Cung Đấu Thâm Cung - Trần Lạc Hoa

Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 20


Trong lúc nhìn Thái
hậu, ta cảm nhận rõ ràng ánh mắt bà cũng đang tỉ mỉ đánh giá ta. Cẩn
thận sát hồi lâu, có lẽ đã đánh giá xong, Thái hậu mới cười hỏi:

“Ngươi tên là gì?”

Ta cụp mắt nhìn xuống, lễ phép đáp:

“Bẩm Lão Phật gia, thần thiếp tên gọi Đan Nguyệt.”

Thái Hậu gật đầu:

“Hình đan ảnh chích – Nguyệt lạc tinh trầm.(1) Rất có ý vị. Dáng vẻ cũng
không tệ. Dù không phải quốc sắc thiên hương nhưng đường nét ôn hòa,
thanh nhã… Da thịt trắng trẻo, đầy đặn khỏe khoắn. Đây là quý tướng
vượng phu ích tử, nhất định có thể giúp Hoàng thượng khai chi tán diệp.
Rất tốt, rất tốt. Nào, mau lại đây ngồi cạnh ai gia.”

Ta tập võ
từ nhỏ, thân thể rắn rỏi hơn người thường là lẽ đương nhiên. Vì thuở nhỏ ăn uống có phần thiếu thốn nên không đến nỗi bắp thịt cuồn cuộn như
người tập võ bình thường, nhưng chắc chắn không thể mảnh mai, yểu điệu
như nữ nhân khác. Từ lúc đến Bách Phượng, dù không có cơ hội luyện võ
như trước nhưng nhờ ăn uống đầy đủ nên thân thể ta càng tròn trịa hơn.
Thẳng thắng mà nói thì ta cũng chỉ tính là có da có thịt, nhưng trước
nay sống trong hậu cung, nơi nào cũng đầy ắp mỹ nữ mình hạc xương mai
nên ta luôn bị chê cười là thô thiển, không ngờ trong mắt Thái Hậu lại
thành “đầy đặn khỏe khoắn”, lại còn “vượng phu ích tử”. Thẩm mỹ của Thái Hậu quả là khác người.

Khâm cô cô nghe Thái Hậu ban tọa, bèn sai người mang đến một chiếc ghế nhỏ kê bên cạnh Thái Hậu. Ta nhẹ nhàng tạ
ơn, rồi tiến đến nhận chỗ ngồi. Liễu Thục phi vừa thấy ta lại gần liền
bĩu môi, liếc xéo. Cũng may Khâm cô cô tinh tế, lúc kê ghế cho ta đã kê
về phía Hoàng hậu, nếu không mà ngồi gần Liễu Thục phi, thật không dám
tưởng tượng hậu quả.

Ta vừa đặt mông ngồi xuống, Thái Hậu liền cầm lấy tay ta, nói:

“Hôn lễ của ngươi, ai gia lại đi xa, không thể chúc phúc cho ngươi, là lỗi
của ai gia. Vốn dĩ đã định sẽ về sớm, chỉ tại thân già này đau bệnh liên miên, mới để lỡ dịp trọng đại nhường ấy. Ngươi không trách ai gia chứ?”

Ta vội đỡ tay Thái Hậu, lắc đầu:

“Lão Phật gia không quản đường xá xa xôi đi lễ Phật, cầu phúc cho muôn dân, thần thiếp sao có thể trách người?!”

Thái Hậu mỉm cười, tiếp tục hỏi han:

“Ở đây đã quen chưa? Có nhớ nhà không?”

Ta đáp:

“Dạ, nhờ có Hoàng hậu cùng các vị tỷ muội giúp đỡ, thần thiếp đã quen rồi.
Thỉnh thoảng cũng có nghĩ tới cuộc sống khi trước, nhưng bây giờ đây mới là nhà thần thiếp ạ.”

“Ngoan lắm, ngoan lắm…”

Nhìn thấy
Thái Hậu vui vẻ hài lòng, ta như tháo được gánh nặng. Thái Hậu lại còn
là cô cô của Hoàng Hậu, có lẽ sau này cũng sẽ không làm khó gì đâu. Đúng lúc đó thì Triệu Đức phi cất tiếng hỏi:

“Hòa tỷ tỷ, Kiều nhi
nghe nói tỷ tỷ đã chuẩn bị cho Lão Phật gia một món quà ra mắt hết sức
đặc biệt, liệu có thể cho chúng muội muội được mở mang tầm mắt không?”

Vừa gọi ta là tỷ tỷ, lại còn xưng “Kiều nhi” với ta. Triệu Đức phi lúc nào cũng biết cách khiến ta nổi hết da gà.

Mấy ngày qua, lễ vật từ các cung mang đến Thuận Ninh cung vô số, chỉ có Cẩm Tước cung của ta là im hơi lặng tiếng. Triệu Đức phi hẳn đã biết thừa
ta chẳng có thứ gì hay ho, lại muốn làm ta mất mặt đây mà.

“Đứa trẻ này thật là… Có lòng là được, lễ vật gì chứ!”.

Thái Hậu phì cười. Triệu Đức phi nói năng đường đột nhưng bà không hề nổi
giận. Đổi lại là Liễu Thục phi, có lẽ đã bị trách phạt rồi. Thái Hậu là
người nhà của Hoàng Hậu, mà Hoàng Hậu cùng Triệu Đức phi luôn đối đầu
nhau. Thái Hậu đối với Triệu Đức phi khoan hòa như thế chẳng phải có
chút kỳ quái sao? Thái Hậu có tiếng nhân từ hiền đức, Triệu Đức phi
ngược lại thâm hiểm ngoan độc. Nếu như nói Thái Hậu vì quý mến con người Triệu Đức phi mà không quản gia thế hai bên thì lại càng kì quái hơn.
Đáng tiếc, ta lại không có thời gian suy nghĩ nhiều vì bên kia, Tĩnh Tần đã thêm lời phụ họa:

“Ồ, thần thiếp cũng nghe nói Hòa phi nương
nương gần đây đã tận tâm tận lực chuẩn bị lễ vật kính dâng lên Lão Phật
gia, nếu bây giờ Lão Phật gia không xem thì đã phụ tấm lòng của Hòa phi
rồi.”

Con người ta không thích thị phi, vì vậy dự tính để sau khi mọi người trở về mới dâng lễ vật là mười bản kinh Phật lên, tránh để
người khác có cơ hội dị nghị. Nhưng bây giờ xem ra không nán lại được
nữa, bèn ra hiệu cho Ngọc Thủy mang lễ vật dâng lên.

“Đây là thứ gì? À, là kinh văn sao?...”

Ta đáp:

“Dạ phải.”

Khâm cô cô nhận kinh Phật từ Ngọc Thủy, đưa đến cho Thái Hậu. Thái Hậu nhón
tay lấy một bản, lật ra xem. Mặt phượng hơi nheo lại. Có lẽ chữ viết của ta thật sự rất xúc phạm người nhìn.

Liễu Thục phi ngồi cạnh
Thái Hậu, thấy sắc mặt bà kì lạ, cũng tò mò nghiêng đầu sang xem trộm,
mắt vừa nhìn vào trang giấy liền không nhịn được mà bật cười khúc khích. Thái Hậu liền trừng nàng một cái. Nhưng Thục phi đã cười đến tối mặt
tối mày, làm sao còn thấy được.

“Ha ha… Chữ viết như vậy mà cũng đi viết kinh văn làm quà… Thật khiến người ta chết cười…”

Ta sớm đã dự liệu chuyện này, liền trôi chảy đáp:

“Thần thiếp nghe nói sức khỏe Lão Phật gia gần đây không tốt nên muốn chép
kinh Phật cầu phúc cho Lão Phật gia mau khỏi bệnh… không ngờ lại… chỉ có thể trách thần thiếp ít học, vô năng, khiến cho mọi người phải chê
cười.”

Nói xong, không quên cúi đầu đỏ mặt.

Ta vừa nói xong, Liễu Thục phi lại há miệng định chỉ trích thêm nhưng Hoàng Hậu đã kịp thời lên tiếng nói đỡ:

“Sao muội muội lại nói như thế? Muội muội lúc nhỏ mệnh khổ, không được học
hành. Bây giờ mới học chữ một thời gian ngắn, viết được như vậy đã là
rất tốt rồi. Lúc chúng ta mới tập viết, chưa chắc đã viết tốt như muội
đâu. Bản cung nói có đúng không, Đức phi?”

Triệu Đức phi bị Hoàng Hậu lôi vào, dĩ nhiên không thể nói khác, chỉ cười giả lả:

“Đúng là như vậy.”

Thái Hậu lại chép miệng, đặt bản kinh Phật xuống, nhìn ta cười bao dung:

“Ai gia cũng cho rằng kinh văn này viết rất tốt. Lát nữa ai gia sẽ mang vào Phật đường, tụng những bản kinh này, hồi hướng công đức cho chúng sinh. Nữ nhân ít học là đức. Chỉ cần biết đọc biết viết là đủ rồi. Học nhiều
chữ nghĩa quá, không cẩn thận lại hóa thành miệng lưỡi không xương, hồng nhan họa thủy.”

Nói xong, bèn lạnh nhạt liếc qua Liễu Thục phi.
Hai má Liễu Thục phi đỏ lên, môi mím chặt, rõ ràng là tức giận nhưng lại chẳng dám hé môi phản bác. Các phi tử ngồi bên dưới, có mấy người không nhịn được đã che miệng cười.

Căn nguyên câu chuyện này, ta từng nghe cung nhân kể sơ qua. Đại khái là khi Liễu Thục phi mới nhập cung,
nhờ có gia thế hiển hách mà được phong ngay làm tam phẩm Quý tần, nhưng lại không nhận được sủng ái vì lúc đó Hoàng Đế đương chung tình với Lê
Hiền phi. Đến tận khi Lê Hiền phi qua đời, mới tranh thủ cơ hội tiếp cận Hoàng Đế. Biện pháp tiếp cận cũng rất tao nhã, chính là đàm luận thi
thơ. Giai nhân khuynh quốc khuynh thành, tay cầm thi tập, miệng nhàn
nhạt ngâm thơ, dáng vẻ trầm tư, phong nhã vạn phần. Hình ảnh đó phải đẹp đẽ đến nhường nào? Nếu Hoàng Đế không thích thì hắn chắc chắn có vấn
đề. Nếu Liễu Thục phi chỉ là đạp lên thi văn mà tiến thân thì cũng không có gì đáng nói. Chỉ là lúc sau mới lộ ra tin Liễu Thục phi vốn không hề có duyên với thi văn, tất cả đều là kế hoạch của nàng. Biết Hoàng Đế
thích nữ nhân văn nhã, nàng đã dày công điều tra những bài thơ, những
thi gia mà Hoàng Đế yêu thích, lại mướn nhiều học giả đến viết lời bình, cũng như thơ đối các loại rồi học thuộc tất cả, chỉ gặp Hoàng Đế là xổ
ra mà thôi. Tin đồn rồi cũng lan đến tai Hoàng Đế, nhưng lúc đó Hoàng Đế đã sủng ái nàng ta rồi, cho nên không trách cứ gì, ngược lại còn phạt
nặng những cung nhân lan truyền tin tức này. Nghe nói, tổng cộng đã có
hai mươi cung nữ và tám thái giám bị đánh chết, còn có mấy vị Phương
uyển, Tiểu viện, Hoa dung bị vạ lây. Từ đó, không ai dám đàm tiếu nữa.
Chuyện đã bại lộ, lại biết được sủng ái của Hoàng Đế đối với mình không
đổi, Liễu Thục phi bèn không thèm che dấu nữa, hiện nguyên hình là một
nữ nhân hống hách ngang ngược như hiện nay. Cứ tưởng chuyện vậy là xong, hóa ra Thái Hậu vẫn luôn không vừa lòng. Mối quan hệ giữa Thái Hậu và
Thục phi có vẻ rất xấu.

Thời gian trôi qua, Thái Hậu cùng mọi người nói chuyện phiếm, thi thoảng nhớ ra chuyện gì lại hỏi han người
này, người kia. Duy chỉ có Bạch Thường tại và Tố Tu nghi là không hỏi
tới. Buổi gặp mặt đầu tiên của ta và Thái Hậu xem như êm đẹp.

***

Thái Hậu rõ ràng có uy hơn Hoàng Hậu. Dù bà không trực tiếp ra mặt nhưng từ
lúc trở về, trật tự hậu cung cũng dần dần lặp lại. Nghe nói Hoàng Đế mấy ngày nay đã chịu lật thẻ bài của các phi tử khác, không chỉ ở lì trong
Mẫu Đơn cung và Hạ Lê cung nữa. Mưa móc ban phát đều khắp hậu cung, hôm
nay cũng rơi đến chỗ ta một ít.

Kính Sự phòng vừa cho người đến
báo Hoàng Đế muốn nghỉ lại chỗ ta, toàn bộ Cẩm Tước cung liền rộn ràng
như ngày Tết. Ngọc Nga, Ngọc Thủy lôi ta đi tắm rửa sạch sẽ, thơm tho,
mặc lên một chiếc váy tinh tế quyến rũ. Ngọc Thủy muốn bới tóc cho ta
thật đẹp, Ngọc Nga lại cho rằng chỉ cần chải cho mượt rồi xõa sau lưng
là đủ phong tình. Nói đến những thứ “phong tình”, Ngọc Nga dĩ nhiên hiểu biết hơn cả. Vì vậy, mọi chuyện để cho nàng định đoạt. Khi ta chuẩn bị
xong xuôi thì Tiểu Phúc Tử và Ngọc Hy cũng dọn dẹp phòng ốc, trà nước
đâu ra đó.

Thời gian còn sớm, Hoàng Đế chưa đến, ta bèn cùng
Ngọc Nga, Ngọc Thủy và mấy cung nữ thân cận nữa nói chuyện bâng quơ.
Cuộc sống của phi tử, ngoại trừ việc chạy theo Hoàng Đế và mưu hại lẫn
nhau thì chỉ còn mỗi việc nói chuyện bát quái giết thời gian. Câu chuyện từ những việc lặt vặt vô hại, đưa đẩy thế nào không rõ, rốt cuộc lại
tới chỗ Bạch Thường tại.

Ngọc Hy nói:

“Chủ nhân biết không, cuộc sống của Bạch Thường tại khổ sở không sao kể xiết!”

Nghe đến Bạch Thường tại, lòng ta hơi động nhưng chỉ bình thản hỏi lại:

“Sao có thể? Nàng ấy dù sao cũng vẫn là chủ tử, Vị Tú hiên thật không sánh
được với Huệ Đàm cung, nhưng Hoàng Hậu nương nương đã sắp xếp cho nàng
ấy. Sẽ không đến mức khổ sở đâu…”

Ngọc Hy lắc đầu:

“Hoàng
Hậu nương nương có lòng, nhưng cũng không quản nổi. Cung nhân ở đó đều
cho rằng Bạch Thường tại đã mất hết tiền đồ, nên đều bỏ đi nơi khác cả
rồi. Chỉ còn một cung nữ hầu hạ… mà cung nữ đó tính tình cũng không tốt. Việc ăn uống, sinh hoạt đã bị hạ nhân ở cục Thượng cung tham lam bớt
xén thì thôi, về đến Vị Tú hiên còn bị cung nữ đó tiếp tục ăn chặn. Bạch Thường tại đau buồn ngã bệnh, thái y lại khi dễ, chỉ khám qua loa, mãi
không khỏi được. Các vị nương nương khác cũng xa cách, không có ai đến
thăm hỏi cả.”

Ngọc Nga nghe vậy, thương xót nói:

“Thật đáng thương! Ngày trước còn là Bạch phi cao cao tại thượng, bây giờ lại…”

Ta làm bộ hỏi Ngọc Hy:

“Không có ai đến? Trịnh phi cũng không?”

Ngọc Hy sụt sùi:

“Bẩm chủ nhân, Trịnh phi cũng không thấy ạ. Khổ thân Bạch Thường tại…”

Trong lòng ta nhẹ nhõm. Vậy là Trịnh phi đã nghe lời khuyên can của ta. Chỉ tội Bạch Thường tại.

Ta chống cằm, làm bộ nghĩ ngợi một chút rồi cất tiếng hỏi:

“Các ngươi nghĩ bản cung có nên đến thăm Bạch Thường tại một chuyến không?”

Ngọc Hy mau mắn đáp:

“Nếu chủ nhân có thể tới chỗ Bạch Thường tại thì tốt quá rồi. Tình cảnh nàng bây giờ thật sự rất cần người giúp đỡ…”

Ngọc Thủy cau mày, chen ngang vào :

“Nô tỳ lại không nghĩ vậy. Bạch Thường tại cùng chủ nhân lúc trước không có giao tình gì. Bây giờ nàng ta gặp họa, ai cũng tránh xa, người cũng
đừng nên thân cận mới phải. Tránh xảy ra chuyện gì không hay.”

Ngọc Hy liền cãi lại:

“Chỉ là đến tặng chút đồ, giúp đỡ cuộc sống của Bạch Thường tại một chút thì có thể xảy ra chuyện gì chứ? Trong cung ai cũng nói chủ nhân nhà chúng
ta lòng dạ bồ tát, nếu như người bỏ mặc Bạch Thường tại thì mới là tổn
hại thanh danh…”

Ta thở dài, phẩy tay ngăn hai người bọn họ lại:

“Thôi thôi, các ngươi đừng cãi nhau nữa. Bạch Thường tại… ít hôm nữa bản cung sẽ tới thăm nàng.”

Nghe ta nói xong, hai mắt Ngọc Hy sáng rực, luôn miệng khen chủ nhân từ bi. Ngọc Thủy ngược lại nói:

“Chuyện này chủ nhân nên suy nghĩ lại…”

Ta gạt đi:

“Bản cung tự biết cân nhắc. Ngươi không cần nói nữa. À, bình trà này để lâu
như vậy, hình như đã nguội rồi. Ngọc Hy, đi thay bình khác cho bản cung. Mau lên, đừng để Hoàng thượng tới lại không có trà uống.”

Ngọc Hy vui vẻ vâng lời, bưng trà đi thay. Nhìn thấy nàng đi xa rồi, Ngọc Nga mới cười hỏi:

“Chủ nhân nghĩ sao?”

Ta cũng cười cười:

“Đứa trẻ này xinh xắn, lại nhanh nhẹn, khéo tay. Đáng tiếc không dùng được.”

Ngọc Thủy tròn xoe mắt:

“Này… là ý gì?”

Ta xoa đầu nàng, nói:

“Ngọc Hy xem ra đã nhận tài lộc của người khác rồi.”

Ngọc Nga liền hỏi:

“Như vậy có cần nô tỳ đi xử lý nó?”

Ta lắc đầu:

“Đừng vội. Ngươi trước tiên đến phòng nghỉ của nó, kiểm tra xem có thứ gì
không nên có hay không. Nhớ cẩn thận, chớ để ai biết.”

Nói đoạn, quay sang Ngọc Thủy hỏi:

“Ở Hạ Lê cung ngươi có quen biết ai không?”

“Dạ, cũng có vài tỉ muội…”

“Thế thì tốt, chúng ta phải bắt đầu chuẩn bị một số chuyện thôi.”

***

Nửa đêm trăng sáng, Hoàng Đế đã ngủ say. Ta khó ngủ, bèn nhẹ nhàng chui ra
khỏi vòng tay Hoàng Đế, rót một ly trà rồi đến ngồi bên cửa sổ. Gió mát
nhẹ nhàng lùa vào tóc ta, khiến lòng ta chợt thanh tỉnh. Quay đầu nhìn
lại, Hoàng Đế ở trên giường vừa trở mình một cái. Hắn vừa ngáy khì khì,
vừa quơ tay chung quanh, có lẽ muốn tìm ta nhưng không thấy, đổi lại tóm được một góc chăn, bèn ôm vào lòng, còn cười mơ màng. Hắn nằm nghiêng,
mấy lọn tóc dài đen óng, mềm mại rũ xuống mặt hắn, càng tôn thêm vẻ đẹp
trong trẻo.

Mỗi lúc nhìn Hoàng Đế ngủ, ta đều nghĩ nếu Bách
Phượng không cầu thân, nếu ta không gả đến Bách Phượng thì sẽ thế nào?
Có thể ta sẽ chết già ở Viên Linh các, cũng có thể sẽ được gả cho một
quan viên nhỏ nào đó. Nếu không gả đi được thì vẫn có Lý Thanh Phong bầu bạn. Ta tin rằng dù cho bao nhiêu thời gian trôi qua, Người cũng sẽ
không bỏ rơi ta. Còn nếu gả đại cho một trượng phu tầm thường, chí ít
dựa vào hư danh công chúa, ta chắc chắn nắm được vị trí chính thất.
Trượng phu giỏi lắm thì cũng chỉ cưới thêm năm, bảy tiểu thiếp. Ta vốn
chỉ nghĩ như thế, chưa từng chuẩn bị tâm lý rằng có một ngày, mình sẽ
phải đối phó không chỉ năm, bảy nữ nhân tầm thường mà là cả một hậu cung đầy ắp mỹ nữ lòng dạ rắn rết như thế này. Nghĩ đến chuỗi ngày tranh đấu này sẽ vĩnh viễn không chấm dứt, ta bất giác cảm thấy tuyệt vọng, bèn
lắc đầu xua đi những suy nghĩ u ám này, quyết định trở về giường ngủ. Dù sao đi nữa, muốn tranh đấu cho tốt thì thân thể phải khỏe mạnh, ăn ngủ
điều độ là điều cần thiết.

Trong lúc chui vào chăn, vô tình lại đụng trúng Hoàng Đế. Hắn bị ta đánh thức, nhăn nhó ngáp dài một cái:

“Sao còn chưa ngủ?”

Ta sợ hắn nổi giận, vội tạ tội:

“Thần thiếp khó ngủ nên ra ngoài uống một ly trà… không ngờ lại kinh động
Hoàng thượng… Thần thiếp không có ý, xin Hoàng thượng tha tội…”

Hoàng Đế dụi mắt, tặc lưỡi nói:

“Có gì đâu. Đừng làm to chuyện. Lại đây, trẫm ôm nàng, nàng sẽ ngủ được
ngay thôi. Mỗi lần Thục phi khó ngủ đều đòi trẫm ôm như vậy. Sau đó tự
nhiên sẽ ngủ ngon ngay.”

Nói xong liền kéo ta vào lòng, ôm chặt.

Ngay cả chuyện dỗ Thục phi ngủ cũng kể ra, Hoàng Đế không biết là vô tư hay
là vô tình. Nếu không phải ta mà là phi tử khác, có khi đã bị câu nói
này của hắn làm cho đau lòng tới chết.

“Tạ ơn Hoàng Thượng.” Ta ngoan ngoãn rúc vào lòng Hoàng Đế.

Hắn xoa đầu ta, hỏi:

“Vì sao nàng không ngủ được? Nhớ Tùy Khâu ư?”

Ta áp mặt vào ngực hắn, khẽ cười:

“Thần thiếp từ nhỏ đến lớn chỉ sống trong một tòa các cũ nát sâu trong hậu
cung, nào có thấy được Tùy Khâu như thế nào. Lần duy nhất ra khỏi cửa
thì đã gả đến đây rồi.”

Hoàng Đế nghe vậy, liền bật cười:

“Tốt quá! Như vậy sau này, trẫm chinh phạt Tùy Khâu cũng sẽ không làm nàng đau lòng.”

Ta giật mình:

“Hoàng thượng nói thật sao?”

Hắn cười cười:

“Đương nhiên là thật. Sau này sẽ có một ngày… trẫm mang tứ đại thần quốc sáp
nhập thành một. Hơn trăm tiểu quốc còn lại sẽ trở thành chư hầu của Bách Phượng vĩnh viễn.”

Lời nói lẫn trong tiếng cười thanh thúy, nửa
đùa nửa thật nhưng vẫn chứa đựng tráng chí to lớn mà một tiểu tử mười
bảy tuổi bình thường sẽ không thể nào có được.

Ngày xưa, khi ta
còn nhỏ thường hay đòi Lý Thanh Phong kể chuyện cho nghe. Nhưng Lý Thanh Phong là võ tướng, nào biết những câu chuyện dỗ trẻ con. Để vừa lòng
ta, Người bèn đem chuyện chính sự, ngoại giao, vân vân các thứ kể cho ta nghe. Dĩ nhiên không nói đến cơ mật trọng yếu gì, nhưng qua đó ta cũng
nắm được tình hình đại khái.

Ở vùng trung nguyên này có hơn trăm
nước lớn nhỏ. Trong đó, bốn nước lớn nhất là Bách Phượng, Ngụy Ảnh, Tùy
Khâu, Đại Chiếu. Bốn nước này dĩ nhiên có kẻ mạnh người yếu, nhưng bề
ngoài thì thực lực quân sự và kinh tế là tương đương, tự xưng tứ đại
thần quốc, mỗi nước trấn giữ một phương. Tuy luôn ngấp nghé nhau, nhưng
chưa có nước nào khởi binh là bởi vì còn lo sợ bị ba nước còn lại liên
kết với nhau nuốt trọn, hoặc là lo sợ hai nước giao tranh, kẻ khác sẽ
làm ngư ông đắc lợi. Hoàng Đế muốn thống nhất tứ đại thần quốc, ắt phải
chờ tới lúc Bách Phượng lớn mạnh hơn cả ba nước còn lại. Đương nhiên
cũng có thể liên minh với nước khác tiến hành chiến tranh nhưng muốn áp
đảo cả ba nước còn lại thì thực lực quân sự phải vô cùng hùng mạnh. Dù
ta cảm thấy Bách Phượng có phần hơn hẳn Tùy Khâu, nhưng nếu nói muốn thu lấy cả ba thần quốc… e rằng ngày ấy còn rất xa.

Hoàng Đế thấy ta không đáp, liền siết lấy ta một cái, hào hứng hỏi:

“Sao hả?”

Ta đáp:

“Hoàng thượng chí lớn bốn phương, thần thiếp bội phục.”

Bàn tay Hoàng Đế đang đặt trên lưng ta, bất ngờ luồn vào trong áo. Ta giật
mình chưa kịp đỏ mặt thì phát hiện hắn đang v**t v* những vết sẹo lờ mờ
trên lưng ta.

“Nàng có hận bọn họ không?”

Hoàng Đế thì thầm bên tai ta. Hơi thở lạnh lẽo của hắn quẩn quanh bên gáy, làm ta thoáng rùng mình.

“Rất hận.” Ta thành thật đáp.

Nữ nhân hiền lương thục đức thì nên đáp lại là “Thần thiếp không hận ai
cả. Bọn họ đều có nỗi khổ tâm” mới phải. Đáng tiếc, những kẻ đã hại chết mẫu thân ta, lại ngày ngày hành hạ ta, ta hận đến thấu xương là điều
chính đáng. Nếu nói không hận, có khi ta sẽ hóa thành thánh nữ bay vút
lên trời mất.

“Nếu như có một ngày trẫm thống nhất thiên hạ rồi. Những kẻ từng đối xử tệ với nàng, trẫm sẽ khiến chúng sống không bằng chết.”

“Thần thiếp thật mong chờ ngày đó.”

Hoàng Đế tựa cằm lên tóc ta, hai tay càng ôm ta chặt hơn. Hắn nói:

“Trẫm nhất định sẽ cho nàng ngày đó.”

Giọng nói nhừa nhựa, nhỏ dần đi. Ta biết hắn ngủ rồi nên không đáp nữa, chỉ
đưa tay xuống ôm ngang thắt lưng hắn, nhắm mắt thả lỏng người. Những kẻ
làm vua hình như rất thích hứa hẹn.

Cơn buồn ngủ chậm rãi kéo đến. Mùi hoa dạ lan trên người Hoàng Đế mơ hồ xông vào mũi ta.

Nghe nói dạ lan là một loài hoa bạc mệnh.

(1)

Hình đan ảnh chích: hình đơn bóng lẻ.

Nguyệt lạc tinh trầm: trăng xuống thấp, trời về sáng.

“Đan Nguyệt” đại ý chỉ vầng trăng đơn lẻ trên bầu trời đêm.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 21


Ngoài chuyện mỗi ngày thỉnh an vào buổi sáng, thỉnh thoảng Thái Hậu cũng cho gọi phi tử đến
cùng bà dùng thiện. Ai ai cũng muốn lấy lòng Thái Hậu, nên hầu như bầu
không khí rất vui vẻ, hòa nhã. Tuy ta không ưa thích gì sự giả dối đó,
nhưng ý Thái Hậu đã vậy, muốn trốn cũng không trốn được, chỉ có thể
ngoan ngoãn xuất hiện, ai hỏi gì đáp nấy, nếu không ai hỏi tới thì cứ
cắm đầu ăn thôi. Thực ra, thời gian dùng thiện với Thái Hậu là lúc phi
tần tranh thủ nịnh bợ, đâu ai rảnh rỗi hỏi han đến ta. Vì vậy, ta có thể rảnh rỗi chú tâm vào thức ăn trên bàn. Có mặt Thái Hậu, ăn uống phải
giữ ý tứ, không thoải mái như ở nhà nhưng bù lại thức ăn trong Thuận
Ninh cung rất ngon. Lại nói, vì lấy lòng Thái Hậu, các phi tần thường
xuyên dâng lên các món chay thơm ngon mới lạ. Ta nhờ phúc Thái Hậu cũng
được ăn ké không ít món quý.

Ví như hôm nay, Liễu Thục phi dâng
lên một món gọi là Thanh Thủy Canh. Món canh này nhìn vào chỉ thấy một
màn nước trong veo, lác đác rau cải xanh, củ cải đỏ, hạt bắp vàng cùng
mấy loại nấm trắng, nấm nâu. Thoạt nhìn rất đạm bạc nhưng vừa mở nắp đã
nghe mùi thơm lan tỏa nức lòng. Ngửi mùi này, ai nấy cũng đều trầm trồ
khen ngợi. Tất cả đều nôn nóng thưởng thức mỹ vị đặc biệt của Liễu Thục
phi, nhưng Thái Hậu chưa động đũa, nên chúng phi chỉ đành ngồi nhìn một
cách háo hức. Riêng Tĩnh Tần không biết nôn nóng đến mức nào mà vươn hẳn người ra, hai mắt nhìn tô canh chằm chằm, cánh mũi còn hơi giật giật.
Bộ dạng luống cuống, chung quanh đã có người cười nhạo nhưng nàng ta
chẳng để ý, chỉ chú tâm hít hà tô canh đằng xa. Liễu Thục phi thấy thế,
hết sức hài lòng, trên mặt lộ ra kiêu ngạo khiến ta buồn cười không chịu nổi. Liễu Thục phi thấy ta mím môi nén cười, nhưng lại nghĩ ta cười
Tĩnh Tần nên không phát hỏa. Thật là may mắn!

Thái Hậu nhìn món Thanh Thủy Canh, nét mặt có chút tán thưởng, mở miệng gọi:

“Khâm Như.”

Khâm cô cô hầu bên cạnh liền lấy ra chén muỗng bạc, múc vơi nửa bát canh, đưa cho tiểu cung nữ đang đứng đợi.

Tiểu cung nữ này tên Vũ My. Nàng là cung nữ chuyên thử độc cho Thái Hậu.
Những thứ đem từ ngoài Thuận Ninh cung vào đều phải đưa nàng thử trước.

Vũ My cẩn thận múc một muỗng canh nhỏ đưa lên môi. Động tác chậm rãi tới
mức làm những người đang chờ đợi như bọn ta đều phải sốt ruột. Canh vào
đến miệng, Vũ My trầm ngâm một chút, rồi đột nhiên ngẩn ra, ngơ ngác như người mộng du. Khâm cô cô thấy vậy mới đón lấy bát canh, lo lắng gọi:

“Vũ My! Vũ My! Ngươi sao vậy? Canh có vấn đề gì sao?”

Thái độ kỳ quặc của Vũ My bất giác đã dọa mọi người hoảng sợ. Ta thấy Thái
Hậu lạnh lùng liếc nhanh sang Liễu Thục phi. Ánh mắt mang hàm ý cảnh
cáo.

“Vũ My! Canh của bản cung sao lại có vấn đề được?!” Liễu Thục phi hoảng quá gắt lên.

Vũ My nghe tiếng gắt chói tai, mới hoàn hồn lại, sợ hãi quỳ xuống đất thưa:

“Canh không có vấn đề gì ạ! Chỉ là… nô tỳ chưa bao giờ được ăn thứ gì ngon
như vậy… cho nên… cho nên luống cuống… xin Lão Phật gia tha tội…”

Thái Hậu nghe xong, phì cười:

“Thì ra là vậy. Mau đứng lên đi. Không ngờ món ăn của Thục phi lại mê người đến thế. Thật khiến ai gia hiếu kỳ.”

Vẻ mặt mới lạnh lùng với Liễu Thục phi xong, giờ đột ngột chuyển thành
hiền hòa. Sự thay đổi chóng mặt này giống Hoàng Đế đến mấy phần. Tính
cách cả hai đều khi nóng khi lạnh, nguy hiểm khó đoán y hệt nhau, không
phải mẫu tử ruột thịt mà giống nhau như thế, quả là kỳ lạ. Ai nói Thái
Hậu nhân từ, hiền lương ta không biết. Bản thân ta tiếp xúc một thời
gian ngắn, chỉ thấy bà dù đối với người khác hiền dịu nhưng trong ân cần có xa cách, tâm tư xa vời không thể nhìn thấu, càng không thể đoán
được. Hơn nữa, bà đối với Liễu Thục phi lại luôn lạnh lùng, nghiêm khắc
khác thường. Nếu đã là người tu hành nhân từ trí huệ, làm sao lại có thể có thành kiến nặng nề như thế? Thật khiến người ta phải suy nghĩ.

Lúc này, Khâm cô cô đã múc xong bát canh khác dâng lên Thái Hậu. Thái Hậu
chậm rãi khuấy nhẹ canh, từ từ đưa lên miệng. Có thể nói, ánh mắt của
chúng phi đều tập trung cao độ, đặc biệt là Liễu Thục phi. Không nói
cũng biết, nàng ta đã dành bao nhiêu công sức vào món canh này, đương
nhiên hy vọng làm đẹp lòng Thái Hậu.

Thế nhưng…

“Lão Phật gia, canh này người không thể ăn!”

Tĩnh Tần đột ngột la lên, đồng thời giật lấy tay áo Thái Hậu.

Thái Hậu bị lôi kéo bất ngờ, bát canh trên tay rơi xuống bàn, nước canh tung tóe cả lên người bà. Hoàng Hậu và Đức phi ngồi gần cũng bị vạ lây.

“Tĩnh Tần, sao có thể bất kính như vậy? Lão Phật gia có bị thương không?”

Hoàng Hậu kinh hãi nói, mặc kệ nước canh nóng chảy nhiễu trên phượng bào của
mình, mau chóng rút khăn tay lau cho Thái Hậu trước.

Khâm cô cô thấy vậy cũng vội vàng nói:

“Hoàng Hậu nương nương, để Khâm Như.”

Thái Hậu cúi đầu, nhìn thấy ngực áo mình ướt đẫm, thần sắc liền xấu đi, nhưng chỉ hỏi:

“Như vậy là ý gì?”

Lời nói vẫn nhẹ nhàng nhưng mang theo sự lạnh lùng, làm cho Tĩnh Tần rét
run. Trước cảnh tượng này, mọi người ai nấy đều sợ xanh mặt. Tĩnh Tần
chưa kịp mở miệng nói thì Liễu Thục phi đã sấn tới tóm lấy cổ áo Tĩnh
Tần, mắng:

“Tĩnh Tâm Lan, ngươi đang làm cái gì?”

Tĩnh Tần phá hỏng chuyện tốt của Liễu Thục phi, nàng ta nhịn được mới là lạ.

“Ai gia đang hỏi chuyện Tĩnh Tần.”

Thái Hậu lạnh lùng liếc nhìn Thục phi. Sắc mặt bà vốn đã xấu lại bị sự l* m*ng của Thục phi làm cho càng xấu hơn.

“Thần thiếp…” Liễu Thục phi ú ớ, bàn tay nắm áo Tĩnh Tần hơi buông lỏng.

Tĩnh Tần thừa cơ hất tay Liễu Thục phi ra, vội nhào đến quỳ sát dưới chân Thái Hậu mà thưa:

“Thần thiếp bất kính với Lão Phật gia, là tội của thần thiếp… Nhưng canh đó
Lão Phật gia quả thật không thể ăn… thần thiếp nhất thời hoảng sợ… cho
nên mới…”

Thái Hậu lấy khăn lụa từ tay Khâm cô cô, tự lau tay mình, hai mắt không hề nhìn đến Tĩnh Tần, lạnh nhạt hỏi:

“Vì sao không thể ăn? Nói năng với ai gia không được phép úp mở.”

“Là vì…” Tĩnh Tần lắp bắp. “Là vì… canh đó không phải đồ chay.”

“Cái gì?” Giọng nói điềm đạm của Thái Hậu đột ngột vút cao. Bầu không khí
trở nên căng thẳng cực độ. Mấy người ngoài cuộc như ta đều không dám thở mạnh.

“Nói bậy! Canh này do bản cung đích thân giám sát Ti
Thiện phòng thực hiện. Làm sao lại không phải đồ chay?! Ngươi đang giá
họa bản cung!”

Liễu Thục phi nổi điên, chực xông đến đánh Tĩnh Tần. May mà có Minh phi và Khán Tần kịp thời cản lại.

Hoàng Hậu bấy giờ mới lên tiếng:

“Tĩnh Tần không nhầm chứ? Chuyện này không thể nói bừa đâu.”

Tĩnh Tần quả quyết đáp:

“Thần thiếp không dám nói bừa. Đây quả thực là đồ mặn!”

Triệu Đức phi vừa mới lau xong nước canh trên áo, liền nở nụ cười, nhìn Tĩnh Tần hỏi:

“Tĩnh muội muội dựa vào đâu mà nói đây là đồ mặn? Bản cung nhìn thế nào cũng thấy nó là đồ chay.”

Người trong điện ai nấy đều sợ đến xám mặt, chỉ có Triệu Đức phi là tỏ ra thích thú.

Tĩnh Tần nghe hỏi, ngẩng đầu lên thì thấy Thái Hậu đang nhìn nàng bằng ánh
mắt âm trầm, những người chung quanh đều tập trung chờ đợi. Bầu không
khí căng thẳng làm nàng ta bất giác run lên, chỉ dám cúi đầu mà đáp:

“Món canh này… nhìn thì chỉ toàn rau quả, nhưng thực ra để nấu ra mùi vị
này… thì nước canh phải đun từ bốn loại xương heo, bò, dê, gà cùng với
tôm, cua thật tươi. Vừa đun vừa hớt bọt sạch sẽ, sau đó để nửa canh giờ
cho nước lắng, chỉ lấy phần nước thật trong rồi mới thả rau quả vào
nấu…”

Tĩnh Tần nói xong, nhìn sắc mặt mọi người đều là nửa tin nửa ngờ, sợ mình nói chưa đủ thuyết phục, bèn khẳng định thêm:

“Đây vốn là món ăn đặc biệt ở quê thần thiếp. Mùi hương này… Thần thiếp tuyệt đối không nhầm lẫn.”

Liễu Thục phi nghe xong vừa giận vừa sợ, liền quát:

“Ăn nói hàm hồ! Ngươi dám đặt điều hãm hại bản cung?!”

Tĩnh Tần không chịu thua, cãi lại ngay:

“Thần thiếp không hề đặt điều gì cả! Nếu Lão Phật gia không tin thần thiếp
thì có thể mời Ngự trù đến đây kiểm chứng, tin rằng sẽ có kết luận
ngay!”

Thái Hậu lúc này đã nổi giận rồi, nhưng vẫn kiềm giọng:

“Khâm Như, gọi Ngự trù.”

Khâm cô cô nhận lệnh rời đi, chỉ một khắc sau, Trương Vỹ - người đứng đầu Ngự trù đã xuất hiện.

Trương Vỹ tuổi ngoài lục tuần, dáng người thấp béo, toàn thân bốc mùi dầu mỡ.
Rõ ràng là đang nấu nướng thì bị gọi đến đây. Thấy trong phòng đủ mặt
chư phi, mà mặt mũi ai nấy đều nửa xanh nửa xám, Trương Vỹ liền biết đã
có chuyện không hay, vội vàng quỳ gối:

“Nô tài bái kiến Lão Phật gia, bái kiến Hoàng Hậu nương nương cùng các vị nương nương!”

Thái Hậu phẩy tay, chỉ vào tô Thanh Thủy Canh trên bàn.

“Miễn lễ. Mau lại đây xem giúp ai gia. Món canh này rốt cuộc là chay hay mặn?”

Trương Vỹ không dám chậm trễ, vội vàng bước đến, cúi đầu quan sát tô canh.
Khâm cô cô đưa chén muỗng đến, Trương Vỹ liền múc lấy một muỗng đưa vào
miệng. Hai con mắt ti hí của ông ta híp lại bằng hai cọng chỉ.

Hết thảy mọi người nín thở chờ đợi. Một lúc lâu sau, Trương Vỹ chẹp lưỡi mấy cái rồi quỳ xuống bẩm:

“Bẩm Lão Phật gia, là đồ mặn.”

Hai chữ “đồ mặn” như tiếng sét đánh ngang qua.

Liễu Thục phi lảo đảo mấy bước. Minh phi đưa tay muốn đỡ lấy nàng ta nhưng lại bị nàng ta thô bạo hất ra.

“Nói láo! Đều là nói láo! Các ngươi thông đồng với nhau hãm hại ta! Lão Phật gia, người đừng tin lời bọn chúng! Thần thiếp tuyệt đối không dám bất
hiếu bất kính như thế!”

Liễu Thục phi run rẩy ngã quỵ xuống, không còn màn đến thể diện, cứ thế nhoài người đến ôm chân Thái Hậu mà khóc.

Thái Hậu ăn chay đã hơn mười năm, nay lại có kẻ dám dâng đồ mặn đến, suýt
chút hại bà phá giới, thử hỏi làm sao bà không tức giận? Mà kẻ ngu dốt
này không phải ai khác, lại chính là Thục phi mà bà vốn có thành kiến.

Thái Hậu không buồn liếc mắt nhìn Liễu Thục dưới chân mình, chỉ cười nhạt:

“Trương Vỹ, ngươi chắc chắn không? Đừng khiến cho ai gia oan ức Thục phi.”

Hai bên thái dương Trương Vỹ lấm tấm mồ hôi. Lời nói của Thái Hậu nhẹ như
gió thoảng nhưng đối với ông chẳng khác nào búa tạ giáng vào đầu, chỉ
biết quỳ rạp người mà thưa:

“Nô tài chắc chắn! Trước mặt Thái Hậu cùng các vị nương nương đây, nô tài không dám có nửa lời gian dối. Nô
tài từ bé đã học nấu ăn, nếu chỉ có đồ mặn và đồ chay mà không phân biệt được, làm sao còn mặt mũi nào giữ chức Ngự trù?! Hơn nữa… nếu Thái Hậu
vẫn không tin tưởng nô tài… chỉ cần bắt một con mèo đến đây để thử là
được.”

Thái Hậu lần lần chuỗi bồ đề trên tay, thở dài:

“Vậy thì mang mèo đến đây thử đi.”

Ta lặng lẽ nhìn Thái Hậu. Sắc mặt bà tối tăm, hẳn là trong lòng đang vô
cùng tức giận, thế nhưng lời nói và thái độ đều nhàn nhạt như không,
chưa hề to tiếng. Có lời nói của Tĩnh Tần, lại thêm Ngự trù xác nhận,
vốn dĩ đã có thể định tội Liễu Thục phi nhưng vẫn kiên nhẫn sai người
đem mèo đến thử lần cuối. Rõ ràng có thể thấy, Thái Hậu thường ngày hà
khắc với Liễu Thục phi nhưng trước sau vẫn công chính liêm minh, không
hề muốn để nàng ta chịu hàm oan. Đối với người mình có thành kiến mà vẫn giữ được thái độ công tâm như vậy, quả là hiếm thấy.

Đại điện
im lìm, chẳng ai dám hé môi một lời. Liễu Thục phi cao quý đang ngồi bệt dưới chân Thái Hậu, nước mắt chảy thành hàng, lấm lem cả phấn son trên
mặt. Nàng ta luôn miệng nói: “Thần thiếp bị oan.”

Thiết nghĩ, nếu đã có người muốn đổ oan cho nàng ta thì món canh trong tô kia đương
nhiên là đồ mặn. Cho dù có thử bao nhiêu lần thì vẫn sẽ là đồ mặn. Càng
dùng nhiều biện pháp để thử sẽ càng chứng tỏ nàng ta cố chấp cứng đầu,
làm cho Thái Hậu thêm tức giận. Chuyện đơn giản như vậy, Liễu Thục phi
vì sao không nhìn ra?

Trương Vỹ nhanh chóng mang hai con mèo đến. Hai con mèo này nuôi ở trong Ngự Trù phòng, vốn được ăn ngon nên con
nào con nấy béo tròn trùng trục.

Thấy mèo đã được mang đến, Khâm cô cô liền lấy thêm hai cái bát, một cái đựng Thanh Thủy canh của Liễu
Thục phi, một cái đựng canh rau nấu chay bình thường, rồi đặt xuống đất.

Trương Vỹ nhẹ nhàng thả hai con mèo mập xuống đất. Bọn chúng đã quen ăn ngon, có lí nào lại chọn đồ chay ít mùi vị, không hề phân vân
đã nhào tới bát Thanh Thủy canh mà l**m láp.

Nhìn hai con mèo chúi đầu ăn ngon lành, mọi người liền trút tiếng thở dài. Kết quả vậy là đã rõ.

Thái Hậu nhìn Liễu Thục phi:

“Thục phi còn gì để nói?”

Liễu Thục phi tái nhợt như tờ giấy, khóc không nên lời, chỉ biết dập đầu lạy:

“Không phải thần thiếp… Có người muốn hãm hại thần thiếp… Lão Phật gia minh giám…”

Thái Hậu nhìn Liễu Thục phi khóc lóc, gương mặt lộ rõ vẻ chán ghét. Bà hất
cằm một cái, Khâm cô cô lập tức đi đến nâng Liễu Thục phi lên:

“Thục phi nương nương, đứng lên rồi nói.”

Liễu Thục phi hẳn cũng biết mình gây họa lớn, sợ đến mềm oặt cả người, phải dựa vào Khâm cô cô mới đứng dậy nổi.

Hoàng hậu nhìn cảnh này, thở dài:

“Nhi thần cho rằng Thục phi không có gan bất kính như thế đâu. Chắc hẳn là có điều hiểu lầm gì đây.”

Thái Hậu cười lạnh:

“Vậy theo ý Hoàng Hậu thì sao?”

Hoàng hậu ngập ngừng mãi mới nói:

“Thục phi vốn không hiểu biết ẩm thực. Có lẽ nàng chỉ nhìn thấy món canh này
toàn là rau củ nên nghĩ đây là đồ chay mà không biết đến công thức thật
sự…”

Triệu Đức phi nghe vậy, liền bật cười khúc khích:

“Nếu thế thì quả là tắc trách rồi. Vật phẩm dâng lên cho Lão Phật gia mà tùy tiện như vậy, đồ mặn coi như chuyện nhỏ cũng được. Vậy ngộ nhỡ trong
thức ăn có độc, chẳng lẽ Thục phi cũng bảo nhìn vào không thấy độc dược
cho nên không biết?”

“Đức phi!”

Liễu Thục phi vốn muốn quát Triệu Đức phi, nhưng sực nhớ ra hoàn cảnh hiện tại của mình, chỉ đành cắn môi chịu đựng.

Dương Quý cơ vốn thích náo nhiệt, đương nhiên không thể không góp lời:

“Chuyện này cũng phải nói, Tĩnh Tần vốn đã biết món ăn này có vấn đề, sao không nói sớm? Thật khiến người ta kinh sợ à nha!”

“Ồ, cũng phải. Tĩnh tỷ tỷ nên nói sớm một chút mới phải. Nếu sớm nói ra thì đã không làm Lão Phật gia kinh động đến nhường ấy.” Giang Tần gật gù
hưởng ứng.

Tĩnh Tần bị nhắc tới, chợt hiểu ra mình còn chưa hoàn toàn thoát nạn. Vội vàng hướng về phía Thái Hậu phân minh:

“Lão Phật gia minh xét! Từ đầu thần thiếp đã thấy món canh này không ổn,
nhưng lại không dám chắc… vả lại tên gọi cùng với thành phần đều không
giống với món ăn nguyên bản ở quê nhà thần thiếp… thần thiếp chỉ có thể
dựa vào mùi hương để suy đoán… cho nên phải nghĩ thật kỹ…”

Thấy Tĩnh Tần đã sợ tới lạc giọng, Triệu Đức phi bèn đỡ lời:

“Nói cũng phải. Thục phi là người có thể tùy tiện đổ oan sao? Dù sao thì
Tĩnh Tần cũng đã lập đại công. Các muội muội không nên vì vậy mà đố kỵ
với Tĩnh Tần chứ?”

Dương Quý cơ và Giang Tần nghe đến hai chữ “đố kỵ” liền tái mặt, không dám cãi thêm, chỉ nói “Thần thiếp không dám có ý đó.”

Quang cảnh bây giờ, kẻ tung người hứng, kẻ múa đao người giơ khiên đỡ, thật
chẳng khác nào một vở tuồng hay. Thái Hậu xem chừng cũng ngán ngẩm lắm
rồi. Ta thấy bà thở dài một tiếng, tựa bàn đứng dậy. Khâm cô cô vội đến
bên đỡ lấy tay bà.

Thấy Thái Hậu có ý rời đi, Liễu Thục phi liền sà tới nắm tay áo bà:

“Thái Hậu, thần thiếp thật sự bị oan. Người phải tin thần thiếp…”

Thái Hậu lắc đầu, chán nản nói:

“Ai gia tin vào những thứ ai gia nhìn thấy.”

Nói xong liền dứt áo rời đi, chỉ để lại một câu:

“Hoàng Hậu xem nên làm thế nào thì làm thế đó đi, ai gia mệt rồi.”

Nhìn bóng lưng Thái Hậu xa dần, Liễu Thục phi loạng choạng nắm tay áo Hoàng Hậu:

“Hoàng hậu nương nương phải làm chủ cho muội. Muội thật sự bị oan…”

Hoàng Hậu thở dài, nắm lấy bàn tay mảnh khảnh của Liễu Thục phi:

“Bản cung biết. Bản cung nhất định tra rõ chuyện này, trả lại sự trong sạch
cho muội muội. Tạm thời, muội muội cứ trở về cung, đóng cửa an tĩnh đi
đã.”

Liễu Thục phi vừa nghe xong liền khóc ầm lên, túm chặt lấy Hoàng hậu như thể trẻ con ăn vạ:

“Đóng cửa an tĩnh? Hoàng hậu nương nương muốn cấm túc muội sao? Không! Người
không thể làm như thế! Muội không có làm gì sai hết, sao lại cấm túc
muội?!”

Hoàng Hậu ngán ngẩm lắc đầu:

“Này không phải bản
cung cấm túc muội. Chỉ là bây giờ chuyện còn chưa rõ, mà Lão Phật gia
lại đang tức giận. Chuyện này dù sao cũng liên quan tới muội. Lão Phật
gia thích người hiểu chuyện. Muội hãy tỏ ra thành tâm một chút, để Lão
Phật gia hài lòng, cũng tránh làm kinh động đến Hoàng Thượng.”

Liễu Thục phi nghe Hoàng Hậu nói đến mức ấy, cũng phải nghe theo. Nàng ta
sụt sùi lau nước mắt, chỉnh trang y phục rồi ủ rũ hồi cung. Triệu Đức
phi thấy thế, cười khẩy:

“Hoàng Hậu nương nương định cho qua chuyện này vậy sao? Đây cũng không phải chuyện nhỏ…”

Thường ngày Liễu Thục phi luôn được Hoàng Đế bảo bọc, không ai đụng được đến
nàng ta. Nay nàng ta lại ngốc nghếch, đắc tội lớn với Thái Hậu. Lần này
dù là Hoàng Đế cũng chưa chắc đỡ được tội cho nàng ta. Đây chính là cơ
hội có một không hai, Triệu Đức phi đương nhiên không thể cứ thế mà nhìn thời cơ tốt đẹp này trôi qua trước mắt.

Hoàng Hậu cũng hiểu điều đó, nàng ung dung cười đáp:

“Chuyện này còn nhiều điều khuất tất. Bản cung phải điều tra cẩn thận mới được.”

Trong lời nói đã có hàm ý răn đe Triệu Đức phi. Nhưng Triệu Đức phi vẫn vờ như không biết, tiếp tục gây sức ép:

“Muội muội chỉ e nương nương sẽ lại mềm lòng, để cho kẻ xấu tác oai tác quái.”

Nụ cười khoan hòa trên môi Hoàng Hậu chợt lạnh đi. Nàng rũ mi mắt, có lẽ
là để che dấu nộ khí, bàn tay ngọc ngà như vô ý đùa nghịch ly trà trên
bàn, nhẹ giọng hỏi:

“Đức phi cho rằng bản cung không đủ công tâm?”

“Muội muội không có ý này…”

“Vậy ý của muội muội có phải là đang nghi ngờ năng lực quản lý hậu cung của
bản cung? Có phải muội cảm thấy phượng ấn này nên giao cho người khác
mới là hợp lẽ?”

Giọng nói mềm mỏng của Hoàng hậu dần trở nên sắc
bén. Ánh mắt nàng hờ hững lưu trên ly trà trong tay. Nhưng bộ dạng ung
dung không vui không giận đó lại càng khiến người ta sợ hãi hơn cả.

Triệu Đức phi cũng bị hai chữ “người khác” làm chột dạ. Nàng ta dẫu sao cũng
chỉ là một phi tử. Địa vị cao quý cách mấy cũng không thể so sánh với
Hoàng Hậu. Phân vị khác biệt rất lớn, thiếp thất phải kính ngưỡng chính
thê. Chỉ cần lộ ra lòng đố kị với Hoàng Hậu thôi cũng đã là tội tày
đình. Nay, Hoàng Hậu lại có ý quy cho nàng ta ý đồ tranh đoạt hậu vị…
Tội này cho dù là con gái của Triệu Tướng gia cũng không tránh khỏi bay
đầu.

Bầu không khí vừa mới trở nên dễ chịu một chút, thoáng chốc lại căng thẳng trở lại.

Triệu Đức phi không phải là người không biết nặng nhẹ. Mắt thấy nguy hiểm
cậnn kề, mặt liền giương lên một bộ dạng nhu thuận, sợ hãi mà nói:

“Muội muội dẫu có chết ngàn lần cũng không dám có loại ý tứ đại nghịch như thế! Mong Hoàng Hậu nương nương minh xét!”

Nói xong, liền run rẩy quỳ xuống. Dáng vẻ yếu ớt như nhành liễu mỏng trước gió, vô cùng đáng thương.

Nhìn Triệu Đức phi phủ phục dưới chân mình, Hoàng hậu cũng chỉ khẽ cười:

“Đức phi muội muội đương nhiên là không có ý đó.”

Nói xong, nhẹ nhàng vịn tay cung nữ Xuân Linh mà đứng dậy. Nàng nhìn khắp những người còn lại, cười nói:

“Chúng ta cũng nên hồi cung thôi. Đừng ồn ào ở chỗ Lão Phật gia nữa.”

“Dạ.” Mọi người đồng thanh đáp lời.

Hoàng Hậu nhìn quanh một lúc, như chợt nhớ đến Tĩnh tần, bèn nói:

“Chuyện hôm nay cũng là Tĩnh tần có công lớn. Bản cung nhất định sẽ trọng thưởng muội.”

Tĩnh Tần hôm nay đã bị kinh sợ quá nhiều, nghe nhắc đến tên mình liền giật
bắn người, ngơ ngác một hồi mới nhớ tạ ơn. Hoàng Hậu cũng không trách,
còn dịu dàng an ủi. Tuy rằng đã nói nhiều câu, nhưng trước sau vẫn không hề bảo Triệu Đức phi đứng dậy.

Ta đứng trong đám đông, lén lút
nhìn Triệu Đức phi ngây người quỳ trên mặt đất. Dù Hoàng hậu cố tình
phớt lờ, khiến nàng ta chịu nhục nhưng gương mặt Triệu Đức phi vẫn duy
trì vẻ nhu thuận như trước, không hề có chút phản kháng nào.

Chỉ là, ta ngờ ngợ nhìn thấy thấp thoáng dưới mấy lớp tay áo bằng lụa mỏng, bàn tay nàng ta đang siết chặt.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 22


Liễu Thục phi đột
nhiên gây họa khiến cho chúng phi đều xôn xao. Vừa ra khỏi cổng Thuận
Ninh cung, các nàng đã tụ lại nhỏ to bàn tán. Những nữ nhân này, có ai
mà chưa từng bị Liễu Thục phi chèn ép ít nhiều. Hôm nay nhìn thấy nàng
ta gặp họa, bọn họ đều phấn khởi ra mặt.

Dương Quý cơ là người vui vẻ nhất. Nàng ta cười khúc khích:

“Các tỷ tỷ nói xem, lần này Thục phi sẽ thế nào nhỉ? Có khi nào bị giáng cấp không?”

Giang Tần bĩu môi:

“Cũng chưa biết được. Hoàng thượng rất sủng ái nàng ta. Có thể sẽ chỉ khiển
trách qua loa thôi. Người ta là đệ nhất sủng phi đấy, Quý cơ quên rồi.”

“Này, các người nói như thế là có ý gì? Ngay cả Hoàng Hậu nương nương cũng
nói chuyện này còn nhiều nghi vấn, các người dựa vào cái gì mà dám định
tội Thục phi nương nương?”

Tiệp Chiêu nghi đang đứng gần, nghe
những lời nói ác ý kia, bèn lên tiếng phản bác. Thường ngày Thục phi đối với nàng ta cũng chẳng tốt đẹp là bao, nhưng dù sao nàng ta cũng là
người dưới trướng Thục phi. Bây giờ nghe người ta nói như thế mà không
ra mặt, chỉ sợ về sau Thục phi biết được sẽ lại khiển trách. Vì vậy đành phải lên tiếng.

Quỳnh Thục nghi vừa nghe, liền cười khẩy:

“Tình cảm của Chiêu nghi tỷ tỷ với Thục phi thật là tốt.”

Giang Tần cùng Dương Quý cơ cũng cười ồ lên. Mặt ngoài đơn thuần là hưởng ứng một câu nói bâng quơ, trong lòng chẳng phải là nhạo báng Tiệp Chiêu
nghi giống như chó bảo vệ chủ hay sao?

Tiệp Chiêu nghi hiểu rõ.
Nàng giận đến đỏ mặt. Dù là cấp bậc ngang nhau, nhưng “Chiêu nghi” vẫn
đứng trên “Thục nghi”. Quỳnh Thục nghi còn nhỏ tuổi hơn nàng, thế mà lại không nể mặt nàng như vậy.

“Tiệp Tuyết, đừng nói nữa. Chúng ta hồi cung thôi.”

Minh phi không biết từ lúc nào đã đến bên cạnh Tiệp Chiêu nghi, nắm lấy cánh tay nàng ta kéo đi.

“Nhưng tỷ tỷ, họ…”

“Đi thôi.”

Minh phi kiên nhẫn lắc đầu, kéo tay Tiệp Chiêu nghi đi thẳng về phía kiệu
đang chờ sẵn. Trong đám người Liễu Thục phi, Minh phi có thể coi là
người trầm ổn nhất. Nếu như Liễu Thục phi có được nửa phần điềm đạm,
thận trọng của Minh phi, có khi đã sớm leo lên được chức Quý phi hay
Hoàng Quý phi rồi cũng không chừng.

Ta đứng xem náo nhiệt một
lúc cũng chán. Bọn họ càng nói càng khó nghe. Ta nói với Trịnh phi mấy
câu. Vừa cáo từ nàng xong, chuẩn bị lên kiệu ra về thì nghe tiếng Hoàng
Hậu gọi sau lưng:

“Hòa phi, kiệu của bản cung rộng rãi. Chúng ta dù sao cũng tiện đường, muội cùng bản cung trở về đi.”

Quay lại liền thấy Hoàng Hậu ngồi sẵn trong kiệu lớn mười hai người khiêng,
đang vén màn mỉm cười nhìn ta. Thấy ta phân vân nghĩ ngợi, Hoàng Hậu bật cười:

“Đây chỉ là kiệu thường, không phải phượng giá. Tam phẩm trở lên là có thể ngồi.”

“Muội muội tuân lệnh.” Ta cũng cười, thầm thán phục Hoàng Hậu thật hiểu lòng người.

Đi được một đoạn, Hoàng hậu mở lời trước. Nàng hỏi ta:

“Chuyện hôm nay, muội nghĩ thế nào?”

Ta nhìn sắc mặt Hoàng Hậu, suy nghĩ chốc lát rồi khẽ thăm dò:

“Hành động quả là tinh tế. Người thường chẳng thể nào nhận ra món canh đó có vấn đề. Có lẽ đã tốn rất nhiều công sức.”

Quả thực, dù mũi ta rất nhạy cũng không hề phát hiện.

Hoàng Hậu tựa nghiêng người trên chiếc gối mềm, bình thản nói:

“Dĩ nhiên. Tìm ra món ăn này, rồi điều chỉnh cho thành phần khác đi đôi
chút nhưng vẫn giữ đúng mùi vị, sau đó âm thầm đưa vào Ti Thiện phòng,
rồi đưa đẩy đến trước mặt nàng ta… Đều chẳng phải là chuyện dễ dàng.”

Khóe môi ta khẽ nhếch lên. Quả nhiên là nàng.

“Tỷ tỷ cao tay.” Ta mỉm cười.

“Sao muội không nghĩ Đức phi đứng sau chuyện này?”

Hoàng Hậu cũng cười, ánh mắt đen láy của nàng lóe lên một tia thích thú.

Ta thản nhiên đáp:

“Nếu là Đức phi thì e rằng không chỉ là canh mặn, Thục phi cũng không chỉ bị tội bất kính không thôi.”

Một lần nhìn thấy Triệu Đức phi ra tay, ta đã đủ hiểu con người nàng. Không ra tay thì thôi, một khi đã ra tay thì một đòn trí mạng, tuyệt đối sẽ
không nhẹ nhàng như vậy.

Hoàng Hậu nghe xong liền cười rộ lên:

“Nói đúng lắm. Vậy muội có cho rằng bản cung quá nhẹ tay không?”

Ta lắc đầu, đáp:

“Nguyệt nhi không nghĩ vậy. Trong lòng tỷ tỷ nhất định đã có tính toán. Chỉ là… lần này Tĩnh Tần thật có phúc, ngồi không hưởng lợi.”

Hoàng Hậu không nói gì, nhưng thần sắc lộ vẻ hài lòng.

Trong lòng ta cũng thở phào nhẽ nhõm. Xem ra, ta đã nói đúng lời nên nói rồi.

Một lúc lâu sau, Hoàng Hậu mới trả lời.

“Thực ra cũng chỉ là chút lợi ích nhỏ, chẳng đáng vào đâu.”

Ta gật gù, làm bộ dạng mông lung chưa hiểu rõ. Hoàng Hậu chỉ cười rồi khép mi, nhắm mắt dưỡng thần, không giải thích thêm.

Ta im lặng ngồi bên cạnh. Không ngờ nữ nhân ôn hòa, dịu dàng như dòng nước mát lành này lại có tâm cơ sâu độc như thế.

Hoàng Hậu nói không sai. Chút lợi này, so với những gì đang chờ đợi Tĩnh Tần
phía trước, chỉ là thứ cỏn con. Đáng tiếc con cá kia chỉ nhìn thấy con
giun béo tròn trước mắt, mà không biết rằng còn có lưỡi câu sắc lẻm đang chờ đợi để cắm sâu vào họng nó.

Cái bẫy này, không phải nhắm vào Liễu Thục phi. Đây chẳng qua chỉ là bước đầu tiên mà thôi.

Thanh Thủy Canh là món ăn ở quê nhà Tĩnh Tần, Tĩnh Tấn tất nhiên phát hiện
đầu tiên, mà sự việc này Tĩnh Tần lại được lợi hơn cả. Liễu Thục phi dĩ
nhiên sẽ nghĩ Tĩnh Tần ám hại mình để lập công tiến thân. Dựa vào bản
tính Thục phi, những ngày tháng sau này của Tĩnh Tần tuyệt đối không dễ
sống. Không chỉ vậy, nếu về sau Tĩnh Tần “vô tình” phạm phải tội gì, còn phải lo Thục phi sẽ không thêm dầu vào lửa, mượn việc chung trả thù
riêng sao?

Lại nói, sự việc hôm nay cũng là một cái tát nhẹ vào
mặt Liễu Thục phi, nhắc nhở nàng ta biết nàng ta dẫu oai phong đến đâu
cũng không được lấn lướt Hoàng Hậu. Hoàng Hậu vẫn là người có bản lĩnh
quyết định an nguy của nàng. Một tội danh “bất kính” lại có thể giảm bớt tầm ảnh hưởng của Thục phi. Cấm túc nàng ta một thời gian, vừa hay tạo
điều kiện để nâng đỡ người khác lên tranh sủng. Hạ thủ gọn gàng, không
nặng cũng không nhẹ, có thể xem là đủ lực. Nếu làm nhẹ quá thì không đủ
tác dụng, mà làm nặng quá, ngộ nhỡ Thục phi thật sự bị phế đi hay là hạ
cấp xuống, chẳng những Hoàng Đế không vui mà hậu cung này lại mất cân
bằng, thành ra hỏng chuyện.

Dù đã hiểu rõ, nhưng mặt ngoài ta vẫn phải cố tỏ ra ngây ngô, mà phải ngây ngô một cách vừa đủ.

Ví như tỏ vẻ thái quá, giả vờ không nhìn ra gì cả, tất sẽ khiến Hoàng Hậu
nghi ngờ. Thế nên, ta giả ngốc, tỏ ra mình chỉ hiểu một nửa sự việc,
rằng Hoàng Hậu chỉ nhắm vào Thục phi mà không biết Tĩnh Tần mới là mục
tiêu thật sự của nàng. Điều này để chứng tỏ ta dẫu thông minh, cũng
không thông minh bằng nàng. Đường đi nước bước của nàng, ta chỉ hiểu một nửa. Như vậy mới có thể khiến nàng an tâm đối với ta.

Người ở dưới trướng mình, không nên quá ngốc, lại càng không nên quá thông minh. Cái gì cũng vậy, vừa đủ là tốt nhất.

***

Ngồi chung kiệu với Hoàng Hậu đến ngã rẽ thì ta xin phép xuống kiệu, tự đi
về cung mình. Hoàng Hậu có ý muốn đưa ta về tận nơi, nhưng ta chỉ lễ
phép khước từ. Đường về chẳng còn bao xa, ta vịn cổ tay Ngọc Thủy chậm
rãi đi, vừa đi vừa nói chuyện phiếm. Ngọc Thủy xem ra cũng tinh tế,
không nhắc lại chuyện đau đầu ở Thuận Ninh cung. Cười nói được một lúc,
đầu óc cũng nhẹ hẳn đi.

Hai người đang thong dong tản bộ thì đột nhiên bị mấy giọng nữ nhân chanh chua xuyên vào tai, khiến tim ta giật
thót. Hướng mắt nhìn ra xa thì thấy trong tiểu đình phía đó thấp thoáng
bóng hai, ba nữ nhân. Âm thanh điêu ngoa kia chắc hẳn là của mấy người
bọn họ.

Ngọc Thủy cũng không hài lòng, khẽ nói:

“Vị chủ tử nào mà nói năng vô phép vậy?”

Ta ngán ngẩm lắc đầu:

“Đằng nào cũng phải đi ngang, thôi thì ghé vào gặp bọn họ một chút. Nữ nhân
điêu ngoa như thế, bản cung cũng nên xem qua cho biết.”

Tiến lại
gần mới thấy rõ, trong tiểu đình có ba phi tần với mấy cung nữ. Dựa vào y phục và trang sức có thể thấy phẩm cấp của những phi tần này không cao. Hai người đang ngồi, còn cười nói gì đó rất chói tai. Người còn lại
đứng cúi mặt bên cạnh. Ta nheo mắt nhìn, cảm thấy dáng vẻ nàng rất quen
mắt, bèn hỏi Ngọc Thủy:

“Mấy người này là ai?”

Ngọc Thủy nghiêng đầu, nói khẽ bên tai ta:

“Người mặc y phục màu hồng, dáng người đẫy đà là Quách Thường tại. Người gầy
hơn mặc y phục màu lục là Du Thường tại. Còn người đang đứng là Liên
Tuyển thị.”

Ta gật đầu:

“Hóa ra là Liên Nhạc. Thảo nào bản cung nhìn thấy quen mắt.”

Mấy người bên trong tiểu đình cũng đã phát hiện ra ta và Ngọc Thủy đang
tiến đến. Thấy bọn họ còn ngẩn ngơ nhìn, Ngọc Thủy liền đi lên một bước, khuỵu gối:

“Nô tỳ thỉnh an ba vị tiểu chủ.”

Hành động này cũng là nhắc nhở bọn họ nên thỉnh an ta, đừng phạm thượng vô lễ.

Lúc này, bọn họ mới như tỉnh ra, vội vàng quỳ xuống hành lễ:

“Chúng thần thiếp thỉnh an Hòa phi nương nương. Hòa phi nương nương vạn phúc kim an!”

Những phi tần này phẩm cấp quá thấp, bình thường ít khi gặp mặt, không nhận ra cũng không đáng trách.

Ta vịn tay Ngọc Thủy đi vào. Một tiểu cung nữ liền vừa quỳ vừa kéo ghế cho ta ngồi xuống. Ta ngồi xuống, mỉm cười với nàng một cái, rồi nói:

“Miễn lễ. Các muội cũng ngồi đi.”

Quách Thường tại là người mau mắn nhất. Vừa nghe ta nói xong, nàng ta liền
nhảy đến ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên ta, vui vẻ nói:

“Hôm nay hóng mát ở đây, lại có dịp diện kiến hoa dung của nương nương. Thật là vinh hạnh cho thần thiếp.”

Giọng nói tuy không được êm ái, nhưng cũng không đến nỗi chua ngoa như ban nãy. Thái độ thay đổi mới mau làm sao.

Ta cũng cười cười đáp:

“Bản cung đi từ đằng xa, nghe thấy các muội trò truyện vui vẻ nên tiện đường ghé vào thôi.”

“Phải, phải… chúng thần thiếp đang nói…”

Quách Thường tại không hề phát hiện ẩn ý của ta, vẫn hào hứng cười nói. Du
Thường tại có vẻ nhanh nhạy hơn, nàng ta mau chóng tiến đến ngồi cạnh
Quách Thường tại. Trông như là khi ngồi xuống bị mất đà, hơi nghiêng
người vịn vào cánh tay Quách Thường tại, thực chất móng tay đang bấm vào cánh tay Quách Thường tại. Quách Thường tại bị đau, nhăn mặt định kêu
lên, nhưng Du Thường tại nhanh như chớp cướp lời:

“Chúng thần
thiếp trong lúc trò chuyện… đúng là có hơi lớn tiếng một chút. Nhưng đó
cũng là vì nhất thời tỷ muội quá vui vẻ, không phải cố ý kinh động nương nương, mong nương nương bỏ qua cho…”

Quách Thường tại nghe lời này xong, sắc mặt liền hóa thành gượng gạo, hẳn là đã hiểu.

