Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 300 : Đoàn Khảo Sát Thương Mại Áo


Việc "dọn sạch" Venice là bất khả thi, hành động quá lớn sẽ khiến Ernst phản đối, Đế quốc Áo-Hung cũng không đồng ý. Đông Phi chỉ đơn giản di chuyển phần công việc của những công nhân Venice đã nhập cư sang Đông Phi.

Thực tế, phần lớn người Venice tới Đông Phi đều tham gia vào sự nghiệp khai hoang vĩ đại, nên nhu cầu công nghiệp của Nairobi không lớn nhưng cần chuyên môn hóa.

Mục đích ban đầu của Ernst là biến Venice thành lãnh thổ Áo, tránh nguy cơ trở thành vùng nội địa trong tương lai, chứ không phải ép người Venice còn lại phản kháng Áo để đòi tự trị hay độc lập.

Ngay cả khi vùng đất Đức trở thành nội địa, Đông Phi cũng không lo, vì các cảng biển Đức chủ yếu tập trung ở biển Baltic. Anh-Pháp kiềm chế Đức tới Đông Phi bằng hai cách: một là khóa chặt hải quân Đức trong biển Baltic, hai là chặn eo biển Gibraltar buộc họ phải đi vòng châu Phi - một khoảng cách cực xa.

Trong khi đó, Áo-Hung tới Đông Phi chủ yếu dựa vào kênh đào Suez. Dù có nguy cơ bị chặn, nhưng cả Áo-Hung lẫn Đông Phi đều có khả năng phản công. Hơn nữa, kênh Suez liên quan đến lợi ích của đa số quốc gia ven Địa Trung Hải và Hồng Hải, việc duy trì thông suốt và an ninh không phải trách nhiệm riêng của Đông Phi.

...

Mombasa.

Hôm nay, Mombasa đặc biệt nhộn nhịp. Lễ đón chính thức do tòa thị chính tổ chức diễn ra tại bến cảng, với sự tham gia của nhiều quan chức cấp cao, bao gồm cả Bộ trưởng Tài chính Đông Phi - Von der Leyen.

Cập bến là một con tàu treo cờ Áo-Hung, từ đó bước xuống Đoàn khảo sát thương mại Áo.

Von der Leyen tiến lên chào: "Chào mừng các vị tới Đông Phi! Tôi là Von der Leyen - Bộ trưởng Tài chính."

"Xin chào Bộ trưởng! Tôi là Wolfgang - trưởng đoàn khảo sát."

Wolfgang vừa nói vừa quan sát môi trường Mombasa. Ấn tượng đầu tiên là sự ngăn nắp có phần cứng nhắc, thiếu nét đặc trưng. Đường phố không một chút rác hay nước thải, thành phố trông khá thưa thớt do đường rộng và nhà cửa phân tán.

Nhận thấy ánh mắt tò mò của Wolfgang, Von der Leyen hỏi: "Ông Wolfgang, ấn tượng ban đầu về Mombasa thế nào? Nếu có thắc mắc gì tôi đều có thể giải đáp."

Wolfgang đáp: "Mombasa khá ổn. Trước khi tới, tôi đã tưởng tượng nhiều về cảnh quan Đông Phi, nhưng chỉ riêng Mombasa đã khiến tôi bất ngờ."

Von der Leyen giải thích: "Mombasa gần như được xây dựng lại từ đầu. Chúng tôi nỗ lực mang văn hóa Đức tới châu Phi, nên ở Đông Phi, các vị cứ thoải mái như về nhà mình."

Điều này khiến cả đoàn Áo đồng tình. Dù sao họ đều là người Đức, nên cảm thấy rất dễ chịu.

Wolfgang hỏi thẳng: "Thưa Bộ trưởng, dù Mombasa trông khá đẹp, nhưng tại sao đường phố lại rộng thế, các tòa nhà cách xa nhau khiến thành phố trống trải? Đây có phải sự lãng phí lớn không?"

Từng đến nhiều nơi ở châu Âu, Wolfgang thấy các thành phố châu lục này thường có đường hẹp, đông đúc, nhà cửa xây san sát. Theo ông, Mombasa xây dựng quá xa xỉ.

Von der Leyen kiên nhẫn giải thích: "Một phần do Đông Phi đất rộng người thưa, tài nguyên đất đai không khan hiếm. Hai là các đô thị Đông Phi chú trọng môi trường sống. Ông thấy đấy, dù kiến trúc phân tán nhưng cây xanh phong phú. Theo cách nói của chúng tôi, đây gọi là 'thành phố vườn', đồng thời thuận tiện bố trí hệ thống phụ trợ như thoát nước, đường ống nước sạch, đèn đường, biển báo... Hiện Mombasa kinh tế còn hạn chế nên thiết bị chưa hoàn thiện, nhưng chúng tôi tham khảo ưu điểm đô thị khác để dành không gian phát triển tương lai. Còn đường rộng giúp người và hàng hóa đi lại theo quy tắc bên phải dễ dàng, hiệu suất giao thông tốt. Hiện có thể thừa, nhưng khi dân số tăng sẽ không cần quy hoạch lại."

Wolfgang tin khoảng 30% lời giải thích này, ít nhất cho thấy tầm nhìn xa của chính phủ Đông Phi. Nhưng 70% còn lại ông không tin, vì ngay cả đô thị châu Âu hiện nay cũng chưa đạt mức Von der Leyen miêu tả. Đây rõ ràng là sự lãng phí hành chính, hào nhoáng nhưng không thực tế.

Wolfgang chất vấn: "Dù lý lẽ của ngài có lý, nhưng dân số Đông Phi không nhiều. Các người dự tính bao nhiêu năm để biến thành phố này thành như mô tả? 30, 40 năm hay lâu hơn?"

Von der Leyen tự tin: "Hiện dân số Mombasa đã đạt 60.000 người, chỉ sau Dar es Salaam. Hãy nhớ người Đức chúng tôi khai phá nơi này mới hơn ba năm, sau khi trục xuất người Zanzibar bản địa. Tức là chỉ nhờ di dân, Mombasa và các đô thị khác đã có quy mô dân số tương đương châu Âu. Tương lai Mombasa chắc chắn rất triển vọng."

60.000 dân với thành phố này không nhiều, nhưng đây là năm 1870. Berlin khi ấy chỉ 700-800.000 dân, Vienna khoảng 500-600.000.

Dĩ nhiên, Dar es Salaam và Mombasa là hai cảng trung chuyển lớn nhất Đông Phi, nên quy mô việc làm đủ nuôi sống lượng dân đông đúc. Chỉ riêng dịch vụ cho tàu bè và thủy thủ đã tạo ra vô số việc làm. Nairobi sau khi mở rộng cũng sẽ trở thành đô thị "lớn" với 50.000 thậm chí 100.000 dân.

Hiện thành phố lớn thứ ba Đông Phi là Mbeya, thứ tư là Mwanza, nhưng sẽ bị Nairobi soán ngôi nhờ chính sách phát triển tập trung.

Dù đô thị Đông Phi có vẻ đạt trình độ châu Âu, nhưng dân số hiện chủ yếu ở quy mô thị trấn, phần lớn là tỉnh lỵ. Trong đó, chỉ Mombasa vượt mốc 50.000 dân.

Nghe xong, Wolfgang tỏ ra hứng thú: "Xem ra Mombasa phát triển khá ấn tượng. Từ một thuộc địa trở thành đô thị hiện đại mang phong cách Đức quả là thành tựu đáng kể. Tôi muốn biết quy mô dân số đô thị Đông Phi hiện nay là bao nhiêu?"

Dân số, đặc biệt dân đô thị, đồng nghĩa nhân lực và thị trường. Nếu Đông Phi có đủ hai yếu tố này, cộng thêm tài nguyên phong phú, chỉ còn thiếu doanh nhân đầu tư.

Dù đoàn khảo sát nhận lệnh hoàng gia, nhưng mục đích chính vẫn là kiếm lời. Chỉ vì nể mặt hoàng đế, họ mới vượt ngàn dặm tới Đông Phi.

Von der Leyen không trả lời trực tiếp: "Hiện dân số Đông Phi chủ yếu tập trung ở nông nghiệp và nông thôn, dân đô thị không nổi bật. Nhưng vành đai công nghiệp phía Bắc gồm Mombasa, Nairobi và Kisumu đã có khoảng 100.000 dân. Riêng Nairobi nhờ kết quả chiến tranh Venice, nhiều công nhân lành nghề sẽ nhập cư, dự kiến vượt 100.000 dân. Ngoài ra dọc vành đai này còn vô số làng mạc, tổng dân số khoảng 600.000."

Ông không tiết lộ tổng lực lượng Đông Phi, chỉ phác thảo quy mô dân số Kenya cho đoàn.

Chỉ riêng con số 600.000 đã khiến nhiều người thèm thuồng. Hiện Hy Lạp chỉ có 1,45 triệu dân, trong khi nam Kenya không chỉ đông dân mà còn giàu tài nguyên.

Von der Leyen tiếp tục quảng cáo: "Ngoài ra, chúng tôi đang quy hoạnh vùng trồng bông lớn ở phía Bắc - không phải bông thường mà là bông dài, chất lượng có thể kém Ai Cập chút ít nhưng không đáng kể. Phía Bắc còn có các trang trại quy mô lớn, nam Kenya nông nghiệp phát triển tốt với cao lương, lúa mì, ngô, kê. Tỉnh Nam Phổ nơi Nairobi tọa lạc còn có đồn điền cà phê."

Đây là nền tảng nông nghiệp của vành đai công nghiệp Bắc - nguyên liệu phong phú, doanh nhân Áo có thể đầu tư vào ngành liên quan.

Wolfgang gật đầu: "Về điểm này, Đông Phi có lợi thế riêng nhờ đất đai rộng lớn và khí hậu nhiệt đới. Nhưng tôi muốn tìm hiểu riêng về điều kiện y tế địa phương."

Ông nói thẳng suy nghĩ: Ai cũng nghe châu Phi khắc nghiệt, bệnh tật hoành hành. Vấn đề không phải đầu tư hay không, mà là liệu có mất mạng không.

Von der Leyen trấn an: "Ông Wolfgang yên tâm. Đông Phi đầu tư rất lớn cho y tế. Nhờ cải tạo vệ sinh môi trường, tỷ lệ tử vong đã giảm cực thấp, thấp hơn nhiều so với cùng vĩ độ, gần bằng châu Âu. Nhìn tôi đây, đã sống ở Đông Phi bốn năm. Nhiều quan chức, sĩ quan quân đội cũng ở đây ít nhất ba năm."

Dù Von der Leyen không nói, môi trường sống Đông Phi vẫn tốt hơn đa số vùng cùng vĩ độ. Phần lớn Đông Phi nằm trên cao nguyên nhiệt đới, rất dễ sống. Cộng thêm tuyên truyền và ép buộc vệ sinh, diệt trừ côn trùng quy mô lớn, dù trình độ khoa học lạc hậu khiến mọi người (trừ Ernst) không hiểu nguyên lý, nhưng vô tình giảm tỷ lệ bệnh tật.

Hơn nữa, ngay châu Âu thời này cũng bó tay trước nhiều bệnh. Theo Ernst kiếp trước, năm 1872, Vienna từng bùng phát dịch tả trong triển lãm thế giới, khiến hàng ngàn người chết.

Đặc điểm dân cư phân tán của Đông Phi, cùng hệ thống giám sát hiệu quả, khiến dịch bệnh khó lây lan. Bộ trưởng Y tế Đông Phi là nhân vật quyền lực top 5 chính phủ, cho thấy sự coi trọng lĩnh vực này. Hệ thống quan chức y tế, phòng dịch cũng rất đông đảo. Khi mạng lưới điện báo phủ khắp, khả năng ngăn chặn bệnh truyền nhiễm của Đông Phi sẽ càng cao.

(Hết chương)

[1] Vành đai công nghiệp Bắc: Khu vực phát triển công nghiệp trọng điểm của Đông Phi gồm Mombasa-Nairobi-Kisumu.

[2] Bông dài (Sea Island Cotton): Giống bông cao cấp có sợi dài, mềm, giá trị kinh tế cao.

[3] Tỉnh Nam Phổ: Đơn vị hành chính Đông Phi lấy cảm hứng từ vùng Prussia, nay thuộc Kenya.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 301 : Đoàn khảo sát (tiếp theo)


Nghe đến đây, Wolfgang và những người khác cũng phần nào bớt lo lắng. Những lời von der Leyen nói không sai—ít nhất là xét từ góc độ thành phố Mombasa, môi trường ở đây không khác biệt nhiều so với các đô thị khác ở Trung Đông lân cận. Vùng nội địa vẫn chưa thể khẳng định, nhưng nếu thuộc địa Đông Phi thực sự thường xuyên bùng phát dịch bệnh quy mô lớn khi tuyển dụng lượng lớn dân nhập cư như vậy, họ đã không thể chịu đựng được những tổn thất này từ lâu. Việc nhập cư cũng đòi hỏi chi phí cực kỳ lớn.

Wolfgang hỏi: "Thưa ngài von der Leyen, so với Mombasa và các thành phố như Nairobi mà ngài đề cập, Dar es Salaam là đô thị lớn nhất Đông Phi, vậy tại sao các ngài không chọn nơi đó để chiêu thương?"

Von der Leyen trả lời: "Dar es Salaam trở thành thành phố lớn nhất Đông Phi hiện nay chủ yếu là do nguyên nhân lịch sử. Vốn dĩ nó là cứ điểm quan trọng nhất của Zanzibar trên lục địa, nên được khai thác sớm hơn. Nói chính xác thì nó nằm gần đảo Zanzibar—nơi là lãnh thổ chính của Vương quốc Hồi giáo Zanzibar. Tuy nhiên, sau khi Vương quốc Đông Phi thành lập, Dar es Salaam không còn lợi thế này nữa. Chủ thể của Đông Phi giờ đây là phần lục địa, và Dar es Salaam chỉ là một cảng quan trọng, điều kiện của nó thậm chí còn kém hơn Mombasa."

Wolfgang thắc mắc: "Điều này từ đâu mà nói?"

Von der Leyen giải thích: "Thứ nhất, Mombasa nằm ở phía bắc Đông Phi, khoảng cách từ châu Âu và Viễn Đông tới đây đều gần hơn so với Dar es Salaam. Tôi nghĩ các ngài cũng hiểu điều này có ý nghĩa gì—đặc biệt là sau khi kênh đào Suez khai thông, Dar es Salaam giống như Venice sau khi Địa Trung Hải suy tàn, bị thay thế bởi các cảng ven Đại Tây Dương, và địa vị cũng giảm sút. Một điểm nữa là cơ cấu kinh tế phía tây Dar es Salaam khá đơn điệu, chủ yếu dựa vào trồng lương thực, nên nếu không phải là buôn bán ngũ cốc, nó không có lợi thế so với khu vực ảnh hưởng của Mombasa. Ngành chế biến sisal có thể coi là ngành công nghiệp có lợi thế, nhưng lĩnh vực này chủ yếu do thành phố Tanga đảm nhiệm. Tôi tin rằng quý quốc cũng không có lợi thế đầu tư vào ngành sisal."

Lời von der Leyen không sai—Đế quốc Áo-Hung không sản xuất sisal, nên kinh nghiệm và kỹ thuật trong lĩnh vực này không thể so với Đông Phi, dù ngành sisal của Đông Phi cũng mới phát triển được vài năm.

Wolfgang gật đầu: "Giao thông quả thực là vấn đề lớn, đặc biệt là cảng biển. Sau khi kênh đào Suez khai thông, thành thật mà nói, các cảng ven biển Đông Phi đều lệch khỏi tuyến đường chính, chỉ có những cảng gần châu Âu như Mombasa còn chút lợi thế."

Xét riêng về giao thông đường biển, may mắn là châu Phi nằm sát lục địa Á-Âu. Nếu giống như Nam Mỹ, Đông Phi hẳn đã mất đi một nửa giá trị. Bắc Mỹ cũng tương tự, còn châu Đại Dương thì lại càng khó khăn hơn. Tất nhiên, nếu tính thêm các yếu tố kinh tế và tài nguyên, tình hình sẽ khác—ví dụ như Úc hiện nay có địa vị tương đương với Siberia, nhưng trong tương lai nhờ nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, nó sẽ trở thành miếng mồi ngon.

Von der Leyen đề nghị: "Các vị có muốn tham quan cụ thể thành phố Mombasa không? Như vậy sẽ giúp các vị có cái nhìn trực quan hơn."

Wolfgang đáp: "Đó là điều chúng tôi mong muốn."

Theo hiệu lệnh của von der Leyen, các quan chức chính quyền thành phố Mombasa bắt đầu dẫn đoàn tham quan quanh khu vực trung tâm.

Là một cảng tự do, Mombasa được chia thành hai khu vực. Những gì đoàn khảo sát thấy trước đó chỉ là khu vực mở—nơi ngoài người Đông Phi, còn có nhiều thủy thủ và thương nhân nước ngoài, không khí thương mại rất sôi động, với đầy đủ quán rượu, sòng bạc, cửa hàng, thậm chí có cả những cơ sở "giải trí" kiểu Nhật với nhân viên phần lớn đến từ Nhật Bản.

Phía tây khu vực mở mới là bộ mặt thực sự của thành phố Đông Phi. So với khu vực mở, nơi đây trông khá tiêu điều, chủ yếu là khu dân cư và các cơ quan hành chính như tòa thị chính. Người qua lại trên đường rất ít, khiến không gian trở nên trống trải.

Von der Leyen giải thích: "Phần lớn cư dân làm việc ở phía đông, nên vào thời điểm này, khu vực phía tây khá vắng vẻ. Đến sáng sớm hoặc chiều tối sẽ đông đúc hơn—đó là giờ tan ca."

Wolfgang hỏi: "Cảnh sát Đông Phi rất nhiều sao? Trên đường đi tôi thấy không ít."

Von der Leyen đáp: "Đây cũng là một biện pháp quan trọng để duy trì trật tự Đông Phi. An ninh là một phần của văn hóa cư trú—muốn có an ninh tốt, ngoài giáo dục người dân, cần phải có sự giám sát. Tuy nhiên, các ngài không cần lo lắng. Cảnh sát Đông Phi không chỉ là cơ quan bạo lực, mà chủ yếu là cơ quan phục vụ nhân dân, giúp chỉ đường, tuyên truyền an toàn giao thông và pháp luật, nâng cao chất lượng cuộc sống và cảm giác an toàn của người dân."

So với châu Âu, cảnh sát Đông Phi quả thực nhiều hơn. Đối với tội phạm, kể cả những vụ trộm vặt, tốt nhất là xử lý nghiêm khắc. Dù tỷ lệ tội phạm ở Đông Phi rất thấp, nhưng ấn tượng lớn nhất của người dân hiện nay về cảnh sát vẫn là những hình phạt nặng—từ vi phạm giao thông, tiểu tiện bừa bãi, xả rác… đến đủ thứ chuyện vặt vãnh. Như lời Ernst nói, đây là biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng dân cư Đông Phi. Hiệu quả hiện chưa rõ rệt, nhưng trong tương lai, khi người dân Đông Phi hình thành thói quen tốt, sức mạnh của nó sẽ thể hiện. Điều này không phải là làm quá—đa số dân nhập cư Đông Phi đến từ nông thôn, họ cần thích nghi với môi trường đô thị, nơi có nhiều quy tắc hơn. Giáo dục để họ học hỏi sẽ tốn thời gian, nhưng hình phạt có thể khiến họ trưởng thành nhanh chóng.

Khi đi qua một ngã tư, đoàn người bắt gặp một nhóm công nhân da đen đang thông cống.

Von der Leyen nói: "Ngoài người bình thường, Đông Phi vẫn tồn tại một lượng nô lệ da đen nhất định. Tùy theo yêu cầu công trình, chúng tôi sẽ sử dụng số lượng lao động da đen phù hợp. Nếu các ngài xây nhà máy ở Đông Phi, sau này cũng có thể sử dụng một số nhân công da đen để giảm chi phí. Đây là một trong những phúc lợi mà Đông Phi dành cho nhà đầu tư—chỉ cần trả một khoản phí vật liệu nhỏ, các ngài sẽ có được công trình nhà máy như ý."

Wolfgang hỏi: "Kể cả công nhân cũng sử dụng họ?"

Von der Leyen lắc đầu: "Không phải vậy. Họ chỉ là nguồn bổ sung cho một phần nhân lực Đông Phi. Công nhân chính vẫn là cư dân Đông Phi."

Wolfgang thắc mắc: "Tại sao không sử dụng hoàn toàn nô lệ da đen? Như vậy chi phí sẽ thấp hơn."

Von der Leyen trả lời dứt khoát: "Điều này liên quan đến chính sách đồng hóa của Đông Phi. Lạm dụng nô lệ da đen có thể gây phản tác dụng. Chúng tôi không muốn giống như Mỹ, tương lai sẽ xuất hiện chủng tộc da đen."

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 302 : Khu công nghiệp nặng hồ Malawi


Thành phố Mombasa nhìn chung để lại ấn tượng khá tốt cho đoàn khảo sát thương mại Áo. Trong đầu tư nước ngoài, ổn định là yếu tố quan trọng nhất, và Đông Phi chiếm ưu thế ở điểm này. Dù đoàn khảo sát cho rằng cách sử dụng lao động da đen của Đông Phi hơi bảo thủ, nhưng quy mô của Đông Phi đã đủ lớn để họ cân nhắc đầu tư.

Hiện tại, trưởng đoàn Wolfgang dự định thử nghiệm bằng cách đầu tư vào một vài nhà máy nhỏ ở Đông Phi. Các thành viên khác cũng có suy nghĩ tương tự. Họ vẫn hoài nghi về thể chế chính trị của Đông Phi—chế độ quân chủ phong kiến điển hình kết hợp với chủ nghĩa bảo thủ cực đoan khiến họ lo ngại về môi trường kinh doanh ở đây.

...

Trong khi Wolfgang và đoàn khảo sát miền Bắc, khu vực phía đông hồ Malawi—nơi được dành riêng cho Áo phát triển—lại không được quan tâm.

Thứ nhất, vị trí quá xa xôi, nằm sâu trong nội địa Đông Phi. Dù khu công nghiệp phía Bắc đã mở rộng đến Đại Hồ, nhưng Mombasa với lợi thế cảng biển vượt trội khiến vùng hồ Malawi không thể so sánh được. Cảng Mtwara duy nhất ở phía Nam cũng không thể sánh bằng Mombasa.

Tình trạng giao thông Đông Phi khiến sản phẩm làm ra ở đây khó xuất khẩu bằng đường biển, chỉ có thể dựa vào chính phủ Đông Phi thu mua—nghĩa là hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường nội địa, rủi ro quá lớn.

Thứ hai, trữ lượng than và sắt đã được thăm dò ở đây không đủ hấp dẫn Áo-Hung. Các nhà đầu tư không mặn mà khi bán đảo Balkan đã gần kề, không cần vượt biển đến Đông Phi. Không có đầu tư nước ngoài, tập đoàn Hechingen buộc phải tự đảm nhận.

Cuối cùng, Đông Phi định hướng phát triển công nghiệp nặng quanh hồ Malawi, trái ngược hoàn toàn với mong muốn của người Áo. Công nghiệp nhẹ với ưu điểm vốn ít, chu kỳ ngắn, thu hồi vốn nhanh vẫn là lựa chọn hàng đầu của giới tư bản.

Do đó, phát triển công nghiệp quanh hồ Malawi chỉ có thể do Đông Phi tự lực. Nhưng kinh nghiệm của tập đoàn Hechingen trong lĩnh vực này gần như bằng không. Dù Đông Phi đã có một số ngành công nghiệp, nhưng vẫn dừng ở quy mô thủ công.

Chỉ có khai thác than ở thành phố Mbeya đạt trình độ tương đương một số mỏ nhỏ ở châu Âu. Sau khi nâng cấp thiết bị, sản lượng đang tăng dần.

Trong lĩnh vực công nghiệp nặng, không chỉ Đông Phi, ngay cả tập đoàn Hechingen ở châu Âu cũng thiếu kinh nghiệm. Lúc này, cách duy nhất là dùng tiền để giải quyết.

May mắn là tập đoàn Hechingen hiện dư dả vốn, nhờ đầu tư vào trái phiếu Chiến tranh Pháp-Phổ. Ernst áp dụng chiêu cũ: mua lại một nhà máy thép nhỏ ở vùng Saar, đóng gói chuyển toàn bộ sang Đông Phi.

Nhà máy thép này từng dựa vào một mỏ sắt nhỏ ở Saar, nhưng chiến tranh bùng nổ khiến sản xuất đình trệ, vỡ nợ. Ernst nhanh chóng thâu tóm và mời công nhân thất nghiệp sang Đông Phi, nhưng chỉ có hơn 100 người đồng ý—phần lớn là người Đức.

Sau ba tháng, công nhân đã có mặt. Để nâng cao hiệu suất khai thác quặng sắt, Ernst nhập thiết bị mới từ Áo. Đồng thời, ông mua thêm một nhà máy luyện thép ở Kapfenburg (Áo), sáp nhập thành Công ty Thép Liên hiệp Đông Phi. Ngành thép Đông Phi từ đó khởi động khó khăn. Tập đoàn Hechingen cũng bắt đầu thâm nhập lĩnh vực công nghiệp nặng từ nghiên cứu, công nghiệp nhẹ, đóng tàu và thương mại.

Đông Phi rất coi trọng phát triển khu vực hồ Malawi—nơi duy nhất ở Tanzania có cả than và sắt, nền tảng của công nghiệp hóa.

Về vấn đề này, Ernst đã trao đổi với Konstantin:

Ernst: "Công nghiệp nặng cần hai điều kiện: nguyên liệu và vốn. Đông Phi đã có cả hai. Vị trí hồ Malawi nằm sâu trong nội địa cũng đảm bảo an ninh, nên đầu tư không có vấn đề lớn."

Dù phía Nam hồ Malawi giáp Mozambique, Đông Phi có thể phớt lờ. Nếu là Bồ Đào Nha, có lẽ họ sẽ thận trọng hơn, nhưng quy mô Đông Phi hiện đã ngang ngửa Bồ Đào Nha. Chỉ có nguồn vốn còn yếu, nhưng vốn của Bồ Đào Nha nằm rải rác trong tay tư nhân, còn Đông Phi tập trung vào chính phủ.

Konstantin: "Người Áo hoàn toàn không quan tâm đến hồ Malawi, như báo cáo của von der Leyen. Ngay cả khu công nghiệp phía Bắc, họ chỉ thiên về Mombasa. Nếu không có dự án Nairobi hấp dẫn, có lẽ họ đã không động tay động chân."

Ernst: "Tôi đoán trước điều này. Nhưng không sao, hồ Malawi vốn có khuyết điểm, nhất là giao thông Đông Phi. Chúng ta phải tự phát triển. Khi họ kiếm được lợi nhuận ở Mombasa, họ sẽ dần đầu tư thêm vào khu công nghiệp phía Bắc."

Konstantin: "Vậy cậu có kế hoạch cụ thể nào cho hồ Malawi?"

Ernst: "Đây sẽ là căn cứ công nghiệp nặng, nhưng chỉ đáp ứng nhu cầu giai đoạn đầu. Trong tương lai, trung tâm công nghiệp nặng sẽ chuyển về cao nguyên Matabele. Hiện tại, chúng ta cần đào tạo nhân lực và dự trữ công nghệ, tạo nền tảng cho tương lai. Đồng thời, hồ Malawi kết nối Tanzania và Zambia, giúp củng cố kiểm soát nội địa. Phát triển công nghiệp nặng ở đây sẽ thúc đẩy các ngành phụ trợ, giảm phụ thuộc vào thành phố ven biển—nơi dễ bị đe dọa từ biển. Hải quân Đông Phi hiện chưa đủ sức đối phó, nên phát triển nội địa là ưu tiên, kể cả vì an ninh."

Như đã nói, lục quân Đông Phi vượt xa hải quân. Trên đất liền, họ không sợ bất kỳ thách thức nào, nhưng tình hình trên biển phức tạp hơn nhiều. Lực lượng hải quân Mozambique không hề yếu hơn Đông Phi, chưa kể hậu thuẫn từ Bồ Đào Nha.

Ernst: *"Sản lượng thép phản ánh sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Chỉ khi tự chủ được thép, Đông Phi mới tiếp nhận thêm ngành công nghiệp. Hiện tại, khó khăn lớn nhất khi chuyển dịch tập đoàn Hechingen sang Đông Phi là thiếu cơ sở hạ tầng. Nếu khu công nghiệp hồ Malawi hoàn thành, trong ba năm tôi có thể chuyển 1/3 ngành nghề sang đây."*

Công nghiệp nặng cung cấp tư liệu sản xuất chủ chốt. Các sản phẩm của tập đoàn Hechingen vốn dựa vào nền công nghiệp nặng Đức và Áo. Chỉ khi Đông Phi giải quyết được vấn đề này, họ mới tiếp nhận được chuyển dịch công nghiệp.

Và nền tảng của công nghiệp nặng chính là ngành thép. Chỉ khi sản lượng thép tăng, các ngành liên quan mới phát triển được.

Konstantin: "Vấn đề then chốt vẫn là giao thông. Có giao thông tốt, mọi thứ sẽ dễ dàng hơn. Đã đến lúc đẩy mạnh xây dựng đường sắt. Tôi nghe nói tuyến đường sắt đầu tiên tiến độ rất chậm."

Ernst: "Do thiếu kinh nghiệm kỹ thuật. Công ty Năng lượng Động lực Vienna hợp tác với Áo, nhưng cả hai đều non trẻ trong chế tạo đầu máy khổ rộng. Hiện chưa có mẫu thử nghiệm nào hoàn chỉnh. Tôi sẽ xem xét lại. Dù sao đây cũng chỉ là tuyến đường sắt thử nghiệm, có thể phá bỏ làm lại."

Đầu máy khổ rộng của Đông Phi không phải không chế tạo được, nhưng chất lượng không thể so sánh với tiêu chuẩn khác. Ưu thế công nghệ không dễ đạt được. Ernst quyết định không lãng phí thời gian nữa, chọn tiêu chuẩn đường sắt có sẵn để rút ngắn quá trình phát triển.

Tuy nhiên, thử nghiệm này không vô ích. Công ty Năng lượng Động lực Vienna đã tích lũy nhiều công nghệ mới, có thể áp dụng cho đường sắt Đông Phi, đồng thời có hướng đi rõ ràng hơn cho tương lai.

Các công ty đường sắt Áo khuyên Đông Phi nên dùng tiêu chuẩn 1435mm (khổ tiêu chuẩn), tiếp theo là khổ mét (1000mm) hoặc 760mm—đều là tiêu chuẩn phổ biến ở Áo-Hung.

Do Áo-Hung không thống nhất tiêu chuẩn đường sắt, nên đề xuất khá hỗn loạn. Ernst có ý định áp dụng khổ 760mm cho khu vực núi và mỏ ở hồ Malawi để vận chuyển than và quặng. Nhưng tiêu chuẩn chính của Đông Phi vẫn sẽ là 1435mm trở lên.

Trên thế giới, có ba loại khổ đường sắt phổ biến:

1435mm (khổ tiêu chuẩn): Phổ biến nhất.

1524mm: Đông Âu, Nga, Mông Cổ.

1676mm: Ấn Độ, Argentina, Chile.

Ngoài ra còn có khổ 1600mm ở Brazil, Úc và Ireland.

Chọn một trong các tiêu chuẩn này sẽ đảm bảo đường sắt Đông Phi không bị cô lập trong tương lai.

(Hết chương)

[1] Hồ Malawi: Hồ lớn thứ 9 thế giới, nằm giữa Malawi, Mozambique và Tanzania.

[2] Khổ đường sắt 1435mm: Tiêu chuẩn quốc tế, chiếm 60% tổng chiều dài đường sắt toàn cầu.

[3] Cao nguyên Matabele: Vùng đất giàu khoáng sản ở Zimbabwe ngày nay, từng là lãnh thổ của vương quốc Ndebele.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 303 : Hòa giải


Khi Áo-Hung mở nhiều mặt trận cùng lúc, Ý nhanh chóng đuối sức. Cuối năm 1870, quân đội Áo-Hung vượt qua Venice và Lombardy, tiến sâu vào lãnh thổ Vương quốc Sardinia cũ.

Thấy Vương quốc Ý đại thế đã mất, Anh buộc phải nhảy ra hòa giải khẩn cấp. Sau khi liên hệ với Nga, họ mời đại diện Phổ, Pháp và Tây Ban Nha tham dự. Ngày 3/1/1871, hai bên Ý-Áo đàm phán đình chiến tại Birmingham, Anh.

Birmingham.

Ngoại giao Ý Camore phát biểu: "Áo-Hung công khái xua quân xâm lược Vương quốc Ý, gây tổn thất nặng nề. Áo-Hung phải rút toàn bộ quân đội và bồi thường thiệt hại!"

"Phụt!" Ngoại trưởng Áo Friedrich bật cười, như thể Ý đang đánh tới Vienna vậy.

Friedrich đáp: "Đảo điên trắng đen là tài năng của các ngài! Rõ ràng Ý mới là kẻ gây chiến khi tấn công Lãnh địa Giáo hoàng - một quốc gia có chủ quyền dù chúng tôi đã nhiều lần cảnh báo. Vương quốc Sardinia vốn là lũ buôn chiến, phải trả giá!"

Camore: "Sardinia có sứ mệnh thống nhất bán đảo Ý, được toàn dân ủng hộ. Đây là nguyện vọng chính đáng!"

Friedrich mỉa mai: "Ồ, 'nguyện vọng'? Tôi thấy quân dân Lãnh địa Giáo hoàng cùng Áo-Hung chống lại xâm lược. Người Venice hợp tác tiễu trừ quân Sardinia. Vương quốc Naples cũng tái lập. Rõ ràng 'Vương quốc Ý' là sản phẩm sai lầm của bạo lực!"

Camore giận dữ: "Chính Áo-Hung âm mưu phá hoại, cấu kết với kẻ thù của nhân dân Ý!"

Friedrich lạnh lùng: "Ngài Camore, xin đừng vu khống. Chính Sardinia tham lam mới khiến Giáo hoàng mời chúng tôi can thiệp. Quân Áo-Hung vào Rome là theo yêu cầu của Đức Thánh Cha, thay Pháp bảo vệ Lãnh địa - hoàn toàn hợp pháp!"

Hai bên tranh cãi gay gắt về tính chính nghĩa của chiến tranh.

"Đủ rồi!" Bá tước Granville - Ngoại trưởng Anh - ngắt lời. "Chúng ta ở đây vì hòa bình, không phải để đổ lỗi. Ý đề nghị gì?"

Camore: "Áo-Hung phải rút vô điều kiện khỏi Venice, Lombardy và chấm dứt can thiệp nội bộ Ý. Đây là lằn ranh đỏ!"

Friedrich cười nhạt: "Gây chiến xong muốn quên đi ư? Nếu nước nhỏ cứ khiêu khích rồi xin lỗi là xong, trật tự thế giới sẽ ra sao?"

Granville nhắc nhở: "Ngài Friedrich, xin nêu yêu sách cụ thể."

Friedrich: "Kẻ gây chiến phải bị trừng phạt. Sardinia không đủ tư cách thống nhất Ý, phải đổi lại tên cũ. Hai Sicily phải độc lập. Ý cam kết không xâm phạm Lãnh địa Giáo hoàng và Naples. Venice cùng Lombardy thuộc về Áo-Hung!"

"Không thể!" Camore gầm lên.

Granville cũng lắc đầu: "Yêu cầu quá khắc nghiệt. Venice và Lombardy là lãnh thổ Ý, dân cư đa số người Ý."

Friedrich châm chọc: *"Venice và Lombardy vốn là lãnh thổ Áo-Hung từ 10 năm trước. Nếu Sardinia muốn dân Ý, chúng tôi sẵn sàng trả lại. Nếu cứ lấy dân tộc chia cắt lãnh thổ, vậy Ireland với Scotland..."*

Ông dừng lại, nhưng hàm ý khiến Granville tái mặt.

Vị bá tước Anh gắt gỏng: "Chỉ bàn vấn đề Ý! Tạm gác Venice và Lombardy. Tiếp tục với Hai Sicily."

Camore: "Vương quốc Hai Sicily đã diệt vong. Chính quyền Naples hiện nay là bất hợp pháp!"

Friedrich: "Không phải ngài định đoạt. Naples và Sicily đều có lịch sử lâu đời, với quân chủ chính thống. Họ phải được độc lập!"

Vương quốc Hai Sicily (trước đây gồm Sicily và Naples) giờ bị chia cắt: Naples theo Áo-Hung, còn đảo Sicily thuộc Ý. Áo-Hung muốn tăng ảnh hưởng thông qua Naples.

Granville thở dài: "Vấn đề này cũng chưa thể giải quyết. Tạm hoãn!"

(Hết chương)

[1] Bá tước Granville: George Leveson-Gower (1815-1891), Ngoại trưởng Anh giai đoạn 1870-1874.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 304 : Hiệp ước Hòa bình Birmingham


Điểm tranh cãi tiếp theo là khôi phục lãnh thổ Lãnh địa Giáo hoàng như trước chiến tranh. Nằm giữa bán đảo Ý, việc này sẽ chia cắt Ý thành hai phần.

Friedrich tuyên bố: "Lãnh địa Giáo hoàng có vị thế siêu việt. Vương quốc Ý đã dùng thủ đoạn xâm chiếm từng mảnh đất của Ngài. Chúng ta cần đặt Lãnh địa ở vị trí đặc biệt - không tham gia sự vụ quốc tế nhưng không nước nào được xâm phạm. Kẻ nào tấn công sẽ là kẻ thù của Chúa!"

Đề xuất này biến Lãnh địa thành "bình hoa" trung lập vĩnh viễn, chỉ ảnh hưởng đến các thế lực muốn thống nhất Ý.

Camore phản đối kịch liệt: "Vương quốc Ý không công nhận Lãnh địa Giáo hoàng - đó chỉ là bù nhìn của Áo-Hung!"

Friedrich đáp: "Làm bù nhìn còn hơn bị Sardinia diệt vong! Đây là thái độ của các ngài với Giáo hoàng và Chúa sao?"

Khi vấn đề tôn giáo được đưa ra, Áo-Hung chiếm ưu thế.

Bá tước Granville ngăn cuộc tranh cãi: "Hãy phân tích từng điều khoản."

Áo-Hung muốn chia cắt Ý và thu hồi Venice-Lombardy. Trong khi đó, Anh muốn bảo toàn lãnh thổ Ý nhưng không thể ép Áo-Hung rút quân.

Granville hỏi ý kiến Ngoại trưởng Nga Gorchakov: "Ngài nghĩ sao?"

Gorchakov trả lời khéo léo: "Chúng tôi tôn trọng sự toàn vẹn của Ý, đồng thời ủng hộ Naples độc lập."

Ông cố ý không nhắc tới Lãnh địa Giáo hoàng - với tư cách Chính thống giáo, ông muốn nó sụp đổ để giành quyền lực tôn giáo. Sự ủng hộ Naples cũng chỉ là chiêu ngoại giao, vì thực tế Naples đã độc lập.

Nga không muốn can thiệp - việc này chỉ có lợi cho Anh.

Thấy Nga thờ ơ, Granville buộc phải thừa nhận thất bại của Ý: "Ý phải chịu trách nhiệm chính, nhưng Áo-Hung cũng có phần. Hai bên nên nhượng bộ."

Friedrich đề xuất: "Áo-Hung có thể để Sicily thuộc về Ý, nhưng chỉ vậy thôi."

Camore bác bỏ: "Sicily vốn đã thuộc quyền kiểm soát của chúng tôi, không phải nhượng bộ!"

Friedrich cười lạnh: "Chúng tôi nắm quyền chủ động. Nếu muốn, Áo-Hung có thể chia cắt Ý thêm nữa."

Trước áp lực, Granville đưa ra phương án:

Venice trở về Áo-Hung

Lombardy vẫn thuộc Ý

Naples độc lập nhưng không thống nhất với Sicily

Lãnh địa Giáo hoàng giữ nguyên

Friedrich khăng khăng: *"Lombardy phải trả lại 1/3 lãnh thổ phía Đông cho Áo-Hung. Lãnh địa Giáo hoàng cần khôi phục vùng duyên hải Adriatic."*

Camore gào lên: "Lombardy và Venice là lãnh thổ bất khả xâm phạm!"

Friedrich nhún vai: "Ngài Granville thấy đấy, không phải chúng tôi không muốn đàm phán."

Granville quay sang dọa Camore: "Ý là kẻ gây chiến, đừng ngoan cố!"

Cuối cùng, dưới sự dàn xếp của Anh:

Áo-Hung nhận Venice và 1/3 Lombardy

Lãnh địa Giáo hoàng lấy lại vùng duyên hải Adriatic

Naples được công nhận độc lập

Ý giữ lại Sardinia, Sicily và phần lớn Lombardy

Hiệp ước được ký tại Birmingham, nên mang tên "Hiệp ước Hòa bình Birmingham 1871".

(Hết chương)

[1] Lãnh thổ Lãnh địa Giáo hoàng trước 1860: Bao gồm Romagna, Marche, Umbria và Lazio, chiếm 1/3 diện tích bán đảo Ý.

[2] 1/3 Lombardy phía Đông: Khu vực giàu có gồm Brescia, Bergamo và Cremona, chiếm 40% GDP Lombardy thời điểm đó.

[3] Thái độ của Nga: Nga ủng hộ Naples nhằm làm suy yếu Áo-Hung gián tiếp, nhưng không muốn can thiệp trực tiếp.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 305 : Bàn giao đảo Mayotte


Trên Ấn Độ Dương, một hạm đội hùng hậu dọc bờ biển Đông Phi tiến về phương Nam. Lá cờ đầu đại bàng đen của vùng Đức phấp phới trong gió - biểu tượng nổi tiếng của Phổ, có nguồn gốc từ Vương quốc Frank và La Mã cổ đại.

Lá cờ này sau trở thành biểu tượng của Đế quốc Đức, nhưng không độc quyền bởi Phổ. Thân vương quốc Hohenzollern-Hechingen cũng sử dụng cờ đại bàng đen, và hạm đội treo cờ này chính là Hải quân Đông Phi dưới quyền Đại công tước Ferdinand.

Thường ngày, Hải quân Đông Phi treo cờ Đông Phi, nhưng hôm nay là ngày đặc biệt - bàn giao đảo Mayotte từ Pháp. Việc sử dụng cờ Hechingen nhằm tránh chạm tự ái một cường quốc.

Trên boong tàu, Đại công tước Ferdinand trò chuyện với thiếu tá hải quân Phổ Brommer - người được chính phủ Phổ cử hỗ trợ Đông Phi tiếp quản Mayotte.

Ferdinand: "Thiếu tá, việc Phổ thống nhất nước Đức đã định. Tôi nghĩ hải quân các anh sẽ có bước phát triển nhảy vọt. Dự kiến đóng bao nhiêu chiến hạm mới?"

Brommer thở dài: "Ngài đừng chế nhạo. Hải quân chúng tôi luôn bị coi nhẹ, ngay cả khi thống nhất cũng sẽ bị Lục quân áp chế. Tôi ghen tị với Hải quân Đông Phi - dù trang bị kém nhưng địa vị ngang hàng Lục quân."

Hải quân Liên bang Đức (thực chất là Phổ) vẫn là bộ phận phụ thuộc Lục quân, trong khi Hải quân Đông Phi từ lúc thành lập đã độc lập, dù lực lượng chưa bằng 1/10 Lục quân.

Ferdinand tỏ vẻ khiêm tốn: "Danh nghĩa suông thôi, không giúp xin thêm ngân sách đóng tàu."

Brommer: "Ít nhất điểm xuất phát của các anh cao hơn Phổ. Năm 1815, hải quân Phổ khởi đầu chỉ với 6 tàu pháo 65 tấn mục nát và 2 sĩ quan!"

Ferdinand cười lớn: "Chuyện xưa rồi! Cường quốc nào cũng không thể bỏ qua hải quân. Phổ có tiềm năng hơn Áo-Hung nhiều."

Brommer lắc đầu: "Chưa chắc! Áo-Hung lấy lại Venice, lực lượng hải quân chắc chắn tăng cường."

Ferdinand phân tích: "Venice dù quan trọng nhưng vẫn nhốt hải quân Áo trong biển Adriatic. Trong khi Đức thống nhất có thể vươn ra Đại Tây Dương."

Brommer gật gù: "Phổ có lợi thế đó, nhưng vẫn bị địa hình hạn chế. Ngược lại, Đông Phi có bờ biển trải dài không lo bị phong tỏa."

Ferdinand chán nản: "Bờ biển dài vô ích khi quốc lực hạn chế. 'Có biển mà không phòng thủ' là thảm họa."

Brommer an ủi: "Chẳng nước nào vượt nửa vòng Trái Đất tấn công Đông Phi đâu! Ấn Độ Dương không có cường quốc hải quân, các anh tự vệ đủ rồi."

Ferdinand: "Nhưng quanh đây toàn thuộc địa của cường quốc. Ngay cả hải quân Ai Cập cũng mạnh hơn ta."

Dù vậy, Ferdinand khá hài lòng với vị trí Tư lệnh. Hai tuần trước, Ernst đã hứa sau khi xưởng đóng tàu Bagamoyo hoàn thiện, Venice sẽ ưu tiên đóng 2 tàu chiến hơi nước mới cho Hải quân Đông Phi.

Xưởng đóng tàu Bagamoyo dù sao chép Venice nhưng không thể nhân bản toàn bộ chuỗi cung ứng. Nhiều linh kiện phải nhập từ châu Âu, nên đóng tàu tại Venice vẫn hiệu quả hơn. Bagamoyo sẽ tập trung vào tàu dân dụng trước.

...

"Báo cáo Tư lệnh! Phía trước là đảo Mayotte!"

"Vào cảng!" Ferdinand ra lệnh.

Người Pháp trên đảo trông thấy cờ hiệu, nhầm tưởng là hải quân Phổ đến tiếp quản.

Ít phút sau, Ferdinand và Brommer đặt chân lên Mayotte, nơi chính quyền thuộc địa Pháp đang chờ sẵn.

Arthur - viên chức Pháp: "Theo yêu cầu của chính phủ, chúng tôi bàn giao Mayotte cho Phổ. Nhưng phải đảm bảo an toàn nhân mạng và tài sản, không ngăn cản di tản."

Brommer gật đầu: "Đương nhiên."

Sau nghi thức đơn giản, Mayotte chính thức thuộc về Đông Phi. Ferdinand phát hiện người Pháp dọn đi sạch bách - từ đồ đạc đến cả nô lệ da đen (được đưa từ Réunion sang).

Việc bàn giao được thực hiện thông qua Phổ nhằm giữ thể diện cho nước Pháp bại trận. Mất Mayotte vào tay Phổ còn chấp nhận được, chứ nếu một thuộc địa như Đông Phi trực tiếp tiếp quản thì là sỉ nhục.

Theo thỏa thuận giữa hai hoàng tộc, quyền sở hữu Mayotte sau đó được chuyển giao cho Đông Phi. Sự hiện diện của Brommer chỉ mang tính nghi thức, để Pháp biết hòn đảo đã thuộc về Phổ - sau đó xử lý thế nào là việc của người Đức.

(Hết chương)

[1] Đảo Mayotte: Thuộc quần đảo Comoros, Pháp chiếm năm 1841. Sau hiệp ước Frankfurt 1871, Pháp nhượng lại cho Đức rồi chuyển giao gián tiếp cho Đông Phi.

[2] Cờ đại bàng đen: Biểu tượng quân sự La Mã, sau được các vương triều Đức kế thừa.

[3] Xưởng đóng tàu Venice: Được xây dựng từ thế kỷ 12, một trong những trung tâm đóng tàu hiện đại nhất châu Âu thời điểm đó.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 306 : Nước Đức ra đời


Chương 306: Nước Đức ra đời

Cùng lúc tiếp quản đảo Mayotte, Vương quốc Đông Phi cũng dòm ngó đến các đảo chính gần đó gồm Đại Comoros, Anjouan, Mohéli và nhiều đảo nhỏ khác. Trong số ấy, Quốc vương Anjouan vốn được xem như người cai trị trên danh nghĩa của quần đảo Comoros. Vương quốc Đông Phi dự tính sẽ “đàm phán” với Quốc vương Anjouan, đưa một bộ phận thần dân của ông sang Vương quốc Zanzibar. Trong tương lai, toàn bộ quần đảo Comoros sẽ trở thành “Comoros thuộc Đông Phi”.

Hiện tại, việc ấy chưa thể tiến hành ngay, bởi công cuộc di dân còn chưa hoàn tất, nên trước mắt Hải quân Đông Phi chỉ cần ổn định Quốc vương Anjouan.

Khi tình hình trên đảo Mayotte đã yên ổn, Hải quân Đông Phi liền tiến về phía Anjouan. Dưới sự “viếng thăm thân thiện” của Đại công tước Ferdinand và Hải quân Đông Phi, Quốc vương Anjouan lập tức ký hiệp ước, chính thức biến quần đảo Comoros thành lãnh thổ bảo hộ của Đông Phi.

Kỳ thực, vào thời điểm ấy, Anjouan đã mất quyền kiểm soát ba đảo còn lại. Nhưng Đông Phi chỉ cần cái cớ chính danh, mượn danh nghĩa Quốc vương Anjouan để đàn áp dân bản địa trên đảo Đại Comoros và Mohéli.

Quần đảo Comoros là nơi thế lực hỗn tạp. Ngoài Mayotte đã hoàn toàn nằm trong tay Đông Phi, ba đảo kia dân cư gồm người Phi da đen, người Ả Rập, người Mã Lai, trong đó tầng lớp thống trị là người Ả Rập, văn hóa Ả Rập chiếm ưu thế.

May thay, do khí hậu rừng mưa nhiệt đới, dân số Comoros không nhiều, nên việc khống chế của Đông Phi không mấy khó khăn.

Ngày 18 tháng 1 năm 1871, Wilhelm I tại Sảnh Gương của Cung điện Versailles ở Paris long trọng tuyên bố đăng quang Hoàng đế Đế quốc Đức.

Ngay vào cuối năm ngoái, nhờ thế thắng của cuộc Chiến tranh Pháp–Phổ, bốn tiểu bang Nam Đức đã chính thức gia nhập Liên bang Đức, hoàn tất sự nghiệp thống nhất lãnh thổ Đức.

Khu vực Nam Đức vốn từ lâu là một trong những vùng kinh tế phồn thịnh nhất. Do đó, khi sát nhập Nam Đức, sức mạnh của nước Đức được nhân lên gấp bội; riêng Vương quốc Bayern đã sở hữu thực lực vượt trội so với đa phần các quốc gia châu Âu khác.

Với lời tuyên bố của Wilhelm I tại Versailles, một Đế quốc Đức thống nhất lần đầu tiên đã xuất hiện trong dòng chảy lịch sử nhân loại.

Tân Đế quốc Đức sở hữu hơn 40 triệu thần dân (lịch sử thực tế là 41 triệu), lãnh thổ rộng 610.000 km², trong thoáng chốc vượt qua Pháp để trở thành cường quốc mạnh nhất châu Âu lục địa.

Đức nắm trong tay lực lượng lục quân hùng mạnh nhất châu Âu cùng với lãnh thổ bao la, thực lực vượt xa so với Phổ hay Áo trước đây.

Khi nghe tin Đế quốc Đức ra đời, Hoàng đế Franz của Áo–Hung dâng đầy nỗi niềm chua chát: sự việc ấy đồng nghĩa Áo hoàn toàn mất đi ảnh hưởng tại lãnh thổ Đức. Đế quốc Áo–Hung buộc phải tìm con đường khác. Trái lại, phía Hung lại tỏ ra mừng rỡ: nước Đức thống nhất, Áo không còn có thể lấy cớ lãnh thổ Đức để áp chế Hungary nữa.

Vương quốc Đông Phi cũng gửi lời chúc mừng khi Đế quốc Đức thành lập, song chỉ dừng lại ở lễ nghi. Nếu lễ đăng quang diễn ra tại Berlin, Ernst hẳn sẽ thân chinh dự lễ. Nhưng ở Paris thì tuyệt đối không thể, tránh để Đông Phi chuốc thêm thù oán.

Vào thời điểm nước Đức thống nhất, dân số Đông Phi cũng đã đạt 4,7 triệu người. Trong đó, riêng người gốc Đức từ Đức và Áo–Hung (kể cả sinh ra tại bản địa) đã hơn 1,8 triệu. Cộng thêm những cộng đồng Slav đã được Đức hóa (Croatia, Slovenia) cùng các cuộc hôn phối liên dân tộc (với người Paraguay, người Hoa, người Đức v.v.), tổng số người thuộc khối dân tộc Đức rộng nghĩa lên đến 4,45 triệu. Số còn lại, hơn 200.000 người, là các cộng đồng nhập cư mới như Ý, Nga, Hoa…

Đông Phi, với cơ cấu dân số ấy, không nghi ngờ gì chính là một quốc gia Đức, chỉ đứng sau Đức và Đế quốc Áo–Hung, vượt xa Luxembourg hay Liechtenstein.

Về lãnh thổ, Vương quốc Đông Phi (tính cả các vùng đất thuộc Hoàng thất tại Alaska) là quốc gia rộng lớn thứ năm thế giới, chỉ sau Anh quốc (với Canada, Úc…), Nga, Mỹ và các thuộc địa Viễn Đông.

Đông Phi chưa bao giờ công bố diện tích thực sự của mình. Dù đã có va chạm với các thế lực thuộc địa khác, song vào thời ấy, khái niệm “lãnh thổ quốc gia” và “thuộc địa” chưa thể tách bạch, nên phần lớn các quốc gia khác chỉ hình dung Đông Phi quanh vùng duyên hải Đông Phi – tức lãnh thổ Zanzibar cũ trên đất liền, chưa kể Mozambique và một phần người Áo.

Trong khi Mozambique đã trực tiếp cảm nhận sức ép từ Đông Phi, thì người Áo ít ra cũng hiểu Đông Phi đã chinh phục trọn vùng Kenya và Tanganyika, nếu không thì làm sao có thể thu hút đầu tư mạnh mẽ tại Kenya được.

Với lãnh thổ rộng lớn và hàng triệu dân cư, nghịch lý thay, Vương quốc Đông Phi lúc này lại càng cần giữ thái độ thận trọng. Chỉ khi nắm trọn Zimbabwe và Zambia, Đông Phi mới có thể xuất hiện chính danh trên trường quốc tế.

Bởi vậy, từ năm 1871 trở đi, Đông Phi bắt đầu từ bỏ con đường bành trướng quá khích. Ngoại trừ Mayotte, họ không còn kế hoạch mở rộng lãnh thổ.

Trên biên giới, Đông Phi chọn con đường khiêm tốn, tích cực phát triển quan hệ thương mại với người Boer và Bồ Đào Nha, tránh mọi xung đột vũ lực.

Cùng lúc, Ernst bắt đầu xúc tiến việc chuyển một phần tài sản của Tập đoàn Hechingen về chính quốc Đông Phi. Đến nay, tập đoàn này đã trở thành một trong những tài phiệt hùng mạnh bậc nhất thế giới: có cả Vương quốc Đông Phi làm “hậu viên”, nắm ảnh hưởng tại Đức và Áo–Hung, đồng thời cắm rễ tại nhiều nơi khác ở châu Âu. Quy mô ấy khiến Hechingen thực sự “giàu ngang quốc gia”. Chỉ cần rơi vãi đôi chút lợi ích, cũng đủ cho Đông Phi tiêu hóa trong thời gian dài.

Trung tâm của Tập đoàn Hechingen là Ngân hàng Hechingen. Ngoài việc nắm trong tay các doanh nghiệp thuộc sở hữu tập đoàn, ngân hàng này dưới sự chỉ đạo của Ernst còn thâu tóm cổ phần ở nhiều công ty mới nổi tại Đức và Áo–Hung, tập trung vào các ngành điện lực, quân giới, thực phẩm, cơ khí.

Một ví dụ tiêu biểu là xưởng Škoda do Bá tước Škoda lập ra ở Bohemia (1869). Khi ấy, Ngân hàng Hechingen đã nắm giữ 17% cổ phần, dù xưởng chỉ mới là một nhà máy cơ khí nhỏ. Sự đầu tư này khiến chính Bá tước Škoda bấy giờ cũng khó hiểu.

Trong lĩnh vực điện lực châu Âu, hầu hết các công ty mới thành lập đều có bóng dáng đầu tư từ Ngân hàng Hechingen. Ngành thực phẩm thì tập đoàn dùng thế độc quyền để chi phối: nông sản nhiệt đới từ Đông Phi chủ yếu xuất sang Đông Âu và Trung Âu, kéo theo sự ra đời của nhiều xưởng chế biến thực phẩm tại đó – phía sau đều có bàn tay Hohenzollern. Thực tế, vị trí địa lý của Đông Phi thuận lợi hơn hẳn Đông Nam Á hay châu Mỹ. Khi ngành cà phê, trà, cao su tại Đông Phi chín muồi, thị phần quốc tế sẽ bị chiếm đoạt thêm nữa.

Ngân hàng Hechingen còn rót vốn vào ngành dầu mỏ tại miền Đông Đế quốc Áo–Hung và Romania. Đặc biệt tại Romania, dưới triều Carol I, chính quyền mở cửa hết mức, gần như trao quyền độc chiếm thị trường dầu mỏ vào tay Hechingen.

Trong khi Đông Phi thiên về chính sách xuất khẩu “bán rẻ, số lượng lớn”, tập trung nông nghiệp; thì Tập đoàn Hechingen lại thống lĩnh các lĩnh vực tài chính, công nghiệp nhẹ, công nghệ cao – lợi nhuận cao, quy mô khổng lồ.

Điều Đông Phi còn thiếu trầm trọng là công nghiệp nặng. Cả Đông Phi lẫn Tập đoàn Hechingen đều chưa có nhiều kinh nghiệm trong mảng này. Không có công nghiệp nặng thì không thể sản xuất ra vật tư nền tảng của công nghiệp, cũng không thể để Tập đoàn Hechingen thoát ly khỏi châu Âu. Khi ấy, Đông Phi và Hechingen chưa thể hợp nhất thành một siêu thực thể chính trị – kinh tế.

Bởi vậy, phát triển công nghiệp nặng chính là mục tiêu hàng đầu hiện nay của Vương quốc Đông Phi.

(Hết chương)

[1] Phòng Gương (Versailles): Nơi ký kết Hiệp ước Versailles 1919 kết thúc Thế chiến I, cũng là nơi Đức trả đũa Pháp năm 1871.

[2] Škoda: Tiền thân là nhà máy cơ khí của Bá tước Škoda, sau trở thành tập đoàn công nghiệp quốc phòng nổi tiếng.

[3] Carol I: Vua Romania (1866-1914), người đưa Romania thoát khỏi ảnh hưởng Ottoman.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 307 : Thẩm thấu


Chương 307: Thẩm thấu

Luân Đôn, Anh quốc.

Tại một quán ăn nhỏ góc phố khu giàu có, một người đàn ông trẻ ăn mặc lịch lãm kiểu quý tộc Anh bước vào quán có tên “Món Ăn Hương Vị Ấn Độ”.

Hắn vừa xuất hiện, lập tức thu hút ánh mắt của mọi người: sống mũi cao, hốc mắt sâu, mái tóc vàng óng rậm rạp, ánh mắt thâm trầm. Khí chất ấy rõ ràng khác biệt với phong cách của thanh niên người Anh đương thời.

Dù khuôn mặt hãy còn non trẻ, trông chỉ mười bảy, mười tám tuổi, nhưng từng cử chỉ, từng động tác đều mô phỏng dáng vẻ quý ông Anh quốc cao tuổi: chuẩn mực, nhã nhặn. Chính điều này khiến vài tiểu thư đang dùng bữa chỉ có thể tiếc nuối. Gương mặt tuấn mỹ, song khí chất lại già dặn quá mức, giống hệt như trông thấy phụ thân mình ngồi trước mặt, làm tiêu tan hết ý niệm mộng tưởng “một cuộc tình ngọt ngào”.

Bỏ qua những ánh nhìn, chàng trai tiến thẳng về quầy thu ngân, cây gậy chống gõ nhịp nhàng trên sàn gỗ.

Hắn nhã nhặn hỏi nhân viên phục vụ:

“Xin hỏi, quý tiệm có bán bánh ‘Ngước Nhìn Tinh Tú’ chăng?”

Người phục vụ cũng trẻ tuổi, khuôn mặt thư sinh, tự xưng là người Ấn Độ, nhưng diện mạo Á Đông khiến lời nói ấy trở thành dối trá rõ ràng. Song khách ăn chẳng để tâm. Người ta tìm đến nơi này một phần vì “ẩm thực Ấn Độ” rất “chính tông” đặc biệt là món “Bánh Giòn Phù Phép”, rưới phô mai, kem và mật ong, khiến thực khách người Anh ăn rồi khen hết lời.

Phần nữa, chính là cái nét “đặc sắc” nơi đây. Tương truyền phần lớn nguyên liệu đều được chở từ Ấn Độ, nhất là gia vị bí truyền nồng đậm. Có cả nước sông Hằng đem về từ xứ Ấn. Nhân viên quán quả quyết: nước sông Hằng là thánh thủy, rửa sạch linh hồn, giúp người tin kính dễ dàng lên thiên đường sau khi chết. Với giáo dân Thanh giáo nơi Anh quốc, chuyện ấy chẳng chút xúc phạm, thậm chí còn hợp với niềm tin “sống mộ đạo, chết được phúc báo”.

Ngoài ra, khách lui tới đa phần là thanh niên tài tử con nhà giàu, nhất là các tiểu thư thân hình đầy đặn. Nhân viên phục vụ ở đây so với đầu bếp người Anh mập mạp, nhờ dáng dấp thanh tú lại thêm nét ngoại quốc, quả thực dễ làm người ta xao động.

“Rất tiếc, thưa ngài, chúng tôi chỉ là nhà hàng Ấn Độ.”

“Đáng tiếc quá. Vậy cà-ri gà cũng không có ư?”

“Có chứ, ngài muốn loại ngọt hay mặn?”

“Ta muốn thứ sạch sẽ, tinh khiết.”

Đối đáp vài câu, một tờ giấy nhỏ khéo léo được nhét vào túi áo chàng thanh niên.

“Chúc ngài ngon miệng!”

“Đa tạ!”



Chiều tối, tại số 214, phố Thames, Luân Đôn.

Người đàn ông xuất hiện ban ngày trong quán, giờ đang trò chuyện với một người khác chính là chủ quán “Món Ăn Hương Vị Ấn Độ”.

“Ngài Richard, đây là tổng hợp nội dung nghị sự tháng Mười Hai vừa rồi của Nghị viện Anh. Chủ yếu xoay quanh hai cuộc chiến: Pháp–Phổ và Ý–Áo. Ngoài ra, vấn đề Ireland được nhắc tới nhiều, nhưng vẫn bị coi là việc nội bộ, vì chưa độc lập. Còn lại, về thuộc địa, Nam Mỹ vẫn là trọng tâm, có đề cập tới kênh đào Suez, nhưng với châu Phi thì hầu như chẳng có mấy quan tâm.”

Richard hỏi:

“Tin tức này chắc chắn chứ?”

Chủ quán đáp:

“Chúng tôi đã mua chuộc một nghị sĩ vùng Abergavenny, y lại giao hảo mật thiết với Bộ trưởng Không Thuộc Bộ hiện nay, nên nắm rất rõ tình hình.”

“Các ngươi không để lộ sơ hở chứ?”

“Xin yên tâm. Chúng tôi lấy danh nghĩa thương nhân Mỹ, thuê một người Pháp làm việc. Đối phương tin rằng chỉ là dò la chính sách thị trường để buôn bán ở Anh.”

“Người Pháp à? Đáng tin không?”

“Chúng tôi chưa từng coi hắn là đồng bọn. Chỉ liên hệ một chiều. Hắn chẳng biết thân phận thật của chúng ta. Hơn nữa, từ nhỏ hắn vốn hận người Anh. Thời bé bị cha mang sang đây, cha chết sớm không rõ nguyên nhân, mẹ kế cùng gã tình nhân chiếm hết gia sản, tống hắn ra đường, sống cảnh ‘đứa trẻ sương mù’. Sau này dưới sự ‘bồi đắp’ của ta, hắn cải trang thành nhà tài phiệt Mỹ, thường xuyên kết giao quý tộc quan lại, moi được nhiều tin tức. Giờ đã quen lối sống xa hoa, lìa chúng ta là hắn lại ra đường ăn mày.”

“Ừm. Vậy thì tốt. Nhưng vẫn phải đề phòng, dù sao cũng chẳng phải người của ta.” Richard gật đầu.

Nói rồi, hắn ngồi xuống sa-lon, lật giở từng tập tài liệu. Căn phòng chìm vào yên lặng, chỉ còn tiếng kim giây tíc tắc nơi mặt đồng hồ.

Đọc mãi đến nửa đêm, Richard mới đặt tập giấy xuống. Hắn bưng tới một lò than, ném toàn bộ giấy tờ vào, rồi thắp nến châm lửa. Ngọn lửa rực sáng, xua bớt giá lạnh của mùa đông Luân Đôn.

Richard chậm rãi nói:

“Tiếp tục theo sát động tĩnh chính phủ Anh, đồng thời lưu ý báo chí và dư luận. Nếu có đề cập đến Vương quốc Đông Phi, phải lập tức báo cáo.”

“Xin yên tâm. Người của chúng ta đã chen vào nhiều tòa soạn nhỏ, thậm chí có một kẻ đã leo đến vị trí chủ bút báo The Times. Nếu có tin tức, sẽ lập tức đến tay chúng ta.”

“Tốt. Hiện tại, vương quốc cần một môi trường yên ổn để phát triển, tuyệt đối không được gây chú ý, đặc biệt là từ dân chúng nơi này. Chính phủ ta không can thiệp nổi, nhưng dư luận phải khống chế. Thà tốn thêm bạc, còn hơn để dân nghèo Luân Đôn biết rằng trên đời còn có Vương quốc Đông Phi. Tốt nhất là gieo vào tai họ ý niệm: châu Phi khủng khiếp, bệnh tật lan tràn, dịch Hắc tử thần tái hiện, chốn ma quỷ, chẳng ai dám bén mảng tới.”

Quả thật, dư luận là thứ có thể thao túng. Ở các quốc gia tư bản, chỉ cần chịu chi tiền, lập tức dẫn dắt được quần chúng. Chính phủ Đông Phi sẵn sàng bỏ ra, chỉ để khiến dân Anh tin rằng châu Phi không đáng đặt chân tới.

Dân nghèo khu ổ chuột Luân Đôn tuy không trực tiếp tham gia việc quốc gia, nhưng phong trào bãi công những năm qua đã buộc chính phủ Anh phải nhượng bộ, trao quyền bầu cử cho giai cấp công nhân vào năm 1867.

Điều ấy có nghĩa, về sau dư luận càng ngày càng trọng yếu, ảnh hưởng đến lá phiếu nghị viện. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự thẩm thấu của Đông Phi.

“Quốc gia tự do” là như vậy: tư bản khống chế dư luận, dư luận quyết định lá phiếu, cuối cùng xoay chuyển chính trị. Ai có tư bản hùng hậu, kẻ ấy tung hoành trong cái gọi là “nền tự do”. Đó cũng là nguyên nhân khiến tư bản Mỹ trong đời trước có thể tìm được kẻ phát ngôn ở mọi quốc gia tư bản.

Chỉ là hiện tại, thời thế chưa tiến tới mức ấy, chưa trải qua mài giũa của những đối thủ ý thức hệ. Bởi vậy, Đông Phi có thể thừa cơ chen chân, khiến vốn liếng của mình tung hoành ở Anh, Mỹ, Pháp.

Tất nhiên, tuyệt đối không được xem nhẹ sức mạnh của công nhân và tiểu dân. Chiến tranh của Anh vẫn cần họ ra trận. Vậy nên, tuyên truyền môi trường châu Phi khắc nghiệt, gieo vào tiềm thức họ rằng: đừng nghe chính phủ dụ dỗ, sang châu Phi chẳng khác nào đi chịu chết. Đánh bại được thổ dân, liệu có đánh nổi dịch bệnh? Cũng xem như ra một bài “tập huấn” sớm cho Cục Tuyển binh Anh quốc.

(Hết chương)

[1] Pie ‘Ngước Nhìn Tinh Tú’ : Món bánh truyền thống Anh với cá đầu thòi lên mặt bánh như đang ngắm sao, biểu tượng ẩm thực Anh.

[2] Abergavenny: Thị trấn ở xứ Wales, nơi sinh nhiều chính trị gia Anh.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 308 : Tổ chức điệp viên tư nhân


Chương 308: Tổ chức điệp viên tư nhân

“Richard” – trên thực tế, tên thật là Augusta, một trong những người phụ trách phân bộ tại Anh của Tổ chức tình báo thương nghiệp thuộc Tập đoàn Hechingen.

Tổ chức tình báo thương nghiệp của Tập đoàn Hechingen được thành lập vào năm 1866. Thuở ban đầu, chức năng của nó chỉ là thu thập tình báo thương nghiệp để cung cấp cho Ernst tham khảo.

Về sau, cùng với sự phát triển của Tập đoàn cũng như của các thuộc địa Đông Phi, phạm vi hoạt động đã mở rộng sang thu thập tình báo quốc gia và khu vực. Chính Ernst đã trực tiếp tách một bộ phận trong cơ cấu tình báo thương nghiệp này, dựng thành tổ chức bí mật, bề ngoài là những nhân viên thu thập tin tức thương nghiệp cho Tập đoàn, song trên thực tế lại là mạng lưới điệp viên nằm dưới trướng riêng của Ernst.

Các thành viên phần lớn xuất thân từ Học viện Quân sự Hechingen, đều trải qua huấn luyện chuyên nghiệp và có mức độ trung thành cao. Điểm yếu là tuổi đời nhìn chung còn khá trẻ, đó cũng là lý do khiến Augusta và các đồng sự đôi phần non nớt.

Hiện tại, tổ chức bí mật của Hechingen chưa hề trực thuộc chính phủ Đông Phi, mà là cơ cấu điệp báo riêng của Ernst. Ở Đông Phi, tổ chức này được “ký gửi” dưới các bộ phận như Cơ quan Kiểm toán Nhà nước, dùng để giám sát tình trạng vận hành của bộ máy quốc gia. Ngay cả Quốc vương Konstantine cũng không hề biết đến sự tồn tại của nó.

Tuy lúc này tổ chức nằm dưới sự chỉ huy tư nhân của Ernst, nhưng về sau tất yếu sẽ được dung nhập vào cơ quan nhà nước Đông Phi, coi như tiền thân của cơ quan an ninh quốc gia.

Ở nước ngoài, tổ chức bí mật của Hechingen chủ yếu hoạt động tại Anh, Mỹ, Pháp – những quốc gia dân chủ bầu cử. Bởi lẽ các thành viên tuổi còn trẻ, kinh nghiệm chưa dày, nên hoạt động tại những quốc gia quản chế không quá nghiêm ngặt sẽ dễ dàng tích lũy thực tiễn hơn.

Đối với những nước chuyên chế, bộ máy chính quyền cường đại như Đông Phi, hoạt động điệp viên rất dễ bị bại lộ. Dĩ nhiên, nếu hệ thống quan liêu đã mục ruỗng, thì lại khác: chẳng hạn ở Viễn Đông, hay Đế quốc Áo–Hung, vốn là cường quốc lão thành, cũng bị các thế lực ngoại quốc thâm nhập như cái sàng.

Song nhìn chung, năng lực cơ quan tình báo của Ernst hiện tại còn hạn chế, nên trọng điểm vẫn là những quốc gia tiềm ẩn đe dọa đối với Đông Phi: Anh, Mỹ, Bồ Đào Nha, và đặc biệt là Pháp.

Trong số ấy, Anh, Bồ Đào Nha và Pháp đều có thuộc địa tại châu Phi. Còn Mỹ, do bị Anh chèn ép, phải gắng tìm kiếm thị trường thương mại mới, nên Đông Phi tỏ ra rất cảnh giác, chẳng mấy thiện cảm. Giống như việc người Mỹ hăng hái mở mang ở Viễn Đông, họ cũng nắm rõ tình hình vùng Viễn Đông và Nhật Bản qua các kênh buôn bán. Trước một quốc gia rộng lớn như Đông Phi, Ernst chủ trương: càng che giấu được ngày nào, hay ngày ấy, tránh tiếp xúc với thương nhân Mỹ. Thậm chí ngay cả việc người Mỹ đề nghị đặt cơ sở thương mại tại Zanzibar cũng bị Đông Phi cự tuyệt.

Thời điểm này, Hoa Kỳ vẫn chỉ là Hoa Kỳ, chưa phải “đế quốc Mỹ” của đời sau, vẫn là kẻ bị kìm hãm dưới tay Anh – Pháp. Do đó, lớp vỏ bọc “thương nhân Mỹ tự do – công bằng” lại càng dễ che mắt, khiến việc cự tuyệt của Ernst càng thêm kín kẽ.

Người Mỹ hoạt động ở vùng Ấn Độ Dương cuối cùng đi đến kết luận: Đông Phi là một quốc gia hết sức khép kín. Cũng dễ hiểu: một thuộc địa hải ngoại của người Đức, lại chẳng được chính quốc nâng đỡ, tất nhiên phải luôn trong tâm thế cảnh giác. Ngoài người Áo, cho đến nay vẫn chưa có ai được Đông Phi tiếp đãi tử tế.

Song thực tế, vẫn có ngoại lệ: thương nhân của Vương quốc Hồi giáo Zanzibar. Zanzibar vốn là “tiểu đệ” của Đông Phi, nên dĩ nhiên được tin cậy. Hơn nữa, phần lớn hoạt động xuất nhập khẩu của Đông Phi đều dựa vào Zanzibar, từ đó kết nối tới Trung Đông và các thị trường ven bờ Ấn Độ Dương.

Dar es Salaam.

Ba chiếc tàu viễn dương của Hechingen chở về những dây chuyền sản xuất súng trường Dreyse đã bị đào thải từ xưởng binh khí Hechingen tại Berlin, bắt đầu cập cảng và bốc dỡ. Chính phủ Đông Phi đã điều động rất nhiều xe ngựa và nhân công, đích thân ra cảng tiếp nhận lô hàng này.

Kỹ sư đi theo tàu – Vicente, dặn dò với viên quan chức Đông Phi phụ trách tiếp nhận – Blaise:

“Đám máy móc này còn rất mới, mới được sử dụng chừng bốn – năm năm. So với những thiết bị cũ kỹ ở xưởng binh khí Đông Phi, thì đây đã là tiên tiến vượt bậc, lại còn đầy đủ, từng linh kiện đều niêm phong kỹ trong thùng. Trước khi đến nơi, tuyệt đối không được tháo niêm, càng không được để nước mưa ngấm vào.”

Blaise đáp:

“Xin ngài yên tâm, chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ bạt chống mưa và dây thừng, đảm bảo chúng sẽ nguyên vẹn cho tới khi đến đích.”

Vicente lại nhấn mạnh:

“Trên đường vận chuyển, cũng phải tránh xóc nảy quá nhiều. Dẫu những máy móc này không phải báu vật, nhưng nếu hư hỏng vì đường sá thì rất phiền toái.”

Blaise mỉm cười:

“Chuyện ấy không đáng lo. Trước đây khi vận chuyển một loạt thiết bị khai khoáng tới Mbeya, chúng tôi đã có kinh nghiệm. Tuyến đường Dar es Salaam – Mbeya vốn được chúng tôi cho người bảo dưỡng hằng tháng, trừ phi gặp thiên tai, còn thì chất lượng đường vẫn đảm bảo.”

Vicente gật đầu, rồi hỏi tiếp:

“Điều ta bận tâm hơn là tiến độ xây dựng nhà xưởng, liệu đã kịp chưa?”

Blaise đáp:

“Việc này tôi không nắm rõ, nhưng chắc chắn chính phủ đã tính đến. Với nhân lực dồi dào ở Mbeya, xây thêm vài dãy xưởng trong hai tháng là hoàn toàn khả thi. Hơn nữa, họ đã nhận được điện báo từ sớm.”

Đông Phi vốn có nền tảng xây dựng cơ sở hạ tầng khá tốt, nhất là trong các công trình lớn. Toàn cõi Đông Phi có chừng mười triệu thổ dân, nguồn lao động phổ thông vô cùng phong phú. Loại trừ người già yếu, vẫn còn mấy triệu nhân công có thể huy động. Dẫu tuổi thọ họ ngắn ngủi, nhưng trong thời điểm này, lại chính là lực lượng thích hợp nhất cho các công trình đại quy mô.

Ernst quả là may mắn. Việc quy hoạch xưởng binh khí Mbeya trùng hợp với thời điểm Chính phủ Phổ quyết định đào thải súng trường Dreyse lỗi thời. Lại thêm tiến trình thống nhất nước Đức, nên toàn bộ vũ khí đương nhiên sẽ quy chuẩn theo mẫu của Phổ. Vì vậy, nhiều cơ sở công nghiệp quân sự của các tiểu bang Đức lâm vào cảnh phải chuyển đổi hoặc phá sản.

Đối với Ernst, đây chính là cơ hội trời ban: chỉ cần với giá “sắt vụn”, đã có thể mua về cả một loạt máy móc thiết bị. Chắp vá lại, cũng đủ để dựng nên chuỗi sản xuất vũ khí hoàn chỉnh.

Xưởng binh khí Hechingen ở Berlin vốn chỉ sản xuất thân súng, các linh kiện khác đều phải thu mua. Nhưng tại những tiểu bang Đức, tồn tại không ít xưởng thủ công chuyên sản xuất phụ kiện, quy mô nhỏ nhưng kỹ nghệ tinh xảo.

Nhờ thu mua hàng loạt thiết bị này, Ernst giờ đây chỉ cần lắp ráp lại tại Đông Phi là có thể tự mình sản xuất hầu hết các loại vũ khí châu Âu đương thời.

Từ súng ngắn, lưỡi lê, dao găm, cho đến pháo cỡ nhỏ – tất cả đều được bổ sung đầy đủ trong đợt mua sắm này.

Dẫu sản lượng chưa thể cao, do hạn chế về công nghệ thủ công và năng lực luyện thép còn yếu, nhưng bước đi tự chủ hóa vũ khí Đông Phi đã chính thức được khởi đầu.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 309 : Viện trợ Phi Châu


Chương 309: Viện trợ Phi Châu

Việc sản xuất vũ khí ấy tất nhiên không thể chỉ tập trung ở một nơi như Mbeya. Nếu toàn bộ đều dồn về đó, thì ngành công nghiệp của Mbeya sẽ quá vượt trội so với các thành thị khác của Đông Phi, tất yếu hình thành một đại đô thị.

Mbeya vốn đã là đô thị then chốt, nằm ở giao lộ giữa Hồ Zollern (tức Hồ Tanganyika) và Hồ Malawi, lại nối liền Tanganyika và Zambia, trần thế phú phú sản vật, khoáng sản dồi dào. Dẫu giả định bản thân Mbeya chẳng có mấy tài nguyên, chỉ cần nhờ vào ưu thế giao thông đã có thể dung hợp tài nguyên từ khu vực Hồ Malawi và cả vùng Zambia. Thêm vào đó, khí hậu ôn hòa, thích hợp cư trú, đủ nền tảng để trở thành một đại đô thị tự nhiên.

Không thể phủ nhận, đại đô thị có nhiều ưu điểm, đặc biệt là ưu thế hợp tác công nghiệp. Song, bản thân Ernst vốn không ưa chuộng những thành thị quá đông đúc.

Thành thị nhân khẩu quá nhiều thì khó mà an cư lạc nghiệp; trái lại, nhân khẩu quá ít thì chẳng đủ sức để khai thác tài nguyên, hay nâng đỡ các ngành công nghiệp.

Trong kiếp trước, Ernst định nghĩa “đại đô thị tầm thế giới” là thành phố có trên năm triệu dân. Nay toàn thể Đông Phi cũng chưa tới năm triệu, có khác nào lo xa thái quá.

Song, tốc độ tăng dân số Đông Phi hết sức chóng mặt. Chỉ tính theo mức sinh đẻ bình thường của châu Phi trong kiếp trước, thì sang thế kỷ XXI, riêng cao nguyên Đông bộ cũng thừa sức vượt quá trăm triệu. Vậy nên, tương lai Đông Phi hoàn toàn có khả năng sản sinh ra thành thị với năm triệu dân cư.

Bởi thế, Ernst định liệu Mbeya phải cùng các địa phương phụ cận đồng tâm phát triển. Mbeya nên phát huy trọn vẹn chức năng đầu mối giao thông, chẳng những đảm nhiệm trục giao thông toàn quốc Đông Phi, mà còn đem lại lợi ích giao thông cho toàn tỉnh Nam Salzburg và miền Tây của tỉnh Hải Hồ.

Phải khơi dậy đà phát triển toàn bộ khu công nghiệp Hồ Malawi, chứ chẳng để một mình Mbeya độc đại. Nói thẳng ra, ấy là kiến lập cụm đô thị vừa và nhỏ quanh khu công nghiệp Hồ Malawi.

Như vậy, nhân khẩu và công nghiệp trong tương lai sẽ chẳng dồn hết về Mbeya, mà vẫn thuận tiện trong hợp tác sản xuất. Tất nhiên, tiền đề vẫn là kiến thiết giao thông cho thật hoàn chỉnh.

….

Viễn Đông

Đối với đế quốc già cỗi nơi Viễn Đông, hôm nay thật là chuyện hiếm thấy. Đại sứ Richard của Vương quốc Đông Phi tại Viễn Đông chính thức thỉnh cầu triều đình nhà Thanh cho phép học tập y thuật “tiên tiến” của Viễn Đông, đồng thời nguyện mong triều đình cử y quan đến “viện trợ” Đông Phi.

Trong Tử Cấm Thành.

Dịch Hân (Cung Thân Vương) tâu:

“Khải tấu Hoàng thượng, hôm qua, Richard – đại sứ Vương quốc Đông Phi nơi châu Phi – đến khẩn cầu triều đình ta cứu viện y tế. Hắn nói nơi Phi Châu chúng sinh khốn đốn, dã thú tung hoành, hạn hán, hồng thủy bất tận, dịch bệnh bùng phát, xác phơi đầy đồng, quốc mệnh nghiêng ngửa. Bởi vậy khẩn xin ngự y triều ta đến chống dịch, lại muốn sai quan sinh sang học tập y thuật, để tránh tai vong quốc.”

Dịch Hân vốn là một trong ba vị đại thần của Tổng lý Nha môn – cơ quan chuyên trách ngoại giao đời vãn Thanh. Mọi yêu cầu chính trị từ Đông Phi, trước tiên đều do ông tiếp nhận.

Đồng Trị hoàng đế nghe vậy, liền nổi hứng thú. Từ xưa đến nay, nào có nghe chuyện dị di dám ngưỡng mộ Thiên triều? Giới thượng tầng Viễn Đông sớm đã bị Anh – Pháp đánh cho mất vía. Hai nước ấy vốn hống hách, chưa từng nể mặt phương Đông, càng chẳng tôn trọng văn hóa Đông phương.

Đồng Trị nói:

“Đông Phi này, chẳng phải là quốc gia năm ngoái đã đến triều, lập sứ quán đó ư?”

Dịch Hân:

“Đúng vậy.”

Đồng Trị:

“Tây dương chư quốc vốn cậy mạnh ngạo mạn, khinh miệt giáo hóa, chẳng thờ bậc thánh hiền. Nay bỗng dưng khiêm tốn cầu học, há chẳng phải là mưu kế ẩn giấu?”

Dịch Hân:

“Xin Hoàng thượng minh giám. Vương quốc Đông Phi này, cũng khác với các quốc Tây dương. Quốc thổ ấy ở phía tây Tiểu Tây dương (Ấn Độ Dương), tại nguyên đất Mộc Thích Ngõa - Mogadishu (Somalia) và Mạn Ba Tát - Mombasa (Kenya) mà lập quốc. Nơi ấy xưa từng là dấu chân hạm đội Trịnh Hòa, chẳng phải chốn chính thống của Tây dương. Chủ quốc ấy lại là thân vương Phổ Lỗ Sĩ quốc, vượt biển mà dựng nước.”

Đồng Trị:

“Ồ! Thế thì Vương quốc Đông Phi là quốc gia do một thân vương Phổ Lỗ Sĩ quốc lập ra hải ngoại ư?”

Dịch Hân:

“Đúng vậy. Phổ Lỗ Sĩ quốc vốn là cường quốc quân sự Tây phương, ngay trong Thiên triều cũng đặt thường trú sứ thần.”

Nói thật, Dịch Hân cũng lấy làm khó xử. Chính ông vốn là thân vương Đại Thanh, so sánh địa vị chẳng khác mấy Konstantine. Một thân vương Phổ quốc lập quốc hải ngoại, chẳng phải khiến chính mình chột dạ đó sao?

Đồng Trị lại nói:

“Phổ quốc, ta có nghe. Ấy là một tiểu quốc phía đông nước Pháp. Nghe nói người nước ấy hiếu chiến tàn khốc, toàn dân đều là binh sĩ. Vậy thân vương Phổ quốc cũng giỏi võ nghệ, chẳng có gì lạ.”

Khéo sao, tin tức Phổ quốc đánh bại Pháp, thống nhất Đức quốc, vẫn chưa truyền đến Viễn Đông. Cho nên Đồng Trị và quần thần còn ngỡ Phổ quốc chỉ là tiểu quốc lay lắt bên cạnh nước Pháp hùng mạnh, bởi danh tiếng Napoléon thì ai cũng từng nghe.

Đồng Trị hỏi tiếp:

“Thế cớ gì Vương quốc Đông Phi chẳng cầu viện Phổ quốc, mà lại đến nhờ ta?”

Dịch Hân:

“Như đã nói, Phổ quốc vốn ham binh đao, nhỏ mà nuôi đại quân, nên kinh tế khánh kiệt, dân sinh khốn khó, há rảnh tay mà giúp nơi hải ngoại?”

Đồng Trị:

“Cũng phải lắm. Nhưng Đông Phi dù sao cũng thừa hưởng ít nhiều di sản của Phổ quốc, lẽ nào tệ hại đến thế?”

Vừa rồi Dịch Hân tấu bẩm, nào thú dữ, nào hạn hán, nào thủy tai, nào dịch bệnh, nghe thì tựa hồ Đông Phi chẳng chóng thì chầy cũng diệt vong.

Dịch Hân giải thích:

“Thổ địa Đông Phi vốn là đất hoang vu, xưa nay ít có văn minh. Quốc chủ ấy chỉ là võ phu, vốn chẳng hiểu đạo trị quốc, nên mới ngưỡng mộ văn hóa thịnh thế Thiên triều, khác hẳn với Anh – Pháp.”

Nói trắng ra: Đông Phi nguyên là đất hoang, lại để Konstantine – võ phu – trị nước, chẳng khéo xoay sở. Đông Phi chẳng thể coi là Tây dương chính thống, cho nên hướng về Thiên triều cầu học cũng là điều dễ hiểu.

Phải nói rằng Dịch Hân quả là có mắt nhìn, dù còn nhiều thành kiến, nhưng nhìn chung cũng nêu được thực trạng Đông Phi khi mới kiến quốc. Còn chuyện “ngưỡng mộ Thiên triều”, ấy chỉ là lời lẽ của Ernst, bảo Richard hạ mình nịnh nọt để đạt mục đích.

Richard vốn xuất thân thương nhân, nên khéo mồm dẻo miệng, gặp người nói lời hợp tai, gặp quỷ cũng bịa lời hợp ý. Quả nhiên giả bộ như thể Phi Châu sắp tận diệt, chỉ mong các đại nhân nhà Thanh cứu vớt.

Đồng Trị nghe xong thì hoan hỷ vô cùng. Đế quốc Viễn Đông nay vốn đã cực kỳ uất ức. Mười năm trước, quân Anh – Pháp kéo thẳng đến kinh thành, Hàm Phong phải chạy tới Nhiệt Hà, từ đó hão danh cuối cùng của Thanh triều cũng tan biến, mới khởi đầu cho phong trào Dương vụ.

Vào lúc này, hễ có quốc gia nào chịu nịnh hót, cũng đủ khiến bậc cầm quyền đã mất thể diện tìm lại được ít nhiều ưu thế.

Vương quốc Đông Phi, dẫu chẳng phải chính thống Tây dương, cũng coi như nửa Tây dương. Đông Phi cầu học Thiên triều, khác nào Tây phương ngưỡng vọng chính ta?

Đồng Trị phán:

“Đông Phi đã hữu cầu, Thiên triều há lại thất lễ. Chuẩn cho Đông Phi sai quan sinh vào Thái Y viện học tập. Lại chuẩn từ dân gian tuyển chọn trăm vị y giả, đưa sang Đông Phi cứu khổ. Hãy để ân đức Thiên triều vang xa muôn dặm.”

Đồng Trị ra tay rộng lượng, ban ngay y tế viện trợ Đông Phi, không hề mưu lợi. Với sự bảo chứng chính thức của triều đình, Đông Phi chẳng còn khách khí, vừa hợp tác với quan phủ, vừa tận lực thu thập y thuật dân gian, chiêu mộ nhân tài y học.

Tuy hệ thống y tế Viễn Đông còn sơ khai, nhưng thiên hạ đâu khác mấy, kẻ có tay nghề chẳng đếm xuể. Nhất là ở quốc gia nhân khẩu đông đúc, có khối thầy thuốc long đong thất thế. Đại sứ quán Đông Phi, theo lệnh Ernst, trước tiên chiêu mộ y giả dân gian, rồi nhờ triều đình tuyển xét, kẻo lại rước bọn lang băm sang Đông Phi lừa đảo.

Lần viện trợ này, với Thanh triều, chính là công trình “thể diện”, chẳng dám sơ suất. Nếu để bọn giang hồ giả mạo qua Phi Châu hại mạng dân, bị Đông Phi phơi bày, thì quốc thể Đại Thanh sao còn dung thân trên trường quốc tế?

(Hết chương)

[1] Tiểu Tây Dương: Cách gọi Ấn Độ Dương trong sử sách nhà Thanh.

[2] Mộc Thích Ngõa/Mạn Ba Tát: Phiên âm tiếng Hán của Somali và Mombasa (Kenya).

[3] Thái Y Viện: Cơ quan y tế hoàng gia nhà Thanh, nơi đào tạo ngự y.
 
Back
Top Bottom