Ngôn Tình Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 20: Say rượu


Đêm đã rất khuya, Lương Nguyên Kính muốn giữ Giác Minh ở lại ngủ một đêm, chờ ngày mai hẳn về chùa Tướng Quốc, không ngờ hòa thượng lại kiên trì muốn đi.

Cũng may hôm nay là Đoan Ngọ, lo lắng dân chúng ra ngoài thành đến Kim Minh Trì vui chơi về muộn, giờ đóng cửa thành sẽ chậm hơn ngày thường một chút.

Lương Nguyên Kính cầm chiếc đèn lồng sa [1], muốn tiễn Giác Minh đi một đoạn.

<i>[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>


A Bảo thấy bọn họ hình như có lời muốn nói nên không đi theo, khi sống lại nàng không khác gì người bình thường, không cần lúc nào cũng nấn ná bên Lương Nguyên Kính trong phạm vi năm trượng.

Chàng đi rồi, A Bảo không biết nên làm gì, nhàm chán chống cằm ngồi trên nắp giếng trong viện, vừa ngắm trăng vừa chờ chàng về.

Ban đêm Dư lão đi tiểu, ra tới nơi thấy có thêm người con gái trong sân, còn tưởng mình tuổi già mắt mờ nên nhìn lầm.

Dùng sức xoa bên mắt, nhìn lại, là thật mà!

“Dư lão đừng kêu!”

A Bảo trước khi ông ấy chuẩn bị xé cổ họng kêu to đã chạy nhanh tới ngăn cản.

“Sao cô biết tên tôi…”

Dư lão càng thêm sợ hãi, vừa run rẩy vừa lùi bước, “Cô… Cô là ai? Đừng lại đây nha…”

A Bảo thầm nghĩ cái này là sao, lúc mình là quỷ thì ông ấy không sợ, ngược lại giờ biến thành người thì lại sợ tới vậy.

Bỗng nhiên trong đầu bừng tỉnh nói với Dư lão: “Ông đừng sợ, tôi không phải người xấu, tôi là vợ của công tử nhà ông, chàng kêu tôi gọi ông là Dư lão.”

“Cô nói dối, công tử nhà tôi chưa từng cưới vợ.” Dư lão nói.

“Chàng cưới rồi,” A Bảo nói dối không chớp mắt, “Chàng cưới ở quê, tôi mới từ dưới đó lên đây, không tin ông cứ hỏi chàng đi.”

“……”

Dư lão bán tín bán nghi nhìn về phía sương phòng của Lương Nguyên Kính.

“Chàng ra ngoài tiễn bằng hữu rồi,” A Bảo lập tức nói, “Là Giác Minh hoà thượng.”

Ban đêm Dư lão đi ngủ rất sớm nên không biết Giác Minh đã tới, chỉ thoáng nghe tiếng chó sủa, còn có tiếng nói chuyện cách vách, chắc công tử có khách ghé thăm. Hơn nữa công tử cùng tiểu sư phụ Giác Minh ở chùa Tướng Quốc có quen biết, ông biết chuyện đó.

Đến bây giờ Dư lão mới tin A Bảo được hơn phân nửa, chỉ là trong lòng còn chút thắc mắc: “Cô nói mình là phu nhân công tử cưới ở quê à?”

“Đúng vậy.” A Bảo không đỏ mặt gật đầu.

“Vậy sao lúc cô nói chuyện không nghe ra giọng ở Dương Châu vậy?”

“……”

A Bảo suýt chút đã lỡ lời hỏi “Anh ta là người Dương Châu?”, may kịp quay đầu là bờ, ngoài miệng biện minh: “Người Dương Châu nhất thiết phải nói giọng Dương Châu sao? Tôi thấy công tử nhà ông nói chuyện cũng đâu có giống đâu, chứng tỏ tôi nói tiếng phổ thông rất tốt. Còn nữa, ông muốn nghe giọng Dương Châu thì tôi nói một câu cho ông nghe là được rồi.”

Cái này quá đơn giản với A Bảo.

Nàng sinh sống trong thành Dương Châu hơn hai năm, nhóm nương tử ở Minh Thuý phường có rất nhiều người địa phương, mưa dầm thấm lâu, nàng nghe miết ấy mà, vì thế lập tức nói vài câu bằng tiếng Dương Châu cho Dư lão nghe.

Bản thân Dư lão cũng là người Dương Châu, chợt nghe giọng nói quê hương rót vào tai, gần gũi lạ thường, liền hoàn toàn tin tưởng vào A Bảo, nhân hậu cười nói: “Hoá ra là nương tử tới, vừa rồi lão nô thất lễ. Hôm nay nương tử đến lúc nào vậy, đi đường vất vả, đã ăn cơm canh gì chưa?”

Ông không nhắc tới thì đỡ, vừa nói tới chữ ‘cơm’, A Bảo lập tức thấy đói meo. Nàng giấu tiếng ‘ùng ục’ vang lên từ bụng, ngại ngùng cười cười với Dư lão.

“Trong nhà còn cơm ạ? Tôi ăn một ít vậy.”

Chỉ trong chốc lát, Dư lão đã nấu xong nồi bánh súp. [2]

<i>[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
194ea7ed23c0cfbe1cec972ecf1b823f.jpg40h_1280.jpeg


A Bảo khuyên can mãi ông ấy mới chịu quay về phòng ngủ, nếu không nàng sợ sẽ giống như lần trước, ăn vài miếng đã biến lại thành linh hồn. Nếu để Dư lão thấy một người đang sống sờ sờ đột nhiên tiêu tan mất dạng, không phải sẽ dọa ông ấy ngất đi sao?

Sau khi A Bảo tiễn ông ấy đi, tự mình lấy cái chén riêng ngồi xổm dưới bếp, ăn sạch sành sanh cái nồi bánh súp đó.

Cũng không biết có phải lần này Lương Nguyên Kính nhỏ nhiều máu hơn lần trước không, đến khi ăn xong rồi A Bảo vẫn chưa trở về trạng thái linh hồn.

Nàng ăn hết nồi bánh súp no căng cả lên, phải lấy tay đỡ bụng bám tường đi về trong viện, chậm rãi tản bộ cho tiêu hoá bớt, không đếm đã đi được mấy vòng, Lương Nguyên Kính đã trở lại.

“Anh về rồi.”

A Bảo đỡ thắt lưng, đứng dưới cây táo nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính cũng không vào ngay, chỉ không nói lời nào đứng ở ngạch cửa ngơ ngác nhìn nàng.

A Bảo thầm nghĩ gần đây vất vả lắm mới không hay ngây người nữa, sao giờ lại khôi phục dáng vẻ ngơ ngơ ngốc ngốc đó rồi, nàng đi tới trước mặt chàng.

“Sao vậy?”

Bỗng nhiên gió đêm thổi qua, có loạt mùi hương không đúng lắm bay vào chóp mũi, A Bảo cố khịt khịt cái mũi, cúi người ngửi ngửi: “Khoan đã, anh uống rượu hả?”

Lương Nguyên Kính đỏ mặt đẩy nàng ra, cất bước vào trong phòng ngủ.

“Uống một chút.”

A Bảo đi theo sau chàng hỏi: “Uống với ai? Không phải anh đi đưa tiễn đại hòa thượng à?”

Lương Nguyên Kính dừng bước hơi quay đầu nhìn nàng, tựa hồ say rồi, bước chân có hơi lảo đảo, gương mặt nhiễm chút đỏ ửng.

“Uống với cậu ấy.”

Hả?

Uống với cậu ấy? Uống với Giác Minh?

A Bảo trừng to đôi mắt: “Không phải y là hòa thượng sao?”

“Ừm, cậu ấy là hòa thượng ăn thịt uống rượu.”

Lương Nguyên Kính tiếp tục đi vào phòng, A Bảo nhìn thấy rất rõ, xác định chàng đã say thật rồi, dưới chân bước không hề theo trình tự, lúc bước lên bậc thang còn suýt nữa bị vấp ngã.

A Bảo chạy nhanh lại đỡ lấy chàng, nghiêng đầu cảm thấy rất hứng thú hỏi: “Vậy y cũng đến hoa lâu hả?”

“……”

“Đến.” Lương Nguyên Kính khẽ nói.

Hiện tại tư duy của chàng có hơi trì trệ, trước khi nói luôn khựng lại suy tư một lát mới nói tiếp: “Cậu ấy nói, trước mặt Phật Tổ chúng sinh bình đẳng, dù là ca kỹ con hát cũng cần được Phật pháp phổ độ.”

“Hòa thượng này cũng khá thú vị, còn không phải là ba hoa hòa thượng hả? Dám ngụy biện như vậy nữa chứ, chùa Tướng Quốc sao còn chưa tiễn y ra ngoài vậy.”

A Bảo thầm nhớ lại lúc mình còn ở Minh Thuý phường sao chưa từng gặp vị khách nào thú vị như y nhỉ, chỉ cần nghĩ tới dáng vẻ đại hòa thượng có cái đầu trọc lóc tay cầm đùi gà tay nâng chén rượu cà cưa đưa đẩy với các nương tử giảng “Khổ ải vô biên, quay đầu là bờ”, A Bảo thiếu chút nữa cười thành tiếng.

Đang tự mình vui mừng khôn xiết, Lương Nguyên Kính thình lình xoay người nhìn nàng chằm chằm.

“Sao… Làm sao vậy?”

A Bảo bị chàng đăm đăm nhìn sinh ra vài phần khẩn trương, chủ yếu là do Lương Nguyên Kính say rượu, sắc mặt đỏ hồng, đôi mắt đen nhánh ướt át như có tầng hơi nước che phủ, thật sự là…

Quá quyến rũ mà!

A Bảo không khỏi nuốt nước miếng.

Ánh mắt Lương Nguyên Kính trong sáng, nói: “Tôi muốn tắm.”

A Bảo: “……”

Lương Nguyên Kính: “Mời em ra ngoài được không?”

A Bảo: “…………”

“Anh uống say hả?” A Bảo hỏi ngay.

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu suy nghĩ lúc lâu sau mới gật gật đầu: “Hình như là vậy.”

“……”

“À ờ,” A Bảo mặt vô biểu cảm, giống như du côn ác bá cưỡng đoạt con gái nhà lành, “Nếu tôi không đi thì sao?”

Lương Nguyên Kính khẽ mở to hai mắt giống như không ngờ được câu trả lời này. Chàng nhăn mặt, vắt óc suy nghĩ thêm hồi lâu, cuối cùng nín giận nói: “Vậy tôi không tắm nữa.”

“……”

A Bảo quay đầu đi, nỗ lực đè ép khoé miệng muốn cười, cực khổ kiềm chế xong mới quay đầu chín chắn nói: “Vậy không tốt lắm, anh đi tắm thì hơn, tôi đi ra ngoài đây.”

Lúc đi tới cửa nàng bỗng xoay người lại cười, giơ tay lên thề: “Anh yên tâm, tôi tuyệt đối sẽ không nhìn lén qua khe cửa đâu.”

Lương Nguyên Kính gật gật đầu, vịn cửa nghiêm túc nói: “Được.”

A Bảo dùng hết sức bình sinh mới khắc chế được trận cười của mình. Chờ đến khi cửa phòng sau lưng khép lại, nàng đi vào trong đình viện, khom lưng ôm bụng xả tràng cười muốn nội thương.

Ha ha ha ha ha ha ha!

Ông trời ơi! Lương Nguyên Kính say rượu mắc cười tới vậy á!

Ha ha ha ha ha! Ai tới cứu nàng với!

A Bảo đỡ cây táo cười đến không chịu nổi, thở hổn hển, hoài nghi trên đời này chắc có người chết vì cười là thật.

Cứu mạng với! Ai đó tới cản nàng lại đi!!

Nàng lại nhớ tới dáng vẻ say mèm của Lương Nguyên Kính, vậy mà còn nhớ phải đi tắm, chờ lát nữa chàng sẽ không chết đuối trong thùng nước đâu ha?

Nhưng mà chính nàng đã đáp ứng tuyệt đối không nhìn lén chàng rồi, tưởng tượng thấy Lương Nguyên Kính vùng vẫy hai cánh tay trong thùng tắm hoảng loạn phá tướng la to “Cứu mạng”, A Bảo lại cười thêm một tràng nữa.

Vất vả lắm mới nhịn cười, nàng ngồi xuống dựa vào cây táo, hít thở sâu bình tâm trở lại.

Ôi, cười đến đau cả bụng.

Lương Nguyên Kính, cái người sao thú vị dữ vậy nè?

Đáng tiếc…

Trong đầu A Bảo đột nhiên hiện ra hai chữ đó, ngay cả nàng cũng thấy khó tin nổi.

Đáng tiếc? Đáng tiếc gì chứ?

“Đáng tiếc anh đã có người trong lòng.” Ở chỗ nào sâu trong đáy lòng trả lời hộ nàng.

Người trong lòng, người trong lòng……

A Bảo lẩm bẩm lặp lại ba chữ này, không rõ đáy lòng có cảm thụ gì, thật giống cảm giác ăn trúng quả mận cực chua, vị chua xót lan ra từ đầu lưỡi xuống tới tận tim.

Người trong lòng, người ở trong lòng Lương Nguyên Kính sẽ có dáng hình thế nào? Có xinh đẹp không?

A Bảo nghĩ nghĩ, bỗng nhiên đôi mắt sáng ngời.

Không đúng! Nàng có thể biết được người trong lòng Lương Nguyên Kính trông như thế nào mà!

Bức tranh đặt dưới đáy rương kia không phải đã vẽ rồi sao?

A Bảo ngó cửa phòng đóng chặt, bên trong lờ mờ chút ánh sáng nến, vậy là Lương Nguyên Kính chưa tắm gội xong.

Nàng lại nhìn về phía cửa thư phòng tối đen như mực, lập tức đứng dậy, vỗ vỗ bụi dưới mông phóng cái vèo tới thư phòng.

Bộ sưu tầm thư họa của Lương Nguyên Kính có rất nhiều, trong phòng để không ít mấy cái rương. Nhưng A Bảo còn nhớ rõ bức tranh vẽ người chàng thích đựng trong cái hòm gỗ mun, bốn gốc bọc bạc, tranh cuộn có dùng sợi chỉ đỏ buộc lại.

Nàng giơ đèn dầu, ánh mắt lia qua từng cái rương.

Gỗ mun nước sơn, bốn góc bọc bạc…

Từ từ…

Tìm thấy rồi!

A Bảo để đèn dầu sang một bên, hưng phấn quên chớp mắt kéo cái rương đó ra tới, tâm tình kích động lạ thường. Lúc đang chuẩn bị mở ra xem thì, khóe miệng tươi cười dần dần cụp xuống.

Chỉ thấy trên cái rương đó có treo một cái khoá vàng đồng óng ánh.

“…………………”

“Thật là quá đáng mà! Còn khóa nữa chứ, đây là phòng của ai?”

A Bảo nổi giận đùng đùng xông thẳng vào sương phòng, mặc kệ Lương Nguyên Kính có còn đang tắm hay không, bây giờ nàng đã về lại thành linh hồn, hai cánh cửa căn bản không ngăn được nàng đâu.

Khi nàng vọt vào, Lương Nguyên Kính đã tắm xong rồi, đang mặc bộ trung y trắng tuyết, đứng ở bên cạnh thùng nước tắm bay hơi lượn lờ. Hình như muốn dọn thùng đổ nước đã dùng ra nhưng vì sau khi say rượu chàng đã hết sức rồi, dọn không nổi, chỉ có thể cúi đầu phát ngốc nhìn mặt nước.

“……”

Cơn tức của A Bảo lập tức tan thành mây khói.

Thôi đi, ai đâu đi so đo với đứa ngốc.

“Đừng có ngây người đó nữa, để đó đi, sáng mai dọn dẹp lại sau.”

“Ồ.”

Lương Nguyên Kính ngơ ngác nhìn tới, sau đó đi vòng ra sau bình phong, nằm vào ổ chăn của mình, hai tay theo quy củ đặt lên bụng, nhắm mắt đi vào giấc ngủ.

A Bảo: “……”

Giỏi lắm, say thì say chứ vẫn biết mình nên ngủ chỗ nào ha.

A Bảo dở khóc dở cười đi tới bên cạnh chàng, ôm đầu gối ngồi xuống ngắm nghía chàng lúc ngủ.

Lương Nguyên Kính mới tắm ra đúng là sắc nước hương trời mà, da thịt như ngọc bốc chút hơi, lông mi ướt át, đôi môi hồng hồng, cần cổ dưới áo trung y trắng nõn, còn thấy xương quai thoắt ẩn thoắt hiện, vừa rồi nàng thật là…

Thiếu chút nữa không nhịn nổi!

Lương Nguyên Kính: “?”

Lúc Lương Nguyên Kính mơ màng ngủ nhận ra có cái gì đó đang nhìn chằm chằm vào mình, đột ngột mở mắt ra, vừa ngạc nhiên vừa ngây thơ nhìn lại nàng, ánh mắt y như con thú nhỏ bị kinh động.

A Bảo: “……”

Đừng có nhìn, còn nhìn nữa nàng sẽ biến thành con sói máu huyết dâng trào đánh gục chàng ngay tại chỗ đó.

“Lương Nguyên Kính.” Nàng kêu chàng.

“Ừm?” Chàng nhắm mắt đáp lại, giọng nói bị tẩm rượu nghe khàn khàn, nghe khá có sức hút.

“Người trong lòng anh ấy, là ai vậy?” A Bảo dẫn dắt từng bước hỏi.

Lương Nguyên Kính ngơ ra, lông mi còn dính hơi nước run rẩy, thấp giọng nói: “Phải…”

A Bảo dựng thẳng lỗ tai cả lúc lâu mà chỉ nghe được mỗi chữ ‘Phải’, sau đó không còn nghe thêm gì khác nữa.

Nàng phải tiến lại gần, dán lỗ tai tới, xong chỉ nghe thấy tiếng hít thở nhè nhẹ rất có quy luật của Lương Nguyên Kính.

“……”

Chàng cứ như vậy đã ngủ rồi!

A Bảo oán trách đạp cho chàng một cước, tự bay tới giường của mình.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 21: Nạn châu chấu


Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, lúc Lương Nguyên Kính đang ăn sáng, nghe thấy Dư lão hỏi: “Công tử, nương tử đâu rồi? Còn chưa dậy à?”

Lương Nguyên Kính suýt phun hết cháo trong miệng ra, ngẩng đầu kinh ngạc nói: “Nương tử gì cơ?”

“Thì là nương tử dưới quê Dương Châu của công tử đó.”

Dư lão trách móc liếc chàng.

“Công tử à, cậu cũng thật là, cưới vợ sao không nói, lại còn xinh đẹp như vậy, thoạt nhìn tưởng tiên nữ giáng trần không thôi. Cô ấy đi từ Dương Châu đến kinh thành tìm cậu, e là đã chịu không ít cực khổ.”

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo tao nhã gật đầu: “Đa tạ đã khích lệ, Dư lão à, không ngờ ông đánh giá tôi cao tới vậy đó.”

Lương Nguyên Kính: “…………”

Dư lão lo lắng sốt ruột nhìn đồ ăn trên bàn: “Cũng không biết bàn này có đủ để nương tử ăn không nữa, đêm qua cô ấy đã ăn sạch cả nồi bánh súp, ui, chắc là đi đường đói dữ lắm.”

“……” A Bảo đen mặt, “Cảm ơn, cái này không cần nói ra đâu.”

Lương Nguyên Kính buông đũa xuống, thản nhiên nói: “Không có nương tử gì cả, tối qua do thúc nằm mơ thôi.”

Dư lão sửng sốt: “Sao thế được? Tôi thấy rất rõ…”

“Thúc nhìn lầm rồi.”

Lương Nguyên Kính thật thà đáng tin cắt lời ông ấy, lau miệng đứng dậy, hôm nay là ngày chàng đến bình phẩm ở hoạ viện.

Trước khi ra cửa, A Bảo thấy vẻ mặt của Dư lão còn hoài nghi ngồi ngơ cả người ra, nội tâm có hơi không đành lòng, quay đầu trách cứ Lương Nguyên Kính: “Anh nói mấy lời đó với ông ấy làm chi? Dư lão sẽ cảm thấy mình già đồ lú lẫn đó.”

“Là em không nên nói vậy với ông ấy.”

A Bảo dừng lại, tinh tế quan sát sắc mặt chàng: “Giận à?”

Lương Nguyên Kính lắc đầu: “Không có.”

A Bảo giật giật khóe môi: “Đến mức đó sao, tôi chỉ đùa chút thôi mà?”

Lương Nguyên Kính xoay người nhìn nàng, nói: “Không phải em đã nhắc nhở tôi, em chết rồi à? Nếu là vậy, em cũng không nên dùng hình hài người sống xuất hiện bên cạnh người quen của tôi, càng không nên đùa dai với họ gì mà ‘nương tử’, nếu vậy lỡ một ngày em không còn nữa, tôi biết giải thích sao với họ đây?”

“……”

Không thể nói gì, A Bảo không còn lời nào để nói.

Một Lương Nguyên Kính ít nói lầm lì đột nhiên trở nên nói năng lưu loát, điều này làm nàng thấy không quen, hơn nữa…

Sao chàng lại dùng giọng điệu lạnh lùng như vậy nói mấy lời đó chứ!

A Bảo tức sắp chết rồi, híp mắt cười lạnh nói: “Hứ, xin lỗi nhiều nha, là tôi sai, tôi không nên ăn nói lung tung trước mặt Dư lão, tôi chết rồi mà, người chết nên có dáng vẻ của người chết, không nên biến thành người sống chấp niệm thế gian này, được chưa?”

Lương Nguyên Kính bỗng ngước mắt lên: “Tôi không có nói vậy.”

A Bảo thấy tức: “Cần nói chắc? Tôi chỉ nghe ra ý đó thôi!”

Lương Nguyên Kính quay đầu đi thở hổn hển, ngực phập phồng kịch liệt, tựa như đang cật lực kiềm chế cảm xúc.

Sau đó, chàng quay đầu lại, tròng mắt đen tuyền lẳng lặng nhìn thẳng vào A Bảo, gần như rập khuôn nhắc lại: “Tôi chỉ không thích em lấy danh ‘nương tử’ ra để đùa cợt.”

“Hiểu luôn,” A Bảo mỉa mai, “Dù sao anh cũng có người mình thích mà.”

“……”

Sắc mặt Lương Nguyên Kính trắng bệch, gắt gao nắm chặt nắm đấm, không lên tiếng.

Bỗng nhiên A Bảo thấy hết thú vị, hờ hững nói: “Yên tâm đi, sau này tôi sẽ không đùa vậy nữa. Anh còn chưa đi hả? Đợi chút đến hoạ viện bị muộn đấy.”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng một cái, môi giật giật, hình như muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn không nói, cũng không leo lên lưng lừa mà chỉ yên lặng nắm dây thừng đi đằng trước.

A Bảo nhìn dáng người gầy gò của chàng đi trước, bỗng nghĩ, hình như Lương Nguyên Kính cũng không phải rất rất rất tốt, chàng chỉ có một điểm không tốt, chính là chàng đã có người trong lòng.

**

Sáng hôm nay, A Bảo không nói thêm lời nào với Lương Nguyên Kính, cũng không châm chọc ông lão dạy học ở họa viện nữa, một mình lẳng lặng ngồi dưới hành lang phát ngốc.

Lương Nguyên Kính liên tục ngóng qua cửa sổ nhìn nàng, hoạ học chính đang giảng bài thấy chàng mất tập trung như vậy, lập tức hừ một tiếng thật mạnh: “Nếu thấy lão phu dạy không hay, có thể đi ra ngoài.”

Giữa hạ nắng noi chói chang, tiếng ve râm ran khắp nơi, những đám mây trôi về phía chân trời, có lúc tụ lại cũng có lúc tạnh đi. Trước dãy hành lang hoạ viện, có trồng hàng thông xanh biếc và bách tùng thẳng tắp, gió từ cây tùng thổi tới tức khắc làm tinh thần con người thêm khuây khỏa.

A Bảo đang cúi đầu đếm kiến, trong tầm mắt xuất hiện thêm một đôi giày đăng vân, nàng kinh ngạc ngẩng đầu nhìn người mới tới.

“Sao ra đây rồi?”

Lương Nguyên Kính ngồi xuống bên cạnh nàng, rũ mắt xuống thấp, đôi tay đặt trên đầu gối, bỗng nhiên nói: “Rất xin lỗi.”

“……”

A Bảo hoàn toàn phát điên: “Anh xin lỗi cái gì hả?”

“Không biết,” Lương Nguyên Kính nghiêng đầu nhìn nàng, “Em còn giận không?”

“…………”

Giờ khắc này A Bảo không biết miêu tả tâm tình mình ra sao, nàng thầm nghĩ, cái đồ ngốc Lương Nguyên Kính này đến việc mình xin lỗi cái gì cũng không biết, sao có thể ngốc tới mức vậy chứ?

Nghĩ lại, mình thật sự quá xấu xa, sao lại bắt đầu khi dễ Lương Nguyên Kính rồi, rõ ràng đã quyết định sau này phải đối xử tốt với chàng hơn mà.

Nhưng cũng vào giây phút này nàng thật sự muốn nhào qua chỗ chàng cắn thêm mấy nhát.

Đồ ngốc! Cái đồ ngốc!

A Bảo cảm xúc lẫn lộn, giống như có hàng ngàn lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ có thể gom gọn lại thành một câu.

“Không giận nữa.” A Bảo buồn bực trả lời.

Lương Nguyên Kính gật gù: “Lát về sẽ mua bánh cho em.”

“……”

Tới nữa rồi đó, cũng chỉ biết mỗi chiêu này, chàng có chấp niệm gì với mấy cái bánh đó à?

Nàng đâu phải…

Thôi được rồi, đúng là nàng rất thích ăn bánh ngọt.

A Bảo nói: “Tôi muốn biến thành người để ăn.”

Lương Nguyên Kính nói: “Được.”

Lúc xong việc, Phúc Ích Toàn lại tìm tới, nói quan gia triệu kiến, vì thế Lương Nguyên Kính liền rời đi dưới ánh mắt hâm mộ lẫn ghen tị của các đồng liêu.

Triệu Tòng tìm chàng vẫn vì chuyện bức hoạ của phế hậu Lý thị.

Từ tháng mười năm Hi Hoà thứ nhất, bởi vì A Bảo từng triệu Lương Nguyên Kính vào cung vẽ tranh nhiều lần. Trong cung vua đã cất chứa không ít bức họa của nàng, chỉ tiếc sau trận hỏa hoạn vào cuối năm Hi Hoà thứ tư, tất cả đồ trong tàng hoạ đều bị thiêu đốt. Đây cũng là nguyên nhân Triệu Tòng mệnh Lương Nguyên Kính vẽ lại cho một bức khác.

Chẳng qua hắn vẫn chưa ra hạn chót đưa tranh tới, chỉ kêu Lương Nguyên Kính vẽ xong là được, trước khi đi còn thưởng giấy và bút mực ngự dụng cho chàng, cùng với một khúc lụa tơ trân phẩm dài sáu thước.

“Phát tài nha, Lương đại nhân.”

Trên đường về, A Bảo trêu ghẹo chàng.

Lương Nguyên Kính cũng không để ý mấy lời này của nàng, chỉ hỏi: “Muốn ăn gì?”

“Tôi suy nghĩ cái…”

Thật ra A Bảo cũng không rõ lắm, đứng trên đường Phan Lâu nhìn đông nhìn tây, khi ánh mắt lướt qua một quán mì ở góc đường dài, ánh mắt đột nhiên lóe sáng.

**

A Bảo có một sở thích lập dị, hoặc có thể nói là, nàng thấy nó bình thường còn trong mắt người khác lại thấy lập dị.

Nàng thích ăn đồ ‘xuống nước’, chính là nội tạng súc vật, thích nhất món ruột heo và dê.

Đây là thói quen ăn uống của nàng bắt đầu từ năm mười bốn tuổi.

A Bảo vốn là người huyện Thanh Thành thuộc quân Vĩnh Khang. [1]

<i>[1] Cái từ ‘quân’</i><i> </i><i>军</i><i> </i><i>là đơn vị hành chính thời Tống TQ.</i>

Quân Vĩnh Khang phụ thuộc đường Ích Châu, nằm ở vùng Tây Nam Ba Thục. Thời Ngụy Tấn, Ngũ Hồ loạn Hoa [2], người Tấn phải chạy về phía nam, tạo ra một lượng dân lao động lớn và kỹ thuật canh tác tiên tiến, trọng tâm kinh tế dần dần dịch chuyển về phía nam.

<i>[2] 五胡乱华: Ngũ Hồ chỉ 5 tộc gồm Hung Nô, Tiên ti, Yết (Hạt), Khương và Chi (Đê) đã gây ra sự hỗn loạn vào lúc Trung Hoa đang suy yếu.</i>

Đến thời nhà Đường, loạn An sử xảy ra, Đường Minh Hoàng đóng quân ở thành đô, sự phát triển của lưu vực sông Trường Giang phát triển vượt bậc hơn cả phương bắc, trở thành vùng trọng yếu về thuế má, người thời đó còn có câu ‘Dương nhất Ích nhị’. [3]

<i>[3] 扬一益二: Dương Châu đứng đầu, Ích Châu đứng thứ hai về sự sung túc.</i>

Từ thời Ngũ Đại và sự cát cứ phiên trấn [4] thời Đường suy tàn, đất Thục phải chịu đựng nhiều cảnh chiến tranh loạn lạc, nhưng liên tục được tái thiết từ đống tro tàn. Đến khi Thái Tổ lập quốc, cử quân đến tiêu diệt hậu Thục, thu phục phương nam, qua thời Thái Tổ, trải qua hơn 40 năm nghỉ ngơi lấy sức của hai triều Thái Tổ Thái Tông, cuối cùng Tứ Xuyên mới khôi phục lại sự phồn hoa của ‘giàu tài nguyên thiên nhiên’ khi xưa.

<i>[4] Cát cứ (v)</i><i> chia cắt lãnh thổ để chiếm giữ và lập chủ quyền riêng, không phục tùng chủ quyền trung ương (theo tratu.soha)</i><i>. </i><i>Và phiên trấn để chỉ các khu vực tự trị thời cổ đại TQ.</i>

Khi đó có người viết: “Thành Đô hảo, tằm thị sấn ngao du, đêm sênh ca vang trên phố tím, ngọn đèn dầu xuân treo hồng lâu, xe ngựa tấp nập chốn Doanh Châu.” [*]

<i>[*] Đoạn này mình edit sơ lại bản cv, tạm thời chưa tìm ra trên thivien. </i>

Nhưng vì chính sự phồn hoa giàu có tấp nập đó nên thành thị Doanh Châu lại một lần nữa nghênh đón tai hoạ ập tới.

Mùa hè tháng năm vào Hữu An năm thứ ba.

Từng đàn châu chấu từ phương nam bay tới, loại côn trùng màu xanh đậm, được bá tánh dân cư gọi là côn trùng châu chấu. Đặc điểm có miệng và cánh rất cứng, thường hay ẩn nấp gặm nhấm dưới phiến lá thực vật.

Chúng nó kết thành đàn di chuyển, lúc tới che kín bầu trời, hễ đi qua chỗ nào sẽ huỷ hoại hết hoa màu chỗ đó.

Sách sử ghi chép: “Trâu ngựa không còn cỏ để ăn, dân sinh đói khát chết đầy đường.”

Đất Thục gặp phải thiên tai cực kỳ nghiêm trọng, lúc đó đã là nạn hạn hán thứ ba từ năm Hữu An đầu tiên, bốn đường Xuyên Hạp hạn hán không mưa, đất đai Thành đô như bị nhốt vào lò lửa, vừa nóng vừa ngợp. Đúng vào thời điểm gieo hạt, nông dân thường trông chờ vào đây để vượt qua năm đói kém, ai ngờ ‘hạn hán lâu tất có châu chấu’, nạn hạn hán cùng nạn châu chấu ập tới, phải gọi là khốn đốn cùng cực.

Trong lúc nhất thời, xác người chết đói rải rác khắp Xuyên Thục, đất cằn dài ngàn dặm, thậm chí còn xảy ra hiện tượng ‘con người ăn thịt lẫn nhau’.

Từ xưa đến nay, nạn đói luôn sinh lưu dân, khi nơi này không còn gì để ăn, người dân buộc phải đi kiếm nơi nào có lương tự, thường gọi là ‘kiếm ăn’.

Lúc ấy bá tánh đất Thục có hai sự lựa chọn, một là đi về phía bắc đến Quan Trung kiếm ăn, khi đó Quan Trung cũng gặp phải tình trạng tương tự. Chẳng qua Quan Trung tiếp giáp phủ Hà Nam Tây Kinh, kinh đô và vài vùng lân cận trọng đại, nên chắc chắn quan phủ sẽ không khoanh tay đứng nhìn.

Còn sự lựa chọn thứ hai, đó là thuận theo Trường Giang xuống Giang Nam kiếm ăn. Ngô Việt xưa nay sung túc, gặp thiên tai cũng nhẹ hơn so với các châu huyện khác, chẳng qua đường xá xa xôi, nếu không thể đến đó sẽ chết đói ngay trên đường.

A Bảo cùng ca ca Lý Hùng nương tựa vào nhau, Lý Hùng chọn đến Dương Châu.

Bọn họ mang theo lương thực và nồi niêu xoong chảo còn sót lại trong nhà, đi thẳng về phía đông, trên đường có vài lần gặp cướp bóc, lại trở về với hai bàn tay trắng, phải đi ăn xin dọc đường để duy trì tính mạng.

Ngay cả cây đàn tỳ bà A Bảo thương yêu nhất cũng phải bán đi, nhưng khi gần đến Động Đình, vừa vào trời đông giá rét, nước đóng thành băng, đường sá khó đi, nàng mắc phải đợt bệnh nặng, suýt bị chết do đói.

Đó là lần A Bảo xém chết trên dọc đường đi, nàng đói đến mức tứ chi teo nhỏ, cả người lại sưng vù bất thường, cái bụng sình to như cái phễu. Bởi vì dọc đường hay gặm rễ cây cỏ nên khuôn mặt nhỏ nhắn vàng như nến, hai mắt không khỏi biến đen, thân mình nhẹ bẫng như bay.

Nàng biết mình sắp chết, dù dọc đường ca ca Lý Hùng luôn chừa phần ăn lại cho nàng, nhưng vẫn cường tráng hơn nhiều, nàng cầu xin a ca đừng lo cho mình nữa, để nàng lại đây chờ chết đi.

Lý Hùng sao chịu được, kêu nàng đừng nói sảng, ôm nàng vào trong hộ nhà nông rách nát, đi khắp nơi tìm đồ bỏ bụng, khi đó đa phần nơi nào phía nam cũng gặp tai hoạ nghiêm trọng, không mười phần cũng hết chín phần.

A Bảo vừa đói vừa lạnh, mắc bệnh sốt cao, thần trí mê mang, thế nhưng vẫn mơ thấy một vị thần tiên trong bộ dạng thiếu niên lang.

Chàng vươn tay với nàng, lòng bàn tay có cầm một miếng bánh ngọt, cười mỉm chi mời nàng ăn.

“Tôi sắp chết sao?” A Bảo nghĩ thầm, “Tiên nhân đón tôi đi à?”

Mặc kệ vị thiếu niên này là ai, A Bảo đã không màng tới, miếng bánh ngọt kia dụ hoặc khiến hai mắt nàng phát sáng, nhào tới giật lấy nó, không quan tâm dồn hết vào trong miệng.

Theo lý mà nói, đồ ăn trong mơ chắc không có mùi vị gì, A Bảo lại ăn được, không phải mùi vị ngọt ngào của điểm tâm mà là một loại tanh tưởi khác.

Mỹ thực Xuyên Thục xưa nay luôn đa dạng, loại đồ ăn hôi tanh này căn bản A Bảo sẽ không cho vào miệng. Nhưng dưới cơn đói khát, A Bảo lại cảm thấy hương vị đó cực kỳ thơm ngon, ăn không chừa sót miếng nào.

Sau khi tỉnh dậy, nàng được nghe kể từ Lý Hùng, hoá ra có một ông lão chạy nạn ngang đây, thấy nàng đói sắp chết nên mới tốt bụng nấu chén mì canh cho nàng.

A Bảo ăn món mùi tanh đấy là ruột của con lừa ông lão mang theo và cũng chính ông đã mổ bụng nó ra.

Chén ruột lừa kia đã cứu mạng nàng.

Về phần thiếu niên lang trong mộng mời nàng ăn bánh nọ, A Bảo đã sớm không nhớ rõ mặt chàng nữa. Thứ duy nhất có thể nhớ chỉ có khoé môi cong hình vòng cung của chàng khi cười, trông dịu dàng lại trong sáng, như ánh trăng hoà tan giữa ao hồ đêm hè.

**

Tác giả có chuyện nói:

Lương Nguyên Kính (tay nắm cuộn chặt, hai mắt đỏ bừng): Em ấy chọc tôi tức muốn chết… Nhưng vẫn phải dỗ dành.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 22: Quán mì


“Không ngon sao?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Hả?”

A Bảo hoàn hồn, lúc này mới ý thức được mình đã ngẩn ngơ trừng mắt nhìn bát mì hồi lâu, cười nói: “Không có, tôi chỉ đang nhớ lại ít chuyện.”

Nàng lấy đũa trúc gắp một miếng bỏ vào miệng, nhất thời thích thú nheo mắt lại.

Lương Nguyên Kính gọi mì ruột dê cho nàng, quán mì này của ông lão chắc đã mở bán nhiều năm, tay nghề không tồi chút nào.

Ruột dê được sơ chế kỹ càng, vị tanh nồng không còn nữa, được cắt ra từng khúc, bơi lềnh phềnh trong nước lèo, sợi mì dai giòn, phía dưới còn có thêm ít dầu mỡ heo, hạt sen, ngó sen, củ ấu và củ năng, trên bề mặt rải chút hành lá, thơm phức nức mũi, nước miếng trực chào.

Chính là hương vị làm A Bảo nhung nhớ rất nhiều năm.

Năm xưa, lúc nàng còn ở bên Triệu Tòng, biết được nàng lại thích ăn loại đồ ăn này thì hết sức buồn cười.

Nội tạng hôi tanh, nhà nào nghèo khổ sau khi mổ heo xong đem treo thịt bán ngoài chợ, chỉ có nội tạng không nỡ bỏ mới giữ lại ăn ở nhà.

Nói cách khác, ruột phèo trong bụng súc vật chỉ có kẻ hèn mới thích ăn, nhà giàu họ chỉ lấy phần tinh hoa nhất trên thân, còn lại đến chó cũng không thèm.

Hắn dẫn dắt A Bảo dạo quanh khắp thành Đông Kinh, dẫn nàng thưởng thức rất nhiều sơn hào hải vị ở khắp nơi, dần dần A Bảo mới không còn thèm đồ ‘xuống nước’ nữa.

Đến sau này làm Hoàng hậu, cơ hội ăn nó càng hiếm hơn, bởi vì người trong hậu cung biết Hoàng hậu nương nương lại đi thích món tanh tưởi như vậy, đều ở trong tối châm biếm nàng, xuất thân con nhà nghèo.

Nội tạng ăn trong miệng toàn mùi hôi, đúng là không phải đồ mà thục nữ danh môn có thể ăn, còn có Hầu ngự sử chuyên môn vì chuyện này mà dâng sớ buộc tội.

Tuy A Bảo thấy rằng, “Ta ăn gì cũng muốn quản, chức Ngự sử của mấy người có rảnh rỗi quá không vậy”, nhưng làm Hoàng hậu một nước, là như thế ấy.

Quốc sự không phải chuyện nhỏ, hết thảy đều là đại sự, có Ngự Sử Đài chuyên ti giám sát, bất kể việc lớn nhỏ đều có thể dâng sớ buộc tội.

Triệu Tòng là vua của một nước, trong việc lập ai làm hậu còn không thể hoàn toàn làm chủ, tất nhiên A Bảo không thể thích cái gì thì ăn cái đó.

Sau này, đến cả Triệu Tòng cũng không cho nàng ăn, có lẽ hắn cảm thấy món ngon khắp thiên hạ còn rất nhiều, không ăn đồ xuống nước cũng không chết đói được. Nhưng A Bảo lại thấy, mình đường đường là Hoàng hậu mà ăn cái gì cũng bị người ta khống chế, thật sự rất uất ức.

Quả thật rất uất ức, gần nửa đời người của nàng luôn thấy bất lực như vậy không thôi.

A Bảo càng nghĩ càng tức, ai oán nhét thêm đũa mì vào miệng.

“Ăn chậm lại chút.” Lương Nguyên Kính khẽ thở dài nói.

“Sao hả? Anh cũng thấy tướng ăn của tôi rất khó coi à?”

A Bảo nhướng mày, hơi nóng bốc lên đôi mắt đang trợn tròn, Lương Nguyên Kính nghĩ thầm nếu mình dám đáp lại nàng một câu “Đúng vậy”, chắc hôm nay nàng sẽ úp chén mì này vào mặt chàng.

Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ đáp: “Không phải, sợi mì không nóng sao?”

Nói xong lại rũ mắt, nhẹ giọng nói: “Không thấy khó coi, trước kia cũng không phải chưa từng thấy qua.”

“Trước kia?” A Bảo vừa ăn vừa hỏi, “Trước kia là bao lâu? Anh nói đến lần ở chùa Tướng Quốc á?”

Ngày hôm ấy nàng cũng chưa ăn được mà, chỉ đi mua đồ, chưa mua xong đã biến lại thành quỷ hồn.

Nàng năn nỉ Lương Nguyên Kính vẽ nàng thành người, vẽ thành tiểu nữ đồng cũng chả sao, vì còn mấy miếng bánh ngọt mua về chưa kịp nếm thử, nhưng thằng nhãi Lương Nguyên Kính này lại khăng khăng không đồng ý.

A Bảo nghi ngờ tên quỷ hẹp hòi này sợ nàng tiêu hết tiền trên người chàng nên cố ý trả thù chuyện tư.

Lương Nguyên Kính lắc đầu: “Không phải hôm ấy.”

“Vậy là ngày nào?” A Bảo hỏi.

Lương Nguyên Kính chưa trả lời, ánh mắt chàng tựa như lướt qua A Bảo, xuyên qua thời gian, thấy được hồi ‘trước kia’, vào ngày đầu đông rực rỡ trong hậu uyển cấm đình chi.

**

“Cua là đồ lạnh, có tác dụng hoạt huyết lưu thông, người mang thai không thể ăn nhiều.”

Chàng đứng trước án vừa tô màu xanh đá lên bức tranh cuộn tròn, vừa lên tiếng nhắc nhở người đang ngồi trên ghế bành.

“Không sao, Triệu Tòng nói, ăn một hai con không bị gì cả.”

A Bảo đang hăng hái chén con cua to Ngô Giang tiến cống, gạch cua siêu béo, thêm rượu vàng là rượu ngon hiếm có, người đương thời có tổng cộng hai cách ăn cua, một là mở cua sống ra thêm ít muối mơ gừng cam, tưới rượu lên, rồi rửa tay để ăn, gọi là ‘cua rửa tay’. [1]

<i>[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
u30262284463254611441fm253fmtautoapp138fjpeg.webp


Cách thứ hai là ‘cua nhồi cam’ [2], cắt phần đầu quả cảm chín vàng còn nguyên cành, bỏ ruột, giữ lại ít nước, xong bỏ gạch cua, thịt cua, và gan cua cho vào quả cam, hấp cách thuỷ rượu và giấm, nêm thêm tí muối nữa là ăn.

<i>[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
5404e4bef2a2336b34f44d1fb37038e6.jpeg40wm_2t_55m5a625y3la4uos7memjniusafc_ffffffff_u2ltsgvpsz_36x_23y_23.jpeg


A Bảo thích ăn cua sống, nhưng vỏ cua rất khó lột, nàng cũng không biết xài ‘bộ tám dụng cụ ăn cua’. [3]

<i>[3] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
79a7a30330d9895792461bec007c911c.jpg


Đương nhiên làm Hoàng hậu, sẽ có thị nữ có thể lột dùm nàng.

Nhưng A Bảo không muốn nhờ vả người khác. Một là sợ mình tay chân vụng về, ăn uống gì cũng phải để người ta hầu hạ dâng đến tận miệng, hai là nhìn đôi bàn tay thon trắng của mấy thị nữ đó chậm chạp lột mà lòng như bị lửa đốt, thà tự mình gặm còn hơn.

Xưa giờ nàng ăn cua, đều tay làm hàm nhai, không chịu nhờ ai giúp đỡ.

“Ui da⎯”

Không để ý, A Bảo bị càng cua đâm trúng răng, nàng cau mày nhổ nửa cái răng vỡ ra tay, trắng bóng nhìn như hạt gạo.

“Gãy răng rồi sao? Ta xem xem.”

Không rõ từ khi nào Lương Nguyên Kính đang vẽ tranh đã đi đến bên cạnh nàng, muốn nàng há mồm ra nhìn thử.

A Bảo thầm nghĩ ngươi làm càn, nhưng nghe chàng nói xong lại theo bản năng há to miệng để chàng kiểm tra.

Lương Nguyên Kính dùng hai ngón tay nâng cằm nàng lên cao chút, nhíu mày nhình nhìn bên trong, sau đó thở phào nhẹ nhõm, buông tay ra: “Không chảy máu, chắc không có gì đáng ngại đâu.”

A Bảo lại nghĩ thầm buồn cười, ta là Hoàng hậu, ngươi dám sờ cằm của ta à.

Lương Nguyên Kính đưa mắt lia tới vỏ cua bị nàng nhai nát trên bàn, đột nhiên nói: “Nương nương, thần dạy người lột cua nhé.”

Cuối cùng A Bảo có thể nói một câu, vuốt má nóng bừng nhíu mày: “Ta đâu cần ngươi dạy.”

Ánh mắt Lương Nguyên Kính ôn hoà, dịu dàng nói: “Cắn nữa mẻ răng thì sao? Lột cua rất đơn giản, nàng lại xem.”

Nói xong liền cầm lấy bộ dụng cụ, giải thích cho nàng từng cái tên là gì, dùng như thế nào, sau đó lột ngay một con tại chỗ, từng bước làm cho nàng xem.

Từ trước đến nay A Bảo không quá kiên nhẫn, vả lại còn lòng dạ hẹp hòi. Hễ ai khác muốn dạy gì nàng, ngược lại còn bị nàng ngầm hiểu chê cười cô thô lỗ, chưa từng trải đời, đến việc ăn cua còn không hiểu.

Nếu người khác muốn chỉ nàng lột cua, nàng luôn nổi giận một trận, bọn thị nữ cũng không dám chọc nàng, vừa thấy nàng ăn cua đã trốn đi rất xa.

Lương Nguyên Kính tiến tới chỉ nàng lột cua, theo lý nàng cũng muốn nổi giận, nhưng A Bảo lại mắng không nổi.

Ngón tay của Lương Nguyên Kính rất đẹp. Lúc cầm dụng cụ bạc khéo léo càng thêm tinh tế nhã nhặn. Chàng sinh ra ở vùng Giang Nam trữ tình, ăn cua từ nhỏ tới lớn, nhắc đến những thứ này đều từ tốn giải thích, âm thanh nhu thuận êm tai, như cơn mưa phùn trải dài vào ngày xuân.

A Bảo nghe đến ngơ ngác, mới biết vì sao người nhà giàu sống xa hoa sẽ cố ý mời người về dạy lễ nghi cho con cháu trong nhà, nhất cử nhất động đều phải theo khuôn phép. Hoá ra là vì muốn bồi dưỡng ra công tử thanh tao giống như Lương Nguyên Kính đây.

“Biết chưa?” Lương Nguyên Kính hỏi ngang cắt đứt chuyến lên mây của nàng.

“Hử?” A Bảo ngơ ngơ ngẩng đầu.

Lương Nguyên Kính nhìn mặt nàng, bất đắc dĩ nói: “Lại mất tập trung?”

Gì mà ‘lại’?

Lúc nào nàng thất thần trước mặt chàng đâu chứ?

“Không có!” A Bảo trừng mắt phủ nhận, lại ra lệnh chàng, “Ngươi lặp lại lần nữa! Ngồi xuống nói!”

Lương Nguyên Kính sửng sốt, khó xử nói: “Vậy thì không hợp quy củ.”

A Bảo thầm nghĩ trước nay ngươi vẫn mất quy củ với ta, giờ mới biết à, mặt mũi mất kiên nhẫn nói: “Chẳng lẽ ngươi muốn ta ngẩng đầu nghe ngươi nói? Mỏi cổ lắm rồi, ngươi ngồi xuống nhanh cho ta!”

Lương Nguyên Kính đành phải ngồi tém sang một bên trên ghế thêu, lại một lần nữa chỉ từng bước lột cua cho nàng. Lần này A Bảo nghe rất nhập tâm, thậm chí còn bắt chước theo hành động của chàng.

“Không phải thế, muốn cắt chỗ này…”

Lương Nguyên Kính ấn tay nàng cầm cây kéo bạc, hướng dẫn nàng cắt cho chính xác. Lúc này Triệu Tòng hạ triều đi tới, hắn đến Khôn Ninh Điện không tìm thấy nàng thì đến ngự hoa uyển, vừa vặn gặp được cảnh này, nhất thời giật mình tại chỗ.

Lương Nguyên Kính lập tức buông tay A Bảo ra, đứng dậy hành lễ.

Triệu Tòng kêu chàng bình thân, cười hỏi: “Hai người đang làm gì đây vậy?”

“Y dạy em lột cua đó!”

A Bảo ném kiềm bạc đi, nhăn mặt giận hờn hắn: “Tức chết em! Hôm nay em ăn cua bị càng cua đâm rớt nửa cái răng! Sau này chàng không được cho em ăn thứ này nữa!”

Triệu Tòng khiếp sợ chạy nhanh lại, A Bảo hả miệng cho hắn xem.

Cái kia rớt là một cái răng hàm, cũng không khoa trương như nàng nói, không có gãy nửa cái, cùng lắm là bị mẻ thôi, không ảnh hưởng gì hết.

Triệu Tòng nhìn rồi cười ha ha chỉ vào nàng, cười nhạo nàng ăn cua còn để mẻ răng, có thể nói là người đầu tiên trong quốc triều mà.

A Bảo tức giận muốn chết, lấy đống vỏ cua ném trên án ném vào người hắn, trong Đông uyển, tràn ngập tiếng la mắng thánh thót của nàng cùng với tiếng cười to của Triệu Tòng.

Lương Nguyên Kính an tĩnh đứng ở một bên, không nói lời nào, dưới giàn hoa tử đằng giăng đầy, lẳng lặng tựa như một cái bóng.

**

“Thì ra anh nói tới lần đó.”

A Bảo cũng nhớ tới, ánh mắt có chút hoài niệm, cười ha ha nói: “Lúc đó, hình như tôi vẫn hay ghẹo chọc anh.”

Đâu chỉ là ghẹo chọc, là đùa dai mới đúng.

Khi đó nàng mới lên làm hậu, quan lại không ai mừng nàng, nhóm nương tử hậu cung kéo bè kéo phái, duy chỉ có Tiết Hành như Thiên Lôi sai đâu đánh đó, xấu hổ lui tới chỗ nàng.

Ngày trong cấm cung dài đằng đẵng, chán muốn chết, Triệu Tòng lại bận việc quốc chính, muốn đọc thoại bản cũng bị mắng. Nàng không tìm thấy ai để chơi chung, đành phải chơi với Lương Nguyên Kính.

A Bảo sai nhóm tiểu nha đầu lén trộn muối vào trà bưng đến, mong chờ nhìn thấy dáng vẻ bị mặn cùng vẻ mặt dữ tợn của chàng. Đáng tiếc vị Lương đại nhân này chỉ hơi nhíu mày, đặt sang một bên không uống nữa, hại A Bảo thất vọng vô cùng, cảm thấy người này không thú vị xíu nào.

Sau này Lạc Dương tiến cống mận, loại mận sinh trưởng ở phường Gia Khánh Tây Kinh, vỏ trái màu đỏ tím, chua chua ngọt ngọt, người đương thời gọi là ‘Gia Khánh tử’. Sau khi mang thai A Bảo thích ăn chua, phải nói là cực kỳ thích, mỗi khi có đồ cống nạp, Triệu Tòng đều sẽ phái người đưa tới cho nàng.

A Bảo nhàn hạ chán chường, ném Gia Khánh tử tới cho Lương Nguyên Kính, mặt mũi khôn lỏi cười nói: “Lương đại nhân, mời ngươi quả mận!”

Lương Nguyên Kính đang cúi đầu vẽ tranh, không kịp né, quả mận đỏ tươi rơi trúng mũ quan của chàng, bay xéo ra ngoài lọt vào bụi cỏ.

Lương Nguyên Kính cũng không giận, chỉ yên lặng nhặt mũ quan rớt xuống, vỗ vỗ cọng cỏ bụi bẩn trên đó, sau đó đội lại lên đầu.

Nhưng dường như A Bảo lại tìm ra điểm vui trong đó, quả mận liền như mưa sao băng liên tiếp đáp tới chỗ chàng.

Lương Nguyên Kính né qua né lại, đối phó đến luống cuống tay chân.

Bỗng nhiên có một quả không trúng, trùng hợp sao đập vào nghiên mực trên bàn, nước mực b*n r*, làm dơ quan bào màu đỏ của chàng, có vài giọt thì bắn lên trên gò má trắng nõn.

A Bảo sửng sốt ngạc nhiên, xong lại phì cười, vỗ bàn cười lớn tiếng, suýt chút ngã xuống cái ghế bành gỗ vàng.

Lương Nguyên Kính đoan chính tự kiềm chế, chưa từng phải chật vật như bây giờ, cả người toàn là mực, chàng ngơ ngẩn đứng tại chỗ, nhìn A Bảo đang hết sức vui sướng, âm thầm buông tiếng thở dài.

**

Nhớ lại chuyện cũ năm xưa, A Bảo thấy buồn cười thật, nhưng lại thêm chút ngượng ngùng.

Xem ra hiện tại, nàng của trước kia cũng nhàm chán quá đi mất, ngoài pha muối vào trà, chọi mận vào người ra. Còn cố tình không ban ghế cho chàng, khiến chàng chỉ có thể gập eo vẽ tranh, hình như nàng từng làm thêm nhiều chuyện quá đáng hơn.

Nàng cố ‘chỉnh’ Lương Nguyên Kính cỡ đó, thế mà chàng cũng chưa từng nóng giận, tính tình của người này rốt cuộc tốt đến cỡ nào nữa vậy.

Bỗng nhiên A Bảo thấy tò mò, chân phải đá đá cẳng chân của Lương Nguyên Kính dưới bàn gỗ nhỏ.

“Nè, nói thật đi, trước kia anh cũng từng thấy rất ghét tôi phải không?”

“Không ghét.” Lương Nguyên Kính nói.

A Bảo ‘chậc’ bất mãn nói lại: “Anh khai thật đi, yên tâm, nương nương thứ tội cho.”

Lương Nguyên Kính cong môi cười: “Không ghét thật, cùng lắm… Chỉ thấy bất đắc dĩ vài phần thôi.”

A Bảo thầm nghĩ tính tình tốt quá đi mất, đúng thực là không biết giận, đến đó rồi mà chỉ thấy bất đắc dĩ, ngoài miệng làm bộ không tin nói: “Thật á? Vậy sao anh hay thở dài?”

“Thở dài?” Giọng điệu Lương Nguyên Kính hơi cao mang theo nghi hoặc.

“Đúng vậy,” A Bảo gợi lại hồi ức giúp chàng, “Chính lúc tôi chọi mận vào người anh đó, bất cẩn va vào nghiên mực, mực bắn trúng mặt anh… Anh nhìn gì? Thật sự là tôi không cẩn thận! Anh không tin à?”

Lương Nguyên Kính nói nhanh: “Không phải không tin.”

A Bảo gật gù xong mới tiếp tục: “Sau đó tôi cười, không trách tôi được, dáng vẻ khi đó của anh thật sự rất mắc cười, nhìn thấy là phì cười ngay, sau đó⎯ hứ, anh nhìn tôi, than thân thở một hơi dài, giống vậy nè, ầyyy⎯⎯”

Nàng thả đũa xuống, đứng dậy tay chắp sau lưng bắt chước than ngắn thở dài giống chàng, trông rất sống động.

Lương Nguyên Kính bật cười: “Cũng không thở dài đến mức đó.”

“Có mà!”

A Bảo ngồi xuống tức giận trừng mắt liếc chàng: “Anh nói đi, vì sao anh hay thở dài, có phải chê tôi phiền không?”

Trong đầu Lương Nguyên Kính nghiêm túc hồi tưởng lại một phen, nói: “Không có, chỉ là ngày ấy nước mực văng trúng, làm bẩn bức tranh vừa vẽ xong, trong lòng thấy tiếc nuối nên mới buông tiếng thở dài.”

Trong lòng A Bảo còn nghi hoặc, không phải chàng không thích vẽ tranh cho nàng sao. Mỗi lần vào cung đều mang dáng vẻ không tình nguyện, vậy mà còn thấy tiếc nuối nữa chứ.

Nói tới đây liền có vấn đề không thể không hỏi.

Lúc trước A Bảo không dám, cảm thấy có hỏi cũng tự rước lấy nhục, cần gì phải vậy kẻo phá hỏng mối quan hệ vừa hàn gắn lại giữa mình và Lương Nguyên Kính. Nhưng đáp án của vấn đề này, nàng thực sự rất muốn biết.

Tạm thời nàng cho rằng bản thân có thể hỏi.

“Lúc trước,” A Bảo hỏi thật cẩn thận, “Vì sao anh không chịu vẽ tranh cho tôi?”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 23: Tâm nguyện


Phố dài ngựa xe như nước, tiếng rao hàng kêu thánh thót chưa ngưng.

Câu hỏi A Bảo theo hơi gió bay vào tai của Lương Nguyên Kính làm chàng bỗng ngẩn ra.

Chàng nhìn A Bảo, hôm nay chàng vẽ nàng thành thiếu nữ trẻ tuổi, đầu chải tóc song hoàn [1], mặt mũi tương tự bảy phần so với quá khứ, mặc bộ áo vàng nhạt. Thái độ ngây thơ hồn nhiên, giống như chim hoàng oanh vừa thoát khỏi hố sâu.

<i>[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
20200617101312_185749.jpg


Lương Nguyên Kính rũ mắt: “Bởi vì tôi bị bệnh.”

A Bảo khinh thường: “Lý do này anh cầm đi lừa người khác thì thôi đi, giờ vẫn xài để lừa tôi. Lương Nguyên Kính, anh không coi tôi là bạn à?”

“Không lừa em,” Lương Nguyên Kính giải thích, “Năm ấy tôi mới tới thành Đông Kinh chưa bao lâu, không thích ứng với khí hậu ở đó. Ban đêm nhiễm lạnh, bệnh phổi cũ tái phát, ngày nào cũng ho khan liên tục, thật sự là bất lực nhận lệnh.”

Phổi của chàng không khoẻ A Bảo cũng biết, không chỉ không chịu nổi giá rét, mỗi lần thời tiết thay đổi đều sẽ sinh bệnh.

Dư lão thường xuyên đến hiệu thuốc lấy ít dược liệu như xuyên bối mẫu, la hán quả, tỳ bà diệp, nấu cùng lê tuyết cắt thành miếng, sắc thành nước cho chàng trị bệnh ho. [2]

<i>[2] Hình ảnh minh hoạ (Nguồn: Baidu)</i>
5516dace8451c8eb2644366d332f4271.jpg40h_1280.jpeg


fa998d2d4eeb590dbf815861fdb11451.jpeg


Năm đó chàng kháng chỉ, lấy lý do ‘bất ngờ cảm phong hàn, thân thể không được khoẻ’, ai nấy đều cho đó là giả, là bất mãn với tân hậu mới bịa cớ. Ngay cả A Bảo cũng cho rằng là vậy, ai ngờ chàng bị bệnh thật!

A Bảo vừa rầu rĩ bệnh phổi này của Lương Nguyên Kính làm sao cho tốt lên, có cách nào trị tận gốc không, vừa nghĩ lại, không đúng nha, chàng mắc bệnh nên kháng chỉ, rốt cuộc là muốn sống hay không muốn sống đây?

Nàng cạn lời nhìn Lương Nguyên Kính, nói: “Anh nghĩ tôi tốt tính à, nếu năm đó tôi nổi cơn thịnh nộ muốn lấy đầu của anh thì sao?”

Đương nhiên cũng không có khả năng.

Đừng nói Triệu Tòng sẽ không cho phép, mấy nhóm quan đài gián đó cũng không dễ đối phó. Đại Trần lấy nhân hiếu trị quốc, từ lúc lập triều tới nay chưa có thần tử nào chết dưới tay đao phủ, nghiêm trọng lắm cũng chỉ xăm chữ lên mặt rồi lưu đày. Nếu nàng phá vỡ tiền lệ này, cho dù là một Hàn lâm Đãi chiếu nhỏ bé thôi, cũng coi như ‘gậy ông đập lưng ông’.

Lương Nguyên Kính hơi thở dài nói: “Thật ra, năm đó tôi cũng cảm thấy không nên kháng chỉ. Nhưng học chính lại cật lực khuyên tôi dưỡng bệnh trước, kim thượng thương người, săn sóc nhân thần, sẽ không giận cá chém thớt lên người tôi. Nếu tôi gắng gượng cơ thể bệnh thật phụng chỉ vào cung, vừa vẽ tranh không đẹp, ngược lại khiến người ta nói kim thượng khắt khe với thần tử.”

“……” A Bảo nghi hoặc, “Cấp trên lừa anh, đúng không?”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Đúng vậy, giờ tôi nghĩ lại mới biết.”

A Bảo: “………………”

Giờ mới biết cái rắm! Chờ đến mòn cả mắt luôn rồi!!

Cuối cùng cũng phá án xong!

Hoá ra năm đó chàng kháng chỉ, từ chối vẽ tranh cho nàng, căn bản không phải như lời đồn chán ghét nàng, mà là bị cấp trên giật dây.

Vị cấp trên này cũng gian xảo ghê, kim thượng thương người?

Cũng đúng, kim thượng đúng rất thương người, nhưng A Bảo nàng lòng dạ hẹp hòi, nàng rất mang thù.

Năm xưa bởi vì việc này mà nàng biến thành trò cười từ đầu đường xuống cuối ngõ. Còn Lương Nguyên Kính lại được người đương thời tán thưởng ‘Ngay thẳng chính trực, không sợ quyền thế’, ‘Có bản lĩnh’, người ở thành Đông Kinh tuyên dương chiến tích của chàng, làm sao nàng có thể không tức giận chứ?

Cho nên sau này nàng luôn năm lần bảy lượt chọc ghẹo chàng, trả thù chàng, kết quả chỉ là hiểu lầm mà thôi!

“Nực cười!”

A Bảo trong cơn giận dữ đập bàn đứng lên: “Vị cấp trên kia của anh là ai vậy? Tên gì? Là cái ông già râu dài họ Tần phải không? Tôi muốn đánh ông ta đến mức con cháu nhận không ra!”

Người đi đường xôn xao nhìn ngó nàng, Lương Nguyên Kính vội vàng kéo nàng ngồi xuống, rót thêm chén trà giúp nàng hạ hoả: “Ông ấy về quê dưỡng già lâu rồi, không phải Tần Học chính, em nhất định đừng đánh người ta!”

A Bảo uống ngụm trà sau đó đập chén trà lên bàn thật mạnh, cả giận: “Anh cũng dễ bị chơi quá đi, ai cũng có thể gạt anh, hừ! Nếu không phải tôi tốt tính, sao anh có thể sống tới hôm nay chứ?”

Lương Nguyên Kính nghe vậy cười cong cả mắt: “Phải, là nhờ em tốt tính.”

Thiếu chút lăn lộn tới chết, nhưng thật sự ‘tốt tính’ mà.

Mặt trời chiều ngả về tây, Lương Nguyên Kính đứng dậy tính tiền, hai người đi về nhà.

Lúc này A Bảo đã về lại thành linh hồn, nằm trên lưng con lừa, bắt chéo khua khua chân ngắm bầu trời.

Mây tía giăng đầy trời, xung quanh đều có người trên đường về nhà, ra khỏi thành, hai bên núi cao xanh, xa xa có thể trông thấy khói bếp lượn lờ bay lên từ thôn trang.

A Bảo ngâm nga bài ca dao nào đó, chợt nghe Lương Nguyên Kính hỏi: “A Bảo, em có tâm nguyện không?”

“Có chớ,” A Bảo nói, “Xông vào đại nội, giết sạch cả Triệu Tòng và đám nữ nhân của hắn, châm lửa đốt hoàng cung. Sau đó buộc râu của mấy gián quan Ngự Sử Đài, treo lên hành lang Trung Thư tỉnh [3] hong khô ba tháng.”

<i>[3] Cơ quan hành chính chịu trách nhiệm soạn thảo và ban hình chiếu chỉ của hoàng đế.</i>

“……”

Lương Nguyên Kính dừng bước, bất đắc dĩ nhìn nàng: “Đừng nói bậy.”

A Bảo cười, nàng nói giỡn thôi mà.

“Anh tin lời Giác Minh hoà thượng nói, muốn tôi thực hiện tâm nguyện lúc còn sống để tôi được đi đầu thai đúng không?” Nàng ngồi dậy hỏi.

Lương Nguyên Kính gật gật đầu.

A Bảo mím môi mấy lần, vốn định nói, như bây giờ không tốt sao? Nhưng mà lời này không nên hỏi ra miệng, một khi đã hỏi sẽ thật sự trở nên chấp niệm thế gian.

Còn nữa, Lương Nguyên Kính chàng đang sống yên ổn, dựa vào đâu phải ở cùng một quỷ hồn như nàng?

Hiện tại chàng cũng sắp thành người điên trong mắt kẻ khác rồi. Mỗi ngày cứ lầm bà lầm bầm, Dư lão luôn sốt ruột lắng lo nhìn chàng, sợ chàng bị bệnh gì đó khó trị.

Không thể vậy được, Lương Nguyên Kính cần phải có cuộc sống riêng cho mình, mai mốt còn phải cưới vợ, sinh con đẻ cái. Giống như người bình thường yên bĩnh sống hết quãng đời, nói không chừng còn may mắn hơn cưới được người chàng thầm thích.

Mà nàng, thì phải rời đi.

A Bảo cúi đầu, rõ làm quỷ hồn không có nước mắt, nhưng không biết thế nào lại luôn có cảm nhận nước mắt muốn tràn mi rơi xuống.

Nàng khẽ mỉm cười nói: “Tâm nguyện à, không biết nữa, chắc là ăn một chén mì ruột dê, đó là tâm nguyện chưa làm xong của tôi.”

Phía chân trời có chim bay về tổ, vỗ vỗ cánh bay vào trong núi rừng.

Lương Nguyên Kính muốn nói lại thôi, liếc mắt nhìn nàng một cái, không nói gì.

**

Màn đêm buông xuống, đến trước khi vào giấc A Bảo mới nhớ ra một chuyện: “Đúng rồi, nghe Dư lão nói, anh là người Dương Châu à?”

Lương Nguyên Kính khựng hành động cởi áo ngoài sau bình phong lại, đáp: “Ừm, người Giang Đô Dương Châu.”

“Tôi cũng là người Dương Châu đó,” A Bảo vui mừng nói, “Một nửa là người Dương Châu, nè, anh biết Minh Thuý phường không?”

“Biết.”

A Bảo thầm nghĩ đến cả đệ nhất kỹ quán Dương Châu anh cũng biết, ngày thường chắc không ít lần vẽ chân dung có các nương tử nổi tiếng.

Vừa nghĩ, năm đó mình cũng được coi có chút danh tiếng, sao chưa gặp qua Lương Nguyên Kính lần sao nhỉ?

Nàng mang theo tâm lý thích khoe khoang, nói với Lương Nguyên Kính: “Kể cho anh nghe, năm đó tôi là người đứng đầu trong số nương tử của Minh Thuý phường đó. ‘Ngũ Lăng thiếu niên tranh giành quấn quýt’ [4], cảnh tượng đó không phải tôi tự bịa đâu, ngoài tôi ra cũng không ai làm được. Ngay cả Đại nhân Tri châu còn muốn mời tôi về phủ đàn tỳ bà, tôi cũng cần suy xét thêm chút nữa đấy.”

<i>[4] Ý được các thiếu niên con nhà giàu thích, săn đón.</i>

Năm xưa, A Bảo cùng anh trai Lý Hùng chạy trốn về phía đông, anh em hai người không biết nếm bao nhiêu đau khổ, vất vả lắm mới tới được Dương Châu.

Lúc đó phủ Dương Châu đuợc mệnh danh là ‘danh đô phía bắc Hoài’, trực thuộc đông lộ Hoài Nam, quản lý năm huyện: Giang Đô, Quảng Lăng, Thiên Trường, Thái Hưng, Cao Bưu cùng với Lưỡng Chiết, phía đông Giang Nam cũng được gọi là ba đường giàu có nhất thiên hạ. Hơn phân nửa thuế má của quốc triều đều từ đó mà ra, có thể nói là nơi thương nhiên phát đạt, tàu xe ngày đêm không ngơi, người đương thời miêu tả ‘dưới hoàng hôn muôn thuyền thương nối đuôi nhau, thành phố ngấm gió xuân rượu cũng đầy lò’.

Tuy nhiên, sống ở Ngô Trung không hề dễ dàng. Dương Châu gặp tai hoạ chịu thiệt ít hơn nên có rất nhiều người dân chạy nạn mãnh liệt tiến vào, giá hàng trong thành tăng cao, lương quế hạt gạo, người chết đói rét rã rời.

Lý Hùng vốn là thợ bạc, dựa vào tay nghề chế tạo trâm cài trang sức cho nhà giàu, nhưng vào thời gian loạn lạc, người người đều giãy giụa vì cơm no áo ấm, làm gì dư dả mà đi chế bạc.

Hơn nữa mới tới Dương Châu, lạ nước lạ cái, không có nguồn khách cố định, uổng cho tay nghề của Lý Hùng, hết cách nuôi sống mình lẫn A Bảo, cùng đường lắm chỉ có thể bán A Bảo vào Minh Thuý phường.

Nói là ‘bán’ nhưng lại giúp A Bảo sống sót.

Thành Dương Châu tuy nhiều nhà phá sản, dân đói rải rác khắp nơi, nhưng quý nhân nhà quan vẫn thường hay lui tới, nên hưởng thụ cái gì thì hưởng.

Hai bên con sông nhỏ Tần Hoài, toàn là hoa lâu quán rượu, đàn sáo sênh ca liên tục rót vào tai, trên mặt sống, thuyền hoa san sát nhau, xa hoa truỵ lạc cả đêm không nghỉ.

Minh Thuý phường là kỹ quán có tiếng tăm vang dội nhất Dương Châu. Nổi nhất là Thôi Tiểu Ngọc, diện mạo quyến rũ, giỏi văn thơ kéo thi hoạ, được khen ngợi ‘Xinh đẹp tài giỏi’, khiến cho tài tử tám phương tranh nhau tìm gặp.

Sau khi A Bảo bị bán vào Minh Thuý phường, bị cử đến hầu hạ bên cạnh vị Thôi nương tử.

Nàng không bán thân, bởi vì chiếu theo luật pháp Đại Trần, ca kỹ thuộc vào tiện tịch, địa vị xã hội thấp hơn người ta một bậc.

Đây là do Lý Hùng chừa cho nàng con đường lui, mỗi ngày anh đều ra bến tàu phụ khuân vác, chờ có đủ tiền rồi sẽ chuộc A Bảo ra, đón cô ra sống cho đàng hoàng.

Một năm đó, A Bảo vừa mới mười lăm tuổi, đúng vào những năm tháng ngây thơ hồn nhiên.

Suốt ngày chạy xuôi chạy ngược ở Minh Thuý phường cũng không thấy mệt, Thôi nương tử thường hay véo nhẹ mũi nàng, ‘Giống cún con quá’.

Ma ma trong lâu thích nàng, nhóm nương tử thích nàng. Ngay cả đầu bếp nhóm lửa nấu cơm cũng thích nàng, biết nàng thích ăn giò ninh tương, cố ý giữ lại một cái, chờ đến đêm sẽ cho nàng ăn bữa khuya.

Ngày nào a ca cũng xuống bến tàu làm việc, cũng sẽ mang theo chút điểm tâm ngọt tới thăm nàng, bảo nàng đừng quậy quọ kẻo chọc giận Thôi nương tử, phải ngoan ngoãn nghe lời ma ma.

A Bảo vừa ngồm ngoàm điểm tâm vừa ‘dạ’ cho có lệ. Trong lòng lại nghĩ, Thôi nương tử sẽ không giận nàng đâu, Thôi nương tử thích nàng nhất.

Năm đầu ở Dương Châu trôi qua như vậy.

Đông đi xuân tới, dân đói trong thành ngày càng ít đi, gần Hồ Tây Gầy xuất hiện thêm nhiều cặp giai nhân tài tử đi chơi chung, 24 cây cầu tấp nập du khách.

A Bảo sang năm mười sáu tuổi, người dần nảy nở, đầu cũng cao hơn, không còn là bộ dáng trẻ con như lúc trước nữa.

Nàng trở thành một viên ngọc thô chưa được mài giũa, bắt đầu tỏa ra hào quang chói mắt, bầu bạn dự tiệc chơi xuân cùng Thôi nương tử, càng thu hút thêm nhiều ánh mắt ngạc nhiên dừng trên người nàng.

Thường có người chỉ vào nàng hỏi: “Tiểu nương tử ôm đàn tranh bên cạnh Thôi nương tử là ai vậy?”

Ma ma khôn khéo của Minh Thuý phường đã nhìn ra cơ hội kinh doanh mới, bắt đầu đào tạo A Bảo chơi nhạc.

‘Minh Thuý phường’ ⎯⎯ từ câu thơ của Đỗ Phủ, “Hai cái oanh vàng chuyền liễu biếc, Một đàn cò trắng vạch trời xanh”, vốn dĩ đã nổi danh khắp Dương Châu về nghệ thuật âm nhạc.

<i>*Trích từ bài Tuyệt cú bốn bài kỳ 3 – Đỗ phủ và bản dịch của Nhượng Tống, thivien.net.</i>

Phần lớn các nương tử trong lâu đều thông hiểu nhạc nghệ, ít nhất biết chơi một hai món nhạc cụ. Như Thôi Tiểu Ngọc chơi đàn tranh, nhưng cầm nghệ của nàng ấy cũng không phải đặc biệt xuất sắc, bù qua sớt lại với tài nghệ thi hoạ của mình mà thôi.

Ma ma thường ngầm hận dưới tay mình không dạy ra vị nương tử nào có nhạc nghệ nổi tiếng vang thiên hạ, khiến cho Minh Thuý phường mấy năm này dần dần suy thoái, cạnh tranh không lại mấy cái kỹ quán mới mở bên bờ sông nhỏ Tần Hoài, chính chắn đường hoàng mở ngay bên cạnh.

A Bảo vốn tinh thông âm luật, nàng từ năm ba tuổi đã đi theo vị nữ nghệ sĩ đất Thục học tỳ bà.

Lúc còn ở quê, nàng thường hay ôm tỳ bà lên phố bán nghệ, ca ca Lý Hùng ở sạp bên cạnh gõ đồ bạc, vừa trông nom nàng tránh bị mấy tên lưu manh đầu đường làm phiền.

Sau mười năm mài giữa, tài nghệ tỳ bà của A Bảo đã đạt đến trình độ cao thâm. Ngay cả sư phụ già ma ma phái tới nghe nàng đàn một khúc tỳ bà xong cũng nói mình không còn chỗ nào để dạy nữa.

Ma ma vui mừng khôn xiết, kêu Thôi nương tử mang nàng tham gia yến hội của mấy quý nhân quan lớn, lúc Thôi nương tử ngâm thơ, nàng sẽ phụ đàn trợ hứng.

Sau quãng thời gian đó, A Bảo càng lúc càng nổi tiếng, người nào cũng biết tỳ bà nữ ở Minh Thuý phường. Cầm kỹ cao siêu, nhan sắc khuynh thành, kể cả vị Thôi nương tử ‘xinh đẹp tài giỏi’ còn không bằng.

Từ đó về sau, khách nhân hâm mộ danh tiếng của A Bảo đến nghe đàn tỳ bà nhiều đột biến.

Nhưng dịp thật sự khiến A Bảo thành danh là vào vạn hoa yến tại phủ Thái thú Dương Châu.

**

Tác giả có chuyện nói:

Tôi giải thích một chút về chuyện Lương Nguyên Kính từ chối vẽ tranh cho tân hậu.

Nói cách khác, bạn là tay mơ mới nhậm chức, thứ hai phải tổ chức đại hội nhân viên, nhưng trùng hợp bạn bị bệnh, đồng nghiệp khuyên bạn nghỉ ngơi, dù sao ông chủ cũng là người tốt sẽ không so đo đâu, bạn cũng bệnh mệt không dậy nổi nên xin nghỉ ngay.

Không ngờ kết quả là, ông chủ không so đo, phó tổng lại tức giận, bởi vì anh ta là ‘con ông cháu cha’, vốn đã bị người ta nói ‘nhờ vào quan hệ’ nên trong lòng đã ngấm tức, tiệc nhân viên quan trọng sao bạn không tới? Được rồi, vậy chịu trận dài dài đi.

Lương Nguyên Kính cái người này, bạn nói chàng ngốc tôi không đồng tình, chỉ có thể nói chàng tâm tư đơn thuần trong sáng, không hiểu chốn quan trường vòng vo đó, cho nên dễ bị người ta hố.

Mặc khác, trước khi chàng tiến cung cũng không biết Hoàng hậu là A Bảo, đừng quên, A Bảo lấy tên ‘Lý Uyển’ để vào cung.

Cho nên mới phải cảm thán một câu: Thế gian chưa bao giờ thôi chuyện trời xui đất khiến, bình thường mà hen.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 24: Tỳ bà


Hữu An năm thứ năm, vào mùa hoa nở.

Tri Châu Lý Kỳ mở cửa Phan Viên tổ chức Hội Vạn hoa.

Tọa lạc Phan Viên ở ven sông Hồ Tây Gầy, vốn là dinh thự riêng của một thương nhân buôn muối Dương Châu, Lý Kỳ ưa thích cảnh sắc hữu tình, có người mua tặng riêng cho ông làm sân vườn tại nhà.

Phan Viên được xây dựng bởi rất nhiều nghệ nhân lành nghề, trong vườn trồng khóm trúc xanh khắp nơi, núi giả đá hồ san sát nhau, tạo nên khung cảnh vô cùng mới lạ, cộng thêm những lầu các đình đài đặt ở giữa, có thể nói là cảnh vật thay đổi theo từng bước chân, mỗi bước đi đều ẩn chứa mỗi nét đẹp khác nhau.

Hơn nữa, Phan Viên còn ở gần cảnh đẹp Hồ Tây Gầy, đứng trên lầu các ngắm nhìn từ xa, có thể nhìn thấy Tiểu Kim Sơn trên hồ, đợi tới mùa đông trời rơi đầy tuyết, hoa mai trên núi sẽ nở, du khách sôi nổi tới đây đạp tuyết tìm mai, người đương thời gọi đó là ‘Đệ nhất viên Dương Châu’.

Cái gọi là ‘Hội Vạn Hoa’, thực chất chỉ để ngắm một loài hoa, là hoa thược dược.

Lúc bấy giờ, hoa thược dược Dương Châu vang danh thiên hạ, sánh với mẫu đơn Lạc Dương và hải đường Thành Đô, đều là những loài hoa quý giá.

Lý Kỳ tổ chức tiệc ngắm hoa, các nhà vườn và nông dân trồng hoa tranh nhau đưa lên những bông hoa thược dược quý hiếm do nhà trồng, bình dân bá tánh cũng có thể vào vườn ngắm nghía, vì thế ngày ấy người người chen chúc vào Phan Viên, ước chừng có thể chứa đâu đó mấy ngàn người.

Thôi nương tử là danh kỹ nổi tiếng, trước giờ thường hay giao du với nhà vườn, tất nhiên cũng đồng ý lời mời đến đó.

Không may là hôm đó nàng ấy bị bệnh, cổ họng mất giọng, không thể lên sân khấu biểu diễn, nhưng phần lớn khách khứa Lý Kỳ mời mọc tới là vì hâm mộ mỹ danh Thôi nương tử, nếu tự ý đổi người e là sẽ hỏng việc.

Rơi vào ngõ cụt, Thôi nương tử đành nhờ A Bảo thay nàng ấy lên sân khấu, còn mình sẽ ngồi một bên gõ phách đệm nhạc cho nàng.

A Bảo mới mười sáu tuổi, nghé con mới sinh không sợ cọp, Thôi nương tử nói diễn xong rồi sẽ bao nàng ăn bánh đậu ve, nàng lập tức ôm đàn tỳ bà lên sân khấu.

Đôi tay trắng mơn vừa gảy, dây đàn tỳ bà vang lên, thấu tận trời xanh.

Thoáng chốc mãn đường yên tĩnh.

A Bảo rũ đôi mắt sáng, vừa đàn vừa hát:

“Tuổi trẻ khí phách anh hùng, bao năm kết bạn hào kiệt tứ phương. To gan dạ cứng tóc dựng. Vào sinh ra tử một lời khó phai.” <i>(editor bày đặt mỗi đoạn này)</i>

Tay phải gảy nhanh lên dây đàn, như nước chảy mây trôi, như mưa trên lá chuối.

“Anh hào, uy dũng, ngang tàng, Sênh sang võng lọng, vẻ vang ai bằng. Thành Đông cương ngựa thẳng băng. Say bên quán rượu, biết chăng xuân nồng. Chum vò, cóng quý sạch không. Uống như nước biển, như rồng cuốn mây. Hô chim gọi khuyển một bầy. Lấy lông chim trắng gắn đầy tên cung. Thú vui săn bắn lạ lùng.” <i>(bản dịch của Chi Nguyen, thivien.net)</i>

Nửa khúc hát vừa dứt, nhẹ nhàng gảy chậm rãi, tiếng đàn trầm buồn, khí thế anh hùng bỗng chốc lắng đọng, như khóc than như trút bầu tâm sự.

A Bảo thuận tay xoa dây cung, khẽ hát than: “Hang sâu thú hiểm, tận cùng tìm ra. Chẳng màng giấc mộng phù hoa. Cung son bỏ ngỏ, la cà cùng trăng. Buồm mây bạt gió băng băng. Bao nhiêu quan bổng, đãi đằng bằng không. Như chim tháo cũi sổ lồng. Tùng thư sách quý hàng chồng bỏ qua. Như mây hội tụ được đà. Cung cách thô vụng, khó mà thành công. Tù và đánh động thinh không. Ngư Dương bến nước, già trông đau lòng. Kỷ cương trói buộc không xong. Nhác trông lưỡi kiếm, còn hòng gió Tây.” <i>(bản dịch của Chi Nguyen, thivien.net)</i>

Đợi hát đến câu “Giận rong chơi non nước, Tay gảy phím tơ đồng, Mắt ngóng chim hồng.”, nàng lướt qua dây đàn một lượt, như tiếng tơ xé, tiếng đàn đột nhiên im bặt, dư âm còn chưa dứt. [1]

<i>[1] Trích từ Lục châu ca đầu – Hạ Chú và bản dịch của Chi Nguyen, nguồn thivien.net.</i>

A Bảo thu dọn, ôm tỳ bà đứng dậy kéo áo hành lễ.

Dưới đài không ai phát ra tiếng động nào, toàn trợn mắt há hốc mồm, như tâm trí còn ôm mộng, đợi đến khi có phản ứng thì nàng đã như không việc gì đi xuống, tìm Thôi nương tử bao bánh đậu ve. [2]

<i>[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)</i>
29381f30e924b899a90180d2595e0a950a7b0308589a.webp


**

Trên Yên Vũ Lâu của Phan Viên, một khúc ⟪lục châu ca đầu⟫ của A Bảo nổi tiếng khắp Dương Châu.

Từ trên xuống dưới Minh Thuý phường ai ai cũng sủng nàng, ma ma càng cưng nàng y như bảo bối, cũng cố gắng khuyên nàng nên sửa nhạc tịch, bày ra đủ loại điểm tốt trong đó.

Tỷ như sửa thành nhạc tịch rồi, sẽ có thêm nhiều quý nhân quan lớn mời nàng dự tiệc du ngoạn, còn được tặng quà nữa, nàng có thể kiếm được số tiền mà người bình thường cả đời không kiếm nổi.

A Bảo không có khái niệm về tiền, nàng sinh ra chỉ biết ăn, ma ma liền thay đổi cách nói, nếu nàng chịu sửa nhạc tịch, có thể ăn bánh ngọt suốt đời.

A Bảo nghe xong mới có chút động tâm, nhưng Lý Hùng lại nhất quyết không đồng ý.

“Người khác toàn tìm mọi cách, mọi biện pháp để sửa lên dân tịch, em thì ngược lại! Dân tịch trong sạch thì muốn đổi thành nhạc tịch! Em biết nhạc tịch là cái gì không? Là tiện dân! Nếu em sửa lại thành nhạc tịch, về sau không thể gả vào nhà trong sạch làm vợ được, chỉ có thể làm thiếp!”

“Không phải em muốn gả cho anh sao?” A Bảo nháy mắt nói, “Chỉ cần a ca không cưới vợ, vậy em làm thê hay thiếp cũng như nhau.”

Nàng là đứa trẻ bị vứt bỏ, được cha mẹ Lý Hùng nhặt về, xem như con dâu nuôi từ bé, từ nhỏ A Bảo đã biết lớn lên mình sẽ gả cho a ca làm vợ.

Lý Hùng bị nàng bẻ ngược, trừng mắt nói: “Dù sao em cũng không được sửa thành nhạc tịch!”

A Bảo còn chưa từ bỏ ý định: “Nhưng mà ma ma nói, sửa thành nhạc tịch có thể ăn bánh ngọt suốt đời đó.”

“……”

Lý Hùng bị nàng chọc tức đến đau xương, đẩy cái đầu nàng mắng: “Ăn ăn ăn! Chỉ biết ăn! Ngày đó bị bán đi còn đếm tiền dùm người ta mất!”

“A! A ca đừng đánh mà!”

A Bảo vắt giò lên cổ mà chạy, sau đó lại dừng bước reo leo: “Anh bán em à, bán lấy tiền mua kẹo vừng cho em ăn…”

“Em⎯⎯”

Lý Hùng tức giận vén tay áo muốn đánh nàng, A Bảo lại hét lên nhảy loạn trong nhà, đầu gối anh bị bệnh phong thấp không đuổi kịp nàng, đành thở dài thật mạnh, nghi ngờ một ngày nào đó sẽ bị cái đồ không có mắt này chọc cho tức chết.

Khi đó mặc dù anh đã trở về nghề cũ làm thợ bạc, nhờ có Minh Thuý phường chiếu cố, làm ăn cũng không tệ lắm, nhưng bởi vì mùa đông khắc nghiệt giúp việc ở bến tàu, mỗi khi dỡ hàng hai chân phải ngâm trong nước sông lạnh băng, cứ thế mắc phải căn bệnh phong thấp nặng.

Bởi vì muốn tiết kiệm tiền chuộc A Bảo ra, mua một căn nhà không lớn không nhỏ ở lại thành Dương Châu, không tính bỏ tiền tìm đại phu trị bệnh tận gốc, chỉ qua loa dán thuốc cho xong, dẫn đến bệnh chứng ngày càng nghiêm trọng, mỗi lần đến trời thu gió mát, đầu gối sẽ sưng u một cục, đau đến chết đi sống lại.

A Bảo luyến tiếc a ca chịu khổ, nghĩ nếu mình làm ca kỹ, vừa có tiền ăn bánh cả đời, vừa có thể dẫn a ca đến y quán trị bệnh ở chân, nói không chừng còn mua được nhà, được cả ba trong một, cớ gì không làm nữa?

Đến nỗi a ca nói sửa nhạc tịch về sau chỉ được làm thiếp, không thể làm thê gì gì đó thì liên quan gì đâu?

Ngày nàng lập gia đình còn rất xa, hơn nữa, dù sao a ca cũng sẽ không rời bỏ nàng mà.

Vì thế nàng vụng trộm gạt Lý Hùng, đi theo ma ma đến quan phủ sửa thành nhạc tịch, Lý Hùng biết được tất nhiên nổi trận lôi đình, gào thét kêu muốn đánh gãy chân nàng, nhưng không ngờ còn có thêm một người nữa tỏ vẻ không tán thành quyết định này của nàng.

“A Bảo ngốc à, em sửa thành nhạc tịch rồi, làm ca kỹ, ngày sau nếu gặp được người mình thích phải làm sao đây, em muốn làm thiếp của người ta à?”

Thôi nương tử dùng ánh mắt thương hại nhìn nàng.

“Không sao ạ,” A Bảo hồn nhiên không thèm để ý, “A ca sẽ cưới em.”

Thôi nương tử xì cười: “Chị nói thích, là người em sẽ thích trong tương lai, không phải nói a ca của em.”

A Bảo ngây ngơ mù tịt, không phân rõ hai cái này khác gì nhau, nhưng nàng suy nghĩ, chần chờ nói: “Nếu là người em chân thành thích, y cũng thích em thì sẽ không để em làm thiếp đâu.”

Thôi nương tử thở dài: “Nói thì là vậy, nhưng nhân sinh trên đời này luôn có rất nhiều trói buộc, người có thể chân chính tự do thoải mái sống có bao nhiêu đâu? A Bảo à, nếu ngày sau em thích y, mà y cũng thật lòng thích em, nhưng y lại có đủ loại nguyên nhân đành nạp em làm thiếp, em sẽ làm thế nào?”

A Bảo nổi giận nói: “Vậy y không đáng được em thích!”

Thôi nương tử ngẩn ra, bị khí phách của đứa nhỏ này làm cho dở khóc dở cười: “Nói em ngốc quả không sai mà, loại chuyện thích ai này, đâu thể chỉ mình em đinh đoạt.”

Nói tới đây, bỗng nhiên nàng ấy thở dài, nói: “Có lẽ ngày ấy ở Yên Vũ Lâu, chị không nên để em lên đài thay mình.”

“Không sao đâu ạ,” A Bảo nói, “Chị bị bệnh mà.”

“Nha đầu ngốc.”

Thôi nương tử cười, phủi miếng điểm tâm còn dính trên mặt nàng, xong dịu dàng véo véo gò má nàng.

**

Sau đó, danh tiếng của A Bảo ở Dương Châu ngày càng vang, từ từ nổi hơn cả Thôi Tiểu Ngọc, thành danh kỹ thế hệ mới bên sông nhỏ Tần Hoài.

Cái gọi là ‘Ngũ lăng thiếu niên tranh giành quấn quýt, vì khúc nhạc lụa đỏ quấn quanh không hết’ cũng không phải nói khống.

A Bảo thích cười, không phải cái cười nhẹ diệu uyển chuyển như con gái Giang Nam, mà là thoải mái cười to.

Trên người nàng có tính cách đặc biệt tốt đẹp thanh thuần của con gái đất Thục, nhiệt tình, hào sảng, phóng khoáng, còn rất đanh đá. Nàng động một chút là giận, say rượu xong sẽ mắng chửi người ta, một khi đã nóng thì có là Tri Châu hay Thông Phán cũng không được nàng đặt vào mắt.

Nhưng mà chính vì kiểu mưa nắng thất thường thuộc phong tình đất Thục này khác biệt với giai nhân Giang Nam, nên càng có thêm đám người theo đuổi nàng, hận không thể để nàng mắng cho một trận.

A Bảo trở thành thủ lĩnh ở Minh Thuý phường, nhưng kỳ lạ là, nhóm nương tử trong lâu vẫn thích nàng như xưa, không ai tranh giành đấu đá với nàng cả.

Ngay cả Thôi nương tử bị nàng ‘cướp’ đi sự nổi bật cũng cười nói: “Có người sinh ra đã khiến cho người ta yêu thích, hâm mộ không thôi.”

Dưới ánh hào quang của A Bảo, Thôi Tiểu Ngọc hoàn toàn trở nên xuống dốc, Thôi nương tử ngày xưa xinh đẹp tài giỏi, giờ đây đã đến mức vắng vẻ.

Nàng ấy năm nay gần 30, dung nhanh có dấu hiệu ở tuổi xế chiều, vì muốn tìm đường lui cho mình, chọn một thương nhân đi thuyền.

Vị thuyền thương này đã cổ vũ nàng từ khi mới thành danh, mỗi lần đến Dương Châu đều tìm nàng ấy, Thôi Tiểu Ngọc muốn gả cho hắn làm thiếp.

A Bảo không hài lòng lắm về hôn nhân này, nhăn tít hàng mày thanh tú nói: “Râu quai nón vừa béo vừa xấu, không xứng với nương tử xíu nào.”

Cuối năm ngoái, nàng từng gặp qua vị thuyền thương này một lần, có ấn tượng sâu sắc với hàm râu quai nón phủ đầy mặt, mỗi lần nhắc tới người ta toàn gọi là ‘râu xồm’.

Thôi Tiểu Ngọc biết nàng xưa giờ kiến thức hạn hẹp, thích vẻ ngoài xinh đẹp, nghe vậy cười trêu: “Y lớn lên không đẹp, vậy ai mới đẹp đây? Thiếu niên lang trong mơ nọ của em à?”

Thoáng chốc A Bảo xấu hổ đỏ bừng cả mặt.

Thiếu niên lang trong mơ nọ, tất nhiên là lần chạy nạn đói sắp chết trên đường đó, tiên nhân đã mời nàng ăn bánh.

Không biết vì sao, kể từ khi đến Dương Châu rồi, A Bảo càng thường xuyên mơ thấy y, lúc thì y dạy nàng ngâm thơ, nghe nàng đàn tỳ bà, hình như y còn rất quen thuộc thành Dương Châu, sẽ kể cho nàng nghe lai lịch chuyện xưa của mỗi danh tích trong thành.

Thiếu niên có giọng nói trong trẻo êm tai, trên môi luôn treo ý cười nhè nhẹ, chỉ tiếc là khuôn mặt luôn mờ mịt như mây mù, không thấy rõ được.

Chuyện này A Bảo chỉ kể qua với Thôi Tiểu Ngọc, ai ngờ sau khi nghe xong, nàng ấy thường lấy ra trêu nàng, nói khó mà có được, cái đồ không có mắt này cuối cùng cũng bắt đầu tương tư.

A Bảo ho nhẹ một tiếng, cố tình rõ rệt lảng sang chuyện khác: “Không phải trong nhà râu xồm đã cưới thê rồi sao?”

Ánh mắt Thôi Tiểu Ngọc u buồn, gượng cười nói: “Phải, xuất thân giống chúng ta đây, cũng chỉ có thể làm thị thiếp nhà người ta, ngay cả vợ kế cũng không đủ trình độ đâu.”

“Vị Âu Dương đại tài tử đâu ạ?” A Bảo lại hỏi.

“Không biết, lâu rồi không nhận được thư y gửi, chắc là năm nay đỗ cao rồi.” Thôi Tiểu Ngọc cười chua chát.

Nàng ấy sinh ra trong dòng dõi thư hương, chỉ vì gia đạo sa sút nên mười bốn tuổi đã lang thang, từ nhỏ đọc đủ thi thư, tự nhiên Thôi Tiểu Ngọc cũng hâm mộ nam nhân học thi văn Hàn Mặc.

Nàng ấy thường xuyên cải trang nam tử, tham gia hội nhóm văn nhân đương thời, cùng bọn họ đàm luận văn học, đối thơ viết chữ.

Lúc đó tuổi còn trẻ, cũng từng giúp đỡ qua vài sĩ tử nghèo rớt mồng thời, chỉ là những kẻ đó không lừa tiền cũng biệt vô âm tín, vị Âu Dương đại tài tử cũng nằm trong số đó, ba lần thi trượt, mắt thấy đời này không có duyên đỗ đạt.

A Bảo gật gù, chợt nói: “Em thấy Âu Dương tài tử xứng đôi với nương tử hơn, chị nên gả cho y mới đúng.”

Thôi Tiểu Ngọc nghe xong hơi ngỡ ngàng, bật cười nói: “Trên đời làm gì có chuyện nào hoàn hảo, hơn nữa trong nhà Âu Dương cũng có thê thất, dù chị vẫn còn duyên nợ với y, gả qua cũng có thể làm thiếp mà thôi.”

“Nếu y thích chị sẽ không để chị làm thiếp.” A Bảo vẫn giữ nguyên quan điểm này.

“Vậy vợ y cưới về phải làm sao? Cô ấy lo liệu việc nhà, sinh con đẻ cái cho y, lúc y vào kinh thi cử, tận tâm phụng dưỡng họ hàng, thay y tẫn hiếu, không chút sai lầm, chẳng lẽ vì chị mà hưu bỏ cô ấy?”

A Bảo lắc đầu, cái này đương nhiên không đúng, nhưng nàng lại không rõ, cuối cùng chỉ cố chấp: “Dù sao thì em cũng không làm thiếp.”

Thôi Tiểu Ngọc nhìn khuôn mặt trắng nõn của nàng, lả lướt đáng yêu, lại không khỏi nổi lên tâm tư trêu chọc nàng, cười nói: “A Bảo của chúng ta đây mai mốt muốn gả cùng ai làm thê đây? Là a ca của em, hay là vị thiếu niên lang trong mơ?”

“Ài! Sao chị nhắc lại nữa?!” A Bảo che gương mặt nóng hổi kêu lên.

Thôi Tiểu Ngọc không thuận theo nàng mà tiếp tục sấn tới không tha: “Đỏ mặt gì chứ? Đỏ mặt vì a ca hay vì thiếu niên nọ vậy?”

“Đừng nói nữa mà!”

“Xấu hổ làm gì, nói đi, rốt cuộc muốn gả cho ai?”

Thôi Tiểu Ngọc muốn chọc ngứa nàng, A Bảo từ nhỏ sợ nhất bị chọc cù lét, hấp tấp trốn sang bên cạnh, chầm chậm lui lại ra ban công.

Thôi Tiểu Ngọc tay dán lên eo nàng, mới vừa cào vài cái A Bảo đã khom lưng cười ầm lên, đoá thược dược cài bên tai rung lắc theo, cứ thế lăn rớt xuống lầu.

“Ơ⎯⎯ Hoa của em!”

A Bảo thốt lên, đỡ lan can nhìn xuống dưới lầu.

Trên đường dài đá xanh, một vị công tử anh tuấn mặc bộ áo mỏng sáng màu như trăng dắt ngựa đứng đó, trong tay cầm thêm một đoá hoa thược dược, ánh mắt đưa tình nhìn nàng. Khoé môi y lúc cười lên rất đẹp lại ôn hòa, cùng với khuôn mặt nào đó trong mơ của A Bảo vi diệu chồng lên nhau.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 25: Tuyên Vương


Đó là lần A Bảo và Triệu Tòng gặp nhau.

Khi ấy hắn còn chưa tên Triệu Tòng, gọi là Thừa Tuấn, là con trai thứ ba của hoàng đế Thái Tông, tuổi mụ vừa tròn 22, đã phong làm thân vương, người khác đều kêu hắn ‘Tam đại vương’, hoặc là ‘Tuyên Vương điện hạ’, chỉ có A Bảo luôn miệng kêu hắn ‘Triệu Thừa Tuấn’.

Tri châu Lý Kỳ nghe mà bay mất hồn vía.

Bá tánh tầm thường nếu trùng tên với vương thất, vì kiêng dè cũng phải sửa tên lại, ông có mượn ngàn mượn vạn cái lá gan cũng không dám gọi thẳng tên huý thân vương, A Bảo đúng là ăn gan hùm mật gấu.

Ông thay A Bảo cáo tội với Tuyên Vương: “Tiểu nương tử này xưa nay luôn không tim không phổi, nói chuyện cũng không biết lựa lời, nếu không phải đàn tỳ bà tốt, đã sớm bị người ta trùm bao bố nhấn xuống Hồ Tây Gầy rồi, mong điện hạ niệm tình nàng còn nhỏ tuổi, không hiểu chuyện trên dưới, chớ có so đo cùng nàng.”

A Bảo tai thính nghe xong lời này nhất thời trợn tròn mắt, thầm nghĩ được lắm Lý Thái thú, sau này nếu có quỳ xuống xin mời nàng vào phủ đàn tỳ bà nàng cũng không chịu đâu.

Triệu Tòng tay chầm chén trà, khẽ cười nói: “Không sao, đặt tên vốn để người ta kêu mà, Lý Tri châu nếu không ngại cứ kêu thẳng tên huý của bổn vương.”

Lý Kỳ vội nói không dám.

Triệu Tòng gắp miếng ngó sen đặt vào dĩa của A Bảo, ôn hoà nói: “Món này ăn ngon, em nếm thử.”

Hắn rất thông minh không thể nghi ngờ, thoáng một cái đã phát hiện ra nhược điểm của A Bảo ⎯ thích ăn.

Thân A Bảo nếu nói nàng không tim không phổi cũng không hẳn đúng, nàng cũng không ngốc, ngược lại nhạy bén thông tuệ, chẳng qua thứ nàng quan tâm toàn tách biệt với người khác.

Nếu người khác có thể ngồi cùng bàn ăn cùng Tuyên Vương, còn may mắn được hắn gắp đồ ăn cho, thế đã sớm quỳ trên mặt đất cảm động rớt nước mắt, nhưng riêng trong mắt của A Bảo, Tuyên Vương điện hạ gì đó còn không dằn dĩa ngó sen viên chiên đâu.

Triệu Tòng cũng không biết nhìn trúng điểm nào ở nàng, chuyến này hắn tới Dương Châu, vốn có công việc cần làm, sau khi hoàn thành sẽ ở lại thêm một năm, đợi đến tháng chín năm thứ hai mới lên phía bắc về lại Đông Kinh.

Thời gian một năm này, ngày nào hắn cũng đến Minh Thuý phường tìm A Bảo, mưa gió không hề hấn gì, cũng không phải muốn nghe nàng đàn tỳ bà, chỉ cần có thể trò chuyện cùng nàng là đủ rồi.

Đôi khi A Bảo rụt rè, đóng cửa từ chối tiếp khách, kể cả hắn cũng không tiếp, ma ma sợ tới mức liên tục than ‘Tiểu tổ tông’ cầu xin nàng, Triệu Tòng cũng không giận, chỉ cách cửa nói chuyện cùng A Bảo.

Nếu hắn nói gì thú vị khiến A Bảo bật cười, nàng sẽ mở cửa ngay, nếu ngày ấy tâm tình nàng thật sự không tốt, cho dù hắn nói đến miệng lưỡi khô khan, nàng cũng sẽ không phản ứng.

Ma ma thở dài, nàng có thể bình an vô sự lớn tới cỡ này đúng là kỳ tích.

Nhóm nương tử trong lâu cũng cười: “A Bảo, đừng làm bộ làm tịch nữa, ông trời vất vả lắm mới làm ‘rơi’ vị công tử vương tôn xuống đây, chạy nhanh đến bắt lấy cơ hội mới phải, đừng để đến lúc người ta về Đông Kinh mới bắt đầu hối hận nha.”

A Bảo nổi giận trừng mắt: “Em mới không cần làm bộ làm tịch!”

Đúng thật nàng không làm vậy, A Bảo hào sảng nhanh nhẹn, từ trước đến nay đều có gì nói đó, không biết cái gì mà ‘làm bộ làm tịch’, nàng chỉ là…

Chưa xác định được tâm ý của mình.

Ngày ấy trên lầu hai Minh Thuý phường, mới gặp Triệu Tòng là nàng đã cảm nhận được sự rung động, đó là lần đầu tiên nàng trải nghiệm qua cảm giác như vậy suốt mười sáu năm, trái tim tựa như hòn đá nhỏ rơi vào trong hồ, đẩy ra một vòng gợn sóng.

Triệu Tòng cũng rất rất tốt, anh tuấn phong lưu, tuy là Vương gia nhưng cũng không làm giá, sẽ kể chuyện cười cho nàng, tặng nàng mấy lễ vật mới mẻ thú vị, hắn ở trong Phan Viên, thường xuyên mời các đầu bếp nổi tiếng nấu một bàn đồ ăn ngon mời nàng đến đó.

Nhưng mà, A Bảo vẫn thấy sai sai đâu đó, nàng không thể nói rõ sai chỗ nào, chỉ là nội tâm mơ màng sinh ra loại cảm giác, chính là… Có gì đó sai sai.

Nàng nói sự hoang mang đó lại cho Thôi nương tử nghe, Thôi Tiểu Ngọc cười nói lại: “Có phải còn nhớ vị thiếu niên trong mơ không? Không phải em nói, Tuyên Vương điện hạ rất giống với vị đó sao?”

“Đúng là có điểm giống…” A Bảo cau mày, “Nhưng mà cũng có chút không giống…”

“Không giống chỗ nào?” Thôi Tiểu Ngọc hỏi.

“Em cũng không biết nữa.”

A Bảo mờ mịt lắc đầu, thật ra nàng cũng có một quãng thời gian không còn mơ thấy thiếu niên lang kia nữa. Khuôn mặt mờ mờ ở trong đầu nàng ngày càng mờ hơn, nàng đã sắp quên âm thanh của y, chỉ nhớ mang máng lúc y cười rộ lên rất hiền hoà rất đẹp, giống với làn gió xuân Hồ Tây Gầy.

Thôi Tiểu Ngọc thở dài: “A Bảo, em không thể dành cả đời để truy tìm một bóng dáng hư ảo trong mơ, ‘nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo bào ảnh, như lộ diệc như điển, ứng tác như thị quán’.” [1]

<i>[1] Trích từ Kinh Kim Cang. (nhấp vào đọc thêm thông tin tại nguồn thuvienhoasen)</i>

“Có ý gì ạ?” A Bảo lẩm bẩm hỏi.

Thôi Tiểu Ngọc xoa xoa đầu nàng, nói: “Ý là để em nắm chắc hiện tại, chị sắp xuất giá, muốn nhìn em có kết cục tốt. Tuyên Vương điện hạ tuy xuất thân thiên gia, nhưng y là con thứ ba của kim thượng, cả đời này vô duyên với ngôi vị hoàng đế, mà y cũng yêu thích em. A Bảo, y sẽ đối xử em thật tốt, em có phúc phần so với đại đa số người trong đây, chớ có phụ lòng.”

A Bảo ôm eo nàng ấy, y như con mèo nhỏ ăn vạ cọ tới cọ lui trong lòng nàng ấy, nũng nịu nói: “Em lấy phúc phần chia cho chị, nương tử, chị đừng xuất giá được không, em nhớ chị.”

Thôi Tiểu Ngọc bật cười, vỗ vỗ cái ót của nàng: “Đã bao lớn rồi còn làm nũng?”

**

Ngày mà Thôi Tiểu Ngọc xuất giá, là mùng ba tháng ba năm Hữu An thứ sáu, tết Thượng Tị, dân gian gọi là ‘Tiết nữ nhi’.

Các nữ nhi trong nhà ai chưa xuất các thường sẽ nhân ngày hôm nay rong chơi kết bạn, đi chùa dâng hương, cầu nguyện tương lai có thể gả cho một người chồng tốt, vào được gia đình tốt.

Dựa theo hoàng lịch, ngày này thích hợp để động thổ, hiến tế, an giường [2], gả cưới, là ngày thượng thượng đại cát.

<i>[2] Lễ an giường thường được thực hiện trước khi sử dụng giường mới, đặc biệt là trong dịp cưới hoặc dọn về nhà mới.</i>

Mùa xuân mới lại đến, hoa hạnh ngoài thành Dương Châu nở rộ, như tầng mây cháy, mênh mông bồng bềnh trải dài mười dặm.

Thuyền thương quê quán ở Giang Hạ, Thôi Tiểu Ngọc muốn theo thuyền thương xuôi dọc theo Trường Giang, nhóm nương tử Minh Thuý phường đưa tiễn nàng ấy xuất giá, đưa nàng ấy ra tới bến tàu.

Đều là tỷ muội nhiều năm, mọi người đều luyến tiếc nàng ấy, nhưng mà trong số các nương tử, người khóc dữ dội nhất phải kể đến A Bảo.

Nửa người nàng gần như bám lên trên người Thôi Tiểu Ngọc, ôm nàng ấy khóc đến đau khổ tột cùng.

Nương tử khác có khóc, một là mắt óng ánh giọt lệ, hai là nắm chặt khăn yên lặng cúi đầu lau nước mắt, duy chỉ có nàng gân cổ khóc lớn, tiếng khóc thu hút người đi đường ghé lại ngó xem, nước mắt trào ra nhiều như vậy, ngay cả áo cưới hồng đào thêu hoa hải đường của Thôi Tiểu Ngọc cũng bị nàng làm cho ướt.

Nỗi buồn chia ly của Thôi Tiểu Ngọc bị nàng khóc cho trôi sạch, ôm nàng bất đắc dĩ rầy: “Không khóc nữa, tổ tông ơi, sông Trường Giang bị em khóc khô cả rồi.”

A Bảo lại ‘oà’ lên tiếp tục gào khóc, nước mắt tuôn ra không ngừng, khóc riết cái mặt y như con mèo hoa, giọng nói khô khan liên tục kêu “Đừng đi, đừng đi mà”.

Lý Hùng nhìn không nổi nữa, xách sau gáy nàng kéo ra: “Được rồi, xuất giá là chuyện đại hỉ, em đừng chậm trễ giờ lành của người ta.”

“Không⎯⎯”

A Bảo chết không buông tay, dính chặt trên người Thôi Tiểu Ngọc còn hơn keo dán chó, làm Thôi Tiểu Ngọc cũng nghiêng ngả đứng không vững, đỡ lấy mũ trên đầu bất đắc dĩ nói: “A Bảo à, em muốn chị phải làm sao bây giờ? Dứt khoát bỏ em vào rương của hồi môn mang theo nhé.”

A Bảo khóc lóc nói: “Vậy chị dẫn em đi đi! Phải đi cùng nhau cơ!”

Nói xong đã thật sự tính tìm cái hòm xiểng chứa của hồi môn chui vào trong, khiến mọi người phải dở khóc dở cười, vẫn là Triệu Tòng kéo nàng lại, dùng lời hay ý đẹp trấn an rất lâu, sau đó Thôi Tiểu Ngọc mới có thể thoát ra đi lên thuyền.

Sóng xanh dập dờn, chiếc thuyền đi xa, chỉ thấy mỗi cánh buồm trắng đang từ từ đi về phía chân trời.

A Bảo ngồi xổm bên bờ, vùi đầu vào đầu gối, khóc đến thoi thóp.

Người ở Minh Thuý phường và a ca nàng không biết đã rời đi từ lúc nào, chỉ còn mỗi Triệu Tòng ở lại cùng nàng, hắn đặt tay lên đầu vai nàng, không có khuyên nàng đừng khóc, chỉ yên lặng chờ nàng khóc cho đủ thì thôi.

A Bảo vừa khóc vừa nói với hắn, năm đó mới vào Minh Thuý phường đã được sai khiến đến hầu hạ bên cạnh Thôi Tiểu Ngọc, lần đầu tiên nhìn thấy nàng ai nấy cũng ngây người, con ngươi bất động cũng không biết đang nhìn gì.

Thôi Tiểu Ngọc hỏi nàng tên gì nàng cũng không đáp, thấy nàng sững sờ nhìn mình mới tưởng nàng đang nhìn cây trâm hình con bướm trên búi tóc, liền lấy xuống đưa cho nàng, nói: “Cho em nè.”

Ai ngờ A Bảo lại liên tục xua tay từ chối.

Hoá ra không phải nhìn cây trâm cài, mà là nàng nhìn đĩa điểm tâm trên bàn sau lưng nàng ấy, bánh từ mứt táo làm thành hình hoa hải đường, ở giữa còn có chút mứt táo hồng hồng.

Thôi Tiểu Ngọc nghe xong liền đẩy đĩa điểm tâm đó cho nàng.

A Bảo lại nhớ tới lời a ca dặn dò, không dám duỗi tay nhận, khẽ l**m môi dưới nói: “Em ăn rồi, a ca đã mua kẹo vừng cho em.”

Thôi Tiểu Ngọc cười: “Biết rồi, trên mặt em còn dính chút nước đường kìa. Ăn đi, không sao hết, em gầy quá.”

Xong A Bảo mới nhận đĩa điểm tâm đó ăn ngấu nghiến.

Lúc đó nàng mới vượt qua nạn đói, cả người gầy trơ xương, khuôn mặt nhỏ nhòn nhọn, chỉ cần nhắc đến ăn, trong mắt sẽ phát sáng như sói đói, cổ họng giống như mọc thêm đôi bàn tay nhỏ, chào gọi với đồ ăn ngon: Mau vào bụng ta đi.

Dĩa bánh từ mứt táo thơm ngon mềm mại, là món ngon nhất nàng từng được ăn trừ chén ruột lừa lần trước, ăn được món ngon nhất rồi dạ dày cũng dịu xuống.

Sau này làm thị nữ của Thôi Tiểu Ngọc, nàng tay chân vụng về, không làm hỏng đồ đạc thì thường xuyên làm trò hề, nhưng mà Thôi nương tử lại chưa từng trách móc nàng.

Nàng ấy sẽ cười nàng trước, nói nàng ‘Giống cún con quá’, còn hay đút điểm tâm cho nàng ăn, ngẫu nhiên sẽ đọc vài câu thơ là lạ cho nàng nghe.

Nàng ấy nói A Bảo giống như đứa em gái trong nhà, tiểu cô nương kia ba tuổi mắc bệnh đậu mùa không qua khỏi, nàng ấy nhìn A Bảo như nhìn em gái nhỏ không có cơ hội lớn lên của mình.

A Bảo cũng thích Thôi Tiểu Ngọc, người nàng ấy rất thơm, ôm vào cũng mềm mại, nàng thích nhất được ăn vạ làm nũng trong lòng nàng ấy.

Đều tại tên râu xồm mang Thôi nương tử rời đi.

Giọng A Bảo khàn do khóc, khóc đến mất hết sức lực, chỉ có thể níu lấy cây xuân thảo trên mặt đất phát ngốc.

Triệu Tòng dùng khăn tay lau khô nước mắt cho nàng, bỗng nhiên thở dài nói: “‘Lưu tiêu sao dễ bỏ rơi người, đào vội hồng rồi, chuối chóng xanh rồi’.”

A Bảo đôi mắt ướt hồng, ngơ ngác hỏi: “Có ý gì?”

“Thời gian trôi qua rất nhanh.” Triệu Tòng nói.

“Đây là từ Tưởng Tiệp ngồi thuyền qua Ngô giang, trong ⟪nhất tiễn mai⟫ viết: ‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời, Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi, Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi. Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi, Chuối chóng xanh rồi’.” [3]

<i>[3] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

“Ta thấy em hôm nay lưu luyến Thôi nương tử không rời, lại nhớ về chuyện xưa lúc cả hai còn thân mật gần gũi, đều xuất phát từ tình cảm mà ra.”

A Bảo ‘ồ’ lên, tò mò hỏi: “Anh rất thích đọc thơ à?”

“Này không phải thơ, là từ,” Triệu Tòng cười cười, “Cũng không thể nói là thích nữa… Ta cũng sẽ làm từ, chẳng qua không hay như người khác làm, lần sau làm cho em nghe nhé?” [4]

<i>[4] Thể loại ‘Từ’ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác </i>
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 26: Gả xa


A Bảo đưa cho Triệu Tòng một vấn đề nan giải.

Nàng là nhạc tịch, muốn làm thiếp của thân vương còn không dễ dàng gì chứ đừng nói là làm chính thê?

Nhóm nương tử chê cười nàng: “A Bảo ơi, đừng cứng nhắc quá, không phải ai cũng có thể làm phượng hoàng trên cành cao đâu.”

Ma ma cũng mắng nàng ngốc, nàng là ca kỹ của Minh Thuý phường, đời này có thể phụng dưỡng cho Tuyên Vương điện hạ đã có phúc khí, được tổ tiên phù hộ rồi, lại dám hy vọng xa vời đến vị trí vương phi.

Nếu Tuyên Vương tỉnh táo lại, nói không chừng sẽ quay về Đông Kinh bỏ nàng lại, thành Đông Kinh có rất nhiều tiểu nương tử hiền lành hiểu chuyện, ai đâu nhớ tới A Bảo chứ.

Mỗi lần A Bảo nghe xong cũng không có ý phản biện lại, chỉ yên lặng đi đóng cửa phòng.

Sau khi Thôi nương tử xuất giá, nàng luôn thấy mất hứng thú, không đàn tỳ bà nữa, cũng không ầm ĩ đòi đi ra ngoài chơi, có món ăn ngon cũng không thấy gương mặt tươi cười của nàng đâu.

Nàng dường như đã trưởng thành chỉ sau một đêm, không còn giống dáng vẻ đứa trẻ nhỏ như lúc trước, mà là dáng vẻ hơi giống phụ nữ.

Lý Hùng biết được nàng phải gả cho Tuyên Vương làm vợ, không cười chê nàng điên muốn làm vương phi như những người khác, chỉ hỏi: “Em muốn gả cho y thật sao?”

A Bảo gật đầu, nói: “Anh ấy thích em, em phải gả cho anh ấy.”

Lý Hùng lại hỏi: “Vậy em thích y không?”

A Bảo nghiêm túc nghĩ ngợi: “Thích ạ.”

Lý Hùng nhìn nàng, sắc mặt phức tạp, tựa như nhẹ nhàng thở nhưng vẫn có chút muốn nói lại thôi, cuối cùng nhíu mày nói: “Y là Vương gia, mà em là nhạc tịch, chỉ sợ…”

“Nếu anh ấy không cưới em thì em không gả nữa,” A Bảo cắt ngang lời anh, “Em gả cho anh là được, a ca.”

“……”

Lý Hùng già dặn thở dài, chắp hai tay sau lưng rời đi.

Tại anh, thế mà tin vào lời đồn đãi, thật sự cho rằng ‘đồ không có mắt’ đã trưởng thành.

**

Xuân đi thu tới, A Bảo đều luôn uể oải không vui, nàng ghé vào cửa sổ nhìn khách nhân qua đường dưới lầu, mặc kệ Triệu Tòng trêu chọc nàng thế nào cũng không còn hứng thú ra khỏi cửa.

Nàng ốm xuống, đôi má no thịt như trẻ con biến mất, trước đây Thôi nương tử thích véo hai bên thịt đó của nàng nhất, giờ thì không còn nữa.

Triệu Tòng đau lòng nàng gầy đi, nắm tay nàng thề thốt: “A Bảo, em yên tâm, ta chắc chắn sẽ cưới em làm vợ.”

A Bảo cười nói: “Được, em chờ chàng.”

Cuối cùng Triệu Tòng cũng thực hiện được lời hứa hẹn của hắn.

Có môn khách góp lời với Tri châu Lý Kỳ, nhận A Bảo làm dưỡng nữ, dời vào gia phả Lý gia, lúc đó Lý Kỳ chưa biết đề nghị này sẽ kết thúc con đường làm quan của ông, chỉ cảm thấy một là có thể khiến Tuyên Vương điện hạ vui vẻ, hai là có thể bám vào vị Phật lớn này leo lên, thật sự là nhất cử lưỡng tiện.

Mà Triệu Tòng cũng vui mừng với đề nghị này, chạy tới báo tin tốt cho A Bảo.

A Bảo lại nhíu mày: “Em có cha mẹ, vì sao phải nhận người khác làm cha?”

‘Cha mẹ’ trong miệng nàng tất chỉ cha mẹ của Lý Hùng, hai vợ chồng già nhặt nàng về chưa được mấy năm đã qua đời vì bệnh, nàng cùng a ca từ nhỏ cho tới lớn đều nương tựa vào nhau mà sống.

Nếu người khác có thể được nhận Tri Châu đại nhân làm cha, khẳng định sẽ phấn chấn không biết nên như nào cho phải, nhưng Triệu Tòng biết, A Bảo luôn khác biệt so với họ, hắn yêu nàng cũng vì điểm này.

Vì thế hắn vội nói: “Em coi như là vì ta nhé! A Bảo, ta thật sự là gấp rút muốn cưới em, một khắc cũng không thể đợi!”

Hắn phấn khởi đến mức mặt mày đỏ hồng, vốn dĩ trong lòng A Bảo còn có chút không đồng tình, thấy dáng vẻ này của hắn nên đành phải gật đầu: “Được ạ.”

Phủ Thái thú tổ chức tiệc rất náo nhiệt, A Bảo chưa kịp quỳ xuống dâng trà, nương tử của Lý Kỳ đã chạy nhanh lại đỡ nàng lên, kinh sợ nhận trà từ trong tay nàng, vợ chồng Lý Kỳ càng không dám để nàng gọi mình một tiếng ‘cha mẹ’.

Kính trà cho cha mẹ xong, tới đưa trà cho huynh trưởng.

Vì che giấu mối quan hệ ‘con dâu nuôi từ bé của Lý Hùng’ xấu hổ kia, nàng cần chính thức nhận Lý Hùng làm huynh trưởng.

“A ca, uống trà.”

A Bảo quỳ trên mặt đất, nghiêm túc ngoan ngoãn dâng chén trà sứ Thanh Hoa nói.

“Tốt rồi tốt rồi, uống xong chén trà này, em sẽ là em gái của anh.”

Lý Hùng mắt chứa lệ nóng, uống một hơi cạn sạch chén trà nóng.

Tuy rằng bắt đầu từ khi cha mẹ nhặt A Bảo về nhà, người trong thôn đều nói nàng là con dâu nuôi từ bé của anh, nhưng hai đứa trẻ cùng nhau lớn lên, vài năm sau, cha mẹ qua đời, A Bảo còn nhỏ, Lý Hùng gần như vừa làm cha vừa làm mẹ nuôi nàng lớn, nhiều năm trôi qua đã thật sự xem nàng em gái ruột.

Anh nhìn A Bảo, tiểu công nương như hạt đậu, từ nhỏ hay kéo kéo góc áo của mình, chạy theo anh từ đầu thôn đến cuối thôn, muốn bỏ cũng không được, giờ đây lớn lên lại trổ mã xinh đẹp đến chừng này.

“A Bảo à,” Lý Hùng nói, “Về sau là đại cô nương rồi, gả cho người ta, phải hiểu chuyện một chút, đừng tuỳ tiện như trước kia nữa.”

A Bảo từ trên mặt đất đứng dậy, chắp tay sau lưng cười hì hì nói: “Là Lý Uyển ạ, a ca, anh lại quên nữa rồi.”

Lý Uyển, là tên mới của nàng, do Triệu Tòng tự mình đặt cho nàng.

A Bảo không có họ, nàng được Lý gia nhặt về, cả người ngoại trừ quần tã lót nền xanh hoa nhỏ ra cũng không còn gì khác, cha mẹ thân sinh không nhắn gửi lại lời nào, vứt bỏ nàng dưới gốc cây hoè ở cửa thôn Lý gia.

Bên cạnh cây hoè còn có cái giếng già, người thôn Lý gia đều nói, A Bảo vốn bị quăng xuống giếng, chẳng qua đột nhiên mẹ ruột nàng nổi lương tâm, không quăng nữa mà đặt dưới cây hoè, cái mạng nhỏ của nàng mới được bảo toàn.

Vợ chồng Lý gia nhặt nàng về, cũng chưa đặt tên cho nàng, dựa theo xưng hô địa phương hay gọi con út trong nhà, kêu nàng là ‘A Bảo, A Bảo’ cho đến lúc lớn.

A Bảo có hộ tịch mới, tên mới, nàng không biết chữ, Triệu Tòng cầm tay dạy nàng, viết tên mình xuống tờ giấy Tuyên Thành ⎯⎯

Lý, Uyển.

‘Lý’, là họ Lý của dưỡng phụ Lý Kỳ.

‘Uyển’, nghĩ là thuận theo, trong ⟪Tả Truyện⟫ có câu: phụ nữ nhu mì nghe lời. [1]

<i>[1] 婉 nghĩa là mềm dẻo, nhu mì, thanh lịch.</i>

“Chàng muốn em chàng nghe lời sao?” Lúc đó A Bảo được hắn ôm vào ngực, quay mặt hỏi.

Triệu Tòng ngẩn người, cong mắt cười, cằm gác lên vai nàng, ngửi mùi thơm bên tai nàng: “Sao có thể? Là ta nghe lời em mới đúng.”

**

Hữu An năm thứ sáu, mùng tám tháng chín, A Bảo cùng Triệu Tòng đại hôn tại Phan Viên.

Nàng xuất giá từ phủ Thái thú, Lý Kỳ chuẩn bị 180 gánh của hồi môn cho nàng vô cùng hoành tráng, đội ngũ đưa giá xếp dài thành hàng, rất xứng với câu ‘mười dặm hồng trang’.

Triệu Tòng cưỡi ngựa cao to, ngực buộc hoa hồng, tự thân đón dâu.

Bá tánh nửa thành Dương Châu đều tới, chen chúc trước cửa phủ Thái thú quan sát hôn sự náo nhiệt chấn động này.

A Bảo ghé vào lưng của ca ca, trên đầu đội chiếc khăn voan thêu hình long phượng, không nhìn thấy gì cả, chỉ nghe thấy tiếng pháo và tiếng thổi kèn đàn vui ca hát.

<i>“Thổi khó nghe quá đi”</i>, nàng nghĩ, <i>“Còn không hay bằng tiếng tỳ bà của mình.”</i>

Lý Hùng đưa nàng vào kiệu hoa, hỉ nương lanh lảnh hô “Giờ lành đã đến, khởi kiệu”, một bàn tay xốc mành kiệu đưa vào, cổ tay áo hỉ phục đỏ tươi, lòng bàn tay cầm thêm một khối bánh từ mứt táo hình cánh hoa hải đường điểm xuyết chút mứt táo hồng ở giữa.

A Bảo ngơ ra, đôi mắt dưới khăn voan cong thành hình trăng non.

Vươn tay tới nhận lấy khối điểm tâm.

Đêm động phòng hoa chúc, tay Triệu Tòng cầm đòn cân vạch khăn giở của nàng lên, ôm nàng ngã lên chăn gấm hình uyên ương nghịch nước phía sau.

Đôi mặt đen nhánh của hắn dưới màn che đỏ, ánh nến đèn cây đỏ sáng đến kinh người, môi gấp không chờ nổi dao động trên cổ nàng, thấp giọng thở gấp nói: “Uyển Nương, cuối cùng ta cũng cưới được em…”

A Bảo chặn bàn tay muốn cởi đai lưng nàng lại, nói: “Chàng đọc lại cho em lần nữa đi.”

“Đọc cái gì?”

“Bài từ đó.”

Triệu Tòng ngẩn ra một lát mới thì thầm: ‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời,…”

Màn che rơi xuống, bóng ngươi thành đôi.

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi,”

Bóng hình dần dần hợp thành một người, ôm nhau ngã xuống.

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

Gối chăn đảo lộn, đôi nến long phượng bùng cháy rồi tắt, căn phòng chìm vào một mảnh tối đen, rèm lụa đỏ vang lên tiếng xào xạc từ vải áo.

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [2]

<i>[2] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net</i>

Một đêm gian nan trôi qua, A Bảo rất đau, không biết vì sao ngày xưa nhóm nương tử Minh Thuý phường hay giỡn làm chuyện đó rất sung sướng, nàng không thấy sướng chút nào cả, ngược lại, rất không thoải mái mới đúng.

Nói chung Triệu Tòng rất thích, làm xong còn liên tục ôm hôn nàng, mồ hôi đầm đìa chen chúc ở cùng một chỗ với nhau, A Bảo bị tay hắn ôm chặt không thở nổi, khẽ dịch người vào trong, Triệu Tòng lập tức dán tới.

Nàng tức giận muốn đá hắn mấy cái, nhưng lại không còn sức nhấc chân, cuối cùng mơ màng lim dim ngủ đi.

Trong mơ, A Bảo gặp lại thiếu niên nọ.

Nàng đã có một quãng thời gian không mơ thấy y, đêm nay, không biết vì sao lại xuất hiện.

Y giống như bình thường, mặc bộ trường sam xanh nhạt, tay áo thêu hoa văn lá trúc, cầm một cái dù giấy mặt trên cũng vẽ hình cành trúc thuỷ mặc, dù của y che rất thấp phủ lên khuôn mặt y, chỉ mơ thấy đôi môi hơi hé từ mép dù.

“A Bảo, tôi phải đi.”

“Đi? Đi đâu?” A Bảo đuổi theo, gắt gao kéo cổ tay áo y lại, “Không! Chàng đừng đi!”

Người nọ chỉ hờ hững hất tay nàng ra rồi xoay người bỏ đi.

Dáng người cao lớn mảnh khảnh càng lúc càng xa, hoà thành một vệt nước rồi tan biến theo đất trời, trong phút chốc A Bảo đau thấu tâm can, khóc lóc đuổi theo.

“Chàng đừng đi, đừng đi mà……”

A Bảo tiếp tục đuổi theo, dẫm vào góc váy té lăn ra đất bùn.

Nàng che gò má lại, từng mảng nước tràn ra từ kẻ tay: “Xin chàng, đừng đi⎯⎯”

Tên của chàng là gì? Hình như có ba chữ, là gì? Nàng sắp nhớ ra rồi.

Là…

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng lay nàng dậy, ánh mắt lo lắng nhìn nàng: “Sao vậy? Có phải gặp ác mộng không?”

A Bảo trợn mắt mờ mịt một lúc lâu sau mới phản ứng kịp thời, ‘Uyển Nương’ này là đang kêu nàng, đây là tên mới của mình.

Nàng lấy lại tinh thần, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, ác mộng rất đáng sợ.”

Triệu Tòng ôm nàng vào lòng ngực, vuốt mái tóc dài của nàng, nói: “Ta không đi đâu hết, Uyển Nương, ta sẽ luôn ở bên em mà.”

A Bảo nhắm mắt lại dựa vào ngực hắn, nhẹ giọng nói: “Ừm.”

**

Ngày thứ ba sau cưới, Triệu Tòng muốn khởi hành về Đông Kinh.

Từng lá thư từ kinh thành gửi đến trạm dịch, đều thúc giục hắn hồi kinh ngay lập tức, không còn cách nào ở lại Dương Châu được nữa.

Tất nhiên A Bảo muốn đi cùng hắn, chỉ là nàng không ngờ tới, a ca sẽ không đi theo bọn họ.

“Anh theo em đi Đông Kinh làm gì chứ,” Lý Hùng nói, “Anh quen ở lại thành Dương Châu rồi, làm ăn cũng rất khá, đến Đông Kinh làm lại từ đầu nữa à? A Bảo, ca ca mệt rồi, không muốn chạy tới chạy lui nữa, em coi như hoàn thành tâm nguyện này của anh đi.”

A Bảo trợn tròn mắt, nàng chưa từng ngờ sẽ có ngày mình chia tay a ca, từ Xuyên Thục đến Dương Châu vừa khó lại vừa mệt, a ca cũng chưa từng bỏ nàng mà.

“Nhưng mà… Thừa Tuấn nói Đông Kinh rất thú vị.”

Nàng chỉ biết mỗi câu này, thật giống như chữ ‘thú vị’ này trong mắt nàng to bằng trời vậy.

Lý Hùng bật cười, xoa xoa đầu nàng nói: “Vậy em phải chơi thay phần của anh, a ca chờ qua năm sẽ đến thăm em.”

Sau đó lấy ra một cây trâm bạc từ trong ngực đặt vào lòng bàn tay của A Bảo.

“Chiếc vòng bạc ngày xưa làm cho em, trên đường chạy nạn phải cầm cố để giữ mạng, đây a ca tự tay làm cho em cây trâm này, kiểu dáng ‘như ý’, A Bảo à……”

Anh nói tới đây, giọng nói mới có chút nghẹn ngào, lấy tay áo lau qua đôi mắt một chút, cười nói: “Sau này, những ngày không có a ca, phải bảo trọng, vạn sự như ý.”

A Bảo cúi đầu không nói lời nào, lòng bàn tay gắt gao nắm chặt cây trâm như ý đến mức chảy mồ hôi.

Cho đến khi lên thuyền, khoảng khắc chiếc thuyền rời khỏi bến đò cổ Qua Châu, dường như nàng mới phản ứng lại, đột ngột vọt tới thành thuyền hô to về phía bờ bên kia: “A ca⎯⎯”

Nước mắt lập tức trào ra, A Bảo bám chặt vào rào chắn, nửa người vươn ra ngoài lan can.

“A ca, a ca⎯⎯ Em không đi nữa! Oà! Em không đi nữa mà! A ca anh đừng không cần em⎯⎯”

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng sợ tới mức mặt mày tái nhợt, vội vàng ôm nàng xuống dưới.

A Bảo vung tay đá chân, điên cuồng giãy giụa trong lòng hắn, khóc lớn la to: “Buông ra! Không đi Đông Kinh nữa! A ca!”

Lý Hùng tựa hồ cũng nghe thấy tiếng la của nàng, chạy như bay dọc theo con đê dài ngoằng, giương cánh tay hô to với nàng, cách xa quá A Bảo không nghe rõ anh đang nói gì.

“A ca, em không đi nữa, đừng bỏ em…”

A Bảo bị Triệu Tòng gắt gao ôm chặt, khóc đến khàn cả giọng.

Ngày thu con dê dài quá, mặt trời ngả về đằng tây, còn lau sậy khẽ xào xạc, Lý Hùng dốc hết sức đuổi theo, nhưng mà vẫn không đuổi kịp chiếc thuyền, buồm thuyền càng lúc càng xa, còn anh biến thành chấm đen nhỏ di chuyển trên con đê dài.

A Bảo sực nhớ ra, chân anh không được khoẻ, chân anh bị phong thấp.

**

“Tôi biết tâm nguyện của mình là gì rồi.” Trong bóng tối, A Bảo lau nước mắt vô hình trên mặt.

“Là gì?”

Đã trễ thế này rồi mà Lương Nguyên Kính còn chưa đi vào giấc ngủ.

“Tôi muốn gặp a ca.” A Bảo nói.

**

[Thơ Đường] Khiển hoài – Đỗ Mục

Giang hồ lảo đảo bước say
Lưng ong gái Sở nhẹ tay dãi dầu
Mười năm tỉnh mộng Dương Châu
Chỉ mua được tiếng thanh lâu bạc tình.

<i>(bản dịch của Đinh Vũ Ngọc, thivien)</i>

<i>⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển ba ⟪Dương Châu mạn⟫</i>
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 27: [Như mộng lệnh] Phàn lâu


<i>Hình ảnh minh hoạ về Phàn lâu (nguồn: Baidu)</i>
a26f83fc227d49f3a541a2e94429f920.jpeg


**

“Tôi biết tâm nguyện của mình là gì rồi!”

A Bảo từ giữa cánh tay ngẩng đầu lên, đôi mắt đen nhánh sáng ngời nhìn người nọ đang đọc sách bên cửa sổ phía nam. Thấy chàng không phản ứng, chỉ yên lặng lật trang sách, nàng sờ sờ cái mũi, đứng dậy đi đến trước người chàng, hơi cúi người xuống.

“Nè, anh không muốn biết là gì à?”

“Không muốn.”

Lương Nguyên Kính đổi hướng tiếp tục đọc sách.

“Tôi muốn ăn hạt dẻ rang đường nhà Lý Hoà.” A Bảo nói.

Vẫn thấy Lương Nguyên Kính không phản ứng gì, nàng bay tới ngồi trên cửa sổ, hai chân nhàm chán đung đưa qua lại.

“Không phải anh muốn thực hiện tâm nguyện của tôi để tôi đầu thai chuyển thế hả, mua hạt dẻ ra đường cho tôi đi, nói không chừng ăn xong sẽ đầu thai liền đó.”

Rốt cuộc Lương Nguyên Kính mới ngẩng đầu khỏi trang sách, bất đắc dĩ nói: “Em ăn rồi.”

“Sao có thể?” A Bảo kinh ngạc nói, “Hồi nào cơ?”

“Lập thu tháng trước, em nói em muốn ăn đầu gà nhà Lý Hòa, Thất Tịch, em muốn đến Chu Tước Môn xem kịch, tháng trước đó nữa sinh nhật Thôi Phủ Quân, em nói muốn đi xem trò chơi dân gian, hôm trước tiết Thu Xã em cũng kêu tôi dẫn em đi ăn cơm xã.” [1]

<i>[1] Truyền thống của vài dân tộc ở TQ từ thời xưa, nôm na là món cơm ăn trộn từ nhiều nguyên liệu lại với nhau, được ăn vào ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập Xuân/Thu với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, gia đình ấm no, hạnh phúc. (theo Baidu)</i>
nasavtiiez3giz0rcjarv2q_qubkosmc3lbepjcetls89wn225jkwhseibwsq9ks.jpg


“……”

A Bảo nói thầm trong lòng, cho dù có vài món là nàng thấy thèm mới đặt điều lung tung, nhưng anh cũng không cần nhớ rõ từng ngày từng món tới vậy đâu.

Mắt thấy Lương Nguyên Kính còn muốn liệt kê thêm mấy món nữa, nàng vội vàng chen ngang: “Được rồi được rồi, tôi biết rồi, anh đừng nói nữa. Thật ra tôi không ăn cũng được, nhưng tôi muốn đi chơi. Hôm nay trời đẹp như vậy, anh có thể đừng suốt ngày buồn chán ngồi trong phòng đọc sách hay không?”

“Không thể.” Lương Nguyên Kính trả lời lại nàng bằng hai chữ này.

Cái đồ bướng bỉnh!

A Bảo hận không thể đạp cho chàng hai cước xả giận, chưa từng thấy người nào không thích ra cửa như chàng, lại còn trói mình ở quanh chàng nữa chứ, đi cũng không được, chỉ có thể ngắm gương mặt này phát ngốc. Cho dù chàng lớn lên có tuấn tú thế nào đi chăng nữa, cũng sẽ ngắm đến phát chán thôi!

A Bảo bất đắc dĩ dời ánh mắt ra ngoài cửa sổ.

Từ ngày Đoan Ngọ cho tới nay đã trôi qua ba tháng, mùa thu tới rồi, thời tiết cuối thu cũng mát mẻ, trời xanh mây tạnh, cây táo đình viện cũng đã kết trái từ lâu. Trước đó vài ngày còn bị A Bảo ép buộc Lương Nguyên Kính dùng gậy trúc thọc rớt, chừa lại cho nàng ăn.

Nhớ tới ngày ấy chàng tay chân vụng về thọc táo, kết quả bị táo rơi đầy trời đập trúng đầu, làm A Bảo phải bật cười.

Lương Nguyên Kính cái người này, ngoại trừ chuyện vẽ tranh thành thạo như chuyên gia ra, còn lại đều ngốc như nhau.

“Cười gì vậy?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Không nói cho anh,” A Bảo ‘hứ’ xong nằm trên án thư, lăn từ đầu bên đây sang đến đầu bên kia, “Ra ngoài đi, nhàm chán quá, buồn bực quá, cả người mốc meo cả rồi…”

Lương Nguyên Kính chỉ có thể cầm sách lên, không thể tránh được nàng đang lăn lộn.

Lăn qua lăn lại mấy lần, cửa thư phòng bị gõ vang lên, Dư lão cầm một xấp thư tiến vào, nói: “Công tử, đây là thư của mấy ngày gần đây.”

“Đa tạ.”

Lương Nguyên Kính nhận lấy, mở từng lá thư ra xem, bỗng phát hiện Dư lão còn chưa đi, vừa nhấc đầu đã thấy ánh mắt ‘muốn nói rồi thôi’ của ông, sửng sốt hỏi: “Còn việc gì sao?”

“Không… Không có gì.”

Dư lão đi ra ngoài, trước khi bước qua cửa còn lo lắng nhìn chàng một cái.

Lương Nguyên Kính: “?”

“Chắc chắn ông ấy cho rằng anh lại lầm bà lầm bầm một mình nữa rồi,” A Bảo nói, “Cho nên tôi muốn anh đi ra ngoài đi, bằng không người ta sẽ nghĩ anh là đồ điên đó.”

Lương Nguyên Kính không trả lời, cúi đầu đọc thư, bỗng nhiên ánh mắt sáng ngời, kích động đập bàn, hiếm khi chàng bộc lộ cảm xúc ra ngoài như bây giờ.

“Gì vậy?” A Bảo ngồi dậy hỏi, “Thư của ai?”

Lương Nguyên Kính không đáp, A Bảo muốn lại gần đọc thử thì đã bị chàng giấu dẹm đi, quay đầu lại thấy chàng lấy dụng cụ vẽ tranh ra, trong lòng nhất thời vui vẻ.

“Muốn ra ngoài hả?”

Lương Nguyên Kính cõng rương gỗ nhỏ, gật gật đầu.

“Thật hả? Muốn đi đâu? Đi đâu?”

Trong lòng A Bảo như bắn pháo hoa, hưng phấn chạy vòng quanh hai vòng khắp căn phòng, cuối cùng! Cuối cùng cũng ra ngoài!

Lương Nguyên Kính cười nhìn nàng, hai tròng mắt sáng tỏ như sao: “Đi giúp em thực hiện tâm nguyện.”

**

“Hướng này không phải đến nhà Lý Hoà, anh muốn đi đâu vậy?”

A Bảo nghi hoặc nhìn hẻm nhỏ trước mặt, nàng đã chết hơn ba năm, đối với bố cục thành Đông Kinh mà nói, đã có chút xa lạ, nhưng trái cây nhà Lý Hoà ở ngoài vách tường phía tây, hướng này không phải đi về phía tây, ngược lại giống như…

“Phàn lâu,” Lương Nguyên Kính nói, “Chúng ta đến phàn lâu.”

Phàn lâu, nhắc tới ‘Phàn lâu’, tên gốc là ‘Bạch Phàn lâu’, sau này đều được gọi tắt thành ‘Phàn lâu’, vốn là nơi đại thương nhân mua phèn, bị người nghe nhầm đồn bậy thành vì ông chủ họ Phàn, cho nên mới có tên là ‘Phàn lâu’.

Trong số 72 cửa hàng nổi tiếng ở Đông Kinh, Phàn lâu đứng đầu, ‘tửu lâu đệ nhất kinh thành, ngày nào cũng có ngàn người đến mua’, người đương thời còn có bài thơ ghi chép lại việc này: “Ca vũ Lương Viên đủ phong lưu, rượu ngon ta uống giải đoạn sầu. Nhớ lại chuyện vui thời niên thiếu, đêm dài phàn lâu vẫn sáng đèn.”

Nó nằm ở phường Cảnh Minh ngoài cửa Đông Hoa cung thành, được xây dựng 5 tầng lầu: đông, tây, nam, bắc, trung. Mỗi lầu cao ba tầng, được nối với nhau bằng cầu bay và lan can, thông nhau cả sáng lẫn tối. Khi về đêm, trong lầu đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, chỉ riêng tiền đèn mỗi năm thôi đã tiêu tốn rất nhiều.

Đến đêm Nguyên Tiêu mười lăm tháng giêng, phàn lâu sẽ đặt một chiếc đèn sen trên mỗi mái ngói, nhìn từ xa trông như cung điện thần tiên. Từ trước đến nay là nơi văn nhân đến yến ẩm, nội hoạn trong cung và công tử vương tôn, con cháu nhà giàu cũng thích tới đây xem đèn.

Năm xưa A Bảo thường tới đây cùng Triệu Tòng, chỉ vì nơi đây không chỉ tiện cho việc xem đèn, trái cây ẩm thực cũng không tệ, nếu bước lên lầu tây nhìn phương xa còn thấy được bao quát cả cấm thành.

Bởi vì là khu vực tiếp giáp đại nội, chi phí trong lâu tất nhiên cũng không rẻ. Hôm nay Lương Nguyên Kính lại dẫn nàng đến đây, có phải đã chịu chút kí.ch thí.ch gì hay không?

A Bảo đi đường nửa tin nửa ngờ, theo chàng tiến vào lâu.

Phàm là tửu lâu kinh thành, lầu một thường dành cho khách ghé tạm, lầu hai mới là nhã các. Tiểu nhị quen biết Lương Nguyên Kính, vừa thấy chàng đã dẫn người lên lầu hai.

Hành lang dài hai bên Nam Bắc gần giếng trời, có không ít kỹ nữ trang điểm đậm ngồi đó, nhìn thấy Lương Nguyên Kính, họ đồng loạt reo lên rồi ùa tới, luôn miệng gọi “Lương công tử”, từng đôi tay trắng mịn móng tay sơn hồng vươn ra chạm sờ lên người chàng.

A Bảo trước đây đến phàn lâu đều có nội thị dọn đường, nên đây là lần đầu tiên gặp phải tình huống náo nhiệt này, thoáng chốc khiếp sợ, hoảng hốt la: “Làm gì? Làm gì vậy?”

Nhóm kỹ nữ dĩ nhiên không thấy nàng, từng tay xuyên qua người nàng, hướng tới tiếp đón Lương Nguyên Kính.

“Lương công tử, lâu rồi không gặp chàng nha.”

“Lương công tử, chừng nào mới vào phòng vẽ tranh cho nô gia đây?”

“Đi thôi, Lương công tử, tới phòng em trước nha.”

“Tới phòng em cơ.”

“Tránh ra hết, tôi tới trước mà.”

Chúng kỹ nữ không hợp cạ nhau. Vì tranh giành Lương Nguyên Kính mà vung tay đánh nhau, còn có người thừa nước đục thả câu, thừa dịp hỗn loạn âm thầm trộm cắp, chiếm không ít tiện nghi của Lương Nguyên Kính.

A Bảo nghĩ mà buồn cười, tôi còn chưa sờ qua, vậy mà đã có người giành sờ trước. Lúc này mới dẫn đầu, vén tay áo nhảy chắn trước người Lương Nguyên Kính, hung thần ác sát quát: “Đừng chạm vào anh ấy! Cô! Tay của cô nữa! Tôi thấy hết! Chớ có sờ tới! Mau gọi người đi! Có người vô lễ! Có người vô lễ với phụ nam nhà lành kìa!”

“……”

Lương Nguyên Kính cẩn thận nghiêng người, dồn hết sức tránh đi những bàn tay sờ tới kia, trong hỗn loạn còn nghe thấy tiếng tiểu nhị sụp đổ gào khóc: “Đừng có sờ nữa! Sờ lầm người rồi! Ui da! Ai véo mông ông đó!”

Hai người một quỷ thập tử nhất sinh, vất vả lắm mới đi qua khỏi hành lang dài, chọn trốn vào một căn phòng nhỏ. Cửa vừa đóng lại đã dựa vào đó thở phào một hơi.

A Bảo lửa giận đầy bụng, muốn kéo lỗ tai Lương Nguyên Kính lên hỏi, có phải tất cả kỹ nữ của thành Đông Kinh này đều quen biết chàng không, Lương đại nhân đúng là tiếng tăm bay xa mà!

Nhưng khi ánh mắt quét qua chỗ ngồi sát cửa sổ, không khỏi chau mày, thầm nghĩ: <i>“Tên tiểu nhị này sao thế? Phòng này có người rồi còn dẫn bọn ta vào làm gì?”</i>

“Đúng là cậu rồi.”

Người nọ đang đứng bên cửa sổ ngắm phố xá chậm rãi xoay người, tóc mai nhiễm sương bụi, gương mặt chữ điền hiền hậu chất phác mang theo nụ cười tươi ấm áp quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn.

“Anh còn tưởng rằng mình nhận lầm thư, Lương tiên sinh, đã lâu không gặp.”

A Bảo đứng ngây ngốc tại chỗ, hai chân chưa đeo chì, không thể di chuyển được bước nào.

Sao lại thế này?

Là mơ sao?

Nhưng mà quỷ hồn sẽ không nằm mơ.

Nàng thất thố nhìn Lương Nguyên Kính, chàng gật đầu với nàng.

A Bảo bước đi nặng nề, mỗi bước chân như treo ngàn cân, nàng lê từng bước một đi về phía người nọ bên cửa sổ, không dám tin nâng tay lên, sờ sờ lên gương mặt trong trí nhớ vào giữa hư không.

Nàng y như chim non nhào vào lòng ngực anh, nhắm mắt lẩm bẩm: “A ca……”

**

“Sao lại thế này? A ca của tôi sao ở đây? Anh ấy nói ‘nhận lầm thư’ à? Thư gì thế? Thư anh gửi anh ấy á? Anh quen a ca của tôi hả?”

A Bảo quả thực thấy cực kỳ hưng phấn, từng câu hỏi lần lượt nhảy ra, lại bay hai ba vòng quanh nội các.

Lương Nguyên Kính bị nàng làm cho choáng váng đầu óc, vội ngăn lại nói: “Chờ chút, em bình tĩnh lại đi.”

Lý Hùng lạ lẫm nói: “Bình tĩnh cái gì? Anh rất bình tĩnh đây.”

“Tôi không bình tĩnh nổi! Tôi vui quá đi mất! Há!”

A Bảo bay lên xà nhà chơi đánh đu, chốc nữa lại ghé vào đầu vai của Lý Hùng, giống như tiểu hồ ly thân mật cọ xát, “A ca, em gặp được anh rồi, tốt quá, em rất nhớ anh.”

Lương Nguyên Kính mỉm cười: “Trong tộc của tôi có vị đường huynh, từng giữ chức Tư hộ Tham quân dưới quyền Lý Tri châu. Lúc Lý Tri châu được điều đến Sở Châu nhậm chức, cũng từng dẫn anh ấy đi cùng. Tôi viết thư hỏi thăm tung tích huynh trưởng của em, biết được năm xưa Lý Tri châu bị biếm xuống nên sinh lòng oán hận, đã qua đời vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ hai, sau đó huynh trưởng em di dời cả nhà đến Tuyền Châu, làm ăn buôn bán nhỏ với các hải thương, hiện đã định cư và lập nghiệp ở đó. Tôi nghe được tin này, đã nhờ người quen truyền tin giúp, mời anh ấy tới Đông Kinh một chuyến.”

“???” Lý Hùng hoảng sợ quay đầu lại, “Cậu nói chuyện với ai đó?”

“Anh ta đang nói chuyện với em,” A Bảo nói, lại tò mò hỏi Lương Nguyên Kính, “Anh và a ca, là người quen cũ à?”

Lương Nguyên Kính “Ừm” một tiếng, rũ mắt xuống đáp: “Năm xưa có từng may mắn gắn bó.”

A Bảo thầm nghĩ quái thật, chàng quen biết a ca, sao mình lại không biết? Chẳng lẽ gặp nhau vào mấy năm nàng rời khỏi Dương Châu?

Lương Nguyên Kính ngước mắt hỏi: “Muốn gặp mặt anh ấy không?”

“Tôi… Tôi không biết.”

A Bảo có chút do dự, xoay người nhìn Lý Hùng.

Mặt anh đầy ý ‘muốn nói lại thôi’, chắc đang cho rằng Lương Nguyên Kính điên rồi, nói câu nào nghe cũng không hiểu.

Khi còn nhỏ a ca hay tín phụng quỷ thần, thường kể cho nàng nghe chuyện xưa về yêu ma quỷ quái, giờ thì nàng đã chết, một vong hồn nếu thình lình xuất hiện trước mặt anh, khiến anh sợ hãi thì làm sao đây?

Hơn nữa, nếu một ngày nào đó mình phải đi đầu thai chuyển thế, cần gì phải hoàn hồn biến thành người, cho anh một niềm hy vọng không nên có.

A Bảo nghĩ ngợi hồi lâu, thế nhưng càng nghĩ càng thấy không nên xuất hiện trước mặt a ca, nàng đắn đo không quyết định được, đành bất lực nhìn về phía Lương Nguyên Kính.

“Làm sao bây giờ? Tôi nên gặp hay không gặp?”

“Gặp đi,” Lương Nguyên Kính nói, “Chẳng phải đây là tâm nguyện của em sao.”

Chàng lấy giấy và bút mực từ rương gỗ ra, trải lên bàn gỗ hoa lê, chuẩn bị vẽ tranh.

Lý Hùng không hiểu gì sất: “Lương tiên sinh, cậu đang…”

“Xin chờ một lát.”

Lương Nguyên Kính nói xong, sau đó trải giấy ra đâu vào đấy, nghiền mực, chấm bút, cổ tay run nhẹ, một nét mực xuất hiện trên giấy trắng Tuyên Thành.

Lý Hùng đứng bên cạnh không nói lời nào, trong lòng lại nói thầm, không biết Lương Nguyên Kính này đang giả thần giả quỷ cái gì nữa, bao năm không gặp, nhìn thế nào cũng giống như thần trí có vấn đề.

Nhưng mà càng nhìn, đôi mắt anh trừng lớn, “Từ từ đã, cậu vẽ……”

A Bảo thò lại gần nhìn, cũng ‘ô’ một tiếng: “Sao anh vẽ thành hình tôi?”

Phải biết rằng, ngày thường A Bảo lên phố, vì tránh bị người khác nhận ra, chàng sẽ chỉ vẽ lại hình người có bốn năm phần tương tự nàng hồi xưa, có khi vẫn giống với một người hoàn toàn xa lạ.

Tỷ như đêm Thất Tịch lần trước, chàng vẽ nàng thành một thiếu niên lang tuấn tú. Ngày hội Ngưu Lang Chức Nữ, trên đường nhiều nam thanh nữ tú, duy chỉ bọn họ hai ‘người nam’ dạo phố cùng nhau, dẫn tới vô số cái ghé mắt từ người đi đường.

<i>“Chắc là vì muốn mình gặp a ca nên mới cố ý vẽ dáng hình trước kia của mình.”</i> A Bảo thầm nghĩ.

Cảm giác nhìn mình trong tranh không giống như lúc nhìn vào gương, huống hồ A Bảo đã lâu rồi chưa soi gương, thì ra dưới ngòi bút của Lương Nguyên Kính, mình trông như này, nàng yên lặng nghĩ.

Người trong tranh vô cùng xinh đẹp, đôi mày cong như trăng non, tròng mắt đen như mực, vừa trong trẻo lại có thần, đáng chú ý nhất chính là đôi môi anh đào kia, môi trên mỏng, môi dưới hơi dày, giữa môi còn có cục châu, hơi chu chu, như vui như giận, lộ ra ba phần xinh đẹp, bảy phần ngây thơ.

Nàng mặc một bộ áo ngắn màu trắng như trăng, dưới mặc áo váy tím nhạt thêu hình chữ vạn, cánh tay choàng dải lụa, trong tay cầm quạt lụa, mặt quạt thêu hình thỏ ngọc dưới trăng.

Lương Nguyên Kính vẽ đẹp như vậy, người trong họa sinh động như thật, tựa như muốn hồi sinh sống lại.

Hai mắt Lý Hùng đỏ ngầu, bất giác cúi thấp đầu nhìn kỹ hơn, cách bức hoạ càng gần, trong nháy mắt thấy có chút ánh sáng chợt lóe, trong tay Lương Nguyên Kính cầm con dao nhỏ, kéo tay áo lên, muốn tự cắt lên cánh tay trái của mình.

“! ! ! ! !”

“Lương công tử! Cậu làm gì vậy?!”

Lý Hùng hoảng sợ nhìn chàng, tính giật lấy con dao kia, lại sợ hai bên tranh chấp gây tổn hại cho nhau, chỉ có thể đứng yên khuyên can: “Có gì cậu từ từ nói, đừng xúc động! Bỏ dao xuống!”

“Tôi không sao.”

Lương Nguyên Kính đang bận trộn, dành chút thì giờ đáp anh một câu.

A Bảo từ bên cạnh nhìn tới, không hiểu vì sao có hơi không đành lòng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Nhỏ ít máu thôi.”

Lương Nguyên Kính rũ mắt: “Ừm.”

Lưỡi dao sắc bén đặt lên làn da, trong khoảng khắc cắt ra một lằn nhỏ, máu đỏ tươi theo cánh tay chàng uốn lượn chảy xuống, nhiễu vào tranh vẽ, như ‘các con sông đổ về một biển’, hình thành một cái xoáy nước diệu kỳ. Sau đó bị hấp thụ sạch sẽ, mỹ nhân trong tranh cũng biến mất theo, chỉ còn tờ giấy Tuyên Thành trắng như tuyết.

Lý Hùng: ?????

Anh dùng tay áo chùi chùi mắt, xong tập trung nhìn lại.

Không đúng, vẫn trống trơn!

Người đâu? Người lớn trên giấy vẽ đâu?

Sao lại thế này? Chẳng lẽ không phải Lương Nguyên Kính điên mà là anh? Hay tối qua ngủ không ngon nên xuất hiện ảo giác?

Lý Hùng mặt mày ‘nghi ngờ nhân sinh’, chợt nghe phía sau truyền đến tiếng gọi nhẹ: “A ca.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 28: Ngất xỉu


“A ca.”

A Bảo nắm chặt tà váy, vừa khẩn trương vừa chờ mong nhìn ca ca.

“Em…” Lý Hùng hít hà một hơi, run rẩy hỏi, “Em là A Bảo?”

“Phải! Là em!”

A Bảo gật đầu như giã tỏi, hận không thể phi lên ôm chầm lấy a ca, nhưng lại lo làm anh sợ, trong khoảng thời gian ngắn không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Lý Hùng chỉ vào nàng, quay đầu hỏi Lương Nguyên Kính: “Cậu thấy được không? A Bảo đứng chỗ đó đó.”

Lương Nguyên Kính nói: “Thấy được.”

“Ra là vậy.”

Lý Hùng bi tráng gật đầu một cái, tiếp đó hai mắt trợn lên, ngất đi.

A Bảo: “! ! !”

Lương Nguyên Kính: “…………”

“A ca!” A Bảo la lên, nhào qua đẩy đẩy anh, “A ca! Anh sao vậy?”

Lý Hùng nhắm nghiền hai mắt, bất tỉnh nhân sự.

Nước mắt A Bảo lập tức rơi ra, hoảng loạn thất thố nói: “Tôi… Tôi hù chết a ca rồi.”

Lương Nguyên Kính thử đặt tay dưới chóp mũi của Lý Hùng, nói: “Chưa chết, chỉ ngất đi thôi.”

Hai tay chàng luồn qua nách Lý Hùng, kéo anh lên giường mềm trong phòng.

A Bảo vốn định tiến lên phụ một chút, lúc này vang lên tiếng gõ cửa.

Một phụ nhân trung niên đầu búi tóc vãn nguy, eo thắt khăn thanh hoa cười cười tiến vào, trong miệng nói: “Lang quân vạn phúc, thiếp cho…”

Thấy rõ cảnh tượng trong phòng, ý cười khóe miệng của phụ nhân cứng lại, ngơ ngác bổ sung xong lời nói: “… Rót rượu tới.”

A Bảo đang giúp nâng chân Lý Hùng lên, nghe vậy quay đầu lại, vẻ mặt hấp tấp: “Hả? Chúng tôi đâu kêu người rót rượu, vào nhầm phòng rồi à?”

“Không… Không phải,” Lương Nguyên Kính mệt thở hồng hộc, giải thích nói, “Bà ấy là tuấn tao.”

“Tuấn tao là cái gì?” A Bảo hỏi.

“Là……” Lương Nguyên Kính bất lực nói, “Tóm lại em đưa trước cho bà ấy chút tiền thưởng để bà ấy rời đi đi.”

A Bảo tuy chưa hiểu gì nhưng vẫn làm theo lời chàng nói, lấy mấy chục văn tiền từ túi tiền của chàng, thưởng cho phụ nhân kia.

“Đa tạ nương tử.”

Phụ nhân hơi nhún người hành lễ, cười lui xuống.

Lương Nguyên Kính hao tổn sức lực một hồi sau mới đưa Lý Hùng lên giường xong, lúc này quay sang giải thích cho A Bảo.

Hoá ra ‘tuấn tao’ là nghề mới nổi trong mấy năm gần đây ở thành Đông Kinh, phụ nhân láng giềng trong nhà không có việc gì làm, vì trợ cấp cho gia đình sẽ ra vào các tửu lâu, đổi canh rót rượu cho khách đổi lấy chút tiền thưởng.

A Bảo thầm nghĩ ra là vậy, đúng là sống lâu cái gì cũng nhìn thấy, xong lại hỏi: “Tửu lâu cũng để cho các nàng ra vào tự do à?”

“Đa số là vậy,” Lương Nguyên Kính nói, “Tửu lâu cũng có thể rút bớt tiền thưởng mà họ có được.”

A Bảo đột nhiên hiểu thấu, sau đó phản ứng lại, không đúng nha, sao nàng còn nói chuyện với Lương Nguyên Kính chứ? Hiện tại quan trọng nhất là cứu a ca mới phải!”

“A ca, tỉnh lại?”

Nàng tiến lại vỗ vỗ mặt của Lý Hùng vẫn không thấy anh phản ứng gì.

“Làm sao đây? Vẫn chưa tỉnh.” A Bảo nghiêng đầu hỏi Lương Nguyên Kính, “Anh nói tạt nước lên có tác dụng không nhỉ?”

Lương Nguyên Kính nói: “Có thể thử.”

A Bảo nói là làm, lập tức xoay người lấy ấm trà từ trên bàn, không màng tất cả tạt lên trên mặt của Lý Hùng.

“!!!”

Lương Nguyên Kính bị nàng làm cho hoảng sợ, sờ sờ ấm trà, còn ổn còn ổn, nước trà chỉ âm ấm thôi.

Lý Hùng hoàn toàn không có dấu hiệu tỉnh lại.

A Bảo gấp đến mức chạy quanh phòng, Lương Nguyên Kính lấy khăn tay, lau khô vệt nước đọng trên mặt Lý Hùng, lúc này cửa phòng lại bị người ta đẩy ra.

Nhóm thiếu nữ 17-18 tuổi trang điểm ăn mặc lộng lẫy ùa vào, tay cầm những tấm thẻ ngà đỏ, trong ngực còn ôm đàn tỳ bà đuôi phượng, không mời mà đến, cười nói rôm rả: “Lang quân vạn phúc, các nô gia tới hầu…”

Thấy Lương Nguyên Kính đang cầm khăn, chuyên chú tinh tế lau mặt cho một đại hán cao bảy thước, nhóm kỹ nữ đồng thời im bặt, nuốt nửa lời còn lại xuống bụng.

“……”

A Bảo không cần đợi Lương Nguyên Kính phân phó nữa, tự lấy tiền ra đưa cho các nàng, để bọn họ lui xuống.

“Những người này là ai?”

“Tráp khách.” Lương Nguyên Kính nói.

Tráp khách, chuyên chỉ các kỹ nữ hạ đẳng không mời mà đến, biểu diễn đàn hát cho khách hàng, hoặc ngồi xuống hầu rượu, những người này dựa vào việc tán gẫu với khách nhân, mượn cớ xin thêm chút tiền thưởng, còn được gọi là ‘ngồi tiếp rượu’.

“Giống với nhóm người chúng ta gặp lúc lên lầu á?” A Bảo hỏi.

“Không giống, kia là ca kỹ tửu lâu nuôi.”

Điểm khác nhau đó là ca kỹ chủ quán tự nuôi, tên họ đều ghi trên Quần Phương Phổ, nếu khách nhân có yêu cầu có thể chỉ vài cái tên tới làm bạn uống rượu, còn ‘tráp khách’ là không mời mà đến, xuất thân phố phường, phần lớn đều là bần gia nữ tầng lớp thấp, tuổi còn nhỏ đã sa đọa nhuốm bụi trần.

A Bảo phát hiện hiện giờ thành Đông Kinh, so với lúc mình còn sống đã biến hoá đi rất nhiều, trong đó có chút bất đồng lớn, chính là phong cách chơi gái thịnh hành khắp nơi.

Phố Mã Hành có chợ Liêu Nhi, các ngõ Đông Tây Kê Nhi, có nhiều kỹ viện.

Tửu lâu hơi lớn càng là nơi bắt đầu làm kỹ nữ trắng trợn táo bạo, cửa treo một ngọn đèn sa vàng, tức là trong lâu có kỹ nữ, nhưng chỉ dành cho khách gọi rượu.

Vương tôn công tử, hào thân cự cố rất thường dẫn kỹ nữ đi chơi, dựa vào sắc đẹp, đắm chìm trong hương thơm mềm mại này vô bờ bến. Những người như Lương Nguyên Kính, trốn còn không kịp, tránh nữ nhân như hổ dữ có lẽ vẫn có, nhưng cũng chỉ như lông phượng sừng lân mà thôi.

Một điểm khác nữa, số người nhàn rỗi ở kinh thành, suốt ngày ăn no rồi đi chơi còn nhiều hơn trước.

Biết rằng, loại nghề như ‘tuấn tao’, ‘tráp khách’, nếu ở luật pháp nghiêm minh ở hai triều Thái Tổ Thái Tông, tuyệt đối sẽ không thể nào xuất hiện.

A Bảo không khỏi nghĩ, ngoài tuấn tao tráp khách ra, còn có gì khác nữa không nhỉ?

Quả nhiên, vừa nghĩ đến điều đó, ngoài cửa lại có hai vị khách không mời xông vào, cõng túi thuốc, bưng một thùng rượu bạc, miệng rao ra rả: “Thuốc tráng dương gia truyền đây, không màu không mùi, có thể uống trực tiếp hoặc pha với rượu, uống xong cường tráng lâu dài, hiệu quả tức thì, mời thử một lần nha, không hiệu quả không lấy tiền…”

A Bảo: “………”

Đây là trêu nàng chắc? Sao còn bán cả thuốc tráng dương nữa?!

Hai người kia vào phòng, thấy Lương Nguyên Kính nằm trên người một đại hán, hình như đang cởi cúc áo, hán tử kia hôn mê bất tỉnh, trên mặt còn hơi ẩm ướt do dính nước, không khí tức khắc trở nên an tĩnh.

Khoan đã!

A Bảo đột nhiên ý thức được tình huống này rất dễ gây hiểu lầm, chạy nhanh vươn tay nói: “Hai vị nghe tôi nói đã, chuyện không phải như những gì hai người nghĩ đâu!”

Hai người kia liếc nhau, nhanh chóng sửa lại lời: “Thuốc tráng dương gia truyền đây, Long Vương cũng thấy hiệu quả, bất luận là trên hay dưới, uống vào rồi tình thế chao đảo, không biết trời đất là gì…”

A Bảo: “…………”

Lương Nguyên Kính xuống giường, dùng tốc độ nhanh nhẹn trước giờ chưa từng có chạy đến bên cạnh A Bảo, lấy túi tiền từ trong tay nàng nhét hết vào ngực hai người đó, sau đó quăng họ ra khỏi ngoài, lưu loát đóng cửa lại.

Cánh cửa vang lên ‘rầm’, ngay cả bụi tường cũng rớt xuống không ít.

Lương Nguyên Kính thở hổn hển, mặt đỏ như cua nấu chín, đỏ thửng tới tận cổ nhìn A Bảo, lồng ng.ực phập phồng bất định.

A Bảo không biết nên khóc hay cười: “Hai người đó là thần tiên phương nào?”

Lương Nguyên Kính bình tĩnh lại, đáp: “Rải tạm.”

Rải tạm, vẫn không mời mà đến, chuyên môn chào mặt hàng như xuân dược, quả khô, củ cải, trái cây cho khách uống rượu, cũng không hỏi khách có mua không, trực tiếp bỏ thuốc vào rượu, nếu có hiệu quả tại chỗ sẽ đòi tiền ngay.

A Bảo nghe xong nghẹn họng trăn trối.

Sao còn có loại người này nữa, đây đâu phải thuận mua vừa bán? Nhỡ có người uống xong thật sự có tác dụng, chẳng phải sẽ xấu hổ chết người ta hay sao, giả sử vừa rồi Lương Nguyên Kính mà uống…

Dừng lại!

Loại chuyện này không nên suy nghĩ sâu xa hơn đâu.

A Bảo che đôi má ửng đỏ, nhìn như được trát phấn, ngẩng đầu thì thấy mặt Lương Nguyên Kính vẫn còn đỏ! Thậm chí còn đỏ hơn lúc nãy nữa!!

Làm gì đó? Chàng đỏ cái gì mà đỏ?!

Nội tâm A Bảo hò hét muốn điên lên.

Ánh mắt hai người va vào nhau, đều ho nhẹ một tiếng, mất tự nhiên quay đầu đi.

“Có người không?” Ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ cửa.

“…………………”

“Không có!” Lương Nguyên Kính quay đầu nói.

“Không cần!” A Bảo đồng thời quát.

Người nọ ngoài cửa yên tĩnh một lát, sau đó đi tới phòng bên cạnh, trên hành lang mơ hồ có tiếng nói chuyện truyền đến: “A di đà phật, vị thí chủ này, bần tăng thấy ấn đường thí chủ hơi tối, sắp tới có thể gặp phải tai ương đổ máu. Ở đây tôi có một chuỗi châu Phật đàn, được Trí Huyền đại sư chùa Khai Bảo khai quang, xua đuổi chướng khí, tránh được tai nạn, thí chủ thấy cần không…”

“……”

A Bảo kéo cửa ra, thăm dò hỏi: “Nè, đại hoà thượng, chuỗi Phật châu này bao nhiêu tiền vậy?”

Hoà thượng đang xem chỉ tay cho người ta quay đầu lại, thấy A Bảo, chắp tay trước ngực, cười tủm tỉm nói: “A di đà phật, thì ra là tiểu nương tử A Bảo.”

**

Lý Hùng ngất đi tỉnh lại, mở mắt ra trông thấy gương mặt hiền từ của hòa thượng trẻ tuổi, bên má phải còn có một lúm đồng tiền sâu.

Sao lại thế này? Đây là đâu? Anh là ai?

Hình như là ở phàn lâu, vừa mới thấy đứa em gái đã chết hơn ba năm của mình……

Hòa thượng ôn hoà nói: “Thí chủ, anh khỏe chưa? Vừa rồi thấy anh ngất xỉu nên tiểu tăng có châm kim cho anh.”

Lúc này Lý Hùng mới lấy lại tinh thần, ngơ ngác nói: “Đa tạ tiểu sư phụ……”

Lúc này một khuôn mặt xinh đẹp ló ra từ sau lưng hòa thượng: “A ca?”

“! ! !”

“Quỷ kìa!” Lý Hùng kinh hoàng nhảy dựng trên giường.

A Bảo cũng bị anh hù sợ, nhìn bốn phía trái phải: “Quỷ? Ở đâu? Chỗ nào có quỷ?”

Lương Nguyên Kính ‘khụ’ một tiếng, nhắc khéo nói: “Anh ấy chắc nói em đó.”

“À!” Nàng mới kịp phản ứng lại, chỉ vào mình nói, “Anh nói em hả? A ca, em không phải quỷ, em là A Bảo mà, không phải, bây giờ em là người, chờ chút nữa mới là quỷ…”

Lý Hùng ngạc nhiên nghi ngờ không yên nhìn nàng: “Em… Rốt cuộc em là người hay quỷ vậy?!”

A Bảo căng căng môi, cuối cùng bối rối nói: “Em cũng không biết.”

“Thí chủ đừng vội,” Giác Minh hoà thượng hào quang phát sáng, mỉm cười trấn an Lý Hùng, “Nghe tiểu tăng từ từ nói đã.”

Trôi qua một nén nhang.

Lý Hùng trợn to hai mắt, vừa không dám tin, vừa kinh ngạc vui mừng nhìn A Bảo: “Em chưa chết?”

A Bảo nói: “Không phải không phải, em chết rồi.”

Lý Hùng: “Vậy giờ em sống à?!”

“Cái đó… Cũng không phải,” A Bảo chột dạ, “Nhờ Lương Nguyên Kính dùng máu vẽ tranh, em mới có thể…”

Những lời còn lại trôi xuống miệng, bởi vì Lý Hùng đã ôm chầm nàng vào lòng.

“A Bảo à! Em hù chết ca ca rồi! Em biết không? Không chết là tốt! Không chết là tốt! Đi theo a ca, đừng ở lại thành Đông Kinh ăn thịt người này nữa, a ca nuôi em! Hiện tại a ca kiếm được rất nhiều tiền, có nhà lớn…”

Hán tử hơn 40 tuổi, cao hơn bảy thước, thế mà ôm lấy A Bảo khóc lóc thảm thiết, trong lời nói toàn là hối hận, hối hận lúc trước không nên để A Bảo một mình đến Đông Kinh, hối hận không nên để nàng ở lại kinh thành, ngay cả một người nhà mẹ đẻ có thể dựa vào cũng không có.

Lương Nguyên Kính và Giác Minh hoà thượng không biết đã lặng lẽ ra khỏi phòng từ bao giờ, A Bảo căng căng môi, cuối cùng cũng chưa nói gì, không muốn lìa xa dựa vào lồng ng.ực ấm áp của ca ca, sườn mặt dính sát vào ngực anh.

Giờ khắc này, nàng như một người lữ hành đơn độc lẻ loi đi giữa trời gió tuyết lớn cuối cùng cũng về được tới nhà.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 29: Nhận ra


“A ca, chân anh tốt hơn chưa?”

Lý Hùng dứt khoát quay đầu đi, khi quay đầu lại phiếm mắt đã ửng đỏ, “Rồi.”

“Vậy thì tốt.”

A Bảo hơi mỉm cười, lại hỏi: “Anh lập gia đình chưa?”

“Rồi.”

“Thật à?” A Bảo mở to hai mắt, cảm thấy vui cho anh từ tận đáy lòng, “Tẩu tẩu là người thế nào ạ?”

Lý Hùng nói: “Nàng là người dân Tuyền Châu, con gái của nông dân trồng chè, công phu pha trà rất tốt, trước kia anh uống trà do nàng pha xong mới quyết tâm cưới người về, sau này nếu có cơ hội, cũng sẽ cho em uống thử.”

Lý Hùng hốc mắt ươn ướt, lấy tay áo quẹt quẹt, nghiêm túc nói: “A Bảo, tẩu tẩu chắc chắn rất thích em.”

“Em cũng chắc chắn thích chị ấy,” A Bảo vô cùng khẳng định, “A ca, anh và tẩu tẩu có con chưa?”

“Có đứa con gái, bướng bỉnh y như em hồi nhỏ.”

“Con gái tốt,” A Bảo cười nói, “Con gái lớn rồi biết thương cha.”

Nàng nhìn nhìn trên dưới người mình, vốn định lấy vòng tay hay trâm cài gì đó làm lễ vật tặng cho cháu gái nhỏ.

Chợt nhớ tới, mình chỉ là một vong hồn, mặc dù nhờ tranh hồi dương lại nhưng chung quy vẫn không phải người sống. Một khi máu của Lương Nguyên Kính hết hiệu lực, nàng sẽ trở lại thành hồn phách, thân thể này bám vào mỹ nhân trên giấy vẽ, dù nàng có tháo trang sức xuống, đến giờ rồi cũng sẽ biến mất theo.

“Xin lỗi anh nhiều, a ca.” A Bảo áy náy nói, “Em không có gì để cho con gái anh hết.”

Lý Hùng trừng mắt lên: “Em nói cái này làm gì?”

A Bảo cười cười hỏi tiếp: “Đặt tên chưa ạ? Tên là gì?”

Lý Hùng nói: “Tên đầy đủ là Lý Thanh, tên mụ cũng giống em, gọi là ‘A Bảo’.”

“A Bảo, A Bảo.”

A Bảo lẩm bẩm đọc hai lần, cười nói: “Lại thêm một tiểu A Bảo nữa.”

Hai người đều không hẹn cùng nhớ về chuyện hồi nhỏ. A Bảo năm hai ba tuổi dính người đến sợ, đi chỗ nào cũng để ca ca ôm, người trong thôn Lý gia thường xuyên thấy trên chân Lý Hùng treo thêm một hạt đậu nhỏ nên hay chê cười anh.

Khi đó Lý Hùng cũng không lớn là bao, thiếu niên nhỏ tuổi da mặt mỏng, bị người ngoài trêu ghẹo hai ba câu đã đỏ mặt, muốn nổi nóng với A Bảo. Thông thường mới vừa rầy một tiếng, A Bảo đã khóc thét lên cực dữ dội, làm anh không giận nổi, phải cõng nàng lên lưng dỗ dành.

Lớn hơn chút nữa Lý Hùng học trường tư thục trên trấn, mỗi ngày A Bảo đều mang ghế gấp nhỏ ra ngồi dưới cây hòe lớn cửa thôn đợi anh về Từ sau giờ ngọ [1] chờ đến khi mặt trời lặn.

<i>[1] Từ 11g đến 13g.</i>

Vừa nhìn thấy bóng dáng Lý Hùng đã chạy như bay lại, giống chú chó nhỏ vây quanh anh kêu ‘A ca a ca’, lục lọi cặp sách xem xem anh có mua gì cho nàng ăn không, sau đó cưỡi lên lưng anh, ra lệnh anh cõng nàng về nhà.

Lý Hùng chỉ có thể nhẫn nại cam chịu cõng nàng đi về nhà, trong ánh chiều tà hoàng hôn, bóng hình hai anh em hằn ngược lại kéo ra rất dài trên con đường nhỏ.

A Bảo mỉm cười từ trong hồi ức bước ra, đột nhiên nhớ tới hỏi: “Phải rồi, a ca, sao anh bắt đầu làm ăn hải thương vậy?”

Lý Hùng thở dài: “Cái này cũng nhờ vào hôn phu của Thôi nương tử, năm đó do anh ta nâng đỡ anh…”

A Bảo vội hỏi: “Thôi nương tử sống tốt chứ ạ?”

“Cô ấy sống rất tốt,” Lý Hùng khẽ cười đáp, “Hai năm trước, vợ lớn của chồng cô ấy qua đời nên đã nâng cô ấy lên làm chính thất, năm ngoái còn có thêm một tiểu tử mập mạp, đặt tên là Vinh Ca Nhi.”

“Lớn lên giống ai? Thôi nương tử hay tên râu xồm?”

“Mặt mũi giống Thôi nương tử hơn.”

“Cảm tạ trời đất.” A Bảo nhất thời thở phào nhẹ nhõm.

“……”

“A Bảo,” Lý Hùng chau mày ngập ngừng hỏi, “Năm đó em……”

“Muốn hỏi em chết như thế nào đúng không?”

A Bảo hiểu ý tiếp lời, lông mi hơi hơi rũ thấp, đáy mắt hiện lên một hình bóng nhỏ vòng cung.

“Em mắc bệnh nặng, a ca.”

Hai mắt Lý Hùng rưng rưng, bỗng nhiên hung ác đấm một cái lên bàn: “Sớm biết thế này, lúc trước anh đã không nên để em một mình đến thành Đông Kinh mà.”

A Bảo hoảng sợ, vội vàng kéo tay anh: “Đều đã qua rồi, a ca, em không sao. Hơn nữa, năm đó anh vất vả lắm mới an ổn ở Dương Châu, thật ra cũng không nên…”

“Không! Đó là giả! Gạt em thôi!”

A Bảo sửng sốt.

Đôi mắt Lý Hùng đỏ ngầu nhìn nàng: “Năm đó, anh tính theo em vào thành Đông Kinh, đã thu xếp hành lý xong rồi, ngay cả phòng thuê cũng trả lại, ai ngờ Tuyên Vương điện hạ… Không, hiện tại là quan gia mới phải, y phái người tìm tới, kêu anh đến Phan Viên, từ bỏ ý định theo em đến Đông Kinh.”

“Sao ạ?”

A Bảo hoàn toàn ngây dại, nàng cũng không biết chuyện này còn có uẩn khúc lớn tới vậy. Năm xưa nàng vẫn hay nghĩ a ca ngại nàng phiền, không thích đi theo sau phải chạy ngược chạy xuôi chăm sóc nàng nên mới để nàng tự mình đến Đông Kinh.

Ngay cả Triệu Tòng cũng nói với nàng như vậy, hắn còn trấn an nàng, a ca không cần nàng nhưng hắn thì cần, hắn sẽ luôn ở bên cạnh chăm sóc nàng.

“Nhưng mà sao Triệu Tòng lại như vậy…”

A Bảo chưa hỏi xong đã đoán ra đáp án.

Cần gì hỏi thêm, nguyên nhân đã rõ ràng thế rồi.

Nàng từng là con dâu nuôi từ bé của Lý Hùng, tuy chỉ mới nói miệng, hai người họ cũng không phát sinh thêm gì khác. Nhưng vì tị hiềm, vì thể diện hoàng thất, vì thân phận giả ‘Lý Uyển’ không bị vạch trần, Lý Hùng nhất định không thể đi Đông Kinh, thậm chí nên cách nàng càng xa càng tốt.

Lý Hùng nức nở nói: “Năm đó, anh ra bến đò đưa em lên thuyền, nói cuối năm sẽ đến Đông Kinh thăm em, nhưng đến ngày anh lên đường, Lý Tri châu lại phái người tới, giam anh lại trong phủ suốt mười ngày nên đi không được… Sau này, anh viết không ít thư cho em, trước sau cũng không thấy em trả lời, A Bảo, có phải em thấy giận ca ca không?”

A Bảo ngẩn ngơ mê mang: “Thư gì ạ?”

Lý Hùng vội hỏi: “Em không nhận được?”

A Bảo lắc đầu, nàng chưa từng biết a ca có gửi thư cho mình.

Năm đó, nàng ở Đông Kinh chờ đợi mòn mỏi không thấy a ca làm theo hứa hẹn tới thăm nàng, tức giận ném cây trâm như ý bạc anh đưa. Ném xong lại hối hận, nửa đêm chạy tới hậu uyển vương phủ tìm, nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy.

Đêm hôm ấy tuyết lớn, nàng ngồi trong bụi hoa lộn xộn, khóc như đứa trẻ không tìm được nhà.

Còn vương phủ vì nàng biến mất mà nhốn nháo như người ngã ngựa chết. Tiếng khóc khiến Triệu Tòng hoảng sợ, hắn ôm nàng vào trong phòng, vừa kêu người đi mời đại phu, vừa dịu dàng an ủi nàng, cây trâm mất không sao cả, sau này hắn sẽ cho người đánh cho nàng cái tốt hơn.

Sau này, hắn quả thật tặng nàng cái tốt hơn. Cây trâm dùng ngọc hiếm chế thành, mời thợ thủ công tốt nhất Đại Trần đến, dốc lòng tạo hình mất nửa năm, trên nạm trân châu, mã não, ngà voi, cực kỳ xa hoa, trên đời này không có nữ nhân nào là không mơ ước.

Cây trâm ngọc đó sau này lại bị A Bảo tháo xuống, gõ gõ nhẹ trên cửa sổ, cuối cùng rơi xuống gãy làm đôi.

Trong lòng A Bảo, nó luôn kém hơn cây trâm như ý bạc kia. Tuy kiểu dáng như ý rất cũ, tay nghề cũng thô sơ, năm đó lúc đeo nó vào thành Đông Kinh rồi còn bị nhóm quý nữ ngấm ngầm chê cười hồi lâu.

Thời buổi này còn ai dùng trâm bạc nữa, có th* t*c quá không, hiện giờ mọi người đều cài hoa quan, trên còn điểm xuyết trân châu ngà voi hình hoa cỏ. Đó mới là phong cách trang điểm thịnh hành nhất.

Nhưng mà mặc kệ người khác có châm biến thế nào, A Bảo vẫn không tháo nó xuống. Bởi vì đây là cây trâm như ý a ca tự tay làm cho nàng.

Trước lúc chia tay, anh nhét cây trâm vào lòng bàn tay nàng, đỏ mắt nói rằng, A Bảo à, sau này phải bảo trọng, vạn sự như ý.

Anh đưa trâm như ý cho nàng, hy vọng nàng mọi chuyện như ý, nhưng A Bảo làm mất cây trâm đó, sau này mọi chuyện cũng không được như ý nữa.

Hai mắt A Bảo đỏ bừng, rốt cuộc ‘oà’ lên gào khóc.

Từ nhỏ đến lớn, nàng vẫn luôn khóc theo kiểu này, oa oa khóc lớn, vô cùng đau thương, không khiến mình khó thở là không được.

Nàng hồi nhỏ khóc ở đầu thôn thì người cuối thôn còn có thể nghe thấy. Về sau đến thành Đông Kinh rồi, các nàng ấy nói như vậy thô lỗ quá, nói không được dạy dỗ, chỉ có người nhà quê mới khóc lóc om sòm như vậy thôi. Danh môn thục nữ mỗi lần khóc đều là thầm rơi nước mắt.

A Bảo cũng từng thử khóc thút thít như các quý nữ trong kinh, ban đầu không ra nước mắt, làm cho nàng cạn lời, đến cả khóc cũng không biết phải khóc như thế nào.

Đây là tiếng khóc lớn đầu tiên sau nhiều năm qua của nàng, vừa khóc là đã không dừng được.

Hết cách rồi, A Bảo quá tủi thân, quá khổ sở, nàng tưởng a ca không cần mình, lại không ngờ anh vẫn luôn viết thư cho nàng, còn nàng thì sinh lòng oán hận, làm mất cây trâm anh tặng.

Lý Hùng vừa thấy nàng khóc liền luống cuống tay chân, nàng là đại cô nương, cũng không thể ôm dỗ như hồi nhỏ, chỉ có thể ở cạnh lo lắng suông: “A Bảo, sao vậy? Em đừng khóc mà!”

A Bảo mặc kệ ôm lấy eo anh, dán toàn bộ nước mắt nước mũi lên vạt áo phần ngực của anh, tiếp tục oà oà khóc lớn.

Lý Hùng vụng về vỗ vỗ lưng nàng, mới xa lạ dỗ dành: “Được rồi, không khóc nữa, sau này theo a ca đến Tuyền Châu, a ca sẽ chăm sóc em.”

“Cây trâm……” A Bảo khóc sụt sùi, “Em làm mất… cây trâm anh đưa……”

Lý Hùng giật mình, thì ra nàng khóc vì việc nhỏ nhặt này, có chút dở khóc dở cười nói: “Mất thì mất thôi, a ca đánh lại cây khác cho em là được.”

A Bảo vùi vào trong lòng ngực anh, khóc hu hu.

Tiếng khóc xuyên qua cửa phòng, truyền đến lỗ tai của Lương Nguyên Kính, chàng hơi nghiêng nghiêng đầu hướng nhìn về trong phòng, trong mắt tỏ không rõ cảm xúc.

Không biết qua bao lâu, cửa phòng mở, A Bảo đi ra, đuôi mắt hồng hồng, lông mi đều bị nước mắt làm ướt, càng thêm đậm đen.

“Đại hoà thượng đâu?” Nàng hỏi.

“Đi khai triển Phật pháp rồi.” Lương Nguyên Kính đáp.

“……”

“Là đi lừa gạt mới đúng ấy.”

A Bảo nhỏ giọng nói, nàng rũ mắt nhìn xung quanh trái phải, tựa hộ có chút thẹn thùng, không dám ngẩng đầu nhìn Lương Nguyên Kính, xoắn ngón tay nói: “A ca tôi nói, gọi anh vào trong, mọi người cùng ăn một bữa cơm.”

Người trước mặt chưa lên tiếng, trong tầm mắt xuất hiện thêm một chiếc khăn sạch thêu hình trúc xanh.

A Bảo ngẩng đầu hoang mang nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính thấy nàng hồi lâu không nhận lấy thì chủ động lau mặt giúp nàng, động tác chàng rất nhẹ nhàng, ánh mắt cũng rất chuyên tâm nhìn nàng.

Trong lòng A Bảo nổi lên một trận cuồng phong quét tới

Nàng muốn nắm lấy lấy bàn tay đẹp đẽ của Lương Nguyên Kính, muốn ôm vòng eo thon chắc của chàng, muốn vùi mặt vào phần ngực chàng cọ cọ, ngửi lấy mùi đàn hương dễ chịu trên người chàng.

Không biết từ khi nào thân thể nàng vẫn luôn len lỏi chút xúc động này, muốn không màng tất cả để gần gũi Lương Nguyên Kính hơn.

Nàng biết bản thân luôn luôn có hơi dính người, nhưng đối với Lương Nguyên Kính lại khác như với a ca, nàng muốn làm nũng với a ca, còn Lương Nguyên Kính, nàng muốn làm gì đó hơn vậy nhiều.

Vào giờ khắc này đây, rốt cuộc A Bảo mới tỉnh ngộ, hoá ra mình đã thích Lương Nguyên Kính từ bao giờ.

Chuyện này đúng là không ổn tẹo nào, nàng là người chết, mà Lương Nguyên Kính còn có người trong lòng.

<i>“Chàng có người chàng thích, đừng nghĩ về những chuyện này nữa.”</i> A Bảo dặn lòng tự cảnh cáo chính mình.

<i>“Tiếc quá đi mất,”</i> Nàng tràn ngập tiếc nuối nghĩ, <i>“Nếu năm xưa ở thành Dương Châu, người bắt được đoá hoa thược dược kia không phải Triệu Tòng mà là Lương Nguyên Kính thì tốt biết mấy.”</i>

“Làm sao vậy?”

Lương Nguyên Kính thấy ánh mắt nàng thờ thẫn, có hơi lo lắng nhìn nàng: “Có phải sắp hết hiệu lực rồi không? Tôi nhỏ thêm máu nhé?”

“Không, không có,” A Bảo nói lại ngay rồi cau mày, “Mất nhiều máu không tốt cho sức khoẻ, anh đừng để chảy máu nữa.”

Lương Nguyên Kính không nói gì.

A Bảo vào cửa trước: “Đúng rồi, tôi nói với a ca mình bệnh chết, không phải… Tóm lại, anh đừng lỡ lời nhé.”

Lương Nguyên Kính đờ ra một lúc, khẽ gật đầu.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 30: Tranh cũ


Đêm về, phục vụ bắt đầu dâng món.

Cách thức dâng món của Phàn lâu cũng đặc biệt, gã sai vặt tay trái nâng ba món ăn lên nhau, cánh tay phải đưa đến vai có thể đặt hai mươi cái chén liền. Như vậy duỗi hai tay lên lầu hai cũng không chỉ không làm rớt, phần thức ăn cũng đặt đâu vào đấy, món nào ở bàn vị khách nào không hề bị nhầm lẫn.

Ở Phàn lâu ăn uống trái cây cũng không tệ, món ngon hiếm lạ, phàm là thiên hạ có, đầu bếp bọn họ hoàn toàn có thể làm ra. Nhưng được thực khách khen ngợi nhất phải nhắc đến rượu ngon trong lâu.

Vì thu thuế, Đại Trần không cho phép người dân tự ủ rượu mở xưởng bán riêng. Tửu lầu cần phải mua men rượu của quan phủ trước, sau đó mới được phép nấu đem bán.

Mỗi năm Phàn lâu mua đến năm vạn cân men từ quan phủ, sản xuất rượu và cung cấp cho 3000 cửa hàng bán lẻ. Quy mô tửu phường rất lớn, sản xuất rộng rãi ai cũng thấy rõ ràng.

Phàn lâu sở hữu hai loại rượu tự ủ, một cái là ‘Thọ mi’, cái thứ hai là ‘Hoà chỉ’, trong đó có rượu thọ mi thanh danh vang xa nhất.

Rượu có màu hổ phách, đựng đầy trong chén ngọc, thật sự có cảm giác ‘Lan Lăng rượu quý ngát hương, Long lanh hổ phách phát quang chén đầy’, mùi rượu mát lạnh, mùi thơm nức mũi, nếm vào như nước lê mía sệt, thanh thanh nhiều ngọt. [1]

<i>[1] Khách trung tác – Lý Bạch và bản dịch của Tu Nguyen, thivien.net.</i>

Tay Lý Hùng nâng rượu lên, tiên phong uống liền ba chén, đỏ mắt nói: “Hôm nay là ngày lành, tết Trung thu, quả nhiên là để đoàn viên, cảm tạ trời đất, cho con kiếp này có cơ hội gặp lại A Bảo. Lương tiên sinh, cảm ơn cậu, nếu không nhờ cậu, e là…”

Nói đến đây, giọng anh lại nghẹn ngào, cuối cùng không nói được nữa, ngửa căng cổ uống hết rượu trong chén.

Lương Nguyên Kính tự uống sạch một hơi.

A Bảo cũng uống, chưa đã thèm chẹp chẹp miệng, nàng đã lâu rồi nếm qua thọ mi của phàn lâu.

Lý Hùng bắt lấy tay nàng, hai mắt bị rượu hung đến đỏ bừng: “A Bảo, bây giờ theo a ca đến Tuyền Châu đi, ở Tuyền Châu có rất nhiều món ngon, vui chơi cũng có, em sẽ thích thôi, a ca cùng tẩu tẩu chăm sóc em.”

A Bảo nhìn Lương Nguyên Kính, bất đắc dĩ nói: “A ca, em không đi được.”

Lý Hùng lập tức nói: “Vậy a ca tới Đông Kinh, em chờ anh, lần này a ca về nhà sẽ nói lại với tẩu tẩu của em, cả nhà dọn đến Đông Kinh, chúng ta bên nhau sống chung một nhà.”

“……”

A Bảo không biết nên nói gì cho phải, Tuyền Châu xa xôi ngoài lộ Phúc Kiến, cách Đông Kinh hơn vạn dặm, sao có thể dễ dàng chuyển nhà ngay.

Hơn nữa chị dâu là người gốc Tuyền Châu, nhà mẹ đẻ đều ở đó, nàng ấy sẽ rời bỏ cố hương chuyển đến Đông Kinh lạ nước lạ cái chỉ vì một cô em gái đã chết hơn ba năm sao?

“A ca……” A Bảo có rất nhiều lời nhưng không cách nào bày tỏ ra hết.

“Ta sẽ đi Tuyền Châu.” Lương Nguyên Kính đột nhiên nói.

“Anh nói gì cơ?”

A Bảo đột ngột quay đầu hỏi, chàng ở lại thành Đông Kinh rất tốt, đi Tuyền Châu làm gì?

Lương Nguyên Kính thả mắt, nghiêm túc nhìn nàng: “Đợi xong chuyện ở đây, tôi sẽ từ quan, cùng em đi Tuyền Châu.”

A Bảo nhíu mày: “Không nên, anh làm quan rất tốt, từ làm gì?”

Lương Nguyên Kính vò vò chén rượu rỗng, ngón tay dài tôn lên trên chén ngọc, khó mà nói rõ cái nào mới ‘cảnh hay ý đẹp’.

Ánh mắt chàng ấm áp, lộ ra khát vọng, cười trong trẻo: “Chốn quan trường dung tục ràng buộc, tôi thấy chán ghét từ lâu lắm rồi, nghe nói con người phong cảnh ở Tuyền Châu rất đẹp, không thua gì Tô Hàng, còn có thêm nhiều cảnh biển nước trời xanh, trước đây tôi đã muốn đến đó xem. A Bảo, em sẵn lòng đi ngắm biển với tôi không?”

“……”

A Bảo dứt khoát quay đầu đi, mũi hơi cay, trong lòng điên cuồng mắng.

Đồ ngốc!

Cần gì tốt với nàng như vậy hả? Có biết làm khó nàng lắm không? Nàng đã cật lực khắc chế bản thân không được thích chàng cơ mà.

Nàng lại nghĩ:<i> “Lương Nguyên Kính, vì sao anh phải có người trong lòng hả? Rốt cuộc là tiểu nương tử nhà ai? Lớn lên có xinh đẹp như tôi không? Có thể làm anh vẽ tranh nàng, trân quý cất trong rương, ai cũng không được xem, chắc là đặt trong lòng, rất thích rất rất thích người đó nhỉ?”</i>

A Bảo say, chống bên má tuyết, đôi mắt lờ đờ nhòe mờ nhìn ra cửa sổ.

Bầu trời cao đen kịt, treo vầng trăng tròn như mâm bạch ngọc, ánh sáng trong vắt rọi xuống nhân gian. Đêm nay là trung thu, nói vậy trên lầu tây chắc có không ít vương tôn công tử dắt giai nhân lên lầu ngắm trăng, như nàng và Triệu Tòng đã từng.

“Nguyện em như sao chàng như trăng, đêm đêm cùng nhau sáng rợp trời.”

Hắn ôm nàng từ phía sau, kề vào tai nàng nói lời âu yếm.

A Bảo khép mắt lại, ngả sang một bên, trước lúc mất đi ý thức, nàng cảm nhận được có đôi tay đỡ lấy nàng.

Là đôi bàn tay rất ấm.

**

Đêm đã khuya, phàn lâu vẫn sáng đèn, tiếng cười nói rộn ràng, tối nay là tết trung thu, cung cấm mở cả ngày lẫn suốt cả đêm, không cần Kim Ngô. [2]

<i>[2] Chức quan chịu trách nhiệm về an ninh trật tự ban đêm trong kinh thành.</i>

A Bảo đã được ôm lên giường nằm, trên người còn khoác áo ngoài của Lương Nguyên Kính.

Lý Hùng có hơi say, rượu thọ mi tuy ngọt thanh, tác dụng lại chậm, anh nóng đến muốn xé rách vạt áo, mắt đen nhuộm hồng, say mèm nhìn Lương Nguyên Kính nói năng mê sảng.

“Không ngờ rằng, số trời đã định, cậu và A Bảo vòng đi vòng lại, cuối cùng vẫn ở chung một chỗ…”

Lương Nguyên Kính cũng say chút chút, chẳng qua biểu hiện của chàng rất tốt, cho dù say cũng không quá rõ rệt, y quan vẫn ngay ngắn không lộn xộn, chỉ là gò má như bạch ngọc có hơi ửng hồng.

Chàng nhìn A Bảo đang ngủ say trên giường, sợ làm nàng tỉnh, âm thanh cố ý nhỏ lại: “Hình như nàng không nhớ ra.”

“Ừ,” Lý Hùng gật đầu, “Năm xưa Xuyên Thục gặp nạn châu chấu, anh dẫn nó chạy nạn, lúc gần đến Động Đình, thật sự chịu hết nổi nữa. Trời quá lạnh, lại không có gì ăn, nó sốt cao, anh sợ nó không qua khỏi, may sao vẫn sống sót, chỉ là sau khi tỉnh lại, đầu óc bị hỏng, đã quên đi khá nhiều chuyện, cũng không nhớ rõ cậu.”

Lương Nguyên Kính đờ ra một lúc lâu sau mới có phản ứng, ngơ ngác nói: “Ra là vậy.”

Lý Hùng nhíu mày: “Nói ra cũng lạ, chuyện khác nó chỉ hơi quên quên, gợi lại một chút vẫn nhớ ra. Nhưng còn về chuyện của cậu, một chút cũng không nhớ, anh nhắc tên của cậu cho nó, nó còn hỏi ngược lại anh ‘đó là ai’.”

Lương Nguyên Kính nghe xong im lặng hồi lâu, chợt hỏi: “Hai người đi về phía đông à?”

“Đúng vậy,” Lý Hùng buông tiếng thở dài, “Tuy A Bảo không nói rõ, nhưng anh biết, nó muốn đến Dương Châu tìm cậu, anh nói với nó, chúng ta đi về phía đông đi, nó nghe xong cũng không phản đối.”

Lương Nguyên Kính nghe xong, cả gương mặt trắng bệch đi, phải dồn sức đỡ lấy bàn mới không ngã ra khỏi ghế.

Lý Hùng thấy thế thì hoảng sợ, vội đỡ lấy chàng: “Cậu sao vậy? Không sao chứ? Rượu xộc lên đầu à?”

Lương Nguyên Kính xua tay với anh, bỗng nhiên nghiêng đầu che miệng ho rất dữ, vạch khăn ra xem, trên bề mặt dính thêm vết máu bầm đỏ sậm.

Lý Hùng đưa ly trà nhạt qua cho chàng súc miệng, xong nhíu mày nói: “Chứng ho ra máu này của cậu sao chưa trị khỏi nữa, nhất định là do khi đó bỏ lỡ thời gian chữa trị, hỏng cả gốc lẫn rễ rồi.”

Lương Nguyên Kính súc miệng, lau khô môi, nói: “Không sao.”

Chàng mới ho khan kịch liệt, mặt mày tái nhợt xuất hiện thêm tia máu, màu môi cũng nhuộm đỏ vì máu, ngược lại nhìn có tinh thần hơn vừa nãy khá nhiều.

Bất chợt trong đầu Lý Hùng nảy ra ý gì đó, nhanh đến mức gần như không bắt kịp: “Lương công tử, cậu⎯ năm đó có phải cậu đi tìm bọn anh không?”

Lương Nguyên Kính ngẩn ra: “Phải, năm đó nghe nói nạn châu chấu đất Thục rất nặng, cha mẹ dễ chết, người ăn thịt người, liền thuê xe ngựa đến Xuyên Thục tìm hai người, chỉ là lúc đến thôn, nhà đã trống trơn, tôi tìm người hỏi thăm mới biết, hai người đến Quan Trung rồi…”

Lý Hùng nghe được đập đùi một phát: “Thì ra là vậy! Năm đó bọn anh tính đi theo người trong thôn, cùng nhau đến Quan Trung, đồng hương quê nhà, tốt xấu gì cũng tương trợ lẫn nhau, nhưng A Bảo muốn đi Dương Châu, cho nên… Ôi! Ai ngờ bỏ lỡ nhau như vậy chứ!”

Anh nặng nề thở dài, mặt mày tiếc nuối.

Lương Nguyên Kính ngẩng đầu, cũng buồn bã thở dài: “Tạo hoá trêu ngươi.”

Hai người nhìn nhau không nói gì, vì vận mệnh trời xui đất khiến.

Bỗng nhiên Lý Hùng nhớ tới một chuyện, đứng dậy lấy lại đây một chiếc hộp gấm khắc hoa, bề mặt còn treo thêm một cái khoá bạc nhỏ.

Anh lấy chìa khoá mở nó ra, từ bên trong lấy ra một cuốn tranh cuộn đưa cho Lương Nguyên Kính.

“Đây là tranh năm xưa cậu để lại cho A Bảo, hiện tại vật về với chủ.”

Lương Nguyên Kính ngạc nhiên rất lâu, hai tay nhận lấy, chậm rãi m.ơn tr.ớn cuộn tranh, trên mặt còn dính vết bùn xàm, là vết bẩn đã cũ.

Lý Hùng giải thích: “Đây là sau khi cậu đi, năm đó cậu đi không nói câu nào, chỉ để lại cuộn tranh này bên gối A Bảo, nó ôm tranh đuổi theo cậu, được bảy tám dặm gì đó thì vấp té lăn ra trên đất, tức đến mức ném tranh vào vũng bùn, vẫn là anh nhặt về.”

“Em ấy giận tôi.” Lương Nguyên Kính rũ mắt.

“Nó luyến tiếc cậu.”

Lý Hùng thở dài nhìn người nằm trên giường.

“Cậu còn không rõ nha đầu này à? Ngoài miệng thì nói lời tàn nhẫn vậy thôi, thật ra mong cậu ở lại hơn ai hết, giận nhanh nguôi cũng nhanh. Sau này trên đường chạy nạn, vì mua miếng ăn, bọn anh bán được gì thì bán, vòng bạc anh đánh cho nó, tỳ bà nó quý như mạng, đều bán hết, duy mỗi bức tranh của cậu, nó ôm vào trong ngực, ngủ rồi vẫn không buông tay, còn quý hơn mạng nữa.”

“Sau đó nó bệnh nặng sắp chết, anh hết cách, đành trộm bức tranh từ tay nó, bán cho một tay buôn chạy nạn, người ta cho nó chén ruột lừa, ăn vào mới giữ được mạng. Anh còn lo sau khi tỉnh lại phải giải thích thế nào cho nó, ai ngờ nó không nhớ được gì cả.”

Nói tới đây, Lý Hùng cười tự giễu: “Anh lừa nó, chén mì kia là có người tốt tự mổ con lừa người ta dẫn theo làm cho nó ăn, nha đầu ngốc này cũng tin là thật. Đâu đâu cũng là nạn đói, người ta không cướp của mình thì thôi, nào có ai tốt đến nổi mổ vật cưỡi của mình, nấu chén mì cho tiểu cô nương chưa từng quen bao giờ?”

Lương Nguyên Kính cởi bỏ dải lụa, chầm chậm mở cuộn tranh ra, hình vẽ trên tranh đập vào mắt.

Đó là con phố dài rực rỡ, hai bên cửa hàng san sát nhau, bảng hiệu rượu bay phấp phới, người đi đường tấp nập thoi đưa, có trẻ nhỏ lên phố cùng mẹ, người bán hàng rong khiêng đòn gánh bán bánh hấp, những người bán rong đi khắp ngõ hẻm, thợ bạc gõ búa đẽo trang sức, còn có đạo sĩ xem bói cho người qua đường, tiên sinh giảng thư trong quán trà được vây quanh bởi khách uống trà si mê nghe.

Giữa phố, có một mỹ nhân ngồi ôm cây đàn tỳ bà.

Những người còn lại mặc đồ xanh hoặc xám, duy chỉ có nàng mặc một bộ váy đỏ như lửa, giữa cổ tay áo đeo ba chiếc vòng bạc, ai ai cũng chỉ làm nền cho nàng.

Góc phải bên dưới bức hoạ cuộn tròn có kèm theo một con dấu màu son, trên đó khắc hai chữ triện ⎯⎯ [3]

Nguyên Kính.

<i>[3] Chữ ‘Kính’ theo kiểu chữ triện. (nguồn: Baidu)</i>
u1590719729608267506fm253fmtautoapp138fjpeg.webp


Phía bên trái còn có đề bút, nét chữ hành khải thanh tú: Dưới núi Thanh Thành, trên đường đi gặp tỳ bà nữ, dừng chân nhìn hồi lâu, xong không đành lòng rời đi.

Năm Hữu An thứ hai, tuổi Mậu Dần, đêm hội giữa ngày thu, thư của Lương Hoằng Dương Châu.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 31: Lần đầu gặp mặt


Giữa thu, Hữu An năm đầu tiên.

Lương Nguyên Kính lần thứ hai thi rớt kỳ thi Hương. Năm đó chàng chưa đầy mười lăm, lần trước thi cách đây hai năm, kết quả đường huynh thi chung của chàng trúng cử, năm thứ hai lên kinh dự thi Hội.

Chỉ có chàng đạt thứ hạng ngoài 200, khiến mọi người xung quanh chê cười chàng, trở thành ‘Thương Trọng Vĩnh’ [1] nổi tiếng khắp thành Dương Châu.

<i>[1] Thương Trọng Vĩnh là thần đồng nhưng đã biến thành một người bình thường vì cha không cho đi học mà chỉ lợi dụng ông trở thành công cụ kiếm tiền. Câu chuyện này nhằm nhấn mạnh sự quan trọng của việc học hành.</i>

Từ nhỏ Lương Nguyên Kính đã được làng trên xóm dưới xem là ‘thần đồng’. Tương truyền vào lễ thôi nôi của chàng, trong nhiều món đồ như cân, sách kinh, kim chỉ, răng lược, túi thơm, chàng đã chính xác bắt lấy cây bút lông sói Hồ Châu.

Khách khứa dự lễ thấy vậy, sôi nổi cười chắp tay chúc mừng Lương phụ: “Người này không phải vật trong ai, ngày sau ắt sẽ mặc áo tím đeo túi vàng.”

Chỉ có quan viên tam phẩm trở lên của quốc triều mới mặc áo tím đeo bội ngư vàng, nói chàng ‘mặc áo tím đeo túi vàng’, là chúc chàng sau này làm tể tướng, rạng danh gia đình, là Trạng Nguyên tương lai.

Lương phụ cũng đặt nhiều kỳ vọng vào chàng, con nối dõi của ông không nhiều, dưới gối có ba đứa con gái, tới năm 40 tuổi rồi mới sinh được con trai duy nhất là Lương Nguyên Kính.

Lương gia nguyên quán ở Ôn Huyện, thời Ngụy Tấn, từng là ‘Lương thị Hà Nam’ danh tiếng lớn, nhiều thế hệ con cháu trong nhà làm quan.

Sau này dời nam, toàn bộ gia tộc Lương thị di dời đến Dương Châu. Từ đó về sau dần dần tách khỏi quyền lực, trải qua Ngũ Đại Thuỳ Đường biến động, con cháu đời sau cũng dần dần xuống dốc.

Chẳng qua vẫn là danh gia vọng tộc nhà cao cửa rộng, lại cắm rễ ở Dương Châu nhiều năm. Tới đời Lương Nguyên Kính, Lương thị đã phát triển thành một gia tộc lớn mạnh, phức tạp. Trong nhà ai nấy đều đọc sách thánh hiền, lấy thi cử làm vinh dự, là vọng tộc trăm năm, là thư hương thế gia.

Lương Nguyên Kính ba tuổi đã bắt đầu học chữ, Lương phụ đã mời nhiều thầy giỏi về dạy. Chàng cũng không phụ lòng kỳ vọng của cha, ba tuổi biết đọc chữ, năm tuổi thuộc thơ, đọc qua một lần là nhớ, bảy tuổi viết văn chương, khiến các danh sĩ Dương Châu đều khen ngợi.

Cậu bé thông minh lạ thường, cha già mừng đến nỗi hay bế chàng trên đùi, không biết nên yêu thương như nào mới tốt.

Sau này có người phát hiện dường như chàng có năng khiếu hội hoạ, tiện tay cầm nhánh cây vẽ bông hoa trên mặt cát, hình vuông ra hình vuông, hình tròn ra hình tròn, không cần thước kẻ vẫn đạt chuẩn.

Người nọ cảm thấy hết sức ngạc nhiên, tìm đến Lương phụ khuyên ông nên mời một vị thầy dạy hội hoá về cho Lương Nguyên Kính, nên dốc lòng dạy dỗ, tránh lãng phí tài năng bẩm sinh.

Lương phụ vì thương con trai nên mời danh họa sơn thuỷ Ngô Song Lâm về dạy chàng. Ông ấy vốn là hoạ sư cung đình thời Nam Đường. Sau khi thời thế diệt vong, không muốn phụng chiếu nhận vào họa viện Hàn Lâm Triệu thị nên đã dựng ngôi nhà tranh bên Hồ Tây Gầy Dương Châu để ẩn cư an dưỡng tuổi già, còn tự đặt hiệu là ‘Tây Hồ Di Lão’.

Từ đó về sau, Lương Nguyên Kính đã theo học nhiều danh họa nổi tiếng. Học vẽ sơn thuỷ tùng thạch từ Ngô Song Lâm, học vẽ hoa lá chim muông từ Cát Thăng, đồng thời cũng giỏi vẽ nhân vật, đạo Phật từ Tuệ Âm hoà thượng, tiếp thu tinh hoa từ nhiều trường phái khác nhau.

Cuối cùng Lương phụ nhận ra mình đã phạm phải sai lầm trí mạng trong việc nuôi dạy con trai, đó là đam mê Lương Nguyên Kính dành cho hội hoạ vượt xa hơn rất nhiều so với việc đọc sách.

Chàng vì vẽ tranh, ngay cả sách cũng không đọc, ngày nào cũng vẽ tranh đến quên ăn quên uống. Còn thích ra ngoài vẽ cảnh thực, thanh danh ‘Hoạ si’ càng lan rộng. Lúc ở trường tư nghe giảng, hoặc hai mắt dại ra lạc vào cõi thần tiên, hoặc vẽ nguệch ngoạc trên sách vở, khiến phu tử ngày xưa coi trọng chàng bây giờ phải thầm thở dài sau lưng.

Vì để sửa lại tật xấu này của chàng đã đánh gãy hết bảy tám cây thước trong nhà. Nhưng người này vô cùng ngoan cố, cho dù hai tay bị đánh cho máu chảy đầm đìa, da thịt trầy trụa, hay bị quỳ gối trong viện, chàng vẫn dùng máu đầu ngón tay vẽ tranh trên mặt đất, làm ai nhìn vào cũng chỉ biết thở dài bất đắc dĩ.

Ánh mắt cha nhìn chàng ngày càng thất vọng, cộng thêm lần thi rớt đầu tiên nữa đã đẩy sự thất vọng đó l*n đ*nh điểm.

“Không có chí tiến thủ! Chính đạo thì không đi, đâm đầu vào chút tài mọn! Lương gia ta không có loại bôi nhọ gia phong, bất hiếu bại hoại như anh! Cút cho ta! Cút khỏi Dương Châu này!”

Phụ thân nổi cơn thịnh nộ ném toàn bộ dụng cũ vẽ tranh của chàng ra ngoài cửa.

Lương Nguyên Kính mười lăm tuổi bị cha đuổi ra khỏi nhà như vậy, chàng quỳ gối trong cơn mưa phùn, lụm nhặt mấy bức hoạ cuộn tròn rải rác trên đất lên, ôm vào lòng mình, cũng không quay đầu lại rời khỏi nhà.

Mưa thu nghiêng nghiêng bay, thấm ướt hàng mi mảnh dài của thiếu niên vai lưng thẳng thắp.

Trước khi đi, nhị tỷ đuổi theo lén đưa cho chàng ít tiền, mới không khiến chàng đến mức ‘không xu dính túi lưu lạc đầu đường’.

**

Sau khi rời khỏi Dương Châu, Lương Nguyên Kính đi thẳng về phía tây.

Nghe nói phong cảnh Xuyên Thục tuyệt đẹp, có người nói ‘Trẻ không vào Xuyên, già không rời Xuyên’, trong thơ Lý Bạch cũng có câu, ‘Đường đến Thục khó, khó như lên trời’, chàng muốn đi xem thử.

Chàng quá giang một con thuyền chở hàng, ở dưới chót khoang chứa hàng, dựa vào việc tính sổ giúp chủ thuyền và viết thư gửi về hộ thuỷ thủ lấy chút tiền nhuận bút làm lộ phí.

Lúc rảnh rỗi, chàng sẽ chuyển bàn ghế lên boong tàu vẽ, Trường Giang cuồn cuộn đánh về phía đông, núi non hai bên bờ, thuyền bè trên sông, hoàng hôn hồng cam phía chân trời, tất cả đều biến hoá thành tranh thuỷ mặc dưới ngòi bút của chàng.

Cứ như vậy, vừa đi vừa vẽ, lúc tiến vào đại giới Xuyên Thục, đã là mùa xuân năm thứ hai.

Ngày rằm tháng ba năm Hữu An thứ hai.

Lương Nguyên Kính du ngoạn núi Thanh Thành Ích Châu, ở trên núi Trường Sinh Quan tầm mười ngày nửa tháng. Bởi vì mất ăn mất ngủ vẽ tranh nhiều ngày liên tục, ban đêm nhiễm hơi lạnh trên núi mắc phải bệnh phong hàn.

Ngày ấy xuống núi, đúng lúc vào ngày mặt trời rực rỡ, chàng cõng bộ dụng cụ vẽ tranh, chống cây dù đi tới con đường dài phía chân núi.

Nhiệt độ ánh mặt trời ngày xuân không hề thua kém với ngày hè, chàng nóng đến mức chóng mặt ù tai, miệng lưỡi khô khan. Vốn định ghé quán trà xin chén trà lạnh uống, nhưng đếm đếm vài đồng tiền còn sót lại trong túi mới giật mình phát hiện bản thân không mua nổi chén trà, đành bất lực đứng ở bên đường, l**m lếm da môi khô cằn, ánh mắt trông mong nhìn người khác uống trà.

Trong quán trà có thuyết thư tiên sinh đang kể ⟪Tam Anh chiến Lữ Bố⟫, đang kể đến điểm mấu chốt, chúng khách nghe đến quên chớp mắt, miệng nuốt ngụm nước bọt.

“Lữ Bố cưỡi Xích Thố tới rồi, con ngựa đó phóng nghìn dặm nhanh như bay. Lữ Bố gần đuổi kịp giơ Phương Thiên Họa Kích lên, nhắm ngay sau lưng thẳng vào tim của Công Tôn Toản. Bỗng từ góc nào đó, một mãnh tướng hùng dũng nhảy ra, mắt trợn tròn, râu dựng ngược, cầm ngọn giáo dài một trượng tám, Trương Phi quát lớn: ‘Thằng đầy tớ ba họ kia đừng chạy nữa! Trương Phi người đất Yến tới đây!’”

Trong lời kể kích động lòng người lại chen vào một tiếng hát không mấy hài hoà.

“Cao cao ⎯⎯ trên núi nha ⎯⎯”

“Cây ⎯⎯ hoè ⎯⎯”

“Tay vịn lan can í a ⎯⎯”

“Vọng lang ⎯⎯ tới ⎯⎯”

Tiếng hát thanh thuý êm tai, như nước chảy núi cao, như hoàng anh xuất cốc. Thoáng chốc đã làm thân thể nóng rực của Lương Nguyên Kính mát lạnh trở lại, suy nghĩ chàng khẽ chuyển động theo tiếng hát, xoay người nhìn lại.

Chỉ liếc mắt một cái, rốt cuộc không dời mắt đi được.

Có một ca nữ ngồi giữa phố. Nàng mặc chiếc váy đỏ hồng loá mắt, ôm đàn tỳ bà, tuổi tác cũng không lớn, bất quá chỉ hơn 12-13 tuổi, mặt mũi cực kỳ xinh đẹp, hàng mày đen nhánh, đôi mắt trong veo, môi luôn treo nụ cười tươi. Tuy có vài phần trẻ con nhưng không khó nhìn ra mai sau sẽ tao nhã vô song.

Mười ba thướt tha yêu kiều, như hoa đậu khấu đầu canh tháng hai.

Tỳ bà nữ để ý chàng đang nhìn nàng, cũng ném ánh mắt tới chỗ chàng, có lẽ cảm thấy chàng là người lạ, đôi mày thanh tú hơi hơi nhíu lại.

Lương Nguyên Kính nâng khoé môi, muốn thử cười chào nàng cho phải phép, nhưng giây tiếp theo trước mắt bỗng tối sầm, chàng cứ như vậy ngã trên con đường dài.

Trước khi ý thức biến mất, thứ đọng lại trong ánh nhìn cuối cùng là làn váy đỏ như lửa của tỳ bà nữ. Tựa như thung lũng vô danh nào đó, tràn ngập hoa anh túc màu đỏ thẫm, rực rỡ như lửa.

**

Lần nữa tỉnh lại, đập vào mắt Lương Nguyên Kính là nóc nhà đơn sơ, bị pháo hoa hun đến đen như mực, còn có một đôi mắt hạnh lúng liếng của ai đó.

“……”

“Ô!”

‘Mắt hạnh’ không đoán trước chàng đột nhiên mở mắt, sợ tới mức la toáng lên, sau đó nhảy dựng mông ngã về sau.

Lương Nguyên Kính còn chưa mở miệng hỏi nàng có bị thương không, nàng đã vỗ vỗ mông như không việc gì chạy ra ngoài cửa, vừa chạy vừa kêu: “A ca ⎯⎯ Tỉnh rồi! Đồ lập dị tỉnh rồi!”

‘Đồ lập dị’ Lương Nguyên Kính: “……”

Không lâu sau, từ bên ngoài có một người trẻ chừng hai mươi tuổi đi vào, theo sau lưng là ‘mắt hạnh’, lôi kéo góc áo của anh trai, ló cái đầu xù xù từ sau lưng anh, thật cẩn thận nhìn lén Lương Nguyên Kính.

Nếu bị chàng bắt gặp sẽ rụt đầu lại cái ‘vèo’ giống như con chuột hang nhỏ.

Trong lòng Lương Nguyên Kính thấy buồn cười, chỉ có thể cố gắng không nhìn nàng nữa, bắt chuyện với anh trai của nàng, đồng thời hỏi thăm tình huống.

Hoá ra từ ngày chàng té xỉu trên đường đến nay đã trôi qua ba ngày, vị trẻ tuổi này tên Lý Hùng đã mang chàng về nhà và mời đại phu chẩn trị cho chàng.

Đại phu nói phổi chàng nhiễm khí lạnh gây sốt cao liên tục nên mới ngất, cần phải nằm trên giường tịnh dưỡng mấy ngày mới có thể khỏi hẳn.

Lương Nguyên Kính nói cảm ơn Lý Hùng, Lý Hùng lại khoác tay nói không sao, để em gái tiếp tục ở lại chăm coi hộ còn anh đi ra ngoài sắc thuốc.

Lương Nguyên Kính cùng cô nương kia mắt to nhìn mắt nhỏ, chợt nghe nàng hỏi thẳng: “Anh tên gì?”

Lương Nguyên Kính nghiêm túc đáp: “Tiểu sinh họ Lương, tên Hoằng, tự Nguyên Kính.”

“Tiểu sinh? Anh rất nhỏ à?”

“……” Lương Nguyên Kính đỏ mặt nói, “Không nhỏ, năm nay tôi mười lăm.”

“À, tôi mười ba, anh lớn hơn tôi hai tuổi.” Tiểu cô nương nói xong nhăn mày, “Vậy rốt cuộc anh tên Lương Hoằng hay Lương Nguyên Kính?”

Lương Nguyên Kính nói: “Đều được, Nguyên Kính là tự của tôi, do ân sư lấy…”

“Được, vậy tôi sẽ gọi anh là Lương Nguyên Kính!” Tiểu cô nương sảng khoái xen lời chàng.

“……”

Mặt của Lương Nguyên Kính lại đỏ, ngoại trừ người nhà, ân sư và bạn tốt chung trường, chưa từng có ai thân mật gọi chàng như vậy, càng miễn bàn tới cô nương nhà lạ mặt.

“Tôi tên A Bảo.”

“Tiểu nương tử A Bảo.” Chàng ôn hoà nói.

A Bảo lại nhíu mày, “Cái gì mà ‘Tiểu nương tử A Bảo’, A Bảo là A Bảo, không có ‘tiểu nương tử’ gì hết.”

Lương Nguyên Kính nói với nàng vài câu, đã từ từ thăm dò ra hình như nàng không thích loại nói chuyện nho nhã kia, càng thẳng thắn càng tốt, cho nên chỉ đành khách nghe theo chủ, thất lễ gọi thẳng khuê danh của nàng.

Điều này thật sự trái với thói quen thường ngày của chàng, bởi vậy mỗi lần hô lên tiếng ‘A Bảo’, tai chàng đều đỏ bừng cả lên.

A Bảo hỏi chàng rất nhiều vấn đề, biết được chàng là người Dương Châu, mẹ đẻ mất sớm, cha ruột khỏe mạnh, trên có ba người chị, trong nhà xếp thứ mười hai, chưa có hôn phối.

Cuối cùng nàng hỏi Lương Nguyên Kính: “Anh có tiền không?”

“Gì cơ?”

Lương Nguyên Kính bị hỏi bất ngờ không kịp đề phòng, vẻ mặt hoảng hốt.

A Bảo thay đổi gương mặt hung dữ, nghiến răng nghiến lợi nói: “A ca tôi vì mời đại phu cho anh mà xài hết tiền trong nhà, ngay cả bánh ngọt hứa với tôi còn chưa mua, bây giờ anh tỉnh rồi, trả bánh cho tôi!”

“……”

Lương Nguyên Kính rũ mắt, nhìn lòng bàn tay trắng nõn đưa đến trước mặt mình, lần đầu tiên trong đời nổi lên cơn xúc động muốn chạy trốn.

**

Tác giả có chuyện nói:

A Bảo: Anh rất nhỏ à? (mặt nghiêm túc)

Lương Nguyên Kính (đỏ mặt): ……… Đây lời lẽ bạo dạn gì vậy?

<i>⟪Tam Anh chiến Lữ Bố⟫ ở đây là tác giả mượn vào thêm thắt thôi chứ đời Tống chưa có ⟪Tam Quốc Diễn Nghĩa⟫.</i>
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 32: Dưỡng bệnh


Màn đêm buông xuống, Lương Nguyên Kính lại sốt cao.

Lúc bị nóng đến mơ mơ màng màng, trên trán lại truyền đến đợt mát lạnh, chàng dồn sức mở to mắt ra, mơ hồ thấy trong ánh nến lờ mờ có một mảnh ống tay áo màu vàng hồng lướt qua.

Sốt liền tù tì mấy ngày, chàng luôn nửa mơ nửa tỉnh, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, mới có mấy ngày ngắn ngủi người đã gầy mất mười cân, quầng thâm mắt sẫm màu, nhìn như sắp phải tạ thế tới nơi.

Thỉnh thoảng có lần tỉnh táo, trùng hợp nghe thấy Lý Hùng đang nói chuyện cùng em gái, muốn lên trấn mời đại phu.

Chàng không rõ sức lực từ đâu mà có, giãy giụa ngồi dậy từ trên giường đất, nói bọn họ không cần tốn tiền lên người chàng, nên tiết kiệm mua bánh cho A Bảo ăn cũng được, đừng vì chàng mà lãng phí.

Lý Hùng nghe xong thì hết hồn, theo bản năng nhìn em gái.

A Bảo dại ra nhìn chàng, hai mắt đỏ lên, sau đó quay đầu chạy ra cửa phòng, chốc lát lại nghe được ‘oà’ khóc lớn tiếng của nàng

“???”

Lương Nguyên Kính choáng váng cả người: “Sao thế? Có phải tôi… nói gì đó sai rồi không?”

Lý Hùng tập mãi thành quen nói: “Không sao, đừng để ý tới nó, cái tính khóc này của nó là vậy đó, khóc xong sẽ tốt lại thôi. Lương công tử, có phải A Bảo đã nói gì với cậu không?”

Lương Nguyên Kính ngơ ngác đáp: “Nàng nói, anh vì mời đại phu cho tôi nên đã tiêu hết tiền trong nhà, không còn tiền mua bánh cho nàng ăn. Lý huynh, thân thể này của tôi đã vô dụng, anh cứ mặc kệ tôi đi, tôi không có vật gì để báo đáp, chi bằng……”

“Cậu đừng nghe nó nói bậy.”

Lý Hùng chặn lời chàng: “Hôm đó là A Bảo thấy cậu té xỉu trước, cũng là nó kêu anh cứu cậu, nha đầu này miệng mồm không thành thật chứ đáy lòng rất quan tâm cậu, mấy đêm cậu sốt cao đều do nó chăm sóc. Được rồi, đừng suy nghĩ nhiều, anh đi mời đại phu cho cậu.”

Lý Hùng đứng dậy ra ngoài.

Lương Nguyên Kính thẫn thờ, giờ mới biết ngày ấy ngất đi cộng thêm mấy đêm sốt cao đều thấy váy áo đỏ kia không phải vì đầu óc hỗn loạn nên sinh ra ảo giác.

“Ai thèm mời đại phu cho ma ốm kia chứ, muốn thì anh đi đi! Em không đi!”

Ngoài phòng truyền đến tiếng khóc lẫn mắng chửi của A Bảo, hình như Lý Hùng muốn rủ nàng đi lên trấn mời đại phu chung với anh.

Bên kia Lý Hùng đè nén giọng khuyên vài câu, tiếng khóc mới từ từ nhỏ lại, chắc là đã nắm góc áo anh trai cùng đi rồi.

Lý Hùng khẽ mỉm cười, chậm rãi nhắm mắt lại, nghĩ thầm, nàng khóc lên cũng thật vang dội mà.

**

Sau khi đại phu tới, thay cho Lương Nguyên Kính mấy dược liệu đắt tiền hơn, tiền nào của nấy, mấy chén thuốc này uống vào rồi hoàn toàn khác biệt so với lúc trước, giúp chàng giữ lại được cái mạng mình.

Đêm đó hạ sốt, A Bảo tiến vào đổi khăn đắp trên trán chàng.

Lương Nguyên Kính mở mắt ra nhìn nàng, nói: “Cảm ơn.”

A Bảo không nói gì lấy khăn trên trán chàng xuống, ngồi xổm trên mặt đất giặt sạch, kéo ống tay áo lên để lộ hai cánh tay trắng như ngó sen, trên đó còn đeo ba chiếc vòng bạc.

Nàng cúi đầu, từng giọt nước mắt rơi vào trong thau đồng tạo nên từng vòng gợn sóng.

Bất chợt ném khăn trong tay đi đứng thẳng dậy, hai mắt ươn ướt hồng hồng trừng to với Lương Nguyên Kính: “Tuy tôi thèm thật, nhưng cũng biết mạng người quan trọng hơn khối bánh mà! Anh đừng có xem thường người khác!”

Lương Nguyên Kính vội nói: “Tôi biết, rất xin lỗi, ngày đó tôi nói sai rồi.”

A Bảo ‘hừ’ một tiếng, mất tự nhiên nói: “Biết sai rồi thì tốt.”

Nói xong, lại ngồi xổm xuống tiếp tục giặt khăn cho chàng.

Lát sau, Lương Nguyên Kính hỏi nàng: “Em thích ăn bánh gì?”

Câu này đương nhiên là hỏi A Bảo, nàng không chút chần chờ kể ra hết tên của mấy loại bánh như bánh quế hoa, bánh phù dung, đậu ve cuộn, đậu phụ vàng, chỉ cần là bánh ngọt nàng đều thích cả.

Nhắc tới điểm tâm, trên mặt nàng luôn mang theo ý cười, lộ ra ánh mắt mê mẩn làm Lương Nguyên Kính muốn cười theo.

“Khoan đã,” A Bảo bỗng phản ứng lại, sắc mặt cảnh giác, “Anh hỏi cái này chi?”

“Tôi hại em không được ăn điểm tâm, muốn sau này mua cho em ăn.” Lương Nguyên Kính nghiêm túc nói.

A Bảo cười nhạo không tin: “Anh có tiền không?”

Lương Nguyên Kính mỉm cười nhẹ: “Rồi sẽ có.”

“Chờ nào có rồi nói!” A Bảo đứng dậy đi đổ nước.

“Đợi chút,” Lương Nguyên Kính bỗng gọi nàng lại, “A Bảo, lúc hai người cứu tôi về, có thấy cái rương đựng sách của tôi không?”

Dụng cụ vẽ tranh của chàng và tranh vẽ trên đường du ngoạn đều dẹp vào trong đó, còn có bức sơn thuỷ đồ dưới núi Thanh Thành mới vẽ xong.

A Bảo bưng thau nước, cười gằn nói: “Sao hả? Cho rằng tôi và a ca nhặt xong lén giấu đi à?”

Nhìn dáng vẻ tư thế của nàng, rất có thể chỉ cần mình nói ‘Đúng vậy’, nàng sẽ lập tức tạt cả thau nước tới đây.

Lương Nguyên Kính vội giải thích: “Không phải, tôi chỉ hỏi thử thôi, không thấy cũng không sao hết!”

Chàng sợ nói lời không vừa ý A Bảo sẽ động thủ, gấp đến mức trán đổ đầy mồ hôi, mặt mày đỏ bừng lên.

A Bảo thấy thế thì ‘xì’ cười: “Anh gấp gì chứ? Sợ tôi tạt nước anh à? Yên tâm đi, vất vả lắm anh mới hạ sốt, tôi mới không tự khiến mình chịu tội đâu.”

Nàng đặt đỡ thau nước lên bàn, khua tay múa chân nói: “Hôm đó anh té xỉu gây ra động tĩnh lớn, ‘rầm’ một cái đất cát bay toáng cả lên… Đừng có cười, cười cái gì mà cười, tôi nói thật. Ngay cả chén trà của người ta cũng bị dính đất nữa, may sao anh ngất rồi, nếu không sẽ bị người ta đòi tiền bồi thường đó.”

Nàng vừa nói chuyện liền nói đông nói tây, huyên thuyên mãi, trọng điểm cũng lạc đi đâu mất.

Lương Nguyên Kính chỉ đành nhắc nhẹ nàng: “Rương sách.”

A Bảo nhíu mày: “Tôi biết, anh gấp cái gì, không phải đang nói tới rồi à? Hòm xiểng kia của anh lớn tới vậy, rớt xuống đất đã bị bể tan tành, đồ vật bên trong văng ra ngoài, suýt chút bị người khác cướp sạch… Anh trừng mắt lớn vậy làm gì? Rất khó hiểu sao?”

Lương Nguyên Kính lắc đầu, chàng sinh ra ở Dương Châu, chưa từng gặp phải loại trường hợp này, sớm nghe nói người dân Ba Thục hổ báo, giờ mới thấy quả thật…

Cuối cùng A Bảo tổng kết: “Cho nên, là như vậy đó, bọc hành lý của anh bị người ta lụm hết rồi, nếu không nhờ a ca tôi nhanh tay, sợ là anh cũng sẽ bị họ nâng đến lò mổ.”

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo nghiêm mặt nói: “Muốn cười thì cười đi.”

Rốt cuộc Lương Nguyên Kính không nhịn nổi nữa, ý cười lan trộng từ đuôi mày đến khóe mắt, chàng cười thành tiếng, vừa cười vừa ho, cười chảy cả nước mắt.

Vốn A Bảo đang làm mặt nghiêm túc, bị tiếng cười của chàng chọc nên cũng nở nụ cười theo, hai người cười nghiêng qua nghiêng lại.

Lý Hùng ngoài phòng nghe thấy còn tưởng xảy ra chuyện gì, vào trong mới thấy hai người họ chỉ vào đối phương, cười đến không thở nổi.

<i>“Y như hai đứa ngốc vậy.”</i> Lý Hùng nghĩ thầm.

**

Lương Nguyên Kính tiếp tục ở lại Lý gia.

Lý gia nằm trong thôn Lý Gia – cái thôn nhỏ ngay chân núi Thanh Thành. Thôn rất nhỏ, cùng lắm chỉ có hơn mười hộ gia đình, giao thông bế tắc, dân cư thưa thớt, hiếm khi nào có người xứ khác tới.

Chuyện Lương Nguyên Kính đã trở thành sự kiện hiếm lạ trong thôn, vào ngày chàng bệnh đã có không ít phụ nhân mượn cớ đó tới nhà Lý Hùng ngó chàng.

Ngôi nhà ngói nho nhỏ chật ních chứa ba cô sáu bà, còn có con nít đuổi nhau đùa giỡn khắp nơi, la hét ầm ĩ như chuồng nuôi có 300 con gà.

Lần đầu trong đời Lương Nguyên Kính được tra hỏi nhiệt tình như vậy, tiếc nuối mình không ngất đi lần nữa, đồng thời từ miệng của các phụ nhân chàng mới biết được một chuyện.

Thì ra A Bảo không phải em gái ruột của Lý Hùng mà là được vợ chồng họ Lý nhặt về, lúc mới sinh chưa được bao lâu đã bị cha mẹ ném dưới cây hoè to cửa thôn, trong thôn người nào cũng biết.

A Bảo nghe thấy nhóm phụ nhân khua môi múa mép đàm luận về nàng, tức giận xách chổi tới đuổi từng người đàn bà ba hoa đó đi, quay đầu thấy ánh mắt sáng quắc của Lương Nguyên Kính nhìn mình chằm chằm, tức giận sôi máu ngay: “Anh nhìn gì mà nhìn? Tôi được nhặt đó thì làm sao?”

Lương Nguyên Kính lắc đầu cười mếu nói: “Tôi cũng bị đuổi ra khỏi nhà mà.”

“……”

Vốn A Bảo đang tức điên lên, nghe xong câu đó lập tức nguôi ngoai, chỉ còn thấy tò mò, nàng mở to mắt hỏi: “Thật hả? Anh phạm sai lầm gì rồi? Là cha đuổi anh đi sao?”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Ông ấy không cho tôi vẽ tranh.”

“Anh biết vẽ tranh?” A Bảo liếc mắt không tin, “Vậy anh vẽ thử tôi xem đi.”

Lương Nguyên Kính không có bút, chỉ có thể chấm chút nước trà vẽ lên bàn cho nàng xem.

Một chấm, một gạch, một phẩy, một mác, vệt nước dần dần hình thành, là một tiểu cô nương tóc tiểu hoàn, mi mắt hơi cong cong.

“Đây là tôi?” A Bảo kinh ngạc nhận ra.

“Là em.” Lương Nguyên Kính gật đầu cười.

“Xem ra anh biết vẽ tranh thật nha,” A Bảo nhìn chàng, “Vẽ còn khá tốt nữa.”

Lương Nguyên Kính lau vệt nước trên bàn đi, nghiêm túc nhìn nàng nói: “Đừng buồn vì chuyện em được nhặt, thế gian này cũng không phải có máu mủ ruột thịt mới trở thành người thân, a ca đối xử với em rất tốt.”

Ít nhất vào quãng thời gian ở đây, chàng chưa từng thấy Lý Hùng cho nàng làm việc gì nặng nhọc, ngay cả ba bữa cơm mỗi ngày, việc nhà bình thường như may vá giặt giũ đều do anh tự tay làm hết, trong nhà tuy bần hàn nhưng Lý Hùng vẫn tận lực để A Bảo sống rất tốt.

A Bảo nghênh khuôn mặt nhỏ lên kiêu ngạo nói: “Đương nhiên a ca rất tốt với tôi rồi, chờ lớn lên tôi sẽ gả cho a ca.”

Lương Nguyên Kính dở khóc dở cười.

**

Từng ngày qua đi, sức khoẻ Lương Nguyên Kính dần dần có chuyển biến tốt, trừ ban đêm hay ho khan không dứt, ban ngày có thể xuống giường đi lại.

Lý Hùng là thợ bạc, kiếm sống dựa vào việc đánh bạc cho người trên trấn, mỗi ngày đều phải lên sạp bày trên phố.

Lương Nguyên Kính mới khỏi bệnh nặng, không thể không có ai trông coi, đến phiên A Bảo ăn không ngồi rồi gánh vác trọng trách này.

Đối với Lương Nguyên Kính mà nói đây không hẳn là tin tức tốt.

Tuy nói A Bảo ngây thơ đáng yêu, thường xuyên nói lời hay ý đẹp chọc chàng cười to không ngừng, nhưng nàng có một tật xấu, đó là nàng nói cực kỳ nhiều, hầu như không nghỉ xả hơi, lâu lâu nghe thì còn được, nếu cứ ríu rít bên tai cả ngày thì đúng là hình phạt chịu tội mà.

Lương Nguyên Kính thích yên tĩnh, nhưng cũng không thể ngăn cản bảo nàng đừng nói nữa nghỉ ngơi một lát đi, bằng không A Bảo sẽ nổi giận ngay lập tức.

Có rất nhiều lần, chàng ngủ gật trong tiếng nói chuyện miên man của nàng, cuối cùng bị A Bảo dứt khoát đứng thức, chất vấn chàng vì sao ngủ trong lúc nàng đang nói chuyện.

Lương Nguyên Kính khổ không nói nên lời, cuối cùng lâu sau cũng tìm được cách giải cứu chính mình, đó là vào lúc A Bảo đang nói năng hăng say, chàng bỗng hỏi ngang nàng: “Tỳ bà em đâu?”

A Bảo sẽ lập tức dừng lại, hai tròng mắt sáng ngời: “Anh muốn nghe tôi đàn tỳ bà?”

Dù sao lỗ tai cũng không yên được, giữa việc nghe nàng nói chuyện hay nghe nàng đàn tỳ bà, Lương Nguyên Kính quyết đoán chọn cái sau, vì thế chàng gật đầu.

A Bảo lập tức xoay người đi ôm tỳ bà trong phòng mình lại, vừa chỉnh dây vừa nói: “Nghe tôi đàn tỳ bà phải trả tiền, anh thì nghèo không có tiền. Ôi, thôi, tuỳ anh vậy, tôi miễn cưỡng hát một khúc cho anh nghe.”

Lương Nguyên Kính nhanh nhảu phối hợp làm ra biểu cảm được quý mà lo với nàng.

Nhưng rất nhanh chàng lại nhận ra thêm vấn đề khác.

Tuy tiếng hát của A Bảo uyển chuyển êm tai, đàn tỳ bà đương nhiên không tồi, nhưng ca từ kia…

Quả thực rất khó nghe!

Dân ca Ba Thục nổi tiếng phóng khoáng táo bạo, phần lớn đề tài toàn là ni cô nhớ tục trần, tiểu thư chạy trốn trong đêm, quả phụ yêu đương vụng trộm, cha chồng cùng con dâu các thứ toàn loại chuyện xưa dân chúng tầng lớp thấp thích nghe, nội dung càng ô uế dâm loàn, thấp kém lộ liễu thì càng được ưa chuộng.

Bài từ dâm như vậy. Từng từ ngữ đen tối được hát ra từ miệng A Bảo, sắc mặt nàng vẫn như thường, tất nhiên đã quen hát vậy rồi, khiến Lương Nguyên Kính nghe xong phải đỏ tía hết mặt tới mang tai. Nếu để cho cha biết được chàng lại đi nghe một tiểu cô nương hát loại ca từ này, chắc chắn sẽ vung thước giới đuổi chàng từ cửa nam Dương Châu ra đến tận cửa bắc.

Chàng bắt buộc phải kêu A Bảo dừng lại: “Em hát cái gì vậy?”

“Thì hát đó.”

“Ca từ này có thể…” Lương Nguyên Kính má đỏ như hoa đào, không nói thêm được nữa.

“Làm sao hả?” A Bảo cau có, “Anh nhiều chuyện quá đi, người khác nghe thấy vui mà.”

“……”

Thất nghiệp có chuyên môn, A Bảo không thích nhất chuyện có người múa may tay chân với khả năng đàn tỳ bà của mình.

Lương Nguyên Kính cũng đoán ra được chuyện đó liền khéo léo nói: “Tôi dạy em bài từ khác nhé, được không?”

Lời đề nghị này nằm trong phạm vi tiếp thu của A Bảo, nàng nghĩ ngợi xong ngước mắt lên hỏi: “Bài gì?”

**

Tác giả có chuyện nói:

Về hôm cứu Lương Nguyên Kính, là như này này:

A Bảo dịch đến bên người Lý Hùng: A ca, chỗ kia có tên lập dị.

Lý Hùng (đang đánh bạc): Ừ.

A Bảo: Y ngất rồi.

Lý Hùng: Ừ.

A Bảo (lén liếc mắt): Có nhiều người cướp đồ của y lắm.

Lý Hùng (ngẩng đầu): Sau đó thì sao?

A Bảo: ……

Lý Hùng (rốt cuộc cũng có phản ứng): Em muốn anh cứu y?

A Bảo: Em đâu có nói vậy.

Lý Hùng nhận lời buông búa trong tay, đi ‘nhặt’ người cho nàng.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 33: Ca từ


Lương Nguyên Kính biết chữ từ năm ba tuổi, đến năm tuổi tập văn thơ, xưa nay thích Tô Tử nhất nên dạy nàng hát Tô Từ.

“Trường đời một giấc mộng to thôi! Sống não nùng thu mấy độ rồi. Gió lộng lùa hiên đêm héo hắt, Mi đầu, chỏm tóc nhuốm phai phôi. Thường than khách thiếu hương men dở, Mãi trách trăng mờ sắc khói bôi. Nguyệt khuất trung thu ai ngắm nữa, Nhấc ly phương bắc ngóng bồi hồi.” [1]

<i>[1] Tây giang nguyệt kỳ 1 – Tô Đông Pha và bản dịch của Nguyễn Quê, thivien.net.</i>

Đình viện, Lương Nguyên Kính chống gậy trúc Lý Hùng làm cho chàng, chậm rì rì vòng quanh khúc cua, chàng mới khỏi bệnh nặng, dáng dấp gầy yếu tựa như có thể bị gió thổi bay đi.

A Bảo dè chừng đi theo bảo hộ chàng, chuẩn bị tiến lại dìu chàng bất cứ lúc nào.

Chàng quay đầu cười với nàng. Tuy sắc mặt nhợt nhạt nhưng mặt mày vẫn tuấn tú, cười lên rất dịu dàng.

A Bảo sững sờ tại chỗ.

“Tạm biệt kinh thành ba năm, bước chân đi khắp chốn hồng trần. Vẫn nở nụ cười xuân ấm áp. Lòng như giếng cổ không gợn sóng, tiết tháo như trúc thu vững vàng. Buồn bã cánh buồm đi trong đêm, tiễn biệt dưới trăng mềm mây ẩm. Rượu vô đừng phải cau mày. Nhân sinh lữ quán đi đường ta đây.”

Trên bàn cơm, A Bảo không chớp mắt nhìn chằm chằm bát gà hầm duy nhất, miệng nuốt nước miếng.

Đây là Lý Hùng cố ý giết gà bồi bổ cho Lương Nguyên Kính. Gà còn chưa lớn mấy, sau khi nấu chính không bằng cái nắm tay nên anh không cho A Bảo đụng đũa vào.

Lương Nguyên Kính thừa dịp anh không để ý, lặng lẽ gắp cái đùi gà bỏ vào chén của A Bảo.

A Bảo bất ngờ nhìn chàng.

Chàng nháy nháy mắt với nàng.

Lý Hùng nhận ra bầu không khí hơi sai sai. Đột nhiên ngẩng đầu, hai người theo bản năng chỉnh thẳng người, giả ho một tiếng, làm bộ không có việc gì, chờ Lý Hùng cúi đầu cúi đầu ăn tiếp mới lén cười nhìn nhau.

“Trăng khuyết rọi ngô đồng, Lậu cạn người im thít. Thoáng thấy u nhân một tới lui, Trơ bóng hồng mờ mịt. Chợt sợ lại quay đầu, Có hận không người biết. Chọn khắp cành cây chẳng đâu yên, Vắng lặng khi bơn cát.” [2]

<i>[2] Bốc toán tử – </i><i>Tô Đông Pha</i><i> và bản dịch của Nguyễn Chí Viễn, thivien.net.</i>

Tháng tư, cây sơn trà trong sân ra trái, A Bảo xung phong nhận việc leo lên đó hái sơn trà. Lương Nguyên Kính lo lắng ngửa đầu nhìn nàng, hai tay vô thức đưa ra sợ nàng ngã xuống.

A Bảo kêu chàng tiếp sơn trà, tay chân chàng vụng về chụp không trúng quả nào.

A Bảo cười ha ha, từng quả sơn trà như mưa sao băng rơi xuống trúng vào chàng phải giậm chân xung quanh chật vật né tránh.

“A Bảo, đừng ném nữa.” Chàng bất đắc dĩ xin tha.

“Anh ngốc chết đi được.”

Cây sơn trà um tùm ló ra khuôn mặt tươi cười của A Bảo.

“Vốn thích hào hoa ấy những chàng, Trời còn đem tặng một cô nàng. Nức tiếng ca hay cùng vẻ đẹp, Gió nổi, Tuyết bay biển nóng mát trong lành. Vạn dặm về đây thêm nét trẻ, Cười mỉm, Mai thơm từ núi miệng còn vương. Ướm hỏi Lĩnh Nam trời không tốt? Bèn nói, Thấy lòng yên ổn tức quê hương.” [3]

<i>[3] Định phong ba – Nam Hải quy tặng Vương Định Quốc thị nhân ngụ nương – </i><i>Tô Đông Pha</i><i> và bản dịch của Như Quy, thivien.net.</i>

Tháng sáu, lá sen đầm sen trong ruộng đồng, đài sen vừa lớn vừa dày, hạt sen tròn đầy.

A Bảo cởi giày vớ ra, kéo ống quần, xuống hồ hái đài sen, Lương Nguyên Kính căng thẳng đứng chờ trên bờ trông chừng nàng.

Có lẽ do chàng không có kinh nghiệm, nhìn như có tật giật mình khiến người ta chú ý rất nhanh, thấy có người từ xa xa chạy tới.

“Nè⎯ Làm gì đó?”

Lương Nguyên Kính hoảng hốt gấp gáp hô về phía hồ: “A Bảo, có người tới! Mau lên đây!”

A Bảo nói đợi chút, trong khoảng thời gian ngắn hái thêm mấy đài sen nữa.

Người kia đang càng chạy lại gần. Tim Lương Nguyên Kính đập nhanh như muốn nhảy ra ngoài, đang quay đầu tính giục A Bảo thêm lần nữa thì lại ngây ngẩn cả người.

Gió mát se se làm mặt hồ gợn sóng, trong hồ chỉ thấy hoa sen tươi tốt, lá sen khẽ đưa theo gió nhưng không thấy bóng dáng A Bảo đâu.

“A Bảo!” Chàng khiếp sợ hô to, cho rằng nàng đã chết đuối.

“Ở đây này, la cái gì?”

‘Rầm’ bọt nước văng lên khắp nơi, A Bảo ngoi lên từ hồ nước, mặt mũi long lanh, ôm đầy đài sen vào lòng kêu chàng: “Ngơ ngơ gì đó, chạy đi!”

Dứt lời đã tự mình cất bước chạy.

Lương Nguyên Kính hơi giật thót, quay đầu lại thấy cụ già đang tiến lại gần trong gang tấc, hoảng muốn chết phi nước đại.

“Đêm khuya tĩnh bụi trần, trăng sáng như ánh bạc. Rót rượu rồi phải đầy mười phân. Hư danh vô thật làm khổ tâm thần. Than cho kiếp người ngắn ngủi, như đá trong lửa, phận trong mơ. Tuy rằng ôm ấp văn chương, còn khi mở miệng ai thân với người. Hãy vui vẻ tận hưởng sự ngây thơ thuần khiết. Bao giờ về người nhàn nhã không thôi. Ôm đàn ôm rượu suối mây bên người.”

Đêm trăng tròn.

A Bảo ôm tỳ bà ngồi ngay ngạch cửa, đột nhiên nói: “Người này viết từ tuy hay, nhưng không hợp phổ thành khúc, quá……”

Nàng nhíu mày, trong nhất thời không biết nên dùng từ gì để hình dung.

“Quá hào hùng đúng không?” Lương Nguyên Kính hỏi.

A Bảo vội gật đầu, chính là ý này, nàng cảm thấy từ của người này vừa hào sảng vừa linh động, hào hùng khí thế, hợp với đại hán Quan Tây vỗ trống dê hơn, uống rượu mạnh ca hát, không hợp với ngân nga đàn tỳ bà.

“Đây là điểm đặc sắc của Tô Từ,” Lương Nguyên Kính cười nói, xong trầm ngâm một lát, “Tôi dạy em bài từ khác nhé.”

“Anh nói đi.”

Lương Nguyên Kính vươn tay ra nhìn nàng, “Đưa tỳ bà cho tôi.”

“Anh biết?” A Bảo hết sức kinh ngạc.

“Biết một ít, không tốt như em.”

A Bảo đưa tỳ bà cho chàng, nhịn không được nói: “Cẩn thận một chút, chỗ đầu cầm hơi lỏng.”

Cây đàn tỳ bà này là do năm xưa ân sư truyền lại cho A Bảo, đã làm bạn cùng nàng rất nhiều năm, nàng cực kỳ trân trọng, mỗi đêm trước khi ngủ phải chà lau sạch sẽ một lần.

Lương Nguyên Kính cũng biết nên gật đầu, điều chỉnh dây tỳ bà xong, tay trái ấn dây đàn, ngón phải thon thả vỗ vài cái, động tác vô cùng đẹp mắt.

A Bảo nhìn thẳng, chỉ nghe chàng rũ mi hát: “‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời.”

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi.”

Tiếng đàn tỳ bà trong trẻo, êm dịu linh hoạt kỳ ảo. Thiếu niên khẽ hát, mặt mày che phủ bởi ánh trăng, giống như giấc mộng đẹp vào đêm hè.

A Bảo ngừng thở, sợ đánh mất cảnh tượng như mơ này.

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [4]

<i>[4] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

Cuối cùng A Bảo tỉnh lại, lau khô vệt nước trên má, nói: “Anh gạt người, anh đàn dễ nghe hơn tôi nhiều.”

Lương Nguyên Kính cười: “Khuyết từ này nếu do em đàn hát sẽ nghe hay hơn tôi.”

“Đây là bài từ gì?”

“Nhất tiễn mai, từ Tưởng Tiệp viết khi ngồi thuyền qua Ngô giang.”

“Nói về cái gì?”

Lương Nguyên Kính đưa đàn tỳ bà lại cho nàng, thở nhẹ một hơi, thấp giọng nói: “Nói tuổi xuân dễ qua, sầu não nhớ nhà.”

“Anh nhớ nhà à?” A Bảo nghiêng đầu hỏi.

Lương Nguyên Kính lắc đầu, ấn ấn lên ngực trái mình, mỉm cười nói: “Nơi nào tâm an nơi đó là quê nhà.”

**

Sau khi sức khoẻ dần dần chuyển biến tốt, Lương Nguyên Kính bắt đầu muốn làm vài chuyện trong khả năng cho phép, báo đáp ân tình của hai anh em Lý Hùng. Nhưng mà suy nghĩ tới suy nghĩ lui cũng chưa biết bản thân có thể làm được gì.

Chàng không một xu dính túi, dụng cũ vẽ tranh cũng mất, thôn Lý gia cằn cỗi lạc hậu, ngay cả cây bút lông cũng không có.

Xong chàng thử xuống bếp, chờ Lý Hùng từ sạp hàng trên trấn về tới nhà có thể ăn đồ ăn còn nóng hổi, không cần phải sau một ngày mệt nhoài còn nấu cơm cho chàng và A Bảo ăn nữa.

Nhưng chàng đã tự đánh giá cao năng lực chính mình. Lương gia công tử mười lăm tuổi không thổi được lửa khiến cả phòng bếp bị hun khói mịt mù.

A Bảo ngủ trưa bị khói xông cho tỉnh, nhảy xuống giường vừa bưng chậu nước tới dập lửa vừa hoảng sợ la to: “A ca! Lương Nguyên Kính đốt phòng bếp nhà chúng ta rồi!”

Lương Nguyên Kính bị sặc khói ho khan không ngừng: “………”

Lý Hùng trên đường về cách từ xa đã thấy nóc nhà mình bóc khói đen, khiếp sợ ném bỏ tất cả chạy như điên về nhà.

Thấy A Bảo đỡ Lương Nguyên Kính mặt đầy bụi đen từ phòng bếp đi ra, nhất thời nổi trận lôi đình: “Ông trời ơi! Hai đứa lại làm gì vậy hả?! Giờ tới phòng bếp rồi? A Bảo em lại đây! Hôm nay có ra sao anh cũng phải đánh em một trận!”

“Làm gì chứ?” Đôi mắt A Bảo bị khói hun cay ch** n**c mắt, hết sức tủi thân, “Đâu có liên quan tới em?”

Lương Nguyên Kính ho đến long trời lở đất, vừa ho vừa nói: “Không liên quan… Tới em ấy, là tôi… Khụ khụ……”

Chờ khói đen phòng bếp tan hết, Lương Nguyên Kính cũng bớt ho lại, chàng giải thích rõ ràng ngọn nguồn sự việc.

Lý Hùng nghe xong dở khóc dở cười, kêu chàng yên tâm đi, không cần phải báo đáp.

Lương Nguyên Kính lại vô cùng kiên trì. Chàng không thể làm một kẻ ăn không ngồi rồi, một mình Lý Hùng nuôi sống ba miệng ăn cũng rất vất vả, chàng rất muốn phụ anh làm chút việc gì đó.

Lý Hùng nghĩ ngợi kêu A Bảo đi nhóm lửa để chàng xuống bếp, loại việc nhỏ như nhóm lửa này A Bảo làm được.

Ai ngờ tay nghề nấu nướng của Lương Nguyên Kính cũng không tốt. Món ăn nấu xong nhìn đã không vừa mắt, mà hương vị cũng rất nham nhở, theo lời A Bảo từng nói, “Đến chó còn không ăn”.

Lý Hùng hết cách, đành mỗi buổi sáng sớm nấu nấu xong cơm nước cho một ngày, lấy nước giếng xong, chờ tới tối Lương Nguyên Kính có thể hâm lại đồ ăn, việc này không khó, chàng vẫn làm được.

Tháng bảy vào thu, nhóm phụ nữ và trẻ em thích cắt lá gỗ thu thành các hoa văn khác nhau đeo lên đầu.

Hôm đó, Lương Nguyên Kính đang bận việc trong phòng bếp, thợ nhóm lửa của chàng không biết lại chạy đi đâu chơi nữa rồi.

Chàng lấy đồ ăn Lý Hùng nấu xong từ trong giếng nước ra đặt lên bệ bếp. Làm xong tất cả, chàng rửa tay, chuẩn bị đến chỗ A Bảo hay đi để tìm nàng.

Ai ngờ A Bảo đột nhiên vọt vào sân, đóng sầm cửa chốt lại. Lá thu trên đầu không biết đã rơi rớt đâu rồi, mặt mũi tèm nhem như con mèo hoa, tóc tai còn dính mấy cọng lông gà.

Nàng chắp tay sau lưng, ngẩng mặt cười hì hì nhìn chàng.

Nội tâm Lương Nguyên Kính phát tiếng chuông báo động: “Em làm gì vậy?”

Chắc không phải đi ăn trộm đâu nhỉ?!

Trời ạ, từng trộm đài sen rồi thì đừng ăn trộm gà. Nhà nào trong thôn Lý gia cũng nghèo, coi gà như báu vật gia truyền vậy đó!

A Bảo vươn tay phải từ sau lưng ra, “Nhìn nè! Cái này có phải do anh vẽ không?”

Lương Nguyên Kính nhận lấy nhìn xem, đúng là do chàng vẽ, là bức vẽ khi còn ở chùa núi Thanh Thành. Chẳng qua mặt lụa đã hư hại, cuốn hoạ cuộn tròn cũng bị bẩn một vết nhỏ.

“Tôi tìm được ở nhà Lý Nhị Cẩu, bị mẹ nó lấy đắp chuồng gà.”

“……”

Lương Nguyên Kính cất bức tranh đi, nói ra từ tận đáy lòng: “Cảm ơn em, A Bảo.”

A Bảo đánh mắt đi, sườn mặt ửng đỏ trông khả nghi, ho nhẹ một cái: “Cảm gì chứ, không phải tôi có lòng tìm giúp anh, là tình cờ thấy…”

Thiếu nữ say đôi má hồng, là loại phấn hồng nhiên nhất thế gian tạo thành, không còn gì động lòng người hơn như thế.

Lương Nguyên Kính gỡ cọng lông gà dính bên tai nàng xuống, gió đêm lay động tóc mai của chàng. Lúc đó phía chân trời còn dư chút tia nắng tàn, ánh chiều tà ấm vàng vẩy vụn lên trên lông mi của chàng, khoé môi cong lên hiền hoà, đôi mắt ẩm nhuận như nước mùa thu. Ánh mặt trời như chìm sâu vào trong đó.

A Bảo há miệng ngắm đến ngây người.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 34: Dạy học


Lúc nấu cơm tối, Lý Nhị Cẩu dẫn một đám con trai tìm tới, ghé vào hàng rào tre Lý gia, kêu gào A Bảo đem đồ trộm được giao ra đây.

A Bảo chống nạnh cười mắng: “Còn tưởng chó nhà ai sủa bậy, hoá ra là mi. Đúng là không biết xấu hổ, rốt cuộc ai mới là ăn trộm đây? Mấy người nhân lúc Lương Nguyên Kính ngất xỉu trộm tranh của anh ấy, giờ dám tìm ta đòi lại?!”

Lý Nhị Cẩu nổi giận: “Đó là của nhà tôi!”

“Mi á hả?” A Bảo khinh miệt nói, “Có bản lĩnh vẽ thử cho ta xem đi?”

“Chị⎯⎯”

Lý Nhị Cẩu tức giận chỉ vào nàng: “Có bản lĩnh thì mở cửa ra đây!”

“Ta mới không mở đâu, ta ngốc chắc?”

A Bảo trợn trắng mắt tức muốn chết.

Lý Nhị Cẩu tức giận xúi mấy đứa em nhặt cho nó cục đá, sau đó ném lên nóc nhà Lý gia đập vỡ mái ngói.

Trong nhà vốn đã rách sẵn. Bốn phía thông gió, bị chọi như vậy, Lý Hùng tính leo lên nóc nhà sửa lại, Lương Nguyên Kính đang hâm cơm trong bếp vội vã vung nồi xẻng chạy ra.

“Các vị! Đừng ném nữa!”

A Bảo thấy thế, bất thình lình quay người lẻn vào bếp, một lát sau, giơ con dao phay bóng lưỡng lao ra ngoài.

“! ! ! ! !”

Lương Nguyên Kính sợ cứng người, vội xông lên cản nàng lại: “A Bảo! Đừng bốc đồng!”

“Buông ra!”

A Bảo giơ dao phay, hai tròng mắt toát ra lửa tiếp tục đi ra đằng trước.

Lương Nguyên Kính sợ nàng đi chém người ta thật, hoảng tới độ đầu óc trống rỗng, quên luôn lễ nghi, hai tay ôm chặt lấy nàng, khẽ đọc tên giúp nàng bình tĩnh lại.

Y như mưa đá bắn tới, liên tục chọi trúng sống lưng của chàng. Chàng chắn cho tiểu cô nương trong lòng ngực rất chặt chẽ, đến mảnh góc áo của nàng không hề dính phải đá do Lý Nhị Cẩu ném.

Buổi tối Lý Hùng về nhà mắng cho A Bảo té tát, cũng vì nàng mà gáy của Lương Nguyên Kính bị đập cho sưng lên, sau lưng bị đá văng trúng cho bầm dập.

A Bảo thường hay tranh luận với anh không biết lần này vì sao có bị mắng cũng không hé răng, vùi đầu vọt vào phòng của Lương Nguyên Kính.

Lương Nguyên Kính đang cởi xiêm y trên người tính bôi thuốc lên vai, nghe vậy sợ tức mức vội mặc quần áo lại ngay ngắn. Chàng không cần quay đầu lại cũng biết là A Bảo, chỉ có nàng mới chưa từng gõ cửa khi vào phòng chàng.

A Bảo không nói lời nào, cởi xiêm y chàng ra, ấn mặt chàng trên giường đất.

“……”

Lương Nguyên Kính nóng đỏ tía khắp người như con tôm luộc, xấu hổ muốn đâm đầu tự vẫn.

“A Bảo……”

“Đừng nhúc nhích.”

A Bảo đè vai chàng xuống, lẳng lặng rũ mắt quan sát.

Thân thể của Lương Nguyên Kính như đúc từ ngọc thạch, nước da trắng nõn, da thịt mịn màng, vừa nhìn là biết được nuôi trong nhung lụa. Giờ phút này chàng thẹn thùng nên cả người ửng màu đỏ nhạt, phía sau lưng hiện lên một mảnh xanh tím.

Vành mắt A Bảo phiếm hồng, lấy rượu thuốc xoa vào lòng bàn tay cho nóng lên, ‘bốp’ một cái vỗ lên lưng chàng, khẽ mắng: “Đồ ngốc! Nếu không do anh, bọn Lý Nhị Cẩu đã sớm bị tôi chém chết rồi!”

Lòng bàn tay thiếu nữ nóng rực, lúc chạm vào da thịt tạo nên cảm giác run rẩy.

Lương Nguyên Kính cực kỳ không quen, khuôn mặt tuấn tú đỏ hơn nãy, đành cật lực thuyết phục bản thân đừng để ý tới là được.

Nghe A Bảo nói thế, chàng ghé vào gối cười cười: “Không phải chuyện gì cũng dùng đến bạo lực được.”

Chàng sinh ra ở vùng đất cẩm tú Giang Nam, lớn lên trong trâm anh chi tộc, từ nhỏ học đủ thứ thi thư lễ nghĩa, những người giao du toàn là có học thức lễ nghi. Chị em trong nhà dù có người kiêu căng quá giới hạn cũng chỉ thường lén cười đùa với nha đầu, gặp người lạ, nhất cử nhất động đều phải tuân theo khuôn phép khuê các.

Chàng là lần đầu tiên thấy tiểu nương tử như A Bảo. Lúc cười tiếng cười lớn, lúc khóc tiếng khóc cũng lớn, tức tối không thích ai thì chống nạnh mắng, mắng xong không màng thứ gì lấy dao chém người đó, còn dũng mãnh hơn cả Trương Phi trong sách hay nói.

“A Bảo,” Lương Nguyên Kính thở dài nói, “Sau này không có tôi và a ca em ở nhà, đừng như vậy nữa, nếu không sẽ bị người ta khi dễ, không ai bảo vệ em được.”

“Anh sẽ không ở đây sao?” A Bảo hỏi từ sau lưng chàng.

Lương Nguyên Kính không nói gì.

Luôn có một ngày nào đó, chàng cũng sẽ phải rời đi?

**

Qua vài ngày, Lương Nguyên Kính tự mình chứng minh cho A Bảo rằng, không phải tất cả mọi chuyện đều được giải quyết bằng vũ lực.

Người trong thôn Lý gia biết chàng có thể vẽ tranh, hơn nữa còn biết chữ nghĩa, liền xách con nhà mình lại đây, ấn đầu bọn nó xuống từng đợt dập đầu xin lỗi Lương Nguyên Kính. Nhận chàng làm tiên sinh, mời chàng dạy học tập viết cho.

Thôn Lý gia nghèo đến mức không mở được trường tư thục, từng người trong thôn bắt đại một người ra cũng không biết chữ. Trong thôn chỉ có Lý Hùng lúc nhỏ gia cảnh tốt một chút, lên trấn học vài ngày nên biết được một hai, không đến mức bị mù chữ.

Người trong thôn cũng không có tiền, mấy gia đình chỉ có thể ướp chút thịt khô cá khô, trứng gà đẻ qua làm quà nhập học.

Lương Nguyên Kính không hề ngờ tới đời này của mình trở thành tiên dạy học, dở khóc dở cười trả đồ đạc lại xong đồng ý việc này.

Trong thôn không có dư nhà để sung làm học đường, mọi người liền học dưới cây hoè lớn ngay cửa thôn.

Trước lập thu thời tiết nóng bức, vẫn nằm trong mùa nóng. Từ ngày Lương Nguyên Kính tới đất Thục cho tới nay, trời chưa từng đổ bất kỳ giọt mưa nào. Hồ sen bị phơi khô tới nơi, tiết trời bức bối vô cùng, duy chỉ mỗi cây hòe lớn biết tạo chút gió. Mỗi ngày sau cơm chiều có không ít dân thôn lại đây hóng mát.

Lương Nguyên Kính dạy học dưới bóng cây, không có giấy và bút mực, chàng cầm nhánh cây viết chữ trên mặt đất, từ ⟪Thiên địa nhân⟫ đơn giản nhất, sau đó tới ⟪Tam Tự Kinh⟫, ⟪Thiên Tự Văn⟫.

Gồm hơn hai mươi học sinh, nam nữ cỏ đủ, tuổi tác từ năm đến chưa đầy mười tuổi, đứa lớn tuổi nhất là A Bảo, nhưng đứa không nghe lời nhất cũng là nàng.

Nàng không kiên nhẫn ngồi nghe giảng như người khác, tâm trí đặt trên mây, sự tập trung không phải con chuồn chuồn bay ngang cũng là lén lấy nhánh cây chọc chỗ này chỗ kia lên Lương Nguyên Kính, thi thoảng muốn bắt con bọ rùa, lẻn bỏ vào cổ áo Lương Nguyên Kính.

“Tiên sinh ơi! A Bảo quăng sâu lên đầu người kìa!” Một nha đầu mũm mĩm có búi tóc cao cao giơ tay lên nói.

Đang đứng sau lưng Lương Nguyên Kính, A Bảo rón ra rón rén lập tức trừng mắt với cô bé.

Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ lấy con sâu trên tóc xuống phóng sinh chỗ khác, sau đó đối diện với tiểu cô nương giương nanh múa vuốt làm mặt quỷ kia: “A Bảo, ngồi xuống.”

“Nhàm chán!” A Bảo nổi giận đùng đùng ngồi xuống, “Chưa thấy anh vẽ tranh gì sất!”

Nhờ nàng nhắc tới, vốn trời nóng nực, chúng học sinh không tâm tình học nữa nhao nhao lên.

Bọn chúng cũng thích xem Lương Nguyên Kính vẽ tranh, chỉ vì chàng vẽ tranh rất thú vị, vừa vẽ sẽ vừa để mọi người đoán xem chàng vẽ cái gì, hứng thú hơn việc học rất nhiều.

Lương Nguyên Kính sợ nhất là ồn ào, hơn hai mươi học sinh mà ầm ĩ lên là có thể khiến anh điếc tai ngay, đành phải cầm nhánh cây vẽ vẽ tranh trên mặt đất.

Chúng học sinh như tổ ong vây quanh ngó xem, mồm năm miệng mười suy đoán.

“Cửa!”

“Cửa sổ!”

“Thớt gỗ!”

“Thớt cái đầu em á!” Lý Nhị Cẩu vỗ đầu đứa đó, “Tiên sinh sẽ vẽ thớt gỗ à? Nhìn kỹ lại đi!”

A Bảo chen vào vuốt cằm nói: “Này chắc vẽ thân cây đi?”

Khoé môi Lương Nguyên Kính hơi nhếch, tiếp tục vẽ.

Chẳng được bao lâu, có đứa lớn tiếng kêu: “Là cây thật!”

“Vẽ cây hoè này ạ?”

“Đúng đó! Bên cạnh còn có cái giếng nước kìa!”

Lương Nguyên Kính cười nhạt, một tay cầm nhánh cây một tay chắp sau lưng, tư thái bình thản, rồng bay phượng múa, chúng học sinh di chuyển theo bước chân của chàng, đôi mắt mở càng lúc càng to.

“Đây không phải tiên sinh sao?”

“Đây là em!

“Em nữa!”

“Tớ nữa!”

Tiếng hô mừng vui kêu lên hết đợt này tới đợt khác.

‘Bức hoạ cuộn tròn’ càng vẽ càng lớn, thì ra Lương Nguyên Kính vẽ cảnh những người ở đây vào. Bao gồm tán cây thật lớn, cây hoè xanh um thụ động, giếng cổ kế bên, trên giếng treo cái ròng rọc lấy nước, quần áo bay bay là chàng, còn lại là chúng học sinh ngồi phía dưới.

Chàng đã vẽ là hết sức tỉ mỉ y như thật. Ngay cả mỗi biểu cảm tư thế của mỗi học sinh đều giống, có bạn học ngủ gật dựa vào cây, có đứa há họng ngáp, có đứa ưỡn nửa người về trước, có đứa nghiêm túc nghe giảng, cũng có đứa mắt dại ra lạc vào cõi thần tiên.

Mọi người nhìn chính mình trong tranh đều hết sức vui vẻ, còn chỉ vào bạn học cười ha hả, trêu ghẹo lẫn nhau.

Chỉ là rất nhanh có đứa phát hiện không đúng.

“Ồ, tiên sinh sao không vẽ A Bảo ạ?”

Mọi người sôi nổi tiến lại nhìn kỹ, quả nhiên không có A Bảo trong hình.

Lý Nhị Cẩu ‘xuỳ’ nói: “Chị ta luôn bỡn cợt tiên sinh, lấy sâu hù người, tiên sinh mà vẽ chị ta mới là lạ đó.”

“Câm miệng!”

A Bảo ném cục bùn vào cậu, chúng học sinh sợ như chim vỡ tổ. Lý Nhị Cẩu giận tím mặt, chuẩn bị ăn miếng trả miếng ném lại thì thấy đôi mắt A Bảo đỏ lên, lập tức ngây ngẩn cứng người.

Kỳ quái, cậu nghĩ thầm, người đàn bà đanh đá A Bảo này, thế mà cũng sẽ đứng yên lén đỏ mắt? Nàng khóc lên không phải luôn kinh thiên động địa sao?

Lúc này có đứa la to: “Đây là gì ạ? Hình như là con chim? Ồ, nãy có chim bay tới à, sao tớ không thấy nhỉ?”

Mọi người vừa tản ra lại xúm vào nhìn, duy chỉ có A Bảo cúi đầu bất động đứng sang một bên.

Chợt nghe có đứa hô to gọi nhỏ nói: “Em biết rồi! A Bảo là con chim này ạ! Tiên sinh vẽ A Bảo thành chim! Mọi người xem! Chim bay quanh tiên sinh, trong miệng còn ngậm con sâu nữa!”

Lương Nguyên Kính nghe xong cười nói: “Tứ Nha đoán đúng rồi, thưởng em viên kẹo.”

Nói xong lấy viên mạch nha từ tay áo ra nhét vào lòng bàn tay của Tứ Nha.

Học sinh còn lại thấy kẹo, xôn xao vây quanh đòi có, rất mau đã cướp sạch sẽ kẹo chàng mang theo trên người, còn có đứa chưa ăn tìm đòi chàng, Lương Nguyên Kính chỉ có thể bất đắc dĩ đưa tay áo trống cho chúng xem.

“Hết rồi.”

Chúng học sinh không nghe theo, vây quanh đòi: “Còn muốn! Muốn nữa!”

Lương Nguyên Kính bị tầm đâu đó bảy tám đứa nhóc kéo nắm ống tay áo lẫn vạt áo, đau đầu nói: “Đã hết rồi, thật sự không còn.”

“Tiên sinh bất công! Chỉ cho kẹo Tứ Nha!”

“Phải đó!”

Trong tiếng ồn ào, chợt nghe tiếng hét to của A Bảo: “A a a a! Lương Nguyên Kính! Anh dám vẽ tôi thành con chim! Tôi đánh anh!”

Nàng xoắn tay áo xông tới, mọi người sợ quá vội vã giải tán, duy nhất Lương Nguyên Kính ngốc quên tránh đi, cứ như vậy bị A Bảo đụng té xuống đất.

Gáy chàng đập xuống, người bị quăng cho ngơ ra, may sao có lớp cỏ xốp đỡ nên không đau mấy, chỉ có hơi ngốc ngốc thất thần, tròng mắt đen nhánh phản chiếu lại bầu trời xanh chứa mây trắng.

A Bảo đụng ngã trên người chàng, ôm cái đầu va vào cằm chàng, nhíu mày rít một tiếng: “Sao anh không né vậy hả?”

Lương Nguyên Kính ngơ ra hồi lâu sau mới đáp: “Tôi quên.”

“……”

Hai người nhìn nhau không nói tiếng nào.

Tứ Nha chỉ vào bọn họ la to: “A! A Bảo lại đánh tiên sinh rồi!”

Chúng học sinh tản nhau ra chạy về nhà, miệng còn hô to: “A Bảo đánh tiên sinh nữa kìa!”

“Quay lại đây!”

A Bảo mặt đen như đáy nồi, vội chống lên ngực Lương Nguyên Kính đứng dậy, nhưng mấy đứa đó chạy nhanh quá, chốc lát đã biến mất tiêu.

Nàng hậm hực sờ sờ mũi nhìn về phía Lương Nguyên Kính, chột dạ nói: “Nếu a ca tôi hỏi, anh có thể nói là tự anh té ngã không?”

“……”

“Có thể,” Lương Nguyên Kính từ trên mặt đất đứng lên, phủi bụi bặm trên áo, bình tĩnh nói, “Nhưng về sau trên học đường, em phải nghe lời tôi.”

“…… Thành giao.” A Bảo nhịn nhục gật đầu.

“Không được bắt sâu hù tôi sợ.”

A Bảo bất giác muốn cười lại chạm phải ánh mắt nghiêm túc của Lương Nguyên Kính, đành nhịn cười nói: “Được, còn nữa không?”

“Tạm thời nhiêu đó.”

Lương Nguyên Kính có hơi thất thần, xoa xoa ngực, không biết có phải vừa rồi bị A Bảo đụng vào không, hiện tại nơi đó đập nhanh không bình thường xíu nào.

Ngày này trôi qua, Lương Nguyên Kính cuối cùng nắm được cách trị A Bảo. Đó là không thể để nàng rảnh rỗi, phải tìm việc cho nàng làm.

Lương Nguyên Kính kêu nàng ngồi bên cạnh chàng, giúp chàng bắt học sinh nào không nghiêm túc nghe giảng. Quả nhiên nàng không hề nghịch ngợm, mà còn vô cùng có trách nhiệm quản người hộ chàng.

Dưới cây hòe, trong tiếng đọc sách lanh lảnh, thường hay nghe thấy tiếng mắng lảnh lót của nàng.

“Nhân chi sơ, tính bổn thiện, tính tương cận,……” [1]

<i>[1] Bài 1 trong ⟪Tam Tự Kinh⟫.</i>

“Lý Nhị Cẩu! Đừng ngủ! Mi tới đây để đọc sách hay là để ngủ!”

“Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang, hàn lai tử vãng, thu thâu đông tàng……” [2]

<i>[2] Bài 1 trong ⟪Thiên Tự Văn⟫.</i>

“Lý Tứ Nha! Giao đồ ăn đây! Đừng có giấu! Chị thấy em ch** n**c miếng rồi!”

“Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu……” [3]

<i>[3] Quan thư 1 trong ⟪Kinh thi⟫.</i>

Giọng bọn nhỏ oang oang, rung đùi đắc ý, Lương Nguyên Kính nghiêm túc lắng nghe, ánh mắt lại mất tự chủ dời sang nhìn A Bảo.

Nàng đang ăn đồ ăn vặt cướp được của Tứ Nha, chàng bất đắc dĩ cười, nhẹ nhàng lắc đầu.

“Thanh thanh tử khâm, du du ngã tâm, túng ngã bất vãng, tử ninh bất tự âm……” [4]

<i>[4] Tử Khâm 1 trong ⟪Kinh thi⟫.</i>

Cây hoè nở hoa rồi, nhuỵ hoa trắng vàng, um tùm rũ rượi, khi có gió thổi qua, cánh hoa phân tán rơi xuống đầy đầu vai.

Bọn nhỏ chỉ Lương Nguyên Kính hút mật hoa hoè, chất lỏng thấm vào đầu lưỡi ngòn ngọt thấm vào lòng.

“Đêm nay là đêm nao? Thuyền lênh đênh giữa dòng, Hôm này là hôm nao? Cùng thuyền với vương tử. Ngại ngùng không che giấu, Chàng không trách cứ chi. Tâm phiền mãi không dứt, Cũng vì tri vương tử. Non có cây, cây lại có cành, Tâm hân hoan chàng, chàng có hay?” [5]

<i>[5] Việt nhân ca và bản dịch của Vệ Ca, thivien.net.</i>

Sau giờ ngọ, tiếng ve kêu không ngớt. [6]

<i>[6] Từ 11g đến 13g.</i>

A Bảo ngủ rồi, đầu chầm chậm ngã xuống trên đùi của Lương Nguyên Kính, âm thanh đọc ⟪Việt Nhân Ca⟫ của Lương Nguyên Kính khựng lại, cúi đầu nhìn tiểu cô nương vô tri vô giác ngủ trên đùi mình, thở dài nhưng không đánh thức nàng, ngón tay dài khẽ giơ lên phất đóa hoa hè rơi trên má nàng xuống.

**

Tác giả có chuyện nói:

Lương Nguyên Kính: Phong ẻm làm lớp trưởng kỷ luật.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 35: Thu xã


Mùa thu tháng tám, trong trấn có cuộc thi đón thần, có kịch dân dã, còn có mở họp chợ.

Lương Nguyên Kính lần đầu đề nghị muốn đi cùng khiến A Bảo kinh ngạc không thôi, bởi vì nàng biết người này không thích ra ngoài, thích thanh tịnh hơn.

“Anh đi nghe tôi đàn tỳ bà hả?”

A Bảo không thích ở nhà một mình, muốn dính lấy ca ca lên phố, Lý Hùng đánh trang sức bạc bên đường, còn nàng thì đàn tỳ bà gần đó.

Sau này Lương Nguyên Kính tới, vì chăm sóc chàng nên nàng không lên phố nữa, đây là lần đầu lâu đến vậy nàng mới lên phố họp chợ.

Lương Nguyên Kính mỉm cười: “Đúng vậy.”

A Bảo lập tức thấy vui vẻ, kiêu ngạo nói: “Hôm nay tôi tính hát bài từ anh dạy, hát khuyết từ nhất tiễn mai kia.”

Nàng giống một con bướm hoa, vòng qua vòng lại Lý Hùng và chàng, Lý Hùng bị nàng làm cho chóng mặt, kêu nàng đi đường đàng hoàng nhưng nàng không nghe, vẫn tiếp tục đi loanh quanh, ngâm nga điệu nhỏ Ba Thục, váy đỏ thêu chỉ vàng sáng loá mắt dưới ánh mặt trời.

Váy áo đỏ này là năm xưa sư phụ tặng nàng làm lễ vật, A Bảo chỉ mặc lúc đàn tỳ bà.

Trên con đường dài, chợ đang náo nhiệt, người bày sạp rao bán không ngớt, bên đường còn bày cơm xã cúng tế thần thổ địa, có cả mùi rượu quế hoa thơm bay mười dặm, kịch dân dã chưa được bắt đầu.

A Bảo ngó đông ngó tây, mỗi cửa tiệm đều phải duỗi dài cổ nhìn một cái nhưng nàng không đề cập đến việc mua, nàng biết a ca kiếm tiền không dễ dàng gì, chỉ nhìn nhìn chút cho đỡ thèm thôi.

Bởi vì người lên phố nhiều, hôm nay Lý Hùng làm ăn rất tốt, anh kêu A Bảo đừng chạy xa quá, sợ nàng bị mấy tên du côn lưu manh khi dễ.

“Cho anh xem sự lợi hại của tôi.”

A Bảo đắc ý nói với Lương Nguyên Kính, nàng dựng một cái ghế giữa đường, ôm tỳ bà ngồi xuống, chuyên tâm chỉnh dây đàn, lại mặc bộ váy áo như lửa, mặt mũi như tranh, thật sự rất gây chú ý, rất nhanh đã hấp dẫn một nhóm người, lấy nàng làm trung tâm kết lại thành một vòng tròn.

Lương Nguyên Kính đứng ở ngoài vòng tròn, mặt khẽ mỉm cười nhìn bàn tay nhỏ nhắn của nàng gảy dây đàn, cất giọng hát: “‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời.”

Chàng đã nói, nàng đàn hát sẽ dễ nghe hơn chàng mà.

Lương Nguyên Kính mỉm cười xoay người rời đi.

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi.”

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

Bóng người cao lớn dần dần đi xa, biến mất sâu trong đám đông.

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [1]

<i>[1] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

Hát xong một khúc, tiếng vỗ tay của đám đông vang nhe sấm rền, có không ít người ném đồng tiền vào trong chậu kế bên chân của A Bảo, đó là tiền thưởng cho nàng.

A Bảo lại không nói lời cảm tạ, ôm tỳ bà đứng dậy, ánh mắt đảo quanh khắp nơi tựa như đang tìm kiếm gì đó, gấp đến mức sắp khóc đến nơi.

Đang tính đi về phương hướng nào đó không đầu mối, phía sau lại vang lên tiếng ‘ting’ nhỏ, như có thứ gì đó ném vào chậu đồng tiền thưởng.

“Tiểu nương tử với khúc nhạc như nhạc tiên luân âm, nhân gian nào mấy khi được nghe, một chút tâm ý, kính mong vui lòng nhận cho.”

A Bảo quay đầu lại, đầu tiên là thấy nén bạc trong chậu đồng kia, sau đó ngẩng đầu lên, Lương Nguyên Kính cười tủm tỉm đứng cách đó không xa, chàng mặc bộ y phục ngày đầu Lý Hùng nhặt được, tay áo thêu hoa văn hình trúc xanh, trong tay còn cầm chút và bút mực mới.

“……”

“Làm sao vậy?” Lương Nguyên Kính tò mò nhìn nàng hỏi, “Sao mắt đỏ rồi?”

“Không sao hết.”

A Bảo dụi dụi hai mắt đỏ lên nói: “Anh lấy tiền ở đâu?”

Nhìn vào kích thức nén bạc này, chắc có đến một hai nén nhỉ?

Lương Nguyên Kính nhặt nén bạc từ trong chậu lên, cười hỏi: “Ăn bánh không?”

Hai người đi mua bánh xã, A Bảo ngại nhắc tới, chỉ cần nàng nhìn nhiều hơn một lần Lương Nguyên Kính đều sẽ mua cho, nàng sợ tới mức vội kêu: “Đủ rồi đủ rồi, không cần mua nhiều vậy đâu! Tiêu hết tiền bây giờ!”

“Không hết đâu, yên tâm.”

Lương Nguyên Kính cười dúi túi tiền vào lòng bàn tay nàng.

A Bảo ước lượng thấy nặng trĩu, không khỏi hỏi: “Trong đây có bao nhiêu tiền?”

“Năm mươi lượng bạc.”

Năm mươi… 50 lượng bạc!!!

“Ở đâu anh có?!” A Bảo chấn động rồi, chắc không phải đi cướp tiền đâu ha?

“Tôi bán tranh.”

“Là bức tôi nhặt về à?”

“Ừm.”

“Không phải bị hư rồi sao?”

Lương Nguyên Kính nói: “Tôi sửa lại rồi.”

“Một bức tranh rách mà đáng giá nhiều tiền như vậy á? Chưởng quầy có phải đồ ngốc hay không đó.” A Bảo nhỏ giọng thầm thì.

Lương Nguyên Kính cười cười không đáp.

Thật ra nếu tranh được đóng con dấu riêng của chàng thì còn đáng giá hơn nữa. Chàng cũng không bán tranh, chỉ thường vẽ tặng bạn bè, vì thế trên thị trường lưu hành cực ít tranh của chàng, hết sức trân quý, thông thường một bức thôi đã ‘ngàn vàng khó mua’, nghĩa là có ra giá cũng không mua được.

A Bảo kể việc này lại cho Lý Hùng nghe: “A ca, tranh của Lương Nguyên Kính bán được năm mươi lượng bạc! Năm mươi lượng đó!”

Nàng vươn năm ngón tay ra, cường điệu nhấn mạnh con số ‘năm mươi; này.

Lý Hùng nghe xong không quá ngạc nhiên, chỉ thờ ơ nói “Biết rồi” xong lại dặn A Bảo đừng quấn lấy Lương Nguyên Kính mua cái này mua cái nọ.

A Bảo theo sau lưng anh, lặng lẽ nói với Lương Nguyên Kính: “A ca giả vờ đó, anh ấy không muốn nhìn như chưa trải đời, thật ra trong lòng cũng thấy năm mươi lượng rất nhiều.”

“Anh nghe được!”

Lý Hùng trừng nàng ở sau lưng.

A Bảo cười ha ha, kéo Lương Nguyên Kính chạy thật xa.

**

Chạng vạng miếu Thành Hoàng người ghé xem kịch dân dã càng lúc càng nhiều, còn có nam nhân khiêng con trẻ trên vai để xem.

Năm xưa A Bảo cũng được Lý Hùng cõng trên lưng để xem, giờ lớn rồi đương nhiên không được vậy nữa, may sao nàng cũng không thích xem những con hát đó vung tay áo ê a ê a, chỉ muốn tìm Lương Nguyên Kính nói chuyện cùng.

“Lương Nguyên Kính, có phải nhà anh rất có tiền không?”

“Hửm?” Lương Nguyên Kính bất ngờ, không biết vì sao nàng lại hỏi cái này, “Cũng tạm thôi……”

Cụ thể như nào chàng cũng không rõ ràng lắm, như người Dương Châu nhắc tới Lương gia sẽ không nói giàu nhất vùng, mà là dòng dõi thi hương, thế gia trong sạch cao quý.

A Bảo nói: “Vậy anh là công tử rồi, anh có nha hoàn hầu hạ không?”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Có.”

“Có mấy người?” A Bảo truy hỏi.

“Em nói hầu hạ bút mực, hay quét nhà vẩy nước may vá, nếu là hầu hạ bút mực thì có bốn người.”

“……”

A Bảo chợt tò mò: “Có cả loại này không?”

“Loại nào?” Lương Nguyên Kính không hiểu gì.

“Chao ôi! Là này này,” A Bảo nóng nảy, sợ Lý Hùng bên cạnh nghe thấy, chỉ làm quỷ ám chỉ với chàng, nhỏ giọng hừ hừ nói, “Hầu hạ trong phòng ấy.”

“…………”

“Không…… Không có, tôi không…… Cái đó.”

Lương Nguyên Kính đỏ tía mặt tới mang tai, lông mi run rẩy, hận không có cái lỗ nào để chui xuống.

A Bảo thấy dáng vẻ này của chàng cười ha hả: “Anh thẹn thùng cái gì, ở chỗ chúng tôi có Cổ viên ngoại, nhà ông ta có tiền, con của ông ta cưới tiểu thiếp tứ phòng, cả ngày cự nhau rất thú vị.”

Lương Nguyên Kính nghe xong chỉ cười không nói.

A Bảo cẩn thận liếc trộm chàng, chợt hỏi: “Lương Nguyên Kính, Dương Châu trông thế nào?”

Lương Nguyên Kính liền nói về cảnh vật Dương Châu, con người Dương Châu, di tích cổ Dương Châu, Dương Châu có Hồ Tây Gầy, có Qua Châu Dộ, có sông nhỏ Tần Hoài, còn có 24 cây cầu cho nàng nghe.

“24 cây cầu?” A Bảo hỏi, “Có 24 cây cầu thật sao?”

“Thời xưa thì có, giờ chỉ còn cầu Thái Bình, cầu Vạn Tuế, cầu Khai Minh, cầu Thông Tứ, cầu Quảng Tế và cậu Tiểu Thị, nó còn được gọi là ‘cầu Hồng Dược’.”

“Vì sao?”

“‘Hai bốn nhịp cầu còn đó, Lòng sông sóng gợn nguyệt chênh chênh. Kia bên cầu Thược Dược, Năm năm vẫn nở vô tình?’” [2]

<i>[2] Dương Châu mạn – Khương Quỳ và bản dịch của Nguyễn Chí Viễn, thivien.net.</i>

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu cười nhìn nàng: “Từ của Khương Quỳ, thược dược Dương Châu giáp thiên hạ, mỗi năm vào tháng hoa nở, đều có phụ nhân đem lẵng hoa ra ngoài bán.”

“Thược dược có là gì, Thành Đô chúng ta cũng có hải đường mà.” A Bảo lẩm bẩm.

“Em nói gì?”

Tiếng hát trên sân khấu to làm Lương Nguyên Kính không nghe rõ mấy.

“Không có gì,” A Bảo lắc đầu, bỗng hỏi chàng, “Vậy theo anh, Thành Đô tốt hay Dương Châu tốt hơn?”

Lương Nguyên Kính cúi đầu cười.

“Cười gì vậy?” A Bảo thấy lạ hỏi.

“Mỗi nơi đều có cái hay của nó.” Lương Nguyên Kính cười mỉm chi.

“Vậy vẫn là Thành Đô tốt hơn sao?”

A Bảo tựa như không có đáp án sẽ không bỏ qua, bám theo Lương Nguyên Kính hỏi cho ra ất giáp mới thôi.

Lương Nguyên Kính bị nàng chọc lét, vừa cười vừa trốn: “Được rồi, A Bảo, đừng quấy nữa, sau này sẽ mời em tới Dương Châu, tự em tận mắt nhìn nhé.”

“Tôi đến Dương Châu làm gì? Làm nha hoàn cho anh? Tôi mới không đi đâu!” A Bảo nói rất khí phách.

“Không, đương nhiên em không phải nha hoàn……”

Lương Nguyên Kính đỏ mặt muốn giải thích gì đó.

A Bảo bám riết không tha: “Vậy anh nói đi, tôi là gì hả?”

“Em……” Lương Nguyên Kính cứng họng, nhất thời không thể nói rõ được.

“Là gì hả?” A Bảo tò mò nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính đang tính mở miệng, Lý Hùng quay đầu lại, nhíu mày nhìn A Bảo: “Đủ rồi, xem kịch vẫn không yên, A Bảo, đừng phiền Lương công tử, để cậu ấy yên tĩnh xem kịch đi.”

A Bảo lè lưỡi giả quỷ với anh trai, nắm kéo ống tay áo của Lương Nguyên Kính chuồn ra khỏi đám đông, dẫn chàng đến chỗ khác chơi.

**

Màn đêm buông xuống, ban ngày A Bảo chơi bời sức lực cạn kiệt nên đi vào giấc ngủ rất sớm.

Lương Nguyên Kính không ngủ được, tuy tiết trời đã vào thu, nhưng thời tiết vẫn nóng bức lạ thường, tới ban đêm rồi nhiệt độ vẫn không hề giảm.

Chàng vốn bệnh nặng đã lâu, thân thể suy nhược, càng dễ mất ngủ hơn, cả đêm nằm trằn trọc trên giường, dứt khoát cầm Kê Huyết Thạch, ngồi dưới cây sơn trà trong sân khắc con dấu.

Khắc được một chút, chàng che miệng ho khan vài tiếng, ngẩng đầu xuyên qua cành lá nhìn ánh trăng trên bầu trời.

Trăng tròn, sắp tới Trung Thu rồi.

Còn nhớ rõ tiệc trung thu năm ngoái, người thân trong tộc tụ họp về nhà, trong yến hội, phụ thân nâng chén mời chàng, chúc chàng bảng hổ danh đề, bảng vàng đề tên, tam tỷ cũng thêu túi tiền thêu hoa quế tặng chàng, mong chàng sớm ngày đăng khoa, lộng lẫy chiếu cửa đình.

Tiếc là, mình không làm được.

Lương Nguyên Kính cúi đầu thở dài một hơi, tiếp tục khắc con dấu trong tay, bỗng nhiên trên vai nặng khoác thêm cái áo ngoài.

“Ban đêm gió mát, cậu vừa trị khỏi bệnh, cần bảo trọng sức khoẻ hơn.”

“Đa tạ Lý huynh.”

Lương Nguyên Kính kéo áo qua đầu vai, cười nói cảm ơn.

Lý Hùng ngồi xuống bên cạnh chàng, chợt hỏi: “Lương công tử, có phải cậu tính về lại Dương Châu không?”

Lương Nguyên Kính khựng động tác khắc lại, im lặng thật lâu sau mới nói: “Tôi đã rời nhà một năm rồi, cũng không nên phiền toái mọi người thêm, chung quy vẫn phải trở về.”

Lý Hùng nghe xong, hồi lâu cũng không lên tiếng.

Không biết qua bao lâu, anh mới nói: “Nếu quyết định phải đi thì mau đi đi. Nha đầu A Bảo rất nhung nhớ người cũ, cậu dừng chân ở đây càng lâu nó sẽ càng nặng cảm tình với cậu, đến lúc đó muốn chạy cũng không xong. Lúc cha mẹ anh qua đời, nó không nói chuyện tận nửa tháng, cũng không ăn cơm làm cả người gầy đi.”

Cô nương thèm ăn như A Bảo đây, có thể không nói tiếng nào, không ăn cơm suốt nửa tháng, chắc đã rất thương tâm.

Lương Nguyên Kính nhịn không được mà suy nghĩ, nếu mình đi rồi, nàng sẽ không nói lời nào mấy tháng đây?

Hẳn sẽ không lâu lắm nhỉ, bọn họ cũng mới ở chung chưa đầy nửa năm mà.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 36: Trung thu


Mười lăm tháng tám, ngày hội Trung thu, đêm trăng tròn.

A Bảo qua một ngày lễ tốt, tuy đây vào mùa khô hạn, ruộng đất và vườn rau chưa có gì ăn được, dưa và trái cây mùa năm vừa rồi đều không có, nhưng Lý Hùng vẫn dựa vào tay nghề khéo léo của mình thu xếp thành một bàn ăn ngon, thậm chí còn có cả rượu quế hoa.

Ba người ngồi trong sân, vừa ăn vừa ngắm trăng.

A Bảo lấy đàn tỳ bà ra, biểu diễn cho mọi người một khúc ⟪xuân giang hoa nguyệt dạ⟫. Đây là khúc học đầu tiên mà năm xưa nàng theo sư phụ học tỳ bà, đàn mấy năm đã sớm thuần thục, dựa vào nàng mà nói, có nhắm mắt cũng đàn được.

Lý Hùng lấy đũa gõ vào chén đệm cho nàng, tay Lương Nguyên Kính cầm chén rượu, mỉm cười chăm chú nhìn nàng.

A Bảo tấu xong khúc đó, cất đàn tỳ bà, vươn lòng bàn tay ra với hai người họ: “Đưa tiền đây đưa tiền đây.”

“Sao còn đòi tiền nữa?” Lý Hùng nghẹn họng trân trối.

A Bảo trừng anh một cái, miệng mồm nói năng đầy lý lẽ: “Anh đi ra tiệm mua thức ăn có trả tiền không? Người ta tìm anh đánh trang sức, anh có thu tiền không? Anh nghe em đàn tỳ xong, tất nhiên phải trả tiền chớ, là chuyện thiên kinh địa nghĩa mà. Nói nhảm ít thôi, mau trả tiền đi!”

Lý Hùng mắng nàng là cường hào, A Bảo đuổi theo anh đòi tiền.

Hai người chạy nhảy đùa giỡn vòng quanh cây sơn trà, năm sáu vòng gì đó, cuối cùng A Bảo đè Lý Hùng ra mặt đất, đào hết tiền trên người anh mới xong chuyện.

“Đến anh.”

A Bảo thở hổn hển đưa tay ra với Lương Nguyên Kính.

Vốn tưởng còn phải phí thêm chút sức lực, không ngờ Lương Nguyên Kính không nói hai lời, cười mỉm chi thả thỏi bạc vào lòng bàn tay cho nàng.

Lý Hùng: “……”

“Nhìn thấy chưa? Anh keo kiệt thì có.” A Bảo cười ha ha, hết sức đắc ý khoe khoang với ca ca.

Ba người vừa cười vừa đùa tới tận khuya.

A Bảo uống lén rượu quế hoa sau lưng Lý Hùng nên say rất nhanh, bị ca ca ôm ngang vào phòng ngủ. Lúc ngủ khoé miệng còn cười cười, trong tay nắm chắc thỏi bạc mà Lương Nguyên Kính đưa.

Trăng lên giữa trời, ánh trăng bạc sáng.

Lương Nguyên Kính đẩy cửa vào phòng A Bảo. Nàng ngủ trên giường đất, bởi vì quá nóng, chăn bị đá sang một bên.

Lương Nguyên Kính đắp chăn lại lên cho nàng. Lúc cúi người còn nghe nàng đang lẩm bẩm nói mớ, hình như kêu cái gì ‘bánh hạt dẻ’.

Chàng hơi cười cười, đặt cuốn tranh cuộn bên gối của nàng.

“A Bảo, tôi phải đi rồi.” Chàng nhẹ giọng nói.

A Bảo gãi gãi vết muỗi đốt trên mặt, ngủ rất say, không nghe thấy.

Lương Nguyên Kính ngơ ngẩn ngồi ngay mép giường, thẫn thờ nhìn mặt nàng. Một lát sau, chàng đứng dậy lại bị A Bảo vô thức bắt lấy ống tay áo.

Nàng nắm cũng không chặt lắm, Lương Nguyên Kính chỉ nhẹ nhàng động đã rút tay áo ra ngoài.

Cánh cửa khép lại, mọi thứ như cũ, mơ hồ như chàng chưa từng tới đây.

Rời khỏi Lý gia chưa bao xa, phía sau có tiếng bước chân truyền đến. Lương Nguyên Kính xoay người, thấy Lý Hùng vừa mặc áo ngoài vừa chạy lại chỗ chàng.

“Đường đêm không dễ đi, để anh đưa cậu.”

Anh vốn định giúp Lương Nguyên Kính xách hành lý. Nhưng thấy hai tay chàng trống trơn, cô độc một mình, như tay không mà đến tay trắng mà đi, để lại mỗi bức tranh bên gối A Bảo. Còn chút bạc vụn dư lại sau khi bán tranh, đặt toàn bộ trên tủ chén phòng bếp, chỉ giữ lại chút ít làm lộ phí thiết yếu.

Dưới ánh trăng sáng, hai nam nhân sóng vai như tản bộ cùng nhau.

“Lần này A Bảo có khóc.” Lý Hùng ‘mua vui trong khổ’ nói.

Lương Nguyên Kính nhoẻn miệng cười. Nhớ tới khi mình mới đến Lý gia, lúc bệnh nặng khó dậy đã nói sai một câu, chọc A Bảo lao ra ngoài lớn tiếng khóc lóc, làm chàng khiếp sợ mới nghĩ thầm, thế gian sao lại có cô nương khóc lớn tới vậy?

“Em ấy sẽ tốt lên.” Chàng thấp giọng nói.

Nhưng mà, khiến cả chàng và Lý Hùng không ngờ đến là, A Bảo không có tốt lên.

Sáng sớm hôm sau, A Bảo tỉnh dậy thấy cuộn tranh bên gối, vừa mở ra nhìn đã vui mừng cất lại, lập tức vọt vào phòng Lương Nguyên Kính kêu chàng rời giường. Nàng đã quyết định hôm nay sẽ dẫn Lương Nguyên Kính vào núi nhặt hạt dẻ.

Mà lúc đẩy cửa ra thì không thấy bóng người nào trong phòng.

Lương Nguyên Kính không biết được, ngày hôm sau khi chàng đi, A Bảo đã ôm tranh chàng tặng cho mình đuổi theo ra tới bảy tám dặm đường.

Nhưng mà sao đuổi kịp được đây?

Nàng bị vấp cục đá chật vật té xuống, đầu gối trầy da chảy máu, nàng căm giận ném tranh vào vũng bùn, vùi vào khuỷu tay khóc rống lên.

Lý Hùng vội vã tới nơi nhặt lại tranh.

Cũng may thời tiết khô hạn, hồ sen cũng cạn, không bị ướt chỉ hơi dính chút nước bùn.

Anh cõng A Bảo về nhà, A Bảo ghé vào đầu vai anh, khóc đến nghẹt mũi, nước mắt thấm ướt hết nửa bên vai anh.

“Kẻ lừa đảo.”

Nàng khóc lóc nói ở bên tai ca ca, tiếng nói thánh thót như chim hoàng oanh giờ nghẹn ngào khó nghe vì khóc.

Lương Nguyên Kính không thể tưởng tượng được, thu sang đông tới, A Bảo vẫn không hề tốt lên. Nàng không còn ríu rít như chú chim nhỏ nữa, không nói gì hết, mỗi ngày chỉ ăn chén cơm nhỏ. Dù Lý Hùng có mua món bánh nàng yêu thích nhất dỗ dành, nàng cũng chỉ gượng gạo cười cười, bánh ngọt để cả đêm vẫn không có ai ăn.

Mùa đông lại trôi qua, giống như những năm trước, đó là mùa đông hạn hán, đến một hạt tuyết cũng không rơi.

Người thôn Lý gia đều bận mắng ‘Lão trời khốn’, xem ra năm nay lại là một năm mất mùa nữa. Lương thực dự trữ ăn hết rồi, chưa tới mùa thu hoạch lúa, nhóm nông dân gọi đây là ‘thời kỳ giáp vụ. [1]

<i>[1] Trái cây lúa non còn xanh chưa chín, dễ gây đói kém.</i>

Nhà nhà không có đồ ăn, giá lương thực trên trấn rất đắt, A Bảo cũng giống mấy đứa nhỏ khác trong thôn, vác giỏ tre đi đào rau dại bên đường. Rốt cuộc không còn ai đi theo sau mỉm cười nghe nàng đàn tỳ bà, hay dạy nàng hát từng câu Tô Từ nữa.

Tháng năm, châu chấu từ phương nam bay tới, lúc tới che ngợp bầu trời, làm trống từng đám cây lương thực trong đồng.

Trong thôn dần dà có người già chết đói, thôn kế bên cũng có hộ đói đến mức không chịu nổi, chồng và cha mẹ chồng hợp sức lại nấu con dâu thành canh thành thịt khiến người ta ai ai cũng khiếp sợ.

Rau dại gần thôn Lý gia đã bị đào sạch, chim trên cây bắt hết ráo, ngay cả vỏ cây rễ cỏ cũng không ăn được nữa, dân trong thôn tụ tập lại quyết định chạy nạn đến Quan Trung.

Lý Hùng về đến nhà nói việc này với A Bảo, A Bảo lại nói nàng không đi đâu, có đói chết trong nhà cũng không đi.

Lý Hùng im lặng rất lâu, đột nhiên hỏi: “Đi Dương Châu, em có đi không?”

A Bảo nghe vậy sửng sốt, đói đến mức khuôn mặt nhỏ vàng như nến, lâu sau vẫn chưa hé răng.

Ngày hôm sau, anh em hai người tách biệt dân các thôn ra, thuận theo Trường Giang đi đường đến Dương Châu.

**

Đêm trung thu trăng tròn.

A Bảo từ trong mộng mở mắt tỉnh lại, đã lâu rồi nàng không nằm mơ, cho nên khi tỉnh lại có vài phần mịt mù, ngỡ rằng bản thân còn sống.

Tình cảnh trong mơ như sương sớm trên lá cây, nhanh chóng bốc hơi, nàng đã không còn nhớ rõ lắm.

Ấn tượng duy nhất, là gốc cây hoè lớn cành lá sum suê, hình như là gốc cây ở cửa thôn Lý gia, trong mơ nàng nằm ngủ trưa dưới cây đại thụ, còn có một khuôn mặt nam nhân không thấy rõ, hình như nhẹ nhàng nhặt hoa hoè rơi lên trên mặt của nàng.

Giấc mơ thật kỳ quái.

A Bảo gãi gãi hai má, chợt ngây ngẩn cả người.

Khoan nha, xúc cảm chân thật vậy, nàng vẫn còn sống!

Ký ức trước lúc say rượu ùn ùn kéo đến, phàn lâu, kỹ nữ, tráp khách, rải tạm bán thuốc tráng dương, còn có a ca… Cùng với Lương Nguyên Kính mỉm cười hỏi nàng, có sẵn lòng đi ngắm biển với chàng không.

“! ! !”

Rốt cuộc người này nhỏ bao nhiêu máu vậy! Nhìn giờ nàng còn sống, chắc xài cả chậu đi?!

Lương Nguyên Kính sẽ không chết vì thiếu máu chứ?

“Lương Nguyên Kính!”

A Bảo rối rắm hoang mang xuống giường, vòng sau bình phong tìm chàng.

Nhưng mà, chăn trải sàn trống không, chưa từng giở ra.

Lương Nguyên Kính không ở đây!

Một nỗi sợ hãi chưa từng có đột nhiên chiếm lấy A Bảo, khiến nàng quên luôn cả thở, tim nhói đau cùng cực, chỉ cảm thấy cảnh tượng này quen thuộc quá.

“Lương…… Lương Nguyên Kính.”

A Bảo lắp bắp, nước mắt lập tức tuôn ra, nàng xoay người lao ra cửa phòng, hoảng loạn vô mục đích, không biết mình muốn đi đâu, chỉ thấy nhất định phải nhanh lên, nếu không sẽ không đuổi kịp.

Đuổi kịp?

Nàng muốn đuổi theo cái gì? Đuổi theo ai?

Vì sao trong đầu đột nhiên nảy ra loại suy nghĩ như vậy?

A Bảo dừng bước chân lại, nhìn về hướng thư phòng sáng đèn, đẩy cửa tiến vào, nhất thời thở phào nhẹ nhõm.

Lương Nguyên Kính ở bên trong, nằm trên án thư ngủ rồi.

Cũng chưa khoác xiêm y, lỡ mắc gió lạnh bị cảm thì sao bây giờ?

A Bảo nhíu mày đi qua, cầm áo ngoài chàng đặt trên lưng ghế lại, vừa chuẩn bị giũ ra đắp lên cho chàng, nhưng có thứ gì đó trượt ra từ ống tay áo rơi xuống đất.

A Bảo hạ mắt nhìn, là một cái chìa khóa bằng đồng thau.

“……”

Tầm mắt A Bảo hướng về rương gỗ mun nước sơn, bốn góc bọc bạc nọ.

Làm sao đây? Mở hay không mở?

Đúng là ý trời mà.

Trong đầu A Bảo có hai phe giao chiến, hết sức rối bời nhìn Lương Nguyên Kính đang ngủ say: “Nè, Lương Nguyên Kính, tôi muốn xem người trong lòng của anh, anh có đồng ý không?”

Lương Nguyên Kính dựa vào bàn ngủ say, giữa mày nhíu chặt, tựa như mơ thấy chuyện gì đó không tốt.

“Không nói tiếng nào coi như anh đồng ý nhé.”

A Bảo cười trộm, dập tắt tia do dự cuối cùng trong tâm, nắm lấy chìa khoá tay chân rón rén đi lại cái hòm xiểng.

Khoá đồng thành công bẻ mở, nâng nắp rương lên, A Bảo xốc lúc lâu mới lấy bức hoạ dưới cùng ra, nàng còn nhớ rõ, cuộn tranh kia dùng sợi tơ hồng buộc lại, vô cùng dễ nhận ra.

Tìm thấy rồi.

Trái tim A Bảo đập thình thịch, lấy được loại đáp án cần tìm từ lâu, cuối cùng cũng tới lúc khẩn trương công bố, nhưng ngay thời điểm tất yếu này, toàn thân bị cảm giác quen thuộc ấp tới, đầu ngón tay cầm tranh của nàng dần dần trở nên trong suốt.

“! ! ! ! !”

“Không không không…… Không được!”

A Bảo la to, không rảnh làm tư tưởng chuẩn bị, lập tức kéo tơ hồng ra, cùng lúc đó nàng hoà thành hồn phách, cuộn tranh rơi trên mặt đất, lăn long lóc ra ngoài.

Giấy Tuyên Thành dài bốn thước mở ra, nội dung trên tranh đập ngay vào mắt.

A Bảo trừng to hai con ngươi, cuối cùng mới biết làm sao lúc trước bản thân lại bám víu vào bức tranh này.

Ngự hoa uyển hoàng gia muôn hoa khoe sắc, một mỹ nữ đầu đầy châu ngọc, lưng đeo bội ngọc cung đình từ trong bụi hoa chầm chậm bước tới, nàng dùng quạt tròn che mặt, ánh mắt lấp lánh, xinh đẹp mỉm cười.

Bức tranh này được tô màu sặc sỡ, bút pháp tỉ mỉ công phu, là một tác phẩm xuất sắc thuộc phái viện thể tranh cung đình. Tiếc hơn là, trên tranh có một chỗ tỳ vết khiến người ta khó bỏ qua, góc trên bên phải bức hoạ cuộn tròn, không rõ vì sao, có một vệt máu khô màu nâu nhạt.

Người vẽ bức tranh này năm đó nhất định đã dồn hết tâm huyết mới có thể hoàn thành tác phẩm này.

A Bảo ngơ ngẩn nhìn người trong tranh, mặt mũi nọ quen đến mức không thể quen thuộc hơn, ngày thu vàng Hi Hoà năm thứ nhất gần như hiện ra ngay trước mắt.

<i>“Đi, chúng ta đi gặp Lương Nguyên Kính.”</i>

Nàng lấy quạt che mặt, che khuất đi cái cười trộm đắc ý của mình, nói với bọn thị nữ đằng sau.

<i>“Bổn cung lệnh ngươi hoạ thưởng thức cảnh thu, sao chỉ thấy ngươi hoạ hoa cỏ sum suê, không thấy bổn cung đâu, từ ‘thưởng’ liền biến mất, Lương đại nhân, là mắt ngươi mù, hay do mắt ngươi cao hơn trán, không chứa nổi Hoàng Hậu là ta đây?”</i>

Nàng bày ra tư thế hùng hổ dạo người như trong thoại bản có viết, nhưng mà đáy lòng vô cùng muốn cười, đành cố hết sức lực nhẫn nhịn, ra vẻ nghiêm túc nhìn chằm chằm người trước mặt cao hơn mình cái đầu.

<i>“Ta có vẽ.”</i>

Thanh niên cao lớn mặc bộ quan bào cổ tròn màu đỏ rực bỗng nhiên cất tiếng: <i>“Hoàng Hậu nương nương có ở trong bức hoạ.”</i>

Chàng nói xong câu này thì không nói gì nữa, chỉ dùng loại ánh mắt đau thương phức tạp nhìn nàng, gió thu thổi tới, nhuỵ hoa đan quế phân tán rơi đầy đầu vai chàng.

<i>“Quả thật là một tên ngốc.”</i> Khi đó nàng nghĩ thầm.

Người trong lòng Lương Nguyên Kính……

Hóa ra chính là nàng sao?

Chàng thích nàng từ khi nào? Là lần đầu gặp ở ngự hoa uyển?

Nhưng mà……

Vì sao chàng chưa từng nói qua? Vì sao phải chờ tới lúc nàng chết rồi mới để nàng biết được tâm ý của chàng chứ?

A Bảo quay đầu, đối diện với đôi mắt kinh hoàng tột độ.

**

[Thơ Tống] Thẩm viên – Lục Du

Trên thành nắng xế sáo bi ai<b>Vườn Thẩm đài ao khác cả rồi
Đau đớn sóng xuân cầu vẫn biếc
Bóng hồng e sợ đã từng soi.

<i>(bản dịch của Trần Trọng San, thivien.net)</i>

<i>⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển bốn ⟪Như mộng lệnh⟫</i>

**

Tác giả có chuyện nói:

Về Lương Nguyên Kính rời đi có lẽ sẽ có người không hiểu, chỗ này là suy nghĩ của tôi, tôi cho rằng thế này:

1. Chàng là con trai một trong nhà, có trách nhiệm của riêng mình, không có khả năng phiêu bạc tha hương không quay về.

2. Chàng cũng không ý thức được tầm quan trọng của bản thân trong cảm nhận riêng của A Bảo, cho rằng mình chỉ là một người bạn chơi chung với nàng, mình có rời đi cũng sẽ chỉ làm nàng không nỡ một hồi rồi thôi, rất nhanh sẽ tốt lên.

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, A Bảo không chỉ xem chàng là một người bạn, đại ca ca tuấn lãng hiền hoà như chàng đây, còn có tài hoa hơn người, không giống như người trong thôn Lý gia, lại là thiếu nữ tuổi mộng mơ, hầu như không có tiểu cô nương nào có thể thoát ra được, cho nên A Bảo động lòng với chàng là điều dễ hiểu.

pi ết: Rống lên một câu: Lương công tử, tại sao không cưới!!! (lệ rơi)

Về phần Lương Nguyên Kính có động tâm hay không?

Tôi thấy có, nhưng chàng trong chuyện tình cảm có chút trì trệ, hơn nữa từ nhỏ đã được dạy, phát sinh từ tình cảm nhưng dừng lại trước lễ pháp, hơn nữa hôn nhân nam nữ thời cổ đại đều nhờ cha mẹ cùng bà mối suy xét, tự định thân không phải là chuyện người như Lương Nguyên Kính có thể làm, ý thức được bản thân thích A Bảo, đều là chuyện thật lâu sau đó.

Cho nên, <b>một người rung động quá sớm – một người sáng dạ quá trễ</b>, đây là nguyên nhân khiến họ bỏ lỡ nhau.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 37: [Tương kiến hoa] Tâm ý


Lương Nguyên Kính ngồi xổm xuống nhặt tranh lên cuốn lại thành trục. Động tác của chàng hết sức hoảng loạn, thậm chí có đôi phần lộn xộn. Hai tay run rẩy mắt thường có thể nhìn thấy, cho nên vất vả tranh cuộn lên xong lại lần nữa rơi xuống, mặt mũi mỹ nhân trong tranh dần dần hiện ra.

“……”

A Bảo nhìn hết nổi rồi, đi đến trước mặt chàng: “Lương Nguyên Kính, anh……”

“Xin lỗi!”

Lương Nguyên Kính đột nhiên ngẩng đầu nói.

A Bảo bất ngờ: “‘Xin lỗi’ cái gì cơ? Anh nói xin lỗi tôi làm gì?”

“Tôi… Tôi không biết, tôi… Tôi không nên……”

Tư duy của Lương Nguyên Kính rối mù, nói năng lộn xộn, ngơ ngác nhìn nàng lúc lâu, bỗng ném tranh trong tay đi, cất bước chạy ra ngoài.

A Bảo: “???”

“Nè⎯⎯ Anh chạy đi đâu? Đừng có chạy!”

Sự tình phát sinh quá đột ngột, nhất thời A Bảo chưa phản ứng kịp. Đợi tới khi đuổi theo ra cửa thư phòng chỉ thấy Lương Nguyên Kính chạy ra cửa viện, bóng dáng biến mất ngay trong màn đêm.

“…………”

“Anh chạy cái gì mà chạy?” A Bảo tức giận muốn đánh người, “Tôi…… Tôi cũng thích anh nữa! Đồ ngốc!”

Nàng cất bước đuổi theo, càng đuổi càng muốn cười.

Sao lại thế này chớ? Nàng còn đang nằm mơ sao? Cái này có phải là mộng đẹp không tỉnh không?

Lương Nguyên Kính thích nàng?

Người trong lòng chàng che giấu lâu như vậy là nàng á?

Trước đó nàng còn vì chuyện này ăn giấm, kết quả là tự ăn giấm chính mình?

Há!

A Bảo vui đến mức muốn bay phấp phới hóa thành tiên luôn, hận không thể quơ tay múa chân. Nếu không phải đang đuổi theo Lương Nguyên Kính, nàng nhất định còn dừng lại nhào lộn mấy cái!

Nhưng kỳ lạ là, ngày thường Lương Nguyên Kính luôn tuân theo quy củ như vậy, nhất cử nhất động đều chú trọng cốt cách quân tử. Đêm nay lại chạy trốn rất nhanh, nàng đuổi theo không kịp!

Lẽ nào có lý đó!

Chờ nàng bắt được chàng rồi, coi nàng có làm……

Làm gì chàng nhỉ?

Cũng không thể đánh chàng một trận được, chàng là người thích nàng mà.

Há! Lương Nguyên Kính thích nàng!

Chàng thích nàng thích nàng thích nàng!

Đầu óc A Bảo hưng phấn chỉ sót lại mấy lời này, cuối cùng mới ý thức được một việc. Khoan, nàng là quỷ nha! Vì sao phải chạy? Nàng biết bay cơ!

A Bảo bay lên, mạnh mẽ dứt khoát chặn Lương Nguyên Kính lại, cười khanh khách nói: “Đừng chạy nữa! Ngốc ạ! Tôi nói cho anh nghe một bí mật, thật ra tôi cũng……”

Lương Nguyên Kính dừng lại, chợt vùi đầu lao về phía nàng.

“?”

Này là muốn làm gì? Ôm nàng hả? Có nhiệt tình quá không đó?

Thôi được, ôm thì ôm đi.

A Bảo hào phóng vươn đôi tay nghênh đón chàng.

Nhưng mà Lương Nguyên Kính lại xuyên qua thân thể nàng, A Bảo ngơ ra, giây tiếp theo nàng nghe âm thanh rơi xuống nước ‘tủm’ vang lên từ đằng sau.

“!!!!!!!”

Lương Nguyên Kính nhảy sông hộ thành!

Làm gì vậy?! Quả thực A Bảo muốn điên rồi! Còn không thì Lương Nguyên Kính điên luôn rồi!

“Lương Nguyên Kính⎯⎯”

Nàng bay lên phía trên kẽ sông, chỉ thấy mặt nước gợn từng đợt sóng khuếch tán ra ngoài, đã không thấy bóng dáng của Lương Nguyên Kính đâu.

A Bảo muốn chìm xuống theo, nhưng trạng thái vong hồn của nàng không xuống nước được.

Sông hộ thành cũng không sâu, Lương Nguyên Kính chàng……

Chắc sẽ không chết đuối nhỉ?

A Bảo ôm đầu gối ngồi dưới gốc liễu rũ bên con đê, ngơ ngẩn nhìn chằm chằm mặt nước.

Sông hộ thành dưới màn đêm đen như dải mực, bên dưới còn phản chiếu lại ánh trăng tròn, gợn nước lượn lờ nhè nhẹ, lá liễu khẽ đung đưa theo gió đêm. Chẳng biết từ biệt viện hộ nào đó truyền đến tiếng hát tuồng í a í a, mơ hồ nghe thấy con hát chuyển giọng:

“Chàng dạy ta thu hận thù, miễn hờn dỗi, nên ăn năn hối lỗi, sửa tính tình, nước chảy qua dòng, sớm ngộ nhân duyên.”

Đêm trung thu thành Đông Kinh, dịu dàng như một giấc mộng xưa kiều diễm.

Tâm tình nôn nóng không hiểu sao chợt tĩnh lại. A Bảo kiên nhẫn ngồi chờ tại chỗ, chờ cái tên ngốc kia ngoi lên từ dưới nước, nàng sẽ……

‘Ầm’, Lương Nguyên Kính ngoi lên dòng nước, cả người ướt sũng, bọt nước lăn xuống từ mặt chàng, chảy qua hàm dưới, chảy vào cổ áo.

“……”

A Bảo nuốt ngụm nước miếng.

Chàng thấy nàng, nhất thời khiếp sợ mở to mắt, mặt mày hoảng loạn muốn ngụp lại xuống nước.

“Không được phép cử động!”

A Bảo hét lớn một tiếng, trước khi chàng có cử chỉ gì khác đã bay đến ôm lấy chàng, “Anh nhảy cái gì hả?! Nghe tôi nói xong đã được không! Tôi cũng thích anh mà! Đồ ngốc!”

Lương Nguyên Kính: “! ! !”

Người được ôm không có phản ứng gì cả. A Bảo lấy làm lạ, buông ra thì thấy Lương Nguyên Kính như bị điểm huyệt, trợn mắt há hốc mồm, cứng đờ toàn thân. Hình như quên chớp luôn cả mắt.

Không thể nào, giật mình đến mức này sao?

A Bảo nói: “Nghe chưa hiểu? Tôi nói tôi thích anh, tim thích anh, Lương Nguyên Kính, anh cũng thích tôi, phải không? Nếu không sẽ không vẽ tranh…”

“Không.”

Lương Nguyên Kính đang đờ ra bất thình lình lên tiếng.

A Bảo ngơ ngác: “Không gì?”

Không thích nàng, là nàng tự mình đa tình?

“Em sẽ không thích tôi.”

Lương Nguyên Kính nhìn chằm chằm nàng. Sắc mặt trắng bệch, môi vì nước sông lạnh băng cũng tái nhợt, sườn mặt còn dính vài sợi tóc ướt đẫm.

A Bảo trợn tròn mắt, chuyện tôi có thích anh hay không còn cần anh nói cho à?

“Vì sao tôi sẽ không thích anh?” Nàng quái lạ hỏi lại.

“Em nhớ lại đi?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Nhớ lại?” A Bảo khó hiểu, “Nhớ lại chuyện gì?”

Lương Nguyên Kính im lặng chốc lát, rũ mắt xuống nói: “Không có gì, tôi quá nhàm chán, sẽ không có người thích.”

A Bảo giận dữ, nghĩ thầm ai nói chứ?

Bỗng giật mình nhớ ra, lời này đúng là nàng từng nói.

Đúng là tự đập đá vào chân mình mà, nhưng khi đó nàng……

Còn không phải do nàng tức sao?

Cũng đâu phải lời nói thật lòng, lang quân ngọc thụ lâm phong như Lương Nguyên Kính đây có ai mà không thích. Chẳng phải như nhóm kỹ nữ ở phàn lâu lúc nhìn thấy chàng đôi mắt đều phát sáng ra sao?!

“Tôi… Tôi nói câu đó, nhưng……”

A Bảo vò đầu bứt tai, nóng lòng tìm ra luận điểm nào đó để lật đổ chính mình. Trong đầu chợt xẹt qua tia sáng: “Tôi đâu phải người! Tôi là quỷ mà!”

Lông mi Lương Nguyên Kính run lên. Cuối cùng mới không lảng tránh ánh nhìn của nàng nữa, ngước mắt nhìn lại, trông sắc mặt tựa như chưa tin lắm.

A Bảo thấy dáng vẻ này của chàng liền nổi lửa: “Tôi nói tôi thích anh, là thích anh đó! Tôi có thích anh hay không, anh còn hiểu rõ bằng tôi sao? Hứ! Nói cho anh biết, tôi từ trước… Từ trước đã… Tóm lại, năm ấy anh không nói tiếng nào rời Đông Kinh, tôi… tôi rất đau khổ, tôi……”

A Bảo ‘tôi tôi’ muốn hết nửa ngày thì ‘tôi’ không nổi nữa, thầm nghĩ bản thân tính nói cái gì cũng lộn tùng phèo lên.

“Dù sao tôi cũng thích anh! Anh không tin? Có phải muốn tôi chứng minh cho anh xem không? Tới đây! Tôi chứng minh cho anh thấy!”

A Bảo hùng hổ sải lên từng bước, nắm cổ áo chàng chuẩn bị tiến lên,

Đôi mắt Lương Nguyên Kính mở to, đột nhiên lùi về sau mấy bước, trượt ngã xuống sông khiến bọt nước văng lên khắp nơi, chàng duỗi tay lo sợ ngăn cản nói: “Không… A Bảo, em đừng……”

“Tới đây! Sợ cái gì? Không phải anh không tin sao?”

A Bảo cúi người xuống, càng ngày càng gần, thầm nghĩ bản thân y như lưu manh bắt người tốt làm chuyện xấu vậy. Nhưng mà khuôn mặt tuấn tú của Lương Nguyên Kính gần ngay trước mắt, bởi vì dính nước nên mày càng đen nhánh, lông mi mảnh dài run rẩy, mũi cao thẳng, môi mềm hồng……

Cứu với, sao chàng lại đẹp tới vậy?

A Bảo si mê sắc đẹp, nhất thời quên luôn ý định ban đầu chỉ tính hù doạ chàng, thế là đầu óc nóng lên sấn tới gần.

Môi cả hai chỉ kém chút có thể chạm vào nhau. Bỗng nhiên Lương Nguyên Kính quay đầu, đỏ mặt, hơi thở gấp gáp nói: “Tôi tin! Em… Em đừng như vậy!”

“……”

A Bảo hôn vào không khí, trong lòng hết sức bức bối, chậm rồi! Giờ có tin cũng không còn tác dụng, hôm nay dù thế nào nàng cũng phải hôn được chàng!

Nhưng còn không đợi hành động tiếp theo của nàng, Lương Nguyên Kính đột nhiên ôm ngực ho khan kịch liệt. Chàng đã ‘khụ’ một cái liền không dứt, nhìn như muốn ho cho ra phổi, có khi còn sẽ ho ra máu.

A Bảo sợ hãi, cuống quít nói: “Mau lên bờ đi!”

Dưới sự thúc giục của nàng, Lương Nguyên Kính bò cả người ướt sũng leo lên bờ, dựa vào cây liễu, ho một hồi lâu mới ổn định trở lại.

“Ai cho anh nhảy sông?! Hả?”

A Bảo bá đạo đi tới, “Cái sức khoẻ này của anh, còn nhảy xuống nước sông lạnh băng này? Muốn chết thì nói đi! Đúng lúc tôi cũng thiếu bạn đây! Nhìn cái gì mà nhìn? Tôi nói không đúng à?”

“Nói rất đúng.” Lương Nguyên Kính nhận sai trước.

A Bảo nhấc chân đá chàng: “Về nhà nhanh lên! Kêu Dư lão nấu chén canh gừng cho anh uống đi!”

Lương Nguyên Kính nghe lời nàng đứng dậy. Lúc chạy ra ngoài chàng chưa kịp khoác áo, chỉ mặc bộ áo đơn sạch sẽ. Nước sông thấm ướt, quần áo dán sát da thịt làm dáng dấp hình thể lộ ra, vạt áo còn liên tục nhiễu nước. Chốc lát thôi đã làm ướt một miếng đất nhỏ.

A Bảo nhìn bộ dạng chật vật này của chàng buộc phải ‘xì’ ra tiếng bật cười.

Mắc cười quá. Sao còn có người đêm hôm khuya khoắt không ngủ, chạy ra đây nhảy sông hộ thành chứ?

Dường như Lương Nguyên Kính cũng thấy hành vi tối nay của mình cực kỳ hoang đường, thấy A Bảo cười cũng không khỏi nở nụ cười theo nàng.

Cả hai đối diện nhau, cũng không biết chọc trúng điểm nào khiến cho càng cười càng không dừng lại được. A Bảo từ cưỡi khẽ sang thành cười lớn tiếng, vừa cười vừa lấy hơi nói: “Đừng cười nữa! Mau về nhà đi!”

Lương Nguyên Kính ăn ngay nói thật: “Em cũng đang cười.”

A Bảo biện hộ: “Bởi vì anh cười nên tôi mới cười.”

“Tôi cũng vậy.” Lương Nguyên Kính cười nói.

“Vậy anh đừng cười nữa.”

“Em cũng vậy.”

A Bảo miễn cưỡng ép khoé miệng muốn nhếch lên xuống, nghiêm túc nói: “Tôi đếm một hai ba, dùng lại cùng lúc, đều không được cười, biết chưa?”

Lương Nguyên Kính căng mặt gật đầu.

A Bảo bắt đầu đếm: “Một.”

“Hai.”

“Ba.”

Mặt cả hai vô biểu cảm nhìn qua lẫn nhau. Đại khái duy trì được trong chớp mắt, sau đó ‘phụt’ một tiếng, tất cả đều bật cười.

Phiền chết đi được!

A Bảo cười ngã quỵ trên đất, nhìn trăng tròn sáng chói trên trời, tuyệt vọng nghĩ, rốt cuộc chừng nào mới dừng lại đây. Nàng và Lương Nguyên Kính đúng là hai đứa ngốc mà.

Cũng không biết đã cười mất bao lâu, cuối cùng hai người mới ngừng lại, bước theo con đường về nhà.

A Bảo đi theo Lương Nguyên Kính một lát, bỗng nhiên khựng lại, bay đến lên lưng dùng hai tay choàng qua cổ chàng.

“!”

Bước chân của Lương Nguyên Kính dừng hẳn, nghiêng đầu nhìn: “Em……”

“Tôi mệt nhọc đuổi theo anh, nhờ anh cõng tôi đi đoạn đường thôi mà, sao đấy, không được à?” A Bảo hợp lý hợp tình nói.

“Không phải.”

Lương Nguyên Kính lắc đầu, nhẫn nại cam chịu cõng nàng đi.

Đáy lòng A Bảo ngọt ngào. Sự xúc động đã lâu không thấy chạy loạn trong người nàng, cho dù cũng mấy chân thật, nhưng nàng vẫn muốn dính lấy Lương Nguyên Kính, ủn ủn chàng, sờ sờ chàng, còn muốn……

Hôn hôn chàng.

Đầu óc A Bảo nóng lên, thật sự hôn xuống, dấu môi in lên tai của Lương Nguyên Kính.

Động tác nàng rất cẩn thận, vừa chạm đã rụt lại, không bị chàng phát hiện.

Ôi! Vui quá đi!

A Bảo đắc ý trộm cười, Lương Nguyên Kính tốt như vậy, về sau chính là người của nàng!

Thật muốn viết mấy chữ to to lên người chàng ⎯⎯ ‘Dành riêng cho A Bảo’, để mấy kỹ nữ trang điểm đẹp đẽ đó, không ai có thể chạm vào chàng.

Lương Nguyên Kính là của nàng! Cặp mắt chàng là của nàng, cái mũi là của nàng, đôi môi là của nàng, bàn tay xinh đẹp kia cũng là của nàng, là của nàng! Là của nàng!

A Bảo phấn khích muốn lăn lộn vài vòng, dán vào bên tai của Lương Nguyên Kính, mềm giọng hỏi: “Tôi có nặng không?”

“Không nặng.” Lương Nguyên Kính dịu dàng đáp.

Chàng nói mình không nặng! Há há!

Tuy rằng bản thân linh hồn cũng không có trọng lượng, nhưng A Bảo nghe xong vẫn thấy rất vui vẻ.

Nàng đang định dở trò cũ hôn lên tai còn lại của Lương Nguyên Kính, bỗng nhiên ánh mắt đọng lại, phát hiện một chuyện khó lường.

“Lương Nguyên Kính, anh! Lỗ tai anh đỏ kìa! Đỏ lắm luôn ấy!”

“……”

Ánh mắt Lương Nguyên Kính dao động, không nói gì.

Đêm đó, tới tận lúc chàng uống xong chén canh gừng nóng, nhiệt độ ở tai vẫn chưa hạ xuống khiến cho A Bảo lo lắng sốt ruột.

Chắc sẽ không cảm lạnh nữa chứ?

**

Tác giả có chuyện nói:

Tiếp theo phóng viên Đao muốn phỏng vấn đương sự Lương một chút, đêm hôm khuya khoắt, tại sao lại nhảy sông hộ thành, rốt cuộc điều này là loại tính cách vặn vẹo gì, hay do suy thoái đạo đức?

Phóng viên Đao: Xin hỏi Lương tiên sinh, sau khi nhảy sông tâm tình anh cảm thấy ra sao?

Lương mỗ: Hối hận, hiện tại thấy vô cùng hối hận.

Phóng viên Đao: Tại sao nửa đêm lại nhảy sông ạ?

Lương mỗ: Vợ nói thích tôi ấy.

Phóng viên Đao: …… Úi, cho nên?

Lương mỗ: Cho nên nhất định là tôi đang nằm mơ, tôi muốn xuống sông cho tỉnh táo ấy mà.

Vợ của đương sự: Ấy! Đừng cản tôi! Đưa micro đây cho tôi! Cảm ơn nha! Tôi thật sự rất thích anh á! Tôi nhắc lại lần nữa trước toàn thể khán giả cả nước! Tôi! Thích! Anh! Lắm!

Phóng viên Đao (ôm ngực): Đủ rồi! Thức ăn cho chó đủ dùng cho năm nay rồi, cảm ơn nhưng không cần nói nữa đâu, nhân viên công tác đến khống chế cục diện một chút nhé.

Khác:

Căn cứ vào phản hồi từ em gái tôi, chỗ này có một vấn đề, chẳng phải linh hồn A Bảo không thể tách rời Lương Nguyên Kính sao?

Xin chú ý, giả thiết của tôi là không thể rời khỏi phạm vi năm trượng, đổi sang hiện đại xấp xỉ 15 mét, mọi người có thể tưởng tượng Lương Nguyên Kính cầm sợi dây 15m dắt cún đi dạo.

pi ết: Không có ý nói A Bảo là cún, xin đừng ai manh động!
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 38: Đưa tiễn


Sự lo lắng của A Bảo chẳng may biến thành hiện thực.

Vốn dĩ sức khoẻ của Lương Nguyên Kính không tốt, ngâm trong nước sông cuối thu lạnh băng, quả thật đã bị nhiễm phong hàn, màn đêm buông xuống trở nên sốt cao, ngày thứ hai liên tục ho khan, còn nôn ra máu mấy lần.

Mùa thu đông hàng năm là lúc thời tiết chuyển lạnh, cũng là mùa bệnh phổi tái phát rơi vào thời khắc gian nan nhất của chàng, cũng may Dư lão chăm sóc chàng đã có kinh nghiệm ứng phó, dựa theo phương thuốc lần trước đến Hội dân Thục dược cục để mua về sắc cho chàng uống.

Phương thuốc này là năm xưa Giác Minh hoà thượng đặc biệt viết cho chàng, có hiệu quả thần kỳ, quả nhiên uống xong một cữ thuốc đã ngừng sốt cao lẫn ho ra máu.

Thời điểm chàng phát bệnh, A Bảo chỉ có thể lo lắng suông ở một bên nhìn, nàng không thể giúp đỡ bất cứ chuyện gì, đôi khi Lương Nguyên Kính còn muốn an ủi ngược lại nàng.

“Không sao đâu, tôi bị bệnh này rất nhiều năm rồi, chỉ là lúc chuyển mùa chưa thích ứng kịp thôi.”

“Câm miệng!” A Bảo căm giận nói.

Nàng biết sinh bệnh là loại cảm thụ như thế nào, một năm trước khi chết, nàng nằm triền miên trên giường bệnh để vượt qua.

Loại thân thể kiệt quệ đến mức không thể điều khiển được, A Bảo nhớ rất rõ rệt, nàng không thể ra ngoài, không thể hóng gió, muốn ngắm hoa lê trong viện cũng không được, suốt ngày phải uống mấy thang thuốc đắng nghét đó.

Ngày ấy nàng chọn tự vẫn kết thúc, ngoại trừ lời nói của Tiết Hành khiến nàng cảm thấy cuộc đời mình tựa như trò cười. Vốn đã hết luyến tiếc thế gian ra, còn có nguyên nhân khác, đó là thân thể nàng bị tàn phá đủ rồi, nếu muốn nàng phải sống lay lắt qua ngày, ra cửa ngắm hoa còn không làm nổi nữa thì nàng tình nguyện chết đi.

Bệnh tật là một cực hình chẳng thể nghi ngờ thêm.

Nhưng vì sao Lương Nguyên Kính phải chịu đựng sự tra tấn này?

Chàng thiện lành ngay cả con kiến còn không nỡ giẫm lên như vậy, lần đầu tiên A Bảo nổi lên sự oán trách đối với ông trời.

Đêm khuya, nàng không về giường mình mà ôm đầu gối ngồi kế chỗ ngủ của Lương Nguyên Kính, thức trắng đêm canh chừng chàng.

Khi Lương Nguyên Kính thiu thiu mơ màng, miệng sẽ nói vài lời mê sảng, A Bảo cúi người xuống đưa lỗ tai lại gần, nghe thấy chàng lẩm bẩm mấy lời linh tinh như ‘A Bảo, tôi không đi’.

A Bảo dụi dụi đôi mắt chua xót, nằm xuống bên cạnh cách lớp chăn bông dày ôm lấy chàng, hôn lên mặt chàng, nhẹ giọng nói: “Biết rồi, anh không đi, tôi cũng không đi. Ngốc ạ, mau khoẻ lại đi.”

Hôm sau tỉnh lại, Lương Nguyên Kính phát hiện nàng nằm bên mình, sợ tới độ trợn to hai mắt, lập tức ngồi thẳng dậy.

A Bảo làm quỷ hồn không ngủ được, chỉ hơi chợp mắt tí, nghe thấy động tĩnh thì mở mắt ra: “Hạ sốt rồi?”

Nàng ngồi dậy, đo thử độ ấm trên trán của Lương Nguyên Kính, chờ tay đặt lên mới phản ứng kịp, mình không cảm nhận được mới đành ngượng ngùng thu tay: “Thôi, chờ Dư lão lại đây đi, để ông ấy thử cho anh.”

Lương Nguyên Kính còn đang trong cơn khiếp sợ: “Em……”

“Tôi làm sao?” A Bảo buồn cười nói, “Nằm cạnh anh cả đêm rồi giờ anh mới phản ứng, muộn nhỉ?”

“Tôi……” Lương Nguyên Kính mặt đỏ tai hồng, không biết nên đặt ánh mắt ở đâu. “Tôi không biết……”

“Ừm, tôi biết, là tôi cố ý đó, nhờ vào Lương công tử đây chịu trách nhiệm với tôi rồi.”

A Bảo cười nhạt, bỗng nhiên tâm vừa động đã tiến lại gần nhẹ nhàng hôn một cái lên gò má chàng.

Lông mi Lương Nguyên Kính run lên, giống như bị hết hồn, có chút giật mình lùi về sau ngơ ngác nhìn nàng, hai bên má nhuộm mảng màu đỏ thẫm lan rộng xuống tới tận cổ.

“……”

Cũng không nên trêu chọc vậy hoài được, cứ cái đà này biết tới khi nào mới hạ sốt đây?

A Bảo bịt mũi, nghiêng đầu rầu rĩ nở nụ cười.

Cũng may có phương thuốc của Giác Minh hoà thượng, cơn sốt cao cũng hạ, nhưng bệnh đến như sóng cuốn bệnh đi như nước chảy, căn bệnh này của Lương Nguyên Kính ước chừng bị hơn nửa tháng, cho đến ngày chín tháng chín mới bắt đầu có chuyển biến tốt.

Trong lúc phát bệnh, Triệu Tòng có phái ngự dược cục đưa dược liệu sang liên miên, còn cố ý phái nội thị Phùng Ích Toàn thay hắn tới thăm hỏi, dặn dò Lương Nguyên Kính an tâm dưỡng bệnh. Chuyện hắn sai sử cũng chưa gấp, đợi sang năm báo cáo kết quả sau cũng được.

Sau khi tuyên khẩu dụ xong, tiếp theo là vật ngự ban, lăng la tơ lụa, đồ cổ quý hiếm, văn phòng tứ bảo, bày đầy tiểu viện của Lương gia.

Quan gia tín sủng một hoạ sư Hàn lâm như thế, việc này không khỏi khiến quan viên trong triều chẳng hiểu ra sao.

Tranh của Lương Nguyên Kính lại được theo đuổi, chỉ là bên ngoài có rất ít tác phẩm của chàng, thông thường đều là tác phẩm tặng cho bạn bè, một số ít bị đầu cơ trục lợi có ý lảng sang những bức tranh mấy nhà nghèo từng nhờ chàng vẽ. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, có không ít người bởi vì một bức hoạ thôi mà giá trị con người tăng cao, nghênh đón giàu sang ngập trời.

Nhưng bất luận ngoài thị trường có xôn xao ồn ào ra sao đi chăng nữa, Lương gia vẫn an tĩnh như thường, có khẩu dụ quan gia lệnh Lương Nguyên Kính an tâm dưỡng bệnh, không ai dám tới cửa xin vẽ tranh.

Giác Minh hoà thượng từng tới một lần, để nói lời tạm biệt.

Lần trước y nói, sau khi A Bảo chết hồn phách còn vương vấn dương gian chưa tan, có lẽ sinh thời có tâm nguyện chưa hết duyên nợ, nhưng tâm nguyện của A Bảo trước khi chết là muốn gặp mặt ca ca Lý Hùng lần cuối. Giờ đã gặp rồi, nàng vẫn còn nấn ná bên cạnh Lương Nguyên Kính, xem ra nàng không thể đầu thai chuyển thế chứ không liên quan gì đến tâm nguyện.

Giác Minh trăm lần nghĩ không ra, quyết định đi chùa Bảo Bắc Địa bái phỏng một cao tăng đắc đạo, thỉnh giáo cách thức hóa giải.

Lúc đó, do Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường nhận Liêu đế làm cha, đã chắp tay dâng mười sáu châu U Vân nhường lại cho Khiết Đan, từ đó vùng đất phía bắc Hoàng Hà hoàn toàn rơi vào tay ngoại tộc.

Cho đến khi Thái Tông thân chính, phái hai mươi vạn đại quân phân thành ba đường phạt liêu, một đường như thế chẻ tre, thu phục không ít vùng đã mất. Nhưng vì trận Cao Lương Hà chỉ huy chưa thỏa đáng, đùi Thái Tông trúng mũi tên, bắt buộc phải hồi linh, trận bắc phạt kết thúc vội vã.

Sau trận chiến này, cho đến cuối đời Thái Tông, vẫn chưa lấy lại được vùng U Vân đã mất.

Sau này Triệu Tòng lên ngôi, chính sách đối ngoại của triều đình chính thức đổi công thành thủ. Đại Trần cùng Đại Liêu phía bắc, tộc Đảng Hạng phía tây cùng tồn tại, ba phương không quấy nhiễu lẫn nhau, sống chung hoà bình.

Nhưng cho dù biên cảnh không chiến sự hay không, phương bắc vẫn là lãnh thổ của địch. Giác Minh hoà thượng thế mà dám liều mình vì nàng, không thể không nói, nội tâm A Bảo vẫn có chút cảm động.

Chỉ là nàng cũng từng nghĩ, hay là cứ sống tiếp vậy đi. Nàng không quan tâm có đầu thai chuyển thế được hay không, huống hồ hiện tại biết được tấm lòng Lương Nguyên Kính đối với mình, nàng càng không thể rời xa chàng. Nhưng khi đưa Giác Minh hoà thượng lên đường, nàng vẫn không nói mấy lời đó ra.

Bởi vì nàng chưa rõ Lương Nguyên Kính nghĩ như thế nào, có lẽ chàng cũng ngóng trông mình đi đầu thai đi?

A Bảo không chắc lắm.

**

Cuối thu xác xơ tiêu điều là mùa biệt ly, mùng chính tháng chính là ngày tết Trùng Dương, a ca Lý Hùng cũng phải rời Đông Kinh quay về Tuyền Châu.

A Bảo cùng Lương Nguyên Kính đưa anh ra bến đò lên thuyền, liễu rũ rượi, Lương Nguyên Kính nghiêng đầu hỏi A Bảo muốn biến thành người không, A Bảo lắc đầu từ chối.

“Thôi đi, bệnh của anh vừa mới khỏi chưa bao lâu, lấy máu sẽ ảnh hưởng sức khoẻ.”

“Đã khoẻ rồi, không sao đâu.” Lương Nguyên Kính nói.

“Vậy ở đây cũng không phải chỗ cho anh vẽ nha.”

Tết Trùng Dương, số cư dân thành Đông Kinh ra vùng ngoại ô tăng cao, muốn uống rượu thù du, ngắm cúc, ăn bánh Trùng Dương.

Kinh sư ở các Đại Phật Tự muốn chuẩn bị pháp hội long trọng, các ngư dân nông thôn vớt cá lại đây buôn bán. Người ở bến đò hết đến rồi đi, bận rộn náo nhiệt, đúng thật không có chỗ cho chàng vẽ tranh.

Không ngờ A Bảo vừa nói xong, Lương Nguyên Kính đã lấy một cuốn tranh ra từ trong tay áo. Bức hoạ cuộn tròn dùng vải bố chế thành, phác thảo bằng bút than, không quá lớn thích hợp cầm trong tay tuỳ lúc thưởng thức.

A Bảo: “……”

Hoá ra chuẩn bị đầy đủ xong hết rồi.

Nàng nhìn a ca đang chỉ huy tôi tớ khuân vác hành lý cách đó không xa, gật đầu nói: “Chảy ít máu chút.”

Hai người tìm một góc không người, A Bảo tự mình nhìn chằm chằm cánh tay của Lương Nguyên Kính, máu tươi vừa mới chảy ra chút nàng liền nói đủ rồi đủ rồi.

Hiện giờ tâm tính nàng đã sinh ra biến hoá rất lớn khác so với trước. Lúc mới biết mình có thể dựa vào việc Lương Nguyên Kính dùng máu vẽ tranh cải tử hoàn sinh, nàng luôn muốn chàng đổ nguyên chậu máu mỗi ngày, bởi vì dùng càng nhiều máu thời gian sống lại của nàng sẽ càng lâu hơn.

Nhưng mà giờ đây, nàng không nỡ thấy Lương Nguyên Kính chảy một giọt máu nào. Đặc biệt vừa trải qua lần bệnh nặng này của chàng, nàng chỉ hy vọng Lương Nguyên Kính sẽ khoẻ mạnh sống thật lâu.

Nhưng mà……

Chàng quả thật vì nàng mà bị thương rất nhiều lần, mu bàn tay bị phỏng, còn có vết dao sâu nhợt nhạt trên hai cánh tay.

Chẳng lẽ cả đời này cứ tiếp tục như vậy à?

Bỗng nhiên A Bảo thấy mê mang trước nay chưa từng có.

“Được,” Lương Nguyên Kính lên tiếng kéo tâm thần nàng về, “Thời gian duy trì có lẽ không được lâu lắm, muốn nói gì với huynh trưởng hãy nói thật ngắn gọn.”

Lý Hùng nhìn thấy nàng, nhất thời choáng váng: “A Bảo?”

“Em đây.”

A Bảo tươi cười xinh đẹp đưa cành liễu trong tay cho anh.

Bến đò nhiều người lui tới, vì giấu tai mắt người khác, Lương Nguyên Kính vẽ nàng thành thiếu niên 15-16 tuổi. Mặt mày chỉ giống nàng ba phần, Lý Hùng nhìn lần đầu tiên đã nhận ra nàng, nhưng lại có chút ngậm ngùi.

A Bảo trở thành thiếu niên mắt phượng mày ngài cười nói với Lý Hùng: “A ca, lần này thuận buồm xuôi gió, đừng quên viết thư cho em nhé.”

Lý Hùng vội vàng đảm bảo mình sẽ không quên, lại dong dài thêm một hồi. Nói qua nói lại, A Bảo nghe xong đầu to lên, chỉ thấy anh trai tuổi càng lớn càng lải nhải.

Nói xong lời cuối cùng, Lý Hùng thật sự không biết nên dặn dò gì mới tốt: “Anh và chị dâu ở Tuyền Châu chờ hai đứa tới.”

A Bảo gật đầu: “A ca cứ yên tâm. Lương Nguyên Kính nói muộn nhất là đầu xuân năm sau, bọn em sẽ lên thuyền xuôi nam về Tuyền Châu.”

Đột nhiên nhớ tới cái gì đó, tròng mắt nàng xoay chuyển, tiến lên dán vào tai Lý Hùng, thầm thì to nhỏ một phen.

Lý Hùng nghe xong đáp: “Anh biết rồi, anh vẫn luôn hỏi thăm khắp nơi, chỉ là nhiều năm trôi qua, không dễ tìm mấy, chờ có tin tức anh sẽ nói với em.”

A Bảo: “Nếu không tìm được nữa thì thay bằng cái khác cũng được.”

Lương Nguyên Kính: “???”

Hai anh em họ nói chuyện với nhau y như chơi đánh đố. Chàng đứng bên cạnh nghe không hiểu câu nào, lộ ra ánh mắt hoang mang.

Thuyền làm bằng gỗ mộc lan hoa huệ thúc giục, Lý Hùng lưu luyến từng bước đi lên thuyền.

A Bảo đứng tại chỗ nhìn theo ca ca rời đi.

Trời sắp chạng vạng, mặt nước Biện Hà sóng khói mênh mông, một vầng hồng nhạt xa xa thả xuống phía chân trời, mây tía giăng lối, có đàn hải âu bay ngang qua tiến về phương xa.

A Bảo nhìn về phía trước, mỉm cười: “Tôi còn nhớ rõ, rất nhiều năm về trước, cũng vào lúc hoàng hôn thu vàng như này, tôi theo Triệu Tòng lên thuyền đến Đông Kinh, a ca đến Qua Châu đưa tiễn tôi, cho tôi cây trâm như ý, chúc tôi tới Đông Kinh mọi chuyện như ý.”

“Cái đầu gỗ là tôi toàn thân choáng váng, cho đến khi lên thuyền rồi mới biết được, hoá ra anh ấy không đi với tôi thật, thế là sợ tới mức phóng ra mạn thuyền, khóc lóc nói với anh ấy tôi không đi nữa.”

“A ca ở trên bờ đuổi theo, chân anh ấy không khoẻ, đuổi theo xa tít như vậy còn lớn tiếng nói gì đó, tôi ở trên thuyền không nghe thấy. Cho đến sau này, tôi mới hay, anh ấy nói hẳn là ‘A Bảo, em đừng đi’.”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng một cái, nói: “Khách đa tình vốn đau lòng ly biệt, Lại khổ nỗi, Lúc trời thu trong mát.”

“Đêm nay tỉnh rượu nơi nao? Bến liễu, Lúc trăng tàn, gió rét!” A Bảo tự nhiên nối tiếp. [1]

<i>[1] Vũ tâm linh – Liễu Vĩnh và bản dịch của Nam Trân, thivien.net.</i>

Lương Nguyên Kính kinh ngạc nhìn nàng.

“Sao đây?” A Bảo không vui ngó chàng, “Tôi học thuộc từ của Liễu Vĩnh trông rất quái lạ sao? Bị đám ông già Ngự Sử Đài mắng cho ngần ấy năm cũng phải có chút tiến bộ chứ.”

“……” Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ nói, “Tôi không có ý đó.”

“Vậy vừa rồi anh nhìn tôi làm gì?”

“Tôi sợ em buồn,” Lương Nguyên Kính đỏ mặt, “Chẳng phải rất ghét biệt ly sao.”

A Bảo thầm cười trong lòng, đáng gờm thật, ngay cả chuyện này mà Lương Nguyên Kính cũng biết, xem ra chàng thật sự rất thích nàng.

“Không phải tôi ghét biệt ly, chỉ ghét cái kiểu không nói tiếng nào mà đi thôi.”

Lương Nguyên Kính nghe xong sửng sốt, mặt mày trắng bệch, lông mi mỏng dài rủ xuống che giấu cảm xúc trong mắt.

A Bảo lo lắng nói: “Sao mặt tái vậy? Có phải gió bên bờ to quá không? Mau về nhà thôi, coi chừng bị cảm lạnh.”

Lương Nguyên Kính thấp giọng: “Ừm.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 39: Sinh nhật


Cả hai từ bến tàu đi về nhà, A Bảo không sánh vai cùng Lương Nguyên Kính, thoáng chậm lại hơn chàng vài bước, thất thần nhìn theo bóng hình của chàng.

Thật ra nàng vẫn ghét sự biệt ly.

A Bảo thích náo nhiệt, thích dính người cho nên năm xưa khi Thôi nương tử gả xa đi Giang Hạ nàng đã khóc đến trời đất tối tăm, khi chia cách với a ca ở bến đò nàng cũng khóc đến đau khổ tột cùng. Trên thuyền còn không chịu ăn cái gì doạ Triệu Tòng không biết nên nào cho phải, sợ nàng xuống thuyền đòi về Dương Châu nên chỉ có thể vắt óc bày mưu tính kế dẫn nàng đi chơi khắp thành Đông Kinh, vơ vét đồ chơi thú vị cho nàng, hy vọng chốn kinh sư phồn hoa này có thể giữ nàng lại thay hắn.

Hôm nay tiễn a ca đi, đáy lòng nàng vẫn có hơi buồn bã nhưng chưa đến mức oà khóc.

Có lẽ nàng biết vừa nãy cũng không phải là vĩnh biệt, muộn nhất xuân năm sau nàng có thể gặp lại a ca rồi, thậm chí có thể nhìn thấy tẩu tẩu và cháu gái nhỏ ở Tuyền Châu, còn có……

Bởi vì có Lương Nguyên Kính ở cạnh nàng, nàng biết, mình không còn một mình nữa.

Nhìn bóng dáng cao lớn mảnh khảnh của người nọ đằng trước, A Bảo mềm lòng đến rối tăm rối mù, bỗng nhiên nhớ đến một chuyện mà mình đã rất muốn làm từ lâu ⎯⎯

Nàng chạy lấy đà vài bước đột nhiên phóng lên lưng của Lương Nguyên Kính.

“! ! !”

Trên lưng đột nhiên trĩu xuống làm Lương Nguyên Kính sợ muốn hồn phi phách tán, theo bảng năng tính hất món vật trên lưng xuống.

Chờ khi nghe thấy tiếng cười càn rỡ của A Bảo vang lên bên tai chàng mới biết ‘món vật’ đó là A Bảo, vì thế lập tức trở tay ôm chặt lấy.

Thân hình thanh niên cao thẳng như cây trúc, trên lưng còn có thêm thiếu niên tuấn tú cười tươi như hoa, trường hợp này hấp dẫn nhiều ánh mắt xôn xao từ người đi đường, ai nấy cũng mỉm cười nhìn bọn họ.

Có phụ nhân bán hoa mang giỏ hoa lại cười nói: “Ngày Trùng Dương, hai vị lang quân chọn hai bông hoa đeo nhé.”

A Bảo ghé vào trên lưng của Lương Nguyên Kính, chọn hai bông cúc vạn thọ, một bông cài bên tóc mai của mình, bông còn lại đính trên vạt áo Lương Nguyên Kính. Sau đó duỗi tay lấy túi tiền từ trong ngực chàng, xếp ra mười văn tiền đưa cho phụ nhân kia.

Phụ nhân cười nói ‘Đa tạ’ sau đó cầm giỏ hoa rời đi.

A Bảo nhét túi tiền lại còn mờ ám sờ soạ.ng mò mẫm ngực Lương Nguyên Kính một phen, xúc cảm tương đối ổn áp.

Nàng cảm nhận được toàn thân Lương Nguyên Kính cứng đờ, cười chọc đầu vai chàng: “Được rồi, để tôi xuống đi.”

“Không cần.” Lương Nguyên Kính nâng nàng lên một chút.

“Anh cõng nổi không?”

A Bảo ngạc nhiên nói, bây giờ nàng đâu phải linh hồn, thân thể gân cốt của thiếu niên 15-16 tuổi cũng đâu hề nhẹ.

“Cõng nổi.” Lương Nguyên Kính nói.

Nhưng chàng cõng chưa được bao xa A Bảo trên lưng biến trở lại thành quỷ hồn, cũng may cảnh tượng này không bị ai bắt gặp, bằng không đúng thật là gặp ma giữa ban ngày.

Trên lưng nhẹ đi, bước chân Lương Nguyên Kính dừng lại, sắc mặt hết ngơ rồi lại ảm đạm đi.

A Bảo trượt xuống kéo tay chàng lại nắm vào nhau, cười nói: “Nhìn xem, như này vẫn giống nhau mà.”

Lương Nguyên Kính cúi đầu nhìn tay của bọn họ nắm lấy nhau, cũng gật đầu cười theo.

Hai người tay trong tay đi về nhà, A Bảo tận lực dựa gần chàng, khiến chàng trông đỡ hành xử như người điên, hỏi: “Nè, Lương Nguyên Kính, hỏi anh cái này.”

Lương Nguyên Kính nhìn qua: “Em hỏi đi.”

“Đang nói chuyện thì đừng nhìn tôi.” A Bảo nhắc nhở.

Nàng đã phát hiện ra từ lâu, Lương Nguyên Kính có thói quen thích nhìn chằm chằm vào đôi mắt đối phương trong lúc nói chuyện với nhau.

Như thế tất nhiên có vẻ quân tử lễ phép khiêm tốn, nhưng nếu chàng là người nhìn thấy quỷ hồn mà người khác không thấy, vậy ít nhiều gì vẫn có hơi dị thường.

“Khi nào đến sinh nhật anh?”

“Ngày mười tháng mười.”

Ngày lành nha, A Bảo thầm nghĩ, xong lại nhỏ giọng thầm thì: “Hy vọng còn kịp.”

“Kịp gì cơ?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Không gì,” A Bảo lắc đầu cười, “Anh đoán xem ngày mấy sinh nhật tôi nào?”

“Mười lăm tháng giêng.”

“!”

Đoán chuẩn vậy?!

A Bảo hoài nghi: “A ca tôi nói cho anh à?”

Lương Nguyên Kính cười cười không phủ nhận.

A Bảo nói: “Thật ra tôi cũng không biết sinh nhật mình là ngày mấy, chỉ vì mười lăm tháng giêng là tết Thượng Nguyên, tôi thích náo nhiệt nên nói với a ca muốn ngày đó là ngày sinh nhật của mình.”

Lương Nguyên Kính dừng lại xoay người nhìn nàng, ánh mắt chứa chan sự ấm áp.

A Bảo nhíu mày nhìn trái phải quanh đây: “Làm gì vậy? Anh không nên dừng lại, trông rất kỳ quái đó! Người khác sẽ nhìn anh như kẻ điên cho xem!”

“Sau này em muốn tổ chức sinh nhật vào ngày nào sẽ tổ chức ngay ngày đó.” Lương Nguyên Kính nói với nàng.

“Nếu tôi muốn ngày nào cũng là sinh nhật thì sao?” A Bảo hỏi ngay.

“Vậy thì làm mỗi ngày.” Lương Nguyên Kính trả lời không chút nghĩ ngợi.

“……”

A Bảo nghiêng đầu nhanh chóng quay lại nhìn chằm chằm vào mặt của Lương Nguyên Kính.

Hiện tại nàng rất muốn làm ít chuyện không ra thể thống gì giữa ban ngày, như hôn Lương Nguyên Kính chẳng hạn, nhưng nàng ngại Lương Nguyên Kính sẽ bị nàng doạ sợ.

Lần trước chỉ vì nàng phá tan tâm ý của chàng đã doạ chàng sợ tới mức nhảy sông hộ thành vào nửa đêm. Nếu hôm nay làm chuyện gì đó mất mặt ngoài đường với chàng, e là sẽ bị người người thành Đông Kinh chế giễu.

A Bảo nhịn hết lần này đến lần khác mới áp chế chút ngo ngoe rục rịch xuống nội tâm, cười nói: “Tôi vẫn thích mười lăm tháng giêng. Lương Nguyên Kính, qua tết Thượng Nguyên rồi chúng ta đi được không, tôi muốn đến phàn lâu xem đèn cùng anh, còn muốn đi Tuyên Đức lâu xem hội đèn lồng Ngao Sơn với cả đô vật nữ nữa!”

Lương Nguyên Kính rũ mắt nhìn nàng, nghiêm túc gật đầu: “Được.”

**

Mạnh Đông tháng mười, dân gian gọi là ‘Tiết tháng mười’ vì nhiệt độ trở nên ấm lại giống như dịp đầu xuân.

Mùng một hôm nay triều đình sẽ ban gấm cho bách quan theo phẩm cấp, còn có tên là ‘Thụ y’, quan lại kinh thành cũng dân than sưởi ấm vào tháng này, bá tánh dân thường thích quây quần bên lò sưởi nướng thịt uống rượu, hâm rượu, được gọi là ‘noãn lô’ được các văn nhân xem là việc phong nhã.

Ngày mười là sinh nhật của Lương Nguyên Kính. Sau khi rời hoạ viện về nhà, chàng lập tức vào trong thư phòng.

Một lát sau ra ngoài có cầm mấy lượng bạc vụn đưa cho Dư lão, nói ông mua rượu đến nhà bạn uống đi, đêm nay không cần về.

Dư lão đi rồi, A Bảo lén lút dò đầu ra từ cửa thư phòng, hỏi: “Đi rồi? Sẽ không quay về chứ?”

Lương Nguyên Kính gật gật đầu, nói: “Sẽ không.”

Lúc này A Bảo mới đi ra từ thư phòng, đây là lần đầu tiên nàng biến thành người từ sau tết Trùng Dương, vẫn dùng vẻ ngoài vốn có của nàng.

Hai người đối mặt nhìn nhau, đều cảm thấy tình ý thâm tâm nồng nàn mãnh liệt khó mà kiềm chế được.

A Bảo phát hiện ngón tay Lương Nguyên Kính vô thức co rút lại chút xíu, biết chàng muốn chạm vào nàng nhưng lại sợ quá đường đột liền chủ động tiến lên một bước, đôi tay vòng qua eo chàng, vùi sườn mặt ở trước ngực chàng.

Lương Nguyên Kính ôm nàng ngay lập tức.

Vừa ôm lấy cả hai đồng loạt cúi đầu than thở một tiếng, mặc dù mỗi ngày sớm chiều bên nhau, nhưng loại xúc cảm chân thật như da thịt chạm nhau vẫn không gì thay thế được.

“Thật ra tôi không cần ăn cơm.” A Bảo nói.

Nàng hay thèm ăn vào hiện tại cũng không muốn ăn gì cả, cảm thấy quá lãng phí thời gian, bởi vì lo lắng cho sức khoẻ của Lương Nguyên Kính nên nàng không cho chàng lấy máu. Hôm nay là sinh nhật của chàng mới phá lệ một lần. Giờ đây thời gian của nàng đổi bằng máu của Lương Nguyên Kính, cho nên mỗi một khắc đều không được lãng phí, chỉ muốn tận dụng tối đa thời gian để thân mật với chàng.

Lương Nguyên Kính cười nói: “Coi như ăn cùng tôi đi.”

“Cũng phải ha, hôm nay là thọ tinh của anh mà.” A Bảo nhón chân hôn lên má chàng một cái, “Sinh nhật vui vẻ, ngốc ạ.”

Lương Nguyên Kính lại đỏ mặt.

Trước khi đi Dư lão có chuẩn bị cơm canh đầy đủ, theo yêu cầu của Lương Nguyên Kính bày ra dưới cây táo trong viện.

Bởi vì là Tết Dương Xuân, nhiệt độ tối nay không quá lạnh, lúc ngẩng đầu còn có thể nhìn thấy phía chân trời đầy sao.

Cả hai ăn cơm uống thêm chút rượu ấm, A Bảo không dám rót quá nhiều cho Lương Nguyên Kính, đêm nay nàng có kế hoạch lớn, phải đảm bảo chàng còn tỉnh táo mới được.

Sau khi ăn xong, A Bảo kêu Lương Nguyên Kính ngồi yên trong sân nhắm mắt lại chờ nàng vào phòng.

Bắt đầu vào đông, lá trên cây táo rụng sắp hết, chim khách ban đầu làm tổ trên đó không biết đã bay đi đâu, chỉ còn lại một cái tổ trống.

Lương Nguyên Kính ngồi dưới tàng cây, hai tay đặt trên đầu gối, nhắm mắt an tĩnh chờ đợi.

Mất đi thị giác, những giác quan khác sẽ nhạy cảm hơn mười lần. Không quá một lát chàng đã nghe thấy tiếng bước chân nhỏ vụn, khoé môi bất giác nhếch lên, chóp mũi tràn tới cổ hương nhàn nhạt, chắc là A Bảo đứng cách đó không xa.

“Có thể mở mắt rồi.” A Bảo nói.

Lương Nguyên Kính từ từ mở mắt, nhìn thấy một bộ váy đỏ như lửa, A Bảo ôm đàn tỳ bà, xinh đẹp đứng dứoi ánh trăng.

**

“Thế nào?”

A Bảo kéo kéo tà váy có hơi khẩn trương hỏi.

Đây là váy áo năm xưa sư phụ dạy đàn tặng cho, lúc nàng vẫn còn là tiểu cô nương, thường hay mặc bộ váy này cùng a ca ra đường đàn tỳ bà, ai cũng nói nàng mặc váy đỏ là đẹp nhất, nhưng nàng không dám chắc Lương Nguyên Kính có thích hay không.

Lương Nguyên Kính như thất thần nhìn nàng chằm chằm, qua thật lâu sau mới nói: “Rất đẹp.”

“Thật á?”

A Bảo không tin lắm bởi vì vừa rồi chàng im lặng khá lâu.

Lương Nguyên Kính khẽ mỉm cười nói: “Ta mến vẻ đẹp của nàng chừ, Lòng thổn thức khôn nguôi. Không người mai mối lương duyên chừ, Đành nhờ ánh mắt tỏ lời.” [1]

<i>[1] Lạc thần phú – Tào Thực và bản dịch của Như Quy, thivien.net.</i>

Có ý gì? Nàng nghe không hiểu, miễn nói nàng đẹp là được rồi.

A Bảo thở phào nhẹ nhõm: “Tốt rồi, còn sợ anh không thích đấy, không uổng công tôi nhờ a ca ngàn dặm xa xôi gửi về.”

Lương Nguyên Kính hỏi: “Đây là đồ lần trước Lý Hùng nhờ người đưa sang?”

Chàng biết Lý Hùng gửi đồ cho A Bảo nhưng không rõ bên trong là món gì do A Bảo không cho xem, thì ra là bộ áo váy và tỳ bà.

A Bảo nói: “Đúng đó, lúc còn ở cố hương tôi thường mặc như này lên trấn cùng a ca, anh ấy đánh trang sức bạc bên đường, còn tôi ngồi giữa đường đàn tỳ bà. Tôi cái gì cũng không biết, chỉ có tỳ bà mới đàn hơi tốt chút, vẫn muốn đàn cho anh nghe, coi như là quà sinh nhật tặng anh đi. Ờm…… Ngẫm lại xem, đàn khúc nào hay hay cho anh nghe đây?”

A Bảo suy tư một hồi, cuối cùng quyết định: “Hôm nay là sinh nhật anh, vậy đàn một khúc ⟪khánh sinh từ⟫ cho anh nhé.”

Nói xong, nàng ôm tỳ bà ngồi xuống, bàn tay trắng nõn vung lên, âm thanh dây đàn trong trẻo loé lên.

Từ sáu năm Hữu An lên kinh cùng Triệu Tòng cộng ba năm nàng mất thì đã gần mười năm A Bảo không đàn tỳ bà, chỉ cảm thấy có hơi là lạ chút chút.

Hơn nữa đây không phải cây tỳ bà quen dùng năm xưa, tỳ bà sư phụ tặng coi như rơi rớt trên đường chạy nạn rồi.

Còn cây tỳ bà dùng ở Dương Châu thật ra cũng được nàng mang theo đến Đông Kinh, nhưng sau đó thân phận ca nữ của nàng liên tục bị công kích, Triệu Tòng vì không muốn họ nói sự thật nên đã dẹp luôn đàn tỳ bà đó.

Bây giờ nghĩ lại, chắc đã bị giấu đâu đó sâu trong cung đã bị mối mọt ăn sạch hết rồi.

Ban đầu nàng nhờ a ca thử tìm cây đàn tỳ bà rơi giữa đường kia, chỉ tiếc thời gian trôi qua đã lâu nên không có khả năng tìm lại được.

A ca liền bỏ ra số tiền lớn mời người về làm lại cái khác cho nàng. Làm từ gỗ tử đàn, đầu đàn đúc bằng ngọc Côn Sơn, điêu khắc thành hình hoa mẫu đơn, dây đàn tơ tằm, bên trên còn khảm ngọc trai, đồi mồi và hổ phách, hết sức quý giá sang trọng khiến A Bảo biết được quả thật mấy năm nay a ca đã kiếm được không ít gia sản.

Nhạc cụ có linh cảm nối với người đàn tấu, lần đầu sử dụng thấy chưa quen, A Bảo còn đàn sai mấy âm trong khúc đầu.

Nàng cảm thấy hẳn là Lương Nguyên Kính nghe ra được. Bởi vì nàng trông thấy lông mày chàng hơi nhíu lại, khoé miệng còn có ý cười bỡn cợt.

A Bảo trừng mắt liếc chàng một cái, cũng may tay nghề thuần thục, nàng như rơi vào cảnh đẹp, càng lúc đàn càng thuận buồm xuôi gió.

Tấu xong một khúc, nàng nhướng mày đắc ý: “Như nào?”

Lương Nguyên Kính thẳng thắn nói: “Như nghe được nhạc tiên giúp lỗ tai thanh thản, sáng suốt vậy.”

Xương cốt A Bảo chưa tới bốn lạng, nghe được khen như vậy càng thấy đắc ý, cả người bồng bềnh tựa như muốn bay lên trời.

“Đương nhiên, anh có biết năm đó muốn mời tôi lên sân khấu đàn một khúc tỳ bà phải trả giá bao nhiêu không? Hôm nay đàn cho tôi nghe mà không thu tiền, anh hời to lắm đó.”

“Phải,” Lương Nguyên Kính cười, “Rất vinh dự.”

A Bảo mặt mũi hớn hở: “Tiểu nương tử tôi đây có hứng sẽ đàn thêm một khúc nữa cho anh nghe, nói đi, muốn nghe gì nào?”

Lương Nguyên Kính ngẫm nghĩ, thấp giọng hỏi: “Nhất tiễn mai của Tưởng Tiệp, được không?”

A Bảo cười một tiếng, nói: “Anh rất biết chọn nha, chọn đúng khúc nhạc sở trường của tôi.”

Nàng dựng đứng tỳ bà, tiện tay gảy vài cái, cất tiếng hát: “Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời.”

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi.”

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” Lương Nguyên Kính khẽ hát cùng nàng. [2]

<i>[2] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.</i>

“Anh cũng biết hát?” A Bảo dừng gảy dây đàn, ngạc nhiên hỏi.

“Năm xưa từng học qua.”

Lương Nguyên Kính hơi hơi cười, chỉ là cái cười kia trông thế nào cũng thấy có chút lơ đãng.

A Bảo buông tỳ bà xuống, bỗng đứng dậy đi đến trước người chàng, nói: “Thật ra, quà sinh nhật tôi chuẩn bị cho anh không phải cái này.”

Lương Nguyên Kính ngước mắt nhìn nàng.

“Mà là cái này.”

A Bảo nắm lấy cổ áo chàng, cúi người xuống hôn lên môi chàng.
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom