Ngôn Tình Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 40: Thành thân


“A Bảo, đừng……”

Lương Nguyên Kính cố gắng ngửa ra sau tránh nụ hôn loạn nóng rực của A Bảo.

“Anh sợ gì chứ?”

A Bảo bám riết không tha dí vào, nắm lấy cổ áo chàng muốn hôn tiếp, nàng vừa hôn chưa được bao lâu đã bị đẩy ra.

Lương Nguyên Kính vội vã bỏ chạy sang hướng bên cạnh. Hai người một trốn một truy. Trong lúc truy đuổi vô tình dụng ngã bàn ăn dưới tàng cây, chén đũa ly đĩa bể đầy dưới đất. Vạt áo của Lương Nguyên Kính nhăn nhúm, hai má ửng hồng đỡ, dáng vẻ chật vật vịn vào cây táo liên tục thở d.ốc.

A Bảo vừa thẹn vừa giận, còn có cảm giác tủi thân khó nói, đôi mắt tức đỏ rống to với chàng: “Anh làm gì hả? Tôi là thú dữ ăn thịt chắc? Hay là anh không thích tôi?”

“Không phải,” Lương Nguyên Kính vội nói, “Thích em!”

“Sao anh không cho tôi hôn anh?”

“Chuyện này……” Khuôn mặt Lương Nguyên Kính đỏ bừng muốn nhỏ ra máu, “Loại chuyện này chỉ có phu thê mới làm với nhau.”

Ý gì đây?

Chàng còn muốn thủ thân như ngọc cho vợ tương lai?

A Bảo tức giận đến độ ngực sắp nổ tung, muốn nhào lên hung hăng cắn xé Lương Nguyên Kính vài nhát nhưng rồi kéo căng cổ họng khóc lớn một hồi.

Nước mắt dâng trào nơi hốc mắt, sắp tuôn ra thì lại nghe Lương Nguyên Kính hơi thở vững vàng nghiêm túc nhìn nàng, hỏi: “A Bảo, em có đồng ý gả cho tôi không?”

“! ! !”

“Anh……” A Bảo hít một hơi sâu, lòng ngực như có dòng nước chảy xiết, “Anh nói gì cơ? Tôi… Hình như tôi nghe lầm rồi.”

“Em không nghe lầm đâu.”

Lương Nguyên Kính đi lại nắm lấy bàn tay của nàng, dịu dàng nói: “A Bảo, chúng ta thành thân nhé.”

“……”

Đầu óc A Bảo hoàn toàn trống rỗng, nhất thời không nói nên lời, nghĩ thầm Lương Nguyên Kính nói thật à? Chàng điên rồi sao?

“Tôi là quỷ.”

Nàng chỉ có thể nghĩ đến câu này.

Ngón tay thon dài của Lương Nguyên Kính nhẹ nhàng vỗ về gương mặt nàng, không nói gì, ánh mắt lưu luyến hiền hoà, còn hơn cả ánh trăng dưới nước.

Dù chưa mở miệng, A Bảo cũng hiểu lời nói chàng ẩn sâu trong ánh mắt, không sao hết, chàng đang nói, tôi không quan tâm em là người hay quỷ, em vẫn là A Bảo của tôi.

Mũi A Bảo đột nhiên chua xót, nước mắt tuôn trào chảy xuống.

Lương Nguyên Kính vưỡn tay lau đi thay nàng, khẽ thở dài: “Không khóc.”

“Tôi……”

A Bảo rất hoảng loạn, vì chuyện Lương Nguyên Kính trịnh trọng bất ngờ vào giây phút này, ban đầu nàng chỉ muốn trải qua đêm xuân một lần với chàng.

Người này đã hơn 30 tuổi còn chưa thành hôn. Dựa vào dáng vẻ ngây ngô kia của chàng, chắc vẫn chưa được ăn mặn lần nào.

Hôm nay là sinh nhật của chàng. Nàng muốn thương chàng, mến chàng, cho chàng trải nghiệm chuyện vui sướng chưa từng thử suốt ba mươi năm nay. Giữa bọn họ có lẽ cũng chỉ có mỗi lần này.

Nhưng chàng lại muốn cưới nàng, còn nói năng nghiêm túc như vậy, chàng……

Chàng có biết nàng là quỷ không, chàng cưới quỷ làm phu nhân, là muốn minh hôn sao? Người ta mà biết chắc chắn sẽ cười chê chàng.

A Bảo gian nan nói: “Lương Nguyên Kính, anh…… Có phải anh cảm thấy loại chuyện này chỉ thành hôn rồi mới làm không? Thật ra… Không sao đâu. Người đời chú trọng nam nữ đại phòng, nương tử chưa xuất các không thể tự định chung thân với ngoại nam, đều là vì giữ gìn danh dự cho nữ tử, nhưng… Nhưng tôi là quỷ hồn thôi, tôi… Tôi không để bụng điều đó, trừ phi anh……”

Trừ phi chàng không thích nàng, trừ phi chàng không muốn làm chuyện này với nàng.

Dù nàng chưa nói xong nhưng Lương Nguyên Kính đã nghe hiểu. Chàng ôm trọn tay nàng lại, nhìn thật sâu vào trong mắt nàng.

“Tôi muốn, tôi rất muốn.”

A Bảo mặt không biến sắc thở phào nhẹ nhõm: “Vậy ta……”

“Nhưng tôi chỉ muốn làm chuyện này cùng nương tử của mình.” Lương Nguyên Kính rũ mắt cắt ngang lời nàng nói.

“……”

Ánh trăng lay động, bóng hình nghiêng nghiêng.

Hai người nhìn mặt lẫn nhau, không ai chịu nhún nhường, lâm vào tình thế giằng co.

A Bảo hết sức bất đắc dĩ, quái lạ Lương Nguyên Kính ôn hoà từ xưa đến nay lại có một mặt bướng bỉnh cố chấp tới vậy.

Nàng có hơi tức giận, giận chàng không chịu nghe nàng nói hết, khăng khăng muốn cưới nàng làm vợ. Cơn giận trong bụng trong lòng cà cựa qua lại cuối cùng hoá thành một mảnh nhu tình.

Lương Nguyên Kính, ôi, cái tên ngốc này, nàng nên làm gì chàng mới phải đây?

“Không có cát phục, không có khách khứa, không có song thân [1], cái gì cũng không thì thành thân thế nào?” Nàng nói.

<i>[1] Cha mẹ, người lớn trong nhà.</i>

Lương Nguyên Kính mỉm cười nhẹ với nàng, dường như đã sớm chuẩn bị.

Một canh giờ sau, toàn thân A Bảo mặc hôn phục đỏ thẫm xuất hiện trong thư phòng. Trên hôn phục thêu bách hợp, mẫu đơn, hải đường, trăm chim chầu phượng, gấm dệt uyên ương. Đầu còn đội mũ phượng hàm châu, chỉ là không có khăn voan chỉ vàng, A Bảo hoa phục trang trọng, dung mạo tuyệt thế, lẳng lặng đứng trong ánh nến khiến ai nấy nhìn thấy cũng sẽ tim đập thình thịch.

Rõ ràng là người được vẽ ra từ dưới ngòi bút chính mình, Lương Nguyên Kính lại ngắm nàng đến mất hồn, lẩm bẩm nói: “Em trưởng thành rồi, A Bảo……”

“Hửm?”

A Bảo không hiểu chàng đang nói gì, hỏi: “Anh thì sao? Mặc cái gì?”

Lương Nguyên Kính hoàn hồn, cúi đầu nhìn cách ăn mặc của mình. Lễ phục đại hôn tất nhiên phải mặc màu đỏ, nhưng chàng không có áo đỏ.

A Bảo ngẫm nghĩ: “Vậy anh mặc triều phục đi.”

Quan bào cổ tròn tay áo đỏ ửng, là ấn tượng sâu sắc của nàng đối với Lương Nguyên Kính, cũng là ấn tượng ban đầu.

Lần đầu tiên thấy chàng, chàng đứng dưới tán cây đan quế ở ngự hoa uyển, là mặc bộ quan phục kia. Đứng đón gió làm ống tay áo phất nhẹ, như cây trúc đĩnh đạc dưới bậc thềm đình viện, từ tốn xoay người lại, người càng như lang gia mỹ ngọc.

Nhóm nha đầu phía sau thỏ thẻ vì phong thái này của chàng mà động tâm.

Đáy lòng nàng năm đó cũng thầm kinh diễm một phen, nhưng ngoài miệng vẫn khinh thường nói: <i>“</i><i>Có gì đẹp, cũng chỉ mới thấy có bóng dáng chưa thấy mặt, sao các ngươi biết là đẹp hơn Thám Hoa lang?”</i>

Sau đó Tiết Hành đưa đĩa bánh quế hoa, nàng rong huyết đẻ non. Từ ngồi trên giường ngã xuống đất, đau đến tầm mắt mờ căm, mơ hồ thấy chàng hoảng sợ ném bút chạy tới chỗ nàng. Trên người cũng mặc bộ quan phục, màu sắc đỏ tươi như này, giống như màu máu chảy ra dưới thân nàng……

“Ổn không?”

Lương Nguyên Kính mở rộng hai tay để nàng kiểm tra. Chàng chưa mang khăn vấn đầu, tóc đen kết thành búi định hình bằng cây trâm bạch ngọc bình thường. Màu da trắng sáng được tôn bởi màu đỏ quan bào, thêm vẻ thần thái sáng láng.

A Bảo gật gù, trong đầu chợt hiện ra một câu ⎯⎯

Người kia như thế, ôi chao!

Đẹp thì đẹp thật, khác nào như hoa. [2]

<i>[2] Trích Phần tứ nhu 2 và bản dịch của Tạ Quang Phát, thivien.net.</i>

Năm đó nàng nhiều lần bị Ngự Sử lôi xuất thân ra nói, vì không bị cười nhạo nên cũng cố gắng khổ sở học tập.

Đó là một câu trong ⟪Kinh thi・Quốc phong⟫, Triệu Tòng giải thích cho nàng, câu lời này hình dung nam tử anh tuấn uy nghiêm. Bởi vì phía sau còn có câu ‘Nhưng so thì thật khác xa công hàng’ [2], ý tứ là không giống với con cháu nhà quý tộc vương công.

Bản thân Triệu Tòng là vương tôn công tử, A Bảo liền mượn cái này chế nhạo diện mạo xấu xí của hắn. Triệu Tòng lại mặt dày tuyên bố, trên đời này không có mỹ nam nào phong thái tuấn lãng như hắn.

Có. Giờ phút này A Bảo thầm nghĩ, Lương Nguyên Kính là nam tử xinh đẹp hiếm có khó tìm đó.

Mà vị mỹ nam này còn sắp trở thành trượng phu của nàng.

Lương Nguyên Kính nắm chặt tay nàng, hơi hơi cúi đầu, mặt mày mềm mại, nói năng ôn hoà: “Xin lỗi em, thành hôn vốn phải tam thư lục lễ [3] như nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, thỉnh kỳ, thân nghênh. Tôi cái gì cũng không thể cho em, chỉ có thể bái trời bái đất, thiệt thòi cho em rồi, A Bảo.”

<i>[3]</i>

Xoang mũi A Bảo cay xót nghiêng đầu nói: “Không có thiệt thòi.”

Thiệt thòi gì chứ? Nàng có thể gả cho người tốt nhất thế gian này, nàng rất vui vẻ là đằng khác, vui tới sắp khóc luôn đây này.

“Chỉ là, vẫn có ‘vấn danh’.”

Lương Nguyên Kính cười, buông tay nàng ra, chợt chắp tay thi lễ với nàng: “Tiểu nương tử này hữu lễ, tại hạ họ Lương, tên Hoằng, tự Nguyên Kính, người Dương Châu. Cha mẹ trong nhà đều qua đời, trên có ba vị tỷ tỷ đều đã gả đi. Tại hạ phụng sự cục vẽ tranh Hàn Lâm, là một hoạ sư. Từ trước tới nay vẫn chưa có hôn phối.”

“Hả?”

A Bảo há hốc mồm, có phải nàng cũng nói theo như chàng không?

“Tôi… Tôi,” Nàng lắp bắp, mặt đỏ bừng cả lên, cuối cùng khô khan nặn ra câu, “Tôi tên A Bảo.”

Lương Nguyên Kính cười, mắt đen như mực, ánh mắt càng thêm ấm áp.

“Tiểu nương tử A Bảo.”

A Bảo không hiểu sao bị chàng làm cho thấy khẩn trương, nuốt nuốt nước miếng, căng da đầu nói tiếp: “Tôi là… người Thanh Thành Ích Châu, trong nhà… có một ca ca, tôi… Ờm, tôi biết đàn tỳ bà, còn… Tôi bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

Nàng đếm ngón tay, năm ấy chết vừa mới 26, chết hơn ba năm, thế mà đã gần 30 tuổi rồi sao?

A Bảo sững sờ, cảm thấy hoang đường đời như là mơ, chợt lại nhớ tới câu cuối vừa rồi của Lương Nguyên Kính, sắc mặc bỗng dưng đông cứng.

Nàng từng lấy chồng.

“Tôi……” Nàng ngước mắt nhìn Lương Nguyên Kính, có chút khó khăn mở miệng.

Chàng sẽ ghét bỏ nàng phải không? Đây là lần gả thứ hai của nàng.

Lương Nguyên Kính nắm lấy đôi tay của nàng, ánh mắt ôn hoà: “Không sao hết, anh không để ý. A Bảo, ta cùng bái thiên địa nhé.”

A Bảo được bàn tay ấm áp của chàng kéo đi. Hình như đi vào trong viện, hai người đứng dưới cây táo. Dưới ánh trăng, cùng mặc bộ hồng y, mặt mày như tranh, giống đôi bích nhân. [4]

<i>[4] Người đẹp như ngọc bích.</i>

“Nhất bái thiên địa.” Lương Nguyên Kính nói.

Hai người chậm rãi cúi lạy trăng sáng trên trời.

“Nhị bái cao đường, cha mẹ của anh và em đều đã mất, huynh trưởng em ở tận Tuyền Châu xa xôi, ba vị tỷ tỷ của anh đã gả về phương nam, hay ta bái về phía nam nhé.”

A Bảo gật đầu.

Vì thế hai người nhìn về phía nam, uyển chuyển cúi lạy.

“Phu thê giao bái.”

Lương Nguyên Kính nhìn về phía A Bảo, A Bảo cũng nhìn về phía chàng. Trong mắt cả hai tràn ngập tình ý, trao đổi ánh mắt một lát sau đó đồng loạt mặt đối mặt cúi lạy nhau.

Nàng không thể tránh khỏi việc nhớ tới lần thành thân khác của mình.

Năm Hữu An thứ sáu, mùng tám tháng chín, hôn lễ chấn động toàn bộ thành Dương Châu. Bề ngoài long trọng hơn nhiều so với hôm nay, khách khứa đầy đường, tiếng trống vang dội, nghi thức phức tạp, còn bao la mênh mông mười dặm hồng trang. Người nọ ngẩng cao đầu cưỡi lên lưng con ngựa lớn, ngực mang hoa đỏ, trước mặt bá tánh nửa thành Dương Châu đến cưới nàng.

A Bảo đã từng cho rằng bản thân muốn được cưới hỏi đàng hoàng, nở mặt nở mày mà xuất giá. Cho đến hôm nay nàng mới hiểu được, hoá ra cái mình muốn là cưới đúng người. Một lang quân như ý cùng nàng một đời một thế một đôi.

“Từ nay về sau, em là vợ của anh.”

Lương Nguyên Kính ôm lấy nàng, trán kề trán với nàng nói.

“Nương tử.” Chàng mềm mại gọi nàng.

A Bảo đỏ mặt, cũng thấp giọng gọi: “Quan nhân.”

Cả hai ngây ngô cười với nhau, đều luyến tiếc rời mắt khỏi đối phương, đột nhiên A Bảo nói: “Tiếp theo, có phải nên động phòng rồi không?”

“……”

Mặt Lương Nguyên Kính còn đỏ hơn cả so với quan bào trên người mình.

A Bảo cười ha hả, với lấy cổ áo chàng, ấn chàng lên thân cây, cười nhẹ vào tai chàng: “Đêm xuân ngắn ngủi, Lương đại nhân, đôi ta đừng chậm trễ ngày tốt mà, nên vào thẳng vấn đề luôn nhé.”

**

Tác giả có chuyện nói:

Lương Nguyên Kính: Nương tử.

A Bảo (đỏ mặt): À ha!

Bà mối Đao (rải hoa): Chúc mừng cô dâu chú rể hoàn thành buổi lễ, đưa vào động phòng!

Chắc đã biết chương sau sẽ phát sinh cái gì rồi nhỉ […]
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 41: Đêm đẹp


A Bảo hôn như gần như xa. Nói là hôn chàng nhưng lại càng giống chọc chàng hơn, môi dán lên vành tai tóc mai chàng, yết hầu của chàng, cứ lặp đi lặp lại nhiều lần. Đợi đến khi hơi thở chàng trở nên dồn dập, mặt đỏ như thuỷ triều mới lẹ làng rời đi.

Cuối cùng Lương Nguyên Kính bị nàng giày vò đến hết chịu nổi nữa, đè vai nàng lên trên cây táo, từ bị động thành chủ động hôn nàng.

Kỹ thuật hôn của chàng ngây ngô, không thuần thục, thi thoảng sẽ va chạm vào hàm răng của A Bảo.

A Bảo liên tục dán lên thân cây trượt xuống.

Lúc ngửa đầu, xuyên qua kẽ hở cành cây táo nhìn thấy vầng trăng sáng treo ngược trên bầu trời đen kịt. Đêm nay không nhiều sao lắm, lác đác vài ngôi điểm xuyết quanh ánh trăng, trăng trong như nước chảy, êm dịu rọi xuống đầu vai bọn họ. Nàng lại ngửi được hương bạch đàn nhàn nhạt trên người của Lương Nguyên Kính, làm nàng lạc lối làm nàng sa vào.

Trong phút chốc, nàng khẽ hô lên tiếng nhỏ, trời đất đảo lộn, do Lương Nguyên Kính ôm ngang nàng lên, bọn họ cùng vào phòng.

“Còn muốn ngủ dưới đất nữa không?”

A Bảo ôm lấy cổ chàng, trong trẻo cười trêu ghẹo chàng.

Lương Nguyên Kính không nói tiếng nào, đè nàng lên giường hôn tiếp.

Tiêu rồi, đầu óc A Bảo loạn cào cào lên, mơ mơ màng màng nghĩ, vốn tưởng Lương Nguyên Kính chỉ là tay mơ, kiến thức trên giường chắc sẽ cái biết cái không, thậm chí còn nhờ nàng dìu dắt từng bước. Ngờ đâu nam nhân này ‘làm việc’ theo loại tự học thành tài.

Nhưng mà sao trên người chàng còn ăn mặc chỉnh tề vậy?

A Bảo chuyển động con ngươi, lặng lẽ cởi đai ngọc của chàng ra, tới lúc Lương Nguyên Kính kịp phản ứng thì vạt áo của mình đã rộng mở.

Động tác hôn nàng dừng lại, vừa chần chờ vừa hoang mang: “Em……”

A Bảo cười ha ha, nói: “Chưa hiểu à? Lương công tử, chuyện mây mưa này chỉ hôn tới hôn lui đâu có nghĩa lý gì nữa, hay là để em dạy chàng chút ít nhé.”

Nàng ngồi quỳ trên giường, cởi bỏ toàn bộ quần áo của chàng, kéo nó xuống, lồng ng.ực chàng bằng phẳng, nước da trắng nõn, tản ra ánh sáng xán lạn như ngọc thạch.

Mắt A Bảo loé sáng, âm thầm tán thưởng, cười nham hiểm chớp chớp mắt với chàng: “Có qua mà không có lại thì quá là vô lễ.”

Dứt lời, cúi đầu tự cởi đai lưng của mình.

Cởi được một nửa chợt bị một đôi tay ngăn cản. Ngón tay thon dài thong thả ung dung cởi bỏ đai lưng áo ngoài của nàng ra. Màu đỏ làm nổi bật đầu ngón tay như ngọc, đôi tay quen cầm bút vẽ mà cởi xiêm y nữ tử lại thuần thục tới thế, A Bảo cầm lòng không đậu nuốt ngụm nước miếng.

Rốt cuộc hai người khá thẳng thắn lẫn thành khẩn, gò má hai bên choáng vàng, sóng mắt lay chuyển.

A Bảo nhấp nhấp đôi môi khô hỏi: “Chàng có thể không?”

“……”

Nàng rất mau biết được mình hỏi sai rồi. Bởi vì Lương Nguyên Kính luôn luôn ôn hoà không biết giận lại xẹt qua một tia phẫn nộ trong mắt. Tiếp đó nàng ‘á’ một tiếng, càn khôn lật ngược, cái hôn rơi xuống.

“! ! !”

A Bảo trừng to đôi mắt, ngửa cổ kêu to một tiếng, đồng thời bất giác liên tục cười ha ha, lăn sang bên cạnh, thuận thế lăn vào trong giường.

Ánh nến đỏ rực, tiếng cười trong giường chưa dứt, bóng nhánh cây bên ngoài chiếu lên khung cửa sổ, khe khẽ đong đưa.

**

Sau khi kết thúc, A Bảo được Lương Nguyên Kính ôm vào lòng, hai mắt ngẩn ngơ nhìn đăm đăm màn giường. Chừa lại chút tinh thần, thầm nghĩ quả nhiên nhóm nương tử Minh Thuý phường không có gạt nàng.

Nàng làm sớm chi? Uổng phí thời gian mấy năm nay.

Người sau lưng còn đang hôn nàng triền miên, A Bảo xoay người lại ôm chàng.

Lương Nguyên Kính vuốt tóc nàng, vươn ngón tay chải sợi tóc ướt đẫm mồ hôi của nàng.

“Em rất thích chàng.” A Bảo nói.

“Anh cũng vậy.”

A Bảo không nói gì chỉ chuyên tâm ôm chàng.

Đêm đầu đông yên tĩnh không tiếng động, ánh trăng như nước rọi vào thông qua cửa sổ, thả xuống mấy vết lốm đốm trong trên mặt đất trước giường. A Bảo nằm nghiêng người, mượn ánh trăng tạo nên màn kịch, trên giường thỉnh thoảng chiếu ra hình con chim ưng nhỏ, con thỏ dựng thẳng tai.

Lương Nguyên Kính ôm nàng từ sau lưng, nhìn nàng diễn trò.

Nàng tự mình chơi trong chốc lát, lại quay sang ôm lấy chàng, nắm bàn tay to lớn của chàng qua, nắn nắn lòng bàn tay và hổ khẩu của chàng.

“Tay chàng đẹp quá.” A Bảo nói.

Đặc biệt là khi cầm bút vẽ tranh trông còn đẹp hơn, ngón tay thon dài, gân cốt rõ rệt, tinh xảo nhưng lại không mất lực.

“Em cũng đẹp.”

Lương Nguyên Kính nắm lấy tay nàng áp vào lòng bàn tay mình, tay cả hai dán lên nhau một to một nhỏ. A Bảo kinh ngạc nhận ra tay mình nhỏ hơn chàng nhiều, đầu ngón tay nàng chỉ tới đốt thứ hai ngón tay của chàng.

“Không so vậy được,” A Bảo rút tay về, “So với chàng, tay em như tay con nít ấy.”

Nàng chui vào lòng của chàng, say mê hít hà, ôm eo chàng nói: “Trên người chàng thơm quá.”

Lương Nguyên Kính cười rầu rĩ, tiếng cười chấn động thông qua lồng ng.ực truyền vào lỗ tai của nàng, làm nàng thấy ngứa ngứa chút chút, đầu cọ qua cọ lại trên ngực chàng.

“Cười gì đó?” A Bảo ngẩng đầu hỏi.

Chàng vu.ốt ve đầu nàng, nói: “Em giống cún con quá.”

“Chàng mới là chó ấy!”

A Bảo cắn một cái lên vai chàng, Lương Nguyên Kính cười thành tiếng, vu.ốt ve đầu nàng, gãi gãi cho nàng.

Lúc này A Bảo mới nhả ra, thoải mái híp mắt, nhịn không được ủn ủn đầu vào tay chàng. Bỗng nhiên phản ứng lại mới thấy đúng thật bản thân giống cún lắm.

Kệ đi, sướng là được!

Lương Nguyên Kính cúi đầu hôn hôn lên lỗ tai nàng.

Dưới chăn, cả hai không chừa ra kẽ hở, vu.ốt ve da thịt lẫn nhau, đem lại cảm giác ấm áp ưa thích. A Bảo nằm gối lên trước ngực của Lương Nguyên Kính, tay phải ôm cổ chàng, chân đặt lên bụng chàng. Bởi vì thoải mái quá nên mới ngáp một cái.

“Mệt rồi à?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Không.”

“Vậy đang suy nghĩ cái gì?”

A Bảo cười, cả người nằm lật lên trên người chàng, nói: “Nghĩ về bức hoạ kia.”

Đôi tay nàng đỡ cằm giống như con mèo lười ghé vào người chàng.

Lương Nguyên Kính sợ nàng lạnh nên kéo chăn lên một chút, che đi vai lưng tr.ần tr.ụi của nàng.

“Bức hoạ kia làm sao?”

“Chàng vẽ nó hồi nào?” A Bảo tò mò hỏi.

Lương Nguyên Kính hít sâu một hơi, đè nén tạp niệm nảy lên từ sâu trong thân thể xuống, đáp: “Hi Hoà năm đầu tiên, mùng hai tháng mười.”

“Gì cơ?” A Bảo hết sức ngạc nhiên, “Chẳng phải là ngày đầu em tuyên chàng vào cung vẽ tranh đó sao?”

“Ừm.”

A Bảo quan sát sắc mặt của chàng, thận trọng hỏi: “Hôm ấy sau khi về nhà, chàng vẽ lại một bức nữa à?”

Lương Nguyên Kính gật đầu, chàng rũ mắt, thần sắc cô đơn, dường như không muốn nhắc tới việc này.

A Bảo hỏi: “Vì sao?”

Ngón tay Lương Nguyên Kính đặt lên đầu vai nàng hơi co rút lại, thản nhiên nói: “Không vì gì cả, chỉ muốn vẽ mà thôi.”

A Bảo nhíu mày, không rõ vì sao nàng lại cảm giác ra chàng không có nói thật, ít nhất là không nói ra toàn bộ sự thật.

Nàng cũng không muốn truy hỏi đến cùng, chỉ hỏi chàng sang câu hỏi này khác.

“Máu trên đó là của chàng à?”

“Đúng vậy.”

“Sao lại có?”

Lương Nguyên Kính hồi ức một lát: “Lúc đó anh mới khỏi bệnh nặng, ban đêm lỡ nhiễm hơi lạnh nên nôn ra ngụm máu dính lên tranh.”

A Bảo nhớ tới vết máu trên bức tranh, thầm nghĩ, e rằng không chỉ mỗi một ngụm đâu.

Nàng lo lắng sốt ruột: “Bệnh này của chàng nên thế nào mới phải đây? Có cách nào trị tận gốc không?”

Lương Nguyên Kính ôm nàng, mỉm cười nói: “Từ từ điều trị sẽ tốt thôi, không cần lo lắng. Buồn ngủ chưa? Muốn ngủ hay không?”

A Bảo không muốn ngủ, bởi vì ngủ cũng rất lãng phí thời gian. Nhưng sau khi thành người, nàng vẫn không khắc chế được bản năng đi vào giấc ngủ. Hơn nữa hô hấp khẽ khàng của Lương Nguyên Kính, hơi thở nóng hổi áp lên bên tai nàng, khiến nàng mơ màng sắp ngủ.

Chưa được bao lâu, nàng đã ngủ say rúc vào lòng chàng.

Chắc chắn sẽ không đánh thức được nàng nữa, Lương Nguyên Kính cẩn thận ôm nàng từ trên người mình xuống đặt ở bên giường, đắp chăn kín kẽ cho nàng xong mới khoác áo rời giường.

Đêm đã khuya, ngoài phòng tối đen lạnh lẽo thấm vào xương.

Chàng đi vào thư phòng, tìm ra bức tranh lúc trước, vươn cánh tay ra, không chút do dự hạ dao xuống rạch một nhát thật dài. Máu tươi từ đó chảy xuống dọc theo cánh tay, tí tách tí tách nhiễu lên giấy vẽ tan vào trong tranh. Ánh sáng đỏ chợt loé, sau đó không còn vết máu nào trên giấy Tuyên Thành trắng tuyết nữa.

Chàng đắp chút thuốc bột lên miệng vết thương, qua loa băng lại sau đó trở về phòng. Lên giường ôm A Bảo vào trong lòng ngực lần nữa, rồi hôn hôn nàng đi vào giấc ngủ.

Có lẽ do trước khi ngủ đã nhìn thấy máu tươi nên để lại cho chàng một giấc mộng cũ trong quá khứ.

**

Mùa thu năm Hữu An thứ hai, Lương Nguyên Kính rời khỏi thôn Lý gia, lên đường quay về Dương Châu.

Trên đường chàng đi chút dừng chút, tốn gần nửa năm mới du ngoạn vào đất Thục. Trên đường trở về chàng tận dụng luôn đêm tối, vào trước lập đông một ngày về đến Dương Châu.

Xa cách hơn một năm, thành Dương Châu cũng không có biến hoá gì lớn, vẫn mười dặm phồn hoa như gấm, tiếng cười nói có khắp nơi.

Phụ thân không phản đối chàng trở về, cũng không tỏ vẻ hoan nghênh, không còn như xưa bắt buộc chàng học hành thi đậu công danh nữa. Hoàn toàn thất vọng về chàng. Chỉ coi chàng như vật trang trí trong nhà.

Trong lúc chàng rời khỏi nhà, tam tỷ nhỏ nhất trong nhà đã nghị thân. Tỷ phu là Thông phán Hàng Châu Từ Viễn Sơn, mùa hè năm thứ hai sẽ xuất giá.

Sau khi về nhà, Lương Nguyên Kính thăm hỏi ân sư bạn tốt, người khác có hỏi chàng tạm trú bên ngoài một năm có tác phẩm mới nào không, chàng cũng chỉ cười cười.

Bức tranh mình vẽ dọc đường đã sớm đánh mất, không biết bị vị nào nhặt lấy, cũng không rõ sẽ giống như nương Lý Nhị Cẩu dùng tranh chàng lót chuồng gà làm giẻ lau hay không.

Nghĩ đến đây, chàng lại nhớ tới trời chạng vạng rám màu nọ, A Bảo đầu đầy lông gà chạy vào, hai tay chắp sau lưng, thần bí chớp mắt với chàng.

Ngay sau đó lại nhớ tới nàng cầm dao phay trong tay, người đầy sát khí lao ra từ phòng bếp, gào thét muốn chém đám người xấu Lý Nhị Cẩu.

Lương Nguyên Kính nhớ này nhớ nọ, khóe miệng bất giác ngầm cười, làm bạn bè phía đối diện chẳng hiểu gì.

Nhóm ca kỹ bên sông nhỏ Tần Hoài biết chàng đã về, xôn xa tới cửa mời chàng vẽ tranh cho mình. Khi chàng đang vẽ tranh cho vị nương tử Minh Thuý phường, nhìn chằm chằm bánh củ từ trên bàn nàng ấy, bỗng nhiên sơ ý làm lệch nét bút.

Vị nương tử nọ thấy thế thì cười: “Công tử đói bụng ạ? Đĩa điểm tâm này hơi cũ, nô gia gọi gã sai vặt đổi đĩa mới tới nhé?”

Lương Nguyên Kính lấy lại tinh thần, mỉm cười lắc đầu.

Chàng không có đói. Chàng chỉ nhớ tới tiểu cô nương tham ăn ở xa ngàm dặm kia thôi. Tiểu cô nương vừa thấy bánh ngọt hai mắt sẽ toả sáng. Không biết a ca có mua điểm tâm cho nàng ăn chưa, khi chàng rời đi đã để lại tiền cho họ, đủ để nàng mua bánh ngọt trong một năm.

Mùa đông qua đi, mùa hè năm Hữu An thứ ba đã đến.

Năm này mùa hè Giang Nam nóng bức bất thường, không rơi một giọt mưa nào, mực nước trong Hồ Tây Gầy giảm đi không ít.

Lương Nguyên Kính hộ tống tam tỷ xuất giá, ở lại Hàng Châu chừng mười ngày.

Vào buổi chiều giờ ngọ, mặt trời chói chang, chàng nằm nghỉ ngơi dưới lá chuối tây gặp mấy cơn ác mộng hoang đường, sợ tới mức hét lên tỉnh dậy. Đã quên hơn phân nửa tình cảnh trong mơ nhưng toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh, trong lòng còn có chút sợ hãi.

Chàng đứng dậy quay về phòng thay quần áo. Lúc dạo bước đến phòng khách, nghe thấy anh rể đang cùng đồng liêu nói về tình hình hạn hán nghiêm trọng ở Xuyên Thục, còn gặp phải nạn châu chấu hiếm hoi. Hiện giờ Thành Đô đã có hơn hàng ngàn hàng vạn bá tánh chết đói, cứ thế xuất hiện tình trạng ‘người ăn thịt người’, ‘cha mẹ ăn con cái lẫn nhau’.

Chàng nghe vậy sợ hãi kinh hoàng, không rảnh giải thích nhiều với tam tỷ, thuê xe ngựa vội vã đến Thành Đô. Còn đem không ít hàng hoá gạo thóc theo.

Dọc đường đi, chàng gặp được rất nhiều lưu dân chạy nạn, quần áo họ tả tơi, vàng vọt xanh xao, đói đến mức người chỉ còn xương. Họ di chuyển theo từng đàn, thấy đồ ăn mắt bốc lên màu xanh biếc, tranh đoạt lẫn nhau. Trong hỗn loạn còn giẫm chết không người ít người, thoạt nhìn không giống người, ngược lại y như bầy dã thú kiếm ăn.

Lương Nguyên Kính cũng bị cướp bóc vài lần. Lương thực mang theo bị cướp sạch sẽ, cũng may không bị thương lên người. Một đường gian khổ chật vật rốt cuộc cũng trở lại thôn Lý gia, nhưng trong thôn đã sớm trống trơn, cảnh tượng tịch mịch.

Hồ sen hồi xưa chàng cùng A Bảo trộm hái đài sen đã khô cạn, không nhìn thấy sóng trong hồ, hoa sen sáng chói nữa, chỉ còn lòng sông khô nứt phơi bày dưới ánh mặt trời loá mắt.

Cây hoè to ngay cửa thôn chết vì héo, lá cây xum xuê đã bị người ta hái ăn sạch sẽ, kể cả vỏ cây cũng bị lột tách. Thôn Lý gia không còn bóng dáng nước non xanh biếc như trước nữa.

Lương Nguyên Kính đứng trong sân nhỏ Lý gia cảnh còn người mất. Trời cao rộng lớn vô ngần, trong nháy mắt máu trong người chàng đông cứng lại, toàn thân lạnh băng, hoa mắt chóng mặt.

Sau đó, chàng đi khắp nơi tìm người hỏi thăm huynh muội Lý Hùng. Chỉ tiếc huyện Thanh Thành gặp tai hoạ nghiêm trọng, Xuyên Thục đã trống trơ trống trọi, vất vả lắm mới gặp người quen ở trấn Lý gia. Người nọ nói cho chàng biết người trong thôn Lý gia đều chạy nạn đến Quan Trung cả rồi.

Chàng không rảnh lo nghỉ ngơi lấy sức, tiếp tục vó ngựa lên đường lên phía bắc. Trên đường phàm là gặp lưu dân tụ tập thành đàn, nhất định sẽ tiến lại hỏi thăm.

Chàng vẽ bức tranh hình A Bảo, đáng tiếc hỏi người qua đường ai ai cũng lắc đầu, chưa từng gặp tiểu cô nương nào như thế.

Từ mùa hè năm thứ hai đến cuối năm thứ ba, Lương Nguyên Kính vẫn luôn trằn trọc ở phương bắc. Dấu chân đặt qua Thái Nguyên, Chân định, Phượng Tường, Đồng Quan. Ngay cả biên giới giữa Đại Trần lẫn Tây Hạ cũng đi qua, trước sau đều không có tin tức.

Phụ thân thường xuyên gửi thư thúc giục chàng quay về nhà. Chàng cũng đã tới độ tuổi nghị định hôn sự. Trong nhà đã tìm vài vị tiểu nương tử ưa nhìn cho chàng. Nhưng chàng vẫn không thèm để ý tới, lựa chọn đến phương nam tìm thử.

Lần này đi, lại thêm hai năm.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 42: Máu trên tranh


Mùa đông Hữu An năm thứ sáu, Lương Nguyên Kính phiêu bạc bên ngoài ba năm trở lại Dương Châu.

Một năm này chàng đã đến độ nhược quán, bạn bè cùng trường ở độ tuổi này đã là cha của hài tử, chàng vẫn còn lẻ loi một mình, cũng không mang công danh trong người. Nhưng bởi vì gia thế tốt, tướng mạo xuất sắc, bà mối đến nhà làm mai vẫn đạp vỡ ngạch cửa như cũ.

Chàng là con một trong nhà, gánh vác trọng trách nối hương khói. Lương phụ muốn cưới vợ cho chàng, chàng lại một mực cự tuyệt, cha già tức giận đến mức lại đuổi chàng ra khỏi nhà.

Bạn bè bị cha gây áp lực nên không dám trợ giúp chàng, chàng không có chỗ để đi, đành nhờ ca kỹ ngày xưa nhờ vẽ tranh thu nhận bên kỹ quán bờ sông nhỏ Tần Hoài.

Có kỹ nữ tên ‘Oanh Oanh’ từng hỏi chàng vì sao chưa thành thân.

Chàng chỉ cười bâng quơ không nói gì.

Oanh Oanh lại cẩn thận hơn hỏi: “Mai sau công tử muốn cưới người như thế nào?”

Lương Nguyên Kính thẫn thờ vẽ tranh, muốn cưới người như thế nào?

Chẳng hiểu sao trong đầu hiện lên dáng vẻ người nọ, bộ váy đỏ rực như lửa, cổ tay đeo ba vòng bạc, cười rộ lên như tiếng chuông bạc, tức giận rồi ánh mắt đượm vẻ giận dỗi, mặt mũi ẩn chứa nét đẹp tuyệt trần. Có lẽ bản thân vẽ cho nàng nhiều lần quá nên mới không ngừng nhớ về nàng.

Trong lúc chàng đang lạc vào cõi thần tiên, các nương tử còn lại đang sôi nổi trêu ghẹo Oanh Oanh: “Đừng nghĩ nữa, Lương công tử cưới ai cũng sẽ không cưới cô đâu, mệnh ca kỹ còn mỏng hơn giấy nữa, huống chi vọng tưởng làm phượng hoàng bay lên cành cao.”

Gương mặt đẹp của Oanh Oanh ửng đỏ, không lo nhỏ giọng phản bác: “Ai… Ai muốn gả chứ? Hơn nữa, ca kỹ thì làm sao, vị kia ở Minh Thuý phường không phải cũng gả cho Vương gia à?”

Các nương tử cười nói: “Ha, không biết trời cao đất dày, cô có thể so với vị kia chắc?”

Có người thấy Lương Nguyên Kính lâu rồi không ở Dương Châu nên có rất nhiều chuyện mới mẻ chưa biết liền giải thích cho chàng.

Tỳ bà nữ nổi tiếng ở Minh Thuý phường bên cạnh vậy mà được nhận Tri châu Lý Kỳ làm cha nuôi, gả cho Tuyên Vương đang công tác tại Dương Châu.

Lễ thành thân được tổ chức vào mùng tám tháng chín, tình cảnh kia rất chấn động, người dân nửa thành Dương Châu này đều chen tới đó xem, tỳ bà nữ cũng trở nên truyền kỳ và là tấm gương sáng cho các nàng noi theo.

Một vị nương tử am hiểu âm luật nói sang, năm xưa vị tiền bối này đàn khúc tỳ bà danh chấn Dương Châu, ngay cả danh kỹ Thôi nương tử ‘xinh đẹp tài giỏi’ cũng không bằng, chỉ tiếc nàng ấy tới trễ chưa có dịp may mắn được nghe thử.

Lương Nguyên Kính hỏi ngay, tỳ bà nữ đó tên là gì.

Nhóm nương tử đùn đẩy nhau, miệng kín như bưng, thì ra Tri châu Lý hạ lệnh nghiêm, không được đàm luận chuyện cũ của tỳ bà nữ trên phố. Người ta đã bay lên cành cao làm Vương phi rồi, trở thành quý nhân kim chi ngọc diệp rồi, thân phận ca nữ thật sự không nên nói ra ngoài miệng.

Lương Nguyên Kính cũng không mở miệng truy hỏi, dù gì đời này của chàng đã sớm nghe qua khúc tỳ bà êm tai nhất thế gian.

Chàng đứng dậy đi xuống cầu thang, vịn lan can đưa mắt trông về phía sông nhỏ Tần Hoài xa xa, tiệm rượu hai bên bờ san sát nhau, mặt sông sóng nước óng ánh, dãy núi trập trùng liền kề, phía chân trời có đàn chim nhạn bay ngang qua.

“Có câu: Khuất bóng vạn tầng mây. Ngàn non tuyết muộn, Bóng lẻ về đâu chứ?” [1]

<i>[1] Mô ngư nhi – Nhạn khâu – Nguyên Hiếu Vấn và bản dịch của Như Quy, thivien.net.</i>

Tuyết đọng tan, chim nhạn về bắc, hoa hạnh Giang Nam nở.

Mùa xuân lại đến.

**

Tháng chạp năm Minh Quang thứ ba, Thái Tông từ thế, Tuyên Vương đăng cơ làm đế, năm sau sửa thành năm Hi Hoà, ai ai cũng trăm công ngàn việc.

Năm ấy, Lương Nguyên Kính vẫn du ngoạn về phương nam thuận tiện tiếp tục tìm kiếm A Bảo.

Giữa tháng hai mùa xuân, chàng đi qua Cửu Ngải Sơn Vĩnh Châu, trên đường đi gặp mưa to. Lúc trú mưa dưới miếu tàn gặp được Giác Minh hoà thượng tới đó tránh mưa như mình.

Cả hai vừa gặp đã thân, trò chuyện với nhau rất vui vẻ.

Giác Minh giống chàng, tính tình quen sống tự do như chim chóc trên trời, dấu chân in khắp nơi trong thiên hạ. Lương Nguyên Kính như thường lệ lấy bức tranh vẽ A Bảo từ trong túi ra, mời y nhìn xem trong lúc đi đây đi đó có từng nhìn thấy nàng chưa.

Cũng như những người chàng từng hỏi qua, hoà thượng lắc đầu nói chưa thấy bao giờ.

Lương Nguyên Kính đã hỏi người khác hàng trăm hàng ngàn lần, cũng nhận được câu trả lời phụ định hàng ngàn hàng trăm lần. Đáy lòng sẽ không thất vọng nhiều như lần đầu, chỉ cất bức tranh vào lại túi, yên lặng thẫn thờ nhìn mưa xuân to bên ngoài miếu.

Hòa thượng ngồi cách đống lửa chợt hỏi chàng: “Tiểu cô nương ôm tỳ bà này là gì của cậu?”

Là gì của chàng?

Câu hỏi này Lương Nguyên Kính không trả lời được.

Là người xa lạ chàng gặp được trên đường nơi đất khách quê người, như bèo nước gặp nhau, nhưng hình như không chỉ dừng lại tại đó, A Bảo giống như nét bút thanh vĩnh viễn không phai, mãi mãi lưu lại trong cuộc đời của chàng.

Chàng muốn tìm tiểu cô nương này, muốn dẫn nàng đi ngắm hoa thược dược Dương Châu, đi ngắm trăng sáng hai mươi tư cây cầu, đạp tuyết tìm mai trong Tiểu Kim Sơn ở Hồ Tây Gầy, đi ăn tất cả món bánh ngọt mà nàng thích.

“Là người tôi không quên được.” Chàng nói thế với hòa thượng.

Hôm sau, chàng cùng Giác Minh hoà thượng đi thuyền lên phía bắc, tham gia cuộc thi vẽ tranh của năm ở Đông Kinh.

Sau khi tân đế lên ngôi, tích cực nâng đỡ xây dựng hoạ viện, cũng chính thức đưa hoạ học vào trong khoa cử chế. Tranh vẽ không được coi là kỹ xảo tầm thường nữa, mà những người giỏi hội hoạ còn có thể thông qua nét bút nét mực giành lấy công danh vào triều làm quan.

Lương phụ đã hết mơ chàng ‘áo tím túi vàng’, Lương Nguyên Kính có thiên phú vẽ tranh nên ông yêu cầu con trai thi đậu đạt công danh quay về.

Rốt cuộc Lương Nguyên Kính cũng tìm thấy con đường chân chính thích hợp với mình. Trong cuộc thi tuyển chọn hoạ viện, bức hoạ ⟪Chùa vắng trong núi sâu⟫ của chàng có ý tưởng sâu xa, bút tháp thâm hậu, kỹ thuật khiến mọi người kinh ngạc, được Kim Thượng khâm điểm làm Trạng Nguyên, bổ nhiệm làm Hàn Lâm Đãi Chiếu, tiến vào cục tranh vẽ đảm nhiệm chức vụ. Từ đó danh tiếng vang khắp kinh thành, người người ngưỡng mộ.

Chàng thành công rực rỡ khiến quan trưởng hoạ viện ghen ghét, sau khi chàng được gọi vào cung vẽ tranh cho tân hậu, hoạ học chính cật lực xúi giục chàng từ chối chiếu chỉ, Kim Thượng niệm tình chàng mắc bệnh sẽ không so đo với chàng đâu.

Khi đó xác thật chàng mang bệnh nặng, bởi vì lúc trước ở Xuyên Thục không chữa trị kịp thời, mắc phải bệnh phổi nghiêm trọng, mùa thu đông mỗi năm trời chuyển lạnh đều sẽ tái phát, nhẹ thì ho khan ra máu, nặng thì sốt cao không giảm.

Đợi cho sức khỏe cuối cùng cũng có chuyển biến tốt đẹp thì người nào cũng vui sướng khi thấy người gặp hoạ, đều dùng ánh mắt ‘anh xong rồi’ nhìn chàng.

Chàng mờ mịt khó hiểu, nhờ đồng liêu tốt bụng nói cho biết, lần này chàng từ chối vẽ tranh, đắc tội rất lớn với vị tân hậu trong cung kia, phụ nhân vốn lòng hẹp hòi, càng miễn bàn vị tân hậu quốc triều xuất thân tầm thường này, có thù tất báo, nàng nhất định sẽ không tha cho chàng.

Trước lúc đi, đồng liêu còn thương hại vỗ vỗ vai chàng, nói chàng tự cầu phúc cho mình đi.

Thật ra Lương Nguyên Kính nghe qua không ít sự tích về vị tân hậu này, đầu đường cuối ngõ thành Đông Kinh đều đàm luận giai thoại chuyện lạ về nàng, nói nàng xuất thân hàn vi, vốn là ca kỹ lấy sắc thờ người ở thành Dương Châu, chả biết vận khí đâu tốt lợi dụng quan gia chưa lên ngôi đã bò lên long sàng. Từ đó biến thành phượng hoàng bay lên cành cao.

Kim Thượng trọng tình cũ, mặc kệ quần thần phản đối, lập nàng thành Hoàng hậu, con hát ưu tú kỹ quán mà lại trở thành chi mẫu một nước, quả thực là trò cười lớn nhất thiên hạ.

Lương Nguyên Kính biết được chuyện mình đắc tội với Hoàng hậu, ngược lại cũng không kinh hoàng sợ hãi như mọi người tưởng tượng.

Chàng điềm tĩnh thản nhiên chờ tân hậu trả thù, nếu muốn phế chức quan thì chàng sẽ tay không trở về Dương Châu. Dù sao chốn quan trường phức tạp, giao du tới lui không thể mình sao họ vậy, người nào nói chuyện y như chơi đánh đố, chàng sớm đã nổi lòng phiền chán rồi.

Nếu nghiêm trọng hơn chút, tân hậu muốn lấy đầu chàng, vậy cũng chẳng hề hấn chi, cho nàng là được.

Chỉ là trước lúc chết không tìm thấy A Bảo cũng xem như chuyện đáng tiếc trong lòng chàng.

Cứ như vậy chờ đợi, cuối cùng đến ngày mùng hai tháng mười, chàng chờ Hoàng hậu triệu lệnh.

Đó là ngày đầu đông thời tiết rất đẹp. Vào Tết Dương Xuân tháng mười, bầu trời xanh thăm thẳm, ánh nắng chói chang hoà thuận, chiếu rọi khắp đầu vai, trăm hoa trong ngự hoa uyển chưa héo úa, hoa hồng, hoa nhài, dâm bụt, mai vàng sớm đông, còn có cây đan quế, hương hoa thấm vào ruột gan.

Chàng đứng dưới tàng cây, eo mỏi lưng đau, buộc phải ngửa cổ giảm nhức.

Chàng đánh giá cao thủ đoạn trả thù của Hoàng hậu, không chỉ không cho chàng ghế để ngồi còn cố tình bày bàn lùn tới vậy, ép chàng phải khòm lưng vẽ tranh. Vẽ xong bức tranh tất nhiên eo cổ cứng đờ như đá, thủ đoạn ‘trừng phạt’ thế này, so với bãi quan hay muốn mạng chàng thì nhẹ hơn rất nhiều, thậm chí……

Còn tàng ẩn chút ấu trĩ.

Nhưng thật ra rất giống chuyện người nọ trong trí nhớ chàng sẽ làm ra.

Nghĩ đến đây, Lương Nguyên Kính cầm lòng không đậu nhếch khóe miệng để lộ ra ý cười.

Chợt nghe sau lưng có tiếng ngọc bội leng keng truyền đến, Lương Nguyên Kính thôi cười xoay người lại, sau đó là hình ảnh mà cả đời này chàng không thể quên được.

Chàng đi khắp chân trời góc bể, nhiều năm tìm kiếm tiểu cô nương trong trí nhớ thích cười thích nghịch, tiểu cô nương ríu rít nói năng không ngừng, cứ như vậy đứng trong bụi hoa sặc sỡ, đầu đội châu ngọc quý giá sang trọng, đoan trang ung dung chầm chậm đi lại gần mình.

Ánh mặt trời xuyên qua cành lá, loang lổ chiếu trên sườn mặt trắng nõn của nàng, nhìn qua như một giấc mộng dài, chàng nghe thấy thị nữ bên cạnh gọi nàng ⎯⎯

<i>“Hoàng hậu nương nương.”</i>

A Bảo, là vị tỳ bà nữ đàn một khúc danh chấn Dương Châu.

A Bảo, là vị Hoàng hậu quốc triều mới lập có xuất thân ca nữ bị đầu đường cuối ngõ nghị luận xôn xao.

<i>“</i><i>Bổn cung lệnh ngươi hoạ thưởng thức cảnh thu, sao chỉ thấy ngươi hoạ hoa cỏ sum suê, không thấy bổn cung đâu, từ ‘thưởng’ liền biến mất, Lương đại nhân, là mắt ngươi mù, hay do mắt ngươi cao hơn trán, không chứa nổi Hoàng Hậu là ta đây?”</i>

Nàng đứng ở chỗ đó, kiêu ngạo lẫn ương ngạnh chất vấn chàng, dùng ánh mắt nhìn người xa lạ mà nhìn chàng, tuy khoé miệng không cười nhưng mặt mũi đều ẩn hiện ý cười ranh mãnh.

Nàng cao hơn, nảy nở hơn, còn……

Không nhận ra chàng.

Lương Nguyên Kính nén mưa to gió lớn xuống đáy lòng, cụp mị hạ thấp mắt đáp: <i>“Ta có vẽ.”</i>

Chàng ngước mắt lên, giọng nói cay đắng, trì trệ gọi cái xưng hô kia: <i>“Hoàng hậu nương nương⎯⎯”</i>

<i>“Có ở trong bức hoạ.”</i>

Màn đêm buông xuống, về đến nhà.

Lương Nguyên Kính lục tung khắp nơi tìm bức họa từng vẽ A Bảo trong suốt mấy năm qua, ném từng bức vào trong chậu than đốt cháy toàn bộ.

Sai rồi, vẽ sai rồi.

Chàng vẽ tiểu cô nương dựa theo bóng dáng trong ấn tượng chính mình. Nhưng nàng đã sớm trưởng thành, mặt mũi không còn nét trẻ con nữa, quả nhiên dung mạo khuynh thành như chàng từng dự đoán.

Nàng trổ mã thậm chí còn động lòng người hơn so với tưởng tượng của chàng.

Lương Nguyên Kính nhấc bút, chấm thuốc màu, vẽ từng nét từng nét lên giấy Tuyên Thành, vẽ lại dáng vẻ hiện giờ của nàng.

Đợi sau khi vẽ xong, chàng cúi đầu nhìn nó, buồn bã mất mát, lòng ngực bỗng nhiên truyền đến loại cảm giác đau như bị dao đâm vào, cổ họng nảy lên vị tanh ngọt, ‘phụt’ miệng phun ra máu. Trùng hợp dính lên bức hoạ vừa vẽ xong, làm bẩn mỹ nhân cười mỉm chi trong đó.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 43: Thiền Nương


Mùa đông nắng ấm xán lạn chiếu vào từ cửa sổ, rọi lên mặt và rọi lên người đang lười biếng.

A Bảo ngủ một giấc thật ngon, lười nhác duỗi lưng eo thức dậy…

Khoan đã, thức dậy?!

Động tác duỗi người khựng lại, nàng ngơ ngác nhìn thân thể chân thật của mình.

Lương Nguyên Kính đã dậy từ sớm, tựa vào đầu giường chống một chân dài lên, không biết đã nhìn nàng bao lâu, thấy nàng tỉnh lại sắc mặt vô cùng tự nhiên hỏi: “Đói bụng chưa? Dư lão vẫn chưa về nhà.”

“……”

“Sao em vẫn là người?”

A Bảo chọc chọc thịt đùi thấy xúc cảm rất chân thật.

Lương Nguyên Kính không đáp.

Bỗng dưng nàng phản ứng kịp thời, trừng lớn đôi mắt: “Chàng!”

“Dẫn em ra ngoài ăn sáng nhé, được không?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Ăn cái gì mà ăn!” A Bảo giận tím mặt, “Có phải chàng lại lấy máu hay không?”

“Không có.”

“Em không tin!”

A Bảo tiến lên xoắn ống tay áo bên trái lên, trên đó không có miệng vết thương, ánh mắt Lương Nguyên Kính bình tĩnh nhìn nàng tựa như đang nói: Nhìn đi, đã nói không có mà.

A Bảo cười lạnh một tiếng, lập tức buông cánh tay trái chàng ra, muốn túm lấy cánh tay phải thì sắc mặt chàng biến hoá, giấu nó ra sau lưng nhưng lại không đấu lại A Bảo đang kiên quyết, cuối bị nàng dùng đầu gối đè xu.ống bắt lấy xoắn ống tay áo phải lên.

Miệng vết thương được băng bó rất qua loa, trong lúc giãy giụa còn có máu chảy ra từ vải trắng bên ngoài, nhìn vào vô cùng rợn người.

Ánh mắt A Bảo dại ra, hoàn toàn ngây ngẩn cả người.

Lương Nguyên Kính vuốt ống tay áo xuống, ôn hoà nói: “Không sao đâu, chỉ bị thương ngoài da thôi.”

Chàng muốn đưa tay sờ mặt A Bảo lại bị nàng hất ra cái ‘bốp’.

Lương Nguyên Kính ngơ ngác.

“Bị thương ngoài da?”

Đôi mắt A Bảo đỏ ngầu, nước mắt chảy dài xuống, cuộn ống tay áo chàng lên, nâng cánh tay đẫm máu đến trước mắt chàng, nghiến răng oán hận nói: “Nhìn cho rõ! Chàng nói cái này chỉ bị thương ngoài da sao? Có phải nửa đêm qua chàng không đi ngủ, vẫn quyết lấy máu đúng không?”

Lương Nguyên Kính vội nói: “Thật sự không có!”

“Nói thật cho tôi!” A Bảo mặt đầy nước mắt rống to với chàng.

“Chỉ ba lần mà thôi, em đừng khóc.”

Lương Nguyên Kính tay chân luống cuống muốn lau nước mắt cho nàng nhưng lại sợ chọc nàng giận, vươn tay ra được nửa đường thì dừng, không dám tiến lên.

Rốt cuộc A Bảo không chịu nổi nữa, đẩy chàng ra nhảy xuống giường, chân trần lao ra cửa phòng, vùi đầu ở trong sân khóc lớn.

Nàng sai rồi, do nàng quá tham lam quá ích kỷ, nàng không nên trêu chọc Lương Nguyên Kính, nàng hại cả người chàng đầy sẹo, cơ thể xinh đẹp như vậy lại bởi vì nàng mà chồng chất vết thương!

Trời ạ, rốt cuộc nàng đang làm gì vậy? Vì sao nàng phải đồng ý thành thân với chàng? Hiện giờ nàng là gì? Là cô hồn dã quỷ!

Nàng nên làm gì đây? Nàng phải làm gì Lương Nguyên Kính đây?

Chàng không quý trọng sức khoẻ của mình, trong tay cầm dao nhỏ nói rạch là rạch chỉ để thỏa mãn d.ục v.ọng của nàng, có phải một ngày nào đó chàng sẽ chết vì mất quá nhiều máu cho nàng không?

Lại ngẫm nghĩ về khả năng đó, trong lòng A Bảo lập tức đông cứng, hô hấp không thông.

“A Bảo, đừng khóc.”

Lương Nguyên Kính đi đến bên cạnh nàng, bắt chước nàng ngồi dưới đất.

A Bảo ngẩng đầu từ cánh tay, đỏ mắt trừng chàng: “Bây giờ tôi không muốn nói chuyện với anh, anh đi ra đi.”

Lương Nguyên Kính ôn hoà cười: “Nương tử, hôm nay là ngày sau khi ta thành thân, em không muốn để ý đến anh à?”

Tuy nói là vậy nhưng vẫn nghe lời dịch ra xa một chút.

A Bảo ngạc nhiên mở to mắt liếc chàng, nghĩ thầm ai là nương tử của anh chứ.

Lương Nguyên Kính như hiểu thấu suy nghĩ trong lòng nàng, nghiêm trang nói: “Đêm qua đã bái trời bái đất rồi, phải giữ lời.”

A Bảo nghĩ thầm tôi không giữ lời, anh quản được tôi chắc?

Chàng làm trò ảo thuật lấy đôi giày thêu từ sau lưng ra, nói: “Không nói chuyện với em cũng được, nhưng đi giày vào nhé? Bên ngoài trời giá rét, đừng để bị cảm lạnh.”

A Bảo lại nghĩ thầm tôi là quỷ, anh làm quỷ lạnh thử xem?

Lương Nguyên Kính thấy quả nhiên nàng bắt đầu không quan tâm tới mình, liền tự cầm giày muốn mang vào giúp nàng, nhưng vừa tính xong lại tròng vào hư không, thân thể A Bảo đã trong suốt trở lại.

A Bảo như không việc gì thu chân về, ngoài miệng chế nhạo chàng: “Sao nào? Còn muốn lấy máu nữa không?”

Lương Nguyên Kính không nói gì chỉ nhướng mắt nhìn nàng.

A Bảo mỉa mai: “Anh có bao nhiêu máu? Chống đỡ nổi một ngày một đêm không? Có phải đợi máu chảy khô hết mới chịu bằng lòng bỏ qua à? Lương Nguyên Kính, tôi chết rồi, sao anh vẫn không chịu thừa nhận chuyện này vậy?”

Lương Nguyên Kính không tranh cãi với nàng, cúi đầu im lặng thật lâu sau mới đáp: “Anh chỉ muốn giúp em ngủ ngon mà thôi.”

“……”

A Bảo không còn lời nào để nói, nàng ngoảnh mặt sang một bên, cắn răng mắng nhỏ, đồ ngốc!

Hai người náo loạn một hồi mất tự nhiên, A Bảo thúc giục Lương Nguyên Kính về phòng bôi thuốc, chỉ là nàng vẫn không chịu nói chuyện với chàng, cũng không chịu nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính biết nàng còn đang tức giận, chỉ nhẹ nhàng buông tiếng thở dài, trong đầu tìm kiếm biện pháp dỗ nàng vui vẻ, thật ra chàng không có chiêu gì khác ngoài chiêu mua bánh cho nàng ăn.

Nhưng muốn ăn bánh ngọt thì phải biến nàng thành người, nàng sẽ tức giận thêm, đây là vòng tuần hoàn đầy nan giải, xem ra bản thân đúng thật là quá nhàm chán, thủ đoạn dỗ nương tử vui vẻ ra sao cũng không biết.

Lương Nguyên Kính phiền muộn thở dài.

“?”

A Bảo khó hiểu, chẳng phải nàng mới đang tức hả? Sao chàng còn mặt ủ mày chau nữa?

Hai người mắt lớn mắt nhỏ trừng nhau, chợt nghe trong viện có người gõ cửa.

A Bảo vốn không muốn lên tiếng, nhưng Lương Nguyên Kính còn đang nhìn nàng chằm chằm, hoàn toàn không có ý định ra mở cửa, nàng buộc phải nghiêng đầu lạnh lùng nói với chàng: “Còn không ra mở cửa đi, Dư lão về rồi.”

Bấy giờ Lương Nguyên Kính mới hoàn hồn, mặc xong áo ngoài đi ra mở cửa.

A Bảo đi theo phía sau chàng, bỗng nhiên nhớ đến ngoài cửa chắc không phải là Dư lão đâu, bởi vì Dư lão về nhà sẽ không gõ cửa mà sẽ trực tiếp đẩy cửa đi vào.

Quả nhiên, chỉ nghe một tiếng “Lương công tử” từ một người quen thuộc bước vào.

Người tới trên má có một nốt ruồi đen lớn, là bà mối già họ Vương.

Bà ấy tới làm gì? Sẽ không tới làm mai cho Lương Nguyên Kính nữa chứ?

Tròng lòng A Bảo nhất thời tràn ngập địch ý nồng đậm, cảnh giác nhìn chằm chằm Vương thị, nhưng người ta không phải tới làm mai mà là nhờ Lương Nguyên Kính vẽ tranh cho.

Lương Nguyên Kính nghe vậy từ chối: “Hiện giờ tôi đã dừng vẽ tranh hộ rồi.”

Giá trị tranh của chàng trên phố tăng cao đột biến, rất nhiều gia đình bình thường vì tranh của chàng mà phất nhanh trong một đêm, cũng có người vì sưu tầm tranh của chàng mà táng gia bại sản, Lương Nguyên Kính không bao giờ vẽ tranh giúp người khác nữa.

Vương thị khổ sở cầu xin: “Lương công tử ơi, cậu làm việc tốt tích phước, đồng ý lần này đi mà, cô nương kia thật sự rất đáng thương. Ôi! Bà già này không biết nên nói sao nữa, cậu đi đến đó nhìn sẽ biết!”

Thảm? Thảm thương thế nào?

A Bảo sinh lòng hiếu kỳ lẩm bẩm nói: “Sao không nói rõ ra chứ, tại sao lại thảm…”

“Muốn đi xem không?” Lương Nguyên Kính hỏi nàng.

A Bảo: “……”

Vương thị: “???”

“Đã nói có người ngoài thì đừng nói chuyện với tôi mà!”

A Bảo buồn bực liếc chàng, bay đến chỗ cách xa chàng nhất mới thôi.

**

Vào trưa Lương Nguyên Kính cùng A Bảo đi theo Vương thị đến một hộ nhà dân.

Lần này người gặp khó nhờ vẽ có họ Quách, kinh doanh quán trà mưu sinh bên bờ sông Biện Hà, trừ vợ ông ấy ra, trong nhà còn có một trai một gái, con trai út mới tám tuổi, con gái lớn đã hai mươi ba, tên có mỗi chữ ‘Thiền’, người thân quen biết đều gọi nàng ấy là ‘Thiền Nương’, cha Quách lần này mời Lương Nguyên Kính ra tay giúp Thiền Nương.

Thiền Nương đã hai mươi mấy tuổi mà vẫn chưa được hứa gả.

Điều này đối với Đại Trần trọng hôn sự mà nói, tuyệt đối bị coi như là chuyện lạ, đặc biệt là nữ tử kết hôn muộn luôn sẽ thu hút nhiều sự chú ý hơn là nam tử, sẽ khiến người ta thấy nàng ấy không gả được, Thiền Nương cũng bởi vậy mà bị làng trên xóm dưới chê cười.

Vất vả lắm hai tháng trước bà mối Vương mới làm mai xong việc hôn nhân của nàng ấy, đối phương ở Duyên Châu, trong nhà buôn bán ngựa giấy hoa nến.

Hiện nay thế cục Đại Trần và Tây Hạ đang căng thẳng, chỉ sợ cuối năm nổi lên chiến tranh, Duyên Châu nằm ở quân Vĩnh Hưng tiếp giáp với biên giới Tây Hạ, bởi vì lo lắng đường đi không yên ổn nên nhà trai không có cách nào đến đây nhìn mặt nhau, nảy sinh ý định nhờ người vẽ bức tranh hình Thiền Nương, tốn chút bạc nhờ thương đội đưa tới Duyên Châu.

Lúc đó dân chúng tuy không dám xa nhà, nhưng thương đội đi tới phương bắc vẫn rất đông đúc, bởi vì thế cục càng loạn thương nhân sẽ càng tìm cơ hội vơ vét thêm tiền bạc.

A Bảo nghe xong thấy hơi thất vọng.

Hoá ra vì việc này, hoạ sư khác cũng vẽ được mà, vì sao nhất định nhờ bút pháp của Lương Nguyên Kính?

Hay cũng nghe nói tranh của Lương Nguyên Kính đáng giá nên cố tình bịa cớ nhân cơ hội này để phát tài?

Nàng trông thấy cha Phụ lấm la lấm lét, mặt mày hầm hầm, vừa nhìn đã biết không có gì tốt đẹp, Lương Nguyên Kính lại đơn thuần dễ lừa gạt, năm xưa đã bị cấp trên gài bẫy, lần này đừng lại bị mắc mưu nữa.

Nghĩ đến đây, nàng đưa ra quyết định nói với Lương Nguyên Kính: “Đi thôi, không vẽ vời gì hết, bọn họ mời người khác cũng được mà.”

Lương Nguyên Kính xưa nay chỉ nghe lời nàng, lập tức muốn ra về.

Cha Quách thấy thế vội lôi kéo tay chàng, nôn nóng nói: “Lương công tử đừng đi, tiểu nhân không có gạt cậu đâu! Cậu ở lại đi! Cậu thấy tiểu nữ rồi sẽ biết!”

A Bảo nghĩ thầm lại là câu này, chẳng lẽ mấy người không có lời nào khác để nói thêm à?

Nàng nhìn Lương Nguyên Kính: “Từ từ đã, gặp con gái ông ấy xong rồi nói.”

Lương Nguyên Kính gật đầu.

Cha Quách pha trà bày thêm chút điểm tâm lên, A Bảo ngồi trước bàn chống cằm nhìn Biện Hà ngoài cửa sổ, nhưng chung quy ánh mắt vẫn không thoát khỏi mấy món điểm tâm đủ màu kia.

“Muốn ăn không?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Không muốn!” A Bảo hung hăng trừng mắt với chàng, “Em chưa nguôi giận đâu, chàng đừng nói chuyện với em!”

“……”

Lương Nguyên Kính cũng di chuyển ánh mắt ra ngoài cửa sổ, đang là đầu đông, cảnh vật hai bên sông Biện Hà hơi quạnh hiu, lá rụng bay lả tả, còn có gốc cây du già bên bờ, trên thân cây nổi lên vài cục u, còn buộc một chiếc thuyền nhỏ bỏ neo, sóng nước gợn nhẹ, thuyền nhỏ cũng nghiêng ngả theo đó.

Cả hai an tĩnh ngắm cảnh vào đông, lát sau có tiếng bước chân nho nhỏ truyền đến, Quách gia đại nương tử đang được mẹ và Vương thị dẫn đi ra.

A Bảo quay đầu lại, nhất thời trợn tròn đôi mắt.

Khó trách bọn họ luôn nói thấy người rồi sẽ biết, ngũ quan của Thiền Nương thanh tú, nhưng mà…

Trên mặt có một cái bớt rất lớn.

Cái bớt kia không chỉ có màu đỏ đậm cực kỳ dễ thấy, hơn nữa hình dáng cũng không khéo lắm, gần như trải rộng khắp khuôn mặt, từ má phải kéo dài một đường qua mũi đến góc dưới má trái, hoàn toàn phá hết tướng mặt.

Vương thị bất đắc dĩ nói: “Lương công tử, cậu xem, Thiền Nương mang dáng vẻ như này, khắp thành Đông Kinh không nhà nào dám cưới cô ấy, kéo dài một hơi tới hai mươi ba tuổi, cả cha lẫn mẹ đều biến thành trò cười gần xa trong thành, vì muốn giải quyết hôn nhân cho con gái mới tìm tới tôi. Bà già này miệng lưỡi sắp rách mất mới tìm thấy Lâu gia nhị công tử ở Duyên Châu cho cô ấy, nếu cậu không giơ cao đánh khẽ giúp họ, e rằng đời này của Thiền Nương sẽ không gả đi được.”

A Bảo nghe xong rốt cuộc mới tỏ tường vì sao Quách gia không tìm người trong sạch trong thành Đông Kinh mà phải gả con gái đến Duyên Châu xa xôi đến vậy, thì ra do trời cao đất rộng, biên giới sinh ra chiến loạn, không tiện gặp mặt.

Nói vậy là muốn Lương Nguyên Kính giở trò bịp bợm à?

Nhưng dựa vào hiểu biết của nàng về Lương Nguyên Kính, người này chính trực bẩm sinh còn có lúc cố chấp, sợ là sẽ không đồng ý.

Quả đúng như suy đoán của nàng, Lương Nguyên Kính từ chối, chàng có thể tô vẽ người trong tranh thêm đẹp chứ không vẽ sai được.

Lời từ chối vừa nói ra khỏi miệng, mẹ Quách đã nắm chặt khăn tay khóc nức nở, còn cha Quách giận tím tái mặt mày tát lên mặt con gái một cái.

“Cái thứ mất mặt! Chỉ vì mày mà mặt mũi trong nhà đều mất hết cả rồi!”

Ông ta động thủ quá đột ngột khiến A Bảo hoảng sợ.

Thiền Nương bị đánh té xuống đất, được Lương Nguyên Kính đỡ dậy, chàng nhíu mày nhìn cha Quách: “Có chuyện gì cứ nói thẳng, cần gì phải động thủ?”

Sắc mặt của cha Quách tái mét, tức giận run lẩy bẩy xem chừng còn muốn xuống tay, nhưng ngại Lương Nguyên Kính đang ở đây mới phải kiềm chế tính khí: “Lương công tử, cậu có điều chưa biết, bởi vì cái thứ nghiệp chướng tai hoạ này mà tôi và mẹ nó đã bị hàng xóm nhạo báng không biết bao nhiêu lần! Hừ! Sớm biết sau này nó khiến cha mẹ mất mặt như thế, trước khi sinh ra nên b.óp ch.ết nó mới phải!”

Thiền Nương bị phụ thân mắng là ‘nghiệp chướng tai hoạ’ cũng không nói gì, chỉ yên lặng che gò má sưng lên vì bị đánh, dáng vẻ nhịn nhục cam chịu đứng yên trong một góc.

Vương thị kéo Lương Nguyên Kính sang một bên, nhỏ giọng khuyên nhủ: “Lương công tử ơi, cậu chịu làm việc tốt nên đồng ý đi, nếu không Thiền Nương sẽ bị cha già cô ấy đánh chết đó! Ôi, đứa nhỏ này đáng thương lắm, nếu không sao bà già cả đống tuổi đây phải tự chuốc khổ vào người giúp cô ấy, làm hỏng danh tiếng bao năm nay của già chứ?”

Lương Nguyên Kính nhìn Thiền Nương ở đằng sau, nói: “Tôi vẽ tranh cho cô ấy, mai này xuất giá về nhà chồng cũng phải……”

Vương thị ‘chắc như đinh đóng cột’ xen lời chàng: “Chuyện xa vời đó đừng để ý. Cô ấy xuất giá cùng lắm là chuyện sang năm, cậu vẽ trước đi, vẽ xong rồi tính!”

“……”

Lương Nguyên Kính đang còn do dự, A Bảo ở một bên vẫn luôn im lặng chợt lên tiếng: “Vẽ đi.”

Nàng nhìn cô nương im ắng lặng thinh đứng yên trong góc như muốn hạ thấp sự tồn tại của mình, nhẹ giọng nói: “Lương Nguyên Kính, vẽ cô ấy đẹp một chút.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 44: Đổi ý


Lúc Lương Nguyên Kính vẽ tranh là đẹp nhất. Dáng người cao ráo, mặt mày chuyên chú, thi thoảng ngước mắt nhìn người mẫu một cái. Ánh mắt chàng trong veo, điềm tĩnh, không mang chút d.ục vọng nào nhưng lại đủ sức khiến người ta rung động.

Dù lúc còn sống hay biến thành quỷ đã nhìn qua nhiều lần A Bảo vẫn không hề thấy chán ngán.

Nàng chống cằm nghiêm túc ngắm nhìn. Nhanh chóng nhận ra vành tai trắng ngọc của người nào đó hình như từ từ nhuộm lên màu đỏ nhạt, chầm chậm lan xuống dưới cổ áo, còn liên tiếp nhìn lại hướng của nàng.

“Lo vẽ đi, chàng nhìn em làm gì?” A Bảo nói.

Môi mỏng Lương Nguyên Kính mấp máy tựa hồ muốn mở miệng nói chuyện.

A Bảo lập tức ngăn cản: “Đừng nói, người khác nghe thấy sẽ cho rằng chàng bị điên đó.”

“……”

Sắc mặt Lương Nguyên Kính ít nhiều gì cũng có chút bất đắc dĩ.

A Bảo cười cười, đứng dậy nói: “Em ra ngoài phơi nắng đây, chàng vẽ tiếp đi.”

Nàng không ở lại chỗ này quấy nhiễu chàng, bằng không sợ đến chạng vạng chàng vẫn chưa vẽ xong.

Quán trà Quách gia gần Biện Hà, tuy không lớn lắm nhưng phong cảnh rất hợp lòng người. A Bảo đi vào hậu viện, bay lên cây du già tìm tư thế thoải mái nằm xuống.

Ánh mặt trời mùa đông thông qua lá xanh cây du chiếu xuống khiến gương mặt nàng càng thêm nhẹ nhàng trong suốt.

Mẹ Quách phơi lá trà dưới tàng cây, đứa con trai tám tuổi đang chơi đùa trong sân. Vương thị bày ghế con ra ngồi nói chuyện phiếm cùng mẹ Quách.

Hai bà ấy đang nói về Lương Nguyên Kính. Nói chàng tướng mạo xuất chúng, khí độ bất phàm. A Bảo nghe xong hết sức tự hào. Thầm nghĩ đương nhiên rồi, không thử nhìn xem là người ai thích chứ, chàng là phu quân của nàng đấy.

Nghĩ đến điểm này, vài đoạn hình ảnh mặt đỏ tim đập đêm qua hiện lên trong đầu.

Ôi cứu với.

A Bảo bụm mặt tự thôi miên bản thân là quỷ sẽ không đỏ mặt.

Chợt nghe mẹ Quách dưới tàng cây hỏi: “Lương công tử từng cưới vợ chưa ạ?”

“Cưới rồi, là tôi ấy!”

A Bảo giơ cao cánh tay lên lớn tiếng nói vọng từ trên cây. Nhưng nàng càng lớn tiếng nói thì ngoài Lương Nguyên Kính ra cũng không còn ai khác nghe thấy.

Vương thị thở dài nói: “Chưa từng cưới vợ. Nói đến cũng lạ, vị Lương công tử này dáng vẻ gia thế không tệ chút nào nhưng tuổi đã lớn mà chưa từng có thê thất gì, đến giờ vẫn một mình lẻ loi. Lúc cậu ấy mới tới Đông Kinh, có biết bao người nhờ già làm mai cho, toàn là nương tử người trong sạch, xứng đôi với cậu ấy biết bao. Nhưng cậu ấy á, không nhìn trúng ai cả, xem chừng cả đời này không cưới vợ rồi.”

A Bảo trợn trắng mắt, bà mối Vương bà toàn chọn mấy người lạ lạ gì không chứ xứng đôi với Lương Nguyên Kính chỗ nào?

Dù gì cũng phải muốn nàng mới chịu. Trong mắt Lương Nguyên Kính chỉ có mỗi A Bảo là nàng đây sao có thể xem trọng nương tử nhà khác?

Hứ! Điều đó tuyệt đối không có khả năng!

A Bảo bị suy nghĩ bản thân chọc cho cười, mừng rỡ suýt nữa ngã xuống cây.

Mẹ Quách suy đoán: “Có phải nuôi ngoại thất bên ngoài, người trong nhà không cho cậu ấy nâng lên chính thê không?”

“Không đâu!” Vương thị chắc bẩm xua tay, “Hình như cậu ấy không qua lại với nữ nhân nào hết, trừ phi có người tới cửa tìm nhờ cậu ấy vẽ tranh cho, ngay cả Tần Lâu Sở quán cũng không đi.”

Đương thời Đông Kinh có phong trào chơi gái. Kỹ quán lớn nhỏ trong thành đan xen nhau, từ mái ngói tao nhã chính quy đến tệ xá hạ đẳng mờ ám. Tính nhà thổ chắc có hơn một năm chỗ khác nhau.

Vương công quý tộc hay văn nhân đều hưởng ứng theo phong trào này. Khi dự yến tiệc thường gọi kỹ nữ tới đàn nhạc hầu rượu, trái ôm phải ấp. Thậm chí uống say còn ngấm ngầm tặng ca kỹ cho nhau là chuyện bình thường.

Ngay cả người thành thật buôn bán nhỏ như cha Quách bình thường cũng sẽ có dịp uống rượu chơi gái một lần.

Khi tất cả mọi người đều mơ mơ mù mịt mà sống, cá mè một lứa thì người ‘trời đất say mỗi ta tỉnh’ như Lương Nguyên Kính không chỉ không có vẻ đáng quý, ngược lại có chút quái dị lạc quẻ.

Mẹ Quách kinh ngạc mở to mắt: “Còn có người kỳ lạ vậy à?”

“Còn không phải sao?”

Cuối cùng Vương thị tìm được người cùng tần số, kích động ‘bốp’ một cái lên đùi rồi nhìn ngó hướng trong phòng, thần thần bí bí ghé sát vào thầm thì với mẹ Quách.

A Bảo lén nghĩ đây là đang nói gì đó. Nàng tò mò chết mất, bay từ trên cây xuống, ngồi xổm ở giữa hai bà, quang minh chính đại vểnh tai nghe lén.

Chỉ nghe Vương thị nhỏ giọng nói với mẹ Quách: “Già nghi Lương công tử này, e là chỗ đó… Mắc bệnh kín khó nói.”

A Bảo: “………”

Ý bà ấy là vậy sao? Cho rằng Lương Nguyên Kính ‘bất lực’ á?

Ha ha ha ha ha ha ha ha!

Hai bà ấy cho rằng Lương Nguyên Kính ‘không lên’ á?! Ha ha ha ha ha ha ha ha!

A Bảo cười đến lăn lộn trên mặt đất, ông trời ơi! Cười chết nàng! Sai rồi, nàng đã chết, phải là cười sống nàng mới đúng!

Lương Nguyên Kính biết chưa? Chàng có biết người ta hiểu lầm chàng cỡ đó không?

Ha ha ha ha ha ha ha!

A Bảo cực nhọc lắm thôi cười được, giả ho một cái, nghiêm túc nói: “Hai vị nghe tôi nói nè, các người hiểu lầm rồi. Lương Nguyên Kính chàng có thể ‘lên’ mà, không chỉ ‘lên’ thôi đâu, còn ‘lên’ rất lợi hại nữa ấy… Phụt! Ha ha ha ha ha ha ha!”

Hết chịu nổi! Sao còn có chuyện mắc cười dữ vậy nè?!

A Bảo đấm đấm lên đất cười ha hả.

Mẹ Quách cũng tinh tế liếc về trong phòng, lúng túng nói: “Chắc là… Sẽ không đâu?”

Vương thị nói: “Cũng không biết nữa, bất quá vị Lương công tử này đâu chỉ có mỗi chuyện lạ đó đâu?”

Còn chuyện gì nữa?

Nói luôn một lần để nàng cười cho đủ xem nào!

A Bảo cười đến đau cả bụng.

Vương thị ghé sát vào nói: “Già nghe Dư lão tức người hầu Lương gia nói, đêm Đoan Ngọ ấy, phu nhân Lương công tử cưới ở quê Dương Châu tìm đến đây…”

“Chẳng phải nói cậu ấy chưa từng cưới vợ sao ạ?” Mẹ Quách khó hiểu.

Vương thị vội vàng nói: “Nghe già nói hết đã, chuyện này có nhiều chỗ dị lắm, sang ngày hôm sau Dư lão nhắc tới vị nương tử Dương Châu đó nhưng Lương công tử chối bay biến, không có nương tử nào hết, còn nói Dư lão đang nằm mơ. Nhưng Dư lão thấy rất rõ có nữ nhân đứng trong viện, bọn họ còn nói với nhau đôi ba câu, nương tử đó nói một tràng đặc giọng Dương Châu, là đồng hương với nhau nên Dư lão có nấu cho cô ấy nồi bánh súp xong mới đi ngủ. Hôm sau thì thấy đã ăn hết, chén đũa cũng…”

Mẹ Quách cười: “Chắc người hầu già hồ đồ rồi?”

“Cũng có thể…”

Vương thị bất an nhìn nhìn phía trong phòng, nói tiếp: “Chỉ là Lương công tử này thật sự có vài phần cổ quái. Dư lão nói, cậu ấy ở nhà thường hay lầm bà lầm bầm một mình, còn sẽ vô cớ bật cười nữa. Mời vừa nãy già lại nhà tìm người cũng loáng thoáng nghe thấy cậu ấy đang cãi nhau với ai đó, nhưng vào trong nhà rồi mới biết chỉ có mỗi cậu ấy, không có Dư lão…”

Còn lại nói gì A Bảo không có nghe thấy, khoé miệng cười cười chả biết đã lẳng lặng biến mất từ khi nào.

Nàng lại bay lên trên cây lần nữa, chỉ là không còn thích thú phơi năng như bàn đầu. Quanh người như bị mây đen bao phủ.

Không, không phải người, đời người của nàng đã kết thúc vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ tư rồi.

Nàng vẫn luôn lo rằng bởi vì Lương Nguyên Kính ở cùng nàng sẽ trở thành kẻ điên trong mắt người khác. Thì ra không cần lo nữa, hiện giờ người khác đã coi chàng là kẻ điên luôn rồi.

Làm sao bây giờ?

A Bảo gối lên cánh tay, đờ đẫn nằm trên nhánh cây đến khi mặt trời lặn về tây.

Lương Nguyên Kính vẽ xong bức tranh đi tới hậu viện. Đứng dưới cây du già hơi ngẩng đầu lên trên, dịu dàng gọi người nằm chợp mắt trên cây: “A Bảo, về nhà.”

A Bảo mở mắt ra nhìn chàng ở phía dưới: “Tay đã khoẻ chưa?”

Lương Nguyên Kính gật đầu, rộng mở hai tay với nàng.

A Bảo ngó quanh bốn phía.

“Không có người.” Lương Nguyên Kính nói.

Lúc này A Bảo mới bay xuống cây, vừa hay được chàng tiếp đón vào lòng.

“Vừa nãy em cười gì vậy?”

“Không có gì.”

Nếu không nghe mấy lời nói khúc sau của Vương thị, nhất định A Bảo sẽ hứng thú bừng bừng kể cho chàng nghe tin đồn Lương Nguyên Kính ‘bất lực’. Nói không chừng còn sẽ mượn dịp giễu cợt chàng một phen, nhưng bây giờ A Bảo đã mất hết hứng thú.

“Không vui à?” Lương Nguyên Kính nhìn cô vài lần.

A Bảo phát hiện chàng rất nhạy với tâm tình tốt xấu của mình, một khi không vui luôn sẽ bị chàng nhận ra đầu tiên.

Nàng suy đi tính lại, cuối cùng không nhịn được kêu: “Lương Nguyên Kính.”

“Hửm?”

“Chàng…” A Bảo gian nan mở miệng, “Chàng có từng nghĩ tới chúng ta tách nhau…”

“Em muốn tách khỏi anh?”

Nàng còn chưa nói xong thì Lương Nguyên Kính đã hết sức kinh ngạc xen ngang: “Vì sao? Em vẫn giận anh vì sáng nay sao?”

“Không có!” A Bảo buồn bực nói, “Chàng nói nhỏ thôi! Người ta nghe thấy bây giờ!”

Căn bản Lương Nguyên Kính đã mặc kệ, khiếp sợ hốt hoảng muốn kéo tay nàng lại nhưng không được.

“Vì sao muốn tách ra? Không phải hai ta đã thành thân rồi sao? Nương tử, em đổi ý?”

“……”

Đúng là A Bảo đổi ý, nhưng nàng không dám nói câu đó ra. Nhìn Lương Nguyên Kính như vậy, y như nếu nàng lỡ nói ra hai chữ ‘đổi ý’ là chàng có thể khóc ngay trước mặt nàng vậy.

“Không có! Thật sự không có!” A Bảo rối mù xoay người đi, “Em chỉ thuận miệng mà thôi! Về nhà đi! Về rồi nói nhé! Ở lại đây nữa sẽ có thêm người coi chàng như tên điên thật đó!”

Có người bình thường nào sẽ lôi lôi kéo kéo không khí không?

Nàng còn thoáng thấy Vương thị lén lút nhô đầu từ sau cửa nhìn qua đây đấy.

Trở về cùng ngày, Lương Nguyên Kính vẫn luôn tâm thần không yên, hay dùng loại ánh mắt ‘sợ bị vứt bỏ’ nhìn nàng khiến A Bảo thấy áy náy vô cớ. Đành phải che đậy lương tâm nói loạt lời ngon tiếng ngọt, còn chỉ lên trời thề thốt sẽ không rời bỏ chàng mà đi.

Nhưng tới nửa đêm, nàng nằm ở bên cạnh Lương Nguyên Kính đang ngủ say, tiếp tục lâm vào mờ mịt.

Rốt cuộc bản thân muốn làm gì đây? Nàng và Lương Nguyên Kính sau này sẽ đi đến đâu?

Cũng không thể cả đời trôi qua như vậy?

Giữa họ ngay cả động tác nắm tay đơn giản còn không làm được. Cho dù mỗi ngày sớm chiều ở chung nhưng nàng và Lương Nguyên Kính vẫn cách nhau quãng không gian xa xôi nhất thế gian này. Đó là giữa sống và chết, khoảng cách âm và dương, như trời và đất, không có cách nào để vượt qua.

Lương Nguyên Kính cần một chính thê là con người, có thể ôm hôn chàng, âu yếm nhau, sinh con đẻ cái cho chàng, cùng chàng bách niên giai lão. Quan trọng hơn hết, chàng cần một vị nương tử mà người đời có thể nhìn thấy chứ không phải một vong hồn suy tàn ở lại thế gian này.

A Bảo nghiêng người.

Ánh trăng như nước chảy, yên tĩnh sâu kín thăm dò qua cửa sổ nhỏ. Nàng đánh giá vẻ say ngủ của Lương Nguyên Kính. Chàng ngủ trông rất đẹp rất ngoan, đôi tay theo quy củ đặt lên bụng, hô hấp ổn định.

A Bảo dựa vào ôm eo chàng. Sau đó hôn lên sườn mặt chàng một cái, nội tâm rất bình tĩnh ngầm tự quyết định.

Chờ Giác Minh hoà thượng quay về từ phương bắc, nàng phải hỏi y về cách thức đầu thai chuyển thế mới được.

Quãng thời gian nửa năm qua với nàng mà nói, vậy đã quá đủ rồi.

Cũng đã tới lúc nàng nên rời đi.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 45: Chuyện lạ


Giữa mùa đông tháng 11, gió bắc dần nổi lên, mưa phùn lành lạnh.

Không giống với Tiểu Xuân Dương ấm áp hợp lòng người, tháng này vào lúc tuyết đang rơi, báo hiệu mùa đông phương bắc chính thức bắt đầu. Sắc trời âm u, gió lạnh thổi từng cơn, ai ai cũng chờ mong trận mưa đông dầm dề để giảm bớt tình trạng hạn hán cho mùa xuân năm sau.

Tháng này cũng là thời điểm bận rộn nhất tại Đông Kinh.

Triều đình tổ chức đại triều hội vào ngày đông chí, thiên tử sẽ rời khỏi hoành thành để tế lễ tại Thái Miếu, đế hậu sẽ đến Thanh Thành Trai Cung, lập đàn tế trời đất, cầu xin năm sau mưa thuận gió hoà, thiên hạ thái bình.

Vừa dịp các quan viên châu huyện địa phương vào kinh báo cáo công tác ba năm một lần, thành ra trong ngoài thành Đông Kinh xe ngựa ồn ào náo nhiệt. Bụi bay mù mịt, các quán rượu lớn nhỏ đều tấp nập, những nơi vui chơi như Câu Lan, Ngõa tứ đều đông nghịt cả khách quen lẫn khách lạ, thay phiên nhau đèn dầu sáng đêm không tắt.

Đông chí là ngày hội người ta coi trọng nhất, không hề thua kém ngày tết, vào ngày này, ngay cả người nghèo rớt mồng tơi cũng muốn mặc áo mới ăn cơm ngon.

Dân chúng quan lại tay xách vỏ tre đựng giấy tiền vàng bạc, rượu và đồ nhắm đi ra ngoài thành thăm mộ, cúng bái tổ tiên. Trên đường con nít rong ruổi vui đùa ầm ĩ, bạn bè thân thuộc qua lại ăn mừng nhau, quan phủ nới lỏng lệnh cấm đánh bạc cá cược, cảnh tượng phồn hoa vô cùng náo nhiệt.

Lương Nguyên Kính tính vẽ A Bảo thành người lên phố dạo chơi nhưng lại bị A Bảo dùng lời lẽ nghiêm khắc cấm cản.

Từ ngày thành thân tới nay, nàng đều không chịu Lương Nguyên Kính lấy máu vẽ tranh, cho dù chàng có dùng đồ ăn ngon dụ dỗ như thế nào đi chăng nữa vẫn vô ích.

<i>“Chả dễ dàng tẹo nào,”</i> Đôi lúc A Bảo sẽ nghĩ, <i>“Mình vốn là người rất thèm ăn cơ mà sẽ từ chối hết những món điểm tâm trân quý đó vì Lương Nguyên Kính, quả nhiên so với đồ ăn ngon thì nàng thích chàng nhỉnh hơn một chút.”</i>

Đáng tiếc Lương Nguyên Kính vẫn không thể hiểu sự gian nan này của nàng. Ngược lại nhiều lần bắn phá thành trì như chùa Tướng Quốc nướng thịt cổ heo, thịt chồn hoang, thỏ xài, chim cút chiên ở chợ đêm Châu Kiều, còn có bánh nhân thịt nhà Tào bà bà, lê điều, hạnh khô, quả mơ gừng, quả vai với mua thêm nhiều loại điểm tâm màu mè khác ra để dụ hoặc nàng.

Nước dãi A Bảo chảy dài tận 3000 thước nhưng vẫn nắm chặt tay, giữ vững lập trường chính mình, quay mặt đi dù nội tâm lệ sầu tuôn rơi.

Trong chuyện muốn biến nàng thành người này, Lương Nguyên Kính biểu hiện thật sự quá tích cực, không khỏi làm nàng hoài nghi ý đồ nào khác của chàng.

“Có phải chàng nghĩ tới rồi không?” Nàng hỏi Lương Nguyên Kính.

“Nghĩ tới gì?”

“Nghĩ tới chuyện đó.” A Bảo mặt không biến sắc nói.

“……”

Mặt Lương Nguyên Kính đỏ bừng ngay tức khắc, lắp bắp phủ nhận: “Không, không phải……”

A Bảo cười giễu chàng: “Thẹn thùng cái gì, có thể hiểu mà.”

Từ đêm động phòng lần trước đến nay đã hơn một tháng. Chàng lại mới được khai trai, nhớ mãi không quên cảm thụ mất hồn kia nên muốn thêm lần nữa, về tình cũng có thể tha thứ.

“Thật sự không phải!”

Lương Nguyên Kính xấu hổ lẫn giận dữ muốn chết, gấp đến độ trên cổ quấn lớp phấn hồng hồng, “Hôm nay là đông chí, ngoài đường sẽ rất náo nhiệt, anh… Anh chỉ muốn dẫn em ra ngoài chơi thôi.”

Nói xong, có lẽ sợ A Bảo chưa tin, còn chêm thêm lời lẽ nghiêm túc vào: “Anh không muốn làm chuyện đó với em thật mà.”

“………………”

A Bảo cũng rối rắm, nghe được chính miệng phu quân nói câu ‘không muốn làm chuyện đó với em’, rốt cuộc nàng nên nổi giận hay không đây?

“À,” A Bảo miệng mỉm cười nhưng trong lòng chẳng vui, “Cũng phải ha, dù sao làm chuyện đó với em cũng đâu có sung sướng gì.”

Lương Nguyên Kính ngây dại.

“Sao vậy?” A Bảo ‘tri kỷ’ hỏi thăm, “Chẳng lẽ không phải như chàng nghĩ à?”

“Không phải……”

“Vậy thì sao?”

Lương Nguyên Kính giương mắt nhìn nàng rồi lại nhanh chóng rũ mắt xuống như không dám nhìn thẳng. Lông mi mảnh dài đậm màu, đáy mắt còn tạo ra hình quạt, khuôn mặt tuấn tú hồng hồng, môi im lặng ngập ngừng nhấp ra mấy chữ.

“Hả?” A Bảo nghiêng tai dán lại gần, “Em không nghe rõ, lớn tiếng lên chút.”

“Sung sướng lắm.”

“Sung gì cơ?” A Bảo bám riết không tha,

“Cùng em…… Chuyện đó sung sướng lắm.”

Lương Nguyên Kính đỏ mặt ráng nặn ra mấy chữ này, chàng bất đắc dĩ nhìn A Bảo: “Nương tử, không được đùa bỡn anh.”