Ta nhìn Du Thường tại, cười nói:

“Tỷ muội cao hứng cười nói vài câu cũng là chuyện bình thường, chỉ là nên
tiết chế lại một chút, bản cung thì không sao, nhưng đổi lại là vị chủ
tử khác e rằng không hay. Hoàng thượng thích nữ nhân hiền thục. Các muội phải nhớ lấy.”

Quách Thường tại và Du Thường tại thấy ta chỉ nhẹ nhàng nói vậy, không có ý khiển trách các nàng điêu ngoa to tiếng trong cung, liền thở phào nhẹ nhõm, đồng loạt chắp tay đáp:

“Thần thiếp đa tạ nương nương chỉ dạy.”

Ta gật đầu, ra vẻ hài lòng. Lại nhìn sang phía Liên Tuyển thị, nàng vẫn đứng lặng yên ở đằng xa, bèn hỏi:

“Tuyển thị muội muội vì sao lại đứng ở kia? Sao không đến đây ngồi?”

Liên Nhạc nghe hỏi đến, ngẩng đầu nhìn lên. Đôi mắt đẹp như mặt hồ mùa thu,
mi mắt lại hơi đỏ, có lẽ ban nãy vừa rơi lệ. Trên gò má trắng như tuyết
hằn lên mấy vệt đỏ. Thảo nào nãy giờ nàng cứ mãi cúi đầu.

“Hòa phi nương nương đang gọi ngươi đó, còn ngẩn ra làm gì?” Quách Thường tại xẵng giọng.

Liên Nhạc giật mình, vội vội vàng vàng bước đến, ngượng ngùng ngồi ghé vào, khe khẽ đáp:

“Thần thiếp nhất thời thất lễ, xin nương nương tha tội.”

Đây là lần đầu tiên ta nghe Liên Nhạc nói chuyện. Giọng nàng thanh nhẹ ấm áp, thật sự khiến người nghe dễ chịu.

Ta gật đầu với nàng, hỏi tiếp:

“Mặt của muội muội làm sao vậy?”

Liên Nhạc càng cúi đầu thấp hơn:

“Cái này…”

Tỳ nữ bên cạnh nàng có vẻ như không nhịn nổi ấm ức nữa, ầm một tiếng đã quỳ rạp trước mặt ta, khóc lớn:

“Nương nương, tiểu chủ nhà nô tỳ bị người ta h**p đáp, xin nương nương đòi lại công bằng cho tiểu chủ nô tỳ!”

Ta chợt cảm thấy hứng thú, nhưng chưa kịp mở miệng thì Quách Thường tại đã nhanh hơn:

“Tiện tỳ này khóc lóc cái gì? Ai h**p đáp tiểu chủ nhà ngươi? Dám ở đây buông lời xằng bậy trước mặt Hòa phi nương nương, muốn chết hay sao?...”

Ta thở dài, trong lòng đã chán ngán vị Quách Thường tại này nhưng ngoài mặt vẫn phải cố giữ vẻ mềm dịu:

“Quách Thường tại cứ để nàng nói ra xem nào. Hoàng thượng anh minh, Hoàng hậu
nhân từ, trong hậu cung này sao lại để có phi tử bị h**p đáp được? Nào,
tiểu cung nữ, tiểu chủ nhà ngươi bị ai h**p đáp?”

Tỳ nữ kia nghe vậy, vui mừng lau đi nước mắt, trừng trừng nhìn Quách Thường tại nói:

“Bẩm nương nương, Quách Thường tại ỷ lớn h**p nhỏ, vô duyên vô cớ ra tay
đánh tiểu chủ của nô tỳ. Xin nương nương đòi lại công bằng cho tiểu chủ
của nô tỳ!”

“Nói láo! Ta h**p đáp ả khi nào? Ngươi có bằng chứng không?” Quách Thường tại gân cổ cãi.

Tỳ nữ kia không chịu thua: “Dấu tay của Quách tiểu chủ vẫn còn hằn trên
mặt tiểu chủ nhà ta, đây chính là bằng chứng tốt nhất. Trước khi Hòa phi nương nương tới, nơi này ngoài tiểu chủ nhà ta chỉ có Quách tiểu chủ
cùng Du tiểu chủ. Nếu không phải Quách tiểu chủ, thì cũng là Du tiểu
chủ!”

“Vãn Tịch, đừng nói nữa!” Liên Nhạc cắn môi quát.

Tỳ nữ Vãn Tịch thấy vậy, lại rơi nước mắt:

“Tiểu chủ, người định để bọn họ ức h**p đến khi nào? Mỗi ngày đều mắng chửi
nhục mạ, nay lại còn ra tay đánh người… Nếu tiểu chủ cứ nhẫn nhịn, e
rằng mai này ngay cả mạng tiểu chủ bọn họ cũng muốn...”

“Ta bảo
ngươi im miệng, không nghe thấy sao!” Liên Nhạc tái nhợt, dáng vẻ như
muốn đến bịt miệng Vãn Tịch nhưng lại không dám luống cuống.

Những lời này của Vãn Tịch hết sức vô lễ, nếu đem đi xử tử cũng chẳng sai.
Bởi vậy, Liên Nhạc lo cho an nguy của Vãn Tịch, bộ dạng như ngồi trên
đống lửa.

“Xằng bậy!” Quách Thường tại đập bàn. “Liên thị ngươi giáo huấn nô tỳ như thế à?”

Ta hết nhìn gương mặt đáng thương của Liên Nhạc, lại nhìn đến bộ dàng hùng hổ như mãnh thú săn mồi của Quách Thường tại, lạnh nhạt nói:

“Cứ cho là tiểu cung nữ này nói xằng bậy, thế thì Quách Thường tại giải
thích sao về vết thương trên mặt Liên Tuyển thị? Ban nãy ở đây đúng là
không có ai khác, không phải Quách Thường tại, chẳng lẽ lại thật sự là
Du Thường tại? À, hay là ý Quách Thường tại là Tuyển thị muội muội buồn
chán tự tay vả mặt mình giải sầu?”

Du Thường tại giật thót. Sự
việc này nàng ta không tránh khỏi liên can. Ta thấy nàng có vẻ hiểu
chuyện hơn Quách thị, cho nên mới nhắc nàng một tiếng, cũng là cho nàng
cơ hội. Du Thường tại lập tức đỡ lời:

“Bẩm nương nương, Quách tỷ
tỷ nhất thời tức giận nên mới lỡ tay đả thương Tuyển thị muội muội, chứ
nhất định không có ý ỷ lớn h**p bé đâu ạ.”

Ta vừa lòng gật đầu:

“Thì ra là vậy. Quách muội muội vì sao lại tức giận Liên muội muội như vậy?”

“A…” Quách Thường tại bị Du Thường tại bán đứng, nhất thời á khẩu.

Du Thường tại được dịp, lại nói thêm vào:

“Chuyện này cũng không trách Quách tỷ tỷ được. Chỉ là Liên Tuyển thị đêm qua
vừa thừa thánh sủng, lại ỷ sủng sinh kiêu, ngạo mạn vô lễ với Quách tỷ
tỷ cho nên mới khiến tỷ tỷ tức giận như vậy.”

“Thần thiếp không dám!” Liên Nhạc hoảng hồn, sợ hãi ngã quỵ từ trên ghế xuống.

Ta tặc lưỡi, lướt mắt qua mấy nữ nhân trẻ trung trước mặt. Vốn muốn ghé
vào xem chút chuyện bát quái, ai ngờ lại dây phải thị phi lớn thế này.

Gần đây thời tiết sang hạ oi bức, ai nấy đều lo đổi y phục hè mỏng nhẹ.
Dưới làn vải mỏng manh, ta có thể nhìn thấy rõ vệt son đỏ rực nổi bật
trên cánh tay trắng nõn của Quách Thường tại và Du Thường tại.

Nghe nói, hậu cung hiện nay tổng cộng có hơn ba mươi người, đều là con gái
của các quan viên lớn nhỏ, tùy theo gia thế và tư sắc mà phong vị cao
thấp khác biệt. Tuy nhiên, trong số ba mươi người đó, chỉ có một phần ba là được thừa sủng đều đặn như nhóm người Liễu Thục phi, Triệu Đức phi,
ta cũng may mắn tính vào số này. Một phần ba là những người chỉ được lâm hạnh một lần như Trịnh Vân Anh. Những người này đều đã bị quên lãng,
Trịnh Vân Anh nếu không phải vì được Hoàng Hậu che chở, dành cho một
chức Phi thì cũng đã rơi vào hoàn cảnh cơ cực như bọn họ. Một phần ba
còn lại là những người chức vị nhỏ chưa từng được lâm hạnh, có khả năng
còn chưa được nhìn thấy long nhan bao giờ. Quách Thường tại và Du Thường tại này thuộc vào số đó. Hai người các nàng thân phận cao quý hơn Liên
Nhạc, chức vị cũng cao hơn. Vậy mà lại chưa từng được lâm hạnh. Chẳng bù với Liên Nhạc, tuy thánh sủng không nhiều nhưng cũng tính là đều đặn.
Bọn họ ganh ghét nàng cũng là điều dễ hiểu. Chỉ là ganh ghét thì ganh
ghét. Trong lòng khó chịu thì cạnh khóe vài câu cho vui vẻ là được. Lời
nói gió bay, cho dù Liên Nhạc tố cáo, chỉ cần chối bay chối biến là
xong, cũng chẳng có bằng chứng gì. Đằng này Quách thị lại ngốc nghếch
đến độ ra tay đánh người. Nguyên một dấu tay to tướng để lại trên mặt
người ta thế kia. Liên Nhạc còn được lòng Hoàng Đế đến mức ấy, ta có
muốn bỏ qua cho Quách thị cũng không được.

Ta nhìn Ngọc Thủy. Nàng bèn tiến đến nâng Liên Nhạc dậy.

Ta nói: “Xem ra Tuyển thị muội muội đã chịu nhiều ấm ức rồi.”

Quách Thường tại vẫn chưa sáng mắt ra, còn cố cãi chày cãi cối:

“Hòa phi nương nương, thần thiếp không có h**p đáp nàng ta. Đều là do nàng
ta vô lễ với thần thiếp trước… Thần thiếp chỉ giáo huấn nàng ta một
chút…”

Ta đã quá chán ghét nàng, chỉ lạnh nhạt nói:

“Hoàng hậu là chủ lục cung, làm sao lại đến lượt ngươi giáo huấn phi tần?
Thường tại Quách thị, ỷ lớn h**p nhỏ, vi phạm cung quy, làm trái Nữ
Huấn. Còn không mau đến Triêu Lan cung thỉnh tội với Hoàng hậu nương
nương?”

“Cứ cho là thần thiếp phạm lỗi… Nương nương cũng không
thể đối với thần thiếp như vậy! Người có biết phụ thân thần thiếp là ai
không?!”

Quách thị càng lúc càng hồ đồ. Ban đầu ta nghĩ nàng tuổi nhỏ nhất thời nông nổi, nên mới bảo nàng tự đi thỉnh tội, xem như làm
sai biết hối lỗi, Hoàng Hậu nổi tiếng hiền từ, sẽ không phạt nàng ta quá nặng. Nhưng Quách thị không biết tốt xấu, lại dám giở giọng tiểu thư,
đem cả phụ thân ra hù dọa ta. Ai chẳng biết Quách gia là một trong ngũ
tướng gia của Bách Phượng? Nhưng xem Quách thị nhập cung chỉ được phong
một chức Thường tại nhỏ bé, Hoàng Đế cũng không nhìn đến nàng ta, như
vậy là đủ hiểu Quách tướng gia không hề được coi trọng thực sự.

Thực ra tính cách Quách thị khá giống Liễu Thục phi, chỉ trách dung mạo nàng ta không bằng một phần mười Thục phi, phụ thân nàng ta cũng chẳng phải
Thái Phó đại nhân quyền khuynh thiên hạ. Quách thị không biết thân biết
phận, cứ nghĩ mình là thiên kim thế gia, hành xử ngang ngược bừa bãi.
Người ngu dốt cố chấp như vậy, chết không đáng tiếc.

“Quách thị, ngươi nói bản cung đối với ngươi thế nào? Bản cung chỉ kêu ngươi đi
Triêu Lan cung thỉnh tội, cũng chưa hề dụng tư hình với ngươi. Ngươi lại dám hỏi bản cung có biết phụ thân ngươi là ai. Vậy bản cung cũng hỏi
lại ngươi, ngươi có biết phụ thân bản cung là ai không?”

“Thần thiếp… thần thiếp lỡ lời…”

Không để Quách thị dây dưa thêm nữa, ta lạnh lùng ra lệnh:

“Thường tại Quách thị biết sai không sửa, chấp mê bất ngộ, dĩ hạ phạm thượng.
Du Thường tại, phiền muội đi cùng với Quách Thường tại đến Triêu Lan
cung. Tội mà Quách Thường tại phạm phải quá nhiều, ngộ nhỡ khi thỉnh tội có quên mất tội nào, mong Du Thường tại nhắc nhở giúp.”

Du Thường tại vui mừng ra mặt, chắp tay đáp:

“Thần thiếp tuân lệnh.”

Con người Du Thường tại cũng khá lanh lẹ, lại là loại người gió chiều nào
che chiều ấy. Lần này Quách thị đi thỉnh tội mà có nàng ta đi cùng, chắc chắn không thể có kết cục tốt đẹp.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 23


“Đa tạ nương nương ra tay cứu giúp!”

Liên Nhạc rươm rướm nước mắt, chực quỳ xuống tạ ơn. Ta vội đỡ lấy nàng:

“Muội muội không cần đa lễ như vậy. Mau ngồi xuống đi.”

“Thần thiếp tuân lệnh.”

Liên Nhạc run rẩy ngồi xuống ghế nhỏ bên cạnh ta, đầu vẫn hơi cúi. Có vẻ như đối với nàng, chỉ cần là phi tử thì đều rất đáng sợ, không thể nhìn
thẳng.

Ta nghĩ Liên Nhạc vừa bị kinh sợ, cũng không so đo với nàng, thuận miệng hỏi:

“Bọn họ vẫn thường ức h**p muội như vậy sao?”

Liên Nhạc không nhìn lên, chỉ khẽ đáp:

“Bẩm nương nương, cũng không có gì nghiêm trọng.”

Một làn gió nhẹ nhàng thổi qua mái tóc đen nhánh của Liên Nhạc. Từng lọn
tóc mềm mại bay bay, buông hờ trên bờ vai mảnh khảnh, càng tôn lên vẻ
đẹp thanh khiết. Nữ nhân xinh đẹp tao nhã, lại dịu dàng hiểu chuyện thế
này, ta là nữ nhân mà còn cảm thấy có mấy phần thương mến, huống hồ gì
là Hoàng Đế. Ta nhìn đến gò má nàng còn hằn dấu tay cuả Quách thị, càng
cảm thấy đau lòng, bèn nói:

“Vết thương trên mặt muội tuy không
nặng, nhưng cũng đừng xem thường. Nữ nhân phải coi trọng dung mạo. Trở
về nhớ thoa thuốc cẩn thận.”

Liên Nhạc lúc này mới ngước nhìn ta bằng đôi mắt long lanh như hồ nước mùa thu, cảm kích đến độ nghẹn ngào:

“Đã khiến nương nương bận tâm, là lỗi của thần thiếp.”

Ta bật cười, cầm lấy tay nàng:

“Đều là tỷ muội, đừng mãi khách khí như thế. Thế nhưng bản cung không phải
lúc nào cũng ra mặt cho muội được. Sau này những người kia, muội tránh
được thì tránh.”

Ngày trước Hoàng Đế bảo ta tránh mặt Thục phi,
hôm nay ta lại đem những lời tương tự nói lại với nữ nhân của hắn. Cũng
thật là khôi hài.

Liên Nhạc gật gật đầu, nhưng chưa kịp đáp thì tỳ nữ bên cạnh lại nhanh nhảu nói:

“Nương nương có điều không biết, tiểu chủ cùng bọn họ ở Sương Đình, ngày ngày
đều bị bọn họ h**p đáp cho nên mới tránh đến chỗ này ngồi, không ngờ
cũng chẳng được yên thân…”

Nghe nói Liên Nhạc xuất thân là ca cơ, nhưng ta thấy nàng rất có phép tắc, từ lời nói đến cử chỉ, ánh mắt đều
thận trọng, hợp lễ. Trái lại, tỳ nữ thân cận của nàng cớ sao lại vô phép như thế? Chẳng phải cung nữ sau khi tiến cung đều được dạy dỗ lễ nghi
cẩn thận mới được đưa đi hầu hạ chủ tử sao?

Liên Nhạc thấy ta im lặng, cũng biết tỳ nữ của mình quá phận, liền mắng:

“Vãn Tịch! Không được nhiều lời!”

Ta nhìn cung nữ Vãn Tịch vẫn đang ngơ ngáo không biết mình sai ở đâu, bèn lắc đầu:

“Chủ nhân đang nói chuyện, nơi nào có chỗ cho nô tỳ xen vào? Ban nãy ngươi
cũng rất quá phận, nhưng bản cung thấy ngươi trung thành dũng cảm, dám
ra mặt bảo vệ chủ nhân nên không tính toán với ngươi. Nhưng bây giờ mới
biết ngươi vốn là kẻ vô phép như vậy.”

“Nương nương, là thần
thiếp giáo dưỡng nô tỳ không tốt. Xin nương nương bỏ qua cho Vãn Tịch
lần này… Thần thiếp đảm bảo sẽ không để nàng tái phạm…”

Liên Nhạc sợ hãi, ấn Vãn Tịch quỳ xuống đất. Vãn Tịch bình thường lẻo mép, đến bây giờ lại ấp úng nói không nên lời:

“Nương nương… nô tỳ sai rồi… nô tỳ không có ý mạo phạm nương nương…”

Ta thở dài, phẩy phẩy tay áo:

“Bỏ đi. Bản cung chỉ muốn nhắc nhở muội muội vậy thôi. Người là của muội,
muội tự nên cân nhắc. Bản cung đi trước. Muội cũng sớm về nghỉ ngơi đi.”

Người là của ngươi, ngươi không quản được thì ngươi bị liên lụy, chẳng liên
quan đến ta. Chuyện cần làm cũng đã làm xong rồi, vì vậy bèn vịn lấy tay Ngọc Thủy rời khỏi tiểu đình, thẳng hướng Cẩm Tước cung mà đi.

Đi được một đoạn xa, Ngọc Thủy mới hỏi ta:

“Chủ nhân, bình thường người luôn không thích can thiệp chuyện của kẻ khác… Nay cớ sao lại muốn giúp Liên tiểu chủ?”

Ta cười đáp:

“Hoàng thượng có lòng với Liên Tuyển thị, bản cung thấy nàng ta bị ức h**p,
sao có thể không ra tay giúp đỡ? Nếu bản cung bỏ mặc nàng ta, sau này
Hoàng thượng biết được sẽ không vui.”

Ngọc Thủy gật đầu, lại nói:

“Nói cũng phải. Liên tiểu chủ cũng là hiếm có. Chỉ trách Quách tiểu chủ và
Du tiểu chủ quá đáng… Chuyện này Du tiểu chủ nhất định cũng có phần, chủ nhân vì lí gì mà tha nàng ta?”

“Bản cung chỉ muốn giành lại cho
Liên Tuyển thị chút công bằng, như vậy chỉ cần có người bị trách phạt là được rồi. Quách thị không thông minh bằng Du thị, đây là do bản thân
nàng ta. Ở hậu cung này có bao nhiêu người ngứa mắt Liên Nhạc? Bản cung
phạt hết được sao? Đã không thể phạt hết, vậy phạt thêm một Du thị để
làm gì? Hôm nay chẳng qua là giết gà dọa khỉ, để những kẻ như Quách thị, Du thị hành động cân nhắc một chút. Cũng là để Hoàng thượng đẹp lòng
một chút.”

Ngoài ra, dựa vào địa vị của ta, ta hoàn toàn có thể
trực tiếp phạt Quách thị quỳ gối hoặc vả miệng nhưng ta lại bảo nàng đi
Triêu Lan cung thỉnh tội với Hoàng Hậu. Đây chính là âm thầm bày tỏ kính ngưỡng của ta đối với Hoàng Hậu.

***

Hoàng Hậu làm việc
rất mau lẹ. Chỉ một câu bảo Liễu Thục phi đóng cửa tĩnh tâm, ngay sau đó liền rút đi thẻ bài của nàng ta. Cũng vì chuyện này mà mùa xuân đã qua
nhưng hậu cung lại râm ran vui vẻ vô cùng. Phi tử ai nấy đều lo nghĩ
cách lấy lòng Hoàng Đế, tranh thủ cơ hội này tìm biện pháp giương cánh
bay lên cao.

Lần này Liễu Thục phi gặp họa, cứ nghĩ Hoàng Đế sẽ
tra hỏi kĩ càng. Ai ngờ Hoàng Hậu chỉ đến điện Cát Tường thông báo với
Hoàng Đế mấy câu, Hoàng Đế liền gật đầu cho lui, chẳng hỏi han gì thêm,
cũng không đến chỗ Liễu Thục phi nữa. Qua đó cũng thấy được Hoàng Đế
thực sự coi trọng Hoàng Hậu. Đầu quân cho Hoàng Hậu tạm xem là nước cờ
khôn ngoan. Ngay cả Liễu Thục phi, Hoàng Hậu muốn dìm liền dìm xuống nữa là kẻ tứ cố vô thân như ta. Ngày đó mà không thức thời cúi đầu, hôm nay e rằng chẳng còn Hòa phi nữa.

Trong lúc ta còn đang nghĩ Hoàng Hậu sẽ cất nhắc ai, thì mưa móc lại rơi xuống Cẩm Tước cung của ta đầu tiên.

Hoàng Đế đến mà không thông báo. Khi đó, ta đang luyện chữ. Dù Tạ Thu Dung
không có ở đây, ta cũng không thể chây lười quá lâu. Ta nghe tiếng bước
chân của Hoàng Đế đã quen, nhận ra hắn đang đến từ lâu. Nhưng hắn đã
không cho người thông báo, ta cũng vờ như không biết, cứ lẳng lặng cúi
đầu viết chữ, mãi đến khi nghe thấy tiếng cười của Hoàng Đế, ta mới
ngẩng đầu lên:

“Hoàng thượng đến lúc nào…”

“Trẫm cũng mới
tới thôi, thấy nàng chăm chú cho nên không lên tiếng.” Hoàng Đế cười tủm tỉm, phẩy tay áo ra hiệu cho ta không cần hành lễ.

“Thiếp chẳng kịp chuẩn bị gì cả.” Ta khẽ vén lại tóc mai, làm bộ ngượng ngùng nói.

Hoàng Đế thấy vậy, bật cười thành tiếng rồi bước lại cạnh thư án chỗ ta đang
tập viết. Nhìn thấy mấy xấp giấy nguệch ngoạc chữ viết như cua bò trên
bàn, tiếng cười của hắn chuyển thành ngặt nghẽo:

“Cái gì thế này…”

“Ấy… không có gì cả…” Ta vơ vội giấy viết trên bàn, định mang đi giấu thì bị Hoàng Đế chặn lại.

“Ha… Không phải trẫm cười nàng…”

“Hoàng thượng còn nói không cười thiếp…” Ta cắn cắn môi, ra vẻ giận dỗi.

Hoàng Đế cố nén cười, cầm lấy bút lông, chỉ vào nghiên mực, nói:

“Mực khô hết rồi. Nàng mài mực đi. Trẫm dạy nàng viết.”

Khó khăn lắm mới đến được chỗ ta, không mau sủng ái ta, lại còn muốn dạy
viết chữ? Đêm xuân đáng giá ngàn vàng, Hoàng Đế tiểu tử, ngươi chưa nghe câu này sao? Trong lòng ta kêu khổ, nhưng vẫn phải vâng lời mài mực.

Hoàng Đế làm như chẳng nhìn ra tâm sự của ta. Hắn trải một tờ giấy trắng ra,
nâng bút chấm mực rồi nhẹ nhàng đặt xuống. Hai chữ “Đan Nguyệt” nhanh
chóng hiện ra. Ta chợt nhớ tới lời nói của Tạ Thu Dung khi trước, bèn
chăm chú nhìn thật kỹ. Quả thật nàng nói không sai. Chữ viết của Hoàng
Đế đẹp hơn chữ viết thật của ta rất nhiều. Nhưng nhìn chung, cách đặt
bút, nhấc bút, dụng lực đều tương tự, vì vậy tạo cho người nhìn cảm giác nét chữ của hai người rất giống nhau. Ta lén lút thở ra nhẹ nhõm. May
mà có Tạ Thu Dung sớm nhắc nhở, nếu không chẳng biết được sẽ sinh ra bao nhiêu phiền phức.

“Này. Nàng thử đi.”

Hoàng Đế đặt bút
vào tay ta, vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Ta không dám chậm trễ, vội đón
lấy, cẩn thận chấm mực, sau đó dùng toàn bộ sức lực đặt bút nắn nót viết theo chữ mẫu của hắn. Bên dưới hai con chữ xinh đẹp phóng khoáng của
Hoàng Đế lập tức xuất hiện thêm hai con chữ xiêu vẹo như cua bò. Đứng
cạnh nhau như vậy… Thật sự rất mất thẩm mỹ.

“Đừng căng thẳng như vậy.”

Ta nghe tiếng Hoàng Đế phì cười phía sau lưng mình. Chưa kịp đáp lời, hắn
đã bước sát tới bên cạnh, cầm lấy tay ta mà gò từng nét một. Trong một
thoáng thân cận, ta mới phát hiện, so với lúc ta vừa đến đây, Hoàng Đế
đã cao lớn hơn một chút, bàn tay hắn khi trước xấp xỉ tay ta, nay đã có
thể bao phủ hoàn toàn bàn tay của ta.

“Thả lỏng cổ tay. Phải rồi. Phối hợp cả cánh tay… Dụng lực vào ngón tay một chút… Tốt lắm…”

Dưới sự hướng dẫn của bàn tay Hoàng Đế, hai con chữ mới hiện ra, tuy vẫn không đẹp lắm, nhưng đã dễ coi hơn nhiều.

“Đa tạ Hoàng thượng chỉ bảo.” Ta nói khẽ.

Hoàng Đế không đáp, bàn tay mát rượi vẫn nắm chặt lấy tay ta, hoàn toàn không có ý định buông ra. Ta chẳng dám có ý kiến gì. Hoàng Đế đứng sát sau
lưng ta. Yên lặng hồi lâu, hắn đột nhiên lên tiếng:

“Đan Nguyệt…
Quả thực là một cái tên thanh nhã… Nhưng mà… một vầng trăng đơn lẻ trên
bầu trời đêm tịch mịch, chẳng phải là có phần cô quạnh quá hay không?
Phụ hoàng của nàng vì sao lại đặt tên cho nữ nhi của mình như vậy?”

Thì ra nãy giờ, hắn nghĩ chuyện này sao?

“Tên này thực ra là do mẫu thân thiếp đặt. Ngày thiếp chào đời… mẫu thân
đang được phụ hoàng sủng ái. Ngay cả tên của thiếp phụ hoàng cũng cho
mẫu thân tùy ý đặt, không cần theo pháp chế của tổ tông. Uyên ương dưới
đất, trăng sáng trên trời. Trọn đời trọn kiếp nguyện như trăng kia, một
tấm chân tình sáng trong không đổi.”

Đáng tiếc, lúc đó mẫu thân
không nghĩ tới, mặt trăng cũng có lúc khuyết lúc tròn. Một tháng ba mươi ngày, thử hỏi có mấy ngày trăng kia được tròn trịa vẹn toàn đâu?

Nghĩ tới đây, lòng ta chùng xuống. Bi thương cố nén giữ trong lòng cứ như
muốn trào lên khóe mắt. Ta hơi ngẩng đầu lên, nhẹ nhàng điều chỉnh hơi
thở. Đang nói chuyện với Hoàng Đế làm sao có thể khóc? Đây chẳng phải là tội nhẹ đâu.

Hoàng Đế hình như cũng nhận ra. Hắn buông tay ta, nhẹ nhàng ôm ngang eo ta. Đầu hắn hơi cúi, cằm tì vào vai ta, thì thầm:

“Nàng là vầng trăng cô quạnh. Trẫm là người cô quả. Chúng ta thật là hợp nhau.” (1)

Ý tứ nửa đùa nửa thật của hắn khiến ta buồn cười, bèn đặt bút xuống bàn, nắm lấy hai bàn tay của hắn, nói:

“Hoàng thượng lại đùa rồi. Người sao có thể cô quả được chứ? Có thần thiếp ở đây, Hoàng thượng nhất định không cô quả.”

Hắn nghe xong, càng ôm ta chặt hơn, giọng nói của hắn nhẹ như hơi thở phảng phất bên tai ta:

“Trẫm mệt.”

“Vậy để thần thiếp hầu hạ Hoàng thượng nghỉ ngơi.”

Hoàng Đế gật gật đầu, nhưng lại đứng yên thêm một lúc lâu nữa mới chịu để ta
dìu đến bên sạp gỗ ở phòng trong nghỉ tạm. Lại nói, hắn nằm nghiêng nằm
ngửa thế nào cũng cảm thấy không thoải mái. Mãi tới khi gối đầu được lên đùi ta, mới tỏ vẻ dễ chịu.

Ta thở dài, nói: “Thần thiếp xoa bóp cho người, được không?”

Hắn ừ khẽ một tiếng.

Nói là xoa bóp, thực ra là giúp hắn bấm huyệt giảm đau. Mười đầu ngón tay
nhẹ nhàng di chuyển từ trán l*n đ*nh đầu, sau đó xuống cổ và vai. Xem ra ảnh hưởng của độc Cát Đằng lên thân thể hắn càng lúc càng lớn. Hoàng Đế vốn yếu ớt, trong người còn mang hàn chứng từ nhỏ, e rằng không thể
chịu đựng được độc tính như người thường. Có lẽ ta phải nhanh chóng nghĩ cách báo cho hắn biết. Nếu cứ chần chờ, hắn lăn ra chết thì hỏng
chuyện.

Ta vừa xoa bóp cho Hoàng Đế, vừa nghĩ ngợi vẩn vơ,
thoáng chốc đã qua nửa canh giờ. Ngồi gập hai chân trong thời gian dài,
lại có đầu Hoàng Đế đè nặng bên trên, hai chân ta đã tê cứng. Hoàng Đế
gối đầu lên chân ta, mi mắt đen dài khép hờ, hình như đã lơ mơ ngủ.

Cửa phòng khẽ hé mở. Ta nghểnh cổ nhìn ra ngoài liền thấy Lý Thọ cũng đang
nghểnh cổ ngó vào trong. Ta gật đầu với hắn, lại liếc liếc xuống Hoàng
Đế đang nằm, ý bảo hắn nhẹ chân một chút. Lý Thọ với ta trước sau đều
tâm ý tương thông. Hắn nhìn sơ qua đã hiểu, bèn nhón chân đi vào, không
hề gây ra chút tiếng ồn.

“Hoàng thượng vừa ngủ. Lý công công có việc gì?” Ta cố nói khẽ hết mức có thể.

“Hoàng thượng chưa lật thẻ bài nên nô tài tới xem… Nếu như Hoàng Thượng đã ngủ rồi thì nô tài trở về vậy. Lát nữa Hoàng Thượng tỉnh dậy, phiền nương
nương thông báo một tiếng…” Lý Thọ cũng đáp lại bằng cái giọng nhỏ như
muỗi vo ve.

Hai người bọn ta mới thì thào mấy câu, không ngờ Hoàng Đế tai quá thính, chỉ vậy đã tỉnh dậy.

“Có chuyện gì…”

Hoàng Đế ngáp dài một cái, nheo nheo mắt nhìn Lý Thọ. Hắn không nổi nóng. Ta và Lý Thọ không hẹn mà cùng thở phào nhẹ nhõm.

Lý Thọ nghe hỏi, vội quỳ xuống nhắc lại ý ban nãy:

“Khởi bẩm Hoàng Thượng, người của Kính Sự phòng đưa thẻ bài đến… Không biết Hoàng Thượng có muốn lật thẻ bài hay không?”

Hoàng Đế nhíu mày, nghĩ nghĩ một lát rồi phẩy tay:

“Không cần. Báo với Kính Sự phòng, hôm nay trẫm nghỉ ở Cẩm Tước cung.”

Lý Thọ vâng lệnh lui ra. Trong phòng chỉ còn hai người. Ta định bước xuống hầu hạ hắn nghỉ ngơi, liền bị hắn túm lại:

“Đi đâu?”

“Thần thiếp hầu hạ người đi nghỉ.”

Ta thật thà đáp.

Hoàng Đế không những không buông tay, còn túm chặt hơn, ra sức kéo ta trở lại:

“Không cần. Hôm nay nghỉ luôn ở đây.”

“Sao có thể… Nơi này gió lạnh, ngủ ở đây sẽ nhiễm phong hàn…”

“Giờ đang là mùa hạ, ai lại nhiễm phong hàn? Không nhiều lời nữa, mau ngủ thôi.”

Nói dứt lời bèn kéo mạnh một cái. Ta liền bị hắn lôi ngược về. Tiểu tử này
lắm lúc thật trẻ con. Lệnh vua khó cãi. Thôi thì muốn ngủ đâu thì ngủ.
Thiên hạ này đều là của hắn, hắn có muốn ngủ ngoài hiên ta cũng không
cản nổi. Vả lại, cho dù là ngủ ngoài hiên thật đi chăng nữa, chỉ cần nằm trong phạm vi Cẩm Tước cung thì cũng là cho ta thể diện rồi.

Ta
sợ hắn phật lòng nên không đôi co nữa, ngoan ngoãn nằm xuống cạnh hắn.
Trên sạp của ta có để sẵn mền mỏng, ta lấy đắp ngang qua hai người.
Hoàng Đế vươn tay, kéo ta lại sát gần hắn, xong đâu đó liền yên tâm ngủ
tiếp. Gương mặt hắn từ từ chìm vào giấc ngủ trông thật bình yên.

Sáng sớm, sau khi hầu hạ Hoàng Đế thượng triều, ta nhận được tin tức Thái
Hậu trở bệnh, miễn cho phi tần không phải đến thỉnh an mỗi sáng. Ta nghe xong cũng thấy buồn cười. Liễu Thục phi mỗi lần gây họa đều lợi hại thế này sao? Có thể chọc cho Thái Hậu nổi giận đến ngã bệnh, bản lĩnh này
cũng không nhỏ.

Thái Hậu miễn thỉnh an, Hoàng Hậu cũng chẳng
triệu kiến, ta nhờ vậy có thể thong thả ngồi ở hoa viên Cẩm Tước cung
tận hưởng điểm tâm. Đồ ăn ở Thuận Ninh cung và Triêu Lan cung tuy ngon,
nhưng ngồi ăn ở giữa một bầy nữ nhân lòng dạ rắn rết, thật khó mà tiêu
hóa cho tốt.

Tiểu Phúc Tử đi nghe ngóng tin tức về, vui vẻ nói:

“Chủ nhân biết không? Quách tiểu chủ hôm qua đến Triêu Lan cung thỉnh tội,
đã bị Hoàng Hậu giáng xuống cửu phẩm Phương uyển, còn phạt quỳ mấy canh
giờ, cả thẻ bài cũng bị rút rồi.”

“Vậy sao…” Ta lơ đễnh gắp một miếng bánh rong biển cho vào miệng.

“Còn thấp hơn Liên tiểu chủ một bậc. Xem sau này nàng ta làm sao phách lối.” Tiểu Phúc Tử càng hí hửng bình luận.

Ta lườm Tiểu Phúc Tử, tiện tay nhét vào miệng hắn một khối phù dung cao:

“Nàng ta dù sao cũng là người của Hoàng thượng, chẳng đến lượt ngươi nghị
luận. Cẩn thận cái miệng của ngươi. Nếu để người khác nghe thấy thì
ngươi còn giữ được thủ cấp mới lạ!”

Tiểu Phúc Tử bị bất ngờ suýt nghẹn. Hắn chật vật vừa nhai vừa nói:

“Nô tài chỉ nói với chủ nhân mà thôi…”

Ta nhìn bộ dạng hắn, cảm thấy rất không có tiền đồ. Lúc này, Ngọc Thủy
bưng lên một tô canh củ sen, nghe được mấy lời vừa rồi, liền nói tiếp:

“Vị Du tiểu chủ đó cũng không phải dạng vừa. Nô tỳ nghe đâu nàng không biết đã nói gì với Hoàng Hậu mà được khen thưởng rất trọng hậu.”

Du thị chỉ có chút khôn vặt, thật sự không đáng để bận tâm. Vì vậy, ta tập trung ăn canh, chỉ đáp cho có:

“Thục phi nhất thời lui xuống, dĩ nhiên không thiếu người muốn thừa dịp tấn lên.”

Ngọc Thủy tặc lưỡi:

“Chuyện này nói ra thì Tĩnh Tần chẳng phải ngư ông đắc lợi sao?”

Tâm cơ của Hoàng Hậu, một lời khó giải thích. Ngọc Thủy cũng chẳng cần phải hiểu, bèn cười mà nói:

“Tái ông thất mã.(2) Được hay mất… Còn phải đợi đến cuối cùng mới rõ.”

Vừa ăn vừa nói chuyện phiếm, được một lúc sau thì có Tiểu Minh Tử đến báo:

“Khởi bẩm chủ nhân, Tạ tiểu thư vừa hồi cung.”

Tạ Thu Dung trở lại rồi sao? Đi lâu như vậy, không biết đã xảy ra chuyện gì.

“Mau mời nàng đến đây.”

Ta vẫy tay. Tiểu Minh Tử vâng lời đi ngay. Ngọc Thủy thấy ta đã ăn xong,
cũng bắt đầu dọn dẹp chén bát, giao cho Tiểu Phúc Tử mang xuống, rồi rót trà cho ta súc miệng. Gọn gàng đâu đó thì cũng vừa lúc Tạ Thu Dung đi
đến.

“Thu Dung tham kiến nương nương. Nương nương vạn phúc kim an.”

Tạ Thu Dung cúi người hành lễ vấn an với ta như mọi khi. Ta không chú tâm lắm, quen miệng đáp:

“Tiểu thư, miễn lễ.”

Nhưng đến khi Tạ Thu Dung thẳng người ngẩng lên, ta lại giật bắn người. Nhiều ngày không gặp, ta thật sự nhận không ra nàng nữa. Làn da vốn hồng hào
xinh đẹp của nàng, nay không hiểu vì sao mà xanh nhợt thiếu sức sống,
hơn nữa còn lấm lem tro bụi. Quầng mắt thâm đen, hai mí lại mọng đỏ như
đã khóc rất nhiều. Đôi môi mọng đỏ hóa thành khô nứt. Bình thường, Tạ
Thu Dung rất coi trọng lễ nghi, vì vậy đầu tóc trang phục của nàng luôn
chỉnh chu, hợp lễ. Thế mà nay, nàng nhập cung mà chỉ mặc một bộ váy vải
hoa thô kệch, nhìn hao hao y phục của nha hoàn trong các phủ đệ lớn. Tóc tai cũng chỉ tết vội thành một bím dài hất ra sau lưng, tóc mái thì rối loạn. Trông cứ như thể phạm nhân vừa đào thoát. Ta nhìn bộ dạng vừa
luống cuống vừa thảm hại của nàng mà ngớ người ra một lúc lâu, mãi mới
có thể run rẩy hỏi:

“Tiểu thư… làm sao… làm sao lại thành ra thế này?”

Tạ Thu Dung hẳn cũng hiểu rõ tình trạng của mình bây giờ. Nàng cố gắng
vuốt lại tóc mái, lại còn kéo tay áo lau lau mặt nhưng cũng chẳng khá
hơn được là bao, đành cúi đầu:

“Thu Dung thất lễ… Thỉnh nương nương thứ tội…”

Nhìn nàng chật vật như vậy, ta càng thấy khó tin, bất giác đứng lên tiến lại gần nàng:

“Rốt cuộc, những ngày qua tiểu thư đã gặp chuyện gì?”

Tạ Thu Dung thấy ta tiến đến, liền lùi lại một bước:

“Thu Dung cảm thấy trong người không khỏe, không thể tiếp chuyện nương
nương. Mong nương nương cho phép Thu Dung về phòng nghỉ ngơi sớm.”

“Tạ tiểu thư…”

“Thu Dung thật sự không khỏe. Thỉnh nương nương thứ tội.”

Mới gặp mặt đã thỉnh tội hai lần, lời nói lại xa cách như thế. Nhất định đã có chuyện lớn xảy ra. Chỉ là, nàng đã không muốn nói, ta không thể ép
được, chỉ thở dài:

“Thôi, tiểu thư đã không khỏe thì hãy về phòng nghỉ ngơi cho tốt đi. Khi nào khỏe lại cùng ta nói chuyện cũng không muộn.”

“Đa tạ nương nương.”

Tạ Thu Dung liêu xiêu rời đi. Ngọc Thủy lúc này mới ú ớ:

“Chuyện… chuyện gì thế này? Đây… thực sự… là Tạ tiểu thư sao?”

Ta lắc đầu tỏ ý mình cũng mù mờ.

“Nô tỳ thật không thể tin nổi.”

Ngọc Thủy lẩm bẩm, mắt vẫn dán theo hướng Tạ Thu Dung rời đi ban nãy. Ta thở dài. Nhìn Tạ Thu Dung như thế, trong lòng ta cũng có điểm không thoải
mái. Bản thân ta thực sự yêu mến tính cách cùng tài năng của nàng. Con
người nàng rất đặc biệt, vừa nề nếp lễ nghi, lại vừa nổi loạn một cách
kín đáo, không hề giống với những nữ nhân bình thường khác. Sự thẳng
thắn và chân thật của nàng cũng là điều hiếm có. Quen biết mấy tháng, ta và nàng có thể xem là sớm tối ở cạnh nhau. Thời gian tiếp xúc chưa phải là dài nhưng cũng đủ để ta tin tưởng nàng, coi nàng là bằng hữu. Nay
biết Tạ Thu Dung gặp chuyện, ta lại chẳng thể tra hỏi, cho nên lòng
không yên được.

“Ngọc Thủy, chuẩn bị đi Triêu Lan cung một chuyến.”

(1) Vua hay tự xưng là “Quả nhân” nghĩa là người cô quả.

(2) Câu chuyện cổ “Tái ông mất ngựa”

Chuyện kể rằng xưa kia ở vùng biên cương gần láng giềng người Hồ, có một ông
lão tên là Tái Ông. Ông sống lạc quan, bao dung, bởi vậy mà được rất
nhiều người mến mộ. Ông có một người con trai, hai cha con sống bằng
nghề chăn ngựa. Một hôm, không biết nguyên nhân vì sao mà con ngựa của
ông bỏ đi mất. Sau khi hàng xóm biết chuyện, họ nghĩ rằng ông sẽ rất
buồn nên đến thăm hỏi và an ủi. Nhưng ông chẳng những không tỏ ra tiếc
nuối, mà còn bình thản trả lời: “Ngựa mất rồi, đương nhiên là chuyện
xấu, nhưng ai biết đâu nó sẽ mang lại kết quả tốt chứ? Không sao đâu”.

Quả nhiên qua mấy tháng sau, con ngựa kia liền trở về, còn dắt theo một con tuấn mã. Nghe tin này, bà con hàng xóm cùng nhau tới chúc mừng cho Tái
Ông. Nhưng ông cũng không hề tỏ ra vui mừng, ông nói: “Mọi sự đều có
nhân duyên của nó, chuyện được cho là vui nhưng chưa chắc đã tốt, không
nên vội mừng làm chi”. Từ ngày có thêm một con tuấn mã, con trai ông vui mừng khôn xiết, ngày ngày cưỡi ngựa rong chơi, hóng gió, đi không biết
mệt.

Cuối cùng, do bất cẩn cậu này ngã ngựa và gãy chân. Hàng
xóm biết tin, ai cũng tới chia buồn, còn Tái Ông vẫn điềm nhiên: “Biết
đâu chuyện lại có hậu thì sao? Mọi người đừng lo tôi không thấy buồn”.
Hàng xóm thực sự không thể hiểu nổi ông. Một thời gian sau, người Hồ ồ
ạt tấn công xâm lược Trung Nguyên, tình hình biên ải đột nhiên căng
thẳng, thanh niên trai tráng đều được gọi nhập ngũ đi lính, kết quả mười người thì có 8, 9 người mất mạng trên chiến trường. Riêng con trai của
Tái Ông bị què chân nên được miễn quân dịch, vì thế cha con ông tránh
được nạn sinh tử biệt ly. Sau những sự việc ấy, mọi người càng thêm nể
phục phong thái điềm tĩnh và cách cư xử “bình thản” của ông.

Cuộc sống vốn như một dòng chảy bất tận và biến đổi không ngừng. Vô thường
là một chân lý, vạn sự vạn vật đều tuân theo nguyên lý ấy. Đâu ai biết
được ngày mai rồi sẽ ra sao? Việc tốt xấu trong đời người không là
tuyệt đối, chuyện tưởng như là xấu mà lại có thể dẫn tới kết quả tốt
đẹp, và những chuyện được cho là tốt đẹp cũng có thể dẫn tới hậu quả
xấu. Quan trọng là chúng ta giữ được tâm thái bình thản trước tất cả mọi sự xảy đến với mình, biết chấp nhận nó, không truy cầu hay than vãn.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào
Tái Ông cũng lý trí để nhận thức bản chất sự việc, làm chủ được cảm xúc
của mình, không bị chi phối bởi vô thường. Nếu giữ được tâm thái ấy,
chúng ta sẽ lạc quan hơn, có cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn và an nhiên tự tại trước vui buồn của đời người.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 24


Hậu hoa viên Triêu Lan cung.

Ta và Hoàng Hậu ngồi đối diện nhau. Sau khi nghe ta trình bày rõ ràng
chuyện của Tạ Thu Dung, Hoàng Hậu thoáng ngạc nhiên, sau đó trầm ngâm
một lúc rồi mới cất tiếng nói:

“Ban nãy quả thực lúc vào cung, Tạ tiểu thư đã bị ngự lâm quân chặn ở Hoàng Môn. Cũng may Xuân Hạnh đi làm chút việc vặt cho bản cung, vừa hay trở về đúng lúc, nhìn thấy thế mới
ra mặt bảo đảm cho nàng ta. Nếu không e là với bộ dạng ấy, Tạ tiểu thư
thật sự không thể vào được. Lúc Xuân Hạnh nói với bản cung, bản cung còn cho là nàng ta quá lời.”

Ta cũng thở dài:

“Chuyện này quả thực kì lạ.”

Hoàng Hậu nâng ly trà trước mặt lên, khẽ nhấp một ngụm rồi thong thả nói:

“Bản cung đã cho người âm thầm đến Tạ phủ điều tra rồi. Chúng ta tạm ngồi
đây thưởng trà tán chuyện một chút, chắc sẽ mau chóng có tin tức thôi.”

“Vâng ạ.” Ta gật đầu, cũng nhấc ly trà lên uống. Thủy Điển là loại trà ưa
thích của Hoàng Hậu. Vị trà thanh nhã, trước chát sau ngọt, mà hương
thơm thì vương vấn rất lâu khiến người ta có cảm giác an tĩnh.

“Bản cung không ngờ muội lại quan tâm đến Tạ tiểu thư như vậy.” Hoàng Hậu đột ngột nói.

Ta thành thực đáp: “Tạ tiểu thư đối với muội rất tốt. Nhìn thấy nàng như vậy, muội thực lo lắng…”

Hoàng Hậu gật đầu không hỏi thêm nữa mà chuyển sang chuyện khác:

“Nguyệt nhi, muội cảm thấy Du Thường tại thế nào?”

Ta cũng biết Hoàng Hậu sẽ nói đến vấn đề này, bèn cười đáp:

“Là một nữ nhân lanh lợi, nhưng chẳng qua cũng chỉ có lanh lợi mà thôi.”

Hoàng Hậu cười cười nói:

“Thấy muội bảo nàng ta đưa Quách thị đi thỉnh tội, ta còn tưởng muội muốn cất nhắc nàng ta.”

“Muội nào có ý đó. Chỉ là tội của Quách Phương uyển quá nhiều, sợ nàng ta
thỉnh sót nên muội mới nhờ Du Thường tại đi theo nhắc nhở.”

“Cũng phải…”

Du thị chỉ có chút khôn lanh vặt vãnh, chẳng phải hơn người. Ở hậu cung
huơ tay vơ đại cũng được một đống người mưu trí hơn hẳn nàng ta. Nếu đi
coi trọng người như vậy, chẳng hóa ra bản thân ta cũng hồ đồ rồi sao.
Hoàng Hậu ắt hẳn cũng hiểu, chỉ là kiếm chút chuyện nói cho qua thời
gian mà thôi. Để nàng vui lòng, ta cũng cứ thuận theo đẩy đưa câu chuyện giải sầu. Cười nói được một lát thì Tần Khương - thái giám thân cận của Hoàng Hậu đi điều tra Tạ phủ trở về. Người của Hoàng Hậu làm việc quả
nhanh nhẹn.

Tần Khương tới nơi, hành lễ xong thấy còn có mặt ta, liền lộ vẻ ái ngại. Hoàng Hậu lúc này mới vẫy tay cho hắn đứng lên rồi nói:

“Có gì cứ nói, Hòa phi không phải người ngoài.”

Tần Khương được lệnh bèn cung kính chắp tay, tỉ mỉ kể lại:

“Bẩm Hoàng hậu cùng Hòa phi nương nương. Ban đầu nô tài đến Tạ phủ, lấy danh nghĩa Hoàng Hậu nương nương cầu kiến. Tạ đại nhân thượng triều chưa trở về còn Tạ phu nhân tuy nói không có việc gì nhưng thái độ lại không mấy tự nhiên. Vậy nên nô tài lén gặp người của ta ở trong phủ. Kết quả nghe được không ít chuyện li kì…”

Tần Khương hơi ngập ngừng, chờ xem
thái độ của Hoàng Hậu. Có lẽ việc hắn tự tiện gặp gỡ người của Hoàng Hậu là quá phận, sợ hãi bị trách phạt. Nhưng ngay cả phủ đệ của Tạ Ngự sử
cũng có thể cài người vào, nàng ta quả là lợi hại.

“Nói tiếp đi.”

Hoàng Hậu vậy mà không quá bận tâm, chỉ khẽ gật đầu cho phép Tần Khương nói
tiếp. Tần Khương trút được nỗi lo lắng, giọng điệu mạnh mẽ hẳn lên:

“Bẩm Hoàng Hậu cùng Hòa phi nương nương, chuyện này vốn có liên quan tới hôn sự của Tạ tiểu thư. Nghe nói nhiều ngày trước, Doãn Thị lang đã mang
sính lễ đến hỏi cưới Tạ tiểu thư cho Doãn đại công tử. Tạ đại nhân nhận
sính lễ rồi nhưng lúc đó Tạ tiểu thư còn ở trong cung nên không hay
biết. Tạ tiểu thư trở về nhà, liền vì chuyện này mà bất hòa với Tạ đại
nhân. Tạ tiểu thư kiên quyết không đồng ý gả, mà Tạ đại nhân cũng nhất
định không trả sính lễ. Sau đó Tạ đại nhân sợ Tạ tiểu thư đào hôn cho
nên mới đem giam nàng lại, không cho rời khỏi phòng dù chỉ một bước. Đó
là lý do Tạ tiểu thư không hồi cung đúng ngày. Hôm nay là ngày kị ba năm thân mẫu của Tạ tiểu thư. Nhân lúc Tạ đại nhân vắng nhà, nàng mới quỳ
gối dập đầu xin Tạ phu nhân cho đi viếng mộ thân mẫu, nếu không sẽ tự
vẫn. Tạ phu nhân không biết xử trí thế nào, nhất thời mềm lòng đồng ý.
Tạ tiểu thư sau khi ra ngoài bèn đổi y phục với nha hoàn thân tín, chạy
về hoàng cung. Tạ phủ bây giờ hẳn là đang gà bay chó sủa.”

Tần Khương làm xong bổn phận được giao, liền quy củ lui ra ngoài.

Thì ra là vậy.

Trong lòng ta hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn yên lặng đợi Hoàng Hậu lên tiếng
trước. Quả nhiên, không để ta chờ đợi quá lâu, Hoàng hậu đã cười lạnh:

“Tạ Ngự sử càng lúc càng hồ đồ rồi.”

Ta mới đến đây không lâu, đối với chuyện ngoài cung không biết nhiều, liền nhân cơ hội này mà hỏi:

“Tính về tuổi tác, Tạ tiểu thư cũng nên thành thân rồi. Vì sao lại một mực
đào hôn như thế? Lẽ nào Doãn gia không tốt? Muội cảm thấy Thị lang tuy
không phải chức vị lớn, nhưng cũng chẳng đến nỗi không môn đăng hộ đối.”

Hoàng Hậu nhếch môi, cười khẩy:

“Tạ Chính Minh luôn thích kéo bè kết đảng, lại vô cùng trọng thể diện lẽ
nào đi chọn chỗ thấp bé mà gả con gái vào? Doãn Thị lang chức vị quả
thực không quá cao nhưng ông ta có tình hữu hảo lâu năm với Triệu Tướng
gia. Quyền thế so với những Thị lang bình thường cao hơn mấy phần.”

Năm xưa khi Hoàng Đế mới lên ngôi, cục diện rối ren vô cùng. Khi ấy Hoàng
Đế hãy còn nhỏ tuổi nhưng hắn đương là Thái tử, lại là kẻ duy nhất đủ
điều kiện kế vị nên đường lên ngôi cửu ngũ không nhiều sóng gió, mà trái lại, mũ phượng kia mới là thứ khuấy đảo hoàng thành. Hoàng Đế lên ngôi, Hậu vị không thể để trống. Vô số gia tộc quyền thế trong triều đều muốn đưa con gái lên làm mẫu nghi thiên hạ. Liễu Yến Yến, Triệu Lam Kiều, Lê Khiết, Tạ Thu Dung đều từng là những đối thủ xứng tầm của Hoàng Hậu bây giờ.

Kết cục của trận chiến “ngũ phụng tranh vương”, đại tiểu
thư Hà thị - Hà Thục Chiêu là người chiến thắng. Về lý, nàng có thể đội
lên mũ phượng bởi tuổi tác thích hợp nhất, những người kia khi ấy đều
chỉ là mấy tiểu a đầu miệng còn hôi sữa, không thể cáng đáng nổi trách
nhiệm nặng nề. Nhưng ẩn tình trong đó ai mà chẳng biết là do Thái Hậu ra tay để củng cố địa vị cho gia tộc của mình. Cục diện ngã ngũ, Lê Khiết, Liễu Yến Yến, Triệu Lam Kiều lần lượt tiến cung tiếp tục cuộc chiến,
còn lại Tạ Thu Dung vì phải chịu tang thân mẫu nên đã bỏ lỡ cơ hội ba
năm trước. Đến bây giờ, Lê Khiết hồng nhan bạc mệnh, Liễu Yến Yến và
Triệu Lam Kiều vẫn ngày ngày tranh sủng, Tạ Thu Dung thì đã quá tuổi,
không còn khả năng bước chân vào hậu cung để làm phi nữa. Có lẽ vì vậy
mà Tạ đại nhân kiên quyết nhân dịp này gả quách nàng ấy đi, kết thân với Doãn thị và Triệu tướng gia, gỡ gạc lại phần vốn đã bỏ lỡ nhiều năm
trước.

Ta ngẫm nghĩ trong chốc lát, vẫn cảm thấy vụ đào hôn của Tạ Thu Dung có điểm kì quái, liền hỏi:

“Cứ cho là Tạ tiểu thư không muốn gả đi, nhưng nàng ấy vốn là người đoan
trang, muội thật không dám tin sẽ phản ứng l* m*ng như vậy.”

Đối với một vị tiểu thư gia giáo, đào hôn quả thực chẳng phải chuyện nhỏ.

Hoàng Hậu nghe ta nói, bật cười khúc khích:

“Đó là do muội không biết vị Doãn đại công tử đó cho nên mới nói vậy.”

Thái độ lấp lửng của nàng càng làm người ta tò mò hơn, ta nhíu mày hỏi:

“Doãn đại công tử này rốt cuộc là thần thánh phương nào?”

Hoàng Hậu che miệng cười một tiếng, cuối cùng cũng nói ra:

“Hắn ta chính là Doãn Hi, đích tử của Doãn thị, từ nhỏ đã được nuông chiều
nên sinh ra ngang ngược, coi trời bằng vung. Con người Doãn Hi không
thiếu tật xấu, nhưng tật xấu lớn nhất chính là ham mê nữ sắc. Thiên hạ
đồn rằng hắn mười ba tuổi đã biết đi thanh lâu, bản cung chẳng biết thật giả thế nào. Chỉ biết nay hắn vừa qua ba mươi tuổi, trong phủ đã có hai mươi thiếp thất, chưa kể đến nha hoàn thông phòng. Tạ Thu Dung từ lâu
nổi tiếng là đệ nhất tài nữ, tài sắc vẹn toàn nên sớm đã lọt vào mắt
xanh của Doãn Hi. Chỉ là ngày trước Tạ Ngự sử muốn đưa nàng vào cung nên không đếm xỉa đến hắn, sau đó Tạ Thu Dung lại phải chịu tang thân mẫu.
Sự việc này cứ nghĩ như thế là xong. Không ngờ ba năm rồi, Doãn Hi vẫn
không từ bỏ ý định, chỉ chờ đến ngày Tạ Thu Dung mãn tang liền đưa sính
lễ đến nơi.”

Nghe qua mấy lời này, bản thân ta cũng phải kinh hãi:

“Không ngờ Doãn đại công tử lại tệ hại như thế! Nhưng mà… tỷ tỷ chẳng phải vừa nói Tạ đại nhân rất trọng thể diện hay sao? Sao có thể vừa ý một hiền
tế bại hoại đến mức này?”

Hoàng Hậu khẽ lắc đầu, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt:

“Doãn thị kết giao với Triệu Tướng gia lâu năm. Trước nay, những trò càn quấy của Doãn Hi luôn luôn được Triệu Tướng gia lấp l**m hộ. Sự thật về con
người hắn, chỉ có người trong chốn quan trường mới biết được ít nhiều.
Triệu Tướng gia một tay che trời, khiến cho trong mắt người ngoài Doãn
Hi vẫn là bậc quân tử hiền lương. Thanh danh to lớn như thế, Tạ Chính
Minh không thích sao được?”

Hoàng Hậu gọi thẳng tên tự của Tạ Ngự sử, chứng tỏ sự khinh thường tột đỉnh. Tuy ta chưa gặp ông ta bao giờ
nhưng nghe đến đây trong lòng cũng dâng lên cảm giác ghét bỏ, bất giác
cảm thán:

“Trên đời lại có người phụ thân nỡ vì chút lợi ích mà đẩy con gái mình vào miệng cọp như thế!”

Ta nhất thời tức giận, nói xong liền biết mình lỡ lời. Phụ hoàng của ta
chẳng phải cũng là loại người đáng khinh đó sao? Hoàng Hậu chắc đã nhận
ra sự ngượng ngùng của ta, nàng khẽ thở dài nhưng không đả động đến, chỉ nói:

“Trên đời này loại người nào cũng có… Tạ Thu Dung thực ra rất đáng thương.”

Giọng nói Hoàng Hậu dường như pha chút chua chát. Nghĩ kỹ lại, chẳng phải mỗi mình ta có loại phụ thân này.

Hậu cung cạm bẫy trùng trùng, một bước sa chân vạn kiếp bất phục. Có thể
đành lòng đưa con gái mình vào chốn này, nói dễ nghe là lòng dạ cứng
rắn, mà nói khó nghe thì chính là tàn nhẫn vô tình. Sinh ra là nữ nhân
nhà quyền quý, thân phận càng cao sẽ càng hiểu rõ câu “thân bất do kỷ”.
Cho dù là ta hay Hoàng Hậu, Liễu Yến Yến hay Triệu Lam Kiều cũng đều như nhau. Tất cả nữ nhân trong hậu cung này dẫu có đấu đá đến đầu rơi máu
chảy, rốt cuộc cũng chỉ là những quân cờ trên bàn cờ chính trị mà thôi.
Ta thân là công chúa hòa thân, xuất giá có bao nhiêu vinh quang hoa lệ,
nhưng thực chất cũng chỉ là con tốt thí, mỗi ngày đều phải chăm chăm
nghĩ cách giữ lấy mạng mình. Mấy người như Hoàng Hậu, Thục phi, Đức phi
kia còn thảm hơn ta nhiều. Ta biết phận mình là “hiệp ước hòa bình” của
Tùy Khâu và Bách Phượng, nhưng trước nay Tùy Khâu chưa từng làm cho ta
điều gì, mà hoàng tộc họ Chu đối với ta cũng chẳng có điểm nào tốt đẹp,
vì vậy, ta chỉ cần lo giữ mạng mình, chẳng cần nghĩ đến việc tận trung
tận hiếu. Còn những nữ nhân kia lại bị vận mệnh gia tộc đè nặng trên
vai… Nếu phải so sánh, bọn họ mới thực sự là kẻ đáng thương.

Cuộc trò chuyện của ta và Hoàng Hậu chìm vào yên lặng. Trong bầu không khí
tự nhiên dâng lên một nỗi bi thương không thể nói thành lời. Nữ nhân đối với nhau, ở một phương diện nào đó sẽ có sự đồng cảm nhất định. Mà ta
và Hoàng Hậu lại đứng cùng chiến tuyến, sự đồng cảm càng lớn hơn. Bất
giác, ta như nhìn thấy nét mặt vốn ung dung, điềm tĩnh như nước của nàng phảng phất bi ai cùng uất hận. Trong giây phút ấy, ta tự hỏi sáu năm về trước, khi chiếc mão phượng cao quý kia được đặt lên mái tóc đen óng
mềm mại của Hà tiểu tư, nàng ta rốt cuộc đang khóc hay đang cười?

Chỉ là…

Sâu kín bên trong mỗi con người đều có một góc khuất mà kẻ khác không thể
tùy tiện bước vào. Ta cũng tự hiểu mối quan hệ của mình và Hoàng Hậu về
bản chất chỉ là thứ liên kết đồng minh lỏng lẻo, hoàn toàn không có tư
cách chạm đến bóng tối đó, nên cũng không cố gắng làm chi.

Nhìn
thấy ly trà của Hoàng Hậu đã gần cạn, ta lặng lẽ nhấc bình trà châm thêm vào. Hoàng Hậu như tỉnh ra từ trong mộng, hai hàng mi dài rũ xuống thu
lại ánh mắt u uẩn. Nàng mỉm cười yếu ớt, nhận lấy ly trà ta đưa đến.
Nhìn nàng chậm rãi uống từng ngụm trà nhỏ, ta chợt hiểu ra lý do nàng
đặc biệt thích loại trà này.

Trà Thủy Điển có tác dụng định tâm, xua tan tạp niệm.

Biết rằng không thể cứ kéo dài bầu không khí nặng nề này mãi, ta quyết định
chuyển đề tài trở về Tạ Thu Dung. Hoàng Hậu đương nhiên hiểu được, liền
bắt đầu nói những điều nàng biết, cốt yếu là để xua đi thứ cảm giác bi
thương không nên có kia.

Người người đều nói Tạ Thu Dung là quý
nữ của Tạ Ngự sử, nhưng thật ra nàng chỉ là con của một người thiếp.
Thân phận mẫu tử nàng ngay từ đầu đã chẳng cao quý. Tuy vậy, Tạ Thu Dung lại có tư chất hơn người. Từ nhỏ, nàng đã thông minh lanh lợi, dung mạo lại đẹp đẽ. Tạ Ngự sử nhận thấy điều này từ sớm bèn quyết định biến
nàng thành quân cờ chủ lực trong trận chiến tranh quyền của mình.

Ông đối đãi với nàng như trưởng nữ, lại cho phép nàng được học chữ cùng
những người con trai khác của Tạ gia. Thời gian qua đi, Tạ Thu Dung học
một biết mười, tài hoa đã vượt xa các huynh trưởng, dung mạo cũng ngày
một xinh đẹp sắc sảo. Tạ Ngự sử biết mình không nhìn lầm người, liền
không ngừng mời cao nhân khắp nơi đến bồi dưỡng cho nàng.

Mười
ba tuổi, Tạ Thu Dung đã tinh thông cầm kỳ thi họa, văn tài xuất chúng,
hoàng thành hiếm có người sánh kịp. Tạ phu nhân theo ý Tạ Ngự sử, thường xuyên đưa nàng đi dự những buổi yến tiệc của các nhà quyền quý. Tài
năng và nhan sắc của nàng người người ngưỡng mộ. Tạ Thu Dung đã được Tạ
Ngự sử đặc biệt nuôi dạy để trở thành mẫu nghi thiên hạ. Đáng tiếc, trận “ngũ phụng tranh vương” năm ấy, Tạ Thu Dung mới hơn mười bốn tuổi. Thái Hậu liền vin vào đó, nói rằng nàng không đủ chính chắn. Tạ Ngự sử bại
nhưng không nản, trong vòng ba năm không ngừng tiếp tục rèn luyện Tạ Thu Dung, ôm hi vọng đem nàng tiến cung. Dù không thể ngồi vào hậu vị thì
một chức Hoàng quý phi hay Quý phi cũng đủ cho Tạ gia mấy đời vinh
quang. Thế nhưng, người tính không bằng trời tính, ngay đợt tuyển tú đầu tiên, thân mẫu của Tạ Thu Dung lại bệnh nặng qua đời, nàng ta vì thế mà để lỡ thời cơ vĩnh viễn. Chịu tang ba năm xong, nàng đã hơn hai mươi
tuổi, không thể tham gia tuyển tú nữa. Tạ Ngự sử nghe đâu vì chuyện này
mà tức giận đến ngã bệnh, liệt giường hơn một tháng trời.

Dẫu
vậy, Tạ Ngự sử vẫn không hề bỏ cuộc. Đến ta cũng phải nghiêng mình bái
phục sự ý chí leo cao bền bỉ của ông ta. Mục tiêu vốn nhắm vào hoàng tộc nay chuyển đến các công tử danh môn thế gia. Dù cho Tạ Thu Dung đã hơi
lớn tuổi, nhưng dựa vào tài sắc cùng danh tiếng của nàng, tìm một nhà
thông gia có thể giúp Tạ Ngự sử củng cố quyền thế không phải việc quá
khó. Trong ba năm Tạ Thu Dung để tang thân mẫu, Tạ Ngự sử cùng phu nhân
liên tục bồi dưỡng tài nghệ và nhan sắc cho nàng, phát huy thanh danh
“Bách Phượng đệ nhất tài nữ” đến mức cao nhất, hòng kiếm tìm một hiền tế “hữu dụng”.

Doãn Hi chính là người đáp ứng đủ yêu cầu của Tạ Ngự sử.

Ngày trước tranh giành hậu vị, Tạ gia đã kết oán cùng Triệu Tướng gia. Nay
vừa hay Doãn gia lại có mối giao tình lâu đời với Triệu Tướng gia. Kết
thông gia với Doãn Thị lang, cũng coi như cùng Triệu Tướng gia thành
người một nhà, không những có thể giải tỏa ân oán ngày trước, mà còn có
thể nhân cơ hội này dựa dẫm vào Triệu Tướng gia, khuếch trương quyền
lực. Lúc này, Triệu Tướng đã thâu tóm hơn một phần ba quyền lực trong
triều, dựa vào Triệu Tướng gia tuyệt đối không sai. Mối hôn nhân này
thực sự quá hời. Vì vậy, Tạ Ngự sử vô cùng cương quyết, dù có phải trói
nghiến tân nương thảy vào kiệu hoa, ông cũng nhất định làm. Cũng vì lo
sợ vạn nhất xảy ra bất trắc như hai lần trước, Tạ Ngự sử quyết định phải gả càng nhanh càng tốt. Sính lễ vừa đưa đến tháng trước, ngày thành hôn đã được định ở tháng sau.

Trớ trêu ở chỗ, Doãn Hi tới cầu thân
như vậy nhưng không hề nói sẽ để Tạ Thu Dung làm chính thất. Tạ Thu Dung rất thông minh, nàng đương nhiên hiểu dựa vào thân phận thứ nữ con
thiếp của mình, nếu gả cho một đích tôn nhà quyền quý như Doãn Hi, nàng
hoàn toàn không có cơ hội trở thành chính thất của hắn. Thử nghĩ Doãn Hi trăng hoa bại hoại, thiếp thất của hắn đầy đàn, nếu không thể làm chính thê, gả vào đó có khác gì địa ngục? Con người tài hoa lại thẳng thắn,
cương liệt như Tạ Thu Dung làm sao chịu được cảnh làm tiểu thiếp, ngày
ngày cùng một đàn mấy chục nữ nhân tranh giành một tên trượng phu háo
sắc? Chính vì lẽ đó, nàng sống chết cũng không chịu gả. Tạ Ngự sử ban
đầu nói rằng chỉ tạm thời làm thiếp, tài năng và nhan sắc của Tạ Thu
Dung trên đời hiếm có, Doãn Hi nhất định không thể tìm được người nào
hơn nàng, sau cùng cũng sẽ lập nàng làm chính thê mà thôi. Nhưng dù ngọt nhạt thế nào cũng không lay chuyển được con gái, Tạ Ngự sử lền nổi
giận, lại hiểu tính cách Tạ Thu Dung sẽ không dễ dàng khuất phục, bèn
khóa chặt nàng trong phòng, chờ ngày trói lại thảy lên kiệu hoa. Tạ Thu
Dung phải chờ đến tận ngày giỗ thân mẫu, khi Tạ Ngự sử vắng nhà mới có
thể giở trò uy h**p Tạ phu nhân để trốn ra ngoài. Nhà ngoại của nàng chỉ là thương gia nhỏ, nếu trốn về nhà ngoại, khi Tạ Ngự sử đến đòi người,
sớm muộn cũng phải trả. Thế nên, Tạ Thu Dung bèn chạy thẳng vào hoàng
cung. Dẫu sao dưới chân Thiên tử, Tạ Ngự sử cũng không thể làm gì quá
đáng. Hoàng cung bây giờ là chỗ an toàn nhất đối với nàng.

Ta và
Hoàng Hậu trò chuyện thoáng chốc đã quá trưa. Hoàng Hậu ngỏ lời giữ ta
lại dùng thiện, nhưng nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt nàng, ta đành từ chối. Dù sao lòng dạ hai người đều nặng nề, có ở lại nữa cũng chẳng vui vẻ nổi.

***

Về lại Cẩm Tước cung, ta đem chuyện của Tạ Thu Dung nói sơ qua cho Ngọc
Nga và Ngọc Thủy, sau đó dặn dò cung nữ Ngọc Chân chăm sóc Tạ Thu Dung
cẩn thận. Tạ Thu Dung phụng mệnh nhập cung chỉ dạy ta, nhưng chỉ được đi một mình. Nha hoàn cạnh người cũng không mang vào được. Trong số cung
nữ còn lại, ta thấy Ngọc Chân này có phần trầm tĩnh, hiểu chuyện lại cẩn thận, cảm thấy nàng sẽ hợp với Tạ Thu Dung nên để nàng đến chỗ Tạ Thu
Dung. Mấy tháng qua, hai người cũng coi như hòa hợp. Có Ngọc Chân ở cạnh nàng ấy, ta cũng yên tâm.

Thực tình, ta rất muốn nói chuyện với Tạ Thu Dung. Nhưng nghĩ lại thời gian qua nàng đã chịu nhiều kinh
hoảng, sáng nay lại còn trải qua một cuộc đào hôn ngoạn mục, trong lòng
hẳn là vẫn còn sợ hãi. Tốt nhất là để nàng bình tâm lại trước, ngày mai
hoặc ngày mốt lại nói chuyện cũng không muộn. Dù sao Tạ Ngự sử cũng chưa xông vào đây ngay được.

Dự định là như thế, nhưng đến buổi tối
lại xảy ra chuyện. Ngọc Chân không biết vì sao đột nhiên cầu kiến. Ta đã yên vị trên chiếc giường êm ái, vốn chẳng muốn ngồi dậy, nhưng Ngọc
Chân lại cứ kiên quyết đòi gặp ta cho được. Ngọc Nga nghĩ Ngọc Chân là
người hầu hạ Tạ Thu Dung, sợ rằng Tạ Thu Dung có việc gì quan trọng nên
mới bẩm báo lên. Ta cũng nghĩ vậy. Dù hai mí mắt đã dính chặt với nhau
nhưng vẫn gắng gượng khoác áo vào ra gặp Ngọc Chân.

Ngọc Chân vừa nhìn thấy bóng ta đi ra, đã vội quỳ xuống, sợ hãi nói:

“Nô tỳ xin chủ nhân đi qua chỗ Tạ tiểu thư xem sao. Nô tỳ lo Tạ tiểu thư…”

Ta vội hỏi: “Tạ tiểu thư làm sao?”

Ngọc Chân run bắn người, quỳ mọp mà đáp:

“Hôm nay sau khi về phòng, Tạ tiểu thư liền đóng chặt cửa không cho ai vào.
Đến hai bữa cũng chỉ hé cửa phòng cho nô tỳ đẩy cơm vào thôi. Ban đầu,
nô tỳ nghĩ tâm trạng nàng không vui nên không dám làm phiền… Nhưng ban
nãy, khi nô tỳ đến chuẩn bị hầu hạ nàng nghỉ ngơi thì cửa phòng Tạ tiểu
thư vẫn đóng kín. Nô tỳ… nô tỳ cảm thấy kì lạ nên đã lén nhìn vào khe
cửa, liền thấy hai mâm cơm đưa vào đều còn nguyên dưới đất… Nô tỳ gọi
cửa thế nào nàng cũng không trả lời… Nô tỳ sợ có chuyện không hay nên…”

“Rốt cuộc lại là chuyện gì đây?”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 25


Trong hoàng cung
Bách Phượng, Cát Tường điện, Thuận Ninh cung, Triêu Lan cung và Đông
cung là bốn cung tòa cung điện lộng lẫy nhất. Kế đến là lục cung: Mẫu
Đơn, Hạ Lê, Cẩm Tước, Huệ Đàm, Minh Ngọc, Bích Châu. Sáu cung điện này
do các phi tử nhất phẩm cai quản. Ngoại trừ Minh Ngọc cung của Trịnh phi và Cẩm Tước cung của ta chỉ có một người thì những cung điện còn lại
đều có thêm vài phi tần tam phẩm trở lên cùng ở. Minh Ngọc cung là nơi ở của Trịnh phi – Trịnh Vân Anh. Có lẽ vì tính cách Trịnh Vân Anh quá mức đơn thuần, lại nhỏ tuổi ít hiểu biết, Hoàng Hậu e ngại nàng chung đụng
với người khác sẽ sinh chuyện không hay nên mới nâng đỡ nàng lên phi vị, cho ở một mình một cung. Còn về phần ta, được ở một mình hẳn là nhờ
phúc vị Lê Hiền phi quá cố kia. Cẩm Tước cung vốn là nơi ở của Lê Hiền
phi. Ngày trước Hoàng Đế yêu chiều nàng, không muốn nàng bị quấy rầy nên chỉ để mình nàng ở Cẩm Tước cung hoa lệ này. Về sau Lê Hiền phi qua
đời, Hoàng Đế lại muốn giữ Cẩm Tước cung làm kỷ niệm. Mãi đến khi liên
hôn cùng Tùy Khâu, năm cung điện còn lại đều đã có chủ, lại không thể để công chúa hòa thân vào ở một tiểu viện xoàng xĩnh, chịu sự cai quản của phi tử khác được, bất đắc dĩ mới để ta dọn vào Cẩm Tước cung.

Trong lục cung, Cẩm Tước cung này tuy không phải cao sang nhất, nhưng cũng đủ rộng rãi, khang trang. Phía sau chính điện mà ta đang ở còn có bốn tiểu viện. Tiểu viện phía Tây dùng làm kho chứa vật dụng không dùng tới,
phòng bếp và nơi giặt giũ y phục, tiểu viện phía Nam là nơi ở của cung
nữ và thái giám, tiểu phía Đông còn đang bỏ trống. Tạ Thu Dung ở tiểu
viện phía Bắc, bên cạnh một vườn trúc nhỏ. Nàng chọn nơi này cũng vì
vườn trúc đó. Mỗi ngày, khi rảnh rỗi, Tạ Thu Dung đều ra ngồi ngắm vườn
trúc này. Nàng từng nói, mắt ngắm vườn trúc xanh tươi, tai nghe tiếng
gió lùa thân trúc thành nhạc có thể giúp tinh thần thư thái, vui vẻ.
Ngày nào không ra vườn ngắm trúc sẽ cảm thấy bức bối khó chịu. Vậy mà
hôm nay, nàng ở lì trong phòng như thế. Ta biết nàng nhất định đã xảy ra chuyện gì đó. Vừa nghe Ngọc Chân bẩm báo, ta lập tức khoác áo ngoài
vào, đi thẳng đến Bắc viện.

Bắc viện dưới ánh trăng yên ắng lạ
thường. Cửa phòng Tạ Thu Dung đóng chặt, bên trong tối tăm không thấy
ánh đèn. Ngọc Nga thấy vậy liền đập cửa gọi mấy tiếng, vẫn không thấy
động tĩnh gì, quay lại nhìn ta lo lắng hỏi:

“Chủ nhân, làm sao đây?”

Ta cũng căng thẳng không kém nàng ấy: “Còn làm sao nữa, mau phá cửa đi.”

Ngọc Chân nghe lệnh, vội chạy đi gọi mấy tiểu thái giám đến. Lòng ta như lửa đốt. Tạ Thu Dung không thể xảy ra chuyện gì được.

Chất lượng xây dựng Cẩm Tước cung quả rất tốt, cả đám người hì hục mãi mới
phá xong. Cửa phòng mở ra, ánh trăng chiếu vào hiện rõ một bóng người
nằm sóng soài trên mặt đất.

“Tạ tiểu thư!”

Ta hốt hoảng
lao đến xốc Tạ Thu Dung lên mới thấy thân thể nàng rất lạnh, hơi thở
mỏng manh, sắc mặt tái nhợt. Tuy rằng nàng đã thay đổi y phục gọn gàng
nhưng dáng vẻ so ra còn thảm hại hơn ban sáng gấp bội.

“Ngọc Nga, qua đây giúp bản cung một tay.”

Đỡ Tạ Thu Dung lên giường xong, ta mới cầm lấy cổ tay nàng bắt mạch. Mạch
đập rất yếu ớt, nhưng cũng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng ngay
được. Thở ra nhẹ nhõm, ta quay lại bảo Ngọc Nga:

“Về phòng bản cung lấy cái hộp gỗ lớn trong tủ qua đây.”

Ngọc Nga đi khỏi, Ngọc Thủy cũng vội vã đến nơi. Thấy Tạ Thu Dung nằm bất
động trên giường, mặt mũi tái nhợt, nàng ta lo lắng hỏi:

“Chủ nhân, có cần nô tỳ đi mời Lâm thái y không?”

Ta lắc đầu:

“Không cần, đã muộn rồi, đừng gây thêm thị phi. Tạ tiểu thư chỉ là lo nghĩ quá nhiều lại không chịu ăn uống nên mới kiệt sức ngất đi, chỉ cần cho uống chút thuốc hồi sức là sẽ tỉnh lại thôi. Bản cung cũng biết chút y
thuật, mấy chuyện lặt vặt này bản cung lo được.”

“Vậy để nô tỳ đi nấu chút cháo loãng, lát nữa Tạ tiểu thư tỉnh lại có cái lót dạ.”

“Được. Phiền ngươi.”

Ngọc Thủy đi rồi, Ngọc Nga cũng vừa trở lại.

“Bẩm chủ nhân, thứ người sai nô tỳ đi lấy đây ạ.”

Ta nhận hộp gỗ từ tay nàng, nhìn nàng lấm tấm mồ hôi, hơi thở gấp gáp,
trong lòng hơi áy náy. Muộn thế này rồi còn bắt các nàng chạy đôn chạy
đáo. Nhưng trước mắt chuyện của Tạ Thu Dung quan trọng hơn, vì vậy, ta
nên chuyên tâm vào việc chính.

Ta mở hộp gỗ ra, bên trong đựng
nhiều loại thảo dược, tầm thường có, quý giá cũng có. Trong số này, có
loại ta trộm ở Thái Y viện Tùy Khâu từ nhỏ, có mấy loại quý giá là lúc
hòa thân ta đã yêu sách đòi phụ hoàng. Phụ hoàng không muốn ta làm loạn
mất thể diện đành phải bấm bụng ban cho. Vì lo xa nên đã chuẩn bị nhiều
như vậy, nhưng từ khi đến đây ngoài một chút thuốc trị thương ra thì ta
may mắn vẫn chưa cần dùng đến cái gì. Ta lựa ra một ít hồng sâm, nhục
quế, trích thảo đưa cho Ngọc Nga, bảo nàng đi sắc thuốc. (1)

Tạ
Thu Dung thường ngày thích ăn ngọt, trên bàn luôn có một đĩa bánh mứt
linh tinh. Hôm nay có lẽ tâm trạng nàng không tốt nên đĩa mứt táo trên
bàn vẫn còn nguyên. Ta thuận tay nhặt một nhúm đường vụn trên ấy, sau đó cẩn thận tách môi nàng ấy ra, thả vào miệng một ít. Lẽ ra nếu có thể
châm cứu, nàng sẽ tỉnh lại ngay, tiếc rằng ta đã lâu không động đến kim
châm, chỉ sợ lỡ tay châm sai huyệt đạo sẽ rất nguy hiểm, chỉ có thể ngồi xoa bóp giúp nàng ấm người.

Ngồi một lát, Ngọc Nga và Ngọc Thủy
đã mang thuốc và cháo đến. Ngọc Nga tinh ý hơn một chút, nàng ta cho
chén thuốc vào trong một cái tô thấp miệng chứa nước lạnh để ngâm. Đi từ phòng bếp qua đây, thuốc đã được làm nguội vừa đủ, còn tô cháo của Ngọc Thủy vẫn bốc khói nghi ngút. Dù sao cũng không cần ăn ngay, ta ra hiệu
cho Ngọc Thủy để tô cháo lên bàn rồi bảo hai người họ đi nghỉ trước, chỉ để lại Ngọc Chân đứng bên ngoài xa để tiện sai bảo này nọ. Ngọc Thủy là cung nữ chưởng sự còn Ngọc Nga là đại cung nữ, ta lại không thích để
người lạ ở cạnh mình, do vậy những việc hai người phải làm mỗi ngày đều
không ít. Cho dù ta không ngủ cũng không thể để bọn họ thức cùng được.
Ngọc Thủy ban đầu không chịu rời đi nhưng bị Ngọc Nga lôi kéo mãi, đành
nghe theo. Ngọc Nga trước sau vẫn luôn một mực nghe lời ta từ việc lớn
đến việc nhỏ, chưa từng tỏ ý thắc mắc hay nghi ngờ quyết định của ta.
Tuy rằng cả hai người đều làm việc chuyên chú, cẩn thận nhưng phần nào
vì điểm nghe lời tuyệt đối này mà ta thích Ngọc Nga hơn cả.

An
bày đâu đó xong xuôi, ta mới đến bón thuốc cho Tạ Thu Dung. Nàng còn
đang hôn mê, cho uống thuốc quả khó khăn. Ta phải để đầu nàng hơi
nghiêng để tránh bị sặc rồi đút từng thìa thuốc nhỏ. Ngoài trừ Lý Thanh
Phong ra, Tạ Thu Dung là người đầu tiên ta chú tâm chăm sóc như vậy.

Mãi một lúc sau mới cho nàng ta uống xong nửa chén thuốc.

Ta nghĩ vậy cũng đủ rồi nên đặt sang một bên, lại bắt đầu xoa trán bấm
huyệt cho nàng ấy. Quả nhiên, một lát sau, hai mí mắt Tạ Thu Dung hơi
động đậy. Ta bèn lay nhẹ tay nàng, gọi:

“Tạ tiểu thư!”

Tạ Thu Dung chậm chạp mở mắt, ánh nhìn hơi đờ đẫn:

“Nương nương?… Sao nương nương… lại ở đây?…”

Thấy nàng gượng ngồi dậy, ta liền đưa tay đỡ lấy, vừa giúp nàng kê gối ngồi cho êm vừa nói:

“Ngọc Chân thấy phòng tiểu thư cả ngày yên ắng, sợ tiểu thư xảy ra chuyện gì
nên đến báo với ta. Lúc ta đến đã thấy tiểu thư ngất xỉu dưới đất. Nhưng tiểu thư đừng lo, ta đã cho tiểu thư uống thuốc rồi. Lát nữa tiểu thư
ăn thêm chút cháo, tịnh dưỡng vài ngày là khỏe thôi.”

Tạ Thu Dung mơ hồ lẩm bẩm:

“Ban nãy tự nhiên thấy chóng mặt, toàn thân lạnh buốt… sau đó mí mắt trĩu nặng… hóa ra là ngất đi…”

Nói xong liền nhìn ra ngoài cửa sổ, kinh ngạc hỏi:

“Bây giờ là lúc nào rồi.”

Ta nhìn trời, lại áng chừng thời gian từ lúc đến đây tới bây giờ:

“Có lẽ là giờ Sửu rồi.”

Tạ Thu Dung nghe xong, nhìn căn phòng trống trải không có người hầu, lại nhìn đến chén thuốc cạn nửa bên cạnh, liền hốt hoảng:

“Trễ như vậy rồi sao? Nương nương tự tay chăm sóc Thu Dung ư?… Sao có thể như vậy… Phiền toái nương nương… Thu Dung đáng tội…”

Ta lắc lắc đầu, nhìn nàng hơi trách cứ:

“Tiểu thư dọa ta sợ chết khiếp. Cứ lo tiểu thư làm điều gì dại dột. Hừ, ban
sáng ta đã đến chỗ Hoàng Hậu, chuyện của tiểu thư ta cũng biết phần nào… Thật là… chuyện đâu còn có đó, tiểu thư cần gì phải tự hành hạ bản thân như thế? Lẽ nào muốn dùng mạng để hủy hôn sao? Mạng không còn thì còn
gì ý nghĩa nữa?”

Tạ Thu Dung nghe ta trách móc, cũng không nổi giận, chỉ cười:

“Thu Dung nào phải muốn tìm cái chết. Chỉ là có quá nhiều chuyện nghĩ không
thông… trong lòng phiền muộn không muốn ăn ngủ… cứ nghĩ thân thể khỏe
mạnh, không ngờ mới đó đã không chịu được nữa.”

Ta thở dài:

“Tiểu thư phải tự biết lo cho bản thân chứ, cứ như thế này, hôn sự chưa đến, tiểu thư đã ốm chết rồi.”

Tạ Thu Dung cười càng sầu muộn hơn:

“Chuyện này… Nương nương đã biết, Thu Dung cũng không giấu nữa. Trốn vào hoàng
cung cũng chỉ là kéo dài thời gian… Thực ra chuyện này… Thu Dung đã
không còn lối thoát nữa rồi.”

Nhìn dáng vẻ tuyệt vọng của nàng, ta cũng thấy chán nản theo. Nghĩ đến tình nghĩa sư đồ bấy lâu, ta không đành lòng, khẽ an ủi:

“Tiểu thư không nên bi quan như vậy.”

Tạ Thu Dung lắc đầu:

“Không phải Thu Dung bi quan. Thu Dung thực sự đã làm đủ mọi cách rồi nhưng
phụ thân nhất quyết không chịu trả sính lễ. Thu Dung lại không có cách
nào khiến Doãn gia tự hủy hôn… Hôn sự này sớm muộn cũng phải xảy ra… Nếu hôm nay Thu Dung không chết ở đây, sau này cũng sẽ chết mòn trong tủi
nhục ở Doãn phủ mà thôi…”

Bản thân là người luôn khát khao tranh
giành sự sống, ta hiểu rõ giá trị của sự sống hơn ai hết. Thấy người
khác cứ mở miệng ra là nói chết chóc, ta rất không hài lòng. Nếu đó
không phải là Tạ Thu Dung, ta đã mắng cho một trận.

Cúi đầu suy nghĩ một chút, cuối cùng ta nghĩ đến một điểm, bèn lên tiếng:

“Hôn sự này cũng không phải không thể hồi lại.”

Ta nói lời thật, mà Tạ Thu Dung lại cho rằng ta cố an ủi nàng nên ủ rũ đáp:

“Nương nương tốt với Thu Dung, Thu Dung hiểu rõ, nhưng cũng không cần phải an ủi như vậy…”

Ta cắt ngang lời nàng, dứt khoát nói:

“Ta không phải đang an ủi tiểu thư, ta thực sự có cách.”

Tạ Thu Dung bị câu này của ta làm cho ngây ngừời, mãi mới lắp bắp được hai chữ:

“Thật sao?”

Ta mỉm cười ung dung đáp:

“Đằng nào tiểu thư cũng chẳng có biện pháp nào, sao không thử nghe qua cách của ta một chút?”

Tạ Thu Dung thấy ta tự tin như thế, trên mặt từ âu sầu tuyệt vọng chuyển
sang lo lắng cùng hi vọng, vội vàng nắm lấy tay ta, khẩn khoản nói:

“Nương nương, xin chỉ giáo cho Thu Dung.”

Trớ trêu làm sao. Bình thường đều là nàng chỉ giáo cho ta, giờ phút này lại phải nhờ ta chỉ giáo. Để trấn an nàng, ta nhẹ nhàng lật tay, chuyển
thành tư thế hai người nắm chặt tay nhau như tiếp thêm sức mạnh, sau đó
chậm rãi nói:

“Ta nghe nói Tạ đại nhân rất trọng thể diện có phải không?”

Tạ Thu Dung gật đầu:

“Phải, phụ thân đúng là trọng thể diện hơn cả tính mạng.”

Ta tiếp lời:

“Mà Doãn đại công tử kia lại là người không mấy đoan chính.”

Lần này thì Tạ Thu Dung lắc đầu:

“Điểm này Thu Dung đã nghĩ qua, nhưng mặt nạ của Doãn Hi rất dày. Ở bên ngoài không ai lại nghĩ hắn không đoan chính cả.”

Ta cười cười nói tiếp:

“Bởi vì mặt nạ dày, nên mới cần có người giúp hắn cẩn thận lột xuống.”

Tạ Thu Dung lúc này như ngộ ra chân lý, kinh hãi hỏi:

“Thực có thể sao?”

Ta gật đầu chắc chắn:

“Đương nhiên có thể. Chỉ cần làm cho Doãn Hi lộ ra bộ mặt bại hoại của hắn, Tạ đại nhân dù có muốn đến mấy cũng không dám tiến hành hôn sự này nữa. Có điều chuyện này nói là không quá khó nhưng vẫn cần có người to gan một
chút, hành sự quyết đoán, mạnh tay mà phải thật gọn gàng mới được. Ở bên ngoài, tiểu thư có người nào tin tưởng được hay không?”

Đây mới
là điểm trọng yếu. Nếu ở bên ngoài không có người dùng được thì kế hoạch lột mặt nạ Doãn Hi tự nhiên sẽ tan thành mây khói.

Tạ Thu Dung nghe xong, nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ một lát, ánh mắt chợt vui vẻ, gần như reo lên:

“Có, có đấy! Thu Dung có một người dì sống ở phía Nam kinh thành. Dì rất
thương yêu Thu Dung, cũng rất có năng lực. Chuyện này dì nhất định làm
được.”

Nghe người được nhắc đến là dì của nàng, ta có hơi nghi ngại:

“Thực có thể sao? Chuyện này tuy không khó, nhưng cũng chẳng phải chuyện vặt vãnh đâu.”

Thiết nghĩ thân mẫu Tạ Thu Dung xuất thân từ nhà buôn bán nhỏ, phải làm tiểu
thiếp. Vậy thì người dì này là muội muội của thân mẫu nàng, cùng một
xuất thân, có lẽ cũng chỉ là một thiếp thất nhỏ ở nhà nào đó thôi. Liệu
có bản lĩnh giở trò trên đầu Doãn Hi sao?

Tạ Thu Dung thấy ta tỏ vẻ bất an, liền cười nói:

“Nương nương yên tâm, bản lĩnh của dì không thua kém nam nhân đâu. Hơn mười
năm trước, dì được gả cho một thương gia lớn ở phía Nam kinh thành. Ban
đầu chỉ là một tứ di nương thôi, nhưng mấy năm sau đó, đại nương mâu
thuẫn với nhị di nương, bị nhị di nương lỡ tay đánh chết, tam di nương
đi thăm nhà mẹ đẻ trở về không may nhiễm ôn dịch. Lão phu nhân sức khỏe
không tốt, mới giao việc nhà cho dì ta quản lý. Người rất khéo léo lại
giỏi giang, mọi chuyện trong nhà đều quán xuyến gọn gàng, phu quân cùng
lão phu nhân hết sức yêu mến người. Sau khi người sinh con trai đầu lòng thì phu quân đi buôn bán xa bị cướp g**t ch*t, lão phu nhân quá thương
tâm, không trụ lại được nữa, trưởng tử của đại nương có lẽ bị chấn động, cũng thành điên điên dại dại. Đau thương khiến cả nhà gần như gục ngã,
chỉ có dì vẫn đứng vững, gạt nước mắt mà nắm lấy thương đoàn của phu
quân, một mình điều động buôn bán, vực dậy cả gia tộc. Bây giờ, dì chính là trụ cột trong nhà. Ở kinh thành này, các thương gia đều phải nể mặt
dì ba phần đó. Ban đầu Thu Dung vốn định đến nương nhờ chỗ dì, nhưng lại sợ phụ thân đến phiền nhiễu việc làm ăn của dì nên mới không đành lòng. Trước khi mẫu thân mất đã ủy thác Thu Dung lại cho dì, dì rất thương
ta, chuyện này chắc chắn dì sẽ đồng ý giúp.”

Tạ Thu Dung hồn
nhiên kể về người dì của nàng, ánh mắt tràn ngập tự hào cùng yêu mến. Ta nghe nàng nói mà toàn thân đổ mồ hôi lạnh, chỉ hận không thể lập tức
chạy đến trước mặt bà dập đầu xin bái làm sư phụ.

Một thứ nữ xuất thân thấp kém, gả vào nhà buôn giàu có cũng chỉ được làm một tứ di
nương nho nhỏ. Vậy mà chỉ qua mười năm đã vươn lên nắm trọn quyền hành
gia tộc. Tạ Thu Dung nói rất đúng. Người này tuyệt đối không thua kém
bất kì nam nhân nào. Có lẽ nên nói là nam nhân bình thường tuyệt nhiên
không phải là đối thủ của bà.

Thử nghĩ, một gia tộc thương nhân
đang ổn định, đại nương cùng nhị di nương đang sống yên ổn với nhau, vì
sao sau khi người dì này gả vào lại sinh chuyện mâu thuẫn gay gắt đến độ phải sát hại lẫn nhau? Tam di nương đang yên lành sao lại đổ bệnh? Còn
phu quân của bà đi buôn mãi không sao, thế mà bà vừa sinh được con trai
thì lại bỏ mạng? Còn tên trưởng tử kia, sớm không điên, muộn không điên, lại điên ngay lúc gia tộc đang cần hắn đứng ra gánh vác? Quyền hành
trong gia tộc cứ từ từ chảy vào trong tay bà thuận lợi như thế. Hơn nữa, nữ nhân có bản lĩnh một mặt quán xuyến gia đình, một mặt điều hành
thương đoàn buôn bán phát đạt, người người kính nể sẽ đáng sợ đến mức
nào? Tâm kế và thủ đoạn của bà đã vượt ra khỏi tầm nữ nhi đấu đá nhau
trong hậu viện. Ta chợt nghĩ, nếu trong hậu cung này có một người như bà thì có lẽ đừng nói đến kẻ lơ mơ như ta, ngay cả Hoàng Hậu và Đức phi
cũng chưa chắc có thể yên bình mà ngồi ở chỗ của mình. Doãn Hi rơi vào
tay bà, đảm bảo thân bại danh liệt.

“Nương nương làm sao thế?”

Thấy ta ngớ người ra, Tạ Thu Dung khua khua tay gọi. Ta hơi giật mình:

“Không sao, không sao… Nếu quả thực vậy, chuyện này tiểu thư không cần lo lắng nữa…”

“Nhưng mà… Thu Dung vẫn cảm thấy bất an… Ngộ nhỡ chuyện này bại lộ, dì của ta sợ là gặp chuyện…”

“Bản lĩnh của bà không nhỏ, nhất định không để lại dấu vết gì đâu.”

Bà ấy đã có bản lĩnh ăn trọn cả một gia tộc, Doãn Hi kia thì tính là cái gì?

Trấn an Tạ Thu Dung xong xuôi, ta mới đưa bát cháo đến bảo nàng ăn lót dạ.
Chuyện bế tắc trong lòng đã được giải tỏa, tinh thần của Tạ Thu Dung tốt lên nhiều. Nàng ngoan ngoãn ăn cháo, chớp mắt đã hết sạch. Thấy nàng
như vậy, mối lo trong lòng ta cũng giảm bớt đi, chỉ mong kế hoạch thành
công. Ta thật không muốn nhìn một nữ nhân băng thanh ngọc khiết như Tạ
Thu Dung phải chôn vùi tài hoa trong hậu viện của họ Doãn kia.

Thu dọn bát để sang một bên xong, vẫn thấy Tạ Thu Dung ngồi thất thần, ta bèn vỗ vỗ vai nàng, nói:

“Tiểu thư nghỉ ngơi đi. Ngày mai viết một lá thư, ta sẽ sai người giao đến
cho dì của tiểu thư. Mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đấy thôi.”

Tạ Thu Dung nghe xong, đột nhiên rơi nước mắt, rưng rưng nhìn ta:

“Nương nương đối với Thu Dung tốt quá… Xưa nay ngoài mẫu thân, chưa từng có ai đối tốt với Thu Dung như thế…”

Ta không giỏi an ủi kẻ khác, thấy nàng tự nhiên lại khóc thì chẳng biết
phải làm sao. Ta tốt với nàng, một phần vì yêu mến tài năng và tính cách của nàng, phần lớn hơn, lại là vì hoàn cảnh của nàng rất giống ta.

Nghĩ tới mẫu thân, lòng ta lại đau nhói. Ta ngồi lại xuống giường, đưa khăn tay cho nàng lau nước mắt, chân thành nói:

“Nhìn hoàn cảnh của tiểu thư làm ta nhớ đến bản thân mình. Mẫu thân ta vì bảo vệ ta mà mất sớm. Ta bất tài vô tướng, không được phụ hoàng coi trọng,
cuối cùng bị gả bán đến đây. Ta thật lòng hi vọng tiểu thư có thể sống
tốt hơn.”

Tạ Thu Dung nhận lấy khăn tay, nhè nhẹ chậm lên khóe
mắt, nhưng càng lau, nước mắt càng chảy ra. Nàng nhìn ta qua làn nước
mắt, nghẹn ngào hỏi:

“Mẫu thân của nương nương… cũng vì người mà mất sao?”

Thái độ của nàng, giống như đang nói rằng mẫu thân của nàng cũng vì nàng mà
chết. Sao ta nghe nói mẫu thân nàng bệnh mà chết? Chuyện này rốt cuộc là thế nào?

“Người… cũng giống ta sao?” Ta kinh ngạc hỏi.

Tạ Thu Dung mặc kệ nước mắt rơi dài trên mặt, khóe môi nhợt nhạt khẽ nhếch lên.

“Thu Dung là đứa con bất hiếu. Thu Dung cứ nghĩ mình tài giỏi lắm… cuối cùng, chính là Thu Dung hại chết mẫu thân…”

Lời nói ẩn chứa đau thương đến cùng cực. Ta cũng bị nàng làm cho chấn động, chỉ biết siết lấy tay nàng:

“Tiểu thư, sao lại nói như vậy?”

Tạ Thu Dung cười càng lúc càng bi thảm. Nàng đưa tay sờ sờ mặt, lạnh nhạt nói:

“Nương nương biết không… Thu Dung từ nhỏ đã có xuất thân thấp kém, mẫu tử của
ta đáng lẽ ra sẽ phải sống cơ cực cả đời. Thế nhưng phụ thân lại chú ý
đến gương mặt này… phụ thân muốn bồi dưỡng ta thành một quân cờ giá trị. Lúc nhỏ, ta không hiểu điều đó. Chỉ thấy nếu mình càng học thuộc nhiều
bài văn, càng trang điểm xinh đẹp thì phụ thân càng đối xử tốt với mẫu
tử ta. Ta cứ cho rằng mình cố gắng như thế, mẫu thân sẽ được sống tốt
hơn. Nương nương cho rằng Thu Dung rất tài giỏi phải không? Trên đời này có ai sinh ra đã tài giỏi chứ? Để có được ngày hôm nay, mấy ai biết
được ta đã bỏ ra bao nhiêu mồ hôi nước mắt, thậm chí là máu? Mỗi ngày
đều phải học tập tám chín canh giờ, nhưng ta không dám than thở, không
dám lười biếng dù chỉ chốc lát. Người biết vì sao không? Vì phụ thân sợ
tổn hại thân thể đẹp đẽ này, nên tất cả hình phạt dành cho ta đều sẽ
giáng lên người mẫu thân ta, bởi vậy, ta phải cố gắng, không ngừng cố
gắng…”

Tạ Thu Dung không còn khóc nữa, giọng nàng đã trở nên lạnh lẽo, mà những âm thanh lạnh lẽo ấy làm cho trái tim ta bất giác cũng
lạnh theo. Có thể tàn nhẫn độc địa đến mức đó, Tạ Chính Minh rốt cuộc là loại người gì?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 26


“Sự việc ‘ngũ phụng tranh vương’ năm xưa, nương nương cũng biết chứ?”

Tạ Thu Dung đột ngột hỏi. Ta không muốn xen vào dòng cảm xúc của nàng nên không nói gì, chỉ khẽ gật đầu.

“Năm đó mẫu thân không đành lòng để Thu Dung nhập cung, đã quỳ trước phòng
của phụ thân và đại phu nhân, quỳ suốt ba ngày ba đêm. Lúc đó, ta đang ở trong cung dự tuyển Hậu, đâu hề hay biết. Đến khi về nhà thì mẫu thân
đã lâm trọng bệnh. Phụ thân vì ta không giành được hậu vị cho nên nổi
giận, tất cả đều trút lên đầu mẫu thân, ta phải lấy cái chết ra cầu xin
ông, ông mới chịu mời đại phu chữa bệnh cho mẫu thân. Mà cũng chẳng phải ông yêu thương gì ta đâu, có lẽ chỉ là lo ta chết đi rồi, vốn liếng của ông bỏ ra bấy lâu sẽ mất sạch mà thôi. Ba năm qua đi, bệnh tình của mẫu thân cứ dai dẳng không dứt. Đến lúc phụ thân tuyên bố muốn đưa ta đi
tuyển tú, mẫu thân lại trở bệnh nặng hơn, thuốc quý thế nào cũng không
có tác dụng nữa. Rất nhanh… rất nhanh… chưa đến ngày tuyển tú, mẫu thân
đã không còn… Ta còn nhớ như in, trước lúc mẫu thân đi, đã cầm tay ta mà khóc: ‘Dung nhi, mẫu thân vô dụng, chỉ có thể làm được cho con đến vậy
thôi.’ Khi đó ta không hiểu ý của người, cứ cho rằng trong phút lâm
chung, người không còn tỉnh táo nên mới nói ra một câu vô nghĩa… Đến tận sau khi tang lễ xong xuôi, ta dọn dẹp phòng ở của mẫu thân mới phát
hiện ra… Nương nương biết không? Ta phát hiện ra đất ở trong hai chậu
tùng nơi đầu giường mẫu thân toàn là mùi thuốc, bên dưới còn vùi rất
nhiều viên đại bổ hoàn. Hai chậu tùng này mẫu thân để khuất sau mấy tấm
màn lớn, thường ngày không ai ngó ngàng tới… Thì ra, mẫu thân trước nay
vẫn không hề uống thuốc. Người đã vì ta mà chịu đựng bệnh tật… vì ta mà
cam tâm tình nguyện chết, bởi vì người biết chỉ cần người chết, ta phải
chịu tang ba năm, sẽ không thể nhập cung nữa… Mẫu thân đã dùng mạng của
mình để bảo vệ ta như vậy… Thu Dung vẫn luôn nghĩ nếu mình đóng tốt vai
‘tài nữ’, mẫu thân sẽ được sống tốt… Cuối cùng hóa ra, chính thứ tài hoa chết tiệt kia đã hại chết mẫu thân!… Nếu ta chỉ là một nữ nhân tầm
thường, phụ thân sẽ không muốn đem ta tiến cung… Mẫu thân cũng không
phải chết để ngăn cản chuyện ta tiến cung… Đều là ta hại mẫu thân…”

Tạ Thu Dung nói rồi rụt chân lên, ngồi co ro trong chăn như một đứa trẻ.
Tạ tài nữ danh tiếng lẫy lừng, người người kính phục kia, thời khắc này
chẳng khác nào một con thú nhỏ bị thương.

Bất giác, ta cảm thấy phụ hoàng cũng không đến nỗi quá xấu xa. Chí ít, người chỉ là một nam nhân vô tình mà thôi.

Ta thở dài, nhẹ nhàng đặt tay lên đôi vai run rẩy của nàng, mãi lâu sau mới có thể mở miệng:

“Tiểu thư thật sự nghĩ như vậy sao?… Tiểu thư nhìn xem, dung mạo ta tầm
thường, lại bất tài vô dụng. Cuối cùng, mẫu thân của ta không phải cũng
bị ép chết đó sao? Ta không phải là cũng bị đem đến đây sao? Cái chết
của mẫu thân người không phải là do người gây nên. Nếu người không có
tài hoa như vậy thì cũng mẫu tử người e rằng cũng sẽ rơi vào số phận
thảm thương thôi. Tiểu thư không nên tự trách mình, tiểu thư biết rõ, kẻ ép chết mẫu thân tiểu thư không phải là người, người cần gì phải tự làm khổ như vậy?”

“Vậy sao… Ha… cho dù ta biết rõ kẻ ép chết mẫu thân ta là ai thì sao chứ? Ta lại chẳng thể làm gì…”

“Trên đời này vẫn còn có thứ gọi là quả báo. Việc tiểu thư cần làm chính là
sống tốt, không phụ lại sự hi sinh cao cả của mẫu thân người.”

“Nương nương cũng tin vào ông trời? Vậy, những kẻ hãm hại mẫu tử người đã bị quả báo chưa?”

Giọng điệu Tạ Thu Dung xen lẫn mỉa mai chua chát. Ta thẳng thắn gật đầu, nói với nàng:

“Họ đều bị quả báo rồi.”

Chỉ là ta giấu đi sự thật.

Quả báo mà bọn họ nhận được là do chính tay ta thực hiện, không phải ông trời.

Tạ Thu Dung nghe rồi không phản bác nữa. Khóe môi thanh tú vẽ lên một nụ cười yếu ớt:

“Như vậy Thu Dung sẽ chờ.”

Ta thấy nàng đã bình tĩnh lại, muốn để nàng nghỉ ngơi, định bụng đứng lên cáo từ nhưng lại bị nàng kéo lại:

“Thu Dung có thể thỉnh cầu nương nương một việc không?”

Ta hơi ngạc nhiên nhưng cũng gật đầu:

“Tiểu thư cứ nói, chỉ cần là việc ta làm được thì đều đồng ý.”

“Thu Dung muốn thỉnh cầu nương nương sau này đừng xưng hô với ta khách sáo như vậy nữa.”

Thấy ta tròn mắt, chưa hiểu ý nàng, Tạ Thu Dung bèn vội vàng giải thích:

“Nương nương đối với Thu Dung rất tốt, mà Thu Dung trước giờ không có bằng hữu tâm giao… Vì vậy… muốn thỉnh cầu nương nương, nếu không chê Thu Dung
xuất thân thấp kém, xin cùng Thu Dung kết làm bằng hữu…”

Điệu bộ ngượng ngùng của Tạ Thu Dung khiến ta không nhịn được, cười rộ lên:

“Nếu đã muốn như vậy, sao còn gọi ta là ‘nương nương’?”

Tạ Thu Dung bối rối đáp:

“Nhưng thân phận chúng ta khác biệt…”

Ta lắc đầu, nói:

“Đã là bằng hữu thì không xét đến thân phận nữa. Nếu muốn kết bằng hữu với
ta thì từ nay bỏ suy nghĩ ấy đi, trước nay những người thân thiết với ta đều gọi ta là Nguyệt nhi. Sau này, nếu không có người ngoài, cứ gọi
Nguyệt nhi là được, ta cũng sẽ gọi ngươi là Dung nhi, như vậy công bằng
rồi chứ?”

“Được lắm.”

Đã lâu rồi mới thấy lại được nụ cười rạng rỡ của Tạ Thu Dung. Nàng huých tay ta một cái:

“Đã vậy hôm nay nghỉ ở chỗ ta đi. Trời khuya như vậy rồi còn để ngươi đi đi lại lại, ngộ nhỡ ngươi nhiễm phong hàn lại bảo ta là bằng hữu xấu.”

Thấy Tạ Thu Dung đã lấy lại dáng vẻ hoạt bát thường ngày, ta bật cười, gọi
Ngọc Chân vào căn dặn mấy câu, sau đó không khách khí đẩy Tạ Thu Dung
vào trong, giành ngay chỗ nằm tốt. Tạ Thu Dung bị bất ngờ, ré lên một
tiếng rồi cật lực giành lại chăn mền. Hai người đùa giỡn một lúc lâu mới nằm yên được.

Tạ Thu Dung giành được một góc chăn rồi, hài lòng nói:

“Nguyệt nhi, ngươi nói xem. Người ta kết giao tri kỉ đều có rượu ngon cạn chén, vì sao ta và ngươi lại chỉ có một cái chăn để tranh giành?”

Ta bĩu môi:

“Còn không phải tại ngươi hay sao? Nếu không phải ngươi đau ốm thế này, ta đã sai người mang rượu đến.”

“Ngươi biết ta đang bệnh, cũng không thể nhường ta một câu sao?”

“Ngươi rõ ràng sinh ra trước ta mấy tháng, ngươi không nhường ta thì thôi. Mà
Dung nhi này, từ nhỏ ta đã luôn muốn có bạn khuê phòng giống như người
khác, bây giờ cuối cùng cũng có rồi. Thật là tốt.”

“Bạn khuê
phòng à? Ta cũng có vài người đấy, nhưng toàn là mấy vị thiên kim tiểu
thư con quan lớn đỏng đảnh mà phụ thân chẳng biết tìm ở đâu về cho ta.
Suốt ngày chỉ phấn son gương lược, chán chết đi được. Nếu không phải vì
phụ thân, ta đã đá hết bọn họ ra ngoài từ sớm kia.”

“Ngươi sao lại đanh đá như thế chứ? Tạ tài nữ đoan trang hiền thục mọi ngày đi đâu rồi?”

“Ha ha… Tạ tài nữ là giả vờ cho người khác xem, ngươi đã là bằng hữu của ta, ta vì sao phải giả vờ cho ngươi xem?”

Hai người cứ thế nằm nói chuyện linh tinh trên trời dưới đất, không biết bao lâu sau thì chìm vào giấc ngủ.

Bình thường ta luôn không muốn nghĩ đến những chuyện thời thơ ấu bởi vì mỗi
lần nghĩ đến, lại nhớ tới cuộc sống đau đớn cùng cái chết bi thảm của
mẫu thân trong lòng lại nặng nề, lại mơ thấy một vài chuyện cũ không
muốn nhớ đến.

Ngày đó tuổi nhỏ nông nổi, vì nóng lòng báo thù cho mẫu thân, ta đã làm ra một chuyện sai trái. Dù rằng thù có thể báo,
nhưng lại liên lụy đến nhiều người vô tội, còn hại một sinh linh không
thể ra đời. Đó là lỗi lầm lớn nhất trong đời ta. Mỗi khi nhớ tới, lòng
ta lại không yên. Thỉnh thoảng trong cơn ác mộng sẽ nghe thấy tiếng trẻ
con khóc lóc ai oán. Bởi vậy, ta không bao giờ muốn nghĩ đến. Nhưng nay
nghe hoàn cảnh bi đát của mẫu tử Tạ Thu Dung, ký ức quái ác kia lại như
thác lũ ùa về, không cách nào trốn tránh.

Ta nằm nghiêng, cách Tạ Thu Dung một khoảng để khỏi đánh thức nàng. Cơn buồn ngủ chập chờn khi
có khi không. Mí mắt nặng trĩu nhưng tâm lại tỉnh táo, trong cơn mơ
màng, ta lần nữa gặm nhấm đau thương trong lòng.

Năm ta sáu tuổi, mẫu thân bị ám hại dẫn đến thất sủng, từ một Quý phi cao cao tại
thượng, bị đạp thẳng xuống thành Tiểu nghi thấp hèn, bị đuổi khỏi Trường Xuân cung, phải dọn đến Viên Linh các xa xôi hẻo lánh. Từ đó, mẫu thân
trở nên u ám, không ngày nào là không than khóc. Ta nhìn cảnh mẫu thân
lấy nước mắt rửa mặt mãi cũng thành quen.

Trải qua ba năm, cứ
tưởng mẫu thân đã nguội lạnh với phụ hoàng, ai ngờ chẳng hiểu vì đâu mà
lửa tình bỗng bùng cháy. Mẫu thân đột nhiên ngày ngày tìm cách xuất hiện trước mặt phụ hoàng, cố sức giành lấy long tâm khiến cho mấy vị phi tần đang được sủng ái như Lý phi, Thẩm phi vô cùng chướng mắt. Mẫu thân dù
bị hành hạ chết đi sống lại cũng không bỏ cuộc, vẫn kiên trì đeo bám phụ hoàng. Ta cho rằng người phải yêu thương phụ hoàng nhiều lắm.

Ông trời cũng không quá lạnh lùng, một lần nọ phụ hoàng say rượu, cuối cùng sau bao năm đã sủng hạnh mẫu thân. Chỉ một chút long ân ngắn ngủi đó
lại có thể khiến mẫu thân hoài long chủng, không biết là may mắn hay xui xẻo. Khi ấy ta chỉ là một đứa trẻ, cứ nghĩ mẫu thân có thai rồi, không
cần biết là đệ đệ hay muội muội, phụ hoàng cũng có thể để ý đến mẫu tử
bọn ta một chút mà đâu hay rằng đế vương vốn là kẻ vô tình.

Phụ
hoàng nghe tin, một chút cũng không thèm nhìn đến, chỉ có Lý phi là quan tâm nhất. Bà ta rảnh rỗi liền lôi ta ra trút giận, thỉnh thoảng cũng sẽ bạt tai mẫu thân vài cái. Đến một hôm, Thái Hậu cùng phụ hoàng đi tránh nóng ở hành cung bên ngoài, Lý phi bèn chớp lấy thời cơ, mang người đến Viên Linh các quyết tâm diệt trừ hậu họa.

Một bát Vong Thai dẫn thật to dốc vào trong miệng mẫu thân, cái thai vậy là không giữ được nữa.

Ta thấy mẫu thân ôm bụng quằn quại, mới vùng khỏi hai cung nữ đang giữ
chặt mình, nhảy đến muốn bảo vệ mẫu thân. Lý phi tát một cái vào mặt ta, ta quá giận, quên mất sợ hãi, túm lấy Lý phi cắn vào tay bà ta một cái
thật mạnh. Lý phi nổi điên, cũng sai người dốc cho ta một bát Vong Thai
dẫn. Lúc đó ta nào biết nó là thứ gì, chỉ nhìn thấy mẫu thân nằm trong
vũng máu, còn có Lý phi xinh đẹp đứng cạnh cười ngất… Mùi vị thuốc đắng
nghét trong miệng đó, cả đời ta cũng không quên được.

Lý phi đi
rồi, ta mới điên cuồng chạy đi tìm Y Tiên. Khi Y Tiên từ Thái Y viện
đến, mẫu thân còn đang thoi thóp. Một bát Vong Thai dẫn to như thế, Y
Tiên dù có xưng “Tiên” cũng không cứu nổi cái thai, khó khăn lắm mới giữ lại được mạng cho mẫu thân. Ta nhìn cái thai máu me ròng ròng đã thành
hình người được Y Tiên mang ra, lại nghe loáng thoáng lời ông nói:

“Đáng tiếc, là một nam thai.”

Lần đầu tiên trong đời, ta cảm thấy trong lòng mình bốc lên sát khí. Lần
đầu tiên ta muốn thấy kẻ khác chết, mà phải chết thật khó coi.

Vụ việc lần này rõ ràng là mưu hại hoàng tự trắng trợn. Nhưng Lý phi là
người của Trần Hoàng hậu, Trần Hoàng hậu nhìn qua, chỉ phán mấy câu rằng sức khỏe mẫu thân ta không tốt, không mang nổi long thai.

Đệ đệ
không còn, mẫu thân ốm liệt giường, càng trở nên lặng lẽ. Từ hôm ấy, ta
không nghe thấy người nói thêm một lời nào. Thái Hậu và phụ hoàng trở
về, Lý phi còn trơ tráo mang cái tay bị ta cắn thành sẹo kia tới kiện
cáo, nói ta là đứa ngỗ ngược bất hiếu, dĩ hạ phạm thượng gì gì đó, Trần
Hoàng Hậu và Thẩm phi cũng thêm vào vài lời. Thế là đột nhiên ta trở
thành tội đồ, bị bắt nhốt vào Tông Nhân phủ. Lý phi thế nhưng chưa vừa
ý, có lẽ cái sẹo hình dấu răng ta ở trên tay bà rất bất nhã, vậy nên cố
tình muốn dồn ta vào chỗ chết, không biết ỷ ôi thế nào lại khiến phụ
hoàng tống thẳng ta vào tử ngục. Khi đó ta còn chưa tròn mười tuổi.

Ba ngày trong tử ngục bị bỏ đói bỏ rét, nếu không phải thân ta đã được Y
Tiên luyện thành dược nhân lúc nhỏ, e đã chết khô từ lâu. Ra khỏi tử
ngục, ta chỉ còn nửa cái mạng. Lý phi chưa thấy chết chưa tha. Ít lâu
sau, lại tìm đến Viên Linh các, trên tay là một ly rượu độc. Ta còn nhớ
bà ta ngồi trên cao, khinh khỉnh nhìn xuống mẫu tử ta đang quỳ dưới chân mà nói:

“Con dại cái mang. Sở thị ngươi không biết dạy con vậy
thì hãy chịu tội thay nó đi, bản cung thưởng cho mẫu tử ngươi một ly
rượu. Ngươi uống thì nó không phải uống.”

Mẫu thân nghe vậy, trong mắt hiện lên một tia đau đớn. Người quay sang nhìn ta, dịu dàng nói:

“Con gái ngoan, không có mẫu thân ở bên thì cũng phải sống tốt đấy.”

Nói xong liền bưng ly rượu độc lên uống cạn. Ly vừa đặt xuống cũng là lúc mẫu thân thất khiếu đổ máu, lập tức lìa đời.

Lý phi không ngờ mẫu thân ta đi mau như thế, hơi ngạc nhiên nhưng lại cười khẩy:

“Mẫu tử tình thâm. Đại công chúa không định để mẫu phi của ngươi một đường đơn lẻ xuống hoàng tuyền đấy chứ?”

Nói xong phất tay, có cung nữ bưng ngay ra một ly rượu độc khác.

Lý phi quả nhiên chưa từng có ý định tha mạng cho ta. Đúng lúc rượu độc kề môi, ta cứ nghĩ cái mạng nhỏ của mình không giữ nổi nữa thì Thái Hậu
đến.

Bà dùng ánh mắt uy nghiêm nhìn qua mẫu thân ta nằm bất động ở đó, rồi nhìn đến Lý phi, lạnh lùng nói:

“Sở thị vô tài vô đức, đi rồi thì thôi. Nhưng đứa con gái này dù sao cũng
mang họ Chu, trong người nó là huyết thống của hoàng tộc Tùy Khâu. Lý
Hoàng Thương, ngươi làm việc cũng nên có chừng mực.”

Chính nhờ
mấy câu nói này của Thái Hậu mà ta giữ được cái mạng nhỏ của mình. Về
sau ta sống lay lắt ở Viên Linh các, vẫn thường xuyên bị đánh bị mắng,
nhưng ít nhất không ai cố tình lấy mạng ta nữa.

Trong lòng ta chưa từng từ bỏ ý định báo thù. Đến năm ta mười ba tuổi, cơ hội ấy cuối cùng cũng đến.

Lý phi sau nhiều năm hầu hạ phụ hoàng, cuối cùng cũng hoài long chủng.
Trần Hoàng hậu không có con trai nên vô cùng coi trọng cái thai này của
Lý phi, không biết trong lòng bà ta nghĩ cái gì, nhưng lúc đó quả thật
trong hậu cung chưa có ai được đối xử tốt như Lý phi. Mỗi ngày, ta trốn
trong một góc khuất, nhìn Lý phi ngồi kiệu nghênh ngang đi tới đi lui,
lại nghĩ đến mẫu thân cùng đệ đệ bạc mệnh của mình. Một kế hoạch dần dần thành hình trong đầu ta.

Tính đến thời điểm đó, Lý Thanh Phong
đã dạy võ công cho ta được hơn một năm. Tuy rằng tư chất dược nhân khỏe
mạnh, dẻo dai lại nhạy bén hơn người, nhưng khi ta bắt đầu luyện võ thì
đã qua mười tuổi, thành quả không thể bằng những người luyện võ từ nhỏ.
Lý Thanh Phong lại là thống lĩnh Ngự lâm quân, công việc chồng chất, chỉ có thể dạy bảo ta đôi chút vào lúc rảnh rỗi. Thế nên nếu phải miêu tả
trình độ võ công của ta thì “mèo ba chân” chính là từ xác đáng nhất. Lý
Thanh Phong nói, có thể tự bảo vệ mình là tốt rồi, không cần phải làm
cao thủ. Quả thật, võ công của ta chủ yếu chỉ dùng để chạy trốn mỗi khi
bị hạ nhân bắt nạt hoặc khi đi trộm thức ăn bị phát hiện. Nhờ vậy, khinh công ngày càng tiến bộ, việc đi ăn trộm cũng dần dần trở nên dễ dàng.

Từ lúc nghe tin Lý phi mang thai, ban đêm, sau khi trộm thức ăn ở Ngự
thiện phòng trở về, ta bắt đầu đến Thái Y viện trộm thuốc, chủ yếu là xạ hương, ngưu tất, mẫu đơn bì, huyền hồ, đào nhân (1)… Để tránh bị nghi
ngờ, cách một thời gian không cố định ta mới đi trộm một món, số lượng
trộm không nhiều, lại trộm cùng những vị thuốc bình thường khác. Thái Y
viện lớn như vậy, mất một nhúm thuốc linh tinh cũng chẳng ai để tâm.
Thỉnh thoảng khi ta đang lang thang ban đêm cũng sẽ bị vài thị vệ phát
hiện. Võ công làng nhàng của ta qua mắt được đám cung nữ, thái giám chứ
làm sao qua mắt được những cao thủ đại nội như họ. Cũng may bọn họ đã
quen cảnh ta đi trộm thức ăn hằng ngày, lại có Lý Thanh Phong từng nói
giúp nên đều cho qua, làm như không thấy. Mãi đến lúc ta trộm đủ số dược liệu cần thiết, lại dành thêm một tháng lén lút xem y thư bào chế thuốc trụy thai thì Lý phi đã mang thai đến tháng thứ tư. Ta dĩ nhiên không
thể quang minh chính đại đến đổ thuốc vào miệng Lý phi như cái cách bà
ta đã làm với mẫu thân nên thuốc làm xong từ lâu nhưng vẫn phải chờ thời cơ thích hợp.

Lý phi và Trần Hoàng hậu có cùng một sở thích, đó
là mỗi khi buồn chán sẽ sai người tới Viên Linh các, xách ta đến trước
mặt mà hành hạ giải sầu. Trong tẩm cung của Trần Hoàng hậu có một cái hồ sen nhỏ, bốn mùa sen nở rực rỡ, không bao giờ lụi tàn, vô cùng đặc
biệt. Thỉnh thoảng, Trần Hoàng hậu khi cần giải sầu sẽ cho người thảy ta xuống hồ mua vui.

Ta chỉ cần chờ đến lúc ấy.

Thuốc đã tán sẵn thành bột, lại nặn thành mấy tảng to bằng quả trứng gà. Tai ta rất
thính, vừa nghe bước chân người rầm rập ngoài Viên Linh các, liền bỏ
tảng thuốc này vào tay áo, ngoan ngoãn để họ xách cổ về nhúng nước.

Hồ sen không quá sâu, nhưng những năm đó ta chỉ là một đứa trẻ thấp bé,
bấy nhiêu cũng đủ dọa ta sợ chết rồi. Cũng may sau mấy lần bị dìm gần
chết, biết được sở thích kì quái của Trần Hoàng hậu, ta liền nhờ Lý
Thanh Phong lén dạy ta bơi. Về sau mỗi lần bị bà ta ném xuống hồ, ta đều làm bộ vùng vẫy, la hét van xin một hồi rồi hít lấy một hơi dài, sau đó lặn hẳn xuống đáy hồ, lâu lâu lại nhả ra vài bọt khí. Thái Hậu đã nói
vậy, Trần Hoàng hậu cũng không dám để ta chết, ta chìm xuống một chút là sẽ cho người vớt lên ngay.

Ngày hôm đó, sau khi vùng vẫy một hồi rồi chìm xuống đáy hồ, ta lặng lẽ bơi lại gần một hòn non bộ, lựa góc
kín đáo có rễ sen che phủ, ta nhét tảng thuốc đã chuẩn bị sẵn vào. Trong vòng hai tháng, ta bị đưa đến hồ sen nhấn nước hết ba lần, coi như là
điều kiện tốt để ta thêm thuốc vào nước. Đến tháng thứ ba, cảm thấy đã
đủ, để tránh lưu lại dấu vết, ta quyết định không bỏ thêm thuốc nữa, số
thuốc còn lại cũng mang đốt sạch sẽ.

Bố trí như vậy coi như xong, bây giờ chỉ có thể thong thả chờ đợi.

Quả nhiên hết tháng đó, Thủy Hoa cung truyền ra tin Lý phi sinh non, cái
thai mới bảy tháng đã chết lưu từ lâu trong bụng. Nghe nói thái y chuyên dưỡng thai cho Lý phi sớm biết, nhưng sợ bà ta lấy mạng nên chần chừ
mãi không dám nói. Cuối cùng cũng không giấu được nữa. Cái thai đã hư,
sớm muộn gì cũng phải rơi ra ngoài. Lý phi bị băng huyết, khó khăn lắm
mới cầm máu được, tuy rằng mạng không mất nhưng tuổi bà ta không còn
trẻ, gặp phải chuyện này, về sau không những không thể có con mà còn
bệnh tật cả đời.

Thuốc tán thành bột ngâm dưới đáy hồ sen rất dễ
hòa tan. Sen lại là loại cây thân xốp, cực kì hút nước. Đám sen đó thấm
thuốc không tốn bao nhiêu thời gian. Cũng may hồ sen này là hồ tự nhiên, có mạch nước thông nên không cần cung nhân thay nước. Chỉ cần giấu
thuốc kĩ bên dưới hòn non bộ, đừng để trôi đi đâu mất là được.

Lý phi, Thẩm phi, Trần Hoàng hậu đều yêu thích hồ sen này. Mỗi ngày sau lễ thỉnh an, Trần Hoàng hậu sẽ mời hai người Lý, Thẩm ngồi lại bên hồ, vừa ngắm sen, vừa tán chuyện. Hương sen thanh khiết, trà tim sen tĩnh tâm,
canh ngó sen, bánh bột sen ngon miệng, đều là những thứ mà Lý phi ưa
thích. Trần Hoàng hậu coi trọng Lý phi, không tiếc mang sen quý trong hồ của mình ra làm đủ món tặng bà ta mà không ngờ rằng chính sự ưu ái này
đã khiến Lý phi mang họa.

Khi tin tức kinh hãi ấy lan ra, ta đang ngồi ở Viên Linh các, trong chính căn phòng của mẫu thân ta từng ở, nơi người đã từng quằn quại trong vũng máu, nơi người đệ đệ chưa được sống
đã phải chết của ta lìa đời, cũng là nơi sau đó ít lâu mẫu thân phải
uống thay ta một ly rượu độc.

Không thể lấy mạng Lý phi như dự
tính, có lẽ là do trong quá trình bào chế thuốc, ta đã làm sai ở đâu đó, hoặc là đã tính sai mức độ hòa tan của thuốc khi vào nước, khi bị hút
vào sen… Dù vậy, tuổi xuân sắp hết, dưới chân không con cái mà nửa đời
sau phải nằm trên giường bệnh, Lý phi xem ra sẽ còn khổ hơn là chết. Thù này cũng có thể coi là báo xong rồi. Không biết mẫu thân cùng đệ đệ ở
trên trời cao nhìn thấy ta như vậy, sẽ vui mừng vì huyết hải thâm thù
được báo hay là sẽ trách ta tuổi nhỏ mà lòng dạ độc ác.

Dự định
ban đầu chỉ là báo thù Lý phi, không ngờ kết cục lại vượt xa mong đợi.
Lý phi, Thẩm phi và Trần Hoàng hậu liên thủ đã lâu, khắp hậu cung không
có đối thủ. Không ngờ, sau khi Lý phi sảy thai, tình đồng minh lâu năm
này lại bị rạn nứt. Lý phi là người sống trong cung lâu năm, hành sự vô
cùng thận trọng. Từ sau khi có thai, mọi việc đều vạn phần cẩn thận.
Ngoại trừ tẩm cung của Trần Hoàng Hậu, bà ta chẳng hề đặt chân tới bất
cứ nơi nào, mỗi lần ra khỏi cửa đều mang theo vô số cung nhân. Mọi việc
liên quan đến Lý phi đều bị Trần Hoàng hậu quản xét kĩ lưỡng. Có lẽ vì
Trần Hoàng hậu chỉ có một công chúa, tuổi lại lớn không còn khả năng
sinh con, Lý phi nhận thấy hai bên không xung đột lợi ích nên hết sức
tin tưởng Trần Hoàng hậu. Sau khi mang thai, bà ta chỉ tiếp xúc thân cận với mỗi mình Thẩm phi và Trần Hoàng hậu. Thai nhi bị sảy một cách kì
quái. Loại đi Trần Hoàng hậu, mọi ngờ vực bị đổ lên người Thẩm phi,
khiến bà khốn đốn một phen. Thẩm phi ngược lại cảm thấy Lý phi và Trần
Hoàng hậu thân thiết, liền nghi ngờ hai người này lập mưu hại mình. Thời gian Thẩm phi ở trong cung ngắn hơn Lý phi, nhưng tâm kế của bà không
phải tầm thường. Tuy luôn ở dưới trướng Trần Hoàng hậu nhưng bà đã sớm
móc nối nhân mạch trong cung, âm thầm thu nhận tay chân. Qua sự việc
này, nhận thấy bản thân không còn được an toàn, Thẩm phi liền quyết định bứt khỏi Trần Hoàng hậu, tự tạo phe phái mới. Thẩm phi không những có
hậu thuẫn mạnh, lắm tay chân mà còn biết không ít chuyện xấu của Trần
Hoàng hậu. Sự chống đối của Thẩm phi thực sự khiến Trần Hoàng Hậu đau
đầu. Lý phi đã hết thời, Trần Hoàng hậu lại bận rộn đối phó kẻ địch mới
là Thẩm phi, bởi vậy không ngần ngại rũ bỏ Lý phi. Thêm vào đó, Thẩm phi tuy đã gây không ít phiền phức cho Trần Hoàng Hậu, nhưng chung quy hậu
vị không thể cứ nói lật là lật được. Thẩm phi cố hết sức vẫn chưa lay
động được Trần Hoàng Hậu, bèn quay sang trút giận lên Lý phi. Cuộc sống
của Lý phi mấy năm sau cũng khá vất vả.

Chỉ vì một hành động của
ta, hậu cung Tùy Khâu cứ ngỡ vững chắc ổn định hiện nguyên hình thành
một vũng nước đọng, càng khuấy càng bẩn. Trần Hoàng Hậu và Thẩm phi đấu
nhau kịch liệt. Lại có mấy vị Chiêu nghi, Sung nghi, Tiệp dư ẩn mình đã
lâu, nay cũng nhân dịp loạn lạc mà tấn lên tranh giành địa vị. Kết cục
này khiến bản thân kẻ đầu têu như ta cũng phải kinh hãi.

Tình tỉ muội ở hậu cung, hóa ra cũng chỉ đến thế mà thôi.

Đó là lần đầu tiên ta tính kế người khác, tự cảm thấy mình ra tay đủ gọn
ràng. Vụ án Lý phi đột ngột sinh non đã thành một kì án không có lời
giải, vậy mà vẫn bị Lý Thanh Phong phát hiện. Khi Người đến tìm ta truy
hỏi, ta như đứa trẻ làm chuyện xấu bị người lớn bắt gặp, sợ điếng cả
người nhưng vẫn cố tỏ ra cứng cỏi mà nói:

“Tướng quân nghi ngờ ta vậy có bằng chứng gì không?”

Lý Thanh Phong thở dài, đáp:

“Vào khoảng thời gian sau khi Lý phi nương nương phát hiện có thai, trong
mấy tháng đó, thị vệ đại nội từng phát hiện điện hạ ở gần Thái Y viện.
Thần âm thầm kiểm tra sổ sách đối chiếu lượng dược liệu trong kho của
Thái Y Viện, cứ cách một khoảng thời gian lại hụt đi một ít dược liệu đủ mọi loại, nhưng trong số dược liệu mất đi luôn luôn có vài vị thuốc
trụy thai.”

“Như vậy thì sao? Ban đêm ta vẫn thường đi trộm thức
ăn, thỉnh thoảng đi ngang Thái Y viện thôi. Còn việc dược liệu hao hụt…
dược liệu trữ trong Thái Y viện nhiều như vậy, trong quá trình bốc thuốc sai sót, hoặc là kẻ nào đó tham lam trộm đi bán cũng là chuyện thường
tình. Ta chỉ đi ngang qua đó, tướng quân không thể cứ thế đổ cho ta
được.”

Ánh mắt Lý Thanh Phong nhìn ta lúc đó, vừa có giận dữ vừa
có đau buồn. Người đi đến chỗ ta vẫn để mấy cuốn y thư cổ của Y Tiên,
lật lên mấy cuốn, hỏi:

“Thường ngày điện hạ không thích đọc sách. Những quyển sách này người ít khi nào đụng tới. Vì sao giữa một chồng
sách phủ bụi lại có một quyển sạch sẽ, mà góc giấy còn quăn lên thế
này?”

Lý Thanh Phong đã nói đến mức này, ta liền hiểu Người đã biết tất cả, đến tìm ta không phải để hỏi, mà là để xác nhận.

“Vì sao điện hạ lại làm như vậy? Điện hạ có biết điện hạ đã hại chết bao nhiêu người vô tội không?”

“Ta…”

Không đợi ta đáp tròn câu, Lý Thanh Phong đã nói tiếp:

“Sau khi Lý phi sinh non, vì không thể điều tra ra nguyên nhân, Hoàng thượng đã ra lệnh thanh tẩy Thủy Hoa cung. Tất cả số cung nữ, thái giám từng
hầu hạ Lý phi… còn có không ít cung nhân của Thẩm phi, Hoàng hậu… thậm
chí cả một số người ở Nội thị giám, Thượng cung cục… Bọn họ đều bị
trượng tễ! Tất cả đã có hơn một trăm người mất mạng! Điện hạ có biết
không?”

Những lời này của Lý Thanh Phong như một tiếng sét đánh
thẳng vào đầu ta. Ta luôn ở trong Viên Linh các, tin tức biết được không nhiều. Đã có lúc thấy hậu cung ồn ào nhưng không dám tưởng tượng phụ
hoàng lại thanh tẩy mạnh tay như thế, cũng chưa từng nghĩ tới hành động
của mình lại liên lụy tới nhiều người như thế. Hơn một trăm người… Hơn
một trăm sinh mạng… Bọn họ không đơn độc như ta, mỗi người bọn họ đều có gia đình, có người thân chờ ngóng… Vậy mà lại bị sự nông nổi của ta làm cho… Đầu óc ta quay cuồng, hai chân mềm nhũn chực quỵ xuống.

Lý Thanh Phong nắm lấy hai vai ta, giận dữ nói:

“Điện hạ! Vi thần dạy người võ công, Y Tiên dạy người dược thuật là để người
đi làm những chuyện độc địa, máu chảy thành sông này hay sao?”

Đó là lần đầu tiên và cũng dường như là duy nhất ta thấy Lý Thanh Phong
giận dữ như vậy. Người vốn trầm tĩnh mà có thể nổi giận đến mức này… Ta
quả thực đã gây ra tội ác tày trời.

“Tướng quân… Nguyệt nhi… Nguyệt nhi… sai rồi…”

Túm lấy vai áo Lý Thanh Phong, ta gần như đổ gục lên vai Người. Sức lực như thể bị rút cạn. Trong đầu quay cuồng ý nghĩ hơn một trăm người vì ta mà bị trượng tễ.

Lý Thanh Phong lẳng lặng đỡ lấy ta, không nói gì
nữa. Rất lâu sau, khi nước mắt của ta đã thấm đẫm vai áo người, cũng là
khi cơn nức nở trong lòng dịu lại, ta mới nghẹn ngào nói:

“Nguyệt nhi chỉ muốn báo thù cho mẫu thân và đệ đệ… Không ngờ lại hại nhiều
người như vậy… chẳng lẽ… báo thù cũng không được? Chẳng lẽ Nguyệt nhi
phải trơ mắt nhìn Lý Hoàng Thương mãi mãi ung dung tự tại?”

Lý Thanh Phong không thể trả lời câu hỏi của ta. Người trầm lặng một hồi, sau đó nói một câu mà cả đời này ta không quên được:

“Vi thần chỉ mong điện hạ lớn lên làm một nữ tử thiện lương, cả đời bình yên hạnh phúc.”

Đến tận bây giờ, ta vẫn có thể cảm nhận được sự chân thành và cả nỗi buồn
ẩn chứa trong câu nói đó. Chỉ tiếc mong muốn của Lý Thanh Phong, đời này ta không thể giúp Người thực hiện. Ta muốn sinh tồn, vì vậy sẽ không
thể làm một nữ tử thiện lương. Người thiện lương ở chốn hậu cung đều rất đoản mệnh. Mà đã bước chân vào vòng vây hậu cung tranh đấu thì chẳng
cách nào bình yên hạnh phúc cả đời được nữa.

Về sau, mọi chuyện
dần dần trở lại bình thường. Lý Thanh Phong không bao giờ nhắc lại
chuyện xấu của ta. Chỉ là lỗi lầm đó cứ gặm nhấm ta mãi không thôi.
Chuyện ta đã hạ độc Lý phi như thế nào, Người không hỏi, ta cũng không
dám nói. Mà Lý phi có lẽ không phải là người duy nhất bị món thuốc trụy
thai đó hại. Thành phần chính của món thuốc đó là xạ hương. Thứ này… nữ
nhân nếu tiếp xúc thường sẽ ảnh hưởng đến khả năng làm mẹ, đừng nói đến
việc trực tiếp ăn phải… tác hại sẽ càng ghê gớm. Nghĩ lại, những người
thường tựu họp ở cạnh hồ sen đó không chỉ có Lý Phi, Thẩm phi, Trần
Hoàng Hậu mà còn có vài phi tần dưới trướng Trần Hoàng Hậu. Ngoài ra,
còn có con gái thân sinh của Trần Hoàng Hậu: Tứ công chúa Chu Trường
Vinh. Nàng nhỏ hơn ta năm tuổi. Tuy rằng ngày ấy, nàng cũng thường bày
trò bắt nạt ta nhưng xét cho cùng cũng chỉ là một đứa trẻ. Hành động
nông nổi của ta… sợ là đã khiến cho nàng cả đời không thể mang thai. Nữ
nhân không thể sinh dưỡng con cái, còn có cái gì đáng buồn hơn?

Chỉ một phút nông nổi lúc nhỏ, bị hận thù làm mờ mắt, ta đã gây ra nghiệp
chướng lớn lao đến mức mỗi lần nghĩ đến, ta lại như cảm thấy trên đôi
tay mình phảng phất mùi máu tươi, cùng với những cơn ác mộng mà trong đó ta bị một màn đêm đen đặc nuốt chửng, đến khi giật mình tỉnh dậy chỉ
thấy toàn thân ướt đẫm mồ hôi, bên tai còn thoảng thoảng tiếng trẻ con
khóc quấy. Không rõ là tiếng của đệ đệ ta hay là của đứa trẻ trong bụng
Lý phi. Mà nghĩ lại, đứa trẻ ấy, cũng tính là hoàng đệ của ta. Từ giờ
phút đó, ta đã tự thề với lòng mình, đời này tranh đấu thế nào cũng sẽ
không bao giờ động đến trẻ con nữa.

Cuộc sống của ta cứ như vậy
bình lặng trôi qua. Mặc kệ hậu cung của phụ hoàng loạn đến mức nào, ta
chỉ quẩn quanh trong Viên Linh các của mình, chỉ cần không có kẻ nào đến xách cổ ta lôi đi, ta sẽ không bước chân ra ngoài nửa bước. Ban ngày
tập võ, luyện chữ, đọc y thư; ban đêm đi trộm thức ăn để dùng dần vào
ban ngày. Lúc rảnh rỗi, Lý Thanh Phong sẽ đến chỉ bảo ta cái này cái
kia. Mỹ nữ nhập cung nhiều như sao trên trời, lâu lâu sẽ lại có người
mới đến học tập người cũ mà bắt nạt ta. Có điều, miễn họ không quá đáng, ta sẽ nhẫn nhịn. Nếu họ vượt quá giới hạn của ta, ta cũng sẽ tùy dịp
“đáp lễ”. Lớn thêm vài tuổi, thủ đoạn “đáp lễ” của ta cũng thận trọng
hơn, không còn liên lụy đến người ngoài cuộc nữa.

Đáng tiếc một điều, máu tươi trên đôi tay này vô phương gột rửa.

_________________________

vị cay, tính ấm, quy vào hai kinh tâm, tỳ, thông 12 đường kinh. Tác dụng khai khiếu, tỉnh tỳ dùng với bệnh kinh phong điên giản, hôn mê, trúng
phong quyết lạnh, do đờm dãi. Trên lâm sàng còn dùng khử ứ huyết, giảm
đau trong trường hợp chấn thương sưng đau, cơ nhục sưng tấy, ngoài ra
còn thoái màng mộng, làm sáng mắt, trừ mủ, tiêu ung nhọt. Đặc biệt có
tác dụng thúc thai sản dùng trục thai chết lưu. Vì vậy dễ gây sảy thai.

♦ Ngưu tất vị đắng, chua, tính bình. Quy vào hai kinh can, thận. Tác dụng hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc chữa kinh bế, kinh nguyệt không đều. Làm thư cân, kiện cốt điều trị các chứng về khớp nhất là khớp chân. Ngoài ra
còn chỉ huyết, lợi niệu, thông lâm, hạ huyết áp, giải độc, chống viêm.
Người có thai không nên dùng do tác dụng hoạt huyết và tăng co bóp tử
cung của ngưu tất.

♦ Mẫu đơn bì vị đắng, tính hơi hàn, quy vào 3 kinh tâm, can, thận. Thuốc có tác dụng thanh nhiệt, lương huyết làm
thanh huyết nhiệt, trị chảy máu cam, thổ huyết, ban chẩn…, thanh can
nhiệt chữa chứng sườn đau tức, hoa mắt, đau đầu, đau bụng kinh. Ngoài ra có tác dụng hoạt huyết, khử ứ điều trị các chứng bế kinh, tích huyết,
chấn thương, làm hạ huyết áp, chữa xơ cứng động mạch. Do tác dụng thông
kinh hoạt huyết vị thuốc dễ gây sảy thai.

♦ Huyền hồ còn gọi
duyên hồ sách, vị cay, tính ấm, quy vào 3 kinh phế, can, tỳ. Tác dụng
hoạt huyết tán ứ, lợi khí chỉ đau. Có thể hành được khí trệ trong huyết, huyết trệ trong khí, thông tiểu tiện, trừ phong. Điều trị các chứng khí đọng, huyết kết, kinh nguyệt không đều, các chấn thương bầm tím, huyết
chết đọng lại. Là thuốc hoạt huyết lợi khí nhất trong các thứ thuốc làm
thông kinh nguyệt, dễ gây sảy thai.

♦ Đào nhân là hạt cây đào.
Vị đắng, ngọt, tính bình. Quy vào hai kinh can và thận. Tác dụng hoạt
huyết, khử ứ chữa các bệnh về kinh nguyệt hoặc sau đẻ ứ huyết. Làm nhuận tràng thông tiện, giảm đau, chống viêm. Tuy nhiên do tác dụng khử ứ dễ
làm sảy thai.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 27


Tuy rằng bản thân phi tử không thể tự mình xuất cung, nhưng sai tiểu thái
giám ra ngoài đưa một phong thư không phải là việc quá khó, nhất là đối
với những phi tử có giao hảo với Hoàng Hậu, thị vệ canh cổng cũng chẳng
gây khó dễ.

Tuy nhiên, để tránh phiền phức về sau, ta viết thư
cho Tạ phủ nói đại khái về tình hình Tạ Thu Dung, bảo họ không cần lo
lắng. Đợi ta viết xong, Tạ Thu Dung cũng mang thư viết cho dì của nàng
đến.

“Thế nào, có cảm thấy gì khác thường không?”

Tạ Thu Dung phe phẩy lá thư trước mặt ta, vui vẻ hỏi.

Ta cầm lấy thư, nhìn sơ qua cũng chỉ là thư hỏi thăm sức khỏe bình thường thôi, bèn hài lòng trả cho nàng, cười đáp:

“Rất tốt.”

Thấy Ngọc Thủy đang đứng hầu gần đó, ta tiện tay vẫy nàng lại, đưa thư của
Tạ Thu Dung viết cho nàng, ý muốn thử nàng một chút. Đáng tiếc, Ngọc
Thủy cầm thư, đọc đi đọc lại, còn xoay ngang xoay dọc, cuối cùng vẫn
không nhìn ra cái gì, đành nhăn mày hỏi:

“Nô tỳ không hiểu gì cả. Lữ phu nhân đọc cái này sẽ hiểu sao?”

Tạ Thu Dung thu lại lá thư, cẩn thận nhỏ nến niêm kín phong thư lại, vừa làm vừa nói:

“Như vậy mới lợi hại chứ.”

Ta nhìn bộ dạng đắc ý của nàng ấy, phì cười:

“Chẳng qua chỉ là mực tàng hình, có cái gì mà phải thần thần bí bí.”

Mực tàng hình cũng không phải thứ quá hiếm lạ, Ngọc Thủy nghe qua liền hiểu ra, nhưng vẫn thắc mắc:

“Tạ tiểu thư, người đã dùng mực tàng hình vì sao phải viết thêm nhiều chữ vô nghĩa như vậy?”

Tạ Thu Dung vẫn chú tấm dán miệng phong thư, lơ đễnh đáp:

“Một lá thư không có chữ so với một lá thư đầy chữ, cái nào mờ ám hơn?”

Tạ Thu Dung đã đề phòng trước khả năng lá thư này không đến được tay dì
nàng, hoặc trên đường chuyển đi bị kẻ khác xem qua nên mới viết vài dòng thăm hỏi bình thường, sau đó mới dùng mực tàng hình viết xen vào khoảng trống giữa các hàng chữ, cũng có thể là viết ở mặt sau. Như vậy dẫu kẻ
lắm chuyện nào nhìn vào cũng không thể nghi ngờ gì. Tạ Ngự sử đào tạo
con gái không tệ.

Hai lá thư này ta giao cho Tiểu Phúc Tử tự tay
đi giao. Tiểu tử này bình thường hơi nhát gan nhưng đáng tin, làm việc
cũng coi là lanh lẹ. Để cho hắn mang thư của ta đến Tạ phủ trước, sau đó đi lòng vòng mua vài thứ lặt vặt rồi mới tới phía nam kinh thành giao
thư cho dì của Tạ Thu Dung.

An bày như vậy đã là việc tốt nhất ta có thể làm cho Tạ Thu Dung. Phần còn lại, phải xem dì của nàng – vị Lữ
phu nhân lừng danh trong giới thương buôn kia hành sự thế nào.

Mới mấy hôm trước, không hiểu sao Thái Hậu lại gọi Hoàng Hậu đến, trách cứ
chuyện phi tử hậu cung lạnh nhạt với Bạch Thường tại, còn nói Hoàng Hậu
thiếu trách nhiệm, không lo chu toàn việc trong cung. Nghe nói Hoàng Hậu khi ra khỏi Thuận Ninh cung sắc mặt rất xấu. Vì chuyện này, các phi tử
trước nay xa lánh Bạch Thường tại nay cũng phải cắn răng đưa chút đồ đến Vị Tú hiên để tránh tiếng xấu. Ngay cả Triệu Đức phi cũng phái người
mang đến mấy chiếc khăn tay. Nghe mà buồn cười, lúc người ta khó khăn
hoạn nạn, túng thiếu trăm bề, cho thứ gì không cho, lại cho khăn tay.
Triệu Đức phi cẩn thận quá rồi.

Việc này quả là kì lạ. Nhớ lại
khi Thái Hậu hồi cung, có cùng phi tử nhiều lần trò chuyện nhưng cũng
chưa từng hỏi tới Bạch Thường tại vì sao vắng mặt trong khi trước đây
nàng ở phi vị, hẳn là xuất hiện không ít, bà không thể nào không nhớ
mặt. Ta còn nghĩ Thái Hậu không thích nàng nên không để tâm, nay lại tự
nhiên nhắc đến, lại còn trách cứ Hoàng Hậu. Có lẽ Triệu Đức phi đã tác
động ở chỗ Thái Hậu rồi. Thời gian kéo ra quá dài, nàng ta không muốn
đợi nữa. Như vậy cũng tốt. Ta cũng muốn dứt điểm chuyện này, sống hay
chết đều nên dứt khoát giải quyết một lần.

Chuyện Ngọc Hy giao
cho Ngọc Nga điều tra, cuối cùng đã có kết quả. Nhìn đôi vòng ngọc xanh
biếc mà Ngọc Nga đưa đến, ta không thể không ngầm tán thưởng. Chất ngọc
xanh trong, gân ngọc uốn lượn mềm mại, nhìn sơ qua cũng biết là bảo vật.

Ngọc Nga nhìn ta một lúc, cẩn thận nói:

“Nô tỳ phát hiện thứ này gói kĩ trong khăn lụa, giấu dưới viên gạch lát nền chỗ chân giường của Ngọc Hy. Bây giờ nên làm gì tiếp theo ạ?”

Ta nhấc đôi vòng ngọc lên nhìn cho kĩ, chợt ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt
tỏa ra mới cầm chiếc khăn lụa gói bên ngoài vòng lên xem. Từ chất vải
đến hoa văn thêu bên trên đều là loại thượng phẩm, giá trị không nhỏ.
Ngọc Hy không thể có được. Chắc là cũng đến từ một chỗ với đôi vòng, lại còn mùi hương này… Thực sự có chút quen thuộc.

Nghĩ ngợi một lúc, bèn đem vòng gói trở vào khăn tay, đưa lại cho Ngọc Nga, nói:

“Ngươi đưa thứ này cho Ngọc Thủy, bảo nàng ấy đến Thượng Cung cục tìm Tương Huyền, nhờ tra nguồn gốc thứ này.”

Ngọc Nga hơi ngần ngại:

“Vị này đã dám mang vòng ngọc quý giá như vậy cho Ngọc Hy, e rằng vòng ngọc này xuất xứ từ bên ngoài, trong cung không có ghi chép lại đâu.”

Ta mỉm cười:

“Dĩ nhiên! Đã có bản lĩnh mua chuộc người trong cung kẻ khác thì chắc chắn
sẽ không bất cẩn dễ dàng lòi đuôi như vậy. Chỉ là… vòng ngọc không tra
ra được, nhưng mùi hương trên chiếc khăn này thì chưa chắc.”

Mùi
hương trên khăn không quá đậm, nếu không phải khứu giác ta nhạy bén hơn
người thì cũng sẽ không để ý đến. Còn Tương Huyền tuy chỉ là người bình
thường, nhưng nàng ta làm nữ quan chế hương đã nhiều năm, khứu giác tiếp xúc với vô số loại hương liệu tự nhiên sẽ trở nên tinh nhạy. Mùi hương
này chắc chắn không thể làm khó nàng ta.

Mỗi vị chủ nhân ở mỗi
cung đều có sở thích về hương liệu khác nhau. Chẳng ai muốn Hoàng Đế ở
chỗ mình mà nhớ tới kẻ khác, vì vậy rất ít khi có hai người chọn loại
hương liệu giống nhau. Mùi hương trên khăn rất quen, ta hẳn đã ngửi thấy ở trên người vị nào đó, nhất định là trong số mấy người chức vị cao hay cùng tán chuyện ở chỗ Hoàng Hậu thôi, chỉ là nhất thời không nghĩ ra là ai. Chuyện này giao cho Tương Huyền cũng là dùng người đúng chỗ.

“Vâng.” Ngọc Nga kính cẩn gật đầu. “Vậy còn Ngọc Hy…”

“Tạm thời chưa thể xử lí, nhưng cũng không nên để nó đi lại lung tung… Thôi
thì lát nữa Tiểu Phúc Tử trở về, ngươi bảo hắn đi tìm Ngọc Hy sinh sự,
kiếm cớ gì đó bắt nhốt lại cho ta. Nhớ rằng chỉ nhốt lại, đừng nói đến
chuyện đôi vòng ngọc này, cũng đừng để bất kì ai tiếp cận nó.”

Căn dặn Ngọc Nga thêm vài chuyện xong, ta quyết định ăn trưa, nghỉ ngơi
sớm. Dẫu sao hôm nay sẽ là một ngày rất dài, nhất định phải dưỡng sức
đầy đủ.

***

Đầu buổi chiều, Ngọc Thủy mang chiếc khăn lụa
kia đi Thượng Cung cục tìm Tương Huyền, Tiểu Phúc Tử đi tìm Ngọc Hy sinh sự. Sinh sự cũng là một loại bản lĩnh đặc biệt, không phải ai cũng có
thể làm tốt như Tiểu Phúc Tử. Việc này giao cho hắn, ta hết sức yên tâm. Người nào việc nấy, ta và Ngọc Nga cũng lên đường đi thăm Bạch Thường
tại.

Đi thăm người bệnh đáng lẽ nên cầm theo chút quà cho phải
lễ. Thế nhưng Triệu Đức phi đã nóng lòng muốn hạ màn cái bẫy lớn này, ta cũng đành thuận theo, cứ thế tay không ngồi kiệu mà đến Vị Tú hiên.

Vị Tú hiên cách Cẩm Tước cung khá xa. Đi từ đường lớn trong cung, lại qua
đường nhỏ, rồi đường nhỏ hơn. Quang cảnh hai bên đường dần dần vắng vẻ,
thậm chí còn có cỏ dại mọc um tùm khiến cho ta có cảm giác Vị Tú hiên
không còn nằm trong phạm vi hoàng cung nữa.

Đi mãi cuối cùng cũng đến. Vừa bước xuống kiệu, nhìn thấy cánh cổng xiêu vẹo cùng với hàng
chữ “Vị Tú hiên” mờ tịt, nét còn nét mất treo hờ bên trên, lòng ta chợt
cảm thán, có chút hồi tưởng đến Viên Linh các của ta ngày trước.

Trong lúc Ngọc Nga lấy hồng bao thưởng cho mấy thái giám khiêng kiệu, ta chậm rãi bước về phía cổng Vị Tú hiên. Cánh cổng mục nát bốc mùi ẩm mốc,
then cài dường như đã hỏng từ lâu, chỉ khép hờ lỏng lẻo. Ta nhẹ nhàng
đẩy cửa tiến vào bên trong, thấy cảnh tượng càng đìu hiu, ảm đạm.

Vị Tú hiên đúng như lời đồn đại, chỉ là một dãy nhà rách nát gồm ba gian
phòng nối liền với nhau. Phía trước là một khoảng sân nhỏ. Trên mặt sân, cỏ dại len qua khe hở giữa những viên đá lót, mọc lên thành từng bụi
lởm chởm. Trong góc sân, mấy vại nước sành bày ngổn ngang, có cái đã nứt vỡ, lăn kềnh ra như trêu ngươi kẻ khác.

Ta đến đã lâu mà vẫn không thấy bóng dáng nô tài nào ra hỏi han lấy một câu. Ngọc Nga cũng lấy làm bức xúc, bèn gọi lớn tiếng:

“Hòa phi nương nương đến!”

Mãi một hồi sau, mới thấy một cung nữ dáng người thấp bé, cục mịch đẩy cửa
căn phòng bên phải dãy nhà, rề rề bước ra. Nhìn thấy ta, cung nữ này hơi ngạc nhiên rồi chậm chạp quỳ xuống, cũng không tạ tội chậm trễ của
mình, chỉ nói:

“Nô tỳ thỉnh an Hòa phi nương nương.”

Nét
mặt nàng ta uể oải như thể vừa bị đánh thức khỏi mộng đẹp. Ta vừa nghĩ
vậy, liền thấy nàng ta che miệng ngáp một cái như thừa nhận suy đoán của ta. Một cung nữ lại có thể an nhàn nằm ngủ vào giờ này quả là hiếm có.

Ngọc Nga thấy thái độ cung nữ này bất kính, định mở miệng trách cứ, nhưng ta đã ngăn nàng lại, hướng về phía cung nữ kia, hỏi:

“Tiểu chủ nhà ngươi đâu rồi? Bản cung đến thăm nàng.”

Cung nữ nghe hỏi, cúi đầu đáp bằng giọng đều đều:

“Bẩm nương nương, tiểu chủ đang ngồi hóng gió ở hậu viện.”

Nàng ta đáp xong liền im lặng, phải đợi đến khi ta đích thân mở miệng bảo
dẫn đi gặp Bạch Thường tại thì nàng ta mới chịu đứng lên, uể oải dẫn
đường. Trong cung không thiếu những vị chủ nhân thích tỏ vẻ thanh cao
lạnh nhạt, khinh thường người khá. Ta nhìn đã quen mắt. Nhưng một nô tỳ
mà cũng tâm cao khí ngạo, dám ra vẻ với cả phi tử thế này, ta mỉa mai
nghĩ hẳn là chỉ có mình nàng ta.

Cái gọi là hậu viên của Vị Tú
hiên thực chất chỉ là một mảnh vườn nhỏ xíu, chung quanh toàn là cỏ dại. Chỗ đất trống duy nhất là bên gốc một thân cây cổ thụ khô héo, cành lá
khẳng khiu. Nơi đây bày một bộ bàn ghế đá nhỏ. Khi ta đến nơi, Bạch
Thường tại đang ngồi ở đấy, lưng xoay về phía chúng ta.

“Bẩm chủ
tử, có Hòa phi nương nương đến thăm người.” Cung nữ kia lạnh nhạt cất
tiếng thông báo, dù có thưa bẩm nhưng chất giọng chẳng có chút tôn kính
nào.

Bạch Thường tại nghe gọi, giật mình quay lại, như không tin vào mắt mình:

“Nương nương… sao lại đến đây?”

“Nghe nói muội muội không khỏe, bản cung đến thăm muội.”

Ta dợm bước lại gần Bạch Thường tại, kéo gấu váy sang một bên cho gọn rồi ngồi xuống đối diện nàng.

Ngọc Nga hiểu ý, bèn kéo cung nữ kia đi trở ngược ra xa. Ban đầu, cung nữ
kia có vẻ khó chịu, nhưng sau khi Ngọc Nga dúi vào tay nàng ta một chiếc hồng bao, nét mặt nàng ta liền chuyển từ cao ngạo thành vui vẻ, còn
thân thiện nắm lấy tay Ngọc Nga dẫn đi. Liếc sơ qua ta cũng có thể nhìn
thấy sự khinh bỉ hiện lên trong ánh mắt của Ngọc Nga.

Ở phía đối diện, Bạch Thường tại nhìn ta chăm chăm, một hồi sau mới nở nụ cười ảm đạm:

“Đã lâu không gặp nương nương.”

Ta nghĩ muốn rót trà, nhưng nhìn lại bình trà trên bàn đã phủ một lớp bụi
mờ, bên trên còn có mấy cái lá khô vướng lại, e rằng rất nhiều ngày rồi
chẳng ai động đến, đành thở dài:

“Muội muội đã không khỏe, sao không ở trong phòng nghỉ ngơi mà lại ra đây hứng nắng hứng gió?”

Bạch Thường tại không trả lời câu hỏi của ta, nụ cười trên môi trở nên nhạt nhòa:

“Ngày trước thần thiếp và nương nương không hề qua lại, vậy mà chỉ có nương
nương là nghĩ tới thần thiếp, cuối cùng đến bước đường này cũng chỉ có
nương nương đến đây thăm thần thiếp.”

Lời này thật chẳng sai.

Ta nhìn nàng, khẽ nói:

“Muội muội đừng bi quan như vậy. Còn rừng xanh lo gì không có củi đốt.”

Bạch Thường tại nghe lời này, chua chát cười rộ lên:

“Nương nương nhìn ta đây, thật sự còn có tương lai khác hay sao?”

Ý cười trên mặt nàng có phần điên cuồng. Giật mình nhìn lại, thời gian trôi qua chưa lâu mà Bạch Thường tại đã quá khác xưa rồi.

Ta còn nhớ ngày đầu đi Triêu Lan cung thỉnh an, lần đầu nhìn thấy Bạch
Diệu Hoa là lúc nàng đang nhàn nhã cầm một ly trà. Dáng vẻ nàng ta tuy
không phong tình quyến rũ như những nữ tử chung quanh, nhưng bộ dạng
đoan trang, hiền dịu lại toát lên khí chất cao quý, khiến người ta yêu
mến. Ngày qua ngày, tiếp xúc thân cận với đám người của Hoàng Hậu mới
hiểu được, tính cách Bạch Diệu Hoa cũng có vài phần giống với ta, không
thích ồn ào tranh đoạt, chỉ muốn an ổn qua ngày. Mà cũng bởi vì như vậy
nên hai người bọn ta cứ như hai dòng nước chảy xuôi, an ổn phần mình,
không động chạm đến nhau. Trong mắt của ta, Bạch Diệu Hoa chính là hình
mẫu nữ nhân hiền đức điển hình, có dung mạo, có hiểu biết, lại ôn hòa an phận. Vậy mà hôm nay Bạch Diệu Hoa tuy vẫn là Bạch Diệu Hoa, nhưng
phong thái ung dung tự tại ngày xưa đã chẳng còn. Không còn xiêm y phục
sức đẹp đẽ, nàng chỉ mặc một bộ áo váy dài màu xanh đen tối tăm, tóc tai vấn ngược ra sau thành một búi, cài ngang bằng một chiếc trâm bạc trơn
dài không họa tiết, có cảm giác như nàng tự mình chải qua loa cho có.
Gương mặt tròn trịa tươi tắn nay như khô héo, làn da tái nhợt, gò má hóp vào, lại không có phấn son bù đắp nên trông càng xơ xác.

Ta khẽ nói:

“Trên đời này không có chuyện gì là không thể xảy ra. Đời người ai mà chẳng có lúc thăng trầm.”

Bạch Thường tại cười nhạt:

“Vậy sao? Nghe nói Hàm Nhu trước khi hành hình đã uống thuốc độc tự vẫn, nương nương biết chuyện này không?”

Ta biết, nàng đang trách cứ ta.

“Lấy một cái chết dễ dàng để mua lại chân tướng, muội cảm thấy có đáng không?” Ta hỏi.

Bạch Thường tại nhíu mày:

“Ả sẽ nói thật sao? Không chừng chỉ là quấy quá để cầu được chết toàn thây thôi.”

Lời trước khi chết của Hàm Nhu là sự thật, có điều đó là là “sự thật” mà
Triệu Đức phi muốn cho Hàm Nhu biết mà thôi. Nhưng nhờ đó ta cũng nghe
ngóng được vài manh mối có giá trị. Dù là vậy, những điều này giải thích ra quá dài dòng nên ta chỉ đáp:

“Hoàng Hậu đã điều tra, trước
khi sự việc diễn ra, Hàm Nhu có qua lại vài lần với một cung nữ ở chỗ
Tĩnh Tần. Mà sau khi Hàm Nhu chết, cung nữ kia nghe đâu vô ý ngã xuống
giếng, cũng chết rồi.”

“Tĩnh Tần? Không thể nào, tuy Tĩnh Tần rất ngang ngược nhưng ta chung quy không có tranh chấp với nàng…”

Bạch Thường tại kinh ngạc thì thầm, như đang cố nhớ lại bản thân đắc tội
Tĩnh Tần ở chỗ nào. Ta không đáp, để nàng tự suy nghĩ. Chỉ trong thoáng
chốc đã thấy Bạch Thường tại bật cười cay đắng:

“Tĩnh Tần ngang
ngược nhưng cũng sẽ không có bản lĩnh một nhát chí mạng như vậy, e là
Đức phi nương nương chướng mắt ta rồi… À, mà không, một kẻ nhu nhược như ta thì làm cái gì để Đức phi chướng mắt được chứ? Chung quy cũng chỉ là một con tốt thí mà thôi…”

Nói xong liền buông chiếc khăn vẫn luôn nắm chặt trong tay, để lên bàn.

Ta liếc nhìn mảnh khăn làm từ tơ mỏng như sương, ẩn hiện mấy đóa hải đường rực rỡ thêu ở góc, hiểu ra đây chính là tặng phẩm của Đức phi. Bạch
Thường tại mới mười bảy tuổi, rốt cuộc chỉ là một tiểu thư yếu mềm đã
quen nhung lụa. Nay tự nhiên bị đạp xuống bùn dơ, một món đồ tinh tế bên người cũng không có. Đức phi lo sợ tặng thuốc hay đồ bổ sẽ dễ bị người
ta hạ thủ làm trò không sạch sẽ nên mới ban xuống mấy cái khăn tay vô
dụng. Bạch Thường tại đã lâu mới nhìn thấy món đồ tinh xảo xinh đẹp như
vậy, khó trách sinh lòng yêu thích. Bây giờ biết ra chính Đức phi hại
mình, nàng ta liền ghê tởm buông xuống.

Ta cười nhẹ:

“Những nữ nhân nhỏ bé như chúng ta đều là tốt thí của kẻ khác.”

Bạch Thường tại ngước mắt nhìn ta khó hiểu:

“Nương nương di giá đến đây, không phải chỉ là để nói với Diệu Hoa mấy lời thương cảm này thôi phải không?”

Ta thu lại ý cười trên môi, nghiêm túc nhìn nàng:

“Những con tốt thí như chúng ta sau cùng đều không có kết quả tốt đẹp. Muội cam tâm ngồi ở đây để kẻ khác an bày sao?”

Bạch Thường tại kinh ngạc hỏi:

“Diệu Hoa đã đến mức này… Bạch thị và Hà thị không còn có thể như trước nữa. Lẽ nào Đức phi còn chưa hài lòng?”

Ta thẳn thắn đáp:

“Muội biết Đức phi lâu hơn ta, muội nói xem, Đức phi sẽ dễ dàng hài lòng như vậy sao?”

Bạch Thường tại ngẩn người, sau lại cười chua chát:

“Diệu Hoa chưa chết, Hoàng Hậu chưa bị dồn đến đường cùng, Đức phi làm sao có thể thỏa mãn. Ha… cái bẫy này, ngay từ đầu đã không phải nhắm vào ta…
Nương nương ngay từ đầu đã biết phải không? Cho nên mới đưa ta thứ này…”

Bạch Diệu Hoa cúi đầu, lấy trong tay áo ra một gói giấy nhỏ. Đây chính là
vật ta lén lút đưa cho nàng khi trước. Bên trong là hai viên thuốc giải
độc, tuy rằng không thể giải hết vạn độc trong thiên hạ, nhưng những
loại thông thường thì không có vấn đề. Nếu gặp phải loại độc cổ quái gì
đó, uống thuốc này vào tuy không thể giải hết độc chất nhưng cũng hóa
giải được phần nào, tạm thời có thể giữ lại tính mạng. Lúc đó ta chưa
biết kế hoạch của Đức phi, chỉ sợ có điều không hay xảy ra nên vội vã
mang hai viên thuốc này đưa cho Bạch Diệu Hoa, bên trong giấy gói ghi
vắn tắt “Thuốc giải độc. Có điểm bất thường lập tức uống vào.” Ta không
biết Bạch Diệu Hoa có tin tưởng hay không, đưa cho nàng hai viên thuốc
này đã xem như tận lực rồi. Bây giờ, thấy Bạch Diệu Hoa lấy từ trong
người ra, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Nàng ấy không vứt bỏ chúng coi như
là tin tưởng ta. Nếu nàng ta thực sự vứt đi rồi, ta cũng vô phương giúp
đỡ lần nữa. Loại thuốc này quý hiếm, ta chỉ có năm viên, ba viên kia giữ trong người phòng thân, tuyệt đối sẽ không đưa ra nữa.

“Ngày trước ta sợ có kẻ giở trò hại muội nên mới đưa muội thứ này để phòng bị.”

Bạch Diệu Hoa xoay xoay gói thuốc trong tay, khóe miệng khẽ nâng lên:

“Nhưng xem ra phòng bị thôi là không đủ. Người ta ở trong tối, mình ở ngoài sáng, làm thế nào đề phòng hết cho được?”

Nói chuyện dông dài cả một lúc lâu, cuối cùng cũng nói đến trọng điểm. Ta cười hỏi:

“Đã là như vậy, muội muội có dám đặt cược một ván không?”

Nét cười trên môi Bạch Diệu Hoa càng thêm sâu:

“Đến bước này rồi, Diệu Hoa còn gì mà không dám?”

Ta lắc đầu, nói:

“Lần cược này không phải cược bình thường mà là dùng tính mạng của hai ta để cược. Vạn nhất thua rồi, thì ngay cả mặt trời ngày mai cũng không nhìn
thấy được đâu.”

Bạch Diệu Hoa thôi không cười nữa. Nàng nghiêm túc nhìn thẳng vào mắt ta:

“Nương nương đã không sợ, Bạch Diệu Hoa này thì sợ cái gì? Từ lúc bước chân và Vị Tú hiên, ta đã không còn coi trọng sống chết nữa rồi.”

Thân
là nữ nhân của Hoàng Đế, dù có chuyện gì xảy ra cũng tuyệt đối không thể tự vẫn vì như vậy là phạm vào tội khi quân phạm thượng, cả nhà sẽ bị
liên lụy. Vậy nên có rất nhiều nữ nhân dù bị biếm vào lãnh cung, cũng
như Bạch Diệu Hoa khổ nhục, sống không bằng chết nhưng vẫn phải cố sống, vì căn bản ngay cả quyền được tự kết liễu mạng sống của mình cũng không có.

Bạch Diệu Hoa ngừng lại một lát, sau lại nói tiếp:

“Diệu Hoa không sợ chết, nhưng cũng sẽ không để cho kẻ khác tùy ý ép chết
mình. Đức phi muốn ta chết, cho dù phải chết, ta cũng sẽ quay đầu cắn ả
một miếng thật đau.”

Lời nói cứng rắn cộng với hận ý trùng trùng, hoàn toàn không còn chút gì giống với Bạch phi hiền lành nhu mì ngày
trước. Thấy nàng như vậy, ta rất hài lòng, chậm rãi lấy ra từ trong tay
áo một cái lọ sứ nhỏ, đặt trước mặt nàng:

“Có lời này của muội
muội, ta cũng yên tâm cược mạng mình vào ván cờ này. Chỉ là… có một số
chuyện, muội muội cần tin tưởng ta mới được.”

Bạch Diệu Hoa đón cái lọ từ tay ta. Lọ sứ rất nhỏ, khi cầm lọt thỏm trong lòng bàn tay, rất gọn gàng. Nàng mỉm cười:

“Diệu Hoa vô tri mới để kẻ khác thừa cơ giẫm đạp, nay xin nương nương chỉ dạy cho.”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 28


Bạch Diệu Hoa đã gật
đầu đồng ý cùng ta liên thủ, ta liền nói với nàng những điểm quan trọng. Bạch Diệu Hoa chỉ nghe sơ qua liền hiểu ngay.

Nàng nhìn ta nở nụ cười, nói:

“Diệu Hoa đã hiểu.”

Ánh mắt nàng lạnh lùng dừng lại trên chiếc khăn lụa trên bàn rồi chậm rãi
cầm lấy, nhìn như đang v**t v* mà cũng lại như giày vò, không rõ là yêu
thích hay ghét bỏ.

Thực ra, Bạch Diệu Hoa không phải một nữ
tử không có đầu óc, chỉ là từ nhỏ đã là thiên kim được bảo bọc, nhập
cung lại có Hoàng Hậu chống lưng, thêm vào đó bản tính không thích tranh sủng, chẳng hề động chạm đến ai. Cuộc sống ngày trước quá mức êm đềm,
quá mức dễ chịu nên mới sinh ra tính cách mềm yếu. Nhưng nay qua một lần vấp ngã trí mạng, nếm trải được nhân tình thế thái, sự mềm yếu kia đã
bị gột rửa sạch sẽ.

Ta tin rằng mình không nhìn lầm người.

Nữ tử có đầu óc, trong tâm lại có hận thù nhất định có thể làm nên chuyện.

***

Rời khỏi Vị Tú Hiên, sắc mặt Ngọc Nga càng khó coi hơn lúc mới đến nhưng
vẫn miễn cưỡng tỏ ra bình thường. Ta ngồi trên kiệu, vén rèm ra nhìn
thấy nàng như vậy tự nhiên buồn cười, bèn nói:

“Nha đầu này, nhìn mặt ngươi kìa, hệt như cái bánh bao thiu.”

Ngọc Nga nghe ta trêu nàng, hơi đỏ mặt cắn cắn môi:

“Chủ nhân lại trêu nô tỳ.”

Ta nghiêng đầu nhìn ra bên ngoài, thấy cũng đã gần về tới Cẩm Tước cung
nên bảo bọn họ hạ kiệu, quyết định cùng Ngọc Nga tự đi tiếp cũng là để
tiện trò chuyện. Nhìn mấy người thái giám khiêng kiệu đi khuất, ta mới
vươn tay khoác lấy cánh tay Ngọc Nga, cười nói:

“Có điều gì trong lòng thì cứ nói đi. Đối với bản cung không cần giấu diếm.”

Ngọc Nga đã quen với sự thân thiết của ta, không còn giãy nảy lên như lúc đầu, theo thói quen đỡ lấy tay ta, cúi đầu đáp:

“Bạch Thường tại tính ra là một chủ nhân không tệ, vậy mà cung nữ kia thật quá phận. Nô tỳ cảm thấy rất chướng mắt.”

Ta bật cười:

“Chuyện chướng mắt hàng ngày nhìn thấy đều không ít. Ở đây cái gì có thể thiếu, nhưng trước nay đều chẳng thiếu những chuyện chướng mắt.”

Ngọc Nga thở khẽ ra, buồn bã nói:

“Nô tỳ hiểu được. Chỉ là trong lòng cảm thấy thương tâm.”

Bạch Diệu Hoa vốn là phi tử nhất phẩm, dù không có sủng ái nhưng dựa vào địa vị cùng gia thế, hiển nhiên là một vị chủ nhân tôn quý. Bây giờ ngay cả một cung nữ hạ đẳng cũng có thể chà đạp nàng. Thế thái nhân tình vốn là như vậy. Ai nhìn thấy mà không thương tâm, nhưng thương tâm cũng có làm được gì đâu.

Ta vỗ vỗ lên bàn tay Ngọc Nga, bình thản nói:

“Nha đầu đó cũng không sống được bao lâu nữa. Ngươi đừng để tâm đến nó làm gì.”

Ngọc Nga nghe xong, kinh ngạc ngước nhìn ta rồi như chợt hiểu ra, nàng lặng lẽ gật đầu.

Hai người chậm rãi tản bộ trở về. Vừa tới cửa cung đã thấy Ngọc Thủy đi đi
lại lại, dáng vẻ vô cùng khẩn trương. Nhìn thấy ta, Ngọc Thủy vội vàng
chạy đến:

“Chủ nhân cuối cùng cũng về rồi.”

Ta nghĩ hẳn nàng đã tra ra thứ đó, liền cười đáp:

“Vào trong nói tiếp.”

Ngọc Thủy gật đầu, đến bên người đỡ ta vào phòng nghỉ, sau đó kiếm cớ đuổi
hết những cung nhân đang làm việc ở gần đi, cẩn thận nhìn trước ngó sau
rồi mới lôi trong người ra một cái túi vải.

“Tương Huyền nói chủ nhân xem cái này sẽ hiểu.”

Ta không nói gì, cầm lấy túi vải chậm rãi mở ra, bên trong chỉ có một gói
giấy nhỏ và một cây trâm ngọc. Cẩn thận mở gói giấy ra trước, ta phát
hiện ra bên trong là một nhúm bột hương loại chuyên dùng pha vào nước
tắm, khẽ chấm đầu ngón trỏ vào chỗ bột hương, vân vê nhè nhẹ, từ đầu
ngón tay liền tỏa ra mùi hương giống hệt như mùi hương trên chiếc khăn
tay kia. Nhìn lại cây trâm ngọc, ta bất giác cười lạnh:

“Không ngờ lại là nàng ta.”

Ngọc Thủy mơ hồ nhìn ta:

“Đây… rốt cuộc là ý gì.”

Ta thả cây trâm ngọc xuống bàn kêu cạch một tiếng.

“Ngươi xem đây là loại hoa gì?”

Ngọc Thủy cầm lấy trâm ngọc, càng thêm mơ hồ:

“Hoa huệ?”

Ngọc Nga đột ngột hít mạnh, kinh ngạc hỏi:

“Hoa huệ bằng ngọc… lẽ nào là Dương Quý cơ?”

Ngọc Thủy che miệng, gần như ré lên:

“Không thể nào! Dương Quý cơ chẳng phải cũng là người của Hoàng Hậu sao? Sao
có thể giở trò như vậy… Hoa huệ này có thể nào là ám chỉ Huệ Đàm cung
Tĩnh tần chăng?”

Ngọc Nga nghe xong liền phản đối:

“Ta ít
chữ nghĩa cũng biết chữ ‘huệ’ trong tên ‘Huệ Đàm’ có nghĩa là trí tuệ,
chẳng phải hoa cỏ gì. Hoa huệ bằng ngọc, chẳng phải đích xác là khuê
danh của Dương Quý cơ, Dương Ngọc Huệ đó sao? Nếu muốn ám chỉ Tĩnh Tần
thì sao không dùng trâm hình hoa lan cho tiện?”

“Nhưng cùng ngồi trên một chiếc thuyền, vì sao Dương Quý cơ lại phải ra tay với chủ nhân?”

Ta thở dài, không muốn nghe hai người họ cãi cọ nữa bèn nói:

“Đủ rồi, chuyện này đừng nói thêm nữa. Bảo Tiểu Phúc Tử vào đây.”

Tiểu Phúc Tử nghe được gọi vào, vô cùng vui vẻ. Hắn đến trước mặt ta, kính cẩn chắp tay bẩm báo:

“Bẩm chủ nhân, việc người căn dặn, nô tài đã hoàn thành rồi. Ngọc Hy hiện đang bị nhốt trong kho củi ạ.”

Ta mỉm cười:

“Tốt lắm, nhớ trông coi cẩn thận đấy.”

Tiểu Phúc Tử vừa thấy ta cười, càng trở nên vui vẻ hơn. Hắn híp cả mắt lại:

“Chủ nhân muốn xử lý nó thế nào ạ?”

“Tạm thời cứ giữ lại đó đi, đợi khi có thời gian đã.”

Tiểu Phúc Tử vốn đang hăm hở nghĩ chuyện xử lý Ngọc Hy, giờ nghe nói vậy
liền xìu xuống như mèo con cụp tai, nhìn vừa tội nghiệp vừa buồn cười.
Chợt nghĩ lại thì thời gian qua hắn làm việc gì cũng chăm chỉ, tuy rằng
đôi khi có hấp tấp vụng về nhưng nhìn cách làm thì sẽ biết ngay là thật
tâm thật ý, vậy mà vì ban đầu ta thấy hắn mang dáng vẻ tay sai nịnh hót, có phần kiêng kị hắn nên ngoài chút bạc ra thì ta chưa từng thưởng hắn
cái gì ra hồn. Nhớ đến lời ban trưa nói với Bạch Thường tại, nếu chuyện
không thành thì mặt trời ngày mai cũng chẳng nhìn thấy được, lòng bỗng
ảm đạm, bèn nói:

“Tiểu Phúc Tử, trước nay ngươi làm việc bản cung đều rất hài lòng. Nói xem ngươi muốn thứ gì, bản cung sẽ thưởng cho ngươi.”

Tiểu Phúc Tử nghe được thưởng, miệng há hốc ra, lắp bắp:

“Nô tài… nô tài chỉ biết tận trung với chủ nhân… không có công lao gì… không dám nhận thưởng…”

Ta phì cười, vẫy hắn lại gần, gõ nhẹ lên trán hắn một cái:

“Ta muốn thưởng ngươi chứ có phải phạt ngươi đâu, ngươi sợ cái gì?”

Tiểu Phúc Tử xoa xoa trán, ngây người hỏi:

“Nô tài xin gì cũng được sao?”

Ta cười đáp:

“Miễn là thứ có thể cho, bản cung sẽ cho ngươi.”

Chỉ cần đừng muốn hết tiền trong kho của ta là được.

Ngọc Thủy và Ngọc Nga thấy Tiểu Phúc Tử ngượng đỏ cả mặt, cứ lúng búng như
gà mắc tóc bèn nhìn nhau cười ngặt nghẽo. Tiểu Phúc Tử nhỏ tuổi nhất
trong ba người, năm nay mới mười bốn, giống như tiểu đệ đệ trong nhà
luôn bị Ngọc Nga và Ngọc Thủy trêu ghẹo.

Ngọc Thủy vừa cười vỗ vai Tiểu Phúc Tử:

“Chủ nhân đã nói vậy thì ngươi muốn gì cứ xin, đừng làm chủ nhân mất hứng.”

Tiểu Phúc Tử mím môi, làm ra vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu lắm, hồi lâu sau lại đưa mắt nhìn quanh quẩn trong phòng giống như đang tìm kiếm gì đó. Cuối
cùng, ánh mắt hắn dừng lại ở chiếc rổ đựng kim chỉ đặt trên sạp gỗ ở
phòng ngoài. Nhanh như chớp, Tiểu Phúc Tử chạy đến bới từ trong rổ lấy
ra một cái túi thơm nhăn nheo, mang đến trước mặt ta:

“Vậy… chủ nhân thưởng cho nô tài cái này nhé?”

Ta nhìn cái túi vụng về kia, liền nhớ ra đây là sản phẩm của một lần cao
hứng đòi Ngọc Thủy dạy thêu thùa. Cuối cùng ta thêu không ra làm sao cả, bèn bỏ ở đó không đụng đến nữa.

Ta nhíu mày:

“Tiểu tử này, cái gì không xin sao lại muốn thứ đồ xấu xí này?”

Tiểu Phúc Tử cười hì hì, vẻ mặt tràn đầy nịnh nọt:

“Đồ của chủ nhân làm sao có thể xấu? Nô tài cảm thấy nó rất đẹp!”

Mỗi lần Tiểu Phúc Tử bày bộ mặt nịnh bợ này ra ta đều không nhịn được mà
nổi da gà khắp người. Lén lút xoa xoa cổ tay cho da gà lặn bớt, ta thành thực nói với hắn:

“Nếu ngươi thích túi thơm, bản cung bảo Ngọc
Thủy làm cho ngươi cái khác. Cái này quá xấu, để ngươi cầm đi lung tung, người khác mà biết được do Hòa phi này làm thì ta còn mặt mũi nào nữa!”

Tiểu Phúc Tử lắc đầu nguầy nguậy:

“Không đâu, không đâu. Nô tài sẽ không nói với ai hết. Nô tài chỉ muốn cái này thôi.”

Vốn muốn cho hắn thứ tốt một chút, coi như bù lại công sức của hắn bấy lâu
nay, vậy mà cuối cùng lại đi xin một cái túi thơm cẩu thả, thật khiến ta tức chết. Thấy tiểu tử này kiên quyết như thế, ta thở hắt ra:

“Thôi được rồi. Cho ngươi. Ngươi thích mùi hương gì? Để Ngọc Thủy tẩm hương vào…”

Tiểu Phúc Tử gãi gãi đầu, ngượng ngịu nói:

“Nô tài hầu hạ bên chủ nhân mấy tháng nay, chỉ cảm thấy mùi hương trên người chủ nhân là tốt nhất.”

Vẻ mặt cùng câu nói sặc mùi nịnh bợ của Tiểu Phúc Tử làm ta lại nổi thêm một tầng da gà, vội xua tay, nói:

“Được rồi, được rồi… Để bản cung mang bên người vài ngày rồi đưa lại cho ngươi… Lui ra trước đi…”

Tiểu Phúc Tử nghe xong, vui ra mặt, hớn hở trao lại túi thơm cho Ngọc Nga
rồi vui vẻ lui ra ngoài. Ngọc Nga cầm lấy túi thơm, đi đến mở tủ lấy ra
một túi vải nhỏ xíu, bên trong đựng bột Như Ý, bỏ vào trong túi thơm.
Loại bột này không có mùi nhưng có công dụng đặc biệt là rất hút hương
thơm. Chỉ cần để chung với thứ gì thì ít lâu sau sẽ mang theo mùi hương
của thứ đó, lại rất lâu phai, vì vậy mới có tên Như Ý. Người ta khi làm
túi thơm thường để thứ bột này chung với các loại hoa tươi để nó ngấm
hương hoa rồi bỏ vào bên trong túi thơm, mùi hương sống động và lâu phai hơn hoa khô rất nhiều.

Ngọc Thủy còn có cung vụ phải làm. Ngọc
Nga ở lại giúp ta lau người, thay y phục mới. Sạch sẽ mát mẻ rồi, ta mới cầm lấy chiếc túi thơm vụng về kia lên, bỏ vào ngực áo rồi leo lên
giường buông màn chợp mắt.

Chiếc túi thơm trong ngực áo có cảm
giác hơi cộm, ta bèn sửa lại vị trí một chút cho dễ dịu, thầm nghĩ không biết còn có cơ hội đưa lại vật này cho Tiểu Phúc Tử không. Qua lớp màn
mỏng, ta lờ mờ thấy Ngọc Nga đang thu dọn đồ vật trong phòng. Ta làm như buột miệng mà nói:

“Ngọc Nga này, bên dưới chân giường của ta có một ngăn tủ bí mật, trong đó có năm trăm lượng bạc. Nếu có lúc cần đến
mà bản cung không có ở đây thì ngươi lấy ra chia cho Ngọc Thủy và Tiểu
Phúc Tử luôn nhé.”

Ngọc Nga khựng lại:

“Sao tự nhiên chủ nhân lại nói việc này? Nô tỳ cần nhiều bạc như vậy để làm gì?”

Ta khẽ cười:

“Không có gì. Bản cung thuận miệng thì nói vậy thôi.”

Ngọc Nga buông chậu đồng đang cầm trên tay xuống, bước đến bên giường ta:

“Chủ nhân, hôm nay người làm sao thế?”

“Bản cung có làm sao đâu. Chẳng phải rất khỏe mạnh sao?”

“Chủ nhân…”

Ngọc Nga vươn tay muốn kéo màn ra để nhìn ta cho rõ, nhưng cuối cùng vẫn không dám. Cánh tay nàng thõng xuống, giọng run lên:

“Chủ nhân hỏi Tiểu Phúc Tử thích cái gì, sau lại chỉ chỗ cất bạc cho nô tỳ…
Người… không phải là đang an bày hậu sự đấy chứ? Người và Bạch Thường
tại đã bàn tính những việc gì?”

Ngọc Nga, Ngọc Thủy, Tiểu Phúc Tử là những người tận tâm với ta nhất. Thời gian ta ở đây đều là do bọn họ chăm sóc. Con người của ta không muốn nợ nần gì ai. Hôm nay ta biết
mình mạo hiểm, còn có ngày mai hay không thật sự không nói chắc được,
vậy nên mới muốn bù đắp cho bọn họ một chút gì đó. Nếu thực sự sau ngày
hôm nay không còn có Hòa phi này nữa, vậy đám cung nhân của ta chắc sẽ
bị trả về Thượng Cung cục hoặc điều đến cung khác. Ngọc Thủy xuất thân
từ phủ Hà Thái sư, có lẽ không việc gì, lại tiếp tục trông coi Cẩm Tước
cung thôi. Nhưng Ngọc Nga và Tiểu Phúc Tử sẽ không may mắn như vậy. Ta
hữu tâm vô lực, chỉ có thể thu xếp cho họ chút bạc phòng thân. Ở nơi
này, có tiền tài vẫn hơn.

“Chủ nhân, sao người không nói gì?” Giọng Ngọc Nga càng run rẩy.

“Hôm nay bản cung đã cược một ván lớn, mà kết quả chỉ nắm được ba phần…” Ta khẽ thở dài.

Ngọc Nga hít mạnh một hơi, nhỏ giọng đáp:

“Dù thế nào nô tỳ cũng sẽ theo chủ nhân tới cùng.”

Ta không nói gì, trở mình quay mặt vào trong. Ngọc Nga đứng đó một lúc,
biết ta không muốn nói chuyện nữa, bèn nhanh chóng dọn dẹp rồi đóng cửa
lui ra. Tận đến khi không còn nghe tiếng bước chân nàng nữa, ta mới nặng nề trở mình, nằm thẳng người trên giường, gác tay lên trán. Vô số suy
nghĩ lướt qua đầu ta.

Vừa chập chờn ngủ được một lúc đã nghe tiếng Ngọc Nga lay gọi:

“Chủ nhân, Tần công công ở chỗ Hoàng Hậu đến mời chủ nhân di giá sang Vị Tú hiên.”

Ta mệt mỏi ngồi dậy, ngáp một tiếng:

“Ừm… Bây giờ là giờ nào?”

Ngọc Nga khẩn trương đáp:

“Bẩm chủ nhân, là cuối giờ Tuất ạ.” (*)

( *Khoảng 21h)

Ta tặc lưỡi:

“Cuối cùng cũng đến rồi. Mau chuẩn bị.”

***

Trời sẩm tối, con đường đến Vị Tú hiên càng như dài ra thêm. Những ngọn đèn
hai bên đường lay lắt trong gió. Càng đi gần đến Vị Tú hiên, đèn thắp
bên đường càng thưa dần, cuối cùng, chỉ còn lại ánh sáng từ mặt trăng
trên cao và lồng đèn trên tay Ngọc Nga và Tần Khương mà thôi.

Ta
ngồi trong kiệu, Tần Khương đi trước dẫn đường, Ngọc Nga đi song song
bên cạnh, thấy ánh nến lay lắt phản chiếu gương mặt đầy lo âu của Ngọc
Nga. Ta vén rèm kiệu, vờ lo lắng hỏi:

“Tần công công, không biết đột nhiên Hoàng Hậu triệu kiến bản cung vào lúc này là vì lẽ gì? Vị Tú hiên có việc gì sao?”

Tần Khương cười cười đáp lấy lệ:

“Nô tài chỉ phụng mệnh đi mời nương nương, là việc gì nương nương đến nơi tự nhiên sẽ biết.”

Tần Khương không nhiều lời, ta cũng buông rèm trở lại, thôi không hỏi nữa.

Có lẽ đã lâu lắm rồi, Vị Tú hiên mới có một ngày nhộn nhịp như vậy. Ta vừa xuống kiệu liền thấy từ ngoài cửa Vị Tú hiên, cung nữ thái giám đứng
kín cả lối vào. Dựa vào màu sắc cung y, ta đoán có lẽ người của lục cung đều tề tựu ở đây rồi. Ta nhanh chóng chỉnh trang lại diện mạo rồi nắm
lấy cổ tay Ngọc Nga, không nhanh không chậm đi vào trong. Cảm giác cổ
tay Ngọc Nga khẽ run lên, ta liền siết chặt tay nàng một cái. Ngọc Nga
như được tiếp thêm sức mạnh, hơi thở cũng ổn định lại, không còn hoảng
loạn như ban đầu. Ta hài lòng cười nhẹ. Nha đầu này rất thông minh nhưng còn hơi thiếu kinh nghiệm, thật hi vọng có thêm thời gian để rèn luyện, nàng ta nhất định còn có thể tiến xa.

Tần Khương cúi người, làm
động tác mời. Ta gật đầu với hắn, để Ngọc Nga đỡ thẳng vào gian phòng
đèn đuốc sáng trưng ở chính giữa.

Đây là phòng nghỉ của Bạch Diệu Hoa, ban chiều ta chỉ ngồi nói chuyện với nàng sau vườn, giờ bước chân
vào đây mới thấy không gian vô cùng chật hẹp, so ra chỉ bằng một phần ba phòng nghỉ của ta.

Có tiếng hô vang: “Hòa phi đến.”

Ta buông tay Ngọc Nga, nâng váy nhẹ nhàng nhún người:

“Thần thiếp bái kiến Hoàng Hậu nương nương, bái kiến Đức phi nương nương.”

Ngay giữa phòng bài hai chiếc ghế gỗ, Hoàng Hậu ngồi bên phải, Đức phi ngồi
bên trái. Phòng quá nhỏ không đủ chỗ bày thêm ghế nên các vị chủ nhân
khác đều phải đứng xung quanh. Nhìn sơ qua đều là những vị chức cao:
Minh phi yên lặng đứng sau lưng Triệu Đức phi; Trịnh phi đứng cạnh Hoàng Hậu, ánh mắt hết lo lắng nhìn ta rồi lại khẩn trương nhìn vào phía sau
bức màn lụa chia ngang căn phòng nhỏ. Ta nhìn theo nàng, phát hiện bên
kia màn thấp thoáng mấy bóng người lăng xăng đi lại, có cung nữ, mà như
có cả thái y. Dương Quý cơ, Tiệp Chiêu nghi, Quỳnh Thục nghi cũng đang
chen chúc đứng cạnh đó. Ít ra thì Liễu Thục phi vẫn còn bị cấm túc,
không tham gia được. Ta tự xem đó là trong rủi có may.

“Bình thân đi.” Hoàng Hậu dịu dàng vẫy tay với ta.

Ta vừa đứng thẳng người lên, liền nghe thấy điệu cười khúc khích quen thuộc của Dương Quý cơ:

“Có lẽ là trời tối quá nhỉ? Hòa phi đi đường lâu quá, muội còn tưởng tỷ sẽ không đến chứ?”

Ta chẳng buồn nhìn đến nàng, chỉ lễ phép cúi đầu, hướng về phía Hoàng Hậu mà nói:

“Muội muội chậm trễ rồi, mong Hoàng Hậu nương nương thứ tội.”

Hoàng Hậu mỉm cười đáp:

“Đường xá xa xôi, lại gọi muội trễ như vậy. Đến giờ này đã là sớm rồi.”

Dương Quý cơ bị lờ đi, tự biết mình luống cuống, không dám nói gì nữa. Trong
lòng ta cười lạnh một tiếng. Ở đây trên có Hoàng Hậu, dưới có Đức phi,
Dương Quý cơ nàng ta là cái gì mà dám mở miệng trách cứ ta? Không biết
tôn ti như vậy, dù cho có là người của mình, Hoàng Hậu cũng khó dung
thứ. Lại nói, để đến khi Hoàng Hậu biết nàng ta cài tay chân vào chỗ ta, giúp đỡ Đức phi nhanh chóng lùa ta vào bẫy, mà cái bẫy này lại trực
tiếp hướng đến Hoàng Hậu, Hoàng Hậu sẽ đối với nàng ta thế nào?

Triệu Đức phi hẳn đã nóng lòng lắm rồi, nàng ta đón lấy ly trà cung nữ vừa dâng lên, cười cười:

“Hòa phi có biết vì sao lại gọi ngươi đến lúc này không?”

Hôm nay không còn gọi “Hòa tỷ tỷ” nữa, hẳn là quyết tâm hành động rồi đây.

Ta mỉm cười, làm như không nhận ra thay đổi trong cách nói của nàng, vẫn như cũ lễ phép đáp:

“Xin Đức phi chỉ giáo.”

Đức phi nghiêng nghiêng đầu, mắt phượng chớp nhẹ, giọng nói trong trẻo lạnh lùng:

“Đã vậy, Mai Quyên, đem những lời ban nãy ngươi trình tấu với Hoàng Hậu nương nương kể lại cho Hòa phi tường tận.”

Bấy giờ, ta mới nhận ra, trong góc nhà có một cung nữ đang quỳ gối. Nghe
Triệu Đức phi lên tiếng, cung nữ kia bèn quỳ lết ra bên cạnh chỗ ta
đứng, dập đầu lạy Hoàng Hậu cùng Đức phi mấy cái:

“Bẩm Hoàng Hậu, Đức phi cùng các vị chủ nhân, nô tỳ Mai Quyên tuyệt đối không dám có nửa lời dối trá.”

Ta liếc nhìn Mai Quyên, quả nhiên không ngoài dự đoán, đó chính là cung nữ hầu hạ ở Vị Tú hiên vừa gặp ban trưa. Mai Quyên ngước lên, bắt gặp ánh
mắt lạnh giá của ta, bất giác run lên liền dời mắt đi chỗ khác, bắt đầu
kể lại:

“Bẩm, buổi chiều hôm nay, Hòa phi nương nương đến thăm
tiểu chủ của nô tỳ. Hai người ngồi ở mảnh vườn phía sau Vị Tú hiên trò
chuyện rất lâu. Sau đó… Sau đó… Khi Hòa phi trở về được chừng hai canh
giờ, tiểu chủ liền than mệt mỏi… Nô tỳ… nô tỳ cứ nghĩ tiểu chủ lại bị
bệnh cũ hành hạ nên đỡ người đi nghỉ… Nhưng không ngờ… sau đó tiểu chủ
thổ huyết đen đặc, sắc mặt tím tái… Nô tỳ sợ hãi mới đi mời thái y đến…
Thái y nói tiểu chủ trúng kịch độc… Nô tỳ biết sự việc trọng đại nên mới đi bẩm báo với Hoàng hậu nương nương… Tiểu chủ của nô tỳ nhất định là
bị người ta độc hại… Hoàng Hậu nương nương nhất định phải đòi lại công
bằng cho tiểu chủ…”

Mai Quyên nghẹn ngào kể, vừa nói nước mắt vừa rơi lã chã, nói xong còn ngẩng đầu lên dùng ánh mắt oan khuất cùng thù
hận mà nhìn ta chằm chằm. Ai nhìn vào cũng sẽ nói đây nhất định là một
nô tỳ trung thành tận tâm trên đời hiếm có. Thật sự không thể nhìn ra
dáng vẻ lười biếng hỗn xược ban chiều nữa.

Triệu Đức phi nghe xong, mỉm cười đắc ý:

“Xin hỏi Hòa phi, lời của Mai Quyên có điểm nào không đúng chăng?”

Ta thẳng thắn nhìn nàng, đáp:

“Chiều nay thần thiếp đúng là có đến thăm Bạch Thường tại. Còn những việc sau
khi thần thiếp trở về, thần thiếp không có mặt ở đó không dám nói đúng
sai.”

Triệu Đức phi cười nhạt:

“Mai Quyên này, ngươi nói xem ngày hôm nay ngoại trừ Hòa phi ra còn có ai đến gặp Bạch Thường tại?”

Mai Quyên dập đầu sát đất:

“Bẩm Đức phi nương nương, từ hôm qua đến nay chỉ có mình Hòa phi đến Vị Tú hiên mà thôi.”

Triệu Đức Phi tỏ vẻ thương xót, tặc lưỡi:

“Ai da, Bạch Thường tại đúng là số khổ… đang yên đang lành, cớ sao chỉ gặp
mặt Hòa phi xong liền trúng độc? Hòa phi, ngươi giải thích chuyện này
thế nào đây?”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 29


“A… Đức phi nương nương không phải là đang nghi ngờ thần thiếp hạ độc Bạch
Thường tại đấy chứ?” Ta kinh hãi thốt lên, lại quay sang Hoàng Hậu rồi
quỳ sụp xuống. “Hoàng Hậu nương nương minh giám, thần thiếp không hề làm chuyện độc ác này!”

“Bản cung biết muội muội trong sạch, lúc này mời muội đến đây cũng là để chứng minh sự trong sạch của muội muội.”

Hoàng Hậu nãy giờ yên lặng không nói, vừa lên tiếng thì đã có ý tứ nghiêng về phía ta khiến cho Đức phi nhíu mày khó chịu, vậy mà Hoàng Hậu làm như
không thấy vẻ mặt nhăn nhó của Đức phi, bờ môi của đỏ thắm căng mọng của nàng khẽ cong lên thành một nụ cười nhàn nhã. Dù vậy, ta vẫn thấy trong mắt nàng lướt qua vô số cảm xúc phức tạp. Ta biết, bây giờ, trong đầu
của vị mẫu nghi thiên hạ xinh đẹp đó đang chất đầy toan tính. Ngày hôm
nay, nếu Bạch Diệu Hoa thực sự chết đi, quan hệ của Bạch thị và Hà thị
sẽ không thể vãn hồi được nữa. Mà nếu ta bị quy vào tội độc hại phi tử
thì lửa này sẽ bén thẳng đến chân Hoàng Hậu. Hoàng Hậu còn có thể ngồi
yên sao?

“Hòa phi tâm địa thiện lương, bản cung dĩ nhiên cũng
không tin Hòa phi lại đi hại Bạch Thường tại, nhưng việc Bạch Thường tại trúng độc ngay sau khi gặp gỡ Hòa phi là có thật, Hòa phi cũng nên có
lời lý giải việc này chứ?”

Triệu Đức phi hơi nghiêng người tựa vào tay ghế, mắt phượng quét xuống ta đang quỳ ở dưới đất như nhìn một con kiến hèn mọn.

Ta cúi thấp đầu, không muốn nhìn vào ánh mắt khinh miệt ấy:

“Thần thiếp tay không đến Vị Tú hiên… thử hỏi lấy cái gì ra để hạ độc Bạch Thường tại?”

Triệu Đức phi bật cười:

“Đi thăm người bệnh mà lại đi tay không, Hòa phi có phải chi tiêu quá mức cần kiệm rồi chăng?”

Ta ngượng ngùng đáp:

“Thần thiếp vụng về, khi đi bất cẩn để quên quà, thần thiếp vốn đang định ngày mai sẽ cho người đưa đến bù lại.”

Hoàng Hậu cũng cười nói xen vào:

“Nếu Bạch thường tại trúng độc, vậy trước tiên hãy đi tra xem thức ăn nước
uống đồ dùng hằng ngày của nàng có cái gì không sạch sẽ không.”

Nói đoạn, nàng ta liếc mắt nhìn Tần Khương. Tần Khương gật đầu, liền dẫn
theo một đám cung nữ, thái giám Triêu Lan cung đi thực hiện. Triệu Đức
phi cười khẩy:

“Sự việc cấp bách, nhiều người một chút càng tốt.”

Dứt lời, hai cung nữ bên người nàng ta liền tiến lên, nhập bọn vào đám người của Tần Khương. Hoàng Hậu cười nhẹ:

“Đức phi nói có lý lắm. Các vị muội muội ở đây, ai dẫn theo nhiều người thì
cho bản cung mượn bớt đi. Đứng ở đây đông người thêm chật chội, chi bằng dốc sức mau chóng tìm ra chân tướng trả lại trong sạch cho Hòa phi cũng là cho Bạch Thường tại một sự công bằng.”

Hoàng Hậu mở lời rồi
ai còn dám nói không. Những người còn lại ít nhiều đều phải chỉ thị cung nữ bên người đi trợ giúp. Hành động của Hoàng Hậu làm Đức phi suýt nữa
sặc chết. Nàng ta chỉ sợ Hoàng Hậu thừa cơ xóa dấu vết mà không biết
rằng Hoàng Hậu càng sợ nàng ta lén lút ngụy tạo thêm thắt chứng cớ. Đức
phi muốn thêm người của mình, Hoàng Hậu liền thêm một đống người của các cung khác. Như vậy kẻ nào muốn giở trò cũng khó ra tay. Đoàn người theo đuôi Tần Khương vì thế mà càng lúc càng nhiều, đồ dùng của Bạch Thường
tại lần lượt được bọn họ khiêng ra ngoài kiểm chứng khiến gian phòng
nhất thời trở nên rộng rãi, thoáng đãng hẳn.

Lúc này, thái y bên chỗ Bạch Thường tại vén màn bước ra. Hoàng Hậu nhìn thấy vội hỏi:

“Thế nào rồi?”

Trần Thái y kính cẩn phủi áo quỳ xuống, chắp tay đáp:

“Bẩm Hoàng hậu nương nương, Bạch tiểu chủ trúng kịch độc vô cùng hung hiểm,
cũng may độc chưa ngấm vào phủ tạng. Thần đã cho nàng uống thuốc giải
độc, sau đó dùng kim châm huyệt đạo ép độc ra ngoài. Có lẽ sẽ mau chóng
tỉnh lại thôi.”

Hoàng Hậu nghe được lời này, thở ra một hơi, nhẹ nhõm nói:

“Trần Thái y vất vả rồi.”

Trần Thái y bái tạ Hoàng Hậu một cái lại lui trở vào trong.

Bạch Diệu Hoa chưa chết, mọi sự đều trở nên đơn giản. Triệu Đức phi ngược
lại không được dễ chịu như vậy, nhưng cũng không nói thêm gì.

“Hoàng thượng giá đáo!”

Bầu không khí đang yên ắng bị phá vỡ. Sau tiếng hô vang của Lý Thọ, Hoàng
Đế chậm rãi tiến vào. Sự xuất hiện của Hoàng Đế làm hết thảy mọi người
đều kinh ngạc.

“Chúng thần thiếp bái kiến hoàng thượng. Hoàng Thượng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế!”

“Bình thân cả đi.”

Ta vẫn đang quỳ dưới đất, chỉ nhìn thấy được bóng đôi giày thêu kim long vàng rực của Hoàng Đế lướt qua.

Trong phòng chỉ có vẻn vẹn hai cái ghế. Triệu Đức phi hành lễ xong lập tức
biết điều, bước sang một bên nhường chỗ cho Hoàng Đế. Hoàng Đế cười cười ngồi xuống, không quên nắm lấy cánh tay thon dài trắng trẻo của Đức
phi, kéo nàng ta lại đứng sát bên khiến cho nàng ta phải thẹn thùng cúi
mặt. Trong phút chốc, ta như có thể cảm nhận được sự ghen tị cùng mơ ước bùng lên trong ánh mắt những phi tử khác.

Hoàng Hậu chẳng có phản ứng gì với sự sủng ái lộ liễu của Hoàng Đế dành cho Triệu Đức phi. Nàng tươi cười hỏi:

“Hoàng Thượng, thời gian không còn sớm, sao người lại di giá tới nơi này?”

Hoàng Đế cười cười đáp:

“Trẫm đọc tấu chương xong, cũng định đi nghỉ nhưng thấy Vị Tú hiên náo nhiệt nên tiện thể ghé qua xem sao.”

Vị Tú hiên nằm ở nơi hẻo lánh khỉ ho cò gáy, Hoàng Đế ở điện Cát Tường làm thế nào nghe thấy Vị Tú hiên nhộn nhịp. Hai nơi lại cách xa nhau tít
tắp, có lý nào “tiện thể ghé qua” cho được? Có điều Hoàng Đế đã nói như
vậy, ai dám truy hỏi thêm nữa. Vả lại bây giờ, trong mắt những nữ tử ở
đây hẳn chẳng còn thấy được gì ngoài hình ảnh bàn tay Hoàng Đế và Đức
phi đan chặt vào nhau.

“Hoàng thượng phải lo bảo trọng long thể
chứ. Trễ như vậy còn chưa nghỉ ngơi, thật khiến Kiều nhi không yên tâm
được…” Triệu Đức phi hơi tựa vào vai Hoàng Đế, giọng nói mềm mỏng, ngọt
đến phát ngấy.

“Kiều nhi lúc nào cũng nghĩ cho trẫm…”

Hoàng Đế khẽ v**t v* bàn tay Đức phi, dịu dàng nhìn nàng ta. Ánh mắt thâm tình không thua kém gì khi nhìn Thục phi.

“Ồ… kia chẳng phải là Hòa phi sao? Vì lẽ gì mà lại quỳ ở đó?”

Ánh mắt thâm tình của Hoàng Đế đột nhiên dứt khỏi khuôn mặt tú lệ của Đức
phi, rớt xuống người ta, hóa thành dửng dưng. Ta nghe hắn hỏi đến, chưa
kịp đáp lại đã nghe thấy Đức phi nũng nịu nói:

“Sau khi Hòa phi đến thăm Bạch Thường tại, Bạch Thường tại liền trúng độc, đến giờ còn chưa tỉnh. Vì vậy mới triệu nàng ấy…”

“Vì vậy thiếp mới cho người mời Hòa phi đến giúp điều tra làm rõ chân tướng.”

Hoàng hậu thong thả tiếp lời, cũng chính là trực tiếp chặn họng Đức phi. Đức
phi nói “triệu” ta đến, ý tứ rõ ràng muốn quy kết tội, mà sang miệng
Hoàng Hậu lại thành “mời” giúp điều tra, tự nhiên là gột sạch tội lỗi
Đức phi vừa trút lên đầu ta. Đức phi bị chặn họng đương nhiên không vui
nhưng trước mặt Hoàng Đế, nàng ta nào có gan sửa lưng Hoàng Hậu, đành
thức thời ngậm miệng.

Hoàng Đế nghe xong, gật gù nói:

“Đã vậy Hòa phi sao còn quỳ ở đó làm gì? Mặt đất lạnh lẽo, đứng lên đi.”

“Tạ ơn Hoàng thượng.”

Có lời này của Hoàng Đế, ta liền vái tạ rồi đứng dậy. Ngay sau đó lại nghe hắn hỏi tiếp:

“Quỳ bên cạnh Hòa phi là người nào?”

Mai Quyên đang quỳ dưới đất, nghe Hoàng Đế hỏi tới mình, toàn thân run lên, khúm núm thưa:

“Bẩm Hoàng thượng, nô tỳ là Mai Quyên hầu hạ ở Vị Tú hiên ạ.”

Hoàng Đế cau mày:

“Chỉ là một nô tỳ mà lại dám quỳ ngang hàng với chủ tử như thế à? Thật hỗn xược. Người đâu, lôi ra ngoài trượng tễ.”

Hoàng Đế quả không hổ danh bạo quân. Một lời thản nhiên liền muốn lấy đi tính mạng kẻ khác. Những người trong phòng không hẹn mà cùng hít vào một
ngụm khí lạnh. Sống lưng ta bất giác cũng lạnh theo. Cái gì mà quỳ trước quỳ sau? Hoàng Đế làm như vậy chẳng phải là cố tình kiếm chuyện giết
người hay sao?

Hoàng Đế dứt lời, tức thì có hai thái giám đi lên tóm lấy Mai Quyên chực lôi ra.

“Hoàng Thượng…” Hoàng Hậu ái ngại nói “Vụ việc Bạch Thường tại trúng độc, hiện chỉ có một mình Mai Quyên là nhân chứng…”

“Vậy sao…”

Hoàng Đế gãi cằm, cười đáp:

“Nếu vậy tạm vả miệng ba mươi cái đi. Đợi tra xong hẵng trượng tễ cũng được. Hoàng Hậu cần làm gì thì làm, trẫm ngồi xem là được.”

Nụ cười
trên môi Hoàng Đế sáng lạn tới mức khó tin, thật không giống vẻ mặt một
người đang nói chuyện chém giết. Trước nay những người Hoàng Đế chướng
mắt đều chỉ có một kết cục. Hắn đã mở miệng bảo giết, số phận Mai Quyên
coi như được định đoạt rồi. Nàng ta kinh hãi mở to mắt, hết nhìn Hoàng
Đế lại nhìn qua Đức phi, hoảng loạn đến nỗi không nói nên lời. Hai thái
giám vốn đang giữ chặt vai Mai Quyên nhanh chóng thực thi mệnh lệnh, cố
hết sức giáng xuống mặt nàng ta những cái tát nảy lửa, cứ như thể sợ
Hoàng Đế cho rằng hai người bọn hắn làm việc không tận lực. Trong không
gian yên ắng, tiếng vả miệng vang lên chan chát đều đặn. Mặt Mai Quyên
thoáng chốc sưng vù, khóe môi rách toạc đổ máu. Nhận xong ba mươi cái
tát, Mai Quyên đổ gục xuống sàn, khóc không thành tiếng, chỉ còn có thể
giương mắt bất lực nhìn chằm chằm Đức phi, không biết là đang cầu cứu
hay đang oán trách. Đức phi lại chẳng hề nhìn đến Mai Quyên. Nàng ta
đang nghiêng người tựa vào vai Hoàng Đế, hai người thì thầm trò chuyện
nho nhỏ với nhau, thỉnh thoảng lại cười lên vui vẻ làm cho ta có cảm
giác cảnh tượng máu me này trong mắt Hoàng Đế và Đức phi có lẽ nào chính là mỹ cảnh nhân gian? Nếu quả thực như vậy, Hoàng Đế và Đức phi hẳn là
một cặp trời sinh.

Thực lòng ta thấy thương hại Mai Quyên. Nói
cho cùng, trong cuộc chiến tranh quyền này, Mai Quyên cũng chỉ là vật hi sinh. Làm người ai mà chẳng muốn vươn lên. Có điều đâu phải cứ muốn là
được. Không biết lúc trước Đức phi đã hứa hẹn với nàng bao nhiêu tiền
tài, nhưng bây giờ có cái chết treo sẵn trên đầu, còn cái gì ý nghĩa
nữa? Nàng có hoàn thành nhiệm vụ hay không chẳng phải kết cục đều là cái chết?

Tự nhiên, trong lòng ta thoảng qua một nghi vấn. Ta lén
lút ngước mắt nhìn Hoàng Đế, bất chợt bắt gặp ánh mắt hắn nhìn về phía
ta nhưng lại rất nhanh chóng dời về chỗ Đức phi. Chỉ trong một thoáng
ấy, ta hình như đã nhìn thấy sự lưu luyến ẩn hiện nơi đôi mắt đen láy
trong trẻo của Hoàng Đế. Nghi vấn trong lòng ta càng trở nên mãnh liệt.
Lẽ nào Hoàng Đế vì ta nên mới làm vậy? Lẽ nào hắn muốn trượng tễ Mai
Quyên là để cắt đứt mọi hi vọng của nàng ta, để nàng ta hoàn toàn từ bỏ ý định làm chuyện xấu? Lẽ nào… hắn làm vậy là đang bảo vệ ta?

Ý nghĩ này làm ta chấn động, liền lén lút nhìn lên lần nữa thì chỉ thấy Hoàng Đế đang cười cợt đùa bỡn Đức phi.

Ta lặng lẽ cúi đầu.

Nghĩ kỹ thì Hoàng Đế đâu có lý do gì phải che chở ta, có lẽ là ta đa tâm mà thôi.

Đám người Tần Khương làm việc rất mau lẹ, chẳng mấy chốc đã hoàn thành
nhiệm vụ. Tần Khương tiến đến trước mặt Đế Hậu, cung kính quỳ rạp xuống
đất:

“Kính thưa Hoàng Thượng cùng Hoàng Hậu nương nương, thức ăn
nước uống ở Vị Tú hiên đều sạch sẽ, đồ dùng cũng không có vấn đề gì… Chỉ là bên trên mặt bàn đá ở vườn sau có dính một chút Hạc Đỉnh Hồng.”

Ồ, hóa ra là Hạc Đỉnh Hồng. Triệu Đức phi tính toán thật cẩn thận. Hạc
Đỉnh Hồng dễ tìm lại không mắc, là thứ mà một phi tử ít tiền như ta có
thể mua được.

Triệu Đức phi hình như chỉ chờ có thế, vừa nghe Tần Khương nói xong liền kêu lên:

“Ai da, chẳng phải Hòa tỷ tỷ và Bạch Thường tại đã cùng ngồi ở đây nói
chuyện hay sao? Sao mặt bàn chỗ tỷ tỷ ngồi lại phát hiện độc dược nhỉ?”

Có Hoàng Đế ngồi ở đây, ta lại trở thành “tỷ tỷ” của nàng.

Hoàng Hậu đè thấp thanh âm hỏi:

“Tần Khương, ngươi chắc chứ?”

Tần Khương trán vẫn dán chặt dưới sàn, kính cẩn đáp:

“Nô tài hầu hạ trong cung không phải một sớm một chiều. Mấy loại độc này nô tài sẽ không nhìn sai.”

“Chuyện này Hòa tỷ tỷ giải thích sao đây? Chắc không phải là có người hãm hại tỷ tỷ đấy chứ?”

Khóe môi mọng đỏ của Triệu Đức phi cong cong khiêu khích. Hoàng Hậu hơi bất
an đưa mắt nhìn ta. Hoàng Đế ung dung chống cằm như chờ xem trò vui.

Lòng ta đã muốn cười nhưng trên mặt vẫn phải duy trì dáng vẻ bi thương, oan ức mà nói:

“Đức phi nương nương anh minh, nhất định là có kẻ hãm hại thần thiếp! Thần thiếp không biết vì sao trên bàn kia lại có độc cả!”

Triệu Đức phi cười nhạt, ra mặt dồn ép:

“Đã đến lúc này rồi mà tỷ tỷ vẫn muốn chối tội sao?”

Câu này của Triệu Đức phi thật không nể mặt Hoàng Hậu chút nào. Hoàng Đế đã nói để Hoàng hậu chủ trì đại cuộc, Hoàng Hậu còn chưa mở miệng mà nàng
ấy đã dám khẳng định tội danh cho ta chắc như đinh đóng cột.

“Đức phi không cần nôn nóng như vậy.”

Hoàng Hậu điềm nhiên nhấc ly trà lên uống một ngụm nhỏ, lại thong thả nói:

“Độc ở trên bàn chỗ Hòa phi từng ngồi, cũng chưa thể chứng minh là nàng ấy
hạ độc. Đức phi muội muội thử nghĩ xem, nếu Hòa phi thực sự bôi độc lên
mặt bàn, vậy độc này làm cách nào vào trong miệng Bạch Thường tại? Hay
muội muội cho rằng cái bàn này thực hợp khẩu vị của Bạch Thường tại?”

Hoàng Hậu nói rất nhẹ nhàng nhưng không hề có cảm giác yếu đuối, lại mỉa mai
Đức phi một cách trực diện, khiến cho mấy phi tử chung quanh nhịn cười
đến nỗi vặn vẹo cả mặt mũi. Riêng Trịnh phi từ đầu đã căm giận Đức phi,
nay nghe được lời này không nhịn nổi bật cười thành tiếng. Sau biết mình thất lễ, phải vội vã bụm chặt miệng. May mà Hoàng Đế không hề nhìn tới
Trịnh phi. Ta hình như còn thấy khóe môi hắn hơi có ý cười.

Nhưng Đức phi đâu phải người dễ đối phó, dù bị người khác trào phúng như vậy
nhưng sắc mặt vẫn không đổi, kiên trì hướng mũi đao về phía ta:

“Độc như thế nào vào đến miệng Bạch Thường tại, chẳng phải nên hỏi Hòa phi
ư? Hòa phi tỷ tỷ, nếu tỷ cứ luôn miệng kêu oan như vậy, chi bằng hãy đưa chứng cứ ra đi, tránh để bản thân oan ức.”

Thời cơ đã đến. Ta ngẩng đầu lên, thấy Hoàng Hậu đang lo lắng nhìn mình, bèn nở nụ cười trấn an nàng, đáp:

“Thần thiếp quả thật có chứng cứ.”

Đức phi nhếch môi:

“Ô, mời tỷ tỷ nói thử xem?”

Ta mỉm cười càng tươi:

“Hạc Đỉnh Hồng ở trên mặt bàn chính là chứng cứ chứng minh thần thiếp vô tội.”

Cảm nhận được mọi người đang ngạc nhiên nhìn mình, ta cung kính nói tiếp:

“Thần thiếp dám hỏi Tần công công chỉ là tìm thấy một chút Hạc Đỉnh Hồng dính trên mặt bàn chỗ thần thiếp từng ngồi, nếu nghĩ độc này do thần thiếp
để lại cũng là lẽ thường, nhưng cớ sao Đức phi nương nương nhất định cho rằng Bạch Thường tại trúng loại độc này?”

“Này là ý gì?”

Đức phi thật sự giật mình.

Hoàng Hậu cũng đã nắm được điểm mấu chốt. Nàng vội lớn giọng gọi Trần Thái Y ra ngoài.

“Trần Thái y, ban nãy ông nói Bạch Thường tại trúng kịch độc nhưng vẫn chưa nói là loại độc gì. Vì sao như vậy?”

Trần Thái y quỳ ngay ngắn dưới đất, sờ sờ chòm râu bạc:

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu cùng các vị nương nương… Vi thần hiểu biết hạn hẹp, thực chưa từng nhìn thấy loại độc này.”

Một lời của Trần Thái y làm toàn thể mọi người chấn động. Hạc Đỉnh Hồng là
thứ độc phổ thông, Trần Thái y làm sao lại chưa từng thấy? Đáp án đã quá rõ ràng.

Trên môi Hoàng Hậu dần dần hiện lên nụ cười đắc thắng:

“Trần Thái y xem kỹ lại xem, không phải là Hạc Đỉnh Hồng sao?”

Trần Thái Y lắc đầu:

“Bẩm nương nương, tuy vi thần không biết đây là thứ độc gì, nhưng dám lấy
đầu đảm bảo không phải Hạc Đỉnh Hồng. Độc trong người Bạch Thường tại vô cùng hung hiểm, chính là kết tinh nọc độc nhiều loại cổ xà, hoàn toàn
không có nửa điểm giống với Hạc Đỉnh Hồng. Vi thần chỉ có thể dựa vào
độc tính mà kê thuốc giải mà thôi.”

“Sao có thể?!”

Triệu Đức phi giật bắn người, buột miệng thốt lên, lại nhìn thấy cả Hoàng Đế cũng đang quan sát mình liền cố đè thấp thanh âm:

“Cho dù độc trong người Bạch Thường tại không phải Hạc Đỉnh Hồng thì cũng không thể chứng minh Hòa phi không phải là thủ phạm.”

Ta mở to mắt, ngơ ngác nói:

“Loại độc quý hiếm như vậy, ngay cả Trần đại nhân còn không biết, thần thiếp lấy đâu ra?”

Đức phi hít sâu một hơi, cố giữ vững phong thái:

“Cái này Hòa phi tự biết, bản cung làm sao biết được.”

Lúc này Trần Thái y hướng về Đế Hậu, ngập ngừng nói:

“Vi thần có điều này… cảm thấy hơi kì lạ…”

Hoàng Hậu nhanh chóng phẩy tay:

“Trần Thái y cứ nói.”

Trần Thái y khom mình đáp:

“Vi thần phát hiện trên gò má, khóe môi và ngón tay của Bạch tiểu chủ có dính độc.”

Tần Khương nghe vậy, rầm một tiếng quỳ xuống:

“Bẩm, nô tài đã kiểm tra thức ăn nước uống ở nơi này rất kỹ càng, hoàn toàn không có độc!”

Nữ tử thiên kim thế gia, từ lúc dứt sữa bắt đầu tập ăn đã được giáo huấn
kỹ lưỡng từ cách cầm thìa, cầm đũa cho đến cách nhai nuốt sao cho đoan
trang lễ độ. Thức ăn chỉ được gắp từng miếng nhỏ bằng đốt ngón tay út,
nhẹ nhàng đưa thẳng vào trong miệng, không chạm vào môi. Khi nhai cũng
ngậm kín miệng, không để lộ răng, càng không được nói chuyện. Nếu dùng
nước canh thì chỉ được lưng nửa thìa, cũng phải cẩn thận đưa vào trong
miệng rồi nhẹ nhàng nuốt xuống, tuyệt không để phát ra tiếng động. Những việc này tuy rằng quy cách rườm rà nhưng tập từ nhỏ sẽ thành thói quen, mà đã là thói quen thì không thể dễ dàng mất đi được. Nói trên khóe môi hay ngón tay của Bạch Thường tại có dính độc thì còn có thể miễn cưỡng
cho rằng nàng ăn uống không cẩn thận dính lên, nhưng nói ngay cả gò má
cũng có độc thì quả thực hoang đường. Bạch Thường tại là tiểu thư danh
giá, có lẽ nào ăn uống lại ngoe ngoét ra tận gò má cho được? Trần Thái y vừa nói trên gò má nàng dính độc, hết thảy mọi người liền hiểu được độc này nhất định không ở trong đồ ăn.

Độc không ở trong đồ ăn, mà lại có thể dính lên tay, lên mặt nàng thì còn có thể là cái gì khác?

Ý cười trên mặt Hoàng Hậu càng tươi đẹp, nàng ung dung nói:

“Đồ dùng ở đây đều đã tra qua, vậy còn đồ dùng trên người Bạch Thường tại thì sao?”

Tần Khương vừa nghe đã hiểu, vội khoát tay gọi thêm hai cung nữ cùng đi vào chỗ Bạch Thường tại đang nằm, cẩn thận xem xét những thứ nàng mang bên
người. Triệu Đức phi đã đánh hơi được sự việc có chỗ không ổn, nét mặt
thoáng bất an nhưng vẫn gắng gượng đùa vui với Hoàng Đế như trước.

Hoàng Hậu lại nhàn nhã uống trà, khi ánh mắt nàng giao với ta, hai người cùng nở nụ cười.

Tần Khương trở ra, tay bưng một chiếc khay nhỏ.

“Bẩm, đã tra ra thứ không sạch sẽ.”

“Ồ, là thứ gì vậy?” Hoàng Hậu làm ra vẻ hiếu kì.

Tần Khương cung kính dâng chiếc khay lại gần. Nhìn thấy vật ở trên khay,
khóe môi Hoàng Hậu nhàn nhạt vẽ nên một nụ cười. Hoàng Đế cũng hơi nhướn nhướn mày nhưng không lộ cảm xúc gì.

Ở trên khay gỗ là một chiếc khăn tay bằng tơ mỏng như sương, góc khăn tỉ mỉ thêu mấy đóa hải đường rực rỡ như ráng chiều.

“Đây chẳng phải là tặng phẩm của Đức phi nương nương ban cho Bạch Thường tại đấy ư?”

Tiệp Chiêu nghi trước sau vẫn im lặng, đột nhiên lên tiếng.

“Bản cung tặng người khác thứ gì, Chiêu nghi cũng nhớ rõ. Thực thấy được Chiêu nghi quan tâm bản cung sâu sắc.”

Triệu Đức phi quắc mắt nhìn Tiệp Chiêu nghi. Lá gan của Tiệp Chiêu nghi không lớn, chỉ một ánh nhìn của Đức phi cũng đủ làm nàng ta run rẩy.

“Đều là tỷ muội một nhà, dĩ nhiên nên quan tâm nhau. Mà lời Tiệp Chiêu nghi
nói có đúng không?” Hoàng Hậu cười cười dịu dàng đến nao lòng, mà trong
dịu dàng ấy lại ẩn chứa địch ý sắc nhọn.

Triệu Đức phi không hề nao núng, vẫn ra vẻ vô can:

“Khăn này đúng là do thần thiếp tặng Bạch Thường tại. Nhưng trên đó vì sao
lại có độc, thần thiếp không rõ. À, nếu Bạch Thường tại luôn mang khăn
này bên người, có lẽ nào là trong lúc gặp gỡ Hòa phi mới dính phải thứ
không sạch sẽ đó?”

Miệng lưỡi Triệu Đức phi vô cùng trơn tru, chẳng tốn bao nhiêu công sức lại đẩy củ khoai nóng bỏng tay trở lại chỗ ta.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 30


“Đức phi nói thế thật oan ức cho thần thiếp quá. Khăn tay này Bạch Thường tại luôn để trong
người, thần thiếp làm sao có cơ hội chạm tới?”

Ta cố gắng duy trì vẻ mặt oan khuất.

Triệu Đức phi bĩu môi:

“Mai Quyên cũng đã nói chỉ có hai ngươi ngồi cùng nhau ở sau vườn, không có
ai nhìn thấy. Ngươi muốn thì mở miệng nói một câu, Bạch Diệu Hoa dám
không đưa khăn tay cho ngươi mượn sao?”

Hoàng Hậu cười nhẹ, tiếp lời Đức phi:

“Thật sự chỉ có hai người? Mai Quyên nhìn không sai chứ?”

Hoàng Hậu hỏi đến, liền có thái giám xông ra xách cổ Mai Quyên đang nằm bẹp dưới đất mà dựng dậy.

“Bẩm… nô tỳ… quả… quả thực thấy rõ… nô tỳ… cùng với cung nữ bên người Hòa
phi… ngồi ở trước hiên nhà… suốt buổi chỉ có tiểu chủ và Hòa phi… ở phía sau vườn…”

Hai má Mai Quyên sưng vù, nói mãi mới xong mấy câu
vậy mà Hoàng Hậu vẫn kiên nhẫn nghe. Mai Quyên vừa dứt lời, trên môi
Hoàng Hậu cũng hiện lên nụ cười chói mắt:

“Như vậy thì quá đơn giản rồi. Đức phi, muội muội nói xem khi trước đã ban cho Bạch Thường tại mấy cái khăn tay?”

“Đồ là do hạ nhân chuẩn bị… Thần thiếp không nhớ rõ. Có lẽ là năm, bảy cái… Hoàng Hậu nương nương sao đột nhiên lại hỏi chuyện này?”

Đức phi dè dặt đáp.

Hoàng Hậu nhìn thấy bộ dạng chột dạ của Đức phi, càng trở nên tự tin hơn:

“Ý bản cung chính là muốn biết độc trong khăn là do ai tẩm, chỉ cần kiểm
tra số khăn tay còn lại thì sẽ rõ ràng. Có Mai Quyên làm chứng, Hòa phi
không hề bước vào phòng Bạch Thường tại. Như vậy nếu thực sự Hòa phi hạ
độc cũng chỉ có thể hạ độc vào một chiếc khăn tay bên người Bạch Thường
tại mà thôi. Ngược lại, nếu khăn tay này căn bản đã bị kẻ khác hạ độc
ngay từ đầu thì nhất định toàn bộ số khăn tay còn lại cũng đều có độc
bởi vì kẻ ra tay sẽ không thể biết được Bạch Thường tại sẽ chọn cái khăn nào ra dùng trước. Bản cung nói như vậy Đức phi cảm thấy có đúng
không?”

Triệu Đức phi ngay từ đầu đã lên kế hoạch dùng Hạc Đỉnh
Hồng hạ độc Bạch Diệu Hoa để đổ tội cho ta, nay tự nhiên lại xuất hiện
cổ độc, mà cổ độc này còn tìm thấy trên khăn tay của nàng ta tặng. Mọi
việc đã đi quá xa dự tính ban đầu, sắc mặt Đức phi càng ngày càng xấu.

“Hoàng Hậu thánh minh.” Đức phi đáp gượng gạo.

Tần Khương lần nữa nhận lệnh xem xét kĩ lưỡng một hồi, phát hiện sâu trong
tủ áo của Bạch Thường tại có một chiếc hộp gỗ được cất rất cẩn thận, bèn trịnh trọng mang ra ngoài. Trên nắp hộp gỗ có khắc ấn ký của Triệu Đức
phi, nàng ta muốn chối cũng không được, đành miễn cưỡng gật đầu thừa
nhận.

Bên trong hộp gỗ quả thực còn có bốn chiếc khăn tay nữa,
chất liệu cũng như kỹ thuật thêu thùa so với chiếc khăn bên người Bạch
Thường tại không hề sai lệch, đủ thấy cùng một xuất xứ, không hề bị
người khác tráo đổi. Trần Thái y cẩn thận bọc kỹ hai tay bằng mấy lớp
vải dầu không thấm nước, tỉ mỉ xem xét từng chiếc khăn một, sau đó mới
bắt đầu từng bước thử độc.

Lúc này mọi ánh mắt đều dán ở chỗ Trần Thái y và mấy cái khăn tay. Ngoại trừ Hoàng Đế vẫn thản nhiên nghịch
tóc của Đức phi ra, ai nấy đều treo một bộ mặt căng thẳng. Ngay cả Hoàng Hậu thường ngày vui buồn không lộ bây giờ trên mặt cũng thấp thoáng lo
âu, còn Đức phi thì đã rơi mấy hạt mồ hôi trên trán.

Thời gian
chậm chạp trôi qua, trải qua nhiều công đoạn thử độc, Trần Thái y cuối
cùng cũng xem xét xong. Ông thận trọng quỳ hướng Đế Hậu mà nói:

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu, vi thần đã kiểm độc xong… xác thực tất cả số
khăn trong hộp đều được tẩm cùng một loại độc với chiếc trên người Bạch
tiểu chủ, cũng chính là loại độc mà Bạch tiểu chủ trúng phải.”

“Ăn nói hàm hồ!” Triệu Đức phi mặt mày tái mét, giọng lạc cả đi. “Đây là đồ bản cung tặng cho Bạch Thường tại, sao lại có độc. Nhất định là có kẻ
mới tẩm vào đây thôi! Hòa phi, có phải ngươi đã giở trò không?”

Nói xong liền quắc mắt nhìn ta như muốn ăn tươi nuốt sống. Ta vội vàng quỳ
xuống trước mặt Hoàng Đế và Hoàng Hậu, lén lút cấu vào đùi non cho nước
mắt lã chã tuôn ra:

“Hoàng thượng, Hoàng Hậu, oan uổng quá! Thần
thiếp không hề bước chân vào phòng Bạch Thường tại thì làm sao hạ độc
vào hộp khăn tay này cho được? Vả lại… mấy cái khăn này khi nãy lấy ra
đều khô ráo, không hề giống mới bị tẩm độc… Đức phi nương nương sao lại
luôn nghi ngờ thần thiếp như thế… ”

Hoàng Hậu thở dài, tự mình đứng dậy nâng ta lên:

“Ngay từ đầu bản cung đã biết Hòa phi trong sạch. Nay sự việc đã rõ ràng rồi, muội muội không cần lo lắng.”

“Đa tạ Hoàng Hậu nương nương minh giám.” Ta sụt sùi lau nước mắt, cảm động nhìn Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu nhân từ vỗ về ta mấy câu xong, bèn quay sang Triệu Đức phi:

“Đức phi, tặng phẩm từ chỗ muội sao lại không sạch sẽ như vậy? Muội muội vì sao phải hạ độc thủ với Bạch Thường tại?”

Lửa do mình đốt tự nhiên lại chuyển hướng cháy đến chân mình, Triệu Đức phi làm sao còn dửng dưng được nữa. Vừa nghe Hoàng Hậu trịnh trọng kết tội
mình, Triệu Đức phi bèn quỳ sụp xuống chân Hoàng Đế, rơi lệ còn nhanh
hơn ta:

“Hoàng Thượng, Kiều nhi bị oan! Khăn đó quả là của Kiều
nhi tặng Bạch Thường tại, nhưng Kiều nhi và nàng ấy không thù không oán, cớ gì Kiều nhi lại phải hại nàng ấy? Hoàng Thượng minh xét! Đồ này cũng không phải Kiều nhi tự tay chuẩn bị, có lẽ là đã bị hạ nhân giở trò…”

Triệu Đức phi quả hợp với một chữ “Kiều”. Cho dù đang khóc cũng vẫn kiều mỵ
động lòng người. Nước mắt trong suốt như pha lê cứ rơi theo từng câu
từng chữ tuôn ra trên đôi môi xinh đẹp của nàng. Chẳng mấy chốc ta đã
hiểu, “hoa lê đẫm mưa” mà Tạ Thu Dung vẫn thường hay giảng rốt cuộc
chính là như vậy. Vẻ đẹp này tuy không được rực rỡ chói mắt như Liễu
Thục phi nhưng lại có nét nhu hòa, yếu ớt làm người ta dễ sinh lòng muốn che chở. Ta là nữ nhân mà còn nghĩ vậy, Hoàng Đế làm sao chịu nổi. Chưa đợi Triệu Đức phi nói xong, Hoàng Đế đã vươn tay muốn đỡ nàng ta dậy:

“Nếu vậy mau triệu kẻ nào từng tiếp xúc với số khăn tay đó tới đây hỏi cho rõ. Ái phi mau đứng lên đi, đừng tự làm khổ mình.”

Triệu Đức phi nương theo cánh tay Hoàng Đế mà đứng lên, khi đứng lên lại như
yếu ớt muốn ngã, may có Hoàng Đế kịp thời đỡ lấy, kết quả vừa vặn ôm lấy nàng ta. Cảnh tượng này lọt cả vào mắt Dương Quý cơ đang đứng phía sau
khiến nàng ta khinh bỉ bĩu môi một cái, thế nhưng trong ánh mắt lại
không dấu nổi sự ganh tị.

Hoàng Hậu tất nhiên cũng không vừa mắt. Rõ ràng Hoàng Đế đã cho nàng chủ trì đại cuộc, mà nàng mới mở miệng hỏi Triệu Đức phi một câu, Triệu Đức phi không thèm đáp lời lại còn ngay
lập tức kêu oan với Hoàng Đế, bày trò quyến rũ Hoàng Đế, thực sự không
nể mặt Hoàng Hậu chút nào. Có điều Hoàng Đế đã nói vậy, nàng chỉ có thể
thuận theo mà cho truyền cung nữ phụ trách tặng phẩm của Triệu Đức phi
đến.

Người trực tiếp chuẩn bị cũng như đưa quà đến Vị Tú hiên là
một cung nữ nhị đẳng tên gọi Điểm Cúc. Lúc bị hai thái giám cao to áp
giải đến đây, trên mặt nàng ta còn ngơ ngác không biết chuyện gì đang
xảy ra.

Triệu Đức phi vẫn để nước mắt giàn giụa đầy mặt, một chút cũng không thèm lau đi, nghẹn ngào chỉ vào mặt Điểm Cúc:

“Tiện nhân này, bản cung đối với ngươi không bạc, vì sao ngươi lại hạ độc vào quà bản cung tặng cho Bạch Thường tại, vu hãm bản cung?”

Ban đầu nói là gọi người đến tra hỏi, nhưng Triệu Đức phi vừa mở miệng thì chỉ
trong một câu đã đổ trọn tội lỗi lên đầu Điểm Cúc, không lộ chút sơ hở.
Bản lĩnh ngậm máu phun người của Triệu Đức phi có lẽ đã luyện đến hàng
thượng thừa rồi.

“Chủ nhân nói gì… nô tỳ không hiểu? Nô tỳ không có…”

Điểm Cúc ngơ ngác nhìn Triệu Đức phi, lại bắt gặp ánh mắt lạnh lẽo như băng
của nàng ta, có lẽ cũng linh cảm được nguy hiểm nhưng chưa kịp giãi bày, Triệu Đức phi đã nhanh miệng hơn:

“Còn dám xảo biện? Bản cung
tin tưởng ngươi cho nên mới giao cho ngươi chuẩn bị tặng phẩm đưa đi Vị
Tú hiên. Những thứ này chỉ có mình người động tay vào, bây giờ trong đó
lại có độc, hại Bạch Thường tại nguy đến tính mạng. Ngươi giải thích làm sao?”

Triệu Đức phi định tội quá mức lưu loát khiến cho Điểm Cúc ú ớ không nói được lời nào.

“Đức phi lại nóng vội rồi.” Hoàng Hậu cười nhạt, cúi đầu nhìn Điểm Cúc:
“Điểm Cúc, bản cung cho ngươi một cơ hội. Độc trong khăn tay có phải do
ngươi hạ hay không? Mưu hại phi tử là tội chém đầu, ngươi nên suy nghĩ
cho kỹ.”

Điểm Cúc hoảng hốt dập đầu lia lịa: “Hoàng Hậu nương
nương minh giám! Nô tỳ không có làm chuyện đó! Nô tỳ chỉ nhận lệnh chuẩn bị quà đưa đi mà thôi! Nô tỳ thực sự không biết…”

Từ đầu đến
cuối, ta vẫn luôn quan sát Triệu Đức phi cẩn thận, cố gắng nhìn kỹ tất
cả biểu cảm, động tác của nàng ta. Lúc này, tuy rằng mũi nhọn đã bị xoay về phía mình, nhưng tự nhiên ta lại có cảm giác… sự hốt hoảng trên
gương mặt nàng ta không phải hoàn toàn là thật? Cảm giác ấy làm sống
lưng ta chịu thêm một đợt lạnh buốt. Đúng lúc này, Hồng Diệp, cung nữ
tùy thân của Triệu Đức phi chợt bước lên trước, run rẩy trỏ vào Điểm
Cúc, giọng vô cùng giận dữ:

“Điểm Cúc, ta nhớ ra rồi! Tháng trước ngươi làm việc chểnh mảng, chủ nhân chỉ phạt ngươi mấy trượng, ngươi
lại ôm hận muốn vu hại chủ nhân… Thật sự không bằng cầm thú!”

Điểm Cúc hoảng hốt lắc đầu nguầy nguậy:

“Hồng Diệp tỷ tỷ nói gì vậy? Ta làm sao có thể vì vài trượng mà dám vu hại chủ nhân… Ta thực sự oan uổng…”

Sự đường đột của Hồng Diệp làm Hoàng Hậu hơi chau mày:

“Chỉ là một cung nữ cũng dám xen vào chỗ Hoàng Thượng và bản cung đang tra án sao?”

Hồng Diệp nghe xong, liền quỳ hướng Đế Hậu dập đầu, vẻ mặt vô cùng chính trực:

“Bẩm Hoàng Thượng cùng Hoàng Hậu nương nương, nô tỳ hầu hạ bên người Đức phi nương nương đã lâu. Chủ nhân của nô tỳ lòng dạ hiền lành nhân hậu, nay
lại bị một ả tiện nhân vô ơn vu hại… Nô tỳ nhất thời không nhịn được nên mới lên tiếng. Nô tỳ biết tội!”

Hoàng Đế cười nhếch mép:

“Là như vậy sao?”

Vẻ mặt Hồng Diệp càng trở nên chính trực hơn: “Bẩm, trước long nhan, nô tỳ không dám có lời nào gian dối.”

Hoàng Đế cười cười, nghiêng đầu nhìn Hoàng Hậu:

“Khen cho một nô tài trung thành. Đã vậy Hoàng Hậu cũng đừng trách tội nàng ta vô lễ. Vả miệng ba mươi cái là được rồi.”

Lại thêm một người nữa bị Hoàng Đế phạt vả miệng. Hồng Diệp nhanh chóng
lĩnh phạt, chẳng bao lâu đã có chung một bộ mặt sưng vù như Mai Quyên.
Nhưng Hồng Diệp bản lĩnh hơn Mai Quyên nhiều, nhận xong ba mươi bạt tai, mặc cho máu miệng và máu mũi trào ra, nàng ta vẫn có thể quỳ thẳng lưng mà bái tạ ân điển của Hoàng Đế. Suy cho cùng, với sở thích phẩy tay lấy mạng người của Hoàng Đế thì ba mươi bạt tai thực sự là một ân điển lớn
lao.

Bầu không khí một lần nữa nhiễm mùi máu tươi. Hoàng Hậu khẽ
nâng ly trà lên miệng một chút nhưng lại để xuống mà không uống, có lẽ
chỉ muốn xua bớt thứ mùi không sạch sẽ ấy. Nàng thở dài, nhìn Điểm Cúc:

“Tốt nhất là ngươi hãy nói thật đi.”

Triệu Đức phi thong thả rút khăn tay ra lau lau khóe mắt, làm như vô tình nói:

“Hoàng Hậu nương nương nói phải. Tốt nhất là ngươi ngoan ngoãn nhận tội, đừng
chấp mê bất ngộ như thế. Phụ mẫu ngươi ở nhà nếu biết ngươi làm người vô ơn như vậy hẳn là rất đau lòng.”

Điểm Cúc vốn đang quỳ thẳng
người đột nhiên nghe Triệu Đức phi nói xong, thân thể run lên một chút
rồi đổ sụp xuống đất, sắc mặt trở nên trắng bệch.

Ta nhìn Điểm Cúc, chỉ có thể thay nàng thở dài một tiếng. Triệu Đức phi đúng là đã tìm được đường lui.

Quả nhiên, cuối cùng Điểm Cúc cũng ngẩng đầu, ánh mắt mờ mịt, nói như người vô hồn:

“Hoàng Hậu nương nương, nô tỳ nhận tội… Là nô tỳ hận Đức phi phạt trượng nô
tỳ… cho nên mới bày trò… ám hại Đức phi… Đều do nô tỳ làm…”

Có lời này của Điểm Cúc sự việc đã hoàn toàn thay đổi. Chung quanh đã có người thở dài tiếc nuối.

Hoàng hậu nheo nheo mắt:

“Vậy sao? Đây không phải chuyện đùa. Ngươi đừng nói bừa.”

Điểm Cúc lại dập đầu thêm mấy cái:

“Nô tỳ không dám… Nô tỳ đúng là thủ phạm… Xin Hoàng Hậu nương nương xử tội…”

Hoàng Hậu cười lạnh:

“Nếu ngươi nói ngươi là hung thủ, vậy loại độc ngươi dùng để hại Bạch Thường tại là độc gì?”

“Cái này… nô tỳ…”

“Bản thân ngươi chỉ là một cung nữ nhị đẳng. Bổng lộc mỗi tháng không quá
hai lạng bạc, ngươi lấy đâu ra tiền mua loại độc hiếm như vậy?”

“Là… Đức phi nương nương rộng rãi… luôn thưởng cho chúng nô tỳ rất nhiều bạc…”

“Độc này ngay cả Trần Thái y còn không nhận ra được, ngươi luôn luôn ở trong cung đi đâu mà mua được loại độc này? Sao? Nói thử xem, ngươi đã là thủ phạm thì phải biết chứ?”

“Nô tỳ… nô tỳ…”

Điểm Cúc bị Hoàng Hậu xoay như chong chóng, không còn dám ngẩng đầu lên nữa. Đức phi thấy vậy bèn hắng giọng:

“Ừm, Hoàng Hậu nương nương, tiện nhân này đã nhận tội rồi, những cái khác
cũng không quan trọng nữa. Dù sao ả cũng đã hầu hạ muội một thời gian,
không có công lao cũng có khổ lao. Muội thật sự không muốn truy cứu
nữa.”

Khi Đức phi nói ra những lời này, dáng vẻ vô cùng khổ sở,
trong giọng nói pha đau thương, nhìn vào không khác một vị chủ nhân từ
bi hết lòng vì hạ nhân. Hoàng Hậu không nhìn đến đôi mắt chực ngấn lệ
của Đức phi, chỉ lạnh nhạt nói:

“Chuyện này can hệ trọng đại,
không những khiến Bạch Thường tại suýt mất mạng còn liên lụy Hòa phi và
Đức phi, sao có thể cứ như vậy bỏ qua được? Bản cung cho rằng một cung
nữ nhị đẳng như nàng ta hoàn toàn không có khả năng có được loại cổ độc
này. Nhất định là sau lưng có người sai bảo. Bản cung nói có đúng không, Điểm Cúc?”

Thấy Điểm Cúc ngẩng đầu lên, Hoàng Hậu lại nói:

“Nếu ngươi thành thật khai ra kẻ chủ mưu, bản cung có thể xin Hoàng Thượng
khai ân cho ngươi toàn mạng, thậm chí có thể cho ngươi một số bạc lớn để ngươi sớm xuất cung đoàn tụ với gia đình. Ngược lại nếu cứ chấp mê bất
ngộ sẽ liên lụy đến cả nhà lớn nhỏ. Ngươi phải nghĩ kĩ.”

Cơ hội
ngay trước mắt thoáng chốc tuột khỏi tầm tay, Hoàng Hậu hẳn đã biết gắn
tội danh này lên đầu Đức phi sẽ không dễ dàng nhưng vẫn cố gắng bám trụ, lại còn mạnh tay đưa ra phần thưởng hấp dẫn như vậy, đủ thấy Hoàng Hậu
đã chướng mắt Đức phi đến mức nào.

Chỉ thương cho Điểm Cúc vô tội, bị dồn ép ở giữa, một bên là Đức phi như hồ ly, một bên là Hoàng Hậu như mãnh hổ.

Điểm Cúc ngẩng đầu, nhìn Hoàng Hậu một chút rồi lại nhìn Đức phi, cuối cùng rơi nước mắt, nói: “Tội lỗi đều là ở nô tỳ.”

Lời vừa nói xong, Điểm Cúc liền lao mình về phía cây cột lớn trong góc
phòng. Ta thầm thấy không ổn, thân thể theo bản năng định nhảy ra ngăn
cản Điểm Cúc, cũng may chỉ trong tích tắc đã kịp kiềm lại. Bây giờ không phải là lúc ta nên để lộ võ công. Vả lại dù cứu sống Điểm Cúc bây giờ,
tương lai nàng ta cũng không có gì tốt đẹp. Chết… thực ra không phải
điều tồi tệ nhất.

Chỉ nghe một tiếng “bộp” thật lớn, Điểm Cúc đã
ngã sõng soài ra đất như một bao tải gạo. Cái trán nhỏ xinh rách toạc
một đường lớn như thể muốn xẻ đôi gương mặt tái nhợt kia ra. Máu tươi từ vết thương trào ra như suối, chảy loang lổ trên mặt Điểm Cúc, hoàn toàn tương phản với nước da trắng bệch.

Cảnh tượng hãi hùng làm những phi tử có mặt đều phải ré lên, những người xui xẻo đứng gần đều cố gắng lùi ra thật xa. Trịnh phi nhát gan nhất, nhìn thấy cảnh này thậm chí
còn không kêu nổi một tiếng đã choáng váng ngã ra. May mà có Minh phi
kịp thời đỡ lấy. Hoàng Đế chỉ nhìn qua một chút, liền phẩy tay ra hiệu
cho người dọn dẹp. Ta nghe hắn lẩm bẩm khe khẽ trong cổ họng: “Dơ chết
đi được.”

Hoàng Hậu cũng không nhìn lâu, mặt phượng cụp xuống, khẽ thở dài:

“Điểm Cúc chết rồi, mọi việc coi như ngã ngũ. Hoàng Thượng, chuyện này người định xử lý thế nào?”

Hoàng Đế thản nhiên đáp:

“Trẫm đã nói để Hoàng Hậu toàn quyền xử lý, Hoàng Hậu muốn làm thế nào thì cứ làm thế đó.”

Hoàng Hậu mỉm cười:

“Đa tạ Hoàng thượng tin tưởng.”

Hoàng Đế gật gật đầu, thong thả nhấm nháp trà, dường như chờ đợi quyết định của Hoàng Hậu.

“Sự việc hôm nay xảy ra, thủ phạm là Điểm Cúc đã chết, xem như chấm dứt ở đây. Tuy nhiên…”

Ánh mắt uy nghiêm của Hoàng Hậu dừng trên người Đức phi:

“Việc này Đức phi cũng không tránh khỏi liên lụy. Nếu muội quản giáo hạ nhân
cẩn thận hơn thì đã không có kẻ giở trò mờ ám trong cung.”

Triệu Đức phi cắn răng: “Thần thiếp biết tội. Xin Hoàng Hậu trách phạt.”

Hoàng Hậu không để ý đến thái độ bất mãn của Triệu Đức phi, cứ lạnh nhạt mà nói:

“Không phải là bản cung hà khắc với muội. Nhưng từ vụ việc của Bạch Thường tại khi trước, bản cung đã nói rõ, các vị muội muội phải cẩn thận quản lý
người của mình, đừng để xảy ra thêm chuyện không hay, nếu không sẽ phạt
nặng. Đức phi không phải quên rồi chứ? Nay muội quản giáo hạ nhân bất
lực, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, bản cung quyết định… tạm thời thu lại loan ấn Đức phi của muội, cắt bổng lộc một năm. Ngoài ra muội muội hãy
đóng cửa vài ngày, tập trung chỉnh đốn lại Hạ Lê cung. Đức phi, muội có
phục không?”

Trong lòng ta thầm tán thưởng, Hoàng Hậu lần này ra
tay không chút nương tình. Chẳng những thu lại ấn tín tượng trưng cho
quyền lực của Đức phi, lại còn cắt bổng lộc, bắt cấm túc. Đức phi lần
này đúng là tội chết có thể miễn, tội sống tránh không khỏi.

Nghe xong hình phạt của Hoàng Hậu dành cho mình, Đức phi giật bắn người,
nhìn sang Hoàng Đế, lại thấy hắn không nói lời nào, đành cúi đầu gắng
gượng đáp:

“Thần thiếp tâm phục khẩu phục.”

Hoàng Đế nói
được làm được, đã nói để Hoàng Hậu tự quyết thì thật sự không nhúng tay
vào. Đến đây mấy tháng, ta không thấy Hoàng Đế đối với Hoàng Hậu có bao
nhiêu ân ái, nhiều nhất cũng chỉ là mỗi tháng hai ngày mười lăm và mùng
một đến Triêu Lan cung ngủ lại, thỉnh thoảng cùng Hoàng Hậu dùng ngọ
thiện một lần, nhưng phần kính trọng của hắn đối với nàng chưa bao giờ
thiếu. Lại nghĩ, Hoàng Đế bình thường ngàn lần dung túng Liễu Thục phi,
bất luận nàng ta kiêu căng, quậy phá gì, hắn cũng giả vờ không biết, có
khi sẽ còn hùa theo. Thế nhưng mấy ngày trước, Liễu Thục phi gây họa ở
Thuận Ninh cung, Hoàng Hậu phạt nàng ta cấm túc, Hoàng Đế vậy mà không
hỏi đến một tiếng, cũng không đến Mẫu Đơn cung nửa bước. Bây giờ cũng
không khác, hắn cưng chiều Triệu Đức phi như vậy nhưng dù Hoàng Hậu ra
tay phạt nặng, hắn cũng không có một chút nào bất mãn. Ở điểm này cũng
có thể thấy hắn đối với Hoàng Hậu có bao nhiêu kính trọng. Người ta
thường hay nói, Hoàng Đế là bạo quân không có đầu óc, chỉ thích chém
giết. Chuyện hắn thích chém giết là có thật, ta nghe nhiều thấy nhiều,
nhưng chuyện không có đầu óc ta lại không cho là vậy. Hoàng Đế còn trẻ,
thường ngày cư xử tùy hứng, nhưng chí ít vẫn biết tôn trọng vợ cả, sủng
thiếp nhưng không diệt thê. Đây đã là điều hiếm có. Mặt khác ta lại
nghĩ, nếu không có phần tôn trọng này của Hoàng Đế, chưa biết chừng
Hoàng Hậu đứng vững chốn hậu cung sẽ không dễ dàng như vậy.

Đức phi đã nhận phạt, tuồng hay cũng hạ màn. Hoàng Đế đứng lên, thản nhiên vươn vai một cái:

“Trời không còn sớm, trẫm về Cát Tường điện nghỉ ngơi trước. Các khanh cũng nghỉ sớm đi. Dương Quý cơ theo trẫm trở về.”

Hắn nói xong liền phẩy tay áo bỏ đi. Dương Quý cơ nghe Hoàng Đế gọi mình
vui đến độ quên hết mọi thứ, cáo từ Hoàng Hậu qua loa mấy câu rồi vội
vàng đuổi theo ngự giá đi mất.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 31


Hoàng Đế cùng Dương Quý cơ đi rồi, Đức phi cũng hậm hực xin cáo từ. Trong
phòng chỉ còn lại Hoàng hậu và mấy người phi tử bọn ta. Tuy Hoàng Đế đã
bảo bọn ta về sớm nghỉ ngơi nhưng chung quy trong chúng ta không có ai
gan lớn như Đức phi. Chưa có sự đồng ý của Hoàng Hậu, cuối cùng cũng
chẳng ai dám ra về trước.

“Bản cung đi thăm Bạch Thường tại một chút.”

Hoàng Hậu vịn tay cung nữ Xuân Linh, vén màn tiến đến bên giường Bạch Thường tại. Mấy người bọn ta lục đục theo đuôi.

Nhìn Bạch Thường tại mặt mũi trắng nhợt, mi mắt và môi tái xanh vì độc, yếu ớt nằm trên giường, Hoàng Hậu thở dài:

“Bạch Thường tại mệnh khổ, không dưng lại phải chịu giày vò như vậy. Nơi này
chật hẹp ẩm thấp lại vừa vấy máu tanh, e rằng không hợp dưỡng bệnh.”

Hoàng Hậu muốn một mũi tên trúng hai con nhạn, nhân dịp này liền ra ý tứ muốn chuyển chỗ ở cho Bạch Thường tại. Tĩnh Tần nghe xong, mau miệng nói:

“Hoàng Hậu nương nương nói phải. Chi bằng để Bạch Thường tại dọn về lại Huệ
Đàm cung. Dù sao cũng là nơi ở cũ, tỷ muội sống cùng nhau đã lâu cũng
tiện chăm sóc nhau.”

Ta khẽ cười thầm.

Tĩnh Tần này lòng
dạ cũng đủ độc. Bạch Diệu Hoa khi xưa là chủ Huệ Đàm cung, cả Tĩnh Tần
và Dương Quý cơ đều ở dưới tay nàng. Bây giờ Bạch Diệu Hoa thân bại danh liệt, chủ vị đã đổi, trở về nơi cũ chẳng khác nào phải chịu thêm tủi
nhục. Dù Dương Quý cơ vẫn chưa là cung chủ nhưng bây giờ ở Huệ Đàm cung
nàng ta lớn nhất, mà tính cách nàng ta cũng chẳng tốt đẹp gì. Bạch Diệu
Hoa ở dưới tay nàng ta làm sao sống tốt?

Hoàng Hậu cũng nghĩ như ta, nàng lắc đầu phản đối:

“Huệ Đàm cung tuy rằng tốt nhưng lại đông người quá, e không tiện.”

Ta đã hiểu ý tứ của Hoàng Hậu, bèn thuận theo mà nói:

“Nếu vậy hãy để Bạch Thường tại dọn đến Cẩm Tước cung của muội đi. Chỗ muội
ít người, thuận tiện cho Bạch Thường tại dưỡng bệnh cũng đủ thanh tịnh
cho nàng tiếp tục đóng cửa tu tâm.”

Lời ta rất đúng ý Hoàng Hậu, nàng lập tức tán thành:

“Hòa phi nói rất phải. Sáng sớm ngày mai bản cung sẽ cho người tới Vị Tú
hiên giúp Bạch Thường tại di chuyển. Thôi không còn sớm nữa, các muội
hồi cung đi.”

Chúng phi mệt mỏi mấy canh giờ cuối cùng cũng đợi
được câu này. Mấy vị phi tử đều thở phào nhẹ nhõm rồi lần lượt cáo từ.
Riêng Trịnh phi ban nãy bị dọa đã sợ đến nửa tỉnh nửa mê, Hoàng Hậu phải sai người cáng nàng ra kiệu.

Vị Tú hiên cuối cùng chỉ còn lại ta và Hoàng Hậu. Hai người nhìn nhau một thoáng, ta biết không thể tránh
được bèn nâng váy quỳ xuống chân nàng:

“Muội muội tự ý hành động, thỉnh tỷ tỷ trách phạt.”

Hoàng Hậu đỡ lấy tay ta, chậm rãi nâng dậy:

“Nha đầu ngốc, có cái gì mà phải trách phạt? Muội cũng không làm sai gì cả
chỉ là quá mạo hiểm khiến bản cung có chút lo lắng mà thôi… Về sau nhớ
nói trước với tỷ một tiếng.”

Ta cúi đầu tỏ vẻ hối lỗi:

“Muội không phải cố ý giấu diếm tỷ, chỉ là… lần này muội không đoán được ý đồ của Đức phi… cũng không nắm chắc phần thắng… cho nên chỉ dám một mình
liều mạng, không dám liên lụy tỷ tỷ.”

Hoàng Hậu sửa lại mấy sợi tóc rơi bên mang tai ta, dịu dàng nói:

“Đúng là nha đầu ngốc. Tỷ tỷ chẳng phải đã nói sẽ bảo vệ muội sao? Chỉ tiếc
cơ hội tốt như vậy mà vẫn không hạ được Đức phi… Có điều như vậy cũng hả dạ. Chỉ tiếc Điểm Cúc còn trẻ đã phải oan mạng.”

Ta chợt có ảo giác nàng chính là tỷ tỷ ruột của mình thật, bèn gật đầu: “Tỷ tỷ nói phải.”

Trong hậu cung này, từ phi tử tới cung nữ, ai mà không mang trên vai gánh
nặng người thân? Điểm Cúc dĩ nhiên cũng không ngoại lệ. Kẻ tứ cố vô thân như ta xét ra cũng có chỗ tốt. Không có gia đình nghĩa là không có chỗ
dựa nhưng ngược lại cũng là không có điểm yếu cho người ta nắm thóp.
Kể ra, ở hậu cung đây lại là một thế mạnh.

Lần này tính kế Đức
phi, ta chỉ mong bảo toàn được mạng mình. Từ trước, ta đã biết Đức phi
sẽ không dễ ngã như vậy cho nên không hi vọng gì nhiều. Hoàng hậu vậy mà có thể thừa cơ chém cho Đức phi vài nhát, thực ra đã là có lời rồi.

***

Lúc ta về đến Cẩm Tước cung cũng đã quá nửa đêm, vậy mà cung nhân chưa có
kẻ nào đi ngủ. Vừa thấy ta về đến, Ngọc Thủy đã tái mặt chạy vội ra nắm
lấy cánh tay ta, hết kéo kéo lại xoay xoay người ta như thể muốn kiểm
tra xem có bị mất chút da thịt nào không. Tiểu Phúc Tử vừa khóc vừa cười lải nhải:

“May mắn quá! Chủ nhân bình yên vô sự! Đúng là ăn ở ngay thẳng thì được phúc mà! May mắn quá!”

Ta sờ sờ đầu hắn mấy cái, thầm nghĩ nếu ta thực sự ăn ở ngay thẳng thì đã chẳng còn mạng mà về.

Tạ Thu Dung đợi ta trong phòng, nghe thấy động liền vội bước ra:

“Ngươi không sao chứ?”

Ta thuận tay khoác lấy tay nàng đi trở vào phòng, cười nói:

“Bình an vô sự.”

Ngọc Thủy chuẩn bị cho ta một ít đồ ăn nhẹ lót dạ. Nhân lúc đang ngồi ăn, ta bèn để Ngọc Nga kể vắn tắt lại mọi chuyện.

Tạ Thu Dung nghe xong nhăn mặt nói:

“Đức phi không ngờ lại dám làm ra chuyện như vậy. Cũng may ngươi và Bạch
Thường tại đã sớm có đối sách. Ta chỉ là không hiểu ngươi vừa mới nhập
cung, lại luôn nhẫn nhịn các nàng, Đức phi vì sao phải nhắm vào ngươi?”

Ta thổi nhẹ chén cháo hầm gà ác thơm lừng trước mặt chậm rãi vừa ăn vừa nói:

“Bởi vì ta mới vào cung không có ân oán với ai, cũng chẳng qua lại gì với
Bạch Thường tại… Nếu như nói ta đi hạ độc Bạch Thường tại, ngươi có tin
không?”

“Dĩ nhiên không tin, ngươi không có động cơ.”

“Nhưng nếu có người nói ta là nhận lệnh của Hoàng Hậu đi diệt khẩu Bạch Thường tại, ngươi có tin không?”

“A…”

Ta thân cô thế cô, ở đây chỉ có Hoàng Hậu chống đỡ. Nếu là nàng ra lệnh ta tất phải làm theo, vậy nên nói Hoàng hậu sai ta đi hại Bạch Thường tại
thì vô cùng hợp lý.

Tạ Thu Dung lại hỏi:

“Nhưng người dưới trướng Hoàng Hậu rất nhiều sao không phải kẻ nào đó mà cứ là ngươi?”

Ta cười cười, cảm thấy đầu óc nàng đôi lúc quá đơn giản nhưng vẫn tỉ mỉ giải thích:

“Là bởi vì nếu người độc hại Bạch Thường tại không phải ta mà là một phi tử ở trong cung đã lâu thì Hoàng Hậu sẽ phủi tay rất dễ dàng. Chỉ cần nói
nàng ta có tư thù là được. Đằng này một người không có động cơ như ta
thì lại khác.”

Đây mới là chân tướng toàn bộ kế hoạch của Triệu
Đức phi. Đầu tiên nàng ta cho người hại Tố Linh đứt cổ họng không thể ca hát, lại vu tội này cho Bạch Diệu Hoa, trước mắt một mũi tên hai con
nhạn. Nhưng Triệu Đức phi vẫn còn muốn bắn nhiều nhạn hơn. Nàng ta sắp
đặt, giả vờ để Hàm Nhu mật báo cho ta rằng nàng ta muốn hại Trịnh Vân
Anh, hòng làm ta rối trí. Thời gian qua, nàng vẫn luôn án binh bất động
chính là chờ ta động lòng thương xót đưa đồ qua chỗ Bạch Diệu Hoa. Bất
luận ta đưa đến cái gì, Mai Quyên cũng sẽ bỏ độc vào đó để vu cho ta tội độc hại Bạch Diệu Hoa. Theo lý thường ta chẳng có động cơ gì để hại
Bạch Diệu Hoa, từ đó suy ra nếu ta thật sự hại nàng chỉ có thể là do bị
người sai khiến. Mà ai có thể sai khiến ta? Phải nói ta tuy là một kẻ tứ cố vô thân nhưng phân vị không nhỏ, sau lưng luôn có Hoàng Hậu che chở, kẻ có thể sai khiến ta e rằng không ai khác ngoài Hoàng Hậu. Như vậy,
Triệu Đức phi liền có thể nhẹ nhàng chuyển mũi đao lên đầu Hoàng Hậu.
Lại nói Hoàng Hậu vì lẽ gì mà phải sai ta đi hại Bạch Diệu Hoa – một nữ
nhân đã không còn tương lai gì? Câu trả lời chỉ có một, chính là để bịt
miệng nàng ta. Mà Bạch Diệu Hoa thì có cái gì để Hoàng Hậu phải bịt
miệng? Tra thêm nữa thì chỉ còn một chuyện là vụ án mưu hại Tố Linh khi
trước. Triệu Đức phi tính toán vô cùng kỹ càng. Nếu tới bước này lại có
người hỏi Hoàng Hậu vì sao lại phải hại Tố Linh, ắt hẳn nàng ta sẽ đưa
ra chứng cớ rằng Tố Linh đắc sủng ngang ngược, từng nhiều lần làm chuyện càn quấy trước mặt Hoàng Hậu khiến Hoàng Hậu mất mặt, vì vậy mới muốn
trừ bỏ cái gai này. Trùng hợp là Bạch gia đã từng có ý ngỗ ngược với Hà
gia của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu nhân dịp này nhổ cỏ tận gốc triệt để diệt
trừ cả Tố Linh và Bạch Diệu Hoa. Động cơ đầy đủ, bằng chứng có thừa. Bẫy lồng trong bẫy, từng bước từng bước đưa kẻ khác vào tử huyệt.

Lúc trước, ta không đoán được hết âm mưu của Đức phi cho nên mới giở chiêu
không nghe không thấy, giả vờ làm khúc gỗ, kiên quyết không đến Vị Tú
hiên để thử xem tâm tính Đức phi rốt cuộc như thế nào. Đức phi tuổi trẻ, lại tự phụ mình thông minh tất nhiên sẽ có chỗ nóng vội. Nhưng nói đi
cũng phải nói lại, nàng mới mười chín tuổi đã có được bậc này tâm kế,
thật không dám nghĩ đến sau vài năm nữa, tích lũy thêm kinh nghiệm rồi
sẽ tiến bộ đến mức nào.

Mặt Tạ Thu Dung càng nhăn lại:

“Hóa ra Đức phi lại luôn nhắm vào Hậu vị. Nhưng… ta vẫn cảm thấy nàng ta quá nóng vội.”

Ta gật đầu:

“Nàng ta mà không nóng vội ta làm sao còn toàn mạng?”

Kết cục lần này chẳng qua cũng là nhờ Đức phi nóng vội, lại xem thường ta
và Bạch Diệu Hoa vô dụng cho nên mới thuận lợi như vậy. Lần sau sẽ không có chuyện dễ dàng nữa. Có điều lần này Đức phi bị Hoàng hậu chém cho
mấy nhát không hề nhẹ nên “lần sau” tạm thời sẽ còn rất lâu, mấy ngày
này ta tạm có thể kê cao gối ngủ.

“Chủ nhân, như vậy còn Ngọc Hy kia?”

Tiểu Phúc Tử hỏi.

Ta thấy hắn vẫn luôn kiên trì muốn trị tội Ngọc Hy như vậy lại nhìn xuống chén cháo trước mặt vẫn còn hơi đầy, liền nói:

“Mang vào đây.”

Ngọc Hy nhanh chóng bị xách vào. Hai tay nàng ta bị trói quặt ra sau, tóc
tai rũ rượi, y phục bẩn thỉu, bộ dạng đúng là của người bị nhốt vào kho
củi cả một ngày. Ngọc Hy nhìn thấy ta liền nhoài người tới mà khóc:

“Chủ nhân… chủ nhân… Tiểu Phúc Tử hắn vu oan cho nô tỳ… Nô tỳ không có ăn trộm cái gì trong cung hết…”

Hôm nay thật không biết là ngày gì, ta kêu oan mỏi miệng mà nghe người khác kêu oan cũng mỏi tai. Cũng là Tiểu Phúc Tử lanh lợi, lựa thay ta một lý do vô cùng thích hợp.

Cả ngày mệt mỏi, ta chẳng còn tâm trạng chơi mèo vờn chuột nữa, bèn vào thẳng vấn đề:

“Vậy ngươi giải thích cho ta cái thứ này từ đâu mà đến?”

Ngọc Thủy theo lời của ta lấy ra đôi vòng ngọc đưa đến trước mặt Ngọc Hy, nói:

“Thứ này tìm thấy trong phòng ngươi. Ngươi chỉ là cung nữ tam đẳng, lấy đâu
ra đồ quý giá như vậy? Không phải trộm thì là cái gì?”

Ngọc Hy nhìn vòng ngọc xong, tái mặt lắp bắp:

“Cái này… cái này… là… nô tỳ được tặng…”

Ngọc Thủy hừ một tiếng, trào phúng nói:

“Ô, Ngọc Hy cô nương hẳn là có bản lĩnh! Suốt ngày ở trong Cẩm Tước cung mà vẫn có thể khiến cho người ta mang đồ quý giá như vậy đến tặng… Chẳng
hay vòng ngọc này là của quý nhân phương nào tặng cô nương vậy?”

Ngọc Hy khổ sở cắn môi, hiển nhiên là không dám nói ra. Ngọc Nga cũng cười cười phối hợp với Ngọc Thủy:

“Chủ tử trong cung tặng đồ cho hạ nhân đều có ghi chép lại rõ ràng. Vậy mà
hôm nay ta đến Nội thị giám xin tra sổ lại không thấy có tên Ngọc Hy cô
nương của chúng ta.”

Ta chậm rãi ăn cháo, nhường lại sân khấu cho Ngọc Thủy và Ngọc Nga giương nanh múa vuốt. Hôm nay diễn kịch quá nhiều rồi, bây giờ nhìn người khác diễn cũng thấy có điểm thú vị riêng.

Ngọc Hy bị Ngọc Nga và Ngọc Thủy dồn ép một trận, cuống quýt cả lên, không còn giữ được bình tĩnh, bắt đầu nói loạn:

“Bất luận là ai tặng cho ta… cũng không có liên quan tới các người… Chỉ cần
biết đồ đạc của chủ nhân không mất thứ gì… Tức là ta không có ăn trộm…”

Ngọc Nga nghe xong lời này, nghiêm giọng nói:

“Cẩm Tước cung không mất cái gì không có nghĩa là các cung khác cũng may mắn như vậy. Ngươi nếu quả thực được tặng vì sao không nói được tên người
tặng? Đây rõ ràng là hành vi của một tên trộm!”

Liếc thấy cháo
trong chén đã vơi gần hết, ta đặt chén xuống, nhấc tách trà Tiểu Phúc Tử dâng lên uống một ngụm rồi thong thả nói:

“Nếu đã là hành vi của một tên trộm, vậy cứ xét theo tội trộm cắp mà xử lý. Trả người lại cho Thượng Cung cục là được.”

Phàm là cung nhân phạm tội trộm cắp, nhẹ thì đánh gãy hai tay, nặng thì
trượng tễ. Nhưng đối với cung nhân mà nói, bình thường bị bệnh còn không mời được thái y chứ đừng nói là kẻ phạm tội. Hai tay bị đánh gãy dù
không chết ngay nhưng vết thương không được chữa trị tất làm độc, cái
chết từ từ đến mà lại còn phải chịu giày vò đau đớn, còn khổ hơn bị đánh chết ngay. Từ xưa tới nay, những cung nhân bị phạt đánh gãy hai tay
không có bao nhiêu người sống sót. Mà có sống đi chăng nữa, tay gãy cả
rồi thì làm được việc gì? Kẻ vô dụng ở trong cung sớm muộn cũng bị đày
đọa đến chết. Bởi vậy Ngọc Hy nghe ta nói xong, mặt cắt không còn chút
máu, điên cuồng lao đến chỗ ta gào khóc:

“Không… chủ nhân không
thể trả nô tỳ về Thượng Cung cục được!… Nô tỳ không có trộm đồ của
người!… Người không có bằng chứng nô tỳ trộm đồ của người!”

Tiểu Phúc Tử thấy Ngọc Hy phát cuồng, sợ nàng tổn thương ta, lập tức nhảy đến đá nàng ta một cái văng ra xa, chanh chua mắng:

“Thứ người như ngươi mà cũng dám phạm thượng vô lễ với chủ nhân à?! Cái thứ…”

Ta phẩy tay bảo Tiểu Phúc Tử ngừng mắng, tiện tay vịn hắn đứng dậy, đi đến trước mặt Ngọc Hy, cười nói:

“Muốn có bằng chứng sao? Được, bản cung cho ngươi.”

Nói rồi đưa tay gỡ một cây trâm vàng trên tóc ném tới trước mặt Ngọc Hy.

Ngọc Hy ngơ ngác nhìn cây trâm lăn một vòng trước mặt, chợt như hiểu ra ý
ta, hai tay vẫn bị trói, chật vật né qua một bên, ré lên:

“Rõ ràng người ném thứ này tới chỗ ta! Người là chủ nhân của ta! Sao người có thể vu oan giá họa cho ta như vậy!”

Ta bật cười thành tiếng:

“Ngươi vẫn còn nhớ bản cung là chủ nhân của ngươi sao? Ha, nếu trước kia trí
nhớ ngươi cũng tốt như vậy thì bây giờ đã không đi đến bước này… Ngươi
nói bản cung vu oan giá họa cho ngươi? Được, ở đây có ai nhìn thấy bản
cung vu oan giá họa cho Ngọc Hy cô nương không?”

Ngọc Nga phản ứng nhanh nhất:

“Nô tỳ nhìn thấy rõ ràng cây trâm này chính là rơi từ trong người Ngọc Hy ra!”

Tiểu Phúc Tử và Ngọc Thủy cũng nhanh chóng nói:

“Phải, phải, chúng ta cũng thấy như vậy!”

Ngọc Hy trợn mắt, há hốc miệng:

“Ngươi… các ngươi…”

Ta thở dài, ngồi lại chỗ cũ:

“Được rồi. Bằng chứng đã có đủ thì mang nó đi. Sớm mai đưa trả lại Thượng Cung cục.”

Ngọc Hy như vậy liền bị Tiểu Phúc Tử xách cổ lôi ra ngoài, miệng vẫn còn chửi rủa:

“Chu Đan Nguyệt… ngươi ngậm máu phun người… ngươi sẽ không được chết tốt đẹp đâu…”

Tiểu Phúc Tử nghe chướng tai, liền đấm cho Ngọc Hy mấy cái, nhờ vậy mà Cẩm
Tước cung lại được yên lặng. Ngọc Nga và Ngọc Thủy bắt đầu dọn dẹp.

Thấy Tạ Thu Dung vẫn ngồi ngẩn ngơ ở đó, ta cười hỏi nàng:

“Sao? Cảm thấy thủ đoạn của ta rất thấp hèn phải không?”

Tạ Thu Dung là người chính trực, không chừng nhìn cảnh này rồi sẽ ghét bỏ ta. Không ngờ nàng chỉ khẽ lắc đầu:

“Ta đâu phải kẻ vô tri. Là nàng ta bất trung với ngươi, cũng đáng tội. Nếu
để lại e sau này sẽ hại đến ngươi. Chỉ là… ta cảm thấy ở chỗ này mạng
người… thật nhỏ bé.”

Mai Quyên, Điểm Cúc, Ngọc Hy… Hôm nay, có ít nhất ba người vì ta mà vong mạng.

Ta hơi cúi đầu, bất giác nhìn xuống đôi tay mình. Mấy tháng nay ăn sung
mặc sướng, đôi tay này trắng trẻo hơn nhiều, mấy vết chai trên đó cũng
đã mờ đi không ít.

Thở một hơi thật dài, ta bần thần đáp:

“Ngươi nói phải. Đôi tay này của ta… lại nhiễm đầy máu tươi rồi.”

Chợt cảm thấy tay hơi ấm áp, hóa ra là Tạ Thu Dung đã cầm lấy tay ta, trịnh trọng nói:

“Tự bảo vệ mình có gì không đúng? Hay là ngươi thích để máu của mình dính trên tay kẻ khác?”

Ta hiểu được thành ý của Tạ Thu Dung nên cũng không nói thêm lời bi thương khó xử nữa, chỉ đùa thêm vài câu cho vui vẻ rồi để Ngọc Chân đưa nàng
về Tây viện nghỉ ngơi. Bản thân ta cũng lăn lên giường ngủ thẳng cẳng.
Có lẽ nhờ mấy lời an ủi của Tạ Thu Dung mà đêm hôm ấy ta ngủ đặc biệt
ngon, không hề mộng mị gì cả.

***

Mấy ngày này, hậu cung
chuyển biến vô cùng lớn. Chưa đầy một tháng ngắn ngủi, hai vị đệ nhất
sủng phi – Liễu Thục phi cùng Triệu Đức phi lần lượt bị cấm túc. Oai
phong của Hoàng Hậu đã lên đến cực điểm. Phi tần ai nấy vui như xuân về. Không biết Hoàng Hậu dùng biện pháp gì mà thánh sủng đã san đều cho cả
hậu cung, dĩ nhiên là những phi tử dưới trướng Hoàng Hậu vẫn được nhiều
ơn mưa móc nhất. Ngay cả Trịnh phi cũng được sủng hạnh một hai lần, có
điều nàng ta không vui vẻ như người khác. Đến lúc chỉ có hai người nàng
mới lén lút nói với ta, Hoàng Đế coi nàng như cái gối gác chân, cả đêm
đều gác chân lên người nàng mà ngủ làm cho nàng không trở mình được,
suýt chút vẹo cả lưng. Nhìn bộ dạng vừa ấm ức kể tội, vừa nghiêng
nghiêng người tự đấm lưng của Trịnh Vân Anh, ta chỉ biết thở dài ngán
ngẩm, nàng cứ như vậy không biết là tốt hay là xấu.

Ngọc Hy trở
về Thượng Cung cục, nghe đâu đã bị trượng tễ rồi. Thượng Cung cục làm
việc trước nay đều nhìn mặt chủ nhân, đối với người của Hoàng Hậu, bọn
họ đúng là không dám chậm trễ, nhoáng một cái liền đánh chết, lại còn
phái người đến bẩm báo với ta. Chuyện này truyền ra, trong Cẩm Tước cung vô thanh vô tức bỗng xuất hiện một tin đồn nho nhỏ, rằng Ngọc Hy chẳng
phải trộm cắp gì mà thực chất là bất trung với ta cho nên mới phải chết. Vì vậy mà cung nhân trong Cẩm Tước cung đối với ta càng kính cẩn hơn,
cứ như sợ ta cảm thấy bọn họ không đủ trung thành. Hơn nữa, thanh danh
“bồ tát sống” của Đức phi tặng ta khi trước cũng dần dần lắng xuống.
Trước cảnh tượng này ta không thể không khen Ngọc Nga một câu, bản lĩnh
tung tin đồn của nàng thực sự hữu dụng. Chuyện Dương Quý cơ giở trò ở
chỗ ta, ta cũng đã đem báo lại với Hoàng Hậu kèm theo vật chứng là đôi
vòng ngọc gói trong khăn lụa. Hoàng Hậu trầm mặc một hồi, cuối cùng vỗ
vỗ lên lưng bàn tay ta mà nói:

“Để muội muội chịu ấm ức rồi. Bản cung nhất định cho muội câu trả lời thỏa đáng.”

Ta biết gia thế Dương Quý cơ không tệ, hiện giờ thánh sủng vẫn đều đặn,
nàng là một quân cờ tốt, Hoàng Hậu sẽ không vì đòi lại công bằng cho ta
mà bỏ đi quân cờ tốt này. Chỉ là ta cũng biết những người làm việc lớn
như Hoàng Hậu, tâm đa nghi vô cùng lớn, không cần biết hành động của
Dương Quý cơ là vì đố kị ta hay là bất trung với Hoàng Hậu thì cũng đã
gieo vào lòng Hoàng Hậu một hạt giống nghi ngờ. Theo thời gian, hạt
giống này sẽ càng ngày càng lớn, đến một ngày nào đó, nó sẽ lớn đến mức
đủ sức nghiền chết Dương Quý cơ. Dẫu vậy, đó còn là việc của ngày sau.
Hiện tại, ta cứ vui vẻ tiếp nhận đống quà cáp cao ngất từ Triêu Lan cung đưa đến, xem như Hoàng Hậu bù đắp cho mình.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 32


Sức khỏe của Bạch Diệu Hoa dần dần bình phục.

Tuy nàng vẫn đang phải chịu phạt cấm túc nhưng đã dời đến ở trong cung của
ta, ta lại là cung chủ nên vẫn có thể lui tới chăm sóc nàng. Theo quy
chế thì Thường tại vị có thể có hai cung nữ, hai thái giám theo hầu. Chỉ vì khi trước Bạch Diệu Hoa thất thế, là một chủ tử không còn hy vọng
nên không ai muốn cùng nàng chịu khổ, chỉ có một cung nữ hỗn xược do
Triệu Đức phi đưa đến mà thôi. Hoàng Hậu tỏ ý muốn để những người trước
kia từng hầu hạ nàng quay lại nhưng Bạch Diệu Hoa từ chối. Ta cũng hiểu
những kẻ này trước kia đã rũ bỏ nàng thì nàng cũng chẳng cầu bọn họ quay lại. Về điểm này, ta đồng ý với nàng ấy, những kẻ như thế không có gì
tốt đẹp.

Hôm nay, nhân lúc Bạch Diệu Hoa gần như hoàn toàn
hồi phục, Thượng Cung cục tuân lệnh Hoàng Hậu đưa đến mấy tiểu thái
giám, cung nữ mới cho Bạch Diệu Hoa lựa chọn.

Bạch Diệu Hoa ngồi
ngay ngắn trên sạp gỗ ngoài hiên Đông viện phơi nắng, ánh mắt lười nhác
lướt qua những cung nhân đang xếp hàng ngay ngắn trước mặt, nói:

“Lâu nay ta gặp nhiều chuyện không may, bây giờ lựa chọn người cũng muốn lựa người nhiều phúc khí chút, coi như giảm bớt vận xui. Các ngươi ai còn
đủ thân sinh phụ mẫu thì bước qua bên phải, ai phụ mẫu mất sớm chỉ còn
huynh đệ tỷ muội thì bước sang bên trái.”

Đám cung nhân trước mặt nàng nghe xong liền khẩn trương bước qua bước lại một hồi, làm thành
hai hàng riêng biệt, chỉ còn lại hai cung nữ tầm mười lăm mười sáu tuổi
vẫn đứng trơ trơ chỗ cũ. Bạch Diệu Hoa thấy vậy liền hỏi:

“Hai người các ngươi cứ đứng đấy là thế nào?”

Hai cung nữ nọ cúi đầu, một trong hai người lí nhí đáp:

“Bẩm tiểu chủ, nô tỳ là cô nhi, từ nhỏ lưu lạc, không biết phụ mẫu là ai.”

Người còn lại cũng khẽ nói theo:

“Quê nô tỳ hai năm trước có ôn dịch, nô tỳ phúc mỏng, cả nhà đều chết sạch, chỉ còn lại mình nô tỳ.”

Bạch Diệu Hoa gật đầu, lại nhìn qua đám người này một chút rồi xua tay nói:

“Các ngươi đều về Thượng Cung cục trước đi. Ta đã chọn xong rồi. Lát nữa sẽ báo với Thượng Cung đại nhân lấy người sau”

Chờ đến khi bọn họ đi khuất, Bạch Diệu Hoa mới nghiêng đầu nhìn ta đang ngồi bên cạnh, hỏi:

“Tỷ tỷ thấy thế nào?”

Bạch Diệu Hoa từ khi tỉnh lại, không biết vì sao lại sửa cách xưng hô, gọi
ta là tỷ tỷ, ta cũng tùy ý kêu nàng muội muội. Nãy giờ để nàng tự chọn
lựa, ta chỉ ngồi yên một bên đóng vai vật trang trí, nghe nàng hỏi như
thế, ta biết nàng đã chọn xong, chỉ cười:

“Nô tài tùy thân, đúng là nên chọn những người có phúc khí một chút.”

Bạch Diệu Hoa cũng tán thưởng:

“Tỷ tỷ cũng cho là thế? Như vậy… cứ chọn hai cung nữ ban nãy đi. Chỗ muội chẳng có việc gì, hai người đủ rồi.”

Ta lật lật danh sách trên tay, lơ đãng nói:

“Hai người ban nãy… là Tư Dao và Tư An, đều là cô nhi. Quả đúng là hai đứa trẻ nhiều phúc khí.”

Ở trong hậu cung này, những kẻ côi cút như vậy so ra lại có nhiều phúc khí hơn kẻ khác.

Bạch Diệu Hoa khẽ cười:

“Cũng là nhờ Hoàng Hậu nương nương.”

Ta đặt danh sách xuống, vỗ nhẹ lên vai Bạch Diệu Hoa:

“Hoàng Hậu nương nương luôn chiếu cố muội. Muội đừng cứ cố chấp như vậy.”

Cố chấp muốn ăn thua đủ với Hoàng Hậu chẳng phải điều gì tốt. Ngay cả Thục phi và Đức phi còn bị Hoàng Hậu làm cho điêu đứng, một phi tần thất
sủng lấy cái gì để đối đầu với Hoàng Hậu?

Bạch Diệu Hoa vẫn cười cười:

“Muội dĩ nhiên biết. Trước nay muội luôn hưởng phúc của Hoàng Hậu nương
nương… Có điều phần phúc này… nếu không có tỷ tỷ, muội đã chẳng còn được ngồi đây mà hưởng nữa.”

“Diệu Hoa…”

Ta ái ngại nhìn Bạch Diệu Hoa. Nét cười trên mặt nàng chợt trầm xuống.

“Không phải sao? Nếu hôm đó không có tỷ tỷ dẫn đường bây giờ đã chẳng còn Diệu Hoa nữa, lấy đâu ra người ngồi đây hưởng phúc của Hoàng Hậu nương nương ban xuống.”

Từ lúc Bạch Diệu Hoa tỉnh lại đến nay đã mấy hôm thì đây là lần đầu tiên nàng trực tiếp đề cập đến chuyện này.

Bạch Diệu Hoa thấy ta yên lặng lắng nghe, bèn cúi đầu nói tiếp:

“Ngày đó sau khi tỷ tỷ trở về, Mai Quyên liền mang cho muội một chén canh gà. Muội thường ngày cháo loãng còn khó có, nói chi tới canh gà, liền biết
Mai Quyên có vấn đề. Muội vui vẻ bưng lên vờ uống nhưng không hề chạm
môi vào. Mai Quyên thấy muội đã chịu uống canh bèn bỏ đi. Thời gian nàng ta ở Vị Tú hiên mỗi ngày không bao nhiêu, rảnh ra liền trốn đi chơi.
Đợi nàng ta đi rồi muội mới lấy trâm bạc ra thử, quả nhiên trâm bạc hóa
đen. Muội bèn đổ chén canh ấy đi.”

Nghe Bạch Thường tại nói, ta cảm thấy chuyện cũng gần như ta dự tính, bèn đáp:

“Bởi vì ta tay không đến chỗ muội, cho nên nếu họ muốn đổ tội cho ta thì
nhất định phải hạ độc thủ với muội ngay. Như vậy mới có thể vu oan ta tự tay hạ độc muội.”

Nếu ta thực sự mang đồ đến tặng, Mai Quyên có
thể phải một thời gian sau mới ra tay vì Bạch Diệu Hoa sẽ không dùng đến đồ của ta ngay. So với việc không biết khi nào bọn họ mới ra tay, chi
bằng ta cứ mặt dày tay không đi đến, ép bọn họ phải ra tay ngay vậy mới
dễ đề phòng.

Bạch Diệu Hoa cười, gật đầu:

“Sau đó, muội
đem độc dược tỷ đưa tẩm vào khăn tay của Triệu Đức phi đang cất kỹ vào
tủ, rồi mới tẩm lên chiếc khăn thường mang bên người. Cuối cùng uống
trước hai viên thuốc giải độc rồi mới tự bôi độc lên mặt mũi mình, tự
mình trúng độc.”

Mai Quyên trở về, nhìn thấy Bạch Diệu Hoa không
khỏe liền cho rằng Hạc Đỉnh Hồng phát tác. Để chắc chắn đoạt được mạng
Bạch Diệu Hoa, Mai Quyên vờ tưởng nàng bệnh cũ tái phát, chỉ đỡ đi nghỉ, rất lâu sau mới báo thái y và Hoàng Hậu. Nếu không phải nhờ hai viên
thuốc kia kiềm bớt độc chất lại, bảo vệ phủ tạng, Bạch Diệu Hoa khó mà
toàn mạng.

Tuy ta đã cho Bạch Diệu Hoa thuốc kiềm độc trước,
nhưng lòng vẫn luôn bất an. Cổ độc này vốn là của Y Tiên để lại, ắt
chẳng phải thứ tầm thường. Ta vẫn luôn lo sợ thuốc kiềm độc không phát
huy được tác dụng, hoặc thái y không đủ năng lực, cũng sợ thể lực Bạch
Diệu Hoa yếu ớt không cầm cự nổi. Thẳng thắn mà nói, cho dù Bạch Diệu
Hoa chết, kế hoạch của ta vẫn thành công, ta vẫn sẽ an toàn thoát thân,
vốn không cần lo lắng.

Lý trí ta tự nhủ như vậy, nhưng lòng cứ
hỗn loạn không yên. Sợi dây thòng lọng này do chính tay ta quàng vào cổ
Bạch Diệu Hoa, nếu nàng vì vậy mà vong mạng, ta thật sự không biết sẽ
phải đối diện với bản thân thế nào. Mùi máu tanh trên tay ta chưa bao
giờ phai nhạt, nỗi ám ảnh tanh tưởi ấy chưa bao giờ rời khỏi tâm hồn ta, luôn chực chờ muốn nuốt chửng ta. Sống trong hậu cung đen tối quá lâu,
ta luôn biết sẽ không có giải pháp nào trọn vẹn đôi đường, cũng như sẽ
không có âm mưu nào tất cả mọi người đều có thể toàn mạng mà thoát ra.
Ngươi sống ta chết – đây chính là nguyên tắc cơ bản nhất trong hậu cung. Một khi phải đứng trước lựa chọn giữa bản thân và người khác, cuối cùng ta vẫn sẽ ích kỷ mà chọn bảo toàn mình.

Có những lời an ủi của
Tạ Thu Dung, lòng ta nhẹ nhõm hơn nhưng vẫn không cách nào hoàn toàn
quên đi được hình ảnh Điểm Cúc nằm dưới đất như một con rối đứt dây,
vầng trán nứt toác như có thể nhìn thấy tận xương, máu tươi từ nơi đó
trào ra, chảy loang lổ. Ta vẫn nhớ đôi mắt ấy, đến phút cuối vẫn mở to,
ầng ậng nước.

Điểm Cúc chết không nhắm mắt.

Ta nén tiếng
thở dài, nhìn lại Bạch Diệu Hoa đang mỉm cười dịu dàng ngồi bên cạnh,
gánh nặng trong lòng dường như nhẹ đi. Chí ít, Bạch Diệu Hoa vẫn khỏe
mạnh ngồi ở đây.

Chí ít, ta vẫn có thể bảo toàn được một người.

Đến tận lúc này, ta mới hiểu vì sao mình lại tha thiết muốn cứu Bạch Diệu Hoa như thế.

Ta… chẳng qua chỉ là muốn cứu lấy lương tâm đang dần dần bị bóp nát của mình.

Bạch Diệu Hoa thấy ta im lặng hồi lâu, liền cười hỏi:

“Tỷ tỷ sao lại ngẩn ra như thế?”

Ta hơi giật mình, khẽ lắc đầu, lại chợt nghĩ đến một điểm còn băn khoăn trong lòng, liền hỏi nàng:

“Lúc đó muội làm sao có thể tẩm độc vào số khăn tay trong hộp mà vẫn giữ cho chúng khô ráo như vậy?”

Bạch Diệu Hoa bật cười:

“Thì ra tỷ đang nghĩ chuyện này sao? Cũng chẳng có gì lợi hại cả. Trước đó
muội bất cẩn té ngã trật chân nhưng không mời được thái y, Mai Quyên đi
một hồi mang về cho muội một vò rượu trắng, bảo xoa bóp một lúc sẽ khỏi. Muội dùng không bao nhiêu cho nên đến hôm đó vẫn còn.”

Cuối cùng ta đã hiểu, thì ra lại đơn giản như vậy. Rượu bay hơi rất nhanh, pha
chút rượu vào trong độc sẽ đẩy nhanh thời gian bay hơi của độc lên nhiều lần. Dùng cách này để tẩm độc, chỉ cần hong khăn trước gió một chút
khăn sẽ khô ráo không còn dấu vết. Hộp đựng khăn tay làm bằng gỗ trầm
thơm, bỏ vào trong hộp đó, mùi rượu còn sót lại sẽ bị át đi.

Sự lạnh bạc của người đời, trớ trêu thay, cuối cùng lại cứu chúng ta một mạng.

Ta thở dài, siết tay Bạch Diệu Hoa:

“Muội chịu khổ rồi.”

Bạch Diệu Hoa cười chua chát:

“Đã liều như vậy mà vẫn không làm gì được Đức phi.”

Ta an ủi nàng:

“Lần này Đức phi cũng đã được một bài học. Chí ít là đưa được muội về đây,
từ nay chúng ta tỷ muội chiếu cố lẫn nhau, cũng là việc tốt. Hoàng Hậu…
tỷ ấy đã nói, đợi muội chịu phạt đủ một năm, tỷ ấy sẽ giúp muội thăng
lên vài vị, lúc đó sẽ tốt hơn nhiều…”

Bạch Diệu Hoa mỉm cười, lơ đãng nắm lấy tay ta, nói một câu không mấy liên quan:

“Muội chỉ có một người tỷ tỷ mà thôi.”

***

Không có Thục phi và Đức phi diễu võ dương oai, Thái Hậu cũng không xuất
hiện, chuỗi ngày này ở hậu cung có thể coi là bình yên hiếm thấy. Tâm
tình của Hoàng Đế không tệ, từ đó đến nay vẫn chưa hạ lệnh giết thêm
người nào, lại còn ban thưởng xuống không ít. Cẩm Tước cung của ta không làm gì mà cũng được thưởng một hộp trang sức. Ta nhìn chiếc hộp chứa
đầy trang sức lấp lánh, cảm thấy quá chói mắt, tiện tay lựa ra một chiếc nhẫn bạc. Chiếc nhẫn mỏng mảnh giản dị, điểm đáng chú ý duy nhất là mặt nhẫn làm bằng hồng ngọc trong suốt, khắc hình một đóa hoa hồng nở rộ.
Cánh hoa ngọc tinh xảo đến mức làm cho người ta có cảm giác nó đang thực sự lay động. Chiếc nhẫn đeo vừa vặn vào ngón áp út của ta, trông không
quá xa xỉ mà lại đủ trang nhã.

Nói là ban cho Cẩm Tước cung, như
vậy Bạch Diệu Hoa cũng nên có phần. Ta chỉ lấy một chiếc nhẫn này đeo
lên tay, còn cả hộp đều đưa cho Ngọc Nga mang tới Đông viện cho Bạch
Diệu Hoa.

“Bạch tiểu chủ ngoài việc tạ thánh ân và đa tạ chủ nhân ra thì một chút cũng không nhìn đến hộp trang sức, giao cho Tư Dao đem
đi cất. Vẻ mặt bình thường, không có biểu cảm gì.”

Ngọc Nga cẩn thận bẩm báo lại.

Ta gật đầu, thầm nghĩ Bạch Diệu Hoa là đích nữ nhà quyền quý, mấy thứ vàng bạc này e rằng nhìn đã quen mắt rồi, sao có thể vì một hộp trang sức mà vui vẻ.

Ngọc Nga thấy ta không ý kiến gì, bèn cười cười chuyển đề tài:

“Mấy hôm nay Hạ Lê cung thật nhộn nhịp. Đức phi quả vâng lời Hoàng Hậu nương nương, tận lực chỉnh đốn cung nhân, tất cả những người có liên quan đến Điểm Cúc đều bị trừ bỏ. Thậm chí, có mấy cung nữ xui xẻo chỉ là từng
trò chuyện với Điểm Cúc mấy câu cũng không thoát được. Tất cả đều bị đưa trả về Thượng Cung cục, e rằng kết cục sau này cũng không có gì tốt
đẹp.”

Ta ngáp dài một cái:

“Đức phi làm gì cũng tận lực cả.”

Ngọc Nga bước đến xoa bóp vai cho ta, vừa nói:

“Nghe Ngọc Thủy nói, Đức phi giận đến mức muốn phát điên… Đêm hôm đó trở về
liền giống như Thục phi, đập phá làm loạn. Ngay cả Quỳnh Thục nghi
thường ngày thân cận cũng phải sợ hãi đóng chặt cửa, tối ngày ở trong
phòng không dám ló mặt ra ngoài, sợ chọc trúng Đức phi.”

Hai vai được xoa bóp thoải mái, ta hài lòng thả lỏng thân thể, cười đáp:

“Đức phi làm thế nào giống Thục phi được? Thục phi đập toàn cống phẩm Tùy
Khâu, Đức phi lại chỉ đập một đống đồ sứ thông thường.”

Ngọc Nga ngẩn ra:

“Ý chủ nhân là…?”

“Làm hỏng cống phẩm là tội mất đầu, trong khi chỗ đồ sứ kia cung nào cũng
có, hỏng rồi thì bảo Thượng Cung cục mang đến cái khác là được, giống
nhau thế nào được?”

Bây giờ các nàng đắc sủng, muốn đập cái gì
thì đập cái đó, Hoàng Đế sẽ chẳng so đo. Nhưng ngày tháng qua đi, khi
sủng ái chẳng còn như trước thì những việc dung túng khi xưa sẽ trở
thành vết nhơ không thể nào gột rửa.

“Đức phi… ngay cả lúc nổi giận cũng suy nghĩ chu toàn như vậy.” Ngọc Nga cười khổ.

Ta cũng thở dài:

“Cũng là trái đào ăn dở, nhưng khi thì là tận trung, khi thì là bất kính. Đức phi tất hiểu rõ đạo lý này.” (1)

Ngọc Nga cúi đầu suy nghĩ. Đương lúc ta còn đang thắc mắc nàng có hiểu hay không, thì Ngọc Nga lại nói sang chuyện khác:

“Hôm nay là sinh thần Tĩnh Tần, chủ nhân có biết Hoàng Thượng ban thưởng nàng ấy cái gì không?”

Ta bật cười, búng vào trán Ngọc Nga một cái:

“Còn đánh đố ta? Dĩ nhiên là thăng vị rồi.”

Ngọc Nga xoa trán, ngạc nhiên hỏi:

“Sao chủ nhân biết?”

Ta nhếch khóe miệng, lười biếng ngả người nằm ra sạp:

“Lần trước Tĩnh Tâm Lan có công ngăn cản Lão Phật gia ăn đồ mặn, thêm nữa là Hoàng Thượng gần đây luôn ưa thích nàng ấy.”

Ngọc Nga nhanh nhẹn lấy gối mềm kê cho ta nằm, nói liến thoắng:

“Chủ nhân nói phải. Sáng sớm hôm nay, Hoàng Thượng đã khẩu dụ gia phong Tĩnh Tần lên hàng Tu dung, cuối năm nay sẽ chính thức làm lễ sắc phong.
Hoàng Hậu cũng ban thưởng xuống rất nhiều.”

“Ồ, nếu vậy ngươi cũng nên sửa cách xưng hô đi thôi. Hoàng Thượng đã mở kim khẩu, trước sau gì nàng ấy cũng là Tĩnh Tu dung.”

“Vâng ạ.”

Không ngoài dự đoán, Tĩnh Tâm Lan đã thăng đến hàng chính tam phẩm. Có điều
bây giờ mới là hạ chí (2), nàng ta có thể chờ đến đại điển sắc phong vào cuối năm hay không, còn phải chờ xem phúc khí của nàng ta đến đâu.

“Nô tỳ thật không hiểu, Hoàng Hậu nương nương sao lại để Tĩnh Tu dung thăng vị thuận lợi như thế? Sau này chẳng phải sẽ gây phiền phức cho chúng ta sao?”

Ngọc Nga phe phẩy quạt giấy xua bớt cái nóng mùa hạ cho ta dễ ngủ, trầm ngâm nói.

Ta vùi đầu vào gối bông mềm mại, sau lưng lại có Ngọc Nga quạt mát, mi mắt nặng dần, chỉ kịp mơ màng nói một câu “Cây cao gió cả” liền chìm vào
mộng đẹp.

Được ngủ ngày là một trong những lợi ích nhỏ của việc làm phi tử.

Thế nhưng, có lẽ số ta rất xui xẻo, ngay cả một lợi ích nhỏ như vậy cũng
không thể hưởng cho trọn vẹn. Vừa mới mơ màng ngủ được một lát đã thấy
vai mình bị lay mạnh, ta nhăn mày, lồm cồm bò dậy, liền thấy Ngọc Nga
hớt hải gọi:

“Chủ nhân, Lý công công truyền tin, Hoàng Thượng triệu kiến người.”

Ngọc Nga vừa dứt lời liền nghe thấy tiếng Lý Thọ từ ngoài cửa the thé vọng vào:

“Nương nương, xin chuẩn bị nhanh một chút, Hoàng Thượng đang đợi.”

Ta dụi dụi mắt, khẽ hỏi Ngọc Nga:

“Bây giờ là giờ nào? Sao Hoàng Thượng lại triệu kiến gấp như vậy…”

Ngọc Nga nhìn đồng hồ cát, lại nhìn ra ngoài trời, lo lắng đáp:

“Vẫn đang là giờ Thìn ạ.”

Nói xong nàng ta lại hạ giọng thật thấp, như sợ Lý Thọ nghe được:

“Chủ nhân, giờ này hằng ngày là lúc Hoàng Thượng nghị luận cùng các vị đại
nhân ở ngự thư phòng. Theo lý mà nói… Hoàng Thượng không thể triệu kiến
người vào lúc này được.”

Hiểu được lo lắng trong lòng Ngọc Nga, ta hướng ra phía cửa phòng, thử thăm dò:

“Lý công công, xin hỏi Hoàng Thượng vì lẽ gì mà triệu kiến bản cung gấp gáp như thế?”

Lý Thọ ở bên ngoài, không những không trả lời mà còn hối thúc thêm:

“Nô tài nào dám trộm đoán thánh ý… Xin nương nương nhanh chóng chuẩn bị, để chậm trễ… Hoàng Thượng trách tội xuống, nô tài gánh không nổi đâu ạ…”

Giọng Lý Thọ vô cùng gấp gáp, có vài phần giống với lần Hoàng Đế triệu ta đến Noãn các ba ngày. Nhưng lần này… giờ giấc không đúng. Nhất định có điều khuất tất.

Ngọc Nga hoảng hốt cầm chặt tay ta:

“Chủ nhân, chuyện này… thật sự kì quái! Phải làm sao đây?”

Ta thở hắt ra:

“Còn làm sao được? Lý Thọ đã tự mình đến mời, ta không thể không đi. Thôi,
mau giúp ta thay y phục. Nếu thực sự là Hoàng Thượng triệu kiến thì
không thể chậm trễ được.”

***

Trưa tháng sáu nắng chói chang.

Ta và Lý Thọ đi vội đến mức không kịp mang ô. Đoạn đường từ Cẩm Tước cung
đến Cát Tường điện ngồi kiệu thì còn không sao, khi tới cổng Cát Tường
điện rồi, phải đi bộ vào mới thấy thế nào là nắng cháy da cháy thịt.
Cũng vì Hoàng Đế tính cách thất thường, chỉ có cung nữ và thái giám ngự
tiền mới được ra vào nên ta đành để Ngọc Nga đứng đợi trước cổng Cát
Tường điện, còn mình đi theo Lý Thọ. Giờ nhìn thấy trời nắng như thế,
lại nghĩ đến Ngọc Nga phải đứng giang nắng chờ đợi, lòng không khỏi xót
xa.

Bước thấp bước cao theo sau Lý Thọ trên con đường nhỏ nối
liền từ cửa hông, nhìn ánh nắng phản chiếu rực rỡ trên toàn cung điện
mái ngói lưu ly phía trước, lòng ta càng thêm bất an.

Lúc này ta lại chẳng thể đoán được điều gì.

Lý Thọ là tâm phúc của Hoàng Đế, về độ tín nhiệm thì chỉ sau lão tổng quản Tô Trường Tín mà thôi. Ta không dám nghĩ hắn giả truyền thánh ý. Nhưng
mà đột ngột triệu kiến gấp rút vào lúc này quả thực rất đáng nghi.

Nỗi bất an trong lòng càng lúc càng dâng cao, cao đến nỗi ta không thể nhịn nổi nữa. Mắt nhìn thấy Lý Thọ đang đi phăng phăng về hướng ngự thư
phòng, ta liền dừng bước:

“Lý công công, có phải bản cung nên đến Noãn các đợi Hoàng Thượng không?”

“Hoàng Thượng truyền nương nương đến Ngự Thư phòng, nương nương vẫn nên đến đó thì hơn.”

Lý Thọ chỉ quay đầu nói với ta một câu như vậy, rồi lại hớt hải đi như
bay. Hắn đã nói thế, ta đành cắn răng dợm bước đuổi theo, lòng nghĩ nơi
đây dù sao cũng là Cát Tường điện, Lý Thọ sẽ không giả truyền thánh chỉ, cũng không làm gì ta được.

Mãi đến khi tới trước cửa Ngự Thư phòng, ta mới biết mình đã lầm to.

Lầm to rồi!

Ngự Thư phòng có đến hơn mười người mặc quan phục khác nhau, kẻ đứng người
quỳ nhấp nhô, còn Hoàng Đế thì đang đứng trước thư án, một tay chống
hông, một tay trỏ vào mặt một vị lão thần râu tóc bạc trắng đang quỳ bên dưới. Nhìn bộ dạng mắng người đến nỗi đỏ mặt tía tai, sát khí đằng đằng của Hoàng Đế, có lẽ vị lão thần kia sẽ không giữ nổi đầu.

Tuy ta không biết chuyện tày trời gì đang diễn ra ở trong đó, nhưng có một
điều hoàn toàn chắc chắn: Hoàng Đế không thể triệu kiến ta trong tình
cảnh như vậy!

Lý Thọ thực sự dám giả truyền thánh ý!

Ta cắn răng, quay đầu nhìn trừng trừng Lý Thọ, thấp giọng nói:

“Lý công công, giả truyền thánh ý là tội chém đầu!”

Mặt Lý Thọ hiện lên vẻ khó xử. Ta không dư thời gian để nghe hắn biện giải, lập tức xoay người bỏ đi. Trong đầu ta lúc này chỉ có một ý nghĩ là
phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt. Mặc kệ đầu của Lý Thọ, ta cứ phải chạy để giữ đầu của mình cái đã.

Không ngờ Lý Thọ lại dám túm lấy tay áo ta:

“Nương nương… xin nghe nô tài giải thích…”

Ta giật mình, rút tay áo ra khỏi tay Lý Thọ, trừng mắt nhìn hắn:

“Lý công công! Ta với công công không thù không oán, công công vì sao lại muốn lấy mạng ta?”

Lý Thọ lắc đầu, hốt hoảng nói:

“Nô tài nào có ý đó! Hôm nay nô tài to gan giả truyền thánh ý cũng là việc
bất đắc dĩ… chỉ là để mời nương nương di giá, không thể làm khác…”

Lý Thọ càng nói càng hoảng, vòng vo mãi vẫn chưa nói ra chuyện gì. Ta đã
sợ đến run người, không chịu được nữa, đang định túm váy bỏ chạy thì
nghe một giọng nói từ sau lưng truyền đến:

“Hòa phi nương nương, xin nghe lão nô nói một lời!”

________________

(1) Lấy ý từ điển tích về Di Tử Hà và vua nước Vệ:

Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua,
thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya có người đến
gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy, khen rằng: “Có
hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân.”

Lại một hôm, Di Tử Hà, theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa, đưa cho Vua ăn. Vua nói:” Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta.”

Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà
như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: “Di Tử Hà trước dám
thiện tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa.
Thực mang tội với ta đã lâu ngày.”

Nói xong bắt đem trị tội.

(2) Hạ chí: 21 – 22/6
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 33


Nhìn lại phía sau, ta không khỏi giật mình, Tô Trường Tín đang quỳ ngay ngắn dưới đất, dập đầu lạy ta đúng ba cái.

Quá bất ngờ, ta vội vàng tiến đến nâng Tô Trường Tín dậy.

Tô Trường Tín là người Hoàng Đế tín nhiệm nhất. Ở cạnh một kẻ tính khí thất thường như Hoàng Đế bao năm nay mà vẫn sống tốt đủ chứng tỏ trong lòng Hoàng Đế, ông ta có một vị trí nhất định, hơn nữa thủ đoạn cũng không thua kém một ai. Người như thế ta không dám đắc tội. Dù trong lòng thấp thỏm không yên vẫn phải cố gượng lại mà nghe ông ta nói.

Tô Trường Tín rõ ràng là quỳ để ép ta. Ta nâng thế nào ông ta cũng chẳng chịu đứng dậy, kiên quyết quỳ nói chuyện:

“Nương nương nhìn thấy người đang quỳ dưới đất nghe Hoàng Thượng trách tội không? Ngài ấy là một trong ba vị nguyên lão tam triều còn lại của Bách Phượng, tên gọi Đới Thụy.”

Qua lời Tô Trường Tín, ta được biết thành Thanh Ba mùa màng thất thu đã mấy năm nay, dân chúng đói khổ không sao kể xiết, tiếng oán thán lên tới tận trời xanh. Lưu quốc sư hiến kế xin Hoàng Đế cho xây đài tế trời dùng biện pháp thành tâm cúng tế để lay động thần tiên, phù hộ cho Thanh Ba được mùa no ấm. Hoàng Đế cho rằng lời của Lưu quốc sư vô cùng có lý, liền mở kim khẩu ban cho Lưu quốc sư một trăm vạn lượng hoàng kim để đi xây đài làm lễ. Các quan viên chính trực đều phản đối mà trong đó người phản đối dữ dội nhất là Đới Thụy. Ông ta dùng thân phận nguyên lão tam triều, tháo mũ ô sa can gián. Hoàng Đế vì vậy mà nổi trận lôi đình, đang đòi lôi Đới Thụy ra chém.

Ta vừa nghe xong, đầu đã đổ đầy mồ hôi.

Tô Trường Tín quỳ dưới đất, sắc mặt tăm tối:

“Đới đại nhân là nguyên lão tam triều, cả đời tận trung tận lực vì nước vì dân. Chẳng những năm xưa có công phò tá Tiên Đế lên ngôi mà còn từng không ít lần liều mạng cứu giá… Người như ngài ấy không thể bị chém đầu được! Năm trước… năm trước Hoàng Thượng đã chém đầu hai vị ngôn quan khiến cho triều đình nổi cơn sóng gió… Nếu như hôm nay thật sự chém đầu Đới đại nhân… e rằng sẽ khiến trung thần bất mãn, triều chính tắc loạn, không thể cứu vãn…”

Lời Tô Trường Tín nói không sai. Hôm nay Đới Thụy mà chết chính giọt nước làm tràn ly, chỉ sợ ngai vàng của Hoàng Đế cũng lung lay theo.

Hai tay ta run lên.

“Hậu cung không thể can chính, Tô tổng quản, ngài phải biết điều này chứ?… Hơn nữa… ta chỉ là một phi tử bình thường, cho dù ta liều cái mạng này đi khuyên giải, Hoàng Thượng cũng sẽ không nghe…Nếu ngài muốn tìm người can gián Hoàng Thượng thì nên tìm Hoàng Hậu… hoặc là Liễu Thục phi chứ? Cứ cho là ta không cần mạng nữa, nhưng nếu Hoàng Thượng nổi giận chém luôn cả ta vậy thì Bách Phượng và Tùy Khâu biết phải làm thế nào?”

Ta đã nói đến mức này vậy mà Tô Trường Tín vẫn cứ cố chấp lắc đầu:

“Không đâu… Hoàng Thượng rất coi trọng mối liên hôn với Tùy Khâu cho nên tuyệt đối sẽ không chém đầu nương nương… Lão nô không phải là không nghĩ đến Hoàng Hậu và Thục phi nương nương, nhưng chuyện này chỉ có người làm được mà thôi!”

“Ngài… thật khiến ta tức chết! Ngài dựa vào đâu mà nói ta làm được?!”

“Hoàng Thượng… tính cách của Hoàng Thượng trước nay có phần nóng nảy, thế nhưng người chưa bao giờ nổi giận với nương nương… Tuy ân sủng của Hoàng Thượng dành cho nương nương không thể tính là nhiều, nhưng có thể khiến Hoàng Thượng trở nên hiền hòa vui vẻ như thế… trước nay chỉ có mình nương nương mà thôi. Lần trước lão nô đã tận mắt nhìn thấy Hoàng Thượng vốn đang giận dữ như vậy, nhưng chỉ cần gặp nương nương liền nguôi giận, lại còn chịu uống thuốc… Thường ngày, tuy không gặp nương nương nhưng Hoàng Thượng luôn hỏi thăm sinh hoạt của người… Hoàng Thượng luôn để tâm đến nương nương. Cho nên người có thể cản Hoàng Thượng chỉ có thể là nương nương mà thôi! Nương nương, xin người hãy nghĩ cho đại nghiệp thiên thu của Hoàng Thượng!”

Tô Trường Tín nói hết lời, cúi lạy thêm ba cái thật mạnh, đầu đập xuống nền đá phát ra tiếng binh binh đáng sợ. Ta làm sao không hiểu những điều Tô Trường Tín nói. Chém đầu trọng thần sẽ khiến lòng người đại loạn, bây giờ căn cơ của Hoàng Đế chưa vững, trong triều không còn bao nhiêu thần tử hắn có thể dựa vào. Triệu tướng, Liễu thái phó, Hà thái sư – ba người này lúc nào cũng tận lực bành trướng, vốn không hề xem Hoàng Đế ra gì mà bản thân Hoàng Đế còn phải nể nang bọn họ. Bên ngoài, tứ đại thần quốc nay chỉ có quân vương Bách Phượng này trẻ tuổi non nớt, cả ba nước còn lại đều như hổ đói rình mồi. Chẳng qua vì Tiên Đế anh minh thần võ, hơn ba mươi năm trị vì đã xây dựng Bách Phượng giàu mạnh hùng cường, sau khi Tiên Đế băng hà, Huệ Từ Thái Hậu nhiếp chính ba năm đã ổn định cục diện, về quân sự lại có Triệu tướng gia trấn thủ vững vàng nên mới giữ được sự thái bình tạm bợ hiện giờ, cũng nhờ vậy mới có công chúa hòa thân là ta. Nếu ngày hôm nay đầu lão thần Đới Thụy kia thật sự rơi xuống sẽ khiến trung thần nguội lòng, triều chính rối ren tất kéo theo ngoại xâm, nội loạn, hậu quả khôn lường. Ngôi cửu ngũ kia e rằng Hoàng Đế ngồi không nổi nữa.

Không còn Quang Nhật Đế, lấy đâu ra Hòa phi?

Một giọt mồ hôi lạnh lẽo chảy dọc từ thái dương của ta, lăn dài xuống cằm.

Ta ngoảnh đầu nhìn vào bên trong ngự thư phòng, đã có thêm vài vị quan quỳ xuống khuyên ngăn. Lão thần Đới Thụy tuy đang quỳ nhưng vai lưng thẳng tắp, đầu ngẩng cao, khí thế ngời ngời, không hề có chút sợ hãi. Bên cạnh, một nam tử mặc đạo bào màu xám khói, tuổi tầm ba mươi thản nhiên mỉm cười. Ta đoán người này chính là Lưu quốc sư, Lưu Thiên, kẻ đã đề ra cái biện pháp cứu tế quái gở kia. Hoàng Đế lúc này đã giận đến cực điểm, hắn đập bàn, gầm lên:

“Đới Thụy! Ngươi cho rằng ngươi là nguyên lão tam triều thì trẫm không dám giết ngươi thật sao?”

Đới Thụy nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, không hề e dè đáp:

“Vi thần chỉ là nghĩ cho Bách Phượng. Con dân Bách Phượng ở Thanh Ba còn đang chết đói, Hoàng Thượng lại muốn đem một trăm vạn lượng hoàng kim đó cho tên đạo sĩ này đi xây đài tế thần sao? Số vàng đó có thể cứu sống bao nhiêu người, Hoàng Thượng có biết không? Nếu ngày hôm nay không thể ngăn cản Hoàng Thượng, để người nghe lời nịnh thần, làm điều càn quấy… xem như phụ lòng Tiên Đế giao phó, Đới Thụy chết không hối tiếc.”

Tuy tuổi tác đã cao nhưng giọng nói âm vang, quyết liệt, khiến Hoàng Đế tức nghẹn:

“Lão già chết tiệt! Ngươi đang đem phụ hoàng ra uy h**p trẫm?”

“Hoàng Thượng bớt giận, Đới đại nhân làm sao lại có ý bất kính như thế được?”

Lưu Thiên cười cười, phẩy nhẹ cây phất trần trên tay, bộ dạng bỡn cợt ấy càng làm cho ta tin lời Đới Thụy. Lưu Thiên nhìn giống hệt một tên nịnh thần khoác tấm áo đạo sĩ dở hơi, không sai một li.

Liền sau đó, một vị quan trẻ tuổi dáng người cao lớn quỳ sau lưng Đới Thụy cũng dập đầu mà nói:

“Khởi bẩm Hoàng Thượng, ngoại tổ phụ của thần tuổi tác đã cao, lại tính khí cương trực, nói thực lời trong tâm, cho nên lời lẽ không được hoa mỹ… Nhưng tấm lòng trung quân ái quốc của ông là thật, thỉnh Hoàng Thượng tam tư!” (1)

Người này vừa dứt lời, lập tức mấy vị đang quỳ khác cũng dập đầu ầm ầm:

“Hoàng Thượng, thỉnh tam tư!”

Tình thế lúc này căng như dây đàn. Cả ta lẫn Lý Thọ, Tô Trường Tín đều sợ đến mặt cắt không còn giọt máu.

Tô Trường Tín run run nói:

“Nương nương, nếu lúc này người không ngăn Hoàng Thượng lại thì sẽ không còn kịp nữa… Tương lai…”

Tô Trường Tín chỉ khẽ nói hai chữ “tương lại” rồi im bặt, nhưng ta biết ý ông chính là nếu bây giờ không ngăn Hoàng Đế lại, tất cả chúng ta chẳng ai còn có tương lai.

Nhưng, tương lai… chẳng phải vẫn còn chưa đến hay sao?

Cho dù hôm nay Đới Thụy bị lôi ra chém đầu thật thì đại loạn kia cũng chẳng giáng xuống ngay. Nhưng nếu ta bước chân vào ngự thư phòng lúc này, ngay trước mặt đám đại thần đó… Mạng của ta coi như xong, không chừng còn có thể về Tây Thiên trước cả Đới Thụy.

Ta cắn môi, trong chớp mắt đưa ra quyết định: Thiên thu đại nghiệp là của Hoàng Đế thì hắn tự đi mà lo. Ta chỉ là một nữ tử nhát gan, ta vẫn nên lo cho cái mạng của mình thì hơn.

Trớ trêu thay, khi ta đã quyết định xách váy bỏ chạy thì cảm thấy sau lưng bị đẩy mạnh một cái, thân thể theo quán tính lao thẳng vào bên trong ngự thư phòng, ngã chúi nhủi.

Đám quân thần đang tranh cãi kịch liệt kia, quả nhiên bị cú ngã hiên ngang của ta làm kinh hãi. Tất thảy đồng loạt im bặt. Mọi ánh mắt đều dồn lên trên người ta. Lúc này, sau lưng ta vang lên giọng nói eo éo, hơi run rẩy của Lý Thọ:

“Khởi bẩm Hoàng Thượng, Hòa phi nương nương cầu kiến!”

Ta quay đầu, quắc mắt nhìn Lý Thọ, chỉ hận không thể hét lên: Hôm nay nếu ta bỏ mạng ở đây thì cho dù có làm ma cũng sẽ theo ám ngươi cả đời!

Lý Thọ giật mình, cụp mắt xuống, giả vờ không thấy.

Chợt nghe giọng Hoàng Đế hậm hực cất lên:

“Hòa phi tìm trẫm chẳng hay có việc gì?”

Vừa nghe liền biết hắn đang kiềm chế cơn giận trong lòng, cố gắng nói năng bình thường với ta.

Hoàng Đế đang giận nhưng vẫn nhớ kiên nhẫn với ta. Đây là một dấu hiệu tốt. Ta tự nhủ phải thật bình tĩnh, mọi chuyện vẫn còn có thể cứu vãn.

Nghĩ vậy, ta lồm cồm bò dậy, chỉnh trang váy áo cẩn thận rồi lại nghiêm chỉnh quỳ xuống dập đầu thỉnh an:

“Thần thiếp bái kiến Hoàng Thượng, Hoàng Thượng vạn tuế vạn vạn tuế!”

Hoàng Đế phẩy tay:

“Được rồi, miễn lễ đi. Có chuyện gì mau nói, đừng cản trở trẫm nghị luận cùng các vị đại thần.”

Phần kiên nhẫn trong giọng Hoàng Đế đã nhạt đi một ít.

Toàn thân ta phát lạnh, chỉ có thể vâng lời, chật vật đứng lên. Hai bàn tay giấu dưới tay áo đã run bần bật. Ta biết nói cái gì đây?

Chẳng lẽ lại nói ta đến để can gián? Bảo hắn đừng giết Đới Thụy?

Không ổn.

Không ổn chút nào.

Hậu cung không thể can chính, nói như vậy chẳng khác nào tự tìm cái chết.

Nhưng không nói vậy thì nói cái gì đây?

Ông trời ơi! Vì sao lúc nào số mệnh ta lại đen đủi như vậy!

Trong lúc cái đầu nhỏ bé của ta đang đau nhức thì Đới Thụy lại hừ lạnh một cái:

“Ngự thư phòng là nơi phi tử muốn đi vào là đi vào sao? Thật chẳng ra thể thống gì!”

Đầu ta như muốn nổ bùm một tiếng.

Lão già chết tiệt!

Tại vì lão mà ta bị Lý Thọ ném vào đây, tính mạng như chỉ mành treo chuông. Vậy mà lão còn có thể móc mỉa ta được! Thời khắc này ta thật sự muốn để Hoàng Đế chém quách cái đầu chết tiệt của lão đi cho rồi.

“Phi tử của trẫm như thế nào, không cần Đới đại nhân phải nhọc lòng.”

Hoàng Đế cười khẩy, mỉa mai Đới Thụy.

Bây giờ Hoàng Đế đang tức giận Đới Thụy, mà còn mở miệng bênh vực ta, khiến cho những quan viên còn lại chỉ dám nhìn ta bất mãn.

“Rốt cuộc nàng đến đây có việc gì?” Hoàng Đế lại nhìn ta.

“Thần thiếp…”

Tuy Hoàng Đế đã bênh vực ta, nhưng nhìn sắc mặt hắn, ta hiểu sự kiên nhẫn hiếm hoi của hắn dành cho ta đang dần vơi đi. Nếu ta không nói gì đó ngay… e rằng không kịp nữa.

Nhưng nói gì đây?

Ánh mắt Đới Thụy và những vị quan khác nhìn ta vừa khinh bỉ vừa bất mãn như nhìn một yêu phi. Lưu Thiên ngược lại có phần cao hứng khi nhìn người khác gặp họa.

Trái tim ta đập càng lúc càng mạnh. Ta tưởng như nó đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực mình.

Ngực…

Phải, nhắc đến ngực, ta mới chợt nhận ra, ngực áo ta hình như hơi cộm. Hôm nay bởi vì đi quá vội nên ta chỉ kịp thay áo ngoài, còn trung y vẫn là đồ cũ. Như vậy, vật trong áo ta chính là…

Tim ta thắt lại một cái, không nghĩ đến phép tắc nổi nữa, bàn tay cứ thể lần vào trong ngực áo, lấy ra một cái túi thơm.

Cái túi thơm này vốn là thứ Tiểu Phúc Tử xin ta khi trước. Ta vốn định mang theo để mùi thảo dược trên người ngấm qua đó rồi mới đưa cho hắn. Nhưng sau vụ việc Đức phi, ai nấy đều hoảng loạn sợ hãi, có lẽ Tiểu Phúc Tử cũng đã quên béng đi việc này. Chỉ có ta vẫn thuận tay mang theo bên người.

Hai tay ta run bần bật không khống chế nổi. Túi thơm trên tay bỗng nặng như chì. Một suy nghĩ điên rồ lướt qua đầu khiến ta rùng mình một cái.

Ta mím chặt môi, cố rặn ra một nụ cười méo xệch, cầm chặt túi thơm trong tay đi từng bước lại gần Hoàng Đế.

Cuối cùng khi chỉ còn cách hắn ba bước, ta lại quỳ xuống, hai tay run run đưa cái túi thơm lên, đầu cúi thấp:

“Thần thiếp luôn tưởng nhớ Hoàng Thượng… cho nên đã tự tay làm cái túi thơm cát tường này… hi vọng Hoàng Thượng mang bên người sẽ được đại cát đại lợi…”

Không gian yên lặng như tờ.

Ta cúi đầu rất thấp, không nhìn thấy biểu cảm của Hoàng Đế. Nỗi sợ hãi lớn dần trong lòng, đến nỗi máu trong người như đông lại, ngay cả hô hấp cũng trở nên khó khăn.

Cảm nhận được túi thơm trong tay bị Hoàng Đế nhấc lên, ta bèn lén lút ngẩng đầu nhìn.

Hoàng Đế cầm túi thơm của ta bằng hai ngón tay, mắt dán chặt trên đó săm soi. Sắc mặt hắn chuyển từ giận dữ sang kinh ngạc, rồi sang kiềm nén, sau đó như không nhịn nổi nữa, ôm bụng cười phá lên.

Không sai, Quang Nhật Đế nổi tiếng tính khí thất thường, tàn bạo vô lối đang cúi gập người, cười đến vặn vẹo:

“Nàng… tự tay làm cái này sao?”

Hoàng Đế cười khàn cả giọng, kẹp cái túi thơm bằng hai ngón tay đưa đến trước mặt ta.

“Dạ phải.”

“Tại sao trên túi thơm lại thêu một con sâu róm?”

“Đó… là một chiếc lá!”

“Ha ha ha ha…”

Hoàng Đế lại cười ngặt nghẽo. Quan viên chung quanh, ai nấy mặt mũi đều nửa đỏ nửa xám, rõ ràng là đều buồn cười nhưng lại không dám. Riêng lão thần Đới Thụy mặt đã đen như đít nồi.

“Lưu Thiên, ngươi nói xem, đây là cái lá sao? Rõ ràng là một con sâu róm xanh rì, mập ú!”

Hoàng Đế quay sang phía Lưu Thiên, huơ huơ cái túi thơm trước mặt hắn.

Lưu Thiên mỉm cười, cung kính chắp tay đáp:

“Thẩm mỹ của Hòa phi nương nương đặc biệt hơn người. Lưu Thiên bái phục.”

Hai má ta nóng lên. Không cần nhìn cũng biết sắc mặt ta khó coi đến mức nào.

Thể trạng Hoàng Đế vốn không tốt, nay cười một lúc lâu như thế, xem chừng đã hụt hơi. Hắn vỗ vỗ ngực, hít sâu một hơi:

“Ha… Ái phi có lòng như vậy, trẫm không thể bạc đãi. Trưa nay, trẫm cùng nàng dùng ngọ thiện. Bây giờ qua đó đợi một chút đi, trẫm viết thánh chỉ chém lão già này xong sẽ đến chơi với nàng.”

Hoàng Đế nhét túi thơm vào tay áo rồi phẩy phẩy tay ra hiệu bảo ta đi vào trong góc đứng. Ta lấm lét nhìn Hoàng Đế, thấy nét mặt hắn đã trở nên bình thản như không có chuyện gì cả, trong lòng càng lo lắng hơn. Lúc hắn ra lệnh trượng tễ Mai Quyên, nét mặt cũng y hệt bây giờ. Mở miệng đòi chém nguyên lão tam triều mà có thể thản nhiên như thế, e rằng trên đời này chỉ có mỗi mình hắn làm được mà thôi.

Hoàng Đế thấy ta đứng ngây một chỗ, liền phẩy tay thêm mấy cái, cười cười nói:

“Này, nàng còn đứng ở đó làm gì? Nhớ trẫm đến nỗi không muốn dời đi sao?”

Nếu bây giờ ta ngoan ngoãn nghe lời Hoàng Đế, coi như việc can gián gì đó không liên quan tới mình, liệu có thể bình an vô sự thoát khỏi nạn này hay không?

Câu hỏi vừa hiện ra trong đầu, ngay lập tức ta đã tự có lời đáp.

Không có khả năng.

Ta đã bước vào ngự thư phòng này, ngay lúc Hoàng Đế đang cùng đại thần nghị luận, về bản chất đã có thể bị khép vào tội hậu cung can chính rồi.

Dù Hoàng Đế không nổi giận với ta, Thái Hậu sẽ không bỏ qua cho ta, Hoàng Hậu càng không dung túng ta. Đó là còn chưa kể đến Liễu Thục phi, Triệu Đức phi.

Chém đầu rường cột triều đình là sai lầm vô cùng nghiêm trọng. Nếu lần này có thể ngăn cản Hoàng Đế giết Đới Thụy, ta còn có thể viện cớ vì tận trung suy nghĩ cho thiên hạ Bách Phượng, cộng thêm với thân phận công chúa hòa thân, có lẽ còn có đường sống. Còn nếu bây giờ nhắm mắt làm ngơ… e rằng tương lai của ta coi như xong rồi.

Bởi vì tên Lý Thọ chết tiệt kia, vận mệnh của ta tự dưng lại bị cột chặt vào cái đầu của lão thần Đới Thụy.

Đã leo lên lưng cọp, không còn nghĩ được đường lui.

Ngay cả chuyện mất thể diện như việc lấy cái túi thơm xấu xí như vậy ra tặng Hoàng Đế ngay trước mặt triều thần ta cũng làm rồi, bây giờ còn chuyện gì phải ngại?

Ngước mắt nhìn Hoàng Đế, chạm phải ánh mắt trong trẻo của hắn đang tò mò nhìn ta, ta thầm nhủ, tiến cũng chết mà lùi cũng chết, chi bằng cứ liều mạng một phen.

Nghĩ xong liền bước đến níu tay áo Hoàng Đế, cố gắng ép cho giọng nói thành mềm mỏng nhất:

“Hoàng Thượng, giết ông ấy làm gì? Tốn thời gian quá… Thần thiếp thật sự nhớ người đến nỗi không muốn xa người một khắc nào cả!”

Khi Hoàng Đế hỏi câu kia, hiển nhiên là đang đùa chứ không hề nghĩ ta thực sự chạy lại níu áo hắn làm nũng như vậy. Thế nên, hành động quái dị của ta không những làm cho quan viên trong điện choáng váng nín thở mà còn khiến Hoàng Đế sững sờ, thậm chí còn có phần sợ hãi.

“Nàng… nàng…” Hoàng Đế trợn mắt nhìn ta trân trối, nói mãi không nên lời.

“Đi mà…” Ta cắn cắn môi, giương mắt long lanh nhìn hắn, kiên quyết mặt dày bám lấy tay áo hắn không buông.

Sau một khắc kinh ngạc, cuối cùng Hoàng Đế bật cười, vươn tay xoa xoa đầu ta, dỗ dành:

“Nguyệt nhi vậy mà cũng biết nhõng nhẽo nhỉ? Ngoan, đi qua bên kia đợi trẫm một lát, trẫm viết thánh chỉ luôn rất nhanh, không để nàng đợi lâu đâu. Giết Đới Thụy xong, chúng ta lập tức đi chơi, được không?”

Lúc này, bản thân ta cũng kinh ngạc, không thể tin Hoàng Đế lại có thể kiên nhẫn với ta như thế. Nhưng… Phóng lao đành phải theo lao.

“Thần thiếp không thích. Giết người có cái gì vui đâu? Hoàng Thượng đừng giết ông ấy, chán lắm! Mau cùng thiếp đi chơi thôi!”

Hoàng Đế không cao hơn ta, nhưng bây giờ hắn đang đứng trên bậc thềm, vậy nên ta lại thành ra thấp hơn hắn một cái đầu. Ta ngẩng đầu, dùng ánh mắt mong chờ nhìn thẳng vào đôi mắt trong trẻo dịu dàng của Hoàng Đế. Trước đây, mỗi lần ta và hắn nhìn nhau, ta luôn là người dời mắt đi trước. Nhưng hôm nay, ta cố hết sức kiềm chế nỗi sợ hãi trong lòng để nhìn sâu vào mắt hắn.

Từ nãy đến giờ ta cứ nghĩ hắn thực sự sẽ giết Đới Thụy, và điều đó khiến ta như ngồi trên đống lửa.

Nhưng trong lúc này, khi đối diện với Hoàng Đế, trực tiếp, không né tránh, ta mới cảm thấy có lẽ mình đã lầm rồi.

Hoàng Đế không phải kẻ ngốc.

Dẫu cho quyền lực của hắn không trọn vẹn, dẫu cho Triệu Tướng, Liễu Thái phó, Hà Thái sư luôn lăm le tranh quyền đoạt vị, thì thế cục ba chân này vẫn ổn định như vậy, không bên nào giành được nhiều lợi thế hơn bên nào. Duy trì một cục diện quyền lực phân chia cân đối, vững vàng không phải là việc đơn giản như vẻ bề ngoài. Chỉ cần một chút sơ hở cũng có thể khiến quyền lực lệch về một bên, dẫn đến chính loạn. Cứ cho là ba năm trước có Huệ Từ Thái Hậu thay hắn ổn định triều chính, vậy ba năm nay thì sao? Chẳng phải đến bây giờ thế kiềng ba chân của ba nhà Triệu – Liễu – Hà vẫn vững vàng như vậy? Nếu Hoàng Đế thực sự là một tên tiểu tử vô dụng, có lẽ đã sớm bị mấy lão già kia ăn thịt mất rồi.

Dựa vào điểm này, ta chợt nghĩ, có lẽ Hoàng Đế không thực sự định giết Đới Thụy.

Có lẽ hắn nổi giận lôi đình như vậy là vì lí do khác.

Có lẽ… là đang diễn trò cho kẻ khác xem chăng?

Lâu nay ta đã quên một việc: Hoàng Đế cũng giống như ta. Hắn cũng là một đứa trẻ sinh ra trong Hoàng tộc, lớn lên trong hậu cung hiểm ác. Thuở nhỏ hắn cũng từng bị người ta ném xuống hồ, để lại di chứng đeo đẳng hắn cả đời. Ngọt, bùi, cay, đắng… đã nếm đủ những mùi vị này, liệu còn có thể đầu óc đơn giản sao?

Bởi vậy, chuyện ngày hôm nay… chúng ta có lẽ đều lầm cả rồi.

_________________

Nguyên câu là “Tam tư hậu hành” (三思後行), nghĩa là “suy nghĩ ba lần rồi hãy làm”. Khi quan viên khuyên can vua, thường dùng chữ “tam tư”, ý bảo vua hãy suy nghĩ lại thật cẩn thận trước khi quyết định.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 34


“Được.”

Hoàng Đế mỉm cười sáng lạn, như mặt trời rẽ mây mù soi sáng nhân gian, cũng là soi sáng tương lai mờ mịt của ta. Một tiếng “được” nhẹ bẫng của hắn khiến cho không biết có bao nhiêu trái tim đang treo cao cuối cùng cũng có thể hạ xuống. Máu trong người ta vốn đang đông cứng vì sợ hãi cũng dần dần tan ra, lưu thông trở lại.

“Đã như vậy, chúng ta đi thôi. Trẫm nhìn mặt mấy lão già này phát ngấy rồi.”

Hoàng Đế cười cười bước xuống, thản nhiên bế xốc ta lên rồi rời khỏi ngự thư phòng, đi thẳng về phía Noãn các. Ta bị bất ngờ, chỉ biết ôm chặt lấy cổ Hoàng Đế, một tiếng cũng không dám kêu lên.

Nhìn lại phía sau, mọi người hầu hết đều há hốc miệng kinh hãi không nói nên lời. Có lẽ Hoàng Đế làm việc rất tùy hứng nhưng hành động sỗ sàng như vậy ngay tại ngự thư phòng, trước mặt đại thần như thế thì đây là lần đầu.

Lão thần Đới Thụy giận đen cả mặt, đầu như bốc khói, gằn giọng mắng:

“Công chúa hòa thân sao? Rõ ràng là hồng nhan họa thủy của Tùy Khâu đưa đến mê hoặc Hoàng Thượng thì có!”

Lưu Thiên cười nhạt, sự khách sáo nửa vời ban nãy đã chẳng còn:

“Về thân phận, Hòa phi nương nương là đại công chúa Tùy Khâu. Về địa vị, nàng ấy là nhất phẩm hoàng phi của Hoàng Thượng. Đới đại nhân là thần tử, lại đi nói những lời như vậy thật quá phận rồi.”

Đới Thụy nghe xong càng giận:

“Ngươi…”

Lưu Thiên giữ nguyên vẻ mặt cười cợt, nói tiếp:

“Lại nói, như thế nào là “hồng nhan họa thủy”? Đát Kỷ phá Trụ, Tây Thi diệt Ngô. Hai người ấy xưa nay nổi danh hồng nhan họa thủy chẳng sai. Nay Hoàng Thượng sủng ái Hòa phi nương nương, Đới đại nhân lại gọi nàng ấy bốn chữ hồng nhan họa thủy, chẳng khác nào ví Hoàng Thượng với bọn hôn quân Trụ Vương, Phù Sai cả!”

Mồm mép Lưu Thiên còn trơn tru hơn Triệu Đức phi. Đới Thụy lăn lộn quan trường mấy mươi năm, nhưng chung quy là người trung nghĩa, cương trực thẳng thắn, về khoản đấu võ mồm thật không sánh bằng Lưu Thiên, bị Lưu Thiên nói cho mấy câu đã giận đến cơ mặt co giật. Đới Thụy không bị Hoàng Đế chém chết nhưng chưa biết chừng sẽ bị Lưu Thiên chọc tức chết.

Vị gọi Đới Thụy là ngoại tổ phụ nhìn cảnh này, vội vàng chen vào giữa, đỡ lấy Đới Thụy:

“Ngoại tổ phụ, đừng đôi co với hạng đạo sỹ thối tha này làm gì!”

Cảnh tượng hỗn loạn sau lưng làm ta sợ run, càng cố sức bám chặt lấy cổ Hoàng Đế, chỉ sợ hắn nghe những lời kia sẽ nổi giận mà quay lại chém sạch mấy người bọn họ. Hành động này của ta hình như lại khiến Hoàng Đế hiểu lầm. Hắn nghiêng đầu, khẽ áp vào má ta, thì thầm:

“Đừng để tâm đến mấy lão già đó.”

Thì ra hắn nghĩ ta vì mấy lời này mà đau lòng.

Ta cắn môi, khẽ lắc đầu.

Hoàng Đế mang ta đi xa dần. Khung cảnh hỗn loạn kia cũng dần thu nhỏ lại. Xa xa, ta thấy Lý Thọ và Tô Trường Tín chạy vào, có vẻ như khuyên giải Đới Thụy gì đó. Khoảng cách quá xa, ta không còn nghe được bọn họ nói gì.

***

Điều khiến ta bất ngờ là sau khi mang ta vào trong Noãn các, Hoàng Đế lại để ta ngồi lên bệ cửa sổ. Chỗ này không cao lại làm bằng gỗ nguyên khối vững chắc, không có gì đáng sợ, nhưng ngược lại, thái độ của Hoàng Đế mới là thứ khiến ta chẳng thể yên lòng.

Hắn đứng sát trước mặt, hai tay vẫn còn ôm ngang thắt lưng ta. Chỉ đứng như vậy mà không nói gì cả, hẳn là đang nhìn ngắm khung cảnh bên ngoài. Ta lại không thể nhìn thấy biểu cảm trên mặt hắn, không biết hắn nghĩ gì, cảm thấy thế nào, chỉ có thể đoán già đoán non.

Noãn các yên lặng như tờ, thoang thoảng mùi hương dạ lan ấm áp. Cửa sổ này của Noãn các hướng ra một hoa viên nhỏ, nổi bật nhất là thảm cỏ xanh mướt tầm mắt, chỉ điểm xuyết vài chậu hoa cúc nhỏ đủ màu sắc, đơn giản hơn bất cứ hoa viên của bất cứ cung điện nào. Thứ âm thanh duy nhất tồn tại là tiếng gió lùa cây cỏ sau lưng ta từ bên ngoài cửa sổ truyền vào và tiếng nhịp tim của ta và Hoàng Đế.

Sự tĩnh lặng này làm đầu óc vốn đang căng như dây đàn của ta thư thái trở lại. Những chuyện vừa qua như những hạt châu rơi vãi tung tóe trong đầu ta, giờ đây dần dần xâu kết lại. Nghĩ qua một lượt, ta mới nhận ra ban đầu mình đã nhận định sai cả rồi.

Tô Trường Tín và Lý Thọ nói cho cùng vẫn chỉ là hai thái giám. Dù Hoàng Đế có trọng dụng hai người bọn hắn đến đâu cũng sẽ không chấp nhận bọn hắn làm ra chuyện như vậy. Bọn hắn có thể là những tên nô tài trung thành nhưng không phải là kẻ ngốc đâm đầu tìm cái chết. Hành vi của Lý Thọ và Tô Trường Tín nhất định có liên quan đến Hoàng Đế. Có lẽ là Hoàng Đế chỉ thị hoặc là ngầm tỏ ý như vậy.

Hoàng Đế không muốn giết Đới Thụy cho nên muốn tìm người đến phá rối, để hắn có cớ tha cho Đới Thụy. Nhưng nếu từ đầu hắn đã không muốn giết Đới Thụy vậy cần gì phải làm ra như vậy? Vở kịch này hắn muốn diễn cho ai xem? Là Triệu Tướng, Liễu Thái phó hay Hà Thái sư? Hắn rốt cuộc đang mưu tính cái gì?

Đây đều là những câu hỏi không có lời giải. Ta không phải quân vương một nước, đã không biết chính trị lại không thật sự hiểu thời thế, cho nên không cách nào lý giải được. Ta chỉ biết Hoàng Đế muốn diễn vở kịch hôn quân vô đạo, lại muốn có người hợp tác cản trở, ta đã giúp hắn hoàn thành tâm nguyện ấy. Vở kịch này ta đã phối hợp với hắn vô cùng tốt. Bấy nhiêu đã là đủ rồi.

Ở nơi này, nếu nói đến chỗ dựa, ta hẳn chỉ có mình Hoàng Đế mà thôi. Vinh sủng đều do hắn mà có, vậy chỉ cần dựa vào hắn, thuận theo ý hắn là được. Nghĩ nhiều mà làm gì?

“Này, nàng rủ trẫm đi chơi cơ mà? Sao lại ngẩn ra đấy?”

Hoàng Đế đột ngột lên tiếng.

Ta hơi giật mình, thầm nghĩ không phải là do hắn đứng ngẩn ra trước hay sao?

“Thần thiếp bêu xấu rồi.”

Ta cúi đầu, lợi dụng khoảng cách gần mà tì trán vào ngực Hoàng Đế, cố tỏ ra thân mật một chút.

Thật ra đây cũng là một câu thật lòng. Dựa và tuổi tác và dung mạo của ta, làm nũng như vậy chẳng khác nào tự diễu cợt mình. Cho dù là vì tự cứu mạng mình thì hành động này cũng quá mức khó coi. Mai này truyền ra ngoài, ta sẽ còn nhiều ngày tháng không dễ chịu.

Hoàng Đế bật cười, đưa tay xoa xoa đầu ta:

“Có cái gì mà bêu xấu? Trẫm thích là được, phải không?”

“Dạ.”

Hoàng Đế v**t v* tóc ta, nói tiếp:

“Sao hả? Nếu không có thứ gì vui, trẫm sẽ đi đọc tấu chương đấy.”

Ta nghĩ nghĩ một lát rồi đáp:

“Hoàng Thượng thích làm gì, thần thiếp bồi Hoàng Thượng.”

Hoàng Đế buông tay, xoay người ngồi lên bậc cửa sổ cạnh bên ta, ra chiều ngẫm nghĩ:

“Trẫm xưa nay, ngoại trừ mỹ nhân ra… thì thích nhất là ngâm thơ, hoặc là chơi cờ. Nàng biết cái nào?”

Trên trán của ta, một giọt mồ hôi lạnh không biết từ khi nào đã xuất hiện một cách thần bí. Ta không phải mỹ nhân, không biết ngâm thơ, càng không biết chơi cờ. Hoàng Đế sao không biết chuyện này, hắn nói như thế rõ ràng là làm khó ta.

“Thần thiếp… không biết cái nào cả.”

Ta ngượng ngùng đáp.

Hoàng Đế trêu ghẹo người khác thành công, cười đắc ý:

“Như vậy nàng biết cái gì?”

Ta lại cúi đầu, lục lọi trí nhớ. Ta biết đá cầu, chọi dế, đánh bạc, bắn chim… và vô số trò thú vị hơn ngâm thơ, chơi cờ nhiều. Nhưng những trò này ta lại không có gan rủ Hoàng Đế chơi cùng.

“Sao lại ngẩn ra nữa rồi?”

Hoàng Đế thấy làm khó được ta, càng thích ý, đưa tay nhéo mũi ta một cái. Ta giật mình, buột miệng đáp:

“Thần thiếp biết đánh đàn.”

Ngay lập tức, vẻ đắc ý trên mặt Hoàng Đế biến mất không còn dấu vết. Ta cười thầm trong lòng. Nhóc con, muốn khó dễ ta sao?

“Hôm trước Tạ tiểu thư vừa dạy thần thiếp khúc nhạc gì đó… ừm, cái gì mà Trường Tương Tư đó… Thần thiếp cảm thấy khúc nhạc này rất ý nghĩa nên ngày đêm luyện tập, vẫn mong có cơ hội đàn cho Hoàng Thượng nghe…”

Lời vừa dứt, sắc mặt Hoàng Đế chuyển thành cứng đơ. Quả nhiên hắn vẫn chưa quên ngón đàn kinh thiên động địa của ta hôm đó.

“Thôi, thôi…” Hoàng Đế phẩy tay. “Hôm nay trẫm không có hứng nghe đàn…”

“Không nghe đàn, vậy làm gì bây giờ?” Ta tròn xoe mắt nhìn Hoàng Đế.

“Thật ra… trẫm đang định rủ nàng đi xem một chỗ…”

Hoàng Đế cười cười lấp l**m cho qua chuyện. Không đợi ta phản ứng, hắn đã nhảy xuống đất, đồng thời kéo ta đi một mạch khỏi Noãn các.

“Hoàng Thượng, chúng ta đang đi đâu vậy?”

“Đến đó nàng tự sẽ biết.”

***

Nơi thần bí mà Hoàng Đế nói đến ấy thực chất là một gian phòng khuất phía sau Noãn các. Vẻ ngoài của nó hoàn toàn bình thường hệt như mọi gian phòng khác. Điểm đặc biệt duy nhất có lẽ là chiếc biển gỗ sơn son treo trên cửa chẳng có lấy một nét chữ nào. Gian phòng này không có tên, như vậy nghĩa là nó cũng không tồn tại trong sự quản lý của Nội Thị giám.

Nơi này có lẽ là thế giới riêng của Hoàng Đế chăng?

“Tự vào đi!”

Hoàng Đế đẩy ta đến trước hai cánh cửa đóng kín bằng một bộ dạng vô cùng khoái chí, thậm chí còn đôi phần háo hức của một đứa trẻ đang khoe khoang món đồ chơi yêu thích.

Ta lấm lét đặt tay lên cửa, khẽ đẩy một cái, thầm cầu mong cho trong này đừng xuất hiện một con hổ hay một con mãnh thú gì đó. Tính cách Hoàng Đế cổ quái như vậy, ai biết được thứ đồ chơi yêu thích của hắn sẽ là cái gì.

Cánh cửa gỗ nặng nề hé mở.

Trái với lo sợ của ta, bên trong cũng chỉ là một căn phòng thông thường, tạm thời chưa có gì cái nguy hiểm nhảy ra cả.

Ta đưa mắt nhìn Hoàng Đế, thấy hắn vui vẻ gật đầu mới dám chậm chạp tiến vào.

Gian phòng rộng rãi thoáng đãng, ngay chính giữa bày một lò hương lớn, khói từ lò hương lan tỏa trong không khí mang mùi hoa dạ lan. Bởi vì căn phòng được đóng kín cho nên mùi dạ lan vốn nồng ấm càng thêm đậm lại. Ta không hiểu sao Hoàng Đế lại thích loại hương nồng như vậy. Có hai chiếc bàn hình chữ nhật bày dọc theo chiều dài gian phòng, bên trên bàn ngổn ngang đủ loại đồ gỗ, cỡ lớn có tượng quan âm, la hán; cỡ nhỏ có tượng thỏ, mèo, gà…; thậm chí có cả những món như trâm, lược… Cùng với đó là vô số dao, cưa, đục đủ mọi kích thước, trong góc phòng còn chất mấy khối gỗ chưa xẻ, trông hệt như một xưởng mộc đích thực.

Cảnh tượng này làm ta vô cùng kinh ngạc. Con người nóng nảy như Hoàng Đế mà lại có sở thích khắc gỗ, lại còn làm ra được những thứ tỉ mỉ như vậy. Bước đến bên cạnh bàn, ta thấy có đến hơn mười cây trâm gỗ kích thước, kiểu dáng giống như đúc, đều khắc một đóa sen nở rộ. Nhưng đến khi cầm lên nhìn kĩ lại mới rõ, những cây trâm này hẳn đều là bản khắc bị lỗi, bởi độ dài ngắn của những cánh hoa không tương đồng. Chỉ hơi sai lệch một chút, dù cho không xấu cũng vẫn bỏ đi làm lại từ đầu.

Hoàng Đế thì ra là người cầu toàn như vậy.

“Thấy thế nào?”

Hoàng Đế không biết đã đến cạnh ta tự lúc nào.

“Thần thiếp thực bất ngờ.”

Ta mỉm cười, dời mắt nhìn bao quát những phần còn lại của gian phòng. Phía bên trong còn có một giá sách lớn và một thư án ngay ngắn gọn gàng. Cạnh đó là một chiếc sạp gỗ nhỏ và một bàn trà xinh xắn. Ở phần vách tường giữa thư án và sạp gỗ treo một bức tranh lớn.

Từ thời khắc ta nhìn thấy bức tranh kia, ánh mắt ta dường như bị nó hút lấy không sao dứt ra được. Từng bước tiến đến gần, đường nét trên bức tranh dần trở nên sắc sảo. Trái tim ta trong phút chốc lỗi một nhịp.

Mỹ nhân trong tranh đứng giữa bạt ngàn phù dung như mây hồng. Nàng không đứng nhìn chính diện về phía trước mà hơi nghiêng người, đầu hơi ngoảnh lại, nụ cười trên môi như ẩn như hiện, khiến người ta không rượu cũng phải say. Nhìn nàng, ta bất giác nghĩ tới Liên Nhạc. Lại nhớ lời Ngọc Thủy nói, Liên Nhạc vì có vài phần giống Lê Hiền phi cho nên mới được sủng ái. Lòng ta chấn động, nói như vậy mỹ nhân trong tranh này có lẽ chính là vị Lê Hiền phi, Lê Khiết đó.

Nhìn kỹ, quả thật Liên Nhạc cũng chỉ giống Lê Khiết được vài phần mà thôi. Ở hai người có một điểm tương đồng lớn chính là khí chất thanh tao, đường nét ưu nhã hiếm thấy. Nhưng Liên Nhạc lại quá mức rụt rè, quá mức mong manh. Ánh mắt của Liên Nhạc không có được thần thái ung dung tự tại như Lê Khiết. Dáng vẻ của Liên Nhạc cũng không có sự phóng khoáng mà tự nhiên của Lê Khiết. Trước khi nhìn thấy dung mạo Lê Khiết, ta từng cho rằng Liên Nhạc là tuyệt đại mỹ nhân. Nhưng hôm nay tận mắt nhìn thấy Lê Khiết, dù chỉ còn là một bức tranh bất động, thì ta cuối cùng cũng ngộ ra Liên Nhạc rốt cuộc vẫn chỉ như hoa đăng buổi đêm, có đẹp, có sáng, có động lòng người nhưng vĩnh viễn không thể so sánh được với mặt trời chói lọi ban ngày.

Chuyện này cũng không thể trách Liên Nhạc. Nàng xuất thân không cao, chỉ là một ca cơ phiêu dạt chân trời góc bể. Còn Lê Khiết sinh ra trong nhung lụa, xuất thân và giáo dưỡng đã bồi đắp nên một ngạo khí hơn người. Vẻ đẹp của nàng thanh thoát như tiên, rực rỡ như mặt trời. Một cái ngoảnh đầu, một nụ cười hư ảo cũng đủ in sâu vào lòng người, khiến người ta choáng ngợp, giống như người mù lâu năm được phép tiên chữa lành đôi mắt, lần đầu nhìn thấy ánh sáng mặt trời vậy.

Bên góc dưới bức tranh, ở phần đề từ là hai câu thơ:

Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh

Lục cung phấn đại vô nhan sắc. (1)

Nét chữ đầy nội lực, ta vừa nhìn đã nhận ra của Hoàng Đế tự tay viết.

Bất giác, ta nhớ tới một ngày xa xưa khi ta còn rất nhỏ, mẫu thân vẫn chưa bị phụ hoàng ruồng rẫy. Hôm ấy, phụ hoàng xuất cung, mẫu thân và ta không đi theo được. Ta quanh quẩn chơi bên cạnh mẫu thân, thấy người chăm chú vẽ tranh bèn nhấc cái ghế nhỏ đến bên án thư để trèo lên nhìn trộm. Mẫu thân vẽ một người nam tử vô cùng anh tuấn, khí phách hơn người, ta nhìn một lần liền nhớ mãi không quên. Ta nghĩ mẫu thân vẽ phụ hoàng để thỏa lòng mong nhớ, nhưng phụ hoàng của ta bụng to, trán hói, thân mình rất béo, không hề anh tuấn thần võ như người trong tranh. Ta đem thắc mắc này hỏi mẫu thân, người bèn cười nói:

“Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi.”

Nhìn nụ cười ngọt ngào, ánh mắt say đắm của mẫu thân khi ấy, ta cho rằng đây là dáng vẻ của phụ hoàng khi người mới gặp mẫu thân. Đó là phụ hoàng ngày xưa khiến mẫu thân rung động. Hóa ra phụ hoàng của ta từng có lúc tuấn tú như vậy.

Ta rất thích tranh mẫu thân vẽ, nhưng đáng tiếc là mẫu thân vẽ xong chỉ nhìn một lát rồi châm lửa đốt ngay. Ta hỏi, mẫu thân chỉ đáp khẽ:

“Người trong lòng, để trong lòng là được.”

Thực lòng, ta cảm thấy mẫu thân nói gì cũng đúng cả. Ví như câu “Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi” kia chẳng hạn.

Bức tranh Hoàng Đế tự tay vẽ Lê Khiết này, chỉ cần nhìn vào liền biết người vẽ nó có lòng như thế nào mới có thể vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ sống động đến nhường này. Nếu hắn không thật lòng yêu thích Lê Khiết thì cho dù Lê Khiết có mỹ mạo đến dường nào thì cũng không thể vẽ nên một bức tranh đẹp được.

Nghĩ đến đây, lòng ta bất giác thấy chua xót.

Ta cho rằng bất cứ nữ nhân nào đứng trước người con gái này sẽ đều cảm thấy chua xót như vậy. Bởi vì nàng ấy sinh ra đã cao quý hơn người, dung mạo tựa thiên tiên, lại có được trái tim Hoàng Đế, ai sẽ không ganh tị với một người như vậy?

Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Nhật, quả thực chỉ có nữ tử rực rỡ như ánh mặt trời này mới xứng được sánh vai cùng hắn mà đứng trên thiên hạ.

Chỉ đáng tiếc, hồng nhan bạc mệnh. Ai mà ngờ được số phận của người con gái ấy lại thảm thương như vậy, cả nhà bị chém đầu, bản thân lâm bệnh, cuối cùng mệnh đoản. Thật khiến người ta nghĩ đến mà đau xót.

Nữ tử như vậy nếu khi xưa đừng nhập cung, liệu bây giờ sẽ có cuộc sống như thế nào?

Hậu cung này không biết đã từng chôn bao nhiêu đóa hồng nhan?

Vì đâu nên nỗi này?

Những nữ tử tốt đẹp như thế vì sao không thể có cuộc sống tốt đẹp?

Nghĩ phận người lại nhớ phận mình, cuộc sống của ta sau này liệu sẽ ra sao?

Ý nghĩ ấy làm mắt ta nóng lên. Ta không dám nhìn thêm nữa, bần thần quay đầu lại thì đã thấy Hoàng Đế đứng cạnh từ khi nào.

“Nàng ấy rất đẹp, đúng không?”

Hoàng Đế chắp tay sau lưng, hỏi bằng chất giọng nhẹ tênh, như thể đó đã là một câu khẳng định, không cần ai trả lời. Dù vậy, ta vẫn gật gật đầu:

“Dạ phải.”

“Nàng biết không, trẫm nghĩ hậu cung này thật sự là một nơi ăn thịt người đấy.”

Hoàng Đế vẫn giữ nguyên tư thế đứng, ánh mắt cũng chẳng rời bức tranh trên tường. Ta không biết hắn đột ngột nói vậy là có ý gì nên tạm thời im lặng chưa đáp. Hắn dường như cũng chẳng đợi ta đáp, thản nhiên nói tiếp:

“Nếu không một nha đầu vốn khỏe mạnh, hoạt bát như thế… vì sao vừa đến đây hơn một năm liền hóa thành đau bệnh liên miên, ốm yếu đoản mệnh như vậy?”

Hoàng Đế gọi Lê Khiết là “nha đầu” một cách hết sức bình dị, như thể một nam tử bình thường gọi yêu thanh mai trúc mã. Trong lòng Hoàng Đế… Lê Khiết quan trọng như vậy sao?

Ta ngẩn người, không biết nói gì:

“Hoàng thượng…”

Hoàng Đế vẫn chẳng để tâm đến ta, cứ chầm chậm nói:

“Mỗi ngày trẫm đều đứng ở đây để nhìn nàng ấy… Trẫm luôn luôn lo sợ, đến một ngày nào đó, trẫm sẽ quên mất nàng ấy… quên mất dáng vẻ của nàng ấy… nụ cười của nàng ấy… Như vậy nàng ấy nhất định sẽ rất giận trẫm… Nên mỗi ngày trẫm đều phải nhìn nàng ấy thật kĩ…”

Giọng nói của Hoàng Đế vẫn vậy, nhẹ nhàng, bình thản, thậm chí còn có phần thành thực cùng day dứt…

Thường ngày, bộ dạng của hắn nếu không phải là nổi giận đùng đùng thì là cười cợt buông thả. Ta chưa từng nhìn thấy hắn thành thực như thế cho nên bất giác hoảng hốt.

Hoàng Đế đứng ngay bên cạnh ta, chỉ cần ta hơi nghiêng người qua là có thể chạm vào vai hắn. Thế nhưng không hiểu sao lại có cảm giác xa cách ngàn trùng. Cứ như thể người đang đứng ở đây là một người hoàn toàn xa lạ. Người này rất yếu đuối, rất chân thật, không hề ra vẻ, cũng không diễn trò. Ta muốn nói gì đó với hắn, nhưng lại không biết phải nói gì.

Có lẽ ta đã dao động.

Nhưng dao động ấy chỉ là một khắc ngắn ngủi, lí trí đã kéo ta về lại thực tại. Hắn lạ lùng như vậy, càng khiến ta lo lắng không yên.

Vì sao hắn lại nói với ta những lời này?

Hắn với ta đâu phải tri kỷ, tâm sự này lẽ ra hắn không nên để lộ trước mặt ta. Là một phút yếu mềm buột miệng hay là còn dụng ý gì khác?

Ta vẫn luôn nghĩ Hoàng Đế thực lòng yêu thương Lê Khiết, nhưng những lời tình cờ ban nãy đã làm niềm tin ấy lung lay.

Người ở trong lòng, để trong lòng là đủ.

Giọng mẫu thân lại vang lên bên tai ta.

Phải, người ở trong lòng thì lúc nào cũng sẽ ở trong lòng, làm thế nào có thể quên đi cho được? Nếu trong lòng Hoàng Đế thật có Lê Khiết làm sao phải lo sợ một ngày sẽ quên mất nàng ta?

Lại nói đến bức tranh kia, quả thật từng đường nét đều được vẽ tỉ mỉ bằng cả tấm lòng.

Nhưng… phù dung sớm nở tối tàn.

Ai sẽ lại vẽ loài hoa đẹp mà bạc mệnh ấy lên bức tranh người mình yêu mến?

Cả hai câu thơ đề từ bên dưới…

Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh

Lục cung phấn đại vô nhan sắc.

Đây đúng là hai câu thơ đẹp, nhưng nguồn gốc của nó lại chẳng đẹp chút nào. Tranh vẽ người mình yêu, sao có thể dùng “Trường Hận Ca” làm đề từ?

Hoàng Đế đối với Lê Khiết như vậy… Thực có thể gọi là yêu sao?

______________

(1) Dịch thơ:

Một cười trăm vẻ thiên nhiên

Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son

(Trích Trường Hận Ca – Bạch Cư Dị)
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 35


Thành thực mà nói thì ta là một kẻ xui xẻo: mẫu thân mất sớm, phụ hoàng không yêu thương, mặt mũi tầm thường, học tài tệ hại. Tiếng là đại công chúa một nước lớn nhưng ta lại sống chẳng khác gì một đứa trẻ đầu đường xó chợ, bị mẫu hậu ghét bỏ cho nên mãi không gả đi được, đến lúc gả được thì lại gả ngay cho một tên Hoàng Đế nhóc con ốm yếu tính cách chẳng ra làm sao.

Cái số của ta lúc nào cũng đen đủi như thế, nhưng hôm nay ta phải nói là một ngày vô cùng, vô cùng đen đủi, rất có thể là một trong những ngày đen đủi nhất trong hai mươi năm cuộc đời ta. Mới buổi sáng đã bị Lý Thọ ném vào trong Ngự Thư phòng làm nền cho Hoàng Đế diễn kịch, ta cứ nghĩ mình may mắn làm tốt rồi thì sự đen đủi của ngày hôm nay sẽ chấm dứt, nhưng thật không ngờ tới vận rủi chẳng chịu rời ta một li.

Vốn đang yên lành cùng Hoàng Đế đứng ngắm tranh mỹ nhân, chẳng hiểu thế nào Hoàng Đế lại nổi hứng muốn vẽ cho ta một bức tranh chân dung. Hắn nhiệt tình như vậy, ta mà từ chối thì chẳng khác nào bảo mình không cần cái đầu này nữa. Huống hồ chi được Hoàng Đế vẽ tranh chính là một loại ân sủng to lớn mà không phải ai muốn cũng được.

Vì vậy, ta phải tận hưởng, tận hưởng, tận hưởng…

Ta cứ tự nhủ như vậy, nhưng ân sủng này quả là dài, ta tận hưởng mãi mà không hết. Đã hai canh giờ trôi qua, thân thể ta vì ngồi yên một chỗ không được cử động nên đã cứng đờ, vậy mà Hoàng Đế vẫn còn một tay chống cằm, một tay cầm bút lông. Cứ hạ một nét rồi dừng lại suy tư gì đó một lúc sau mới hạ thêm nét nữa.

Trước kia, ta cứ tưởng phạt quỳ đã là gian khổ lắm rồi, nhưng nay ngồi yên cho Hoàng Đế vẽ mới biết, quỳ gối chưa đáng là bao. Bị phạt quỳ, ít ra khi mỏi còn có thể nhúc nhích, đung đưa qua lại hoặc rũ người xuống cho đỡ mệt, thậm chí nếu không có người canh gác, ta còn có thể ngủ gà gật. Còn việc ngồi làm mẫu này chẳng những không thể nhúc nhích mà đến chớp mắt còn bị bắt phải hạn chế, ngứa cũng không được gãi, chỉ cần hơi động đậy là Hoàng Đế lại gắt lên, dọa xé tranh đi vẽ lại từ đầu. Ta cứ đờ ra như tượng gỗ suốt mấy canh giờ, toàn thân tê cứng không còn cảm giác giống như sắp hóa thành tượng thật.

“Hoàng thượng… sắp xong chưa?”

Ta mấp máy môi hỏi, giọng khàn cả đi vì khát nước.

Hoàng Đế ngước lên nhìn ta, tủm tỉm cười:

“Sắp rồi.”

Ta đã hỏi câu “sắp xong chưa” đến lần thứ hai mươi thì Hoàng Đế cũng đáp “sắp rồi” bấy nhiêu lần. Sắp rồi, sắp rồi, sắp rồi… Sắp sắp cái đầu nhà ngươi!

Tự nhiên ta có cảm giác Hoàng Đế đang báo thù việc ta đem tiếng đàn ra dọa hắn ban nãy. Nhất định là như vậy.

Hoàng Đế chết tiệt.

Lại thêm không biết bao lâu trôi qua, khi ta tưởng như mình đã hóa đá mất rồi, thì Hoàng Đế hạ bút nghe “cạch” một tiếng xuống thư án, vui vẻ nói:

“Xong rồi.”

Trong lòng ta reo lên một tiếng, tra tấn lâu như vậy cuối cùng cũng xong.

“Này, lại đây xem đi. Không phải nãy giờ nàng nôn nóng lắm sao? Đừng có ngồi ngẩn ra đó chứ!”

Hoàng Đế cười đến sáng lạn, hào hứng vẫy gọi ta.

Cái gì mà ngẩn ra? Là người ta bị tê cứng rồi mới phải. Nhưng lệnh vua không thể cãi, ta chỉ có thể gắng gượng lê thân người tê dại, cứng đờ đi về phía Hoàng Đế như một con rối gỗ. Có lẽ dáng đi của ta lúc này rất quái đản, ta thấy Hoàng Đế hình như đang cố nén cười.

Chật vật đến được bên cạnh Hoàng Đế, ta phải vịn vào thư án mới đứng vững được.

Nữ tử trong tranh vừa quen thuộc, vừa xa lạ. Tóc đen như mực, da trắng như tuyết, dung mạo ôn hòa, tuy không xinh đẹp rực rỡ nhưng lại có nét dịu dàng, điềm đạm đáng yêu. Cũng mắt, cũng mũi, cũng miệng ấy không sai một li, nhưng đi vào trong tranh lại hóa thành mềm mại yểu điệu. Bức tranh này rõ ràng là vẽ ta, nhưng lại chẳng giống với hình ảnh mà ta vẫn thấy mỗi khi soi gương.

Hoàng Đế thay một cây bút khác, chấm mực rồi cẩn thận viết xuống phần đề từ hai dòng chữ:

Tự tòng nhất kiến khanh khanh hậu

Trần thế giai nhân tổng thị vô. (1)

Ta không hiểu hàm nghĩa sâu xa của mấy chữ này, nhưng đại ý thì vẫn nắm được. Ta chẳng phải mỹ nhân cho nên Hoàng Đế không dùng loại thơ ca ngợi mỹ nhân làm đề từ cho ta. Có điều… ta cảm thấy hai câu này dù không tán tụng dung nhan, mỹ mạo gì đó, nhưng so ra lại có tâm ý hơn nhiều. Lòng ta chợt như có dòng suối ấm áp chảy qua. Hắn… thật sự coi trọng ta như vậy sao?

“Hoàng Thượng… thiếp đâu có tốt như vậy?”

Ta bần thần mãi, không biết nên nói gì, cuối cùng lại buột miệng hỏi một câu như vậy.

Hoàng Đế nắm lấy tay ta kéo lại gần hắn, dịu dàng đáp:

“Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi.”

Cùng một cảnh tượng, cùng một câu nói, tất cả giống hệt với kí ức của ta thuở bé. Sự trùng hợp đến trớ trêu ấy như một tia sét đánh mạnh vào cái đầu đang ngây ra của ta. Ta chăm chú nhìn Hoàng Đế, bàn tay mát rượi của hắn vẫn đang nắm chặt tay ta, đôi môi hắn vẫn đang mỉm cười hết sức dịu dàng, ánh mắt hắn vẫn trong trẻo, thản nhiên và tĩnh lặng, hoàn toàn không có sự ngọt ngào say đắm như mẫu thân ngày trước.

Dòng suối ấm áp đang chảy qua lòng ta bỗng chốc hóa thành sông băng lạnh lẽo. Ta vươn tay làm như hoảng hốt ôm lấy cổ Hoàng Đế, nghẹn ngào nói:

“Hoàng thượng có thể nói với thiếp như vậy… thiếp vui lắm…”

Hoàng Đế phì cười, vỗ về lưng ta:

“Ngốc thật! Trẫm chỉ nói với nàng một câu, làm gì mà lại cảm động như vậy?!”

Ta yên lặng không đáp, chỉ một mực ôm chặt Hoàng Đế. Bởi vì ta sợ nếu ta không ôm lấy hắn thế này, hắn sẽ nhìn thấy mặt ta, sẽ nhìn thấy sự chán ghét cùng bất mãn trong mắt ta.

Chỉ một khắc trước, ta đã cảm thấy Hoàng Đế thực ra cũng không đến nỗi tệ. Ta đã nghĩ thích hắn một chút thì cũng chẳng sao. Nhưng lúc này ta cuối cùng cũng ngộ ra.

Một câu nói tình ý thắm thiết, vậy mà khi nói ra ánh mắt lại chẳng có lấy một chút si mê. Có lẽ những lời như thế hắn nói đã thành quen miệng rồi. Có lẽ hắn rốt cuộc cũng giống phụ hoàng của ta thôi.

Lời nói của đế vương lúc nào nghe cũng có vẻ đáng tin như thế. Chỉ cần tin rồi là sẽ giống như mẫu thân cả đời trầm mê, vạn kiếp bất phục. Ta không thể đi vào con đường đó. Cho nên Hoàng Đế này… ta không thể thích hắn, một chút cũng không được.

***

Dùng ngọ thiện xong, Hoàng Đế nghỉ trưa còn ta thì ôm bức tranh hắn vẽ lững thững ra về. Người che ô tiễn ta ra cổng là Miên Duệ. Vết bỏng trên tay nàng ta đã đỡ rất nhiều, chỉ còn lại một vài vệt da sậm màu hơn mà thôi. Ta nhớ Ngọc Nga từng nói cám gạo xay có thể dưỡng trắng da, bèn bảo Miên Duệ:

“Bản cung nghe nói cám gạo xay dưỡng da rất tốt. Ngươi tìm một ít về pha với nước sạch, hai ngày thoa tay một lần, tin rằng không bao lâu tay sẽ đẹp như cũ.”

Miên Duệ ngẩn ra, lắp bắp:

“Nương nương… lâu như vậy rồi… chuyện nhỏ như vậy… người vẫn nhớ sao?”

Ta nhíu mày:

“Sao có thể không nhớ? Bản cung cũng chưa đến nỗi lẩn thẩn như vậy.”

Miên Duệ nhìn ta, cảm kích đáp:

“Đa tạ nương nương thương xót…”

Ta gật đầu với nàng, cũng không nói thêm nữa.

Thực ra ở chỗ ta có không ít cao dưỡng da, cho Miên Duệ một hộp cũng không phải chuyện khó. Nhưng lần trước ta đã cho nàng thuốc trị bỏng, nếu bây giờ lại đưa thêm e sẽ khiến người khác nhòm ngó, chẳng may dèm pha đến tai Hoàng Đế khiến hắn nghĩ ta mua chuộc người ở chỗ hắn thì càng phiền phức. Hơn nữa cao dưỡng da ở chỗ ta đều là quà của Hoàng Hậu và Trịnh phi tặng, giá trị không nhỏ. Nếu để ai đó phát hiện Miên Duệ dùng thứ đắt giá như vậy, đối với Miên Duệ không phải là việc tốt. Vậy nên ta chỉ có thể nhắc nàng ta dùng cám gạo. Công dụng không thể so sánh với cao dưỡng da đắt tiền nhưng cám gạo chẳng đáng mấy xu, trong cung cũng dễ kiếm. Một cung nữ dùng thứ như vậy là tốt nhất.

Ra đến cổng ta liền gặp Ngọc Nga đang che ô đứng sẵn.

“Chủ nhân!” Ngọc Nga mừng rỡ chạy đến giương ô che nắng cho ta.

Đợi Miên Duệ đi khuất rồi, ta mới hỏi Ngọc Nga:

“Ô này ngươi lấy ở đâu? Người ở Cát Tường điện cho ngươi sao?”

Ngọc Nga lắc đầu:

“Người ở Cát Tường điện đâu có ai thèm nhìn đến nô tỳ. Cái ô này là do một vị đại nhân cho nô tỳ đấy.”

Ta tò mò hỏi:

“Vị đại nhân nào? Vì sao lại cho ngươi?”

Ngọc Nga lại tiếp tục lắc đầu:

“Nô tỳ cũng không biết. Sau khi chủ nhân vào đó một lúc thì các vị đại nhân cũng ra về. Nô tỳ sợ mình cản đường các vị đại nhân nên đứng nép vào một góc. Lúc đó, có một vị đại nhân trông rất cao lớn tiến tới hỏi nô tỳ có phải là đang đứng đợi Hòa phi nương nương không, sau khi nô tỳ trả lời thì ngài ấy đưa chiếc ô này cho nô tỳ. À phải, suýt chút nô tỳ quên mất, ngài ấy còn bảo nô tỳ chuyển lời đa tạ Hòa phi nương nương.”

Ta kinh ngạc nghĩ, lẽ nào là vị cháu ngoại của Đới Thụy? Vì sao lại đa tạ ta? Hắn nghĩ ta đến cứu ngoại tổ phụ của hắn?

“Chủ nhân, như vậy là sao ạ? Có phải nô tỳ đã làm sai gì không ạ?” Ngọc Nga hoang mang hỏi.

“Không có gì, chúng ta đi thôi.”

Ta thở dài, khoác tay nàng rời đi, vừa đi vừa kể sơ qua sự tình.

Ngọc Nga nghe xong, liếc nhìn bức tranh cuộn tròn trên tay ta, lo lắng hỏi:

“Chủ nhân, vậy bây giờ phải làm sao đây?”

Ta ngẩng đầu nhìn bầu trời đương còn nắng chói chang:

“Đi Triêu Lan cung.”

“Chủ nhân, sao lại đi Triêu Lan cung? Bây giờ là giờ nghỉ trưa, e là Hoàng Hậu đã ngủ rồi.”

“Không đâu, Hoàng Hậu nhất định là đang đợi bản cung.”

Nói đoạn quay sang Ngọc Nga:

“Ngươi vẫn chưa ăn trưa đúng không? Dù sao cũng đứng nắng cả buổi rồi, ngươi hãy về ăn trưa nghỉ ngơi chút đi. Bản cung đi một mình cũng được, nếu có gì cần sẽ nhờ người gọi ngươi sau.”

Ngọc Nga nghe vậy liền giãy nảy, lắc đầu nguầy nguậy:

“Sao có thể thế được? Nô tỳ không đói, không mệt, nô tỳ sẽ đi cùng chủ nhân!”

Ta bật cười, vốn cũng biết nàng sẽ phản ứng như vậy, bèn lần tay áo lấy ra một gói giấy đưa cho nàng:

“Thế thì cho ngươi cái này.”

Ngọc Nga tò mò cầm lấy, nhưng một tay phải cầm ô nên chật vật mãi mà không mở được. Ta đành giúp nàng. Bên trong gói giấy là một cái bánh bao nhân thịt chim trĩ hầm. Lúc dùng thiện, tranh thủ khi Hoàng Đế chăm chú nghe Tô Trường Tín bẩm báo gì đó, ta liền lấy trộm cất đi, để dành cho Ngọc Nga.

Ngọc Nga cầm cái bánh bao trên tay, hai mắt rưng rưng:

“Đã xảy ra nhiều chuyện như vậy… mà chủ nhân vẫn nhớ đến nô tỳ…”

Ta tặc lưỡi, nói cho qua chuyện:

“Mau ăn đi thôi. Đừng để đến Triêu Lan cung mà đói ngất ra đấy thì mất mặt bản cung lắm!”

“Vâng ạ.”

Ngọc Nga sụt sùi đáp, ngoan ngoãn ăn bánh, không nói thêm nữa.

Ài, sao bọn họ đều cho rằng trí nhớ của ta kém như thế nhỉ? Chẳng lẽ ta thật sự rất già rồi sao?

Đến Triêu Lan cung, quả như ta nghĩ, Hoàng Hậu vẫn chưa nghỉ trưa. Nàng như thường lệ truyền ta vào phòng nghỉ.

Trong phòng đặt hai chậu băng lớn mát rượi. Hoàng Hậu mặc một chiếc váy dài mỏng manh, dáng vẻ yêu kiều, nằm nghiêng người trên sạp loan phượng, trông như sắp ngủ vậy. Vừa nhìn thấy ta mặt đầy sợ hãi đi vào, Hoàng Hậu ngồi bật dậy, tỏ vẻ kinh ngạc:

“Nguyệt nhi đấy à? Có việc gì mà lại đến vào lúc này?”

Ta trao lại bức tranh cho Ngọc Nga đứng bên ngoài, còn mình thì chạy nhào đến bên chân Hoàng Hậu, hoảng hốt nói:

“Tỷ tỷ… không xong rồi… muội… muội gây ra họa lớn rồi…”

Đây là lần đầu tiên ta gặp Hoàng Hậu mà không hành lễ. Nàng chưa thấy ta hoảng đến luống cuống như thế bao giờ, càng ngạc nhiên hơn, vội đỡ ta ngồi lên cạnh nàng, vừa sửa sang lại mấy sợi tóc bay tán loạn trước trán ta, vừa hỏi:

“Xem bộ dạng của muội kìa! Chuyện gì mà sợ hãi như vậy? Có gì từ từ nói.”

Ta níu lấy cánh tay Hoàng Hậu như người đuối nước gặp khúc cây trôi, run rẩy kể lại toàn bộ sự tình, dĩ nhiên là cũng có điều chỉnh theo hướng có lợi cho bản thân một chút.

Ban đầu ta có hơi băn khoăn không biết đem chuyện này nói với Hoàng Hậu liệu có làm hỏng chuyện của Hoàng Đế hay không, vì dù sao Hoàng Hậu vẫn là người họ Hà. Nhưng nghĩ lại, nhân mạch của Hoàng Hậu trong cung dầy đặc, Tô Trường Tín và Lý Thọ lại cùng ta tranh cãi trước Ngự Thư phòng lâu như thế thì làm sao không đến tai Hoàng Hậu kia chứ?

Đúng như ta nghĩ, giờ này mà Hoàng Hậu chưa ngủ thì chỉ có thể là chờ ta đến. Nếu lúc này ta mà không hoảng loạn chạy đến cầu cứu Hoàng Hậu, tin rằng ngày mai liền gặp họa. Mặt khác, từ khi đến đây, ta vẫn luôn dựa dẫm Hoàng Hậu, chuyện này không ai là không biết. Có chuyện lớn xảy ra, ta sao có thể không bẩm báo với nàng. Hoàng Đế chắc hẳn phải hiểu rõ ta sẽ không thể giấu giếm Hoàng Hậu. Hắn chẳng phải loại người nông cạn, nếu đã lường trước việc ta không thể kín miệng mà vẫn chọn ta thì chắc chắn hắn đã có tính toán cả rồi. Ta bây giờ chỉ cần lo chỗ Hoàng Hậu cho êm đẹp thôi.

Hoàng Hậu nghe ta kể xong, chau mày nói:

“Lý Thọ không ngờ to gan như vậy.”

Ta dùng ánh mắt hoang mang nhìn nàng:

“Tỷ tỷ, muội cho rằng Lý Thọ không có cái gan đó… chuyện này e là có ẩn tình…”

Hoàng Hậu dịu dàng mỉm cười, siết tay một cái:

“Bất luận là ẩn tình gì, hôm nay muội cũng đã làm được một việc tốt cho Bách Phượng. Đừng suy nghĩ nhiều.”

Ta thăm dò không được gì, đành bỏ ý định, đi thẳng vào vấn đề quan trọng nhất:

“Muội sao dám không suy nghĩ. Hôm nay muội đã làm ra việc vô phép như thế… Lão Phật gia nhất định sẽ không hài lòng…”

Hoàng Hậu đứng dậy rót cho ta một ly trà, bình thản nói:

“Lão Phật gia thường ngày rất ít khi quản chuyện hậu cung. Hơn nữa Hoàng Thượng là thiên tử, người không trách tội muội thì tức là muội không làm sai. Lão Phật gia luôn nể mặt Hoàng Thượng.”

Ta đón lấy ly trà bằng cả hai tay, vẫn tỏ ra bất an:

“Nhưng còn những người khác…”

Hoàng Hậu cười khẽ:

“Có tỷ tỷ ở đây, muội không cần phải sợ. Cùng lắm thì ta phạt muội một chút gì đó cho có là được.”

Ta thở phào nhẹ nhõm:

“Đa tạ tỷ tỷ.”

Đã biết là tội sống khó thoát, nhưng có lời này của Hoàng Hậu, ta có thể yên tâm rồi. Chỉ hi vọng nàng sẽ không phạt bổng lộc thôi.

Tâm trạng thoải mái, ta và Hoàng Hậu bắt đầu tán chuyện linh tinh. Nói đến bức tranh Hoàng Đế vẽ cho ta, Hoàng Hậu vậy mà chẳng mở lời muốn xem, chỉ cười cười trêu ta:

“Muội có phúc lắm đấy. Xưa nay Hoàng Thượng mới chỉ vẽ tranh chân dung cho ba người thôi.”

Ta hiếu kì hỏi:

“Là những ai thế ạ?”

“Lão Phật gia, ta và muội.”

Lòng ta chết điếng.

Như vậy… Hoàng Hậu không hề biết về bức tranh vẽ Lê Hiền phi. Cũng có thể nói là nàng không biết đến hoặc chí ít là chưa từng bước chân vào căn phòng đó. Mà từ đây cũng có thể kết luận rằng không có bao nhiêu người được Hoàng Đế cho phép vào, nếu không chuyện bức tranh Hiền phi sao lại không đến tai Hoàng Hậu? Hay là Hoàng Hậu đang thử ta, xem ta đã vào căn phòng đó chưa nhỉ?

Hôm nay thật sự có quá nhiều chuyện đau đầu rồi. Bất luận Hoàng Hậu thật sự không biết hay giả vờ không biết thì ta vẫn cảm thấy may mắn vì ban nãy chỉ kể qua loa, vẫn chưa nói hớ ra, nếu không lại càng thêm phức tạp. Ta bây giờ mặc dù vui vẻ trò chuyện với Hoàng Hậu, nhưng thật tâm chỉ muốn trở về Cẩm Tước cung êm ấm của mình mà thôi.

***

Thời khắc rời khỏi Triêu Lan cung chính là lúc ta cảm thấy hạnh phúc nhất. Ngọc Nga cũng như ta, đều muốn trở về nhà càng nhanh càng tốt nên luôn miệng hối thúc những thái giám khiêng kiệu.

Kiệu về đến gần Cẩm Tước cung, bỗng nghe Ngọc Nga hoảng sợ nói:

“Chủ nhân… trước cổng cung… có chuyện gì đó…”

Nói năng ấp úng không đầu không đuôi, ta cũng bị nàng dọa cho đứng tim.

“Chuyện gì là chuyện gì?”

Ta vén màn kiệu, thầm nghĩ rốt cuộc đã về đến cửa nhà, còn việc gì có thể khiến Ngọc Nga hoảng lên như thế. Thái giám khiêng kiệu thấy ta có ý muốn bước xuống, lập tức nhanh nhẹn đỡ lấy.

Vừa ra khỏi kiệu, ta liền biết hôm nay mình nhất định đã bị sao quả tạ chiếu trúng. Đúng là về đến cửa rồi vẫn chưa thoát được kiếp nạn.

“Chủ nhân… Lý công công sao lại…”

Ngọc Nga một tay giương ô che nắng cho ta, một tay đỡ lấy ta, nhưng nhìn là thấy nàng còn run rẩy hơn ta nhiều.

Đúng vậy, thứ trước mắt chúng ta chính là tấm lưng vĩ đại của Lý Thọ.

Lý công công quyền lực nhất nhì Nội Thị giám hiện đang nghiêm trang quỳ gối trước Cẩm Tước cung. Lưng áo hắn ướt đẫm mồ hôi, xem chừng đã quỳ ở đấy rất lâu rồi. Đứng bên cạnh Lý Thọ là Ngọc Thủy, Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử.

Ta nghiến răng nghiến lợi, cố đè nén cơn giận mà đi về phía trước, ung dung cất tiếng:

“Lý công công đang làm gì thế này?”

Bọn người Ngọc Thủy vừa nghe tiếng ta liền mừng rỡ chạy ra nghênh đón:

“Chủ nhân về rồi!”

Lý Thọ cũng hơi xoay người lại, chắp tay thỉnh an:

“Nô tài bái kiến Hòa phi nương nương.”

Lúc này ta mới thấy, Lý Thọ không chỉ đơn giản là quỳ trước cửa nhà ta, mà dưới chân hắn còn có một tấm Thiết Hối, khiến cho ta hơi kinh ngạc.

Thứ gọi là Thiết Hối này thực chất là một tấm phản đúc bằng sắt, dày độ năm phân, bề mặt gồ ghề lởm chởm, kích thước vừa đủ cho một người quỳ lên. Khi quỳ lên, những gai sắt đủ hình dạng này sẽ đâm vào đầu gối gây đau đớn gấp mấy lần so với chỉ quỳ dưới đất. Vì Thiết Hối là một khối sắt đặc, cho nên nhiệt độ sẽ tùy theo thời tiết mà biến đổi rất lớn. Quỳ trên Thiết Hối, trời lạnh sẽ lạnh thấu xương như quỳ trên nước đá, trời nóng sẽ cháy da cháy thịt như quỳ trên chảo lửa. Vậy nên mới nó mới được gọi là Thiết Hối – quỳ ở trên nó, không ai là không hối hận.

Ngày trước, ta đã từng nếm qua hương vị của Thiết Hối, đến bây giờ nhìn thấy vẫn còn ớn lạnh. Lý Thọ dám mang cả Thiết Hối đến đây quỳ, thành ý quả là sâu sắc.

“Lý công công sao lại quỳ ở đây?” Ta tỏ vẻ kinh hãi, bước nhanh đến muốn nâng Lý Thọ.

Lý Thọ cúi gầm mặt, dáng vẻ vô cùng khổ sở:

“Bẩm nương nương, nô tài đến thỉnh tội với nương nương.”

“Thỉnh tội gì chứ? Mau mau đứng lên thôi! Trời nắng thế này, lại còn quỳ trên cái thứ đáng sợ đó… chân ngài sẽ hỏng mất thôi!”

Nói đoạn lại quay sang trách Ngọc Thủy:

“Các ngươi cũng thật là! Sao có thể để Lý công công quỳ như thế?”

Ngọc Thủy vội phân trần:

“Chúng nô tỳ đã khuyên can nhiều lần, nhưng Lý công công vẫn khăng khăng quỳ ở đó thỉnh tội với chủ nhân…”

Bởi vì thân phận của Lý Thọ cho nên bọn Ngọc Thủy chỉ dám khuyên can chứ không dám có hành động gì, khuyên không được cũng chỉ đành đứng đó cùng chịu trận. Lý Thọ này đúng là đã diễn quá nhập tâm rồi. Hắn muốn thỉnh tội thì cứ thỉnh tội, có biết bao nhiêu cách, sao nhất thiết phải chọn cách khoa trương như vậy?

“Thôi được rồi…” Ta mệt mỏi tựa vào Ngọc Nga. “Bản cung không trách tội ngài đâu, ngài mau đứng dậy vào trong bôi thuốc…”

“Không thể thế được… Nô tài tội đáng chết…”

Sự thái quá của Lý Thọ đã đẩy sự chịu đựng của ta tới giới hạn. Ta thở hắt ra:

“Bản cung biết ngài cũng có chỗ khó xử, làm sao lại đi trách ngài? Chúng ta đều là người hầu hạ Hoàng Thượng, vốn dĩ không cần làm khó nhau như thế.”

Ý tại ngôn ngoại. Lý Thọ thông minh, một lời như vậy cũng đủ rồi. Nói xong, ta quay sang Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử, ra lệnh:

“Hai người các ngươi còn đứng đó làm gì? Không mau đỡ Lý công công vào trong?”

Có câu này của ta, Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử nhanh như cắt tới cạnh Lý Thọ, mỗi người một bên, dứt khoát xách Lý Thọ lên, tha vào trong cung, không để cho hắn có cơ hội lằng nhằng thêm nữa.

Ngọc Thủy nhìn ta, ngập ngừng hỏi:

“Chủ nhân, nên làm gì với Lý công công đây?”

Ta cười lạnh, nghiến răng nói rõ từ chữ một:

“Ngươi đi vào đắp thuốc cho hắn. Nhớ, xoa bóp vết thương thật cẩn thận vào. Đừng để Hoàng Thượng nghĩ ta bạc đãi Lý công công.”

____________

(1) Dịch: Kể từ lần đầu gặp được nàng thì mọi gian nhân trên đời này coi như không còn nữa.

(Đoàn Dự, Thiên Long Bát Bộ – Kim Dung)
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 36


Việc ta đi náo loạn Ngự Thư phòng chẳng những không bị phạt mà lại còn được ân sủng đặc biệt chẳng mấy chốc đã lan ra khắp hoàng cung. Để yên lòng chúng phi, Hoàng Hậu mở phượng khẩu phạt ta chép hai mươi lần Nữ Huấn. Ta nghe vậy mà lấy làm vui mừng, thật không uổng công lúc đó đội nắng đi tìm Hoàng Hậu khóc lóc. Chuyện lớn như vậy mà chỉ phải chép phạt, ngay cả bổng lộc cũng không trừ chút nào dĩ nhiên có nhiều người không phục, nhưng không phục thì cũng chẳng làm gì được. Ví như Dương Quý cơ, dù trong lòng bức bối thế nào thì cũng chỉ dám lén lút nói ra nói vào sau lưng. Hoặc như Tĩnh Tu dung, mỗi lần nhìn thấy ta, hai mắt đều b*n r* sát khí kinh người, nhưng nàng ta mới được khẩu dụ sắc phong, ấn tín cùng thánh chỉ vẫn chưa cầm được trong tay mà chỗ dựa là Triệu Đức phi vẫn còn bị cấm túc nên chẳng có gan mở miệng nói đúng sai.

Cả Thái Hậu cũng không để ta đợi quá lâu. Ngay sau khi ta vừa lĩnh phạt hai mươi lần Nữ Huấn thì Khâm cô cô liền tới nơi truyền lời của Thái Hậu:

“Khởi bẩm Hòa phi nương nương, Lão Phật gia xem xong kinh Phật của nương nương chép lần trước thì rất hài lòng, muốn nhờ nương nương chép hộ ba mươi bản kinh Hồng Danh này. Thời gian không gấp, nương nương thong thả.”

Phượng ý truyền xong, Khâm cô cô lập tức cáo lui không để cho ta có cơ hội thăm dò chút gì. Ta cầm quyển kinh mẫu mà Khâm cô cô để lại lên xem thử, vừa lật vài trang lòng đã rét run lên. Hồng Danh là kinh sám hối.

Dù Khâm cô cô nói thời gian không gấp nhưng đã thấy ý tứ của Thái Hậu rõ ràng như vậy, ta làm sao còn dám thong thả. Cả Hoàng Hậu lẫn Thái Hậu đều không thể chậm trễ, cuối cùng ta chỉ biết cắm cúi chép phạt cả ngày. Từ sáng sớm tinh mơ, ngoại trừ lúc ăn uống tắm rửa và hai canh giờ ngủ mỗi đêm còn lại đều dành thời gian chép phạt. Ta vốn thuận tay trái nên tay phải yếu hơn nhiều, chữ càng viết càng xấu, còn cổ tay thì mỏi nhừ đến nỗi cầm ly trà cũng run run.

Ngọc Thủy vừa bóp tay cho ta vừa xót xa nói:

“Cứ thế này thì chủ nhân làm sao chịu nổi… hay để nô tỳ đi mời Lâm đại nhân…”

Ta nghe xong vội gạt đi:

“Không thể được. Lão Phật gia vừa có ý để ta chép kinh Phật, ta lại đi mời thái y đến khám cổ tay thì còn ra thể thống gì?”

Tạ Thu Dung có tài giả mạo nét chữ, bèn tỏ ý muốn chép hộ ta một ít, ta cũng từ chối để tránh phiền phức về sau.

Tuy rằng phi tần ai nấy đều sỉ vả ta mặt dày không biết xấu hổ nhưng cũng lại không ít người học tập ta, bắt đầu thêu túi thơm đem tặng Hoàng Đế. Trước kia đã có lệ này, nhưng Hoàng Đế nhận mà không dùng bao giờ. Trên người hắn chỉ đeo túi thơm do chính tay Thượng cung đại nhân làm nên dần dà chúng phi cũng nản lòng. Thế nhưng bây giờ, hắn lại chịu đeo cái túi thơm vụng về của ta mà đi nghênh ngang khắp nơi, mấy ngày vẫn chưa đổi cái khác, khiến cho toàn thể hậu cung ngộ được chân lý: Hoàng Đế của bọn họ chỉ ưng ý những hình thêu kì quái. Thành thử người người đều bận rộn may vá thêu thùa, tính ra cũng vất vả không kém gì ta.

Mấy ngày này, vì chủ nhân Cẩm Tước cung phải sáng tối chép phạt, bên ngoài lại có nhiều lời lẽ không hay nên không khí trong cung khá là u ám. Tin tốt lành duy nhất tới từ lá thư nhà của Tạ Thu Dung.

Nghe nói vị Doãn công tử kia vào một ngày đẹp trời bị người ta bắt gặp đang trêu đùa góa phụ trong một con hẻm phía nam kinh thành. Tin tức này khiến dân chúng hết sức hoang mang, thiên hạ nửa tin nửa ngờ. Bởi vì Doãn công tử kia trong mắt dân chúng luôn là quân tử đường đường chính chính, sao có thể đi trêu ghẹo nữ nhân, lại còn là góa phụ? Nhưng bọn họ chẳng phải nghi ngờ quá lâu bởi vì một ngày đẹp trời khác, thanh lâu nức tiếng kinh thành Cửu Hương lầu bỗng nhiên bị cháy. Giữa thanh thiên bạch nhật, ngọn lửa quái ác không biết từ đâu bốc lên bao trùm toàn bộ tây các – nơi Cửu Hương lầu dành riêng cho khách quý hạng nhất. Giữa lúc dân chúng tụ tập bên ngoài giúp chữa lửa, một nam nhân từ lầu cao tây các, xuyên qua lửa đỏ rừng rực nhảy xuống một cách oai dũng. Dân chúng nhận ra ngay đấy chính là Doãn công tử, chỉ là không hiểu nổi vì sao công tử vốn có tiếng đoan chính lại nhảy ra từ lầu xanh trong tình trạng thân không mảnh vải như thế. Đương lúc Doãn gia còn đang đau đầu tìm cách cứu vớt danh tiếng của công tử nhà bọn họ thì một buổi sáng tinh mơ, trong khắp mọi ngõ ngách kinh thành bỗng nhiên xuất hiện vô số cáo thị kể tội Doãn Hi, tờ nào tờ nấy dài như tấu sớ, dân chúng đọc đến đâu liền như được giác ngộ đến đấy. Hóa ra Doãn công tử lại là người như thế! Hoàng thành yên ắng lâu nay bỗng nhiên bùng lên một phen tiếu thoại, một người nói cho mười người, mười người nói thành trăm người, trăm người nói khắp cho muôn họ. Doãn gia cực chẳng đã phải đi cậy nhờ đến cả Triệu gia, nhưng Triệu gia đang phiền lòng việc Triệu Đức phi gặp họa trong cung nên chẳng có tâm trí giúp đỡ nhiều, thành ra tiếng xấu của Doãn công tử cứ đồn đi mãi, không sao dập tắt được. Tạ Ngự sử nghe tin này lấy làm kinh hãi, vội vàng sai người chở sính lễ đi trả không sót thứ gì. Ngay cả nhà hôn thê tương lai còn bỏ của chạy lấy người như thế, thanh danh của Doãn công tử phút chốc chẳng còn gì.

“Thật không ngờ dì ta lại lợi hại như vậy!”

Tạ Thu Dung cầm lá thư của Lữ phu nhân đọc đi đọc lại mấy lần, lần nào cũng cười đến nắc nẻ.

Hành sự không chút kiêng dè, lại gọn gàng sạch sẽ thật khiến người ta tâm phục khẩu phục.

Ta nói: “Kể ra thì Lữ phu nhân cũng hơi mạnh tay, may mà Doãn Hi biết chút võ công nếu không thì đã cháy đen trong Cửu Hương lầu rồi.”

“Chắc hẳn dì đã tính toán cả rồi. Đáng đời tên khốn kiếp đó! Để xem sau này còn có tiểu thư nhà nào dám gả vào Doãn gia.”

Tạ Thu Dung đắc ý mắng một hơi, lưu luyến đọc lại thư thêm một lần nữa rồi mới châm lửa đốt.

Nhìn lá thư báo tin thắng lợi nằm trong chậu đồng đang từ từ cháy thành tro, ta bần thần nghĩ đến một điểm khác:

“Dung nhi, Doãn Hi coi như xong rồi. Sau này ngươi có dự tính gì chưa?”

Tạ Chính Minh vốn chỉ muốn tìm một mối hôn sự có lợi cho ông ta, cho dù không phải là Doãn Hi thì cũng sẽ có người khác, chưa biết chừng còn tệ hại hơn. Lữ phu nhân xử lý được một Doãn Hi, nhưng cũng không thể giúp Tạ Thu Dung cả đời.

Tạ Thu Dung không hề ngạc nhiên khi nghe ta hỏi, nàng bình thản mỉm cười:

“Chuyện này ta cũng đã nghĩ qua… Ta chẳng thể ở Cẩm Tước cung này mãi mãi, cũng không thể cứ dựa dẫm vào dì. Cho nên ta đã quyết định sẽ vào Thượng Cung cục. Trở thành nữ quan rồi, ngoại trừ Hoàng Thượng ra, không ai có thể quyết định hôn sự của ta nữa.”

Lời này của nàng ngược lại khiến cho ta kinh ngạc:

“Muốn vào Thượng Cung cục phải trải qua một quá trình rèn luyện rất dài, cung nữ nhập cung làm việc ít nhất ba năm mới được tuyển vào. Ngươi làm thế nào vào được?”

Tạ Thu Dung thong thả đáp:

“Thượng nghi của Ti Chế phòng vừa qua đời tháng trước, một số nữ quan hầu hạ Thượng nghi không cẩn thận cũng bị giáng tội. Lại thêm qua chuyện vừa rồi của Đức phi, rất nhiều cung nữ bị trả lại Ti Thiết phòng, những nữ quan từng dạy dỗ bọn họ đều bị liên lụy. Cả Ti Chế phòng và Ti Thiết phòng đều bị thiếu thốn nhân lực trầm trọng. Thượng Cung đại nhân đã thỉnh ý Hoàng Thượng, xin được mở một kì thi đặc biệt để tuyển chọn người tài, bù đắp cho Ti Chế phòng và Ti Thiết phòng. Tất cả nữ tử đều có quyền tham dự, chỉ cần vượt qua tuyển chọn thì sẽ được thu vào làm việc. Hôm qua ta đã đến Thượng Cung cục ghi danh rồi.”

Tạ Chính Minh vốn muốn đào tạo Tạ Thu Dung trở thành một nữ tử thập toàn thập mỹ để lấy lòng đế vương, vậy nên nàng không chỉ có kiến thức uyên thâm mà ngay cả thêu thùa, may vá, nấu ăn đều tinh thông. Kì thi này đúng là cơ hội trời cho, tin rằng Tạ Thu Dung sẽ lọt qua vòng tuyển chọn mà không gặp khó khăn gì. Chỉ là… làm nữ quan ở cục Thượng Cung không giống cung nữ bình thường, phải đến hơn ba mươi tuổi mới được xuất cung. Nếu như làm việc tốt, vừa ý các vị chủ nhân thì không biết còn bị giữ lại đến khi nào. Như vậy tuổi xuân còn gì nữa?

Ta cầm tay Tạ Thu Dung, nghiêm túc nói:

“Ngươi đã nghĩ kĩ chưa? Lẽ nào không muốn gả đi nữa sao?”

Tạ Thu Dung cũng khẽ nắm lấy tay ta đáp lại. Nụ cười trên khóe môi nàng chợt trở nên buồn bã:

“Ta đã hết cách rồi, Nguyệt nhi à. Dựa vào thân phận của ta và dã tâm của phụ thân ta… Ta thật sự không thể có một mối hôn sự tốt. Ngày trước, còn có mẫu thân, ta còn phải cố gắng làm phụ thân vui lòng. Bây giờ, mẫu thân đi rồi, ta hà tất lại để phụ thân lợi dụng nữa? Phụ thân luôn cho rằng thứ nữ như ta chỉ đáng làm đá lót đường cho ông, vậy thì ta sẽ cho ông thấy Thu Dung này cũng có thể một mình làm nên đại sự. Nguyệt nhi, ngươi là bằng hữu duy nhất của ta, ta không ngại nói cho ngươi biết, ta sẽ không làm nữ quan cả đời. Mười năm, hai mươi năm, thậm chí nhiều hơn nữa, một ngày nào đó, ta sẽ trở thành Thượng Cung đại nhân.”

Đôi mắt huyền của Tạ Thu Dung sáng rực quyết tâm. Ta biết nàng không nói đùa.

Ta thở dài, lẳng lặng nhìn Tạ Thu Dung một hồi mới cất lời:

“Dung nhi, con đường đó sẽ rất gian nan. Thượng Cung cục chẳng phải nơi yên bình. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể khiến ngươi mất mạng.”

Tạ Thu Dung nhoẻn cười, vô tư đáp:

“Ta không sợ. Ở trong cung, thỉnh thoảng ta có thể gặp ngươi, hơn nữa biết đâu còn có thể giúp đỡ ngươi. Nếu có một ngày ta trở thành Thượng Cung đại nhân rồi, ta sẽ che chở cho ngươi.”

Lời lẽ của Tạ Thu Dung quá mức chân thành, chân thành đến độ ngây thơ, mà lại khiến ta rơi lệ.

Ta đưa tay gạt đi mấy giọt nước mắt đang lăn dài trên má, nửa đùa nửa thật nói:

“Đến lúc ngươi thành Thượng Cung đại nhân rồi, chẳng biết ta có còn sống hay không.”

Tạ Thu Dung lấy khăn tay đưa cho ta, trịnh trọng đáp:

“Nhất định là còn. Cả ta và ngươi, chúng ta nhất định sẽ sống thọ trăm năm. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng. Hậu cung này một ngày nào đó sẽ là thiên hạ của chúng ta.”

***

Vất vả suốt ba ngày liền đã chép xong cả Nữ Huấn lẫn kinh Hồng Danh, ta thật sự cảm thấy mình rất phi thường. Phía Hoàng Hậu, ta giao Nữ Huấn cho Ngọc Thủy mang nộp, còn bản thân thì cùng Ngọc Nga đưa kinh Hồng Danh đi Thuận Ninh cung.

Lần thứ hai bước chân vào Thuận Ninh cung vẫn là một loại tâm trạng lo lắng bất an quấn lấy ta. Trong đầu ta không ngừng tưởng tượng ra đủ loại tình huống có thể xảy ra, đồng thời trù tính biện pháp đối phó.

Người đón chúng ta vào là Khâm cô cô. Nàng lúc nào cũng mang một vẻ mặt bình thản, không nóng không lạnh, đủ cung kính nhưng chẳng có chút bợ đỡ hèn mọn nào khiến người ta chẳng thể nào đoán được gì. Nữ tử này ngày xưa cũng từng có lúc là một tiểu cung nữ. Bao năm thăng trầm chìm nổi, rốt cuộc đã trải qua những chuyện như thế nào mới có thể tôi luyện được khí chất như vậy? Ta thầm nghĩ, nếu bên cạnh mình mà có một người như thế thì tốt biết bao nhiêu.

Mải nghĩ ngợi, ta không nhận ra mình đã dừng chân trước Phật đường của Thuận Ninh cung từ lúc nào.

“Lão Phật gia đang tụng kinh, nếu nương nương không ngại thì có thể cùng ngồi nghe kinh.”

Khâm cô cô lễ phép làm động tác mời. Ta gật đầu đáp lại nàng một tiếng rồi nâng váy chậm rãi bước vào trong.

Phật đường không rộng lắm, khi ta vén màn đi sâu vào bên trong liền phát hiện nơi gọi là Phật đường này vốn chỉ là một căn phòng nho nhỏ, chính giữa bày một bàn thờ có hai tầng, tầng cao đặt tượng Quan Âm ngồi trên đài sen, bên dưới là vài cái bài vị không tên, chẳng biết thuộc về ai.

Thái Hậu ngự giữa Phật đường phía trước bàn thờ. Bà không quỳ mà ngồi duỗi chân trên một tấm bồ đoàn rất dày. Nghe nói bà có bệnh khớp kinh niên, đầu gối từ lâu đã không thể co lại được nữa. Từng làn khói xám mỏng manh tỏa ra từ chiếc lư hương trên bàn thờ như quấn lấy bóng lưng Thái Hậu, làm ta bất giác cảm thấy bà mới cô độc làm sao.

“Bởi vì không sở đắc, mới là Bồ Tát, gọi đủ là Bồ Đề Tát Đõa, nương nơi trí Bát Nhã để xét soi, mới đạt qua bên ngàn giác kia. Vì nương nơi Bát Nhã để quán chiếu, nên tâm không quái ngại; bởi tâm chẳng ngần ngại, nên chẳng có e sợ, xa lìa các điều điên đảo mộng tưởng, rốt ráo quả Niết Bàn…”

Giọng Thái Hậu hơi khàn, đều đều vang lên, mang theo phong vị xa xăm hư ảo. Ta nhận ra bà đang tụng kinh Hồng Danh sám hối.

Đảo mắt nhìn quanh, ta nhận ra ngoại trừ tấm bồ đoàn mà Thái Hậu đang ngồi thì mặt đất hoàn toàn trống trải, Khâm cô cô cũng đã rời đi tự bao giờ. Ta chợt hiểu ra ý tứ của Thái Hậu, bèn tiến lại phía sau bà, lặng lẽ điều chỉnh váy áo rồi quỳ xuống.

Ta từng nghe nói Thuận Ninh cung ngày xưa vốn là nơi ở của Phượng Triều Hoàng Hậu thời Thái Tổ. Phượng Triều tính rất sợ nóng, Tống Thái Tổ đã vì bà mà xây nên Thuận Ninh cung này, bốn bề đều làm từ loại cẩm thạch đặc biệt, chống nóng vô cùng tốt. Ngay cả sàn nhà cũng được làm từ một khối cẩm thạch hoàn chỉnh, cho nên dù đang là mùa hạ ta vẫn có thể cảm nhận được từng cơn lạnh buốt xuyên qua da thịt, truyền thẳng vào khớp gối của mình. Ban nãy khi quỳ xuống, ta đã cố tình lựa thế xếp váy thành mấy lớp ngay chỗ đầu gối tiếp xúc với sàn nhà để ngăn bớt cái lạnh, thế nhưng y phục mùa hè khá mỏng thành ra cũng chẳng chống đỡ được bao nhiêu.

Phía trước mặt ta, Thái Hậu vẫn tụng kinh đều đều, một lần, hai lần, lại ba lần kinh… Đến lúc đầu óc ta trở nên mông lung, không nhớ nổi đã đọc đến lần kinh thứ mấy thì Thái Hậu đột nhiên đứng dậy, như hơi ngạc nhiên:

“Hòa phi đấy à?”

Ta giật mình, vội vàng cúi lạy:

“Thần thiếp Hòa phi bái kiến Lão Phật gia!”

Thái Hậu ừm một tiếng, vẫy tay bảo ta đứng dậy. Khâm cô cô nghe tiếng Thái Hậu nói, liền vội vàng đi vào đỡ lấy bà, cùng trở về Uyển các nghỉ ngơi. Ta thấy vậy cũng phải nhịn đau, tập tễnh đi theo.

Uyển các là nơi nghỉ của Thái Hậu, ta chẳng dám nhìn ngó lung tung, chỉ có cảm giác nơi này bày biện hết sức giản dị. Khâm cô cô đỡ Thái Hậu ngồi lên chiếc ghế quý phi bên cửa sổ, sau đó lui xuống pha trà. Trong phòng chỉ còn lại mình ta và Thái Hậu. Ta không biết nên nói gì, cũng không biết bà sẽ nói gì với mình, nên chỉ biết cúi đầu đứng một bên.

Thái Hậu chợt nói:

“Ai gia nhờ Hòa phi chép hộ mấy bản kinh Hồng Danh, không ngờ Hòa phi lại chép nhanh như thế.”

Ta vội đáp:

“Bẩm, Lão Phật gia không chê thần thiếp chữ nghĩa tệ hại đã là phước phần của thần thiếp, thần thiếp chỉ biết cố gắng hết mình.”

Thái Hậu nhẹ nhàng trở mình, nở nụ cười:

“Vậy Hòa phi có biết vì sao ai gia lại bảo ngươi chép kinh Hồng Danh không?”

Hai bên thái dương đã bắt đầu đổ mồ hôi lạnh, ta hít sâu một hơi, lễ phép đáp:

“Thần thiếp ngu muội, mong Lão Phật gia chỉ dạy.”

Thái Hậu điềm đạm mỉm cười, nhưng trong ánh mắt chẳng có lấy một tia vui vẻ, bà cất giọng:

“Ngày Tiên Đế còn tại thế, trong hậu cung có một vị Chiêu nghi họ An. Nàng ta rất được Tiên Đế sủng ái, từng có lúc quấn quýt bên cạnh Tiên Đế như hình với bóng. Tiên Đế đi đâu cũng mang nàng ta theo, thậm chí cả khi vào Ngự Thư phòng duyệt tấu chương cũng để nàng ta ở bên châm trà mài mực.”

Nói đến đây, Thái Hậu dừng lại, ngẩng đầu nhìn ta. Mồ hôi bên thái dương của ta vã ra càng lúc càng nhiều, nhưng ta nào dám đưa tay lau, chỉ cúi đầu ra vẻ lắng nghe. Thái Hậu thấy vậy, bèn nói tiếp:

“Ngày ấy An thị còn trẻ, có rất nhiều hành động nông nổi. Tiên Đế nhân từ chẳng trách tội nàng ta. Nhưng An thị ỷ sủng sinh kiêu, càng ngày càng trở nên quá đáng, đến cả chuyện triều chính cũng dám xen vào làm liên lụy nhiều người, cuối cùng chọc giận Tiên Đế. Ai gia nhớ ngày An thị bị lôi đi xử trảm cũng là một ngày cuối hạ như thế này… Thực đáng tiếc, An thị đó cũng là một nữ nhân thông minh, chỉ là quá mức kiêu ngạo mà quên đi bổn phận, cuối cùng rước họa diệt thân. Cứ mỗi năm đến độ này, ai gia lại nhớ đến An thị cho nên mới thay nàng ta tụng mấy lần kinh sám hối, hi vọng có thể giúp nàng ta giảm bớt tội lỗi, sớm phần siêu độ.”

Ánh mắt Thái Hậu đột ngột trở nên sắc bén, hoàn toàn trái ngược với vẻ ngoài hiền hậu thường ngày. Tấm áo xám mộc mạc trên người bà cũng vì vậy mà trở nên lạc lõng. Giây phút ấy ta lập tức hiểu được, “Lão Phật gia” thật ra cũng chỉ là một danh xưng mà thôi.

“Tấm lòng của Lão Phật gia thật hiếm có, thần thiếp vạn phần kính phục.”

Ta mở miệng đáp một câu khách sáo.

Thái Hậu vẫn chăm chú nhìn, ánh mắt bà như một lưỡi dao sắc lẻm phe phẩy trên da mặt ta, như thể chỉ cần ta sơ sẩy một chút lập tức sẽ bị lưỡi dao kia đâm ngập vào da thịt. Thuận Ninh cung mát rượi thế mà thân thể ta không ngừng đổ mồ hôi, đến cả lưng áo cũng ướt đẫm, dính chặt vào da thịt, mang đến một cảm giác lạnh lẽo nhớp nháp.

“Ài… có đáng gì đâu. Ai gia già rồi, người già thường muốn làm việc gì đó có ý nghĩa một chút. Đáng tiếc… thân thể không còn khỏe mạnh, nên lực bất tòng tâm, chẳng làm được gì nhiều.”

Thái Hậu thở dài một tiếng, đưa tay tự bóp đầu gối mình một cái. Ta thấy vậy, nhanh chóng quỳ xuống chân bà, nói:

“Nếu Lão Phật gia không chê thần thiếp tay chân vụng về, xin để thần thiếp giúp người xoa bóp một chút…”

Thái Hậu ừ khẽ một tiếng. Ta liền ngoan ngoãn xắn tay áo xoa bóp cho bà. Đầu gối bà gầy guộc một cách kì quái. Dựa vào độ biến dạng của các khớp xương, ta biết bệnh khớp của bà thật sự không nhẹ.

Vừa mới quỳ xong lại phải tiếp tục quỳ, nếu đầu gối ta mà biết nói thì hẳn nó sẽ đang kêu gào thảm thiết. Trong ba ngày liên tục chép mấy mươi bản kinh văn, cổ tay ta đã mỏi nhừ, bây giờ lại phải dùng lực xoa bóp nên cơn đau càng thêm thê thảm. Thế nhưng lúc này, ta làm gì có quyền than thở, việc ta nên làm chính là cố nhịn đau mà xoa bóp cho Thái Hậu thật cẩn thận.

Bầu không khí tĩnh lặng đến nặng nề ấy chỉ kết thúc khi Khâm cô cô mang trà vào. Thái Hậu nhận trà Khâm cô cô dâng nên, nhẹ nhàng nhấp một ngụm rồi mỉm cười với ta:

“Đây là trà Long Tỉnh mới tiến cung năm nay. Ai gia thấy mùi vị rất vừa miệng, Hòa phi cũng thử xem sao.”

“Tạ ơn Lão Phật gia.”

Khâm cô cô kéo một chiếc ghế nhỏ đến đặt ở bên chân Thái Hậu. Ta nhận trà xong, bèn tạ ơn thêm lần nữa rồi mới ngồi xuống. Cổ tay ta đau đến mức cầm ly trà cũng run rẩy, thành ra chỉ có một ly trà nhỏ mà ta phải kính cẩn cầm bằng cả hai tay.

Suốt từ lúc đó cho đến lúc ta ra về, Thái Hậu không hề đả động gì đến việc ta náo loạn Ngự Thư phòng, cũng không nhắc tới vị Chiêu nghi An thị kia nữa. Toàn bộ thời gian bà chỉ hỏi han những chuyện sinh hoạt thông thường trong Cẩm Tước cung, giống như quan tâm con cháu trong nhà.

Ta nhìn Khâm cô cô ở một bên bóp chân cho Thái Hậu, lại nhớ tới cơn đau ở đầu gối của mình, chợt hiểu ra nữ nhân trong hậu cung rất nhiều người bị bệnh khớp có lẽ vì quỳ gối là một trong những hình phạt phổ biến nhất.

Huệ Từ Thái Hậu có được một ngày phượng lâm thiên hạ như thế này, chắc chắn cũng đã nếm đủ đau thương tủi nhục. Đến bây giờ, dù cho vinh quang vô hạn nhưng một thân bệnh tật, quanh năm bị đau đớn dằn vặt, chuyện cũ như bóng ma ám ảnh, như vậy thực sự vui vẻ sao?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 37


Mùa mưa ở Bách Phượng bắt đầu muộn hơn ở Tùy Khâu.

Khi ta và Ngọc Nga rời khỏi Thuận Ninh cung cũng là lúc những hạt mưa đầu mùa bắt đầu rơi xuống hoàng cung Bách Phượng. Mưa đầu mùa khá dịu, chỉ lất phất như mưa phùn mùa xuân, vậy nên khi Khâm cô cô mời ta ở lại đợi kiệu đến đón ta vẫn quyết định cùng Ngọc Nga che ô tự trở về. Ra khỏi Uyển các đã xa mà lưng ta vẫn còn mướt mồ hôi lạnh thì làm sao còn có gan lưu lại đấy thêm.

May mắn là Thuận Ninh cung và Cẩm Tước cung không xa nhau lắm, nếu đi tắt qua Ngự hoa viên thì chỉ hết hơn một khắc. Ngự hoa viên là nơi phi tần đi lại nhiều, thường ngày để tránh thị phi, ta rất ít khi lui tới. Có điều lúc này chân ta đang đau, ngại đi đường xa mà trời thì mưa nên tin rằng cũng chẳng có vị mĩ nhân nào lại đi dạo lúc này nên mới phá lệ đi ngang Ngự hoa viên.

Cũng nhờ như vậy ta mới biết câu “oan gia ngõ hẹp” thật sự chẳng sai.

“Mưa gió thế này, Tĩnh Tu dung sao lại ở đây?” Ngọc Nga cau mày, ghé vào tai ta nói khẽ.

Quả thật dưới màn mưa bụi lất phất, Tĩnh Tâm Lan đương đi đi lại lại quanh mấy bụi hoa hải đường, dáng người hơi cúi, ánh mắt tập trung dưới mặt đất như đang tìm kiếm thứ gì đó. Dù trời mưa rất nhẹ nhưng áo nàng ta đã ướt mấy mảng, đủ thấy nàng ta quanh quẩn ở chỗ này đã lâu rồi. Cung nữ thân cận của nàng ta đi theo sát phía sau luôn miệng nói:

“Chủ nhân, chúng ta về thôi, trời mưa càng lúc càng nặng hạt, chủ nhân sẽ bị nhiễm lạnh mất.”

Tĩnh Tâm Lan quắc mắt, quát cung nữ kia:

“Đông Tú, đừng lải nhải nữa! Mau tìm kĩ cho ta! Nhất định là chỉ rơi ở quanh đây thôi!”

Giọng Tĩnh Tâm Lan chua the thé, cung nữ tên Đông Tú sợ rúm người cả người, lí nhí đáp:

“Chưa chắc đã rơi ở đây đâu ạ… Có khi chủ nhân để quên trong phòng hoặc là rơi ở Huệ Đàm cung cũng nên. Hay chúng ta về Huệ Đàm cung tìm kĩ lại một lượt, nếu vẫn không thấy thì tạnh mưa lại đến đây tìm tiếp?”

Tĩnh Tâm Lan đã mất kiên nhẫn, giọng càng lúc càng chua ngoa:

“Ta bảo tìm thì ngươi cứ tìm đi, nhiều lời như vậy để làm gì? Nói cho ngươi biết, hôm nay mà không tìm ra thì ngươi cũng không yên với ta đâu!”

Ta chợt nổi lòng hiếu kì, thực muốn biết Tĩnh Tu dung rốt cuộc đã làm mất thứ gì mà cho dù phải dầm mưa cũng nhất quyết tìm cho bằng được.

Đông Tú bị mắng đến tối mày tối mặt, bèn cắm cúi rẽ bụi hoa tìm kiếm, không dám nhiều lời nữa. Bất chợt, như linh cảm được có người đang quan sát mình, Đông Tú ngẩng đầu lên, tầm mắt phóng thẳng đến chỗ ta và Ngọc Nga đang đứng rồi rất nhanh lại dời trở về bụi hoa dưới chân giống như chưa từng nhìn thấy gì.

Ngọc Nga nắm hờ lấy tay áo ta, nghi hoặc nói:

“Nàng ta rõ ràng đã nhìn thấy chủ nhân, sao dám vờ không thấy? Chẳng lẽ chỉ là một cung nữ mà cũng dám khinh thường chúng ta như vậy?”

Người trong hậu cung dù không coi ta ra gì nhưng cũng còn phải nể mặt Hoàng Hậu, làm gì có chuyện nhìn thấy mà không chào. Hành động của Đông Tú hoàn toàn không đơn giản là khinh thường. Khoảnh khắc ánh mắt ta và Đông Tú chạm nhau chỉ kéo dài trong tích tắc, nhưng ta đã kịp nhìn thấy sự hoảng hốt và lo âu. Đông Tú sợ không dám gặp bọn ta. Như vậy thứ Tĩnh Tu dung làm mất hẳn là vô cùng quan trọng. Rất quan trọng nhưng lại không thể lộ cho người khác biết? Thế thì nhất định là chuyện xấu rồi.

“Đi xem náo nhiệt thôi.”

Ta vịn vào tay Ngọc Nga vui vẻ đi về phía Tĩnh Tâm Lan. Chuyện xấu của Tĩnh Tâm Lan ta không thể không xem cho kĩ.

“Kia chẳng phải là Tĩnh Tu dung sao?”

“A… Hòa phi nương nương…”

Tĩnh Tâm Lan đang lúi húi tìm kiếm đột nhiên nghe tiếng ta thì giật bắn cả người, luống cuống nhún gối hành lễ:

“Nương nương vạn phúc kim an!”

“Nô tỳ bái kiến Hòa phi nương nương!”

Cung nữ Đông Tú còn thảm hơn, nàng ta sợ đến nỗi hai chân khuỵu hẳn xuống, nói là bái kiến, thực chất là nằm rạp cả ra mặt đất, chẳng mấy chốc mà cả người đã dính đầy bùn đất.

Sự hiếu kì trong lòng ta càng trỗi dậy mãnh liệt. Đông Tú sợ đến mức này thì hẳn chuyện xấu của Tĩnh Tu dung cũng không nhỏ chút nào.

“Ấy, không cần đa lễ như thế.” Ta mỉm cười tiến đến nâng Tĩnh Tâm Lan đồng thời cũng ra hiệu cho Đông Tú đứng dậy.

“Đa tạ nương nương. Mưa gió thế này mà nương nương lại có hứng đi dạo ư? Xem kìa, sắc mặt người nhợt nhạt quá, cẩn thận kẻo nhiễm phong hàn đấy!”

Chỉ một chút bối rối thoáng qua, Tĩnh Tâm Lan đã lấy lại phong thái, bình tĩnh cười nói giả lả.

Đã mấy ngày không ngủ đủ, mặt mũi ta tất nhiên là không dễ coi. Ban nãy đi đến Thuận Ninh cung lại càng chẳng dám trang điểm quá nhiều nên lời này của Tĩnh Tâm Lan tuy rằng mỉa mai nhưng cũng là sự thật.

“Đi dạo gì chứ… Bản cung vừa đi thỉnh an Lão Phật gia trở về, trên đường nhìn thấy Tu dung nên ghé lại thôi. Tu dung vì lẽ gì mà lại dầm mưa như thế? Ướt hết cả rồi…”

Ta cười cười, làm như định đưa tay phủi nước mưa trên áo Tĩnh Tâm Lan.

Ngay lập tức, Tĩnh Tâm Lan bất giác lùi lại một bước, vừa khéo tránh tay ta. Bàn tay ta dừng lại trên không trung một chút rồi mới buông xuống, hai mắt mở to nhìn Tĩnh Tâm Lan đầy khó hiểu. Tĩnh Tâm Lan lúc này mới nhận ra mình thất lễ, vội mỉm cười niềm nở:

“Những ngày này nương nương chép nhiều kinh văn, e rằng cổ tay không được thoải mái, nếu lại gặp thêm mưa gió lạnh lẽo, chỉ sợ thành bệnh. Thần thiếp cho rằng nương nương nên sớm hồi cung thôi.”

Ta làm động tác xoa xoa cổ tay, miệng đáp:

“Tu dung có lòng, bản cung vô cùng cảm kích. Có điều… chỉ là một cơn mưa nhỏ không khiến bản cung sinh bệnh được đâu. Ngược lại… bản cung thấy hình như Tu dung đang có điều gì khó xử…”

Thần thái Tĩnh Tâm Lan hơi động nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên:

“Nương nương nghĩ nhiều rồi. Thần thiếp nào có điều gì khó xử.”

Ta tiến lại gần Tĩnh Tâm Lan thêm một bước:

“Vậy sao? Bản cung từ đằng xa đã trông thấy Tu dung hình như đang tìm kiếm vật gì chăng?”

Tĩnh Tâm Lan giật mình, vô thức lùi lại một bước:

“Đâu có… Nương nương có phải đã nhìn lầm rồi không…”

“Ý Tu dung là mắt bản cung có vấn đề sao?”

“Thần thiếp không dám…”

Nhìn Tĩnh Tâm Lan càng lúc càng bối rối, ta khẽ cười trong lòng. Nghe Ngọc Thủy nói, Tĩnh Tâm Lan có tật ghét người khác chạm vào thân thể mình. Ngoại trừ Hoàng Đế ra, ngay cả cung nữ thân cận nếu không phải lúc cần thiết cũng không được phép chạm vào nàng ta. Nếu bị người khác chạm vào, dù là vô tình hay cố ý, nàng ta cũng sẽ nổi giận. Vì sợ Thái Hậu trách tội hách dịch nên Tĩnh Tâm Lan luôn giấu chuyện này, chỉ những người gần gũi bên cạnh mới biết. Thường ngày tính khí nàng ta luôn khó ưa nên phi tử khác cũng chẳng ai gần gũi nhiều, thế nên tật xấu này vẫn chưa lộ hẳn ra ngoài. Ban nãy vừa thấy ta đưa tay đến, nàng ta liền theo bản năng mà tránh đi, sau đó thái độ liền thay đổi, vẻ bình thản trên mặt cũng thành gượng gạo, rõ ràng là giận mà không dám phát tác. Điều này làm ta rất hài lòng, bởi lẽ khi nổi giận người ta càng dễ để lộ sơ hở.

“Tu dung quá lời rồi. Bản cung đâu có ý trách Tu dung. Nếu Tu dung thật sự đánh rơi thứ gì thì cứ nói ra. Bản cung có thể giúp Tu dung một tay. Bốn người cùng tìm sẽ nhanh hơn hai người tìm, có phải không?”

Ta nở nụ cười thân thiện, vô tư vỗ vai Tĩnh Tâm Lan mấy cái. Tĩnh Tâm Lan không tránh kịp, vừa bị vỗ mấy cái người đã run bắn. Nàng ta cắn môi, cố kiềm giọng đáp:

“Tạ nương nương quan tâm, nhưng thần thiếp đúng là không làm mất gì cả. Cũng đã muộn rồi, thần thiếp còn có chút việc cần làm, xin phép cáo từ trước.”

Tĩnh Tâm Lan nói xong bèn nhún người một cái cho có lệ rồi đi thẳng, không hề chờ xem phản ứng của ta như thế nào. Đông Tú thấy thế cũng luống cuống cúi chào rồi chạy theo sau.

Nhìn bóng dáng hai người bọn họ vội vội vàng vàng đi như ma đuổi, Ngọc Nga che miệng cười khẽ:

“Không ngờ cái tật sợ bị người khác chạm vào của Tĩnh Tu dung là thật. Trên đời này hóa ra lại có chứng bệnh như vậy! Nô tỳ vốn còn nghĩ Ngọc Thủy chỉ nói đùa.”

Ta cũng cười đáp: “Trên đời luôn có những chuyện kì quái như thế. Mà xem ra hành vi của bọn họ còn kì quái hơn nhiều.”

Ngọc Nga nghe xong, như sực nhớ ra điều gì, bèn kéo tay ta đi tới chỗ mấy bụi hoa mà Tĩnh Tâm Lan vừa đứng, nói:

“Thứ Tĩnh Tu dung đánh rơi nhất định rất quan trọng. Để nô tỳ tìm thử xem, biết đâu có thể cho bọn họ một bài học…”

Ta đưa mắt nhìn mấy bụi hoa hải đường bị Tĩnh Tâm Lan và Đông Tú giày vò đến tơi tả, lại nhìn xuống thì chỉ thấy mặt đất ướt át toàn là dấu chân ngang dọc. Nơi này tương đối trống trải, Tĩnh Tâm Lan quanh quẩn ở đây đã lâu, nếu vẫn không tìm thấy tức là đồ không có ở đây. Chỉ là nàng ta quá hoảng loạn nên cứ tìm mãi chỗ này không dám rời đi. Nếu không có ta tới phá đám thì e rằng bọn họ sẽ còn tìm tới tận khuya cũng không chừng.

“Đi thôi. Ở đây chẳng có gì đâu.”

“Nhưng mà…”

“Ngày tháng còn dài, có gì mà phải vội?”

***

Thượng Cung cục là nơi chăm lo cho cuộc sống hằng ngày của người trong hậu cung.

So với Thượng Cung cục ở Tùy Khâu, nơi này cũng không mấy khác biệt, đều chia làm bốn phân cục, gồm có Ti Lễ phòng chuyên dạy dỗ cung nữ, thái giám mới nhập cung; Ti Chế phòng lo việc chế tạo phục sức; Ti Thiết phòng đảm nhận đồ dùng và bày biện; Ti Thiện phòng lãnh trách nhiệm chuẩn bị thức ăn. Đứng đầu Thượng Cung cục là Thượng Cung đại nhân. Người nắm giữ chức vị này cả đời gắn bó với Thượng Cung cục, vì vậy danh xưng cũng lấy hai chữ “Thượng Cung” mà gọi. Mỗi phân cục lại có một người lãnh đạo, gọi là Ti trưởng; dưới mỗi Ti trưởng có ba Thượng nghi giúp việc quản lý; bên dưới nữa thì tùy vào tình hình công việc ở mỗi Ti mà có thể có từ hai đến năm Chưởng sự. Việc thăng tiến ở Thượng Cung cục chủ yếu dựa vào cống hiến, càng hữu dụng thì càng có địa vị cao. Nữ quan thông thường cũng như cung nữ có năm bậc từ ngũ phẩm đến cửu phẩm, những thứ bậc này trước tiên dựa vào kết quả khi thi tuyển vào Thượng Cung cục để xếp, mười người có kết quả tốt nhất được xếp hàng lục phẩm, còn lại đều là cửu phẩm.

Hơn mười năm trước, Tương Huyền thi vào Thượng Cung cục đạt kết quả cao nhất, trở thành lục phẩm nữ quan. Thế nhưng sau mười năm nàng ta vẫn chẳng thăng tiến chút nào, trong khi đấy có người cùng thời đã thăng đến hàng Thượng nghi, vậy nên nàng ta có chút nôn nóng cũng là hợp lí. Sau khi dâng lên Tứ Tuyệt Hương, Tương Huyền đã được thăng làm Chưởng sự tứ phẩm, tuy chưa có bao nhiêu vinh quang nhưng tính ra đã là bước tiến lớn trong sự nghiệp của nàng ta rồi. Kế đó lại trải qua việc của Đức phi, Thượng Cung cục thiếu người, mà lại có lệ không thể tùy tiện thăng cấp cho người mới nên Thượng Cung đại nhân đành cất nhắc Tương Huyền lên làm Thượng nghi. Lần thăng tiến này, Tương Huyền không đến Cẩm Tước cung tạ ân nữa khiến cho Tiểu Phúc Tử rất tức giận. Nhưng ta lại cho là chuyện tốt bởi vì về lý thì ta và Tương Huyền không có mối quan hệ gì cả, vả lại ta cũng chẳng muốn nhìn mặt loại người vong ân bội nghĩa như thế chút nào.

Lần sơ tuyển này, Tạ Thu Dung vượt qua chẳng chút khó khăn. Để tiếp tục kì tuyển chọn, nàng phải dọn vào Sương Đình ở, Cẩm Tước cung vì vậy mà trống trải thêm một chút.

Công việc ở Ti Lễ phòng tuy tương đối nhẹ nhàng lại phù hợp với Tạ Thu Dung nhưng nữ quan ở đó ít cơ hội thăng tiến, sau một hồi cân nhắc cuối cùng nàng chọn xin vào Ti Chế phòng. Ở Thượng Cung cục, nếu được vị chủ nhân nào đó yêu thích thì cuộc sống sẽ dễ chịu hơn nhiều, chỉ tiếc bây giờ thân ta còn chưa lo xong nên chẳng có cách nào che chở cho Tạ Thu Dung. Chuyện duy nhất ta có thể làm chỉ là vắt óc nhớ lại những chuyện ở Thượng Cung cục mà ta từng nghe hoặc từng thấy lúc nhỏ. Tuy hai nước khác nhau, nhưng lòng người ở đâu cũng đều như vậy, hi vọng những chuyện này có thể giúp Tạ Thu Dung một ít kinh nghiệm, ngoài ra cũng không quên dặn dò nàng đề phòng Tương Huyền.

Nghe đâu Liễu Yến Yến cũng vừa được bỏ lệnh cấm túc. Lúc trước Hoàng Hậu không trực tiếp nói “cấm túc”, chỉ bảo nàng ta đóng cửa tĩnh tâm vài ngày, dựa vào Thái Hậu làm nàng ta hoảng sợ, có lẽ muốn kiềm chân nàng ta lâu một chút. Nhưng sau khi nàng ta bị hạ thẻ bài, biết bao người thừa cơ tấn lên tranh đoạt long ân vốn đã khiến Liễu Yến Yến khó chịu lắm rồi, nay lại thêm chuyện ta mặt dày tranh sủng, được Hoàng Đế đích thân vẽ tranh cho, Liễu Yến Yến cuối cùng chịu không nổi nữa, đã thực sự nổi điên. Ba bước kinh điển: một khóc – hai nháo – ba thắt cổ được Liễu Yến Yến tiến hành trơn tru đâu ra đó, dĩ nhiên là kinh động đến long nhan. Hoàng Đế thương hoa tiếc ngọc như thế làm sao nỡ để Liễu Yến Yến chịu thêm ấm ức. Thế là hôm đó, khắp hậu cung ồn ào đồn đại Thục phi nương nương khóc lóc đến mê hồn người như thế nào, Hoàng Đế đã ôm Thục phi nương nương mà dỗ dành ra làm sao, lại nói tình cảm của hai người nồng nàn đến mức nào, chẳng ai là không ghen tức đỏ cả mắt.

Khi nghe tin ấy, ta chẳng lấy làm ngạc nhiên. Liễu Yến Yến gặp tai vạ chẳng qua là do Hoàng Hậu sắp đặt, người nàng ta chọc phải là Thái Hậu, mà hậu cung này đâu phải của Thái Hậu. Hoàng Đế vốn không giận Liễu Yến Yến, để nàng ta chịu ấm ức là vì nể mặt Hoàng Hậu và Thái Hậu. Sau đó Hoàng Hậu lại tiến cử nhiều phi tử khác, họ tuy không có dung mạo tuyệt thế như Liễu Yến Yến nhưng chung quy đều là mỹ nhân trong thiên hạ, Hoàng Đế trẻ tuổi ham vui thế là quên mất Thục phi nương nương khuynh quốc khuynh thành của hắn còn đang bị nhốt trong Mẫu Đơn cung. Bây giờ, Liễu Yến Yến làm loạn vừa khéo nhắc cho Hoàng Đế nhớ ra, vậy là để bù đắp cho nàng, Hoàng Đế cho người mang đến Mẫu Đơn cung không biết bao nhiêu kì trân dị bảo, hòng dỗ nàng ta vui vẻ. Liễu Thục phi lấy lại sủng ái một cách dễ dàng lại tiếp tục dương dương tự đắc. Người khác có ghen tức thế nào cũng phải cắn răng chịu đựng. Ai bảo nàng ta đẹp? Ai bảo ngươi không đẹp bằng nàng ta?

Đã không đẹp bằng người thì tất phải cam bái hạ phong.

Ta rất hiểu lý lẽ đó. Cho nên sau khi Liễu Yến Yến đắc sủng trở lại, ta liền ở lì trong cung không đi đâu nữa. Ngay cả Trịnh Vân Anh ngây thơ vô tội cũng bị Liễu Yến Yến trút giận lên mấy lần, thành ra cả nàng ấy cũng không dám ra ngoài. Chuyện này khiến Hoàng Hậu rất phật lòng, nhưng lần trước Hoàng Đế đã nể mặt nàng như thế thì lần này nàng không thể không nể mặt hắn. Thành thử mỗi lần Hoàng Hậu muốn gọi Trịnh Vân Anh đến Triêu Lan cung tán chuyện đều phải cho cung nữ thân cận là Xuân Linh hoặc Xuân Hạnh đi theo tháp tùng thì mới được vô sự.

“Chủ nhân, người xem treo ở đây có được không?”

Tiếng gọi của Ngọc Thủy cắt ngang dòng suy nghĩ của ta. Ta hơi giật mình, ngoảnh nhìn lại thì thấy Ngọc Thủy đang kính cẩn nâng bức tranh Hoàng Đế vẽ cho ta ướm lên khoảng tường trống chính giữa phòng. Bức tranh này là đặc ân của Hoàng Đế, không treo lên thì không ổn, mà treo lên thì cứ mỗi khi nhìn thấy là ta lại nhớ đến sự bạc bẽo của hắn, trong lòng lại không thoải mái. Cả buổi sáng hôm nay, Ngọc Thủy đã ướm nó lên mọi chỗ trong phòng rồi nhưng cứ hỏi ta thì ta lại lắc đầu không vừa ý làm cho nàng cũng mệt bở hơi tai.

“Chủ nhân rốt cuộc muốn treo nó ở đâu?” Ngọc Thủy thở hắt ra.

Ta cười cười, nghĩ bụng phải chi có thể trực tiếp vứt bỏ hay xé nó đi thì thoải mái biết mấy nhưng ngoài mặt chỉ thản nhiên đáp:

“Ngươi mệt rồi thì bảo Tiểu Phúc Tử vào đây làm thay là được.”

Ngọc Thủy nghe nói xong vội lắc đầu xua tay:

“Sao được chứ? Tay chân hắn vụng về, lỡ làm hỏng thì cả Cẩm Tước cung này mang họa mất!”

Lời Ngọc Thủy nói không sai. Ta cắn môi nghĩ ngợi một chút, cuối cùng nói:

“Thôi thì ngươi cứ cuộn lại để ở đầu giường của ta vậy.”

Ngọc Thủy gật đầu tán thành:

“Phải đấy! Thế mà nô tỳ không nghĩ ra. Treo lên ngộ nhỡ cung nữ quét dọn hàng ngày mạo phạm đến thì khổ, để ở đầu giường vừa đủ tôn kính cũng vừa đủ gần gũi. Chỉ là chủ nhân không thể ngắm mỗi ngày thôi.”

Ta cau mày:

“Bản cung ngắm tranh của mình mỗi ngày để làm gì?”

Ngọc Thủy cuộn tranh lại bỏ vào một cái hộp dài, lại phủ vải lụa lên trên rồi mới đặt lên đầu giường của ta, vừa làm vừa cười nói:

“Nô tỳ lỡ lời rồi. Ý nô tỳ là nếu treo lên thì mỗi ngày chủ nhân đều có thể nhìn thấy thủ bút của Hoàng Thượng, như vậy cũng gần như được ở bên Hoàng Thượng ấy ạ.”

Lời này của Ngọc Thủy làm ta nhớ đến thời điểm cùng Hoàng Đế đứng trước bức tranh Lê Hiền phi. Khi ấy hắn cũng từng nói mỗi ngày đều đến ngắm chân dung nàng ấy, có phải hắn cũng hi vọng bằng cách đó kề cận bên cạnh Hiền phi mỗi ngày? Dù rằng những đóa phù dung trong tranh và hai câu thơ đề từ của Hoàng Đế hoàn toàn không hợp lí, nhưng sự bi thương trong lời nói của hắn lúc đó lại có cảm giác rất chân thật. Ta tự hỏi, không biết tình cảm của hắn dành cho Lê Khiết là loại tình cảm nào? Là cùng một loại với thứ sủng ái mà hắn rộng rãi ban phát mỗi ngày hay là loại nào khác?

Miên man nghĩ ngợi hồi lâu, trong đầu ta bất giác lập đi lập lại những lời nói đau buồn của Hoàng Đế.

Nàng biết không, trẫm nghĩ hậu cung này thật sự là một nơi ăn thịt người đấy.

Nếu không một nha đầu vốn khỏe mạnh, hoạt bát như thế… vì sao vừa đến đây hơn một năm liền hóa thành đau bệnh liên miên, ốm yếu đoản mệnh như vậy?

Mấy câu này bề ngoài giống như lời thương cảm rất đỗi bình thường. Nhưng nếu suy nghĩ kĩ một chút thì lập tức nhận ra có điểm không ổn.

Một người đang khỏe mạnh hoạt bát cớ sao chỉ sau thời gian một năm lại có thể hóa thành bệnh tật đến mức đoản mệnh? Bản thân đã từng học qua y thuật nên ta hiểu rõ việc này vô lý đến mức nào. Lê Khiết là kim chi ngọc diệp, lẽ dĩ nhiên không phải vận động nhiều. Người khác thường nghĩ lối sống như thế sẽ khiến con người trở nên yếu đuối, nhưng họ lại không nghĩ tới những nhà quyền quý từ nhỏ đã ăn uống đầy đủ, nhân sâm tổ yến là món thường ngày, chưa kể đến bao nhiêu loại thuốc tẩm bổ khác mà người thường cả đời cũng chưa từng nghe tên, bồi bổ nhiều như vậy sức khỏe dù có không vượt trội thì cũng không thể ốm yếu quá mức được. Hoàng Đế cũng phải công nhận Lê Khiết vốn là một nha đầu khỏe mạnh. Nghe nói Lê Khiết vì đau buồn chuyện gia tộc mà qua đời, nhưng một người khỏe mạnh tuyệt đối không thể chết vì đau buồn được. Muốn vì một tin buồn mà chết thì nhất định phải là người tính mạng đã như chỉ mành treo chuông. Nói vậy, sau khi nhập cung đã xảy ra chuyện gì mà khiến nàng ta càng lúc càng đau yếu?

Cẩm Tước cung này là nơi ở khi trước của Lê Khiết, vậy chẳng lẽ ở đây có cái gì ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nàng?

Suy nghĩ ấy như bóp nghẹn ta.

Ta ở Cẩm Tước cung đã mấy tháng mà chẳng thấy có gì kì quái, sức khỏe vẫn tốt như xưa, nhưng nếu quả thực ở đây có thứ gì không sạch sẽ thì như thế sớm muộn gì cũng ảnh hưởng đến ta.

Nhất định phải tìm cho ra thứ đã làm hại Lê Khiết, sau đó dọn dẹp cho sạch sẽ.

Ta không thể đoản mệnh như Lê Khiết được!
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 38


Muốn điều tra lại cái chết của Lê Khiết là một việc vô cùng khó khăn.

Lê Khiết qua đời đã hai năm, những người liên quan đến nàng ta chẳng biếthiện giờ còn sống hay đã chết mà ta lại không thể quang minh chính đạimà đi dò hỏi. Đầu mối duy nhất hiện giờ chỉ có mình Ngọc Thủy mà thôi.

Từ sau khi biết Ngọc Thủy xuất thân từ phủ Hà Thái sư, ta vẫn luôn cẩnthận quan sát nàng. Ngọc Thủy làm việc gì cũng chăm chỉ nghiêm túc,những việc trực tiếp liên quan đến ta thì càng tận tâm hơn. Nàng làngười yêu ghét rõ ràng, nhưng không hề vì sự yêu ghét của mình mà thiênvị hay trù dập ai. Thực lòng, có được một nữ quan Chưởng sự như thế takhông còn dám mong gì hơn. Chỉ tiếc xuất thân của nàng quá đặc biệt,tính ta lại đa nghi, thực sự không có cách nào hoàn toàn buông bỏ khúcmắc trong lòng. Bây giờ nghĩ lại, Ngọc Thủy là do Hoàng Hậu tặng cho LêKhiết làm cung nữ tùy thân, như vậy những chuyện xảy ra với Lê Khiết,Ngọc Thủy ắt phải biết rõ. Những người từng hầu hạ Lê Khiết chỉ còn mỗiNgọc Thủy đến giờ vẫn bình an vô sự ở lại Cẩm Tước cung, điều này cónghĩa gì?

Nếu thật sự có kẻ ra tay với Lê Khiết, vì sao khôngdiệt cỏ tận gốc? Là vì sự việc năm xưa nàng không biết gì cho nên đượctha hay là nàng có một vai trò nào đó cho nên không thể trừ bỏ được?

Càng nghĩ càng mù mờ, ta bất giác thở dài một tiếng.

Ngọc Thủy thấy ta thở dài, bèn hỏi:

“Chủ nhân có tâm sự gì sao?”

Ta cắn môi, nghĩ mình không thể trực tiếp hỏi nàng được, nhưng ngoài nàngta thì càng không còn ai để hỏi. Suy tính một hồi, cuối cùng ta cũng lựa lời mà nói:

“Hôm trước Hoàng Thượng từng nhắc đến Hiền phi với bản cung…”

Ngọc Thủy nghe tên Hiền phi liền dỏng tai hỏi:

“Thật ạ?”

Ta gật đầu, hai mắt cụp xuống, rầu rĩ đáp:

“Phải… Bản cung cảm thấy Hoàng Thượng hình như rất thích Hiền phi nương nương.”

Ngọc Thủy cũng bùi ngùi đáp:

“Đúng thế…”

Ta lại thở dài, đưa tay về phía Ngọc Thủy. Ngọc Thủy thấy vậy vội bước đến nắm lấy tay ta. Cầm chặt tay nàng, ta khẽ nói:

“Bản cung thực hâm mộ nàng ấy. Nếu bản cung giống nàng ấy được một chút biết đâu Hoàng Thượng sẽ thích bản cung một chút…”

Lúc này hai mắt Ngọc Thủy đã đỏ lên. Nàng siết lấy tay ta:

“Chủ nhân đừng nói như vậy… Hoàng Thượng luôn thích chủ nhân mà…”

Ta buồn bã lắc đầu:

“Ngươi không cần nói cho ta vui, ta tự biết mình đang đứng ở đâu. Đừng nói đến Thục phi, Đức phi, Tĩnh Tu dung, ngay cả Quỳnh Thục nghi, Tiệp Chiêunghi cũng được yêu thích hơn ta. Ta chẳng có gì tốt cả. Ta ở nơi là Hiền phi từng ở, dùng những vật dụng mà nàng ấy từng dùng, thế mà lại chẳngđược bằng một phần nhỏ của nàng ấy. Ngươi nói xem, có phải mỗi lần Hoàng Thượng đến nơi này, nhìn những đồ vật này đều sẽ nghĩ đến Hiền phi haykhông? Sau đó nhìn lại, chỉ thấy một nữ nhân tầm thường như ta có phảilà sẽ rất thất vọng không?”

Ngọc Thủy lắc đầu, rơi nước mắt nói:

“Chủ nhân thực sự rất tốt. Cho dù không giống Hiền phi nương nương thì chủnhân vẫn rất tốt mà… Vả lại, vật dụng ở đây sau khi Hiền phi rời xa nhân thế đều đã được thay đổi toàn bộ, đâu còn lại gì. Ngay cả cách bày trícũng khác xưa rất nhiều… Hoàng Thượng sẽ không nhìn cảnh nhớ người đâu.Chủ nhân, xin đừng nói những lời thương tâm như vậy.”

Ta nhìn Ngọc Thủy, run run hỏi:

“Thật sự đều đã thay đổi ư?”

“Thật ạ… Tất cả vật dụng ở Cẩm Tước cung đều do nô tỳ đích thân giám sát Ti Thiết phòng sắp đặt…”

“Đáng tiếc thật… bản cung cứ mong có thể nhìn thấy cuộc sống của nàng ấy trước đây…”

Nói đoạn, ta lại tỏ ra buồn bã.

Nếu vậy những thứ không sạch sẽ đều bị dọn đi rồi sao? Vậy nên ta ở đây một thời gian rồi mà vẫn khỏe mạnh?

Không, ta vẫn cảm thấy có điểm chưa thỏa đáng.

Khi còn nhỏ, ta từng thấy qua những phi tử của phụ hoàng hãm hại lẫn nhaukhông ít lần. Nếu ra tay với vật dụng hàng ngày, thường chỉ có mấy chiêu như tẩm xạ hương hoặc độc hương gì đó vào đồ mộc, cũng có thể là phađộc vào son phấn. Nhưng những biện pháp này quá thô thiển, chỉ hại đượcnhững nữ tử ngu dốt và những kẻ xuất thân dân dã không quen chuyện đấuđá ở hậu cung, còn đối với những thiên kim quyền quý, những chuyện nàyhẳn họ đều được mẫu thân dạy dỗ trước khi nhập cung rồi. Lê Khiết nhìnthế nào cũng không giống kẻ ngốc, nàng ta không thể chết vì một trò vặtnhư vậy.

Để làm một người khỏe mạnh dần dần yếu đi, vậy phải hạđộc vào những thứ người đó tiếp xúc mỗi ngày. Ngoại trừ vật dụng trongphòng nghỉ và son phấn các thứ, chỉ còn thức ăn là đáng nghi nhất. Chỉcó điều hạ độc trong thức ăn một thời gian dài mà không để lại dấu vếtlà điều bất khả thi.

Đầu óc ta như bị một màn mây mù che phủ,càng lúc càng dày đặc, càng nghĩ càng bế tắc, nhưng lại không thể khôngnghĩ. Nguyên nhân chắc chắn không phải là vật dụng nên dù tất cả vậtdụng đều đã được thay đổi thì đối với ta cũng không ích gì. Thứ khôngsạch sẽ đó rất có thể vẫn còn ở đâu đây. Nếu không tìm ra nó, ta thựcchẳng yên lòng.

“Chủ nhân…”

Ngọc Thủy lay nhẹ tay ta, lưỡng lự nói:

“Người đừng buồn nữa. Tuy nơi này đều bị thay đổi cả rồi, chủ nhân không thểnhìn thấy Hiền phi nương nương từng sống như thế nào nữa… Nhưng nô tỳvẫn còn cất giữ một số kỉ vật của Hiền phi nương nương, nô tỳ có thểmang đến cho chủ nhân xem…”

“Thật sao?”

Ta thậm chí có thể cảm thấy hai mắt mình đang sáng ngời lên, phải cố gắng lắm mới kiềm chế được sự kích động trong lòng. Vẫn còn lại vật dụng của Lê Khiết, biếtđâu có thể nhìn ra manh mối gì chăng?

“Vâng, để nô tỳ đi lấy.”

“Được. Nhưng nhớ cẩn thận đừng để ai chú ý nhé, Hoàng Thượng mà biết ta hỏi về Hiền phi như thế, e sẽ không vui.”

“Nô tỳ biết rồi, chủ nhân đợi một chút thôi.”

Ngọc Thủy thấy ta vui vẻ trở lại thì cũng vui lây. Nhìn nàng hào hứng rời đi như thế, ta tự nhiên thấy mình gạt nàng như vậy thực không phải chútnào. Có lẽ thêm một thời gian nữa thôi, ta sẽ cố gắng tin tưởng và thành thật với nàng hơn.

Không lâu sau, Ngọc Thủy trở lại với mộtchiếc rương gỗ nhỏ trên tay. Nàng bưng chiếc rương đặt lên trên sạp gỗ,bên cạnh chỗ ta đang ngồi.

“Không bị ai nhìn thấy chứ?”

“Không đâu ạ. Chỗ chúng ta có lệ cho cung nhân nghỉ trưa, cho nên giờ này bên ngoài chẳng có người nào đâu.”

Ta thở phào nhẹ nhõm, ra hiệu cho Ngọc Thủy cùng ngồi xuống.

Ngọc Thủy lần thắt lưng, lấy ra một xâu chìa khóa lớn, nàng vừa lựa chìa khóa vừa nói:

“Ở đây cũng không có gì nhiều, chỉ là nô tỳ muốn giữ lại để tưởng nhớ Hiền phi nương nương thôi…”

Nắp rương chậm rãi mở ra, bên trong có ba ngăn, trên cùng đựng tầm mười cây trâm, khi mở tầng trên ra thì thấy bên dưới là vài hộp son phấn, caodưỡng da các loại, tầng dưới cùng để một xấp giấy, tất cả đều được sắpxếp rất gọn gàng.

Ta cầm một cây trâm lên xem xét, miệng hỏi:

“Những thứ này đều là của Hiền phi sao?”

Ngọc Thủy rầu rĩ đáp:

“Sau khi Hiền phi nương nương qua đời, tất cả đồ dùng của người đều phải trả về Thượng Cung cục, chỉ có những vật này vì người đã ban cho nô tỳ nênnô tỳ mới được giữ lại.”

Ta thận trọng xem qua từng vật một,những cây trâm này đều rất đắt tiền, cả chỗ son phấn này cũng toàn làhàng thượng phẩm. Lê Khiết đối với Ngọc Thủy thật sự rất rộng rãi.

“Ta cảm thấy Hiền phi nương nương rất yêu thương ngươi.”

Ta mỉm cười, đặt đồ về chỗ cũ.

“Vâng ạ. Hiền phi nương nương thương nô tỳ nhất, cả cung nữ hồi môn cũngkhông bằng, tất cả đồ dùng quan trọng của người đều giao cho nô tỳ cả…”

Ngọc Thủy cúi đầu, nước mắt lã chã rơi đầy mặt.

Ta thở dài, chẳng biết nói gì. Những đồ vật này chẳng có vấn đề gì, bảnthân ta cũng đang mệt mỏi cùng thất vọng, đâu còn tâm trạng an ủi ngườikhác. Chợt nhìn lại, trong rương vẫn còn một xấp giấy ta chưa động tới.Lòng không hi vọng gì nhiều, nhưng đã để Ngọc Thủy tốn công sức mangrương tới, ta vẫn thử đọc qua một chút.

Mấy tờ giấy này thì ra là ghi lại đồ ăn thức uống của của Cẩm Tước cung năm đó, từ điểm tâm đếncác món chính, cả trái cây, trà nước đều không thiếu. Lê Khiết thực sựcoi trọng Ngọc Thủy, cả thứ này cũng cho nàng ta quản.

Ta đọclướt qua một chút liền cảm thấy chóng mặt, lòng thầm khâm phục người của Ti Thiện phòng. Những cái tên trên này vừa văn nhã vừa hoa mỹ, đọc hiểu đã khó, càng không thể biết được những món này có cái gì bên trong cả.

Nhìn lại, Ngọc Thủy vẫn đang ngồi khóc thút thít, ta tặc lưỡi, vỗ vai nàng hỏi:

“Ngọc Thủy này, món Trích tiên du thủy này là cái gì thế?”

Ngọc Thủy chùi mắt, ngập ngừng đáp:

“Có nhiều nguyên liệu lắm, nô tỳ không nhớ rõ…”

Ta chỉ muốn nàng phân tán sự chú ý để bớt thương tâm, cho nên cười đáp:

“Không sao, ta chỉ muốn biết nguyên liệu chính thôi. Những món ăn này tên lạquá, ta chẳng hiểu gì cả. Mai này mà có cung yến, ta nhất định là sẽ bịchê cười.”

Ngọc Thủy đón lấy tờ thực đơn trên tay ta, chau mày nghĩ ngợi:

“Vậy để nô tỳ nghĩ xem, món Trích tiên du thủy hình như là thịt dê nấu với nước trà đó…”

Thịt dê nấu nước trà? (1)

Lòng ta khẽ động.

Có lẽ nào…

“Ngươi chắc không?”

“Nô tỳ nhớ là vậy mà.”

“Vậy còn món này?”

Ta chỉ tay vào món ăn được viết ngay bên dưới.

“Sơn chi mỹ nhân? Ừm, hình như là gà nấu với lá kinh giới.” (2)

“Còn món Quý trân bát bảo này?”

“À, món này thì nô tỳ nhớ rõ. Hiền phi nương nương rất thích món này. Đâylà não của giống heo ở phương nam hầm với trứng gà, đậu nành và đường đỏ và mật ong.” (3)

Cứ thế, Ngọc Thủy dần dần giảng giải cho ta từng món một.

Cua hấp lựu tươi, nho ngâm sữa bò, tôm hầm trái lê và củ cải trắng, gan dêxào măng tre, ngỗng hầm trái lê xanh, thịt đùi lợn hầm củ ấu, lạc ngâmrượu… (4)

Mỗi một cái tên vang lên bên tai là mỗi lúc sống lưngta lại lạnh thêm một chút, lạnh đến nỗi toàn thân ta như đông cứng. Takhông biết Ngọc Thủy đã nói xong từ lúc nào, nhịp tim dồn dập trong lòng ngực khiến hai tai ta lùng bùng cả, mãi đến khi Ngọc Thủy lay gọi, tamới giật mình như tỉnh mộng dài.

“Chủ nhân không sao chứ?”

Ta hít sâu mấy hơi, cố tỏ ra bình thản mà hỏi:

“Những món ăn này do Hiền phi chọn sao?”

Ngọc Thủy lắc đầu, đáp:

“Không ạ. Hiền phi ít khi nào đòi hỏi gì, thức ăn mỗi ngày đều do Ti Thiệnphòng tuyển chọn theo mùa. Chỉ là món nào người thích thì ăn nhiều vàiđũa thôi.”

“Thì ra là vậy…”

Khóe môi ta hơi co lên, bản thân ta cũng chẳng rõ đó là một nụ cười hay vì quá sợ hãi mà cả cơ mặt cũng co giật.

Mấy món ăn này, mỗi món đều dùng hơn mười loại nguyên liệu vô cùng rối rắm, nhưng những nguyên liệu chính, kì lạ làm sao, đều vừa khéo là những thứ cực kì tương khắc nhau. Nếu không phải vì lúc nhỏ ta từng được Y Tiêndạy qua những thứ này thì e rằng có nằm mơ cũng không nghĩ ra nổi. Sửdụng nguyên liệu tương khắc nhau làm thức ăn, cho dù thử độc cũng chẳngphát hiện được gì, người thường nhìn vào càng không thể nhận ra. Quanhnăm suốt tháng ăn những món này, lục phủ ngũ tạng dần dần bị bào mòn, Lê Khiết thân là nữ nhi làm sao chịu nổi. Sức khỏe nàng ta càng ngày càngxuống dốc cũng là hợp lý. Dù không xảy ra gia biến thì nàng ta cũngchẳng cầm cự nổi quá ba năm.

Thời điểm Lê Khiết đắc sủng, LiễuYến Yến và Triệu Lam Kiều chỉ là những phi tần bình thường mờ nhạt. Nhưvậy, hậu cung lúc đó, ai là người có đủ trí tuệ để bày ra bậc này cạmbẫy này, lại đủ bản lĩnh chi phối cả Ti Thiện phòng?

“Ngọc Thủy, ban nãy ngươi nói tất cả đồ dùng quan trọng của Hiền phi nương nương đều do ngươi quản lý có phải không?”

“Vâng, đúng là như thế ạ.”

Thì ra là vậy.

Thì ra tất cả chính là như vậy!

Trong lòng ta vô số cảm xúc mãnh liệt không ngừng dâng trào. Vừa phấn khíchvì nghi vấn đã có lời giải, vừa sợ hãi lòng người quá mức đáng sợ, lạivừa có phần kính phục một âm mưu gọn gàng chặt chẽ không có kẽ hở. Nếuchẳng phải vì Ngọc Thủy thương nhớ Lê Khiết mà giữ lại những thứ này thì chắc chắn ta chẳng đời nào đoán ra nổi.

“Bản cung muốn nghỉ ngơi một chút, ngươi mang những thứ này về đi.”

Không muốn để Ngọc Thủy nhìn thấy sự phức tạp trong mắt mình, ta vội vàng đứng dậy đi thẳng vào phòng trong.

“Chủ nhân cảm thấy mệt ở đâu sao?”

Nghe tiếng Ngọc Thủy lo lắng gọi với theo, ta bèn hắng giọng nói vọng ra:

“Không có gì. Ta chỉ buồn ngủ thôi. Ngươi cũng về nghỉ đi, có việc gì ta sẽ gọi.”

Ngọc Thủy nghe giọng ta kiên quyết, đành phải làm theo. Lúc Ngọc Thủy vừa đi khỏi cũng là lúc ta ngồi bệt xuống sàn, hai chân mềm nhũn chẳng còn sức lực. Ta cứ ngồi như thế, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc.

Hoàng Hậu, người quả thực không phải chỉ nhờ tụng kinh niệm Phật mà ngồi vững trên hậu vị!

Ngay từ khi Lê Khiết vừa đắc sủng, Hoàng Hậu đã bắt đầu tính toán cả rồi.

Hoàng Hậu mang Ngọc Thủy tặng cho Lê Khiết hoàn toàn không phải ngẫu nhiên.

Lê Khiết đã sớm có lòng đề phòng Hoàng Hậu, cho nên mới đem toàn bộ đồdùng quan trọng giao cho một cung nữ mới đến bảo quản, ngoài mặt là lấylòng Hoàng Hậu, thực chất là để cho Hoàng Hậu biết nếu đồ dùng của nàngta có vấn đề gì, truy ra người bảo quản từng là cung nữ thân cận củaHoàng Hậu, vậy Hoàng Hậu cũng đừng mong tránh được liên lụy. Không chỉvậy, Lê Khiết còn đối đãi với Ngọc Thủy cực kì tốt, chính là để tránhkhi xảy ra chuyện có kẻ viện cớ tư thù để chối tội. Nàng ta tốt với Ngọc Thủy như thế, Ngọc Thủy chẳng có lý do gì để thù hận nàng ta cả. HoàngHậu đã đi một nước cờ quá cao thâm, khiến cho Lê Khiết không thể khônghao tâm tổn trí. Ngọc Thủy được chọn hẳn cũng vì tính cách quá mức ngaythẳng kia. Lê Khiết làm sao tin được Hoàng Hậu lại tặng mình một cung nữ ngay thẳng thiện lương, hẳn sẽ nghĩ Ngọc Thủy giả vờ, mà giả vờ giỏinhư thế nhất định phải là loại người không thể xem thường. Có lẽ mỗingày nàng ta đều chằm chằm quan sát Ngọc Thủy, tập trung đến nỗi khôngnhìn thấy những điều bất thường khác. Nếu Lê Khiết tỉnh táo hơn một chút thì có thể sẽ nhận ra Hoàng Hậu là người tinh tế đến bậc nào, sao cóthể làm chuyện nông cạn như trực tiếp cài người vào hại nàng ta. Cho dùmuốn thế thì cũng phải đợi lúc thần không biết quỷ không hay mà muachuộc người bên cạnh nàng ta mới phải.

Chỉ tiếc đạo cao mộtthước, ma cao một trượng. Lê Khiết ngày ấy còn quá trẻ, dẫu có thôngminh nhưng so với Hoàng Hậu thì vẫn chỉ là một đứa trẻ dễ dàng bị nắmtrong lòng bàn tay.

Trong năm vị tiểu thư dự tuyển hậu năm xưa,không nói đến Tạ Thu Dung, còn lại Lê Khiết bị Hoàng Hậu trừ bỏ trongthời gian ngắn, Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiều thì luôn bị nàng chiphối. Hoàng Hậu thực sự đã chứng tỏ mình xứng đáng với bốn chữ “mẫu nghi thiên hạ”.

Hậu cung này bất luận có dáng vẻ thế nào, thì trước nay vẫn luôn là thiên hạ của Hoàng Hậu.

Khi trước, ta luôn cảm thấy bố cục hậu cung này rất kì lạ. Ví như phe pháicủa Triệu Lam Kiều ít người nhất, nhưng bản thân Triệu Lam Kiều thôngminh tuyệt đỉnh, lại có Tĩnh Tâm Lan sắc sảo nhạy bén cho nên không hềyếu thế. Liễu Yến Yến không có đầu óc nhưng dựa vào gia thế và sủng ái,lại có Minh phi – Minh Âm, điềm đạm trí tuệ giúp đỡ nên cũng không đếnnỗi không chống đỡ nổi. Còn Hoàng Hậu, chẳng những không có sủng ái,người của nàng nhìn lại cũng có kẻ nào đủ tâm cơ để giúp đỡ nàng: TrịnhVân Anh thơ ngây, Bạch Diệu Hoa nhu nhược, Dương Ngọc Huệ nhỏ nhen,Giang Tiểu Ái hữu dũng vô mưu, như thế mà vẫn có thể chèn ép được haingười Liễu, Triệu. Đến bây giờ ta mới hiểu, Hoàng Hậu vốn không cần aitính toán hộ nàng, một mình nàng hoàn toàn thừa sức đối phó tất cả, việc lôi kéo những người kia về phe mình có lẽ chỉ để củng cố thế lực cho Hà thị cũng như phân chia bớt thế lực của Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiềumà thôi.

Như vậy nghĩ lại, chuyện của Tố Linh lúc đó, Hoàng Hậuđánh tiếng nhờ ta phò trợ, có khi chỉ là muốn kiểm tra ta mà thôi. Nếuta không đủ năng lực thì nàng sẽ để ta tự sinh tự diệt, còn nếu ta đủnăng lực, nàng liền thu nhận ta. Ta quy thuận nàng thì không sao, nhượcbằng từ chối, có lẽ nàng sẽ tiện tay dọn dẹp ta luôn để trừ hậu họa.

Nghĩ tới đây, ta vừa mừng thầm vì khi trước đã quyết định đúng đắn mà đitheo Hoàng Hậu, lại vừa lo sợ một ngày nào đó mình không còn giá trị lợi dụng, hoặc vì xung đột lợi ích mà nàng đối phó ta… Thực sự ta không còn dám nghĩ tiếp.

Ta vốn không thông minh bẩm sinh như Hoàng Hậuhay Triệu Lam Kiều, chỉ nhờ sinh ra và lớn lên trong chốn hậu cung, lạirơi vào hoàn cảnh bi thương cho nên có thể nghe thấy, nhìn thấy rấtnhiều chuyện mà người khác không thể tỏ tường, nhờ thế mà có nhiều kinhnghiệm hơn kẻ khác, cũng vì vậy mà sinh ra tính đa nghi, bất cứ chuyệngì cũng phải nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần cho nên mới tạm thời sống yênổn. Nhưng ta hiểu rõ chỉ bấy nhiêu thì không đủ để bảo vệ bản thân.

Không có nhan sắc, lại không có gia thế, tâm kế cũng không đủ, muốn sống lâuthì chỉ còn cách cố gắng lấy lòng Hoàng Đế. Qua một thời gian thân cậnvới Hoàng Hậu, ta đã nhận ra Hoàng Hậu chẳng hề để tâm đến việc tranhsủng, Hoàng Đế sủng ái ai nàng cũng không bận lòng, thứ duy nhất nàngtoàn tâm toàn ý giữ gìn chỉ có hậu vị và lợi ích gia tộc mà thôi. Đâycũng là một điểm khiến ta và Hoàng Hậu hợp nhau. Ta là người nước khác,hoàn toàn không có khả năng ngồi lên hậu vị, dù sau này ta sinh đượchoàng tử thì hoàng tử của ta cũng không thể kế vị, ta lại không có giatộc cho nên đối với Hoàng Hậu ta chẳng có chút đe dọa nào. Khi xưa Hoàng Hậu ra tay với Lê Khiết có lẽ vì cảm thấy sự sủng ái của Hoàng Đế dànhcho Lê Khiết đe dọa đến địa vị của mình chăng?

Chỉ là Hoàng Hậuvốn không để tâm đến ân sủng, bản thân Lê Khiết lại không thông minhbằng Hoàng Hậu, không lý nào chỉ vì Hoàng Đế sủng ái Lê Khiết mà diệtnàng ta. Trừ phi, trong triều đã xảy ra chuyện gì đó có ảnh hưởng lớnđến sự phân bố thế lực. Nói cách khác Lê thị mới thực sự là mầm mống tai họa. Cái chết của Lê Khiết chỉ là nhổ cỏ tận gốc mà thôi.

Sau khi bỏ qua ân sủng mà suy nghĩ mọi việc trên góc độ quyền lực, ta chợt hiểu ra rất nhiều chuyện.

Thời điểm Lê Khiết đắc sủng, Lê thị phất lên như diều gặp gió cũng là lúcThái Hậu ngừng nhiếp chính, lùi về hậu cung, Hoàng Đế lần đầu tiên đượcchạm tay vào long bàn ấn.

Ta nghĩ có lẽ ngày ấy Hoàng Đế tuổi nhỏ hiếu thắng, muốn mau chóng thu lại quyền lực cho nên đã nâng đỡ Lê thịvà Trịnh thị, hòng tạo ra đối trọng để chế áp ba nhà Triệu, Liễu, Hà. Sự sủng ái tột bậc của hắn đối với Lê Khiết và sự lạnh lùng đối với LiễuYến Yến và Triệu Lam Kiều lúc đó hẳn cũng là để tạo hậu thuẫn cho Lê thị và kiềm chế Liễu thị cùng Triệu thị. Hắn để trưởng tử Trịnh thị cùngvới Lê thị đi áp tải cống phẩm, một phần để thể hiện sự tín nhiệm củamình một phần để gắn kết hai gia tộc này, tránh việc bọn họ tự tư tự lợi làm hỏng chuyện của hắn.

Đáng tiếc, Hoàng Đế tính không sainhưng lại chọn sai người. Trong cung Lê Khiết đấu không lại HoàngHậu. Ngoài cung, Lê thị cũng không ngoại lệ, chẳng những thất bại màcòn mang ô danh muôn đời. Thiết nghĩ, áp tải cống phẩm năm đó là Cẩm yvệ chính quy của Bách Phượng, lại do Trịnh Thừa Minh vốn nổi danh anhdũng thần võ chỉ huy. Muốn giết sạch bọn họ đâu phải đơn giản, chuyệnnày nhất định có Triệu Tướng gia nhúng tay vào.

Hà thị và Triệuthị từng bắt tay nhau trừ bỏ một mối họa chung. Điều đó có thể giảithích cho sự thân thiện của Thái Hậu đối với Triệu Lam Kiều. Vậy vai trò của Liễu thị khi ấy là gì? Phải chăng vì Liễu thị ngồi không hưởng lợicho nên Thái Hậu mới ác cảm với Liễu Yến Yến như vậy?

Một nước cờ Hoàng Đế đi sai đã dẫn đến sự diệt vong của một gia tộc và sự suy yếucủa một gia tộc khác, cùng với cái chết của vô số người vô tội. Phảichăng đó là lý do khi nhắc đến Lê Khiết, Hoàng Đế lại thương tâm đến mức đó? Lê Khiết không chỉ là nữ tử hắn từng yêu thích mà còn tượng trưngcho sự vấp ngã đầu tiên của Hoàng Đế trong cuộc chiến tranh giành quyềnlực tàn khốc này.

Bao nhiêu người đã chết?

Bao nhiêu người sẽ chết?

Đầu óc ta đã sáng tỏ nhưng lòng lại càng thêm nặng nề.

Hóa ra Hoàng Đế cũng giống như ta, cũng đơn độc giữa bao nhiêu là cạm bẫy.

Hóa ra ngai vàng lại khó ngồi như vậy.

______________
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 39


Bách Phượng đã vào mùa mưa nên càng lúc thời tiết càng thất thường, thoắt mưa như trút nước, thoắt lại tạnh ráo.

Thái Hậu đóng cửa không tiếp khách, Hoàng Hậu thì không coi trọng lễ thỉnhan cho lắm nên dưới thời tiết này, đã lệnh miễn lễ thỉnh an cho đến hếtmùa mưa. Triệu Lam Kiều cũng được Hoàng Hậu bãi lệnh cấm túc, chỉ làHoàng Đế có vẻ vẫn còn phật lòng, mấy lần Triệu Lam Kiều cầu kiến đềukhông chịu gặp mặt. Mưa gió thế này khiến ai ai cũng ngại đi lại, HoàngĐế cũng không ngoại lệ. Vậy nên đã ba bốn hôm rồi, ngoại trừ lúc thượngtriều với vài canh giờ đọc tấu chương ở Ngự Thư phòng, hắn đều ở lìtrong Mẫu Đơn cung làm cho Liễu Yến Yến vô cùng đắc ý.

Mấyngày trước, Phong tộc cống nạp hơn một trăm cuộn tơ lụa đủ loại, HoàngĐế giao thẳng cho Hoàng Hậu. Hoàng Hậu để lại một phần cho Hoàng Đế sửdụng, một phần đưa đến Thuận Ninh cung, một phần giao đi hành cung Thanh An cho các vị Thái phi, Thái tần… Chu toàn đâu đó rồi Hoàng Hậu mới gọi đám phi tử bọn ta đến Triêu Lan cung phân chia phần còn lại.

Phong tộc vốn là dị tộc sinh sống ở gần biên cương phía Bắc Bách Phượng.Người của Phong tộc sống rất phóng khoáng, nam nữ bình đẳng như nhau. Nữ nhi Phong tộc đều biết cưỡi ngựa săn bắn còn nam nhân Phong tộc cũngkhông ngại chuyện dệt vải, nấu nướng. Nữ nhi ở đó còn có thể tự quyếtđịnh hôn sự của mình, thích ai liền đeo đuổi người đó, không kẻ nào cóquyền ngăn cản. Khi ta nghe được chuyện này, trong lòng vô cùng ngưỡngmộ những nữ tử ở Phong tộc, thậm chí còn nảy ra suy nghĩ hoang đường làtrốn khỏi Hoàng cung, tìm đến đó sống một cuộc sống tự do tự tại. Cóđiều sự ngưỡng mộ ấy ta chỉ dám giấu kín trong lòng, bởi người BáchPhượng đều coi thường lối sống Phong tộc là hoang dã, đảo lộn tam cươngngũ thường, thế này thế khác, đủ loại chỉ trích. Có điều, dẫu chê tráchPhong tộc đến thế nào thì người ở Bách Phượng vẫn vô cùng yêu thích thứtơ lụa độc đáo của Phong tộc. Ban đầu ta rất ngạc nhiên, bụng nghĩ đámnữ nhân quyền quý này có thứ châu bảo nào còn chưa nhìn thấy đâu, saochỉ nghe đến mấy khúc vải mà mắt đã sáng rỡ cả lên thế kia. Mãi đến khivâng lệnh tới Triêu Lan cung chọn vải, ta mới ngộ ra: tơ lụa của Phongtộc dệt dù có ngàn vàng cũng không mua được. Chất vải mềm mượt, trơnmát, mỏng như cánh bướm nhưng sợi vải dệt rất khít nên mặc lên không lộda thịt mà vẫn đủ tha thướt phong tình, cầm trên tay thì thấy bồng bềnhnhư mây khói. Cả công đoạn nhuộm cũng hết sức đặc biệt, màu sắc vừaphải, sáng sủa mà không quá chói mắt. Chất lượng mỗi cuộn vải đồng đềunhư từ tay một người làm ra, không có nửa phân sai lệch. Kỹ thuật dệtnày là bí mật của Phong tộc, vải dệt ra chỉ dành cho người trong tộcdùng và để tiến cống, không bao giờ bán ra ngoài. Nếu không phải được gả vào hoàng tộc, cả đời này cũng đừng mơ được chạm vào thứ tơ lụa ấy. Bởi vậy, vừa nhìn thấy chiếc bàn dài chất đầy tơ lụa Phong tộc trong đạiđiện, mắt của chúng phi lập tức sáng như đèn lồng, ai nấy nhanh như cắtlao vào thi nhau chọn lựa. Tiêu chuẩn cơ bản là mỗi người hai cuộn,nhưng nhìn lại thì cung nữ của Liễu Yến Yến vừa vào đã ôm đến cuộn thứnăm, mà Liễu Yến Yến vẫn còn say mê chọn lựa chưa hề có ý định dừng lại, khiến cho đa số lo sợ mất phần mình, bèn chọn vội rồi trốn ra một góc.

Bản thân ta, dù rất ngưỡng mộ kỹ thuật dệt vải của Phong tộc nhưng thựclòng ta cũng chẳng để tâm đến mấy thứ này lắm. Hai cuộn vải chỉ may đủmột bộ y phục, thêm vào một bộ hay ít đi một bộ cũng thế thôi. Nghĩ vậy, ta chỉ chọn lấy cho có. Nhưng lạ một đỗi, cứ hễ ta vừa cầm cuộn nào lên thì Liễu Yến Yến liền lập tức vừa mắt cuộn ấy. Dĩ nhiên ta không có gan tranh chấp với Liễu Yến Yến nên đều cung kính nhường nàng ta. Đến lầnthứ ba, ta chợt hiểu Liễu Yến Yến cố tình gây sự với mình, trong lònglập tức nghĩ ra một trò vui nho nhỏ. Biết Liễu Yến Yến không muốn cho ta lấy được cuộn vải nào, ta cứ vờ như không nhận thấy địch ý của nàng ta, cứ hồn nhiên lựa chọn cuộn khác. Thế là Liễu Yến Yến lại đòi lấy cuộnta vừa chọn, cứ thế lập lại mấy lần nữa. Kết cục của buổi hôm đó, tachẳng có cuộn tơ lụa nào còn Liễu Yến Yến thì ôm một đống cả hơn chụccuộn, đương nhiên đa số đều là cướp từ trên tay ta. Trịnh Vân Anh rấtbất bình muốn nói lời công bằng, nhưng ta chỉ ra hiệu cho muội ấy đừnglên tiếng. Trịnh Vân Anh không hiểu ý định của ta, ấm ức cắn môi mộthồi, sau đó không ngần ngại chia cho ta một cuộn tơ. Ta thật không ngờTrịnh Vân Anh tính tình trẻ con, lại thích hai cuộn tơ này như thế màlại dám thẳng tay tặng ta một cuộn, trong lòng cảm động không thôi. Muội ấy đã có lòng với ta đến mức này, ta làm sao nỡ lấy vật muội ấy yêuthích, chưa kể còn có Liễu Yến Yến lăm le gây sự, ta không muốn liên lụy gì đến Trịnh Vân Anh nên kiên quyết từ chối.

Nhìn thấy ta phảitrở về tay không, Liễu Yến Yến vui vẻ tột bậc, cười không khép môi lạiđược. Mà cũng vì quá đỗi vui vẻ mà nàng ta chẳng mảy may nhận ra chỗ vải vóc ta cố tình lựa chọn cho nàng ta màu sắc mỗi cuộn đều rất tươi đẹp,nhưng khi phối lại chọi nhau chan chát, chẳng có màu nào có thể phối với nhau thành một bộ y phục được. Bên ngoài Liễu Yến Yến hân hoan baonhiêu thì bên trong ta cũng cao hứng bấy nhiêu. Liễu Yến Yến, ngươi cóđược mặc thứ tơ lụa Phong tộc hay không, còn phải xem tài năng phối màucủa nữ quan Ti Chế phòng như thế nào đã.

Trò chơi khăm vặt vãnhcủa ta không lọt nổi mắt Hoàng Hậu. Lúc Liễu Yến Yến hồi cung rồi, Hoàng Hậu liền viện cớ giữ ta và Trịnh Vân Anh lại tán chuyện, nói đến đốngtơ lụa của Liễu Yến Yến, ba người chúng ta cười đến chảy cả nước mắt. Có cả đống đồ tốt mà không cách nào dùng được, không biết bộ mặt xinh đẹpcủa Liễu Yến Yến khi đó sẽ có hình dạng gì.

Hoàng Hậu tất nhiênkhông để ta chịu thiệt, nói chuyện đông tây thỏa thuê rồi bèn sai ngườilấy từ phần của mình ra hai cuộn tơ lụa bù đắp cho ta. Ta cảm tạ tấmlòng của Hoàng Hậu, nhưng sợ phiền phức về sau nên không dám nhận. Hoàng Hậu ép không được, thế là đổi lại cho ta mấy xấp gấm Cẩm Hoan màu tímcũng khá quý giá. Ta không có gan từ chối nữa, đành phải ôm về. Ngày hôm ấy vừa chơi được Liễu Yến Yến một vố lại vừa có mấy bộ y phục mới, tính ra ta cũng không bị lỗ.

Hoàng Đế đã lâu không ghé chỗ ta nhưngnhư thế ta lại càng cảm thấy thoải mái. Dù sao thì bức tranh của HoàngĐế vẽ cho ta đã gây ra quá nhiều sự chú ý rồi, ta chẳng cần thêm phiềnphức nữa. Hắn cứ bám lấy Thục phi nương nương nhà hắn thế mà lại hay,vừa có thể làm dịu bớt cơn giận của Liễu Yến Yến đối với ta, vừa hướngmũi nhọn ganh ghét của kẻ khác về chỗ Liễu Yến Yến. Thêm vào việc phânchia tơ lụa hôm trước, Liễu Yến Yến ôm một đống tơ lụa nghênh ngang trởvề còn ta thì chẳng có nổi một cuộn. Chúng phi được dịp chê cười ta chonên sự ganh ghét cũng giảm thêm mấy phần, mà mấy phần đó đều dồn cả choLiễu Yến Yến. Nhờ phúc của Thục phi nương nương, ta lại được mấy ngàyyên ả.

Kỳ thi tuyển chọn nữ quan ở Thượng Cung cục đã kết thúc.Tạ Thu Dung là người có kết quả cao nhất, xuất thân danh giá, tính nếtlại vừa ý Thượng Cung đại nhân nên được xếp ngay vào hàng nữ quan ngũphẩm. Ta nghe tin này vừa mừng vì nàng có được điểm xuất phát tốt, thăng tiến sẽ dễ dàng hơn nhưng cũng vừa lo sợ nàng quá nổi bật sẽ khiếnngười khác đố kị, ở nơi xa lạ mà tứ phía đều là kẻ thù thì cuộc sốngthực sự rất khó khăn. Tạ Thu Dung là nữ quan mới nhậm chức, ta gặp mặtkhông tiện, chỉ có thể gửi cho nàng vài lời chúc mừng, đồng thời dặn dònàng cẩn thận mọi bề, nếu có sự cố gì phải báo cho ta ngay lập tức.

Tạ Thu Dung đi rồi, Cẩm Tước cung không còn nghe tiếng giảng đạo lý củanàng mỗi ngày, chợt thấy trống vắng biết bao nhiêu. May mà vẫn còn cóBạch Diệu Hoa cùng ta trò chuyện giết thời gian. Làm phi tử chung quychỉ có hai công việc chính, một là hầu hạ Hoàng Đế, hai là ra ngoài xỉaxói lẫn nhau. Bây giờ cả hai việc đó đều không cần làm, ta và Bạch DiệuHoa rảnh rỗi đến phát chán. Ngoại trừ thời gian chăm sóc dung nhan mỗingày mà Ngọc Nga và Ngọc Thủy kiên trì bắt ta tuân thủ, thì những lúcrỗi rãi ta đều đến Đông viện chơi với Bạch Diệu Hoa. Đối với Bạch DiệuHoa mà nói, trong hậu cung rộng lớn này, nàng chỉ còn mỗi ta là chỗ dựa, vì vậy càng lúc càng quấn lấy ta. Nhờ tính cách có mấy phần tương đồngmà chỉ trong thời gian ngắn, hai người chúng ta đã trở nên thân thiếtnhư hình với bóng. Cuộc sống như thế cũng có thể gọi là bình yên.

Hôm nay, đương lúc ta và Bạch Diệu Hoa vừa ăn điểm tâm vừa tán chuyện thìTiểu Phúc Tử đến bẩm báo có Tần công công ở chỗ Hoàng Hậu đến mời ta digiá Triêu Lan cung.

Tần Khương là người Hoàng Hậu cực kì tínnhiệm, nếu không phải việc quan trọng hắn sẽ không đời nào tự mình đilàm. Lần trước Tần Khương đến mời ta là khi Bạch Diệu Hoa trúng độc. Khi đó ta đã chuẩn bị trước. Còn lần này không rõ là chuyện trọng đại gì đã xảy ra. Trong lòng ta tự nhiên dâng lên một nỗi bất an.

Bạch Diệu Hoa dường như cũng nghĩ vậy, nàng hoảng hốt đưa mắt nhìn ta:

“Tỷ tỷ, không biết là chuyện gì…”

Ta ngước nhìn màn mưa âm u ngoài cửa sổ, khẽ thở dài:

“Thời tiết này… nếu chẳng phải đại sự, Hoàng Hậu sẽ không cho gọi đâu.”

Ngọc Nga nhanh nhẹn giúp ta chỉnh trang lại tóc tai, y phục rồi nhanh chóngrời đi. Bạch Diệu Hoa không đi theo được, đành dặn dò:

“Tỷ nhớ cẩn thận.”

“Yên tâm. Cả tháng nay ta đều ở trong cung, sao có thể dính líu tới chuyện gì được.”

Ta mỉm cười trấn an Bạch Diệu Hoa, nhưng lòng càng âu lo gấp bội. Sống ởhậu cung đúng là chẳng khi nào được yên thân. Dẫu không động chạm đến ai thì tai ương cũng tự đến gõ cửa.

Suốt quãng đường ngồi trênkiệu, ta cố gắng lục lọi trí nhớ xem rốt cuộc có thể xảy ra chuyện gì.Thời gian qua tuy ta không ra ngoài, nhưng Ngọc Thủy ở trong cung lâu,quen biết rộng, những chuyện trong cung ít nhiều đều nắm được. Gần đâyrõ ràng không có chuyện gì nghiêm trọng. Thật không hiểu nổi.

“Chủ nhân, tới nơi rồi.”

Màn kiệu vén lên, Tiểu Phúc Tử vội vàng giương ô che, còn Ngọc Nga thì choàng áo lên người ta, miệng liên tục nhắc:

“Chủ nhân, cẩn thận đường trơn.”

Váy áo rườm rà, vừa dài vừa vướng víu, lại thêm đôi hài đế cao khiến taphải vất vả cầm chặt tay Ngọc Nga mới đứng vững được trên nền đá hoacương trơn trợt nước mưa. Nghe đâu đôi hài đế cao này là sáng kiến củamột vị Thượng nghi ở Ti Chế phòng, để cho các chủ tử đi lại vào mùa mưacho khỏi bẩn chân. Ta vừa nghe đã giật bắn người, nghĩ bụng đường đãtrơn lại còn phải đi thứ hài lênh khênh này chẳng khác nào tạo thêm việc làm cho Thái Y viện, bèn bảo bọn họ không cần đổi kiểu mới cho ta, cứgiữ như cũ là được. Có điều người ở Thượng Cung cục lại cho rằng ta cố ý ra vẻ mình tiết kiệm, cho nên cứ theo lệ mà mang hài cao đến, khiến cho ta khóc không thành tiếng.

Vừa lúc đó, kiệu của Trịnh Vân Anhcũng mới ghé đến. Nhìn dáng vẻ chật vật của muội ấy khi xuống kiệu, tacho rằng không phải chỉ có mình ta không vừa ý đôi hài mới này.

“Nguyệt tỷ, tỷ cũng mới đến à?”

Trịnh Vân Anh khổ sở bám chặt lấy cung nữ Thanh Nhi, đi từng bước nhỏ đến chỗ ta.

“Ừ, không biết là có chuyện gì.”

Ta mỉm cười, dừng chân đợi Trịnh Vân Anh cùng đi.

Trịnh Vân Anh bắt kịp ta rồi, thở dài thườn thượt:

“Muội cũng không biết. Thật lo quá đi mất. Chỉ mong đừng như lần trước…”

Hai người vừa trao đổi được mấy câu thì nghe sau lưng vang lên tiếng bướcchân rầm rập. Ngoảnh đầu nhìn lại, thì ra là Triệu Lam Kiều ngồi kiệutám người khiêng đi tới. Ta và Trịnh Vân Anh đưa mắt nhìn nhau, đồngloạt lùi lại mấy bước.

Trời mưa nặng hạt, ta không muốn nhiềungười phải vì ta mà dầm mưa, cho nên chỉ ngồi kiệu nhỏ hai người khiêng. Loại kiệu này đơn giản, thái giám khiêng kiệu có thể mặc áo tơi màkhiêng một cách nhẹ nhàng. Trịnh Vân Anh cũng ngồi kiệu như ta, hẳn làcũng có cùng suy nghĩ.

Triệu Lam Kiều lại chẳng nghĩ vậy.

Dù thời tiết xấu thế này, nàng ta vẫn nghênh ngang ngồi kiệu lớn. Loạikiệu tám người khiêng có cấu trúc rất phức tạp, tuy rằng khi ngồi có vẻthoải mái và oai phong hơn, nhưng bản thân chiếc kiệu thôi đã rất nặngrồi, vậy nên đòn khiêng được thiết kế đặc biệt có chỗ lõm để đặt vaivào, vừa khít với vai người khiêng. Vì thế khi khiêng kiệu thì dù có mưa gió thế nào cũng không thể mặc thêm áo tơi tránh mưa được. Ta thấy cảnh này chợt mỉa mai nghĩ, Triệu Lam Kiều quả thực quá mức lạnh lùng. Chỉlà nàng ta không quan tâm đến sống chết của kẻ khác mà lại quên rằng đikiệu lớn vào lúc trời mưa gió, nếu thái giám khiêng kiệu xui xẻo trượtngã thì nàng ta té từ trên kiệu cao như thế xuống cũng khó tránh gãy vài cái xương.

“Thần thiếp tham kiến Đức phi nương nương.”

Ta và Trịnh Vân Anh đồng loạt khom người hành lễ.

Triệu Lam Kiều duyên dáng bước trên hài cao, chẳng buồn liếc nhìn, cứ thế đilướt qua hai người chúng ta. Đến khi nàng ta đi xa rồi, Trịnh Vân Anhmới nhăn mặt:

“Nàng ta làm sao đi đôi hài đó thoải mái thế nhỉ?”

Ta bật cười, lắc đầu:

“Đức phi luôn luôn giỏi hơn chúng ta mà.”

***

Bầu trời bên ngoài mưa giăng lạnh lẽo u ám, nhưng bên trong đại điện Triêu Lan cung sáng sủa, ấm áp như thể mùa xuân.

Hoàng Đế ngồi trên ghế chủ tọa, vẫn là tư thế chống cằm lười nhác như thườnglệ. Hoàng Hậu mặc phượng bào đỏ tươi, uy nghiêm ngồi ngay ngắn bên phảiHoàng Đế. Phía bên trái, Liễu Yến Yến ngồi hơi nghiêng về hướng HoàngĐế, chăm chú đùa nghịch tay áo hắn. Triệu Lam Kiều tiến vào, ngồi cạnhLiễu Yến Yến như trước. Ta và Trịnh Vân Anh vừa vào trong liền thấy cóbóng lưng nữ tử đang quỳ giữa điện nhưng không dám nhìn ngó lung tung,chỉ chuyên tâm chào hỏi cho thật phải phép. Mãi đến khi ngồi vào vị trírồi, ta mới nhận ra người đang quỳ kia chẳng phải ai xa lạ, chính là Tudung Tĩnh Tâm Lan cùng với cung nữ Đông Tú.

Triệu Lam Kiều sau khi nhấp một ngụm trà thì cất tiếng hỏi:

“Bẩm Hoàng Thượng và Hoàng Hậu nương nương, chẳng hay Tĩnh Tu dung vì lẽ gì mà lại quỳ ở đấy?”

Hoàng Đế lười đến mức không muốn mở miệng, chỉ phẩy phẩy tay về phía Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu liền mỉm cười, dịu dàng đáp:

“Bản cung chỉ cho mời Hòa phi và Trịnh phi, thế mà cả Đức phi cũng có mặt rồi. Xem ra Đức phi quả là nhanh nhạy hơn người.”

Triệu Lam Kiều làm như không nhận ra ý tứ của Hoàng Hậu, hồn nhiên cười đáp:

“Hôm trước Tĩnh Tu dung nói với muội rằng ở nhà nàng ấy mới đưa vào một íttrà ngon, muốn mời muội cùng thưởng thức, nay muội đang định đến làmphiền thì mới biết Hoàng Hậu gọi Tĩnh Tu dung đến Triêu Lan cung, muộibèn tiện thể đến xem sao.”

“Thì ra là vậy.” Hoàng Hậu cười tươinhư hoa, đuôi mày hơi nhướn lên, nhìn về phía cung nữ Xuân Linh. “Nếu đã như vậy thì hãy nói lại một lần nữa đi, dù sao cũng nên để các vị muộimuội đến sau được biết rõ ngọn nguồn.”

“Vâng ạ!”

Xuân Linh cung kính bước về phía trước, hay tay cẩn thận nâng một chiếc khăn lụa đưa lên cao cho mọi người cùng nhìn thấy.

Chiếc khăn trong tay Xuân Linh làm bằng lụa màu trắng ngà, bên trên thêu hình một đôi chim ưng sải cánh tung bay giữa những cuộn mây bàng bạc, bêndưới còn có một nhành cây đương ra lộc non, bên cạnh thêu hai dòng thơ:

Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu,

Tại địa nguyện vi liên lý chi. (1)

Cuối cùng là bốn chữ: Tâm Lan niệm quân.

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu cùng các vị nương nương, chiếc khăn này đượctìm thấy ở trên người một tên hộ vệ canh giữ cổng hoàng thành phía Bắc.Có người thấy hắn ngày nào cũng lén mang chiếc khăn này ra nhìn ngắm,lại giấu diếm không cho kẻ khác chạm vào nên sinh lòng tò mò, lợi dụngkhi hắn tắm rửa lấy được chiếc khăn này. Người đó thấy chiếc khăn làm từ lụa quý giá, lại từng làm hộ vệ bên cạnh vạn tuế gia nên nhận ra trênkhăn còn có thêu khuê danh của một vị chủ tử, vì vậy sợ hãi nhờ ngườimật báo với Hoàng Hậu nương nương. Hoàng Hậu nương nương sai nô tỳ điđiều tra thì phát hiện chiếc khăn này vốn thuộc về Tĩnh Tu dung.”

Xuân Linh cẩn thận kể lại sự tình, từng câu chữ đều vô cùng sắc sảo, không lộ chút sơ hở.

Ta cười thầm trong lòng.

Hoàng Hậu chuẩn bị lâu như thế, cuối cùng cũng ra tay. Nàng không triệu tậplục cung nhưng lại trực tiếp thỉnh Hoàng Đế đến, xem chừng đã quyết trừbỏ Tĩnh Tâm Lan. Khách xem tuồng trong đại điện ngoại trừ Đế Hậu và Liễu Yến Yến thì chỉ có Dương Quý cơ và Minh phi. Liễu Yến Yến và Minh phithực ra là khách không mời, nghe nói khi Hoàng Hậu đi thỉnh Hoàng Đế thì hai người kia tình cờ có mặt nên mới đi theo. Còn Dương Quý cơ, ta đoán Hoàng Hậu muốn để nàng ta thay mình nói những lời mà một vị mẫu nghithiên hạ không thể nói. Về phần ta và Trịnh Vân Anh vì sao bị gọi đếnthì vẫn còn chưa rõ. Triệu Lam Kiều hẳn là nghe ngóng được tin tức bènvội vã đến đây tương cứu.

“Hoàng Thượng, thần thiếp bị oan! Khăn tay đó là của thiếp, nhưng thiếp không biết tên Cẩm Y vệ đó là ai cả!”

Xuân Linh vừa dứt lời, Tĩnh Tâm Lan lập tức dập đầu bồm bộp xuống sàn.

Hoàng Đế nhếch môi cười:

“Ban nãy chẳng phải Tu dung nói có thể chứng minh bản thân vô tội sao? Trẫm chờ nghe đây.”

Tĩnh Tâm Lan như sực tỉnh, quay ngoắt lại chỉ thẳng về hướng ta và Trịnh Vân Anh đang ngồi, nói lớn:

“Đúng là như thế! Hòa phi và Trịnh phi có thể chứng minh thần thiếp trong sạch.”

Hành động của Tĩnh Tâm Lan làm ta sững người. Thấy Trịnh Vân Anh cũng há miệng ngơ ngác, ta bèn nhẹ giọng thăm dò:

“Tĩnh Tu dung nói gì ta không hiểu? Ta làm sao có thể làm chứng cho Tu dung?”

Tĩnh Tâm Lan đưa tay lau nước mắt, dõng dạc nói:

“Chiếc khăn tay đó đúng là của thần thiếp, nhưng thần thiếp đã làm mất nó từtháng trước. Sau khi đánh rơi, thần thiếp đã đi tìm nó ở ngự hoa viên,Hòa phi cũng nhìn thấy.”

Tim ta bỗng chốc thắt lại.

Trongđầu dần hiện ra cảnh tượng Tĩnh Tâm Lan cùng Đông Tú đi đi lại lại trong Ngự hoa viên lúc trước. Khi ấy, ta cứ tưởng Tĩnh Tâm Lan làm trò xấu gì cho nên mới nhúng mũi vào. Thái độ của Đông Tú lúc đó càng khiến ta tin vào suy đoán của mình. Thật không ngờ, sự hoảng hốt của Đông Tú lạimang hàm ý khác. Đông Tú đúng là không muốn ta gặp Tĩnh Tâm Lan, nhưngkhông phải vì lo cho Tĩnh Tâm Lan. Thiết nghĩ, có thể lấy trộm được đồtrên người một kẻ ghét bị động chạm vào thân thể như Tĩnh Tâm Lan, ngoài cung nữ thân cận Đông Tú thì còn có thể là ai? Đông Tú sợ hãi, chính là sợ ta lắm điều, làm hỏng chuyện lớn của Hoàng Hậu!

“Hòa phi, lời này của Tĩnh Tu dung có đúng không?”

Giọng nói mềm mại của Hoàng Hậu kéo ta về thực tại. Ánh mắt đen láy thâm thúy của nàng nhìn xoáy vào ta, khiến tay chân ta bủn rủn.

Không, ta không thể làm hỏng chuyện của nàng được.

___________

(1) Trên trời nguyện làm chim liền cánh

Dưới đất nguyện làm cây liền cành

(Trường Hận Ca – Bạch Cư Dị)
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom