- Tham gia
- 7/9/25
- Bài viết
- 461,471
- Điểm cảm xúc
- 0
- Điểm thành tích
- 36
- Chủ đề Tác giả
- #141
Pháp Lan Tây Chi Hồ - 法兰西之狐
Chương 140 : Đơn đặt hàng lớn từ Bắc Mỹ (2)
Chương 140 : Đơn đặt hàng lớn từ Bắc Mỹ (2)
Chương 140: Đơn đặt hàng lớn từ Bắc Mỹ (2)
Joseph thực sự đang vùi đầu vào phòng thí nghiệm để phát triển một thứ mới, đó chính là món đồ chơi mới mà anh chuẩn bị giao cho Napoleon để sử dụng ở Ý – súng trường Minie.
Trong thời đại này, súng trường có rãnh xoắn nòng đã tồn tại. Nhưng những khẩu súng trường có rãnh xoắn nòng này, vì tốc độ nạp đạn quá chậm, nên hầu như không có tác dụng gì ngoài việc săn bắn. (Đạn của súng trường có rãnh xoắn nòng ban đầu thường hơi lớn hơn nòng súng, nên khi nạp đạn, người cầm súng phải dùng búa và thanh đẩy, mới có thể khó khăn đẩy viên đạn vào nòng. Quá trình này tốn thời gian và công sức, đến nỗi một khẩu súng nòng trơn thông thường đã bắn được bảy tám phát, trong khi súng trường có rãnh xoắn nòng mới bắn được một phát.)
Nhưng sự xuất hiện của đạn Minie đã thay đổi tất cả.
Trong lịch sử ban đầu, loại đạn này được phát minh vào khoảng năm 1849, bởi Đại úy Claude Étienne Minié và Đại úy Henri-Gustave Delvigne của quân đội Pháp.
Loại đạn này có đường kính hơi nhỏ hơn cỡ nòng súng trường, do đó đã giải quyết được vấn đề nan giải của súng trường cũ khi nạp đạn từ phía trước, do đạn quá lớn dẫn đến không thể nhét vào nòng súng hoặc làm tắc nòng súng. Đạn Minie có thể dễ dàng đẩy vào buồng đạn bằng que đẩy đạn, do đó giúp tăng đáng kể tốc độ bắn.
Viên đạn có các rãnh xoắn xung quanh thân để khớp với đường rãnh trong nòng súng, và được bôi trơn bằng mỡ động vật ở giữa các rãnh. (Sau này, người Anh cũng học được kỹ thuật này và mang nó đến Ấn Độ. Nhưng không ngờ vì những viên đạn này được bôi mỡ lợn hoặc mỡ bò, khiến binh lính Ấn Độ từ chối sử dụng. Và lấy đó làm ngòi nổ, gây ra cuộc Đại khởi nghĩa dân tộc Ấn Độ.)
Phần đáy của viên đạn sử dụng vật liệu gỗ bấc. Khi bắn, khí thuốc súng tác động vào gỗ bấc, gỗ bấc dưới tác động tức thời sẽ làm viên đạn nở ra đột ngột. Do viên đạn nở ra, nên ngay tại thời điểm bắn, nó có thể tự bịt kín buồng đạn bằng chính viên đạn mà không làm thất thoát khí thuốc súng dẫn đến mất động năng của viên đạn. Điều này đã giải quyết được vấn đề bịt kín buồng đạn của súng nạp đạn từ phía trước kiểu cũ, giúp tăng đáng kể tốc độ bắn, tầm bắn và độ an toàn (được bịt kín tốt sẽ ít dẫn đến cặn thuốc súng còn lại làm tắc nòng súng gây nổ súng).
Loại vũ khí này, mặc dù được phát minh sau đó vài thập kỷ, nhưng vào thời điểm này, việc thực hiện nó về mặt kỹ thuật thực ra không hề khó khăn gì. Tuy nhiên, ưu thế về chiến thuật mà nó mang lại lại vô cùng to lớn.
Trước hết, nó khiến tốc độ nạp đạn của súng trường có rãnh xoắn nòng hoàn toàn bắt kịp súng trường nòng trơn, khiến súng trường nòng trơn gần như chỉ còn lại ưu điểm duy nhất là giá thành rẻ hơn.
Súng trường nòng trơn thông thường có tầm bắn hiệu quả không quá một trăm thước, nhưng súng trường có rãnh xoắn nòng sử dụng đạn Minie lại có thể bắn hiệu quả mục tiêu cách xa năm trăm thước. Điều này khiến tầm hỏa lực của súng trường trong tay bộ binh kéo dài hơn rất nhiều lần.
Trước khi sử dụng loại đạn này, dù là người Anh hay người Nga, đều tin rằng "Đạn là đồ ngốc, lưỡi lê mới là anh hùng". Họ đều quen với việc lao lên chiến trường, chịu đựng đạn của đối thủ đến khoảng cách gần nhất, rồi sau một loạt bắn đồng loạt, dùng lưỡi lê xung phong để giải quyết vấn đề. Nhưng, nếu đối thủ của họ sử dụng đạn Minie có thể bắn hiệu quả từ khoảng cách năm trăm thước, thì sự dũng cảm kiểu Anh hay Nga đó sẽ trở thành trò cười. Vị trí của chiến đấu giáp lá cà cũng theo đó mà giảm mạnh.
Trong thời đại súng nòng trơn, do mối đe dọa của kỵ binh, bộ binh buộc phải xếp thành đội hình chỉnh tề để tham chiến (đương nhiên ngoài lý do này, tinh thần quân đội cũng là một lý do lớn, nếu tinh thần không đủ, lính phân tán sẽ thực sự biến mất trên chiến trường), nhưng với đạn Minie, kỵ binh lại xung phong vào bộ binh, thì đó đơn giản là tự sát. Vị trí của kỵ binh cũng vì thế mà giảm sút đáng kể.
Ngoài ra, chiến thuật pháo binh cũng bị ảnh hưởng lớn. Trong thời đại súng nòng trơn, khi pháo sử dụng đạn chùm hoặc đạn nho, tầm bắn hiệu quả của nó vượt quá súng trường trong tay bộ binh. Vì vậy, pháo có thể được sử dụng làm vũ khí tấn công trong dã chiến, đẩy lên hàng đầu đội hình.
Nhưng sự xuất hiện của đạn Minie đã khiến tầm bắn của vũ khí bộ binh đột nhiên vượt quá tầm bắn của đạn chùm hoặc đạn nho của pháo. Mặc dù đạn đặc của pháo có tầm bắn xa hơn đạn Minie rất nhiều, nhưng do vấn đề độ chính xác, dùng để bắn lính tản mác với đội hình lỏng lẻo thì hiệu quả quá kém. Vì vậy, nếu lúc này còn muốn đẩy pháo lên phía trước để tấn công. Thì pháo thủ sẽ trở thành bia sống cho bộ binh đối phương. Thế là pháo cũng phải lùi lại, và trong đa số trường hợp chỉ được sử dụng làm vũ khí hỗ trợ.
Ngay cả dưa nhỏ, vốn đã thay đổi tiến trình lịch sử, cũng sẽ vì vấn đề khoảng cách ném mà từ vị trí gần như trở thành vũ khí chính, quay trở lại vị trí vũ khí phụ trợ.
Tuy nhiên, loại vũ khí này vẫn có một nhược điểm lớn, đó là ngưỡng kỹ thuật quá thấp, đến mức chỉ cần nhìn một cái là có thể hiểu được mọi chuyện. Vì vậy, loại vũ khí này, một khi được sử dụng, sẽ không mất nhiều thời gian để công nghệ liên quan chắc chắn sẽ bị người khác nắm được. Những người này có thể là kẻ thù của Pháp, hoặc cũng có thể là kẻ thù kinh doanh của gia đình Bonaparte.
Vì vậy, chỉ có thể đưa loại vũ khí này vào sử dụng trước khi Napoleon tiến vào Ý. Gia đình Bonaparte sẽ dựa vào chiến thắng và sự ủng hộ do loại vũ khí này mang lại, leo lên vị trí chính trị cao, và lợi dụng địa vị này để đàn áp, đánh bại kẻ thù kinh doanh của họ.
Đương nhiên, Joseph, với tư cách là một người xuyên không, tự nhiên biết rằng loại vũ khí này cuối cùng vẫn sẽ bị thay thế bởi súng trường bolt-action nạp hậu. Anh không cố ý tiết kiệm công nghệ. Chỉ là một số công nghệ tiền đề của súng trường bolt-action nạp hậu, hiện tại vẫn khó có thể thực hiện được. Ví dụ, súng trường bolt-action phải sử dụng thép, chứ không phải sắt rèn, nhưng ở thời đại này, kỹ thuật luyện thép tiên tiến nhất thế giới vẫn là luyện thép nồi nấu kim loại. Năng suất và hiệu quả của nó hoàn toàn không thể đáp ứng yêu cầu.
Thí nghiệm đạn thực ra đã thành công từ rất sớm, chỉ là thiết kế súng trường lại bị trì hoãn một chút. Đạn Minie cần khí thuốc súng để làm đạn nở ra, điều này có nghĩa là nó cần sử dụng thuốc súng có tốc độ cháy nhanh hơn. Chỉ riêng việc tốc độ cháy nhanh hơn thì không khó đạt được, nhưng tốc độ cháy nhanh hơn lại mang đến hai vấn đề. Một là áp suất buồng đạn tăng quá nhanh, một là áp suất buồng đạn giảm quá nhanh. Cái trước dẫn đến đỉnh áp suất buồng đạn rất cao, rất dễ xảy ra nổ súng, cái sau dẫn đến áp suất buồng đạn trung bình không đủ cao, tốc độ đạn không đủ nhanh.
Để tránh nổ súng, cần phải làm dày nòng súng, điều này sẽ khiến súng trường quá nặng và cũng tiêu tốn quá nhiều kim loại, làm tăng chi phí. Vì vậy, Joseph đã thiết kế nòng súng hình chóp cụt phía sau dày, phía trước mỏng, nhưng chỗ dày nên dày bao nhiêu, chỗ mỏng có thể mỏng đến đâu, thì chỉ có thể giải quyết dần dần bằng thực nghiệm. Do đó, những thứ không hề khó về nguyên lý này lại chiếm khá nhiều thời gian của Joseph. Đến nỗi số lượng chữ trong thư anh viết cho Fanny cũng giảm đi.
Tuy nhiên, bận rộn đến mấy cũng phải chú ý kết hợp giữa làm việc và nghỉ ngơi. Ít nhất, những người làm công việc trí óc phải như vậy. Vì vậy Joseph quy định, các nhà nghiên cứu, mỗi mười ngày có một ngày nghỉ, thời gian làm việc mỗi ngày không quá 12 giờ. Còn bản thân anh và các nhà nghiên cứu cấp cao như Lavoisier, thì mỗi mười ngày nghỉ hai ngày, thời gian làm việc mỗi ngày không quá sáu giờ. Còn đối với những người lao động chân tay, ngoài đường đầy rẫy, trừ khi kỹ thuật đặc biệt tinh xảo, đến mức khó thay thế, Joseph mới không có thời gian quan tâm đến họ.
Hôm nay không phải là ngày nghỉ, nhưng Joseph lại nhận được thư của Lucien, nói rằng có một triệu phú muốn nói chuyện làm ăn lớn với mình. Thế là Joseph giao việc của viện nghiên cứu cho Lavoisier, vội vàng trở về Marseille. Và tại trang viên ở Marseille, anh đã gặp Stephen Girard.
Joseph chỉ biết đại khái về lịch sử, kiếp trước anh còn không biết Saint-Just là ai, tự nhiên sẽ không biết, người đàn ông hói đầu nói tiếng Pháp nặng giọng Bordeaux này lại là một nhân vật huyền thoại trong lịch sử Mỹ. Stephen Girard này, người đã phất lên nhờ buôn lậu vũ khí cho Quân đội Lục địa trong Chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ, là ông trùm vận tải biển ở Bắc Mỹ, là tỷ phú đầu tiên trong lịch sử Mỹ có tài sản cá nhân vượt quá mười triệu đô la. Tuy nhiên, đó là chuyện sau này. Vào thời điểm này, chính là lúc sự nghiệp bá chủ của ông ta vừa mới cất cánh.
Stephen Girard xuất thân là thủy thủ, đặc biệt yêu thích các loại tàu thuyền. Khi lần đầu tiên nhìn thấy chiếc "Ngọc đen" ở cảng New York, ông ta đã tràn đầy hứng thú. Sau khi tìm hiểu sơ qua về hiệu suất của "Ngọc đen", ông ta ngay lập tức tính toán được rằng, nếu loại tàu này có tải trọng đạt năm trăm tấn, thì hiệu quả của nó sẽ vượt xa các loại tàu buồm thông thường. Thế là, người Mỹ gốc Pháp có trực giác nhạy bén này liền theo chiếc "Ngọc đen" trở lại Pháp.
Trong hai ngày tiếp theo, Joseph và Stephen Girard đã tiến hành cuộc đàm phán khó khăn, hai bên đều than nghèo kể khổ, rót canh gà cho nhau, và bày tỏ rằng "đàm phán đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau", cuối cùng đã đạt được quan hệ đối tác chiến lược.
Theo thỏa thuận cuối cùng mà hai bên đã ký kết, Stephen Girard sẽ đặt hàng một lần bảy chiếc thuyền buồm cắt bay tải trọng năm trăm tấn từ xưởng đóng tàu trực thuộc Viện nghiên cứu Bonaparte, và trả trước toàn bộ tiền mua năm chiếc. Số tiền còn lại sẽ được thanh toán khi bàn giao tàu.
Xưởng đóng tàu trực thuộc Bonaparte sẽ chuyển giao toàn bộ các công nghệ liên quan đến việc chế tạo loại thuyền buồm cắt bay này cho Stephen Girard, và đảm bảo sẽ cử nhân viên kỹ thuật hướng dẫn đến xưởng đóng tàu Girard ở New York, với điều kiện Stephen Girard trả lương không thấp hơn gấp đôi lương của nhân viên cùng ngành ở Pháp, và đảm bảo xưởng đóng tàu Girard ở New York có thể nắm vững kỹ thuật chế tạo thuyền buồm cắt bay trong vòng hai năm.
Stephen Girard đảm bảo rằng trong vòng mười lăm năm tới, mỗi khi Xưởng tàu Girard sản xuất một chiếc thuyền buồm cắt bay, sẽ trả phí sử dụng công nghệ cho Viện nghiên cứu Bonaparte với giá một đô la Mỹ trên mỗi tấn tải trọng.
Viện nghiên cứu Bonaparte đảm bảo rằng trong thời hạn này, sẽ không bán công nghệ này cho các nhà sản xuất khác. Khi bán thuyền buồm cắt bay cho các doanh nghiệp khác ở Bắc Mỹ, mỗi tấn tải trọng, sẽ phải bù đắp cho Stephen Girard một đô la Mỹ.