“Ha ha ha ha ha ha ha ha ha!”

A Bảo phì cười, đấm lên bàn cười ha hả.

Trời, Lương Nguyên Kính thú vị quá!

Sao chàng lại thú vị thế?

Chỉ cần hằng ngày chọc cho chàng đỏ mặt hoài vẫn không thấy chán. Đùa với Lương Nguyên Kính vui như vậy, sau này đi đầu thai rồi sẽ không được thấy nữa, nghĩ tới vẫn thấy có chút khổ sở.

“Làm sao vậy?” Lương Nguyên Kính thấy nàng cười cười đột nhiên ngừng lại thì hỏi liền.

“Em……”

A Bảo đang tính nói chuyện, cửa thư phòng bị gõ vang lên, nàng đành phải ngậm miệng lại.

Lương Nguyên Kính đi qua mở cửa thấy Dư lão đứng bên ngoài.

“Công tử, cơm xong rồi.”

“Được, tôi biết rồi, qua ngay đây.”

Dư lão nghe xong gật gật đầu, vẫn không lập tức rời đi, mà dò đầu ngó qua ngó lại trong thư phòng, bấy giờ mới muốn nói lại thôi rồi bỏ đi.

“Vừa rồi em muốn nói gì?” Lương Nguyên Kính quay đầu hỏi A Bảo.

A Bảo không đáp, thần sắc nghiêm túc: “Dư lão hoài nghi chàng.”

Lương Nguyên Kính ngẩn ra, cuối cùng bình tĩnh nói: “Anh sẽ giải quyết.”

**

Hôm sau, Dư lão liền bị Lương Nguyên Kính sa thải.

Ông vốn là người hầu quên quán Dương Châu của Lương Nguyên Kính. Tháng chín năm ngoái, Lương Nguyên Kính đang để tang bị kim thượng ban chỉ chiếu nhập kinh, đảm nhiệm chức vụ Đãi Chiếu cục tranh vẽ Hàn Lâm.

Dư lão đi theo cậu chủ lên phía bắc, ông là người goá vợ, có đứa con trai tại thành Dương Châu. Lương Nguyên Kính cho ông hai mươi lượng bạc, tiễn ông lên thuyền về quê để ông chăm coi nhà cũ.

A Bảo rất nghi ngờ vấn đề không có Dư lão thì Lương Nguyên Kính có thể sống sót hay không. Dù sao vừa nhìn chàng đã biết là công tử sống trong nhung lụa từ nhỏ, tay chân lọng cọng, ngay cả ngũ cốc cũng không phân biệt được.

Còn Lương Nguyên Kính thì nói chàng có cách, cách của chàng là tự lực cánh sinh, tự nấu cơm cho mình ăn.

Nói ngoài miệng thì dễ, Lương Nguyên Kính không biết nhóm cả lửa. Vẫn nhờ dưới sự chỉ huy của A Bảo, chàng mới miễn cưỡng châm lửa nhà bếp, làm cho mặt mày xám tro.

A Bảo lúc này càng nghi hoặc hơn: “Rốt cuộc chàng có nấu cơm được không vậy?”

“Được.”

Lương Nguyên Kính lấy tay áo chùi chùi mặt, nghiêm trang nói, nhưng mà mặt chàng vốn dính tro bếp, chùi xong trên gương mặt trắng nõn vẫn có lốm đốm vài vết đen đen.

A Bảo thấy chàng chắc bẳm đến thế, không giống nói dối lắm mới hỏi: “Chàng từng xuống bếp à?”

Lương Nguyên Kính: “Ừm.”

A Bảo nghĩ thầm chàng từng xuống bếp mà lại không biết nhóm lửa, còn phải nhờ nàng chỉ nữa. Nhưng ngẫm lại dù gì đây cũng là ngày đầu tiên Lương công tử sống độc lập mà, không thể quá đả kích lòng tự tin của chàng, đành phải nhịn lời nói bên môi xuống, lẳng lặng mắng thầm dưới đáy lòng.

Nhưng sự thật chứng minh rằng nàng đã quá đánh giá cao Lương Nguyên Kính rồi.

Cuối cùng nấu cơm xong, hai người nhìn cái nồi lông gà vỏ tỏi, vẻ ngoài trông nhão nhẹt dinh dính, không rõ là canh hay cháo thì cùng nhau im lặng.

Khoé miệng A Bảo co quắp: “Chàng làm ra cái quái gì vậy? Ăn được không đó? Đến chó còn không ăn… Hở? Quái lạ, sao cảm giác như em từng nói lời này rồi nhỉ?”

Nàng hết sức hoang mang, Lương Nguyên Kính nghiêng đầu khoé miệng khẽ nhếch lên, bả vai mơ hồ run rẩy.

Cười có thể lây bệnh, chàng cười, chọc cả A Bảo cũng nở nụ cười theo.

Hai người nhìn mặt nhau ngây ngô cười hồi lâu, vất vả lắm mới dừng lại, A Bảo nói với Lương Nguyên Kính: “Chàng kêu Dư lão quay lại đi, còn không mướn tôi tớ khác cũng được, em sợ chàng chết đói trong nhà ấy.”

Lương Nguyên Kính không đồng ý.

Không có Dư lão vẫn có chỗ tốt, ít nhất khi bọn họ nói chuyện sẽ không còn cố tình giảm âm lượng lo lắng bị Dư lão nghe thấy nữa, cũng không cần phải để ý xem Dư lão có đang rình mò đâu đây không.

Dây thần kinh căng chặt của A Bảo rốt cuộc cũng được thả lỏng, nhưng loại nhẹ nhõm tự tại này cũng chỉ giới hạn trong toà tiểu viện này thôi.

Ra khỏi sân, nàng chọn cố gắng hết sức cách xa Lương Nguyên Kính chút, không nói chuyện với chàng, tránh để chàng có những cử chỉ dị thường trong mắt người ngoài.

Nhưng dù cách đi khá xa, tầm mắt Lương Nguyên Kính vẫn thường nhìn về phía nàng, A Bảo đã nhắc nhở rất nhiều lần chàng vẫn không thay đổi. Nàng không làm được gì với chuyện này, chỉ có thể gửi gắm hy vọng vào Giác Minh hoà thượng ở phương bắc xa xôi mau mau trở về.

**

Thời tiết từ sau vào giữa đông, sắc trời thành Đông Kinh luôn âm u khá xấu nhìn như sắp đổ trận mưa to nhưng không thành, khiến tâm tình con người ẩm mốc theo, ấm ức phiền muộn, không hề thoải mái.

Thời tiết hôm nay vẫn không tốt như thường, Lương Nguyên Kính cùng A Bảo đi dạy học ở Quốc Tử Giám xong về nhà. Chợt thấy trong nhà xảy ra sự kiện kỳ quặc quái gở.

Trên bàn bày biện cơm canh nóng hầm hập, trong nhà đã lâu không quét dọn sạch sẽ trở lại, lá rụng trong sân được quét hết, ngay cả chăn gối sáng sớm chưa kịp gấp cũng được gấp gọn gàng.

“Có phải Dư lão về rồi không?” A Bảo hỏi.

Cả hai tìm khắp cơn nhà nhỏ đều không thấy bóng dáng Dư lão đâu, trong phòng cũng không có hành lý của ông.

Lạ quá, nếu không phải Dư lão thì sẽ có người xông vào nhà người khác không ăn trộm ăn cắp mà sẽ nấu xong cơm canh, quét nhà giúp người đó sao?

“Bất thường nha.”

A Bảo cùng Lương Nguyên Kính hai mặt nhìn nhau, cuối cùng không nhịn được run lẩy bẩy hỏi: “Chàng nói coi, có khi nào là quỷ làm không?”

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo nói: “Chàng nhìn em làm gì? Em là quỷ thì không được sợ quỷ chắc?”

Chuyện lạ kéo dài mấy ngày liên tiếp, mỗi lần Lương Nguyên Kính trở về từ hoạ viện hay Quốc Tử Giám, trong nhà vẫn luôn gọn gàng cơm canh ngon miệng, quần áo giày vớ chưa kịp giặt của chàng cũng được giặt sạch xong phơi nắng trong sân.

Tuy người hầu vô hình này chăm lo rất tốt nhưng A Bảo vẫn thấy sởn tóc gáy.

Nàng luôn tin chắc chuyện này do con quỷ nào đó làm, nhưng không biết vì sao vị ‘đồng loại’ này của nàng vẫn tránh né không lộ diện ra gặp mặt nàng.

A Bảo không cần trèo tường mà trực tiếp bay vào, nhìn dáng người trèo tường thuần thục của Lương Nguyên Kính thì trợn mắt há mồm: “Chàng cũng biết trèo tường á?!”

Thấy Lương Nguyên Kính trèo tường nàng còn giật mình hơn thấy heo mẹ biết leo cây đó.

“Ừm,” Lương Nguyên Kính phủi phủi bụi đất dính trên áo ngoài, “Được một tiểu cô nương dạy.”

Tiểu cô nương?

Nhất thời đáy lòng A Bảo ngập giấm: “Tiểu cô nương gì? Tiểu cô nương nào? Dạy anh trèo tường làm gì? Quan hệ hai người rất tốt à?”

“Em ấy muốn ăn sơn trà trong sân người ta.”

Lương Nguyên Kính cười giải thích, bỗng nghe thấy động tĩnh truyền từ cửa viện, nhanh chóng thôi cười, lách mình trốn vào thư phòng, nhìn trộm qua kẽ hở cửa.

Nhìn nhìn bỗng nhiên sắc mặt nghiêm túc.

A Bảo thấy lạ: “Sao vậy? Là ai đi vào? Em nhìn xem.”

Nàng bay tới nhìn qua khe cửa, tức khắc cứng người theo.

Người đi vào xách giỏ tre chất đầy trái cây rau củ, khuôn mặt thon, dáng dấp tinh tế, ngũ quan thanh tú. Duy chỉ có bớt đỏ trải gần như trải dài hết khuôn mặt.

Là Thiền Nương.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 46: Si tình


“Quách đại nương tử, xin cô đừng làm chuyện này nữa.”

Dưới cây táo, Lương Nguyên Kính dùng lời lẽ nghiêm túc nói với cô nương trước mặt.

Thiền Nương xấu hổ đến mức chẳng dám ngẩng đầu, chỉ dịu dàng cúi đầu, lộ ra đoạn cổ mảnh khảnh trắng mơn, đỏ mặt nghẹn giọng nói: “Xin lỗi anh, Lương công tử, tôi chỉ muốn báo đáp ân tình…”

Lương Nguyên Kính xen ngang: “Cha cô đã cảm tạ tôi rồi, tại hạ không cần cô báo đáp đâu.”

A Bảo ‘chậc’ một tiếng: “Nói gì vậy? Từ từ nói chuyện được không?”

Thiền Nương bị chàng nói năng không lưu tình như vậy, cắn môi muốn oà khóc, mặt vốn đã đỏ nay còn đỏ hơn, nước mắt lay động đột ngột quỳ gối xuống.

“……” A Bảo hoảng sợ, vội vàng nhảy sang bên cạnh, “Làm sao thế? Đâu cần hành lễ lớn tới vậy?”

Lương Nguyên Kính cũng lắp bắp kinh hãi muốn kéo nàng ấy đứng dậy, chợt thấy vậy không thoả đáng, đành thu tay bắt chước A Bảo tránh sang một bên.

Thiền Nương lê đầu gối lại gần, ngón tay mảnh khảnh nắm lấy vạt áo của Lương Nguyên Kính, khóc lóc nói: “Lương công tử, cầu xin ngài cứu mạng nô gia với, Thiền Nương không cầu danh phận, chỉ xin kiếp này có cơ hội ở cạnh phụng dưỡng cho công tử…”

“………”

A Bảo hạ tay xuống, không nói gì nhìn lên trời. Đêm đông, cây táo sớm rả rụng hết lá, sao nàng còn cảm giác trên đầu có mảnh xanh ý dạt dào?

<i>“Chẳng phải cô ấy đã đính hôn với người khác rồi sao?”</i>

Nàng nói thầm trong lòng, vậy mà Thiền Nương cô nương này còn bày trò cạy góc tường nhà nàng đi, cũng thật dũng cảm mà, trong lòng nàng thêm ê ẩm thêm hụt hẫng.

A Bảo quái gở móc mỉa cười, lia mắt chòng ghẹo Lương Nguyên Kính: “Lương công tử được chào đón thật nha, xưa có tiểu cô nương dạy chàng trèo tường thì nay có nữ tử nấu nướng cho chàng, số đào hoa mạnh quá. Theo em thấy, chi bằng cưới người ta làm vợ đi, để cô ấy tận tâm phụng dưỡng chàng nhé?”

“…………”

Lời nói sắc bén như dao găm, sát khí ngợp trời.

Lương Nguyên Kính thức thời chọn cách tránh đi mũi nhọn, hỏi ngược lại Thiền Nương: “Tôi nhớ rõ nhà cô đã tìm người đính hôn rồi mà.”

Thiền Nương nước mắt lã chã, khóc không thành tiếng: “Tôi không muốn gả tới Duyên Châu, càng không muốn gả cho người ngay cả mặt còn không biết, nhưng còn cha… Lương công tử, cầu ngài cho nô gia cơ hội đi mà, Thiền Nương chắc chắn sẽ làm trâu làm ngựa báo đáp ngài……”

“Làm trâu làm ngựa báo đáp chàng kìa.” A Bảo nhướng mày, hứng thú lặp lại.

“………”

“Không được.” Lương Nguyên Kính nhất quyết từ chối nàng ấy.

Thiền Nương dại ra quên cả khóc: “Vì sao ạ? Có phải… Vì cái bớt của tôi?”

Nàng ấy xoa mặt mình, đầu ngón tay hơi run nhẹ.

“Không phải.” A Bảo nói, nàng hiểu rất rõ Lương Nguyên Kính không phải người như vậy.

“Tôi đã cưới vợ.” Sắc mặt Lương Nguyên Kính lạnh nhạt nói.

“! ! !”

A Bảo bất ngờ ngẩng đầu, không dám tin nhìn chàng.

Thiền Nương cũng trừng to mắt, mặt đầy khiếp sợ.

Lương Nguyên Kính nói: “Cô nên về đi, sau này đừng đến nữa.”

Thiền Nương như rơi vào mộng, hốt hoảng đứng dậy, đứng ngốc tại chỗ, si mê ngẩn ngơ nhìn Lương Nguyên Kính. Đột nhiên nói nhỏ như tiếng muỗi: “Tôi có thể làm thiếp.”

“Cái gì?” Lương Nguyên Kính sững sờ.

“Làm thiếp hay không đều được,” Thiền Nương thấp giọng nói, “Miễn tôi có thể ở lại bên cạnh công tử là được ạ.”

A Bảo im bặt, lặng lẽ lê bước qua một bên, đờ đẫn ngửa đầu nhìn vài con quạ đen trên cây táo.

Lương Nguyên Kính hãi hùng một lát, bỗng nhiên như thấy vô cùng nhục nhã, mặt mày đỏ ngầu đầy giận dữ, xưa nay chưa từng nói ra lời lẽ gay gắt như giờ: “Cả đời này của Lương Nguyên Kính, chỉ có duy nhất mỗi nương tử của mình, tuyệt đối không nạp thiếp!”

A Bảo nghe được lời này trong lòng chợt động, dưới tàng cây táo quay đầu lại, phần mềm nhất dưới đáy lòng dường như bị chọc trúng.

<i>“Chỉ là, tôi không làm thiếp, nếu anh thật lòng thích tôi, phải chuẩn bị mười dặm hồng trang vẻ vang cưới tôi vào cửa.”</i>

Thời tiết cuối xuân năm ấy, mọi người ở Minh Thuý phường đưa tiễn Thôi nương tử ra bên đò xuất giá, lúc đó mặt trời lặn về tây, thuyền bè Trường Giang lui tới, ngàn buồm xa xa, nắng vàng vụn vặt trên mặt sông, nàng nắm cây xuân thảo mọc bên bờ, quay đầu nói thế với Triệu Tòng.

Triệu Tòng nghe xong thì im lặng rất lâu, cuối cùng nói: <i>“Được, ta sẽ thử.”</i>

Sau đó, đêm khuya Thái Tông triệu hắn vào cung, về tới vương phủ, cả người hắn đầy mùi rượu, hai mắt ửng đỏ nói với A Bảo, hắn cần cưới Tiết Hành làm vợ.

A Bảo khóc quấy, vung tay đá chân trong lòng ngực hắn, gào la phải về Dương Châu, đi ngay trong đêm đó.

Triệu Tòng gắt gao ôm nàng, giọng điệu khàn khàn cầu xin: <i>“Đừng xa ta mà, Uyển Nương, dù là ta cũng phải có lúc thân bất do kỷ……”</i>

Chuyển cảnh đến đêm khuya nọ tại Khôn Ninh Điện.

<i>“Là do ta đã quá nuông chiều ngươi.”</i>

Triệu Tòng ôm trán đang chảy máu không ngừng, lúc nói ra câu đó, ánh mắt hắn nhìn nàng rất lạnh lùng, rất đỗi xa lạ, làm nàng như rơi xuống hầm băng.

Đến tẩm các của Tiết Hành.

Các ngự y sứt đầu mẻ trán, bọn thị nữ bưng thau đồng đựng đầy máu loãng ra ra vào vào, mọi thứ biến thành đống hổ lốn.

Nàng tê liệt ngồi ở thảm dệt vàng, gương mặt dại ra, nghe thấy Triệu Tòng cay nghiệt tuyên bố: <i>“Lý thị điên cuồng làm càn, người đâu! Cởi bỏ phục chế Hoàng hậu của ả ra, phế thành thứ dân ngay trong hôm nay, cấm túc Khôn Ninh Điện!”</i>

<i>“Cả đời này của Lương Nguyên Kính, chỉ có duy nhất mỗi nương tử của mình, tuyệt đối không nạp thiếp!”</i>

Tuyên ngôn của Lương Nguyên Kính còn nán lại bên tai nàng, quanh quẩn chưa dứt, vậy mà chàng nói ra dễ như trở bàn tay, chút do dự cũng không, nội tâm A Bảo vừa kinh ngạc vừa luống cuống sợ hãi, trăm mối cảm xúc ngổn ngang.

Bị chấn động kinh ngạc không chỉ có mỗi nàng,

Thiền Nương hé môi muốn nói lại thôi, bỗng nhiên thật dè chừng ngước mắt nhìn Lương Nguyên Kính, nhỏ giọng nói: “Nhưng mà… Nghe mẹ tôi nói, công tử chưa từng cưới vợ mà ạ.”

Lương Nguyên Kính nhíu mày: “Tôi cưới rồi.”

“Vậy…” Thiền Nương ngước mắt dồn hết can đảm hỏi, “Xin hỏi tôn phu nhân đâu ạ?”

“……”

Cô nương này cũng thật biết nói, chuyên chọc vào ống phổi người ta.

A Bảo nhu ngược giơ tay: “Đây này.”

Sắc mặt của Lương Nguyên Kính càng tệ hơn, vẻ mặt căm phẫn rõ rệt, tính cách chàng hiền hoà, hiếm khi giận dữ như bây giờ, bỗng nhiên quay người lại cắm đầu bước thẳng vào thư phòng.

A Bảo đi theo sau, thấy chàng lật ra bản vẽ lúc trước, trong lòng nhảy số: “Chàng muốn em biến thành người đuổi Thiền Nương đi giúp chàng à?”

Lương Nguyên Kính không đáp chỉ tìm dao ở chung quanh.

A Bảo ngăn trước người chàng lại, buộc chàng phải nhìn mình: “Lương Nguyên Kính, chàng dừng lại đã, em không đồng ý đâu, đây là chuyện của chàng, chàng phải tự mình giải quyết, em không giúp đâu.”

“Em không tức giận?” Lương Nguyên Kính hỏi nàng.

“Tức giận cái gì?”

“Cô ấy muốn gả cho anh, em không tức giận?”

Lương Nguyên Kính hai mắt đỏ ngầu chất vấn, tuy là hỏi nàng có tức giận hay không nhưng trông chính chàng còn giận dữ hơn nữa, tức đến mức tay run bần bật.

A Bảo tránh né ánh mắt nóng rực ấy theo bản năng.

Tức giận?

Nàng có lập trường gì để giận?

Thiền Nương nói đích xác không sai mà, chỉ mỗi chàng thừa nhận ra bên ngoài mình đã cưới vợ thì sẽ có ai đó hỏi ngược lại vấn đề này, ‘Anh nói anh cưới vợ rồi vậy sao không thấy nương tử anh đâu’, ‘Còn không phải gạt người ta à’.

Huống hồ Thiền Nương thích chàng, thích tới vậy làm A Bảo tức không nổi, cùng lắm chỉ thấy vài phần chua xót thôi.

Thiền Nương không tâm cơ kín đáo như Tiết Hành, cũng không phải mấy nương tử mắt cao hơn đầu chốn hậu cung của Triệu Tòng, nàng ấy chỉ là cô nương đơn thuần, bởi vì Lương Nguyên Kính chịu ra tay giúp đỡ Quách gia nên mới ‘vừa gặp đã thương’ chàng.

A Bảo không chỉ không thấy giận, ngược lại còn có loại tự hào mờ nhạt, bởi vì Lương Nguyên Kính là người xuất sắc như vậy nên có người thích chàng cũng chẳng có gì lạ.

Nàng cũng không rõ sao mình lại có suy nghĩ khoan dung như vậy nữa, từ nhỏ nàng đã có d.ục v.ọng chiếm hữu nặng nề, đối với người mình thích còn muốn độc chiếm chặt chẽ hơn, không được để ai khác mảy may nhúng chàm.

Năm xưa trong cung cấm, ngoại trừ xuất thân ra, ghen tuông chính là tội danh lớn thứ hai mà nhóm Ngự Sử công kích nàng, phụ nhân đố kỵ là phạm vào một trong bảy tội danh [1], nghiêm trọng sẽ phải bị hưu thê.

<i>[1] Bảy điều chồng có thể bỏ vợ thời phong kiến: ¹ Không sinh con; ² Ghen tuông; ³ Mắc bệnh hiểm nghèo; ⁴ d*m đ*ng; ⁵ Không phụng dưỡng cha mẹ chồng; ⁶ Gây bất hoà trong nhà; ⁷ Trộm cắp. Phạm 1 trong 7 tội sẽ bị nhà chồng bỏ. (nguồn thuvienphapluat)</i>

A Bảo cũng hiểu bản thân như vậy không tốt, nhưng nàng nhịn không được.

Nếu thích ai nàng chỉ mong trong mắt người đó chỉ có mỗi mình nàng, không muốn chia sẻ với nữ nhân nào khác, kiên trì tín nhiệm cả đời nhưng không rõ vì sao lúc đến Lương Nguyên Kính thì lại hoàn toàn thay đổi.

<i>“Có lẽ do mình quá yêu chàng.”</i> A Bảo nghĩ. Yêu càng nhiều càng quên sạch mọi ghen ghét.

“Tay chàng chưa khoẻ mà.” Nàng chỉ nghĩ được mỗi lý do này.

“Được.” Lương Nguyên Kính nói.

A Bảo im lặng chốc lát rồi nói: “Em biến thành người cũng sẽ không giúp chàng đâu.”

Lương Nguyên Kính mím môi vẫn chọn tự cắt bàn tay, máu tươi rơi vào trong tranh, đúng vào bức tranh Lý Hùng đưa lại cho chàng vào đêm trung thu.

Lại thêm một sẹo, A Bảo nhìn lòng bàn tay chảy máu của chàng.

Sau đó không lâu, nàng hoà thành người đã bị Lương Nguyên Kính mạnh mẽ dắt ra thư phòng đi đến trước mặt Thiền Nương.

Ba người không ai nói lời nào.

Thiền Nương ngơ ngác nhìn A Bảo, nước mắt như hạt châu đứt dây tuôn ra, cuối cùng vùi đầu chạy ra khỏi sân, đến cái giỏ tre cũng không lấy đi.

“Hơi quá rồi đó.”

A Bảo bâng quơ liếc nhìn Lương Nguyên Kính, cầm lấy giỏ tre bên giếng đuổi theo người.

Thiền Nương cũng không chạy đi quá xa, ngồi xổm cách sông hộ thành không xa, cúi đầu ngây ngốc nhìn mặt nước.

A Bảo lo lắng nàng ấy nghĩ quẩn trong lòng, vội đi qua đưa giỏ trẻ cho nàng ấy.

“Cô bỏ quên cái này.”

Thiền Nương nhìn nàng, không nhận lấy, nước mắt đầy mặt.

A Bảo thở dài đặt giỏ tre lên mặt đất, bản thân ngồi xuống bên cạnh: “Cô tính nhảy sông à? Đừng nhảy, lần trước cũng có tên ngốc nhảy xuống đó rồi nhưng nước sông quá cạn, mùa đông nước nông hơn, nhảy cũng không chết còn bị ướt người, cần gì phải vậy?”

Thiền Nương không ngờ sẽ nói chuyện với nàng, hồi lâu sau mới rũ mắt nói: “Người như tôi sống cũng đâu được tích sự gì?”

A Bảo cười: “Sống không thú vị à? Thú vị mà. Bánh nhân thịt nhà Tào bà bà ngon không? Châu Kiều Ngoã Tử đẹp không? Thuyền rồng tết Đoan Ngọ hằng năm có náo nhiệt không? Còn có hoa đăng mười lăm tháng giêng nữa, nếu cô chết rồi sẽ không ăn được gì không ngắm được gì, không thấy tiếc à?”

Thiền Nương ngơ ngác, nước mắt không rơi nữa.

A Bảo lấy khăn tay ra lau nước mắt trên mặt nàng ấy, an ủi nói: “Đừng thương tâm, trên đời không chỉ mỗi nam tử như Lương Nguyên Kính, sẽ có một ngày cô cũng sẽ tìm được lang quân như ý mình.”

Gió sông thổi tới, Thiền Nương si mê nhìn nàng hồi lâu, lẩm bẩm nói: “Cô xinh đẹp tốt bụng như vậy, khó trách Lương công tử sẽ thích cô, tôi thấy rất hâm mộ.”

A Bảo cười cười, không nói gì.

Hâm mộ nàng sao?

Không ngờ luôn, nàng cũng rất hâm mộ Thiền Nương. Nàng hâm mộ nàng ấy có thể quang minh chính đại nói muốn gả cho Lương Nguyên Kính, hâm mộ nàng ấy có thể rửa tay nấu canh cho chàng mà không cần lo sợ hại cơ thể chàng có thêm vết sẹo.

A Bảo quẹt đi lệ nóng bất ngờ chảy xuống trên má mình, quay đầu nhìn Lương Nguyên Kính đứng dưới cành liễu chờ nàng cách đó không xa. Rốt cuộc mới hiểu ra vì sao nàng không đố kỵ nổi với Thiền Nương.

Bởi vì Thiền Nương có thể cho Lương Nguyên Kính những thứ nàng không cho được. Tỷ như một bữa cơm nóng sau khi về nhà, tỷ như cái ôm ấm áp, tỷ như may vá giặt giũ cho chàng, có máu nóng có da thịt.

Còn nàng thì hy vọng Lương Nguyên Kính luôn có được những điều tốt đẹp nhất.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 47: Oán khí


Về đến nhà, A Bảo đã trở lại thành linh hồn.

Lương Nguyên Kính im lặng không nói gì. Đi vào thư phòng, sắp xếp lại từng bản phác thảo đã tìm.

“Tay được bôi thuốc chưa?” A Bảo hỏi.

Chàng dừng động tác trên tay, lẳng lặng nhìn A Bảo.

A Bảo lảng tránh ánh mắt kia, nói: “Mau đi bôi thuốc đi.”

Lương Nguyên Kính buông bản phác thảo xuống, đứng dậy tìm thuốc bột. Vết cắt trong lòng bàn tay vẫn chảy máu liên tục, hai bên da thịt hơi hở ra ngoài, trông thấy rợn người.

A Bảo nhíu mày: “Sao lại thế này? Máu vẫn còn chảy kìa.”

Bình tĩnh quan sát, miệng vết thương lần này cũng đâu quá lớn, hẳn phải dừng chảy máu lại chứ.

Lương Nguyên Kính không nói chuyện, đổ bột thuốc lên lòng bàn tay, bột phấn trắng hòa lẫn máu đỏ tươi nhoè nhoẹt cả lên.

A Bảo ở một bên nhìn, sâu trong nội tâm bỗng trào ra loạt cảm giác bất lực.

Trước đây nghe có người nói câu, ‘Đánh vào người thân, lòng đau như cắt’. Nàng luôn không thể lý giải nổi, trên đời làm gì có chuyện đồng cảm nào như vậy, gậy đập vào lưng người khác sao bản thân biết đau được chứ?

Nhưng cho đến bây giờ nàng mới biết, hoá ra những lời nói đó rất đúng.

Nhìn vào miệng vết thương của Lương Nguyên Kính khiến tim nàng đau như dao đâm. Bàn tay đẹp đẽ tinh xảo như đồ sứ nhất phẩm mà lại chồng chất vết thương. Lòng bàn tay bị chi chít những vết dao cắt nông sâu mờ nhạt. Trên mu bàn tay phải còn có vết sẹo hình chim yến, gần như hung đỏ hai mắt nàng.

A Bảo khe khẽ lên tiếng: “Lương Nguyên Kính, chàng có nghĩ tới việc cưới một phu nhân hay chưa?”

Động tác thắt nút vết thương của Lương Nguyên Kính khựng lại, yên lặng nhìn nàng.

“Là em đó.”

“Em không phải,” A Bảo dời tầm mắt, “Chàng cần cưới một phu nhân người đời nhìn thấy được chứ không phải một quỷ hồn.”

“Chúng ta đã bái thiên địa.”

Lương Nguyên Kính nói, quanh vành mắt ửng đỏ lên ngay lập tức.

“Vậy thì bái thêm lần nữa đi, cưới phu nhân như Thiền Nương cũng không tồi. Không cần lo em sẽ ghen đâu, Lương Nguyên Kính, nếu được em vẫn ở bên cạnh chàng mà.”

Điều kiện là chàng không được tổn thương bản thân vì nàng nữa, đáy lòng A Bảo lặng lẽ bổ sung.

“Em đây là đang sỉ nhục anh.”

Lương Nguyên Kính lạnh lùng nói. Sau đó chàng cúi đầu tiếp tục sắp xếp lại phác thảo, nhưng đôi tay lại run rẩy kịch liệt chứng tỏ giờ phút này chàng không hề bình tĩnh.

A Bảo đầu đau như nứt: “Vì sao chàng phải cố chấp tới vậy? Lương Nguyên Kính, tôi nói lại lần nữa, tôi chết rồi, tôi là quỷ……”

Chàng ngẩng đầu đăm đăm nhìn A Bảo, mắt sáng như đuốc, lồng ng.ực phập phồng mãnh liệt: “Anh biết, em không cần nhắc nhở anh mãi, việc em chết rồi anh rõ ràng hơn ai hết! Nhưng vậy thì sao? Anh không quan tâm người đời nhìn mình như thế nào, anh cũng không để ý dục nam dục nữ, anh chỉ cần cùng em… mãi mãi bên nhau là đủ rồi.”

Nói đến cuối chàng đã có chút nghẹn ngào.

A Bảo không đành lòng nghiêng đầu. Ánh mắt bi thương của Lương Nguyên Kính khiến lòng dạ nàng thấy áy náy, làm nàng đau lòng. Đó là ánh mắt chân thành nhất thế gian, chất chứa tình ý cuồn cuộn như sóng nóng dung nham.

Chàng thích nàng thật rồi, A Bảo nghĩ.

Đáng tiếc là nàng đã chết, thứ chàng thích chỉ là một vong hồn. Thế gian luôn đầy rẫy chuyện trời xui đất khiến, ép người ta phải bó tay hết cách không xoay chuyển được.

A Bảo mềm giọng nói: “Em quan tâm.”

Vành mắt Lương Nguyên Kính phiếm hồng, cơ hồ cố chấp lặp lại: “Chúng ta đã thành thân, em không được đổi ý.”

“Em đổi ý,” A Bảo rũ mắt nói, “Mấy cái đó không tính.”

“Em……”

Lương Nguyên Kính đột ngột đứng dậy từ án thư, có lẽ do hành động bất chợt quá nên đầu óc có chút choáng váng. Cơ thể lung lay phải chống lên mép bàn mới không té ngã.

A Bảo hoảng sợ, vội lại gần đỡ: “Chàng làm sao vậy? Chàng không sao chứ?!”

Lương Nguyên Kính không thèm nhìn nàng, vòng qua nàng đi thẳng ra ngoài. Lúc ra đến cửa, bỗng nhiên thân hình vụt qua một cái, vịn lên khung cửa, ‘phụt’ nôn ra bãi máu đen, cả người cứ như vậy từ từ ngã xuống.

“Lương Nguyên Kính⎯”

A Bảo sợ tới mức hét lên, cuống quít tiến lại xem xét tình hình, hai mắt Lương Nguyên Kính nhắm chặt, mặt như giấy vàng, trên cằm còn dính vệt máu đen. Cho dù nàng có gọi thế nào cũng không có tiếng đáp lại.

“Chàng đừng làm em sợ mà!”

“Tỉnh lại tỉnh lại! Lương Nguyên Kính!”

A Bảo muốn nâng chàng dậy nhưng đôi tay lại xuyên thấu qua hai bên vai chàng. Nàng gấp rút lao ra cửa. Lúc còn vài bước nữa ra đến trước mặt y như có bức tường sắt, nàng không đi xuyên qua được.

“Hừ!”

A Bảo điên người vung tay đá chân.

“Người đâu ⎯⎯ Cứu mạng với! Có ai không mau tới đây cứu chàng với!”

A Bảo khóc lớn kêu to, bởi vì không ch** n**c mắt nên chỉ có thể gào thét. Nàng thầm cầu xin chư thiên thần phật, ai cũng được, miễn là có người có thể tới đây cứu giúp Lương Nguyên Kính thì nàng có tan thành mây khói hay vào mười tám tầng địa ngục đều được!

Có lẽ lời cầu nguyện của nàng thật sự được thần linh nghe thấy, cửa viện đẩy ra, có ai đó từ bên ngoài đi vào.

“Thiền Nương à!”

A Bảo chưa bao giờ cảm kích cô nương này tới vậy, “Cảm ơn trời đất! Cô nương à, chàng trong thư phòng ấy, cô mau qua đó nhìn thử đi!”

Thiền Nương không nghe thấy nàng nói chuyện, nhưng nàng ấy quay lại đây chắc là tới tìm Lương Nguyên Kính.

Sau khi tìm khắp sân không thấy Lương Nguyên Kính đâu, nàng ấy do dự chốc lát mới nhấc dây đi đến thư phòng.

A Bảo nôn nóng đi theo phía sau nàng ấy. Thấy nàng ấy cực kỳ hốt hoảng nâng Lương Nguyên Kính té xỉu dậy, cắn răng dồn hết sức đưa chàng vào trong sương phòng, xong đỡ chàng nằm lên trên giường.

Lương Nguyên Kính vẫn luôn hôn mê bất tỉnh. Thiền Nương lau vết máu khô trên khoé miệng chàng, xong đút cho nàng miếng trà nóng. Nhưng khớp hàm của chàng ngậm chặt, nước trà không rót đi vào được.

Thiền Nương vỗ vỗ mặt chàng, hô vài tiếng “Lương công tử” vẫn không có tác dụng.

A Bảo ở bên cạnh như kiến bò trên chảo nóng: “E là do nộ khí công tâm [1], phải mời đại phu đến xem sao!”

<i>[1] Vì đau khổ phẫn nộ nên hôn mê gọi là nộ khí công tâm, dựa theo cách gọi của đông y.</i>

Không cần nàng nói, Thiền Nương cũng nghĩ đến việc này. Nàng ấy vội vã đi mời đại phụ đến, A Bảo không đi chung mà ở lại trông coi Lương Nguyên Kính đang hôn mê.

“Thực xin lỗi……”

A Bảo ngồi bên giường, nhìn sắc mặt tái nhợt của chàng, lòng dạ đau nhói vô cùng, che mặt khóc lóc nói: “Thực xin lỗi, thực xin lỗi, thực xin lỗi, là em hại chàng……”

“Lương Nguyên Kính, chàng nhất định đừng xảy ra chuyện, nếu không……”

Nếu không muốn nàng làm sao bây giờ? Nàng có chết vạn lần cũng không đền tội nổi.

A Bảo mất trí thẫn thờ ngồi đó, không rõ đã trôi qua bao lâu, chợt nghe ngoài viện có tiếng bước chân.

“Nhanh vậy sao?” Nàng đứng dậy ra xem, vừa đến sân bước chân liền dừng lại.

“Đại hoà thượng?”

Giác Minh hoà thượng mặc bộ tăng bào, phong trần mệt mỏi, tay cầm thiền trượng đi vào sương phòng.

Thấy Lương Nguyên Kính hôn mê nằm trên giường, nhất thời kinh hãi vội gác thiền trượng sang một bên. Tiến lại gần bắt mạnh lên cổ tay của chàng, lại cúi đầu áp sát tai nghe tiếng tim đập trong ngực chàng, sắc mặt càng thêm căng thẳng.

Ngay sau đó, y ngẩng đầu xoắn ống tay áo của Lương Nguyên Kính lên. Mở băng vải được quấn ra, chỉ thấy trên cánh tay thon gầy toàn là vết dao nông sâu không đồng nhất cũng không khép lại. Máu thịt cuộn ngược ra ngoài, bốc lên khói đen dày đặc.

A Bảo trợn to đôi mắt, tại sao……

Vết thương hở của Lương Nguyên Kính sao còn chưa kẹp lại nữa? Đây là chuyện từ khi nào? Tại sao chàng chưa từng nói qua cho nàng hay?

Giác Minh hoà thượng nhíu nhặt mày: “Không ổn rồi, oán khí đã xâm nhập vào cơ…”

Oán khí?

A Bảo hốt hoảng quay đầu, vô cùng khiếp sợ nhìn hoà thượng.

Giác Minh lấy chăn trên giường bọc Lương Nguyên Kính lại rồi nâng ngang người lên, nhấc cây thiền trượng sải bước ra ngoài.

**

Ba ngày sau, Lương Nguyên Kính tỉnh lại trong th phòng tại chùa Đại Tướng Quốc.

Sau khi tỉnh dậy, phản ứng đầu tiên của chàng là đưa ánh mắt tìm kiếm bóng hình của A Bảo. Thấy nàng không lui tới dính bên cạnh chăm coi mình như lúc thông thường mà là ngồi trong góc xa xa, dựa vào vách gỗ lơ đễnh suy tư.

“Nương tử……”

Lương Nguyên Kính gọi nhẹ một tiếng, mở miệng ra mới biết giọng điệu nghẹn ngào lạ thường.

A Bảo nghe thấy chàng gọi mình nên chóng hoàn hồn đứng dậy, nhưng vẫn tay chân luống cuống đứng tại chỗ: “Anh tỉnh rồi? Có đau chỗ nào nữa không? Đừng! Đừng ngồi dậy! Anh còn chưa khoẻ……”

Lương Nguyên Kính vừa cử động đã cảm thấy tức ngực nghẹt thở. Lồng ng.ực như bị khí hư chặn lại, làm chàng buồn nôn phiền muộn. Mới thoáng nhích người một chút là trán đã đổ từng đợt mồ hôi lạnh.

Chàng đành hoãn lại, nói với A Bảo: “Nương tử, lại đây…”

A Bảo chần chừ tại chỗ, cúi mặt nói: “Tôi không qua đâu, anh đừng cử động nữa, chắc Giác Minh hoà thượng sẽ lại đây, vào canh giờ này mỗi ngày y đều sẽ tới thăm anh…”

Vừa dứt lời, cửa thiền phòng được người ta đẩy ra.

Giác Minh bưng chén nước thuốc tiến vào. Thấy Lương Nguyên Kính trên giường đã mở mắt, nhất thời la lên, đặt nước thuốc lên bàn, hết sức kích động xông tới.

Vốn muốn đánh một cái lên người Lương Nguyên Kính nhưng lại sợ hại người thêm nên đành tự tát một cái lên đầu trọc bản thân.

“Tiểu hữu Nguyên Kính! Cậu tỉnh rồi! Ba ngày nay thật là muốn hù chết tiểu tăng, thiếu chút nữa cho rằng cậu không chống đỡ nổi……”

“Ba ngày?”

“Đúng vậy, cậu đã hôn mê ba ngày! Tận ba ngày!”

“Đã xảy ra chuyện gì?”

Lương Nguyên Kính nhíu mày. Ấn tượng của chàng dừng lại vào thời khắc A Bảo nói ‘không tính’ kia. Lúc ấy ngực chàng nhói đau như bị đâm xuyên tim, nôn ra bãi máu rồi sau đó hai mắt tối sầm bất tỉnh như sự.

Đến nay nhớ lại câu nói kia của A Bảo chàng vẫn thấy đau như tim bị khoét. Sắc mặt trở nên tái nhợt hơn, trán đổ mồ hôi lạnh như đá.

“Chớ nghĩ, chớ lo.”

Bàn tay ấm áp của Giác Minh xoa xoa vùng giữa mày của chàng, trong miệng lẩm nhẩm niệm bài kinh Phật.

Cảm giác phiền muộn tắc nghẽn trong lòng Lương Nguyên Kính rốt cuộc cũng rút đi chút chút, nghe thấy Giác Minh thấp giọng thở dài: “Tiểu hữu Nguyên Kính ơi, đêm Đoan Ngọ tiểu tăng đã nói với cậu rồi, chấp niệm quá mức sẽ tổn hại đến tuổi thọ của cậu, người và quỷ khắc nhau, chung quy vẫn không phải chính đạo, đáng tiếc cậu chưa chịu đem nửa phần tôi nói lọt vào tai…”

“Không……”

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu theo bản năng nhìn về phía A Bảo.

Cuối cùng A Bảo tiến lại gần đây, hé mắt nhìn vết thương đan xen trên cánh tay chàng, nói: “Vết thương của anh chưa từng khép lại, tại sao gạt không nói cho tôi biết?”

Lương Nguyên Kính xoã ông tay áo xuống: “Đều là vết thương nhỏ mà thôi.”

“Vết thương nhỏ?” Giác Minh trợn mắt nói, “Tiểu hữu Nguyên Kính, đây đâu phải là bị thương nhỏ, đây là trọng thương muốn mạng cậu mới đúng. Cậu có hay cảm thấy ngực tích tụ khí hư, buồn bực khó tiêu không?”

Lương Nguyên Kính gật đầu, khó hiểu hỏi: “Điều này là sao?”

Giác Minh than nhẹ một hơi, vẻ thương xót giữa mày càng hiện rõ, nói: “Điều này chứng minh, hiện giờ oán khí đã xâm nhập vào cơ thể cậu, dự sắp thấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, nếu tôi tới muộn thêm một bước nữa, e là giờ phút này cậu đã mất mạng luôn rồi.”

“Oán khí?”

Lương Nguyên Kính ngạc nhiên ngẩng đầu, không dám tin tưởng mười phần.

“Là tôi, oán khí do tôi.”

A Bảo lẳng lặng nhìn chàng, đôi mắt xinh đẹp ngập tràn nỗi đau thương.

Nàng mềm giọng nói: “Tôi là ác quỷ, Lương Nguyên Kính.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 48: Ác quỷ


Lúc mới biết bản thân là ác quỷ, A Bảo đã chẳng giấu được vẻ hãi hùng.

Nếu không tính đứa nhỏ của Tiết Hành đã chết trong tay nàng thì sơ lược sinh thời nàng chưa làm qua chuyện gì xấu. Sau khi chết cũng được coi là quỷ lành, thứ nhất không doạ người, thứ hai không hại người, nhưng theo Giác Minh nói cũng không phải tính như vậy.

Quy luật đạo trời, trong sáu cõi gồm người, quỷ, thần đều phải an vị không được quấy nhiễu lẫn nhau. Người sau khi chết đi thân xác tiêu hủy, linh hồn lên trời, xuống âm ty nơi chín suối, đến Diêm La Điện thanh toán hết mọi công đức và tội lỗi của mình. Sau đó qua cầu Nại Hà, uống chén canh Mạnh Bà quên hết chuyện cũ, nhảy vào giếng luân hồi để chuyển thế thành người. Đó là vòng đời của một người phàm.

Nếu giống như A Bảo đây, sau khi chết không xuống địa phủ hoàng tuyền mà hồn vía phiêu bạt chốn trần gian, dần dà sẽ sinh ra tham luyến nấn ná nhân gian này.

D.ục vọ.ng càng tích càng sâu, càng căng càng lớn, lòng tham không được thoả mãn sẽ sinh ra oán khí. Nó chính là thủ phạm hại miệng vết thương Lương Nguyên Kính không được lành lặn.

Ngày nào chưa trừ bỏ oán khí, ngày đó vết thương của chàng không thể lành lại. Cho đến khi tinh khí trên người đều bị A Bảo hút đi sạch sẽ, cuối cùng chỉ còn đi đời nhà ma. Đây là nguyên nhân chính mà ‘người và quỷ khắc nhau’ như Giác Minh từng nói.

Mặc cho A Bảo không ngờ vào một ngày nào đó nàng sẽ hại chết Lương Nguyên Kính.

Giác Minh nghiêm mặt nhìn Lương Nguyên Kính: “Tóm lại, tiểu nương tử A Bảo cần phải mau chóng đi đầu thai chuyển thế, bằng không sẽ nguy hại đến tính mạng của cậu.”

Lương Nguyên Kính nghe xong, bất chợt cả kinh từ trên giường ngồi thẳng dậy, đầu đầm đìa mồ hôi lạnh.

“Không⎯ Không thể nào!”

“Đâu tới phiên anh nói không thể,” A Bảo đứng rất xa, lạnh mặt nói, “Lương Nguyên Kính, là tôi muốn đi đầu thai, không liên quan đến anh.”

Lương Nguyên Kính đau lòng, giãy giụa muốn xuống giường kéo nàng lại.

A Bảo tức giận đến đen mặt, vội hô lớn: “Không được xuống giường! Nằm yên đó! Nếu không tôi sẽ đi ngay tức khắc!”

Lương Nguyên Kính bị nàng hù dọa, nhất thời không dám cử động, đành ngồi lại trên giường, sắc mặt trắng bệch nhìn nàng: “Em là nương tử của anh mà, chúng ta đã bái thiên địa…”

A Bảo không ngờ đã tới nước này mà chàng vẫn còn mơ mộng cùng nàng bên nhau trọn đời, lòng dạ nhất thời vừa hoảng vừa giận, rống to nói: “Anh im miệng! Có biết nguy hiểm đến tính mạng là gì không hả? Đồ ngốc! Còn muốn bên nhau với tôi, anh… Anh sẽ……”

“Anh biết,” Lương Nguyên Kính thở hổn hển xen ngang lời nàng, “Anh không sợ.”

“…………”

A Bảo mệt mỏi che gò má, nỗi bất lực sâu thẳm dưới nội tâm bùng lên.

Nói không thông, nàng biết rất rõ điểm này.

Lương Nguyên Kính là người nói không thông. Chàng có vài phần si tình, còn rất cố chấp, đã đánh chủ ý rồi sẽ không dễ dàng bị lung lay, cho nên chàng mới năm lần bảy lượt nhắc tới chuyện nàng là nương tử của chàng. Bọn họ đã cúi lạy trời đất, ở góc nhìn của chàng, đây là lời thề đã định, từ đây cho đến lúc lên thiên đường hay xuống hoàng tuyền đều không thể huỷ bỏ.

“Anh không sợ, tôi để tâm.”

A Bảo nhìn chằm chằm xà nhà trên đầu, nhẹ giọng nói: “Tôi không muốn anh chết trong tay tôi. Lương Nguyên Kính, anh nói ta đã bái thiên địa à? Chả sao, bái rồi cũng có thể hoà ly.”

“Em muốn hoà ly với anh?”

Tầm mắt Lương Nguyên Kính tối sầm, khí hư dâng trào, suýt nữa nôn ra ngụm máu đen.

Giác Minh thấy chàng không ổn, vừa vội tiến lên đỡ chàng vừa khuyên nhủ: “Hai vị này, nghe tiểu tăng nói đã, đừng ầm ĩ…”

Tuy y không nghe thấy tiếng A Bảo nói chuyện, nhưng thấy mặt mày bạn tốt trắng tái hơn, câu sau còn vùng vằng hơn câu trước thì biết họ đang cãi nhau vì chuyện đầu thai.

“Chuyện này không đáng phải ầm ĩ.”

Hoà thượng quay đầu nói với Lương Nguyên Kính: “Dù cho cậu có muốn hay không muốn, bỏ hay không bỏ thì thế nào tiểu nương tử A Bảo cũng phải đi đầu thai thôi. Sư phụ tôi nói, quỷ hồn ở lại nhân gian, căn bản là vì sáu cõi luân hồi không dung, nếu cô ấy tổn hại tính mạng của cậu sẽ bị phạt tan thành mây khói dưới cửu thiên thần lôi trên trời, đến lúc đó ngay cả cơ hội chuyển thế làm người cũng không còn.”

“…………”

A Bảo tức trợn tròn mắt, vung nắm tay lên cóc vào đầu trọc của Giác Minh: “Tôi đánh chết anh con lừa trọc! Anh nói chuyện hết một lần không được à! Cứ ậm à ậm ừ làm gì hả!”

Nói lời này sớm đã không sao rồi, hại nàng và Lương Nguyên Kính ầm ĩ một trận!

Nàng xả cả câu ‘hoà ly’ luôn rồi! Tưởng nàng không đau buồn chắc? Nói xong câu đó, tim nàng như bị xé làm đôi vậy!

A Bảo đánh hoà thượng xong, quay đầu nói với Lương Nguyên Kính: “Anh nghe rồi đó, dù thế nào tôi cũng phải đi đầu thai, đây là vì muốn tốt cho đôi ta.”

Nhưng mà hai mắt Lương Nguyên Kính lại đờ đẫn, không nghe thấy câu nào từ nàng.

Tan, thành, mây, khói.

Chàng lẩm nhẩm ra bốn chữ này, ngực nhói đau thấu tim, bỗng dưng khom lưng nôn ra ngụm máu đen.

**

Sư phụ của Giác Minh là Thủ Chân đại sư của chùa Phụng Quốc phủ Lâm Hoàng trên kinh Đại Liêu. Đạo pháp cao thâm, nghe nói đã hơn trăm tuổi, cũng có người nói là hai trăm, cụ thể bao nhiêu tuổi thì không ai nói rõ. Vì Tiêu Thái hậu nước Liêu tôn sùng Phật pháp, ông cụ cũng được giới quý tộc Khiết Đan tôn trọng nên được dẫn làm thượng khách, người Liêu gọi cụ là ‘Lạt Ma’, có thể nói là quốc bảo Đại Liêu.

Năm xưa Giác Minh cạo tóc làm tăng, chính là thụ giới dưới tay vị cao tăng này, theo Phật pháp cũng được ông cụ dìu dắt.

Lần này đi lên phía bắc, y đặc biệt lên chùa Phụng Quốc thăm hỏi vị Thủ Chân đại nhân, nói rõ chuyện của A Bảo với ngài, cũng xin chỉ bảo cách thức hoá giải.

Đâu ngờ vị Thủ Chân đại sư nghe xong lại muốn cùng y xuôi về phía nam, đến Đông Kinh tự mình gặp mặt Lương Nguyên Kính.

Giác Minh nghe xong, suýt nữa quỳ xuống trước mặt cụ.

Thứ nhất do cụ đã lớn tuổi, thứ hai cụ là quốc bảo Đại Liêu. Nếu trên đường có gì bất trắc, nói vậy Tiêu Thái hậu sẽ không bỏ qua cho y.

Giác Minh khổ sở khuyên bảo, nhưng Thủ Chân đại sư đã hạ quyết tâm, chưa hề báo với chúng tăng chùa Phụng Quốc đã hành trang đơn giản theo y đi về phía nam.

Giác Minh ‘cõng’ vị quốc bảo Đại Liêu chạy đi, trên đường lo lắng đề phòng, e sợ có gì xảy ra ngoài ý muốn, cũng may đường đi ‘sợ hãi hơn là bị tổn thương’, thuận lợi thẳng một đường đến thành Đông Kinh.

Thủ Chân không muốn công khai thân phận, lấy danh nghĩa tăng lữ qua đường ghé chùa Tướng Quốc. Hiện giờ hậu viện tăng thêm một tăng xá, ngay cả trụ trì chùa Tướng Quốc cũng không biết cụ là vị ‘Lạt Ma’ danh tiếng lẫy lừng phương bắc.

Đợi Lương Nguyên Kính có thể xuống giường, Giác Minh liền đỡ chàng tới gặp mặt sư phụ mình.

Thủ chân đang nhắm mắt ngồi thiền trong phòng, cụ râu tóc bạc phơ nhưng sắc mặt hồng hào, mày hiền mắt thiện, trông rất hòa nhã.

Nhưng mà lần đầu tiên A Bảo vào phòng thấy cụ lại thấy bị ánh hào quang đánh úp, như dệt thành tấm lưới rơi xuống đầu. Đáy lòng đột nhiên sinh lòng sơ hãi, làm nàng không dám vào trong, chỉ có thể bồi hồi trước cửa.

“Sao vậy?” Lương Nguyên Kính dừng lại hỏi.

“Vong hồn sợ phật quang ngũ sắc nên không dám tiến lên, không cần quá lo lắng đâu.”

Thủ Chân trên đệm hương bồ từ tốn mở mắt. Cụ bị đục thuỷ tinh thể, là bị mù bẩm sinh nhưng ánh mắt lại chuẩn xác nhìn về hướng Lương Nguyên Kính đang đứng, chấp tay hành lễ, khẽ cười nói: “Đứa nhỏ, tiến lại đây.”

Lương Nguyên Kính tiến lên quỳ lạy.

Thủ chân đặt tay phải l*n đ*nh đầu chàng, trong miệng hạ giọng tụng kinh Phật, xong cởi chuỗi Phật châu thất bảo trên tay đưa cho chàng.

Giác Minh ở bên cạnh giải thích, chuỗi Phật châu này đã theo Thủ Chân nhiều năm. Mỗi hạt châu Phật trong đó là xá lợi tử từ một vị cao tăng đắc đạo hai trăm năm biến thành, còn được khai quang trước Phật Tổ, vô cùng trân quý.

Lương Nguyên Kính không dám nhận, Thủ Chân lại nói: “Đeo vào có thể bảo vệ con bình an.”

Chàng đành phải nhận lấy, sau khi nói lời cảm ơn, chàng hỏi Thủ Chân: “Đại sư có thấy nương tử của tại hạ không ạ?”

Thủ Chân mỉm cười: “Tuy mắt ta mù không thể nhìn nhưng vẫn cảm nhận được.”

Lương Nguyên Kính lo lắng nhìn A Bảo không dám bước qua cửa. Chợt quay đầu lại, khoé mắt phiếm hồng, quỳ gối trên đệm hương bồ dập đầu với Thủ Chân.

“Đại sư, nương tử tại hạ tuy là vong hồn nhưng chưa từng làm chuyện thương thiên hại lí. Cầu… Xin đại sư chỉ điểm cách thức giải thoát, dìu dắt nương tử con có thể đầu thai chuyển kiếp, tái sinh làm người.”

A Bảo nghe vậy, tảng đá lớn trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống, biết người này cuối cùng đã nghĩ thông suốt, không khỏi vui mừng lẫn u buồn.

Vui mừng là nàng có thể rời đi, không còn tổn hại đến tính mạng của chàng nữa.

Mà u buồn cũng vì nàng sắp sửa rời đi, cùng Lương Nguyên Kính âm dương cách biệt.

Hết cách rồi, khả năng đây chính là số mệnh của bọn họ.

A Bảo ôm đầu gối ngồi trên ngạch cửa, ngẩng đầu nhìn bầu trời về đêm. Tối nay sao trời lộng lẫy, đúng là một ngày tốt hiếm có.

Trong thiền thất, Giác Minh nhíu mày bảo: “Lúc trước đệ tử từng cho rằng, tiểu nương tử A Bảo không vào được sáu cõi luân hồi là bởi vì sinh thời có tâm nguyện chưa hoàn thành, sau này phát hiện không phải do duyên cớ này. Sư phụ ạ, đệ tử trầm tư không hiểu được, kính xin sư phụ giải thích mọi nghi hoặc, đến tột cùng nguyên nhân là gì?”

Chỉ khi tìm đúng bệnh trạng mới có thể hốt đúng thuốc.

Thủ Chân trầm ngâm một lát, hỏi: “Có biết hài cốt được chôn ở đâu không?”

Giác Minh sững sờ, bên cạnh là Lương Nguyên Kính cũng khiếp sợ ngẩng đầu.

Thủ Chân nhắm mắt nói: “Tìm ra thi thể mới biết được tiền căn hậu quả, đi đi.”

Nói xong một lời, tiếp tục ngồi thiền.

Giác Minh đỡ Lương Nguyên Kính an tĩnh rời khỏi thiền thất, cả hai chậm rãi đi lại trong đình, A Bảo đi theo sau bọn họ từ xa.

Ánh trăng trong đình viện như nước đọng không sáng, rong rêu đan xen, Giác Minh nhìn chung quanh trái phải, hỏi: “Tiểu nương tử A Bảo có ở đây không?”

Lương Nguyên Kính quay đầu nhìn người lẳng lặng đi theo đằng sau, đáp: “Có.”

Giác Minh: “Tiểu nương tử A Bảo có biết mình được chôn ở đâu không?”

A Bảo: “……”

Hình như cũng biết mình đặt câu hỏi ngu ngốc, Giác Minh hoà thượng sờ sờ cái ót, ngượng ngùng cười cười, lúm đồng tiền trên má thoắt ẩn thoắt hiện.

Lương Nguyên Kính nhìn Giác Minh: “Có thể cho chúng tôi ở riêng với nhau một lát không?”

“Hai người?”

Giác Minh kịp phản ứng: “Chỉ có cậu và tiểu nương tử A Bảo à. Được, nhưng cậu có tự quay về được không?”

Lương Nguyên Kính gật đầu.

Giác Minh nói: “Vì nghĩ cho sức khoẻ của cậu, quãng thời gian này cần phải ở lại chùa, vết thương trên cánh tay của cậu… Sư phụ và tôi sẽ cùng nhau nghĩ cách.”

“Đã biết, đa tạ cậu.” Lương Nguyên Kính nói.

Giác Minh rời đi, A Bảo đứng trong bụi trúc đuôi phượng, rũ ống tay áo thờ ơ nói: “Anh không nên để hoà thượng đi, đợt chút nữa té xỉu sẽ không có ai đỡ anh đâu.”

“Cũng đâu yếu ớt tới mức đó.”

Lương Nguyên Kính cười ôn hoà, muốn cất bước đi lại chỗ nàng.

A Bảo vội ngăn: “Đừng⎯⎯ Anh đứng yên đó, đừng lại đây!”

Lương Nguyên Kính dừng bước chân, có chút bất đắc dĩ nhìn nàng: “Nương tử, em sắp đi đầu thai rồi, hai ta… Không còn bao lâu nữa.”

Đáy lòng A Bảo cay đắng, tựa hồ muốn oà khóc: “Tôi biết!”

“Vậy trong mấy ngày cuối cùng này, chúng ta hãy ở chung giống như trước, được chứ?”

Lương Nguyên Kính vươn tay với nàng, khẽ mỉm cười: “A Bảo, lại đây.”

Gió đêm hiu hiu, phác hoạ thân hình gầy guộc của chàng dưới lớp áo ngoài. Bởi vì khí huyết thâm hụt nên sắc mặt vẫn có hơi trắng bệch, nhưng nụ cười tươi nơi khoé môi vẫn như trước kia, dịu dàng như vậy, như gió mát thanh thanh, như trăng sáng tỏ tường.

A Bảo cầm lòng không đậu đi lên phía trước, nắm lấy tay chàng.

Không ngờ vừa chạm tay lại bị thiêu đốt, y như thứ nàng nắm không phải là tay của Lương Nguyên Kính mà là cục than nóng. A Bảo đau đến mức la lên rút tay về.

“Em sao vậy?” Lương Nguyên Kính hoảng loạn hỏi.

“Nóng quá!” A Bảo che tay lại nói.

“Nóng?”

Chẳng phải nàng không có cảm giác khi sờ vào sao?

Lương Nguyên Kính đờ ra, ánh mắt chuyển sang chuỗi Phật châu thất bảo trên cổ tay, trầm tư một lát, không chút do dự cởi nó xuống.

A Bảo thấy thế liền lên tiếng ngăn cản: “Anh đừng tháo! Khó trách đại sư muốn đưa cái này cho anh, có lẽ dùng để khắc tôi, đừng tháo đừng tháo mà, mau đeo vào lại đi!”

Lương Nguyên Kính không muốn đeo nhưng lại không lay chuyển được yêu cầu của nàng, đành đeo vào một lần nữa, cũng chủ động kéo dài khoảng cách với nàng, không tin được lần này đến phiên A Bảo dựa gần lại.

“Không phải không thấy thoải mái sao?” Lương Nguyên Kính lùi về sau một bước, không muốn làm nàng bị thương.

“Tạm ổn,” A Bảo nói, “Không lợi hại bằng đại sư thôi.”

Phật quang chuỗi hạt này so với Phật quang trên người Thủ Chân đại sư, tựa như ánh sáng của đom đóm so với ánh sáng của mặt trời. Tuy vẫn sẽ khiến nàng khó chịu nhưng không như bị núi đè trước cửa thiền phòng.

Cả hai đứng cách nhau nửa cánh tay, đều thấy hết sức bất đắc dĩ.

Cũng không biết là ai bắt đầu trước, đột nhiên nhìn mặt nhau nở nụ cười, đại khái cảm thấy trên đời này không có cặp vợ chồng nào xui xẻo giống bọn họ cả.

“A Bảo.” Lương Nguyên Kính bỗng gọi.

“Hả?”

“Qua sinh nhật rồi hẵng đi em nhé.”

A Bảo khựng cười, gật gật đầu: “Được.”

“Anh dẫn em đi ngắm hoa đăng.” Lương Nguyên Kính nói.

“Được.”

“Muốn gọi a ca tới không?”

A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi, nói: “Gọi đi.”

Dù sao lần này cũng vĩnh viễn không gặp lại nhau thật rồi.

**

[Thơ Đường] Mộng Vi Chi – Bạch Cư Dị

Đêm qua nằm mộng dắt tay chơi,

Sáng dậy đầm khăn ướt lệ rơi.

Chương Phố thân già ba lượt ốm,

Hàm Dương nấm cỏ tám năm rồi.

Xương mềm dưới suối yên thân bác,

Tóc trắng trên đời gửi phận tôi.

A Vệ, Hàn Lang lần nối gót,

Dưới âm có biết chuyện trên đời?

<i>(bản dịch của Như Quy, thivien.net)</i>

<i>⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển năm ⟪Tương kiến hoan⟫</i>

**

Tác giả có chuyện nói:

Có nhiều bạn hỏi vấn đề kết BE hay HE, tui thấy nói ra sẽ bị coi là spoiler, tới quyển cuối rồi, chuyện xưa cũng không quá dài đâu nên mời các mom kiên nhẫn đọc hết nhé.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 49: [Trường hận ca] Kế hoạch


Tháng mười hai đến gần, là tháng cuối của năm, đang vào tiết Tiểu hàn, Đại hàn. [1]

<i>[1] Tiểu hàn vào ngày 5, 6 hoặc 7 tháng Giêng / Đại hàn vào khoảng 20 – 21 tháng Giêng, là thời gian lạnh nhất ở TQ.</i>

Thời tiết lạnh dần, sáng sớm mỗi ngày thức dậy, mở cửa ra sẽ thấy trên ngói được bao phủ lớp sương trắng dày đặc. Tới tối gió gắt gào thét ầm ĩ làm người ta không ngủ yên, có thể nói là ‘một đêm gió bắc gào’.

Nhưng mà năm nay vẫn chưa thấy tuyết rơi đúng hạn, người người càng thêm lo lắng rằng đây lại là mùa đông hạn hán.

Cuối năm thành Đông Kinh cũng rất náo nhiệt.

Tháng này là dịp Phật sự hưng thịnh, các cửa hàng trên phố đều thi nhau rao bán hoa rải Phật, rau hẹ, mầm lan, bạc hà, hồ đào. Ba năm nhóm sư tăng ni xếp thành hàng, ôm tượng Phật bằng đồng, tay cầm cành liễu rảy nước hoa, tới cửa từng nhà hoá duyên.

Tới mùng tám tháng chạp, các Đại Phật Tự trong kinh thành sẽ tổ chức lễ Tắm Phật, nấu cháo ngũ vị tặng cho các tín đồ. Vào ngày này mỗi nhà sẽ ướp cá, dê và thịt heo treo lên lò hun khói để đến mùa hè năm sau không bị hư hỏng.

Chùa Đại Tướng Quốc nằm giữa khu phố phồn hoa, không có sự thanh tịnh vốn có như những chùa khác, ngược lại lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt vang bên tai.

Lương Nguyên Kính ở nhà tăng xá hậu viện. Mỗi ngày cần dùng nước sạch tẩy rửa vết thương trên cánh tay, đi đến trước phòng của Thủ Chân nghe kinh thụ giới, hơn nữa chuỗi Phật châu thất bảo quả là vật thần kỳ. Cứ thế được quãng thời gian, miệng vết thương của chàng dù chưa lành hẳn nhưng không hề ứa máu đen ra ngoài, ác khí lồng ng.ực cũng tiêu giảm bớt.

Sau khi sức khoẻ chuyển biến tốt, chàng liền dẫn A Bảo lên phố dạo chơi, bởi vì A Bảo sắp đi đầu thai nên hiện giờ hai người đều xem mỗi ngày thành ngày cuối cùng, tình cảm càng thắm thiết hơn trước.

Giai đoạn cuối gần, người dân muốn dán Môn Thần, đưa tiễn ông Táo, nghênh đón Thần Tài. Dù sao Lương Nguyên Kính đanh nhàn rỗi không có việc gì làm, bèn bày quầy hàng ngay đường cái cửa đông chùa, vẽ tranh bùa Môn Thần, Thần Bếp và Chung Quỳ, mỗi bức không tới mười văn tiền. Số tiền kiếm được dùng mua bánh cho A Bảo ăn, tuy A Bảo chỉ có thể nhìn chứ không ăn được nhưng cả hai vẫn chơi vui đến quên trời quên đất.

Giác Minh hoà thượng thì lại rất bận bịu.

Mỗi dịp đến cuối năm người kinh thành sẽ mời hoà thượng đạo sĩ đến nhà tụng kinh. Xong việc sẽ cho tiền dầu mè, đại hoà thượng này kiếm được đầy chén, khoé miệng cười đến không khép lại được. Nếu không vì Thủ Chân ở đây chắc y sẽ chui vào quán rượu nào đó, không say không về.

Thời gian cứ trôi đi, ngày tết 24 tháng chạp, Lý Hùng đến Đông Kinh.

Hai anh em ‘gặp nhau’ tất nhiên lại khóc thương tâm thảm thiết, chớ cần nhiều lời, lập tức giải quyết vấn đề vị trí mộ phần của A Bảo.

Lương Nguyên Kính mở tiệc tẩy trần đón gió cho Lý Hùng tại tửu lầu Phan gia, Giác Minh hoà thượng cũng được mời đến, ba người cơm rượu no say rồi thương lượng cách giải quyết chuyện này.

Căn cứ theo lời A Bảo nói, ngày nàng chính thức chết đi chắc là hai mươi tám tháng hai năm Hi Hòa thứ tư, nhưng triều đình công bố tin nàng chết ra ngoài là vào mùng bảy tháng mười năm Hi Hòa thứ tư. Tin tức bị trì hoãn đến bảy tháng sau, đám tang cũng được làm rất cẩu thả, không đặt bài vị cúng tế hay gửi vào chùa, thiên tử không nghỉ triều, quan lại không mặc đồ trắng, dân gian không cấm cưới hỏi, hết thảy vẫn như thường.

Đây là đem đám tang A Bảo dựa theo quy trình xử lý của cung nhân bình thường chứ không phải của quốc hậu, này cũng chả là gì, dù sao trước khi chết A Bảo đã bị phế thành thứ dân.

Chỉ là… Nàng không ngờ Triệu Tòng sẽ bạc tình như vậy.

Mọi thứ như thường.

A Bảo mặc niệm bốn chữ này trong lòng, vốn tưởng rằng tim không đau nhưng đột nhiên nghe thấy bốn chữ đó, tim vẫn không tránh khỏi đau đớn như bị kim châm, ngón tay đặt lên bàn co rút.

“Đừng buồn.”

Lương Nguyên Kính tháo vòng chuỗi trên tay xuống, nắm lấy tay nàng, ánh mắt yên ắng mềm mại.

“Không buồn.”

A Bảo cười với chàng, buồn gì chứ, ít nhất bây giờ nàng còn có Lương Nguyên Kính, chàng sẽ đau lòng vì nàng.

Lý Hùng đỏ mắt, uống sạch chén rượu đầy, nói đến tình hình ngày anh nghe tin A Bảo qua đời.

Khi đó anh đang ở Tuyền Châu xa xôi, nhìn thấy quan phủ dán tin báo tang đã là sau Đông chí tháng mười một.

Đột nhiên nghe tin A Bảo chết, Lý Hùng bàng hoàng hai đầu gối mềm oặt, ngã khuỵu trên mặt đất, cổ họng phát ra tiếng khóc thét như thú gầm, như trời đất sụp đổ. Có làm sao cũng không dám tin đứa em gái năm xưa được anh đưa lên thuyền giờ đây đã hoá thành đống xương khô.

Anh không kịp đóng gói hành trang, không màng người nhà khuyên can ngày đêm kiên trì lên phía bắc, trên đường đi đã chạy chết năm con ngựa, cuối cùng ngày thứ mười ba đã kịp đến Đông Kinh.

Lúc đó thành Đông Kinh đông đúc tấp nập, phố phường náo nhiệt như thường, có nhà cưới con dâu vào cửa, chiêng trống vang trời, pháo nổ, khách khứa mặt mày hớn hở, dáng vẻ ăn mừng.

Chẳng có ai quan tâm nữ nhân nọ tên ‘A Bảo’ đã chết trong thâm cung. Nàng vốn là Hoàng hậu quốc triều, sau này bị thiên tử vứt bỏ thì nàng chả là gì cả. Ai rồi cũng sẽ không coi cái chết của nàng ra gì.

Lý Hùng đến phủ Khai Phong hỏi, đến Trung Thư tỉnh hỏi, đến Tấu viện hỏi, hỏi coi rốt cuộc em gái anh được chôn cất ở đâu. Đông Kinh lạ nước lạ cái, anh không còn cách nào, ngay cả quan nha phụ trách có chức vụ gì cũng không rõ, đành như ‘mèo mù vớ phải chuột chết’ hỏi thăm từng nhà.

Nhưng mỗi lần quan viên nghe anh nhắc tới phế hậu Lý thị, mặt mày biểu cảm giấu kín như bưng, phân phó nha dịch đuổi anh đi.

Lý Hùng khẩn cầu không được, chỉ có thể ở lề đường ngăn xe giá của Tham Tri Chính sự, kết quả vì lý do ‘cản trở’ mà bị đánh hai mươi trượng, khiến anh da thịt nở hoa, đau đến ngất giữa đường.

Có người hảo tâm nâng anh đến y quán gần đó, khuyên anh đừng đối nghịch với quan phủ.

Lý Hùng khóc lớn một trận, lực bất tòng tâm, đành phải tự lập, lên chùa xin bài vị trường sinh. Đi đường xóc nảy mang về Tuyền Châu, giúp A Bảo lập đàn cúng bái, lập ngôi mộ chôn quần áo và di vật, con gái vì người cô chưa hề gặp mặt này mà thờ cúng nửa năm, vào Hàn thực [2] hay tiết Thanh Minh đều sẽ tế lễ, không bỏ sót ngày nào.

<i>[2] Hàn thực là một ngày trước tiết Thanh Minh.</i>

Mọi người nghe xong, đều im lặng hồi lâu.

“Thân thuộc còn xót xa, Người dưng đà vui vẻ.” [3]

<i>[3] Nghĩ văn ca từ kỳ 3 – Đào Tiềm và bản dịch của Lê Phụng, thivien.</i>

Hoà thượng tay nâng chén ngọc, buồn bã cảm thán: “Trên đời này ngoại trừ người thân sẽ vướng bận về sinh tử của mình ra thì không còn ai khác, vốn là bản chất con người.”

Nói xong, uống cạn rượu trong chén ngọc.

Thâm tâm A Bảo nói cũng không hẳn là vậy. Năm đó khi Lương Nguyên Kính biết tin nàng mất, tâm tình chàng sẽ ra sao?

Chàng có giống như a ca, quỳ trên đất khóc thét trước mặt mọi người không?

Nếu thật chàng đã nhất kiến chung tình với nàng sau lần đầu gặp tại ngự hoa uyển, chắc chàng đã rất khổ sở rồi.

A Bảo chuyển mắt nhìn thần sắc Lương Nguyên Kính ngay, đã thấy chàng khép hờ mắt, sắc mặt hoảng hốt tựa đang rơi vào hồi ức, trong lòng không khỏi chấn động, đôi tay phủ lên mu bàn tay chàng.

Nàng thà thấy Lương Nguyên Kính thờ ơ với cái chết của mình còn hơn là thấy dáng vẻ đau buồn này của chàng, điều này làm cho tim nàng rất đau.

Lương Nguyên Kính ngước mắt, miễn cưỡng cười cười với nàng, quay đầu nói với Giác Minh: “Nói lại chuyện mộ phần.”

“Ừm, được.”

Giác Minh suy tư gật đầu: “Theo chế độ Đại Trần, ba ngày sau khi Hoàng hậu hoăng, quan tài đặt ở Hoàng Nghi Điện lo việc ma chay, có chúng quan lại vào điện khóc tang. Bởi vì thiên tử còn sống nên quốc triều không xây lăng mộ, đợi sau khi nghĩa trang trùng tu xong, quan tài Hoàng hậu mới được khởi hành đến hoàng lăng Tây Kinh an táng, muộn nhất là tháng bảy phải được hạ táng xong xuôi.”

“Xét theo tình hình của tiểu nương tử A Bảo, chắc sẽ an táng theo phi tần bình thường, chôn ở kinh thành.”

“Trong thành Biện Kinh, nơi an trí phi tần hoàng đế tổng cộng có ba nơi, chùa Phụng Tiên phía nam thành, chùa Phổ Tế Sa Đài phía bắc thành Sa Đài, và viện Phổ An ngoại ô phía tây. Những ngày này, tiểu tăng đã tìm cớ đến chùa chiền hỏi thăm qua, chưa từng nghe nói tiểu nương tử A Bảo được hạ táng trong chùa, trong miếu cũng không có thần vị cúng bái của tiểu nương tử A Bảo, nói vậy là không có ở cả ba nơi đó.”

A Bảo thầm nghĩ đại hòa thượng anh cũng hay lắm, hoá ra không phải chỉ biết ăn thịt uống rượu, ăn gian nói dối mà còn biết làm chút chuyện cần thiết. Xong lại nghĩ chuyện này là sao đây, ngay cả bản thân được an táng ở đâu cũng không biết.

A Bảo buồn bực không thôi, xoa nhẹ mặt nói: “Đã nói là làm theo cách của em đảm bảo tìm được mà.”

Lương Nguyên Kính nhíu mày nói: “Không được.”

Giác Minh không hiểu ra sao: “Không được gì cơ?”

Lý Hùng say rượu cũng ngẩng đầu hỏi: “Không được gì?”

“Không có gì.” Lương Nguyên Kính nói.

“Chàng…” A Bảo bị chàng làm cho tức chết, đứng bật dậy nói: “Rốt cuộc chàng có muốn em đi đầu thai nữa không hả?”

Rõ ràng biện pháp của nàng là tốt nhất.

Lương Nguyên Kính không nói lời nào.

Nhưng thật ra Giác Minh cũng có tâm linh tương thông với A Bảo, không nhịn được hỏi: “Tiểu hữu Nguyên Kính à, có phải tiểu nương tử A Bảo nghĩ ra cách gì rồi không? Hay là nói cho mọi người nghe thử xem?”

“Phải đó!” A Bảo trừng mắt, “Chuyện này cũng đâu phải mỗi chàng định đoạt.”

“Cách của nàng không hay, không cần nghe.” Lương Nguyên Kính nói.

“……”

A Bảo tức tối đập bàn, nói với chàng: “Nực cười! Chàng ra đây cho em, em và chàng tranh luận với nhau!”

Lương Nguyên Kính chần chờ một lát, xong vẫn đứng dậy đi theo nàng ra ngoài.

“Biện pháp em nghĩ có chỗ nào không tốt hả? Chàng nói cho em nghe thử đi?”

Vừa mới ra khỏi cửa phòng, A Bảo đã xoay người, nổi giận đùng đoàng chất vấn chàng.

“Quá nguy hiểm.”

“Em là quỷ mà, nguy hiểm chỗ nào chứ? Chẳng lẽ người ta còn bắt em xong giết thêm lần nữa chắc?”

Lương Nguyên Kính rũ mắt im lặng.

A Bảo ghét nhất dáng vẻ này của chàng, giận sôi cả máu: “Nói chuyện!”

“Anh không muốn em đến đó.” Người trước mặt bỗng nói.

“Cái gì?” A Bảo sửng sốt.

Lương Nguyên Kính nâng đôi mắt lên, lặp lại rõ ràng thêm một lần: “Nơi đó không tốt, anh không muốn em đến đó, cũng không muốn em gặp lại hắn.”

Một lúc lâu sau, A Bảo không biết nên trả lời thế nào, qua một hồi nữa, mới nói: “Em sẽ không gặp hắn.”

Lương Nguyên Kính nói: “Nhưng em muốn biến thành nội thị thân cận nhất của hắn.”

“Cho nên chúng ta phải chọn ngày Phùng Ích Toàn nghỉ ngơi tắm gội.”

A Bảo cười lấy lòng, tiến lại ôm eo chàng, đầu ngoan ngoãn dựa vào trước ngực chàng, trấn an nói: “Đừng lo, em cam đoan với chàng sẽ không gặp lại hắn. Chàng cũng hy vọng em mau chóng đầu thai mà, có đúng không?”

“Anh không mong.”

A Bảo có chút kinh ngạc ngẩng đầu lên.

Nàng cho rằng bọn họ đã đồng ý.

Ngón tay của Lương Nguyên Kính dừng lại trên má nàng, khẽ vuốt qua đuôi mắt nàng, rũ mắt nói: “Anh chỉ hy vọng em có thể được giải thoát thôi, nương tử.”

**

Quay lại phòng, Lương Nguyên Kính thay A Bảo, trần thuật lại biện pháp do nàng nghĩ ra cho mọi người.

Từ xưa đến nay xây dựng lăng tẩm đều do Tư Thiên Giám, Lễ Bộ, Công Bộ phối hợp phụ trách. Tư Thiên Giám chịu trách nhiệm vấn đề phong thuỷ may mắn, Lễ Bộ định ra pháp luật lễ nghi, đảm bảo tất cả quá trình mai táng phù hợp với quy chế tổ tông, Công Bộ phụ trách công tác giám sát sửa chữa cụ thể.

Ngoài ra, sau khi hoàng đế băng hà, triều đình sẽ lập tức thành lập chỉ huy mai táng và xây dựng hoàng lăng tổ chức hai bộ gánh hát.

Trong đó, chỉ huy mai táng lấy Sơn Lăng sứ, Lễ Nghi sứ, Kho Bộ sứ, Nghi Trượng sứ, Kiều Đạo Đốn sứ dẫn đầu, hay còn được gọi là Sơn Lăng Ngũ Sứ [4]. Đa số là Đại thần Tể tướng, Học sĩ Hàn Lâm, Trung thừa Ngự Sử, Quyền Tri phủ Khai Phong bổ nhiệm.

<i>[4] Sơn lăng còn có nghĩa là lăng tẩm; lăng mộ của vua chúa.</i>tạm dịch theo baidu

Những người này đều là cận thần của hoàng đế, quyền cao chức trọng, giao chuyện tang lễ cho bọn họ cũng được coi là vinh dự.

Về chuyện xây dựng hoàng lăng, bởi vì thời gian xây dựng ngắn, nhiệm vụ nặng nề, tổ chức phụ trách xây dựng phải phân công kỹ càng. Dẫn đầu là Sử quan phụ trách khảo sát và thiết kế lăng tẩm, cùng với Tu phụng Sơn Lăng đô hộ, Đốc Giám, Kiềm Hạt quản lý. [5][5] (tạm dịch theo Baidu)

Khác với cơ cấu chỉ huy, chuyện này đa phần đều do hoạn quan và võ tướng Tam nha kết hợp, như phụ trách núi non địa hình đều do Đô Tri Nội Thị Tỉnh đảm nhiệm.

Theo suy nghĩ của A Bảo, nếu nàng không được chôn ở nghĩa trang Tây Kinh hay ba ngôi chùa lớn kinh thành. Vậy rất có khả năng Triệu Tòng đã an táng nàng ở một chỗ khác.

Phùng Ích Toàn là người hầu bên cạnh hắn, cũng là hoạn quan hắn cậy nhờ nhất, trước lúc lên ngôi đã hầu hạ hắn từ thời tiềm đệ.

Cho dù Phùng Ích Toàn có trực tiếp tham dự sửa chữa và chế tạo công trình lăng tẩm của nàng hay không, nhất định sẽ có phó bản vị trí lăng mộ do Tư Thiên Giám phụ trách. Mà Phùng Ích Toàn là hoạn quan chức cao nhất, ông ta muốn đến Tư Thiên Giám giám sát bản ghi chép cũng không có ai ngăn cản.

Cách của A Bảo đó là nhờ Lương Nguyên Kính vẽ bức tranh hình Phùng Ích Toàn, xong nhỏ máu chàng vào trong đó, như vậy nàng sẽ biến thành diện mạo của ông ta, trà trộn vào đại nội xem xét phó bản, thế là có thể biết mình được chôn ở đâu rồi.

Lý Hùng uống say, ngã vào giường ngủ khò khò, Giác Minh cũng vô cùng tán thành cách thức này, chỉ là y cho rằng vẫn có điểm thiếu sót.

“Nếu ngày tắm gội Phùng Ích Toàn không ra ngoài cung, hoặc vì lý do nào đó quay trở lại, tiểu nương tử A Bảo trong đại nội vô tình đụng mặt y thì sao?”

“……”

Câu hỏi này khiến cả người lẫn quỷ đều cạn lời.

A Bảo thật sự khó hiểu, hỏi: “Đại hòa thượng như anh, uống rượu thì thôi đi, sao còn qua lại với nội thị trong cung nữa?”

Giác Minh hình như cũng đoán được nàng sẽ hỏi việc này, bèn cười tủm tỉm nói: “Hồi xưa tiểu tăng từng bói một quẻ cho Phùng nội thị, bởi vậy có chút quan hệ bạn cũ.”

A Bảo càng loạn hơn: “Lên đồng bói toán không phải chỉ có đạo sĩ mới làm thôi sao?”

“Chân tướng đạo Phật, học nhiều thêm một kỹ năng cũng không gì là không thể.”

Giác Minh cười với Lương Nguyên Kính, lúm đồng tiền sâu bên má lộ ra: “Tiểu hữu Nguyên Kính, trước khi lên đường, có cần tiểu tăng bói một quẻ cho cậu và tiểu nương tử A Bảo, coi chuyến đi này là hung hay cát không?”

“Cần!”

A Bảo nói, nàng muốn nhìn xem hòa thượng này có bao nhiêu bản lĩnh.

Lương Nguyên Kính nhận lấy ba đồng tiền từ trong tay Giác Minh, thảy lên bàn, Giác Minh duỗi cỗ quan sát, sắc mặt nghiêm túc.

A Bảo không khỏi lo sợ bất an, không phải sẽ sợ bói ra quẻ hung, mà là sợ kết quả bói toán không tốt sẽ khiến Lương Nguyên Kính cố chấp không cho nàng mạo hiểm.

“Thế nào? Là cát hay hung?”

“A di đà phật,” Giác Minh hòa thượng ngẩng đầu, chắp tay hành lễ mỉm cười nói, “Thượng thượng đại cát.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 50: Con bướm


Giờ Tý ba khắc [1], Lương Nguyên Kính ngồi dưới ánh nền mờ nhạt ở chầu viện, mở trang giấy ra, chấp bút vẽ tranh.

<i>[1] Giờ tý là 23g đêm đến 1g sáng. Một khắc = 15’. (chắc tầm 23g45)</i>

Chầu viện nằm bên ngoài cửa phụ Tuyên Đức lâu, phía đông của Ngự Nhai, là nơi bách quan tập hợp vào sáng sớm chuẩn bị vào triều.

Theo quy định của ⟪Canh giữ cửa cung⟫, đến canh bốn hai kẻng mới mở cửa, trước đó, tất cả quan lại lên triều đều phải chờ tại đây, cũng có quan viên đặc biệt ở ngoại thành vì đường đi quá xa, lo sợ đến trễ nên sẽ đến từ canh ba, chờ ở chầu viện thêm một hai canh giờ.

Nửa đêm giờ Tý, toàn bộ thành Đông Kinh đều đang yên giấc.

Phùng Ích Toàn chắc đã bị Giác Minh hoà thượng chuốc rượu say, ngủ khò khò ở nhà rồi.

Nếu tỉnh táo cũng không sao, canh giờ này cửa cung đã rút chìa khoá, cách thức cung cấm nghiêm ngặt nhất. Không có thư tay từ kim thượng, quan thủ môn cũng không dám tuỳ ý mở cửa. Cửa không mở mà có người xông vào sẽ chịu tội ‘đột nhập’ suốt hai năm. Phùng Ích Toàn nhất định không có lá gan tày trời này.

Hơn nửa đêm đã qua, thủ vệ cũng đỡ nghiêm ngặt hơn ban ngày, có thể để A Bảo thành công lẻn vào Tư Thiên Giám đỡ gặp phiền toái.

Lương Nguyên Kính cầm dao khắc, nhìn A Bảo: “Hay là em quay người lại đi?”

“Vì sao?” A Bảo trừng mắt với chàng, “Em xem cũng không được à?”

“Không phải……”

Lương Nguyên Kính buông tiếng thở dài, đành vén tay áo lên ngay trước mặt nàng. Hiện giờ cánh tay của chàng đã quấn đầy băng vải, mấy vết thương đã khép lại trước đó cũng do oán khí A Bảo xâm nhập làm tét ra lần nữa. Tuy không ứa máu nhưng nhìn vẫn rất ghê, hơn nữa đã không còn chỗ nào hạ dao xuống.

A Bảo siết chặt bàn tay, hơi thở đông cứng, bỗng nhiên thấy hối hận bản thân không nên đưa ra chủ ý thối nát này.

Còn muốn tạo thêm vết sẹo lên người của Lương Nguyên Kính.

Lần cuối cùng, A Bảo tự nói với chính mình, đây nhất định là vết cuối cùng. Chờ sau hôm nay, nàng có thể đi đầu thai, không còn oán khí của nàng, vết thương trên cánh tay chàng sẽ lành lặn trở lại.

“Anh không sao,” Lương Nguyên Kính thấy thần sắc nàng không đúng lắm, lại bắt đầu an ủi nàng, “Không đau chút nào.”

“Em biết, chàng cắt đi, ít… Ít chảy máu lại chút.”

A Bảo tự ti quay người đi chỗ khác, nàng vẫn không thấy cảnh rạch dao máu thịt của Lương Nguyên Kính.

Một lát sau nghe được âm thanh của chàng vang lên từ đằng sau: “Xong rồi.”

Thân thể A Bảo bắt đầu trở nên nóng rực, mềm mại nhẹ bẫng, một luồng ánh sáng đỏ lóe lên, nàng hoá thành con bướm sặc sỡ, vỗ cánh bay lên xà nhà. Lương Nguyên Kính đứng yên tại chỗ, ngửa đầu nhìn nàng chăm chú.

Từ góc nhìn, mặt chàng trở nên có chút kỳ quái, cả người như được bao phủ trong ánh nến, cũng từ đấy tỏa ra vầng sáng ấm áp bao quanh.

A Bảo bay sà xuống, dừng lại trên chiếc mũi cao thẳng của chàng.

“Đừng bướng bỉnh.”

Lương Nguyên Kính cười nâng nàng xuống. A Bảo bay vòng quanh ngón tay thon dài của chàng vài vòng, cuối cùng dừng lại trên đầu ngón tay, vỗ nhẹ cánh bướm.

“Đi đi, mọi việc bảo trọng.”

Lương Nguyên Kính nâng tay lên cao, A Bảo nhảy từ đầu ngón tay chàng bay ra ngoài cửa sổ, lướt qua mái nhà san sát nối liền nhau của thành Đông Kinh, bay thẳng về hướng cung cấm.

Đêm khuya Đông Kinh không một tiếng động, trời cao xanh thẳm mênh mông, vầng trăng sáng treo ngược trên bầu trời đêm, còn có mấy vì sao ảm đạm làm nền bên cạnh.

Từ trên cao nhìn xuống đại nội, hoàn toàn bất đồng với góc nhìn trên mặt đất. A Bảo bay bay, bỗng nhiên phát giác mình bị lạc đường, buộc phải bay xuống đáp trên lá cây.

Nàng hút giọt sương đọng trên đó, cảm giác nóng rực quen thuộc lan ra toàn thân.

A Bảo biết, là Lương Nguyên Kính sợ nàng hoà thành bướm hoạt động không tiện, nên đổi lại thân thể khác cho nàng.

Lúc này đang ở trên con đường ngang đông tây, có đội cấm quân vệ tuần tra trực đêm đi qua, A Bảo vội bay lại góc khuất sau cửa, ít lâu sau, có một thị nữ thô kệch mặc cung trang đi ra từ nơi đó.

Lâu rồi chưa làm người, cảm giác đến nơi đến chốn này làm nàng có hơi không thích ứng kịp. A Bảo giậm giậm chân, nhìn trái phải xung quanh về kiến trúc cung điện, trong lòng đại khái xác định được đây là đâu, chọn đi về con đường mòn hướng tây, rón ra rón rén chạy nhanh tới đó.

Nhưng mà cách nàng đã chết là đã hơn ba năm. Năm xưa trong cung, tuy A Bảo hiếu động mê chơi nhưng không phải đi đến đâu cũng được. Sau đó bị Triệu Tòng cấm túc trong lãnh cung lại càng không tuỳ ý đi lại, chỉ mới qua nửa chén trà nhỏ, nàng phát hiện ra mình lại bị lạc đường.

A Bảo dừng lại, nhìn nhìn kiến trúc xa lạ chung quanh, quả thực cạn lời.

Chẳng phải Tư Thiên Giám ở phía tây sao? Nàng chạy đúng về hướng tây rồi mà, sao lại ở chỗ này vậy?

Trời ạ, nguyên nhân nhiệm vụ thất bại hẳn không đến mức do nàng không biết đường chứ? Vậy thì quá mất mặt rồi!

A Bảo nàng tuyệt đối sẽ không thất bại!

Lúc đang mày mò lại phương hướng, nàng nghe thấy phía sau có tiếng bước chân đi đến.

A Bảo hoảng hốt, vội nhóm mũi chân, ngồi xổm trôn sau con sư tử đá trước cửa điện. Nàng cảm thấy con sư tử đá này có hơi quen mắt, suy đi nghĩ lại vẫn không nhớ đã gặp qua ở đâu.

Đang vắt óc suy nghĩ, chợt nghe đằng trước có người nói chuyện: “Nương nương, theo thiếp thấy Chúc nương tử đang cố tình chọc giận ngài đó ạ, cái gì mà đau bụng không khoẻ, sợ long tử gặp nguy hiểm, đã trễ vậy rồi còn kinh động đến ngài qua đi qua đó, kết quả tới nơi rồi thì bị tỳ nữ ngăn ngoài cửa cung, nói ‘nương tử không sao nữa, đã nghỉ ngơi rồi’. Hứ, khua chiêng gõ trống như vậy, nên để hồng ngự y bắt mạch mới phải, rốt cuộc là không khoẻ thật hay giả bộ chứ!”

Thị nữ tay cầm đèn, trên mặt tức giận bất bình, còn vị ‘Nương nương’ trong miệng nàng ta…

A Bảo sau tượng đá siết chặt tay, trùng hợp dữ vậy, người tới là Tiết Hành.

Tiết Hành mặc áo choàng lông thỏ, búi nửa mái tóc đen lên, cũng không điểm trang quá nhiều. Còn có lọn tóc rơi ra từ mũ trùm đầu, xem ra là được báo tin trong lúc mơ ngủ, chưa kịp rửa mặt chải đầu trang điểm gì đã vội vàng ra cửa.

Nàng ấy không oán giân như thị nữ, chỉ thờ ơ điềm nhiên nói: “Hiện giờ thân thể cô ta nặng nề, quan gia lại nhờ ta chăm sóc sao cho tốt, sự tình liên quan đến long thai thì quan trọng, cẩn thận một chút cũng chẳng sao.”

Thị nữ khó chịu nói: “Long thai thì sao ạ? Nương tử trong cung đây cũng sinh nhiều long tử rồi, không đến lượt cô ta ra vẻ. Nương nương, chi bằng ngài bẩm báo sự thật cho quan gia, để quan gia…”

Nói đến đây, đột nhiên thị nữ ngậm miệng, bởi vì nàng ta nhớ tới, nương tử hậu cung sinh dưỡng quả không ít, mà vị do nàng ta hầu hạ lại chưa từng.

“Nương nương……”

Trong tâm thị nữ sợ hãi trước sau, khiếp đảm nhìn Hoàng hậu.

Tiết Hành tựa như chưa từng nghe ra lời nói mạo phạm đó, chỉ nhìn cửa điện cách đó không xa, thấp giọng lẩm bẩm: “Nói cho y, có tác dụng sao?”

Âm thanh nàng ấy nói quá mỏng, cơ hồ nói ra từ môi, âm cuối phiêu tán trong gió đêm. Thị nữ chưa nghe rõ, thấy ánh mắt nàng ấy dừng trên cửa son loang lổ, không khỏi hỏi: “Nương nương, ngài đang suy nghĩ gì vậy ạ?”

Tiết Hành co rút khoé môi, nhẹ giọng đáp: “Cố nhân.”

Cố nhân?

Thị nữ hoang mang nhíu nhíu mày, vẫn nghe không hiểu, là người Hoàng hậu nương nương quen biết có ở đây sao?

Nhưng ở nơi sâu thẳm hẻo lánh này, cỏ dại tràn lan, đã lâu không ai vào ở. Nghe các cung nhân quét nhà vẩy nước nói, đêm hôm khuya khoắt chỗ này còn có quỷ quậy phá.

Nghĩ vậy, lông tơ sau lưng thị nữ dựng thẳng đứng, đỡ Tiết Hành nói: “Nương nương, đêm hôm đường vắng, chúng ta mau về điện nhé ạ.”

Tiết Hành gật gật đầu, ánh đèn một chủ một hầu dần dần đi xa.

Đợi bóng dáng các nàng biến mất rồi A Bảo mới dẫm hai chân ngồi xổm đứng dậy từ sau lưng tượng sư tử đá, ngửa đầu nhìn phía cửa điện.

Bên trên không có tấm biển, nàng thì biết đây là lãnh cung.

Khó mà tin nổi, thế mà mình đã quên đây là đâu, nàng đã ở đây hơn một năm, cuối cùng chết cũng chết ở ngay chỗ này.

Cây lê trong sân còn sống không? Đoạn lụa trắng nàng dùng để thắt cổ tự vẫn đã lấy xuống chưa? Còn cây trâm bị nàng quăng gãy nữa, có cung nhân nào nhặt được không nhỉ?

Nếu có thì người nọ nhất định đã phát tài rồi, nó là cây trâm Triệu Tòng mời thợ thủ công khéo tay nhất về, hao tốn vô số trân kỳ dị bảo, chế tạo ra cây trâm cho nàng, dù có gãy nát, phỏng chừng vẫn bán được không ít tiền.

A Bảo lắc đầu gượng cười, vì bản thân sầu não quá muộn, bỗng nhiên cơn nóng rực đánh úp thân thể, nàng lại sắp thay đổi.

Giờ đây, thân thể mà Lương Nguyên Kính chuẩn bị cho nàng là Phùng Ích Toàn.

A Bảo duỗi tay tại chỗ, lắc nhẹ eo, cảm giác của thái giám khá quái lạ, nhất thời nàng muốn nhìn thử đ*ng q**n ra sao. Tính lấy bộ phần nào đó ra nhưng lại nghĩ thời gian quý giá, máu Lương Nguyên Kính cũng không phải không có giới hạn, không nên hoang phí cho loại chuyện vô nghĩa này. Nàng dập tắt mớ xúc động vừa sinh sôi, thầm nhớ lại đường đi nước bước trong đầu, bán tín bán nghi xuất phát thêm lần nữa.

Nhưng mà chưa được bao lâu, nàng lại lại lại lại bị lạc đường!

“…………”

A Bảo lẻ loi đứng trên con đường mòn chữ thập lát đá cuội, hai hàng lệ đón gió, a a a! Sao lại thế này hả?!

Phương hướng nàng kém dữ vậy à?

Đông tây nam bắc, nàng phân biệt rõ lắm mà!

Thôi đi! Tìm người hỏi đường còn hơn!

Dù sao hiện tại nàng ở trong thân xác của Phùng Ích Toàn, có ai mà dám từ chối dẫn đường cho Nội Thị Tỉnh Phùng chứ. Về phần tại sao lăn lộn đại nội lâu như vậy vẫn không biết đường, thì đó là chuyện ngày mai của Phùng Ích Toàn, nàng mặc kệ!

A Bảo ôm tất cả các tâm thái bất chấp ở ven đường ôm cây đợi thỏ. Mới ngồi xổm chưa được bao lâu đã thấy có tiểu hoàng môn đang vội vàng chạy từ từ đến, hình như có việc gì đó gấp lắm.

A Bảo nhảy ra ngăn y lại.

Tiểu hoàng môn sợ tới mức la lên, dập mông dưới đất tê tê, chờ thấy rõ người trước mặt, ba hồn lập tức quay về, lanh lẹ đứng dậy nói: “Phùng Ích Toàn, sao ngài còn ở trong cung, không phải hôm nay là ngày tắm gội của ngài ạ?”

A Bảo đang suy tính biện ra lý do gì để gạt người cho tốt thì tiểu hoàng môn kia đã bắt lấy cánh tay của nàng, vừa lôi kéo nàng đi vừa nôn nóng: “Cảm ơn trời đất! Ngài ở đây thì tốt rồi! Mau đi cùng tiểu nhân đi ạ!”

“Đi…… Đi đâu?”

A Bảo bị động đi theo y, hoàn toàn chưa hiểu rõ tình huống.

Tiểu hoàng môn bớt chút thì giờ ngoảnh đầu lại đáp: “Phúc Ninh Điện ạ! Bệnh đau đầu của quan gia lại tái phát rồi!”

Đau đầu?

Triệu Tòng bị bệnh này hồi nào?

Suýt nữa A Bảo đã phun ra câu: Có bệnh thì tìm ngự y chứ tìm nàng làm chi? Nàng cũng đâu chữa bệnh được!

Chẳng lẽ đi gặp Triệu Tòng thật?

Nhưng nàng không có nhiều thời gian, còn nữa, nàng đã đáp ứng với Lương Nguyên Kính không gặp hắn rồi cơ mà.

A Bảo nhìn tiểu hoàng môn túm lấy nàng chạy nước rút đằng trước, khó nhằn cắn môi.

**

Tác giả có chuyện nói:

Bây giờ xin mời Giác Minh hoà thượng đến từ chùa Đại Tướng Quốc trình bày ca khúc về tình yêu nồng nàn:

Em thân yêu ~

Hãy bay từ từ thôi ~

Cẩn thận cây hoa hồng gai phía trước ~

Em thân yêu ơi ~

Hãy hé môi ~

Hương hoa trong gió sẽ làm em say đắm ~

Tôi và em uyển chuyển bay đi nhè nhẹ, bay qua hồng trần mãi mãi ở bên nhau ~~

<i>Bài 两只蝴蝶 – Bài tình ca này thể hiện tấm chân tình của một chàng trai đang yêu muốn gửi đến người con gái mà anh nguyện sẽ gắn bó suốt đời.</i> <i>(nguon ngoaingukhanhlinh)</i>

MC Đao: Người đâu, lôi ra ngoài!
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 51: Hoa mai


Đêm khuya, trong Phúc Ninh Điện.

Chúng cung nhân nô tài quỳ rạp xuống, đều cúi đầu sát đất, run như cầy sấy.

“Bộp⎯⎯”

Lại một bình men xanh hoa văn mỹ nhân rơi trên mặt đất, đập nát thành từng mảnh, hoa cỏ tươi cắm bên trong văng ra, dòng nước uốn lượn chảy xuống theo kẽ hở đá xanh.

“Nói! Là ai làm việc này? Là ai tưới nước?”

Triệu Tòng tóc tai dài rối tung, người mặc tẩm y vàng nhạt, chân trần đứng đó, thái dương nổi gân xanh, khóe mắt gần như muốn nứt rống to.

Cung nhân phía dưới không một ai dám trả lời, từng người ai nấy cũng run rẩy dữ dội.

“Không nói phải không? Không nói thì chết hết đi!”

Ánh mắt Triệu Tòng u tối, cất cao giọng kêu: “Người đâu! Kéo đám cẩu nô tài này xuống, đánh chết hết cho trẫm!”

Dứt lời, lập tức vang lên âm thanh dập đầu xin tha.

Có nội thị sợ chết dồn hết can đảm, lê đầu gối tiến lên, ôm chân hắn than khóc nói: “Quan gia ⎯⎯ Xin quan gia tha mạng! Tiểu nhân biết! Tiểu nhân biết là ai làm!”

“Là ai hả?”

Triệu Tòng dùng một chân đá văng y, nắm cổ áo của y, cắn răng hỏi.

Hốc mắt hắn lõm sâu, tròng mắt giăng đầy tơ máu, xương gò má cao ngất, giống như bộ xương khô biết di chuyển, nội thị sợ tới mức cứng người, lúc lâu mới tìm thấy giọng nói chính mình: “Là… Là Hoà Thuận, tiểu nhân tận mắt nhìn thấy hắn tưới nước…”

“Ngươi nói dối!” Nội thị được gọi là ‘Hoà Thuận’ lập tức oán hận trừng mắt, “Rõ ràng là do ngươi tưới!”

Kế tiếp là màn chúng cung nữ nội thị thi đua tố giác lẫn nhau, tự chứng minh mình trong sạch, ai ai cũng mồm năm miệng mười, không ai nghe rõ lẫn nhau, hiện trường trở nên hỗn loạn.

Triệu Tòng giận dữ, cao giọng gọi thủ vệ ngoài cửa tiến vào, nhưng lại không ai nghe thấy, hắn tức tối bước ra đến cửa đại điện, kéo mạnh cửa Điêu Hoa các ra.

Gió đêm thổi ngược vào trong khiến tóc đen hắn bay bay, áo bào phồng lên, tiểu hoàng môn ngoài cửa bất ngờ không kịp đề phòng, sợ hãi quỳ xuống ngay lập tức, tự tát một cái thật mạnh lên mặt mình.

“Nhìn thẳng long nhan, tiểu nhân đáng chết…”

Triệu Tòng căn bản không để ý đến y, nói với A Bảo: “Phùng Ích Toàn, ngươi tới đúng lúc lắm! Theo trẫm lại đây!”

A Bảo: “……”

A Bảo cứ thế bị hắn túm lôi vào trong điện, đến trước kỷ án. [1]

<i>[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn Baidu)</i>
2f835b790169f9b96a782addd9aa9335.jpg


“Ngươi xem, trẫm đã làm theo cách ngươi chỉ, chuyển nó vào trong điện để giữ ấm, mỗi ngày đảm bảo phơi đủ nắng, cắt tỉa cành hư, bón cả phân rồi, sao nó vẫn không ra hoa hả?”

A Bảo hạ mắt nhìn chậu mai khô cằn trên đó, ăn ngay nói thật: “Nó chết rồi.”

Giọng điệu nàng quá mức bình tĩnh, thế nên Triệu Tòng nghe xong liền sững sờ một lát, sau đó hắn trừng to đôi mắt, chỉ vào A Bảo, giận tím mặt: “Phùng Ích Toàn! Ngươi muốn chết⎯⎯”

Chúng cung nữ thái giám mồ hôi lạnh chảy đầy đầu tiếp tục quỳ rạp trên mặt đất, hô hấp tắc nghẽn, không dám ngẩng đầu, trong điện bỗng trở nên tịch mịch.

Sau một lúc lâu A Bảo mới phản ứng lại, lúc này hẳn bản thân nên kinh sợ quỳ xuống, nàng đóng giả dáng vẻ sợ hãi, khuỵu gối xuống, cúi đầu run bần bật, trong lòng lại nghĩ, hời cho Triệu Tòng quá.

Triệu Tòng còn đang hét to, lúc thì nói muốn ngũ mã phanh thây nàng, lúc thì muốn tru di cửu tộc nàng, trước sau cũng chỉ nghe thấy tiếng gầm rú phẫn nộ của hắn chứ không có tiếng đáp lại.

A Bảo nghe xong mắt trợn trắng, thầm nghĩ muốn nói cái gì thì nói chắc, bừa bãi!

Hiện giờ sao trông Triệu Tòng giống kẻ điên quá vậy?

Mời vừa nãy ở ngoài cửa, nàng đã nghe thấy hắn nổi điên sẵn, trước đây hắn không phải người thích giết chóc như bây giờ, hắn cũng sẽ không gầm rú với cung nhân, đánh mất dáng vẻ phong độ vốn có của mình, hắn là một quân vương nho nhã khiêm tốn kia mà.

Chẳng lẽ……

Do mắc bệnh thật? Tiểu hoàng môn nói ‘đau đầu’ là như này?

Còn đang nghi hoặc, nàng chợt nghe tiếng cung nhân ngoài điện bẩm báo, Hoàng hậu tới.

Tiết Hành dẫn theo thị nữ tiến vào, vẫn là trang phục như ban nãy, có thể nhìn ra sau khi nàng ấy về tẩm điện chưa kịp nghỉ ngơi đã liến thoắng chạy tới chỗ này.

Nàng ấy nhìn chúng cung nhân cúi sát đầu bên dưới, mặt nở nụ cười nhạt đi đến cạnh Triệu Tòng, nắm lấy tay hắn, dịu dàng hỏi: “Quan gia, sao đến giờ này còn chưa nghỉ ngơi? Ngày mai còn lâm triều, đi ngủ sớm nhé.”

Ánh mắt Triệu Tòng vô hồn, thần sắc hoảng hốt, dường như mê sảng lẩm bẩm gì đó: “Tam nương, hoa mai chết rồi, Uyển Nương nàng… Sẽ nổi giận với trẫm, nàng sẽ không chịu quay về bên trẫm…”

Tiết Hành nhìn chậu mai khô trên án, nói: “Đâu có chết ạ, chỉ là chưa tới mùa hoa nở mà thôi. Quan gia đừng lo, ngày mai mời thợ thủ công chăm hoa tới đây nhìn thử là được.”

Mắt Triệu Tòng sáng lên, nắm chặt tay nàng ấy: “Thật không?!”

Lực tay hắn quá lớn, Tiết Hành bị hắn túm chặt thấy đau, cố duy trì bộ mặt mỉm cười: “Đương nhiên, Uyển tỷ tỷ sẽ không vì chút chuyện nhỏ này mà nổi giận với quan gia.”

Triệu Tòng tủi thân đỏ mắt: “Nàng vẫn hay vì chuyện này mà nổi giận với trẫm.”

Tiết Hành chỉ cười xòa chứ không tiếp lời: “Quan gia, khuya rồi, đi ngủ thôi. Đầu lại đau nữa ạ? Có uống thuốc an thần hay chưa?”

“Hồi nương nương, vẫn chưa uống ạ.”

Một thị nữ đang quỳ cung kính đáp, bưng chén canh an thần trên bàn tới.

Tiết Hành dùng tay thử thử độ ấm, nhíu mày nói: “Lạnh rồi, hâm nóng lại đi.”

Thị nữ nói dạ, nghe lời lui xuống.

Tiết Hành lôi kéo Triệu Tòng nói: “Quan gia, đầu rất đau ạ? Thần thiếp xoa giúp ngài chút nhé, quan gia phải ngoan thì Uyển tỷ tỷ mới quay về thăm quan gia chứ.”

Triệu Tòng đỏ mắt: “Đã lâu rồi trẫm chưa mơ thấy nàng.”

Tiết Hành hỏi: “Mấy ngày gần đây quan gia có dùng linh đan do Trương thiên sư luyện hay không?”

“Ăn đan dược là có thể mơ thấy Uyển Nương à?” Triệu Tòng gật gật đầu, “Vậy trẫm ăn, mau đem lại đây cho trẫm.”

Hắn vươn tay đòi Tiết Hành, nàng ấy chỉ cười cười nắm tay hắn: “Quan gia khoan nóng vội, đan dược cùng thuốc an thần kỵ nhau, uống thuốc trước đã…”

Song, vừa dỗ vừa khuyên Triệu Tòng đến hậu điện nghỉ tạm, Triệu Tòng cao lớn được nàng ấy dắt đi theo phía sau, trông như đứa con nhỏ bất lực yếu ớt, còn Tiết Hành là vị từ mẫu kiên nhẫn dịu dàng vỗ về hắn.

Chúng cung nhân may mắn giữ lại được mạng nhỏ, đều âm thầm vỗ ngực.

A Bảo đứng dậy, xoa xoa đầu gối quỳ đau, nghe thấy có người nói: “May sao Hoàng hậu nương nương tới, vẫn là nhờ vào bà ấy, bằng không cái đầu trên cổ tôi chưa chắc được bảo toàn. Đợi quay về, nhất định phải dâng hương cung phụng nương nương mới được, đúng là Bồ Tát sống mà…”

Cũng có nội thị khác mắng: “Xuỳ! Hoa mai rách gì đó, gốc rễ úng cả rồi, cũng chả biết quan gia cái bị gì mà che chở nó như bảo bối vậy…”

Nói xong lời này đã có người đè thấp cổ họng quát: “Nói gì đó? Ngại mình sống quá lâu rồi phải không? Câm miệng lại mau!”

A Bảo ra khỏi Phúc Ninh Điện, đứng dưới hành lang ngước nhìn sao trời, có lẽ vì gió đêm lớn quá, thổi vào mắt có hơi nhẫn nhẫn khó chịu.

Từng hồi ức cãi nhau với Triệu Tòng lúc còn sống xẹt qua trong đầu.

Nàng luôn dễ nổi giận, sau khi Triệu Tòng chọc tức nàng còn không chịu thua, hai người chiến tranh lạnh một thời gian, hắn bớt giận sẽ phái Phùng Ích Toàn đưa tới vài món đồ nhỏ, nào là xửng điểm tâm tinh xảo, con mèo lông dài mắt hai màu, bởi vì hắn nói Uyển Nương của hắn như con mèo nhỏ, xa thì tức giận, gần thì xù lông, có người muốn dỗ dành thì nhe răng cho vu.ốt ve.

Món đồ cuối cùng hắn đưa tới là chậu mai vàng đó.

Thời điểm đưa sang, cành mai gầy mạnh mẽ, nguỵ hoa vàng sắp nở, chằng chịt vui mắt, vừa nhìn đã biết được chăm sóc rất tỉ mỉ.

Trong lúc A Bảo bệnh nặng buồn chán đã ngắt từng đoá hoa xuống, nghiền nát thành bùn, từng chén thuốc nước nâu đổ vào chậu, tưới úng gốc rễ, có làm sao cũng sẽ không sống nổi, y như chủ nhân cũ của nó.

A Bảo nhớ lại ngày ấy bản thân chết đi, mê mang thấy Triệu Tòng hốt hoảng chạy tới chỗ mình, hình như hắn khóc, môi mấp máy lớn giọng gọi ‘Uyển Nương’.

Là ảo giác sao? Khi đó nàng nghĩ, là ảo giác thật sao?

Hiện giờ A Bảo cũng không quá chắc chắn.

“Phùng Ích Toàn, mới nãy ngài đã hù chết tiểu nhân rồi, sao lại nói chậu mai kia đã chết với quan gia chứ… Đâu có chết? Cũng may có Hoàng hậu nương nương, nếu không…”

Tiểu hoàng môn dẫn nàng tới đây đứng đằng sau, mặt mày nom còn sợ sệt.

“Giờ nào rồi?” A Bảo thả ống tay áo hỏi.

“Nhìn trời, xem chừng đến canh ba ạ, sắp đến giờ vào triều.” Tiểu hoàng môn nói.

Vậy không còn nhiều thời gian nữa, Lương Nguyên Kính chống đỡ không được lâu.

A Bảo xoay người, hỏi: “Biết Tư Thiên Giám đi đường nào không?”

Tiểu hoàng môn sửng sốt, gật đầu: “Biết ạ, trễ vậy rồi ngài còn muốn đến Tư Thiên Giám ạ? Ở đằng…”

A Bảo chen lời y: “Dẫn ta đi.”

**

Ước chừng lúc đánh trống, các triều thần nối đuôi nhau đến Tuyên Đức lâu, bọn họ đa phần cưỡi ngựa đến, cũng có số ít cưỡi lừa xanh, trên đầu ngựa còn treo đèn lụa sa, trên đó viết họ tên từng người cộng chức quan đảm nhiệm, nhờ quan thủ vệ kiểm nghiệm.

Bởi vì sắc trời chưa sáng, từ xa xa nhìn lại, ánh đèn như đuốc, trên đường như có con rồng lửa uốn lượn, người cố đô miêu tả ‘canh tư, triều mã động, triều sĩ đến’ [2], bởi vì phần lớn quan thượng triều dùng ánh nến tụ họp lại với nhau, được gọi là ‘thành lửa’.

<i>[2] Canh tư từ 1g sáng đến 3g sáng, quan viên cưỡi ngựa lên triều gặp vua.</i>

Đến canh năm, sắc trời tờ mờ sáng, chúng thần đứng dậy đi ra từ lò lửa chầu viện ấm áp. Tốp ba tốp năm tụ tập dịch bên cửa phải, vừa chờ cửa thành mở vừa thảo luận tình hình chính trị với đồng liêu, còn nhắc về việc vừa nãy nhìn thấy Lương Nguyên Kính ở chầu viện.

Hàn Lâm Đãi Chiếu địa vị thấp hèn, chuyện lên triều này căn bản không đến lượt chàng, nhưng chàng lại ngoài ý muốn xuất hiện ở đây, tình huống như vậy, chỉ có thể được quan gia triệu đến.

Vị hoạ sư Hàn Lâm gần đây liên tục nhận được thánh sủng, không biết là có ý gì, có phải đại diện cho chiều gió nào trong triều chính hay không?

Đáy lòng chư thần đều âm thầm cân nhắc.

Canh năm hai khắc, cửa thành chính thức mở ra. Sau khi quan thủ vệ thẩm tra không chút sai lầm, các triều thần nối đuôi nhau tiến vào, đến trước Tử Thần Điện thượng triều.

A Bảo chuyên môn chọn đúng thời cơ, vừa lúc bỏ qua bọn họ, đợi ra khỏi cửa, bước chân liền khựng lại.

Vào đông ngày ngắn đêm dài, vào giờ này sắc trời còn chưa sáng hẳn, chỉ thấy chút mặt trời nhô lên ngay phía chân trời.

Nàng thấy Lương Nguyên Kính.

Chàng không đợi trong chầu viện ấm áp mà chỉ đứng dưới mái hiên, yên lặng nhìn bầu trời đến xuất thần. Dáng dấp chàng gầy gò, hơi thở ngưng tụ thành khói trắng làm mặt mày chàng không mấy rõ ràng, tay cầm chuỗi Phật châu xâu từng hạt từng hạt.

Chàng đang đợi nàng nhỉ?

Chắc là biết nàng sắp ra tới rồi nên mới không sợ giá rét đứng trong gió như vầy, do đó khi nàng ra ngoài có thể nhìn thấy chàng đầu tiên sao?

“Đêm trước trăng sao như khác đấy, Trời khuya sương gió đứng vì ai?” [3]

<i>[3] Ỷ hoài – Hoàng Cảnh Nhân và bản dịch của Lê Xuân Khải, thivien.</i>

Trong đầu A Bảo chợt hiện lên câu thơ từng học qua, biến thành người rồi, tim nàng dường như có thể cảm nhận nỗi đau châm chích chân thật.

Lương Nguyên Kính ngốc nghếch, chàng không biết vào trong chờ à? Rõ là sức khoẻ yếu không chịu nổi giá rét vậy mà.

Nàng lại nghĩ, Lương Nguyên Kính vẫn luôn thế này sao?

Trông chàng…… Làm nàng cảm giác được sự cô độc, cẩn thận ngẫm lại trong trí nhớ, hình như chàng vẫn luôn lẳng lặng đứng vào một góc, tựa như chiếc bóng an tĩnh.

“Lương Nguyên Kính!” A Bảo hô to một tiếng.

Chàng dưới hiên bị tiếng la tác động, ngoảnh mặt lại nhìn thấy nàng trong nháy mắt, nỗi cô liêu chung quanh chàng tiêu tán ngay tức khắc, môi hơi hơi cong, lộ ra nụ cười dịu dàng lưu luyến.

A Bảo dần chạy vội đến, chạy càng lúc càng nhanh, cuốn theo hơi gió sớm lành lạnh nhảy vào lòng chàng.

Động lượng quá lớn, Lương Nguyên Kính bị đâm sầm dựa vào vách gỗ, than nhẹ một tiếng, đôi tay theo bản năng chặt chẽ đỡ lấy A Bảo, tránh để nàng ngã xuống.

“Nương tử……”

Không chờ chàng nói xong, A Bảo đã ôm mặt chàng hôn lên một cái thật sâu.

Lương Nguyên Kính trợn tròn mắt: “! ! !”

Cái hôn dài qua đi, mặt mũi ai nấy cũng đỏ ửng, A Bảo còn đỡ hơn Lương Nguyên Kính bị nấu chín một chút, đến cả chóp tai cũng đỏ bừng.

A Bảo thoáng thấy có tiểu tốt đi vào chầu viện, mặt đầy khiếp sợ trợn trừng nhìn bọn họ, lúc đụng phải ánh mắt của nàng xong đã kinh hoàng quay đầu vọt chạy.

A Bảo trợn trắng mắt, thầm nghĩ nhìn gì mà nhìn, chưa thấy phu thê người ta ân ái bao giờ chắc?

Bỗng cảm thấy sai sai đâu đó, cúi đầu nhìn, thấy rõ bộ dáng của nàng phản chiếu lại từ trong tròng mắt của Lương Nguyên Kính, là cái mặt già lồi lõm nhăn nheo của Phùng Ích Toàn.

“………………”

Ôi trời ơi, nàng mới vừa dùng cái mặt này đi hôn Lương Nguyên Kính á?

Nhưng mà… Nhưng mà rõ ràng chàng đã rất phối hợp mà!

A Bảo bụm mặt từ trên người chàng trượt xuống, càng nghĩ càng mắc cười, nhịn không được xì một tiếng khom lưng cười ầm lên.

“Ha ha ha ha ha! Lương Nguyên Kính! Chàng tin không, mai… Ngày mai chốn thành Đông Kinh này sẽ đồn, chàng bị Phùng Ích Toàn ngang ngược thô bạo cưỡng hôn đó! Ha ha ha ha ha! Eo ơi… Không ổn rồi, đau bụng quá!”

Lương Nguyên Kính kéo thẳng nàng dậy, xong xoa xoa bụng cười của nàng, bất đắc dĩ nói: “Anh còn chưa kịp nhắc nhở em thì em đã…”

Mặt lại đỏ.

“Đã… Đã thế nào cơ?”

A Bảo xấu xa trêu đùa chàng: “Còn không phải do chàng cũng hăm hở à? Đối với khuôn mặt này mà chàng cũng hôn lấy. Quan nhân ơi, có phải nô gia hiểu lầm gì rồi không, thật ra chàng thích Phùng Ích Toàn ạ?”

“Anh thích em thôi,” Lương Nguyên Kính nghiêm túc nhìn nàng, “Đừng đùa như thế nữa.”

A Bảo gãi gãi mũi không dám chọc chàng, sờ đến bàn tay lạnh ngắt nọ mới vội nói: “Mau mau mau, vào trong đi, bị đông cứng ngắc rồi? Sao không ở trong phòng chờ em hả?”

Nàng thúc giục liên hồi, đẩy Lương Nguyên Kính tới trước lò lửa ngồi xuống, đang muốn xoa tay thay chàng, chợt thấy trên bàn vẽ tranh có thêm chén hoành thánh, nhất thời ngạc nhiên.

“Ăn không?” Lương Nguyên Kính hỏi, “Đoán chừng chắc em sắp ra rồi nên gọi chén hoành thánh cho em.”

Chàng dụng mu bàn tay chạm chạm chén sứ, quay đầu nói với nàng: “Vẫn còn nóng.”

Có một khắc A Bảo rất muốn rơi lệ, nhưng cuối cùng vẫn kìm nén, hít mũi nói: “Ăn.”

Chầu viện sẽ chuẩn bị đồ ăn cho triều thần chưa kịp ăn sáng, đơn giản là chút cháo trắng, bánh hấp linh tinh, trong đó có món hoành thánh là được chư quan ưa chuộng nhất.

Vỏ hoành thánh ở đây được cán rất mỏng, bọc gọn thịt heo bằm, nước súp có váng mỡ heo và vụn đậu phộng, trụng qua nước sôi một lần, thêm chút lớp dầu trôi nổi trên bề mặt.

Hoành thánh còn ấm, bởi vì lo sợ ăn chưa xong sẽ biến thành quỷ hồn nên A Bảo nuốt rất nhanh, còn kể lại kết quả nàng điều tra được ở Tư Thiên Giám cho Lương Nguyên Kính nghe.

“Không có,” Nàng nuốt viên hoành thánh trong miệng xuống, nhú nhứ nói, “Em lật hết mấy công văn ra rồi, không có chữ nào nhắc tới em cả.”

Lương Nguyên Kính sợ nàng nghẹn, kinh hồn bạt vía nhắc nhở: “Ăn chậm lại chút.”

A Bảo bưng chén lên húp cạn nước súp, ngay sau đó buông chén ra, mỹ mãn ‘ợ’ một cái, vuốt cái bụng no căng thích ý nói: “Em sợ ăn chậm sẽ biến thành quỷ, lâu rồi chưa ăn gì, đã quá.”

Lương Nguyên Kính do dự chốc lát, hỏi: “A Bảo, em muốn biến thành người không?”

“Hả? Bây giờ em còn chưa phải người sao?”

“Anh nói,” Lương Nguyên Kính nhanh nhảu giải thích, “Biến thành dáng vẻ nguyên hình của em.”

“Không.” A Bảo lập tức cự tuyệt.

“Còn máu…”

Lương Nguyên Kính dứt khoát vén tay áo lên cho nàng xem, miệng vết thương chưa khép lại, vẫn luôn thấm máu ra ngoài băng gạc.

A Bảo khựng động tác vuốt bụng, vốn định kéo cánh tay chàng qua nhìn kỹ hơn nhưng lại sợ oán khí của mình làm chàng bị thương, đành nói: “Mau đeo Phật châu đại sư cho chàng lên đi! Chàng đừng tháo xuống hoài, em không còn sợ như trước nữa đâu.”

Đây là nói thật.

A Bảo phát hiện Phật quang ngũ sắc cũng không đáng sợ tới vậy. Thỉnh thoảng ở chùa Đại Tướng Quốc nhìn thấy Thủ Chân đại sư giảng kinh cho đệ tử, còn cảm nhận vầng sáng nhu hoà toả ra quanh người cụ, có vẻ đặc biệt hiền từ, Phật quang tựa như ánh đèn dầu tỏa sáng, còn nàng như con thiêu thân, chỉ cần không bay lên dán sát vào đó thì sẽ không xảy ra chuyện gì lớn.

Lương Nguyên Kính chưa từng nghe lời nàng đeo vào, chỉ thực thà bảo: “Đừng lãng phí.”

“……”

Chàng kiên trì quá vậy?!

A Bảo thấy dáng vẻ cật lực đẩy đưa của chàng, trong lòng cũng hiểu ra đôi chút, bèn lia mắt nhìn qua.

“Muốn cái đó?”

“……”

Khỏi đợi Lương Nguyên Kính phủ nhận, nàng đã tự mình suy ngẫm về khả năng trong chuyện này: “Cũng phải ha, lâu rồi không ‘cái đó’. Ờm… Em nghĩ nha, trên đường tới đây hình như có cái hẻm nhỏ, giờ này còn sáng chắc không có người đâu, nhanh một chút, vậy một hiệp là đủ rồi…”

“Anh không có!”

Lương Nguyên Kính kích động đứng bật dậy, bộ dạng đỏ mặt khiến A Bảo nghi ngờ hai lỗ tai của chàng chắc phun ra khói mất.

“Anh không phải vì……”

Khuôn mặt tuấn tú của chàng đỏ ngầu, ấp úng, bởi vì thấy quá thẹn nên mới không nói nên lời.

“Vì sao?” A Bảo chống cằm, thích thú tra hỏi.

“Vì… cùng em ‘cái đó’.”

Vất vả lắm Lương Nguyên Kính mới nặn xong cả câu, cả người như bị rút cạn sức lực, ủ rũ cụp đuôi.

“Ha ha ha ha ha ha ha!”

Rốt cuộc A Bảo không làm bộ đứng đắn nổi nữa, chống cằm cười to, đứng dậy nâng cái mặt nóng như than hồng kia lên, khẽ tựa trán mình vào trán chàng, nhẹ giọng nói: “Em biết mà, biết chàng nhớ em. Lương công tử, hôm nay thời tiết không tồi, lên phố dạo chơi cùng em nhé.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 52: Tà niệm


<i>Đại đức Thích Trúc Thái Minh giải thích về tà niệm như sau: “Tà niệm là nhớ nghĩ về những điều tà bậy, không chân chính. Nghĩ những chuyện tà dâm, nghĩ những chuyện lừa đảo, dối trá, nghĩ những chuyện ác hại người. Đấy là tà niệm”. Tựu chung lại, Sư Phụ chỉ dạy niệm nào có động cơ do tham, sân, si chi phối thì niệm đấy là niệm tà. (nguồn phatgiao.org)</i>

**

Trời vừa rạng sáng, hai bên đường đều là các dinh thự, công sở của quan lại.

Phía đông gồm có Bí Thư Tỉnh, Thái Thường Tự, Tả Tàng Khố và Cảnh Linh Đông Cung, phía tây thì có Cảnh Linh Tây Cung, Lưỡng phủ bát vị [1], phủ Khai Phong, Đô Đình Dịch, và với nơi A Bảo căm ghét nhất – Ngự Sử Đài.[1] Tạm dịch từ nguồn Baidu

Đường rộng hơn hai trăm bước, hai bên có hành lang hoàng gia, đặt các rào chắn sơn đen, quan phủ nghiêm cấm người dân bá tánh mua bán tại đây, trung ương ngự phố <i>(phố hoàng gia)</i> là lối đi dành riêng cho kiệu xe của Hoàng đế, ngày thường nghiêm cấm người và ngựa qua lại. Bởi vậy khung cảnh uy nghiêm chứ không có gì náo nhiệt để xem.

Tuy vậy, cảnh vật nơi đây vẫn khá đẹp.

Bên trong hành lang hoàng gia có hai rãnh nước xây bằng gạch, gần bờ có trồng đào mận lê mơ, trong đầm trồng sen và ấu, sóng xanh xuân hạ lung linh, hoa sen tỏa hương, phong cảnh đẹp như thêu trên gấm. Chỉ tiếc giờ đây trời rét, ngó sen giữa hồ úa tàn, cảnh tượng trở nên tiêu điều.

A Bảo cùng Lương Nguyên Kính tay trong tay, vừa đi dọc bên bờ liễu rủ đến vai vừa nói về chuyện lăng tẩm.

“Chàng nói Triệu Tòng sẽ chôn em ở đâu nhỉ? Hoàng lăng Lạc Dương thì không thể, cũng không ở Đông Kinh…”

Chắc không phải ném ra bãi tha ma đâu ha?

A Bảo nhíu giữa hàng mày, cho rằng dù Triệu Tòng có hận nàng bao nhiêu cũng sẽ không làm đến mức đó đâu.

Lương Nguyên Kính nhéo nhéo lòng bàn tay nàng, an ủi nói: “Đừng nóng vội.”

A Bảo thầm nghĩ gấp chứ, sao không vội được, nếu vết thương trên tay chàng không ổn, bọn họ sẽ trực tiếp gặp mặt nhau dưới địa phủ mất.

Nhưng mà Lương Nguyên Kính có bản lĩnh xoa dịu tâm tình nôn nóng của nàng. Có khi chưa cần chàng mở miệng, chỉ cần nhìn cặp mắt êm dịu như hồ nước tĩnh kia thôi là nàng có thể bình tĩnh lại ngay.

Lương Nguyên Kính sinh ra để khắc nàng, đôi khi A Bảo sẽ nghĩ vậy.

Cả hai đi về phía nam, qua Châu Kiều, ra đến Chu Tước Môn, đi tới gần Long Tân Kiều, cuối cùng đường xá mới nhộn nhịp. Quán rượu quán ăn mở cửa, người bán rong cũng bày sạp bán sớm, vật phẩm trong tháng chạp ngoài quả khô chà bông ra còn có ít thịt thỏ, dạng thịt thú hoang, và cả người gánh hàng rong rao bán dọc đường.

A Bảo muốn mua quà tặng cho cháu gái nhỏ chưa từng gặp mặt, nàng lôi kéo Lương Nguyên Kính đến trước sạp hàng để chọn lựa.

Lựa lựa bỗng thấy tay trái có chút bất tiện, đang tính thả tay Lương Nguyên Kính ra thì chàng đã tăng thêm sức lực, gắt gao bắt lấy tay nàng không buông.

“?” A Bảo khó hiểu quay đầu, “Chàng làm gì vậy?”

“Làm sao vậy?”

A Bảo giơ tay hai người nắm chặt lên cho chàng nhìn, “Buông tay ra, chàng như vậy sao em chọn được đây?”

Lương Nguyên Kính hỏi: “Em muốn thử cái nào?”

Ngầm hiểu, chàng đưa cho nàng xem.

A Bảo: “…………”

Người bán hàng cười nói: “Già đi khắp ngõ hẻm nhiều năm, lần đầu thấy vợ chồng ân ái như lang quan và tiểu nương tử đây, chúc hai vị đồng vợ đồng chồng, đầu bạc răng long.”

Dứt lời, còn tặng cho A Bảo một cái chong chóng.

Tuy A Bảo là người có da mặt dày, nghe xong lời này hai má không khỏi ửng hồng, khuôn mặt tuấn tú của Lương Nguyên Kính trở nên hồng nhạt, nhưng cho dù có ngượng ngùng cỡ nào vẫn không tính buông tay A Bảo ra.

A Bảo hỏi người bán có món đồ nhỏ nào phù hợp với trẻ nhỏ hoạt bát không.

Ánh mắt người bán lập tức dời xuống phần bụng bằng phẳng của nàng, làm khuôn mặt đẹp của A Bảo đỏ hơn, vội vàng xua tay nói: “Không không… Không phải tôi, là cháu gái nhỏ của tôi… Ừm… Tầm năm sáu tuổi ấy.”

Người bán cười to: “Thấy tiểu nương tử cùng phu quân đằm thắm như vậy, sớm muộn gì cũng có con, nhìn thử mấy món mô hạ lạc này đi, sấp nhỏ thích lắm đó.”

A Bảo nghĩ thầm cái người bán hàng rong này nói nhiều quá, cũng không dám đáp theo ông ấy, sợ sẽ bị trêu chọc nhiều hơn, chỉ cúi đầu chọn mô hạ lạc [2]. Đây là món đồ chơi thời Đại Trần nhà nhà đều có, như đồ gốm đất, gỗ điêu khắc, đất sét, bởi vì có ý nghĩa về con cái, ngày lễ bảy tháng bảy cầu xin Chức Nữ, nên người ta thường trưng nó cùng hoa quả, rượu và đồ nướng để phụ nhân dâng hương cầu nguyện.

<i>[2] Đất sét nặn thành hình trẻ con dễ thương, người chăn trâu bò Ngưu Lang và nữ thợ dệt Chức Nữ được bán vào dịp Tết, Thất Tịch. Thường có ý cầu xin cho con cái thông minh và muốn có thêm em bé. (nguồn Baidu)</i>
eda28a818b5e1e0d2f265d73596c7cd458c5c630.jpg


Mô hạ lạc được nặn thành hình em bé mới sinh, có cả nam lẫn nữ.

A Bảo lấy một cái hình tiểu cô nương mặc áo xanh váy đỏ và một tiểu lang quân mặc áo giáp sắt tay cầm giáo gỗ, nhất thời phân vân chưa biết nên chọn cái nào, bèn hỏi Lương Nguyên Kính: “Chàng thấy cái nào đẹp?”

Lương Nguyên Kính nghĩ nghĩ: “Nếu là tiểu nương tử vậy hợp với bé gái hơn?”

A Bảo bĩu môi không đồng tình lắm: “Nhưng mà tiểu nương tử của chúng ta thích tiểu lang quân mà, từ nhỏ đã mong chờ sẽ gả cho lang quân như ý.”

Lương Nguyên Kính đành sửa lại lời nói: “Vậy chọn bé trai đi.”

A Bảo vẫn nhíu mày: “Nhưng mà tiểu lang quân này nhìn uy nghiêm quá, hung dữ kiểu gì ý, sẽ làm cô bé nhà a ca sợ tới mức ban đêm gặp ác mộng thì làm sao đây…”

“……”

Tới đây, Lương Nguyên Kính mới nhận ra nàng đang cố ý làm khó dễ chàng, đành phải nói: “Mua hết.”

A Bảo phì cười.

Quả nhiên một ngày nàng không lấn lướt Lương Nguyên Kính thì cả người sẽ khó chịu mà.

Lương Nguyên Kính lấy túi tiền từ tay áo, hỏi nàng: “Muốn gì nữa không?”

A Bảo cố ý xuyên tạc ý tứ của chàng: “Chàng hỏi ai cơ? Cháu gái nhỏ?”

“Không, anh đang hỏi em.” Lương Nguyên Kính nói.

A Bảo ngắm nghía xong mới nói: “Vậy chàng mua cho em cây tuyết liễu đi, phải là kiểu đón xuân mới được.”

Lương Nguyên Kính mua xong cài lên búi tóc thay nàng.

A Bảo lắc lắc đầu, hỏi chàng: “Đẹp không?”

“Đẹp.” Lương Nguyên Kính nói ngay không chút nghĩ ngợi.

Tuyết liễu bán lẻ trên phố so với cây tuyết liễu bướm đêm làm từ lụa cung đình thì trông có vẻ rẻ tiền hơn. Nhưng bất kỳ vật phẩm trang sức gì đặt cạnh dung nhân ngây thơ hồn nhiên của A Bảo đều trở nên vô cùng phù hợp, hoa lụa vàng nhạt gắn lên tóc mai đen huyền càng tôn lên nhan sắc nổi bật cùng nước da trắng sáng của nàng.

Dòng người tấp nập, ý cười luân chuyển trong mắt A Bảo: “Đẹp đến mức nào cũng đâu đến mức ngây người ngắm nhìn chớ.”

Lương Nguyên Kính mới kịp hoàn hồn bừng tỉnh, ý thức được bản thân đã nhìn nàng chằm chằm hồi lâu, vì thế thẹn thùng cười: “Đi thôi.”

Hai người nắm tay tiếp tục đi dạo, tới trên Long Tân Kiều, A Bảo thoáng chậm lại phía sau, như thế có thể thoải mái ngắm nhìn bóng hình của Lương Nguyên Kính.

Thân hình chàng cao lớn, vai lưng thẳng tắp, tay còn lại đang xách mô hạ lạc mới mua, thật giống người cha đi dạo phố, thuận tiện mua món đồ chơi về nhà dỗ dành con trẻ.

A Bảo chợt suy nghĩ, nếu ngày sau mình không còn nữa, Lương Nguyên Kính sẽ có con sao?

Chàng cũng sẽ giống như bây giờ, dắt tay phu nhân mới ra đây đi dạo sao? Vào mười lăm tháng giêng, chàng sẽ một bên bồng con và một bên nắm tay phu nhân đến ngắm đèn trước Tuyên Đức Lâu?

Nếu thật là thế, chàng nhất định sẽ có một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Trước mặt nương tử, chàng sẽ là lang quân dịu dàng săn sóc. Trước mặt con cái, chàng sẽ là người cha ôn hoà hiền từ.

Chỉ là tưởng tượng hình ảnh một nhà ba người họ hoà thuận vui vẻ, lòng A Bảo lại đau rát, như bị kịch độc rắn rết gặm nhấm. Tránh không khỏi dần dần nổi lên ý niệm đen tối, hận sao để Lương Nguyên Kính phải cô độc sống hết quãng đời còn lại mới phải, hận sao để cả đời này chàng phải nhớ thương nàng mãi mới tốt.

Ý niệm vừa nảy sinh, lòng bàn tay nàng nắm lấy Lương Nguyên Kính bỗng dưng nổi lên trận đau nhức, đau đến mức suýt nữa nàng đã hét to lên, vội vã hất tay của chàng ra.

“Em sao vậy?” Lương Nguyên Kính ngạc nhiên quay đầu lại.

“Không… Không sao hết.”

A Bảo miễn cưỡng cười, giấu tay phải ra sau lưng.

Sắc mặt Lương Nguyên Kính tệ đi: “Em lại bị bỏng rồi phải không?”

A Bảo lập tức chối bỏ: “Không phải.”

Lương Nguyên Kính vốn đã không tin, muốn nàng duỗi tay đang giấu ra, A Bảo thì không phối hợp, chàng trực tiếp xuống tay, A Bảo tức giận siết chặt năm ngón tay thành quyền, bất chấp giãy giụa nói: “Chàng làm gì vậy? Đã nói không phải rồi mà, chàng còn vậy nữa em sẽ nổi giận đó!”

Nhưng nàng có cố sức đến đâu cũng không bật lại một nam tử trưởng thành.

Cuối cùng tay nàng bị Lương Nguyên Kính bẻ ra từng ngón, lòng bàn tay nên trắng nõn, giờ đây lại thành một mảng cháy đen, như đoạn gỗ bị thiêu đốt.

Thoáng chốc, con ngươi Lương Nguyên Kính co rút, gương mặt trắng bệch, sắc môi tái mét.

A Bảo sợ chàng sắp ngất xỉu hoặc phụt ra máu đen nữa nên hoảng loạn nói: “Chàng đừng vậy mà, không… Không đau, chàng nghe em nói đã… Nè! Chàng tính làm gì?!”

Lương Nguyên Kính tháo vòng chuỗi Phật châu thất bảo trên cổ tay xuống, cứ thế định quăng xuống lòng sông Thái Hà.

A Bảo sợ hãi, vội nhào lên ngăn cản nhưng còn sợ Phật quang ngũ sắc nên không dám, chỉ có thể cất cao giọng la: “Đừng ném! Chàng mà ném nó thì em sẽ không để ý tới chàng nữa!”

Lời uy h**p tuy ấu trĩ nhưng vẫn hữu dụng, Lương Nguyên Kính không dám ném đi thật, chàng ngoảnh đầu nói với nàng: “Nó làm em bị thương!”

“Đó… Đó là vì em vừa mới nghĩ, suy nghĩ…”

A Bảo không nói được, bất lực dựa lên thành cầu.

Nàng suy nghĩ cái gì?

Nàng muốn Lương Nguyên Kính sống cô độc hết quãng đời còn lại, sau đó cảm thấy áy náy vô tận, cứ thế nhấn chìm nàng.

A Bảo nghĩ, nàng đúng là xấu xa quá đi, sao có thể nhẫn tâm để Lương Nguyên Kính cô độc cả đời chứ?

Xem ra Giác Minh hoà thượng nói phải, tâm tính của nàng đã bị oán khí nuốt trọn. Có thay đổi ra sao cũng như nước chảy đá mòn, như lửa cháy lan ra đồng cỏ, một khi nổi lên d.ục v.ọng sẽ sinh ra bất mãn, d.ục vọ.ng không được thoả mãn, tích tụ càng nhiều oán khí sẽ bao phủ lấy toàn bộ trái tim nàng, sẽ biến nàng thành ma quỷ mất hết tình người.

Cho đến giờ phút này, A Bảo thầm thấy may mắn, sự mong cầu không cam lòng mới chính thức bị chợp tắt.

Không thể quay đầu, không còn con đường khác nào để đi, nàng chỉ có hai con đường, một là đi đầu thai chuyển thế, hai là hồn bay phách tán, tan thành mây khói.

“Em nghĩ gì vậy?” Lương Nguyên Kính hỏi nàng.

A Bảo cố gắng mượn lực chống đỡ, nở một nụ cười, nửa thật nửa giả thở dài: “Em nghĩ em yêu Lương công tử thật rồi, yêu đến mức không biết sao mới tốt đây.”

Lương Nguyên Kính hoàn toàn sửng sốt.

A Bảo nói: “Đeo Phật châu lên đi, nó có thể bảo hộ chàng.”

Lương Nguyên Kính chưa đeo lên cũng thu tay lại từ hướng lòng sông, gió thổi quét tóc mai chàng rụng lả tả, chẳng biết là bao lâu, đột nhiên chàng nghiêng đầu nhìn A Bảo, nghiêm túc nói: “Anh cũng yêu em.”

Chàng tuân thủ lễ giáo nghiêm ngặt, quân tử phong độ, da mặt lại mỏng, chưa từng nói chữ ‘yêu’ ra ngoài miệng, nhưng hôm nay chàng không những nói ra mà còn nói đến chân thành tha thiết như vầy.

A Bảo đang tính đùa vui một hai câu ghẹo chàng như thường ngày, bỗng nhiên sắc mặt nghiêm túc, chỉ về phía trước nói: “Nhanh! Bắt kịp bà ta!”

“?”

Lương Nguyên Kính quay người lại, thấy nàng chỉ là một phụ nhân lạ mặt đang xách chiếc giỏ tre, có hơi không hiểu: “Vì sao?”

“Ây da⎯ Không kịp giải thích với chàng đâu!”

A Bảo túm lấy ống tay áo của chàng chạy xuống cây cầu.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 53: Nấm mồ


Phụ nhân đi về hướng nam, dần dần ra khỏi Nam Huân Môn ngoại thành hướng về phía ngoại ô.

Mùa đông thành Đông Kinh luôn xám xịt, dù là sáng sớm nhưng sương mù vẫn chưa tan, bao bọc lấy bóng dáng lẻ loi đơn độc của phụ nhân đó, nhìn mờ mờ rất dễ mất dấu.

A Bảo và Lương Nguyên Kính không dám lại gần bà ấy quá, sợ sẽ bị phát hiện. Cứ thế lo lắng đề phòng đuổi theo cả quãng đường, càng đi càng vắng vẻ, cuối cùng phụ nhân dừng lại bên cạnh con đường nhỏ hẻo lánh ít ai lui tới.

“Bà ta tới chỗ này làm gì chứ?” A Bảo tự độc thoại.

“Đi nữa rồi,” Lương Nguyên Kính nghiêng đầu hỏi nàng, “Cần đi theo không?”

“Cần.”

Hình như phụ nhân chỉ dừng lại để phân biệt phương hướng, tiếp theo, bà ấy chọn đi con đường mòn phía bên phải.

Con đường này còn âm u hẻo lánh hơn ban nãy, cỏ dại mọc lan đầy ven đường, bụi gai dày đặc, sương mù bao vây cánh rừng. Tiếng gió càng nghe càng thê lương, cộng thêm âm khí lạnh lẽo chạy từ lòng bàn chân lên đến đỉnh đầu, khiến người ta không rét mà run.

A Bảo dừng lại, nhìn Lương Nguyên Kính, ánh mắt lộ ra nỗi lo lắng.

Cả hai hiện giờ không cần mở miệng cũng có thể hiểu được ý trong mắt đối phương. Lương Nguyên Kính biết nàng lo cho thân thể yếu ớt của chàng không chịu nổi khí lạnh trong rừng, khẽ lắc đầu, bảo bản thân không sao.

Bọn họ tiếp tục theo dõi, chẳng qua dè chừng hơn, còn phải ngừa mấy nhánh cây chỉa chọc trúng, cũng may chưa đi được bao xa, phụ nhân liền ngừng trước cái gò đất nhỏ.

Lương Nguyên Kính chau mày, quan sát xung quanh, thấp giọng nói: “Hình như anh từng tới nơi này.”

“Từng tới?” A Bảo hơi kinh ngạc.

“Ừm, rất quen mắt.”

A Bảo mấp máy môi rất muốn nói gì đó, cuối cùng vẫn không nói ra.

Cả hai nhìn về phụ nhân, chỉ thấy bà ấy đi vòng quanh nhổ cỏ trên gò đất. Cuối cùng cỏ dại được nhổ bỏ sạch sẽ, lúc này giở vải hoa ụp trên giỏ tre, lấy từng đĩa điển tâm theo thứ tự đặt trước gò đất. Sau đó bà ấy thắp hương và nến, tự cầm cây nhang, lạy ba lạy xong quỳ xuống đốt giấy tiền.

Lương Nguyên Kính vỡ lẽ: “Thì ra bà ấy ra khỏi thành để thăm mộ…”

Nói được một nửa đột nhiên dừng lại, trong đầu xoẹt qua tia sáng, đột nhiên chàng hiểu ra vì sao bọn họ phải bất ngờ đi theo một phụ nhân xa lạ. Chàng trừng lớn đôi mắt, khó tin nổi nhìn lại A Bảo.

A Bảo gật đầu, thần sắc phức tạp nói: “Chàng nghĩ đúng rồi, đó là mộ của em.”

**

Sau khi phụ nhân cúng bái xong rời đi, A Bảo mới cùng Lương Nguyên Kính từ trong rừng rậm đi ra.

Nấm mồ cũng không lớn không cao mấy, hơn nửa phân là do nước mưa làm trôi bớt. Trước mộ cũng không có lập bia, bởi vì được phụ nhân nhổ cỏ nên hiện giờ mới trơ trụi. Nếu có người tạt ngang qua tuyệt đối không đoán được đây là một ngôi mộ, có khi còn coi nó là gò đất thông thường.

Trước mộ rải rác chút tiền vàng bằng giấy chưa đốt xong, A Bảo khom lưng nhặt từng tấm lên, lật qua lật lại xem thử.

“Đốt cái này có tác dụng à? Sao trước giờ em chưa từng nhận được nhỉ?”

Lương Nguyên Kính không trả lời.

Nàng ném giấy tiền đi, phủi phủi bụi dính lên tay, ngồi xuống trước mộ, phụ nhân đã bỏ quên giỏ tre lại, nàng cầm miếng bánh hạch đào tơ vàng lên nếm thử, sau đó thoả mãn nheo mắt: “Ờ, quả nhiên tự tay bà ta làm, vẫn chưa quên khẩu vị của em.”

Lương Nguyên Kính còn đang đi lại xung quanh nấm mồ, bộ dạng hồn bay phách lạc.

A Bảo cầm khối điểm tâm lên đưa cho chàng: “Ăn không?”

“……”

Lương Nguyên Kính không nhận lấy, chỉ nói: “Anh nhớ ra mình tới nơi này hồi nào rồi.”

“Hồi nào?” A Bảo vừa ăn vừa hỏi.

“Tháng chín năm ngoái, anh nhập kinh cùng tiểu sư phụ Giác Minh và Dư lão, bởi vì lộ trình chậm trễ, lúc tới con đường này thì cửa thành đã hạ then chốt, bất đắc dĩ ngủ bên ngoài một đêm, chờ sáng sớm hôm sau mới vào thành.”

Lương Nguyên Kính vu.ốt ve thân cây trước mộ, lẩm bẩm nói: “Anh còn nhớ rõ cây đào này.”

Khối điểm tâm giơ lên, A Bảo ăn không vô nữa, nàng im lặng nghiền nửa miếng bánh thành vụn, đột nhiên hỏi: “Bức hoạ kia, lúc ấy chàng cũng mang theo sao?”

Lương Nguyên Kính dại ra, gật đầu: “Mang theo.”

Ra là thế.

A Bảo cẩn thận suy nghĩ về chuyện gì đã xảy ra.

Khi Lương Nguyên Kính lên đường đã đi ngang qua mộ của nàng, còn ở lại ngủ qua một đêm, nói vậy nàng vẫn còn là cô hồn dã quỷ, hồ đồ bay đi khắp nơi, không biết sao bám vào trong tranh, trên đó còn dính máu của chàng.

Sau đó, cứ thế nàng theo vào thành Đông Kinh, bị nhốt trong hòm xiểng. Thẳng đến ngày xuân nọ nửa năm sau, Dư lão tình cờ mở nó ra, giở cuộn tranh được giấu sâu dưới đáy hòm mới giúp nàng nhìn thấy mặt trời cho tới hôm nay.

Lương Nguyên Kính khuỵu một gối xuống trước mộ, đôi tay run rẩy sờ lên nấm mồ, đầu ngón tay trắng nõn dính chút bùn đất, lún vào kẽ móng tay được cắt gọn gàng.

Chàng mù mịt như có chút không thể tin được, đã tìm hồi lâu rồi cứ như vậy xuất hiện, thậm chí đã ở đây từ sớm, chàng cũng từng gặp qua, vận mệnh trêu ngươi như thế, định sẵn mọi chuyện như thế.

“Lương Nguyên Kính, chàng đừng……”

Đừng đau lòng vì nàng, A Bảo muốn nói những lời này, bởi vì nàng đã chết cho nên đừng thương tâm vì nàng nữa, nhưng nàng cũng chợt nhận ra, nếu cứ nói tiếp chắc sẽ làm chàng đau buồn hơn.

Đáng thương quá, nàng nghĩ, Lương Nguyên Kính đáng thương quá.

Trên đời này có nhiều tiểu nương tử xinh đẹp, hiền lành, hiểu lòng người như vậy, vì sao chàng lại đi thích kẻ đã chết như nàng chứ?

Ngực A Bảo nhói lên, nàng đứng dậy muốn an ủi chàng đôi chút, trên lưng bỗng tê rần, có cục đá nện thẳng vào cột sống của nàng.

<i>Cô cậu là ai? Muốn làm gì hả?!</i>

Càng có nhiều cục đá hơn chọi tới, Lương Nguyên Kính lập tức kéo A Bảo ra phìa sau, chắn trận đá bay lại đây.

A Bảo ngẩn ngơ đứng sau lưng chàng, trong đầu đau nhức, có mảng ánh sáng trắng hiện lên, chỉ cảm thấy tình cảnh này rất quen thuộc, dường như… Thật lâu trước kia, cũng có ai đó ôm nàng vào ngực, cũng dùng sống lưng nghênh đón trận mưa đá như vũ bão…

<i>“A Bảo.”</i>

Khuôn mặt mờ căm của thiếu niên ghé vào trên giường đất, sau lưng bị đá đập đến xanh tím cả mảng, chàng khép chặt quần áo lại, thở dài nhè nhẹ: <i>“</i><i>Sau này không có tôi và a ca em ở nhà, đừng như vậy nữa, nếu không sẽ bị người ta khi dễ, không ai bảo vệ em được.”</i>

<i>“Anh sẽ không ở đây sao?” </i>Giọng nói nào đó hỏi.

Đây là cái gì?

A Bảo thống khổ gõ đầu, đây là ký ức từ đâu tới?

“Đừng ném nữa… Chúng tôi không phải người xấu,” Lương Nguyên Kính luống cuống tay chân giải thích, “Xin lỗi nhưng tôi không hiểu ngôn ngữ của người câm điếc, bà đang nói gì…”

“Bà ta đang nói chúng ta ‘mau cút đi’.”

A Bảo đi ra từ sau lưng chàng, ánh mắt bình tĩnh nói với phụ nhân: “Đã lâu không gặp, còn nhớ rõ ta không?”

Cục đá chuẩn bị ném rơi xuống, phụ nhân trợn mắt há hốc mồm nhìn ngược lại nàng.

**

“Hiện giờ bà không làm việc trong cung nữa à?” A Bảo hỏi.

Ngô thị gật gật đầu, làm dấu tay bảo: <i>Sau khi cô chết, qua mấy ngày sau tôi bị trục xuất khỏi đại nội.</i>

“……”

<i>Cô của trước kia không giống với lúc lớn.</i>

“Ừm,” A Bảo sờ lên mặt mình, “Vẽ đó.”

<i>Vẽ?</i>

Vẻ mặt Ngô thị không hiểu gì.

A Bảo cười cười: “Chẳng phải bà nên hỏi làm sao ta còn sống à?”

<i>Còn sống thì tốt.</i> – Ngô thị khoa tay múa chân nói.

A Bảo mỉm cười: “Quả nhiên, bà vẫn y như trước kia.”

Lần đầu tiên Ngô thị bị phái đến hầu hạ nàng, A Bảo cảm thấy cung nhân câm này rất kỳ lạ, không giống ai cả. Bà ấy chỉ gọi nàng là ‘cô’ chứ không phải ‘nương nương’.

Tuy khi đó A Bảo đã bị tước đi phong hào Hoàng hậu, biếm thành thứ dân, nhưng dù sao cũng là chủ tử nên vẫn phải có tôn ti trên dưới. Mà Ngô thị lại không coi nàng như chủ tử, cũng không tra tấn nàng, ngược lại còn chăm sóc nàng rất tốt.

Đồ ăn lãnh cung không phải do ngự trù trong cung đưa tới, phải tự làm tự ăn, ba bữa mỗi ngày của nàng đều do Ngô thị nấu. A Bảo bị bệnh khẩu vị không tốt lắm, một chén cơm ăn không quá hai miếng, Ngô thị biết nàng thích ăn bánh, còn cố ý học làm cho nàng ăn.

Mấy lần A Bảo phát sốt cao, nóng đến mê mang đều nhờ Ngô thị thức trắng đêm chăm coi bên cạnh, dùng khăn ấm lau mồ hôi thay nàng. Nếu không có bà ấy, có lẽ không cần đợi phải thắt cổ tự vẫn, A Bảo sẽ dễ dàng mất mạng ngay trên giường bệnh.

Bởi thế dù biết Ngô thị là người của Triệu Tòng, nội tâm A Bảo vẫn thấy rất cảm kích bà.

“Mấy năm nay, bà vẫn hay tới cúng bái ta à?” A Bảo hỏi.

<i>Phải.</i>

“Làm sao bà biết ta được chôn ở đây?”

Tư Thiên Giám không chép lại vị trí lăng tẩm của nàng, chỉ có điều… Chỗ này không như vị trí Tư Thiên Giám chọn ra là được rồi.

A Bảo nhìn bốn phía chung quanh, hoài nghi kẻ chôn nàng chỉ chọn bừa bãi đất trống, đào cái hố xong chôn nàng xuống, đâu xứng để gọi là ‘lăng tẩm’. So với mộ hoang vùng nông thôn cũng không khác biệt là mấy, còn tốt hơn phơi thây ở bãi tha ma hoang vu.

Ngô thị khoa tay múa chân – <i>Tôi hỏi Phùng Ích Toàn, ông ta nói cho tôi biết.</i>

A Bảo nhíu mày: “Cho nên đúng là ông ta phụ trách chuyện chôn cất ta à?”

Ngô thị gật đầu: <i>Ngày ấy cô treo cổ tự sát, một khắc cuối cùng quan gia mới đuổi kịp nhưng vẫn muộn màng, Phùng Ích Toàn kiểm tra hơi thở, Tiết mỹ nhân cũng…</i>

“Hoàng hậu,” A Bảo sửa cho đúng, “Hiện tại người ta là Hoàng hậu.”

<i>Đều nói cô ngừng thở rồi, quan gia ôm cô vào trong ngực, không chịu buông tay, luôn miệng nói cô còn hơi thở, cô còn sống, ánh mắt dại ra, nói năng lung tung, nhìn như…</i>

Bà ấy khoa tay múa chân được phân nửa thì ngừng lại, như có lời gì khó nói ra khỏi miệng.

Ngô thị tiếp tục khoa tay múa chân – <i>Tiết mỹ nhân……</i>

“Hoàng hậu.” A Bảo không chê phiền nhắc lại.

<i>Cô ấy sợ quan gia xảy ra chuyện nên dỗ quan gia buông tay, Phùng Ích Toàn nhân cơ hội phái người khiêng xác cô xuống. Xong việc Tiết… Cô ấy triệu tập chúng tôi lại một chỗ, tuyên bố hạ táng cô ngay lập tức, sẽ do Phùng Ích Toàn xử lý. Tôi bị nhốt trong thiên điện, ba ngày sau mới được thả ra, Tiết… Cô ấy cho tôi ít bạc, tống cổ tôi ra khỏi cung, còn những cung nhân khác có giống như tôi không thì tôi không rõ lắm.</i>

A Bảo gật gù, đại khái như hiểu rõ tình hình ngày ấy.

Nàng chết quá đột ngột, còn hay làm trò trước mặt Triệu Tòng, cho dù hắn có đau lòng hay không, ít nhất… Nhất định là không kịp trở tay.

Mà hoàng tộc Triệu thị hình như có chứng rối loạn tâm thần gia truyền. Nghe nói năm xưa lúc Thái Tổ hấp hối, cũng thường hay bừng tỉnh từ trong mơ, sau đó nói năng lung tung, Thái Tông hoàng đế cũng như thế.

Nếu nói điển hình nhất của chứng bệnh này, tất nhiên phải nói đến phế Thái Tử năm xưa.

Hữu An năm thứ bảy, tình trạng điên khùng của phế Thái tử còn vô cùng rõ ràng, một ngày nọ, do y không chịu nổi bị quân phụ quở trách nên đã cởi hết quần áo trước mặt mọi người. Người ngợm tr.ần tru.ồng chạy như điên trong cấm đình, rất nhiều người sơ tới mức biến sắc, cũng là lúc hoàng thất bị gièm pha nặng nề nhất.

Long thể Hoàng đế liên quan đến vận mệnh của quốc gia, đột nhiên Triệu Tòng rối loạn thần kinh trước mặt cung nhân nội thị, không khỏi làm người ta liên tưởng đến vị huynh trưởng kia của hắn. Một khi chuyện này truyền ra bên ngoài, tuyệt đối sẽ lung lay cơ nghiệp chuyện hệ trọng của Đại Trần, khó mà tránh khỏi việc đảo chính.

Đầu tiên Tiết Hành nhốt người hầu lại, phong bế mồm miệng họ xong, tránh để tin tức tiết lộ ra ngoài, đây là cách xử trí vô cùng hợp lý.

Đến nỗi chôn cất nàng ngay tức khắc, còn là vì tránh cho đêm dài lắm mộng. Đỡ để Triệu Tòng sau khi tỉnh táo lại tìm kiếm thi thể của nàng, bí mật tiến hành đám tang, tránh kích động đến Triệu Tòng đang thần kinh suy nhược…

Khoan đã, không đúng lắm.

“Tin ta chết chẳng phải đến tháng mười mới công bố sao?”

<i>Phải</i> – Ngô thị gật đầu, <i>Nhưng đúng là xác của cô cũng được hạ táng ngay trong ngày.</i>

Khó trách mộ phần được cất qua loa như vậy, chỉ chọn chỗ núi rừng hoang vắng, đúng là đã đào bừa cái hố chôn nàng ngay, e là ngay cả ‘Tiểu liệm’ [1] cũng không có?

<i>[1] </i><i>Nghi lễ này bao gồm tắm rửa cho người chết, mặc quần áo, đắp chăn, v.v. Việc đặt người chết vào quan tài mà không phủ chăn được gọi là tiểu liệm. (theo Baidu)</i>

A Bảo thở dài, nói: “Thôi đi, không nói chuyện đen đủi này nữa, nói về bà đi, hiện giờ bà đang ở đâu?”

<i>Nhà con trai.</i>

A Bảo biết bà ấy có đứa con trai, hồi trước suốt ngày ở trong lãnh cung nhàm chán nên chỉ có thể nói chuyện cùng người câm. Tuy bà ấy nói không nhiều lắm, có lúc còn vờ như không nghe thấy, nhưng A Bảo vẫn cạy miệng bà nói ra chuyện con trai, còn biết y đã thành thân nữa.

Ở cùng con dâu, nói vậy chắc sẽ không quá thoải mái rồi.

A Bảo thấy áo quần bà ấy cũ kỹ, áo ngoài còn dính vụn bánh thừa, búi tóc không có món trang sức nào, chỉ dùng cái khăn vải buộc gọn, bên tóc mai có vài sợi bạc màu. Sợ là sống không khá là bao.

A Bảo quay đầu lại nhìn, thấy Lương Nguyên Kính đang ngồi trên mộ phần của nàng, ôm mô hạ lạc thất thần suy nghĩ, ánh mặt trời đông ấm áp rọi lên đầu vai, càng làm nổi bật mặt mày như quan ngọc [2] của chàng, tuấn nhã đến cực điểm.

<i>[2] Ngọc trang sức trên mũ. </i><i>Thường chỉ đàn ông có dung mạo đẹp.</i>

A Bảo vẫy tay với chàng, chàng thoáng trông thấy liền đứng dậy đi tới.

“Đưa túi tiền đây.”

Lương Nguyên Kính lấy túi tiền từ trong tay áo ra đưa nàng.

A Bảo đổ tiền bên trong ra đếm đếm, ngoại trừ mấy chục đồng tiền ra còn có vài lượng bạc vụn, nàng cất tiền vào lại xong đưa hết toàn bộ nó cho Ngô thị.

Ngô thị xua tay chối từ, bị A Bảo hung hăng trừng mắt: “Bà có lấy không đây? Không lấy chính là coi thường ta!”

Ngô thị đành nhận tiền, miệng ‘a a’ vài tiếng, là nói lời cảm ơn với nàng.

A Bảo lại hỏi: “Trong nhà có cháu chiếc gì chưa?”

Ngô thị gật đầu, giơ số bốn, tức là 4 tuổi.

“Vừa hay.”

A Bảo vươn tay, không cần mở miệng, Lương Nguyên Kính đã đưa mô hạ lạc trong tay cho nàng.

A Bảo lướt nhìn, nói: “Bé trai đi.”

Lương Nguyên Kính lấy cái trong tay nàng ra, đôi thành tiểu lang quân múa giáo.

A Bảo đưa mô hạ lạc cho Ngô thị: “Món đồ nhỏ không đáng giá bao nhiêu, đem về cho cháu bà chơi đi. Hiện giờ ta đang ở chùa Đại Tướng Quốc, sau này nếu bà có gặp chuyện gì khó xử cứ đến đó tìm ta, nếu ta… Không còn nữa, cũng có thể tới đó báo danh Lương công tử, tiểu sa di trong chùa đều biết chàng.”

Ngô thị cầm mô hạ lạc, nhìn về Lương Nguyên Kính đã lẳng lặng rời đi, mặt mũi cười tủm tỉm, khoa tay múa chân tiếp – <i>Cô tìm được bến đỗ của mình rồi.</i>

“Bà nói chàng á?” A Bảo quay đầu nhìn hướng ngược lại, “Chàng là quan nhân của ta.”

Dứt lời, lại cúi đầu cười: “Là một tên ngốc.”

Ngô thị: <i>Rất hợp với cô.</i>

Lần này A Bảo không kịp nói đã ngay trước ánh mắt kinh hoàng của Ngô thị, thân thể dần dần trở nên trong suốt, hoá thành vong hồn.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 54: Mở nắp quan tài


27 tháng chạp là ngày thích hợp để tắm rửa, tế lễ, nhập liệm, dời mộ và cởi bỏ tang phục.

A Bảo, Lương Nguyên Kính, Giác Minh hoà thượng và Lý Hùng đi đến ngoại ô phía nam, sau khi tiến hành nghi thức cúng bái đơn giản, Lý Hùng vung xẻng xúc đất, ở một bên là hòa thượng đang chắp tay hành lễ, tụng niệm ⟪Kinh Địa Tạng⟫.

Nấm mồ càng đào càng sâu, càng đi xuống lớp đất càng ẩm ướt, hơn nữa còn nhoè ra màu đỏ thẫm y như máu.

Giác Minh nhìn mà mi tâm nhíu chặt.

Từ lúc vào sâu trong cánh rừng, y đã cảm thấy có gì đó không ổn, tựa như có thứ vô hình nào đó đang ngấm ngầm quấy nhiễu làm y rất đỗi không thoải mái.

Lý Hùng tiếp tục đào, bỗng nhiên ánh mắt xác định, dừng xẻng trên tay, nhảy vào hố chôn, dùng bàn tay lau đi lớp đất mỏng manh, góc quan tài hiện rõ ra trước mắt.

Anh ngẩng đầu nói với mọi người đang chờ ở phía trên: “Tìm được rồi.”

Ba nam nhân cùng nhau hợp sức nâng nó lên, cỗ quan tài cũng không quá nặng, chất liệu làm từ gỗ bách trơn không có lớp nước sơn, những chỗ không dính đất còn lộ ra mặt gỗ trắng bóc.

Cũng chính vì không có lớp sơn bảo quản, mức độ mục nát khá nghiêm trọng, thanh đỡ bên dưới quan tài bị mối mọt ăn rỗng, chỉ cần đụng nhẹ sẽ vỡ tan thành từng mảnh, có thể nhìn ra trước lúc hạ táng có bao nhiêu phần hấp tấp.

Lý Hùng thấy thế, đỏ mắt giậm chân mắng to, ngay cả nhà nghèo vùng nông thôn cũng không cẩu thả đến mức này, quả thật là không tôn trọng người đã khuất, đáng bị thiên lôi trừng phạt.

Giác Minh hoà thượng cũng thương xót, chắp tay thở dài: “A di đà phật.”

“A ca, đừng mắng nữa.”

A Bảo che mắt bất lực nói.

Lương Nguyên Kính chưa nói lời nào, chàng rũ mắt, khẽ vuốt quan tài, thần sắc mờ nhạt, chỉ có ngón tay hơi run rẩy nhẹ.

Sau một lúc lâu, chàng xen ngang lời mắng nhiếc tuôn trào của Lý Hùng: “Lý huynh, mở quan tài ra đi.”

Nắp quan tài có chín cây đinh bị rỉ sét, Lý Hùng không cần cố quá nhiều sức đã cạy đinh ra xong.

Từng cây đinh sắt đen rơi xuống, bỗng nhiên A Bảo sợ phải đối diện với nó, nàng không muốn Lương Nguyên Kính nhìn thấy xác chết của mình, nhỡ đâu quá khó coi thì làm sao đây?

Nàng đã chết ba năm, hẳn nó đã thối rữa thành bộ xương khô rồi? Nhỡ đâu mai sau nàng không còn nữa, mỗi lần Lương Nguyên Kính nhớ tới nàng sẽ nhớ luôn bộ dạng xương khô trắng bệch này thì sao?

“Lương Nguyên Kính, chàng…”

A Bảo dịch đến trước người chàng, đang tính khuyên chàng đừng nhìn, lại trông thấy chàng bất thình lình mở to hai mắt, sắc mặt đột ngột biến đổi.

Làm sao vậy?

A Bảo không hiểu được, sau lưng lại vang lên tiếng gào khóc như dã thú.

“A Bảo à ⎯⎯”

Lý Hùng nhào tới mở quan tài ra, gân cổ sụp đổ khóc lớn: “A Bảo của anh! Những kẻ dùng ngàn đao giết người đó, sao bọn chúng có thể đối xử với em như vậy hả ⎯⎯”

A Bảo xoay người, khó tin nổi lùi về sau nửa bước.

Bề mặt nắp quan tài được mở ra có những vết xước do móng tay cào cấu hằn sâu vào gỗ tận ba phân, trong lớp gỗ còn có mảnh móng tay đứt gãy lẫn vết máu loang lổ. Bên trong quan tài, bộ xương trắng nằm co quắp vặn vẹo thành loại tư thế rất quỷ dị, dường như trước khi chết người này đã phải thống khổ biết bao nhiêu.

Hoá ra, nàng chết không phải do thắt cổ tự vẫn.

Ngày ấy Triệu Tòng ôm nàng vào lòng, nói nàng còn hơi thở, nói nàng còn sống đều là sự thật chứ không phải do hắn rối loạn thần kinh nên mới nói sảng.

Hoá ra, nàng bị nhốt trong cỗ quan tài tối đen này, còn sống bị ngộp cho đến chết.

“Đùng đoàng ⎯⎯”

Tiếng sấm ầm vang, thoáng chốc gió giục mây vần, trời đất đổi màu, cuối cùng trận mưa to giá rét đầu năm cũng giáng xuống, mưa rào tầm tã xối ướt cả ba người có mặt tại nơi đây, chẳng ai nói câu nào, nước mưa dứt khoát trôi sạch lớp đất.

Lương Nguyên Kính mặt mày trắng bệch, nước mưa chảy từ mặt chàng xuống tới cổ, chàng gắt gao nắm chặt thành quyền, cắn siết hàm răng, đôi mắt đỏ ngầu, đột nhiên xoay người lớn tiếng chất vấn A Bảo: “Chẳng phải em nói mình treo cổ tự vẫn à? Chuyện này là sao? Rốt cuộc làm sao mà em chết hả?”

“Em… Em không biết.”

A Bảo bị chàng dọa sợ tới mức cuống quít lắc đầu, không khỏi kinh hãi lùi bước, “Em không biết… Đừng hỏi em, em không biết… Em không biết mà!”

Nàng không biết!

Đừng hỏi nàng! Nàng không biết gì hết!

Không biết mà!

A Bảo bịt tai liên tục lắc đầu, chỉ là có thứ gì đó quả quyết bay vào trong trí óc nàng.

Đó là một mảnh đen u tối, rất tối, tối đến mức không nhìn thấy năm ngón tay xoè ra.

“Có ai không ⎯⎯”

Nàng liều mạng vỗ vào quan tài nhưng chỉ nghe thấy tiếng đóng đinh.

“Đừng mà ⎯⎯ Ta còn sống ⎯⎯”

Nàng kêu, nhưng lại không ai trả lời.

Nắp quan tài từng tấc từng tấc khép kín, tước đi tia sáng cuối cùng, không khí càng lúc càng loãng, nàng há miệng hít thở, mười ngón tay cào loạn trên nắp quan tài, móng tay đứt gãy, máu tươi đầm đìa.

Đau! Đau quá!

“Triệu Tòng……” Nàng gọi.

“A ca…” Nàng tuyệt vọng khóc lóc, “Cầu xin mấy người… Ai đó tới cứu ta đi?”

Không có ai hết.

Sẽ không có ai đến cứu nàng, cuối cùng không khí tan biến sạch sẽ, quan tài bịt kín, nàng đau khổ giãy giụa, run lẩy bẩy, hai chân đạp loạn, ngón tay cào cấu chảy máu, nhãn cầu lồi ra, khoảnh khắc gần chết, nàng bộc phát tiếng thét chói tai thê lương nhất đời mình.

“A a a a a a ⎯⎯”

Tại sao?

Tại sao lại đối xử với nàng như vậy?

Rốt cuộc nàng đã làm gì sai hả?! Triệu Tòng! Tiết Hành! Chúc An! Phùng Ích Toàn!

Tất cả những kẻ trong thiên hạ này! Nàng muốn bọn họ không! Được! Chết! Tử! Tế!

“A a a a a a!”

“Nương tử ⎯⎯”

Tiếng gió chung quanh gào thét, cát bay đá lăn, thân cây gần chỗ Lý Hùng nhất đã bị gió to quật ngã.

Lương Nguyên Kính nằm trên mặt đất, tai mũi chảy máu, đầu ngón tay lún sâu, kiệt sức ngẩng đầu la to: “A Bảo, đừng ⎯⎯”

Thất khiếu* Giác Minh hoà thượng cũng đổ máu, từng trận gió to quét tới, y cắm sâu thiền trượng trong tay xuống đất, hô lên: “Cầm lấy!”

Lương Nguyên Kính ôm thiền trượng mới không đến mức bị gió cuốn đi.

Giác Minh lại la lên: “Đưa Phật châu cho tôi!”

“Cậu muốn làm gì?” Lương Nguyên Kính che cổ tay, “Đừng tổn thương nàng!”

Giác Minh giận sôi máu, quát lớn: “Cậu mở to mắt lên mà nhìn ⎯⎯ Kia không phải là nương tử của cậu đâu! Cô ấy đã nhập ma rồi!”

Lương Nguyên Kính mù mịt nhìn lại, A Bảo vẫn đang gào thét, hồn phách của nàng chẳng còn trong suốt nữa mà đã biến thành một màu đen, oán khí rõ rệt như thế, ngay cả đạo hạnh chưa thông như Giác Minh hoà thượng còn nhìn thấy được, khói đen lành lạnh lượn lờ, dường như có đôi mắt đỏ sẫm hiện ra, hệt như Tu La khát máu trong đêm tối.

“Cậu ⎯⎯”

Giác Minh không biết nên nói với chàng như nào mới phải.

Trời còn đổ mưa to, nước mưa bị gió cuốn cho nghiêng ngả, mây đen che kín ánh mặt trời, sấm sét ầm ầm, như thể tất cả mây đen của thành Đông Kinh đều giăng kết ngay trên đầu bọn họ. Mây đen tụ thành xoáy nước, tạo thành tâm điểm giông bão, đột nhiên, tia sét tím đánh xuống như lưỡi roi khổng lồ quất tới, nháy mắt đã chém cây đào bên mộ gãy ra làm đôi, vỏ cây bị cháy cho đen xém.

“A a a a a a a ⎯⎯”

Trong làn khói đen một lần nữa phát ra tiếng nữ nhân kêu thảm thiết đau khổ tột cùng, khói đen tích tụ lại nhiều hơn, biến thành hình người đang giơ nanh múa vuốt.

“Mau đưa cho tôi!”

Giác Minh cả giận quay đầu: “Không đưa, cô ấy sẽ bị thiên lôi đánh cho tan thành mây khói đó!”

Lương Nguyên Kính đờ đẫn, chàng không dám chậm trễ nữa, lập tức tháo Phật châu trên cổ tay xuống đưa cho y.

Giác Minh chắp tay niệm Phật hiệu, ngay sau đó giật đứt Phật châu, bảy viên bảo châu loá ra Phật quang, tung bay giữa không trung.

Giác Minh khoanh chân ngồi xuống tại chỗ, đôi tay bắt ấn*, nhắm mắt tụng kinh, Phật châu xoay tròn tạo thành hình chữ ‘Vạn卐’ màu vàng lao về làn khói đen, bao vây nó như sợi dây thừng, càng trói càng chặt. Làn khói đen giãy giụa, điên cuồng vật lộn, đồng thời cũng phát ra tiếng kêu thảm thiết chói tai.

Lương Nguyên Kính cảm thấy xương ngực đau nhói, miệng phụt ra ngụm máu đen, nhưng chàng vẫn cắn răng chịu đựng không để mình ngất xỉu.

“Nương tử……”

Chàng run rẩy vươn đầu ngón tay muốn chạm vào người nọ, dù chỉ là một góc váy, “A Bảo… Đừng thành ma…”

Tiếng hét tựa hồ ngưng trệ đôi chút, gió lốc chung quanh yên tĩnh lại.

Ngay sau đó, Phật quang bùng cháy, cuồng phong nổi dậy, tiếng hét vang lên lần nữa, làn khói đen bất ngờ tăng vọt, lần này như muốn phá tan kết giới của bảy viên Phật châu.

“Tiếp tục đi!”

Giác Minh phun ra ngụm máu, hô to trong gió lốc: “Tiểu hữu Nguyên Kính! Nói chuyện với cô ấy tiếp đi! Đừng dừng lại! Hình như cô ấy chịu nghe lời cậu nói!”

Lương Nguyên Kính sửng sốt, mặt mày rủ xuống, máu tươi đỏ thẫm liên tục tuôn trào nơi khóe mắt, như giọt lệ càng tôn lên sắc mặt trắng bệch của chàng đây, thoạt nhìn có vẻ vừa xinh đẹp vừa ma mị.

Một lát sau, trong tiếng gào thét thê lương của nữ nhân vang lên tiếng hát trầm ấm của người thanh niên.

“Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời.”

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi.”

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [1]

<i>[1] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

Dưới tiếng ca ấy, nữ quỷ thành ma an tĩnh lạ thường, bảy viên Phật châu bay quanh nàng, trong tầng sương đen dày đặc mơ hồ trông thấy sườn mặt biến dạng của nữ nhân hơi hơi ngẩng dậy, tựa như đang trầm ngâm lắng nghe.

Mưa gió bay xa, trời đất yên tĩnh, chỉ còn lại giọng ca ấm áp.

Sắc trời sầm tối, duy nhất pháp thân Giác Minh lại toả ra Phật quang kim sắc như đèn sáng dẫn lối trong đêm đen, hai mắt y khép hờ, tăng bào bị gió lớn thổi phồng, miệng chảy máu tươi, tiếp tục chắp tay tụng niệm kinh Phật.

Bỗng nhiên, y mở mắt ra, dừng việc tụng kinh lại, đứng dậy rút thiền trượng dựng thẳng trước ngực, bổ trượng xuống gầm lên: “Khổ ải vô biên, quay đầu là bờ. Tiểu nương tử A Bảo, xuất ma! Xuất ⎯⎯”

Phật quang của kim cương* thiền trượng bừng sáng, biến thành cây đại bổng to bằng miệng chén, mang theo sức mạnh ngàn cân có thể dời non lấp bể khiến xung quanh trở nên tĩnh mịch, yên lặng đến đáng sợ.

“Nương tử……”

Lương Nguyên Kính bò dậy từ trên mặt đất, chưa kịp lau khô máu trên mặt đã tìm kiếm khắp nơi.

“Nương tử, em ở đâu?”

“A Bảo ⎯⎯”

“Em đang ở đâu?”

Chàng kiệt sức ngã quỵ xuống đất, bả vai run rẩy, hai tay ôm mặt, từng giọt lệ nóng chảy dài qua từng kẽ hở ngón tay.

“Ở đây.”

Giọng nữ thân thuộc vang lên từ sau lưng.

Lương Nguyên Kính quay đầu lại, chàng thấy A Bảo tóc đen xoã dài mặc bộ váy đỏ hồng, giữa trán có vệt đen chỉ dọc, nàng lẳng lặng đứng đó như lần gặp nhau dưới núi Thanh Thành.

**

<i>* Thất khiếu: hai tai; hai mắt; hai lổ mũi và miệng.</i>

<i>* Bắt ấn hay còn gọi là kết ấn, nghĩa là tác động vào đầu ngón tay, hoặc các gốc của ngón tay để kích hoạt những huyệt ở vùng đỉnh đầu hoặc vùng xương cùng, hai khu vực thu xả và giao hòa giữa nội khí của cơ thể với thiên khí hoặc địa khí của vũ trụ bên ngoài. Tư thế tay thể hiện hạnh nguyện, nguyện lực của các vị Phật, Bồ Tát. Tư thế đó có được do tu thân, tu khẩu, tu ý mà ra. Tư thế đó thể hiện cho hạnh nguyện và phương pháp độ sinh của chư Phật. (nguồn buddhistart)</i>

<i>* Kim cương chử hay chày kim cương (tiếng Phạn: वज्र – vajra) là một trong những biểu tượng quan trọng của Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đây là một pháp khí có tính chất cứng rắn của kim cương, có thể cắt mọi vật thể khác mà không vật thể nào cắt được nó, đồng thời, nó có thêm sức mạnh vô địch của sấm sét. Do vậy, nó là biểu tượng cho tinh thần kiên định và uy lực tâm linh. (wikipedia)</i>
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 55: Hoa đăng


28 tháng chạp, hài cốt của A Bảo được di dời sang cỗ quan tài làm bằng gỗ lim tốt, đặt ở trong Phật đường chùa Đại Tướng Quốc, có ba mươi sáu tăng nhân mỗi sớm mỗi tối tụng niệm ⟪Kinh Vãng Sanh⟫ một lần giúp nàng siêu độ.

Trong thiền thất hậu viện, Giác Minh hoà thượng giao vòng chuỗi lại cho Thủ Chân đại sư, bảy viên Phật châu đều có tổn hại lớn nhỏ. Nghiêm trọng nhất là xá lợi tử của cao tăng nọ có vết rách hơi nhỏ, Thủ Chân nâng trong lòng bàn tay, chỉ nắm nhè nhẹ vòng đã hóa thành bụi mịn.

Cụ đổ bụi từ lòng bàn tay vào lư hương, sắc mặt trang nghiêm nói: “Đột tử, còn trong quan tài cực âm, sát khí nặng nề nhất, e rằng phải làm đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày pháp sự mới khử sạch lệ khí.”

Giác Minh ngồi quỳ trên đệm hương bồ sau cụ, gật đầu cung kính đáp ‘Dạ’, y mới phục hồi lại từ lần đuổi ma hôm qua, nguyên khí thương tổn lớn, màu môi tái nhợt, cũng không còn thần thái sáng láng như ngày thường.

Thủ Chân trầm ngâm: “Chùa Tướng Quốc không được.”

Chùa Tướng Quốc quá gần phố phường, hồng trần lẫn lộn, đích thật không thích hợp dùng làm đạo tràng*.

Giác Minh ngẫm nghĩ: “Ngoài cửa Phong Châu kinh thành có ngọn núi vạn năm, trên núi có chùa Sùng Ninh, ngày thường hương khói không thịnh, ít người ghé thăm.”

Thủ Chân ngầm đồng ý với đề nghị này.

Giác Minh lại có hơi do dự, chợt hỏi: “Sư phụ ơi, tiểu hữu kia của đệ tử…”

Thủ Chân đánh gãy lời y: “Trong lòng con sớm có kết luận.”

Tiếng gõ mõ vang lên trong thiền thất, Giác Minh lặng lẽ lui xuống.

Thực tình, trong lòng y sao mà không biết được đây?

Tiểu hữu Nguyên Kính là nguyên nhân lớn nhất khiến tiểu nương tử A Bảo ở lại thế gian này. Hiện giờ A Bảo đã có dấu hiệu nhập ma, nếu muốn loại trừ oán khi trong lòng nàng, tiểu hữu Nguyên Kính không thể gặp lại nàng nữa. Sở dĩ y hỏi sư phụ, cũng chỉ vì quá đáng thương cho lòng si mê này của bằng hữu tốt.

Chữ ‘tình’, từ xưa đến nay, đều mang theo đau khổ.

Mưa trên lá chuối tây, Giác Minh hoà thượng đứng dưới hiên, phát ra tiếng thở dài nhỏ khó nghe thấy.

**

Lúc Lương Nguyên Kính tỉnh lại, đã không thấy bóng dáng A Bảo đâu.

Từ hôm qua sau khi nàng nhập ma, liên hệ giữa bọn họ bị cắt đứt, nàng không cần ở bên cạnh chàng trong phạm vi năm trượng nữa.

Lương Nguyên Kính xỏ giày xuống giường, che ô vải dầu tìm khắp nơi trong chùa, cuối cùng cũng thấy được nàng trên gác chuông phía đông Văn Thù Viện.

A Bảo ôm đầu gối ngồi trên ngói lưu ly xanh lơ, nhìn cơn mưa phùn không ngớt phía chân trời.

Lương Nguyên Kính thu ô, xách quần áo lên lầu, hiện giờ thân thể chàng suy nhược, cứ ba bước chân phải tạm dừng nghỉ ngơi. Đợi lên đến gác chuông, tấm lưng đã đổ đầy mồ hôi lạnh.

Chuông đồng chùa Đại Tướng Quốc cao tầm tám thước, nặng hơn vạn cân, bề mặt có mười sáu chữ ‘Hoàng đồ củng cố, đế đạo hà xương, Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển’*, do các nghệ nhân đúc vào năm Thái Tổ tại vị, vốn dùng để đánh thức cư dân thành Đông Kinh, hiện giờ không cần nữa nên chuông đã phủ lớp màu xanh lục.

“A Bảo ơi.” Chàng nhẹ tiếng gọi.

“Chàng không nên tới đây.”

Qua hồi lâu, đỉnh gác chuông truyền đến giọng nữ lãnh đạm, pha lẫn trong tiếng mưa rơi tí tách, hư ảo tựa hồ chẳng nghe thấy gì.

“Vào trong thôi,” Lương Nguyên Kính nói, “Trời đang mưa.”

“Thì có sao? Quỷ hồn sẽ không bị mưa xối.”

A Bảo từ ngói lưu ly bay xuống, ngừng giữa không trung. Nàng mặc bộ váy đỏ, tóc dài xoã tung, vệt đen giữa mày hiện rõ rệt, sát khí quanh thân trở nên nặng nề, mưa bụi bay tán loạn đều tránh né nàng.

Lương Nguyên Kính cầm lòng không đậu vươn tay muốn chạm vào nàng, nháy mắt nàng lại lùi thật xa về sau.

“Quay về đi, bên ngoài lạnh.”

A Bảo nói xong liền xoay người bay vào tầng mây.

Lương Nguyên Kính vịn tay ngóng trông xa xăm, chỉ thấy mỗi trời đất mưa phùn ào ào, trắng toát cả mảng. Thành Đông Kinh được bao phủ trong mưa bụi mông lung, chưa từng gặp lại bóng hồng xinh đẹp kia nữa.

“A Bảo……” Chàng thì thào gọi.

**

30 tháng chạp, giao thừa tuổi mới.

Ngày này, trong cung cấm sẽ cử hành nghi lễ lớn rước thần đuổi tà. Các quan thân sự của hoàng đế sẽ ban cấm quân đeo mặt nạ, mặc áo giáp, tay cầm giáo vàng kích bạc, cờ rồng ngũ sắc, cùng các đào kép Giáo Phường Ty hoá thân thành Phán Quan, Tiểu Muội Chung Quỳ, Táo Quân, Thổ Địa, Ngũ Phương Quỷ Sứ, vừa đi vừa đánh trống từ cung đình đến Đông Hoa Môn, theo đoàn lớn hoành tráng rầm rộ đi tiếp ra Nam Huân Môn, đến vùng Chuyển Long Loan xua đuổi tà ma xong quay về.

Ban đêm, tiếng pháo trúc nổ liên miên, khắp đường làng đều nghe thấy.

Sĩ thứ kinh thành quây quần bên lò lửa cho đến giờ Tý mới thôi, gọi là ‘đón Giao Thừa.’

Tại ngay thời khắc náo nhiệt nhất trong năm, linh cữu của A Bảo ra khỏi Phong Khâu Môn phía bắc thành, đi về hướng núi Vạn Tuế.

Nàng khoanh chân ngồi trên nắp quan tài chính mình, phía trước là ba mươi sáu tăng ni tụng kinh cho nàng. Dẫn đầu là Thủ Chân đại sư khoác áo cà sa đỏ vàng, tay cầm chuông kim cang*, bảy bước lắc chuông một lần, Giác Minh hoà thượng tay cầm cờ dẫn hồn hộ pháp cho nàng.

Ca ca Lý Hùng mặc áo tang, đã khóc đến hai mắt sưng to rõ rệt. Anh rải tiền giấy, cứ vài bước chân sẽ hô lên một tiếng “A Bảo, hồn về”, giọng nói khàn đặc nghẹn ngào khó nghe.

Đằng sau linh cữu còn có bảy mươi hai tăng nhân đưa tang, vừa tròn số ‘108’*. Ở sau cùng đội ngũ, là Lương Nguyên Kính đi theo từ xa xa.

“Quay về đi… Ngốc ạ.” A Bảo nhẹ giọng nói.

Đội ngũ đi đến chân núi Vạn Tuế, Giác Minh hoà thượng lại gần Lương Nguyên Kính, ánh mắt thương xót, khẽ khuyên nhủ chàng: “Đưa đến đây thôi.”

Lương Nguyên Kính giật mình hồi lâu, cuối cùng đáp: “Được.”

Chàng dừng lại ngay chân núi, ngóng theo chúng tăng nâng quan tài đi lên núi, ánh nến đèn lồng chiếu sáng núi rừng tĩnh lặng. Bóng hồng nọ ngồi trên nắp quan tài, từ đầu đến cuối chưa từng quay đầu lại.

**

Mùng một tháng giêng, năm Vĩnh Ninh thứ tư.

Pháp sự an hồn A Bảo chính thức cử hành trong chùa Sùng Ninh, linh cữu nàng được đặt trong bảo điện Phật Di Lặc. Từ Thủ Chân đại sư dẫn dắt Giác Minh hoà thượng, lẫn 108 tăng nhân, ngày đêm tụng niệm kinh vãng sanh, đàn hương trong điện lượn lờ, tiếng gõ mõ suốt đêm chẳng ngừng.

Mấy ngày trôi qua, oán khí quanh người A Bảo quả nhiên có tiêu giảm, nóng nảy trong lòng giảm xuống, bên tai không còn nghe thấy tiếng mời gọi đánh giết nữa, vệt đen chỉ dọc giữa mày phai mờ hơn so với trước.

Mùng tám tháng giêng, Lý Hùng lên tới núi, mang theo túi bánh mật nhà Vương bà bà, linh vị thờ cúng trước kia của nàng, còn đốt cháy quyển tranh cuộn vào chậu than.

Song, A Bảo ngồi trên tháp Phật sau núi ngắm nhìn phong cảnh thu được một bức hoạ.

Trong tranh là xe giá cấm quân binh sĩ diễn tập cho đại lễ long trọng hằng năm, trước xe có bảy con voi, vệ sĩ cưỡi voi mặc áo tím, đội khăn chít đầu, ngồi trên cổ voi, tay cầm cán ngắn chỉ huy voi xoay vòng.

Hai bên phố sá có không ít dân chúng nghển cổ quan sát, trong đó có đứa bé tóc trái đào, do không được cha mẹ trông coi nên đã lao ra chạc cây son ngăn cản đám đông. Con voi đi đầu bị hù sợ, chân trước bật lên cao, cận cảnh sắp giẫm chết đứa bé kia.

Người vẽ tranh phác hoạ rất chân thật, như đứa bé dưới chân voi khóc nỉ non. Vệ sĩ trên voi giơ cao cán đồng, chuẩn bị đâm xuống dưới ánh mắt kinh hãi trên mặt mọi người xung quanh, có phụ nhân mặc đồ màu lam rơi đầy nước mắt, liều mạng nhào lên bị người chung quanh giữ lấy. Toàn cảnh sinh động y như thật, làm người ngoài xem tranh cảm nhận rõ nguy hiểm trùng trùng ngay lúc ấy, cục diện khẩn trương mạng sống mỏng manh.

Trên bức tranh cuộn tròn có chữ viết, nét bút thư pháp như nước chảy mây trôi:

Qua Tuyên Đức Lâu, thấy đại lễ cưỡi voi diễn tập, một đứa trẻ vô cớ lao ra, gặp hiểm nguy dưới chân voi, may mắn được người lạ cứu giúp. Đoán rằng nếu có khanh ở đây, chắc sẽ vỗ tay hô to, nên đã vẽ thước tranh diễn tả toàn bộ cảnh tượng ấy, nhằm muốn khanh vui vẻ.

Ký tên: Phu, Nguyên Kính.

A Bảo cầm tranh, quả thật đã phì cười, ngón tay chậm rãi v.uốt ve bức hoạ cuộn tròn, dịu dàng nói: “Người lạ nọ, là chàng thì có.”

Từ đó về sau, mỗi ngày Lý Hùng sẽ lên núi, mang theo ít điểm tâm và thiêu một bức hoạ. Trong tranh có phố phường ngõ hẻm, có quán rượu quán trà, có cầu đỏ trên Biện Hà, cũng có quán mì ruột dê đường Phan Lâu bọn họ từng ghé ăn, kể cả Phàn Lâu, ngói ngoài Chu Tước Kiều, chợ đêm Châu Kiều.

Mỗi bức hoạ đều do đích thân Lương Nguyên Kính đề bút. Nội dung đâu đâu cũng là hôm nay chàng đã đi đâu, gặp chuyện gì thú vị, nếu có A Bảo ở đó, nàng sẽ thấy thế nào ra sao các thứ.

Cuối cùng ký tên: Phu, Nguyên Kính.

Mười lăm tháng giêng, lễ Thượng Nguyên.

Thành Đông Kinh thao thức cả ngày lẫn đêm, phố phường lớn nhỏ treo đầy hoa đăng, đêm cũng như ngày, người đi đường chen vai nối gót, sôi nổi đến trước Tuyên Đức Lâu ngắm đèn.

Quốc triều nhân dịp sắc lập tân hậu, đêm Nguyên Tiêu năm nay náo nhiệt long trọng gấp trăm lần, chỉ riêng đèn Ngao Sơn đã cao bằng hai tầng lầu, trên đèn vẽ mười hai con giáp, các vị thần tiên, còn có dòng nước chảy xuống từ đỉnh đèn, trông như thác nước.

Ngoài ra, còn có hoa đăng, đèn chim, đèn thú, đèn cá, đèn kỳ lân nhiều vô số kể, thêm cả người Giáo Phường Ty múa may đèn hình cá, đèn màu hình rồng, như cá rồng vùng vẫy khiến người xem hoa cả mắt.

Trước cửa lầu, các nghệ nhân nổi tiếng nhất thành Đông Kinh biểu diễn đá cầu đánh hoàn, đi dây trên không, đô vật nữ, dị hơn là nuốt kiếm, kỹ thuật phun lửa, người xem chưa kịp nhìn đã hô to xuất sắc.

Trên lầu Tuyên Đức, thiết lập ngự toà, quan gia dẫn hậu phi công chúa, tể chấp và tất cả quan lại cùng nhau ngắm đèn, chung vui cùng dân lành, các học sĩ còn muốn làm từ, trình lên cho vua thưởng thức.

Đêm nay ồn ào náo nhiệt sôi động thế nào, riêng A Bảo ở trên núi Vạn Tuế ngoài thành xa xôi cũng có thể nhìn thấy ngọn đèn dầu sặc sỡ của thành Đông Kinh.

Nàng nhớ lại ngày đưa a ca lên thuyền ở bến đò, nàng nói chuyện với Lương Nguyên Kính, chờ đến Nguyên Tiêu, nàng muốn cùng chàng đến Tuyên Đức Lâu xem đô vật nữ, lên Phàn lâu ngắm đèn. Bọn họ còn hứa hẹn ngày sau sẽ đến Tuyền Châu ngắm biển, ấy mà giờ đây, nàng chỉ có thể ngắm đèn cùng chàng thông qua bức hoạ.

A Bảo cười khổ, mở bức hoạ cuộn tròn trong tay, cúi đầu xem xem hôm nay chàng vẽ gì cho nàng.

Trước Tuyên Đức Lâu, đèn đuốc rực rỡ, như mưa sao băng, nghệ nhân trình diễn hết mình.

Ba vòng bá tánh cả trong lẫn ngoài vây quanh hai vị đấu vật vạm vỡ, ngực trần lộ ra đang thi đấu. Một nữ đô vật rơi vào thế yếu, e là sắp bị đối thủ vật ngã.

Người xem chung quanh sôi nổi vươn tay reo hò, tâm thái thần sắc mỗi người mỗi khác, còn có tiểu nữ đồng búi tóc sơ nha được mẹ ôm vào lòng, tay nhỏ cầm hồ lô đường đang tính bỏ vào miệng.

Góc trái bức tranh cuộn tròn có lời đề bút, là khuyết từ của cư sĩ nọ:

“Đêm xuân gió thổi ngàn hoa nở,
Rụng như mưa, sao rực rỡ.
Ngựa quý, hương đưa, xe trạm trổ.
Phụng tiêu uyển chuyển,
Ánh trăng lay động,
Suốt đêm rồng cá rộn.

Ngài tằm, liễu tuyết, tơ vàng rủ,
Phảng phất hương bay, cười nói rộ.
Giữa đám tìm người trăm ngàn độ,
Bỗng quay đầu lại,
Người ngay trước mắt,
Dưới lửa tàn đứng đó.” [1]

<i>[1] Thanh ngọc án – Nguyên Tịch – Tân Khí Tật và bản dịch của Như Quy, thivien.</i>

Dòng cuối còn kèm theo câu lạc khoản: Mừng ngày sinh nhật của nương tử, phu, Nguyên Kính.

“Chàng còn nhớ rõ à, hôm nay là sinh nhật của em.”

Đầu ngón tay lưu luyến ve vuốt dòng mực kia, tim người đau xót khôn nguôi, chỉ tiếc là A Bảo chẳng thể khóc.

Bức tranh cuộn hoá thành ánh sáng bạc, tiêu tán ngay trong tay nàng.

Nàng ngẩng đầu lên, ngồi trên tháp Phật, hai chân đong đưa giữa không trung, ngắm sao tối hôm nay.

Trời đêm đông luôn âm u, không bằng đêm hè sáng tỏ, nàng dốc hết sức tìm kiếm cũng chỉ thấy mấy vì sao mờ nhạt.

A Bảo có hơi thất vọng, cảm giác ông trời không cho cô mặt mũi mừng ngày sinh nhật, chỉ là……

Người đã khuất còn đón sinh nhật không nhỉ? Hẳn là không rồi.

Chả thú vị xíu nào.

A Bảo cực kỳ buồn chán, đang muốn bay xuống linh đường của riêng mình ăn vài miếng bánh, bỗng nhiên ánh mắt xác định.

Sâu trong núi rừng, có một ngôi sao sáng ngời từ từ bay lên càng lúc càng cao, không đúng…

Đó không phải là ngôi sao. Đó là đèn!

Có người ở dưới chân núi thả đèn Khổng Minh!

A Bảo mở to đôi mắt, là chàng sao? Là người mà nàng đang nghĩ tới sao?

Ngoại trừ đồ ngốc Lương Nguyên Kính ra thì còn có ai sẽ chạy đến núi Vạn Tuế ngoài thành thả đèn vào đêm Nguyên Tiêu nữa chứ?

Mỗi khắc càng có nhiều đèn Khổng Minh bay lên bầu trời đêm. Núi rừng tăm tối được soi sáng, như đom đóm bay múa đầy đêm hè, hay như hàng tỉ sao trời lộng lẫy, vô cùng hoành tráng.

A Bảo bay lên, hoà mình vào vô số chiếc đèn Khổng Minh lơ lửng, tựa như đặt mình vào giữa ngân hà chín tầng trời. Bỗng nhiên phát hiện trên đèn còn đề chữ, nét chữ viết tay rồng bay phượng múa.

Nàng đọc từng chiếc từng chiếc, trong đó có một chiếc viết ‘Xuân xanh mãi mãi’, chiếc bên cạnh viết ‘Bình an hạnh phúc’, còn có chiếc ‘Gặp mỹ nhân lòng nhớ chẳng buông, Ngày ta cách trở tưởng điên cuồng.’ [2]

<i>[2] Phượng cầu hoàng – Tư Mã Tương Như và bản dịch thơ của Mắm (tham khảo từ nguồn https://tratamtuutu.wordpress.com/2021/10/17/phuong-cau-hoang-tu-ma-tuong-nhu/)</i>

A Bảo dùng hai tay ôm mặt, vừa vui mừng vừa khổ sở, khóc xong lại cười mà cười xong lại khóc, cuối cùng nức nở nói: “Em cũng nhớ chàng mà, đồ ngốc…”

Còn nhớ đêm giao thừa năm nào tại thành Đông Kinh, Triệu Tòng đã thành quan gia vì dỗ nàng vui vẻ, đã hao phí mấy vạn tiền đồng trong nội bộ, treo lên vạn hoa đăng khắp cung cấm, chiếu rọi toàn bộ đại nội hoàng cung rạng rỡ, trang trí lộng lẫy.

Hắn choàng cánh tay cùng nàng dạo đêm xem đèn, phía sau là hàng nghi thức dài như mình rồng, gồm nội thị, cung nhân và nhóm nương tử hậu cung.

Vô số ánh đèn, tiếng người ầm ĩ. A Bảo mê say hoa mắt, làm nhiễu lỗ tai nàng, đến cả Triệu Tòng từng nói lời gì đó nàng cũng chẳng nghe rõ.

Ngày hôm sau, hoa đăng quý giá đó liền bị cung nhân thu dọn sạch sẽ, những gì để lại cũng chỉ là ngòi bút sát phạt của đám gián quan mà thôi.

Chúng nó làm gì mà so được với đèn Khổng Minh đêm nay?

Đèn này này là do người nọ tự tay làm ra, tự tay viết chữ, tự tay châm ngòi, kí thác lời chúc nguyện cùng lời tưởng niệm chân thành của riêng mình gửi tới cho nàng đó.

Suốt cuộc đời của A Bảo lại chưa từng nhìn thấy ngọn đèn nào xinh đẹp hơn nhường này.

**

* <i>Đạo tràng là khái niệm thường được dùng để chỉ nơi hội tụ của những người con Phật, có cùng một ý hướng chuyên tu, theo một pháp môn tu hành nào đó đã được lựa chọn, hoặc do một vị sư hướng đạo, trong muôn vàn pháp môn của Phật chỉ dạy. (nguồn: phatgiao.org)</i>

<i>* Hoàng đồ củng cố: Cơ đồ hoàng gia bền vững mãi.
Đế đạo hà xương: Chính sách tốt đẹp của vua được thi hành ở khắp nơi.
Phật nhật tăng huy: Đạo Phật ngày càng sáng ngời.
Pháp luân thường chuyển: Đạo Phật được truyền bá khắp nơi.
(tham khảo chuaxaloi.vn)</i>

<i>* Chuông kim cang (hình ảnh từ Baidu)</i>
d0c8a786c9177f3e67099ff33d9b2cc79f3df9dcf88b.jpeg


<i>* Số 108 được xem là con số thiêng liêng trong Phật giáo, xuất hiện trong nhiều khía cạnh của giáo lý và thực hành. Theo quan niệm nhà Phật, 108 tượng trưng cho sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, giúp con người vượt qua phiền não và đạt đến giác ngộ.
Trong nhiều nghi lễ Phật giáo, tiếng chuông chùa thường vang lên 108 lần vào thời khắc giao thừa để xua đuổi phiền não của năm cũ và chào đón năm mới an lành. (nguồn: truclaman)</i>
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 56: Đêm tuyết


Giữa xuân, ngày mười bốn tháng hai.

Lương Nguyên Kính đang đứng trước cửa Thuỳ Củng Điện, chàng ngửa đầu nhìn bầu trời bị tường cao màu đỏ vây quanh, cuối cùng hôm nay thành Đông Kinh mới ngừng mưa, chỉ là sắc trời vẫn u ám như cũ, đến cả con thú nằm trên ngói lưu ly màu vàng [1] cũng thấy u buồn ỉu xìu như vậy.

<i>[1] Hình ảnh minh hoạ từ Baidu</i>
u15409902811547462496fm253fmtautoapp138fjpeg-edited.webp


“Lương tiên sinh, có chuyện gì thế?”

Phùng Ích Toàn vung cây phất trần, kinh ngạc xoay người nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính lắc đầu, tiếp tục đi theo ông ta về phía trước, thấp giọng nói: “Hình như sắp có tuyết rơi.”

“Đúng vậy.”

Phùng Ích Toàn cũng ngước mắt nhìn trời, thở dài: “Tuyết nay cũng nên rơi rồi, năm ngoái còn không có trận tuyết nào, nếu lần này cũng vậy, chỉ sợ năm nay lại rơi vào mùa hạn hán. Quan gia vì chuyện này mà âu sầu, đến đêm chẳng ngủ được, còn phải nhờ Trương thiên sư làm nghi thức cầu tuyết nữa là.”

Người nọ ở phía sau lại như người câm, tựa như câu trước của chàng chỉ đang cảm thán một mình chứ không phải có ý bắt chuyện cùng ông ta vậy.

Phùng Ích Toàn thầm nghĩ, Lương đại nhân cũng thật là không biết đối nhân xử thế, khó trách đã oằn mình nhiều năm mà vẫn chỉ là một cái Hàn Lâm Đãi Chiếu nhỏ bé.

Bất quá, hiện giờ người ta đang được quan gia nghênh đón. Tuy Phùng Ích Toàn hầu hạ ngự tiền nhiều năm nhưng ông ta cũng không dám mạo phạm vị Lương hoạ sư này, cố nói lời nào dễ nghe.

“Nhưng quan gia chờ tiên sinh đã lâu, cứ nhắc tới tiên sinh ngài mãi đấy, tiếc là dịp cuối năm nhiều việc phải làm, còn có chuyện đàm phán hoà bình cùng Tây Hạ nên mới chưa có cơ hội tuyên tiên sinh vào yết kiến. Hôm nay diện thánh, ngày tiên sinh được thăng chức tới nhanh lắm rồi ạ, thần xin tại đây chúc mừng tiên sinh trước.”

Dứt lời, liền nở nụ cười chắp tay xá Lương Nguyên Kính một cái.

Ông ta vào Nội Thị Tỉnh đã lâu, đến cả tể chấp trọng thần còn chưa hành lễ lớn tới vầy.

Theo lý thuyết, cho dù là kẻ không biết thức thời như nào cũng nên khiêm nhường hoàn lễ lại. Nhưng Lương Nguyên Kính vậy mà coi như không thấy ông ta, công khai nhận hẳn cái lễ này.

Khoé miệng xu nịnh của Phùng Ích Toàn cứng lại ngay tức khắc. Dựa vào kinh nghiệm lăn lộn trườn bò trong hậu cung nhiều năm mới không thể hiện ra mặt, thâm tâm điên cuồng mắng nhiếc, mặt cười nhưng lòng thì không, cố làm cho xong phận sự mời Lương Nguyên Kính vào Thuỳ Củng Điện.

Thùy Củng Điện.

Triệu Tòng đang ngồi sau ngự án phê duyệt tấu chương, thấy Lương Nguyên Kính tiến vào đã tự mình đứng dậy chào đón, còn nói chàng miễn hành lễ, phân phó Phùng Ích Toàn dâng trà xong quay sang ân cần thăm hỏi Lương Nguyên Kính: “Lâu rồi chưa gặp Lương khanh, hình như đã ốm đi rất nhiều, do mấy ngày gần đây phát bệnh nữa à? Có cần trẫm tuyên ngự y…”

“Thần không sao.” Lương Nguyên Kính nói.

Triệu Tòng đờ ra, có chút xấu hổ, phân phó cung nhân dọn chỗ cho chàng.

Trà dâng lên xong, quân thần hai người phẩm trà chốc lát, cách khói trà mờ mịt, Triệu Tòng vuốt nhẹ chung trà trong tay, cuối cùng nói ra ý đồ triệu chàng tới đây.

“Đoan Ngọ năm ngoái, tại Kim Minh Trì trẫm từng giao phó Lương khanh vẽ một bức tranh hình Uyển Nương, sau đó bận rộn chính sự, trẫm chưa rảnh đề cập đến, không biết khanh đã vẽ tới đâu rồi?”

Lương Nguyên Kính lấy hộp gấm khắc hoa bên cạnh qua, hai tay nâng lên cho hắn: “Bức tranh đây, cung thỉnh quan gia xem thử.”

“Hoá ra đã xong rồi à?”

Thần sắc Triệu Tòng hoảng hốt, nhận lấy hộp gấm kia, quan sát kỹ càng, đôi tay còn đang run rẩy.

Hắn đặt hộp gấm lên án, hít sâu mấy lần tựa như đang chuẩn bị tâm lý, lúc này mới run tay mở nắp hộp ra.

Tranh cuộn được buộc bằng dải lụa, hắn chầm chậm cởi vỏ, bức hoạ cuộn tròn mở ra. Bản lụa đầy màu sắc, bất đồng với tranh cung đình tráng lệ kiều diễm, màu sắc bức hoạ này trang nhã, cũng không giống với tưởng tượng của hắn, trong tranh không chỉ có một chủ thể.

Trên tranh là con phố dài rực rỡ, hai bên cửa hàng san sát, biển hiệu quán rượu bay phấp phới, người qua lại tấp nập, có phụ nhân bồng con trẻ lên phố, có người bán hàng rong khiêng đòn gánh bánh hấp, những người bán rong đi khắp ngõ hẻm, thợ bạc gõ búa đẽo trang sức, còn có đạo sĩ xem bói cho người qua đường, tiên sinh giảng thư trong quán trà được vây quanh bởi khách uống trà si mê nghe.

Giữa phố, có một mỹ nhân ngồi ôm cây đàn tỳ bà, nàng mặc bộ váy đỏ rực, giữa cổ tay có ba chiếc vòng bạc.

“Đây… Đây là gì hả?”

Triệu Tòng bất thình lình ngẩng đầu. Chỉ trong cái chớp mắt, sự phẫn nộ, thất vọng, oán giận bị phật lòng sau quãng thời gian chờ đợi đã lâu, đủ loại cảm xúc ngổn ngang đồng loạt nảy lên trong lòng hắn, y như có dòng nước chảy xiết dẫn đến xung đột.

Triệu Tòng giơ bức hoạ cuộn tròn lên, giận tím mặt nói: “Lương Hoằng! Ngươi nói cho trẫm, ngươi vẽ cái gì đây hả? Trẫm muốn ngươi vẽ Uyển Nương, kết quả cho ngươi lừa gạt trẫm như này à?!”

Cuộn tranh trôi theo cơn tức giận ngập trời của đế vương, ném tới chỗ Lương Nguyên Kính, tình cờ quét trúng khoé mắt chàng. Sau đó rơi trên sàn gạch xanh, tiếng ‘bụp’ dội ngược lại.

Lương Nguyên Kính cúi người nhặt lại tranh, thờ ơ nói: “Thần vẽ nàng mà, quan gia không nhận ra sao?”

“Ngươi nói cái gì?” Triệu Tòng sững sờ.

Lương Nguyên Kính mở bức hoạ cuộn tròn ra, rũ mắt nói: “Quan gia có từng thấy lời bạt này chưa? Mùa xuân năm Hữu An thứ hai, thần du ngoạn đến Xuyên Thục, dưới chân núi Thanh Thành đã gặp được một tiểu cô nương. Nàng là đứa trẻ bị vứt bỏ, được một đôi vợ chồng tốt bụng nhặt về, coi như vàng ngọc nuôi lớn. Qua mấy năm sau, đôi vợ chồng ấy qua đời, trong nhà chỉ còn huynh trưởng của nàng, hành nghề thợ bạc, tiểu cô nương thích dính người, luyến tiếc tách ra khỏi ca ca, lúc huynh trưởng đánh trang sức bên sạp, nàng sẽ bán nghệ ngay đầu đường. Lúc thần mới gặp nàng, nàng đang ôm tỳ bà xướng bài sơn ca địa phương, tiếng hát lay động lòng người, vang tận mây xanh, nói là nhạc tiên nhân gian cũng không quá đáng.”

Triệu Tòng trầm mặc, hỏi: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó…”

Lương Nguyên Kính ôm bức hoạ cuộn tròn, thong thả bước đến trước ngọn đèn sát đất.

“Vào năm Hi Hoà thứ nhất, thần ở Đông Kinh, gặp lại tiểu cô nương ấy. Nàng gả cho người khác, trở thành Hoàng hậu kim tôn ngọc quý, nhưng ai nấy cũng ở sau lưng coi thường nàng, cười nhạo thân phận ca nữ hàn vi của nàng. Không một ai biết, thật ra nàng rất lương thiện, thẳng thắn thật thà, muốn khóc sẽ khóc thật to, muốn cười sẽ cười thật lớn, nàng thích ăn bánh ngọt nhất, vả lại rất giỏi đàn tỳ bà.”

Sắc mặt Triệu Tòng nghiêm trọng lên.

“Tiểu cô nương làm Hoàng hậu, nàng thật sự không vui, cũng không còn lớn tiếng đùa giỡn nữa, cho dù có cười rộ lên, giữa mày vẫn còn vẻ u sầu không xua được. Đại nội thâm cung tường cao nơi đây, nàng như một chú chim bị nhốt trong lồng sắt sơn vàng, mất hết tự do, dần dần cũng mất đi vẻ xán lạn lúc trước…”

“Im miệng!”

Triệu Tòng càng nghe càng cả giận, lồng ng.ực phập phồng kịch liệt, rốt cuộc không nhịn nổi vỗ án gầm lên: “Lương Hoằng⎯⎯ Ngươi to gan! Ngươi dám phê bình Hoàng hậu!”

“Hoàng hậu?”

Lương Nguyên Kính cười nhạt: “Hoàng hậu của Quan gia chẳng phải mang họ Tiết sao? Tiểu cô nương mà thần nói, nàng không có họ, nàng tên A Bảo, là vợ của thần, là người thần yêu thương nhất đời mình.”

“Ngươi ⎯⎯”

Triệu Tòng tức tối đến mặt mày xanh mét, rất muốn chém chết người này tại chỗ, bỗng nhiên thấy hành động của chàng, hắn trừng lớn hai mắt: “Ngươi! Ngươi muốn làm gì?”

Lương Nguyên Kính vén đèn chụp lên, hơ bức hoạ cuộn tròn lên ánh nến, chất lụa dễ bắt lửa, chỉ sau chốc lát, đã cháy được hơn phân nửa.

Triệu Tòng gào lên, vội vàng nhào qua đoạt lấy.

Ngọn lửa cháy bỏng ngón tay hắn, rất mau đã tứa máu. Dường như hắn không thấy đau, chỉ lo dập ngọn lửa càng lúc càng lớn, nhưng mặc cho hắn có cố thế nào, chung quy gương vỡ khó lành. Khoảnh khắc tranh lụa bị đốt thành đóng tro tàn, mỹ nhân váy đỏ ôm đàn tỳ bà, và cả dung mạo xinh đẹp của nàng, cũng biến mất không thấy đâu.

“Lương ⎯ Hoằng ⎯”

Triệu Tòng hai mắt đỏ ngầu, khoé mắt muốn tét ra, nhào qua đấm một quyền vào Lương Nguyên Kính, túm cổ áo chàng, nghiến răng chất vấn từng câu từng chữ : “Uyển Nương! Nàng ở đâu! Ngươi biết! Nhất định là ngươi biết!”

Lương Nguyên Kính để mặc bị hắn túm, ngước ánh mắt đã không đếm xỉa đến sống chết lên, hỏi ngược lại: “Quan gia chưa biết à?”

Triệu Tòng gào rú như sấm: “Nói cho trẫm! Nếu không trẫm lăng trì ngươi!”

Lương Nguyên Kính nghe thế, ngược lại khẽ mỉm cười. Tựa như cái chết đối với chàng là một chuyện vui mong chờ đã lâu, không đáng để sợ hãi.

Chàng nhẹ giọng đáp: “Nàng chết rồi.”

“Không⎯⎯” Triệu Tòng đỏ mắt nổi điên hét, “Nàng không chết! Đó là nàng diễn trò gạt trẫm! Xưa nay nàng thích đùa vui với trẫm như vậy, chẳng qua… Chẳng qua lần này y như thật hơn chút thôi, nàng về Dương Châu rồi… Phải, nhất định nàng đã về Dương Châu rồi…”

Hắn buông Lương Nguyên Kính ra, vừa gật đầu vừa lải nhải liên hồi, cũng không biết vì thuyết phục người khác, hay là tự thuyết phục chính mình.

Lương Nguyên Kính sửa sang vạt áo lệch lại, lạnh nhạt nói: “Nàng không về Dương Châu, nàng chết rồi, chết vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ tư, trước khi chết, nàng còn chưa kịp ngắm hoa lê nở trong sân. Xác của nàng được chôn ở ngoại ô phía nam, mặc bộ áo mỏng, mộ phần đơn chiếc, trước mộ còn có gốc cây đào. Thanh Minh mỗi năm, ngoại trừ lão phụ nhân từng chăm sóc nàng lúc còn sống ra thì không còn ai tới đó cúng bái nữa. Trước khi hạ táng, nàng còn thừa lại hơi thở cuối cùng, tỉnh lại trong cỗ quan tài tăm tối, sợ hãi bất lực, liều mạng kêu cứu nhưng lại bị người ta đóng đinh nhốt ở bên trong, cuối cùng ngộp thở cho đến chết.”

Triệu Tòng hoàn toàn ngây dại, lẩm bẩm nhìn chàng: “Ngươi…… Ngươi đang lừa ta……”

Lương Nguyên Kính điềm nhiên: “Thần không dám khi quân. Nếu quan gia không tin, có thể gọi Phùng Ích Toàn tiến vào, hỏi liền sẽ biết, không có ai rõ hơn ông ta cả.”

Ánh nến rực rỡ, nội điện tĩnh mịch.

Không rõ qua bao lâu, Triệu Tòng nhẹ nhàng nói: “Trẫm không hỏi, ngươi gạt ta, Uyển Nương chưa chết, các ngươi đều đang lừa trẫm. Lương Hoằng, ngươi không muốn nói nàng đang ở đâu đúng không? Được lắm, trẫm có rất nhiều cách khiến ngươi tự nguyện nói ra.”

Hắn cất cao giọng: “Người đâu⎯⎯”

Phùng Ích Toàn từ ngoài điện tiến vào, khoanh tay đứng hầu.

“Kéo Lương Hoằng đến bạo thất, nghiêm hình thẩm vấn!”

“! ! !”

Phùng Ích Toàn ngẩng đầu, trong mắt chứa đầy nỗi khiếp sợ.

Triệu Tòng chưa được đáp lại, nhất thời ném nghiên mực qua: “Điếc à? Không nghe rõ trẫm vừa nói gì hả?!”

Mặt già Phùng Ích Toàn bị mực nước bắn trúng nhưng không dám nâng tay áo lau đi, cuống quít quỳ xuống dập đầu: “Quan gia bớt giận…”

Ông ta dùng khoé mắt trộm liếc nhìn Lương Nguyên Kính, thấy chàng chỉ hờ hững quỳ dưới đất, hoàn toàn chẳng có chút sợ hãi, khiến ông ta càng không hiểu gì.

Vị Lương đại nhân này, đã làm gì mới chọc Thánh Thượng nổi giận tới vậy chứ?

Ông ta miễn cưỡng lấy hết can đảm, hỏi: “Xin hỏi quan gia, Lương đại nhân đã phạm vào tội gì ạ? Muốn thẩm vấn… Tội gì ạ?”

Triệu Tòng lạnh mặt, gằn từng chữ một: “Hoàng hậu ở đâu?”

Hoàng hậu?

Chẳng phải đang ở Khôn Ninh Điện sao?

Phùng Ích Toàn nhất thời có chút hồ đồ, nhưng thực mau ông ta mới kịp phản ứng lại. E là quan gia nói không phải Tiết Hoàng hậu, mà là năm xưa… Phế hậu Lý thị mới đúng.

Lương Nguyên Kính bị người áp ra khỏi Thuỳ Củng Điện mới hay không rõ từ khi nào bên ngoài đã đổ trận tuyết lớn như lông ngỗng. Đúng lúc như cư dân thành Đông Kinh đã mong chờ, cuối cùng cũng đến.

Cảnh đêm man man, bọt tuyết từ bầu trời đen như mực giáng xuống. Trong đó có một băng nhũ sáu cánh trùng hợp dừng trên lông mi dài mảnh của chàng, chốc lát sau liền tan ra thành nước.

Chàng dừng bước, ngẩng đầu nhìn về phía đông bắc.

Tuyết rơi, núi Vạn Tuế cũng thế, tiếc là không kịp vẽ bức ‘hàn mai tuyết rơi hợp thời’ đem lên núi cho người nọ xem.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 57: Ngục tù


Trong một đêm, núi Vạn Tuế bị tuyết đóng dày đặc vùi lấp.

Đến bình minh, tuyết vẫn còn rơi, gió bấc thổi ào ào. A Bảo khoanh chân ngồi trên tháp Phật, đã đợi một ngày một đêm mà chưa nhận được tranh của Lương Nguyên Kính.

Nhất định là do tuyết rơi quá dày, đường lên núi không dễ đi nên a ca mới chưa tới, nàng nghĩ vậy.

Lại một ngày trôi qua, nàng vẫn chưa chờ được Lý Hùng lên núi, bắt đầu cảm thấy nóng lòng, lo lắng có phải Lương Nguyên Kính mắc bệnh nữa rồi không. Trời lạnh cóng, sắc khoẻ chàng mãi không khoẻ, gặp thời tiết giá rét như vầy, ho khan dễ tái phát.

Tới buổi chiều ngày thứ ba, A Bảo không ngồi yên nổi nữa, quyết tâm bay xuống núi xem thử. Nàng sẽ không tới gần chàng, sẽ không để chàng phát hiện ra, nàng chỉ đứng xa xa trông thôi, biết được chàng bình yên vô sợ là đủ rồi.

Khi bay tới giữa sườn núi, nàng trông thấy có hai người đứng trong đình. Một trong hai là Giác Minh hoà thượng, người còn lại mặc áo suông xanh đen, đầu đội mũ nhung, chính là Lý Hùng ba ngày chưa gặp.

A Bảo vội bay qua đó, trùng hợp nghe được ca ca nôn nóng nói: “Hôm mười bốn, cậu ấy phụng chỉ vào cung, tôi ở nhà chờ mãi chờ mãi vẫn không thấy cậu ấy quay về. Vất vả lắm mới tìm được tiểu hoàng môn hầu hạ ngự tiền hỏi thăm, nói là không biết cậu ấy làm gì chọc tức long nhan, hiện giờ đang bị nhốt trong cung. Tiểu sư phụ, cậu xem xem phải làm sao đây? Tôi ở chốn thành Đông Kinh này không có cách nào, nhưng tôi có bạc, có thể chuộc cậu ấy ra không vậy?”

Giác Minh cũng chau mày, trầm ngâm đáp: “Thiên tử nổi giận, phơi thây ngàn dặm. E là chuyện này không thể giải quyết bằng tiền…”

Lý Hùng đi qua đi lại như kiến bò trên chảo nóng, cuối cùng đấm thật mạnh vào cây cột hành lang núi đình, làm rơi không ít tuyết.

“Chỗ A Bảo chỉ sợ không giấu được, nhưng tôi phải ăn nói sao với nó đây…”

Tiếp đó họ nói gì A Bảo nghe không rõ nữa, bởi vì tới câu Lương Nguyên Kính ‘bị nhốt trong cung’ kia, nàng đã bất chấp tất cả, vội vã bay về phía dưới chân núi.

Tuyết càng rơi càng dày, trời đất một mảng trắng xóa, không có màu sắc nào khác, tựa như phương trời thuỷ tinh. ‘Nghìn non vắng bóng chim bay, Mịt mùng muôn dặm chẳng hay chân người’ [1]. Trên con đường phủ đầy tuyết trắng ấy, không biết từ bao giờ đã có bóng người già nua đứng đó, khoác áo cà sa đỏ vàng, đầu mày rậm rạp, con mắt trắng dã, tựa hồ sớm đoán được nàng sẽ xuống núi nên cố ý đứng chờ nàng.

<i>[1] Giang tuyết – Liễu Tông Nguyên và bản dịch của Hải Đà, thivien.</i>

A Bảo bỗng dừng lại.

Thủ Chân chắp tay hành lễ, mặt mày thương xót, nói: “A di đà phật, trần duyên thí chủ đã đứt, cớ sao còn chấp mê bất ngộ, không chịu buông bỏ chuyện cũ?”

A Bảo sinh lòng áy náy, nhưng vẫn đáp: “Xin lỗi ngài, đại sư, chàng là quan nhân của con, giờ đây tính mạng chàng gặp nguy, con… Con cần phải đi cứu chàng.”

“Cho dù chuyến này đi rồi, hồn bay phách tán cũng không hối hận sao?”

“Không hối hận.” A Bảo trả lời, chưa có khắc nào khiến nàng do dự.

Thủ Chân nghe thế, cũng chẳng nói gì, chỉ yên lặng tránh sang một bước.

“Đa tạ đại sư thành toàn.”

A Bảo nói cảm ơn xong, không quay đầu bay về hướng dưới chân núi.

**

A Bảo biết nhà giam hoàng thành ở đâu, năm xưa nàng đẻ non liên lụy tới không ít người, rất nhiều cung nhân bị kéo đến bạo thất nghiêm hình tra tấn, thậm chí là chết ngay trong ngục.

Lúc A Bảo có thể xuống giường, cũng từng đi dự thính hồi thẩm vấn, tận mắt nhìn thấy thủ đoạn thẩm vấn của bọn thái giám đo Nàng không dám tưởng tượng những khổ hình tương tự sẽ đánh lên trên người của Lương Nguyên Kính. Chàng yếu ớt đến nhường nào, một trận bệnh thôi đã có thể đánh rớt cái mạng nhỏ của chàng.

Nhà giam âm u, ẩm ướt, côn trùng chuột nhắt hoành hành, A Bảo lần mò từng phòng, cuối cùng tìm được Lương Nguyên Kính ở ngay phòng giam cuối cùng.

Nhà lao đến cả cái giường cũng không có, chỉ lót lớp rơm rạ ươn ướt trên mặt đất. Chàng nhắm mắt ngồi dựa vào góc tường, toàn thân chỉ mặc bộ áo đơn sơ, bị roi quất rách tơi tả, cả người đan xen mấy vết máu.

A Bảo dừng bước chân, nhất thời không dám tiến lại, không thể tin nổi cái người bê bết máu đầu bù tóc rối kia là Lương Nguyên Kính của nàng. Là Lương Nguyên Kính mỹ ngọc ôn hoà xưa nay trong sạch.

“Em đến rồi.”

Lương Nguyên Kính mở mắt ra thấy nàng nhưng không có nửa phần kinh ngạc, “Biết là em sẽ đến mà.”

A Bảo vào trong, ngồi xuống bên người chàng, thấy ngón tay chàng đặt trên đầu gối cũng máu tươi đầm đìa, xương ngón tay biến dạng nghiêm trọng. Trái tim bỗng thắt lại.

“Tay chàng……”

“Đừng sợ, đã hết đau rồi.”

Lương Nguyên Kính giấu tay để nàng không nhìn thấy.

“Chàng đã làm gì?” A Bảo phẫn nộ hỏi, “Rốt cuộc chàng đã làm gì hả? Tại sao bọn họ lại đối xử với chàng như vậy?!”

Lương Nguyên Kính không trả lời câu hỏi này. Ánh mắt ấm áp mềm mại đặt trên mặt nàng, đột nhiên hỏi: “A Bảo nè, khi đó rất mệt lắm nhỉ?”

A Bảo sửng sốt: “Cái gì?”

Môi Lương Nguyên Kính lạnh căm đến tím tái, che miệng ho khan kịch liệt, ho ra máu, chàng lau vết máu trên mặt, thì thào nói: “Anh vào cung rồi, thấy tường cung tứ phía mới biết, tường cao như vậy, người như em bị nhốt tại đó, không có người thân, không có bạn bè, không có con trẻ, lẻ loi hiu quạnh, sống không nổi nữa nên mới hạ quyết tâm kết thúc đời mình em nhỉ?”

“Đều là chuyện quá khứ.” A Bảo mũi chua xót, dời ánh mắt đi, không dám đối mắt với chàng.

Lương Nguyên Kính vươn tay, đầu ngón tay run rẩy, vu.ốt ve cổ nàng, “Đau không?”

Treo cổ tự vẫn nhất định là rất đau, bị người ta đóng đinh nhốt trong quan tài tối đen, có sợ không?

A Bảo không muốn nhắc lại chuyện cũ năm xưa với chàng, đứng dậy từ trên mặt đất nói: “Chàng có thể lấy giấy bút không? Vẽ thành dáng hình trước kia của em, em sẽ đi tìm Triệu Tòng, sẽ kêu hắn thả chàng.”

“Anh rất hối hận,” Lương Nguyên Kính thấp giọng nói, “Hối hận năm đó vốn không nên rời khỏi Đông Kinh.”

Chàng nói xong câu đó liền khép mắt lại, mặc cho A Bảo nói thế nào, chàng vẫn không chịu mở miệng thêm lần nữa.

Canh giờ thẩm vấn lại đến, Phùng Ích Toàn mang theo hai tiểu hoàng môn tiến vào, trúc nẹp gắn vào ngón tay của Lương Nguyên Kính. Phùng Ích Toàn có chút không đành lòng, bèn hảo tâm khuyên nhủ: “Lương đại nhân à, tay đứt ruột xót, tay này của cậu nếu chịu kẹp nữa, e là sau này chẳng thể vẽ tranh được, chi bằng khai sớm đi, rốt cuộc, Hoàng hậu nương nương đang ở đâu?”

Lương Nguyên Kính mở mắt ra, nhàn nhạt cười: “Nàng chết rồi, chẳng phải Phùng Ích Toàn ông rõ ràng nhất sao?”

“Cậu⎯”

Đáy mắt Phùng Ích Toàn rộ lên tia chột dạ, ông ta vung cây phất trần, “Hàm hồ ngang bướng quá mức, hành hình!”

Hai tiểu hoàng môn đồng loạt dùng sức kéo dây thừng, ván kẹp buộc chặt, khiến xương ngón tay bị đè ép đến cong cong biến dạng.

Lương Nguyên Kính trán đổ đầy mồ hôi lạnh như thác nước, kiệt sức c*n m** d***, nhẫn nhịn không phát ra tiếng. Nhưng vẫn đau quá, loại đau đớn này không phải thứ người thường có thể chịu nổi, thần trí đau đến hồ đồ, tiếng kêu thảm thiết thoát ra từ kẽ răng.

A Bảo la lên, nhào qua ôm lấy chàng, vung tay đá chân với hai tiểu hoàng môn nọ, vừa hô vừa mắng.

Nhưng nàng chỉ là một vong hồn, sự thật nàng chẳng thể làm nên trò trống gì, nhìn khuôn mặt thống khổ vặn vẹo của Lương Nguyên Kính, lòng dạ nàng đau nhói, như bị ai đó hung hăng xẻo lấy máu thịt. Rõ ràng người chịu hình là Lương Nguyên Kính, nhưng nàng lại là người bộc phát ra tiếng hét thê lương chói tai.

“A a a a a a a ⎯⎯”

Tiếng gào thảm thiết chói tai của nữ nhân, sắc bén, đầy rẫy tuyệt vọng xé gan xé ruột, thoáng cái gợi lên ký ức đáng sợ nhất sâu trong trí nhớ của Phùng Ích Toàn.

Ông ta đứng bật dậy, hoảng sợ nhìn chung quanh: “Sao lại thế này? Các ngươi có nghe thấy tiếng nữ nhân kêu không hả?”

Hai tiểu hoàng môn dừng thi hình, mặt đối mặt nhìn nhau.

Tiếng nữ nhân gì cơ?

Chỗ này làm gì có nữ nhân nào?

Nhưng ngay sau đó, đột nhiên có trận cuồng phong quỷ dị ập tới, ánh nến phụt tắt, nhà giam lâm vào bóng tối đen như mực.

Oán khí từ trong góc lặng lẽ nảy sinh, lan tràn, dần dần tích tụ thành hình của một người. Cả ba kẻ ở đây đều thấy rất rõ bóng dáng nữ nhân nọ phản chiếu từ trên tường, tóc đen xõa dài, móng tay dài ngoằng, nháy mắt bao trùm nửa vách, như ma quỷ đòi mạng.

Hai tiểu hoàng môn suýt chút tiểu ra quần, hét la thật to xông ra cửa: “Quỷ kìa⎯⎯ Có quỷ!”

Phùng Ích Toàn chạy không nổi, cổ chân ông ta như bị xiềng xích vô hình khoá chặt khiến ông ta không cử động được. Đột nhiên thân thể bị cuồng phong quét tới, ‘rầm’ văng vào tường, còn chưa kịp rơi xuống, yết hầu đã bị làn khói đen bóp chặt.

Hai chân ông ta vẫy loạn giữa không trung, đôi tay cố sức nới cổ, mặt nghẹn ra màu đỏ tím, tròng mắt sung huyết, có kêu cũng không xong.

Không khí từ phổi dần bị rút cạn, trước khi ý thức lâm vào hôn mê, ông ta thấy rõ mặt mũi nữ nhân đó, trông hết sức dữ tợn, có màu xanh trắng, tràn ngập oán hận nhưng lại xinh đẹp vô cùng.

“Ầm ầm⎯⎯”

Tiếng sấm vang lên ngoài cửa sổ, tia chớp chiếu sáng lên nhà tù tối đen.

Cư nhân thành Đông Kinh kinh ngạc ngửa đầu nhìn, phát hiện mây đen giăng kín bầu trời, cơn lốc tạt ngang, tựa như muốn tạo ra trận bão tuyết, quái lạ, đang là thời tiết giữa xuân mà.

Trong Phúc Ninh Điện.

Triệu Tòng trên long sàng đột ngột mở mắt, ngồi dậy kêu to: “Uyển Nương⎯⎯”

Cùng lúc đó, trên núi Vạn Tuế.

Tia chớp bổ xuyên qua nóc điện Phật Di Lặc, trực tiếp bật tung nắp quan tài ở linh đường, lộ ra bộ xương trắng dưới tấm vải liệm đỏ thẫm.

Đồng thời, tiếng tụng kinh trong điện dừng lại. Các tăng nhân sợ hãi cả kinh, nhìn trái phải xung quanh, duy mỗi Thủ Chân vẫn còn đang gõ mõ, lãnh đạm nói: “Tiếp tục.”

Tại nhà giam, sấm sét vang dội.

“A Bảo, khụ khụ… Đừng…”

Lương Nguyên Kính tỉnh lại từ trận đau nhức, quỳ rạp trên mặt đất, kiệt sức bò về hướng nàng, “Đừng giết người……”

Làn khói đen rút lại, Phùng Ích Toàn ngất xỉu như bãi bùn lầy rơi rớt xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

A Bảo xoay người trừng mắt với Lương Nguyên Kính. Oán khí bao phủ toàn thân nàng, không chỉ vệt đen giữa mày đậm hơn, ngay cả quanh mắt cũng lộ ra khí đen dày đặc, lệ máu như châu, chậm rãi lăn dọc trên gương mặt trắng bệch của nàng.

Hoá ra, quỷ hồn cũng có thể rơi lệ, chẳng qua, nước mắt của nàng là máu.

“Vẽ tranh!” Nàng lạnh giọng ra lệnh.

Lương Nguyên Kính không đáp lời.

“Vẽ tranh!”

Nàng nhắc lại lần nữa, khói đen như sợi dây thừng, luồn qua cuốn lấy cổ tay phải của Lương Nguyên Kính.

“Đau.” Lương Nguyên Kính nhìn nàng nói.

“……”

Khoảnh khắc khói đen tan biến, A Bảo khôi phục về hình thể bình thường, ôm đầu, cáu kỉnh đi đi lại lại trong phòng giam. Giờ đây nàng hoàn toàn mất hết lý trí, nội tâm ngập tràn d.ục vọ.ng giết người, cần phải dồn mọi sức lực mới miễn cưỡng áp chế cơn xúc động kia xuống. Vậy mà Lương Nguyên Kính còn khiêu khích điểm mấu chốt của nàng.

Cứ giết quách chàng cho xong! Chết chùm đi!

Bỗng chốc nàng dừng bước, trong lòng bắt đầu sôi trào ý niệm thâm độc.

Lương Nguyên Kính quỳ trên mặt đất, kẹp trúc giữa ngón tay nới lỏng, bỗng nhiên, đầu ngón tay của chàng run rẩy, dùng máu tươi vẽ vẽ trên mặt đất.

Phảng phất như quay về lại hồi nhỏ, chàng bị cha dùng thước đánh đến lòng bàn tay chảy bê bết máu, nhưng cũng chưa hối cải. Quỳ gối ở trong viện, dùng máu đầu ngón tay vẽ tranh trên mặt đất.

Từng nét vẽ, vết máu dần thành hình, biến thành trận hồng quang.

Hồn phách A Bảo bị thu hết vào đó, tầm nhìn khuếch đại, nàng hoá thành một con thỏ.

“Chàng làm gì đó? Em kêu chàng vẽ tranh! Chứ đâu kêu chàng vẽ thỏ!”

Chân thỏ ngắn quá, nàng đứng trên mặt đất tức giận nhảy tới nhảy lui.

Lương Nguyên Kính bế thỏ trắng lông xù xù lên, ôm vào lòng bàn tay, dùng chóp mũi cọ cọ nàng, mỉm cười nói: “Đáng yêu quá, em còn muốn anh vẽ gì nữa không? Mèo con thì sao?”

“……”

Tiếp đó, chàng như tìm được thú vui mới, tù tì vẽ ra rất nhiều con động vật nhỏ, nhưng mà không chịu nàng vẽ thành người. Chốc lát A Bảo biến thành con mèo nhỏ, đến thành chó mặt xệ, thêm chút lại thành chuột lang con, bị chàng làm cho chẳng tức giận nổi nữa.

Cuối cùng, Lương Nguyên Kính suy tư gì đó, lại vẽ nàng thành chú chim hoàng oanh tươi sáng.

Chàng đặt chim nhỏ đứng trong lòng bàn tay của mình, rũ mắt nói: “A Bảo, em sinh ra là để tự do, không nên bị phong bế tại tường cao này nữa, vỗ cánh bay thật cao nhé.”

Nói xong, cố sức đứng lên, khập khiễng đi đến bên cửa sổ, vươn tay đi.

Bệ cửa sổ đọng lớp tuyết trắng, chim hoàng oanh đứng trên đó, thấy chàng trở lại góc u tối, cuộn mình trong đống rơm rạ nghiêng người nằm xuống. Bóng lưng thon gầy đơn bạc, vết máu loang lổ trên áo.

Chim hoàng anh nán lại nhìn thêm chốc lát, xong nó bay ra khỏi song sắt, hướng về nơi trời cao đất rộng.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 58: Cố nhân


Núi Vạn Tuế tuyết trắng xoá, động vật trên núi đều trốn đi ngủ đông, mọi âm thanh đều tĩnh lặng. Bởi vì muốn làm pháp sự, Giác Minh hoà thượng đã ăn chay hơn một tháng, miệng mồm giờ nhạt như nước ốc.

Buổi tối đi nghỉ ngơi, y theo thường lệ bưng cơm chay ngồi ở hành lang ngoài phòng ăn cơm, lại trông thấy xa xa có con chim hoàng anh bay lại đây.

Trời lạnh như vầy, cũng không mấy khi thấy được vật sống. Thế cho nên lần đầu hoà thượng nhìn thấy chim không phải kinh ngạc cảm thán màu sắc lông con chim này tươi sáng xinh đẹp bao nhiêu, mà là nuốt nước miếng theo bản năng.

Nhưng có Thủ Chân ở đây, y không dám sát sanh phá giới, liền rải chút cơm lên lan can, dụ chim chóc bay lại ăn.

Chim hoàng oanh không ăn cơm y rải, chỉ dừng ngay trên đầu y, mổ mổ cái đầu trọc lóc.

“Ai ui! Con chim này! Sao lấy oán trả ơn thế hả! Coi chừng ta nhổ lông kho tàu mi đó!”

Hoà thượng hết sức phẫn nộ che đầu.

Chim hoàng oanh dùng sức mổ mu bàn tay y vài cái, xong bay đến trên đất tuyết, giẫm tới giẫm lui.

Giác Minh hoà thượng vui vẻ, cười nói ha ha: “Đang làm gì vậy? Cầu hôn ai à?”

Nhưng dần dà, khoé miệng tươi cười y cứng lại. Bởi vì y phát hiện hình như con chim này không phải giẫm đạp lung tung, trông rất có kết cấu, nàng hì hà hì hục ấn móng vuốt xuống tuyết, ra là để tạo chữ.

Khoan đã…

Giác Minh buông chén đũa, chạy lại nhìn thử, thấy đó là chữ…

‘Bảo’?

“Mi là tiểu nương tử A Bảo á?!” Hoà thượng trừng mắt, chỉ vào chim hét lớn.

Chim hoàng oanh thôi động tác, bay lên đầu vai y, mổ mổ vành tai khiến Giác Minh đau đến kêu ‘ui da’, che tai lại nói: “Xin lỗi cô nha! Tiểu nương tử A Bảo! Tôi nhận ra cô đến rồi! Không đúng… Sao cô biến thành chim được? Chẳng lẽ cô xuống núi tìm tiểu hữu Nguyên Kính à?!”

Chim hoàng anh bay lên giữa trời, đột nhiên sà thẳng xuống, rơi trên mặt tuyết, nằm yên bất động.

? ? ?

Ý gì đây?

Giác Minh vận động trí lực toàn thân, thử dò hỏi: “Cô đang nói, tiểu hữu Nguyên Kính sắp chết á?”

Chim hoàng oanh bay lên lại, mổ vài cái lên mu bàn tay của y, bay về phía trước, Giác Minh hoà thượng đuổi nhanh theo kịp, cuối cùng theo vào thiền phòng của mình.

Y cảm thấy quái lạ: “Ủa, sao cô biết tiểu tăng ở gian phòng này? À… Hòm thuốc, muốn tiểu tăng cầm hòm thuốc đi cứu chữa tiểu hữu Nguyên Kính sao?”

Y vội vàng thu thập hòm thuốc xong còn thấy chim hoàng oanh bay lên giường mình, nhảy qua nhảy lại trên chăn.

Giác Minh đau đầu than: “Đừng mổ chăn mà, sợi bông muốn bung ra ⎯ Ui! Đau quá! Tôi biết rồi biết rồi! Phải mang chăn cho cậu ấy đúng không? Đừng mổ nữa!”

Hoà thượng đóng gói chăn bông của mình, tìm thêm vài bộ quần áo mùa đông, gói chúng lại buộc lên lưng.

Chim hoàng oanh bay lên vách thường, mỏ chim mổ lên bức tranh sơn thuỷ trên đó, mổ lủng một cái lỗ. Con tim Giác Minh hoà thượng rỉ máu, đó là tranh năm xưa tiểu hữu Nguyên Kính tặng cho y.

Từ từ, tranh…

Y nhất thời hiểu rõ ý tứ của A Bảo, là muốn y mang bức tranh dính máu Lương Nguyên Kính theo cùng. Bởi vì bức tranh đó có nguồn gốc sâu xa với A Bảo nên Thủ Chân đại sư đã âm thầm tính toán, xin lại nó từ Lương Nguyên Kính, cúng nó cung linh cữu của A Bảo trong điện Phật Di Lặc để trừ tà.

Giác Minh vuốt cái đầu trọc, lần này hơi khó xử: “Sư phụ tôi ở đó, không biết có lấy được hay không…”

Chim hoàng oanh tung cánh, hung hãn vọt tới chỗ y.

Hoà thượng quả thực rất sợ nàng, sợ tới mức vắt chân lên cổ chạy: “Biết rồi! Tiểu tăng đi ngay đây! Đừng có mổ mà!”

Cũng không rõ có phải Thủ Chân đã hay biết gì không, Giác Minh rón ra rón rén lẻn vào linh đường. Lúc trộm bức tranh nọ, cụ vẫn luôn nhắm mắt gõ mõ, các tăng nhân tụng kinh ở đó thấy nhưng cũng không dám nhắc nhở, mỗi người chỉ mở to đôi mắt kinh ngạc nhìn y.

Mặt già Giác Minh đỏ bừng, cảm giác làm việc này còn xấu hổ hơn lúc bị trù trì bắt được mình đang ăn thịt chó, lòng bàn chân bôi dầu chuồn ra khỏi linh đường.

Đã mang đủ đồ, một người một chim cùng xuống núi.

Giác Minh hoà thượng đi đường khổ không tả nổi, chỉ mới chậm bước chút thôi là chim hoàng oanh đã bay tới mổ cái đầu trọc của y rồi. Kết quả y dùng tốc độ xưa nay chưa từng có của mình đi thật nhanh. Dù vậy lúc tới ngoài cửa Đông Hoa hoàng thành thì trời cũng đã tối.

Lúc này cửa cung chưa hạ khoá, nhưng Giác Minh là kẻ vô danh, còn có trang phục kỳ quá ôm hòm thuốc cõng chăn bông, tất nhiên không có khả năng được vào trong.

“Làm sao bây giờ? Tiểu tăng đâu vào được…”

Giác Minh gãi gãi đầu trọc, có chút vô phương cứu chữa.

Nhưng vào lúc này, cuồng phong nổi dậy, lông chim phần cổ của chim hoàng oanh bỗng nhiên dựng thẳng đứng, thân hình phình to gấp bội, như một con đại bàng khổng lồ, cả thân bùng phát luồng khói đen bạc, nháy mắt tràn ngập cả toà cửa thành. Nhóm thủ vệ hoảng sợ la hét, chạy ngược chạy xuôi, không biết đã xảy ra chuyện gì.

Giác Minh: “! ! !”

Giác Minh khó mà tin được: “Tiểu nương tử A Bảo! Oán khí trên người cô càng lúc càng nặng! Dừng lại đi! Cô còn như vậy sẽ bị trời phạt mất!”

Chim hoàng oanh giận dữ, vung cánh đẩy hoà thượng vào trong thành.

Giác Minh văng ngã một cú thật xa, ngã chổng vó lên, suýt chút phun ra ngụm máu già, thấy chim hoàng oanh giương cánh chuẩn bị quăng mình nữa, y vội vàng vươn tay ngăn cản.

“Tôi đi! Tôi đi được! Tiểu nương tử A Bảo, xin cô đừng đẩy nữa…”

Chuyện lạ Đông Hoa Môn thu hút cấm quân, nhiều quân sĩ Điện Tiền Ty cầm vũ khí, bao vây bọn họ, nhưng dưới luồng khói đen quỷ dị nọ, chẳng có ai dám tiến lên trước.

Giác Minh hoà thượng cứ như vậy nghênh ngang vào nhà giam đại nội, cả quãng đường vắng tanh.

Tuy nhìn qua trông có vẻ uy phong lẫm liệt, nhưng nội tâm hoà thượng chứa đầy nước mắt, nghĩ thầm, lần này coi như y không tiếc cả mạng sống để cứu giúp bạn tốt đi, tiểu hữu Nguyên Kính ơi, cậu nhớ cẩn thận chút nha, đừng ‘hết hơi’ trước lúc tôi tới đó, nếu không e rằng nương tử cậu sẽ dỡ cả cái hoàng cung này mất.

Nhà giam vẫn như cũ, bất đồng là Phùng Ích Toàn trên mặt đất đã biến mất tăm, còn Lương Nguyên Kính đang nằm nghiêng trên rơm rạ, không rõ sống chết.

Giác Minh cả kinh, vội vã tiến lên lật chàng lại, bắt mạch tượng cho chàng, mỏng manh suy yếu quá, suýt chút nữa bắt không ra. Cúi đầu nghe tiếng tim đập cũng rất chậm, hiển nhiên đã đạt đến cực hạn rồi.

Giác Minh đút cho chàng viên Thiên Vương Bảo Mệnh đan trước, tạm thời giữ lại được mạng, lấy chăn bông bung ra đắp hết lên người chàng.

Chim hoàng oanh liên tục mổ cuộn tranh, mổ vang kêu tách tách, Giác Minh bận vỗ vào ót mình, cũng không quay đầu lại mà hô: “Biết rồi biết rồi! Chờ chút đã!”

Y mở bức hoạ cuộn tròn ra, vết máu cũ trên đó đã phai mờ đôi chút, muốn nhỏ thêm máu lên đó cũng chẳng khó, bởi vì Lương Nguyên Kính mình đầy thương tích, như không còn chỗ nào lành lặn. Cộng thêm việc oán khí A Bảo bộc phát thêm lần nữa nên miệng vết thương của chàng hở ra khiến máu chảy không ngừng.

Giác Minh nâng cánh tay chàng lên, cuộn ống tay áo lên, đặt bức hoạ cuộn tròn lên đó. Từng giọt máu đỏ thắm dừng lại giữa mày mỹ nhân trong tranh, dần dần biến thành lốc xoáy diệu kỳ, hồng quang chợt loé, mỹ nhân biến mất, chim hoàng oanh cũng vậy, thay vào đó là một nữ t* c*ng đình khoác vàng mang ngọc.

“Chàng sao rồi?”

Biến thành người trong nháy mắt, A Bảo gấp gáp chờ không đặng hỏi ngay.

“Không tốt lắm,” Giác Minh cau mày, ăn ngay nói thật, “Tôi chỉ có thể tận lực cứu chữa, còn sống được hay không, còn dựa vào phước phần của cậu ấy.”

A Bảo quỳ trên mặt đất, thật cẩn trọng nâng bàn tay đã biến dạng vặn vẹo của Lương Nguyên Kính lên, không dám dùng sức, hôn chi chít lên đó, hy vọng có thể giảm bớt đau đớn cho chàng.

Nhiệt độ cơ thể Lương Nguyên Kính lạnh ngắt, dù được đắp chăn cũng không đỡ hơn, hai mắt nhắm nghiền. Tuy đầu bù tóc rối, thương tật chồng chất, nhưng khuôn mặt vẫn tuấn tú vốn có, vẫn xinh đẹp như vậy.

Từng giọt nước mắt A Bảo lăn dài.

Nàng run rẩy hạ tay, nâng mặt Lương Nguyên Kính lên, lau bớt máu thay chàng, sửa sang lại mái tóc rối, còn trân trọng hôn lên trán chàng một cái, môi dời sang tai chàng, nhẹ giọng nỉ non: “Chàng phải sống sót, Lương Nguyên Kính, nghe chưa? Chàng nhất định phải sống sót, em sẽ cứu chàng.”

Đắp gọn chăn cho chàng, nàng đứng bật dậy, nói với Giác Minh: “Chàng giao lại cho anh, đại hoà thượng.”

Giác Minh thần sắc phức tạp, khẽ hé miệng như đang tính nói gì đó nhưng rồi lại thôi, cuối cùng chỉ nói: “Dù thế nào cũng đừng đả thương người khác, tiểu hữu này của tôi si tình, nếu biết được cô vì cậu ấy phải gánh chịu kết cục tan thành mây khói, thế thì chẳng khác giết cậu ấy đi là bao.”

A Bảo không trả lời, chỉ chừa lại cho y chiếc bóng.

Cung vua đang lâm vào hỗn loạn, không ai nói rõ được tình huống, có tên nói do yêu ma quỷ quái quậy phá, có kẻ nói do thích khách Tây Hạ trà trộn, còn có người nói có hoà thượng làm phép tính làm hại Thánh Thượng. Bên ngoài Phúc Ninh Điện có ba lớp quân sĩ Điện Tiền Ty, bảo vệ nghiêm ngặt.

A Bảo đứng từ xa nhìn cảnh này, do dự mấy phen, cuối cùng không có xông vào, trầm ngâm chốc lát, quay người bước vào bóng đêm.

Tại Khôn Ninh Điện, cũng nhốn nháo hoảng loạn không kém.

Tiết Hành biết tin có kẻ làm càn cũng kinh sợ theo, bất chấp túm lấy tiểu hoàng môn báo tin hỏi: “Quan gia đâu? Quan gia sao rồi hả?”

Tiểu hoàng môn vội trả lời: “Lúc tiểu nhân tới đó, Lục Thái uý đã điều động quân sĩ Điện Tiền Ty đến hộ giá, quan gia cát nhân thiên tướng, nhất định sẽ bình an vô sự thôi ạ!”

Chỉ nói thôi cũng chẳng thể an ủi Tiết Hành, nàng ấy nhíu mày nói: “Không được! Ta phải đến Phúc Ninh Điện xem sao!”

Thị nữ chung quanh nghe xong, sôi nổi quỳ xuống khuyên Hoàng hậu nương nương bình tĩnh, hiện giờ thích khách tăm tích không rõ ràng, ý đồ ra sao chẳng ai hay, sắc trời lại tối, bên ngoài còn có sét đánh, trước mắt chỉ có cách đóng cửa Khôn Ninh Điện không ra ngoài mới là an toàn nhất, nếu trên đường gặp chuyện gì nguy hiểm, bọn họ đều không gánh nổi hậu quả.

Tiết Hành bị chúng thị nữ ôm chân, không bước đi được thì nổi giận tím mặt: “Cẩu nô tài! Nếu quan gia xảy ra chuyện, các ngươi có đảm đương nổi không hả?!”

Nàng ấy luôn ôn hoà khiêm nhường, có lòng từ bi, đây là lần đầu tiên nổi giận lớn tiếng như trước mặt cung nhân.

Chúng thị nữ sợ đến phát run, nhưng cũng không dám buông tay ra, quan gia xảy ra chuyện, bọn họ đảm đương không nổi, nhưng Hoàng hậu nương nương xảy ra chuyện, bọn họ hầu hạ bên người càng đảm đương không nổi.

Cái nào ít hại hơi thì chọn cái đó, chúng thị nữ không hẹn khóc lóc cùng nhanh, xôn xao kêu ‘Nương nương bình tĩnh ạ’.

Đang lúc giằng co, có nội thị phụ trách canh cửa ngoài điện tiến vào.

Mí mắt Tiết Hành đột ngột giật giật, vội hỏi: “Sao vậy? Bên quan gia có tin tức gì sao?”

“Không không không…” Tiểu nội thị sợ tới mức líu lưỡi, khóc không ra nước mắt, “Bên ngoài… Bên ngoài có người…”

“Ngươi hoảng cái gì mà hoảng?!”

Tiết Hành nhíu mày phẫn nộ quát: “Nói chuyện cho đàng hoàng! Rốt cuộc là ai tới?!”

Tiểu nội thị run bần bật: “Người đó nói là… Cố nhân.”

Tiết Hành bỗng dại ra.

Đúng vào lúc này, cửa các bị đẩy ra, hoa tuyết bị gió đêm thổi ngược vào, dập tắt ánh nến trong điện, có người mặc cung trang, đầu đầy châu ngọc, mỉm cười dịu dàng bước qua ngạch cửa, đi vào.

Ánh đèn hiu hắt, chiếu sáng gương mặt xinh đẹp quen thuộc nọ.

Giống như cố nhân lâu rồi không gặp. Nàng hết sức tự nhiên ngồi xuống, vắt chéo chân, ân cần cười hỏi thăm Tiết Hành: “Uy phong lớn thật nha, Hoàng hậu nương nương.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 59: Thanh thản


“Cô… Cô là người hay quỷ?”

Tiết Hành khiếp sợ nhìn người đang ngồi ghế ăn điểm tâm kia.

“Tại sao mỗi người trong các ngươi nhìn thấy ta, đều phải hỏi câu này thế? Có gì mới mẻ hơn chút không?”

A Bảo buông điểm tâm xuống, phủi vụn bánh rơi trên người, ngước mắt nói: “Để mà nói, ta hẳn là quỷ rồi, nhưng nói đi cũng phải nói lại, ta là người hay quỷ, cô nên biết rõ nhất chứ nhỉ? Dù sao năm đó, là cô thử hơi thở cho ta mà.”

“Phải…”

Tiết Hành mờ mịt: “Lúc ấy cô đã tắt thở…”

“Không hẳn,” A Bảo nói, “Vào trong quan tài còn thừa lại một hơi, là cái đồ quỷ thất đức tuyệt tử tuyệt tôn Phùng Ích Toàn đã khiến ta chết ngạt trong đó.”

“…………”

Tiết Hành trừng to đôi mắt: “Không thể nào!”

A Bảo cẩn thận quan sát thần sắc của nàng ấy, trông không giống giả bộ lắm, nhưng nữ nhân Tiết Hành này luôn am hiểu diễn kịch, nàng ấy tựa như con hát trời sinh, cả đời này mang mặt nạ mà sống. Đừng nói là A Bảo không phân biệt được thật giả, nội tâm nàng hoài nghi ngay cả bản thân Tiết Hành cũng chưa chắc phân biệt nổi.

Rốt cuộc nàng ấy biết hay không, chuyện này A Bảo đã không muốn truy cứu tiếp, không có nghĩa lý gì, nhưng không có nghĩa nàng sẽ không lợi dụng chuyện này.

“Cô thiếu ta một ân tình nha, Tiết tam nương tử.”

Nàng nhìn chằm chằm Tiết Hành, sâu kín nói.

Tiết Hành không hổ là nữ nhân thông minh nhất cấm đình, rất mau phản ứng lại ngay: “Cô muốn tôi làm gì?”

“Ta muốn gặp Triệu Tòng.”

Thấy sắc mặt nàng ấy thay đổi ngay tức khắc, A Bảo lập tức bổ sung: “Đừng lo, ta sẽ không nói hắn là cô cùng Phùng Ích Toàn liên thủ hại chết ta đâu. Ta cũng sẽ không tổn thương hắn, thiên tử là Tử Vi Tinh giáng thế, có long khí hộ thân, ta là vong hồn tầm thường không thể gây hạ đến hắn, ta chỉ yêu cầu hắn thả một người ra.”

“Là Lương tiên sinh sao?” Tiết Hành hỏi.

A Bảo không phủ nhận, chỉ hỏi: “Việc này, cô có thể giúp không?”

Tiết Hành trầm mặc.

A Bảo nhắc nàng ấy: “Ta không có nhiều thì giờ để chờ cô.”

“Cô cần thay quần áo,” Tiết Hành nhìn nàng nói, “Nếu cô không ngại, có thể giả làm thị nữ của tôi.”

“Được.”

A Bảo không suy tư gì thêm liền gật đầu.

Dưới sự trợ giúp của Tiết Hành, nàng đổi sang trang phục của thị nữ, quần áo và trang sức châu hoa được cởi bỏ đều hoá thành hư ảo, Tiết Hành nhìn đến ngây dại.

A Bảo thấy nhiều nên không trách, vừa buộc áo choàng vừa trào phúng: “Đâu cần kinh ngạc tới vậy, Hoàng hậu, tròng mắt sắp lọt ra tới ngoài rồi kìa.”

Dây đai bị nàng thắt nút chết, càng thắt càng chặt, Tiết Hành nhìn nhìn thì tiến lại tháo nút thắt, giúp nàng buộc lại từ đầu.

Nàng ấy cao gầy hơn A Bảo một cái đầu, lúc làm chuyện này phải cúi đầu, mặt mũi nhàn nhạt nói: “Chỉ là tôi chưa thấy qua thôi.”

A Bảo trợn trắng mắt, không muốn nói chuyện cùng nàng ấy.

Hai người chọn cầm ngọn đèn cung đình ra khỏi cửa Khôn Ninh Điện. Lúc đến trước Phúc Ninh Điện, bên ngoài lại giáng xuống trận tuyết lớn, nhìn như sợi bông được kéo ra. Thi thoảng còn tạt qua đợt sấm rền, A Bảo sợ tới mức hai vai co rụt, sợ tiếp theo nó sẽ bổ xuống đầu mình.

Tiết Hành ngẩng đầu nhìn bầu trời, sau đó nghiêng đầu hỏi nàng: “Sợ sét đánh?”

A Bảo giận, thầm nghĩ cô biết hỏi quá ha, “Không cần cô lo.”

Dọc đường đi có gặp vài quân sĩ đang chạy ngược chạy xuôi, nói là đã bắt được thích khách, là một hoà thượng, hiện giờ đã giải người đến bạo thất chờ thẩm vấn.

A Bảo nghe thấy, thâm tâm thầm mắng té tát Giác Minh hoà thượng, cái đồ hoà thượng thối vô dụng! Làm phiền thêm cho nàng!

Tiết Hành cầm đèn liếc qua, hỏi: “Là người quen à?”

A Bảo không muốn giải thích.

Tiết Hành lại nói: “Xem ra cô muốn thả không chỉ có một, mà là hai người lận.”

“……”

Rốt cuộc A Bảo không nhịn nổi, quay đầu nói: “Cô ngậm miệng lại được không?”

Tiết Hành đành thôi.

**

Tuy đã bắt được thích khách, nhưng sự tình liên quan đến an nguy của Thánh Thượng, mọi người vẫn không dám lơ là thiếu cảnh giác.

Chỉ huy sứ Lục Vân của Điện Tiền Ty tự mình ra trận, ngay cả một con muỗi cũng không chui lọt vào điện, nhưng y không dám ngăn cản Hoàng hậu, chỉ liên tục đánh giá thị nữ đi theo phía sau người.

Nàng mặc áo choàng, đội mũ trùm đầu, che đậy kín cẩn quá mức, lại còn cúi đầu, không thấy rõ diện mạo.

“Có vấn đề gì sao? Lục đại nhân?”

Tiết Hành bất động thanh sắc dời nửa bước chân sang che cho A Bảo phía sau.

Lục Chỉ huy thu hồi tầm mắt như chim ưng, cung kính chắp tay đáp: “Không có gì ạ, nương nương mời vào.”

Sau khi Tiết Hành vào được Phúc Ninh Điện, liền có nội thị tiến lại bẩm báo, nói là quan gia bị bóng đè, hơn nữa đột nhiên xuất hiện sấm sét nên đã bị kinh hách, thần trí luôn mất tỉnh táo, còn nhắc về phế hậu Lý thị mãi.

Tiết Hành nghe xong gật nhẹ đầu, kêu cung nhân hầu hạ có trong điện lui ra ngoài, chưa được gọi thì đừng tiến vào.

Nàng ấy dẫn A Bảo đi đến hậu điện, thuận tiện giải thích cho nàng nghe: “Từ sau khi cô… Không có ở đây, quan gia thường hay gặp ác mộng, thần trí lúc thì thanh tỉnh lúc thì hồ đồ, luôn nói cô chưa chết, nói cô… Chỉ về lại Dương Châu mà thôi.”

Nàng ấy dừng bước, xoay người nhìn A Bảo: “Nếu được, cô có thể giả làm người trong mộng của y không? Hiện giờ y không phân biệt rõ được, đừng nói là cô đã chết, coi như y đáng thương nhé, được không?”

A Bảo không trả lời, chỉ lạnh lùng nói: “Mở cửa đi.”

Ngọn đèn dầu tẩm điện tối tăm, như được người ta cố ý bố trí thành, Triệu Tòng chỉ mặc bộ áo ngủ đơn bạc, đi chân trần, ngồi ngay bệ đạp trước giường, ôm chậu mai đã chết vào lòng, hai mặt đờ đẫn, như lạc vào cõi thần tiên.

“Quan gia.”

Tiết Hành đi qua, ngồi xổm xuống trước mặt hắn, nắm tay hắn nhẹ giọng gọi.

“Tam nương…”

Triệu Tòng lấy lại tinh thần, lẩm bẩm nói: “Trẫm mơ thấy Uyển Nương, nàng nói nàng hận trẫm, nàng muốn móc tim gan của trẫm…”

Tiết Hành lấy khăn lau mồ hôi lạnh trên trán cho hắn, giống như mẹ hiền dỗ con nhỏ, mềm mại nhỏ nhẹ nói: “Sao có thể chứ? Uyển tỷ tỷ yêu quan gia như vậy, sẽ không tổn thương quan gia đâu ạ, chẳng qua là ác mộng thôi. Quan gia, chàng nhìn xem, thần thiếp mang ai tới cho chàng nè?”

Nàng ấy bảo Triệu Tòng nhìn về hướng cửa, A Bảo đứng vào chỗ ánh nến chiếu không tới, từ tốn tháo mũ trùm đầu xuống.

“Uyển Nương!!!”

Triệu Tòng đứng bật dậy, ánh mắt sáng quắc nhìn nàng chằm chằm.

Chậu tịch mai rơi xuống từ trên đầu gối hắn, chậu hoa vỡ nát, đất cát văng đầy sàn.

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng chạy chân trần tới, vừa ôm nàng vào lòng mình vừa mừng rỡ hô như điên: “Em chưa chết! Trẫm biết ngay! Em chưa chết! Bọn họ đều gạt ta!”

Tiết Hành âm thầm rời khỏi tẩm điện, A Bảo hít sâu một hơi, dùng sức đẩy Triệu Tòng ra, hờ hững nói: “Thả Lương Nguyên Kính.”

“Uyển Nương ơi……”

Triệu Tòng chưa từ bỏ ý định muốn ôm nàng, cuối cùng chọc cho A Bảo tức giận, đánh một cái lên người hắn, “Tôi kêu anh thả Lương Nguyên Kính mà! Thả chàng ra! Anh có hiểu tiếng người không hả?!”

Triệu Tòng bị nàng đánh thật đau, nhưng vẫn cố chấp ôm nàng vào lòng, máu thịt dưới tay là thật, còn có nhiệt độ cơ thể âm ấm, ngửi một hơi thật sâu, chóp mũi vấn vương hương thơm quen thuộc trên người Uyển Nương. Nàng không phải ảo ảnh đuổi chẳng kịp kia trong mộng, đích xác là một người vô cùng chân thật.

Nàng quay về rồi, Uyển Nương hắn về rồi.

Triệu Tòng gắt gao ôm người vào lồng ng.ực, tựa như muốn hoà nàng vào xương thịt của mình, phát ra tiếng thở dài thoả mãn.

“Được! Được! Ta thả y! Uyển Nương, cho dù em muốn cái gì, em biết mà, ta sẽ luôn đáp ứng em.”

Cho dù hắn có ra hứa hẹn gì, A Bảo vẫn chưa thấy yên tâm, phải tự mình thấy tự tay hắn viết chiếu mới được, lúc viết sắp xong, nàng mới nhớ ra: “Khoan đã, còn một người nữa, Giác Minh hoà thượng.”

Suýt chút quên mất.

Triệu Tòng không hỏi hai lời, viết thêm pháp hiệu hoà thượng vào đó.

Chờ hắn viết xong, A Bảo đọc lại từ đầu đến cuối, xác nhận không có sai lệch nào, lúc này mới cuốn chiếu cất vào tay áo.

Triệu Tòng mãi quên cả chớp mắt nhìn nàng đăm đăm, sợ rằng chỉ trong một cái chớp mắt thôi là nàng sẽ biến mất vậy.

“Uyển Nương này, mấy năm nay em đi đâu vậy? Là về lại Dương Châu sao?”

A Bảo: “……”

“Em còn giận ta à?” Triệu Tòng bắt lấy tay áo nàng, “Đừng giận ta nữa được không? Ta sai rồi, em xem, cây trâm tặng em, ta đã tìm thợ sửa lại…”

Hắn lấy cây ngọc trâm từ ngực ra, chỗ vốn đã đứt đoạn giờ được mạ thêm lớp vàng, nối hai đoạn trâm liền lại với nhau.

“Còn hoa mai… Hoa mai ta tặng em, ta vẫn thường chăm sóc kỹ… Em tới đây xem!”

Hắn nắm ống tay áo A Bảo, vốn định dẫn nàng tới nhìn hoa mai, lại phát hiện chậu mai vì lần sơ sẩy vừa nãy của hắn nên đã rớt xuống sàn vỡ nát.

Triệu Tòng ngây dại, vội vàng quỳ xuống, luống cuống tay chân gom đống đất, còn bị mảnh sứ chậu vỡ cứa vào lòng bàn tay chảy dài máu.

“Đừng làm nữa,” A Bảo nhẹ nhàng nói, “Hoa chết rồi.”

“Không……”

Triệu Tòng ngẩng đầu ngơ ngác nhìn nàng.

A Bảo ngồi xổm xuống, nghiêm túc nhìn hắn: “Chậu hoa vỡ rồi không lành lại được, hoa chết rồi cũng không nảy nở được nữa, còn có cây trâm…”

A Bảo nhét trâm ngọc vào tay hắn: “Gãy là gãy, mặc anh có tìm thợ tay nghề cao siêu đến đâu, cũng không thể quay về hình dạng ban đầu. Người chết rồi, là đã hết rồi, dù cho anh có không muốn thừa nhận tới bao giờ, cũng vậy thôi. Triệu Tòng à, anh hiểu chưa?”

Triệu Tòng tê liệt ngồi bệt dưới đất, thần sắc hoảng hốt, ngơ ngẩn rơi lệ: “Nhất định là trẫm đang nằm mơ.”

A Bảo không phản bác, chợt nghe hắn sâu kín hỏi: “Uyển Nương này, em có hận trẫm không?”

A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi: “Trước kia chắc là có.”

“Vậy em có từng yêu trẫm không?”

Từng yêu sao?

Đây là vấn đề vô cùng phức tạp, nhất thời A Bảo chưa nghĩ ra đáp án.

Có đôi khi, tình cảm con người cũng không thể chỉ gói gọn trong hai chữ yêu và hận được, nếu muốn A Bảo dùng một từ để miêu tả mối quan hệ giữa nàng và Triệu Tòng, nàng nghĩ nàng sẽ không nói về chữ ‘yêu’ hay ‘hận’, hẳn là ⎯

“Ỷ lại.”

Từ ngày nọ vào năm Hữu An thứ sáu rời Dương Châu, tách khỏi anh mình, A Bảo đã bước vào con đường ỷ lại Triệu Tòng. Nàng ở Đông Kinh đưa mắt không quen, còn không hoà nhập được với vòng quý nữ kinh đô, người mà có thể tín nhiệm, cũng chỉ có mỗi Triệu Tòng mà thôi.

Triệu Tòng tựa hồ cũng hết sức hưởng thụ loại tin cậy nàng dành cho hắn. Hắn dẫn nàng dạo chơi khắp thành Đông Kinh, muốn tìm mọi cách dỗ nàng vui vẻ, tất cả sự chưa thích ứng khi tách khỏi Lý Hùng, sự ỷ lại từ a ca, tất cả đều di dời lên trên người hắn.

Nhưng mà sau đó thì sao?

Hắn dùng loại ánh mắt xa lạ, lạnh lẽo như vậy để nhìn nàng, còn nói: <i>“Là do ta đã quá nuông chiều ngươi.”</i>

Câu nói như đòn cảnh tỉnh, nó hoàn toàn đánh bật lại A Bảo, lúc đó nàng mới thấu, căn bản Triệu Tòng không phải là Lý Hùng, a ca đối xử vô điều kiện với nàng, bởi vì anh không cần nàng đáp trả.

Nhưng Triệu Tòng thì không, hắn cần nàng đáp lại mình, cần nàng khắc ghi trong lòng, cũng là loại báo đáp tương ứng.

Hắn đối xử có điều kiện với nàng, đó là ‘Ta đối tốt với ngươi như vậy, ngươi cũng cần đáp ứng lại ta theo yêu cầu, nếu không ta sẽ tịch thu lại những gì đã cho ngươi’.

Khi đó Triệu Tòng cãi nhau cùng nàng, luôn miệng nói, ta vì em mà chống cự với đám quan lại kia, đối kháng với tổ chế Đại Trần, vì em thành trò cười cho thiên cổ, vì em làm ra chuyện thiên hạ không tán đồng, vì em đắc tội với thế nhân. Nói không chừng mai sau sử sách ghi lại, vậy mà em còn muốn mắng ta mê muội cái đẹp. Sao em không hiểu chuyện chút đi? Ngoan hơn? Để ta bớt lo hơn chút thì sao?

Nhưng A Bảo lại nghĩ, căn bản điều nàng muốn đâu phải như này.

Xưa nay Triệu Tòng vẫn luôn không rõ, điều nàng chân chính muốn là gì, tựa như hắn không biết nàng rất muốn tìm cây trâm như ý a ca tặng, chứ chẳng phải trâm ngọc đẹp đẽ trân quý nhưng lại vô dụng kia.

Hoàng quyền, đế vị, biến người chung chăn gối thành một nam nhân xa lạ. A Bảo ngày càng không hiểu nổi hắn, hắn nói ít hơn, tâm cơ thâm trầm, chẳng tươi cười nốt, ánh mắt nhìn nàng dần dần chứa đựng nhiều sự bất mãn, bắt bẻ cũng nhiều.

Hắn không cho nàng đàn tỳ bà, không cho nàng ăn món nàng muốn, không cho đọc thoại bản, chặn thư tín a ca gửi cho. Tình yêu của hắn là chiếc lồng sắt mạ vàng hoa mỹ tinh xảo, khiến nàng cảm thấy hít thở không thông.

Đôi khi A Bảo sẽ nghĩ, nếu Triệu Tòng không bước lên đế vị vốn chẳng thuộc về hắn. Nếu hắn vẫn là Triệu Thừa Tuấn như hồi ở Dương Châu, kết cục của bọn họ có khác hơn không, có lẽ bọn họ sẽ ân ái đến già, sẽ con cháu đầy nhà ấy nhỉ.

Tiếc là, đời người không có ‘nếu’.

Cho nên đối với câu hỏi hắn đưa ra, A Bảo chỉ có thể trầm mặc không đáp.

Triệu Tòng hai tay che mặt, khóc ròng nói: “Trẫm rất yêu rất yêu em mà.”

“Anh không yêu tôi,” A Bảo bình tĩnh lại, “Anh yêu Lý Uyển, tôi không phải nàng, tôi là A Bảo. A Bảo là A Bảo, người không có gia thế cao quý, cũng không học được cách cư xử dịu dàng như các vị nương tử khác.”

Triệu Tòng sững sờ, buông đôi tay ôm mặt xuống, hai mắt đỏ bừng nhìn nàng.

Hoá ra lúc hắn không cười, dáng vẻ chẳng giống người nọ chút nào, A Bảo có chút nghi hoặc sao năm đó mình lại nhận lầm được.

“Có lẽ tôi cũng không yêu anh.”

A Bảo hơi hơi mỉm cười, nói: “Chúng ta yêu, chỉ là bóng dáng nơi đáy lòng của nhau mà thôi.”

Rốt cuộc nghĩ rõ điểm này, nhất thời lòng A Bảo nảy sinh loại cảm giác giải trừ bế tắc, có yêu hận gì cũng không quan trọng. Nàng không cần hận Triệu Tòng, bởi vì tình yêu nàng dành cho hắn không hề thuần khiết, bọn họ từ lúc mới gặp đã là một loại sai lầm.

Thôi nương tử nói không sai, suốt đời nàng chỉ theo đuổi bóng hình hư ảo, như trăng trong nước, như hoa trong gương, mà giờ khắc này đây, nàng không cần tiếp tục kiếm tìm nữa, bởi vì người nọ, vẫn luôn đứng ngay phía sau nàng, chưa từng rời đi.

Thoáng chốc, A Bảo cảm nhận được oán khí nội tâm bị quét khỏi sạch sẽ, linh hồn nàng tựa như được gột rửa, bắt đầu trở nên trong suốt, thuần tuý thêm một lần nữa.

Đến lúc nàng phải đi rồi.

Triệu Tòng vội túm chặt cổ tay của nàng, nhưng cả người lại hết sức ngây ngẩn, bởi vì đầu ngón tay A Bảo đang tan biến, hoà thành bụi vàng bay bay.

“Em…”

Yết hầu hắn như bị người ta bóp chặt, nói không thành lời.

A Bảo vẫy tay hắn ra, cũng không kịp quay đầu: “Tôi không còn bao nhiêu thời gian nữa, cần phải đi ngay lập tức…”

Nàng xoay người lao ra Phúc Ninh Điện, bỗng nhiên có người từ trong góc duỗi tay ra ngăn nàng lại, là Tiết Hành.

A Bảo gấp muốn điên rồi, sao càng vào thời điểm mấu chốt thì càng có người chặn đường vậy nè.

“Cô muốn nói gì thì ngắn gọn thôi, tôi không còn nhiều thời gian!”

Tiết Hành ngây dại, cũng thấy tay trái của nàng đang thong thả tan biến, Tiết tam nương tử luôn trầm ổn, tiến lùi vừa đủ giờ đây lại có chút lắp bắp.

“Tôi… Tôi muốn nói cho cô biết, hạ táng cô vẫn còn sống, tôi thật sự không biết chuyện đó, lúc ấy tôi đã thử, xác thật là cô đã ngừng thở. Phùng Ích Toàn ông ta không nói cho tôi hay, còn về nguyên nhân, tôi đoán chắc do ông ta không nghe thấy, có lẽ là… Ông ta cho rằng nhiều thêm một chuyện chi bằng bớt đi một chuyện. Thành thật xin lỗi, tôi nói lời này cũng không phải muốn bao biện cho mình. Cho dù cô tin hay không thì, tôi…”

“Tôi tin.” A Bảo ngắt lời nàng ấy.

Tiết Hành ngẩn ra.

A Bảo hỏi: “Còn muốn nói gì nữa không?”

Tiết Hành thất thần một lát, xong lắc đầu, đáp: “Hết rồi.”

A Bảo cất bước phải đi, Tiết Hành vẫn ngăn nàng lại, giao cho nàng tấm thẻ bài: “Khắp nơi trong cung đều đang hạ giới nghiêm, cô cầm thẻ bài này, hành sự tiện nghi hơn nhiều.”

A Bảo rũ mắt nhìn tấm thẻ trong lòng bàn tay, chợt ngước mắt lên, nghiêm túc nói: “Đa tạ.”

Tiết Hành chua xót cười, thay nàng cột chắc áo choàng, đội mũ trùm đầu lên, nói: “Đi đi.”

A Bảo gật đầu, bay vào giữa trời đầy tuyết.

Sấm rền len vào tầng mây, phía chân trời không còn sấm sét ầm ầm, giờ đây cấm đình an tĩnh bình yên như vậy. Gió đêm thổi vạt áo choàng A Bảo tung bay, mũ trùm đầu rơi rớt, muôn vàn bông tuyết mềm nhẹ bay lên mặt nàng, như ký ức nơi sâu thẳm, những cảnh quang từng bị nàng quên lãng.

<i>“Tiểu sinh họ Lương, tên Hoằng, tự Nguyên Kính.”</i>

<i>“Tiểu sinh? Anh rất nhỏ à?”</i>

Gương mặt thiếu niên ửng hồng, ngay cả vành tai cũng nhiễm chút nhàn nhạt, y như hoa đào nở rộ đầu xuân.

Nàng nói: <i>“Tôi tên A Bảo.”</i>

<i>“Tiểu nương tử A Bảo.” </i>

<i>“Cái gì mà ‘Tiểu nương tử A Bảo’, A Bảo là A Bảo, không có ‘tiểu nương tử’ gì hết.”</i>

Đình viện, chàng chống thanh trúc chậm rì rì đi vòng quanh, nàng khẩn trương đi theo phía sau chàng, sợ chàng té ngã, còn chàng ngoái đầu cười nhìn lại nàng.

Một khắc đó, có hàng ngàn hàng vạn con bướm bay lên từ đáy lòng nàng.

Dưới cây sơn trà, chàng ngửa đầu nhìn nàng, vô thức duỗi cánh tay ra, giống như có thể tiếp nàng bất cứ lúc nào.

Nàng không nói cho chàng biết, từ nhỏ nàng đã học được cách leo cây, cây sơn trà bé tí này không có làm khó được nàng.

<i>“Đồ ngốc! Tiếp này!”</i>

Từng quả sơn trà như mưa sao băng ném xuống, chàng không tiếp được quả nào, còn bị rớt trúng cho vô cùng chật vật, còn nàng thì ngồi trên chạc cây cười ha hả.

Tháng sau, lá sen xanh biếc.

Nàng ôm đầy đài sen ở trong lòng chạy vội về phía trước, chàng thì thở hồng hộc ngay phía sau, mặt đỏ như gấc. Tình cờ dừng lại, quay đầu nhìn ông già cầm gậy trúc mắng to đuổi theo, sợ tới mức chả dám nghỉ ngơi, tiếp tục chạy bạt mạng như điên.

Bỗng nhiên nàng quành lại, kéo tay chàng chui vào con đường mòn.

Ngày hè ánh mặt trời nóng cháy vẩy đầy trên con đường đất nông thôn, tiếng cười nàng thanh thuý như tiếng chuông bạc, reo lên cả con đường. Thiếu niên thiếu nữ mười ngón tay đan vào nhau, lòng bàn tay áp sát, thấm tầng mồ hôi mỏng, hương hoa sen thơm ngát ập vào mũi, khiến con người ta say mê quên lối về.

<i>“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi, Chuối chóng xanh rồi…”</i> [1]

<i>[1] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

Ánh trăng như bạc, thiếu niên ngồi trên ngạch cửa, lòng ôm tỳ bà, ngón tay thon dài gảy dây đàn, cất lên giọng ca dịu dàng trầm ấm. Mày mặt chàng sạch sẽ, tinh tế như vậy, tựa như thần tiên trên trời khiến nàng phải nín thở, vì sợ quấy nhiễu cảnh tượng trong mơ.

<i>“Non có cây, cây lại có cành, Tâm hân hoan chàng, chàng có hay?…”</i> [2]

<i>[2] Việt nhân ca và bản dịch của Vệ Ca, thivien.net.</i>

Sau giờ ngọ ngày hè, nàng đang say mộng đẹp. Chợt thấy trên má có chút ngứa ngứa, mở mắt ra thì thấy, ánh mặt trời chói chang chiếu qua tán cây xanh, kí.ch thí.ch đồng tử nàng đột nhiên co rút.

Nàng híp mắt, thấy phần cằm có độ cong hoàn mỹ của thiếu niên nọ, trái tim tức khắc đánh trống reo hò.

Trong đám đông, nàng không tìm thấy bóng dáng chàng đâu, hoảng sợ đứng dậy nhìn khắp nơi xung quanh, chợt nghe tiếng ‘ting’ nhỏ, nàng xoay người, nén bạc xoay vòng trong thau đồng, còn chàng dáng ngọc đứng thẳng đó cười với nàng.

<i>“Tiểu nương tử với khúc nhạc như nhạc tiên luân âm, nhân gian nào mấy khi được nghe, một chút tâm ý, kính mong vui lòng nhận cho.”</i>

Tiếng khua chiêng náo nhiệt mở màn kịch dân dã vang to, bọn họ đứng giữa biển người tấp nập, tiếng nói chàng ôn hoà, kể cho nàng nghe cảnh vật Dương Châu, con người Dương Châu, di tích cổ Dương Châu ra làm sao.

Nàng nghe xong trợn tròn mắt, không chịu bỏ qua tiếp tục truy hỏi, chấp nhất muốn biết rõ trong lòng chàng, Thành Đô tốt hay Dương Châu tốt hơn.

Chàng cười mỉm chi đáp, mỗi nơi đều có cái hay của nó.

Nàng bĩu môi, lẩm bẩm cực nhỏ tiếng, vẫn là Thành Đô chúng tôi tốt hơn.

Tiếng hát trên sân khấu cất cao, thiếu nữ chẳng thể nói ra lời tâm sự sâu kín giữa đám đông.

Dưới đáy lòng nàng lén nói, tuy Dương Châu có hoa thược dược, có Hồ Tây Gầy, có sông nhỏ Tần Hoài, có 24 cây cầ. Nhưng Thành Đô cũng có hoa hải đường, có chợ tơ tằm, có cảnh mặt trời lên hoa hồng đỏ như lửa, có sông xanh tựa như màu chàm mỗi đợt xuân về. Còn có một tiểu cô nương tên là A Bảo nữa, nàng thích chàng, nên chàng đừng đi có được không?

Cuối cùng mảnh bông tuyết lất phất bay qua, uyển chuyển mềm mại dừng trên đuôi mắt của A Bảo, hoà tan thành một giọt nước mắt.

Phản chiếu trong mắt nàng, là con phố dài ngày xuân năm nọ, nàng ngồi giữa đường đàn tỳ bà, có người trẻ tuổi cầm ô, đeo hòm xiểng đi đường, đứng trước quán trà. Chàng mặc bộ áo dài màu xanh, tay áo thêu hoa văn khóm trúc, hết lần này tới lần khác đều vô tình nhìn sang nàng, mắt như nước mùa thu, môi chứa cái cười nhạt.

Chỉ một cái liếc mắt, cả đời chẳng thoát nổi.
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom