơi đùa với bầy phiến vỹ tước ngoài sân, nếu có ăn cơm tối nghỉ lại thì cũng chỉ nằm cạnh nhau, nắm tay mà ngủ. Cũng vì như thế cho nên dù không phải uống Vong thai dẫn, cái bụng của ta mãi vẫn chẳng thể có động tĩnh gì.

Ta bất giác đưa tay xoa bụng, hoang mang nhìn Ngọc Nga:

“Có phải Hoàng Thượng ghét ta không…”

Ta đúng là ngu ngốc. Ban nãy còn nghĩ Hoàng Đế thích mình, lại chẳng nhớ tới bao lâu nay hắn đâu hề động đến ta.

Ngọc Nga lắc đầu lia lịa, hoảng hốt chặn một ngón tay ngang môi ta:

“Chủ nhân đừng nói thế… Nô tỳ đã nói rồi mà, Hoàng Thượng đối với chủ nhân rất tốt, sao có thể ghét chủ nhân được chứ?!”

Dù nàng đang trấn an ta, nhưng nét hoang mang trên mặt nàng càng khiến ta hoảng thêm. Ta cúi đầu, giở ngực áo mình nhìn vào:

“Hay là ta có cái gì đó khác thường?”

Ngọc Nga đỏ mặt, vội chặn tay ngang ngực áo ta, không cho ta nhìn nữa:

“Chủ nhân rất bình thường… Người đừng có làm như thế…”

Ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng với câu trả lời này, bèn đề nghị:

“Hay là chúng ta đi nhìn trộm Thục phi một chuyến, xem nàng ta như thế nào mà Hoàng Thượng thích nàng ta như thế…”

Ta chưa kịp nói xong, Ngọc Nga đã nhảy dựng lên:

“Không thể được!!!”

Ta gật gù, lại nói:

“Cũng phải, tường Mẫu Đơn cung rất cao, xem chừng khó leo vào lắm đấy. Hay chúng ta đi xem Liên Nhạc đi…”

Ngọc Nga phát khiếp, nắm lấy vai ta lay lấy lay để:

“Chủ nhân đúng là vẫn còn say… Mau tỉnh lại…”

Ta bị nàng lay đến hoa cả mặt, không thể không đầu hàng:

“Được rồi, được rồi… không đi nhìn trộm nữa… ngươi đừng lay ta nữa…”

Ngọc Nga lay một hồi, áng chừng như ý tưởng điên rồ kia đã văng ra khỏi đầu ta rồi nàng mới ngừng tay, thở hắt ra một cách mệt nhọc:

“Chủ nhân đừng nghĩ lung tung, nếu Hoàng Thượng ghét người thì sẽ không gặp người đâu.”

Ta nghi ngờ nhìn nàng:

“Thật sao?”

Ngọc Nga cười khổ:

“Những chuyện này… nô tỳ biết rất rõ. Nam nhân ấy, nếu không thích một nữ nhân thì cho dù nữ nhân đó có quỳ trước mặt hắn, tự cầm dao cứa vào cổ mình… thì hắn cũng sẽ không buồn nhìn đến…”

Chẳng hiểu từ lúc nào, giọng nàng đã đượm nỗi chua chát nghẹn ngào. Ta lặng nhìn vết sẹo mảnh dẻ kéo dài ngang chiếc cổ thanh thoát của nàng, lòng đau đớn như bị ngàn mũi kim đâm. Trước nay, ta chỉ biết Ngọc Nga xuất thân từ thanh lâu. Ta không biết nàng đã trải qua những chuyện gì, nhưng ta nghĩ quá khứ đó nhất định là vô cùng đau xót, vì vậy ta không bao giờ dám hỏi đến chuyện cũ của nàng. Bây giờ không ngờ ta lại hồ đồ chạm vào vết thương trong lòng nàng. Quá khứ của nàng có lẽ còn đau xót hơn tưởng tượng của ta rất nhiều.

Ta nắm lấy tay Ngọc Nga, bao nhiêu lời an ủi cứ nghẹn ứ nơi cổ họng, không cách nào thốt lên được.

Nam nhân có lẽ chỉ nên thích, không nên yêu.

Lúc đó, ta đã nghĩ như thế mà chẳng hề nhận ra mình chỉ đang cố tự huyễn hoặc mà thôi.

***

Mấy ngày cấm túc tiếp theo, nhờ có mấy lời khuyên nhủ của Ngọc Nga, tâm trạng ta nhẹ nhõm hẳn.

Ngọc Nga nói rất đúng, nếu Hoàng Đế ghét ta thì đâu cần miễn cưỡng ở cạnh ta làm gì. Ta nào có nhà ngoại chống lưng, dù Hoàng Đế có quẳng ta vào xó xỉnh nào đó thì phụ hoàng cũng chẳng đến đây ăn vạ với hắn đâu.

Còn chuyện Hoàng Đế có thích ta hay không, có đoán cũng chẳng đoán ra nổi. Ta thôi chẳng buồn đoán nữa, chỉ chuyên tâm nghĩ việc Hoàng Đế trúng độc. Ai hạ độc hắn, ta không tra được, càng không dám tra, lại không thể cứ thể nói thẳng ra, ta đành cố hết sức nghĩ ra một cách chu toàn để đánh động cho hắn biết. Một kế hoạch mơ hồ dần dần thành hình trong đầu ta.

Nhưng tâm trạng nhẹ nhõm ấy chẳng kéo dài được bao lâu, ta vừa mới hết bị cấm túc mấy ngày thì cơn sóng gió mới đã ập đến hậu cung, mà Cẩm Tước cung của ta chẳng hiểu sao lại hứng trọn tâm bão.

Tháng chín năm Quang Nhật thứ sáu, thánh chỉ sắc phong Quận chúa Phong Thể Minh làm chính tứ phẩm Tiệp dư được ban bố. Nơi ở của Phong Tiệp dư cũng được chỉ định là Cẩm Tước cung.

Hoàng Hậu dịu dàng nói: “Phong Tiệp dư từ nơi xa xôi đến nên còn chưa quen phong tục lễ nghi, muội là cung chủ, cố gắng chỉ bảo nàng ấy một chút.”

Triệu Lam Kiều đắc ý nói: “Hòa tỷ tỷ nhớ dạy dỗ nàng ta cho cẩn thận, nếu nàng ta gây ra tội lỗi gì, tỷ thân là cung chủ khó tránh liên lụy.”

Dương Quý cơ mỉa mai nói: “Cẩm Tước cung đã có một công chúa, nay lại thêm một quận chúa, đúng là đất lành mà.”

Trịnh Vân Anh thật thà nói: “Tỷ tỷ, bảo trọng.”

Còn Liễu Yến Yến ấy à, vừa nghe tin này đã hỏa khí công tâm, ngất xỉu mất rồi, nói gì nổi nữa. Ta thì không được may mắn như thế, không ngất xỉu được nên đành phải trưng lên một nụ cười xã giao cứng đờ mà chống đỡ đám phi tần chỉ thích cười người gặp họa kia.

Cẩm Tước cung chỉ có ta và Bạch Diệu Hoa ở, ta biết chắc sang năm khi tuyển tú nhất định sẽ phải mở cửa chào đón thêm một, hai vị mĩ nhân nữa. Thêm người cũng chẳng hề gì, nhưng thêm đúng vị quận chúa không biết trời cao đất dày này… Ta thực sự bị sao quả tạ chiếu trúng rồi.

Cũng may thường ngày Bắc viện vẫn luôn được quét dọn gọn gàng cho nên cũng không tốn quá nhiều thời gian sắp xếp. Thượng Cung cục đưa đến một ít vật dụng theo quy chế tứ phẩm Tiệp dư. Lần này, ta phải đích thân kiểm tra từng thứ một. Triệu Lam Kiều nói không sai, nếu Phong Thể Minh gặp chuyện gì ta cũng sẽ bị vạ lây, cứ cẩn thận một chút thì hơn.

Hoàng Đế rõ ràng ưu ái Phong Thể Minh, ngay cả lễ thỉnh an mỗi buổi sáng cũng viện cớ này nọ miễn cho nàng ta. Hoàng Hậu chẳng tỏ thái độ gì, chỉ dặn dò ta thêm một lần nữa: phải dạy bảo Phong Tiệp dư cho tốt. Ta nghe mà mồ hôi lạnh đổ ròng ròng như suối. Phong Thể Minh này đến võ trạng nguyên còn bị nàng ta đánh bất tỉnh, ngay cả Hoàng Đế cũng không sợ, một kẻ bất tài vô dụng như ta lấy cái gì ra dạy dỗ nàng ta đây?

Ngày đầu tiên dọn đến nơi ở mới, theo cung quy thì phi tử phải làm lễ bái kiến cung chủ. Thân là cung chủ, được người ta bái kiến mà ta lo lắng đến mức đứng ngồi không yên. Khi Phong Thể Minh bước vào khách phòng, ta phải cố gắng lắm mới giữ được dáng vẻ đức độ mẫu mực mà một cung chủ cần phải có.

Mọi chuyện diễn ra khá trôi chảy, sau khi nhận của Phong Thể Minh ba lạy theo đúng lệ, ta liền cho nàng bình thân, cũng không quên ban trà, dặn dò một số việc:

“Cẩm Tước cung không có quy định gì đặc biệt cả. Mọi việc ở Bắc viện do Tiệp dư tự quản lý, hai nô tỳ đi theo Tiệp dư từ nay thăng làm đại cung nữ. Ngoài hai người này, Tiệp dư có thể đến Thượng cung cục chọn thêm năm cung nữ và năm thái giám nữa. Chỗ này có phòng bếp riêng, mỗi ngày sẽ có người mang thức ăn đến cho Tiệp dư, ngoài ra Tiệp dư muốn ăn thêm gì thì cứ căn dặn, chỉ cần không vượt quá quy chế tứ phẩm là được. Hậu cung này Tiệp dư tùy ý đi lại, trước khi ra ngoài chỉ cần báo với Ngọc Thủy một tiếng. Ngọc Thủy là Chưởng sự ở đây, có việc gì Tiệp dư cứ sai bảo nàng ấy.”

Ta chậm rãi nói xong, khẽ nhấp một ngụm trà thấm giọng. Thân phận Phong Thể Minh đặc biệt, Hoàng Đế còn phải lễ phép gọi nàng là biểu tỷ, vậy nên dù phân vị và tuổi tác nàng đều nhỏ hơn ta, ta vẫn chỉ dám gọi nàng bằng phân vị mà thôi.

Phong Thể Minh không hung hăng như trong tưởng tượng của ta. Nàng nghe ta nói xong, bèn ngẩng đầu cười đáp:

“Thể Minh đã hiểu. Đa tạ Hòa phi nương nương chỉ giáo.”

Bấy giờ ta mới có dịp nhìn rõ dung mạo của nàng.

Cũng chính lúc này, ta mới biết Trịnh Vân Anh chẳng hề khoác lác. Hậu cung luôn không thiếu mĩ nhân, trước nay ta nhìn mĩ nhân đều đã quen mắt, thế mà đối diện với Phong Thể Minh, ta vẫn không khỏi sững sờ.

Ta đọc ít sách vở, không giỏi văn chương, đối với vẻ đẹp kinh hãi thế tục này ta chẳng biết dùng lời nào để tán tụng. Vẻ đẹp của Phong Thể Minh không chỉ nằm ở những đường nét thanh tú đến độ hoàn mĩ trên khuôn mặt nàng mà còn ẩn hiện ở nụ cười phóng khoáng, tràn đầy sức sống của nàng. Khi nhìn Phong Thể Minh, ta bất giác liên tưởng đến hình ảnh cánh chim ưng mạnh mẽ, tự do chao lượn trên bầu trời thảo nguyên rộng lớn bạt ngàn. Một cánh chim ưng đẹp đẽ như thế đáng tiếc thay lại sa vào chốn lồng son thiếp vàng tù túng, cả đời phải tranh tiếng hót cùng một bầy oanh yến lòng dạ xấu xa…

Ta nén tiếng thở dài, chẳng muốn nghĩ sâu xa thêm nữa. Đặt chén trà xuống, ta ân cần nói:

“Tiệp dư còn điều gì muốn hỏi bản cung không?”

Phong Thể Minh chớp chớp mắt, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi:

“Ở đây chỉ có nương nương và Thể Minh thôi à?”

Ta lắc đầu, đáp:

“Còn có Bạch Thường tại ở Đông viện nữa.”

Phong Thể Minh nhíu mày, hồn nhiên hỏi tiếp:

“Sao Thể Minh không thấy nàng ấy? Thể Minh có cần đi bái kiến nàng ấy không?”

Ta vội vàng xua tay:

“Không cần, không cần… Phân vị của Bạch Thường tại thấp hơn Tiệp dư nhiều, đáng lẽ nàng ấy phải đến bái kiến Tiệp dư mới phải. Chỉ là Bạch Thường tại đang bị cấm túc, sau này sẽ hành lễ với Tiệp dư sau…”

“Ra là vậy…”

Nhìn bộ dạng ngớ ngẩn như bò đội nón tơi của Phong Thể Minh, ta mới giật mình:

“Tiệp dư vẫn chưa biết cấp bậc Hậu cung sao?”

Phong Thể Minh chẳng ngại ngùng, cười hì hì:

“Lý công công có đưa cho ta xem qua rồi, chỉ là dài dòng quá… Thể Minh nhất thời không thể nhớ nổi…”

Trong lòng ta đã muốn than khóc. Cấp bậc là thứ cơ bản sống còn. Không nhớ rõ cấp bậc thì làm sao biết mà hành lễ? Lễ nghi thiếu sót chính là trọng tội.

Ta rút khăn tay thấm mồ hôi lạnh trên trán, nghiêm giọng nói:

“Cấp bậc nhất định phải nhớ kĩ. Cách hành lễ cũng phải học thuộc. Tiệp dư phải học ngay từ bây giờ cho ta, ta sẽ đích thân kiểm tra. Chừng nào còn chưa thuộc ta không thể để Tiệp dư ra ngoài được.”

Phong Thể Minh thấy sắc mặt ta đột ngột chuyển thành nghiêm trọng thì hơi ngẩn ra. Trái với sự lo lắng của ta, nàng ta không hề tranh cãi, chỉ ủ rũ gật đầu:

“Thể Minh hiểu rồi.”

Ta nhìn dáng vẻ nàng mất tự nhiên như vậy, cũng sợ nàng để bụng chuyện này thì càng thêm phiền phức, bèn nhẹ nhàng giải thích:

“Ta cũng không muốn làm khó Tiệp dư, nhưng lễ nghi là chuyện cực kì quan trọng. Nếu làm sai, không chỉ mình Tiệp dư phải chịu khổ mà cả những người xung quanh cũng bị liên lụy.”

Phong Thể Minh ngước mắt nhìn ta rồi lại nhìn đến hai cung nữ thân cận đứng cạnh bên nàng, trong ánh mắt đen long lanh chợt dâng lên một thứ cảm xúc khó hiểu.

“Đa tạ thiện ý của nương nương. Thể Minh sẽ cố gắng.”

Ta nhìn thấy Phong Thể Minh hiểu chuyện như thế, lòng cũng mừng thầm. Có lẽ cũng chỉ là một thiếu nữ thẳng thắn, chưa trải sự đời mà thôi.

Nói xong những điều cần nói rồi, ta liền tiễn Phong Thể Minh trở về Bắc viện. Bởi vì chưa thể để Phong Thể Minh đi lại bên ngoài nên ta quyết định để Ngọc Thủy dẫn hai nô tỳ thân cận của Phong Thể Minh là Lương Vũ và Lương Sa đi Thượng Cung cục chọn người. Cung nhân hầu hạ trong Cẩm Tước cung vốn không nhiều, sau một loạt biến cố lớn nhỏ lại càng ít hơn, mấy người mới cũng đến từ Ngự tiền cho nên ta không quá lo lắng. Tiếc là chưa hài lòng được mấy ngày thì lại phải mở cửa đón người mới. Đám phi tần ngoài kia không cài được nội gián vào chỗ ta, tin là bây giờ sẽ không bỏ qua thời cơ tốt đẹp này. Thêm mười người lạ đến, không biết lại phải hứng thêm bao nhiêu chuyện đa đoan. Tuy rằng ta e ngại, nhưng cũng không tiện nhúng tay vào, chỉ dặn dò một câu bâng quơ: “Những người mới đến làm việc thường chăm chỉ hơn.” Lương Vũ và Lương Sa trông đều thông minh lanh lợi, hi vọng bọn họ có thể hiểu ý ta, tránh những người từng hầu hạ các vị chủ nhân khác.

Phong Thể Minh ngoan ngoãn ở một chỗ học bài, ta bớt được biết bao nhiêu phiền phức. Đông viện và Bắc viện giáp nhau một cái hoa viên nhỏ. Mỗi ngày khi ta đi thăm Bạch Diệu Hoa, đều nhìn thấy Phong Thể Minh ngồi vắt vẻo trên nhánh cây cao, chăm chú lật từng trang Cung quy, Nữ huấn. Cảnh tượng này có mấy phần giống với ta lúc mới đến đây. Chỉ là ta khi ấy có thêm một Tạ Thu Dung khó tính kè kè một bên, không được tự do thoải mái như Phong Thể Minh. Ngọc Thủy lại chẳng lạc quan như ta, lần đầu nhìn thấy Phong Thể Minh treo ngược người, đong đưa trên cây, Ngọc Thủy tái cả mặt, suýt chút lên cơn đau tim. Nàng túm lấy tay áo ta, lắp bắp:

“Chủ nhân, không thể… không thể…”

Ta chỉ cười xòa:

“Có muốn uốn nắn cũng phải từ từ, quá nghiêm khắc sẽ phản tác dụng. Tốt nhất cứ giải quyết từng việc một. Để nàng ta thuộc hết mấy quyển sách đó rồi hãy tính tới những thứ khác.”

Lại nói đến những cung nữ, thái giám mà bọn Lương Sa, Lương Vũ chọn về. Mấy người này, ta đều cho Ngọc Thủy đi tra lại thân thế thật kĩ lưỡng, quả nhiên đã lọt vào một vài kẻ ám muội. Người là của Phong Thể Minh, như đã nói, ta chẳng thể can thiệp quá nhiều, chỉ dặn dò Ngọc Nga, Ngọc Thủy và Tiểu Phúc Tử để mắt đám người đó một chút. Dù sao là phúc hay là họa cũng còn phải xem Phong Thể Minh nhìn người và đối nhân xử thế ra sao.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 52


Phong Thể Minh tiến cung đã gần nửa tháng. Ta nhìn thấy nàng ta ngoan ngoãn biết điều, trong lòng cũng thấy nhẹ nhõm một chút. Ta nghĩ đợi nàng học thuộc mấy thứ cấp bậc, lễ nghi căn bản rồi, rèn luyện thêm một chút cách đi đứng, nói năng thì không ai làm khó được nữa. Thế nhưng, trên đời này hiếm có chuyện như ý. Vào một ngày đẹp trời mà ta không ngờ tới, Hoàng Đế lại triệu kiến Phong Thể Minh. Bao nhiêu tai họa cũng là từ đây mà ra cả.

Ngày hôm ấy, khi Phong Thể Minh từ điện Cát Tường trở về thì đụng phải Quỳnh Thục nghi và Chung Quý nhân đương cùng ngồi trên một cái liễn lớn đi dạo chơi hóng gió. Cung nữ của Quỳnh Thục nghi nhìn thấy Phong Thể Minh liền cao ngạo hô lớn:

“Gặp Thục nghi nương nương sao còn chưa quỳ xuống hành lễ?!”

Về lý mà nói, gặp tình cảnh này, Chung Quý nhân phân vị thấp nhất phải bước xuống, để Phong Thể Minh hành lễ với Quỳnh Thục nghi trước, sau đó đến lượt nàng ta phải hành lễ với Phong Thể Minh. Chuyện chỉ có như vậy là xong, nhưng tính cách của ba người này đều không bình thường. Phong Thể Minh hỏi rõ người ngồi cùng Quỳnh Thục nghi là ai rồi thì cương quyết không hành lễ. Chung Quý nhân không chịu bước xuống, Quỳnh Thục nghi thì chẳng những không khuyên bảo Chung Quý nhân, lại còn một mực bắt Phong Thể Minh hành đại lễ. Phong Thể Minh là người như thế nào? Nàng dĩ nhiên không dễ đổi ý. Ba người chẳng ai nhường ai, Quỳnh Thục nghi nhất thời nổi nóng, muốn ra tay dằn mặt Phong Thể Minh, bèn sai nô tài động thủ ép Phong Thể Minh phải quỳ xuống đất. Nhưng nàng ta lại quên mất Phong Thể Minh chẳng phải nữ tử bình thường. Đám nô tài khốn khổ kia chưa đến gần được Phong Thể Minh đã bị hai tỳ nữ của nàng đánh cho một trận tả tơi. Nghe nói Quỳnh Thục nghi cả giận, ỷ mình phân vị cao lại có chỗ dựa vững chắc, sai Chung Quý nhân vả miệng Phong Thể Minh. Kết cục người bị vả miệng đương nhiên là Chung Quý nhân. Quỳnh Thục nghi không ngờ Phong Thể Minh dám đánh cả Chung Quý nhân, giận đến run người, bèn đích thân “giáo huấn” Phong Thể Minh. Phong Thể Minh không đánh Quỳnh Thục nghi, nhưng cũng không để bản thân bị đánh. Lúc ta nghe tin, kinh hãi chạy tới nơi thì Quỳnh Thục nghi và Phong Thể Minh vẫn còn đang giằng co quyết liệt.

“Hai người đang làm cái gì thế?”

Ta vừa bước xuống kiệu đã bị quang cảnh giương cung bạt kiếm trước mặt dọa cho thót tim. Một đám cung nữ, thái giám mặt mũi bầm tím, quần áo tả tơi nằm bẹp dưới đất. Bên cạnh là Lương Vũ và Lương Sa khoanh tay vểnh mặt hả hê. Chung Quý nhân hai má sưng vù, ngồi xổm khóc thút thít. Quỳnh Thục nghi đang trong tư thế giang tay muốn tát Phong Thể Minh nhưng lại bị Phong Thể Minh cầm chặt cánh tay, muốn tiến không được, muốn lùi không xong, luôn miệng mắng chửi.

Phong Thể Minh nhìn thấy ta đi đến, bèn buông tay Quỳnh Thục nghi, cúi chào ta:

“Bái kiến Hòa phi nương nương.”

Quỳnh Thục nghi vội vàng chớp lấy thời cơ, chạy tới trước mặt ta khóc ầm lên:

“Hòa phi nương nương phải đòi lại công bằng cho thần thiếp…”

Đến ta cũng không ngờ thanh quản của Quỳnh Thục nghi lại tốt như thế. Nàng ta vừa kể lể vừa khóc sướt mướt, ấy thế mà lời lẽ rành mạch, bao nhiêu tội vô lễ, làm càn, dĩ hạ phạm thượng, coi thường cung quy đều đổ cả lên đầu Phong Thể Minh. Bên cạnh lại có thêm Chung Quý nhân thút thít phụ họa cho nên cảnh tượng càng thêm mấy phần lâm li bi đát.

Đòi lại công bằng gì chứ? Đây chẳng phải cố tình ép ta trị tội Phong Thể Minh, rồi nhân tiện quàng luôn cho ta tội dạy bảo không nghiêm sao?

Biết là như thế, nhưng chuyện đã thành thế này, ta có muốn thiên vị cũng không được. Ta bất đắc dĩ đưa mắt nhìn sang Phong Thể Minh:

“Phong Tiệp dư, Quỳnh Thục nghi nói có đúng không?”

Chuyện đã đến nước này mà Phong Thể Minh vẫn bình chân như vại, thản nhiên đáp:

“Có chỗ đúng, cũng có chỗ sai.”

Ta hít sâu một hơi, cố tỏ ra bình tĩnh, hỏi lại:

“Đúng sai thế nào?”

Phong Thể Minh nhún vai:

“Đúng là Thể Minh đã không hành lễ với Quỳnh Thục nghi và đánh Chung Quý nhân, điểm này Thể Minh sai, nhưng Quỳnh Thục nghi và Chung Quý nhân càng sai nhiều hơn.”

Quỳnh Thục nghi trợn mắt:

“Ngươi nói cái gì? Nương nương, nàng ta rõ ràng…”

Ta lạnh lùng liếc Quỳnh Thục nghi:

“Bản cung đã nghe Thục nghi muội muội nói rồi, bây giờ muốn nghe cả Phong Tiệp dư nói nữa. Thục nghi muội muội chẳng phải muốn công bằng sao? Bản cung đang công bằng đây.”

Hừ, đã kề dao vào cổ ta mà lại còn muốn ta thiên vị các ngươi sao?

Quỳnh Thục nghi bị hai tiếng “công bằng” chặn cứng họng. Phong Thể Minh bèn nói tiếp:

“Thứ nhất, Chung Quý nhân phân vị thấp hơn Thể Minh mà gặp Thể Minh không hành lễ, đây là Chung Quý nhân sai.

Thứ hai, Quỳnh Thục nghi biết Chung Quý nhân làm sai mà không nhắc nhở, lại còn muốn Thể Minh hành lễ cả với Chung Quý nhân, như vậy đã sai lại càng sai.

Thứ ba, Quỳnh Thục nghi thuộc hàng nhị phẩm, Thể Minh thuộc hàng tứ phẩm. Như vậy, Quỳnh Thục nghi chỉ hơn Thể Minh hai bậc. Cung quy có chép rõ, phàm là phi tần thông thường chỉ có quyền dụng hình đối với phi tần thấp hơn mình ba bậc. Quỳnh Thục nghi sai người đánh Thể Minh là đã làm trái cung quy. Chung Quý nhân thuộc hàng thất phẩm, lại dám ra tay đánh Thể Minh, như thế mới là dĩ hạ phạm thượng. Ngược lại, phân vị của Thể Minh hơn Chung Quý nhân đúng ba bậc, Thể Minh có quyền trị tội dĩ hạ phạm thượng của Chung Quý nhân. Cung quy rõ ràng là viết như thế, Thể Minh nói có sai điểm nào không?”

Phong Thể Minh giải thích rành rọt, khiến cho mọi người nhất thời đều ngẩn ra. Ai cũng nghĩ nàng ta là một nữ tử hoang dã, l* m*ng, tất không ngờ đến nàng ta lại có thể nói chuyện lý lẽ phân minh như thế. Tạ Thu Dung mà có mặt lúc này đây thì nhất định sẽ vỗ đùi tán thưởng: Đấy, đã bảo mà, chăm chỉ học hành sẽ mang lại kết quả tốt đẹp!

Quỳnh Thục nghi đuối lý, túng quá bèn kéo tay áo lên, đưa phần cổ tay bị Phong Thể Minh nắm chặt đến mức hằn vết đỏ bầm ra, ăn vạ:

“Dù thế nào thì nàng ta cũng đã vô lễ với thần thiếp! Cung quy nào nói Tiệp dư có thể ra tay với Thục nghi như thế này?! Thần thiếp muốn gặp Hoàng Hậu nương nương!”

Nói đoạn bèn kéo Chung Quý nhân đi thẳng hướng Triêu Lan cung định rời đi.

Ài, đây là muốn làm to chuyện cho Đức phi nhà nàng ta thừa cơ nhảy vào một mũi tên xiên chết cả ta và Phong Thể Minh đây mà. Chuyện này đau đầu rồi đây. Quỳnh Thục nghi muốn ăn vạ, dựa vào phân vị nhất phẩm hữu danh vô thực của ta vốn không thể kiềm chế được nàng. Hai chữ “Hòa phi” này ngoài việc đảm bảo cho ta ăn no mặc ấm thì đúng là chẳng được tích sự gì.

Đương lúc ta còn đang thầm than thân trách phận, thì từ phía sau bất ngờ vang lên một giọng nói kiêu ngạo quen thuộc:

“Lại có chuyện gì ồn ào thế này?”

“Bái kiến Thục phi nương nương! Thục phi nương nương vạn phúc kim an!”

Mọi người chẳng cần nhắc nhở, ai nấy đều vội vàng quỳ xuống hành lễ thật chỉnh chu.

Liễu Yến Yến vịn tay Minh phi, đủng đỉnh bước đến, cũng chẳng cho ai bình thân. Nàng ta khinh khỉnh nhìn lướt qua đám người quỳ rạp dưới đất, khẽ bĩu môi:

“Thân là phi tử lại ở chỗ này ầm ĩ như bọn dân đen. Thật chẳng ra thể thống gì…”

Quỳnh Thục nghi thấy Liễu Yến Yến xuất hiện, bèn vui mừng kể tội Phong Thể Minh, trong lời nói còn hàm ý tố cáo ta dung túng kẻ dưới làm càn. Nàng cho rằng Liễu Yến Yến không ưa ta, muốn mượn dao giết người, đẩy ta cho Liễu Yến Yến làm thịt.

Trán ta đã vã mồ hôi lạnh. Nếu chỉ là mình ta thôi thì không thành vấn đề. Liễu Yến Yến không ưa ta nhưng càng căm ghét Triệu Lam Kiều hơn. Nếu phải lựa chọn, nàng ta chắc chắn sẽ bỏ qua ta mà trực tiếp tấn công Triệu Lam Kiều. Nhưng chuyện này căn nguyên lại liên quan đến Phong Thể Minh. Nhan sắc của Phong Thể Minh cả Liễu Yến Yến cũng không bì kịp, nàng ta lại vừa được Hoàng Đế triệu kiến, dựa vào tính đố kị ghen tuông của Liễu Yến Yến, phen này xem ra lành ít dữ nhiều.

Liễu Yến Yến nghe Quỳnh Thục nghi kể lể xong xuôi, liền cười lạnh:

“Đúng là càn quấy.”

Trái tim ta như muốn rơi ra khỏi lồng ngực.

Ngay khi ta nghĩ Liễu Yến Yến sẽ giáng tội cả ta và Phong Thể Minh một lượt thì nàng ta lại nói tiếp:

“Quỳnh Tử Yên, ngươi ở trong cung bao lâu rồi mà vẫn vô phép như thế?”

Một câu này chẳng những khiến Quỳnh Thục nghi ngớ người mà tất thảy những kẻ xung quanh đều sững sờ như sét đánh ngang tai.

Quỳnh Thục nghi kinh hãi lắp bắp:

“Nương nương… thần thiếp không… là… là nàng ta…”

Lúc này, Minh phi mới dịu dàng cười nói:

“Thực ra, ban nãy ta và Thục phi nương nương đi dạo ở gần đây, tình cờ nghe được cả rồi. Phong Tiệp dư nói không sai. Quỳnh Thục nghi muốn Phong Tiệp dư hành lễ với Chung Quý nhân là sai, còn muốn động thủ với Tiệp dư là trái với cung quy. Chung Quý nhân cũng vô lễ với Phong Tiệp dư, bị đánh không oan uổng, còn phải phạt thêm mới đúng.”

Nói đoạn, quay sang Liễu Yến Yến, lễ phép hỏi:

“Nương nương, chuyện này ý người thế nào ạ?”

Liễu Yến Yến cười lạnh:

“Quỳnh Thục nghi làm trái cung quy, không có đức làm Thục nghi, nay giáng xuống Quý tần, phạt đóng cửa sám hối một tháng. Chung Quý nhân dĩ hạ phạm thượng, ỷ thế h**p người, giáng làm Tuyển thị, phạt ba mươi trượng.”

Chẳng ai ngờ sự việc lại biến chuyển thành thế này. Quỳnh thị sợ đến tái mét mặt mày, không nói được lời nào đã ngã lăn ra bất tỉnh, chẳng biết có phải lên cơn đau tim rồi hay không.

Chung thị cũng chẳng khá hơn, thân hình mảnh mai của nàng ta mà chịu xong ba mươi trượng, e rằng sang năm sau cũng không ngồi dậy nổi. Nàng ta khóc đến lả người, luôn miệng van xin “Thục phi nương nương tha mạng!”, nhưng đổi lại chỉ là một cái cười khẩy của Liễu Yến Yến.

Hai người Quỳnh, Chung nhanh chóng bị lôi đi. Nơi này chỉ còn lại ta và Phong Thể Minh cùng đám cung nhân vẫn quỳ suốt từ ban nãy.

Liễu Yến Yến liếc mắt phượng, nhìn lướt qua đám cung nhân bị Lương Vũ và Lương Sa đánh bầm dập:

“Nô tài chó chết, giữ cũng chẳng để làm gì. Đem trượng tễ hết cho bản cung.”

Lại thêm một tràng khóc than thấu trời xanh vang lên.

Liễu Yến Yến dừng bước trước Phong Thể Minh, nét mặt lộ rõ sự khinh bỉ lẫn đố kị. Lưng ta ướt đẫm mồ hôi, chỉ cầu mong Liễu Yến Yến đừng tiện tay giết luôn cả Lương Sa và Lương Vũ. Hai người này lớn lên cùng Phong Thể Minh, tình thân như ruột thịt. Họ mà xảy ra chuyện gì, còn sợ Phong Thể Minh không trực tiếp bẻ cổ Liễu Yến Yến hay sao?

Cũng may, ta đã quá lo xa. Liễu Yến Yến dùng ánh mắt sắc như dao săm soi Phong Thể Minh một hồi, chỉ lạnh nhạt buông một câu:

“Phong Tiệp dư náo loạn Hậu cung, phạt chép mười lần Nữ huấn. Tỳ nữ thân cận không biết can gián chủ nhân, phạt quỳ gối ba canh giờ.”

Nói xong, liền phẩy tay áo, hậm hực bỏ đi.

Ta nhìn theo bóng lưng kiều diễm của Liễu Yến Yến càng lúc càng xa, cuối cùng cũng trút tiếng thở phào nhẹ nhõm. Không ngờ lại có ngày Liễu Yến Yến cứu ta một mạng.

“Để nương nương chịu khổ rồi, mau đứng lên thôi.”

Minh phi nhẹ nhàng đỡ ta, mỉm cười đầy thâm ý.

Ta nương theo nàng mà đứng lên, cảm kích nói:

“Đa tạ Minh phi tương trợ.”

Minh phi khẽ cười, lắc đầu:

“Đây là chuyện thần thiếp nên làm. Nương nương không cần phải cảm kích thần thiếp.”

Nàng nhìn sang phía Phong Thể Minh vẫn đang quỳ gối, cúi đầu lơ đễnh bên cạnh, thở dài nói tiếp:

“Nương nương vẫn nên cẩn thận hơn. Chuyện ngày hôm nay, không nên xảy ra lần thứ hai.”

Minh phi nói xong lời này rồi từ biệt.

Ta hít sâu một hơi, chán nản chẳng buồn nói đến Phong Thể Minh, cứ thế đi thẳng về Cẩm Tước cung.

***

Cuộc đụng độ nảy lửa giữa Phong Thể Minh và Quỳnh Thục nghi – giờ đã là Quỳnh Quý tần nhanh chóng lan ra khắp Hậu cung. Nhưng sự can thiệp của Liễu Yến Yến mới là điều làm người ta kinh ngạc hơn cả. Có người còn bảo Thục phi nương nương trúng phải tà mới buông tha cho Phong Thể Minh dễ dàng như thế.

Chẳng qua, những người hiểu chuyện đều biết rõ, chuyện này mười phần là do Minh phi tính toán thay cho Liễu Yến Yến.

Thời gian gần đây, Triệu Lam Kiều đã mất đi không ít vây cánh. Quỳnh thị là người hữu dụng nhất còn lại. Minh phi có thể nhân cơ hội này, biến Chung thị thành kẻ vô dụng, lại còn chèn ép được Quỳnh thị, đúng là đã đâm Triệu Lam Kiều một nhát trí mạng. Liễu Yến Yến hiện thời là người có địa vị cao nhất trong đám phi tần, dựa vào vị trí Tứ phi của nàng ta, giáng Quỳnh thị và Chung thị một bậc vẫn là hợp với cung quy, Hoàng Hậu muốn bắt bẻ cũng không được. Lại nói, Liễu Yến Yến ra mặt bảo vệ ta và Phong Thể Minh vừa tỏ rõ đức độ của mình, vừa lấy được lòng Hoàng Đế. Hình phạt đưa ra cho Phong Thể Minh tuy nhẹ, nhưng lại mang ý nghĩa cảnh cáo rõ ràng. Minh phi làm như vậy, một mặt là trả ta ân tình lần trước ta nói đỡ cho Liễu Yến Yến, một mặt là củng cố lợi ích phe mình. Một đòn xuất ra, trăm lợi không hại. Đứng trước tình huống bất ngờ mà có thể kịp thời tính toán chu toàn đến mức này, tài trí của Minh phi càng lúc càng khiến ta khâm phục. Tính ra, trong cả Hậu cung rộng lớn này, người ngang tài ngang sức với Triệu Lam Kiều chỉ có mình nàng.

Còn kẻ đầu têu gây họa Phong Thể Minh lại rất thản nhiên. Mỗi ngày nàng ta dành ra mấy canh giờ chép phạt, còn lại vẫn vui vẻ nhảy nhót leo trèo khắp nơi. Tính tình như vậy, không biết là đáng yêu hay đáng giận.

Chuyện lần này may mà có Liễu Yến Yến bất đắc dĩ giúp đỡ cho nên mới trôi qua êm đẹp. Ta cũng không bị liên lụy gì nhiều. Nhưng như Minh phi đã ngầm cảnh báo, may mắn này sẽ không xuất hiện lần thứ hai. Ta càng phải vạn lần thận trọng. Mà thứ cần phải cẩn thận nhất lúc này đây không gì khác ngoài mấy bản Nữ Huấn mà Liễu Yến Yến bắt Phong Thể Minh chép phạt. Chỉ cần một sai sót nhỏ thôi cũng đủ phiền phức rồi.

Cuộc sống vừa mới yên bình của ta thoáng chốc bị Phong Thể Minh đảo lộn cả. Ta không thể để nàng ta gây thêm rắc rối, bèn quyết định tự mình đến Bắc viện kiểm tra.

Khi ta và Tiểu Phúc Tử tới nơi, Phong Thể Minh đang cùng bọn Lương Sa, Lương Vũ đùa giỡn giữa sân. Ba người bọn họ ngồi trên sạp gỗ cùng một đống giấy viết ngổn ngang, mặt mày người nào cũng dính mực ngang dọc.

Phong Thể Minh thấy ta đến, vội lấy tay áo lau mặt, nhưng càng lau thì mặt càng lem ra nhiều hơn. Nàng ta cười hì hì:

“Nương nương cát tường.”

Ta thở dài ngán ngẩm, tự kéo ghế ngồi xuống, phẩy tay ý bảo nàng “rửa mặt rồi nói.”

Phong Thể Minh vui vẻ đáp tuân lệnh rồi nhảy chân sáo vào trong phòng. Ta đến đây vốn muốn trách nàng ta vài câu nhưng thấy bộ dạng hồn nhiên này lại không nỡ. Một cô nương trẻ tuổi đã quen với cuộc sống tự do phóng khoáng, nay bỗng nhiên bị tách khỏi người thân, phải đến sống ở chốn Hoàng cung tù túng này… Cứ nghĩ đến đó, ta lại mềm lòng.

Trong lúc ngồi đợi, ta tiện tay lật xem mấy quyển Nữ Huấn Phong Thể Minh chép xong để ở một bên, vừa giở trang đầu tiên, lòng đã lạnh buốt. Ta vội lật tất cả những quyển còn lại ra, quả nhiên tất cả đều có vấn đề, vấn đề trầm trọng.

Phong Thể Minh rửa mặt xong, tung tăng chạy ra ngoài, bắt gặp nét mặt sa sầm của ta thì hơi ngẩn ra. Nàng nhìn ta, rồi lại nhìn mấy quyển Nữ Huấn ta đang cầm, rón rén hỏi:

“Nương nương cảm thấy Thể Minh chép có chỗ nào không ổn à?”

Ta mím môi nén giận, ném mấy quyển Nữ Huấn kia qua cho nàng:

“Tiệp dư xem đi rồi nói cho ta, có chỗ nào ổn sao?”

Phong Thể Minh chụp lấy một quyển, ngơ ngác lật ra, sắc mặt từ bối rối chuyển sang trắng bệch:

“Cái này… cái này… sao có thể…”

Quyển Nữ Huấn rơi từ tay Phong Thể Minh xuống đất, bị gió thổi mở tung, lộ ra những trang giấy trắng tinh tươm. Phong Thể Minh không tin nổi vào mắt mình, cuống quýt giở hết những quyển còn lại ra. Tám quyển Nữ Huấn mà Phong Thể Minh chép xong đều chỉ toàn là giấy trắng.

Phong Thể Minh ngước mắt nhìn ta, giọng nói cũng trở nên run rẩy:

“Nương nương, Thể Minh rõ ràng đã chép xong rồi… Tại sao lại hóa thành giấy trắng thế này…”

Những chuyện âm hiểm, độc địa chốn Hậu cung, nàng tất nhiên là không hiểu nổi, càng không ngờ đến, có giận dữ với nàng cũng chẳng ích gì. Phong Thể Minh rất thông minh, cung quy chỉ học qua là nhớ rành rẽ. Nhưng tâm kế không giống với cung quy, không có sách nào dạy cả. Phong Thể Minh cho dù có muốn học cũng chẳng thể học được.

Ta hít một hơi thật sâu, áp chế cơn giận trong lòng, nói:

“Tiệp dư chép xong không xem lại sao?”

Phong Thể Minh ngượng ngùng lắc đầu, cắn môi hỏi:

“Nương nương, chữ viết sao có thể biến mất như vậy?”

Ta thở hắt ra:

“Trên đời có một loại cỏ tên gọi Ngụy Thảo, khi nghiền nát ra cho vào nước pha mực thì sẽ khiến cho mực bị bay hơi. Tùy theo liều lượng thuốc mà thời gian bay hơi khác nhau, nhưng tựu chung là sẽ không để lại bất kì dấu vết nào cả. Trong giới thương buôn vẫn thường có kẻ dùng cách này để gian lận.”

Phong Thể Minh nghe xong, toàn thân cứng đờ, quyển Nữ Huấn đương cầm trong tay cũng bị vò nát. Nụ cười trên môi nàng méo xệch đi:

“Nương nương, bây giờ phải làm thế nào đây?”

Ta nhìn nàng, nghiêm túc hỏi:

“Ngoài Lương Vũ và Lương Sa, Tiệp dư còn thân cận với ai không? Ai có khả năng pha thuốc vào mực của Tiệp dư?”

Phong Thể Minh đáp ngay:

“Không có ai cả.”

Ta cau mày:

“Vậy mực này ai mài? Nước pha mực do ai lấy?”

Lương Vũ nghe ta hỏi, vội quỳ xuống khổ sở đáp:

“Đều do nô tỳ làm… Là nô tỳ sơ sót, làm hại đến tiểu chủ…”

Phong Thể Minh như sợ ta trách phạt Lương Vũ, vội nói:

“Nhất định không phải Lương Vũ…”

Ta khoát tay, ngăn không cho nàng nói nữa, chỉ hỏi Lương Vũ:

“Ngươi lấy nước ở đâu? Nghiên mực đó đâu rồi?”

Lương Vũ thành thật đáp:

“Nô tỳ lấy ở lu chứa nước phía sau viện…”

Nói đoạn, vội vã chạy đi lấy nghiên mực bưng đến trước mặt ta. Ta cầm nghiên mực còn đầy sóng sánh, đột nhiên hiểu ra tất cả, không nén được nụ cười mỉa mai.

Ta lớn lên nơi Hậu cung hiểm ác, cứ ngỡ mình đã hiểu sự đời lắm rồi, vậy mà xem ra vẫn còn quá non tay.

Minh phi giỏi lắm!

Không phạt Phong Thể Minh quỳ mà lại phạt chép kinh thư, hóa ra là vì lý do này.

Liễu Yến Yến ghét Phong Thể Minh như vậy, ngày đó đáng lẽ có thể phạt nàng quỳ vài ba canh giờ cho hả dạ, thế mà lại chỉ bắt chép Nữ Huấn. Chép kinh thư cũng có chỗ vất vả, nhưng vẫn dễ chịu hơn là bị phạt quỳ. Ta còn cứ nghĩ là do Minh phi nể tình nên nương tay. Nào ngờ nàng ta đã tính đến tận bước này. Nàng ta biết tính Phong Thể Minh ngay thẳng đơn thuần, không có lòng đề phòng, chắc chắn sẽ rơi vào bẫy. Nếu ta vì tức giận Phong Thể Minh mà không tận tình lưu tâm, để Phong Thể Minh mang mấy quyển sách trắng tinh này đi nộp cho Liễu Yến Yến thì tội này chẳng ai gánh nổi cho nàng nữa.

Lòng người quả là đáng sợ.

Thân thể ta chợt lạnh đi, không rõ vì giận hay vì sợ. Sự biến chuyển ấy cả Phong Thể Minh cũng nhận ra. Nàng rón rén lại gần ta, gọi khẽ:

“Nương nương…”

Ta chớp mắt định thần, mỉm cười với nàng:

“Không sao. Con chuột nhắt ở chỗ Tiệp dư, ta sẽ bắt nó cho Tiệp dư.”

Nói rồi, ta bảo Lương Vũ và Lương Sa:

“Hai người các ngươi, một người đi pha cho ta một chén mực mang đến đây. Nhớ dùng loại nước an toàn. Người còn lại đi gọi hết cung nhân trong viện đến đây, mang theo mười cái chén nữa.”

Phong Thể Minh nhìn theo Lương Sa và Lương Vũ hối hả chạy đi, ngập ngừng hỏi:

“Nương nương muốn làm gì?”

Tính toán là một loại công việc tốn nhiều sức lực. Ta thoáng chốc lại cảm thấy mệt, bèn dựa vào Tiểu Phúc Tử vẫn luôn đứng hầu sát bên, đáp gọn lỏn:

“Ngụy Thảo là kịch độc, nhưng thời gian phát tác lại rất chậm, dùng bẫy chuột rất phù hợp.”

Phong Thể Minh mở miệng, muốn nói lại thôi. Ta thấy nàng đứng đã lâu, bèn vẫy tay ra hiệu cho nàng đến ngồi cạnh mình. Phong Thể Minh lặng lẽ làm theo, nhưng bộ dạng chẳng còn được tự nhiên như trước.

Một lát sau, Lương Vũ mang về một chén mực đầy, mười người hầu hạ trong viện cũng được Lương Sa gọi đến đủ mặt.

Đám người này thấy sắc mặt ta và Phong Thể Minh đều xấu, hẳn cũng tự đánh hơi được có chuyện không hay xảy ra. Mặt mày kẻ nào cũng tự động tái đi.

Ta mỉm cười, chậm rãi nói:

“Thực ra cũng không có việc gì quan trọng, các ngươi không cần sợ hãi. Chẳng qua là bản cung và tiểu chủ của các ngươi trong lúc tán gẫu đã cao hứng đặt cược với nhau xem mực viết này có uống được hay không. Bản cung cho rằng mực này chế từ muội than tre mà thành, chẳng có gì mà không uống được. Nhưng tiểu chủ nhà các ngươi cứ không tin. Thôi thì thế này, mỗi người các ngươi hãy uống một ngụm cho tiểu chủ các ngươi xem. Ai uống được, bản cung sẽ thưởng một nén bạc.”

Lương Sa theo lời dặn của ta đã chuẩn bị sẵn mười cái chén nhỏ cho Lương Vũ rót mực vào, đưa đến trước mặt đám cung nhân kia. Mực cơ bản không độc, uống một chén nhỏ này vào cùng lắm là đau bụng một hôm thôi mà lại được một nén bạc. Yêu cầu của ta tuy quái gở nhưng lại rất hấp dẫn. Bọn họ dè dặt nhìn nhau, cuối cùng cũng có người bạo gan bưng lên uống thật. Một người, rồi hai người, ba người, chớp mắt một cái hầu như cả đám đều đã uống cạn chén mực của mình, miệng người nào người nấy đen ngòm trông rõ buồn cười. Chỉ duy nhất một tên thái giám vẫn quỳ ngay đơ, mồ hôi đổ ròng ròng như suối, chén mực trước mặt hắn còn đầy nguyên. Ta hài lòng, quay sang cười với Phong Thể Minh:

“Đấy, bản cung đã bảo mà. Uống mực không chết đâu.”

Bảo Tiểu Phúc Tử dẫn chín kẻ miệng đen kia đi lĩnh bạc rồi, ta mới nhìn đến tên thái giám còn lại:

“Xem ra ngươi cũng giống tiểu chủ của ngươi, cứ nghĩ rằng uống mực sẽ chết nhỉ?”

Tên thái giám nọ càng run bần bật, đầu hắn cúi thấp gần như chạm đất, chẳng dám hé môi lấy một câu.

Ta chầm chậm nói tiếp:

“Yên tâm, mực nếu không bị bỏ thứ gì đó vào thì không có độc đâu.”

Lương Sa và Lương Vũ đều đã giận run. Lương Vũ có vẻ nóng tính hơn, nàng ta hầm hầm chạy tới đá đổ chén mực trước mặt tên thái giám, tóm lấy cổ hắn:

“Khốn kiếp! Tiểu chủ đâu có làm hại gì ngươi, ngươi lại muốn hại chết tiểu chủ… Lương Sa, đưa nghiên mực đó cho ta, hôm nay ta nhất định phải bắt hắn uống hết để đền tội…”

Thấy Lương Vũ manh động như thế, Lương Sa hoảng hốt nhìn ta rồi lại nhìn Phong Thể Minh, thấy ta chẳng có ý ngăn cản mà Phong Thể Minh vẫn giữ nguyên vẻ mặt tăm tối, bèn thẳng thắn đưa nghiên mực bị pha độc cho Lương Vũ.

Tên thái giám lúc này đã sợ đến mất mật, chẳng biết lấy đâu ra sức lực, giằng thoát khỏi Lương Sa, lao đến chỗ ta dập đầu lia lịa:

“Hòa phi nương nương cứu mạng! Nô tài sai rồi! Nô tài ngu dốt…”

Ta không nhìn hắn, nói bằng chất giọng lạnh tanh:

“Tự đi đến Thượng cung cục, nói ngươi vô dụng không hầu hạ được Tiệp dư, xin đến phòng giặt giũ làm việc.”

Lựa chọn giữa việc phải uống một nghiên mực độc và việc đến phòng giặt giũ không phải một quyết định quá khó khăn. Tên thái giám kia chẳng tốn chút thời gian suy nghĩ nào đã nhanh chóng chạy biến khỏi Bắc viện.

Lương Như và Lương Sa muốn đuổi theo, nhưng bắt gặp ánh mắt của Phong Thể Minh, đành cắn răng nuốt giận lui ra ngoài. Bấy giờ, chỉ còn lại mình ta và Phong Thể Minh, nàng mới cất tiếng hỏi:

“Nương nương đã bắt được thủ phạm, sao lại tha cho hắn? Sao không bắt hắn khai ra chủ mưu?”

Ta khẽ lắc đầu:

“Mọi chuyện không đơn giản như Tiệp dư nghĩ đâu…”

Ta đem những tính toán của Minh phi kể lại vắn tắt cho Phong Thể Minh dễ hiểu, xong xuôi mới nói tiếp:

“Thục phi và Minh phi vừa mới ra mặt cho Tiệp dư, giờ Tiệp dư lại tố cáo bọn họ muốn hại Tiệp dư thì ai sẽ tin? Người ta sẽ nghĩ Tiệp dư như thế nào?”

Phong Thể Minh ngẩn người, bờ vai nàng rũ xuống, sinh lực như bị rút đi phân nửa, nụ cười phóng khoáng thường trực trên môi hóa thành chua chát:

“Mặc dù biết rõ kẻ nào hại mình nhưng cũng không thể nói ra sao?”

“Ở đây có rất nhiều việc không thể nói ra.”

Phong Thể Minh hờ hững gật đầu. Nàng ngước nhìn ta:

“Nương nương sao lại biết nhiều như thế?”

Ta thành thật trả lời:

“Nhìn thấy nhiều, tự nhiên sẽ biết nhiều. Từ từ vài năm nữa Tiệp dư cũng sẽ biết thôi.”

À, dĩ nhiên là với điều kiện ngươi vẫn còn sống đến lúc đó.

Đó là lần đầu tiên ta nhìn thấy Phong Thể Minh thở dài. Nàng nói:

“Đa tạ nương nương.”

Ta phe phẩy tay áo, khẽ cười:

“Chín nén bạc kia sẽ tính vào bổng lộc của Tiệp dư.”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 53


Mối hôn sự này không chỉ là sự sắp xếp của bậc tiền bối mà đôi bên cũng lưỡng tình tương duyệt. Đây vốn đã có thể là một mối lương duyên đẹp đẽ. Nào ngờ Tiên đế đột ngột băng hà, tân đế lên ngôi, hậu vị bỏ trống. Trưởng nữ họ Hà một bước hóa phượng hoàng, cẩm tú lương duyên năm xưa chớp mắt đã không còn.

Mùa đông lặng lẽ trải xuống hoàng thành Bách Phượng một màu trắng tinh khôi. Thời tiết ở đây không giống với Tùy Khâu, vừa mới lập đông tuyết đã rơi khá dày. Đàn phiến vỹ tước ở Cẩm Tước cung đã bay đi tránh rét từ lâu, không gian thiếu vắng đi tiếng chim chóc ríu rít chuyền cành càng thêm phần tịch mịch. Trời mùa đông âm u, thậm chí cả vào buổi trưa cũng chẳng thấy nổi mặt trời.

Ta vốn rất sợ lạnh. Nhớ ngày còn bé, ở cùng mẫu thân tại Viên Linh các rách nát, cứ mỗi khi đông đến là mẫu tử ta lại co ro ngồi ôm nhau cả ngày trong góc giường ọp ẹp. Bọn ta không có áo ấm, càng không có than sưởi, cứ phải trân mình chịu đựng cái lạnh thấu xương ấy. Những ngày tuyết lớn, cơm thừa canh cặn cũng không ai đưa đến cho ăn. Mỗi ngày, mẫu thân luôn đợi đến giờ ngọ, khi trời ít lạnh nhất để đi nhặt cành khô về sưởi tạm. Mùa đông cây cối đều trơ trọi, cành khô nhặt về chẳng được bao nhiêu, phải để dành đến đêm khuya khi cái rét trở nên dữ dội nhất mới dám lấy ra đốt mà chống chọi. Ta không nhớ nổi mình đã trải qua bao nhiêu ngày đông chỉ ngậm tuyết trắng cầm hơi. Như thế mà vẫn không chết, ta cứ nghĩ mình sẽ sống dai lắm. Ta đã luôn tin như vậy, chí ít là cho đến khi ta gặp Phong Thể Minh.

Ta ủ rũ ngước nhìn bầu trời ảm đạm trên cao rồi nhìn xuống nữ tử đang quỳ ngay ngắn trước thềm nhà, không khỏi thở dài.

Những ngày này, ân sủng của Hoàng Đế dành cho Phong Thể Minh có thể nói là vô hạn. Kéo theo đó cũng là phiền phức vô hạn rơi xuống đầu ta.

Hoàng Đế biết tính Phong Thể Minh cứng rắn không chịu nhún nhường bao giờ nên mỗi lần triệu kiến nàng, hắn luôn phái Lý Thọ đi theo. Có Lý Thọ hộ tống, Phong Thể Minh yên ổn đi lại trong Hậu cung được một thời gian, đến hôm nay chẳng hiểu sao lại đụng trúng Liễu Yến Yến.

Phải rồi, thực sự “đụng trúng”, ta chẳng hề nói năng hoa mĩ gì. Nghe đâu kiệu của hai người tình cờ đi chung một đường, mà con đường này lại hẹp, thế là kiệu của Phong Thể Minh tình cờ đụng phải kiệu của Liễu Yến Yến. Liễu Yến Yến tình cờ ngã ra khỏi kiệu, sau đó lại tình cờ trật một cái chân.

Sự việc “hoàn toàn tình cờ” này diễn ra quá mức chóng vánh, chỉ nghe ầm một tiếng lớn đã thấy Liễu Yến Yến từ trong kiệu văng xuống đất, ôm chân kêu la thảm thiết. Phong Thể Minh một mực nói là do Liễu Yến Yến từ trong ngõ nhỏ xông ra, tự đụng phải nàng. Còn Liễu Yến Yến lại phủ nhận, cho rằng Phong Thể Minh cố tình đụng ngã mình. Hai vị sủng phi này đều không phải dạng vừa. Liễu thị quyền khuynh thiên hạ, nhưng Phong tộc cũng không thể khi dễ được. Lý Thọ tái mặt, chẳng biết giải quyết thế nào bèn đưa ra quyết định khiêng hết cả hai vị này đến Triêu Lan cung gần đó, ngoài mặt là để trị thương cho Liễu Yến Yến nhưng thực chất không ngoài mục đích ném củ khoai nóng bỏng này sang cho Hoàng Hậu.

Nói về Hoàng Hậu, sau vụ việc Phong Thể Minh đụng độ Quỳnh Quý tần, nàng đã bị Thái Hậu gọi đến trách phạt một trận nên thân. Không chỉ vậy, Thái Hậu còn nói bóng gió với Hoàng Đế rằng Hoàng Hậu không quản nổi Hậu cung, muốn hắn lập thêm Quý phi để san sẻ cùng Hoàng Hậu. Hoàng Đế chỉ cười cười cho qua chuyện, nhưng Hoàng Hậu lại luôn để trong lòng. Nàng không ngừng căn dặn ta phải quản Phong Thể Minh thật chặt. Nghĩ lại, từ sau lần đó, ta trông coi Phong Thể Minh sát sao đến độ chỉ còn thiếu mỗi việc dọn đến ngủ cùng với nàng ta thôi, còn muốn chặt như thế nào nữa? Phong Thể Minh chỉ ra ngoài khi được Hoàng Đế triệu kiến, chẳng lẽ những lúc đó ta cũng phải đi theo? Gặp phải Phong Thể Minh coi như là vận hạn của ta và Hoàng Hậu vậy.

Trở lại chuyện ban nãy, Lý Thọ là người khôn ngoan, tất sẽ không dính líu đến việc đấu đá hậu cung này. Hắn vờ nói mình mắt kém không nhìn rõ sự tình rồi viện cớ Vạn tuế gia còn đợi hắn về hầu hạ rồi nhanh chóng chạy biến khỏi Triêu Lan cung, để lại một đống rắc rối cho Hoàng Hậu. Phong Thể Minh và Liễu Yến Yến ai cũng nằng nặc cho là mình đúng. Liễu Yến Yến dựa vào cái chân bị thương, không ngừng khóc lóc ăn vạ, đòi phạt trượng Phong Thể Minh. Hoàng Hậu đau đầu hòa giải một hồi không thành, đành phải phạt Phong Thể Minh quỳ hai canh giờ cho có lệ. Liễu Yến Yến vì gây chuyện với Phong Thể Minh mà không ngại tự làm mình bị thương, đương nhiên sẽ không dễ dàng cho qua. Nàng ta kiên quyết đòi Phong Thể Minh phải quỳ ở hiên nhà, có cung chủ là ta ngồi giám sát, lại còn phải cho người của nàng ta canh chừng nữa thì mới chịu.

Liễu Yến Yến như trẻ con khóc quấy, ầm ĩ cả Triêu Lan cung. Hoàng Hậu e dè thế lực nhà nàng ta, không dám mạnh tay trấn áp, nhưng lại sợ đánh động tới Thái Hậu nên đành phải chấp thuận.

Liễu Yến Yến đạt được mục đích, đắc ý đến mức quên mất Hoàng Hậu là ai. Bỗng nhiên gây phiền phức như thế cho Hoàng Hậu mà còn vọng tưởng được yên ổn trở về hay sao? Hoàng Hậu thuận nước đẩy thuyền, dựa vào việc Liễu Yến Yến bị trật cổ chân, liền tỏ vẻ đau lòng bảo nàng ta phải ở yên trong cung tĩnh dưỡng, không được đi ra ngoài kẻo ảnh hưởng đến vết thương, cũng không cần lo việc hầu hạ Hoàng Đế. Liễu Yến Yến tự nhiên bị giam lỏng, ngay cả thẻ bài cũng bị rút mất, chẳng biết là được nhiều hay mất nhiều hơn.

Nói tóm lại, đó chính là nguyên nhân khiến ta phải ngồi bên cửa phòng ngắm tuyết rơi vào lúc trời rét buốt thế này. Bất giác ta nghĩ, có lẽ gặp Phong Thể Minh rồi, ta sẽ chẳng còn sống dai nổi nữa đâu.

Phong Thể Minh quỳ ở hiên nhà được nửa canh giờ, thân thể đã bắt đầu phát run. Dù cho nàng võ công cao cường đến đâu, thân thể khỏe mạnh như thế nào thì cũng vẫn chỉ là một nữ nhân, làm sao chống chọi nổi với loại thời tiết này. Lương Sa và Lương Vũ không bị phạt nhưng vẫn tình nguyện quỳ cạnh Phong Thể Minh, cố gắng dùng thân thể che bớt cho nàng những cơn gió lạnh liên tục thổi tới từ bốn phía. Thềm nhà đã phủ một lớp băng mỏng. Ta ngồi trên ghế nệm, người trùm hai tấm chăn bông dày, còn có Tiểu Phúc Tử anh dũng đứng trước mặt chắn gió, thế mà vẫn cảm thấy lạnh điếng người. Thử hỏi ba người kia phải quỳ thế này hai canh giờ thì làm sao chịu nổi? Liễu Yến Yến quả là muốn ép chết người.

Ta không muốn đối đầu với Liễu Yến Yến nhưng càng không thể để mở mắt nhìn Phong Thể Minh rét chết.

Cân nhắc một chút, ta nghiêng đầu bảo với Ngọc Nga đang đứng co ro bên cạnh:

“Ngươi đi vào trong bảo bọn Tiểu Minh Tử khiêng mấy tấm bình phong lớn trong phòng ta ra đây.”

Ngọc Nga hiểu ngay ý ta, lập tức chạy vào trong. Chỉ lát sau đã thấy bốn tấm bình phong thêu hình mai lan cúc trúc được khệ nệ khiêng ra.

Ta hài lòng gật đầu:

“Tốt lắm. Tiểu Minh Tử, các ngươi đem mấy cái này ra chắn chung quanh Phong Tiệp dư.”

Những người ở chỗ ta làm việc lúc nào cũng nhanh nhẹn, thoáng chốc Phong Thể Minh và Lương Sa, Lương Vũ đã được bốn tấm bình phong che kín. Ngọc Nga còn chu đáo mang đến một tấm màn lớn phủ lên phía trên. Như thế này tuy vẫn không thể che hết gió nhưng cũng phải cản được tám chín phần.

Cung nữ của Liễu Yến Yến phái đến trông chừng đang ngồi cuộn tròn trong góc tránh gió, nhìn thấy cảnh này vội chạy ra la lớn:

“Nương nương, như vậy là sao? Hoàng Hậu nương nương đã nói Phong tiểu chủ phải chịu phạt ở ngoài hiên…”

Ta nhướn mày liếc nàng ta:

“Bản cung có khiêng Phong Tiệp dư vào trong nhà sao?”

Cung nữ kia vẫn hùng hổ cãi:

“Nhưng nương nương làm như thế này…”

Trời lạnh làm tâm tình ta không được tốt. Ta chẳng muốn nghe nàng ta lắm lời, bèn cao giọng đe dọa:

“Đây là tẩm cung của ta, mấy tấm bình phong này cũng là đồ của ta. Chẳng lẽ bản cung bày biện đồ đạc trong nhà thế nào, cô nương cũng muốn quản à? Hoàng Hậu lệnh cho Phong Tiệp dư quỳ ở ngoài hiên, bây giờ chẳng phải Phong Tiệp dư vẫn đang quỳ ngoài hiên đó sao?”

Cũng đâu có ai nói ta không được mang đồ đạc đến bày chung quanh Phong Thể Minh đâu?

Tiểu Phúc Tử đứng bên cạnh cũng cố chen vào một câu chua ngoa:

“Muốn quản cả chủ nhân nhà ta à? To gan!”

Cung nữ nọ nghẹn lời:

“Người như thế này là muốn chống đối Thục phi nương nương sao?…”

Ta làm bộ giật mình, thảng thốt:

“Bản cung đối với Thục phi nương nương xưa nay một lòng kính trọng, có trời cao minh chứng. Ngươi như thế này là muốn vu oan cho bản cung, làm vấy bẩn tấm lòng của bản cung đối với Thục phi nương nương sao?”

Đến nước này thì cung nữ nọ chẳng nói gì được nữa. Nàng ta dù sao cũng chỉ là một cung nữ bình thường, nếu lỡ xui xẻo bị khép tội linh tinh gì đó thì cũng chẳng có ai đứng ra giúp đỡ đâu. Đã biết như vậy, tốt nhất là ngậm miệng cho qua chuyện.

Bầu không khí đã yên tĩnh trở lại, rất vừa ý ta.

Qua khe hở giữa những tấm bình phong, ánh mắt Phong Thể Minh và ta bất chợt chạm phải nhau. Dù nàng mau chóng quay đi, nhưng ta vẫn kịp nhìn thấy trong đó sự kinh ngạc cùng bối rối.

Ta thở dài trong lòng. Có cái gì mà phải ngạc nhiên? Ta cũng không tốt đến mức đó. Nếu là kẻ khác, ta đã chẳng thừa hơi nhúng tay vào. Chính bởi vì nàng là Quận chúa Phong tộc, lại còn là người ở trong cung của ta, mối liên hệ này ta tránh không được.

Người ta đồn đại Hoàng Đế say mê nhan sắc của Phong Thể Minh, nào là “nhất kiến chung tình”, nào là “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, còn vô số thứ văn thơ mĩ miều gì đó mà ta nghe không hiểu. Nhưng có một điều ta hiểu rất rõ, Phong Thể Minh tuy rất xinh đẹp nhưng bản thân nàng ta lại là một mối phiền phức vô cùng lớn. Hậu cung yên ổn là điều cực kì quan trọng đối với bất cứ vị đế vương nào. Thiên hạ có rất nhiều nữ nhân xinh đẹp, Hoàng Đế mạo hiểm đem một con ngựa hoang bất kham như Phong Thể Minh vào Hậu cung, khiến cho nơi này loạn hết cả lên, e rằng không phải chỉ vì nàng ta có một gương mặt khả ái. Cái gọi là “nhất kiến chung tình” kia, nói cho cùng cũng chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị khác mà thôi.

***

Tuyết rơi càng lúc càng dày. Những phi tần được Hoàng Đế triệu kiến đều phải chống chọi với gió tuyết mà đến điện Cát Tường. Đường đi lối lại đều bị đóng băng trơn trợt, dù vẫn có người thường xuyên cào băng thì vẫn có không ít phi tần bị ngã kiệu. Thời tiết như vậy, không được triệu kiến cũng là một loại may mắn.

Liễu Yến Yến phải đóng cửa dưỡng bệnh, Triệu Lam Kiều thì im hơi lặng tiếng, ngay đến Phong Thể Minh cũng bị sưng đầu gối không nhảy nhót phá phách được, thiên hạ đúng là không thể thái bình hơn.

Mỗi dịp tết đến, Hoàng Hậu đều theo lệ tổ tiên để lại xuất cung đi Hoàng Lương tự lễ Phật. Nơi này nằm ở trong địa phận kinh thành, đi về thong thả cũng chỉ hết một ngày. Hoàng Hậu thương Trịnh Vân Anh còn nhỏ mà đã phải xa phụ mẫu nên năm nào cũng dẫn muội ấy theo, cho muội ấy tranh thủ về thăm nhà ngoại. Trịnh Vân Anh lại thấy ta mới gả đến đây, chưa được nhìn thấy cuộc sống bên ngoài bao giờ, bèn xin Hoàng Hậu dẫn cả ta theo. Cứ trời lạnh là ta sinh tật lười vận động, chỉ muốn trùm chăn ngủ cả ngày nhưng thấy Trịnh Vân Anh nhiệt tình như thế mà Hoàng Hậu cũng mở lời rồi, đành phải bấm bụng đi theo.

Sớm tinh mơ một ngày đại cát đầu tháng chạp, ta ngáp ngắn ngáp dài đi theo Trịnh Vân Anh và Hoàng Hậu đến Hoàng Lương tự bái tế. Để tránh gây sự chú ý, mọi người theo lệnh Hoàng Hậu đều mặc y phục bình thường, thị vệ đi theo cũng ăn vận như thường dân lẩn vào đám đông. Nhìn vào chúng ta cũng không khác những phu nhân nhà trung lưu cùng lên chùa lễ Phật là bao.

Chuyện bái tế, cầu phúc đã có Hoàng Hậu lo. Ta và Trịnh Vân Anh lạy Phật xong thì chỉ đi dạo quanh quẩn trong sân chùa, nói chuyện phiếm giết thời gian.

Hoàng Lương tự có từ trước thời Tiên đế. Chuyện kể rằng, khi xưa Tiên đế mặc thường phục di hành từng có lần bị phản tặc truy sát, may mà kịp chạy đến cửa Hoàng Lương tự, được trụ trì Hoàng Lương tự cứu mạng. Tiên đế nhớ ơn này, sau khi hồi cung liền ban chiếu chỉ phong Hoàng Lương tự thành quốc tự, đồng thời cũng đặt ra lệ hoàng tộc mỗi năm phải đến Hoàng Lương tự cúng dường cầu phúc. Thể theo nguyện vọng của trụ trì đại sư, Hoàng Lương tự vẫn mở cửa tiếp đón chúng sinh tứ phương, không có quy định chỉ tiếp hoàng tộc như quốc tự bình thường cho nên nơi này lúc nào cũng đông đúc người đến cúng bái. Đa phần những thị vệ đi theo đều tập trung ở khu chính điện bảo vệ Hoàng Hậu, chỗ ta và Trịnh Vân Anh chỉ còn lại đôi ba người. Nhưng ta cũng không quá lo lắng vì dáng vẻ của ta và muội ấy đều rất bình thường, chẳng có ai thực sự chú ý đến bọn ta.

Trong sân Hoàng Lương tự có một vị cao nhân tháng chạp năm nào cũng đến ngồi xem tướng, bói quẻ cho khách hành hương. Trịnh Vân Anh rất muốn đến xem nhưng ta thấy chỗ này quá đông người chen lấn, sợ có chuyện xảy ra nên không đồng ý. Vừa hay, phía đối diện cũng có một vị treo bảng xem tướng mà lại vắng khách, ta liền kéo Trịnh Vân Anh đi sang phía đó. Dù sao ta cũng không tin chuyện bói toán, xem chỗ nào cũng vậy, miễn Trịnh Vân Anh vui vẻ là được rồi.

Cùng là xem tướng số, thế mà một bên khách đông nườm nượp, một bên lại chẳng có lấy một bóng người. Vị thầy tướng số kia vốn đang chống cằm ngáp lên ngáp xuống, nhìn thấy ta và Trịnh Vân Anh bước đến bèn ngồi thẳng lưng lên, còn vuốt vuốt chòm râu dài bạc trắng một cách thần bí. Ta nhìn dáng vẻ cố tỏ ra đạo mạo của ông ta mà suýt chút bật cười. Trịnh Vân Anh lại rất nghiêm túc, muội ấy kéo ta ngồi xuống trước mặt vị thầy tướng số kia, lễ phép nói:

“Tiên sinh, xin người xem giúp tỷ muội ta một quẻ.”

Thầy tướng số kia hắng giọng, lại vuốt râu thêm mấy cái:

“Nhị vị cô nương muốn xem điều chi?”

Trịnh Vân Anh hào hứng đáp ngay:

“Chúng ta muốn xem hậu vận.”

Thầy tướng số nghe xong, nhìn ta và Trịnh Vân Anh một lượt từ đầu đến chân rồi bí hiểm cúi đầu bấm bấm đốt ngón tay. Mãi một lúc lâu sau, ông ta mới ngước nhìn ta, nói:

“Vị cô nương này tuổi nhỏ không được may mắn, lớn lên lại phải lưu lạc nơi đất khách quê người, số phận có thể nói là rất truân chuyên. Cuộc đời cô nương sẽ còn phải trải qua nhiều sóng gió, chung quy là phúc hay là họa cũng còn tùy thuộc vào bản thân cô nương nữa.”

Tùy Khâu và Bách Phượng tuy dùng chung một thứ tiếng nhưng ngữ điệu vẫn có điểm khác biệt. Khi đi về phía vị thầy tướng số này, ta và Trịnh Vân Anh vẫn luôn miệng trò chuyện, chỉ cần để ý một chút sẽ nhận ra giọng ta không phải người Bách Phượng. Một nữ nhân có tuổi thơ may mắn, tất không phải lưu lạc xa xôi như thế này, mà đã sống nơi đất khách số phận sao có thể không truân chuyên? Tương lai ai cũng vậy, không là phúc thì là họa thôi. Xem tướng như thế, ta cũng xem được.

Trịnh Vân Anh nghe thầy tướng số phán xong, liền lo lắng hỏi:

“Vậy phải làm sao mới tốt?”

Thầy tướng số gãi cằm, cười thần bí:

“Chậc chậc, cô nương không cần lo lắng, tỷ tỷ của cô nhân trung sâu dài, trán cao bằng phẳng, hoa dung tròn đầy, bảy phần là có phúc về sau. Cô nương nên tự lo cho bản thân thì hơn. Cô nương sinh ra dưới chòm sao xấu, bẩm sinh số mệnh đã gắn với hai chữ ly biệt…”

Ta vốn dĩ chỉ coi đây là chuyện đùa, nhưng Trịnh Vân Anh ngây thơ lại rất tin tưởng. Ta thấy sắc mặt muội ấy xấu đi rõ rệt, vừa định lên tiếng thì đã có một giọng nói cắt ngang:

“Tiên sinh chắc hẳn có chút nhầm lẫn rồi.”

Nhìn lại, thì ra là Hoàng Hậu cúng bái xong đi tìm bọn ta, vừa khéo nghe được lời phán của lão thầy tướng số. Nàng thong thả bước đến, đặt tay lên vai Trịnh Vân Anh, ung dung mỉm cười:

“Tiểu muội nhà ta sinh ra trong nhung lụa, là viên ngọc trong tay phụ mẫu, lớn lên gả cho nhà quyền quý, cuộc sống trước nay đều an nhàn. Nếu nói muội ấy sinh ra dưới chòm sao xấu thì e rằng trên đời này ai cũng sẽ mong được sinh dưới một chòm sao xấu như vậy.”

Thầy tướng số nọ bỗng nhiên bị mỉa mai nhưng mặt vẫn không đổi sắc. Ông ta cười lớn một tiếng, bàn tay nhăn nheo lướt qua mấy tấm thẻ gỗ cũ kĩ trước mặt:

“Bản tọa nói đúng hay không, vị cô nương đây tự mình biết rõ.”

Nói đoạn, ông ta bất ngờ lật một thẻ gỗ lên rồi nhìn trời thở dài.

Ta tò mò không biết ông ta còn có chiêu trò gì, bèn hỏi:

“Tiên sinh chẳng hay còn có lời gì dạy bảo?”

Thầy tướng số lắc lắc mái đầu bạc trắng, ánh mắt thất thần lướt qua cả ba người bọn ta:

“Trong ba vị, có một người có mệnh phượng hoàng.”

Bấy giờ, cả ta và Hoàng Hậu đều giật mình.

Là vì mùa xuân năm sau sẽ có đợt tuyển tú cho nên mới nhắc đến việc này, muốn kiếm chút lợi ích từ các cô nương ôm mộng trèo cao… Hay là còn lí do gì khác?

Ta và Hoàng Hậu khẽ trao đổi một ánh mắt. Nàng cười khẩy:

“Tiên sinh lại nhầm lẫn rồi. Đừng nói ta và nhị muội đã quá tuổi dự tuyển tú, cả tiểu muội đây tuy chưa quá tuổi nhưng cũng đã gả đi rồi, ba người chúng ta ai có thể mang mệnh phượng hoàng được chứ?”

“Thiên cơ bất khả lộ.” Thầy tướng số nọ thản nhiên nhún vai. “Bản tọa chỉ có thể khuyên các vị một câu: Cái gì thuộc về mình, không cần tranh giành vẫn sẽ thuộc về mình. Cái gì không thuộc về mình, uổng phí cả đời cũng tranh không được, cố cưỡng cầu chỉ khiến bản thân sa vào địa ngục mà thôi…”

“Đa tạ tiên sinh chỉ dạy.”

Thầy tướng số chưa nói hết câu, ta và Hoàng Hậu đã đồng loại lôi Trịnh Vân Anh đứng dậy. Hoàng Hậu lạnh lùng đặt lên bàn một nén bạc. Chúng ta nhanh chóng rời đi trong sự ngỡ ngàng của Trịnh Vân Anh và tiếng cười khàn văng vẳng của lão thầy tướng số nọ.

“Đại tỷ, sao vậy…”

Đến lúc ngồi vào kiệu rời khỏi Hoàng Lương tự rồi, Trịnh Vân Anh vẫn còn ngơ ngác.

Ta vỗ vai muội ấy, khẽ giải thích:

“Lần này chúng ta ra ngoài chỉ có người trong cung và trụ trì Hoàng Lương tự biết. Thầy tướng số lúc nãy hành vi rất kì quái, lời ông ta nói không đáng tin. Nhắc đến chuyện mệnh phượng hoàng gì đó, chỉ e rằng đã biết trước thân phận của tỷ tỷ, không biết có mục đích gì.”

Bây giờ, Trịnh Vân Anh mới giật mình:

“Ông ta rốt cuộc là ai? Muốn làm cái gì?”

Hoàng Hậu bấy giờ mới thở dài:

“Ta đã cho người theo dõi ông ta rồi. Các muội không cần lo lắng nữa. Chúng ta về Trịnh phủ nghỉ chân một lát rồi hồi cung.”

Dẫn theo Trịnh Vân Anh, mục đích cũng chỉ có vậy. Trịnh Vân Anh nghe đến chuyện về nhà, vui đến mức cười tít cả mắt, nhất thời quên hết mọi chuyện.

Bản thân ta cứ đinh ninh thầy tướng số kia là kẻ gian, những lời ông ta nói ta chẳng hề để trong lòng. Phải trải qua rất nhiều năm nữa, khi tịnh tâm nghĩ lại, ta mới bàng hoàng nhận ra tất cả những lời tiên đoán mập mờ năm nào đều ứng nghiệm lên ba người chúng ta, không hề sai lệch.

Phủ đệ Trịnh gia nằm trong một con ngõ nhỏ gần phía đông Hoàng cung. Nơi này cũng từng là một tướng phủ oai phong lẫm liệt, sớm tối đều có người xếp hàng cầu kiến. Đáng tiếc nhân tâm là thứ dễ đổi thay. Trưởng tử Trịnh thị gặp nạn qua đời khiến cho Trịnh lão tướng quân thương tâm ngã bệnh liệt giường, Trịnh thị cứ thế ngày một suy yếu. Đến bây giờ thì chẳng còn mấy ai lui tới nữa.

Trịnh Vân Anh và mẫu thân cả năm mới được gặp gỡ một lần, ta và Hoàng Hậu đều muốn để hai người trò chuyện riêng tư cho nên chỉ chào hỏi một chút rồi thôi. Hoàng Hậu nói có việc cần làm, ta cũng không phiền nàng, bèn mượn con mèo lông xù của Trịnh Vân Anh ôm ra sân chơi. Con mèo này đúng là rất hư, đùa giỡn với ta được một chút liền cào ta một cái rõ đau rồi phóng đi đâu không biết. Ta bực mình lắm, nhưng nghĩ lại đây là con mèo Trịnh Vân Anh rất yêu quý, Trịnh phủ lại không có nhiều thị vệ, lỡ để nó xổng ra ngoài rồi bị người khác đem đi nấu cao tiểu hổ thì ta còn mặt mũi nào gặp Trịnh Vân Anh. Ta đành bấm bụng đuổi theo nó vậy.

Ta cứ đi theo tiếng kêu meo meo của con mèo hư hỏng kia, cũng chẳng để ý đã đi bao xa, đến lúc bắt được nó nhìn lại đã thấy mình đang đứng ở một dãy hành lang xa lạ. Phòng ốc nơi này đều đóng cửa im ỉm, chỉ có một gian là đang mở cửa, còn thấy thấp thoáng bóng người.

Ta định đến chỗ người đó hỏi đường trở ra, nào ngờ bước đến gần mới phát hiện gian phòng này thực chất là từ đường nhà họ Trịnh, mà người đang quỳ lặng ở đó lại là Hoàng Hậu nương nương.

Ta giật mình kinh ngạc, lòng hiếu kì trỗi dậy, nhưng cuối cùng vẫn quyết định bỏ đi. Chuyện riêng của Hoàng Hậu, ta không nên quan tâm. Chỉ là, vừa mới quay lưng đã thấy Trịnh Vân Anh đang yên lặng đứng ở ngã rẽ hành lang từ bao giờ.

Ta bối rối nhìn muội ấy, chỉ sợ muội ấy lên tiếng thì Hoàng Hậu sẽ biết ta đang ở gần đây. Nếu để nàng nghĩ ta rình rập nàng thì phiền phức to. May là Trịnh Vân Anh chỉ khẽ vẫy gọi ta, đợi đến khi ta ôm con mèo đi đến chỗ mình rồi, muội ấy mới đón lấy con mèo, mỉm cười buồn bã:

“Bao nhiêu năm rồi, đại tỷ vẫn không quên đại ca. Muội không biết nên vui hay nên buồn nữa.”

Ta ngập ngừng không biết nói gì:

“Tiểu Anh à…”

Trịnh Vân Anh v**t v* con mèo trong lòng, ánh mắt nhìn về phía Từ đường chợt trở nên xa xăm:

“Tỷ biết không, đáng lẽ ra muội sẽ được gọi tỷ ấy là đại tẩu đấy…”

Mối liên hệ giữa Trịnh thị và Hà thị ta cũng từng nghe nói loáng thoáng. Trưởng tử và trưởng nữ hai nhà vốn được hứa hôn cho nhau từ rất sớm. Nhưng về sau thế sự đổi dời, trưởng nữ Hà thị trở thành mẫu nghi thiên hạ, mối duyên thanh mai trúc mã từ đó hóa thành đạo quân thần. Chuyện này Ngọc Thủy đã kể cho ta nghe từ lâu, nhưng qua lời kể ngây thơ của Trịnh Vân Anh, ta mới thấy được hết nỗi bi thương trong đó.

Trịnh phủ và Hà phủ tương đối gần nhau, từ nhỏ hai bên đã qua lại thân thiết như người một nhà. Trịnh Vân Anh khi ấy mới vừa biết nói, chẳng hiểu cách xưng hô, nghe người nhà nói vị tỷ tỷ này sau sẽ gả cho đại ca của mình, liền cứ thế gọi luôn là đại tỷ. Ai sửa thế nào cũng không được, đành mặc kệ cho muội ấy gọi thành quen đến tận bây giờ.

Mối hôn sự này không chỉ là sự sắp xếp của bậc tiền bối mà đôi bên cũng lưỡng tình tương duyệt. Đây vốn đã có thể là một mối lương duyên đẹp đẽ. Nào ngờ Tiên đế đột ngột băng hà, tân đế lên ngôi, hậu vị bỏ trống. Trưởng nữ họ Hà một bước hóa phượng hoàng, cẩm tú lương duyên năm xưa chớp mắt đã không còn.

“Lúc đó muội cứ tưởng đại tỷ đã quên mất nhà họ Trịnh rồi… Nhưng mà mấy năm sau, Hà đại nhân ép mẫu thân gả muội cho một người để củng cố quyền lực gì đó… Người đó vừa già vừa xấu, mẫu thân không muốn nhưng không chống lại nổi quyền thế của Thái sư… May mà có đại tỷ cầu xin Hoàng Thượng nạp muội vào Hậu cung. Lúc đó, muội mới biết, đại tỷ không hề quên… tỷ ấy nhớ tất cả mọi điều…”

Từng giọt nước mắt đuổi nhau lăn dài trên gò má bầu bĩnh của Trịnh Vân Anh.

Ta hít sâu một hơi, lẳng lặng ôm lấy muội ấy. Con mèo nhảy xuống đất, nhưng chỉ quẩn quanh bên chân muội ấy chứ không đi đâu xa. Trịnh Vân Anh bám lấy vai ta, khóc rấm rứt.

Thì ra Hà Thái sư đã có ý định dùng Trịnh Vân Anh làm đá lót đường, thảo nào Hoàng Hậu lại phải để muội ấy nhập cung. Vào Hậu cung không có gì tốt đẹp, nhưng chí ít ở đó Hoàng Hậu vẫn có thể bảo vệ muội ấy. Hoàng Hậu vì Trịnh Vân Anh mà tính toán hết lòng như thế, còn không ngại đối đầu với chính phụ thân của mình…

Sự che chở của Hoàng Hậu dành cho Trịnh Vân Anh mà khi trước ta không thể lí giải được, bây giờ bỗng trở nên sáng tỏ.

Mỗi năm, Hoàng Hậu tạo điều kiện cho Trịnh Vân Anh về thăm nhà ba canh giờ. Ba canh giờ Trịnh Vân Anh đoàn tụ với mẫu thân cũng là ba canh giờ Hoàng Hậu lặng lẽ quỳ trước bài vị Trịnh Thừa Minh.

Vị mẫu nghi thiên hạ lạnh lùng tàn nhẫn ấy, hóa ra trong lòng cũng cất giấu một mối thâm tình không thể nói thành lời.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 54


Hậu cung có tiền lệ cứ ba năm thì đại phong một lần. Có nghĩa là phi tần chỉ cần cố giữ mình, đừng phạm lỗi gì thì không cần được sủng ái vẫn có thể từ từ leo lên. Nói đơn giản như thế nhưng đã sống trong Hậu cung thì rất ít ai có thể yên ổn qua ngày mà chờ đến đợt đại phong. Trải qua mấy lần sóng gió, không tính ta là kẻ mới tới thì số người đủ điều kiện đại phong chỉ có Trịnh Vân Anh, Minh Âm, Liên Nhạc và Khán Linh Chương. Trịnh Vân Anh và Minh Âm đã ở hàng Phi, không thể tùy tiện thăng thêm nên chỉ được nhận thưởng. Liên Nhạc và Khán Linh Chương mỗi người được thăng hai bậc, Liên Nhạc từ Thường tại thăng lên Tiểu nghi, Khán Linh Chương từ Tần thăng lên Tu nghi. Đối với những người còn lại, Hoàng Hậu cũng tỏ rõ đức độ của mình mà ban thưởng hết sức rộng rãi, nhất là Triệu Lam Kiều. Hoàng Hậu kiên quyết không trả loan ấn Đức phi cho nàng ta nhưng ngày nào cũng hào phóng mang thứ này thứ nọ đến tặng. Chỉ là, lộ trình của những món quà này có chút đặc biệt, từ Triêu Lan cung phải đi vòng một lượt qua Mẫu Đơn cung rồi mới đến Hạ Lê cung chứ không đi thẳng một đường như trước. Lại nói, Hoàng Hậu tuy không trực tiếp dùng danh nghĩa của Hoàng Đế nhưng lần nào cũng tỏ vẻ như đang làm theo ý của Hoàng Đế, khiến cho Liễu Yến Yến ghen đến mức đứng ngồi không yên. Giữa ba người Hoàng Đế, Hoàng Hậu và Triệu Lam Kiều, nếu muốn tìm một kẻ trút giận đương nhiên phải tìm Triệu Lam Kiều. Chính vì thế, mặc dù tiết xuân vừa đến, Triệu Lam Kiều không lúc nào là được yên thân.

Ta nghĩ, để Liễu Yến Yến quấy phá nàng ta như thế cũng tốt, bận rộn một chút sẽ bớt thời gian rảnh rỗi đi tính kế hại người. Hậu cung những ngày đầu năm này có thể nói là yên ả.

Về phần ta, cả mùa đông rồi ta không nhìn thấy Hoàng Đế. Ban đầu, ta cứ ngỡ mình đã làm gì khiến hắn phật lòng, hoặc là trí nhớ hắn không tốt nên đã quên mất ta rồi. Mãi đến tận ngày tất niên, hắn mới cho Tô Trường Tín mang tới chỗ ta một cái bao méo mó kì cục, bên trên còn vẽ hình một cái mặt cười toe toét, khiến cho ta dở khóc dở cười. Những chuyện ta và hắn từng nói trong đêm trăng hôm ấy, hóa ra hắn vẫn nhớ hết. Ngay cả lời hứa sẽ mang ta ra ngoài chơi vào dịp Nguyên Tiêu, hắn cũng không quên.

Lời hứa ấy ta không cho là thật nên chẳng trông đợi gì. Ấy thế mà, vào đúng ba ngày trước Nguyên Tiêu, Lý Thọ lại đủng đỉnh đến Cẩm Tước cung dõng dạc thông báo:

“Hoàng Thượng khẩu dụ, lệnh cho Hòa phi theo hầu thánh giá, lập tức chuẩn bị giờ Thìn xuất hành, không được chậm trễ.”

Hỏi ra mới biết thì ra mấy hôm trước Hoàng Đế nằm mơ thấy điềm lạ, bèn mời Quốc sư Lưu Thiên vào hỏi ý. Cùng lúc đó, Khâm Thiên Giám cũng báo lại bầu trời phía nam xuất hiện dị tượng. Lưu Thiên nghe xong liền lập đàn nhảy múa một hồi, đoạn phán rằng ở phía nam kinh thành có Hà Quỳnh tiên tử hạ thế phò trợ quân vương. Ấy là đại phúc, Hoàng Đế phải ngự giá đến tìm mà thỉnh tiên tử về hậu đãi, bằng không là làm trái ý trời, tất phải gánh họa. Hoàng Đế xưa nay luôn tin tưởng khả năng trên thông thiên văn, dưới tường địa lý của Quốc sư đại nhân, thế nên mặc cho văn võ bá quan hết lời can ngăn, hắn vẫn khăng khăng đòi xuất cung đi đón Hà Quỳnh tiên tử. Triều thần ngăn cản không được, đành phải thỏa hiệp bằng cách bắt Hoàng Đế mang theo một đoàn mấy trăm người bao gồm những Cẩm Y vệ tinh nhuệ nhất, cả Ngự y, thái giám, cung nữ Ngự tiền, lại phải chọn một phi tử theo hầu, sớm hôm kề cận không rời một bước. Hoàng Đế đồng ý ngay, lần nữa sai Lưu Thiên bói quẻ xem nên mang phi tử nào theo. Lưu Thiên bấm độn hồi lâu mới phán: Hoàng Đế mệnh kim, vậy nên phi tử đi cùng phải chọn người mệnh thủy, mà người này phải sinh vào đêm rằm – thời điểm hội tụ đủ tinh hoa của đất trời mới được. Hậu cung có rất nhiều phi tử, nhưng người mệnh thủy sinh vào đêm rằm thì chỉ có mỗi mình ta.

Ta nghe kể rồi, chỉ có thể nén tiếng thở dài, quỳ xuống nhận thánh ý. Nhìn Ngọc Nga tất bật chuẩn bị hành trang mà lòng ta lo lắng không thôi. Hoàng Đế thật quá tài giỏi rồi. Ngay cả chuyện mấy tháng sau sẽ nằm mơ thấy cái gì hắn cũng biết rõ, đúng là khiến người ta khâm phục. Tiên tử hạ thế? Rõ ràng chỉ là cái cớ Hoàng Đế tạo ra để xuất cung. Mà vì sao hắn nhất định phải mang ta theo? Có chết ta cũng không dám tin hắn chỉ đơn thuần là muốn cùng ta đi du ngoạn.

Nhưng ta tin hay không thì ích gì đâu. Thánh ý đã ban xuống, chuyện ta có thể làm chỉ là trưng lên vẻ mặt hân hoan, lướt qua những ánh nhìn ganh ghét cùng ngưỡng mộ của những phi tần còn lại, ngoan ngoãn theo Hoàng Đế xuất cung.

Mấy tháng nay, Hoàng Đế chẳng hiểu ăn phải cái gì mà cao hẳn lên. Bây giờ, ta chỉ còn cao tới vai hắn thôi. Hoàng Đế vì việc này mà tỏ ra vui vẻ lắm. Hắn liên tục xoa đầu ta, cười nói:

“Ít lâu không gặp, nàng hình như lại lùn đi ấy nhỉ?”

Mái tóc bới cẩn thận của ta bị hắn vò không thương tiếc, chẳng bao lâu đã không khác gì một cái tổ chim.

Ta mà lùn đi à? Do nhóc con ngươi đang tuổi ăn tuổi lớn thì có.

Ta thầm mắng trong lòng, ngoài mặt thì làm bộ hờn dỗi:

“Hoàng Thượng làm hỏng hết tóc thiếp rồi. Đền cho thiếp đi…”

Hoàng Đế phì cười, lại đưa tay cào cào tóc ta:

“Còn bộ dạng nào của nàng mà ta chưa nhìn thấy đâu?”

May mắn cho ta, Hoàng Đế chẳng đắc ý được bao lâu. Ngự giá rộng rãi thoải mái, ngựa đi cũng chậm rì nhưng sức khỏe hắn vốn không tốt, chỉ sau một canh giờ đã mệt đến xanh mặt.

Lúc này, Hoàng Đế chẳng còn chọc phá ta nổi nữa. Hắn nằm bẹp một chỗ, ngay cả thở cũng khó nhọc. Ta nhìn hắn như vậy cũng thấy xót xa. Vừa vắt khăn lau mồ hôi cho hắn, ta buột miệng nói:

“Hoàng Thượng cần gì phải tự làm khổ mình thế này…”

Hoàng Đế nhếch môi cười:

“Có những việc trẫm phải đích thân làm mới được.”

Ta tặc lưỡi, chẳng biết nói gì nữa. Hoàng Đế thấy ta yên lặng bèn hé mắt nhìn:

“Nàng lo cho ta sao?”

Ta nhíu mày:

“Thiếp không lo cho Hoàng Thượng thì lo cho ai?”

Hoàng Đế thở dài, nắm lấy tay ta đặt lên trán mình, giọng như trách móc:

“Lo cho ta, thế mà chẳng thấy nàng đến tìm ta bao giờ. Ngay cả túi thơm này… Ta đòi mãi nàng cũng chỉ làm cho ta có một cái…”

Thực ra ta cũng định làm thêm cho Hoàng Đế vài cái đẹp đẽ một chút, nhưng chợt nhớ ra vẫn còn nợ Tiểu Phúc Tử một cái túi thơm nên đành ưu tiên làm cho Tiểu Phúc Tử trước. Ta cứ nghĩ mấy tháng mùa đông rảnh rỗi, làm vài cái túi thơm không có vấn đề gì. Chỉ là, ta đã đánh giá thấp sự lười nhác của mình. Cuối cùng hết cả một mùa đông, ta cũng chỉ thêu xong mỗi một cái túi thơm chữ Phúc mà thôi.

Nhắc tới chuyện này ta tự thấy mình có lỗi, bèn nhẹ nhàng xoa bóp trán Hoàng Đế, cười lấp l**m:

“Không phải như người nghĩ đâu… Thiếp… Là do thiếp muốn tập luyện thêu thùa một chút, khi nào làm tốt rồi mới dám dâng lên để người khỏi chê cười…”

“Chỉ giỏi chối tội.”

Hoàng Đế hừ một tiếng rồi thôi, cũng chẳng còn sức nói nhiều nữa.

Hắn đã mệt lắm rồi, lại có người xoa bóp bấm huyệt trên đầu dễ chịu, chốc lát liền ngủ thiếp đi.

Hoàng Đế ngủ rồi, ta không còn việc gì làm, bèn nhấm nháp điểm tâm của hắn, vừa ăn vừa đưa mắt ngắm nhìn khung cảnh thanh bình đang lừng lững trôi qua ngoài ô cửa sổ nhỏ.

Nghe nói Hà Quỳnh tiên tử hiện thân ở phía Nam kinh thành, nhưng đến cả Lưu Thiên cũng không bói được chính xác vị trí. Vừa hay cách kinh thành khoảng sáu mươi dặm là hành cung Thanh An. Hoàng Đế đã quyết định sẽ nghỉ lại nơi này trong thời gian tế lễ tìm kiếm vị tiên tử kia.

Hành cung Thanh An cách kinh thành không xa, nếu đi nhanh thì chỉ hơn hai canh giờ là đến nhưng vì phải kiêng dè sức khỏe của Hoàng Đế nên chúng ta đi chậm rề rề. Trời đã quá trưa mà mới đi được nửa đoạn đường, đành phải dừng chân nghỉ trưa dùng cơm rồi mới đi tiếp.

Lần này xuất cung, Hoàng Đế mang theo cả Ngự trù nên dù là ở nơi đồng không mông quạnh thế này, cơm trưa dâng lên vẫn đủ mười hai món tinh xảo, thơm nức cả cỗ xe ngựa lớn. Chỉ tội cho Hoàng Đế ở trên xe ngựa dằn xóc cả ngày, đến lúc dùng cơm cũng chẳng ăn được bao nhiêu, cuối cùng chỉ uống nổi một chén canh hầm gà ác bát bảo. Về phần ta, đâu phải ngày nào cũng có thể ăn thức ăn Ngự trù chuẩn bị, vì vậy ta ăn hết sức nhiệt tình. Hoàng Đế nằm rũ ở một bên, nhìn ta ăn uống ngon lành không nhịn được cũng phải đâm một câu:

“Nàng ăn như thế không sợ thành heo à?”

Ta liếc hắn một cái, tay vẫn không ngừng gắp thức ăn:

“Thiếp phải ăn thật nhiều để khỏe mạnh mà hầu hạ Hoàng Thượng chứ. Vì Hoàng Thượng, thiếp không sợ gì cả.”

Hoàng Đế trề môi, cố trêu chọc thêm vài câu. Ta biết tính hắn như thế nên cũng chẳng buồn đôi co, chỉ chuyên tâm ăn uống. Hoàng Đế thấy ta không phản ứng gì cũng mất hứng chẳng buồn nói nữa. Đến khi ta ăn xong, hắn mới đưa ta sờ sờ bụng ta, còn làm ra vẻ mặt rầu rĩ. Ta bực mình, bèn xoay lưng lại không cho hắn sờ nữa, đương định gọi người vào dọn dẹp thì đã nghe tiếng Lý Thọ đứng bên ngoài nói vọng vào:

“Bẩm Hoàng Thượng, bên ngoài có chút việc… Nô tài muốn thỉnh ý Hoàng Thượng…”

Hoàng Đế chẳng buồn ngồi dậy, lười nhác hỏi:

“Việc gì?”

“Bẩm, bên ngoài có một nữ nhân tự nhận là con gái Tô Ngự sử đại nhân, đang trên đường về thăm nhà ngoại ở thành Từ Trang thì gặp phải sơn tặc. Gia nhân hộ tống nàng ta đã bị sơn tặc giết cả rồi. Nàng ta bị sơn tặc đuổi theo tới đây thì gặp Cẩm Y vệ đi dò đường, được cứu mang về đây. Nô tài muốn thỉnh ý Hoàng Thượng xem nên giải quyết nàng ta thế nào…”

Hoàng Đế nhíu mày, dường như nghĩ ngợi gì đó một lát. Chợt, hắn đẩy nhẹ vai ta:

“Nàng đi ra xem thế nào rồi quyết định đi.”

Ta giật mình, vội lắc đầu:

“Thiếp đâu biết gì…”

“Chỉ sai làm chút việc nhỏ mà đã trốn tránh rồi? Ban nãy ai nói phải ăn nhiều để hầu hạ trẫm cho tốt?”

“Cái đó…”

Suy cho cùng, hắn mới là Thiên Tử. Ta nào dám cự cãi với hắn, đành cắn răng bò ra ngoài, theo Lý Thọ đi gặp vị Tô tiểu thư nọ.

Tô tiểu thư được Lý Thọ sắp xếp cho nghỉ tạm ở chỗ đám cung nữ. Khi ta và Lý Thọ đến, nàng đang ngồi trên tảng đá nhỏ dưới bóng cây, bờ vai mảnh mai vẫn còn hơi run rẩy. Từ xa đã có thể nhận ra, Tô tiểu thư này cũng là một mỹ nhân.

Ta nghiêng đầu, ghé tai Lý Thọ hỏi khẽ:

“Lý công công có biết vị Tô Ngự sử đó không? Ông ta có con gái tầm tuổi này chứ?”

Ly Thọ chẹp lưỡi:

“Cái này nô tài không rõ. Tô đại nhân có nhiều con gái lắm…”

“Thế có kiểm tra thư tịch của nàng ấy chưa? Đi từ thành này sang thành khác thì phải mang theo thư tịch chứ?”

“Tô tiểu thư nói thư tịch để trong tay nải, bị sơn tặc cướp đi rồi.”

“Ban nãy, công công nói gia nhân của nàng ta bị sơn tặc giết hại. Vậy công công có cho người đi kiểm tra lại không?”

“Nô tài đã nhờ mấy Cẩm Y vệ đi tra lại rồi ạ, quả đúng cách đây mấy dặm có vài xác người bị chém chết, nhưng của cải trên người đều bị l*t s*ch, không thể xác minh thân phận…”

Nghe Lý Thọ nói đến đây, ta không thể không đỡ trán thở dài thườn thượt:

“Giữa một nơi cách xa thôn làng, vắng người qua lại như vậy lại đột nhiên xuất hiện một Tô tiểu thư… Công công không cảm thấy quá đáng ngờ sao? Thân phận không rõ ràng, chúng ta không thể giữ nàng ấy lại được.”

Lý Thọ nhăn mặt, khổ sở đáp:

“Nô tài cũng biết vậy. Nhưng Tô Ngự sử là một trong số ít quan viên thật lòng phò tá Hoàng Thượng… Nếu lỡ nàng ta thực sự là con gái Tô Ngự sử, mà chúng ta lại bỏ mặc nàng ấy lại đây… E rằng sẽ khiến Tô Ngự sử…”

Nếu bỏ lại con gái Tô Ngự sử ở chỗ này, sau này làm sao Tô Ngự sử còn có thể một lòng với Hoàng Đế?

Ta cắn môi:

“Nếu vậy, sao chúng ta không cử Cẩm Y vệ đưa nàng ấy về kinh thành?”

Lý Thọ lại lắc đầu, phản đối ngay tức thì:

“Cũng không được đâu ạ. Nếu nàng ấy là thiên kim của Tô Ngự sử, để nàng ấy đi đường một mình cùng nam nhân khác thì mất hết thanh danh rồi…”

“Vậy… cho mượn thêm một xe ngựa cùng hai cung nữ đi theo có được không?”

Lý Thọ lại lắc đầu:

“Không ổn, không ổn. Chúng ta không có dư xe ngựa. Hơn nữa, lần này Hoàng Thượng rất khó khăn mới thuyết phục được các vị đại nhân để người xuất cung, đã giao hẹn phải mang đúng số người hầu cận như vậy. Bây giờ cho người đưa nàng ấy về kinh thành thì chỗ chúng ta sẽ hụt đi vài người. Nếu êm đẹp thì thôi, nhưng nếu xảy ra chuyện bất ngờ gì… Tội này không ai gánh nổi đâu…”

Lý Thọ nói chưa hết câu, mặt đã xanh mét, càng lắc đầu dữ dội. Ta bất lực nhìn hắn:

“Thế này không được, thế kia cũng không được. Công công bảo ta phải làm sao đây?”

Lý Thọ cúi đầu, lí nhí đáp:

“Thế nên nô tài mới phải đi thỉnh ý Hoàng Thượng…”

Nói đến đây, đôi mắt bé xíu như hai hạt đậu của hắn sáng rực lên:

“Chẳng phải Hoàng Thượng đã nói để nương nương giải quyết sao? Nương nương muốn làm thế nào, nô tài liền tuân theo thế ấy.”

Bộ mặt Lý Thọ lúc này, có thể nói là chỉ còn thiếu hai chữ gian ác trên trán mà thôi. Ta nhìn dáng vẻ đùn đẩy trách nhiệm của hắn, không nén được tiếng thở dài.

Hai người vừa đi vừa to nhỏ bàn bạc, chẳng mấy chốc đã tới chỗ Tô tiểu thư đang ngồi. Nàng nhìn thấy bọn ta, liền vội vã đứng dậy, cung kính cúi chào:

“Tô Nhược bái kiến nương nương, bái kiến công công.”

Tô Nhược mặc một bộ váy lụa màu trắng, bên ngoài khoác áo the tím nhạt. Tóc nàng bới kiểu tùy vân kế (1) rất công phu, cố định bởi một bộ thoa bạc tám cái, cùng vô số dây bạc, hoa bạc được chế tác tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ. Chẳng qua là nãy vừa bị đuổi bắt nên tóc tai và trang phục có hơi rối loạn đôi chút. Nhìn ở khoảng cách gần, nhan sắc của Tô Nhược không quá mặn mà, nhưng nàng ta lại trang điểm rất khéo cho nên về tổng thể cũng tính là như hoa như ngọc.

“Tô tiểu thư đừng đa lễ.”

Ta dịu dàng đỡ lấy Tô Nhược, thuận thế lướt tay qua hai cánh tay nàng nhẹ nhàng nắm lấy đôi cổ tay mảnh dẻ kia siết nhẹ, miệng không quên động viên:

“Tiểu thư đừng lo lắng, nơi này rất an toàn, không ai có thể làm hại tiểu thư nữa.”

Tô Nhược giương đôi mắt ươn ướt nhìn ta, cảm kích nói:

“Đa tạ nương nương…”

Ta lật tay lại, cầm tay nàng thân thiết cười:

“Tiểu thư kinh sợ nhiều rồi, nên nghỉ ngơi mới phải. Y phục của tiểu thư không còn sạch sẽ nữa, cũng nên thay đi thôi.”

Nói đoạn, quay sang nhìn Lý Thọ. Hắn hiểu ngay, cao giọng gọi một tiếng liền có mấy cung nữ chạy đến đỡ Tô Nhược vào một chiếc xe ngựa gần đó.

Đợi Tô Nhược đi khuất rồi, Lý Thọ mới dè dặt hỏi ta:

“Như vậy… nương nương định mang Tô tiểu thư theo sao?”

Ta thở hắt ra:

“Còn cách nào khác chứ? Dù sao cũng là một cô nương…”

Để một cô nương xinh đẹp như thế lại nơi đồng không mông quạnh, lại có cả sơn tặc như vậy chẳng khác nào đẩy nàng ta vào chỗ chết.

Lý Thọ gật đầu:

“Nói cũng phải, bất luận có phải Tô tiểu thư thật hay không, nếu bọn sơn tặc kia tìm được nàng ta thì chết chắc.”

Nhắc tới sơn tặc, trong đầu ta chợt nảy ra một nghi vấn mơ hồ. Ta kéo tay áo Lý Thọ, hỏi:

“Ban nãy công công bảo Cẩm Y vệ giết sơn tặc mới cứu được Tô tiểu thư phải không? Thi thể bọn sơn tặc ấy đâu rồi?”

Lý Thọ tròn mắt:

“Nương nương hỏi mấy thứ dơ bẩn đó làm gì?”

“Bản cung muốn kiểm tra lại một chút…”

“Để bọn chúng nằm đó cũng không ổn, mà thiêu thì sợ làm ô uế không gian nên nô tài đã bảo đám thuộc hạ kéo ra xa chôn tạm rồi.”

“Mau, dẫn ta đi xem!”

Lý Thọ nghe ta muốn xem thi thể đám sơn tặc kia thì lấy làm kinh hãi, nhưng thấy ta kiên quyết quá nên cũng không dám ngăn cản, bèn gọi thêm mấy Cẩm Y vệ nữa cùng đi.

Chỗ chôn bọn sơn tặc kia cách nơi chúng ta nghỉ chân chừng ba dặm. Khi ta đến thì mấy thái giám nhận lệnh đã đào xong một cái hố lớn, đương chuẩn bị đẩy thi thể xuống.

Lý Thọ vội hô to:

“Ngừng tay!”

Bọn họ nhìn thấy người đến, cuống quýt chạy ra hành lễ. Ta lướt qua bọn họ, nhanh chân bước tới cạnh ba cái thi thể nằm xếp hàng bất động bên miệng hố, vừa định kéo áo chúng lên thì Lý Thọ đã hét thất thanh:

“Nương nương, người không thể đụng vào thứ này được! Tổ tiên ơi, Hoàng Thượng sẽ giết nô tài mất!”

Ta biết hắn nói cũng có lý, bèn rút tay lại, ngẩng đầu nhìn tên thái giám đứng gần nhất:

“Được rồi, vị tiểu công công này, giúp bản cung kéo áo đám người này lên xem.”

“Tuân lệnh nương nương.”

Thái giám kia nghe lời, nhanh nhẹn lật hết áo mấy cái xác lên.

Lý Thọ thấy thế càng hoảng, chạy tới che trước mặt ta la toáng lên:

“Ôi! Sao ngươi dám để nương nương nhìn thứ như thế này!”

Lý Thọ ồn ào tới mức làm ta bực mình, bèn hất mặt về phía mấy cái xác, nói cụt lủn:

“Ta không nhìn, công công tự đến mà nhìn xem.”

Lý Thọ quay đầu lại, nheo nheo mắt:

“Bọn khốn kiếp này thì có cái gì để mà nhìn…”

Thế nhưng nói được nửa câu thì hắn lại im bặt, ắt hẳn cũng đã nhận ra điểm không đúng.

“Không thể nào…” Lý Thọ lẩm bẩm.

Mấy cái xác này tuy là cao lớn bặm trợn, trông cực kì hung dữ nhưng da thịt lại trắng trẻo, hơn nữa còn chẳng có lấy một vết sẹo. Sơn tặc như thế quả là hiếm thấy.

Lúc này, Lý Thọ mới hoang mang nhìn ta:

“Tô tiểu thư kia… có thể nào là thích khách không? Chết rồi…”

Ta lắc đầu:

“Có lẽ không phải. Ban nãy khi bản cung đỡ nàng ta đã kiểm tra tay áo nàng ta, không thấy có giấu gì. Vả lại cơ xương đều mảnh dẻ, không giống người biết võ công. Nếu trong người có thứ gì mờ ám thì khi thay y phục nhất định sẽ bị cung nữ phát hiện.”

Lý Thọ thở phào nhẹ nhõm:

“Nếu vậy nô tài sẽ sai người trông coi nàng ta cẩn thận, đợi đến hành cung Thanh An rồi tính tiếp.”

Bây giờ xem ra cũng chỉ có thể làm như vậy thôi.

Sự xuất hiện của Tô Nhược làm Lý Thọ chột dạ, quyết định khởi hành sớm hơn. Khi ta quay về xe ngựa thì Hoàng Đế vừa mới uống thuốc xong, còn đang nhăn nhó. Ta rót trà cho hắn, tranh thủ kể lại chuyện ban nãy. Hoàng Đế chẳng biết có chú tâm nghe hay không, đợi ta kể xong, hắn chỉ gãi gãi cằm hỏi bâng quơ:

“Tô thị có xinh đẹp không?”

Ta suýt chút nữa là cắn trúng lưỡi:

“Xinh đẹp hay không thì liên quan gì?”

Hoàng Đế cười cười:

“Nếu xinh đẹp thì có thể là nàng ta cố tình xuất hiện trước thánh giá để lôi kéo trẫm thôi. Chậc, lần nào trẫm xuất cung trở về cũng dư ra một người. Hoàng Hậu e là lại có dịp càm ràm…”

Chuyện đào hoa của hắn ta đã nghe đến mòn tai. Năm trước hắn vi hành thăm thú dân tình thế nào không biết, khi về lại mang theo Liên Nhạc; năm trước nữa thì là Tiệp Tuyết. Lần này không khéo Hậu cung lại có thêm một Tô Nhược. Làm Hoàng Đế đúng là tốt, trong khi ta vì thân phận Tô tiểu thư này mà lo sốt vó, hắn lại rảnh rỗi nghĩ chuyện phong tình như thế.

“Này, sao tự nhiên lại xị mặt ra? Ghen à?”

Hoàng Đế phì cười, đưa tay nhéo má ta.

“Hoàng Thượng anh tuấn bất phàm, đương nhiên là có nhiều mỹ nhân đem lòng ngưỡng mộ. Thiếp nào dám đố kị…”

Ta bực mình nghiêng đầu tránh qua một bên. Hoàng Đế thấy thế càng cười rộ lên:

“Nói chuyện không thật lòng chút nào. Thôi được rồi, không trêu nàng nữa. Lại đây…”

Hoàng Đế kéo ta tới ngồi sát bên hắn, hỏi:

“Ban nãy nàng nói tay Tô thị có vết chai kì lạ như thế nào?”

Ta gật đầu, dùng ngón tay vẽ vẽ lên bàn tay hắn:

“Ở tay phải có một vết chai ở gần đầu ngón tay trỏ, còn một vết nhỏ nữa ở lòng bàn tay, chỗ này…”

Hoàng Đế nhìn theo ngón tay ta, lẩm bẩm:

“Đúng là kì lạ, vết chai như vậy làm sao mà có nhỉ? Không phải chai do làm việc nặng, cũng không phải do tập luyện cung kiếm…”

Ta gõ nhẹ ngón tay vào tay hắn, nói tiếp:

“Còn một chuyện nữa… Đám sơn tặc đuổi giết Tô tiểu thư ấy… Lý công công phát hiện ra bọn chúng cũng có chỗ khả nghi. Dù là sơn tặc nhưng kẻ nào kẻ nấy da thịt đều trắng trẻo, không hề có sẹo đao kiếm trên người.”

Nghĩ tới nghĩ lui một hồi, ta thấy vẫn nên đẩy chuyện này cho Lý Thọ. Bất luận thế nào, một phi tử mà lại đi lật áo sơn tặc lên xem thì cũng không hay ho gì.

Hoàng Đế nhếch môi cười nhạt:

“Xem ra trẫm trị vì mấy năm nay cũng chẳng đến nỗi nào, cả sơn tặc cũng được sung sướng thế này.”

Sắc mặt Hoàng Đế đột nhiên hóa thành lạnh lẽo, vừa nhìn qua là biết hắn đã nổi giận rồi. Ta sợ hắn nổi cơn lên thì mình sẽ là người lãnh đủ, vội vàng vuốt ngực hắn:

“Hoàng Thượng đừng giận, tổn hại long thể…”

Hoàng Đế thấy ta lo lắng, bèn giang tay ôm lấy ta vào lòng, khẽ nói:

“Đừng sợ… Những chuyện như vậy không phải trẫm mới gặp lần đầu. Tô thị đó, tạm thời cứ giữ lại đi. Trẫm cũng muốn xem nàng ta định giở trò gì.”

Phiên ngoại : Bánh bao

Tô Trường Tín năm nay tròn năm mươi tuổi. Ông theo hầu Vạn tuế gia từ khi người mới lọt lòng, đến giờ cũng hơn mười tám năm rồi. Ông đã từng tự hào rằng mình là người hiểu Vạn tuế gia nhất. Thế mà hôm nay, khi tuổi già đã đuổi đến sát sau lưng, niềm tin bao năm ấy của ông lại bị lung lay. Tô Trường Tín chợt cảm thấy ông chẳng còn hiểu nổi Vạn Tuế gia nữa.

Hôm nay là ngày cuối cùng của tháng chạp, Vạn tuế gia không phải thiết triều. Thường thì những ngày rảnh rỗi như vậy, Vạn tuế gia đều ngủ nướng đến tận trưa ở tẩm cung của Thục phi hoặc một vị sủng phi nào đó. Sức khỏe của Vạn tuế gia từ nhỏ đã không tốt, dạo gần đây có lẽ vì chính sự căng thẳng nên càng tệ đi. Vì lẽ đó, Tô Trường Tín cảm thấy Vạn tuế gia có lười biếng một chút, ngủ nhiều một chút cũng là phải đạo. Thế mà hôm nay, người lại thức dậy rất sớm, còn điều động đám người Lý Thọ đi tìm bếp lò, xửng hấp, nồi niêu chén bát các thứ linh tinh mang đến gian phòng phía sau Noãn các. Gian phòng ấy là thế giới riêng của Vạn tuế gia. Bình thường, Vạn tuế gia thích ở trong đó một mình, đọc sách hoặc khắc gỗ, Tô Trường Tín biết cả. Nhưng nấu ăn ư? Ông chưa thấy bao giờ.

Cái ý nghĩ Vạn tuế gia nấu nướng bên bếp lò làm cho Tô Trường Tín rùng mình. Hình ảnh ấy còn đáng sợ hơn cả khi Vạn tuế gia nổi giận đùng đùng đòi chém người này người nọ. Tô Trường Tín lo lắm, nhưng Vạn tuế gia có đủ đồ nghề nấu bếp và nguyên liệu rồi thì đóng chặt cửa, chẳng cho ai vào cả. Tô Trường Tín không nhìn ngó được gì thì lại càng lo hơn. Đêm nay vẫn còn yến tiệc giao thừa, nếu Vạn tuế gia lại nghịch dại gì đó, hay tự làm mình bị thương thì ông biết phải làm sao đây?

Có lẽ ông trời cũng nghe được tiếng lòng thành tâm của Tô Trường Tín, sau hai canh giờ tỏ vẻ thần bí, Vạn tuế gia cuối cùng cũng chịu he hé cửa phòng:

“Lão Tô, vào đây…”

Tô Trường Tín mừng rỡ, nhưng vừa đặt chân vào phòng thì suýt chút lên cơn đau tim. Vạn tuế gia… người thực sự nấu ăn!

Nhìn gương mặt non nớt lem nhem vệt trắng vệt đen của Vạn tuế gia, Tô Trường Tín thở dài. Thì ra là Vạn tuế gia không biết nhóm bếp.

Trên đời có một số điều không thể học qua sách vở. Nhóm bếp chính là một trong số đó. Cũng may, mười năm làm Tổng quản Nội thị giám chưa đủ làm Tô Trường Tín quên đi cách nhóm bếp. Chỉ sau vài động tác đơn giản, ngọn lửa trong bếp lò liền cháy bùng lên. Vạn tuế gia hài lòng, vỗ vai ông mấy cái:

“Lão Tô, vẫn là ông lợi hại nhất.”

Nói đoạn, lại vui vẻ tiếp tục công việc còn dang dở.

Tô Trường Tín lén lút nhìn quanh, không chỗ nào là không có bột mì vương vãi. Vạn tuế gia của ông đang làm bánh bao.

Liếc mắt nhìn qua mấy cái bánh bao to tướng, méo mó đang được Vạn tuế gia cẩn thận xếp vào xửng hấp, Tô Trường Tín không khỏi đổ mồ hôi lạnh, chỉ mong người nấu xong đừng bắt ông ăn thử là phúc đức ba đời nhà ông rồi.

May mắn cho Tô Trường Tín, chẳng biết Vạn tuế gia nhà ông đọc những sách gì, làm bánh ra sao mà cuối cùng cái thì nứt bung cả nhân ra ngoài, cái thì teo tóp chẳng ra làm sao. Thành quả mấy canh giờ nghiêm túc nấu nướng của Vạn tuế gia cuối cùng chỉ còn lại một cái bánh bao duy nhất là nguyên vẹn.

Ấy thế mà Vạn tuế gia có vẻ vui lắm. Tô Trường Tín thấy người rón rén nhấc nó ra đĩa như sợ làm nó bị thương, sau lại chăm chú dùng màu gấc vẽ lên trên một cái mặt cười toe toét rồi mới cho vào hộp gỗ.

Giao cái hộp đựng bánh cho Tô Trường Tín, Vạn tuế gia ra lệnh:

“Đem tới cho Hòa phi. Nhớ không được nhiều lời đấy.”

Gương mặt Vạn tuế gia mỗi khi ra lệnh cho kẻ khác đều rất lạnh lùng đáng sợ, nhưng giờ đây mặt người dính đầy bột mì và muội than lem luốc… Tô Trường Tín cắn chặt răng, vội vàng nhận lấy hộp bánh đi thẳng một mạch, chỉ sợ chậm chân một khắc sẽ không nhịn cười nổi nữa. Cái gì mà nhiều lời với không nhiều lời? Trong Hoàng thành này, ngoài Vạn tuế gia người ra, còn có kẻ thứ hai làm ra được cái bánh bao xấu xí thế này sao?

Đã lâu lắm rồi, Tô Trường Tín không nhìn thấy dáng vẻ hào hứng của Vạn tuế gia. Mỗi ngày người đều cười cợt trêu đùa với các phi tần, nhưng Tô Trường Tín hiểu, trong những nụ cười đó chẳng có bao nhiêu phần vui vẻ. Từ sau khi Hiền phi qua đời, Lê thị sụp đổ, Trịnh thị suy tàn, suốt mấy năm nay, đây là lần đầu tiên Tô Trường Tín lại được nhìn thấy nụ cười đơn thuần cùng với ánh mắt lấp lánh niềm vui của Vạn tuế gia.

Tô Trường Tín bất giác hoảng sợ. Hộp bánh trên tay chợt hóa thành gánh nặng ngàn cân.

Vạn tuế gia của ông lại có thể đích thân làm bánh cho một nữ tử?

Mà nữ tử này lại là vị Hòa phi nương nương dung mạo tầm thường ấy?

Tô Trường Tín nghĩ thế nào cũng không hiểu nổi. Hòa phi thực ra có điểm nào tốt mà Vạn tuế gia lại để tâm như vậy? Nàng ta không có dung nhan động lòng người, cũng không có tài nghệ gì nổi trội, ngay cả thân phận công chúa cao quý cũng là hữu danh vô thực mà thôi. Người như vậy vốn không thể mang lại bất kì lợi ích nào cho Vạn tuế gia. Vạn tuế gia xưa nay ghét nhất là những kẻ vô dụng, vì sao lại có lòng với Hòa phi đến thế?

Tô Trường Tín ôm nỗi băn khoăn ấy trong lòng, khi ông đến Cẩm Tước cung thì vị Hòa phi nương nương kia vẫn còn đang ngủ nướng. Giờ này, e rằng phi tần nào cũng đang tất bật lựa chọn phấn son, trang sức sao cho nổi bật nhất vào dạ yến giao thừa… Vậy mà Hòa phi lại thản nhiên nằm ngủ. Nghĩ lại, Hòa phi cũng chưa từng cầu kiến Vạn tuế gia bao giờ. Ngoại trừ lần duy nhất bị Lý Thọ lừa đến Ngự thư phòng lúc trước, Hòa phi chưa bao giờ chủ động tìm Vạn tuế gia. Món quà duy nhất nàng dâng lên Vạn tuế gia cũng là do tình thế cấp bách, không thể làm khác. Về sau, Vạn tuế gia muốn nàng làm tặng túi thơm khác thì mỗi ngày đều phải cho Lý Thọ đi đốc thúc mới được. Phi tử như thế, Tô Trường Tín chưa thấy người thứ hai.

Tô Trường Tín tự hỏi, phải chăng tính cách an nhiên tự tại, không tranh không đoạt ấy là điều Vạn tuế gia yêu thích?

Tô Trường Tín trao lại hộp bánh cho vị Hòa phi vẫn còn đang ngái ngủ kia mà lòng cứ chùng xuống. Nữ tử lạnh nhạt vô tâm thế này, liệu có hiểu được tấm lòng của Vạn tuế gia hay không?

Về phần vị Hòa phi kia, khi nhận hộp bánh từ tay Tô Trường Tín, nàng vẫn còn buồn ngủ lắm. Thế nhưng, khi nắp hộp mở ra, ánh mắt đương đờ đẫn vì ngái ngủ của nàng lập tức trở nên linh động. Tô Trường Tín thấy thế vội vàng nói ngay:

“Hoàng Thượng chỉ sai lão nô mang cái này đến cho nương nương, những chuyện còn lại lão nô không biết gì cả.”

Hòa phi ngơ ngẩn nhìn cái bánh bao méo mó có hình mặt cười toe toét kia một lúc, chợt nở nụ cười:

“Đa tạ Tô Tổng quản. Bản cung hiểu rồi.”

Thời khắc ấy, Tô Trường Tín bỗng nhận ra vị Hòa phi dung mạo bình thường này hóa ra lại có một nụ cười ngọt ngào đến thế.

Lăn lộn nơi Hậu cung đã mấy mươi năm, Tô Trường Tín luôn rất đa nghi, nhưng không hiểu sao ông lại cảm thấy mình có thể tin tưởng vào lời nói của nàng. Ông tin rằng nàng hiểu.

Nàng nhất định hiểu.

***

Thực ra, Vạn tuế gia rất ghét yến tiệc. Mỗi khi tiệc tan trở về, lúc mà chỉ còn Tô Trường Tín bên cạnh, sắc mặt người sẽ trở nên tối tăm, chuyện nhỏ nhặt gì cũng có thể khiến người cáu gắt. Vậy mà hôm nay, chỉ vì một nụ cười cùng mấy tiếng “bản cung hiểu rồi” nghe từ miệng Tô Trường Tín thuật lại, Vạn tuế gia chẳng còn cáu gắt chút nào.

Theo lệ thì sau dạ yến giao thưà, Vạn tuế gia phải nghỉ lại ở Triêu Lan cung. Nhưng dạo gần đây, Hoàng Hậu quản lý Hậu cung thực sự không được tốt. Tô Trường Tín trộm đoán, có lẽ Vạn tuế gia muốn cảnh cáo Hoàng Hậu, cho nên đêm nay người không đến Triêu Lan cung mà trở về Noãn các một mình.

Tô Trường Tín có vô số điều thắc mắc, nhưng cuối cùng lại không dám mở lời. Chỉ là ông quên mất, bản thân ông hiểu Vạn tuế gia bao nhiêu thì người cũng hiểu ông ngần ấy. Sự băn khoăn được che giấu kĩ lưỡng của Tô Trường Tín không qua được mắt Vạn tuế gia. Người vỗ vai ông, cười hỏi:

“Lão Tô, muốn nói gì thì cứ nói đi. Trẫm không phải đã ban kim bài miễn tử cho ông rồi sao? Không chết được đâu.”

Đã không giấu nổi, chi bằng cứ nói thẳng ra vậy. Tô Trường Tín cười khổ, cố lựa lời sao cho khỏi chọc giận Vạn tuế gia của ông:

“Bẩm Hoàng Thượng… Lão nô vừa nhớ ra là… Từ khi lập đông đến nay, Hoàng Thượng chưa lật thẻ bài của Hòa phi nương nương lần nào…”

Tô Trường Tín biết Vạn tuế gia của ông ghét nhất là người khác xen vào chuyện Hậu cung. Khi nói ra lời này, ông cũng đã chuẩn bị nhận phạt, chẳng ngờ Vạn tuế gia không hề nổi giận. Người bình thản đáp:

“Trẫm sợ lạnh, ông cũng biết mà.”

Vạn tuế gia sợ lạnh, cho nên vào mùa đông người luôn triệu phi tần đến Noãn các chứ không tự mình đến tẩm cung của ai cả. Nhưng như vậy thì gọi Hòa phi đến tiếp kiến như những phi tần kia cũng được mà?

Tô Trường Tín chẹp lưỡi, chưa biết nói tiếp thế nào thì Vạn tuế gia đã như đọc được suy nghĩ của ông. Người khẽ nhún vai:

“Đường xá trơn trợt.”

Bởi vì trời lạnh đường trơn, cho nên không muốn gọi Hòa phi đến ư?

Vạn tuế gia từ lúc nào lại lo nghĩ cho người khác nhiều đến thế?

Tô Trường Tín khẽ lắc đầu. Ông cảm thấy mình đã già rồi. Tâm tình của Vạn tuế gia, ông không hiểu nổi nữa.

Sủng ái cũng Vạn tuế gia đối với Hòa phi thực sự rất mập mờ.

Nói người sủng Hòa phi cũng không đúng lắm. Người đối đãi với nàng không tệ, nhưng cũng không có điểm nào hơn những phi tần khác. Bổng lộc, ban thưởng đều đúng với cung quy, không thiếu nhưng cũng không thừa. Thậm chí thẻ bài của Hòa phi, người cũng chỉ thỉnh thoảng mới lật một lần. Biết Thục phi và Đức phi chèn ép nàng, người để mắt nhưng chẳng can thiệp.

Nhưng nói người không sủng Hòa phi thì lại càng không phải. Kẻ khác có thể không biết, nhưng Tô Trường Tín là người thân cận nhất của Vạn tuế gia. Từng hành vi cử chỉ của người ông đều nhìn rõ. Còn nhớ đêm hôm nào, Hòa phi vì bảo vệ một Thái y vô danh mà ngất xỉu trước Thái Y viện, Vạn tuế gia chẳng ngại trời mưa tầm tã, đích thân đến tận nơi đưa nàng về Noãn các chăm sóc. Lại nhớ một đêm khác, Vạn tuế gia đọc tấu chương đến nhức buốt cả đầu nhưng vừa nghe tin Hòa phi bị Đức phi tố tội, người liền đi một mạch đến Vị Tú hiên khỉ ho cò gáy. Làm như thế không phải vì muốn che chở cho nàng ư? Còn cái lần Hòa phi bị kẻ khác mưu hại thả rắn vào chăn, Vạn tuế gia biết tin nhưng vì sớm hôm sau còn phải thiết triều nên không đi thăm nàng được. Đêm đó không biết Vạn tuế gia đã trở mình biết bao nhiêu lần. Buổi sáng ngày hôm sau, Vạn tuế gia vừa bãi triều liền đi thẳng đến Cẩm Tước cung. Khi ấy Hòa phi còn mê man bất tỉnh, người đã cầm tay nàng, yên lặng ngồi bên cạnh hơn một canh giờ. Nếu không phải có đại thần cầu kiến, có lẽ người sẽ ngồi đó đến khi Hòa phi tỉnh lại mới thôi.

Đã rất lâu rồi, Vạn tuế gia không sủng hạnh Hòa phi. Những kẻ không hiểu chuyện ở Kính sự phòng đã bắt đầu phao tin Vạn tuế gia không còn yêu thích Hòa phi nữa. Tô Trường Tín chỉ biết, chính nhờ không được sủng hạnh mà Hòa phi không phải uống chén canh “an thai” kia, mà món canh ấy đối với nữ nhân chẳng phải thứ tốt đẹp gì.

Tô Trường Tín là kẻ lão luyện. Từ lâu ông đã lờ mờ nhận ra Vạn tuế gia vẫn luôn âm thầm che chở Hòa phi. Thứ tình cảm của người dành cho Hòa phi chẳng rõ tự bao giờ đã không còn giống với loại sủng ái thông thường.

Thứ tình cảm ấy, Tô Trường Tín không dám gọi tên, càng không dám tin nó là sự thật.

Chỉ là hôm nay, tận mắt nhìn thấy Vạn tuế gia vui vẻ làm bánh bao tặng Hòa phi, Tô Trường Tín có muốn không tin cũng không được nữa.

Phía bên kia, Vạn tuế gia sau một ngày mệt mỏi đã ngủ thiếp đi. Hôm nay, tâm trạng của người tốt cho nên nét mặt khi ngủ cũng rất thanh bình.

Tô Trường Tín thở dài thườn thượt, bao nhiêu nỗi lo lắng mới lại ập đến. Biết rằng lời này nói ra sẽ là phạm nghịch, nhưng ông thực lòng quan tâm Vạn tuế gia như người thân ruột thịt của mình. Biết được trên đời này có một nữ tử có thể khiến Vạn tuế gia nở nụ cười hạnh phúc đơn thuần, ông vui mừng lắm chứ. Nhưng cạnh bên niềm vui ấy vẫn tồn tại vô số nỗi lo sợ. Nữ tử ấy liệu có thật lòng đối với Vạn tuế gia hay không? Nàng thân cô thế cô, yếu đuối như thế, liệu có thể tồn tại bao lâu trong chốn Hậu cung hiểm ác này?

Vạn tuế gia quan tâm nàng như vậy, nếu chẳng may nàng không còn nữa, vậy thì người chắc chắn sẽ đau lòng lắm.

Tô Trường Tín ông biết phải làm sao?

Người già thường hay thích thở dài.

Tô Trường Tín cũng thế. Ông thở dài thêm mấy cái nữa, rồi quyết định ngả lưng ở chiếc sạp gỗ nơi gian ngoài, canh giấc cho Vạn tuế gia.

***

Hoàng thành sau thời điểm giao thừa náo nhiệt cũng dần dần chìm vào giấc ngủ.

Chỉ còn một gian phòng nơi chính điện Cẩm Tước cung là vẫn sáng ánh đèn.

Ngọc Nga ngáp dài một tiếng, nhẹ nhàng phủ thêm lên vai nữ tử đương ngồi chống cằm bên chiếc bàn trà nhỏ.

“Chủ nhân, mau ngủ đi thôi. Trời sáng sắp sáng mất rồi. Người cứ hắt xì suốt, không khéo bệnh rồi cũng nên…”

Chu Đan Nguyệt sau khi hắt xì đến lần thứ hai mươi thì mũi đã đỏ như quả cà chua. Nàng nhăn mặt, vừa lau mũi vừa lẩm bẩm:

“Tên chết tiệt nào nói xấu ta mãi thế không biết…”

Nói đoạn, vươn vai một cái nhưng rõ ràng là không hề có ý định đi ngủ.

Ngọc Nga nhíu mày, kéo kéo tay nàng:

“Chủ nhân, đừng thức nữa… Người còn muốn ngồi nhìn cái bánh bao kì cục này đến bao giờ”

Chu Đan Nguyệt phì cười, nhìn lại cái bánh bao này đúng là kì cục thật. Vừa to đùng, vừa méo mó, lại còn có một cái hình mặt cười vẽ nguệch ngoạc bên trên, chắc chắn là không ăn được. Bánh như vậy mà cũng dám mang cho người khác, còn tỏ ra thần bí, chẳng biết trong đầu hắn nghĩ cái gì.

Nếu Ngọc Nga mà biết được suy nghĩ của nàng thì nhất định sẽ bĩu môi nói: “Cái bánh kì cục như vậy mà người ngồi nhìn suốt cả ngày, nô tì mới không biết trong đầu người nghĩ cái gì.”

Đáng tiếc, Ngọc Nga không đọc được suy nghĩ của người khác, chỉ có thể dai dẳng bám lấy nàng, kêu réo không ngừng:

“Chủ nhân, đừng nhìn nữa, ngủ thôi…”

“Ta chưa buồn ngủ.”

“Chủ nhân, ngủ đi mà… Ngày mai nhìn tiếp cũng được mà…”

“Đừng kéo ta…”

“Chủ nhân, ngủ…”

Chính điện Cẩm Tước cung đêm hôm đó, hình như rất lâu sau cũng chưa thấy tắt đèn.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 55


Khi thánh giá lề mề đến được hành cung Thanh An thì trời cũng đã xế chiều. Lý Thọ vì chuyện sắp xếp chỗ ở của đoàn bồi giá mà mệt bở hơi tai. Có lẽ hắn bận rộn quá mức cho nên thay vì sắp xếp cho ta một chỗ riêng, Lý Thọ lại xếp ta ở luôn trong điện Khai Dương của Hoàng Đế. Được ở chung một chỗ với Hoàng Đế là việc vinh hạnh đến mức nào, người khác muốn còn không được. Ta vì vậy chẳng dám phàn nàn gì cả. Về phần vị Tô tiểu thư kia, Lý Thọ đặc biệt chuẩn bị cho nàng ta một gian phòng ở Quỳnh Hoa các – nơi xa xôi cách biệt nhất trong hành cung Thanh An, lại cắt cử mười cung nữ cẩn thận trông coi, chỉ đợi Cẩm y vệ về kinh thành xác nhận với Tô phủ xong thì lập tức tống khứ đi ngay.

Thực ra, Lý Thọ không phải không có lý. Tô Nhược hình như cảm thấy bản thân chưa đủ khả nghi, từ lúc đến hành cung cứ luôn miệng xin được đi gặp Hoàng Đế tạ ơn thế này thế nọ. Lời lẽ của nàng ta thống thiết đến nỗi đám cung nữ không biết làm sao. Bọn họ đều là người hầu hạ ở hành cung bao năm nay, không hiểu thế sự, thấy ta được Hoàng Đế mang theo đến đây, lại còn được Lý Thọ xếp cho ở ngay tại điện Khai Dương liền cho rằng ta là sủng phi quyền thế lắm lắm, chuyện gì cũng kéo ba bốn người đến hỏi ý ta.

“Nương nương, Tô tiểu thư đó nên sắp xếp thế nào ạ?”

“Nương nương, y phục vật dụng của nàng ta thì sao?”

“Nương nương, Tô tiểu thư cứ luôn miệng đòi gặp Hoàng Thượng, phải làm thế nào ạ?”

Cứ tưởng không có Tiểu Phúc Tử bên cạnh thì hai lỗ tai của ta sẽ được yên thân. Những chuyện rắc rối này đáng lẽ ra phải đem đến làm phiền Lý Thọ chứ? Sao lại đổ hết lên đầu ta thế này?

Ở hành cung ít quy tắc hơn, mà vị Huyên Thái phi chưởng quản nơi này nghe nói cũng khá dễ tính nên đám cung nữ cứ nhao nhao kẻ mách chuyện này, người kể chuyện kia ồn ào không thể tả. Ngọc Nga đã khó chịu lắm rồi, nàng hắng giọng:

“Các vị cô nương xin đừng nóng vội, có gì từ từ nói. Chủ nhân đi đường xa cũng mệt mỏi rồi, ồn ào quá thật không hay.”

Đám cung nữ kia không rõ Ngọc Nga là ai nhưng thấy nàng thân cận với ta nên cũng tỏ ra kính nể. Nàng vừa nói dứt câu, ai nấy đều đã yên lặng đứng ngay ngắn một chỗ.

Không có Lý Thọ ở đây, ta biết mình không ra mặt cũng không xong. Để bọn họ ầm ĩ lỡ như kinh động đến Hoàng Đế, hắn lại nổi cơn chém hết cả đám thì khổ. Ta thở dài trong lòng, nhẹ nhàng nói:

“Chỗ Tô tiểu thư, các ngươi chăm lo cho nàng chu đáo cẩn thận là được. Nhưng nhớ không được để nàng ra khỏi Quỳnh Hoa các. Bây giờ Hoàng Thượng đã nghỉ rồi, các ngươi nói với nàng, thành ý của nàng, ta sẽ bẩm báo lại với Hoàng Thượng sau. Nếu Hoàng Thượng muốn gặp tất sẽ triệu kiến.”

Những lời ta nói đều là chí công vô tư. Không để Tô Nhược ra khỏi Quỳnh Hoa các là ý của Lý Thọ. Hoàng Đế ngủ rồi cũng là chuyện thật. Thành ý của Tô Nhược ta đương nhiên cũng sẽ nói lại với Hoàng Đế. Ấy thế mà đám cung nữ kia nghe xong, mặt người nào cũng lộ vẻ ám muội. Một cung nữ trông có vẻ lanh lợi nhất trong đám vội bước đến trước mặt ta, cười đầy ẩn ý:

“Nô tỳ hiểu rồi. Nương nương yên tâm! Chúng nô tỳ nhất định trông chừng Tô tiểu thư cẩn thận, tuyệt đối không để nàng có cơ hội làm phiền đến Thánh nhan…”

Đến đây thì ta biết bọn họ nghĩ cái gì rồi, nhưng chẳng dư hơi sức mà biện giải, chỉ phẩy tay:

“Tốt lắm. Nếu không còn việc gì, các ngươi trở về được rồi.”

Ta đã nói đến vậy mà đám cung nữ này vẫn chẳng mảy may nhận ra điều gì, còn xúm vào nịnh hót thêm một lúc lâu. Mấy năm rồi mới được nịnh bợ “sủng phi” nên khi rời đi ai nấy đều vui vẻ ra mặt. Ngọc Nga nhíu mày nhìn theo bóng bọn họ, lẩm bẩm:

“Làm cung nữ ở hành cung có gì không tốt chứ? Vì sao lại muốn đến Hoàng cung như vậy?”

“Cung nữ ở Hoàng cung lương bổng cao hơn, ban thưởng nhiều hơn mà tiến thân cũng dễ dàng hơn.”

Khó trách bọn họ lại nồng nhiệt với ta như vậy, chẳng qua cũng chỉ là mong muốn làm ta vừa ý, biết đâu sẽ được ta mang về Hoàng cung.

Ngọc Nga khẽ cười:

“Nô tỳ lại thấy ở đây tốt hơn biết bao nhiêu.”

Ta cũng cười theo:

“Nếu ngươi thích nơi này, vậy chúng ta hãy cùng nhau cố gắng. Mấy chục năm nữa, biết đâu chúng ta cũng sẽ được sống ở đây.”

Ngọc Nga gật gù, chợt nói:

“Ngồi xe ngựa cả ngày hẳn cũng mệt rồi, hay để nô tỳ đỡ chủ nhân vào nghỉ một chút?”

Phòng nghỉ phía sau điện Khải Dương có đến hai gian lớn, Hoàng Đế đang ngủ ở gian trong, nếu muốn ta vẫn có thể nghỉ tạm ở gian ngoài, không lo phiền nhiễu đến hắn. Nhưng cả ngày đã ngủ lơ mơ trên xe, bây giờ ta cũng không ngủ nổi nữa, bèn vịn tay Ngọc Nga đứng dậy:

“Ta không buồn ngủ. Ra ngoài hóng gió một chút đã.”

Ngoài điện Khải Dương có một hồ cá phượng hoàng ngũ sắc nho nhỏ. Cạnh bên là một cây dương liễu cao to, cành lá xanh rì buông nghiêng xuống mặt hồ dịu mát. Ở Ngự hoa viên cũng có một hồ cá ngũ sắc, so với hồ này còn lớn và đẹp hơn rất nhiều, nhưng cũng vì cảnh sắc hữu tình mà nơi đó thường có nhiều phi tử lui tới. Ta sợ nhất là đụng chạm người khác nên chẳng bao giờ dám bén mảng tới chơi. Hôm nay nhìn thấy cái hồ cá này, ta đương nhiên không thể bỏ qua cơ hội ngắm nhìn cho thỏa mắt.

Ta và Ngọc Nga vừa đến ngồi bên hồ chưa đến một khắc thì Thái Hương, trưởng cung nữ quản lý điện Khai Dương đã xuất hiện. Nàng bưng một khay gỗ nhỏ, bên trên có một cái chén sứ dâng đến, lễ phép nói:

“Bẩm nương nương, đàn cá này rất háu ăn, mỗi lần được cho ăn đều linh động, đáng yêu hẳn lên. Không biết nương nương có muốn xem thử không ạ?”

“Vậy sao?”

Lòng hiếu kì nổi lên, ta nhẹ nhàng bốc lấy một nhúm hạt thức ăn cho cá trong chén, vung tay thảy xuống hồ. Quả nhiên, Thái Hương nói không sai, hạt thức ăn vừa chạm nước liền có một đám cá bơi đến tranh nhau đớp lấy liên hồi. Mặt nước trong thoáng chốc đã bị cá bơi quẫy sủi tung bọt trắng. Đúng là sinh động hơn trước rất nhiều. Ta thấy Ngọc Nga đương lơ đễnh bèn bốc thêm một nhúm hạt nữa thảy qua phía mé nước chỗ Ngọc Nga đang đứng, đàn cá ngay lập tức đổi hướng, xô đẩy nhau bơi qua bên đó khiến cho bọt nước văng cả lên người nàng. Ngọc Nga giật mình chới với, may mà ta kịp thời túm lấy thắt lưng nàng kéo lại không thì đã rơi cả xuống hồ. Nhìn nàng luống cuống phủi nước lấm tấm dính trên y phục, muốn trách móc mà lại không dám, ta không nhịn được phải cười lên mấy tiếng. Ngọc Nga bị ta trêu, vừa tức vừa buồn cười, làm mặt nghiêm một lát rồi cũng phải cười theo.

Thái Hương thấy bọn ta vui vẻ thì cũng nở nụ cười. Nàng đặt khay gỗ tảng đá cạnh chỗ ta ngồi, bước đến gần bờ hồ, thong thả nói:

“Nô tỳ từng nghe, năm xưa Tiên đế có lần trúng phong hàn mãi không khỏi. Đột nhiên một đêm nọ ngài chiêm bao thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân trên đỉnh Khai Dương điện, tay cầm dương liễu mộc rải nước cam lộ xuống mặt đất. Khi tỉnh dậy thì bệnh đột nhiên khỏi hẳn. Tiên đế cho rằng đấy là điềm lành, bèn cho người đào một cái hồ, dựa theo bình cam lộ của Bồ Tát mà đặt tên là Tịnh hồ, bên cạnh trồng thêm một cây dương liễu. Từ đó đến nay có lẽ cũng hơn hai mươi năm rồi.”

Thái Hương làm cung nữ ở hành cung từ nhỏ, tính tình trầm lặng hơn những người khác. Ban chiều khi mới chuyển vào điện Khai Dương, ta thấy nàng chu đáo mà kiệm lời, cũng sinh thiện cảm. Lúc này, nàng lại chủ động kể chuyện xưa cho ta nghe, ta quyết định nói nhiều với nàng vài câu:

“Thái Hương cô nương ở đây lâu ngày, đúng là hiểu biết nhiều hơn kẻ khác. Thời gian ta lưu lại hành cung… xem ra còn phải nhờ cô nương chiếu cố nhiều.”

Thái Hương nghe vậy, vội vàng lắc đầu, khiêm nhường đáp:

“Nô tỳ không dám. Nương nương có điều gì xin cứ sai bảo, nô tỳ tất sẽ cố hết sức mình.”

Ta mỉm cười, chợt nghĩ đến mấy vị tiền bối ở đây, bèn lựa lời hỏi:

“Nghe nói gia yến tối mai sẽ tổ chức ở Thủy Nguyên đình, chẳng hay theo ý của Thái Hương cô nương, có điều gì ta cần chú ý không?”

Vốn dĩ Hoàng Đế và ta là hậu bối, nếu đến hành cung thì theo lý phải chào hỏi các Thái phi, Thái tần một tiếng mới phải đạo. Chỉ là ai cũng biết sức khỏe Hoàng Đế không tốt, mà tính tình hắn lại càng không tốt hơn. Hắn đi đường đã đủ mệt mỏi rồi, ai to gan dám bắt bẻ hắn chuyện thỉnh an? Gia yến ngày mai chẳng qua cũng là Lý Thọ lo xa bày ra để sau này đám Ngôn quan, Lễ bộ trong triều khỏi tìm cớ dèm pha mà thôi. Nhưng dù nói gì đi nữa, hắn là Hoàng Đế đương nhiên không sợ bị người khác bắt bẻ, còn ta đâu có cái diễm phúc ấy. Các vị Thái phi, Thái tần ở đây tuy không còn tiếng nói trong Hậu cung nhưng dẫu sao cũng vẫn là tiền bối, xuất thân cao quý vẫn còn đó. Ta không thể thất lễ với bọn họ được. Nhân dịp này thăm dò một chút vậy.

Thái Hương cúi đầu nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

“Ở đây khi trước vốn dĩ có bốn vị Thái phi và một vị Thái tần. Nhưng Trầm Thái phi tuổi cao đã cưỡi hạc quy tiên hai năm trước cho nên bây giờ chỉ còn có Huyên Thái phi, Cao Thái phi và Lục Thái phi thôi. Các Thái phi nương nương thường ngày chỉ thích làm bạn với hoa cỏ hoặc ngâm thơ, thưởng trà ở Dao Quang các, rất ít khi ra ngoài.”

Thích hoa cỏ, ngâm thơ, thưởng trà? Vậy tức là tính tình cũng không đến nỗi khó khăn lắm nhỉ?

Khi trước Tạ Thu Dung từng có lần mang đến cho ta cả một chồng sách sử nhưng ta lười nhác, chỉ đọc qua loa đôi ba quyển nói về thời đại của Tiên đế để tránh phạm húy mà thôi. Bây giờ vặn óc nhớ lại, ngoại trừ Huyên Thái phi có được nhắc tới vài câu thì mấy vị kia cũng chỉ được ghi tên cho có, hẳn là không có gì nổi bật.

Theo trí nhớ của ta, Huyên Thái phi khuê danh là Hà Tư Huyên. Bà là muội muội ruột của Huệ Từ Thái Hậu nhưng mẫu thân bà xuất thân không tốt nên thân phận bà cũng thua kém Thái Hậu rất nhiều. Nghe nói, bà nhập cung sau Thái Hậu mười năm. Khi ấy, Thái Hậu đã làm đến chức Hiền phi. Vì hai người cùng họ, để tránh phạm đến Hà Hiền phi khi ấy, Tiên đế cho bà lấy tên để dùng chung với phong hiệu, gọi là Huyên Quý nhân.

Tạ Ngự sử từng có ý định đưa Tạ Thu Dung tiến cung nên những việc trong chốn cung cấm đều cố gắng kể lại tường tận với nàng. Ta nhờ vậy mà được nàng kể lại kha khá chuyện thú vị. Ví như vị Huyên Thái phi kia, nghe nói tính bà mềm yếu, rất sợ Thái Hậu, bất luận việc lớn nhỏ gì cũng không dám trái lời. Lại có lời đồn, Thái Hậu e ngại muội muội xinh đẹp trẻ trung sẽ lấn lướt mình nên thường tìm cách ngăn trở sủng ái của Tiên Đế, khiến cho Huyên Quý nhân mười năm ròng rã cũng chẳng thăng nổi một phân, một vị. Người thời đó đều cho rằng Tiên Đế băng hà rồi, số phận Hà Tư Huyên rồi sẽ đi vào ngõ cụt như những phi tần không con cái khác. Ngờ đâu Thái Hậu đột nhiên thăng bà lên làm Thái phi, còn cho đến hành cung Thanh An dưỡng già. Lúc này, những sủng phi năm xưa chẳng còn một ai, mà Huyên Quý nhân nhu nhược năm nào lại ung dung chưởng quản hành cung đẹp đẽ này, ngay cả Đế Hậu gặp bà cũng phải cúi đầu chào một tiếng “Huyên nương nương”.

Nghĩ đến đây, ta không khỏi cảm khái: Bây giờ chúng phi ngày ngày, giờ giờ đều tranh đấu sứt đầu mẻ trán, nhưng rốt cuộc ai mới là kẻ khôn ngoan thực sự, ai mới là kẻ nở nụ cười sau cùng, có lẽ phải đợi mấy chục năm sau nữa mới biết được rõ ràng.

Thái Hương đã nói như vậy, ta nghĩ mình cũng có thể yên tâm rồi.

Ta mỉm cười, gật đầu với Thái Hương:

“Bản cung hiểu rồi. Đa tạ cô nương. À, không phải vẫn còn một vị Thái tần hay sao? Sao không nghe cô nương nhắc tới?”

Ta chỉ thuận miệng hỏi tiếp, không ngờ Thái Hương lại lộ vẻ bối rối. Nàng gượng gạo đáp:

“Hạ Thái tần… Sức khỏe của người không tốt… bình thường không rời phòng nửa bước, gia yến ngày mai chắc cũng không tham gia được. Nương nương không cần bận tâm…”

Thái Hương nói nửa chừng, ta còn chưa kịp đáp lại thì bỗng nhiên từ đằng xa vọng lại tiếng người la hét ồn ào cùng với tiếng bước chân thùm thụp.

“Thái tần nương nương… Thái tần nương nương… đừng có chạy nữa…”

Tâm điểm của trận náo loạn này chẳng ai khác ngoài vị Hạ Thái tần vừa được nhắc đến.

Hạ Thái tần có lẽ đã gần bốn mươi. Bà mặc một bộ váy dài lem luốc bùn đất, tóc tai rũ rượi, một tay túm gấu váy, một tay xách giày, vừa chạy vừa la:

“Ta phải đi gặp Hoàng Thượng! Các ngươi đừng hòng chia cắt ta và Hoàng Thượng!”

Mấy cung nữ đuổi theo ở phía sau dường như đã quen với cảnh đuổi bắt này. Bọn họ nhanh chóng chạy tỏa ra các hướng, vây lấy Hạ Thái tần từ xa rồi dần dần áp sát lại. Hạ Thái tần bị vây kín, càng kích động hơn. Bà vung tay đấm đá tán loạn, trong nháy mắt đã có mấy cung nữ bị bà đấm chảy cả máu mũi. Cung nữ lớn tuổi nhất thuận thế tung ra một tấm lưới lớn, những người còn lại liền túm góc lưới giơ cao lên chụp lấy Hạ Thái tần. Bọn họ hành động nhanh như cắt, chỉ trong nháy mắt, Hạ Thái tần đã bị gói lại như bao tải gạo. Bấy giờ, bọn họ đều thở phào nhẹ nhõm. Người cung nữ lớn tuổi kia lúc này mới nhận ra sự hiện diện của mấy người chúng ta ngay cạnh đó, bèn vội vã chắp tay thưa:

“Bẩm nương nương, chúng nô tỳ sơ xuất để Hạ Thái tần chạy ra ngoài… Xin nương nương thứ tội…”

Cảnh tượng vừa diễn ra quá mức ngoạn mục. Ta nhất thời cứng họng, chẳng nói được gì, chỉ có thể quay sang nhìn Thái Hương. Đáng tiếc, Thái Hương cũng xám mặt, miệng mấp máy mãi mà chẳng thốt lên được một lời giải thích nào. Đương lúc ta và Thái Hương trân trối nhìn nhau, chợt bên phía Hạ Thái tần vang lên một tiếng thét chói tai. Chúng ta hoảng hồn nhìn lại, thì ra là Hạ Thái tần không biết bằng cách nào đã chui được đầu ra khỏi lưới, đang cắn chặt bắp tay của một tiểu cung nữ xui xẻo đứng gần nhất. Cung nữ kia đau quá, dùng hết sức lực hất mạnh, những người còn lại không kịp phản ứng, thế là Hạ Thái tần bị hất văng như một bao gạo, lao như bay về phía ta.

Một tiếng ùm thật lớn vang lên, cả ta lẫn Hạ Thái tần đã hạ cánh thẳng xuống hồ.

“Hòa phi nương nương… Thái tần nương nương…”

“Chết rồi! Người đâu? Các ngươi mau đến giúp một tay…”

“Chủ nhân, chủ nhân không sao chứ? Chủ nhân…”

Tịnh hồ cảnh sắc hữu tình ban nãy trong nháy mắt đã hóa thành cảnh tượng gà bay chó sủa.

Hồ này bản chất không sâu, đứng thẳng người thì nước chỉ tới thắt lưng. May mà trong hồ không có hòn non bộ hay đá ngầm, ta bị xô xuống bất thình lình cũng chỉ sặc nước một chút. Hạ Thái tần vì bị gói kín trong lưới nên không đứng lên được, cứ thế chìm nghỉm. Ta cố kéo bà lên nhưng Hạ Thái tần vùng vẫy quá dữ dội, làm cho ta tuột tay ngã ngửa ra, còn bà thì lại chìm xuống đáy. Ở trên bờ, Ngọc Nga sốt ruột chịu không nổi cũng nhảy xuống đỡ lấy ta:

“Chủ nhân, có sao không? Mau lên bờ kẻo nhiễm lạnh…”

Ta bám vào vai nàng, cố đứng vững:

“Ta không sao. Mau giúp ta cứu Thái tần nương nương trước…”

Đám cung nữ kia bị dọa sợ đến ngây người, giờ mới sực tỉnh, vội vàng nhảy cả xuống cùng nhau vớt Hạ Thái tần.

Hạ Thái tần tuy đã sặc nước mấy lần nhưng vẫn còn chống cự rất dữ dội. Đáy hồ có một lớp bùn dày trơn trợt, cộng thêm lực cản của nước khiến cho việc di chuyển trở nên khó khăn. Đám cung nữ phải cố gắng lắm mới khiêng được bà lên bờ.

Nhìn thấy Hạ Thái tần lên bờ an toàn rồi, ta mới yên tâm cùng Ngọc Nga dìu nhau leo lên.

Miệng ta không ngờ còn xui xẻo hơn miệng của Bạch Diệu Hoa. Vừa nhắc tới Hạ Thái tần thì liền có Hạ Thái tần từ xa bay đến. Thường ngày nhắc ngân lượng mà cũng được như vậy thì tốt biết bao nhiêu.

Hạ Thái tần làm loạn một hồi xem chừng đã mệt, lên bờ chửi mắng thêm vài câu rồi lả đi, khiến cho không gian lập tức yên tĩnh trở lại. Cũng bởi vì yên tĩnh quá mà hóa thành căng thẳng.

Đám cung nữ của Hạ Thái tần chẳng ai bảo ai, đồng loại quỳ rạp xuống dập đầu lia lịa:

“Nương nương tha mạng!”

Cả mặt Thái Hương cũng xám ngoét không còn hạt máu. Nàng sợ hãi chẳng dám nhìn thẳng vào ta, giọng run run:

“Nương nương… Chuyện này… ý của nương nương…”

Ta cắn chặt răng, chỉ hận không thể hét ầm lên: Cái gì mà Thái tần sức khỏe không tốt? Rõ ràng là sức khỏe quá tốt! Nếu biết sức khỏe bà ấy tốt như vậy, ta đã ôm chặt lấy cây dương liễu đằng kia, chí ít thì cũng không bị nhấn nước oan uổng thế này.

Hít sâu một hơi, ta đưa tay lau nước hồ nhiễu đầy trên mặt, cố kềm giọng nói:

“Gần đây có chỗ nào nghỉ ngơi, thay y phục được không?”

Thái Hương chưa hiểu được ý ta, dè dặt đáp:

“Bẩm, có Thiên Hành các…”

Ta phẩy phẩy tay áo đẫm nước:

“Mau đưa Thái tần nương nương tới đó thay y phục, đừng kinh động đến Hoàng Thượng.”

Thái Hương nghe xong gật đầu lia lịa. Nàng chẳng ngần ngại cởi áo ngoài dâng lên cho ta khoác tạm tránh gió, rồi vội vàng đi trước dẫn đường.

Thiên Hành các nằm ngay cạnh Khai Dương điện. Cung nhân trông coi nơi này đột nhiên thấy một đoàn người ướt như chuột lột lũ lượt kéo đến, trong đám lại còn có một Thái tần “sức khỏe không tốt” bị quấn trong lưới khiêng đi và một “sủng phi” mới tới chưa biết tính khí ra sao, thành thử người nào cũng lộ vẻ lo sợ.

Trưởng cung nữ canh giữ Thiên Hành các đang ở phía trong lật đật chạy ra:

“Nô tỳ Thái Tuyết bái kiến Hòa phi nương nương, nương nương cát…”

Nói đoạn, có lẽ nhìn lại thấy bộ dạng mình mẩy ướt nhẹp, trên đầu còn dính cả rong rêu của ta thực sự không cát tường chút nào nên đành phải nuốt vào nửa câu sau.

Ngọc Nga thấy ta đã chịu lạnh hồi lâu, không muốn dông dài thêm bèn nói ngay:

“Thái tần nương nương và chủ nhân của ta không may ngã xuống nước, phiền Thái Tuyết cô nương chuẩn bị gấp nước nóng cùng y phục…”

Thái Tuyết vâng dạ, kéo thêm mấy người cùng nhau xắn tay áo đi làm ngay. Ta và Hạ Thái tần, mỗi người được đưa vào một gian phòng kín. Chẳng mấy chốc đã có người bưng vào bồn tắm, nước nóng cùng y phục sạch sẽ. Ngọc Nga muốn tự mình hầu ta tắm, nhưng ta biết nàng cũng bị ngấm lạnh rồi nên viện cớ có Thái Hương với mấy người ở Thiên Hành các giúp đỡ, kiên quyết đuổi nàng đi tắm rửa trước.

Độ nửa canh giờ sau, tắm gội thay y phục chỉnh tề rồi, ta mới cùng Thái Hương đi thăm Hạ Thái tần. Người này dù thế nào cũng là bậc tiền bối, tốt nhất là bà ấy đừng xảy ra chuyện gì, nếu không ta lại khó tránh phiền phức.

Hạ Thái tần tắm rửa xong đã tỉnh, đang ngồi trên giường càu nhàu gì đó. Nhìn kĩ mới thấy, dung mạo bà trông thực thảm thương. Tuy tuổi tác chưa gọi là quá cao nhưng hai mắt bà đã chằng chịt vết nhăn, quầng mắt thâm đen, hai gò má ngang dọc không biết bao nhiêu vết trầy xước, mái tóc gội sạch sẽ rồi mới thấy lộ rõ từng mảng da đầu trụi tóc trắng hếu. Nhìn bà như vậy, nỗi bực dọc vì bỗng nhiên bị xô xuống hồ trong lòng ta tự nhiên tiêu tan hết.

Thái Hương đứng cạnh ta, dè dặt nói:

“Ngày Tiên đế băng hà, Thái tần nương nương vì quá đau lòng mà phát bệnh điên dại, thần trí lúc nào cũng mơ hồ. Bà luôn cho rằng Tiên đế vẫn còn tại thế, luôn đòi gặp mặt ngài. Thỉnh thoảng, có lúc tỉnh ra thì lại gào khóc rất thương tâm, còn tự mình cào mặt, bứt tóc, muốn đi theo Tiên đế… Hôm nay, chắc Thái tần nương nương nghe nói có đoàn Ngự giá đến hành cung, tưởng rằng Tiên đế đến đón bà nên mới…”

Thái Hương thở dài, lòng ta cũng nặng nề theo. Không ngờ trong Hậu cung lại có nữ tử thâm tình như vậy.

“Để Thái tần nương nương nghỉ ngơi một chút cho ấm người rồi đưa bà về. Lát nữa bản cung sẽ về thỉnh cầu Hoàng Thượng cho Ngự y đến xem mạch giúp bà. Ngâm nước lâu, e là nhiễm lạnh rồi.”

Hạ Thái tần đương lẩm bẩm một mình, đột nhiên quay ngoắt đầu nhìn về phía ta và Thái Hương đứng ngoài ngưỡng cửa, hét lớn:

“A! Ra là ngươi! Con hồ ly tinh họ Trang này! Ngươi vẫn chưa chết sao? Rõ ràng là Hoàng Thượng muốn đến đón ta… Nhất định do ngươi ghen ghét nên mới đến ngăn cản, có phải không? Đám người này cũng do ngươi phái đến để chia rẽ ta và Hoàng Thượng…”

Đoạn, chực lao ra chỗ chúng ta, may mà có một cung nữ nhanh nhẹn ôm ngang người bà giữ lại. Những người khác cũng đồng loạt giữ chặt lấy bà, van xin:

“Thái Tần nương nương, xin đừng làm loạn nữa… Chúng nô tỳ cầu xin người…”

“Mau buông ta ra… Ả dám mê hoặc Hoàng Thượng của ta, ta phải dạy cho ả một bài học…”

Hạ Thái tần uống no một bụng nước hồ rồi mà giọng vẫn sang sảng điếc tai. Sức khỏe của bà đúng là tốt quá mức. Đã như thế, ta không còn gì phải lo lắng nữa.

Ta khẽ thở dài một tiếng, cúi người hướng về phía Hạ Thái tần:

“Thần thiếp Hòa phi Chu thị bái kiến Thái tần nương nương, nương nương vạn phúc.”

Nói xong liền quay người rời đi.

Đời này Hạ Thái tần đã đủ vất vả rồi, ta còn ở lại chọc giận bà làm chi?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 56: Ngoại truyện: Bánh Bao


Tô Trường Tín năm nay tròn năm mươi tuổi. Ông theo hầu Vạn tuế gia từ khi người mới lọt lòng, đến giờ cũng hơn mười tám năm rồi. Ông đã từng tự hào rằng mình là người hiểu Vạn tuế gia nhất. Thế mà hôm nay, khi tuổi già đã đuổi đến sát sau lưng, niềm tin bao năm ấy của ông lại bị lung lay. Tô Trường Tín chợt cảm thấy ông chẳng còn hiểu nổi Vạn Tuế gia nữa.

Hôm nay là ngày cuối cùng của tháng chạp, Vạn tuế gia không phải thiết triều. Thường thì những ngày rảnh rỗi như vậy, Vạn tuế gia đều ngủ nướng đến tận trưa ở tẩm cung của Thục phi hoặc một vị sủng phi nào đó. Sức khỏe của Vạn tuế gia từ nhỏ đã không tốt, dạo gần đây có lẽ vì chính sự căng thẳng nên càng tệ đi. Vì lẽ đó, Tô Trường Tín cảm thấy Vạn tuế gia có lười biếng một chút, ngủ nhiều một chút cũng là phải đạo. Thế mà hôm nay, người lại thức dậy rất sớm, còn điều động đám người Lý Thọ đi tìm bếp lò, xửng hấp, nồi niêu chén bát các thứ linh tinh mang đến gian phòng phía sau Noãn các. Gian phòng ấy là thế giới riêng của Vạn tuế gia. Bình thường, Vạn tuế gia thích ở trong đó một mình, đọc sách hoặc khắc gỗ, Tô Trường Tín biết cả. Nhưng nấu ăn ư? Ông chưa thấy bao giờ.

Cái ý nghĩ Vạn tuế gia nấu nướng bên bếp lò làm cho Tô Trường Tín rùng mình. Hình ảnh ấy còn đáng sợ hơn cả khi Vạn tuế gia nổi giận đùng đùng đòi chém người này người nọ. Tô Trường Tín lo lắm, nhưng Vạn tuế gia có đủ đồ nghề nấu bếp và nguyên liệu rồi thì đóng chặt cửa, chẳng cho ai vào cả. Tô Trường Tín không nhìn ngó được gì thì lại càng lo hơn. Đêm nay vẫn còn yến tiệc giao thừa, nếu Vạn tuế gia lại nghịch dại gì đó, hay tự làm mình bị thương thì ông biết phải làm sao đây?

Có lẽ ông trời cũng nghe được tiếng lòng thành tâm của Tô Trường Tín, sau hai canh giờ tỏ vẻ thần bí, Vạn tuế gia cuối cùng cũng chịu he hé cửa phòng:

“Lão Tô, vào đây…”

Tô Trường Tín mừng rỡ, nhưng vừa đặt chân vào phòng thì suýt chút lên cơn đau tim. Vạn tuế gia… người thực sự nấu ăn!

Nhìn gương mặt non nớt lem nhem vệt trắng vệt đen của Vạn tuế gia, Tô Trường Tín thở dài. Thì ra là Vạn tuế gia không biết nhóm bếp.

Trên đời có một số điều không thể học qua sách vở. Nhóm bếp chính là một trong số đó. Cũng may, mười năm làm Tổng quản Nội thị giám chưa đủ làm Tô Trường Tín quên đi cách nhóm bếp. Chỉ sau vài động tác đơn giản, ngọn lửa trong bếp lò liền cháy bùng lên. Vạn tuế gia hài lòng, vỗ vai ông mấy cái:

“Lão Tô, vẫn là ông lợi hại nhất.”

Nói đoạn, lại vui vẻ tiếp tục công việc còn dang dở.

Tô Trường Tín lén lút nhìn quanh, không chỗ nào là không có bột mì vương vãi. Vạn tuế gia của ông đang làm bánh bao.

Liếc mắt nhìn qua mấy cái bánh bao to tướng, méo mó đang được Vạn tuế gia cẩn thận xếp vào xửng hấp, Tô Trường Tín không khỏi đổ mồ hôi lạnh, chỉ mong người nấu xong đừng bắt ông ăn thử là phúc đức ba đời nhà ông rồi.

May mắn cho Tô Trường Tín, chẳng biết Vạn tuế gia nhà ông đọc những sách gì, làm bánh ra sao mà cuối cùng cái thì nứt bung cả nhân ra ngoài, cái thì teo tóp chẳng ra làm sao. Thành quả mấy canh giờ nghiêm túc nấu nướng của Vạn tuế gia cuối cùng chỉ còn lại một cái bánh bao duy nhất là nguyên vẹn.

Ấy thế mà Vạn tuế gia có vẻ vui lắm. Tô Trường Tín thấy người rón rén nhấc nó ra đĩa như sợ làm nó bị thương, sau lại chăm chú dùng màu gấc vẽ lên trên một cái mặt cười toe toét rồi mới cho vào hộp gỗ.

Giao cái hộp đựng bánh cho Tô Trường Tín, Vạn tuế gia ra lệnh:

“Đem tới cho Hòa phi. Nhớ không được nhiều lời đấy.”

Gương mặt Vạn tuế gia mỗi khi ra lệnh cho kẻ khác đều rất lạnh lùng đáng sợ, nhưng giờ đây mặt người dính đầy bột mì và muội than lem luốc… Tô Trường Tín cắn chặt răng, vội vàng nhận lấy hộp bánh đi thẳng một mạch, chỉ sợ chậm chân một khắc sẽ không nhịn cười nổi nữa. Cái gì mà nhiều lời với không nhiều lời? Trong Hoàng thành này, ngoài Vạn tuế gia người ra, còn có kẻ thứ hai làm ra được cái bánh bao xấu xí thế này sao?

Đã lâu lắm rồi, Tô Trường Tín không nhìn thấy dáng vẻ hào hứng của Vạn tuế gia. Mỗi ngày người đều cười cợt trêu đùa với các phi tần, nhưng Tô Trường Tín hiểu, trong những nụ cười đó chẳng có bao nhiêu phần vui vẻ. Từ sau khi Hiền phi qua đời, Lê thị sụp đổ, Trịnh thị suy tàn, suốt mấy năm nay, đây là lần đầu tiên Tô Trường Tín lại được nhìn thấy nụ cười đơn thuần cùng với ánh mắt lấp lánh niềm vui của Vạn tuế gia.

Tô Trường Tín bất giác hoảng sợ. Hộp bánh trên tay chợt hóa thành gánh nặng ngàn cân.

Vạn tuế gia của ông lại có thể đích thân làm bánh cho một nữ tử?

Mà nữ tử này lại là vị Hòa phi nương nương dung mạo tầm thường ấy?

Tô Trường Tín nghĩ thế nào cũng không hiểu nổi. Hòa phi thực ra có điểm nào tốt mà Vạn tuế gia lại để tâm như vậy? Nàng ta không có dung nhan động lòng người, cũng không có tài nghệ gì nổi trội, ngay cả thân phận công chúa cao quý cũng là hữu danh vô thực mà thôi. Người như vậy vốn không thể mang lại bất kì lợi ích nào cho Vạn tuế gia. Vạn tuế gia xưa nay ghét nhất là những kẻ vô dụng, vì sao lại có lòng với Hòa phi đến thế?

Tô Trường Tín ôm nỗi băn khoăn ấy trong lòng, khi ông đến Cẩm Tước cung thì vị Hòa phi nương nương kia vẫn còn đang ngủ nướng. Giờ này, e rằng phi tần nào cũng đang tất bật lựa chọn phấn son, trang sức sao cho nổi bật nhất vào dạ yến giao thừa… Vậy mà Hòa phi lại thản nhiên nằm ngủ. Nghĩ lại, Hòa phi cũng chưa từng cầu kiến Vạn tuế gia bao giờ. Ngoại trừ lần duy nhất bị Lý Thọ lừa đến Ngự thư phòng lúc trước, Hòa phi chưa bao giờ chủ động tìm Vạn tuế gia. Món quà duy nhất nàng dâng lên Vạn tuế gia cũng là do tình thế cấp bách, không thể làm khác. Về sau, Vạn tuế gia muốn nàng làm tặng túi thơm khác thì mỗi ngày đều phải cho Lý Thọ đi đốc thúc mới được. Phi tử như thế, Tô Trường Tín chưa thấy người thứ hai.

Tô Trường Tín tự hỏi, phải chăng tính cách an nhiên tự tại, không tranh không đoạt ấy là điều Vạn tuế gia yêu thích?

Tô Trường Tín trao lại hộp bánh cho vị Hòa phi vẫn còn đang ngái ngủ kia mà lòng cứ chùng xuống. Nữ tử lạnh nhạt vô tâm thế này, liệu có hiểu được tấm lòng của Vạn tuế gia hay không?

Về phần vị Hòa phi kia, khi nhận hộp bánh từ tay Tô Trường Tín, nàng vẫn còn buồn ngủ lắm. Thế nhưng, khi nắp hộp mở ra, ánh mắt đương đờ đẫn vì ngái ngủ của nàng lập tức trở nên linh động. Tô Trường Tín thấy thế vội vàng nói ngay:

“Hoàng Thượng chỉ sai lão nô mang cái này đến cho nương nương, những chuyện còn lại lão nô không biết gì cả.”

Hòa phi ngơ ngẩn nhìn cái bánh bao méo mó có hình mặt cười toe toét kia một lúc, chợt nở nụ cười:

“Đa tạ Tô Tổng quản. Bản cung hiểu rồi.”

Thời khắc ấy, Tô Trường Tín bỗng nhận ra vị Hòa phi dung mạo bình thường này hóa ra lại có một nụ cười ngọt ngào đến thế.

Lăn lộn nơi Hậu cung đã mấy mươi năm, Tô Trường Tín luôn rất đa nghi, nhưng không hiểu sao ông lại cảm thấy mình có thể tin tưởng vào lời nói của nàng. Ông tin rằng nàng hiểu.

Nàng nhất định hiểu.

***

Thực ra, Vạn tuế gia rất ghét yến tiệc. Mỗi khi tiệc tan trở về, lúc mà chỉ còn Tô Trường Tín bên cạnh, sắc mặt người sẽ trở nên tối tăm, chuyện nhỏ nhặt gì cũng có thể khiến người cáu gắt. Vậy mà hôm nay, chỉ vì một nụ cười cùng mấy tiếng “bản cung hiểu rồi” nghe từ miệng Tô Trường Tín thuật lại, Vạn tuế gia chẳng còn cáu gắt chút nào.

Theo lệ thì sau dạ yến giao thưà, Vạn tuế gia phải nghỉ lại ở Triêu Lan cung. Nhưng dạo gần đây, Hoàng Hậu quản lý Hậu cung thực sự không được tốt. Tô Trường Tín trộm đoán, có lẽ Vạn tuế gia muốn cảnh cáo Hoàng Hậu, cho nên đêm nay người không đến Triêu Lan cung mà trở về Noãn các một mình.

Tô Trường Tín có vô số điều thắc mắc, nhưng cuối cùng lại không dám mở lời. Chỉ là ông quên mất, bản thân ông hiểu Vạn tuế gia bao nhiêu thì người cũng hiểu ông ngần ấy. Sự băn khoăn được che giấu kĩ lưỡng của Tô Trường Tín không qua được mắt Vạn tuế gia. Người vỗ vai ông, cười hỏi:

“Lão Tô, muốn nói gì thì cứ nói đi. Trẫm không phải đã ban kim bài miễn tử cho ông rồi sao? Không chết được đâu.”

Đã không giấu nổi, chi bằng cứ nói thẳng ra vậy. Tô Trường Tín cười khổ, cố lựa lời sao cho khỏi chọc giận Vạn tuế gia của ông:

“Bẩm Hoàng Thượng… Lão nô vừa nhớ ra là… Từ khi lập đông đến nay, Hoàng Thượng chưa lật thẻ bài của Hòa phi nương nương lần nào…”

Tô Trường Tín biết Vạn tuế gia của ông ghét nhất là người khác xen vào chuyện Hậu cung. Khi nói ra lời này, ông cũng đã chuẩn bị nhận phạt, chẳng ngờ Vạn tuế gia không hề nổi giận. Người bình thản đáp:

“Trẫm sợ lạnh, ông cũng biết mà.”

Vạn tuế gia sợ lạnh, cho nên vào mùa đông người luôn triệu phi tần đến Noãn các chứ không tự mình đến tẩm cung của ai cả. Nhưng như vậy thì gọi Hòa phi đến tiếp kiến như những phi tần kia cũng được mà?

Tô Trường Tín chẹp lưỡi, chưa biết nói tiếp thế nào thì Vạn tuế gia đã như đọc được suy nghĩ của ông. Người khẽ nhún vai:

“Đường xá trơn trợt.”

Bởi vì trời lạnh đường trơn, cho nên không muốn gọi Hòa phi đến ư?

Vạn tuế gia từ lúc nào lại lo nghĩ cho người khác nhiều đến thế?

Tô Trường Tín khẽ lắc đầu. Ông cảm thấy mình đã già rồi. Tâm tình của Vạn tuế gia, ông không hiểu nổi nữa.

Sủng ái cũng Vạn tuế gia đối với Hòa phi thực sự rất mập mờ.

Nói người sủng Hòa phi cũng không đúng lắm. Người đối đãi với nàng không tệ, nhưng cũng không có điểm nào hơn những phi tần khác. Bổng lộc, ban thưởng đều đúng với cung quy, không thiếu nhưng cũng không thừa. Thậm chí thẻ bài của Hòa phi, người cũng chỉ thỉnh thoảng mới lật một lần. Biết Thục phi và Đức phi chèn ép nàng, người để mắt nhưng chẳng can thiệp.

Nhưng nói người không sủng Hòa phi thì lại càng không phải. Kẻ khác có thể không biết, nhưng Tô Trường Tín là người thân cận nhất của Vạn tuế gia. Từng hành vi cử chỉ của người ông đều nhìn rõ. Còn nhớ đêm hôm nào, Hòa phi vì bảo vệ một Thái y vô danh mà ngất xỉu trước Thái Y viện, Vạn tuế gia chẳng ngại trời mưa tầm tã, đích thân đến tận nơi đưa nàng về Noãn các chăm sóc. Lại nhớ một đêm khác, Vạn tuế gia đọc tấu chương đến nhức buốt cả đầu nhưng vừa nghe tin Hòa phi bị Đức phi tố tội, người liền đi một mạch đến Vị Tú hiên khỉ ho cò gáy. Làm như thế không phải vì muốn che chở cho nàng ư? Còn cái lần Hòa phi bị kẻ khác mưu hại thả rắn vào chăn, Vạn tuế gia biết tin nhưng vì sớm hôm sau còn phải thiết triều nên không đi thăm nàng được. Đêm đó không biết Vạn tuế gia đã trở mình biết bao nhiêu lần. Buổi sáng ngày hôm sau, Vạn tuế gia vừa bãi triều liền đi thẳng đến Cẩm Tước cung. Khi ấy Hòa phi còn mê man bất tỉnh, người đã cầm tay nàng, yên lặng ngồi bên cạnh hơn một canh giờ. Nếu không phải có đại thần cầu kiến, có lẽ người sẽ ngồi đó đến khi Hòa phi tỉnh lại mới thôi.

Đã rất lâu rồi, Vạn tuế gia không sủng hạnh Hòa phi. Những kẻ không hiểu chuyện ở Kính sự phòng đã bắt đầu phao tin Vạn tuế gia không còn yêu thích Hòa phi nữa. Tô Trường Tín chỉ biết, chính nhờ không được sủng hạnh mà Hòa phi không phải uống chén canh “an thai” kia, mà món canh ấy đối với nữ nhân chẳng phải thứ tốt đẹp gì.

Tô Trường Tín là kẻ lão luyện. Từ lâu ông đã lờ mờ nhận ra Vạn tuế gia vẫn luôn âm thầm che chở Hòa phi. Thứ tình cảm của người dành cho Hòa phi chẳng rõ tự bao giờ đã không còn giống với loại sủng ái thông thường.

Thứ tình cảm ấy, Tô Trường Tín không dám gọi tên, càng không dám tin nó là sự thật.

Chỉ là hôm nay, tận mắt nhìn thấy Vạn tuế gia vui vẻ làm bánh bao tặng Hòa phi, Tô Trường Tín có muốn không tin cũng không được nữa.

Phía bên kia, Vạn tuế gia sau một ngày mệt mỏi đã ngủ thiếp đi. Hôm nay, tâm trạng của người tốt cho nên nét mặt khi ngủ cũng rất thanh bình.

Tô Trường Tín thở dài thườn thượt, bao nhiêu nỗi lo lắng mới lại ập đến. Biết rằng lời này nói ra sẽ là phạm nghịch, nhưng ông thực lòng quan tâm Vạn tuế gia như người thân ruột thịt của mình. Biết được trên đời này có một nữ tử có thể khiến Vạn tuế gia nở nụ cười hạnh phúc đơn thuần, ông vui mừng lắm chứ. Nhưng cạnh bên niềm vui ấy vẫn tồn tại vô số nỗi lo sợ. Nữ tử ấy liệu có thật lòng đối với Vạn tuế gia hay không? Nàng thân cô thế cô, yếu đuối như thế, liệu có thể tồn tại bao lâu trong chốn Hậu cung hiểm ác này?

Vạn tuế gia quan tâm nàng như vậy, nếu chẳng may nàng không còn nữa, vậy thì người chắc chắn sẽ đau lòng lắm.

Tô Trường Tín ông biết phải làm sao?

Người già thường hay thích thở dài.

Tô Trường Tín cũng thế. Ông thở dài thêm mấy cái nữa, rồi quyết định ngả lưng ở chiếc sạp gỗ nơi gian ngoài, canh giấc cho Vạn tuế gia.

***

Hoàng thành sau thời điểm giao thừa náo nhiệt cũng dần dần chìm vào giấc ngủ.

Chỉ còn một gian phòng nơi chính điện Cẩm Tước cung là vẫn sáng ánh đèn.

Ngọc Nga ngáp dài một tiếng, nhẹ nhàng phủ thêm lên vai nữ tử đương ngồi chống cằm bên chiếc bàn trà nhỏ.

“Chủ nhân, mau ngủ đi thôi. Trời sáng sắp sáng mất rồi. Người cứ hắt xì suốt, không khéo bệnh rồi cũng nên…”

Chu Đan Nguyệt sau khi hắt xì đến lần thứ hai mươi thì mũi đã đỏ như quả cà chua. Nàng nhăn mặt, vừa lau mũi vừa lẩm bẩm:

“Tên chết tiệt nào nói xấu ta mãi thế không biết…”

Nói đoạn, vươn vai một cái nhưng rõ ràng là không hề có ý định đi ngủ.

Ngọc Nga nhíu mày, kéo kéo tay nàng:

“Chủ nhân, đừng thức nữa… Người còn muốn ngồi nhìn cái bánh bao kì cục này đến bao giờ”

Chu Đan Nguyệt phì cười, nhìn lại cái bánh bao này đúng là kì cục thật. Vừa to đùng, vừa méo mó, lại còn có một cái hình mặt cười vẽ nguệch ngoạc bên trên, chắc chắn là không ăn được. Bánh như vậy mà cũng dám mang cho người khác, còn tỏ ra thần bí, chẳng biết trong đầu hắn nghĩ cái gì.

Nếu Ngọc Nga mà biết được suy nghĩ của nàng thì nhất định sẽ bĩu môi nói: “Cái bánh kì cục như vậy mà người ngồi nhìn suốt cả ngày, nô tì mới không biết trong đầu người nghĩ cái gì.”

Đáng tiếc, Ngọc Nga không đọc được suy nghĩ của người khác, chỉ có thể dai dẳng bám lấy nàng, kêu réo không ngừng:

“Chủ nhân, đừng nhìn nữa, ngủ thôi…”

“Ta chưa buồn ngủ.”

“Chủ nhân, ngủ đi mà… Ngày mai nhìn tiếp cũng được mà…”

“Đừng kéo ta…”

“Chủ nhân, ngủ…”

Chính điện Cẩm Tước cung đêm hôm đó, hình như rất lâu sau cũng chưa thấy tắt đèn.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 57: Ngoại truyện: Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can


Khi Lê Khiết nhận ra mình đã yếu như thế nào thì cũng là lúc trời vừa chuyển sang đông.

Nàng khi ấy đang ngồi ở hiên nhà nhìn những thân hoa mới ngày nào còn khoe sắc giờ đã chết đi mấy phần. Nhưng cây cối có mệnh riêng, có chết đi thì sang xuân cũng sẽ đâm chồi. Còn sinh mệnh con người thì mỏng manh, hệt như bông tuyết đầu mùa vừa chạm tay, gặp phải hơi người thì tan biến.

Tuyết bắt đầu rơi xuống ngày một đều hơn, gió theo đó cũng ùa vào mái hiên. Lúc ấy thánh giá cũng vừa đến. Hoàng Đế nhìn thấy nàng ngồi đó, sức lực chẳng còn mà tay lại nâng lấy bông tuyết, gió lạnh thổi bay mấy sợi tóc nàng. Cái dáng vẻ gầy mòn chẳng còn sinh khí làm Hoàng Đế thấy nhói lên. Hắn bước vội đến, đắp lên vai nàng chiếc ao choàng trắng. Nhưng vừa khoác xong, hắn lại thấy màu trắng quá đỗi tang thương, khiến nàng như thể sắp biến mất, vội quát cung tỳ mang đến chiếc áo màu hồng nhạt.

Nhận ra bên cạnh mình có người, Lê Khiết giật mình quay lại, nhìn thấy ánh mắt đượm màu xót xa thì vội vã quỳ xuống, nói:

– Thần thiếp không kịp nghênh đón thánh giá, tội đáng muôn ch…

Không để nàng nói hết câu, hắn vội vã ngồi xuống đỡ lấy nàng.

– Có gì mà đáng chết! – Giọng hắn nghe có mấy phần tức giận. – Nàng đang bệnh, trẫm miễn hết. – Lại quay sang trách đám cung tỳ. – Sao dám để Hiền Phi ngồi ở nơi lạnh như vầy?

– Bệ Hạ. – Lê Khiết nhẹ nhàng gọi. Dường như thanh âm ấy khó khăn lắm mới thoát ra khỏi môi nàng làm hắn giật mình. Hoàng Đế vội vã chăm chú lắng nghe. – Là thần thiếp muốn ngắm tuyết rơi. Đừng trách bọn họ.

Hoàng Đế lập tức đồng ý, nhưng lại sai cung tỳ lấy lò sưởi đến cho nàng.

Mái hiên vốn dĩ chẳng có chỗ ngồi, bây giờ thánh thượng đến liền bày lò sưởi, bày cả ghế ra. Không khi ấm áp lên mấy phần nhưng cũng vì vậy mà chẳng còn bông tuyết nào bay đến bên cạnh nàng. Lê Khiết ngẩn ngơ đưa tay ra như chẳng hề nhớ đến chuyện bên mình còn có đấng uy nghiêm đứng cạnh, nhưng đâu có bông tuyết nào chạm được đến tay nàng nữa.

Ngày hôm đó là ngày đầu tiên tuyết rơi.

Qua ba hôm sau, tuyết rơi dày hơn.

Bây giờ có muốn thì Lê Khiết cũng chẳng thể nào bước chân ra ngoài để ngắm nhìn nữa. Cửa sổ phòng nàng cũng chỉ hé mở vì thái y nói nàng không thể để nhiễm lạnh nữa. Lê Khiết nằm trên giường, dường như chẳng nghe tiếng Thái Y dập đầu với Hoàng Đế:

– Thần…chúng thần quả thật không biết Hiền Phi bị bệnh gì? Mạch tượng tuy có yếu nhưng không loạn, chỉ e… chỉ e là do nương nương bẩm sinh yếu ớt.

– Hoang đường! – Tiếng Hoàng Đế quát lớn. – Hiền Phi bẩm sinh khỏe mạnh hoạt bát, làm sao mà có thể chết yếu ớt hả? – Hắn chuyển sang giọng nghi ngờ hỏi. – Hay là nàng ấy trúng phải độc?

– Bẩm bệ hạ, mạch của Hiền Phi không phải là mạch độc!

– Vậy thì nàng bị làm sao hả?

Lúc này ngoài điện đã im lặng, chỉ nghe tiếng thái y lại dập đầu xin tội. Lê Khiết mới hé môi nói với nô tỳ ra mời Hoàng Đế vào trong.

– Người đừng làm khó họ nữa. Là thần thiếp mệnh yểu.

– Trẫm không cho nàng nói như vậy! Nàng vốn khỏe mạnh hơn cả trẫm, sao lại nói như vậy? Bệnh một chút đã làm nàng mụ mị rồi hay sao?

Thấy hắn kích động như vậy, Lê Khiết dịu giọng nói:

– Là thần thiếp hồ đồ.

Nhìn dáng vẻ cam chịu của nàng, hắn thấy không quen.

Lê Khiết trong kí ức của hắn là một khuê nữ tinh nghịch và ương bướng chứ không phải một người sắc mặt nhợt nhạt đang nằm im, khó khăn lắm mới nói được mấy lời.

Hoàng Đế nhoài người đến ôm chầm lấy nàng, khẽ nói.

– Khi nào nàng khỏe lại ta sẽ dẫn nàng đi xem thao binh, ta sẽ dạy nàng cưỡi ngựa.

– Có phải là ngựa Xích Thố nổi tiếng hung hãn không? – Lê Khiết hỏi lại. Giọng nàng nghe nhỏ lắm rồi.

– Đúng, đúng, là ngựa Xích Thố, có cả ngựa Ô Trung nữa.

Lê Khiết bật cười.

– Ô Trung là tên người gọi chứ có phải giống ngựa đâu.

– Phải… Phải… Khi nào nàng khỏe lại ta sẽ dẫn nàng đi.

Vậy mà Lê Khiết mãi chẳng khỏe lại.

Khi hắn đến Cẩm Tước cung thì tuyết vẫn đang rơi, còn Hiền Phi đang ở giữa sân. Nàng đứng chẳng vững, chỉ có thể tựa vào cây mà hứng lấy những bông tuyết. Nếu là ngày thường Hoàng Đế bệ hạ đã quát tháo đòi chặt đầu mấy kẻ dám để nàng ra ngoài trời. Nhưng lúc này đầu hắn chỉ nghĩ phải làm sao để bảo vệ nàng.

Hắn chạy nhanh đến đỡ lấy Lê Khiết, chỉ thấy nàng mỉm cười mơ hồ:

– Là thần thiếp tự mình ra đây, người đừng phạt họ.

– Không phạt… ta sẽ không phạt họ.

– Bệ hạ?

– Chuyện gì?

– Người đừng đến gặp thần thiếp nữa.

Hoàng Đế nghe như sấm động bên tai, hắn nhìn nàng đầy hoài nghi.

– Sau này thần thiếp sẽ còn tiều tụy hơn rất nhiều, thần thiếp không muốn làm người sợ.

Hắn ôm chầm lấy thân hình yếu ớt của nàng, khẽ lay:

– Nàng thế nào ta cũng chẳng sợ.

– Thần thiếp xin…

Lời còn chưa nói hết, máu đã phun ra ướt đẫm tuyết trắng.

– Khiết nhi!

– Bệ hạ… từ nay về sau, thiếp sẽ không gặp người nữa. Thiếp chỉ mong… chỉ mong ngưới nhớ mãi dáng vẻ hoạt bát cưỡi trên lưng ngựa… trên lưng ngựa của… của thần thiếp… mà thôi. – Nói đến đây, nàng từ từ ngất đi.

Lê Khiết là kẻ cứng đầu. Hoàng Đế sau hôm đó vẫn đến gặp nàng nhưng nàng dùng mạng che kín mặt, lại quay mặt vào tường. Gọi thế nào nàng cũng chẳng nhìn hắn, mà hắn thì lại sợ làm nàng đau.

Hoàng Đế tức giận đến hộc máu, hắn nói:

– Lê Khiết ỷ sủng sinh kiêu, lệnh cho thái y không được sắc thuốc cho nàng nữa.

Nghe đâu ngay sau đó, gia tộc Lê thị hiển hách đột ngột suy tàn, để lại trong cung một Hiền Phi bệnh tật buồn đau.

Rồi ba ngày sau thì Lê Khiết vong mạng.

Và đó là một trong những bí mật mà chẳng một ai dám nhắc lại, còn Cẩm Tước cung cứ thế vắng bóng người.

Thế mới biết, thánh ý thật khó lường.
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom