Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 140 : Bọn cướp Trung Á


Chương 140: Bọn cướp Trung Á

Cuối tháng Bảy, cùng với sự kết thúc của cuộc chiến tranh, làn sóng di dân đến Đông Phi cũng chững lại. Suốt nửa năm qua, nhờ Ernst "đào tường khoét vách", khu vực Nam nước Đức đã bị hút sạch dân cư chỉ trong chớp mắt.

Để nhanh chóng chiếm lĩnh những vùng đất mới thu được từ chiến tranh, Tập đoàn Hechingen đã gia tăng cường độ di dân – không chỉ huy động toàn bộ tàu thuyền của mình, mà còn thuê số lượng lớn tàu từ vùng Bắc Âu.

Giờ đây chiến tranh đã kết thúc, số lượng di dân cũng đã đủ, thêm vào đó tiềm năng di cư từ Nam Đức đã bị Ernst vắt kiệt trong thời gian ngắn, chỉ có thể chờ một thời gian mới gom được một đợt dân nữa.

Không chỉ người Đức, mà di dân từ Viễn Đông và Đế quốc Áo-Hung cũng giảm mạnh do quá trình khai phá bắt đầu từ sớm.

Viễn Đông đang trong giai đoạn ổn định hiếm có, đặc biệt sau khi quân Niệm bị dẹp, trật tự phương Bắc được thiết lập lại.

Chiến loạn quy mô lớn kéo dài nhiều năm ở Trung Nguyên và Hoa Bắc gần như đã kết thúc. Từ thời Thái Bình Thiên Quốc đến khởi nghĩa Niệm quân, nhiều vùng từ Nam ra Bắc đã bị tàn phá nặng nề, “mười nhà thì chín trống”, nay triều đình nhà Thanh cần bắt đầu phục hồi sản xuất địa phương, điều đó đòi hỏi một lượng lớn dân cư.

Thêm vào đó, điều kiện di cư sang Đông Phi vốn đã rất khắt khe – chỉ riêng yêu cầu “thân thể khỏe mạnh” đã loại bỏ hàng loạt người nghiện thuốc phiện và bệnh tật từ vùng quê.

Thể chất yếu thì khó qua được đại dương – xác suất sống sót cực thấp. Hơn nữa, điều kiện dành cho di dân từ Viễn Đông chắc chắn còn kém hơn người châu Âu.

Dù sao thì di dân châu Âu sau này còn phải về quê thăm thân, nếu họ phàn nàn về điều kiện tàu thuyền quá tệ, chẳng phải sẽ khiến người khác ngán ngẩm không dám đi sao?

Còn di dân từ Viễn Đông thì không có quyền chọn lựa – nhất là những người đi bằng tàu Hà Lan, họ thường bị nhét lẫn với hàng hóa, điều kiện sinh hoạt cực kỳ tồi tệ, chẳng khác nào đối xử với nô lệ da đen.

May thay, chính quyền Đông Phi trả tiền dựa trên tỉ lệ sống sót, nên các chủ tàu Hà Lan cũng không dám quá tay.

Trong tất cả các nguồn di dân, chỉ còn vùng Paraguay và Trung Đông là vẫn duy trì ổn định.

Chiến tranh ở Paraguay vẫn đang tiếp diễn, liên quân ngày càng tiến gần đến thắng lợi, các nhân viên của Tập đoàn Hechingen bám sát theo chiến tuyến, mở rộng hoạt động chiêu mộ dân dần vào sâu nội địa Paraguay.

Di dân từ Trung Đông chủ yếu là phụ nữ. Thương nhân Zanzibar đang ngày càng phát đạt – không chỉ buôn nô lệ với Đông Phi mà còn nhận luôn công việc tiếp thị sản phẩm thay mặt Tập đoàn Hechingen.

Một lượng lớn hàng hóa và thuốc lá được chuyển vào Trung Đông, còn phía Zanzibar thì chỉ cần thanh toán bằng phụ nữ từ thuộc địa Đông Phi.

Đây chính là buôn người – nhưng Vương quốc Hồi giáo Zanzibar lại rất vui vẻ với điều này. Nguồn di dân từ Trung Đông giờ không còn giới hạn trong đế quốc Ottoman nữa, mà thậm chí đã vươn tới cả Đế quốc Nga, mở rộng phạm vi đến tận Trung Á.

Còn về đạo đức của giới quý tộc Nga? Đương nhiên là chẳng có gì để nói – sản phẩm của Tập đoàn Hechingen tại Nga là loại hàng hóa có giá trị vững chắc như vàng.

Còn quan chức Nga tại Trung Á thì rõ ràng không thể so với các “ông lớn” ở châu Âu – điều kiện sống của họ chỉ hơn đám bị lưu đày ở Siberia một chút.

Do đó, họ rất khó mà kiếm chác từ con đường chính ngạch. Nay chỉ cần đổi phụ nữ người Thổ Nhĩ Kỳ (Turkic), là có thể lấy được hàng hóa – với họ thì đây là một thương vụ “vốn bằng 0”.

Chính vì vậy, khu vực Trung Á vốn còn khá ổn định, gần đây lại nổi lên nạn mã tặc cướp bóc tràn lan – đặc biệt là cướp của và bắt phụ nữ.



Khi lượng di dân giảm xuống, Ernst lập tức điều thêm năng lực vận tải viễn dương để chở hàng hóa. Trong vài tháng chiến tranh vừa qua, nhằm lấp đầy khoảng trống ở các vùng mới chiếm, Tập đoàn Hechingen đã “vắt sức” quá mức cho di dân, chi tiêu một khoản khổng lồ.

Hiện dân số di cư đến Đông Phi đã vượt mốc 1 triệu, Ernst không còn vội vàng nữa – chỉ cần giữ mức di dân đều đặn hàng tháng là được.

Điều Ernst quan tâm bây giờ là làm sao giảm chi phí xây dựng thuộc địa, thực hiện nội địa hóa các ngành như sản xuất xi măng, đồ sắt, chế biến thực phẩm,… tại Đông Phi.

Từ lâu, các vật liệu công nghiệp hiện đại như xi măng ở Đông Phi vẫn phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu – trong khi nguyên liệu thô thì không thiếu, hoàn toàn có thể tự sản xuất, chỉ là thiếu nhà máy và hạ tầng.

Quốc gia đầu tiên ở châu Âu tiến hành sản xuất xi măng công nghiệp là Anh, từ năm 1824. Từ đó, các nhà máy xi măng mọc lên khắp châu Âu.

Xi măng thực ra cũng chẳng phải công nghệ cao gì – tất nhiên là nói tương đối với các nước phương Tây. Còn ngoài khu vực đó, nhiều quốc gia vẫn cần nhập khẩu số lượng lớn.

Việc kiếm được thiết bị sản xuất xi măng với Tập đoàn Hechingen chẳng khó gì (nhà máy xi măng đầu tiên châu Á được Nhật Bản xây năm 1871) – chỉ cần mua lại một nhà máy nhỏ ở Đức là xong.

Vùng đất Đức có rất nhiều tiểu quốc, mỗi nơi đều có một ít ngành nghề, nên Ernst dễ dàng tiếp cận công nghệ và nhà máy.

Nói làm là làm – chẳng bao lâu, Tập đoàn Hechingen đã thu mua một nhà máy xi măng đang kinh doanh bết bát ở Hamburg. Dĩ nhiên Ernst không định sản xuất xi măng ở Đức – thị trường này đang cạnh tranh rất khốc liệt, lợi nhuận không cao, mà tập đoàn cũng không có mỏ lớn tại châu Âu để hỗ trợ ngành công nghiệp truyền thống.

Thêm vào đó, Ernst chẳng thể cạnh tranh nổi với các ông lớn công nghiệp truyền thống, nên Hechingen chủ trương phát triển bằng ngành công nghiệp nhẹ và các lĩnh vực công nghệ tiên tiến.

Hiện nay, nhiều công ty điện lực và công ty nghiên cứu công nghệ ở Đức đều có sự đầu tư của ngân hàng Hechingen – đó chính là những “bò sữa” trong tương lai của tập đoàn.

Sau khi mua nhà máy xi măng, thiết bị và nhân công đều được đưa thẳng từ cảng Hamburg đến Đông Phi bằng tàu của chính tập đoàn.

Vì là nhà máy cũ, lại làm ăn thua lỗ, nên chủ bán rất gấp, giá cả vô cùng rẻ. Nhân viên nhà máy được Ernst phái sang Đông Phi dưới danh nghĩa “viện trợ xây dựng”.

Tất nhiên, nếu bảo họ ở lại lâu dài thì chẳng ai chịu cả – nên Ernst dùng chiêu bài lương cao + điều động ngắn hạn, cử họ sang Đông Phi hướng dẫn xây dựng nhà máy.

Nhà máy xi măng đầu tiên được chọn đặt tại Dar es Salaam, vận chuyển bằng đường biển từ Hamburg sang rất thuận tiện, cũng dễ tiếp nhận hàng hóa.

Tiếp theo, Ernst dự định xây nhà máy xi măng tại một số thành phố quan trọng ở Đông Phi – đợt đầu gồm Mombasa, Dodoma, Mbeya, Kisumu, và Songea.

Thực chất, những “thành phố” này ở Đông Phi chỉ là các thị trấn nhỏ, dân số rất ít, người bình thường cũng chẳng cần dùng đến xi măng – nhà xây theo kiểu truyền thống vẫn đủ dùng hiện nay.

Khoản đầu tư vào nhà máy đầu tiên chỉ khoảng 50.000 bảng Anh, thật ra rất nhỏ – vì Đông Phi hiện chưa cần dùng quá nhiều. Xi măng chủ yếu để làm đường đặc biệt và công trình ở các thành phố lớn, nên những nhà máy sau quy mô thậm chí còn nhỏ hơn cả ở Dar es Salaam.

Dar es Salaam.

Nhà máy xi măng đầu tiên của Đông Phi đang được gấp rút thi công. Trước khi thiết bị đến nơi, nhân viên ở Dar es Salaam đã nhận được tin qua điện báo.

Nhà máy này sẽ là cơ sở sản xuất xi măng lớn nhất tại thuộc địa Đông Phi trong thời gian tới – để nhanh chóng đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu địa phương, quy mô không thể quá nhỏ.

Những nhà máy sau đó tuy nhỏ, nhưng xây nhiều lên là để giảm chi phí vận chuyển. Nếu Đông Phi giải quyết được vấn đề giao thông, thì việc có xây thêm hay không cũng chẳng quan trọng lắm.

Mà thứ Đông Phi không thiếu nhất chính là nhân lực. Trong quá trình khai thác phía Bắc Kenya, chính quyền thuộc địa đã bắt giữ số lượng lớn người từ các bộ lạc để bổ sung lao động – vì vậy khi đánh trận ở Tây Bắc, họ không còn phải bắt người bản địa nữa, mà trực tiếp đuổi sạch toàn bộ ra khỏi khu vực.

(Hết chương)

[1] Quân Niệm: Lực lượng khởi nghĩa nông dân cuối thời nhà Thanh, hoạt động chủ yếu ở vùng Hoa Bắc.

[2] Songea: Thành phố ở phía nam Tanzania ngày nay, từng là thủ phủ khu Đông Hồ Malawi của Đông Phi thuộc địa.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 141 : Ba khu mới và một lần đổi tên


Chương 141: Ba khu mới và một lần đổi tên

Sau khi kiểm soát toàn bộ vùng đất quanh Hồ Lớn, những lãnh thổ mới này cần được phân chia hành chính để thuận tiện quản lý và thống kê.

Trước đó, miền Bắc Kenya vẫn còn trong tình trạng chưa được phân khu hành chính chính thức.

Lần này, thị trấn Omorat nhờ chiến tranh Tây Bắc đã mở rộng, vùng đất phía tây hồ Turkana cũng thuộc về Đông Phi.

Trước đây, phía tây hồ Turkana không hề có sự hiện diện của lực lượng Đông Phi. Bản thân hồ Turkana là một rào cản tự nhiên, ngăn cản sự bành trướng của Đông Phi.

Hơn nữa, khu vực phía nam bị ngăn cách bởi Vương quốc Buganda và nhiều bộ lạc, khiến Khu Tây Kenya khó có thể mở rộng sang phía tây.

Hiện tại, toàn bộ vùng ven hồ đã rơi vào tay Đông Phi, nhân đà đó, Đông Phi tiếp tục thu nạp phần đất kéo dài từ phía tây hồ Turkana đến tận hồ Friedrich (hồ Albert).

Do khí hậu phía tây hồ Turkana tương tự với miền Bắc Kenya – khô hạn, thiếu nước – không thích hợp để trồng trọt, nên khu vực khô cằn này được gộp chung với miền Bắc Kenya thành một khu vực hành chính thống nhất.

Trên thực tế, trong thế giới trước kia, nơi này cũng thuộc về miền Bắc Kenya, chỉ là vào thời điểm này, Đông Phi tiếp quản vùng phía tây muộn hơn so với phía đông.

Trong khu vực này có nhiều sông ngòi theo mùa, trở thành đặc trưng địa lý nổi bật.

Ngoài ra, ở miền Bắc Đông Phi, chỉ có lưu vực sông Omo phía bắc hồ Turkana là thích hợp cho nông nghiệp quy mô lớn. Vì vậy, Ernst đã quyết định thành lập Khu Bắc bao gồm cả miền Bắc Kenya và lưu vực sông Omo.

Thủ phủ của khu này được đặt tại trấn Omorat. Do khí hậu khô hạn, phần lớn vùng đất nơi đây là thảo nguyên chăn thả gia súc, dân số thưa thớt, nên diện tích lớn cũng không thành vấn đề.

Thế là một khu hành chính lớn nhất Đông Phi đã ra đời: Khu Bắc, với diện tích hơn 300.000 km², giáp ranh ba quốc gia là Somalia, Nam Sudan và Ethiopia (trong thế giới trước).

Nửa đầu năm nay, khi Đông Phi sáp nhập lưu vực sông Omo, đúng lúc Đế quốc Abyssinia đang bị Anh đánh cho tơi tả, nên Đông Phi dễ dàng chiếm được nơi này.

Thời kỳ thuộc địa, nhiều quốc gia không có ranh giới chính xác mà chỉ có vùng ảnh hưởng. Ví dụ như các bộ lạc ở miền Bắc Đông Phi trên lý thuyết là chư hầu của các cường quốc Bắc Phi, và các mẫu quốc có lý do can thiệp để “bảo vệ” những bộ lạc này.

Lưu vực sông Omo có nhiều bộ lạc da đen, một số thần phục Abyssinia, số khác độc lập.

Lúc Abyssinia bận đối phó với người Anh, họ không quan tâm đến mấy “tiểu đệ” ở phía nam, và Đông Phi liền thừa cơ chiếm lấy vùng đất này.

Sau khi chiến tranh với Anh kết thúc, Abyssinia lại rơi vào khủng hoảng chính trị, các phe phái nội bộ tranh giành ngai vàng, nên càng không để ý phương nam.

Sau khi trấn Omorat được thiết lập, Đông Phi đã trục xuất toàn bộ thổ dân khu vực này sang phía tây, cộng thêm việc thổ dân miền Bắc Kenya trước đó đã bị “đóng gói” đưa xuống phía nam khai hoang, hiện tại thế lực người da đen bản địa ở miền Bắc Đông Phi chỉ còn tồn tại trong khu vực Somalia.

Sa mạc Sahara là một ranh giới chủng tộc tự nhiên – phía bắc (kể cả bên trong sa mạc) phần lớn là người da trắng, còn phía nam và vùng rìa phía nam là người da đen.

Tại Somalia, nhiều người da đen bị ảnh hưởng bởi văn hóa Ả Rập, nên tập quán sinh hoạt gần giống người Ả Rập, điều này giúp họ thích nghi với khí hậu sa mạc.

Ở những vùng khác như Bắc Ethiopia, chủ yếu là người da trắng hoặc lai da trắng - da đen. Nay Đông Phi đã trục xuất toàn bộ người da đen ở Nam Ethiopia, không còn nguồn “máu mới”, nên trong tương lai, Ethiopia sẽ ngày càng “trắng hóa”.

Ở kiếp trước, người Ethiopia tự coi mình là người da trắng bị rám nắng. Cùng với việc Đông Phi sẽ triệt tiêu các thế lực da đen thuần túy xung quanh, Ethiopia trong tương lai chỉ có thể tiếp xúc với các chủng tộc không phải da đen.

Hơn nữa, vùng Bắc Ethiopia vốn có làn da sáng, sau vài trăm năm nữa có khi màu da sẽ giống người Ấn Độ cũng nên.

Ernst luôn cho rằng người Ấn không phải là người da trắng — dân bản địa Ấn Độ thiên về màu da ngăm đen, do các làn sóng người da trắng từ phương bắc xâm lược khiến ngoại hình dần thay đổi, mới nhìn như “giống da trắng”.

Điều này cũng giống với Ethiopia. Nhưng vì Ethiopia giáp ranh châu Phi hạ Sahara, nên vẫn còn giữ nhiều đặc trưng di truyền của người da đen.

Ernst muốn cắt đứt hoàn toàn liên hệ giữa Ethiopia và người da đen, để ngăn chặn việc khu vực Đông Bắc Phi “đen hóa”.

Duy trì ưu thế dân số của người da trắng ở vùng Đông Bắc Phi sẽ đảm bảo rằng miền Bắc Đông Phi trong tương lai không bị “đen hóa”.

Khu Bắc mới thành lập chủ yếu tập trung dân cư ở vùng Tây Bắc – tức lưu vực sông Omo. Trong thời chiến, rất nhiều dân di cư đã được đưa tới đây. Vùng này lấy nông nghiệp làm chính, còn các khu vực khác trong Khu Bắc phát triển chăn nuôi.

Chăn nuôi thường không thể nuôi sống quá nhiều người, vì vậy số dân ở các khu vực chăn thả rất thấp.

Một số nơi phát triển chăn nuôi là bất đắc dĩ, ví dụ các vùng có tiềm năng trồng trọt nhưng chưa được khai phá thì thảm thực vật sẽ phong phú. Ngược lại, các vùng chỉ phù hợp để nuôi gia súc thì phần lớn không thích hợp trồng trọt.

Ngoài Khu Bắc, quanh Hồ Lớn (hồ Victoria), Ernst dựa trên kinh nghiệm thiết lập Khu Hồ Lớn và Khu Tây Kenya trước đó, đã lập thêm hai khu hành chính mới tại vùng đất vừa chiếm được.

Phạm vi các khu này tương ứng với khu vực của “Bốn nước phía Nam” và “Bốn nước phía Bắc” trong thế giới trước.

Tuy nhiên, diện tích bốn nước phía Nam khá nhỏ nên cần mở rộng thêm về phía bắc, lấy hồ Frederick (Albert) làm ranh giới.

Khu vực của Bốn nước phía Nam cộng với phần đất phía nam hồ Friedrich (Albert) sẽ hình thành Khu Tây Hồ Lớn, thủ phủ đặt tại Bujumbura, bên bờ bắc hồ Zollern (hồ Tanganyika).

Còn khu vực của Bốn nước phía Bắc được tổ chức thành Khu Bắc Hồ Lớn, bao gồm cả nhiều vùng đất phía tây bắc.

Thủ phủ được đặt tại Kampala, một cảng thiên nhiên ưu tú nằm ở bắc Hồ Lớn (hồ Victoria).

Còn Khu Hồ Lớn cũ (thủ phủ Mwanza), giờ gọi như vậy là không còn phù hợp, vì trước đây Đông Phi chỉ kiểm soát một phần hồ Victoria.

Do vùng này được khai phá sớm, nên khi đó gọi là Khu Hồ Lớn cũng không sao. Nhưng hiện tại toàn bộ hồ Victoria đã trở thành hồ nội địa của Đông Phi, tên gọi “Khu Hồ Lớn” không thể tiếp tục dùng để chỉ riêng khu Mwanza.

Vì thế, Khu Hồ Lớn cũ được đổi tên thành “Khu Đông Hồ Lớn”, ngoài tên gọi ra thì mọi thứ khác đều giữ nguyên.

Còn sau này, khi nhắc đến “Khu Hồ Lớn”, đó sẽ là một khái niệm địa lý, dùng để chỉ hồ Victoria và toàn bộ vùng đất ven hồ.

Lần này tổng cộng thiết lập ba khu mới:

Khu Bắc

Khu Bắc Hồ Lớn

Khu Tây Hồ Lớn

“Khu Hồ Lớn” cũ được đổi tên thành Khu Đông Hồ Lớn.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 142 : Nền kinh tế nô lệ


Chương 142: Nền kinh tế nô lệ

Tháng 8, tại khu mỏ Mbeya, thổ dân bị trói hai chân bằng xiềng gỗ, vác cuốc để dọn cỏ dại và đá vụn trên mặt đất.

Do di chuyển khó khăn nên hiệu suất lao động không cao, nhưng các nhân viên giám sát Đông Phi đứng bên cạnh hoàn toàn không lo lắng chuyện này.

Đông Phi vốn dĩ không trông đợi gì vào năng suất của đám thổ dân này — mỗi ngày chỉ cần chúng hoàn thành một định mức cứng là được.

Còn nếu không hoàn thành? Tất nhiên sẽ nhận “thịt xào roi trúc” và bị giảm khẩu phần ăn.

Dù sao thì công việc mà đám thổ dân làm đều là lao động chân tay thô sơ, Đông Phi chẳng trông mong gì chúng làm cho thật hoàn hảo, chỉ cần làm đủ số lượng là được.

Đào đất, kéo gạch, đào rãnh, đốn cây… đều là những việc không cần học cũng làm được. Đám thổ dân chỉ cần làm được cái khung sơ khai, sau đó để di dân Đông Phi sửa lại là xong.

Đặc biệt là ở khu mỏ Mbeya – nơi dân số rất khan hiếm – để đảm bảo sản lượng than, Đông Phi bắt buộc phải sử dụng số lượng lớn thổ dân.

Hiện tại, mỏ than Mbeya đang có hơn 3.000 lao động thổ dân làm việc. Tuy gọi là lao động, nhưng bản chất chính là nô lệ.

Ở châu Phi hạ Sahara, tồn tại hai loại hình văn minh: một là xã hội nguyên thủy, tồn tại theo hình thức bộ lạc; hai là xã hội nô lệ, tồn tại theo hình thức vương quốc nô lệ.

Đông Phi hiển nhiên thuộc loại hình xã hội nô lệ, vì nơi đây thật sự tồn tại một số lượng lớn nô lệ da đen, và nô lệ là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Đông Phi.

Trước khi Đông Phi thuộc địa được thiết lập, khu vực này dù có nhiều nô lệ, nhưng vẫn chủ yếu theo hình thức xã hội bộ lạc nguyên thủy.

Vì thế, thổ dân vùng Tanganyika được gọi là các bộ lạc Đông Bantu .

Việc thành lập thuộc địa Đông Phi về cơ bản đã nâng cấp hình thái văn minh của cả vùng từ xã hội nguyên thủy lên xã hội nô lệ.

Điểm khác biệt nằm ở chỗ: thổ dân bản địa từng dùng nô lệ để giao dịch với người Ả Rập, thậm chí để tế thần hay làm lương thực.

Trong khi thuộc địa Đông Phi thì dùng nô lệ để phục vụ sản xuất và xây dựng, biến nô lệ từ "hàng hóa tiêu dùng" thành công cụ sản xuất.

Hiện tại, Đông Phi cũng đang trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội nô lệ sang xã hội phong kiến.

Di dân Đông Phi đều là dân phong kiến “chính hiệu”, chưa từng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng tự do chủ nghĩa.

Trong khi đó, số lượng nô lệ da đen ngày càng giảm. Khi đến thời điểm đó, cấu trúc dân số Đông Phi sẽ chủ yếu là dân phong kiến, nên chắc chắn sẽ trải qua một thời kỳ phong kiến ngắn hạn.

Tất nhiên, dù ở giai đoạn nào thì công cuộc xây dựng Đông Phi cũng không thể thiếu sức lao động của thổ dân — giống như miền Nam nước Mỹ đã chuyển sang tư bản chủ nghĩa rồi mà vẫn tiếp tục sử dụng nô lệ trong nông nghiệp.

Nhất là ở vùng nhiệt đới, phát triển cơ sở hạ tầng đồng nghĩa với việc dùng mạng người để lấp chỗ trống. Cao nguyên Đông Phi còn đỡ, chứ các khu nhiệt đới khác thì đúng là “ăn mạng người”.

Chính phủ thuộc địa Đông Phi hiểu điều này rất rõ. Dù các khu ven biển phát triển sớm hơn (bao gồm cả công cuộc xây dựng của Vương quốc Hồi giáo Zanzibar), nhưng vẫn không bằng vùng nội địa về mức độ dễ sinh sống.

Người dân thường xuyên phải làm việc trong điều kiện nắng nóng khắc nghiệt, huống chi là đám nô lệ.

Mbeya nằm ở độ cao khoảng 1.700m, địa hình càng cao thì nhiệt độ càng thấp, cho nên dù ở vùng nhiệt đới, thời tiết Mbeya vẫn rất mát mẻ.

Thời tiết thuận lợi như vậy tất nhiên rất thích hợp để thổ dân làm việc trong mỏ. Di dân cũng không phải ngồi chơi — chẳng hạn, các trụ gỗ chống hầm mỏ (giá đỡ hầm) đều cần người di dân đảm trách.

Thực ra, đó không phải công việc quá khó, nhưng đám thổ dân không làm được. Chúng làm qua loa hoặc giả vờ không biết.

Cứ như thể một cái giá gỗ nhỏ lại trở thành bài toán thế giới không thể giải đối với người châu Phi vậy.

Nhưng thực ra, những thổ dân này chẳng qua là thiếu kiên nhẫn. Chúng thà làm công việc cực nhọc đơn giản còn hơn là làm những việc đòi hỏi chút kỹ thuật.

Chuyện này không phải bịa. Trước khi bị Đông Phi bắt làm nô lệ, khi còn ở trạng thái bộ lạc, chúng vẫn biết dùng cành cây đan lều, chạm khắc gỗ thành tượng đẹp, rèn vũ khí, chế tạo cung tên…

Vậy mà một khi rơi vào tay thuộc địa Đông Phi, những kỹ năng đó như thể biến mất trong một đêm, chỉ còn lại sức vóc như súc vật kéo cày.

Thời kỳ đầu, một số quản lý Đông Phi không cam tâm, từng thử cho người da đen làm ruộng (khi đó ở vùng Đông), kết quả là đám này trồng mạ trong ruộng nước xiêu vẹo lộn xộn, khiến nông dân người Hoa đau lòng quá mức, cuối cùng phải nhổ hết làm lại từ đầu.

(Người Trung Quốc từng viện trợ trồng lạc ở châu Phi cũng gặp tình huống tương tự — dạy từng bước mà người bản địa vẫn không biết chôn hạt đúng khoảng cách. Cuối cùng phải dùng dây có đánh dấu để họ căn theo.)

Nông nghiệp là ngành mũi nhọn của Đông Phi, sản lượng lương thực lại là nền tảng của toàn bộ kinh tế, không thể để đám thổ dân phá hoại.

Thế là công việc của thổ dân bị giới hạn ở những nhiệm vụ không cần kỹ thuật và cực kỳ nặng nhọc về thể lực.

Ví dụ, trong khai hoang đất đai, sau khi đốt rừng làm nương, phải cày đất — do lúc đó chưa đủ sức kéo (trâu bò), thổ dân trở thành vật thay thế sức kéo.

Ở Mbeya, nô lệ da đen bị dùng như xe đẩy than sống, toàn bộ than thô trong hầm đều do thổ dân vác ra ngoài.

Dù vậy, chính quyền thuộc địa Đông Phi vẫn không hoàn toàn tin tưởng bọn họ. Phải cử người xuống mỏ định kỳ kiểm tra để phòng thổ dân vi phạm quy trình trong hầm.

Còn việc vận chuyển than ra khỏi Mbeya thì không cần dùng đến thổ dân — toàn bộ sử dụng xe bò, xe ngựa để chở về Đông Phi.

Sản lượng của mỏ Mbeya thực ra không cao, nhưng so với nhu cầu hiện tại của Đông Phi thì vẫn dư thừa rất nhiều.

Ernst cho tích trữ số than này khắp các vùng Đông Phi để dùng khi cần. Chỉ có vài nhà máy chạy bằng hơi nước là tiêu thụ than làm năng lượng.

Đông Phi tuy chủ yếu là thảo nguyên, nhưng rừng cũng không ít, nên không thiếu củi đốt — đủ dùng cho nhu cầu sưởi ấm, nấu nướng… vì thế nhu cầu về than không cao.

Nhưng than đã đào rồi thì không thể để lãng phí, nên Ernst cho xây kho chứa ở khắp nơi để trữ lại.

Về phần xuất khẩu sang châu Âu thì không khả thi — nước Đức có cả vùng Ruhr sản xuất than, không thiếu dùng; hơn nữa còn chiếm dụng sức vận chuyển tàu vốn dành cho di dân, nên hoàn toàn không hợp lý.

Ngoài ra, Đông Phi còn cần than để xây dựng các nhà máy sơ cấp trong tương lai, nên mỏ Mbeya một khi đưa vào khai thác là giúp Đông Phi cắt hoàn toàn việc nhập than từ Đức, tiết kiệm được rất nhiều tiền.

Việc khai thác than tại Mbeya chủ yếu dùng nô lệ thổ dân, chi phí cực thấp — chỉ cần cho ăn là đủ.

Ngoài ra, hầu như không có đầu tư gì lớn — hầu hết công cụ đều lấy tại chỗ, chỉ một số dụng cụ kim loại là phải nhập từ châu Âu.

Không chỉ khu mỏ Mbeya, mà khắp các vùng Đông Phi đều sử dụng số lượng lớn nô lệ để xây dựng và sản xuất, nhưng chỉ với các công trình quy mô lớn — vì người di dân cũng không thể để rảnh rỗi, nhiều việc vẫn phải do họ trực tiếp thực hiện.

Ví dụ như khai hoang ruộng đất: ban đầu dùng thổ dân kéo cày, nhưng sau khi khai hoang xong, mọi công việc đều giao lại cho di dân đảm trách.

Ngoài ra, di dân còn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, định kỳ đi săn thú dữ trong vùng thuộc địa, và tham gia vào các chiến dịch mở rộng lãnh thổ.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 143 : Thương mại


Chương 143: Thương mại

Cảng Dar es Salaam.

Chợ buôn nô lệ.

“Đám thổ dân này giao cho tiên sinh, ngài Abrag. Hợp tác vui vẻ nhé.” Nhân viên Đông Phi bàn giao một nhóm nô lệ cho lái buôn nô lệ người Zanzibar.

“Dĩ nhiên rồi, bạn tôi. Chúc may mắn!” Abrag đáp.

Sau đó, hắn ra lệnh cho thuộc hạ xích chân những người thổ dân này lại, thế là lại một đoàn nô lệ nữa rời khỏi Đông Phi.

Abrag là đối tác lâu năm của thuộc địa Đông Phi, cha hắn là đại thần của Vương quốc Hồi giáo Zanzibar.

Một đoàn người dài dằng dặc, dưới sự giám sát của đám cai đánh thuê, chậm rãi tiến về phía bến tàu.

“Đồ súc sinh! Đừng có quay đầu lại nữa! Từ hôm nay trở đi, bọn mày sẽ không bao giờ quay về được đâu! Tốt nhất là chết tâm đi!” — Đám người Zanzibar dùng tiếng Swahili để đánh đòn tâm lý những thổ dân này.

Đó là một quy trình quen thuộc trong hoạt động buôn bán nô lệ — đánh tan hy vọng cuối cùng trong lòng họ.

Trở thành nô lệ, với người da đen vốn chẳng phải điều gì đáng sợ, bởi họ vẫn sống trong thời đại bộ lạc. Trên lục địa châu Phi, bộ lạc này xung đột với bộ lạc kia, kẻ thất bại bị bắt làm nô lệ là chuyện thường như cơm bữa.

Trong thời kỳ bộ lạc, mỗi bộ lạc đều bắt tù binh của bộ lạc địch làm nô lệ, hoặc ngược lại, bị bắt làm nô lệ cũng không hiếm.

Nói cách khác, nô lệ là thứ quen thuộc trên lục địa châu Phi. Nên khi bị bắt làm nô lệ, đám thổ dân này cũng chẳng quá hoảng loạn — bởi thế giới quan của họ chính là: “kẻ thất bại trở thành nô lệ”.

Thậm chí, trong mắt một số người thổ dân, làm nô lệ ở Đông Phi còn không tệ!

Không phải nói bừa — dưới “Sự huấn luyện” của thuộc địa Đông Phi, cuộc sống của nô lệ da đen này coi như chấp nhận được. Tuy hơi vất vả, nhưng mỗi ngày đều được ăn đủ no.

Bởi chính họ từng thấy bộ lạc mình đối xử với nô lệ ra sao — đánh đập, mắng chửi, ép lao động nặng nhọc là chuyện thường tình; tàn phế, cụt tay gãy chân chẳng ai buồn hỏi; lúc thiếu lương thực thì…

So với cách làm của bộ lạc, phương thức quản lý của thuộc địa Đông Phi đúng là như Phật sống tái thế.

Vậy nên điều đám thổ dân thực sự sợ, không phải là bị bắt làm nô lệ — mà là những chiếc thuyền lớn ngoài biển khơi.

Vì chúng biết: lên thuyền rồi là rời khỏi mảnh đất quê hương này mãi mãi, cả đời sẽ chẳng thể quay về!

Đó là lý do những lái buôn nô lệ giàu kinh nghiệm như người Zanzibar luôn tìm cách đánh tan nỗi “nhớ nhà” trong lòng bọn chúng. Bằng không, nô lệ rất dễ gây bạo động khi lên thuyền.

Không có cách nào hiệu quả và tiện lợi hơn là đánh đập và chửi mắng — có thể nhanh chóng chuyển hướng sự chú ý của họ.

Quả nhiên rất hiệu quả. Dưới đòn roi và tiếng quát tháo, lại thêm trước đó đã bị “huấn luyện” bởi thuộc địa Đông Phi, đám nô lệ này chẳng bao lâu đã trở nên ngoan ngoãn.

“Đám hàng hóa và đám nô lệ này tách riêng ra! Đừng để bọn thổ dân làm hỏng hàng. Hàng phải đặt lên cao, đừng để bị ẩm! Nếu hàng của ông đây mà bị hỏng dù chỉ một chút, thì bọn mày coi chừng đó!” — Abrag quát thuộc hạ.

“Vâng, thưa ông chủ.” Thuộc hạ răm rắp đáp.

Ngày càng nhiều lái buôn nô lệ bắt đầu dùng phương thức “vận chuyển người và hàng lẫn nhau”, đưa cả nô lệ lẫn hàng hóa sang Trung Đông tiêu thụ.

Hai năm gần đây, gió đổi chiều, việc buôn nô lệ càng lúc càng khó khăn. Với người Zanzibar, đám châu Âu đúng là “chó ăn cơm nhà, lo chuyện bao đồng”.

Trước kia mua bán nô lệ hăng nhất là bọn họ, giờ phát tài rồi lại quay sang phá bát cơm của người khác!

“Đám châu Âu” trong miệng người Zanzibar và Ả Rập nói chính là các nước Anh, Pháp. Bây giờ chủ nghĩa bài nô đang thịnh hành, đã có tàu bị bắt giữ rồi.

Nếu người châu Âu thật sự lương thiện đến thế, thì Abrag sẵn sàng… ăn phân ngược. Là người sống trên biển lâu năm, hắn ta thừa biết: biển cả thời này là nơi của ác quỷ đội lốt người, không có lấy một kẻ tử tế, mấy ông thánh đã bị quăng cho cá mập từ lâu rồi.

Đám con cháu châu Âu này — giờ không cần nô lệ nữa thì bắt đầu chơi trò đạo đức giả, thật buồn nôn.

Người bị ảnh hưởng bởi văn hóa Ả Rập là những kẻ giao thiệp nhiều nhất với phương Tây. Hai tôn giáo đánh nhau cả ngàn năm, ai chẳng hiểu ai?

Chẳng qua giờ đế quốc Ả Rập suy tàn, đám Âu Tây mới dám đứng trên đầu họ mà vênh váo như vậy.

Thời thế thế thời thời phải thế, mạnh yếu rõ ràng — Ả Rập đã yếu, không có thực lực thì không có tiếng nói. Nhưng người Zanzibar và các thương nhân Ả Rập khác dĩ nhiên không chịu ngồi chờ chết. Họ cũng bắt đầu chuyển hướng, nhưng từ bỏ món lợi nhuận kếch xù từ buôn nô lệ thì… không bao giờ!

Tàu vận chuyển nô lệ bất hợp pháp giờ đây được “gói ghém” thành tàu chở lao động, còn nô lệ được gắn mác “công nhân hợp pháp”.

Để tránh bị người châu Âu bắt bẻ, lái buôn còn giảm bớt số nô lệ trên tàu để tránh bị quy là “quá tải”. Ít ra thì nhìn từ bên ngoài là vậy.

Nhưng để kiếm thêm, nhiều thương nhân đã dùng không gian vốn để chở nô lệ, chuyển sang chất hàng.

Việc này chịu ảnh hưởng không nhỏ từ thuộc địa Đông Phi. Tập đoàn Hechingen vận chuyển hàng hóa sang khu vực Ả Rập, đa số đi theo tuyến Địa Trung Hải, từ các nhà máy ở Đế quốc Áo-Hung, qua các cảng quanh biển Adriatic, đến tận các quốc gia như Ottoman. Nhưng cũng có một phần hàng đổ về Đông Phi.

Những hàng công nghiệp này đối với người Zanzibar là vô cùng có giá trị. Điều quan trọng là… không cần trả tiền!

Tất nhiên hàng hóa Đông Phi cũng niêm yết giá rõ ràng — nhưng có thể dùng phụ nữ làm vật thế chấp.

Không tính phụ nữ da đen — chỉ cần không quá già là được. Thế thì dễ rồi. Người Zanzibar đâu chỉ buôn tuyến Trung Đông, họ còn đi cả Ấn Độ và Đông Nam Á.

Thời đại này, dân nghèo ở thuộc địa đúng là cùng khốn tận đáy. Vốn đã bị tầng lớp quý tộc bản xứ bóc lột, nay thêm thực dân — chẳng khác gì thêm một lũ ma cà rồng.

Đông Nam Á là nơi bị Hà Lan, Bồ Đào Nha khai thác mấy trăm năm rồi. Vì sao Đông Nam Á trở thành thuộc địa ưu việt? Vì dân số đông, khai phá sớm, và có nền văn minh — khác hẳn châu Phi hay châu Mỹ. Trước khi người châu Âu tới, người da đỏ châu Mỹ còn chơi đá, còn châu Phi thì…

Hơn nữa, nhiều hòn đảo phía nam Đông Nam Á đều là quốc gia Ả Rập (như Indonesia), nên thương nhân Ả Rập đến buôn bán là chuyện thường.

Thế nên người Zanzibar có đủ kênh buôn bán đa dạng. Chỉ cần mua chuộc giới quý tộc bản địa, là có thể thu gom người tùy ý — dù sao ở thuộc địa, nhân quyền chẳng là cái gì cả.

Đám quý tộc này đa phần là tay sai của thực dân châu Âu. Họ được dùng để quản lý và trấn áp dân bản địa, nên trước lợi ích thì đừng mong có chút liêm sỉ.

Vừa hay, là kẻ “có máu mặt” tại địa phương, chúng làm việc ác không kiêng dè. Dân đen ở thuộc địa không mấy ai được ăn no, điều kiện sống cực kỳ tệ hại.

Khi đáy xã hội không còn cách nào sống tiếp mà vẫn còn thở, họ sẽ sinh ra nỗi sợ — bởi cả thực dân lẫn quý tộc bản xứ đều có thể định đoạt sinh mạng của họ chỉ trong một câu nói. Nhưng chẳng ai dám làm chim đầu đàn — vì hiện giờ, vẫn còn “được sống”.

Vì sự sống, mọi đạo đức, phẩm hạnh đều không bằng một bữa ăn. Thế nên thương nhân Zanzibar thường chỉ cần cho vài bữa ăn là đã “mua” được người.

Dù sao, thương nhân kiếm tiền chính là nhờ chênh lệch giá. Còn cuối cùng, kẻ trả tiền vẫn là… thuộc địa Đông Phi.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 144 : Nhà máy thuốc lá


Chương 144: Nhà máy thuốc lá

Trong khi các thương nhân Zanzibar vận chuyển người và hàng hóa từ Đông Phi, Tập đoàn Hechingen cũng đang nỗ lực cắt giảm chi phí sản xuất hàng hóa, nhằm thu được lợi nhuận cao hơn.

Đồng thời, để đảm bảo nguồn cung nguyên liệu ổn định và thông suốt, việc thành lập thuộc địa Đông Phi đã giúp giải quyết bài toán từng bị các quốc gia thuộc địa hải ngoại độc quyền trồng thuốc lá trên toàn thế giới. Đông Phi đã trở thành lời giải cho vấn đề này.

Tất nhiên, hiện tại Tập đoàn Hechingen vẫn chưa rơi vào thế bị bóp nghẹt nguồn cung. Thế giới hiện nay vẫn đang trong tình trạng đa cường tồn tại, chưa có quốc gia nào thực sự chiếm thế thượng phong.

Trong việc thu mua thuốc lá, Tập đoàn Hechingen thậm chí có thể so sánh giữa nhiều nhà cung ứng để lựa chọn sản phẩm ưng ý nhất.

Đặc biệt kể từ khi Đông Phi được khai thác, diện tích trồng thuốc lá ngày càng mở rộng trong hai năm trở lại đây, nên Tập đoàn Hechingen càng không lo thiếu nguồn nguyên liệu.

Chi phí trồng thuốc lá tại thuộc địa rất thấp, chỉ cần vận chuyển bằng tàu trở về châu Âu là được, thậm chí có thể sử dụng tàu di dân quay về để tiết kiệm chi phí.

Hiện tại, ngay chính Ernst cũng không biết rõ Tập đoàn Hechingen của mình đang sản xuất bao nhiêu loại hàng hóa nữa, gần như mọi mặt trong đời sống của người Đức đều có sản phẩm liên quan đến tập đoàn này.

Với lượng sản phẩm đa dạng như vậy, nhu cầu nguyên liệu tất yếu rất lớn và phong phú.

May thay, quy mô công nghiệp của thời đại này vẫn chưa thể so sánh với kiếp trước của Ernst, sức mua của người dân cũng không thể sánh bằng, nên nhiều nguyên liệu cơ bản có thể tự cung trong nội địa châu Âu.

Than đá vùng Ruhr là ví dụ điển hình – nguồn năng lượng rẻ và dồi dào này đã góp phần quan trọng vào sự trỗi dậy của công nghiệp Đức, và cũng là một trong những chỉ số then chốt của Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất.

Tuy nhiên, hiện tại, thứ Đông Phi xuất khẩu nhiều nhất sang lãnh thổ Đức không phải là khoáng sản, mà là gỗ và một số đặc sản nông sản.

Các tàu di dân quay về thường chở đầy gỗ và nông phẩm, nên không gây quá nhiều chú ý.

Một phần trong số đó được Tập đoàn Hechingen giữ lại dùng cho nội bộ, dùng làm cán dao cạo râu hay đồ nội thất; phần còn lại bán ra với giá rẻ, bởi lẽ châu Âu không thiếu gỗ nên rất khó bán được giá cao.

Mặc dù việc bán gỗ không mang lại lợi nhuận lớn, nhưng ít ra cũng giúp tiết kiệm được một khoản mua vào không nhỏ. Những tay thương lái ngày xưa chê bai đủ điều khi mua, nhưng đến lúc bán thì lại tâng bốc tận mây xanh, thậm chí còn lấy lý do sản lượng giảm để nâng giá.

Đây là thời đại thuộc địa, cả thế giới là sân sau của châu Âu và Mỹ, gỗ thì nơi nào cũng có, trừ sa mạc và băng nguyên, còn dám viện cớ giảm sản lượng sao?

Thế nhưng khi Tập đoàn Hechingen trở thành nhà cung ứng gỗ, những lời từng mắng chửi giới thương lái trước kia nay lại trở thành tát vào mặt chính mình. Cuối cùng rồi cũng biến thành cái mình từng ghét.

Trong khi đó, những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng của Đông Phi mới chính là mặt hàng có lợi nhuận cao nhất, như: đinh hương, sisal, các loại trái cây rau củ đặc sản...

Ngày 11 tháng 8 năm 1868.

Mbeya.

Trời quang, gió nhẹ, công nhân đang xây dựng một công trình mới trong khu vực nội đô.

Dưới sự hướng dẫn của các kỹ sư Đức, đội xây dựng gồm những người nhập cư đang hoàn thành nhiệm vụ một cách tỉ mỉ.

Hiện tại, Đông Phi đã có một đội ngũ công nhân xây dựng chuyên nghiệp, họ làm việc trên khắp các công trường, từ đường sá, cầu cống đến những công trình đặc biệt. Công nhân xây dựng chính là lực lượng lao động chủ chốt của Đông Phi lúc này.

Công trình mới trong nội đô Mbeya là một tòa nhà mang phong cách châu Âu điển hình, có các lỗ thông gió và ống khói được chừa sẵn, cho thấy nơi đây sẽ được lắp đặt máy móc chạy bằng động cơ hơi nước.

Nếu tính theo tiến độ, thì các máy móc có lẽ đã cập cảng, chỉ khoảng một tháng nữa là có thể vận chuyển, lắp đặt và đưa vào hoạt động. Khi đó, nhà máy này sẽ trở thành nhà máy thuốc lá cuốn công nghiệp đầu tiên của Đông Phi.

Ngay từ khi thuộc địa Đông Phi được thành lập, đã có mục tiêu rõ ràng là cung cấp nguyên liệu thô cho Tập đoàn Hechingen.

Ngành công nghiệp thuốc lá vốn là ngành mang lại siêu lợi nhuận cho Tập đoàn Hechingen, vì vậy được Ernst đặc biệt chú trọng. Việc khai thác Đông Phi cũng mang mục đích phục vụ cho Công ty thuốc lá Hechingen.

Ngay từ thị trấn đầu tiên được khai phá tại thuộc địa, đã thử nghiệm trồng thuốc lá, sau đó dần dần mở rộng vào nội địa.

Nhiều vùng tại Đông Phi rất thích hợp cho việc trồng thuốc lá, đặc biệt là xung quanh các hồ lớn, trong đó vùng ven hồ Malawi là khu vực sản xuất chính.

Mbeya chính là thủ phủ của vùng thượng hồ Malawi, nằm ở phía bắc hồ nên rất gần vùng nguyên liệu.

So với việc vận chuyển nguyên liệu thô về Đức để chế biến và bán ra, thì việc hoàn thiện sản phẩm ngay tại chỗ và xuất khẩu đi chắc chắn tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều.

Thuốc lá nguyên liệu có trọng lượng nhẹ nhưng cồng kềnh, chi phí vận chuyển cao hơn nhiều so với thuốc lá thành phẩm. Với thương nhân mà nói, lợi nhuận ít đi là đã coi như thua lỗ.

Mbeya vừa gần vùng trồng nguyên liệu, lại có mỏ than dồi dào, đủ cung cấp năng lượng liên tục cho nhà máy.

Còn việc vận chuyển thuốc lá thành phẩm cũng rất đơn giản — thuốc lá vốn là mặt hàng siêu lợi nhuận, một toa hàng cũng chẳng nặng bao nhiêu. Nên việc đưa hàng đi từ Mbeya — vốn đã có hệ thống vận tải mạnh để phân phối than đi toàn thuộc địa — là điều dễ dàng.

Hơn nữa, sản xuất tại chỗ còn có thể tiêu thụ ngay trong nội bộ thuộc địa cho dân di cư, tiếp tục “vắt” thêm chút tiền lương ít ỏi còn lại của họ.

Song song đó, còn có thể trực tiếp cung cấp cho các thương nhân Zanzibar và Ả Rập, nhân cơ hội mở rộng thị trường quanh Ấn Độ Dương, gây dựng danh tiếng cho thuốc lá Hechingen.

Khai phá thị trường Ấn Độ Dương, thậm chí cả Đông Nam Á, là một cám dỗ không thể cưỡng lại đối với bất kỳ thương nhân nào.

Tại thuộc địa, chi phí nhân công rẻ hơn nhiều so với Đức, nguyên liệu lại tự cung — gần như không có chi phí sản xuất.

Tại Đức, Các nhà máy thuốc lá Hechingen vẫn sẽ tiếp tục mua nguyên liệu từ các đối tác khác, vì ăn một mình dễ bị đánh hội đồng, nên cần thận trọng.

Đông Phi mới được khai thác chưa lâu, tiềm năng thì nhiều nhưng hiện chưa thể thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ thuốc lá của toàn Đức và châu Âu.

Do đó, về tổng thể cũng không nên gây hấn với các đối tác hợp tác. Nhất là khi, hiện nay, người Đức gần như không có hiện diện trên biển.

Ngay cả bản thân Tập đoàn Hechingen cũng là nhà buôn đường biển lớn nhất của Đức. Hải quân Phổ chỉ hoạt động được trong Baltic, hải quân Áo-Hung thì chỉ quanh Địa Trung Hải.

Ngoài hai vùng biển này, bốn đại dương đều nằm trong tay Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Tàu buôn trong tay Ernst chẳng thể đụng nổi những đế chế hải quân đó.

Đừng nói đến hải cường phương Tây, ngay cả một số quốc gia Ả Rập cũng có thế lực mạnh trên Ấn Độ Dương, vì thế Đông Phi vẫn cần phải giữ thái độ khiêm tốn.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 145 : Viện Nghiên cứu Nông nghiệp


Chương 145: Viện Nghiên cứu Nông nghiệp

Ngày 19 tháng 8 năm 1868

Tại Berlin, Tập đoàn Hechingen đã ký kết thỏa thuận với nhiều tổ chức nghiên cứu và học thuật tại Đức, theo đó, Tập đoàn Hechingen sẽ tài trợ vốn và cung cấp đất thực nghiệm để thành lập một viện nghiên cứu chuyên về cây trồng địa phương và thực vật vùng nhiệt đới tại Đông Phi — Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông Phi.

“Giáo sư Anton Perutz, hợp tác vui vẻ!” Ernst nâng ly chúc mừng.

Anton Perutz uống cạn ly rượu rồi đáp: “Vì nước Đức thân yêu!”

Vốn là chuyên gia nông nghiệp nhiệt đới tại Đức, Anton Perutz từng sống trong cảnh hết sức chật vật trước khi nhận lời mời từ Tập đoàn Hechingen.

Trong khi các đồng nghiệp nước ngoài liên tục đi thực địa khắp nơi, có đất thí nghiệm riêng và được tài trợ dồi dào, thì Anton Perutz lại chỉ có thể lặng lẽ làm nghiên cứu trong một phòng thí nghiệm nhỏ ở quê nhà.

Bởi vì nước Đức hoàn toàn phụ thuộc vào nhập khẩu cây trồng nhiệt đới, còn giới quý tộc trong nước chỉ quan tâm đến việc tăng sản lượng cây trồng trong các điền trang của họ.

Vốn dĩ Đức nằm trong vùng khí hậu ôn đới, nên toàn bộ nguồn lực nghiên cứu đều ưu tiên cho các loại cây phù hợp với điều kiện bản địa.

Chẳng có mấy quý tộc quan tâm đến nông nghiệp nhiệt đới, lại càng không muốn đầu tư vào một lĩnh vực vốn được coi là chẳng mang lại lợi nhuận.

Nghiên cứu cây trồng nhiệt đới tại Đức so với các lĩnh vực học thuật khác gần như bằng không, điều này khiến Anton Perutz cảm thấy vô cùng thất vọng.

Sự xuất hiện của Đông Phi thuộc địa đã thay đổi hoàn toàn cục diện. Giờ đây, người Đức cũng đã có trong tay một vùng đất nhiệt đới rộng lớn.

Không chỉ có diện tích lớn, vùng đất này còn có điều kiện nông nghiệp rất tốt, nếu không tận dụng hợp lý thì quả là lãng phí tiềm năng. Vì vậy, việc nghiên cứu nông nghiệp địa phương là vô cùng cần thiết.

Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông Phi được thành lập với mục tiêu khai thác tối đa tiềm năng của vùng đất này.

Mặc dù điều kiện khí hậu Đông Phi không phải là độc nhất vô nhị — ví dụ như cao nguyên Brazil ở cùng vĩ độ có điều kiện tương tự — nhưng mỗi vùng đất đều có đặc điểm riêng cần được khám phá dần dần.

Trước đây, ngành nông nghiệp Đông Phi chủ yếu sao chép mô hình từ các nơi khác: áp dụng quy trình trồng trọt đã hoàn thiện, hoặc thuê chuyên gia từ nước ngoài.

Công việc chính của Viện sẽ bao gồm: lai tạo giống mới, phòng trừ dịch bệnh cây trồng, tăng sản lượng cây lương thực trên đơn vị diện tích...

Để hỗ trợ cho nhóm của Anton Perutz, Tập đoàn Hechingen đã cấp tám điểm thực nghiệm với tổng diện tích hơn 300 mẫu đất.

Từ đồng bằng ven biển đến cao nguyên nội địa, từ rìa sa mạc khô cằn phía Bắc đến vùng đất ẩm ướt phía Nam, dọc theo ba đại hồ của Đông Phi — tất cả đều được bố trí điểm nghiên cứu.

“Giáo sư Anton Perutz, ngài cứ yên tâm nghiên cứu tại Đông Phi, chúng tôi sẽ hỗ trợ mọi điều kiện cần thiết cho nhóm của ngài. Về phần gia đình ngài, công ty chúng tôi sẽ quan tâm và chu cấp đầy đủ,” Ernst nói.

“Cảm ơn điện hạ, vì sự đóng góp của ngài đối với sự nghiệp nông nghiệp Đức.” Trước một nhà tài trợ lại là quý tộc cấp cao, Anton Perutz không dám làm cao.

“Không cần cảm ơn. Đây là việc mà tôi nên làm. Đức chúng ta đã đánh mất rất nhiều lợi ích vì sự chia rẽ nội bộ, để các nước khác vươn ra hải ngoại và mạnh lên. Nhưng giờ Đức đang tiến gần hơn đến sự thống nhất, tương lai chắc chắn sẽ mở rộng lợi ích ra toàn cầu.

Cho nên việc chúng ta đang làm hôm nay, chính là nền móng cho sự nghiệp mở rộng của dân tộc Đức. Đến lúc đó, nghiên cứu của ngài chắc chắn sẽ vang danh thiên hạ,” Ernst tiếp tục "vẽ bánh vẽ" một cách hào sảng.

Anton Perutz thì lại tin là thật. Nhiều năm nay, chủ nghĩa dân tộc Đức ngày càng trỗi dậy mạnh mẽ, đặc biệt là sau sự trỗi dậy nhanh chóng của Phổ và sự phát triển thần tốc của công nghiệp Đức.

Niềm tin của người dân Đức cũng ngày càng lớn. Giờ đây chỉ còn thiếu một "chất xúc tác", Đức sẽ bùng nổ — mà "chất xúc tác" đó chính là cuộc chiến Pháp–Phổ.

Anton Perutz, giống như bao trí thức Đức khác, tin tưởng sâu sắc rằng người Đức là một trong những dân tộc vĩ đại nhất, vì thế ông hoàn toàn tin vào lời Ernst nói về tương lai của nước Đức ở hải ngoại.

“Điện hạ, dân tộc Đức sẽ không bao giờ quên những người tiên phong vĩ đại như ngài. Tôi chỉ là một chuyên gia nông nghiệp nhỏ bé, sao có thể sánh với sự nghiệp to lớn của ngài được,” Anton Perutz nịnh khéo.

“Sự nghiệp không phân sang hèn. Trong mắt tôi, công việc của ngài là cống hiến cho cả thế giới. Cùng nhau cố gắng! Cùng nhau cố gắng!” Ernst không tiếc lời tán dương và cụng ly với ông ta.

Bữa tiệc rượu tràn đầy không khí hoan hỉ, ai nấy đều hài lòng mãn nguyện.

Vài ngày sau – cảng Hamburg.

“Chào tiên sinh Anton Perutz!”

“Ngươi là...?”

“Tôi là nhân viên tiếp ứng từ Đông Phi. Ngài có thể gọi tôi là Daniel Zhang. Trong chuyến hải trình tới Đông Phi lần này, tôi sẽ hỗ trợ để ngài có một hành trình thuận lợi. Nếu có yêu cầu gì, cứ nói với tôi.”

“Chào cậu Zhang, cảm ơn công ty các cậu đã ủng hộ cho công việc của chúng tôi.” Anton Perutz lịch sự đáp.

“Đây là việc chúng tôi phải làm, thưa ông. Mời ông theo tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn phòng cho ông trên tàu.”

Daniel Zhang xách hành lý lên dẫn đường. Không lâu sau, cả đoàn đã lên tàu “Mary”, một tàu viễn dương lớn do xưởng đóng tàu Hechingen tại Hamburg tự chế tạo.

“Anh Zhang, tôi thấy trên tàu có khá nhiều người Đức. Họ cũng đến Đông Phi thuộc địa sao?”

“Vâng, thưa tiên sinh. Tất cả đều là dân di cư đến lập nghiệp ở Đông Phi. Hiện nay Đông Phi là điểm đến được người Đức rất ưa chuộng — người Đức tại Đông Phi đã gần hai triệu người.”

“Thật vậy sao? Nhưng Đông Phi thuộc địa không thể nào chứa đến hai triệu người Đức được!” Anton Perutz nghi ngờ.

Nên nhớ, ngay cả trong nội địa nước Đức, số bang có dân số hơn một triệu cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nói gì đến một thuộc địa vô danh?

“Thưa tiên sinh Perutz, thực ra ở Đông Phi, các dân tộc khác không được công nhận. Tất cả cư dân sống tại Đông Phi bắt buộc phải học văn hóa Đức. Bất kỳ ai thật lòng tiếp nhận văn hóa Đức, đều được xem là người Đức,” Daniel Zhang giải thích.

“Thì ra là vậy! Vậy chẳng lẽ cậu cũng là...?”

“Đúng vậy, tôi là người Đức, tốt nghiệp từ Học viện Quân sự Hechingen.”

Anton Perutz chẳng biết học viện này là gì, nhưng ông thì biết rõ cái tên Hechingen.

Nhìn chàng trai da vàng tự xưng người Đức trước mắt, Anton Perutz không khỏi thấy là lạ, nhưng cũng không nói gì.

Đây chính là đồng hóa. Với những trí thức như Anton Perutz và tầng lớp tinh hoa Đức, họ là lực lượng chủ yếu cổ súy cho chủ nghĩa dân tộc Đức.

Với họ, văn hóa Đức là tối thượng. Dù chính sách của Đông Phi có phần dị biệt khiến Anton hơi khó chịu, nhưng nếu dùng văn hóa dân tộc Đức làm lõi đồng hóa thì vẫn có thể chấp nhận được.

Lấy ví dụ như Đế quốc Áo–Hung, vấn đề không nằm ở việc đồng hóa, mà ở việc cả Áo lẫn Hung đều muốn dùng văn hóa của mình làm trung tâm, thế thì sao có thể dung hòa?

Còn ở Đông Phi, từ đầu đã lấy văn hóa Đức làm cốt lõi. Mọi lĩnh vực như giáo dục đều sử dụng tiếng Đức. Những người bị đồng hóa cũng tương đối cam tâm, nên tất nhiên sẽ không gặp rắc rối như Áo–Hung.

Một lý do nữa là trong nhóm di dân Đông Phi gần như không có trí thức kiểu như Anton Perutz.

Nếu bạn mời một nhóm có học từ Viễn Đông sang, bề ngoài họ không nói gì nhưng sẽ âm thầm liên kết, giống như các gia tộc có truyền thống văn hóa ở Đông Nam Á.

Vì vậy, Đông Phi tích cực nhập cư người mù chữ cũng là cách để giảm chi phí đồng hóa. Những người đã từng được giáo dục ngoài hệ Đức sẽ có tư tưởng hình thành sẵn, muốn thay đổi cũng rất khó.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 146 : Trồng cao su


Chương 146: Trồng cao su

Một tháng sau, khi đoàn của Giáo sư Anton Perutz tới Đông Phi, Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông Phi có thể đi vào hoạt động.

Ngày 15 tháng 8 năm 1868.

Khu Bắc Hồ Lớn (Uganda).

Vừa xong việc đồng áng, những người di cư lại bắt tay ngay vào công cuộc trồng cây.

Lần này, họ trồng giống cây cao su nhập khẩu từ Brazil. Dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia nông nghiệp Brazil, những người di cư tuân thủ quy trình trồng cây cao su con.

"Cây giống ở đây không được trồng quá dày, phải đảm bảo thông thoáng, đủ ánh sáng và thuận tiện giao thông để sau này dễ quản lý và thu hoạch mủ." Albert Vilga – "Chuyên gia" nông nghiệp Brazil – nói với các nông dân thuộc địa.

Albert Vilga thực chất chỉ là một nông dân trồng cao su bình thường ở Brazil, nhưng có kinh nghiệm trồng trọt phong phú.

"Phải làm tốt hệ thống thoát nước, nhất là ở những khu vực có độ dốc thấp. Nhưng cũng không nên để độ dốc quá cao, chỉ cần hơi nghiêng một chút là được."

"Thưa ông Albert Vilga, nhiệt độ có ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cao su không?" Một người di cư Đông Phi hỏi.

"Không, không, đó không phải điều các bạn cần quan tâm. Nhiệt độ ở vùng nhiệt đới hầu như đều phù hợp với cây cao su. Tất nhiên, nếu độ cao quá lớn thì không được. Khi nhiệt độ xuống dưới 5°C, cây cao su có thể bị tổn thương do lạnh. Nhưng tôi sống ở Brazil nhiều năm, chưa từng thấy nhiệt độ thấp như vậy." Albert Vilga trả lời.

"Mấy người mới tới chắc không biết, Đông Phi căn bản không có bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Quanh năm nhiệt độ đều như nhau, chỉ chia thành mùa mưa và mùa khô thôi." Một người di cư lâu năm nói với những người mới.

"Nói rất đúng. Đó cũng là lý do chúng ta trồng cao su ở đây. Lượng mưa ở khu vực này ổn định và cân bằng nhất, nên phải trồng quy mô lớn chứ không phải nơi khác." Albert Vilga giải thích.

Cây cao su ưa nhiệt và ẩm. Nhiệt độ ở Đông Phi không phải vấn đề, nhưng độ ẩm thì khó kiểm soát hơn. Lượng mưa hàng năm ở khu vực trồng cao su không được dưới 1200mm. Trong khi đó, Đông Phi có khí hậu thảo nguyên nhiệt đới, lượng mưa không ổn định, dao động từ 600mm đến 1100mm. Khu Hồ Lớn là một trong số ít nơi có lượng mưa dồi dào nhờ diện tích mặt nước gần 70.000 km², ảnh hưởng trực tiếp đến lượng mưa địa phương.

"Thưa ông Albert Vilga, cây cao su này dùng để làm gì vậy?" Một người di cư tò mò hỏi.

Albert Vilga lắc đầu: "Cụ thể dùng làm gì, tôi cũng không rõ. Trước đây tôi chỉ trồng và thu hoạch, sau đó thương nhân sẽ đến mua. Tôi chỉ biết sản phẩm thu hoạch được là chất dạng keo, để lâu sẽ cứng lại."

Albert Vilga nói thật. Số cao su hắn trồng đều được người châu Âu mua lại, và quá trình chế biến diễn ra ở bên kia đại dương. Hắn không cần biết cao su dùng để làm gì, chỉ cần biết trồng nó có thể đổi lấy tiền là đủ.

Mục đích trồng cao su ở Đông Phi đã rõ ràng. Không ai hiểu rõ giá trị chiến lược của cao su hơn Ernst. Trong tương lai, các ngành công nghiệp của tập đoàn Hechingen chắc chắn sẽ phụ thuộc nhiều vào cao su, nên cần chuẩn bị từ sớm.

Chu kỳ sinh trưởng của cao su khá dài, ít nhất 6-7 năm mới có giá trị kinh tế. Vì vậy, trồng sớm thì thu hoạch sớm.

Năm nay, họ bắt đầu với một đồn điền cao su rộng hàng nghìn mẫu, sau đó mở rộng dần hàng năm. Đất đai nhiều chính là lợi thế.

Thực tế, điều kiện trồng cao su ở Đông Phi không thể so với Tây Phi – nơi có khí hậu rừng mưa nhiệt đới lý tưởng. Nhưng nếu chăm chỉ, đảm bảo độ ẩm đất và ánh sáng, việc trồng cao su ở Đông Phi vẫn có triển vọng.

Lý do thúc đẩy trồng cao su ven Khu Hồ Lớn là vì đây chính là nơi phù hợp nhất. Nếu không trồng ngay bây giờ, sau này sẽ tốn nhiều công sức cải tạo. Khu Hồ Lớn đáp ứng mọi điều kiện trồng cao su, đặc biệt là lượng mưa – chỉ kém một chút so với khí hậu rừng mưa nhưng vượt trội hẳn thảo nguyên. Những cánh rừng nhiệt đới rậm rạp quanh hồ là bằng chứng rõ nhất.

"Đừng quan tâm nó dùng làm gì, miễn là không ảnh hưởng đến bữa ăn của chúng ta là được. Việc trồng cái này để làm gì không phải chuyện của chúng ta."

"Cũng đúng."

"Tiên sinh Albert Vilga, lúc nãy ông nói cây này phải thu hoạch. Vậy thu hoạch kiểu gì? Có phải chặt cây khi nó trưởng thành không?"

Albert Vilga nghe xong chỉ muốn bật cười. Người Đức quả thật chưa từng thấy thế giới bên ngoài, đến cách thu hoạch cao su cũng không biết.

"Không, không, mọi người hiểu nhầm rồi. Cây cao su không giống những loại cây thông thường."

"Chẳng lẽ nó ra quả rồi hái như cây ăn trái?"

Albert Vilga nhịn cười giải thích: "Mọi người nghe tôi nói đã. Thu hoạch cao su giống như lấy máu vậy. Phải rạch một đường trên thân cây để 'máu' chảy ra. Chúng ta sẽ đặt sẵn dụng cụ hứng, khi đầy thì thu được một phần cao su."

"Ôi! Nghe đáng sợ quá."

"Không đáng sợ chút nào. Tôi chỉ ví von thôi. Thực chất đó là nhựa cây, màu trắng, chẳng giống máu tí nào. Tôi nói vậy để mô tả sinh động hơn thôi." Albert Vilga không muốn nghe những suy đoán linh tinh.

"Thì ra là vậy." Mọi người đồng thanh.

Albert Vilga nói tiếp: "Hơn nữa, các bạn chưa cần lo thu hoạch làm gì. Những cây giống này phải mất 6-7 năm mới lớn. Trước đó, các bạn chưa có cơ hội tiếp xúc đâu. Đến lúc đó, sẽ có người khác tới dạy cách lấy mủ."



Albert Vilga không phải loại "Chuyên gia" tầm thường.

Ngoài kinh nghiệm trồng cao su cơ bản, khả năng nói tiếng Đức chính là lý do Đông Phi mời hắn tới hướng dẫn.

Nếu không, chỉ riêng vấn đề giao tiếp đã đủ gây khó khăn, nhất là khi phần lớn dân di cư quanh Khu Hồ Lớn mới tới Đông Phi vài tháng.

Trong số đó có nhiều người Đức, nên họ trò chuyện với Albert Vilga khá dễ dàng. Tất nhiên, chính quyền thuộc địa cũng điều động một số dân di cư lâu năm tới hỗ trợ người mới thích nghi.

Các giáo viên tiếng Đức cũng đang được đào tạo gấp. Chẳng bao lâu nữa, chương trình giáo dục bắt buộc kiểu Đông Phi sẽ được triển khai ở ba khu vực mới.

May mắn là những người di cư mới phần lớn không mang theo trẻ nhỏ do rủi ro trên biển quá lớn.

Vì vậy, giáo dục ở vùng mới chiếm đóng sẽ bắt đầu từ lớp học cho người lớn, đặc biệt là người Hoa, người Serbia… Ưu tiên hàng đầu là rèn luyện khả năng giao tiếp.

(Hết chương)

[1] Mủ cao su: Nhựa cây cao su, nguyên liệu thô để sản xuất cao su tự nhiên.

[2] Giáo dục bắt buộc kiểu Đông Phi: Hệ thống giáo dục do chính quyền thuộc địa thiết lập, tập trung vào tiếng Đức và kỹ năng lao động.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 147 : Giáo dục di dân


Chương 147: Giáo dục di dân

Vào buổi chiều tối, sau bữa cơm, những người di cư tập trung đến ngôi trường tạm thời.

Từ trong lớp học vang lên tiếng đọc bài:

“Danke!” (Cảm ơn!)

“Danke!”

“Auf Wiedersehen!” (Tạm biệt!)

“Auf Wiedersehen!”



Ngôi trường dựng tạm thời đã chật kín người, ai nấy đều đang “nỗ lực” học tiếng Đức.

“Sau khi được người khác giúp đỡ, cần phải thể hiện sự biết ơn. Hãy cùng tôi đọc theo: ‘Danke!’” — Lovis Rhein nói với các học viên.

“Danke!”

“Đăng khơ!”

Ngoại trừ những người Đức và một số dân di cư đến từ Đế quốc Áo–Hung, phần còn lại hoàn toàn không biết tiếng Đức.

Giờ đây, họ buộc phải ngồi chen chúc trong các lớp học chật hẹp để học ngôn ngữ này.

Theo từng nhóm ngôn ngữ khác nhau, các học viên được phân thành các lớp riêng biệt. Đến mức, ngay cả những nông dân mù chữ từ vùng nông thôn Áo–Hung cũng được giao vai trò làm giáo viên, chủ yếu phụ trách dạy cho những người đồng hương chỉ nói được phương ngữ địa phương.

Tuy không kỳ vọng nhiều vào năng lực học tập của nhóm người này, nhưng chính quyền Đông Phi vẫn cố gắng giảng dạy một số từ vựng và cụm từ đơn giản để họ có thể xoay sở trong giai đoạn đầu sinh sống tại thuộc địa.

Dù sao đi nữa, tại Đông Phi, tiếng Đức là ngôn ngữ công cộng duy nhất. Ngay cả khi không có chương trình dạy học chính thức, cũng sẽ có người tự học thành tài.

Tình trạng này không hiếm, đặc biệt ở Đế quốc Áo–Hung — nơi hai ngôn ngữ giao thoa khiến nhiều người có thể nói song ngữ, nhưng viết thì lại không biết chữ nào.

Do đó, giáo dục cho người trưởng thành tại Đông Phi chủ yếu tập trung vào kỹ năng nói, không yêu cầu đọc viết.

Không ít người trong số các di dân Đức cũng như vậy: biết nói mà không biết viết. Nguyên nhân chủ yếu do họ nhập cư khi đã lớn tuổi — không thực tế để bắt họ học hành như học sinh tiểu học.

Phương pháp giảng dạy cho người lớn rất đơn giản: lặp đi lặp lại từ vựng liên quan đến các đồ vật quen thuộc.

Ví dụ: đây là “lúa nước”, thì cả lớp sẽ đồng thanh đọc phát âm của “lúa nước” bằng tiếng Đức.

Ngữ pháp? Từ vựng nâng cao? Xin lỗi, không có!

Chỉ cần học được những câu nói đơn giản, người khác cũng có thể đoán được ý ngươi muốn nói.

Sau tiết học tiếng là tiết học thường thức — nội dung bắt buộc với mọi dân di cư.

Bởi Đông Phi là một vùng đất đặc biệt, khác biệt rất lớn so với nơi sinh sống cũ của người di cư.

“Ở châu Phi không có bốn mùa xuân – hạ – thu – đông như ở châu Âu. Việc canh tác nông nghiệp cũng không thể áp dụng kinh nghiệm từ Cựu Lục Địa.

Ở đây có hai mùa mưa, chịu ảnh hưởng từ gió mùa. Thời tiết quanh năm khá nóng, nhiệt độ thấp nhất cũng không dưới 10 độ.” — Lovis Rhein giải thích cho lớp học.

Lúc này, Lovis Rhein chính là một chuyên gia thực thụ. Những môn học có độ khó như thiên văn – địa lý tất nhiên phải do giáo viên chuyên ngành đảm nhiệm, còn các “giáo viên tạm thời” mù chữ kia thì trở lại làm học viên.

“Tại Đông Phi, điều quan trọng nhất là giữ gìn vệ sinh. Dữ liệu từ chính phủ cho thấy, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại đây là bệnh tật — mà bệnh tật chủ yếu lây lan qua côn trùng và hành vi thiếu vệ sinh.

Vì vậy, mọi người phải chủ động chống muỗi, giữ gìn sạch sẽ, không được phóng uế bừa bãi mà phải dùng nhà vệ sinh, rửa tay trước khi ăn, không uống nước chưa đun sôi, không ăn đồ ăn lạ ngoài tự nhiên...” — Lovis Rhein truyền đạt tỉ mỉ những điều cần lưu ý khi sinh sống và lao động tại thuộc địa.

“Thầy giáo à, thầy nói nhiều thế, bọn ta làm sao nhớ hết được? Hơn nữa từng điều từng khoản như vậy, chẳng phải là chuyện bé xé ra to sao?” — một học viên người Âu đặt câu hỏi.

Lovis Rhein cười nhạt:

“Hừ, mấy người tưởng tôi rảnh đến mức muốn lải nhải ở đây à? Tôi tin các vị trước khi đến Đông Phi cũng đã nghe vài câu chuyện không mấy tốt đẹp về các thuộc địa hải ngoại — nào là dịch bệnh, nào là cái chết hàng loạt.

Châu Phi, theo lời người Âu chúng ta, là vùng đất bị nguyền rủa; còn theo người phương Đông, là nơi tràn ngập miasma (chướng khí), vô số người đã bỏ mạng.

Có thể các vị chưa trực tiếp thấy những cảnh tượng kinh hoàng ấy — đó là vì chúng ta đang thực thi những chính sách phòng ngừa nghiêm ngặt.”

“Giờ các người chưa thấy không có nghĩa là nó không tồn tại. Để dễ hiểu hơn: hãy nghĩ đến dịch hạch và cái chết đen ở châu Âu và Viễn Đông ngày trước. Những bệnh tật ‘bình thường’ ở đây có thể gây hậu quả tương tự!”

“Các thổ dân châu Mỹ từng bị chết hàng loạt vì không chịu nổi bệnh tật do người Âu mang đến. Tương tự, châu Phi là ổ dịch khổng lồ, nơi tồn tại nhiều căn bệnh mà người Âu chúng ta không có miễn dịch.”

Một học viên khác ngắt lời:

“Tiên sinh nói là không thể vượt qua nổi thì chúng tôi học làm gì nữa, chẳng phải công cốc?”

Lovis Rhein đáp:

“Tôi nói là sau khi nhiễm thì không thể chữa, bởi trình độ y học hiện nay không có thuốc đặc trị. Mọi thứ đều phải trông vào miễn dịch tự nhiên của các vị.

Chính vì thế, phòng bệnh mới quan trọng!”

“Đừng thấy Đông Phi hiện tại yên bình mà khinh suất. Mức an toàn các vị đang có là kết quả của những điều mà nhiều người trong các vị vẫn đang ngầm phản đối. Ví dụ: trước kia chưa từng tắm, giờ bắt buộc phải tắm và giặt giũ mỗi ngày.”

“Bệnh tật ghét sạch sẽ! Hãy nhớ lại thời Trung Cổ, thành phố bị ô nhiễm nặng nề, dịch bệnh lan tràn, xác người khắp nơi, đó đều là vì thiếu vệ sinh.”

“Còn bệnh sốt rét — căn bệnh phổ biến nhất vùng nhiệt đới — đã được chúng tôi xác định là lây qua muỗi. Vì vậy, việc phòng tránh là hoàn toàn có căn cứ khoa học!”

Tiết học “thường thức” này, thực chất chính là cẩm nang sống tại thuộc địa Đông Phi, do chính phủ biên soạn.

Nội dung bao gồm mọi khía cạnh: điều kiện tự nhiên, pháp luật, quy tắc sống, kinh nghiệm ứng xử…

Mục tiêu là giúp người nhập cư hòa nhập tốt hơn và chuyển hóa tư tưởng theo định hướng của chính quyền.

Dù nhiều di dân không được giáo dục bài bản, nhưng thiếu hiểu biết không thể trở thành lý do để mê tín dị đoan hoặc đi lệch quỹ đạo.

Nếu ngươi chọn tin vào bói toán, thần linh thay vì vào vệ sinh và y tế, thì xin lỗi — chết cũng mặc kệ.

Chính quyền Đông Phi không nuông chiều những thứ đó. Tại đây, không có thần linh nào can thiệp được. Chính phủ nắm quyền giải thích duy nhất cho tôn giáo.

Còn những tập tục lạc hậu các vị mang theo từ nơi khác — đừng mong bén rễ tại Đông Phi.

Hiện tại, chính quyền Đông Phi không đủ sức chịu đựng sự hỗn loạn. Ở đây không có “nhân trị” hay “khoan dung”, thậm chí còn khắt khe hơn cả sự cai trị của Phổ.

Khác biệt duy nhất là: Phổ đang bị kẻ thù bao vây tứ phía, còn Đông Phi hiện tại chưa có địch thủ — suốt bao năm nay chỉ toàn đi bắt nạt người bản địa, khiến dân di cư thiếu cảnh giác và tự mãn.

(Hết chương)

[1] Cái chết Đen: Đại dịch hạch kinh hoàng ở châu Âu thế kỷ 14, giết chết 1/3 dân số.

[2] Chướng khí: Khái niệm trong y học cổ truyền phương Đông, chỉ loại khí độc gây bệnh ở vùng đầm lầy.

[3] Cựu lục địa: Cách gọi châu Âu trong thời kỳ thuộc địa, phân biệt với Tân thế giới (châu Mỹ).
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 148 : Ngai Vàng


Chương 148: Ngai Vàng

Giáo dục tại thuộc địa Đông Phi mang tính phổ cập khoa học, thông qua việc truyền bá kiến thức đã giảm thiểu đáng kể sự bùng phát dịch bệnh, đồng thời nâng cao sức khỏe và tỷ lệ sống sót của di dân.

Hiện tại, Đông Phi thể hiện khả năng kiểm soát dịch bệnh vượt trội so với các thuộc địa Nam Mỹ đã khai phá hàng trăm năm.

Chỉ là thuộc địa Đông Phi mới xây dựng nên trông còn nghèo nàn, không mấy phồn thịnh.

Điều này thể hiện rõ nhất qua kiến trúc thô kệch, đặc biệt những công trình xây dựng càng sớm càng xấu xí do thiếu mẫu mực tham khảo. Trang phục cũng đơn điệu, nhưng đó chỉ là bề ngoài.

Thực chất, đầu tư của Đông Phi ở các mặt khác vượt xa thuộc địa cùng thời hay các quốc gia độc lập cùng vĩ độ, tập trung vào ba lĩnh vực: giáo dục, vệ sinh và cơ sở hạ tầng.

Ví dụ đường xá tuy chất lượng không cao, nhưng chính quyền Đông Phi nghiêm túc thi công, giải quyết vấn đề cơ bản trước. Các nước cùng vĩ độ hiếm khi làm được như vậy, hoặc không có cơ hội.

"Thuộc địa" vốn là nơi thực dân ký sinh, đặc biệt trong thời đại này khi phương Tây chỉ biết bóc lột.

Nhưng Đông Phi được Ernst xây dựng như một quốc gia thực thụ, đối đãi hoàn toàn khác biệt. Bóc lột quá mức chỉ là lãng phí tiềm năng.

Hơn nữa, Đông Phi hiện không có kẻ thù mạnh vây quanh, có thể yên tâm phát triển mà chưa ai để ý tới vùng đất hẻo lánh này.

Nhu cầu con người gói gọn trong bốn chữ: "ăn, mặc, ở, đi". Đông Phi ưu tiên giải quyết "ăn" và "đi", không ngừng nỗ lực ở hai mặt này.

Còn "mặc" và "ở" tạm thời có thể chắp vá. Thời tiết Đông Phi dù lạnh nhất cũng không dưới 10°C, không đáng lo.

Vấn đề lương thực hiện không quá cấp bách khi Đông Phi là thuộc địa nông nghiệp với đất rộng người thưa, mức sống vượt trung bình thế giới.

Giao thông mới là thách thức lớn nhất, nên phải đẩy mạnh xây đường, đào kênh, nuôi thêm gia súc làm sức kéo.

Giải quyết được "đi", vật tư châu Âu mới chuyển về Đông Phi, nông sản mới xuất khẩu được - đây là vấn đề kinh tế hai chiều.

Hàng trăm ngàn lao động thổ dân đang cật lực mở đường, xây dựng hệ thống giao thông Đông Phi. Đường không đơn thuần là lát đá, mà phải có hệ thống thoát nước đủ lớn để chống chọi mùa mưa.

Trong điều kiện thiếu máy móc, chỉ có thể huy động lượng lớn thổ dân làm việc này.

Đông Phi không chỉ xây đường, mà còn kiến tạo mạng lưới thủy văn. Nước mưa mùa lũ được dẫn vào kênh thay vì tràn lan đồng cỏ.

Chủ động dẫn nước vào sông hồ, vùng trũng giúp biến những cánh đồng ngập lụt thành đất canh tác tiềm năng.

Lượng mưa phân bố không đều khiến hệ thống kênh rạch tương lai có thể đóng vai trò dẫn thủy.

Thu gom nước mưa cũng cải thiện môi trường địa phương, nhất là mùa khô.

Hiện xây hồ chứa là bất khả thi, nhưng có thể tận dụng vùng trũng tự nhiên. Đông Phi đang dẫn nước mưa dọc đường vào các hồ, vũng, tạo ra "hồ chứa tạm" thay vì để chảy ra Ấn Độ Dương.

...

Berlin.

Biệt thự Hohenzollern.

"Ernst!" Thân vương Konstantin bật dậy khỏi ghế bành, kích động gọi con trai.

Ông vịn mép ghế, tay kia cầm tờ báo hỏi: "Con đã đọc báo hôm nay chưa?"

Ernst bình thản rót thêm nước nóng vào tách trà, nhấp một ngụm nhỏ rồi đáp: "Dĩ nhiên thưa phụ thân, toàn chuyện vặt vãnh thôi."

"Trời ạ! Con thật lạnh lùng. Chuyện này mà là vặt ư? Đây là sự kiện làm rung chuyển châu Âu đấy!" Konstantin nói.

Ông tiếp tục: "Thật không ngờ thế giới thay đổi nhanh quá."

Ernst an ủi: "Cục diện châu Âu chỉ đáng quan tâm nếu ảnh hưởng lợi ích của ta. Cứ để nó tự vận động."

"Cũng phải. Nhưng không phải không liên quan. Nữ hoàng Tây Ban Nha đã chạy sang Pháp, phe bảo hoàng chắc chắn sẽ tìm một quân chủ từ các hoàng tộc châu Âu." Giọng Konstantin đầy ẩn ý.

"Thưa phụ thân, tình hình Tây Ban Nha rất tồi tệ, đặc biệt trong tương lai sẽ tiếp tục suy thoái. Nội bộ chia rẽ, địa phương cát cứ mạnh." Ernst phân tích lý tính.

Konstantin vẫn nuối tiếc: "Nhưng biết đâu thành công thì sao!"

Ernst chỉ nói một câu: "Người Pháp!"

Konstantin lập tức hiểu ra.

"Hóa ra là ta quá nóng vội!"

"Thật ra ai đứng trước cơ hội lớn thế cũng khó cưỡng lại. Nhưng chúng ta không nên làm mồi nhử, cũng không cần mạo hiểm." Ernst trấn an.

"Dù sao Tây Ban Nha vẫn là cường quốc, ai chẳng thèm muốn!" Konstantin thở dài. Với ông, rủi ro không đáng kể so với sức hút ngai vàng.

"Lợi ích của Hohenzollern nằm ở nước Đức và Đông Phi, không phải Tây Ban Nha. Maximilian I hiện vẫn an toàn ở Đông Phi - đó là bài học xương máu." Ernst nhắc nhở.

"Đúng vậy. Tình hình Tây Ban Nha phức tạp đến mức người như ta cũng khó địch lại lão luyện chính trường, nhất là khi họ nắm quân đội." Konstantin thừa nhận.

"Điều đó không quan trọng bằng việc Tây Ban Nha đã quá già cỗi, không thể cải cách, hoàn toàn không đáng đầu tư." Ernst nói.

"Hiện Đông Phi còn khả quan hơn. Diện tích đất đai ở châu Âu chỉ đứng sau Nga, lại không phải đất hoang. Dân số sắp chạm hai triệu, tài nguyên vượt xa nhiều nước châu Âu." Ernst tràn đầy tự hào.

Quan trọng nhất là Đông Phi hoàn toàn mới, mọi trật tự đều do hắn thiết lập. Với tình hình hiện tại, Ernst tự xưng "Hoàng đế" cũng không ai phản đối.

Trong khi đó, ngai vàng Tây Ban Nha đầy gian nan với toàn lão gia quyền lực. Thực lực của Habsburg ở đó còn mạnh hơn Hohenzollern.

Cuối tháng 9 năm 1868, chính phủ quân sự Tây Ban Nha lật đổ Nữ hoàng Isabel II, buộc bà chạy sang Pháp. Ngai vàng Tây Ban Nha bỏ trống.

Đúng như lịch sử, người Tây Ban Nha đầu tiên nhắm vào gia tộc Hohenzollern - nhờ công lớn của Thủ tướng Phổ Bismarck.

Sau khi Bismarck vung tiền đút lót, chính phủ Tây Ban Nha không ngần ngại chọn Hohenzollern.

Nhánh Hechingen tỏ ra hờ hững. Sau khi bàn bạc, hai cha con Konstantin khẳng định không màng Tây Ban Nha.

Vậy là ngọn đuốc lịch sử trao cho Hoàng tử Leopold của nhánh Hohenzollern-Sigmaringen.

Bản thân Leopold cũng không muốn dính vào vũng lầy Tây Ban Nha, nhưng vì gia tộc và vương quốc nên còn do dự. Tuy nhiên, người Pháp sẽ sớm giúp ông ta quyết định.

(Hết chương)

Chú thích cuối chương:

[1] Isabel II: Nữ hoàng Tây Ban Nha bị lật đổ năm 1868, mở đầu thời kỳ "Cách mạng Vinh quang".

[2] Hohenzollern-Sigmaringen: Nhánh nhỏ của gia tộc Hohenzollern, trị vì công quốc Sigmaringen.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 149 : Đầu tư và Ly gián


Chương 149: Đầu tư và Ly gián

Tình hình biến động trên lục địa châu Âu hiện tại tạm thời vẫn chưa ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của thuộc địa Đông Phi. Còn những rắc rối của Leopold thì vẫn cần một thời gian dài tranh cãi giữa Pháp và Phổ mới có thể ngã ngũ, nên năm nay khó có thể có kết quả.

Tuy nhiên, Ernst hiểu rõ rằng ngôi vị hoàng đế Tây Ban Nha đối với Leopold chẳng qua chỉ là một đóa hoa trong gương, bóng trăng trong nước. Dù sao thì cũng tốt, tương lai Amedeo I – xuất thân từ hoàng tộc Savoia của Ý – sẽ chứng minh ngôi vị này là một củ khoai bỏng tay.

Amedeo I suýt nữa đã đi theo vết xe đổ của Charles I (Anh) và Louis XVI (Pháp), nhưng Amedeo I thì linh hoạt hơn nhiều. Ngay khi đặt chân đến Madrid, ông đã nhận ra mình không đủ khả năng giải quyết vấn đề của Tây Ban Nha.

Năm 1873, Amedeo I chủ động thoái vị, nhẹ nhàng trở về Ý và tiếp tục làm Công tước xứ Aosta – Amedeo.

Ngai vàng Tây Ban Nha nhìn thì có vẻ hào nhoáng, nhưng thực tế chỉ là vẻ bề ngoài. Đằng sau không chỉ liên quan đến các thế lực trong nước Tây Ban Nha, mà còn luôn vướng phải sự can thiệp từ các cường quốc châu Âu.

Nhưng lịch sử cuối cùng cũng chứng minh rằng: nền cộng hòa không thể cứu được Tây Ban Nha. Dù có trải qua hai cuộc thế chiến, loanh quanh một hồi, Tây Ban Nha rồi vẫn quay lại với chế độ quân chủ.

Vì vậy, hoàng tộc Hechingen không phải là không làm gì cả. Khi mọi người đều đang dõi theo tình hình Tây Ban Nha, thì người của hoàng tộc Hechingen đã âm thầm đến Paris để xây dựng quan hệ với vị vua tương lai của Tây Ban Nha – Alfonso XII.

Cho than sưởi ấm giữa trời đông luôn quý giá hơn là thêm hoa trên gấm vóc – điều này càng khiến người ta cảm động. Nhất là với Alfonso XII, hiện đang bị liên lụy bởi mẹ mình – cựu Nữ hoàng Tây Ban Nha (Isabel II).

Tất nhiên, tình cảm mẹ con giữa hai người rất tốt. Alfonso XII chỉ là hận những kẻ phản loạn ở quê nhà Tây Ban Nha mà thôi.

Thật ra, tướng lĩnh cải cách Juan Prim đã từng phát động một cuộc đảo chính thất bại vào năm 1866. Đến năm 1868, ông quay lại và lần này đã thành công.

Ngày 16 tháng 10 năm 1868, tại Paris.

“Thưa Nữ hoàng và Điện hạ, tôi thay mặt hoàng tộc Hechingen bày tỏ sự cảm thông đối với tình cảnh hiện nay của hai người. Thân vương của chúng tôi cũng đã nói rằng những kẻ phản loạn sớm muộn gì cũng sẽ phải trả giá.” – Tom, đại diện của hoàng tộc Hechingen, nói khi đến Paris.

Cựu Nữ hoàng Tây Ban Nha đáp:

“Cảm ơn sự ủng hộ của quý quốc. Tôi và Alfonso, thay mặt gia tộc Bourbon và nhân dân Tây Ban Nha, xin ghi nhớ tấm thịnh tình này.”

Tuy gọi là “cựu nữ hoàng”, thực tế Isabel II vẫn chưa từ bỏ quyền kế vị. Điều này cũng đặt nền tảng pháp lý cho sự phục hoàng của Alfonso XII sau này. Chỉ cần những người trung thành và yêu nước Tây Ban Nha phục hồi lực lượng, họ sẽ chào đón hoàng tử trở về, khoác lên mình long bào.

“Đây là chút tâm ý nhỏ của hoàng tộc Hechingen. Hechingen tuy danh nghĩa là một quốc gia, nhưng thực tế đã không còn thực quyền, mong Nữ hoàng và Điện hạ đừng chê cười.” – Tom vừa nói vừa dâng lên một chiếc hộp.

Isabel hiểu rất rõ trong hộp này chắc chắn là tiền bạc. Bà để quản gia nhận lấy rồi dặn:

“Alfonso, con phải ghi nhớ, những ngày tháng như thế này mới biết ai là bạn thật sự, ai là kẻ nhân lúc ta lâm nạn mà đâm sau lưng, con hiểu không?”

“Vâng, thưa mẹ. Gia tộc Bourbon chúng ta sẽ không bao giờ quên những người bạn chân thành.” – Alfonso XII còn non trẻ nhưng đáp rất dõng dạc.

Thực ra, hai mẹ con họ cũng không đến nỗi khốn đốn. Dù sao gia tộc Bourbon vẫn có giá trị chính trị rất lớn, là một trong ba lực lượng chủ yếu của phe bảo hoàng Pháp, địa vị vẫn rất đáng kể.

Nhưng dù sao hiện tại cũng đã mất quyền thống trị ở Tây Ban Nha. Những kẻ từng vây quanh nịnh hót giờ đều tan tác, thậm chí có kẻ còn đầu quân cho phe phản loạn.

Trong bối cảnh đó, hoàng tộc Hechingen – một tiểu quốc Đức vốn không có quan hệ mật thiết gì với Tây Ban Nha – vẫn đến thăm hỏi và hỗ trợ, điều này thật sự khiến mẹ con họ cảm động.

“Nhân dân Tây Ban Nha chỉ là nhất thời bị mê hoặc. Nếu không có sự can thiệp của người Mỹ vào các lợi ích hải ngoại, Tây Ban Nha tuyệt đối không suy sụp đến mức này.

Ai cũng biết, kinh tế Tây Ban Nha hiện tại rối ren chủ yếu vì mất quyền lợi ở hải ngoại, còn đám phản loạn chỉ là những kẻ chẳng dám chống Mỹ, nên quay sang gây loạn trong nước.” – Tom không quên dặn dò của hoàng tử: gieo nghi ngờ vào đầu vị vua tương lai.

“Đúng vậy! Những năm qua, người Mỹ cứ nhảy nhót khắp châu Mỹ, luôn nhăm nhe các lãnh thổ hải ngoại của chúng ta, đây mới là căn nguyên khiến kinh tế Tây Ban Nha suy thoái.” – Isabel đồng tình.

Là một người cầm quyền nhưng Isabel lại không có tự nhận thức, có người giúp mình đổ vấy trách nhiệm thì bà dĩ nhiên thuận theo, quy hết tội lỗi cho người Mỹ.

Mỹ cũng chẳng cần thanh minh. Cuba, Philippines, Argentina, Mexico… Những thuộc địa từng thuộc về Tây Ban Nha – trong kiếp trước – đều bị Mỹ cướp đi.

Ngày 10 tháng 10 năm 1868, dưới sự lãnh đạo của một số tinh anh da trắng, Cuba đã nổ ra cuộc khởi nghĩa Yara. Cuba khi đó là vùng cư trú hỗn hợp nhiều sắc tộc: người da đen, da trắng, thậm chí cả người Hoa. Nguồn kinh phí cho cuộc nổi dậy này thì khỏi cần nói cũng biết từ đâu mà ra.

Dù khởi nghĩa lần này chưa thành công, nhưng nó đã để lại mồi lửa cho nền độc lập sau này của Cuba. Còn với mẹ con Isabel, những người vừa mới mất “đại bản doanh”, thì chẳng ai buồn quan tâm đến một hòn đảo xa xôi, dù đó có là thuộc địa quý giá nhất của Tây Ban Nha.

Ernst thì không ngại để họ biết thêm một chút tin tức quốc tế, mở rộng tầm nhìn.

Tom nói tiếp:

“Chỉ vài ngày trước, Cuba bùng nổ khởi nghĩa. Lúc đó Tây Ban Nha vừa xảy ra biến loạn, sau đó Cuba lập tức nổi dậy, khó mà không khiến người ta liên tưởng hai bên có liên quan. Khoảng cách chưa tới mười ngày, lại khéo trùng hợp như vậy…”

“Hừ! Một lũ tiểu nhân nhảy nhót thôi! Rõ ràng mục tiêu của chúng là tiêu diệt Tây Ban Nha! Tôi sớm đã nghi ngờ chúng cấu kết với kẻ thù của chúng ta – là người Mỹ!” – Isabel nghiến răng tức giận.

Alfonso còn trẻ càng phẫn nộ hơn. Tốt rồi, bây giờ đã có “bằng chứng” xác thực: kẻ đứng sau loạn quân chắc chắn là người Mỹ.

Thuyết âm mưu luôn dễ khiến người ta tin tưởng. Mẹ con Isabel căn bản chẳng cần chứng cứ, chỉ cần nghi ngờ là đủ. Mà nước Mỹ – quốc gia cộng hòa – đương nhiên là nghi phạm hàng đầu.

Ngoài xung đột về lợi ích, thân phận cộng hòa của Mỹ khiến nó trở thành "cái gai" trong mắt các vương triều châu Âu.

Nếu kiếp trước Mỹ tiếp nhận quyền bá chủ thế giới từ tay Anh, thì sự trỗi dậy của nước Mỹ cũng là nhờ giẫm lên xác các thuộc địa Tây Ban Nha.

Dù rằng bản thân chế độ thực dân của Tây Ban Nha có nhiều vấn đề, nhưng Mỹ ở bên cứ châm ngòi, giở thủ đoạn càng khiến người ta ghê tởm.

Từ khi Napoleon III phục hoàng ở Pháp, Mỹ trở thành sào huyệt của lực lượng phản động (chỉ phe cộng hòa) trong mắt các quân chủ châu Âu.

Tổ chức phản chính phủ của các nước đều có thể tìm chỗ dung thân ở Mỹ. Ví dụ như người từng bán bằng sáng chế điện thoại cho tài phiệt Hechingen – Antonio Meucci – chính là loại người đó. Một trong “ba vị anh hùng thống nhất nước Ý” – Giuseppe Garibaldi – từng sống nhờ tại nhà của Meucci suốt ba năm.

Chưa cần nói xa, ngay cả cha vợ của Ernst – Maximilian I – cũng là một trong những nạn nhân. Ai cũng biết người đứng sau hậu thuẫn cho quân nổi dậy Mexico chính là Mỹ.

Hồi đó, quân cộng hòa Mexico đã bị Napoleon III dồn đến tận vùng núi. Nhưng sau khi Mỹ kết thúc Nội chiến, họ lập tức viện trợ cho quân phản loạn Mexico, cuối cùng lật đổ được Maximilian I.

(Hết chương)

[1] Alfonso XII: Vua tương lai của Tây Ban Nha, lúc này mới 11 tuổi đang lưu vong cùng mẹ. Ông còn được biết đến với biệt danh "El Pacificador" (Người tạo hòa bình).
 
Back
Top Bottom