- Tham gia
- 7/9/25
- Bài viết
- 711,078
- Điểm cảm xúc
- 0
- Điểm
- 36
Vừa Định Thi Nghệ Thuật Ngươi Nói Ta Chạy Nửa Đời Người Diễn Viên Quần Chúng (Cương Tưởng Nghệ Khảo Nhĩ Thuyết Ngã Bào Liễu Bán Bối Tử Long Sáo) - 刚想艺考你说我跑了半辈子龙套!
Chương 425 : Trở lại châu Âu
Chương 425 : Trở lại châu Âu
Chương 425: Trở lại châu Âu
Ngày 7 tháng 5 năm 1873.
Thái tử điện hạ ở Đông Phi còn chưa kịp an định thì đã lại chuẩn bị quay về châu Âu. Lần này, Ernst đi trên chiếc thương thuyền “Hùng Sư”, cả hạm đội đều được cải tạo từ thương thuyền vũ trang.
Tiện thể, hắn còn mang theo một tiểu đoàn của Sư đoàn Cận vệ Vương gia đến Áo. Đơn vị này về cơ bản sẽ đóng vai trò đội nghi lễ, toàn bộ đều được tuyển chọn kỹ càng từ trong cận vệ, dáng vóc khôi ngô, anh tuấn, tinh hoa trong tinh hoa.
Chưa bàn đến tố chất quân sự, chỉ riêng dung mạo và thể hình đã thuộc hàng xuất sắc. “Ngựa tốt phải đi với yên đẹp”, Đông Phi đặc biệt chuẩn bị cho họ thợ may giỏi nhất, may thủ công những bộ quân phục chất lượng cao.
Tiểu đoàn cận vệ này thực ra có tới ba nghìn người, chủ yếu gồm bộ binh và kỵ binh. Tuy nhiên, Ernst không cần mang ngựa sang tận Áo, chuyện này chỉ cần bàn bạc với lục quân Áo để mượn ngựa của họ là được.
Trước khi chia tay, Konstantin có phần tiếc nuối nói:
“Lần này đến Vienna ta không đi được, nhưng thể diện của hoàng thất Hechingen không thể mất. Đây cũng là cơ hội để quảng bá Đông Phi, ít nhất phải cho người Áo thấy rằng Đông Phi không phải là một quốc gia yếu kém. Về phần chi phí tốn thêm, tránh cũng không được, con đừng quá chi li.”
“Xin cha yên tâm! Lần này đến Vienna, ngoài việc đàm phán thương mại, điều quan trọng nhất là cưới Karina. Dù sao đây cũng là đại sự hôn nhân, con tuyệt đối không thể qua loa.” – Ernst đáp chắc nịch.
Ernst vốn nổi tiếng chi tiêu hợp lý, không phô trương, thiên về thực dụng, điều này lại khiến Konstantin lo ngại.
Bình thường thì không có gì, thà có một người kế thừa biết tính toán còn hơn một kẻ ăn chơi hoang phí. Nhưng trong giới quý tộc châu Âu vốn trọng thể diện và so bì, tính cách của Ernst đặt trong bối cảnh ấy quả thật có phần lạc lõng.
Về điểm này, Konstantin có chút hiểu lầm. Ernst không phải keo kiệt, mà là biết dùng tiền đúng chỗ, mà Đông Phi chính là “lưỡi dao” của ông.
Chỉ cần Đông Phi phát triển, dù Ernst có mặc áo quần đơn sơ, các quý tộc châu Âu cũng buộc phải “kính nể”. Đó chính là khí thế mà quốc lực mang lại. So với việc tổ chức yến hội hay kết giao quý tộc ở châu Âu, Ernst càng muốn dành tiền cho việc nâng cao thực lực Đông Phi.
Hơn nữa, vòng giao du của Ernst chủ yếu là hoàng thất Phổ, hoàng thất Sigmaringen (bao gồm cả Romania), hoàng thất Áo, hoàng thất Thụy Điển – những tầng lớp quý tộc thượng lưu. Những đề tài ở đó không phải tiền bạc có thể cân đo (trừ khi quá giàu có thì lại là chuyện khác).
Konstantin khẽ thở dài:
“Được rồi, ta chỉ nhắc nhở vậy thôi. Dù sao lần này con cưới vợ ta cũng không thể đích thân đến Vienna, trong lòng vẫn có chút không yên.”
Trong gia tộc Hechingen, nhất định phải có người ngồi trấn ở Đông Phi, vì vậy Konstantin không thể dự lễ cưới của con trai. Việc này chủ yếu nhờ Đại công tước Ferdinand (tức Maximilian I) chủ trì.
Vì vậy, hôn lễ lần này chia làm hai phần: một ở Áo, một ở Đông Phi – thực chất là tổ chức hai lần. Thành phố thủ phủ đã đưa lễ cưới Thái tử vào chương trình nghị sự.
“U…!” – theo tiếng còi lanh lảnh của chiếc “Hùng Sư”, đoàn công du quốc sự Đông Phi chính thức lên đường sang Áo.
Đây là đoàn công du quốc sự, chứ không đơn thuần là đoàn nghênh hôn, bởi Ernst còn có những nhiệm vụ khác. Ông sẽ lưu lại châu Âu ít nhất nửa năm, hôn lễ dự kiến cử hành vào cuối năm.
Trước khi thành hôn, nhiệm vụ chính của Ernst là thay Đông Phi thu mua thiết bị, bao gồm các loại nhà xưởng, máy móc, cùng thép và nguyên vật liệu cần cho xây dựng đường sắt.
Sau khi khủng hoảng kinh tế bùng phát, hàng loạt nhà máy ở Đức phá sản, máy móc tồn kho chất đống, không người mua, giá cả rớt thê thảm. Đặc biệt là ngành thép, than và đường sắt chịu tổn thất nặng nề – cũng chính là những thứ mà Đông Phi đang cần nhất.
Đang lúc giao mùa xuân – hạ, dòng hải lưu Somali bắt đầu hình thành và mạnh dần, đẩy lớp nước mặt ven biển Đông Phi chảy từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao, tức từ xích đạo về phía bắc, cộng thêm gió tín phong dịch chuyển theo hướng bắc.
Nhờ vậy, từ Đông Phi đến Hồng Hải đi thuận buồm xuôi gió, rút ngắn đáng kể hành trình. Chỉ sau vài ngày, hạm đội của Ernst từ Dar es Salaam đã tiến vào eo biển Mandeb. Từ Hồng Hải vào Địa Trung Hải vốn là vùng biển kín, ít sóng to gió lớn, nên hải trình nhìn chung rất thuận lợi.
Ngày 22 tháng 5 năm 1873.
Hạm đội Đông Phi cập cảng Trieste.
Một lần nữa trở lại Trieste, Ernst cảm khái: so với năm ngoái, nơi đây tiêu điều hơn hẳn, lưu lượng hàng hóa cũng kém xa, xem ra kinh tế Áo đang lâm vào cảnh khó khăn.
Sau khi Ernst cùng tập đoàn Hechingen đi đầu mở màn “chiến dịch phá giá”, lượng hàng hóa khổng lồ tràn ngập thị trường, khiến cuộc khủng hoảng kinh tế Áo – Hung lan truyền sang các quốc gia lân cận nhanh chóng hơn, dữ dội hơn lịch sử vốn có.
Ở dòng thời gian không có sự can thiệp của Ernst, khủng hoảng kinh tế tuy bùng phát đầu tiên ở Áo – Hung, nhưng vì thế kỷ XIX chưa có sự gắn kết toàn cầu, thị trường thế giới chưa hình thành, nên một quốc gia khủng hoảng chưa chắc lập tức ảnh hưởng các nước khác.
Trước năm 1873, khủng hoảng kinh tế thường chỉ giới hạn trong một nước, đa phần là Anh. Sau 1873, khủng hoảng bắt đầu lan rộng toàn cầu, và đến đầu thế kỷ XX, khi thị trường thế giới hoàn chỉnh, đã dẫn đến khủng hoảng 1929 – cuộc khủng hoảng lớn nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử chủ nghĩa tư bản. Để ứng phó với nó, nhân loại đã trả giá bằng hai cuộc đại chiến thế giới: Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai.
Năm 1873, tình hình thế giới chưa đến mức cực đoan như vậy. Do nền kinh tế toàn cầu chưa gắn kết chặt chẽ, giải pháp của các nước là tăng thuế quan, dựng hàng rào thuế, bảo hộ tư bản trong nước.
Hơn nữa, trên thế giới vẫn còn nhiều khu vực lạc hậu chưa được khai thác hoặc chưa bị cường quốc chiếm lĩnh, những nơi này trở thành “van xả” để chuyển dịch khủng hoảng.
Song, hiện tại các cường quốc chưa kịp phản ứng, các vấn đề xã hội do khủng hoảng gây ra đã chiếm gần hết sự chú ý của chính phủ.
Biểu hiện cụ thể là chấn chỉnh thị trường tài chính, đào thải doanh nghiệp nhỏ yếu kém, quốc hữu hóa đường sắt… Nói cho cùng, mục tiêu chính vẫn là giải quyết nạn thất nghiệp.
Vì Đức và Áo bán phá giá ồ ạt, châu Âu hiện đã bắt đầu áp thuế cao, chỉ riêng Anh còn do dự. Bởi lẽ, Anh từ trước đến nay luôn ở thế xuất siêu, lực lượng ủng hộ tự do kinh tế rất lớn. Nhưng hiện nay, khi Mỹ, Nga, Đức, Pháp, Áo… đồng loạt công nghiệp hóa, các nước không còn dựa vào Anh mà đã phát triển ngành công nghiệp riêng, khiến tình trạng sản xuất dư thừa ở Anh càng trầm trọng, làm cho khủng hoảng mang tính sâu rộng và lâu dài.
Hạm đội Đông Phi cập cảng Trieste, cho dù có cả một đội quân từ tàu bước xuống cũng chẳng mấy ai chú ý, chỉ có vài sĩ quan Áo đến tiếp đón.
“Điện hạ Ernst! Chào mừng ngài đến Áo!”
“Ừ, xin chào các anh.”
Ernst chỉ đáp lễ qua loa, ánh mắt chủ yếu vẫn dõi theo cảnh tượng ở cảng Trieste.
Nơi đây, những hàng dài thất nghiệp chen chúc, tìm kiếm việc làm. Ernst nhận ra nhiều cơ sở tuyển dụng chính là doanh nghiệp hoặc cơ quan của mình.
Bởi tấm bảng cuối hàng người ghi rõ:
“Công ty Đường sắt Đông Phi: tuyển 250 người, ưu tiên thợ đường sắt.”
“Công ty Thuốc lá Hechingen (Trieste): tuyển 12 nhân viên, không yêu cầu bằng cấp.”
“Cục Di dân Đông Phi: di cư sang Đông Phi giải quyết việc làm, tránh rủi ro thất nghiệp, ưu tiên cho hộ gia đình.”
Ernst quay sang hỏi mấy sĩ quan Áo:
“Tình hình kinh tế Áo bây giờ, nơi nào cũng tiêu điều như Trieste thế này sao?”
“À… thực ra chúng tôi không cảm nhận rõ lắm. Thường thì bọn tôi ở trong doanh trại, nếu không phải hôm nay nhận nhiệm vụ đón ngài, có khi còn chẳng ra ngoài.”
Ernst gật đầu:
“Được thôi. Việc quan trọng trước mắt là sắp xếp chỗ cho người của ta, trong đó có một bộ phận quân Đông Phi. Ta muốn đưa họ đến Viên, cần các anh bố trí tàu hỏa riêng.”
“Đó chính là lý do chúng tôi có mặt ở đây. Thượng cấp đã lên kế hoạch trước, hiện tại áp lực đường sắt không còn như trước, nên việc này dễ giải quyết.”
Quả đúng như vậy: ngoài nguyên nhân suy thoái kinh tế khiến lượng hành khách và hàng hóa giảm mạnh, còn có nguyên nhân là Venice đã chia bớt lưu lượng của Trieste. Hai năm nay, nhờ cơn sốt xây dựng đường sắt, Áo cũng dựng hai tuyến để kết nối và khống chế Venice. May mắn thay, chúng hoàn thành trước khi khủng hoảng bùng phát.
Điều này khiến địa vị Trieste như hải cảng số một Áo bị đe dọa. Song do Venice thất thoát nhân tài và công nghiệp quá nhiều, muốn vượt qua Trieste một lần nữa gần như bất khả.
(Hết chương)